totem soi part2- khuong nhung

Cậu tựa lưng vào đống chăn, bắt đầu đọc sách.

Bên ngoài có tiếng vó ngựa chạy gấp. Hai con ngựa phóng nhanh trên con đường của xe bò chếch cửa 20 mét. Cho rằng đó là những mã quan qua đường, Trần Trận không để ý xem ai. Không ngờ khi đến ngang tầm căn lều, hai con ngựa đột nhiên quay ngoắt lại nhắm con sói chạy tới. Sói con hốt hoảng đứng bật dậy trên hai chân sau, sợi xích căng như dây đàn. Người chạy trước tung thòng lọng trúng ngay cổ con sói và hung hãn giật mạnh khiến con sói như bay lên. Cái kiếu xuống tay tàn nhẫn đó chỉ có định giết chết con sói mới lợi dụng cái xích xiết đứt cổ nó. Sói con vừa ngã xuống đất, người thứ hai đã xông lên dung dây thòng làm roi vụt cho nó lăn lộn trên đất. Hai người gò cương đổi tay cầm gậy, chuẩn bị xuống ngựa đánh tiếp. Trần Trận hét to, cầm chày cán bột chạy ra, điên cuồng lao vào hai người. Thấy Trần Trận liều mạng, hai người vội vã lên ngựa, chửi đổng: Sói ăn thịt ngựa con mà hắn còn nuôi sói con, sớm muộn tôi sẽ giết con sói đó.

Con Vàng và con Ilưa vừa sủa vừa xông ra liền bị một roi. Hai con ngựa nhằm phía đàn cừu chạy đi.

Trần Trận không nhận ra hai người là ai. Cậu đoán một người là dương quan bị ông Pilich mắng, còn người kia là mã quan tổ Bốn. Hai người làm dữ, quyết giết chết con sói. Trần Trận nếm mùi thế nào là tập kích của kỵ binh Mông Cổ.

Trần Trận đến bên con sói. Nó sợ muốn chết, đuôi quặp, bốn chân run bần bật. trông thấy Trần Trận, nó lảo đảo chạy tới nhào vào lòng cậu như gà con nhào vào lòng gà mẹ khi vừa thoát khỏi vuốt mèo. Người và sói cùng run lẩy bẩy. Cậu hốt hoảng sờ cổ con sói. Cổ sói chưa bị đứt nhưng có một mảng lông đã bị dây thòng lọng cứa đứt, dưới da có một vết bầm tím. Tim con sói đập loạn xạ. Trần Trận vừa nựng vừa vỗ về con sói, khó khăn lắm nó và cậu mới hết run. Cậu vào trong lều, lấy ra một thẻo thịt kho an ủi con sói. Đợi nó ăn xong, cậu lại bế nó lên trước ngực, mặt nó áp mặt cậu. Cậu sờ ngực con sói, tim nó đã trở lại bình thường, tuy nhiên nó vẫn còn sợ, nó nhìn Trần Trận, nhìn mãi rồi bất chợt nó thè lưỡi liếm Trần Trận một cái vào má. Trần Trần sững sờ, đây là lần thứ hai cậu được sói hôn, và là lần đầu tiên được sói cảm ơn. Xem ra chuyện sói trả ơn bằng cách tha đến trước cửa bảy con thỏ rừng không phải chuyện bịa.

Nhưng Trần Trận thấy tim nặng trĩu, điều mà cậu lo cuối cùng cũng đã xảy ra. Chuyện nuôi sói đã làm mếch lòng số đông mục dân, cậu cảm thấy họ lạnh nhạt và xa lánh cậu, ngay ông Pilich cũng đã ít đến căn lều của cậu. Hình như cậu bị mục dân coi như Bao Thuận Quý và đám dân công, những kẻ ngụ cư phá hoại quy củ trên thảo nguyên. Sói là linh vật về tinh thần hay xác thịt, dân thảo nguyên đề không cho phép nuôi sói. Cậu nuôi sói, về tinh thần là một sự khinh mạn, về xác thịt là liên kết với kẻ thù. Cậu quả thật đã xúc phạm giới luật của trời về thảo nguyên, đụng vào những cấm kỵ của dân tộc và văn hoá thảo nguyên. Cậu không biết có thể bảo vệ và nuôi được con sói? Nhưng quả thực cậu rất muốn ghi chép và nghiên cứu sâu về bí mật và giá trị “linh vật sói- hồn thảo nguyên”, không thể giương mắt nhìn linh vật sói từng ảnh hưởng to lớn đến lịch sử thể giới và Trung Quốc, tiêu vong cùng với sự tiêu vong của cuộc sống du mục trên thảo nguyên. Cũng như thể xác người thảo nguyên, qua sói thành tro bụi, biến mất không để lại dấu vết. Có thể đây là cơ hội cuối cùng, Trần Trận bảo vệ đến cùng ý kiến của mình, cắn răng nuôi tiếp. Cậu tìm Nhị Lang khắp nơi mà vẫn không thấy. Nếu có Nhị Lang trông nhà, ngoài mục dân trong tổ, người tổ khác không dám vào nhà. Nhị Lang sẽ cắn xé ngựa của người lạ khiến ngựa bỏ chạy. Trần Trận cảm thấy hai người cưỡi ngựa hồi nãy ánh mắt sắc sảo, chắc chắn họ thấy con Nhị Lang không ở nhà mới đánh lén.

Mặt trời chưa phải lúc nóng nhất, vậy mà bồn địa thảo nguyên đã tập trung nhiệt lượng vào chuồng sói con. Sói con tuy dưới bụng đã mát đôi chút, nhưng đầu và cổ vẫn trên đất bỏng, lại thêm cổ bị thương, không nằm được nữa, nó đứng dậy đi vòng quanh rồi lại nằm xuống cỏ.

Không thể xem sách, Trần Trận bắt đầu làm việc vặt. Cậu nhặt rau, đánh trứng, nhào bột, nướng bánh, cặm cụi hơn nửa tiếng. Khi ngửng lên nhìn con soi, cậu ngẩn người. Nó đang chổng mông đào hang, ngay trong chuồng, cát bụi bắn tung như pháo hoa. Trần Trận vội lau tay chạy ra, ngồi xổm nhìn con sói bằng ánh mắt hiếu kỳ.

Con sói đào hang ở phần đất phía nam của cái chuồng, nửa thân đã lọt xuống dưới, đuôi vẫy loạn xạ, đất cát từ dưới bụng phụt lên. Lát sau, con sói lên miệng hang, dùng hai chân trước ôm đống đất đá kéo về phía sau. Mình mẩy đầy đất, nó nhìn Trần Trận một thoáng, ánh mắt hoang dã và nôn nóng như bọn đào vàng.

Con sói định làm gì? Chẳng lẽ nó định đào đổ cọ để chạy vào chỗ râm mát? Không phải, vị trí không phải như thế. Con sói không nhằm cái cọc, hơn nữa cái cọc chôn rất sâu, nó phải đào cái hố bao lớn? Con sói ở phần đất phía nam chuồng, lưng quay về phía cọc, hướng nam, ngoảnh mặt về phía mặt trời mà đào. Trần Trận mừng rỡ, cậu hiểu ngay ý đồ con sói.

Sói con lại bới rất nhiều đất vụn. Nó vừa thở, lúc bới đất lúc hất ra ngoài. Mắt sáng rực, nó không còn thì giờ hỏi han Trần Trận. Cuối cùng Trần Trận không đừng được, gọi khẽ: Sói con sói con, tà tà thôi kẻo gãy vuốt. Con sói liếc cậu một cái, cười tít mắt, rất bằng lòng về hành vi của mình.

Đất đào lên hơi ẩm, mát hơn nhiều so với bên ngoài hố. Trần Trận vốc lên một nắm, quả thực vừa ẩm vừa mát. Cậu nghĩ, con sói quả thật thông minh. Nó đào cho nó một cái hang trú ẩn rất mát, tránh nắng, tránh người tránh nguy hiểm. Đúng là con sói nghĩ vậy, trong hang vừa lạnh vừa tối, cửa hang hướng bắc, ruột hang hướng nam, nắng không chiếu vào hang. Lúc con sói chui xuống đào, nửa người nó không bị nắng.

Sói con đào càng sâu vào bên trong, ánh sáng càng yếu. Rõ ràng nó đang hưởng niềm vui của bóng tối, bắt đầu tiếp cận mục tiêu đã định. Bóng tối là thứ mà sói yêu thích nhất, bóng tối đồng nghĩa với mát mẻ, an toàn và hạnh phúc. Từ nay, nó sẽ không bị những bò những ngựa những người lớn đáng ghét doạ dẫm và công kích. Nó càng đào càng hăng, đúng là mừng đến nỗi không ngậm miệng lại được. Lại 20 phút nữa trôi qua, mặt đất chỉ còn thấy cái đuôi ve vẩy, còn toàn thân con sói đã ở trong hang.

Một lần nữa, Trần Trận kinh ngạc trước khả năng sinh tồn và trí thông minh của con sói. Cậu nhớ câu: “Rồng đẻ ra rồng, phượng lại sinh ra phượng, chuột sinh ra để đào hang”. Chuột biết đào hang, vậy chuột nhắt chí ít đã có lần thấy chuột mẹ đào hang. Nhưng con sói này xa mẹ từ lúc chưa mở mắt, đâu đã nhìn thấy sói mẹ đào hang. Hơn nữa, đàn chó xung quanh nó cũng không thể dạy nó đào hang. Chó là loại gia súc không biết đào hang. Vậy thì ai đã dạy cho con sói đào hang? Hơn nữa, phương và hướng rất chuẩn xác, khoảng cách cũng rất vừa. Nếu xa cái cọc quá, chiều dài của cọc và đường viền mép chuồng. Ai dạy nó đào hang ở khoảng giữa cái cọc và mép chuồng? Tài chọn đất thì ngay cả sói lớn cũng không có, vậy sói con tính toán như thế nào khi đào cái hang?

Trần Trận sởn gai ốc, con sói chưa đầy ba tháng tuổi, trong hoàn cảnh không bố không mẹ ở bên trực tiếp chỉ bảo, mà đã tự quyết định vấn đề sống còn của mình. Quả thật nó thông minh hơn chó, thậm chí hơn người. Di truyền bẩm sinh của con sói mạnh đến vậy sao? Trần Trận kết luận sau khi quan sát: Di truyền chỉ là cơ sở, chỉ số IQ của con sói càng lớn hơn. Một người lớn có kiến thức như cậu loay hoay cả nửa ngày mà không nghĩ ra đào cho con sói cái hang chênh chếch để chống nắng. Một trí thức hiện đại mà để cho con sói lên lớp về khả năng sinh tồn. Trần Trận nghĩ cậu không bằng con sói. Trí tuệ con sói hơn cậu gấp nhiều lần. Nên vui vẻ chấp nhận con sói cười nhạo. Thảo hèn trong khi chơi đùa, cậu mơ hồ cảm thấy nó “bình đẳng” với cậu. Lúc này, Trần Trận cảm thấy con sói không coi cậu là cái đinh. Qua ánh mắt ương ngạnh của con sói luôn có một ẩn ý khiến Trần Trận hoảng sợ: Ông đừng đắc ý vội, đợi tôi lớn lên hãy hay. Trần Trận ngày càng không hiểu khi lớn lên con sói sẽ đối xử với cậu như thế nào.

Nhưng trong lòng Trần Trận thì vui như tết. Cậu quỳ xuống nhìn ngắm mãi, thấy mình không phải nuôi con vật bé nhỏ, mà là một ông thầy. Cậu tin con sói sẽ dạy cậu nhiều điều: Dũng cảm, khôn ngoan, kiên cường, nhẫn nại, yêu tha thiết cuộc sống, không bao giờ tự mãn, quyết không khuất phục, hơn nữa coi thường hoàn cảnh ác liệt, tạo dựng cái tôi mạnh mẽ.Cậu nghĩ thầm, dân tộc Hoa Hạ còn bị cái nhục nhiều lần mất nước nữa không, còn ngán ngẩm về công cuộc phục hưng vĩ đại thực hiện một Trung Hoa tự do dân chủ và giàu mạnh nữa không?

Con sói cong đuôi hì hục đào, càng đào sâu nó càng cảm thấy khoan khoái và mãn nguyện, hình như nó ngửi thấy mùi đất trong bóng tối khi nó ra đời. Trần Trận cảm thấy con soi không chỉ đào một cái hang tránh nắng, một cái hầm trú ẩn, mà còn đào bới ký ức đẹp đẽ thuở lọt lòng, đào lên sói mẹ và các anh chị em ruột. Cậu tưởng tượng tình cảm của con sói lúc này, có lẽ rất phức tạp, phấn khởi kỳ vọng may mắn và bi ai xen lẫn.

Trần Trận ứa nước mắt, lòng đầy mâu thuẫn. Cậu ngày càng yêu con sói, nhưng chính cậu lại là hung thủ huỷ diệt gia đình nó. Nếu không vì cậu thì ổ sói đó đã đánh nam dẹp bắc cùng sói bố sói mẹ từ lâu. Trần Trận nghĩ, con sói con ưu tú này có thể là con trai của sói chúa trên thảo nguyên Ơlôn. Nếu như được đàn sói kèm cặp, rồi đây rất có thể nó sẽ là sói chúa thế hệ mới. Tiếc rằng tiền đồ xán lạn của nó đã bị cậu chặn đứng.

Sói con đã đào đến điểm cuối, độ dài cố định của dây xích không cho phép nó đào thêm nữa. Trần Trận cũng không định nới dài sợi xích. Nơi đây đất xốp, nóc hang đã chạm lớp rễ cỏ trên mặt đất, đào thêm nữa. Chẳng may ngựa hoặc bò giẫm lên, con sói sẽ bị chôn sống. Con sói đang hào hứng giờ bị đứt đoạn, nó nổi cáu chui ra khỏi hang, cố sức giằng cái xích, đai cổ xiết vào vết thương khiến nó há mõm vì đau. Nhưng nó vẫn không chịu cho đến khi mệt quá lăn ra nghỉ. Lát sau, nó lại ngó vào trong hang, Trần Trận chẳng biết nó còn giở trò gì nữa.

Con sói đỡ mệt lại chui luôn vào hang, lát sau bắt đầu hất đất lên. Trần Trận tròn mắt, cúi xuống ngó tận nơi, thấy con sói đang đào rẽ sang hai bên. Nó biết không thể đào sâu hơn thì đào rộng ra. Đào không thấy mẹ và các anh chị em, con sói đành tạo cho nó một cái giường rộng, một cái ổ thoải mái. Trần Trận ngẩn người, cậu quả thực không dám tin con sói từ khi bắt đầu chọn địa điểm, đào hang, căn cứ và vóc dáng mà sửa sang cho vừa, đều chỉ một lần là xong, không làm đi làm lại, không lãng phí. Trần Trận không hiểu tài hoa của con sói từ đâu mà có? Có lẽ do quá nhiều “không hiểu”, nên xưa nay dân tộc thảo nguyên đưa sói lên ngôi “linh vật”.

Hang chống nóng, đồng thời là hầm trú ẩn đã đào xong, con sói nằm thư giãn trong hang, Trần Trận gọi mấy cũng không ra. Cậu ngó vào, con sói hai mắt xanh biếc, thâm trầm đáng sợ hoàn toàn giống con sói hoang. Lúc này nó đang hưởng thụ khí ẩm và mùi đất mà nó ưa thích, như được trở về nhà cũ, hang cũ trên núi, về bên sói mẹ và sói anh sói em. Lúc này nó đang thoải mái, nó đã thoát được cái cảnh người và gia súc vao vây suốt ngày trên mặt đất, nó về với thế giới loài sói. Nó có thể ngủ yên, mơ những giấc mơ đẹp. Trần Trận gạt chỗ đất con sói đào lên, san lại chuồng cho phẳng. Vậy là con sói có ngôi nhà mới an toàn, sáng kiến này khiến Trần Trận khôi phục lòng tin vào khả năng sống còn của nó.

Chiều tối, Cao Kiện Trung và Dương Khắc trở về, hai người hết sức ngạc nhiên khi thấy cái hang sói cách cửa lều không xa. Dương Khắc nói: Cả ngày chăn cừu trên núi khát khô cả cổ, tưởng chết, mình sợ sói con không qua nổi mùa hè. Ai ngờ sói con giỏi quá, đúng là sói thần.

Cao Kiện Trung nói: Từ nay phải chú ý đề phòng hơn, hang ngày phải kiểm tra xích, cọc, đai cổ, biết đâu sơ suất ở khâu nào đó, con sói chuồn mất, mục dân và đám thanh niên trí thức cười thối mũi.

Ba người lấy ra phần trứng tráng đậm mỡ cừu của mình cho sói ăn. Dương Khắc vừa gọi: ăn nào! Sói con lập tức chui lên liền, tha luôn miếng trứng tráng vào hang. Nó đã coi đây là lãnh địa của nó, từ rày không ai được đụng đến.

Nhị Lang lang thang cả ngày, cũng đã về. Bụng no căng, mỡ nhờn mép, không hiểu nó săn được con gì trên núi. Con Vàng, con Ilưa và ba con cún ùa tới tranh nhau liếm mỡ trên mép Nhị Lang. Đã lâu không nhìn thấy mỡ, lũ chó thèm phát điên.

Sói con nghe tiếng sủa của Nhị Lang liền chui lên. Nhị Lang đến gần chuồng, sói con lại liếm mép Nhị Lang. Trông thấy cái hang, Nhị Lang tò mò đi quanh mấy vòng rồi ngồi xổm trước cửa hang cười khà, lại còn rúc cái mũi dài vào trong hang mà ngửi. Sói con trèo lên cổ lên lưng Nhị Lang mà đùa nghịch, quên cả vết đau trên cổ, tinh thần phấn chấn thổi bùng sức sống trong con thú hoang.

Mặt trời lặn, hơi nóng tan dần, gió lạnh thổi lên. Dương Khắc lập tức mặc áo dày đi về phía đàn cừu. Trần Trận lùa cừu giúp Dương Khắc. Đàn cừu ăn no kỵ nhất dồn đuổi. Dương Khắc và Trần Trận thong thả như đi dạo, chậm rãi dồn cừu lại một cái chuồng trên không mái che, dưới không rào ngăn. Mùa hè cừu ngủ ngoài trời, chỗ đất trống sau lều. Trực đêm mùa hè là công việc gian khổ và nguy hiểm. Hai người không dám lơ là, sợ nhất là đàn sói phát hiện sói con, tìm cách trả thù.

Một ngày của sói bắt đầu từ ban đêm. Sói con vui vẻ chạy, kéo theo sợi xích, chốc chốc lại ngó thành quả lao động của nó. Hai người ngồi bên chuồng sói im lặng ngắm con sói trong bóng tối và đôi mắt xanh như ngọc bích của nó. Hai người đều không biết đàn sói có đánh hơi thấy mùi sói con không, những con sói mẹ mất con có phải đang phục ở một khe núi gần đó không?

Trần Trận kể chuyện xảy ra ban ngày cho Dương Khắc nghe, cậu nói: Phải tìm cách kiếm cho chúng ít thịt, nếu không sói con sẽ không khoẻ, Nhị Lang không yên tâm trông nhà, như vậy rất nguy hiểm. Dương Khắc nói: Hôm nay mình được ăn thịt rái cá nướng trên núi. Đanchi bắt bằng thòng lọng. Bắt được nhiều mình có thể xin một con đem về cho sói và chó. Nhưng nếu dương quan và đàn cừu làm rái cá sợ, không chui lên thì chịu.

Trần Trận lòng nặng trĩu: Mình lo rất nhiều thứ. Lo nhất là ban đêm sói về bắt cừu. Tình mẫu tử của sói mẹ cực kỳ mãnh liệt, mất con, sói mẹ trả thù điên cuồng. Lỡ ra nửa đêm đàn sói kéo về tập kích chớp nhoáng đàn cừu diệt một nửa thôi, chúng mình cũng toi rồi. Dương Khắc thở dài, nói: Mục dân đều bảo sói mẹ nhất định sẽ về đây. Năm nay thảo nguyên Ơlôn bị người ta bắt mất mấy chục ổ sói con, mấy chục con sói mẹ đang tìm cách trả thù. Mục dân một mực đòi giết sói con, học sinh các tổ khác cũng phản đối nuôi sói. Hôm nay nhóm cậu Bành vì chuyện này suýt gây sự với mình. Họ bảo xảy ra chuyện gì, thanh niên trí thức trong tổ sẽ lãnh đủ. Chúng mình hiện nay đang rối như gà mắc tóc. Theo mình, kín đáo thả con sói ra là xong, nói là nó cắn đứt xích bỏ chạy. Dương Khắc bế con sói lên xoa đầu, nói: Tuy vậy, mình cũng rất tiếc, mình thân với nó hơn là em trai.

Trần Trận đánh bài liều, nói: Người Trung Quốc lúc nào cũng sợ tới sợ lui, thực đáng thương. Chúng mình đã vào hang sói bắt sói con thì không nên bỏ cuộc, đã nuôi là nuôi đến cùng.

Dương Khắc vội nói: Mình không sợ trách nhiệm, mình chỉ thấy con sói kéo lê cái xích như kẻ tội đồ thì thương quá. Sói là động vật ưa tự do nhất, vậy mà giờ đây suốt ngày bị xiềng xích, cậu không thấy bất nhẫn sao? Tự đáy lòng, mình sùng bái tôtem sói, mình hiểu vì sao ông Pilich phản đối cậu nuôi sói. Vì đó là chuyện báng bổ thần linh.

Trần Trận trong lòng đầy mâu thuẫn nhưng miệng vẫn nói cứng, bảo Dương Khắc: Mình cũng muốn thả nó lên núi, nhưng bây giờ thì chưa được. Còn nhiều vấn đề chưa làm rõ. Tự do của con sói là tự do của một con sói, nếu như rồi đây thảo nguyên không còn con sói nào nữa thì bàn về tự do của sói có ích gì? Khi ấy, cậu sẽ hối hận cho mà xem.

Dương Khắc nghĩ một lúc rồi đành thoả hiệp. Đắn đo hồi lâu, cậu nói: Vậy thì ta tiếp tục nuôi. Mình nghĩ cách kiếm ít “pháo nhị thành”, sói cũng như kỵ binh thảo nguyên rất sợ tiếng nổ, sợ bộc phá. Thấy Nhị Lang quần nhau với sói là mình châm một bó “tạc đạn”, cậu ném từng quả vào đàn sói, đảm bảo chúng sẽ bỏ chạy.

Trần Trận dịu giọng, nói: Kỳ thực, cậu còn phiêu lưu hơn mình. Chà, cậu định cưới một cô vợ Mông Cổ hả? Dữ hơn sói cái hả?

Dương Khắc vội xua tay: Cậu đừng có la rầm lên, kẻo có cô Mông Cổ nào nổi máu đuổi theo mình như sói cái, là mình trụ không nổi. Thôi, trước tiên hãy kiếm một cái lều Mông Cổ đã.

Chương 23

Đồng Trọng Thư trả lời: “… Tần không như vậy, cầm quân theo phép tắc của Thân, Thương, hành pháp theo thuyết Tào Phi, không thích vương dạo, lối sống tham như sói…”

- Tư Mã Quang “Tư trị thông giám.

Hán Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế thượng chi thượng”

Dương Khắc quay lưng về phía công trường ồn ào, nhìn ra hồ thiên nga trước mặt. Cậu không dám quay lại nhìn công trường. Từ khi Bao Thuận Quý bắn chết con thiên nga để ăn thịt, cậu đêm nào cũng mơ thấy máu loang mặt hồ, nước xanh biến thành màu đỏ…

Hơn 30 dân công đến từ khu vực nông nghiệp Nội Mông, đã cắm rể ở bãi chăn mới. Với tốc độ phi mã, họ kiến tạo những ngôi nhà đất kiên cố. Những dân công là người ở năm hoặc làm công theo thời vụ, ông tổ ba đời là mục dân khu vực chăn nuôi, đời bố là mục dân nửa chăn nuôi nửa làm ruộng, đến đời họ thì bãi chăn đã biến thành ruộng đất cằn, đất đai không còn nuôi nổi họ. Thế là họ như chim di trú bay đến thảo nguyên. Họ nói trôi chảy tiếng Mông lẫn tiếng Hán, hiểu biết công việc chăn nuôi, đồng thời là nhà nông thực thụ. Họ thông thuộc thảo nguyên hơn những người Hán tới từ khu vực thuần nông, biết khai thác tại chỗ những gì có thể khai thác, có biệt tài xây dựng cơ sở hạ tầng chăn nuôi. Trần Trận và Dương Khắc mỗi khi cho cừu ra sông uống nước về, đều ghé qua chỗ dân công thăm viếng chuyện trò dăm câu. Dương Khắc nhận thấy, do công trình quá bận, thời hạn quá gấp, Bao Thuận Quý đã khoán trắng trước mùa mưa phải hoàn thành nhà kho tạm và bể tắm thuốc. Xem ra, đám dân công chưa kịp để ý đám thiên nga trên hồ.

Những ngày này Trần Trận và Dương Khắc thường xuyên trao đổi về các chính sách “Vừa khai hoang vừa bảo vệ biên giới”, “di dân lên đường biên” của các chính phủ Hán tộc cổ đại và chính sách “khai hoang trồng trọt” của nhà Thanh giai đoạn hậu kỳ. Chính sách tằm ăn dâu, dồn nén du mục vẫn tiếp tục thực hiện cho đến bây giờ. Dương Khắc không hiểu vì sao báo chí ra sức công kích chính sách quảng canh, khai khẩn bừa bãi thảo nguyên, biến những vùng rộng lớn thành sa mạc của Khơrútxốp, nhưng những hành động như thế ở Trung Quốc thì bỏ qua. Trái lại, “bài ca người lính khẩn hoang” thì ca suốt. Dương Khắc chưa tới những binh đoàn khẩn hoang Đông Bắc, Tân Cương mà cuối cùng chọn thảo nguyên, vì cậu đọc tiểu thuyết Nga, xem phim Nga, tranh sơn dầu Nga và những điệu múa Nga mà lớn lên. Tình yêu của những nhà văn, đạo diễn, hoạ sĩ, nhạc sĩ vĩ đại Nga đối với rừng Nga và thảo nguyên, đã hun đúc Dương Khắc thành “động vật” của thảo nguyên và rừng. Cậu không ngờ đã chạy khỏi binh đoàn nông khẩn Đông Bắc Tân Cương, mà vẫn không thoát “nông khẩn” ở đây, xem ra dân tộc nông canh bản tính khó sửa, chừng nào chưa sa mạc hoá tất cả thảo nguyên thì họ chưa cam long.

Dương Khắc không thể không khâm phục tài dựng nhà của những người dân công. Lần đầu tiên đi qua còn là bãi đất trống, ngày hôm sau đã mọc lên những bức tường đất cao hơn đầu người. Dương Khắc cưỡi ngựa chạy mấy vòng quan sát kỹ, thấy họ dung hai cỗ xe lớn chở đất thịt ven hồ. Họ dung mai rộng bản xắn từng tảng đất dài và rộng gấp đôi những viên gạch xây trường thành, rất chắc vì trong đất toàn rễ cỏ ken dày. Loại tường này kiên cố hơn tường trình. Loại “gạch” này không bao giờ thiếu, vì vậy tường dày hơn nhiều so với tường thường. Dương Khắc dung ủng nện thử, cảm thấy nó rắn như bê tong cốt thép xây dựng pháo đài.

Đám dân công chỉ chở vài xe là dựng được một lớp tường, những “viên gạch cỏ” nhất loạt hướng xuống đất, đất hướng lên trên, xếp hết lớp một, dùng mai san phẳng, nện chặt, xếp tiếp lớp hai. Chỉ hai ngày là xong một bức tường. Đợi tường khô là bắc quá giang, đặt nóc, lợp mái, một ngôi nhà hình thành. Bãi đất thịt cỏ mọc xanh rờn biến mất, còn lại là một bãi bùn nhão, trông giống thuở ruộng đã cày bừa nhưng chưa cấy, người và bò cừu đều phải đi vòng mỗi khi ra sông uống nước.

Một dãy nhà đất xuất hiện trên bãi chăn mới như cái gái trong mắt Dương Khắc. Phong cảnh tuyệt đẹp ở bãi chăn mới nếu như điểm xuyết bằng những chiếc lều Mông Cổ, vẫn không mất đi vẻ đẹp. Còn như xuất hiện những dãy nhà đất thì chẳng khác vẽ thêm mấy cái chuồng lợn trên tấm phông của vở kịch Hồ Thiên nga. Cậu van nài lão Vương cầm đầu đám dân công, liệu có thể quét vôi trắng những ngôi nhà xám xịt đó, để trông xa chúng giống như những căn lều Mông Cổ. Lão Vương cười nhăn nhở, nói: Cậu bỏ tiền mua vôi, tôi quét liền. Dương Khắc tức điên, thảo nguyên không sản xuất vôi, có tiền cũng không mua được.

Việc khai thác đá ngày càng quy mô. Trên những quả đồi thông thường ở thảo nguyên Mông Cổ, chỉ cần gạt lớp cỏ hoặc đá sỏi trên mặt rồi đào xuống một hai thước là thấy đá hộc, đá phiến, đá sỏi bị phong hoá, dùng đầu đòn khiêng mà bẩy những hòn đá lên, không cần dùng choòng, cuốc chim và thuốc nổ. Bảy tám dân công khuân những hòn đá từ dưới hố lên xếp đống bên ngoài, trông xa như những nấm mồ xây bằng đá trên đồi cỏ xanh mượt.

Vài hôm sau, công trường khởi công toàn diện, trên 20 dân công ngồi xe bánh hơi đến bãi chăn, trên xe chất đầy hành lý xanh xanh đỏ đỏ, một số vợ con dân công cũng đến, đem theo mấy con ngỗng đông bắc, có vẻ như đến ở hẳn, bắt rễ cắm chốt trên thảo nguyên. Dương Khắc đau xót bảo Trần Trận: Bãi chăn đẹp thế này mà sắp biến thành một cái thôn nông nghiệp bẩn thỉu của Hoa Bắc, hồ thiên nga quý hiếm cũng sẽ trở thành ao nuôi ngỗng nhà. Trần Trận buồn rầu, nói: Dân tộc nào bị bùng nổ dân số, sống còn là công việc hàng đầu, còn đâu dinh dưỡng mà chăm nuôi tế bào nghệ thuật. Sau này Dương Khắc nghe nói, đa số những người mới đến đều là người nhà Bao Thuận Quý, ông ta tiếc không chuyển cư được nửa số dân trong thôn đến thảo nguyên.

Lại vài ngày nữa, Trần Trận phát hiện trước cửa các nhà đều đào mương và cày xới đất. Bốn con mương sâu vây lấy một khoảnh đất trên mười mẫu. Chỉ ít hôm sau, cải bẹ, cải bắp, củ cải, rau thơm, dưa chuột, hành, tỏi… nảy mầm, khiến đám thanh niên trí thức tranh nhau đến đặt mua những loại rau của người Hán ít thấy trên thảo nguyên.

Con đường ngoằn ngoèo của xe bò trên thảo nguyên bị những chiếc máy kéo bánh lốp chở lông cừu nắn thẳng tàn bạo, rồi thì gia quyến của cán bộ nhân viên đến nhặt lông cừu, nhặt quả hạnh, đào cây thuốc, cắt rau phỉ. Một vùng tấc đất tấc vàng vừa mở ra, lưu manh các vùng nông nghiệp đã ào tới như bầy ong, ở nơi vùng sâu vùng xa của thảo nguyên chỗ nào cũng nghe thấy tiếng Hán giọng Mông vùng Đông Bắc. Trần Trận bảo Dương Khắc: Văn minh nông canh Hán tộc trong hai ba trăm năm nay đã đồng hoá tộc Mãn nhà Thanh. Vì rằng quê gốc của tộc Mãn- đông tam tỉnh có vùng đất đen rộng lớn và rất dày, lấy lý do “cùng nguồn gốc” có thể đồng văn hoá nông canh. Vấn đề đồng hoá chưa phải quá lớn, nhưng nếu văn hoá Hán đồng hoá thảo nguyên Mông Cổ mong manh, thì “họa vàng” sẽ xảy ra.

Bao Thuận Quý ngày ngày bám công trường. Ông ta đã chuẩn bị tiềm lực phát triển mục trường, dự định năm thứ hai sẽ chuyển cả bốn đại đội đến bãi chăn mới này, biến nó thành bãi chăn mùa hè cho bốn đại đội, dành ra những vùng đất đen phát triển nông nghiệp. Khi đó, cần lương thực có lương thực, cần thực phẩm có thực phẩm, ông ta có cái vốn để di chuyển họ hàng anh em bè bạn đến nơi phong thuỷ bảo địa này lập nên mục trường họ Bao. Bao Thuận Quý yêu cầu nghiêm khắc về tiến độ xây dựng, nhưng các dân công không hề oán thán.

Ông Pilich cùng mấy mục dân có tuổi suốt ngày cãi nhau với đám dân công, bắt họ phải lấp mương, vì ban đêm đã có ngựa bị vấp ngã gãy chân. Mương đã lấp, nhưng ít hôm sau xuất hiện bức tường đất cao nửa người. Ông Ulichi buồn bã ủ ê, ân hận vì ông là người phát hiện bãi chăn mới.

Dương Khắc mất khá nhiều công sức mới gạt bỏ cảnh bát nháo của công trường, tập trung vào phong cảnh trước mắt chỉ là muốn lưu lại đôi chút ấn tượng về hồ thiên nga này. Mấy ngày nay, cậu mê hồ thiên nga còn hơn Trần Trận mê thảo nguyên. Cậu e chỉ một năm nữa, các trảng cỏ bên kia song sẽ xuất hiện các đàn gia súc lớn của ba đại đội khác đồng thời với công trường lớn hơn của dân công. Giả dụ các bãi lau sậy bị chặt quang, đàn thiên nga sẽ không còn bức màn xanh che chở.

Dương Khắc cưỡi ngựa đi tới bên hồ. Cậu muốn biết thiên nga con đã nở chưa vì đang là mùa sinh sản. May mà thời gian này chỉ có vài con bò quanh quẩn, đàn gia súc lớn đều xa ven hồ. Con song nhỏ chở đi dòng nước đục ngầu do gia súc vấy bẩn, đón dòng nước trong xanh từ thượng nguồn chảy về. Hồ nước trở lại trong vắt. Cậu ước ao đàn thuỷ cầm tạm thời được yên.

Bỗng những tiếng kêu kinh hoảng bằng đủ các giọng của thuỷ câm vang lên trong bãi sậy. Vịt trời, đại nhạn bay sát mặt nước về phía đông nam. Thiên nga lập tức vọt lên nhằm đầm lầy phía bắc bay đi. Dương Khắc vội rút ống nhòm chĩa về phía bãi sậy, hẳn có kẻ định bắn thiên nga.

Mười mấy phút sau, mặt hồ phía xa xao động, một chiếc bè được nguỵ trang như bè cánh nhạn của du kích hồ Bạch Dương trong chiến tranh chống Nhật, xuất hiện trước ống kính Dương Khắc. Chiếc bè từ trong bãi sậy nhẹ nhàng bơi ra, trên có hai người đầu đội mũ nguỵ trang bằng cây sậy, khoác áo choàng cũng bằng cây sậy. Cây sậy còn chất đống trên bè, y như một khóm sậy khổng lồ đang trôi, nếu không quan sát kỹ, không thể phân biệt với đám sậy xung quanh. Dương Khắc nhìn rõ hai người ngồi trên bè đã có thu hoạch, một người bỏ mũ nguỵ trang ra, người kia dùng chiếc xẻng sắt làm mái chèo, lái chiếc phà về bờ sông bên này.

Chiếc phà cặp bờ. Thì ra nó vốn là sáu chiếc săm xe tải và mấy tấm cánh cửa kết lại. Dương Khắc nhận ra một người là lão Vương cầm đầu cánh dân công, một người cháu của lão là Hai Thuận. Hai Thuận gạt bỏ đám sậy nguỵ trang, lộ ra chiếc bồn sắt tây vẫn dùng để giặt quần áo, trong bồn chứa đầy trứng chim to nhỏ các loại, giữa bồn có hai quả rất lớn, trắng như pha lê, bóng mịn như điêu khắc ngọc Dương chỉ. Dương Khắc trong bụng đau nhói, cậu tự nhủ: Trứng Thiên nga! Càng kinh hoảng hơn, phía dưới lộ ra một nửa con thiên nga lớn, cánh trắng muốt dây đầy máu. Dương Khắc máu dồn lên đầu, cậu định lật sấp chiếc bè nhưng cố kiềm chế. Con thiên nga không thể sống lại, nhưng hai quả trứng thiên nga cậu sẽ cứu bằng được.

Chiếc bè cập bến, Dương Khắc gầm lên: Ai cho phép các người bắn thiên nga? Lấy trứng thiên nga? Đi, lên đội cùng tôi!

Lão Vương người không cao nhưng rắn chắc, bộ râu nửa Hán nửa Mông che gần hết khuôn mặt. Ông ta trợn mắt nhìn Dương Khắc: Chủ nhiệm Quý cho phép đấy, việc gì đến cậu? Đội xây dựng ăn thịt chim, càng tiết kiệm thịt cừu cho đại đội các cậu chứ sao!

Dương Khắc gầm lên: Người Trung Quốc đều biết câu: Cóc ghẻ đòi ăn thịt ngỗng trời, ông có còn là người Trung Quốc nữa không?

Lão Vương cười nhạt: Chính là người Trung Quốc mới không muốn cho thiên nga bay đến chỗ bọn khốn khiếp, cậu định dâng thiên nga cho bọn chúng hả?

Dương Khắc thấy mồm mép bọn “lưu manh” chẳng vừa, nên không nói gì nữa.

Con thiên nga được đưa lên bờ. Điều làm cho Dương Khắc kinh ngạc là nó bị một mũi tên trúng ngực. Trên bè còn có một cây cung bằng tre vầu và một nắm tên dùng chưa hết, thảo nào không nghe thấy tiếng súng. Vừa nãy cậu còn băn khoăn, hai người không đem theo súng, vậy họ bắt thiên nga bằng cách nào? Thì ra họ dùng thứ vũ khí cổ lỗ nhất. Vào cái thời dùng súng đạn này, cậu thấy bộ cung tên lại có sức sát thương mạnh nhất, hữu hiệu nhất, kín đáo nhất, không làm kinh động những con thiên nga và các loài thuỷ cầm khác để săn bắn được ngày càng nhiều hơn. Dương Khắc tự nhủ không nên coi thường loại người này, phải dùng mưu mà trị chúng.

Dương Khắc cố nén giận, khó khăn lắm mới dịu được nét mặt, cầm chiếc cung lên khen” Cung này tốt đây! Ông bắn con thiên nga bằng cái cung này phải không?

Lão Vương thấy Dương Khắc đã đấu dịu liền kheo mẽ: Đúng thế. Cung này tôi lấy trên xưởng dệt thảm, vốn là cái cần nâng con cò trên khung cửi, rất mạnh, bắn chết người như bỡn. Dương Khắc rút lấy một mũi tên, nói: Cho tôi bắn thử một phát, được không? Lão Vương ngồi trên một mô đất vừa xem Hai Thuận vặt lông thiên nga, vừa hút thuốc, nói: Công phu lắm mới vót được một mũi tên, tôi còn để dùng, cậu bắn thử một mũi thôi.

Dương Khắc nghiên cứu rất kỹ bộ cung tên. Thanh tre làm cung dày gần một đốt, rộng ba đốt ngón tay. Dây cung làm bằng mấy sợi da bò mảnh bện to bằng bút chì, tên làm bằng cành liễu vuốt thẳng, mũi tên bọc bằng sắt tây đồ hộp, có mũi bên ngoài còn rõ hai chữ “chiên vàng”. Sắt tây cắt thành hình tam giác rồi bọc quanh đầu mũi tên đã vót nhọn, bọc rất khít rồi chốt lại bằng đinh. Đầu mũi tên có hình ngòi bút lông, Dương Khắc lấy tay gại thử, nó vừa cứng vừa nhọn như mũi lao. Cậu nhấc thử, thân không nặng nhưng đầu mũi thì hơi nặng, khi bắn đi không bị lạng.

Cung rất cứng. Dương Khắc vận hết sức mới giương được năm sáu phần mười. Cậu giương cung đặt tên, nhằm bó cỏ cách mười mấy mét bắn một phát. Mũi tên cắm xuống đất bên cạnh bó cỏ. Dương Khắc chạy tới cẩn thận rút mũi tên, lau sạch đất, đầu nhọn vẫn sắc nguyên. Lúc này cậu có cảm giác như trở về thời kỳ cổ đại cưỡi ngựa bắn cung trên thảo nguyên Mông Cổ.

Dương Khắc đến bên lão Vương, hỏi: Ông bắn con thiên nga cách bao nhiêu mét?

Khoảng bảy tám bộ.

Ông đứng gần thế mà con thiên nga không trông thấy ông?

Lão Vương gõ gõ cái tẩu: Hôm kia tôi vào bãi sậy tìm cả buổi mới thấy thiên nga. Tinh mơ sáng nay, hai người chúng tôi đẩy bè nguỵ trang vào trong bãi sậy, may mà trời mù, không bị đàn thiên nga phát hiện. Tổ thiên nga cao một tầm với, bằng cây sậy, thiên nga mẹ ấp trứng, thiên nga bố bơi dưới nước canh chừng.

Ông bắn chết con bố hay con mẹ?

Hai chúng tôi nằm chỗ thấp, bắn không tới ổ, đành đợi con đực. Rất lâu con đực mới bơi ngang chiếc bè, tôi bắn một phát, nó chết liền. Con cái thấy động cất cánh bay đi, chúng tôi mới trèo lên lấy trứng trên ổ.

Dương Khắc nghĩ thầm: Khả năng sinh tồn và phá hoại của dân lưu manh này thật đáng gờm. Không súng đạn thì dùng cung tên; không thuyền thì dùng be. Lại còn biết nguỵ trang, biết trường kỳ mai phục, có thể bắn chết từ phát đầu tiên. Nếu chúng được trang bị súng đạn và máy kéo thì thảo nguyên sẽ bị chúng huỷ hoại đến như thế nào? Tổ tiên chúng vốn là mục dân, nhưng sau khi bị văn hoá nông canh của người Hán chinh phục, liền trở thành kẻ thủ của thảo nguyên Mông Cổ. Hàng ngàn năm nay người Trung Quốc tự lấy làm vui về khả năng phi phàm đồng hoá dị tộc của mình, nhưng người Trung Quốc chỉ có thể đồng hoá dân tộc nào trình độ văn hoá thấp hơn mình, hơn nữa, giấu biệt những hậu quả tai hại do sự đồng hoá đó đẻ ra. Dương Khắc mục kích hậu quả đó mà trong lòng rỉ máu.

Hai Thuận dọn dẹp xong cái bè, cũng ngồi nghỉ. Dương Khắc quan tâm nhất hai quả trứng. Thiên nga mẹ chưa chết, dứt khoát phải trả trứng về ổ. Phải cho hai con thiên nga con chào đời, cùng mẹ chúng bay cao bay xa, bay đi Sibia.

Dương Khắc cố làm ra vẻ tươi tỉnh, bảo lão Vương: Ông quả thực đáng nể. Sau này cháu phải học ông vài món.

Lão Vương cười đắc ý: Việc khác thì không biết, còn như bắt chim, bắt rái cá, bẫy sói, đào cây thuốc, nhặt nấm thì lão biết tuốt. Những trò này lão biết từ trước, sau khi người Hán vào đồng cỏ Quan Đông, đất trở nên thiếu, động vật hoang dã cũng bị người Hán chén sạch. May mà lão chưa quên nghề, đành lên đây kiếm ăn qua ngày. Chúng ta tuy cùng tộc Mông nhưng bỏ quê mà đi cũng không dễ. Thanh niên trí thức các cậu từ Bắc Kinh đến, lại có hộ khẩu ở đây, các cậu nói hộ cánh ngụ cư chúng tôi dăm câu, đừng để dân địa phương đuổi chúng tôi đi. Nếu cậu nhận lời, lão sẽ dạy cho mấy món, bảo đảm mỗi năm cậu kiếm được bạc ngàn.

Dương Khắc nói: Vậy cháu xin tôn ông làm thầy.

Lão Vương nhích lại gần, hỏi: Nghe nói ở đằng lều các cậu và các mục dân trữ nhiều mỡ cừu, liệu cho lão một ít không? Bọn tôi bốn năm chục người ngày ngày làm việc nặng, lương thực đều mua từ chợ đen với giá cao, ngày ngày ăn rau dại, không chút mỡ vào bụng, vậy mà các cậu thắp đèn bằng mỡ, phí quá! Cậu bán rẻ cho lão một ít nhá?

Dương Khắc cười: Chuyện này dễ thôi. Chúng cháu còn hai ống bơ mỡ trong lều. Hai quả trứng thiên nga này đẹp quá! Thế này nhé, cháu đổi cho ông nửa ống bơ mỡ lấy hai quả trứng, được không? Lão Vương nói: Được. Hai quả này lão cũng định rán ăn, coi như ăn bớt đi năm sáu quả trứng vịt, cậu cầm về đi. Dương Khắc liền lấy áo bọc kỹ hai quả trứng, bảo lão Vương: Mai cháu đem mỡ đến cho ông. Lão Vương nói: Người Bắc Kinh các cậu nói một là một hai là hai, lão tin.

Dương Khắc thở ra một hơi nhẹ nhõm: Trời hãy còn sớm, cháu mượn cái bè của ông đi xem ổ thiên nga… Ông vừa nói ổ thiên nga cao hơn một tầm với, cháu không tin, muốn thấy tận mắt.

Lão Vương nhìn con ngựa của Dương Khắc, nói: Được, thế này nhá, cậu mượn bè của lão, lão mượn ngựa cậu chở con thiên nga này về bếp ăn. Nặng quá, nặng gần bằng con cừu.

Dương Khắc đứng lên, nói: Cứ thế nhé… Gượm hẵng, ông cho cháu biết cái ổ ấy ở đâu?

Lão Vương cũng đứng lên, trỏ đám sậy chụm thành hình cái cổng, nói: Đến đầu đông thì rẽ sang hướng bắc, chỗ đó có bụi sậy bị bè lướt gãy, bơi theo vệt bè là tìm thấy cái ổ. Cậu biết chèo bè không?

Dương Khắc lên bè, quạt vội mấy xẻng, nói: Cháu bơi thuyền suốt ở công viên Bắc Hải- Bắc Kinh. Cháu biết bơi lội, vài cây số không thành vấn đề. Không chết đuối đâu mà lo.

Lão Vương căn dặn: Trở về cậu nhớ cột bè cho kỹ. Nói xong, lão ôm con thiên nga đặt lên yên, còn lão ngồi phía mông cho ngựa đi chầm chậm. Hai Thuận ì ạch bê bồn trứng theo sau.

Đợi hai người đi xa, Dương Khắc lại cập bờ đem hai quả trứng lên bè rồi hối hả chèo tới khóm sậy phía đông.

0O0

Mặt hồ mênh mông phản chiếu những đám mây trắng nhức mắt, một đàn đại nhạn và những con vịt cổ xanh từ những ao đầm phía bắc mạnh dạn đáp xuống hồ. Hình ảnh lộn ngược, những con chim nước như rẽ mây mà bơi, lát sau chúng đã nổi trên những bóng mây dưới nước. Vào trong hồ, Dương Khắc bất giác chèo chậm lại, cậu như tắm trong màu xanh thẫm của những cây sậy. Mùi thơm nhẹ của nước hồ và của lá sậy đưa tới, càng vào sâu bên trong càng thơm, hình như đã thực sự vào trong hồ thiên nga mộng ảo. Dương Khắc nghĩ, nếu gọi được Trần Trận và Trương Kế Nguyên cùng bơi thì hay quá. Ba người sẽ ở lì trong hồ không ra, nằm trên bè một ngày hoặc một đêm, mặc cho nó trôi đi đâu thì đi.

Chiếc bè dần dà tiếp cận đám sậy phía đông, ở đây nước chảy, là dòng chính của con sông qua hồ chảy lên phía bắc. Lông chim nổi trên mặt hồ, trắng có, xám có, màu cà phê có, màu vàng chanh có, màu cánh trà có, đủ cả. Đôi khi vài con vịt hiện ra đột ngột rồi rúc luôn vào bên trong khi thấy người. Bãi sậy sâu thăm thẳm, là phòng sản yên tĩnh, là sân chơi an toàn của thuỷ cầm. Làn gió mát thoảng qua, rũ sạch mùi mồ hôi trên người Dương Khắc.

Lại qua một khúc ngoặt, dòng sông lúc hẹp lúc rộng. Dương Khắc chèo một lúc nữa thì đến chỗ phân nhánh. Cậu dừng chèo, chợt trông thấy mấy cây sậy gãy giập trên mặt nước, bèn men theo lối đó bơi vào trong. Mặt nước ngày càng rộng ra, trước mặt cậu ẩn hiện một cái hồ, mặt hồ phía đông bắc có rất nhiều cây sậy bị phạt ngã, một đường đi trên mặt nước do con người tạo ra xuất hiện trước mắt cậu. Cậu bơi theo dòng nước, thấy phía sau một búi sậy có một cái gò nổi, cao dễ hơn hai mét, đường kính một mét. Dương Khắc tim đập như trống làng: Đúng nó! Đây là một ổ thiên nga mà cậu chưa từng trông thấy trên phim ảnh hoặc trong sách. Cậu dụi mắt không tin đây là sự thật.

Dương Khắc thở gấp, hai tay run run. Cậu loạng choạng bơi tới, dùng xẻng gạt đám sậy trên mặt nước, tiếp cận cái ổ. Cuối cùng, ghìm được bè vào khóm sậy khổng lồ, cậu thở ra một hơi, dùng cán xẻng làm điểm tựa, nhẹ nhàng nhón gót, vươn cổ ngó vào trong. Cậu muốn biết hoàng hậu thiên nga sau khi mất chồng, còn ở trong ổ không? Nhưng cái ổ cao quá, cậu không thể nhìn vào, nhưng bằng vào cảm giác, cậu thấy trong ổ không có gì.

Dương Khắc ngẩn ngơ trước ổ thiên nga. Cậu như mụ đi vì chưa bao giờ trông thấy một tổ chim lớn như thế. Cậu cứ tưởng cái tổ chỉ cao hơn mặt nước đôi chút. Thiên nga mà có thể đạp gãy một khóm sậy lớn rồi nhặt những cành sậy và lau già đan thành tổ hình cái bát. Cái tổ thiên nga khiến cậu thấy sức tưởng tượng của cậu quá tầm thường. Là bậc vương giả trong loài chim, cái tổ của con thiên nga không những mang phong cách đế vương, mà về công nghệ tạo hình cũng khác đời. Đây là một tâm hồn độc đáo, tay nghề tinh vi. Cái tổ vô cùng chắc chắn.

Sau khi xác định thiên nga mẹ không có trong tổ, Dương Khắc bèn ngó vào trong.

Vị trí cái tổ cực đẹp. Đây là nơi lau sậy mọc dày nhất trong hồ, lại là nơi nước sâu nhất. Bên cạnh tổ là một mảng của cái hồ thứ hai. Người bạn đời của thiên nga xây tổ ở đây tiện cho ẩn nấp, tiện cho ăn uống, ra vào, tiện cho thiên nga đực tuần tiễu bảo vệ. Nếu không có hai dân công xảo trá dùng bè nguỵ trang mở một lối vào trong bí mật tập kích, nói chung rất khó tiếp cận tổ của vua các loài chim này.

Dương Khắc dùng cả hai tay đẩy cái tổ, thấy không rung chuyển, y như đấy một cái cây đường kính hàng mét. Tuy lớn lên trong nước, nhưng rễ của chúng là rễ chum cắm sâu dưới đáy hồ. Kết cấu tổ, Dương Khắc chưa bao giờ trông thấy. Quan sát kỹ, cuối cùng Dương Khắc cũng nhận ra thiên nga xây tổ như thế nào? Trước tiên đôi thiên nga chọn một bụi sậy thật to thật cứng, sau đó dùng búi sậy này làm như cốt thép rồi dùng thân cây sậy mà đan ngang đan dọc hết lớp nọ đến lớp kia. Dưong Khắc đoán chừng lúc bắt đầu, đôi thiên nga đan một lớp thật dày rồi chúng trèo lên trên, dùng sức nặng cơ thể giằn cái tổ xuống dưới nước tiếp tục đan cho đến khi cái tổ ló lên mặt nước. Dương Khắc dùng cán xẻng thăm dò độ sâu, đo được một mét rưỡi tính đến mặt nước. Vậy là nếu bộ phận chủ thể tính từ mặt nước lên cao hơn hai mét, cái tổ này cao hơn bốn mét. Có lẽ đây là công trình đặc cấp trong vương quốc chim.

Những cây sậy già dẻo quánh như tre, chịu được ngam nước. Dương Khắc có lần khơi lại cái giếng trên bãi chăn bị lấp đã bảy tám năm, thấy những chọc chống lở đất bằng cây sậy vẫn chưa mục nát hết. Cậu dùng xẻng chọc vào đáy tổ, quả nhiên rất kiên cố.

Khi tổ đã ló lên mặt nước, người tình của con thiên nga cái bắt đầu kiến trúc, từng lớp phần chủ thể trên mặt nước. Dương Khắc nhận thấy thân tổ đan kết vừa dày vừa chặt y như một cái sọt đặc ruột, tới cách ngọn sậy chừng một thước thì dừng, những cây sậy làm cốt toẽ ra xung quanh như lan can lẩn trong những ngọn sậy. Dương Khắc bám một cây trụ, dùng chân đạp mạnh xem có chỗ nào bật ra không rồi thận trọng leo lên khoảng hai thước ngó vào trong, cuối cùng cậu nhìn rõ phòng sản của thiên nga hình cái đĩa, bên trong lót một lớp lá sậy, một ít lông tơ mềm mại, chứ không hình trôn bát như những loại ổ khác.

Dương Khắc bước xuống bè, ngước nhìn cái tổ thiên nga bằng ánh mắt tán thưởng. Người tình thiên nga cần cù thông minh am hiểu sâu sắc lực học và mỹ học. Thảo nguyên Mông Cổ là thiên đường của những động vật Quý hiếm và cũng là vương quốc của kẻ mạnh và khôn ngoan, ẩn giấu bao nhiêu của ngon vật lạ mà rất nhiều dân tộc nông canh không được thưởng thức. Tiếp đó, Dương Khắc lại phát hiện ra càng nhiều ưu điểm của tổ thiên nga: Cao chót vót trên ngọn đám lau sậy thoáng mát và khô ráo, tầm nhìn xa, được màu xanh như một bức màn che chở, lại cách xa đám cành khô lá mục thối rữa dưới chân. Mùa hè còn tránh được muỗi đốt và rắn nước tập kích. Nếu thiên nga con mổ trứng chui ra, mở mắt đã thấy trời xanh mây trắng. Sang thu, trước khi bay về phương nam tránh rét, chúng ẩn hiện trong hoa lau trắng như bong. Dù xa xôi ngàn dặm, đàn thiên nga con không bao giờ quên quê hương vừa xinh đẹp vừa lãng mạn của chúng.

Gió nhẹ, những cây sậy đung đưa trước gió, hàng vạn bông lau uốn cần câu, nhưng cái tổ vĩ đại của thiên nga vẫn đứng im phăng phắc, như bậc đế vương tiếp nhận triều kiến của chư hầu. Thiên nga rất kiêu, tự nhận là loài chim bay cao nhất thế giới, nhưng Dương Khắc không ngờ trên thảo nguyên không một bóng cây, thiên nga vẫn cứ kiêu ngạo hơn chim ưng. Chim ưng đực trên thảo nguyên lấy độ cao của núi để tăng độ cao của tổ. Dương Khắc đã xem hơn chục tổ chim ưng thảo nguyên trên đỉnh núi, đâu phải tổ, mà chỉ là một đống cành cây và vài miếng da rách như cái ổ của tên ăn mày, khiến lòng ngưỡng mộ của cậu đối với chim ưng tan biến.

Thiên nga cao quý, đẹp và trong sạch cả trên trời lẫn dưới đất. Nếu như trên đời không có thiên nga, làm gì có hồ thiên nga trên sân khấu? Làm gì có Ulanôva? Dương Khắc nhìn lên ngai vàng của thiên nga, mở to mắt ghi nhớ từng chi tiết cái tổ đế vương. Cậu rất muốn dựng một cái tổ thiên nga cao vút trên quảng trường nhà hát quốc gia, trở thành linh vật của những ai yêu thiên nga và hồ thiên nga, trên đỉnh trụ là đôi bạn thiên nga thanh khiết vỗ cánh bay lên trời xanh, họ sẽ là linh vật của tình yêu và cái đẹp bất tử trong lòng nhân loại.

Gió trên hồ dần chuyển lạnh, lau sậy cũng biến từ màu xanh sang sẫm. Dưong Khắc hai tay nâng hai trứng thiên nga trước ngực, truyền hơi ấm cho chúng. Thế giới này cóc ghẻ ngày càng nhiều, trên sân khấu, đại đao của nữ hồng quân đuổi sạch công chúa thiên nga. Nhưng thế giới này vẫn có những người yêu thích và sùng bái thiên nga.

Dương Khắc thận trọng trèo lên tổ, thành kính đưa quả trứng lên quá đầu, trả lại tổ, lại lấy từ trong bọc quả trứng thứ hai trả nốt. Trở lại bè, cậu thở một hơi khoan khoái. Cậu tin rằng hai quả trứng trên cột tôtem cao to kia sẽ là hai viên ngọc lớn, từ bãi sậy phát ra ánh sáng chói lọi vẫy gọi nữ hoàng thiên nga đang bay lượn trên trời cao.

Rồi thì bầu trời xuất hiện một chấm trắng bay rất cao. Dương Khắc vội vàng cởi dây cột, đẩy nhẹ chiếc bè trở lại lòng sông. Cậu nâng dậy những cây sậy bị đổ rạp, dùng xẻng gạt lá sậy trôi trên mặt nước, cậu hi vọng những cây lau bị chặt ngã lại nảy mầm, che khuất cái tổ thiên nga vĩ đại đã bị lộ.

Trước khi rời đi, Dương Khắc trông thấy một con thiên nga đang sà xuống và khi bè cập bến, không còn thấy nó trên trời.

0O0

Dương Khắc đến bếp ăn của công trường, Hai Thuận nói chú cậu ta đã cưỡi ngựa đi tổ chăn nuôi số 3 mua bò ốm. Bãi đất bên ngoài nhà bếp đã mọc lên một cái bếp đất, trên bếp có một nồi cực lớn. Mặt đất đầy lông thiên nga ướt mèm, chiếc nồi trên bếp sôi sùng sục, trong nồi là những miếng thịt thiên nga to bằng nắm tay. Dương Khắc trông thấy con thiên nga trong nồi đang khóc, bên bếp là một cô ăn mặc gọn gang đang cho gia vị như tiêu ót hành tỏi, gừng tươi vào nồi lại còn tưới lên đầu thiên nga loại xì dầu rẻ tiền. Dương Khắc bị choáng, ngồi bệt xuống xe. Cô gái trẻ bảo Hai Thuận dìu cậu thanh niên trí thức Bắc Kinh vào trong lều, lát nữa tặng cậu ta bát cháo thiên nga bồi dưỡng sức khoẻ. Dương Khắc gạt Hai Thuận sang bên. Cậu tức đế nỗi suýt đá bay cái nồi trên bếp. Cậu không chịu nổi cái mùi bốc lên từ cái nồi nhưng không dám đá, cũng không dám nổi giận. Người ta là bần nông và trung nông lớp dưới, còn thanh niên trí thức các cậu là lũ “chó rẻ” về đây để được giáo dục lại. Cậu dứt khoát phải tìm cách huỷ cái bè.

Đám dân công mồ hôi chua loét lục tục trở về. Ngửi thấy mùi thịt thèm rỏ giãi, họ reo ầm lên vây quanh nồi vừa hát vừa gọi:

Cóc ghẻ ăn thịt ngỗng trời nào! Cóc ghẻ ăn thịt ngỗng trời nào!

Ăn thịt thiên nga thì còn là cóc ghẻ nữa thôi?

Vậy là gì?

Vua.

Một cậu tướng ngũ đoản giương cặp mắt lồi như mắt cóc, nhân lúc láo nháo cầm que củi đang cháy đốt đít cô gái, cười đĩ thoã: Ai bảo cóc ghẻ không ăn thịt nổi ngỗng trời? Lát nữa ta sẽ ăn. Lời chưa dứt, cậu ta đã bị đập một phát bằng que củi đang cháy.

Đám dân công thấy thịt chưa chín, liền cởi trần, tay vung khăn mặt bẩn, chạy ra hồ. Vài người trèo lên bè bơi ra giữa hồ. Vài cậu không sợ nước, trần truồng nhảy xuống bơi như chó, nước đục bắn tung toé. Mặt hồ vừa yên thì một đám chim lớn giật mình bay lên, kêu loạn xạ.

Dương Khắc không hiểu, cùng là dân tộc Mông, mà sao những người ở khu vực nông nghiệp quên rất nhanh thuỷ thần mà người Mông Cổ sùng bái. Khi thanh niên trí thức Bắc Kinh chưa về đến mục trường, công xã đi qua trụ sở cơ quan huyện, một số cán bộ người Hán đến thăm, nói riêng với đám Trần Trận, là đến thảo nguyên thì phải tôn trọng phong tục tập quán và tôn giáo tín ngưỡng của mục dân. Thảo nguyên Mông Cổ thiếu nước, nên người Mông Cổ đặc biệt quý trọng nước, không dám giặt quần áo, càng không dám tắm trong hồ. Trong lịch sử dân tộc Mông Cổ thời bán khai, vì dân tộc Islam thích tắm nơi sông hồ, rất khinh nhờn thuỷ thần Mông Cổ, nên hai dân tộc này đã đánh nhau máu chảy thành sông. Họ mong sau khi lên thảo nguyên, thanh niên trí thức không nên tắm giặt ở sông ngòi. Hơn hai năm nay, đám thanh niên trí thức đã kiềm chế được ý thích tắm sông. Ai ngờ đám dân công đến từ khu vực Mông Cổ- nông nghiệp dám phá hoại quy củ của thảo nguyên.

Không còn cách nào khác, Dương Khắc đành trở về căn lều Mông Cổ cùng Trần Trận bàn cách đối phó. Đi được vài bước, cậu phát hiện năm sáu cái rễ cây rất to dưới chân tường. Cậu giật mình nghĩ đến những bông thược dược đẹp như các nàng tiên, vội chạy tới nhìn kỹ. Cậu chưa bao giờ nhìn thấy rễ cây hoa thược dược. Chúng rất giống sừng con cừu, lại giống củ khoai lang lớn đầy những mấu. Thân cây hoa bị cắt cụt, chỉ còn lại vài mầm non mới nhú. Mấy cái rễ to nhất đã được thả trong thùng sắt lớn, một thùng chỉ thả được một rễ, trong thùng có cát ướt, bảo đảm rễ không bị héo.

Dương Khắc hỏi Hai Thuận: Đây có phải rễ cây thược dược? Hai Thuận nói: Đúng, thược dược trắng, mọc trong núi, ở đâu thì không thể cho cậu biết. Cách đây mấy hôm chở đi hơn nửa xe bán cho hiệu thuốc trên thành phố. Dương Khắc không ngờ chỗ hơn nửa xe com măng ca Bao Thuận Quý chở đi chỉ là một phần nhỏ, còn lại toàn bộ thược dược thiên nga đã bị đám dân công đào sâu ba thước, lấy cả rễ. Những con người đã không yêu quê mình thì khi đến nơi khác, họ dám phá sạch.

Dương Khắc trở về nhà, kể lại cho Trần Trận và Cao Kiện Trung những điều mắt thấy tai nghe.

Trần Trận cũng tức đến nỗi không nói thành lời. Khi đã bình tâm trở lại, cậu bảo Dương Khắc: Những điều cậu thấy là hình ảnh thu nhỏ mối quan hệ mấy nghìn năm giữa hai dân tộc du mục và nông canh. Dân du mục trở thành dân làm ruộng rồi quay về giết thảo nguyên. Cả hai đều bị thương.

Dương Khắc không hiểu, hỏi: Làm sao cả hai đều bị thương? Vốn cùng cội rễ, du mục quay về du mục, nông canh trở về nông canh có phải yên ổn không?

Trần Trận trả lời lạnh nhạt: Trái đất bé tí ấy mà. Lịch sử nhân loại là lịch sử giữa tước đoạt và bảo vệ không gian sinh tồn. Hoa Hạ kinh tế tiểu nông tầm nhìn hạn hẹp, cả đời chỉ nhìn thấy mảnh đất bé tí dưới chân mình. Chúng mình nếu không lên thảo nguyên, chắc cũng chỉ như ếch ngồi đáy giếng, cứ cho mình ghê gớm lắm.

Bên ngoài có tiếng sủa của ba con chó lớn. Dương Khắc nói: Chắc lão Vương đem trả con ngựa. Nhị Lang hung hăng đến nỗi lão không dám xuống ngựa, gọi Dương Khắc ầm ĩ. Dương Khắc vội chạy ra nạt chó để lão vào trong lều rồi mới tháo yên. Con ngựa mồ hôi ướt sũng, hơi bốc ngùn ngụt, đệm lót yên cũng ướt mèm, toàn mùi mồ hôi. Dương Khắc giận dữ mở cửa bước vào. Lão Vương trên người toàn mùi tỏi, mép bóng nhẫy, luôn miệng khen thịt thiên nga ngon. Dương Khắc cố nhịn để khỏi rút dây động rừng, lấy mỡ cừu đưa cho lão. Lão Vương được nửa lon mỡ vui vẻ ra về. Dương Khắc nghĩ đến con thiên nga đực sáng nay còn bay lượn trên trời, giờ đã trong bụng lão Vương cùng với đám tỏi hôi rình thì xót xa quá chỉ chực khóc.

Ba người ngẩn ra hồi lâu không nói gi. Sao không ngăn lão lại nện cho một trận? Sao không cho lão một bài học? Nhưng các cậu thấy với loại chỉ thích lấy thịt đè người này, đánh không đánh, mà nói lý lẽ thì như đàn gẩy tai trâu. Muốn trị chúng, phải lấy độc trị độc. Trần Trận và Cao Kiện Trung tánh thành phá huỷ chiếc bè của lão Vương, mà phải phá tan thành, khiến lão hết cách phục hồi. Phải bảo đảm cho hai con thiên nga lớn lên bay đi. Dương Khắc xót xa: Mình nghĩ sang năm đàn thiên nga chắc không về đây nữa. Ba người ngồi im như phỗng.

Nhưng các cậu không biết đội thông báo tối nay học chính trị, không ai được vắng mặt, khiến các cậu lỡ cơ hội duy nhất phá huỷ chiếc bè.

Người đầu têu ăn thịt thiên nga trên thảo nguyên Ơlôn là Bao Thuận Quý, nhưng là ăn trong trướng của đội săn bắt sói. Nồi thịt thiên nga hôm đó không có gia vị, mà chỉ là thịt luộc chấm muối. Tất cả đám thợ săn và Dương Khắc không ai đụng tay. Bao Thuận Quý uống rượu một mình, lão cũng chẳng có cảm giác đó là yến tiệc cung đình, thậm chí còn bảo thịt thiên nga chẳng khác thịt ngỗng nấu với ngô ở quê lão.

Lúc này Bao Thuận Quý đã kịp mò tới bếp công trường. Đây là món ăn Hán, có đủ nguyên liệu phụ, nấu nướng cầu kỳ, lại thêm mấy chục con người tán hươu tán vượn, hót như khướu khiến lão có cảm giác và tâm trạng của bậc vương giả.

Tiếc rằng thịt thì ít mà người lại nhiều. Bao Thuận Quý và lão Vương mỗi người ăn hết một đĩa, những người khác chẳng được mấy miếng. Tiệc thiên nga vừa tan, Bao Thuận Quý mồm miệng bóng nhẫy chủ trì buổi học chính trị, khiến mọi người nhốn nháo vì thèm. Vậy là quyết định ngày hôm sau trời chưa sáng lại khoác áo nguỵ trang, lại đem theo cung tên, lại vào chỗ phục kích hôm trước, để cho chắc ăn, họ còn đem theo khẩu bán tự động của Bao Thuận Quý, nếu không bắn được thiên nga thì họ bắn đại nhạn, vịt trời, gì thì gì, mọi người phải ăn một bữa thoả thích.

0O0

Sáng sớm hôm sau, tiếng súng trong hồ đánh thức Dương Khắc, Trần Trận và Cao Kiện Trung. Ba người giậm chân kêu trời. Dương Khắc nổi cơn điên, phóng ngựa về phía hồ. Trần Trận nhờ Quanbu chăn cừu hộ một ngày, rồi cùng Cao Kiện Trung lên ngựa phóng theo.

Ba người thấp thỏm đợi chiếc bè cập bến. Thảm cảnh trước mắt khiến Dương Khắc và Trần Trận như chứng kiến người thân đột tử. Lại một con thiên nga, vài con nhạn biển và vịt trời nằm lăn lóc trên bè cùng với hai quả trứng thiên nga vấy máu. Đó chính là con thiên nga cái vừa chết chồng, vì hai đứa con yêu quý chưa chào đời mà nó nán lại, chưa kịp rời bỏ cái hồ đáng sợ này. Nó bị bắn nát đầu, chết thê thảm hơn người chồng quá cố, chết trên hai đứa con một gái một trai chưa nở, máu tươi trên trứng coi như cung cấp chút hơi ấm cuối cùng cho các con.

Dương Khắc nước mắt đầm đìa, nếu cậu không đem trả hai quả trứng, có lẽ con thiên nga đã thoát khỏi những bàn tay độc ác.

Lão Vương lên bờ. Đám dân công, mục dân và thanh niên trí thức đã tụ tập đông đảo. Lão Vương mặt hầm hầm bảo Dương Khắc: Cậu còn định đổi mỡ cừu nữa thôi? Đừng có mà nằm mơ! Lần này thì lão sẽ đổi hai quả trừng này cho cậu Bành. Hôm qua lão đi mua bò chê cỏ gặp cậu Bành, kể chuyện cậu đổi nửa lon mỡ cừu lấy hai quả trứng thiên nga. Cậu ta bảo lão bị thiệt. Cậu ta đặt hàng, cứ mỗi quả đổi một lon mỡ cừu.

Đang nói thì tiểu Bành hối hả xuống ngựa, cầm hai quả trứng nhét luôn vào túi xách rồi lên ngựa đi luôn.

Đám dân công vui như tết, mang các các thứ săn được về nhà bếp. Đám mục dân nghi ngờ và phẫn nộ khi thấy những người Mông Cổ mặc y phục Hán này sao lại quá tàn nhẫn, dám ăn thịt cả đại điểu của Tăngcơli (Trời). Ông già Pilich lần đầu tiên gặp chuyện này. Giận run người, ông lớn tiếng chửi lão Vương là đồ vô lại, khinh nhờn chim thần Saman, đồ mất gốc! Ông có còn là người Mông Cổ nữa không hả? Lão Vương không chịu, cãi: Saman đã là cái thứ gì! Quê tôi ngay cả tượng Bồ Tát còn bị người ta đập nát bét, còn ông thì vẫn ôm lấy thần Saman! Lạc hậu, đập tuốt! Ông Pilich thấy đem giới luật của trời ra mà vẫn không ăn thua, vội rút quyển sách đỏ của Mao Chủ tịch in bằng chữ Mông Cổ ra, hỏi Trần Trận: Trừng trị bọn thổ phỉ này thì đọc đoạn nào? Trần Trận và Dương Khắc mãi không nghĩ ra trong ngữ lục có đoạn nào nói về trừng trị những kẻ giết chim quý.

Đám dân công cậy đông, lại có ô dù, nên cãi nhau tay đôi với ông Pilich. Đám mục dân gầm lên xông tới. Hai bên đều là người Mông Cổ, đều là bần nông (mục) và trung nông (mục) lớp dưới, cùng dân tộc, cùng giai cấp, vậy mà không có cách nào hoà giải cuộc xung đột giữa dân tộc Mông- nông canh với dân tộc Mông – du mục. Dương Khắc và Trần Trận và một số thanh niên trí thức đứng về phía những người Mông Cổ mặc áo dài, chửi những người Mông Cổ mặc y phục Hán. Hai bên càng chửi càng hăng. Lanmutrăc vốn dữ như sói và mấy tay mã quan sắp sửa dùng đến roi ngựa thì Bao Thuận Quý đến kịp. Lão xông vào giữa đám đông, vung roi trên đầu mấy vòng, quát: Im lặng! Kẻ nào động thủ là tôi gọi Tổ chuyên chính đến tóm cổ nhốt tuốt vào lớp học. Mọi người im ngay lập tức.

Bao Thuận Quý xuống ngựa đi đến trước mặt ông Pilich, nói: Thiên nga là cái thứ chỉ có bọn xét lại Liên Xô thích. Ở Bắc Kinh, vở diễn Hồ Thiên Nga đã bị cấm, những kẻ sắm vai chính đã bị đấu tố. Chuyện bảo vệ thiên nga ở đây mà để cho người ta biết là rắc rối đấy, thành vấn đề chính trị chứ chả chơi! Chúng ta hãy nắm khâu cách mạng đẩy mạng sản xuất. Muốn đẩy nhanh tốc độ xây dựng thì phải cho dân công ăn thịt, nhưng đại đội không cung cấp thịt cừu cho họ, buộc họ phải tự đi kiếm, vậy thì chuyện này tốt quá đi chứ!

Bao Thuận Quý quay sang bảo mọi người: Đang vào vụ, các người ở đây làm gì? Đi làm đi!

Mọi người giận dữ bỏ đi.

Dương Khắc không chịu nhún. Cậu phi ngựa chạy về lều lấy ba quả nhị thanh hướng ra mặt hồ đốt cả ba. Sáu tiếng nổ vang rền khiến tất cả các loại thuỷ cầm bay tứ tán. Bao Thuận Quý tức quá, thúc ngựa chạy trở lại, dùng roi ngựa điểm mặt Dương Khắc, quát: Mi có mấy cái đầu mà dám triệt thức nhắm của ta? Đừng quên lão già phản động bố mi đang lao động cải tạo! Mi phải chịu sự giáo dục lại của bần nông và trung nông lớp dưới. Những dân công ở công trường này, cả ta nữa, đều là bần nông và trung nông lớp dưới!

Dương Khắc cãi: Về đây, tôi chỉ chịu sự giáo dục lại của bần nông và trung nông lớp dưới.

Ông Pilich và mấy mã quan ôm vai Trần Trận đi lên dốc. Ông Pilich nói: Vừa nãy cháu đốt pháo, bác sướng quá.

Về sau Dương Khắc nghe nói Tiểu Bành là một tay sưu tầm vật lạ, đương nhiên hắn biết cách bảo tồn hai quả trứng thiên nga. Hắn là “bác sĩ chân đất” của đại đội. Hắn dùng kim tiêm rút hết lòng trắng lòng đỏ rồi lấy keo bịt lỗ thủng là không lo trứng bị thối, có thể bảo quản lâu dài. Hắn còn đến xưởng mộc của mục trường làm hai cái hộp bằng kính đáy lót gấm, mỗi hộp đựng một quả như một thứ hàng mỹ nghệ độc đáo, cất tận đáy hòm không cho ai biết. Vài năm sau hắn biếu hai quả trứng đó cho ông cán bộ tuyển sinh là con em công nông binh, mượn cánh thiên nga bay về Bắc Kinh, vào một trường đại học.

Buổi chiều ngày thứ tư, Cao Kiện Trung cho bò về chuồng, bí mật nói với Dương Khắc và Trần Trận, con bò ốm lão Vương mua về đã bị sói ăn thịt, trước cửa nhà lão không xa.

Hai người ngớ ra, Dương Khắc nói: Phải rồi, họ không có chó. Lỗ to rồi!

Cao Kiện Trung nói: Mình đã đến xem tận nơi. Con bò buộc cách nhà hơn mười bước chân chỉ còn sót lại cái sỏ, bốn móng guốc và bộ xương. Lão Vương uất quá chửi toáng lên, nói tiền mua con bò bằng nửa tháng ăn của nhà bếp, giờ thì ăn nhạt. Cao Kiện Trung cười: Thực ra con bò này có ốm đâu, chẳng qua là trong bụng có giun, lão Vương biết nghề thú y, mua về cho uống thuốc tẩy giun, rồi lợi dụng ở đây nhiều cỏ để vỗ béo rồi mới thịt. Không ngờ mới béo lên được tí chút, sói đã xơi mất.

Dương Khắc chì chiết: Đám lưu manh này làm gì biết cảnh giác, đêm ngủ như chết. Đàn sói Ơlôn cũng rất tinh. Chúng thoáng qua đã biết đây là dân ngụ cư mới dám ăn thịt con bò ngay trước cửa. Dương Khắc tỏ vẻ hỉ hả: Phải chăng đây là hành động coi thường bần nông và trung nông lớp dưới? Người không dám, chỉ có sói mới dám làm thế.

Trần Trận nói: Không phải coi thường, mà phải coi là trả thù.

Dương Khắc thở dài: Thời buổi sung đạn, sói được mấy hơi sức mà trả thù? Hồ thiên nga, mảnh đất hoang hoá cuối cùng trên thảo nguyên Mông Cổ đã thất thủ. Nếu sau này còn có dịp về Bắc Kinh, mình không dám xem vũ kịch Hồ thiên nga, hễ xem là nhớ lại nồi thịt thiên nga, cái đầu thiên nga trong bát canh tiêu ớt. Lúc sống thì quý phái cao sang là thế… Trước kia tôi cho rằng nền văn minh nông canh Trung Quốc bị các cường quốc xâm lược chà đạp, mà không ngờ văn minh nông canh lại huỷ hoại văn minh du mục cũng tàn nhẫn và tởm lợm như thế.

Cao Kiện Trung ngắt lời: Đừng nói xa xôi, sói đã hoành hành ngay trước nhà mình, cẩn thận kéo nó thấy sói con là hai đàn cừu nhà mình đi đứt.

Chương 24

Tần Mục Công… diệt 12 Nhung quốc, mở rộng đất đai nghìn dặm, trở thành bá chủ Tây Nhung. Sau khi Tây Chu bị diệt, đất cũ Tây Chu là nơi tạp cư của các tộc Nhung Địch… Văn hoá Tây Chu bị tục lệ Nhung Địch và văn hoá Thương xoá sổ. Tần áp dụng chế độ (bao gồm em kế vị anh) và văn hoá lạc hậu này, tuy đã trở thành nước lớn phía tây, nhưng bị các chư hầu Hoa Hạ coi là nước Nhung Địch, không cho dự minh ước.

- Phạm Văn Lan “Trung Quốc thông sử giản biên. Đệ nhất biên”

Đêm mùa hạ trên thảo nguyên Nội Mông thoắt cái đã lạnh như cuối thu. Đàn muỗi đáng sợ trên thảo nguyên chuẩn bị triển khai những trận tập kích. Đây là một trong mấy đêm yên tĩnh cuối cùng. Đàn cừu vừa cắt trụi lông nằm sát bên nhau thong thả nhai lại nghe rào rạo như tiếng máy cắt cỏ. Nhị Lang và con Vàng chốc chốc lại ngẩng mặt lên đánh hơi không khí, sau đó dẫn Ilưa và ba con chó nhỏ đi tuần một vòng quanh đàn cừu.

Trần Trận cầm đèn pin, đem theo một tấm thảm to bằng chiếc đệm cá nhân đến góc tây bắc đàn cừu, chọn chỗ phẳng trải thảm ra, khoác chiếc áo lông mỏng rồi ngồi xếp bằng tròn chứ không dám nằm. Từ sau khi đến bãi chăn mới, chăn cừu, gác đêm, xén lông cừu, cho sói con ăn, đọc sách ghi nhật ký, ngày dài đêm ngắn, cậu thiếu ngủ trầm trọng, chỉ cần nằm xuống là ngủ say như chết, chó sủa dữ dội đến mấy cũng không đánh thức nổi. Lẽ ra có thể tranh thủ mấy đêm còn yên tĩnh mà ngủ, nhưng cậu không dám lơ là, vì sói thảo nguyên là bậc thầy về “chớp thời cơ”.

Sau lần tốp sói tập kích thành công con bò ốm, ba người thần kinh căng thẳng. Đàn sói ăn thịt con bò là một tín hiệu cho mục dân, rằng sói đã di chuyển từ dê vàng, rái cá, chuột sang gia súc. Dê vàng chạy như bay, rái cá càng cảnh giác, đàn sói đói không bằng lòng với vài con chuột nhép, nên chuyển sang đánh lớn. Nơi bãi chăn mới, người và gia súc chưa kịp ổn định, ông Pilich đã triệu tập mấy cuộc họp nhắc nhở mọi người không được sơ suất, phải như sói, khi ngủ nếu hai mắt nhắm thì hai tai phải dỏng lên. Thảo nguyên Ơlôn lại bắt đầu cuộc chiến giữa người và sói.

Trần Trận ngày nào cũng quét dọn cực kỳ sạch sẽ chỗ ở của sói con, khử hết mùi phân và mùi sói, lại rải lên một lớp đất mỏng. Làm vậy không những giữ vệ sinh cho sói, bảo đảm sói con khoẻ mạnh, mà quan trọng hơn, không vì hơi hướng sói con mà lộ mục tiêu.

Gần đây Trần Trận thường nghiền ngẫm những tình tiết từ sau khi đem sói con từ ổ sói trở về, nghĩ đau cả đầu. Cậu cảm thấy bất cứ khâu nào cũng có vấn đề và sói mẹ có thể phát hiện. Thí dụ ở khu lều trại cũ, sói mẹ có thể đánh hơi thấy mùi nước tiểu sói con. Đêm nào cậu cũng lo đàn sói tập kích tắm máu đàn cừu, cướp đi sói con. Điều mừng duy nhất là trên đường đi vào bãi chăn mới, cậu nhốt sói con trong chiếc thùng đựng phân khô, không cho sói xuống xe lần nào, cho nên không để lại dấu vết trên đường. Cho dù sói con để lại hơi ở khu lều cũ, nhưng sói mẹ không biết sói con chuyển đi đâu.

Trong không khí có mùi sói, ba con chó choai chạy tới bên Trần Trận, cậu vuốt ve từng con. Con Vàng và con Ilưa cũng chạy tới, mong được chủ nhân ve vuốt. Chỉ Nhị Lang là trung thành với chức phận, vẫn tuần tra mạn tây bắc đàn cừu. Nó hiểu sói hơn tất cả những con chó bình thường, luôn cảnh giác như sói.

Gió đêm mỗi lúc một lạnh, đàn cừu càng nhích lại gần nhau, thu hẹp một phần tư bãi nghỉ. Ba con chó choai rúc trong vạt áo dài Trần Trận. Quá nửa đêm về sang, trời tối đến nỗi Trần Trận không nhìn thấy con cừu trắng nằm bên. Gió đã lặng, nhưng khí lạnh càng đậm đặc. Trần Trận đuổi những con chó trở về vị trí của nó, rồi cậu đứng lên quấn chặt áo dài, cầm đèn pin đi tuần quanh đàn cừu hai vòng.

Trần Trận vừa trở lại ngồi lên tấm thảm, dốc núi gần đó vọng lại tiếng sói tru thảm thiết, dài lê thê, run run và ngắt từng quãng ngắn, âm thanh thuần chất, mạnh mẽ, tròn và sắc như xuyên thủng màng nhĩ. Dư âm chưa dứt, từ ba phía đông nam bắc có những tiếng tru đáp lại trầm trầm, lan xa trong khe, dưới thung lũng, trên mặt hồ rồi hoà vào tiếng gió rung cây sậy loạt soạt, thành bản hợp xướng tiếng sói gào và tiếng lau sậy vi vu trước gió, khiến Trần Trận cảm thấy lạnh cứng như đang ở Sibia.

Đã lâu, Trần Trận chưa nghe bản hợp ca của bầy sói trong đêm khuya tĩnh mịch. Cậu bất giác rùng mình cuộn chặt áo dài, nhưng hình như vẫn có cảm giác những âm thanh sắc lạnh như lọt qua kẽ nứt của băng, qua lần vải áo xuyên thấu da thịt, từ đỉnh đầu tới đốt xương cùng. Trần Trận quờ tay ôm con Vàng vào long mới cảm thấy có chút hơi ấm.

Khúc dạo đầu trầm đục và dài lê thê vừa chấm dứt, bản hợp ca giọng nam cao của mấy con sói gộc nổi lên. Lần này thì chó của đại đội sủa đồng loạt. Chó lớn chó bé xung quanh Trần Trận đều hướng về phía tây bắc, đứng vòng ngoài đàn cừu, sủa như điên. Nhị Lang lúc đầu thì vừa sủa vừa chạy về phía có tiếng sói gào, nhưng chỉ lát sau, sự đàn sói chặn mất đường về, nó dừng lại ở đoạn đàn cừu đối mặt với đàn sói không xa, tiếp tục sủa. Lều trại của đại đội trải dài như con mãng xà trên triền núi dọc theo thung lũng, đều loé lên ánh đèn pin, hơn một trăm con chó của đại đội sủa râm ran trong nửa giờ mới tạm lắng.

Đêm càng tối, khí lạnh càng đậm đặc. Chó vừa ngừng sủa, thảo nguyên im ắng tới mức nghe rõ tiếng lá xào xạc. Lát sau, con sói lĩnh xướng bắt đầu bản hợp ca thứ hai. Ngay lập tức, từ ba mặt bắc, tây, nam nổi lên tiếng tru dày đặc như ba bức tường âm thanh dựng lên bao vây khu lều trại, áp đảo hoàn toàn tiếng chó sủa. Toàn bộ chó của đại đội kêu như bị chọc tiết, đám phụ nữ gác đêm cầm đèn pin quét loạn về phía sói, miệng la: A…ha! U…hu! Ơ…hơ!... Tiếng la sắc nhọn từng đợt như song áp đảo đàn sói. Giọng ca của các ca sĩ thảo nguyên có lẽ được luyện từ những trận la hét đuổi sói ban đêm.

Chó cậy gần nhà, lũ chó lớn sủa càng dữ. Tiếng sủa, tiếng gào, tiếng gừ, tiếng rít ư ử, tiếng sủa khiêu khích, tiếng sủa uy hiếp của chó thành một mớ âm thanh hỗn độn như tiếng trống trận, không phân biệt được rành rẽ từng âm. Gay go căng thẳng, long trời lở đất, như một trận huyết chiến sắp sửa nổ ra, các loại chó dữ, chó săn, chuẩn bị sẵn sàng xuất kích, quyết một trận sống mái.

Trần Trận cũng gân cổ lên mà gào thét quát tháo, nhưng tiếng cậu ồ ồ như bò rống, thua xa tiếng thét lanh lảnh của đám phụ nữ.

Đã lâu lắm thảo nguyên chưa xảy một trận chiến âm thanh và ánh sáng điện quy mô lớn như thế. Lều trại nơi bãi chăn mới rất tập trung, khiến cuộc phản kích bằng âm thanh và ánh đèn pin so với nơi ở cũ càng dầy đặc, càng quyết liệt. Và cũng đem lại cho thảo nguyên, cho phiên gác đêm đơn điệu một không khí chiến đấu ồn ào. Trần Trận nhất thời lấy lại tinh thần. Cậu nghĩ, giả dụ thảo nguyên không có sói, các dân tộc thảo nguyên sẽ trở nên uỷ mị và trung nguyên chắc chắn sẽ gánh chịu hậu quả: Dân tộc Hoa Hạ sẽ không cần xây dựng trường thành nữa, như vậy thì dân tộc Hoa Hạ đã sớm diệt vong trong vũng nước tù vì không còn nạn ngoại xâm.

Tiếng tru của đàn sói đã bị lấn át. Cách bố trí lều trại của ông Pilich và ông Ulichi rất hữu hiệu, thế trận vững chắc, lều trại kiên cố, đàn sói rất khó hạ thủ.

Trần Trận chợt nghe thấy tiếng xích sắt leng keng, vội chạy tới chỗ sói con. Sói con tránh nắng, tránh ánh sang, tránh người suốt một ngày trời, giờ đang nhe nanh múa vuốt nhảy như choi choi. Nó tỏ ra phấn khích cao độ trước trận chiến người- sói- chó- âm thanh- ánh sáng đèn pin. Nó nhảy liên tục, không ngừng lao tới cắn xé kẻ thù giả tưởng, chỉ tiếc không dứt đứt được xích sắt, lao vào cuộc chiến. Sói con nóng ruột thở phì phò chỉ sợ lỡ cơ hội tham chiến, khó chịu hơn khi không cướp được thịt.

Sói ưa thích bóng đêm, tối đến, sức mạnh toàn thân sói bột phát; Sói ưa thích chiến đấu, tối đến, những xung động về tâm lý cầu chiến phát tiết ra ngoài. Đêm tối là thời gian sói quậy phá, ăn từng miếng to, uống từng ngụm lớn, xé xác con mồi. Nhưng sợi xích đã giữ sói con trong một không gian chật hẹp, khiến tính hiếu chiến, tính ưa đánh đêm bẩm sinh của nó càng sôi sục. Nó như một chiếc nồi áp suất bịt chặt lỗ thoát hơi, lúc nào cũng có thể nổ tung. Không dứt đứt cái xích, nó phát điên. Ý muốn tham chiến mãnh liệt khiến nó co rúm lại rồi bật lên như một quả bóng, chạy như điên quanh chuồng, vừa chạy vừa vồ con mồi tưởng tượng vừa cắn gió. Có lúc nó đột nhiên dừng lại tiếp theo là một cú vồ, tiếp theo nữa là một cú lộn vòng, rồi sau đó là khợp, xé, lắc, làm như đã chộp được con mồi bằng xương bằng thịt, rồi như đang cắn vào chỗ chí mạng cho con mồi chết hẳn.

Lát sau, nó lại nhìn trân trân về phía bắc, sốt ruột dỏng tai nghe, hễ có động tĩnh là lại điên cuồng cắn xé. Bản năng chiến đấu của sói con bị không khí chiến tranh kích thích cao độ,nó gần như không phân biệt địch ta, cứ thấy có đánh nhau là xông vào, còn nhào vào bên nào nó không quan tâm, cắn chết một con chó hay một sói con, nó đều thích.

Sói con trông thấy Trần Trận liền nhào tới nhưng bị vướng xích, nó lùi lại mấy bước chờ Trần Trận đi lại gần. Trần Trận hơi sợ. Cậu tiến lên một bước, vừa ngồi xuống liền bị nó vồ lấy gối như hổ vồ mồi. May mà Trần Trận đã phòng bị trước, vội dùng đèn pin đẩy mũi con sói ra. Cậu hơi buồn, con sói bị tù túng quá, khổ thân nó!

Đàn chó của đại đội lại sủa ran, có lúc chạy tới chỗ sói con, nhưng lại chạy lên mạn bắc, coi như không biết có sói con ở đấy. Ba con chó cún nghiễm nhiên chính thức tham chiến, sủa anh ách, rên ư ử, khiến sói con giận run lên. Bản tính, lòng tự trọng, ý thích tham chiến của nó bị coi thường, bị tổn thương chỉ Trần Trận mới hiểu. Cậu đoán đêm nay sói con sẽ tham chiến bằng mọi giá, dứt khoát không chịu đứng ngoài.

Sói con ngoẹo đầu nghe tiếng sủa đầy nam tính của chó lớn, suy nghĩ hồi lâu, nó chợt nhận ra nó không thể sủa như chó thì kém quá. Đây là lần đầu tiên nó có ý nghĩ như thế. Nhưng sói con mong muốn lập tức thoát khỏi cảnh ngộ này. Nó há miệng, rõ rang là định bắt chước tiếng chó sủa. Trần Trận hơi bị bất ngờ. Cậu ngồi xổm, quan sát sói con bằng ánh mắt tò mò. Sói con liên tục nhịn hơi lấy hơi, há miệng ngậm miệng, thót bụng phình bụng, mất bao công phu mà chỉ rặn ra được mấy tiếng khè khè quái gở, không thể sủa “gâu gâu” hoặc “óc óc” như chó. Sói con nổi hung, lại nhái những cử chỉ của chó, kết quả chỉ bật ra những tiếng chẳng phải của chó chẳng phải của sói, khiến nó tức giận càng lồng lộn.

Trần Trận nhìn bộ dạng kỳ quặc của sói con mà buồn cười. Nó chưa biết tru mà đã định sủa như chó thì khó cho nó quá. Tuy sói và chó có cùng tổ tiên, nhưng cả hai tiến hoá ngày càng xa nhau. Đa số chó bắt chước được tiếng tru của sói, nhưng sói chưa bao giờ học tiếng sủa của chó, có lẽ sói lớn không thích tiếng sủa của chó. Vậy mà lúc này, sói con lớn lên trong tiếng chó sủa lại muốn học tiếng sủa của chó. Nó vẫn chưa biết thân phận của nó, thật đáng thương!

Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, sói con vẫn không từ bỏ ý định học tiếng chó. Trần Trận cúi xuống ghé tai sói con nhái một tiếng sủa thật to. Sói con hiểu “ông chủ” muốn dạy nó, ánh mắt đang đần thổi bỗng chuyển sang hung dữ vì ngượng. Nhị Lang chạy tới bên sói con, thong thả sủa từng tiếng, kiên nhẫn như một nhà sư phạm. Đột nhiên Trần Trận nghe thấy từ họng con sói phát ra tiếng “âu… âu!” tiết tấu thì đúng nhưng vẫn không thành tiếng “gâu!” Con sói phấn khởi nhảy lên liếm mặt Nhị Lang. Sau đó cứ cách sáu bảy phút, sói con lại phát ra tiếng “âu… âu!” khiến Trần Trận cười nôn ruột.

Tiếng kêu quái gở không phải sói không phải chó khiến lũ chó cún đổ xô lại xem, đàn chó lớn cũng khành khạch cười giễu. Trần Trận cười đến gập người lại, mỗi khi sói con “âu…âu!”, cậu lại đế “đâu đâu”…

Sói con hình như biết người và chó cười giễu, nên nó càng cuống, lũ chó cún đứng vây quanh xem nó lăn lộn. Vài phút sau, chó của đại đội đều ngừng sủa. Sói con không có chó lĩnh xướng,lại kêu.

Tiếng chó sủa vừa dứt, từ ba phía núi liền vọng lại tiếng sói tru. Cuộc chiến âm thanh và thần kinh giao phong bốn năm chục hiệp, cuối cùng người và chó đều mệt lử. Đàn sói rất giỏi lặng lẽ tập kích, ngay cả lúc xung phong cả tập đoàn mà vẫn im lặng như tờ, vậy mà đêm nay chúng khua chiêng gõ trống, hò hét ầm ĩ, rõ rang là hư trương thanh thế, không có ý công kích thật sự. Ba phía núi một lần nữa vọng lại tiếng sói tru, tiếng người thì đã dừng, đèn pin đã tắt hết, ngay chó cũng sủa lấy lệ, vậy mà tiếng sói tru mỗi lúc một gay gắt. Trần Trận cảm thấy trong chuyện này có âm mưu gì đó lớn hơn, có thể đàn sói phát hiện phòng tuyến người và chó quá đông, nên áp dụng chiến thuật tiêu hao sức lực, đợi khi người và chó mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác, chúng mới tập kích. Có thể trận chiến âm thanh nhằm tiêu hao sức khoẻ còn tiếp diễn nhiều đêm nữa. Trần Trận nhớ tới chiến thuật đánh du kích của Bát lộ quân “địch ở ta quấy”, lại còn đốt pháo tép trong thùng sắt tây giả làm súng liên thanh uy hiếp kẻ địch. Nhưng những chiến thuật này, sói đã nắm vững cách đây hàng vạn năm.

Trần Trận nằm xuống thảm, bảo con Vàng nằm xuống rồi gối đầu lên. Không một tiếng người la chó sủa, cậu có thể lắng nghe và phân tích âm tố âm điệu trong tiếng tru để hiểu ngôn ngữ sói. Lên thảo nguyên, Trần Trận rất mê tiếng tru của sói. Tiếng tru của sói đối với dân tộc Hoa Hạ thực khủng khiếp, cư dân trung nguyên hễ nghe thấy tiếng tru là kinh hồn tang đởm, đến nỗi người Trung Quốc thường ví “quỷ khóc” với “sói gào”. Lên thảo nguyên Trần Trận đã quen với tiếng tru của sói, nhưng cậu vẫn không hiểu vì sao nó lại thê thảm đến thế. Nó như tiếng khóc nỉ non của người phụ nữ dưới xuôi mất chồng. Trần Trận ngay từ lần nghe đầu tiên đã cảm thấy lạ, vì sao người hùng trên thảo nguyên dũng mãnh có thừa, mà trong lòng sao lại đau khổ xót xa đến thế? Chẳng lẽ do cuộc sống trên thảo nguyên quá khó khăn, sói bị chết đói chết rét, bị bắt bị giết quá nhiều, nên mới khóc thương số phận đến thế? Trần Trận đã từng nghĩ rằng, con sói bề ngoài có vẻ hung hãn, thực ra nó rất mềm yếu.

Nhưng hơn hai năm đối mặt với sói, nhất là trong nửa năm nay, Trần Trận dần bỏ cái nhìn trước kia. Cậu cảm thấy, so với những người gan dạ nhất, sói còn gan dạ hơn. Sói thường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, thà chết không chịu cúi đầu khuất phục. Trong từ điển nhà sói không có từ mềm yếu. Sói mẹ mất con, sói đực trọng thương cụt chân cụt ngón, nỗi đau tạm thời càng làm cho sói điên cuồng hơn, chỉ đợi có dịp là trả thù. Trần Trận nuôi sói con đã được mấy tháng, càng chứng minh điều đó. Cậu chưa từng thấy sói con uỷ mị, trừ phi mỏi mệt thực sự, còn thì lúc nào cũng mắt nẩy lửa, tinh thần phấn chấn, nhanh nhẹn hoạt bát. Tuy bị mã quan xiết cổ suýt mất mạng, nhưng chỉ lát sau, nó đã đầy sức sống như cũ.

Lắng nghe hồi lâu, Trần Trận cũng nhận ra ý tứ doạ giẫm trong tiếng tru, nhưng vì sao lại dùng cái giọng thê thảm để doạ giẫm? Gần đây, đàn sói không bị thiên tai nhân hoạ đả kích, hình như không phải nguyên nhân do đau thương. Chẳng lẽ như một số mục dân đã nói, con sói than khóc cho số kiếp của người và gia súc, khiến con người rùng mình sởn gáy, chưa đánh đã thua? Sói thảo nguyên hình như còn nắm được tư tưởng chiến lược giành thắng lợi bằng cách làm cho quân địch ngã long, hoặc khủng bố tinh thần. Cách nói này tuy có lý đôi chút, nhưng vì sao khi gọi đàn, tìm bạn, tổ chức chiến dịch, báo tin cho thân hữu ở một nơi xa, chào hỏi gia tộc hoặc chia chác vật săn được sói đều dùng cái giọng khóc ấy? Rõ ràng là không liên quan đến tâm lý.

Vậy thì vì nguyên nhân gì con sói tru như khóc? Dòng suy tưởng như chiếc dùi khoan sâu vào vấn đề còn nghi vấn. Cậu nghĩ, con sói hung hãn tuy có lúc đau thương, nhưng không phải bất cứ lúc nào, ở đâu và bất cứ tâm trạng vui buồn hờn giận nào cũng “khóc”. “Khóc” không phải giọng điệu cơ bản trong tính cách sói.

Nghe đến quá nửa đêm tiếng tru của sói, đầu óc Trần Trận ngày càng sáng ra, thường thì so sánh và đối chiếu là chìa khoá giải mật. Cậu bỗng nhận ra có sự khác biệt trong tiếng sói tru và tiếng sủa của chó. Cậu thấy chó sủa tiếng ngắn, còn sói thì tru dài, hiệu quả khác hẳn: Tiếng tru vang xa hơn tiếng sủa. Tiếng chó sủa vọng lại từ đoạn cực bắc của đại đội nghe không rõ bằng tiếng tru của sói gần đó. Phía đông, Trần Trận vẫn nghe thấy mơ hồ tiếng sói tru, nhưng tiếng chó sủa thì tuyệt nhiên không nghe thấy. Tiếng chó sủa không vang xa đến thế.

Trần Trận dần ngộ ra một điều: Sở dĩ sói lấy khóc làm giai điệu chính cho tiếng tru, vì rằng diễn tiến tự nhiên hàng triệu năm khiến đàn sói phát hiện ra, kéo dài giọng khóc là có thể truyền âm đi rất xa, rất rộng và rất rõ trên thảo nguyên, giống như “gần nghe sáo, xa nghe tiêu”, tiếng sáo lảnh lói không thể lan xa bằng tiếng tiêu trầm đục. Kỵ binh thảo nguyên thời xưa dùng tù và truyền lệnh, hoặc tiếng chuông chùa ngân xa là có lý do của nó.

Sói thảo nguyên rất giỏi cơ động đường dài, phân tán trinh sát, tập trung công kích. Sói là loại mãnh thú tác chiến bầy đàn trên phạm vi rộng. Để tiện liên lạc trên cự li rộng, sói chọn tín hiệu liên lạc tiên tiến nhất trên thảo nguyên. Chiến tranh tàn khốc rất coi trọng hiệu quả thực tế, còn như khóc hay cười, êm tai hay khó nghe, sói không bận tâm. Quân đội hùng mạnh cần phương tiện thông tin tiên tiến; phương tiện thông tin tiên tiến tăng cường sức mạnh quân đội. Có thể ngày xưa đàn sói đã sử dụng tiếng tru làm phương tiện thông tin tiên tiến trên thảo nguyên nên mới tăng cường sức chiến đấu, trở thành lực lượng quân sự lớn nhất sau con người, đuổi sạch những cá thể to lớn như hổ báo gấu đi nơi khác.

Trần Trận lại nghĩ, một trong những nguyên nhân chó được người thuần dưỡng, có lẽ vì thời thượng cổ, thông tin của chó lạc hậu, do đó bị sói đánh bại, đành phải ăn nhờ con người. Ý thức độc lập tự do của sói, tính cách dũng mãnh ngoan cường của sói được xây dựng trên cơ sở bản lĩnh siêu mạnh đó. Người cũng vậy, một dân tộc bản lĩnh không cao, tính cách không mạnh, lại muốn độc lập tự do, dân chủ giàu mạnh thì chỉ là không tưởng. Trần Trận bất giác thở dài nghĩ thầm: Tài giỏi nên có gan, có gan nên càng tài giỏi. Thảo nguyên gợi mở và cung cấp bao nhiêu là bài học cho con người. Xem ra, kỵ binh thảo nguyên từng càn quét thế giới, họ cũng được sói gợi mở về thủ đoạn thông tin: Tiếng tù và lê thê trên chiến trường xưa từng tập hợp bao nhiêu kỵ binh thảo nguyên, phát lệnh chiến đấu cho biết bao cuộc chiến?

Tiếng tru của sói thưa dần, đột nhiên tiếng tru của con sói miệng còn hơi sữa từ chuồng cừu vọng tới. Trần Trận giật thót, tưởng sói đã bít đường rút của đàn cừu. Nhị Lang dẫn toàn bộ số chó chạy đi. Trần Trận lồm cồm bò dậy, cầm gậy và đèn pin chạy theo. Đến trước lều, cậu thấy Nhị Lang và tất cả chó lớn chó bé vây quanh chuồng sói con, gầm gừ nhìn sói con kinh ngạc.

Trong quầng sang của đèn pin, Trần Trận nhìn thấy sói con ngồi xổm bên cọc, mũi nhọn hếch lên trời mà tru, tiếng tru phát ra từ cái họng bé tí của nó. Sói con đã biết tru rồi sao? Đây là lần đầu tiên Trần Trận nghe sói con tru, cậu cứ tưởng con sói trưởng thành thì mới biết tru, không ngờ con sói chưa đến bốn tháng tuổi mà đã phát ra tiếng “hu…u…”, âm thanh và động tác hoàn toàn giống con sói hoang dã. Trần Trận vui sướng ôm sói con vào long, thơm nó một cái. Nhưng cậu không muốn cắt đứt niềm vui của sói con và cũng muốn nghe thật gần tiếng ca của sói con yêu quý của cậu. Cậu xúc động hơn ông bố trẻ lần đầu nghe đứa con yêu quý cất tiếng gọi “bố”. Không đừng được, cậu vuốt ve sói con, sói con vui sướng liếm tay cậu, sau đó lại tiếp tục bài ca.

Lũ chó đâm ra hồ đồ, không biết nên cắn chết hay chặn đứng con sói lại không cho tru. Trên cùng trận tuyến bảo vệ đàn cừu, lũ chó đột nhiên nghe tiếng tru, vậy là đội ngũ chó rồi loạn. Chó nhà Quanbu cũng ngừng sủa, có mấy con còn chạy sang lều Trần Trận để xem cho rõ thực hư và chuẩn bị chi viện. Chỉ có Nhị Lang vui vẻ đến ben sói con liếm đầu nó rồi nằm xuống bên cạnh nghe nó hát. Con Vàng và con Ilưa giận dữ trừng mắt nhìn sói con. Lúc này, sói con từng ăn ở cùng lũ chó ba bốn tháng trời, bỗng không khảo mà xưng, hiện nguyên hình là sói chứ không phải là chó, hoàn toàn giống những con sói hoang dã vừa khẩu chiến với đàn chó. Con Vàng và con Ilưa thấy chủ vuốt ve con sói thì chỉ bực chứ không dám can thiệp. Mấy con chó nhà hàng xóm thấy cảnh chung sống hoà bình giữa người, chó và sói thì không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, chỉ giương mắt nhìn nghi hoặc, không hiểu rốt cuộc là sói hay là chó. Chúng ngoẹo đầu nhìn con vật cổ quái hồi lâu rồi lặng lẽ bỏ đi.

Trần Trận ngồi xổm bên con sói nghe nó tru, quan sát tỉ mỉ từng động tác tru của nó. Cậu nhận thấy khi bắt đầu tru, con sói hếch mũi lên trời. Cậu hân hoan thưởng thức dư âm mượt mà lan xa mãi, chẳng khác con lợn biến ló cái mũi dài lên mặt biển lặng, tạo nên những gợn sóng lan ra tứ phía. Trần Trận chợt hiểu, con sói hếch mũi lên trời là để sóng âm đi xa, chỉ có chĩa thẳng mũi lên trời mới khuếch tán được sóng âm đều khắp cả bốn phương tám hướng dòng họ nào cũng nghe thấy. Tiếng tru như khóc và âm thanh kéo dài là sự sáng tạo của sói để thích ứng với thực tiễn sinh tồn và dã chiến trên thảo nguyên. Sói thảo nguyên tiến hoá hoàn mỹ như thế, thành công như thế, xứng đáng là kiệt tác của Tăngcơli (Trời). Tù và của kỵ binh thảo nguyên, đầu thoát hơi cũng chĩa thẳng lên trời. m thanh kéo dài và động tác chĩa tù và lên trời hoàn toàn giống sói. Chẳng lẽ đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Xem ra người thảo nguyên cổ xưa nghiên cứu rất sâu nguyên nhân vì sao âm điệu và tư thái của sói phải như thế. Sói thảo nguyên đã dạy cho người thảo nguyên khá nhiều bản lĩnh.

Trần Trận máu nóng sục sôi trong huyết quản. Trong hoàn cảnh du mục nguyên thuỷ, ở một nơi tận cùng của thảo nguyên Nội Mông trước đây chưa hề in dấu chân người mà cậu có thể vỗ lưng con sói nghe nó hát. Ngồi kề bên con sói để nghe tiếng tru thì quả là rõ, mềm mại, tròn trĩnh, trơn tru và trong vắt, tuy vẫn theo tiêu chí của tiếng tru, nhưng tuyệt nhiên không chút bi thương. Trái lại, sói con tỏ ra hưng phấn lạ thường, nó vô cùng xúc động vì chất giọng của nó, cao vút, âm sau dài hơn âm trước. Sói con như một ca sỹ lần đầu lên sân khấu đã thành công, lần nữa không chịu rút lui.

Tuy mấy tháng gần đây, sói con luôn có những chuyện khiến Trần Trận giật mình, vậy mà lúc này cậu vẫn bị kinh ngạc thật sự. Sói con bắt chước tiếng chó sủa không được, chuyển sang học tiếng tru của sói, thành công liền. Nhưng bắt chước tiếng tru thì có thể mô phỏng bầy sói, còn tru dài thì tư thế học ở ai? Thảo nguyên trong đêm, sói con không thể nhìn thấy sói lớn trong tư thế tru dài như thế nào. Vậy mà nó không học cũng biết. Sói con bắt chước tiếng chó sủa cực kỳ khó khăn, học tiếng sói tru thì như có phép thần thông, loáng cái đã học được. Đó là do nó mang sẵn chất sói. Sói con từ con đường tắt học tiếng chó sủa, nay trở về với thế giới loài sói. Nó không tru lên thì thôi, tru lên là khiến người kinh hoàng. Nó lớn rồi, từ nay nó sẽ trở thành một con sói thực thụ. Trần Trận vui mừng không kể xiết.

Thế nhưng, cùng với tiếng tru ngày càng thành thục, cao vút, vang xa, Trần Trận chợt thấy nhói một cái như bị con sói cào trúng. Thanh la trộm về không dám gõ cho kêu, nhưng sói con bắt về nuôi lén thì lại tự “gõ” cho kêu lên, chỉ e không ai biết đến mình. Trần Trận than thầm: Cha nội! Mày không biết có bao nhiêu người và chó muốn đập chết mày không? Có bao nhiêu sói mẹ muốn cướp lại mày không? Để tránh mặt người, mày đào một cái hang, ẩn mình dưới đó, vậy là tru lên một tiếng, tất cả công lao đổ xuống sông xuống biển? Thế là tự sát, mày có biết không? Nhưng nghĩ lại, Trần Trận nhận ra rằng, sói con không nề nguy hiểm mà tru lên, chắc hẳn gọi bố mẹ nó đến cứu. Sau khi phát ra tiếng nói của chính nó, sói con theo bản năng ý thức được thân phận của mình. Nó không phải con chó sủa “gâu gâu”, mà là một thành viên trong những “bóng đen” lang thang tru dài trên đồng cỏ. Trần Trận toát mồ hôi lạnh, cảm thấy sức ép ghê gớm từ phía sói và phía người.

Đột nhiên sói con vận hết hơi sức toàn thân tru một tiếng dài.

Về tiếng tru của sói con, vì trở tay không kịp, mọi người, đàn chó, đàn sói phía xa không kịp phản ứng. Trong lúc vội vàng, vẫn là đàn sói phản ứng nhanh nhất. Khi tiếng tru thứ ba thứ tư cất lên, đàn sói lập tức im bặt, có con đang tru vội cắt đứt tiếng ngân, nuốt trở lại bụng như nấc cụt.

Trần Trận đoán rằng, đám sói chúa, sói già, sói đầu đàn và sói mẹ trên thảo nguyên chưa bao giờ nghe thấy tiếng sói tru chính hiệu nổi lên từ lều trại của người. Cậu có thể hình dung mức độ kinh hoàng của đàn sói, có thể chúng nghĩ: Chẳng lẽ có một sói con nào đấy không nghe lệnh dám tự ý xông vào lều trại của người? Không phải thế, thường thì con sói đó lập tức bị chó dữ xé xác. Nếu vậy sao không nghe thấy nó kêu thảm thiết, mà có vẻ vui mừng tru mãi không thôi.

Vậy chẳng lẽ không phải sói con, mà là một con chó tru tiếng sói? Trần Trận thử dịch địa vị của sói mà suy đoàn. Nhưng họ hàng nhà sói chưa khi nào nghe tiếng chó sủa mà như tiếng tru của sói chuẩn xác, tinh tế, chỉ sói mới có thể. Chẳng lẽ người nuôi sói con? Nhưng xưa nay chỉ có chuyện sói nuôi người, không có chuyện người nuôi sói. Cứ cho là người nuôi sói, vậy con sói đó là con nhà nào? Dạo mùa xuân, người và chó đã bắt đi rất nhiều sói con, khi đó chúng chưa biết tru, nên các sói mẹ không thể phân biệt nó là con cái nhà ai?

Đàn sói rõ rang là lúng túng và mất khả năng phân tích. Trần Trận đoán chúng đang mắt tròn mắt dẹt không nói lên lời. Hành vi ngang ngược của một thanh niên trí thức đến từ Bắc Kinh, khiến các sói đầu đàn ngớ ra. Nhưng sớm muộn đàn sói sẽ nhận ra đó là một con sói thực thụ. Những sói mẹ mất con vào mùa xuân còn hi vọng tìm thấy và cướp lại con trong cái nóng như lò của thảo nguyên. Sói con đột nhiên tự bộc lộ, khiến sự việc mà Trần Trận quan tâm nhất, cuối cùng hiện ra trước mắt.

Đợt phản ứng thứ hai về tiếng tru của sói con là của đàn chó đại đội. Đàn chó bắt đầu nghỉ ngơi, nghe thấy tiếng tru từ nội bộ khu lều trại, chắc vô cùng kinh hoảng, cho rằng đàn sói thừa cơ người và chó mỏi mệt, tập kích đàn cừu nhà ai đó, vậy là toàn thể chó của đại đội sủa vang. Hình như chúng hổ thẹn đã để xảy ra sơ suất, nên có bao nhiêu hơi sức vận ra bằng hết, sủa như điên, sủa lộn tùng phèo thảo nguyên lúc gần sáng. Đàn chó quyết một trận sống mái, đánh động cho các chủ nhân, rằng đàn sói đang tấn công trên tất cả các mặt, mau cầm lấy súng mà đối phó.

Phản ứng chậm chạp nhất là người. Hầu hết số phụ nữ gác đêm đều đã ngủ vùi không nghe thấy tiếng tru của sói con. Họ bị tiếng sủa khác thường của đàn chó đánh thức, tiếng hò lảnh lói bắt đầu rộ lên, ánh đèn pin loang loáng chiếu lên trời và trên sườn núi. Không ai ngờ đàn sói lại tấn công trước khi đàn muỗi về.

Trần Trận gần như bị choáng trước sóng âm của bầy chó. Cậu đã tự rước hoạ vào thân. Cậu không biết sáng ra sẽ ứng phó với sự chỉ trích của toàn thể đại đội như thế nào.Cậu rất sợ một số mục dân sẽ quăng con sói của cậu lên trời. Con sói vẫn không ngừng tru, sung sướng như đang ăn một cái tết của tuổi thanh niên. Và nó vẫn chưa chịu kết thúc, sau khi uống mấy ngụm nước cho trơn họng, nó hào hứng tru tiếp. Màu đen kịt trên trời đã nhạt, những phụ nữ không gác đêm đã dậy vắt sữa. Trần Trận vội ôm con sói, tay trái bóp chặt cái mõm dài của nó không cho tiếng phát ra. Con sói không chịu để con người coi thường, quẫy mạnh bằng tất cả sức lực để giằng ra. Nó đang lớn, Trần Trận không ngờ nó lại khoẻ đến thế, một tay cậu không đè nổi nó, còn tay kia bóp mõm thì không dám bỏ ra. Lúc này mà bỏ tay ra, chắc chắn bị nó đớp.

Con sói chống cự điên cuồng. Nó trở mặt không nhận Trần Trận là người quen, hai mắt long sòng sọc, đồng tử vàng choé như hai mũi dùi đồng. Không gỡ được mõm khỏi tay Trần Trận, con sói bắt đầu cào cấu, quần áo Trần Trận bị xé rách, mu bàn tay phải bị cào chảy máu. Trần Trận đau quá gọi Dương Khắc. Cửa mở, Dương Khắc chân trần chạy ra, hai người cố sức đè con sói xuống đất, nó thở phì phò, hai chân cào đất thành hai hố nhỏ.

Mu bàn tay Trần Trận rỉ máu. Hai người đành một…hai…ba đồng thời buông tay rồi nhảy ra khỏi chuồng. Sói con không chịu bỏ cuộc, chồm tới nhưng bị chiếc xích giữ chặt. Dương Khắc chạy vội vào trong lều lấy bông băng và bạch thược Vân Nam ra bôi thuốc và băng bó vết thương cho Trần Trận. Cao Kiện Trung cũng bị tiếng ồn đánh thức, cậu bước ra ngoài, giận dữ chửi: Sói nào mà chẳng bạc ác! Cậu ngày nào cũng hầu hạ nó như hầu hạ quan lớn, vậy mà nó còn cắn cậu. Cậu không dám ra tay thì để đấy cho tôi, lát nữa tôi sẽ hoá kiếp cho nó.

Trần Trận vội xua tay: Đừng, đừng! Lần này không phải lỗi tại nó. Mình bóp miệng nó, nó không cáu sao được?

Trời rạng sang, sói con vẫn chưa thoả dạ, nó nhảy như choi choi, thở phì phò, chốc chốc lại ngồi xuống mép chuồng ngó về phía tây bắc, ngửa mặt hếch mũi lên trời định tru tiếp. Nào ngờ sau trận vật lộn, sói con đã quên mất tiếng tru mới học, rặn mãi không ra, kết quả lại bật ra những tiếng “âu…âu”. Nhị Lang thích thú vẫy đuôi. Ba người cũng vui vẻ không kém. Thẹn quá hoá giận, sói con nhằm bố nuôi Nhị Lang mà nhe răng nhe lợi.

Trần Trận đâm lo: Sói con đã biết tru hệt như sói hoang dã, mọi người đều nghe thấy hết, chắc chắn sẽ rất phiền toái, làm thế nào bây giờ?

Cao Kiện Trung kiên trì bảo lưu ý kiến của mình: Giết luôn nó đi, nếu không đêm nào đàn sói cũng vây quanh đàn cừu mà tru, lại thêm hơn một trăm con chó sủa thì ngủ sao được? Nếu chúng bắt cừu thì buộc phải di chuyển thôi.

Dương Khắc nói: Không giết, chúng mình bí mật thả, bảo nó cắn đứt xích bỏ chạy.

Trần Trận nghiến chặt hai hàm răng, nói: Không giết mà cũng không thả! Giữ được ngày nào hay ngày ấy. Muốn thả cũng không thể thả ngay bây giờ. Bên ngoài khu lều trại toàn là chó của các gia đình khác, thả ra là bị chúng cắn chết. Những ngày này, cậu chăn cừu ban ngày, mình canh gác ban đêm, còn ban ngày mình trông sói con.

Dương Khắc nói: Đành vậy thôi. Nếu đại đội ra lệnh dứt khoát phải giết sói con thì ta lập tức thả cho nó đi. Đem nó đến một nơi thật xa không có chó hãy thả.

Cao Kiện Trung hừ một tiếng, nói: Các cậu toàn nghĩ viển vông, hãy đợi đấy, lát nữa sẽ có mục dân gõ cửa cho mà xem. Mình bị nó quấy rầy suốt đêm không ngủ được, đau đầu quá. Mình muốn giết béng nó.

0O0

Bữa trà sang chưa xong, bên ngoài đã có tiếng vó ngựa đến gần. Trần Trận và Dương Khắc hốt hoảng chạy ra. Ông Pilich và ông Ulichi đã tới trước cửa. Hai người chưa xuống ngựa, đi quanh lều hai vòng mới trông thấy sợi xích sắt luồn xuống một cái hang. Ông già xuống ngựa, ngó vào trong hang, nói: Thảo nào tìm không ra, nó ở dưới này. Trần Trận và Dương Khắc vội đón lấy dây cương từ tay hai ông, dắt ngựa cột vào trục xe bò. Hai cậu không dám nói gì, chuẩn bị nghe kể tội.

Ông Pilich và ông Ulichi ngồi xổm bên cạnh hang, ngó vào trong. Sói con đang nằm nghỉ. Nó rất ghét có người quấy nhiễu nên nhe răng gầm gừ, mắt long sòng sọc.

Ông già nói: Chà, lớn thế này rồi cơ à? Lớn nhanh hơn bọn sói hoang. Ông quay lại bảo Trần Trận: Cậu quý nó thật đấy, đào hang cho nó tránh nắng. Lão cứ nghĩ trời nắng này mà buộc nó ở ngoài trời, không ai giết nó cũng chết vì nắng.

Trần Trận thận trọng, nói: Bố, hang này không phải con đào, mà nó tự đào. Hôm ấy nó suýt chết nắng, loay hoay một hồi, nó bèn nghĩ ra cách này.

Ông già ngạc nhiên chăm chú nhìn con sói. Lát sau, ông nói: Không có sói mẹ dạy mà nó tự đào được hang? Đó là Tăngcơli không muốn nó chết.

Ông Ulichii nói: Đầu óc con sói khá linh hoạt, khôn hơn chó nhiều, rất nhiều chuyện thông minh hơn người.

Trần Trận tim đập thình thịch, cậu thở ra một hơi, nói: Con cũng băn khoăn. Nó còn nhỏ vậy mà đã có bản lĩnh. Khi bắt về, nó chưa mở mắt, ngay cả mẹ nó cũng chưa nhìn thấy.

Ông già nói: Sói có linh tính, sói mẹ không dạy thì Tăngcơli dạy chứ sao! Đêm qua cậu trông thấy nó ngửa mặt lên trời mà tru chứ gì. Trên thảo nguyên, bò, cừu ngựa, chó, cáo, dê vàng, rái cá… tất cả khi kêu đều không ngửa mặt lên trời, chỉ sói là ngửa mặt lên. Vì sao? Lão đã có lần nói, sói là cục cưng của Trời, khi có chuyện phiền muộn, sói ngửa mặt lên trời mà tru, cầu Trời giúp đỡ. Tài năng đa dạng của sói là do trời cho. Từ lâu, sói thảo nguyên đã biết “sáng thỉnh thị, tối báo cáo”. Người thảo nguyên khi gặp khó khăn cũng ngẩng mặt cầu Trời. Vạn vật trên thảo nguyên chỉ có sói và người là tôn kính Trời.

Ánh mắt ông già đã dịu khi nhìn con sói. Ông lại nói: Người thảo nguyên tôn kính Trời là học từ sói. Khi người Mông Cổ chưa đến thảo nguyên, sói đã ngày đêm ngẩng mặt lên Trời mà tru. Cuộc sống trên thảo nguyên khổ quá, con sói lại càng khổ. Đêm đêm nghe tiếng sói tru, người già thường rơi nước mắt.

Trần Trận giật mình. Trên thảo nguyên mênh mông, quả là chỉ có sói và người là ngửa mặt tru dài hoặc cầu khấn. Người và sói thảo nguyên sống trên thảo nguyên xinh đẹp nhưng nghèo khó quả thật gian nan, chỉ biết kêu trời để vơi bớt nỗi niềm.Từ góc độ khoa học, sói ngửa mặt tru là để cho tiếng tru vang xa, rộng và đều khắp. Nhưng về mặt tình cảm, Trần Trận thích cách giải thích của ông già Pilich. Kiếp người nếu không có sự bảo trợ nào đó của thần linh, thì cuộc sống quả vô vọng. Trần Trận nước mắt chạy quanh.

Ông già Pilich quay lại bảo Trần Trận: Đừng giấu cái tay đi. Bị sói con cào phải không? Đêm qua lão nghe thấy hết. Con ơi, con tưởng ta đến giết sói con chứ gì? Sáng nay có một số mã quan, dương quan đến chỗ ta kiện con, đề nghị đại độ xử lý con sói. Ta và ông Ulichi bàn nhau cứ để con nuôi nhưng phải cẩn thận đấy. Chà, ta chưa thấy người Hán nào mê sói như con!

Trần Trận ngớ ra hồi lâu mới hốt hoảng hỏi lại: Đúng là cho con tiếp tục nuôi hở bố? Con cũng rất sợ gây tổn thất cho đội, sợ làm phiền bố. Con đang tính may chiếc rọ mõm cho con sói khỏi tru.

Ông Ulichi nói: Muộn rồi, sói mẹ đều đã biết nhà cậu có một con sói. Tôi đoán đêm nay đàn sói nhất định đến. Tuy nhiên, các tổ của ta đã khoá rất chặt, người nhiều chó nhiều súng nhiều, đàn sói khó làm gì được. Chỉ sợ sau này về bãi chăn mùa thu lều trại phân tán, cái lều của các cậu sẽ gặp nguy hiểm.

Trần Trận nói: Khi ấy ba con chó của cháu đã lớn. Năm con chó lớn, lại thêm con săn sói Nhị Lang, chúng cháu tăng cường tuần đêm, rồi lại có pháo nhị thanh, chúng cháu không sợ sói.

Ông già nói: Khi ấy hãy tính.

Trần Trận vẫn chưa yên tâm, hỏi lại: Bố, rất nhiều người đòi giết con sói, bố nói với họ thế nào?

Ông già nói: Những ngày này đàn sói đang bắt ngựa con. Đàn ngựa tổn thất rất lớn. Nếu sói con dụ được đàn sói về phía này, thì đàn ngựa đỡ thiệt hại, các mã quan đỡ vất vả và đàn ngựa được yên.

Ulichi bảo Trần Trận: Cậu nuôi con sói thế mà hay! Chia lửa với đàn ngựa… Cậu nhất thiết không để nó cắn phải. Không phải chuyện chơi đâu. Cách đây ít hôm một dân công lấy trộm phân bò khô của một gia đình mục dân, bị chó nhà ấy cắn, suýt toi mạng vì bệnh dại. Tôi đã bảo cậu Bành lên mục trường bộ lấy ít thuốc về.

Ông già và ông Ulichi lên ngựa phóng về phía đàn ngựa. Rất vội, chắc là đàn ngựa có sự cố. Trần Trận trông theo hai vệt bụi vàng, trong bụng không hiểu nhẹ nhõm hay căng thẳng.

Chương 25

Nước Tần vốn là khu vực du mục của Nhung Địch, Thành vương phong người em cùng mẹ Thúc Ngu làm Đường hầu, lấy luật lệ Nhung làm cơ sở (Tả truyện Định công năm thứ tư), có nghĩa là căn cứ vào cách làm của Nhung Đich mà phân phối đất chăn thả, không như Lỗ Vệ tại khu vực nông nghiệp, căn cứ vào phép tắc nhà Chu mà phân phối đất cày. Thúc Ngu thay đổi quyết định của cha, đổi tên nước là Tấn.

- Phạm Văn Lan “Trung Quốc thông sử giản biên” đệ nhất biên

Trần Trận lấy ra hai thẻo thịt khô, thêm một ít mỡ cừu, nấu cho sói con một nồi cháo đặc. Sức ăn của sói con ngày càng lớn, một chậu đầy cháo thịt chưa no. Trần Trận thở dài, vào lều tranh thủ ngủ một giấc, chuẩn bị tinh thần cho trận chiến đêm nay. Hơn một giờ chiều, cậu tỉnh dậy vì tiếng gọi, vội chạy ra ngoài.

Trương Kế Nguyên cưỡi con ngựa cao lớn chạy đến bãi đất trống trước cửa lều. Nửa thân trước con ngựa bê bết máu, cà nhắc cà nhót không áp sát được vào chiếc xe bò. Đàn chó ùa tới vây quanh người ngựa, rối rít vẫy đuôi. Trần Trận dụi cặp mắt ngái ngủ, giật mình: Con ngựa Trương Kế Nguyên chở trên lưng một con ngựa choai bị thương. Cậu vội chạy lên giữ hàm thiết cho con ngựa đứng yên. Con ngựa choai đau đớn vật vã, mấy vết thương ở ngực, ở cổ đang chảy máu, nhuốm đỏ yên và thân trước con ngựa lớn. Con ngựa lớn giương mắt khiếp hãi, mũi phun phì phì, một chân trước liên tục gõ móng, còn chân kia cào đất. Trương Kế Nguyên ngồi trên mông ngựa, sau yên, tư thế rất khó xuống, lại sợ con ngựa choai rớt xuống kinh động con ngựa đang cưỡi. Trần Trận giơ tay cầm chân trước con ngựa choai, Trương Kế Nguyên cố rút chân phải ra khỏi bàn đạp rồi thận trọng xuống ngựa, thiếu chút ngã bổ chửng.

Hai người đứng hai bên nâng con ngựa choai nhẹ nhàng hạ xuống đất. Con ngựa lớn vội quay lại nhìn bằng con mắt thương cảm. Ngưạ choai đã không thể cất đầu lên, mở cặp mắt đen tuyệt đẹp nhìn mọi người cầu cứu. Nó rên rỉ, chân trước chống xuống đất nhưng không đứng lên được nữa. Trần Trận hỏi: Còn cứu được không? Trương Kế Nguyên nói: Batu đã xem xét vết thương, khẳng định không cứu được. Chúng mình đã lâu không có thịt, phải giết khi nó hãy còn sống. Saxưleng cũng cho khênh đến nhà ông Pilich một con bị thương.

Trần Trận chột dạ. Cậu bê cho Trương Kế Nguyên một chậu nước để cậu ta rửa tay, vội hỏi: Đàn ngựa có chuyện phải không? Thiệt hại có lớn không?

Trương Kế Nguyên buồn bã nói: Đừng nhắc đến nữa. Đêm qua đàn ngựa của mình và Batu bị cắn chết bốn con, bị thương một con. Đàn ngựa của Saxưleng càng thảm hơn, trong mấy ngày bị năm sáu con. Những đàn khác không biết thế nào, chắc chắn thiệt hại không nhỏ. Các vị lãnh đạo đều xuống các đàn ngựa.

Trần Trận nói: Đêm qua đàn sói xung quanh đại đội tru suốt đêm. Chúng tụ tập tất cả ở bên này, làm sao đến chỗ đàn ngựa?

Trương Kế Nguyên nói: Thế mới gọi là chiến thuật bầy đàn, xuất kích toàn diện, bốn phía nở hoa, giương đông kích tây, yểm hộ lẫn nhau, đánh dứ cộng với đánh thật, đánh được thì đánh, không đánh được thì kiềm chế, khiến đối phương đầu đuôi không cứu được nhau, cứu được chỗ nọ mất chỗ kia. Chiêu này của đàn sói còn lợi hại hơn chiến thuật tập trung ưu thế binh lực dứt điểm từng trận. Trương Kế Nguyên rửa tay xong, nói: Làm thịt ngay con ngựa đi, đợi nó chết rồi thì máu đọng trong thịt, ăn không ngon.

Trần Trần nói: Nghe nói mã quan đầy sói tính quả không ngoa. Cậu bây giờ ra vẻ mã quan rồi đấy, khẩu khí ngày càng lớn, tính cách thì có vẻ như võ sĩ thảo nguyên thời xưa. Trần Trận đưa cho Trương Kế Nguyên con dao Mông Cổ chuôi đồng, bảo: Cậu giết nó đi, con ngựa đẹp như thế mình không dám đụng dao.

Trương Kế Nguyên nói: Sói giết con ngựa này chứ không phải người, không liên quan gì đến thiện ác của con người. … Được thôi, mình giết cũng chẳng sao, nhưng phải giao hẹn trước: Mình chỉ giết, còn như lột da xẻ thịt các cậu làm tất, chịu không? Trần Trận đồng ý.

Trương Kế Nguyên tay cầm dao, chân chặn một bên ức con ngựa, đè đầu nó xuống sao cho một mắt nhìn thẳng lên trời theo truyền thống thảo nguyên, rồi thọc một nhát cắt đứt động mạch cảnh, máu tuy không vọt ra, nhưng vẫn chảy. Trương Kế Nguyên nhìn con ngựa giãy chết mà chỉ như một con cừu. Lũ chó thèm rỏ dãi, đuôi ngoáy tít. Lũ chó cún xông lên liếm máu ngựa trên cỏ. Sói con ngửi thấy mùi máu cũng chui ra khỏi hang, giằng xích, mắt loé lên những tia hung dữ.

Trương Kế Nguyên nói: Cách đây mấy hôm mình đã phải giết một con kém thịt hơn con này. Mình và một số mã quan ăn hai bữa bánh bao nhân thịt ngựa non. Thịt ngựa non cực mềm cực thơm, nhưng ăn vào mùa hạ với dân du mục là chuyện bất đắc dĩ. Bánh bao nhân thịt ngựa non là món ăn nổi tiếng của thảo nguyên hàng ngàn năm nay. Kế Nguyên rửa tay xong, ngồi trên càng xe xem Trần Trận lột da ngựa.

Trần Trận xẻ những tảng thịt ngựa vừa non vừa béo. Cậu cũng vui, nói: Con ngựa này khá lớn, gần bằng một con cừu đực thiến. Tháng này mình chưa ngửi thấy mùi thịt. Người ta con bảo, mình sắp sửa biến thành sói con thành cừu non, không cho nó ăn thịt, nó sẽ be như cừu cho mà xem.

Trương Kế Nguyên nói: Con ngựa này sinh sớm nhất đầu năm nay. Bố mẹ to nên nó cũng to. Nếu các cậu thấy ngon, vài hôm nữa mình lại chở đến cho một con. Mùa hè là mùa tang tóc của đàn ngựa, năm nào cũng thế. Mùa này ngựa đẻ con, sói bắt dễ nhất là ngựa con. Đàn ngựa nào cũng bị sói bắt mất một hai con, rất khó tránh. Lúc này, mùa sinh sản đã qua, mỗi đàn ngựa tăng thêm khoảng một trăm bốn năm mươi con ngựa con. Ơlôn cỏ tốt, sữa mẹ đủ, ngựa con lớn nhanh, con nào cũng khoẻ mạnh, hiếu động, ngựa giống và ngựa mẹ quản không nổi.

Trần Trận dùng rìu lọc ra những chỗ thịt bị sói xé rách ở đầu, ngực và cổ ngựa rồi thái miếng. Sáu con chó đã vây kín xung quanh. Năm con đuôi vẫy như cờ lau gặp gió, riêng con Nhị Lang đuôi dựng đứng như lưỡi lê, đứng xem Trần Trận chia thịt. Nhiều ngày chưa ngửi thấy mùi thịt, sói con cuống quýt chạy quanh, bật ra tiếng “âu âu” của chó.

Thịt và xương đã chia xong, vẫn ba suất lớn ba suất nhỏ. Trần Trận cho con Nhị Lang nửa cái sọ, một mảng cổ. Nó quẫy đuôi, tha chỗ thịt tới chỗ gầm xe ăn nghiến ngấu. Con Vàng, con Ilưa và ba con cún đều có phần. Mỗi con tha phần của mình đến chỗ bóng râm hoặc trong lều. Trần Trận đợi lũ chó đã đi mới lấy chỗ thịt dành cho sói con thái thành miếng nhỏ bỏ vào chậu của sói được nửa chậu, lấy huyết đọng trong khoang ngực ngựa tưới lên chỗ thịt rồi gọi to: Sói con, ăn cơm nào! Nói rồi đi đến chỗ sói con.

Cái cổ con sói đã thành chai, ngửi thấy mùi thịt tươi lẫn máu, nó kéo căng xích chẳng khác con bò kéo cỗ xe chở nước leo dốc, rớt dãi lòng thòng. Trần Trận nhanh nhẹn chạy tới chỗ chuồng sói. Con sói vồ lấy chậu thịt ngựa như sói lớn vồ mồi, nhe răng gầm gừ đuôi Trần Trận đi nơi khác. Trần Trận trở lại chỗ lột da con ngựa, tiếp tục xẻ thịt vừa trông chừng con sói. Nó ăn ngấu nghiến, nhưng mắt vẫn canh chừng người và chó, gồng mình lên, chuẩn bị tha những miếng thịt vào trong hang.

Trần Trận hỏi Trương Kế Nguyên: Mục dân có ăn nội tạng ngựa không? Trương Kế Nguyên nói: Ngựa bị thương vì sói cắn thì không ăn. Trần Trận trước hết moi dạ dày, ruột non ruột già vứt vào đống tro bên bếp, kệ cho lũ chó tranh cướp. Sau đó cậu lấy ra hai cái chậu không, chất đầy tim gan phổi vào rồi để chỗ mát trong lều, phần bữa sau của sói và chó.

Trần Trận hỏi: Chẳng lẽ mã quan các cậu không có cách đối phó?

Trương Kế Nguyên nói: Sau hai năm chăn ngựa trên thảo nguyên, mình nhận thấy khâu yếu nhất là đàn ngựa. Một đàn ngựa bốn năm trăm con mà chỉ bố trí hai mã quan, giờ thêm một thanh niên trí thức cũng không đủ. Hai ba người ngày đêm luân phiên mà còn gục nữa là chỉ một người làm sao trông xuể.

Trần Trận lại hỏi: Vậy vì sao không bố trí thêm mấy mã quan?

Trương Kế Nguyên nói: Mã quan là “phi công” trên thảo nguyên, thuộc loại công nghệ cao. Đào tạo được một mã quan chính hiệu không dễ, phải mất nhiều thời gian. Không ai dám giao đàn ngựa cho một mã quan bất tài, lơ mơ là một năm mất nửa đàn ngựa. Lại nữa, mã quan quá khổ, quá mệt, quá nguy hiểm. Những đêm mùa đông có bạch mao phong lạnh âm 30-40độ C, dồn ngựa là phải dồn suốt đêm, mặc ba áo da mà ngón chân vẫn bị rụng. Mùa hè, muối có thể hút kiệt máu của người và ngựa, rất nhiều mã quan chỉ bảy tám năm là giải nghệ, hoặc nghỉ hẳn vì thương tật. Đại đội ta có bốn mã quan là thanh niên trí thức, giờ chỉ còn lại mỗi mình. Mã quan thiếu kinh niên, làm gì có thừa để bổ sung? Đàn ngựa di chuyển nhanh trong đàn, có nhiều ngựa con và ngựa đực thiến, bọn này dát, rất dễ vỡ đàn. Mã quan chỉ thổi nồi cơm trong lều là đàn ngựa bên ngoài đã mất tăm. Lạc mất đàn ngựa, thường phải đi tìm hai ba ngày, cũng là nhịn đói hai ba ngày. Trong hai ba ngày ấy, đàn sói có thể truy sát ngựa con rồi. Lần trước mã quan tổ Bốn ngựa hụt chân bị ngã vỡ đầu, đàn ngựa trong đêm vượt biên, mục trường thông qua đồn biên phòng, mất mười mấy ngày mới đòi được đàn ngựa về, trong thời gian đó đàn ngựa không có người trông, tổn thất càng lớn.

Trần Trận hỏi: Quan hệ hai nước căng thẳng là thế, mà sao người ta không giữ ngựa lại?

Trương Kế Nguyên nói: Không đâu. Hai nước đã có hiệp định từ lậu. Chỉ cần báo chính xác thời gian, địa điểm vượt biên, số lượng, nhất là số đầu ngựa giống và màu lông, là người ta cử người đem trả. Bên ta cũng vậy. Nhưng trên đường đi bị sói ăn thịt mất con nào, hai đồn biên phòng không chịu trách nhiệm. Có lần, người ta báo trên 120 con, ta cử người tìm hai ngày chỉ tìm được 90 con. Mã quan nói, quá nửa số con không tìm thấy bị sói ăn thịt.

Trần Trận chớp thời cơ xoáy vào vấn đề cậu quan tâm: Mình vẫn không hiểu vì sao đàn ngựa cứ thích chạy bạt mạng?

Trương Kế Nguyên nói: Nguyên nhân thì có nhiều. Trời lạnh quá, chạy cho ấm; mùa xuân cần chạy toát mồ hôi để chong thay lông; mùa hè trốn muỗi, chạy ngược gió; mùa thu muốn ăn cỏ ngon ở bãi chăn cừu, chạy lên tới trước. Nhưng quan trọng nhất là chạy trốn cuộc truy sát của đàn sói, bốn mùa trong năm chạy chí chết. Đàn ngựa tính cơ động cao, không thể đem theo chó. Đêm đến, mã quan không có đàn chó giúp gác đêm, một mình trông nom đàn ngựa dát như cáy sao được? Nếu là đêm không trăng, đàn sói thường tập kích đàn ngựa. Nếu sói không đông, mã quan và ngựa giống có thể bảo vệ được đàn ngựa; nếu sói đông, ngựa vỡ đàn, vỡ trận như núi lở, mã quan và các ngựa giống không bảo vệ nổi.

Trương Kế Nguyên nói: Giờ đây mình mới hiểu vì sao kỵ binh của Thành Cát Tư Hãn ngày đi ngàn dặm. Ngựa Mông Cổ ngày nào cũng buộc phải luyện tốc độ, chạy việt dã, luyện sức bền. Mình ở với đàn ngựa thường chứng kiến cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa sói và ngựa, thê thảm lắm. Trong đêm đàn sói truy sát đàn ngựa, tàn ác không thể tả, đuổi đến kỳ cùng, giết không thương tiếc, nhanh như tên bắn, liên tục tác chiến, không cho đàn ngựa xả hơi lấy một phút. Những con ngựa già, ngựa ốm, chạy chậm, ngựa non, ngựa choai, ngựa cái có chửa, hễ rớt lại lập tức bị đàn sói ăn thịt. Cậu chưa nhìn thấy thảm cảnh đàn ngựa chạy tháo thân, con nào cũng sùi bọt mép, toàn thân ướt đẫm. Có con chạy đến sức cùng lực kiệt, ngã xuống tắt thở liền. Con nào chạy nhanh vọt lên trước thì có thể dừng lại một thoáng gặm vài miếng cỏ, đói quá, gặp gì ăn nấy, sậy khô cũng ăn; khát quá, gặp gì uống nấy bất kể nước tù nước bẩn, có phân bò phân cừu đều uống tất. Ngựa Mông Cổ rất dai sức, khả năng tiêu hoá, chống bệnh, chịu rét nóng nhất thế giới. Nhưng chỉ có mã quan biết rằng, những bản lĩnh ấy của ngựa Mông Cổ là do đàn sói dung tốc độ và cái chết huấn luyện cho ngựa.

Trần Trận nghe say sưa, cậu bê tất cả thịt pha và thịt đã thái vào trong, phơi tấm da ngựa lên nóc lều. Cậu bảo Kế Nguyên: Cậu làm mã quan mới một năm mà đã sắp thành chuyên gia rồi. Những điều cậu nói rất quan trọng. Bên ngoài nóng, vào trong lều đi , cậu thì nói, còn mình thì làm bánh bao nhân thịt. Hai người vào trong lều. Trần Trận bóc hành, nhào bột, nặn nhân, chuẩn bị làm món bánh bao nhân thịt dân du mục thường ăn.

Trương Kế Nguyên uống một bát trà lạnh, nói: Những ngày này mình và một số mã quan luôn bàn tới chuyện ngựa. Mình nghĩ, chính là thảo nguyên Mông Cổ đã tạo nên loài ngựa Mông Cổ có sức chịu đựng bền bỉ nhất, và cũng tạo nên kỵ binh Hung Nô, Đột Quyết, Mông Cổ hung hãn thiện chiến. Hãn huyết mã, ngựa Ili, ngựa Arập, ngựa sông Đông đều là những loài ngựa nổi tiếng thế giới. Nhưng vì sao kỵ binh khu vực Trung Á, kỵ binh Nga La Tư, kỵ binh Arập, kỵ sĩ châu u… đều bị kỵ binh Mông Cổ đánh bại? Kỵ binh Mông Cổ đánh một lèo sang phía tây tới Ba Lan, Hunggari, Áo, tới cửa ngõ Ai Cập. Kỵ binh Hung Nô còn càn quét toàn bộ châu u, đánh thẳng tới nước Pháp. Ngựa chiến của dân tộc nào trên thế giới dẻo dai được như thế?

Trần Trận nói xen vào: Sử chép rằng, thảo nguyên Mông Cổ xưa người ít ngựa nhiều, khi ra trận, một kỵ binh dắt theo bốn năm con ngựa luân phiên cưỡi, ngày đi ngàn dặm. Vì vậy kỵ binh Mông Cổ đã được cơ giới hoá từ thời nguyên thuỷ, chuyên đánh chớp nhoáng. Ngựa nhiều nên có thể lấy ngựa bị thương làm quân lương, đói thì ăn thịt ngựa, khát uống huyết ngựa, không sử dụng hậu cần.

Trương Kế Nguyên gật đầu cưới: Đúng thế. Còn nhớ cậu có nói, từ Khuyển Nhung, Hung Nô, Tiên Ty, Đột Quyết cho đến dân tộc Mông Cổ hiện giờ, tất cả các dân tộc thảo nguyên từng sống và chiến đấu trên thảo nguyên đều biết những bí ẩn và giá trị của sói. Mình ngày càng cảm thấy cậu ấy có lý. Sói thảo nguyên Mông Cổ đã cho người thảo nguyên tính cách ngoan cường trong chiến đấu, trí tuệ trác việt về chiến tranh và ngựa chiến xuất sắc. Ba ưu thế về mặt quân sự đó là bí mật và nguyên nhân gây chấn động thế giới của người thảo nguyên Mông Cổ.

Trần Trận vừa ra sức nhào bột, vừa nói: Ngựa chiến Mông Cổ thiện chiến là do sói huấn luyện, phát hiện của cậu quan trọng đấy. Mình cứ tưởng tôtem sói giải quyết tính cách ngoan cường của người thảo nguyên và nguồn gốc của trí tuệ quân sự, không nghĩ rằng sói còn là huấn luyện viên làm nghĩa vụ dạy thú, đào tạo cho dân tộc trên lưng ngựa này những con chiến mã hạng nhất. Có loại chiến mã lợi hại này, tính cách và trí tuệ người Mông Cổ như hổ mọc thêm cánh. Được lắm, một năm làm mã quan của cậu không uống.

Trương Kế Nguyên cười, nói: Mình cũng bị lây cậu, rất mê sói. Hai năm nay cậu giảng cho mình bao nhiêu kiên thức lịch sử trong sách vở, mình cũng phải cung cấp cho cậu một ít tài liệu sống chứ.

Trần Trận cũng cười, nói: Một sự trao đổi ngang giá. Tuy nhiên, có một điều mình vẫn chưa hiểu, đàn sói ngoài chuyện truy sát, còn dùng thủ đoạn nào nữa để ăn thịt ngựa con?

Trương Kế Nguyên nói: Nhiều lắm. Đàn ngựa khi lên đồi cao hoặc một nơi địa hình phức tạp, mình thường rất căng thẳng. Sói ép bụng sát đất mà bò, không cần ngóc đầu lên, mũi và tai nó cho biết con mồi đang ở chỗ nào. Ngựa mẹ thường xuyên gọi khẽ ngựa con, sói căn cứ vào âm thanh phát ra mà đoán ngựa con ở xa hay gần rồi nhích tới, nếu không có ngựa giống ở đấy là nó vồ liền, đầu tiên cắn một phát vào yết hầu, sau đó kéo ngựa con ra chỗ khuất ăn ngấu nghiến. Nếu bị ngựa mẹ hoặc ngựa giống phát hiện, sói bỏ chạy liền. Đàn ngựa khi di chuyển không đem được con ngựa chết đi theo, đợi đàn ngựa đi rồi, sói quay lại ăn. Có con sói đặc biệt ranh ma, biết đánh lừa ngựa con. Nó phát hiện trong đàn có ngựa con nhưng bên cạnh có ngựa mẹ, nó liền nằm rạp xuống bò tới đám cỏ cao, sau đó nó giấu kín mục tiêu lớn là cái thân, còn mục tiêu nhỏ là bốn cái chân, nó thò ra ngoài động đậy khẽ, từ xa tưởng đó là hai cái tai con thỏ hoặc đầu con chuột hôi đang ló ra nghe ngóng, hoặc sinh vật bé bỏng nào khác. Có điều không giống sói hoặc chó. Ngựa con mới chào đời rất tò mò, thấy có sinh vật nào ngọ nguậy chạy đến xem sao. Ngựa mẹ chưa kịp ngăn thì sói đã cắn đứt họng ngựa con rồi.

Trần Trận nói: Có khi mình cảm thấy sói không phải con vật, mà là quái vật.

Trương Kế Nguyên nói: Đúng là quái vật! Cậu nghĩ coi, ban ngày đàn ngựa tản ra rất rộng, mã quan dù ở ngay trong đàn ngựa cũng không thể đảm bảo sẽ không xảy ra chuyện. Đêm đến đàn sói càng ngang ngược, trộm được thì trộm, cướp được thì cướp, trộm cắp đều không xong thì tổ chức đánh phá. Các ngựa giống đẩy ngựa cái ngựa con vào giữa rồi đứng ra vòng ngoài dẫm đạp cắn xé đàn sói. Đàn sói bình thường không phá nổi liên hiệp phòng vệ của mười mấy con ngựa giống, không khéo còn bị ngựa giống đá chết hoặc cắn bị thương. Nhưng gặp khi thời tiết xấu và đàn sói thì đang đói, các ngựa giống ngăn không nổi, bầy sói liền phá vỡ đàn ngựa, tiếp tục tàn sát ngựa non. Sói con trong đàn đã lớn, sức ăn của đàn tăng, chúng bắt không được dê vàng và rái cá cạn, liền quay sang bắt ngựa con trong đàn ngựa.

Trần Trận hỏi: Vậy mỗi năm đàn ngựa tổn thất bao nhiêu ngựa con?

Trương Kế Nguyên nghĩ một lát, nói: Đàn ngựa của mình và Batu, năm ngoái đẻ được 110 con, đến mùa hè năm nay chỉ còn lại 40 con, có 70 con bị sói cắn chết hoặc ăn thịt, tổn thất hàng năm 70% được coi là thịt hại ít nhất trong bốn đàn ngựa của đại đội. Tổ chăn nuôi số 4 chỉ còn mười mấy con, thiệt hại một năm trên 80%. Mình hỏi ông Ulichi, tổn thất của toàn bộ mục trường hàng năm tính theo tỉ lẹ phần trăm là bao nhiêu, ông ta bảo tổn thất bình quân khoảng 70%.

Trần Trận giật mình, nói: Tỉ lệ tử vong của ngựa con cao quá, chẳng trách các mã quan căm thù sói.

Trương Kế Nguyên nói: Chưa hết, ngựa con lên hai tuổi chưa qua thời kỳ nguy hiểm, vẫn là mục tiêu công kích của sói. Ba tuổi, ngựa non tạm coi là có thể đối phó với sói, nhưng sói đàn hoặc sói đói thì vẫn không thoát. Cậu thấy mã quan chúng mình có vất vả không? Một năm làm việc bán sống bán chết mà chỉ giữ được ba bốn mươi phần trăm, chỉ lơ là một chút là trắng tay, công sức cả một năm đổ xuống sông xuống biển.

Trần Trận không nói gì, bắt đầu làm vỏ bánh bao.

Trương Kế Nguyên rửa tay, giúp Trần Trận bao nhân bánh. Cậu nói: Dù khổ đến mấy cũng không thể thiếu sói. Batu bảo, nếu không có sói thì chất lượng đàn ngựa sẽ xuống cấp, chúng sẽ lười đi, béo lên, chạy không nổi. Trên thế giới, ngựa Mông Cổ vốn nhỏ con, nếu không có tốc độ và sức bền thì không bán được tiền, bộ đội kỵ binh sẽ không sử dụng làm ngựa chiến. Còn nữa, nếu không có sói, đàn ngựa sẽ phát triển quá nhanh. Cậu nghĩ coi, một đàn ngựa một năm thêm một trăm mấy chục con ngựa con, nếu phần lớn sống sót thì tỉ lệ tăng trưởng của đàn là hai ba mươi phần trăm, thêm vào đấy số ngựa cái đến tuổi sinh đẻ, tỉ lệ ngựa con còn cao hơn nữa. Vậy là, cứ khoảng ba bốn năm đàn ngựa tăng gấp đôi. Nói chung, ngựa được bốn năm tuổi mới bán, vậy là dưới bốn năm tuổi phải nuôi, mà ngựa là loại gia súc huỷ diệt cỏ, Ulichi bảo, trừ chuột và thỏ, ngựa là kẻ phá hoại đồng cỏ lớn nhất. Ngựa Mông Cổ ăn nhiều, một con ngựa mỗi năm ăn một lượng cỏ bằng vài chục đến hơn một trăm con cừu ăn trong năm. Hiện giờ mục dân chỉ lo ngựa ăn hết cỏ của bò, cừu. Nếu không hạn chế đàn ngựa phát triển thì e rằng chẳng còn mấy năm nữa, bò cừu sẽ không còn cỏ để ăn, thảo nguyên Ơlôn sẽ biến thành sa mạc…

Trần Trận gõ chiếc chày cán bột xuống mặt thớt, nói: Như vậy là mục dân thảo nguyên lợi dụng sói để thực hiện sinh đẻ có kế hoạch cho đàn ngựa, kiểm soát số đầu ngựa, đồng thời nâng cao hoặc giữ vững chỉ tiêu về chất lượng của đàn ngựa?

Trương Kế Nguyên nói: Đương nhiên, kỳ thực người thảo nguyên là những cao thủ về vận dụng phép biện chứng của thảo nguyên, còn đặc biệt tinh thông “dạo trung dung” của thảo nguyên. Họ không cực đoan như người Hán, rêu rao nếu gió đông không thổi bạt gió tây, thì gió tây thổi bạt gió đông. Người thảo nguyên rất giỏi cân bằng các mâu thuẫn trong “trong công đôi việc”.

Trần Trận nói:

Tuy nhiên, sẽ cân bằng ấy dã man quá. Mùa xuân các mã quan đi đào ổ sói bắt sói con, hễ đào là đào mấy chục ổ, giết một hai trăm con sói con, có điều là không tận diệt; Sang hè, đàn sói trả miếng, giết ngựa con, hễ giết là giết 70-80%, mã quan không cho giết 100%. Cái giá của sự cân bằng là máu chảy thành sông, mà phải dựa vào cuộc chiến đấu không mệt mỏi của mục dân. Sự trung dung này mang tính chiến đấu hơn trung dung của người Hán, gần chân lý hơn.

Trương Kế Nguyên nói: Hiện nay số cán bộ đến từ khu vực nông nghiệp ra lệnh bừa, những là phát triển số lượng và chỉ có số lượng! Rốt cuộc, chắc chắn là “một việc làm hỏng nhiều việc”, một hành động làm mất nhiều thứ: Hết sói, ngựa Mông Cổ không ai mua, đại thảo nguyên Mông Cổ cát vàng cuồn cuộn, bò cừu chết đói, bọn ta có thể trở về Bắc Kinh…

Trần Trận nói: Đừng có mà nằm mơ. Bắc Kinh trong lịch sử từng nhiều lần bị kỵ binh thảo nguyên đánh chiếm, nhiều lần trở thành thủ đô của chính quyền dân tộc thảo nguyên. Chỉ kỵ binh thảo nguyên mà Bắc Kinh còn không chống nổi, nói gì đến chống lại “hoạ vàng” (cát lấn).

Trương Kế Nguyên nói: Chuyện ấy chúng ta không quản, mà có muốn cũng không quản nổi. Hàng triệu nông dân sống bạt mạng, khẩn hoang bạt mạng, mỗi năm dôi ra số người bằng dân số của một tỉnh, đám người này xông lên thảo nguyên, ai cản nổi?

Trần Trận thở dài: Đúng là không cản nổi, thế mới sốt ruột! Nho gia Trung Quốc về bản chất là sự pha trộn hệ thống tinh thần hoàng đế nông canh với tiểu nông. Hoàng đế là đại phú nông, còn chủ của một gia đình nông dân Trung Quốc là “tiểu hoàng đế” (ông vua con). “luân phiên làm hoàng đế, thì mai đến lượt nhà mình”, “nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền”, kẻ nào không thích ứng làn song nhân mãn của dân số nông canh, kẻ đó sẽ bị “lật thuyền”, rơi vào thảm hoạ. Mảnh đất nông canh chỉ có thể sinh ra vua, không sinh ra nền cộng hoà, “nước có thể chở thuyên, cũng có thể lật thuyền”, thực tế là “nông canh có thể chở vua, cũng có thể lật vua”, chở đi lật lại, cuối cùng vẫn là vua. Mấy nghìn năm nay, khi dân số khủng hoảng liền nổ ra tạo phản, do giết nhau mà dân số giảm rồi, thay vua rồi, lại tiếp tục sống trong cái vòng luẩn quẩn ấy. Tuy văn minh nông canh được đẩy lên, vua tôi trên dưới đồng lòng lấy nông làm gốc, là lực lượng tiến bộ phát triển theo hình xoắn ốc, nhưng khi đã lên tới đỉnh, lực lượng này cũng đi xuống theo hình xoắn ốc, và như cái máy cắt cỏ, nó cắt sạch mầm mống của quan hệ sản xuất mới…

Trương Kế Nguyên gật đầu lia lịa. Cậu xếp phân khô, nhen lửa, cho bánh bao vào khay hấp. Hai người ngồi bên bếp mùa hạ, kiên nhẫn đợi bánh chín, chuyện trò càng hào hứng.

Trần Trận nói: Hôm nay nghe cậu nói, mình mới hiểu vì sao dân tộc sống trên lưng ngựa lại không chọn ngựa làm tôtem, mà lại chọn sói là kẻ thù của ngựa. Mình cũng được đả thông một điều: Cái logic trái khoáy này lại bao hàm sâu sắc logic của thảo nguyên. Vì rằng ngựa Mông Cổ là “học trò” do sói thảo nguyên và người thảo nguyên cùng huấn luyện, mà “học trò” thì làm sao có thể là linh vật và tổ sư để thầy sùng bái? Con sói thảo nguyên thì chưa bao giờ bị người thuần dưỡng. Tính cách và bản lĩnh của sói, hàng nghìn năm nay con người vẫn chưa học được. Sói thực sự thống soái thảo nguyên, đứng trên tầm cao mà điều phối các mối quan hệ chồng chéo lên thảo nguyên…

Trương Kế Nguyên nói: Mình quả thực lấy làm tiếc cho Khuyển Nhung và Hung Nô. Họ là những dân tộc ưu tú. Sùng bái tôtem sói là do học xác lập từ xa xưa truyện lại cho đến tận bây giờ, và chắc chắn còn tiếp tục.

Trần Trận nói: Tinh thần của linh vật sói sẽ lâu bền hơn nhiều tinh thần Nho gia. Nó được tiếp tục một cách tự nhiên và tràn đầy sức sống. Trong hệ tư tưởng Nho gia, chẳng hạn như “tam cương ngũ thường”, một bộ phận trong cương lĩnh này đã lỗi thời, cổ hủ, còn tinh thần tôtem sói thì tràn trề sức sống, vẫn tiếp tục ở các dân tộc tiên tiến nhất hiện nay. Tôtem sói của dân tộc thảo nguyên Mông Cổ, nên là di sản tinh thần quý báu của toàn nhân loại. Nếu người Trung Quốc có thể cắt bỏ phần hủ lậu về mặt tinh thần dân tộc của Nho gia, và cấy vào chỗ trống đó cái mầm tinh thần tôtem sói để nó kết hợp với truyền thống hoà bình chủ nghĩa, coi trọng giáo dục và nghiền ngẫm sách của Nho gia dựng lại tính cách quốc dân, thì Trung Quốc còn có hi vọng. Chỉ tiếc tôtem sói là hệ thống thuần tinh thần mà về mặt văn tự không ghi chép được nhiều. Nhược điểm chí mạng của dân tộc thảo nguyên là lạc hậu về văn hoá văn tự, mà các nhà nho, nhà sử học Trung Quốc hàng ngàn năm quan hệ với dân tộc thảo nguyên cũng chưa từng ghi chép về văn hoá tôtem. Mình nghĩ rằng, những nho sinh đó đã cố ý cắt xén những điều ghi chép trong sử sách. Cho nên bây giờ chúng ta tìm tư liệu về tôtem sói trong sử sách Trung Quốc chẳng khác mò kim đấy biển. Mấy trăm quyển sách ta mang đến đây cũng không đủ dùng, lần sau về thăm gia đình, phải kiếm thêm ít nữa.

Trương Kế Nguyên bỏ thêm mấy cục phân bò khô, nói: Mình có người anh em họ giữ một chức nhỏ ở xí nghiệp sản xuất giấy, nhà xưởng chất đầy sách tịch thu khi lục soát các nhà, công nhân thường xé lấy giấy ở những quyển đóng bằng chỉ, cuộn thuốc hút. Người thích sách có thể đem thuốc lá đến đổi lấy sách kinh điển. Mình làm mã quan lương tháng 70 tệ được coi là cao, mua thuốc lá đổi lấy sách thì để mình. Nhưng mà từ khi lập nước đến nay, chính phủ ra sức tuyên truyền diệt sói, “anh hùng” diệt sói trên thảo nguyên sắp trở thành anh hùng của thảo nguyên mới. Lớp trẻ Mông Cổ, nhất là những mã quan, dương quan đã học xong tiểu học hoặc cấp hai, gần như không biết tôtem sói là gì. Cậu xem chúng ta nghiên cứu những cái này phỏng có ích gì?

Trần Trận đang mở nắp vung, ngoảnh lại nói: Nghiên cứu khoa học thực sự thì không hỏi dùng để làm gì, chỉ là tò mò hứng thú. Với lại, làm rõ được vấn đề xưa kia mình không hiểu, sao lại bảo là vô dụng?

Bánh bao nhân thịt ngựa được lấy ra khỏi lồng hấp, bốc hơi ngùn ngụt. Trần Trận luôn đổi tay cầm cho cái bánh, đợi bớt nóng cắn một miếng. Ngon. Vừa thơm vừa mềm. Từ sau nếu có ngựa bị thương, cậu nhớ cho bọn mình một con.

Trương Kế Nguyên nói: Ba lều khác đều có yêu cầu, mình sẽ đưa lần lượt.

Trần Trận nói: Vậy cậu lấy lại cho mình những chỗ bị sói cắn, mình phải nuôi sói con.

Hai người ăn một mạch hết một típ bánh. Trần Trận rất thoải mái. Cậu đứng dậy nói: Mình không nhớ đây là lần thứ mấy ăn thức ăn của sói. Nào, ta chơi trò “ném sói bánh bao”!

Đợi bánh bao nguội, Trần Trận và Trương Kế Nguyên mỗi người cầm một chiếc, phấn khởi bước ra ngoài đi về phía con sói. Trần Trận gọi: Sói con ăn cơm! Hai chiếc bánh được đặt nhẹ lên đầu và lên lưng con sói. Nó sợ cụp đuôi “oắc” lên một tiếng chui luôn xuống hang, bánh bao bị Ilưa và con Vàng cướp mất. Hai người ngớ ra một lúc mới phản ứng. Trần Trận cười nói: Chúng mình ngốc quá, sói con từ nhỏ tới giờ chưa ăn bánh bao. Ném sói bằng bánh bao, vô tích sự. Con sói vốn tính đa nghi, mình nuôi nó mà nó chẳng tin mình. Chắc hẳn nó coi bánh bao nhân thịt là hòn đá. Mấy hôm nay, lũ trẻ Mông Cổ đi qua có đứa lấy đất ném nó.

Trương Kế Nguyên vừa cười vừa đi đến bên miệng hố, nói: Con sói hay thật, mình phải bế nó lên và thơm nó một cái. Trần Trận nói: Sói con chỉ quen với mình và Dương Khắc, ngay cả Cao Kiện Trung cũng không được bế, đụng vào là cắn. Cậu nên thôi thì hơn.

Trương Kế Nguyên cúi xuống gần miệng hang, gọi: Sói, đừng quên là tao đem thịt ngựa đến cho mày đấy nhá. Ăn no rồi, không nhận tao phải không? Trương Kế Nguyên còn gọi mấy tiếng nữa nhưng sói con chỉ nhe răng nhe lợi mà không lên. Cậu ta vừa lôi sợi xích, sói con đã vọt lên há miệng cắn khiến Trương Kế Nguyên ngã bổ chửng. Trần Trận ôm lấy cổ con vật mới đè được nó xuống và luôn tay xoa đầu nó. Trương Kế Nguyên đứng dậy phủi bụi đất trên người, vừa cười vừa nói: Được lắm, sói hoang cũng chỉ dữ đến thế. Lần sau mình sẽ đem cho nó ít thịt ngựa.

Trần Trận kể lại cho Trương Kế Nguyên nghe tiến hú của sói đã gây ra bao nhiêu phiền toái. Trương Kế Nguyên đổi cuốn “Sói biển” lấy cuốn “Thế giới thông sử”. Cậu nói với Trần Trận: Theo kinh nghiệm của mình, đêm nay sói sẽ đến. Phải hết sức cẩn thận, đừng để sói cướp mất sói con. Phải tinh, sói sợ nhất thuốc nổ, nếu nó tấn công đàn cừu thì đốt pháo nhị thanh. Lần trước mình đem về cho các cậu một bó, kiểm tra lại đi, bị ẩm thì nổ không đanh.

Trần Trận nói: Dương Khắc dùng giấy dầu gói lại, cất phía trên cùng của hòm gỗ, chắc chắn không ẩm. Hôm trước đụng độ với đám lưu manh cậu ta đốt ba quả, nổ rung trời đất!

Trương Kế Nguyên vội vã phóng về chỗ đàn ngựa.

Chương 26

Thần Quang nói rằng:… Vũ Đế (Hán Vũ Đế) thích thu phục tứ di, nên kẻ sĩ dũng cảm không sợ chết đầy triều, mở rộng đất dai, tất thảy như ý…

Thần Quang nói rằng: Hiểu Vũ (Hán Vũ Đế)… không khác Tần Thuỷ Hoàng là mấy.

- Tư Mã Quang “Tư trị thông giám. Hán Thế Tổn Hiếu Vũ Hoàng Đế hạ chi hạ”

Cơm tối xong, Bao Thuận Quý đi từ nhà ông Pilich đến căn lều Trần Trận. Ông ta hào phóng cho Trần Trận chiếc đèn pin lớn, lắp sáu viên pin, vũ khí và công cụ của người đủ tư cách mã quan mới được dùng. Bao Thuận Quý đặc cách giao nhiệm vụ: Nếu đàn sói xông tới bên đàn cừu thì chiếu đèn pin lớn, không được đốt pháo, mà xua chó nhà các cậu vây chặt sói. Tôi đã thông báo cho mấy nhà gần đây, hễ thấy các cậu bật đèn pin, mọi người dẫn chó tới bao vây sói.

Bao Thuận Quý vừa cười vừa nói: Không ngờ các cậu nuôi con sói mà lại tác dụng tốt đến thế. Nếu như lần này dụ được sói mẹ và đàn sói, giết được bảy tám con, thì coi như thắng lớn. Chỉ giết được vài con sói mẹ cũng coi như thắng. Mục dân đều bảo đêm nay nhất định sói sẽ về, họ yêu cầu tôi bắn chết sói con, lột da treo lên, còn xác thì quẳng ra sườn dốc, để sói mẹ không còn vấn vương gì nữa. Tôi không đồng ý, bảo họ, tôi không sợ sói đến đây, dùng sói con để dụ sói mẹ, ai lại làm như thế? Lần này thì sói mắc lừa rôi, các cậu phải hết sức chú ý, loại đèn đại này chiếu vào mắt người chỉ vài phút là mù, sói lại càng mù. Tuy vậy các cậu cũng phải chuẩn bị gậy gộc, lỡ ra…

Trần Trận, Dương Khắc nhất nhất nghe theo. Bao Thuận Quý vội đến nhà khác bố trí nhiệm vụ, nghiêm cấm nổ súng kinh động đàn sói, không để sung cướp cò bị thương người, gia súc, rồi lại vội vã ra đi.

Cuộc chiến lấy sói dụ sói chưa từng có trên thảo nguyên tuy hậu quả chưa thể đoán trước, nhưng nó đã kích thích cuộc sống du mục khô khan. Vài người đặc biệt căm thù sói. Các mã quan dương quan ngưu quan đã lâu không đến nhà, nay chạy tới hỏi han tình hình và làm quen địa hình. Họ vô cùng thích thú trước cách săn xưa này chưa hề chơi. Một dương quan nói: Sói mẹ bảo vệ sói con vào loại nhất. Chúng biết sói con ở đây, dứt khoát đến cướp. Tốt nhất mỗi đêm đến vài sói mẹ, như vậy đêm nào cũng được bắt sói. Một mã quan nói: Bị lần này, lần sau sói không dám đến nữa. Một dương quan khác nói: Nếu chúng đến cả đàn thì nên thế nào? Mã quan nói: Sói nhiều nhưng không nhiều bằng chó. Nếu quả không ổn thì cả người cả chó cùng xông lên, đèn nến hò hét, nổ súng đốt pháo.

Sau khi mọi người đi cả, Trần Trận và Dương Khắc trong lòng nặng nề, ngồi xuống tấm thảm cách sói con không xa. Hai người rất băn khoăn. Dương Khắc nói, nếu lần dụ này thành công, thì sói tổn thất lớn quá. Bắt toàn bộ sói con nhà người ta chưa đủ, lại còn lợi dụng tình mẫu tử, giết cả sói mẹ. Rồi chúng mình sẽ hối hận suốt đời.

Trần Trận cúi mặt nói: Bây giờ mình bắt đầu hoài nghi chính mình. Mình nuôi sói con đúng hay sai? Để nuôi một con, phải đập vào đẩy sinh mạng của sáu đứa con! Từ nay không biết phải chết bao nhiêu con nữa. Nhưng mình đã không còn đường rút. Thực nghiệm khoa học có khi chẳng khác anh đồ tể. Bố Pilich chủ trì thảo nguyên này không dễ, ông già bị nhiều sức ép quá. Một mặt phải chịu nỗi đau vì gia súc bị tàn sát; mặt khác hứng chịu nỗi khổ vì phải giết nhiều sói, hai cảnh chịu đựng đều đẫm máu. Nhưng vì thảo nguyên và người thảo nguyên, ông đành bấm bụng mà cân bằng các mối quan hệ. Mình rất mong Tăngcơli báo cho sói mẹ đêm nay đừng đến, đêm mai cũng đừng đến, đừng có tự chui đầu vào lưới, cho mình thêm ít thời gian nuôi con sói lớn lên, nhất định chúng mình sẽ đem trả cho mẹ nó…

Gần nửa đêm, ông Pilich lại đến lần nữa, kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến đấu của Trần Trận và Dương Khắc. Ông già ngồi bên hai người lặng lẽ hút thuốc. Hút hết hai tẩu thuốc, ông gia an ủi hai cậu học sinh và cũng là an ủi chính mình, nói nhỏ: Những ngày này muỗi đã về rồi mà đàn ngựa còn mắc cạn, không giết một ít sói, đàn ngựa sẽ chẳng còn được mấy con, Tăngcơli cũng không bằng lòng.

Dương Khắc hỏi: Bố, theo bố thì đêm nay sói mẹ có về không?

Ông già nói: Khó nói lắm, dùng sói nuôi để nhử sói mẹ, tồi ngần này tuổi đầu chưa thấy ai sử dụng, ngay cả nghe nói cũng không. Chủ nhiệm Qúy bảo mọi người lợi dụng sói con để đánh vây, ngựa con chết nhiều quá, không để ông ấy và mấy mã quan giết ít sói đâu có được?

Ông già đi, bãi chăn im ắng, chỉ còn nghe tiếng cừu nhai lại rào rạo, đôi khi nghe tiếng cừu lắc tai đuổi muỗi. Thảo nguyên đã xuất hiện đợt muỗi đầu tiên, nhưng đó chỉ là đám muỗi trinh sát, chưa phải những tập đoàn muỗi khủng khiếp như máy bay ném bom.

Hai người trò chuyện một lúc rồi ngủ luân phiên. Trần Trận ngủ trước. Dương Khắc nhìn đồng hồ dạ quang trên cổ tay, cầm chắc đèn pin, cảnh giác nghe ngóng tứ phía, đeo lên cổ chiếc túi đựng nửa bó phái nhị thanh để đề phòng bất trắc.

0O0

Sói con sau khi ăn no thịt ngựa, trời chưa tối đã kéo căng xích ra ngồi tận mép chuồng góc tây bắc, vươn dài cổ, dỏng hai tai, không động cựa, để hết tâm trí vào tiếng động mà nó mong đợi. Mắt nảy lửa, cái nhìn như mũi khoan, sói con như đứa trẻ mồ côi trong cô nhi viện mong ngóng người thân.

Quá nửa đêm, đúng giờ tiếng tru nổi lên, đàn sói lại phát động cuộc chiến tiêu hao sức khỏe. Tiếng sói tru vang rền từ ba phía núi, khí thế hung hãn. Đàn chó của đại đội lập tức phản kích, sủa râm ran. Đàn sói lập tức im bặt, nhưng tiếng chó sủa vừa dừng, tiếng tru lại nổi lên, khí thế càng dữ dội hơn. Vài hiệp như vậy qua đi, đàn chó đã sủa một đêm hiểu rằng sói chỉ hư trương thanh thế nên chúng tiết kiệm đạn dược, hạ thấp âm lượng, giảm bớt số lần phản kích bằng âm thanh.

Trần Trận vội cùng Dương Khắc tới gần sói con, quan sát nó dưới ánh sao mờ tỏ. Trong chuồng, tiếng xích sắt reng reng, con sói sốt ruột đi quanh chuồng. Nó định bắt chước tiếng sói tru thì bị đàn chó phá đám, còn thường xuyên bị tiếng sủa rất gần của Nhị Lang, Vàng và Ilưa át mất. Sói con bấn quá lại bật ra những tiếng “âu âu” quái gở khiến nó tức lộn ruột, lắc đầu. Mấy tháng nay sớm hôm ở chung với lũ chó, nó không chống nổi sức ngấm của tiếng sủa, không cho nó trở về với tiếng tru của sói.

Nhị Lang dẫn đầu lũ chó tuần tra mạn tây bắc đàn cừu, vừa đi và sủa không dứt, hình như đã đánh hơi được kẻ địch. Lát sau, phía tây bắc lại có tiếng tru, nhưng lần này hình như gần Trần Trận hơn. Các nhóm chó khác đã sủa thưa thớt, còn đàn sói hình như chậm rãi tập trung vào sườn dốc phía tây bắc, nơi có lều của Trần Trận. Trần Trận môi run run, nói khẽ: Bộ phận chủ lực của sói tập trung về phía sói con, sức nhớ của sói thì khỏi bàn.

Dương Khắc cầm chắc chiếc đèn pin đại. Cậu cũng hơi sợ. Sờ bó pháo nhị thanh, cậu nói: Nếu bọn sói xông vào, mình không làm được tất mọi việc, cậu sẽ phát lệnh báo động bằng đèn pin, còn mình ném “lựu đạn” vào đàn sói.

Chó ngừng sủa, Trần Trận nói khẽ: Mau ngồi xuống mà nghe sói tru.

Không có tiếng sủa gây nhiễu, sói con có thể lắng nghe tiếng tru của sói hoang. Nó ngồi thẳng lên, dỏng tai, ngậm miệng để nghe cho rõ. Sói con thông mình, nó không há miệng tru bừa, mà trước tiên luyện sức nghe để tiếp nhận một số âm thanh vọng lại từ đêm tối rồi mới bắt chước tiếng tru.

Tiếng tru của bầy sói vẫn nhằm vào sói con. Nó hối hả phân biệt, tiếng tru phía bắc, nó quay về bắc; tiếng tru phía tây, nó quay về tây; tru cả ba phía, nó lồng lộn tại chỗ.

Trần Trận lắng nghe, cậu nhận thấy tiếng sói tru đêm nay có khác với đêm trước. Đêm trước tiếng tru đơn điệu, chỉ có tính uy hiếp, còn tiếng tru đêm nay biến hoá nhiều vẻ, tiếng cao tiếng thấp, trong đó hình như có ý hỏi han, thăm dò, thậm chí có tiếng gọi con của sói mẹ. Trần Trận nghe mà rợn người.

Những chuyện về sói mẹ bảo vệ con trên thảo nguyên lưu truyền rất rộng. Để dạy con bắt mồi, sói mẹ mạo hiểm bắt sống cừu non đem về; để bảo vệ an toàn, sói mẹ đêm đêm chuyển sói con từ hang này sang hang khác; để nuôi con, sói mẹ ăn no đến mức tưởng như vỡ bụng, khi về nôn hết ra cho con ăn; vì lợi ích của cộng đồng dòng họ, những con sói mẹ mất con, chấp thuận con của chị em cô dì bú sữa. Ông gia Pilich thường kể: Một ông lão thợ săn vùng Ơlôn có lần đã gặp ba con sói cái cùng nuôi một ổ sói con. Đó là vào mùa xuân, ông lão đi đào bắt sói con, phát hiện trên sườn núi ấm áp, ba con sói mẹ nằm thành hình cánh cung, mỗi con sói mẹ ba con bú tí. Thế là ông lão không còn bụng dạ nào đi đào bắt sói nữa. Người già từng nói, mã quan Mông Cổ là thợ săn không bao giờ giết sách cả ổ sói con, những con sói con sống sót có rất nhiều mẹ nuôi mẹ đẻ, thừa sữa ăn không hết, cơ địa tốt, bộ khung tốt, vì vậy sói Mông Cổ to lớn nhất, thông minh nhất thế giới. Trần Trận còn định nói, tình mẫu tử của sói cái còn vượt cả phạm vi dòng tộc, dùng sữa nuôi trẻ mồ côi của loài người- kẻ thù đáng sợ nhất của sói. Đằng sau sự tàn bạo, còn có lòng bác ái rất cảm động của sói.

Vậy mà giờ đây, những con sói mẹ mất con xót xa rầu rĩ, hi vọng dù rất mỏng manh, đến tìm con. Chúng thừa biết đây là Ơlôn vùng đất lều trại tập trung nhất, người chó súng ống nhiều nhất, nhưng chúng vẫn mạo hiểm áp sát. Trong khoảnh khắc, Trần Trận những muốn cởi xích cho sói con, cho nó về với các mẹ sói của nó để mẹ con được đoàn tụ. Nhưng cậu không dám, cậu e sói con khi ra khỏi phạm vi lều trại của cậu thì chó của các gia đình lập tức xé xác nó vì tưởng là sói hoang. Cậu cũng không dám đêm nó đi thật xa rồi phóng sinh, nếu vậy, cậu sẽ rơi vào giữa đàn sói cái nguy hiểm…

Sói con cực kỳ nhạy bén với tiếng tru khác lạ đêm nay. Nó không biết ứng xử ra sao với tiếng tru từ ba phương sáu hướng. Rõ rang nó không hiểu những tiếng tru kỳ quặc, biến hoá phức tạp ý nghĩa như thế nào, càng không biết hồi âm ra sao. Đàn sói không nhận được hồi âm, tiếng tru thưa dần. Có lẽ chúng không hiểu vì sao đêm qua nghe rõ ràng là tiếng sói mà đêm nay thì không thấy gì cả.

Chính là lúc này sói con sửa lại tư thế, chuẩn bị cất tiếng. Nó cúi xuống phát ra “u…u…u…” là âm chủ lực của tiếng tru, rồi vận hơi, từ từ ngẩng đầu lên, âm “u” chuyển sang âm “âu”, “u…u…u…âu…âu…!”, cuối cùng sói con đã phát ra được tiếng sói tru mặc dù chưa thật đúng tiêu chuẩn. Tiếng tru từ ba phía im bặt, hình như đàn sói ngớ ra, cái tiếng “u…âu…” kia nghĩa là gì, đàn sói không hiểu, đành nán đợi. Lát sau, trong đàn sói có tiếng tru hình như của một con sói choai, bắt chước hoàn toàn tiếng tru của sói con bên cạnh lều. Trần Trận thấy sói con của cậu cũng ngớ ra, không hiểu tiếng tru đó có ý hỏi gì? Nó như bị câm điếc vừa chữa khỏi, không hiểu người khác nói gì, cũng không nói ra được mình định nói gì. Trời tối quá, giơ tay làm hiệu cũng không nhìn thấy.

Sói con đợi một lúc không thấy có tiếng trả lời bèn tự mình phát huy, nó cúi xuống vận hơi, ngửng lên nhả ra một tiếng dài, lần này thì nó đã khôi phục được âm lượng cao nhất của đêm qua: “u…âu…!”, tiếng “âu” dài mênh mông như tiếng trẻ con còn hơi sữa, như tiếng kêu, tiếng chuông nhỏ, tiếng tù và ngắn, tiếng ngân chưa dứt, dư âm kéo dài. Sói con rất bằng lòng tiếng tru của nó, không đợi có tiếng tru trả lời, nó tru tiếp cho đã nghiện, do hồi hộp, vĩ âm biến thành âm cụt. Đầu nó ngẩng càng cao, mũi chĩa thẳng lên trời, hoan hỉ và phấn chấn, nó tru hết lượt này đến lượt khác, càng tru càng thành thạo, càng tiêu chuẩn, tư thế hoàn toàn giống con sói trưởng thành. Khi tru, nó vo miệng hình chữ O tròn như chiếc lò xo, vận hơi bụng, từ từ bình ổn kéo dài tiếng ngân, dài mãi dài mãi cho tới lúc cạn bầu tâm sự. Sau đó, nó hít một hơi thật dài rồi tiếp tục tru. Sói con vui mừng hớn hở kéo dài tiếng tru “quỉ khóc sói gào”, say sưa khoe mẽ giọng ca với chất giọng thật đáng nể: trẻ trung, mượt mà, thuần khiết, uyển chuyển mà tròn vành rõ chữ, trong khi du dương nó tự biến điệu một cách ngẫu hứng, thêm vào đó nhiều luyến láy.

Hai người như mê đi, Dương Khắc bất giác khẽ mô phỏng tiếng tru của sói con.

Trần Trận nói nhỏ với Dương Khắc: Nghe sói tru mình phát hiện ra dân ca Mông Cổ vì sao ngân dài và run rẩy như thế. Dân ca Mông Cổ hoàn toàn khác dân ca Hán về phong cách. Mình cho rằng, phong cách này được truyền lại từ thời Hung Nô sùng bái tôtem sói. Sử có ghi: “Hung Nô truyện trong Nguỵ thư chép rằng, thời thượng cổ Thuyền Vu có hai con gái xinh đẹp, cô em lấy chồng là sói, sinh rất nhiều con trai con gái. Nguyên văn còn chép: Người em là vợ sói, sinh con. Sau sinh sôi thành một nước. Do vậy người nước đó thích kéo dài tiếng ca như sói tru…”.

Dương Khắc vội hỏi: Trong “Hung Nô truyện” có chép như vậy à? Cậu đọc kỹ hơn mình. Đã ghi chép như thế thì đúng là nguồn gốc dân ca Mông Cổ rồi!

Trần Trận nói: Không sai. “Hung Nô truyện” mình đọc không biết bao nhiêu lần, những đoạn hay mình đều học thuộc. Người theo nghiệp sách vở đến Mông Cổ không đọc “Hung Nô truyện” sao được? Trên thảo nguyên, tôtem sói có mặt khắp nơi, tôtem của một dân tộc, là đối tượng sùng bái và mô phỏng của dân tộc ấy. Dân tộc sùng bái tôtem sói đem hết tâm sức ra học tập mô phỏng tất cả những gì của sói, thí dụ kỹ xảo săn đuổi, thông tin bằng âm thanh, nghệ thuật quân sự, chiến lược chiến thuật, tính cách chiến đấu, tinh thần đồng đội, tính tổ chức, tính kỷ luật, tính bền bỉ, tính cạnh tranh “giỏi làm vua”, phục tùng quyền lực, yêu gia tộc và tộc quần, thờ Tăngcơli (Trời) vân vân. Cho nên mình cho rằng, âm nhạc và dân ca Mông Cổ ảnh hưởng tiếng tru của sói là tất nhiên, thậm chí còn cố ý bắt chước là khác. Tất cả những con vật khác trên thảo nguyên như bò cừu ngựa chó dê vàng chuột cáo v.v… tiếng kêu không kéo dài như sói, chỉ bài ca của sói và dân ca Mông Cổ mới thế. Cậu thử nghe lại lần nữa xem có giống không?

Dương Khắc gật đầu lia lịa, nói: Rất giống, càng nghe càng giống, cậu không nói ra thì mình không suy ngẫm theo hướng này. Hồ Tùng Hoa hát “Ngợi ca” Mông Cổ, nhất là đoạn mở đầu có bao nhiêu âm luyến bao nhiêu âm đổ, và tiếng ngân dài, hẳn hoi là mô phỏng tiếng trú của sói. Hai năm nay nghe rất nhiều dân ca Mông Cổ, bài nào cũng có âm rung, có đổ hồi luyến láy, tiếc rằng không có máy ghi âm ghi lại để so với tiếng tru của sói, chắc chắn sẽ tìm ra mối quan hệ giữa chúng với nhau.

Trần Trận nói: Người Hán chúng mình cũng thích nghe dân ca Mông Cổ, du dương, bao la như thảo nguyên, vậy mà ít người biết dân ca Mông Cổ bắt nguồn từ sói. Có điều, người Mông ở Nội Mông không chịu thừa nhận dân ca của họ diễn biến từ sói sang. Mình có hỏi vài mục dân, người bảo không phải, người ậm ự. Cũng chẳng nên trách, giờ đây “chiếc đèn đỏ” có câu hát “lệnh từ nhà giam truyền ra như tiếng sói gào” thì ai còn dám nhận dân ca Mông Cổ bắt nguồn từ sói. Nếu không, bài “Ngợi ca” kính chúc lãnh tụ vĩ đại sống lâu muôn tuổi đáng cho vào tù, còn ca sĩ thể hiện bài hát đó phải quy là phản cách mạng. Nhưng sự thực là sự thực, đây không phải một xảo thuật.

Trần Trận thở dài, nói: Thật sự truyền đi tinh thần đại thảo nguyên Mông Cổ, chỉ có tiếng tru của sói và dân ca Mông Cổ.

0O0

Nhị Lang dẫn chó lớn chó bé của hai nhà chõ mõm về phía tây bắc sủa một hồi. Đợi tiếng sủa dừng, sói con lại tru, dần dà sói con không bị nhiễu tiếng sủa của chó, nó phát ra tiếng sói tiêu chuẩn. Sói con tru năm sáu bận bỗng dừng lại, chạy tới bên thùng nước uống mấy ngụm cho trơn giọng rồi hướng về phía tây bắc tru tiếp mấy lần rồi dừng lại dỏng tai đợi hồi âm. Rất lâu, sau một hồi lao xao tiếng sói, đột nhiên từ đỉnh dốc phía tây vọng lại tiếng tru mạnh mẽ trầm đục, oai nghiêm, chỉ có thể là của sói chúa hay sói đầu đàn, khẩu khí như ra lệnh, vĩ thanh rất dài, khi dừng dứt khoát. Qua tiếng tru, Trần Trận cảm nhận được đó là một con sói chúa cường tráng, ngực nở vai rộng, âm vực rất sâu. Hai người sợ đến nỗi không thốt lên lời.

Sói con cũng ngớ ra, nhưng lập tức vui mừng nhảy cẫng. Nó chuẩn bị tư thế cúi xuống vận hơi nhưng không biết trả lời thế nào, đành bắt chước cái tiếng tru ấy. Tiếng tru của sói con tuy non trẻ, nhưng nó bắt chước y chang âm đuôi và khẩu khí. Sói con tru liền mấy bận, nhưng tiếng tru oai nghiêm kia không xuất hiện nữa.

Trần Trận ra sức phán đoàn ý nghĩa và hiệu quả của cuộc đối thoại này. Cậu nghĩ, có thể sói chúa hỏi sói con: Cháu là con nhà ai, trả lời mau! Nhưng câu trả lời của sói con lặp lại câu hỏi của sói chúa: Là con nhà ai, trả lời mau! Lại còn cái khẩu khí của bậc bề trên hỏi kẻ dưới! Con sói chúa chắc hẳn nổi trận lôi đình, hơn nữa lại càng nghi ngờ sói con. Hỏi và trả lời như thế, hiệu quả tất nhiên tồi tệ.

Rõ ràng là sói con không hiểu đẳng cấp địa vị, càng không hiểu lễ tiết giữa các thế hệ trong đàn sói. Sói con dám nhại câu hỏi của sói chúa trước mặt đám sói, chắc chắn bị lũ sói cho là xúc phạm đến cái oai của sói chúa, một hành vi vô lễ đối với bậc tiền bối. Lũ sói lao xao có vẻ phẫn nộ lại có vẻ bàn ra tán vào. Lát sau, đàn sói không lên tiếng nữa, nhưng sói con thì lại hào hứng. Nó không hiểu câu hỏi của sói chúa và sự phẫn nộ của đàn sói, nhưng nó cảm thấy những bóng đen trong đêm đã chú ý tới sự có mặt của nó, muốn liên hệ với nó. Sói con rất muốn tiếp tục giao lưu nhưng không biết bày tỏ ý kiến, nó cuống lên, ra sức lặp lại câu hỏi ban nãy: Là con nhà ai, trả lời mau, trả lời mau!

Tất cả những con sói lớn chắc chắn vò đầu bứt tai, không hiểu ra sao. Sói thảo nguyên Mông Cổ sinh sống trên thảo nguyên hàng vạn năm nay, chưa bao giờ gặp một sói con như thế nay. Nó rõ rang trong khu lều trại của người, ở bên chó và cừu, hì hì hà hà, dám lên mặt ta đây, nói năng càn rỡ. Vậy rốt cuộc nó có phải là sói không? Nếu là sói thì quan hệ giữa nó với người, chó- thiên dịch của loài sói, như thế nào? Nghe giọng sói con, biết nó rất muốn đối thoại với bầy sói, nhưng hình như nó sống no đủ, người và chó không khinh rẻ nó, tiếng nó trầm, có vẻ no nê. Được người và chó đối tốt như thế, nó còn muốn gì nữa?

Trần Trận nhìn những cặp mắt lấp lánh lân tinh trong đêm tối mênh mông, cố sức dịch địa vị của cậu vào bầy sói để suy xét phán đoán. Lúc này chắc đàn sói xanh mắt nhìn mắt xanh, càng cảm thấy sói con đáng ngờ.

Sói con ngừng tru, rất muốn có tiếng trả lời từ bóng đêm. Nó đứng ngồi không yên, chốc chốc lại cào đất, sốt ruột chờ đợi.

Trần Trận thấy hiệu quả như thế vừa thất vọng vừa lo, con sói chúa cường tráng oai vệ có thể là cha đẻ của sói con, nhưng sói con từ nhỏ đã mất cha không biết cách làm nũng và giao lưu với bố. Trần Trận e rằng sói con một lần này nữa có thể là mất vĩnh viễn tình yêu của bố nó. Vậy con sói cô độc từ nay thuộc về loài người, thuộc về cậu và Dương Khắc?

Bỗng có tiếng tru dài vẳng tới, hình như của một con sói mẹ. Tiếng tru thân thiết êm tai, dịu dàng bi ai, mang nỗi đau của tình mẹ, tiếng ngân run rẩy và dài lê thê, có lẽ đây là ngôn ngữ của sói, đầy ý tứ và tình cảm sâu nặng. Trần Trận đoán câu này có nghĩa là: Con ơi, con còn nhớ mẹ không? Mẹ là mẹ của con đây. Mẹ nhớ con lắm, mẹ tìm con khổ quá, cuối cùng thì mẹ đã nghe thấy tiếng nói của con… Cục cưng của mẹ, mau về với mẹ…Mọi người đều nhớ con âu…âu…!

Tiếng âu…âu…thốt ra tự đáy long, lời ca đau thương nhất trên đời của người mẹ xuyên qua năm tháng, rung chuyển thảo nguyên ngàn đời hoang vu. Trần Trận không cầm được nước mắt. Dương Khắc cũng nước mắt vòng quanh.

Sói con xúc động sâu sắc trước những câu ngập ngừng dứt nối, theo bản năng, nó cảm thấy đây là “người thân” của nó. Sói con phát cuồng, nó giằng cái xích mạnh hơn khi cướp thức ăn. Cái xích xiết chặt cổ khiến nó thè lưỡi thở phì phò. Con sói mẹ lại tru thê thảm, lát sau, có nhiều sói mẹ tham gia đội ngũ gọi con. Thảo nguyên vang lên những tiếng ca bi thương. Tiếng ca bi thương của sói mẹ, nguyên bản có hình thức khóc trong tiếng tru, biểu hiện trong ngoài là một, lâm li vô cùng. Đêm nay, tiếng tru thê lương của sói trên thảo nguyên Ơlôn suốt đêm không dứt, rung động trời đất, quỉ khóc thần sầu, hớp hồn phách con người. Lũ sói mẹ hàng vạn năm nay mất con trai con gái trút hết nỗi oán hờn chứa chất vào đêm đen trên thảo nguyên đau thương.

Trần Trận đứng im như trời trồng, cảm thấy nổi gia khắp người. Dương Khắc mắt ướt nhoè bước tới gần sói con nắm lấy đai cổ, vỗ nhẹ lên đầu lên lưng con vật, an ủi nó.

Tiếng tru thê thảm của lũ sói mẹ dần lắng, sói con né tránh Dương Khắc, nó sợ lần nữa mất tiếng tru. Chĩa về hướng tây bắc, miễn cưỡng ngửa mặt lên trời, bất chấp tất cả, nó dựa theo ký ức phát đi những lời của sói. Trần Trận chột dạ, nói nhỏ: Hỏng rồi! Cậu và Dương Khắc đều cảm thấy rõ rệt tiếng tru của sói con khác xa tiếng tru của sói mẹ. Sói con đặt trọng tâm vào nỗi ai oán, hơn nữa, nó chưa biết vận đủ hơi, không tru dài được như sói mẹ. Kết quả, sau những câu đầu Ngô minh Sở, tiếng tru của đàn sói lập tức tắt ngấm, thảo nguyên im lặng như tờ.

Trần Trận thất vọng hoàn toàn. Cậu đoán rằng, sói con biến những lời bi thương của sói mẹ thành châm biếm, mô phỏng thành chọc quê, đau thương thành kể khổ, thậm chí còn cài những tiếng vừa học từ sói chúa vào. Câu mô phỏng lời sói mẹ có thể biến thành: Con trai ơi… trả lại nỗi nhớ cho con, con là ai…? Mẹ về bên con, trả lời mau! u…âu…!

Cũng có thể sói con không nói được những câu như Trần Trận đã tưởng tượng ra. Dù sao thì bắt một con sói vừa sinh ra đã phải xa thế giới loài sói, lớn lên bên người và chó, trả lời những câu phức tạp như thế thì khó cho nó quá.

Trần Trận nhìn về phía con dốc giờ đây đã im ắng. Cậu đoán lũ sói mẹ chắc tức điên, cái thằng lưu manh dám biến nỗi đau của sói mẹ thành trò cười! Có thể cả đàn sói đang phẫn nộ. Thằng khốn chắc không phải đồng loại mà đàn sói đang tìm càng không phải người anh em mà chúng quyết chết giành lại. Vốn đa nghi, đàn sói nhất định nghi ngờ tư cách của sói con. Rất nổi tiếng về dụ mồi sa bẫy, các sói chúa sói đầu đàn có thể phán đoán sói con là con mồi do người xếp đặt, có sức dẫn dụ và sát thương, nhưng đã bị lộ tẩy là cái ”bẫy sói”.

Đàn sói cũng có thể nghi ngờ sói con là thằng con hoang lý lịch bất minh. Thảo nguyên chưa có tiền lệ người nuôi sói. Mùa xuân hàng năm, những thằng cha hai chân biết cưỡi ngựa, thường đem chó sục sạo các hang, hun khói các ổ sói. Sói mẹ tinh mắt có thể ở chỗ nấp nhìn thấy họ giết sói con bằng cách tung chúng lên trời. Sói mẹ trở về, có thể ngửi thấy đây đó toàn mùi máu tươi. Một số sói mẹ còn tìm thấy thi thể sói con chôn dưới đất trong khu lều trại cũ, da bị lột. Ghét sói đến như thế thì người không nuôi sói con!

Đàn sói có thể phán đoán, con vật tru tiếng sói này không phải sói, mà là chó. Trên thảo nguyên Ơlôn, đàn sói thường thấy nhưng người đeo súng mặc quần áo màu xanh lá cây đi trên đường cát gần biên giới, họ bao giờ cũng đem theo bốn năm con chó lớn tai dựng như tai sói, có mấy con biết tru tiếng sói. Những con chó này nguy hiểm hơn chó bản địa nhiều, hàng năm một số sói bị chúng cắn chết. Thằng oắt biết tru tiếng sói này ắt hẳn là con của chó tai sói.

Trần Trận đoán tiếp: Có lẽ đàn sói cho rằng sói con trăm phần trăm là sói. Vì hàng ngày đi ra ngoài tới một chỗ tương đối xa, sói con ỉa trên sườn dốc. Có thể sói mẹ đã ngửi thấy mùi đích thực của sói con. Nhưng, dù sói thông minh tuyệt đỉnh vẫn không thể vượt qua một khúc ngoặt, đó là sự trở ngại về ngôn ngữ. Đàn sói cho rằng, đã là sói thì phải như những con sói khác trong đàn, không những phải biết tru, biết nói lời sói, mà còn biết đối thoại với sói mẹ. Vậy thì con sói không biết nói tiếng sói này chắc là một tên phản bội đã triệt để thay lòng đổi dạ, hoàn toàn đầu hàng con người. Vì sao hắn không chạy đến với bầy sói, mà lại cứ muốn bày sói đến chỗ hắn?

Trên thảo nguyên hàng vạn năm nay, mỗi con sói đều là một chiến sĩ kiên cường, thà chết trong chiến đấu chứ không đầu hàng, vậy vì sao lại nảy nòi ra cái thằng khốn khiếp này? Vậy gia đình nào đã thuần phục con sói, bắt nó ngoan ngoãn vâng lời, ắt hẳn có ma thuật. Hoặc giả, sói thảo nguyên có thể phân biệt người Hán với người Mông, vì vậy đàn sói cho rằng có một con sói chưa hề tiếp xúc với ai, đã lẳng lặng tiến vào thảo nguyên. Khu lều trại này nguy hiểm quá.

Trần Trận chìm trong suy nghĩ.

Thảo nguyên im lặng chỉ mỗi con sói mang xích là đang tru, đến nỗi rát cổ bỏng họng, gần như bắn máu tươi. Nhưng những câu tru của nó càng dài càng hỗn loạn càng lủng củng. Đàn sói không có bất cứ sự thăm dò hoặc cố gắng nào, không thèm nhìn nhận nỗi đau và lời kêu cứu của sói con. Khổ thân sói con, nó không còn dịp nào khác học tiếng sói tru, học ngôn ngữ sói. Cuộc đối thoại giữa nó và đàn sói thất bại thảm hại.

Trần Trận cảm thấy đàn sói giải vây nhanh như chạy trốn trận đại dịch, rời khỏi địa điểm xuất phát trận công kích.

Con dốc tồi mò, im ắng như bãi thiên táng Xacanôla phía núi bắc.

0O0

Trần Trận và Dương Khắc không hề buồn ngủ, thảo luận suốt đêm, không ai thuyết phục được ai, kết quả vừa rồi là sự giải thích có sức thuyết phục.

Cho tới lúc rạng sang, sói con mới ngừng tru, tuyệt vọng đến mức như đã chết, nó nằm dài trên mặt đất, mắt đăm đăm nhìn về phía con dốc tây bắc. Nó nhướng mắt nhìn hình dáng thật sự của những “bóng đen”. Mù tan dần, con dốc vẫn là con dốc ngày nào nó cũng nhìn thấy, chẳng có “bóng đen” nào hết, chẳng còn âm thanh nào hết, chẳng còn đồng loại mà nó mong gặp. Nó mệt bã, như một đứa con côi bị bỏ rơi hoàn toàn, chìm trong tuyệt vọng. Trần Trận vuốt nhẹ đầu nó, thông cảm nỗi đau sâu sắc của nó, nỗi đau, vuột mất cơ hội trở lại đàn, lấy lại tự do.

Toàn thể tổ sản xuất và đại đội một đêm kinh khủng nhưng không gặp nguy, lều trại không bị đánh lén hoặc tấn công, đàn cừu đàn bò yên ổn không suy suyển, một kết cục không ngờ. Mục dân bàn tán sôi nổi. Mọi người không hiểu vì sao sói mẹ thường lăn xả cứu con, nay không đánh mà rút? Tất cả các ông già đều lắc đầu. Đây là sự việc Trần Trận chưa hề gặp trong suốt mười năm sống trên thảo nguyên.

Bao Thuận Quý và các mã quan chủ trương dụ đàn sói bị mừng hụt. Nhưng trời vừa rạng, Bao Thuận Quý đã chạy đến lều Trần Trận khen ngợi hết lời, rằng học sinh Bắc Kinh dám nghĩ dám làm, đánh một trận rất đẹp “không đánh mà thắng”, và tặng luôn cái đèn pin đại cho các cậu, còn bảo sẽ phổ biến kinh nghiệm của các cậu cho toàn thể mục trường. Trần Trận và Dương Khắc thở ra nhẹ nhõm, chí ít các cậu có thể tiếp tục nuôi sói con.

Lúc uống trà sang, Ulichi và ông già Pilich bước vào lều Trần Trận.

Ông Ulich suốt đêm không chợp mắt, nhưng sắc mặt vẫn tốt. Thật là một đêm đáng sợ. Lúc đầu nghe tiếng tru tôi rất căng thẳng, khoảng ba chục con sói bao vây lều cậu từ ba phía, khoảng cách gần nhất là hơn trăm mét. Mọi người cứ tưởng chúng sẽ phá tan lều các cậu, nguy hiểm quá.

Ông Pilich nói: Nếu không biết các cậu có pháo nhị thanh thì tôi đã huy động toàn bộ chó của tổ đến chỗ các cậu rồi.

Trần Trận hỏi: Bố, vì sao sói không tấn công đàn cừu? Cũng không cướp lại sói con?

Ông già uống một hớp trà, rít một hơi thuốc, nói: Tôi nghĩ rằng sói con chưa nói đúng hoàn toàn tiếng nói của sói, cứ cách năm ba tiếng lại xen một tiếng chó, nhất định làm cho đàn sói rối tinh.

Trần Trận, Dương Khắc cười ồ. Dương Khắc nói: Tăngcơli thật thông minh!

Trần Trận lại hỏi Ulichi: Ông U, vì sao đàn sói không ra tay hả ông?

Ông Ulichi nghĩ một lúc, nói: Tôi chưa từng nghe, chưa từng thấy chuyện như thế này bao giờ. Tôi nghĩ, có đến tám phần mười là đàn sói coi sói con là dân ngụ cư. Sói thảo nguyên mỗi đàn đều có bản địa riêng, không có địa bàn thì sớm muộn bật bãi, không trụ lại được. Đàn sói coi địa bàn quan trọng hơn sinh mạng. Có thể sói con nói thứ tiếng mà sói bản địa không hiểu. Sói bản địa không vì một con sói con từ nơi khác đến mà liều mạng. Đêm qua sói chúa cũng về. Sói chúa rất khó lừa. Chắc chắn là nó rõ mọi chuyện, vì nó rất hiểu “dùng binh được phép gian trá”, thấy sói con và người gần nhau như thế, nó đã sinh nghi. Sói chúa thấy chắc đến bảy phần mười mới mạo hiểm. Xưa nay nó chưa hề làm việc gì mà nó chưa hiểu. Sói chúa thương nhất sói cái, sợ sói cái mắc bẫy nên đến trực tiếp giám sát, thấy vô lý, nó dẫn đàn sói cái bỏ đi.

Trần Trận gật đầu lia lịa.

Trần Trận và Dương Khắc tiễn hai ông già ra về. Sói con bị khủng hoảng tinh thần, ủ rũ nằm dài, mõm kê trên hai chân trước, hai mắt đờ đẫn như qua một đêm toàn ác mộng, đến giờ vẫn chưa tỉnh hẳn.

Ông Pilich trông thấy sói con liền dừng lại, nói: Khổ thân sói con! Đàn sói không nhận nó, bố mẹ cũng không nhận ra, cứ xiềng xích như thế này sống sao nổi? Người Hán các cậu lên thảo nguyên làm đảo lộn hết mọi quy củ. Con sói thông minh hoạt bát là thế mà xích như thằng tù, như nô lệ, tôi thương quá! Sói rất kiên trì, cậu cứ đấy mà xem, sớm muộn nó sẽ bỏ chạy. Cậu ngày ngày cho ăn cừu non cũng không giữ nổi trai tim nó.

Đêm thứ ba và thứ tư không nghe tiếng sói tru, chỉ có tiếng tru non nớt thảm thương của sói con vang vang trên thảo nguyên, hồi âm vọng lại từ trong khe núi, dưới thung lũng, nhưng không hề có tiếng tru đáp lại của đàn sói. Một tuần sau, sói con vật vờ như kẻ mộng du, tiếng tru thưa dần.

Sau đó một thời gian, đàn cừu của Trần Trận và Dương Khắc và cả bò cừu của tổ Hai và hai tổ sản xuất gần đấy không còn bị đàn sói tập kích trong đêm. Phụ nữ của các gia đình gác đêm vui vẻ bảo Trần Trận, Dương Khắc, là đêm nào họ cũng ngủ đẫy giấc, giờ vắt sữa mới dậy.

Những ngày này mục dân nói chuyên nuôi sói với Trần Trận, giọng đã dịu đi nhiều, nhưng vẫn không một ai chủ trương sang năm sẽ nuôi một con sói con để doạ đàn sói. Mấy ông già tổ Bốn bảo nhau, cứ để các cậu ấy nuôi, đợi khi sói lớn, tính hoang dã mạnh lên, xem các cậu đối phó cách nào?

Chương 27

Lý Bạch mang dòng máu Đột Quyết trong người, có thể chứng thực điều này qua tên của con trai con gái ông. Con trai ông tên “Tần Lê”. Hán ngữ không giải thích được từ này nghĩa là gì. Thực ra, đây là dịch âm tiếng Đột Quyết, có nghĩa là “sói”. Sói là tôtem của người Đột Quyết, đặt tên “Tần Lê” cũng như người Hán đặt tên là “Long” (Rồng). Con gái Lý Bạch tên là “Minh nguyệt nô”. Hiện nay tộc Duy Ngô Nhi nhiều cô gái tên “A Y Nô Nhi”, “A Y” nghĩa là vắng trăng, “Nô Nhi” nghĩa là ánh sáng, nguyệt là dịch ý, nô là dịch âm. Còn như cặp mắt Lý Bạch chính là đặc trưng mắt người Đột Quyết…

- Mạnh Trì Bắc “Văn hoá thảo nguyên và lịch sử nhân loại”

Được Trương Kế Nguyên đôi lúc đem thịt ngựa đến, thời gian này sói con đủ thịt ăn. Nhưng Trần Trận nghĩ tới sói con trong đàn sói có bao nhiêu là sói mẹ chăm sóc, cậu muốn cho sói con của cậu ăn ngon hơn, nhiều hơn, cho đi dạo nhiều hơn, thời gian vận động nhiều hơn. Nhưng trước mắt thịt ngựa chỉ còn một bữa cho sói, còn lũ chó thì đã đứt bữa. Trần Trận lo quá.

Hôm trước nghe Cao Kiện Trung nói, trên dốc tây nam có một con bò mộng bị chết vì mưa đá. Sáng sớm hôm sau, Trần Trận đem theo con dao Mông Cổ và một chiếc tải lên chỗ con bò chết nhưng đã muộn, con bò chỉ còn lại cái sỏ và bộ xương sống mà ngay cả sói lớn cũng không nhai nổi. Đàn sói ăn sạch không để lại tí thịt nào dù là thịt vụn. Trần Trận ngồi bên quan sát tỉ mỉ bộ xương, thấy những kẽ xương đều có vết răng sói con. Sói lớn ăn miếng lớn, sói con răng nhỏ ăn miếng nhỏ, phân công hợp tác, con bò to như thế mà ăn sạch không còn một mẩu, nhặng xanh tức tối vo ve một hồi rồi bay đi. Ông già ngưu quan tổ Ba cũng đến, hình như con bò chỉ còn lại cái sỏ này là bò của ông. Ông nói với Trần Trận: Đàn sói không dám đến bắt cừu nữa,

Tăngcơli giết một con bò cho chúng ăn. Cậu nghĩ coi, không sớm không muộn, đúng chiều tối mới chết, đám dân công định sang hôm sau lấy về ăn nhưng không kịp. Anh bạn trẻ, quy củ trên thảo nguyên là do trời định, phá quy củ đó sẽ bị trừng phạt. Nét mặt đăm đăm, ông lên ngựa bỏ đi.

Trần Trận nghĩ, nhiều ông già luôn miệng nói quy củ, có thể đó là quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên do trời xanh, tức vũ trụ xếp đặt, vậy cậu trong điều kiện du mục nguyên thuỷ nuôi một con sói, hẳn là vi phạm phương thức sản xuất du mục. Sói con đã gây phiền phức mới cho thảo nguyên… Trần Trận trở về tay không, dọc đường suy nghĩ vẩn vơ. Cậu ngẩng nhìn trời, bầu trời như cái vòm lá trùm lên bốn phương. Trời xanh xanh, đồng cỏ mênh mông, gió thổi rạp cỏ không thấy sói. Trên thảo nguyên, đàn sói như những hồn ma, đến không thấy hình, đi không thấy bóng; thường nghe thấy tiếng, nhìn thấy hậu quả, mà không thấy mặt, khiến mọi người đều cảm thấy vô cùng bí ẩn. Càng lạ càng tò mò, càng muốn hiểu biết tường tận về sói. Từ khi nuôi sói con, thực sự ôm con sói bằng xương bằng thịt, ôm tôtem trong tay, qua bao gian nan vất vả, đương đầu với bao nỗi hiểm nguy, cậu đã muốn thôi mà không được, làm sao có thể dễ dàng bỏ dở?

Trần Trận chạy đến lán dân công, mua nửa túi kê với giá cao. Cậu chỉ có thể tăng tỉ lệ lương thực cháo thịt, tranh thủ lần giết cừu sau, mới có thể chăm lo đến lũ chó. Trần Trận vào nhà định chợp mắt mộc lúc, bỗng ba con cún trong nhà sủa ầm lên vui mừng chạy về phía tây. Cậu chạy theo ra cửa, thấy Nhị Lang, Vàng và Ilưa từ phía núi chạy về. Nhị Lang và Vàng ngậm trong miệng con mồi không nhỏ. Con Vàng và Ilưa không chịu nổi bữa đói bữa no, theo Nhị Lang lên núi kiếm cái ăn. Xem ra hôm nay chúng kiếm ăn được, bụng tròn căng, và bắt đầu nghĩ đến gia đình.

Cậu vội chạy ra đón. Ba con cún giành con mồi trong miệng chó lớn. Nhị Lang đặt con mồi xuống đất gạt đám cún ra rồi ngoạm con mồi chạy về nhà. Trần Trận mắt sáng lên, con mồi trong miệng Nhị Lang và Vàng đều là rái cá cạn, con Ilưa cũng ngậm con chuột hoa dài hơn thước, đầu to bằng củ cải lớn. Trần Trận lần đầu tiên thấy chó nhà mình săn được mồi đem về. Cậu vui vẻ chạy ra đón lấy con mồi. Con Vàng và Ilưa muốn báo công, đặt con mồi xuống chân chủ rồi chạy quanh hết vòng này đến vòng khác, đuôi vẫy rối rít. Con Vàng còn biểu diễn một động tác vồ mồi mà Trần Trận chưa thấy bao giờ, chân trước và cổ gần như chạm con rái cá, có ý khoe chính nó vồ được. Con rái cá hở bụng lô ra hàng vú hồng hồng căng sữa. Nó là con rái cá mẹ đang thời kỳ cho con bú. Trần Trận vỗ đầu hai con chó, khen: Giỏi lắm! Giỏi lắm!

Nhưng Nhị Lang không chịu nhả con mồi ra. Nó chạy vòng qua Trần Trận ra chỗ sói con. Thấy con mồi vừa to vừa béo, Trần Trận chạy theo túm đuôi Nhị Lang kéo lại, giằng lấy con mồi từ miệng nó. Nhị Lang không giận, còn vẫy đuôi với cậu. Trần Trận cầm chân sau nhấc lên, con rái cá đực nặng dễ đến sáu bảy cân, lông bóng mượt, béo chắc, sang thu mới tích mỡ. Trần Trận định bụng dành con này cho người, đã lâu mấy anh em chưa được miếng thịt nào vào bụng.

Trần Trận tay trái xách con rái cá đực, tay phải xách con rái cá cái và con chuột hoa, vui vẻ bước vào trong nhà. Ba con cún chạy theo sau, vừa chạy vừa đùa dỡn. Trần Trận bỏ con rái cá đực vào trong lều, đóng cửa lại. Lũ chó cún chưa được ăn rái cá bao giờ, hết ngửi lại hít, chúng chưa biết xé thịt ăn.

Trần Trận quyết định cho ba con cún ăn con rái cá mẹ, con chuột hoa thì cho sói con, cho nó nếm loại thịt mà họ hàng nhà nó thích nhất, và cũng cho nó tập xé thịt ăn.

Rái cá mùa hạ lông không có tuyết, bán không được tiền, trạm không thu mua. Vậy là Trần Trận dùng dao Mông Cổ chia đều con rái cá làm bốn phần, ba phân cho ba con cún, một phần để lại cho bữa sau của con sói. Trần Trận đem ba phần chia cho ba con cún. Trông thấy máu lẫn thịt, lũ chó cún biết phải ăn như thế nào. Không tranh giành nhau, chúng nằm xuống bên cạnh phần thịt, ngoạm từng miếng lớn. Ba con chó lớn vui cười, chúng bằng lòng về cách chia thịt rất công bằng của Trần Trận. Cách chia này, cậu học trong “Tiếng gọi nơi hoang dã” của Giắc Lơnđơn. Cuốn truyện này từ lúc cho mượn đã chuyền tay trong hai đại đội, không thu hồi được nữa.

Ba con chó lớn no cành hông. Lập quân công thì phải khen thưởng kịp thời. Đay là quy định truyền thống xưa nay ở Trung Quốc cũng như ở nước ngoài, và cũng đã thành nếp ở Mông Cổ. Trần Trận vào trong lều lấy ra bốn miếng kẹo sữa khao thưởng mấy con chó lớn. Trước tiên cậu thưởng cho con Nhị Lang hai miếng. Nhị Lang ngậm ở miệng nhưng chưa ăn, liếc nhìn con Vàng và con Ilưa, khi thấy hai con kia mỗi con chỉ được một miếng, nó hỉ hả xé giấy bóc kẹo ra ăn, nhai côm cốp. Con Vàng và con Ilưa được thưởng ít hơn một miếng, nhưng không có ý kiến gì, lập tức bóc giấy gói ra ăn. Trần Trận hơi nghi, có lẽ hai con mồi không phải chúng bắt, mà vẫn là Nhị Lang, chúng chỉ đem về giúp.

Sói con đã đánh hơi thấy mùi máu. Nó đứng trên hai chân sau phưỡn cái bụng lông thưa thớt, hai chân trước cào như điên. Trần Trận cố ý không nhìn sói con, vì sợi xích thít cổ sói con quá chặt. Đến khi lũ chó ăn xong, cậu mới xử lý con chuột đồng. Họ chuột trên thảo nguyên rất nhiều loài, thường thấy có chuột, chuột hoa, và chuột đồng. Nơi nào trên thảo nguyên Mông Cổ cũng có chuột. Bên ngoài căn lều khoảng năm sáu mét là có hang chuột, lũ chuột đứng bên miệng hang kêu chít chít. Có khi căn lều dựng ngay trên một hang chuột, lũ chuột lập tức chuyển từ ăn cỏ sang ăn tạp, ăn vụng lương thực, sữa và thịt, ỉa đái trong túi đựng thức ăn, thậm chí chui vào trong hòm gặm sách vở. Khi chuyển nhà, người Mông Cổ mới thấy trong những chiếc ủng da hoặc giầy vải có ổ chuột con đỏ hỏn trông phát khiếp. Mục dân và thanh niên trí thức ghét cay ghét đắng chuột thảo nguyên, Trần Trận và Dương Khắc căm thù chuột đến tận xương tuỷ vì chúng cắn nát của hai cậu quyển sách kinh điển.

Chuột hoa chỉ lớn bằng con sóc Bắc Kinh, đuôi nhỏ, chúng có mắt to như sóc, bộ lông màu nâu có những chấm xám, đuôi như chiếc bàn chải đánh răng.

Nghe ông già Pilich kể lại, thời xưa, chuột hoa làm bia cho trẻ em Mông Cổ tập bắn bằng cung tên loại nhỏ.

Chuột hoa ranh mãnh, chạy cực nhanh và chỗ nào cũng có hang của nó. Tên bay chậm, nó chui luôn vào hang. Hàng ngày trẻ em Mông Cổ phải bắn đủ số lượng bố mẹ quy định mới được về nhà ăn cơm. Nhưng bắn chuột là trò chơi vui thích của trẻ em Mông Cổ, đồng cỏ trở thành sân chơi của chúng. Chúng thường chơi mải mê quên cả ăn. Lớn lên chút nữa, chúng tập cưỡi ngựa và bắn chuột bằng cây cung lớn hơn. Năm xưa một trong những đại tướng của Thành Cát Tư Hãn, một đại thiện xạ Mông Cổ là đại tướng Triêcbê nổi tiếng trong chiến tranh với Nga La Tư, trưởng thành từ cách luyện tập này. Triêcbê có thể trên mình ngựa đang phi bắn trúng cái đầu bé tí của chuột hoa cách hơn trăm bước chân. Người già bảo, người Mông Cổ dựa vào tài cưỡi ngựa bắn cung giỏi nhất thiên hạ để bảo vệ đồng cỏ, mà tiễn pháp được rèn từ tập bắn những con vật sống nhỏ nhất, linh hoạt nhất. Nếu trưởng thành từ giai đoạn bắn chuột, sẽ bách phát bách trúng. Dê vàng, cáo, sói, quân địch, chỉ một phát bắn trúng chỗ hiểm. Ngựa của người Hán không tốt, chỉ có thể dùng để bắn bia, làm sao có bản lĩnh như kỵ xạ Mông Cổ. Đụng nhau trên chiến trường, kỵ binh Mông Cổ chỉ bắn ba loạt tên là hạ gục gần nửa quân địch.

Người già còn nói: Người Mông Cổ dùng chuột cho trẻ con tập bắn cung, là học từ sói. Sói mẹ dạy sói con bắt mồi bắt đầu từ dẫn sói con đi bắt chuột, vừa vui vừa rèn luyện bản lĩnh, vừa no bụng. Sói bắt chuột, giảm được nạn chuột trên thảo nguyên.

Thời xưa, hàng năm có bao nhiêu trẻ con và sói con vui vẻ đùa với chuột, bắt chuột, bắn chuột? Đã đào tạo ra bao nhiêu chiến binh giỏi, sói giỏi? Có bao nhiêu chuột bị giết? Bảo vệ được bao nhiêu đồng cỏ? Trần Trận thường thán phục người Mông Cổ có bao nhiêu là học viện quân sự trên thảo nguyên, có những huấn luyện viên tuyệt diệu là sói. Người Mông Cổ không chỉ tin theo “thiên thú nhân thảo hợp nhất” (trời thú người cỏ bốn trong một), sâu sắc và giá trị hơn nhiều “thiên nhất hợp phú” của người Hoa Hạ. Ngay cả loài chuột vốn là kẻ phá hoại vẫn có một giá trị không thể thay thế trên thảo nguyên.

0O0

Trần Trận xách đuôi con chuột đồng lên xem. Khi chăn cừu, cậu từng trông thấy chuột đực lớn, nhưng chưa bao giờ trông thấy con chuột dài hơn thước, to bằng cái phích nước. Loại chuột to như thế chỉ có ở những bãi cỏ rậm trong núi. Cậu tin thịt chuột vừa béo vừa mềm, món ăn khoái khẩu của sói con và sói lớn thảo nguyên. Cậu tưởng tượng sói con ngửi thấy mùi máu, lập tức vồ luôn con chuột, ăn ngấu nghiến chẳng khác ăn thịt ngựa.

Trần Trận cầm đuôi con chuột, máu rỉ ra từ mũi con chuột rớt xuống đất. Cậu đứng bên vành ngoài cùng của cái chuồng, gọi to: Sói con ăn cơm!

Sói con mắt đỏ ngầu. Nó chưa bao giờ trông thấy con vật này, nhưng ngửi mùi chắc là món ngon. Sói con liên tục nhảy lên đớp, Trần Trận cũng liên tục nâng tầm cao con chuột. Sói con chỉ nhìn con mồi, không nhìn Trần Trận, còn cậu thì kiên trì bắt nó phải nhìn cậu một cái rồi mới cho ăn. Nhưng Trần Trận nhận thấy hình như nguyện vọng này của cậu không đạt: Sói con sau khi nhìn thấy con mồi, thái độ của nó khác hẳn ngày thường, hoàn toàn là một con thú hoang dã, mặt mày bặm trợn, nhe nanh múa vuốt, miệng ngoác hết cỡ, bốn vuốt giương ra, răng lợi bộc lộ hoàn toàn. Bộ dạng của sói con khiến cậu sởn tóc gáy, đu đưa mấy cái nữa thấy nó vẫn không thèm nhìn mình, cậu đành ném con chuột cho nó và ngồi xổm bên cạnh, xem nó xé con mồi ăn ngấu nghiến.

Thế nhưng, hàng loạt động tác của sói con sau khi tiếp nhận con mồi hoàn toàn ngoài dự kiến, khiến Trần Trận suốt đời không quên và không hiểu nổi.

Sói con ngoạm con chuột nhưng lập tức nhả xuống đất rồi lùi lại cách một mét, sợ sệt ngó nghiêng dễ đến ba phút, rồi như có vẻ yên tâm, nó chậm rãi tiến lại phía bên trái con chuột, dừng một thoáng, trước tiên quì chân trước bên phải, tiếp theo quì chân trước bên trái, sau đó nó chạm lưng bên phải vào con chuột rồi lăn mấy vòng. Rất nhanh, nó vùng dậy rũ sạch cát trên người rồi chạy sang phía bên phải con chuột, trước tiên quì chân trước bên trái, tiếp theo quì chân trước bên phải, sau đó chạm lưng bên trái vào con chuột rồi lăn mấy vòng bên cạnh.

Trần Trận tò mò đứng xem, không hiểu sói con định làm gì, cũng không biết sói con học ở đâu những động tác ấy, lại càng không hiểu động tác chạm lưng rồi lăn mấy vòng có ý nghĩa gì. Động tác này y như một chú bé lần đầu tiên được ăn tự do, cầm con gà quay trong tay, muốn ăn nhưng lại tiếc, lật đi lật lại không thôi.

Sau khi hoàn thành những động tác phức tạp, sói con rùng mình rũ bụi, sửa lại xích cho thuận, lại chạy sang bên trái con chuột, bắt đầu lặp lại những động tác cũ, trước trước sau sau, ba trái ba phải, hoàn thành ba đợt chạm- lăn bên cạnh con mồi.

Trần Trận sững người. Cậu nghĩ, trước đây đem thịt cho sói con ăn, thậm chí thịt tươi lẫn máu hẳn hoi, sói con không có những động tác này, sao bây giờ trông thấy con chuột mới có. Phải chăng đây là một phương thức mừng công khi bắt được mồi? Hay một nghi thức trước khi ăn? Thái độ thành kính của sói con y hệt các tín đồ khi nhận bánh thánh.

Trần Trận nghĩ đau cả đầu rồi chợt hiểu, lần này cậu đem thức ăn đến cho sói con khác với những lần trước về bản chất. Những lần trước thức ăn ngon đến mấy nhưng là xương vụn thịt miếng, còn “thức ăn” lần này là con mồi nguyên vẹn thuần tự nhiên thuần hoang dã, một con mồi hoàn chỉnh như bò, cừu, ngựa, có đầu có đuôi, có thân có móng, có lông, có da, thậm chí là “vật sống” như nó. Có thể loài sói coi con mồi hoàn chỉnh mới cao quý, mới là “vật sống”, mới đáng hưởng dụng. Còn như xương vụn thịt miếng không còn nguyên vẹn hình hài, dù ngon đến mấy cũng chỉ là cơm thừa canh cặn của người ta, ăn những của đó còn đâu là quý phái? Phải chăng nhân loại coi bò quay cả con, cừu quay cả con, vịt quay cả con là thực phẩm cao quý, phải có nghi thức long trọng trước khi ăn, là ảnh hưởng từ sói? Hoặc loài người loài sói có những sở kiến giống nhau?

Đây là lần đầu tiên sói con đứng trước món ăn nguyên vẹn cao quý, tính cao quý thiên bẩm của nó lộ ra, nên mới có những hành vi, nghi thức thành kính như thế.

Nhưng sói con chưa bao giờ tham dự bất cứ nghi thức nào của đàn sói, làm sao nó có thể thực hiện nghiêm chỉnh, trình tự đúng phép tắc như thế? Y như những động tác ấy được tập luyện rất nhiều lần, như được một huấn luyện viên chỉ bảo cặn kẽ. Trần Trận nghĩ mãi không ra.

Sói con thở ra một hơi, vẫn không xé con mồi. Nó rung mình rũ bụi cho bộ lông sạch sẽ, rồi cất cao hai chân trước chậm rãi chạy quanh con mồi, phấn khởi tới mức mắt nheo lại, miệng hé mở, lưỡi thè ra nửa chừng, chậm rãi cất chân, chậm rãi đặt chân xuống đất, y như những con ngựa trắng cao lớn trong đoàn xiếc Liên Xô biểu diễn. Sói con thận trọng chạy chậm mấy vòng đột ngột chuyển sang chạy nhanh, nhưng bất kể chạy nhanh hay chậm, cái vòng tròn vẫn được giữ nguyên, một vòng tròn tiêu chuẩn do vô số dấu chân sói in trên cát hình thành.

Trần Trận dựng tóc gáy, chợt nhớ lại hồi sau Tết, cái vòng tròn bí ẩn do dấu chân mấy chục con sói chạy quanh đàn ngựa bị sa lầy, tạo nên. Cái vòng tròn ma quái như một thứ âm phù, người già thảo nguyên tin rằng đó là tín hiệu của lũ sói xin phép và cảm ơn Trời. Cái vòng tròn rất tròn, lúc này cái vòng tròn của sói con cũng rất tròn, mà chính giữa là con mồi nguyên vẹn, đủ lông da.

Chẳng lẽ sói con không dám hưởng dụng ngay con mồi, mà phải vẽ vòng tròn xin phép Trời?

Kẻ vô thần gặp ngay một hiện thực như trong thần thoại hoặc thần thoại trong hiện thực. Trần Trận không thể giải thích những động tác kỳ lạ đó như một thứ “bản năng”, “di chuyển thiên bẩm”. Trần Trận từng nhiều lần lãnh giáo sói thảo nguyên, phương thức tư duy của con người khó ký giải hành vi của chúng.

Sói con vẫn chạy một cách hào hứng. Nhưng nó một ngày nay chưa ăn thịt. Lúc này nó là con sói đói. Thường thì sói đói thấy thịt là ăn liền, vậy tại sao sói con không làm thế, mà lại có những động tác như của tín đồ tôn giáo? Nó nhịn đói để tiến hành những “nghi thức tông giáo” cực kỳ phiền toái, phải chăng thế giới loài sói cũng có tôn giáo nguyên thuỷ, và với một sức mạnh tinh thần to lớn chi phối hành vi của đàn sói, thậm chí có thể chi phối một sói con mở mắt đã xa đàn? Trần Trận tự hỏi: Phải chăng tôn giáo nguyên thuỷ của người nguyên thuỷ là đem về từ thế giới động vật? Người nguyên thuỷ và sói nguyên thuỷ phải chăng từ xa xưa đã có sự giao lưu tôn giáo nguyên thuỷ? Thảo nguyên thần bí có rất nhiều điều cần khám phá…

Cuối cùng, sói con dừng lại. Nó ngồi xổm trước con chuột thở dốc, khi hơi thở đã trở lại bình thường, nó liếm mép hai lần, cặp mặt loé lên nét hoang dã và háu ăn, lập tức từ một thánh đồ biến thành con sói đói. Nó chồm lên con chuột, hai chân trước giữ chặt, ngoạm một miếng giữa ngực rồi hất đầu lên, xé rách da nửa thân trước con mồi lộ ra phần thịt trắng hếu. Sói con run lên, vừa xé vừa ăn ngấu nghiến. Khi nó ăn hết một bên thịt và xương, nó móc lục phủ ngũ tạng của con mồi ra ngoài và bất chấp mùi vị acid trong dạ dày, mùi vị phân và nước tiểu trong ruột, nó chén sạch.

Sói con càng ăn càng thô bạo lại càng hưng phấn, vừa ăn vừa gầm gừ khoái trá, khiến Trần Trận toàn thân nổi da gà. Tư thế ăn của sói con ngày càng khó coi. Nó ăn tất cả những gì trên người con chuột, hầm bà làng không phân biệt. Thịt xương da lông hoặc mật đắng bàng quang, nó đều coi là mĩ vị, chỉ trong chớp mắt, con chuột to béo chỉ còn lại cái đầu và một ít lông. Sói con vẫn chưa thôi, hai chân trước chặn đầu chuột cho mõm ngửa lên, rồi ghé răng chỉ mấy miếng đã cắn nát nửa đầu, nhai chếu cháo rồi nuốt tỏm, răng cũng không nhè bỏ. Nửa đầu chuột còn lại cũng chỉ mấy miếng là mất biến, ngay cả cái đuôi rất ít thịt, toàn lông với xương sói con cũng không bỏ, cắn đứt đôi, nuốt tỏm. Mặt đất chỉ còn lại vài dấu máu và nước tiểu. Sói con hình như chưa đã thèm, nó nhìn Trần Trận thấy hai tay không, miễn cưỡng bước lên mấy bước nằm xuống gần cậu.

Trần Trận nhận thấy sói con quả thật yêu thích lạ lùng chuột thảo nguyên. Chuột thảo nguyên kích thích bản năng và tiềm năng của sói. Chả trách hàng vạn năm nay thảo nguyên Ơlôn chưa hề xảy ra nạn chuột hoành hành trên diện tích lớn.

Trần Trận thấy thương và tiếc cho sói con. Cậu gần như ngày nào cũng được xem sói con biểu diễn những trò đẹp mắt, hơn nữa, những trò lạ lung, có tính chất gợi mở, cậu đã trở thành một phần của sói con. Chỉ tiếc là địa bạn của sói con hẹp quá, nếu như có thể sử dụng toàn bộ thảo nguyên Mông Cổ làm sân khấu, có thể công diễn rất nhiều thoại kịch hùng tráng xúc động lòng người. Rất tiếc là những vở như thế của sói trên thảo nguyên Mông Cổ mênh mông phần lớn đã thất truyền. Những binh đoàn sói còn sót lại bị dồn lên đường biên. Người Trung Quốc không còn có dịp nào được mở rộng tầm mắt, được nghe lời dạy bảo của sói.

Sói con nhìn đăm đăm lũ cún con đang nhai xương. Trần Trận trở vào trong lều lột da con rái cá cạn. Cậu lọc ra chỗ thịt chó cắn trên cổ, cắt lấy cái sỏ con rái cá cho vào chậu, chuẩn bị cho sói con ăn bữa tối.

Trần Trận mổ bụng, loại bỏ ngũ tạng, lọc thịt tảng, rồi cho vào nồi luộc. Thịt của con rái cá cạn chiếm hơn nửa nồi, đủ cho ba người ăn một bữa thoải mái.

0O0

Chiều tối, sói con ngồi ngay ngắn trên cát, mặt quay về hướng tây, sốt ruột đợi mặt trời chỉ còn là hình bán nguyệt ở chân trời. Chỉ cần trên đỉnh dốc còn lưu lại vài chấm sáng là sói con quay mặt về phía cửa lều biểu diễn bao nhiêu là động tác và tư thế như đánh trống, vồ mồi, nhảy lộn vòng ra phía sau, lại nữa, cố ý rung xích sắt cho kêu leng keng nhằm nhắc nhở Trần Trận và Dương Khắc: Thời gian này là của nó.

Trần Trận ăn trước miếng thịt rái cá luộc, cầm roi ngựa, tháo xích cho sói đi dạo. Nhị Lang và Vàng đi théo. Hàng ngày, khoảng thời gian tự do một nửa này là giờ phút hạnh phúc nhất của sói con, sướng hơn ăn. Nhưng cho sói đi dạo không như cho chó bécgiê quân dụng đi dạo. Chó sói đi dạo là giờ phút khoan khoái nhất, những cũng vất vả mệt nhọc nhất của Trần Trận.

Sói con ăn khoẻ, lớn càng nhanh, chiều dài thân đã hơn chó cùng tuổi một cái đầu, cân nặng gấp rưỡi. Sói con lông sữa đã thay hết, lông mới màu vàng ngà mọc đều, bóng mượt, lông bờm màu đen vừa dài vừa cứng, so với sói hoang không có gì khác biệt. Hồi mới đem về, cái đầu tròn nay đã hơi bằng, trên lớp lông màu vàng ngà có những chấm trắng, mặt bắt đầu dài ra, mũi ươn ướt giống cái nút chai bằng cao su, vừa rắn vừa dai. Trần Trận rất thích bóp mũi sói con, hễ bóp là sói con hắt hơi, nó rất không thích cử chỉ thân thiện này. Hai tai sói con đã nhọn ra, cứng và thẳng, nhìn từ xa, sói con đã như một con sói thực thụ.

Mắt sói là bộ phận trên mặt khiến người sợ mà thích. Mắt sói con tròn xoe, nhưng là mắt xếch, khoé trong thấp, khoé ngoài cao, nếu kéo một đường thẳng từ khoé mắt trong đến khoé mắt ngoài thì góc chếch là 45 độ, chếch hơn các diễn viên kinh kịch trên sân khấu. Khoé mắt trong của sói con còn kéo dài thêm một rãnh sâu trông càng kỳ dị. Trần Trận nhìn mắt sói con lại nhớ câu “mày liễu dựng ngược” hoặc “bạch hổ mắt treo”. Lông mày sói chỉ là những sợi lông màu vàng nhạt, vì vậy khi tức giận sói có nhướng mày để uy hiếp cũng không có tác dụng gì. Khi sói biểu thị tức giận phần lớn là nhờ cặp “mắt treo”, một khi mặt sói dựng ngược thì dữ không kém mắt bạch hổ, uy hiếp người ta hơn quỷ dữ. Hay nhất là ở chỗ, những nếp gấp cùng góc độ dọc hai bên sống mũi làm cho cặp mắt thêm hung dữ.

Đồng tử sói không giống các loài động vật khác, “lòng trắng” màu vàng hổ phách. Người ta bảo đèn pha ô tô màu vàng chanh là màu có thể xuyên mù. Trần Trận cảm thấy mắt sói màu vàng chanh có sức xuyên thấu không thể cưỡng đối với động vật. Đồng tử sói tương đối nhỏ. chỉ như lỗ kim châm u tối, khí độc khiến người kinh sợ. Trần Trận chưa khi nào dám mắt chọi mắt với sói con khi nó tức giận, chỉ sợ từ đó phóng ra hai mũi kim độc.

Trần Trận từ khi nuôi con sói và sống thân thiện với nó mỗi khi sói con vui vẻ, cậu có thể nắm hai tai nâng mặt nó lên, mắt trong mắt, mũi cọ mũi, ngắm nghía bộ mặt một con sói sống. Cậu gần như ngày nào cũng ngắm cũng xem như vậy đã hơn một trăm ngày rồi. Cậu thuộc lòng bộ mặt sói con. Tuy cậu thường xuyên nhìn thấy nét cười đáng yêu của sói con, nhưng cậu cũng thường nhìn mà rùng mình sởn gáy. Chỉ riêng cặp mắt đã khiến cậu lạnh xương sống, nếu như sói con ngoác miệng lộ ra bốn chiếc răng nhọn hơn cả răng rắn đeo kính thì càng sợ vỡ mật. Cậu thường bóp miệng sói con, dùng ngón tay búng răng sói kêu cách cách như búng lên thép không rỉ, độ rắn và độ bền đều rất tốt. Dùng ngón tay thử răng sói con, thấy độ sắc của chúng hơn cả mũi dùi đột đế giày, men răng sói rắn hơn men răng người.

Tăngcơli rất thiên vị sói thảo nguyên, ban cho sói bộ mặt đẹp và một vũ khí đáng sợ. Bộ mặt sói là vũ khí, răng sói lại là bộ mặt. Rất nhiều động vật trên thảo nguyên chưa giao đấu đã bị vũ khí trên người sói giải giáp. Bốn chiếc răng ngày càng nhọn sắc trong miệng sói, khiến Trần Trận đêm ngày không yên.

Được cái sói con rất thích đi dạo, chỉ cần sói con vui vẻ là nó không sử dụng vũ khí bộ mặt với Trần Trận, càng không nhe răng ra. Cắn là phương thức chủ yếu sói dùng để biểu thị tình cảm. Trần Trận cũng thường xuyên đút ngón tay vào miệng sói cho nó gặm. Sói con rất có mức độ, chỉ cắn nhẹ, không dùng sức, như sói trong đàn cắn đùa nhau, không bao giờ rách da chảy máu.

Hơn một tháng nay, sói con lớn nhanh kinh khủng, thể lực tăng nhanh hơn thể trọng. Hàng ngày nói là đi dạo, thực ra không phải là dắt chó mà bị chó kéo đi. Sói con rời chuồng là như bò mộng, lôi sềnh sệch Trần Trận ra bãi cỏ. Để cho sói con luyện chân hoặc tập chạy, Trần Trận hoặc Dương Khắc thường cùng chạy với nó. Nhưng khi người không chạy được nữa, sói con bắt đầu mắm môi mắm lợi mà kéo mà lôi, thường là từ nửa tiếng đến một tiếng. Trần Trận bị kéo rát tay, bị lôi mỏi dừ đôi cánh tay, mồ hôi đầm đìa, mệt hơn một ngày lao động cật lực. Cao nguyên Mông Cổ dưỡng khí loãng hơn nhiều so với đồng bằng Bắc Kinh. Trần Trận thường bị sói con lôi đến mức não thiếu dưỡng khí, mặt trắng bệch, hai chân chuột rút. Lúc đầu cậu định tập chạy việt dã, luyện cho cơ thể rắn chắc, nhưng khi sức bật của sói con được tung ra, cậu đâm nản. Sói là kiện tướng chạy đường trường trên thảo nguyên, giống ngựa Uchumuxi nổi tiếng thế giới cũng không bằng. Cặp chân người Hán như cậu mà đòi chạy thi? Trần Trận và Dương Khắc bắt đầu lo, khi sói con lớn hoàn toàn, các cậu làm sao mà dắt? Chưa chừng bị sói con dắt tới chỗ đàn sói!

Có khi Trần Trận và Dương Khắc bị kéo ngã, vài phụ nữ và trẻ em ở căn lều gần đó ôm bụng mà cười. Dù mục dân cho rằng nuôi sói là chuyện vô bổ nhưng mọi người đều rất thích xem nó ra sao, mục dân đều đợi sự phán xét công minh của Tăngcơli đối với cái gọi là “thực nghiệm khoa học” của đam thanh niên trí thức Bắc Kinh. Một vị biết võ vẽ tiếng Nga nói với Trần Trận: Người không thuần dưỡng được sói, khoa học cũng không thuần dưỡng được sói thảo nguyên. Trần Trận giải thích: Cậu chỉ quan sát sói, không hề có ý định thuần dưỡng sói. Không một ai tin vào lời giải thích của cậu, nhưng kế hoạch lại bécgiê thì mục trường ai cũng biết. Cậu và Dương Khắc bị sói con lôi ngã trở thành chuyện cười trên chiếu rượu của mục dân, mọi người bảo, hãy đợi đấy, con sói sẽ ăn thịt chó cái cho mà xem.

Sói con vui sướng kéo Trần Trận chạy thật nhanh. Trần Trận thở phì phò. Điều kỳ lạ là trước đây khi đi dạo, sói con thích lôi Trần Trận chạy bừa bất kể phương hướng, nhưng gần đây sói con rất thích lôi Trần Trận chạy về hướng tây bắc, cái hướng mà đêm hôm đó tiếng sói mẹ dày đặc nhất. Tính hiếu kỳ nổi dậy, Trần Trận cũng muốn tìm hiểu vì sao. Cậu chạy theo sói con một đoạn đường rất xa, xa hơn tất cả những lần chạy trước. Lội qua một cái rãnh, sói con dẫn cậu lên một sườn dốc. Trần Trận nhìn lại thấy mình cách nhà ba bốn dặm thì hơi lo, nhưng vì có con Vàng và con Nhị Lang hộ vệ, trong tay có roi ngựa, nên không kéo sói con quay lại. Chạy thêm nửa dặm nữa, sói con mới chạy chậm lại, đánh hơi khắp chốn, một đống phân bò, một mô đất, một đốt xương, một bụi cỏ, một hòn đá đều không bỏ qua.

Ngửi, ngửi mãi, sói con đến trước bụi cỏ kim mao thò mũi ngửi, đột nhiên nó rùng mình, lông gáy dựng đứng như lông nhím, ánh mắt lộ vẻ vui mừng, hết ngửi lại hít, chỉ tiếc không rúc hẳn vào trong bụi cỏ. Chợt nó ngẩng đầu lên, hướng về phía tây còn vương ráng chiều, cất tiếng tru ai oán, với nội dung kể lể nỗi đau trong cảnh tù đày, bày tỏ khát vọng trở về với tộc quần, không phấn khởi hân hoan như tiếng tru những ngày đầu.

Nhị Lang và con Vàng ngửi đám cỏ kim mao. Hai con chó lớn cũng dựng lông gáy, hung hãn cào đất, hướng về phía tây sủa dữ dội. Trần Trận chợt hiểu ra: Sói con và hai con chó lớn đều ngửi thấy mùi nước tiểu của sói. Cậu dùng chân đi giày gạt cỏ ra xem, những cọng cỏ phía dưới bị cháy vàng vì nước tiểu, mùi khai nồng nặc xộc lên mũi. Trần Trận hơi hoảng: Đây là bãi nước tiểu mới, xem ra con sói đêm qua hoạt động quanh đây, gần khu lều trại. Ráng chiều đã nhạt, núi đồi chìm trong bóng tối mờ, gió nhẹ, những ngọn cỏ rung động như có đàn sói trong đó. Trần Trận run lên, cậu sợ bị đám sói mẹ phục kích. Không kịp suy nghĩ gì hết, Trần Trận vội lôi sói con trở về.

Chính vào giờ phút đó, sói con nghếch chân sau đái một bãi vào đám cỏ kim mao. Trần Trận sợ, lôi con sói lại. Sói mẹ đang nhớ sói con mà sói con nhắn tin bằng cách này, nếu nó gặp lại sói mẹ, hậu quả sẽ không thể lường. Trần Trận giật mạnh cái xích khiến sói con ngã lộn một vòng, và cũng cú giật ấy, nửa bái nước tiểu sói con phải nhịn lại, ước mong tìm lại mẹ cũng do đó mà đứt đoạn. Sói con nổi giận, mắt xếch ngược, nhảy bổ vào Trần Trận như một con sói hoang thực thụ. Trần Trận vội vàng lùi lại nhưng vướng cỏ ngã ngửa, sói con đớp cho cậu một miếng vào bắp chân. Trần Trận “ối” lên một tiếng, chân đau nhói. Răng sói cắn rách lần vải quần vào đến thịt. Trần Trận ngồi dậy, dùng mã bổng quật vào mũi sói con, nhưng nó dã phát điên không chịu nhả, còn định dứt đứt một miếng thịt cho hả giận.

Hai con chó lớn sợ hãi nhảy dựng lên. Con Vàng ngoạm chặt gáy sói con lôi ra, Nhị Lang ghé sát tai sói mà sủa, tiếng sủa nghe như sấm khiến con sói sợ, nhả miệng ra.

Trần Trận sợ gần như ngất xỉu. Con sói chính cậu chăm sóc, giờ đây răng nó dính máu cậu. Nhị Lang và Vàng vẫn đang cắn sói con. Trần Trận vội chạy tới ôm chặt lấy cổ nó nhưng sói con vẫn quẫy đạp dữ dội, mắt xếch ngược, gầm gừ không thôi.

Trần Trận nạt hai con chó lớn. Nhị Lang và Vàng thôi công kích, sói con cũng ngừng quẫy. Cậu bỏ tay ra, sói con lùi xa hai bước nhìn cậu bằng ánh mắt hoang dã, lông gáy vẫn chưa xẹp xuống. Trần Trận vừa tức vừa sợ, bảo: Sói con, mày mù rồi hả? Sao mày cắn tao? Sói con nghe giọng nói quen thuộc sực tỉnh, nó ngoẹo đầu nhìn người đứng trước mặt lần nữa, dần nhận ra Trần Trận, nhưng ánh mắt nó không hề có ý xin lỗi.

Vết thương đang chảy máu. Máu đã chảy xuống giày. Trần Trận vội đứng lên, cắm sâu cây mã bổng vào một cái hang chuột, lồng cái xích vào cây cọc tạm thời đó. Cậu sợ con sói thấy máu nghĩ bậy, bèn đi lên mấy bước, quay lưng lại rồi ngồi xuống cởi giày, xắn quần lên. Bắp chân thủng bốn lỗ, đều chảy máu, may mà vải quần dày như vải bạt, vết thương không sâu lắm. Trần Trận vội chữa trị theo phương pháp cổ truyền của dân địa phương, trước hết nặn cho hết máu ở vết thương, rồi nặn tiếp, dùng máu sạch của cơ thể rửa vết thương. Máu nặn ra chừng nửa sơ ranh, Trần Trận xé vải áo sơ mi băng vết thương, buộc kỹ.

Trần Trận đứng lên, tháo xích dắt sói con quay đầu lại, trỏ làn khói trên căn lều Mông Cổ, gọi to: Sói con, ăn cơm nào! Uống nước nào! Cậu và Dương Khắc đã tìm ra cách này mỗi khi kết thúc đi dạo muốn cho sói con mau trở về nhà. Sói con nghe nói đến ăn cơm uống nước, thèm rỏ dãi, quên sạch những gì vừa xảy ra, không them ngoái lại, cứ thế lôi xềnh xệch Trần Trận về nhà. Về đến nhà, sói con chạy thẳng ra chỗ để chậu thức ăn, hớn hở đợi cơm nước. Trần Trận lồng chiếc khuyết ở đầu xích vào cọc, khoá chặt đầu cọ không cho xích bung ra, rồi bê thịt rái cá cạn cho sói con, múc cho nó nửa chậu nước sạch. Sói con khát khô cả cỏ. Nó khoan gặm xương mà chạy thẳng đến chậu nước, uống một hơi hết nửa số nước trong chậu. Mỗi khi đi dạo muốn sói con mau chóng trở về, các cậu không cho sói con uống nước, mồ hôi đầm đìa, chỉ cần nhắc đến nước là sói con ngoan ngoãn trở về.

Trần Trận vào trong lều thay băng. Cao Kiện Trung trông thấy vết thương liền bắt Trần Trận phải đi tiêm phòng dại. Trần Trận cũng sợ, nên phóng ngựa tới lều của “bác sĩ chân đất” Tiểu Bành ở tổ chăn nuôi số Ba, đề nghị cậu ta tiêm cho một mũi phòng dại, bôi thuốc băng bó vết thương, đề nghị cậu ta nhất thiết không nói với ai về chuyện này. Điều kiện đánh đổi là miễn truy cứu quyển “Tây hành mạn ký” cậu ta mượn để mất, cho mượn thêm “Truyện Napôlêông” và cuốn “Ông già Cao”. Tiểu Bành ra vẻ miễn cưỡng chấp thuận, lầu bầu: Mỗi lần lên trụ sở mục trường, phòng y tế chỉ phát bốn năm liều thuốc phòng dại, dân công bị chó cắn, đã dung hết hai liều, trời nóng này mình lại phải chạy lên lấy. Trần Trận phải nịnh cậu ta, nhưng cậu cũng không biết mình đã nói những gì, trong đầu toàn tính chuyện làm sao bảo vệ sói con. Sói con đã cắn người bị thương. Thảo nguyên quy định nghiêm ngặt: Chó cắn chết cừu phải bị xử tử, cắn người bị thương bắn chết tại chỗ. Sói cắn người bị thương thì không thể tha. Nuôi sói vốn là chuyện đại nghịch vô đạo, giờ lại “mở miệng cắn người”, sói con chắc chết mất. Trần Trận lên ngựa, quên cả đau, dọc đường vỗ trán mong tòi ra một cao kiến nào đó bảo vệ sói con.

Vừa về đến nhà, Trần Trận nghe thấy Dương Khắc và Cao Kiện Trung đang tranh luận về trường hợp con sói bắt đầu cắn người. Cao Kiện Trung làm ầm lên: Sói con giỏi thật! Trần Trận mà nó dám cắn, vậy còn ai nó không cắn? Phải đập chết! Sau này nó còn cắn người nữa thì làm thế nào? Khi chúng ta chuyển sang bãi chăn mùa thu, các tổ cách nhau sáu bảy mươi dặm không tiêm phòng được, bị nhiễm độc từ răng sói thì làm thế nào? Bệnh sói dại nguy hiểm hơn bệnh chó dại, nguy hiểm đến tính mạng chứ chả chơi.

Dương Khắc nói khẽ: Mình sợ Chủ nhiệm Quý không tiêm phòng dại cho Trần Trận và mình, thuốc phòng chó dại rất hiếm, cung cấp cho người lỡ bị chó hoặc sói cắn phải, không cung cấp cho người nuôi sói. Theo mình thì phải thả ngay nó ra, nếu chậm, đội cho người đến đập chết bây giờ!

Lúc này Trần Trận chợt tỉnh, vội nói: Mình nghĩ kỹ rồi. Không đánh chết, không thả. Nếu đánh chết nó thì đúng là mình đã bị nó cắn, công lao bấy nhiêu ngày hoá công cốc! Nếu thả cho nó đi, e rằng nó không sống nổi. Sói con có thể yên ổn về tới nhà nó, nhưng các sói đầu đàn sẽ coi nó như dân ngụ cư, đối xử với nó như với “Sói gian”, liệu nó sống nổi không?

Vậy làm thế nào bây giờ? – Dương Khắc mặt mày không vui.

Trần Trận nói: Biện pháp duy nhất là làm phẫu thật răng cho nó: Dùng kìm cắt bỏ đầu nhọn đi. Sói lợi hại là ở hàm răng, nếu bị cắt đầu nhọn, sói cắn sẽ không chảy máu, cũng không cần đi tiêm phòng dại. Từ nay thịt phải thái miếng nó mới ăn được.

Dương Khắc lắc đầu nói: Cách ấy được thì có được, nhưng làm thế có khác gì giết nó? Sói không còn răng sắc, thì làm sao sống trên thảo nguyên?

Trần Trận cúi đầu, nói: Mình hết cách rồi. Dù sao thì mình không tán thành bị sói cắn cho một miếng là bỏ cuộc. Biết đâu cái đầu nhọ đó sau này sẽ mọc lại? Cứ bỏ cái đầu nhọn đó đi.

Cao Kiện Trung trêu chọc: Dám nhổ răng trong miệng hổ? Không bị nó cắn thành thương chở kể.

Sáng hôm sau, trước khi cừu xuất chuồng, Trần Trận và Dương Khắc làm phẫu thuật cho sói con. Trước tiên, hai người cho sói con ăn no, trêu chọc cho nó vui lên, sau đó Dương Khắc hai tay ôm đầu sói con, dùng hai ngón tay cái vạch miệng sói ra. Sói con không cảm thấy khó chịu, nó đã quen với những trò đùa dai của hai người. Hai cậu xem kỹ khoang miệng sói con dưới nắng. Răng sói thấu quang, có thể nhìn thấy tuỷ bên trong đến đâu. Rất may, tủy chỉ lên đến một nửa chiều dài cái răng. Chỉ cần bấm bỏ đầu nhọn, không phạm tới tuỷ, là không đau. Như vậy có thể giữ lại bốn chiếc răng của sói con. Có thể sau này sói con lại mài nhọn bốn chiếc răng đó.

Trần Trận cho sói con ngửi hít chiếc kìm cắt, ôm cây kìm chơi đùa một lúc. Đợi khi nó không dè chừng với chiếc kìm, Dương Khắc bóp cho sói con há miệng ra, Trần Trận nhanh nhẹn và chuẩn xác cắt đầu nhọn của bốn chiếc răng, khoảng một phần tư chiều dai. Hai người cho rằng, “miệng sói răng kìm” cũng là một cách “nhổ răng cọp”, nên đã chuẩn bị dây rợ, trói con sói lại để thực hiên, không ngờ chưa đến một phút đã xong, không mảy may thương tích. Sói con chỉ đưa lưỡi liếm chỗ cộm ở đầu răng, không cảm thấy bị mất mát chút gì. Hai người đặt nhẹ con sói xuống, định thưởng miếng gì đó nhưng lại sợ nó đau miệng, đành thôi.

Trần Trận và Dương Khắc thở dài nhẹ nhõm, từ nay không sợ sói con cắn người bị thương nữa. Tuy vậy, những ngày sau đó các cậu không sao vui lên được. Dương Khắc nói: Bẻ răng sói còn tàn nhẫn hơn hạ nhục vị thế con người. Trần Trận cũng bâng khuâng tự hỏi: Mình không thể nghĩ rằng mình ngày càng xa với ý tưởng nuôi sói ban đầu?

Cậu Bành mượn một lúc ba quyển sách hay, hai cậu xót ruột quá. Mục trường có hơn một trăm thanh niên tri thức, chỉ Trần Trận và Dương Khắc có mấy hòm sách kinh điển của bọn “phong kiến tư sản xét lại”. Bão táp chính trị cách đây hai năm đã qua đi, cuộc sống tẻ nhạt khiến đám thanh niên này ngốn ngấu sách cấm. Vì vậy cho mượn đi là không bao giờ đòi lại được. Nhưng Trần Trận buộc phải cho mượn… Nếu để ba vị cổ cánh biết chuyện con sói cắn người, Bao Thuận Quý sẽ bắn chết sói con. Trứ tác kinh điển rất được việc, quả nhiên một thời gian dài sau đó không ai biết chuyện sói con cắn Trần Trận bị thương.

Chương 28

Thế Dân (Đường Thái Tôn - người dẫn chú) từ khi khởi binh đến nay, trải qua mười trận đánh luôn dẫn đầu quân sĩ thúc ngựa vào sâu trong lòng địch, bao hiểm nguy mà không một lần bị thương vì cung tên.

...

... Thế Dân tự tay giết mấy chục người, hai đao đều sứt mẻ, máu đầy tay áo, hong khô đánh tiếp. Binh sĩ lại hăng hái tiến lên.

...

Hoàng thượng (Đường Thái Tôn - người dẫn chú) nói: "... đạo dùng binh, thấy lợi phải tiến nhanh, thấy bất lợi phải rút nhanh."

Tư Mã Quang "Tư trị thông giám, Quyển 190"

Như trên. Quyển 184"

Như trên. Quyển 196"

Sau mấy trận mưa lớn, sông suối vùng Ơlon đầy ắp nước, diện tích mặt hồ mở rộng, bãi cỏ bên hồ biến thành chỗ trũng cho hàng vạn vịt con tập bay và săn mồi. Đồng thời nạn muỗi ập tới thảo nguyên vùng biên.

Với thanh niên trí thức Bắc Kinh, nạn muỗi còn đáng sợ hơn tuyết lớn, cỏ sạch, bão tuyết, hỏa hoạn. Muỗi vùng Ơlon nhiều như không khí, bất cứ đâu mũi đều hít phải muỗi. Nếu không đội mũ chống muỗi, đứng bất cứ đâu mũi đều hít phải muỗi. Đồng cỏ phía đông và quãng giữa giáp biên giới là nơi muỗi nhiều nhất, dày đặc nhất, điên cuồng nhất trên thế giới. Vùng này nhiều sông hồ, cỏ mọc dày và rậm, đặc biệt có rất nhiều hang rái cá cạn để muỗi yên ổn qua mùa đông. Muỗi tha hồ hút máu sói, máu người, máu bò máu cừu máu ngựa, và máu thỏ máu rắn máu cáo máu rái cá máu dê vàng. Gần đây, đàn muỗi hút máu sói đã hành hạ một thanh niên trí thức mười sau tuổi đến mất trí, phải đưa về Bắc Kinh.Những đàn muỗi hút nhiều máu sói, tính hoang dã còn điên cuồng hơn sói, bu vào tất cả những con vật bất kể máu nóng máu lạnh trên thảo nguyên.

Ở bãi chăn mới, trước đó muỗi đã yên ổn qua mùa đông, nên nạn muỗi ở đây càng nghiêm trọng.

Buổi chiều, Trần Trận nằm trong màn đọc sách một lúc bèn đội lên đầu chiếc mũ chống muỗi vốn là mũ của người nuôi ong bước ra ngoài căn lều bị bít kín, ra chỗ con sói bị đàn muỗi bao vây.Đây là giờ phút đàn muỗi chuẩn bị tổng công kích trong ngày, vừa ra khỏi lều, Trần Trận đã rơi vào một không khí khủng bố đầy tiếng vo vo như thời chiến.

Muỗi vàng Ơlon to lớn, mang trí tuệ sói nhưng liều mạng hơn sói.Ngửi thấy mùi động vật là chúng lao tới chích, không chần chừ, không thăm dò, không hề có chiến lược chiến thuật, bay tới như phi tiễn phi trâm, mặc dù bị phất trần bằng lông đuôi ngựa, đuôi bò quật chết vô số, vẫn ào tới như đàn ong.Những đàn tiếp theo say máu, càng điên cuồng hung hãn.

Khung màn che trước mắt Trần Trận khoảng một thước vuông, loáng cái đã bu đầy muỗi vàng.Cậu chớp mắt điều chỉnh tiêu cự, thấy mỗi mắt vải là một con muỗi thò vòi vào bên trong như những kim tiêm, dùng phất trần lông đuôi ngựa quét mạnh một nhát, vài chục con muỗi rơi xuống, nhưng chỉ chớp mắt miếng vải che lại đã bâu kín, đành phe phẩy như quạt mới nhìn thấy mọi vật trước mặt.Trần Trận ngẩng nhìn trời, đàn muỗi như đang chuẩn bị tác chiến, bay dày đặc trên đầu cậu chỉ cách không đến hai mét, thảo nguyên như bùng lên ngọn lửa chiến, bao trùm một lớp như khói vàng, Trần Trận nghĩ, thật sự đáng sợ trên thảo nguyên chưa phải "khói sói" mà phải là "khói vàng" do đàn muỗi tạo nên.Mùa này, người và gia súc trên thảo nguyên thật sự bước vào cuộc chiến tranh với muỗi.

Trần Trận quan sát thật kỹ đàn muỗi để chuẩn bị cho phiên gác đêm.Cậu nhận ra hôm nay không những nhiều muỗi, mà con muỗi cũng to lạ. Chúng bay, không nhìn thấy cánh mà chỉ thấy thân muỗi màu vàng.

Con ngựa bạch của Trần Trận không dám ăn cỏ từ lâu.Lúc này nó đứng trên khoảng trống trong chuồng sói.Chỗ này không có cỏ, mặt đất phủ đầy phân bò, muỗi tương đối ít, nhưng vẫn bu đầy như trấu trên mình ngựa.Con ngựa thấy chủ dùng phất trần đuổi muỗi thì cà nhắc cà nhót đi tới.Trần Trận vội bước lên giúp ngựa cởi dây da cột chân, dắt ngựa ra chỗ xe bò muỗi ít hơn, phủ lên lưng ngựa tấm vải lót yên.Con ngựa luôn lắc đầu, dùng đuôi đuổi muỗi ở bụng, hai chân và trên lưng, còn như phía trước thì dùng mõm đối phó.Hàng triệu con muỗi dùng hai chân trước vạch lông ngựa, thò vòi hút máu, chỉ lát sau bụng muỗi tròn căng, trên mình ngựa như mọc lên những hạt cẩu kỷ tử đỏ lựng.Con ngựa bạch vẫn quật đuôi, mỗi nhát quật, đuôi ngựa bê bết máu.Đuôi ngựa quả thực có tác dụng vô cùng to lớn trong phạm vi thế lực của nó.Con ngựa bạch giờ đã thành con ngựa hồng mình đầy máu như vừa đánh nhau với đàn sói trở về.

Trần Trận dùng phất trần vụt mạnh lên lưng và hai chân trước đuổi muỗi cho ngựa. Con ngựa cảm động nhìn chủ gục gặc đầu. Đàn muỗi hết lớp này đến lớp khác, trên mình ngựa lúc nào cũng bu như trấu, như rắc lên một lớp cẩu kỷ tử.

Trần Trận rất nhớ sói con, vội chạy về chuồng sói. Cái hang nước đầy một nửa, sói con không thể chui xuống tránh muỗi. Lông mỏng, nó không còn cách nào chống muỗi tiêm chích. Nhưng chỗ lông thưa hoặc không có lông như mũi tai đầu bụng và cả bốn bàn chân lộ ra. Sói con lúc này đã bị đàn muỗi hành cho phát điên. Đàn muỗi thảo nguyên hình như phát hiện máu sói bổ nhất, nên bu tới như một đám khói vàng dày đặc. Sói con lăn lộn trên mặt đất, đến lúc không chịu nổi thì điên cuồng nhảy nhót, nhảy mệt không dám thè lưỡi, sợ muỗi chui vào họng. Lát sau, sói con nằm sấp, hai chân sau ít lông gặp dưới bụng, hai chân trước che mũi. Trần Trận không ngờ tiểu bá vương mà bị muỗi làm cho nhếch nhác đến thế, y như hành khất bị đòn. Nhưng mắt sói thì vẫn rất có thần, ánh mắt biểu thị một sức mạnh quật cường không dễ khuất phục.

Trời ngày càng oi bức, đàn muỗi bay trên đầu bị khí áp thấp dồn nén không tản đi. Trần Trận dùng phất trần đuổi muỗi cho sói con và dùng tay vuốt muỗi trên đầu trên người nó, mỗi cái vuốt là một nắm "trấu", mỗi cái vuốt là tay đầy máu. Trần Trận thấy xót xa quá. Máu này cậu phải đổi bằng thời gian và tâm huyết. Sói con sung sướng liếm máu nó trên tay cậu, lại còn tì vào đầu gối cậu để gãi ngứa, đầu gối cậu dính đầy lông sói thấm máu. Sói con thực sự coi Trần Trận là cứu tinh, bám chắc không buông, ánh mắt cảm kích. Trần Trận lại nghĩ tới đàn sói bên ngoài. Thử so sánh, cỏ ở khu lều trại thì đã gặm hết, còn trảng cỏ trong núi muỗi càng nhiều, đàn sói nhất định khổ hơn sói con: chui vào hang, đàn muỗi vào theo; chạy xuôi gió, nhưng trước mặt vẫn có đàn muỗi khác. Rái cá cạn không bắt được, cứ cho là bắt được một con, không đủ bù cho tổn thất do muỗi hút máu gây ra. Ông già Pilich nói: Sau nạn muỗi là nạn sói, đàn muỗi biến đàn sói thành sói đói, sói điên, người và gia súc sẽ lãnh đủ. Thảo nguyên sợ nhất hai tai hoạ cùng lúc ập đến, nhất là nạn muỗi và nạn sói. Những ngày này mọi người bàng hoàng.

Sói con rõ ràng quá mỏi mệt nhưng không bị gầy đi. Mỗi ngày đêm nó không biết bị muỗi hút mất bao nhiêu máu, lại còn phải tăng cường vận động một cách vô bổ. Trước nạn muỗi hoành hành, sói con càng ương bướng những cuộc oanh tạc của đàn muỗi không mảy may ảnh hưởng tới sức ăn và khẩu vị của nó. Nạn muỗi cuối hè khiến đàn gia súc bị bệnh tăng, Trần Trận luôn đem cừu chết về nuôi sói con. Sói con ăn gấp đôi để chống trả sự bóc lột quá đáng của đàn muỗi và sự giày vò về tinh thần do muỗi gây ra. Trong tai họa, sói con vẫn lớn vẫn béo. Trần Trận như một gia trưởng dễ tính, không bắt buộc hoặc khuyên nhủ con cái học hành. Sói con chỉ cần cậu làm tốt một việc: Bữa nào cũng no. Chỉ cần có thịt ăn có nước uống, tai hoạ tày trời sói con cũng chịu đựng được, hơn nữa, ngày nào cũng có thành tích để báo cáo. Trần Trận nghĩ, người nào đã từng nuôi sói, có lẽ không bao giờ yêu cầu quá cao đối với con mình, không nên nói "mong con thành rồng", mà ngay "mong con thành sói" cũng đã quá tầm với, quá viển vông.

Sói con nhảy dựng lên như mắc bệnh tâm thần, không hiểu có con muỗi vàng nào chui vào chỗ bụng dưới, chích một phát vào chim khiến nó đau điếng, phải thay đổi tư thế tránh muỗi: giơ cao chân sau, rúc đầu vào bụng dưới dùng răng gãi chim. Nhưng nó vừa giơ cao chân sau, lập tức mấy trăm con muỗi đói hè nhau chui vào đậu kín bụng dưới khiến sói con thiếu nước cắn đứt cái ấy.

0O0

Trần Trận để sói con ở nhà, cậu cầm liềm, cõng sọt đan bằng cành liễu, rảo bước đến Khe Tây cắt ngải. Năm xưa muỗi ít, Trần Trận có lần đi cùng Caxumai cắt ngải. Sau khi chuyển đến bãi chăn mới, mưa nhiều, Trần Trận đã biết những nơi nào có ngải. Mưa nhiều dẫn đến đại hoạ muỗi, và cũng đem lại cho thảo nguyên từng đám ngải xanh tốt. Đàn muỗi bước sang giai đoạn hung hãn nhất cũng là lúc cây ngải toả mùi ngào ngạt. Trần Trận ngẩng nhìn trời, cậu nghĩ, nếu như không có cây ngải thì dân tộc thảo nguyên làm sao trụ lại trên thảo nguyên?

Lũ chó sợ muỗi không đi theo, đều nằm dưới cỗ xe bò tránh muỗi, tránh nắng. Trần Trận đi về phía Khe Tây, cậu trông thấy đàn cừu của tổ ăn cỏ trên mỏm núi thuận gió ít cỏ nhiều đá, chỉ ở đó, đàn cừu mới được đảm bảo. Các dương quan đều đội mũ chống muỗi, tuy nóng đến tức thở, nhưng không ai dám bỏ mũ ra.

Dưới khe cỏ rậm gió không lọt, muỗi nhiều, Trần Trận mồ hôi đầm đìa, áo ngoài bằng vải thô ướt một mảng lớn. Những con muỗi to chọc vòi qua làn vải cứng, chọc không vào, rút không ra. Thế là trên quần áo Trần Trận có những con muỗi bay tại chỗ vì vòi bị kẹt ở đấy. Cậu cũng không buồn lôi chúng ra, kệ cho chúng bay đến kiệt sức mà chết, nhưng chỉ lát sau bả vai đau nhói, đập một phát, bàn tay có bông hoa máu.

Bước gần bãi ngải, quả nhiên muỗi ít hẳn đi, những cây ngải cao hơn một mét, thân cành màu xanh xám, mặt lá có lớp lông tơ mịn. Cây ngải vị đắng, bò cừu ngựa không ăn, do vậy mọc tràn lan. Trần Trận thấy những bụi ngải rậm mà cao thì cảnh giác đi chậm lại, nắm chắc chuôi liềm, hạ thấp người xuống chuẩn bị đối phó. Những dương quan có tuổi thường nhắc nhở đám thanh niên trí thức, rằng sói trốn muỗi thường đánh lăn để hương ngải thấm vào người, tạo nên một thứ áo giáp chống muỗi.

Không đem theo chó nên Trần Trận không dám vào sâu. Cậu quát lên hai tiếng, đợi một lát rồi chậm rãi bước vào đám ngải. Trần Trận như gặp cỏ tiên, xông vào những bụi rậm nhất mà cắt, nhựa bám xanh cả lưỡi liềm. Không khí sặc mùi ngải cứu. Cậu há miệng ra thở, mong lục phủ ngũ tạng được hương ngải bao bọc.

Trần Trận cắt đầy một sọt những cây ngải cả cành lẫn lá, rảo bước về nhà. Cậu bứt một nắm lá ngải non chà lên mu bàn tay, quả nhiên chỗ duy nhất lộ ra mà không bị muỗi đốt.

Về đến nhà, Trần Trận khơi to lửa trong lò bỏ vào rất nhiều phân khô, lôi trong sọt đan bằng cành liễu bảy tám cái chậu vỡ, chọn lấy cái to nhất bỏ vào mấy cục phân khô cháy đỏ rồi bỏ một nắm lá ngải lên trên. Một làn khói trắng sặc mùi ngải cứu bay lên.

Trần Trận bê chậu khói đặt ở chỗ đầu gió chiếu theo chuồng sói con. Gió thổi nhẹ, khói trắng trùm lên chuồng sói con. Trên thảo nguyên, ngải là khắc tinh của muỗi vàng, khói ngải bay đến đâu muỗi bỏ chạy đến đó, đang hút máu dở cũng rút vòi bỏ chạy. Trong nháy mắt, quá nửa đàn muỗi trong chuồng đã mất dạng.

Khói ngải đã giải vây cho sói con, nhưng sói con tá hỏa tam tinh khi thấy lửa và khói trắng. Nó run lẩy bẩy, ánh mắt sợ sệt, nhảy như choi choi, lùi ra tận mép chuồng phía sau cho đến khi căng xích mới dừng lại nhưng vẫn nháo nhác. Sói con cũng như sói đàn sợ lửa sợ khói, sợ đến nỗi quên cả muỗi đốt, chạy bán chết tránh xa khói. Trần Trận đoán thảo nguyên ngàn năm thường xuyên bị lửa và khói tập kích. Trong cơ thể sói con có dòng máu di truyền sợ khói sợ lửa của tổ tiên. Trần Trận lại thêm một nắm lá ngải, dịch cái chậu cho khói trùm lên sói con. Cậu phải luyện cho sói con quen với khói lửa, đó là biện pháp duy nhất giúp nó chống được muỗi. Trên đồng hoang, sói mẹ dẫn con lên núi hoặc rúc vào bụi ngải tránh muỗi, còn ở khu lều trại, Trần Trận đảm nhiệm vai trò của sói mẹ, dùng khói ngải đuổi muỗi cho sói con.

Khói trắng cuồn cuộn, sói con giằng giật gần như bị nghẹt thở nhưng Trần Trận không vì thế mà mềm lòng, tiếp tục thêm lửa, thêm ngải, cuối cùng sói con mệt quá bất động, đành run rẩy trong khói trắng. Sói con tuy sợ khói trắng, nhưng hình như nó nhận thấy dễ chịu dần, tiếng vo vo của đàn muỗi bao vây nó mấy ngày đêm đã biến mất, những con trùng biết bay đáng ghét không thấy nữa. Nó cảm thấy kỳ quặc quay đầu nhìn tứ phía, lại cúi xuống nhìn bụng, lũ côn trùng nhỏ đốt nó giãy nảy cũng không biết đi đâu. Sói con ngạc nhiên mừng rỡ, tinh thần phấn chấn hẳn lên.

Khói trắng tiếp tục tuôn ra, sói con chỉ cần nằm co là đủ. Nhưng trong chậu đột nhiên loé lửa, sói con sợ chạy ra phía sau, chỗ không đúng luồng khói, đàn muỗi lập tức tấn cong khiến nó lại nhảy dựng lên cuống quýt che mặt, gần như không chịu đựng nổi, vùng chạy quan chuồng mười mấy vòng thì tốc độ chậm dần, hình như nó nhận ra có chỗ muỗi nhiều, chỗ muỗi ít, chỉ cần chạy vào làn khói, muỗi bám trên người lập tức bay hết; chỉ cần ra khỏi làn khói, đảm bảo mũi bị luôn mấy phát. Sói con tròn mắt ngạc nhiên nhìn khói trắng, đồng thời ngày càng dừng lại lâu hơn ở chỗ có khói trắng, nó chuyển hướng nhanh như chớp thăm dò sự vật mới, nhưng nó vẫn còn sợ khói, vẫn còn chần chừ khi từ vùng không khói chạy vào vùng khói.

Mấy con chó lớn trước sau nấp dưới cỗ xe bò phát hiện khói trắng rất nhanh. Chó lớn ở thảo nguyên đều biết công dụng của ngải. Mắt rực sáng, chúng dẫn đàn chó nhỏ chạy tới hong khói. Vừa vào trong luồng khói, những con muỗi trên người lập tức biến mất. Chó lớn bắt đầu chọn chỗ khói không đậm không nhạt nằm dài ra, coi như được ngủ bù. Lũ chó cún chưa được hưởng khói lá ngải bao giờ, ngây thơ tranh nhau nhảy vào giữa làn khói, vui mừng, hớn hở và cũng tranh nhau chỗ nằm. Lát sau trên cái chuồng chật hẹp có sáu con chó nằm đấy, khiến sói con cứ trố mắt nhìn.

Sói con rất phấn khởi, mắt nhắm tít, miệng trễ ra, đuôi dựng lên. Ngày thường nó năm lần bảy lượt thật lòng mời lũ chó đến chỗ nó chơi nhưng bọn chó không nhận lời. Hôm nay bỗng tất cả không mời mà đến, ngay cả Ilua vốn ghét nó cũng đến, khiến sói con vô cùng hả hê, coi như được năm, sau rái cá cạn cũng không vui bằng. Sói con nhất thời quên sợ. Nó xông vào giữa làn khói trèo lên lưng Ilua mà nhảy múa, lúc thì ôm con cún cái lăn lộn đùa rỡn. Sói con cô đơn bỗng có cả một gia đình lớn. Nó như được tất cả thành viên trong gia đình đến thăm, mừng quá, muốn ôm hôn cho đã, ngửi và liếm cho đã. Trần Trận chưa bao giờ thấy sói con vui vẻ đến như thế, mắt cậu nhoè đi...

Chó nhiều khói ít, khói ngải xem ra không đủ. Sói con vốn là chủ nhân, nay tự dưng biến thành khách, bị lũ chó chen bật ra. Lũ cún đang tranh nhau chỗ nằm, hai con cún đực không khách khí gì cả, dùng mũi hất luôn sói con ra vòng ngoài. Sói con hơi bực, nó chịu để muỗi đốt, ngồi đó chăm chú nhìn lũ chó. Chỉ lát sau, nó chợt hiểu ra, câu hỏi trong mắt không còn nữa: lũ chó vì làn khói chứ không phải vì nó mà đến. Làn khói mà nó sợ ấy không phải là mảnh đất cho lũ muỗi đáng ghét mặc sức hoành hành, mà là tạo nên cho riêng nó. Từ chỗ không biết gì, sói con cảm thấy thiệt thòi quá, nó nổi điên nhảy xổ vào giữa chuồng như khi tranh nhau thịt, đuổi hai con chó đực. Một con cún lì lợm không chịu đi. Sói con thô bạo cắn tai lôi ra ngoài, con cún đực bị đau kêu ăng ẳng. Cuối cùng, sói con giành được một chỗ khói ngải không đặc không loãng, khoan khoái nằm xuống thụ hưởng niềm vui không muỗi. Sói con có tính tò mò, ham hiểu biết, thích nghiên cứu, đứng im như phỗng mà nhìn cái chậu khói ngải đầy thích thú.

Lát sau, sói con đứng vụt dậy, chậm rãi đi về phía cái chậu. Nhưng chỉ được mấy bước, nó hắt hơi ầm ĩ. Nó lùi lại, lát sau, không nhịn được tính tò mò, mõm áp sáp đất, ì ạch bò lên. Vừa ngẩng lên, một tàn lửa do gió thổi bắn trúng mũi. Nó sững người, như một quả bộc phá đã châm ngòi, lại rơi đánh uỵch trước mặt, nó sợ, lông gáy dựng đứng, cụp đuôi chạy trở lại rúc vào lòng Nhị Lang. Nhị Lang cười khặc khặc, cười sói ngố không biết hay dở. Nó thè lưỡi liếm mũi sói con. Sói con nằm dài trên đất, ngơ ngẩn nhìn cái chậu, không dám tiếp cận nữa. Lát sau, sói con ngủ thiếp như đứa trẻ mắc bệnh buồn ngủ, sau mấy ngày liền bị muỗi giày vò, coi như được ngủ bù. Nhưng Trần Trận thấy sói con khi ngủ đôi tai vẫn ngọ ngoạy khẽ. Tai sói vẫn đang canh gác.

Nghe tiếng vó ngựa lộp bộp, con ngựa bạch cũng đến hơ khói. Trần Trận tiến đến cởi dây cột chân ngựa, dắt nó tới chỗ cuối luồng gió, sau đó lại cột chân nó. Muỗi vàng bám như trấu trên mình ngựa thoắt cái bay đi hết. Con ngựa bạch phì một hơi khoan khoái, cúi xuống ngủ gật.

Chậu khói ngải đã cứu thoát một con sói, một con ngựa và sáu con chó khỏi họa muỗi vàng. Tám sinh mạng đều như người thân và bạn bè Trần Trận. Cậu đã kịp thời giúp đỡ chúng nên cảm thấy thoả lòng. Sói con và ba con cún còn trẻ con chưa biết cảm ơn, ngủ ngon lành. Còn ngựa bạch và ba con chó lớn chốc chốc lại nhìn cậu bằng ánh mắt cảm kích, đuôi khẽ vẫy. Lòng biết ơn của động vật chân thực như thảo nguyên. Chúng không biết nói những lời tán tụng nghe mà rợn người, nhưng cậu rất cảm động và muốn làm nhiều hơn cho chúng. Cậu nghĩ, đợi khi sói con thông minh lớn lên, nhất định sẽ biết giao lưu với cậu hơn lũ chó. Khi gặp nạn, cậu cảm thấy cậu ngày càng quan trọng đối với chúng. Cậu thêm phân khô, thêm ngải vào chậu rồi vội vàng đi phơi và vận chuyển phân bánh.

0O0

Nạn muỗi mới bắt đầu, ngải cứu trong khe cắt không hết, phân khô đủ hay không mới là khâu quan trọng trong công việc chống muỗi. Không cần giục, phụ nữ và trẻ con trong đại đội đều đi phơi và vận chuyển phân khô.

Trên thảo nguyên Ơlon, phân bò phân cừu khô là chất đốt chủ yếu của mục dân. Mùa đông, phân bò dùng để nhen lửa. Nhiên liệu khi đó là phân cừu hong gió cho khô. Bởi vì nhà nào cũng trông coi một địa bàn, hàng ngày cừu ra khỏi chuồng liền gom phân cừu thành đống, hong gió phơi nắng vài hôm là được một loại nhiên liệu tốt hơn phân bò. Nhưng về mùa hè, phân cừu nhão vì thuỷ phần cao, mục dân không dùng phân cừu mà dùng phân bò. Nhưng mùa hạ cỏ non nhiều nhựa, bò lại uống nước nhiều, phân bò mềm và loãng, không rắn như các mùa khác, vì vậy phải thêm công đoạn phơi.

Mùa hạ, phơi phân là công việc phiền toái và khổ sai nhất. Phụ nữ và trẻ con Mông Cổ rỗi rãi một tí là ra bãi cỏ quanh lều dùng chàng nạng lật từng bãi phân bò phơi khô mặt thứ hai còn ướt, rồi cứ ba bánh một chồng lên nhau tiếp tục phơi. Sau đó, nhặt những bánh phân đã khô vào sọt, địu về chỗ đống phân trước cửa lều. Nhưng khi này phân chưa khô hẳn, bẻ ra bên trong còn ướt, chất đống loại phân này lên chính là để tránh mưa. Mùa hạ mưa nhiều, phải lấy thảm đậy lên đống phân, nếu không, phân gặp mưa rào chảy hết ra nước. Tạnh mưa lại mở ra phơi.

Mùa hè, muốn biết bà chủ gia đình có đảm đang không, chỉ cần nhìn đống phân trước cửa to hay nhỏ là biết. Hồi đám thanh niên trí thức mới ở lều, vì không biết trù liệu trước, nên mùa mưa đến là không nhen được lửa, hoặc có khói nhưng không có lửa, mục dân thường phải tiếp tế phân khô mới qua được mùa mưa. Sau hai năm, mùa hè năm nay, Trần Trận, Dương Khắc và Cao Kiện Trung đều đã biết tầm quan trọng của trở phân phơi phân và đánh đống phân, "đống củi" trước lều họ không thua kém bất cứ gia đình nào.

Trần Trận và Dương Khắc vốn ghét những việc vặt trong nhà. Chuyện dưa cà mắm muối chiếm hết thời gian đọc sách, thật bực mình. Nhưng từ khi nuôi sói con, những việc vặt không bao giờ hết này lại là khâu quan trọng trong công việc nuôi sói, việc vặt trong nhà trở thành nhiệm vụ chiến lược, bảo đảm hậu cần cho chiến dịch thắng lợi. Vậy là hai cậu bắt đầu tranh nhau lo liệu bảy việc lớn: củi gạo dầu muối thịt phân trà.

Căn cứ vào lượng dùng hàng năm, "đống củi" trước lều Trần Trận có thể dùng hết mùa hạ. Nhưng đột nhiên xảy ra nạn muỗi, lượng phân tăng gấp bội, đống phân trước cửa lùn đi rất nhanh. Trần Trận quyết tâm chịu đựng mọi khó khăn gian khổ như sói, tăng "đống củi" lên gấp mấy lần.

Nắng trên thảo nguyên ngày càng gay gắt, bộ quần áo phòng độc dày và nặng khiến Trần Trận gàn như tắt thở, chỉ cõng hai ba sọt phân, cậu suýt ngất vì thiếu oxy, ngột ngạt khó chịu, đi đứng khó khăn, mồ hôi đã cạn, áo chống muỗi hết ướt lại khô để lại những vết trắng trên áo. Lúc này cậu đã trở thành công nhân làm muối vùng diêm điền. Nhưng khi nhìn thấy sói con, những con cún, chó lớn và con ngựa bạch ngủ ngon lành trong làn khói mỏng, cậu lại cắn răng chịu đựng.

Ngoài ra, Trần Trận còn chịu đựng một áp lực lớn hơn việc trữ phân. Cậu cắn răng mà làm không chỉ vì sói con và lũ chó, mà còn vì đàn cừu. Đàn cừu gần hai ngàn con là thành quả lao động của cậu và Dương Khắc. Hơn hai năm hai lần hộ sinh, các cậu đã đỡ đẻ gần hai nghìn con cừu, chia thành hai đàn. Hai cậu đội gió gội mưa, chường mặt trước muỗi, ngày đêm chiến đấu với sói, một ngày 24 giờ luân phiên chăn thả, gác đêm, hai mùa xuân hạ làm cật lực. Đàn cừu là tài sản tập thể, không được xảy ra sai sót. Trước mắt lại gặp "song nạn" (hai tai họa cùng lúc), nếu sơ suất, cả hai sẽ gặp rắc rối về chính trị. Đàn cừu lớn bằng này, mỗi đêm phải đốt năm sáu chậu mới đủ. Nếu khói ngải trùm không kín, cừu bị đốt đau sẽ bỏ chạy, chỉ một người gác đêm chặn không nổi. Một khi đàn cừu chạy vào trong núi chắc chắn sẽ bị sói phục kich thây chất đầy khe, người ta lại liên hệ với chuyện "thằng chó' nuôi sói là đi đứt. Áp lực cùng với mối nguy hiểm to lớn khiến Trần Trận phải gồng mình lên, vận dụng tinh thần dũng cảm, trí tuệ, ngoan cường, nhẫn nại, cẩn thận và mạo hiểm của sói, tiếp tục sở thích nuôi dưỡng và nghiên cứu sói, đồng thời rèn luyện cá tính ngang tàng của sói. Trần Trận bỗng cảm thấy sức mạnh tràn trề và một ý chí như sói: không chịu khuất phục.

Một khi đã vượt được trở ngại mệt mỏi về tâm lý, Trần Trận thấy lòng thanh thản. Cậu không ngừng thay đổi loại hình công việc, điều tiết cường độ lao động, lúc điệu phân, lúc trở phân, ngày càng cảm thấy niềm vui của lao động có mục đích. Đồng thời dần dà cậu nhận thấy mình nuôi con sói rất vất vả và hình như xuất phát từ một sự thích thú nghiên cứu về sói chuyển sang một tình cảm thân thiết với sói, và còn vì trách nhiệm như bố, mẹ và anh em mà cậu đảm nhận đối với sói. Sói con là đứa trẻ cậu đút từng miếng sữa, từng hớp cháo, từng miếng thịt mà lớn lên, một đứa trẻ dị tộc hoang dã, thú tính và ương bướng, tiềm ẩn trong tim những bí mật khôn lường, tình cảm nồng cháy và nguyên thuỷ nửa người nửa thú, khiến Trần Trận ngày càng tẩu hỏa nhập ma, gần như trở thành một con người khó hiểu. Nhưng Trần Trận lại cảm thấy trong nửa năm trở lại đây khoẻ mạnh cả tâm hồn lẫn thể xác, một dòng máu hoang dã đầy sức sông đang chảy trong huyết quản. Cao Kiện Trung nói với các thanh niên trí thức, nuôi một con sói mà có thể biến Trần Trận từ một phần tử "con em hắc bang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa" lười lao động, không phân biệt nổi môn với khoai, thành một con người cần mẫn linh hoạt, thiết tưởng cũng không phải chuyện xấu.

Trần Trận làm việc hăng say trên bãi phân bò dơ dáy, địu từng sọt phân đầy ắp về nhà, đống phân lớn nhanh như nấm sau mưa, bà chủ gia đình bên hàng xóm thấy vậy đứng ngồi không yên, không hiểu vì sao cậu làm quên chết như thế. Một thanh niên trí thức trêu: Đúng là gần cứt thì thối, gần sói thì hăng."

0O0

Chiều tối, đàn cừu đông đúc trở về chuồng. Dương Khắc giọng khè đặc, ngật ngưỡng ngồi trên yên, mệt đến nỗi không giơ nổi roi ngựa. Đàn cừu trở về đem theo hàng triệu con muỗi, khu chuồng trại nóng lên như bị hoả hoạn, "khói vàng" dày đặc. Gần hai nghìn con cừu, gần bốn nghìn cái tai ra sức đuổi muỗi, thi nhau đập phành phạch. Đàn muỗi dày đặc chờ đợi trên không, bỗng nhào xuống như máy bay oanh tạc. Những con cừu trụi lông trong đợt cắt lông cuối cùng, sau một ngày bị nhục hình trên bãi chăn, giờ đây khắp người mẩn ngứa trông thật tội nghiệp. Đợt oanh tạc mới của bầy muỗi khiến lũ cừu phát điên. Cả đàn be inh ỏi, nhảy như choi choi. Vài con đầu đàn bất chấp cây roi của Dương Khắc, vùng chạy về phía tây bắc. Trần Trận vớ cây gậy vụt không thương tiếc mới đuổi được chúng quay trở lại. Nhưng toàn bộ đàn cừu đã quay đầu về hướng gió, nín hơi, sẵn sàng mượn gió bứt khỏi đàn muỗi.

Với tốc độ xung phong, Trần Trận nhanh nhẹn đốt sáu chậu lá ngải, bê ra chỗ đầu gió. Sáu làn khói đặc như sáu con bạch long bay về phía đàn cừu đông đúc. Thoáng cái, đàn muỗi độc gặp đàn thiên long độc hơn, bỏ chạy tán loạn. Khói ngải cứu mạng trùm lên cừu lớn cừu bé phủ phục dưới đất vì quá mỏi mệt. Một ngày cực hình quá đủ, đàn cừu im lặng trong khói trắng, mệt đến nỗi không còn sức nhai lại.

Dương Khắc nặng nề nhảy xuống, dắt vội con ngựa mình bám đầy muỗi đi vào đám khói ngải. Cậu lột bỏ mũ, cởi bộ quần áo dầy cộp, phấn khởi reo to: Mát quá! Mình suýt chết ngốt. Ngày mai đến lượt cậu chịu nhục hình.

Trần Trận nói; Mình chịu cả ngày hôm nay rồi. Ngày mai cậu nhớ chuẩn bị cho cừu sáu chậu khói và một chậu cho sói con.

Dương Khắc nói: Được rồi.

Trần Trận nói: Cậu chưa ngó sói con, thằng ranh con khôn ra phết, chui vào ngủ giữa luồng khói.

Dương Khắc ngờ vực, hỏi: Sói sợ khói sợ lửa lắm kia mà?

Trần Trận cười: Nhưng nó sợ muỗi hơn. Thấy lũ chó cướp chỗ có khói, nó hiểu ngay khói là tốt. Mình khoái quá, cười đau cả bụng, tiếc là cậu không được chứng kiến.

Dương Khắc chạy ngay đến chuồng sói. Sói con nằm nghiêng, thoải mái duỗi cả bốn chân, ngủ ngon lành. Nghe tiếng chân của chủ, nó động đậy mi mắt liếc một cái.

Trần Trận ngồi trông các chậu khói suốt đêm. Nửa giờ một, cậu lại thêm phân khô. Khói yếu đi, cậu lại thêm ngải. Gió đổi hướng, cậu chuyển dịch chậu khói cho đúng đầu gió. Có khi phải đuổi con bò đứng chắn khói của cừu. Da bò dày, nhưng mũi mi mắt tai thì mỏng, vẫn sợ muỗi đốt. Để đàn cừu không bị phá đám, Trần Trận đành phải đốt thêm một chậu ngải đặt chỗ đầu gió, sao cho bò cừu và sói con cùng hưởng. Trần Trận suốt đêm không chợp mắt. Ba con chó lớn luôn nhớ nhiệm vụ. Chúng chốt nơi đầu gió, lẩn trong khói ngải, chia nhau canh gác.

Bên ngoài luồng khói, bầy muỗi đói dày đặc tức điên rít vo vo nhưng không dám xông vào đám khói. Chiến đấu quá nửa đêm, Trần Trận nhìn kẻ thua trận mà vui như mở cờ trong bụng.

Đêm hôm ấy, các khu lều trại của đại đội đều triển khai cuộc chiến bằng khói. Hơn trăm chậu ngải đồng thời nhả khói. Hơn trăm làm khói tỏa ra ngày càng rộng như hàng trăm con bạch long khổng lồ vờn múa, lại giống như hàng trăm cột khói nhà máy thời hiện đại, khói trắng cuồn cuộn tỏa ra, thanh thế lừng lẫy, cảnh tượng đẹp mắt, không những cản được bầy muỗi đó, mà còn là một đòn choáng váng đối với bầy sói đói vì muỗi.

Trần Trận nhìn thảo nguyên mênh mông dưới ánh trăng, cảnh tượng trước mắt như một trận thủy chiến trên đại dương: Hàng trăm nghìn hàng không mẫu hạm, tuần dương hạm, khu trục hạm và các loại hạm tàu tổ chức thành một hạm đội khổng lồ, hình thành trận thế bao vây uy hiếp, khói đen cuồn cuộn, hàng nghìn nòng pháo cất cao, rẽ sóng tiến vào biển Nhật Bản. Đó là trận bao vây cấp hiện đại của sói biển phương Tây đối với sói biển lùn phương Đông. Lịch sử thế giới cho đến nay, vượt lên tuyến đầu phần lớn là các dân tộc vũ trang bằng tinh thần sói. Trong cuộc cạnh tranh tàn khốc trên thế giới, cừu muốn lặng nhưng sói chẳng dừng. Sói mạnh còn có sói mạnh hơn thôn tính. Dân tộc Hoa Hạ muốn tự cường trong thế giới cá lớn nuốt cá bé, phải thanh toán triệt để tính cừu, tính gia súc trong tính cách dân tộc nông canh, trở nên mạnh mẽ như sói, chí ít phải có tinh thần sói, tôtem sói...

Thảo nguyên rộng lớn có khả năng nhạt hóa khói đậm. Làn khói trắng của toàn đội bay lên trên thung lũng liền biến thành một biển mây. Biển mây trùm lên mặt hồ do đàn muỗi tác oai tác quái, san bằng quần sơn lạnh lẽo cùng vầng trăng. Cột khói biến mất, thảo nguyên trở lại yên tĩnh và vẻ đẹp nguyên thủy của nó.

Trần Trận bất giác ngâm câu thơ nổi tiếng của Lý Bạch: Minh nguyệt xuất thiên sơn, Thương mang vân hải gian, Trường phong kỷ vạn lý, Súy độ Ngọc Môn quan. Trần Trận thích Lý Bạch từ nhỏ. Nhà thơ sinh ra ở Tây Thành, chịu ảnh hưởng sâu sắc phong tục dân gian Đột Quyết, từng kích động dòng máu sói khao khát tự do trong người ông. Ngâm thơ Lý Bạch trong đêm trăng thảo nguyên, hoàn toàn khác với ngâm trong giảng đường Bắc Kinh. Trần Trận như lây cái hào phóng của Lý Bạch, nhớ lại một vấn đề cậu trăn trở lâu nay: Các nhà thơ Trung Quốc đều ngưỡng mộ Lý Bạch nhưng không chủ trương học tập Lý Bạch, nói Lý Bạch cao ngạo, không ai học được. Giờ đây cậu ngộ ra rằng, thơ của Lý Bạch khó học ở chỗ do Lý Bạch chịu ảnh hưởng sâu sắc tính cách sói mà người Đột Quyết sùng bái và tấm lòng rộng mở như thảo nguyên mênh mông. Thơ Lý Bạch hào khí ngất trời, mà đã đụng là đụng tới đỉnh cao của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Đã có Hán nho nào một câu bay vạn dặm, một chữ chín tầng trời, "đại bàng sải cánh bay cùng gió, thênh thênh lên thẳng chín vạn dặm", "Quân biết không, nước sông Hoàng tự trời cao đổ xuống, mải miết trôi đi không về nữa", "Ta vốn kẻ khùng nước Sở, phượng ca cười Khổng Khâu". Có nhà nho người Hán nào dám cười nhạo đức thánh Khổng? Có nhà nho người Hán nào dám nhận bát canh nhà vua đưa. Có nhà nho nào trước mặt nhà vua dám sai Dương Quý Phi bưng nghiên mực, sai Cao Lực Sĩ cởi giầy? Chao ôi, cao ngạo thay! Cái khó của Lý Bạch là khó lên trời xanh, ngẫm lại bốn vạn tám nghìn năm "thi tiên" chỉ mỗi mình ông.

Trần Trận thở dài: Tính cách sói thảo nguyên cộng với tinh túy của Hoa Hạ có thể vươn tới tầm cao chóng mặt.

0O0

Nửa đêm về sáng, Trần Trận trông thấy thấp thoáng mấy căn lều bạt không còn khói, tiếp đó nghe thấy tiếng hò hét của phụ nữ và thanh niên trí thức, tiếng lao xao ở chỗ đàn cừu. Hẳn là ngải đã hết hoặc chủ nhà tiếc của không muốn tốn thêm.

Đàn muỗi ngày một đông, ngày càng cáu kỉnh, tiếng vo vo trên không trung ngày càng lớn. Nửa non số lều bạt mất ổn định, người kêu chó cắn rộ lên từng chặp, ánh sáng đèn pin nhiều lên. Bỗng Trần Trận nghe thấy mạn cực bắc khu lều bạt tiếng chó sủa kịch liệt và tiếng người ồn ào vọng lại, không biết cừu nhà ai phá chuồng chạy ngược gió. Chỉ có nhà nào trữ đủ phân khô và lá ngải, người và chó gác đêm luôn cảnh giác thì mới yên tĩnh. Trần Trận ngó về phía lều bạt ông già Pilich: Không tiếng người, không tiếng chó sủa, không ánh đèn pin, thấp thoáng ánh lửa khi ẩn khi hiện, có lẽ Caxumai đang trông đống lửa. Cô ứng dụng phương pháp "cố định điểm lửa, cơ động điểm khói". Ba mặt đàn cừu đều đốt lửa, gió chiều nào đốt lửa chiều ấy. Đống lửa thông gió nhanh hơn trong chậu vỡ, hiệu quả cũng khá hơn, có điều hơi tốn phân khô, nhưng Caxumai vốn chăm chỉ, cô không tiếc sức vì an toàn của đàn cừu.

Đột nhiên, hai tiếng súng nổ vang từ khu lều bạt mạn cực bắc. Trần Trận không vui, vậy là đàn sói đã chớp được thời cơ sau khi khốn khổ vì muỗi. Cậu thở dài, không biết lần rủi ro này rơi vào nhà nào. Cậu nhủ thầm hãy còn may. Mê sói có cái hay của nó. Tìm hiểu càng sâu sói thảo nguyên, càng ít xảy ra sơ suất.

Lát sau, thảo nguyên trở lại yên tĩnh. Gần sáng có sương mù, muỗi bị ướt cánh không bay được. Khói lửa lụi dần, nhưng lũ chó lớn vẫn cảnh giác, bắt đầu đi tuần tra mạn tây bắc. Trần Trận đoán sắp đến giờ phụ nữ vắt sữa, chắc chắn đàn sói rút quân, cậu trùm áo lông kín đầu, yên tâm ngủ một giấc. Đây là thời gian duy nhất trong ngày ngủ một mạch, khoảng bốn tiếng.

0O0

Hôm sau Trần Trận chịu đựng một ngày khổ sai trên núi, buổi chiều khi về nhà, thấy nhà cậu như đang đón khách quý. Trên nóc lều phơi hai tấm da cừu lớn, sói con và tất cả lũ chó đang phấn khởi ăn thịt gặm xương. Bước vào trong lều, các thẻo thịt hong treo đầy chạn bát, trên tường. Nồi thịt luộc to tướng trên bếp sôi sùng sục.

Dương Khắc bảo Trần Trận: Đêm qua nhà Ơdon mạn cực bắc đàn cừu có chuyện. Nhà Ơdon cũng như nhà Đanchi là dân tọc Mông Đông Bắc, mới dọn đến vài năm nay. Nhà này vừa cưới cô dâu vùng bán canh bán mục, vẫn giữ thói quen ngủ một mạch tới sáng. Tối đốt vài đống lửa, canh chừng đến nửa đêm rồi ngủ say bên cạnh đàn cừu. Lửa tắt, đàn cừu phá chuồng chạy ngược gió, bị mấy con sói đói cắn chết một lúc 180 con cừu, bị thương gục xuống thì không nhiều. May mà chó nhà ấy khôn, đập cửa gọi chủ nhà dậy, đàn ông phóng ngựa đuổi theo nổ súng đuổi sói, muộn chút nữa là đàn sói đánh hơi mò đến, chắc chẳng còn mấy con.

Cao Kiện Trung nói: Hôm nay Bao Thuận Quý và ông Pilich bận suốt ngày, hai người huy động nhân lực của cả tổ lột da moi ruột 180 con cừu, một nửa chở bằng xe tải đến trụ sở mục trường bán giảm giá cho các bộ nhân viên, một nửa để lại đại đội, chia không cho mỗi nhà mấy con, chỉ lấy lại bộ da. Nhà mình đem về hai con cừu lớn, một chết một bị thương. Trời nóng này, một lúc nhiều thịt như thế ăn sao hết?

Trần Trận vui vẻ ra mặt, nói: Nuôi sói đâu có ngại nhiều thịt. Lại hỏi: Bao Thuận Quý có bắt phạt gia đình ngụ cư kia không?

Cao Kiện Trung nói: Bồi thường. Tháng nào cũng trừ nửa tháng công điểm của cả nhà cho đến đủ thì thôi. Caxumai và đám phụ nữ trong đội đều chửi tay chồng và mẹ chồng lưu manh, muỗi khủng khiếp như thế mà bắt cô dâu mới cưới gác đêm... Khi chúng mình mới lên thảo nguyên, Caxumai còn cùng một số thanh niên trí thức gác đêm hai tháng, sau đó mới để chúng mình độc lập tác chiến. Bao Thuận Quý mắng vợ chồng cậu kia một trận, nói họ làm xấu mặt dân Mông Đông Bắc. Nhưng ông ta lại ưu ái đám dân công đến tự quê ông ta, chia cho lão Vương một phần ba số cừu xử lý, họ mừng hú.

Trần Trận nói: Nhờ sói mà đám ấy vớ bở!

Cao Kiện Trung mở chai rượu trắng thảo nguyên, nói: Ăn thịt không mất tiền, uống cái này mới khoái. Nào, ba chúng mình hãy ăn thả giàn một bữa.

Dương Khắc cũng nổi hứng, nói: Mình cũng phải uống một trận cho đã. Nuôi một con sói, người ta cứ rình cười vào mũi chúng mình, kết quả thì sao? Chúng mình cười vào mũi họ. Họ không biết, sói có thể dạy người bắt trộm gà, lại còn lừa được một nắm gạo.

Ba người cả cười.

Trong làn khói, sói con chẳng khác sói hoang, no kềnh bụng vẫn nằm ôm lấy chậu thịt không nỡ bỏ lại chỗ ăn thừa. Nó không biết đây là thịt cứu tế sói bố mẹ tặng nó.

Chương 29

Trong dòng máu chúng ta, nhất là trong dòng máu quân chủ và quý tộc, đều tiềm ẩn tinh thần du mục, hẳn nhiên nó chiếm một phần quan trọng trong khí chất lớp người kế tục, chúng ta phải coi tinh thần gấp rút mở rộng đất đai là thuộc về khí chất này, nó hối thúc các quốc gia hễ có điều kiện là mở rộng cương vực và mở rộng quyền lợi của họ đến tận chân trời góc biển.

- (Anh Herbert). Well “Thế giới sử cương”

Batu và Trương Kế Nguyên liên tục thay bốn lượt ngựa chạy hai ngày một đêm thuận gió mới dồn được đàn ngựa lên tới bãi chăn trên mỏm núi tây bắc. Họ không còn lo đàn ngựa chạy ngược gió trở lại đường cũ. Hai người mệt đến nỗi đờ đẫn trên lưng ngựa, gần như không xuống nổi, phải hít mấy hơi dài rồi lăn từ yên xuống đất nằm sóng xoài trên bãi cỏ, mở ống tay áo cho gió lùa vào hong khô áo lót trong ướt đẫm mồ hôi.

Tây bắc là hướng gió núi thổi tới, đông nam là hồ nước nằm chính giữa thung lung. Đàn ngựa phân tán trên mỏm núi tròn vo, chúng sốt ruột, nửa muốn chạy ngược gió để đuổi muỗi, nửa muốn xuống hồ uống nước. Đàn ngựa mệt mỏi loay hoay đến ba vòng mà vẫn do dự chưa quyết, nghe tiếng hí vang của mấy con ngựa giống, mới từ bỏ ý định chạy ngược gió, chọn nước. Chúng đành chạy xuống hồ, hàng nghìn vó ngựa đánh động đàn muỗi bay lên bâu kín những con ngựa mình mẩy ướt đẫm, chọc vòi như kim máy dệt châm dày đặc. Đàn ngựa bị đau, nào cắn nào đá, tức tối mà không làm gì được, liêu xiêu như bị bệnh tâm thần.

Batu và Trương Kế Nguyên thấy đàn ngựa đã xuống núi, liền lăn ra ngủ, không kịp cài khuy tay áo. Đàn muỗi bu tới đốt vào cổ, nhưng mặc cho những chiếc vòi to như mũi dùi, đốt mấy cũng không tỉnh. Hai người từ hôm muỗi về, liên tục bảy ngày đêm không hôm nào được ngủ liền một mạch ba tiếng. Nạn muỗi biến đàn ngựa thành ngựa hoang, ngựa ốm, ngựa điên, không nghe quát, không sợ roi, không sợ thòng lọng xiết cổ, thậm chí sói cũng không sợ. Lúc không có gió, chúng chạy hoắng lên đón gió; khi có gió, chúng chạy ngược chiều để rũ muỗi trên người. Mấy hôm trước, đàn ngựa suýt vượt biên, nếu không có chuyện gió đột nhiên đổi chiều thì bây giờ chắc hai người đang ở đồn biên phòng yêu cầu quốc tế phối hợp giải quyết. Có đêm hai người tốn bao công sức vừa dồn được đàn ngựa về bãi thì đàn muỗi tấn công, đàn ngựa hoảng loạn, phá vây theo nhóm dòng họ chạy biến. Hai người lại mất một ngày một đêm mới gom được mười mấy dòng họ lớn lại, nhưng đếm thấy thiếu một tộc hơn hai mươi con. Batu để lại Trương Kế Nguyên một mình trông đàn ngựa, còn anh thay một con ngựa khoẻ tìm đúng một ngày mới thấy chúng trên bãi cát cách 80 dặm, toàn bộ số ngựa choai trong đàn đã không còn một con. Đàn sói bị điên vì muỗi đốt, chúng ra sức giết ngựa để bổ sung số máu bị mất, Batu tìm móng và bờm ngựa nhưng không thấy, sói đã chén sạch.

Đàn ngựa muỗi bu đầy như cát bám trên người lao nhanh xuống hồ. Gần như bị muỗi hút kiệt máu, không còn mồ hôi để chảy, những con ngựa tranh nhau lội ào xuống nước. Chúng không vội uống, mà trước hết mượn nước đuổi muỗi, nước lút cẳng chân, cẳng chân không còn đau, nước lút bắp đùi, những con trùng hút máu trên bắp đùi cuốn xéo; nước lút bụng, những con muỗi không kịp rút vòi liền chết sặc, biến thành cung quăng. Đàn ngựa tiếp tục vùng vẫy, nước lút lưng, vừa mát vừa diệt muỗi, đàn ngựa phấn khởi hí vang, càng sục dữ trong nước, muỗi ác nổi trên mặt nước như trấu.

Đàn ngựa hả giận, bắt đầu uống ừng ực cho đến khi không uống được nưa, sau đó duy trì lớp nước bùn trên người, trở lại chỗ nước vừa chấm bụng ngủ gật. Không một tiếng động, chúng ngại cả hắt xì hơi. Cả đàn ngựa im lặng cúi đầu mặc niệm những thành viên trong gia tộc bị muỗi sói liên kết sát hại. Mã quan trên núi và đàn ngựa dưới hồ đều ngủ say như chết.

Không rõ thời gian bao lâu, ngựa cũng như người sực tỉnh vì đói, cả hai mấy ngày nay chưa ăn miếng gì vào bụng. Batu và Trương Kế Nguyên chạy tới một lều bạt gần nhất uống no nước trà và sữa chua, ăn no thịt luộc, rồi tiếp tục ngủ như chết. Đàn ngựa đói quá lên bờ gặm cỏ, bùn đất trên mình ngựa khô rất nhanh dưới nắng gay gắt, đàn muỗi thừa cơ nhè kẽ nứt mà đốt. Cỏ bên hồ đã bị bò cừu gặm cụt, để khỏi chết đói, đàn ngựa phải trở lại bãi cỏ tươi tốt trên núi, vừa ăn cỏ vừa đương đầu với đàn muỗi.

o0o

Toàn thể cán bộ của đội họp tại nhà ông Pilich. Ông già nói: Mây không dày không mỏng, trời này chưa mưa được, đêm lại càng nóng, mấy ngày nay muỗi ăn thịt đàn ngựa. Các đàn gia súc thiếu người, đàn cừu vừa có chuyện, quả thực không còn người thay thế cho mã quan về nghỉ. Bao Thuận Quý và ông Pilich quyết định rút cán bộ mục trường đi chăn cừu, rút dương quan và cán bộ bán thoát li lên núi thay thế các mã quan nhỏ tuổi và thanh niên trí thức, nhất định cầm cự bằng được giai đoạn trầm trọng nhất của nạn muỗi nạn sói hiện nay.

Trương Kế Nguyên gần như suy nhược vì mệt mỏi, nhưng cậu ta bướng như con bò mộng, nói mấy cũng không lui về tuyến sau. Cậu hiểu, chỉ cần trụ nổi đại hoạ này, ,từ nay cậu có thể trở thành mã quan đích thực, đảm đương một mặt của công việc. Trần Trận và Dương Khắc động viên cậu, cả hai đều muốn có một mã quan ưu tú trong đội ngũ thanh niên trí thức.

Quá trưa thời tiết càng ngột ngạt, mưa to thì không, mưa nhỏ cũng chẳng hi vọng gì. Thảo nguyên mong mưa nhưng lại sợ mưa. Mưa to muỗi không bay được, nhưng sau cơn mưa, muỗi nhiều thêm. Muỗi hút máu sói ngày càng nhiều, con cháu của những con muỗi này mang tính sói, thích quậy phá. Thảo nguyên Ơlôn biến thành địa ngục trần gian, Trương Kế Nguyên cũng quyết tâm xuống địa ngục, cùng các mã quan tiến vào trảng cỏ.

Ông già Pilich cùng Batu và Trương Kế Nguyên dẫn đàn ngựa lên dải cát vàng phía tây, cách chỗ cũ sáu bảy mươi dặm, nơi đó cỏ thưa nước hiếm, muỗi tương đối ít. Đàn ngựa trên khu vực đêm cách đường biên gần trăm dặm, ba đàn ngựa khác của đại đội cũng điều động theo cách của ông Pilich, từ nơi ở chia nhau di chuyển thật nhanh tới các bãi cát phía tây nam.

Ông già bảo Trương Kế Nguyên: Bãi cát tây nam vốn là đồng cỏ rất tốt của Ơlôn, khi ấy có một con sông nhỏ, có một bãi lầy, cỏ chăn nuôi rậm rạp, nhiều dinh dưỡng, súc vật rất thích ăn, gia súc không cần nhồi nhét mới béo. Ông già ngửa mặt than: Lâu la gì đâu mà đã ra thế này! Con sông mà bây giờ cái rãnh cũng không để lại, tất cả bị cát vùi lấp.

Trương Kế Nguyên hỏi: Vì sao đến nỗi như thế?

Ông già trỏ đàn ngựa, nói: Đó là do đàn ngựa huỷ hoại, đúng hơn là do người từ nội địa lên huỷ hoại… Hồi đó mới giải phóng, cả nước chưa có nhiều ô tô, nên quân đội cần ngựa, nội địa trồng trọt vận chuyển cần ngựa, đông bắc đốn gỗ vận chuyển gỗ cần ngựa, cả nước cần ngựa, vậy ngựa lấy ở đâu? Đương nhiên là từ thảo nguyên Mông Cổ. Để có ngựa tốt, mục trường Ơlôn theo lệnh trên, lấy tất cả những đồng cỏ tốt nhất nuôi ngựa. Người nội địa lên tuyển ngựa, thí nghiệm ngựa, mua ngựa, cũng tại mục trường này. Người qua ngựa lại, đồng cỏ biến thành trường đua ngựa. Mấy trăm năm trước có vương gia nào dám phí phạm cho ngựa ăn cỏ ở những đồng cỏ như thế này. Mấy năm sau đàn ngựa quả có đông hơn, nhưng đồng cỏ đã biến thành sa mạc. Giờ đây nó có cái tốt là ít muỗi, khi xảy ra nạn muỗi, đưa ngựa lên đây để tránh. Nhưng Ulichi đã có lệnh, chừng nào chết đến nơi mới được phép sử dụng bãi cát- cỏ này. Ông ta muốn thấy phải bao nhiêu năm mới hồi phục đồng cỏ ngày xưa. Năm nay hạn lớn, đàn ngựa sống không nổi nữa, lão U miễn cưỡng đồng ý cho đàn ngựa vào ăn.

Trương Kế Nguyên nói: Bố ơi, giờ ô tô máy kéo ngày càng nhiều, quân đội cũng không cần kỵ binh, sau này không cần nhiều ngựa đến thế, vậy đồng cỏ có hồi lại được không?

Ông già lắc đầu, nói: Người và máy kéo nhiều lên lại càng hỏng, chuẩn bị chiến tranh ngày càng khẩn trương, sắp tổ chức binh đoàn sản xuất thảo nguyên, rất đông người và máy kéo nay mai sẽ về Ơlôn.

Trương Kế Nguyên đâm hoảng, hào hứng xẹp quá nửa. Cậu không nghĩ cái tin binh đoàn xây dựng lại nhanh đến thế.

Ông già lại nói: Trước đây sợ nông dân, cái cuốc và lửa đồng. Giờ sợ nhất là máy ủi. Mấy hôm trước lão U bảo các mục dân liên danh viết thư cho Khu Tự trị, đề nghị không nên biến mục trường thành nông trường, chẳng biết có ăn thua gì không? Bao Thuận Quý những ngày này rất vui, ông ta bảo dải đất mênh mông thế mà để cho cỏ mọc chứ không trồng hoa màu thì quả thật lãng phí, sớm muộn phải đưa vào tích trữ lương thực rộng rộng khắp gì ấy…

Trương Kế Nguyên nhủ thầm, đến là khổ, thời đại máy ủi sẽ kết thúc mâu thuẫn sâu sắc giữa dân tộc sống nhờ cỏ và dân tộc dựa vào diệt cỏ để sống cuối cùng sẽ kết thúc, gió đông nam nông canh cuối cùng sẽ áp đảo gió tây bắc du mục (nhại câu “gió đông thổi bạt gió tây”), nhưng cuối cùng thì bão táp cát vàng tây bắc tất phủ kín đông nam.

Bốn đàn ngựa tiến vào vùng cát Bâyincobi phương viên mấy chục dặm là cát ướt, đây đó mọc thưa thớt những cây lau, sậy cạn, tật lê, cây lông chông, rau sam, gai lạc đà, lô nhô rối rắm, cỏ dại lợi dụng mùa mưa cao vổng lên, lớn như thổi. Nơi đây hoàn toàn không còn gì là thảo nguyên, mà như một công trường dưới xuôi bỏ hoang đã lâu ngày. Ông Pilich nói: Thảo nguyên chỉ sống có một lần, cỏ ngon rễ chằng chịt ngăn cỏ dại, rễ chết, thảo nguyên trở thành địa bàn của cỏ dại và cát sỏi.

Đàn ngựa đi sâu vào trảng cát. Ngựa không ăn cỏ đêm không béo. Nơi đây không có mấy cỏ cho ngựa ăn, nhưng muỗi ít lạ lung, có thể cho ngựa nghỉ ngơi, ít mất máu do muỗi.

Bao Thuận Quý và Ulichi phóng ngựa tới. Ông Pilich nói với hai người: Chỉ còn mỗi cách này. Đêm để ngựa đói, đợi trời sáng khi sương giăng cho đàn ngựa ăn ở trảng cỏ, muỗi đến là ta dồn ngựa về nha à. Như vậy tuy ngựa không béo lên, nhưng đảm bảo không chết.

Bao Thuận Quý thở dài như cất được gánh nặng, nói: Phải nói là các vị có nhiều mưu mẹo. Thế là đàn ngựa sống rồi. Hai hôm rồi mình phát ốm vì sợ.

Ulichi vẫn nhíu mày, nói: Tôi chỉ sợ đàn sói đã đợi đàn ngựa ở đấy rồi. Người đã nghĩ tới chuyện ấy, sao sói không nghĩ tới?

Bao Thuận Quý nói: Tôi đã phát thêm đạn cho mã quan. Tôi đang buồn vì không gặp sói đây.

Trương Kế Nguyên đi theo ba ông già lên đỉnh dốc, quan sát tứ phía. Ông già Pilich tỏ vẻ e ngại, nói: Năm nay mưa nhiều, những cây cỏ lau chịu hạn này cao đủ cho sói nấp, rất khó đề phòng.

Bao Thuận Quý nói: nhất định phải bắt mã quan hò la nhiều, cử động nhiều, soi đèn pin nhiều.

Ông Pilich nói: Chỉ cần ổn định đàn ngựa không cho chạy lung tung là ngựa giống có thể đối phó được sói.

Hai cỗ xe ngựa nhẹ nhàng lướt tới. Tại trạm gác, các mã quan dựng hai túp lều, chôn nồi, đun trà, nấu mì thịt.

Trong đêm, trạm gác trên vùng cát mát mẻ, đàn muỗi do đàn ngựa đem đến đã bị các mã quan đập chết quá nửa. Không có muỗi bổ sung, đàn ngựa mỏi mệt được yên ổn. Trong bóng đêm, ngựa Mông Cổ giống như ngựa chiến trong thời chiến, hai tai chuyển động cảnh giác, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đàn ngựa như bộ đội dã chiến quân tinh nhuệ, gặp nạn liền tự động giảm bớt khẩu phần lương thực, không khảnh ăn, không ngán ăn, rau đắng mấy cũng ăn tuốt, ra sức nhét vào bụng rau cỏ nuôi sống người. Trương Kế Nguyên khi đi tuần đã phát hiện ra, một số ngựa giống hung hãn nhất và các mã quan bụng đã no căng.

Đêm đầu tiên muỗi ít sói không, người ngựa được nghỉ ngơi. Lúc sương xuống, muỗi ướt cánh không bay được, đúng giờ mã quan dồn ngựa đến trảng cỏ. Đàn ngựa thích ăn cỏ giàu dinh dưỡng như điên. Sáng ra mặt trời lên, muỗi hoạt động, đàn ngựa lui về trạm gác. Đêm hôm sau cũng thế. Đêm thứ ba, Bao Thuận Quý cho xe ngựa chở đến hai con cừu lớn. Buổi chiều, các mã quan đã được ngủ bù, vây quanh nồi thịt cừu nhắm rượu, mọi người ăn uống ca hát, hò la ầm ĩ, vừa thưởng thức rượu thịt, vừa hù doạ đàn sói. Hơn năm nay Trương Kế Nguyên tửu lượng tăng lên, rượu ngà ngà hát bài “tửu ca”, cậu nhận ra giọng mình cũng du dương như tiếng tru của sói.

Sáng sớm hôm thứ tư, ngựa lưu tính của mục trường đến thông báo hai cán bộ của binh đoàn sản xuất đã đến bãi chăn mới, cần gặp Ulichi và ông Pilich tìm hiểu tình hình. Hai người đành rời đôi, trước khi lên đường, ông Pilich dặn đi dặn lại các mã quan không được sơ suất.

Hai nhân vật đáng nể của thảo nguyên vừa dời đội, các mã quan liền nhớ đến người yêu của họ. Buổi tối, hai mã quan trẻ phóng ngựa đi gặp các cô nương gác đêm ngoài trời cùng họ “gác đêm”. Từ “gác đêm” ở Ơlôn có hai nội dung, nhất thiết không được vừa cười vừa nói “gác đêm” với các cô gái, nếu không chưa chừng cậu sẽ phải đợi suốt đêm.

Đàn ngựa đông đúc đã gặm trơ cả rễ tất cả các loại cỏ cứng cỏ đắng. Nhưng ngựa giống giám sát thành viên trong bộ tộc như cai ngục gác tù, kẻ nào đi về phía đồng cỏ vài bước, lập tức bị ngựa giống gọi trở lại, cả đàn bị phạt đứng trong lúc đói, còn ngựa giống vẫn đi tuần trong lúc bụng rỗng không.

Những con sói nấp sau đám cỏ dại xa xa cũng đã đói vàng mắt, nhất là khi ngửi thấy mùi thịt từ trong nồi bay ra, đàn sói càng chịu không nổi. Nhưng đàn sói đến vùng ít muỗi này cũng đã được di dưỡng đầy đủ về tinh thần, đang lặng lẽ đợi thời. Batu đoán có đến nửa số sói thảo nguyên Ơlôn đã mai phục xung quanh đàn ngựa, có điều chưa dám liều lĩnh ra tay. Đám mã quan đông đảo súng ống trang bị tận răng, ngựa giống hung hăng bảo về vòng ngoài. Vài con ngựa giống sức lực có thừa không biết dùng làm gì, liên tục giậm chân quát tháo đàn sói phía xa, chỉ tiếc nỗi không ngoạm lưng sói mà quăng lên trời, đợi rơi xuống liền dùng chân giẫm đạp cho hả giận. Nhưng nhược điểm lớn nhất của đàn ngựa chăn thả dã ngoại là không có chó đi theo. Xưa nay người thảo nguyên chưa hề huấn luyện những con chó giữ nhà trung thành luyến chủ thành vệ binh của đàn ngựa.

Sau bữa cơm chiều, Batu dẫn theo Trương Kế Nguyên đi dò tung tích đàn sói tại một nơi khá xa có loại cỏ thân cứng. Họ đi theo một tuyến rộng hơn, vẫn không phát hiện dấu vết mới của sói. Batu không yên tâm. Mấy hôm trước trinh sát tầm xa, anh thấy có mấy bóng sói lảng vảng, vậy mà khi người ngựa đã lơ là đôi chút lại không thấy bóng con nào. Anh biết, trước khi phát động tổng công kích, sói thường chủ động lùi xa mục tiêu để người và gia súc mất cảnh giác.

Trương Kế Nguyên cũng cảm thấy một thứ căng thẳng không thể cắt nghĩa trước sự im ắng này. Cả hai cùng nghĩ tới thời tiết, bèn ngẩng đầu nhìn trời: Góc tây bắc không còn sao, mây đen dày đặc đang ùn ùn kéo về trảng cát. Hai người vội quay ngựa chạy về lều bạt, Batu phát hiện ba nhóm mã quan mỗi nhóm thiếu một người, hỏi mã quan lớn tuổi, người thì bảo họ về mục trường lĩnh pin đèn, người lại bảo họ đi khám bệnh. Batu tức điên, quát: Tôi biết họ đi đâu rồi, đêm nay mà có chuyện, mấy cậu trốn việc đó dứt khoát sẽ giao cho mục trường nghiêm trị. Rồi trỏ các mã quan và bảo: Đêm nay không ai được ngủ, thay con ngựa tốt nhất trực suốt đêm, nhất định phải quây chặt đàn ngựa không cho đến trảng cỏ, dứt khoát đêm nay sói về!

Các mã quan vội thay pin mới, lắp đầy đạn, mặc áo mưa, phóng vội đến đàn ngựa chuẩn bị ứng chiến.

Gần nửa đêm, tiếng quát từ phía trảng cát vang lên, ánh đèn pin lấp loáng nhiều lên. Những mã quan dũng mãnh cùng những con ngựa giống quay chặt đàn ngựa, đám ngựa lớn hình như đánh hơi thấy mùi sói, len ra đứng vòng ngoài dùng xương thịt tạo nên mấy lớp tường vây, dành mảnh đất an toàn bên trong cho ngựa cái, ngựa con và ngựa choai. Ngựa choai bám ngựa mẹ không rời nửa bước. Trương Kế Nguyên hình như nghe thấy tiếng đập của hàng nghìn trái tim ngựa, hồi hộp không kém cậu lúc này.

Sang nửa đêm về sang, sau cơn cuồng phong, tiếng sấm dữ dội nổ tung bầu trời, phía dưới, đàn ngựa nhốn nháo như nổ kho thuốc súng. Trong khoảnh khắc đất trời rung chuyển, đàn ngựa sợ hãi hí vang, gần hai nghìn con ngựa bên trong náo loạn chỉ chực bỏ chạy. Tất cả những con ngựa giống đều đứng trên hai chân sau, mặt ngoảnh vào trong, dùng hai vó trước nện những con yếu bóng vía chực phá rào bỏ chạy. Các mã quan hò hét, vụt lia lịa giúp ngựa giống tử thủ phòng tuyến cuối cùng. Nhưng trên cao sấm rền vang, những tia chớp ngoằn ngoèo như dây thần kinh phóng thẳng xuống đất, ngựa như đập nước tròn khi động đất, vỡ tứ phía, loáng cái đã phá vỡ phòng tuyến ngựa giống và các mã quan, chạy như điên.

Tiếng sét át hết tiếng kêu ngựa hí và tiếng súng, ánh chớp xoá đi ánh đèn pin, trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, thấy rõ những con sói xám từ bốn phương tám hướng xông vào đàn ngựa. Các mã quan mặt tái nhợt. Trương Kế Nguyên hét to: Sói! Sói! lạc cả giọng. Cậu chưa bao giờ trông thấy một tập đoàn sói công kích dữ dội dưới sự trợ oai của sấm sét trên trời giáng xuống. Đàn sói như đạo thần binh thực hiện ý chỉ của trời, ra quân có mục đích thay trời hành đạo, trả thù cho thảo nguyên, tấn công dữ dội người ngựa, giết tên đầu sỏ phá hoại đồng cỏ: Ngựa Mông Cổ.

Đàn ngựa vừa sợ vỡ mật vì tiếng sấm, lại bị đàn sói hung dữ tấn công, tinh thần đồng đội nhanh chóng tan rã chỉ còn lại bản năng chạy trốn. Vỡ trận như núi lở, vỡ đàn còn hơn cả vỡ trận. Được sấm sét và bóng tối yểm hộ, đàn sói lao như tên vào giữa đàn ngựa. Đàn ngựa tan tác, sói dễ dàng tiêu diệt từng con.

Mục tiêu công kích số một của sói là ngựa choai. Chưa từng nghe thấy tiếng sét nổ, những con ngựa choai sợ đến tê liệt. Lũ sói cứ mỗi con một miếng, mỗi miếng một con, mau chóng cắn chết mười mấy con ngựa choai. Chỉ những con ngựa choai can đảm bám sát ngựa mẹ, hoặc nếu lạc mẹ, bám ngựa bố hung dữ mới thoát cuộc tàn sát.

Trương Kế Nguyên vội vã đi tìm “Nàng Bạch Tuyết” thân yêu của cậu. Cậu sợ trong đêm càng nổi bật càng nguy hiểm. Lại một ánh chớp, cậu trông thấy bốn con ngựa giống to lớn đang truy sát ba con sói bên cạnh con ngựa bạch, nào đập nào cắn, cực kỳ hung hãn. Ngựa bạch bám sát ngựa giống, thậm chí còn dám đá hậu mấy phát. Ngựa giống ra sức gọi ngựa cái. Trong đàn, trừ ngựa giống, chỉ ngựa cái là trầm tĩnh nhất, dũng cảm nhất trong việc bảo vệ ngựa con. Nghe tiếng gọi của chồng, ngựa cái vừa cắn vừa đá chạy về phía ngựa chồng. Ngựa giống hung hãn, ngựa cái dũng cảm đã nhanh chóng giữ vững trận thế trong lần hợp vây giữa sấm sét và sói, hơn nữa còn tập hợp được dòng tộc của mình.

Tuy vậy, quá nửa đàn ngựa tan vỡ. Từng con sói như những quả ngư lôi dấy lên những đợt sóng trên hồ. Đàn sói hiếu sát giờ đây không coi các mã quan là cái đinh. Đèn pin không bằng ánh chớp; thòng lọng ném trong đêm rất khó trúng; mã quan gào thét đến rách họng cũng bị tiếng sấm át đi, mất toàn bộ bản lĩnh giữ nhà. Sau nửa tiếng đồng hồ, ngay cả người liên lạc với nhau còn khó. Batu sốt ruột phát đi tín hiệu với các mã quan, hét to: Đừng để ý hướng đông nam, tập trung toàn bộ đuổi theo đàn ngựa phía tây bắc! Đề phòng ngựa vượt biên! Mọi người chợt tỉnh, rẽ sang hướng tây bắc đuổi theo đàn ngựa.

Sau chớp giật, những hạt mưa to tướng rơi lộp bộp, lúc này đàn ngựa đã chạy đến trảng cỏ, mưa nặng hạt khiến đàn muỗi không thể tham gia bữa tiệc máu. Tiếng sấm xa dần, ánh chớp khi ẩn khi hiện phía chân trời. Trận gió ào qua, Batu lại thấy sao trên trời. Batu hét to với đám mã quan: Chặn ngay đàn ngựa lại! Nhanh lên! Muỗi sắp xông ra bây giờ! Mã quan vội quất ngựa lao lên.

Vào trận đã thắng khiến đàn sói nổi máu tham. Đàn sói một khi chộp đúng thời cơ, chúng khai thác bằng hết, mở rộng chiến quả lên cực đại. Đàn sói không chỉ sát hại những con ngựa chạy chậm hoặc lạc mẹ, mà còn sát hai cả những con ngựa hai ba tuổi. Đàn sói lúc đầu tác chiến cá nhân, sau liên kết bộ ba, cắn đứt động mạch cảnh, máu chảy như xối hạ gục từng con khiến đàn ngựa hoảng sợ chạy tan tác.

Giữa lúc nguy cấp, bỗng có ba con ngựa chạy tới từ hướng đại đội, ánh đèn loé lên, ba cậu mã quan đi ăn mảnh nửa đường thấy thời tiết thay đổi liền vội vã quay lại chặn được đàn ngựa không người khống chế. Đàn ngựa thấy có người và ánh đèn pin, chạy chậm lại. Batu và các mã quan chạy tới kẹp chặt hai bên, cuối cùng bắt đàn ngựa quay về.

Tiếng sấm rất xa, chớp không còn nữa. Tiếng quát và ánh đèn của mã quan bắt đầu phát huy tác dụng dẫn dắt, kêu gọi đàn ngựa phân tán trở về. Các ngựa giống vươn dài cổ gọi gia tộc. Đàn ngựa chạy như bay về hướng nam, dọc đường, những binh si thất trận nghe tiếng người và ánh đèn pin lục tục nhập đàn. Ba bốn chục con ngựa giống cao to lừng lững tự động đứng xếp hàng trước đòn tấn công đàn sói hung thần ác quỷ, mặt ngựa đầu trâu. Đàn sói lập tức rút lui về phía đông nam như một cơn gió. Những con ngựa yếu, bị thương từ các phía chạy về đàn như gặp được cứu tinh, có nhiều con ngựa giống dẫn bầu đoàn sứt mẻ trở về. Trong đàn vang lên tiếng hí gọi con trai con gái, nhận cha nhận mẹ. Đàn ngựa tổ chức lại đội hình theo từng gia tộc trong khi hành tiến.

Đàn sói rất có trật tự khi tạm thời rút lui. Chúng không vội ăn thịt những con mồi đã bị thương hoặc chết, mà tranh thủ lúc mã quan và ngựa giống chỉnh đốn đội ngũ, chia nhau truy sát tàn quân phía đông nam. Batu và vài mã quan đến trước đàn ngựa đếm ngựa giống, thấy thiều một phần ba chưa dắt đàn về. Batu vội phóng ra phía sau đàn ngựa lệnh cho bốn mã quan chia hai tổ nhằm hướng đông nam mở rộng phạm vi thu dung, những mã quan còn lại cấp tốc dồn đàn ngựa cho chạy thật nhanh, Batu phân công Trương Kế Nguyên nhằm hướng đông nam đuổi theo đàn sói.

Đàn sói từ phái tây bắc xuống, với tốc độ cao đuổi kịp đàn sói phía đông nam đang say sưa tàn sát. Một số tộc ngựa choai bị giết không còn một con. Sau khi hội sư, đàn sói bắt đầu giết ngựa già yếu bệnh tật. Người la ngựa hí phía tây bắc ngày càng gần, vậy mà đàn sói vẫn rất bình tĩnh xé thịt ăn. Trương Kế Nguyên thấy một mình không đuổi được đàn sói, đành quay về giúp đội ngũ dồn cừu. Thời tiết thảo nguyên và sói thảo nguyên hình như đang đợi thời cơ càng có lợi cho chúng.

Giữa lúc các mã quan dồn đàn ngựa còn cách trạm gác chừng ba dặm, đàn muỗi trong đám cỏ ướt bay lên như làn khói đen của bộc phá, vây chặt đàn ngựa. Đàn muỗi độc nhất năm nay, hàng triệu cái vòi cắm vào mình ngựa. Đàn ngựa chưa kịp hoàn hồn sau khi bị sấm chớp và sói công kích, giờ náo loạn lên vì muỗi đốt.

Lúc này hình phạt tàn khốc nặng nề nhất rơi lên đầu ngựa giống- thần hộ về của đàn ngựa. Ngựa giống xác to lông mỏng, da thịt nhăn nheo, cái đuôi bết máu tròn như gậy, giá trị sử dụng bằng con số không. Muỗi độc tập trung công kích ngựa giống, hơn nữa chuyên đốt mi mắt, bụng dưới, dương vật và bìu dái, những chỗ chí mạng. Ngựa giống bị đốt đến phát điên, mất cả lý trí và lòng trọng. Đúng lúc ấy gió nhẹ không thổi dạt được muỗi, đàn ngựa nảy ý chạy ngược gió để đuổi muỗi. Bị muỗi đốt không mở được mắt, những con ngựa giống chồm lên, bỏ mặc vợ con, chạy như điên.

Phần lớn mã quan từ trảng cát đến không đội mũ chống muỗi. Đầu mặt cổ và tay muỗi bu đầy; mi sưng vù, mắt nheo lại như một sợi chỉ, mặt “béo” ra như đang sốt cao, môi sưng vều, rất đau khi chạm phải; ngón tay to ra, đến nỗi không cầm chắc cán thòng lọng. Ngựa đang cưỡi không nghe lời chủ, chốc chốc lại đá hậu, chốc chốc dừng lại không đi, cúi đầu cọ gối gãi ngứa, lúc chạy ngược gió như điên; lúc không cần biết trên lưng có người cưới, định lăn lộn dưới đất gãi ngứa giảm đau.

Người ngựa hầu như mất sức chiến đấu, hoàn toàn tê liệt trước chiến thuật của đàn muỗi. Đàn ngựa chạy bạt mạng cũng không tác dụng, những con tản mát từ các hướng khác lại chuyển hướng, chạy như điên về phía tây bắc.

Đàn muỗi đốt như điên, đàn ngựa chạy như điên, đàn sói giết như điên. Sấm sét, gió, muỗi, sói, các vấn nạn chụp lên đầu đàn ngựa thảo nguyên Ơlôn. Trương Kế Nguyên một lần nữa cảm nhận nỗi khổ của dân tộc thảo nguyên, có lẽ không một dân tộc nông canh nào sống trong hoàn cảnh khốc liệt đến như thế. Cậu bị muỗi đốt phát điên phát cuồng, rất muốn lộn trở lại trạm gác nơi trảng cát. Vậy mà các mã quan người nào cũng dũng mãnh như kỵ binh của Thành Cát Tư Hãn, không một ai bỏ chạy, xung phong hãm trận dưới làn tên dày đặc. Xung phong! Xung phong! Nhưng đêm tối mà xung phong là điều cấm kỵ, nó như người mù cỡi ngựa thong manh, một khi ngựa vấp hang chuột sẽ bị thương, thậm chí ngã chết hoặc bị ngựa đè chết. Batu mặt đen nhẻm, vụt cho những con ngựa khác chạy, còn con ngựa đang cưỡi thì vụt vào đầu cho nó quên đau do muỗi chích. Trương Kế Nguyên bị lôi cuốn trước cuộc quyết đấu sinh tử của các vũ sĩ thảo nguyên, cũng mạnh dạn xông lên.

Batu vừa đuổi theo vừa hét: ép đàn ngựa sang hướng tây! Ở đó có trảng cát. Ép đi! Ép đi! Dứt khoát không cho ngựa chạy lên đường biên phòng! Các mã quan hưởng ứng, hét to: A!...A!...A!... đầy khí phách. Trương Kế Nguyên nghe thấy tiếng kêu thảm thiết, một mã quan ngựa vấp hang chuột ngã bay lên phía trước, không ai xuống ngựa trợ giúp, các mã quan tiếp tục xông lên, tốc độ không giảm.

Thế nhưng, ngựa chở người không thể chạy nhanh bằng ngựa không chở gì. Các mã quan không ép được đàn ngựa chạy sang hướng tây. Không còn hi vọng gì nữa, nhưng Batu và các mã quan vẫn đuổi vẫn hò hét.

Đột nhiên từ một nơi rất xa phía sau dốc núi, vài ánh đèn pin loé lên. Batu reo to: Đội cho người đón chúng ta rồi. Các mã quan reo ầm lên, dùng đèn pin trỏ vị trí đàn ngựa. Đoàn người ngựa từ sau núi dàn hàng ngang tiến lên hò hét ầm ĩ, ánh đèn quét ngang quét dọc, như chiếc cửa đập chặn đứng đường đi của đàn ngựa. Đàn ngựa một lần nữa lại bị khoanh và không thể rút lui, mọi người có ý dồn chặt chúng, thân kề thân, bụng kề bụng, muỗi bị chẹt chết từng mảng.

Như một tù trưởng bộ lạc, ông dẫn đội quân tiếp viện đến đúng lúc, đúng chỗ, vào giờ phút quan trọng nhất, địa điểm quan trọng nhất, còn đội quân thì tinh nhuệ như đàn sói dưới sự chỉ huy như đàn sói dưới sự chỉ huy của sói chúa, đột nhập đàn sói. Đàn sói thấy xuất hiện tiếng la và ánh đèn pin thì sợ quá, hơn nữa hình như chúng nhận ra tiếng ông già Pilich. Và thế là sói chúa dừng lại dẫn đàn sói trở lui. Lần này mục tiêu rõ rang: Chúng tranh thủ đến bãi Một, nơi tàn sát đàn ngựa đợt một, ăn thật no, rồi nhanh chóng chạy lên núi.

Ông Pilich, Bao Thuận Quý và Ulichi dẫn mười mấy dương quan ngưu quan và thanh niên trí thức cùng các mã quan tập hợp đàn ngựa, nhanh chóng đưa về trảng cát nhập đàn, và cử hai mục dân chăm nom cậu mã quan bị thương. Trần Trận chạy đến bên Trương Kế Nguyên hỏi thăm sự việc xảy ra, và nói cho cậu ta biết ông già Pilich và Ulichi đã tiên liệu việc này, cho nên trước trở trời, ông già đã tổ chức đội viện binh, Trương Kế Nguyên thở hắt ra, nói: Nguy hiểm quá, nếu không đàn ngựa đi đứt.

Về đến trạm gác trảng cát thì trời đã sáng, những con ngựa thất tán đã tìm thấy, nhưng đàn ngựa tổn thất nặng nề. Đếm kỹ, ngừa già yếu bệnh tật bị cắn chết bốn năm con, chớm hai tuổi tử vong mười hai mười ba con, ngựa choai bị cắn chết nhiều nhất, khoảng năm sáu mươi con, tổn thất tổng cộng bảy chục con ngựa. Lần gieo hoạ này, sấm chớp gió muỗi đều là sát thủ, nhưng kề dao vào cổ vẫn là sói.

Bao Thuận Quý cưỡi ngựa tuần tra trảng cỏ ngổn ngang xác ngựa, tức quá chửi toáng lên: Tôi đã bảo công việc lớn nhất của mục trường là diệt sói nhưng các vị không ủng hộ. Giờ đã thấy chưa, đây là sự trừng phạt đối với chúng ta. Từ nay ai còn nói hay cho sói, tôi cách chức người ấy, phải đưa người ấy vào lớp học cải tạo, bắt bồi thường thiệt hại!

Ông già Pilich tay nọ nắm lưng bàn tay của tay kia buồn bã nhìn trời, môi run run. Trần Trận và Trương Kế Nguyên có thể đoán ông già nói gì. Trần Trận nói nhỏ với Trương Kế Nguyên: Điều hành thảo nguyên khó quá, những người chủ trì thảo nguyên rồi sẽ trở thành vật hi sinh…

Trương Kế Nguyên vội tới gần Bao Thuận Quý nói: Đại hoạ sức người không chống nổi. Theo cháu, thiệt hại của ta hãy còn ít, những công xã chăn nuôi vùng biên thiệt hại lớn lắm. Lần này vẫn bảo tồn được ngựa giống, ngựa lớn, ngựa mẹ và quá nửa ngựa con. Tất cả mã quan đều tận tâm với công việc, không ai bỏ chạy, điều này không dễ? May mà có sự điều tiết của bố Pilich và Ulichi, nếu cách đây năm hôm không chuyển tới trảng cát này thì đàn ngựa đi đứt.

Lanmutrăc nói: Nếu không có ông Pilich ông Ulichi thì đàn ngựa đã vượt biên, đợi vấn nạn qua đi, ngựa không còn được mấy con, mã quan thì ngồi tù, ông muốn làm Chủ nhiệm cũng không xong.

Batu nói: Hàng năm ngựa choai tổn thất quả nửa, ta chưa đến mức ấy. Từ nay ta phải chú ý hơn, cẩn thận hơn. Tính cả năm, tổn thất của ta chỉ bằng những năm bình thường.

Bao Thuận Quý gầm lên: Anh nói gì thì nói, những con ngựa này là do sói cắn chết. Muỗi ghê gớm đến mấy cũng không cắn chết nổi một con ngựa. Nếu như diệt sói sớm hơn, đại hoạ này đâu xảy ra? Thủ trưởng binh đoàn mấy hôm nay ở mục trường bộ, thấy ngựa chết nhiều thế này, ông ấy không cách chức tôi thì chớ kể. Lũ sói đáng ghét! Từ nay về sau phải nắm chắc khâu diệt sói, không tiêu diệt sạch đàn sói thì dân không thể sống yên. Binh đoàn thực sự sắp kéo về mục trường, các vị không diệt sói, tôi mời binh đoàn diệt giúp. Binh đoàn có rất nhiều xe tải, com măng ca, súng đạn…

Mục dân sắc mặt u ám, chia nhau xử lý bãi xác ngựa, cùng dương quan chất lên xe chở về đại đội chia cho các gia đình. Những con bị sói xé nát đành phải bỏ lại trên trảng cát. Sói thảo nguyên trong đại hoạ muỗi vẫn kiếm ăn được. Chỗ thịt ngựa là thịt cứu mạng của đàn sói trong mùa hè đói khát này.

Những con ngựa choai sống sót run rẩy khi nhìn thấy những xác chết. Bài học xương máu cho chúng. Lần sau gặp thiên tai phải cảnh giác hơn, dũng cảm hơn, bình tĩnh hơn. Nhưng Trần Trận giật mình tự hỏi: Lần sau, còn có lần sau không?

Chương 30

Năm 404, Nguỵ Văn Đế soái lĩnh quý tộc, văn bõ bá quan, 20 vạn lính Tiên Ti, từ Bình Thành dời đô về Lạc Dương. Những người này cùng với gia thuộc không dưới một triệu người.



Thời kỳ Tuỳ Đường, tộc Hán cư trú lưu vực Hoàng Hà, thực tế là tộc Hán được hình thành từ sự pha trộn giữa các tộc lạc hậu phương bắc và tây bắc với tộc Hán từ thời Mười Sáu nước.

Phạm Văn Lan “Trung Quốc thông sử giản biên”. Đệ nhị biên

Chu tử ngữ loại 116 lịch đại loại 3, chép: Đường xuất xứ từ Di Dịch, vậy nên không lấy làm lạ khi có chuyện loạn luân chốn phòng the.

Trần Tân Lạc “Đường đại chính trị sử thuật luận cảo”

Trận mưa thu lành lạnh kết thúc đột ngột mùa hạ trên cao nguyên Nội Mông, và cũng làm bị thương đàn muỗi dữ như sói trên thảo nguyên. Trần Trận lặng ngắm thảo nguyên Ơlôn hiu quạnh, cậu hiểu nguyên nhân vì sao sói và muỗi thảo nguyên điên cuồng đến thế. Thảo nguyên mùa hè ngắn, mùa thu lại càng ngắn, qua mùa thu là mùa đông dài hơn nửa năm, là mùa chết chóc của những động vật không ngủ đông, ngay cả lũ muỗi dù đã chui vào hang rái cá cạn, cũng chết quá nửa. Sói thảo nguyên không có mỡ và bộ lông dày cũng không thể sống qua mùa đông. Cái rét khủng khiếp của mùa đông tiêu diệt phần lớn những con sói gầy, già, bệnh tật hoặc bị thương. Vì vậy đàn muỗi tranh thủ hút máu như điên, ra sức cứu vãn mạng sống của chúng trong mùa sinh trưởng ngắn ngủi này; còn đàn sói phải đổi mạng lấy cái ăn để sống qua mùa đông rét buốt và mùa xuân đói khát.

Lều Trần Trận được chia một con ngựa choai chỉ còn lại hai chân trước và nội tạng đã có mùi. Sói con lại có những ngày tươi sáng cơm no áo ấm. Số thịt này ăn được mấy ngày nữa. Cái mũi mách bảo sói con: Trong nhà có thịt dự trữ. Vì vậy trong những ngày này sói con rất vui. Nó thích ăn thịt tươi nhưng cũng không chê thịt ôi, thậm chí nuốt cả những con giòi trong thịt một cách ngon lành. Cao Kiện Trung phải kêu lên: Sói con đúng là cái thùng rác, lều chúng mình có bao nhiêu rác rưởi đều trút hết vào đấy.

Điều kinh dị là bất kể thức ân hư hỏng thối rữa, sói con ăn vào đều không bị bệnh. Trần Trận và Dương Khắc vô cùng khâm phục khả năng chịu rét, chịu nóng, chịu đói, chịu khát, chịu thối, chịu bẩn và miễn dịch của sói con, vật chủng tinh tuyển sau ngàn vạn năm trong hoàn cảnh khắc nghiệt khiến người ta cảm động, tiếc rằng Đác Uyn chưa đến thảo nguyên Ơlôn Nội Mông, nếu đến, ông sẽ mê tít sói thảo nguyên, và chắc chắn sẽ có thêm một chương trong sách của ông.

Sói con lớn rất nhanh, càng lớn càng đẹp mã, càng giống sói hoang trên thảo nguyên. Trần Trận thay cho nó sợi xích dài hơn, cậu còn định đổi tên, gọi nó là “sói lớn”, nhưng sói con chỉ tiếp nhận cái tên “sói con”, nghe Trần Trận gọi “sói con”, nó vui vẻ chạy tới liếm tay, cọ mõm vào đầu gối, chồm lên bụng. Lại còn nằm ngửa dưới đất bốn vó chổng lên trời cho cậu gãi bụng. Nhưng nếu gọi “sói lớn” nó làm như không nghe thấy, lại còn nhìn trước nhìn sau như gọi “người khác” chứ không phải nó. Trần Trận cười, nói: Mày đến là ngốc! Sau này già rồi chẳng lẽ vẫn gọi là “sói con” sao? Sói con thè nửa lưỡi cười ngờ nghệch.

Trần Trận thích từng bộ phận trên người sói con, thời gian dài gần đây cậu thích nghịch tai con sói, đôi tai thẳng tưng, rắn chắc, sạch sẽ, hoàn hảo và mẫn cảm, là bộ phận hoàn thành sớm nhất tai sói tiêu chuẩn so với các bộ phận khác, hoàn toàn giống tai sói lớn. Sói con ngày càng có cảm giác tự thân theo bản năng sói thảo nguyên. Trần Trận ngồi xếp bằng tròn trước sói con để chơi với nó. Cậu rất muốn nghịch tai nó, nhưng hình như phải có điều kiện di truyền từ giới sói, là phải gãi cuống tai, cổ, toàn thân cho đã ngứa rồi mới được nghịch tai. Trần Trận thích gập tai sói về phía sau rồi buông tay, cái tai bật thẳng trở lại như cũ. Nếu gập cả hai tai và cùng lúc buông tay, hai tai không cùng trở lại, mà một trước một sau phát ra tiếng “phựt!”, có lúc chính sói con giật mình tưởng có địch.

Đôi tai oai phong lẫm liệt, trừ Nhị Lang, tất cả chó trong nhà đều hâm mộ, ghen tị, thậm chí hằn học. Trần Trận không rõ cái phần sụn trong tai của sói và chó có chứa đựng “khí phách” gì không? Tổ tiên chó cũng như tổ tiên sói, đôi tai giống nhau, thẳng đuột. Có lẽ về sau, khi chó đã bị người thuần dưỡng, lá tai mới gập xuống một nửa che lỗ tai, nên chó không thích tai bằng sói. Cũng có thể người xưa không thích thói hoang dã nên thường xuyên xoắn tai chó, thậm chí xách tai mà dạy bảo, dần dà tai chó mềm ra cùng với “khí phách” chó lộ ra, cuối cùng chó trở thành nô bộc gọi dạ bảo vâng của loài người. Mã quan Mông Cổ luyện ngựa thường nắm hai tai vít đầu ngựa xuống mới đặt được yên nhảy lên cưỡi. Các bà vợ địa chủ Trung Quốc cũng rất thích bẹo tai a hoàn. Một khi đã bị người ta bẹo tai, thân phận nô bộc đã được xác nhận.

Cái tai con sói khiến Trần Trận nhận ra quan hệ mật thiết giữa tai và thân phận con người. Thí dụ, dân tộc mạnh thường thích bẹo tai dân tộc không mạnh; dân tộc không mạnh lắm thường thích bẹo tai dân tộc yếu; dân tộc du mục dùng phương thức “xách tai bò”, xoắn tai bò rừng, ngựa hoang, cừu hoang và chó hoang, biến chúng thành nô lê, nô bộc. Về sau, dân tộc du mục nào mạnh áp dụng kinh nghiệm đó đối với các bộ tộc và dân tộc khác, bẹo tai các dân tộc bị mất đất; các tập đoàn chiếm địa vị thống trị bẹo tai các dân tộc bị trị. Vậy là thế giới loài người xuất hiện quan hệ giữa “kẻ chăn dê” và “đàn dê”. Lưu Bị là “kẻ chăn dắt Từ châu” (Từ châu Mục), dân Từ châu là “Đàn dê Từ châu” (Từ châu Dương). Dân tộc bị tập đoàn thống trị bẹo tai sớm nhất thế giới là dân tộc nông canh. Cho đến nay, “xách tai bò” vẫn được cá nhân và các tập đoàn ngưỡng mộ, vẫn còn được ghi trong từ điển. Đây là di sản của tổ tiên du mục Hán tộc truyền lại cho con cháu, tuy nhiên từ sau Bắc Tống, tộc Hán không ngừng bị người ta “xách tai”. Đến nay, về mặt văn tự, từ “xách tai bò” vẫn còn, nhưng tinh thần thì đã mất. Dân tộc hiện đại không nên chinh phục và áp bức dân tộc khác, nhưng nếu không có tinh thần “xách tai bò” thì chưa chắc đã bảo vệ được “tai” mình.

Những ngày này, Trần Trận luôn theo dõi những cột bụi bốc lên sau xe com măng ca của binh đoàn mà thấy tinh thần bị tổn thương. Cậu là người Hán đầu tiên cũng là người Hán cuối cùng sống và khảo sát trên thực địa về du mục nguyên thuỷ trên thảo nguyên Nội Mông liền kề biên giới. Cậu không phải dân phóng viên chuồn chuồn điểm nước hoặc kẻ tham quan, cậu có một thân phận rất đáng tự hào: Dương quan (người chăn cừu). Cậu may mắn có một địa điểm rất đáng khảo sát: Mục trường Ơlôn, một vùng sâu vùng xa trên thảo nguyên, còn sót lại rất nhiều đàn sói lớn. Cậu đích thân nuôi một sói con bắt từ hang sói đem về. Cậu ghi nhớ tất cả những gì đã khảo sát và suy ngẫm, dù chỉ là chi tiết nhỏ. Sau này, cậu sẽ kể lại rất nhiều lần cho bạn bè và người thân, cho đến khi cậu từ biệt thế giới này. Tiếc rằng đám con cháu Viêm Hoàng rời đất tổ thảo nguyên đã quá lâu, cuộc sống du mục cổ kính nguyên thuỷ trên thảo nguyên lại sắp nhanh chóng kết thúc, từ nay người Trung Quốc không còn được về thăm đất tổ còn nguyên vẹn bộ mặt để thăm viến các cụ tổ nữa rồi…

Trần Trận vuốt ve tai sói con rất lâu. Cậu thích đôi tai của sói con, vì nó là đôi tai duy nhất được bảo tồn hoàn chỉnh. Hai năm nay, cậu từng trông thấy tai sói ở cự li gần, tai sói chết, tai sói đã lột da, và cả tai trên da sói lộn ống, tất cả đều khiếm khuyết, có tai như con tem bưu điện, mép rách bươm, có tai không chóp nhọn, có cặp tai một dài một ngắn, có tai xẻ đôi hoặc xẻ ba, có tai cụt tận gốc… Càng già càng hung hăng, tai càng khó coi. Trần Trận nhớ không có cặp tai sói nào còn nguyên vẹn, cậu chợt hiểu ra, trên thảo nguyên tàn khốc, những cái tai sứt mẻ mới là “tai sói tiêu chuẩn”.

Vậy cặp tai hoàn chỉnh không sứt sẹo này có phải “tai sói tiêu chuẩn”? Trần Trận hơi buồn. Cậu chợt nhận ra rằng, “hoàn chỉnh không khiếm khuyết” mới chính là khiếm khuyết lớn nhất của sói con. Sói là võ sĩ giác đấu trên thảo nguyên. Cuộc sống tự do ngoan cường của sói là dựa vào những cuộc quyết đấu sinh tử với ngựa giống hung hãn, với chó săn khoẻ mạnh, với những đàn sói từ đâu tới và với những thợ săn dũng mãnh, mà tồn tại. Chưa trải qua chiến đấu, chỉ dựa vào đôi tai bóng bẫy mà sống thì có thể coi là sói được không? Trần Trận cảm thấy mình tàn nhẫn, cậu đã tước đoạt sinh mạng dũng sĩ của sói thảo nguyên, khiến nó trở thành chỉ có tai sói mà không có mạng sói, một tội đồ không bằng con chó.

Có nên lẳng lặng thả sói ra? Trả về thảo nguyên tàn khốc nhưng tự do, trả lại mạng sói cho nó. Từ khi cậu dùng kìm đầu hổ cắt bỏ đầu nhọn của bốn răng nanh, con sói đã mất vũ khí sinh tồn trên thảo nguyên. Bốn răng nhọn sắc như mũi dùi, giờ đã mài tròn chỉ còn là những chiếc răng cùn như bốn hạt đậu vằn, răng chó cũng không giống. Trần Trận càng đau lòng hơn, là khi cắt răng tuy chưa chạm tuỷ nhưng một chiếc răng bị rạn, một vết nứt bằng sợi chỉ vào tới tuỷ, ít lâu sau, cậu thấy vết rạn có màu đen như răng sói già. Về sau, mỗi khi nhìn chiếc răng, Trần Trận lại thấy trong lòng đau nhói, có lẽ chỉ năm nữa là cùng, chiếc răng sẽ rụng. Răng là sinh mạng của sói thảo nguyên, nếu chỉ còn ba chiếc răng, ăn thức ăn còn khó, nói gì đến săn mồi. Cùng với thời gian, Trần Trận ngày càng thấy hậu quả vô cùng nghiêm trọng trong hành vi sơ suất ban đầu- ngay cả sau này cậu cũng không thể trả sói về thảo nguyên, cậu cũng không thể tới vùng sâu vùng xa của thảo nguyên thăm bạn “sói con”. Ảo tưởng lãng mạn của cậu đã bị một cuộc phẫu thuật nhỏ cắt đứt hoàn toàn, đồng thời cũng chặn đứng tự do của một con sói ưu tú và đáng yêu. Huống hồ được nuôi lâu ngày, kinh nghiệm thực tiễn thảo nguyên không có, đàn sói Ơlôn sẽ coi sói con là “dân ngụ cư”, cắn chết không thương tiếc. Tháng trước, trong cái đêm sói mẹ gọi sói con, cậu đã không thả sói con, chuyện ấy đến bây giờ cậu vẫn áy náy. Cậu cảm thấy mình không phải là một nhà nghiên cứu khoa học thực thụ. Ảo tưởng và tình cảm khiến cậu căm ghét “nghiên cứu khoa học”. Sói con không phải chuột bạch cung cấp cho nghiên cứu khoa học, sói con là bạn và là thầy của cậu.

o0o

Mọi người trên thảo nguyên thấp thỏm đợi chờ binh đoàn sản xuất xây dựng Nội Mông. Thư liên danh của các ông Pilich, Ulichi và một số mục dân đã có tác dụng: Binh đoàn quyết định thảo nguyên Ơlôn vẫn chăn thả là chính, mục trường Baolicơ chuyển thành nghiệp đoàn, chăn nuôi là chính kiêm nông nghiệp. Phần lớn các mục trường khác đều chuyển thành Nông nghiệp đoàn. Lưu vực Mã câu tử- vùng sản xuất ngựa chiến Chumuxin nổi tiếng của Mông Cổ sẽ trở thành một nông trường lớn; một số mục trường chuyển thành mục đoàn nửa làm ruộng nửa chăn nuôi.

Kế hoạch hùng vĩ của binh đoàn đã lan tới thảo nguyên Ơlôn. Tư tưởng chủ đạo là sớm kết thúc phương thức sản xuất du mục lạc hậu kéo dài hàng ngàn năm trên thảo nguyên, xây dựng hàng loạt những điểm định cư lớn. Binh đoàn sẽ đầu tư vốn, thiết bị, đội xây dựng, sẽ xây nhà ngói cho mục dân, xây chuồng bê tông cho gia súc, khoan giếng máy, làm đường trải nhựa, xây trường học, bệnh viện, nhà bưu điện, hội trường, cửa hàng bách hoá, rạp chiếu bóng… Khai khẩn đất hoang thích đáng, trồng cỏ, trồng cây lương thực, trồng nấm, trồng rau, thành lập đội cắt cỏ cơ giới, đội vận tải và trạm máy kéo. Phải tận diệt sói, bệnh tật, côn trùng và chuột bọ. Phải ra sức phòng chống năm hại: tuyết, lũ lụt, hạn, gió, cháy đồng, muỗi… Để cho mục dân khổ cực hàng ngàn năm nay từng bước đi lên cuộc sống định cư ấm no hạnh phúc.

Các thanh niên trí thức, thanh niên mục dân, đa số phụ nữ và trẻ em đều mong đợi binh đoàn sớm thực hiện viễn cảnh tốt đẹp mà cán bộ binh đoàn và Bao Thuận Quý đã miêu tả. Nhưng phần lớn mục dân cao tuổi và trung niên im lặng không nói gì. Trần Trận đi hỏi ông Pilich. Ông già thở dài, nói: Mục dân từ lâu mong tre con có trường học, khám bệnh thì không cần dùng xe bò xe ngựa chở lên bệnh viện Kỳ (huyện). Ơlôn không có bệnh viện, chết mất bao nhiều người không đáng chết. Nhưng thảo nguyên thì như thế nào? Cỏ thưa lắm rồi, quá tải so với đàn gia súc. Thảo nguyên như cỗ xe bò, chỉ cáng đáng được bấy nhiêu gia súc, nếu thêm bấy nhiêu người và máy móc, e rằng cỗ xe thảo nguyên sẽ bị lật. Thảo nguyên lật xe, người Hán các cậu trở về quê cũ, nhưng mục dân thì đi đâu?

Trần Trận lo nhất là đàn sói sẽ như thế náo? Người khu vực nông nghiệp đến đây, thiên nga cái nhạn vịt trời bị giết thịt, số còn lại bỏ đi hết. Còn sói thảo nguyên thì không phải loài chim di cư, đàn sói thảo nguyên đời đời kiếp kiếp sống tại Ơlôn, chẳng lẽ bị tận diệt hoặc đuổi sang nước khác? Cao nguyên Ngoại Mông cỏ ít, người và gia súc ít, những con sói nghèo ở đây hung dữ gấp mấy những con sói giàu ở đây. Đến đó, chúng bị khinh rẻ, cho là “dân ngụ cư”. Trần Trận không ngờ thấy ngày mạt vận của sói thảo nguyên đã tới gần, mà công việc khảo sát và nghiên cứu của cậu thì mới bắt đầu…

Chạng vạng tối, Dương Khấc dồn cừu vào một địa điểm cách khu lêu bạt ba dặm, đối diện với cửa lều các cậu, rồi để chúng ở đấy, về nhà uống nước. Sắp chuyển bãi chăn, chuyển nhà, có thể cho cừu ăn cỏ non mới mọc gần nhà.

Dương Khắc múc hai bát trà, nói với Trần Trận: Không ai nghĩ rằng binh đoàn nói đến là đến. Thời bình, mình chúa ghét quân sự hoá sinh hoạt. Khó khăn lắm mới thoát khỏi binh đoàn sản xuất xây dựng Hắc Long giang, không ngờ lại rơi vào tay binh đoàn Nội Mông. Ơlôn từ nay ra sao mình cũng chịu, không thể đoán trước. Chúng ta phải mau chóng làm rõ một số vấn đề của sói thảo nguyên.

Hai người đang nói chuyện. Một con ngựa giao liên men theo con đường xe bò phóng tới như bay kéo theo một dải bụi vàng hơn trăm mét. Trần Trận và Dương Khắc thoạt nhìn đã biết đó là Trương Kế Nguyên đổi ca về nghỉ. Trương Kế Nguyên đã như một mã quan đích thực, có nhiều ngựa tốt, ngựa cưỡi dữ dằn, không tiếc sức ngựa, không giấu vẻ tự hào. Cao Kiện Trung cười giễu: Các cậu xem, tay này đã dụ được các cô Mông Cổ ra khỏi lều, ánh mắt ấy có khác gì đang bị lũ ngựa cái đuổi theo?

Trương Kế Nguyên nói: Các cậu mau ra mà xem mình đem đến cái gì?

Cậu ta cởi cái bọc to lù lù trên lưng ngựa, bên trong chắc là con vật sống đang cựa.

Dương Khắc đón cái bọ, sờ thử, cười: Chẳng lẽ cậu đem đến đây một sói con cho nó phối giống với sói con nhà mình?

Trương Kế Nguyên nói: Bây giờ làm gì có sói con bằng ngần này, cậu cứ mở ra mà xem, cẩn thận kẻo nó chạy mất.

Dương Khắc thận trọng cởi miệng bao, trước tiên thấy đôi tai rất to, bèn nắm lấy lôi ra, thì ra một con thỏ to đùng khoác chiếc áo mùa thu màu vàng sẫm đốm đen, quẫy rất dữ. Con thỏ to bằng con mèo nhà, nặng chừng sáu bảy cân.

Trương Kế Nguyên vừa cột ngựa vừa nói: Tối nay chúng mình ăn một bữa thỏ rôti. Ăn mãi thịt cừu cũng chán

Đang nói thì cách bảy tám thước, sói con thú tính bột phát, chồm tới vồ con thỏ. Nếu không có xích giữ lại, chắc chắn con thỏ đã bị vồ. Sói con chựng lại giữa không trung rồi rớt phịch xuống đất. Nó lộn một vòng rồi đứng ngay dậy, hai chân trước cào không khí, lưỡi thè dài thượt, hai mắt lồi ra, ánh mắt dữ tợn, những muốn nuốt chửng con thỏ.

Đàn chó nhà từng trông thấy con vật này chạy cực nhanh, không bao giờ vồ được. Cũng xúm quanh con thỏ, vẻ tò mò, nhưng không con nào dám nhảy xổ vào cướp.

Trông nét mặt tham lam của sói con, Dương Khắc xách tai con thỏ tiến mấy bước đu đưa con thỏ về phía con sói. Một khi chân trước chộp đúng chân thỏ, sói con lập tức trở thành sói đích thực, mặt đầy sát khí, miệng đỏ lòm, liếm mép liên tục, đồng tử như kim châm, phóng ra những cây kim độc vô hình, trông phát khiếp. Lúc con thỏ đưa về phía Dương Khắc, sói con giận dữ nhìn người và chó, ranh giới giữa người và sói bỗng chốc trở nên minh bạch, tình hữu nghị và tình cảm thân thiện bên nhau trong mấy tháng trời tan biến. Trong con mắt sói con, Trần Trận, Dương Khắc và Nhị Lang vốn rất yêu nó, đều trở thành kẻ thù.

Dương Khắc sợ, vô hình chung lùi lại mấy bước. Bình tĩnh lại, cậu đề nghị: Mình đề nghị thế này, sóii con lớn bằng ngần này nhưng chưa bao giờ bắt được con mồi sống, chúng mình cho nó thoả mãn tính thiên bẩm một tí. Mình tuyên bố thôi món rôti, cho sói ăn thịt con thỏ, chúng mình chứng kiến sói tính trong cự li gần.

Trần Trận mừng quá, lập tức hưởng ứng: Thịt thỏ không ngon, phải nấu với gà đồng mới ăn được. Sói con gác đêm cả một mùa hè, không để sói bắt mất con cừu nào, nên khen thưởng!

Cao Kiện Trung nói: Sói con không chỉ gác đêm, mà còn trông cả đàn bê, mình bỏ phiếu tàn thành.

Trương Kế Nguyên nuốt nước bọt, chấp thuận bất đắc dĩ: ừ thì thế, mình cũng muốn xem sói con nhà mình có sói tính hay không?

Bốn người vui hẳn lên. Thú tính ẩn sâu trong tâm khảm nhân loại, sự tàn nhẫn dã man khi thích xem đấu với thú dữ trên đấu trường La Mã cổ đại và cái cớ chính đáng hợp lý cùng lúc thả nổi, bộc lộ hết ra. Một con thỏ khoẻ mạnh, một sinh mạng thảo nguyên sống sót qua những cuộc vây bắt, truy sát của sói, chim ưng, cáo, cáo sa mạc và chó săn, đã bị bốn thanh niên trí thức Bắc Kinh phủ quyết dễ dàng. Được cái thỏ còn cái tội phá hoại thảo nguyên, tội đào hang để ngựa vấp ngã, phán tội chết cũng không có gì phân vân. Bốn người bắt đầu thảo luận thể thức đấu thú.

Trên thảo nguyên không có gì che chắn, chẳng mượn được chỗ nào làm đấu trường, mọi người rất tiếc không được xem sói con đuổi theo con thỏ. Cuối cùng, bốn người quyết định buộc riêng rẽ từng cặp chân trước với chân sau, để thỏ có thể nhảy mà không chạy mất.

Rõ ràng đây là con thỏ dạn dày kinh nghiệm trong cuộc thử thách khắc nghiệt để mưu sinh. Dương Khắc trong khi buộc chân đã bị con thỏ đạp cho một phát, con thỏ có bộ vuốt sắc để đào hang, mu bàn tay Dương Khắc bị cào mấy vệt rất sâu, chảy máu. Cậu ta hít hà, nói: Người ta bảo thỏ khùng cắn người, không ngờ vuốt thỏ lại sắc như thế. Ghê thật, mi đừng vội lên mặt, lát nữa tao sẽ cho sói con lột da mi. Trần Trận vội chạy vào trong lều lấy bạch thược Vân Nam và bông băng, bôi thuốc băng bó cho Dương Khắc.

Bốn người cùng ra tay, chật vật mãi mới buộc xong, con thỏ nằm yên bất động, nhưng ánh mắt thì rất giảo hoạt. Trương Kế Nguyên vạch cái miệng ba múi của con thỏ, xem xét một lúc, nói: Các cậu xem, con thỏ này rất già, răng vàng khè. Các ông chủ xe thường bảo: “Người già gian ngoan, ngựa già láu cá, thỏ già chim ưng khó bắt”. Thỏ già đáng gờm, không khéo sói con ăn đòn.

Trần Trận ngoái lại hỏi Trương Kế Nguyên: Vì sao thỏ già chim ưng khó bắt?

Trương Kế Nguyên nói: Chim ưng bổ nhào từ trên không xuống, chân trái chộp mông thỏ, thỏ bị đau quay mình lại, chân phải chim ưng được đà chộp luôn lưng, vậy là con thỏ khó thoát. Chim ưng giữ chắc thỏ rồi vút lên cao thả xuống cho thỏ bị đập chết rồi mới tha lên đỉnh núi ăn. Nhưng gặp con thỏ già, chim ưng không dễ dàng hạ thủ. Khi bị chộp mông, thỏ già nhịn đau không quay mình lại mà rúc luôn vào bụi thanh khoả hoặc liễu đỏ. Chính mắt mình trông thấy con thỏ cùng chim ưng chui vào đám đất mọc đầy hồng liễu gai góc rậm rịt, chim ưng bị kẹt lông, đau quá phả nhả con thỏ ra. Ủ rũ như gà chọi bật sới, chim ưng phải nghỉ hồi lâu mới bay đi…

Dương Khắc nghe xong mắt tròn mắt dẹt, nói: Vậy ta phải tính kỹ!

Trần Trận nói: Cứ quẳng con thỏ cho sói con, một bên là thỏ già mưu mẹo giảo hoạt, một bên là sói con trẻ tuổi vô tư răng sứt mẻ. Cuộc đấu mà một bên buộc chân, một bên mắc xích mình thấy không công bằng.

Dương Khắc nói: chúng mình đều đã đọc “Xpáctác”, nên theo quy tắc đấu trường La Mã, nếu thỏ thắng, ta trả tự do cho thỏ.

Ba người đồng thanh: Được.

Dương Khắc nói riêng với thỏ: Ai bảo mày đào nhiều hang, huỷ hoại nhiều thảm cỏ! Xin lỗi nhé! Lại quay sang nói với sói con: Sói con ăn cơm! Sói con ăn cơm! Nói xong, quẳng con thỏ vào chuồng. Vừa rơi xuống đất, con thỏ vùng ngay dậy nhảy tưng tưng. Sói con xông tới nhưng không biết cắn vào chỗ nào. Nó dùng chân trước gạt con thỏ ngã xuống, nhưng vừa chạm đất con thỏ rúm người lại thành một cục có vẻ sợ, ngực phập phồng, toàn thân run bắn, nhưng hai mắt nó thì vô cùng điềm tĩnh quan sát từng cử động của sói con. Hắn là con thỏ này đã từng đào thoát khỏi sói và chim ưng nhiều lần.

Con thỏ dưới cái vỏ bọc run như cầy sấy, tiếp tục co rúm người lại, co nữa, co nữa, cuối cùng như một “nắm đấm”, sau đó co vuốt sắc lại, điều chỉnh vị trí lông vuốt như kiểu giấu vũ khí trong tay áo.

Sói con đã có kinh nghiệm ăn một con chuột lớn, tưởng thỏ là chuột lớn hơn, thèm nhỏ dãi tiến đến ngửi hít. Thỏ vẫn đang run. Sói con giơ chân trước ấn ấn, coi như một miếng thịt thỏ vô hại. Sói con hết ngửi hít lại ấn chân, tìm chỗ cắn.

Đột nhiên con thỏ ngừng run, lúc này đầu sói con vừa vặn ló sát chân sau của thỏ. “Không hay rồi!” Bốn người cùng kêu lên nhưng không kịp nhắc sói con. Con thỏ vận hết sức mạnh cuối cùng, nhắm giữa đầu sói con đạp một phát mạnh như búa bổ. Sói con “oắc” lên một tiếng bật ngửa lộn một vòng ra phía sau, mãi mới dậy được thì đầu đã đầy máu, tai thủng một lỗ to tướng, mặt bị thưưong mấy chỗ, mắt phải suýt bị mù.

Trần Trận và Dương Khắc xót xa đứng phắt dậy, mặt tái nhợt. Dương Khắc lấy ra bạch thược Vân Nam chuẩn bị băng bó cho sói con, nhưng Trần Trận ngăn lại: Trên thảo nguyên không có con sói nào lành lặn, cứ để vậy cho sói con nếm mùi.

Sói con chưa bao giờ bị một vố như thế. Nó gồng mình lên vì sợ và giận dữ nhưng lại tò mò nhìn con thỏ. Con thỏ sau khi ra tay, bắt đầu cựa dữ, lật người lại, cà nhắc cà nhót định lết ra ngoài chuồng. Mấy con chó tức giận đứng cả dậy xông tới con thỏ mà sủa. Nhị Lang thấy gai mắt định xông vào chuồng cắn chết thỏ, nhưng bị Trần Trận ôm chặt.

Con thỏ dần tới mép chuồng, sói con chậm rãi theo sau, khoảng cách chừng một thước, chỉ cần chân sau con thỏ bước dài hơn một chút, sói con nhảy lùi lại như bị rết cắn.

Dương Khắc nói: Trận giác đấu này coi như thỏ thắng. Nếu như ngoài đồng, cú đá vừa rồi đánh gục sói, thỏ đã thừa cơ chạy thoát. Thằng cha này trong 20 phút đả thương một người một sói, giỏi đấy! Ta hãy thả nó ra. Cùng là động vật nông canh ăn cỏ, người Hán Trung Quốc nếu như có được tinh thần thỏ thảo nguyên thì đâu đến nỗi rơi vào cảnh bán thực dân địa.

Trần Trận trong lòng mâu thuẫn: Cho sói con cơ hội cuối cúng. Nếu thỏ lần ra được ngoài chuồng, coi như thỏ thắng. Nếu không ra được, lại đấu tiếp.

Dương Khắc nói: Được, lấy vành ngoài cái chuồng để phân thắng bại.

Con thỏ hình như thấy có cơ may thoát chết, vừa lăn vừa lết để ra ngoài vòng. Sói con điên tiết, hình như cảm thấy con vật kia dã là của mình, giờ không dám vồ nhưng hễ có điều kiện là nó lại dùng chân trước kéo lùi con thỏ một cái rồi nhảy sang bên, con thỏ đợi con sói nhảy lại nhích lên một bước để ra ngoài vòng. Cò cưa vài hiệp, sói con đã tìm ra nhược điểm của thỏ. Nó tách hai chân sau của thỏ chui lên phía trước, cắn tai lôi thỏ trở lại. Thỏ giẫy, sói nhả tai ra. Sói con dần nhận ra chân sau của thỏ không còn nguy hiểm đối với sói nữa, nó mạnh dạn cắn tai lôi thỏ vào bên chân cọc. Con thỏ kinh hoàng đá lung tung giẫy giụa như cá chép mắc câu, đến nỗi sói con không dám nhả ra.

Trần Trận quyết định gợi ý cho sói con, cậu gọi: Sói con ăn cơm! Sói con giật mình, tiếng gọi ăn cơm khiến nó đói ran, từ sói đấu biến thành sói đói, thế là sói đè đầu thỏ xuống, cắn đứt một tai thỏ bằng răng hàm, ăn ngấu nghiến cả da lẫn lông. Máu vọt ra, thú tính trỗi dậy, sói con hung hăng cắn nốt tai bên kia. Con thỏ mất cả hai tai, dữ như con rái cá cạn liều chết chống lại, cắn lung tung. Trong chuồng, một sói máu me đầm đìa trên đầu, một thỏ đầu bê bết máu quần nhau một mất một còn. Chuồng sói thực sự trở thành chiến trường máu me vung vãi.

Nhưng sói vẫn chưa nắm được kỹ thuật cắn chỗ hiểm rồi ăn thịt, mà chỉ cắn miếng nào nuốt chửng miếng ấy, sục khắp mình thỏ. Răng tuy cùn nhưng sức mạnh thì như hổ, sói con cắn chặt da thỏ lắc mạnh, xé toạc từng miếng. Tuy nó chưa biết cắn vào chỗ chí mạng là yết hầu, nhưng theo bản năng, nó cắn vào chỗ nguy hiểm khác là bụng, bụp một phát, lôi ruột gan ra ngoài. Cái đám bùng nhùng mềm nhũn vương máu là thứ sói thích ăn nhất. Soi con mắt loé sang, nhét tuốt ruột gan tim phổi vào bụng, còn thỏ chiến đấu tới khi mất ruột gan mới ngừng phản kháng.

Trần Trận tạo cho sói con cơ hội sống như một con sói thực thụ. Sói con rốt cuộc lớn lên. Nó trả giá bằng cái tai sứt sẹo để từ đó có “tai sói tiêu chuẩn” mà trở thành sói thảo nguyên có chiến tích được ghi lại. Nhưng hình như Trần Trận không thể vui lên được, sói con thắng, cậu lại thấy tiếc thương cho con thỏ. Thỏ già đã dốc toàn lực và chết một cách khả kính. Nó cũng bị sói con anh dũng ngoan cường ăn thịt, nhưng về tinh thần nó không bị đánh bại. Tất cả những sinh linh trên thảo nguyên Mông Cổ, trừ cừu, bất kể động vật ăn thịt hay động vật ăn cỏ, đều được bà mẹ thảo nguyên ban cho tinh thần dũng mãnh ngoan cường. Đó là tinh thần du mục.

Đàn cừu tự động vào chuồng. Trần Trận và Dương Khắc tạm thời kết thúc khoá trình đi dạo. Sói con đắm chìm trong hưng phấn, quên sạch những buổi chiều tự do.

o0o

Bốn người rất ít khi gặp mặt cùng nhau ăn một bữa cơm. Căn lều bạt Mông Cổ rất ấm và dễ hoà hợp. Trần Trận rót cho Trương Kế Nguyên một bát trà, hỏi: Cậu vẫn chưa kể cho mình nghe cậu làm thế nào bắt được con thỏ?

Trương Kế Nguyên cũng như các mã quan trưởng thành, thích dềnh dàng cho người nghe sốt ruột. Cậu ta dừng một lát, kể: Con thỏ này là sói đem đến cho mình.

Ba người đực mặt ra. Trương Kế Nguyên lại dừng mấy giây, kể tiếp: Trưa nay mình và Batu đi tìm ngựa, nửa đường khi qua một con dốc nhỏ, trông thấy một con sói từ rất xa, đang chổng mông cào đất. Hai chúng mình đều có ngựa tốt, ra roi cho ngựa chạy lên, con sói vội bỏ chạy. Bọn mình chạy đến chỗ sói cào đất thấy đó là một cái hang nhỏ, bên ngoài có nhiều đất mới do sói đào. Cái hang này rất kín, ẩn dưới một bụi cỏ, nếu như bên ngoài không có đất mới, rất khó phát hiện. Batu thoạt nhìn đã bảo đây là hang chứ không phải ổ, chỉ là nơi thỏ ẩn nấp tạm thời khi gặp địch. Mã quan rất căm loại hang này, người ngựa thường bị thương vì nó. Năm ngoái chính nó đã làm con ngựa tốt nhất của Lanmutrăc bị gãy chân trước. Bọn mình không ai bảo ai, xuống ngựa đào bằng được. Hang thỏ sâu hơn một thước, dùng cán thòng chọc thăm dò, thấy mềm mềm là có thỏ bên trong. Sói biết đào hang, chỉ một lúc là lôi con thỏ lên. Nhưng con sói bỏ chạy rồi, bọn mình đào hang bằng gì bây giờ? Batu bảo anh ta có cách: tháo đoạn nhỏ trên cây thông chẻ đôi ở đầu nhọn rồi ném vào trong hang cho đến khi đụng con thỏ, chậm rãi dúi sâu vào thân thỏ để kẹp lông, kẹp được rồi thì xoắn cho lông da thỏ cuộn chặt vào chàng nạng, cho đến khi không xoắn được nữa mới kéo dần ra từng tí một. Lát sau Batu đã lôi được con thỏ lên, mình chộp luôn hai tai.

Ba người đồng thanh khen: Cao thủ, đúng là cao thủ!

Cao Kiện Trung nói: Hồi nãy mình cũng phát hiện một con thỏ chui vào hang mà không làm sao lôi được nó lên. Hôm nay mình học được chiêu này. Các cậu nói đúng, mục dân hình như khôn hơn nông dân nhiều. ĐÚng là nghề nào nghiệp ấy, trước đây mình không hiểu người Trung Quốc kém ở điểm nào, nội bộ đấu đá quyết liệt, nhưng với bên ngoài thì chưa đánh đã thua. Một nước Trung Quốc lớn là thế mà để cho thằng Nhật Bản bé xíu chiếm đóng trong tám năm, nếu không có Liên Xô đưa quân sang, không có Mỹ ném bom nguyên tử, không biết Nhật Bản chiếm thêm bao nhiêu lần tám năm nữa. Nhật vừa mới bị đánh bại, vậy mà nghe tin trên đài, người ta đã trở thành cường quốc hạng nhất về kinh tế. Cái thằng cướp biển oắt con ấy chẳng phải tay vừa!

Ba người cùng cười.Trương Kế Nguyên nói: Đúng là gần đèn thì rạng, ngay cả Cao Kiện Trung cũng tán thành quan điểm của cậu.

Bốn người ngồi quanh bàn, ăn cháo kê, thịt cừu xào nấm và canh rau phi.

Dương Khắc bảo Trương Kế Nguyên: Cậu đi nhiều, thạo tin, kể chuyện binh đoàn cho chúng mình nghe đi!

Trương Kế Nguyên nói: Trụ sở mục trường ta bây giờ là Đoàn bộ, cán bộ đợt một đã về, nửa người Mông nửa người Hán. Việc thứ nhất sau khi xây dựng binh đoàn là diệt sói. Các cán bộ binh đoàn nghe nói sói cắn chết nhiều ngựa thì tức điên. Họ bảo ngày xưa bộ đội về thảo nguyên giúp dân tiễu phỉ, giờ công việc đầu tiên là giúp dân diệt sói, điều động quân hùng tướng mạnh vì dân trừ hại. Người ta có thiện chí, nhưng người già Mông Cổ thì có khổ mà không nói ra, nói về cái lợi của sói với binh sĩ xuất thân nông dân chẳng khác đàn gảy tai trâu! Lúc này lông sói đã mọc dày, bộ da bán được tiền, lương cán bộ binh đoàn không cao, tham mưu cán sự lương tháng chỉ sáu bảy chục tệ, một bộ da sói bán được hai mươi tệ, lại còn khen thưởng biểu dương, các cán bộ sư đoàn, binh đoàn đều phấn chấn.

Dương Khắc thở dài, nói: Sói thảo nguyên Mông Cổ là những anh hùng mạt lộ, vang bóng một thời, hãy chuồn sang Ngoại Mông mau!

Chương 31

Lý Uyên xuất thân quý tộc, mẹ là con gái Độc Cô, chị em với Hoàng hậu Tuỳ Văn Đế.

Trương Truyền Tỉ “Trung Quốc cổ đại sử cương”

Nếu như bàn về mẫu hê, người sáng lập và là quân chủ thời kỳ đầu nhà Đường như Cao Tổ (Đường Cao Tổ Lý Uyên - người dẫn chú), mẹ là Độc cô thị, Đường Thái Tôn (Đường Thái Tôn Lý Thế Dân- người dẫn chú), mẹ là Đậu Thị, tức Hột Đậu Lăng Thị, Cao Tôn (Đường Cao Tôn Lý Trị), mẹ là Trường Tôn Thị, đều loài Hồ, không phải tộc Hán. Do vậy hoàng thất Lý Đường có sự pha trộn, con cháu của tộc Hồ

Trần Tân Lạc “Đường đại chính trị sử thuật luận cương”

Sáng tinh mơ, hai chiếc xe gíp mui trần đỗ cách lều bạt Trần Trận không xa. Sói con trông thấy hai con vật khổng lồ, lại ngửi thấy mùi lạ hoắc, sợ quá chui tụt vào hang. Chó lớn chó bé xông ra vây quanh hai chiếc xe mà sủa. Trần Trận và Dương Khắc vội từ trong lều chạy ra nạt chó, đuổi chúng dạt ra.

Cửa xe mở, Bao Thuận Quý dẫn bốn quân nhân đi thẳng tới chuồng sói. Trần Trận, Dương Khắc và Cao Kiện Trung không hiểu sẽ xảy ra chuyện gì, vội đi theo. Trần Trận cố trấn tĩnh, chào hỏi: Chào ông Chủ nhiệm, ông lại đưa người đến xem sói?

Bao Thuận Quý cười mỉm, nói: Nào, tôi giới thiệu trước- Ông ta trỏ hai sĩ quan tuổi chừng ba mươi- Hai vị là cán bộ tiền trạm của binh đoàn. Vị này là Tham mưu trưởng Từ, vị này là tham mưu Bathơ. Lại trỏ hai lái xe, đây là lão Lưu, đây là cậu Vương. Tất cả rồi sẽ định cư ở đây. Đoàn bộ xây xong nhà, các vị sẽ đón gia quyến lên. Lần này Đoàn bộ cử các vị về đội giúp ta diệt sói.

Trần Trận tim đập như tim sói đang chạy trốn. Cậu bước tới bắt tay mấy người rồi theo phong tục địa phương, mời mọi người vào trong lều uống trà.

Bao Thuận Quý nói: Thôi, xem con sói đã. Gọi nó ra đi, hai vị này đến đây là để xem nó.

Trần Trận cười: Các vị thích nó thế cơ à?

Tham mưu Từ giọng Thiểm Tây ôn tồn trả lời: Ở đây sói phá dữ, thủ trưởng sư và trung đoàn cử bọn tôi về diệt. Hôm qua trung đoàn phó Lý đã xuống đội. Bọn tôi chưa nhìn thấy sói bao giờ nên Chủ nhiệm Bao đưa về đây xem con sói của các cậu.

Tham mưu Bathơ nói giọng đông bắc: Nghe anh Bao nói, các cậu nghiên cứu rất sâu về sói cả hai mặt diệt và bắt sói con, lại còn nuôi hẳn một con để tìm hiểu tính nết sói. Đúng là có gan lại hiểu biết, bọn tôi diệt sói phải nhờ các cậu giúp một tay.

Hai vị tham mưu tỏ ra hoà nhã, không làm bộ làm tịch. Trần Trận thấy họ không đến giết sói con thì hơi yên tâm, cậu ấp úng: Tìm hiểu về sói thì nhiều chuyện lắm, nói mấy ngày đêm cũng không hết. Lát nữa các vị đứng xa cái chuồng vài bước, đừng có lại gần, con sói thấy người lạ là cắn. Hôm nọ một vị cán bộ trên Minh (huyện) suýt bị nó cắn đấy.

Trần Trận vào trong lều lấy ra hai miếng thịt, lại xách theo một cái thớt, lẳng lặng đến bên miệng hang đặt cái thớt xuống, gọi: Sói con ra ăn cơm!

Con sói chui lên vồ luôn miếng thịt. Trần Trận dùng chân gạt cái thớt che miệng hang rồi chạy luôn ra ngoài chuồng. Thường ngày cho sói ăn vào sáng và chiều. Cho ăn vào lúc tinh mơ thế này thì chưa lần nào. Sói con mừng ra mặt, ăn ngấu nghiến. Bao Thuận Quý và các vị khách vội lùi mấy bước.

Trần Trận ra hiệu bốn năm người nhích lên cách chuồng một mét, ngồi xuống thành hình cánh cung. Sói con thấy đông người, lắm mùi lạ thì không dám nhảy xổ ra cắn như mọi ngày, nó cụp đuôi rúm người lại, ngoạm miếng thịt ra tận góc xa đặt xuống, quay lại lấy nốt miếng thứ hai. Nó xù lông, tranh thủ ăn như ăn cướp, rất bất mãn vì có nhiều người đến phá bĩnh Vừa ăn được hai miếng nó trở mặt, nhe răng gầm gừ, rồi nhảy xổ vào các vị khách, động tác nhanh, thái độ hung dữ, khiến khách bị bất ngờ, có một vị ngã bổ chửng. Sói con bị cái xích giật lại chỉ cách các vị khách chừng một mét.

Tham mưu Bathơ ngồi xếp bằng tròn, phủi đất trên tay, nói: Ghê thật, ghê thật! Dữ hơn bécgiê của quân khu, không có xích thì đã bị nó ngoạm phải.

Tham mưu Từ nói: Đẻ năm nay mà to gần bằng sói lớn. Bác Bao dẫn bọn tôi đến xem con sói quả đúng sách. Tôi giờ đây đang có cảm giác trận mạc- Lại nói với tham mưu Bathơ- Động tác của sói đột ngột và kín đáo hơn béc-giê, xuất kích rất nhanh!

Tham mưu Bathơ gật đầu lia lịa. Sói con lỉnh về chỗ miếng thịt, vừa gầm gừ vừa ăn nhanh như chớp.

Hai vị tham mưu còn dùng tay ước lượng tỉ lệ giữa đầu và thân con sói, xem xét cẩn thận bộ lông, nhất trí cho rằng bắn vào đầu hoặc vào ức thì tốt nhất, chỉ một phát là hạ gục, lại không hỏng bộ da.

Hai vị tham mưu quan sát rất có nghề. Bao Thuận Quý hỉ hả, nói: Toàn thể mục dân và phần lớn thanh niên trí thức phản đối nuôi sói, nhưng tôi cứ để các cậu này nuôi. Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng. Hè vừa rồi tôi đã đưa mấy toán cán bộ về đây. Là người Hán càng phải xem, người sợ sói càng phải xem. Họ bảo con này đẹp hơn sói ở vườn thú. Còn bảo lên thảo nguyên Mông Cổ tận mắt xem sói thảo nguyên, cơ hội ngàn năm có một. Cả Nội Mông không có con thứ hai. Sau này thủ trưởng Đoàn xuống thị sát liên đội, tôi sẽ dẫn các vị về đây để hiểu hơn về loài sói Mông Cổ nổi tiếng này.

Hai vị tham mưu đều nói: Các thủ trưởng nghe chuyện chắc chắn đến xem. Tham mưu Từ còn dặn Trần Trận: Phải thường xuyên kiểm tra xích và cái cọc.

Bao Thuận Quý xem đồng hồ, bảo Trần Trận: Nói chuyện chính nhé. Hôm nay đến sớm, một là xem con sói, hai là một người trong hai cậu giúp chúng tôi đi bắn sói. Hai vị tham mưu xuất thân kỵ binh, là xạ thủ ngoại hạng của quân khu. Thủ trưởng binh đoàn đặc cách điều hai vị về đây giúp diệt sói. Hôm qua trên đường đi, tham mưu trưởng bắn hạ một con chim ưng bay cao chỉ còn bằng hạt đỗ, chỉ một phát! Nào, ai trong các cậu đi cùng bọn tôi?

Trần Trận tim đau nhói. Lần này thảo nguyên Ơlôn gặp khắc tinh rồi. Cùng với bùng nổ dân số ở khu vực nông canh, xe gíp quân sự cộng với xạ thủ ngoại hạng đã về vùng biên. Trần Trận nhăn nhó: Mã quan biết rõ tập tính sói hơn bọn tôi, các vị nên chấm họ làm hướng đạo.

Bao Thuận Quý nói: Mã quan già không mời được, mã quan trẻ không dùng được, những mã quan có kinh nghiệm đều theo đàn ngựa lên núi, ngựa không thể vắng người trông. Hôm nay một trong hai cậu phải đi. Hai vị tham mưu không phải lúc nào cũng về được. Lần sau thì không cần các cậu nữa.

Trần Trận nói: Sao ông không gặp Đanchi, anh ấy nổi tiếng về săn bắn.

Bao Thuận Quý nói: Đanchi đã được Phó Đoàn Lý gọi đi rồi. Phó Đoàn Lý là xạ thủ có hạng, nói đến sói là cơn nghiện nổi điên. Người ta ngồi xe mui trần về nữa kia. Đứng trên xe mui trần mà bắn sướng hơn trên xe gíp mui bạt nhiều. Bao Thuận Quý nhìn đồng hồ nói: Đừng mất thì giờ nữa, đi thôi!

Trần Trận thấy thoái thác không xong, bảo Dương Khắc: Cậu đi!

Dương Khắc nói: Mình không hiểu sói bằng cậu. Cậu đi!

Bao Thuận Quý sốt ruột: Tôi chỉ định cậu Trận đi. Cậu đừng có thoái thác. Nếu cậu nưong nhẹ sói như ông Pilich để bọn tôi trở về tay không là tôi bắn chết con sói của cậu. Đừng dài dòng nữa, đi mau!

Trần Trận tái mặt, tự nhiên dịch người che cho con sói, nói: Thôi được, để cháu đi.

Hai xe gíp phóng như bay về hướng tây, kéo theo hai làn bụi khổng lồ.

Nắng đầu thu khiến Trần Trận nheo mắt. Cậu ngồi bên ghế phụ, gió mạnh đến nỗi không đội nổi mũ đơn. Phóng ngựa nhanh đến mấy cũng không ngộp thở như thế này. Hai xe gíp còn mới, tỉ lệ hao mòn 80%, ít tạp âm, quay xe dễ, máy khoẻ, hai lái xe đều là có thâm niên, nhiều kinh nghiệm việt dã, xe chạy nhanh và ổn định, chạy trên đồi núi mấp mô mà như trên đất bằng.

Trần Trận đã hai năm không ngồi xe gíp. Nếu như cậu không mê sói, nếu như cậu còn là một tay mơ trước thảo nguyên, nếu như cậu không được thảo nguyên và sói thảo nguyên dạy bảo hơn hai năm, hẳn cậu vui sướng lắm về ân sủng này. Ngồi trên xe gíp chạy như bay như biến trên đại thảo nguyên, truy sát sói thảo nguyên Mông Cổ, quả thật là một hưởng thụ, một khoái cảm, mê hơn nhiều so với quý tộc Anh quốc thổi tù và phóng ngựa săn cáo, so với quý tộc Nga săn gấu trong rừng sâu, so với quý tộc hoàng thất Mãn Mông huy động hàng vạn kỵ binh vây bắt con mồi. Nhưng lúc này Trần Trận thực tình muôn xe bị pan, cậu cảm thấy mình là tên phản bội, dẫn lính đi bắt bạn mình. Bao Thuận Quý thừa biết tình cảm của cậu đối với sói, vì vậy cậu không biết hôm nay phải làm gì để vừa giữ được mạng cho sói con, vừa an toàn cho đàn sói?

Phong trào diệt sói của binh đoàn đã triển khai trên địa bàn mênh mông của sư đoàn. Quân đoàn sói cuối cùng theo phiên chế viễn cổ trên đại thảo nguyên Mông Cổ vẫn duy trì chiến lược chiến thuật từ thời Hung Nô, Đột Quyết, Tiên Ty, Thành Cát Tư Hãn, sắp bị binh đoàn hiện đại hoá bao vây tiêu diệt. Hơn nữa, còn bị gánh chịu những lời chửi rủa cay đọc, những chuyện vu oan giá hoạ phũ phàng, bị xổ toẹt mọi ảnh hưởng và công lao, bị những kẻ thừa hưởng ân huệ của mình đuổi mình ra khỏi nước, ra khỏi vũ đài lịch sử. Nỗi buồn của Trần Trận chỉ có ông già Pilich và những người thờ tôtem sói trên thảo nguyên, chỉ hai người bạn trong túp lều Mông Cổ của cậu hiểu cho cậu. Cậu buồn vì cậu đi trước thiên hạ xa quá, lùi về viễn cổ sâu quá!

Thảo nguyên Ơlôn cách năm dặm đã không cùng gió, mười dặm đã không cùng mưa. Chiếc xe gíp chạy trên đường đất ẩm ướt, gió thu ào ào khiến đầu óc Trần Trận tỉnh táo. Cậu tính bất kể trường hợp nào cũng chỉ cho họ nhìn thấy sói chứ không thể hạ sát, nếu vậy phải là nơi sói dễ lẩn trốn.

Trần Trận ngoảnh lại bảo Bao Thuận Quý: Cháu biết chỗ có sói nhưng rất dốc và nhiều lau sậy, xe không chạy được.

Bao Thuận Quý trợn mắt: Cậu đừng có bịp tôi. Lúc này bãi sậy nhiều muỗi nhất, sói ở đấy sao được? Tôi săn sói đã hơn nửa năm, chuyện ấy sao không biết.

Trần Trận chống chế: ý cháu nói là… không thể vào bãi sậy, chỉ có thể đến vùng cát hoặc nơi có những con dốc thoai thoải.

Bao Thuận Quý hỏi dồn: Vùng cát sau khi xảy ra sự cố, đàn sói đã bị mã quan đuổi sạch. Hôm qua bọn tôi đã lượn vài vòng không gặp con sói nào. Tôi thấy hôm nay cậu không chịu trổ tài. Cậu nghe tôi nói rồi đấy, tôi nói một là một hai là hai! Hôm qua cả ngày trời không được con nào, bọn tôi đang bực mình đây.

Bao Thuận Quý rít một hơi thuốc thổi vào gáy Trần Trận.

Trần Trận biết khó mà lung lạc con người từ cơ sở ngoi lên này, bèn nói: Cháu biết có một trảng cát ở mạn tây bắc Sacanôla, là nơi đầu gió, nhiều cát ít cỏ, chuột và chuột hôi rất nhiều, rái cá cạn cũng lắm. Không bắt được ngựa, đàn sói lên đó bắt chuột, bắt rái cá.

Trần Trận quyết định dẫn họ lên trảng cỏ cằn cỗi nửa cát nửa cỏ tận phía tây bắc mục trường. Bãi chăn ấy tốt nhưng rất gần đường biên, xưa nay chưa mã quan nào dám lên. Trần Trận hi vọng nhìn thấy họ là sói đã kịp chạy lên đường biên.

Bao Thuận Quý đắn đo một lát, chợt mỉm cười, nói: Đúng rồi, đó là nơi có sói. Sao mình lại không nghĩ ra nhỉ? Lão Lưu, cho xe rẽ hướng bắc, hôm nay không đi đâu hết, chỉ đến đó. Chạy nhanh vào!

Trần Trận bổ sung: Săn sói phải đi bộ, xe gíp ồn quá, chỉ sợ sói chạy hết vào trảng cỏ. Năm nay mưa nhiều, cỏ mọc cao, sói để nấp.

Tham mưu Từ nói: Cậu để tôi trông thấy sói là được, chuyện sau đó không cần quan tâm.

Trần Trận cảm thấy có thể cậu phạm sai lầm lớn.

Xe gíp men theo con đường bốn mùa di chuyển bãi chăn, chạy hết tốc lực về phía tây bắc. Bãi cỏ xuân cho cừu đẻ con bị gặm cụt gốc, nay sang thu đã cao trên hai thước, thân cỏ ken dày, dập dềnh trước gió như sóng biển; những bông cúc vàng rung rinh, những vạt cỏ dinh dưỡng cao toả mùi hương hấp dẫn; vài con chim én đuổi theo xe đớp đám côn trùng bay vù lên. Chim én bị ô tô bỏ lại phía sau, nhưng phía trước xe lại hiện ra những con khác, chúng vẽ những đường parapôn phía trên xe.

Trần Trận ngốn mùi thơm của hoa cỏ mùa thu. Trước mắt có thể là bãi đỡ đẻ cho cừu vào năm tới, là dương quan, cậu rất quan tâm đến tình hình mọc cỏ ở đây. Thu nhập hàng năm của mục trường, 70% dựa vào tiền bán len và cừu sống. Bãi đỡ đẻ là bãi vàng, là sinh mạng của mục trường. Trần Trận nhìn kỹ hai bên đường, cỏ mọc đẹp như có người chăm sóc, phẳng như ruộng lúa mạch. Từ khi đại đội chuyển vào bãi chăn mới, chỗ này không thấy có người dựng lều bạt. Trần Trận cảm ơn đàn sói và các mã quan, nếu như không có đàn sói, bãi cỏ thơm mê mẩn này sẽ biếu không cho dê vàng, thỏ đồng và chuột thảo nguyên. Suốt mùa hè, đàn sói không cho những cao thủ giành giật cỏ non nói trên đạt mục đích.

Mỗi bãi chăn xanh tốt mà Trần Trận nhìn thấy đều là công lao của các mã quan. Chính họ không quản ngày đêm, bất chấp nắng mưa chặn đứng đàn ngựa tham lam, khoanh chúng trên núi cho ăn cỏ loại hai hoặc ăn thừa cỏ của bò cừu, dứt khoát không cho chúng ăn cỏ ở bãi cừu đẻ. Những dân tộc sống trên lưng ngựa rất yêu ngựa, coi ngựa như sinh mạng. Nhưng khi chăn thả, họ coi ngựa như đạo tặc hoặc như châu chấu để đề phòng. Nếu không có các mã quan, bãi cỏ quý như mạng người này sẽ chỉ còn lại những bãi phân ngựa tiêu hoá không hết, những đám cỏ chết khô vì nước đái ngựa. Thế nhưng, những cán bộ binh đoàn đến từ vùng nông nghiệp làm sao hiểu nổi những ảo diệu của thảo nguyên và nghề chăn thả?

Xe chạy như bay, nhưng không cuốn theo bụi vàng nữa. Được nghỉ ngơi cả mùa hè, con đường đất cổ lỗ được phủ lên một lớp cỏ non mảnh mai. Du mục là luân canh. Cho lớp cỏ mỏng manh ấy xây xát nhẹ rồi bón bằng phân bò phân cừu. Hàng ngàn năm nay, dân tộc thảo nguyên áp dụng phương pháp sản xuất tối nguyên thuỷ và cũng rất khoa học này để bảo vệ thảo nguyên Mông Cổ. Trần Trận nghĩ một lúc, rồi không đừng được, cậu nói với Tham mưu trưởng Từ: Ông xem, đồng cỏ này được bảo vệ rất tốt. Mùa xuân năm nay đại đội nhân mã kéo đến chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu thì cũng là lúc mấy vạn con dê vàng từ Ngoại Mông kéo về. Mọi người dùng súng đuổi không đi, ban ngày đi, tối trở lại giành giật cỏ với cừu non, cừu mẹ. Sau đó may mà có đàn sói, chỉ ít ngày đã đuổi sạch dê vàng. Thảo nguyên mà không có sói, cừu mẹ không có cỏ, cừu non không có sữa, hàng vạn cừu non sẽ chết đói. Chăn nuôi không như trồng trọt. Trồng trọt mất mùa chỉ một năm, còn chăn nuôi thì bảy tám năm, thậm chí thu thập cả đời cũng không bù nổi. Tham mưu trưởng Từ gật đầu, cặp mắt chim ưng tiếp tục sục sạo các xó xỉnh. Ông ta nói: Diệt dê vàng mà phải nhờ sói? Quá lạc hậu! Súng và lỗi bắn của mục dân không ổn, lại không có ô tô. Để mùa xuân sang năm chúng tôi tiến hành cho các vị xem, chúng tôi dùng tiểu liên, trung liên thì mấy vạn dê vàng cũng không sợ. Hồi tôi ở miền tây Nội Mông có săn dê vàng. Săn dê vàng tốt nhất là vào ban đêm, bật đèn pha, dê vàng sợ bóng tối, tập trung hết về phía ánh sang trước mũi xe, thế là vừa cho xe chạy vừa lia, một đêm hạ gục mấy trăm con. Đây có dê vàng thì hay rồi. Chúng đến càng nhiều càng tốt, như vậy sư đoàn bộ và nông nghiệp đoàn có thịt ăn.

Kìa! Bao Thuận Quý khẽ kêu, trỏ phía bên trái. Trần Trận dùng ống nhòm, vội bảo đó là con cáo lớn, đuổi theo mau! Bao Thuận Quý tỏ vẻ thất vọng, nói: Cáo thì đừng đuổi. Quay lại nói với Tham mưu trưởng: Đừng bắn, đừng bắn! Sói rất thính tai, chúng giật mình bỏ chạy là chuyến đi công cố.

Tham mưu Từ ngồi xuống, mặt mày tươi tỉnh, nói: Hôm nay hên rồi, đã gặp cáo thì thế nào cũng gặp sói.

Xe gíp càng gần bãi chăn, động vật trên sườn núi và trong trảng cỏ càng nhiều, hơn nữa đều có đuôi “sa mạc” ở sau: én sa mạc, gà sa mạc, cáo sa mạc. Gà sa mạc có cánh nâu nhiều nhất, hàng đàn, vỗ cánh rào rào. Trần Trận trỏ một con đèo thấp xa xa, nói: Qua con đèo kia là tới vùng cát. Những người già bảo, vùng cát xưa kia vốn là vùng cỏ, còn có cả một con suối. Cách đây mấy chục năm, vùng Ơlôn bị đại hạn, hồ cạn, sông biến mất dòng chảy, giếng khô, nhưng một giếng thiên nhiên có nước. Khi đó, tất cả những đàn cừu đàn bò đàn ngựa đều đến uống nước ở mắt giếng này, từ sáng đến đêm, từng đàn gia súc xếp hàng uống nước. May mà mắt giếng không cạn, đồng cỏ hồi phục dần, nhưng phải mấy chục năm mới lai như xưa. Thảo nguyên èo ợt lắm, gia súc tăng quá mức một tí là biến thành sa mạc.

Một đàn chuột thảo nguyên kêu chí chí chạy tán loạn ngay trước bánh xe. Trần Trận trỏ thảo nguyên nói: Sức tải gia súc phải tính cả chuột trong đó. Chuột thảo nguyên huỷ hoại cỏ nhiều hơn gia súc, mà sói có công lớn trong việc giảm nhẹ sức tải của thảo nguyên. Lát nữa các ông bắn được sói, cháu mổ bụng nó cho các ông xem, mùa này trong bụng sói quá nửa là thịt chuột và chuột đồng.

Tham mưu Từ nói: Tôi chưa nghe nói sói ăn chuột bao giờ. Chó bắt chuột mà còn coi là chuyện trái khoáy nữa là sói.

Trần Trận nói: Sói con rất thích ăn thịt chuột, ăn cả đuôi. Thảo nguyên Ơlôn không bao giờ có dịch hạch, chính là vì chúng tôi không giết hết sói. Các vị giết hết sói, chuột sẽ hoành hành, thảo nguyên Ơlôn sẽ phát sinh bệnh dịch...

Bao Thuận Quý ngắt lời: Tập trung tư tưởng, quan sát kỹ!

o0o

Xe tới gần mỏm núi. Tham mưu Từ tỏ ra căng thẳng. Ông ta xem xét địa hình, rồi kiên quyết cho xe rẽ sang hướng tây, nói: Nếu trảng cát có sói thì không thể xộc thẳng vào, mà phải triệt trạm gác lưu động trước.

Ô tô chạy vào một khe núi dọc theo hướng đông tây, đường đi ngày càng chật, bên trái là núi, bên phải là trảng cát. Tham mưu Từ dùng ống nhòm phóng đại lớn sục sạo các bụi cỏ hai bên, chợt nói khẽ: Dốc bên trái có hai con sói! Rồi ra hiệu báo tin cho xe sau. Trần Trận cũng trông thấy hai con sói đang chạy chậm theo hướng tây, cách ba bốn dặm.

Tham mưu Tự bảo tài Lưu: Đừng xộc thẳng vào, cứ chạy theo đường núi cùng chiều với chúng, giữ nguyên tốc độ cũ để bắn vào ức.

Lão Lưu đáp gọn một tiếng: Rõ! Rồi cho xe chạy cùng hướng với sói và tăng dần tốc độ.

Trần Trận chợt nhận ra vị xạ thủ đặc biệt này rất có kinh nghiệm thực tiễn. Xe chạy kiểu này vừa rút ngắn được khoảng cách, vừa làm cho sói lầm tưởng là xe qua đường, không săn đuổi chúng. Xe tuần tra đường biên kỷ luật rất nghiêm, để bảo đảm yếu tố kín đáo bất ngờ, cấm nổ súng nếu không phải trường hợp đặc biệt. Cho nên sói thảo nguyên Ơlôn không sợ khi gặp xe gíp. Lúc này xe chạy trên cỏ thấp, phía dưới là cát ẩm nên tiếng động không lớn, hai con sói vẫn chạy thủng thẳng, đôi lúc chúng dừng lại nhìn xe rồi mới chạy tiếp về phía tây, nhưng đường chạy đã bắt đầu chếch so với đường dọc theo chân núi. Trần Trận đoán ra ý đồ của sói: Nếu xe vẫn chạy theo chân núi thì chỉ là xe qua đường, sói vẫn chạy theo đường cũ và nới lỏng giám sát; nhưng nếu xe xộc thẳng vào thì chúng lập tức tăng tốc, vọt qua mỏm núi và biến mất, đừng hòng thấy lại chúng.

Hai con sói chạy rất đúng bài bản. Sói Ơlôn biết tầm bắn có hiệu quả của súng săn. Ngoài tầm bắn, sói còn cố ý trêu chọc, thậm chí còn dụ người đi săn vào nơi nguy hiểm, xe dễ lật. Nếu gần đó có họ hàng, chúng sẽ dụ anh rẽ sang đường khác để sói bị đuổi thoát hiểm. Trận Trận thấy sói không tăng tốc thì lo, dự cảm có chuyện chẳng lành. Xe này không phải xe tuần tra biên phòng, chỉ là xe đi săn, trên xe có hai xạ thủ đặc biệt mà sói thảo nguyên chưa bao giờ gặp, họ có thể bắn trúng ở tầm bắn mà mục dân cho là không hiệu quả.

Dần dà chiếc xe gíp chạy song song với hai con sói, khoảng cách từ một nghìn năm trăm mét rút ngắn chỉ còn bảy tám trăm mét. Hai con sói hình như hơi căng thẳng, lặng lẽ tăng tốc. Nhưng chiếc xe chạy bon bon quả thật làm hai con sói mê mẩn, mất sự cảnh giác cần thiết. Trần Trận thậm chí ngờ rằng chúng đang cố ý thu hút và làm chậm tốc độ của xe. Lúc này, hai vị xạ thủ đã gác nòng súng ra phía ngoài chuẩn bị bắn. Tim Trần Trận như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, cậu dán mắt vào các động tác của Tham mưu Từ, hi vọng đúng lúc lẩy cò thì xe dừng lại, có thể hai con sói sẽ thoát chết.

Cuối cùng, xe chạy song song với hai con sói, khoảng cách chừng bốn năm trăm mét. Hai con sói bỗng dừng chạy liếc sang xe, chắc chúng đã trông thấy súng, thế là đột nhiên tăng tốc, con trước con sau nhằm mỏm núi chạy chéo lên. Cùng lúc, hai tiếng súng nổ vang “pằng”, “pằng”, hai con sói đồng thời ngã xuống. Bao Thuận Quý reo lên: Bắn giỏi quá! Giỏi như thần! Trần Trận toát mồ hôi lạnh- xe lắc lư mà hai phát trúng cả hai thì quả thật cậu và sói thảo nguyên không tưởng tượng nổi.

Hai xạ thủ ngoại hạng chỉ coi đó là rượu khai vị. Hứng lên, Tham mưu Từ lệnh cho tài xế Lưu chạy nhanh vào trảng cát, ông ta giục: Mau lên! Rồi dùng hai tay ra hiệu cho xe sau phối hợp bao vây gọng kìm. Hai chiếc xe mở hết tốc lực rời con đường chạy lên mỏm núi bên phải.

Tài Lưu theo sự chỉ dẫn của Tham mưu Từ vượt một mỏm núi, chạy xuống một trảng cát rộng, rồi chiếm nhanh một cao điểm. Tham mưu trưởng Từ chống tay đứng dậy nhìn lướt trảng cát thấy hai đàn sói đang chạy hai ngả theo hướng tây bắc và chính bắc. Trần Trận nhìn qua ống nhòm, đàn chính bắc có bốn năm con tương đối lớn; đàn tây bắc có bảy tám con, trừ ba con tương đối lớn, số còn lại tương đối nhỏ, là sói mới sinh hồi đầu năm. Tham mưu Từ bảo tài Lưu: Đuổi đàn chính bắc! Rồi ra hiệu cho xe sau chạy hướng tây bắc. Hai xe chia nhau chạy hai ngả.

Cánh đồng bằng phẳng nửa cát nửa cỏ là chiến trường lý tưởng cho xe gíp quân sự phóng hết tốc độ. Tài Lưu nói to: Đề nghị nắm chắc tay vịn, tôi không dùng súng, tôi sẽ chẹt chết vài con!

Xe phóng nhanh như bay, trong đầu Trần Trận loé lên cụm từ “tốc độ tử vong”. Trên thảo nguyên , chỉ dê vàng mới có tốc độ này, ngựa chiến, sói hoang có chạy nhanh hơn cũng không bằng. Xe gíp phóng về phía đàn sói với tốc độ tử thần, đuổi theo 20 phút liền, đàn sói từ bằng hạt vừng to dần lên bằng hạt đậu xanh, rồi bằng hạt đậu nành. Nhưng Tham mưu Từ vẫn chưa nổ súng. Trần Trận nghĩ, vị tham mưu trưởng này có thể bắn rớt chim ưng bằng hạt đậu xanh, sao bây giờ vẫn chưa động thủ?

Bao Thuận Quý hỏi: Nổ súng được chưa?

Tham mưu Từ nói: Xa thế này, nổ súng là chúng chạy tản mát. Gần chút nữa có thể bắn được hai con mà không hỏng bộ da.

Tài Lưu phấn khởi, nói: Hôm nay mỗi người được chia một bộ da lớn thì tốt quá.

Tham mưu Từ nẹt: Chú ý tay lái, lật xe là làm mồi cho sói.

Tài Lưu không nói gì, tiếp tục tăng tốc, chiếc xe gíp băng lên. Nhưng vừa vượt một đụn cát, một bộ xương bò đồ sộ sừng sững chắn ngang như vật cản kỵ binh trên chiến trường xưa, đàn sói có thể phi thân vượt qua, nhưng xe gíp thì không thể. Tài Lưu giật mình quặt mạnh tay lái xe ngoặt gấp về bên trái, hai bánh bên phải bốc khỏi mặt đất, suýt lật. Người trên xe nhổm hết dậy, thiếu chút văng ra ngoài. Ai nấy sợ tái mặt. Trần Trận sợ khiếp vía khi thân xe quẹt ngang bộ xương, khi đã lấy lại thăng bằng mà cậu vẫn không hết run. Cậu hiểu bọn sói bắt đầu lợi dụng địa hình để rút lui. Chỉ một mẹo nhỏ, thiếu chút cả xe lẫn người đi tong. Bao Thuận Quý mặt trắng nhợt, hét: Chạy chậm lại! Tài Lưu vuốt mồ hôi trán, xe chậm lại tí chút, đàn sói lại bứt xa hơn. Tham mưu Từ trái lại, giục: Tăng tốc! Xe chạy vừa tốc độ như ý muốn, trước mặt đã hiện ra những khóm cỏ rối bời. Trần Trận từng chăn cừu ở đây nên rất có ấn tượng về địa hình, cậu hét to: Trước mặt là đầm lầy, toàn những mô đất lởm chởm rất dễ lật xe, giảm tốc ngay!

Nhưng Tham mưu Từ không thèm để ý lời Trần Trận, hai tay bấu tay vịn, ngả người nhìn phía trước, luôn miệng giục: Tăng tốc! Tăng tốc! Chân ga đã đạp hết cỡ, chiếc xe lao lên như điên, bốn bánh gần như không chạm đất, Trần Trận bám chắc tay vịn, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo.

Trần Trận hiểu đàn sói lợi dụng rất khéo địa hình, đang giở ngón cuối cùng để thoát hiểm. Chúng sẽ ào xuống đầm lầy là xe không thể đuổi theo được nữa. Tài Lưu chửi thề: Lũ sói lưu manh chạy vào cái nơi chết tiệt này!

Tham mưu Từ lạnh lùng, bảo: Đừng cuống. Đây không phải diễn tập, đây là thực tiễn chiến đấu.

Đuổi thêm bảy tám dặm nữa, có lẽ đã tới đầm lầy, ở đó những thân cỏ cứng dựng tua tủa, nhưng lúc này xe gíp đã vào tới tầm bắn của xạ thủ du mục.Tham mưu Từ quát: Lướt trái! Tài Lưu đánh khẽ tay lái, chiếc xe như một chiến hạm quay ngang, đàn sói phơi trước mũi súng tham mưu Từ. “Pằng!”, một sói lớn trong đàn ngã gục, viên đạn bắn trúng đầu; “pằng!” một phát nữa bắn đi, con sói thứ hai dính đạn cắm đầu xuống đất. Cùng lúc, đàn sói ào ào nhảy xuống đầm lẩn trong những bụi cỏ rậm, không còn trông rõ để nổ súng. Đàn sói chạy khuất trong cỏ về phía đường biên, mất hút. Tiếng súng phía tây bắc cũng đã ngừng. Chiếc xe gíp dừng lại ở chỗ chân dốc giáp đầm lầy.

Tham mưu Từ lau mồ hôi, nói: Sói ở đây rất ranh ma, nếu không, có thể được mấy con nữa.

Bao Thuận Quý giơ cả hai ngón tay cái, biểu dương: Đã quá! Chưa đầy 30 phút hạ ba sói lớn. Nửa năm nay tôi chưa bắn được con nào.

Tham mưu Từ vẫn đang hào hứng, nói: Địa hình nơi này khá phức tạp, rất tốt cho sói đánh du kích, chả trách không thanh toán được nạn sói.

Xe gíp chạy chậm tới gần con sói bị bắn chết. Cón sói thứ hai bị bắn giữa ức, máu thấm đẫm cỏ. Bao Thuận Quý và Tài Lưu khênh con sói đến sau xe, Tài Lưu đá con sói một cái, nói: Nặng thật, đủ cho mười người ăn một bữa thả cửa. Anh ta mở cốp sau lôi ra tấm vải bạt đem trải lên ghế sau. Lại lấy ra hai cái tải, nhét mỗi tải một con, rồi nhét tất cả vào cốp, nắp không cài lên được, trở thành cái “bàn treo”, hẳn tài Lưu dành chỗ cho con thứ hai.

Trần Trận rất muốn mổ bụng con sói cho mấy vị quân nhân này xem, nhưng thấy họ không có ý lột da tại chỗ, bèn hỏi: Các ông dám ăn thịt sói? Thịt sói chua, mục dân ở đây không ăn.

Tài Lưu nói: Nói bậy thịt sói không chua tí nào. Tôi ăn ở quê mấy bận rồi, thịt sói ngon hơn thịt chó. Con sói này béo đây. Làm thịt sói giống như làm thịt chó, xối nước lã một ngày cho hết mùi hoi, sau đó ướp nhiều tỏi ớt, rồi nấu xáo, thơm lừng. Quê tôi, nhà nào nấu xáo thịt sói là cả thôn đều biết, tranh nhau đòi ăn, nói là ăn thịt sói can đảm hẳn lên. Trần Trận hỏi, ngụ ý cay độc: Mục dân ở đây có tục thiên táng, người chết được người nhà chở đến bãi thiên táng cho sói ăn thịt. Con sói nào đã ăn thịt người, các ông có dám ăn không?

Tài Lưu tỉnh khô: Chuyện này tôi biết. Không ăn bao tử và ruột non ruột già là được. Chó ăn phân người, vậy thịt chó có bẩn không? Phân người tưới rau, vậy rau có bẩn không? Người Hán chúng ta thích ăn thịt chó, thích rau xanh, đúng không? Binh đoàn bao nhiêu là người, thịt cừu ăn theo định lượng, lên thảo nguyên chưa được miếng thịt nào, thèm chết được. Mấy con này về Đoàn bộ đâu đã đủ chia? Đúng là sói ít cừu nhiều!- Lão cười hềnh hệch.

Tham mưu Từ cũng cười thoải mái: Khi tôi về đây, Sư bộ đã giao chỉ tiêu, tối nay phải đem thịt lên nộp. Người ta bảo ăn thịt sói chữa được bệnh hen, mấy ông bệnh nặng đã đăng ký, tôi sắp thành bác sĩ điều trị rồi. Săn sói là một công việc dễ chịu, một là trừ hại, hai là mình được bộ da, ba là trị bệnh cứu người, bốn là đáp ứng được lũ quỉ đói, một công bốn việc đấy chứ!

Trần Trận nghĩ, có mổ bụng sói ra thì cũng không ngăn được những người này bỏ ý định săn sói.

Tài Lưu đánh xe về chỗ bắn ngã con sói thứ nhất. Con sói đầu vỡ toác, đàn từ sau gáy ra phía trước, mặt nát bét, máu và óc vương vãi trên mặt đất. Trần Trận vội nhìn kỹ, rất may không phải sói chúa cổ trắng ức trắng, nhẹ cả người. Cậu khẳng định đây là con sói đầu đàn. Để bảo vệ cả đàn, nó dẫn đầu mấy con sói nhanh nhẹn đánh lạc hướng kẻ địch. Tiếc rằng nó chưa có kinh nghiệm và chưa chuẩn bị sẵn sàng đối phó với bọn diệt sói xe mới người mới vũ khí mới.

Bao Thuận Quý và Tài Lưu vặt nắm cỏ lau sạch máu và óc, cho con sói vào bao tải rồi khênh ra “bàn treo” sau xe buộc chặt. Tài Lưu xuýt xoa: Con này đúng bằng một con bê hai tuổi. Hai người lau tay bằng cỏ rồi cho xe chạy đến chỗ tham mưu Bathơ.

Hai xe gặp nhau thì dừng lại. Ghế sau Bathơ chất một bao tải căng phồng. Bathơ nói to: Bên này toàn những bụi liễu, xe không chạy được. Bắn ba phát mới được một sói con. Đàn này toàn sói cái và sói con, hình như một gia đình.

Tham mưu Từ thở dài: Sói ở đây cực kỳ ranh mãnh, sói đực dành đường tốt cho sói cái, sói con rút chạy.

Bao Thuận Quý reo to: Lại một con nữa, thắng to rồi. Hôm nay là ngày vui nhất sau một năm tôi về mục trường, đã quá! Đi, đến chỗ hai con sói ta uống một bữa tuý luý, tôi có đem theo rượu đây.

Trần Trận vội nhảy xuống xe đến xem con sói con. Cậu đến trước xe cởi dây buộc, thấy con sói con trong tải rất giống con sói cậu nuôi ở nhà, nhưng con này đầu to hơn. Cậu không ngờ sói con được cậu nuôi nuôi uống tốt như thế mà không lớn bằng con sói hoang, chưa đầy năm mà nó đã trưởng thành, tự săn bắt nuôi dưỡng bản thân... Thế mà cuộc sống của nó mới bắt đầu thì đã bị chết trước mũi súng của con người. Trần Trận đau xót xoa đầu con sói xấu số như đối với sói con ở nhà. Để bảo vệ sói con, một con sói tự do đã mất mạng.

Hai chiếc xe gíp chạy về phía nam. Trần Trận mặt buồn rười rượi ngoảnh nhìn đồng cỏ vùng biên. Con sói đầu đàn và bộ phận chủ lực đã bị diệt, có lẽ chúng chưa bao giờ bị giáng một đòn chí mạng nhanh đến thế. Những con chạy thoát chắc chắn không quay lại. Nhưng đàn sói mất thủ lĩnh, mất đội quân chủ lực thì làm sao tồn tại? Ông già Pilich từng nói: Sói mất địa bàn còn thê thảm hơn chó nhà có tang.

Chiếc xe gíp chạy đến chỗ nổ súng đầu tiên, hai thành viên khoẻ mạnh nhà sói nằm trong vũng máu, hai đàn nhặng xanh nhỏ đang hút máu. Không nỡ nhìn, Trần Trận đi ra chỗ khác ngồi xuống bãi cỏ nhìn lên bầu trời biên giới. Ông già mà biết cậu dẫn hai xe gíp đi săn sói thì ông sẽ nghĩ gì. Ông dạy cho cậu bao nhiêu là kiến thức về sói, rốt cuộc cậu dùng những kiến thức ấy giết sói. Tâm trạng nặng nề và trống rỗng, cậu không biết làm sao gặp mặt ông. Đến đêm, sói mẹ và các sói con sẽ về đây tìm kiếm chồng con đã khuất, và chắc chắn tìm thấy các dấu vết. Đêm nay, trên thảo nguyên này đàn sói sẽ tru suốt đêm...

Tài Lưu và Tài Vương khênh hai con sói ra xe của Tài Vương, trên hàng ghế sau.

Trên bãi cỏ trải mấy miếng giấy dầu, trên đặt mấy chai rượu trắng thảo nguyên, một gói lạc rang to tướng, hơn chục quả dưa chuột, hai lon thịt bò hộp và một chậu thịt luộc.

Bao Thuận Quý tay xách chai rượu, cùng Tham mưu Từ đến bên Trần Trận, kéo cậu lại chỗ liên hoan. Bao Thuận Quý vỗ vai Trần Trận nói: Trận này, hôm nay cậu giúp bọn tôi một việc rất lớn, công to rồi, không có cậu thì vị anh hùng này không có đất dụng võ.

Tham mưu Từ cùng ba quân nhân nâng cốc chúc rượu Trần Trận. Ông ta nói rất chân thành: Uống đi, chén rượu thứ nhất tôi mời cậu. Cậu nuôi sói nghiên cứu sói và đã thành công, pắt một cái, đưa chúng tôi đến tận hang ổ sói. Cậu không biết hôm qua Chủ nhiệm Bao dẫn bọn tôi đi hơn trăm cây số mà không gặp lấy một con. Nào ta cạn chén, cảm ơn cậu.

Trần Trận mặt tái nhợt, định nói lại thôi, tiếp chén rượu uống cạn. Cậu rất muốn tìm một chỗ nào đó khóc thật to. Nhưng căn cứ vào tiêu chuẩn người Hán hoặc tiêu chuẩn quân nhân, Tham mưu Từ là một hảo hán. Tham mưu Từ vừa đến thảo nguyên, không nên dùng lập trường thảo nguyên mà gây sự với ông ta. Nhưng cuộc sống du mục nguyên thuỷ sẽ kết thúc trước mũi súng ông ta. Từ đây, lập trường của người Hán sẽ bắt rễ ở nơi này, sau đó giương mắt mà nhìn đồng cỏ biến thành sa mạc. Trần Trận bỗng dưng vớ quả dưa chuột nhai rau ráu, đất vỡ hoang của dân công đã thu hoạch dưa chuột. Hai năm rồi cậu chưa được ăn một quả dưa chuột tươi. Rau quả của các gia đình Hán rất ngon. Có thể người Hán thà chết không chịu từ bỏ tính nông canh, đầy mâm thức ăn ngon, sao cậu lại nhón lấy quả dưa chuột? Vị ngọt thơm cả dưa chuột bỗng trở nên đắng ngắt.

Tham mưu Từ vỗ lưng Trần Trận nói: Cậu Trận, bọn tôi giết mất nhiều sói, cậu đừng buồn... Tôi biết, cậu nuôi sói nên có tình cảm với sói, lại chịu nhiều ảnh hưởng của ông già du mục. Sói bắt thỏ, bắt chuột, dê vàng, rái cá cạn, quả có công lớn với thảo nguyên, có điều, phương pháp ấy rất cổ lỗ. Bây giờ người ta phóng vệ tinh lên trời, chúng ta hoàn toàn có những phương pháp mới bảo vệ thảo nguyên. Binh đoàn sẽ huy động máy bay AN2 rải thuốc độc và bả chuột, tiêu diệt nạn chuột...

Trần Trận sững người, nhưng cậu lập tức phản ứng, vội can: Đừng, đừng làm thế. Những con chuột trúng độc sẽ bị sói, cáo sa mạc ăn thịt, như vậy động vật trên thảo nguyên sẽ chết hết?

Bao Thuận Quý nói: Chuột chết hết rồi để sói làm gì?

Trần Trận cãi: Tác dụng của sói lớn lắm, không thể nói hết với các ông, chí ít có thể hạn chế dê vàng thỏ đồng và rái cá cạn.

Tài Lưu mặt đỏ gay vì rượu, cười lớn: Dê vàng, thỏ đồng, rái cá cạn là những món cao lương mĩ vị. Khi đại quân chúng tôi kéo về đây, chỉ sợ không đủ cho họ ăn, sói đâu có phần.

Chương 32

Người + thú tính = người Tây… Tất nhiên không cần nhắc lại thú tính ấy không thấy trên bộ mặt người Trung Quốc, nó vốn không có hay đã biến mất. Vậy dần chỉ còn lại nhân tính, hay chẳng qua là chỉ biết vâng lời. Bò rừng trở thành bò nhà, lợn rừng thành lợn nhà, sói trở thành chó, mất đi tính hoang dã, nhưng chỉ đủ cho người thích, bản thân không tốt đẹp gì. Người là người, đừng kèm thêm cái gì khác, đương nhiên là quá tốt. Nếu như bất đắc dĩ, tôi cho rằng nên có chút thú tính, nếu hợp với công thức dưới đây thì không vui lắm: Người + tính gia súc = loại người nào đó.

Lỗ Tấn “Nhi kỷ tập. Lược luận Trung Quốc nhân chi kiểm”

Bữa ăn dã ngoại đã kết thúc, Bao Thuận Quý rỉ tai Tham mưu Từ mấy câu, hai chiếc xe gíp chạy về phía đông. Trần Trận nói : Sai hướng rồi! Trở lại đường cũ, đường tốt hơn.

Bao Thuận Quý nói: Về đội bộ đường dài 140 cây số chẳng lẽ về tay không.

Tham mưu Từ nói: Ta phải tránh ba địa điểm nổ súng hồi nãy, chạy đường vòng, biết đâu lại gặp sói. Mà dù không gặp sói, gặp cáo cũng không tồi. Nên phát huy truyền thống vẻ vang của quân đội ta, liên tục tác chiến, khuyếch trương chiến quả.

Rất nhanh, xe chạy vào đồng cỏ mùa đông rộng lớn, trước mắt Trần Trận, cỏ trâm mao hút tầm mắt. Trâm mao là loại cỏ nhiều dinh dưỡng hơn các loại cỏ khác, thức ăn rất tốt trong mùa đông, lá dài hơn hai thước, thân cao hơn nửa thước. Về mùa đông, bình thường cỏ không bị tuyết lấp kín, tuyết to mấy cũng chỉ lấp một nửa, đồng thời là thức ăn tốt cho gia súc, đàn cừu thuận theo ngọn cỏ phía trên mà bới tuyết để ăn lá cỏ phía dưới. Mùa đông ở thảo nguyên Ơlôn dài bảy tháng, đàn gia súc của đại đội tồn tại được qua mùa đông là nhờ đồng cỏ này.

Sóng cỏ dập dờn trước gió thu, lượn từ đường biên phòng tới trước xe gíp. Cỏ lút cả bốn bánh xe. Hai xe như hai ca nô lướt trên biển cỏ. Trần Trận thở ra khoan khoái: Cỏ rậm thế này đừng hòng gặp sói, có dùng kính viễn vọng cũng vô ích.

Trần Trận một lần nữa trào lên tình cảm thân thiết đối với sói thảo nguyên và các mã quan. Cái đẹp tưởng như thuần nguyên thủy, thuần tự nhiên của thảo nguyên, thực tế là do sói thảo nguyên và các mã quan năm này sang năm khác bảo vệ bằng mồ hôi và máu. Vẻ đẹp nguyện thủy của thiên nhiên chứa đựng bao nhiêu sức người sức sói trong đó. Mỗi khi tuyết xuống, mỗi khi mục dân lùa đàn gia súc vào đồng cỏ mùa đông, đều cảm thấy đây là ân trạch của sói ban cho con người. Họ thường hát bài ca thảo nguyên, giọng run rẩy và dài lê thê như tiếng tru của sói.

Hai xe chạy như bay, các xạ thủ có vẻ say nhưng họ vẫn giương ống nhòm tìm kiếm da sói và thịt sói. Trần Trận vẫn suy nghĩ miên man. Cậu ung dung chiêm ngưỡng vẻ đẹp nguyên thủy của thảo nguyên trước khi người và gia súc đặt chân tới. Lúc này trên đồng cỏ mênh mông không một sợi khói lẻ loi, một con ngựa, một con bò, một con cừu. Đồng cỏ mùa đông được nghỉ ngơi đã hơn nửa năm, tuy xanh tốt bời bời nhưng vắng hơn cả đồng cỏ mùa xuân cho cừu đẻ. Đồng cỏ mùa xuân có rất nhiều chuồng cừu xây bằng đá, chuồng đất, nhà kho, và cần giếng cao cao, vết tích của con người chỗ nào cũng thấy. Còn như đồng cỏ mùa đông, người và gia súc ăn tuyết, không cần nước giếng; đến mùa đông gia súc đã lớn, không cần chuồng trại, chỉ cần xe bò, hàng rào cơ động và những tấm thảm lớn quây hình bán nguyệt che gió cho đàn cừu thay chuồng. Do vậy lúc vào thu, đồng cỏ mùa đông tĩnh tại, không vết chân người, không vết chân gia súc, không một công trình xây dựng, chỉ có cỏ trâm mao bạt ngàn nhấp nhô như sóng. Nếu như xuất hiện Gơrigôri với chiếc mũ lông Cadắc màu đen trên đầu thì cậu không nghi ngờ sau lưng anh là thảo nguyên sông Đông đẹp đến mê mẩn. Từ hồi học sơ trung, Trần Trận đã xem ba lần truyện và phim “Sông Đông êm đềm”. Sau đó, khi rời Bắc Kinh, cậu đem theo tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm” và những thứ liên quan lên thảo nguyên Ơlôn.

“Sông Đông êm đềm” là một trong những động lực thúc đẩy Trần Trận lên thảo nguyên Ơlôn. Trần Trận mê thảo nguyên Mông Cổ là do sói và người thảo nguyên Mông Cổ tha thiết yêu tự do, chiến đấu vì tự do. Vì đâu thảo nguyên có sức hút mạnh mẽ đến như thế, khiến la bàn tình cảm của cậu luôn chỉ về phương ấy? Trần Trận thường cảm thấy thảo nguyên đang run rẩy kêu cứu, khiến tự nơi sâu thẳm của tâm hồn cậu vang lên cộng hưởng, thần bí hơn, sâu đậm hơn sự cộng hưởng tâm linh giữa mẹ và con. Đó là sự cảm ứng tâm linh với tổ mẫu, tằng tổ, thái tổ và thủy tổ xa hơn xưa hơn, từ đáy lòng, sự vị cảm tri bỗng bật lên thành tình cảm đối với tổ tiên xa lắc.

Trần Trận nhìn thảo nguyên thanh vắng như kẻ mộng du, cậu như trông thấy tổ tiên nhân loại thời tiền sử mông muội. Các bậc thầy thường dạy: Đứng thẳng và lao động sáng tạo ra loài người. Vậy người vượn đứng thẳng trong rừng hay trên thảo nguyên? Đây là một câu hỏi liên quan rất sâu đến “đất tổ”.

Trần Trận đã hai năm “kết bạn” với thú dữ trên thảo nguyên. Theo cậu, người vượn không thể đứng thẳng trong rừng, vì rằng ở rừng, hai chi trước càng quan trọng, càng phải phát triển. Trong rừng, muốn nhìn xa, phải trèo lên cao; muốn tránh mãnh thú, càng lên cao nữa; muốn hái lượm cũng phải dựa vào chi trước; quan trọng hơn nữa, muốn giải quyết vấn đề tốc độ trong rừng, phải dựa vào hai chi trước để “đi”. Công dụng của chi trước và vai người vượn lớn như thế, nên chi sau không thể phát triển, chi sau chỉ là cơ quan bổ trợ cho chi trước, nó đảm nhiệm công việc nặng nề đi đứng dưới đất. Vì vậy ở trong rừng, người vượn không thể và không cần thiết phải đứng thẳng.

Sau đó, do động vật sinh sôi nảy nở, rừng chật, thức ăn ngày càng ít, hoàn cảnh khốc liệt đẩy một bộ phận người vượn ra khỏi rừng, buộc phải sống trên đồng cỏ, hoàn cảnh sinh sống mới bắt đầu cải tạo công dụng chi trước chi sau của người vượn. Một mặt thảo nguyên đầy nguy hiểm, sói phục hổ rình, mà lại không có điểm cao để trèo lên, người vượn muốn có tầm cao trong bụi cỏ để quan sát kẻ thù và con mồi, buộc phải đứng lên; mặt khác, thảo nguyên không có cây cối để leo trèo, chi trước của người vượn dùng để “đi” nhanh trở nên vô dụng, thảo nguyên buộc chi sau của người vượn phải khỏe, to, rắn chắc lên. Trải qua vài chục vạn năm liên tục sử dụng chi sau, từng tí một, xương sống và xương đùi thẳng ra, bộ ngực và chi sau người vượn thẳng góc so với mặt đất. Đứng thẳng, người vượn mới có chân mang ý nghĩa chân người, mới giải phóng chi trước trở thành “tay” khiến tất cả động vật nể sợ, càng thúc đẩy sự tiến bộ về trí lực, do đó đánh bại tất cả mãnh thú, thành vua của muôn loài, cuối cùng trở thành người.

Người nguyên thủy tay cầm rìu đá, tay cầm đuốc, đứng thắng trong tư thế chiến đấu. Rìu đá trước hết là vũ khí chiến đấu với mãnh thú, sau đó mới là công cụ sản xuất tìm kiếm cái ăn. Chiến đấu để sinh tồn, sinh tồn và sau đó là lao động, không chỉ đứng thẳng và lao động sáng tạo ra con người, hơn nữa, vô số những cuộc chiến thúc đẩy phải đứng thẳng mới thật sự sáng tạo ra con người. Người vượn nào không chấp nhận đứng thẳng, tiếp tục chạy bằng bốn chân, rốt cuộc không chạy nhanh bằng hổ báo sư tử sói, nên bị đào thải. Sau nhiều năm quan sát suy ngẫm, và cả bằng trực giác, Trần Trận rút ra kết luận: Người vượn đứng thẳng trên thảo nguyên, mà sói thảo nguyên là một trong những nhân tố quan trọng buộc người vượn đứng thẳng.

Do vậy, thảo nguyên tàn khốc và đẹp đẽ không chỉ là đất tổ của dân tộc Hoa Hạ, mà còn là đất tổ và là cái nôi của toàn nhân loại. Thảo nguyên là điểm xuất phát của nhân loại đứng thẳng “đi tới” toàn cầu. Thảo nguyên rộng lớn là thủy tổ xa xưa nhất của nhân loại. Trần Trận cảm thấy cậu được bao bọc trong một tình cảm dịu dàng thân thiết từ mỗi lá cỏ, mỗi hạt cát trên thảo nguyên. Đồng thời là nỗi căm giận không nguôi bám riết trái tim cậu. Cậu cho rằng đám người nông canh phóng hỏa khẩn hoang tàn hại thảo nguyên, là những tên tội phạm ngu xuẩn và tàn nhẫn.

***

Xe chạy theo con đường cổ xưa về phía đông. Mặt đường rắn, nhưng có khá nhiều phân và nước tiểu gia súc để lại khi di chuyển bãi chăn, vì vậy cỏ mặt đường tuy thấp nhưng khỏe, màu xanh sẫm, nhìn từ xa, giống một con hào xanh chọc thẳng vào vùng sâu thảo nguyên.

Trần Trận bỗng nhìn thấy ba chấm đen trong búi cỏ phía bên phải không xa. Cậu biết đó là một con cáo lớn, hai chân trước buông xuôi, nó đứng trên hai chân sau, nửa người nhô lên khỏi bụi cỏ nhìn xe gíp từ xa. Quá trưa nắng màu vàng chanh chiếu trên đầu trên cổ và trên ức con cáo, đám lông trắng như tuyết trên cổ cáo biến thành màu vàng nhạt, cùng màu với cỏ trâm mao, còn ba chấm đen trên cổ thì rất nổi bật, đó là hai con mắt và cái chóp mũi của con cáo. Mỗi lần Trần Trận cùng ông già Pilich đi săn cáo, nhất là săn vào mùa đông, ông già bao giờ cũng chỉ cho cậu xem thợ săn có kinh nghiệm bắn phía dưới ba điểm đen. Cáo thảo nguyên ranh ma đến mấy cũng không đánh lừa được thợ săn thảo nguyên, nhưng lại khiến cho xạ thủ tinh như chim ưng có mắt như mù. Trần Trận không hé răng để khỏi nhìn thấy máu, vả lại, cáo thảo nguyên vốn là kiện tướng bắt chuột thảo nguyên. Xe gíp tiến dần tới “ba chấm đen”, “chấm đen” thụt xuống, mất biến trong cỏ rậm.

Chạy thêm đoạn nữa, một con thỏ đồng từ trong bụi rậm đứng lên nhìn xe, nhưng cặp tai đã làm hỏng kế hoạch ngụy trang của nó. Trần Trận nói: Trước mặt có một con thỏ, kẻ phá hoại thảo nguyên lớn nhất đấy, có bắn không?

Bao Thuận Quý tỏ ra thất vọng, nói: Không bắn vội. Đợi hết sói hãy bắn thỏ.

Con thỏ rướn cao mấy tấc nữa, nó không sợ ô tô, chỉ khi còn cách hơn chục mét, nó rụt cổ biến mất. Hương cỏ ngày càng đậm, cánh đồng mênh mông như biển, các xạ thủ cũng nhận thấy không thể phát hiện con mồi trong đồng cỏ mùa đông bèn cho xe chạy vè phương Nam, rời đồng cỏ trâm mao, rẽ sang đồng cỏ mùa thu mọc thấp, lô nhô gò đống. Hàng ngàn năm nay mục dân chọn nơi này làm đồng cỏ mùa thu, chủ yếu do bông cỏ nhiều hạt như lúa mạch, chứa chất béo và anbuymin, sang thu tất cả đều chín tới, cừu dùng miệng tuốt hạt, nhai ngon lành như ăn đậu đen. Sang thu, đàn cừu tích mỡ dày ba đốt ngón tay ở khu đuôi, là nhờ những hạt cỏ này. Những hộ ngụ cư, do không biết môn khoa học kỹ thuật nguyên thủy này nên thiếu mỡ không qua nổi mùa đông, mà nếu sống sót, sang xuân cũng không có sữa, cừu con chết hàng loạt. Qua hai năm thụ giáo ông già Pilich, Trần Trận đã có thể độc lập tác chiến. Cậu giơ tay tuốt một nắm hạt cỏ rồi miết trong lòng bàn tay, sắp chín, đai đội chuẩn bị chuyển vào đồng cỏ thu là vừa.

Đồng cỏ thu thấp xuống còn một nửa, tầm nhìn xa hơn nhiều, xe tăng tốc. Bao Thuận Quý phát hiện có phân sói mới trên đường đất, các xạ thủ phấn khởi, Trần Trận lại lo. Nơi này cách nơi nổ súng chừng sáu bảy chục cây số, nếu như có sói, chắc không đề phòng hai xe từ phía bắc không có người, lặng lẽ trườn tới.

Xe vừa chạy qua một cái dốc ngắn, bỗng ba người trên xe khẽ kêu: Sói! Sói! Trần Trận dụi mắt, thấy một con sói lớn chỉ cách mũi xe hơn ba trăm mét, to như con báo đốm. Sói lớn ở Ơlôn dựa vào cơ thể to lớn thường đi kiếm mồi một mình, coi như giang sơn một cõi mặc sức tung hoành, thực tế đó là lính đặc công của đàn sói, tìm cơ hội cho đàn.

Con sói hình như vừa ngủ dậy, hoảng hốt thực sự khi nghe tiếng xe, chuồn nhanh về phía khe cỏ rậm. Tài Lưu tăng ga, phấn khởi hét to: Gần thế này, chạy đâu cho thoát! Ô tô cắt đường chạy, sói vội chạy trở lại lên đỉnh dốc với tốc độ dê vàng, nhưng nó đã bị Tham mưu Bathơ bám riết. Hai chiếc xe gíp hung dữ như mãnh thú xông thẳng vào. Sói đã chạy hết tốc lực, nhưng xe thì chưa nhấn hết ga.

Hai vị xạ thủ ngoại hạng nhường lẫn nhau. Tham mưu Từ nói: Anh ở vị trí tốt, bắn đi! Tham mưu Bathơ nói: Anh bắn chuẩn hơn, anh bắn đi!

Bao Thuận Quý khoát tay: Đừng bắn, không ai nổ súng hết. Bắt sống, kiếm bộ da không vết đạn! Lột da khi sói còn sống, lông sáng và mịn, bán đắt nhất.

Đúng rồi, hai vị xạ thủ đồng thanh kêu lên. Tài Lưu còn giơ tay về phía Bao Thuận Quý, nói: Tôi bảo đảm sẽ đuổi nó chạy hộc máu!

Cỏ thấp, dốc thoai thoải là địa hình lý tưởng cho xe gíp, khoảng cách lại rất gần, hai xe kẹp hai bên, sói khó bề chạy thoát. Sói đã chạy sùi bọt mép, hai xe vẫn ung dung như đùa. Trần Trận không nghĩ rằng, con người lại có ưu thế rõ rệt đến thế đối với sói. Sói thảo nguyên Mông Cổ xưng hùng xưng bá hàng vạn năm, lúc này còn đáng thương hơn con thỏ. Trần Trận thoáng nghĩ, “lạc hậu bị đánh, tiên tiến đánh người”, chẳng lẽ Tăngcơli lại tàn nhẫn đến thế?

Hai chiếc xe gíp do hai cao thủ điều khiển bám dính con sói, sói nhanh xe nhanh, sói chậm xe chậm, dùng tiếng còi chối tai buộc sói tăng tốc, luôn giữ khoảng cách năm sáu chục mét, sói tuy có tốc độ lớn, nhưng to xác tốn năng lượng, chạy hơn 20 dặm đã thở dốc, miệng há hết cỡ mà vẫn không thở được. Trần Trận chưa bao giờ chạy theo con sói lâu đến thế. Con sói cũng chưa bao giờ bị đuổi tới mức thở không ra hơi như thế. Trần Trận có lúc nhắm tịt mắt không nỡ nhìn nhưng vẫn phải mở mắt nhìn. Cậu rất mong con sói chạy nhanh hơn nữa hoặc độn thổ, hoặc bay lên trời như trong truyền thuyết. Nhưng con sói không bay được lên trời, không chui được vào hang, vậy là lên trời xuống đất đều không thể. Sói thảo nguyên trong thần thoại hoàn toàn không thể bay khi gặp khoa học kỹ thuật tiên tiến. Nhưng con sói trước mặt vẫn ráng sức chạy như thế. Trần Trận mong sao trước mặt xuất hiện hố sâu, rãnh lớn hoặc bộ xương bò gì đấy, thì dù bị văng khỏi xe, cậu cũng vui lòng…

Gặp con sói dũng mãnh và đẹp như mơ, các thợ săn phấn khích vô cùng, mặt đỏ hơn uống rượu. Bao Thuận Quý nói rất to: Con sói này to hơn bất cứ con nào ta bắn được hồi nãy. Bộ da nó có thể làm chăn đắp, không cần ghép thêm mảnh nào khác.

Tham mưu Từ nói: Bộ này đừng bán, để biếu thủ trưởng binh đoàn.

Tham mưu Bathơ nói: Đúng đấy! Để thủ trưởng binh đoàn biết sói ở đây lớn như thế nào,nạo sói ở đây khùng khiếp như thế nào.

Tài Lưu vỗ tay lái, nói: Đại thảo nguyên Mông Cổ giàu có thật đấy! Chỉ một năm chúng mình sẽ giàu hơn thành phố.

Nắm tay Trần Trận rỉ mồ hôi, cậu muốn quại thằng cha họ Lưu một cú vào sau gáy, nhưng chợt nghĩ đến sói con ở nhà, con sói đang mong cậu như mong mẹ về chợ, vậy là cậu bỏ tay xuống, cảm thấy toàn thân bải hoải, đầu óc mụ đi. Hai chiếc xe đã dồn được con soi lên một dải đất bằng phẳng, không khe suối, không mương rảnh, không núi non, con sói không thể lợi dụng địa hình địa mạo. Hai xe cùng bóp còi ầm ĩ, con sói chạy vãi linh hồn, tai ù đặc. Bốn chân loạng choạng, hồn vía lên mây, cuối cùng không chạy nhanh được nữa, trái lại giảm tốc nhanh chóng, bọt mép cũng không còn. Hai lái xe tha hồ bóp còi, con sói không muốn chạy nữa.

Bao Thuận Quý giằng lấy khẩu súng trong tay Tham mưu Từ, nhằm nửa trên con sói nổ liền hai phát nhưng chỉ là gãi ngứa, đạn sượt qua lông. Nhưng âm thanh mà sói sợ nhất này khiến con sói mất nốt chút hơi sức cuối cùng, nó chạy thêm được nửa dặm, thở như xé phổi rồi dừng lại đột ngột, quay lại ngồi xổm trên mặt đất, phô diễn tư thế cuối cùng của loài sói.

Hai xe gíp phanh lại cách con sói ba bốn mét. Bao Thuận Quý xách súng nhảy xuống đứng yên trong vài phút, thấy con sói bất động bèn bật lưỡi lê, mạnh dạn tiến lại gần. Con sói run bần bật, ánh mắt hoảng loạn, đồng tử nở to. Bao Thuận Quý lại gần hơn nữa thấy nó vẫn bất động liền chọc lưỡi lê vào miệng, nó vẫn ngồi im. Bao Thuận Quý cười lớn: Nó bị ta đuổi đến mất trí. Nói xong ông ta giơ tay xoa đầu con sói khổng lồ như xoa đầu chó. Có lẽ ngàn vạn năm nay trên thảo nguyên Mông Cổ mới có một người xoa đầu con sói khổng lồ trong tư thế ngồi mà con sói không có phản ứng. Thế nhưng khi ông ta vuốt tai thì con sói đổ chổng kềnh như pho tượng bằng đá…

***

Trần Trận đi về nhà như một kẻ phạm tội, thậm chí cậu không dám bước vào trong lều bạt. Bần thần một lúc, cậu lại phải bước vào.

Trương Kế Nguyên đang kể cho Dương Khắc và Cao Kiện Trung về chuyện toàn thể sư đoàn ra quân diệt sói. Cậu càng kể càng tức: Hiện giờ toàn sư đoàn đỏ mắt lên về chuyện diệt sói lấy da. Xe lớn, xe con, xạ thủ, dân quân xuất kích tuốt. Xăng dầu đạn dược cung cấp đủ, bác sĩ sư đoàn cũng ra trận. Họ bơm vào xác cừu thuốc cực độc không mùi vị đem từ Bắc Kinh về, rồi quẳng cừu ra đồng cỏ, giết bao nhiêu là sói. Dã man hơn, số công nhân làm đường về cùng binh đoàn giở hết các loại vũ khí ra. Họ nhét kíp mìn vào xương ống cừu, bôi mỡ cừu lên rồi đặt ở những nơi sói qua lại, sói gặm xương ấy là bay nửa mặt. Dân công đánh bẫy bằng bộc phá dùng xương cừu làm vỏ, chết vô số chó của mục đàn. Đàn sói sa vào biển cả chiến tranh nhân dân, khắp nơi cất tiếng hát: Đời con đời cháu ta đánh tiếp, chưa hết sói là ta chưa về. Nghe nói mục dân đã có đơn kiện lên quân khu.

Cao Kiện Trung nói: Dân công đội ta cũng rất hăng, hạ sát một lúc năm sáu con sói lớn. Loại người từ mục dân biến thành nông dân, giết sói rất mả. Mình mất hai chai rượu trắng mới mò ra cách họ giết sói. Họ cũng đánh bẫy nhưng ranh ma hơn nhiều. Thợ săn ở đây cài bẫy bên cạnh con cừu chết, lâu dần lũ sói cũng mò ra quy luật, chúng thấy cừu chết ngoài trời thì rất cảnh giác, không vội đụng ngay, thường là đợi sói đầu đàn vốn rất thính mũi dò bằng được bẫy lôi lên, chúng mới ăn con cừu. Đám dân công không dùng cách này. Chúng đặt bẫy ở những nơi có nhiều sói, bên cạnh bẫy chẳng có gì hết, không xác cừu, không xương cốt, mặt đất bằng phẳng. Các cậu đoán xem họ lấy gì làm mồi nhử? Đánh chết các cậu cũng không đoán ra…Họ trộn phân ngựa với mỡ cừu nấu chảy, vớt ra phơi khô, rồi tán nhỏ cục phân ngựa sặc mùi mỡ cừu đó rắc nơi đặt bẫy, rắc nhiều lượt, lượt nào cũng dẫn đến bẫy. Mồi nhử đấy! Khi sói đi qua ngửi thấy mùi cừu, lại không thấy con cừu chết nào, xương xẩu cũng không thì rất dễ mất cảnh giác, ngửi trước ngửi sau, ngửi đi ngửi lại, cuối cùng sập bẫy. Các cậu bảo chiêu này độc đấy chứ, ăn trộm gà mà một nhúm gạo cũng không mất! Lão Vương bảo, quê lão dùng cách này, sói không còn một mống.

Trần Trận không nghe tiếp được nữa. Cậu đẩy cửa, bước ra chuồng sói con. Cả ngày không gặp, sói con cũng nhớ cậu. Từ lâu sói con đã hân hoan đứng tận mép chuồng vẫy đuôi đón cậu bước vào chuồng. Trần Trận ngồi xuống ôm cổ con sói, áp mặt vào đầu nó rất lâu không nỡ rời. Đêm thu trên thảo nguyên, trăng lạnh, bãi chăn mới rộng mênh mông, tiếng sói tru ảo não đã rất xa. Trần Trận không còn lo sói mẹ về cướp con, nhưng lúc này cậu rất mong sói mẹ về đem con đi, lên mãi vùng biên giới phía bắc…

Có tiếng chân dừng phía sau, câu nghe thấy tiếng nói của Dương Khắc: Nghe Lanmutrăc nói, anh ấy trông thấy sói chúa dẫn đàn sói vượt đường biên phòng, chiếc xe Gát của Đoàn bộ không đuổi kịp. Mình nghĩ, chắc sói chúa không bao giờ trở lại Ơlôn nữa.

Trần Trận trằn trọc thâu đêm.

Chương 33

Với thế giới cơ đốc mà nói, ba thế kỷ tính từ đầu thế kỷ 13 tới thế kỷ 15 là thời kỳ suy thoái. Mấy thế kỷ đó là thới đại của các tộc Mông Cổ. Cuộc sống du mục đến từ Trung Á chi phối thế giới đã biết đương thời.Đỉnh cao của thời kỳ này, thống trị Trung quốc, Ấn độ,Ba lan,Ai cập,Bắc phi, bán đảo Ban căng, Hungagi và Nga La tư là nguời Mông cổ hoạc người Thổ Nhĩ Kỳ cùng nguồn gốc người Đột quyết và truyền thống của họ.

(Anh) Herbert J.Wells”Thế giới sử cương”

Gấu, hổ, sư tử, voi có thể tròng dây vào cổ mà dắt, còn sói thảo nguyên Mông Cổ thì không.

Sói con thà bị siết cổ chết mà không chịu dắt theo xe bò khi chuyển nhà.

Đàn bò, cừu của đại đội xuất phát trước khi trời sáng, đoàn xe rầm rộ vượt đèo phía tây, chia tổ tiến vào đồng cỏ mùa thu. Nhưng sáu cổ xe chở nặng của tổ Hai – tổ thanh niên trí thức vẫn chưa khởi động. Ông già Pilich và Caxưmai đã hai lần cho người đến giục.

Mấy hôm nay Trương Kế Nguyên về giúp việc nhà vậy mà, với con sói cứng đầu cứng cổ, Trần Trận và Trương kế nguyên cũng đành bó tay, không thể giải quyết. Trần Trận không ngờ cậu nuôi con sói đã gần nữa năm, đắng cay chua ngọt đã từng, cuối cùng bị kẹt trong chuyện chuyển nhà.

Từ đồng cỏ mùa xuân chuyển về đây, sói con khi ấy mới cai sữa, chỉ dài hơn một thước, khi chuyển nhà, cậu bỏ nó vào trong thùng đựng phân khô. Qua nữa mùa xuân và một mùa hạ đến dầu mùa thu, sói con đã thành một sói lớn vóc dáng trung bình. Trong nhà không có thùng hay lồng sắt chứa được nó, mà dù có vừa nhưng Trần Trận không sao nhét được nó vào. Cậu không có xe chở riêng nó. Các cậu vốn thiếu xe, các hòm sách của cậu và Dương khắc chiếm quá nữa thùng xe, xáu cỗ xe đều quá tải nghiêm trọng, đường dài không khéo bị lật hoặc phát sinh sự cố. Ngày chuyển nhà còn phụ thuộc vào thời tiết, để tránh mưa, đại đội chuyển sớm hơn dự định, Trần Trận nhất thời không biết làm thế nào.

Trương Kế Nguyên mồ hôi đầm đìa, trách: Làm ăn gì thế? Lẽ ra phải luyện dắt nó từ lâu.

Trần Trận không vui: Không dạy là thế nào? Lúc còn nhỏ nó nhẹ, mình lôi nỗi, nhưng về sau lớn lên mình không lôi nỗi nữa. Cả mùa hè nói lôi mình không bao giờ cho mình dắt, mình kiên quyết lôi là nó cắn. Sói không như chó, chết bỏ chứ không nghe lời. Sói không dạy được như hổ, sư tử. Cậu trông thấy sói biễu diễn rạp xiếc bao giờ chưa? Người dạy thú giỏi đến mấy cũng khoong dạy được sói. Có mời nữ tài tử Liên Xô về đây cũng chịu. Cậu trông thấy sói nhìu hơn mình, sao chưa hiểu sói?

Trương Kế Nguyên nghiến răng trèo trẹo, nói: Để mình lôi nữa xem sao, không được mình cưỡng chế. Cậu ta cầm cây bổng đi đến trước mặt sói, đón xích từ tay Trần Trận, bắt đầu lôi. Sói lập tức nhe răng gầm gừ, trằn mình về phía sau. bốn chân tì lên mặt đất, rụt cổ, một tất cũng không nhượng bộ. Như chơi trò kéo co, Trương Kế Nguyên cũng cố sức kéo mà không nỗi. Cậu bèn xoay người rồi như phu kéo thuyền trên sông, vắt xích lên vai, dùng sức mạnh toàn thân mà kéo. Lần này thì kéo được. Bốn chân sói cào thành hai rãnh, đùn lên hai mô đất nhỏ. Con sói nỗi cáu, định cắn. Nó chững lại khiển Trương Kế Nguyên mất đà ngã vập mặt xuống đất. Nó cũng ngã lộn vòng, người và sói kề bên nhau, miệng sói chỉ cách yết hầu Kế Nguyên nữa thước. Trần Trận sợ quá vội ôm cổ con sói. Con sói bị kẹp trong nách Trần Trận. Nhìn Kế Nguyên gầm gừ, tiếc không cắn được cậu.

Hai người sợ tái mặt, thở phì phò. Trương Kế Nguyên nói: Giờ thì phiền đây! Lần di chuyển này phải hai ba ngày. Nếu chỉ một ngày thì ta hảy để sói lại, hôm sau đánh xe không về chở đi. Nhưng nếu lộ trình ba ngày thì cả đi lẫn về năm sáu ngày. Người dữ kho len và đám nhân công vẫn chưa đi, bỏ sói con một mình ở lại, không bị bọn họ giết chết, cũng bị đội diệt sói của Đoàn bộ giết chết. Mình thấy dứt khoát phải đem con sói đi, đúng rồi, buộc vào xe bò mà kéo!

Trần Trận nói: Kéo theo xe bò? Hôm trước mình đã thử, không ăn thua, suýt tắt thở. Giờ mình mới hiểu thế nào là ngang ngạnh, là thà chết chứ không khuất phục. Sói thà chết chứ không chịu nhượng bộ, mình hết cách rồi đấy.

Trương Kế Nguyên không tin, nói: Để nhìn thấy đã. Cậu bắt một con chó cái đi bên cạnh làm thị phạm cho nó bắt chước.

Trần Trận lắc đầu: Mình đã thử, không ăn thua.

Trương Kế Nguyên không tin: Cứ thử lần nữa xem sao. Nói rồi cậu dắt tới chổ xe bò chở rất nặng lấy đoạn thừng một đầu buộc cổ sói. Đầu kia buộc vào thành gióng ngang phía đuôi xe. Trương Kế Nguyên cho xe đi vòng quanh con sói. Con chó khoong cằn co kéo, ngoan ngoãn theo sau xe. Trương kế nguyên vừa đi vừa dỗ con sói: Ta sẽ đến một nơi rất tốt, thế, thế, theo sau xe bắt chước đi, có gì đâu, dễ ợt. Mày thông minh hơn chó, làm sao không biết đi theo? Nào, nhìn đây!

Sói con nhìn chó cái mà không hiểu gì, nó ngẩng mặt, vẽ bất cần. Trần Trận vừa dụ vừa dỗ, kéo sói đi theo chó cái. Sói con miễn cưỡng đi mấy bước, thực tế vẫn là sói kéo Trần Trận đi theo. Nó thích con chó cái, chứ không phải thích đi bộ. Đi một vòng nữa Trần Trận móc cái xích lên gióng thanh ngang đuôi xe, sói con lập tức ra sức co lại, mạnh hơn kéo cọc, cái xe nặng như thế mà chệnh choạng không vững.

Trần trận nhìn ra cánh đồng mênh mông , khong một căn lều, một con cừu. Cậu đâm cuống, chận nữa là đêm nay không đến được chổ tạm trú, bao nhiêu là đường rẽ, bao nhiêu là tổ nhóm, chẳng may lạc đường, tối đến người mệt, không có chó thì gác đêm làm sao? Nếu đàn cừu xảy ra chuyện, tìm ra nguyên nhân là do nuôi sói, Trần Trận chắc chắn bị phê phán, sói con sẽ bị nguy hiểm.

trần trận ý đã quyết, nói: Trả con chó đi thì nó cũng chết; lôi nó đi theo thì nó cũng chết. thôi thì cho nó tìm cái sống trong cái chết vậy. Đi! Lôi nó đi theo! Cậu đánh xe đi trước mình đi sau áp tải, nhân tiện trông nom nó.

Trương kế nguyên thở dài, nói: Xem ra trog điều kiện du mục nguyên thuỷ khó mà nuôi được sói.

Trần Trận bố trí cỗ xe cố dắt chó và sói đi cuối đoàn xe, buọc dây mũi con bò cuối cùng vào dóng ngang đuôi xe, xong xuôi, cậu hô to: Lên đường!

Trương Kế Nguyên không dám ngồi trên xe thứ nhất để đánh xe. Cậu dắt bò bước chậm rãi, xe nọ tiếp xe kia lên đường.Khi cỗ xe cuối cùng chuyển bánh, con chó cái lập tức đi theo, nhưng sói con đợi khi chiếc xích dài ba mét sắp căng vẫn chưa nhúc nhích. Sáu con bò thiến trong lần chuyển nhà này là những con khoẻ nhất, nhanh nhẹn nhất trong đàn bò.

Để dùng vào công việc chuyển nhà, chúng đã được nhất riêng ăn uống ít đi trong ba ngày xẹp bớt cái bụng bự, giờ là lúc sức vóc lý tưởng nhất. Sáu con bò thiến đi thành chuỗi, sói con làm sao cưỡng nổi, ngay cả chống chân trả lại cũng chưa kịp, đã bị lôi đi xềnh xệch.

Sói con vừa sợ vừa tức, điên cuồng chống lại, bốn chân quờ quạng chạm đất là bật dạy chạy lên vài bước chuẩn bị tư thế trằn lại không cho lôi đi. Xe bò đã ra đến đường đi của xe, lăn bánh nhanh hơn, sói con chống trả quyết liệt, hơn chục bước lại bị dây thừng xiết ngã. Dây thừng trên xe lôi sói con như lôi chó, gốc cỏ cà đứt từng mảng lông. Sói con mỏi dừ gáy nhưng chịu lực lớn nhất lại là yết hầu. Dai da trên cổ càng thít càng chặt, sói con thè lưỡi, mắt đảo tròng. Chính là vào lúc ấy nó vùng dậy loạng choạng chạy tới phía trước, rồi khi sợi xích sắp căng nó lại chạy lên. Trần Trận phát hiện lần chạy sau nó chạy nhiều hơn hai bước, rõ ràng là để có nhiều thời gian hơn để sức trằn có hiệu quả. Khi xích chưa căng nó chuẩn bị sẵn tư thế ngả người ra sau, bốn chân cày đất, ngã lăn rồi lại vùng dậy chạy tới trước, lại tì đất chống cự, lại ngã lăn.

Con chó cái nghiêng đầu thông cảm nhìn sói con, rên ư ử. Lại còn giơ chân chạm vào sói một cái như có ý bảo, hãy đi như tôi đây nếu không muốn bị lôi chết. Nhưng sói con không thèm để ý tới con chó cái, nó dứt khoát không đứng chung hàng ngũ với loài chó, tiếp tục phản kháng theo cách thức của nó. Trần Trận nhận thấykhông phải sói con không biết chạy theo hoặc đi theo xe, hoặc không biết cách đi như chó cái đi bên cạnh. Nó thà chịu cực hình đi theo kiểu của nó, còn hơn bị lôi xềnh xệch như chó.

Bị dắt và không để cho dắt đi, là ranh giới căn bản giữa sói và chó, giữa sói và sư tử, hổ, gấu, voi, giữa sói và rất nhiều người. Không con sói thảo nguyên nào vượt qua ranh giới này: Đầu hàng con người. Cự tuyệt phục tùng, cự tuyệt dắt mũi là tiêu chí tuyệt đối để trở thành sói Mông cổ chân chính, ngay cả sói con chưa từng được sói mẹ dạy dỗ cũng thế.

Sói con vẫn chốngt cự quyết liệt, cát sỏi trên mặt đường rắn như tấm giấy ráp cà chân sói toé máu. Trần Trận đau lòng quá. Sói thảo nguyên , tôtem tinh thần các dân tộc quật cường trên thảo nguyên ngàn vạn năm có một sức mạnh tinh thần khiến con người cảm thấy hổ thẹn và ngưỡng mộ. Một số nguời không nhiều dám sống theo ý mình, kiên cuờng bất khuất, thậm chí dám trả giá bằng sinh mạng cho cuộc sống đó như sói thảo nguyên.

Vì vậy , Trần Trận cảm thấy nhận thức của cậu về sói thảo nguyên truớc đây quá nông cạn. Trong một thời gian dài cậu vẫn cho rằng sói coi miếng ăn bằng trời, coi giết chóc bằng trời. Tuy không phải tất cả như thế, nhưng có loại nguời suy bụngt ta ra bụng sói. Sói thảo nguyên bất kể ăn thịt hay cắn chết đều không phải mục đích, mà vì tự do, độc lập và sự tôn nghiêm thiêng liêng bất khả xâm phạm của sói. Thiêng liêng tới mức mục dân thật sự sùng bái sói, đều tình nguyện đưa thi thể đến bãi thiên táng thần bí, mong linh hồn được tự do bay bổng như linh hồn sói.

Sói con ngoan cường bị lôi xềnh xệch bốn năm dặm, lông gáy bị cà đứt quá nửa, da rớm máu, bàn chân chắc nịch bị mài trên cát sỏi trơ cả vuốt. Khi sói con lần sau cùng bị cỗ xe lôi ngã, nó không đứng dậy được nữa vì sức cùng lực kiệt, nằm thẳng cẳng như bị thòng lọng xiết cổ trong các cuộc vây ráp, chỉ há miệng mà thở. Tiếp đó, sói con miệng sùi bọt máu, đai cổ đã cứa rách họng. Trần Trận sợ quá quát dừng xe. Cậu nhảy xuống ngựa, bế sói con toàn thân co giật đi tới chừng một mét cho sợi xích chùng lại. Sói con thở hắt ra, máu loang đầy bàn tay Trần Trận, cánh tay cậu cũng dính máu phía sau ót nó. Sói con thoi thóp, miệng đầy bọt máu, đau đớn cào tay trần trận nhưng móng đã cụt hết, bàn chân chỉ còn là một cục thịt bầy nhầy. Trần Trận ứa nước mắt.

Trương Kế Nguyên chạy tới, xem xét mấy chỗ trên mình sói, giật mình kinh hoảng. Cậu loay hoay bên sói con không biết làm gì, nói: Sao nó lại ngang ngạnh đến thế kia chứ! Chẳng phải tự tìm cái chết là gì. Làm thế nào bây giờ?

Trần Trận ôm chặt sói con không biết nên như thế nào, sói con đau đớn run rẩy khiến cậu càng xót xa.

Trương Kế Nguyên lau mồ hôi mặt, nghĩ một lát rồi nó: Mới hơn nửa năm tuổi mà đã không cho dắt. Mà bây giờ đưa được nó đến đồng cỏ mùa thu, sau đó mỗi tháng chuyển nhà một lần, khi ấy nó đã thành sói lớn, thì làm thế nào với nó? Theo mình thì thả nó ra cho nó tự kiếm sống.

Trần Trận giận tím mặt, cậu quát Trương Kế Nguyên: Cậu không trực tiếp nuôi nó nên cậu không hiểu. Tự kiếm sống? Có khác gì đẩy nó vào chổ chết! Mình nhất định nuôi nó. Mình dứt khoát nuôi nó thành sói lớn.Hãy cho nó sống. Nói rồi Trần Trận bước tới cỗ xe chở đồ đạc linh tinh và phân khô, giận dữ cởi dây thòng với xe đi đầu, lôi cỗ xe này về cuối đoàn xe, cởi dây buộc, đổ hết phân khô đựng đầy chiếc sọt lớn đan bằng cành liễu xuống đường, biến chiếc sọt thành nhà giam, một cái lồng tạm thời nhốt sói con.

Trương Kế Nguyên không kịp ngăn, phát cáu: Cậu điên rồi! Đường xa, cơm nước trà lá đều trông vào chỗ phân khô này, nếu dọc đường gặp mưa, bốn chúng ta không nấu được cơm mà ăn. Đến nơi ở mới rồi vẫn cần phân khô mấy ngày nữa. Cậu dám vứt phân đi để chở sói, mục dân mà biết chửi thối óc! Cao Kiện Trung thế nào cũng ca cẩm cho mà xem.

Trần Trận nhanh tay bốc xếp, nghiến răng chịu rầy la, cậu nói:Tối nay ở chỗ tạm trú qua đêm, mình sẽ vay Caxưmai ít phân khô, đến nơi ở mới mình sẽ đi kiếm phân khô, không lỡ chuyện ăn uống của các cậu đâu.

Sói con từ nơi giáp ranh giữa sống với chết trở về. Bất chấp bốn chân đau buốt, nó ngoan cố đứng giữa đui72ng, bốn chân vẫn run, miệng rớm máu, cổ vươn ra, tiếp tục tư thế bám trụ, mắt mở to, sẵn sàng chiến đấu bất chấp các móng chân đã mòn vẹt. Trần Trận trong lòng đau xót, cậu cúi xuống bế nó lên đặt nằm trên mặt đất. Cậu không nỡ nhìn nó đứng trên bốn chân. Cậu gọi nguời mở thùng xe lấy thuốc bạch thược Vân Nam bôi lên vết thương. Miệng sói con vẫn chảy máu. Trần Trận lại lấy ra hai miếng thịt bò luộc hình thoi, bôi một lớp bạch thuợc lên miếng thịt đút vào miệng cho sói con nuốt tớm. Trần Trận nghĩ bạch thuợc có thể cầm máu vết thương ở họng sói con.

Trần Trận lại chằng buộc các thứ trên xe chở phân khô, sắp xếp lại các thứ linh tinh, dùng thớt cũ ván cũ chừa ra một khoảng trống quá nửa thùng xe để đặt vừa cái sọt, trải lên đó tấm da sống làm đệm, một mảnh thảm làm nắp đậy, xong xuôi, cậu định nhốt sói con vào đó. Nhưng mà bỏ con sói vào cái “nhà tù” này bằng cách nào? Trần Trận khó nghĩ quá. Sói con đã lãnh đủ sự ghê gớm của cỗ xe nên luôn luôn giữ một khoảng cách bằng chiều dài sợi xích, không bao giờ lại gần. Trần Trận cởi xích cầm trong tay, xắn tay áo bế sói con lên, chuẩn bị thả sói con vào sọt, nhưng vừa đi được một bước, sói con đã điên cuồng chống lại, chưa kịp thả, nó đã ngoạm luôn cánh tay cậu. Trần Trận kêu lên một tiếng, sợ toát mồ hôi, cho đến khi chân chạm đất sói con mới nhả tay cậu ra. Trần Trận đau, vẩy tay lia lịa. Không chảy máu nhưng tr6n tay có bốn vết bầm tím như bị giầy đá bóng dẫm lên.

Trương Kế Nguyên sợ tái mặt, nói: May mà cậu đã bẻ răng nó, nếu không nó cắn gãy tay cậu. Mình thấy không nên nuôi nó nữa, sau này khi đã trưởng thành, nó có thể cắn đứt cánh tay đấy.

Trần Trận nổi cáu, nói: Đừng nhắc tới chuyện ấy nữa, nếu không vì chuyện ấy mình đã thả nó về đồng cỏ rồi. Bây giờ đã tàn phế, da thịt mình mà cắn không thủng, thả về thảo nghuên nó sống thế nào? Chính là mình đã biến nó thành què quặt, mình phải nuôi dưỡng nó suốt đời. Giờ binh đoàn về đây xây dựng các điểm định cư, sau khi định cư, mình sẽ xây cho nó một cái chuồng, khi ấy có thể bỏ xích….

Trương Kế Nguyên nói: Thôi thôi, ngăn nữa là không xong với cậu. Tính chuyện lên đường đi, nhưng làm sao đưa được nó lên xe? Cậu bị thương rồi, để mình thử xem.

Trần Trận nói: Cứ để mình bế vẫn hơn. Sói con không quen cậu, nó sẽ không khách khí với cậu, chưa chừng nó cắn đứt mũi cậu. Nào, lại gần đây, cầm nlấy miếng thảm, mình quẳng nó vào sọt là cậu đậy lên.

Trương Kế Nguyên kêu lên: Thế cậu không sợ nó cắn đứt cánh tay hả? Sói là cái loại trở mặt như trở bàn tay, không khéo nó cắn đứt họng cho mà xem!

Trần Trận nghĩ một lúc, nói: Cắn thì cũng phải bế. Giờ phải hi sinh chiếc áo mưa. Cậu chạy tới bên hộc xe lấy ra chiếc áo mưa quân đội bằng vải cao su, ném cho sói con hai miếng thịt, rồi nhân lúc nó mất cảnh giác, cậu chụp áo mưa lên sói con, nhanh chóng cuộn lại thật chặt, tranh thủ lúc nó chưa kịp trấn tĩnh, ném nó vào trong sọt như ném một quả bộc phá, Trương Kế Nguyên lao tới trùm tấm thảm lên. Khi sói con cắn thủng áo mưa chui ra, nó đã bị giam trong sọt. Hai nguời chằng buộc tấm thảm rất kỹ, Trần Trận thở một hơi khoan khoái, người ướt đẫm, ngồi thừ trên mặt đất, không còn chút hơi sức. sói con loanh quanh trong sọt một vòng, Trần Trận chuẩn bị đề phòng nó cắn rách thảm chui ra.

Đoàn xe sắp lăn bánh, Trần Trận sợ cái sọt đan bằng cành liễu không thể nhốt con thú khoẻ mạnh, cậu vừa dỗ dành vừa cho thêm mấy miếng thịt luộc, rồi lại ra sức an ủi nó, lại gọi tất cả chó lớn chó con đến chơi với nó. Trương Kế Nguyên ngồi trên xe đầu ra roi cho bò đi nhanh. Trần Trận cầm cây mã bổng liên tục gõ vào thành sọt đề phòng sói con phản kháng. Cậu bám sát xe chở sói không rời nửa buớc chỉ sợ sói con mê hoặc cậu, đợi lúc cậu ra chỗ khác, liền xé rách sọt, xông ra khỏi “nhà tù”. Lại còn cái dây xích liệu có chắc không? Trần Trận đi sau xe mà trong lòng phấp phỏng.

Nhưng tình hình sau đó nằm ngoài dự kiến: Xe bắt đầu chuyển bánh, con sói trong sọt không hề quậy phá nhưng nó không bình thường. Trần Trận chua bao giờ thấy ánh mắt nó hoảng loạn đến thế. Nó sợ đến nỗi không dám nằm xuống, đầu cúi gằm, d8uôi kẹp giữa hai chân, toàn thân run rẩy. Trần Trận nhìn qua kẽ sọt thấy sói con ngày càng sợ, co rúm lại như con nhím. Nó không ăn không uống, không kêu không gào, không cắn không xé y như một tên tù say xe, mất hết sức phản kháng.

Trần Trận cảm thấy đây là chuyện lạ. Tay cầm gậy, cậu bám sát sau xe sang bên kia đèo. Qua kẽ sọt thấy sói con vẫn đứng yên bất động, nhưng đôi mắt nhớt nhác, đuôi cụp, nhìn Trần Trận bằng ánh mắt xa lạ, đáng thương quá! Sói con đã kiệt sức, chân vẫn đau, miệng vẫn đang chảy máu. Hình như đầu óc nó vẫn đang tỉnh táo, nhưng nó không dám nằm xuống nghỉ, theo bản năng, nó sợ xe lắc, sợ thảo nguyên. Hơn nữa năm nay Trần Trận nghĩ mãi mà không hiểu vì sao sói con có hành vi bất thường như thế, cậu không giải thích được.

Lũ bò thiến ra sức xủa đuổi đàn bò, đội xe tiến nhanh, trần trận chỉ việc ngồi trên lưng ngựa nên có thì giờ suy nghĩ. Cậu nghĩ sói con hung dữ là thế bổng chốc trở nên sợ hãi, yếu đuổi, rất không đúng với tính cách sói thảo nguyên mà Trần Trận cho rằng hoàn mĩ nhất cũng có khiếm khuyết về tính cách.

Trần Trận nhìn con sói mà suy nghĩ đau cả đầu, luôn thấy nó giống ai đó hoặc giống vật gì đó. Nghĩ mãi, chợt hình ảnh người anh hùng cái thế A sin trong thần thoại Hi Lạp loé lên trong đầu. Chẳn lẽ sói thảo nguyên cũng có chổ yếu như gót chân Asin? Trong thần thoại Hi Lạp, Asin dũng mãnh vô song, nhưng có một nhược điểm chí mạng, hể rời mặt đất là cơ thể mất hết sức mạnh. Kẽ thù của Asin là Cái Nhĩ Khô Lý Tư phát hiện ra nhược điểm này, tìm cách nhất bổng Asin lên không trung và bóp chết. Chẳng lẽ sói tháo nguyên cũng thế. Một khi rời mặt đất, rời bà mẹ thảo nguyên sinh ra và nuôi dưỡng, sói mất hết sức mạnh thần kỳ, trở nên yếu đuối, èo ợt. Phải chăng sói nương tựa và lưu luyến đất mẹ thảo nguyên sâu sắc đến thế? Phải chăng sự hũng hãng và dũng mãnh của sói là do thảo nguyên ban cho?

Trần Trật chợt tỉnh, có lẽ câu chuyện thần kỳ về anh hùng Asin và đất mẹ Cai A, bắt nguồn từ sói? rất có thể là, người Hi Lạp Arian trong thời kỳ đầu của cuộc sống du mục đã từng nuối sói? Trong khi vận chuyển sói phát hiện ra chổ yếu của sói, điều này gợi cho người ta sáng tác nên thần thoại vĩ đại đó. Còn về mặt triết lý, nó từng ảnh hưởng đến biết bao nhiêu người từ phương Đông và phương Tây, thậm chí “Lịch sử Đảng Cộng sản liên Xô” còn lấy làm đoạn kết cho cuốn sách, nhắc nhở Đảng viên Cộng sản trên toàn thế giới không được xa rời đất mẹ - nhân dân, nếu không, Đảng lớn mạnh đến mấy cũng bị kẻ thù póp chết. Thần thoại được dẫn trong 2 trang vậy mà trần trận không ngờ trên thảo nguyên Mông Cổ, hình như cậu bắt gặp nguồn gốc nảy sinh và nguyên dạng thần thoại đó. Thần thoại Hi Lạp ra đời cách đây hơn hai nghìn năm, vậy mà sói thảo nguyên vẫn duy trì cá tính và nhược điểm cách đây hơn hai nghìn năm. Hoá thạch sống của sói có giá trị cực kỳ giá trị đối với người hiện đại muốn tìm hiểu nguồn gốc tinh thần và sự phát triển của những dân tộc tiên tiến. Trần Trận lại nhớ tới những tấm huy hiệu của thành phố La Mã vẽ sói mẹ đang cho hai sói con bú sữa - về sao hai anh em nhà sói xây dựng nên thành La Mã. Ảnh hưởng tinh thần của sói đối với phương Đông và phương Tây vô cùng lớn. Cho đến bây giờ triết lý tinh thần của sói vẫn chỉ đạo các dân tộc tiên tiến. Vậy mà con sói trong cuộc sống hiện thực, đang bị lũ người ngu ngốc giết hại không thương tiếc...

Vết thương trên cánh tay đau buốt, nhưng Trần Trật không hề có ý trách con sói, trái lại còn cảm ơn sói bất cứ ở đâu và lúc nào cũng gợi mở cho cậu nhiều điều, bất kể tình huốn nào cậu vẫn nuôi con sói cho đến trưởng thành, và nó nhất định phải có người nối dõi.

Triết lý xa xôi mãi, Trần Trận không thể không trở về hiện thực trước mắt, vấn đề là từ nay duy chuyển sói như thế nào? Nhất là khi sói trưởng thành, ai dám bế bỏ vào sọt? sọt không vừa với nó nữa, có khả năng dành hẳng một xe chuyên chở nó? đến mùa đông phải dành một xe chở thức ăn, lại càng thiếu xe, không có phân khô khi chuyển nhà, lấy gì đun nấu, sưởi ấm? Chẳng lẽ cứ vay mượn Caxưmai? Dọc đường, Trần Trận suy nghĩ mông lung, trăm mối như tơ vò.

Vừa xuống hết dốc, sáu con bò thiến của đội đánh hơi thấy đàn bò, bắt đầu bước rất nhanh đuổi theo đoàn xe di chuyển phía xa, chỉ còn nhỏ bằng những hạt vừng.

Lúc đội xe sẳp ra khỏi cửa núi án ngữ bãi chăn mùa hạ, chiếc xe com măng ca nhãn hiệu “Gát” cuốn theo một đám buội, xịt tới, không đợi xe bò nhường đường, nó trèo lên lề phóng qua. Khi hai xe chạm trán, Trần Trận trông thấy trên xe hai xạ thủ ngoại hạng, vài cán bộ mục trường và một mục dân Mông Cổ mặc áo dài. Người này vẫy chào cậu, nhìn hoá ra Đanchi. Thấy kiện tướng Đanchi đi cùng hai xạ thủ ngoại hạng, tim Trần Trận lại đập như trống làng. Cậu chạy vọt lên hỏi Trương Kế Nguyên: Có phải Đanchi dẫn người đi bắn sói không?

Trương Kế Nguyên nói: Phía đó toàn là sơn địa, ở giữa là bãi lầy và một con sông nhỏ xe không chạy được vậy không phải đi săn sói, có lẽ đi giúp nhà kho di chuyển.

Vừa tới bãi chăn, một con ngựa từ phía tổ xe phóng tới trước mặt Trần Trận, tới gần hoá ra bố Pilich. Ông già thở dốc, mặt hầm hầm, hỏi: Các con có thấy Đanchi trên chiếc xe vừa đi qua không?

Hai người trả lời có trông thấy. Ông già bảo Trần Trận: Cậu cùng tôi về khu lều bạc. Quay lại, ông bảo Trương Kế Nguyên: Cậu đi trước đi, lát nữa chúng tôi sẽ quay lại.

Trần Trận ghé tai Trương kế Nguyên nói nhỏ: Cậu phải thường xuyên nhìn lại sói con, chú ý cái xe sau cùng. Nếu sói con phá hỏng xe, cậu cứ để yên đợi mình về, tính sau. Nói rồi cậu chạy trở lại theo đường cũ. Ông già nói: Chắc Đanchi dẫn người đi săn sói. Những ngày này, tài săn bắn của đan chi đã đến tai cấp trên, cậu ta nói thạo tiếng Hán, nên làm tham mưu trên đoàn bộ, đàn bò giao cho cậu em trai, còn cậu ta suốt ngày ngồi xe gíp săn sói, thân với tất cả các quan lớn bé. Cách đây mấy hôm còn còn dẫn một ông cốp bắn hạ mấy con sói. Bây giờ người ta là dũng sĩ diệt sói của doàn sư.

Trần Trận nói: Nhưng mà đằng ấy toàn nuối với sông có gì mà bắn?

Con không hiểu.

Ông già nói: Có một gã đã mách tôi, Đanchi dẫn người về khu lều trại cũ. Tôi biết anh ta định làm gì rồi.

Trần Trận hỏi: Anh ta về đấy làm gì hở bố?

Ông già định nói: Đánh bả, đặt bẫy ở tất cả các nhà. Những con sói già bị bệnh hoặc què quặt rất đáng thương. Không thể tự kiếm ăn, phải ăn thức ăn thừa của sói lớn. Thường thì chúng ăn thức ăn thừa của người, bữa no bữa đói. Mỗi khi người và gia súc chuyển nhà, chúng đến bới chúng bới trong đống tro, đống rác cũ ăn những mẫu da, mẫu xương, cơm thừa, bã đậu... lại cả chó, cừu, bê chết đã chôn dưới đất, bới lên ăn tất. Mục dân Ơlôn đề biết chuyện này. Những lần chuyển nhà bỏ quên thứ gì đó quay lại thường thấy dấu vết của sói. Mục dân ở Lạcma rất nhân hậu, biết những con sói mò đến đều đáng thương, nên không cài bẫy, đánh bả. Có người còn cố ý bỏ quên vài thứ cho sói ăn.

Ông già thở dài, nói: Từ khi có các hộ ngụ cư, lâu dần họ cũng thấy chuyện này, gia đình Đanchi kể từ khi bố cậu ta mỗi khi chuyển nhà đều cài bẫy đánh bả, sau một hai hôm nay về giết sói lấy da. Vì sao nhà ấy có nhiều da bán hơn những nhà khác? Vì họ không thờ Lạcma, không kính trọng sói, dám dùng độc chiều để sát hại những con sói đó. Cậu xem, sói đâu độc ác bằng con người!

Ánh mắt buồn thảm, chòm râu run run, ông già nói: Những ngày này họ bắn chết bao nhiêu là sói. Đàn sói không dám đi bắt mồi nữa, tôi đoán ngay cả sói khoẻ mạnh cũng mò về khu lều củ kiếm cái ăn. Đanchi ranh hơn cáo. Cứ đà này, người thảo nguyên Ơlôn không lên trời được nữa rồi, thảo nguyên Ơlôn sắp đi đứt rồi!

Trần Trận không biết làm sao để ông già diệu bớt nỗi đau. Không sao ngăn những người nông canh xấu thói cướp phá thảo nguyên. Trần Trận không biết an ủi ông già như thế nào, đành bảo: Hôm nay con làm sập bằng hết các bẫy!

Hai người qua đèo tiến về khu lều trại gần nhất. Quả nhiên thấy vết bánh xe cách lều trại không xa. Xe chạy nhanh hơn, dã vượt qua đèo đi rồi. Hai người tiến tới nhưng không dám lại gần vì sợ ngựa dính bẫy, bèn xuống ngựa xem xét mọt hồi. Ông già trỏ đống tro bếp, nói: Đanchi đặt cái bẫy kia mới giỏi, cậu xem, tro trên mặt đất thoạt trông tưởng gió thổi, thực chất là do người rắc, phía dưới là bẫy, bên cạnh cố ý bỏ lại hai móng guốc cừu. để lại hai miếng thịt cừu thì sói sẽ nghi, còn móng guốc thường vứt sọt rác, nên dễ đánh lừa hơn. Tôi nghĩ rằng, khi rắc tro thể nào cũng dính hơi tay, nhưng tro bếp khử mùi, chỉ những con sói thính muỗi mới nhận ra. Những con sói này đã quá già, mũi không thính không nhận ra được...

Trần Trận ngạc nhiên đến sững sờ, không nói được câu nào.

Ông già lại nữa con cừu chết bên cạnh bãi phân bò, nói: Chắc chắn nữa cừu kia đã tẩm thuốc. Nghe nói họ đem từ Bắt Kinh về thuốc cực độc, không mùi vị, sói ngưởi không ra, ăn vào chỉ tàn điếu thuốc là chết.

Trần Trận nói: Vậy ném tất cả xuống cái giếng bỏ đi.

Ông già nói: Mình làm sao dọn hết được, bao nhiêu là lều chứ ít đâu!

Hai người lên ngựa đến xem bốn khu lều trại nữa, phát hiện không phải khu lều trại nào cũng làm giống nhau, nơi đánh bẫy, nơi đặt bã, nơi có cả hai, lại có nơi không làm gì cả. Toàn bộ bố cục thật giả lẫn lộn, hư hư, thực thực, hơn nữa, cứ cách một khu mới đánh bẫy một khu, hai khu cách nhau một đèo nhỏ, nếu sói dính bẫy không ảnh hưởng đến khu khác.

Hai người thấy Đanchi đánh bã nhiều, đánh bẫy ít, mà thường là lợi dụng đống tro, không cất công đào hố mới, nên anh ta hành động mau lẹ, cứ tố độ này thì toàn bộ lều trại của đại đội chỉ quá nữa ngày là xong.

Không thể tiến thêm nữa, nếu không, Đanchi sẽ nhìn thấy.

Ông Pilich cho ngựa quay về, lẩm bẩm nói một mình: chỉ cứu được bấy nhiêu thôi. Hai người đi tới khu trại có đặt bẫy, xuống ngựa cẩn thận đến bên nữa chiếc đùi cừu thối, lấy ra trong bọc chiếc túi da để nhỏ, rắc lên đùi cừu ít bột trắng như thuỷ tinh, Trần Trận thấy ngay ý đồ của ông già: Loại thuốc của ông là Hợp cung tiêu bán ra, dùng để đầu độc thú lớn, rất nặng mùi, ít độc, chỉ hại đối với những con sói ngu ngốc hoặc cáo, còn phần lớn sói thì không. Thuốc độc kém phẩm chất rải đè lên thuốc tốt, Đanchi công cốc rồi.

Trần Trận nghĩ, ông già lợi hại hơn Đanchi nhiều. Nghĩ một thoáng, cậu hỏi: Gió thổi bay mất hơi độc thì làm thế nào?

Ông già nói: Không thể đâu, người không ngưởi thấy, nhưng sói vẫn ngưởi thấy. Ông già lại tìm mấy chổ đặt bẫy. Ông bảo Trần Trận ném xương gióng chân cho bẫy xập. Đây cũng là phương pháp nhưng con sói nhiều kinh nghiệm phá bẫy.

Hai người lại tới những góc khác của lều trại cho tới khi dùng hết số độc đem theo mới lên ngựa trở về.

Trần Trận hỏi: Bố, khi về Đoàn bộ họ phát hiện chuyện lật bẫy thì làm thế nào? Ông già nói: Họ đi đường vòng, không thấy đâu. Trần Trận lại hỏi: Vài hôm nữa họ phát hiện có người phá bẫy thì làm thế nào? Đây là hành động phá hoại phong trào diệt sói, chắc lôi thôi to!

Ông già nói: Có bị lôi thôi thì đâu đã lôi thôi bằng sói Ơlôn. Hết sói, đám thỏ đồng chuột đồng cày xới đất lên, thảo nguyên không còn, họ cũng khkoong còn, không ai thoát. Tôi có cứu cũng chỉ được vài con sói, được con nào hay con ấy. Sói Ơlôn, hãy chạy đi, chạy sang phía bên kia!... Bọn Đanchi đến tính sổ với tôi càng hay, tôi đang muốn trút giận vào kẻ nào đây.

Lên đỉnh dốc, trên cao mấy con nhạn đang nháo nhác tìm bầy, tiếng kêu thê thảm. Ông già gò lưng ngựa, ngẫn nhìn, than thở: Ngay cả đại nhạn bay về nam cũng không thành bầy nữa, họ ăn sạch cả rồi. Ông già nhìn bãi chăn mới do chính ông khai thác, khoé mắt ứa ra hai giọt nước đục ngầu.

Trần Trận nhớ lại cảnh đẹp mê hồn khi cùng ông già tới bãi chăn mới này, vậy mà mới qua một mùa hạ, bãi chăn đã biến thành nghĩa địa của thiên nga, đại nhạn, vịt trời và sói. Cậu nói: Bố ơi, ta làm việc tốt mà cứ như ăn cắp ấy? Bố ơi, con muốn khóc quá!

Ông già nói: Khóc đi, khóc được thì khóc.

Tôi cũng đang muốn khóc đây. Sói đã đưa hết lớp này đến lợp khác lên trời mà sao bỏ tôi lại một mình...

Ông già ngước nhìn Tăngcơli nước mắt đầm đìa, cất tiếng khóc hu hu như tiếng tru của sói già. Trần Trận nước mắt như mưa, cùng với nước mắt ông già, tưới lên thảm cỏ Ơlôn...

Sói con nhịn đau, đứng hai ngày liền trên xe. Chiều hôm thứ hai, đội xe của Trần Trận và Trương Kế Nguyên dừng lại ở một khu đồng cỏ mùa thu bằng phẳng, cỏ mọc tươi tốt. Láng giềng Quangbu đang dựng lều. Đàn bò của Cao Kiện Trung đã được dẫn đến cánh đồng của chúng. Cậu ta đang đợi cảnh Trần Trận trước căn lều do ông già Pilich chọn hộ. Đàn cừu của Dương khắc cũng ở gần khu lều trại. Trần Trận, Trương Kế Nguyên và Cao Kiện Trung vội vã dựng lều bạt kiểu Mông Cổ. Casưmai và Bayan chở đến hai sọt phân khô. Ba con người một cuộc hành trình hai ngày một đêm đã có thể nỗi lửa, pha trà, thổi cơm. Trước bữa cơm tối, Dương khắc cũng đã tới. Cậu lôi về một cái trục xe bò nhặt được dọc đường, góp phần vào chổ chất đốt. Hai ngày nay, Cao Kiện Trung mặt nặng mày nhẹ với Trần Trận việc vứt bớt phân bò dành chổ chở sói con, giờ đã được hoá giải.

Trần Trận, Trương Kế Nguyên và Dương khắc bước tới bên xe tù, thấy cái sọt đã bị sói con dùng răng cùn và hai chân cào rách một lỗ to bằng quả bóng đá, những nơi khác trên thành sọt đầy vết răng và vết chân cào. Trên áo mưa quân dụng rơi đầy những mãnh dụng của cành liễu. Trần Trận đâm hoảng, chắc chắn con sói làm chuyện này trong đêm qua khi đội xe dừng lại qua đêm. Nếu phát hiện chậm hơn chút nữa, sói con có thể chuôi qua lỗ thủng này bỏ trốn. nhưng cái xích vẫn còn một đầu lồng vào giống ngang, nếu vậy, sói sẽ bị chết treo hoặc bánh xe cán chết. Trần Trận xem kỹ, thấy trên các mãnh gỗ vụn đều có vết máu, vội cùng Trương Kế Nguyên khênh chiếc sọt xuống, sói con chuôi ngay vào bụi cỏ. Trần Trận gỏ đầu xích ở dóng ngang, lùa sói con tới trước lều bạt. Dương khắc vội đào lỗ chôn cây cọc, lồng một đầu xích vào cọc, chụp nắp hãm, sau khi nhãy xuống hình như con sói vẫn cảm thấy trời rung đất chuyển, gắng gượng đứng một lúc rồi vội nằm bẹp xuống cỏ, hai chân trước bị thương không còn tiếp xúc với vật cứng, sói con yên tâm nhưng mệt đến nỗi không thể ngẫn đầu lên.

Trần Trận hai tay ôm ót sói con rồi dùng hai ngón tay cái thọc vào hai bên mép bên mở miệng sói ra. Cậu thấy vết thương ở họng đã đỡ, nhưng chiếc răng hỏng chân đang rỉ máu, bèn giữ lấy đầu sói đẻ Dương Khắc sờ, Dương Khắc lay lay, nói: Chiếc răng này hình như hỏng rồi! Nghe vậy trần trận đau như chính cậu bị gãy răng. Hài ngày nay, sói con dùng máu và sinh mạng để phản đối việc bị dắt và cầm tù, thương tích đầy mình, cắn sé đến hỏng răng cũng không tiếc. Trần Trận buôn tay, sói con liên tục liếm cái răng hỏng, xem ra rất đau. Dương Khắc bôi thuốc cho bốn chân sói.

Sau bữa tối, Trần Trận làm cho sói con món hổ lốn gồm mì sợi, thịch vụn, canh thịt, để nguội rồi bê đến. Sói con quá đói, ăn sạch trong nháy mắt. Nhưng Trần Trận thấy họng sói như bị vướng và liên tục liếm chiếc răng đau. Trần Trận buồn quá, sói con không chỉ hỏng răng mà còn bị thương tích rất nặng ở cổ họng và thực quản, không biết chổ nào có thú y để mời đên khám cho nó.

Dương Khắc bảo Trần Trận: Giờ mình hiểu, sói sở dĩ kiên cường bất khuất vì trong hàng ngũ sói không có “Hán gian” và bọn yếu bóng vía, vì hoàn cành khách quan khóc liệt đã đào thải tất cả những quân vô dụng.

Trần Trận buồn rầu, nói: Thương thay con sói, phải trả giá quá đắt cho sự ương bướng của nó. Con người thì ba tuổi đã lớn, bảy tuổi đã già, nhưng con sói ba tháng đã lớn, bảy tháng đã già!

Sáng hôm sau, Trần Trận quét dọn cho sói con, thấy phân nó xưa kia màu xám, giờ lại màu đen. Trần Trận hoảng quá, vội vạch miệng sói ra xem, thấy họng vẫn đang rĩ máu. Cậu vội bảo Dương Khắc giữ hộ rồi dùng đũa gắp mẫu thảm có bôi thuốc nhét vào họng sói, nhưng sâu trong họng thì biết sao cho vừa, hai người tìm đủ mọi cách chữa chạy cho sói con, mệt bã, tiếc không học nghề thú y.

Ngày thứ tư sắc phân đã nhạt, con sói trở lại nhanh nhẹn, hai cậu thở phào nhẹ nhõm.

Chương 34

Trong khoảng thời gian dài, tất cả những nền văn minh đều nảy sinh và phát triển trên đường lối chính thể quân chủ, tức là đường lối chính thể quân chủ chuyên chế. Từ mỗi quân chủ và triều đại, ta thấy gần như có một quá trình tất nhiên, tức từ thịnh trị đi tới xa hoa, lười biếng và suy thoái, cuối cùng bị một gia hệ đầy sức sống đến từ sa mạc hoặc thảo nguyên khuất phục.

…………………

Chúng tôi thấy tất cả dân du mục dù là người Nôtikhơ, người Sanlaithơ hoặc người Môngôlia, về mặt bản tính mà nói, họ hoạt bát hơn, cương nghị hơn tộc định cư.

(Anh) Herbert J. Wells “Thế giới sử cương”

Ông già Pilich không còn được mời tham gia hội nghị sản xuất trên Đoàn bộ. Trần Trận thường thấy ông ở nhà làm đồ da.

Qua hai vụ hè thu, dàm dây cương hàm thiếc và dây buộc chân ngựa hết đợt này đến đợt khác thấm đẫm nước mưa rồi phơi nắng, thuốc thuộc rã hết, da bị mủn, khô, lão hóa, chất lượng xuống cấp nghiêm trọng. Thường xuyên có chuyện ngựa đứt dây cương, dây buộc chân, chạy về đàn.

Vậy là ông Pilich có thời gian làm đồ da cho người nhà, cho các mã quan trong tổ và đám thanh niên trí thức. Trần Trận, Dương Khắc và Cao Kiện Trung thường tranh thủ thời gian đến nhà ông Pilich học làm đồ da. Sau mười mấy ngày, họ đã làm được dàm, roi da. Dương Khắc còn làm được một thứ rất khó làm: Dây buộc chân ngựa.

Căn lều Mông Cổ rộng rãi của ông già biến thành nơi sản xuất đồ da, chất đống da thuộc và chưa thuộc, mùi lưu huỳnh khét lẹt. Tất cả những sản phẩm đó đều phải qua một công đoạn cuối cùng: quang dầu bằng mỡ rái cá cạn.

Mỡ rái cá cạn là loại mỡ động vật cao cấp kỳ lạ của thảo nguyên. Cao nguyên Mông Cổ rét ghê gớm, mỡ cừu, mỡ bò, dầu mazút đều đông đặc, chỉ mỗi mỡ rái cá cạn là không đông, ngay cả dưới 30 độ C vẫn rót được từ trong chai ra.

Mỡ rái cá cạn là đặc sản của thảo nguyên, là báu vật của mỗi gia đình mục dân, nhà nào cũng cất giữ. Trong những ngày bạch mao phong giá lạnh, các mã quan dương quan chỉ cần bôi lên mặt một lớp mỡ rái cá cạn là mũi không bị chết máu vì lạnh, da mặt không bị tróc vảy trắng. Bánh bột khỏa rán mỡ rái cá, vàng và thơm, mùi vị ngon tuyệt chỉ xuất hiện trong tiệc cưới hoặc trên bàn trà quan khách. Mỡ rái cá cạn còn chữa bỏng, công hiệu không thua mỡ lợn lửng.

Mỡ và da rái cá là một trong những nghề phụ quan trọng của mục dân. Hàng năm, khi rái cá cạn lông dày và béo núc, mục dân lên núi đánh bắt, thịt để ăn, còn mỡ và da đem lên Hợp cung tiêu đổi lấy chè gối, vải vóc, pin đèn, ủng đi ngựa, bánh kẹo. Một tấm da rái cá lớn giá 4 tệ, mỡ hơn 1 tệ một cân. Da rái cá cạn là nguyên liệu cao cấp may áo da nữ, toàn bộ xuất khẩu thu ngoại tệ. Rái cá nếu mỡ dày một đốt ngón tay, có thể được hai cân mỡ nước. Bắt được một con rái cá cạn, ngoài thịt để ăn, mục dân còn kiếm được năm sáu tệ. Một vụ thu bắn được khoảng trăm con là có sáu bảy trăm tệ, nhiều hơn công điểm trong một năm của Dương Quan. Mục dân nửa chăn nuôi nửa săn bắn ở thảo nguyên Ơlôn, tuy nghề chính là chăn nuôi, nhưng thu nhập chính lại từ săn bắn, riêng rái cá đã hơn cừu, nếu tính cả sói, cáo, cáo sa mạc, dê vàng… thì còn nhiều hơn nữa. Hồi đó, mức sống của mục dân Ơlôn bằng cán bộ trung cấp ở thành phố Bắc Kinh. Mục dân có số tiền gửi tại ngân hàng khiến người thành phố giật mình.

Nhưng thu nhập về săn bắn không ổn định, động vật hoang dã trên thảo nguyên giống như cây ăn quả dưới xuôi, năm được năm mất do nhân tố khí hậu, cỏ tốt xấu, thiên tai quyết định. Mục dân Ơlôn biết điều tiết quy mô săn bắn, không định ra chỉ tiêu cứng nhắc mỗi năm phải đạt bao nhiêu phần trăm, động vật hoang dã nhiều săn bắt nhiều, ít săn bắt ít, ít quá thì thôi. Hàng vạn năm như thế, gần như năm nào cũng đi săn.

Mục dân bắt được rái cá cạn, bộ da bán đi, nhưng phần lớn mỡ thì giữ lại. Mỡ rái cá tiêu thụ nhiều, nhất là với các sản phẩm từ da. Bôi mỡ lên, da có màu nâu sẫm, mềm và đẹp. Trong mùa mưa mà thường xuyên bôi mỡ rái cá cho yên cương ngựa thì sẽ không bị mục nát, tuổi thọ kéo dài, giảm bớt sự cố. Mỡ rái cá dùng nhiều, phạm vi sử dụng rất rộng, nên thường là chưa tới vụ sau đã hết.

Ông già nhìn các đồ da la liệt dưới thảm, bảo Trần Trận: Trong nhà chỉ còn nửa chai mỡ rái cá. Lúc này thịt rái cá ngon nhất. Xưa kia vua chúa không ăn thịt cừu vào lúc này, mà ăn thịt rái cá. Ngày mai tôi dẫn cậu đi săn rái cá một bữa.

Caxưmai nói: Hôm nào có mỡ rái cá, tôi làm bữa bánh bột khỏa các cậu nếm thử.

Trần Trận nói: Hay quá! Năm nay em cũng phải trữ nhiều một tí, không thể cứ đến đây ăn chực.

Caxưmai cười: Từ khi cậu nuôi sói con là quên luôn bọn tôi. Mấy tháng nay cậu đến nhà này uống trà mấy lần?

Trần Trận nói: Chị là tổ trưởng, em nuôi sói đã gây bao nhiêu phiền phức cho chị, nên ngại không dám gặp chị.

Caxưmai nói: Nếu tôi không ủng hộ cậu thì con sói của cậu đã bị mã quan tổ khác đập chết từ lâu.

Trần Trận hỏi: Chị nói với họ thế nào?

Caxưmai cười, nói: Tôi bảo họ, người Hán đều ghét sói, thậm chí ăn thịt sói, chỉ có Trần Trận và Dương Khắc là yêu sói. Con sói nhỏ đó gần như là con nuôi của hai cậu ấy. Khi đã làm rõ những chuyện về sói thì hai cậu là người Mông Cổ mình.

Trần Trận rất cảm kích, luôn miệng cảm ơn Caxưmai.

Caxưmai cười khanh khách, nói: Ơn với huệ gì! Cậu cho chúng tôi một bữa “ăn hiệu”, cái món thịt cừu băm viên ấy, tôi rất thích. Caxưmai nháy mắt với Trần Trận về phía ông già, nói: Bố cũng thích món ấy lắm.

Trần Trận mừng quá, lập tức đề nghị: Hành tây Trương Kế Nguyên mua về còn nửa bó. Chiều nay em mang các thứ đến đây làm một bữa cả nhà ăn thoải mái.

Nét mặt ông già đã giãn ra đôi chút, ông nói: Thịt cừu thì không cần đem đến, nhà mới thịt một con. Món viên của Cao Kiện Trung ngon hơn của nhà hàng trên huyện nhiều. Bảo Dương Khắc, Cao Kiện Trung cùng đến uống rượu cho vui.

Buổi chiều, Cao Kiện Trung dạy Caxưmai làm món thịt cừu băm viên, mọi người ăn uống ca hát. Ông già bỗng đặt bát xuống, hỏi: Binh đoàn nói từ nay mục dân sẽ định cư để bớt ốm đau, đỡ vất vả. Các cậu thấy định cư có tốt không? Người Hán các cậu chẳng phải rất thích xây nhà để ở đó sao?

Dương Khắc nói: Chúng cháu cũng không biết đã du mục hàng ngàn năm có thể định cư được không? Cháu thấy hình như không được. Cỏ thảo nguyên mỏng quá, sợ giẫm nát. Một khu lều trại, người và gia súc bất quá chỉ trong vòng hai tháng là đã phải di chuyển. Nếu định cư, trong phạm vi vài dặm chỉ một năm là biến thành bãi cát, nối liền các bãi cát thì thành sa mạc chứ sao? Với lại chọn nơi nào để định cư? Khó đấy!

Ông già gật đầu, nói: Có lẩm cẩm mới tính chuyện định cư trên thảo nguyên Mông Cổ. Người khu vực nông nghiệp không hiểu thảo nguyên, nên thích định cư và bắt người khác cũng định cư như mình. Ai không biết định cư thoải mái, nhưng dân du mục đời đời kiếp kiếp không định cư là do Tăngcơli bảo phải như thế. Trước tiên nói về đồng cỏ, bốn mùa đồng cỏ công dụng khác nhau. Đồng cỏ mùa xuân cho cừu đẻ, cỏ ngon nhưng mọc thấp, nếu định cư tại đấy thì mùa đông bị tuyết phủ kín, cỏ sẽ chết hết, gia súc ăn gì để sống? Bãi cỏ mùa đông cỏ mọc rất cao không sợ tuyết vùi, nhưng nếu định cư tại đấy, ba mùa xuân hè thu gia súc ăn cỏ một chỗ, cỏ cao thế nào được. Đồng cỏ mùa hè dứt khoát phải gần nước, nếu không gia súc sẽ chết khát, nhưng gần nước thì phải ở trong núi, định cư ở đấy thì gia súc chết rét hết. Đồng cỏ mùa thu trông vào hạt cỏ, nhưng nếu định cư ở đấy thì qua mùa xuân và mùa hạ cỏ bị gặm sạch, mùa thu làm sao có hạt? Đồng cỏ mỗi mùa đều có mấy cái dở, chỉ có một cái được. Du mục là tránh cái dở, chọn cái hay của mỗi loại đồng cỏ. Nếu định cư ở một chỗ, tất cả những cái dở ập tới, cái hay cũng chẳng còn, nói gì chăn với thả!

Trần Trận, Dương Khắc, Cao Kiện Trung gật đầu tán thành. Trần Trận thấy định cư chỉ mỗi cái lợi trong việc nuôi sói, nhưng cậu không dám nói ra.

Ông già uống khá nhiều rượu, ăn bốn cái bánh nhân thịt, nhưng hình như tâm trạng càng tồi tệ.

***

Sáng sớm hôm sau, Trần Trận sau khi đổi phiên cho Dương Khắc, liền theo ông già vào trong núi bắt rái cá cạn. Bao tải đay dắt sau yên, trong đó có hơn chục cái thòng lọng cấu tạo đơn giản: Một cái cọc bằng gỗ dài nửa thước, đầu cọc buộc cáp lụa loại tám sợi, đầu kia thắt nút thành cái thòng lọng. Khi đặt thòng, cắm cái cọc bên cạnh, thòng lọng thì đặt trên miệng hang, cao hơn mặt đất hai đốt ngón tay như vậy mới thòng trúng cổ hoặc hông. Trần Trận từng đánh thòng rái cá nhưng chỉ được toàn những con nhỏ. Cậu định lần này học vài mánh ở ông già.

Hai con ngựa phóng nhanh về phía đông bắc. Cỏ thu đã vàng nửa thân trên, nửa dưới vẫn còn xanh. Rái cá tranh thủ tự vỗ béo đợt cuối, ra vào hang như con thoi. Chúng ngủ đông bảy tháng, thiếu mỡ sẽ không sống nổi đến mùa xuân sau. Vì vậy đây là lúc rái cá béo nhất. Trần Trận hỏi: Dây thép con lấy từ chỗ bố, vậy sao chỉ thòng được những con nhỏ?

Ông già cười khì: Tôi chưa bày cho cậu cách đặt thòng. Người thảo nguyên Ơlôn không phổ biến kỹ thuật săn bắn cho người ngoài, sợ họ bắt hết thú hoang. Này con, ta già rồi, ta truyền lại cho con nghề này. Thòng lọng dân ngụ cư là thòng lọng chết, rái cá lớn rất khôn, nó biết thu mình chui qua thòng lọng ra ngoài. Cái thòng lọng của ta co dãn chỉ cần chạm nhẹ là nó thắt lại, không trúng cổ thì trúng hông, chạy không thoát. Khi đặt nhớ cho cái thòng lọng nhỏ hơn miệng hang một chút để căng ra thì vừa.

Trần Trận hỏi: Vậy cố định cái thòng như thế nào?

Ông già nói: Một đầu dậy thắt một cái khuyết, lồng sợi cáp qua phía sau thành cái thòng vừa khít, lỏng quá không được, vì gió thổi thòng lọng co lại; chặt quá cũng không được, vì thòng lọng không xiết lại, phải không lỏng không chặt mới cố định được. Rái cá chui vào một nửa và đụng phải là thòng lọng lập tức thắt lại. Theo cách này, mười thòng được đến sáu bảy con rái cá lớn.

Trần Trận vỗ trán nói: Tuyệt! Tuyệt quá! Chả trách con không thòng được con nào, thì ra thòng của con là thòng chết, rái cá vào ra thoải mái.

Ông già nói: Lát nữa tôi làm cho cậu xem, không dễ đâu, còn phải xem hang lớn hay nhỏ, dấu chân rái cá to hay bé, khi đặt thòng phải đúng mẹo là quan trọng nhất. Lát nữa tôi vừa làm vừa dạy, cậu ngó cái là biết. Có điều chỉ mình cậu biết thôi, đừng phổ biến cho bất cứ ai.

Trần Trận nói: Con xin hứa.

Ông già nói: Con ơi, còn nhớ phải nhớ điều này: Chỉ bắt rái cá đực và rái cá cái không bận con nhỏ. Bắt được rái cá mẹ hoặc rái cá con là phải thả ngay. Người Mông Cổ ta bắt rái cá hàng trăm năm nay mà vẫn có thịt rái cá ăn, có da để bán, có mỡ để dùng, là do không dám phá hoại quy củ của tổ tông. Rái cá cạn hủy hoại thảo nguyên, nhưng chúng rất có ích đối với người Mông Cổ. Xưa kia, mục dân nghèo ăn thịt rái cá sống qua mùa đông. Rái cá cạn đã cứu được bao nhiêu người nghèo, người Hán các cậu đâu có biết!

Hai con ngựa phóng nhanh trong cỏ thu rậm rạp, vó ngựa khua động những con thiêu thân màu trắng, nâu và phấn hồng, những con côn trùng màu xanh lá cây, màu vàng, ba bốn con chim én bay lượn trên đầu hai người, thưởng thức bữa tiệc côn trùng do vó ngựa đem lại. Hai con ngựa chạy vài chục dặm, những con én cũng bay theo vài chục dặm, khi những con này đã no, những con khác lại sung vào đội ngũ những con trước.

Ông già Pilich dùng cây mã bổng trỏ mấy mỏm đồi trước mặt, nói: Đây là Núi Rái Cá của thảo nguyên Ơlôn. Rái cá ở đây nhiều, to con, mỡ dày, bộ da tốt. Đây là núi vàng núi bạc của đại đội ta. Phía nam và phía bắc còn hai quả Núi Rái Cá nhỏ nữa, rái cá ở đây cũng không ít. Mấy hôm nay các gia đình đều đến đây. Rái cá năm nay dễ bắt.

Trần Trận hỏi: Vì sao?

Ông già mắt đượm buồn, thở dài: Sói ít đi thì rái cá rất dễ bị tròng cổ. Sói mùa thu béo được nhờ ăn thịt rái cá, sói không béo không qua nổi mùa đông. Sói bắt rái cá cũng chỉ bắt con to không bắt con nhỏ, do đó năm nào cũng có rái cá ăn. Trên thảo nguyên, chỉ mục dân Mông Cổ và sói Mông Cổ mới hiểu những quy củ trên thảo nguyên là do Tăngcơli định đoạt.

***

Hai người tiếp cận Núi Rái Cá, bỗng phát hiện hai chiếc lều hình cánh buồm bằng vải bạt dựng bên khe suối, bên ngoài lều khói bếp bay lên, bên cạnh có một cỗ xe lớn và một xe chở nước. Tình hình có vẻ nơi tạm trú của công trường nào đó.

Hai con ngựa chưa đến bên lều đã ngửi thấy mùi thơm của thịt và mỡ rái cá. Hai người vội xuống ngựa, trông thấy bên ngoài căn lều, nửa nồi mỡ rái cá màu nâu to tướng đang sôi lăn tăn trên bếp, mấy con rái cá đang nhào lộn trong nồi, mỡ đã chảy ra hết chỉ còn lại thịt, vàng hươm và rất giòn. Một dân công trẻ vớt con rái cá vừa chín tới, đã lập tức bỏ vào nồi một con rái cá đã lột da, bỏ sạch nội tạng, béo núc ních. Lão Vương và một dân công ngồi bên một chiếc hòm gỗ vỡ, trên để bát tương đậu nành, một đĩa muối ớt và một đĩa hành sống. Hai người vừa uống rượu vừa ăn thịt rái cá rán cực kỳ vui vẻ.

Bên cạnh nồi lớn là chiếc chậu giặt cỡ lớn bằng tôn đựng đầy những con rái cá đã lột da, trong đó phần lớn là những con rái cá nhỏ chỉ dài khoảng một thước. Trên mặt đất bày mấy tấm cánh cửa và hơn chục chiếc bàn ăn đan bằng nhành liễu, trên phơi kín da rái cá lớn nhỏ, khoảng hơn trăm bộ. Trần Trận và ông già bước vào trong lều. Trong lều xếp đống da rái cá đã khô, cao ngang thắt lưng, cũng khoảng một trăm bộ. Chính giữa lều là một vỏ thùng xăng cao hơn mét, đựng đầy mỡ rái cá, bên cạnh đó còn có một số thùng nhỏ hoặc chai đựng mỡ rái cá.

Ông già lại ra ngoài lều, đến bên chiếc chậu tôn, dùng mã bổng gạt những con rái cá nhỏ trên mặt chậu, ông phát hiện phía dưới có mấy con rái cá mẹ gầy nhom.

Ông già nổi cáu, gõ gậy cành cạch vào chậu tôn, gầm lên với lão Vương: Ai cho phép ông giết cả rái cá mẹ lẫn rái cá con? Đây là tài sản của đại đội, là những con rái cá mục dân Ơlôn để lại cho đời sau. Các ông to gan thật, chưa có ý kiến đại đội mà giết bao nhiêu là rái cá thế này!

Lão Vương ngà ngà say, tiếp tục ăn uống. Lão thủng thẳng nói: Tôi đâu dám bắt rái cá trên địa bàn của ông. Đại đội của ông đã thuộc về binh đoàn, xin nói để ông biết, chính Đoàn bộ cử tôi xuống đây đấy. Tham mưu Tôn nói: Rái cá hủy đồng cỏ, rái cá còn là thức ăn chủ yếu của sói trước khi sang mùa đông. Diệt rái cá, đàn sói sẽ không qua nổi mùa đông. Lệnh của Đoàn bộ, phải diệt hết rái cá cùng với chiến dịch diệt sói. Bác sĩ quân y sư đoàn nói: Rái cá có thể truyền bệnh dịch hạch, lúc này rất nhiều người tập trung ở một khu vực, nếu xảy ra bệnh dịch thì ông chịu trách nhiệm nhé?

Ông già Pilich lặng đi một lúc rồi lại gầm lên: Chỉ thị của Đoàn bộ cũng thế thôi. Các người giết hết rái cá rồi lấy gì cho mục dân làm nghề. Nếu dàm ngựa đứt, ngựa lạnh, người bị thương thì ai chịu trách nhiệm. Các người là phá hoại sản xuất!

Lão Vương phà hơi rượu, nói: Trên bảo giết chắc là có người chịu trách nhiệm, ông có giỏi thì đi gặp cấp trên, nạt nộ mấy anh em lao động chân tay chúng tôi làm gì! Lão Vương liếc cái bao tải bên yên ngựa, nói: Ông cũng đến bắt rái cá đấy thôi. Ông được bắt, tại sao tôi không được bắt? Động vật hoang dã không phải do nhà ông nuôi, ai đánh bắt được người ấy hưởng.

Ông già cáu, chòm râu rung lên, ông quát: Hãy đợi đấy, lát nữa tôi về gọi mã quan ra. Chỗ da và mỡ này, tôi đem về đại đội.

Lão Vương nói: Chỗ thịt và mỡ này do nhà ăn đoàn bộ đặt hàng, mai phải đem về cho họ. Nếu ông cho người đến cướp thì cứ cướp, rồi sẽ có người nói chuyện phải quấy với ông. Chỗ da này cũng có ông cốp đặt rồi, Chủ nhiệm Quý còn phải đích thân chở đi nữa kia!

Ông già thõng tay, hồi lâu chẳng nói được câu nào.

Trần Trận lạnh như tiền: Các ông giỏi thật! Diệt một lèo bấy nhiêu con rái cá. Rái cá lớn nhỏ diệt cả ổ, để xem sang năm các ông bắt cái gì?

Lão Vương nói: Các ông gọi chúng tôi là quân lưu manh, lưu manh lưu manh, quân manh động. Không cần đợi sang năm, chỗ nào có ăn là chúng tôi mò đến, được năm nào hay năm đó, các ông lo cho lũ rái cá, vậy ai lo cho lũ lưu manh chúng tôi!

Trần Trận biết nói lý lẽ với bọn lưu manh này cũng bằng thừa. Cậu chỉ muốn biết chúng bắt bằng cách nào mà được nhiều rái cá như thế, chẳng lẽ chúng cũng có thòng lọng đàn hồi? Liền đổi giọng, hỏi: Các vị bắt bằng cách nào mà được nhiều đến vậy?

Lão Vương đắc ý, nói: Định học tôi phỏng? Muộn mất rồi. Mỏm này sắp hết rồi. Hôm kia tôi đã cho chở lên Sư một xe tải thịt và mỡ rái cá. Muốn biết tôi bắt như thế nào hả? Lên núi mà xem, chậm nữa là không còn thấy gì nữa đâu.

Trần Trận đỡ ông già lên ngựa, phóng lên núi. Trên một mỏm ở góc đông bắc có bốn năm người đang lúi húi làm gì đó. Hai người vội cho ngựa phi tới. Ông già quát: Dừng tay! Dừng tay! Đám dân công dừng công việc đứng lên ngó. Hai người xuống ngựa, Trần Trận trông thấy trận thế bày trước mắt thì rủn cả người. Trên mỏm có năm sáu cái hang rái cá. Cậu thoạt nhìn đã biết, đây là những cái hang thông với nhau của một ổ rái cá lớn. Bốn cái hang khác đã bị bịt kín bằng đất. Điều khiến cho cậu kinh khủng nhất là một dân công cầm một con rái cá con dài chưa đến một thước, đuôi buộc một tràng pháo tép, cái đuôi còn buộc vào sợi thừng một đầu buộc miếng thảm len to bằng nắm tay tẩm rất nhiều ớt bột và dầu mazút, mùi hôi sặc sụa. Một dân công đứng bên tay cầm bao diêm, chậm chút nữa là họ châm lửa thả con rái cá vào trong hang cho nổ và hun khói từ trong ra.

Ông Pilich vội chạy tới dùng chân bịt một miệng hang, quát đám dân công bỏ tất cả các thứ trên tay xuống. Vài người trong bọn họ thấy ông già quản lý lão Vương suốt cả mùa hè thì không dám cưỡng, vội cởi dây thừng.

Trần Trận chưa bao giờ thấy cách đánh bắt tham lam tàn nhẫn độc địa như thế trên thảo nguyên, tàn nhẫn hơn cả tát cạn bắt lấy cá. Nếu như con rái cá chạy vào trong hang cùng với pháo tép, bột ớt và dầu mazút, thì gia đình rái cá này tai họa tày trời! Hang rái cá là loại hang sâu nhất, dốc nhất, kết cấu bên trong phức tạp nhất trên thảo nguyên, nó có công sự chống khói, một khi bị hun khói, nó đủn đất mau chóng lấp kín chỗ hang hẹp nhất. Nhưng đám dân công đến từ khu vực nông nghiệp này giở độc chiêu, lũ rái cá trở tay không kịp. Con sói được thả vào hang sợ quá chạy tuột xuống chỗ đàn rái cá tập kết, kéo theo pháo đã châm ngòi, sẽ nổ và hun khói từ trung tâm, tiếng nổ liên tục và bột ớt cùng khói cay xè đánh gục lũ rái cá, chỉ còn một con chạy thoát lên mặt đất, đón nó là cây mã bổng và bao tải. Chiêu này rất độc mà dễ thực thi, chỉ cần bẫy được một con làm “kẻ dẫn đường” là xong. Chỉ trong mấy hôm đã hủy hoại quả núi rái cá tồn tại hàng nghìn năm, họ hàng nhà rái cá gần như tuyệt diệt!

Ông già chọc cây mã bổng xuống đất khiến đất đá bay tứ tung, vừa chọc vừa quát: Bỏ tràng pháo ra! Cắt dây buộc ớt ra! Trả con rái cá về hang! Đám dân công chậm rãi cởi dây thừng, nhưng không thả con rái cá.

Lão Vương đánh cỗ xe nhẹ đã lên kịp. Lão hình như đã tỉnh rượu, cười nhăn nhở, liên tục mời thuốc ông già và không ngớt mắng đồng bọn. Lão bước tới giằng lấy con rái cá từ tay dân công, dùng dao cắt đứt đoạn dây rồi trở lại trước mặt ông già, nói: Ông đứng lên để tôi thả nó về ổ.

Ông già chậm rãi đứng lên phủi đất trên người, nói: Dù ông có thả con này, thì từ nay ông đừng hòng làm công việc xây dựng ở đại đội tôi.

Lão Vương cười nịnh: Tôi chẳng qua là làm theo lệnh trên, chứ mình tôi đâu dám. Không triệt rái cá thì không thể cắt đường rút lui của sói. Đây cũng là trừ hại cho dân. Có điều, cụ nói cũng có chỗ đúng, không có mỡ rái cá thì yên cương hỏng hết, vậy nên phải để lại cho mục dân một số…

Con rái cá nhỏ vừa đặt xuống bậc thềm, liền chui luôn vào hang.

Lão Vương thở dài, nói: Thực ra, bắt ổ rái cá cũng không dễ. Sáng nay mãi mới bẫy được một con “dẫn đường”. Những ngày này rái cá sợ pháo không chui lên mặt đất nữa.

Ông già kiên quyết: Chuyện chưa biết! Ông chở ngay những thứ này về đại đội bộ. Chuyện này mà Lanmutrăc và bọn mã quan biết, chúng sẽ đập nát xe và lều của ông.

Lão Vương nói: Chúng tôi thu dọn rồi đi luôn, còn phải báo cáo Chủ nhiệm Quý.

Ông già nhìn đồng hồ, lo cho mỏm phía bắc, bảo lão Vương: Tôi đi tìm người, lát nữa quay lại. Hai người lên ngựa chạy về phía đường biên phòng.

Vừa qua hai khúc rẽ, chợt nghe sau lưng có mấy tiếng pháo nổ, lát sau không nghe thấy gì nữa. Ông già nói: Hỏng rồi! Chúng mình bị lừa rồi. Hai người vội vã quay ngựa trở lại chỗ mỏm núi, thấy lão Vương che khăn ướt nửa mặt đang chỉ huy bọn dân công bắt rái cá. Bên miệng hang xác rái cá la liệt, mùi cay xộc mũi vẫn liên tục từ trong hang bay ra. Mấy con cuối cùng ló đầu lên liền bị đập chết tươi. Ông già Pilich bị sặc khói ho rũ rượi, Trần Trận phải dìu ông ra chỗ đầu gió đấm lưng liên tục.

Đám người bịt khăn ướt như bọn cướp đường, nhét tất cả rái cá vào bao tải quẳng lên xe, vội vàng kéo xuống núi.

Trần Trận nói: Con không hiểu họ lấy đâu ra con rái ca nhanh thế?

Ông già nói: Chắc chắn họ bẫy được hai con, giấu trong tải một con mà ta không nhìn thấy. Cũng có thể họ dùng sào dài đưa pháo xuống sâu trong hang, tác dụng cũng như dùng rái cá dẫn đường. Quân thổ phỉ! Còn đáng ghét hơn bọn trộm ngựa ngày trước. Ông già chống cây mã bổng đứng dậy nhìn cái hang rái cá lâu đời, giọng run rẩy: Ác quá! Tôi biết cái hang này, họ hàng nhà tôi đời nọ tiếp đời kia năm nào cũng bắt rái cá ở hang này nhưng chưa bao giờ để chúng tuyệt tự, năm nào cũng có rái cá lớn nhỏ vui vẻ nô đùa, năm nào cũng no đủ. Không ngờ chưa hút tàn điếu thuốc, cái hang tuổi thọ hàng trăm năm trở thành cái hang rỗng.

Trần Trận buồn rầu, nói: Bố đừng giận, ta phải tính kế mới được.

Ông già nói: Sao không thấy Đanchi? Tôi nghĩ cậu ta dẫn người lên ngọn đồi phía bắc rồi… Họ có xe, chạy nhanh, thường là đến trước mình. Mau lên! Hai con ngựa phóng nhanh về hướng bắc, qua mấy con dốc thoai thoải đã trông thấy dãy núi lớn Ngoại Mông - đường biên giới.

Ông già trỏ một quả đồi xanh phía xa nói: Xưa kia có thể bắt rái cá ở đó, nhưng nay thì không vì tình hình căng thẳng. Giờ muỗi ít, chắc chắn sói bắt rái cá ở đó. Sói đã nghĩ thế thì bọ Đanchi sao lại không nghĩ như sói?

Trần Trận hỏi: Biên phòng để họ tự do à?

Ông già nói: Đằng ấy núi nhiều, biên phòng không dễ phát hiện, mà nếu bắt gặp thì thấy cùng là xe quân đội, chỉ dăm câu là êm chuyện.

Chạy hồi lâu, hai con ngựa tự động giảm tốc độ, thi thoảng lại cúi xuống bứt vài cọng cỏ. Trần Trận thấy cỏ ngựa đang ăn xanh tươi hơn nhiều so với cỏ chăn nuôi trên đồng, hơn nữa thân có rất mập, bông trĩu quả, loại chất lượng cao. Cúi nhìn kỹ hơn, Trần Trận còn thấy trên mặt đất có rất nhiều đống cỏ non to bằng tổ chim khách, rõ ràng đây là lương thực mùa đông của chuột thảo nguyên phơi bên miệng hang, khô rồi thì kéo từng cọng vào trong. Lúc này cỏ thảo nguyên đã vàng nửa thân, nhưng cỏ của lũ chuột thì chúng cắn từ ba bốn hôm trước, còn xanh hoàn toàn. Ngửi thầy mùi cỏ thơm, hai con ngựa không chịu chạy nhanh là phải.

Ông già gò cương trước những đống cỏ dày đặc, nói: Nghỉ lát đã, cho ngựa giành lại ít cỏ từ ổ chuột. Không ngờ sói vừa đi khỏi, chuột đã quậy động trời, những đống cỏ năm nay nhiều gấp mấy lần năm đầu tiên.

Hai người xuống ngựa, tháo hàm thiết cho ngựa ăn một bữa thoải mái. Hai con ngựa dùng mõm gạt cỏ khô trên mặt để ăn cỏ xanh ở dưới, ăn hết đống này đến đống khác, mõm ngựa xanh lét vì nhựa cỏ. Hai con ngựa hắt hơi liên tục. Ông già gạt đống cỏ ra xem: Hang chuột to bằng miệng bát uống trà, con chuột ló đâu nhìn quanh thấy người xâm phạm đống cỏ liền chạy ra đớp luôn mũi ủng ông già một cái rồi chạy vào hang, kêu chi chi loạn xạ. Lát sau thấy có tiếng rũ yên phành phạch, ngoảnh nhìn thấy mũi ngựa bị chuột cắn tóe máu, xung quanh toàn là tiếng chuột kêu.

Ông giá tức quá, chửi: Loạn rồi! Chuột mà dám cắn ngựa! Sói tiếp tục bị diệt, chuột sẽ ăn thịt người. Trần Trận vội chạy tới giữ ngựa lại, quấn dây cương vào chân trước, con ngựa cúi xuống liền biết dùng vó cào đất lấp miệng hang hoặc chận luôn miệng hang rồi mới ăn cỏ.

Ông già đá tung hết đống cỏ này đến đống cỏ khác, nói: Bảy tám bước là một đống, lũ chuột cướp hết cỏ xanh, ngay cả trạm ngựa giống Tân Cương cũng chưa có cỏ này để ăn. Lũ chuột lợi hại hơn máy cắt cỏ, máy cắt cỏ xấu tốt cắt tất, còn chuột chỉ chọn cỏ ngon. Mùa đông này trữ được nhiều cỏ, lũ chuột chết đói chết rét ít, sang xuân chuột mẹ nhiều sữa, nhiều con, cắn trộm nhiều cỏ đem vào, đủn nhiều cát ra bên ngoài. Sang năm chuột sẽ phá dữ! Cậu xem, vắng sói là chuột không còn lén lút mà hung hăng như lũ giặt.

Trần Trận trông thấy đây đó toàn hang chuột, trong lòng vừa buồn vừa sợ. Hàng năm ở thảo nguyên Ơlôn đều triển khai cuộc chiến giữa người và gia súc với chuột. Chuột thảo nguyên dù ranh ma đến mấy cũng có chỗ yếu chí mạng, muốn đào hầm sâu tích trữ thật nhiều lương thực thì phải phơi cỏ, vì cỏ tươi chóng thối không để lâu được. Hành động phơi cỏ lén lút trong mùa thu của chuột chẳng khác lạy ông tôi ở bụi này, hang ổ lộ hết, tạo cơ hội cho người diệt chủng. Mục dân thấy có nhiều đống cỏ liền cảnh báo, tổ sản xuất lập tức điều động tất cả bò cừu, thậm chí cả ngựa đến ăn. Lúc này đồng cỏ đã vàng, nhưng những đống cỏ thì xanh và thơm, gia súc tranh nhau ăn, chỉ vài hôm là ăn sạch số cỏ dự trữ của chuột, không còn gì ăn trong mùa đông, chuột sẽ chết đói chết rét. Đây là biện pháp cổ lỗ nhưng hữu hiệu nhất của mục dân Mông Cổ đối phó với chuột trên thảo nguyên.

Nhưng muốn diệt chuột trong mùa thu, người và gia súc còn phải hiệp đồng tác chiến với sói… Sói phụ trách ăn thịt và khống chế chuột thảo nguyên. Mùa thu hàng năm vào lúc chuột béo nhất, là lúc sói ăn thịt chuột nhiều nhất. Chuột bị vướng nên dễ bị sói vồ, đống cỏ chỉ cho sói biết chỗ nào lắm chuột. Do vậy mùa thu nào chuột cũng bị tổn thất nghiêm trọng, quan trọng hơn, sói khiến chuột không được ăn đủ dự trữ đủ, sẽ chết đói trong mùa đông. Trong khi sói khống chế hoạt động của chuột, người và gia súc phụ trách công việc tiêu diệt những đống cỏ. Hàng ngàn năm nay, người và gia súc phối hợp hài hòa, khắc phục có hiệu quả nạn chuột. Những đồng cỏ mùa đông vì quá xa, nên hoàn toàn phó thác cho sói. Những kẻ đến từ khu vực nông nghiệp làm sao hiểu nổi cuộc chiến kỳ ảo liên can tới số phận đồng cỏ.

Hai con ngựa chỉ ăn trong nửa tiếng đã no căng bụng. Rõ ràng là đại đội không đủ binh lực để triển khai trên một quy mô lớn như thế. Đứng trước cuộc chiến chưa từng chứng kiến, ông già suy nghĩ rất lâu, điều đàn ngựa đến chăng? Không ổn, đây là đồng cỏ của cừu bò, không thích hợp với ngựa, điều ngựa đến sẽ lung tung hết. Nhiều đống cỏ thế này thì chỉ máy gom cỏ mới chưa chắc đã gom hết. Tình hình này chắc chắn nạn chuột sẽ xảy ra.

Trần Trận khẳng định: Đây là tai họa do người gây ra!

Hai người lên ngựa, tiếp tục tiến lên, lòng nặng trĩu. Dọc đường những đống cỏ lúc thưa lúc mau trải dài theo đường biên phòng.

Hai người còn cách mỏm rái cá không xa, đột nhiên trong núi vọng lại tiếng động không ra tiếng súng trường, cũng không phải tiếng pháo nổ, rộ lên một cái rồi tắt ngấm. Ông già tỏ vẻ bất lực, thở dài: Đoàn bộ chọn Đanchi làm tham mưu diệt sói là chọn đúng người đúng việc. Chỗ nào có sói chỗ ấy có nó. Địa bàn cuối cùng của sói nó cũng không bỏ qua.

Hai người thúc ngựa chạy. Một xe com măng ca từ khe núi phóng ra. Hai người ghìm cương, chiếc com măng ca dừng lại trước mặt, trên xe là hai xạ thủ ngoại hạng và Đanchi. Tham mưu Từ cầm lái, Đanchi ngồi ghế sau, dưới chân là một bao tải lớn thấm máu, cốp sau xe không đóng được nắp. Ông già mắt đóng đinh vào khẩu súng nòng dài trong tay tham mưu Bathơ, Trần Trận thoạt nhìn đã nhận ra đó là khẩu súng thể thao nòng nhỏ. Ông già chưa thấy loại súng này bao giờ nên nhìn mãi.

Hai vị tham mưu chào ông già: Tan sai nô! Tan sai nô! (Chào ông, chào ông!) Tham mưu Bathơ hỏi: Các vị cũng đi săn rái cá phải không? Đừng đi nữa, tôi xin biếu hai con.

Ông già trợn mắt hỏi: Sao không đi?

Tham mưu Bathơ nói: Những con ngoài hang chúng tôi bắn hết cả rồi, những con trong hang thì không dám ra nữa.

Ông giả hỏi: Súng gì trong tay ông vậy? Nòng súng dài thế?

Tham mưu Bathơ nói: Đây là súng bắn chim, chuyên bắn vịt trời, đạn lớn bằng đầu đũa, bắn rái cá rất tốt, lỗ đạn nhỏ không hỏng da. Ông xem này…

Ông già đón khẩu súng ngắm nghía hồi lâu, con xem cả đạn.

Tham mưu Bathơ muốn giới thiệu khẩu súng với ông già nên xuống xe, cầm lấy súng ngó quanh, thấy một con rái cá lớn đứng bên đống cỏ trên đỉnh dốc cách 20 mét liền ngắm qua quýt rồi lẩy cò, con rái cá bị bắn bể đầu, ngã xuống bên ngoài miệng hang. Ông già rùng mình.

Tham mưu Từ cười, nói: Toàn bộ sói đã chạy ra Ngoại Mông. Hôm nay Đanchi dẫn bọn tôi lượn mấy vòng không thấy con sói nào. May mà đem theo khẩu súng bắn chim, bắn được vô khối rái cá. Rái cá ở đây rất ngố, người cách 10 mét vẫn không chịu thụt xuống, đợi ăn đạn.

Đanchi tán dương: Hai vị pháo thủ bắn trúng mục tiêu ngoài 50 mét. Trên đường đi trông thấy con nào hạ con ấy, nhanh hơn đánh thòng nhiều.

Tham mưu Bathơ nói: Lát nữa qua đằng nhà, chúng tôi gửi lại hai con biếu cụ. Cụ về đi!

Ông già vẫn chưa định thần từ khi nhìn thấy uy lực của loại vũ khí mới. Chiếc xe đã chạy đi, nhanh như biến. Ông già tâm thần mê mẩn tưởng như vẫn trong đồng cỏ mùa thu mà ông đã quen thuộc, có lẽ ông vẫn đang nghĩ đến khẩu súng nòng dài trong tay Tham mưu Từ. Chỉ một tháng ngắn ngủi mà bấy nhiêu con người, bấy nhiêu loại vũ khí mới, bấy nhiêu thủ đoạn mới đáng sợ tuồn vào thảo nguyên! Ông hoàn toàn suy sụp. Chiếc com măng ca đã đi, ông quay lại không nói nửa câu, đóng qua quýt hàm thiếc rồi để cho con ngựa tự đi về nhà. Trần Trận chậm rãi đi bên cạnh. Cậu nghĩ, người ta bảo ông vua cuối cùng của triều đại rất đau khổ, nhưng lớp dân du mục cuối cùng còn đau khổ hơn. Sự tan rã của vạn năm thảo nguyên nguyên thủy khó chấp nhận hơn sự đổ vỡ của nghìn năm hoàng triều. Ông như bị viên đạn bằng đầu đũa khoan thủng mạch máu, cơ thể teo lại đến một nửa, hai hàng nước mắt ngầu đục theo nếp nhăn chảy sang hai bên, rớt xuống những bông cúc dại màu trắng xanh.

Trần Trận không biết làm gì để giúp đỡ ông già rũ bỏ nỗi đau. Im lặng hồi lâu, cậu lắp bắp: Bố, cỏ năm nay tốt quá, thảo nguyên Ơlôn đẹp quá… có lẽ sang năm…

Ông già như kẻ vô hồn, hỏi lại: Sang năm? Sang năm còn có những chuyện quái quỷ gì nữa? Xưa kia, ngay cả người mù cũng thấy thảo nguyên đẹp… Giờ thì thảo nguyên không đẹp nữa, mắt tôi mù đi thì hơn, sẽ không phải nhìn thấy thảo nguyên bị giày xéo…

Ông già ngật ngưỡng trên yên, mặc cho con ngựa bước đi những bước nặng nề. Ông nhắm mắt, cổ họng phát ra những tiếng ca không rõ lời, nhưng Trần Trận vẫn nghe ra đó là một bài đồng dao:

Bách linh hót, là mùa xuân đến.

Rái cá kêu, là hoa lan nở.

Hạc xám kêu, là trời sắp mưa.

Sói con tru, là trăng sắp lên.

Ông già hát đi hát lại bài đồng dao, càng hát giọng càng trầm lắng, lời ca càng mơ hồ, giống như một dòng sông nhỏ từ đâu chảy tới chảy quanh quẩn trên thảo nguyên rồi mất hút trong một trảng cỏ. Trần Trận nghĩ, có thể con cháu các tộc Khuyển Nhung, Hung Nô, Tiên Ty, Đột Quyết, Khiết Đan, và cả con cháu Thành Cát Tư Hãn Mông Cổ, đều hát bài đồng dao này? Nhưng từ nay về sau, đám trẻ trên thảo nguyên còn hiểu được ý nghĩa của lời ca? Có lẽ khi đó chúng sẽ hỏi: Bách linh là con gì? Rái cá là con gì? Hạc xám là con gì? Sói hoang là con gì? Đại nhạn là con gì? Hoa lan là hoa gì? Hoa cúc là hoa gì?

Từ đám cỏ vàng úa, vài con bách linh vỗ cánh bay thẳng lên trời xanh rồi dừng lại giữ không trung, cất tiếng hót lảnh lót...

Chương 35

Viêm Đế họ Khương… Họ Khương là một chi của tộc Khương - Tây Nhung, tộc du mục đầu tiên từ phía tây tiến vào miền trung.

Phạm Văn Lan “Trung Quốc thông sử giản biên. Đệ nhất biên”

Tây Khương… coi chết trận là chuyện hay, chết bệnh là chuyện dở. Chịu rét giỏi như cầm thú, phụ nữ không kiêng gió tuyết khi sinh nở. Tính tình cương nghị mà dũng mãnh do được hấp thụ hành kim của phương Tây.

“Hậu Hán thư. Tây Khương liệt truyện”

Trận tuyết đầu mùa khi chớm đông đã lập tức hóa thành hơi ẩm trong không khí. Thảo nguyên lạnh lẽo và tươi mới, cảnh huyên náo trên đồng cỏ mùa hè đã trở thành dĩ vãng, mỗi tổ cách nhau mấy chục dặm, tiếng chó sủa cũng không còn nghe thấy. Đồng cỏ mùa đông rộng và hoang vắng như sa mạc, chỉ bầu trời vẫn xanh biếc như mùa thu. Trời cao mây nhạt, trong như lòng hồ. Chim nhạn thảo nguyên bay càng cao, còn nhỏ hơn vết ố trên mặt gương. Chúng không bắt được những con rái cá cạn hoặc chuột đồng vì miệng hang đã bị bịt kín, đành bay lên thật cao, hi vọng từ tầm cao ấy phát hiện thỏ đồng. Còn thỏ đồng thì thay đổi sắc lông nấp sau bụi cỏ đông cao cao, ngay cả cáo cũng không phát hiện ra. Người già bảo, hàng năm có rất nhiều chim ưng chết đói.

Trần Trận mua từ Hợp cung tiêu một cuộn lưới thép bịt kín lỗ thủng của cái sọt đan bằng cành liễu. Mất một ngày mới lót xong lưới thép bên trong sọt và làm một cái nắp cũng bằng lưới thép. Lưới thép sợi rất thô, gần bằng đầu đũa, kìm đầu cọp bóp mạnh mới cắt đứt. Cậu đồ chừng sói con dù cắn gãy răng cũng không cắn thủng “nhà giam” mới này, với lại lưới thép còn nhiều, thủng chỗ nào vá chỗ ấy. Mùa đông, tuyết phủ quá nửa thân cỏ, gia súc ăn được rất ít, vậy nên mỗi tháng phải di chuyển một lần khi đàn gia súc gặm trơ đất, để lại đồng cỏ cho đàn ngựa vì ngựa biết bới tuyết để ăn cỏ phía dưới. Mùa đông di chuyển cũng không xa, khoảng cách chỉ bằng bãi cỏ cũ là được, nói chung chỉ mất khoảng nửa ngày. Sói con gần như không thể trong thời gian ấy cắn thủng cái sọt. Trần Trận thở ra nhẹ nhõm. Cậu nghĩ suốt nửa tháng mới tìm ra cách khắc phục vấn đề sống còn này.

Du mục buộc người ta phải khôn lên. Dương Khắc và Trần Trận cũng nghĩ ra cách cho sói con vào “nhà giam” : Trước tiên chụp con sói đậy nắp lại, sau đó hạ thùng xe xuống đất khênh “nhà giam” lên thùng, sau đó khênh cả thùng lẫn sọt lên xe đặt đúng chỗ hộc chứa đồ ở đuôi xe, cuối cùng là chỉnh cho bằng phẳng, chằng buộc kỹ. Như vậy, đưa được sói con lên mà người và ngay bản thân con sói vẫn an toàn, không bị thương. Đến địa điểm mới, làm ngược lại trình tự là ổn, con sói xuống xe ngon lành. Hai cậu hi vọng dùng cách này cho đến khi định cư, sẽ xây cho sói con một gian chuồng bằng đá, chỉ một lần là xong, chỉ còn mỗi việc chăm nom. Sau đó cho con chó cái ở cùng sói con, chúng quen nhau từ nhỏ, có thể ngày một ngày hai phát sinh tình cảm, từng ổ béc-giê ra đời, đó chính là hậu duệ của sói thảo nguyên.

Trần Trận và Dương Khắc thường ngồi trò chuyện bên cạnh sói con, vừa vuốt ve nó. Sói con đã biết gác cổ lên người hoặc lên đùi Trần Trận, dỏng tai nghe hóng chuyện hai người. Nghe đã mệt sói con đổi thế nằm, cọ cổ gãi ngứa, hoặc nằm ngửa chổng bốn vó lên trời cho các cậu xoắn tai bẹo má. Hai cậu lo cho tương lai của các cậu và của sói con. Dương Khắc ôm sói con nhẹ nhàng chải lông cho nó, nói : Sau này nếu sói con có con, nó sẽ không bỏ đi. Sói là loại động vật rất quyến luyến gia đình, tất cả sói bố đều là đại trượng phu, nếu không có sói hoang về dụ, ta không cần xích nó nữa, thả ra thảo nguyên nó tự biết đường về.

Trần Trận lắc đầu : Nếu vậy sói không còn là sói nữa. Mình rất không muốn giữ nó lại chỗ này. Mình mơ ước có một người bạn là sói hoang. Giả dụ mình phóng ngựa lên mỏm núi bắc đường biên phòng, gọi to : Sói con ra ăn cơm! Nó sẽ dẫn cả nhà sói ra, một gia đình sói chính cống vừa reo vừa chạy ra đón, trên cổ chúng không có dây xích, răng chúng sắc nhọn, thân thể chúng cường tráng. Chúng nó đùa với mình trên bãi cỏ, liếm mặt mình, ngậm tay mình nhưng không cắn, nhưng từ khi sói con bị hỏng răng, mơ ước của mình trở thành ảo mộng...

Trần Trận thở dài khẽ: Nhưng mình vẫn chưa chịu thôi. Mấy ngày nay mình lại có ảo tưởng mới: Mình mơ trở thành nha sĩ, bọc cho sói con mấy cái răng bằng thép sắc nhọn. Sang xuân, sói con hoàn toàn trưởng thành liền đưa nó đến đường biên phòng thả nó vào dãy Lớn Ngoại Mông, nơi đó có đàn sói, chưa chừng trong đó có bố nó - sói chúa cổ trắng đã mở đường máu xây dựng căn cứ địa mới. Sói con thông minh, chắc chắn tìm thấy vua cha, chỉ cần có dịp ở gần, sói chúa có thể đánh hơi thấy mùi gia tộc mà nhận sói con. Với bốn chiếc răng thép làm vũ khí, sói con sẽ trở thành địch thủ đáng gờm trên thảo nguyên, chư chừng mấy năm nữa sói chúa sẽ nhường ngôi cho sói con cũng nên. Sói con thuộc giống ưu việt trên thảo nguyên, tính khí quật cường, thông minh tuyệt đỉnh, phải là hậu duệ sói chúa mới đúng. Nếu như sói con trở về đất mẹ Mông Cổ, nơi ấy đất rộng người thưa, chỉ hai triệu dân nhưng đấy mới là thiên đường tinh thần của sự sùng bái totem, không có thế lực nông canh ghét sói diệt sói, đại thảo nguyên mênh mông mới là đất dụng võ cho sói con. Mình đã hủy hoại tương lai tươi đẹp của sói con, tội to quá !...

Dương Khắc nhìn say mê dãy núi xa trên phía bắc đường biên. Ánh mắt tối sầm, cậu nói : Mơ ước của cậu giá như sớm mười năm còn có cơ thực hiện, còn mơ ước sau thì không thực hiện nổi. Cậu lấy đâu ra bộ đồ chữa răng quý giá như thế. Trên huyện bệnh viện còn chưa có, mục dân phải đi 800 dặm khám chữa bệnh. Cậu dám ôm con sói lên khám trên bệnh viện huyện không ? Cậu đừng mơ tưởng hão, cứ đà này, cậu sẽ trở thành chị Tường Lâm của thảo nguyên Mông Cổ mất thôi. Cậu có thể ca cẩm về chuyện sói, nhưng hoàn toàn đứng trên lập trường sói thì… Mà cậu nên thực tế một chút!

Trở về thực tế, điều mà Trần Trận và Dương Khắc lo nhất là những vết thương của con sói. Bốn chân đã khỏi, nhưng cái răng thì ngày càng lung lay, lợi tấy đỏ, sói con không dám xé thịt ăn như trước kia. Đôi khi nó quên, đau đến nỗi phải nhả miếng thịt ra rồi há miệng mà hít hà cho dịu cơn đau rồi dùng răng bên kia mà xé.

Trần Trận càng không yên tâm về vết thương trong họng sói con vẫn chưa lành miệng. Cậu liên tục bôi thuốc trên miếng thịt cho sói con nuốt tớm, vết thương không chảy máu nữa, nhưng sói con vẫn nuốt khó khăn và thường xuyên ho. Trần Trận không dám đón thú y, đành mượn mấy cuốn sách thú y mày mò tự chữa cho sói con.

***

Bò cừu dùng trong mùa đông đã giết thịt và đông lạnh xong. Lều Trần Trận có bốn người, theo quy định của mục trường, suốt mùa đông tiêu chuẩn của mỗi người là sáu con cừu lớn, tổng cộng 24 con; bốn người còn được chia một con bò. Lương thực theo định lượng của thanh niên trí thức vẫn chưa bị giảm, vẫn mỗi tháng 30 cân cho một người. Mục dân thực phẩm cũng như thanh niên trí thức, nhưng lương thực ít hơn, chỉ 19 cân. Vậy là về thịt, lều Trần Trận đủ ăn cho người, chó và sói. Hơn nữa, về mùa đông thi thoảng có cừu chết rét hoặc ốm chết, người không ăn, nhưng có thể để nuôi chó và sói. Trần Trận không còn lo cái ăn cho sói con. Cậu và Cao Kiện Trung đem hầu hết số thịt gửi kho của tổ. Kho là ba gian nhà đất xây dựng tại đồng cỏ mùa xuân, lên Đoàn bộ tất phải đi qua. Để lại lều chỉ khoảng một sọt, ăn hết lại lên kho lấy.

Mùa đông ngày ngắn, mỗi ngày chăn thả chừng bảy tám tiếng đồng hồ, chỉ bằng quá nửa ngày mùa hè, trừ những ngày có bạch mao phong thời tiết khắc nghiệt, mùa đông là mùa nghỉ ngơi của các dương quan mã quan. Trần Trận định bụng nhân lúc trông nom sói con, cậu tranh thủ đọc sách, chỉnh lý sổ tay ghi chép. Cậu đợi thưởng thức những trò mới hấp dẫn sói con sẽ biểu diễn dưới tuyết, sói con không để cậu, một kẻ nghiền những màn kịch sói, thất vọng.

Trong mùa đông dài dặc, những con sói vượt biên cuộc sống cực kỳ khó khăn. Vậy mà sói con của Trần Trận rất no đủ, lông đã mọc đều, gần như loáng cái nó loáng cái nó lớn gấp đôi, hoàn toàn là con sói trưởng thành. Trần Trận luồn tay vào mớ lông rậm của sói con: Không trông thấy ngón, ấm như bếp lò, ấm hơn tất cả các loại bao tay. Sói con vẫn chưa chịu chấp nhận cái tên “sói lớn”, gọi “sói lớn” nó làm như không nghe thấy; gọi “sói con” nó vui mừng chạy tới chồm lên đầu gối cậu. Con chó cái thường xuyên đến chơi với sói con, sói con cũng không cắn “cô dâu non” này nữa, trái lại thường phủ lên chó cái theo bản năng, vừa thân mật vừa thô bạo. Dương Khắc cười tít mắt: Kiểu này thì sang năm có cách rồi…

Trận tuyết lớn thứ ba cuối cùng đã chấm dứt. Thảo nguyên Ơlôn mênh mông lấp lóa màu vàng - trắng dưới nắng, ngồi xuống ngắm, lại là mục trường màu vàng kim. Tổ chăn nuôi Caxưmai như một bộ lạc nguyên thủy chậm rãi chuyển sâu vào thảo nguyên hoang dã mênh mông. Trần Trận lại chuyển nhà cùng với sói con, tiến về đồng cỏ kim mao mùa đông không ai lui tới, cách biệt với thế giới bên ngoài.

***

Trần Trận và Cao Kiện Trung đem theo hai chiếc xẻng xúc tuyết, chất đầy một xe phân bò khô và những vật liệu làm hàng rào cơ động cùng một số thảm dùng để quây chuồng, rồi cho xe đi tiền trạm, xúc tuyết quây chuồng. Mất hơn nửa ngày, hai người dọn xong nền chuồng cừu, chuồng bò, chuồng sói con và nền lều bạt. Tuyết được đánh thành bốn đống lớn, các thứ trên xe được dở xuống. Buổi chiều, khi đánh ba xe không trở về, Trần Trận trong lòng rất vui, có thể dành hẳn một xe chở sói con.

Sáng sớm hôm sau, ba người dỡ lều bạt chất lên xe chằng buộc xong xuôi, rồi thì đưa được sói con vào “xe tù” chằng buộc cẩn thận. Sói con giận dữ cắn lưới thép, răng đau đến nỗi không dám cắn tiếp, xe bắt đầu lăn bánh là nó sợ hãi quặp đuôi nửa ngồi nửa đứng, đầu cúi gằm, cổ rụt lại. Nó đứng như thế đến nửa ngày, cho đến khi tới khu lều mới.

Thu xếp cho sói con chỗ ở xong xuôi, Trần Trận chiêu đãi sói con một bữa thịnh soạn giúp sói con tích mỡ chống rét: Khu đuôi cừu luộc. Cậu còn cắt miếng cái khu đuôi để sói con dễ nuốt. Sói con trước sau kiên trì hai nguyên tắc: Một, tuyệt đối không cho ai lại gần khi ăn, kể cả người thân; Hai, khi đi dạo không cho dắt, nếu không, chống cự đến cùng. Trần Trận đáp ứng đến mức tối đa hai nguyên tắc này. Mùa đông lạnh giá, sói con coi trọng thức ăn hơn ba mùa xuân hè thu. Mối khi ăn, sói con mắt tóe lửa, đuổi Trần Trận cách chuồng một bước chân mới yên tâm quay lại ăn, và cũng như họ hàng nhà sói, nó vừa ăn vừa gầm gừ. Sói con tuy bị thương, nhưng nó vẫn khỏe mạnh, nó ăn gấp bội để bù lại chỗ máu bị mất.

Răng và họng bị thương cũng ảnh hưởng đôi chút tính cách sói của sói con. Lẽ ra chỉ hai ba miếng là ăn hết cái đuôi cừu, giờ nó phải ăn bảy tám miếng. Trần Trận hơi lo, không hiểu vết thương của sói con có khỏi hẳn được không?

Đồng cỏ mùa đông trên biên giới ít người lui tới vắng hơn nhiều đồng cỏ mùa thu. Mỗi ngọn cỏ ló ra trên tuyết lắc lư trước gió, đều mang vẻ già nua cằn cỗi. Mùa xanh tươi đã qua, những đàn chim di trú đã bay đi, đàn sói dũng mãnh ngang tàng một đi không trở lại, thảo nguyên hoang vắng đơn điệu càng tỏ ra thiếu sức sống. Trần Trận buồn như trấu cắn. Cậu không hiểu xưa kia Tô Vũ chăn dê làm sao sống được đằng đẵng bấy nhiêu năm ở Bắc Hải? Cậu càng không hiểu, nếu không có sói con và số sách đem về từ Bắc Kinh, liệu cậu có tránh khỏi phát điên hoặc ngớ ngẩn? Dương Khắc cho biết, bố cậu hồi trẻ du học ở Luân Đôn đã phát hiện tỉ lệ tự sát rất cao trong các cư dân vành đai bắc cực, và chứng trầm uất lưu hành trong nhiều thế kỷ trên thảo nguyên Nga La Tư và hoang mạc Sibia, đều liên quan mật thiết tới mùa đông u ám dài dặc trên thảo nguyên. Nhưng vì sao dân tộc Mông Cổ dân số ít ỏi lại sống được hàng ngàn năm trong điều kiện cũng khốc liệt như thế? Chắc chắn là cuộc đấu tranh căng thẳng, tàn khốc và dai dẳng với sói đã hun đúc nên tính cách quật cường của họ.

Sói thảo nguyên là một nửa kẻ thù bằng xương bằng thịt, nhưng lại là bậc thầy chí tôn về tinh thần đối với dân Mông Cổ. Diệt hết sói, mặt trời hồng sẽ không còn chiếu trên thảo nguyên, mà sự yên lặng như nước tù sẽ đem lại sự tàn lụi, khô héo hoang phế và trăm thứ vô vị khác còn đáng sợ hơn kẻ thù tận diệt tinh thần hào mại tính khí sôi nổi của dân tộc thảo nguyên.

Sói biến mất, rượu mạnh tiêu thụ gấp đôi.

Trần Trận bắt đầu tự thuyết phục: chắc hẳn năm xưa Tô Vũ chiến đấu kiên cường với bầy sói mới vượt qua được những năm tháng hiu quạnh và cô độc. Tô Vũ sống giữa vòng vây của sói nên không thể im lặng cũng không thể lười nhác. Hơn nữa, cô gái chăn dê Mông Cổ mà Thuyền Vu gả cho ông chắc cũng dũng cảm, mạnh mẽ và lương thiện như Caxưmai. Cặp vợ chồng gặp nhau trong hoạn nạn nảy sinh một con trai chắc cũng như Bayan dám chui vào hang bắt sói con. Cái gia đình êm ấm và kiên cường đó đã nâng đỡ tinh thần Tô Vũ. Chỉ tiếc là sứ giả nhà Hán chỉ cứu vợ chồng Tô Vũ, còn “Bayan” thì bỏ lại vĩnh viễn trên thảo nguyên Mông Cổ. Trần Trận ngày càng tin chắc, chính là sói thảo nguyên và tinh thần sói đã khiến Tô Vũ trở nên vĩ đại, không làm nhục sứ mệnh, giữ được khí tiết người Hán trước kẻ thù. Một Tô Vũ đã như thế, cả dân tộc thảo nguyên thì sao?

Linh vật sói là linh hồn thảo nguyên, là tự do và ý chí đanh thép của các dân tộc thảo nguyên.

Những năm tháng hiu quạnh của thanh niên trí thức, may mà bên cạnh Trần Trận có sói con tràn đầy sức sống.

Sói con lớn càng nhanh, cái xích ngày càng ngắn.

Sói con rất nhạy bén với chuyện thua thiệt, cảm thấy sợi xích không hợp với chiều dài của thân, lập tức phản đối quyết liệt như một tù phạm cứng cổ bị ngược đãi: Ra sức kéo căng sợi xích đòi nới ra, đòi nhổ bỏ cọc, không đạt mục tiêu thà bị nghẹt thở mà chết. Trần Trận đành phải nối thêm một đoạn ngắn, chừng 20 phân. Trần Trận thừa nhận dây xích hãy còn ngắn nhưng không dám nối dài vì sợ sói con có đà chạy giật đứt xích. Cậu tin rằng sẽ có ngày cái xích bị con sói giằng đứt.

Sói con bắt đầu cuộc đấu tranh trong tù. Nó coi trọng từng tấc xích được kéo dài, chỉ cần thêm một tấc là nó sẽ chạy vòng quanh như điên, vui mừng vì thêm một tấc tự do, dấu chân chạy trên tuyết mới coi như mở thêm lãnh địa mới, sướng hơn hạ sát một con ngựa choai. Không đợi Trần Trận quét dọn, sói con chạy quanh như cò quay hết vòng này đến vòng khác, thở phì phò, như hàng chục con sói xô nhau chạy. Sói con chạy như một cơn lốc, như cỗ máy cắt cỏ, như cỗ máy nghiền, tung bụi mù mịt, khiến Trần Trận gần trong gang tấc mà thấy rùng mình, chỉ sợ sói con đứt xích văng ra khỏi cọc bay lên núi, bay khỏi biên giới.

Trần Trận mỗi khi ngồi xuống bên con sói, cảm giác cô đơn lại biến mất, một sức mạnh hoang dã tràn về, dòng máu sôi sục trong huyết quản, sức sống mạnh mẽ bắt đầu bột phát, tâm tính cậu như cỗ máy phát điện mà sói con là điểm hỏa cho cỗ máy chạy, cậu cảm thấy vui sướng và tự tin.

Trần Trận lại hào hứng nhìn con sói biểu diễn. Nhìn mãi nhìn mãi, cậu phát hiện ra rằng con sói không chỉ chạy vì mừng, mà nó có một ý đồ khác, vì rằng sau khi hết mừng, nó vẫn chạy bạt mạng. Trần Trận cảm thấy hình như nó luyện tốc độ theo bản năng và kĩ năng vượt ngục, khát vọng bứt đứt sợi xích lớn hơn tất cả mọi đam mê khác. Sói con ngày càng cường tráng, ngày càng thành thục, mắt nhìn thảo nguyên rộng lớn trước mặt giơ chân ra là chạm tới tự do, khiến nó không chịu nổi cái gông trên cổ. Trần Trận rất hiểu tâm trạng và khát vọng của sói con, trên thảo nguyên tự do, đàn sói yêu tự do giương mắt nhìn tự do chỉ cách gang tấc, thì đúng là hình phạt tàn nhẫn. Nhưng Trần Trận buộc nó chịu đựng, bởi vì cái rét thảm khốc trên thảo nguyên, ngay cả sói lớn cũng khó bề sống sót, sói con chết là cái chắc. Sói con càng giằng giật, vết thương ở yết hầu càng lâu khỏi. Trần Trận nhìn sói con mà trong lòng đau xót. Cậu chỉ còn mỗi cách tăng cường kiểm tra dây xích, cọc gỗ, không để sói con vượt ngục, chạy đến với cái chết tự do.

Sói con miệng mở hé, vẫn chạy không biết mệt, nhiều khi còn cười khà nhìn Trần Trận, ánh mắt lóe lên như đốm lửa lân tinh rồi vụt tắt. Chính trong khoảnh khắc đó, Trần Trận cảm thấy trong lòng ấm áp và cảm động - cuộc đời của cậu chẳng lẽ ngắn ngủi như vậy sao? Ý chí và ước mơ của cậu chẳng lẽ kết thúc rồi sao? Đứng trước sức sống mãnh liệt của con sói, Trần Trận thẹn thùng tự hỏi. Cậu nhận ra sức sống mạnh mẽ của sói con hong khô đám củi ướt trong sức sống của cậu. Vậy thì hãy để sói con cứ bộc lộ cho hết, cứ cháy bùng lên, cứ để sói con chạy cho đã.

Sói con chạy thêm vài vòng nữa rồi bắt đầu loạng choạng. Đột nhiên nó chững lại đứng thở dốc, lắc lư mấy cái rồi phủ phục trên mặt đất. Trần Trận không biết xảy ra chuyện gì, cậu chạy vào trong chuồng định vực sói con dậy nhưng thấy hai mắt nó tuy nhìn cậu nhưng đồng tử giãn ra. Sói con gắng gượng đứng lên rồi lảo đảo ngã xuống như say rượu. Trần Trận vui vẻ kêu lên, rõ ràng là sói con bị chóng mặt. Sói chưa khi nào phải kéo cối xay như lừa, mà con lừa khi kéo cối xay cũng phải che mắt huống hồ sói. Đây là lần đầu tiên Trần Trận trông thấy sói bị chóng mặt bước loạng choạng, miệng há hốc chỉ chực nôn ọe.

Trần Trận vội bê đến cho sói con lưng chậu nước ấm, sói con vẫn ngất ngư, cạch một tiếng mũi đụng thành chậu, mãi mới đứng vững, cắm đầu uống nước. Sau đó sói con duỗi thẳng bốn chân nằm xuống đất thở hồi lâu rồi lại đứng lên, điều kỳ quặc là, nó lại chạy quanh chuồng như điên.

Trần Trận trong lòng đau nhói. Cậu càng tự trách nhiều hơn. Trong cảnh đày đọa ở nơi xa xôi hẻo lánh này có sói con làm bạn, có cỗ mấy phát lực cho sinh mạng của cậu, khiến cậu có sức vượt qua mùa đông tưởng không bao giờ chấm dứt. Trên mảnh đất phì nhiêu nhưng gai góc mọc đầy này luôn xảy ra những cuộc chạm trán giữa hai dân tộc về tính cách và số phận khiến cậu học cả đời cũng chưa hết. Vậy mà, sự ngưỡng mộ và sùng bái của cậu đối với sói, công việc nghiên cứu và những nỗ lực của cậu nhằm khắc phục sự thiếu hiểu biết và thiên kiến của dân tộc Hán về sói, chẳng lẽ phải trả bằng cái giá của sự tù đày và mất tự do của sói con, mới thực hiện được hay sao?

Trần Trận lún sâu trong nỗi hoài nghi và lo lắng về hành động của mình.

Đã đến giờ đọc sách nhưng Trần Trận vẫn chần chừ. Cậu cảm thấy về tinh thần và tình cảm hình như cậu nhiễm chứng ỷ lại của sói con. Cậu dùng dằng nửa ở nửa đi, không biết mình có thể làm những gì cho sói con?

Tính cách sói con đã quyết định số phận của nó.

Trần Trận trước sau vẫn cho rằng, mùa đông năm ấy cậu mất sói con là do ý trời, là do sự trừng phạt của Tăngcơli đối với lương tâm của cậu khiến lương tâm cậu lĩnh án tù chung thân, không bao giờ được tha thứ.

Vết thương của sói con đột nhiên chuyển ác tính. Đó là một đêm không gió, không trăng, không sao, không tiếng chó sủa. Thảo nguyên Ơlôn im lìm như hóa thạch, không một dấu hiệu của sự sống.

Quá nửa đêm, Trần Trận bị tiếng xích khua loảng xoảng đánh thức dậy. Kinh hãi khiến đầu óc cậu đặc biệt tỉnh táo, tai rất thính. Khoảng lặng giữa tiếng rung của xích sắt, cậu nghe mơ hồ có tiếng sói tru từ dãy núi lớn trên biên giới, yếu ớt, đứt đoạn, run rẩy, thê thảm, não nùng. Có thể đám tàn quân nhà sói bị đuổi sang bên kia biên giới, lại gặp những quân đoàn sói hung hãn hơn tàn sát, chỉ còn sói chúa và một số sói bị thương chạy thoát về khu nam không người lai vãng, giữa vành đai phòng hỏa và đường biên. Nhưng bọn chúng không thể trở về quê cũ đầy máu. Sói chúa tụ tập đám tàn quân chuẩn bị đánh qua biên giới, quyết một trận tử chiến.

Trần Trận đã hơn tháng nay chưa nghe tiếng tru của sói tự do. Trong tiếng tru run rẩy, bao hàm những điều cậu quan tâm lo lắng. Cậu nghĩ, bố Pilich có lẽ đang khóc, tiếng sói tru thê thảm nghe không rõ tiếng tru ấy khiến người ta càng tuyệt vọng. Thảo nguyên Ơlôn toàn loại sói lớn sói đầu đàn hung hãn, dũng mãnh và khôn ngoan, bị những xạ thủ ngoại hạng hạ thủ trước tiên. Sau khi tuyết xuống xe hơi không chạy được, những xạ thủ xuất thân kỵ binh chuyển sang dùng ngựa truy sát đàn sói. Hình như đàn sói trên thảo nguyên Ơlôn không còn đủ thực lực mở một con đường máu đi tìm địa bàn mới.

Điều mà Trần Trận lo nhất đã xảy ra. Tiếng sói tru đã đánh thức sói con toàn bộ hi vọng, niềm phấn khích, sự phản kháng và hiếu chiến. Sói con như một vương tử đơn côi bị cầm tù trên thảo nguyên nghe thấy tiếng gọi của phụ vương thất lạc từ lâu, hơn nữa lại là tiếng gọi cầu cứu. Nó bỗng trở nên hung hăng thô bạo, muốn biến thành viên đạn pháo cất tiếng trả lời. Thế nhưng cổ họng bị thương, nó không thể phát ra tiếng tru. Nó lồng lộn điên cuồng, bất chấp vết thương ở cổ, giằng xích giằng đai cổ giật cọc. Trần Trận cảm thấy đất dưới người cậu rung chuyển, tiếng xích sắt vọng lại loảng xoảng mà có thể tưởng tượng ra sói con đang chạy, đang giằng kéo, đang thổ huyết! Sói con càng quậy càng dữ.

Trần Trận sợ quá tung chăn ngồi dậy mặc quần áo đi giày, chạy ra ngoài. Dưới ánh sáng đèn pin, máu vung vãi trên tuyết, quả nhiên sói con đang thổ huyết. Nó liên tục xông lên, lưỡi thè ra đầy máu đỏ lòm, sợi xích căng như dây cung, trước ngực máu đọng thành sợi, nền chuồng máu vung vãi mùi tanh nồng, đầy sát khí.

Bất chấp tất cả, Trần Trận xông vào định ôm lấy cổ con sói. Nó đớp cổ tay cậu xé rách một miếng tay áo. Dương Khắc cũng xông vào nhưng hai người không sao tiếp cận được sói con. Cơn điên bị nén lâu ngày, mắt đỏ ngầu như mắt quỷ, nó đúng như con sói điên đang tìm cách tự sát. Hai người lấy tấm thảm vừa bẩn vừa dày dùng để đậy phân khô chụp lên con sói đè nghiến nó xuống đất. Sói con điên hoàn toàn, gặp gì cắn nấy, lại còn ra sức rũ cho xích văng ra. Trần Trận cũng cảm thấy như phát điên nhưng cậu phải đấu dịu, khẽ gọi: Sói con sói con!... Không biết bao lâu, sói con mới hạ hỏa, bình thường trở lại. Hai người như trong trận chiến đánh giáp lá cà với sói hoang, ngồi phệt xuống đất mà thở.

Trời dần sáng, hai người lật thảm thấy hậu quả của sự phản kháng về khát vọng được gặp sói cha của sói con: Chiếc răng đau đã trật ra ngoài, chắc là bị gãy khi giằng xé tấm thảm màu chảy không ngừng, có thể vết thương đã nhiễm trùng khi cắn tấm thảm bẩn. Sói con kiệt sức, họng chảy máu không ngừng, chảy nhiều hơn hôm dọn nhà, tuy vẫn chỗ cũ nhưng là bị thương lần hai. Sói con mắt đỏ ngầu, uống vào bụng từng ngụm máu của chính nó. Từng đám máu trên áo, trên thảm, trên nền chuồng sói, nhiều hơn máu một con ngựa choai, tất cả đã đông cứng. Trần Trận sợ rủn tay chân, miệng lắp bắp: Thôi thế là hết! Dương Khắc nói: Sói con đã vung ra quá nửa số máu trong người nó, bây giờ sẽ chảy hết chỗ còn lại…

Hai người luống cuống chạy quanh không biết làm gì để cầm máu cho sói con. Trần Trận vội phóng ngựa đi gặp ông Pilich. Thấy Trần Trận quần áo đầy máu, ông già cũng hoảng, vội đến lều Trần Trận, hỏi: Có thuốc cầm máu không? Trần Trận đưa bạch thược Vân Nam cho ông, tất cả có bốn bình. Ông già bước vào trong lều, lấy nguyên lá phổi trong chậu thịt luộc, dùng nước ấm trong phích rửa cho rã hết đá, cắt bỏ khí quản có sụn cứng, cắt đôi phổi phải phổi trái, rồi bôi thuốc lên bề mặt lá phổi, bước tới đưa cho Trần Trận đút cho sói con. Sói con ngoạm luôn nuốt tớm. Lá phổi chui xuống thực quản thấm hết máu nở ra căng phồng, dừng lại ở chỗ yết hầu một lúc rồi mới chui qua. Lá phổi áp sát thực quản bôi thuốc cầm máu liền. Sói con gắng gượng nuốt trọn cả hai lá phổi cừu, miệng bớt chảy máu.

Ông già lắc đầu, nói: Không sống nổi, mất nhiều máu quá, vết thương lại ở chỗ chí mạng, lần này thì cầm được, nhưng lần sau khi nghe sói tru, cậu cầm nổi chăng? Con sói đáng thương quá! Không cho cậu nuôi, cậu cứ nuôi. Tôi nhìn mà không chịu nổi, cứ như mình bị cắt cổ. Đây đâu phải cuộc sống của sói, còn thê thảm hơn nô lệ Mông Cổ xưa kia! Sói Mông Cổ thà chết chứ không chịu sống như thế này.

Trần Trận van nài: Bố ơi, con muốn nuôi nó trọn đời, bố xem có cứu được nó không? Bố truyền cho con các bài thuốc đi.

Ông già trừng mắt, nói: Cậu vẫn muốn nuôi hả? Nhân lúc nó hãy còn là con sói, hãy đập chết nó đi, để nó chết trong chiến đấu như một sói hoang! Đừng bắt nó ốm chết như chó! Hãy giúp cho linh hồn nó được như nguyện.

Hai tay run bắn,Trần Trận chưa bao giờ nghĩ rằng cậu phải tự tay đập chết sói con, con sói mà cậu trải qua biết bao gian khổ mới nuôi lớn. Cố kìm nước mắt, cậu van xin lần nữa: Bố ơi, làm sao con dám đập chết nó? Dù chỉ còn một chút hi vọng, con cũng cứu nó.

Ông già sầm mặt, giận dữ quát to: Người Hán các cậu không bao giờ hiểu được sói Mông Cổ!

Nói xong, ông già giận dữ lên yên, vụt con ngựa một roi thật mạnh nhằm hướng nhà ông mà chạy, không ngoảnh lại lấy một lần.

Trần Trận đau nhói trong tim, y như cậu cũng bị quất một roi.

Hai người đứng ngây như phống, hồn vía đi đâu mất.

Dương Khắc dùng mũi ủng đá tuyết, cúi đầu nói nhỏ: Bố Pilich chưa bao giờ giận chúng mình đến thế. Sói con không còn nhỏ, nó đã lớn, nó sẽ vì tự do mà liều mạng với chúng ta. Sói mới đúng là chủng tộc “vì tự do mà chết”. Tình hình này chắc chắn nó không sống được, theo mình, hãy nghe lời bố già, cho sói con được hưởng cái oai của sói.

Trần Trận nước mắt giàn giụa, cậu thở dài, nói: Làm sao mình không hiểu ý tứ trong câu nói của ông già? Nhưng về tình cảm, mình ra tay sao được? Sau này nếu mình có con trai, mình không nên thương nó bất kể sống chết như thương sói con… Để mình nghĩ tí đã…

Sói con mất quá nhiều máu, loạng choạng đứng lên ra chỗ mép chuồng cào tuyết bên ngoài ăn. Trần Trận vội giữ nó lại, hỏi Dương Khắc: Chắc là nó ăn tuyết cho đỡ đau, có cho nó ăn không?

Dương Khắc nói: Mình thấy nó đang khát, mất bấy nhiêu máu không khát sao được? Theo mình, tất cả nên tùy thuộc vào nó, cho nó tự quyết định số phận của nó.

Trần Trận buông tay, sói con lập tức ăn từng miếng tuyết to. Sức đã yếu, lại vừa đói vừa rét, nó run lẩy bẩy như nô lệ Mông Cổ thời xưa bị phạt cởi trần trong giá rét. Sói con đứng không vững ngã lăn ra. Nó cố sức cuộn người lại, dùng đuôi che kín mặt mũi. Nó vẫn còn run, khi hít không khí lạnh vào cơ thể run bần bật, khi thở ra ít run hơn. Trần Trận thấy trái tim như bị bóp nghẹt, cậu chưa bao giờ thấy sói con yếu đuối đến thế. Cậu kiếm một miếng thảm đắp lên mình sói, cảm thấy linh hồn nó từ từ rời khỏi cơ thể, gần như không còn là con sói cậu đã nuôi.

Đến trưa, Trần Trận đun cho sói con một nồi cháo khu đuôi cừu, dùng tuyết hạ nhiệt, cậu bê đến cho sói con. Sói con vận hết khí lực toàn thân để có tư thế hùng dũng khi ăn, nhưng khi ăn thì ăn một miếng lại dừng, dừng một tí lại ăn, vừa ăn vừa ho, chỗ yết hầu bị thương vẫn rỉ máu, bình thường chậu cháo ăn hết trong một bữa, nay phải chia làm ba lần.

Hai ngày sau đó, Trần Trận và Dương Khắc thay phiên nhau chăm sóc sói con. Nhưng sói con ăn ngày một ít đi, bữa cuối cùng hầu như không ăn được miếng nào, mà nuốt vào bụng toàn là máu của nó. Trần Trận chọn ngựa tốt, đem theo ba bình rượu trắng đi mời thú y của đại đội. Thú y nhìn máu đầy mặt đất, nói: Đừng phí công, nó là sói, nếu là chó thì chết từ lâu rồi.

Thú y không cho lấy một viên thuốc, nhảy lên ngựa tới lều khác.

***

Sáng sớm hôm thứ ba, Trần Trận vừa ra khỏi lều đã thấy sói con hất bỏ tấm thảm, nằm dài trên mặt đất ngửa cổ mà thở. Cùng Dương Khắc chạy ra xem, hai người cuống lên. Cổ họng sói con sưng to đến nỗi chặt cứng đai, phải rướn lên mới thở được. Trần Trận vội nới rộng hai lỗ trên đai cổ con sói để nó dễ thở, nhưng hồi lâu vẫn không thể trở lại bình thường. Sói con lại định vùng dậy. Hai người vạch miệng sói con, thấy vòm họng và một bên hàm sưng to như nhọt bọc, thịt đã bắt đầu rữa.

Trần Trận tuyệt vọng ngồi xuống đất, sói con gắng gượng ngồi chống hai chân y như một sói già trước mặt cậu, miệng hé mở, lưỡi thè ra, nước giãi lẫn máu nhểu từng giọt. Nó nhìn Trần Trận như muốn nói gì với cậu nhưng không một âm thanh nào lọt ra ngoài. Trần Trận nước mắt như mưa ôm cổ con sói, chạm trán, chạm mũi lần cuối cùng với nó. Sói con hình như không trụ nổi, hai chân trước lại run lên bần bật.

Trần Trận đứng phắt dậy chạy vào trong lều lấy ra chiếc xẻng bằng sắt, giấu cái xẻng sau lưng, cậu lẳng lặng vòng ra phía sau con sói rồi bất thình lình đập mạnh cái xẻng xuống gáy nó. Không một tiếng động, sói con gục xuống mềm nhũn. Nó cứng rắn cho đến phút cuối như sói thảo nguyên Mông Cổ chân chính.

Trong khoảnh khắc đó, Trần Trận cảm thấy linh hồn cậu vọt ra ngoài thiên linh cái đánh soạt một cái, lần này thì không trở lại nữa, Trần Trận rũ ra như một cây nước đã đang tan.

Toàn thể chó lớn chó bé không hiểu xảy ra chuyện gì xô nhau chạy tới hít hít cái xác sói con rồi hoảng sợ chạy tán loạn, chỉ mỗi Nhị Lang cứ chõ vào hai ông chủ mà sủa, tức ra mặt.

Dương Khắc nước mắt đã lưng tròng, nói: Việc còn lại phải như ông Pilich đã làm, mình lột da, còn cậu vào trong lều nghỉ một lát.

Trần Trận vẫn ngơ ngác, nói: Mình và cậu bắt về nuôi, bây giờ cũng nên cùng nhau lột da tiễn nó lên trời.

Hai người cố không run tay khi lột da sói con. Lông nó vẫn dày và sáng, nhưng lớp mỡ bên trong thì rất mỏng. Dương Khắc gác bộ da sói con lên nóc lều, lấy bao tải sạch đựng xác sói con buộc sau yên. Hai người phi ngựa lên đỉnh núi tìm phiến nham thạch có phân chim ưng, dùng ống tay áo quét sạch tuyết trên mặt rồi nhẹ nhàng đặt thi thể sói con lên. Bãi thiên táng mà các cậu chọn lạnh và vắng, sau khi cởi bỏ chiến bào, Trần Trận không còn nhận ra sói con của cậu, mà giống hệt những con sói khác bị người ta lột da sau trận tử chiến. Trần Trận và Dương Khắc không rỏ nước mắt trước thi thể sói con đã bị lột da. Trên thảo nguyên Mông Cổ hầu như con sói nào cũng bộ lông dày mịn khi đến, thân xác trần trụi khi đi, để lại cho đời lòng dũng cảm, nét kiêu hùng và trí khôn sắc sảo cùng thảo nguyên tươi đẹp. Lúc này đây, sói con tuy đã cởi chiến bào nhưng cũng mất đi cái xích, hoàn toàn giống như các thành viên trong họ hàng nhà sói, không gì ràng buộc, tự do tự tại trên thảo nguyên mênh mông. Từ lúc này sói con chính thức trở lại đàn, đứng vào đội ngũ chiến sĩ thảo nguyên. Tăngcơli hẳn sẽ chấp nhận linh hồn nó.

Hai người không hẹn mà nên cùng ngẩng nhìn trời. Đã có hai con chim ưng đang lượn vòng trên đỉnh đầu, cúi nhìn sói con, một lớp băng mỏng đã phủ lên mình nó. Trần Trận và Dương Khắc vội vã xuống núi. Khi ra đến trảng cỏ nhìn lại, hai con chim ưng đã đáp xuống mỏm nham thạch bên cạnh. Sói con chưa bị đông cứng, sẽ thiên táng rất nhanh, chim ưng sẽ đưa linh hồn nó lên trời.

Về đến nhà, Cao Kiện Trung đã chọn được cây sào bằng gỗ pơ mu dài sáu bày mét đặt trước cửa lều, nhồi đầy cỏ khô trong tấm da hình ống của sói con… Trần Trận lấy đầy da mảnh xâu qua mũi sói, một đầu dây buộc chặt vào đầu sào. Ba người dựng cây sào trên đống tuyết trước cửa lều bạt.

Gió tây bắc ào ào căng ngang tấm da sói giữa trời, chải cho chiếc chiến bào sạch sẽ mượt mà như lên trời dự yến tiệc. Khói trắng tuôn ra từ ống khói trên nóc lều luồn dưới tấm da sói bay đi. Sói con như đang đằng vân giá vũ, tự do thả sức tung bay, lúc này trên cổ sói không còn dây xích, dưới chân sói không còn cảnh giam cầm.

Trần Trận và Dương Khắc chiêm ngưỡng rất lâu sói con trong không trung, ngưỡng vọng trời xanh. Trần Trận cúi đầu nói nhỏ: Sói con, rồi Tăngcơli sẽ cho sói con biết thân thể và chân tướng của bạn. Hãy cắn tôi trong giấc mơ, cắn đau vào!

Ánh mắt si mê của Trần Trận dõi theo điệu múa sinh động do tấm da sói biểu diễn. Đó là ngoại hình sói con để lại cho đời, trong cái ngoại hình oai nghiêm đẹp đẽ ấy hình như vẫn ôm ấp linh hồn tự do và bất khuất của sói con. Đột nhiên, thân hình tròn như ống quyển và cái đuôi dài thượt của sói cuộn khúc như rồng lộn. Trần Trận giật mình, cậu như trông thấy đầu rồng, thân rồng trong mưa vần gió vũ, thân sói dài nhào lên hụp xuống như hải trư dưới biển, lại như con phi long màu vàng kim cưỡi gió đạp mây vui sướng bay lên trời xanh, lên chùm sao thiên lang, lên bầu trời tự do, nơi tụ hội của những linh hồn sói thảo nguyên Mông Cổ hi sinh trong chiến đấu…

Khi ấy, Trần Trận tin rằng cậu đã gặp tôtem sói thực sự trong lòng cậu.

Vĩ thanh

Đàn sói Ơlôn biến mất, đầu xuân năm sau, binh đoàn ra lệnh giảm bớt chó thảo nguyên để tiết kiệm thịt bò cừu quý hiếm cung cấp cho các đoàn nông nghiệp thiếu đạm. Vận đen rơi lên đầu lũ chó con trước tiên. Lứa chó mới sinh bị tung lên trời cho Tăngcơli. Thảo nguyên Ơlôn đâu đâu cũng nghe thấy tiếng kêu gào thảm thiết của lủ chó mẹ, trông thấy thi thể chó con, chủ nhà chôn lén bị chó mẹ bới lên, miệng ngậm đứa con xấu số chạy như điên. Đám phụ nữ thảo nguyên gào khóc, còn đàn ông thì âm thầm gạt nước mắt. Chó lớn và chó béc-giê ngày càng gầy nhom.

Sau đó nửa năm, Nhị Lang đi cách lếu khá xa đang ngẩn ngơ trong bụi cỏ liền bị một chiến sĩ trênj xe gíp của binh đoàn bắn chết đem đi. Trần Trận, Dương Khắc, Cao Kiện Trung giận dữ lên đoàn bộ và hai đại đội bộ nhưng không tìm ra hung thủ, tất cả những nguời Hán ăn thịt chó liên kết thành mặt trận thống nhất, giấu nhẹm hung thủ như giấu một anh hùng bị dị tộc săn đuổi.

Bốn năm sau, một buổi sáng sau trận bạch mao phong, một ông già và một người đứng tuổi cưỡi ngựa kéo cỗ xe bò lên con đuờng biên phòng, trên xe lả thi hài ông Pilich. Ba bãi thiên táng của đại đội thì hai bãi không dùng được nữa, một số mục dân chuyển sang địa táng như nguời Hán, chỉ mỗi ông Pilich kiên quyết đề nghị đưa xác ông đến nơi có khả năng còn sói. Hai người anh em họ xa đưa ông đến khu-không-người phía bắc đường biên phòng.

Nghe người em ông già kể lại, đêm hôm ấy trên mạn bắc đường biên phòng, tiếng sói tru thâu đêm tới sáng.

Trần Trận, Dương Khắc và Trương Kế Nguyên đều cho rằng, ông Pilich đau khổ nhưng cũng còn sướng, vì ông là người già Mông cổ cuối cùng trên thảo nguyên lên trời theo tục thiên táng. Từ nay trở đi, đàn sói không bao giờ trở lại thảo nguyên Ơlôn.

Sau đó không lâu, Trần Trận, Dương Khắc và Cao Kiện Trung lần lượt bị điều khỏi đại đội bộ. Dương Khắc làm giáo viên tiểu học, Trần Trận làm thủ kho, chỉ Trương Kế Nguyên vẫn ở lại với đàn ngựa làm mã quan. Ilưa và lũ con của nó để lại cho gia đình Batu-Caxưmai, con Vàng trung thành bỏ lại vợ con, theo Trần Trận lên đại đội bộ. Nhưng mỗi khi xe Caxưmai cùng đàn chó lên đại đội bộ, con Vàng lại vui đùa thoả thích với vợ con rồi lại theo xe về đội chăn nuôi, ngăn cũng không được, mỗi lần vể ở lại nhiều ngày rồi một mình trở lại chỗ Trần Trận. Xa đến mấy nó cũng về một mình, có lần xa trăm dặm nó vẫn về, nhưng lần nào cũng buồn thiu. Trần Trận lo con Vàng giữa đường gặp chuyện không may nhưng lần nào cũng bình yên trở về, cậu để mặc, không nỡ tước đoạt niềm vui thăm thân và khát vọng tự do của nó. Vậy mà một năm sau, con Vàng “đi” mất. Dân thảo nguyên đều biết chó thảo nguyên không bao giờ bị lạc, cũng không rơi vào miệng sói. Đàn sói Ơlôn đã biến mất, ngay dù đàn sói còn, thảo nguyên chưa bao giờ có chuyện sói đàn cắn chết chó độc.

Trần Trận và Dương Khắc trở về khu chuồng do người Hán làm chủ, sống địng cư kiểu thuần Hán, xung quanh phần lớn là những quân nhân chuyển ngành và gia đình họ cùng với các chiến sĩ trung đoàn thanh niên trí thức đến từ Thiên Tân, Đuờng Sơn. Thế nhưng, về mặt tính cảm, hai người không thể trở lại cách sống của người Hán. Ngoài giờ công tác và học tập, hai cậu thường lên mỏm núi gần đó ngóng về vòm trời phương Bắc tìm khuôn mặt và hình ảnh sói con và bố Pilich trên những đám mây cao vút.

Năm 1975, binh đoàn sản xuất xây dựng Nội Mông chính thức giải thể, nhưng lưu vực sông Mã Câu đã bị biến thành vùng cát. Nhà cửa, máy móc, xe hơi, máy kéo và phần lớn cán bộ nhân viên cùng với những quan niệm, phương thức sống của họ thì ở lại thảo nguyên. Thảo nguyên Ơlôn ngày một thoái hoá. Nếu như nghe nói sói cắn chết cừu nhà ai đó, chắc chắn người ta bàn tán đến mấy ngày, còn chuyện ngựa vấp hang chuột gãy chân thì ngày càng nhiều lên.

Sau đó mấy năm, trước khi về Bắc kinh ghi tên vào học viện nghiên cứu, Trần Trận mượn ngựa về thăm gia đình Batu-Caxưmai, sau đó lên thăm cái hang tăm tuổi, nơi sói con ra đời. Cái hang vẫn sâu hút và chắc chắn, phía dưới miệng hang nửa thước có lớp mạng nhện, hai con cào cào dính bẫy. Trần Trận vạch cỏ ghé sát miệng hang, chỉ ngửi thấy mùi tanh của đất. Mùi hoi nồng nặc của sói đã bay hết từ lâu, lưỡi đất bằng phẳng trước cửa hang sói con vẫn ra đấy nô đùa, giờ mọc đầy cỏ thanh khoả thân cao vống….Trần Trận ngồi rất lâu bên miệng hang, bên mình không sói con, không chó săn, thậm chí một con cún bình thường cũng không.

Nhân dịp 30 năm ngày thanh niên trí thức Bắc kinh về lao động ở Ơlôn, Trần Trận và Dương Khắc lái chiếc xe gíp rới Bắc kinh đi thảo nguyên Ơlôn.

Sau khi tốt nghiệp Nghiên cứu sinh tại Viện Khoa học xã hội, Trần Trận công tác tại một truờng đại học, nghiên cứu nội tình Trung Quốc và cải cách thể chế. Dương Khắc sau khi lấy bằng cử nhân luật, tiếp tục giành học vị thạc sĩ và thẻ hành nghề luật sư. Lúc này anh là sáng lập viên một công ty luật rất nổi tiếng ở Bắc kinh. Đôi bạn mà tuổi tác đã quá ngũ tuần này rất muốn nhưng rất sợ trở lại thảo nguyên. Những kỷ niệm 30 năm, khi ấy ở cái tuổi “lập nghiệp”, khiến hai anh quyết định về lại thảo nguyên Ơlôn thăm những người bạn thân thiết, thăm “đại thảo nguyên Uchumuxin”, thăm dãy núi Đen và cái hang trăm tuổi của sói con. Trần Trận còn muốn nghiệm chứng những luận điểm học thuật của anh.

Ô tô chạy vào địa giới Nội Mông, trời vẫn trong xanh, nhưng chỉ những người đã sống ở đây mới nhận ra Tăngcơli không phải Tăngcơli ngày xưa, trời hanh khô tới mức không một gợn mây, bầu trời thảo nguyên gần như biến thành bầu trời của vùng cát. Dưới bầu trời nóng bức không nhìn thấy cỏ non xanh tốt. Giữa những trảng cát cỏ lưa thưa vàng úa là từng mảng lớn cát vàng trông như những tấm giấy ráp thô. Cát khô lấp nửa đường quốc lộ, những chiếc xe tải kiểu lồng sắt chở bò cừu nối đuôi nhau chạy về dưới xuôi, kéo theo từng đám bụi vàng khè. Dọc đường hầu như không trông thấy lều bạt Mông Cổ, đàn ngựa hoạc đàn cừu. Hoạ hoằn gặp một đàn cừu thì vừa gầy vừa d0en, lông rối như tổ quạ, so với cừu thải loại của thảo nguyên Ơlôn cũng không bằng. Hai người gần như không còn hào hứng đi tiếp, vì không muốn hình ảnh thảo nguyên xinh tươi đẹp đẽ trong lòng bị “giấy ráp” cát bụi mài nhẵn.

Dương Khắc dừngt xe bên đường phủi cát bụi trên người, bảo Trần Trận : Khoảng mười năm lại đây bận quá, không còn thì giờ về thăm. Hai măm nay, cấp dưới của mình đã có thể đảm đương công việc, mình mới đi được. Nhưng nói thật, mình sợ trở lại thảo nguyên. Mùa xuân vừa rồi Trương Kế Nguyên về thăm Ơlôn, nói với mình rất nhiều về chuyện cát hoá đồng cỏ. Mình đã chuẩn bị tinh thần rất kỹ mà vẫn không tưởng tượng nổi cát lấn đến như thế này.

Trần Trận vỗ vỗ tay lái, nói: Để mình lái cho… Bố Pilich mới đi xa có 20 năm mà chúng mình đã tận mắt chứng kiến lời cảnh báo của bố. Đúng là chúng mình phải về Ơlôn thắp hương cho bố. với lại nếu không về, cái hang của sói con sẽ bị cát lấp. Hang trăm tuổi là cái hang đàn sói xưng bá vạn năm để lại dấu vết cho đời.

Dương Khắc nói: Hang trăm tuổi là cái hang chắc chắn nhất, vài trăm năm không thể nứt vỡ, 20 năm chưa thấm gì. Hang sâu, một trăm năm cát bụi chưa thể lấp kín.

Trần Trận nói: Mình cũng rất nhớ ông Ulichi, muốn gặp để hỏi ông những kiến thức về sói và về thảo nguyên. Chỉ tiếc ông quá đau lòng về thảo nguyên, nên sau khi nghỉ hưu, về thành phố dưỡng bệnh ở nhà con gái. Trung quốc không có cơ chế dân chủ tuyển chọn nhân tài, những người giỏi đều bị vùi dập. Chuyên gia số một về sói và thảo nguyên Ulichi thực sự đã bị mai một. Mình thấy thể chế cát vàng còn đáng sợ hơn cát vàng. Nó chính là một trong những nguồn gốc của bão cát thảo nguyên.

Xe gip chạy hơn 1000 cây số trong gió nóng, đến khi hai cánh tay đen nhẻm vì nắng và vì bụi, mới đến địa đầu thảo nguyên Ơlôn. Ngày hôm sau, xe chạy vào Ơlôn. Ơlôn là góc chết và là vùng ven của đại thảo nguyên Uchumuxin. Hai người đã có thể trông thấy những trảng cỏ thưa thớt tiếp nối nhau. Ơlôn coi như còn có màu xanh, nhưng đừng cúi xuống nhìn, cúi nhìn thì thấy phía dưới toàn là cát sỏi. xưa kia, phía dưới toàn là phân cừu phân ngựa mục, thậm chí có rất nhiều nấm như giá đỗ. Trần Trận giữa mùa hè trên thảo nguyên chợt nhớ câu thơ cổ miêu tả thảo nguyên vào dịp đầu xuân, anh cất tiếng ngâm:”Màu xanh xa thấy gần không thấy”….

Hai người rất hồi hộp, biết rằng phía trước là một con sông đã tồn tại hàng ngàn năm, mực nước trên đầu gối ngựa, thậm chí chấm bụng. Trước đây chỉ xe tải lớn mới có thể qua sông, xe com măng ca phải rồ máy rồi lợi dụng quán tính lội ào qua. Mùa mưa, con sông này cắt nghẽn thư từ lương thực hàng hoá nửa tháng, thậm chí một tháng. Trần Trận và Dương Khắc đang trao đổi làm sao qua sông thì chiếc xe đã tới bờ sông. Hai người nhìn ra liền im bặt. Khi rời thảo nguyên, con sông này nước chảy cuồn cuộn, vậy mà bây giờ chỉ còn sỏi đá lởm chởm, dòng nước bằng con giun chảy giữa kẽ đá. Xe qua sông thoải mái, còn lòng người nặng trĩu.

Qua sông không lâu, hai người y như đã vào tới chiến truờng, thảo nguyên Ơlôn khắp nơi đều là cọc bê tông và dây thép gai. Tất nhiên, xe gip chạy theo rào ngăn. Trần Trận nhìn dây thép gai, thấy mỗi ô rộng khoảng vài trăm mẫu, cỏ trong ô cao hơn cỏ ngoài ô nhiều nhưng vẫn thưa thớt, có thể nhìn thấy toàn là cát vàng phía dưới. Dương khắc nói: Cái gọi là “Kho cỏ Ơlôn” đây chăng? Sau khi khoán sản đến từng hộ, mỗi nhà đều rào lấy một khoảnh để mùa xuân cho cừu đẻ, ba mùa hạ thu đông không đụng vào. Trần Trận bảo: Bấy nhiêu cỏ thì ăn nhằm gì? Dương Khắc nói: Mình nghe nói mấy năm nay mục dân bắt đầu giảm số đầu gia súc, có nhà đã giảm quá nửa.

Lại qua mấy “Kho cỏ Ơlôn”, hai người thấy giữa các kho cỏ có một ngôi nhà ba gian và một chuồng đỡ đẻ cho cừu, nhưng vào mùaq này, nhà không có người ở, ống khói không toả khói, trước cửa cũng không có chó hoặc bê con. Có lẽ mục dândồn gia súc vào sâu trong núi, nơi có những bãi cỏ vô chủ. Trần Trận nhìn dây thép gai hết lớp nọ đến lớp kia tr6n thảo nguyên, thở dài: Xưa kia trên đồng cỏ nuôi ngựa chiến Uchumuxin này ai dám rào dây thép gai? Làm sao ban đêm ngựa không vướng què chân? Vậy mà bây giờ ngựa chiến Mông cổ nổi tiếng thế giới bị đuổi ra khỏi thảo nguyên Mông cổ. Nghe nói đa số mục dân cưỡi môtô đi chăn cừu. Đài truyền hình còn coi đó là tiêu chí của cuộc sống sung túc, tuyên truyền ầm ĩ. Trên thực tế, thảo nguyên không còn đủ cỏ để nuôi ngựa. Sau sói đến ngựa biến mất, sau ngựa là bò cừu. Dân tộc sống trên lưng ngựa trở thành dân tộc sống tr6n môtô. Vậy là ta đã được nhìn thấy “thắng lợi vĩ đại” của dân tộc nông canh đối với dân tộc du mục. Giờ đây về chính trị đã phát triển tới mức “một nước hai chế độ”, bất kể khu vực nông nghiệp hay khu vực chăn nuôi, bất kể nghề rừng hay nghề cá, thành thị hay nông thôn, tất cả cho vào một rọ chế biến thành “đại thống nhất” tuốt tuột. Tiếp sau “thắng lợi vĩ đại” là những khoản trợ cấp tài chính khổng lồ, nhưng có trợ cấp đến một trăm năm, vẫn không bù lại những mất mát của thảo nguyên.

Hai người men theo con đường đất ngày xưa đi đến đại đội bô, cả hai rất muốn gặp mục dân, gặp người. nhưngt đã vòng qua một eo núi quen thuộc, trụ sở đại đội trước kia, nay là bải cát cỏ mọc thưa thớt, chuột chạy lung tung, lối đi của chuột ngoằn ngoèo như rắn, chuột đùn cát lên từng đống. Những dãy nhà gạch không còn một gian. Trần Trận cho xe chạy quanh một vòng nơi xưa kia là đại đội bộ lúc nào cũng nhộn nhịp, móng nhà thì không thụt, lại thụt vào hang chuột suýt lật xe. Mới xa có 20 năm mà các móng nhà bị cát vùi mỗi năm một ít, giờ đã phẳng lỳ.

Trần Trận than thỡ: Thảo nguyên không sói, chuột làm vua. Đào hầm sâu, tích trữ lương thực rộng khắp, ai bảo chuột không xưng bá? Người Trung quốc tuy có câu:”Chuột chạy trên phố, ai cũng đánh”, nhưng thật ra trong tiềm thức rất kính nể chuột, xếp chuột đứng đầu mười hai con giáp. Ý thức tiểu nông giống nhau khủng khiếp về nhãn quan, sinh đẻ và khai hoang trồngt trọt.

Dương Khắc đổi tay lái cho Trần Trận, phóng xe đến một quả đồi gần đó. Lên cao mới nhìn xa, thấy mạn bắc có đàn bò nhỏ và mấy ngôi nhà xây đang toả khói bếp, nhưng không thấy căn lều Mông cổ nào. Dương Khắc lập tức cho xe chạy về phía có khói bếp gần nhất. vừa chạy được hơn chục dặm, chợt thấy trên con đường đất xa xa bốc lên đám bụi màu vàng. Trần Trận rất mong gặp một đàn ngựa chiến, tới gần hóa ra đó là chiếc xe môtô Yamaha. Một thiếu niên mông cổ trạc mười lăm mười sáu tuổi mặc áo chẽn, đội mũ chơi bóng chày, phanh kít xe lại bên ô tô. Trần Trận thất kinh khi thấy cậu ta đeo trên vai khẩu thể thao, yên sau treo một con chim ưng mới lớn, máu đang rỏ giọt. trước mắt Trần Trận thoáng hiện ánh mắt thất thần của ông già Pilich khi nhìn thấy khẩu thể thao. Anh không ngờ trẻ con Mông cổ đã sử dụng loại vũ khí này, hơn nữa còn ngồi trên loại môtô hai bánh nhập khẩu hiện đại nhất.

Trần Trận chào cậu ta bằng tiếng Mông cổ, tự giới thiệu, và nói tên gia đình định tìm. Trên khuôn mặt trắng hồng của cậu thiếu niên tỏ vẻ lạnh nhạt. Cậu giương to mắt nhìn ô tô, miệng nói tiếng Hán giọng đông bắc, rằng cậu ta là con út Triều Lỗ từ trườngt huyện về nhà nghỉ hè. Trần Trận mãi mới nhớ ra, Triều Lỗ là một hộ ngụ cư, một cán bộ nhỏ trong đội xây dựng mục trường. Nghe Trương Kế Nguyên kể, thảo nguyên sau khi cải cách thể chế, tất cả quân nhân chuyển ngành của binh đoàn và cán bộ nhân viên mục trường đều được chia đồng cỏ và gia súc, trở thành mục dân chăn nuôi kiểu Hán. Thảo nguyên Ơlôn tự dưng có thêm 30% điểm chăn nuôi định cư kiểu này.

Trần Trận hỏi: Cháu bắn chim ưng làm gì?

Cậu ta nói: Cháu bắn chơi.

Cháu là học sinh trung học, phải bảo vệ động vật hoang dã chứ?

Chim ưng ăn thịt cừu non, sao không bắn? Ơlôn quá nhiều chim ưng, bắn mất con nào, Ngoại Mông lại bay đến ngay ấy mà!

Dương Khắc hỏi thăm nhà Batu và Caxumai, cậu ta chỉ về hướng bắc nói, đi quá đường biên phòng lên tận cùng phía bắc có cái chuồng xây bằng đá lớn nhất là nhà họ. Nói xong, cậu ta quay xe 180 độ nhằm mỏm núi có chim ưng đang lượn, phóng xe đi.

Dương Khắc và Trần Trận tự dưng có cảm tưởng như mình là khách lạ hoặc người ngoài. Cảm giác xa lạ mỗi lúc một lớn ngăn trở chuyến viếng thăm của hai anh. Dương Khắc nói: Không đến nhà ai hết, đến nhà Batu trước, chỉ khi gặp Caxumai, chúng mình mới không là người ngoài.

Xe tăng tốc theo con đường quen thuộc, nhằm phía đường biên phòng lao tới. Trần Trận bắt đầu tìm hang rái cá cạn trên suồn núi, những gờ đất bên miệng hang vẫn rải rác khắp nơi, cỏ mọc tương đối cao. Nhưng xe chạy mấy chục dặm vẫn không thấy con rái cá nào. Dương Khắc nói: Ngay cả trẻ con cũng trang bị súng thể thao, cậu tìm đâu ra rái cá? Trần Trận đành thôi, không tìm nữa.

Xe chạy qua mấy ngôi nhà có người ở, nhưng chó chạy ra vừa ít vừa nhỏ, nói chung chì hai ba con, vóc dáng còn nhỏ hơn bec-giê cảnh ở khu biệt thự Bắc kinh. Cảnh tượng bị hàng chục con chó to đùng vây quanh xe mà sủa như trước kia không còn nữa, tiếng sủa của những con chó hiện nay không còn khí thế áp đảo của sói thảo nguyên. Dương Khắc nói: Biến mất sau sói là chó, biến mất sau chó là tinh thần chiến đấu, còn lại là sự lười nhác và ủy mị….Chó thảo nguyên trở thành chó cảnh sớm hơn chó Bắc kinh.

Trần Trận thở dài, nói: Mình nhớ Nhị Lang quá! Nếu nó còn sống thì lũ chó dặt dẹo này còn được gọi là chó nữa không?

Dương Khắc nói: Thảo nguyên không còn sói, tất cả các khâu đều lỏng lẻo. Không còn sói, chó dữ trở thành chó cảnh, ngựa chiến trở thành đạo cụ cho khách du lịch cưỡi chụp ảnh.

Trần Trận dụi mắt vì bụi rơi vào nói: Người Hán không hiểu gì về thảo nguyên. Chính sách định vị khả năng thảo nguyên hiện nay vẫn chưa chuẩn, nặng về kinh tế mà coi nhẹ sinh thái. Thảo nguyên Mông cổ là tấm bình phong cho sinh thái và sinh mạng Hoa Hạ, nên quy định Nội Mông là đặc khu sinh thái, phải trợ ca71p tài chính sinh thái, phải thực hành chế độ giấy thông hành đặc biệt, nghiêm cấm nông nghiệp, công nghiệp và dân di cư tự do lên thảo nguyên.

Xe chạy vào khu vực đất vàng đất bạc của đội Hai xưa kia-đồng cỏ cho cừu đẻ, vậy mà trước mắt cảnh tượng nham nhở, đất cát cùng màu với đất có cỏ mọc, bụi đất phèn bay cùng cát bụi. Trần Trận nhìn nhức mắt, anh rất muốn Dương Khắc cho xe chạy một mạch về dãy núi Đen phía xa.

Dương Khắc nói: Mình xem phim “Thế giới động vật” năm 20, càng xem càng muốn nguyền rủa mình và cậu. Không vì cậu, mình không nợ thảo nguyên một khoản lớn đến thế. Bảy sói con sinh ra giữa rốnthảo nguyên Nội Mông, mỗi con đều là báu vật, đều chết dưới tay cậu. Mình trở thành kẻ đồng loã lớn nhất. Giờ đây mỗi khi nhắc tới, thằng con mình lại chửi mình là đồ nghu, là nông dân! Quân bạc ác! Từ góc độ luật pháp hiện đại mà xét, trách nhiệm pháp lý của mình không nhỏ, mình ủng hộ cậu đi đào ổ sói. Nếu mình không đi, chắc cậu không dám nửa đêm một mình lên núi. Món nợ của thanh niên trí thức Thượng hải tại Vân nam còn có thể cứu vãn, hơn nữa còn có thể tìm lại đứa con gái đáng yêu, khiến mình rất hâm mộ. Nhưng món nợ của mình và cậu thì không thể cứu vãn….Dù sao có con gái vẫn hơn. Thằng con mình, ở nhà là lang sói, ra đường không bằng con cừu, bị bọn bạn học trước sau lấy mất ba ví tiền mà không dám hé răng.

Trần Trận lặng im. Dương Khắc hỏi: 20 năm nay cậu nghiên cứu quốc nội quốc ngoại, mô hình thể chế, kinh tế chính trị, thành thị nông thôn đủ thứ, sao lại quay về đề tài tính quốc dân?

Trần Trận hỏi lại: chẳng lẻ cậu cho rằng vấn đề này không giải quyết thì những vấn đề khác vẫn được giải quyết dứt điểm sao?

Dương Khắc nghĩ một thoáng, nói: Đúng là có chuyện như bthế. Từ sau khi Lỗ Tấn tiên sinhneu vấn đề quốc dân tính, đến nay vẫn chưa được giải quyết. hình như Trung quốc chưa triệt được tận gốc căn bệnh này. Cải cách 20 năm rồi, tiến bộ không nhỏ, nhưng bước đi vẫn ngật ngưỡng, cậu tổ chức một cuộc hội thảo về vấn đề này đi!

Xe chạy lên đỉnh một con dốc trên đường biên phòng, có thể nhìn xuống dải đường biên hút tầm mắt. Hai người trố mắt ngạc nhiên. Khu cấm quân sự và khu vực không người ở rộng 20 dặm trước đây, nay bị xé rào vì bùng nổ dân số người và gia súc, giờ thành mục trường giàu có. Sau khi đi hơn 1000 dặm, đây là nơi duy nhất có thể gọi là bãi chăn trên thảo nguyên. Cỏ ở đây tuy chỉ ngắn bằng non nửa cỏ xưa nhưng xanh mượt, được bảo vệ mấy chục năm trong khu quân sự, đất đai chua có dấu hiệu sa mạc hóa. Có thể được thảo nguyên nguên thuỷ bên kia biên giới thấm sang, đồng cỏ xanh rờn chứng tỏ nước nôi đầy đủ, trông mát mắt. Màu vàng khô dọc đường thoắt cái biến sạch. Bãi chăn mái ngói đỏ tươi, những chuồng gia súc rải rác trông giống những lô cốt ngầm lô cốt nổi trên đường biên. Phần lớn những ngôi nhà xây dựng trên thế đất tương đối cao gần khu trung tâm của mục trường. Hiện có mấy chục đàn bò, cừu dọc theo các bãi chăn trên tuyến đường biên. Trần Trận và Dương Khắc ngạc nhiên là đàn cừu đông tới trên 3000 con, có đàn 4000, du mục biến thành định cư định mục (ấn dịnh số đầu gia súc).

Dương Khắc lấy ra ống nhòm bội số cao, quan sát kỹ, nói: Đàn cừu ở đây quá đông, gấp đôi đàn cừu chúng mình xưa kia, dương quan chắc mệt đứt hơi. Hai chúng mình chưa bao giờ chăn một đàn lớn như thế.

Trần Trận nói: Đàn cừu trước kia là của tập thể, nếu thuộc sở hữu tư nhân, lớn gấp đôi vẫn chăm nom được, bản thân làm không xuể, có thể thuê người giúp việc, lại có thể cung cấp chỗ làm, lợi ích vật chất kích thích người ta tích cực lao động.

Trần Trận nhìn mục trường giàu có mà cảm thấy đất sụt dưới chân. Trước kia đồng cỏ mùa hè có thể chăn thả tập trung, mọi người không phải lo, cỏ hết, vẫn còn ba đồng cỏ nữa để sử dụng. Nhưng đàn gia súc định cư định mục thì ngoài “kho cỏ” ra không còn đồng cỏ nào nữa. Hai người nóng lòng muốn biết sau đó mục dân phải làm gì? Trần Trận cảm thấy có lẽ đây là tuyến cuối cùng trên thảo nguyên Mông cổ phồn vinh giả tạo.

Hai xe môtô và một ngưa nòi chạy tới, cuối cùng thì Trần Trận trông thấy một kỵ sỹ thảo nguyên đã lâu không gặp. Xe motô chạy nhanh hơn, đến trước. Một thanh niên cao to áo dài đơn màu thanh thiên phanh kít xe. Trần Trận, Dương Khắc cùng gọi: Bayan! Bayan! Rồi cả hai nhảy xuống xe. Bayan to như con gấu ôm chầm Trần Trận, nói: Chú Chận (Trận)! Mẹ trông thấy xe biết là chú đến, sai cháu ra đón. Nói xong lại ôm chặt Trần Trận lần nữa rồi quay sang ôm Dương Khắc, lại nói, mẹ biết các chú nhất định đến, về nhà cháu đi!

Hai cậu thanh niên kia cùng xuống ngựa, xuống xe, một cậu mười sáu mười bảy tuổi, một cậu mười bốn mười lăm tuổi. Bayan bảo: Gọi ông đi, đây là ông Chận (Trận), đây là ông Khắc. Hai cậu chào hỏi xong, xoay quanh chiếc ô tô mà ngắm nghía. Bayan lại nói: Hai đứa này mới từ trên huyện về nghỉ hè. Cháu định sau này cho chúng nó về Bắc kinh học đại học. Cháu sẽ gửi chúng nó cho các chú. Lên xe đi chứ! Nghe chú Nguyên nói các chú sẽ về, mẹ đợi phát ốm lên rồi.

Xe ô tô chạy theo môtô và ngựa tới cột khói xa nhất. Batu và Caxumai cả hai tóc bạc phơ ra đón cách nhà hai dặm. Trần Trận xuống xe, gọi to: A Nàng! Batu! Rồi ôm chầm hai người. Nước mắt Caxưmai ướt đẫm vai áo Trần Trận. Chị đấm vai Trần Trận bồm bộp, giận dỗi: Hai mươi năm mà chú không về! Những thanh niên trí thức khác đã về ba bốn lần, chú mà không về thì chị chết mất! Trần Trận nói: Chị đừng chết, em mới đáng chết, để em chết trước! Caxưmai giơ bàn tay thô ráp chùi nước mắt cho Trần Trận. Chị biết chú đã vùi đầu học thì quên cả bố mẹ đẻ, nói gì đến gia đình trên thảo nguyên này. Trần Trận nói: Những năm gần đây năm nào em cũng nhớ thảo nguyên, em đang viết về thảo nguyên, viết về gia đình nhà ta, quên sao được? em vẫn đang sống trên thảo nguyên cùng gia đình anh chị. Trần Trận dìu Batu và Caxưmai lên xe chạy về nhà.

Gia đình này có một chuồng cừu lớn gấp đôi chuồng của đội chăn nuôi xưa kia. Xe chạy qua chuồng, phía tây là dãy nhà gạch mới xây rất rộng, có cần ăngten và máy phát điện bằng sức gió. Dưới cửa sổ phía tây đỗ chiếc com măng ca Bắc kinh kiểu cũ vải bạt đã phai màu. Xung quanh nhà và chuồng cừu một dặm vuông toàn là cát, những cây rau muối mọc lơ thơ, cao ngang thắt lưng. Trần Trận dừng xe trước ngôi nhà. Anh xa Ơlôn hai mươi năm, lúc trở lại không còn được bước vào căn lều Mông cổ bố Pilich từng ở, thấy buồn quá.

Trần Trận và Dương Khắc khuân từ trên xe xuống thuốc lá ngon rượu ngon, nước trái cây hộp, mứt trái cây, kẹo sữa, đệm vai đệm gối, bật lửa…. ôm vào phòng khách kiểu Mông cổ. Phòng khách rộng 40 mét vuông, có đủ xôpha trà kỷ, máy ghi hình, quầy rượu… Bức tranh thảm Thành Cát Tư Hãn nửa người treo chính giữa bức tường, cặp mắt hiền từ nhìn đám con cháu người Mông và khách. Trần Trận đứng trước tranh ngắm hồi lâu với thái độ cung kính.

Caxumai nói: Đây là bức tranh thảm do người anh em họ ông già đem đến. Ông ta còn bảo, bên này giàu có, đường sá đặc biệt tốt, chỉ có giáo dục và đồng cỏ không bằng bên ông ta…

Cả nhà ngồi xuống uống trà sữa, uống sữa tươi.

Caxưmai không còn thích ăn kẹo sữa, nhưng vẫn nhận vì tình cảm. Chị mỉm cười: Đúng là chú chưa quên chị. Hồi đó chú cho chó chứ không cho chị. Caxưmai khen nức nở món mứt quả, món này chị chưa trông thấy bao giờ, chị bắt chước Trần Trận cho vào miệng nhằn từng quả một. chị cười: Làm sao chú biết chị không còn răng mà đem lên bao nhiêu thứ ngon thế này?

Trần Trận sờ tóc mai, nói: Em cũng già rồi đây này. Tóc đã có sợi bạc, răng đã rụng mấy chiếc, em đâu có quên chị. Ở Bắc kinh, em từng kể với rất nhiều nười chuyện chị túm đuôi, lại còn bẻ gãy đuôi sói. Rất nhiều người muốn đi du lịch thảo nguyên để gặp chị.

Caxưmai xua tay: Không gặp, không gặp! họ hàng ở Ngoại Mông kể, đã khoanh vùng bảo vệ sói, không cho giết sói bừa bãi. Đài ở đây cũng nói không giết sói, chú đừng kể chuyện không tốt của chị với họ.

Trời chạng vạng tối, bên ngoài vọng lại tiếng chân cừu quen thuộc. Trần Trận và Dương Khắc vội vàng ra khỏi lều, đàn cừu ùa tới như nước lũ. Một Dương quan ăn mặc kiểu Hán cưỡi ngựa dồn cừu. Trần Trận đoán chừng đây là người làm thuê mới xuất hiện trên thảo nguyên Ơlôn. Hai người tiến lên giúp cậu ta dồn cừu vào chuồng. Batu cười mỉm nói: Hai cựu Dương quan chưa quên nghề cũ, 20 năm rồi mà vẫn còn nhớ không bắt cừu chạy khi no.

Trần Trận cười: công việc thảo nguyên em không thể quên. Lại hỏi: đàn cừu rất đông, bao nhiêu con tất cả?

Batu nói: 3800 con.

Dương Khắc hít hà: Lớn bù bé, bình quân mỗi con từ 150 đến 170 tệ, tài sản của anh chị, riêng cừu đã sáu bảy mươi vạn tệ. Nếu tính cả đàn bò, nhà cửa, xe cộ, anh đã có bạc triệu, thành triệu phú rồi.

Batu nói: Tài sản trên cát không chắc chắn. Nếu đồng cỏ ở đây bị cát hóa như đồng cỏ của mấy hộ ngụ cư, thì tôi lại trở thành mục dân nghèo hoặc trung lưu lớp dưới.

Dương Khắc hỏi: Đồng cỏ được chia cáng đáng nổi bao nhiêu cừu?

Batu đóng cửa chuồng, nói: Nếu đủ mưa, đồng của tôi nuôi 2000 con cừu; nếu khô hạn chỉ nuôi nổi 1000 con. Mấy năm nay hạn liên tiếp, bốn năm năm chưa được một trận mưa ướt đất, nuôi 1000 con đã khó.

Trần Trận nghe mà giật mình, vội hỏi: Vậy sao anh nuôi nhiều thế?

Batu nói: chắc chú nói tới sức tải gia súc chứ gí? Sống trên đồng cỏ này là những mục dân trong tổ Caxưmai trước kia, đều là lính của ông già, rất hiểu sức tải gia súc, biết gìn giữ đồng cỏ. tôi nuôi bấy nhiêu gia súc, nhưng một nửa số đó chỉ nuôi nửa năm, trước khi tuyết xuống, bán đi 2000 con. Bán luôn 1400 con cừu choai, mấy trăm con cừu thiến, cừu cái già, bán hết. Số cừu còn lại đồng cỏ có thể nuôi nửa mùa đông. Tôi dùng gần nửa số tiền bán cừu mua cỏ khô chất đầy kho. Vậy là đàn cừu của tôi yên ổn sống qua mùa đông. Cuối hạ đầu thu, tôi dẫn đàn cừu của tôi vào sâu trong núi, tới những trảng cỏ hoang. Những năm gần đây khô hạn, muỗi chết hết, đàn cừu trong núi béo ra.

Trở về phòng khách, Batu nói tiếp: Các tổ viên tổ tôi vẫn áp dụng cung cách cũ của người Mông thảo nguyên, cỏ tốt nuôi nhiều, cỏ xấu nuôi ít. Nuôi cừu thuận theo ý trời, thuận theo cỏ tốt hay xấu. những người ngụ cư không hiểu quy củ của thảo nguyên, cỏ của mình ăn hết thì lùa đi ăn chạc của người, ai mà không tức. Lại còn một số bợm rượu, vợ bỏ, con đi hoang, giờ sống bằng tiền cho thuê đồng cỏ được chia, mỗi năm chừng một hai vạn tệ.

Trần Trận hỏi: Ai thuê đồng cỏ?

Batu tỏ ra căm phẫn nói: Các hộ đến từ khu vực nửa làm ruộng nửa chăn thả chứ ai. Bọn này không hề quan tâm đến sức tải của đồng cỏ, đáng nuôi 500 con thì nuôi 2000, 3000 con, ăn liền mấy năm biến đồng cỏ thành sa mạc, bèn trả lại đồng cỏ, bán sạch cừu, đem tiền về quê cũ đi buôn.

Dương Khắc bảo Trần Trận: Không ngờ cái đám “quá cảnh” này ngày càng phá dữ, thảo nguyên chả mấy chốc bị hủy hoại trong tay bọn này.

Trần Trận bắt đầu tin tưởng đôi chút vào đồng cỏ và nghề chăn thả của gia đình Batu-Caxưmai. Anh nói: Thấy gia đình mình khá giả thế này, bọn em rất mừng.

Caxưmai lắc đầu: Đồng cỏ lớn bị hủy thì khó mà giữ được đồng cỏ nhỏ. Thảo nguyên khô hạn, Tăngcơli không làm mưa, đồng cỏ của mấy gia đình mỗi năm một cằn cỗi. chị phải có tiền nuôi bọn trẻ ăn học, tiền lấy vợ xây nhà cho chúng, lại còn tiền chữa bệnh, tiền dự phòng thiên tai…Trẻ con bây giờ chỉ nhìn thấy cái trước mắt, thích cái gì đòi mau cái ấy… Vừa nãy trông thấy xe tốt của các chú, Bayan một mực đòi mua một chiếc như thế. Chị sợ người già đi cả rồi, bọn trẻ không hiểu quy củ của thảo nguyên, tăng đàn gia súc vô tội vạ để có tiền mua xe tốt, xây nhà đẹp, mua quần hàng áo hiệu….

Dương Khắc nói: thảo nào em vừa dừng xe, hai anh em đã sán lại hỏi xe giá bao nhiêu tiền? Caxưmai nói:Người Mông cổ cũng nên sinh đẻ có kế hoạch, trẻ con nhiều rồi, thảo nguyên không nuôi nổi chúng. Hai đứa nhà này nếu không thi được vào đại học trở về thảo nguyên chăn cừu, sau đó lấy vợ ra ở riêng, đàn cừu cũng chia đàn, chia rồi thì đàn cừu nhỏ đi, chúng càng muốn nuôi nhiều nhưng đồng cỏ chỉ có bằng ấy, nếu xây thêm mấy ngôi nhà thì không còn chỗ cho cỏ mọc!

Bayan thịt cừu bên ngoài, lát sau, vợ cậu ta, một cô ngái Mông cổ chắc nịch bê vào một khay thịt cừu luộc. Trần Trận và Dương Khắc cũng lấy ra đủ các loại đồ hộp và thực phẩm đóng bao chân không. Trời chưa tối hẳn, đèn điện trong phòng khách đã bật sáng.

Trần Trận nói với Batu: Sáng quá! Mục dân bây giờ không đốt đèn bằng mỡ cừu nữa.Hồi ấy em chúi đầu đọc sách cháy cả tóc.

Dương Khắc hỏi: Điện phát bằng sức gió dùng được bao lâu?

Batu cười trả lời: Khi có gió, cánh quạt quay cả ngày, điện nạp vào ắc qui dùng được trong hai tiếng. Nếu không đủ, nhà còn có máy phát điện nhỏ.

Lát sau bên ngoài vang lên những tiếng còi xe, gần như toàn thể “bộ lạc” Caxưmai đi ô tô hoạc xe máy đến, phòng khách Batu rộng là thế mà chật ních những người là người. Bạn cũ lâu ngày gặp nhau, tình cảm mặn nồng tha thiết. Trần Trận và Dương Khắc bị thụi yêu liên tục, bị đổ rượu say nghiêng ngả, nói năng lảm nhảm. Lanmutrắc vẫn giương cặp mắt trố, gân cổ lên, lúc này thêm chòm râu dê, quát Dương

Khắc: Sao cậu không cưới Xazânxixicơ đem cô ta về Bắc kinh? Phạt…phạt…phạt rượu!

Dương Khắc đã say mèm vẫn lớn tiếng thách: Anh định mức phạt đi, bách linh bay từng đôi, dưới cánh treo mấy ly?

Ông bạn già kinh ngạc. Lanmutrăc tửu lượng không bằng xưa kia nên vội chữa: Không phạt rượu, phạt cậu cho tôi muợn xe một ngày cho đỡ thèm.

Dương khắc nói: Thì chính anh bảo tôi là “dê cỏn” không xứng với cô sói cái xinh đẹp nhất Ơlôn thì tôi đâu dám lấy, tất cả là tại anh. Mượn xe thì dễ thôi, nhưng ngày mai anh không được uống rượu, dù chỉ một giọt.

Lanmutrăc nghiêng bình rượu Lô Châu tợp một ngụm, nói: Mình có mắt không ngươi! Cậu không lấy cô Xazânxixicơ cũng chẳng sao. Dưng mà gả con Ulan nhà mình cho cậu thì có phải bây giờ kiện tụng đã có một luật sư Bắc kinh xung trận! Những năm gần đây người ta phá hoại thảo nguyên dữ quá, lại còn đào quặng, đào không thấy, hố cũng không lấp…Bắc kinh giảm ngân sách cho thảo nguyên cũng không sao, nhưng quan trọng là phải cho thảo nguyên pháp luật và luật sư. Tợp một ngụm nữa, anh nói to: Thế nhá, mai tôi mượn xe cậu. Đưa chìa khoá xe cho tôi!

Tiếp theo, đám bạn cũ Saxưleng, Tang Kiệt đều hỏi mượn xe.

Mọi người cười vui. Sau đó toàn thể bộ lạc đại hợp xướng nam nữ. cuối cùng, họ chọn bài hát nổi tiếng mà danh ca Mông cổ Tângcơ thường hát, làn điệu cao vút, ngân dài như tiếng sói tru, “là người Mông, tôi tha thiết yêu quê hương!”….

Uống rượu và ca hát cho tới sáng, mọi người vui chảy nước mắt.

Trần Trận và Dương Khắc bị những người vừa hay rượu vừa hiếu khách mời đến nhà ăn cơm, mỗi ngày hai nhà, nhà nào cũng cơm rượu, bữa nào cũng ca hát. Chiếc xe gip trở thành xe chuyên chạy thử, chạy cho đã thèm, chở rượu của bạn bè, đưa đón những bạn ở xa. Trước cửa nhà Batu trở thành bãi đỗ xe, chiều hôm sau hầu như tất cả ôtô xe máy của một nửa đại đội đến đây, đến bằng ngựa rất ít. Mục dân nói: Nếu không vì mùa đông tuyết lớn môtô không chạy được vẫn phải dùng ngựa, thì nhười ta đã không nuôi ngựa từ lâu. Xưa kia bốn đại đội có bốn đàn ngựa, nay chỉ còn một mà không lớn như ngày trước. Batu nói: sói không còn, cỏ ít đi, ngựa lười ra, chạy không nổi nữa, vóc dáng cũng không to lớn như xưa. Không ai cần ngựa Ơlôn nữa. Trần Trận nhận thấy những người thuộc thế hệ ông già Pilich không còn ai. Những học sinh tiểu học của Dương Khắc nay là quân chủ lực ở Ơlôn.

Ba ngày liền, hai người uống đến nỗi huyết áp tăng, tim đập dữ dội. Được cái trong vườn nhà người Hán trồng các loại rau, mỗi bữa từng khay rau tươi ăn kèm, nếu không, lượng cholestêrôn trong máu cũng tăng theo. Công việc chăn nuôi gác lại quá nửa, tất cả phó thác cho những người làm công. Trần Trận hỏi ngày công là bao nhiêu. Lương tháng của họ là 200 tệ cộng với hai con cừu lớn, đồng thời bao ăn ở, làm việc tốt cuối năm có thưởng. một người làm công còn kể, ông ta cũng là mục dân, thôn bản ông ta cách Ơlôn 400 dặm về phía tây nam. Cách đây mấy năm, nhà ông có 1700 con cừu, đời sống không thua kém Ơlôn là bao, trong nhà cũng thuê một người giúp việc. Nhưng đồng cỏ ngày một cằn cỗi, năm kia đại hạn, cỏ cháy cát nổi, cừu chết khát quá nửa, ông ta đành đi làm thuê. Nhưng nửa năm nay kiếm được hai ba chục con cừu lớn mà không thể đem về vì ở quê không còn cỏ, cừu sống đem về vô ích, đành bán lấy tiền….

Hai người ngủ suốt một ngày trong buồng ông chủ nhà mới lại người. Ngày thứ tư, Trần Trận cùng gia đình Caxưmai chuyện trò đến quá nửa đ6m.

Tinh mơ ngày thứ năm, Trần Trận và Dương Khắc lái xe thẳng tới dãy núi Đen.

Khai quật

bằng lý tính

(Toạ đàm và đối thoại về tôtem sói)

Qua đường biên phòng liền trông thấy dãy Đen ẩn hiện xa xa, Dương Khắc liền cho xe chạy chậm theo con đường đất trên thảo nguyên.

Trần Trận thở dài, nói: Sự tồn tại của sói là tiêu chí tồn tại về sinh thái trên thảo nguyên. Không còn sói, thảo nguyên cũng không còn hồn. Hiện nay cuộc sống trên thảo nguyên đã biến chất, mình rât nhớ màu xanh ngọc của đồng cỏ nguyên thuỷ. Là con người hiện đại, trên đất Hán trung nguyên tối kị muốn trở lại như cũ, vì như vậy là trở lại nông canh, trở lại phong kiến chuyên chế và “nồi cơm to” (ăn tập thể). Nhưng đối với thảo nguyên, mong muốn trở lại như cũ là tình cảm hiện đại nhất của con người hiện đại.

Dương Khắc lấy ngón tay day day huyệt thái dương, nói: Mình cũng hoài cổ, về tới thảo nguyên, trong đầu mình toàn là hình ảnh du mục nguyên thuỷ. Những chuyện hai ba mươi năm về trước mà tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua.

Dương Khắc lại nói: Sau khi về thành phố, ai làm việc người ấy, nhưng cậu nên giới thiệu cho mình biết kết quả nghiên cứu mà cậu khổ công trong bao nhiêu năm.

Trần Trận nói: Những năm gần đây, mình có cách tiếp cận và lập trường hoàn toàn mới để nhận thức lại văn hoá nông canh và quốc dân tính của dân tộc Hoa Hạ, như vậy có thể làm rõ nguồn gốc của “con bệnh Trung Quốc” thuộc phạm trù “bệnh cừu”, “bệnh gia súc”.

Dương Khắc nói: Chúng mình vừa qua một cuộc trải nghiệm, tinh thần du mục thảo nguyên vẫn còn, nên dùng nó để phân tích xem sao.

Trần Trận nhập cuộc ngay lập tức, anh giằn giọng, nói: Căn bệnh của Trung Quốc là ở nông canh và tính cách nông canh. Trước kia, trong giới trí thức đã có người đặt vấn đề như thế, nhưng phê phán không sâu và không triệt để, lại vấp phải sự chống đối và phê phán ngược quyết liệt. Mình cho rằng, cuộc đấu tranh tư tưởng liên quan đến vận mệnh Trung Quốc này sở dĩ kéo dài suốt một thế kỷ không kết thúc. chính là vì chưa tìm ra loại vũ khí phê phán có hiệu lực. Đối với ý thức nông canh sâu đậm và có truyền thống của Trung Quốc, phê phán linh tinh không tác dụng, mà phải phê phán và thanh toán trên bình diện lịch sử, phân tích có hệ thống, mà quan trọng nhất là phải sử dụng vũ khí tinh thần của du mục là loại vũ khí có lịch sử lâu đời hơn, sức sống mạnh mẽ hơn, sức chiến đấu kiên cường hơn nông canh.

Mình nói tinh thần du mục ở đây là tinh thần đại du mục, không chỉ khoanh lại trong tinh thần du mục thảo nguyên, trong tinh thần “du mục” trên biển, mà còn bao gồm “du mục” trong vũ trụ mà vẫn mang dáng vẻ tiến nhanh tiến mạnh của thế giới hiện đại. Trong lịch sử, tinh thần đại du mục không những xoá bỏ chế độ nô lệ dã man của La Mã và chế độ phong kiến chuyên chế đen tối trung thế kỷ, phát triển thị trường và “đồng cỏ” rộng lớn ở hải ngoại, mà còn đang hăng hái tấn công vũ trụ, nhằm phát triển “đồng cỏ vũ trụ” càng rộng lớn hơn, giành không gian sinh tồn thoáng đãng hơn cho nhân loại. Tinh thần du mục này lấy tính cách mạnh mẽ của sói làm nền tảng. Chuyện“Sói bay” trên thảo nguyên chẳng qua là muốn bay lên trời, bay vào vũ trụ đó thôi.

Dương Khắc khen: Mở đầu khá đấy, trúng phóc điều mình thích thú nhất.

Trần Trận lôi trong cặp ra một kẹp tài liệu đánh máy vi tính, hắng giọng, nói: Báo cáo của mình hơi dài, mình không đem theo bản in mà chỉ đem theo đĩa mềm. Lần này cùng cậu về thảo nguyên, minh muốn trình bày để cậu góp ý. Hôm nay chỉ trình bày vắn tắt để cậu bổ sung.

Dương Khắc nói: Được.

Trần Trận nói: Mình thấy khiếm khuyết chí mạng của văn minh nông canh Hoa Hạ là ở chỗ trong nền văn minh nông canh không có cạnh tranh sinh tồn khốc liệt sâu rộng hơn so với đấu tranh giai cấp.

Dương Khắc gật đầu, nói: Nhưng văn minh du mục thì ngược lại, sự cạnh tranh sinh tồn trong cuộc sống du mục rất tàn khốc và rất phổ biến. Xã hội nông canh làm gì có chuyện không ngừng cạnh tranh sinh tồn. Thầy nghiêm thì trò giỏi. Cạnh tranh quyết liệt sinh ra những đàn sói, những chiến mã, những dân tộc mạnh mẽ. So sánh hai hoàn cảnh sinh tồn là có thể nhận ra hai tính cách khác biệt. Quả là có sự khác biệt giữa sói và cừu. Thảo nào dân tộc thảo nguyên thường ví mình như sói, ví dân tộc nông canh như cừu. Những năm đó Lanmutrắc không gọi mình là Dương Khắc, mà gọi kèm theo tên âm “e”, coi mình như cừu mới sinh, quật mình liên tiếp năm sáu cú, mấy cô gái Mông xinh đẹp nhìn anh ta cười tán thưởng. Lanmutrắc còn chỉ cô Xazânxĩxicơ, bảo mình, “Làm sao dám gả cô gái xinh nhất vùng Ơlôn cho con cứu non như cậu, cô ta nổi cơn chén béng cậu thì làm thế nào? Mọi người cười ồ, mình cũng cười. Cười nhưng nước mật đắng lên họng. Cuộc rượu hôm vừa rồi anh ta có nhắc tới chuyện đó.

Trần Trận cười buồn: Hồi áy chúng mình chẳng làm nên trò trống gì, lên thảo nguyên đã mấy năm mà vẫn không cắt được cái đuôi “cừu”. Nhưng còn triệu triệu người Hán thì sao? Khi mới lên thảo nguyên, câu nói xúc phạm mình nhất là, mục dân gọi ngươi Mông Cổ là sói, gọi người Hán là cừu. Nó giáng một đòn khá mạnh vào tư tưởng “đại Hán” của mình. Chính vì bị cú đả kích về tinh thần đó, mình quyết tâm nghiên cứu sói và cừu, nghiên cứu tinh thần và tính cách hai dân tộc…

Ô tô chạy qua nơi ông già Pilich chỉ huy đánh vây xưa kia. Dương Khắc ngậm ngùi, nói: Trận đánh năm xưa vẫn như đang bày ra trước mắt. Chúng mình tận mắt chứng kiến kỵ binh thảo nguyên anh dũng thiện chiến như thế nào. Đó mới chỉ là một trận bủa vây thông thường. Bọn mình hồi học trung học cũng tham gia một cuộc đi săn của nông dân, chẳng có gì đáng học.

Trần Trận hỏi: Cậu đã suy nghĩ vấn đề này chưa? Vì sao thời kỳ Chu Tần Hán Đưòng dân tộc Hoa Hạ từng đánh cho Khuyển Nhung, Sơn Nhung, Hung Nô, Đột quyết không còn mảnh giáp? Tới Hán Đường vẫn còn mấy trăm trận ác chiến, tiêu diệt hoặc đánh đuổi Bắc Hung Nô và Tây Đột Quyết hùng mạnh. Đây là thời kỳ huy hoàng nhất của Trung Quốc cổ đại, về mặt văn hoá cũng phát triển rực rỡ. Vì sao thời kỳ ấy dân tộc Hoa Hạ lợi hại như thế, tính cách dân tộc kiên cường dũng mãnh như thế?

Dương Khắc trả lời không cần nghĩ: Mình nghĩ thời kỳ đó dân tộc Hoa Hạ đang trong giâi đoạn đi lên, giai đoạn đi lên thường tràn đầy sức mạnh.

Trân Trận nói: Mình thì cho rằng, khi ấy trong huyết quản dân tộc Hoa Hạ còn đậm “máu sói”. Nhân loại thoát thai từ dã thú. Thời kỳ viễn cổ, thú tính sói tính trong con người rất mạnh. Đây là điều kiện cơ bản để con người tồn tại được trong cuộc cạnh tranh sinh tồn khốc liệt hàng mấy chục vạn năm. Không có tính cách dũng mãnh đó, nhân loại đã bị hoàn cảnh thiên nhiên ác liệt và bầy thú đào thải từ lâu. Nhưng thú tính sói tính cũng gây nguy hại rất lớn cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Nếu như người trong một nước đều như sói xâu xé lẫn nhau thì tất cả sẽ chết, sẽ tuyệt diệt, Nền văn minh của nhân loại được phát triển trên cơ sở chế ngự và điều khiển thú tính và sói tinh tự thân của nhân loại. Đây là một trong những ván đề cơ bản mà các bậc thánh hiền, các nhà tư tưởng, các nhà chính trị xưa nay của Trung Quốc và nước ngoài đã suy nghĩ. Nhưng nếu tiêu diệt hoàn toàn thú tính sói tính trong nhân tính của con người, thậm chí thay vào đó bằng “cừu tính”, “gia súc tính”, như vậy loài người mất đi điều kiện cơ bản để sinh tồn, bị đào thải trong cuộc cạnh tranh tàn khốc, mà văn minh nhân loại cũng không còn gì để bàn.

Do vậy, nếu không có nhân loại nửa dã man thì văn minh nhân loại không được duy trì và tiến những bước dài. Con đường phát triển của các dân tộc phương tây là duy trì nửa dã man trong nhân tính, còn dân tộc Hoa Hạ thì cố sức đi theo con đường phát triển văn minh nông canh “phi dã man” trong nhân tính. Nói một cách hình tượng, phương tây đi theo con đưòng “văn minh sói”, còn Hoa Hạ đi con đường “văn minh cừu”, người ta phát triển thuận lợi từ “dã man sói cổ đại” lên “văn minh sói cổ đại”, lên “văn minh sói hiện đại”, giờ đây đang diễn tiến theo hướng “người văn minh” viết hoa, trong tương lai. Mà chúng ta thì không biết còn bao nhiêu giai đoạn nữa, hơn nữa lại còn trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Xưa kia các thánh hiền lương thiện chất phác của Hoa Hạ, bị hạn chế bởi các giai đoạn lịch sử, ra sức khắc kỷ phục lễ, thực hiện lý tưởng đại đồng, coi của cải trong thiên hạ là tài sản chung, cho rằng chỉ cần khắc phục sói tính trong nhân tính là lý tưởng trên được thực hiện. Vì vậy, về giáo hoá tinh cách, Nho giáo hàng ngàn năm dạy người ta: “Làm người thì phải dịu dàng đôn hậu”. Thé nhưng trên đời này, tính cách bò cừu là “dịu dàng nhân hậu” nhất. Lời dạy của Nho gia rõ ràng mang nặng tính chất nông canh tôn sùng cừu, ghét bỏ sói. Đến lý học đời Tống lại càng cực đoan, ra sức cổ suý “tồn thiên lý, diệt nhân dục”, ham muốn bình thường nhất cũng diệt, còn như diệt thú tính sói tính trong nhân tính thì khỏi cần phải nói. Trên cơ sở tồn tại dân tộc nông canh, trải qua hàng ngàn năm giáo hoá rèn cặp, tầng lớp trí thức Hoa Hạ đều là bậc quân tử khiêm nhường ôn hoà nhân hậu, hạ tầng Hoa Hạ nhan nhản nhứng lương dân thuận dân hèn nhát yếu đuối bị người khinh rẻ. Tính cừu trở thành quốc dân tính của người Hoa Hạ. Con đường này quá cực đoan, sau đó, đàn cừu đôn hậu gặp đàn sói thảo nguyên hung tợn, kết quả bộ “Nhị thập tứ sử” đã chép: Máu chảy thành sông! Rồi sau, thế giới trở nên nhỏ bé, “văn minh cừu “của Hoa Hạ đôn hậu gặp “văn minh sói” phương tây hung dữ, hai nền văn minh đụng nhau, đổ kểnh tất nhiên là văn minh cừu. Vì vậy con đường cổ kính của Hoa Hạ tất nhiên bị con đường phương tây đè bẹp, cuối cùng trở thành thực dân địa và nửa thực dân địa của phương tây.

Dương Khắc hào hứng bắt chuyện, hỏi: Mình quả thật không hiểu làm sao Trung Quốc cổ đại lại chọn con đường bế tắc như thế? Các thời kỳ Chu Tần Hán Đường chẳng đã rất oanh liệt đó sao?

Trần Trận bắt đầu phân tích rành rẽ: Con đường thuở ban sơ là do hoàn cảnh khách quan quyết định. Tộc Hoa Hạ sinh sống trên mảnh đất cực kỳ thích hợp cho phát triển nông nghiệp. Đó là “lưu vực lưỡng hà”, tức lưu vực Hoàng hà Trường giang. Lưu vực này rộng lớn hơn nhiều so với lưu vực sông Nil của Ai cập, lưu vực lưỡng hà Babilon, lưu vực sông Hằng ấn Độ. Do đó tộc Hoa Hạ phải chấp nhận sự sắp đặt của cuộc sống nông canh lớn nhất thế giới. Đây chính là lý do tồn tại của tộc Hoa Hạ. Tính cách dân tộc cũng bị cải tạo, bị quyết định bởi tính chất nông canh.

Các dân tộc phương tây dân số ít, đất chăn nuôi rộng, kề biển, nông nghiệp không chiếm ưu thế tuyệt đối. Các nghề săn bắn, chăn nuôi, nông nghiệp, thương nghiệp, mậu dịch, hàng hải… cùng nhau phát triển; Sói thảo nguyên, sói rừng, sói núi cao, sói đồng bằng, sói biển tự do sinh sống. Phong cách du mục và tính cách hung hãn của du mục phương tây được lưu truyền lại dai dẳng, hơn nữa được tăng cường liên tục qua các trận thương chiến, thuỷ chiến và chiến tranh mậu dịch, sau này bước vào thời kỳ cạnh tranh sinh tồn tàn khốc, sói tính không ngừng phát huy, vì vậy tính cách hăng hái cầu tiến của các dân tộc phương tây chưa bao giờ bị yếu đi. Sự tồn tại dân tộc quyết định tính cách dân tộc, còn tính cách dân tộc quyết định số phận dân tộc. Tính cách này là nguyên nhân chủ quan khiến các dân tộc phương tây vươn lên đứng đầu thế giới.

Thế giới từ xưa tới nay đại để có sáu nghề và sáu loại dân tộc: Săn bắn, du mục, nông canh, thương nghiệp, hàng hải, công nghiệp, trong đó nông canh rất đặc thù, vì rằng chỉ nông canh mới tự cấp tự túc, tự phong bế, hoa tự thụ phấn, tự thoái hoá, về cơ bản không cần cạnh tranh, không cần trao đổi hoặc tạp giao. Trừ nông canh, năm nghề khác không “hoà bình” chút nào, không thể tự cấp tự túc, buộc phải cạnh tranh, trao đổi, giết chóc mới mong tồn tại phát triển. Năm nghề này đều là những nghề cạnh tranh quyết liệt, đầy bất trắc, một mất một còn. Nếu năm dân tộc này không có tính cách ngoan cường như sói thì không thể sinh tồn. Do đó từ sáu nghề lớn này nảy sinh sáu loại dân tộc, trừ dân tộc nông canh, năm dân tộc khác là săn bắn, du mục, kinh thương, hàng hải và công nghiệp đều là những dân tộc dũng mãnh có chí tiến thủ nhất trên thế giới.

Hơn nữa, giữa năm nghề và năm loại dân tộc có quan hệ kế thừa, từ săn bân du mục phát triển lên kinh thương hàng hải, từ kinh thương hàng hải phát triển lên công nghiệp cận hiện đại. Năm nghề đòi hỏi dũng mãnh chuẩn bị cho dân tộc dũng mãnh ra đời, và chỉ có dân tộc dũng mãnh mới làm những nghề này. Những nghề buộc phải làm từ cấp thấp đến cấp cao chính là dòng chính của lịch sử thế giới. Thế giới phương tây về cơ bản phát triển từ thời đại săn bắn du mục lên kinh thương hàng hải, lên công nghiệp hiện đại.

Lịch sử các dân tộc nông canh cổ đại là dòng phụ của lịch sử theo ý muốn chủ quan, tự cung tự cấp. Họ đã sáng tạo văn minh cổ đại rực rỡ. Nhưng dân tộc du mục và hậu duệ đã tràn vào lưu vực của dân tộc nông canh, cướp đi những phát minh sáng tạo của họ, diệt nước họ, giết hoặc bắt dân tộc họ làm nô lệ, và tiếp tục giương buồm tiến xa hơn trong sóng gió kinh hoàng, sáng tạo một nền văn minh tiên tiến hơn. Dân tộc Hoa Hạ vừa cất bước là đã bị lún trong ruộng đất, sa ngay vào dòng chảy phụ của phát triển lịch sử, càng đi càng yếu, tất nhiên về tính cách dân tộc cũng bị thiệt thòi.

Tính cách dân tộc của tổ tiên Hoa Hạ không thua kém các dân tộc phương tây, cũng dũng cảm tài trí, mạnh mẽ kiên cường, cũng đầy tham vọng, nhưng một khi rơi vào ruộng đất phì nhiêu, nơi ôn hoà đôn hậu nhất thế giới, thì dù muốn cũng không thể hung hãn. Đồng ruộng mênh mông của Trung Quốc cổ đại là nơi thuần hoá sói và tính cách sói thảo nguyên.

0O0

Ô tô chạy vào đồng cỏ phía nam đường biên phòng, cỏ đã thưa tới mức trông thấy đất, y như cỏ trên bãi tập lái xe. Thảo nguyên tây bắc, nhất là thảo nguyên Nội Mông, là một trong những nơi phát tích của nên văn hoá cổ đại Trung Quốc. Theo “Lịch sử địa lý cổ Nội Mông”, những phát lộ khảo cổ cho thấy ngay từ thời kỳ đồ đá mói, Nội Mông đã có hoạt động của con người. Tính trường tồn của “văn hoá hang động” khiến thế giới kinh ngạc. Di chỉ đại diêu tai ngoại thành đông bắc thành phố Hồi Hột, là một trong những địa điểm văn vật quan trọng được nhà nước bảo vệ. Di chỉ đại diêu có một xưỏng chế tác đồ đá của con người thời viễn cổ từ thời kỳ đồ đá cũ tảo kỳ (sớm) sang trung kỳ cho tới vãn kỳ (muộn), trước sau mấy chục vạn năm, di tích sớm nhất cách nay 70 vạn năm, sớm hơn di chỉ người vượn Bắc Kinh từ 10 đến 15 vạn năm. Sang thời đại đồ đá mới, phạm vi hoạt động của người xưa ở Nội Mông càng rộng, đến nay đã phát hiện trên 1000 di chỉ, mà về hình dáng và phong cách men màu của hiện vật đã phát lộ, thì khác với văn hoá Ngưỡng Thiều và văn hoá Long Sơn.

Còn nữa, người Lam Điền phát lộ ở tây bắc Thiểm Tây cách đây khoảng 80 đến 60 vạn năm, có lịch sử lâu đời hơn người vượn Bắc Kinh. Tuy là người vượn Bắc Kinh nhưng không thuộc người trung nguyên lưu vực Hoàng Hà, mà là người phương bắc viễn cổ. Thời kỳ viễn cổ, cao nguyên và thảo nguyên phương bắc cỏ xanh tốt, khí hậu ẩm, thích hợp với cuộc sống của con người. Cuộc sống săn bắn, du mục, hái lượm của người viễn cổ trên thảo nguyên, còn trung nguyên, trung và hạ lưu Hoàng Hà trước khi Hạ Vũ trị thuỷ, định kỳ hoặc không định kỳ thuộc “vùng lũ sông Hoàng”, rất nhiều nơi không thích hợp cho con người cư trú. Trung nguyên là cao nguyên hoang thổ bị bào mòn, được phù sa sông Hoàng bồi đắp thành đồng bằng. Do đó cao nguyên tây bắc và thảo nguyên là cha, Hoàng Hà là mẹ của trung nguyên. Về lịch sử, người thảo nguyên tây bắc lâu đời hơn người trung nguyên. Tổ tiên của người trung nguyên đến từ cao nguyên tây bắc và thảo nguyên.

Những ngưởi thảo nguyên đầu tiên ở Trung quốc, chắc chắn là với tinh thần và tính cách du mục mạnh mẽ và đặc tính lưu động bành trướng, dấn dà thâm nhập trung nguyên, ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển văn minh các bộ tộc trung nguyên và dân tộc Hoa Hạ.

Viêm đế và Hoàng đế thuỷ tổ nhân văn dân tộc Trung Hoa, xuất thân từ bộ tộc du mục tây bắc. Theo truyền thuyết, Viêm đế và Hoàng đế xuất thân từ bộ tộc Thiếu Điển thời viễn cổ. Phạm Văn Lan tổng hợp các truyền thuyết mà sử sách đã ghi, cho rằng: Viêm đế họ Khương, một chi của tộc KhươngTây Nhung, du mục từ phía tây vào trung bộ trước tiên”, dần dà bắt đầu nông canh. Tộc Khương cổ điển hình cho các tộc du mục, là một trong những tộc tổ người Hán. Tộc Tây Khương tính cách mạnh mẽ không phải trong truyền thuyết, mà là trên thực tế. “Hậu Hán thư. Tây Khương truyện”, chép: “Tây Khương… coi chết trận là chuyện tốt, chết bệnh là chuyện dở, chịu rét chịu khổ như cầm thú, phụ nữ sinh nở cũng không kiêng gió, tuyết. Tính cách mạnh mẽ dũng cảm, chắc là nhận được khí của hành kim.” Những lời nhận xét hay tuyệt, đúng là đang nói về sói, khái quát cao tính cách sói thảo nguyên và dân tộc du mục trên thảo nguyên. Vì rằng chỉ sói thảo nguyên và dân tộc du mục thà chết trận còn hơn chết vì bệnh tật. Đoạn ghi chép và lời bình đã chỉ ra một cách sinh động có chung đặc trưng tính cách sói của tộc Tây Khương và tộc du mục Trung Quốc; và cũng chỉ ra nguồn gốc tính cách dân tộc du mục tây bắc: “Giống như cầm thú”, cũng có nghĩa là dũng mãnh như cầm thú, như chim ưng như sói thảo nguyên.; và cũng chỉ ra xuất xứ của khí chất cương cường thuộc hành kim của dân tộc Trung Hoa là khu vực du mục phía tây và tây bắc. Mình cảm thấy tự hào và phấn khởi vì tổ tiên người Hán tính cách kiên cường dũng cảm như thế.

Tộc Khương là dân tộc lâu đời đáng kính nể và là một trong những tộc tổ của dân tộc Hoa Hạ Trung Quốc. Nó không chỉ sản sinh phần lớn các tộc Tây Nhung bao gồm “Khuyển Nhung”, “Bạch Cẩu” (chó trắng), “Bạch Lang” (sói trắng), mà còn sản sinh ra các tộc Hán, Đảng Hạng, Thổ Phiên, Tạng, hơn nữa một chi của tộc Khương du nhập thảo nguyên Mông Cổ tham dự vào sự hình thành của dân tộc thảo nguyên Mông Cổ. Theo công trình nghiên cứu của một chuyên gia, ngữ hệ Hán Tạng đơn âm tiết và có thanh điệu, bắt nguồn từ tiếng Khương cổ đơn âm tiết. Cho đến bây giờ có rất nhiều chữ Hán còn mang dấu vết huyết thống du mục của người Khương - tổ tiên người Hán. Thí dụ, chữ “mỹ” (đẹp) là do hai chữ “dương” (con cừu) và chữ “đại” (to) hợp thành. Hứa Thận trong “Thuyết văn giải tự” giải thích: “mỹ” thuộc bộ “dương”, con cừu to”. Từ Huyền chú thích: Cừu to ắt đẹp mắt, do vậy thuộc bộ “đại”. Có thể thấy quan điểm thẩm mỹ của tổ tiên Hoa Hạ là quan điểm thẩm mỹ của dân du mục. Hai chúng mình từng làm dương quan (người chăn cừu), có thể lĩnh hội mỹ cảm này. Thịt cừu là thức ăn chính của dân du mục, nuôi một đàn cừu non thành một đàn cừu lớn, đẹp lòng lắm chứ! “Cừu to” cũng là quan điểm thẩm mỹ cúa sói thảo nguyên Khi một con sói lớn bắt được một con cừu lớn, nó rất đẹp lòng nên sủa lung tung. Nếu tổ tiên người Hán là nông dân, thì chữ “mỹ” không viết “cừu to” mà phải là “gạo nhiều”. Thời viễn cổ thi cừu đẹp, bây giờ thi người đẹp, nhưng bản thân chữ “mỹ” vẫn là “cừu to”.

Sự vĩ đại của tộc Khương là ở tính cách cương cường và trí tuệ siêu việt. Những tộc cùng thời như Hung Nô đều đã bị diệt vong, vậy mà tộc Khương vẫn tồn tại một cách ngoan cường cho đến ngày nay, các tộc con cháu với dân số khiến thế giới kinh ngạc: trên một tỉ người…

Ta hãy trở về thời kỳ Viêm Hoàng. Sau khi Viêm đế vào trung nguyên, Xuy Vưu tộc Cửu Lê “mình thú nói tiếng người” trong truyền thuyết phương nam cũng tiến lên trung nguyên, xung đột dữ dội với tộc Viêm đế. Tộc Viêm đế mới bắt tay vào nghề nông bị tộc Cửu Lê Xuy Vưu bức bách, “Tộc Cửu Lê đuổi tộc Viêm đế đến tận Trác Lộc”. Viêm đế bèn liên kết với Hoàng đế dũng mãnh cùng nhau tác chiến, đánh bại Xuy Vưu tại Trác Lộc. Và đuổi Tộc Cửu Lê ra khỏi trung nguyên.Tộc Hoàng đế sau khi đánh bại tộc Viêm đế, đẩy tộc Viêm đế xuống lưu vực Trường giang, mới chính thức định cư tại trung nguyên. Sau đó tộc Hoàng đế lại liên kết vói tộc Viêm đế, cùng nhau chống lại các tộc man rợ phương nam.

Mình cho rằng, sở dĩ tộc Hoàng đế chiến thắng tộc Cửu Lê XuyVưu là do tính cách dân tộc. Đó là khi ấy tộc Hoàng đế vẫn còn là tộc du mục. “Sử ký. Tam hoàng bản kỷ” giải thích: Viêm đế Hoàng đế đều là con trai Thiếu Điển, mẹ là con gái Oa thị… Khương Cơ nhị đế đều là con Thiếu Điển thị. Mẹ Hoàng đế lại là mẹ Thần nông”. Vì vậy tộc Hoàng đế và tộc Viêm đế là một họ. Tộc Viêm đế bắt nguồn từ tộc Khưong Tây Nhung, vậy tộc Hoàng đế cũng bắt nguồn từ cao nguyên tây bắc. Sử ký chép rằng, tộc Hoàng đế trong truyền thuyết phát tích từ khu du mục tây bắc, phạm vi hoạt động tại tây bắc, những sự tích và công tích chủ yếu đều tại tây bắc. Trang tử nói: Côn Lôn lở, Hoàng đế nghỉ”. “Sơn hải kinh” chép: “Côn Lôn hư, Hoàng đế dời đô”. “Sử ký. Ngũ đế bản kỷ” chép: “Tộc hoàng đế luôn di chuyển, lấy quân doanh làm nhà” Hơn nữa, có thổ đức, nên hiệu là Hoàng đế”. Sử ký chú thích: Thổ đức, thổ màu vàng, nên xưng là Hoàng đế”. Đất màu vàng tức hoàng thổ, cao nguyên hoang thổ tây bắc là đất du mục. Phạm Văn Lan cho rằng: Tộc Hoàng đế vốn cư trú trong núi vùng Trác Lộc, sống cuộc sống du mục nay đây mai đó. Trong truyền thuyết, Hoàng đế và Viêm đế đánh bại Cửu Lê Xuy Vưu ở Trác Lộc; Ba trận đánh lớn giữa Hoàng đế và Viêm đế xảy ra tại Bản Tuyền, mà Bản Tuyền thuộc Hoài Lai Hà Bắc, xưa có tên là Hoài Nhung, là khu du mục, cách Trác Lộc mấy chục dặm về phía đông. Trác Lộc là phần đất phía tây của Hoa bắc, là mảnh đất mỏ vẹt từ Nội Mông cắm vào Hoa bắc, thời thượng cổ là khu du mục điển hình. Thời thượng cổ, Trác Lộc Hoài Lai, Nguỵ Hà và Yên Sơn là địa bàn của các tộc du mục. Về sau Hoàng đế định đô ở Trác Lộc. Cuối cùng Hoàng đế lá rụng về cội, “Hoàng đế băng, táng tại Kiều Sơn”, mà Kiều Sơn ai cũng biết là ở tây bắc. Viêm Hoàng nhị đế phát tích từ tộc du mục tây bắc và khu vực du mục, do vậy chắc chắn là sùng bái Trời, cũng là sùng bái thảo nguyên và Tăngcơli của dân tộc du mục. “Sử ký” chép: Hiên Viên Hoàng đế sau khi giết Xuy Vưu, được “chư hầu tôn làm vua”.

Trần Trận lấy trong cặp tờ phiếu, nói: Tộc du mục tây bắc Trung Quốc đời nọ tiếp đời kia sùng bái Tăngcơli, điều này đã được khảo chứng. Cậu có nghe nhà nghiên cứu lịch sử châu Á nói gì không? Ông nói rằng, nửa cuối thể kỷ thứ ba, người Hung Nô tổ chức thành một dân tộc thống nhất mạnh mẽ, thủ lĩnh của họ xưng là Thuyền Vu, tên gọi đầy đủ là Xânglicutu Thuyền Vu, dịch ra Hán văn là “thiên tử”. Ta có thể tách bạch Xângli là Đột Quyết - gỗc chữ Mông Cổ, Tăngcơli (Trời) là dịch âm từ chữ Đột Quyết và chữ MôngCổ. Cậu thấy đấy, từ Hung Nô tới Đột Quyết rồi tới Mông Cổ đều sùng bái Tăngcơli. Hung Nô là dân tộc lâu đời nhất, thời cổ có tên là “Huân Chúc”, đời Hạ xưng là “Đôn Duy”, thời n Thương xưng là “Quỉ Phương”, đến thời Hán mới xưng là Hung Nô. “Sử ký” chú thích: “Huân Chúc” là biệt danh của Hung Nô. Thời kỳ Hoàng đế từng kết thân với Huân Chúc. “Sử ký. Ngũ đế bản kỷ” chép: “Hoàng đế… giao hảo với Huân Chúc phía bắc”. Từ đó có thể đoán định rằng, thời kỳ Hoàng đế, tộc du mục tây bắc sùng bái Tăngcơli, nếu không các bộ tộc đương thời không suy tôn Hoàng đế làm thiên tử (con trời). Sùng bái Tăngcơli và tên gọi Thiên tử có từ tộc du mục tây bắc thời cổ đại.

Do tộc Hoàng đế là tộc du mục nên có tính cách mãnh thú như sói. “Ngũ đế bản kỷ” chép: Hoàng đế huấn luyện… đánh nhau với Viêm đế ở Bản Tuyền”. Trong truyền thuyết, quân đội của Hoàng đế toàn là mãnh thú, mang rõ đặc tính của quân đội du mục. Cần chú ý là, trong sáu loại mãnh thú trên không có sói, vì rằng sói không thể dạy, ngay cả nửa thần nửa người như Hoàng đế cũng không dạy được sói, hơn nữa, tộc du mục sùng bái sói thảo nguyên không khi nào sai khiến sói.

Vì vậy, người Hán chúng ta thực tế là hậu duệ của dân tộc du mục tây bắc. Sau đó tộc Hán khinh rẻ dân tộc du mục, như vậy là vong bản, quên cả tổ tiên. Tộc Hán xuất thân từ dân tộc du mục, và có thể khẳng định trong huyết quản vẫn còn sói tính. Đó là nguồn phục hưng dân tộc Trung Hoa, phải giữ nó như giữ lửa và phát huy sức mạnh của nó.

0O0

Dương Khắc mắt sáng lên: Thảo nào dân tộc thảo nguyên đời đời sùng bái Tăngcơli, dân tộc nông canh Hoa Hạ đời đời sùng bái “trời”. Thì ra tục “sùng bái trời” của tộc Hoa Hạ là do Viêm Hoàng nhị đế đem từ quê hương thảo nguyên, từ chỗ tổ tiên du mục tới Hoa Hạ.

Trần Trận mỉm cười: Đúng vậy. Các dân tộc du mục Trung Hoa sở dĩ cùng nguồn gốc là vì trời là cha thảo nguyên là mẹ sinh ra hai anh em, dân tộc thảo nguyên là anh, dân tộc Hoa Hạ là em, hai dân tộc lâu đời châu Á này cùng sùng bái trời, sùng bái Tăngcơli. Sự sùng bái tối cao này ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với văn minh Trung Hoa. Giờ nhìn lại ta thấy, lịch sử Trung Hoa sau Viêm Hoàng chứng tỏ, những dân tộc anh em cùng nguồn gốc cùng sùng bái trời, dù đánh nhau máu chảy thành sông, nhưng vẫn là cùng nhau sáng tạo văn minh và lịch sử Trung Hoa. Một khi dân tộc Hoa Hạ trong hoàn cảnh nông canh bạc nhược, đấng cao xanh Tăngcơli cử dân tộc du mục đầy sói tính tiến vào trung nguyên, tiếp máu cho dân tộc nông canh. Được tiếp máu, dân tộc Hoa Hạ cứ mối làn tiếp là một lần trỗi dậy. Sau đó, vì ông em quá dặt dẹo vực không dậy nổi, nên ông anh tiến vào làm chủ trung nguyên, làm chủ một nửa Trung Quốc, thậm chí toàn bộ Trung Quốc, thay ông em giữ gìn xã tắc, bảo vệ văn minh Hoa Hạ cho đến khi gặp văn minh phương tây. Hai dân tộc anh em đã dùng phương thức đặc thù, cùng nhau sáng tạo nền văn minh xán lạn Trung Hoa, và cũng là sáng tạo kỳ tích duy nhất trên thế giới. Bốn nền văn minh cổ lớn nhất thế giứi, chỉ còn mỗi văn minh Trung Hoa không bị đứt đoạn, tiếp tục tồn tại đến bây giờ. Hơn thế, cón tiếm ẩn khả năng phục hưng dân tộc.

Con đường văn minh Trung Hoa là một con đường đặc biệt được sản sinh từ thảo nguyên mạnh mẽ lớn nhất thế giới và từ đồng ruộng yếu đuối nhất thế giới.

Còn điều này nữa, trong cuộc đại chiến Viêm Hoàng, cuối cùng Hoàng thắng, nguyên do: Tuy cùng là tộc du mục, nhưng tộc Viêm vào khu vực nông canh ở trung nguyên trước mấy trăm năm, tự xưng “Thần nông thị”, là bộ tộc tiến hành sản xuất nông nghiệp qui mô lớn nhất trong các bộ tộc Hoa Hạ thời thưọng cổ. Do đó Viêm đế bị tính cách nông canh làm cho mềm yếu sớm hơn tộc Hoàng đế. Tinh thần du mục liên tiếp chiến thắng, cuối cùng chiến thắng tinh thần nông canh, qui luật khách quan này trên thế giới cũng đúng với lịch sử Trung Hoa. Đại chiến Viêm Hoàng trở thành khởi điểm của dòng chính cực kỳ quan trọng trong lịch sử văn minh Trung Hoa, dòng chính đó là cuộc đấu tranh, dung hoà và phát triển giữa dân tộc du mục và dân tộc nông canh, giữa tinh thần du mục và tinh thần nông canh. Cuộc đấu tranh này có lịch sử lâu đời hơn, dai dẳng hơn lịch sử đấu tranh giai cấp. Nó bắt đầu từ khi giai cấp chưa hình thành. Hơn nữa, dòng chính này của lịch sử ảnh hưởng sâu sắc tới văn minh Trung Hoa, đến nay vẫn còn phát huy tác dụng.

Dương Khắc vô cùng hào hứng, nói: Hay lắm! Xem ra, nếu không đến đất tổ thảo nguyên, gặp gỡ dân tộc thảo nguyên, sói thảo nguyên và tôtem sói, thì chúng ta sẽ không thể đứng trên lập trường mới toanh như thế này để làm rõ cội nguồn văn minh Trung Hoa và nội dung của nó là những gì. Từ sau ngày lên thảo nguyên đánh bạn với sói, chủ nghĩa sô vanh đại Hán của mình xẹp đi nhiều.

Trần Trận nói: Những năm gần đây mình suy ngẫm và nghiên cứu nhưng vấn đề này. Trong khoảng năm nghìn năm, sự hình thành và diễn biến tính cách dân tộc Hoa Hạ trong lịch sử tương đối phức tạp. Nhưng chắc chắn là có thể tìm ra qui luật, giờ đây đã lần ra đầu mối.

Dương Khắc nói: Nói tiếp đi, nếu cậu không mệt, mình tháp tùng cậu đến cùng.

Trần Trận nói: Mình cũng đang muốn nói với cậu, nói ra thì lý giải rõ ràng hơn. Cậu nghe khiến mình càng có hứng…Để lát nữa nói tiếp, sắp đến nhà cũ của sói con rồi. Mình phải báo cáo với ông thầy sói con về kết quả nghiên cứu của mình. Sói con đúng là ông thầy của mình, còn một thầy nữa là ông Pilich. Sói thảo nguyên và ngưòi thảo nguyên đều là thầy mình.

0O0

Bãi sậy dày đặc dưới chân núi đã biến mất từ lâu. Ô tô chạy trên những cây sậy mọc lúp xúp, vàng úa rồi leo lên con dốc thoai thoải dưới chân núi Đen.

Dương Khắc hỏi: Cậu còn nhớ hang sói không?

Trần Trận khẳng định: Học trò làm sao quên cổng nhà thầy? Phải dừng xe ở chân dốc rồi đi bộ lên một đoạn.

Ô tô chậm chạp leo dốc, ngày càng tới gần hang sói con.Trần Trận chợt thấy bối rối, tâm trạng y hệt một tội phạm chiến tranh đến tạ tội trước lăng mộ. Trong lăng mộ ấy chôn cất bảy sói thảo nguyên Mông Cổ bị chính anh giết chết, năm con chưa mở mắt, một con chập chững biết đi, còn một con thì bị dùng kim đầu cọp bẻ gãy răng nanh, dùng xích sắt tước mất tự do của một cuộc đời ngắn ngủi, lại còn chính tay đập chết. Vốn thích tự do và ngày càng tôn sùng tự do, Trần Trận không dè lại gây ra một tội ác của kẻ chuyên chế độc tài. Anh quả thật không làm sao chấp nhận tội ác đẫm máu đó của chính mình, đôi lúc anh căm ghét cả công trình và kết quả nghiên cứu của anh. Chính vì tính hiếu kỳ và lòng say mê nghiên cứu mà anh đã cắt đứt niềm vui và tự do của bảy sói con, bản thảo cúa anh viết bằng máu của chúng, dòng máu cao quí của sói chúa Bạch lang trên thảo nguyên Mông Cổ… Hơn hai mươi năm nay, trong lòng anh thường xuyên bị giày vò và hối hận sâu sắc về món nợ máu này. Anh ngày càng hiểu tâm trạng của người thảo nguyên trong khi giết sói, hiểu vì sao khi chết họ tự nguyện đem thi thể mình giao lại cho đàn sói. Đó không chỉ là linh hồn lên trời, và cũng không phải “ăn thịt trả bằng thịt”, mà có thể trong đó bao hàm ý nghĩa trả giá cho sự sai lầm, vì tình yêu đối với sói… Nhưng nay không còn bãi thiên táng nữa.

Hơn 20 năm nay, sói con đáng kính nể, đáng yêu và đáng thương luôn xuất hiện trong giấc mơ, trong ý nghĩ của anh, nhưng sói con chưa hề cắn anh, chưa hề trả thù anh, thậm chí cắn ý nghĩ của anh cũng không. Sói con cứ cười khà mà chạy trước mặt anh, ôm chân anh, dụi đầu vào gối anh, và lại còn liếm tay anh, liếm mặt anh. Một bận Trần Trận mơ thấy anh nằm ngủ trên bãi cỏ đột nhiên tỉnh dậy thấy sói con nằm ngay bên cạnh, anh hốt hoảng lấy tay che họng, nhưng sói con thấy anh tỉnh dậy liền nằm lăn chổng bốn vó lên trời cho anh gãi ngứa. Không biết bao nhiêu giấc mơ trong hơn hai mươi năm qua, sói con bao giờ cũng lấy ân báo oán, đến bên anh thân mật như con đến với cha… Một điều anh không hiểu nổi là, sói con không những không ghét anh, không nhe răng nhe lợi với anh, không gầm gừ uy hiếp anh, trái lại luôn tỏ ra thân thiện, yêu mến anh, tình yêu biểu hiện qua ánh mắt sói rất thuần khiết không bao giờ thấy ở người. Dương Khắc trông thấy sườn dốc đất đá lởm chởm hình như nhớ lại hành động diệt chủng cách đây hai bảy hai tám năm, cũng cảm thấy hối hận. Xe dừng lại trên đỉnh dốc, Trần Trận chỉ bãi đất bằng phẳng không xa, nói: Chỗ đó là cái hang tạm của lũ sói con, chính mình đã đào chúng lên, mình là thủ phạm. Khi mình rời Ơlôn, con sói đã cào bằng, không còn vết tích gì nữa. Chúng mình đi bộ đến cái hang cũ đi. Hai người xuống xe. Trần Trận xốc ba lô lên vai dẫn Dương Khắc đi vòng đến quả núi nhỏ.

Mỏm núi giờ đây trơ trụi, không còn đầy gai góc và cỏ thanh khoả như xưa, dưới chân núi cũng không còn bãi sậy như tấm bình phong, đi thêm mấy chục bước, miệng hang cũ trông rõ mồn một hình như to hơn trước, trông xa y như cái động bỏ phế trên cao nguyên hoàng thổ Thiểm bắc. Trần Trận nín thở bước tới, thấy cái hang không rộng ra mà do trụi hết cỏ xung quanh nên tưởng như rộng ra. Đại hạn liên miên khiến cái hang về cơ bản vẫn giữ được nguyên dạng, chỉ đáy hang có một ít đá sỏi rơi xuống. Trần trận bước tới quì xuống trước miệng hang, định thần nhìn kỹ vào bên trong, đường trong hang đã bị cỏ lông chông lấp kín, lấy đèn pin ra soi, chỗ rẽ trong hang đã bị đá sỏi lấp quá nửa. Trần Trận ngẩn ngơ ngồi xuống lưỡi đất trước cửa, mắt nhìn miệng hang không chớp.

Dương Khắc cũng soi đèn pin xem xét hồi lâu, nói: Đúng rồi, chính là cái hang này. Cậu chui vào từ chỗ này. Khi ấy mình có hai cái sợ, thứ nhất sợ sói mẹ cắn cậu, thứ hai sợ sói bên ngoài cắn mình. Hồi ấy chúng mình đúng là ăn quả liều. Nói thật, lập luận của cậu đã đi sâu vào vấn đề cốt lõi của thảo nguyên, rút ra từ hang sói.

Dương Khắc lại cúi xuống gọi: Sói con ra ăn cơm! Trần Trận và tôi đến thăm sói đây! Dương Khắc gọi như gọi sói con ra ăn cơm hồi ở đồng có mùa hè. Nhưng không bao giờ còn thấy sói con từ trong hàng chui ra nữa…

Trần Trận đứng lên phủi bụi đất trên người rồi lại ngồi xuống chậm rãi vặt cỏ trên lưỡi đất, lấy trong ba lô bảy cái lạp sường kính cẩn bày trên mặt đất, trong đó có một cái rất to dành riêng cho sói con, lấy ra bảy nén hương, châm lửa cắm trên lưỡi đất, lại lấy tờ bìa 2 của tác phẩm đốt theo. Lưỡi lửa liếm ba chữ “Lang đồ đằng” cùng tên tác giả, Trần Trận hi vọng linh hồn sói con cùng ông già Pilich ở trên trời chấp nhận lời hứa và sự hối hận của anh. Ngọn lửa cháy đến gần tay anh mới tắt. Trần Trận lại lấy ra chai rượu “Nhị oa đầu” mà ông già Pilich rất thích, tưới rượu trên lưỡi đất và cỏ xung quanh. Anh biết, bên mỗi hang sói cũ trên thảo nguyên Ơlôn đều có dấu chân ông già Pilich. Cậu không nghe lời ông già, kiên trì nuôi sói con khiến ông chạnh lòng. Lỗi lầm này không bao giờ sửa được.

Hai người giơ hai tay, lòng bàn tay ngửa lên trời ngưỡng vọng Tăngcơli, dõi theo làn khói đi tìm linh hồn ông già và sói con.

Trần Trận rất muốn kêu lên rõ to: Sói con ơi! Bố ơi! Con đến thăm sói con và bố đây!... Nhưng anh không dám, anh không xứng đáng được phép gọi như thế. Anh cũng không dám đánh động linh hồn ông già và sói con, chỉ sợ họ thức dậy nhìn xuống “thảo nguyên” khô héo.

Tăngcơli muốn khóc mà không có nước mắt…

0O0

Trời hãy còn sớm, hai người trở lại bên xe lấy giỏ thức ăn xuống ăn dưới bóng xe. Trần Trận buồn quá uống rượu cho vợi nỗi đau, rượu bốc lên mắt cay xè.

Dương Khắc nói: Cậu đừng nên thương cảm quá. Hãy viết ra tất cả, đó chính là sự an ủi và bù đắp lớn nhất đối với sói con và ông già. Thực tế là sau đó sói con rất thân với chúng ta, nhất là thân với cậu, nó coi cậu như cha đẻ. Chính là Tăngcơli nói rõ chân tướng sự việc, nên nó không giận cậu. Thời bây giờ, ngày càng không thể tin vào tình cảm con người, hành nghề luật sư mười mấy năm. mình ngày càng thất vọng về người Trung Quốc. Ông bố chưa chết, vậy mà con cái tranh giành tài sản bên giường bệnh khiến ông không thể trút hơi thở cuối cùng. Tiếng khóc thật sự não lòng ở thành phố hiện nay là khóc con chó thân yêu bị chết… Sau này người ta chỉ có thể tìm chân thiện mỹ ở thế giới động vật.

Trần Trận nói: Đâu chỉ có chân thiện mỹ mà thôi.

Dương Khắc nói: Tiếp tục trình bày đi. Trên sa trường quê hương của sói thảo nguyên, toạ đàm về lang đồ đằng, là lễ cầu hồn tốt nhất đối với các tử sĩ và tráng sĩ thảo nguyên. Sói con ở trên trời chắc chắn sẽ nghiêng đầu lắng nghe cậu luận bàn về nó.

Trần Trận tợp một ngụm rượu, một luồng khí sói xông lên đầu, anh thao thao bất tuyệt tại cuộc toạ đàm tại hiện trường thảo nguyên:

Nói chung, hoàn cảnh thảo nguyên, sói tính có khả năng tạo huyết cho tính cách và huyết dịch sói; hoàn cảnh ruộng đất cừu tính có khả năng tạo huyết cho tính cách và huyết dịch cừu. Khi Viêm hoàng nhị đế soái lĩnh bộ tộc tiến vào trung nguyên, tình thế khi đó như thế này: Thứ nhất, Viêm Hoàng nhị đế sẵn có tính cách hung hãn của sói và dòng máu mang tính sói; Thứ hai, trung nguyên và tây bắc khi đó còn là vùng chăn nuôi, mãnh thú từng đàn. Do đó dân tộc Hoa Hạ vẫn còn khả nằng tạo huyết mạnh mẽ dòng máu sói. Thứ ba, ruộng đất khai phá rộng lón khiến khả năng tạo huyết dòng máu cừu tính phát huy tác dụng. Thứ tư, Nho gia Khổng học chưa ra đời, Nho gia mà sau này xuất hiện là tập đại thành ý thức nông canh, ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành hình thức tính cách dân tộc Hoa Hạ. Điều cần nói rõ là, Nho gia thời kỳ đầu sản sinh trên mảnh đất nửa chăn nuôi nửa trồng trọt, vì vậy, tuy Nho gia sâu đậm ý thức nông canh tam cương ngũ thường, bảo thủ phục tùng, nhưng Nho gia kinh điển vẫn còn rót lại phong cách du mục và tính cách sói, như “thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”, khác xa Nho gia thuần nông canh thời kỳ Tống, Minh.

Do vậy thời kỳ đầu, dòng máu sói tính của các tiên dân Viêm Hoàng chưa bị pha loãng bởi cuộc sống nông canh an nhàn. Tính cách hung hãn của sói và tinh thần du mục chưa bị mềm yếu bởi hoàn cảnh an nhàn của cuộc sống nông canh.

Bộ tộc Viêm Hoàng bắt đầu nửa chăn nuôi nửa trồng trọt. Như vậy, họ vừa có tính cách dũng mãnh trong chiến đấu và tài năng quân sự trác việt, vừa có điều kiện lao động sản xuất tương đối yên ổn, cung ứng đầy đủ tư liệu cho cuộc sống, do vậy dân tộc mới này sản sinh ra năng lượng to lớn. Từ đó, các tiên dân Viêm Hoàng trỗi dậy ở trung nguyên, dân số gia tăng nhanh, đất đai mở rộng mau chóng từ lưu vực Hoàng Hà xuống tận Trường giang. Lăng Đại Vũ là ở giang nam.

Thế nhưng cuộc sống nông canh mở rộng dần thui chột tính cách sói còn rớt lại trong dân tộc du mục, và cũng phá hoại dần khả năng tạo huyết sói tính trong vùng du mục ngày càng bị thu hẹp ở trung nguyên. Đến cuối đời Thương, tộc Chu ở miền tây bắt đầu nổi lên, khi đó Chu đã bắt dầu làm ruộng, nhưng do nước Chu ở miền tây, nên cư dân trong nước phần lớn là bộ tộc du mục Nhung Địch. Những người cầm quyên nhà Chu từng mất bao nhiêu thời gian cải tạo tập tục Nhung Địch, xây dựng quan hệ mới sản xuất phong kiến. Nói chung, dân tộc du mục thượng võ thiện chiến; dân tộc nông canh thượng văn trọng giáo hoá. Trong nước Chu tồn tại hiện tượng tạp cư giữa tộc du mục và tộc nông canh, khiến nước Chu về mặt tính cách có ưu thế về tạp giao nửa cừu nửa sói giữa tộc du mục và tộc nông canh. Lại nữa, nước Chu thường xuyên bị dân tộc Nhung Địch xâm lấn, bị buộc phải chiến đấu, nên về mặt tính cách và quân sự được rèn luyện qua thực tiễn. Do đó dân tộc Chu tương đối toàn diện về tính cách, kết hợp giữa sói và cừu, nửa dã man nửa văn minh, văn thao vũ lược, trí dũng song toàn, khiến dân tộc này dòng máu mang nhiều sói tính hơn, tính cách cũng mạnh mẽ hơn dân tộc nông canh là chính ở trung nguyên, Dân tộc Chu còn có mền văn minh lễ nghi tương đối cao và một sức hướng tâm khoan dân yêu dân.

Thế kỷ 11 trước công nguyên, Chu Vũ vương liên kết tám nước Nhung Địch, đích thân chỉ huy “ba trăm cỗ xe trận, ba ngàn dũng sĩ, bốn ngàn năm trăm giáp sĩ tiến sang phía đông phạt Trụ”. Xe trận (nhung xa), dũng sĩ (hổ bôn) là đặc trưng quân đội du mục hổ sói nhà Chu. Chu Vũ vương trước khi quyết chiến với bảy mưoi vạn đại quân của Trụ vương nhà Thương, từng trỏ lên trời mà thề, hiệu triệu toàn quân “chiến đấu như hổ như gấu như sài”, dũng cảm diệt địch. “Sài” tức sói. Quân Chu dữ như hổ như sói, lấy ít thắng nhiều, giành thắng lợi lón diệt Thương Trụ, dựng nên vương triều Tây Chu ảnh hưởng cực lớn tới văn minh Trung Hoa.

Tây Chu trong quá trình tạp cư cùng dân tộc Nhung Địch, chịu ảnh hưởng sâu sắc tín ngưỡng sùng bái trời của dân du mục, sau đó, nhà Chu đem ảnh hưởng này vào Hoa Hạ, tiếp tục phát triển sùng bái trời thành sự sùng bái cao nhất của dân tộc Hoa Hạ, quân vương cao nhất của nhà Chu được gọi là Thiên tử.

Ưu thế tạp giao nửa cừu nửa sói của nước Chu và triều Chu, không những khiến nước Chu và nhà Tây Chu được tiếp một đợt dòng máu sói tính của dân tộc du mục, mà toàn thể dân tộc Hoa Hạ cũng được tiếp một đợt như thế, khiến dòng máu sói tính bị pha loãng bởi dòng máu cừu tính trong nghìn năm nông canh, lại đậm đà sói tính như cũ. Lần tiếp máu này sản sinh ra Chu Văn vương, Chu Vũ vương và Chu Công, những nhân vật vĩ đại ảnh hưởng sâu sắc đến dân tộc và văn minh Hoa Hạ. Các thánh hiền của dân tộc Hoa Hạ thời đó đều có tinh thần du mục: Tính cách mạnh mẽ, tấm lòng rộng mở, tầm nhìn rộng. Tinh thần thời đại “Thiên hành kiện,dĩ tự cường bất tức” sản sinh trong thời kỳ này và cũng phản ánh chính xác tính cách dân tộc đương thời, và, trong tinh thần dân tộc đó có tinh thần du mục Trung Hoa.

Văn minh nông canh sản sinh tư tưởng cầu an, là nguyên nhân bên trong khiến nhà Thương diệt vong. Nhà Chu luôn phấn đấu vươn lên, tất yếu thay thế nhà Thương là phải lẽ. Thời kỳ thịnh trị của Tây Chu sử dụng cả văn lẫn võ, văn trị võ công xán lạn, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển dân tộc Hoa Hạ.

Trần Trận ngồi tựa bánh xe duỗi thẳng hai chân, nói tiếp: Từ đó trở đi, dân tộc Trung Hoa phát triển theo con đường riêng biệt. Nông canh tất nhiên làm mềm yếu tính cách dân tộc nông canh, còn du mục thảo nguyên tất nhiên làm mạnh mẽ tính cách dân tộc du mục. Sự phát triển và duy trì nền văn minh Trung Hoa cổ đại phải dựa vào sự tiếp máu định kỳ và không định kỳ của dân tộc du mục. Đây là qui luật phát triển của văn minh Trung Hoa cổ đại mấy ngàn năm, mà qui luật này liên quan đến vấn đề sinh tồn và phát triển dân tộc, tức vấn đề tính cách dân tộc.

Lịch sử Trung quốc và thế giới đã chứng minh, lịch sử quyết không phải một đống sự kiện ngấu nhiên tích tụ lại, mà trong đó nó phát triển theo qui luật khách quan. Vậy mà qui luật đặc thù về sự thịnh suy của văn minh Trung Hoa cho đến bây giờ vẫn bị “một đống những sự kiện ngẫu nhiên” che khuất. Nếu như không từ góc độ và phương pháp nghiên cứu “tồn tại dân tộc và tính cách dân tộc” để phân tích cái “đống” này, người Trung Quốc sẽ không bao giờ nắm được qui luật phát triển đặc thù của nền văn minh và vận mệnh Trung quốc.

Với cá nhân mà nói, tính cách là nhân tố quyết định anh ta thành công hoặc phát triển. Với dân tộc mà nói, tính cách dân tộc là vấn đề lớn của đất nước liên quan chặt chẽ với sự tồn vong của dân tộc. Nhìn vào lịch sử thành bại hưng vong của các dân tộc trên thế giới, tính cách dân tộc thuộc vấn đề cốt lõi của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh, dân tộc nào mạnh mẽ vươn lên thì cơ hội sinh tồn và phát triển càng nhiều hơn lớn hơn.; dân tộc nào tính cách hèn yếu, khả năng bị đào thải lớn hơn. Nhìn vào tiêu chuẩn giá trị những dân tộc thực sự tồn tại trên thế giới, tính cách dân tộc ươn hèn là khiếm khuyết chí mạng của một dân tộc. Vì rằng, tính cách dân tôc ươn hèn là nguyên nhân sinh ra mọi cái xấu: Nó sẽ dẫn đến hàng loạt những tội sác đáng xấu hổ không thể tha thứ, không cầu tiến, ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung, làm nhục quốc thể, cắt đất cầu hoà, bán nước cầu vinh, cúi đầu làm tôi tớ; Nhân dân bị giết hại, bị bán rẻ, bị nô dịch. bị phân biệt đối xử.; Dân tộc bị cải giống, văn hoá bị lai căng, tên họ bị thay đổi, thân phận bị coi thường…Rất nhiều dân tộc nông canh lâu đời trên thế giới vì tính cách ươn hèn nên bị thế giới tàn nhẫn đào thải không thương tiếc. Thế giới phát triển cho đến nay, dân số tăng mạnh, không gian sinh tồn và tài nguyên ngày càng thiếu, tính cách dân tộc lại càng nổi bật. Vì vậy càng phải hết sức coi trọng vấn đề tính cách dân tộc. Vậy nên phải từ góc độ tính cách dân tộc mà xem xét lại lịch sử phát triển văn minh Trung Hoa.

Mình cho rằng, cống hiến vĩ đại cúa dân tộc du mục Trung Hoa đối với dân tộc và nền văn minh Trung Hoa, quan trọng nhất là cống hiến về tinh thần và tính cách. Một khi tính cách dân tộc mạnh mẽ tiến thủ, ắt sáng tạo và là cột trụ bảo vệ văn văn minh Trung Hoa. Dân tộc nông canh Hoa Hạ sáng tạo đầu và tay văn minh Trung Hoa cổ đại, còn tinh thần du mục và tính cách du mục là xương sống của toàn bộ dân tộc Trung Hoa và văn minh Trung Hoa.

Cần đặc biệt chỉ rõ, từ sau Tây Chu, một qui luật về thịnh suy có tính chủ đạo cũng bắt đầu. Một khi cừu tính trong tính cách dân tộc Hoa Hạ mạnh hơn sói tính, Hoa Hạ liền bị dị tộc xâm lược, giang sơn đổ nát, bị người xâu xé; một khi sói tính trong tính cách dân tộc Hoa Hạ mạnh hơn cừu tính, Trung Quốc Hoa Hạ thực hành bạo chính, quân phiệt hỗn chiến, dân chúng nổi lên như ong, loạn lạc không dứt. Chỉ khi nào Hoa Hạ về tính cách dân tộc cừu tính và sói tính cân bằng, sói tính nhỉnh hơn cừu tính một chút thì khi đó cương vực mở rộng, dân giàu nước mạnh, kinh tế văn hoá thịnh vượng phồn vinh.

Dưới đây, ta hãy xem thử lịch sử Trung Quốc có phát triển theo qui luật đó không, và những sự kiện lịch sử có mang dấu ấn của qui luật đó không?

Đến cuối đời Tây Chu, do hoàn cảnh nông canh hoà bình trong một thời gian dài, khiến nhà vua hoang dâm vô độ, chơi trò đốt phong hoả lâu để bỡn cợt chư hầu. Nhà vua tính cách ươn hèn, không lo cho dân giàu nước mạnh, kết quả Chu U vương bị tộc Khuyển Nhung hùng mạnh giết chết, sủng phi Bao Tự bị bắt sống, bảo khí “chín đỉnh” tương trưng cho quyền lực tối cao Hoa Hạ bị Khuyển Nhung cướp về thảo nguyên, tây bắc đô thành Phong, Cảo bị Khuyển Nhung chiếm lĩnh. Nhà Tây Chu cường thịnh ba trăm năm bị diệt. Từ đó, Khuyển Nhung trở thành kẻ thù đáng sợ nhất của dân tộc Hoa Hạ. Cho đến đời Đường, dân tộc trung nguyên vẫn gọi tất cả các dân tộc tây bắc là “Khuyển Nhung” hoặc “Nhung Địch”. Đời Đại Tôn nhà Đường, Thái Thường Bác Sĩ Liễu Kháng dâng sớ nói rằng: “Khuyển Nhung vượt Quan Lũng, không đánh mà chiếm được kinh sư”… Trong những năm đời Đường Đức Tôn, đại thần Liễu Hồn tâu lên Đức Tôn: “Nhung Địch là loài lang sói, không thể kết minh”. Chữ “khuyển” trong “Khuyển Nhung” hàm ý cực kỳ khinh miệt, hơn nữa, bảo Nhung Địch là “sài lang”, rõ ràng là chỉ sói tính của dân tộc “Nhung Địch” hoặc “Khuyển Nhung”. Đến thời kỳ đầu Xuân thu, Khuyển Nhung lại trở thành kẻ địch mạnh của nước Tần, sau đó, một chi của Khuyển Nhung di cư lên thảo nguyên Mông Cổ phía bắc, trở thành một trong những dân tộc du mục sớm nhất trên thảo nguyên. Nghiên cứu dân tộc du mục, tinh thần du mục và tôtem của dân tộc du mục Trung Quốc, nên bắt đầu từ Huân Chúc cổ Hung Nô và Khuyển Nhung.

Theo cứ liệu lịch sử, dân tộc Nhung Địch tự kể về tổ tiên là hai chó trắng, và coi dân tộc du mục cổ xưa nhất ở tây bắc tôtem chó trắng, thuộc tộc Tây Khương, là thân cận với tổ tiên tộc Viêm Hoàng. Ngay từ thời Viêm Hoàng, Khuyển Nhung đã là kẻ thù mạnh của tộcViêm Hoàng Hậu Hán thư chép: “Xưa Cao Tân thị có giặc Khuyển Nhung, nhà vua sợ bị xâm lược, đem quân chinh phạt mà không thắng”. Cao Tân thị là chắt của Hoàng đế, bố của Nghiêu đế. Sử liệu chỉ chép tôtem của tộc Khuyển Nhung là chó trắng, không ghi rõ chó hoang hay chó nhà.Có điều, chó trắng là chó hoang hay chó nhà liên quan rất lớn đến vấn đề tính cách dân tộc và hoàng loạt vấn đề then chốt vè nguồn gốc thờ tôtem của dân tộc du mục và dân tộc Trung Hoa.

Mình cho rằng, chó trắng chính là sói trắng, theo ghi chép của “Hậu Hán thư”, đến triều Hán, trong phạm vi hoạt động của Khuyển Nhung trước kia xuất hiện nước sói trắng Tây Nhung dân số rất đông (Tây Nhung Bạch lang quốc). Đến đời Minh đế (Đông Hán) có trên trăm nước sói trắng, số hộ một triệu ba mươi vạn, dân số trên sáu triệu người, tình nguyện qui thuộc nhà Đông Hán. Vua sói trắng còn sai người làm ba bài thơ, gộp lại thành“Bạch lang ca” dâng Đông Hán hoàng đế. Do đó, mình cho rằng, nước sói trắng là biến giống từ nước chó trắng, vua sói trắng là hậu duệ của Khuyển Nhung, mà tộc sói trắng thì sùng bái sói trắng, lấy sói trắng làm tôtem của bộ tộc. Sự tồn tại của nước sói trắng cũng có thể chứng minh chó trắng mà Khuyển Nhung sùng bái rất có thể chính là sói trắng.

Bàn lùi một chút, ngay dù chó trắng không phải sói trắng, thì chó trắng phải như chó ngao Tây Tạng, to lớn và hung dữ hơn sói thảo nguyên. Theo cứ liệu lịch sử, tộc Khuyển Nhung cực kỳ hung tợn. Nhiều năm nghiên cứu các tộc du mục, mình thấy tộc Khuyển Nhung dã man nhất lâu đời nhất trong lịch sử, xét về tính cách dân tộc mà nói, không khi nào thờ chó nhà là con vật dễ sai bảo. Cũng như dân tộc sống trên lưng ngựa trên thảo nguyên xưa nay không khi nào thờ ngựa. Vì rằng ngựa là con vật thuần dưỡng, dân tộc thảo nguyên Trung Hoa không khi nào sùng bái con vật do mình thuần dưỡng, cũng không bao giờ đưa chó nhà lên làm linh vật của dân tộc. Hơn nữa, tôtem là sự sùng bái về tinh thần của dân tộc thảo nguyên, còn gia súc là nô bộc thường bị con người đánh đập sai khiến, chẳng thiêng liêng gì hết. Chúng mình ở thảo nguyên trên mười năm đều biết, mục dân tuy yêu chó, nhưng trong thâm tâm họ, địa vị sói và chó khác nhau xa. Chó là bạn chiến đấu của người thảo nguyên, còn sói là thần linh của người dân thảo nguyên.

Do đó mình cho rằng: Tộc Khuyển Nhung sùng bái chó trắng, hoặc sói trắng hoặc chó hoang trắng, một loại chó hoang cùng họ với sói, hình dáng giống sói, hung dữ như sói. Cho nên “tôtem chó” của tộc Khuyển Nhung thời đó cúng như “tôtem sói”. Khuyển Nhung cổ được ghi chép trong lịch sử Trung Quốc, là một trong những bộ tộc du mục sùng bái sói sớm nhất.

Nói Khuyển Nhung là một trong những bộ tộc sùng bái tôtem sói sớm nhất, là vì, theo lịch sử ghi chép, tộc mẹ của Khuyển Nhung là tộc Khương cổ cũng sùng bái tôtem chó. “Tư trị thông giám”, quyển 190 chép:’Đời Đường có Bạch Giản, Bạch cẩu Khương vào tiến cống’, hơn nữa, Đường còn ‘cắt đặt dất Khương Bạch cẩu thành hai châu’. Điều này chứng tỏ tộc Khương cổ sùng bái chó trắng. Trên thực tế, dùng phép qui loại dân tộc mà xét, tộc Khuyển Nhung chính là tộc Tây Khương. Hứa Thận tại “Thuyết văn giải tự” giải thích: “Khương là người chăn cừu Tây Nhung”, do đó Khuyển Nhung chính là Tây Khương, Tây Khương bao gồm Khuyển Nhung. Vậy thì các tộc “Khuyển Nhung”, “Bạch cẩu”, và “Bạch lang” (sói trắng) nói trên đều là tộc Tây Khương. Do đó có thể đoán dịnh rằng, tộc Tây Khương chính là dân tộc du mục lấy tôtem là chó trắng hoặc sói trắng. Tộc Khương cổ dũng mãnh “lấy chết trận là chuyện tốt lành, chết bệnh là chuyện dở” không khi nào sùng bái chó nhà tức chó đã thuần dưỡng, do đó “bạch cẩu” (chó trắng) mà tộc Khương cổ sùng bái không phải sói trắng thì cũng là chó rừng hung dữ hơn sói. Do vậy, tộc Khương cổ là dân tộc cổ xưa nhất sùng bái tôtem sói. Do một trong những thuỷ tổ nhân văn của Hoa Hạ là tộc Viêm đế họ Khương, một chi của tộc Khương cổ, mà Hoàng đế lại cùng họ với Viêm đế, vậy thì, nếu truy ngược lên, tôtem chó trắng, hoặc tôtemsói, là tôtem nguyên thuỷ chính yếu nhất của dân tộc Trung Hoa.

Sùng bái tôtem sói bắt đầu từ tộc Khương cổ xưa nhất của Hoa Hạ, tộc Khuyển Nhung và tộc cổ Hung Nô Hồn Chúc, rối đến các tộc du mục Bạch Lang (sói trắng), Hung Nô, Cao Xa, Tiên Ty, Đột Quyết, Khiết Đan, tiếp tục cho đến dân tộc Mông Cổ hiện nay. Đây là tôtem của các tộc du mục lâu đời nhất thế giới, trên thảo nguyên tây bắc và thảo nguyên Mông Cổ có sức sống mạnh mẽ, từng dân tộc du mục bị tộc du mục khác mạnh mẽ hơn đánh bại, tộc nọ thy thế tộc kia, nhưng tôtem sói và tinh thần sói thì vĩnh viễn tồn tại. Loại văn hoá tôtem và tinh thần này chưa bao giờ đứt đoạn, thậm chí có bề dày hơn cả lịch sử văn minh nông canh. Tiếc rằng giá trị tinh thần to lớn bao hàm trong tôtem sói, xưa nay chưa được người Hán sợ sói ghét sói coi trọng và nghiên cứu, thậm chí còn cố ý bỏ quên.

Đặc biệt quan trọng là hai nền văn hoá ở đại lục Trung Hoa “chưa từng đứt đoạn” này, văn hoá tôtem sói của dân tộc du mục có sức sống mạnh mẽ hơn, có giá trị hơn. Nếu không có tinh thần và văn hoá tôtem sói “chưa từng bị gián đoạn”, thì văn hoá nông canh của dân tộc Hoa Hạ mầy nghìn năm có thể bị đứt đoạn. Văn minh mấy nghìn năm của Trung Quốc chưa khi nào bị đứt đoạn là một kỳ tích đã được công nhận trong lịch sử văn minh thế giới, mà kỳ tích đằng sau kỳ tích trên là nền văn minh tôtem sói lịch sử càng lâu đời hơn chưa từng bị đứt đoạn. Tôtem sói sở dĩ trở thành tôtem của rất nhiều bộ tộc du mục trên thảo nguyên tây bắc và thảo nguyên Mông Cổ bởi sức mạnh chinh phục không thể không sùng bái, sức hấp dẫn về trí tuệ không thể cưỡng lại. Tinh thần tôtem sói mạnh mẽ này là tinh tuý của tinh thần du mục Trung Hoa, nó ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và tính cách dân tộc du mục tây bắc, ảnh hưởng sâu sắc đến dân tộc và văn minh Trung Hoa và cũng ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới.

Mình cho rằng, tôtem sói và tinh thần tôtem sói có lịch sử lâu đời, chính là nguồn gốc sức sống bất diệt của tinh thần du mục cổ và hiện đại. Người Trung Quốc hiện nay phải cảm thấy may mắn và tự hào vì có một di sản tinh thần lâu đời vĩ đại và quí báu như thế. Giờ đã đến lúc lột bỏ cái vỏ nông canh cừu tính để tinh thần ấy toả sáng chói lọi. Nó là nguyên liệu tinh thần bản thổ quí báu nhất của công trình chuyển đổi tính cách dân tộc Trung Hoa đương đại. “Con sư tử ngủ phương đông” sẽ do tinh thần tôtem sói mà sống lại, thức tỉnh và vươn lên.

0O0

Hay lắm! Nữa đi! Dương Khắc khen rố rít rồi bật nắp lon bia đưa cho Trần Trận, bản thân cũng bật nắp một lon ngửa cổ uống một ngụm lớn, nói: Cậu đào sâu vấn đề này còn sâu hơn sói đào hang, đụng đến tận tổ tộc Viêm Hoàng. Mình đồng ý với kết luận của cậu. Mình cũng cho rằng, “bạch khuyển” (chó trắng) mà Khuyển Nhung Tây Khương sùng bái chính là chó rừng hoặc sói trắng. Minh hiện giờ vẫn rất sùng bái con Nhị Lang. Tôtem mà tộc Khương và Khuyển Nhung sùng bái là loại chó rừng như thế hoặc hung dữ như chó ngao Tạng, không khi nào sùng bái loại chó lớn nhưng chịu sai khiến, nếu không, sẽ khó lý giải do đâu các dân tộc du mục phương đông có sức mạnh như thế. Mình bị thuyết phục hoàn toàn. Nói tiếp đi!

Lon bia vào bụng, Trần Trận càng hào hứng. Anh ngồi xếp bằng tròn, lưng thẳng, tiếp tục thuyết trình: Sau Tây Chu, lịch sử bước vào thời đại chiến quốc, do tính cách mạnh mẽ của tổ tiên Hoa Hạ di truyền lại còn mạnh, do vẫn còn một số bộ tộc du mục ở Thiểm Tây, Sơn Tây Hà Bắc và vùng bắc Hoa bắc, thậm chí dải đất Bình Sơn thuộc huyện Định - Hà Bắc còn bảo lưu đồng cỏ chăn nuôi và dân tộc du mục, có một nước Trung Sơn trứ danh được thành lập từ thời Hung Nô đã mấy trăm năm, nổi tiếng thế giới về sản phẩm “Sói Trung Sơn”, do đó tính cách dân Trung Sơn mạnh mẽ, xưng vương cùng với Hàn, Yên, Tống, còn chiếm một vùng rộng lớn của Yên. Thế mới biết trung nguyên Hoa bắc hồi đó còn rất nhiều đất đai và tính cách sói. Hơn nữa, khi đó trung nguyên thường xuyên bị các dân tộc du mục xâm nhập và tiếp máu, nên trong thời kỳ xuân thu chiến quốc, tính cách của toàn thể dân tộc Hoa Hạ vẫn mạnh mẽ, thậm chí mạnh mẽ tới mức sản sinh ra một chế độ chuyên chế trung ương tập quyền. Thời kỳ Xuân thu Chiến quốc, sói đàn đuổi hươu ở trung nguyên, chư hầu tranh bá Hoa Hạ, máu đẫm đại địa trung nguyên. “Nếm mật nằm gai, phấn đấu vươn lên”, đó là hình ảnh tả chân của tính cách và tinh thần dân tộc thời bấy giờ, từ tính cách ấy mà tuôn trào những ý tưởng sắc bén, những sức mạnh tiến thủ như hoả diệm sơn liên tiếp trong 500 năm. Thời kỳ này, về tư tưởng văn hoá càng giống như một cuộc tạo sơn trời long đất lở, các “sói gia” như Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, binh gia… trăm nhà đua tiếng, nhan nhản khắp nơi, một thời rrực rỡ chưa hề có về tư tưởng văn hoá trong lịch sử cổ đại Hoa Hạ. Về sau, Trung Quốc có mấy cuộc phục cổ về văn hoá, mưu toan khôi phục tinh thần và tính cách dân tộc thời ấy tuy không thành công, nhưng cũng đạt được nhiều thành tựu. Phong trào phục cổ của Hàn Dũ đời Đường, u Dương Tu, Tô Thức đời Bắc Tống đã dấy lên khí thế “Hàn triều Tô hải” ngất trời. Lịch sử đã chứng minh, không thể phục cổ về kinh tế chính trị, vì nếu làm vậy là thụt lùi, nhưng về tinh thần và tính cách dân tộc nhát thiết phải thường xuyên “phục cổ”. Phong trào“Văn hoá phục hưng” của phương tây là một thành công vĩ đại.

Đến đời Tần, nước Tần lại có sự mở đầu tương tự mà không giống Tây Chu. Nước Tần cũng ở vào phía tây, do đó Tần cũng có khu vực du mục rộng nghìn dặm và cơ sở kinh tế nửa chăn nuôi nửa nông canh Tần Xuyên, Hán Trung, Ba Thục và một tính cách quốc dân pha tạp nửa sói nửa cừu trên cơ sở hình thành dân tộc này. Tính cách mạnh mẽ yêu cầu cải cách và nguyện vọng biến pháp. Thương Ưởng nhà Tần biến pháp lúc đầu thành công. Sáu nước lấy nông canh làm chính và tin theo Chu lễ, do cuộc sông nông canh quá dài nên tính cách quốc dân mềm yếu. Nước Tần mau chóng xác lập ưu thế áp đảo với sáu nước, đến đời Tần Thuỷ Hoàng quét sạch sáu nước, thống nhất Hoa Hạ. Năm 221 tcn, Tần Thuỷ Hoàng dựng nên một nhà nước trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Tần Thuỷ Hoàng khai thác tính cách nhanh nhẹn của sói, dĩ kim phi cổ, đốt sách chôn nhà nho, cưỡng chế thực thi “viết cùng loại chữ, xe cùng loại trục, hành động cùng qui tắc”, lại đắp trường thành, làm đường dũng đạo, thành lập kỵ binh, tấn công Hung Nô. Dám nói dám làm, khí thế dời non lấp biển, sáng tạo một thời đại hoàn toàn mới mạnh mẽ xốc tới. Cần nói thêm là, “ba cùng” về chữ viết, về xe cộ, về hành động, đã đặt nền móng cho sự thống nhất dân tộc Hoa Hạ. Trung Quốc “đại thống nhất” đầu tiên không phải do Nho gia thực hiện, trái lại, do Tần Thuỷ Hoàng - kẻ đốt sách chôn nhà nho dựng nên. Cũng cần nói thêm rằng, sự thành lập vương triều phong kiến chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc, chứng tỏ tính cách quốc dân của dân tộc nông canh Hoa Hạ đã bắt đầu bộc lộ sự ươn hèn.

Thế nhưng Tần dựng nước trên đất đai Nhung Địch, đời Tần Mục Công diệt 12 Nhung quốc, mở rộng hàng ngàn dặm, trở thành “Tây Nhung bá vương”, sử dụng phong tục tập quán và luật pháp của dân tộc du mục Tây Nhung. Tư Mã Quang nói Tần “ăn tham như sói”, có thể thấy nước Tần chịu ảnh hưởng sâu sắc tính cách sói và tôtem sói của dân tộc Tây Nhung. Nước Tần khi ấy đã là một nước lớn ở phía tây, Tần Nhương Công từng được Chu Bình vương công nhận là chư hầu. Nhưng các nước chư hầu Hoa Hạ khác lại cho Tần là man rợ, quyết không thừa nhận Tần là một nước chư hầu Hoa Hạ, không cho Tần tham gia minh ước. Thành phần dân tộc du mục trong nội bộ nước Tần quả thực rất lớn, vậy nên sói tính trong tính cách quốc dân nước Tần quá mạnh. Sinh ra trên mảnh đất như thế, Tần Thuỷ Hoàng rất dễ trở thành bạo quân. Kết quả, bạo hành dẫn tới bạo loạn, những hảo hán sói tính tiềm phục tại sáu nước phất cờ nổi dậy, dân tộc Hoa Hạ mà tính cách đã bắt đầu ươn hèn, lại trở nên mạnh mẽ, khởi nghĩa vũ trang khắp nơi trên toàn quốc, khiến nhà Tần đến Tần Nhị thế thì suy vong.

Giai đoạn nhà Tần, dân tộc thảo nguyên tiếp cho dân tộc Hoa Hạ một đợt máu mang sói tính, làm nhạt máu cừu qua nghìn năm cuộc sống nông canh tràn đầy huyết quản, khiến dân tộc Hoa Hạ lại một phen trỗi dậy sói tính trong tính cách dân tộc.

Năm 206 tcn, Lưu Bang dựng nên vương triều Tây Hán. Thời kỳ Tây Hán, “Hán thừa Tần chế”, thừa kế sói tính triều Tần, tính cách Hán Vũ đế thì như Tần Thuỷ Hoàng thứ hai, các sử gia đánh giá Vũ đế” không khác Tần Thuỷ Hoàng là mấy”. Hung hăng hiếu chiến, dốc toàn bộ binh lực tài lực chinh chiến liên miên, không chịu thoả hiệp, diệt bằng được Hung Nô mới thôi. Triều đình nhà Hán bấy giờ phái chủ chiến chiếm ưu thế tuyệt đối, “những người hăng hái không sợ chết đầy triều”, mang đậm tính cách dân tộc, coi chết trận là chuyện hay, chết bệnh là chuyện dở”. Hán Vũ đế còn mạnh dạn dùng những tướng lĩnh đầy sói tính như Lý Quảng, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, lấy kỵ binh chống kỵ binh, lấy kỵ xạ chống kỵ xạ, hung hãn quả cảm, rong ruổi đường dài, thâm nhập thảo nguyên huyết chiến cùng Hung Nô trên chục năm, đánh cho Hung Nô mất hết sĩ khí. Hán Vũ đế hùng tài thao lược, biến trường thành vốn có tác dụng chống thâm nhập trở thành phòng tuyến bao vây kinh tế, một thứ vũ khí phong toả, nghiêm cấm xuất vũ khí đạn dược qua cửa quan, từng giết rất nhiều người vi phạm lệnh cấm.

Đương thời sinh trưởng trên mảnh đất màu mỡ, Nho gia đã lớn thành đại thụ, chui vào quan trường chủ đạo hình thái ý thức. Nho gia chủ trương lấy nghề nông làm gốc,khoan dưỡng sức dân, thuế má nhẹ nhàng; Chủ trương thực thi nhân chính, lấy thuần hoá để mềm hoá tính cách đổi lấy sự ổn định cho đất nước và xã hội. Chủ trương này được nhà vua tin dùng. Lấy điển chế trị quốc an dân, cầu được hoà bình phát triển. Về nhận thức, Hán Vũ đế cao hơn Tần Thuỷ Hoàng, ông ta hiểu vai trò của Nho gia. Do đó thời Tây Hán sói cừu kết hợp, bá đạo vương đạo đan xen, máu sói máu cừu đại để cân bằng. Thời Tây Hán, tính cách dân tộc Hán từ “sói dã man” thời Tần, phát triển thành “sói văn minh” thời Hán, đạt tới trình độ tốt nhất của “sói văn minh” thời cổ, gần như tương đương với tính cách dân tộc La Mã cổ đại, về mặt cường thịnh cũng không hơn kém nhau là mấy. Thời ấy dân tộc Hán dũng cảm ngoan cường, khai sơn phá thạch, hăng hái chống kẻ địch mạnh, tráng khí ngất trời. Thời ấy đất nước thịnh vượng, nước mạnh dân giầu, văn sử triết kinh, nghệ thuật khoa kỹ phát triển rực rỡ. Cuộc chinh phục tây bắc và tây vực lần thứ nhất đã mở rộng đất đai du mục của Hoa Hạ, cắt đứt nguồn tài chính của Hung Nô, tiêu diệt quân chủ lực Hung Nô, mở ra một thời đại huy hoàng 400 năm. Đế quốc đại Hán là một trong những thời đại rất đáng tự hào của dân tộc Hoa Hạ. Tiếc rằng những thời đại sau đó, tính cách dân tộc thuần Hán chưa khi nào đạt tới đỉnh cao như thế, từ đó trở đi, một mình Hán tộc không thể chông đỡ lâu đài văn minh Hoa Hạ.

Cùng với chính sách đồn khẩn thú biên được thực thi, nông canh xâm lấn thảo nguyên và những cuộc tấn công bằng quân sự đối với dân tộc thảo nguyên, và với “chính sách đuổi Nhung” tàn nhẫn, dùng vũ lực đuổi dị tộc ra khỏi biên giới, khiến dân tộc du mục chống trả quyết liệt, cuối cùng, dân tộc thảo nguyên tích luỹ được một lực lượng to lớn. Đến cuối đời Tấn, năm dân tộc thảo nguyên Hung Nô, Yết, Để, Khương và Tiên Ty trước sau tiến vào Trung nguyên, lần lượt thành lập 16 nước, sử gọi là “năm Hồ mười sáu nước”. Tần Hán mấy trăm năm trở lại nông nghiệp phát triển mạnh, nông nghiệp Hoa Hạ chiếm ưu thế, toàn bộ tộc Hán đã trở thành tộc nông canh tiêu chuẩn, tính cách dân tộc cừu hoá, sợ chiến trận, sợ chết, không đỡ nổi một cú đánh. “Năm Hồ” như sói xông vào đàn cừu, toàn bộ trung nguyên biến thành thiên hạ của sói thảo nguyên khoảng 120 năm. Trong khoảng thời gian đó, sói tính ở trung nguyên cực thịnh, do đó tàn sát lẫn nhau, máu chảy thành sông, xương cốt đầy đồng, dân số giảm mạnh. Nhưng nguyên nhân nội tại vẫn tại bản thân văn minh nông canh, tính cách nông canh ôn hoà đôn hậu không thể chống lại kẻ xâm lược hung hãn.

Bắc Nguỵ thành lập nước năm 386, là một nước kết hợp tưong đối tốt sói tính và cừu tính. Mình rất thích Bắc Nguỵ. Tộc Tiên Ty và sau này là tộc Mông Cổ dựng nên Bắc Nguỵ đều thuộc Đông Hồ, hai dân tộc này có chung ngôn ngữ. Bắc Nguỵ xuất xứ tại núi Tiên Ty thuộc Bắc Lộc, dãy Đại Hưng An. Tiên sinh Hàn Nho Lâm, nhà nghiên cứu có uy tín, Hội trưởng Hội nghiên cứu lịch sử nhà Nguyên, nói: “Theo các học giả hiện đại, Tiên Ty chính là tộc Mông Cổ”.

Ngay từ thời Hoà Đế đời Đông Hán, đại tướng Đậu Hiến đánh bại Hung Nô, Tiên Ty thừa cơ chiếm lĩnh đất cũ của Hung Nô, hơn mười vạn hộ Hung Nô tự xưng là Tiên Ty, gia nhập tộc Tiên Ty cùng với văn hoá Hung Nô và sự sùng bái nguyên thuỷ của người Hung Nô. Do đó Tiên Ty lại là dân tộc hỗn hợp Đông Hồ và Tiên Ty. Thác Bạt Bộ Tiên Ty cực kỳ hung hãn, nhưng văn hoá Tiên Ty cực kỳ lạc hậu, chữ viết chưa có. Thế nhưng họ có tính cách mạnh mẽ và cái đầu thông minh như sói thảo nguyên Mông Cổ, tài năng quân sự siêu việt, là một chi cự phách trong Đông Hồ. Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào giống hệt thần sói oai vệ lạ thường. Ông ta dựa vào kỵ binh Tiên Ty dũng mãnh quét sạch đàn sói, chưa đầy mười năm đã thống nhất miền bắc Trung Quốc. Sau nhà Tây Chu, trong lịch sử Trung Quốc đã mở ra một triều đại đầu tiên do dân tộc thảo nguyên thiết lập.

Một điều thú vị nữa, Tiên Ty Thác Bạt rất thích dùng mưu như sói thảo nguyên, say mê văn hoá Hán, thêm một biểu hiện nữa về ý chí tiến thủ của dân tộc du mục trong việc khai thác và học tập. Thời kỳ Phùng Thái hậu và Hiếu Văn Đế ra sức đề xướng học tập văn hoá Hán, cổ vũ kết hôn với người Hán. Sau đó, hàng triệu Tiên Ty thiên đô về Lạc Dương, hoàn toàn sử dụng tiếng Hán, y phục Hán, chế độ Hán., thậm chí đổi họ Tiên Ty sang họ Hán. Thí dụ đổi họ Thác Bạt thị sang họ Trường Tôn thị, khiến sứ giả Giang nam người Hán không biết mình đến nước Hồ hay nước Hán.

Cần phải nói rõ một điều, dân tộc thảo nguyên chủ động tiếp thụ văn hoá Hán là có căn nguyên sâu sắc về chủng tộc. Trong văn hoá Hán cao nhất là sùng bái trời, tức sùng bái Tăngcơli, mà sùng bái trời trong văn hoá Hán bắt nguồn từ sùng bái Tăngcơli trong dân tộc thảo nguyên, là sự sùng bái nguyên thuỷ mà tổ tiên Viêm Hoàng đem từ thảo nguyên tới. Do đó sự sùng bái tối cao của dân tộc thảo nguyên Mông Cổ không mâu thuẫn với văn hoá sùng bái trời của dân tộc Hán, trái lại, do có mối căn duyên thời sùng bái nguyên thuỷ, nên tình cảm gần gũi dễ dàng tiêp thu. Về sau, tộc Mông Cổ bản thổ và tộc Hán Hoa Hạ không theo đạo Cơ đốc và Ixlam giáo mà đều theo Phật giáo vì có chung mối quan hệ lớn là sùng bái trời; Hai là, trong giới Nho học thời kỳ đầu một số có tinh thần mạnh mẽ vươn tới của dân tộc du mục, chẳng hạn như “thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”, “phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”, tinh thần kiên cường bất khuất này phù hợp với tính cách dân tộc du mục thảo nguyên; Ba là, Nho gia hoàn toân ủng hộ “thiên tử”, tức “Con củaTăngcơli”. Tóm lại văn hoá Hán vốn là văn hoá từ sau khi dân tộc du mục vào khu vực nông canh phát triển lên, vì vậy, sau này dân tộc thảo nguyên làm chủ trung nguyên, không cần làm lại văn hoá từ đầu, chỉ cần đem tới những thành quả văn hoá của lớp người đi trước và lớp người bây giờ là đủ. Đương nhiên, sau đó các tộc Tiên Ty, Mông Cổ đều nhìn thấy khiếm khuyết của văn hoá Hán, đã chọn lọc rất kỹ khi tiếp thu, và tăng thêm vào đó rất nhiều nội dung văn hoá du mục.

Cần giải thích một điều, quan điểm truyền thống cho rằng dân tộc du mục tuy có thể chinh phục trung nguyên bằng vũ lực, nhưng tộc Hán có thể chinh phục dân tộc du mục bằng văn hoá Hán. Đây là quan điểm sô vanh đại Hán tộc. Sai lầm lớn nhất của quan điểm này ở chỗ phủ định nhân tố phi văn hoá căn bản nhất - tác dụng chinh phục của ruộng đất Hoa Hạ. Đồng ruộng mênh mông của Hoa Hạ có thể chinh phục và mềm hoá tất cả những dân tộc du mục dũng mãnh, tác dụng chinh phục của đồng ruộng Hoa Hạ lớn hơn tác dụng chinh phục của văn hoá. Tính chất phiến diện trong quan điểm dân tộc du mục bị văn hoá Hán chinh phục, còn ở chỗ đã phủ định thành phần du mục trong văn hoá Hán, phủ định quyền sở hữu cục bộ của dân tộc du mục trong văn hoá Hán. Vả lại, trên thực tế dân tộc du mục cũng không bị văn hoá Hán chinh phục một cách bị động, mà dân tộc du mục chủ động chọn lọc văn hoá Hán, mà nguyên nhân quan trọng là trong văn hoá Hán có thành phần văn hoá du mục.

Cuộc cải cách của Thác Bạt Tiên Ty tương đối thành công, chính trị Bắc Nguỵ ổn định, kinh tế phồn vinh, dân số tăng vọt, quan hệ quốc tế rộng rãi mang dáng dấp một nước lớn ở phương đông. Hơn nữa, văn hoá phát triển, phật giáo thịnh hành, các hang động Vân Cương, Long Môn đến nay vẫn khiến người ngưỡng mộ, khiến các quốc gia Hán tộc Nam triều hủ bại, nội loạn triền miên không thể so sánh với Bắc Nguỵ, đến nỗi người Trung Quốc sau này phần lớn chỉ biết đến Bắc Nguỵ tiếng tăm lừng lẫy, mà rât ít biết những nước của người Hán cùng thời ở Nam triều như Tống, Tề. So sánh Bắc Nguỵ với Nám triều, thấy rõ văn hoá nông canh và tính cách dân tộc đã bộc lộ những yếu kém chí mạng của cừu tính. Dân tộc du mục một khi tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc, hễ có thời cơ là chiếm trung nguyên bằng vũ lực,chỉ qua vài đời ngắn ngủi đã nắm trong tay thành quả văn hoá dân tộc Hoa Hạ sáng tạo trong mấy nghìn năm, thậm chí còn hơn hẳn một cái đầu. Còn dân tộc Hán thiếu tinh thần tiến thủ, tuy tiên tiến hơn dân tộc thảo nguyên về văn hoá, nhưng vẫn phải tiếp máu định kỳ hoặc không định kỳ để sống. Nếu trong khoảng vài trăm năm mà không được một lần tiếp máu qui mô lớn, xương cốt nó mềm đến nối không đỡ nổi ngôi nhà Hoa Hạ. Cổ nhân có câu: “500 năm tất có bậc vương giả”. Trên thực tế, bậc “vương giả” đó chính là tinh thần và tính cách du mục, “vương giả” cụ thể là những người đại diện cho tinh thần và tính cách du mục.

Tiên Ty thống trị bắc Trung Quốc hơn 140 năm, lần tiếp máu và lai tạp dòng máu của dân tộc thảo nguyên đối với dân tộc ho Hạ nông canh só ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng rất sâu. Tiếp máu và pha máu thể hiện chủ yếu trên hai mặt: Một là ảnh hưởng sâu sắc về tinh thần và tính cách du mục đối với dân tộc nông canh sau khi dân tộc du mục xâm nhập trung nguyên. Cái gọi là “tiếp máu” chính là sự tiếp nhận tinh thần du mục; Hai là pha máu tạp giao đã tăng cường ưu thế lai, tăng số lượng người mang tính cách mới. “Ngũ Hồ nhập Trung Hoa” gây ra chiến tranh liên miên ở trung nguyên, Lạc Dương bị đốt cháy, máu chảy thành sông, nhân dân tan tác, dân số giảm mạnh. Chiến tranh loạn lạc lần đầu tiên tạo nên một cuộc thiên di lớn của dân tộc Hoa Hạ. Sử chép, trung châu, tức trung nguyên, chừng sáu bảy mươi phần trăm người Hán tản cư về Giang nam, dân số người Hán ở miền bắc càng ít đi. Sau đó,dòng người bất tận cuả dân tộc du mục, nhất là dân tộc Tiên Ty đổ về trung nguyên và Lạc Dương hoang vắng. “Trung Quốc thông sử giản biên” viết: “Dân số Quan trung một triệu người, Để Khương và Tiên Ty chiếm một nửa “. Nguỵ Hiếu Văn đế thiên đô từ Bình Thành về Lạc Dương, các quan văn võ và quân đội, kể cả hoàng gia, chỉ vẻn vẹn một triệu người. Để học tập văn hoá Hán và tăng cường dân số, tập đoàn thống trị Tiên Ty đích thân thực hiên chính sách thông hôn Tiên - Hán. Do ở địa vị thống trị, dân tộc du mục chiếm ưu thế về tài sản và quyền lực, nên tha hồ thông hôn nạp thiếp sinh con đẻ cái, khiến dân số du mục tăng trưởng nhanh hơn dân số nông canh. Vì vậy thông qua 260 năm tiếp máu và tạp giao, mười sáu nước Bắc triều trên thực tế đã trở thành vùng dân tộc hỗn hợp, số dân Hán tương đương số dân du mục nhưng ảnh hưởng của dân tộc Tiên Ty đặc biệt lớn.

Lần tiếp máu và pha máu này khiến tính cách và tinh thần dân tộc Hoa Hạ trung nguyên đã bị hèn yếu và cừu tính, mạnh mẽ trở lại. Nhưng cần phải chỉ ra rằng, dân tộc du mục Trung quốc tiếp máu và thông hôn với dân tộc nông canh Trung Quốc, với dân tộc nông canh mà nói, là sự việc đau khổ và tàn nhẫn, nhưng với “con bệnh Trung Quôc” thì lại là cấp cứu điều trị cần thiết, khách quan mà nói, nếu không có cuộc tiếp máu và thông hôn lâu dài và rộng khắp này, sẽ không có Tuỳ Đường vĩ đại sau này.

Bắc Nguỵ về sau chia cắt thành Đông Nguỵ và Tây Nguỵ, hai nước vẫn do tộc Tiên Ty chấp chính. Năm 550 Cao Dương phế Đông Nguỵ Đế, tự lên ngôi, đặt quốc hiệu là Tề, sử gọi Bắc Tề. Năm 556, người Tiên Vũ Văn Giác phế truất Tây Nguỵ Cung đế, tự lập làm vua, quốc hiệu Chu, sử gọi Bắc Chu, chính quyền Tiên Ty vẫn y nguyên. Thời kỳ Chu Vũ đế, một ông vua hùng tài thao lược lại diệt Bắc Tề, lại thống nhất bắc Trung Quốc.

Năm 581, đại thừa tướng Bắc Chu Dương Kiên phế truất Chu Tịnh đế cướp vương triều Bắc Chu,dựng nên nhà Tuỳ, ông chính là Tuỳ Văn đế nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Do đó nhà Tuỳ được thiết lập trên cơ sở nhà nước Tiên Ty. Sau Bắc triều, do năm tộc du mục được tiếp máu trong khoẩng 260 năm, dân tộc Trung Quốc là một dân tộc hỗn hợp do dân tộc Tiên Ty bao gồm dân tộc Hán và dân tộc du mục hợp thành. Và cũng do Dương Kiên cướp ngôi, lập ra nhà Tuỳ, nên tập đoàn thống trị Tiên Ty Bắc Chu vẫn được giữ lại về cơ bản, triều đình nhà Tuỳ đầy quan lại người Tiên Ty, ngay Hoàng hậu Tuỳ Văn đế là Độc Cô hoàng hậu cũng là người Tiên Ty. Độc Cô hoàng hậu là con gái đại tướng Độc Cô Tín, đại quí tộc Tiên Ty. Do vậy, từ triều Tuỳ trở đi, về mặt tổ chữc chính quyền và cơ cấu xã hội, tỉ trọng Tiên Ty cực lớn. Từ thành phần dân tộc mà xét, Tuỳ là triều đại vĩ đại do tộc Tiên Ty và tộc Hán cùng nhau dựng nên. Thời Tuỳ Văn đế, dân tộc trung nguyên tính cách mạnh mẽ, văn hoá phát triển, cũng là thời kỳ kết hợp tương đối tốt cừu với sói.

Vậy nên, triều Tuỳ hùng mạnh, sáng tạo, lập nhiều kỳ công đáng kính nể; thực hiện quân điền chế, đào sông, mở khoa thi, đánh bại 40 vạn quân kỵ của Đột Quyết hùng mạnh, chinh phục nam Trung Quốc, kết thúc tình trạng rối ren, chia cắt trong bao nhiêu năm, dưng nên một quốc gia thống nhất rộng lớn.

Có điều đặc biệt là, miền bắc Trung Quốc trải qua chiến tranh liên miên do các tộc du mục xâm nhập, lẽ ra phải lạc hậu hơn Nam triều không bị dị tộc xâm lấn, vậy mà trên thực tế hoàn toàn ngược lại. Tại Nam triều, các chính quyền Hán tộc Tống Tề Lương Trần đều hủ bại, yếu đuối bất lực, nội bộ lục đục. Sau đó, chính quyền Hán tộc nam Trung Quốc bị nhà Tuỳ diệt gọn dễ như trở bàn tay.

Từ đó, Trung Quốc cổ đại lại xuất hiện một qui luật: Trung nguyên phía bắc được các tộc du mục tiếp máu và thông hôn, cho dù bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng, nhưng vẫn có thể tiêu diệt hoặc bức hàng chính quyền Hán tộc nam Trung Quốc, còn chính quyền Hán tộc cuối cùng ở nam Trung Quốcdễ dàng bị quốc gia phương bắc tiêu diệt, không một ngoại lệ. Qui luật này còn thích ứng ngay từ thời Tần trở đi. Tần diệt Sở Ngô, Nguỵ diệt Thục, Tấn diệt Ngô, Tuỳ diệt Lương Trần, Tống diệt Hậu Thục Nam Đường Ngô Việt, Nguyên diệt Nam Tống, cho đến Thanh diệt Nam Minh, Tam Phiên Thái bình thiên quốc. Qui luật này đã chứng minh, tính cách du mục mạnh hơn rất nhiều so với tính cách nông canh. Tính cách mạnh mẽ là nhân tố có tính quyết định cho một dân tộc đứng vững trong một rừng dân tộc. Nam Trung Quốc thuần nông một khi đã mất đi tinh thần du mục Viêm Hoàng mà lại không được tiếp máu từ tinh thần du mục, là mất đi xương sống của dân tộc, thì dù kinh tế văn hoá phát triển, cũng không cách gì bảo vệ quốc thổ và nền độc lập quốc gia.

0O0

Trần Trận nhìn hang sói trên sườn núi thở dài, nói: Nhưng triều Tuỳ cũng chết yểu, nguyên nhân cơ bản là tỉ lệ sói cừu không cân bằng. Tập đoàn thống trị nhà Tuỳ sói tính quá mạnh so với cừu tính. Bản thân Tuỳ Dạng đế là con lai giữa người Hán và người Tiên Ty. Mẹ ông ta là Văn hiến Độc Cô hoàng hậu là một phụ nữ Tiên Ty hung hãn ngay cả Tuỳ Văn đé cũng sợ. Gia đình Độc Cô hoàng hậu đã cung cấp ba hoàng hậu (bao gồm cả Độc Cô trong đó) và một Hoàng Thái hậu. Chị ruột bà là Hoàng hậu Chu Minh Đế Bắc Chu, con gái lớn của bà là hoàng hậu Chu Tuyên Đế, chị em họ của bà là mẹ đẻ Đường Cao Tổ Lý Uyên nhà Đường. Dòng họ Tiên Ty nhà bà tính cách mạnh mẽ, thế lực to lớn, ảnh hưởng sâu sắc cá ba triều đại: Bắc Chu, Đại Tuỳ và Đại Đường. Bà ta ở hoàng cung, hậu cung không dám dâng phi tần cho vua, bà ta dám giết mỹ nữ mà vua yêu thích. Người phụ nữ đầy sói tính này nắm quyền lớn trong triều, cùng với Tuỳ Văn Đế xưng “nhị thánh”. Độc Cô hoàng hậu còn lập mưu bỏ con trưởng lập con út Dương Quảng mà bà rất yêu, làm Hoàng Thái tử. Về sau, Độc Cô hoàng hậu trở thành người mẫu cho Võ Tắc Thiên bắt chước. Do vậy, Tuỳ Dạng Đế Dương Quảng do bú “sữa sói” mà thành “sói”. Do kế thừa quá nhiều gen sói của mẹ, Tuỳ Dạng Đế là một bạo quân ít thấy trong lịch sử Trung Quốc, thích dùng vũ lực, tàn bạo ác độc, thuế má nặng nề, dân tình đói khổ. Tuỳ Dạng Đế huy động vài triệu quân, ba lần đi đánh Cao Ly thua cả ba, tổn thất nặng nề, sức nước suy kiệt, khiến cả nước chống lại ông ta. Nhà Tuỳ được 37 năm thì mất, tương tự nhà Tần. Năm 618, Lý Uyên quí tộc Hán đã Hồ hoá, lập nên nhà Đường.

Triều đại Đường mà người Trung Quốc rất tự hào, thực tế là một vương triều vĩ đại do hai tộc Tiên Ty và Hán cùng nhau tạo dựng nên, là sự kết tinh vĩ đại của tính cách sói với tinh tuý của văn minh Hoa Hạ, là đỉnh cao của văn minh Hoa Hạ cổ đại. Cũng giống như “Hán kế thừa chế độ nhà Tần”, triều Đường kế thừa chế độ triều Tuỳ. Vương triều Lý Đường kế thừa hoàng tộc triều Tuỳ, đặc biệt là tính cách Tiên Ty hung hãn của phụ nữ hoàng triều Tuỳ. Về mặt tính cách huyết thống, ông vua khai quốc và và những bậc quân chủ trong vương triều Lý Đường, đều là con lai giữa người Hán đã Hồ hoá với phụ nữ quí tộc Tiên Ty. Mẹ đẻ, hoàng hậu và một con dâu Đường Cao Tổ Lý Uyên là người Tiên Ty. Bà nội, mẹ đẻ và Hoàng hậu Đường Thái Tôn Lý Thế Dân là người Tiên Ty. Cụ nội, bà nội, mẹ đẻ Đường Cao Tôn Lý Trị là người Tiên Ty. Còn mẹ đẻ Lý Uyên chính là chị em họ của hoàng hậu Độc Cô khét tiếng. Nhiều đời liên tục tạp giao, ảnh hưởng lâu dài về tính cách sói của gia tộc Tiên Ty, khiến máu Hán trong huyết thống gia tộc Lý Đường giảm xuống chỉ còn dưới một phần tư. Vì vậy giống lai chiếm ưu thế khác thường. Thái Tôn Lý Thế Dân lại càng nổi bật. Dũng mãnh ngoan cường, tính cách sói của ông ta được coi là nhất trong các đế vương. Thậm chí, gia đình họ Lý còn cho con trai thái tử đi học tiếng Hồ, ăn món ăn Hồ, ngưỡng mộ lá quân kỳ đầu sói của Đột Quyết. Những chuyên cực đoan này chứng minh huyết thống dân tộc thảo nguyên trong gia tộc Lý Đường và ảnh hưởng sâu rộng của nó.

Mình lấy mấy thí dụ trong “Tư trị thông giám” cho cậu nghe: Một bận, Lý Thế Dân cùng Lý Uyên xuất kích, Lý Uyên tiến quân bất lợi, Lý Thế Dân đích thân dẫn quân tiến đánh địch từ phía sau, sử dụng song đao đi trước sĩ tốt, tự tay giết chết mấy chục quân địch, giết đỏ mắt, đao mẻ mấy miếng, hai tay áo đẫm máu địch. Ông ta rũ sạch máu, tiếp tục xung sát cho đến khi quân địch bị đánh tan, chuyển bại thành thắng. Lại có lần Lý Thế Dân đánh nhau với Đậu Kiến Đức, Lý Thế Dân chỉ đem theo viên đại tướng Uất Trì Kính Đức và vài chục binh sĩ dụ địch. Năm nghìn quân kỵ của Đậu Kiến Đức lướt tới, Lý Thế Dân thiện xạ, bắn chết luôn một viên tướng và mấy tên địch. Uất Trì Kính Đức cũng bắn chết hơn mười quân địch, khiến mấy nghìn quân địch sợ không dám đuổi theo. Lại nữa, trong sự biến Huyền Vũ môn, vì lợi ích Đại Đường, Lý Thế Dân ra tay trước, bố trí quân mai phục giết anh và em ruột là Kiến Thành và Nguyên Cát. Lý Thế Dân bắn chết Kiến Thành mà không run tay, dũng mãnh như sói, đoạt lại ngôi Thái tử.

Lý Thế Dân dũng cảm thiện chiến, đại trí đại dũng, ngay cả kỵ binh Đột Quyết quân kỳ thêu đầu sói vàng, thậm chí Khan Đột Quyết cũng phải nể sợ. Đường Thái Tôn còn được phong là “Vua trời”, cũng có nghĩa là “Vua Tăngcơli”. Sau này nhà Đường hàng phục được Đột Quyết là nhờ ở sói tính trong gia tộc Lý Đường. Trong triều nhan nhản hiền thần danh tướng người thảo nguyên, trong đó nổi tiếng nhất là Trường Tôn Vô Kỵ. “Cựu Đường thư. Trường Tôn Vô Thị truyện” chép: Trường Tôn Vô Kỵ là người sắp đặt “Sự biến Huyền vũ môn” thâm hiểm, chính ông ta ra sức khuyên Lý Thế Dân ra tay trước, còn ông ta đích thân dẫn 9 người trong đó có Uất Trì Kính Đức, Hầu Quân Tập phối hợp Lý Thế Dân giết Kiến Thành và Nguyên Cát. Trường Tôn Vô Kỵ là đệ nhất công thần đưa Lý Thế Dân lên ngôi vua, đảm nhiệm chức Tể tướng trong suốt 30 năm. Trường Tôn Vô Kỵ là người Tiên Ty, tổ tiên là hoàng tộc Tiên Ty Bắc Nguỵ, là dòng họ thế gia,đại thần trong các triều Bắc Nguỵ, Tây Nguỵ, Bắc Chu, được phong vương, thế tập tước Công, bố ông ta là Hữu Kiêu Vệ Tướng triều Tuỳ. Trường Tôn Vô Kỵ lại là anh ruột Văn Đức Trường Tôn hoàng hậu Đường Thái Tôn. Bà nội, mẹ đẻ, Hoàng hậu, thậm chí Tể tướng đều là người Tiên Ty. Cậu thấy đấy, huyết thống và tính cách Tiên Ty trong vương triều đại Đường đậm như thế nào.

Sự vĩ đại của vương triều Đại Đường bắt nguồn từ tinh cách dân tộc vĩ đại, và cũng bắt nguồn từ những người phụ nữ vĩ đại trong triều. Ba người phụ nữ thời Đường sơ không chỉ sinh ra ba bậc đế vương kiệt xuất, mà còn đích thân thành lập đội nữ binh, một “Nương tử quân” đầu tiên ở Trung Quốc. Nữ hoàng đầu tiên ở Trung Quốc cũng bắt đầu từ triều Đường. Chúng mình lên thảo nguyên chẳng đã lĩnh hội rồi đấy sao? Dân tộc thảo nguyên rất tôn trọng phụ nữ, phụ nữ có địa vị rất cao, phần lớn phụ nữ dám nói dám làm, người như Caxưmai không hiếm. Dòng máu Tiên Ty trong triều quyết định công trạng lớn lao của những phụ nữ trong triều Đường. Theo “Tân Đường thư. Truyện các công chúa”: Bình Dương công chúa, con gái Đường Cao Tổ Lý Uyên, khi Lý Uyên nổi dậy chống nhà Tuỳ, công chúa đến Quan Trung thành lập đội nữ binh liên tiếp đánh thắng quân Tuỳ và phát triển nghĩa binh đến 7 vạn người, tiếng tăm vang dội, lập công lớn khi Lý Uyên đánh chiếm Tràng An. “Tân Đường thư” chép: “Công chúa (Bình Dương công chúa - Lời người dẫn) dẫn một vạn tinh binh, hội quân với Tần vương tai Vị Bắc… tên gọi 'Nương tử quân'.” Sơn Tây có cửa quan nổi tiếng tên gọi “Nương tử quan”, sở dĩ có tên ấy là do Bình Dương công chúa từng trú quân nơi này. Mẹ đẻ Bình Dương công chúa là Thái mục Hoàng hậu Đậu thị người Tiên Ty, vợ Lý Uyên. Bình Dương công chúa là người phụ nữ kiệt xuất cùng cha cùng mẹ cùng tính cách cùng gây dựng giang sơn với Lý Thế Dân. Nương tử quân có ảnh hưởng sâu rộng tới phái nữ Trung Quốc, mà tinh thần Nương tử quân bao hàm tinh thần sói và tinh thần du mục phóng khoáng, khao khát tự do.

Lại nữa, Võ TắcThiên, nữ hoàng duy nhất ở Trung Quốc là ở đời Đường. Võ Tắc Thiên sinh ra ở Sơn Tây thấm đậm tinh thần du mục, có truyền thống cưỡi ngựa bắn cung. Tỉnh Sơn Tây là một trong những căn cứ địa của tộc Tiên Ty. Đô thành củaTiên Ty Bắc Nguỵ thời kỳ đầu đặt ở thành Sơn Tây. Bố đẻ Võ Tắc Thiên từng theo Lý Uyên khởi nghĩa chống Tuỳ, sau được phong ứng quốc công. Vì vậy cũng nên coi Võ Tắc Thiên là sói nữ trong dòng tướng.Về sau, Võ Tắc Thiên chịu ảnh hưởng tinh thần du mục của hoàng tộc Lý Đường, trở thành nhà chính trị kiệt xuất tính cách sói ở Trung Quốc. Về tính cách, dũng cảm kiên cường, trí tuệ siêu việt, tầm nhìn xa rộng, cứng rắn rất mực; về chính sách: Đả kích sĩ tộc, đẩy mạnh khoa cử, phá cách chọn người tài, khuyến khích nông tang, phát triển dân số. Duy trì suốt nửa thế kỷ sự hưng thịnh của triều đại Trinh Quan do Đường Thái Tôn khai sáng.

Trần Trận dừng một lát, đột nhiên hỏi Dưong Khắc: Cậu có chú ý bức hình Võ Tắc Thiên không?

Dương Khắc hơi bõ ngỡ, lắc đầu, nói: Không chú ý, cậu thấy có điều khác à?

Trần Trận nói: Mình đã xem chân dung bà ta, khuôn mặt phúc hậu, có tướng làm mẫu nghi thiên hạ. Tượng đá cao to nhất Lạc Dương được khắc theo lệnh bà ta. Bức tượng thần thái siêu nhiên, đẹp mà đoan trang, đầu và cổ đầy đặn. Nghe nói nhà điêu khắc thời ấy căn cứ vào người thật mà tạc, người Trung Quốc ai cũng biết. Về tiêu chuẩn thẩm mỹ, đời Đường coi béo là đẹp. Các vua đời Đường đèu tuyển người béo vào hậu cung. Đường Thái Tôn tuyển Võ Tắc Thiên làm phi. Con trai Đường Thái Tôn là Đường Cao Tôn Lý Trị theo đuổi Võ Tắc Thiên đến khi lập bà ta làm Hoàng hậu. Sau đó Đường Huyền Tôn lập Dương Ngọc Hoàn làm Quí phi. Các triều vua đều thích những phụ nữ béo tốt, hoàn toàn ngược lại tiêu chuẩn thẩm mỹ của các vua tộc Hán. Các vua Hán đa số tích những phụ nữ mảnh mai, tỉ như: “Sở vương thích eo nhỏ, hậu cung chết đói bỏ”. Sủng phi Triệu Phi Yến của Hán Thành đế, “eo lưng chưa đầy chẹt tay”, về sau được nhà vua đưa lên làm Hoàng hậu.

Vậy Hán Đường hai triều đại cùng nổi tiếng trong lịch sử, vì sao tiêu chuẩn thẩm mỹ lại khác nhau đến thế? Nguyên nhân là hoàng tộc nhà Đường và lịch đại các triều Hoa Hạ, huyết thống dân tộc khác nhau. Đời Đường “coi béo là đẹp”, phản ánh sâu sắc huyết thống và dấu ấn dân tộc Tiên Ty. Mình trước kia vẫn thắc mắc hoài về chuyện vì sao triều đại trước thì chuộng gầy mà triều đại sau thì chuộng béo? Về sau, sau khi làm rõ huyết thổng Tiên Ty của vương triều Lý Đường thì mới vỡ nhẽ, rồi liên tưởng tới cuộc sống của chúng ta trên thảo nguyên, liền rất thông. Lúc đầu khi chúng ta mới lên thảo nguyên đã phát hiện người Mông Cổ coi béo là đẹp, thí dụ cô gái tròn xoay Zânxixicơ biệt hiêu “thùng tô nô” thì quả là béo, ngay Dương Quí phi cũng không béo bằng. Hồi đó có đến hơn nửa số mã quan vây quanh lấy lòng cô ta. Những cô gái Mông Cổ được mục dân coi là người đẹp vùng Ơlôn đều béo. Dân tộc Tiên Ty và dân tộc du mục thảo nguyên Mông Cổ có mối quan hệ nhân duyên với nhau. Chắc chắn dân tộc Tiên Ty truyền Lang đồ đằng cùng với tiêu chuẩn thẩm mỹ “béo đẹp” cho dân tộc Mông Cổ. Trên thực tế, dân tộc du mục vẫn coi nuôi béo gia súc là một nghề, coi “to béo” là đẹp, đương nhiên thẩm mỹ dân tộc cũng nhìn nhận như thế.

Dương Khắc gật đầu lia lịa rồi cười, nói: Đúng thế!... Nhưng hình như hơi xa đề thì phải?

Trần Trận nói: Không xa tí nào. Đời Đường coi “béo là đẹp”, ý thức dân tộc trên bình diện thẩm mỹ chứng minh nguồn gốc tính cách vĩ đại vì sao mạnh mẽ như thế?. Người Hán luôn né tránh tinh thần du mục và huyết thống thảo nguyên đời Đường, trên thực tế người Hán rất không muốn ghi nhận quá nửa công tích của triều Đường thuộc về dân tộc thảo nguyên.

Mình nói tiếp… Lý Thế Dân hơn người ở chỗ ông ta đặc biệt coi trọng văn trị, chấp thuận chính sách “ngưng binh bị, lo văn giáo” do Nguỵ Trưng đề xuất, mở khoa thi, trọng can gián, ra sức giáo hoá, cải cách chính trị, giảm sưu thuế, khuyến khích làm kinh tế, mở ra triều đại Trinh Quan thịnh trị nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, cương thổ nhà Đường rộng lớn hơn bất cứ thời đại nào trước đó.

Mình đặc biệt nhấn mạnh: Lý Thế Dân là vị vua đầu tiên ở Trung Quốc đề xuất chính sách “Hoa Di bình đẳng”. Ông ta nói: “Xưa nay quí trọng Hoa, khinh rẻ Di Địch, riêng Trẫm yêu cả hai như nhau, nên chúng coi Trẫm như cha mẹ”. Chính sách “Hoa Di bình đẳng” được đưa ra trông bối cảnh Hoa Di thông hôn, sói tính cừu tính cân bằng về tính cách trong vương triều Lý Đường. Xưa kia và sau này, tư tưởng Nho gia chính thống ra sức” tôn Hoa biếm Di” (đề cao Hoa, bài xích các dân tộc không phải Hoa), là không nhận thấy giá trị to lớn của tinh thần du mục và tính cách dân tộc thảo nguyên và sự cống hiến có tính cứu nguy đối với dân tộc và văn minh Hoa Hạ. Nho gia còn đưa tinh thần và tính cách đó thành đối tượng chính để đả kích. Chỉ mỗi Lý Thế Dân mang trong mình dòng máu du mục, mới nhìn thấy cả ưu lẫn khuyết của dân tộc Hán và dân tộc thảo nguyên, và đích thân thực hành chính sách “Hoa Di bình đẳng”. Triều Đường sở dĩ đạt tới đỉnh điểm huy hoàng của nền văn minh cổ đại, nguyên nhân cơ bản là đã kết hợp được tính cách dũng mãnh cầu tiến của dân tộc thảo nguyên với tinh hoa Nho gia của dân tộc nông canh. Tiếc rằng, đất đai Trung Quốc quá rộng, tư tưởng trác việt “Hoa Di bình đẳng” của Lý Thế Dân nhanh chóng bị ý thức nông canh hẹp hòi Hoa Hạ và tư tưởng chính thống Nho gia bóp chết.Về sau,cuộc tiếp máu mới cấp cứu dân tộc Hoa Hạ vân do dân tộc thảo nguyên cưỡng chế, nhưng con bệnh nông canh tộc Hán đã trầm trọng, tiếp máu kiểu nào cũng không vực dậy được phong cách dân tộc hào mại, dũng mãnh thời kỳ thịnh trị Hán Đường. “Sư tử ngủ phương đông” là trạng thái ngủ đông bắt đầu từ Trung Đường, mà đồng ruộng bao la Hoa Hạ chính là “chiếc giường êm” cho sư tử ngủ say, còn Nho học là liểu thuốc ngủ.

Bắt đâu từ loạn An Sử cho đến Năm Đời Mười Nước trong khoảng 200 năm, Hoa Hạ trở lại cừu tính, đất nước rối ren. Từ đó dân tộc nông canh Hoa Hạ bắt đầu xuống dốc, tuy đôi lần xuất hiện đỉnh nhỏ, nhưng xu thế xuống dốc không thể cứu vãn. Duy trì bảo vệ văn minh và quốc thổ Hoa Hạ ngày càng dựa vào dân tộc thảo nguyên.

Tuy toàn bộ dân tộc nông canh đang hèn đi, nhưng soi tính di truyền trong dòng máu Viêm Hoàng của tổ tiên, cùng với những cuộc tiếp máu thông hôn không ngừng, trong đông đảo nông dân Hoa Hạ vẫn còn giữ lại được một ít hạt giống kiên cường dũng mãnh. Những cuộc khởi nghĩa của nông dân trong lịch sử Trung Quốc, chính là sự phản kháng của nông dân do một số hảo hán mang sói tính cầm đầu. Nhưng khởi nghĩa nông dân chỉ là công cụ để thay đổi triều đại, một khi khởi nghĩa thắng lợi, cũng không đem lại chút gì mới mẻ cho vương triều mới. Cuộc đại khởi nghĩa nông dân do Hoàng Sào lãnh đạo cuối đời Đường coi như một hành động quan trọng phục hưng dân tộc, không thành công. Tìm nguyên nhân, khởi nghĩa nông dân là “sản phẩm phụ” sản sinh từ mảnh đất nông canh, nó không tránh khỏi những hạn chế do tính chất ươn hèn của vương triều nông canh. Đại quân khởi nghĩa Hoàng Sào thế như chẻ tre, mà lại còn ngu xuẩn đốt cháy thành Tràng An, công trình hùng vĩ nhất của Trung Quốc cổ đại, nhưng nó vẫn bị kỵ binh Sa Đà không tên tuổi của Tây Đột Quyết tiêu diệt. Đó là do kẻ được tiếp máu cơ địa không bằng kẻ tiếp máu. Từ sau Hán Đường, dân tộc nông canh Hoa Hạ bất luận quân chính phủ hay quân khởi nghĩa nồng dân giao chiến với kỵ binh du mục đều thua nhiều thắng ít.

Đến Năm Đời Mười Nước là thời kỳ động loạn dữ dội do sói tính mạnh hơn cừu tính quá nhiều. Trong Năm Đời Lương Đường Tấn Hán Chu, Hậu Đường Hậu Tấn Hậu Hán, đều là chính quyền Sa Đà Tây Đột Quyết. Cùng thời, còn có nước Liêu hùng mạnh, là đất nước của dân tộc du mục do Khiết Đan - hậu duệ của Tiên Ty, dựng nên.

Năm 960, Triệu Khuông Dận không tốn một giọt mồ hôi, vong ân bội nghĩa cướp Bắc Tống do Chu Thế Tôn dựng nên sau khi đánh chiếm trung nguyên. Thời kỳ đầu, Bắc Tống ăn theo cuộc tiếp máu thời kỳ Năm Đời, còn có chút sinh khí. Nhưng Tống Thái Tổ không có chút nhuệ khí của “sói văn minh” như Hán Vũ đế và Đường Thái Tôn. Tống Thái Tôn hai lần bắc phạt đều bị nước Liêu đánh cho tơi tả, nhưng khi ông ta thu phục các nước Hán tộc phương nam thì dễ như trở bàn tay.

Từ sau Trung Đường, trọng tâm kinh tế Trung Quốc từ miền bắc chuyển xuống miền nam. Thời kỳ Đường mạt, Năm Đời kinh tế miền bắc bị phá hoại nghiêm trọng, sự cách biệt giữa hai miên nam bắc càng lớn. Thực lực kinh tế lớn mạnh của các nước Hán tộc miền nam không vực nổi tính cách dân tộc đã nhu nhược. Các vị đế vương phương nam từ lâu xương cốt đã nhũn ra vì “xuân hoa thu nguyệt”, “điêu lan ngọc thế” và phong cảnh giang nam. Do đó, miền bắcđã được tiếp máu mang sói tính, dễ dàng tiêu diệt hoặc thu phục các nước Hán tộc miền nam. Lý Hậu chủ, Ngô Việt vương lần lượt đầu hàng. Hán Đường xuân thu, các nước miền nam Trung quốc mà khí thế và tính cách “dời non lấp biển”, “khí tráng sơn hà”, “ba nghìn giáp sĩ nước Việt nuốt chửng Ngô”, “Sở tuy ba hộ, nhưng diệt Tần chính là Sở”… nay không còn nữa. Môi trường nông canh lâu dài cộng với Nho giáo, đã “nhũn hoá” miền nam Trung Quốc không thảo nguyên.

0O0

Trần Trận tiếp tục nói: Triều Tống là thời kỳ tính cách quốc dân Hán tộc có sự chuyển biến về chất. Ngoại trừ tích luỹ rất nhiều nhân tố bất lợi, sự chuyển biến về tính cách đối với Hán tộc triều Tống, có hai tác dụng quan trọng và đặc thù:

Trước hết, Bắc Tống không còn sức thu hồi thảo nguyên vốn có từ Hán Đường. Gọi là Đại Tống, nhưng cương thổ không bằng một nửa thời Hán Đường. Phía bắc bao gồm nước Liêu Khiết Đan khuôn viên vạn dặm gồm miền bắc Hoa bắc và thảo nguyên Mông Cổ. Phía tây là Đảng Hạng Tây Hạ dũng mãnh và Khương tộc Thổ Phiên. Phía tây nam là nước Đại Lý của dân tộc Bạch. Cục diện đó dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Vốn là từ Viêm Hoàng tới Hán Đường, Hoa Hạ có khu chăn nuôi gồm thảo nguyên lớn Bắc bộ và Tây bắc hoàn toàn có khả năng tạo máu với tính cách mạnh mẽ. Thảo nguyên rộng lớn trong lịch sử đã đàp tạo cho dân tộc Hoa Hạ biết bao quân hùng tướng mạnh và những đế vương kiệt xuất. Xưa có câu: “Quan Tây sản sinh ra tướng võ, Quan Đông sản sinh tướng văn”. “Lương Châu quan võ, phong thổ binh nhung” (Tống sử. Lý Cương truyện). Lại nói: “Tự cổ trung hưng tự tây bắc, nhưng chiếm cứ trung nguyên thì phải đông nam”. Thời Hán Đường, các đế vương hùng tài đại lược sở dĩ tha hồ kinh doanh tây vực, nắm chắc thảo nguyên tây bắc, vì hiểu sâu sắc nơi đây bảo vệ cái gốc nền văn minh Trung Hoa, còn tinh thần và tính cách du mục là xương sống của Trung Hoa. Thời kỳ Hán Đường, hạ tầng cơ sở bán nông bán mục (nửa trồng trọt nửa chăn nuôi) duy trì mạng sống của tính cách nửa sói nửa cừu của dân tộc Hoa Hạ. Triều Tống bất lực không thể thu hồi thảo nguyên tây bắc - mạng sống của dân tộc Hoa Hạ, đã ảnh hưởng chí mạng tới sự chuyển biến tính cách cuối cùng của dân tộc Hán.

Thứ đến, sự thịnh hành của “lý học” triều Tống. Do Hoa Hạ triều Tống chỉ còn quốc thổ thuần nông canh, cây đại thụ Nho giáo Trung Quốc bị mảnh đất thuần nông canh càng phát triển càng nông canh hoá, ngày càng cực đoan. Sự xuất hiện “lý học” triều Tống làm yếu hẳn đi tinh thần vươn lên của Nho gia thuở ban đầu, trái lại, tăng cường đè nén áp chế “tinh thần mới” trong tính cách dân tộc. Tai hại nhất là đề xuất “tồn thiên lý, diệt nhân dục”: Tam cương ngũ thường là thiên lý, phải dùng “thiên lý” này diệt trừ nhân dục. Với sói tính và sói dục thì lại càng phải đào tận gốc trốc tận rễ. Chỉ có bịt đường sói thì mới thênh thang đường cừu. Lý học áp chế dân tộc Hán tới mức chỉ biết vâng lời như trâu ngựa đã thuần hoá, bất chấp tất cả, khiến sức sản xuất dưới triều Tống phát triển mạnh mẽ, còn chế tạo ra vũ khí nổ tiên tiến nhất có sức uy hiếp nhất thế giới hồi ấy, như súng hoả mai, hoả tiễn, hoả tật lê, tích lích pháo, súng phun lửa …Mặc dù vậy, vẫn không cứu vãn nổi sự khuyết khiếm trong tính cách dân tộc ngày càng ươn hèn, càng cừu hoá.

Lịch sử đã chứng minh, một dân tộc muốn phục hưng và giàu mạnh, phải phát triển sức sản xuất, nhưng không thể “duy sức sản xuât”. Phát triển sức sản xuất là cơ sở chấn hưng dân tộc, nhưng vẫn chưa phải là cơ sở của cơ sở, phải bồi dưỡng tính cách dân tộc cùng với phát triển sức sản xuất, mới chắp đủ hai cánh cho dân tộc bay lên.

Đến triều Tống, về tính cách, Hán tộc Hoa Hạ thuần nông canh rốt cuộc chuyển hoá từ “văn minh sói” mạnh mẽ thời Hán Đường, xuống “văn minh cừu” nhu nhược.

Vậy mà Bắc Tống vẫn có 160 năm ổn định và phồn vinh. Nhưng đó không phái tự thân nó lớn mạnh, mà do kẻ địch mạnh Khiết Đan nước Liêu phát sinh chuyển biến to lớn về tính cách dân tộc. Nước Liêu trước khi triều Tống thiết lập mười mấy năm, đã chiếm khu vực nông nghiệp Hán tộc ở 16 châu U Vân Hoa bắc. Sau đó, nông nghiệp Liêu phát triển mạnh mẽ, lan rộng ra vùng đất đen phía đông bắc. Qua mấy chục năm khai khẩn trồng trọt, dẫn đến tỉ lệ nông nghiệp trong kinh tế nước Liêu ngày càng cao,đông đảo mục dân biến thành nông dân. Vậy là từ một đất nước thuần du mục dần trở thành nước bán canh bán mục lấy nông nghiệp làm chính. Thế là qui luật thép nông canh làm yếu tính cách dân tộc cũng tác động mãnh liệt nước Liêu Khiết Đan, tính cách sói của tộc Khiết đan bắt đầu yếu đi. Thời kỳ Tiêu Thái hậu, hai nước Liêu Tống ký kết hoà ước bất bình đẳng “Minh ước Đàn Uyên”. Triều Tống mỗi năm cống nộp Liêu một khoản kếch sù, Tống Chân Tôn còn gọi Tiêu Thái hậu bằng thím, nhưng chiến tranh lâu dài cơ bản chấm dứt, hai nước “hoà bình hữu nghị”, yên tâm ngủ ngon, hai nước yên ổn trong hoàn cảnh nông canh, cả hai cùng giàu lên và cùng yếu đi về tính cách.

Nhưng cừu muốn lặng mà sói chẳng dừng, qui luật này vẫn chi phối thế giới. Trong khi nông nghiệp nước Liêu ngày càng phát triển, Nữ Chân một dân tộc du mục sinh sống trên lưu vực Hắc Long giang và Tùng Hoa Giang trỗi dậy mau chóng. Để thoát khỏi sự áp bức của nước Liêu, lãnh tụ Nữ Chân Wan En A Cu Ta dẫn kỵ binh Nữ Chân hung dữ như sói tấn công nước Liêu, nhanh chóng chiếm lĩnh một khu vực rộng lớn của Liêu và thành lập nước Kim. 20 năm sau, triều Kim Thái Tôn, Kim diệt Liêu. Nước Liêu bán canh bán mục cũng không cản nổi kỵ binh dũng mãnh như sói của Kim, nói gì đến Bắc Tống lúc này tuy giàu có nhưng yếu đuối kiểu “văn minh cừu”!

Con cừu đầu đàn của “văn minh cừu” Tống Huy Tôn đã “văn minh” tới mức trở thành một hoạ sĩ kiệt xuất, vẽ chim muông hoa lá mềm mại hơn thêu. Kim Thái Tôn có con mắt tinh đời, nhìn ra ngay chất “cừu” của triều Tống. Quân Kim sau khi diệt Liêu, không cần chỉnh đốn quân sĩ, tiến thẳng xuống phía nam khiến Tống Huy Tôn sợ quá lập tức thoái vị, nhường ngôi cho con trai là Triệu Hoàn, đó là Tống Khâm Tôn. Đây là hai vị vua hủ bại bất tài nhất Trung Quốc. Năm sau. Quân Kim lại tấn công nước Tống, quân Tống bạc nhược như cừu thấy sói, chạy tán loạn. Khai Phong gần như mở cổng thành rước địch, quân Kim đánh chiếm dễ dàng, bắt sống cả hai vua Huy Khâm, bạc vàng châu báu trong kho bị vét sạch, mấy nghìn mỹ nữ hậu cung bị đem về Kim làm thê thiếp. Bắc Tống, một nước mà khi ấy dân số lớn nhất thế giới, sức sản xuất phát triển nhất, có vũ khí lửa tiên tiến nhất, có “Tôn tử binh pháp” trí tuệ nhất, gần như không đánh đã thua, hai năm thì mất nước. Nước Tống khi ấy gì cũng có, nhưng cái mà họ thiếu là tính cách dân tộc mạnhmẽ, “xương sống” của dân tộc.

“Nỗi nhục Tịnh Khang” là sự sỉ nhục lớn nhất của tộc Hán Hoa Hạ, thậm chí còn nhục hơn nỗi nhục của Thanh mạt sau này. Mãn Thanh chí ít còn dám đánh nhau vài trận với liệt cường, cầm cự vài chục năm, và cũng không nhường ngôi cho liệt cường. Một dân tộc nếu như không coi tăng cường tính cách dân tộc là quốc sách cơ bản, thì dù kinh tế văn hoá phát triển đến đâu, dân số quân đội đông đảo đến mấy, kết cục sẽ như vết xe “Bắc Tống”.

May mà Trung Quốc khi đó rất xa văn minh Cơ đốc giáo và văn minh Ixlam. Nếu như quân Kim hồi đó là quân đội văn minh cao cấp thì dân tộc Hoa Hạ có thế đã đổi tên, đổi văn hoá, đổi nòi giống, đổi tín ngưỡng. Các dân tộc Tây vực vốn tìn ngưỡng Phật giáo, về sau bị buộc phải theo đạo Ixlam mà thay đổi tất cả đó sao? Chuyện nàycũng không can hệ đối với Tống, vì khi đó Tống đã không đủ sức thu hồi Tây vực.

Cùng với sự tăng trưởng tính nông canh, tính cách dân tộc Hoa Hạ ngày càng ươn hèn, đất đai rộng lớn bị mất, thủ đô Hoa Hạ từ nơi tiếp cận khu vực du mục bỏ chạy về khu vực thuần nông, từ tây bắc rút về đông nam, càng rút càng ươn hèn, càng ươn hèn càng rút chạy. Từ Tràng An của thời kỳ Tần Hán Tuỳ Đường, rút về Lạc Dương của Đông Hán Tây Tấn, lại rút về Khai Phong của Bắc Tống, cuối cúng rút chạy về Nam Kinh, Hàng Châu của Nam Tống. Hàng Châu khi ấy là quê hưong của nhứng lời ca điệu múa mượt mà, tự nhiên trở thành quốc đô cuối cùng của tộc Hán triều Đại Tống. Nếu một dân tộc chỉ đầu và tay phát triển mà không có xương sống rắn chắc, cũng chỉ có thể trở thành một con vật nhuyễn thể không xương. Nam Tống ươn hèn bất tài cuối cùng chỉ còn cách dâng ngọc tỉ truyền quốc cho vương triều Mông Cổ, cả nước đầu hàng. Tình trạng bắc mạnh nam yếu kéo dài cho đến thời cận đại sau khi văn minh phương tây đổ vào nam Trung Quốc kinh tế, kỹ thuật và tư tưởng, mới thay đổi về căn bản.

Trần Trận thở dài, nói: Nhưng mình ngưỡng vọng Tăngcơli, nghĩ kỹ thấy Tăngcơli là đúng. Một dân tộc tính cách ươn hèn mà làm chủ đất đai rộng lớn và phì nhiêu đến thế, Tăngcơli cũng xấu mặt, lẽ trời lồng lộng, khó có thể dung tha một dân tộc mà tính cách “tròn trịa” như thế này. “Lẽ tròi” không sai, những nông phu nhu nhược đừng kêu thiên hạ tàn nhẫn, trên thực tế các nông phu cũng căn cứ vào lẽ trời mà đối xử với hoa màu, quyết không để cây xấu cây tồi chiếm chỗ đất tốt, mà phải cuốc bỏ, nhường chỗ cho những cây tốt cây khoẻ. Có điều, Tăngcơli chưa khai trừ dân tộc “tròn trịa” này, vì rằng đầu và tay dân tộc Hoa Hạ rất nổi tiếng, thuần hoá sớm nhất quả lật và cây lúa, sáng tạo ra kỹ thuật tiên tiến nhất cung cấp cho bốn phát minh lớn: tơ, trà, đồ sứ, nghề nhuộm và văn sử triết kinh mênh mông như biển. Đặc biệt là bốn phát minh lớn: La bàn giúp các dân tộc trở thành nhà hàng hải chân chính, giúp họ trở thành sói biển nhận rõ phương hướng trên đại dương, giúp họ phát hiện đại lục mới, tích luỹ nguyên thuỷ cho chủ nghĩa tư bản; Làm giấy, kỹ thuật in, và thuốc súng thì lại giúp các dân tộc phương tây đánh sập thành luỹ phong kiền phương tây ngu muội và ngoan cố hồi trung thế kỷ. Dân tộc Hoa Hạ đã cống hiến to lớn cho văn minh thế giới, nên ông trời có mắt, Tăngcơli sai người con cả - dân tộc du mục thảo nguyên dạy dỗ cẩn thận thằng em nông canh hèn đớn, liên tục tiếp máu, cứng hoá xương sống cho nó, để nó lại đứng vững.

Nông canh tiếp tục phát huy tác dụng to lớn mềm hoá tính cách dân tộc. Khiết Đan sau khi diệt Liêu, nước Đại Kim hùng mạnh lại sa váo vết xe đổ của nước Liêu. Nước Kim hồi đó nông nghiệp rất phát triển, khi cực thịnh, diện tích canh tác lớn hơn cả nước Tống. Nhân khẩu nông nghiệp bột phát gia tăng, từ 3 triệu hộ ban đầu, phát triển lên 7,6 triệu hộ, dân số 45 triệu người, vượt dân số cả nước thời Tống Chân Tôn. Kết cục, dân tộc Nữ Chân cũng ngày càng bạc nhược.

Mặt trời đã trở màu vàng, thảo nguyên Ơlôn giống như một đại sa mạc màu vàng kim, thung lũng mà xưa kia đàn sói thường lui tới, bóng râm đã phủ quá nửa. Trần Trận đứng dậy rồi theo bản năng, nhìn lên hang sói trên sườn núi. Thời làm dương quan, mặt trời trở màuvàng là phải đề phòng sói ra bắt cừu. Sói gây ấn tưọng trong anh sâu sắc hơn bị rắn cắn. 20 năm đã qua, lúc này, trên sống lưng lại tái hiện cảm giác lạnh toát. Anh duỗi chân duỗi tay, bảo Dương Khắc: Đã về được chưa? Caxưmai chắc sốt ruột lắm rồi đấy.

Dương Khắc đang hào hứng nghe, vội xua tay: Không sao, Caxưmai biết rõ chúng mình có cái tật là đã trò chuyện là bất kể sớm tối. Lúc đi mình đã nói với chị ấy, có thể đêm nay không về nhà ngủ, đi thăm một đội. Cậu đã học được cách kể chuyện của ngưòi kể chuyện rong, đến đoạn gay cấn nhất, lại "Muốn biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ". Mình biết, hồi sau là kỵ binh Mông Cổ vào chuyện. Lên xe đi! Mình ngả ghế, cậu nửa ngồi nửa nằm mà nói, còn mình cũng vậy mà nghe. Tiếp tục đi!

Trần Trận lên xe, nửa nằm nửa ngồi, nói: Không ngờ mở hội thảo ngay tại nơi sói con ra đời, rất dễ nhập vai. Mình đã tiếp nhận địa khí của hang sói.

Trần Trận lập tức kể tiếp: Đến khi dân tộc thảo nguyên Mông Cổ trỗi dậy, đừng nói gì dân tộc nôngcanh Trung Quốc bạc nhược tới mức không chịu nổi một đòn, mà tất cả nhứng dân tộc nông canh trên thế giới không còn đủ sức đánh trả. Mười mấy vạn kỵ binh Mông Cổ sở dĩ càn quét châu u là do hai nguyên nhân chính:

Nguyên nhân thứ nhất, dân tộc Mông Cổ là dân tộc du mục tin thờ linh vật sói chân thành nhất, coi sói là tôtem, thú tổ, thần chiến tranh, tông sư, hình mẫu và hộ pháp của các dân tộc du mục.

Người Mông Cổ không chỉ thừa nhận tổ tiên mình là “sói xanh “từ trên trời xuống, hơn nữa, lãnh tụ của những bộ tộc hạt nhân, thậm chí bản thân những bộ tộc hạt nhân còn gọi mình là sói. Vì vậy nhà sử học Ba Tư Laxthơ trong quyển I danh tác “Sử tập” chỉ ra rằng, Gia tộc Lục tổ Hai Đô Khan sinh ra Thành Cát Tư Khan (quen gọi Thành Cát Tư Hãn), Ngũ tổ Basânnhi Khan và Tứ tổ Đônpinai Khan phát triển đến đời Tứ tổ Thành Cát Tư Khan,đã xuất hiện một bộ lạc hạt nhân trực hệ vương tộc Mông Cổ - “bộ lạc xinaxư”. Hai lãnh tụ của bộ lạc này chính là hai con trai của Tứ tổ Thành Cát Tư Khan Đônpinai Khan, một người tên Kiên Đô - Xíchna, một người tên Anlukhơsân - Xíchna. Tiếng Mông Cổ, Xíchna nghĩa là “sói”. Laxthơ nói: “Kiênđô Xíchna” nghìa là sói đực, “Anlukhơsân Xíchna” là sói cái. Do vậy tên của hai vụ lãnh tụ này là sói đực và sói cái. Không chỉ có thế, họ còn gọi tên bộ lạc của họ là “Xíchnasư”, có nghĩa là đàn sói. “Bộ lạc Xíchnasư” có nghĩa là “bộ lạc sói đàn”. Nhà sử học hàng đầu về Mông Cổ Hàn Nho Lâm tiên sinh giải thích: “Xíchnasư là số nhiều, có nghĩa là tập đoàn sói”.

Hơn nữa, bố đẻ ông chú Thành Cát Tư Khan cũng lấy sói để đặt tên. Laxthơ chỉ ra rằng: Xaxưhơ Lincôn sau khi anh trai chết, lấy chị dâu làm vợ… Người vợ đầu của ông ta lại sinh thêm mấy người con trai, trong đó một người thừa kế ngôi vị của cha và rất nổi tiếng, tên ông ta là Xuơnhâytuhu - Xíchna. Ông ta ở cùng Đônpinai Khan. Con trai ông ta và người kế vị là Enbakhai Hơhan. Enbakhai là chú ruột Thành Cát Tư Khan, và như vậy bố đẻ chú ruột Thành Cát Tư Khan tên là Xuơnhâytuhu - Xichna. Xuơnhâytuhu tiếng Mông Cổ không rõ nghĩa, nhưng “Xichna” nghĩa là “sói”. Do đó, bố đẻ của chú ruột Thành Cát Tư Khan tên là “Sói”.

Người Mông Cổ đặt tên “Xichna”, tức “Sói” rất nhiều. Có thể thêm một ví dụ: “Sử tập” chép, cụ tổ ba đời của Thành Cát Tư Khan là Hơbulơ Khan, con trai thứ tư của cụ tên Hơđan, thông gia của Hơđan có tên là Alihây - Xichna, “Alihây” không rõ nghĩa, còn “Xichna” nghĩa là “Sói”.

Có thể thấy, sói trong con mắt người Mông Cổ rất cao quí, mà người Hán thì không ai đặt tên cho con là “sói”. Sự thực nói trên có thể chứng minh, Thành Cát Tư Khan nổi tiếng thế giới không chỉ lớn lên trên thảo nguyên sói, mà còn lớn lên giữa đàn “người sói”.

Do đó Mông Cổ là dân tộc lấy sói làm tổ tiên, coi sói như thần, vinh dự vì sói, so mình với sói, hiến thân cho sói ăn thịt, nhờ sói đưa lên trời, là một dân tộc dũng cảm kiên cường, khôn ngoan mưu trí trong thế giới cổ đại. Kỵ binh Mông Cổ là đội quân hung hãn nhất, mưu trí nhất thiện chiến nhất do sói thảo nguyên huấn luyện nên.

Nguyên nhân thứ hai khiến Thành Cát Tư Khan có thể càn quét thế giới là, văn minh nông canh cổ đại đã chín nhũn từ hạt điều cứng thành hạt điều thối. Còn kỵ binh Mông Cổ được vũ trang bằng tinh thần linh vật sói thảo nguyên dã sáng tạo kỳ tích trên thế giới:dựng nên một đại đế quốc Mông Cổ trên bản đồ lịch sử thế giới, đạt tới đỉnh cao nhất có thể đạt của sức mạnh du mục thảo nguyên.

Cần lưu ý là, đế quốc La Mã cổ mà bản đồ trong lịch sử chỉ nhỏ hơn bản đồ đại đế quốc Mông Cổ, là đế quốc sùng bái tinh thần sói, tấm huy hiệu có hình con sói cái, đến nay vẫn khắc sâu trong “tinh thần du mục” của người Tây u. Hai đế quốc có bản đồ lớn nhất trong lịch sử cổ đại, đều sùng bái tinh thần sói. Chẳng lẽ không thể chứng minh ảnh hưởng và vai trò vĩ đại của sói?

Sự bạc nhược của nước Kim, diệt vong của Nam Tống, thắng lợi của kỵ binh Mông Cổ không liên quan gì đến sức sản xuất cao hay thấp, mà liên quan trực tiếp tới sự tồn tại của dân tộc nông canh và tính cách dân tộc mà họ quyết định. Một dân tộc nếu không muốn rơi vào số phận bị đào thải, thì phải bảo tồn một phần hoặc sáng tạo phương thức sản xuất có thể đào tạo tính cách dân tộc và sự tồn tại của dân tộc. Tóm lại, một dân tộc chỉ có rèn luyện cho mình một tính cách dân tộc kiên cường dũngcảm, thì mới nắm được số phận của mình.

Triều Nguyên ở Trung Quốc do Mông Cổ lập nên đã góp phần to lớn trong việc giao lưu văn hoá giữa phương đông và phương tây. Đối với Trung Quốc và dân tộc Hoa Hạ, công lao cũng không thể mai một:

Trước hết, Mông Cổ đã đem lại cho Trung Quốc một cương vực chưa bao giờ rộng lớn đến thế, diện tích vượt cả thời Hán Đường, một lần nữa trưng ra cho thế giới thấy phạm vi không gian sinh tồn của người Trung Quốc. Triều Nguyên giữ vai trò quan trọng trong cuộc bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc, nếu không, khoảng hai ba trăm năm sau Hán Đường nhiều vùng không còn dưới sự quản hạt của chính phủ Trung Quốc, có khả năng mất vĩnh viễn, trở thành lãnh thổ của nền văn minh khác, khiến Trung Quốc mất đi tấm bình phong che chắn cho khu vực nông canh. Thời Minh, đế quốc Đột Quyết hùng mạnh Xưtan Thiếp Mộc Nhĩ từng rêu rao sẽ bắt người Trung Quốc cải theo đạo Ixlam. Thiếp Mộc Nhĩ đại Khan suýt dẫn một triệu quân kỵ tấn công Trung Quốc. Sau đó, Thiếp Mộc Nhi bị ốm chết, Trung Quốc mới thoát đại hoạ này. Giả dụ Thiếp Mộc Nhĩ không chết, giả dụ tây nắc không còn trong tay Trung Quốc mà bị dân tộc Ixlam chiếm giữ, lại giả dụ hàng triệu quân từ Cam Túc Ninh Hạ tấn công Trung Quốc, lãnh thổ và nền văn minh Trung Quốc có còn không? Vì vậy, triều Nguyên khôi phục lãnh thổ Trung Quốc mở rộng từ thời Hán Đường, có công lớn trong việc mở rộng tấm bình phong tây bắc, đảy lùi rất xa đường biên các nước có nên văn minh cao mà hung hãn, đồng thời đặt nền móng cho hai triều Minh Thanh sau này tiếp tục thu hồi, bảo vệ và mở rộng lãnh thổ, điều này rất quan trọng cho người Trung Quốc sinh tồn và phát triển thời hiện đại.

Thứ nữa, là một cuộc tiếp máu to lớn về tính cách dân tộc. Điều này có thể xem xét từ bốn phương diện sau: Một, Mông Cổ làm chủ Hoa Hạ, đem theo tinh thần du mục dũng cảm kiên cường và phong tục thảo nguyên: đấu vật, cưỡi ngựa bắn cung, đua ngựa, săn bắn, ăn thịt bò cừu, ăn uống thả giàn, phụ nữ không bó chân, phụ nữ xuất đầu lộ diện nơi công cộng, quét sạch những hủ tục thời Bắc Tống như tục bó chân chẳng hạn; Hai, tuy một số trong tầng lớp trên như Hốt Tất Liệt đa bị lún sâu trong tinh thần Nho gia, nhưng đông đảo âun chức và binh sĩ Mông Cổ vẫn không thay đổi tính cách thảo nguyên, chống lại có hiệu quả thế lực Nho gia, khiến một bộ phận dân tộc Hoa Hạ được giải phóng; Ba, dân tộc thống trị bao giờ cũng áp đặt tính cách, phong tục tạp quán dân tộc mình lên dân tộc bị trị, còn tính cáchphong tục tập quán dân tộc bị trị lại là đối tượng bị dân tộc thống trị bắt chước. Mối quan hệ hai chiều áp đặt và mô phỏng ấy chính là “tiếp máu” và “nhận máu” về tính cách dân tộc. Ngoài ra, giữa các dân tộc, thông hôn lai tạo ngày càng nhiều, tăng cưòng một bước huyết tính và tính cách dân tộc Hoa Hạ; Bốn, Do triều Nguyên là một triều đình lớn do dân tộc du mục thảo nguyên lần đầu tiên trong lịch sử thiết lập trên cả nước Trung Quốc, dân tộc thảo nguyên dân số ít ỏi đã đánh bại dân tộc Hán dân số khổng lồ trên thế giới, thống trị toàn bộ Hoa Hạ. điều này là một cú sốc đối với dân tộc Hán vốn tự cao tự đại, khinh rẻ các dân tộc khác. Do đó, dân tộc Hán cũng cảm thấy xấu hổ về tính cách ươn hèn và thất bại của dân tộc mình, từ đó kích phát những người con ưu tú của dân tộc Hoa Hạ tự giác hành động, học tập tính cách mạnh mẽ của dân tộc Mông Cổ. Chu Nguyên Chương là một ông vua người Hán rất khâm phục người Mông Cổ.

Vì vậy mình cho rằng, dân tộc Mông Cổ triều Nguyên đã làm một cuộc tiếp máu kịp thời và có hiệu quả, ảnh hưởng và tiếp máu non một thế kỷ, khiến dân tộc Hoa Hạ trỗi dậy lần nữa. Đến cuối triều Nguyên đã xuất hiện hàng loạt những lãnh tụ nghĩa quân dũng cảm kiên cường. Đó là kết quả trực tiếp của lần tiếp máu này.

Nguyên nhân thất bại sau đó của dân tộc Mông Cổ cũng giống như Bắc Nguỵ Tiên Ty, nước Liêu Khiết Đan, nước Kim Khiết Đan. Một dân tộc dù dũng mãnh đến mấy, nhưng một khi sa vào thế giới ruộng đồng mênh mông của dân tộc Hoa Hạ, đèo lên cổ tinh thần Nho gia, qua vài thế hệ là sói tính bị thoái hoá. Do đồng ruộng Hoa Hạ lớn nhất thế giới, nên sức mạnh mềm hoá của nó cũng lón nhất thế giới. Dân tộc Mông Cổ thiết lập trên thế giới bốn nước Khan, nhưng triều Nguyên ở Trung Quốc thất bại sớm nhất.Người Hán chỉ trong tám chín mươi năm là đã đuổi được người Mông Cổ về thảo nguyên. Năm 1368 Chu Nguyên Chương lật đổ triều Nguyên, thành lập vương triều Minh.

Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương và con trai Minh Thành Tổ Chu Đệ là những ông vua Trung Quốc kiệt xuất ra đời trên đại lục Hoa Hạ sau khi tiếp máu. Trong người họ, sói tính trong máu họ rất ít thấy ở người Hán: dũng mãnh, trí tuệ, ngoan cường, tàn nhẫn, khí phách và chí lớn. Chu Nguyên Chương có thể làm được như Đường Thái Tôn xung phong hãm trận, đi đầu quân sĩ. Sau khi chiếm lĩnh Nam Kinh, không ở lại hưởng lạc như lãnh tụ nghĩa quân nông dân Hồng Tú Toàn, mà dốc hết quân mạnh tướng giỏi tiến lên đánh chiếm Đại đô. Sau đó đánh chiếm Tứ Xuyên, bình định Vân Nam, cơ bản hoàn thành thống nhất cả nước. Ông ta không nương tay, giết đại tướng tham quan và công thần phạm pháp, cực kỳ tàn nhẫn. Chu Đệ luôn đi đầu trong những cuộc giao chiến với kỵ binh Mông Cổ, rèn luyện được tính cách dữ như sói. Ông ta thoán quyền đoạt ngôi tàn ác kinh người, sáng tạo hình phạt “giết 10 họ” thảm khốc chưa từng thấy. Hành động chuyên chế bạo ngược của cha con Chu Nguyên Chương cần phê phán, nhưng tính cách sói mạnh mẽ của cha con ông ta trong chiến đấu cũng cần khẳng điịnh. Hai người hoàn toàn không giống các vua triều Minh sau đó chỉ tàn bạo với dân chúng mà không dám chống lại kẻ địch mạnh, các vị này không còn là sói thảo nguyên, mà là lũ chuột đồng, khi hữu sự, cháy nhà ra mặt chuột.

Vì sự nghiệp vĩ đại khôi phục trung nguyên, đuổi kỵ binh Mông Cổ về thảo nguyên, Chu Đệ dám từ bỏ Nam Kinh gạo trắng nước trong, khí hậu ấm áp, dời đô lên phòng tuyến quân sự số một Bắc Kinh, hơn nữa còn năm lần thân chinh cầm quân đánh giặc cho đến khi ốm chết trên đường tiến quân. Một vị hoàng đế đang tại vị mà dám từ bỏ hưởng thụ, sốg cuộc đời quân ngũ “da ngựa bọc thây”. Người như thế không chỉ mình ông. Vĩnh Lạc đại đế không thẹn với danh hiệu đại đế Hán tộc, “Vĩnh Lạc đại điển” là bộ đại điển ưu tú nhất, khoan dung độ lượng nhất, dàm thu thập cả những bất đồng chính kiến.

Hai ông vua hùng tài đại lược nhà Minh so với các vị vua hủ bại bạc nhược Nam Tống, khác nhau một trời một vực. tính cách sói của họ rất khó sẩn sinh từ mảnh đất nông canh Hoa Hạ sau thời Hán Đường. Cuộc tiếp máu lớn của dân tộc Mông Cổ không những đã tạo nên tính cách sói của cha con Chu Nguyên Chương, còn tạo nên những tướng người Hán đại trí đại dũng như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân v.v… đậm sói tính. Triều Minh lúc cực thịnh, cương vực mở rộng tới đảo Khố Diệp Hắc Long giang phía bắc, Tây vực và Tây Tạng. Trừ thảo nguyên Mông Cổ, đã thu phục toàn bộ đất đai thời Hán Đường, chấm dứt thế yếu. Lần phục hưng này của dân tộc Hán phải cảm ơn dân tộc Mông Cổ đã cho máu, cảm ơn tôtem sói một lần nữa sống lại trên đất Hoa Hạ.

Thế nhưng về tính cách mà xét, người nhận máu bao giờ cũng yếu hơn người cho máu. Triều Minh mạnh mẽ ban đầu sau đó không thắng nổi Nguyên Mông phía bắc. Thảo nguyên sói tính là nguồn sức mạnh của kỵ binh Mông Cổ. Sau khi rút về thảo nguyên, kỵ binh Mông Cổ lập tức trở lại mạnh mẽ. Minh Thành Tổ năm lần thân chinh, trừ một lần thắng, bốn lần kia đều không đạt hiệu quả, quân Minh không tìm thấy kỵ binh chủ lực Mông Cổ hành tung bí ẩn như bầy sói. Trái lại, kỵ binh Mông Cổ liên tiếp đả thương quân Minh, đánh bại đại quân chủ lực của Từ Đạt, diệt gọn 10 vạn quân sĩ do Khưu Phúc chỉ huy, đánh tới trường thành mà Minh tu sửa dã hơn 200 năm, bi thảm nhất là trong trân Tumubao, 2 vạn quân kỵ khu Oaxưbu tiêu diệt 50 vạn đại quân do Minh Anh Tôn chỉ huy và bắt sống Đại Minh hoàng đế Minh Anh Tôn. Nếu không có Vu Khiêm chỉ huy quân dân hăng hái chiến đấu bảo vệ Bắc Kinh thì triều Nguyên có thể tái lập. Từ đó căn bệnh cừu tính cũ một lần nữa lại phát tác, lý học Tống Minh lại khiến tinh thần dân tộc không gượng dậy nổi, vương triều Đại Minh ngày càng suy yếu, đất chăn nuôi rộng hàng ngàn dặm bên ngoài quan ảilại bị mất, cho đến khi bị Mãn Thanh tiêu diệt. Còn điều này nữa, nghĩa quân nông dân của Lý Tự Thành mà các sử gia hiện đại ca ngợi, cũng không chịu nổi một đòn, bị kỵ binh dũng mznhx Mông Cổ diệt gọn, trượt theo vết xe đổ của nghĩa quân nông dân Hoàng Sào. Một chút nguyên khí do dân tộc Mông Cổ triều Nguyên tiếp cho, đã lại cạn kiệt, rốt cuộc dân tộc Hán không thể đơn độc chống đỡ ngôi nhà Hoa Hạ, phải nhường trọng trách này cho Mãn Thanh, dan tộc du mục phương bắc.

0O0

Trần Trận lật trang bản thảo, nói tiếp, triều đại Thanh do tộc Nữ Chân dựng nên là vương triều đế chế cuối cùng ở Trung Quốc. Đây là một triều đại làm nên hiều chuyên đáng kính nể trong lịch sử Trung Quốc. Mình đặc biệt thích vương triều Thanh. Cậu thử nghĩ coi, dân tộc Mãn chỉ vài chục vạn dân mà dựng nên triều Đại Thanh, thống trị mẩy trăm triệu người Hán, đất đai chỉ kém đôi chút so với đất đai rộng lớn của đại đế quốc triều Nguyên Mông, hơn nữa, còn sáng tạo ra thời “thịnh trị Khang Càn” (Khang Hy, Càn Long) khoảng 120 năm, dài gấp đôi hai giai đoạn thịnh trị của hai triều cộng lại (“Thịnh trị Văn đế Cảnh đế” đời Hán, “thịnh trị Trinh Quan đời Đường”). Mãn Thanh là triều đại làm nên nhiều chuyện, có nhiều vị vua văn thao vũ lược nhất, tiếp nối ngôi tốt nhất trong các triều đại Trung Quốc. Nếu như thịnh trị Khang Càn đối mặt không phải các nước phương tây thời đại thuyền buồm, mà đã phát triển lên thiết giáp hạm, mình tin rằng thời đại Khang Càn sẽ xuất hiện một Minh Trị Thiên hoàng Trung Quốc, duy tân thắng lợi. Và với tính cách du mục cầu tiến sẽ du nhập văn minh, chế độ và công nghiệp phương tây, thay đổi triệt để tồn tại và tính cách dân tộc, cạnh tranh quyết đấu vói văn minh sói phương tây, thay đổi số phận trì trệ của dân tộc. Tiếc rằng sau khi Mãn Thanh bị nông canh Hoa Hạ và Nho gia làm cho bạc nhược, các nước phương tây mới bước sang thời đại đại công nghiệp thiết giáp hạm. Số phận xui xẻo của Tung Quốc, đó là chuyện sau này.

Vậy vì sao một tộc Mãn bé tí mà làm nên kỳ tích Khang Càn vượt cả Hán Đường? Mình cho rằng, thời cổ đại, chỉ có tầng lớp trên của dân tộc Mãn mới nhận thức được qui luật thịnh suy mạnh yếu của Trung Quốc, ưu khuyết điểm của văn minh nông canh và văn minh du mục và kết hợp chặt chẽ những ưu điểm của cả hai; Chỉ tộc Mãn mói nhìn ra tính chất quyết định của tính cách dân tộc đối với vận mệnh dân tộc, hiểu rất rõ tính chất cực kỳ quan trọng của việc duy trì sói tính trong tính cách dân tộc và đã duy trì được gần hai thế kỷ. Họ rất hiểu chỉ cần duy trì đươc tinh thần và tính cách kiên cường bất khuất, hăng hái vươn lên như sói, thì việc học tập và nắm lấy văn hoá và văn minh Hoa Hạ không khó, hơn nữa có thể vượt.

Để duy trì tính cách dân tộc du mục, tập đoàn thống trị Mãn rút ra những bài học thất bại từ Tiên Ty Bắc Nguỵ, Khiết Đan Liêu quốc, đặc biệt từ nươc Kim do tổ tiên sáng lập và từ triều Nguyên Mông, không hoàn toàn Hán hoá mà thêm vào đó một số nội dung có tính sáng tạo, thực hiện 7 chính sách duy trì tính cách dân tộc: Một là, duy trì truyền thống cưỡi ngựa bắn cung đấu vật từ nhỏ của tộc Mãn, toàn dân tham gia, kể cả hoàng tử cũng không ngoại lệ. Hai là, định kỳ tổ chức săn bắn, nhà vua thân chinh, con em tám Kỳ tham gia, dùng săn bắn để luyện quân, cận chiến với sói để duy trì sói tính. (Nhà trưng bầy sơn trang Thừa Đức có giới thiệu Khang Hy Đại Đế sinh thời đã hạ thủ mấy trăm con sói). Ba là,duy trì phương thức sản xuất du mục ở đông bắc, tây bắc và thảo nguyên Mông Cổ. Hai khu vực hai cách cai trị, du mục cai trị kiểu du mục, nông canh cai trị kiểu nông canh, nghiêm cấm nông dân lên thảo nguyên vỡ hoang nhằm duy trì khả năng tạo huyết dịch sói tính của thảo nguyên. Duy trì thảo nguyên tức duy trì gốc và nguồn tính cách mạnh mẽ của dân tộc du mục. Nhìn bản đồ nhà Thanh ta thấy đây là một quốc gia bán canh bán mục, quá nửa diện tích là vùng du mục của dân tộc du mục, bao gồm đông bắc, đông và tây Sibia, Nội ngoại Mông, Ninh Hạ, Cam Túc, Thanh Hải, Tây Tạng và Tân Cương. Những thảo nguyên sói tính rộng lớn có thể cung cấp biết bao binh mã dũng mãnh đầy sói tính. Bốn là, thông hôn giữa người Mãn với người Mông, cấm thông hôn với người Hán, nhằm đảm bảo tính thuần khiết của huyết thống, tránh bị huyết dịch mang tính cừu đồng hoá. Trong lịch sử, tữ xưa dân tộc Mãn và dân tộc Mông đã có quan hệ máu thịt, bộ lạc Diệp Hách và Cáp Đạt Nữ Chân đã có quan hệ hôn nhân với Mông Cổ. Đến triều Thanh, mượn sức mạnh của kỵ binh Mông Cổ để thống trị hàng trăm triệu Hán tộc, đã thực thi chính sách liên hôn đại qui mô nhiều tầng lớp giữa quí tộc và hoàng tộc Mãn - Mông. Hoàng thái hậu Lý Trang là một phụ nữ kiệt xuất người Mông Cổ. Năm là, thượng võ hiếu chiến, khuyến khích lập quân công, lấy chiến đấu để nuôi dưỡng tính cách, lấy chiến trận để tăng cường sức mạnh quân đội. Thời Khang Hy thịnh trị cũng là thời kỳ binh lửa liên miên, phái chủ chiến trong tập đoàn thống trị Mãn Thanh chiếm ưu thế, không chút thoả hiệp trên các vấn đề diệt Phiên, thu phục Đài Loan, bình định Mông Cổ, Tân Cương và phản loạn tây nam, đánh trả Nga Sa hoàng xâm lược, trấn áp Niệm quân và Thái Bình Thiên Quốc. Sáu là, thành lập Liên minh các dân tộc du mục lấy tộc Mãn làm hạt nhân, hai tộc Mông - Tạng làm cốt cán, tăng cường tinh thần du mục, cùng nhau thống trị người Hán đông đảo. Bảy là, bãi bỏ chế độ Thái tử hủ bại không cạnh tranh, người kế thừa ngôi vua do Hoàng đế tuyển chọn, khiến các hoàng tử đấu đá như bầy sói, qua cạnh tranh quyết liệt đào thải những kẻ ươn hèn mà xuất hiện sói chúa, người tài.

Những biện pháp trên đã có tác dụng quan trọng trong việc duy trì sói tính mạnh mẽ và an ninh lâu dài của nhà Thanh. Nhưng đất đai trồng trọt Trung Quốc quá rộng, thế lực nông canh quá mạnh, lại thêm tộc Mãn phát huy toàn bộ tinh thần Nho gia, lại nữa, kinh tế triều Thanh rất phảt triển, bùng nổ dân số nông canh, đến hậu kỳ triều Thanh đã gấp bảy tám lân dân số thời Hán Đường, tính cách nông canh chiếm ưu thế áp đảo. Do vậy các chính sách nói trên vẫn không bảo đảm duy trì tính cách mạnh mẽ của tập đoàn thống trị Mãn Thanh. Cuối đời Thanh, sói tính thoái hoá, cắt đất cầu hoà, làm nhuc quốc thể. Tuy nhiên, vẫn còn mạnh hơn nhiều so với Nam Tống của người Hán, chí ít không dâng nộp quốc bảo cho liệt cường, cả nước đầu hàng.

Tộc Mãn du mục Nữ Chân đóng góp rất lớn cho Trung Quốc, chủ yếu trên hai mặt: Trước hết, đem lại cho Trung Quốc diện tích đất đai chỉ kém triều Nguyên. Qua hai lần xác nhận về quốc thổ triều Nguyên và triều Minh,lại thêm phần đất đã qua 200 năm quản lý hành chính,, tuy cuối Thanh đã để mất gần một nửa đất đai, vẫn còn giữ được bằng thời Hán Đường cộng với ba tỉnh phía đông màu mỡ. Gần một nghìn năm cạnh tranh sinh tồn, cuối cùng giữ lại được lãnh thổ thuộc Trung Quốc cách đây hơn 2000 năm cho đến bây giờ. Đây là sự nghiệp vĩ đại của dân tộc Trung Hoa, lớn hơn nhiều so với bất cứ dân tộc nông canh lâu đời nào. Những dân tộc ấy phần lớn ngay cả dân tộc cũng không tồn tại, nói gì đến đất đai xưa kia. Đất đai rộng lớn của đế quốc cổ La Mã, đế quốc A Rập, đế qquốc Ôxman, cũng không giữ lại được trọn vẹn.

Đương nhiên, Trung Quốc so với nước Anh nhỏ bé trên đảo England bành trướng thành đế quốc “mặt trời không lặn”; so với công quốc Nga La Tư khuyếch trương thành đại đế quốc Nga La Tư vắt ngang từ Á sng u; so với các dân tộc Tây u chỉ chiếm non nửa châu u bành trướng thành “đại đế quốc” bao gồm ba châu lục Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Đại Dương thì còn thua xa. Nga La Tư cướp từ tay Mãn Thanh một vùng rộng lớn, đó là hậu quả tai hại của Triều Mãn Thanh bị nông canh và Nho gia làm cho ươn hèn. Thế nhưng, nếu như Mãn Thanh không còn sót lại chút tính cách sói thì đến cuối triều Mãn Thanh ngay cả đông tam tỉnh, Ili, thậm chí cả Tân Cương, Tây Tạng chưa chắc đã giữ được.

Cần đặc biệt nhấn mạnh rằng, đất đai hiện có của Trung Quốc là do triều Hán khai sáng, do tộc tiên Ty và tộc Hán liên hôn mà mở rộng dưới triều Đường, cuối cùng do triều Mãn Thanh khôi phục, mở rộng và giữ vững đến bây giờ. Bốn triều đại lớn Hán Đường Nguyên Thanh sở dĩ có đóng góp to lớn như thế là do bốn triều đại này kết hợp khá tốt giữa sói tính với cừu tính trong tính cách dân tộc, là thời đại mà sói tính mạnh hợn cừu tính một chút. Bốn triều đại vĩ đại này, về thành phần dân tộc thống trị mà xét, thuần Hán tộc chiếm địa vị thống trị chỉ có triều Hán, đến triều Đường thì Tiên Ty và Hán tộc liên hợp chấp chính, Nguyên Thanh thì do hai tộc du mục chấp chính.

Qua địa điểm chọn làm kinh đô cũng thấy vai trò và ảnh hưởng tiềm ẩn to lớn của thảo nguyên, tinh thần và tính cách du mục. Thủ dô của một vương triều là trung tâm chính trị kinh tế và văn hoá, và cũng là trung tâm tính cách vương triều ấy. Thủ đô của Hán Đường Nguyên Thanh đặt tại nơi giáp ranh giữa nông canh và du mục, thủ đô của Hán Đường là Tràng An, cận kề vùng du mục Tây Bắc; Thủ đô của Nguyên Thanh là Bắc Kinh, gần kề thảo nguyên phương Bắc. Điều này chứng tỏ thủ đô của triều đại hùng mạnh đều gần kề vùng đất hùng mạnh. Bắc Kinh và Tràng An thời Hán Đường đều ở vào nơi dân phong mạnh mẽ phương bắc,chỉ không giống nhau ở chỗ: Bắc Kinh không ở giữa rốn văn minh nông canh Trung Hoa và cũng cách xa hoàng Hà - bà mẹ của dân tộc nông canh Trung Hoa, mà lại gần kề đại thảo nguyên - tổ mẫu của dân tộc Trung Hoa. Bắc Kinh là nơi định đô lâu dài của ba dân tộc du mục Kim-Liêu Mông Cổ và Mãn Thanh, là trung tâm chính trị văn hoá và tính cách dân tộc Trung Hoa chủ yếu do dân tộc du mục dựng nên. Thời kỳ thịnh trị của đại đế quốc Mông Cổ vắt ngang từ Á sang u, Bắc Kinh từng là “thủ đô của thế giới”. Đây là thành phố duy nhất trong lịch sử Trung Quốc trở thành thủ đô của thế giới. So với Tràng An, Bắc Kinh gần biển hơn, định đô Bắc Kinh có lợi cho Trung Hoa kế thừa tinh thần du mục, mở cửa và phát triển ra đại dương, tiếp nhận “tinh thần du mục” của đại dương. Cuối cùng, Trung Quốc định đô tại Bắc Kinh là do công lao của dân tộc du mục Trung Hoa, đặc biệt là tộc Mông Cổ và tộc Nữ Chân; định đô Bắc Kinh cũng biểu thị sự tôn sùng và ngưỡng vọng của con cháu Viêm Hoàng tại nơi sâu thẳm của tiềm thức, đối với tinh thần du mục.

Ngoài ra, các nhà chính trị kiệt xuất là nữ cũng nổi lên từ bốn triều đại phát triển này. ví dụ Lữ Hậu, Võ Tắc Thiên đời Đường, Hoàng Thái hậu Hiếu Trang - nữ kiệt Mông Cổ. Ba người phụ nữ vĩ đại này đều bó chân. Hoàng Thái hậu Hiếu Trang thuộc phái cởi mở, từng cấm phụ nữ tộc Hán và tộc Mãn bó chân. Bó chân là một trong những tập tục độc ác ở Trung Quốc, nảy sinh từ triều Tống tính cách dân tộc bạc nhược sau thời thịnh trị Hán Đường. Huỷ hoại và trói buộc tinh thần tự do độc lập kẻ thống trị là tôn chỉ của Nho gia. Nho gia không chỉ thuần hoá dân tộc Hán thành cừu, mà còn biến phụ nữ tộc Hán thành tàn phế. Sau triều Tống, văn nhân Nho gia và đàn ông Nông gia cùng say sưa theo đuổi "gót sen ba tấc", tàn phá đông đảo phụ nữ. Đây là một trang tàn nhẫn nhất, phản nhân tính nhất trong lịch sử thế giới, là sự việc khiến người Trung Quốc xấu hổ trước nhân dân thế giới, bị người chê cười.

Đất đai rộng lớn là cơ sở sinh tồn và phát triển văn minh Trung Hoa, mà Tây Bắc mênh mông là cái gốc và là tấm bình phong của văn minh Trung Hoa. Về tổng thể mà xét, các dân tộc du mục Trung Hoa đóng góp cho đất nước lớn hơn nhiều do với tộc Hán. Tộc Mông Cổ và tộc Mãn đóng góp lại càng lớn. Dân tộc Mãn lại là kẻ quyết định quan trọng về đất đai Trung Quốc. Sau đó, thời Dân quốc, chính quyền người Hán lại để mất Ngoại Mông rộng lớn. Tháng 1 năm 1946, chính phủ Quốc dân đảng Nam Kinh chính thức tuyên bố công nhận Ngoại Mông độc lập.

Lại nữa, triều Thanh của dân tộc Mãn ngoại trừ đóng góp to lớn cho đất đai Trung Quốc, còn trường kỳ tiếp máu cho dân tộc Hoa Hạ. Viêm Hoàng, tổ tiên nhân văn dân tộc Hoa Hạ là tộc du mục. Dân tộc Trung Hoa xuất thân từ dân tộc du mục, trong huyết quản từng chảy dòng máu sói tính. Sau đó qua nhiều đợt tiếp máu trong lịch sử, nhất là đợt tiếp máu gần một thế kỷ của dân tộc Mông Cổ, đặc biệt là những đợt tiếp máu cuối cùng gần hai nửa thế kỷ của dân tộc Mãn, khiến dân tộc Trung Hoa giữ được đất đai văn hoá chủng tộc cho đến cận đại. hiện nay, dân tộc Trung Hoa vẫn tự thân hoặc được dân tộc du mục tiếp máu sói tính, cộng với tiếp nhận phương thức sản xuất tiên tiến của phương tây, đó là tài nguyên để phục hưng Trung Quốc. Cuối Thanh, tinh thần dũng cảm chống đế quốc chống phong kiến của dân tộc Trung Hoa bắt nguồn từ sức sống của di sản dòng máu du mục Viêm Hoàng và sự tiếp máu không ngừng của dân tộc du mục.

Mãn Thanh vào làm chủ Trung Hoa đánh một dấu chấm trong lịch sử 5.000 năm Trung Hoa. Lịch sử chấp chính của dân tộc cổ đại Trung Quốc, bắt đầu từ tộc du mục Viêm Hoàng, kết thúc bằng tộc Nữ Chân, từ du mục đến du mục quyết không phải ngẫu nhiên, mà là sự tất nhiên trong hoàn cảnh đặc thù của Trung Quốc và phát triển lịch sử của hai dân tộc. Chi nhánh văn minh nông canh này của Trung Quốc qua tác dụng của những đợt tiếp máu mới đưa nó trở lại dòng chảy chính của văn minh thế giới. “Kiếp luân hồi” này chứng minh một chân lý phổ biến: Văn minh dân tộc là dòng, tính cách dân tộc là nguồn,một dân tộc mà không có tính cách mạnh mẽ tuy vẫn có thể sáng tạo ra văn minh, nhưng thường là không bảo vệ được ngay cả bản thân dân tộc, nói gì đến bảo vệ nền văn minh của dân tộc. Nền văn minh cổ đại của thế giới và Trung Quốc đều đã đi vào bảo tàng, nhưng tinh thần du mục và tính cách mạnh mẽ như sói của dân tộc du mục và hậu diệ của họ vẫn đầy sức sống, nó có thể đưa văn minh xa xưa vào bảo tàng, lại có thể đầy lòng hăng hái sáng tạo một nền văn minh mới.

Dân tộc Trung Hoa cần cù dũng cảm, cần cù là đóng góp của tính cách nông canh Trung Hoa, dũng cảm là đóng góp của tính cách dân tộc du mục Trung Hoa. Thiếu một trong hai đều không được, nhưng dân tộc Trung Hoa với dân số nông canh chiếm đa số tuyệt đối và lịch sử lâu đời của nông canh, cái thiếu chủ yếu là không có tinh thần và tính cách dũng cảm cầu tiến, lao động thường là không công, cốc mò cò xơi.

Nói cho cùng, cạnh tranh giữa các nền văn minh trên thế giới là cạnh tranh về tính cách. Chế độ dân chủ và khoa học kỹ thuật tiên tiến phương tây được xây dựng trên nền tảng tính cách dân tộc dũng cảm cầu tiến.Dân tộc Hoa Hạ muốn vượt phương tây phải đầu tư ghê gớm để thay đổi tồn tại dân tộc và tính cách nông canh.

Mình rất muốn dùng chiếc lược tôtem sói chải lại cho thuận dòng lịch sử mà các nhà sử học cố ý dùng tinh thần Nho gia làm cho rối tung, thấy rõ tinh thần du mục Trung Quốc mà hạt nhân là tôtem sói và lịch sử liên tục tiếp máu cho dân tộc Hoa Hạ, mới hiểu được vì sao văn minh Trung Hoa không bị gián đoạn trong lịch sử thế giới mấy nghìn năm, và cũng có thể tìm hiểu Trung Quốc sau này muốn cất cánh bay lên thì phải thế nào.

Nhưng hiểu và nắm vững tinh thần tôtem sói quả không dễ. Vấn đề then chốt là phải làm rõ vì sao dân tộc du mục sùng bái tôtem sói. Phần lớn các sử gia Trung Quốc đều biết dân tộc du mục Trung Quốc sùng bái tôtem sói nhưng rất khó giải thích vì sao. Thí dụ, nhà sử học hàng đầu về Mông Cổ Hàn Nho Lâm tiên sinh nói: “Theo ý kiến của người Đột Quyết, tộc này là con cháu của sói, tự cho là dòng giống ưu việt. Lí do ấy tuy không thể hiểu, nhưng các Khan thường lấy làm tự hào”. “Lí do không thể hiểu”, là do người Hán xa rời thảo nguyên quá lâu, rất khó khắc phục sự hạn chế trong nhận thức về tôtem sói, một số vấn đề quan trọng ghi trong sử sách không có khả năng đào sâu nghiên cứu. Hai chúng mình đi sâu tìm hiểu thảo nguyên nguyên thuỷ Mông Cổ có đến 10 năm với sự hào hứng đặc biệt nhằm giải đáp bao nhiêu câu hỏi, đã từng nhiều năm trực tiếp và gián tiếp tiếp xúc với sói, mới khắc phục được tính hạn chế của ngưòi Hán. Bây giờ ta phải thông báo thật nhanh cho ngưòi Hán biết nhận thức của chúng ta. Chỉ có lấp đầy nhứng lỗ hổng trong nhận thức, mới có thể lấp đầy những lỗ hổng to lớn trong tính cách dân tộc.

Dương Khắc thở dài, nói: Nếu lập luận của cậu đứng vững, 24 bộ sử của Trung Quốc phải viết lại. Nho gia trong 24 bộ sử chỉ khẳng định một chiều,, đầy thiên kiến. Mình tán thành viết lại lịch sử, viết như thế nào thì bàn, nhưng phải viết lại.

Trần Trận nói: Nghiêm túc mà nói, khôi phục bộ mặt vốn có của lịch sử Văn hoá cổ Trung Quốc là văn hoá nông canh,lấy nông nghiệp làm gốc, độc tôn Nho thuật, mạt sát du mục, khinh rẻ “tứ di”. Lịch sử Trung Quốc không chỉ viết lại, mà còn phải cách mạng. Mình đặc biệt tán đồng câu nói của ông Lương Khải Siêu trong “Tân sử học.Trung Quốc chi cận sử”: “Không có cách mạng thế giới thì không thể cữu vãn nổi nước ta. Trong ngàn vạn điều, điều này lớn hơn cả”. Mình cho rằng, nếu không “đưa sói vào sử”, không cung cấp cho giới sử học tinh thần tôtem sói ảnh hưởng sâu sắc tới lịch sử Trung Quốc, thì sử học Trung Quốc mãi mãi như cái ao tù. 24 bộ sử chỉ như quyển Y bạ dày cộp liệt kê nhứng chẩn đoán sai về con bệnh Trung Quốc, chắc chắn gây ra sự tì trệ trong việc điều trị và cải cách. Hiện nay phim lịch sử truyền hình chiếu suốt đêm ngày, tuyên truyền ý thức tiểu nông và sự chuyên chế phong kiến Nho gia, đến là đau lòng.

0O0

Trần Trận nhìn mặt trời sắp lặn trên thảo nguyên. Anh vẫn chưa đói, hào hứng nói tiếp:

Mình cấn phải đặc biệt nhấn mạnh vấn đề tinh thần dân tộc Tung Hoa. Hiên giờ người ta hễ mở miệng là thao thao bất tuyệt về tinh thần bất khuất của dân tộc Trung Hoa,. Thực ra nguồn gốc và thực chất của tinh thần này là tinh thần du mục và tinh thần thảo nguyên của tổ tiên Viêm Hoàng, mà hạt nhân là tinh thần lang đồ đằng (tôtem sói), thông qua mấy nghìn năm tiếp máu của dân tộc du mục mà được xác lập. Thực ra, hai câu có thể khái quát tinh thần dân tộc Trung Hoa lại chính là hai câu cách ngôn của Nho gia thời kỳ đầu: “Thiên hành kiện quân tử dĩ tự cường bất tức”, “phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Bốn chữ “không”: không ngơi nghỉ, không hoang dâm, không biến chất, không khuất phục, là điển hình cho tinh thần sói và tinh thần tôtem sói, và cũng là khái quát cao độ chân dung tinh thần tôtem sói. Mỗi con sói trên thảo nguyên Mông Cổ đều mang tinh thần “bốn không”, hơn nữa, hàng vạn năm trước đây, tinh thần “bốn không” đã là “tinh thần toàn dân” của sói thảo nguyên. Nhưng đại đa số người Trung Quốc chưa đạt tới tinh thần đó. Nó chỉ là mô hình tinh thần mà các tiên hiền phác hoạ ra để hô hào, ngưỡng mộ, hướng tới và học tập. Do đó “bốn không” kỳ thực là tinh thần sói hữu danh vô thực. Các tiên hiền Nho gia thời kỳ đầu đã dùng "bốn không" bồi dưỡng nên một sổ con em ưu tú và một số anh hùng của dân tộc Trung Hoa, nhưng tinh thần “bốn không” vẫn chửa trở thành “tinh thần toàn dân” của dân tộc nông canh. Nếu không, sẽ chẳng xuất hiện trong lịch sử nhiều đợt dân tộc du mục chiếm cứ trung nguyên và Trung Quốc, cũng không xuất hiện vài triệu Hán gian và nguỵ quân trong kháng chiến chống Nhật.

Dân tộc du mục thảo nguyên hiểu sói hơn người Hán, do đó họ tôn trọng sói, sùng bái tinh thần sói và đưa lên vị trí tối cao tinh thần totem dân tộc. Vì vậy dân tộc thảo nguyên hơn hẳn dân tộc nông canh về trình độ phổ cập tinh thần “bốn không”. Và cũng bởi vì dân tộc thảo nguyên không ngừng tiếp máu cho dân tộc nông canh, khiến cho dân tộc Trung Hoa khi đứt khi nối vẫn duy trì được tinh thần “bốn không” và cũng là tinh thần dân tộc Trung Hoa.

Vì vậy, nếu như rút bỏ tinh thần bốn không: không ngơi nghỉ, không hoang dâm, không biến chất, không phuất phục ra khỏi tinh thần dân tộc Trung Hoa, thì sẽ còn lại những gì? Có lẽ chỉ còn lại tinh thần lý học đời Tống. Bây giờ còn ai dám đem tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức ra làm tinh thần dân tộc Trung Hoa? Tinh thần dân tộc Trung Hoa do dân tộc du mục và dân tộc nông canh cùng nhau sáng tạo trên đại lục Trung Hoa, nhưng hồn của nó là tinh thần du mục và tinh thần sói.

Người Hán chúng ta nên nhận thức đầy đủ và khẳng định sự đóng góp to lớn của mình cho toàn thể dân tộc Trung Hoa, cảm ơn và học tập sói thảo nguyên và dân tộc thảo nguyên. Quả thật nên bù đắp lớn nhất cho sói thảo nguyên và người thảo nguyên.

Dương Khắc giận dữ nói: Bây giờ không nên nói cảm ơn và bù đắp, ngay cả cấm chỉ cướp giật thảo nguyên và ra lệnh bừa bãi cũng đã khó.

Trần Trận nói: Mình cho rằng, tư tưởng chính thống Nho gia và các sử gia, các nhà văn hoá Trung Quốc tởm nhất ở chỗ sổ toẹt sự đóng góp mang tính cấp cứu cho dân tộc Trung Hoa. Qiuan điểm truyền thống của Trung Quốc là ca ngợi nền văn minh cổ Trung Hoa ưu việt như thế nào, văn minh nông canh và Nho gia chính thống lớn mạnh và đầy sức sống như thế nào, ba nền văn minh nông canh của ba nước cổ xưa đã tàn lụi không trụ lại được như thế nào, chỉ văn minh Trung Quốc là không bị gián đoạn, tiếp tục cho đến thời cận đại. Thế nhưng, căn cứ vào sự thực lịch sử phát triển 5000 năm của Trung Quốc, văn minh Trung Hoa sở dĩ duy trì cho đến thời cận đại, không thể tách rời sự tiếp máu không ngừng của dân tộc du mục. Phủ nhận sự thực này là cướp công người khác. Quan điểm này làm giảm sức phê phán đối với ý thức tiểu nông và Nho học chính thống, khiến chúng có cơ tồn tại, tiếp tục làm suy yếu và trói buộc tính cách và tinh thần dân tộc Trung Hoa, và chẩn đoán sai đối với con bệnh Trung Quốc. Từ sau ngày thành lập nước, phương lược trị quốc chưa làm được chuyện trông bệnh bốc thuốc, chưa tập trung sức mạnh cho liều thuốc đắng đối với căn bệnh nông canh, thậm chí còn lưu luyến nông canh, cổ vũ cho nông canh, đề cao vai trò nông canh, đề bạt cán bộ nông canh. Thời kỳ cách mạng văn hoá đuổi thanh niên trí thức về nông thôn làm nông dân, khiến ý thức tiểu nông và ý thức gia trưởng chuyên chế ngày càng đậm, dân số nông canh bùng nổ, thậm chí có xu thế vượt cả só nhân khảu nông canh 5000 năm cộng lại. Tuy hiên nay giá trị sản phẩm nông nghiệp chiếm địa vị thứ yếu, nhưng nhân khẩu nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối. 900 triệu nhân khẩu nông nghiệp mang tính cách và ý thức nông canh đã trở thành hiện thực “tồn tại dân tộc” của dân tộc Trung Hoa. Sự “tồn tại” của ý thức và tính cách nông canh đặc sệt và rộng lớn như thế, sẽ ảnh hưởng và lây nhiễm lâu dài đối với quan viên hành chính, phần tử trí thức, tầng lớp công thương, công nhân, thị dân và tầng lớp mới nảy sinh.

Một trăm năm trở lại đây, bệnh cũ của Trung Quốc đã nhiếu lần tái phát, cuộc duy tân và cải cách tính cách nhiều lần vấp váp, ngưyên nhân sâu xa là cho đến nayTrung Quốc vẫn chưa thay đổi về căn bản tính cách dân tộc. Vì vậy vẫn chưa bước sang giai đoạn có thể nắm chắc vận mệnh dân tộc mình. Cách mạng giới sử học, cách mạng Trung Quốc đương đại, phải lấy tinh thần tôtem sói loại trừ tính cách nông canh, loại trừ đường lối sai lầm “ôn hoà đôn hậu” của Nho gia.

Hơn 20 năm cải cách gian khổ, nền kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh của Trung Quốc đã tiến một bước dài. Tồn tại dân tộc đang chuyển biến, qui luật tồn tại dân tộc quyết định tính cách dân tộc đang tác động mạnh mẽ. Tính cách người Trung Quốc cũng bắt đầu tự phát hồi qui theo tinh thần tôtem sói. Truyện tranh “Con sói xám” được trẻ em yêu thích; Ca khúc “Sói phương bắc” vang lên khắp nơi, bộ phim “nhảy múa với bầy sói” được các nhà quản lý doanh nghiệp tán thưởng; sản phẩm mang thương hiệu sói bắt đầu bán chạy trên thị trường; cửa hàng ăn mang tên sói đắt như tôm tưoi; bắt đầu có bút danh, nghệ danh sói. Cuối cùng, tinh thần du mục mà hạt nhân là tinh thần tôtem sói được khôi phục ở Trung Quốc. Dân tộc sợ sói ghét sói nhất thế giới bắt đầu sùng bái tinh thần tôtem sói. Đây là một trong những thành quả chủ yếu sau 20 năm cải cách, và cũng là nơi gửi gắm niềm hi vọng phục hưng dân tộc.

Tinh thần tôtem sói là khắc tinh của tinh thần cừu yếu đuối bảo thủ, cho nên chỉ có phát huy mạnh mẽ tinh thần sói, cải cách mới không bị thụt lùi và cũng không dám thụt lùi. Lớp người mới vũ trang bằng tinh thần sói ngày càng nhiều sẽ càng đánh càng hăng, đập tan tất cả những thế lực bảo thủ. Nói cho cùng, cải cách ở Trung Quốc không chỉ cái cách chuyển đổi thể chế kinh tế chính trị, mà cơ bản hơn, có tính quyết định hơn, là cải cách và chuyển đổi tính cách quốc dân.

Nắm vững và thuận theo qui luật phát trỉển văn minh Trung Quốc và thế giới, có thể bỏ qua giai đoạn mò mẫm, càng tự giác tiếp tục cải cách mở cửa, dũng cảm tiến lên như sói thảo nguyên. Dân tộc Trung Hoa nhất định sẽ khôi phục và kế thừa tinh thần du mục của tổ tiên Viêm Hoàng, phát huy mạnh mẽ tinh thần tôtem sói của dân tộc du mục. Về tính cách, phát triển từ “văn minh cừu” thời cổ đại lên “văn minh sói” thời hiện đại, phát triển “con người văn minh” mà cá tính thực sự được giải phóng, thực sự được tự do dân chủ. Đến khi đó, người Trung Quốc loại trừ được tận gốc tính gia súc trong tính cừu, phắc phục được nửa dã man trong “văn minh sói”, trở thành người văn minh với chữ Người viết hoa. Ba giai đoạn nói trên là những giai đoạn phát triển phù hợp với tính qui luật trong lịch sử và tình hình Trung Quốc. Dân tộc Trung Hoa về mặt tính cách chưa kinh qua giai đoạn “văn minh sói” thì căn bản không thể bước ngay vào giai đoạn cao“người văn minh” tự do dân chủ. Hơn một tỉ người văn minh thực sự tự do dân chủ và yêu chuộng hoà bình xuất hiện trên vũ đài thế giới là một đảm bảo lớn nhất cho tự do và hoà bình toàn cầu.

0O0

Dương Khắc nói: Cậu chấn chỉnh nếp nghĩ cực kỳ rành rẽ. Lịch sử Trung Quốc có thể sẽ phát triển theo “thuyết ba giai đoạn” của cậu. Vũ khí tinh thần tôtem sói bị mai một trên thảo nguyên, nay đã đến lúc phải khơi dậy. Xem ra nó không hề bị han gỉ, vẫn toả sáng, vẫn sắc sảo. Hơn nữa tôtem sói trong kho vũ khí tinh thần tư tưởng tiên tiến nhất của thế giới hiện đại, vẫn toả ánh hào quang, còn tam cương ngũ thường - cương lĩnh của Nho gia thì như một xác chết đã thối rữa.

Dưong Khắc lại nói: Mấy vấn đề lớn cậu nêu đã giải đáp được những thắc mắc quan trọng của mình. Nhưng vẫn còn mấy câu hỏi sau đây: Triều Thanh, thành thị Trung Quốc đã xuất hiện mầm mống tư bản chủ nghĩa, vậy tại sao Trung Quốc chưa đi lên con đường tư bản chủ nghĩa?

Trần Trận nói: Nguyên nhân là do tồn tại dân tộc nông canh và tính cách dân tộc. Đất đai trồng trọt Trung Quốc quá rộng quá sâu quá xa, vào loại đứng đầu thế giới. Trên mảnh đất như thế mọc lên cây đại thụ nông canh rễ sâu tán rộng, hút sạch dinh dưỡng, tán cây che hết những mầm non. Chính quyên nhà nước nông canh chỉ riêng thuế má, phân bổ, vơ vét và yêu sách, cũng đã vét sạch tích luỹ cần thiết cho sự phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhưng muốn phản đối phải có tính cách dân tộc dũng mãnh, sẵn sàng chiến đấu. Điều kiện chủ quan và khách quan đều không có thì tất nhiên không làm nên chuyện gì. Chủ nghĩa tư bản dưới bóng cây đại thụ nông canh không có chất bổ, không có mặt trời, quá lắm chỉ là mầm mống và vĩnh viễn chỉ là mầm mống. Cho nên lịch sử Trung Quốc phát triển như sau: “Tan rồi lại hợp, hợp rồi lại tan” loay hoay tại chỗ. Nếu như không có dân tộc du mục nhiều lần tiếp máu, thì dù tại chỗ cũng không thể tồn tại. Không có “văn minh sói” nhảy vào, Trung Quốc không thể phá vỡ hình thái kinh tế nông canh. Đây là tính đặc thù của Trung Quốc. Văn minh Trung Quốc khép kín là một đặc thù trong trong văn minh thế giới, như một con sông chết Talimu, nếu không dựa vào tầng lớp tiên tiến áp dụng những chính sách mạnh mẽ, nó không bao giờ nhập được vào dòng chảy chính của thế giới.

Dương Khắc hỏi: Tồn tại dân tộc quyết định tính cách dân tộc. Thí dụ, tồn tại của dân tộc Nhật Bản là ghê gớm. Người ta cũng trồng lúa, cũng nông canh, nhưng xét từ bản chất, Nhật Bản là một đảo quốc, dân tộc Nhật Bản từ xưa đã là dân tộc biển, công việc là đi biển đánh cá, săn bắt trên biển, buôn bán trên biển, giặc lùn câu kết với hải tặc. Tính cách dân tộc họ là tính cách sói biển hung dữ. Sói biển lên bờ, chẳng phải đuổi cho đàn cừu nông canh tan tác đó sao? Giặc lùn xưa kia từng đánh tới Nam Kinh Hàng Châu, từng đốt chay tháp Lôi Phong; Trên biển, thậm chí tiêu diệt toàn bộ đại quân Nguyên Mông xâm lược Nhật Bản. Thời cận đại sói biển phương tây hung dữ hơn, Nhật Bản lập tức nhập bọn, bỏ cừu theo sói, bỏ Á theo u, từ bỏ Trung Quốc Nho gia, học tập văn minh phương tây: Hiến chính, pháp luật, khoa học, giáo dục và đại công nghiệp phương tây. Sói biển gặp sói biển, đồng khí tương cầu, gặp nhau chỉ tiếc hơi muộn, học mãi không chán. Dân tộc Nhật học tập phương tây không gặp trở ngại lớn về tính cách dân tộc, trái lại, càng khơi gợi tính cách sói biển bẩm sinh., càng kích thích lòng ham học và chí tiến thủ, vì vậy người ta học cực nhanh. Năm 1868 Thiên hoàng Minh Trị thực thi duy tân, chỉ 36 năm ngắn ngủi sau đó đã xây dựng được nền công nghiệp phát triển, đánh bại Đại Thanh trong chiến tranh Giáp Ngọ, tiếp đó, đánh bại quân dội Sa hoáng nổi tiéng một thời trong cuộc chiến tranh Nhật - Nga, vươn lên thành đế quốc hàng đầu trên thế giới, gia nhập đội ngũ các nước mạnh châu u, tạo ra bước nhảy vọt đầu tiên, một kỳ tích trên thế giới. Hiện nay nước Nhật xếp thứ hai về kinh tế trên thế giới. Còn Trung Quốc sau khi Minh Trị Nhật Bản duy tân gần một thế kỷ rưỡi cho đến nay vẫn xếp vào thế giới thứ 3, đôi bờ vẫn chưa thống nhất, thu nhập bình quân tính theo đầu người và đầu tư cho giáo dục vào loại thấp nhất thế giới., hiệu quả đầu tư kém nhất, trình độ kỹ thuật vẫn chưa có duyên với giải thưởng Nobel; tiến độ đất đai sa mạc hoá và tốc độ thất thoát nước ngầm cao hơn rất nhiêu so với tốc độ phát triển kinh tế. Nhân khẩu nông nghiệp vốn đã quá thừa mà vẫn tăng thêm hàng chục triệu. Nền bóng đá yếu ớt của Trung Quốc luôn thua tơi tả trước sói Nhật Bản, chưa biết ngày nào mới ngóc đầu lên được…

Hơn một ngàn năm nay, Trung Quốc đem nông canh Nho học kinh điển cừu đi giáo hoá học trò Nhật., đúng là chọn lầm đồ đệ. Nhất Bản học Trung Quốc hơn ngàn năm Nho học mà không thấy có tiếng vang gì trên thế giới, vậy mà học phương tây mới hơn ba mươi năm mà đã cất cánh bay cao. Còn Trung Quốc thì sao? Phương tây vừa du nhập cái gì đó là gặp ngay sự phản ứng chối bỏ của toàn thể dân tộc, như cừu gặp sói, bất kể hay dở, bài xích tuốt, từ nhà vua đến Nghĩa hoà đoàn đều chống Tây diệt Tây. Kết quả, bị các nước mạnh chiếm đất, trở thành nửa thực dân địa.

Nhật Bản và Trung Quốc đều là giống da vàng Đông Á, cùng văn hoá Nho gia, cùng theo đạo Phật, vậy mà vì sao công cuộc duy tân của Nhật nhanh chóng thành công, còn duy tân của Trung Quốc thì chỉ 100 ngày đã bị chém đầu? Nếu không tìm căn nguyên từ tồn tại dân tộc và tính cách dân tộc, chúng ta sẽ không bao giờ nắm được vận mệnh của mình.

Dương Khắc gật đầu tán thành, lại hỏi: Nhưng vì sao ba dân tộc du mục lớn trên thế giới: A rập, Đột Quyết và Mông Cổ đều suy thoái?

Trần Trận nói: A Rập và Đột Quyết sau đó định cư hoặc làm ruộng. Mông Cổ tuy vẫn tiếp tục du mục, nhưng lịch sử phát triển sang thời đại thuốc nổ, thì kỵ binh của dân tộc thảo nguyên mất ưu thế, dân số lại quá ít, bị hai nước lớn có súng đạn kẹp chặt hai bên trên cao nguyên đại lục, mất thời cơ và điều kiện phát triển ra đại dương. Ngành du mục nguyên thuỷ thảo nguyên không phát triển sang giai đoạn cao “du mục biển”, vì sẽ bị một “du mục biển” tính cách mạnh hơn đánh bại. Vì vậy vẫn là tính cách dân tộc quyết định vận mệnh dân tộc. Tính cách dân tộc mạnh hay yếu thì phải đem so với các tính cách dân tộc trên thế giới.

Ngành hàng hải càng đòi hỏi tính cách dũng mãnh. Bão cấp 12, sóng lớn và cá mập xanh nguy hiểm hơn nhiều so với bạch mao phong và sói thảo nguyên, Những dân tộc được tôi luyện trong nghề này tính cách càng mạnh, tầm nhìn càng rộng, dấu chân càng xa, hấp thu thành quả văn minh các nước trên thề giới càng nhiều, cướp bóc đại lục mới, đi tìm đất mới và tích luỹ nguyên thuỷ càng sớm, càng nắm bắt được thời cơ. Dân tộc du mục phương tây vốn hung hãn, ra biển như hổ mọc thêm cánh, vì vậy đứng hàng đầu trên thế giới hiện nay phần lớn là những dân tốc du mục thảo nguyên sau đó phát triển thành du mục biển, hoặc vốn là dân tộc du mục biển.

Lại nữa, đừng đánh giá thấp tác dụng cấm đoán của tôn giáo. Đạo Ixlam kiên quyết chống lại sự xâm nhập và can thiệp của phương tây, đồng thời cự tuyệt dân chủ và khoa học phương tây. Lạt Ma giáo làm bạc nhược tính cách dũng mãnh của dân tộc Mông Cổ. Nhưng đạo Cơ đốc lại bị dân tộc Tây u tính cách dũng mãnh cải tạo thành tân giáo chống lại sự chuyên chế hủ bại của giáo hội Thên chúa giáo La Mã, vô hại đối với chủ nghĩa tư bản. Tồn tại dân tộc quyết định tính cách dân tộc. Tồn tại dân tộc mạnh hơn quyết định tính cách dân tộc mạnh hơn. Và tính cách dân tộc mạnh tác động trở lại tồn tai dân tộc, chủ động kiến tạo tồn tại dân tộc càng mạnh mẽ tiên tiến hơn, nhằm mạnh hoá tính cách dân tộc. Mạnh làm vua, siêu mạnh sẽ trở thành quán quân.

Sự trỗi dậy của Nga La Tư thời cận đại cũng vậy. Piôt đại đế đưa nước Nga nông nghiệp là chủ yếu, chế độ nông nô còn lạc hậu hơn cả Trung Quốc, trở thành một trong những nước mạnh ở châu u. Nguyên nhân là ở tính cách sói của ông ta đả kích và diệt thẳng thừng thế lực quí tộc chủ nô bảo thủ lạc hậu, mạnh dạn học tập phương tây, liều mạng xông ra biển, vi hành khắp chốn, khảo sát Tây u, cạo râu, mặc âu phục, đội tóc giả, xây dựng hải quân, huấn luyện pháo binh, đập chuông nhà thờ đúc đại bác, thậm chí di chuyển thủ đô Nga La Tư từ khu nông canh tới ven biển, định đô Xanh Pêtecbua đối mặt với các nước mạnh và đại dương. Khí phách ấy, dũng cảm ấy khiến mình phục quá. Trước cách mạng văn hoá, mình xem các phim “Piôt đại đế”, “Thượng tướng hải quân Usacôp” đến năm sáu lần. Lên thảo nguyên, mình tìm thấy nguồn gôc tính cách Piốt đại đế ở sói. Sống trên thảo nguyên mênh mông, dân tộc Nga La Tư vốn là dân tộc thảo nguyên, nông canh không phát triển, lại bị Khan quốc Kimchang thống trị và tiếp máu suốt hai thế kỷ, không có thảo nguyên và sói thảo nguyên, sẽ không có nhà cải cách vĩ đại Piốt đại đế.

Hai nước láng giềng lạc hậu hơn nhiều so với Trung Quốc, đều dựa vào tính cách dũng mãnh của sói mà ngồi lên đầu Trung Quốc.

Trước hết, muốn thay đổi tình trạng lạc hậu của Trung Quốc thì phải nhanh chóng chuyển đổi tồn tại dân tộc Trung Hoa thành tồn tại dân tộc có nền kinh tế chính trị đủ sức cạnh tranh, mau chóng bối dưỡng tính cách dân tộc dũng mãnh cầu tiến, không bao giờ được tự mãn. Điều này quyết định về căn bản vận mệnh dân tộc Trung Hoa.

Thứ nữa, trên cơ sở tính cách dân tộc, kiên quyết đi con đường “văn minh sói hiện đại”, cần phóng thích có mức độ và cao tay trong việc điều khiển sói tính trong nhân tính. Đây là con đường cực khó đối với các nước trên thế giới. Sói tính linh hoạt và đầy sức sống, đồng thời lại điên khùng tham lam, cướp bóc và phá hoại. Sói tính trong nhân tính chẳng khác phản ứng nhiệt hạch, năng lượng cực lớn, sức phá hoại cũng cực lớn, khống chế tốt thì đem lại hạnh phúc cho nhân loại, không chế dở thì gây ra tai ương cho toàn cầu. Trên thế giới chưa có nhiều nước phóng thích hợp lý và chế ngự tốt năng lượng nhiệt hạch. Nước nào làm được như vậy đều đứng đầu các nước phát triển. Con đường này cực kỳ khó khăn, ngay cả cưòng quốc cận hiện đại, làm không tốt cũng dễ bị lật thuyền như ba nước Đức ý Nhật trong đại chiến thế giới II, vì chưa kiểm soát được sói tính trong tính cách dân tộc, kết quả bùng nổ hoạ phát xít, gây tổn thất lớn cho chính ba nước và nhân dân thế giới.

“Cách mạng văn hoá” của Trung Quốc cũng có vấn đề nghiêm trọng. Do sói tính không đủ, nên tính cách dân tộc Trung Quốc trong lịch sử, nhất là trong thời kỳ cận hiện đại hèn yếu, rơi vào tình cảnh nửa thực dân địa của phương tây, chịu đủ mọi điều ô nhục. Dân tộc Trung Hoa nổi giận, các chí sĩ du nhập tinh thần kiêu dũng xốc tới của phương tây, rồi từng bước du nhập công nghiệp có sức cạnh tranh của phương tây, vùng lên đánh đổ “Khổng gia điếm” (Nho giáo), phóng thích “soi tính” bị chèn ép lâu ngày. Dòng máu dân tộc Viêm Hoàng di truyền cùng những lần tiếp máu rốt cuộc đã phát huy tác dụng, tính cách dân tộc Trung Hoa mạnh dấn lên. Một trăm năm phấn đấu, đuổi sạch liệt cường, giành lại độc lập dân tộc, chiến thắng trong chiến tranh Triều tiên. Thế nhưng trong “cách mạng văn hoá”, do nhu cầu chính trị nên phóng thích sói tính kiểu nhân tạo, “đả đảo bọn đầu trâu mặt ngựa”, đánh đổ Chủ tịch nước nguyên soái tướng lĩnh, tinh hoa giới công thương, những học giả có uy tín. Sói "Hồng vệ binh" hoành hanh toàn quốc: Đánh thầy giáo, đấu Hiệu trưởng, đốt sách, huỷ đồ cổ, lục soát các nhà, giết ngưòi cướp của, đập phá Đại sứ quán, vô chính phủ, cực đoan, gây tai hoạ tày trời chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc.

Toàn bộ lịch sử nhân loại và một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc đã chứng minh sự khó khăn của công việc phóng thích và chế ngự sói tính. Nho gia và bộ máy chuyên chế phong kiến trấn áp toàn diện sói tính trong tính cách dân tộc, kết quả là tính cách toàn dân tộc bị cừu hoá, lạc hậu, chỉ còn mỗi con đường diệt vong. Chỉ có giải phóng sói tính với liều lượng thích hợp, áp dụng chế độ thực sự dân chủ và pháp trị để chế ngự sói tính, vứt bỏ dân chủ giả hiệu co giãn như cao su. Đó là lối thoát duy nhất cho dân tộc. Chế độ thực sự dân chủ và pháp trị mới là lò phản ứng ngưyên tử duy nhất vừa giải phóng vừa khống chế “phản ứng nhiệt hạch” của sói tính. Muốn xây dựng nền dân chủ thực sự, phải đồng thời tiến hành và hoàn thành công trình cơ sở chuyển hoán tính cách quốc dân. Không có cơ sở của tính cách dân tộc, thì dù dựng nên lâu đài dân chủ cũng chỉ là lâu đài, nếu như nó đổ còn gây tai tiếng cho dân chủ và trên đống đổ nát ấy sẽ mọc lên một thể chế độc tài hơn. Không có công trình cơ sở để chuyển hoán tính cách dân tộc thì dân chủ mãi mãi chỉ là ảo vọng. Chuyển hoán tính cách dân tộc nông canh phải qua một thời kỳ quá độ “thả nổi”, nhưng không được quá chậm chạp, nếu không, bệnh cũ (tính cách yếu đuối) sẽ khuếch tán những độc tố hủ bại, hiệu quả thấp, bùng nổ dân số và phá hoại môi trường, ra khắp cơ thể, phải mất nhiều thì giờ quí báu để chữa trị.

Dương Khắc gật đầu: Đúng vậy, dân tộc phương tây tính cách quá mạnh, chính phủ độc tài khó mà áp chế được dân. Ở phương tây, chế độ trung ương tập quyền như Trung Quốc rất khó đứng vững, mà dù có đứng cũng không vững. Cho nên người ta chỉ tiếp nhận chế độ dân chủ. Còn ở phương đông, cừu sợ nhất là tự do và độc lập, một khi không có “Từ châu mục” (người cai quản chăn dắt), cừu sẽ bị sói ăn thịt. Dân tộc nông canh ươn hèn đều vui lòng chấp nhận chế độ độc tài, đám dân nông canh là cha mẹ cung cấp cơm ăn áo mặc cho chế độ độc tài. Xem ra, tồn tại dân tộc của dân tộc Hoa Hạ và tính cách quóc dân không thay đổi thì chế độ độc tài ở Trung Quốc không bao giờ kết thúc.

Trần Trận lại nói: Dân tộc nào sói tính không mạnh thì dân tộc ấy không bao giơ giành được dân chủ và không biết sử dụng dân chủ. Trên thực tế, dân chủ là kết quả của sự phản kháng của dân tộc tính cách mạnh, ngã giá với nhà cầm quyền.

Tràn Trận lại nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó thay”, nếu không cải cách tồn tại dân tộc thì bản tính dân tộc sẽ không còn là “khó thay”, mà là “không thể thay đổi”. Cuộc cải cách hiện nay ở nước ta, thực tế là cải cách tồn tại dân tộc. Tình hình cải cách hiện nay đã không thể đảo ngược. Về tính cách, đã từ “sói Viêm Hoàng”, “sói Tần Hán” và “sói Tuỳ Đường” bị tồn tại nông canh cải tạo thành “cừu Hoa Hạ”, vậy thì, cùng với tồn tại dân tộc mang tính cạnh tranh kiểu mới được xác lập và phát triển, “cừu Hoa Hạ” lạc hậu xưa nay sẽ trở thành “sói văn minh Trung Hoa hiện đại”, hậu duệ chân chính của Viêm Hoàng, tiến hoá theo hướng “người văn minh thế giới” ở giai đoạn tự do dân chủ cao hơn.

Tuy nhiên, trên thế giới, Trung Quốc là nước đât đai nông canh rộng lớn nhất, lịch sử nông canh lâu đời nhất, số dân nông canh đông đảo nhất, ý thức nông canh sâu đậm nhất, không gian thành thị hoá quá chật hẹp, vì vậy, muốn chuyển hoá tính cách dân tộc từ “cừu Hoa Hạ” thành “sói văn minh” cấn phải một thời gian dài, đau khổ, thậm chí là thời kỳ đào thải quyết liệt. Làm sao đối xử, bố trí và nuôi sống đám quần chúng tính cách non kém, chuyển hoá tính cách yếu đuối của họ, sẽ là công viện khó khăn bằng lên trời. Hơn nữa,sau này nhiệm vụ công kiên của thể chế chính trị còn có thể do tính cách dân tộc hèn yếu mà không thành công. Chỉ có tinh thần sói kiên cường bất khuất mới giải quyết được những vấn đề khó khăn này.

Đó là những kết luận cuối cùng của tôi.

0O0

Thảo nguyên Ơlôn chìm trong màn đêm mênh mông, đèn điện ở những điểm định cư xa xa toả ánh sáng yếu ớt. Dương Khắc còn muốn hỏi nữa, nhưng Trần Trận vỗ tay lái, nói: Về thôi, kẻo Batu đánh xe đến tìm chúng mình bây giờ. Cậu còn hỏi chuyện gi, ta có thể trao đổi trên đường về Bắc Kinh.

Dương Khắc nói: Tôtem sói và tinh thần du mục đúng là những vấn đề then chốt của văn minh Trung Hoa, đụng vào đó là rất nhièu chuyện. Mình đang muốn hỏi cậu một số vấn đề.

Hai người xuống xe, giơ tay chào hang sói nhưng vẫn nấn ná chưa muốn đi. Trần Trận nhìn mỏm núi, nói khẽ: Sói con, tôi về Bắc Kinh đây, tôi sẽ trở lại thăm sói…

Dương Khắc nói: Ta nên dựng bia kỉ niệm trước hang sói, hay nhất là một biểu tượng tôtem sói.

Trần Trận thở dài, nói: Mình cũng muốn dựng nhưng không dám. Bây giờ chỗ nào cũng thấy dân ngụ cư đến từ vùng nông nghiệp, trông thấy bia sói, họ không đập nát thì chớ kể! Chưa chừng họ còn lấp mất cái hang trăm tuổi cũng nên. Hãy cứ để yên cái hang đó.

Trần Trận lại nói: Giờ đây mình rất muốn dựng một bia sói, một biểu tượng tinh thần tôtem sói trong lòng mọi người. Tôtem sói vốn là một trong những tôtem nguyên thuỷ quan trọng nhất của dân tộc Trung Hoa, về địa vị chỉ sau tôtem rồng. Nhưng mình cho rằng, vấn dề không đơn giản như thế, căn cứ vào những phát hiện khảo cổ mới đây và sự phân tích của mình, thời kỳ đầu tôtem sói và tôtem rồng có thể chỉ là một, tôtem rồng về sau chẳng qua là diễn biến từ tôtem sói.

Dương Khắc giật mình, vội nói: Phát hiện này rất quan trọng đối với vấn đề chuyển hoán tính cách quốc dân của người Trung Quốc. Cậu nói vấn đề này rồi hãy đi.

Trần Trận nói một mạch: Hình tượng rồng thực ra đã xuất hiện cách đây 5.000 năm. Năm 1971 tại Tam Tinh Thala xuất thổ một con rồng ngọc, thuộc văn hoá Hồng Sơn, thời kỳ đồ đá mới, được gọi là con rồng đầu tiên ở Trung Quốc. Khi ấy tổ tiên Hoa Hạ chưa trở thành dân tộc nông canh, đang trong trạng thái săn bắn hái lượm, du mục hoặc bán nông bán mục. Tôtem rồng đàu tiên là của tiên dân nguyên thuỷ Hoa Hạ, sau đó mới diễn biến thành tôtem của dân tộc nông canh, Tôi đã nghiên cứu kỹ con rồng ngọc Tamtinh Thala, giật mình nhận ra rằng, con rồng ngọc nguyên thuỷ không giống chút nào con rồng mà người Trung Quốc quen thuộc, mà là con rồng đầu sói thân rồng, trên mình con rồng ngọc không có vảy, cũng không có móng vuốt, đầu và gáy hoàn toàn sao chép y nguyên đầu sói gáy sói: mặt dài, mũi dài,, mõm dài, mép hơi nhếch lên. Nhất là mắt thì đúng là mắt sói, tròn mà xếch, in hệt mắt sói con chúng mình nuôi. Đặc trưng vê mắt, tiền nhân thời đại đồ đá mới dùng thủ pháp nghệ thuật khoa trong một cách kỳ diệu.Chưa hết, lông gáy sói còn được điêu khắc giống như thật, từ sau ót cho tới lưng bờm nổi hẳn lên vốn là đặc trưng của sói Mông Cổ, đẹp mà oai không thể tả. Mình thuộc lòng hình dáng con sói Mông Cổ, có thể tưởng tượng, nếu như không quan sát kỹ lưỡng con sói trong một thời gian dài, tổ tiên chúng ta không thể khắc hoạ hình tượng nghệ thuật giống đến thế.

Con rồng ngọc này thực tế là con sói ngọc, nhất là cái đầu thì đúng là đầu sói, đúng tuyệt đối. Vậy mà có một số học giả nói đó là đầu lợn. Nhưng mình cho rằng, căn cứ vào tính cách, dân du mục không bao giờ sùng bái lợn, dù lợn nhà hay lợn rừng. Vì rằng dân tộc du mục tây bắc hoặc phương bắc không khi nào sùng bái con vật họ đã thuần dưỡng hoặc có thể thuần dưõng. Chỉ những ai không hiểu tính cách ấy của dân tộc du mục Trung Quốc mới cho rằng họ sùng bái gia súc; từ hình tượng mà xét, mắt lợn không xếch, mõm lợn không mở ra ngay phía trước, đầu lợn cũng không dài. Hơn nữa, con lợn thân hình ngắn mà tròn, đuôi ngắn, bất kể lợn rừng hay lợn nhà đều không thể diễn biến thành rồng. Nói diễn biến thành rồng là quá khiên cưỡng. Còn sói thì thân dài lông mượt đuôi dài, diẽn biến thành rồng là có thể. Cậu tưởng tượng bộ da sói hình ống thân dài đuôi dài treo trên ngọn sào, có phải đúng là đầu sói mình rồng? Mình đoán hình tưọng rồng bay Trung Hoa rất có thể là hình tượng sói bay lên trời trong tưởng tưọng của tổ tiên Hoa Hạ thảo nguyên, mỹ hoá và thần thánh hoá con sói. Năm xưa chúng mình xem hình ảnh sói con bay trên trời, cảm thấy không chỉ là sói bay mà như rồng bay, có điều, khi ấy mình không khai thác sâu theo hướng này.

Sau khi về Bắc Kinh, được xem ảnh chụp con rồng ngọc, mình xúc động ghê gớm, y như gặp lại sói con. Trong điều kiện lúc bấy giờ mà khắc hoạ trên đá quí con rồng đầu sói mình rồng đẹp đến vây, có thể suy ra tổ tiên chúng ta quen thuộc và gần gũi con sói đến mức nào. Vả lại, địa điểm rồng ngọc xuất lộ là ở Nội Mông, quê hương của sói thảo nguyên Mông Cổ, nơi có nhiều sói lớn và dũng mãnh nhất, có nhiều dân tộc du mục sùng bái tôtem sói sinh sống nhất và cũng là nơi có nhiều truyền thuyết nhất về “sói bay” Trung Quốc. Điều này khiến mình tự nhiên nghĩ tới mối quan hệ giữa tôtem sói và tôtem rồng và bắt đầu nghiên cứu về chúng.

Theo kết quả nghiên cứu của mình, tôtem sói và tôtem rồng chí ít có 7 điểm giống nhau dưới đây:

Một, tôtem sói và tôtem rồng sớm nhất xuất lộ ở thảo nguyên Nội Mông hoặc thảo nguyên Mông Cổ kế cận. Nơi này lại đúng là quê hương của giống sói thảo nguyên Mông Cổ lón nhất, dũng mãnh nhất và đông nhất thế giới, hơn nữa sói thảo nguyên là đồng hương của dân tộc du mục, người và sói vật lộn quyết liệt để cùng tồn tại trên thảo nguyên rộng lớn. Do đó, tinh thần và tính cách sói ảnh hưởng lớn nhất đối với người thảo nguyên, không như sói bắc cực sống trong rừng xa người, ăn thịt động vật hoang dã là chính, không ảnh hưởng lớn đến con người, do vậy ở đó khó có tục sùng bái sói.

Hai, tôtem sói và tôtem rồng nguyên thuỷ đầu và cổ giống nhau, thân tròn mà dài giống nhau. Rồng ngọc Tamtinh Thala Nội Mông đầu sói mình rồng, cũng có nghĩa là thời đại đồ đá mới, đầu và cổ tôtem sói và tôtem rồng hoàn toàn giống nhau, mình cũng giống nhau, đều không có vảy, điều này chứng tỏ tôtem rồng không diễn biến từ cá hoặc từ rắn. Thời đó, rất có thể tôtem sói chính là tôtem rồng, tôtenm rồng chính là tôtem sói, hai tôtem này chưa tách riêng, mà quê của cả hai đều ở thảo nguyên.

Ba, tôtem sói và tôtem rồng đều bay trong tư thế uốn lượn lên xuống để bay. Trong truyền thuyết, dù là trên thảo nguyên hay trên đại lục Hoa Hạ, hai tôtem này đều đang bay. Trên thảo nguyên, tôtem sói bay lên trời đưa linh hồn người lên Tăngcơli, còn tôtem rồng của Hoa Hạ thì đằng vân giá vũ, kêu gió gọi mưa. Nhưng rất nhiều dân tộc trên thế giới và ở Trung Quốc, tôtem của họ không biết bay, thí dụ họ thờ gấu, hổ, bò, khỉ…Dân tộc thảo nguyên và dân tộc nông canh trên đại lục Trung Quốc đều có chung đặc điểm tôtem bay, điều này không phải trùng hợp ngẫu nhiên.

Điều giông nhau nhất là tư thái bay, tư thái phóng như bay của sói thảo nguyên là uốn lượn lên xuống, bộ da hình ống của con sói trên đầu sào cũng uốn lựon lên xuống “bay” trước gió. Con rồng Trung Hoa trong điêu khắc và trên bích hoạ thì cong người lên mà “bay”, động tác giống hệt sói “bay”. Nhưng động tác bơi dưới nước của cá, rắn và cá sấu thì hoàn toàn khác. Cá rắn cá sấu dựa vào quạt đuôi sang trái sang phải mà tiến lên. Một đằng là “uốn lượn lên xuống”, một đắng là “quạt trái quạt phải”, hai tư thái và động tác hoàn toàn khác biệt chứng tỏ sói là động vật cao cấp hơn rắn cá sấu.Tôtem rồng không phải diễn biến từ động vật cấp thấp như cá, rắn, cá sấu, mà diễn biến từ sói, động vật có vú trên thảo nguyên. Có rất nhiều người Trung Quốc lại cho rằng rồng diễn biến từ cá hoặc rắn bơi trong nước. Bây giờ vẫn có người bảo rồng lấy nguyên mẫu từ cá sấu, nói vậy là chưa thấy rõ sự khác nhau về bản chất giữa rồng và cá, rắn, cá sấu, sự khác nhau giữa “uốn lượn lên xuống” và “quạt trái quạt phải”. Do đó, ý nghĩa thật sự về tôtem rồng bị mơ hồ.

Bốn, tôtem sói và tôtem rồng tuy đều biết bay nhưng không có cánh, thần thoại Trung Quốc có “phi hổ” (hổ bay) “phi mã” (ngựa bay),một số dân tộc khác có “rắn bay”, nhưng tất cả những con biết bay đó đều có cánh. Những năm 50, ta có thuốc lá nhãn hiệu “phi mã”, vỏ bao vẽ con ngựa có đôi cánh lớn. Vậy tôtem rồng sao không có cánh? Mình cho rằng tôtem rồng diễn biến từ tôtem sói, tôtem sói không có cánh, nên tôtem rồng cũng không có cánh. Totem sói sở dĩ không có cánh vì người thảo nguyên nguyên thuỷ tin rằng, con sói thần thông quảng đại, biến hoá như thần thì không cần cánh vẫn bay được.

Năm, tôtem sói và tôtem rồng có liên quan mật thiết với tục sùng bái trời của người Trung Quốc. Trên thảo nguyên, dân tộc thảo nguyên tin rằng, sói được trời sai xuồng bảo vệ thảo nguyên và đưa linh hồn những người sùng bái Tăngcơli lên trời; Còn ở Hoa Hạ, dân tộc nông canh cho rồng là hoá thân của trời, nhà vua là “con trời”, thần thánh không được xâm phạm. Tộc Hán đã tiếp nhận tục sùng bái trời của tổ tiên đem từ khuc vực du mục về đại lục nông canh, tấ nhiên khi về trung nguyên, tổ tiên họ đem theo cả tôtem sói.

Sáu, tôtem sói và tôtem rồng đều là hình tưọng mãnh thú hung dữ đáng sợ. Tôtem các dân tộc trên thế giới có mãnh thú, cũng có cả động vật hiền lành ăn cỏ., nhiều dân tộc thờ tôtem bò. Nhưng vì sao dân tộc Hoa Hạ lại lấy con rồng có bộ mặt hung tợn làm tôtem?

Là vì khi ấy tổ tiên Hoa Hạ vẫn còn trong thời kỳ săn bắn hái lượm, chưa phải là dân tộc nông canh hiền hoà đôn hậu, mà tuyệt đại đa số dân tộc du mục Trung Quốc đều lấy sói làm tôtem. Do hình tượng sói rất dữ, nên hình tượng rồng diễn biến từ sói cũng rất dữ.

Bảy, sói và rồng đều có đặc tính không thể thuần dưỡng. Tôtem của rất nhiều dân tộc trên thế giới là động vật có thể thuần dưỡng, thậm chí là gia súc nuôi trong nhà. Còn sói và rồng, tôtem của hai dân tộc lớn ở Trung Quốc đều có tính cách không thể thuần dưỡng. Sói là loại động vật quật cường, không khi nào chịu khuất phục, vậy rồng diễn biến từ sói cùng không chịu khuất phục. Rồng tiếp tục tinh thần sói, tăng cường sức mạnh của sói, rồng không những không bị thuần dưỡng mà còn thuần hoá thần dân, còn tinh thần cưỡng lại thuần hoá của sói đã bị Nho gia lợi dụng đưa lên vị trí tối cao, bị thấn thánh hoá.

Căn cứ vào những điểm tương đồng có tính then chốt nêu trên, mình đoán tôtem rồng Trung Hoa diễn biến từ tôtem sói thảo nguyên, cũng như dân tộc nông canh Hoa Hạ là diễn biến từ dân tộc du mục. Bởi vì dân tộc du mục thảo nguyên chưa bao giờ xa rời thảo nguyên nên tôtem sói của dân tộc thảo nguyên cũng chưa bao giờ biến hình, dân tộc thảo nguyên xưa nay chỉ sùng bái tôtem sói; Từ viễn cổ, một bộ phận dân tộc du mục rời thảo nguyên tiến vào khu nông canh của dân tộc Hoa Hạ, cũng là đưa tục sùng bái Tăngcơli và sùng bái tôtem sói vào cuộc sống nông canh Hoa Hạ. Thời cổ xưa bất kể chăn nuôi hay nông nghiệp đều dựa vào trời, vì vậy tục sùng bái trời vẫn được giữ lại sau khi vào khu vực nông canh sinh sống. Nhưng sau khi bộ tộc du mục biến thành tộc nông canh, tính cách dần bị mềm hoá dần trở nên sợ sói ghét sói. Vậy là tục sùng bái sói đem từ thảo nguyên về không thích ứng với cuộc sống và tinh thần nông canh. Thế là tôtem sói dần dà bị nông canh cải tạo thành hình tượng mới tôtem rồng có khả năng hú gió gọi mưa.

Thời viễn cổ, thảo nguyên Đông Á chắc chắn có dân tộc du mục sùng bái tôtem sói.; tôtem thời Phục Hi “đầu người mình rắn”. Về sau, trong quá trình pha trộn bộ tộc, có lẽ tổ tiên người Hoa Hạ lấy tôtem sói và tôtem “đầu người mình thú” làm chuẩn, sau đó lấy một số chi tiết từ những tôtem của các bộ tộc khác, thêm vào đó một số tình tiết như vẩy cá, vuốt chim ưng và sừng hươu, vậy là tôtem sói biến thành tôtem rồng. Trong quá trình sáng tạo và pha trộn tôtem rồng, tôtem sói đóng vai trò then chốt, vì rằng hình tượng “mặt ngưòi mình rắn” so với hình tượng tôtem rồng dữ dằn, khác nhau quá xa. Mình đã xem hình vẽ trên gốm “mặt người mình rắn” thời Ngưỡng Thiều, đâu phải con rồng? Y hệt con thạch sùng, hoặc như con rết đầu to bự! Hình tượng u ám và kinh tởm, không hề có giá trị thẩm mỹ và cảm giác thiêng liêng. Còn như lắp đầu sói vào mình rắn thì khác hẳn. “đầu sói mình rắn” về cơ bản đã là bản phác thảo nghệ thuật. Về sau, hình tượng con rồng Trung Hoa sở dĩ oai phong lẫm liệt khiến người nể sợ mà vẫn có giá trị thẩm mỹ, là vì nó mang nhứng nét đặc trưng về hình tượng cũng như về tính cách của sói. Con rồng “trừu tượng” dứt khoát phải có cơ sở từ vật thật, mà tôtem dũng mãnh nhất cụ thể nhất lâu đời nhất trong lịch sử và trong các dân tộc Trung Hoa, chỉ có thể la tôtem sói. Vì vậy, nếu không tham khảo hình tượng, tính cách và tinh thần tôtem sói, rồng Trung Hoa không thể thành rồng, mà chỉ là con sâu Trung Hoa.

0O0

Trần Trận bảo Dương Khắc lên xe. Anh cũng lên xe và bật đèn trong, xem giờ rồi lại nhìn tấm phích, nói; Còn một vấ đề nữa rất đáng nghiên cứu, đó là thần thú thao thiết thần bí trong truyền thuyết. Mình cho rằng, thao thiết cũng điễn biến từ sói, sau đó thao thiết diễn biễn thành rồng. “Từ Hải” giải thích: Thao thiết là con ác thú tham ăn trong truyền thuyết, xưa khắc đầu nó lên đỉnh, chuông, vò rượu có tính chất tô điểm”. “Lã thị Xuân thu. Tiên thức” viết: Đỉnh nhà Chu gắn con thao thiết, có đầu không có thân”. “Từ Hải” giải thích chữ ‘thao’: ‘Thao’ có nghĩa là tham, “Hán thư. Lễ nhạc chí” chép: Cực tham gọi là ‘thao’, chỉ tham ăn.”

Mấy câu trên có ba vấn đề cần chú ý:

Một là, thao thiết là ác thú mà không phải là cá rắn trăn cá sấu. Thao thiết không thuộc họ cá, cũng không thuộc loài bò sát. “Từ Hải” còn chua thêm hình vẽ. Chỉ cần nhìn thấy là cậu biết ngay nó giống con gì. Nhìn trực diện đúng là sói, cũng hai mắt tròn mà xếch, rất dữ.

Hai là, thao thiết cực kỳ tham ăn, đặc trưng này rõ ràng để chỉ đặc tính của sói. “Cực tham ăn” là một trong những đặc tính nổi bật của sói thảo nguyên. Chúng mình từng nuôi sói, rất biết sói tham ăn như thế nào, có thể kể ra vô số dẫn chứng. Trên đời không có động vật nào tham ăn hơn sói. Không tin cứ đi hỏi các mục dân cao tuổi “Thú dữ tham ăn nhất thiên hạ” là con gì? Khẳng định là sói. Ai cũng biết, “tham” là đại từ chỉ sói tính. Đổng Trọng Thư nói về Tần: “lấy tham ăn như sói làm nếp sống”, gắn tham với sói. Người Trung Quốc hình dung kẻ tham ăn: “ăn ngấu nghiến như sói như hổ”, lại còn đặt sói trên hổ., chứng tỏ sói tham ăn hơn hổ. Hình dung lòng tham đều nói: “dã tâm như sói”, không nói “dã tâm như hổ”.

Do con thao thiết có hai đặc trưng “thú dữ” và “cực tham ăn”, hơn nữa hoa văn giống sói. Do đó con thao thiết trong truyền thuyết rất có thể là sói, hoặc giả từ sói biến thành thần thú.

Ba là, thao thiết là hoa văn chủ yếu trên đỉnh nhà Thương Chu, điều này liên can đến hàng loạt vấn đề. Đỉnh là trọng khí lập quốc của dân tộc Hoa Hạ thời đại đồ đồng. Thời Chu, “lời nói có sức nặng chín đỉnh”. “đỉnh” - thần khí và lễ khí tượng trưng cho vương quyền tối cao của vương triều và cũng là tế khí, tế trời đất tổ tiên. Đỉnh chiếm địa vị tôtem trong tâm khảm dân tộc Hoa Hạ. Do vậy, chỉ có thuộc về tôtem của dân tộc mới có địa vị cao quí, mới được chạm khắc hoặc gắn trên trọng khí. Hiện tượng này nói lên hai vấn đề: Một, đến đời Thương Chu, có thể dân tộc Hoa Hạ vẫn sùng bái tôtem sói, ít ra là tôtem mãnh thú. Tục sùng bái tôtem từ thời Viêm Hoàng vẫn tiếp tục trong thời kỳ này. Hoa Hạ dưới triều Chu chịu ảnh hưởng tôtem sói càng sâu, vì nhà Chu phát tích từ Tây Nhung,mà Tây Nhung thì phần lớn các dân tộc du mục sùng bái tôtem sói. Hai, khi đó rồng có thể chưa được tiếp nhận phổ biến, chưa chính thức trở thành tôtem của dân tộc Hoa Hạ, nếu không, trên đỉnh tượng trưng cho vương quyền chắc chắn vẽ hoa văn rồng là chính. Vả lại, thiên tử nhà Chu khi ấy chưa có long toạ, vẫn theo tập tục du mục thời Viêm Hoàng, trải chiếu ngồi dưới đất.

Hoa văn trên đỉnh nhà Chu chủ yếu do hoa văn con thao thiết và hoa văn mây tạo nên., lấy thao thiết làm trung tâm, mây lượn quanh. Rõ ràng là thao thiết ở trên trời, đầu ló ra khỏi mây, cúi nhìn nhân gian, thân khuất trong mây, không rõ mình rắn hay mình rồng, nhưng nếu tiếp theo gáy là mình rồng, thì không khác mấy con rồng tiêu chuẩn sau này. Vì vây mình cho rằng, giữa tôtem sói và tôtem rồng còn có một giai đoạn quá độ là tôtem thao thiết. Con thao thiết vừa có tính cách của sói, vừa có bộ mặt dữ tợn như rồng sau này.

Trước đây mình không hiểu dân tộc Hoa Hạ trong thời đại đồ đồng lại sùng bái con vật tham ăn thao thiết, hơn nữa, đưa nó lên địa vị thần khí. Chẳng lẽ khi ấy người Trung Quốc tham ăn nên sùng bái con ác thú tham lam? Cái dáng tham ăn của con thao thiết chẳng có vẻ gì là thần thánh. Nhưng từ khi phát hiện thao thiết rất có thể là tôtem sói biến hình, mình thông ngay. Tham ăn chỉ là một đặc trưng của sói, là biểu tượng của tinh thần và tính cách sói. Tộc Hoa Hạ thời Thương Chu sùng bái thần thú thao thiết, là kế thừa tục sùng bái tôtem sói của tổ tiên. Sói tuy tham ăn, nhưng tinh thần dũng cảm xốc tới, uy vũ không chịu khuất, thà chết trận còn hơn chết bệnh, mới là nguyên nhân căn bản khiến dân tộc Hoa Hạ sùng bái sói trong thời kỳ đầu. Nguyên nhân nàychỉ hiểu được sau khi tìm hiểu kỹ về sói. Còn về sau dân tộc nông canh sợ sói ghét sói và Nho gia thì rất khó lý giải. Về sau nữa, khi nông canh và Nho gia ngày càng chiếm địa vị thống trị, con thú thao thiết tham ăn tất nhiên phải rời khỏi thần khí, được cải tạo thành rồng, nhường ngôi cho rồng.

Trong lịch sử, tinh thần sói từng chinh phục rất nhiều dân tộc du mục, còn rất nhiều dân tộc du mục lại nhiệt liệt sùng bái tôtem sói. Vì sao sau khi xuống làm chủ trung nguyên hoặc Trung Quốc, các đế vương của dân tộc du mục lại ưa thích mặc long bào của Trung Hoa, ngồi long toạ của Trung Hoa, có thể là vì họ nhìn thấy hình ảnh hoặc biến hình của tôtem sói trong tôtem rồng. Tôtem rồng thực tế la tôem sói bay của dân tộc du mục thay hình đổi dạng nhưng lòng không đổi. Tuy nhiên, sau khi dân tộc du mục vào đến đồng ruộng Hoa Hạ, tinh thần du mục của họ bị cải tạo thành ý thức nông canh, cũng vậy, tinh thần tôtem của dân tộc du mục cũng bị tồn tại nông canh cải tạo, thế là tôtem sói bảo vệ thảo nguyên liền biến thành tôtem rồng hô phong hoán vũ, chủ quản mạch sống của nông canh., vậy là sói biến thành rồng, hơn nữa, thêm vào đó rất nhiêu quan niệm và ý thức của dân tộc nông canh., cải tạo thực chất tinh thần nguyên thuỷ của tôtem rồng đến mức hoàn toàn khác xưa, tinh thần dân tộc tôtem sói hăng hái tiến thủ, bị cải tạo thành tinh thần bạo lực chuyên chế tượng trưng cho uy quyền của đế vương. Tôtem rồng trở thành tôtem cho đế vương các triều đại cáo mượn oai hùm trấn áp doạ nạt dân chúng. Long bào chỉ thuộc mỗi nhà vua, chín rồng chín móng. áo bào bảy rồng bảy móng, năm rồng năm móng không được gọi là long bào, chỉ được gọi là mãng bào. Bước váo xã hội hiện đại, dân tộc Trung Hoa đặc biệt cần phải gạt bỏ những cặn bã đế vương chuyên chế gán cho tôtem dân tộc, trả lại bộ mặt vốn có của tôtem dân tộc Hoa Hạ - tinh thần tôtem sói.

Hình tượng dũng mãnh khiến người nể sợ của con rồng Trung Hoa, ban đầu còn ẩn chứa tinh thần tôtem và linh hồn sói mà mọi người vẫn kính nể. Tôtem rồng và tôtem sói Trung Hoa có thể có quan hệ máu thịt không thể chia lìa. Nhưng về thực chất, rông Trung Hoa đã hoàn toàn bị dị hoá: Sói tự do đã biến thành rồng độc đoán, tấm gương của toàn dân tộc trở thành hoá thân của kẻ độc tài; tôtem tràn đầy sức sống chỉ còn cái vỏ thở không ra hơi, biến thành rồng giấy, hổ giấy.

Chỉ có tước bỏ tinh thần độc đoán của đế vương phong kiến trong tôtem rồng Trung Hoa và tiêm vào đấy tinh thần hăng hái cầu tiến của tôtem sói, con rồng khổng lồ Trung Hoa mới có khả năng thật sự bay cao, bay khắp địa cầu, bay vào vũ trụ, khai thác không gian sinh tồn cho dân tộc Trung Hoa và toàn thể nhân loại.

0O0

Hai người ăn hết thức ăn còn lại của bữa trưa mà vẫn không đỡ đói, bụng vẫn réo ùng ục. Dương Khắc nói: Mình rất muốn ăn hết đĩa thịt luộc như con thao thiết. Trần Trận nói: Caxưmai mà thấy chúng mình ăn như sói thế này chắc rất vui. Dương Khắc bật hết đèn xe nhằm hưóng đường biên phòng tây bắc chạy đi. Qua một con dốc lớn đã có thể nhìn thấy ánh đèn mờ tỏ phía xa, Caxưmai chắc là cầm đèn pin đợi đã lâu. Trần Trân nhìn quả núi Sói qua gương chiếu hậu rất lâu. Anh không biết khi nào trở lại…

Mùa xuân năm 2002, Batu và Caxưmai từ thảo nguyên Ơlôn gọi điện cho Trần Trận thông báo 80% đồng cỏ ở Paolicơ đã bị sa mạc hoá, qua một năm nữa toàn bộ sumu (làng) sẽ từ chăn thả tại chỗ biến thành nuôi trong chuồng, không khác gì nuôi trâu bò ở nông thôn dưới xuôi, mọi nhà phải xây thêm mấy căn nhà nữa…

Trần Trận hồi lâu không nói được câu nào.

Vài hôm sau, bão cát mù trời như con rồng khổng lồ che khuất ánh nắng, thành phố Bắc Kinh chìm trong mưa bụi, hoàng thành Trung Hoa trở thành thành phố cát.

Trần Trần rời máy vi tính ra trớc cửa sổ, buồn rầu nhìn lên phương bắc. Đàn sói đã trở thành lịch sử, thảo nguyên đã trở thành kỷ niệm, văn minh du mục chấm dứt hoàn toàn, ngay cả dấu vết cỏn con của sói Mông Cổ để lại trên thảo nguyên Nội Mông - hang trăm tuổi, cũng sắp bị cát vùi.

Từ 1971 - 1996 phúc cảo Uchumuxin (Nội Mông) –

Bắc Kinh 1997 sơ cảo Bắc Kinh 2001 bản thảo lần 2,

Bắc Kinh 20 tháng 3 năm 2002 bản thảo lần 3,

ngày bão cát Bắc Kinh Cuối năm 2003

sửa chữa lần cuối tại Bắc Kinh.

Nguồn: Tôtem sói, tác giả: Khương Nhung; Trần Đình Hiến dịch từ nguyên bản tiếng Trung Lang đồ đằng. Công ty văn hoá Đông A và Nxb. Công an Nhân dân ấn hành, Hà Nội, 12.2006. Sách dày 560 trang, khổ 16x24cm.

[1]Thông tin chi tiết: Samuel Huntington, Sự xung đột giữa các nền văn minh (The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, 1996), Nhiều dịch giả, Nxb. Thế giới; Hà Nội 1998; Thomas L. Friedman, Chiếc Lexus và cây ôliu (The Lexus and the Olive Tree, 1999), Lê Minh dịch, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2005; Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng (The World Is Flat: A Brief History of the Twenty-first Century, 2005), Nguyễn Quang A dịch, Nxb. Trẻ, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Súng, vi trùng và thép - Định mệnh của các xã hội loài người (Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies, 1997), Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Loài tinh tinh thứ ba - Sự tiến hoá và tương lai của loài người (The Third Chimpanzee, 2000), Nguyễn Thuỷ Chung và Nguyễn Kim Nữ Thảo dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2007, Jared Diamond, Sụp đổ - Các xã hội đã thất bại hay thành công như thế nào (Collapse. How Societies Choose to Fail or Succeed, 2005), Hà Trần dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jonathan Weiner, Mỏ chim sẻ đảo - Câu chuyện tiến hoá (The Beak of the Finch - A Story of Evolution in Our Time, 1995), Nguyễn Ngọc Hải dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; James Surowiecki, Trí tuệ đám đông (The Wisdom of Crowds, 2004), Nguyễn Thị Yến dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006.

Tác giả Khương Nhung (Jiang Rong) Sinh năm 1947 tại Bắc Kinh. Thời kì cách mạng văn hoá, xung phong đi lao động ở vùng thảo nguyên Nội Mông 11 năm. Năm 1979, trở lại Bắc Kinh. Tiểu thuyết Tôtem sói (Lang đồ đằng) được Khương Nhung thai nghén và viết trong vòng 30 năm (từ 1971 đến 2003). Khi tác phẩm được xuất bản lần đầu năm 2004, lập tức nó trở thành cuốn sách bán chạy kỷ lục tại Trung Quốc và trở thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Trung Quốc được một nhà xuất bản nước ngoài mua bản quyền với giá 100.000 USD.

Dịch giả Trần Đình Hiến Sinh năm 1933 tại Vĩnh Phúc. Trần Đình Hiến từng là giảng viên Đại học Ngoại ngữ trước khi chuyển sang ngành ngoại giao. Là cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, ông từng có 10 năm công tác tại Bắc Kinh. Hiện Trần Đình Hiến sống và hoạt động dịch thuật tại Hà Nội.

Các tác phẩm dịch tiêu biểu: Đàn hương hình của Mạc Ngôn (Giải thưởng Hội Nhà văn năm 2003), Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Cây không gió của Lý Nhuệ, Ngân thành cố sự của Lý Nhuệ, Tuyển tập kịch của Lão Xá và Tôtem sói của Khương Nhung.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: