Than Dieu Dai Hiep - Hoi 9 + 10 + 11 + 12
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 9 : Quách Tỉnh với trận Bắc đẩu Thiên cang
Thấy thế Quách-Tỉnh nghĩ thầm:
- Đúng là Thất tử Toàn-Chân rồi, nhưng chắc có một vị trong bảy người bị thất tịch nên được thay thế vào một nữ. Đã mười năm qua, việc liên lạc với Trùng Dương Cung bị gián đoạn nên ta chẳng biết.
Nắm được địch tình, rõ được ý đích, và đoán được địch pháp, Quách-Tỉnh thấy việc phá trận "Bắc-đẩu Thiên-cang" chẳng khó khăn gì. Theo binh pháp, trận nầy có một yếu điểm là Bắc đẩu tinh vị, hễ chiếm được yếu điểm đó thì có thể thao túng được mọi kế hoạch tấn công. Cũng như công dụng của sao Bắc đẩu trên trời lúc ban đêm nó hướng dẫn chắc chắn cho mọi người dùng đường đúng lối. Tinh vị Bắc đẩu trong thế trận là chủ não của cuộc chiến, là bản doanh của tham mưu, mà nữ đạo cô đang giữ trọng yếu.
Và, người ta cũng phải lưu ý ở thế trận nầy là địa vị tối thượng của tinh thần.
Bắc-đẩu-trận không phải ai cũng có thể cho vào làm tinh binh, mà phải có những người và võ nghệ tuyệt luân, sức điều động tinh thần phải vượt qua sức mạnh của vũ khí mới có thể làm đúng theo pháp thuật.
Ngược lại, Bắc đẩu trận thường chỉ được bố trí để tấn công những người xuất chúng, đáng gọi là địch thủ.
Quách-Tỉnh đã rõ thông tài năng của Thất tử Toàn-Chân, lại hiểu rõ cái lợi hại của trận pháp nên không dám khinh thường, thận trọng từng hành động, cố đừng lầm lộn lọt vào tầm chi phối của quần tinh lúc di chuyển.
Đột nhiên, bảy đạo nhân như thiếu kiên nhẫn, tung kiếm chuyển từ thế thủ sang thế công tấn thối qua lại theo luật di chuyển của quần tinh trong trận pháp.
Quách-Tỉnh lợi dụng sự di chuyển trong đêm tối của phương vị, tấn công vào tinh vị Bắc đẩu, khiến cho đạo cô lọt ra ngoài vòng hệ thống và sáu vì sao kia rối loạn tinh thần, thiếu phối hợp, mất liên hoàn và người nào người nấy phải sử dụng võ khí để hộ thân.
Thế là trận pháp tan vỡ, chỉ còn lại vũ tài thuần túy, do sức lực từng người gánh vác lấy phương vị đã có, rất dễ dàng cho Quách-Tỉnh đối phó.
Đạo cô như rõ tài nghệ của Quách-Tỉnh, liền la lớn:
- Biến trận! Biến trận!
Thế là hàng ngũ bảy vị đạo nhân rối loạn, mỗi người tự mình đông xông tây đột để tự bảo vệ, không còn tiến thối theo thế liên hoàn của trận pháp nữa.
Trong ánh tối lờ mờ, các chiếc trường kiếm tung tăng lồng lộn. Giữa sự rối rắm của vũ khí đó, người nào cũng có thể nhầm phương vị mình với đồng bọn.
Quách-Tỉnh cố nhiên nắm vững tình thế, chỉ cần áp dụng thuật tấn công gián tiếp lúc phối hợp với địch thủ này để phản kích đối thủ kia, lúc vận dụng đường kiếm của đối phương để chống đỡ lại đối phương.
Mặc dù tiếng thép va chạm liên hồi, mà Quách-Tỉnh không cần phải ra tay, dụng sức.
Vị đạo cô cảm thấy cả bọn đều nằm trong thế "đương kế tựu kế" của Quách-Tỉnh, liền lớn tiếng ra lệnh, mục đích để củng cố tinh thần sáu vị đạo hữu.
- Giải thác! Giải thác!
Thác có nghĩa là lầm lẫn. Phàm trong qui tắc võ nghệ bấy giờ, khi các cấp chỉ huy hô lên lệnh "giải thác" có nghĩa là kế hoạch đầu tiên đã hỏng nhưng không phải vô phương bổ cứu.
Sáu vị đạo sư nghe lệnh hiểu ngay rằng đây mới chỉ là thất bại trong chiến thuật, còn có kế hoạch mới sắp được thi hành để bổ trợ. Họ lại hăng say cố gắng chiến đấu để chờ lệnh chỉ huy.
Vị đạo cô sau khi ra lệnh "giải thác" liền rút ra khỏi vòng chiến, để triệu hồi sáu vị đạo hữu kia ra ngoài, bày bố một kế hoạch mới.
Nhưng lạ thay! Cả sáu vị đạo nhân không người nào rời khỏi vị trí được, họ tưởng chừng như họ bị buộc vào một sợi dây vô hình, quây quần xung quanh đối thủ để rồi chống đối lẫn nhau, bảo vệ cho đối phương.
Dương-Qua đứng nấp trong một bụi rậm gần đấy, xem xét thế trận lấy làm kỳ dị.
Quách-Tỉnh, một mình đứng giữa bảy đối thủ, sắc mặt vẫn tươi tắn không gợn chút lo âu. Qua ánh trăng mờ xuyên vào các cành cây kẽ lá. Dương-Qua nhận rõ đôi mắt Quách-Tỉnh tròn xoe rực hào quang sáng chói, gườm gườm vào đối thủ giống hệt đôi mắt của một con rắn đang chú mục vào con mồi.
Nếu kẻ nào tinh xảo về trận pháp hẳn thấy rõ Quách-Tỉnh đang vận dụng tinh thần để trấn áp và điều khiển đối phương.
Bởi vì, thế trận Thiên-cang Bắc-đẩu là một trận thế tinh thần Quách-Tỉnh muốn thắng tất phải tập trung trí óc. Hơn nữa, Quách-Tỉnh đã chiếm được tinh vị chủ não, cho nên lại càng phải huy động mãnh liệt toàn bộ hệ thống cân não để làm tê liệt mọi ý phản công của địch.
Trong lúc đó, sáu vị đạo nhân kiếm vẫn cầm tay, múa tung tăng mà vẫn không sao tiến đến gần Quách-Tỉnh. Họ chỉ biết gờm vũ khí, đi tròn xung quanh Quách-Tỉnh như những vệ tinh di chuyển quanh một vì sao chính.
Vị đạo cô vẫn còn ở ngoài vòng chi phối của Quách-Tỉnh, tuy tài nghệ xa hơn đồng bọn, song nàng vẫn lo ngại chẳng chóng thì chầy, mãnh lực tinh thần của đối phương sẽ áp đảo trọn bộ.
Mà quả thật không sai, chỉ chốc lát, đạo cô cảm thấy như mình bị vương vấn trong hành động, đầu nặng trĩu, trí óc cảm thấy lờ mờ thiếu sáng suốt.
Bấy giờ là lúc Quách-Tỉnh chủ động toàn bộ. Quách-Tỉnh rất khoái chí.
Thì ra đây là một cuộc kỳ ngộ bất ngờ đã cho nhà hiệp sĩ đảo Đào-hoa thử lại tài nghệ mình sau mười năm cư tịnh. Tài nghệ đó đã tỏ ra toàn vẹn, và quý hơn nữa là Quách-Tỉnh vẫn còn sung sức để đương đầu với một biến hóa khác thường qua mười năm tiến triển của Trùng-Dương-Cung.
Tuy nhiên, Quách-Tỉnh vốn có tánh tự nhiên, chẳng bao giờ dám tự phụ, vì vậy trước thắng lợi dễ dàng ấy, Quách-Tỉnh tự hỏi phải chăng mình đã gặp phải các đấu thủ non nớt, chưa nắm vững quy luật và nguyên tắc của trận "Bắc đẩu Thiên-cang".
Không lý gì một tài nghệ hèn mọn của mình rèn luyện qua mười năm lại có thể chiến thắng những bí quyết nơi Trùng-Dương-Cang một cách dễ dàng như vậy.
Mặc dầu vẫn lo ngại sẽ phải đương đầu với một trận thế mới mẻ và nguy hiểm hơn, song Quách-Tỉnh vẫn vui lòng vì đã rửa nhục được với những vị đạo nhân ngạo nghễ, dám ngang nhiên nhục mạ mình với những lời chửi rủa: nào dâm tặc, nào dùng yêu pháp...
Nghĩ như thế, Quách-Tỉnh thấy cần phải có đôi hành động hi lộng hơn, liền cất tiếng gọi Dương-Qua với giọng nói oang oang như sấm:
- Qua nhi! Hãy xem chú sử dụng pháp thuật.
Dứt lời, Quách-Tỉnh nhún mình nhảy tung lên một đỉnh núi chênh vênh gần mé lò. Cả bảy đạo nhân cảm thấy khó chịu, toàn thân bị bao trùm bởi một mành lưới mà Quách-Tỉnh đã nắm vững đầu dây.
Theo bí pháp của trận, hễ Bắc vị tinh chuyển về đâu thì cả quần tinh hộ vệ phải chuyển theo, nếu không sẽ tan vỡ. Mãnh lực chi phối của Quách-Tỉnh vô cùng chặt chẽ, khiến cả bảy đạo nhân vẫn không sao thoát khỏi. Và muốn được an toàn họ tất phải hướng theo Quách-Tỉnh.
Thế là cả bọn nhún mình bay lên đỉnh núi. Nhưng chưa định vị trí thì Quách-Tỉnh đã nhảy tuốt lên ngọn cây và cúi đầu nhìn các đạo nhân rên la đau đớn.
Tinh nghịch, Quách-Tỉnh lại còn ngoái cổ nói xuống với đạo nhân:
- Hãy coi gió lộng đây nầy!
Dứt lời, Quách-Tỉnh phồng ngực thổi một hơi dài, làm rung động xào xạc cả cây lá, và làm tung bay y phục lướt thướt của các đạo nhân, người nào người nấy mặt mày trắng nhợt.
Một đạo nhân tức giận nói:
- Thằng quỷ sứ ma đầu này chẳng biết tung tích ở đâu mà pháp thuật cao cường! Phái Toàn-Chân chúng ta phen nầy không tránh khỏi nhục nhã.
Dẫu tức giận, nhưng ý thức sinh tồn buộc họ phải tìm những cứ điểm trên cây để có thể nấp tạm trong phạm vi tự phạt của hệ thống Bắc-đẩu.
Quách-Tỉnh thấy thế ái ngại, cảm giác mình đi quá xa trong trò chơi độc, liền dịu giọng nói:
- Thôi thế cũng vừa đủ. Tại hạ xin xuống vậy...
Nói rồi Quách-Tỉnh nhảy xuống chễm chệ đứng giữa bảy vị đạo nhân, nhưng vẫn không thoát ra ngoài hệ thống điều khiển, ôn tồn chắp tay thưa:
- Thật ra Tỉnh tôi có lỗi nặng đối với quý đạo huynh, xin quý đạo huynh miễn chấp và cho phép Tỉnh tôi được vào yết kiến Khưu chân nhân.
Một trong bảy vị đạo nhân tên là Thiên-Quyền, vốn tính tình táo bạo, thấy đối phương võ nghệ cao cường nhưng lại khiêm nhượng, lòng không thích, hét lớn nói:
- Dâm tặc! Chúng ta vốn là các đạo sĩ của phái Toàn-Chân rất ghét những sự xảo trá. Nhà ngươi muốn đến Chung-nam-Sơn để giở trò vô sỉ thì nói phứt cho rồi, đừng mượn kế bái yết người nầy người nọ làm chi.
Quách-Tỉnh tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi:
- Tôi làm điều gì mà bảo là vô sỉ?
Thiên-Quyền nói:
- Cứ xem võ công và yêu pháp của nhà ngươi thì cũng đủ rõ cần gì phải chối cãi? Bần đạo lấy tình thật khuyên ngươi nên hạ sơn đi là hơn.
Tuy trong căm tức nhưng lời nói của đạo nhân hàm chứa ý thức khâm phục tài nghệ của Quách-Tỉnh không ít, Quách-Tỉnh liền thưa:
- Tôi từ phương Nam băng ngàn vượt núi đến đây, khổ nhục đã nhiều, chỉ mong được bái yết Khưu chân nhân, nay nếu đã đến nơi mà phải xuống núi thì công phu đó đạo huynh không nghĩ tưởng hay sao?
Thấy Quách-Tỉnh vẫn khăng khăng nói ý muốn gặp Khưu chân nhân, Thiên-Quyền đạo nhân lạnh lùng nói:
- Thế nhà ngươi muốn gặp Khưu chân nhân với dụng ý gì?
Quách-Tỉnh nói:
- Thưa đạo nhân! Tôi từ nhỏ đã thụ đại ân của Mã và Khưu chân nhân. Nay mười năm xa cách tình thầy trò, lòng nhớ nhung lưu luyến, muốn được thăm viếng một phen.
Tuy lời nói của Quách-Tỉnh rất thành thực nhưng không làm sao trấn áp được ác cảm của các vị đạo nhân đã có thành kiến từ lúc mới gặp. Họ đều nhìn nhau lắc đầu cười thầm.
Quách-Tỉnh thấy thế lại cố gắng biện bạch thêm một lần cuối cùng, đem câu chuyện của Ngọc-dương-Tử, Vương-xứ Nhất chẳng quản nguy hiểm đã một lần cứu mạng cho Quách-Tỉnh lại tại Triệu-vương-phủ, ân nghĩa đó Quách-Tỉnh vốn khắc cốt ghi lòng.
Quách-Tỉnh nói:
- Tôi chắc rằng các đạo huynh đều là môn đệ của Vương chân-nhân, mà tôi là kẻ thụ ân của Vương chân-nhân. Nếu Vương-chân-nhân có tại nơi nầy thì cuộc trùng phùng giữa chúng ta thật đáng mừng như cuộc kỳ ngộ hiếm có. Tại sao các đạo huynh lại khư khư thành kiến để anh em cùng một nhà sát hại lẫn nhau.
Thật vậy, trừ vị đạo cô ra, sáu vị đạo nhân kia đều là môn đệ của Vương-xứ-Nhất. Song họ nhất định không nhận lời thành thật của Quách-Tỉnh. Họ hầm hầm nổi giận, tung kiếm vùn vụt, hướng về phía Quách-Tỉnh.
Nhanh nhẹn, Quách-Tỉnh ẩn mình trong phạm vi của tinh vị Bắc-đẩu. Vị đạo cô chống kiếm đứng yên lặng còn sáu đạo sư kia quay kiếm xung quanh Quách-Tỉnh như một quần tinh di động.
An toàn trong tinh vị Bắc-đẩu, Quách-Tỉnh hét lên một tiếng thất vọng:
- Tôi là Quách-Tỉnh đây! Các đạo huynh hãy cố gắng tìm hiểu ý nghĩa thượng sơn của tôi. Vì sao quý đạo huynh lại cứ khăng khăng cho tôi là kẻ thù của quý vị? Như thế tôi biết phải làm sao để quí vị tin?
Thiên-Quyền đạo chân quát:
- Đừng nói vô ích. Người đã đoạt mất sáu thanh trường kiếm của phái Toàn-Chân. Vậy hãy đoạt luôn bảy thanh trường kiếm nầy nữa đi.
Rồi một vị đạo sư mặt lầm lì trong bọn phụ họa:
- Dâm tặc! Mày đã từng mặt dạn mày dày đến nhà họ Long bần tiện mua con gái của người ta là đồ đệ của môn phái Toàn-Chân.
Quách-Tỉnh như bỡ ngỡ lạ lùng trước lời nói không vô duyên cớ ấy, cất tiếng hỏi:
- Ô hay! Con gái của nhà họ Long nào. Tôi là Quách-Tỉnh từ Đào-hoa-đảo đến đây nào có biết?
Một vị đạo nhân cười ha hả nói:
- Thôi, đừng có giả bộ để đóng trò! Dâm tặc đi tìm dâm phụ thì có điều gì lạ đâu. Chỉ cần nhà người chớ nên mạo nhận mình là người của môn phái Toàn-Chân.
Quách-Tỉnh nói:
- Quý vị bảo ai là dâm tặc?
Một đạo sư đáp:
- Ta gọi ngươi là dâm tặc chứ còn ai nữa. Nếu không phải là dâm tặc ngươi hãy nguyền rủa con dâm phụ kia một lời cho chúng ta xem.
Quách-Tỉnh lại càng ngạc nhiên. Vốn là một kẻ đạo đức và trung hậu, Quách-Tỉnh nghĩ rằng con gái nhà họ Long với mình nào có quen biết, lại không oán không thù, nay vô cớ chưởi của người ta là vô lễ.
Nghĩ như vậy, Quách-Tỉnh nói:
- Tại sao quý vị bắt tôi phải chửi rủa người tôi chưa hề biết đến?
Các đạo nhân cho rằng Quách-Tỉnh làm bộ ngớ ngẩn, đồng cười rộ lên một lượt nói:
- Đó! Đã rõ ràng còn chối cãi vào đâu được nữa.
Trước thái độ hồ đồ của các đạo nhân, Quách-Tỉnh nghĩ không còn cách gì hơn là phải mở đường thượng sơn bằng võ thuật.
Quách-Tỉnh buồn rầu nói:
- Như thế này tôi biết làm sao? Nếu chu đạo huynh còn cản trở tôi nữa đừng trách tôi vô lễ.
Quách-Tỉnh nói chưa dứt lời thì bảy lưỡi kiếm đã vung lên một lượt, thành một hàng rào sáng giời. Một vị đạo nhân nói:
- Nếu nhà ngươi muốn chúng ta tin lời thì chớ nên dùng yêu pháp.
Quách-Tỉnh biết cả bọn đều nao núng tinh thần, liền nói:
- Vâng! Tôi không bao giờ dùng đến tà thuật, mà chỉ vận dụng thần lực thôi. Tuy nhiên, đối với hạng phàm phu tục tử, thần lực và tà pháp nào có gì khác nhau đâu?
Thật thế lời nói của Quách-Tỉnh không phải là ngụy ngôn. Thần lực và tà pháp trong võ nghệ chỉ là những phương tiện để đạt đến kết quả là làm cho đối phương thúc thủ. Nếu không phải chính người vận dụng phương tiện ấy thì ai là người phân biệt được. Chẳng khác nào trên đường hành đạo, vương đạo và bá đạo là hai lối đi khác nhau, song vẫn cùng đạt một mục đích duy nhất là chinh phục lòng người.
Quách-Tỉnh nghiêm nghị nói:
- Tỉnh tôi xin nói trước, tay tôi không động đến binh khí mà tôi có thể đoạt tất cả vũ khí của quí vị.
Bảy đạo nhân nghe nói nhìn nhau nửa sợ nửa hồ nghi cho lời Quách-Tỉnh là khoa trương khoác lác.
Một vị hỏi:
- Ngươi có dùng đến chân chăng?
Quách-Tỉnh cười đáp:
- Không cần phải đụng đến sức lực của chân tay. Phàm là môn phái Toàn-Chân, vũ thuật phải đạt đến mức vô vi, nghĩa là phải khắc phục được đối phương bằng tinh thần hơn là bằng vũ khí. Cái vô vi tích cực của võ nghệ còn khó hơn cái vô vi triết lý, bởi lẽ phải chi phối vật chất (vũ khí). Tỉnh tôi chưa dám tự hào đạt đến mức siêu việt, nhưng hàng ngày đã rèn luyện nhiều để được gọi là xứng đáng với môn đồ phái Toàn-Chân.
Dứt lời, Quách-Tỉnh ném vũ khí xuống đất, đứng trơ ở giữa như một pho tượng sống, vận dụng chưởng lực tỏa ra bốn bề ngùn ngụt, bảy lưỡi kiếm chém tới không hề hấn gì cả.
Bảy vị đạo nhân múa quay cuồng như những con thiêu thân bu quanh đĩa đèn sáng rực.
Lời giải thích của Quách-Tỉnh vừa rồi đã là một cuộc tấn công mở đầu làm tâm thần bảy đạo nhân xao xuyến. Tiếp đến là hiệu lực của chưởng lực chi phối làm cho võ khí trở nên vô nghĩa.
Không ai bảo nhau mà bảy đạo nhân người nào cũng cảm giác rằng nếu Quách-Tỉnh ra tay thì cả bọn không thoát khỏi vòng nguy hiểm.
Sự hoang mang tinh thần ấy nằm trong dụng ý của Quách-Tỉnh nên lúc Quách-Tỉnh nhận xét được trạng thái, liền quyết định hành động ngày.
Chúng ta ai cũng hiểu rằng khi một sức mạnh quay tròn chung quanh một cái trục, sức mạnh ấy tùy thuộc vào một ly tâm.
Ví như ta buộc một cục đá vào đầu một sợi dây quay tròn, sức quay càng nhanh thì sức ly tâm càng mạnh, đến khi thả đầu dây thì cục đá được thoát khỏi tầm ly tâm văng xa tùy theo sức mạnh của ly tâm.
Quách-Tỉnh nắm vững quy luật đó trong thế trận nhưng việc thả đầu dây vô hình không phải là việc khó, mà khó là làm cách nào làm tách rời chuôi kiếm khỏi tay bảy đạo nhân mà tánh mang bảy đạo nhân không bị nguy khốn.
Quách-Tỉnh dùng thần lực làm biến hóa sức chi phối của mình đối với thần trạng của bảy đạo nhân, và từ đó gây cho đối thủ có những cảm giác trọng lượng khác nhau đối với võ khí mỗi người đang nắm giữ.
Thật vậy, có lúc các đạo nhân cảm thấy như thanh kiếm mình nặng ngàn cân, có lúc cảm thấy thanh kiếm nhẹ như lông hồng.
Rồi nhân việc thay đổi trọng lượng đột ngột đó, Quách-Tỉnh hét lớn.
- Bay! Bay
Tiếng hét ầm vang như sấm làm cho các đạo nhân tâm thần rối loạn, tay chân bủn rủn, thanh trường kiếm trong tay văng bổng lên trời không kịp giữ lại.
Quách-Tỉnh cười khanh khách, trong lúc mọi người mặt mày khủng khiếp, đứng trân trân không nói nên lời.
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 10 : Chung-nam-sơn khói lửa
Bảy đạo nhân mặt như chàm đổ, đứng thẳng không nhúc nhích. Qua một lúc, bỗng từ trong khe núi vang ra một tiếng hú, tiếng hú của các nhà quyền thuật. Bảy vị đạo nhân cùng một loạt co chân bỏ chạy, lui vào trong núi đá. Quách-Tỉnh thấy không còn ai cản trở bước tiến của mình nữa, lẩm bẩm:
- Họ thượng sơn cả rồi.
Đoạn quay lại gọi Dương-Qua sửa soạn cuộc hành trình. Nhưng Quách-Tỉnh gọi hai lần không thấy Dương-Qua trả lời đâu cả.
Lấy làm lạ, Quách-Tỉnh rảo bước tìm vào bụi rậm thì thấy nơi bụi có một chiếc hài nhỏ bị rơi tại đó.
Quách-Tỉnh lượm chiếc hài lên xem thấy quả là chiếc hài của Dương-Qua, ngạc nhiên tự nghĩ:
- Ngoài bảy vị đạo nhân kia có lẽ còn có một người nữa phục kích đâu đây, và đã bắt cóc thằng bé này trong lúc mình đang say chiến đấu. Nhưng người ấy là ai? Không lẽ người của Trùng-Dương-Cung! Vì người của Trùng-Dương-Cung nhất cử nhất động phải làm việc "Đại nghĩa". Dù họ có hiểu lầm mình chăng nữa lẽ nào họ lại có thể làm trò trẻ nít thế kia.
Quách-Tỉnh lấy hơi chạy nhanh lên núi. Đường núi khấp khểnh quanh co, có chỗ đứng đứng lên như những vách đá khổng lồ, có chỗ nhỏ hẹp phải lách mình, phải nghiêng người mới qua được.
Đi chưa được bao lâu, bỗng mây đen kéo tới nghịt chân trời, bầu trời trắng đã chìm trong bóng tối đen đặc.
Quách-Tỉnh nghĩ bụng:
- Vùng này hiểm trở, đường lối lạ chưa hề quen các đạo nhân lại cố ý hãm hại ta, vậy ta phải cẩn thận lắm mới được.
Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh dò lần từng bước một. Qua một lúc gió thổi mây đen bay về phía chân trời, ánh trăng huy hoàng tỏa xuống khắp đồi cây kẽ lá, rọi vào các mặt phẳng của mấy phiến đá bên đường lóng lánh như pha lê.
Cảnh vật êm đềm lặng lẽ, Quách-Tỉnh nghe rõ từng hơi thở, của lối một trăm người đang ẩn núp đâu đây. Mặc dù chưa thấy bóng dáng họ, Quách-Tỉnh hình dung một số đông người đang mai phục và một cuộc trả thù sắp diễn ra.
Tuy lòng không hề dao động, Quách-Tỉnh cũng mong cho việc rắc rối có thể tránh khỏi liền lách mình rẽ vào một lối khác.
Con đường đó đưa Quách-Tỉnh đến một thung lũng rất rộng bốn mặt có núi bao vây, chính giữa là một gò cát phẳng phiu, xa xa về phía chân núi có một cái hồ lớn, ánh trăng rọi vào mặt hồ lấp loáng như bạc.
Bỗng một tiếng hú vang lên, trước mặt hồ hiện ra lối một trăm bóng đen, hay nói đúng hơn là một trăm đạo nhân, đồng phục màu tro, đầu thắt khăn vàng, tay mỗi người đều cầm một thanh trường kiếm lóng lánh.
Họ sắp thành hàng gồm có 14 tổ, mỗi tổ 7 người, bố trí thành hình Thiên cang Bắc đẩu. Rồi mỗi tổ lại dàn thành hình "đại Bắc-đẩu" trong thanh thế rất oai nghi lẫm liệt.
Cứ hai Bắc đẩu thì một ô thế này, một ô thế khác, dựa theo lý sinh khắc chế hóa để nương tựa nhau.
Quách-Tỉnh không ngờ họ lại dùng thanh thế đối với mình như vậy, trong lòng không vui tự nghĩ:
- Từ trước đến nay mình chưa hề được nghe Khưu chân nhân nói tới cái thế Bắc đẩu đại trận này, chỉ có Trùng-Dương đại sư truyền dạy mà thôi. Thế thì chắc có Trùng-Dương đại sư truyền dạy cho họ bao nhiêu năm nay nên họ mới có thể tinh thục như vậy được.
Một người trong thế trận hú lên một tiếng ra hiệu, tức thì chín mươi tám vị đạo nhân phi chuyển từ thế này sang thế khác tiến lui từ hệ thống trận pháp rất linh động và biến ảo. Họ vây Quách-Tỉnh vào giữa, và mỗi người đều rất kiếm ra khỏi vỏ, mắt không chớp trừng trừng nhìn nhau lặng lẽ chẳng nói một lời.
Quách-Tỉnh khoanh tay nói:
- Tôi xin thành thực muốn lên núi Bảo-sơn bái huấn Khưu-chân-nhân, xin quý đạo huynh giúp đỡ cho tôi gặp người, đừng cản trở làm gì mà bận tâm quý vị. Thật ra tôi chẳng có ý gì xấu cả.
Đạo nhân râu dài chẳng biết thành tâm hay có ý trêu tức, nói:
- Tôn huynh võ nghệ cao cường sao lại không biết tự trọng lại nhận làm gì vào hàng ngũ của bọn hèn yếu chúng tôi? Bần đạo dám kính xin có đôi lời nhủ cùng tôn huynh chẳng nên dùng kế nhu mì, lời lẽ đường mật mà dối người. Bần đạo biết rằng sư huynh đã mười năm nay từng được khổ công rèn luyện tài nghệ đã đến mức tuyệt luân, vậy còn đến đây làm gì cho mất công đối phó.
Đạo nhân râu dài nói với giọng trầm trầm, nhấn mạnh từng tiếng oang oang, chứng tỏ trong người có một sức nội công đã khá uyên thâm.
Lời nói đó dầu thành khẩn hay có dụng ý vẫn làm cho Quách-Tỉnh tự thấy buồn cười, nghĩ thầm:
- Chẳng biết lão già này xem ta là hạng người thế nào? Nếu hắn đã thấy được vẻ nhu mì của ta thì sao hắn lại nghi ngờ thiện ý của ta được.
Nghĩ đoạn Quách-Tỉnh nói:
- Xin đạo huynh cứ cho tôi được bái yết Khưu chân nhân thì sẽ rõ được hư thực.
Đạo nhân râu dài nói:
- Nếu tôn huynh khăng khăng không chịu tỉnh ngộ, còn dùng cách lừa dối chúng tôi thì thôi hãy cứ phá toàn bộ "Thiên cang Bắc đẩu trận" của sư phụ đã truyền dạy chúng tôi đi.
Quách-Tỉnh đáp:
Kẻ hèn này tài nghệ thấp kém, lại ở giữa nơi xa lạ này đâu dám dại dột chống đối với quý huynh là những trang anh hùng nơi Trùng-Dương-Cung. Xin quý huynh coi kẻ hèn này như một đứa con nít mà đưa vào yết kiến Khưu chân nhân là vinh hạnh biết chừng nào".
Đạo nhân râu dài chẳng biết vì ý gì, nổi giận lớn tiếng thét:
- Thôi đừng có dùng lối nhu mì bên ngoài để lừa dối mà bên trong dùng nội công để hãm hại chúng ta. Nhà ngươi nên lưu ý rằng nếu cứ các khí cục điếm đàng ấy thì có trở về Nam Sơn trước mặt sư phụ ở chốn điện đài, ngươi cũng chẳng thể nào được người dung thứ.
Dứt lời đạo nhân vung kiếm lên, tức thì ngàn vạn tiếng ù ù chuyển động. Chín mươi tám thanh kiếm đều tung ra một lượt như một trận cuồng phong, loang loáng phản chiếu vào ánh trăng như một vùng màu bạc.
Quách-Tỉnh lòng rầu rầu nghĩ:
- Họ dàn trận đủ mọi ưu thế, còn ta một thân cô độc, làm sao chiếm nổi cái thế ưu tiên của "Bắc đẩu tinh vị" được. Nếu không chiếm được tinh vị ấy đành chịu thúc thủ mà thôi.
Trong lúc Quách-Tỉnh chưa nghĩ ra phương kế gì để chiến đấu thì hai cánh cửa thế "Bắc đẩu đại trận" gồm chín mươi tám vị đạo sĩ tài cao đã khép chặt lại. Vũ khí tỏa ánh sáng như muôn ngàn đạo hào quang, không để hở một chỗ nào địch thủ có thể thoát ra được.
Vị đạo sĩ râu dài kêu lớn nói:
- Tôn huynh hẳn đã từng phen lăn lộn ở chiến trường, vậy cứ thử xuất trận xem sao.
Quách-Tỉnh thầm nhủ:
- Bắc đẩu đại trận tuy khó phá nhưng ta thử xem trận pháp của họ ra sao. Nếu không gặp điều gì trở ngại rủi ro thì thật ra phần thắng bại cũng chưa biết đâu mà lường trước được.
Trong lúc Quách-Tỉnh trầm ngâm suy tính thì đột nhiên thế trận nhẹ nhàng chuyển về hướng Tây Bắc. Mười tám cánh tay giơ cao vẫy vẫy như mười tám con rồng ở thế "tiềm long vật dụng". Nghĩa là muời tám con rồng còn ở ẩn chưa thi thố tài năng. Mười tám cánh tay ấy, cứ cái này co, cái kia duỗi, tạo nên một uy mãnh như muốn đun đẩy người khác phải lùi đi.
Còn bảy đạo nhân khác chuyển biến từ phải sang trái để dẫn đầu cho nên thế trận từ từ di chuyển.
Quách-Tỉnh trông thấy liền xuất thần. Bao nhiêu thần lực về cân não tập trung vào bảy vị đó.
Tức thì bảy đạo nhân đó nao núng phải vận dụng hết thần lực để cưỡng lại.
Nhưng rồi họ thấy uy mãnh của thần lực đối phương chuyển lần vào cảm giác của họ khiến cho họ không còn tự chủ nữa; mặt mày họ cảm thấy như có đất bụi bám vào.
Đạo nhân râu dài cảm thấy đối phương có một sức mạnh thần lực phi thường mới vừa chuyển tâm linh mà đã làm cho bảy đạo nhân cao cường bị áp đảo lấy làm kinh sợ.
Thần lực của Quách-Tỉnh vừa vận dụng chẳng những trấn áp bảy đạo nhân di động mà làm lay chuyển luôn cả mười bốn tổ trong Bắc đẩu trận nữa.
Bấy giờ Quách-Tỉnh lại vận dụng sức nội công tăng lên gấp mười.
Thật vậy, nếu Quách-Tỉnh không có sức nội công uyên thâm đó thì làm sao đẩy lui được thần lực của chín mươi tám vị đạo nhân kia.
Quách-Tỉnh lại nhớ đến ngày đại chiến tại Quần-sơn thuở nọ nên nghĩ rằng mình chẳng nên kéo dài cuộc chiến đấu với các đạo nhân ấy.
Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh áp dụng chiến thuật phi thân vượt ra ngoài vòng vây để tránh cuộc chạm trán tổn thương đến sinh mệnh.
Quách-Tỉnh phi thân từ đầu này sang đầu kia, từ điểm này qua điểm khác làm cho thế trận xao động lạ thường, mũi gươm tua tủa như những làn sóng bạc nhấp nhô dưới đêm trăng nơi bể cả.
Mặc dù cố tình không phạm đến sinh mạng mọi người nhưng Quách-Tỉnh phi thân một hồi vẫn không tìm ra kẽ hở để thoát ra.
Chàng lẩm bẩm:
- Từ trước đến nay ta chưa hề gặp phải trận nào lợi hại như vầy. Muốn thoát khỏi vòng vây không phải dễ. Mà không thoát khỏi vòng vây thì làm sao yết kiến Khưu đạo trưởng.
Quách-Tỉnh nghểnh cổ lên nhìn thấy phía trên bên phải dãy núi đá xa xa có một tòa lâu đài hùng vĩ ra vẻ một chốn đạo trường. Quách-Tỉnh nghĩ rằng phải vận dụng nội công kêu gọi thì chắc ở Trùng-Dương-Cung có thể nghe tiếng được.
Bèn vận khí xuống đan điền đợi đến khi thấy đàn diễn minh tinh đã ngưng khi đã tụ đầy đủ, liền phát ra một tiếng hú, tiếp theo với giọng nói vang vang:
- Đệ tử Quách-Tỉnh cần bái yết! Đệ tử Quách-Tỉnh bái yết!
Tiếng nói to như sấm, như tiếng rồng gầm ầm ầm chuyển động làm cho các đạo sĩ phải ù tai mờ mắt, lảo đảo mất cả khí thế của những kẻ đang hăm hở muốn tấn công người.
Lão đạo nhân râu dài nói:
- Tôn huynh quỷ quyệt quá, toan dùng nhu kế để lường gạt ta. Bây giờ thì các tiểu xảo đó đã lộ ra rồi đừng hòng gạt ta nữa.
Quách-Tỉnh nghe nói nổi giận, nghĩ bụng:
- Trận nầy do lão đạo sư râu dài đó điều khiển. Ta chỉ cần hạ được hắn là trận thế chẳng khác nào như rắn không đầu, có khó gì không phá nổi.
Quách-Tỉnh giơ tay lên hướng về phía đạo nhân. Chưởng lực phát xuất làm cho đạo nhân râu dài tái mặt. Nhờ đó, Quách Tỉnh hiểu rằng trận nầy cốt làm sao nhử địch, công kích người chủ súy là trận thế phải núng.
Quách-Tỉnh chỉ bước năm bảy bước rồi dừng lại theo lối "cảm tĩnh thế". Nhưng áp lực phía sau lại gia tăng, cả hai bên cũng thêm sức nặng nề.
Trong cảnh nguy hiểm ấy, Quách-Tỉnh vẫn điềm nhiên không chút sợ sệt. Dũng khí như dần dần một lúc một tăng thêm Quách-Tỉnh nghĩ thầm:
- Bọn nầy quả hiểu lầm ta là tên dâm tặc nào đó chúng muốn biết lòng ta đã xuất gia tầm đạo, lấy từ bi hỉ xả làm hoài bão có bao giờ muốn gây chuyện sát sinh. Nhưng họ xâm phạm đến tính mạng ta thì ta làm sao có thể để yên được.
Nghĩ như thế Quách-Tỉnh liền nhún mình phi thân lên một tảng đá cao, dùng chân đá nhẹ vào một tiểu đạo nhân, đưa tay trái đoạt lấy thanh trường kiếm của hắn.
Vừa giật được thanh trường kiếm, thì về phía sau bên tay mặt bảy thanh kiếm đã kề tới. Chàng liền tung kiếm ứng chiến.
Tám thanh kiếm giao nhau, tiếng loảng choảng nghe kinh hồn. Chỉ chốc lát bảy thanh kiếm kia đều bị gãy làm đôi rơi xuống đất, còn kiếm của Quách-Tỉnh vẫn y nguyên không hề hấn gì cả.
Thật ra, thanh kiếm của Quách-Tỉnh cũng chỉ là một thanh kiếm thường như mọi thanh kiếm khác, song được Quách-Tỉnh vận dụng nội công truyền ra đầu kiếm nên có một sức bén nhọn phi thường, các kiếm khác chạm vào đều phải gãy nát.
Bảy đạo nhân kia kinh hãi mặt như chàm đổ để chỉ còn biết đứng đờ người ra. Bỗng phía bên kia, hai toán "bắc đẩu trận" chuyển về phía trước để ứng chiến. Toán thì cầm kiếm tay mặt, toán thì cầm kiếm tay trái như để hỗ trợ cho nhau, mười bốn người dồn khí lực vào thành một.
Quách-Tỉnh lại một lần nữa dùng thần lực vung kiếm áp đảo cả mười bốn thanh kiếm kia.
Trong số mười bốn đạo nhân ấy có người toan tìm cách đoạt lấy thanh kiếm của Quách-Tỉnh. Nhưng kẻ ấy có biết đâu rằng thanh kiếm Quách-Tỉnh bây giờ không còn là loại kim khí sáng loáng thông thường mà nó đã trở nên dẻo mềm như xương thịt, cứng mạnh như sức thiên thần.
Quách-Tỉnh dùng thần lực đo lường sức mạnh hợp nhất của mười bốn vị đạo nhân kia, thấy sức mạnh họ còn ấu trĩ, không đáng kể. Quách-Tỉnh hét lên một tiếng:
- Phường tiểu nhân.
Rồi chàng vận dụng sức từ đơn điền lên tiếp khí để tiếp tục trận đấu.
Mười hai thanh kiếm bị gãy một lúc, chỉ còn lại hai thanh kiếm bay vụt ra khỏi tay hai đạo nhân, rớt nguyên vẹn dưới đất.
Mười bốn đạo nhân kinh hãi rút lui về đàng sau, Quách-Tỉnh than tiếc:
- Thực vũ thuật ta chưa đến mức tuyệt luân nên còn sót lại hai thanh kiếm bay đi không bị gãy.
Các đạo sĩ khác thấy thế, trong lòng đều nao núng, vẻ lo âu lộ ra trên nét mặt.
Hai mươi mốt vị đạo sĩ kia tuy mất vũ khí, song họ vẫn còn chiến đấu bằng cách dùng tay không gây khó để tương trợ.
Quách-Tỉnh sử dụng kiếm thuật đã tuyệt diệu, song chàng vẫn còn áy náy, chưa lấy thế làm vừa lòng.
Chàng tự hỏi:
- Sao trận thế của họ lại bền vững đến thế nhỉ?
Chàng đoán biết rằng Khưu-chân-nhân quen lối dùng trận thế vương đạo đã từ bao năm, chắc dàn ra thế Bắc đẩu trận này hẳn là vi điệu lắm. Nếu các đạo nhân kia biết cách biến hóa thì chàng làm sao thoát khỏi được. Tốt hơn, chàng phải ra tay trước thì hơn.
Nghĩ thế, Quách-Tỉnh gọi lớn:
- Nếu quý đạo huynh không dành cho tôi đường rút thì đừng trách tôi vô lễ đối với quý huynh.
Đạo sĩ râu dài cho rằng dù võ thuật Quách-Tỉnh có cao siêu đến đâu cũng không thể nào thoát khỏi thần diệu của Bắc-đẩu-trận.
Do đó, ông ta coi tiếng thét của Quách-Tỉnh cũng chỉ là những tiếng cười nhạt, nào có nghĩa lý gì. Và, Quách-Tỉnh càng giận dữ thì cái nguy hiểm càng đến với Quách-Tỉnh nhiều hơn.
Quách-Tỉnh nhún người xuống phi thân sang phía đông bắc, và đoán rằng phía đối diện hai tổ ở phía tây nam tất nhiên sẽ di chuyển theo hộ trợ. Quách-Tỉnh bèn dùng phép thuật chỉ mũi kiếm vào sau lưng, tức thì mười bốn đạo nhân ở tổ tây nam bị thần chưởng điểm vào các huyệt Dương-cốc, tay họ bị bủn rủn, mình mẩy rời rã, phải buông thả vũ khí.
Mỗi người bị pháp thuật chỉ ngọn kiếm đó, vội nhảy xổ về phía sau, nhìn vào cổ tay thấy cốc huyết bị vết quần hồng rớm máu mà ngoài da không bị thương tích gì cả. Các đạo nhân khác đều khiếp vía nghĩ bụng rằng nếu Quách-Tỉnh không nhân nhượng có lẽ tay họ bị cắt đứt hết rồi.
Từ nãy đến giờ đã có hơn ba mươi lăm thanh kiếm bị rời khỏi tay các đạo sĩ. Đạo nhân râu dài dường như căm tức lắm, biết rằng Quách-Tỉnh chưa đem hết tài lực, nếu cứ dây dưa mãi thế trân sẽ lâm nguy, ông ta liền ra lệnh siết chặt vòng vây, đối phó một phen quyết liệt.
Quách-Tỉnh nghĩ rằng:
- Các đạo nhân này thực không hiểu gì cả, không chịu nghe lời van xin chỉ mực liều chết để hãm hại người khác mà thôi.
Chàng phi thân cấp thời đến chiếm ngôi Bắc đẩu tinh vị. Lão đạo nhân liền vận dụng hai toán liên hoàn đến ứng phó.
Như thế tức là Bắc-đẩu đại trận có tới mười bốn ngôi bắc đẩu tinh vị, Quách-Tỉnh một mình làm sao chiếm trọn cả được. Chàng chỉ tận dụng thuật phi thân chiếm lấy một ngôi chủ vị rồi sau lần lượt chiếm tới ngôi chủ vị thứ nhì.
Với kế hoạch ấy, Quách-Tỉnh đã làm cho thế trận rối loạn không ít. Lão gia râu dài xem chừng không lợi liền huy động các đạo nhân kia theo trận pháp lấy tĩnh chống động.
Từ trước đến giờ, Quách-Tỉnh dùng thuật phi thân di chuyển rất lẹ làng, hễ có chỗ sơ hở nào là Quách-Tỉnh gây xao động cho chỗ ấy. Bao giờ các đạo nhân đổi chiến thuật, có giữ thế thủ bằng cách bất động. Mười bốn thế dựa vào thần lực của mười bốn tinh vị, dù Quách-Tỉnh có lanh lẹ cũng không thể xông tới chiếm được.
Quách-Tỉnh nghĩ thầm:
- Các đạo nhân này quả thật trận pháp tinh vị. Ta muốn phá ngay cũng khó, chỉ khơi nguồn cho một cuộc máu lửa mà thôi chi bằng tiếp tục gọi đến Trùng-Dương-cung xem sao.
Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh ngẩng đầu về phía võ điện, chợt thấy nơi võ điện nguy nga có mấy lằn sáng tiếp do có tiếng thép vọng từ xa.
Lấy làm lạ, Quách-Tỉnh quay đầu nhìn về phía đạo nhân râu dài thì thấy vẻ mặt ông ta đang có gì lo âu khó đoán được.
Quách-Tỉnh như hiểu ra điều gì, lẩm bẩm:
- Có lẽ kẻ nào đã lọt vào Trùng-Dương-Cung gây rối. Bây giờ ta phải đợi xem tình hình ra sao đã.
Bỗng nhiên, Quách-Tỉnh cảm thấy trong người nóng nảy, bèn dùng ấn quyết "Rồng lên mặt ruộng" để xét đoán.
Lúc đó chín mươi tám vị đạo nhân cũng ấn quyết theo thế của Quách-Tỉnh, làm cho Quách-Tỉnh bị sức cản không thể nào nhận rõ tình địch được.
ấn quyết như thế là để mở thần nhãn, thần nhĩ. Cái khó là làm sao để giữ cho hai tay được thăng bằng. Thấy Quách-Tỉnh đang mở thần nhãn, thần nhĩ để dò đoán địch tình nên các đạo nhân kia phải phá cho kỳ được.
Cánh bên phải thì ấn quyết ngược lại tay trái của Quách-Tỉnh, còn cánh bên trái thì ấn quyết ngược lại tay mặt của Quách-Tỉnh làm cho Quách-Tỉnh rối loạn ấn quyết không mang lại được kết quả mong muốn.
Quách-Tỉnh thấy thế liền chuyển qua thế "Cảng long hữu bối". Thế nầy hai bên phải giao hoàn quân binh, nên chênh lệch một tí sẽ gây nguy hiểm đến tánh mạng.
Quả thật, thế "Cảng long hữu bối" của Quách-Tỉnh đã làm cho hai cánh hữu tả của "bắc đẩu trận phải lung lay. Chỉ phút chốc có hàng mười đạo nhân bị thương.
Sở dĩ Quách-Tỉnh gây được trạng huống nầy là vì chàng nắm được chỗ sơ hở của người chủ súy.
Đạo nhân râu dài đã dùng tĩnh chống động nhưng lầm tưởng không được ổn định, hỉ nộ thường phát hiện trong trận là một điều tối kỵ trong việc dùng pháp thuật "vô vi thanh tịnh" vậy.
Lợi dụng tình thế, Quách-Tỉnh phi thân nhảy về phía trước như bay. Các đạo sĩ đều đuổi theo bén gót.
Quách-Tỉnh vượt đến bờ hồ, nhìn thấy có ánh sáng ngời trên mặt nước, liền cúi xuống để xem cảm ứng ra sao. Chàng lấy thanh kiếm chống xuống mặt nước thì mũi kiếm nhảy vồng lên mấy cái, Quách-Tỉnh liền phi thân, đặt chân lên đầu thanh kiếm nhảy vọt sang bên kia bờ.
ấy vì kiếm kia tuy bằng thép song được thần lực của chàng truyền vào thì không còn là thanh kiếm thường nữa.
Các đạo nhân đuổi theo, tai nghe văng vẳng có lệnh vượt qua bốn năm mươi người phi thân qua mà không hãm nổi nên bị chìm xuống nước, người nầy cỡi trên vai người khác. Còn có một số đạo nhân vì chưa học môn thủy tính nên chìm nổi bập bềnh, kêu cứu vang trời.
Đã thế còn nói gì đến chuyện truy kích Quách-Tỉnh được nữa.
Đang lúc hàng ngũ Bắc-đẩu-trận rối loạn thì bỗng nhiên có tiếng chuông ngân vang từ Trùng-Dương-Cung truyền lại âm thanh nghe rõ là tiếng kêu cứu.
Quách-Tỉnh khi thoát khỏi vòng vây của các đạo nhân, vội vã phi thân về phía Trùng-Dương-cung. Nghe tiếng chuông kỳ lạ liền ngẩng đầu lên nhìn.
Chàng nhận ra phía sau Trùng-Dương cung lửa cháy nghịt trời, ngạc nhiên lẩm bẩm:
- Môn phái chính truyền của võ thuật sao ngày nay có người dám đến tấn công. Ta phải cấp tốc tiếp cứu mới được.
Bỗng phía sau Quách-Tỉnh lại có tiếng thét vang trời của các đạo nhân đang chỉ gươm về phía địch nhân đang phá cung điện của đạo trưởng.
Quách-Tỉnh lẩm bẩm:
- Hẳn bây giờ các đạo huynh mới thấy được tôi là bạn hay là thù. Trong lúc đạo trưởng lâm nguy chắc quý đạo huynh không hẹp hòi gì mà không nhận tôi cùng một hàng ngũ.
Bấy giờ mọi người đều rã chân về phía Trùng-Dương cung.
Năm xưa, trên sườn núi êm đềm tĩnh mịch ở miền Mông-cổ, Mã-Ngọc đã truyền cho Quách-Tỉnh thuật phi thân, có ngờ đâu hơn mười năm sau, thuật này lại dùng để giải nguy cho môn phái mình.
Quách-Tỉnh nhờ thuật phi thân ấy có thể nhún mình một cái mà nhảy đi hàng mấy chục trượng. Từ bờ hồ phi về Trùng-Dương điện, chàng chỉ mất trong khoảng thời gian chốc lát là sẽ tới nơi.
Lửa khói bốc lên cao ngất trời, sức nóng xông ra chịu không nổi. Khí thế của lửa mỗi lúc một lan rộng thêm. Có điều lạ là mấy trăm đạo sĩ ở Trùng-Dương điện, ai cũng vũ nghệ cao cường mà chẳng thấy một ai ra tiếp cứu.
Quách-Tỉnh lấy làm kinh hãi khi thấy tòa võ điện đồ sộ nguy nga mỗi lúc một tan dần dưới sự tàn phá của hỏa lực.
Chàng bèn phi thân qua bức tường cao, vào tới sân trong thì chỉ thấy đông nghẹt những người đang hùng hổ đánh nhau.
Quách-Tỉnh định thần nhìn kỹ thì thấy bốn mươi chín đạo sĩ mặc áo vàng hợp thành bảy thế Bắc-đẩu-trận đang chống với sáu bảy mươi kẻ địch. Bọn nầy tầm thước chẳng đều nhau, có người cao kẻ thấp, người mập kẻ ốm. Họ thuộc vào môn phái khác, có kẻ dùng binh khí, có kẻ dùng nội công chuyển ra bàn tay cố hết sức mình để tấn công. Họ là những người võ nghệ cũng khó, nhân số lại đông nên đua nhau hăng say trong máu lửa. Tuy nhiên, họ chiến đấu rời rạc, trông cậy vào từng sức cá nhân nên lực lượng không được thống nhất.
Ngược lại, về phía các đạo nhân Trùng-Dương điện, tuy ít hơn nhưng theo Bắc-đẩu trận, được sự liên hoàn tương trợ gây nên một thế thủ rất vững chắc.
Quách-Tỉnh thấy cuộc chiến hỗn loạn, toan lên tiếng hỏi để rõ căn nguyên, thì bỗng chàng cảm thấy từ bên phía trong điện có tiếng gió vun vút thổi ra. Với hơi gió đó, Quách-Tỉnh biết rằng bên trong hẳn có người đang chiến đấu, mà kẻ đang chiến đấu trong đó hẳn có một tài lực đáng kể.
Chàng lách mình sang Bắc-đẩu trận. Các đạo sĩ và mọi người đang chiến đấu thấy một bóng người luồng qua giữa rừng kiếm thì thất kinh, toan đuổi theo. Nhưng chỉ trong nháy mắt bóng Quách-Tỉnh đã mất hút vào nội điện.
Vào đến nội điện, Quách-Tỉnh thấy ánh sáng lập lòe của mười cây nến vẫn đang cháy. ánh lửa đằng sau chiếu đến cùng với những làn khói làm cho ánh sáng của nến chỉ là một thứ ánh sáng của những đóm lửa tàn.
Giữa điện, bảy vị đạo nhân với bảy bàn tay trái nắm chặt vào nhau, ngồi theo lối tọa kiết già trên bảy chiếc mâm, tay phải thì giơ lên, phóng tầm lực để chống lại với mười mấy địch nhân đang vây quanh.
Quách-Tỉnh không để ý đến những kẻ đứng đó là ai, chỉ nhìn vào phía bảy vị đạo nhân, thấy trong số đó có ba người già và bốn người trẻ. Ba người già là Mã-Ngọc, Vương-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất. Còn bốn người trẻ chàng chỉ biết có một mình Doãn-chí-Bình thôi. Bảy vị nầy ngồi theo các tinh vị trên trời, từ sao Đạo-quang tới sao Thiên-khu. Trong bảy người có một người ngồi cúi mặt xuống không trông thấy gì cả.
Nhìn kỹ, Quách-Tỉnh cảm thấy Mã-Ngọc tiên sinh nét mặt đỏ bừng, máu nóng bốc lên cuồn cuộn biết rằng bảy vị đó đang ở trong trạng huống nguy ngập, Quách-Tỉnh hét lớn:
- Những thằng giặc kia! Chúng bay gan dạ dường nào mà dám đến Trùng-Dương võ điện này phá phách.
Dứt lời, Quách-Tỉnh đưa tay tóm hai địch thủ gần nhất toan ném ra cửa.
Nhưng võ thuật hai người nầy đâu phải hạng thường. Họ vận nội công làm cho hai chân như cắm chặt xuống đất, không một sức mạnh nào lay chuyển nổi.
Quách-Tỉnh cả kinh, nghĩ thầm:
- Những tên giặc nầy từ đâu đến lại có bản lãnh dường ấy? Chẳng trách hôm nay Trùng-Dương cung bị phá phách là phải.
Chàng vận nội công nắm chặt vào lưng rồi thốt nhiên buông ra, co chân đá vào hông địch thủ một cái. Hai địch thủ đang vận khí ngàn cân để chống đỡ, không ngờ lại bị một đòn cước dường ấy chẳng kịp đề phòng, hai cái xác tung bổng lên trời, lọt qua ngoài khung cửa, làm gãy cả một chấn song.
Hai địch thủ khác nhảy xông vào tiếp cứu, quát:
- Mày là ai?
Quách-Tỉnh đang ở trong thắng thế, cứ ngậm miệng giữ lấy sức không thèm đáp lời, tung hai tay một lượt như hai quả chùy hướng về địch thủ. Chưởng lực quá mạnh, khiến cho hai địch thủ chưa đến sát mình Quách-Tỉnh đã bị dội lại, lưng họ va vào bức tường như một tấm ván đổ. Máu hồng từ bên trong phụt ra miệng mũi. Họ chỉ lảo đảo được một chốc rồi ngã quỵ xuống.
Chỉ trong chốc lát mà chàng đã hạ được bốn người, khiến cho các địch thủ kinh khủng, không còn ai dám liều lĩnh xông vào tiếp ứng nữa.
Bấy giờ Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ nhận ra được Quách-Tỉnh lòng mừng rỡ nghĩ bụng:
- Đã có người này đến đây rồi thì phái Toàn-Chân của chúng ta không còn lo sợ gì nữa.
Còn Quách-Tỉnh sau khi hạ bốn địch thủ vì lòng sùng kính tổ sư, không kể gì đến việc kẻ địch đang bao quanh, vội quỳ xuống trước mặt Mã-Ngọc lạy và nói:
- Đệ tử Quách-Tỉnh xin bái yết Tiên-sinh.
Ngày nay, Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất cả ba đều râu tóc bạc phơ, tuổi già đã làm mất những nét hùng mạnh trong con người siêu việt đó.
Ba người nhìn Quách-Tỉnh gật đầu đáp lễ, với những nụ cười sung sướng.
Bỗng Doãn-chí-Bình la lớn:
- Quách đại huynh coi chừng.
Nghe tiếng gió vù vù từ xa, hướng đến sau gáy, Quách-Tỉnh biết ngay có kẻ đang tiến đánh tập hậu, liền cúi xuống hai tay chống đất rồi tung mình lên để rơi trên mình hai địch thủ. Hai gối chàng đánh vào lưng hai đối thủ làm cho họ té sấp và cũng làm cho hai địch thủ bủn rủn tay chân, họ chỉ còn là hai cái xác dùng để cho Quách-Tỉnh quỳ hai gối lên trên.
Mã-Ngọc mỉm cười, nói:
- Đã mười năm ta không gặp con, ngày nay lại được thấy võ nghệ con tiến bộ rất nhiều.
Quách-Tỉnh quay thẳng người thưa:
- Xin đạo trưởng cho đồ đệ lãnh ý về việc đối xử với những tên ác tặc này.
Mã-Ngọc chưa kịp đáp lời thì Quách-Tỉnh đã nghe hai giọng cười vang vang trong điện. Một giọng rất chói tai và một giọng êm ái.
Quách-Tỉnh quay lại, thấy đằng sau có hai người. Một người mặc áo đỏ khăn vàng, hình dung khô đét như một que củi, có vẻ là một nhà sư Tây-tạng, còn một người nữa mặc áo vàng, tay cầm chiếc quạt, tuổi còn trẻ, dáng điệu tao nhi như một chàng công tử.
Cả hai đều phong độ điềm tĩnh khác thường, làm cho Quách-Tỉnh không dám khinh khi.
Quách-Tỉnh cúi đầu chào hai người thưa:
- Hai vị là ai? Đến đây có việc gì?
Chàng trai có vẻ công tử mỉm cười, hỏi lại.
- Thế mày là ai? Đến đây có việc gì?
Quách-Tỉnh ôn tồn nói:
- Tôi họ Quách tên Tỉnh, vốn là đồ đệ của các tôn sư đây.
Chàng công tử nói:
- A! không ngờ trong Toàn-Chân phái cũng có được những nhân vật như thế!
Quách-Tỉnh nhận xét chàng công tử đó tuy tuổi chưa đầy ba mươi mà vẻ kiêu ngạo quá lắm, coi Quách-Tỉnh không ra gì cả. Chàng cũng muốn hỏi xem họ là ai và nói rõ cho họ biết mình tuy là đồ đệ của mấy vị đó, nhưng không phải là người hiện ở trong phái Toàn-Chân. Tuy nhiên, thấy vẻ kiêu ngạo của thanh niên, Quách-Tỉnh lại không muốn tỏ bày. Bản tính Quách-Tỉnh là người ít nói, không hay biện bác.
Chàng hỏi:
- Hai người có thù gì đến Toàn-Chân giáo mà sai người đến gây chuyện, đốt phá đền đài?
Người có dáng công tử cười lớn, hỏi lại:
- Mày là kẻ nào mà dám xen vào hỏi đến chuyện này.
Quách-Tỉnh giận dữ, đáp:
- Ta là ta! Dẫu ta xen vào thì mày làm gì?
Lúc ấy ngọn lửa nơi điện cứ cháy lan ra mãi. Cứ đà ấy thì chẳng mấy chốc Trùng-Dương cung sẽ thành tro khói. Chàng công tử phe phẩy chiếc quạt có hình bông mẫu đơn màu trắng. ánh lửa chói sáng trông rất đẹp mắt.
Hắn nghe Quách-Tỉnh thách thức liền tiến lên một bước, vừa cười vừa nói:
- Mày mà đỡ nổi ba mươi thế võ của tao thì tao tha chết cho cả bọn đạo sĩ này được. Mày vui lòng chứ?
Chẳng thèm đáp, Quách-Tỉnh lấy tay phải hất chiếc quạt của hắn, kéo mạnh về phía mình. Với lối dằng co đó, nếu chàng công tử kia không dùng khí lực sẽ phải vấp ngã về phía trước. Trong bất ngờ chàng công tử không đến nỗi té nhưng cũng bị loạng choạng đôi chút.
Quách-Tỉnh giật mình, nghĩ thầm:
- Hắn nhỏ tuổi mà chịu đựng nổi sức mạnh của ta thì kể ra cũng là cừ khôi đó. Sao từ trước đến nay ta chưa từng được nghe tên tuổi?
Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh liền vận khí lên quát vào mặt chàng công tử đó một tiếng.
Tiếng quát là một sức nội công tỏa ra, làm cho mặt chàng công tử đỏ ửng biến thành trắng toát như mặt ngọc.
Thấy vậy, Quách-Tỉnh lại nghĩ thầm:
- Té ra hắn đã vận sức nội công thượng thặng để chống lại tiếng quát của ta. Nếu ta quát thêm mấy tiếng nữa chẳng những hắn phải bị thương mà nội tạng của hắn cũng đều hôn mê nữa.
Tuy nhiên, Quách-Tỉnh vốn là võ nhân từ, biết chàng trai kia đã lập tuyện đến mức đó không phải là ít công phu. Chàng không muốn hại mạng của một thanh niên còn đầy hy vọng.
Quách-Tỉnh nhìn mặt chàng công tử mỉm cười, cái cười tỏ ý biết sức nội công còn non kém của đối phương.
Chàng công tử lợi dụng lúc Quách-Tỉnh mỉm cười, sức nội công không còn nữa, đưa tay giật cây quạt lại. Nhưng lạ thay! chàng vận hết sức lực mà cây quạt cũng không nhúc nhích.
Đó là vì sức lực của Quách-Tỉnh còn truyền sang cây quạt nên vẫn còn có sức mạnh.
Biết thế yếu chàng công tử vội vàng buông tay nhảy ra phía sau cúi đầu bái Quách-Tỉnh và hỏi:
- Xin cho biết quý danh.
Quách-Tỉnh nói:
- Tiểu danh không đáng kể. Mã, Khưu và Vương chân nhân đây vốn là bực sư phụ của ta.
Chàng công tử bán tin bán nghi, nghĩ rằng:
- Vừa rồi phái Toàn-chân bị đánh đến nửa ngày nếu không nhờ Thiên-cang Bắc-đẩu trận hợp lực nhau để thủ thế thì họ làm sao cầm cự nổi. Nếu cứ đánh tay đôi thì cả môn phái nầy chưa ai địch nổi ta tại sao trong bọn lại có một người võ nghệ cao cường đến thế nhỉ?
Chàng công tử quay ra ngắm dung nhan Quách-Tỉnh, trông Quách-Tỉnh ăn mặc quần thô kệch như một nông dân, lấy làm lạ, muốn hỏi vài lời xã giao.
Song chàng chưa kịp hỏi, chỉ vừa nói được câu:
- Võ nghệ của ông quả đã đến mức tuyệt vời. Kẻ hèn xin hẹn mười năm nữa sẽ hội ngộ.
Thì đàng xa bỗng vang vang tiếng nhạc. Tiếng nhạc êm đềm khiến ai cũng phải xúc động.
Quách-Tỉnh vội đáp lễ chàng công tử, và nói:
- Mười năm nữa ta sẽ gặp ngươi tại đây.
Chàng công tử từ từ lui gót ra khỏi cửa, quay lại thưa:
- Cuộc so tài giữa chúng tôi và môn phái Toàn-Chân hôm nay tôi chịu thua.
Theo tập quán của giới giang hồ thì nếu có một địch thủ đã chịu thua và hẹn ngày rửa hận thì ngày đó chưa đến dù có gặp nhau cũng không được ra tay. Bởi vậy, khi nghe chàng công tử nói, Quách-Tỉnh vội đáp lời:
- Đó là lẽ dĩ nhiên, khỏi phải thắc mắc.
Chàng công tử vái chào sắp sửa bước ra. Khưu-xư-Cơ thốt nhiên hét lớn:
- Không cần đợi đến mười năm Khưu đây sẽ tìm đến tận nhà ngươi.
Tiếng quát như sấm làm cho chàng công tử ù tai, choáng váng chàng cũng biết ra rằng các đạo sư đó chưa trổ hết tài năng, nên sợ quá từ từ lui ra ngoài.
Bên ngoài, tiếng thép loảng choảng dần dần thưa, rồi im bặt Quách-Tỉnh đoán biết họ đã rút lui toàn bộ.
Nhìn vào trong điện Quách-Tỉnh lại thấy đàng sau chỗ Mã-Ngọc ngồi còn mấy người nằm dài dưới đất. Đó là Quảng-tử-Ninh và Xich-đại-Thông. Mặt họ trắng nhợt như đã bị thương quá nặng.
Sở dĩ Mã-Ngọc và sáu người kia cố ngồi yên khi ngọn lửa đã bốc cháy gần kề là để bảo vệ sinh mạng cho hai người ấy.
Quách-Tỉnh vội bước vào, cởi đạo bào thì thấy ngực họ có in một vết bàn tay tím bầm ăn sâu vào trong thịt. Chàng cảm thấy lo sợ vì trong nghề võ chàng chưa hề được nghe nói đến miếng võ gây thương tích cho địch nhân như thế.
Chàng thầm nghĩ:
- Mình an cư nơi Đào-hoa đảo suốt mười năm trời không dễ thế sự có những đổi thay lớn lao mà mình không hay biết.
Rồi chàng cúi xuống điểm vào hai huyệt nơi hai bên hông Xích-đại-Thông.
Điểm như thế tuy không làm bệnh nhân lành vết thương nhưng cũng làm cho bệnh nhân đỡ đau trong khoảng thời gian mười hai tiếng đồng hồ.
Bốn bề lửa cháy rần rần, không còn có cách gì cứu chữa nổi nữa.
Khưu-xứ-Cơ vừa bồng Xích-đại-Thông dậy vừa nói:
- Thôi! Chúng ta rút đi nơi khác là hơn.
Quách-Tỉnh sực nhớ đến Dương-Qua, liền hỏi:
- Tôi có đem theo một đứa nhỏ, chẳng biết nó đã bị vào tay đại huynh nào bắt giữ, xin giao lại cho tôi, đừng để nó bị lửa thiêu.
Từ trước đến giờ, Khưu-xứ-Cơ và các vị đạo hữu lo để ý đến việc chống kẻ địch không để ý đến việc gì khác. Bất ngờ Quách-Tỉnh vừa dứt lời thì một đứa bé từ trên không rơi xuống đúng phải giữa điện, mặt mày hí hửng, nói:
- Thưa chú, cháu có mặt đây rồi.
Quách-Tỉnh vui mừng, vừa ngạc nhiên hỏi:
- Sao cháu lại trốn trên xà nhà. Có gì nguy hiểm chăng?
Đứa bé ấy đúng là Dương-Qua! Nó nhanh nhẩu đáp:
- Thưa chú, lúc chú với thằng đạo sư khốn kiếp...
Quách-Tỉnh chận lời, mắng:
- Đừng vô phép! Hãy ra lạy sư phụ đi nào!
Dương-Qua lè lưỡi quì trước Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ, Vương-xứ-Nhất lạy mấy lạy. Khi đến Doãn-chí-Bình là người trẻ tuổi hơn, thằng bé quay sang hỏi Quách-Tỉnh:
- Người nầy chắc không phải sư phụ như thế con không cần lạy.
Quách-Tỉnh nói:
- Vị đó không phải là sư phụ, nhưng là sư bá. Vậy con phải lạy ra mắt.
Dương-Qua tuy trong bụng không muốn nhưng phải tuân lời Quách-Tỉnh, lạy mấy lạy.
Quách-Tỉnh thấy Dương-Qua chỉ lạy Doãn-chí-Bình chứ không lạy ba đạo sư trung niên khác, thì mắng:
- Dương-Qua! Sao cháu vô lễ thế!
Dương-Qua cười hề hề, nói:
- Đợi con lạy đủ ba vị nữa thì có một việc gấp không còn cứu kịp
Biết Dương-Qua là đứa cơ xảo, Quách-Tỉnh hỏi:
- Việc gấp gì cần phải cứu?
Dương-Qua thưa:
- Có một vị bị trói ở phòng gần đây, nếu không cấp thời đi cứu sợ người ấy sẽ bị chết cháy mất.
Quách-Tỉnh vội vã hỏi:
ở phòng nào? Tại sao cháu biết?
Thằng bé mỉm cười nói:
- Để cháu nghĩ coi! à, nơi gian phòng đàng sau xa! Còn tại sao bị trói cháu quên mất.
Doãn-chí-Bình thấy Dương-Qua nói giọng nửa thật nửa đùa trong lúc mọi người đang nóng ruột lấy làm bực tức, lườm thằng bé một cái rồi chạy vụt sang dãy phòng phía đông.
Doãn-chi-Bình lục lạo khắp nơi nhưng không thấy bóng của một người nào cả, miệng lẩm bẩm rủa liên hồi.
Qua khỏi mấy dãy phòng dùng làm nơi trú ngụ của các đạo sư, và đến gian phòng dùng để tập luyện võ công, Doãn-chi-Bình mở ra một cánh cửa thì thấy khói lửa mịt mù, trong góc một gian phòng hẹp có một đạo sư bị trói nằm trên giường, miệng ú ớ nói không ra tiếng.
Doãn-chi-Bình bước vội đến mở trói, kéo mạnh đạo nhân ấy dậy, thì thấy chân tay buộc bằng một sợi dây luộc, sợi dây mà các đạo sư thường dùng tập luyện võ công.
Sợi dây ấy quá chắc, Doãn-chi-Bình phải dùng kiếm cắt đứt ra mới được.
Đạo nhân tay chân được cởi mở, đưa tay rút đùm giẻ trong miệng ra, thở hào hển.
Lửa cháy rần rần, Doãn-chi-Bình thấy không tiện ở đấy han hỏi lý do, nên đưa vai cõng đạo nhân chạy biến ra ngoài.
Trong lúc đó, Khưu-xứ-Cơ, Quách-Tỉnh và Dương-Qua đã ra khỏi võ điện, đứng trên một mô đất cao, đưa mắt nhìn ngọn lửa đang tàn phá ngôi đền đài đồ sộ, công trình mà bao nhiêu thế hệ đã đóng góp vào để dựng nên.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Chúng ta không còn phương nào cứu chữa nổi sao!
Khưu-xứ-Cơ buồn bã gật đầu nói:
- Đành chịu thôi! Trên núi nầy chỉ có một con suối nhỏ, sức nước không đủ áp đảo sức lửa bạo tàn đó.
Quách-Tỉnh đau lòng toan hỏi xem kẻ đến phá đều là ai, nhưng chưa kịp mở lời thì đàng sau Doãn-chi-Bình hấp tấp cõng một đạo nhân bước tới, đặt trước mặt mọi người với vẻ mặt chua chát.
Đạo nhân đó bị sặc khói, mặt mày đen như lọ, nước mắt ràn rụa. Ông ta dụi mắt mấy cái mới mở được, và khi trông thấy Dương-Qua ông ta như một con hổ dữ, chồm tới toan túm lấy Dương-Qua xé ra từng mảnh cho hả giận.
Dương-Qua lanh lẹ né sang một bên, miệng cười hề hề.
Đạo nhân kia nắm hụt, đưa tay chỉ vào mặt Dương-Qua chưởi rủa:
- Thằng ranh con khốn kiếp! Mầy toan giết ta ư?
Vương-xứ-Nhất hỏi:
- Tỉnh-Quang! Có việc gì lại tức giận đến thế? Hãy nói ra đây cho chúng ta rõ!
Vị đạo nhân gọi là Tỉnh-Quang vừa được thoát chết, tâm thần đều loạn, khi thấy Dương-Qua, kẻ thù mình, toan túm lấy đánh một trận trả thù, ông ta quên rằng mình đã làm một việc vô lễ, trước mặt vị sư bá là Vương-xứ-Nhất. Khi nghe Vương-xứ-Nhất nói, Tỉnh-Quang giật mình biết đã phạm tội vô lễ, liền chắp tay thưa:
- Đệ tử vô ý phạm tội vô lễ thật đáng chết.
Vương-xứ-Nhất nói:
- Có gì mà đáng chết, hãy nói cho ta biết việc giận dữ của con
Tỉnh-Quang nói:
- Đệ tử ngày nay thật là đứa vô dụng. Đệ tử đã cho thằng nhãi ranh đó chà đạp trên danh dự...
Nói đến đây, Tỉnh-Quang lườm lườm Dương-Qua ý muốn xông đến, nhưng trước mặt các vị đạo sư, Tỉnh-Quang không dám, liền kể:
- Đệ tử phụng mệnh sư thúc Triệu-chí-Nguyên đứng gác ở sau vườn. Sau đó Triệu sư thúc trao đứa bé nầy, và cho biết hắn là một địch thủ rất lợi hại của môn phái ta, bảo đệ tử phải đem hắn nhốt trong tịnh thất phía đông. Ngồi trong đó một lúc, hắn bảo là hắn mắc tiểu, và yêu cầu cởi trói cho hắn. Đệ tử thấy hắn có vẻ tinh ranh nên không chịu cởi trói, phải chính tay cởi quần cho hắn đi tiểu. Hắn đi tiểu xong, thừa lúc đệ tử đang thắt quần lại, hắn đưa tay xô mạnh đệ tử, khiến đệ tử phải té nhủi xuống đất...
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 11 : Đôi tình nhân thuở trước của Chung-Nam-Sơn
Tỉnh-Quang nói đến đây, Dương-Qua xen vào cười hề hề, làm cho Tỉnh-Quang không dằng nổi cơn giận, chỉ mặt mắng:
- Đồ nhãi ranh! Mi cười cái gì đó.
Dương-Qua ngẩng đầu lên, nói:
- Tôi cười việc của tôi có can hệ gì đến ông.
Tỉnh-Quang toan xông vào tóm cổ Dương-Qua đánh một trận nhưng Vương-xứ-Nhất biết trước, chận lại, nói:
- Đừng cãi vã với trẻ con, hãy kể rõ đầu đuôi cho ta nghe.
Tỉnh-Quang hậm hực thưa:
- Xin sư phụ biết cho con là thằng bé ấy rất đỗi tinh nghịch nó toan giết con
Rồi Tỉnh-Quang kể tiếp:
- Lúc đó con ngã sấp xuống vũng nước tiểu của nó, vừa muốn đứng dậy tát cho nó mấy cái, thì nó cười hì hì, nói: "ấy chết, cháu làm bẩn cả quần áo của chú rồi".
Mọi người nghe Tỉnh-Quang nhại lại giọng nói của Dương-Qua, ai nấy đều buồn cười. Vương-xứ-Nhất cau mày tỏ vẻ khó chịu khi thấy đệ tử của mình hành động không mấy đẹp mà phải bêu rếu trước mặt người khác.
Tỉnh-Quang lại kể:
- Đệ tử nghe nó nói vậy tưởng nó là đứa vô dụng, chẳng nên chấp trách làm chi. Ngờ đâu nó tiến sát đến với dáng điệu như van lơn, rồi bất thần nó nhảy lên lưng con, cắn vào cổ con.
Kể đến đây, Tỉnh-Quang lấy tay sờ cổ như còn đau đớn lắm, và nói:
- Con giật mình định trở người vật nó xuống, nhưng nó cắn quá mạnh con sợ lủng cổ không dám cựa quậy. Nó được dịp cứ cắn mãi bảo gì cũng không nhả, túng thế quá con mới năn nỉ nó, xem nó muốn gì con chiều ý nó. Song nói gì nó cũng lắc đầu. Cuối cùng con bảo: "Mầy đừng cắn nữa, tao mở trói cho mầy". Bây giờ nó mới gật đầu.
Ngừng một chút để lấy hơi, Tỉnh-Quang kể tiếp:
- Thật ra đứa bé nhỏ nhít như thế, dẫu mà cởi trói cho nó, nó cũng không thể nào thoát được tay con. Vì vậy con quyết định mở trói cho nó, để nó khỏi cắn, rồi sau sẽ hay. Nhưng con vừa lần mò mở hết tay chân nó, xong thì lanh như cắt nó rút thanh kiếm trong lưng con, dí vào ngực con và hăm dọa: "Nếu nhúc nhích nó đâm chết liền".
Đoạn, nó ra lệnh cho con phải dùng sợi dây con đã trói nó, tự trói lấy chân, không thì nó đâm chết. Mắt nó nhìn con không chớp như nó sẵn sàng nhấn mạnh lưỡi kiếm vào tim con. Do đó, không biết làm sao, buộc lòng con phải tự trói lấy mình.
Con vừa trói chân xong, nó lanh lẹ nhảy ra phía sau lưng, dí mũi kiếm vào lưng ra lệnh bắt con đưa hai tay ra đằng sau, rồi nó dùng dây trói nốt.
Trói xong cả chân tay của con rồi, nó cắt vạt áo nhét vào miệng, đến lúc lửa cháy nơi võ điện con không còn la lối kêu cứu được nữa, đành nằm đó chịu chết. Nó không có Doãn tiên sinh vào thì tánh mạng của con chẳng còn.
Mọi người nghe Tỉnh-Quang kể hết, ngó Dương-Qua lại ngỏ Tỉnh-Quang. Thật là hai thái cực. Một đàng thì to lớn vạm vỡ, một đàng thì nhỏ thó, ai cũng phải phì cười.
Đợi đến lúc Tỉnh-Quang kể hết câu chuyện, mọi người đều cười rộ lên. Tỉnh-Quang sượng sùng, bứt đầu gãi tai tỏ vẻ giận dữ cho đỡ ngượng.
Mã-Ngọc cười hỏi Quách-Tỉnh:
- Thằng bé này là con của đồ đệ phải không? Đúng là nó theo mẹ nó nên có tánh ngỗ ngịch tinh quái dường ấy.
Quách-Tỉnh lắc đầu thưa:
- Đâu phải! Nó chính là con của một người bạn thân, kết nghĩa từ thủa bé. Cha nó là Dương-Khang.
Khưu-xứ-Cơ nghe nhắc đến Dương-Khang bỗng lòng hồi hộp, chăm chú nhìn Dương-Qua như để tìm lại trong người thằng bé những nét di lưu của cha nó.
Khưu tiên sinh với Dương Khang là tình sư đệ. Nhưng về sau Dương-Khang tham mùi phú quí nên hắn đã chạy theo đường tà.
Giờ đây Khưu-xứ-Cơ biết được Dương-Khang có con, lòng rất hoan hỉ nhân dịp nầy ông ta cố hỏi câu chuyện cho rõ đầu đuôi, nên xoắn xuýt bên Dương-Qua không rời.
Trong lúc đó, các đạo nhân ở Trùng-Dương cung cũng có dịp ngồi nhìn tòa võ điện điêu tàn chỉ còn lại một đống tro tàn, đượm màu bi thảm.
Thật vậy, Trùng-Dương điện hôm qua còn là một tòa đài đồ sộ nguy nga, mà giờ đây chỉ còn lổm chổm một mớ than hồng, và từng đống gạch ngói ngổn ngang.
Mã-Ngọc và nhiều đạo sư khác vốn là những người có đạo tâm, nên chẳng màng gì đến ngoại vật. Họ đối với ngôi võ điện là bao nhiêu mồ hôi của biết bao nhiêu người trong hàng mấy mươi năm trùng tu, trong chốc lát bị thiêu thành khói lửa, làm sao họ chẳng buồn.
Bấy giờ Quách-Tỉnh kể sơ lược về thân thế của Dương-Qua cho mọi người nghe, ai nấy đều khe khẽ gật đầu thương hại.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Này Quách đồ đệ. Võ nghệ của đồ đệ nay đã cao cường hơn bọn ta nhiều, sao lại không đem truyền cho đứa bé này.
Quách-Tỉnh nói:
- Đệ tử sẽ xin thưa với sư phụ sau này về chuyện ấy. Bây giờ dám xin sư phụ thấu hiểu rằng đệ tử rất lấy làm áy náy. Hôm nay toan thượng sơn để yết kiến sư phụ thì lại phạm phải tội lỗi với các đạo huynh ở đây.
Kế đó Quách-Tỉnh kể lại chuyện vị đạo trưởng tưởng lầm mình là kẻ địch nên bố trí trận bắc đẩu để cản ngăn.
Khưu-xứ-Cơ nghe nói trợn mắt nhìn Triệu-chí-Kính, nói:
- Chí-Kính giữ phía ngoài sao không phân biệt được bạn thù, thực là đồ vô dụng. Ta lấy làm lạ chẳng biết vì sao phía ngoài bố trí mạnh mẽ dường ấy mà trong chớp mắt địch nhân lại có thể vào được võ điện để chúng ta trở tay không kịp. Giờ đây mới biết họ đã đem bắc đẩu đại trận để cản trở đệ tử, làm sai lạc việc kháng dịch.
Nói đến đó, râu tóc Khưu-xứ-Cơ dựng ngược lên vì giận dữ.
Quách-Tỉnh thưa:
- Có lẽ chỉ vì lúc ra chân núi, trong Phổ-Quang-Tự, đệ tử đã vô ý làm bể tấm bia có khắc chữ nên các đạo huynh hiểu lầm chăng?
Khưu-xứ-Cơ dịu nét mặt, nói:
- Đúng vậy! Hèn chi sự việc xảy ra như thế. Thật ra cũng không đáng trách các vị đạo sư vì bọn tà đạo đến phá Trùng-Dương cung cũng lấy việc đập bia làm hiệu lệnh. Hành động của đệ tử ăn khớp với hành động của bọn tà đạo làm sao họ không lầm!
Quách-Tỉnh nói:
- Bọn nó to gan thực, dám đến phá quách Trùng-Dương điện. Thưa sư phụ, bọn chúng là loại người nào vậy?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Chuyện nầy dài lắm! Vậy trước tiên đệ tử hãy theo ta ra phía sau điện này có chút việc.
Quách-Tỉnh đứng dậy, bước theo Khưu-xứ-Cơ. Hai người tiến bước về phía sau núi, và dặn Dương-Qua
phải ở yên nơi đấy, không được đi đâu cả.
Khưu-xứ-Cơ chân bước thoăn thoắt, trông dáng điệu còn quắc thước chẳng khác lúc thiếu thời. Quách-Tỉnh lòng rất khâm phục.
Đi chừng một lúc, đến một đỉnh núi cao chót vót, Khưu-xứ-Cơ dừng chân, đến sau lưng một tấm đá lớn, lẩm bẩm nói:
- ở đây có khắc ít chữ...
Bây giờ trời đã xẩm tối, phía sau tảng đá lại càng tối hơn, Quách-Tỉnh đưa tay mò vào tảng đá, quả nhiên thấy dấu chữ ăn sâu vào đó, biết là một bài thơ:
"Tử-Phòng xưa chí diệt Tần,
Khuông phò Hán-đế đem thân giúp đời.
Tài ba nắm vững cơ trời,
Dưới cầu nhặt dép, đợi thời ra tay.
Phong lưu cuộc thế đến ngày,
Giàu sang không thiết, phải tay xa đời.
Xích-Tùng cùng bạn thảnh thơi,
Anh hùng cảm mến, người đời nể danh.
Truyền rằng từ buổi sơ khai,
Nhị tiên tương ngộ cả hai mở đường.
Sau khi mò tay lên tảng đá, lần theo dòng chữ, Quách-Tỉnh ngạc nhiên quay lại nói với Khưu-xứ-Cơ:
- Chữ này đâu phải khắc, hình như kẻ nào đã lấy tay vạch lên đá!
Khưu-xứ-Cơ vừa cười vừa nói:
- Đệ tử thật tinh ý, nhận không sai. Thực ra việc này ai cũng cho là kỳ quái! Bởi vì làm thế nào có thể dùng ngón tay mà viết lõm xuống thành chữ được!
Quách-Tỉnh phụ họa:
- Chẳng lẽ trên đời này lại có kẻ thần thánh đến ư? Họa chăng chỉ có thánh thần mới làm nổi.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Kẻ viết đó không phải thần thánh mà là một người bằng xương bằng thịt, võ nghệ tuyệt luân, mưu trí không lường, một trăm năm giang hồ dễ có một người.
Quách-Tỉnh xoắn xuýt hỏi:
- Sư phụ có biết người ấy là ai chăng? Nếu biết xin nói cho đệ tử rõ để đệ tử được đến bái kiến thì thật vạn hạnh.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Ta cũng chưa hề thấy mặt người ấy lần nào, chỉ nghe nói thế thôi. Vậy cứ ngồi xuông đây nghe ta kể một câu chuyện để rõ nguyên do.
Quách-Tỉnh vâng lời ngồi xuống tấm đá, ngoảnh nhìn về phía sườn núi chỗ võ điện đã biến thành một đống than hồng, lòng chàng tự nhiên thấy có cái gì hậm hực lạ lùng.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- ý nghĩa bài thơ này ra sao con có hiểu rõ chăng?
Quách-Tỉnh bây giờ đã đến tuổi trung niên mà Khưu-xứ-Cơ vẫn ăn nói với Quách-Tỉnh cũng chẳng có gì thay đổi lắm.
Quách-Tỉnh thẫn thờ nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Đoạn đầu bài thơ nói về Trương-Lương giúp Hán diệt Tần, đến lúc thành công không màn phú quí cũng với Xích-Tùng bỏ đi ẩn thân. Còn đoạn sau nói về đức Trùng-Dương tổ sư là người sáng lập môn phái Toàn-Chân, nhưng đoạn nầy con không rõ lắm.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Con có biết Trùng-Dương tổ sư là người thế nào chăng?
Quách-Tỉnh lấy làm lạ đáp:
- Con chỉ biết Trùng-Dương tổ sư là người sáng lập ra môn phái Toàn-Chân, xưa kia đã thuyết về kiếm đạo ở núi Hoa-Sơn, võ nghệ giỏi vào bậc nhất trong thiên hạ.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Đúng vậy! Nhưng con có biết lúc thiếu thời Trùng-Dương tổ sư là người thế nào chăng?
Quách-Tỉnh lắc đầu:
- Con chưa hiểu rõ điều ấy!
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Trùng-Dương tổ sư không phải lúc sinh ra đã xuất gia tu đạo. Người là một nhà ái quốc. Thuở thiếu thời tổ sư thấy quân xâm lược phạm đến bờ cõi, lấy làm phẫn nộ, ngồi đứng không an. Đã bao lần tổ sư khởi nghĩa chống quân Kim, nhưng đã mấy lần tổ sư bị thua, quân sĩ chết hết. Quân Kim quá mạnh, không làm sao cự nổi, tổ sư phải nuốt hận xuất gia ẩn nặc mang tên là Hoạt-tử-Nhân, mấy năm liên tiếp ở trong ngôi mộ dài tại núi này. Và, tổ sư chẳng bao giờ bước ra khỏi mộ một bước để giữ trọn lời thề là cùng quân Kim chẳng đội trời chung, tuy còn sống, nhưng tổ sư coi như mình đã chết. Đó là một việc thủ tiết của biệt hiệu Hoạt-tử-Nhân.
Quách-Tỉnh nghe nói cảm động rưng rưng nước mắt, chàng hồi tưởng lại trong ký ức hình ảnh của Mục-niệm-Tử và Dương-Khang năm xưa cãi nhau trong võ điện. Và cũng ở trong võ điện ấy, Quách-Tỉnh trông thấy một bức ảnh có đề chữ "Hoạt-tử-Nhân". Chính hình ảnh ấy đã gợi cho Quách-Tỉnh ý muốn xuất gia tầm đạo.
Thì ra vị đạo sĩ trong tranh kia lại là Trùng-Dương tổ sư đó sao!
Khưu-xứ-Cơ kể tiếp:
- Ôi! Đã từ lâu lắm rồi, các thân bằng cố hữu của tổ sư không ngớt đến thăm viếng, và yêu cầu Tổ sư rời khỏi ngôi mộ kia để ra gánh vác việc đời. Nhưng Tổ sư vẫn không lay chuyển, chán ngán cho thân thế sự nghiệp mình, chẳng còn muốn ngó tới bạn hữu thâm tình thuở trước.
Mãi tám năm sau, một dịch nhân cũ của Tổ sư đến trước mộ đài chưởi bới Tổ sư ròng rã bảy đêm ngày. Tổ sư chịu không nổi nên ra khỏi mộ, định đấu với địch nhân một trận để địch nhân hết đến phá phách. Nhưng lúc Tổ sư ra khỏi mộ thì địch nhân cười hề hề, xem chừng đắc ý vì đã dùng kế làm cho Tổ sư xuất mộ đài.
Địch nhân nói:
- Thôi thế cũng đủ rồi! Đạo hữu đã ra khỏi mộ tức là tôi đã thắng cuộc, chẳng cần chiến đấu làm chi! Hẳn đạo hữu không còn trở vào mộ nữa chứ?
Về sau, Tổ sư biết rằng địch nhân vì lòng tốt, tiếc đức hạnh và tài năng của Tổ sư, muốn tổ sư ra cứu dân giúp nước, không muốn Tổ sư chôn sống cuộc đời trong nắm mộ, nên đến trêu chọc mà thôi. Và, cũng từ đấy, hai người cứu địch trở thành đôi bạn ý hiệp tâm đầu, cùng nhau dong ruổi trong chốn giang hồ nghĩa hiệp.
Quách-Tỉnh nghe kể đến đấy lấy làm xúc động, hỏi:
- Thưa sư phụ, vị địch nhân trở thành bạn của Tổ sư có phải là một trong các người: Đông-Tà, Tây-Độc, Nam-Đế, Bắc-Cái chăng?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Không phải đâu! Nói đến võ nghệ thì người này cao hơn bốn vị tổ sư kia một bực, nhưng vì người ấy là bực nữ lưu nên không xuất đầu lộ diện, không ai biết đến và tiếng tăm cũng chẳng có gì.
Quách-Tỉnh ngạc nhiên nói:
- ồ! Lại thuộc vào phái nữ lưu ư? Thật hiếm có vậy.
Khưu-xứ-Cơ tiếp:
- Người ấy rất có thâm tình với tổ sư, muốn theo hầu tổ sư, ước ao sẽ trở thành phu phụ. Nhưng tổ sư biết ý, thường tỏ với người ấy: "Chưa diệt được hung nô, đâu màng đến chuyện gia thất". Rồi bề ngoài giả điên giả dại như người chẳng biết gì. Vị nữ lưu kia lầm tưởng tổ sư khinh mình nên lấy làm tức giận. Thế là đôi bạn từ thù đến thân, rồi lại từ thân đến thù. Họ hẹn nhau một cuộc tỉ thí tại núi Chung-Nam.
- Oái oăm thế chứ sao? Chỉ vì tổ sư cứ tưởng rằng nàng có lòng yêu tất phải tương nhượng nhau, chẳng ngờ nàng lại có ý khác. Một lần nàng nói với tổ sư:
- "Đạo hữu coi tôi chẳng ra gì, thế thì đạo hữu phải trở thành đối thủ của tôi".
Thế là tổ sư cứ bị vị nữ lưu ấy thách đố mãi, cuối cùng tổ sư phải nhận đấu một trận nơi núi Chung-Nam.
Hai bên đánh nhau trong ít ngàn hiệp, nhưng tổ sư chẳng bao giờ đánh hết tay, dùng hết sức.
Thấy thế, vị nữ lưu kia lại càng tức giận mắng:
- Thì ra đạo hữu chẳng thèm để tâm vào việc đấu chiến với tôi, đạo hữu xem tôi là loại người thế nào đây?
Tổ sư đáp:
- Đấu võ xem ra khó phân thắng bại, thôi thì đấu văn cho dễ biết hơn thua.
Vị nữ lưu cũng bằng lòng nói:
- Thế cũng được. Nếu tôi thua đạo hữu tôi thề suốt đời không gặp mặt đạo hữu nữa, để trí óc đạo hữu được thảnh thơi.
Tổ sư nói:
- Nếu ngược lại ta bị thua cô nương thì sao?
Vị nữ lưu mỉm cười bảo:
- Nếu đạo hữu thua tôi thì xin nhường lại ngôi mộ đài kia cho tôi ở.
Thật ra ngôi mộ đài Hoạt-tử-Nhân ấy, tổ sư đã gởi gắm không biết bao nhiêu tâm huyết trong bao nhiêu năm trời, nếu để cho vị nữ lưu ấy chiếm đi thì sao an lòng được, còn nếu thắng nàng để cho nàng phải vĩnh viễn xa lìa tổ sư thì cũng là chuyện không hay.
Tuy nhiên, hai đàng phải chọn một, tổ sư thấy võ nghệ mình cao hơn nàng một bực, thôi thì đấu với nàng một phen để nàng lảng đi cho rảnh.
Tổ sư bằng lòng giao đấu thì vị nữ lưu lại hẹn đến hôm sau, nói:
- Hôm nay trời đã tối và cả hai có vẻ mệt nhọc rồi. Vậy để ngày mai sẽ tranh hùng.
Hôm sau đúng hẹn, hai người lại gặp nhau ở đỉnh núi nầy. Trước khi giao đấu, nàng nói:
- Trước khi quyết định việc ăn thua tôi muốn chúng ta cùng thề đi đã.
Tổ sư hỏi:
- Phải thề làm sao bây giờ?
Nàng nói:
- Thề rằng: nếu đạo hữu thắng tôi, tôi phải tự vận trước mặt đạo hữu, còn nếu tôi thắng đạo hữu thì đạo hữu phải lìa khỏi mộ đài để tu luyện thành một đạo sĩ hay một hòa thượng, và phải xây một ngôi đền trên đỉnh núi nầy mà ở, ít ra cũng phải ở đó trên mười năm.
Tổ sư nghe vị nữ lưu đó nói thế hiểu ý, nói:
- Cô nương kia bảo ta làm đạo sĩ hay hòa thượng cốt buộc ta suốt đời không lấy vợ. Điều đó ta đã hiểu. Còn việc cô nương bị thua, cô nương tự vận trước mặt ta là để làm gì?
Nàng nói:
- Thì để khỏi phải nhìn cái bạc bẽo của cuộc đời. Nhưng thôi, chúng ta đã giao hẹn nhau thi văn, vậy thì mỗi người chúng ta lấy tay viết vào đá ít dòng chữ, hễ ai viết sâu nét hơn thì người đó thắng cuộc.
Tổ sư nghe nói ngạc nhiên hỏi lại:
- Lấy ngón tay viết mà có thể in sâu nét chữ vào đá sao?
Nàng cười lớn nói:
- Chứ sao nữa! Ai viết nét chữ sâu hơn thì thắng cuộc.
Tổ sư lắc đầu:
- Ta đâu phải bậc thần tiên mà làm cái chuyện đó được. Cô nương đừng tìm cách đùa giỡn.
Vị nữ lưu nghiêm nghị nói:
- Đâu phải tôi bày chuyện đùa giỡn. Nếu tôi khắc chữ được vào đá bằng ngón tay, đạo hữu phải chịu thua cuộc chứ?
Tổ sư không tin nàng có thể làm được chuyện đó, nên đáp:
- Nếu cô nương làm được ta chịu thua, bằng cô nương làm không được thì hai bên hòa nhau không đàng nào thắng.
Lời nói ấy, làm cho vị nữ lưu đó thấy rõ cảm tình của tổ sư đối với nàng. Dẫu không kết nghĩa với nàng làm phu phụ, song cũng không bạc tình lắm.
Vị nữ lưu mỉm cười, nói:
- Được, tôi làm thần tiên cho đạo hữu xem.
Dứt lời, nàng lấy tay rờ vào tấm lá, rồi tì ngón tay viết mấy hàng chữ, nét chữ ăn sâu hơn khắc.
Tổ sư trông thấy ngón tay nàng đưa đến đâu là bột đá từ từ rơi đến đó, nét chữ lõm sâu vào làm cho tổ sư kinh ngạc trố mắt nhìn không biết sao mà nói.
Những dòng chữ nàng viết trên tấm đá đó là đoạn đầu bài thơ mà đồ đệ vừa đọc.
Tổ sư thua cuộc chẳng còn biết nói gì hơn, liền theo lời ước ra khỏi mộ đài, sống một cuộc đời đạo sĩ, lập nơi núi này một cái đền nhỏ mà thờ, ấy gọi là Trùng-Dương điện của tiền nhân vậy.
Quách-Tỉnh nghe kể, thầm phục tài năng của vị nữ lưu kia vô cùng. Chàng đưa tay sờ soạng các nét chữ trên đá một lần nữa, quả nhiên các nét chữ ấy đúng là vết ngón tay ghi sâu vào. Chàng nói:
- Công phu luyện tập nhân diện của vị nữ lưu kia thật là siêu việt. Đời nay có người nào sánh kịp.
Khưu-xứ-Cơ ngẩng đầu lên trời cười lớn.
Quách-Tỉnh ngạc nhiên, trố mắt nhìn không hiểu gì cả.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Tài năng ấy lừa được tổ sư, lừa được ta, lừa được đồ đệ, chứ nếu đem nói với Hoàng-Dung, vợ của đồ đệ thì hẳn vợ của đồ đệ không lấy làm kinh ngạc.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Làm sao vợ của đồ đệ lại hiểu được việc nầy. Hẳn trong việc nầy có gì gian ý chăng?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Đúng vậy, việc đó chỉ lừa được những kẻ thực tâm chất phác mà thôi.
Quách-Tỉnh bán tin bán nghi, nói:
- Lấy tay viết được trên đá hẳn kẻ ấy có luyện được phép nhân điện tuyệt đỉnh mới phải.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Tài siêu việt như Đoan-hoàng-gia Nhất-Đăng mà vẫn chưa thế lấy ngón tay viết sâu vào gỗ, huống hồ trên phiến đá.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Vì đâu sư phụ lại biết việc ấy có gian ý, và gian ý như thế nào?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Tổ sư xuất gia tu đạo một thời gian mà vẫn không sao hiểu được việc đó, nghĩ mãi không ra. Sau Tổ sư đem nói lại với Hoàng-dược-Sư. Hoàng-dược-Sư ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Việc ấy tôi cũng làm được, nhưng chưa luyện xong. Một tháng nữa tôi sẽ trở lại tiếp kiến.
Nói xong Hoàng-dược-Sư cười lớn rồi xuống núi.
Qua một tháng, Hoàng-dược-Sư trở lại, cùng với Tổ sư ra coi phiến đá kia, và cũng để đề tiếp vào đó bài thơ của vị nữ lưu còn bỏ dở.
Thật vậy Hoàng-dược-Sư sờ sẫm vào tấm đá một lúc rồi viết hai câu:
"Trùng-Dương môn phái Toàn-Chân,
"Trên cao nhìn xuống long vân đợi thời".
Đến đó thì ngừng. Hai câu thơ này tỏ ý tán dương môn phái Toàn-Chân lúc nào cũng làm việc nghĩa và đợi thời ra giúp nước.
Thấy Tổ sư ngạc nhiên, Hoàng-dược-Sư cười lớn viết tiếp mấy câu cho đến hết bài thơ có ý ca tụng Tổ sư, người sáng lập ra môn phái ta.
Tổ sư lấy làm lạ, nghĩ rằng Hoàng-dược-Sư võ nghệ thua Tổ sư một bậc, làm sao mà điện lực lại có thể phát xuất nơi đầu ngón tay mạnh đến thế.
Bất thần Tổ sư lấy ngón tay chỉ vào mặt phiến đá, thì phiến đá lủng sâu vào một lỗ.
Nghe nói đến đây, Quách-Tỉnh ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao có chuyện lạ lùng?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Không có gì lạ! Nhưng nếu lúc đó Hoàng-dược-Sư không cắt nghĩa rõ ràng với tổ sư hì có lẽ đến bây giờ chúng ta cũng không được biết cái bí quyết kỳ diệu đó.
Quách-Tỉnh lấy tay đặt vào cái lỗ bỏng thì thấy vừa vặn một ngón tay ấn xuống. Chàng cũng bắt chước vận dụng điện lực lấy đầu ngón tay ấn xuống mặt phiến đá, nhưng phiến đá dọi lên làm cho đầu ngón tay chàng đau nhói, chàng hỏi:
- Cái bí quyết kỳ diệu gì? Chẳng lẽ mặt phiến đá nầy khác hơn các tảng đá khác sao?
Khưu-xứ-cơ nói:
- Không khác gì cả, nó cũng cứng y nhau. Nhưng theo lời Hoàng-dược-Sư thì muốn viết trên mặt đá tất phải luyện được chất hoá thạch đơn. Chính chất hoá thạch đơn đã làm cho phiến đá lưu kia, trước khi viết họ đưa tay trái lên mân mê mặt đá chính là để bôi chất hoá thạch đơn vào.
Quách-Tỉnh nghe đến đây chắc lưỡi nhủ thầm:
- Ôi chao! Thế thì nhạc phụ ta quả là người cao kiến.
Lòng Quách-Tỉnh mang mang nhớ đến Hoàng-dược- Sư, không biết hiện giờ ông ta ở nơi nào.
Khưu-xứ-Cơ không để ý đến cử chỉ nhớ nhung của Quách-Tỉnh nói tiếp:
- Tổ sư ta lúc bắt đầu tu luyện cũng không vì phẫn chí hay vì khổ cực mà chính vì tổ sư đã đọc sách nhiều hiểu rõ cái cơ diệu huyền trong phép thanh tịnh hư vô. Cho nên tổ sư đã lập ra Trùng-Dương điện, thu thập đồ đệ làm cho môn phái Toàn-Chân trở nên vinh dự. Ngày hôm nay chúng ta được thừa hưởng cũng nhờ công khó của tổ sư.
Ngừng một lúc, Khưu-xứ-Cơ cười lớn nói:
- Nếu không có lời thách thức của vị nữ lưu thuở trước chắc gì bây giờ chúng ta có Trùng-Dương điện, có một số môn đồ di lưu hậu thế.
Quách-Tỉnh gật đầu nói:
- Vị nữ lưu kia tên họ gì, ngày nay ở chốn nào, có còn sống chăng?
Khưu-xứ-Cơ thở dài:
- Ngoài Tổ sư ra không ai biết tên thực của nàng. Tổ sư cũng không cho ai biết người ấy sống hay chết ra sao. Chẳng biết vì đâu một người võ nghệ dường ấy mà chẳng bao giờ xuất đầu lộ diện, để người đời biết đến.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Chẳng biết hiện nay có người nào thừa hưởng sự nghiệp võ nghệ của vị nữ lưu đó chăng?
Khưu-xứ-Cơ thở dài đáp:
- Bao nhiêu rắc rối là ở chỗ đó. Vị tiền bối nọ bình sanh không nhận môn đệ, chỉ có một người con gái nhỏ theo hầu tên là ả-Hoàn. Hai người cùng sống chung với nhau trong mộ đài hơn mười mấy năm, không một lần ra khỏi cửa. Bao nhiêu điều bí ẩn huyền diệu trong võ nghệ, ả-Hoàn đều được truyền thụ. Nhưng trong giới võ lâm cũng không ai biết đến ả-Hoàn. Bởi vì ả-Hoàn chưa bao giờ bước chân vào đường giang hồ nghĩa hiệp.
ả-Hoàn lại có thâu nhận hai người đệ tử. Người lớn họ Lý, trong giới giang hồ đều gọi là Lý-mạc-Thu, tên tự là Xích-Luyện Tiên tử.
Quách-Tỉnh nghe nói đến đây reo lên một tiếng:
- A! Thì ra tông tích của Lý-mạc-Thu là thế!
Khưu-xứ-Cơ hỏi:
- Con đã biết nàng con gái ấy rồi sao?
Quách-Tỉnh nói:
- Mấy tháng trước con đã từng đấu với ả ít hiệp ở Giang Nam. Võ nghệ của nàng cũng thuộc vào bậc khá cao.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Con không đả thương nàng chứ?
Quách-Tỉnh lắc đầu:
- Không! Nhưng con thấy nàng ấy hạ thủ mấy người nhà họ Lục với những ngón đòn rất độc, hơn cả Mai-siêu-Phong và Đồng-Thi.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- May mà con không đả thương Lý-mạc-Thu, nếu dã phạm đến nàng thì không sao tránh nổi nguy biến. Nàng còn có một người em nữ đạo-sĩ họ Long...
Quách-Tỉnh nghe đến đây giật mình hỏi:
- Sao? Người con gái họ Long ư?
Khưu-xứ-Cơ hơi biến sắc hỏi dồn:
- Con đã gặp nàng ấy rồi ư? Có chuyện gì nguy hiểm xảy ra chăng?
Quách-Tỉnh thấy Khưu-xứ-Cơ sắc diện thay đổi, vội vàng đáp:
- Con chưa gặp lần nào. Nhưng vừa rồi lúc đăng sơn, các đạo hữu cứ mắng con là dâm tặc, và cho con thượng sơn vì người con gái họ Long, con chẳng biết ý sao cả.
Khưu-xứ-Cơ thở dài, vừa cười vừa nói:
- Cũng vì thế mà Trùng-Dương cung mới xảy ra tai nạn vừa qua. Nếu không có sự hiểu lầm như vậy thì Bắc-đẩu trận có thể thắng được bọn giặc kia mà con còn có thể lên núi sớm hơn.
Khưu-xứ-Cơ thấy Quách-Tỉnh ngẩn người, liền nói:
- Nay là ngày sinh nhật của người con gái họ Long vừa đúng hai mươi tuổi.
Quách-Tỉnh thuận mồm hỏi:
- Kỷ niệm ngày sinh nhật hai mươi tuổi của cô gái nhà họ Long mà có thể gây biến loạn nơi Trùng-Dương cung đến thế sao?
Tuy nói thế, Quách-Tỉnh hình như để ý nghĩ vào đâu không chú ý đến câu hỏi của mình.
Khưu-xứ-Cơ cũng không đáp ngay câu hỏi của Quách-Tỉnh, nói trống:
- Người con gái họ Long nầy tên là gì cũng chẳng ai biết thấy, bọn tà thuật kia gọi nó là Tiểu-long-Nữ thì chúng ta cũng gọi là như vậy thôi.
Quách-Tỉnh như sực nhớ lại cuộc đàm thoại, vội hỏi:
- Lý lịch của cô gái đó thế nào, sư phụ biết rõ chứ?
Khưu-xứ-Cơ gật đầu, chậm rãi nói:
- Cách đây hai mươi năm về trước. Một tối nọ, các đạo sĩ trong Trùng-Dương cung đều nghe tiếng khóc của một hài nhi giữa cảnh đêm trường tịch mịch của núi rừng. Hài nhi đó do đâu mà có, nào ai biết được, mọi người đều chạy ra, thì thấy đó là một đứa bé gái, bọc vào một tấm khăn đặt dưới đất. Các nhà tu hành không tiện việc nuôi nấng trẻ thơ trong điện đài được, nhưng bỏ rơi đứa bé sơ sinh thì thật là tội nghiệp.
Lòng tư bi là đạo hạnh đầu tiên của việc tu hành, nên ai cũng cố tìm phương kế để cứu giúp đứa trẻ sơ sinh.
Nhưng trong lúc mọi người chưa tìm ra kế hoạch giải quyết, thì bỗng một thiếu phụ từ phía sau núi đi lại, tuổi trạc trung tuần, thấy vậy tỏ lời thương xót ngỏ ý muốn rước đứa bé về nuôi. Mọi người như thoát được cơn lo, trao đứa bé cho thiếu phụ.
Quách-Tỉnh nóng lòng hỏi:
- Người thiếu phụ đó là ai vậy?
Khưu-xứ-Cơ đáp:
- Mãi đến sau này Mã sư huynh và ta nghe nói lại mới đoán được thiếu phụ đó là ả-Hoàn, người đàn bà tu luyện trong mộ đài Hoạt-tử-Nhân.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Làm sao sư phụ đoán được thiếu phụ ấy là ả-Hoàn?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- ả-Hoàn cũng đã có lần gặp thất tử trong phái Toàn-Chân nhưng chẳng bao giờ chuyện trò. Vì thế nên ta mới đoán biết. Trùng-Dương điện và mộ đài cách nhau không xa, gà gáy chó sủa, hai bên đầu nghe rõ tiếng, nhưng vì tiền nhân có rắc rối với nhau, hai bên không bao giờ lai vãng. Lúc đó bọn ta nghe chuyện cũng biết vậy chứ không để ý làm gì.
Sau này đệ tử của ả-Hoàn là Lý-mạc-Thu xuất sơn. Lý-mạc-Thu tâm địa độc ác nhưng võ nghệ cao cường, đã nhiều phen làm những chuyện động trời trong giới giang hồ nghĩa hiệp. Môn phái Toàn-Chân cũng nhiều lần toan ra tay sửa trị, song vì nể nang vị đạo hữu trong mộ đài chẳng tiện ra tay.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Thế chúng ta không tìm cách nào để ngăn cản Lý-mạc-Thu trên bước đường tàn ác sao?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Chúng ta đã có nhiều lần gởi thư đến mộ đài, nói rõ hành động của Lý-mạc-Thu, có ý tố cáo với ả-Hoàn, nhưng bao nhiêu thư đều chẳng được hồi âm. Mà ả-Hoàn cũng chẳng ngăn cản Lý-mạc-Thu, để Lý-mạc-Thu lộng hành khắp chốn.
Rồi cách đây khoảng mười năm, thấy trong đám sậy có một khuông vải trắng, chúng ta đoán biết vị đạo trưởng trong mộ đài đã qua đời nên sáu sư huynh đệ đến ngoài mộ tế viếng.
Vừa hành lễ xong, một đứa bé độ mười tuổi, từ trong đám sậy bước ra vái trả lễ và nói:
- Lúc sư phụ tôi sắp qua đời có ra lệnh cho tôi nói cùng quí đạo trưởng biết: Người nào tung hoành làm điều ác nghiệt, sư phụ tôi đã có cách kềm chế họ lại, quí đạo trưởng khỏi phải nhọc lòng.
Nói dứt lời, đứa bé quay gót vào mộ đài. Bọn chúng ta định hỏi thêm cho cặn kẽ, nhưng đứa bé đã mất dạng.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Sao chúng ta không vào thẳng mộ đài để nói với họ cho rõ ràng lại thư đi thư lại làm chi?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- ấy chết! Lúc tổ sư qua đời có dặn trong môn phái chúng ta không ai được lẻo hánh đến mộ đài dù là ngoài cửa. Bởi thế trong phái Toàn-Chân ai cũng phải tuân theo lệnh ấy.
Quách-Tỉnh nói:
- Lạ thật! Vị đạo trưởng trong mộ đài đã qua đời còn làm sao cản trở được đứa học trò tinh nghịch như Lý-mạc-Thu mà trăn trối với chúng ta như vậy.
Khưu-xứ-Cơ chậm rãi gật đầu nói:
- Bọn chúng ta cũng nghĩ như vậy. Ai cũng lấy làm lạ rằng người chết còn có cách gì có thể kềm chế được đệ tử còn sống. Hơn nữa, mọi người thấy đứa nhỏ kia bé bỏng sống cô độc một mình, không người nương tựa, nên đem lòng thương, muốn đến săn sóc tiếp tế lương thực, song gởi gì đến đứa bé cũng từ chối không nhận. Có lẽ tính tình nó ưa sống cô độc như sư phụ của nó.
Ngừng một lúc, Khưu-xứ-Cơ nói tiếp:
- Từ đó, chúng ta vì bận viện ít khi ở trong võ điện, nên không được nghe tin tức của đứa bé kia. Và cũng từ đó Lý-mạc-Thu bỗng nhiên vắng hoạt động trong giới giang hồ.
Mãi đến ba năm trước đây, lúc ta cùng với Vương sư đệ có việc sang Tây-Vực, vào trú nơi nhà một vị đại nghĩa hiệp, trong khi chuyện trò bỗng nghe một tin kinh dị.
Quách-Tỉnh hỏi dồn:
- Tin gì vậy?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Đó là tin các tà đạo khắp nơi hẹn nhau tập trung đến Chung-Nam sơn để hành sự.
Chúng ta ái ngại nghĩ rằng Chung-Nam sơn là nơi võ điện của phái Toàn-Chân, chúng tập trung đến đây nếu không ngoài mục đích phá rối đạo giáo chúng ta thì còn làm gì nữa.
Tuy nhiên, tin ấy chưa căn cứ, chúng ta chưa vội tin. Đến khi cho người đi dò xét, thì mới biết tin ấy quả xác thực.
Thấy Quách-Tỉnh ngơ ngác, Khưu-xứ-Cơ cười nói tiếp:
- Không phải chúng tập trung nơi Chung-Nam-Sơn để phá rối chúng ta mà để đối phó với Tiểu-long-Nữ.
Quách-Tỉnh càng ngạc nhiên hơn, nói:
- Tiểu-long-Nữ! Con bé ấy thủa nay chưa ra khỏi mộ đài, nào có thù oán với ai mà họ đối phó, vậy đối phó vì lẽ gì?
Khưu-xứ-Cơ cười hề hề nói:
- Việc thật rắc rối! Tuy Tiểu-long-Nữ chưa bao giờ cất bước ra khỏi mộ đài, song Lý-mạc-Thu, đệ tử của ả-Hoàn, một đứa ác tặc đã từng gây sóng gió trong giới giang hồ gây nên việc ấy.
Quách-Tỉnh nói:
- Thế sao họ không đối phó với Lý-mạc-Thu lại đến đây để đối phó với con bé Tiểu Long?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Nguyên là vì sư phụ Lý-mạc-Thu dạy nàng trong ít năm, thấy tánh nết của nàng không có đạo hạnh, không thể trở thành thiên nhân được, nên đã dạy nửa chừng rồi nói dối là đã thành tài và cho hạ sơn.
Lý-mạc-Thu lúc còn vị sư phụ tuy làm những điều ác nhưng vẫn nể sợ, đến lúc sư phụ hắn qua đời, hắn trở nên bất chấp đạo lý, lấy cớ đi đến phúng điếu sư phụ, đột nhập vào Hoạt-tử-Nhân mộ đài toan đuổi Tiểu-long-Nữ ra để độc chiếm những bảo vật.
Lý Mạc Thu đã thông thuộc hết mọi nẻo trong mộ đài, thế mà nàng đem hết sức bình sinh chỉ vượt qua được có hai cửa, đến lần cửa thứ ba, Lý Mạc Thu thấy có mấy chữ của sư phụ hắn ghi lại. Sư phụ hắn đoán biết ngày Lý Mạc Thu trở lại phá phách, và ngày Tiểu-long-Nữ xuống núi tìm cha, nên đã di chúc khuyên hai người nếu gặp nhau trên đường giang hồ nghĩa hiệp phải giữ vẹn tình đồng môn, chớ nên tranh chấp. Ngoài ra sư phụ hắn còn khuyến cáo hành động Lý Mạc Thu phải làm sao cho hợp với chánh đạo, để khỏi gặp những hậu quả không tốt.
Nhưng Lý Mạc Thu lòng tham ngùn ngụt không kể đến lời di chúc người trêu, không nghĩ đến chánh đạo, đẩy cánh cửa thứ ba toan xông vào. Nhưng vừa đặt chân qua ngưỡng cửa thì nàng trúng phải thứ kim độc của sư phụ nàng đã cài sẵn. Nếu không nhờ Tiểu-long-Nữ cứu chữa thì có lẽ nàng đã chết ngày tại chỗ.
Nàng thấy không thể phá phách được, rút lui ra khỏi mộ, hạ son.
Nhưng chẳng lẽ đành chịu thúc thủ hay sao? Lý Mạc Thu là đứa kiêu hãnh không chịu nhục nổi nàng, lại xông lên mấy lần, nhưng lần nào cũng bị thiệt hại, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Lần sau cùng, Lý Mạc Thu toan hạ Tiểu-long-Nữ, chẳng ngờ lúc bấy giờ Tiểu-long-Nữ tuy mới mười bảy tuổi mà võ nghệ đã vượt hơn nàng rất nhiều. Nếu không vì tình đong môn, nàng bị Tiểu-long-Nữ hạ sát như chơi.
Quách-Tỉnh nghe đến đây ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Chuyện này con e các giới giang hồ đã xuyên tạc sự thực.
Khưu-xứ-Cơ nhìn Quách-Tỉnh hỏi:
- Vì sao con lại nghĩ thế?
Quách-Tỉnh thở dài, nói:
- Con đã đấu với Lý-mạc-Thu trong mấy hiệp, Lý-mạc-Thu kẻ võ nghệ phi thường có nhiều ngón độc đáo, thiên hạ ai nghe đến tên nàng cũng phẳi khủng khiếp, còn Tiểu-long-Nữ kia một cô gái mới đến tuổi hai mươi làm sao địch nổi với nàng.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Thật ra Lý Mạc Thu đã từng đem võ nghệ gây sóng gió trong giới giang hồ không phải ít. Song việc nầy Vương-sư-đệ nghe một người bạn trong Cái-Bang kể lại rằng chính Tiểu-long-Nữ đã thắng Lý Mạc Thu. ấy thế nên Lý Mạc Thu mới căm tức Tiểu-long-Nữ, rêu rao khắp nơi rằng ngày nầy tháng nầy Tiểu-long-Nữ ở trong Hoạt-tử-Nhân mộ đài, xuất đầu lộ diện, tỳ thi với thiên hạ anh tài để chọn người tuấn kiệt.
Quách-Tỉnh nghe đến đấy gật gù nói:
- à ra thế thì đó là một lối trả thù của Lý-mạc-Thu đối với cô gái Tiểu-long-Nữ kia sao?
Khưu-xứ-Cơ gật đầu nói:
- Đúng vậy, hắn đánh không lại bạn đồng môn nên dùng thủ đoạn mượn tay thiên hạ đến đánh. Lý-mạc-Thu rêu rao rằng nếu ai thắng nổi Tiểu-long-Nữ thì không những được Tiểu-long-Nũ chọn làm bạn trăm năm, mà bao nhiêu báu vật trong Hoạt-tử-Nhân mộ đài sẽ được nàng đem hiến dâng trọn. Thế là những tay háo sắc, những phường dâm tặc, những bọn tà ma ngoại đạo đua nhau để xô đến đem tài sánh cùng Tiểu-long-Nữ để mong đoạt lấy nguyện vọng.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Làm sao họ biết được nhan sắc của con bé Tiểu-long-Nữ thế nào mà liều đem tánh mạng đến để cầu duyên?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Những kẻ háo sắc chẳng hề biết Tiểu-long-Nữ ra sao, nhưng Lý-mạc-Thu tuyên truyền ầm ĩ rằng sư muội của hắn đẹp hơn hắn nhiều, võ nghệ lại ít ai bì kịp, ngay cả đến các tiểu thư đài các cũng không ai có thể sánh vơi nhan sắc của nàng.
Quách-Tỉnh mơ màng liên tưởng đến việc cầu hôn của mình, bụng bảo dạ:
- Như thố có lấy gì làm lạ! Người yêu của ta còn đẹp gấp trăm phần.
Thực ra, chỉ vì Quách-Tỉnh sủng ái người yêu của mình nên tưởng Hoàng-Dung lúc nào cũng là người đẹp nhất thế gian. Cứ theo lẽ công bằng thì về mặt thùy mị Hoàng-Dung làm sao địch nổi Lý-mạc-Thu.
Khưu-xứ-Cơ nói tiếp:
- Trong đám tà ma ngoại đạo sống đời giang hồ hiệp sĩ rất có nhiều người cảm cái nhan sắc của Lý-mạc-Thu, nhưng thấy Lý-mạc-Thu đã lớn tuổi, lại tánh tình trở nên đọc ác nên không ai dám động đến. Bây giờ nghe nói nàng có sư muội đẹp hơn, lại đang thách người tỷ thí để tìm bạn trăm năm, thì ai lại chẳng muốn ứng thí.
Quách-Tỉnh nói:
- à ra vì bọn nầy muốn đến Chung-Nam sơn để cầu thân với con bé Tiểu-long-Nữ, hèn chi lúc con thượng sơn, quí đạo huynh đã lầm tưởng con là bọn đó và mắng con là đứa dâm tặc.
Khưu-xứ-Cơ lớn tiếng cười hề hề nói:
- Chính thế mà Trùng-Dương cung mới bị hại như ngày hôm nay.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Nếu bọn chúng đến đây để cho con bé Tiểu-long-Nữ kén duyên thì có oan hệ gì đến Trùng-Dương cung mà sư phụ ra công cản trở. Điều ấy thực con không biết.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Ta và Vương sư đệ được tin nầy nghĩ bụng rằng: bọn ta và Tiểu-long-Nữ tuy mới thấy mặt nhau có một lần song là tình lân bang, hơn nữa đời trước tiền nhân đi lại với nhau rất thân thiết. Vả lại bọn dâm tặc yêu tinh mà dồn đến là dám coi thường Toàn-Châu môn phái của chúng ta, bọn ta chẳng lẽ chỉ biết ăn no ngồi nhìn chúng hoành hành ở chốn Chung-Nam sơn này sao. Vì thế chúng ta mới phải truyền lệnh đi khắp nơi, triệu tập những tay cự phách trong môn phái trước mười hôm tại Trùng-Dương cung, và một mặt tập dượt Bắc-đẩu đại trận, một mặt đưa tin vào trong mộ đài để báo tin cho Tiểu-long-Nữ biết trước để đề phòng. Ai ngờ bức thư đưa tới như liệng đá vào lòng Trùng-Dương. Tiểu-long-Nữ chẳng thèm để ý, và cũng chẳng thèm phúc đáp:
Quách-Tỉnh nói:
- Hay là nàng không còn ở trong mộ đài nữa chăng?
Khưu-xứ-Cơ lắc đầu nói:
- Không! Mỗi ngày chúng ta vẫn thấy khói từ trong mộ đài tỏa ra, quyện khắp rừng cây...
Nói đến đây Khưu-xứ-Cơ chỉ tay về phía trước mặt, mắt đăm đăm nhìn:
- Kìa! Con hãy nhìn kìa!
Quách-Tỉnh nhìn theo phía tay chỉ thấy núi rừng trùng điệp, trong khoảng trên mười dặm, toàn là rừng cây, chẳng biết Hoạt-tử-Nhân mộ đài ở đâu cả.
Khưu-xứ-Cơ lại nói:
- Bọn ta họp nhau thảo luận, quyết định ngăn ngừa kẻ địch, che chở cho Tiểu-long-Nữ, phái người đi dò tin tức bọn dâm tặc trước đây năm ngày. Tin tức dồn dập đưa về cho biết có rất nhiều bọn vô đến Chung-Nam sơn đấu võ cầu thân. Có bọn thấy Trùng-Dương cung ở sát cạnh mộ đài cũng ngán, có bọn lại vì cô thế chẳng dám bén mảng đến đây. Tuy nhiên, bọn cô thế kia lại được một số ngoại đạo giúp sức, nên chúng mới thừa cơ hội theo đám ăn tàn tụ họp nơi Phổ-Quang-Tự dưới chân núi, lấy ám hiệu vỗ tay trên bia đá làm đích.
Quách-Tỉnh gật đầu lẩm bẩm:
- Hèn chi, con vì sơ ý đấm vỡ bia đá làm cho các đạo huynh nghi kỵ.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Nhất là cái đấm của con lại là cái đấm xuất quần, biểu lộ một tài nghệ tuyệt luân trong phái giang hồ hiệp khách.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Chẳng hay bọn cầm đầu trong đám phá phách Trùng-Dương cung là ai vậy?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Chúng gồm có hai bọn đều thuộc về ngoại đạo. Chúng đều là những bọn đã nổi danh trong thiên hạ, nhưng ít khi đến miền Trung-Nguyên nầy. Đã hơn mười năm nay, con ẩn thân trên Đào-hoa đảo nên không biết rõ sự thể. Chàng công tử nọ chính là con vua Mông-Cổ, cháu Thành-Cát Tư-Hãn. Hắn sống ở miền tây được một vị Quách-hiền nào đó truyền dạy, cho nên tuy còn nhỏ tuổi mà đã luyện được võ công rất uyên thâm, mọi người đều gọi hắn là Hoắc-Đô Hoàng-tử.
Quách-Tỉnh nhẩm đi tính lại bốn tiếng "Hoắc-Đô Hoàng-tử", hồi tưởng hình dung và cử chỉ của hắn, nghĩ mãi không rõ hắn giống ai, chỉ thấy cử chỉ của hắn trang nhã và đôi mắt ngời oai vệ.
Khưu-xứ-Cơ hỏi:
- Con ở nơi sa mạc lâu ngày đã từng tiếp xúc với những người trong vương tộc Mông-Cổ, con có thể nhận được lai lịch của chàng trai đó chăng?
Quách-Tỉnh thưa:
- Thành-Cát Tư-Hãn có bốn người con, người con trưởng là Thuật-Xích rất hung tợn, người con thứ hai là Sắp-hợp-Đài rất cuồng bạo, người thứ ba là Ô-phá-Đài tức là vua Mông-Cổ bây giờ, tính tình nhân từ, còn người con thứ tư là Phi-Lôi thì có khí phách hơn người. Nhưng tướng mạo bốn người đó đều không giống Hoắc-Đô Hoàng-tử một chút nào cả.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Chỉ ngại hắn muốn đề cao phẩm giá để cầu hôn mà thôi. Tuy nhiên tài năng của hắn, bọn ta không thể chối cãi vào đâu được. Đầu năm nay, vừa mới vào miền Trung-Nguyên, hắn đã ra tay trổ tài đả thương tam hùng miền Giang-Nam, sau về trên con đường Cam-Lương một mình hắn đã giết chết thất bá miền Giang-Châu, tiếng tăm của hắn nổi lên như sấm. Bọn ta không ngờ hắn lại nhúng tay vào việc nầy nữa.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Còn người sư Tây-Tạng kia là ai mà cũng tùng hành theo hắn?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Nhà sư ấy tên Đạt-nhĩ-Ba, thuộc về một tông ở Tây-Tạng, làm trưởng giáo. Hắn nổi tiếng đã từ lâu, kể ra về võ nghệ hắn cũng đóng bực với ta đó. Hắn là một hòa thượng, mà đương nhiên, đến chốn nầy không phải với ý muốn chiếm đoạt Tiểu-long-Nữ, có lẽ hắn đến để đoạt các bảo vật trong mộ đài, hoặc giả để phô trương thinh thế. Còn bọn dâm tặc khác thấy được hai người kia đứng đầu, không còn dám nuôi ý tưởng cầu hôn nữa, mà chỉ muốn theo đám ăn tàn, gỡ gạc được chút nào hay chút ấy. Do đó có hơn hàng trăm người đến Chung-Nam-Sơn này. Lẽ ra Bắc-đẩu trận của chúng ta có thể chận được bọn chúng không cho bước lên khỏi chân núi, hoặc không bắt sống được số đông bọn chúng cũng chẳng cho chúng đến gần Trùng-Dương cung. Âu cũng là việc rủi ro nên mới khiến trong môn phái ta hiểu lầm nhau để xẩy ra câu chuyện đáng tiếc.
Quách-Tỉnh lấy làm ăn năn toan ngỏ lời tạ lỗi với Khưu-xứ-Cơ thì Khưu-xứ-Cơ đã hiểu ý nói:
- Những điện đài lầu các đều là những vật ngoài thân mình. Ngay cả cái thân xác mình đây cũng còn chẳng nên lưu luyến quá, huống chi là lầu đài. Con đã tập luyện đến mức cao điệu lẽ đâu không thấu tiệt đạo lý.
Quách-Tỉnh thưa:
- Sư phụ dạy rất phải. Lòng con chỉ tiếc là tiếc cái công trình Trùng-Dương điện đã qua bao nhiêu đời góp nhặt, bao gian lao trong giáo phái, nay chỉ vì bọn dâm tặc kia mà một phút ra tro.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Bởi Bắc đẩu đại trận vây chặt lấy con, nên hai gã kia mới thừa cơ đột nhập vào Trùng-Dương điện, châm lửa đốt. Xích sư đệ đấu với Hoắc-Đô công-tử chỉ vì khinh địch trước một kẻ võ nghệ khác thường, tài nghệ chênh lệch nên vô ý bị hắn đánh một chùy vào ngực. Bọn ta vội lập thế để bảo vệ Xích sư đệ. Người thay Xích sư đệ lại quá kém nên phép tắc của trận pháp không tinh vi, nếu không có con đến kịp thời can thiệp thì môn phái Toàn-Chân hôm nay ắt vướng phải một nhục nhã không ít.
Hai thầy trò Quách-Tỉnh vừa nói chuyện đến đấy thì bỗng đàng xa vọng lại một hồi tù và, tiếng tù và rất nên kích động.
Quách-Tỉnh hồi tưởng lại lúc chàng còn ở trong bãi sa mạc mênh mông cũng đã từng nghe giọng tù và ấy cuả quân Mông-Cổ.
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 12 : Người đàn bà trong cổ mộ đài
Thầy trò đang ngớ ngẩn thì một hồi tù và nữa lại nổi lên, tiếng tù và đằng đằng sát khí, báo hiệu có người đang giao đấu với nhau.
Khưu-xứ-Cơ tỏ vẻ giận dữ, nói:
- Quân gian ác! Quân gian ác!
Rồi ông ta nhìn về phía rừng cây rậm, nói tiếp:
- Quách-Tỉnh con! Bọn gian phi kia đã nguyền mười năm nữa đến trả thù. Lời nguyền ấy dụng ý trong mười năm sau chúng khỏi bận tâm đương đầu với con, để rảnh tay phá phách thiên hạ. ở đời lại có những bọn lợi dụng danh dự làm kế tiểu xảo như vậy sao? Thôi, ta đi đây.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Bọn đó là Hoắc-Đô công tử chăng?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Còn ai vào đây nữa! Bọn đó lại đến gây việc giao chiến với Tiểu-long-Nữ rồi.
Vừa nói, Khưu-xứ-Cơ vừa chạy như bay xuống núi. Quách-Tỉnh chạy theo sau.
Hai người vượt qua khỏi chừng một trăm dặm đường thì tiếng tù và nổi bật lên. Trong tiếng tù và ấy có chen lẩn tiếng lêng kêng, chứng tỏ rằng vị sư Tây-Tạng Đạt-nhĩ-Ba cũng đã xuất trận.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Hai đứa nầy vốn sanh trong chốn danh gia vũ nghệ mà lại hợp nhau đi hiếp đáp một thiếu nữ thì không còn biết sỉ nhục là gì.
Quách-Tỉnh theo chân Khưu-xứ-Cơ rảo bước, mỗi lúc một nhanh hơn. Chỉ chốc lát cả hai đến sau lưng núi. Nhìn qua vách đá. Quách Tỉnh trông thấy núi rừng một màu đen đặc, phía trên khoảng rừng cây thấp thoáng bóng mười người, đứng sừng sững như những bóng ma si tình đã vây đánh nơi Trùng-Dương điện trước đây.
Hai người ẩn sau vách đá để xem xét động tĩnh ra sao!
Hoắc-Đô hoàng-tử và nhà sư Tây-Tạng đứng khít nhau, cứ sau mỗi tiếng tù và thổi lên là họ nối theo những tiếng keng keng cốt sao khiêu khích Tiểu-long-Nữ ra khỏi mộ đài.
Sau một lúc khích lệ, rừng cây náo động trở lại với trạng thái êm đềm giữa rừng khuya.
Hoắc-Đô hoàng-tử bỏ chiếc tù và xuống đất, dõng dạc với giọng nói sang sảng:
- Ta là Tiểu vương xứ Mông-Cổ, tên Hoắc-Đô, kính hướng Tiểu-long-Nữ chào mừng.
Cứ mỗi lần nói xong, trong rừng cây có tiếng đờn "tanh tanh" vọng lại chào mừng.
Thấy Tiểu-long-Nữ đánh đờn đáp lễ, Hoắc-Đô hoàng tử mừng rỡ, cất giọng nói tiếp:
- Được nghe thiên hạ đồn về đạo hạnh cô nương, nên ta đến đây xin đem tài tỉ thí để cầu duyên, xin cô nương vui lòng chỉ giáo cho chút ít tài nghệ.
Lời nói vừa dứt, tiếng đàn bỗng trở nên kích động, bao hàm ý giận dữ như muốn đuổi khách. Bọn tà ma nào có hiểu gì tâm trạng của kẻ chơi đàn. Hoắc-Đô lại cất giọng nói:
- Tiểu vương tôi vốn giòng giõi danh gia vong tộc, dung mạo nào có thô kệch gì, ước mong được cô nương thưa tiếp, tôi tin rằng với tài nghệ của tôi không đến nỗi làm cho cô nương thẹn mặt.
Giọng đờn bỗng cao vọt lên như có ý trách móc. Cây thiết huyền cầm vốn có âm thanh thật hòa nhã trong trẻo, thế mà chẳng biết tâm trạng của cô gái ấy ra sao mà lúc bấy giờ tiếng đàn bỗng trở nên chua chát, khiến những kẻ biết nghe đờn không dám kiên nhẫn đứng nghe lần thứ hai nữa.
Hoắc-Đô quay sang phía nhà sư Đạt-nhi-Ba, đưa mắt hỏi dò ý kiến. Nhà sư Tây-Tạng gật đầu, Hoắc-Đô nói:
- Cô nương nhất định không ra, Tiểu vương nầy chỉ còn có cách là dùng võ lực để thỉnh cầu thôi.
Nói đoạn, hắn vung tay phải lên ra hiệu, tức thì bọn yêu tà ào ào chạy về hướng rừng cây.
Trong bọn chúng đứa nào cũng nghĩ bụng:
- Bọn Toàn-Chân là môn phái lợi hại trong giới võ lâm mà hai người cầm đầu của chúng còn chưa sợ, chúng dại gì mà không hứa theo hai đứa nầy để vào mộ đài cướp bóc.
Nghĩ thế, chúng tranh nhau, mạnh ai nấy chạy vào rừng.
Khưu-xứ-Cơ trông thấy nổi giận lớn tiếng hét:
- Đây là chốn cũ của tổ sư chân nhân ta, chúng bay không được vô lễ phạm đến.
Mọi người nghe giọng nói của Khưu-xứ-Cơ oang oang trong rừng, một giọng nói hùng hồn như có một mãnh lực chặn đứng mọi hành động phi nghĩa, tất cả đều rờn rợn nhưng lòng tham của chúng thúc giục chúng không dừng bước.
Khưu-xứ-Cơ quay lại nói với Quách-Tỉnh:
- Quách đồ đệ, chúng ta ra tay kẻo trễ.
Tức thì hai thầy trò Quách-Tỉnh từ sau bức tường đá co chân nhẩy vọt tới. Nhưng bỗng họ dừng chân lại, vì trước mặt họ, bọn tà sư kia một lũ lố nhố ôm đầu chạy thối lui, miệng rên rỉ kêu cứu.
Khưu-xứ-Cơ cũng như Quách-Tỉnh đều đứng ngây người nhìn cuộc rối loạn của chúng.
Chẳng bao lâu Hoắc-Đô và Đạt-nhi-Ba cũng trồi đầu ra, vẻ mặt hầm hầm kinh sợ chẳng khác nào vẻ mặt thảm hại khi chúng rút lui ở Trùng-Dương cung.
Khưu-xứ-Cơ và Quách-Tỉnh trong lòng không khỏi ngạc nhiên tự hỏi:
- Chẳng biết Tiểu-long-Nữ đã dùng biện pháp nào mà xua đuổi bọn chúng mau lẹ như thế?
Hai người chưa tìm được lời giải đáp thì bỗng nghe đằng xa có tiếng kêu vù vù vọng lại. Dưới ánh trăng màu sữa loãng, một đoàn côn trùng đang bay đến vun vút. Đoàn côn trùng tỏa ra tứ phía, bâu vào đầu bọn dâm tặc kia mà cắn.
Quách-Tỉnh lấy làm lạ, hỏi:
- Chẳng biết giống côn trùng ấy thuộc loại gì.
Khưu-xứ-Cơ lắc đầu không đáp, chăm chú nhìn, thấy trong bọn kia có nhiều người nhảy chồm lên kêu la vì đau đớn quá.
Quách-Tỉnh nói:
- Đúng là loài ong rồi! Nhưng tại sao ong lại có sắc trắng.
Lúc ấy bầy ong lại xúm đến đốt vào đầu bảy tám người nữa. Họ nằm lăn ra, kêu thảm thiết.
Quách-Tỉnh nghĩ bụng:
- Bị ong đốt mà đau đớn như thế tất loài ong nầy có một thứ nọc độc khác thường khiến người ta không thể chịu nổi.
Bây giờ, bầy ong đang thắng thế, cất cánh vù vù tiến dần về phía Khưu-xứ-Cơ và Quách-Tỉnh.
Khưu, Quách hai người cũng ái ngại không biết phải đối phó bằng cách nào. Khưu-xứ-Cơ vận khí dồn xuống đơn điền, rồi búng miệng thổi ra một hơi. Một luồng gió làm xào xạc rừng cây thổi ngược lại bầy ong.
Bầy ong đang lúc hăng say thẳng hướng, thấy có luồng gió vội dừng cánh. Khưu-xứ-Cơ búng miệng thổi tiếp một hơi nữa, và Quách-Tỉnh cũng búng miệng thổi phụ vào. Bầy ong bị gió cản lại quay sang hướng khác. Hai người này áp dụng ngón võ nghệ vi diệu của phái Toàn-Chân, làm cho bầy ong chống cự không nổi.
Bầy ong lại tỏa ra, tìm bọn Hoắc-Đô, Đạt-Nhĩ-Ba mà cắn. Hơn mười nạn nhân nữa quằn quại rên la vì nọc độc của bầy ong quái quắc kia. Chúng nói lớn:
- Chúng con biết đã phạm trọng tội, xin Tiểu-long-Nữ cô nương vui lòng cứu sống cho.
Quách-Tỉnh lấy làm lạ nghĩ thầm:
- Bọn kia toàn là những đứa đã từng sống trong đời võ sĩ giang hồ, can đảm có thừa, coi cái chết như không, cớ sao lại rên rỉ thảm thiết trước một bầy ong nhỏ bé như thế nhỉ?
Bấy giờ từ trong rừng vọng ra tiếng đàn cầm. Trên ngọn cây dâng lên một đám khói thưa thớt, trắng phau. Và một mùi hương phảng phất thơm ngát.
Một lát sau, tiếng bay phần phật của bầy ong mỗi lúc một gần. Khi ngửi thấy hương hoa, bầy ong nhóm lại bay trở về rừng.
Thì ra Tiểu-long-Nữ đã tung hương hoa để chiêu hồi đàn ong trở về.
Khưu-xứ-Cơ đã từ hai muơi năm trường là kẻ lân bang của Tiểu-long-Nữ thế mà cũng chẳng biết nàng có thể làm được những chuyện lạ lùng như thế, nên nay đem lòng cảm phục.
Với một giọng nói hình như thích thú, Khưu-xứ-Cơ quay lại Quách-Tỉnh:
- Nếu chúng ta sớm biết tài nghệ Tiểu-long-Nữ thế nầy thì Trùng-Dương cung của chúng ta chắc không đến nỗi phải bị tiêu diệt.
Câu nói của Khưu-xứ-Cơ tưởng chỉ để mình Quách-Tỉnh nghe thấy mà thôi nhưng hình như trong mộ đài Tiểu-long-Nữ cũng biết được ý tứ của hai người bằng phép "độc tâm thuật" nên bỗng có tiếng đàn vọng ra, giọng rất dịu dàng tựa hồ như một lời cảm tạ kẻ tri âm.
Khưu-xứ-Cơ cười hề hề, nói:
- Cô nương bất tất phải dùng đến lễ độ như thế. Bần đạo Khưu-xứ-Cơ này xin cho đệ tử Quách-Tỉnh thân đến nơi kính chúc cô nương.
Bên trong, đàn cầm vọng ra hai tiếng tanh-tanh" để cảm ơn rồi im bặt.
Quách-Tỉnh nghe trong bọn Hoắc-Đô có những tiếng kêu thảm thiết, động lòng nói với Khưu-xứ-Cơ:
- Bọn họ là những thiên thần tội nghiệp. Xin sư phụ thỉnh cầu với Tiểu-long-Nữ để cho chúng ta được cứu mạng họ.
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Cứ để tùy ý Long cô nương xử trí, chúng ta chớ nên dự vào. Chúng ta trở về thôi.
Nói xong, hai thầy trò Khưu-xứ-Cơ lui gót, trở về hướng đông.
Dọc đường Quách-Tỉnh đem thân thế Dương-Qua kể lại tỷ mỷ cho Khưu-xứ-Cơ nghe.
Khưu-xứ-Cơ thở dài, nói:
- Dương-Khang, cha của Dương-Qua là một vị anh hùng, lẽ nào chúng ta không thương tình đào luyện cho Dương-Qua trở nen người nối nghiệp. Phần con, con đã có lòng tốt với Dương-Qua thì cũng nên ráng hơn nữa. Còn ta, ta sẽ tận tâm nuôi dạy để mai sau nó nên người.
Quách-Tỉnh nghe Khưu-xứ-Cơ nói, rất mừng rỡ, tuy dọc đường giữa rừng núi, Quách-Tỉnh cũng quỳ xuống để tạ ơn:
Khưu-xứ-Cơ lại hỏi:
- Có lần con nói rằng tại Đào-hoa đảo có người đến vẽ trộm địa đồ, và bên trong có Cái-Bang dính líu việc ấy có nghĩa gì vậy?
Quách-Tỉnh thưa:
- Sư phụ còn nhớ đến đứa học trò bất hiếu là Bành không?
Khưu-xứ-Cơ như nhớ ra, nói:
- à! Ta nhớ rồi! Nó lớn gan lắm! Nhưng không ngờ nó lại dám đến tận đảo Đào-hoa mà sanh chuyện nhỉ.
Quách-Tỉnh nói:
- Vợ chồng đệ tử đã suy nghĩ rất nhiều, cố tìm hiểu chuyện đó: "Nếu chỉ có Bành thị thì nhất quyết Bành-thị không dám làm liều, ngặt vì trong việc còn có người đứng sau ném đá giấu tay.
Khưu-xứ-Cơ cười, nói:
- Hiện nay võ nghệ của Hoàng Dung và lối bố trí trên đảo Đào-hoa, nếu có người toan đến phá phách thì kẻ ấy nhất định mang thất bại, chẳng làm được trò trống gì. Vậy con chẳng cần bận tâm đến làm chi!
Quách-Tỉnh gật đầu tỏ vẻ đồng ý rồi bỏ qua việc ấy.
Hai người chuyện trò với nhau một lúc thì về đến Trùng-Dương điện. Bấy giờ trời đã sáng tỏ, mọi người đang dọn dẹp, tìm gỗ đá chặt cây dựng lên mấy túp lều tạm trú. Ngôi võ điện nguy nga trước đây bây giờ chỉ còn lại những vết chân tường làm kỷ niệm.
Khưu-xứ-Cơ triệu tập các đạo sĩ họp mặt, rồi dẫn đạo sĩ râu dài đã chỉ huy trận Bắc-đẩu giới thiệu với Quách-Tỉnh:
- Người nầy học trò của Vương sư đệ, tên là Triệu-chí-Kính làm tam đại đệ tử, đã tập luyện rất thuần thục. Ta định giao trách nhiệm giáo dục Dương-Qua cho Triệu-chí-Kính.
Quách-Tỉnh đã từng giao đấu với Triệu-chí-Kính, nên biết Triệu-chí-Kính võ nghệ đã điêu luyện, lấy làm mừng, liền gọi Dương-Qua bảo phải làm lễ nhập môn Triệu-chí-Kính.
Kế đó, Quách-Tỉnh ở lại Chung Nam sơn ít bữa dặn dò Dương-Qua cặn kẽ, rồi từ biệt mọi người trở về đảo Đào-hoa.
Dùng dằng mãi, Quách-Tỉnh mới xa Chung-Nam sơn mà lòng đầy lưu luyến.
Khưu-xứ-Cơ nhớ lại hồi năm xưa, Dương Khang vì võ nghệ siêu quần nên được giao giữ việc nuôi dưỡng Tôn-xứ-Ưu ở Vương phủ. Sau đó vì hư hỏng ở Trù-Thành nên mang hại. Do lẽ đó Khưu-xứ-Cơ tự nghĩ rằng: Phàm thầy dạy có nghiêm thì mới tạo nên được trò giỏi, cha có nghiêm thì mới rèn được đứa con có hiếu. Việc dạy dỗ Dương-Qua phải rất nghiêm thì mới tránh được vết xe đồ của cha nó.
Ngay lúc ấy, Khưu-xứ-Cơ gọi Dương-Qua vào, nghiêm sắc mặt lớn tiếng ra lệnh cho nó phải chịu sự khó nhọc, khổ sở bất cứ việc gì cũng phải vâng lời Triệu-chí-Kính.
Dương-Qua vốn đã không muốn ở lại Chung-Nam Sơn. Bây giờ mới vừa thọ giáo đã bị một trận quở mắng trong lòng lại càng thêm ấm ức. Tuy cố nhẫn nhục nghe, song nước mắt tràn ra, không ngăn nổi.
Rồi đợi đến lúc Khưu-xứ-Cơ đi khỏi nó oà ra khóc.
Triệu-chí-Kính thấy thế nhỏ nhẹ hỏi:
- Có điều gì thế! Đạo trưởng có điều gì làm cho con không đẹp ý chăng?
Dương-Qua quay đầu lại, thấy Triệu-chí-Kính, sư phụ mình, lấy làm bối rối, chấp tay thưa:
- Thưa sư phụ, con nghĩ đến chú Quách đảo Đào-hoa, lòng nhớ nhung không cầm được.
Triệu-chí-Kính thấy Dương-Qua chỉ vì bị Khưu-xứ-Cơ nghiêm khắc nên khóc lóc, giờ đây nó lại viện cớ nói dối là nhớ Quách-Tỉnh mà khóc. Lời ấy làm cho Triệu-chí-Kính không bằng lòng, thầm nghĩ: Thằng bé chưa bao nhiêu tuổi mà đã dùng lời lẽ lừa dối! Vậy ta phải răn dạy thế nào cho nghiêm mới có thể sửa đổi được tính nết của hắn.
Nghĩ như vậy Triệu-chí-Kính hầm hầm nét mặt nạt:
- Đối với bực sư phụ mà ngươi dám dối ư?
Thật ra, Dương-Qua chính mắt đã trông thấy các đạo sĩ Toàn-Chân môn phái, người nào cũng đều bị Quách-Tỉnh đánh tơi bời như lá rụng. Nó lại thấy Khưu-xứ-Cơ và đồng bọn lại bị Hoắc-Đô dùng yêu tà làm cho thất điên bát đảo phải nhờ vào sức Quách-Tỉnh mới thoát được cảnh đại bại. Nó cho võ nghệ của các đạo sĩ Trùng-Dương cung chỉ là bậc tầm thường không đi đến đâu cả. Ngay đối với Khưu-xứ-Cơ nó chẳng khâm phục, huống hồ Triệu-chí-Kính.
Tuy nhiên, lòng nó cũng có đôi chút thắc mắc: tại sao võ nghệ họ như vậy mà trong giới giang hồ ai cũng ca tụng môn phái Toàn-Chân, cho môn phái Toàn-Chân là một môn phái chơn truyền thuộc vào hạng nhất trong thiên hạ.
Phải chăng vì môn đồ đã biếng nhác, tập luyện không đến nơi đến chốn, để cho phái võ này càng ngày càng đi đến chỗ thất truyền?
Nhưng dù sao, trước mắt nó, với Khưu-xứ-Cơ, Triệu-chí-Kính những kẻ nó đã cho rằng bất tài thì dẫu nó có thọ giáo cũng chẳng ích gì.
Dương-Qua đã nhồi đi nhồi lại trong óc bao nhiêu ý tưởng như trên. Và cũng chính vì ý tưởng đó mà sau này lắm chuyện không hay đã xảy đến cho nó.
Dương-Qua thấy sắc mặt sư phụ tỏ ra khó chịu, nghĩ thầm:
- Ta tuy làm lễ thụ giáo, nhận người là thầy thực, song chỉ vì bất đắc dĩ. Dẫu ta có cố ý vâng lời, gắng công tập luyện một lối võ như người rồi ra cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ.
Nghĩ như thế, nó quay mặt đi, không thèm nói gì đến Triệu-chí-Kính cả.
Triệu-chí-Kính nổi giận, quai mồm ra hét:
- Ta hỏi mi, mi dám to gan không trả lời sao?
Dương-Qua quay lại nói:
- Sư phụ muốn tôi trả lời sao thì tôi trả lời vậy, không cần phải hỏi tôi làm chi.
Triệu-chí-Kính thấy nó vô lễ lòng giận dữ không thể nén được, đưa tay tát vào mặt nó một cái, trán nó sưng lên một cục bứu rất lớn.
Dương-Qua kêu lên một tiếng, rồi vừa nhón chân khóc vừa chạy vào rừng.
Triệu-chí-Kính đuổi theo kịp, nắm nó lại hỏi:
- Mày chạy đi đâu?
Dương-Qua trừng mắt nói:
- Ông thả tôi ra, tôi không thèm học võ nghệ của ông làm gì.
Triệu-chí-Kính càng giận hơn, quát mắng:
- Đồ vô loại! Mày nói gì thế?
Dương-Qua lúc bấy giờ chẳng cần gì nữa, mắng lại:
- Đạo sĩ hèn hạ! Cứ đánh ta cho chết đi!
Thời xưa, bổn phận của học trò đối với thầy được xem là tuyệt đối, tình thầy chẳng khác gì tình cha con. Trong giới võ lâm cũng thế, sư phụ có quyền xử tử đệ tử, mà đệ tử chẳng hề dám nói một tiếng. Lúc bấy giờ Dương-Qua dám mở mồm mắng lại Triệu-chí-Kính là một điều ít trông thấy, một cử chỉ trái nghịch, một hành vi vô đạo.
Do đó, Triệu-chí-Kính mặt tái đi vì giận, khi uất lên đến tuyệt đỉnh, liền đưa tay tát vào mặt Dương-Qua mấy cái. Dương-Qua né tránh rồi thừa cơ nắm được tay Triệu-chí-Kính, cắn lấy ngón tay trỏ.
Trước đây Dương-Qua được Âu-Dương-Phong truyền dạy nội công tuy chưa đến đâu song cũng có thể sử dụng tạm thời trong các việc lặt vặt. Nó cắn chặt ngón tay Triệu-chí-Kính, làm cho Triệu-chí-Kính vùng vẫy thế nào cũng không được.
Đau quá, Triệu-chí-Kính hét lớn:
- Muốn sống bỏ ra! Mầy muốn chết sao?
Dương-Qua đã lỡ, không còn biết sợ hãi nữa. Vả lại nó cũng đã đến mức tức quá không thể nhịn nổi, nên Triệu-chí-Kính càng nói nó lại càng cắn chặt hơn, nhứt là lúc nó bị Triệu-chí-Kính dùng tay đánh vào đầu vào vai nó.
Triệu-chí-Kính rút tay không ra, bị đau quá cũng không còn e dè gì nữa, dùng tay trái đánh một chùy thật mạnh vào "Thiên linh cái" của nó, thằng bé bị tê hẳn người đi té xỉu xuống đất. Nhờ đó Triệu-chí-Kính mới rút tay ra được, thì ngón tay của ông ta đã đứt thấu xương.
Ngón tay đó, Triệu-chí-Kính có thể dùng kim khâu lại, xức thuốc lành, song, chịu tật, không cử động lanh lợi được nữa.
Nhìn ngón tay bị thương, Triệu-chí-Kính cơn tức chưa nguôi, dùng chân đá vào mình Dương-Qua mấy cái cho hả dạ, rồi mới xé áo buộc ngón tay lại.
Nhìn cùng bốn phía, Triệu-chí-Kính không thấy có bóng một người nào, lẩm bẩm:
- May mà không ai thấy, nếu có kẻ biết được thì ta còn gì thể diện.
Triệu-chí-Kính lấy nước rảy vào mặt Dương-Qua cho tỉnh lại. Nhưng thằng bé vừa tỉnh, nó chồm dậy, xông vào Triệu-chí-Kính toan đánh.
Triệu-chí-Kính trợn tròn đôi mắt, nắm áo trước mặt nó, hét:
- Đồ súc sinh! Mày muốn ta đánh chết sao?
Dương-Qua đôi mắt đỏ ngầu, chưởi lớn:
- Đồ chó má! Mi là đồ đạo sĩ khốn nạn!
Triệu-chí-Kính không còn nhẫn nhục được nữa lấy ngón tay xỉ vào mặt nó một cái.
Như đã đề phòng trước, Dương-Qua tránh khỏi, rồi tiến sát vào đưa tay đánh lại.
Triệu-chí-Kính thoi cho nó mấy cái nữa, làm cho nó xiển niển. Tuy nhiên, thằng bé vẫn như không biết đau, lì lợm dấn thân vào.
Thật ra, Triệu-chí-Kính chỉ dùng một tay một chân cũng đủ làm cho Dương-Qua thọ thương song ông ta nghĩ rằng nó là đệ tử mình, nếu đánh nó bị thương tích, lúc trở về các sư phụ và sư bá hỏi thì biết trả lời làm sao.
Nghĩ thế Triệu-chí-Kính cố tình nhân nhượng.
Nhưng Dương-Qua không biết thế. Cơn giận làm cho nó như điên như dại. Nó lấy hết sức bình sinh coi như mình đang đứng trước một địch thủ bắt cộng đái thiên, mặc dù bị đánh té xiển niển, nó vẫn xông đến, không chịu đầu hàng.
Sau một hồi đấm đá liên tiếp, Triệu-chí-Kính thấy mặt mày, mình mẩy Dương Qua tím bầm, không còn sót chỗ nào, lòng hối hận muốn thôi, không đánh nữa. Song Dương Qua vẫn một mực nhất định không chịu thôi, buộc lòng Triệu-Chí-Kính phải dùng tay điểm vào huyệt phía dưới lưng nó, nó mới chịu nằm xoài xuống đất.
ấy thế mà trong lúc nằm xoài dưới đất, đôi mắt nó nộ khí vẫn còn tiết ra ngùn ngụt.
Triệu-chí-Kính nói:
Mày là đứa môn đệ phản nghịch. Mày có chịu sửa lỗi hay không?
Dương-Qua vẫn trợn đôi mắt nhìn Triệu-chí-Kính tỏ vẻ bất phục, mà không nói năng gì cả.
Triệu-chí-Kính bực bội, bước lại ngồi trên một tảng đá thở hào hển.
Thật ra, Triệu-chí-Kính đấu với một đối thủ võ nghệ cao cường, hơn ba tiếng đồng hồ liền mà chẳng bao giờ ông ta thở hổn hển như thế. ấy bởi khí tức của ông ta lên quá cao, làm cho người ông ta mất thăng bằng đó thôi.
Triệu-chí-Kính nhìn đứa học trò mình nằm dài dưới đất, nghĩ đến tánh ngang bướng của nó, chưa biết nên xử trí thế nào, thì bỗng một hồi chuông từ nơi võ điện vang rền.
Đó là tiếng chuông chiêu tập môn đệ của vị giáo trưởng Mã-Ngọc.
Triệu-chí-Kính nghe tiếng chuông giật mình, quay lại bảo Dương-Qua:
Nếu từ rày trở đi mày còn ngang bướng vô lễ như thế thì ta đánh đến chết không tha.
Nói đoạn, Triệu-chí-Kính lấy ngón tay ấn vào huyệt để giải đau cho Dương-Qua.
Nào ngờ Dương-Qua vừa nhỏm dậy lại xông vào đánh nữa.
Triệu-chí-Kính tức giận, nói:
- Tao không đánh mày nữa sao mày lại làm thế?
Dương-Qua hậm hực nói:
- Từ nay trở đi người còn đánh nữa chăng?
Tiếng chuông giục vang hồi khiến cho Triệu-chí-Kính không còn thì giờ nói nhiều hơn.
- Mày mà không chừa tật hỗn ẩu, vô lễ thì ta còn đánh mãi, đánh đến chết mới thôi.
Dương-Qua nói:
- Thế càng tốt! Nếu không đánh ta, ta gọi bằng sư phụ, còn nếu cứ đánh mãi, ta chẳng thèm nhận là sư phụ nữa.
Triệu-chí-Kính cười chua chát, gật đầu nói:
- Trường giáo triệu tập chúng ta về võ điện. Thôi hãy trở về nhận lệnh đã, bữa khác sẽ hay.
Thấy Dương-Qua áo quần tơi tả, mặt mày tím bầm, sợ có người trông thấy hỏi nó, nó nói thật thì danh dự làm thầy của Triệu-chí-Kính còn gì, Triệu-chí-Kính lòng lo lắng, cực chẳng đã phủi lại quần áo và lau mặt cho thằng bé nắm tay nó dắt về võ điện.
Bây giờ nơi điện Trùng-Dương cung đã được cáo đạo sĩ dựng lên mười mấy túp lều tranh, xây cất trên nền cũ. Triệu-chí-Kính và Dương-Qua về đến nơi thì ai vào phòng nấy, chỉ còn có Mã-Ngọc Khưu-Xứ-Cơ và Dương-xứ-Nhất hãy còn ngồi ở bên ngoài.
Mã-Ngọc vỗ tay ra hiệu, mọi người đều im bặt. Giọng ông sang sảng nói:
- Trường-Sinh chân nhân sai Thành-Tinh từ Sơn-Tây đến, cho biết bên ấy tình thế rất nguy ngập, Trường-Xuân và Ngọc-Dương chân nhân đã tới ứng điện, nay yêu cầu ta và đệ tử đi cứu ứng đây.
Mọi đạo sĩ nhìn nhau tỏ ra rất phẫn uất.
Tiếp theo đó, Khưu-xứ-Cơ đọc danh sách mười đạo sĩ đã được lựa chọn ra đi. Ông ta nói:
- Các ngươi sửa soạn hành lý để sáng sớm theo ta.
Các đạo sĩ xôn xao bàn tán:
- Lý-mạc-Thu chẳng qua là một nữ nhi, vì sao Trường-Sinh chân nhân và Lưu sư thúc không địch nổi?
Có người nói:
- Nếu Khưu xứ bá và Vương sư thúc đến đó thì chắc Lý-mạc-Thu phải cúi đầu hàng phục.
Trong lúc mọi người đang bàn tán thì Khưu-xứ-Cơ bước đến bên Triệu-chí-Kính nói:
- Ta muốn đem ngươi theo ta, nhưng thấy ngươi không thể trễ tràng việc giáo dục Dương-Qua nên đành phải để ngươi ở lại.
Đoạn ông ta liếc mắt nhìn Dương-Qua, thấy thằng bé mặt tím bầm, ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao thế? Ai đánh cháu thế này?
Triệu-chí-Kính lo sợ nếu Dương-Qua kể ra sự thật ắt Khưu-xứ-Cơ sẽ quở trách, nên hốt hoảng đưa mắt nhìn Dương-Qua với thái độ trấn an. Nhưng, Dương-Qua làm ngơ không thèm để ý.
Khưu-xứ-Cơ giận dữ nói:
- Đứa nào đánh cháu thế nầy thật là đốn mạt! Cháu hãy nói rõ cho ta biết.
Câu nói ấy càng làm cho Triệu-chí-Kính bối rối hơn. Song Dương-Qua tỏ vẻ bình thản nói:
- Không có ai đánh cháu cả. Vì vô ý, cháu bị vấp ngã trong hang núi.
Khưu-xứ-Cơ không tin, hét lớn:
- Đừng nói dối! Làm thế nào lại bị vấp ngã mà bầm mặt mày nhiều chỗ như vậy?
Dương-Qua thưa:
- Vì sư phụ con có dặn lúc nào cũng để tâm đến võ nghệ, do đó con lãng ý nên bị rủi ro.
Nghe nói thế, Khưu-xứ-Cơ hỏi dồn:
- Rồi sao? Rồi vì đâu bị vấp ngã như thế?
Dương-Qua thưa:
- Thấy sư phụ dạy thế con không muốn phụ lòng sư phụ, luôn luôn nghĩ đến việc học hành...
Những lời nói khôn ngoan của Dương-Qua khiến Triệu-chí-Kính rất hài lòng, nét mặt dịu lại.
Dương-Qua kể tiếp:
- Nào ngờ, đột nhiên có một con chó dại đến cắn cháu. Cháu đánh nó, nó vẫn cứ sấn lại làm dữ, cháu sợ nó cắn trúng nên thoát thân, chạy trốn. Trong lúc vội vàng cháu sơ ý trợt chân té xuống hang đá. May sao gặp sư phụ và nhờ sư phụ đến lôi cháu dậy.
Khưu-xư-Cơ bán tin bán nghi, đưa mắt nhìn Triệu-chí-Kính có ý hỏi dò hư thực thế nào.
Triệu-chí-Kính nét mặt hầm hầm, giận dữ nói:
- Mày xấc láo đến mức đó là cùng! Tại sao mày lại dám gọi ta là loài chó dại?
Khưu-xứ-Cơ ngạc nhiên, nhìn Triệu-chí-Kính không hiểu ra sao cả.
Triệu-chí-Kính trong lúc nóng nảy đã lỡ lời trước mặt Khưu-xứ-Cơ còn biết giấu giếm thế nào nữa. Nếu đồng lõa với Dương-Qua lừa dối Khưu-xứ-Cơ thì cũng khốn, mà nói thực ra thì cũng chẳng yên.
Triệu-chí-Kính quay sang Khưu-xứ-Cơ thưa:
- Dạ dạ! Đúng là đệ tử có vực nó dậy.
Chẳng biết Khưu-xứ-Cơ có thật tin lời Triệu-chí-Kính không, chỉ thấy ông ta nét mặt lạnh nhạt rồi nói lảng sang chuyện khác:
- Ta đi rồi, ngươi phải rán sức truyền thụ cho Dương-Qua những huyền công của bản môn. Cứ mười ngày một lần phải lên trình với Mã sư bá, để Mã sư bá xem xét lại.
Triệu-chí-Kính lòng không vui đối với đứa đồ đệ như Dương-Qua, song Khưu-xứ-Cơ đã dặn dò không dám nói gì hơn phải cúi đầu vâng lệnh.
Dương-Qua lúc đó thích thú lắm, vì nó đã ám chỉ sư phụ nó là một con chó dại mà sư phụ nó không dám phản đối. Nó không để ý gì đến lời dặn dò của Khưu-Xứ-Cơ nữa.
Khưu-Xứ-Cơ vừa bước đi được mười bước, lửa giận phừng phừng bốc lên làm cho Triệu-chí-Kính không còn dằn được nữa, ông ta đưa tay đánh mạnh vào đầu Dương-Qua một cái. Dương-Qua kêu lớn:
- Khưu tiên sư! Khưu tiên sư!
Khưu-xư-Cơ ngoảnh lại hỏi:
- Cái gì thế?
Tay của Triệu-chí-Kính vẫn còn giơ lên ngay đầu Dương-Qua nên không chối cãi vào đâu được nữa. Triệu-chí-Kính vừa tức vừa ngượng cúi đầu không nói.
Dương-Qua chạy về phía Khưu-xứ-Cơ, mếu máo khóc và nói:
- Thưa tiên sư, tiên sư đi rồi không ai che chở cháu, chắc là các sư bá, sư thúc sẽ đánh con đến chết mà thôi.
Khưu-xứ-Cơ nhìn mặt Dương-Qua quát:
- Đừng nói bậy, làm gì có việc như thế!
Tuy bên ngoài Khưu-xứ-Cơ vẻ nghiêm khắc song bên trong nghĩ đến đứa bé thân cô thế quả, mồ côi cha mẹ, động lòng thương liền gọi Triệu-chí-Kính bảo, ta giao đứa bé này cho ngươi, nếu lúc ta trở về có gì sơ xuất ta sẽ quả trách ngươi đấy.
Triệu-chí-Kính không biết nói sao chỉ biết cúi đầu nghe dạy.
Ngày hôm ấy, sau bữa cơm chiều, Dương-Qua hăm hở chạy đến một gian nhà tranh, cửa phòng của Triệu-chí-Kính sư phụ nó.
Vừa bước vào, thấy Triệu-chí-Kính, nó đã vồn vã nói:
- Sư phụ!
Giờ ấy là giờ các đạo sĩ Trùng-Dương điện đang luyện võ công.
Triệu-chí-Kính ngồi xếp bằng trên một tấm ván, đang chú mục nhìn xa xăm, bỗng thấy thằng bé chạy vào, với dáng điệu ấy, Triệu-chí-Kính suy nghĩ:
- Thằng nhỏ nầy thật ranh mãnh, tinh ma. Ngay bây giờ nó đã bướng bỉnh, hỗn xược, nếu nó học được thành tài thì nó còn kể ai vào đâu nữa. Dạy nó thật hoài công. Tuy nhiên, Đạo trưởng đã có lời truyền, nếu ta những tận tâm chỉ dạy thì cũng không được.
Lòng Triệu-chí-Kính thắc mắc mãi, nghĩ chưa ra lối thoát.
Thấy sư phụ ngồi im lìm, thằng bé chậm rãi bước đến mỉm cười.
Cử chỉ ấy lại gieo vào lòng Triệu-chí-Kính một cái gì chán ghét. Thốt nhiên, Triệu-chí-Kính nghĩ ra được một giải pháp, bụng bảo dạ:
- Được, ta cứ cho nó học một số ít trăm câu ca về môn huyền công, còn mánh khóe về võ nghệ ta chỉ dạy đến nửa chừng mà thôi. Như vậy nó không thể nào đến mức điêu luyện được. Sau nầy đạo trưởng có hỏi đến, ta cứ đổ thừa cho nó là đứa biếng nhác, không chịu cố gắng học hành.
Nghĩ như thế, nét mặt Triệu-chí-Kính bỗng tươi hẳn lên. Ông ta quay về phía Dương-Qua nói:
- Qua nhi! Con đã đến đó sao?
Dương-Qua nói:
- Hôm nay có đánh ta nữa chăng?
Cũng vẫn với giọng hỗn láo đó, song Triệu-chí-Kính không thèm giận dữ như trước, nói:
- Ta truyền võ nghệ cho con nào có đánh đập con làm gì? Từ nay con phải lo học tập mới được.
Dương-Qua thấy thái độ Triệu-chí-Kính đổi khác, đổi một cách nhanh chóng ngoài sự ức đoán của nó lên lấy làm lạ, dần dần tiến lại gần, tuy chưa được yên trí lắm.
Triệu-chí-Kính liếc mắt nhìn nó với thái độ ung dung, chẳng tỏ ý gì thù oán nó, nói:
- Môn phái Toàn-Chân của ta luyện tập võ nghệ không giống các môn phái khác. ở đây chúng ta luyện tập từ trong ra ngoài chứ không phải từ ngoài vào trong. Bây giờ ta truyền cho con tâm pháp, con phải cố công học cho thuộc lòng.
Dứt lời Triệu-chí-Kính đọc một mớ khẩu quyết về nội công của môn phái Toàn-Chân.
Dương-Qua vốn thông minh hơn người, chỉ học qua là thuộc làu hết. Tuy nhiên, qua những vết nứt rạng giữa tình sư đệ, qua những trạng thái đổi thay bất ngờ của Triệu-chí-Kính. Dương-Qua nghĩ rằng: có lẽ Triệu-chí-Kính đã đem những khẩu quyết giả mạo để dạy nó lấy lệ, làm cho nó mất thời giờ đi chăng?
Nghĩ như vậy, nó giả vờ quên một vài đoạn đến hỏi Triệu-chí-Kính thì Triệu-chí-Kính cũng nói y như vậy.
Mặc dầu thế, nó vẫn chưa tin cách đó, hai ngày nó lại giả quên và hỏi lại nữa. Nhưng lần nào Triệu-chí-Kính cũng nói không khác.
Nó tin lời, cho khẩu quyết đó không phải là thứ giả.
Trong khoảng mười ngày, Triệu-chí-Kính không dạy món gì ra khác hơn là khẩu quyết. Ngoài ra việc tập luyện võ nghệ thì Dương-Qua không hề biết đến một mảy may nào.
Đúng ngày thứ mười, Triệu-chí-Kính đưa nó đến trình với Mã-Ngọc, và bảo là đã truyền cho nó bảo môn tâm pháp. Triệu-chí-Kính ra lệnh cho Dương-Qua đọc lại khẩu quyết cho Mã-Ngọc nghe.
Nó đọc không sót một chữ nào, khiến cho Mã-Ngọc phải tấm tắc khen thầm:
- Thằng bé nầy thông minh đáo để. Sau này ắt nó phải trở thành một tay võ hiệp siêu quần trong phái Toàn-Chân.
Mã-Ngọc đâu có ngờ quỉ kế của Triệu-chí-Kính!
Mấy tháng trời trôi qua như chớp, thấm thoắt đã đến mùa đông! Dương-Qua bấy giờ cũng chỉ thuộc làu một mớ khẩu quyết để khi cần đàm luận võ nghệ có thể nói thao thao bất tuyệt, còn việc thực hành chẳng biết một mảy may. Tài năng và trí tuệ tuyệt vời của thằng bé cũng đành vô dụng.
Qua mười ngày đầu, Dương-Qua đã cảm thấy được ác ý của Triệu-chí-Kính, sư phụ nó, nhưng nó như con chim nhốt trong lòng, ai muốn cho ăn gì tùy ý, đâu dám đòi hỏi gì hơn.
Oán hận của nó mỗi ngày một tăng, cấu kết trong tiềm thức mà không có một ai để ý giãi bày. Nó nóng lòng đợi Khưu tổ sư về nhưng chờ mãi vẫn chưa thấy.
Hình như, nơi Trùng-Dương điện chẳng phải mình sư phụ nó có ác ý với nó, mà nó có cảm giác mọi người nơi đó ai cũng ghét nó. Do đó, nó thấy chán ngán trước cuộc sống cô đơn, không người tâm sự. Tuy không nói ra mà lòng nó khinh thị tất cả những ai gọi là môn phái Toàn-Chân.
Về phần Triệu-chí-Kính, ông ta lấy làm đắc ý khi thay Dương-Qua không thi thố nổi tài năng. Thường khi thấy Dương-Qua chôn vùi trí óc trong mớ khẩu quyết vô dụng kia. Triệu-chí-Kính tự bảo:
- Mày hỗn láo với sư phụ mày rốt cuộc mày chỉ mang thiệt thòi vào thân!
Trời đông tuyết đổ mỗi lúc một nhiều. Chẳng mấy chốc mùa đông cũng sắp hết.
Theo thông lệ của Tổ sư Trùng-Dương cung truyền lại, hàng năm cứ gần đến đêm trừ tịch có tổ chức một cuộc so tài trong võ điện mục đích để kiểm điểm lại tài năng từng người và sự tiến triển của môn phái qua một năm rèn luyện.
Các đạo sĩ thấy ngày so tài gần đến, ai nấy chăm chú tập luyện không lúc nào nghỉ.
Họ mơ đến ngày rằm tháng chạp, cái ngày trăng tròn vành vạnh, đó là cái ngày mọi người chứng kiến cho công trình học tập của mỗi vị đạo sĩ Trùng-Dương cung.
Lúc đó, môn đệ phái Toàn-Chân phân ra nhiều nhóm, cứ mỗi nhóm nhỏ đấu nhau thì gọi là cuộc so tài sơ bộ. Kẻ nào thắng ở hiệp sơ bộ mới được vào đấu các hiệp tuyển chọn.
Mã-Ngọc cùng với các đệ tử lớn nhỏ hợp thành một nhóm, Khưu-xứ-Cơ cùng với đồ đệ lớn nhỏ họp thành một nhóm, còn nhóm thứ ba là nhóm Đàm-xứ-Thụy.
Tuy Đàm-xứ-Thụy đã qua đời song đệ tử của Đàm-xứ-Thụy toàn là những tay cự phách. Do đó Mã Ngọc, Khưu-xứ-Cơ tỏ lòng nhớ tiếc một đạo hữu sớm qua đời thường nhắc nhở môn đệ của Đàm-xứ-Thụy, và dành riêng cho Đàm-xứ-Thụy một vinh dự.
Mỗi năm đến ngày chánh thức so tài thì môn đệ ba nhóm ấy được họp mặt, tuyển dụng.
Năm nay Khưu-xứ-Cơ, Vương-xứ-Nhất v.v... đi chưa về, chỉ còn có Mã-Ngọc, Xích-đạo-Thông ở nhà, hai người nầy trấn giữ võ điện.
Tuy nhiên, khác mọi năm, năm nay Trùng-Dương cung vừa xảy ra một tai biến nên cá nhân mỗi người trong môn phái đều cố tâm rèn luyện võ công, cốt làm sao cho tiếng tăm của môn phái khỏi suy kém, và môn phái chính thống này khỏi mai một.
Thật vậy, đã mười năm nay, các đệ tử cừ khôi trong môn phái đều phiêu lưu tản mác chỉ còn lại một vài vị tiên sư cầm đầu có bản lĩnh, còn các môn đệ đều chưa mấy thuần phục.
Đúng vào giờ ngọ ngày hôm ấy cứ theo thứ tự đã định sẵn, Triệu-chí-Kính, Thôi-chí-Phương tụ tập ở Đông-nam nơi khoảng đất trống cùng nhau kiểm điểm lại lối tổ chức hàng năm trong vũ điện, và chủ tọa cuộc so tài sơ bộ của lớp đệ tử nhỏ tuổi gọi là "đệ tử đại đệ tử".
Lớp đệ tử nầy liền biểu diễn quyền thuật, hoặc múa đao, múa kiếm, múa các vũ khí nhẹ ngắn, hoặc vận dụng nội công tùy theo sở trường mỗi người, và tất cả đều do Triệu-chí-Kính phê bình để thẩm định hơn thua.
Nhưng "đệ tử đại đệ tử" là gì?
Toàn-Chân môn phái do Vương-trùng-Dương khai sáng gọi là vị tổ sư. Mã-Ngọc cùng trong bọn bảy đạo sĩ kia là học trò tổ sư nên liệt vào hạng "đệ nhị đại đệ tử". Còn Dương-Khang, Triệu-chí-Kính, Doãn-chí-Bình v.v đều là học trò của bảy vị kia, nên gọi là "đệ tam đại đệ tử". Đến lớp nhỏ tuổi như Dương-Qua và đồng bọn đều là học trò của lớp "đệ tam đại đệ-tử" nên gọi là "đệ tử đại đệ tử".
Dương-Qua nhập vào hạng đệ-tử đại đệ-tử sau cùng nên ngồi ở sau rốt.
Nhìn thấy các tiểu đạo sĩ khác cũng lớp tuổi với mình mà ai nấy quyền thuật đều có vẻ tinh thục hơn, mỗi người đều chuyên môn một ngón, Dương-Qua thấy bực bội và oán hận trong lòng.
Triệu-chí-Kính nhìn thấy nét mặt nó có vẻ giận dữ oán hờn thì lại muốn cho nó xuất trận để các đệ tử khác thấy cái bất tài của nó mà chê cười cho bõ ghét.
Ông ta đợi đến lúc hai tiểu đạo sĩ so tài xong, cất khí giới rồi thét gọi Dương-Qua:
- Dương Qua! Ra đấu đi!
Dương-Qua đứng ngẩn người ra nghĩ bụng:
- Chưa dạy người ta một chút võ nghệ nào mà bảo người ta đấu là đấu cái quái gì chớ?
Trong lúc Dương-Qua đang chần chờ, thì Triệu-chí-Kính lại gọi:
-Dương-Qua! Có nghe ta gọi không! Hãy mau ra đấu trường!
Bị gọi nhiều lần như thúc giục, Dương-Qua không biết làm sao bước tới trước mặt Triệu-chí-Kính xá dài, và nói:
- Đệ tử là Dương-Qua kính trình diện sư phụ.
Trong Toàn-Chân phải phần đông là những kẻ tu hành, song cũng có một số ít như Dương-Qua, không thuộc hẳn vào hạng tu hành cho nên lúc chào hỏi, lúc yết kiến có những cử chỉ khác hơn.
Thấy Dương-Qua bước đến cúi đầu chào, Triệu-chí-Kính chỉ tay vào đấu trường thách:
- Có tiểu đạo sĩ nào dám đấu với Dương-Qua chăng?
Một tiểu đạo sĩ nghe Triệu-chí-Kính nói, ung dung bước ra đấu trường. Vị tiểu đạo sĩ này thân hình vạm vỡ, to béo hơn Dương-Qua nhiều.
Dương-Qua chần chờ không dám bước ra. Triệu-chí-Kính vẫy tay nói với Dương-Qua:
- Nó không lớn gì hơn người bao nhiêu đâu, người hãy ra tỉ thí với nó xem nào?
Dương-Qua thưa:
- Đệ tử chưa học được một môn võ thuật đâu dám cùng với đạo huynh tỉ thí.
Triệu-chí-Kính nổi giận hét:
- Ta đã dạy ngươi hơn nửa năm võ nghệ, tại sao ngươi lại nói chưa học một môn nào? Thế thì nửa năm nay ngươi làm cái trò trống gì?
Dương-Qua không biết trả lời sao đành đứng im cúi đầu xuống.
Triệu-chí-Kính nói:
- Mày lười biếng, ham chơi, chẳng khổ công tập luyện, quyền thuật chẳng ra gì không dám thi thố với đồng bạn thực là hổ nhục. Ta hỏi mi: Chân tay tiến đều, ngang dọc múa còn câu dưới là gì?
Dương-Qua đáp:
- "Tay múa lung tung đâu vào đấy".
Triệu-chí-Kính khen:
- Đúng! Vậy ta hỏi mi: "Hai phép sanh khác tùy nghi" còn câu dưới là gì?
Dương-Qua đáp:
- "Né tiến tùy theo thế đối phương".
Triệu-chí-Kính mỉm cười, nói:
- Giỏi lắm! Không sai một chữ. Thế thì mi đem cái biết ấy ra đấu trường mà áp dụng xem sao.
Dương-Qua sợ sệt nói:
- Đệ tử chẳng hiểu gì về những câu khẩu quyết đó.
Triệu-chí-Kính bề trong tuy thích chí, nhưng bề ngoài làm ra vẻ giận dữ quát mắng:
- Học hành gì mi! Học khẩu quyết rồi thì phải tập luyện! Còn dùng dằng mãi chẳng chịu ra chiến đấu ư?
Các đạo sĩ nghe Dương-Qua đọc khẩu quyết không sai chữ nào thế mà khi ra tỉ thí thì lại khiếp sợ, nên xúm nhau khích lệ, kẻ bỉm môi, người giục giã với luận điệu gần như châm biếm.
Bao nhiêu ác cảm hình như đổ dồn vào Dương-Qua.
Nguyên nhân chỉ vì lúc Quách Tỉnh lên núi đã đem sức mình hạ mấy tên cự phách trong môn phái Toàn-Chân nhục nhã ấy còn ghi trong lòng các đạo sĩ Trùng-Dương điện. Thế rồi bao nhiêu bực tức đổ dồn vào Dương-Qua, ai trông thấy Dương-Qua cũng đều nhớ lại cái ngày bại trận xấu hổ đó.
Thật ra, cùng một môn phái, cùng là bạn mà những người có thái độ như thế đâu phải chính đáng. Âu cũng là thói thường, trong thiên hạ. Mà chốn Trùng Dương cung nào phải ai cũng tốt đâu.
Dương-Qua thấy mọi người đến thúc giục mình, mỉa mai mình lòng tự ái nổi lên, không đằng được, nghĩ thầm:
- Bữa nay ta liều chết một phen xem sao!
Nghĩ đoạn, nó xông ra đấu trường múa máy tay chân, đưa thẳng tay lên bổ vào đầu tiểu đạo sĩ đối thủ.
Tiểu đạo sĩ kia thấy Dương-Qua bộ tịch khác thường, không theo nguyên tắc của môn phái, không biết tiến thoái theo phép vũ thuật chỉ múa lung tung, lấy làm lạ chưa dám đụng thế, cứ lùi mãi.
Dương-Qua hăng quá đánh thí thân, tấn công địch thủ đủ mọi mặt mà không cần tự vệ.
Tiểu đạo sĩ địch thủ lùi hoài bất giác nhận thấy chỗ sơ hở của Dương-Qua, liền dùng thế "Phong thảo lạc diệp" nghĩa là gió quét lá rụng, đánh vào chân, làm cho Dương-Qua mất đà ngã sấp xuống đổ máu mũi máu mồm chảy ra một lượt.
Các tiểu đạo sĩ đứng xem thấy Dương-Qua bị thương rộ lên cười một lượt.
Dương-Qua thấy thế càng căm tức hơn, không còn biết đau đớn là gì, chờm dậy chân đá tay đấm lăn xả vào địch thủ.
Tiểu đạo sĩ địch thủ thấy nó hầm hầm nét mặt, xông đến tấn công như vũ bão, chỉ còn biết né tránh. Dương-Qua cứ một mặt đánh bừa, không kể gì đến nguyên tắc võ biền nữa. Hắn cúi đầu lủi vào nắm chân trái của đối thủ vật xuống.
Đối thủ luồn tay mặt qua một bên, cứ hông Dương-Qua đánh thốc tới, dùng theo thế "Thiên thân đảo huyền" để cứu nguy việc bị địch thủ bẻ cẳng.
Dương-Qua lúc trước một thời gian ở Đào-hoa đảo chẳng luyện tập gì hết, từ ngày tới Trùng-Dương cung thấm thoắt đã hơn nửa năm cũng chẳng luyện được một miếng võ nào. Nhưng vì máu hăng của nó xông lên ngùn ngụt, nên nó chưa thấy đau thấm tới.
Địch thủ lấy làm lạ, chẳng biết vì sao nó nhỏ bé như thế kia mà đánh mãi vẫn không chuyển. Tiểu đạo sĩ định thử, liền vận dụng hết sức mình, thoi vào hông Dương-Qua một cái đích đáng.
Lần nầy Dương-Qua bị đau điếng cả người. Nhưng lạ thay nó càng đau lại càng hăng lên. Nó bỏ chân trái của địch thủ ra, rồi lại xông vào nắm lấy chân phải.
Địch thủ bị hắn lao vào quá mạnh, giật mình mất thăng bằng. Nhân đó, hắn bồi vào một chùy trúng ngay quai hàm, địch thủ phải ngã ngửa ra, nằm sải dưới đất như một tấm ván.
Nó xông tới! Đạo sĩ địch thủ thừa cơ vận nội công vào mông và hai bàn tay, tung người đá bật vào ngực Dương-Qua.
Dương-Qua chụp được chân, lật trái một vòng, làm cho đối thủ lăn tròn như chiếc vụ.
Bị đau quá, đạo sĩ đối thủ không còn chịu nổi nữa, đứng dậy nói:
- Dương-Qua! Ta xin cầu hòa!
Ban chấm điểm thấy thế tưởng rằng đối phương đã chịu hòa thì Dương-Qua ngưng đấu, ngờ đâu nó vẫn cứ xông vào đánh mãi, càng đánh càng hăng, càng đánh càng dẻo, chỉ vài ba đòn kế tiếp, đạo sĩ đối thủ phải bị vọt máu mũi, nằm sải dưới đất.
Các đạo sĩ đứng xem thấy sợ để Dương-Qua hung hăng quá sẽ gây tai họa, liền bảo phải thôi đấu.
Mặc kệ, Dương-Qua như một đứa điên dại, cứ đấm đá liên hồi. Đối thủ lùi bao nhiêu thì Dương-Qua tiến tới bấy nhiêu, cuộc đấu võ trở thành một cuộc đuổi bắt buồn cười.
Dương-Qua từ ngày lưu lại Chung-Nam sơn đến nay đã nửa năm, có lẽ khí uất tích lũy lâu ngày chỉ chờ đợi có dịp là phát tiết ra. Thì ngày hôm nay chính là dịp để cho Dương-Qua phát tiết cái uất khí trong người nó vậy.
Do đó càng đánh nó càng hăng, khí uất đã làm cho nó không còn biết đau đớn gì nữa.
Đến cuối cùng, đối thủ của nó chịu không nổi la lên cầu cứu.
Thấy đối thủ cứ chạy mãi, miệng la ôi ối, Dương-Qua hét:
- Đạo sĩ khốn kiếp! Đồ đểu giả! Hèn mạt!
Câu mắng đó chẳng những Dương-Qua mắng đạo sĩ đối thủ của nó mà nó có ý mắng tất cả các đạo sĩ Trùng-Dương cung mà nó cho là thù địch với nó.
Các đạo sĩ đứng xem nghe Dương-Qua mắng chưởi bừa bãi, nghĩ thầm:
Thằng bé nầy không được dạy dỗ cẩn thận ắt sau sẽ trở thành một phường phản phúc.
Ai nấy đều nhìn Dương-Qua với thái độ căm tức.
Giữa lúc đó thì Dương-Qua rượt đối thủ của nó, miệng vẫn la chưởi om sòm. Còn đối thủ của nó như đã mệt sức, kêu lớn:
- Sư phụ ơi! Sư phụ ơi! Cứu con với.
Triệu-chí-Kính thấy thế hét lên:
- Hãy ngừng trận đấu! Dương-Qua!
Mặc cho lời kêu gào của Triệu-chí-Kính, Dương-Qua vẫn đuổi theo đối phương, như muốn bắt lấy đối phương để giộng đầu xuống đất cho hả giận.
Bây giờ, trong đám đạo sĩ lớn tuổi, có một người quá nóng lòng vùng chạy ra đấu trường, nắm cổ Dương-Qua ghì chặt lại.
Vị đạo sĩ này to lớn, mập mập, cử chỉ rất lanh lẹ.
Đạo sĩ ấy đưa tay đấm mạnh vào đầu vào cổ Dương-Qua lia lịa, miệng hét lớn:
- Đồ phản phúc! Đồ nhãi ranh!
Dương-Qua quay đầu lại nhìn thấy vị đạo sĩ đó là Tỉnh-Quang. Nó nhớ lại lúc nó mới đến Trùng-Dương cung, chính nó đã làm nhục vị đạo sĩ nầy.
Thực vậy, Tỉnh-Quang đã hậm hực thù oán Dương-Qua từ mấy tháng trường, mối thù ấy cấu kết vào lòng, trong cho có dịp là ra tay. Nay nhân chỗ sơ hở của Dương-Qua, Tỉnh-Quang dại gì không thừa cơ hội ấy.
Hắn dùng toàn những miếng đòn độc đánh Dương-Qua cho hả dạ.
Về phần Dương-Qua, khi liếc thấy bộ mặt căm hờn của Tỉnh-Quang nó đã có cảm giác thấy trước việc chẳng lành. Song nó bị Tỉnh-Quang nắm lấy cổ không làm sao giãy giụa được.
Sau mấy tràng cười gắn, Tỉnh-Quang dùng bàn tay chặt vào gáy của Dương-Qua như đánh một kẻ thù, và nói:
- Mày không nghe lời các bậc sư phụ, mày là đứa học trò ương ngạnh, bội thầy phản bạn, trong môn phái ta ai đánh mi cũng được.
Dứt lời Tỉnh-Quang lại tiếp tục đánh nữa.
Trong đám đạo sĩ đứng xem có Thôi-chí-Phương là người chính trực, thấy Dương-Qua ra tỉ thí mà chẳng hề biết gì vũ công của bản môn, lòng nghi hoặc sự hẹp hòi cùa Triệu-chí-Kính, lại đoán biết có điều gì tư vị thù hằn, khi thấy Tỉnh Quang dùng những ngón độc đánh Dương-Qua mà chẳng ai nói rằng gì cả, liền xông vào, quát:
- Tỉnh-Quang! Tỉnh Quang! Không được đánh nữa.
Tỉnh-Quang nghe tiếng quát của sư thúc Thôi-chí-Phương, tuy không bằng lòng, song cũng đành phải buông Dương-Qua ra, nói:
- Dám thưa sư thúc! Tôi đoán rằng sư thúc chưa rõ tính tình của thằng nhóc xảo quyệt nầy. Nó cứng cổ lắm, chẳng thèm nghe theo lời chỉ giáo của sư phụ. Nếu cứ dung thứ nó mãi thì trong môn phái chúng ta chẳng còn qui củ nào nữa.
Thôi-chí-Phương như chẳng nghe lý luận của Tỉnh-Quang, chạy đến trước mặt Dương-Qua nhìn thấy miệng mũi nó đầy máu, mặt sưng húp, tím bầm, động lòng thương, ôn tồn hỏi:
- Dương-Qua! Sao sư phụ dạy dỗ mà chẳng ráng tập tành để đến ngày tỉ thí lại đánh loạn đả như thế? Nguyên tắc võ chẳng rành rẽ.
Dương-Qua lòng hậm hực, phát hiện ra cả tiếng nói, nó đáp:
- Sao tiên sư lại nói thế? Tiên sư không biết rằng sư phụ tôi không hề dạy cho tôi một chút võ nghệ nào sao?
Thôi-chí-Phương nói:
- Ta đã nghe mi đọc khẩu quyết không sai một chữ, lẽ nào mi lại chưa được tập luyện?
Lời nói của Thôi-chí-Phương làm cho Dương-Qua nhớ lại lúc nó còn ở Đào-hoa đảo Hoàng Dung đã dạy cho nó nào Mạnh Tử, Luận-ngữ, nào Đại-học, Trung-Dung, nay đến Triệu-chí-Kính thì dạy nó khẩu quyết những món chỉ để nhồi sọ nó, thực ra không đem ra áp dụng trong thực tế được chút nào. Nghĩ như thế nó oán hận và nghi hoặc cả loài người. Nó tưởng không còn ai thực tâm thương nó nữa.
Và cũng vì nghĩ thế, nó quắc mắt nhìn Thôi-chí-Phương, nói:
- Đấu võ không đấu bằng miệng mà phải đấu bằng tay chân. Sư phụ tôi chỉ dạy tôi bằng miệng thì làm sao đấu với ai được. Nếu kẻ nào đấu võ bằng miệng thì lối dạy của sư phụ tôi quyết chẳng thua ai.
Thôi-chí-Phương lòng nghi ngờ chưa tin lời nó là thật, nên muốn thử xem nó có tập luyện ít nhiều chăng, liền làm ra vẻ giận dữ quát mắng:
- Mi ăn nói hỗn xược với bề trên như thế sao?
Dứt lời, Thôi-chí-Phương dùng tay đánh vút xuống đầu nó.
Miếng đánh ấy nếu kẻ nào không chân truyền tập luyện theo phái Toàn-Chân sẽ phải ngã gục ngay tức thời. Còn những người đã tập luyện có thể dùng "nhu chế cương, hư chế thực" mà trừ được.
Nhưng lạ thay! Dương-Qua không hề đỡ mà đầu nó chỉ rung lên một chút, rồi lùi lại đằng sau mấy bước chớ không bị ngã.
Thôi-chí-Phương thuộc vào hạng tam đại đệ tử của Toàn-Chân phái, là một trong những tay cự phách cao thủ, tuy không giỏi bằng Triệu-chí-Kính song cũng đủ sức dọc ngang trong giới giang hồ.
Thấy mình đánh một đòn nội công mà Dương-Qua chịu nổi, Thôi-chí-Phương lấy làm ngạc nhiên tự nghĩ:
- Cứ như sức đề kháng này thì ít ra nó cũng phải luyện trên mười năm nội công mới chịu nổi chứ nó vừa nhập môn trên sáu tháng làm gì có bản lãnh dường ấy? Nhưng nội công đã khá tại sao lúc giao đấu nó lại đánh loạn đả như thế?
Thôi-chí-Phương thắc mắc mãi vẫn không tìm hiểu nổi. Vì Thôi-chí-Phương có biết đâu rằng trước kia Mã-Ngọc đem bí thuật của Toàn-Chân truyền lại cho Quách-Tỉnh, Quách-Tỉnh truyền lại cho Tần-nam-Cầm. Trong mấy năm trời, Dương-Qua đã học phép nội công của Tần-nam-Cầm cho nên trong lúc giao đấu Dương-Qua không biết ngón đánh nào hay mà căn bản nội công của nó rất vững chắc, có thể ngang với người đã từng rèn luyện trong mười năm.
Dương-Qua bị Thôi-chí-Phương giáng cho một đòn như thế càng giận, dẫu ông trời nó chưa nể huống hồ Thôi-chí-Phương. Nó lao đầu đến, đánh vào bụng Thôi-chí-Phương một thoi.
Thôi-chí-Phương né sang một bên, và rất đắc ý như đã tìm thấy được trình độ võ công của Dương-Qua, mỉm cười bảo Tỉnh-Quang:
- Tỉnh Quang! Ra mà đấu với Dương-Qua! Nhưng chớ đánh nó mạnh nghe.
Tỉnh Quang đã hờm sẵn, chỉ còn có lời nói ấy là nhảy ra đánh Dương-Qua lập tức.
Dương-Qua cũng không nhịn, đâm bổ vào Tỉnh-Quang. Nhưng hễ Dương-Qua đâm vào bên trái thì Tỉnh-Quang dùng tay mặt đánh vào hông, còn Dương-Qua đâm vào bên phải thì Tỉnh-Quang dùng tay trái thoi vào ngực với thế "Hổ môn thủ".
Với lối đánh độc hiểm của Tỉnh-Quang, nếu Dương-Qua không luyện nội công trong mười năm tất phải bị hộc máu rồi.
Tuy vậy, mặt Dương-Qua vẫn trắng bạch ra như giấy.
Tỉnh-Quang thấy đánh nó miếng nầy vẫn không chuyển, lấy làm kinh ngạc, liền vận khí vào bàn tay bồi một quả thôi sơn vào mặt. May thay, đòn nầy Dương-Qua dùng vai đỡ được, song nó không hiểu một tí gì về quyền thuật nên cứ xông vào một cách vụng về, mặc tình cho đối phương đánh đá.
ác ý hơn nữa, Tỉnh-Quang dùng tay mặt nhử nó rồi lòn tay trái đánh vào bụng dưới nó một đòn chí tử, nó đau quá phải gò bụng gò lưng lại mà chịu.
Trong lúc nó cúi lom khom người lại bị Tỉnh-Quang dùng bàn tay chém vào ót nó mấy cái, làm cho nó xây xẩm mặt mày, lảo đảo muốn ngã. Các đạo sĩ đứng xem thấy thế rộ lên cười trước tánh liều lĩnh của nó.
Thực ra, mọi người có đâu rằng Dương-Qua vốn giống tánh ông nội hắn là Dương-Thiết, một con người gan dạ đến chẳng bao giờ chịu đầu hàng trước kẻ địch.
Bây giờ Thôi-chí-Phương hiểu rõ Dương-Qua chẳng được tập luyện võ nghệ gì cả, nên quay sang bảo Tỉnh-Quang:
- Thôi! Đừng đánh nữa Tỉnh-Quang.
Nhưng Tỉnh-Quang được dịp trả thù, nhất định không thôi, vừa đánh túi bụi, vừa nói:
- Nào, mày đã biết tay tao chưa?
Dương-Qua cất mồm mắng:
- Khốn nạn! Tao nhất định không coi mày là gì!
Tỉnh-Quang tức giận quá, hai tay đánh lia lịa vào sống mũi Dương-Qua làm cho nó chẳng còn trông thấy trời đất gì nữa, lảo đảo quỵ chân xuống đất.
Khí uất xông lên, trong người nóng nực. Dương-Qua cảm thấy một hơi nóng chạy khắp mình, tập trung xuống đơn điền, tỏa ra tay chân, ra mồm, rồi cả người nó như có một mãnh lực nào sai khiến, nó há mồm "ngoạp" một tiếng, hai chân dí vào mặt đất tung người lên, dùng đầu đâm bổ vào ngực Tỉnh-Quang nhanh như điện chớp.
Thân hỉnh Tỉnh-Quang to lớn thế kia, mà với ngón đòn đó đã làm cho Tỉnh-Quang tung lên không trung mấy thước, rồi rơi huỵch xuống đất như một tấm phản nằm chết cứng.
Những đạo sĩ đứng xem nãy giờ thấy Tỉnh-Quang cậy lớn hiếp bé, cậy mạnh hiếp yếu, giở những ngón đòn độc ác đánh Dương-Qua, tuy không nói ra nhưng lòng cũng hồi hộp cho tính mệnh Dương-Qua. Giờ đây bỗng thấy Dương-Qua chỉ đánh một đòn mà làm cho Tỉnh-Quang bay bổng lên trời, rồi rơi xuống nằm chết cứng, đều lấy làm lạ chạy đến xem sao.
Thật ra trong lúc bí thế, Dương-Qua đã vô tình dùng thế võ "hàm mô công", thế võ ấy trước kia nó đã đánh chết một đệ tử của Cái Bang tại đảo Đào-hoa vậy.
Nó nghe các đạo sĩ nhôn nhao lên, lào xào nói:
- Thôi chết mất rồi! Hết thở rồi! Trời ơi! Chúng ta phải lập tức vào thưa với trưởng giáo tiên sư.
Dương-Qua lúc đó mới biết địch thủ nó đã bị thế "hàm mô công" đến chết, và nó cảm thấy một tai vạ ghê gớm sắp xảy đến cho nó, nó liền thừa lúc mọi người không chú ý, co giò ù té bỏ chạy.
Các đạo sĩ đang lao nhao trước cái chết của Tỉnh-Quang, Dương-Qua chạy trốn lúc nào chẳng ai hay biết gì cả.
Triệu-chí-Kính thấy Tỉnh-Quang thương tích nặng nề, thập tử nhất sanh, không còn hy vọng sống được, vừa giận vừa thương, gọi tên Dương-Qua mắng lớn:
- Dương-Qua! Mày học ngón võ giết người ở đâu thế?
Võ công của Tỉnh-Quang tuy khá giỏi, song khổ nỗi từ lâu nay chỉ trấn thủ nơi võ điện, ít kinh nghiệm kiến văn, không biết chống với miếng đòn "hàm mô công" là miếng đòn rất độc.
Triệu-chí-Kính la hét một hồi chẳng thấy Dương-Qua trả lời đâu cả, xem lại thấy Dương-Qua đã mất dạng, liền phân công bốn mặt tìm kiếm.
Các đạo sĩ bàn nhau:
- Chung-Nam-sơn chu vi có mấy chục dặm lại là phạm vi thế lực của Trùng-Dương cung, làm thế nào thằng bé có thể thoát thân dễ dàng.
Trong lúc đó, Dương-Qua hoảng hốt, chẳng cần chọn lựa xem lối nào hạ sơn, cứ việc cắm đầu chạy một mạch rồi lẩn vào trong rừng rậm để ẩn trốn.
Chạy một lúc, nó nghe đàng sau có tiếng gọi:
- Dương-Qua! Dương-Qua! Mi ở đâu? Muốn sống hãy trình diện lập tức.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top