khủng khíp

Illuminati

ày theo số La Mã trên biểu tượng là 1776 , đó là năm thành lập của hội kín Illuminati và cũng chính là năm ra đời Hợp Chủng Quốc Hoa Kì . Từ Latin 'E Pluribus Unum' nghĩa là " 1 phần của rất nhiều " , đây là nền móng cho kế hoạch thống nhất toàn thế giới của New World Order về : chính phủ , tôn giáo và tiền tệ . Vì vậy thế giới có thể được kiểm soát dễ dàng.

Tỷ lệ các cạnh của Kim Tự Tháp là 600, 60, 6 tương ứng với con số của quỷ SATAN 666 theo hình sau:

See below for more Masonic hidden symbolism.

Hệ thống chữ số mà hội Tam Điểm thiết kế nên biểu tượng là hệ lục phân (của người Babylon),nếu quy đổi sang hệ thập phân tương ứng là 1000,100,10.Nếu ta cộng lại các số trên ta được 1000+100+10+600+60+6=1776 là năm thành lâp tổ chức đồng thời là năm thành lập Hợp Chủng Quốc Hoa Kì.Sáu chữ trên các đình tam giác khi ghép lại tạo thành chữ MASON( nghĩa là hội Tam Điểm)

Giờ đến biểu tượng con đại bàng .Hãy nhìn lên trên đầu con đại bàng , bạn sẽ thấy có 13 ngôi sao 5 cánh bên trong đám mây . Những ngôi sao 5 cánh được sắp xếp theo hình dạng của 1 ngôi sao 6 cánh . Nhưng có 1 điều : ngôi sao 6 cánh là biểu tượng của những kẻ thờ quỷ Satan . Đó cũng chính là hình có 6 điểm , 6 góc , 6 mặt phẳng ( 666 ) , dấu hiệu của những kẻ chống Chúa .

Tiếp tục ta thấy được có:

13 chiếc lá trên cành oliu

13 thanh chắn và vệt sọc trên chiếc khiên

13 mũi tên ở móng phải ( móng vuốt con đại bàng )

13 chữ ở trên ruy-băng

13 ngôi sao

32 chiếc lông dài bên cánh phải tượng trưng cho 32 cấp bậc trong luật Hội Tam Điểm

13 hòn đá trên Kim Tự Tháp.

Ngoài ra , 13 ngôi sao 5 cạnh trên đồng tiền nếu nhân lên sẽ ra số 65 . Đây là 1 con số bí ẩn trong chủ nghĩa thần bí Châu Âu .Năm 1841 , đại bàng đã thay thế cho phượng hoàng vào để trở thành biểu tượng của quốc gia.

Kế đến bạn hãy nhìn vào đồng 1 USD của Hoa Kì do hội Tam Điểm thiết kế:

Ta thấy chúng có nhiều điểm tương quan với nhau như:

Ở bên phải bức hình chân dung George Washington trên đồng 1$ ( tiền giấy ) bạn sẽ thấy dòng chữ "Seal of the Department of the Treasury" ( nôm na nghĩ là dấu ấn của kho báu ) . Nó gồm có : chìa khóa , cái cân của công lí và hình vuông - biểu tượng cực kì quan trọng của HTD ( xin chú ý là cái hình vuông theo lời của họ chính là hình ^ ngăn cách cái cân và chiếc chìa khá đó ) . Nếu nhìn vào hình ngăn cách bạn sẽ thấy có 13 lỗ trong đó , và có 39 chấm xanh bao quanh 3 hình này ( chìa khóa , cái cân và hình ngăn cách ) . Hãy nhớ đó là 39 . Chia đôi sẽ được 19.5 . Số 19.5 có thể bắt gặp trong các thiết kế của Cydonia, Mars, Avebury, England and Washington D.C.

Hình trên cho bạn thấy được một con cú nhỏ ờ góc bên phài tờ 1 USD

Khá nhiều lần các chính trị gia của Mỹ giơ tay về phía máy ảnh với bàn tay hình con cú. ( chính là cái emo này )

Qua đó ta thấy được sự liên quan nào đó giữa tổ chức Illuminati ,biễu tượng của HK,và đồng 1 USD.Vậy liệu thật sự có một tổ chức nào đuợc thành lập để kiễm soát hậu trường chính chị trên thế giới khi đa phần những người thành lâp nên quốc gia HK là thành viên của hội Illuminati.

Không dừng lại thời xa xưa đó, Illuminati ngày nay còn được xem là đã xâm nhập tận trong các trung tâm quyền lực ở Mỹ. Marcus Allen của tờ Nexus Magazine cho rằng toàn bộ hệ thống chính trị ở Hoa Kỳ và Anh là do... một nhóm trí thức ưu tú thuộc Illuminati kiểm soát.

Ở Mỹ, Illuminati được xem là có chân rết trong Hội đồng Ngoại giao, một hội đồng hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ (xem The Illuminati and the council on foreign relations, Myron Fagan), và một hội kín mang cái tên rất “hình sự” là Skull and Bones” (Sọ và xương người). Đề quyết này cũng tương tự như việc cho rằng ở Pháp hội Tam Điểm len lỏi tận trong các chính quyền.

Một số tác giả cho rằng không chỉ ngày nay, mà ngay từ thời Tổng thống Jefferson, Illuminati đã từng hoạt động ở Mỹ và rằng chính Thomas Jefferson đã từng tuyên bố rằng dự định của hội kín này là truyền bá các nguyên tắc của một đạo lý chân thật. Theo họ, dấu vết cụ thể nhất của Illuminati ở Mỹ chính là những dấu chỉ bí mật trên tờ giấy bạc 1 đôla Mỹ.

Phía sau tờ giấy bạc này ta thấy bên trái có một kim tự tháp chưa xây xong, còn thiếu hòn đá chóp; trên có hình con mắt, con mắt thấy hết mọi sự. Phía dưới tháp có khẩu hiệu “Novus ordo seclorum” (có nghĩa là “trật tự mới toàn cầu”).

Bên phải có con chim phượng hoàng, mang một tấm vải vuông trước bụng; trên đó thường có vẽ những biểu tượng bí ẩn. Nếu đúng là như thế, thế lực của Illuminati quả là đáng gờm khi khẩu hiệu và biểu hiệu của họ không hiểu vô tình hay cố ý mà được in trên giấy bạc 1 đôla.

Trong quốc ấn của Hoa Kỳ cũng có điểm bí ẩn tương tự: hình kim tự tháp mất đầu và bên trên có một con mắt - gần giống với biểu tượng của Illuminati. Những hình ảnh này được xem là bằng chứng mẫu cho cái nhìn bao quát từ xưa đến nay của Illuminati lên người Mỹ. Điều này cũng đưa ra những nghi vấn về sự sống còn của Illuminati ở Mỹ khi được xem là một thế lực đen đứng sau các ngân hàng trên toàn cầu và mới đây nhất là có dính líu đến sự kiện 11-9 ở Mỹ năm 2001.

Cho dù hầu như không thể chỉ ra những “chứng cứ tội phạm” của một mạng lưới những âm mưu giấu kín trong bóng tối, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Illuminati, hội Tam Điểm cùng các hội nhóm khác đã bí mật tác động đáng kể lên một số sự kiện thế giới từ 200 năm qua cho đến nay, trong đó có vụ ám sát Thủ tướng Thụy Điển Olaf Palme năm 1986 và cả các vụ tấn công khủng bố của thế giới Hồi giáo.

Trong hơn 200 năm qua, hội kín đầy bí ẩn này đã chất chứa vô số giai thoại nổi tiếng. Nhiều nhà nghiên cứu đã cất công tìm hiểu sự thật đằng sau thần thoại này. Thông thường người ta gọi là Bavarian Illuminati, để chỉ gốc gác hội kín này do ông Weishaupt lập ở Bavaria (Đức) vào năm 1776. Illuminati theo tiếng Latin có nghĩa là những người được thần linh khai sáng. Illuminati có lẽ là hội kín bí mật nhất trong số các hội kín trên thế giới.

Mục đích tối hậu của hội kín này là lật đổ thế quyền và thần quyền khắp nơi, cải biến bản chất của con người và thống trị toàn thế giới, liên kết mọi quốc gia dân tộc thành một đế chế toàn cầu. Chính vì thế, Illuminati còn được dùng đồng nghĩa với “trật tự thế giới mới”.

Thường thì Illuminati hoạt động trong bóng tối, bí mật kiểm soát các vấn đề của thế giới, trong hậu trường chính trị. Lực lượng của Illuminati bao gồm những trí thức có thế lực và những chính khách cấp tiến, trong đó có cả những văn tài thế giới như Goethe và Herder... Có nhiều ý kiến cho rằng thành viên của hội này cơ bản được lôi kéo từ hội Tam Điểm dù không có bằng cớ chứng minh cho liên hệ này.

Illuminati tỏa ra khắp các nước châu Âu dưới dạng nhóm bán công khai. Ở Anh có hội Fabian và hội Round Table; ở Mỹ có Hội đồng Ngoại giao. Illuminati còn được xem là có chân trong Câu lạc bộ Rome mà đằng sau các tổ chức này là một thành phần cốt yếu gồm các nhà băng quốc tế; đặc biệt là các tập đoàn tài chính Rothschild và Rockefeller.

Illuminati tồn tại dưới nhiều danh xưng, nhiều hình thức bí mật, bán bí mật, công khai, với nhiều cơ quan có “bảng hiệu” khác nhau. Một vài nguồn tin cho rằng Bavarian Illuminati vẫn tồn tại cho đến hôm nay, dù rất ít chứng cứ cho thấy hội kín này của Weishaupt tồn tại đến thế kỷ 19. Tuy nhiên, một vài hội nhóm đã dùng cái tên Illuminati để gọi cho hội nhóm mình như Grand Lodge Rockefeller của David Goldman (Mỹ), Orden Illuminati của Gabriel López de Rojas (Tây Ban Nha), và The Illuminati Order của Solomon Tulbure (Mỹ).

Câu chuyện về một nữ bá tước khát máu

Xinh đẹp, thông minh nhưng tàn ác thì kim cổ không ai sánh bằng, Erzsebet Bathory có lẽ là người đàn bà có một không hai trong lịch sử về những chuyện ác độc đến khó tin.

Sinh ngày 7 tháng 8 năm 1560 trong một gia đình quyền quý và nổi tiếng ở Hungary, dòng họ Bathory của bà, có một người làm vua ở Ba Lan, các tướng công cao cấp ở Hungary và vương hầu ở vùng Transylvanie.

Tất cả họ đều nổi danh là những người can đảm nhưng rất tàn bạo và có hành vi bất thường, điên loạn. Do kết hôn với những người gần huyết thống, họ bị một hội chứng di truyền hành hạ, thích ám sát, bức cung, tấn công kẻ khác. Ngoài ra họ còn bị chứng hoang tưởng.

Cũng giống như cậu mình, vua Ba Lan Etienne, Erzsebet luôn luôn bị nhức đầu. Để trị bệnh cho cô bé, người ta mổ bụng một con chim bồ câu sống đặt lên trán. Lập tức cô cảm thấy đỡ đau. Sau này cô bé còn có một cách trị bệnh đáng sợ khác, cô cắn các hầu gái... Trong lúc họ rú lên đau đớn, Erzsebet lại cảm thấy nhẹ nhõm...

Năm 10 tuổi, Erzsebet mất cha, năm 15 tuổi lấy Ferencz Nadasty, một vị tướng trẻ tuổi nổi tiếng trên chiến trận với quân Thổ Nhĩ Kỳ. Từ đây Erzsebet trở thành một người phụ nữ đầy quyền lực, tự do và bắt đầu sa vào những thú vui bệnh hoạn. Phải nói trí tưởng tượng dã man của bà rất phong phú: cắn nữ tì, chích họ bằng kim vàng để thấy máu chảy lên láng; bôi mật ong lên người một bé gái rồi cột trong vườn để côn trùng và kiến bu đầy, cắn xé!

Sau khi chồng qua đời năm 1604, các trò chơi của bà còn tàn nhẫn hơn. Nữ bá tước bắt đầu chiêu mộ các bé gái từ khắp nước để hành hạ chúng đến chết. Mụ phù thuỷ Darvulia cùng Dorko, Jo Ilona và Ficzko là "bộ tứ" giúp đỡ nữ chủ nhân thác loạn tích cực nhất.

Ví dụ bà ra lệnh lôi xềnh xệch các nữ hầu gái trần truồng trên mặt tuyết, dội nước lên người họ và chẳng bao lâu, mùa đông khắc nghiệt biến họ thành những "cây nước đá sống” giữa đồng ruộng trăng xóa tuyết.

Bà còn nghiên cứu đồng hồ mới được chế tạo của quận công Brunswick để làm ra "máy trinh nữ". Đây là một tượng rỗng ruột, đặt một nữ tì vào đó, đóng mạnh cửa lại, lập tức nữ tì bị một loạt dao găm bén ngót xuyên qua cơ thể!

Vậy mà Erzsebet chán trò này cũng rất nhanh. Bà ta có cảm giác mình chưa tham gia thật sự vào các cuộc hành hình. Giờ đây bà ta thực sự muốn tắm bằng máu người, với niềm tin mãnh liệt là máu người sẽ giúp bà... xinh đẹp và tươi trẻ mãi mãi.

Phù thủy Darvulia "phán" là máu tốt nhất phải đến từ các trinh nữ. Họ bị cột chặt và la hét đau đớn khi các đồ tể trích máu từ động mạch và tĩnh mạch để hứng máu và đổ lên người Erzsebet. Để khỏi phải nghe những lời đau đớn và van nài của các nạn nhân, bà ra lệnh cho vá miệng họ lại bằng chỉ thô...

"Danh tiếng" của Erzsebet lan nhanh đến nỗi dân chúng gọi bà ta là "con quái vật thành Csejthe", Bao nhiêu chuyện hãi hùng được truyền tai. Có đến 600 phụ nữ trẻ biến mất. Lời đồn đại oán thán cuối cùng đến tai vua Mathias Đệ nhị. Ông ra lệnh mở cuộc điều tra.

Chỉ mất một tuần lễ, cuộc điều tra kết thúc. Trong vòng 6 năm, kết luận của tòa án gồm 20 vị quan tòa, được đọc lên ngày 7 tháng 1 năm 1611 cũng khiến người nghe muốn bệnh với danh sách dài thườn thượt các kiểu mẫu tra tấn, nhục hình, bức cung, hành hạ, tử hình... những kẻ vô tội.

Nhờ công lao cứu nước của chồng, Erzsebet thoát khỏi giàn hỏa. Nhưng bà ta bị "trám kín" suốt đời trong phòng ngủ của lâu đài Csejthe đến cuối đời, không ai được liên lạc với bà, kể cả linh mục, lúc hấp hối.

Một đoàn quân hùng hậu áp tải "Nữ bá tước tắm máu" về Csejthe, các cửa sổ và cửa chính bị gạch bịt kín, chỉ chừa một khoảng nhỏ xíu phía trên để đưa không khí, thực phẩm và nước ra vào. Ở bốn góc của lâu đài có 4 giàn máy chém dựng lên để báo cho người qua lại biết rằng phía sau các dãy tường lặng lẽ có một nữ tử tội đang sống.

Lâu đài Csejthe trên đồi Carpates.

Khi mọi việc xong xuôi, lâu đài lập tức trở nên hoang vắng. Erzsebet sống được 3 năm rưỡi trong điều kiện như địa ngục. Nhưng "nữ ác quỷ" vẫn không hối hận, không viết thư xin tha thứ và mất bất ngờ trong đêm 21 tháng 8 năm 1614 không một ai gần gũi hoặc hay biết. Bà ta lìa đời như một cái bóng...

Nhưng cái bóng về câu chuyện có thực khó tin vẫn còn đến ngày nay. Tòa lâu đài Csejthe vẫn còn dấu tích trên một ngọn đồi ở vùng Carpates, loang lổ và nham nhở. Mỗi buổi chiều mùa đông lũ quạ khoang với tiếng kêu buồn thảm hoặc bầy dơi bay vù qua làm du khách chậm chân cảm thấy lạnh gáy.

Hội Tam Hoàng

Biểu tượng tiền bối của Hội Tam Hoàng hiện nay được coi là một phần của liên minh gồm 3 lực lượng cơ bản của vũ trụ: đó là trời, đất và con người. Tổ chức này còn có những tên gọi khác như "Ba Hội thống nhất" hoặc "Hội trời và đất".

Từ xưa, những người Hoa dưới thời Hán đã tập hợp lại trong nhiều thế kỷ, thành các hội bí mật và có chung mục đích là đấu tranh chống lại sự xâm lược của người Mông Cổ và người Mãn Châu bằng những hoạt động vũ trang bí mật hoặc công khai.

Vào thế kỷ thứ XVII, người Mãn Châu đã thiết lập triều đại nhà Thanh năm 1644. Sau đó, Hoàng đế đã ra lệnh tiêu diệt hầu hết những tu sĩ có âm mưu "phản Thanh phục Minh" của tu viện tại tỉnh Phúc Kiến nằm ở phía đông nam Trung Quốc trong khi những tu sĩ này trước đây đã từng cứu vương quốc. Năm tu sĩ đã trốn thoát. Họ đến lẩn trốn tại một tu viện và đã thành lập ra tổ chức Tam Hoàng hiện đại. Những tu sĩ này cùng với các cuộc phiêu lưu của họ được tôn sùng như huyền thoại trong một bộ phận người dân và tại các buổi nghi lễ của tổ chức Tam Hoàng.

Thành viên của các tổ chức Tam Hoàng phải học những dấu hiệu nhận biết (ví dụ vị trí tay trái để lên trước ngực là dấu hiệu cho biết người đó là chỉ huy hoặc tướng của Hội), những mật mã cho phép liên lạc giữa họ với nhau, v.v... và phải tuyên thệ trung thành với những người anh em. Theo thời gian, 5 Hội đã ra đời tại năm khu vực khác nhau của Trung Quốc (Hội thứ nhất ở tỉnh Phúc Kiến và Giang Tây; Hội thứ 2 ở tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây; Hội thứ 3 ở tỉnh Vân Nam và tỉnh Tứ Xuyên; Hội thứ 4 ở tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc; Hội thứ 5 ở Giang Tô) nhằm thiết lập tại đây các Chi hội và đào tạo huấn luyện những người khác đấu tranh chống lại những kẻ áp bức Mãn Châu. Tiếng hô ra trận của họ là lật đổ nhà Thanh và khôi phục nhà Minh.

Các tổ chức Tam Hoàng này tồn tại đến thế kỷ XX, có bản chất là chủ nghĩa quốc gia. Và nhận được sự ủng hộ của những người yêu nước. Chiến thuật của họ là tự bảo vệ mình và gây bất ổn tiến tới lật đổ cho chính quyền sở tại bằng vũ lực. Tuy nhiên, theo thời gian, hoạt động của các tổ chức Tam Hoàng dần dần thay đổi. Ngày nay, hoạt động của các tổ chức này là bất hợp pháp ở một số vùng lãnh thổ và quốc gia.

Hoạt động tại Hồng Công

Năm 1842, Hồng Công trở thành thuộc địa của Anh, đã xuất hiện 4 băng nhóm Tam Hoàng. Năm 1845, Hồng Công đã thông qua luật đầu tiên chống các tổ chức Tam Hoàng. Để trốn tránh sự phát hiện và trừng phạt của pháp luật, các băng nhóm này tạo ra các mặt nạ để hoạt động chuyên nghiệp can thiệp vào hầu hết các hoạt động bất hợp pháp tại cảng của Hồng Công. Nhờ vào việc hối lộ và việc tự làm hại thanh danh mình của những nhân viên tại đây, các tổ chức Tam Hoàng đã len lỏi được vào các chức vụ quan trọng.

Tử hình tập thể các tội phạm của Hội Tam Hoàng ở Bắc Kinh.

Trong nửa đầu thế kỷ XX, các tổ chức Tam Hoàng tiếp tục hoạt động bất hợp pháp tại Hồng Công. Năm 1956, bọn chúng đã lợi dụng một số biến loạn xã hội ở đây để mở rộng hoạt động phạm tội. Nhận thức được mối nguy hiểm của tổ chức tội phạm này, Chính quyền Hồng Công đã thông qua luật khẩn cấp cho phép cảnh sát bắt giữ 10.000 đối tượng thuộc các tổ chức Tam Hoàng. Một số đối tượng đã bị trục xuất và một số bị bắt giữ. Mặc dù đã giảm nhưng các tổ chức Tam Hoàng vẫn là những mối bất lợi mới.

Trong những năm 60, thành công của nền kinh tế của Hồng Công, với tư cách là trung tâm công nghiệp và thương mại đã tạo nên một trong những nhân tố quan trọng đối với việc tăng cường hoạt động của tổ chức Tam Hoàng. Ngày nay, bọn chúng vẫn tham gia vào hoạt động bất hợp pháp truyền thống như tổ chức các trò vui chơi giải trí, khai thác dịch vụ mại dâm và trụy lạc, cưỡng đoạt, buôn bán trái phép các chất ma túy, cho vay nặng lãi và tống tiền theo kiểu bảo kê.

Những phần tử khôn khéo nhất đã thu được những kinh nghiệm cần thiết để thực hiện các hoạt động tội phạm cổ cồn trắng. Giao thông ngành hàng không, các phương tiện thông tin liên lạc và thiết bị hiện đại cũng cho phép các tổ chức Tam Hoàng lao vào các hoạt động tội phạm liên kết chặt chẽ hơn và mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài.

Hoạt động tại Mỹ và các nước khác

Theo báo cáo của Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) về tội phạm có tổ chức, tổ chức Tam Hoàng xuất hiện và tồn tại ở Bắc Mỹ với tư cách là các tổ chức tội phạm. Lịch sử các khu người Hoa tại San Francisco minh chứng sự tồn tại sâu rộng của các tổ chức Tam Hoàng trong một số cộng đồng người Hoa.

Vào đầu thế kỷ XX, nhu cầu về nhân công với giá rẻ, để mở rộng hệ thống đường sắt, khai thác vàng tại các mỏ và để phát triển các bang phía tây đã xuất hiện tình trạng tuyển chọn lao động người Trung Quốc ở Hồng Công đưa đến Mỹ qua San Francisco. Sự xuất hiện của những người Hoa ngày càng nhiều, thì đại diện của Chính phủ Trung Quốc lúc bấy giờ tại Mỹ giúp đỡ cộng đồng cũng tăng lên.

Bề ngoài, cộng đồng có vẻ bình yên, nhưng trên thực tế các chính quyền địa phương trao cho khu người Hoa quyền thiết lập các quy tắc riêng. Chính điều này đã cho phép những nhà chức trách của các công ty và các Tong (đơn vị lao động) có vị thế thống trị trong cộng đồng người Hoa. Một số người đã lợi dụng chức vụ để tham gia các hoạt động bất hợp pháp, ngay trong chính cộng đồng. Các nhóm có quyền lực này, thực chất là thu hút các tổ chức Tam Hoàng và những tên tội phạm khác, tranh đua với nhau nhằm kiểm soát các hoạt động hợp pháp và bất hợp pháp trong cộng đồng người Hoa tại Mỹ.

Bạo lực đã làm xuất hiện sự tranh giành quyền lực. Các nhà chức trách thời kỳ này gọi là những cuộc đối đầu bạo lực đẫm máu của cuộc chiến tranh Tong (Thống). Sau đó, các cuộc đụng độ vẫn xảy ra lác đác. Trong thời gian này, những đóng góp ép buộc thường xuyên cho những người Hoa buôn bán thịnh vượng góp thêm vào nguồn thu nhập có được từ tổ chức đánh bạc, khai thác dịch vụ trụy lạc và các tiệm hút thuốc phiện. Nhưng chỉ đến năm 1949, sau đó là từ năm 1967, khi thanh niên và thành viên của các tổ chức Tam Hoàng rời Hồng Công để định cư tại San Francisco và các thành phố khác của người Mỹ, các tổ chức Tam Hoàng và các băng nhóm khác người Hoa mới xuất hiện và xâm nhập thực sự trong thế giới tội phạm.

Theo đánh giá của FBI, một số Hiệp hội phục vụ làm bình phong cho các hoạt động bất hợp pháp và một số thành viên cũ của Thống hoặc các băng nhóm tội phạm vẫn còn hoạt động, trong đó, một số băng nhóm có các băng nhóm phụ bao gồm các thanh niên, chủ yếu sinh ra tại Mỹ. Ngoài ra, các tổ chức Tam Hoàng đã từng hoạt động tội phạm tại Hồng Công và khu vực Đông Nam Á, và các băng nhóm tội phạm khác quy tụ phần lớn những đối tượng mới đến từ Cận Đông. Đồng thời, FBI cũng có các bằng chứng về sự hợp tác giữa các băng nhóm tội phạm người Hoa và các gia đình của Cosa Nostra về buôn bán trái phép các chất ma túy, rửa tiền và đánh bạc.

Cũng vào đầu thế kỷ XX, xuất hiện các tổ chức Tam Hoàng hoạt động tại Malaysia, Singapore, Indonesia, Myanmar, Thái Lan, Philippines, Ma Cao, miền bắc Borneo (ngoài những tổ chức hoạt động tại Hồng Công và Trung Quốc). Cuối thế kỷ XIX, nhân công người Trung Quốc đến Nam Mỹ, Australia và các đảo Nam Thái Bình Dương theo hợp đồng cũng đã tạo điều kiện cho việc truyền bá của các tổ chức Tam Hoàng. Sau đó, cộng đồng người Hoa mở rộng đến Nam Mỹ và Trung Mỹ và vào năm 1953, mở rộng đến các thành phố khác của Canada và châu Âu. Vào những năm 70, xuất hiện các khu người Hoa ở nhiều thành phố trên thế giới. Những trung tâm này ngày càng thu hút những người Hoa vì có nhiều sòng bạc và các nơi ăn chơi đang phát triển rầm rộ. Các hoạt động này thường cần sự bảo vệ của các tổ chức Tam Hoàng khi không có bảo vệ địa phương.

Tại các khu người Hoa ở Amsterdam (Hà Lan), London (Anh) và Vancouver (Canada), bọn chúng bắt đầu tiến hành các hoạt động nhập lậu và vận chuyển ma túy, đặc biệt là hêrôin.

Khi ngày càng có nhiều băng nhóm tội phạm Tam Hoàng thì tại các khu vực này, nguy cơ bị cưỡng đoạt tiền từ những vụ làm ăn của cộng đồng người Hoa hoặc những người châu Á cũng tăng lên.

Ngày nay, thành viên của các tổ chức Tam Hoàng rất ít khi sử dụng các dấu hiệu nhận biết truyền thống vì cảnh sát đã biết những dấu hiệu này, nên chúng dễ bị phát hiện. Tuy nhiên, một số tổ chức Tam Hoàng vẫn tiếp tục sử dụng những dấu hiệu và các từ lóng để gây xúc cảm hoặc đe dọa những kẻ ngoại đạo để tiến hành các hoạt động phi pháp.

Các băng Triad (Hội Tam hoàng) Hồng Công, Đài Loan hiện đang được coi là các băng tội phạm có tổ chức gốc châu Á mạnh nhất, đồng thời cũng gây ảnh hưởng lớn nhất trên toàn thế giới.

Các băng tội phạm Triad Hồng Công đã bí mật tồn tại trên 300 năm nay, đồng thời chúng đã thay đổi, phát triển theo từng giai đoạn lịch sử và tình hình chính trị. Triad là một từ tiếng Anh hiện đại được dùng để miêu tả những biểu tượng tìm thấy trên những lá cờ và những khẩu hiệu của một trong các nhóm của băng tội phạm lớn này có tên là Hung league hoặc tên gọi khác là băng tội phạm Thiên - Địa - Nhân.

Hội Tam hoàng là băng xã hội đen có nguồn gốc từ các tổ chức bí mật hồi thế kỷ XVIII. Mặc dù vẫn duy trì lời thề trung thành và tên gọi, Hội Tam hoàng ngày nay không hoàn toàn giống các bậc tiền bối của chúng và nhìn chung mối liên kết lịch sử này chỉ là sự tô vẽ của bọn tội phạm. Tuy nhiên, tổ chức và kỷ luật của băng Tam hoàng này cho thấy chúng là các băng tội phạm nguy hiểm kể từ khi triều đại nhà Thanh sụp đổ năm 1911. Rất nhiều tên đã chuyển đến Hồng Công trước Chiến tranh thế giới thứ 2.

Trong thời kỳ Nhật chiếm đóng, các băng Tam hoàng hợp tác chặt chẽ với chính quyền đương thời và cách mạng Trung Hoa không chỉ để củng cố vị trí của chúng ở Hồng Công mà còn tạo điều kiện cho các băng Tam hoàng theo Quốc dân đảng chạy sang Đài Loan.

Có rất nhiều băng Tam hoàng, định nghĩa thật chính xác không dễ chút nào, vì chúng là những tổ chức lỏng lẻo hoặc là mạng lưới những tội phạm riêng rẽ, và các nhóm nhỏ gắn kết với nhau bởi một lời thề chung, một tính chất riêng biệt, có tính ràng buộc lẫn nhau và có quan hệ máu mủ. Băng Ngũ - Lục - Thập Nhân đảng ở Hồng Công hiện nay có nguồn gốc từ 3 băng Tam hoàng (băng Sun Yee On, băng 14K và băng Wo). Các băng đảng ở Đại lục có nguồn gốc từ băng Vòng tròn lớn (Big Circle Boy). Ở Đài Loan băng Tre xanh thống nhất (United Bamboo Gang) và băng Bốn biển (Four Seas Gang) đóng vai trò chỉ đạo, chi phối các băng nhóm khác. Còn ở Ma Cao băng Thủy Phong và băng 14K là những băng nhóm chính. Nhưng vừa qua băng trưởng của băng 14K, tên là Wan Kuk-koi, biệt hiệu Răng gãy đã bị kết án, nên có thể sẽ dẫn đến cuộc chiến giành quyền kiểm soát và phân chia khu vực làm ăn giữa chúng. Mặc dù băng Thủy Phong có liên kết với băng Wo nhưng chúng chưa có khả năng kiểm soát vùng đất này. Băng Sun Yee On ở Hồng Công từ lâu đã muốn mở rộng lãnh thổ làm ăn sang Ma Cao, giờ đây đang chuẩn bị cho cuộc tấn công mới.

Từ giữa thế kỷ XIX đến giai đoạn đầu thế kỷ XX có khoảng 850.000 người Trung Hoa lục địa di cư sang Hồng Công. Cùng với sự thất bại của Chính phủ dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa năm 1949, hàng nghìn người Hoa từ Trung Hoa lục địa chạy sang Hồng Công, Đài Loan và các nước châu Á. Trong số người tị nạn đó có rất nhiều tên là thành viên của băng tội phạm Triad. Đó chính là nguồn gốc của sự gia tăng về những hoạt động phạm tội do bọn Triad Hồng Công gây ra. Những hoạt động phạm tội của Triad đã kéo theo nhiều vấn đề nghiêm trọng của xã hội. Năm 1950, Bộ luật cấp bách của Hồng Công đã được thông qua, dựa vào đó chính quyền Hồng Công đã trục xuất 600 công chức làm việc cho Triad và giam giữ trên 10.000 tên nghi vấn khác.

Mô hình cơ cấu tổ chức của chúng như sau: đứng đầu là thủ lĩnh, dưới là một phó thủ lĩnh. Tầng thứ hai là các trưởng nhóm và trưởng nhóm nghi lễ. Tầng thứ 3 là trưởng nhóm chiến đấu, cố vấn và quan liên lạc.

Hiện nay hoạt động phạm tội mang tính quan trọng nhất của các băng tội phạm có tổ chức Triad là buôn lậu ma túy, đặc biệt là buôn lậu hêrôin đang phát triển mạnh ở hầu hết các nước Tây Âu và Bắc Mỹ cũng như ở một số nước Đông Nam Á. Hoạt động tống tiền tập trung vào những người gốc Hoa (đặc biệt là các chủ nhà hàng), những hoạt động khác như đánh bạc và hoạt động mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em.

Để tạo điều kiện dễ dàng cho việc nhập cảnh bất hợp pháp qua các cửa khẩu, bọn chúng đã và đang gây ra các loại tội phạm liên quan đến việc sử dụng giấy thông hành giả, hộ chiếu giả, thẻ cử tri giả. Hiện đang có khoảng 40.000 đến 100.000 người Hoa đang sinh sống bất hợp pháp tại Hà Lan.

Các băng tội phạm có tổ chức Triad không tập trung vào các hành vi phạm tội như giết người, cướp có vũ trang, bắt cóc và buôn lậu vũ khí. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây bọn chúng đã liên quan đến nhiều hoạt động phạm tội lừa đảo, làm sạch đồng tiền, sử dụng thẻ tín dụng giả. Bọn này đang âm mưu nắm quyền kiểm soát về các hoạt động giải trí dành cho người Hoa và thị trường băng video casette châu Á.

Các thành viên của Triad thường ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau, thông báo cho nhau những âm mưu phạm tội. Từ đây cho ra đời các băng tội phạm quốc tế lớn bao gồm nhiều băng tội phạm thuộc Triad hợp lại.

Vào cuối năm 1970 đã xảy ra cuộc đụng độ giữa các băng tội phạm có tổ chức gốc Hoa và các băng tội phạm người Singapore ở Hà Lan. Kết quả, các băng tội phạm người Singapore đã chiến thắng và lấy tên là AHKONG. Băng này đẩy dần các băng của Hồng Công ra khỏi thành phố Amsterdam, Hà Lan. Cuộc đụng độ giữa các băng tội phạm ở Hà Lan đã kéo dài đến hết năm 1970. Chiến tranh giữa các băng tội phạm, sự thất bát mùa màng ở vùng Tam giác vàng và những cố gắng của cảnh sát đã làm giảm hẳn những hoạt động của băng tội phạm này. Nhưng sau năm 1986, AHKONG đã tổ chức lại lực lượng của mình tại Hà Lan.

Hoạt động của chúng tập trung vào buôn lậu ma túy quốc tế, các hoạt động phá hoại tập trung vào cộng đồng người Hoa, cướp có vũ trang và các hoạt động tội phạm khác như đánh bạc bất hợp pháp, tẩy rửa tiền...

Chúng còn đặc biệt tập trung vào những hoạt động giết người, buôn lậu hêrôin, mại dâm, tống tiền và đánh bạc ở Đan Mạch, Thụy Điển. Thông tin điều tra cho biết, hiện nay băng tội phạm AHKONG và băng 14K Triad đang giành nhau quyền kiểm soát các hoạt động ở Thụy Điển, và băng AHKONG có nguy cơ bị thất bại trong cuộc đọ sức này.

Trong khi đó ở Quảng Châu (xuất phát điểm của băng 14K trong những năm 40), các băng trong Đại lục liên kết với băng Vòng tròn lớn cũng đang chuẩn bị cho một cuộc xâm lấn.

Các băng Tam hoàng chỉ là một phần của xã hội đen. Còn có nhiều tổ chức tương tự ở Trung Quốc Đại lục, nguy hiểm nhất là băng Vòng tròn lớn. Băng này không có cùng truyền thống và các lễ nghi như các băng Tam hoàng. Thành viên của chúng là những hậu vệ binh và những người được đưa đến các trại lao động của Trung Quốc (những trại này được đánh dấu trên bản đồ Trung Quốc là những vòng tròn lớn nên mới có tên như vậy).

Ngoài ra, còn có một số băng nhóm dựa vào Mỹ, đó là các băng nhóm gốc Trung Hoa hoạt động trên đường phố ở khắp nơi trên thế giới, chuyên chuyển tiền vào các hệ thống ngân hàng bí mật, buôn người và ma túy. Chúng hoạt động bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc, nhưng vẫn gắn kết với các băng tội phạm trong nước. Chúng kiểm soát toàn bộ hoạt động buôn ma túy ở Đông Nam Á, với doanh thu hàng năm là 200 tỉ USD.

Yakuza và Mafia Nhật Bản

Từ lâu, Nhật Bản được thế giới nói đến như là một quốc gia có nền kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công kể trên, xã hội Nhật Bản vẫn còn lắm những hạt sạn, đặc biệt là bức màn đen của thế giới tội phạm có tổ chức.

Ngày nay danh từ Yakuza trở nên thông dụng để chỉ một tổ chức mafia thuộc các tổ chức tội phạm Nhật Bản (Bôriôcuđan). Nghiên cứu lịch sử mafia Nhật Bản, chúng ta thấy tổ chức tội phạm Nhật Bản này phát triển qua nhiều thời kỳ.

Theo hồ sơ của Interpol và tài liệu của Tổng cục Cảnh sát quốc gia Nhật Bản, vào thời kỳ các sứ quân (1603-1867), Yakuza chỉ gồm những tên tội phạm nhỏ, chuyên bảo kê cho các chợ phiên, sau đó trở thành những đội quân đánh thuê cho các sứ quân. Năm 1881, Yakuza được tập hợp lại trong một tổ chức có tên Thương hội Biển đen - chuyên đảm nhận các chuyến ăn hàng trên biển lẫn tổ chức giết thuê để nhận thù lao. Đến đầu thế kỷ XX, Yakuza hầu như khống chế được toàn bộ quyền lực đen tối trong xã hội Nhật Bản. Năm 1945, sau khi Nhật hoàng đầu hàng quân Đồng minh, Yakuza cho thành lập nhiều nhà thổ, sòng bạc, cùng nhiều kho chứa ma túy gọi là sabu. Đây là một loại ma tuý được quân đội Nhật sản xuất chỉ dùng riêng cho các phi công trong lực lượng phi công cảm tử Kamikaze (biệt đội Thần phong). Nhờ vậy, Yakuza trở thành nhà phân phối ma túy độc quyền tại Nhật. Chưa dừng lại ở đây, vào thập niên 1960, đi đôi với việc cất cánh của nền kinh tế Nhật Bản, Yakuza bắt đầu vươn vòi vào ngành kinh doanh bất động sản, tài chính và công nghệ cao. Yakuza đã trở thành một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế và xã hội Nhật Bản.

Từ năm 1960 đến 1980 được xem là giai đoạn cực thịnh của Yakuza. Yakuza đã tạo dựng một sức mạnh tài chính hùng hậu, từ đó thâm nhập vào hệ thống chính trị Nhật Bản. Các thành viên Yakuza rất dễ nhận biết vì họ thường xăm các hình tượng rồng, phượng lên mình người võ sĩ. Yakuza đã chia sẻ quyền lực với cảnh sát, chẳng hạn, tại các quán bar, sòng bạc, hộp đêm... những nơi đáng lẽ ra phải có sự hiện diện của cảnh sát, thì thay vào đó lại là Yakuza. Yakuza đã thực sự thế chân cảnh sát để giữ trật tự. Chính kiểu làm ăn ma quỷ này đã khiến cho các băng đảng Yakuza càng thêm lộng hành, lấn át chính quyền. Đầu năm 1992, dưới áp lực của dư luận, Quốc hội Nhật mới thông qua Đạo luật Chống tội phạm có tổ chức.

Kể từ năm 1955, nhiều tổ chức mafia ở Nhật đã tăng nhanh. Tính đến năm 1963 đã có 5.216 tổ chức mafia với tổng cộng 184.091 tên. Từ năm 1963 đến 1988 tỉ lệ các tổ chức mafia giảm dần còn 3.155 và có 87.260 tên. Theo Sách trắng của Cảnh sát Nhật Bản năm 2004 thì vào năm 2003 Nhật Bản có 192 tổ chức mafia với 81.300 thành viên.

Để chống hoạt động mafia, Quốc hội Nhật Bản đã ban hành Luật Chống mafia nhằm bảo đảm an ninh và sự bình yên cho mọi người dân. Bộ luật đề ra các biện pháp đánh vào các hoạt động tham nhũng của các tổ chức mafia thuộc nhóm Bôriôcuđan; tiến hành các biện pháp phòng ngừa những thảm họa có thể đến với những người dân trong lúc xung đột giữa các tổ chức mafia. Đồng thời khuyến khích mọi hoạt động của quần chúng, nhằm góp phần ngăn chặn vào những thảm họa mà các tổ chức mafia có thể gây ra. Bộ luật này ban hành ngày 15/5/1991 và có hiệu lực từ 1/3/1992. Theo Sách trắng của Cảnh sát Nhật Bản năm 2004 thì năm 2003 cảnh sát Nhật đã bắt giữ 32.985 thành viên mafia.

10 người phụ nữ tàn ác nhất trong lịch sử 1. Elizabeth Báthory, 1560-1614 Theo ước tính, đã có hơn 600 cô gái trẻ là nạn nhân của con người khát máu này theo đúng nghĩa đen. Sinh trưởng trong một gia đình lâu đời và quyền quý bậc nhất lúc bấy giờ, Elizabeth đã sớm kế thừa dòng máu tàn ác và bệnh hoạn của dòng họ Báthory truyền thống. Dòng họ này vốn chỉ cho phép kết hôn với những người trong cùng gia tộc. Chính sự tàn ác đến ghê rợn của vị nữ bá tước này là một trong những nguồn cảm hứng cho Bram Stoker viết nên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Bá tước Dracula". Tuy nhiên, khác với Dracula của Stoker, Elizabeth là có thật. Chồng của Elizabeth là Ferenzce Nadasdy, thủ lĩnh quân đội Hungary, một người dũng cảm nhưng cũng rất nổi tiếng bởi sự tàn bạo. Do chồng thường xuyên phải vắng nhà và cũng bởi quá nhàn rỗi trong một lâu đài rộng lớn, Elizabeth tự tìm cho mình những thú vui để khuây khoả. Một trong những thú vui mà con người này thích nhất là việc tra tấn các cô hầu của mình và biến lâu đài Csejthe thành lâu đài của tội ác. Sau khi chồng chết, cũng là lúc Elizabeth bắt đầu bước sang tuổi 40. Ả cố tìm mọi cách để che đậy những nếp nhăn đang xâm chiếm khuôn mặt mình, thế nhưng, nhan sắc vẫn ngày càng đi xuống. Rồi một hôm, do sơ ý mạnh tay khi đang chải tóc cho Elizabeth, cô người hầu đã bị một cú tát mạnh đến nỗi máu mũi văng cả lên tay của Elizabeth. Nhận thấy những vết máu trên tay sau khi lau khô để lại một làn da khác hơn so với trước, Elizabeth ra lệnh cho những thuộc hạ thân tín đem cô hầu gái đó treo lên trên một cái vạc lớn và... cắt mạch máu, còn Elizabeth đứng dưới và... tắm. Với quan niệm, nếu một ít là tốt, thì nhiều sẽ còn tốt hơn, càng ngày càng khát máu, có những lúc Elizabeth còn trực tiếp uống máu của những con mồi mà mình “săn” được. Sự việc chỉ bị phanh phui khi vị “bá tước Dracula” này trở nên bất cẩn. Do giết hại quá nhiều người đến mức không tìm được cách giấu xác cho hiệu quả, ả ra lệnh quăng những cái xác ra khỏi bức tường bao quanh lâu đài. Mặc dù mang tội danh giết người hàng loạt, Elizabeth Báthory với tước vị và danh tiếng của gia đình chỉ bị kết án giam cầm suốt đời trong một tháp cao. 2. KatherineMaryKnight, 1956 Katherine Mary Knight là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử Australia bị kết án tù chung thân không ân xá do hành vi giết người quá dã man và tàn ác. Tháng 2 năm 2001, trong một lần cãi cọ, Knight đã “làm thịt” người yêu, John Price, bằng cách đâm ông hàng chục nhát dao, lột da và rồi nấu nhiều bộ phận trong cơ thể, bày lên các chiếc đĩa với ý định mời chính các đứa con của nạn nhân đến ăn bữa cơm “đặc biệt” này. Cảnh sát có mặt tại hiện trường hôm đó cho đến nay vẫn còn được cố vấn về tâm thần. Hiện Katherine Mary Knight đang bị giam trong một xà lim riêng biệt dành cho một kẻ giết người nổi tiếng của trại giáo dưỡng dành cho phụ nữ Mulawa ở Sydney. 3. Irma Grese, 1923-1945 Irma Grese là một nữ giám thị khét tiếng tàn ác nhất, một hung thần trong các trại tập trung dành cho phụ nữ dưới chế độ Đức Quốc xã. Những người bị bắt vào đây hầu như đều phải “qua tay” của Grese. Ả luôn coi hành hạ thể xác, cưỡng bức tâm lý các tù nhân cho đến chết là thú tiêu khiển hàng đầu của mình. Irma thường nuôi những con chó săn lớn và bỏ đói chúng, sau đó thả vào những căn buồng giam tù nhân. Nhiều khi, Grese còn đích thân chỉ đạo bắt hàng trăm người nhốt vào phòng khí ga rồi ngồi ngắm nhìn họ quằn quại cho đến khi chết vì ngạt thở. Hình ảnh của Irma Grese trong các trại tập trung luôn gắn liền với đôi ủng nặng, sẵn sàng giày xéo lên bất cứ kẻ nào làm ả ngứa mắt, một khẩu súng ngắn luôn bắn tuỳ ý vào những tù nhân xấu số và một chiếc roi da dùng để vụt những kẻ nào ả gặp trên đường. Tuy nhiên, sau khi Đức Quốc xã bị tiêu diệt, Irma Grese cũng đã phải đền tội. Ả bị kết án tử hình bằng hình thức treo cổ. 4. Ilse Koch, 1906-1967 Ilse Koch nổi tiếng với cái tên “ác quỷ Buchenwald”, một nữ giám thị độc ác trong trại tập trung Buchenwald, Đức giai đoạn 1937 đến 1941. Ilse khét tiếng với thú xăm hình lên da của những tù nhân ở đây để phân loại từng người. Năm 1937, mụ đến Buchenwald với vai trò là một nữ giám thị, nhưng sau đó, trở thành vợ của viên chỉ huy trưởng trại tập trung này. Ở đó, dựa vào hơi chồng và sẵn có quyền lực trong tay, Ilse liên tục hành hạ các tù nhân bằng mọi hình thức tra tấn dã man nhất. Năm 1940, Ilse cho xây dựng một đấu trường ngoài trời khá tốn kém mà hầu hết số tiền đều lấy từ túi của các tù nhân. Sau khi kết thúc Thế chiến thứ II, Ilse Koch bị tống giam để trả giá cho những tội ác mà mụ đã gây ra. Cuối cùng, Ilse đã tự kết thúc cuộc đời đầy tội lỗi của mình trong một phòng giam đặc biệt tại nhà tù dành cho phụ nữ có tên Aichach vào ngày 1/9/1967. 5. Mary Ann Cotton , 1832-1873 Dường như một tuổi thơ vất vả, cơ cực và túng thiếu vì sớm mồ côi cha đã biến Mary Ann Cotton trở thành một kẻ sát nhân máu lạnh. Đã có đến 20 người phải chết dưới bàn tay lạnh lùng của người phụ nữ này. Điều đáng nói ở đây là toàn bộ nạn nhân đều là người thân như chồng, con ruột, thậm chí cả mẹ đẻ của ả. Những người này đều chết một cách đột ngột do mắc cùng một căn bệnh đau dạ dày bí hiểm mà sau này mụ khai nhận là do thạch tín. Người chồng đầu tiên của Ann là William Mowbray, một người thợ mỏ. Chỉ sau 4 năm kết hôn, Mary Ann đã có tới 5 đứa con. Cũng chính từ đây, giữa đôi vợ chồng trẻ này bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn về tiền bạc. Thế rồi, lần lượt các thành viên trong gia đình Ann, kể cả người chồng William lần lượt thay nhau ra đi do cùng mắc căn bệnh rối loạn tiêu hoá. Sau đó, Ann chuyển đi nơi khác và đi bước nữa với kỹ sư George Ward, nhưng rồi Ward cũng chết chỉ một năm sau đó do chứng bệnh liên quan đến dạ dày. Tiếp đến là người thợ đóng tàu James Robinson cùng những đứa con riêng và con chung với Ann cũng lại tiếp tục ra đi với những dấu hiệu của bệnh dạ dày.

Khi được tin mẹ ốm, mụ trở về nhà để chăm sóc người mẹ già yếu, và rồi chỉ ít lâu sau đó chính bà mẹ này cũng đột ngột đau bụng rồi chết.

1. Myra Hindley, 1942-2002

Thi thể của các nạn nhân xấu số được cảnh sát địa phương tìm thấy ở khu đầm lầy ngoại ô thành phố Manchester. Không chỉ có thế, những kẻ điên loạn này còn tiến hành quay phim và chụp ảnh toàn bộ quá trình hành hình để nhấm nháp sự đau đớn đến tột cùng mà những đứa trẻ phải chịu đựng. Vụ án này đã dấy lên một làn sóng cực kỳ phẫn nộ trên toàn nước Anh bởi hành động quá dã man và vô nhân tính của Myra Hindley.

Thế nhưng, có vẻ chúng không hề biết cắn rứt lương tâm và hối hận. Ngay trước giờ tuyên án, Myra Hindley điềm tĩnh ngồi ăn kem một cách ngon lành bên cạnh người mẹ của ả đang kiệt quệ vì ô nhục và đau khổ. Trước khi toà tuyên án, Myra Hindley có vẻ bình tĩnh chờ đợi mức án cao nhất là tử hình để sớm “được tự do”, nhưng tòa án Anh chỉ tuyên phạt 2 kẻ sát nhân này mức án tù chung thân không ân xá và không có quyền được tự tử vì bản án tử hình mới được xóa bỏ cách đó 3 tháng.

Quá “thất vọng” với bản án, Ian Brady đã tuyệt thực để chết nhưng không thành, cho đến nay, hắn vẫn được duy trì sự sống bằng cách truyền nước. Còn Myra Hindley “may mắn” hơn khi bị nhồi máu cơ tim và chết sau đó ít lâu.

2. Beverly Allitt, 1968

Beverly Allitt là y tá trong một bệnh viện nhi ở Anh, được mọi người đặt cho biệt danh “thiên thần báo tử” do những tội ác mà ả gây ra với chính những bệnh nhân bé nhỏ của mình. Năm 1991, kẻ giết người hàng loạt này đã giết chết 4 bệnh nhi, đồng thời làm tổn hại nghiêm trọng sức khoẻ của 5 em bé khác.

Phương thức gây án của ả là tiêm chất insulin vào cơ thể các em bé để gây ra các cơn co giật tim liên tục rồi dẫn đến tử vong một cách tự nhiên. Beverly phải lãnh mức án 13 năm tù giam. Tuy nhiên, cho đến nay động cơ gây án thực sự của ả vẫn chưa được làm rõ.

3. Belle Gunness, 1859-1931 Nữ sát nhân nổi tiếng nhất nước Mỹ là một phụ nữ gốc Na Uy to cao. Trong vòng chưa đầy chục năm, con số nạn nhân bị Gunness giết chết đã lên tới hơn 30 người và chủ yếu là những người thân thiết với ả, trong số đó, có hai cô con gái Myrtle và Lucy, số còn lại đều là chồng và nhân tình của Gunness. Động cơ giết người của Belle Gunness chính là những khoản tiền bảo hiểm béo bở mà các nạn nhân của ả đóng trước khi chết.

4. Queen Mary I, 1516-1558

Thế kỷ 16 là thời kỳ khó khăn nhất của nước Anh dưới sự trị vì của Nữ hoàng Mary I, một tín đồ Da-tô cuồng bạo. Là con gái vua Henry VIII - ông vua đa tình và tàn bạo, nổi danh chém đầu vợ, Mary thậm chí còn vượt xa cha mình về độ tàn ác đến lỗi dân chúng phải phong cho bà biệt danh “Mary đẫm máu”. Sau khi trở thành Nữ hoàng, Mary kiên quyết phục hồi đạo Da-tô và quyền lực của Giáo hoàng ở Anh quốc bất chấp mọi chỉ trích chống đối. Một trong những tội ác kinh hoàng của Nữ hoàng Mary I trong lịch sử nước Anh là lệnh thiêu sống 300 người trên giàn lửa đỏ giữa những tiếng la hét vang dội cả một góc trời.

Trong suốt thời gian nắm quyền hành, bà thực sự đắm chìm trong thú tiêu khiển thiêu sống những ai chống đối. Ngay cả những vị chức sắc trong Giáo hội Anh như Tổng giám mục Cranmer, Nicolas Ridley, Hugh Latiner… đều cùng chung số phận, lần lượt bị Mary I ra lệnh đóng vào cột gỗ dựng giữa quảng trường và thiêu sống vì họ đã lớn tiếng chống đối những hành động ngang ngược của bà.

Sau khi kết hôn với vua Philip II - một bạo chúa nổi danh của Tây Ban Nha, Mary như cá gặp nước, học thêm được nhiều phương thức giết người mới.

Về cuối đời, bà sống một cách âm thầm, cô độc trong tuyệt vọng và ân hận trong một lâu đài ít người thân thăm viếng và thường xuyên được nghe những lời than oán, nguyền rủa của dân chúng nói về bà. Theo nhiều lời kể lại, trước khi chết, Mary I còn quằn quại rên xiết rằng: “Ôi! Máu, máu! Máu ngập cả người ta!”.

5. Isabella xứCastile, 1451-1504

Cuộc kết hôn giữa Isabella Đệ nhất - công chúa xứ Castile, với Ferdinand Đệ nhị - người kế thừa ngôi báu xứ Aragon, là nguồn gốc thống nhất xứ Castile và Aragon để hình thành nên vương quốc Tây Ban Nha hùng mạnh. Tuy nhiên, họ đã cai trị đất nước một cách độc lập. Năm 1479, Isabella ngay lập tức bắt tay vào việc tập trung quyền hành và khởi xướng một chương trình cải cách nhằm làm giảm bớt quyền lực của giới quí tộc thường gây rối, tổ chức mới bộ máy chính quyền và khuyến khích dân chúng học hành.

Tuy có công rất lớn trong việc bảo trợ cho chuyến đi tìm vùng đất mới của Christopher Columbus, nhưng Isabella lại rất tàn bạo về mặt tôn giáo. Là người sùng đạo, bà đã giúp xây dựng một Toà án dị giáo tại Andalusia và đã trục xuất hơn 170.000 người Do Thái ra khỏi Tây Ban Nha. Những kẻ dị giáo cứng đầu không chịu cải đạo đều phải chịu hình phạt cao nhất là bị hỏa thiêu.

10 kẻ sát nhân tàn ác nhất thế giới

Ted Bundy, kẻ giết chết từ 30-100 người

Theodore Robert Bundy, còn được biết đến với tên Ted Bundy, là một sát thủ Mỹ giết người hàng loạt. Bundy đã trốn thoát hai lần khỏi trại giam trước khi bị bắt lần cuối cùng vào năm 1978. Trước khi bị hành quyết hắn đã thừa nhận giết chết 40 người phụ nữ trẻ tại 12 bang trong suốt 4 năm tội ác vào giữa những năm 70. Ted Bundy đã trở thành một trong những kẻ giết người hàng loạt đáng sợ nhất trong lịch sử Mỹ. Theo cách điển hình của mình, Bundy đánh nạn nhân bằng dùi cui rồi sau đó siết cổ cho đến chết.

Richard Kuklinski - kẻ giết hơn 200 người

Richard Kuklinski với biệt hiệu “The Iceman” bị buộc tội là kẻ sát nhân và là hung thủ giết người thuê khét tiếng. Hắn làm việc cho các gia đình tội phạm Mỹ-Ý và được cho là đã giết hơn 200 người trong đó có Jimmy Hoffa.Việc sử dụng chất độc xyanua trở thành một vũ khí ưa thích của hắn cùng với súng, dao và cưa tay. Hắn thường có những hành động hung bạo và tra khảo nạn nhân trước khi giết chết như làm nạn nhân chảy máu sau đó đưa họ đến khu nhiều chuột. Chuột bị hấp dẫn bởi mùi máu sẽ ăn nạn nhân cho đến khi họ chết.

Harrold Shipman, kẻ giết 200-400 người

Đây là một sát thủ Mỹ giết nhiều người nhất nhưng lại luôn phủ nhận tội ác của mình. Shipman đã phản bội lại sự thật theo cách kinh khủng và ghê sợ nhất. Hắn đã giết ít nhất là 215 và có thể là 260 bệnh nhân của mình trong đó khoảng 80% nạn nhân là phụ nữ. Nạn nhân già nhất là một phụ nữ 93 tuổi và trẻ nhất là một người đàn ông 41 tuổi. Hệ thống luật pháp của Anh liên quan đến chăm sóc sức khỏe và y tế đã phải sửa đổi một cách trực tiếp và gián tiếp vì tội ác của Shipman, đặc biệt là sau khi tìm thấy những bằng chứng về tội ác của Shipman, bắt đầu từ tháng 9 năm 2000 và kéo dài đến gần 2 năm sau đó. Shipman là bác sỹ Anh duy nhất mắc tội giết bệnh nhân.

Ted Bundy Richard Kuklinski Harrold Shipman

David Richard Berkowitz

David Richard Berkowitz, còn được biết đến với tên gọi Con trai của Sam là một sát thủ giết người hàng loạt và là kẻ gây hỏa hoạn ở nơi tội phạm hoành hành ở New York từ tháng 7 năm 1976 cho đến khi hắn bị bắt giữ vào tháng 8 năm 1977. Năm 1974, hắn cho rằng đã nghe thấy "tiếng nói từ trong đầu mình" ra lệnh cho hắn giết người. Hắn bắt đầu đổ lỗi cho những giọng nói giết người từ bên trong mình cho chú chó đen nhà hàng xóm Sam Carr vì đã sủa làm hắn thức suốt đêm. Hắn đã gửi những lá thư bực tức cho Carr và vào tháng 4 năm 1977 đã bắn và làm bị thương chú chó.

Vào ngày 29 tháng 7 năm 1976, hắn giết nạn nhân đầu tiên. Cách thức giết người của hắn là tiếp cận các nạn nhân một cách bất ngờ trong đêm tối, rút một khẩu súng từ trong túi giấy nâu và bắn họ. Hầu hết các nạn nhân của hắn là cách cặp đôi đang âu yếm nhau trên xe hay ở công viên vào đêm muộn. Những nạn nhân nữ thường là người ngăm đen với tóc dài. Điều này đã gây ra nỗi sợ hãi với nhiều khu vực ở New York và nhiều phụ nữ phải nhuộm tóc vàng và cắt tóc để tránh bị sát hại. Sau khi bị bắt giữ vào tháng 8 năm 1977, Berkowitz thừa nhận đã giết chết 6 người và làm bị thương 7 người khác trong thời gian từ năm 1976 đến 1977. Hắn đã bị bắt giữ từ năm 1977.

Jack the Ripper

Jack the Ripper là biệt danh cho kẻ giết người hàng loạt không xác định hoạt động ở khu vực dân nghèo Whitechapel và khu vực gần London ở Anh vào cuối năm 1888. Nạn nhân là những phụ nữ hành nghề mại dâm. Hầu hết các nạn nhân bị cắt lưỡi sau đó thân thể bị đánh đập. Việc phát hiện ra những bộ phận trong cơ thể của 3 nạn nhân bị cắt bỏ đã khiến các nhân viên điều tra cho rằng kẻ giết người có những kiến thức về giải phẫu.

David Richard Berkowitz Jack the Ripper

Jefery Dommer

Jeffrey Lionel là một kẻ giết người và phạm tội xâm hại tình dục. Dahmer đã giết chết 17 nam nạn nhân mà hầu hết trong số họ có nguồn gốc là Châu Phi hoặc Châu Á. Những vụ án mạng của hắn đặc biệt kinh khủng, trong đó có liên quan đến sự hãm hiếp, tra tấn, chặt tay chân, hành vi bệnh hoạn, ăn thịt người. Tháng 2 năm 1992, Dahmer bị tuyên án tù chung thân lần thứ 15 và vào tháng 5 sau khi thừa nhận một vụ giết người vào năm 1978, hắn bị tuyên án lần thứ 16. Ngày 28 tháng 12 năm 1994, Dahmer bị Christopher Scarver, một bạn tù trong trại ở Columbia, đánh đến chết với một thanh sắt từ máy tập trong khi đang làm việc trong phòng tập của nhà tù.

Luis Alfredo Garavito Cubillos, kẻ giết hại hơn 300 người

Luis Alfredo Garavito Cubillos là một kẻ phạm tội hãm hiếp và một tên sát nhân hàng loạt Colombia. Từ năm 1992 đến 1999, hắn đã giết hơn 200 bé trai ở độ tuổi từ 8 đến 13. Cubillos là một kẻ đồng tính và có hành vi giết người từ những động cơ này. Hắn đã quen hành động theo chiến thuật định trước: hắn gặp những trẻ em trong một số ngày định trước để dụ dỗ và sau đó với những lời tán dương và những lời hứa hẹn, hắn đưa nạn nhân đến những khu vực xa khu trung tâm. Với những ảnh hưởng từ rượu, sự tra tấn và hãm hiếp, hắn để những nạn nhân ở đó và cắt nạn nhân thành nhiều mảnh sau khi cắt họng.

Robert William “Willie” Pickton

Robert William “Willie” Pickton đến từ Port Coquitlam, British Columbia là một nông dân chăn lợn và cũng là một kẻ sát nhân bị buộc tội giết chết 6 phụ nữ. Hắn cũng bị kết tội trong cái chết của hơn 20 phụ nữ khác và nhiều người trong số nạn nhân là gái mại dâm và kẻ nghiện rượu từ vùng Vancouver. Ngày 11 tháng 11 năm 2007, hắn đã bị kết án tù chung thân với khả năng được tha bổng sau 25 năm. Đây là một bản án tù dài nhất trong luật của Canada dành cho kẻ giết người. Trong ngày đầu tiên của phiên tòa, ngày 22 tháng 1 năm 2007, những nhà chức trách đã tuyên bố Pickton đã thú nhận với một cảnh sát là đã gây ra 49 vụ giết người. Nhà chức trách đã báo cáo rằng Pickton đã nói với nhân viên cảnh sát là hắn muốn giết thêm một người phụ nữ nữa để con số nạn nhân thành số chắn 50 và hắn bị bắt chỉ vì hắn ... vụng về.

Jefery Dommer Luis Alfredo Garavito Cubillos Robert William

Elizabeth Bathory, kẻ sát nhân hơn 600 người

Nữ bá tước Elizabeth Báthory là một bá tước người Hungari xuất thân từ gia đình Elizabeth Báthory danh giá. Gia đình này nổi tiếng vì đã giúp Hungari chống lại quân Ottoman Turks. Elizabeth có lẽ là một nữ sát thủ giết người hàng loạt duy nhất trong lịch sử và được nhớ đến như một "Nữ bá tước khát máu" và "Một quý bà khát máu của Csejte". Khi chỉ mới 4-5 tuổi, Elizabeth đã có những hành động chiếm đoạt bạo lực. Những hành vi này có thể được gây ra bởi chứng động kinh hay những chứng rối loạn thần kinh khác và điều này đã gây ảnh hưởng đến hành vi tội ác sau này của nữ bá tước. Elizabeth Bathory đã giết hại hơn 600 phụ nữ và trẻ em gái vào đầu những năm 1600, với mục đích " để tắm trong máu của họ". Elizabeth rất thích những hành động tra tấn và đã trở thành một huyền thoại đáng sợ để sau này một nhà văn người Ailen lấy cảm hứng cho nhân vật Dracula.

Gilles De Rais, kẻ sát hại hơn 200 nạn nhân

Gilles de Rais là một kẻ chuyên sát hại trẻ em. Trong khoảng thời gian 10 năm, với sự trợ giúp của những người hầu, de Rais đã công khai dụ dỗ hơn 200 trẻ em có độ tuổi từ 6 đến 18 đến phòng ngủ của hắn. De Rais rất yêu thích vẻ đẹp của trẻ em và muốn chứng kiến cảnh trẻ em phải chịu những đau đớn do hắn gây ra. Mặc dù de Rais không từ chối sử dụng những bé gái làm nạn nhân nhưng nạn nhân chủ yếu của hắn vẫn là những bé trai. Nếu một bé trai có một giọng hát hay, nó có thể giúp bé may mắn thoát nạn. Thay vì bị đặt ra những câu hỏi để trả lời, de Rais chọn cách thú nhận mọi việc. Chỉ một lời thú nhận đầy đủ mới có thể tha thứ cho những sự tra tấn hắn đã quen gây ra. Những lời thú tội đầy nước mắt đáng ghê tởm của hắn đã khiến một trong các vị quan tòa phải kéo rèm che tấm ảnh của chúa Jesus tại phòng xử án.

Tại phiên tòa, de Rais đã chứng minh sự ám ảnh bệnh hoạn với việc giết hàng loạt các trẻ em bằng cách miêu tả chi tiết những đau đớn mà những đứa trẻ phải chịu đựng. "Hắn thừa nhận đã rất thích thú với sự ấm nóng của ruột non. Hắn thừa nhận đã xé tim của những em bé thành những mảnh lớn và mở ra như quả chín. Và với ánh mắt của kẻ mộng du, hắn nhìn xuất những ngón tay của mình và lắc chúng như thể thể từng giọt máu đang nhỏ xuống". Hắn cũng được biết đến với tội ác chặt tay chân của một người phụ nữ mang thai để phục vụ cho trò chơi quái ác với bào thai.

Elizabeth Bathory Gilles De Rais

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top