quanpa4 nhung cuoc phuu luu ky la cua karik va valia

Chương 1

CUỘC NÓI CHUYỆN KHÓ CHỊU VỚI BÀ – MẸ LO LẮNG – DZHEK ĐI THEO SÁT GÓT – VẬT KỲ LẠ TÌM THẤY TRONG PHÓNG LÀM VIỆC CỦA GIÁO SƯ ENOTOV – SỰ BIẾN MẤT BÍ ẨN CỦA CỦA IVAN GORMOGENOVICH

Mẹ phủ lên bàn chiếc khăn trải bàn to và trắng. Bà đặt lên đó các đĩa ăn, dao, thìa nĩa. 

Bà lầm bầm nói: 

- Đến bữa ăn trưa rồi mà bọn trẻ chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Chúng ở đâu – không làm sao hiểu nổi... Trước kia ấy à! Thời tôi còn nhỏ... 

- Trời ơi! – Mẹ nói – Bọn chúng thậm chí còn chưa ăn sáng nữa. 

Mẹ bước lại gần cửa sổ bỏ ngỏ, xoãi người trên bậu cửa và gọi to lên: 

- Karik! Valia! 

Bà lại bắt đầu lầm bầm: 

- Thế đấy, cứ là vội vàng cuống quýt lên! Chạy thục mạng! Đứng đó mà la trong khi đó chắc chúng đang chơi trò nhảy dù. Ngồi đó mà đợi chúng về ăn trức trong khu biết đâu chúng đang cần gọi xe cấp cứu. 

- Nhảy gì hà mẹ? Rồi cấp cứu nào nữa? – Mẹ sợ hãi hỏi. 

- Cấp cứu nào ấy à! – Bà nói và lấy từ túi áo tạp dề ra cuộn len, kim đan và cái bít tất đang đan dở. Kim đan lấp lánh trên tay bà lôi sợi len trong cuộn ra. – Cái cấp cứu mà người ta gọi cho thằng Valarik hôm qua ấy. – Bà nói và thở dài. 

- Còn thằng Valarik nào nữa hả mẹ? 

- Còn thằng nào nữa, đó là một thằng nghịch ngợm trong sân nhà chúng ta. Con của ông quản trị! Nó nghĩ ra cái trò mới ghê chứ! Lấy được ở đâu cái dù cũ làm thành cái dù nhảy rồi nhảy từ ban công xuống theo kiểu nhảy dù. 

- Thế rồi sao hả mẹ? 

- Chả sao cả! Bị móc quần vào cái ống nước và treo lơ lửng đầu xuống dưới! Treo như vậy cho đến khi xe cấp cứu đến. Ông bác sĩ giận dữ bào đáng lẽ trường hợp này phải gọi xe cứu hỏa thay vì xe cấp cứu! Tuy vậy người ta cũng gỡ thằng Valarik ấy ra khỏi cái ống... Vậy mà con có tưởng tượng được không? Nó chỉ cười khì rồi còn bào là lập được kỷ lục về nhảy dù lâu nhất. Đấy, bọn trẻ bây giờ nghịch ngợm thế đấy!... Hồi tôi còn nhỏ... 

- Trời ơi, - Mẹ nói – Nhưng thực ra bây giời chúng ở đâu cơ chứ?... 

- Còn cái thằng Antia cũng ở trong sân nhà ta nữa! Lúc đầu xây đường xe điện ngầm với bọn trẻ, rồi lại chế tạo tàu ngầm. Thế là rõ rồi... Đường xe điện ngầm bị sụp, cả lũ bị lấp dưới đất. May mà bác quét sân kịp thời nhìn thấy, đào chúng lên không thì chết hết. Con tưởng là sau chuyện đó chúng chừa ư? Đời nào! Một chút xíu cũng không! Lấy những thùng phuy và hòm gỗ làm tàu ngầm. Cố nhiên là chúng đã chết đuối rồi nếu không có anh công an may mắn đi qua. Lạy Chúa, chật vật lắm rồi cũng với đước chúng. Chỉ có điều... Phù! – Bà giận dữ nhổ nước miếng – Con có tưởng tượng được cái lũ ấy nghịch ngợm đến thế nào không? Chưa kịp khô người đã nghĩ ra trò bay vào vũ trụ, uống con cây bạch dương xuống đất rồi hai đứa thì giữ, bọn còn lại... 

- Thôi, thôi mà...- Mẹ khoát tay – Mẹ đừng kể nữa! Con không muốn nghe chuyện đó đâu. 

Mẹ lại bước đến bên bậu cửa sổ và kêu lên: 

- Karik! Valia! 

- Hồi tôi còn nhỏ... - Bà lại nói. 

Mẹ khoát tay không nghe bà nói, nằm xoài ra bậu cửa: 

- Ka-a-rik! Va-a-lia! Ăn–trưa! 

Một con mèo kêu meo meo ngoài sân. 

- Tôi biết mà! – Bà nói – Tôi biết mà! 

- Karik! Valia! – Mẹ lại gọi nữa, rồi quay phía bà hỏi – Chúng không nói với mẹ là đi đâu ư? 

Bà cắn môi giận dữ: 

- Hồi tôi còn nhỏ... - Bà nói – Bao giờ tôi cũng nói cho biết là tôi đi đâu, còn bọn trẻ bây giờ ấy à, muốn gì là làm cái ấy. Muốn... là đi Bắc cực, có khi cả Nam cực nữa... Hoặc là như bữa trước rađiô nói... 

- Rađiô nói gì hả mẹ? – Mẹ vội vã hỏi. 

- Có gì đâu! Một thằng bé nào đó bị chết đuối! Phát thanh viên nói như vậy. 

Mẹ rùng mình. 

- Không!... – Mẹ nói – Cái đó... cái đó thì không có đâu! Karik và Valia không đi tắm đâu. 

- Tôi chả biết! Tôi chả biết nữa! – Bà lắn đầu – Chúng nó có đi tắm hay không tôi không dám chắc... Chỉ có điều từ lâu đã đến lúc phải ăn trưa rồi mà chúng thì vẫn chưa thấy tăm hơi đâu cả. Biết chúng ở đâu? Từ sáng đã chạy đi rồi, không kịp cả ăn sáng nữa. 

Mẹ đưa tay vuốt mặt, không nói một lời bước ra khỏi phòng ăn. 

- Hồi tôi còn nhỏ... - Bà thở dài. 

Nhưng hồi nhỏ bà làm gì thì mẹ vẫn chưa kịp biết: mẹ đứng giữa sân, nheo mắt vì chói mặt trời, ngó nhìn khắp nơi. 

Giữa sân, trên đống cát vàng, cái xẻng con màu xanh của Valia đang nằm cạnh đó, lăn lóc cái mũ chỏm bạc màu của Karik. Ở ngay cạnh là con mèo mập ú màu hung Anjuta đang chổng bốn chân lên sưởi nắng. Nó lười nhác nheo mắt và đưa chân ra tựa như muốn tặng mẹ bốn cẳng của mình. 

- Bọn trẻ ở đâu hả Anjuta? 

Chú mèo khoan khoái ngáp, nhìn mẹ bằng một con mắt rồi lười nhác quay lưng lại. 

- Nhưng chúng nó biến đi đâu cơ chứ? – Mẹ lẩm bẩm nói. Bà đi suốt dọc sân nhà, ngó vào tiệm giặt quần áo, và thậm chí nhìn vào cả các cửa sổ tối đen của nhà hầm trệt nơi người ta chứa củi. 

Không ở đâu thấy bóng dáng bọn trẻ. 

- Ka-a-rik! – Mẹ gọi to một lần nữa. 

Không ai đáp lại cả. 

- Va-a-lia! – Mẹ kêu lên. 

“Ẳng, ẳng, gâu, gâu!” – tiếng sủa lên ở đâu đó rất gần. 

Ở cầu thang bên, cánh cửa sập vào rất mạnh. Một con chó bécgiê rất to mõm nhọn nhảy ra sân, lôi theo sau cái xích kêu loảng xoảng. 

Chú mèo mập Anjuta nhảy vọt một cái lên đống củi xếp cao. 

“Suỵt!” – nó giơ chân rít lên – “Xin... đừng có làm ồn!” 

Con chó giận dữ sủa chú mèo Anjuta. Đang đà chạy nó lao lên mô đất, lăn trên cát, bốc đám bụi dày đặt, rồi nhỏm dậy, rũ lông, sủa ầm ĩ lao vào mẹ. 

Mẹ nhảy tránh sang một bên. 

- Lui ra! Không được thế! Cút đi chỗ khác! - Mẹ hoa tay lên. 

- Dzhek! Tubo! Lại đây! – Tiếng ai vang lên từ phía cầu thang. 

Một người đàn ông mập mạp bước ra sân, chân đi xăng đan, tay cầm điếu thuốc đang cháy dở. Đó là bác thợ chụp ảnh Smit sống ở tầng bốn. 

- Mày làm sao thế, Dzhek? Hả? – Bác mập giơ ngón tay mủm mĩm dọa nạt, nghiêm khắc hỏi. Dzhek lại gần chủ, ngồi xuống làm cái xích kêu loảng xoảng, chăm chỉ dùng chân sau gãi cổ. 

Bác mập mỉm cười niềm nở với mẹ. 

- Hôm nay đẹp trời quá. Bà có định đi nhà nghỉ mát ngoại ô không? Bây giờ đúng lúc đi hái nấm và câu cá đây. 

Mẹ ngước nhìn bác mập, con chó rồi bực bội nói: 

- Đồng chí Smit ạ, đồng chí lại thả chó ra không có rọ mõm. Thế mà chó của đồng chí cứ như một con lang. Nhìn người ta cứ như muốn cắn. 

Bác mập ngạc nhiên: 

- Bà nói về con Dzhek đấy ư? Sao bà lại nghĩ thế? Chú Dzhek của tôi không dám đụng tới cả trẻ nít. Nó hiền như một chú bồ câu! Bà có muốn vuốt ve nó không? 

Mẹ khoát tay: 

- Tôi đâu có rảnh mà vuốt ve chó! Ở nhà bữa ăn thì nguội, trong phòng chưa quét dọn, lại thêm không sao gọi được bọn trẻ... Chúng biến đi đâu tôi không hiểu. Ka-a-rik! Va-a-lia – Bà lại cất tiếng gọi. 

- Bà cứ vuốt ve Dzhek đi, rồi đề nghị nó tha thiết. Bà cứ bảo: “Nào Dzhek! Mau tìm Karik và Valia cho bác đi”. Nó sẽ tìm thấy ngay đó. 

Bác Smit cúi xuống con chó và vỗ vào cổ nó: 

- Dzhek? Sẽ tìm thấy chứ? 

Dzhek khẽ rên ư ử rồi đột nhiên nhảy lên liếm vào môi bác chụp ảnh. Bác mập nhảy lùi trở lại ghê tởm nhổ nước miếng, rồi lau môi bằng cùi tay. 

Mẹ phì cười. 

- Bà đừng vội chế nhạo. – Bác Smit nghiêm trang nói – Đây chính là loài chó trinh sát. Nó đánh hơi đi theo dấu vết người ta như đầu tàu hỏa đi trên đường sắt. Bà có muốn tôi chứng minh không? 

- Tôi tin bác! – Mẹ nói – Tin bác mà không cần phải chứng minh gì hết. 

Bác mập xúc động nói: 

- Không, không! Xin bà cho phép. Tôi đã nói thế nào thì sự thật thế ấy. Nào, bà cứ đưa cho tôi vật gì đó của Karik và Valia đi... đồ chơi... áo sơ mi... cái mũ chỏm... Cái gì cũng được. 

Mẹ nhún vai, nhưng cũng cúi xuống nhặt cái mũ chỏm và đưa cho bác Smit. 

- Tốt lắm! Tuyệt diệu! Rất tốt! - Bác mập nói và đút cái mũ chỏm cả Karik dưới mũi con chó. 

- Nào, Dzhek! - Ông ta cao giọng nói – Hãy trổ tài đi! Hãy đi tìm, đi tìm chú chó ạ. 

Dzhek rên ư ử, cúi sát đầu xuống đất rồi duỗi đuôi ra và bắt đầu chạy theo những vòng lớn quanh sân. 

Bác thợ hào hứng lao theo nó. 

Chạy đến đống củi xếp, Dzhek thình lình dừng lại, nhảy lên đứng bằng hai chân sau, còn chân trước tì lên đống củi xếp. Mũi của Dzhek đặt ngay trước mõm chú mèo Anjuta. 

“Tao xé mày ra!” – Dzhek hét lên. 

Chú mèo nhảy lên theo vòng cung, quắc cặp mắt xanh lè, rít lên như con rắn: “Tao ấy à? Không ăn thua đâu!” 

Dzhek định tóm lấy đuôi mèo. Nhưng chú mèo nhe răng ra, giáng cho nó một cú tát mạnh đến nỗi con chó tội nghiệp thét lên vì đâu và tức giận. Nhưng lập tức nó định thần lại được, sủa to và lại lao vào con Anjuta. Chú mèo rít lên lớn hơn, giơ chân và quát lên bằng tiếng mèo: “Cút ngay không tao đánh dập mật bây giờ!” 

- Thôi, thôi, đủ rồi, Dzhek! – Bác thợ ảnh bực bội nói – Đừng có đi lạc đề! - Bác kéo mạnh cái dây đến nỗi con chó phải ngồi phệt xuống hai chân sau. 

- Bây giờ thì tìm đi! 

Sau khi giận dữ sủa theo con mèo, Dzhek chạy tiếp. Nó chạy hết sân, đứng lại gần ống máng, đánh hơi không khí ầm ĩ rồi nhìn chủ. 

- Hiểu rồi! Hiểu cả rồi! – Bác thợ ảnh gật đầu – Mày muốn nói là bọn trẻ đã ngồi ở đây và có lẽ đã chơi với chú mèo Anjuta phải không? Tốt lắm! Nhưng sau đó chúng đi đâu? Phải tìm đi, Dzhek! Nào, tìm đi, tìm đi chó ơi! 

Dzhek nhảy vọt quay tròn như một con quay, cào chân vào đất dưới ống máng, rồi sủa to lao về phía cầu thang chính. 

- Đúng rồi, bà thấy chưa? – Bác Smit kêu lên – Nó đã lần ra dấu vết rồi. 

Lệt xệt đôi xăng đan, bác thợ ảnh nhảy từng bước chạy theo con chó. 

- Nếu bác tìm thấy bọn trẻ, bác bắt chúng về nhà ngay hộ tôi nhé! – Mẹ gọi với theo rồi đi ra sân tới cổng khu nhà. 

“Chắc là chúng chơi ở sân nhà bên” – mẹ nghĩ thế và không để ý đến Dzhek cùng chủ của nó nữa, bước ra khỏi cổng khu nhà. 

Kéo căng cái xích, Dzhek lôi bác mập lên cầu thang. 

- Từ từ chứ! – Bác mập thở phì phò, cố cho kịp theo con chó. 

Lên đến tầng năm Dzhek dừng lại giây lát, ngước nhìn chủ nó rồi sủa lên từng hồi, lao vào cái cửa bọc vải sơn. Trên cửa có treo tấm biển trắng tráng men với hàng chữ: 

Giáo sư 

IVAN GERMOGENOVICH ENOTOV 

Phía dưới có gắn một mẩu giấy ghi: 

“Chuông không kêu. Xin cứ gõ cửa!” 

Dzhek vừa rít vừa nhảy lên cào móng vào lớp vải sơn bọc cửa. 

- Tubo! Dzhek! – Bác mập gọi! - Ở đây người ta đề nghị gõ cửa chứ không rít lên như vậy. 

Bác thợ chụp ảnh lấy tay vuốt tóc, lau kỹ bằng khăn tay khuôn mặt đẫm mồ hôi, rồi cong ngón tay thận trọng gõ vào cửa. 

Phía sau cửa có tiếng chân lệt xệt. 

Tiếng mở khóa của lách cách. 

Cánh cửa mở ra. Bên khe hở cửa xuất hiện khuôn mặt với cặp lông mày rậm rạp bạc trắng và chòm râu vàng – trắng. 

- Ông muốn gặp tôi ư? 

- Xin lỗi! Thưa ông giáo sư!... – Bác thợ chụp ảnh lúng túng nói – Tôi chỉ muốn hỏi ông... 

Nhưng bác mập chưa kịp nói hết câu thì Dzhek đã giựt sợi dây xích ra khỏi tay bác, lao vào trong nhà suýt làm té giáo sư. 

- Lại đây, Dzhek! Tubo! – Bác Smit kêu lên. 

Nhưng Dzhek đã khua ầm ĩ dây xích ở đâu tận cuối hành lang. 

- Xin lỗi! Thưa giáo sư, Dzhek còn quá trẻ... Xin cho phép tôi vào. Tôi sẽ dẫn nó ra ngay ạ. 

- Vâng, được... Cố nhiên rồi... - Giáo sư lơ đãng đáp và nhường lối cho bác Smit vào nhà – Xin mời vào! Tôi hy vọng là chó của bác không cắn chứ? 

- Rất ít khi! – Bác Smit trấn an giáo sư. 

Bác thợ chụp ảnh bước qua ngưỡng cửa. Sau khi đóng cửa lại, bác khẽ nói: 

- Ngàn lần xin lỗi giáo sư! Tôi chỉ xin một phút thôi... Thưa đồng chí giáo sư, ở chỗ ông hẳn phải có bọn trẻ... Karik và Valia. Ở tầng hai... 

- Xem nào, xem nào... Karik và Valia ư? Phải rồi! Cố nhiên! Tôi biết chúng rất rõ. Các cháu rất dễ thương... lễ phép và ham hiểu biết... 

- Chúng đang ở chỗ ông phải không? 

- Không, hôm nay chúng không đến tôi! 

- Thế thì lạ thật! – Bác mập lẩm bẩm – Dzhek đánh hơi theo dấu vết rất chính xác. 

- Có thể là dấu vết ngày hôm qua chăng? – Giáo sư lịch sự hỏi. 

Nhưng Smit chưa kịp đáp lại. Ở trong phòng phía xa, Dzhek sủa vang rồi lập tức có tiếng đổ vỡ loảng xoảng tựa như cái tủ hay cái bàn có chén bát đổ xuống sàn. 

Giáo sư rùng mình: 

- Trời ơi, nó đập vỡ ở trong ấy hết mất! – Ông kêu lên giọng như muốn khóc, nắm tay bác Smit lôi theo vào hành lang tối đen. 

- Lại đây! Lại đây! – Ông nói lúng búng và đẩy cửa vào. Giáo sư và bác chụp ảnh vừa mới bước vào phòng thì Dzhek nhảy ngay lên ngực chủ, sủa rít lên rồi lại quay bước lao ngược lại. 

Nó chạy khắp phòng, lôi theo sau cái xích, đánh hơi tủ sách, nhảy lên cái ghế da, loay hoay dưới gầm bàn, lại đi lung tung hết phía này qua phía khác. 

Những bình, nồi cổ cong trên bàn nẩy lên kêu lanh canh. Những ly cao cổ trong suốt nghiêng ngả, các ống thủy tinh mỏng manh rung lên. 

Bị va mạnh, kính hiển vi đổ nghiêng lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Giáo sư suýt nữa không đỡ kịp. Nhưng trong lúc cứu cái kính hiển, ống tay áo của ông lại vướng vào cái đĩa mạ kền sáng loáng của cái cân gì đó rất phức tạp. Cái đĩa rơi xuống, nẩy lên, kêu vang và lăn trên sàn ván ghép màu vàng. 

- Cái gì thế Dzhek? – Bác thợ chụp ảnh cau có nói – Làm chuyện bậy bạ hử? Sủa ầm lên mà chẳng được gì. Nào, thế bọn trẻ đâu? 

Dzhek nghiêng đầu, vểnh tai lắng nghe. Nó chăm chú nhìn chủ cố hiểu xem vì sao nó lại bị mắng. 

- Thật xấu hổ, Dzhek ạ! - Bác thợ chụp ảnh lắc đầu tỏ ý không bằng lòng – Thế mà cũng gọi là chó trinh sát!? Lại có bằng hẳn hoi nữa chứ! Mày chỉ đáng cho đuổi mèo thôi chứ không thể tìm dấu vết được! Thôi, đi về nhà đi! Thưa đồng chí giáo sư, xin ông rộng lòng thứ lỗi cho tôi đã quấy rầy. 

Bác thợ chụp ảnh ngượng ngùng cúi chào và định bước đi về phía cửa. Nhưng đến đây Dzhek tựa như phát khùng lên. Nó dùng răng cắn vào quần của chủ nó rồi tỳ chân vào sàn ván ghép trơn bóng, lôi lại cái bàn. 

Bác mập kinh ngạc: 

- Mày làm sao thế này! 

Dzhek sủa rít lên rồi lại bắt đầu chạy quanh bàn, sau đó nhảy lên cái đi văng đặt trước cửa sổ bỏ ngỏ. Đặt chân trước lên bậu cửa, nó sủa lên từng hồi ngắn. 

Bác Smit nổi nóng: 

- Tubo! Lại đây! – Bác quát lên, nắm lấy dây buộc chó. Nhưng Dzhek bướng bỉnh lắc đầu và lại lao đến cái đi văng. 

- Tôi chẳng hiểu gì cả! - Bác thợ chụp ảnh giang tay ra nói. 

- Có thể có chuột dưới đi văng chăng? – Giáo sư cố thử đoán – Hay có mẩu bánh mì hoặc cục xương? Tôi cũng hay ăn trưa ở đây lắm! 

Ông bước lại đi văng và đẩy nó ra khỏi tường. Sau lưng đi văng có cái gì đó sột soạt rồi rơi “bộp” xuống sàn. 

- Mẩu bánh mì! – Giáo sư nói. 

Dzhek lao về phía trước. Nó chui vào giữa bức tường và cái đi văng đã được kéo dịch ra, ngoe nguẩy đuôi dường như đã ngoạm được cái gì đó vào mõm. 

- Nào, nhặt được cái gì thế? Cho xem nào! – Bác thợ chụp ảnh kêu lên. 

Dzhek bước lùi lại, lúc lắc đầu, quay ngoắt lại phía chủ đặt vào chân ông chiếc xăng đan trẻ con đã mòn vẹt gót. 

Bác thợ ảnh bối rối xoay xoay vật tìm được trong tay. 

- Hình như là chiếc giày trẻ con... 

- Hừ... lạ thật! – Giáo sư nói, ngắm nghía chiếc dép. 

- Lạ quá chừng! 

Trong khi họ loay hoay với chiếc dép trong tay, Dzhek lôi ở phía đi văng ra thêm ba chiếc dép nữa: một chiếc cũng như vậy và hai chiếc nhỏ hơn. 

Không hiểu sao cả, giáo sư và bác mập hết nhìn nhau lại ngó những chiếc xăng đan. Bác Smit gõ tay vào đế dép cứng của một chiếc dép, không hiểu sao lại nói: 

- Chắc thật! Dép tốt quá! 

Trong khi đó Dzhek lôi tiếp từ sau đi văng chiếc quần cụt xanh dương rồi lại thêm một chiếc quần cụt nữa. Lấy chân đè xuống sàn, nó khẽ sủa lên. 

- Lại còn cái gì nữa thế này? – Giáo sư hoàn toàn bối rối. 

Ông cúi xuống định thò tay với chiếc quần, nhưng Dzhek nhe răng gầm gừ làm cho giáo sư vội rụt tay lại. 

- Sao nó khó tính thế! – Giáo sư ngượng ngùng nói. 

- Vâng, con chó của tôi không được lịch sự lắm! – Bác thợ chụp ảnh đồng ý. 

Bác cầm lấy những cái quần cụt, rủ chúng rồi gấp lại, cẩn thận trao cho giáo sư. 

- Xin mời ông xem! 

Giáo sư liếc nhìn Dzhek. 

- Không, không cần! – Ông nói – Thế này tôi cũng thấy được rồi... Ơ phải rồi... Phải rồi... Có dấu đây!... “V” và “K”. Valia và Karik! – Ông lấy tay sờ những chữ màu trắng trên thắt lưng quần cụt. 

Bác mập vuốt mồ hôi trên mặt. 

- Trong nhà có phòng tắm không ạ? – Bác hỏi. 

- Không, - Giáo sư nói – Không có phòng tắm! Nhưng nếu ông cần rửa tay thì... 

- Không ạ! – Bác mập đỏ mặt – Rửa tay thì tôi về nhà rửa cũng được. Nhưng tôi nghĩ rằng các cháu cởi quần áo và đang tắm trong phòng tắm. Bác hiểu không ạ? 

- Vâng, tôi hiểu ý bác rồi. – Giáo sư gật đầu. 

- Nhưng chúng biến đi đâu được? Trần trụi... Không mặc cả quần cụt... Không đi cả xăng đan? Tôi chẳng hiểu gì cả! – Bác Smit giang tay ra nói. 

Bác xoạc rộng hai chân, chắp tay sau lưng, cúi đầu xuống ngắm nghía thật lâu các ô vuông màu vàng của sàn gác gỗ, sau đó bác đứng thẳng dậy và nói đầy tự tin. 

- Không sao, chúng ta sẽ tìm thấy chúng bây giờ. Chúng ở đây thôi giáo sư ạ. Dẫu cho chúng trốn, nấp ở đâu đó! Ông cứ tin chắc, chú Dzhek của tôi không bao giờ nhầm cả. 

Giáo sư và bác thợ ảnh đi khắp các căn phòng, ngó vào bếp, thậm chí xem xét cả phòng xếp làm kho tối om. Dzhek uể oải đi theo họ. 

Ở phòng ăn, bác mập mở tủ búp phê, chui đầu xuống cả gầm bàn, còn ở phòng ngủ bác quơ tay xuồng gầm giường. Nhưng bọn trẻ không thấy có trong nhà. 

- Chúng trốn ở đâu được nhỉ? – Bác thợ ảnh làu bàu. 

- Theo tôi, – Giáo sư nói – Hôm nay chúng chưa đến đây. 

- Ông nghĩ vậy ư? – Bác Smit trầm ngâm hỏi lại – Ông nghĩ rằng chúng đã không có ở đây? Còn mày thì sao hả Dzhek? Chúng ở đây hay không? 

Dzhek sủa lên. 

- Ở đây ư? 

Dzhek sủa lên lần nữa. 

- Nào, thế thì tìm đi! Tìm đi chú chó ạ! 

Dzhek lập tức trở nên vui vẻ. Nó lao trở lại và dẫn giáo sư và bác Smit vào phòng làm việc.Ở đây nó nhảy lên bậu cửa bắt đầu sủa ầm ĩ và rít lên tự như muốn làm chủ nó tin rằng bọn trẻ đã qua cửa sổ đi khỏi căn nhà. 

Bác Smit bực mình. 

- Ôi chao đồ ngu, chó ơi là chó! Chẳng lẽ mày nghĩ rằng bọn trẻ nhảy xuống sân từ gác năm? Hay là chúng đã bay đi như ruồi hoặc chuồn chuồn? 

- Cái gì? – Giáo sư bỗng run lên – Bay đi ư? Con chuồn chuồn nào cơ chứ? 

Bác thợ ảnh mỉm cười. 

- Đấy là chú Dzhek của tôi nghĩ vậy. 

Giáo sư hai tay ôm lấy đầu. 

- Kinh khủng quá! – Ông thì thầm. 

Bác thợ ảnh kinh ngạc nhìn ông và hỏi: 

- Ông làm sao thế? Ông hãy uống đi một ngụm nước! Trông ông tái xanh ra kìa. 

Bác định bước lại bàn trên có bình nước. Nhưng giáo sư bỗng la lên như đi chân trần dẫm phải thanh sắt nung. 

- Khoan đã, khoan đã! 

Bác thợ ảnh hoảng sợ đứng chết lặng tại chỗ. 

Giáo sư nhanh nhẹn với tay lên bàn chụp lấy cái ly có chất lỏng không màu, vội vàng giơ nó lên trước mắt soi lên ánh sáng. Sau đó ông nhanh nhẹn cho tay vào túi áo lấy ra một cái kính lúp có cán bằng xương và gọi bác Smit: 

- Bác đừng có động đậy! Xin bác đừng động đậy! Và bác hãy giữ con chó cho chặt hơn nữa. Tốt nhất là ôm nó trên tay! Xin bác hãy nghe lời tôi. 

Bác mập hoảng sợ ngơ ngác nhìn giáo sư, không hỏi thêm ông điều gì, bồng con chó lên áp mặt nó vào bụng. 

“Có lẽ ông già phát điên rồi!” – bác nghĩ. 

- Bác cứ như vậy nhé! - Giáo sư kêu lên. 

Tay cầm kính lúp và bò sát mặt đất, ông bắt đầu chăm chú xem xét từng ô vuông trên sàn nhà. 

- Thưa giáo sư! Tôi phải đứng như thế này trong bao lâu nữa? – Bác thợ ảnh rụt rè hỏi, lo lắng theo dõi những cử động khác thường của giáo sư. 

- Bác hãy để chân lên đây! – Giáo sư kêu lên vừa chỉ tay vào những ô vuông gần nhất trên sàn gỗ. 

Bác Smit vụng về đặt chân lên và giữ chặt con chó trong lòng đến nỗi nó nghẹt thở khẽ rít lên. 

- Im đi! – Bác Smit thì thầm, sợ hãi theo dõi giáo sư 

- Bây giờ thì đến chân kia! Bác hãy đặt lên đây! 

Bác mập ngoan ngoãn tuân theo. 

Cứ như vậy, từng bước một giáo sư dẫn bác thợ ảnh ngạc-nhiên-không-thốt-nên-lời ra tới cửa. 

- Còn bây giờ, - Giáo sư nói, mở rộng cánh cửa ra – Còn bây giờ tôi xin bác hãy về đi. 

Cánh cửa sập lại ngay trước mũi bác Smit. 

Ổ khóa Pháp kêu lách cách. Bác mập thả chú Dzhek ra lao xuống cầu thang bỏ rơi cả dép, vừa thở hổn hển chốc chốc lại ngoái lại. Dzhek chạy theo sau và sủa vang. 

Họ chạy như vậy tới đồn công an. 

Buổi chiều, một chiếc xe ô tô có vạch đỏ ở bên sườn đi vào sân nhà. Vài chú công an nhảy ra khỏi xe, gọi người quét sân, rồi leo lên tầng năm nơi giáo sư Enotov sống. 

Nhưng giáo sư không có nhà. 

Trên cửa của ông có treo mẩu giấy gắn bằng đinh ghim sáng loáng. 

“Đừng tìm kiếm tôi, vô ích! Giáo sư I.G. Enotov” 

Chương 2

CHẤT LỎNG KỲ DIỆU – HÀNH VI ĐẦY BÍ ẨN CỦA NHỮNG CHIẾC QUẦN CỤT VÀ NHỮNG CHIẾC XĂNG ĐAN – SỰ BIẾN ĐỔI PHI THƯỜNG TRONG CĂN PHÒNG BÌNH THƯỜNG – CUỘC PHIÊU LƯU TRÊN BẬU CỬA – KARIK VÀ VALIA KHỞI HÀNH CHUYẾN DU LỊCH KỲ LẠ.

Sự việc xảy ra như thế này. 

Hôm trước cái ngày bọn trẻ biến mất Karik ngồi ở phòng làm việc của giáo sư Enotov vào buổi chiều. Vào những giờ như vậy, cậu rất thích trò chuỵên với giáo sư Ivan Gergermogenovich. 

Toàn bộ phòng làm việc như trong ánh sáng lờ mờ. Những bóng đèn dài ngoằng từ những góc tối vươn cao lên trần nhà. Tưởng chừng như ai đó đang giấu mình bí mật theo dõi khoảng ánh sáng trên chiếc bàn lớn. 

Ngọn lửa xanh từ những bếp cồn lắc lư rung rinh vươn tới đáy ám khói của những nồi cổ cong bằng thủy tinh. Trong nồi chất gì đó đang sôi ùng ục. Qua hệ thống lọc, những giọt chất lỏng trong suốt nhỏ tí tách xuống một cái chai. 

Karik co chân lên ngồi thu lu trên ghế bành bọc da lớn nhất. 

Tỳ cằm lên bàn, cậu chăm chú theo dõi bàn tay khéo léo nhanh nhẹn của giáo sư, cố gắng nín thở không động đậy. 

Giáo sư làm việc, huýt sáo, kể cho Karik nghe những mẩu chuyện ngộ nghĩnh về thời thơ ấu của ông, nhưng phần nhiều ông nói về những gì ông đã nhìn thấy ở châu Phi, châu Mỹ, ở Úc, tất cả những cái đó đều thú vị. 

Như bây giờ đây, xắn tay áo choàng trắng, giáo sư cúi mình trên bàn đổ từng giọt chất lỏng đặc sánh vào những cái ly hẹp miệng. 

Đôi khi ông bỏ vào trong cốc ấy những tinh thể lấp lánh, khi đó trong chất lỏng xuất hiện những đám xòe bông quay cuồng rồi hạ xuống đáy. 

Sau đó Ivan Germogenovich đổ từ một ống có chia độ một chất gì màu xanh dương. Không biết vì sao chất lỏng bỗng chuyển sang màu hồng. 

Tất cả những cái đó cố nhiên là rất thú vị và Karik sẵn sàng ngồi trên bàn cho đến sáng. 

Nhưng một đêm Ivan Germogenovich vội vã chùi tay vào chiếc khăn, cầm lấy cổ cái nồi cổ cong lớn rồi nhanh nhẹn gói nó vào trong một tấm giấy màu xanh dương. 

Ông nói: 

- Thế là cuối cùng bác có thể tự chúc mừng mình đạt được. 

- Xong rồi hả bác? – Karik sung sướng hỏi. 

- Xong rồi, bây giờ chỉ còn việc tẩy màu nó và... 

Giáo sư búng tay và cất tiếng hát vang: 

“Ôi chất lỏng, vật kỳ diệu đẹp tươi! 

Ta sẽ tạo nên bao nhiêu chuyện lạ trên đời!” 

Karik bất giác nhăn mặt lại. Giáo sư hát tuy là rất to thật đấy, nhưng ông không có tài âm nhạc nên ông hát bài nào cũng theo cùng một điệu giống như tiếng gió rít trong ống. 

- Thế nếu thỏ không chịu uống thì sao hả bác? – Karik hỏi. 

- Sao lại không chịu uống? – Giáo sư thậm chí còn nhún vai – Chúng ta sẽ bắt chúng phải uống... Nhưng đó là chuyện ngày mai... Còn bây giờ... 

Ivan Germogenovich nhìn đồng hồ rồi bỗng hối hả: 

- Ôi chao, Karik! Chúng ta ngồi quên đi lâu quá! Mười một giờ rồi... Đúng rồi... 11 giờ 2 phút. 

Karik hiểu rằng đã đến lúc phải về nhà. Cậu thở dài, miễn cưỡng, tụt xuống khỏi ghế và hỏi. 

- Thế mai bác sẽ bắt đầu không đợi cháu hay sao? 

- Không đời nào! – Giáo sư lắc đầu – Bác đã hứa với cháu rồi mà. 

- Thế có thể dẫn Valia đến không bác? 

Giáo sư suy nghĩ: 

- Thôi được rồi... Cháu cứ đến cùng Valia... 

- Thế ngộ nhỡ không thành công thì sao bác? 

- Nhất định sẽ thành công chứ! - Giáo sư tin tưởng nói và tắt cái bếp cồn. 

- Và con thỏ sẽ biến thành con bọ chét ư bác? 

- Không đâu! – Giáo sư bật cười – Con thỏ sẽ vẫn là con thỏ thôi. 

- Thế người có bé đi được không bác? 

- Tại sao lại không? 

- Sao lại thế được? – Karik ngập ngừng nói – Con người dù sao cũng là chúa tể của thiên nhiên... Thế mà bỗng nhiên... 

- Bỗng nhiên làm sao? 

- Bỗng nhiên người bé hơn con ruồi... điều đó... 

- Thì sao? 

- Điều đó hơi bất nhã! 

- Tại sao? 

- Cháu không biết nữa! Bà cháu thường nói: Bất nhã! Hôm trước cháu với Valia đọc một quyền sách Guylivé và nhưng người Liliput, bà liền cầm lấy xé đi. Bà nói: mô tả con người bé tí xíu là bất nhã. Thậm chí bà còn giận nữa. Bà nói rằng người lớn hơn mọi súc vật, vì vậy mọi con vật phải phục tùng con người. 

- Thế tại sao người bé hơn voi lại không bất nhã. 

- Nhưng đấy là voi cơ mà. 

- Chuyển lẩm cẩm chú bé của tôi ạ. Con người vĩ đại không phải vì vóc dáng mà vì trí tuệ của mình. Con người thông minh không bao giờ lại suy nghĩ xem bất nhã hay không bất nhã việc uống chất lỏng làm bé người lại đi vào thế giới kỳ lạ của những côn trùng, đặng khám phá ra nhiều điều cần thiết và có ích cho con người. Ngoài ra lại còn... Nhưng mà anh bạn ạ đến lúc phải đi về nhà thôi. 

- Bác Ivan Germogenovich, bác nói cho cháu biết... 

- Không, không, bác sẽ không nói thêm gì nữa. Đủ rồi, gác câu chuyện lại đến ngày mai! Đi về nhà đi, chú bạn nhỏ! Bác mệt rồi, và cháu cũng đến lúc phải đi ngủ. 

Suốt đêm Karik trằn trọc. Trong mơ cậu nhìn thấy con voi màu hồng, bé tí xíu đến nỗi có thể bỏ vào trong cái đê khâu. Con voi uống nước hoa quả, chạy trên bàn xung quang cái đĩa và nghịch ngợm, đến nỗi làm đổ hết muối, còn chính nó thì suýt nữa chết đuối trong nước tương hạt cải. Karik vớt nó ra từ cái lọ đựng tương và rửa nó trong cái đĩa lót chén. Nhưng con voi vùng ra, đập vòi vào Karik. Sau đó nó nhảy lên đầu cậu bé và nói bằng giọng nói của một cô bé quen thuộc nào đó. 

- Karik! Anh làm sao thế? Anh la cái gì vậy? 

Karik mở mắt ra. Valia quấn mình trong cái chăn đang đứng cạnh giường. 

- À, em đã dậy rồi! – Karik nói – Rất tốt! Em mặc quần áo nhanh lên. 

- Để làm gì cơ? 

- Phải đi ngay. Chúng ta đến bác Ivan Germogenovich. Ôi chao, hôm nay ở đó sẽ có nhiều chuyện... Những chuyện thật kỳ diệu! 

- Chuyện gì thế? 

- Mặc quần áo nhanh lên! 

- Em sẽ mặc quần cụt và đi xăng đan nhé! – Valia nói, vội vã thu dọn giường chiếu. 

- Mặc gì tùy ý, nhưng phải mau mau lên! 

Trong khi tìm xăng đan dưới gầm giường Karik thì thầm kể: 

- Em có hiểu không, bác ấy chế ra thật tuyệt!... 

- Chế ra ư? 

- Đúng rồi! Bác Ivan Germogenovich chế ra... một thứ chất lỏng... màu hồng... Em hiểu không? 

- Ngon lắm à! – Valia hỏi, vừa cài khóa dép. 

- Rất ngon... Nhưng mà cũng chưa biết nữa... Chất lỏng dành cho thỏ... Hôm nay bác sẽ cho chúng uống chất lỏng đó. Khi chúng vừa uống xong, thì lúc đó... Úi chà chà! 

- Ồ, thú vị thật! – Valia vỗ tay kêu lên. 

- Thế em có biết chúng sẽ làm sao không? 

Valia mở tròn đôi mắt. 

- Chúng sẽ làm sao hở anh? – Cô bé hỏi, không biết vì sao giọng thì thầm. 

- Bọn chúng ấy à? 

Karik ngẫm nghĩ một lát rồi nói thành thật: 

- Tạm thời cũng chưa biết, sẽ xảy ra chuyện với bọn chúng hay không, nhưng... chúng ta sẽ thấy bây giờ... Cái đó hiện giờ mới chỉ là thí nghiệm. Chúng ta đi mau lên nào. 

Karik theo sau là Valia, khép cửa lại rồi nhẹ nhàng chạy vút qua phòng của mẹ. 

Mẹ gọi với theo cái gì đó, nhưng Karik nắm tay Valia lôi theo mình, giơ ngón tay lên dọa. 

- Im lặng! – Karik thì thầm – Không có bây giờ lại sắp sửa “đánh răng đi, rửa mặt đi, mặc quần áo đi, ăn sáng đi, đừng lúc lắc chân dưới bàn thế...” rồi thế nào cũng sẽ bị muộn! 

Chạy qua sân nhà, chúng lẩn vào cầu thang chính một mạch lên tầng năm. Karik là người đầu tiên nắm lấy quả nắm cửa trên treo mảnh giấy ghi hàng chữ: 

“Chuông không kêu. Xin cứ gõ cửa” 

Karik gõ cửa nhưng không có ai đáp lại. Khi đó cậu kéo quả nắm cửa về phía mình và bỗng nhiên cửa mở ra. 

Bọn trẻ bước vào phòng ngoài sáng lờ mờ. Ở đây hơi lạnh. Trong góc, một cái gương to đang lấp lánh. Ở trên cao, từ trên cái tủ lớn, những cái đầu bằng đồng và bằng đá cẩm thạch ngó xuống bọn trẻ. Trên giá treo áo của giáo sư có áo khoác ngoài, áo lông và một cái áo mưa màu thẫm, giống như cái bàn cờ. 

Trong căn nhà hoàn toàn im ắng. Ở đâu đó rất xa, chắc là ở trong bếp tiếng giọt nước chảy tí tách từ vòi nước. Trong phòng ăn, đồng hồ tích tắc đều đều. 

- Có lẽ bác Ivan Germogenovich đang ở trong phòng làm việc! – Karik – Chúng ta đi mau lên! 

Nhưng cả ở trong phòng làm việc cũng không có giáo sư. Bọn trẻ quyết định đợi ông. 

Cửa sổ phòng làm việc của giáo sư mở toang. Mặt trời mùa hè chói chang soi sáng chiếc bàn to màu trắng. Trên bàn đầy những chai lọ có bụng phình, những nồi cổ cong. Giữa nhưng chai lọ là những chùm ống nghiệm thủy tinh dài ngoằng đặt trong cái cốc. Những cái chén mạ kền bóng loáng lấp lánh đến chói mắt. Nhưng chiếc cối giã bằng sứ tỏa sáng đục. Các bộ phận bằng đồng của kính hiển vi chiếu sáng rực rỡ. Những vệt nắng nhanh nhẹn lướt trên trần, trượt qua bờ tường, nhảy nhót trên những nồi và bình cổ cong. 

Những tủ kính to tướng, trang nghiêm đứng dọc theo bức vách, ở trong đầy những cuốn sách dày mỏng khác nhau. 

Có thể đọc được đầu đề những cuốn sách. Nhưng để hiểu được những chữ vừa đọc thì chắc còn phải học rất lâu nữa. Trên gáy sách có viết những đầu đề bằng chữ vàng như là: “Sinh thái học các động vật”, “Thủy sinh vật học”, “Loài muỗi lắc”, “Giun sán đũa”... 

Tốt hơn là không nên động vào những sách ấy. 

Bọn trẻ lặng lẽ đi khắp phòng làm việc. Lấy tay vặn cái kính hiển vi một chút, lần lượt thay nhau ngồi trên ghế bành bọc da, trên lưng ghế có quàng cái áo choàng trắng của giáo sư, lủng lẳng hai ống tay áo rỗng. Sau đó chúng bắt đầu xem xét những chai lọ, nồi và bình cổ cong. 

- Thế cái bình nào đựng cái chất lỏng ngon ngon ấy? – Valia hỏi – Anh bảo là bác Ivan Germogenovich chế ra cái chất lỏng ngon mà. 

- Ôi chao, em Valia! – Karik nghiêm khắc nói. - Tốt nhất là em đứng xa cái bàn ra và đừng đụng vào bất cứ vật gì. 

- Thì em có đụng đâu! – Valia thở dài và xán lại gần sát cái ly cao và đẹp đựng đầy chất lỏng màu bạc sáng. Từ đáy ly nổi lên những bọt nước nhỏ lấp lánh, rồi lặng lẽ vỡ tan trên bề mặt. Chất lỏng này giống như nước có hơi ga và chắc cũng mát lạnh như thế. Valia thận trọng cầm lấy cái ly cao. Nó lạnh như nước đá. Cô bé đưa ly lại gần mặt và ngửi nó. Nước thơm mùi trái đào và mùi gì nữa rất lạ nhưng rất ngon. 

- Úi chà, thơm quá! – Valia kêu lên. 

- Đặt ngay nó vào chỗ cũ! – Karik giận dữ nói – Đừng có đụng vào bất cứ cái gì. Ngộ lỡ chất độc thì sao! Đứng xa bàn ra, nghe không! 

Valia đặt cái ly vào chỗ cũ, nhưng không lui ra xa bàn. Cái chất lỏng thật là thơm đến nỗi chỉ muốn ngửi thêm lần nữa. 

- Valia, đứng xa ra! – Karik nói – Không có anh mách mẹ cho. Lời nói danh dự của thiếu niên tiền phong đấy. 

Valia đi vòng quanh bàn, ngồi vào ghế nhưng chẳng bao lâu lại quay lại chỗ cũ, như vô tình lại đứng vào trước cái ly. 

- Karik này, anh biết không, đó là nước ga đấy thôi! – Valia nói và bỗng nhiên cảm thấy khát cháy họng, tựa như suốt ngày cô đã ăn món cá hun khói. 

- Đừng có đụng vào! - Karik kêu lên. 

- Thế nếu em khát thì sao? – Valia hỏi. 

- Đi về nhà mà uống nước trà! 

Valia không đáp lại. Cô bước lại gần cửa sổ, ngó xuống phía dưới, nhưng khi Karik vừa quay đi, cô nhảy thật nhanh tới bên bàn, chộp lấy cái ly và nhấp một chút. 

- Đúng là ngon thật! – Valia thì thầm. 

- Valia, em điên rồi hay sao? – Karik la lên. 

- Ôi, anh Karik, ngon lắm thật mà! Anh cứ thử xem! – Và cô bé đưa cái ly cho anh – Lạnh và rất ngon... Chưa bao giờ em được uống thứ gì ngon vậy. 

- Thế lỡ, biết đâu là chất độc thì sao? – Karik nói ngắm nghía chất lỏng màu bạc một cách nghi ngờ. 

- Chất độc thì phải đắng chứ! – Valia phá lên cười – Còn cái này thì rất ngon. 

Karik đổi chân đứng. 

- Chắc là một thứ đồ bỏ nào đó! – Cậu nói và ngập ngừng chìa tay ra phía cái ly. 

- Hoàn toàn không phải đồ bỏ! Anh cứ thử xem. Có mùi trái đào, còn vị như trái bưởi. Chỉ có điều là ngon hơn thôi. 

Karik nhìn khắp xung quanh. Giá như lúc đó giáo sư bước vào thì chắc sẽ có cuộc nói chuyện khó chịu giữa ông và Karik. Nhưng trong phòng làm việc chỉ có mỗi Valia, vì vậy Karik vội vã nhấp vài ngụm rồi đặt ly vào chỗ cũ. 

- Đúng là ngon thật! – Cậu nói – Nhưng không được uống thêm nữa kẻo bác Ivan Germogenovich sẽ nhận thấy mất. Tốt hơn chúng mình ra ngồi trên cửa sổ đi. Bác Ivan Germogenovich chắc sắp về rồi và chúng ta sẽ bắt đầu thí nghiệm. 

- Được rồi! - Valia thở dài tiếc rẻ nhìn cái ly có chất lỏng ngon đến thế. 

Bọn trẻ leo lên đi văng đặt cạnh bàn, rồi từ đi văng trèo lên bậu cửa sổ. 

Chúng nằm nghếch đầu nhìn xuống dưới, chân đung đưa. Từ trên cao chúng ngắm nhìn cái sân ở phía xa. 

Con mèo Anjuta đang lang thang ở phía dưới. Trông nó nhỏ như một thứ đồ chơi. 

- Úi chà, cao quá! – Valia nói và nhỏ nước miếng xuống dưới – Anh có dám nhảy xuống không? 

- Dám chứ! - Karik đáp – Có dù anh nhảy ngay. 

- Thế không có dù thì sao? 

- Không có dù ư? Chịu thôi, có ai nhảy không dù từ trên cao thế này bao giờ. 

Những con én lướt qua cửa sổ bắt những con ruồi nhỏ đang bay. Những con bồ câu xám đậu xuống ban công và bậu cửa sổ. 

- Chuồn chuồn! – Đột nhiên Valia kêu lên – Xem kìa, xem kìa! 

Một con chuồn chuồn màu xanh lơ lao thẳng về phía bòn trẻ có lẽ đang chạy trốn những con én. Trông thấy bọn trẻ, nó lặng đi giây lát trên không rồi lao vào phía bên, đập mạnh vào kính cửa sổ mở, rơi xuống bậu cửa nằm chết giấc. 

- Của anh đấy nhé! – Kark kêu lên. 

- Không, của em chứ! – Valia la – Em nhìn thấy nó đầu tiên mà! 

Con chuồn chuồn nằm trên bậu cửa giữa Karik và Valia, động đậy yếu ớt những cái chân nhỏ xíu. 

Karik định với tay bắt con chuồn chuồn. Bỗng cậu cảm thấy cái quần cụt tụt xuống. Cậu vội vã xúi xuống nhưng chưa kịp nắm lấy thì cái quần đã trượt xuống. Tiếp theo là dép cũng tụt ra khỏi chân. 

Karik định nhảy xuống đi văng bên cạnh cửa sổ nhưng cái đi văng bỗng lao nhanh xuống phía dưới tựa như thang máy trượt xuống từ trên tầng cao. 

Không hiểu ra sao, Karik bối rối nhìn xung qanh. Ngay đó cậu thấy cả căn phòng bỗng giãn ra cả phía trên lẫn phía dưới một cách kỳ lạ. 

- Cái gì thế này? – Karik kinh hãi kêu lên. 

Tường nhà, sàn và trần giãn ra như cái đàn Accordéon khổng lồ. 

Mới chừng một phút mà căn phòng thay đổi không nhận ra được nữa. 

Một quả khí cầu khổng lồ bằng thủy tinh đung đưa trên đầu, xung quanh có nhưng cột băng lấp lánh ánh mặt trời. 

Đó là cái đèn chùm. 

Ở sâu phía dưới là cánh đồng rộng mênh mông màu vàng có điểm những ô vuông đen đều đặn. Trên những ô vuông lăn lóc những thanh củi cạnh hình vuông một đầu đã cháy. Cạnh chúng là cái ống dài màu trắng, trên có đề chữ thật là lớn “Thuốc lá kênh Bạch Hải”. Một đầu đã cháy xém bao phủ bởi một cái mũ tro xám dày đặc. 

Phía bên, những cái ghế đen giống như những ngọn núi bọc da, còn cái áo choàng trắng của giáo sư giống như tuyết vĩnh cửu phủ trên núi cao. 

Ở chỗ trước kia có tủ sách bây giờ mọc lên những ngôi nhà chọc trời bằng kính với những trần nhà màu nâu. Qua các tấm kính, có thể nhìn thấy những quyển sách to như những ngôi nhà năm tầng. 

- Anh Karik, cái gì thế? – Valia thản nhiên hỏi vưa tò mò ngắm nghía sự biến đổi kỳ diệu của căn phòng. 

Bây giờ Karik mới nhận thấy Valia. Cô đứng cạnh cậu, không có dép cũng chẳng có quần cụt. 

- Anh Karik, xem kìa, buồn cười thật! – Cô bé cười ầm lên. Đó là thí nghiệm bắt đầu rồi phải không? 

Karik chưa kịp đáp thì bỗng ở bên cạnh một cái gì vang động ầm ầm. Bụi bốc lên như những đám mây dày đặt bốc cao trên bậu cửa sổ. Valia níu chặt lấy vai Karik. Vào lúc đó gió bỗng nổi lên. Bụi bốc lên rồi tan dần. 

- Ái chà! – Valia kêu lên. 

Ở chỗ trước kia con chuồn chuồn bé xíu nằm thì bây giờ là cả một hình đồ sộ như khúc gỗ có nhiều đốt với cái móc câu khổng lồ phía đuôi. 

Tấm thân màu nâu lấm chấm các vệt màu xanh lam co giật từng hồi. Các đốt chuyển động lúc thì xếp lên nhau lúc lại duỗi ra về một phía. Bốn cái cánh khổng lồ trong suốt phủ đầy những đường gân lấp lánh dầy như mạng nhện rung lên trong không khí. Cái đầu quái đản đập vào bậu cửa. 

- Anh Karik! – Valia thì thầm – Con gì thế? 

- Suỵt! 

Thận trọng từng bước một, Karik bước lên bậu cửa, bây giờ giống như con đường ô tô chạy. Nhưng mới được mấy bước cậu đã sững lại. 

Cậu đang đứng trên bờ vực thẳm. 

Cậu có cảm giác như đang đứng trên nóc nhà thờ Isak Kievski (1). 

Và lúc đó Karik chợt hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cậu quay lại phía Valia, cầm lấy tay cô, lắp bắp và sợ hãi, nói: 

- Cái đó... cái đó chắc là nước dành cho thỏ... Em hiểu không?... Thí nghiệm của giáo sư đã thành công... có điều không phải những con thỏ bé lại mà là anh với em. 

Valia không hiểu gì hết. 

- Thế đây là cái gì hở anh? – cô hỏi và chỉ vào con quái vật đang nằm bất động trên bậu cửa. 

- Đây ư?... Đây là con chuồn chuồn! 

- To thế này ư? 

- Hoàn toàn không to, - Karik, chán ngán trả lời – Nó vẫn như trước kia thôi. Nhưng anh và em thì trở nên bé tí xíu... tự như con bọ chét. 

- Hay thật! – Valia vui mừng nói. 

- Đồ ngốc! – Karik phát cáu – Hay ho cái gì!... Người ta sẽ cho chúng ta vào chai lọ và ngắm nhìn qua kính hiển vi. 

- Còn theo em nghĩ, - Valia nói đầy tự tin – Thì người ta sẽ không ngắm nhìn chúng ta đâu. Bác Ivan Germogenovich sẽ về và biến chúng ta trở lại như trước. 

- Vâng!... To lớn như trước! Bác ấy thậm chí cũng sẽ chẳng nhận thấy chúng ta! 

- Chúng ta sẽ kêu lên! 

- Bác ấy sẽ không nghe thấy! 

- Không nghe thấy ư? Tại sao lại thế? Bác ấy có bị điếc đâu? 

- Bác ấy thì không điếc nhưng, tiếng nói của chúng mình bây giờ chắc chỉ nhỏ bằng tiếng muỗi. 

- Thế ư? – Valia mỉm cười hoài nghi và lấy hết hơi sức gào lên: - Ê... hê! Chúng cháu đang ở đây! 

Cô ngước nhìn Karik rồi hỏi: 

- Thế nào? Nghe không rõ ư? 

- Đối với chúng ta thì rõ, còn đối với Ivan Germogenovich thì không. 

- Thế bây giờ chúng ta bị làm sao không? 

- Chả có gì đặc biệt cả! Người ta sẽ dùng giẻ lau chùi chúng ta khỏi bậu cửa rồi dẫm chân lên thế là xong... 

- Ai sẽ chùi chúng ta? 

- Chắc là bác Ivan Germogenovich chứ ai! 

- Chùi bằng giẻ lau? 

- Đúng rồi! Bác ấy sẽ chùi bụi rồi chùi luôn cả chúng mình cùng với bụi. 

- Thế chúng mình... chúng mình... chúng mình... Anh Karik này, em nghĩ ra rồi... Anh biết không chúng mình sẽ leo lên con chuồn chuồn. Ivan Germogenovich thấy con chuồn chuồn chết nhất định sẽ nhặt lên để trên bàn, lúc đó chúng mình sẽ chui dưới kính hiển vi và bác ấy sẽ nhìn thấy chúng mình... Nhất định bác ấy sẽ thấy mà! Rồi biến chúng mình to trở lại... Leo lên chuồn chuồn mau lên! 

Valia nắm tay Karik: 

- Leo lên đi anh! 

Bọn trẻ giúp đỡ nhau nhanh nhẹn leo lên con chuồn chuồn. Nhưng vừa lên thì con chuồn chuồn bỗng động đậy, đập cánh ầm ầm như sấm, trở mình thở phì phì như cái ô tô. 

Bọn trẻ cảm thấy tấm thân con chuồn chuồn rắn chắc và khỏe mạnh bắt đầu uốn cong lên ở dưới chúng. 

- Ôi chao, nó còn sống. Trèo xuống ngay đi anh! - Valia thét lên. 

- Không sao, không sao, giữ cho chắc! 

Bọn trẻ dùng cả chân tay ôm chặt lấy thân con chuồn chuồn nhưng nó vẫn uốn cong cả thân mình định giải thoát khỏi gánh nặng khó chịu. Karik và Valia lắc lư, bật nẩy lên như ngồi trên lò xo. 

- Ôi! Nó hất chúng ta xuống mất! – Valia thét lên. 

- Khoan đã nào! - Karik kêu lên – Anh sẽ... Nào, đứng yên! 

Cậu bò lên đầu con chuồn chuồn, cúi xuống dùng hết sức đấm tay vào mắt nó mấy cái. 

Còn chuồn chuồn rùng mình, uống cong người lại rồi chết lặng đi. 

- Hình như nó lại chết rồi! Valia nói. 

- Để xem đã. 

Karik leo xuống, đi vòng quanh con chuồn chuồn rồi dùng hai tay nắm lấy cái cánh trong suốt như tấm mica cố sức nâng nó lên. Con chuồn chuồn không động đậy. 

- Nó chết rồi. – Karik tin tưởng nói và leo lên con chuồn chuồn. 

Một hồi lâu bọn trẻ ngồi lặng lẽ, đôi khi ngắm nhìn cánh cửa, nhưng chẳng bao lâu chúng thấy buồn tẻ và bắt đầu xem xét con chuồn chuồn. Karik leo lên cánh định dứt nó ra khỏi thân. Nhưng cánh rất chắc. Khi đó Karik nhảy lên đầu chuồn chuồn, đập gót chân vào mắt nó. 

- Úi chà, mắt nó ghê thật! Em thấy không? 

- Ừ! 

Valia rụt rè thò tay thận trọng sờ vào cặp mắt lạnh lẽo như pha lê. 

- Kinh thật! 

Con chuồn chuồn quả có cặp mắt kỳ lạ - to và lồi như cái đèn pin, bao phủ bởi hàng ngàn cạnh đều nhau chúng tỏa sáng xanh biếc từ bên trong. 

Cặp mắt kỳ lạ ấy cùng một lúc nhìn vào cả Karik, Valia, sân nhà, bầu trời, trần nhà lẫn sàn nhà. 

Dường như trong mỗi con mắt chiếu sáng hàng ngàn mắt xanh biếc và tất cả chúng đều nhìn tinh tường chăm chú. 

Ở phía trước những con mắt to ấy, ngay sát đầu còn có ba con mắt nâu nhỏ nữa và chúng cũng tỉnh táo theo dõi bọn trẻ. 

- Anh biết không, – Valia nói – Tuy vậy nó vẫn sống. Nó đang nhìn đấy, anh thấy không? 

- Thế thì sao nào? 

- Phải giết nó thêm một lần nữa. Lỡ nó sống lại thì sao?... Anh có biết chuồn chuồn ăn gì không? 

- Hình như nó ăn cỏ hay mật hoa thì phải. – Karik nói lơ mơ – Anh cũng không nhớ rõ nữa. Nhưng mà sao? 

- Em sợ nó sống lại sẽ ăn thịt chúng ta. Ai biết được chuồn chuồn hay ăn gì? Tốt nhất là cứ giết nó thêm một lần nữa. 

Valia đã thò chân xuống sàn định trèo xuống, nhưng vừa lúc ấy một tiếng nổ rền như sấm trong căn nhà. Sau đó vang lên tiếng thình thịch nặng nề đều đều. 

- Cái gì thế? – Valia chết lặng đi. 

- Đó là... Hoan hô! Đó là bác Ivan Germogenovich đang đi! – Karik vui mừng reo lên. 

Valia vội vàng trở lại vị trí cũ. 

Cánh cửa sập vào. Một làn sóng không khí dội vào cửa sổ. Một người cao như núi, râu như một đụm bông trắng bước vào phòng làm việc. 

Đến đây Karik và Valia dùng hết sức mình kêu lên. 

- Bác Ivan Germogenovich! 

- Bác Ivan Germogenovich! 

Con người cao như núi mở to mắt. Bàn tay to bằng cái bàn ăn bay lên cao, dừng lại ở vành tai có những chòm lông bạc trắng dày như những cái bút chì. Ông ngó quanh, lắng nghe, rồi nhúng vài tỏ ý không hiểu. 

- Ivan Germogenovich! I-i-van Germogenovich! – Karik và Valia cùng gào lên. 

Con người cao như núi thở dài ầm ĩ. Trong phòng khắp chỗ đều rền vang. Suýt nữa bọn trẻ cùng con chuồn chuồn bay nhào xuống sân đá. 

- Lại đây! Chúng cháu ở đây! 

Con người cao như núi bước lại gần cửa sổ. 

- Hoan hô! – Karik kêu lên – Bác ấy nghe thấy rồi. 

- Chúng cháu ở đây, ở đây! - Valia gào lên. 

Người cao như núi dừng lại. 

- Đến với chúng cháu! Ở đây! Chúng cháu đang ở đây! – Bọn trẻ hò la. 

Người cao như núi bước lại gần cửa sổ. 

Nhưng đột nhiên con chuồn chuồn động đậy, chuyển động đôi cánh như mica kêu răng rắc làm bốc lên đám mây bụi dầy đặc trên bậu cửa sổ rồi cùng với Karik và Valia lao xuống dưới, chìm vào đại dương không khí xanh lơ. 

- Anh ngồi cho vững! – Valia kêu lên, ôm lấy Karik. 

--- 

(1) Một nhà thờ lớn ở Lêningrad (N.D) 

Chương 3

Con chuồn chuồn bay, vỗ ầm ĩ những cái cánh cứng và trong suốt, chúng kêu rền vang như tấm sắt. 

Gió mạnh thổi ngược lại, giật tóc, rít ầm ĩ đinh tai. 

Nó đập vào mặt làm mắt không nhìn thấy gì. Thở khó khăn. Bấu chặt lấy con chuồn chuồn, ôm nó bằng cả tay lẫn chân, bọn trẻ ngồi dở chết dở sống. 

- Anh Karik? – Valia kêu lên trong tiếng rít của gió – Em biết giữ làm sao đây? Gió cứ lôi em... lôi em xuống dưới đấy! 

- Im đi không có ngã cả hai bây giờ! - Karik kêu lên, suýt nữa tắt thở vì gió. 

Gió thổi mạnh đến nổi tưởng chừng như sắp giựt Valia và Karik ra khỏi con chuồn chuồn và ném chúng xuống dưới. Bọn trẻ cố khom mình xuống sát lưng con chuồn chuồn, nhưng cũng không đỡ hơn. 

- Nằm xuống, Valia! – Karik kêu lên, cố nằm dài thân mình ra. 

Valia bắt chước anh. 

- Thế nào? – Karik kêu lên – Có đỡ không? 

- Có đỡ hơn đôi chút! 

Thực vậy, sức ép của gió bây giờ không đến nỗi mạnh như trước. Bây giờ có thể mở mắt ra nhìn xung quanh được rồi. 

Không ngẩng đầu lên, Valia kêu: 

- Thế này thì cũng không sợ lắm! 

Trong tiếng ầm ĩ của gió Karik chỉ nghe thấy hai chữ “sợ lắm”. 

Cậu quay đầu lại một chút, cố gắng nói to và bình tĩnh: 

- Không sao đâu, hãy giữ cho chắc! 

Chuồn chuồn lướt đi, nhịp nhàng bay lên cao rồi lao nhanh xuống dưới. 

- Ôi chao, anh Karik! – Valia rền rĩ – Nó muốn ném chúng ta xuống đất đấy. 

Nhưng Karik không nghe thấy tiếng Valia. 

Cậu chăm chú theo dõi hoạt động của cánh chuồn chuồn. 

Hai cánh trước đặt lên không khí hầu như bất động. Nó chuyển động rất ít hầu như không thấy được. Thình thoảng nó nghiêng về phía trước hay về phía sau. Lúc đó con chuồn chuồn hạ thấp xuống hoặc bay lên cao. 

Như vậy những cái cánh đó dùng để lái và cũng để giữ thăng bằng trong khi bay. 

Nhưng còn hai cánh sau lấp loáng như cánh chong chóng. Nó gầm rít quạt không khí về phía sau, đẩy chuồn chuồn đi về phía trước. 

Bây giờ thì những cánh sau bắt đầu vểnh lên cao đột nhiên dựng đứng lên như cánh buồm. Gió thổi đều đều sau lưng. Con chuồn chuồn lướt đi êm như cánh buồm trong không khí. 

- Úi cha, thật thú vị! – Valia thì thầm – Giá như người ta làm cái máy bay như vậy nhỉ. 

Karik lườm em, hấm hứ, không bằng lòng. Cái tính nhẹ dạ của cô bắt đầu làm cậu bực mình. 

- Ngồi im đi! – Cậu cau mày nói. 

Nhưng Valia không sao ngồi im được, mà ngồi yên sao được cơ chứ? 

Những con vật có cánh khổng lồ bay qua lại, nhanh như những đoàn tàu hỏa chạy ngược chiều, quạt gió vào bọn trẻ. Chúng bay nhanh đến nỗi không kịp hiểu xem chúng là nhưng con gì. Chim ư? Ong ư? Hay chuồn chuồn? 

Valia chốc chốc lại kêu lên. 

- Con gì đấy? Anh thấy không hả anh Karik? 

Suýt nữa thì chúng đâm vào một con cánh cam to như cái xe tăng. Nó phơi bộ cánh vàng tím sặc sỡ chói chang dưới ánh nắng mặt trời nhìn đến lóa mắt. 

Con cánh cam bay thẳng vào con chuồn chuồn. Cuộc đụng độ tưởng như không tránh khỏi. Đột nhiên chẳng cần quay lại nó bay ngược lại phía sau cũng nhanh như vậy. 

- Bay giật lùi! – Valia kêu lên – Nó có thể bay giật lùi. Anh thấy không? 

Đột nhiên dưới cánh có cái gì kêu vù vù. Một con vật tròn lông lá không hiểu từ đâu hiện ra ở phía dưới. Nó quặp chân xù xì dưới bụng, vù vù bay lại theo đường ngoằng ngoèo. Cặp cánh phớt xanh của nó lấp lánh dưới mặt trời, lúc thì lóe sáng xanh lúc lại tắt đi. 

- Con gì thế? – Valia hỏi. 

- Con ruồi! Có điều nó rất to! Như nhìn dưới kính hiển vi ấy. 

Khoảng cách giữa con ruồi và chuồn chuồn ngày càng rút ngắn lại. Bây giờ thì Valia đã nhận ra con ruồi. Nó to như vẽ trong cổ động: “Hãy đề phòng ruồi – chúng truyền bệnh lây...”. 

Valia chưa kịp nghĩ xem ruồi mang bệnh lây gì, thì con ruồi bỗng bay ngoắt ngoéo lao về phía dưới. 

Con chuồn chuồn lúc lắc cái đầu khổng lồ, lấp lánh cặp mắt to tướng trông như pha lê, đuổi theo con ruồi. 

- Úi chà! – Valia kêu lên nắm chặt lấy chân Karik. 

- Giữ cho chắc! – Karik đáp. 

Bắt đầu những cái ngoặt kinh hồn, những cái vọt lên cao rồi lao xuống dốc đến chóng mặt. 

Đuổi theo con ruồi, chuồn chuồn lúc thì rơi thẳng xuống như viên đá, lúc đan thành những vòng ngoằn ngoèo, lúc lượn nghiêng bay nhào vào con ruồi, giơ nhưng gọng kìm khổng lồ đầy gai nhọn ra. 

Còn ruồi quay ngửa lên bay bằng lưng, chân chống lên trên. Chân nó đạp dữ dội cố đẩy gọng kìm của chuồn chuồn ra nhưng tất cả đều vô ích. 

Con chuồn chuồn chộp được còn ruồi. Những gọng kìm khép lại. 

Cánh ruồi kêu răng rắc. 

Gọng kìm sập vào như hai lưỡi kéo. 

Rộp! 

Rộp! Chân cẳng và cánh của con ruồi bất hạnh quay tròn trong không trung từ từ rơi xuống đất. 

Những gọng kìm khỏe mạnh lại sập vào một lần nữa. Nó nghiền nát con ruồi bẹp dí như miếng bánh tráng rồi cho vào cái miệng đen ngòm. 

Karik và Valia lặng lẽ nhìn nhau. 

Hóa ra chuồn chuồn ăn uống như vậy. Valia thì thầm: 

- Thế mà anh cứ bảo nó ăn mật hoa! 

Cô bé hoảng sợ. Nếu chuồn chuồn ăn những con ruồi đó như thế thì nó có thể nuốt trôi Karik và Valia như bỡn thậm chí còn không nhận biết nữa. 

Bọn trẻ lặng thinh. 

Từ xa thấp thoáng những cái cánh khổng lồ sặc sỡ. Đầu cánh có điểm những chấm nhung đen. Ở bờ cánh kéo dài ra những sẹo đen tựa như đường viền khăn tang. Đôi cánh nhảy múa trong không trung nâng đỡ tấm thân uốn cong giống như quả khí cầu rằn ri. Những cái râu dài có mấu ở đầu rung rinh đưa lên đưa xuống. 

Lúc bay lại gần, bọn trẻ nhìn thấy ở trên cánh có cái vẩy phủ một lớp phấn sặc sỡ mềm mại. 

Đôi cánh ngờ nghệch quay tròn trong không trung, phập phồng như cánh buồm trước gió. 

Bây giờ con vật sặc sỡ ấy đã nhìn thấy con chuồn chuồn. Nó cuốn quýt vẫy đôi cánh rồi khép cánh lại bắt đầu rơi thẳng xuống dưới, nơi thấp thoáng những cánh rừng, đồng cỏ và hồ nước. 

Nhưng nó không thoát được còn chuồn chuồn. 

Con chuồn chuồn lao theo nó, dùng ngực đập vào làm nó bắn sang một bên. Khi còn vật màu sặc sỡ bị lật ngửa lên không trung, con chuồn chuồn chộp lấy nó, vặn cổ, bứt cánh và nuốt chửng trong chớp mắt. Rồi nó lại lao đi như cái máy bay, đôi cánh hùng mạnh của nó kêu rền vang và trên đầu gió lại cất tiếng hát rì rầm. 

- Nó ăn con gì thế? 

- Con bướm! – Karik kêu lên cố át tiếng ầm ầm của gió – Hình như con bướm thì phải. 

Con chuồn chuồn có vẻ rất đói. 

Chẳng mấy chốc nó lại nuốt thêm một con ruồi rồi lại một con bướm nữa – lần này là con bướm trắng điểm chấm xanh, và một con muỗi. 

- Thật là đồ phàm ăn! – Karik kêu lên. 

Valia chỉ co ro thu mình lại. 

Những đám mây trôi trên bầu trời. 

Từng lúc che khuất mặt trời và khi đó bóng mát màu xanh lạnh lẽo trùm lên mặt đất. 

Bây giờ bọn trẻ kinh ngạc nhận thấy cử chỉ khác thường của con chuồn chuồn mỗi khi những đám mây lướt tới mặt trời. 

Mặt trời vừa bị che khuất là con chuồn chuồn trở nên uể oải chậm chạp, liệng xuống thấp như một cái tàu lượn. 

Nhưng mặt trời vừa ló ra khỏi đám mây nó trở nên linh hoạt. Nó vỗ cánh nhẹ nhàng và nhanh nhẹn leo lên trên cao săn mồi như trước. 

- Anh Karik, – Valia kêu lên - Anh có nhận thấy con chuồn chuồn làm sao ấy không? 

- Có, có! – Karik gật đầu. 

Cậu còn nhận thấy đôi điều khác nữa. 

Khi rơi vào trong đám tia mặt trời, thân mình con chuồn chuồn căn phồng lên, còn khi chuồn chuồn rơi vào khoảng tối lạnh của bóng mát thì thân hình nó co lại, nhũn ra như quả bóng bị xì hơi. Sự thực đúng là như vậy, nhưng bọn trẻ chưa biết hết điều đó nên chúng không sao hiểu được cử chỉ khác thường của con chuồn chuồn. 

Cuộc săn mồi vẫn tiếp tục. 

Con chuồn chuồn ăn ruồi, bướm và muỗi không biết mệt. 

Giả sử nếu bọn trẻ muốn đặt cho cái máy bay sống của mình một cái tên nào đó, thì không thể nghĩ được cái gì hơn là danh hiệu: “Thần chết của ruồi muỗi”. 

Trong lúc đuổi bắt một con bướm trắng, con chuồn chuồn ngoặt một cái thật mạnh. Valia tuột ra khỏi lưng con vật phàm ăn có cánh. Đáng lẽ cô rơi xuống đất rồi, nếu như không kịp túm lây chân Karik. Nhưng chính Karik cũng ngồi chưa vững trên lưng chuồn chuồn. 

- Giúp em với! – Valia kêu lên. 

- Anh... chịu thôi! – Karik phều phào nói. 

Valia lôi cậu xuống phía dưới như một quả tạ buộc vào chân. Cậu cố bám tay vào cạnh sườn chắc nịch và trơn bóng của con chuồn chuồn. Nhưng vô ích! Tay cậu tê dại. Ngón tay trượt đi. Với sự tuyệt vọng của kẻ sắp chết, cậu tỳ cằm vào cánh chuồn chuồn, còn một tay ôm lấy thân của nó. 

Nhưng cậu không đủ sức leo lên trở lại nữa. 

- Không, anh hết sức rồi! – Karik kêu lên. 

Ở sâu phía dưới tựa như đáy vực thẳm mặt hồ trong xanh mênh mông trôi lướt qua. 

Những đám lau sậy xanh nổi trên mặt nước chen chúc nhau chạy dọc bên bờ. Những đám hoa súng trắng dày đặt tựa như gắn chặt vào mặt hồ xanh biết phẳng lặng. 

Còn chuồn chuồn ngoặt một cái thật mạnh. 

Một luồn gió mạnh quật vào ngực Karik. Tay cậu trượt trên lưng chuồn chuồn một lần cuối cùng. 

Karik nhắm mắt, trái tim thắt lại, câu chết lặng đi: dưới chân cậu mọi vật đều sụt nhào, bên tai gió gào rít liên hồi. 

Bọn trẻ bay xuống dưới. 

- Y... y! – Valia thét lên. 

- A... a! – Karik gào to. 

Bọn trẻ rơi nhào lộn trong không trung. 

Nhiều lần đất, trời đổi chỗ cho nhau. 

Trời. 

Đất 

Trời. 

Đất. 

Ùm! 

Ùm! 

Bọn trẻ đâm nhào xuống mặt hồ phẳng lặng như gương làm tung bọt nước tựa giếng phun. Chúng rẽ làn nước lạnh, rơi xuống đáy như hòn đá. 

Chúng đập chân vào đáy và lại bắn vọt trở lại mặt hồ như hai cái nút chai. Choáng người vì bị rơi mạnh, chúng quay tròn một chỗ không hiểu đầu đuôi ra sao. 

Karik hồi tỉnh lại trước nhất. Cậu khạc nhổ nước ra khỏi miệng và kêu lên. 

- Phải bơi vào bờ cho nhanh! 

Valia bị sặc nước, lên tiếng hỏi. 

- Bờ ở đâu? 

Karik hất đầu vè phía xa, nơi rừng cây rậm rạp như bức tường thành. 

- Úi cha! Liệu có bơi được đến đó không? - Valia thút thích khóc. 

- Tất nhiên là sẽ bơi đến nơi! – Karik tin tưởng nói – Có điều không nên vội, khi nào mệt thì bám anh. Chúng ta sẽ nghỉ bằng cách bơi ngửa. Nào, bơi theo anh đi. 

Chúng bơi về phía bờ thở phì phì bắn tung bọt nước. 

Bỗng Valia thét lên: 

- Xem kìa, con gì thế kia? Nó đang chạy lại phía chúng ta đó! 

Một con vật kỳ lạ đang lướt trên mặt nước bằng những cái chân dài và hơi cong gập lại. 

- Con gì thế? 

- Anh không biết! – Karik thì thầm, thụt đầu vào vai. 

- Liệu nó có cắn không? 

- Anh không biết! 

Con vật lướt đi như người trượt băng, mỗi lúc một gần hơn. 

- Cái con này... chắc không giống chuồn chuồn chứ? – Valia thì thầm hỏi. 

- Anh không biết nữa... Nhưng em cứ chuẩn bị phòng xa... Nếu nó tấn công thì lặn xuống thật sâu nhé. 

Con vật giang rộng những cái chân dài lướt đi trên mặt nước. Theo đà chạy, nó khéo léo nhảy qua những cây cỏ mọc dưới nước. 

Những cái phao – giày trượt băng để lại trên mặt nước một vệt sóng lăn tăn rất khó nhận ra. 

- Đây là con đo nước đấy mà! – Karik kêu lên – Đúng rồi! Một con đo nước bình thường. Có điều rất to thôi. 

Con đo nước khổng lồ lại gần nhanh kinh khủng. Tấm thân màu nâu phủ đầy lông phớt trắng khẽ lắc lư theo bước đi. Hai mắt to hình quả cầu trố ra nhìn bọn trẻ. Những lúc rẽ ngoặt con đó nước hất những chân sau về phía sau và sang hai bên, kéo lê chúng theo, khẽ quay mình lúc sang phải, lúc sang trái. Có lẽ nó sử dụng chân sau như bánh lái. Con đo nước lao thẳng vào bọn trẻ. 

- Úi cha! – Valia kêu lên. 

Con đo nước lúc lắc cái đầu, giơ lên cai cái vòi dài như ngọn giáo, nhọn như mũi kim. Đầu vòi rung rung như cái lò xo thép bị vuốt thẳng ra. 

- Nó chém giết bằng cái đó đấy! – Valia kêu lên. 

Con đo nước lại gần hơn nữa. Nhắc những chân trước lên khỏi mặt nước nó nhắm về phía Valia. Ngay lập tức Karik nắm tay em kéo xuống dưới nước. Bọn trẻ lặng xuống, chỗ bọn trẻ lúc trước vừa bơi chỉ còn lại những vòng tròn và bọt nước lăn tăn. 

Con đo nước bối rối đưa cặp mắt tròn nhìn quanh. Nó không hiểu gì cả. Con mồi vừa ở ngay trước mũi – thế mà đột nhiên... 

Thế là thế nào nhỉ? 

Con đo nước nhìn xung quanh một lần nữa khép cái vòi vào cái bụng trắng, trượt trên mặt nước đi tiếp ra xa. 

Thở phì phì và khạc nhổ nước ra, bọn trẻ nổi lên từ dưới nước. 

- Nó đâu rồi? – Valia hỏi, thở hổn hển. 

- Phù! Anh không biết! – Karik khẽ đáp lại – Có lẽ nó đi mất rồi. 

- Nó đi đâu hả anh? 

Karik bực mình nói: 

- Vào bờ đi nào, bơi đi và đừng nói chuyện nữa! 

Bọn trẻ lặng lẽ bơi hồi lâu, e sợ nhìn xung quanh. 

- Ôi chao! Cái gì thế này? - Valia bỗng khóc thút thít, cảm thấy chân mình ở dưới nước bị mắc vào mạng lưới rối tinh nào đấy. 

Cô giựt chân ra một lần nữa – vẫn còn mắc! Giựt mạnh hơn – nhưng những cái lưới mắc vào ngón chân và quấn khắp chân trái đến tận đầu gối. Valia định dùng chân phải gỡ ra, nhưng hàng trăm sợi chỉ nhỏ và chắc chắn quấn nốt cả cái chân ấy. 

- Nào, em ở đó làm sao thế? – Karik ngoái lại hỏi em. 

- Lưới! – Valia kêu lên – Con gì đang giữ em lại đây này! Những cái lưới gì đó ở dưới nước... 

Karik thở phì phì, quay lại chìa tay cho Valia. 

- Nào, nắm lấy tay anh đi! 

Nhưng cậu chưa kịp với tay tới Valia thì đã cảm thấy chân mình cũng bị mắc vào lưới. 

Bọn trẻ ra sức đập tay trên mặt nước. 

Nước réo ùng ục như trong nồi xúp-de. 

- Ôi! Ôi! - Valia khóc thút thít – Em chịu thôi... Không làm sao được nữa... 

- Mạnh lên! Mạnh nữa lên! Đừng chịu thua! 

Nhưng tất cả đều vô ích. Bọn trẻ không cựa quậy được nữa. Những tấm lưới chắc chắn và nhớp nháp không chỉ quấn ở chân mà khắp cả thân mình, kéo chúng xuống dưới nước. 

Một phút, hai phút – mặt nước khẽ vỗ nhẹ khép kin trên đầu chúng. 

Bị sặc nước và thổi ra bong bóng, bọn trẻ chìm sâu mãi. 

Bỗng những cái xúc tu khỏe mạnh của con vật nào đó sờ soạn tay chân bọn trẻ, giựt chúng ra khỏi cái lưới, tóm chặt lấy và lôi xuống một cái đáy tối đen. Bọn trẻ bị sặc một thứ nước âm ấm và tanh tưởi. 

Trước mắt chúng bồng bềnh những vòng tròn màu vàng, tai ù lên tiếng rít: “ti-i-ti-i”! 

Chỉ một giây nữa thì bọn trẻ đã chết ngạt rồi. Nhưng ngay lúc đó Karik và Valia bị ném mạnh lên trên và phổi của chúng lập tức tràn đầy không khí. 

Thở sâu một vài cái, Karik mở mắt ra. Cậu nhìn thấy khuôn mặt ướt đẫm, đầy sợ hãi của Valia. Cô há to miệng cố nói điều gì đó, nhưng từ trong miệng chỉ có nước chảy ra. 

Bọn trẻ lửng lơ trong không trung. Một cái chân xù xì khổng lồ giữ chúng cao trên mặt nước. 

Bây giờ thì có thể thở được rồi. Nhưng ở trên đầu, thay vì bầu trời xanh và mặt trời tươi tắn, là một cái vòm tối đen phủ đầy rêu mốc. Những bức vách u ám và ẩm ướt nhô lên từ dưới nước. 

Valia òa khóc. 

- Biết làm sao được! – Karik buồn rầu nói – Mọi người rồi ai cũng đến lúc phải chết. Đừng khóc, em Valia. 

Mặt nước đen sủi dựng lên như một cái bướu – rồi bỗng cái bướu vỡ ra. Karik và Valia trông thấy một con vật to béo từ từ nổi lên. Bên cạnh thân của nó xuất hiện những cái chân xù xì, những cái chân khác rồi lại những cái chân khác nữa. Cuối cùng, qua làn nước mắt, bọn trẻ nhìn thấy toàn bộ mặt con nhện khổng lồ. Nó lắc lư trên mặt nước, nhìn Karik và Valia bằng cặp mắt lạnh lùng dữ tợn. 

Tám con mắt nhỏ, không chớp như mắt rắn nhìn trừng trừng vào bọn trẻ, canh chừng mỗi cử động của chúng. Karik và Valia giẫy dụa vùng ra, nhưng con nhện bóp chặt chân lại đến nỗi bọn trẻ không kêu lên được nữa. 

Con quái vật tám mắt quay ngược bọn trẻ đầu chúc xuống đất rồi gói cuộn chúng lại thật nhanh... Bọn trẻ tối mắt ù tai. 

Karik và Valia ngất đi.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: