Hòn đất
Anh Đức
Hòn đất
Chương 1
Quyên nói:
- Chị Ba, bây giờ chị tin em chưa, em đã nói anh Ba ảnh có quên chị đâu. Thơ ảnh viết đọc thiệt mới cảm động làm sao. Mà ảnh gởi về mười tám cái thơ rồi chớ ít ỏi gì. Đó, vậy mà chị cứ ngỡ thế này thế nọ... Thôi, thơ ảnh lạc hết rồi, còn thơ chị cũng chẳng tới tay ảnh cái nào đâu! Em ức quá, ở ngoài Bắc thì cũng là ở trong nước mình, vậy mà bảy năm trời bao nhiêu thơ gởi đều lạc mất. Thiệt là ức... Nhưng, nhưng bữa nay chị hết thắc mắc rồi, phải không? Kẻo chị cứ nói: - "E ra ngoài ổng sung sướng vui vẻ quá rồi không còn nhớ ai nữa". Đó, chị thấy oan cho anh Ba chưa?
Quyên nói với chị ruột của mình một cách vội vàng và mừng rỡ. Coi cô như bênh anh rể, nhưng chính là cô mừng cho chị cô. Cô gái chia xẻ và vun vào cái niềm vui lớn mà suốt bảy năm trời nay chị của cô mới có được. Lúc đó, đôi bàn tay đầy đặn của cô lát lát lại hoa lên, mắt cô long lanh, và đôi khi môi cô mím lại.
Cầm cái thư đưa trả cho chị, Quyên giữ lại tấm ảnh. Cô thoắt bước tới túm lấy con bé Thúy từ ngoài bậc thang nhà, kéo nó lại với cô, chìa tấm ảnh ra:
- Nghe dì út hỏi nè, ông này là ông nào đây?
- Ba của con!
Con bé nói, đưa đôi bàn tay nhỏ nhắn cầm tấm ảnh, nhìn đau đáu. Nó thì thào nhắc lại:
- Ba của con mà!
- Sao con biết?
- Má nói... má nói đó là ba của con!
Con bé ngước đôi mắt đen tròn như hai hột nhãn lên:
- Có phải thiệt là ba của con không, hở dì út?
Quyên không đáp. Cô bế thốc cháu lên bộ ván, đặt nó ngồi yên trên đùi mình, rồi mới gật nhẹ đầu:
- Phải rồi, ba của con đó. Từ giờ này phải nhớ cho kỹ nghe! Vậy là hai cha con biết mặt nhau rồi.
Quyên day sang chị:
- Chị Ba, theo như thơ anh Ba nói thì ảnh đã nhận được cái thơ sau cùng của chị, cả tấm hình chị chụp với con Thúy... Trời ơi, bảy năm ảnh mới biết mặt con Thúy đó nghe!
Rồi Quyên xỉa yêu ngón tay trỏ vào trán con Thúy:
- Bảy năm trời ba mày mới biết cái mặt mày rồi đó Thúy à. Hồi ba mày đi thì đã có mày đâu, hồi đó chưa đẻ mày mà...
Nghe em gái nói, chị Sứ liền nhớ lại hết sức rõ rệt những ngày cuối cùng anh San chồng chị trở về nhà trước khi lên đường tập kết. Những hôm ấy, cũng tại cái nhà sàn lát ván cũ kỹ này, anh San vẫn nói chuyện như thường, vẫn cười cái cười cởi mở như ngày thường. Riêng Sứ, chị mới hiểu sự bình thường ấy làm sao. Chồng chị cứ lặp đi lặp lại mấy lần: - "Hai năm thì có lâu la gì!". Nhưng trong đêm chót, anh mới nói thực điều anh đã nghĩ: - "Em à, nói vậy để má đừng lo, tội nghiệp má. Chớ với em, thì anh nói anh không tin ở hạn định hai năm đâu. Có khi chưa tới một năm thì súng sẽ nổ lại, nhưng có khi không phải hai năm mà là bốn hoặc năm năm. Nên tụi mình phải chuẩn bị tinh thần...". Anh ấy còn bảo: - "Hễ cái chuyện gì mà mình có tính trước thì chừng xảy ra mình vẫn vững hơn". Sau đó, trong đêm khuya, anh co cánh tay kéo đầu chị ngả sát vào. Lâu sau, chợt nghe anh nói, như tự nhủ: - "Không biết ở ngoài Bắc có cây trái như ở trong mình không? có soài, có măng cụt, có bưởi không? Cái gì chớ bưởi thì chắc có rồi nghe. Mà không biết bưởi ngoài đó tháng nào đâm bông, chưa chắc là gần giáp Tết như trong mình đâu...". Thoạt nghe, Sứ cho rằng anh cố nói lảng đi, nhưng liền đó chị biết. Chị biết anh đã nghĩ gì trước khi anh nói ra cái câu tưởng như bâng quơ ấy. Hai năm trước đó, trong bữa tiệc bà con Hòn Đất thết bộ đội đánh thắng ở chiến trường Long Châu Hà trở về, lúc Sứ bưng dọn thức ăn ra cho bộ đội, chị có ngờ đâu anh San đã để ý tới chị. Theo lời anh, thì lúc đó anh đã nghe thấy mùi hương bông bưởi thoang thoảng mà Sứ đã cẩn thận gội lên mái tóc dày mượt lạ thường của mình. Hai người quen nhau trong buổi liên hoan tối đó. Về sau gặp lại Sứ, lựa lúc vắng người, anh San cười hỏi khẽ: - "Sao lóng rày cô Ba Sứ không gội bông bưởi nữa?",
Sứ mím môi cười, thẹn đỏ mặt.
Chuyện của hai người là thế. Mối tình đó bắt đầu chớm hé giữa các chiến thắng ngày càng dồn dập trong cả nước, mối tình đó nảy nở giữa tháng chạp các vườn bưởi Hòn Đất đang độ ra hoa. Hai năm sau họ làm đám cưới. ấy là một đám cưới vui nhất ở vùng Hòn, đúng vào lúc ta đại thắng giặc Pháp ở Điện Biên Phủ. Từ bấy đến nay đã hơn bảy năm. Hai người gần gũi nhau nhiều lắm là một tháng. Mãi tới hôm nay họ mới được tin nhau qua một bức thư mỏng và gặp lại nhau qua một tấm ảnh nhỏ.
Bảy năm trời! Nghe em gái mình nói, Sứ hầu như không tin thời gian ấy là có thực. Chị thẫn thờ bảo:
- Mau quá!... Mới đó mà đã bảy năm!
- ồ... mà chị nè, chắc anh Ba ảnh đâu biết tụi mình ở trong này gian nan ra sao đâu hả chị! Phải ảnh mà biết cái năm tụi nó bắt chị lên quận ép làm tờ ly khai chồng, cái trận mà chị bị nhốt "chuồng cọp", "chuồng sấu"... Cha, ảnh mà biết!...
Sứ mỉm cười hiền hậu:
- Biết gì được... Thì chắc cũng có nghe nói, mà không rõ được đâu!
Giữa lúc hai chị em nói chuyện với nhau, con bé Thúy se sẽ tụt khỏi lòng Quyên. Nó lồm cồm bò tới bên cái rổ may, mò mẫm tìm trong rổ may lấy ra một chiếc gương tròn. Rồi nó men vào trong góc, chỗ bộ ván áp sát vách. Nó ngồi một mình, lặng lẽ. Lát sau, nó mới từ từ giơ tấm ảnh lên còn tay kia nó cầm chiếc gương soi. Con bé nó coi mặt nó trong gương và coi mặt ba nó trong ảnh. Nó coi đi coi lại, coi nó với ba nó có giống nhau không, từ mắt đến mũi, từ miệng đến vành tai. Nó thấy mắt và chân mày ba nó sao không giống nó lắm. Mắt nó thì tròn, mắt ba nó thì hơi dài mà sắc. Còn chân mày của ba nó thì rậm quá. Song nó mừng rơn lên khi thấy mũi và miệng ba nó giống nó ghê. Hớn hở con bé lại nhìn, lại tìm kiếm những nét giống khác. Nó hy vọng rằng mọi nét giữa nó và ba nó đều giống. Vì nó yêu ba nó lắm. Tình yêu ấy được gieo vào tâm khảm trẻ thơ của nó bắt đầu từ khi nó được biết trên đời này nó còn có một người cha. Nó vẫn tin rằng ba nó cũng tốt, cũng hay, và nhất định là ba nó yêu nó hơn cả. Hồi sáng, khi mẹ nó đưa nó xem tấm ảnh, bảo người trong ảnh là ba nó thì nó tin ngay. Cũng có phần là vì mẹ nó bao giờ cũng nói thật, nhưng chính khi coi ảnh, nó cứ ngờ ngợ như đã có lần gặp ba nó rồi. Thực ra thì nó chỉ gặp ba nó trong trí tưởng trẻ thơ của nó qua những lời mẹ kể.
Về việc này, phải nói là chị Sứ cứ ân hận mãi. Lúc chia tay, chị có giữ một tấm ảnh anh San, chị vẫn cất kỹ tấm ảnh ấy trong bóp. Năm năm mươi sáu, lúc bọn địch bắt chị giải lên quận, chúng xét gặp và xé nát.
Năm đó chị mới sinh con Thúy.
Ngồi trò chuyện với em, Sứ đã liếc thấy con mình làm gì hết cả. Nhưng chị giả vờ như không thấy. Chị đưa mắt nháy Quyên. Quyên ngoảnh nhìn. Thấy con bé Thúy đang lặng lẽ, chăm chú làm các việc nhận dạng đến mức ấy, thì cô bụm miệng cố nhịn cười. Nhưng lát sau, không nín được, cô cười phì ra. Con bé Thúy đỏ mặt, lúng túng, ngượng nghịu úp tấm ảnh và chiếc gương vào ngực.
Sứ không cười. Chị hỏi:
- Sao, con? Con với ba có giống nhau không?
Con bé ngó lơ chỗ khác, không đáp. Loáng cái đã thấy đôi mắt to đen của nó rân rân. Sứ biết sớm muộn gì con mình cũng khóc. Tính nó hay hờn mát, từ bé đã vậy, mẹ chị vẫn nói:
- Con nhỏ nó giống y như mày hồi đó!
Chính chị bây giờ, không hiểu sao, khi thốt hỏi con câu vừa rồi, mi mắt chị bỗng cay cay, nóng nóng. Chị đứng dậy bước tới góc bộ ván ôm lấy con. Rồi hầu như cùng một lúc, hai mẹ con đều nức nở.
Quyên ngồi mỉm cười. Cô biết giọt nước mắt của chị và cháu mình chảy ra cũng chẳng qua bởi niềm vui đến hôm nay đã gợi dậy những nỗi tủi trong bao năm gian khổ, hy sinh và mong đợi, nên cô không lấy thế làm lo. Lát sau, không muốn để tiếng khóc ảnh hưởng đến tin vui cho chị mình, cho cả nhà, cô đứng vụt dậy, nói:
- Khổ ghê, hồi biệt tin tức anh Ba thì chị với con Thúy cứ rủ rỉ thở than với nhau, bây giờ có tin anh Ba thì khóc. Thiệt hết biết hai mẹ con rồi. - Đoạn Quyên quay lưng: - Thôi, hai người ở đó khóc cho đã thèm đi. Tôi đi kiếm má cho má hay coi!
- Má hay rồi! - Chị Sứ nói giọng nghẹn ngào, và tiếp: Má đi ra bãi kiếm tôm cá gì đó, nói chiều nay làm bữa cơm.
Quyên đứng lại, mặt rạng lên:
- Cha!... Mới được một cái thơ của anh Ba mà bà già làm tiệc rồi. Đây tới chừng thống nhất anh Ba về chắc má làm heo...
- Tiệc tùng gì, nghe anh Tám Chấn với chú Ngạn về, má mới...
- ờ, ờ... sáng nay cuộc hội nghị huyện ủy mở rộng đã bế mạc. Xế xế chắc mấy anh về tới đây. Em có gặp mấy anh ở đội VT3 của anh Ngạn đóng ở ấp hai, mấy ảnh nói anh Tám sẽ về công tác ở đây một thời gian ngắn.
Chị Sứ hỏi, giọng đã bình tĩnh trở lại:
- Nghe nói kỳ này anh Tám được bầu làm bí thơ huyện rồi phải không?
- Phải, ảnh đã được bầu làm bí thơ, phụ trách cả dân vận... Em nghĩ anh Tám làm bí thơ là xứng đáng. Chị nhớ hồi đen tối không, chỗ nào cơ sở bị đánh phá dữ thì anh tới, cực khổ nguy hiểm mấy ảnh cũng tỉnh như thường.
- Thiệt, lúc đó lần nào gặp ảnh tao cũng thấy đỡ lo hơn. Nghĩ cũng lạ, nông dân mình qua cách mạng nổi lên nhiều người giỏi dữ. Anh Tám cũng là nông dân rặt đó chớ gì! Má nói hồi còn Tây nhà ảnh ở Vĩnh Hanh, mùa gặt nào cũng thấy ảnh quảy nóp xuống đây gặt mướn...
- Nghe đâu hồi đó ảnh đã hoạt động rồi.
- ồ, ảnh hoạt động lâu rồi. Coi nông dân vậy chớ hoạt động cách mạng lâu thì hiểu nhiều, biết nhiều, lại được cái chắc chắn. Mà ảnh tình cảm ghê lắm. Nhớ hồi tao bị tụi nó bắt, lúc được thả về, ảnh viết thơ nhắc nhở an ủi hoài. Mấy cái thơ đó tao nhớ có đưa cho mày coi mà, Quyên?
- Có, em có coi!
Sứ liếc em gái, cười nói tiếp:
- Thì chuyện giữa mày với thằng Ngạn không khéo chút nữa là tan rồi. Anh Tám mà không cho hay thì mày còn khóc lâu!
Quyên cười chúm chím, có vẻ như đắc ý lắm. Nụ cười của cô hoàn toàn vui vẻ và biểu hiện đầy đủ rằng giá mà đời cô gặp sự rủi chăng nữa thì sự rủi đó đâu cũng chỉ là tạm đấy thôi. Bao giờ cũng vậy, ngay trong lúc khổ cực khó khăn cô cũng cứ tươi luôn, tưởng chừng suốt đời cô sẽ tươi mãi như thế. Ngoại trừ cái dạo năm năm mươi tám thì cô đã khóc lóc vật vã trọn một tháng. Nhưng rồi sau cái tháng đó, mọi nỗi đau buồn của cô bỗng dừng lại giũ sạch.
Chuyện này có dính dáng tới người thanh niên tên Ngạn mà chị Sứ vừa nhắc tới. Ngạn là anh thợ nhà in, làm liên lạc viên ở nội thành Rạch Giá. Anh bị giặc bắt năm năm mươi lăm rồi bị đưa lên Phú Lợi. Tại Phú Lợi, Ngạn đã tham gia cuộc đấu tranh chống vụ đầu độc tù nhân lớn nhất từ trước đến nay của Mỹ - Diệm. Sau đó, anh là một trong số người sống sót bị giặc chở ra liệng biển. Dọc đường đến bến tàu, anh từ trên xe cam-nhông nhảy đại xuống, lẩn vào phố. Đồng bào ở đó chặt cái còng trên tay anh, giấu kín anh, rồi đưa anh đi. Lúc về Hòn Đất, Ngạn mới có hăm hai tuổi đời, nhưng anh có được tới ba tuổi Đảng. Anh vào Đảng trong tù. Kể chuyện cho Quyên nghe, anh nói rằng trong buổi kết nạp, anh giơ nắm tay chào cờ Đảng tưởng tượng trong lòng, chứ không có cờ Đảng treo trước mặt. Về đây cuối năm năm mươi chín, anh phụ trách thanh niên. Và anh đã gặp Quyên trong thời gian ấy. Hồi đó, Quyên mới mười bảy tuổi, hồi Hòn Đất cùng bao xóm xã khác bị bọn Diệm đánh phá khốc liệt. Có lần anh nằm trong cái hầm bí mật dưới sàn nhà Quyên gần hai tháng, sắp đặt chỉ vẽ cho Quyên đi công tác. Đến khi Quyên tự động công tác được rồi thì anh lại phải chuyển đi chỗ khác, vì giặc đã đánh hơi được anh. Cái hầm thứ hai của anh ở dưới một nấm mả giả nằm giữa một đám mả thật. Đêm đêm, có một cô gái nhỏ đi ra và chui xuống dưới mả. Cô gái nhỏ ấy là Quyên. Hầu như đêm nào Quyên cũng lẻn ra đó, đem cơm cho anh, bàn bạc công việc. Nhiều khi cô đem cho anh cả chuối và xoài nữa. Cô bắt anh phải thay quần áo, rồi thường vo bộ quần áo đã bẩn của anh về giặt. Có những lúc kẹt cô không ra được, thì mẹ Sáu ra. Lần nào xuống hầm, mẹ cũng khóc. Một hôm, mẹ nói với anh:
- Tao nghĩ không lẽ mình cứ nhịn nhục như vầy hoài sao Ngạn? Nó mổ bụng mình, nó đập đầu mình, anh em chết không biết bao nhiêu rồi. Hôm qua, con Quyên với con Sứ vô rừng mò kiếm được xương thịt của bảy anh em mình bị nó đập bữa trước, kiếm gặp ở trong bàu.
Nói rồi mẹ bưng mặt khóc:
Ngạn hỏi:
- Vậy chị Ba với em út đem những xương đó về để ở đâu?
- Hai đứa nó bọc trong ni-lông đem giấu trong hang Hòn rồi!
Có một hôm, bà mẹ nắm tay anh do dự mãi, lúc sau mới chậm rãi nói:
- Ngạn à, tao coi mày như con của tao. Tao hỏi thiệt, mày có thương con Quyên không? Nếu như có thương thì nói tao biết, tao gả cho!
Ngạn cảm động ôm chầm lấy mẹ. Dĩ nhiên là trước khi mẹ Sáu nói thế, anh với Quyên đã thương nhau nhiều. Nhưng anh cảm động sung sướng hơn vì thấy mẹ Sáu nói ra điều ấy giữa lúc cơ sở bị đánh phá dữ dội nhất, giữa lúc anh phải náu mình dưới cái hầm tăm tối và kỳ lạ nhất. Anh nghĩ mẹ Sáu muốn giao đời cô gái út cho anh, ngoài sự thương yêu riêng anh, ắt còn vì mẹ tin và yêu thương cách mạng. Nằm trong hầm tối, anh cứ nghĩ sao mẹ không tính đến việc anh có thể hy sinh nay mai? Sao mẹ không sợ con gái mình cơ cực. Ngày ấy, Quyên mới lớn, trông đã xinh, khắp vùng có nhiều người ghếm ghé mai mối, trong đó có cả những tên sĩ quan làm ra vẻ đứng đắn và những gã con trai bảnh bao thường về bãi Tre tắm biển. Bà mẹ đã nhiều lần nói với lối xóm:
- Con tôi sanh ra không phải để gả cho hạng đó đâu!
Còn Quyên thì trước những lời tán tỉnh của bọn ấy, cô bực bội lắm. Đêm đêm, khi cô sắp đặt chân tới đám mả hoang vắng, thì nỗi bực bội phiền toái của cô về chuyện đó không còn nữa, và lòng cô tràn ngập bao nỗi yêu thương cùng hy vọng. Hồi nhỏ, không bao giờ cô dám đi qua đám mả ấy, kể cả ban ngày, thế mà nay cô đi tới đó chẳng chút sợ sệt. Không, ở đó không có con ma nào cả. Có phải đề phòng là đề phòng bọn công an. Nhưng chỗ này bọn chúng lại không ngờ tới. Ngạn yên ổn sống ở dưới đó ngót hai tháng rồi mới chuyển vào ở cứ. Tai họa xảy đến với anh vào buổi trưa, lúc anh đang trên đường từ cứ ra rìa xóm. Bọn giặc phục kích bắt được anh. Ngay chiều hôm đó, căn cứ trong rừng bị địch bao. May mắn, là anh em đi bắt vọp cả, chỉ có cái chòi trống không. Anh em bắt vọp gần đấy nghe bọn lính biệt kích láo nháo:
- Đ.mẹ, sao nó chỉ ở đây?
Có thằng bảo:
- Nó chỉ ở đây trúng rồi. Chắc tụi nó biết động nên đã dời.
Bọn lính nằm rình gần nửa tiếng đồng hồ mới kéo đi. Anh em thoát được về nói:
- Thôi, thằng Ngạn khai ra hết rồi!
- Thì còn gì nữa, ngoài nó thì ai vô đây!
- Thiệt là không hiểu nổi... anh em mình tin tưởng nó, nghe nó bị bắt mình cũng không dời cứ, vậy mà nó trở mặt như vậy aà?
Cái tin nói Ngạn bị bắt vừa mới về với Quyên thì kế đó lại có tin ghê gớm hơn nói Ngạn đã khai báo. Trong một ngày, Quyên nhận được hai tin dữ. Ban đầu cô không tin, không bao giờ cô tin Ngạn lại phản bội. Cả nhà, từ mẹ cô đến chị Sứ, cũng đều không tin sự thật lại là thế. Nhưng không lâu sau, khắp Hòn Đất đều đồn Ngạn là người đã chỉ căn cứ cho địch đánh. Tất cả mọi người tốt đều nhìn Quyên với cặp mắt thương hại. Quyên tối tăm cả mặt mày. Cô có cảm tượng như bị một cây gậy của ai bất thình lình phang trúng ngang lưng. Cô khóc suốt đêm và nghĩ rằng nếu Ngạn đã vậy thì giữa cô với Ngạn đâu còn có gì nữa, và tình yêu thế là tan nát rồi sao? Đôi lúc nghĩ lại về con người Ngạn, cô bỗng muốn kêu lên: - "Không, không phải vậy đâu!". Có cái gì khiến cô hoảng sợ trước những lời đồn đãi, nhưng lại không muốn tin lời đồn đãi với sự suy xét và lòng tin của cô đối với Ngạn. Cô tìm gặp anh Hai Thép bây giờ đã là bí thơ chi bộ để hỏi. Anh Hai Thép nói: - "út Quyên à, bây cứ bình tĩnh. Chuyện này trong chi ủy vừa rồi có bàn nhưng chưa thấy có bằng cớ gì đích xác là do Ngạn khai ra, cho nên chi ủy vẫn chưa kết luận. Anh Tám Chấn viết thơ về nói: "Chuyện đó khoan đã, với bấy nhiêu sự việc mà đã vội cho đồng chí ta là phản bội thì không được. Đành rằng phải cảnh giác. Nhưng thằng địch bây giờ có nhiều mưu hiểm lắm. Việc này tôi đang cho điều tra, hư thực ra sao tôi sẽ báo cho các đồng chí hay". Quyên nghe anh Hai Thép nói thì hơi mừng. Cô trở về nhà với niềm hy vọng le lói trở lại. Cô nói với chị Sứ:
- Chưa chắc đâu, trong Đảng cũng chưa kết luận kia mà!
- Thì tao đã nói, các đảng viên chỉ có được thông báo sự việc như vậy và bảo phải cảnh giác đề phòng thôi. Mày cứ khóc hoài, phải để coi đã chớ, lớn rồi chớ bộ còn con nít sao!
Quyên nói:
- Thôi em nghe lời Đảng, nghe lời chị. Em không nghĩ gì nữa.
- ờ cứ vậy đi!... Nhưng tao hỏi... - Nói đến đây, chị Sứ do dự một lúc rồi nhìn thẳng vào mắt Quyên, nói tiếp - Nhưng... nếu Đảng chỉ biết Ngạn vẫn tốt thì không nói chi, còn giá như Ngạn hư thiệt rồi thì mày tính sao?
Quyên ngồi lặng đi rất lâu mới đáp, giọng uất nghẹn:
- Tính sao nữa... coi như không có ảnh, coi ảnh chết rồi chớ sao! Gặp ảnh, em sẽ...
- Sẽ sao?
Quyên biết chị đã có ý trêu mình, cô vùng vằng:
- Tới chừng đó hẵng hay, bây giờ em không nói trước làm chi?
May thay, sự việc không phải dẫn đến chỗ như hai chị em giả dụ. Mươi bữa sau, anh Tám Chấn từ trên huyện về, cho gọi Quyên vô cứ. Câu đầu tiên của anh Tám là:
- Nè, út Quyên kiếm gà cho tôi ăn đi, rồi tôi nói cho nghe!
Trời ơi, mới nghe nói thế Quyên đã hiểu ngay. Tim cô đập thình thịch, cô nhào tới nắm chặt tay anh Tám. Anh Tám mỉm cười nhìn cô với ánh mắt vui vẻ và thông cảm. Anh lặp lại:
- Nhưng có đồng ý làm gà cho tôi ăn không chớ?
- Có, có... Quyên nói vội, mặt đỏ lên.
Anh Tám bấy giờ mới đứng dậy kéo tay cô ra góc chòi. Anh khẽ nói:
- Mấy hôm nay nghe út Quyên buồn lắm hả? Thôi đừng buồn nữa, Ngạn vẫn tốt, rất tốt. Anh dừng lại, giúi cái tàn thuốc xuống đất, rồi tiếp:
- Mới đây, ta vừa bắt được một ổ điệp điều tra, chúng có khai ra một số chuyện, trong đó có chuyện giặc bao cứ tháng trước. Nguyên do là bọn điệp ở xóm Chùa ngày nào cũng leo lên cây sao hai ngọn để theo dõi trong rừng tràm. Chúng nói một buổi chiều chúng thấy ở giữa rừng có khói bay lên. Chúng liền báo cho tụi thằng Xăm vô đánh. Đấy chỉ có vậy, chỉ có một ngọn khói nhỏ vậy thôi...
Quyên thở phào, nhẹ cả người.
2
Đang đi, anh Tám Chấn chợt đứng hẳn lại nhìn tới trước, trầm trồ bảo Ngạn:
- Cứ mỗi lần về Hòn là tôi lại thấy nó khác đi. Tháng này Hòn coi xanh tốt quá. Chú ngó kia, mãng cầu ta lên lá non coi mướt chưa?
Ngạn và chú bảo vệ anh Tám là Đạt cũng dừng lại. Đứng bên anh Tám, Ngạn đưa mắt nhìn về phía Hòn Đất. Anh cũng có cảm giác rất dễ chịu, ngay từ đầu đường rẽ về Hòn.
Hòn Đất nổi lên trên Hòn Me và Hòn Sóc, gối đầu lên xóm, về tháng này trông xanh tốt quá. Bấy giờ vừa sang tháng chạp ta, đã nghe gió tết hây hẩy lùa trong nắng. Cây cối trên Hòn và các xóm nằm liền Hòn vụt rạo rực, tràn trề nhựa sống. Vùng Hòn với những vòm lá của đủ các loại cây ăn quả đều sum sê, nhẫy nhượt. Những ngôi nhà trong xóm, mái lá và ngói đỏ chen nhau coi đông đúc như một thị trấn. Nhà còn cất leo lên triền Hòn thoải thoải, ở xa ngó cứ như những chuồng chim câu, có cái vách ván đã bạc thếch vì mưa nắng, có cái còn mới nguyên, vách lát bằng ván sao nổi lên đỏ sẫm. Xa quá khỏi Hòn một đỗi, là bãi Tre. Thấp thoáng những cây tre đằng ngà cao vút, vàng óng, những cây tre lâu nay vẫn đứng đấy, bình yên và thanh thản, mặc cho bao nhiêu năm tháng đã đi qua, mặc cho bao nhiêu gió mưa đã thổi qua.
Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang rỡn sóng, mang mang một màu xanh lục. Đứng ở đây, khi sóng sủi bọt âu yếm vỗ bờ, Ngạn thấy dưới chân bãi Tre như có một đường viền bằng ren, thỉnh thoảng lại dợn lên.
Anh Tám vịn vai Ngạn, cất bước chầm chậm đi tới và nói:
- Cảnh Hòn đẹp thiệt... Từ ngày đồng khởi tới này chưa đầy một năm mà cảnh đã thay đổi hẳn. Trận càn giữa năm, nhờ quần chúng đấu tranh gắt nên nó cũng không phá được gì.
- Nghe đâu nó đã rải thuốc hóa học ở một số nơi trong tỉnh mình hả anh?
- Có, nhưng càng rải nó càng chết. Có điều là sau ngày minh quật nó, nó hoảng một lúc, nay đã tỉnh tỉnh lại. Chúng đã bắt đầu chà xát mạnh ở một số nơi.
- ở đây thì kể như đã bị một trận rồi...
- Nó sẽ còn chà nhiều trận nữa chớ. Tụi nó dư biết đây là căn cứ của mình. Nó biết mọi cuộc đấu tranh tràn vô thị xã đều xuất phát từ đây. Vả lại, Hòn Đất là một điểm nằm trong khu vực tập trận của khối xâm lược Đông Nam á. Về phía ta, ta cũng không muốn chúng nó tới chỗ này. Nếu chúng có đóng bót, ta cũng phải nhổ đi...
Anh Tám Chấn dừng lại. Lát sau, anh cười rất hóm rồi nói:
- Riêng chú thì Hòn Đất còn có đặc biệt quan trọng hơn. Mặc tình chú đi đông đi tây gì đi nữa, nhưng chân chú đã bén rễ đất Hòn rồi...
Ngạn nhoẻn miệng cười. Anh Tám hỏi:
- Sao, tính ngoài ngày làm đám cưới à? Thôi, Tết này làm luôn đi. Tôi ráng "cương" lên làm chủ hôn một trận coi. Sau Tết tôi đi học rồi. Ông bà mình có nói: "Cưới vợ thì cưới liền tay..." gẫm ra rất là biện chứng nghe. Nên nhớ làm cách mạng và cưới vợ, hai chuyện mới coi qua thấy như có mâu thuẫn, nhưng trong điều kiện nào đó lại thống nhứt với nhau. Tất nhiên chuyện đời cũng có anh cưới vợ rồi sanh ra bê bết, nhưng có nhiều anh lại yên tâm hăng hái hơn. Cũng tùy, tùy "anh" tùy "em"... Phần chú thì tôi xin miễn nói, còn út Quyên thì tôi có thể nói: đó là một cô gái rất tốt, công việc Đoàn nó hăng hái tháo vát, công việc vườn tược, nấu nướng may vá nó làm cứ gọn hơ. Về sắc thì khá quá đi chớ. Đành rằng cái chuyện hiểu lầm hồi nẩm có làm chú bực, nhưng chú cũng phải thấy qua chuyện đó út Quyên nó như thếnào. Tôi thấy chú phải mừng, vì nếu cô ta nghe tin chú như vậy mà không vật vã đau đớn chi hết thì mới nguy. Đằng này nó như muốn điên lên được mà...
Nghe anh Tám nói, Ngạn cười tủm tỉm. Anh cố giấu nỗi đắc ý của anh. Thực ra, đầu tiên nghe chuyện đó thì anh dóa lắm, nhưng về sau càng nghĩ kỹ anh lại càng thấy thương Quyên tin Quyên hơn. Chính anh cũng tự dằn lòng: "Mình đã hai lần bị bắt, hai lần trốn thoát. Nếu có một lần thứ ba nữa thì cũng phải vững như vậy!".
Bởi vì anh biết rõ Quyên đã khổ sở ghê gớm như thế nào rồi, khi cô hay một cái tin như thế.
Vào tới đầu xóm, anh Tám Chấn hỏi Ngạn:
- Anh em trong đội chú đóng đâu?
- ở giữa xóm. Anh ghé đó chớ?
- Được, ghé coi có Hai Thép ở đó không?
Anh Tám quay lại vỗ vai chú bảo vệ của anh, hỏi:
- Có muốn về nhà chơi không, Đạt?
Đạt nhoẻn cười, gật đầu. Anh Tám nói:
- Thôi, cho chú về Linh Quỳnh thăm nhà, mai qua, nghe!
Chú Đạt bảo vệ hớn hở xốc lại dây đai khẩu cac-bin nói:
- Cháu đi!
Nói xong, chú rảo bước như chạy.
Từ xóm Hòn Đất qua Linh Quỳnh chỉ có bốn cây số.
Xóm Hòn Đất ở liền ngay chân Hòn. Cuối xóm là bãi Tre, cách biển vài trăm thước. Sau lưng xóm, còn một quãng vườn cây sum sê, rồi tới sông Vàm Răng. Sông không rộng cho lắm, ngày hai lần, nước sông lớn và ròng theo triều biển, theo tiếng bìm bịp kêu nghe tợ tiếng tù và thổi giục. Nhà cửa ở Hòn Đất san sát bên đường, xen vào giữa những vườn mít trái treo vàng xám, giữa những vườn dừa, vườn cau, và những cây ăn trái khác như mãng cầu, lê ki ma, măng cụt. ở đây có nhà cất trệt, nhưng cũng có nhà sàn phải đi lên bậc thang. Tùy theo lối vào nhà mà bậc thang đó bắc bên trái hoặc bên phải. Những nhà lớn lợp ngói thường có bậc thang ở hai bên, lên xuống bên nào cũng tiện.
Người ta bảo ngày mùa đứng ngoài Tri Tôn trông về Ba Hòn thấy giống như hình một cô gái vừa tỉnh giấc nồng nằm trên chiếc chiếu vàng, chân cô gái duỗi ra và đầu nhổm tới phía một dải lụa xanh phơ phớt.
Chiếc chiếu vàng là đồng lúa chín tới. Và tấm dải lụa xanh ấy là dòng sông đó chăng?
Anh Tám và Ngạn đi vào gần tới giữa xóm thì nghe trước mặt vẳng tới tiếng đờn ca. Chốc sau, có một giọng nữ cất lên. Ngạn kêu:
- Ca sĩ Năm Nhớ tụi tôi bắt đầu trổi giọng rồi!
Anh Tám Chấn bảo:
- Mấy chú về đóng ở đây coi bộ đời lên hương dữ ha! Năm Nhớ ca đó hả?... Ca khá lắm, giọng đã tốt lại biết điều khiển tiếng ca. Hèn chi tụi lính bót nó mê cũng phải... à, nghe đâu hôm mấy chú làm ăn ở bót Cà Tưng, tụi lính tuyên bố không bắn để nghe ca hả?
Ngạn gật đầu:
- ồ, tức cười lắm. Có thằng kêu: - Cô Năm thương nhớ ơi, làm sáu câu nữa đi, anh em tụi tôi là dân mô điệu à, không bắn bậy đâu!
- Cũng hay. Tụi nó không bắn bậy là hay rồi. Nhưng nội dung bài ca ra sao? Chuyện này hơi tinh tế đây, tôi cũng dốt lắm, nhưng tôi nghĩ là lời lẽ bài ca của mình có tình có lý, sao cho lính nghe rồi nó chán ngấy cuộc đời làm lính, sao cho nó nhớ vợ, nhớ con muốn bỏ trốn ráo. Không nên dùng lời lẽ cứng nhắc, cũng không nên mùi quá... Chà, chắc Năm Nhớ ca nhiều bản mùi dữ hả? Nên chi tụi nó mới kêu là "Cô Năm thương nhớ" đó chớ gì?
- Không đến nỗi đâu anh... Năm Nhớ nhiều phen cũng tức mình lắm. Cô ta nói: - "Tụi lính mắc dịch đó, tôi mà không vì cách mạng, còn lâu tôi mới ca cho tụi nó nghe!".
- à, còn chú Diệp học sinh ở Rạch Giá mới vô đó thì sao/
- Chú ta cũng tốt thôi. Anh ta cũng thương. Nhưng tất nhiên đối với cuộc sống này chú ta còn nhều bỡ ngỡ.
- ở ngoài thành mới vô thì đứa nào cũng vậy. Cố giúp đỡ nó. Con em của đồng chí mình đã hy sinh, mình phải có trách nhiệm.
Tiếng đờn ca vọng lại mỗi lúc một rõ hơn. Anh Tám nghe biết ngay tiếng đờn độc quyền của ông Tư Đờn, liền nói:
- Từ ngày bị mù tới giờ, ngón đờn của ông Tư nghe càng xúc động.
Anh Tám và Ngạn đi một đỗi nữa thì đã ngó thấy cây me lớn. Cạnh gốc me cổ thụ ấy là nhà ông Tư Đờn, coi như một cái quán cốc. Hai người mới bước vào thì một con chó phèn to từ trong chạy xổ ra kêu ư ử, cúi liếm chân hai người và vẫy đuôi rối rít. Trong nhà vừa chơi dứt bài Vùng lên, anh em ơi! theo điệu Kim tiền. Anh em trong đội võ trang ngồi vây quanh cô Nhớ và ông Tư Đờn. Thấy hai người bước vào, họ la lên:
- Anh Tám với Năm Ngạn tới rồi kìa!
Anh Tám bắt tay mọi người. Anh ôm vai một thanh niên coi dáng dấp rất học sinh, cười nói:
- Sao! Đi đây có vui không, Diệp?
- Dạ vui!
Cậu thanh niên tên Diệp đáp, cười bẽn lẽn như con gái. Anh Tám lại bắt tay cô Nhớ, anh gặt gặt mấy cái:
- Xin chào ca sĩ!
Năm Nhớ đỏ mặt kêu lên:
- Anh Tám.
Anh Tám Chấn đến bên ông Tư Đờn:
- Bác Tư lóng này mạnh luôn hả bác?
- Tám Chấn đó à?
Ông già mù thốt hỏi rồi run run đưa tay sờ lên khắp người anh, nắn nót cườm tay anh một cái lặng lẽ. Lâu sau, ông mới chậm rãi hỏi tiếp:
- Sao lâu nay không thấy về? Hay có về mà không ghé tui!
Anh Tám đặt nhẹ tay lên đôi vai gày của ông già:
- Mắc công chuyện quá không về được, bác à. Nếu có về thì ắt phải ghé thăm bác chớ!
Anh ngó trước sau hỏi:
- Con Tím nó chạy đâu rồi bác?
- Nó đi mò cá ngoài sông...
Ông Tư không nói gì nữa. Ông cứ đưa cặp mắt sâu thẳm như muốn cố nhìn anh Tám. Nhưng ông đâu thể nhìn thấy anh được. Chín năm nay ông không nhìn thấy gì, kể cả thiên nhiên lẫn con người. Ngay như gốc me cạnh nhà ông, hay chõm Hòn, hay bờ bãi, mà nhất là những con người ông yêu mến ông đều không trông thấy. Đành rằng có những cái ông đã thấy lúc mắt còn sáng, nhưng những cái ấy nay đều đã khác đi. Nỗi khổ tâm bậc nhất giày vò ông già mù này chính là ở đây. Ông chỉ nghe sự biến thiên quanh mình mà không thấy được sự biến thiên đó, cho nên ông càng phải tưởng ra để thấy. Chính vì thế mà khi uất ức ông cũng uất ức hơn, lúc sung sướng ông cũng sung sướng hơn. Tại cái gốc me cổ thụ, cách đây không lâu, bọn đồn Hòn Đất đã trói quặt tay một chị cán bộ vào thân cây rồi dùng đinh đóng suốt qua hai bàn tay chị. Ông nghe chị chửi rủa, gào thét và tiếng súng nổ. Sau cùng, ông nghe tiếng kêu lớn: - "Cô bác ơi, hãy trả thù cho cháu!". Thế rồi một loạt súng nữa nổ vang. Từ trong nhà, ông quờ quạng chạy ra. Bọn giặc đẩy ông trở lại. Lúc chúng đi, ông nhằm hướng gốc me lồm cồm bò tới. Nhưng chị cán bộ không có đấy nữa. Chúng đã đem xác chị đi mất rồi. Ông ôm gốc me khóc. Nước mắt ngập đầy hố mắt ông đêm hôm đó và cả những ngày hôm sau. Thế rồi đêm đêm, ông tưởng như thấy chị cán bộ, nghe lại tiếng kêu, hình dung ra gốc me sây sát vết đạn, in sâu vết đinh đóng. Gốc me đối với ông đã đổi khác, là vậy. Những ngày đi đấu tranh, dẫu đường trơn lầy lội vì mưa dầm tháng tám, ông vẫn nắm tay đứa cháu, đợi bà con ùn ùn kéo ngang là nhập vào, đi lên bót, lên quận. Đấu tranh thắng lợi về, ông hình dung con đường trước nhà in đầy những dấu chân. Và ông sung sướng hơn, cũng là sung sướng như thế. Ngày đồng khởi, tất cả những buổi xử tội bọn ác ôn, ông đều có mặt. Hôm xử tên chủ Mưu - tên già gian ác nhất vùng, lúc anh Hai Thép vừa thay mặt tòa cách mạng hỏi ý kiến bà con có đồng ý xử tử nó không, ông nhóng lên giơ tay và la lớn: - "Tử hình, tử hình!". Bà con ai cũng có cảm tưởng là ông ngó thấy được. Ai cũng nhường chỗ ông đứng. Ông hỏi: "Bắn à?". Người bên cạnh đáp: - "Không, ché không bắn!". Ông lại hỏi: "Ai chém?". Khi người ta bảo chém là Ba Rèn thì ông "à" lên một tiếng đầy tin tưởng.
Hồi năm bốn mươi bảy, lúc mắt ông còn đang sáng, ông có thấy Ba Rèn chém Việt gian. Hồi đó, hiếm đạn cũng như bây giờ, Ba Rèn chém bằng mã tấu. Anh ta không bao giờ vung mã tấu lên quá đầu. Anh để lưỡi mã tấu gần cổ tên phản quốc, tưởng như anh chưa chém, thế mà bất ngờ cổ tay anh gặt mạnh một cái, đầu tên phản quốc rụng xuống. Lần đó, ông Tư đứng đợi kỳ đến lúc đầu tên ác ôn chủ Mưu rơi nghe cái "phịch" xuống bãi cỏ, ông mới chịu quơ gậy đi về.
Nỗi căm uất, sự hả dạ và niềm vui sướng của ông Tư mù cho đến bây giờ vẫn không có gì thay đổi. Bây giờ nó cũng sâu thẳm như hai hố mắt ông đang cố nhìn anh Tám Chấn.
Chợt ông bảo:
- Mà nói vậy chớ rảnh thì ghé, không rảnh thì thôi, tôi biết Tám Chấn với anh em mắc lo công chuyện cách mạng. Biết vậy là tui mừng. Tui coi như anh em có ghé thăm tui rồi đó...
Anh Tám hỏi:
- Bác Tư ơi, độ rày bác còn uống rượu nhiều không?
Ông Tư Đờn không đáp ngay. Chốc sau, ông mới nói:
- Còn, mà không nhiều...
- Bác Tư uống ít là tốt!
- Chú Tám nói phải, nói phải... Nhưng hồi đó khác, bây giờ khác. Chú nghĩ, hồi đó cứ nghe tiếng cột chèo của tụi nó đập đầu anh em mình, tui hỏi chú liệu tui có ngủ đặng không? Mà tui lại không có mắt, tui còn làm gì được ngoài cái việc bòn mót gạo để dành, đêm đêm lóng tai nghe coi có chú nào về không, để quờ quạng bưng thúng gạo đưa mấy chú. Mấy chú bưng gạo đi rồi, tui thao thức, lúc đó tui mới uống...
Dừng lại giây lâu, ông tiếp:
- Còn từ ngày mình đứng dậy tới giờ, tui không uống nhiều nữa đâu!
Anh Tám từ từ nắm chặt hơn bàn tay gầy guộc của ông già mù. Một lần nữa, anh lại nghe thấy một cái gì trỗi dậy rất mãnh liệt, cứ sôi lên, thôi thúc khẩn thiết trong lòng.
3
Quyên xách con cá chẻm còn tươi rói đặt lên sàn nước. Cô xắn vội tay áo tới khuỷu, rồi cầm con dao phay dưới sàn chặt đứt sợi lạt tre xỏ ở mang cá. Quyên bắt đầu đánh vẩy. Bàn tay trái cô xòe hết năm ngón mà nắm không hết con cá. Con cá chẻm thiệt lớn. Mẹ Sáu nói nó cân tới bốn ký. Mẹ xách nó từ bãi Tre về đây cứ phải đổi tay luôn.
Quyền cầm dao đánh soàn soạt lên mình con cá loáng nước, anh ánh sắc tím. Những cái vẩy cá văng ra, to gần bằng đồng xu. Quyên thích thú lấy tay xếp nó lại, chồng cái nọ lên cái kia, nhìn cười, rồi lại tiếp tục đánh nốt đám vẩy còn lại. Con cá lớn là thế mà cô xoay trở làm coi gọn hơ. Cô chặt một nhát thì đứt rơi cái kỳ, chặt nhát nữa, đứt tiện cái đuôi. Phút chốc con cá chẻm đã làm xong, chỉ con mổ ruột. Quyên với chiếc gáo có cán đặt trên miệng khạp múc nước đổ vào cái vịm sành da lươn cạnh đấy, rồi nhắc con cá thả vô.
Cô dội mấy gáo nước nữa cho sàn lảng thiệt sạch.
Lúc sắp sửa vớt con cá ra để mổ bụng. Quyên chợt nghe ngoài bậc thang nhà có tiếng gọi vui vẻ, sang sảng:
- Má ơi!
Cô nghe đúng là tiếng anh Tám Chấn. Kế lại nghe:
- Má...
Tiếng sau có vẻ mừng rỡ và âu yếm. Quyên biết ngay là tiếng Ngạn. Cô liền để con cá xuống, rửa tay và vãnh bàn tay vuốt những sợi tóc lòa xòa ở hai bên thái dương. Cô nhón gót chạy ra, kêu rối rít:
- úi, anh Tám!
Cô vồn vã với anh Tám Chấn, còn Ngạn thì cô chỉ đưa mắt nhìn một cái. Thấy Ngạn mặc cái áo sơ mi đen của ai rộng thùng thình thì cô tức cười quá. Ngạn cũng vậy, anh chẳng hỏi gì cô cả, cứ thế anh ngồi xuống giữa nhà, dang tay đón con Thúy sà vào lòng. Ngạn hôn con Thúy chùn chụt. Hôn xong một cái lại "ủm" lên một tiếng coi vẻ ngon lành lắm. Con bé hôn lại anh, hôn không rõ kêu thì anh không chịu. Ngạn mở vòng tay ra, chỉ về phía anh Tám Chấn. Con bé chạy tới anh Tám. Còm một bước nữa tới chỗ anh, nó đứng lại, xuôi tay, rồi mới ôm lấy cổ anh hôn rất kỹ lưỡng.
Cả nhà đều nhìn cảnh ấy bằng cặp mắt vui vẻ, trìu mến. Mẹ Sáu đang ngồi nhai trầu, trệu trạo cười. Quyên đứng sau lưng mẹ, dùng ngón tay trỏ ấn nhẹ chiếc lông nhím trên đầu tóc bới của mẹ và cô cười lúm cả hai má. Nụ cười của Sứ có nén giữ hơn. Nhưng mặt chị cứ ngây ra. Mắt chăm chăm để ý từng cử chỉ của con chị không sao giấu được nỗi sung sướng xen chút hãnh diện. Sự an ủi của chị Sứ ở đây nhiều lắm. Đứa con gái vừa là kết quả của tình yêu thương chồng vợ, vừa là sự hiện diện của chị, của anh. Con bé gắn bó mọi người lại hết sức dễ thương và trong trẻo.
- Thúy đi học chưa? - Anh Tám hỏi.
- Dạ con đi học rồi. - Con bé đáp nhỏ nhẻ.
- Con đi một mình à?
- Ngoại đi với con. - Nói tới đây, con Thúy đưa mắt liếc nhìn ngoại nó - Bữa nào ngoại cũng đi với con hết hà!
Mẹ Sáu ngồi trên bộ ván vảnh tai vuốt tém cổ trầu ở mép, nói:
- Bữa nào tao cũng đưa nó đi rồi rước nó về đó Tám. Mà nó cứ không chịu chớ, nó nói: - "Ngoại để con đi một mình, con đi được!"... Để nó đi một mình sao được kia chớ! Thằng Tám coi, máy bay bữa nào cũng rù rù, còn tàu sắt lâu lâu cặp mé biển thụt cà-nông phùm phùm. Đưa đón nó như vậy mà suốt buổi tao còn phập phồng, hãy có hơi máy bay thì thôi tim tao nó cứ nhảy lia. Huống hồ là để nó đi một mình, dọc đường rủi máy bay tới, nó biết hầm nào mà chui?
- Dọc đường mấy bác có đào hầm! - Con bé nói.
- Thằng Tám coi nó nói đó... Có đào hầm? Đành là có, nhưng tao hỏi, rủi hầm có rắn ở dưới thì sao?
Têm một miếng trầu mới, mẹ Sáu bỏ vào miệng nhai rau ráu:
- Con nít tới chừng nó quýnh thì nó nhảy đại, có biết rắn rít gì đâu. Người lớn còn bị cái nạn đó hoài...
Anh Tám đang vén áo thắt lưng súng ngắn, nghe mẹ Sáu nói thì bật cười. Mọi người cũng đều cười. Quyên cười lâu hơn hết. Cô ghé cằm lên vai mẹ, nói:
- Má tôi bả nhát lắm, anh Tám ơi!
Mẹ Sáu lườm cô gái út:
- Phải mà, thì tao nhát!...
Anh Tám Chấn nghĩ bụng: "Không đâu, mẹ Sáu không nhát đâu! Vì năm năm mươi tám, chính mắt anh trông thấy một thử thách dữ dội nhất xảy đến với mẹ Sáu. Dạo đó xảy ra câu chuyện hai tên lính đang ngồi trên chòi gác đồn Hòn Đất thấy trong mé Hòn có một em bé cỡi trâu. Tên này thách tên nọ nếu bắn trúng em bé nó sẽ thua cuộc một điếu thuốc thơm. Tên lính giương súng ngắm bắn. Phát súng nổ. Em bé từ lưng trâu ngã lăn xuống. Hay tin đó, bà con Hòn Đất uất quá, họ vác thây em bé ùn ùn kéo ra bót. Anh Hai Thép phải cho Sứ và chị Hai Thép theo. Anh dặn: - "Phải bắt chúng trừng trị tên bắn em bé, phải đạt được yêu cầu đó với bất cứ giá nào". Anh Tám và anh Hai Thép ngồi trong một ngôi nhà bên này sông theo dõi cuộc đấu tranh. Bọn giặc ngăn không cho đồng bào kéo tới bót. Khi bà con đòi trừng trị tên giết người, chúng bảo em bé chết là do rủi ro bị đạn lạc. Bà con xông lên. Thằng Xăm, người Khơ Me lai, lúc bấy giờ là đồn trưởng, xách súng cạc-bin chạy ra. Nó chĩa súng vào ngực mẹ Sáu, vì mẹ là người xông tới trước tiên. Thằng Xăm thét:
- Đi về! Bà bước tới một bước, tôi bắn liền!
Tình thế hết sức găng. Trong bất cứ một cuộc đấu tranh nào, thắng hay không là ở phút ấy. Thằng Xăm ác ôn lắm, nó dám bắn bà mẹ như chơi. Nếu lúc đó, mẹ Sáu lùi lại thì cuộc đấu tranh kể như hỏng. Nhưng không, mẹ Sáu không lùi lại. Mẹ nói với tên Xăm câu gì, anh Tám ở xa nên không nghe được, nhưng anh thấy mũi súng cạc-bin của tên Xăm cứ run lên. Giữa lúc đó, một người đàn bà ở phía sau lách tới đứng chen vào giữa họng súng của thằng Xăm và mẹ Sáu. Đó là thím Cà Xợi, mẹ ruột của thằng Xăm. Thím nói gì với thằng Xăm, rồi đột nhiên bước phắt tới đỡ họng súng của thằng Xăm lên. Bà mẹ Sáu cùng đoàn người thừa lúc đó chạy ào vô.
Lần ấy, cuối cùng địch phải trói gô tên lính sát nhân lại. Thằng Xăm hứa sẽ bỏ tù nó. Sau đó về, anh Tám hỏi mẹ Sáu khi ấy mẹ đã nói gì với thằng Xăm. Mẹ bảo:
- Tao nói: - "Xăm à, mày bắn tao như bắn bà Cà Xợi thôi". Và câu nói của bà Cà Xợi khi đó là:
- "Đừng bắn bà Sáu, bắn tao đây. Ngực tao nè, bắn đi, Xăm!".
Thằng Xăm không bắn được. Nó là một tên ác ôn khét tiếng, nhưng nó chưa thể bắn mẹ nó.
... Bây giờ, nhìn mẹ Sáu, anh Tám nhớ rõ ràng ngày ấy mũi súng đã chĩa vào ngực mẹ như thế nào.
Anh hỏi mẹ:
- Máy bay thì má sợ như vậy, còn hồi nẩm lúc đứng trước họng súng của thằng Xăm, sao má không sợ?
Mẹ Sáu không đáp. Lát sau, mẹ chậm rãi nói:
- Máy bay tao cũng không sợ đâu. Sợ là sợ cho con cho cháu. Chớ tao thì già rồi, sắp xuống lỗ rồi mà còn sợ nỗi gì, Tám!
Má tiếp lời:
- Nói là nói vậy chớ tao chưa chết đâu. Tao còn phải mở mắt để nhìn nước nhà thống nhứt, để thấy mặt Cụ Hồ. Được thấy hai điều đó thì tao nhắm mắt mới đành!
Anh Tám nói:
- Sớm muộn gì má cũng sẽ nhìn thấy được hai điều đó!
- Chắc hôn Tám, chắc thiệt hôn Tám?
Mẹ Sáu hỏi lại và ngước mắt khẩn thiết nhìn anh Tám như thầm hỏi thêm: "Sao? Có gì mới không? Đảng nói sao, nói lại tao nghe, tao mừng với coi!".
Mẹ Sáu cho rằng cái gì anh Tám cũng biết, cũng thông báo trước hết. Hễ anh Tám nói là mẹ tin, tin rằng cái đó phải, cái đó đúng. Mẹ tin anh Tám là tin ở Đảng, tin anh là người của Đảng dẫn dắt bao bọc cho mẹ, cho con cháu của mẹ và xóm làm sống yên ấm, vui vẻ và hiếu thuận.
- Chắc chắn chớ - Anh Tám nói với mẹ - Má à, bây giờ không phải như trước. Hồi đó, mình muốn sống yên, muốn thống nhứt, nhưng Mỹ - Diệm nó không cho mình sống. Ai đòi thống nhứt thì nó chặt đầu, mổ bụng. Chịu không nổi bà con mình mới làm đồng khởi. Đã đồng khởi lên rồi thì chừng nào giành được lại cuộc sống tử tế đàng hoàng mình mới chịu, bằng không mình sẽ không buông súng.
- Đánh hoài à? - Bà mẹ hỏi.
Anh Tám đáp:
- Nếu nó còn ức hiếp mình thì mình còn đánh hoài. Hết người này đến người khác. Chừng nào Mỹ rút hết mới thôi!
- Tao ngó bộ Mỹ nó ngoan cố lắm, chừng nào nó mới chịu rút hết?
- Mình có đánh nó mới rút. Tây hồi đó cũng vậy!
Bà mẹ để hai tay vào lòng, thấp giọng:
- Biết vậy rồi...
Đoạn mẹ chép miệng:
- Lo cho tụi bây thôi, chồng vợ xa nhau, chớ tao thì già cả rồi... Mà điều tao nói thiệt với Tám, tao già thì già chớ tụi bay đi tới đâu tao cũng bươn theo tới đó. Đi đấu chính trị tao đi hoài được. Hay là nấu cơm tiếp tế cho bộ đội tao cũng nấu được...
Chợt ngoảnh lại thấy Quyên vẫn còn đứng bên cạnh, mẹ lấy tay xô khẽ con:
- Sao mà còn đứng đây?
Rồi mẹ dịu giọng:
- Đi làm cá đi, con. Chiều rồi. Nấu cơm cho mấy anh mày nó ăn!
Quyên từ từ nhắc cằm khỏi vai mẹ, đi ra nhà sau. Ngạn cũng nắm tay con Thúy đi theo.
... Quyên lật bụng con cá để lưỡi dao lên. Cô khẽ hỏi Ngạn bấy giờ đang đứng sau lưng cô tháo súng ngắn treo lên vách:
- Anh bật khính cái áo của ai vậy, anh NgạN?
- áo của anh Thẩm!
- Còn bộ quần áo em gởi cho anh đâu?
- Cho anh em rồi!
- Lại cho!
Quyên mổ cá, đem rửa. Tay làm miệng cô nói:
- Nè anh, chị Ba mới được thơ anh Ba, anh biết chưa?
- Biết rồi! Sao, ổng vẫn đàng hoàng chớ?
Quyên hơi giẩu môi:
- ở ngoài mà không đàng hoàng! Ai cũng được học tập, được giáo dục. Anh Ba ảnh tốt lắm. Đọc thơ, em tội nghiệp cho anh quá. Thôi, ảnh căn dặn chị Ba đủ thứ nghe... Nào là phải bình tĩnh, phải cho con Thúy đi học... - Nói tới đó, Quyên ngừng lại một giây, và tiếp giọng nhỏ hơn - Nghe vụ tụi mình, ảnh cũng có hỏi thăm...
4
Mẹ Sáu đem trải lên bộ ván chiếc chiếu bông. Chiếc chiếu bông này là một trong đôi chiếu của nhà mẹ Sáu chỉ đem trải khi có giỗ kỵ, đám tiệc.
Ngạn ngồi uống nước trà trên ván với anh Tám chợt nghe ngoài đường có tiếng ai nói chuyện giống như tiếng anh Hai Thép. Ngạn chạy ra. Hai Thép đã đi vào tới sân. Anh bí thư chi bộ này vóc người hơi gầy mà chắc. Đầu anh buộc ngang một cái khăn rằn, nách cắp một chiếc cặp giả da thứ của trẻ con đi học và mang một chiếc ra-đi-ô bán dẫn kiểu Nhựt. Một tay giơ chào Ngạn theo kiểu nhà binh rồi bước như nhảy lên bậc thang. Bàn chân trái của anh bị đứt hai ngón, cứ hếch hếch lên tấm gỗ bậc.
- Mới về hả chú? Ông Tám Chấn đâu?
- ở trong nhà.
Vào nhà, anh Hai Thép liệng cái cặp giả da vào góc ván, ngó anh Tám Chấn cười và nháy mắt:
- Mới xuống hả ông?
Hỏi xong, anh gấp gấp mở thêm một cái cúc áo nữa, tay tháo cái khăn rằn trên đầu xuống đập đập mồ hôi đổ hột ở ngực. Anh Tám rót một chun trà, đặt trước mặt Hai Thép.
Hai Thép nhắc chén trà lên, cười nói:
- Tụi tôi đợi ông xuống quá xá. Cái vụ đất bị cha con thằng chủ mưu xáo canh hồi đó nay giải quyết lại nột dữ. Không phải dễ đâu nghe ông!
Anh Tám Chấn cười cười:
- Thì tôi có nói là dễ đâu!
Hai Thép đưa chun trà lên tợp một hớp rất kêu, chép chép miệng:
- Tôi đợi ông xuống đặng hỏi ý kiến ông về mấy khoản, giả tỷ như cái khoản...
Anh Tám Chấn vội giơ tay khoát khoát:
- Thôi, uống nước đi, rồi ở đây ăn cơm với tụi tôi. Mai đã, mai hẵng tính. Bữa nay ông xả hơi "giải nghề" một bữa đi!
Hai Thép ngồi xuống ván, rót nước uống liên tiếp hai ba chun nữa. Mẹ Sáu ở sau bếp đi ra, thấy Hai Thép liền hỏi:
- Hai Thép đó à? Còn Ba Rèn với thằng Năm Tấn đâu?
- Cháu không gặp. Cháu ở nhà đi thẳng tới đây.
- Tôi có nhắn mấy đứa nó chiều nay lại ăn cơm, giờ sao chưa thấy tới?
- ối, hơi nào lo cho mấy thằng đó, má ơi!
Quyên đã bưng thức ăn ra. Mọi người đang ngồi nói chuyện liền lánh chỗ cho cô đặt đĩa cua xào dấm và đĩa tôm chiên vào giữa. Mùi chiên xào bay thơm quá. Đĩa tôm chiên coi mới thích làm sao. Những con tôm to bằng ngón chân cái đã lột vỏ, hồng hào nằm cong mình dưới lớp nước sốt cà chua đỏ tươi. Kế đó, chị Sứ lại bưng tiếp một thau nhôm đựng gỏi đu đủ trộn với khô cá bôi xé. Anh Hai Thép cúi nhìn thau gỏi, xoa xoa tay, khều Sứ nói:
- Mấy món này tao ngó đều khá. Thế nào rồi tao cũng cho má bầy trẻ tới học tập, nhưng nếu chị em bây chỉ dọn bấy nhiêu món đó thì tụi tao chưa chịu ăn đâu!
Quyên mau miệng:
- Còn cá chẻm chiên nữa, anh Hai à!
Hai Thép vỗ tay đánh bộp một cái:
- Có cá chẻm chiên nữa à! - Nhưng anh vội khoát khoát nhẹ tay: - Không, có cá chẻm tụi tao cũng chưa chịu ăn.
Quyên trố mắt, Sứ nói:
- Con Quyên khờ quá, anh Hai mà mày không biết à, ảnh nói xa nói gần đó mà...
Hai Thép cười, hài lòng:
- Con Sứ khá lắm... Vậy cái tao nói xa nói gần đó có không? Có thì đem ra đây, mau đi!
Sứ ngó mẹ, cười. Mẹ Sáu nói:
- Thôi, con vô buồng... đem ra đi, một chai thôi. Chớ không có, Hai Thép nói không chịu ăn thiệt đa!
Sứ vào buồng, lát sau cầm ra một chai rượu trong vắt. Hai Thép đưa hai tay với ngang chai rượu, ôm vào lòng như sợ bị đòi lại. Anh vừa rung đùi vừa khoát tay ra lệnh cho anh Tám và Ngạn qua. Rồi anh quay nhìn thẳng vào mắt Ngạn, cố lấy giọng thật dịu dàng:
- Mày về nhà tao thấy mày nhu mì điềm đạm, tao thương quá, Ngạn!
Anh day qua mẹ Sáu nói:
- Má à, về nhà đây coi nó mủ mỉ vậy chớ ở chỗ khác, tự nãy giờ thôi bể nhà bể cửa với nói rồi nghe má!
Mẹ Sáu lắc đầu cười. Anh Hai Thép khoái chí nhìn Ngạn đang ngượng nghịu leo lên ván...
Hai Thép rót rượu ra ly. Anh nài nỉ mẹ Sáu phải uống một chút. Mẹ không chịu uống. Anh mời tới Quyên, Sứ. Hai chị em, cười, lắc đầu. Anh đưa ly lên chạm với anh Tám Chấn và Ngạn.
Ba cái ly ấy mới giơ lên vừa chạm vào nhau đánh "cốp" một cái chợt ngoài sân có tiếng chân đi thình thịch. Và tiếng chân đó lát sau vội vã nhảy lên bậc thang. Ba người cần ly rượu trên tay chưa ai uống một hớp thì Tấn và anh Ba Rèn xồng xộc bước vào. Hai anh bắt tay anh Tám và Ngạn rồi ngồi ghé xuống ván. Tấn thì thào:
- Vừa có tin cho hay địch tập trung tại Tri Tôn ngót ngàn quân. Thế nào mai nó cũng càn, nhưng chưa biết càn đâu.
- Bao nhiêu, gần một ngàn quân à? - Anh Tám hỏi lại.
Tấn gật đầu:
- Một tiểu đoàn chủ lực, một tiểu đoàn bảo an và thêm một đại đội biệt kích.
- Đại đội biệt kích của thằng Xăm. Anh em cho biết rõ như vậy! Ba Rèn nói.
Anh Tám Chấn lặng thinh, cau mày. Anh chồm người tới trước thò tay nhặt cái nút, thong thả nhét miệng chai rượu lại, đưa cho Sứ bảo cô đem cất. Anh nói với mọi người:
- Thôi tụi mình làm bậy ly này thôi. Tranh thủ ăn cơm đi. Má, cô Sứ với cô Quyên cũng lấy chén ra ăn cơm luôn thể. Tôi nghi nó đánh đấy. Nhưng nếu nó đánh thì cũng giác hừng đông. Có đại đội thằng Xăm thì phải coi chừng. Có thể nó "đột" sớm hơn!
- Sao mấy bữa nay không thấy "đầm già" nó quần cà?
- Đâu nhứt thiết phải có "đầm già" quần.
Đợi mọi người ăn cơm xong, mẹ Sáu thu dọn mâm chén. Cũng trên bộ ván đó, bây giờ mọi người ngồi quây lại. Anh Hai Thép buộc xiết chặt cái khăn lên đầu, nói:
- Thấy rõ là nó đánh vùng Hòn rồi. Tôi đề nghị có bàn gì thì bàn mau mau để rồi chuẩn bị đối phó ngay. Theo tôi, một mặt Ba Rèn cho tập hợp anh em du kích lại xuống chông, gài lựu đạn. Còn vợ tôi để nó lo bố trí các tổ đấu tranh. Cần hết sức chú ý mặt đấu tranh hợp pháp để ngăn chặn sức đánh phá của địch. Chút nữa, tôi sẽ tạt qua nhà cho vợ tôi hay luôn!
Anh Tám Chấn đặt bàn tay lên bàn, ngón tay trỏ của anh nhịp nhịp:
- Đồng ý với Hai Thép. Nhưng nên nhớ như vậy là quân số địch đông đấy! Về tình hình Hem thì ra sao? Khi đánh nhau với chúng nó, có chỗ lánh né không?
- Hem còn tốt thì ít thôi. Chỉ đủ cho một vài tổ. Đất cát khó đào quá, cứ bị sụp hoài. Mới đây lại bị sụp nữa, chưa củng cố lại kịp. Tụi tôi tính bố trí chặn đánh chúng ngoài vườn. Chừng nào thắt ngặt quá thì lánh né vô hang.
Anh Tám Chấn im đi một lúc. Gương mặt anh thoáng vẻ lo lắng. Anh bảo:
- Phải ráng khắc phục hầm hố sao chớ để như vậy thì bị động quá...
Anh Ba Rèn nói:
- Hang Hòn là chỗ cố thủ rất ngon. ở đó một người mình có thể chống chọi lại trăm thằng. Lần trước cũng vậy...
- Lần trước khác, bây giờ khác... Tôi cũng tin là hang Hòn có địa hình chống đỡ thuận lợi, nhưng nếu chỉ xét về mặt địa hình không thì không được... Nhưng thôi, hiện tại là không có hầm đảm bảo ở ngoài xóm, cũng phải đành giải quyết như vậy thôi. Chớ nói về lâu dài thì không thể cứ chỉ lấy hang Hòn làm chỗ dựa duy nhất được đâu.
Day qua Ngạn, anh Tám nói:
- Đội công tác của chú cũng kết hợp với anh em du kích chiến đấu luôn.
Ngạn gật đầu:
- Được rồi, đội tụi tôi có sáu súng: ba mát, ba tôm-xông, và mười lăm trái MK3. Tất cả đều có thể chiến đấu.
Ba Rèn hớn hởn, nắm tay Ngạn gặc gặc. Anh Hai Thép bảo:
- Tôi thấy anh Tám không nên ở đây.
Anh Tám Chấn suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Không việc gì, tôi cứ ở đây thôi!
Rồi kéo anh Hai Thép lại, anh nói nhỏ:
- Tôi sẽ ở lại ngoài xóm giúp chỉ đạo bà con đấu tranh chánh trị. Anh liệu coi ở nhà nào thì tiện.
Hai Thép thoáng vẻ mừng rỡ, nói luôn:
- Anh Tám cứ ở tại nhà tôi. Vợ tôi trực tiếp nắm các tổ đấu tranh chánh trị có anh giúp thì hay quá. Hầm bí mật ở nhà tôi cũng vững, thôi anh cứ ở đó!
Anh Tám Chấn gật đầu. Rồi anh tiếp:
- Hai Thép cho ai chạy qua Linh Quỳnh kêu chú Đạt của tôi về. Cứ để Đạt tham gia chiến đấu. Như vậy sẽ có thêm một cây cạc-bin. Đạt nó bắn cạc-bin khá lắm!
Ba Rèn nói sẽ cho người qua Linh Quỳnh ngay. Giữa lúc ấy, Tấn an ninh nhích lại gần mọi người, khẽ bảo:
- Còn việc này nữa... Nếu địch nó bố ở đây thể nào nó cũng xài tụi điệp, dùng tụi này chọc. Hiện nay, còn thằng Ba Phi mình để đó theo dõi chưa bắt. Mình phải tính sao, chớ không...
- Phải bắt thôi. Thằng chủ trại đáy nó nguyên hiểm lắm. Cả vợ nó nữa.
- Tôi cứ tưởng mấy ông bắt nó rồi chớ! Anh Tám Chấn nói. - Và anh tiếp - Cho bắt đi!
Nhưng không biết nghĩ sao, anh lại hỏi:
- Từ đó tới nay theo dõi nó thấy có hiện tượng gì mới không?
Tấn đáp:
- Chưa thấy gì mới.
Anh Tám gõ gõ ngón tay xuống ván:
- Chắc bây giờ nó đang chờ địch tới lắm. Nếu bắt nó khai thác liền được đồ địch thì hay quá. Thế nào nó cũng biết.
Ngạn nghe nói bắt gián điệp thì xen vào bảo:
- Từ trước tới nay mình có để lộ ra cái gì chứng tỏ là mình theo dõi nó không?
Tấn nói:
- Không, nó không biết đâu!
Hai Thép bảo:
- Đi bắt nó phải bố trí cho kỹ. ở đó meo lắm, cần ghé rà trước coi hồi chiều tới giờ tụi quận có thả lính vô không?
Ngạn hỏi:
- Để cánh tụi tôi giúp cho một tay!
Hai Thép gật đầu:
- ừ, vậy thì tốt lắm. Phải làm liền đi. Tối rồi. Đi ra tới ngoải là vừa?
Ngạn đứng lên.
Quyên lẹ làng chạy ra đằng sau lấy xanh-tuya đem ra đưa Ngạn. Ngạn thắt súng vào lưng, rồi cùng Tấn bước thót ra cửa. Hai Thép dặn:
- Bắt được cứ đưa thẳng nó về hang nghe!
Ra tới đường. Ngạn đi sát vào Năm Tấn, nói:
- Tôi tính mình bắt thằng này phải mánh lới một chút, anh Năm! Phải gạt nó khai rồi hẵng bắt!
Tấn chưa hiểu, hỏi:
- Gạt làm sao?
Ngạn kề miệng nói rỉ vào tai Tấn. Tấn nghe xong lộ vẻ thích thú lắm. Anh ta khen:
- Hay, hay!
Ngạn nói thêm:
Tụi tôi có đồ sĩ quan. Đừng lo!... Bởi trước sau gì mình cũng bắt nó mà. Nhưng trước sau có một chút quan hệ lắm... anh thì nó biết mặt, cứ bố trí vòng ngoài, để tụi tôi vô.
Anh Đức
Hòn đất
Chương 2
1
Cái thị trấn Tri Tôn bé nhỏ chiều hôm ấy ỗng dưng ầm ĩ hẳn lên. Xe cam-nhông chở lính từ Rạch Giá nối đuôi nhau chạy xuống. Bụi bốc mù mịt trên con đường độc nhất của phố nhỏ quận lỵ. Bụi xông tỏa vào các tiệm nước, các tiệm tạp hóa, các căn phố trệt và phố lầu mới cất. Bọn lính từ trên xe nhảy xuống, lũ lượt kéo đi trong vầng bụi. Bọn lính chủ lực mặc đồ trai di, bọn biệt kích mặc đồ rằn, giày da và giày bố nện rầm rập, bồm bộp.
Đồng bào bên phố đứng xem chúng kéo qua, xì xầm bàn tán. Người ta thấy có những tên quen mặt trong đại đội biệt kích, nhưng chẳng có ai dám dòm bọn này cả. Bọn lính chủ lực từ Sài Gòn xuống còn đưa mắt nhìn xem hai bên phố, chớ bọn biệt kích thì mặt gầm gầm, lạnh lùng, súng tôm-xông và cạc-bin của chúng mang đều chúi mũi xuống đất.
Thằng Xăm, tên trung úy, chỉ huy đại đội biệt kích có đôi mắt trắng dã, lịch phịch đi sau cùng. Hắn mặc bộ đồ rằn thủy quân lục chiến rỡn hình sóng biển, bò sát lấy khổ người rất lực lưỡng. Đầu hắn đội cái kết vải vằn vện có ba mảnh vải để che gáy và che hai bên mang tai. Loại kết này vẫn gọi là kết "ba rèm". Nơi đùi thằng Xăm đeo sề sệ khẩu súng ngắn côn 12, bao da súng màu hung hung gần giống như da mặt của hắn. Ngoài ra, hắn còn khoác một khẩu cạc-bin và một cái cúp cúp. Những tên lính biệt kích trong đại đội hắn đều ăn mặc giống như hắn, đeo cạc-bin hoặc tôm-xông, tên nào cũng có dao găm Mỹ, và trông tên nào cũng hung tợn.
Đang đi, bỗng tên trung úy Xăm ghé tạt vào một quán giải khát ở giữa phố. Hắn ngang nhiên vớ lấy một chai la-ve, đưa mắt nháy người chủ quán Hoa Kiều một cái rồi đi ra. Vừa đi, thằng Xăm vừa rút soạt lưỡi dao bên hông. Một tay hắn cầm chai la-ve giơ lên, một tay hắn trở sống dao phạt mạnh ngang cổ chai. Cổ chai văng toạc đi. Bọt rượu trào ra. Hắn dừng lại, ngửa cổ đưa chai la-ve rót vào miệng. Hắn uống hết độ hai phần ba chai, rồi đưa cho tên lính đi trước. Tên lính cầm chai la-ve khoái trá uống nốt chỗ còn lại. Chừng như tên lính này đã quen uống như vậy nhiều lần rồi.
Bấy giờ, có lệnh từ tiểu đoàn lính bảo an truyền lại:
- Dừng lại, đừng đi lên nữa!
Nguyên là đồn quân chi khu này chỉ có thể chứa thêm được hai tiểu đoàn trong số trên ba tiểu đoàn lính mới đến. Đó là hai tiểu đoàn lính chủ lực. Bọn còn lại là bọn bảo an và biệt kích thì được lệnh đóng ở ngoài, trên những khoảnh ruộng trống khô, nẻ.
Một tên đại úy tiểu đoàn trưởng bảo an cao lớn truyền lệnh ấy ra sau, rồi cho những đại đội của hắn kéo vào khoảnh ruộng.
Tên Xăm càu nhàu:
- Đ.mẹ, về xứ của tôi mà bắt tôi ngủ ruộng à?
Song nói thế chứ hắn cũng khoát tay xua bọn lính áo rằn của hắn đổ vào chỗ đất trống giáp phố.
Nắng chiều vàng vọt trải xuống mặt ruộng. Trên khoảnh đất trống bị dọn sạch quanh chi khu, bọn lính chạy tới chạy lui. Chúng trải những tấm tăng, dành chỗ làm bếp nấu, tu ừng ực nước hoặc rượu chứa trong các bi-đông Mỹ. Có tên chưa chi đã nằm lăn kềnh, ngửa mặt lên trời phì phèo hút thuốc. Từ đám lính ấy nghe toát ra mùi chua loét của mồ hôi, mùi thuốc lá Bát-tô xanh, mùi rượu trắng và cả mùi sáp bôi tóc loại rẻ tiền. Tất cả những mùi đó hợp lại là cái mùi lính nói chung, nghe lờm lợm, vốn dĩ rất sẵn có ở những tên lính đánh thuê.
Thằng Xăm cởi phanh áo. Hai cổ tay hắn đeo không biết bao nhiêu dây bùa cà tha vàng hoặc đỏ. Và trên bộ ngực nở nang của hắn lủng lẳng một sợi dây chuyền buộc cái mặt chằn bằng ngà có nanh vàng chìa ra coi rất dễ sợ. Cái mặt chằn với những dây cà tha ấy thằng Xăm coi như bùa hộ mạng của hắn. Hắn bật nằm ngã ngửa ra trên tấm vải bạt xám. Điếu thuốc trên môi hắn đã cháy muốn hết mà chừng như hắn không hay. Thình lình, hắn đưa tay giật phắt mẩu thuốc, vứt đi và ngồi bật dậy. Hắn lừ lừ giương đôi mắt trắng giã ngó bọn lính của hắn bấy giờ đang lôi bánh mì ra. Một tên lính bé choắt luồn tới bên hắn:
- Mời anh Hai đi ăn cơm!
Thằng Xăm uể oải đứng dậy đi theo tên lính đến trước một tấm vải bạt. Trên tấm vải bạt có trải giấy báo, đặt nửa con gà quay, hai ổ bánh mì lớn và một hộp cá mòi đã mở nắp. Xăm ngó qua, xẵng giọng hỏi:
- Hết rượu hả mậy?
- Thưa anh Hai, còn.
Tên lính bé choắt ấy xăng xái đặt vào giữa tấm vải bạt bi-đông nặng trịch. Mắt thằng Xăm vụt sáng lên. Hắn với tay chụp cái bi-đông lắc lắc, ra vẻ hài lòng. Hắn mở nút đưa lên miệng tợp ngay một hớp rồi một hớp nữa. Cầm bi-đông đưa cho tên lính, tay hắn chộp lấy đùi con gà quay đưa lên miệng, cắn, dứt ra, nhai nghiến ngấu. Những chiếc răng vàng trong mồm hắn lóa sáng, nhồm nhoàm. Hắn đưa tay quệt mỡ gà dính ở hai bên mép. Tên lính cùng ăn, cùng uống với hắn, coi hơi cóm róm nhưng có vẻ hể hả. Thằng Xăm tu rượu ừng ực. Hắn "khà" một cách khoái trá rồi lại xé thịt gà ăn.
Tên lính và hắn ăn hết nửa con gà, uống hết một bi-đông rượu thì ánh nắng đã tắt. Nhưng mặt trời thì vẫn còn đỏ sẫm dưới ven đồng xa.
Thằng trung úy biệt kích ngà ngà rượu ấy chới với đứng lên, đưa hai tay cào cào sườn. Hắn ngước nhìn mặt trời, miệng lẩm bẩm một câu chửi tục chỉ có mỗi mình hắn hiểu, rồi nhe răng cười không ra tiếng. Bọn lính cũng đã có nhiều đứa say như hắn. Nhưng rượu đã hết, và chúng đang bẻ bánh mì chia nhau ăn. Có những tên lính đã cởi hẳn áo, để lộ bộ ngực đen bóng xăm đầy hình rồng rắn. Có một số lính đi khuân củi. Thứ củi tràm gộc bổ đôi, mỗi đứa xách hai miếng, không biết chúng lấy từ đâu.
Đêm tối vừa sụp xuống thì chúng đốt lửa. Nơi này một đống, nơi kia một đống. Lửa bốc phừng phừng, cháy sáng từng lõm ruộng. Bọn lính nấu nước bằng hăng-gô xỏ xâu vào, ngồi lổm chổm bên ngọn lửa. Mặc dù có lệnh cấm vào phố, chúng vẫn lén đi mua rượu, mua thêm la-ve và đồ nhậu. Lệnh cấm là lệnh của bộ chỉ huy hành quân, nhưng các tên chỉ huy đơn vị không cấm lính của chúng. Thằng Xăm chẳng những không cấm mà hắn còn ó ré nhậu nhẹt cùng bọn đàn em biệt kích. Bọn này không ngớt mời mọc, tán tụng hắn. Tên nào cũng đều gọi hắn bằng anh Hai. Chúng còn mời mọc một tên thiếu úy mặt xương, mắt sâu thỏm và gọi tên này bằng anh Ba.
Thằng Xăm thích lính gọi mình bằng anh Hai hơn là gọi bằng "ngài trung úy".
- Anh Hai uống với em một phát, anh Hai!
- Anh Hai thiệt uống không biết say đa!
Thằng Xăm hể hả khi nghe những câu ấy. Hắn uống hết, không từ chối một ai. Hắn quả là một thằng biệt kích mạnh rượu. Hắn uống nhiều mà không say mấy.
Cặp mắt bình thường trắng giã của hắn nay đỏ lên như có pha ánh lửa và hoe máu. Bọn biệt kích ác ôn thân tín ngồi vây quanh. Những tên này đã phục sợ thằng Xăm trong các cuộc đánh phá giết người bao nhiêu thì chúng càng phục thằng Xăm trong sự nhậu nhẹt bấy nhiêu. Một tên trong bọn chợt hỏi:
- Mai về Hòn, anh có ghé nhà không?
Thằng Xăm sắp đưa bi đông rượu lên, nghe hỏi hắn liền để bi đông xuống. Bàn tay hắn hơi run run. Câu hỏi của tên lính hình như chạm vào một cái gì trong lòng hắn.
- Ghé. Thế nào tao cũng phải ghé thăm bà già với con em.
- Cô Cà Mỵ à? Chà, năm nay cô Mỵ chắc lớn lắm rồi?
- Đâu như mười chín tuổi...
Thằng Xăm thờ thẫn nói:
- Con Mỵ nó giống tao. Tao thương bà già tao.
- Nghe nói anh Hai có kêu bà già với cô Mỵ ra chợ ở, sao không thấy bà già với cô Mỵ ra?
- Không, lần nào tao về đóng bót Hòn Đất. Để bà ở đó luôn!
Hắn nói xong thở "khì" một cái rất mạnh. Nốc thêm một ngụm rượu nữa, hắn lắc đầu lia lịa:
- Nghe nói bà già tao theo Việt Cộng. Bả thù ông già tao lắm.
Thằng Xăm nói thế, rồi nhắc tới Hòn Đất với cái giọng bỗng dưng hạ thấp hẳn xuống:
- ở Hòn Đất vui, vui lắm... Hồi tao còn làm xếp bót ở đó, tao vui hơn bây giờ. Có đủ thứ trái cây, có khô trâu...
Bọn lính cười nhăn nhở, thích thú. Tên nào cũng khoái trá, vì chúng biết nội nhật ngày mai chúng sẽ được tới đó. Bây giờ ít đứa nghĩ đến cái chết, mà chỉ nghĩ tới sự vơ vét, sự ăn uống và sự cưỡng hiếp. Trong bọn này, có tên đã biết Hòn Đất. ở đó, chúng đã làm bất cứ chuyện gì chúng có thể làm được. Chúng đã kháo với nhau và kể lại cho bọn khác nghe, giả dụ như muốn ăn thịt trâu, chúng chỉ cần ngắm cho trúng đích những con trâu ăn cỏ trên triền Hòn và nổ súng. Cũng có tên bảo chính tay nó đã đập đầu Việt Cộng bằng cột chèo, đập vỡ óc văng tung tóe cả vào áo. Chúng kháo nhau rằng ở đấy, "anh Hai" đã mổ rất nhiều người, mổ rất khéo, chỉ cần chọc một nhát dao nơi chấn thủy, lách chếch lên, đường dao rạch chỉ vừa đủ thọc bốn ngón tay vào để bợ trọn buồng gan ra.
Thật là thằng Xăm đã mổ rất nhiều người, nên trong đám ác ôn, hắn nổi tiếng là đứa mổ gan lấy mật người gọn lẹ nhất. Nhưng hắn không chỉ khéo mổ lấy gan và mật. Hắn còn nhiều cách giết người lạ lùng quái gở hơn. Dòng máu của hắn chính là dòng máu của cha hắn, một tên địa chủ người Việt trước kia làm bá chủ vùng Hòn. Người ta nói thằng Xăm không còn chút máu nào của bà Cà Xợi, tức mẹ hắn, là một người đàn bà Khơ Me uất ức và đau khổ suốt đời, đến nay vẫn còn như điên dại.
Mẹ hắn, bà Cà Xợi ấy, ngày xưa là một người con gái Khơ Me khá đẹp với nước da nâu rám mặn mòi và dáng đi uyển chuyển, chỉ có những cô gái Khơ Me nắn nồi và đội cà om đi lấy nước suối ở đây mới có được.
Người con gái Khơ Me ở đây lớn lên với nghề nắn nồi đất, ngày ngày đi quanh bàn nắn, tính trung bình mỗi ngày họ đi có tới khoảng ba mươi cây số; tức là bằng từ Hòn Đất đi lên tỉnh Rạch Giá. Thành ra công việc lao động ấy tự nhiên luyện cho họ một vóc người uyển chuyển, dịu dàng. Hơn nữa, họ lại thường đội cà om đi lấy nước suối về dùng. Khi đặt cà om nước lên đầu, cô gái Khơ Me bước đi duyên dáng lạ thường. Trên đường từ suối nước về nhà, các cô không bao giờ vịn tay lên cà om. Đôi tay các cô đánh đường xa, vẫy vẫy dịu trên lối cát.
Bà Cà Xợi ngày xưa là một người con gái như thế.
Tên chủ Mưu đã ép cô gái Cà Xợi xinh đẹp về ở với hắn. Ngày ấy anh Thạch Kha là người yêu Cà Xợi buồn quá bỏ đi làm phu bẻ cây lên tận Kông-pông-chàm. Sau khi đẻ được thằng Xăm, tên chủ Mưu bắt đầu không ngó ngàng đến Cà Xợi nữa. Y để ý tới những cô gái khác, trẻ hơn. Nhưng lúc đó Cà Xợi đã có mang với y đứa con thứ hai. Sau cùng, y đuổi Cà Xợi ra khỏi nhà, còn thằng Xăm thì y giữ lại nuôi. Bà Cà Xợi bỏ hòn màu của mình, ôm bụng thất thểu bước ra khỏi cái nhà nền đúc. Bà về xóm Hòn Đất che tạm một túp chòi, ban ngày đi gặt lúa mướn, tối về chòi ngủ. Lúc sắp đẻ, bà đau quá, bò lê ra đồng cứ vơ gốc rạ mà nhai. Tình cờ đêm ấy hai mẹ con mẹ Sáu đi đâu bên bến đò Vàm Răng về gặp, mới đem bà Cà Xợi về nhà. Bà Cà Xợi sanh con Cà Mỵ tại nhà mẹ Sáu. Được một tuần lễ sau thì anh Thạch Kha trên Kông-pông-chàm về. Anh đến nhà sụp trước mặt mẹ Sáu lạy mà xin cho rước bà Cà Xợi lẫn đứa con mới đẻ. Hai người ăn ở với nhau không đầy một năm thì anh Thạch Kha bị chủ Mưu cho người rình chém khi anh đang đi vô rừng đốn củi. Anh Thạch Kha dùng búa chém lại chết một thằng, nhưng anh thì bị chúng vây chém trọng thương, chạy về chết gục trước sân nhà. Thế là từ đó bà Cà Xợi nắn nồi nuôi con Cà Mỵ tới lớn. Cà Mỵ càng lớn càng dễ thương, giống mẹ như đúc. Duy có thằng Xăm từ bé đến lớn ở với chủ Mưu được nâng niu, càng lớn càng giống chủ Mưu về mọi mặt. Thằng Xăm gắn bó với cha nó ngay từ những miếng cườn trên Hòn, ngay từ những mảnh đất nắn nồi cha nó độc đoán chiếm bán ra từng thước khối. Nó ở trong ngôi nhà nền đúc phông tô, và lớn lên. Ngôi nhà ấy hồi kháng chiến đã bị phá, và vườn đất cũng bị cách mạng lấy chia cho dân. Chủ Mưu bỏ chạy lên Rạch Giá. Mãi hòa bình lập lại, y trở về với thằng Xăm bấy giờ đã là thiếu úy quân đội tay sai Diệm. Y giựt đất, cất nhà lại và cùng thằng con trai trả thù cách mạng với tất cả nỗi căm oán chất chứa trong bao năm. Thằng Xăm còn độc địa hơn cả cha nó, vì chính tay nó cầm súng Mỹ, và đi theo nó có cả một bầy ác ôn liều mạng nhất được nó tuyển từ các đồn lẻ quanh vùng. Bọn biệt kích của thằng Xăm thằng nào cũng chạy giỏi như ngựa. Chúng rượt nà cán bộ trên đồng trống, mò vào các khu rừng tràm, đánh phá căn cứ cách mạng cả ngày lẫn đêm. Có khi giữa đêm mưa tầm tã hoặc lúc trời vừa rạng sáng, súng của chúng nổ ran. Bà con trên Hòn mỗi khi nghe tiếng súng của bọn thằng Xăm ai cũng lo sợ nghĩ đến con mình, cháu mình và những người cán bộ thân thiết của mình vừa ngã xuống.
Nhưng có một người nghe tiếng súng ấy còn hoảng sợ đau đớn gấp trăm ngàn lần hơn người khác. Người đó là bà Cà Xợi vậy.
Ngày đồng khởi, tên chủ Mưu bị bắt đền tội. Thằng Xăm chạy thoát. Từ đó, nó càng thêm hung dữ.
Cho dù ở Hòn Đất hay là ở trên khắp thế gian, người mẹ nào mà cẳng có nỗi đau khổ riêng của mình, nhưng thật cũng có ít người mẹ nào lại có nỗi đau khổ như bà Cà Xợi.
Hồi còn làm sếp bót Hòn Đất, thằng Xăm vẫn thường đem vải vóc, vàng bạc mà nó cướp được về cho bà Cà Xợi và con Cà Mỵ. Nhưng hai mẹ con đều không lấy. Thậm chí có lần bà Cà Xợi đã liệng vãi các thứ ấy ra sân, rồi bưng mặt khóc.
Nên thằng Xăm nói:
- Nghe bà già tao theo Việt cộng rồi!
Nó nói đúng.
Chẳng phải có lần chính mẹ nó đã đứng trước mũi súng của nó đó sao?
2
Vào giờ ấy, bà Cà Xợi đang lầm lũi tới quán của thím Ba ú ở ngã ba Hòn Đất. Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái chai xị không. ở Hòn Đất ban đêm, hễ thấy dạng người nào đi không đèn đóm thì bà con đều đinh ninh người đó là bà Cà Xợi. Bởi ngoài bà thì chẳng có ai đi như một cái bóng như thế cả. Nhưng người đàn bà mà khắp Hòn Đất này ai cũng cho là có hơi dài dại ấy khi đi trong đám tối mới tài chứ! Chẳng bao giờ bà ta vấp chân vì một mô đất hay một lỗ trũng. Hình như bà biết trước và tránh được hết.
Lúc bà Cà Xợi đến quán ngã ba thì quán vắng ngắt không có một ai. Bà bước vào quán, thấy trên quầy cạnh ngọn đèn ống khói có mỗi mình thím Ba ú đang ngồi đếm lại đống tiền lẻ bán được trong ngày. Nghe tiếng chân người bước vào, thím Ba ú ngước lên. Thím hỏi, giọng nghe êm như ru:
- Thím Cà Xợi đó à? Đi mua chi mà khuya vậy?
Bà Cà Xợi không đáp, giơ cái chai xị không lên. Thím Ba ú hiểu ngay. Thím đếm nốt cho xong số tiền lẻ lại rồi lách ra quầy, đi đong rượu cho bà Cà Xợi. Thím Ba ú này thật xứng với cái tên của thím quá. Người thím béo mập làm sao! Thím lách qua cửa quầy một cách khó khăn. Cổ tay thím lúc với ra đón lấy chai xị không của bà Cà Xợi coi mập có ngấn, núc ních. Thím xách cái chai bước tới hũ rượu, cầm một cái cóng tre múc rượu trong hũ đổ vào chai. Tuy chai xị không có đặt phiễu, thế mà thím rót không đổ ra ngoài một giọt.
Cầm chai rượu đưa cho bà Cà Xợi, thím Ba ú nhìn bà Cà Xợi lâu và hỏi bằng tiếng Khơ Me:
- Ne, néak dâng rương ây tê!
Bà Cà Xợi lắc lắc cái đầu tóc bù rối vàng sém:
- Rương ây?
Thím Ba ú nói rỉ vào tai bà:
- Nè, thằng Xăm nó mới về Tri Tôn đó nghe! Hôm qua, tôi đi bổ hàng ngó thấy nó ở trên xe nhà binh nhảy xuống...
Bà Cà Xợi chớp chớp mắt, hỏi lại:
- Thằng Xăm hả, thằng Xăm nó về Tri Tôn hả?
Bà Cà Xợi cho con gái hay cái tin đó rồi đi lại bộ ván, ngồi kéo xổm một gối lên. Lát sau, bà rót rượu ra chén, uống như uống nước. Nhưng bà chỉ uống có một chén. Rồi ngồi đó, bà ngó bóng mình in trên vách. Đêm nào cũng vậy, sau khi đan xong hai hoặc ba bao cà ròn, bà Cà Xợi lại uống một chén rượu. Ai người ta uống rượu vào thì say và quên hết mọi sự, chớ bà Cà Xợi thì ngược lại, càng uống vào bà càng tỉnh và nhớ hết. Bà nhìn Cà Mỵ (thường khi cô vẫn ngồi đan mải mốt), nhớ lại thời bà bằng tuổi nó, nhớ những cái nồi đất nung đỏ rực do tay bà nắn, nhớ những đêm dù kê anh Thạch Kha bên Sóc Trưng qua sắm vai hoàng tử còn bà thì sắm vai cô gái bắt ốc. Rồi bộ mặt của chủ Mưu hiện lên, rồi kiếp sống trong cái nhà nền đúc phông tô. Những ngày cực mà vui với anh Thạch Kha. Tai họa đến, hình ảnh Thạch Kha ngã sấp trước nhà, hai tay vã xuống đất. Bà nhớ tất cả, nhớ giữa lúc hình bóng mình in trên vách và nhìn bóng con gái đang đươn đát. Bà không quên ngày bà được cách mạng cấp đất. Rồi thì là thằng Xăm, với những bà con anh em bị nó mổ bụng, đập đầu.
"Thằng Xăm mới về trên quận" tiếng thím Ba ú nói ban nãy bây giờ hãy còn văng vẳng bên tai bà.
"Lại đi bắn giết bà con nữa chớ gì?" bà lẩm nhẩm nghĩ bụng rồi muốn kêu: - "Trời ơi nó léo lánh về đây chi vậy hở trời? Phải chi nó chết đi có hơn không?".
Người mẹ nào mà lại muốn con mình chết? ấy vậy mà nhiều lần bà Cà Xợi mong mỏi cái chết đến với thằng Xăm đấy. Nếu thằng Xăm chết, chắc bà sẽ bớt khổ hơn. Nếu nó cứ còn sống đi sát hại mọi người thế này mãi thì lúc nào đó chắc bà phải chết. Hoặc là nó chết, hoặc là bà chết. Chỉ có một trong hai cái lẽ ấy mới xong. Cà Mỵ có lần đã nói với bà:
- Má sanh y ra làm chi? Y không phải anh của tui đâu!
ấy, Cà Mỵ có lần nói bà như thế. Bà cũng có lần bảo với lối xóm: - "Thằng Xăm, nó có phải là con của tôi đâu!". Nhiều lần bà xuống giọng như van vỉ: - "Mấy người làm ơn làm phước đừng coi nó là con của tôi". Nhưng sau câu nói đó, bà Cà Xợi càng đau lòng như điên như dại. Một người mẹ đẻ con ra vì lẽ gì đó mà không dám nhận là con của mình thì sự đau lòng đã lớn rồi, chỉ có cái mức độ ít hay nhiều. Bà Cà Xợi thì đau lòng thái quá, và vì bà vốn lại là một người Khơ Me có tánh tình ngay thật, nên nỗi đau đớn đó ghê gớm lắm, có lúc làm bà như đãng trí. Bảy năm nay, bà Cà Xợi ở trong trạng thái như điên như không điên. Nét mặt bà ngơ ngác, khoen mắt bà càng tím đậm, và người ta ít thấy bà đi ra đường ban ngày. Bà chỉ hay ra đường lúc bóng đêm sụp xuống. Có lẽ bà cho là đêm đen sẽ phủ kín để không ai nhìn thấy bà.
Có đến hàng trăm lần bà đã lựa lời khuyên thằng Xăm. Trước mặt bà, thằng Xăm không bao giờ cãi. Có khi hắn ngúc ngoắc đầu vẻ khó chịu, hoặc nói giả cách bậm trợn: - "à, má nghe lời Việt cộng dụ tôi hả?". Nhưng rồi hắn cười ngay. Nụ cười của hắn coi hiền lành nữa là khác. Những lúc gặp mẹ, thằng Xăm chừng như có vẻ trở lại hình dáng một đứa con, chớ không có dáng dấp một thằng biệt kích. Thành ra ban đầu bà Cà Xợi cứ lầm lẫn, cứ ngờ ngợ không biết con mình nó có mổ bụng moi gan người thật như người ta đồn đãi không. Nhưng rồi bà không ngờ ngợ gì nữa. Một hôm, thằng Xăm ghé nhà. Thấy khóe mép hắn dường như chảy máu, Cà Xợi kêu:
- Sao miệng mày chảy máu vậy, Xăm?
Thằng Xăm vội đưa tay chùi mép, không nói chi hết. Khi hắn đi rồi, bỗng Cà Mỵ từ ngoài xóm hơ hải chạy về ôm mặt rú lên và cho biết thằng Xăm vừa mổ bụng hai người ở bãi Tre, lấy gan, vô nhà bà con mượn đĩa nhôm xào ăn. Bà Cà Xợi nghe nói té xỉu. Lúc tỉnh dậy bà sực nhớ những vết máu rây ở mép thằng Xăm thì lại ngã quay ra xỉu một lần nữa. Lại một hôm khác, thằng Xăm đi biệt kích ở Vàm Răng bắt về mấy người chẳng biết là cán bộ hay dân thường. Nghe tin thằng Xăm sắp mổ bụng họ tại ngã ba, bà Cà Xợi vội chạy ra định năn nỉ thằng Xăm tha cho họ. Khi bà chạy ra đến nơi thì thằng Xăm đã dùng dao bén khoét đít mấy người này, khoét sâu lõm vào. Rồi hắn mở trói. Những người này được mở trói vừa nhỏm tới thì ruột đã lòi ra ở phía sau. Lần ấy, bà Cà Xợi hét lên một tiếng rồi ngã lăn bất tỉnh ở giữa đường. Thằng Xăm sai lính khiêng bà về nhà. Lúc chiều tối, bà tỉnh dậy, thấy Cà Mỵ đứng bên, bà liền chỏi chỏi hai bàn tay thét to: - "Trời ơi! Thằng Xăm, mày đi đi!".
Bà con nói rằng bà Cà Xợi bắt đầu điên dại kể từ hôm đó.
Đêm nay cũng vậy, bà Cà Xợi lại uống...
Đáng lẽ như lệ thường, bà chỉ uống một chén. Nhưng giờ uống hết chén thứ nhất, bà lại run rẩy mở nút chai, rót thêm chén nữa.
Chén rượu thứ hai bà uống chậm rãi chứ không uống vội vàng như chén trước.
Cà Mỵ cắm cúi đan, miệng lầu bầu:
- Má uống nữa hả? Thôi, má không được uống nữa! Thôi đi... má ơi.
Ngoài đường bấy giờ chợt có tiếng chó sủa gâu gâu. Rồi một tiếng hỏi từ sân vọng vào:
- Mỵ ơi, ôn min nâu phờ téc tê?
Cà Mỵ nghe ra tiếng Quyên, liền buông cái bao đan dở, đứng dậy đáp ra:
- Chá min.
Cô lè lẹ mở cửa. Quyên đợi Mỵ ở sân, kéo tay Mỵ ngồi xuống, thì thầm:
- Nè, Mỵ đã hay gì chưa?
- Chưa.
- Giặc rục rịch sắp bố đấy. Một chút nữa sẽ có loa thông báo cho bà con hay. Lính về Tri Tôn đông lắm. Anh em du kích đều đã chuẩn bị. Tôi mới đi xuống chông về đây!
Mỵ thắc mắc:
- Sao không kêu tôi đi?
- Cà Mỵ có chuyện làm mà, đừng lo. Kỳ này định để Cà Mỵ ở trong tổ hợp pháp. Mỵ biết không, nghe có thằng Xăm về Tri Tôn nữa đó?
- Em biết rồi!
Quyên rủ rỉ:
- Cà Mỵ nè, nếu càn vô đây, mình đánh chông đánh lựu đạn đã đành, nhưng phải đấu tranh, phải giúp đỡ du kích. Cà Mỵ chưa bị lộ, với lại tụi giặc nó cũng nể Cà Mỵ là em thằng Xăm, Cà Mỵ ráng lo công chuyện liên lạc, tiếp tế...
Cà Mỵ nằn nì:
- Thôi mà, để em đi gài lựu đạn cho!
- Lựu đạn thì có người khác gài rồi.
Cà Mỵ ngẫm nghĩ một giây, rồi nói:
- Thôi được. Thiệt... Mỵ không muốn gặp mặt tụi nó, chị Quyên à. Gặp tụi nó khó chịu lắm!
Quyên quàng cổ Mỵ, thân thiết:
- Thì có ai muốn gặp tụi nó đâu, nhưng cách mạng cần vậy... A, mấy anh có dặn, Mỵ phải khéo léo, đừng nóng nẩy, có tức mình cũng ráng dằn xuống, khi cần nói ngọt phải nói ngọt, cần hát Xa ri ca keo cũng cứ hát... Đó vậy đó, chắc Mỵ dư hiểu rồi. Tin tưởng Mỵ lắm à, nghe!
Cà Mỵ mím môi, gật mạnh đầu trong bóng tối. Trước khi Quyên ra về, Cà Mỵ ôm chầm lấy Quyên hôn chùn chụt rồi mới buông cho Quyên đi.
Cánh cửa nhà ông Tư Đờn đã khép chặt. Ngạn và hai đội viên của anh là Trọng và Tới đang mặc những bộ quần áo biệt kích. Ngạn mặc xong bộ đồ rằn sĩ quan gắn lon thiếu úy, liền chụp lên đầu cái kết ba rèm. Tới và Trọng cũng đã cải trang xong.
- Sao, coi giống chưa?
Tấn nói:
- Giống lắm. Thế nào thằng Ba Phi cũng bị mắc!
Tới và Trọng khoác mỗi người một khẩu tôm-xông. Ngạn rút khẩu côn 12, tháo băng, lấy đạn trên lòng bàn tay. Đếm thấy đạn vẫn còn đủ tám viên, anh đóng băng cho súng vào bao. Năm Tấn không mang súng, anh giắt cây mã tấu sáng lóa ở sườn, được thít ngang bằng một cái khăn choàng sọc.
Ngạn nói:
- Đi thôi!
Bốn người mở cửa ra khỏi nhà.
Họ đi một mạch khỏi xóm Vạn Thạnh, băng qua ruộng. Vào gần tới xóm Vạn Hiệp. Tấn bảo ba người ngồi đợi, để anh vào bám.
Ba người ngồi được một chốc thì Tấn trở ra, thì thào:
- Êm, đi đi!
Bốn người lại đi, Tấn dắt mọi người đi men ra bờ sông. Xa xa, phía trước mặt đã thấy ánh đèn trại đáy Ba Phi. Nước sông đang đổ ra biển, réo lên những chỗ xoáy. Ngọn đèn xanh treo ở cột đáy giữa cứ rung lên bởi dòng nước chảy xiết. Năm Tấn khẽ bảo:
- Đêm nay đáy nó không đóng?
Lệ thuyền đêm nào có đóng đáy thì một cột đáy có treo đèn đỏ.
ánh đèn xanh ngoài cột đáy Ba Phi soi lờ mờ một khoảng nước sông cuồn cuộn. Trại đáy hiện rõ dần. Nói là cái trại chứ nó là cả một cái nhà sàn cất chìa ra sông, gác mình trên những cây cọc lớn. Trong nhà le lói ánh đèn. Càng tới gần, mọi người càng ngửi thấy rõ mùi tanh của tôm cá, mùi muối, mùi vỏ sắn ngâm, những cái mùi mà bất cứ trại đáy nào cũng có. Tấn rỉ tai Ngạn:
- Nó có ở nhà.
- Được rồi, để tụi tôi vào. Anh cứ đợi ở đây!
Dứt lời, Ngạn và Tới, Trọng bước dấn lên. Đã quen xông xáo vào những nơi nguy hiểm. Ngạn đi riết thẳng tới cửa không chút do dự. Tới và Trọng bám sát gót Ngạn. Ngạn dừng lại ở cửa nghe ngóng. Bên trong có tiếng nói chuyện rầm rì. Ngạn cố lắng nghe mà nghe không rõ. Anh giơ tay vỗ đồm độp vào tấm cửa lợp lá. Tiếng nói chuyện bên trong im bặt. Ngạn lại vỗ cửa một lần nữa và khẽ gọi:
- Ông Ba có nhà không?
Trong nhà im thin thít. Lát sau, ở trong bỗng cất lên một tiếng hỏi rất dõng dạc:
- Ai kêu cửa đó?
- Tụi tôi đây, mở cửa đi!
Ngạn nghe có tiếng dép kéo lẹp xẹp trên sàn ván, đi ra phía cửa. Kế đó, nghe cây ngáng cửa phía trong rút "soạt" một cái. Cánh cửa mở hé. Một mụ đàn bà, mặt bự thịt, xách cây đèn chai giơ lên. Mụ đưa cặp mắt lá dăm liếc nhìn Ngạn, Ngạn chưa hề gặp mụ ta bao giờ. Nhưng anh đoán chắc đây là mụ chủ trại đáy. Anh hỏi:
- Có ông Ba ở nhà không?
Đôi con mắt lá dăm của mụ đàn bà chợt nháy sáng:
- Có, có. Mời mấy ông vô nhà.
Ngạn đưa tay lên miệng ra hiệu bảo mụ nói khẽ.
Mụ đàn bà nánh ra một bên cho anh bước vào. Tới và trọng cũng vào theo. Ngạn thản nhiên đưa gót giày đá khép cánh cửa lại.
Vừa lúc ấy, tấm màn che cửa buồng bên trái chợt động đậy và một cái đầu sói bóng thò ra. Đó là một thằng đàn ông chạc chừng năm mươi tuổi, mặc áo thun lá, người mập bệu, hai mắt thoạt trông có vẻ lờ đờ như người mới ngủ dậy. Ngạn gật đầu chào y:
- Ông là ông Ba Phi?
Y khom lưng, chắp hai tay vô ngực:
- Thưa phải!
Nhìn cái vẻ cóm róm của y, Ngạn thấy công việc bước đầu đã xuôi lọt. Anh bảo:
- Tôi có chuyện muốn nói với ông. Xin tự giới thiệu, tôi là thiếu úy ở đại đội ông Xăm. Trung úy phái tôi tới gặp ông...
Anh giơ tay chỉ bao quát phía sau lưng nhà:
- Tụi tôi mới ở chi khu vô tới.
- Biết rồi, biết rồi... xin mời quý ông vô trong này!
Nói xong, y vén tấm rèm vải lên. Ngạn bước qua cửa rèm. Bên trong là gian buồng rộng, có kê một bộ ván ngựa lên nước rất bóng. Trong nữa là một cái giường lớn đã buông mùng. Ba người đi lại ngồi lên bộ ván ngựa. Ngạn nheo mắt nhìn qua gian buồng rồi quay lại nói:
- Ông ở đây sung sướng quá hế! Tụi tôi không được ăn ngon ngủ yên như ông đâu... Việt cộng lóng này phá rối dữ lắm!
Tên chủ trại đáp cung kính:
- Dạ, thưa thiếu úy tôi cũng biết. Hồi xế, tôi có hay tin quý ông về. Vợ chồng tôi mừng lắm. ở đây, vợ chồng tôi mong mỏi quý ông về, đợi hoài, đợi hoài... Tới đây, y ngó vợ bảo: - Này, nấu nước đi!
Đoạn y nhướn mắt chỉ tay ra ngoài:
- Mấy ông về nằm ở ngoài hết rồi hả?
- ừ.
- Trời đất, tôi có hay biết gì đâu, mấy ông về êm quá!
Kế đó y chửi tục một câu, rồi rít chặt hai hàm răng:
- Đ.mẹ, trận này cho tụi nó thấy mẹ hết. ở đây tụi Việt cộng nó lộng lắm, thiếu úy. Để tôi chỉ thằng nào con nào, ở đây, tôi nắm hết thảy. Tôi chỉ cho ông "xạ" tụi nó như xạ mỏ nhác chơi!
Ngạn gật đầu:
- Tôi gặp ông cũng là vì chuyện đó.
- Được, được.
Vừa nói tên Ba Phi bước nhón tới cái kệ treo trên vách, bưng lại một cái khay bằng gỗ trắc đen mun. Trên khay có bộ ấm chén sứ vẽ hình con rồng màu đỏ, và một gói thuốc thơm hiệu Ru-bi. Y mở gói thuốc, rút thuốc cung kính đưa mời Ngạn, Tới và Trọng, rồi đi vào bếp coi nước. Ngạn cầm điếu thuốc, khẽ động đầu điếu thuốc vào móng tay cái. Mụ vợ, sau khi đã bắc ấm nước lên bếp, giờ bước ra đứng xán gần Ngạn, híp mắt hỏi:
- Mấy cậu còn "ém" ở đây lâu không?
Ngạn đáp:
- Lâu. Chi vậy?
Đuôi mắt lá dăm của mụ Ba Phi nháy rất lẳng:
- Mấy cậu có muốn "lai rai" chút đỉnh "ba xị đế" không?
Nghe mụ ta hỏi, Ngạn nghĩ: "Mình không nên từ chối". Anh đưa mắt liếc mụ đàn bà, cười lại với mụ, chân nhịp nhịp:
- Có tôm cua gì không?
- Cha, bữa nay tôm cua tươi không có. Có tôm khô... à, mà mấy cậu ăn cháo vịt nghe, có vịt tơ mập lắm!...
Rồi, không đợi Ngạn trả lời, mụ quay vào bếp khiến chồng:
- Ông ơi, bắt vịt đi ông, bắt hai con!...
Thằng chồng đang đứng coi lửa ở trong đáp:
- ờ, được, để đó... thiếu úy với mấy cậu uống trà, nước sôi rồi!
Y xách ấm nước ra, chế vào bình đã bỏ trà sẵn. Đợi một chốc, y nhấc bình rót nước ra các chun. Xoa xoa đôi bàn tay béo múp míp, y mời mọi người uống.Y cũng hớp một chun, khà khà rồi để ba người ngồi đó, xăng quần bước tới rút mấy cây lót sàn, buông chân xuống. Tiếng vịt kêu cạp cạp, Ngạn ngồi cầm chun trà ngó xuống thấy tấm lưng của thằng chủ trại trắng hếu. Y đang quờ quạng chụp vịt. Ngạn ngó thấy nó hăng hái bắt vịt bao nhiêu lòng anh càng căm giận bấy nhiêu. Anh nghĩ bụng: "Thằng này quả là một thằng tay sai đắc lực".
Bầy vịt càng kêu và chạy tán loạn dưới sàn. Con mụ vợ ngồi chổm hổm trên sàn, miệng ngậm mấy sợi lạt dừa. Thằng chồng bắt được con vịt nào đưa lên, mụ ta liền chộp théo cánh, lấy lạt dừa trói chân liệng xuống sàn.
Bắt vịt rồi, thằng chồng lội sồn sộn ra sông tắm. Tắm xong, y lên nhà đi vòng ra phía sau, giội lại nước ngọt nghe ào ào. Mình y vận một cái xà rông sặc sỡ, sột soạt đi ra, tay cầm lược chải cái đầu sói sọi chỉ còn lại mớ tóc ốp xuống ót. Ngạn đưa tay ngoắc y:
- Ông Ba, để khỏi mất thì giờ, trước khi ăn cháo vịt, mình bàn công chuyện một chút!
- Dạ, được!
- Ông có bản đồ vùng này chớ?
Tên chủ trại đáy không đáp, lùi lũi đi vào nhà sau. Một lát, y trở ra, hai ngón tay kẹp một cái ống trúc đã khô. Y ngồi xuống ván, để cái ống trúc đó lên bắp vế, và lôi ra từ ống trúc một tấm giấy cuộn nhỏ bằng mút đũa. Ngạn với cầm cuộn giấy trên tay, tháo ra. Tới và Trọng lanh lẹn nhấc bốn cái chun nước dằn bốn góc ra để tấm bản đồ đừng vo cuộn lại. Trên tờ giấy manh nguyên, Ngạn thấy nét bút chì bi màu xanh vẽ vụng, nhưng rất chi li; nhà cửa, vườn cây, và những khoanh tròn như trôn ốc và anh đoán là các hòn. Nhưng trông thế thì biết thế, chứ anh không hiểu ra nổi.
Tên chủ trại đáy chợt đưa mắt nhìn anh. Sau đó, y nhớn nhác trông ra cửa, cánh cửa đã gài tự nãy giờ Ngạn nói:
- Đừng sợ, xung quanh đây không có ai ngoài lính của tôi. Ông cứ việc nói. Chắc ông biết là ngày mai tụi tôi đánh vô Hòn.
- Tôi biết...
Tên chủ trại đáp khẽ rồi kéo mí xà rông nơi bụng vận guộn lại cho chặt, người hơi nhổm tới. Cái móng tay trỏ để dài, vàng khè khói thuốc của y gí tới gí lui trên tấm bản đồ:
- Đây, cái nhà nào tôi có đánh dấu chéo đỏ là nhà tụi Việt cộng ráo. Thiếu úy chú ý nghen!
Ngạn lập lại:
- Nhà có dấu chéo đỏ... biết rồi!
Tên chủ trại đáy lại dùng móng tay cái, cũng cáu bẩn như ngónt rỏ của y, bưa bưa xuống mặt giấy:
- ở cụm này có một cái công trường của tụi nó chế súng tự tạo. Chỗ đó, tôi có báo một lần rồi, máy bay tới liệng cháy rừng mà tụi nó vác chạy được hết... Còn hang Hòn đây rất nguy hiểm. Trận càn trước, tụi nó rút vô hang, mình tấn công vô bao nhiêu chết bấy nhiêu. Nay nếu muốn đánh phải cắt đường rút vô hang mới được.
Nghe tên điệp nói, Ngạn nghĩ thầm: "Mẹ, thằng này lợi hại thật!... Được rồi, tao sẽ giết mày như giết một con chó!".
Đợi cho tên chủ trại đáy vạch đường chỉ nẻo xong xuôi, Ngạn cuốn tấm bản đồ lại, đưa trả y và vỗ vai y:
- Được rồi. Tốt, tốt lắm!... Trận này mà kết quả thế nào ông cũng được lãnh tiền thưởng.
... Tới đây, Ngạn thấy chẳng cần kéo dài tấn kịch này một cách vô ích. Bấy nhiêu cũng đủ lắm. Bấy nhiêu cũng đủ khiến tim anh sôi lên rồi. Anh đưa mắt nháy Tới và trọng. Hai người nheo mắt đáp lại.
Ngạn vỗ nhẹ vào vai tên chủ trại đáy bấy giờ đang cúi rót rượu ra ly:
- Thôi ông bạn, đừng rót nữa. Không ai uống đâu. Đang nói, Ngạn đứng lên quát - Dẹp đi! Nói cho mày biết, tao không phải là ngài thiếu úy của mày đâu. Chúng tao là lực lượng võ trang cách mạng tới bắt mày đây, hiểu chưa?
Lúc Ngạn mới bắt đầu nói, Tới đã gí sát nòng khẩu tôm-xông vào ngực tên chủ trại đáp. Y chỏi tay, la
- Ê, ê... đừng giỡn!
- Không giỡn đâu!
Ngạn lấy dây trói thúc y lại. Mụ vợ bị Trọng lôi xềnh xệch từ bếp ra. Lát sau, cả hai vợ chồng mới vỡ lẽ, mặt tái mét. Thằng chồng chưa uống một giọt rượu nào mà mắt cứ đỏ ngầu lên. Sau lần dây trói, hai tay y run giật. Con mụ vợ trố mắt, cái cặp mắt kinh dị và sợ hãi muốn đứng tròng.
4
Ba người giải vợ chồng tên chủ trại về tới đầu xóm Vạn Thạnh thì đêm đã khuya. Tấn cho hai du kích dẫn vợ chồng tên chủ trại về Hòn. Còn Ngạn, Tới, Trọng, sau khi thay quần áo, cùng Tấn vào ven vườn, chỗ bố trí chiến đấu.
Ven vườn này giáp với những cánh đồng rộng trải từ Tri Tôn đến vùng Hòn. Địch muốn đánh Hòn Đất, thường chúng ập vào đây trước.
Ba người mới len vào vườn thì gặp anh Ba Rèn.
Ba Rèn hỏi:
- Sao? Bắt được nó chưa?
Tấn đáp:
- Bắt đưa về Hòn rồi!
Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí cười ha hả. Anh kéo tay mọi người chỉ vô vườn, nói:
- Hiện anh em còn đào công sự. Ông Tám Chấn mới tới bảo phải đào công sự cho tổ ba ba. Đào riêng, nhưng chụm lại thành tổ. ổng nói không có hầm ở ven vườn thì không thể đánh được. Và ổng còn hăm nếu hầm đào không kỹ thì ổng không cho đánh.
- ảnh đâu rồi?
- ổng với Hai Thép về rồi. Cả cô Nhớ, chú Diệp, ổng cũng kêu về trỏng hết! Ông Tám Chấn bình thường thấy ông dễ, tới chừng làm công việc tôi ngán ổng quá!
Ba Rèn nói xong xách cây đèn chai xăng xái dắt ba người ra ven vườn. Vừa đi anh vừa dặn:
- Đi theo tôi nghe, coi chừng chông lụi què đa!
Năm Tấn vốn thạo đường, ở đâu có hầm chông anh ta đều biết. Ngạn không thạo, nên anh bám sát chân anh Ba Rèn. Họ đi xuyên qua đám vườn mãng cầu ta rậm rạp. Mùi mãng cầu chín bay thơm ngát. Thỉnh thoảng lại có một trái mãng cầu chín cây rụng cái "bịch" gần đó, Ngạn nói:
- Chống càn ở đây không sợ đói. Cùng lắm lượm mãng cầu ăn cũng sống được.
Tấn bảo:
- Mãng cầu ăn xót ruột lắm, thứ đó không ghé tôi. Đói thì tôi kiếm chuối chín bói, vững hơn.
Ba Rèn cười:
- Chưa chi mà mấy cha lo đói. Tôi thì cứ lo mấy cây "quảnh tầm sào" của tụi tôi hẻo đạn quá, với lại không biết mấy "ông ngựa trời" có khẹt ra lửa được không?
- Nghe đồn mấy cây ngựa trời đem thử nổ nghe đã lắm mà?
- Bắn thử thì nổ ngon đó, còn bắn thiệt không biết ra sao!
- Chắc nổ mà... ờ, còn cái vụ đạn thì hẻo thiệt đó! Tụi tôi cũng ít lắm. Nên phải chơi kỹ mới được!
- Hai Thép với anh Tám Chấn có dặn mình ở đây ráng tiêu hao nó. Cùng lắm mới rút vô hang.
Ngạn gật đầu:
- Như vậy là đúng. Chừng nào nột quá hẵng rút vô hang. Cái hang đó ở trong đánh ra cũng sướng. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô. Vô thằng nào mình gõ đầu thằng nấy!
Ba Rèn bảo:
- Tôi tính trước chú rồi, mà điều tôi xài cây dầu vuông hay hơn. Cầm cây dầu vuông nặng trịch, chú đánh ngang, thằng nào cũng phải té hết thảy!
Bốn người vừa đi vừa nói chuyện, lát sau họ đã nhìn thấy cành lá mãng cầu phía trước chập chờn ánh lửa.
Khi họ tới nơi, anh em đang còn hì hục kẻ vét người đặp miệng hầm. Những cái hố mới đào nằm rải dài theo ven vườn. Anh em treo đèn chai trên những nhánh mãng cầu. Cây đèn nào cũng có che một miếng lá chuối để ánh đèn không hắt ra mặt ruộng.
Ngạn đi coi lại từng cái hố, lòng thầm cảm ơn anh Tám đã đôn đốc việc đào những cái hố ấy. Trong cuộc sống chiến đấu, Ngạn hiểu rất rõ giá trị của cái công sự. Nó hết sức cần thiết cho sự tấn công cũng như sự chống đỡ. Cái công sự càng cần thiết cho người yếu vũ khí chống lại với kẻ địch có vũ khí mạnh. Anh em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. Thẩm, đội phó đội tuyên truyền, chỉ cái hố dành cho Ngạn, nói:
- Đây, cái của mày đây!
Ngạn nhảy xuống hố xem xét. Anh gọi Tới đem giùm cây trường mát 36 lại cho anh. Đứng dưới hố, Ngạn nâng cây trường mát tì vào vai, ngắm. Anh ngắm mấy lượt, rồi hạ súng xuống đưa lại cho Tới cầm. Anh với tay lấy cây vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. Anh thấy miệng hố đắp có hơi cao, chưa thật vừa với tư thế đứng bắn. Khi liệu chừng lớp đất miệng hố đã thấp bớt xuống rồi, anh liệng cây vá, cầm lại khẩu súng nơi tay Tới, nâng lên ngắm lần nữa. Lần này, anh có vẻ ưng ý, mới chỏi tay nơi miệng hố nhảy thót lên, Tới thấy Ngạn rà lại hố kỹ thế thì hơi chột dạ, cũng vội chạy về coi lại cái hố của mình.
Thấy công việc chuẩn bị đã ổn, Ngạn nói:
- Anh nào gác thì lo gác, còn anh em bẻ lá nghi trang hố mình rồi đi ngủ. Khuya rồi...
Có một người nói trong bóng tối:
- ừ, phải ngủ một chút mới được. Lần nào nó càn sao tôi cũng buồn ngủ ghê!
Ba Rèn nói:
- Chém vè mới buồn ngủ chớ đánh thì tôi không biết buồn ngủ đâu. Tôi cho hay, sống chết gì mai tôi cũng nổ ngựa trời nghe mấy cha! Công trình tôi với thằng Hai Cà Trèn o bế nó mấy tháng nay!
Ngạn dọa:
- Mấy ông bắn ngựa trời thì phải lo chân lo cẳng để vác chạy. Thứ đó phải bắn sát, chớ bắn xa không ăn thua đâu!
Anh du kích có biệt hiệu là Hai Cà Trèn lên tiếng:
- Tôi đợi sát mới bắn chớ không thèm ở xa bắn gãi ngứa đâu, anh em tin tôi đi!
Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. Anh nào cũng khấp khởi, mặc dù anh nào cũng biết ngày mai địch vào rất đông.
... Thì kìa, bọn giặc đã tiến sát đến bãi chông ngoài ruộng. Chúng chạy vào cái khoảnh ruộng trống giống hệt như những khoảnh ruộng khác đang hiền lành hóng lấy những tia nắng ấm áp ban mai. Nhưng chưa có tên nào bị sụp chông cả. Bọn lính áo rằn sấn lên, chừng như thằng nào cũng muốn chen lấn vào ven vườn mãng cầu sum sê này trước.
Ngạn nín thở, tì nhẹ báng súng vào vai.
Khoảng cách giữa bọn giặc và ven vườn chỉ còn chừng hai trăm thước. Ngạn nghĩ bụng: "Bây giờ mình bắn thì tụi nó cũng không ào về kịp". Ngạn ngắm kỹ một tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay.
Phát súng nổ vang.
Từ các công sự, anh em cũng bắn vãi ra.
Ngạn nhìn lại, không thấy bóng thằng giặc cao to ban nãy nữa. Trên ruộng, bọn giặc bị bắn bất ngờ, nhảy lung tung. Bỗng Ngạn ngó thấy có mấy thằng tự dưng tụt hẫng xuống ruộng. Cánh tay cầm súng của chúng chới với, chới với.
Anh em la ré lên:
- Nó sụp chông rồi!
Rồi, rồi, sụp rồi!
Bọn giặc ngoài ruộng hốt hoảng, càng chạy bậy càng bị sụp. Chúng nằm xuống mặt ruộng, không tiến mà cũng không lùi. Bọn phía sau trấn tĩnh lại, ôm súng máy bắn sả vào vườn. Mãng cầu rụng nghe lịch bịch. Một nhánh mãng cầu bị đạn súng máy cắt đứt rơi xuống vai Ngạn. Anh hất nhánh mãng cầu, đứng nhóng lên. Thấy bọn giặc ở bãi chông vẫn nằm im, anh nói lớn:
- Đừng bắn nữa, anh em! Chừng nào tụi nó đứng dậy xáp vô hãy bắn!
Quả nhiên, bọn giặc nằm im một lúc thì lồm cồm đứng dậy tiến tới. Lần này, bọn đi sau hò hét, la lối rất dữ. Còn những tên đi đầu lò dò từng bước, tiến rất chậm. Ngạn nghe bên cánh Ba Rèn nổ luôn mấy phát lơ-ben, "păng păng, păng" hệt như tiếng trung liên. Bọn giặc liền nhốn nháo. Một số nữa lại bị sụp chông, người cứ biến đi dưới mặt ruộng. Nhưng lần này có nhiều tên thuộc đại đội biệt kích tiến được một quãng khá xa. Mặc dù nghe súng nổ, chúng vẫn xóng lưng chạy tới. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. Đội hình giặc bỗng dưng biến thành một dọc dài. Chúng đã vượt qua được tuyến chông thứ hai. Ngạn thấy nếu cứ để chúng tiến vào kiểu ấy thì chỉ vài phút nữa là chúng tới nơi. Anh nhảy thoắt lên khỏi công sự, xách súng chạy riết lại ngay mũi tiến của giặc, nằm rạp xuống. Đợi ba bốn tên nhập một, anh nổ ngay một phát. Hai tên biệt kích bị viên đạn của anh xỏ xâu, tên sau té trước, tên trước đứng sững lại, buông súng, người hơi ưỡn ra sau rồi loạng choạng ngã gục.
Bây giờ, trên ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều đã lộ ra cả. Chúng trí mọt-chê giữa ruộng, bắt đầu nã vào. Đạn mọt-chê kêu "hụp, hụp, hụp" bay rú tới ven vườn nổ "uỳnh, uỳnh" bứng nguyên gốc mãng cầu. Khói xám bốc lên.
Ngạn bắn tiếp mấy phát nữa và la lớn:
- Chuẩn bị rút nới vô!
Anh bảo một anh du kích:
- Dẫn anh em rút đi!
Toàn đội Ngạn chạy theo anh du kích, Ba Rèn dặn:
- Vô tới miếng vườn trong thì ở lại đợi tụi tôi nghe!
- Bây giờ anh chưa rút à?
- Tôi hả, tôi cũng vô trỏng liền mà!
Ba Rèn nói vậy nhưng vẫn chưa đi. Ngạn len qua mấy gốc mãng cầu, lúc ngảnh lại thấy Ba Rèn với mấy anh du kích lom khom vác hai cây ngựa trời chạy ngược ra hướng giặc, Ngạn lo quá. Nhìn cây súng ngựa trời sần sùi thô kệch, bỗng dưng Ngạn thấy thương Ba Rèn và anh em du kích vô hạn.
Vào tới mương vườn trong, Ngạn cùng anh em bám dưới mương. Bọn giặc chia ba mặt ập vào vườn. ở mặt Ngạn, anh em đánh với chúng tám trận. Thình lình Thẩm bị miếng mọt-chê phạt trúng chân trong lúc anh vọt qua một bờ vườn. Anh em xốc Thẩm lên, vác chạy. Bọn giặc nhảy thòm thọp qua mương, la ó vang vườn. Thấy chúng tràn tới dữ quá, mà chẳng thấy cánh du kích Ba Rèn đâu cả, Ngạn cho anh em cõng Thẩm rút ra đường. Trên đường về Hòn, Ngạn vừa chạy vừa ngó thấy dấu máu nhỏ dài trên cát. Anh nghĩ bụng "Máu của Thẩm!", phía trước, Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. Hai chân Thẩm thòng xuống muốn chấm cát. Bắp chân trái của Thẩm đã được buộc lại bằng một cái khăn rằn. Ngạn chạy riết theo cho kịp Tới. Anh sấn lên, kêu:
- Thẩm, Thẩm, có đau không?
Thẩm nhoẻn cười đáp:
- Hơi ê ê!
Ngạn thấy mặt Thẩm hơi tai tái. Máu nơi chân Thẩm chảy trông rất sợ. Lớp khăn buộc vết thương bị máu thấm ướt hết, và máu cứ chảy ròng theo gót chân Thẩm, nhỏ thành giọt xuống cát. Giọt nào vừa nhểu xuống liền bị cát hút ngay, đổi thành màu sẫm như màu sét sắt. Ngạn hơi lo, nhưng anh cũng cười, nói:
- Ráng một chút nữa vô tới Hòn, tao kêu Năm Nhớ nó băng cho. Năm Nhớ mà băng thì mày bớt đau liền!
Thẩm nhếch mép cười, nhưng không nói gì cả.
Tới cõng Thẩm nãy giờ mệt thở hồng hộc. Trọng liền thay Tới, cõng Thẩm. Ngạn xách súng đi một bên, lát lát lại ngó ngoái về cụm vườn, có ý ngó coi cánh du kích của Ba Rèn ra chưa. Phía vườn, súng vẫn nổ không ngớt. Thình lình, anh nghe mấy tiếng nổ "ầm, ầm" dội lại, nhỏ hơn tiếng lựu đạn và mọt-chê 61 một chút. Chốc sau, đằng cụm vườn có bóng người liên tiếp chạy vọt ra. Anh em trong đội Ngạn kêu lên:
- Cánh Ba Rèn dông rồi kia kìa!
- Bộ tụi nó rượt lắm sao mà mấy chả chạy dữ quá!
- Chắc nó chiếm được mí vườn rồi!
Ngạn nói:
- Anh em mình cũng chạy mau mau lên đi, còn Trọng cõng Thẩm cứ chạy vừa phải thôi. Để tôi đi với Trọng, chừng nào Trọng mệt, tôi cõng tiếp.
Anh em du kích vượt qua mặt Ngạn chạy lên trước. Ngạn và Trọng chạy chậm, nên lát sau anh em du kích đã lên tới. Ngạn thấy anh em dìu thằng Bé con của chú Tư Râu đi thất thểu. ống tay áo bên trái của thằng Bé lòng thòng, rách bươm. Ngạn giật mình, hỏi:
- Bị mọt-chê phang à?
Thằng Bé gật đầu.
Ba Rèn vác cây ngựa trời chạy lúp xúp về phía Ngạn hỏi oang oang:
- Có nghe ngựa trời nổ không?
Ngạn đáp:
- Có nghe ngựa hai tiếng nổ. Anh bắn hả?
- Tôi với Hai Cà Trèn mỗi người đả một phát. Cách có hai tầm đất, nghe!
Ba Rèn vung tay:
- Tụi nó bò càng hết thảy. Bắn mỗi đứa một phát, tôi với Hai Cà Trèn nhắm không êm, cõng chạy. Tụi nó xổ đạn theo như mưa.
Ngạn hỏi:
- Bây giờ tính sao đây?
- Vô Hòn thôi.
Mọi người chạy thẳng tới Hòn Đất, bấy giờ đã ở sát trước mặt. Gần tới Hòn, thình lình Ngạn thoáng thấy sau rặng dừa có một người tất tả chạy ngược lại phía sau. Anh nhìn kỹ thì ra là Năm Nhớ. Cô chạy, tóc bay xấp xõa. Đến nơi, cô thở hổn hển, mặt tái mét. Gặp Trọng đang cõng Thẩm, cô liền quay lại đi theo sau lưng, tất tưởi. Rồi cô lấy cái khăn quàng cổ của cô cúi xuống luýnh quýnh chùi bắp chân ướt máu của Thẩm. Nhưng vừa chùi qua một lượt, máu lại chảy ròng xuống. Năm Nhớ òa khóc.
Ngạn nói:
- Chưa chi mà khóc rùm lên vậy, Năm Nhớ? Nó không chết đâu mà.
Ngạn nhìn Năm Nhớ, nghĩ: "Bây giờ con nhỏ hết biết mắc cỡ gì hết rồi. Coi kìa, nó cứ quýnh lên. Vậy mà hồi trước mình nhắc tới chuyện nó với Thẩm thì nó cứ làm bộ ngủng ngẳng. Cha, con nhỏ này thương thằng Thẩm thiệt rồi!". Nhìn dáng vẻ của Năm Nhớ, bỗng dưng anh tự hỏi nếu mình bị thương thì không biết Quyên có khóc không. Và anh cảm thấy có cái gì khoai khoái khi nghĩ rằng nếu mình bị thương mà Quyên thì luýnh quýnh lên như vậy.
Anh Đức
Hòn đất
Chương 3
1
Một tiếng đồng hồ sau khi anh em rút hết vào hang, bọn giặc từ mí vườn đã tràn tới khắp xóm Hòn Đất.
Anh Hai Thép đứng với anh em trên triền Hòn rậm rạp mít và vú sữa, nhìn thấy bọn giặc đi lúc nhúc dưới xóm. Bóng chúng loáng thoáng hiện ra sau những vòm lá mít, măng cụt, li ki ma. Có tên đã vội vã leo dừa. Tiếng chúng nói chuyện la hét ầm ĩ, mọi người đều nghe thấy. Trong ánh nắng sớm chiếu rực các vườn cây bên dưới, xóm Hòn Đất náo động cả lên, bởi tiếng giặc la ó, tiếng súng nổ "bóc đùng", tiếng gà kêu oang oác và cả tiếng bò rống nghe rất thảm thiết. Những thằng lính áo rằn ngồi dưới các gốc dừa thì coi hệt như những bụi lá. Lúc chúng đi đứng tới lui mới phân biệt ra chúng được.
Một toán vác xoong chảo vừa lấy được của đồng bào kéo đi lểnh nghểnh. Một toán khác cỡ chừng một trung đội lũ lượt tràn ra phía suối.
Con suối này chảy uốn quanh Hòn Đất, tên gọi suối Lươn. Bà con gọi thế vì dưới suối từ lâu có một cặp lươn trắng rất lớn. Trước nay không ai dám bắt cặp lươn đó cả. Nhất là từ cái dạo có ông già Khơ Me tên Suôn lén câu, chẳng những bao nhiêu lưỡi câu ông thả xuống đều bị cắn đứt, mà sau đó về nhà ông còn bị vật mình vật mẩy đau tới ba bốn tháng.
Chuyện ông Suôn thì không biết ra sao, chứ cặp lươn thì có thật, và suối Lươn rõ ràng là một suối nước lành, bao đời nay vẫn là nguồn tươi trong cho cả Hòn Đất.
... Bọn giặc xổ ra bờ suối đã bắt đầu đóng cọc che lều. Chúng cắm bốn năm cái lều vải bạt lớn cặp theo suối.
Anh Hai Thép lo lắng nói với Ngạn:
- Tụi này bộ tính đóng lâu nghe? Nó chiếm suối kìa!
Ngạn lẩm nhẩm:
- ờ, nó chiếm suối rồi!
Hai Thép nói:
- Nó chiếm cái suối thì ngặt cho mình lắm!
- Trong hang nói mình có trữ nước mà!
- Có, nhưng sợ không đủ, nếu kéo dài đôi ba bữa thì kẹt lắm!
Anh Hai Thép vẫn đau đáu nhìn xuống xóm, hỏi:
- Thôi, mình vô hang đi. Vô trỏng tính toán coi sao?
Anh day bảo chú Đạt ở lại gác nếu có gì chạy về cho hay, rồi cùng mọi người men theo vách đá, đi lần xuống phía miệng hang.
Hòn Đất có một chu vi bao bọc lối bốn cây số. Nó hơi dài, giống như một chiếc mai rùa. Chiều dài Hòn Đất trên một cây số, còn chiều ngang ước độ bảy trăm thước. Cả Hòn chỉ có một miệng hang độc nhất. Luồn quá miệng hang một chút là gặp cái hang nhỏ bùng binh. Tại đây có ba ngách tối om, chạy sâu hút vào trong.
Anh Hai Thép, Ba Rèn và Ngạn vừa khom lưng luồn vào tới hang nhỏ thì gặp hai anh em du kích ngồi gác.
Một anh nói:
- Anh em vô hang lớn hết rồi, mấy anh à!
Ngạn hỏi:
- Mấy anh ngồi đây dòm phía ngoài rõ không?
- Thấy.
Để tôi coi thử!
Ngạn quàng lại gộp đá. Anh du kích nánh sang một bên Ngạn ghé mắt nhìn ra ngoài. Anh thấy ở ngoài rất rõ, thấy bãi cỏ trống và những cây dừa trĩu quả sát Hòn, thấy cả bọn địch lố nhố. Anh reo lên:
- Hay lắm, ở đây quan sát được!
Rồi anh bước ra, đi theo anh Hai Thép và chui vào cách ngách bên trái, khi lộn qua phải. Có tới năm phút sau họ mới tới một cái hang khá rộng, sáng mờ, đang có tiếng người lao xao. Đấy gồm toàn những anh chị em cán bộ lộ mặt, không ở lại xóm được và những anh em du kích. Đáng lẽ càng vào sâu hang càng tối, nhưng ở trong chỗ này lại sáng dần ra. Những gộp đá xếp chất chồng trên vòm hang có nhiều kẽ hở, nhờ vậy ánh sáng từ ngoài lan vào được. Nhưng ánh sáng len vào cũng không nhiều, nó chỉ vừa tạo ra cái cảnh tranh tối tranh sáng, khiến những ai ở trong hang đều cảm thấy như mình ở giữa đêm sắp hầu tàn mà ngày thì chưa rạng. ấy là màu của buổi tinh mơ mới chớm, màu bóng đêm nhòa xóa, nhưng bình minh lại chưa đến. Trong hang có vẻ sinh động riêng biệt, hơi huyền ảo, với những bước chân không động, tiếng nói cười nghe cũng ấm hơn, và mọi người chỉ có thể vừa đủ nhận ra nhau chứ khôgn trông thấy rõ mặt nhau lắm.
Khi có người và hơi thở, khi có tiếng nói và những bước đi, cái hang liền khác trước, đến nỗi lúc Ngạn mới bước vào, anh nghe tiếng Quyên khẽ gọi, thì anh vẫn biết là tiếng Quyên đấy, mà sao nghe cứ lạ hẳn. Anh dừng lại, chưa trông thấy Quyên đâu, thì đôi bàn tay quen quen mát rượi của Quyên đã nắm chặt lấy tay anh. Đôi bàn tay ấy rờ rẫm người anh, rờ từ gáy dọc xuống lưng anh một cách gấp gấp, như để coi anh có phải thực là một Ngạn còn nguyên vẹn không vậy.
Quyên thì thào:
- Đánh chông kết quả quá, hả anh? Hồi nãy, em nôn quá, cứ đòi ra đó mà mấy ảnh không cho! Vậy thì hôm trước kêu em đi tập bắn súng chi uổng công...! Nghe nói tụi nó vừa bị chết vừa bị thương gần năm chục phải không anh? Trời ơi, em với chị Ba, với con Thúy đứng trên Hòn coi rõ hết. Coi thiệt là sướng!
- Chị Sứ với con Thúy đâu? - Ngạn hỏi.
Quyên không đáp, vội chạy đi kiếm Sứ dắt lại.
Ngạn thấy một bóngnhỏ vụt nhào tới ôm chặt mình:
- Dượng út, dượng út - Con bé Thúy kêu lên mừng rỡ.
- Sao con cũng vô đây? Thôi, nguy rồi!
Ngạn nói và nhắc bổng con bé lên. Chị Sứ nói:
- Nó đi theo chị từ sáng. Biểu ở nhà với má cứ không chịu... Bây giờ làm sao mà về được... Mày thấy chưa Thúy?
- Con không về, con ở hang con chơi!
Con bé ngẩng nhìn Ngạn:
- Vui quá hả dượng út! ở trong này vui quá. Hồi nãy dượng út có bắn chết tụi Mỹ - Diệm nào không? Con vỗ tay hoan nghinh ghê lắm, chắc dượng đâu có nghe.
Con Thúy nói rối rít. Nó vui vẻ, lăng xăng trong vòng tay Ngạn. Hình như được ở trong hang nó thấy thú vị lắm. Lẽ khác, người nào trong hang cũng đều quen với nó cả. Nó đi lọ mọ như thế mà ai cũng nhận ra và kêu đúng tên nó. Nên nó sung sướng.
- Ngạn à, nãy giờ em ở trên Hòn ngó thấy dưới xóm ra sao? - Chị Sứ hỏi.
- Ngó thấy rõ lắm, chị ạ. Tụi nó tràn vô khắp xóm rồi. Đông lắm. Lính vác xoong chảo đi nghễu nghện. Tụi nó chiếm suối Lươn rồi. Coi bộ nó tính đóng quân...
- Cha... - Quyên buột miệng kêu, lo lắng.
Và cô nói khẽ với Ngạn:
- Trong hang mình thì có nước nhưng ít quá. Hồi sáng vô hang, em với chị Ba đi coi lại những cà om nước thấy có chín cái mà bị chảy sạch không còn một giọt.
- Sao?
- Mấy cái cà om đất đó để lâu quá bị rỉ chảy. Em với chị Ba, Năm Nhớ phải đội cả cà om chạy ra suối múc nước. Đội ba chuyến đi được lại chín cà om như cũ... Mà cái cà om nước sau cùng thì Năm Nhớ làm rớt bể... lúc đó nghe anh Thẩm bị thương!
- Vậy thì bây giờ còn tất cả được mấy cà om?
- Cũng còn được tám cà om, nhưng mình hơi đông...
- Thôi được, để rồi... à, Thẩm với chú Bé bị thương giờ ở đâu?
- ở kia!
Quyên chỉ vào phía trong hang.
- Còn vợ chồng thằng cha trại đáy?
- Trói bỏ trong hang xẻo. Con vợ khóc thôi là khóc. Ngạn bảo Quyên dắt anh lại chỗ mấy anh bị thương. Bé Thúy cũng chạy theo.
Quyên vừa dẫn Ngạn đi vừa thì thào:
- Tội nghiệp thằng Bé quá! Cũng bị miểng mọt-chê như anh Thẩm. Bộ hồi nãy tụi nó thụt trúng ngay hả anh?
Ngạn gật đầu. Quyên lại nói:
- Em với Năm Nhớ mới rửa và băng vết thương cho hai người. Em thấy cánh tay của thằng Bé nặng lắm. Còn vết thương nơi bắp chân của Thẩm coi vậy chớ không sao...
Ngạn nói:
- Không sao mà đã có người khóc run lên rồi!
- Ai khóc? Năm Nhớ hả? - Ngừng lại một chút. Quyên khẽ bảo: - ờ, thì nó thương anh Thẩm nó mới khóc!
- Thương, thương mà hồi trước tới giờ sao không chịu hé ra, cứ êm ru, bây giờ mới...
- Bộ phải nói ra mới thương à? Tại anh Thẩm, anh Thẩm không nói với nó. Chớ Năm Nhớ thì làm sao nó dám nói trước được!
Ngạn nói giọng tỉnh như không:
- Vậy còn cô, sao hồi đó cô dám nói trước với tôi!
- Nói hồi nào, hồi nào?
Quyên quay phắt vào, vảnh tay phát vào người Ngạn, Ngạn cười rúc rích.
Đi gần đến góc hang. Quyên kêu:
- Năm Nhớ ơi!
- Quyên hả?
Ngạn sắp bước vào, chợt thấy bàn tay nhỏ xíu của con Thúy rút ra khỏi tay mình. Anh nghĩ bụng: "Chắc con nhỏ sợ". Anh bước tới, nhìn thấy Thẩm đang ngồi trên một phiến đá phẳng, lưng tựa vào vách hang, cái chân trái của Thẩm ruỗi ra, co co. Thằng Bé thì nằm dài trên chiếu, tay mặt bị thương đặt lên tấm khăn rằn xếp gấp lại. Năm Nhớ ngồi bên thằng Bé, tay cầm một cái khăn ve vẩy.
Thẩm cất tiếng hỏi:
- Mày đó hả Ngạn?
- ờ, tao đây, sao?
- Không sao...
- Coi miểng còn dính trong đó không?
Năm Nhớ nói:
- Không, em chắc là không có miểng. Nó bay luôn đi rồi!
- Chắc là vậy...
Ngạn tháo lấy cây đèn phin móc ở thắt lưng. Anh bấm đèn soi chân Thẩm. Con bé Thúy giờ cũng rón đến coi. Thẩm giơ tay nắm lấy tay con Thúy, bảo nó ngồi xuống cạnh anh.
Vết thương của Thẩm đã được băng kỹ. Máu không còn chảy nữa. Khi Ngạn cúi nhìn vết thương, anh nghe Thẩm nói khẽ:
- Tao biết, tao không hề gì đâu... Miểng mọt chỉ chém sơ qua bắp chuối thôi. Phải chú ý coi sóc cho thằng Bé, cái tay của nó nát quá. Thằng nhỏ ngoan lắm, không rên la gì hết!
Ngạn bước lại chỗ thằng Bé nằm. Anh bấm đèn nhìn. ống tay áo rách nát đã được cắt gọn, cánh tay thằng Bé đã được băng giáp tới sườn, và máu sẫm bết dính các lớp băng lại. Bàn tay phải còn lại của thằng Bé cứ cấu chặt xuống mặt chiếc đệm. Đôi mắt thằng Bé nhắm nghiền, miệng thở phập phào. Da mặt nó hơi tái lại, nhưng đôi môi vẫn tươi bậu, hênh hếch. Nó nằm đây tợ như nằm ngủ chớ không phải bị thương. Cái khuôn mặt trẻ thơ ấy thưởng như không phải đang đau đớn, tưởng như hãy còn vương tiếng cười khanh khách khi nó trườn giỡn với thằng út em nó trên bãi biển hay hí hửng vụt la ré khi cùng cha nó kéo lên khoang ghe một vạt lưới đầy cá. Nó còn nhỏ quá. Nhìn cặp mắt nhắm nghiền, đôi môi tươi bậu hênh hếch kia, Ngạn có cảm giác tim anh như bị một bàn tay nào bóp mạnh, rồi khi bàn tay đó thả ra, máu trong huyết quản anh như sôi lên. Đầu anh nhức nhói, hình dung ngay tới bóng mấy thằng giặc lom khom trí những khẩu mọt-chê lên mặt ruộng. Rồi thì cái bộ tịch loay hoay ngắm nghía của thằng pháo thủ, cùng những trái đạn đuôi chia, bộ chân súng có bàn rộng bè như chân vịt từ đó không rời ra khỏi đầu Ngạn nữa. Mãi đến lúc anh nghe thấy có tiếng anh Hai Thép gọi ở trước hang, anh mới đứng dậy. Anh khẽ bảo Quyên bấy giờ đang ngồi kéo lại ống tay áo, sửa lại áo quần cho thằng Bé:
- Mấy ảnh kêu họp kìa. Đi Quyên!
Con Thúy nãy giờ vẫn ngồi nép vào vai Thẩm. Quyên nói với nó:
- Thúy ở lại chơi với cô Năm, với mấy chú, nghe?
- Dạ.
Tất cả đảng viên hiện có mặt trong hang đều được triệu tập. Nhưng khi các đảng viên đã đến ngồi vây quanh thì anh Hai Thép lại nói:
- Ban nãy tôi định triệu tập các đồng chí đảng viên họp trước, nhưng có lẽ không cần, mình cứ họp tất cả anh em, trừ anh em đang có nhiệm vụ canh gác và trông coi thương binh. Các đồng chí thấy sao?
- Đồng ý, nên họp tất cả!
Ba Rèn chạy đi gọi anh em lại.
Anh Hai Thép lên tiếng.
- Không nói thì các đồng chí cũng biết lần này địch đánh lớn. Có thể nói đây là một trận càn quy mô hơn hết trong tỉnh. Sau khi đụng độ với ta ở ngoài Vạn Than, giặc đã tràn vô xóm. Ban nãy, chúng tôi có đứng trên Hòn coi thì thấy rõ ý đồ tụi nó định vây hang. Hiện tụi nó đã chiếm suối nước và vòng quân của địch đã ngăn cắt chúng ta với trong xóm. Mới đây, anh em gác trên Hòn về cho biết có người tàu mặt dựng vừa tới đậu cặp bãi, cánh bờ chừng một cây số. Theo tôi, tụi nó sẽ đánh hang. Tình hình là như vậy, nên chúng ta phải tìm cách đối phó...
Giữa lúc Hai Thép đang nói, thình lình có những tiếng nổ vang rền cắt ngang lời anh. Bụi cát trên vòm hang vụt đổ xuống rào rào. Mọi người đều nhổm bật dậy. Không ai biết là cái gì. Kế đó tiếng nổ dội đến liên tiếp, làm cho những gộp đá bên trên đều rung chuyển như sắp đổ xụp. Ngạn nói:
- Tôi nghi nó thụt mọt-chê 81 lên triền Hòn.
- Có lẽ!
Anh Ba Rèn phủi tay:
- ối, mình vẫn ở đây dẫu nó có bỏ bom tấn mình cũng khỏi sợ!
Tiếng nổ vẫn tiếp tục không ngớt. ở trong hang mọi người nghe tiếng rền vang dội rất lâu, có đến mươi phút sau mới dứt. Ai cũng lấy làm bực vì không biết bọn chúng đang làm gì. Mãi một lúc sau, Đạt nhỏ từ ngoài chạy xổ vào, la:
- Tụi nó bắn cà-nông lên Hòn quá sức. Bắn gãy cây gãy cối hết. Cháu núp sau mô đá, nghe tiếng nó đi rổng rẻng.
Hai Thép hỏi Đạt:
- Còn tụi ở dưới xóm có động tĩnh gì không?
- Tụi nó xiết chặt hơn hồi nãy. Quân nó đóng dày xung quanh đây hết. Từ chân Hòn mình trở ra chừng hai công đất đều có tụi nó!
- ở gần miệng hang thì sao?
- Nó chưa vô sát miệng hang.
Hai Thép nói:
- Tụi này bắn đại bác lên Hòn để dọn dẹp đây. Kiểu này thế nào nó cũng đánh vô. Tôi đề nghị bố trí ngay bốn tổ ba ba. Một tổ ở ngoài miệng hang, hai tổ thủ ở trong. Nên tập trung lựu đạn và tôm-xông cho các tổ đó. Ba Rèn và Ngạn đi bố trí liền đi. Còn bao nhiêu ở lại đây, tôi sẽ phân công.
Anh Ba Rèn và Ngạn đứng lên. Hai tổ du kích và hai tổ của đội võ trang được chọn đi ngay. Ra cửa hang, Ngạn nói với anh Ba Rèn bấy giờ đã rút cây mã tấu cầm lăm lăm:
- Anh Ba à, anh thủ ở ngách, để tụi tôi trấn ngoài bìa cho.
- Được, mà điều tôi dặn: nếu chú chịu với nó không xiết thì cứ rút. Tụi tôi đón nó.
- Đồng ý!
Ngạn cùng hai tổ của mình đi qua khỏi các bùng binh, tuồn ra miệng hang. Anh chọn những mô đá có lợi thế tốt nhất ở hai bên. Tới phụ trách một tổ và anh phụ trách một tổ. Tổ của Tới được phân cho hai khẩu tôm-xông và bảy quả MK3. Tổ của Ngạn thì có một tôm-xông, một trường mát và tám lựu đạn, cùng là lựu đạn MK3. Bố trí xong, Ngạn thấy Đạt ở trong hang chạy ra, hớn hở:
- Chú Hai biểu em ra đây với mấy anh.
- Vậy hả? Tốt lắm! Vậy em ở đây với anh. Cây cạc-bin của em được bao nhiêu đạn?
- Bốn mươi lăm viên.
- Nghe nói em bắn "cạc" khá lắm khả?
Đạt cười ngượng nghịu:
- Em bắn cũng được thôi. Chắc không bằng anh đâu.
- Anh chỉ bắn mắt, chớ "cạc" anh ít bắn lắm!
Đạt nói:
- Anh bắn mát giỏi thì nhứt định anh bắn "cạc" giỏi. Cây "cạc" bắn dễ trúng lắm. Mà bắn cây gì cũng vậy, em gẫm mình tinh thì bắn trúng.
Ngạn nhìn bộ mặt chất phác dễ thương của Đạt cười hỏi:
- Thường thường thì em có tinh không?
- Em tinh chớ!
Đạt đáp dứt khoát. Nghe Đạt đáp, Ngạn tin ngay là cậu ta nói thật. Đối với cậu thanh niên mười tám tuổi này, từ lâu Ngạn đã đem lòng thương mến. Mỗi lần gặp anh Tám trên huyện, Ngạn để ý thấy Đạt hay đi cắm câu, đi bẫy chim. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ Đạt còn ra sức cải thiện để anh Tám có được bữa ăn khá. Chính cậu ta đã đãi Ngạn mấy bữa cá nướng và chim cu đất "rô-ti" ngon lành. Nhưng điều khiến Ngạn thương Đạt hơn cả là hiện nay Đạt không còn cha mẹ. Mẹ Đạt chết khi sinh ra Đạt. Cha Đạtlà cán bộ xã hồi kháng chiến, năm năm mươi tám bị bọn Diệm bắt đập đầu vứt xác trong bàu rừng. Hài cốt của cha Đạt và những người khác được chính chị em Quyên, Sứ gom về, bây giờ cũng hãy còn để chung trong hang. Nay Đạt chỉ còn có bà ngoại, trên sáu mươi tuổi, hiện ở bên Linh Quỳnh, Đạt đi bảo vệ anh Tám được hai năm. Nghe đâu có lần bà ngoại Đạt nhớ Đạt quá cứ đi lần mò kiếm cậu thăm.
Ngạn hỏi:
- Chiều hôm qua về Linh Quỳnh, gặp bà ngoại rồi hả?
- Em gặp rồi... Ngoại em mừng quýnh, cứ ngồi rờ mình mẩy em mà khóc. Rồi ngoại em đi kiếm đu đủ hườm về nạo trộn gỏi cho em ăn. Em khoái ăn gỏi đu đủ trộn tôm xé lắm. Lần nào về ngoại cũng làm cho em ăn "đã" thôi.
- Món đó anh cũng khoái lắm - Ngạn nói.
- Em có đem về cho mấy anh năm xâu tôm lụi của ngoại em gởi...
Ngạn đặt tay lên khẩu cạc-bin của Đạt, hỏi:
- Cây "cạc" em lên đạn chưa?
Đạt gật đầu.
- Em lên rồi, nhưng đã khóa lại.
Ngạn dặn:
- Em lựa chỗ núp chỗ day cho thiệt ngon đi.
Đạt ngắm nghía chỗ mình, nói:
- Em ngồi đây được rồi!
Đạt nâng khẩu cạc-bin lên, chìa ra miệng hang nhắm nghiền mắt trái. Cậu ta nheo mắt mấy lượt, đoạn liếm môi, bảo:
- ở đây bắn sướng lắm!
Đạt để súng dựa vào đùi, mở lấy bi-đông nước ra uống. Hớp mấy hớp nước, Đạt đưa bi-đông về phía Ngạn:
- Anh uống?
Ngạn chỉ bi-đông nước đeo bên thắt lưng mình nói:
- Anh có đây... - Dừng lại một giây, anh bảo - Uống nước in ít thôi nghe Đạt. Khi khát lắm hãy uống!
Rồi Ngạn cũng dặn tất cả:
- Anh em nhớ phải tiết kiệm nước đấy. Trong hang có rất ít nước. Còn cơm khô, cốm dẹp của mỗi người là lương thực chính, đừng có buồn miệng đem ra nhai chơi đó!
Tới hỏi:
- ở trong hang có gạo mà?
- Có, nghe nói có hai giạ gạo. Nhưng hai giạ thì cao lắm là chịu được ba bốn ngày.
- Ba bốn ngày thì nó rút mất rồi, sợ gì?
- Chuyện đó chưa biết được. Ví dụ tụi nó vây riết mình độ tuần lễ thì sao?
Nghe Ngạn hỏi thế, không ai nói chi nữa.
Mọi người lựa chỗ, ngồi im. Tất cả các mũi súng đều chĩa ra miệng hang. Ngạn đăm đăm nhìn cái lối mòn trên bãi cỏ cú. Anh nhìn những cây dừa đứng yên, những tàu lá dừa nhẫy nhượt, loáng nắng. Thấp thoáng vài tên lính áo quần xám xịt đang tới lui khuân vác những thứ gì trông không thấy rõ. Anh nghe tiếng xoong chảo khua loảng xoảng, tiếng la ó nhốn nháo từ xa vẳng tới và có cả tiếng dừa rụng lịch bịch.
2
Quyên bấm đèn pin cho chị Sứ coi lại những nồi cà om nước. Nhìn chị mình lòng bàn tay rà vuốt từng cái cà-om, Quyên hồi hộp hỏi:
- Sao, nó có rỉ chảy nữa không chị?
- Hơi ri rỉ...
Và Sứ bảo:
- Em đứng đây, để chị chạy đi lấy tấm ni-lông. Phải cho mấy cái cà om này vào ni-lông túm lại mới được. Nếu có chảy thì cũng chảy ra ni-lông.
Sứ chạy đi, lát sau chị trở lại tay cầm tấm vải nhựa rộng của chị. Chị mở tấm vải nhựa ra:
- Rọi đèn coi!
ánh đèn phin trong tay Quyên bật lên quơ quơ soi tấm vải nhựa màu cánh gián. Sứ chăm chú nhìn rồi nói:
- Không sao, không bị lủng...
Chị Sứ đem tấm vải nhựa trải xuống một chỗ phẳng nhất. Quyên soi đèn cho chị mình lần lượt khuân từng cái cà om đặt xuống. Khuân xong tám cái cà om nước, Sứ túm bốn chéo góc tấm vải nhựa, buộc lại. Vừa buộc chị vừa chép miệng:
- Phải Năm Nhớ nó không đập bể một cái thì có phải bây giờ được chín cà om nước không!
Buộc xong, chị đứng lên, bảo Quyên:
- Thôi, đi coi lại mấy khạp gạo coi!
Hai chị em đi vào tận trong một cái hang xẻo nhỏ ở bên phía tay trái. Chợt trong chốc hang bên tay mặt có tiếng thở khì khì của tên chủ trại đáy và tiếng nói lí rí của mụ vợ. Nghe tiếng người nói đi ngang, mụ vợ cất tiếng nói như rên:
- Mấy ông ơi, cho vợ chồng tôi xin miếng nước!
Quyên cấu tay chị:
- Nó xin nước kìa!
- Chuyện này để còn hỏi anh Hai đã.
Quyên bước dấn tới, nói lớn:
- Xin nước uống à? Khoan đã!
- Trời... Ai như cô út Quyên đó phải không? - Tiếng con mụ trại đáy kêu lên - Tôi lạy cô, cô út ơi, xin cô làm phước, xin cô nói giùm vài lời cho vợ chồng tôi được nhờ...
Hai chị em Quyên, Sứ trở ra hang lớn gặp anh Hai Thép, trình bày cho anh nghe về tình hình gạo nước. Anh Hai Thép cười bảo:
- Thì tùy hai cô thôi, có ít tính theo ít chứ biết sao!... Nhưng gì thì gì cũng phải ưu tiên cho anh em bị thương. Phải nấu cháo cho anh em đó!
Sứ và Quyên bắt đầu mò mẫm đi kiếm mấy hòn đá đem vào góc hang, kê bếp. ở đây có xoong nồi, cả củi khô chẻ sẵn phòng khi giặc càn quét.
Sứ móc bật lửa, quẹt xạch xạch.
Chị lúi húi, một lúc sau bếp lửa mới chịu cháy. Quyên nhấc cái xoong nhỏ đi lấy gạo nấu cháo.
Đem cái xoong vô đặt lên bếp xong, cô ngồi ấp hai tay vào má, nhìn ngọn lửa nhảy nhót. Con bé Thúy từ chỗ anh Thẩm mon men đi ra. Nó đến sau lưng Quyên, đưa tay lên ôm cổ Quyên. Quyên quàng tay ra sau như cõng lấy nó. Con bé thỏ thẻ:
- Dì út nấu cơm cho con ăn đó hả?
Quyên day lại, bậm trợn:
- Nấu cho mày? Không ở nhà với ngoại, vô đây cơm gạo đâu mà cho mày ăn. Nấu cháo cho chú Thẩm với chú út đó chớ!
Con bé Thúy cười lỏn lẻn trên cổ Quyên.
Sứ hỏi con:
- Nãy giờ con ngồi chơi với chú Thẩm có nghe chú ấy rên không?
Con bé lắc đầu:
- Chú Thẩm đâu có rên!
Nó buông cổ Quyên ra, tới ngồi bên mẹ nó, thủ thỉ:
- Má ơi, chú Thẩm mới nói chuyện đời xưa cho con nghe hay ghê lắm!... Chú nói hồi xửa hồi xưa có một con nhỏ con của vợ chồng người đốt than. Một hôm, má nó đau nặng. Nó nghe người ta nói ở trong rừng có một thứ lá trị bịnh hay lắm. Con nhỏ đi lơn tơn vô rừng kiếm hái lá đó. Ai dè hái được lá thuốc đó rồi, nó không nhớ đường về nữa. Nó đi lạc, gặp một cái nhà ở giữa rừng, chủ nhà là một bà già giàu có sung sướng lắm. Bà già đó rủ nó ở lại và hứa sẽ nhận nó làm con, sẽ cho nó vòng vàng, cho nó ăn uống đủ thứ... mà nó không chịu, tay nó cầm bó lá thuốc cứ nằng nặc hỏi thăm đường về. Lát sau, bà già hiện hình thành một cô tiên đẹp thôi là đẹp...
Khi con Thúy mới nói đến chỗ: "một cô tiên hiện ra đẹp thôi là đẹp...", khi đôi môi nhỏ của nó còn đang xuýt xoa về cái đẹp tuyệt trần của nàng tiên nọ, thì phía ngoài hang chợt có tiếng súng nổ vang. Trung liên rô lên hàng tràng dài giòn giã. Tiếp đó, những phát ga-răng nổ "bầm bầm bầm". Con Thúy vụt ôm mẹ nó chặt cứng. Quyên đứng phắt dậy:
- Chắc tụi nó mò vô cửa hang rồi!
Sứ nói:
- Sao chỉ nghe súng của tụi nó mà chưa nghe súng của mình?
Sứ mới dứt lời đã nghe tiểu liên tôm-xông bắn từng loạt ngắn "tạch tạch tạch", và tiếng súng trường, tiếng cạc-bin nổ "đoàng đoàng" từng phát một. Quyên la lên:
- Đó, đó, mấy ảnh bắn rồi!
Đoạn Quyên chạy vụt ra. Sứ gọi giật:
- Quyên, Quyên!
Nhưng Quyên vẫn không quay lại. Cô gặp anh Hai Thép và một số anh em ở ngách hang. Hai Thép nói:
- Nên ra thêm một tổ nữa đi với!
- Tôi.
- Tôi.
Quyên sấn tới giơ tay đòi đi nhưng anh Hai Thép kéo cô qua một bên, làm cô tiu nghỉu.
Hai anh du kích bước ra, đi theo Hai Thép. Chú Tư Nghiệp xách cây súng ngựa trời nói với anh Hai Thép:
- Cho tôi ra làm một phát này coi, ông!
- Còn một cây nữa đâu?
- Đây!
- Đem ra ngoài luôn đi!
Tổ do Hai Thép dẫn đầu đi ra gần tới ngoài thì nghe tiếng Ba Rèn cười rúc rắc sau gộp đá:
- Thôi mấy cha ơi, cứ ở trỏng nghỉ cho khỏe, chưa tới lượt tôi mà đâu đã tới lượt mấy cha! Tụi nó vô bao nhiêu bị tổ chú Ngạn ở ngoài đó vật chết rồi. Cha nào muốn coi thì lại đây coi. Tụi nó nằm trước hang cả đống đây nè.
- Đâu, đâu?
Ai cũng giành chen tới các gộp đá. Hai Thép ghé mắt nhìn qua kẽ đá hở. Anh đếm được sáu thằng giặc nằm rải dọc ngoài cửa hang. Hầu hết chúng đều nằm ngã ngửa, súng vất bên cạnh. Đạn địch vẫn bắn "cháo cháo" vào cửa hang. Quanh những cái thây sõng sượt, đạn cắm chít chịt, tóe từng bụm khói nhỏ cỡ bàn tay.
ánh nắng mặt trời chiếu qua kẽ hở các tàu lá dừa. Bóng lá dừa in xuống các thây chết những vệt đen dài, coi sắc tợ những lưỡi gươm. Đạn địch bắn xối xả, bay sướt sượt qua vành nón sắt của các tên lính chết. Những khuôn mặt của bọn này trông đen đúa, láng nhờn, gây cho mọi người một cảm giác tởm tởm, buồn bã, bởi chúng đã chết rồi mà đạn phía bên chúng vẫn không tha, vẫn bấu quanh và lát lát có một viên bắn xuyên qua một bàn chân khiến cho bàn chân chết đó lạia giật lên một cái.
Anh Hai Thép sốt ruột nhìn những khẩu ga-răng Mỹ báng đen mun, nòng bạc sáng loáng nằm bên các thây chết. Mấy khẩu tôm-xông báng đỏ au, mấy xanh-tuya đạn mới xanh còn dính trên mình chúng. Đó đều là những thứ mà anh và anh em ước ao bấy lâu, có khi nó là đầu đề cho cả một câu chuyện, một cuộc cãi vã, và có khi nó còn hiện ra ngay trong giấc mơ của anh. Bây giờ, các vũ khí Mỹ ấy hiện sờ sờ trước mắt, thật sự, tưởng như có thể với tay mà lấy được.
Nhưng rõ là bây giờ bọn giặc đang bắn để giữ các thứ đó không cho anh em xông ra cướp. Anh Hai Thép nôn nao mong sao cho hỏa lực địch dịu bớt. Anh nghĩ nếu tụi nó bắn lơi một chút thì thế nào cũng xông ra được. Nhưng lưới đạn của địch vẫn còn dày. Quanh trước miệng hang, đạn kêu "chóe chóe" như chuột lắc các ổ. Hai Thép ngó một lúc, chịu không nổi, quay lại bảo Ba Rèn:
- Phải tổ chức ra kéo súng vô hang mới được!
Ba Rèn gật đầu.
Hai người lách men ra ngoài tổ của Ngạn. Đạn xẹt vô hang chạm đá, nhoáng lửa. Họ phải đi mon men theo các mô đá, nhảy thoắt từ sau mô đá này sang phía sau các mô đá khác. Anh Hai Thép đến bên Ngạn, hỏi:
- Sao, nó bắn rát quá không ra nổi hả?
Ngạn lắc đầu. Vẻ mặt anh suy tính, căng thẳng. Trong lúc đó, Đạt ngồi chồm hổm dưới chân anh thì cứ nhăn mặt năn nỉ:
- Trời ơi, cứ để em bò ra... Em nhỏ, nó không bắn trúng đâu mà... Cho em ra đi! Em ra nghe anh, em bò ra à?
Đạt vừa nói vừa dợm mình nằm rạp xuống. Ngạn nhíu mày không đáp. Đạt ngỡ là Ngạn đã đồng ý, liền chống khuỷu tay trái xuống đất tính bò tới. Ngờ đâu Ngạn nghiêm nghị nói rành rọt từng lời:
- Tôi không cho chú đi. Chú không được đi, nghe chưa?
Đạt nghe bảo thế thì không dám trườn tới. Cậu ta cắn môi như sắp khóc:
- Anh không cho em đi, đây một chút nữa tụi nó tới lấy hết cho coi!...
Ngạn bảo:
Không đâu, nếu nó tấn công mình sẽ đánh cho nó dội lại như lần trước, không cho nó kịp lấy thây, lấy súng. Và lần này khi nó dội lại, tôi đề nghị mình sẽ ào ra giựt súng liền. Tôi sẽ cùng Tới, Trọng bắn kiềm cho anh em lấy súng đạn, anh em đồng ý không?
Hai Thép gật gù tán thành ý kiến Ngạn. Ai cũng cho đó là cách tốt nhất. Ngạn nói tiếp:
- Nếu làm thì phải làm thiệt mau... Còn bây giờ thì thôi, cho nó bắn "đã" đi, mình cứ ngồi nghỉ. Lát nữa đánh bật nó rồi, hễ tôi phóng ra là anh em theo tôi liền nghe!
- Được rồi!
Đạt nghe cái kế hoạch chớp nhoáng đó thì nét mặt cậu ta hớn hở lại. Tư Nghiệp lẩm bẩm:
- Làm vậy được. Nhưng phải cho lẹ đa!
Thế là mọi người ngồi đợi một cuộc tấn công mới của địch. Kế hoạch của Ngạn đề ra vừa táo bạo, vừa chắc ăn, khiến cho ai cũng vừa thích thú vừa hồi hộp. Trong lúc ấy, đạn địch vẫn bắn xối xả vào hang. Ngạn móc cái bì thuốc nhỏ nhỏ xinh xinh, lấy thuốc cuộn một điếu. Nguyên cái bì thuốc này do Quyên may cho anh. Vải túi là vải dù pháo sáng mà cô nhặt được trên bờ biển, của bọn khối xâm lược Đông Nam á tập trận năm ngoái thả xuống. Ngạn nhớ lại lúc anh cầm cái túi này của Quyên đưa cho, anh đã reo lên:
- A, hoan nghinh!
Thì Quyên lườm anh:
- Ghiền thuốc mà không biết kiếm cái gì đựng, người ta mới tội nghiệp may cho đó. - Rồi Quyên còn cấu tay anh - Chớ không phải xúi "ông" hút nhiều nữa đâu, nghe "ông"?
Mỗi lần móc thuốc từ trong bì ra vấn hút, anh lại tủm tỉm nhớ lại câu nói đe đó của Quyên.
Giữa những phút căng thẳng gay go, những câu nói như vậy chừng như đến với anh rõ hơn. Như lần anh bị bắt. Lúc chúng dắt anh đem bắn và lúc anh nung nấu cái ý định tự giải thoát, thì Quyên chính là cái bóng người vẫy gọi, thúc giục anh nhiều nhất. Hầu như anh có cảm tưởng là không đời nào anh lại chết mà không gặp lại Quyên cho được. Bây giờ cũng thế, dù cuộc xô xát sắp tới có quyết liệt đến dường nào, anh cũng tin rồi sẽ bình yên, sẽ ngó thấy lại khuôn mặt trái xoan đầy đặn của Quyên. Anh tin thế nào cũng sẽ được nhìn lại đôi mắt to đen luôn mở trố như ngạc nhiên, và rồi anh lại đặt cằm mình lên mớ tóc dày mướt mượt cứ ngan ngát cái mùi hương của những bông cau non tơ. Mà tất cả những cái ấy thực ra nào có phải chỉ là Quyên! Người con gái anh yêu vốn chỉ là biểu tượng kết đọng lại của bao nhiêu thứ khác. Trong Quyên hình như có trái măng cụt ngọt thau, có những cây tre vàng nắng, có lá cành lê ki ma xanh um, có tiếng nói yêu thương âu yếm của các mẹ già cùng tiếng bập bẹ ngây thơ của các em bé. Thật là trong Quyên như chứa đựng đủ mọi thứ đó. Từ tiếng xạc xào của rừng dừa, tiếng sóng biển vỗ lên bờ bãi, tiếng thét của đoàn người đấu tranh, ánh đuốc bập bùng, tiếng khóc và tiếng cười vui. Quyên là cô, nhưng đồng thời cũng là anh em đồng chí khác. Mối thương yêu riêng tây này gắn liền Ngạn với cái chung quý giá là cách mạng, là cuộc sống mới giành lại được ở miền đất nằm kề biển cả này.
Cứ mỗi một năm, mỗi một tháng, Ngạn lại càng thấy thương thêm những ngôi nhà sàn, những bà con Khơ Me thật thà, những đàn cò trắng chiều nào cũng trở về lượn cánh trên đầu các cô gái đi đội nước suối Lươn, vẩy vẩy đôi bàn tay dịu nhĩu, cười nói râm ran.
Mọi hình ảnh ấy giờ đây nổi lên rõ quá, gắn bó với Ngạn quá. Cho đến khi Ngạn ngó thấy những chiếc nón sắt nhô ra khỏi vườn dừa thì anh liệng vội tàn thuốc, nhét cất túi thuốc, kêu khẽ:
- Kia kìa, tụi nó ló ra rồi kia kìa!
Tất cả mọi người mím chặt môi, gật đầu. Ngạn nhắc Đạt:
- Mở khóa súng chưa?
- Em mở rồi!
- Tôi nhắc lại, lát nữa khi tôi, Tới, Trọng vọt ra thì anh em vọt theo, không sớm, mà cũng không chậm nghe chưa?
Miệng nói với anh em, mắt Ngạn dõi nhìn bọn giặc đang nổ súng và tiến tới. Chúng đi lom khom, súng cắp nách bắn vào miệng hang. Ngạn áng chừng bọn giặc cỡ khoảng hai trung đội. Đi trước là bọn biệt kích coi rất táo tợn. Ban đầu chúng còn đi, về sau chúng chạy tới như ngựa sải. Ngạn trông thấy một thằng ở trần ngực đeo lòng thòng những sợi dây bùa và một vật gì lóng lánh. Vừa lúc đó Ba Rèn chợt kêu lên:
- Thằng Xăm!
"à, đúng nó rồi!". Ngạn nhận ra và anh nheo mắt giương tôm-xông bắn nây một loạt. Tên trung úy biệt kích ác ôn chợt đứng sững, vai phải rủ xuống, chỗ ấy cách miệng hầm chừng mười bước. Ngay lúc đó hai thằng giặc nhảy vụt đến xốc nách thằng Xăm, lặt lia chạy đi. Tiếp theo loạt súng của Ngạn là những loạt súng của Tới, Trọng, Đạt bắn chĩa vào đám giặc đang ùa tới. Bọn chúng té nhào, la rú. Ngạn bắn hết băng đạn còn lại, đóng ngay một băng mới vào, lia tiếp. Bọn giặc xổ tới liền bị hất lật ngửa, nằm sát miệng hang. Nhưng chúng chưa bỏ chạy. Bọn còn lại lùi lũi xông lên. Tới mở trái MK3, để chậm tới ba tiếng mới vụt ra. Trái lựu đạn Mỹ nổ vang động, khói che kín cửa hang. Ngạn thét:
- Liệng một trái nữa!
Quả MK3 thứ hai của Trọng ném vút tới đám giặc vừa nhổm dậy. Quả này nổ ra đã chặn đứng ngay cuộc xung phong. Bọn giặc ùa trở lại hết cả. Ngạn thoáng thấy hai tên biệt kích cõng xác tên Xăm lên, chạy xồng xộc. Ngạn nổ theo một loạt ngắn. Chúng vẫn còn vác thằng Xăm chạy. Anh nhảy phắt ra, lia thêm một loạt nữa và thét to:
- Xung phong!
Rồi anh phóng vụt ra miệng hang.
Tới, Trọng cũng lao theo. Ba Rèn, Hai Thép và anh em ùa cả ra kéo súng, chạy vội vào. Chú Tư Nghiệp và Đạt lúi húi mở xanh-tuya trên những xác giặc, mãi một lúc sau khi vừa mở được hai cái xanh-tuya đang và mấy băng tôm-xông, thì địch đã bắt đầu dừng lại bắn trả. Hai người bò vào hang dưới làn đạn rát rạt của địch và làn đạn của anh em từ trong hang bắn ra yểm hộ. Đạt bò như một con ếch, hai cái đùi mập chắc của Đại cứ co lên duỗi xuống, còn một tay Đạt lôi hai cái xanh-tuya đạn. Chú Tư Nghiệp bò chậm nhưng kỹ hơn, đôi chân dài ngoẵn đầy lông của chú cứ chòi chòi, đạp đạp, Ngạn vừa bắn vừa theo dõi hai người. Còn có mấy với tay nữa là tới miệng hang, Hai Thép khích lệ: Ráng chút nữa!
...Rốt cuộc hai người bò vào đến nơi, mình mẩy sây sát, đầu gối đều rớm máu, nhưng không bị trúng viên đạn nào. Đôi mắt của Đạt sáng ngời. Cậu ta kéohai dây xanh-tuya đạn ga-răng vô hốc hang, dựa lưng vào vách đá ngồi thở và cười, cái miệng cậu ta chành bành. Còn chú Tư Nghiệp thì đặt hai bàn tay nơi đầu gối, thở dốc:
- Đạn nó đi biết nóng lưng nghe!
Chú cầm một băng tôm-xông lẩy ra một viên coi thử. Đạn mới tinh, vàng chóe, sau đít có một chấm sơn tím. Chú đưa viên đạn lên mũi ngửi rồi nói:
- Mẹ, thơm nhản hết sức mấy cha! Bộ nó mới khui đạn thùng ra mà!
Chú chuyển các băng đạn cho anh em bắn tôm-xông và hỏi:
- Lấy được mấy cây súng?
- Sáu cây, năm ga-răng, một tôm-xông.
Ba Rèn đáp, và phát ngay cho Tư Nghiệp một khẩu ga-răng kẹp đầy những lam đạn óng ánh nơi dây đai. Tư Nghiệp mừng quá, đưa tay ru run đỡ lấy cây súng nặng trĩu mà bụng dạ cứ bán tín bán nghi, ngỡ như chiêm bao. Chú ôm cây súng vuốt ve từ nòng tới báng.
Ba Rèn nói:
- Ông thấy đời ông tươi chưa? Mới vác "ngựa trời" đó mà bây giờ ông cầm ga-răng rồi!
- Thì phải tươi vậy mới được chớ... Có gan làm giàu mà! Ê, súng này phát luôn chớ ta?
- Phát luôn. Mình còn lấy nữa, thiếu gì!
- Tôi được thủ cây ga-răng này thì chơi với nó có chết cũng mát bụng.
Ngạn cười, móc vắt cơm ra. Trời đã gần đứng bóng. Ai cũng chợt thấy đói bụng, liền lấy cơm vắt hồi hôm ăn nghiến ngấu. Mọi người đang ăn nửa chừng thì Quyên từ trong luồn ra. Cô cầm một xâu tôm búi nước, rút chia cho từng người. Chia hết xâu tôm. Quyên ngồi nép vào vách đá, hớn hở rờ coi những cây súng mới lấy được. Lát sau, cô đến bên Ngạn, hai tay đặt lên ngực mình như nén nỗi hồi hộp còn dâng đầy:
- Hồi nãy, em thấy anh chạy vụt ra!
- Em ngồi ở gộp đá phía sau anh à?
Quyên gật đầu. Cô chăm chú nhìn Ngạn bẻ cơm đưa lên miệng ăn ngon lành. Lát sau, Quyên nói giọng giận dỗi:
- Mấy anh không tin tưởng em, không chịu cho đánh chác gì hết!
- Không phải không tin đâu, tại chưa cần đó thôi. Chừng nào cần tới em thì em đánh, đừng nóng.
3.
Thằng Xăm từ từ mở hé mắt...
Hắn thấy bả vai trái đau ê ẩm dưới lớp băng. Hồi nãy hai viên đạn tôm-xông đã ghim vào đấy. Nhưng hai viên đạn đó chưa giết chết hắn. Bây giờ hắn tỉnh lại dần. Nằm trong lều vải, hắn nhớ lại sự việc vừa xảy đến. Cái khuôn mặt của tên Việt cộng nhú lên sau mô đá đã nổ súng vào hắn hình như là hắn đã gặp ở đâu rồi. Nhưng hắn không nhớ rõ. Làm sao hắn có thể nhớ hết được hàng trăm người mà hắn hoặc đã giết hụt. Tuy nhiên hắn ngờ ngợ ké bắn hắn là một trong số người đã từng giáp mặt với hắn mà hắn đã để sẩy. Đây là lần đầu tiên hắn bị bắn, phải bỏ cuộc. Hắn nghĩ bụng: "Đáng lẽ mình phải bóp cò trước nó".
Một tên chuẩn úy y tá trưởng đeo kính cận ngồi nhổm bên cạnh hắn, bảo:
- Vết thương của trung úy không sao đâu
- Không sao hả?
- Không... Nhưng có thể hơi lâu lành...
Xăm không hỏi nữa. Hắn đưa tay lên ngực, rờ rẫm cái hình mặt chằn có nanh ngà, mê muội nghĩ rằng nếu không có cái mặt chằn ấy, chắc đâu hắn còn sống. Lâu lắm rồi hắn m1i trở lại Hòn Đất, mà lần náy hắn lại bị đánh trả dữ dội. Đó là điều hắn không ngờ. Qua cái bãi chông ban sáng và hai lần thọc vào hang đều bị đánh giạt ra, hắn thấy Hòn Đất hôm nay có cái gì không giống với Hòn Đất thuở hắn còn làm xếp bót. Hắn ngạc nhiên và tức giận lồng lộn. Hắn nghĩ: "Không thể như thế được đâu, tao sẽ bắn nát đầu tụi bây". Hắn liếc nhìn vết thương rồi đột ngột hỏi tên y tá trưởng.
- Đã bắt đầu đánh vô hang nữa chưa?
- Thưa anh Hai chưa?
- Sao không đánh
- Chưa có lệnh của Bộ chì huy
Xăm vụt nhổm dậy, nghiến răng trèo trẹo:
- Đ.mẹ, gần một ngàn thằng mà không vô hang được, kể tụi nó bắn mình cứ té sụm sụm, tức muốn ói máu.
- Thưa anh Hai, tụi nó nấp trong hang đó có thế lắm!
Xăm nín lặng. Hắn thấy tên chuẩn úy y tá trưởng đó nói đúng. Thật, đánh vô cái hang có đâu phải dễ thì chính việc hắn bị thương nằm đây đã nói rõ điều đó.
- Hồi trưa có mấy ông cố vấn Mỹ đi trực thăng xuống. Nghe đâu mấy ổng cho lệnh cứ vây siết, thì tụi nó thế nào cũng chết đói chết khát. Tôi cũng mới được lệnh của mấy ông biểu bỏ thuốc độc xuống suối...
Tên Xăm nghe nói, giật mình nhổm dậy, hỏi lại:
- Bỏ thuốc độc à
Tên y tá gật đầu, Xăm lo lắng ra mặt. Hắn nói:
- Rồi nước đâu mình uống? Dân trên Hòn không biết, uống chết hết còn gì?
- Ngăn suối lại. Bỏ thuốc độc ở khúc gần hang thôi!
Thằng Xăm ngả đầu xuống. Hắn nghĩ tới mẹ hắn và Cà Mỵ. Hồi sáng, khi kéo quân đến, hắn có ghé qua nhà. Mẹ hắn hỏi hắn với giọng không hằn học, mà cóvẻ hơi mừng là khác. Thành ra hắn đâm vui. Bây giờ, hắn chợt nảy ra cái ý nghĩ giá hắn được về nằm ở nhà thì chắc sướng hơn nằm trong cái lều oi bức này. Hắn liền nói với tên y tá:
- Tao muốn về nhà bà già tao nằm quá!
Tên này lắc đầu:
- Không được, anh Hai nằm ở đây để làm thuốc chớ. Chừng nào vết thương của anh Hai lành miệng thì c về.
- Nhằm vài ngày nữa lành miệng chưa?
- Vài ngày nữa thì chắc khá!
Tên Xăm nằm im, không nói chuyện nữa.
Xung quanh hắn vẫn dậy lên những tiếng ồn ào. Bọn lính đang ăn cơm. Vòng vây của chúng bao quanh hang có tới hai lớp. Lớp ở gần hang và một lớp ở gần xóm. Vào giờ này, bọn lính ở xóm la cà thả rểu vào các nhà dân.
Một toán lính bảo an đến quán thím Ba ú ngồi nói chuyện om sòm. Thím ý tay không rời được cái cóng đong rượu. Hôm nay, thím tỏ ra một người chủ quán vui tính hết sức. Thím gọi bọn lính bằng cậu, nói chuyện với chúng ngọt xớt:
- Mấy cậu đi như vầy mỗi tháng được lãnh mấy ngàn?
- Mấy ngàn? Một ngàn tám chớ mấy! Thím coi nhắm bấy nhiêu đó có đủ đút lỗ miệng không?
Thím Ba ú liền trố mắt, vẻ ngạc nhiên:
- Một ngàn tám à, bộ mấy cậu nói giỡn sao chớ?
Một ngàn tám làm sao sống! Vậy vợ con chắc có lãnh riêng?
- Lãnh riêng cho mà ham. Nội vụ chỉ có bấy nhiêu đó thôi, bà ơi!
Thím Ba ú liền buông xuôi hai tay lên bắp vế, chặc lưỡi:
- Vậy mà lâu nay tôi cứ ngỡ mấy cậu ăn lương tệ gì cũng cỡ ba ngàn sắp lên!
Bọn lính đều cười về sự hiểu lầm của thím Ba. Một người hạ sĩ trạc tuổi băm lăm, mặt mày đen đúa, tóc bờm xờm trổ tới mang tai, uống hết ly rượu, chép miệng ngó thím Ba:
- Thím làm như tụi Mỹ nó không biết tiếc tiền.
- Nghe nói Mỹ nó giàu lắm mà?
- Thì tụi nó giàu chớ... Bởi giàu nên nó mới bỏ tiền ra mướn tụi tôi đi đây. Nhưng nó dại gì mướn giá cao. Chỉ có tụi tôi là dại...
Người hạ sĩ nói tới đó chợt dừng lại đưa bàn tay luồn vào mớ tóc bờm xờm của mình, vẻ mặt coi mòi chán ngán và rầu rĩ lắm, thím Ba ú hỏi y:
- Xin lỗi, cậu người xứ nào?
- Tôi gốc gác ở Mặc Cần Dưng!
Thím Ba ú sững sờ:
- ủa, té ra cậu ở Mạc Cần Dưng, tức làng Bình Hòa?
- Phải thím biết xứ đó sao?
- Trời đất, hồi chưa giặc giã, tôi lên đó làm mắm hoài mà!
Rồi thím Ba nói tiếp, vẻ hồ hởi:
- Cha chả... cái xứ gì mà tới mùa cá dại nổi đặc sống! Ai muốn xúc bây nhiêu thì xúc. Thiệt ham làm sao. Các lóc, cá trèn, cá lìm kìm, đủ hết, mạnh ai nấy bắt... Còn ruộng lúa sạ ở đó trúng đổ đồng cứ một công hai chục giạ cầm chắc!
Người hạ sĩ nhổm tới, nhìn thím Ba ú trân trân:
- ủa, coi bộ thím này biết xứ tôi rành dữ ha?
- Tưởng ở đâu, chớ Mặc Cần Dưng thì sao tôi không biết? ở đây đi Mặc Cần Dưng cũng gần xệu thôi, cậu à!
Bọn lính chẳng chú ý gì về cái làng mang tên Khơ-Me xa lắc xa lơ đó. Chúng uống rượu, trả tiền rồi vác súng đi lệt bệt về chỗ đóng quân. Chỉ còn người hạ sĩ đen đúa kia ngồi lại. Đôi mắt của y giờ đỏ hoe. Ngồi xốm gối trên bộ ván giữa tiệm, y cười coi như mếu, rồi lấy mu bàn tay vụng về chùi mấy giọt rượu giây trên bộ râu lún phún chưa cạo.
Thím Ba ú hỏi:
- Cậu uống nữa thôi?
Hai tay y vội chắp cái ly đưa tới.
- Cho tôi một ly nữa.
Thím Ba ú múc rượu trong hũ, rót đầy tràn cái ly người hạ sĩ đang cầm:
- Hồi ở Mặc Cần Dưng, cậu sanh sống nghề chi?
- Tôi mầm ruộng. Tháng trước thỉ dăng câu đặt lờ.
- Cậu đi lính lâu chưa?
- Hai năm rồi.
Thím Ba ú vảnh bàn tay chặn nhẹ ống tay áo của người hạ sĩ:
- Khoan cậu đợi chút xíu, để tôi đi nướng con mực cho cậu nhậu!
Nói đoạn, thím mau mắn với tay lên túm mực treo bán, rút lấy một con. Rồi cầm con mực, thím lạch bạch đi vào bếp. Người hạ sĩ để ly rượu xuống, ngồi đợi. Coi bộ y cảm động. Khi mùi mực nướng trong bếp tỏa lên thơm tho y hít hít cánh mũi:
- Cha... mực thơm quá!
Thím Ba ú trở ra, tay kẹp chiếc đĩa nhôm đựng con mực nướng. Trong đĩa còn có một cái chén nhỏ. Thím trỏ cái chén nói:
- Có chén dấm ớt đây, cậu chấm mà ăn!
- Da...
Người hạ sĩ cầm con mực, dứt mấy cái râu bỏ vô chén dấm, rồi lấy hai ngón tay kẹp vớt ra, thong thả đưa lên miệng nhai. Thím Ba ngồi khoanh tay rế nơi góc ván nhìn người hạ sĩ uống rượu. Chợt thím hỏi:
- Sao cậu không ở nhà mầm ruộng, đi lính chi cho cực?
Người hạ sĩ cầm để ly rượu xuống, lặng thinh, gãi gãi đầu. Một lát say y mới nói:
- Tại tôi ngu. Tôi ngu quá. Mà không phải chỉ có một mình tôi...
- Đi đây có cậu nào cùng xứ sở với cậu không?
- Có bốn năm đứa... Tụi nó không ở tại Mặc Cần Dưng nhưng cũng ở cận đó. Thằng thì ở Vĩnh Hanh, thằng thì ở Năng Gù...
- à xin lỗi cậu, nói chuyện nãy giờ mà tôi sơ ý quên không hỏi thăm cậu thứ mấy chớ?
- Dạ tôi tên Cơ, thứ chín.
Thím Ba ú gật đầu. Rồi thím nói, vẻ sợ sệt:
- Hồi sáng tới giờ "đụng" trong hang Hòn dữ quá, không biết ra sao? Nghe súng bắn điếc đai.
Hạ sĩ Cơ bảo:
- ồ tụi biệt kích đột vô hang đó, mà đều bị đánh chạy dột ra hết rồi. Mấy ổng ở trỏng bộ đông lắm hay sao mà chống cự gắt mấu. Hồi sáng tới giờ "liểm" tụi tôi gần hai chục thằng rồi!
- Tôi thấy bao nhiêu võng ở trong xóm đều bị lấy hết
- Thì để khiêng tụi bị thương mà...
Hạ sĩ Cơ cầm ly rượu nhóng tới, hỏi ngỏ:
- Nè, thím nói thiệt cho tôi biết, mất ổng rút vô trong hang có đông không thím?
- Tôi đâu có biết mấy ổng đông hay ít!
Hạ sĩ Cơ buông ly rượu, nét mặt rầu rầu:
- Thím mà không biết... Thím nói để tụi tôi còn biết mà lánh né. Đây rồi thế nào cũng tới lượt tụi tôi phải vô hang. Thiệt là ngán. Coi bộ mấy ổng trong hang quyết tử quá xá!
Thím Ba ú đập khẽ bàn tay xuống gối nghe cái "chách":
- Chớ không quyết tử? Tôi hỏi cậu, giả tỷ cậu bị người ta đè xuống cắt cổ, cậu muốn sống thì phải làm sao? ít ra cậu phải lừa thế chụp dao hoặc bóp họng cái người lính cắt cổ cậu, rồi phóc chạy, thì mới sống được, chớ cậu nằm im ắt cậu phải chết... Mấy ổng cũng vậy đó, cậu à!
Hạ sĩ Cờ gật đầu:
- ồ, con trùng đạp riết nó cũng phải oằn, huống chi là mấy ổng. Y dừng lại giây lâu, rồi tiếp:
- Nói thiệt với thím, tôi không ham đụng độ với mấy ổng đâu. Tôi muốn về nhà mầm ruộng, dăng câu đặt trúm bắt lươn bắt cá nhậu chơi khỏe hơn. Chắc thím biết kinh Hội đồng?... Vợ tôi nó ở đó dệt chiếu nuôi con. Tội nghiệp...
- Đó, đó!- Thím Ba ú kêu lên: - Rốt cuộc người đờn bà cũng chịu cảnh khổ, cậu thấy chưa? Tôi khen cho cậu đành lòng bỏ vợ con mà đi. Kể cậu cũng là người lòng gang dạ đá!
Hạ sĩ Cơ nghe nói đưa tay rờ rẫm bứt bứt cổ áo:
- Trời ơi, thím Ba, thím Ba... Tôi khổ lắm, thím Ba à! Y kêu lên rồi bỏ ly rượu, bước xuống đất, lê đôi giày bố có mắt cá đi xềnh xệch tới bên cây cột. Đứng dựa cột, người hạ sĩ ngó mông qua miệt Vàm Răng. Y ngó qua những cánh đồng nâu nhạt trải dài tới ven cây xanh mù. Và núi Ba Thê tim tím, vòi või ở trước mặt làm bụng dạ y chết điếng. Mãi một lúc lâu, y mới trở vào khoác cây súng trường mát, móc túi áo gom nhóp mấy đồng bạc lẻ:
- Thím tính bao nhiêu tôi trả.
Thím Ba lắc đầu:
- Thôi, chút đỉnh mà tiền bạc gì cậu!
Hạ sĩ Cơ ấp úng:
- Không, để tôi trả, để tôi trả mà!
- Tôi nói là tôi không lấy... Gặp cậu, tôi coi như người bổn sở...
Hạ sĩ Cơ nói:
- Vậy tôi cám ơn thím... Thôi tôi cề, nghe thím!
Trên đường về chỗ đóng quân, lòng hạ sĩ Cơ thấy vui vui khi nghĩ tới thím Ba ú, người đàn bà chủ tiệm béo mập mà tốt bụng. Và nhất là thím ta lại biết rất rõ xứ quê của y. Trời ơi, thím ta nhắc làm chi mùa cá, nhắc làm chi đồng ruộng khiến lòng y bồi hồi quặn thắt. Y nhớ ngày nào y đánh cộ trâu chở lúa mướn. Cộ trâu chạy băng băng trên đồng lúa mới gặt. Đó đây, các trại ruộng nổi khói cơm chiều. Rồi mùi thơm của những nồi cơm gạo mới, mùi cá lóc nướng trui khen khét. Lũ con nít đi bứt hôi cá đìa, đi mót lúa thấy y đánh cộ ngang đều chạy ùa theo kêu cho chúng đi ké. Thiệt là vui làm sao! ấy, cũng vào cái dạo tháng chạp này đây. Mùa tát đìa nối đuôi mùa gặt. Y nhớ khôn xiết cái cảnh ngày chạng vạng trong đồng. Sau bữa cơm mắm kho bông súng ngon lành, cái trại ruộng đốt đống un lên, sửa soạn cà lan đạp lúa tối. Và y cầm cây mó sẩy xốc lúa cho trâu kéo trục đạp qua. Tụi đàn bà con gái dê lúa gần đó cười nói vang rân. Rồi trăng lên. Y vẫn vừa tiếp tục xốc lúa, vừa nói cà rỡn với mấy đứa con gái dê lúa bên cạnh.
... Cái đời y cũng đã có lúc vui vẻ thảnh thơi như thế. Lúc kháng chiến, y cũng vô du kích đánh Tây. Hòa bình y cưới vợ, rồi cờ bạc. Y cờ bạc riết mà xa đồng ruộng, bỏ bê vợ con, bỏ cả cái lợp cái lờ để vô lính dân vệ. Từ dân vệ y trở thành lính bảo an không mấy chốc. Ban đầu còn đóng ở Long Xuyên, sau lên Rạch Giá. Y đi lính lâu mà không lên khỏi cái chức hạ sĩ, vì y không dám giết người như những tên lính khác. May thay, cái gốc của ruộng đồng còn giữ y lại ở mức người lính đánh thuê. Nhiều trận càn, tụi lính cứ đạp bừa lên mạ, nhưng y lại đi tránh lối khác, vì chính y đã có lúc gieo cây mạ đó. Cũng như chưa lúc nào y dám cầm súng nhắm một con trâu mà bắn.
Đến Hòn Đất này, y là một trong số những người lính chẳng thiết tha gì sự đánh chác. Lúc lên đường hành quân, y chỉ mong sớm sớm trở về. Khi thấy chỉ có một buổi sáng mà lính đã chết và bị thương ba bốn chục, y ghê quá. Y đâu lạ gì những người du kích. Y hay ngẫm nghĩ nếu y vót chông cặm ruộng thì cây chông của y cũng sẽ đâm chết bất cứ thằng nào xông qua ruộng y như vậy.
Cái khoảng cách biệt, cái rãnh ngăn đôi giữa hạ sĩ Cơ và những người mà bọn giặc gọi là "Việt Cộng" buộc y phải đánh đó, không có gì là sâu xa cả. Y cầm súng bắn vào họ không đành. Ngón tay y bóp cò súng không quả quyết chi hết.
Y thấy người du kích đó giống hệt như y, vì hầu hết họ cũng đều là dân làm ruộng, dăng câu đặt trúm, như y vậy.
Nghe nói cuộc bao vây này có thể kéo dài, y đâm lo. Trên đường đi từ quán thím Ba ú ở về tiểu đội, hạ sĩ Cơ tâm trí cứ để đâu ở miệt làng cũ. Và cái câu thím Ba ú nói "từ đây đi Mặc Cần Dưng gần xệu" cứ gợi đến cho y một ý định táo bạo.
4
Cho tới chiều, không có một cuộc xô xát nào xảy ra. Người ta không nghe tiếng súng nổ dữ dội như ban sáng và trưa. Chỉ có tiếng súng của bọn giặc bắn trâu nổ lẻ tẻ ở ven đồng. Những con trâu bị bắn khuỵu giữa ruộng, rống dài. Khắp Hòn Đất ai cũng nghe tiếng rống thảm thiết của những con vật hiền lành ấy. Bấy giờ nắng bắt đầu nhòa đi trong vườn lá. Và khi gió biển mới thổi về Hòn mỗi lúc một nhiều hơn thì từ rặng Thất Sơn xanh mù kia thấy chớp trắng những cánh cò.
Chiều nào cũng vậy, vào lối này, đàn bò lại trở về. Sau một ngày đi kiếm ăn ở chốn xa, những con cò bay về Hòn Đất, nơi có không biết bao nhiêu cái tổ rơ, vắt vẻo trên đọt xoài, nơi chúng sống từ đời này đến đời khác. Đàn cò cứ mỗi lúc một hiện rõ, với những đôi cánh hình dấu ớ. Và sau lưng chúng sắc núi đã chuyển từ màu xanh lam sang màu tím ngắt thì đã có thể đếm được từng con cò bay vẫy, la lả. Nhưng chiều hôm nay đàn cò đầu tiên về tới vừa xuống vườn xoài Hòn Đất thì chúng xao xác vụt bay lên hết cả. Súng từ bên dưới bắn lên "bóc bùm, bóc bùm". Trong buổi chiều tà, có mấy con cò bị trúng đạn, xoạc đôi cánh trắng, từ không trung rơi thẳng xuống. Nhưng con cò sau sắp hạ cánh đều kinh hãi kêu ré, cất lên. Chúng liệng nhiều vòng trên cao rồi cuối cùng chớp chớp bay về phía Hòn Me.
Mẹ Sáu đứng nơi bậc thang nhà nhìn thấy đàn cò không hạ cánh xuống vườn được, lòng mẹ đau như cắt. Mẹ ngồi bệt xuống bậc thang, ngó về phía hang Hòn bị cây cối che phủ. Bụng dạ mẹ càng thêm lo bấn. Hồi sáng tới giờ mẹ có làm được công việc gì đâu. Hết chạy vào lại chạy ra. Bỗng dưng bây giờ cái nhà chỉ còn trơ lại có mỗi mình mẹ. Hai chị em Quyên, Sứ vào hang thì đã đành, đến như con bé Thúy nó vào trong đó làm chi, để mẹ đã lo lại càng lo thêm. Hồi sáng, khi bọn giặc vào tới xóm, thằng Xăm đã ghé vào nhà mẹ sục kiếm. Nó hỏi: - "Hai đứa con gái nhà bà đâu". Mẹ đáp - "Thấy mấy ông vô, tụi nó sợ chạy đâu tôi cũng không biết!" Bọn giặc nói: - "Trốn vô hang hết rồi chứ gì, tưởng tụi tôi không biết hả? Cho bà hay, chuyến này tụi tôi tiêu diệt hết Việt cộng ở đây rồi đóng bót luôn chớ không phải như lần trước đâu. Tưởng trốn vô hang là êm sao. Tụi tôi đánh vô, bắt được đứa nào mổ bụng đứa nấy cho coi!". Chúng nói thế rồi bỏ đi. Một lát sau, súng lớn ngoài tàu bắn lên Hòn nổ rung rinh nhà cửa. Mẹ Sáu phải xuống hầm núp. Dứt trận súng lớn rồi, mẹ vừa chui lên thì lại nghe súng to súng nhỏ rộ lên phía hang Hòn. Mẹ bắc thang leo lên dòm qua mái hà sau, thấy cây cối ở hang Hòn bị đạn chém sả, như có bàn tay vô hình đang phát cho các nhanh mãng cầu, nhánh xoài rụng xuống một cách không thương tiếc. Kế mẹ nghe súng từ trong hang Hòn bắn ra. Tiếng lựu đạn nổ ầm ầm. Chị Hai Thép bồng con từ đằng nhà chạy đến, kêu:
- Má sáu sơi!
Chị hai Thép chạy rầm rầm vô nhà. Không thấy mẹ Sáu đâu. Chị hốt hoảng kêu;
- Má Sáu, má Sáu!
- Tao đây nè!
Mẹ Sáu ở trên mái nhà nói. Chị Hai Thép ngước lên hỏi:
- Má lên trên đó coi đó hả? Có ngó thấy gì không?
- Đâu có thấy gì. Chỉ thấy nhánh cây ngã liệt.
Mẹ Sáu hai tay vịn thang, bước xuống. Mẹ nắm tay chị Hai Thép, nói tiếng được tiếng không:
- Đánh rồi, nó đánh vô hang rồi, vợ Hai Thép à!... Trời ơi, không biết trong đó anh em chống cự ra làm sao. Tao lo cho mấy đứa nó quá. Súng ống đâu có bao nhiêu...
Chị Hai Thép đặt thằng nhỏ ba tháng xuống ván, đứng im, lắng tai. Chị nói:
- Má nghe không, lính nó la gì dữ quá!
Mẹ Sáu cũng lắng tai cố nghe, nhưng tai mẹ không nghe được tiếng la ở xa vẵng tới. Chị Hai Thép hạ giọng:
- Không sao đâu, con nghe ba sắp nhỏ nói ở trong hàng đó vững lắm, tụi nó không dễ dầu gì tràn vô được đâu!
- ừ, nó không tràn vô được liền, nhưng cho là nó không vô được đi, mà nó cứ vây riết, rồi anh em ở trỏng lấy cơm gạo đâu ăn?
- Má đừng lo, có gạo!
Mẹ Sáu không nói nữa, kéo rỗ đựng trầu, têm gấp một miếng. Sắp bỏ miếng trầu vô miệng, bỗng mẹ lại nói:
- Tao hỏi vợ Hai Thép, có gạo là có vậy, chớ lấy nước đâu mà nấu cơm, không lẽ ăn gạo sống à?
Chị Hai Thép đang vảnh tay quệt mũi cho thằng con nhỏ lồm cồm bò trên ván, nghe Mẹ Sáu hỏi chị cũng lo, và chị cũng biết giặc đóng chiếm suối Lươn rồi. Nhưng chị đáp:
- Mấy ông mình thế thần dữ lắm, lẽ nào chịu ăn gạo sống... ít nhất cũng rang gạo mà ăn chớ.!
Suốt buổi sáng, mẹ Sáu thấp thỏm không yên.
Chị Hai Thép sang thăm mẹ Sáu một chút rồi bồng con về ngay. Từ tối hôm kia, anh Tám Chấn đã đến ở tại nhà chị mà không một ai trong xóm biết cả. Ngay mẹ Sáu cũng không biết nữa. Lúc chị Hai Thép trở về bên nhà rồi, mẹ Sáu đi cho heo ăn. Ngồi lùa tay vào máng cám, niệng mẹ lêu heo, nhưng lòng mẹ thì hướng cả về hang Hòn. Thật, bỗng nhiên mà tất cả ruột rà của mẹ đều bị dứt ra để trong hang Hòn đó. Con gái lớn, con gái út, con cháu ngoại cưng như trứng mỏng đó chẳng phải là nguồn sống của cả đời mẹ là gì! Rồi còn con rể và những anh em khác, đều như ruột thịt cả. Bây giờ tất cả đều đang đặt mình trong tình huống khó khăn. Sự sống và cái chết như đã để lên cân, mà bà mẹ là người đang hồi hộp nhìn coi cái cân ấy. Mặc dầu mẹ cũng đã từng nếm nỗi lo âu kiểu như thế, nhưng trước kia nỗi lo âu của mẹ dàn trải ra, chớ đâu có câu thúc, gom lại ghê sợ như bữa nay.
Đêm xuống tối mịt. Mẹ Sáu quờ quạng đi đốt đèn. Cây đèn ống khói cháy lên càng soi rõ sự trống trải của gian nhà. Mẹ Sáu ngồi dưới ván một lúc, bồn chồn chịu không nổi, mới đi thắp ba cây nhang. Mẹ thắp nhang đứng trước bàn thờ chồng, lâm râm khấn:
- Ông sống khôn thác thiêng, phen này ráng phò hộ cho sắp con cháu của ông được tai qua nạn khỏi...
Mẹ xá xá mấy cái rồi cặm nhang vào chiếc lư hương đặt trên bàn thờ. Vừa lúc ấy chợt trong xóm có tiếng loa đột ngột nổi lên. Mẹ giật mình chạy ra cửa, tiếng loa thét vang vang:
- Nghe đây, nghe đây. Quân đội Việt Nam cộng hòa thông báo cho dân trên Hòn được rõ, hôm nay quân đội đã chạm súng và tiêu diệt được nhiều tên cộng phỉ. Hiện chúng còn đang ngoan cố chui rúc trong hang để chống lại. Quân đội sẽ tiếp tục tiêu diệt chúng. Chúng tôi xin báo cho đồng bào biết bắt đầu từ chín giờ sáng mai cấm tuyệt không ai được léo hánh ra suối. Nghe đây, nghe đây, quân đội Việt Nam cộng hòa...
Mẹ Sáu nghĩ bụng: "Cấm dân không được ra suối à? Tụi mày mưu tính chi đây? Chà... nó nói nó tiêu diệt được nhiều anh em mình. Chắc nói láo. Hồi sáng nghe chỉ có hai người mình bị thương, một chú là Thẩm, hai là thằng Bé con Tư Râu... không biết sau còn có ai bị thương thêm không?"
Tiếng loa của giặc vẫn còn thét ré trong xóm. Lúc tiếng loa im đi, chợt có tiếng kêu cẩng cẩng ngoài ngõ. Mẹ Sáu vào nhà cầm cây đèn. Trở ra mẹ thấy một con chó mực nhỏ chạy quấn tới bậc thang. Đi sau con chó còn có bóng người. Mẹ Sáu nhướn mắt nhận ra là thằng út, con của chú Tư Râu. Thằng út mặc cái áo len dài tay, vạt áo nhét trong quần cụt. Nó đi lon ton tới bậc thang, nhảy riết lên. Mẹ Sáu hỏi:
- Mày đó hả út?
Thằng út vừa thở vừa đáp:
- Dạ, ba con biểu con vô đây ngủ. Ba con nói tối nay bà Sáu ở nhà một mình...
- Vởy à?... Bộ mày ở ngoài bãi chạy u vô đây sao mà thở hào hển dữ vậy?
- Dạ!
Thằng út nói và đi vào. Năm nay thằng út mới mười ba tuổi, mà coi tướng đã vạm vỡ. Nước da nó đen, đầu hớt trọc, tóc xửng rửng như bông gáo. Bộ mặt nó coi liếng lắm, nhất là cái trán vồ của nó coi mới lì lợm làm sao. Vô nhà rồi, nó vẫn không ngồi yên được cứ chạy lòng vòng, tắc lưỡi kêu con mực chạy theo. Giỡn với con chó một hồi, thằng út lăn kềnh ra ván. Lát sau, nó ngóc đẩu hỏi mẹ Sáu nhà có còn cơm nguội không. Mẹ Sáu ngạc nhiên nhìn nó:
- Bộ mày chưa ăn cơm sao?
- Con ăn cơm hồi xế lận!
Mẹ Sáu đứng dậy cầm đèn, nói với nó:
- Đi xuống đây!
Thằng út lồm cồm trở dậy, theo mẹ Sáu xuống bếp. Mẹ bưng nồi cơm và một ơ cá kho dọn ra bộ ván kê cạnh bếp. Thằng út lấy chén, leo lên ván. nó tự xúc cơm, chan nước cá, rồi ngồi xếp bằng ăn riết. Mẹ Sáu nói:
- Hồi chiều tao nấu cơm đó chớ tao có ăn hột nào đâu. Ba mày có ghé đây. Nghe nói thằng Bé anh mày bị thương, ba mày lo lắng mà không nói chi hết!
- Ba con nói không đánh giặc thì thôi chớ đánh giặc thì bị thương là thường.
Mẹ Sáu nói:
- Còn mày, nghe anh mày vậy, mày sợ không út?
- Con khỏi sợ, bà Sáu à. Con liệng lựu đạn chết bà nó hết chớ sợ!
Mẹ Sáu phì cười:
- Mày còn con nít ai dám giao lựu đạn cho mày mà mày liệng!
Thằng út ngó Mẹ Sáu, mấp máy môi tính nói gì rồi thôi, bưng chén cơm lên ăn. Và hết cơm, nó thọc chén vô nồi mà xúc. Mẹ Sáu la:
- Cái thằng này, có đũa bếp sao không chịu bới?
Thằng út cười hề hề:
- Xúc mau hơn. ở đó bới thì ăn thêm được một chén nữa rồi!
Mẹ Sáu hết biết nói sao với nó, lắc đầu:
- Cha con mày tánh hệt như nhau. Tới ăn cơm thì củng ăn hốt ăn táp!
Thằng út làm thinh, ăn thêm ba chán cơm nữa rồi bỏ đũa đứng dậy. Nó xớn xác bước ra sau lấy gáo múc nước trong lu uống ừng ực. Trở vô nó thè lưỡi liếm vòng quanh mép, đưa tay vuốt vuốt cái bụng to tướng, đủng đỉnh đi ra nhà trước. Ngồi nơi bộ ván, nó đong đưa chân chơi một lúc rồi nằm ngả ra:
- Con nằm đây, còn bà Sáu nằm trong ghen!
- Mày nằm đâu đó thì nằm!
Mẹ Sáu nói và liệng cho nó cái mền. Nó chụp cái mền, hất tung ra đắp kín cả người. Mẹ Sáu ngồi xổm một gối, ngoáy trầu, chép miệng:
- Cha... đêm nay không biết con Thúy ở trong hang ngủ nghê ra làm sao? Sợ tụi nó đánh vô nữa quá!
Thằng út nằm trong mền nói:
- Ban đêm tụi nó không dám vô hang đâu!
- Sao mày biết? Mày thì cái gì cũng biết hết hà!
- Thiệt mà... Phải chi con được ở trong hang con khoái gắt. Ngủ ở trỏng chắc ấm lắm! Mà hơn ngán...
- Ngán cái gì?
- ở trong hang có chôn xương mấy chú chết hồi đó. Ghê lắm! Sợ mấy ổng nhát lắm!
Mẹ Sáu nghiêm nét mặt bảo:
- Nói bậy nè, mất chú bác của mày hy sinh cho cách mạng mà không lẽ đi nhát mày sao? Từ rày tao cấm mày không được nói vậy nữa, nghe út?
Thằng út bị mẹ Sáu rầy, nó nằm im không nói nữa. Mẹ Sáu ngồi nhai trầu bỏm bẻm một lát rồi bước ra đóng cửa. Mẹ thổi tắt đèn, đi nằm. Thằng út tốc mền hỏi khẽ:
- Bà Sáu cài cửa kỹ hôn?
- Tao cài rồi!
Thằng út lại trùm mền. Nhưng nó cứ lăn qua trở lại. Mẹ Sáu hơi lấylàm lạ: "Thằng này bữa nay không biết có chuyện gì mà cứ rột rẹt hoài. Nó còn hỏi minh có gài cửa kỹ không. Mọi bữa lại đây ngủ, hễ nằm xuống là nó ngáy liền mà!"
Nhưng mẹ nghĩ chắc nó ăn cơm no nên tức bụng khó ngủ, và mẹ không để ý nữa. Mẹ nằm trăn trở, không sao dứt được nỗi lo. Mẹ lại hình dung ra hang Hòn. Cái hang đó càng chất thêm vào lòng mẹ bao nhiêu là lo âu, hồi hộp. Cứ mỗi lúc mẹ càng cảm thấy phảilàm một cái gì để ngăn chặn bớt sức tấn công của bọn giặc, để những vòng vây của chúng phải dãn ra. Mẹ muốn bứt cái vòng đai hung hãn siết chặt lại hòng dập tắc nguồn thương yêu và sự sống của đời mẹ.
Trong đêm tối, khi Mẹ Sáu trở về với nỗi lo lắng của mẹ thì thằng út vẫn chưa ngủ. Nó có nỗi lo riêng của nó mà mẹ Sáu không hề hay biết.
Thằng út đang mường tưởng nhớ lại dáng dấp một trái lựu đạn MK3 mới tinh, thực sự chính tay nó đã được cầm, và hiện giờ đang thuộc về nó. Suýt nữa thì ban nãy nó đã lộ ra với mẹ Sáu là nó có trái lựu đạn ấy rồi. May quá, nó kịp ghìm lại. Nó không thể nói với ai khác. Bây giờ mỗi một tiếng động ngoài ngõ, một tiếng chó sủa trăng cũng khiến thằng út giật mình, dợm bật dậy. Nó đã sửa soạn đôi chân của nó rồi. Hễ nghe tiếng giày lính đi vô là hắn sẽ vọt ngay ra cửa sau. Cái sàn lảnh nhà mẹ Sáu nó đã để ý, thấy có hơi cao, nhưng nó lượng sức nó có thể nhảy xuống để chạy.
Nhưng tại sao thằng út lại cứ lo ngay ngáy sợ lính vô nhà? Sao nó nằm đây mà nó cứ tính chuyện chạy trốn?
Chuyện này cũng chỉ có một mình nó biết.
Hồi xế, nhà nó ăn cơm sớm. Ba nó bảo: - "út à, tối nay mày đi lại nhà bà Sáu ngủ. Bà Sáu ở nhà có một mình". Thằng út liền "dạ" rồi lêu con Mực xuống cuồng bơi đi ngay. Nhưng lúc nó cặp xuồng đi tới vườn dừa thì một tốp lính ngồi dưới gốc dừa ngó thấy, ngoắc nó:
- Ê, lại đây taonói cái này nghe mày nhỏ?
- Ông nói cái chi? Nó hỏi.
Mày biết leo dừa không?
Thằng út mới dợm miệng đinh trả lời "không", mặc dù leo dừa là nghề của nó. Nhưng nó thấy tụi lính tháo xanh-tuya đạn và lựu đạn bỏ đầy trên tấm cải bạt thì nó lại đổi ý, sanh ra muốn cà rà làm quen với tụi lính. Nó đáp:
- Biết chớ... Mờy ông muốn bẻ dừa ăn hả?
- ồ, leo bẻ vài trái dừa mầy! Bẻ xuống tụi mình chặt uống chơi!
- Bẻ thì bẻ!
Thằng út nói rồi thót leo liền. Tụi lính đứa nào cũng khen thằng út leo dừa giỏi hơn sóc. Mà thật, trong nháy mắt, nó đã lên tới ngọn dừa. Nó vặn cho dừa rụng xuống bịch bịch. Tụi lính hí hửng ôm mỗi thằng một trái. Thằng út bẻ tất cả bốn trái rồi tuột xuống. Một thằng lính lăn về phía nó một trái. Nó lắc đầu:
- Tôi không uống đâu, thứ này tôi uống hoài!
Bọn lính lấy dao găm chém vạt dừa sạt sạt. Thằng út ngó thấy tụi lính chém vụng quá, nó mới giành dao chém. Nó chém trái dừa nào coi cũng muốn uống chớ không sần sùi dơ dáy. Nó ngắm nghía cây dao găm Mỷ của tụi lính, khen cây dao tốt, đoạn chồm tới đút do vô cái vỏ giắt nơi xanh-tuya. Tụi lính uống dừa xong nằm ngả ngớn ca vọng cổ. Thằng út vui vẻ bảo:
- Để tôi đờn miệng cho mấy ông hát, nghe!
Nói rồi nó uốn lưỡi tăng tẳng dạo qua một câu. Tới chỗ nhịp vào, nó tróc lưỡi một cái giòn khướu nghe hệt tiếng nhịp của song hoan. Tụi lính phục nó quá, hỏi:
- Ai dạy mày đời miệng vậy?
- Tự ên tôi!
- Dóc, mày phải bắt chước ai mới đờn được chứ?
- Tôi bắt chước ông Tư Đờn, tôi nghe rồi nhái theo ổng.
- Thằng nhỏ này tài quá bây!
Thằng út nghe bọn lính khen, mặt nó cứ tỉnh bơ, chẳng hề tỏ vẻ đắc chí như tụi con nít khác. Tánh nó vậy, nó đâu thèm hí hửng ra mặt. Thành ra bọn lính càng phục nó, cứ giữ nó nấn ná ở lại chơi. Thằng út thì từ nãy giờ đã nhắm một trái lựu đạn ở cái xanh-tuya. Nó rắp tâm đợi trời tối là lấy trái lựu đạn. Trong lúc chờ đợi, nó kể cho tụi lính nghe chuyện cặp rắn hổ mây lớn thường nổi lên ngoài biển, quãng giữa Hòn Me và Hòn Quéo. Bọn lính hỏi có thấy tận mắt lần nào chưa, thì nó nói:
- Tui ngó thấy có một con hè. Mà bây giờ cũng còn có một con thôi. Hồi còn nguyên cặp, nó hay nổi lên nhận chìm ghe, ăn thịt người ta thiếu gì! Ba tui nói hồi đó có một ông bự con lắm, kêu là ông cai Thoại. Bữa nọ vợ chồng ổng chạy ghe bườm ra gần Hòn Tre. ổng để vợ con lái, còn ông ngồi trước mũi thủ một cây roi tre mạnh tông dài. Lúc cặp rắn nổi lên xô ghe như mọi khi, ổng không thèm nói. Đợi lúc con rắn đực ngóc lên tính táp, ông quơ ngọn roi, quật ngang, con rắn gãy cổ chết... Từ đó chỉ còn lại con rắn cái... Chồng nó chết rồi, một mình nó không dám đón đường nhận ghe người ta nữa...
Thằng út để dứt câu chuyện cai Thoại giết rắn thì trời nhá nhem. Không chậm trễ, nó nhè nhẹ thò tay tháo trái lựu đạn. Miệng nó vẫn nói leo lẻo:
- Con rắn cái bây giờ cũng còn nổi lên hoài...
Lúc nó nói câu ấy thì trái lựu đạn đã nằm nặng trỉu trong túi áo nó rồi. Nó thọc tay vào túi nâng giữ trái lựu đạn, và đứng lên:
- Thôi, mấy anh nghỉ, tôi về!
- Ê, lâu lâu lại đây chơi nghe bồ!
- Mờy anh còn ở đây lâu lắm sao?
- Còn lâu, chừng nào tiêu diệt hết Việt cộng trong hang mới đi!
Thằng út bước chậm lại. Con mực vẫn theo sau. Đi khuất bọn lính, thằng út mới vụt chạy. Về gần tới nhà mẹ Sáu, nó tạt vô vườn lêkima, bới một cái lỗ ém trái lựu đạn. Nó làm dấu, khỏa đất kỹ lưỡng, rồi chạy về nhà mẹ Sáu.
5.
Giữa lúc thằng út đang nằm thao thức nghĩ tới trái lựu đạn thì thằng Bé anh nó ở trong hang Hòn đang trải qua những giờ phút gay go. Thằng Bé vốn gan là thố, mà hồi chiều tới giờ bỗng cất tiếng rên hư hư. Nó đòi uống nước liên tiếp, Quyên thay Năm Nhớ trông coi nó, chỉ cho nó uống thấm giọng bằng nước cháo chớ không dàm cho uống nước. Nó phều phào nói:
- Chị út ơi, sao không cho em uống nước? Em khát em chết...
Quyên cầm cây nến trắng mới thắp, dỗ dành:
- Em bị thương uống nước đâu được. Uống chút chút nước cháo thôi... Chừng nào em bớt thì chị cho em uống!
Thằng Bé vẫn phều phào:
- Cho em uống bây giờ đi!... Em uống một chút thôi. Quyên bậm môi, day mặt đi chỗ khác... Thằng Bé nói giọng giận dỗi:
- Chị út ơi, sao chị không cho em uống. Bộ chị không thương em à?
Quyên đang nhễu những giọt sáp nến xuống phiến đá, nghe thằng Bé nói cách đó thì không chịu nổi, nước mắt muốn trào ra. Cô cặm nến lên phiến đá rồi đi lại chổ anh Thẩm, nghèn nghẹn nói:
- Anh Thẩm à, em Bé đòi uống nước quá, tính làm sao bây giờ?
Thẩm lắc đầu:
- Đòi thì đòi chớ cũng không cho uống. Cô đừng cho Bé uống đấy!
- Em nói hết lời mà Bé không chịu. Nó nói em không thương nó...
Thẩm im lặng một chút rồibảo:
- Tôi thấy cánh tay của Bé phải tính sao chớ để bầy nhầy vậy không được. Về vụ này tôi có thấy rồi, để lâu e nguy hiểm đến tính mạng. Theo ý tôi phải thanh toán cái mớ xương thịt bầy nhầy đó đi. Phải chặt đứt đi!
... Dưới ngọn nến không lay động, thằng Bé từ từ mở mắt nhìn Quyên:
- Chị út đi đi! Em thấy cái tay em nó lướng vướng lắm. Nó... nó không phải là cái tay của em nữa...
Quyên quay nhìn thằn Bé đăm đăm rồi cô cúi xuống, quỳ một gối, đặt tay lên vầng trán ướt rịn mồ hôi của nó. Chợt thằng Bé hỏi:
- Chị út ơi, chị có nhớ anh La Văn Cỗu tự chặt tay mình hồi ảnh mấy tuổi không?
Quyên nhìn thằng Bé, bối rối, một lát mới đáp:
- Chị không nhớ rõ lắm, hình như lúc đó anh Cỗu hăm hai hăm ba tuổi...
Câu nói của thằng Bé làm Quyên lặng đi giây lâu.
Quyên từ từ đứng dậy, đi ngay. Cô sợ thằng Bé lại đòi uống nước, mà cô không cho, thì khổ lắm...
Vừa khi ấy, anh Hai Thép trở lại:
- Tôi đã nói chuyện với chú Bé, chú nói sẵn sàng chịu chặt khúc tay đó. Nhưng chú yêu cầu là làm cho mau...
Mọi người lại đưa mắt nhìn Ba Rèn lần nữa. Ba Rèn bấy giờ như cố sức hất tung một tảng đá vô hình đang đè trĩu trên ngực mình, rồi nói:
- Thôi được, để tôi!
Nói xong, Ba Rèn vùng đứng dựng:
- Nhưng tôi đề nghị nhân tiện để tôi xử luôn vợ chồng thằng Ba Phi cho rảnh, Không có gạo nước cho mình, có đâu để nuôi nó?
Anh Hai Thép nói:
- Khoan đã, để khai thác them vài bữa nữa rồi xử lý nó cũng không muộn. Nên để nó lại, có đông đủ bà con xử tội nó thì hay hơn...
- Phải, bây giờ nó ở trong tay mình, gấp gì?
Hai Thép nói:
- Thôi, Năm Nhớ đi lấy thuốc đỏ với bông băng lại đây. Chỉ cần Ba Rèn và tôi ở lại với chú Bé thôi. Còn tất cả các đồng chí trở về chỗ mình hết đi. Phải cảnh giác dữ mới được, biết đâu ban đêm tụi nó lại mò vô!
Ngạn đứng dậy cùng anh em xách súng trở ra ngoài. Quyên cũng đi theo. Lát sau, Năm Nhớ đã đem túi đựng dụng cu y tế vào. Anh Hai Thép nói với năm Nhớ:
- Cô nấu nước, để anh Ba Rèn khử cây mã tấu của ảnh. Nước đó để uống luôn. à, còn mũi thuốc tê nào không?
- Còn hai mũi.
- Vậy trước khi chặt, tiêm cho chú Bé được không?
- Được, tiêm thì đỡ đau hơn!
- Vậy cô nói với Ba Rèn chuẩn bị, chừng nào xong cho tôi hay!
Hai Thép cùng một anh du kích đi lại chỗ thằng Bé nằm. Thằng Bé ngó anh như có ý hỏi: "Sao lâu vậy?"
Hai Thép ngồi xuống bên nó. Anh nói chuyện bình thường, kể cho nó nghe hôm nay giặc bị đánh chạy khỏi hang ra sao, ta lấy đôực những súng gì. Thằng Bé nghe nói mặt sáng long lanh. Nó chặc lưỡi, tiếc rẻ:
- Phải chi cháu không bị thương...
- ờ, không bị thương thì tốt hơn... Nhưng bị thương rồi cũng không sao. Chắc đứt khúc tay bầy nhầy thì cháu khỏe. Có thuốc tê, cũng không đau lắm đâu!
- Có đau cháu cũng cắn răng chịu. Chỉ tiếc mất một tay.
- Mất một tay cháu buồn không?
Thằng Bé ngần ngừ giây lâu rồi đáp"
- Buồn mà không buồn!
Hai Thép khẽ nhếch miệng cười. Thằng Bé cũng cười. Nó nói:
- Cháu buồn là sợ không bắn được súng thôi, chớ cháu không sợ bị tật đâu hồi vô du kích, cháu gẫm mình giết được tụi nó khi minh cũng phải bị thương. Cháu tính rủi có chết, cháu cũng không buồn!
Anh Hai Thép rất đỗi ngạc nhiên về câu trả lời của thằng Bé. Bản thân anh cũng đã có lúc nghĩ như thế. Anh lẩm nhẩm: "Phải, nếu thấy rõ mọi cái đó để sẵn sàng chịu đựng thì sẽ không biết sợ. Thằng Bé mới mười bảy tuổi nhưng thật có đầy đủ tư thế của người cầm súng chiến đấu lắm!"
Anh day lại, khẽ bảo anh du kích:
- Ra coi Ba Rèn chuẩn bị xong chưa?
Thằng Bé chợt hỏi:
- Chú Hai ơi, chị út đâu rồi, sao chị út không vô đây với cháu? Kêu chị út vô đây đi!
- Được rồi, chú sẽ kêu chị út vô.
Anh Hai Thép nói với anh du kích:
- Kêu út Quyên vô đây luôn nghe!
Nét mặt thằng Bé vẫn không thay đổi. Khi Quyên vào đến thì nó day qua phía Quyên. Nó đưa cánh tay phải bíu lấy tay Quyên. Còn cánh tay trái bị thương của nó thì được Hai Thép khẽ nhấc đặt lên một chiếc khăn xếp dày. Hai Thép đốt thêm một cây nến nữa, cầm trên tay. Quyên nghe tiếng Năm Nhớ cưa ống thuốc và cả tiếng ngón tay Năm Nhớ búng khẩy cho đầu ống thuốc văng đi. Bàn tay phải của Bé lúc này lại bíu chặt tay Quyên hơn chút nữa.
Anh Đức
Hòn đất
Chương 4
1.
Ngọn nến trắng cặm trên phiến đá đang cháy lụn, run rẩy. Mốu tim nến phựt lên lần chót giữa vũng sáp. Rồi bóng tối lại xóa nốt khoảng sáng cuối cùng trong hang động, xóa luôn bóng Quyên đang ngồi úp mặt vào lòng bàn tay, in lên vách đá. Cô gái thiếp đi giữa lúc ngọn nến đã tắt và thằng Bé đã yên ngủ.
Trời sắp sáng rồi.
Có lẽ bên ngoài đã tang tảng, thế nhưng trong hang bóng tối vẫn còn tràn ngập. Càng về sáng, hang cành lạnh. Chị Sứ chợt tỉnh dậy trên phiến đá, nghe chân mình lạnh buốt. Con Thúy vẫn ôm quàng lấy chị mật nó rúc vào ngực chị. Sứ với tay xuống sờ chân con, thấy chân nó cũng lạnh quá. Chị vội vàng kéo chân con kẹp giữa đùi mình. Nằm im một lúc, chị mới nhè nhẹ lần gỡ tay con ra. Nhưng dù đang ngủ, tay con bé cũng cứ bíu riết lấy người chị. Thật là khéo léo lắm, lâu sau Sứ mới gỡ tay con ra được. Chị ngồi dậy mò trong chiếc túi vải gối đầu, rút lấy một cây nến độ bằng ngón tay bật lửa đốt. ánh sáng ngọn nến một lần nữa lại cháy lên, xua bớt bóng tối trong hang.
Chị Sứ cầm cây nến, đăm đăm nhìn con nằm ngủ. Không có chị, hai cánh tay con bé không biết bám rớ vào đâu, cứ duỗi trơ ra trên tấm vải nhựa, trông thật thương. Giấc ngủ con bé đang say. ánh nến lung linh soi rọi mớ tóc "bôm-bê" xấp xõa trên trán nó, chiếu óng ánh hàng mi đen ươn ướt che rợp cặp mắt nhắm im. Đôi môi đỏ chót của con Thúy như khẽ mấp máy và cánh mũi nhỏ của nó lên xuống nhè nhẹ. ấy, chính cái hơi thở ấy bảy tám năm nay đã để vương lại trên ngực áo căng căng của chị Sứ mùi thơm âu yếm, mùi của sữa, vị ngọt của quả chín: mùi và vị của hơi thở mát tươi trong trẻo đó chỉ có ở những đôi môi trẻ thơ.
Bảy tám năm nay, tình yêu của Sứ là ở đấy, ở nơi đứa con gái bé bỏng ngoan xinh, nửa của chị, nửa của chồng chị hiện còn ở ngoài Bắc.
Đã không biết bao nhiêu lần chị Sứ lặng lẽ ngồi nhìn con mình một cách mê đắm như thế. Chị lắng nghe từng hơi thở của con, đoái triều ngắm từng sợi lông mơ, sợi tóc, vầng trán hay những ngón tay búp măng nhỏ xíu trắng hồng của nó. Sứ tưởng chừng như có thể ngồi mà ngắm con mình mãi được, từ ngày này sang ngày khác. Nhưng cũng thật khổ sở cho chị biết bao khi có lần chị phải xa con tới ba bốn tháng. Đó là hồinăm kia, bọn tay sai Mỹ - Diệm bắt chị nhốt trong "chuồng cọp" nửa đứng nửa ngồi và trong "chuồng sấu" nước ngập lân đến gối. Nhưng lúc ấy nỗi khổ chính của chị vẫn không phải là những mảnh chai chú bén quanh người hoặc làn nước trong "chuồng sấu", khiến hai chăn chị tê cóng, mà nỗi khổ chính của chị là xa con, xa cái dáng chập chững và tiếng nói ngọng ngịu của nó.
Ai đời, một người phụ Nữ hăm tám tuổi như chị mà lại có lúc khóa òa lên, nướt mắt nước mũi chằm ngoàm như một đứa trẻ, khi chị được bà con ở Hòn Đất đấu tranh đòi giặc phải thả và về gặp lại con Thúy.
cuộc sống của những năm tháng qua thường đặt chị vào những cảnh ngộ lạ lùng, mà chị tính sau này thống nhất rồi gặp lại chồng, chị sẽ kê cho chồng nghe hoài, kể hết đêm này sang đêm khác, để chồng chị thông cảm sâu xa và thương mẹ con chọ hơn nữa mới được.
Giả dụ như ngày chị bị bắt, rồi những cuộc đấu tranh sống chết diễn ra sau đó. Hay như ngay trong lúc này giữa lòng hang thẳm, ngày chiến đấu ác liệt hãy còn dư vang tiếng súng, tiếng hò hét, tiếng kêu rú của lũ giặc cùng nỗi lo âu của chị khi thấy một cà om nước vợi hẳn xuống, khi chị nghe văng vẳng tiếng rên của thằng Bé sau lúc nó đã rứt bỏ một cánh tay. Ngay giữa lúc này đây, chị cảm thấy sự yên tĩnh của đêm thâu cũng thật khác thường. Đây là sự yên tĩnh của vườn lá mới bị cơn bão thổi thốc tới luồng gió mạnh đầu tiên. Nhưng dẫu thế, đối với Sứ, hiện tại vẫn là sự yên tĩnh, với ánh sáng tỏa ra từ tay chị, với khuôn mặt đứa con gái đang mê ngủ, với tiếng ngáy đều đều của những người đồng chí.
Chị chị nghĩ: "Bây giờ ở ngoài chắc ảnh cũng còn ngủ. Chắc ảnh đâu có biết mình với con Thúy đêm nay ngủ ở trong hang. Không, ảnh không thể biết được đâu...". Sực nhớ tới cái thư của chồng mà chị mới nhận được hôm trước, chị liền sờ túi áo. Cái thư vẫn còn nguyên đấy, cộm nhẹ. Lòng bình tĩnh và sung sướng, chị kéo khăn se sẽ đắp lại cho con thật kỹ lượt nữa rồi đứng dậy bước xuống phiến đá.
Nhưng mới vừa bước đi một bước, chợt con Thúy vụt cất tiếng ú ớ. Chị dừng lại. Tiếng con Thúy gọi:
- Mà, má...
Sứ đứng yên, định bụng con sẽ nằm ngủ lại. Không ngờ con bé lại kêu giọng như sắp khóc:
- Má, má ơi!
Chị Sứ không thể nín im được nữa, vội lên tiếng:
- Má đây nè, con! Con nằm đó ngủ, để má đi nấu nước cho mấy chú uống!
- Không, con không ngủ... Con đi nấu nước với má!
Chị Sứ ghé lưng vào cạnh phiến đá, bảo con:
- Lại đây!
Con bé lồm cồm bò tới, ôm choàng lấy cổ mẹ. Chị Sứ xốc con lên vai, tay trái với ra vịn lưng con, tay phải giơ ngọn nến soi lối. Chị bước qua chân những anh du kích đang nằm ngủ, đi về phía cái bếp mới bắc lên hồi sáng.
Đến nơi, Sứ rùn gối đặt nhng. Chị nhổm tới, chúc đầu nến lên một tảng đá phẳng mặt. Ngọn nến cháy ngược, nhỏ xuống mặt đá hơi sần sùi kia những giọt sáp trắng trong. Những giọt sáp đó mới rơi xuống mặt đá lạnh, liền đông lại. Sứ rà ngọn nến hơ cho sáp chảy ra rồi cắm cây nến xuống.
Trong lúc chị nhóm lửa, con Thúy nhích lại gần chị, thẩn thờ vẻ mặt, nói:
- Hồi nãy con nằm chơm bao...
- Nằm chiêm bao... chị Sứ sửa lại.
- Con nằm chiêm bao ... thấy cô tiên có cánh đẹp thiệt là đẹp... Chắc cô tiên mà chú Thẩm nói với con hồi sáng đó, má à. Mà cô tiên đó coi sao mà giống dì út quá hà. Cô kêu tên con, nghe cũng giống hệt như tiếng dì út kêu con vậy đó. Rồi cổ chớp chớp cánh biểu con: "Leo lên lưng cô mau, cô đưa con đi gặp ba!" Con mừng quá nói: - "Cô ơi, để con ch kêu má con đi với, được hôn?" Cô tiên gật đầu. Con vừa chạy vừa kêu má thiệt lớn, rồi con giựt mình thức dậy. Không thấy má đâu hết, con mới la lên đó chớ!
Nghe con nói, Sứ ngạc nhiên nhìn con, tò mò hỏi:
- Vậy ra lúc nãy con ú ớ kêu má là con thấy cô tiên còn đứng đó hả?
Con Thúy gật đầu một cách quả quyết. Và nó mở to mắt ngó trân trân ra phía cửa hang. Chừng như nó cho rằng cô tiên nọ đã đi khỏi giấc mơ của nó bằng chính cái lối ấy.
Ngọn lửa bếp giờ đã cháy lên. Tiếng củi nổ lép bép nghe vui vẻ. ánh lửa nhảy nhót soi sáng vầng trán ngẩn ngơ của con bé đang ngồ mơ tiếp giấc mơ đẹp đẽ vừa qua. Ngọn lửa rọi ửng hồng mặt con Thúy, cùng một lúc rọi vào lòng chị Sứ những hy vọng lấp lánh. Chị thích thú như chính chị được nằm mơ. Rồi cũng như con, trog đầu chị lại vẽ ra thêm những cảnh gặp gỡ nối tiếp, những cảnh đoàn viên sung sướng mà chị hằng ngóng đợi và đã mường tưởng ra không biết bao nhiêu lần.
Ngọn lửa bếp mỗi lúc một tỏa sáng rộng hơn. ánh lửa chập chờn soi rọi khuôn mặt của những người du kích đang ngủ, những chiến sĩ trẻ măng ôm quắp lấy nhau mà ngáy. ánh lửa soi rọi tới tận góc hang trong, in bóng Quyên chờn vờn trên vách đá. Chị Sứ cầm cây nến đưa cho con.
- Con cầm, soi cho má đi lấy nước!
Con Thúy cầm lấy ngọn nến, lanh lẹ đứng dậy Chị Sứ búng cái xoong lên. Hai mẹ con chị đi vào chỗ góc hang để những cà om nước.
Sứ nhắc một cà om, đổ nước vào xoong. Chị san nước cẩn thận không cho nhểu xuống đất một giọt. Mỗi giọt nước bây giờ quý lắm. Ngoài cà om nước chị mới đổ vào xoong đó, thì trong góc hang chỉ còn lại một cà om nước nữa mà thôi. Trọn ngày hôm qua, hai mẹ con Sứ mỗi người chỉ hớp một hớp sau khi ăn vốc gạo rang buổi chiều. Tất cả nước nấu sôi, phần lớn chị dành chia cho anh em chiến đấu, một phần dùng nấu cháo cho anh em bị thương. Mỗi lần bưng cà om nước đổ vào xoong nấu, Sứ hết sức lo lắng. Nếu cuộc chiến đấu còn phải kéo dài nhiều ngày thì rõ ràng sẽ không có nước uống.
Chị nói với con:
- Thúy à, con có khát nước cũng ráng uống in ít nghe! cái ca nước má để đó, lúc nào khát lắm con hẵng hớp một miếng. Không còn nước nhiều nữa đâu...
Con Thúy nhỏ nhẻ "dạ". Nó cầm nến rón rén bước đi. Sứ bưng xoong nước đi theo, trở lại bếp. Bắc xoong nước lên rồi, chị thổi tắt nến. Thì lúc ấy, trong góc hang, Quyên lại thắp ngọn nến của mình. Cô nhẹ nhàng đi lại bếp lửa, ngồi xuống bên cạnh con Thúy, ôm hôn cái chụt vào má nó. Con bé ôm cổ Quyên, ghé sát vào tai Quyên, sợ sệt hỏi:
- Dì út anh Bé có chết không... dì út?
- Chết đâu mà chết, nói bậy!
Quyên kéo con Thúy ngồi lên bắp vế mình. Cô quay sang nói với chị:
- Thằng Bé đỡ rồi, chị Ba à. Sau khi chặt đứt cái khúc tay nó đi, nó đuối hơn, nhưng không rên đau nữa. Đêm nay nó chợp mắt được một chút...
Sứ nói:
- Vậy thì tốt... nhưng phải coi chừng nó đuối quá thiếp đi luôn mà mình không hay thì nguy!
- Không, em cứ rờ ngực rờ mũi nó luôn. Hơn thở và tim nó vẫn nhảy đều. Nó cũng mới thức và kêu em hỏi: - "Chị út, gần sáng chưa chí út?". em nói gần sáng rồi. Em hỏi nó thấy trong người ra sao, nó đáp" - "Tay em bây giờ tê tê chớ không nhức nữa, chắc em sống rồi, em không chết đâu hả chị?".
Sứ nghe em nói, mắt chị chớp liền mấy cái. Phút chốc, khóe mắt chị rưng rưng, ướt đầy. Con Thúy chúi đầu vào ngực Quyên, Quyên nói:
- Em không dè thằng Bé nó gan đến như vậy. Thiệt lúc chặt tay nó em không dám ngó, em chỉ thấy nó bíu chặt tay em hơn, còn thì chẳng nghe nó kêu la tiếng nào hết...
Sứ im lặng mãi một lúc mới khẻ bảo:
- Nó cũng đau lắm chớ. Tại nó ráng không la đó thôi. Chặt tay mà không đau sao được! Hồi giờ cùng lắm là cưa chớ đâu có ai chặt...
- Có, hồi kháng chiến, trong trận Đông Khê có anh La Văn Cầu...
Sứ lẩm bẩm:
- ờ, có anh Cầu...
Quyên nhổm tới gần chị, thì thào:
- Lúc sắp chặt, Bé nó có hỏi em...
- Hỏi sao?
- Nó hỏi - "Anh La Văn Cầu năm đó mấy tuổi hả chị út?" em không nhớ rõ, nên nói chắc hăm hai hăm ba gì đó. Bé mới bảo: - "Anh Cầu ảnh dám chặt đứt tay ảnh thì em cũng dám để chặt đứt tay em!"
Chị Sứ nghe nói thế thì không chịu nổi nữa, nước mắt trào ra. Chị đưa ống tay áo quệt ngang, nghẹn ngào. Con Thúy nãy giờ giụi đầu vào ngực Quyên, nay cất tiếng khóc rấm rức. Quyên lại nói:
- Chặt rồi, em với Năm Nhớ đứa nào cũng khóc. Anh Hai Thép thì không... ông thằng Bé trong tay. Và thằng Bé ngất đi. Ai cũng hết hền. Lâu sau nó mới từ từ mở mắt ra, làm tụi em mừng thôi là mừng!
Chị Sứ đứng dậy nói:
- Để chị lại với thằng Bé một chút, út Quyên ở đây, chừng nào nước sôi thì lấy "bình toong" anh em đổ dùm chị. Nhớ đổ mỗi "bình toong" một ca thôi!
Sứ nói xong, bước đi ngay. Con Thúy cũng vùng ra khỏi tay Quyên, chạy theo.
Chỉ còn lại mình Quyên ngồi bên bếp lửa. Cô chụm gom củi vào. Lát sau, nước trong xoong sôi réo. Quyên nhắc xoong nước xuống, để cạnh bếp, rồi đi ra hang ngoài. Cô đi trong bóng tối nhợt dần. Bình minh bên ngoài đã đến lúc ban phát cho hang động chút ít ánh sáng, nhưng là cái ánh sáng của nó nửa tiếng đồng hồ trước. Qua đêm không ngủ, Quyên đi ra hang với cảm giác người mình nhẹ bỗng, lâng lâng. Sự căng thẳng trong cô giờ đã dịu đi, và nỗi xúc động của cô như tan thấm vào cơ thể. Ngày chiến đấu vừa qua cùng cái đêm không ngủ này mới kỳ lạ làm sao! Chỉ trong một ngày một đêm thôi mà trái tim Quyên đã đập lên bao nhiều lần vì lo âu, vì thương mến, vì sung sướng và hồi hộp.
Cô đi ra cửa hang, đến ngay chỗ Ngạn ngồi. Cho dù cái ngõ dẫn ra cửa hang bấy giờ cũng chưa lấy gì làm sáng, nhưng cô tìm đến đứng chỗ Ngạn, không lầm lẫn. Khác hẳn với mọi khi, cô ôm chầm lấy Ngạn, ôm rất chặt, khiến Ngạn cũng ngạc nhiên trước cái cử chỉ đột ngột ấy. Nhưng rồi anh liền hiểu. Đây không phải chỉ là sự thổ lộ tình yên thông thường. Anh hiểu thế. Hình như đây là sự thổ lộ những điều huyền diệu mà cuộc sống chiến đấu một ngày một đêm trong hang đã cho Quyên và Quyên không thể giữ một mình được, nên cô đem đến san sẻ cho anh. Vì thế anh cũng không đáp lại cử chỉ ấy bằng sự âu yếm đơn thuần. Anh cũng không hôn Quyên. Trong bóng tối mờ nhạt, anh đặt đầu Quyên tựa lên vai mình giây lâu. Rồi anh từ từ nhấc vai Quyên ra. Hai tay anh nâng lấy khuôn mặt còn ấm hơi lửa của Quyên mà nhìn. Anh nhìn không thấy rõ khuôn mặt ấy, chỉ nghe hơi thở nồng nàn, phả nhẹ vô mặt anh mùi xoài chín. Riêng đôi mắt lóng lánh của Quyên là để anh nhìn thấy được trong đó những gì cô xúc độnh.
- Có chuyện gì mà coi bộ phấn khởi dữ vậy Quyên?
Quyên buông Ngạn ra ấp úng:
- Đâu... có gì đâu?
Thực ra, chính Quyên cũng không biết lòng mình chan hòa xúc động bởi cái gì. Cô không biết được. Dường như là cái cảnh hôm qua cô nhìn thấy lũ giặc rú lên ngoài miệng hang, đâu như là cái cảnh chị Sứ chia cho mỗi người phần nước hiếm hoi, đâu như là cánh tay thằng Bé hồi đêm cứ bíu riết lấy tay cô. Phải rồi, dường như là tất cả những cái đó cộng lại, chứ không phải riêng một cái nào hết.
Quyên hỏi như sực tỉnh:
- Đêm hôm nay anh có ngủ không?
- Có, tụi anh thay phiên nhau tốp gác tốp ngủ.
- Em với Năm nhớ cũng vậy. Năm Nhớ thức coi Bé hồi đầu hôm. Còn em thức tới bây giờ.
- Thằng Bé khá rồi hả?
- Đỡ lắm. suốt đêm cứ lo. Lát lát em cứ phải rờ ngực rờ mũi Bé, sợ Bé chết...
- Qua được đêm nay là mừng rồi. Anh ở ngoài này mà bụng cứ phập phồng sợ nó không qua khỏi.
Quyên mò nơi thắt lưng Ngạn lấy cái bi-đông. Cô lắc nhẹ. Không còn một giọt nước. Cô lặng lẽ rời khỏi chỗ Ngạn, đi gom bi-đông của các anh em khác.
Quyên xách hai chùm bi-đông trở vào hang.
Lúc Quyên đem những bi-đông nước trở ra chưa tới chỗ Ngạn bỗng cô nghe tiếng Ngạn thép lên:
- Tụi nó!
Quyên nhác thấy có hai ba bóng đen từ hai bên mé hang nhảy xổ vào. Cô chưa kịp né mình thì một bàn chân của ai đã nhanh như cắt thò ra gạt mạnh chân cô, khiến cô ngã xuống. Liền đó, một băng tôm-xông nổ điếc tai. Rồi tiếp theo là hàng tràng khác. Quyên kịp thấy ngoài miệng hang rựng sáng có mấy bóng đen chợt đứng sững, loạng choạng khuỵu xuống. Cô vội bò vào một hốc đá. Cô nhìn thấy ở hốc đá bên kia anh Tới đang nhổm người lên, bắn từng đoạt tôm-xông ngắn. Thì ra người gạt chân cô té ng đó là Tới.
Lát sau, cô thấy cái miệng hang trống sáng, không còn bóng một tên giặc nào nữa.
Nhưng thình lình, bóng chúng lại chạy vụt ngang miệng hang nhanh như những con thoi. Có những cục gì đen tròn bằng nắm tay bay vào. Những cục đen ấy va nhằm mấy mô đá văng trở lại.
Tiếng Ngạn thét:
- Lựu đạn, núp vô!
Những trái lựu đạn lăn lốc cốc giữa ngõ. Nhưng nó chưa kịp nổ thì ngoài miệng hang bóng giặc lại liên tiếp vút qua. Lựu đạn cứ thế mà bay vào.
Những trái lựu đạn bắn vô vách đá ràn rạt chưa ngớt thì những trái sau đã nổ tiếp theo. Khói bốc mịt mù, che lấp cả miệng hang, ngõ hang. Đá bụi tung tóe văng nhạt sang hai bên, rớt xuống lưng Quyên mấy cục đá lớn bằng ngón chân cái. Quyên vội đưa tay sờ lưng, coi có máu chảy không. Từ đó trở đi cô điếc ù vì tiếng lựu đạn nổ không ngừng. Mũi cô nồng nặc mùi khói thuốc. Bỗng Quyên nghe tiếng Ngạn la lên:
- Chuẩn bị rút nới vô trong một chút. Chú ý chừng nào tôi la "chạy" thì chạy thiệt mau nghe!
Lời Ngạn bị lấp mất bởi những tiếng nổ "ầm ầm". Khác với những lần trước, sáng nay bọn giặc không tiến thẳng vô hang nữa. Chúng chạy ngang miệng hang, liệng lựu đạn, hoặc nấp ở hai bên miệng hang, chồm người vụt tới tấp những trái MK3 ấy vào. Những trái lựu đạn Mỹ này nổ mạnh đến nỗi ngực Quyên cứ như bị đá tảng dằn xuống, rất khó thở.
Giữa lúc này, rời bò những hốc đá để rút đi thật là khó, Ngạn cứ nhấp nhổm mãi mà những trái MK3 quái ác đó cứ dập tắt cái thời cơ chồm lên của anh. Nó nổ dữ dội và liên tục quá, nên mấy lượt anh mới nhổm dậy lại phải mọp xuống ngay. Anh nghĩ bụng: "Dứt đợt lựu đạn này tụi nó sẽ ào vô, có thể mình trở tay không kịp". Nghĩ thế anh tức khắc mở ngay chốt an toàn một quả MK3 rồi hạ lệnh:
- Lựu đạn chốt, cầm tay!
"Cùng lắm thì chết chung với nhau ở đây!" anh nghĩ thế, và sẵn sàng chờ đợi cái phút quyết liệt đó. Nhưng không thấy lựu đạn bay vô nữa. Anh lập tức chồm lên, tay trái xách khẩu tôm-xông, tay phải ném thẳng quả MK3 qua miệng hang rồi hô lớn:
- Rút!
Anh em lao đi. Ngạn liệng xong trái lựu đạn, cắp súng bắn từng loạt. Bắn chưa hết băng đạn, anh chạy theo anh em, Chạy qua khỏi đó một quãng, tới chỗ ngõ hang rẽ ngoặt, Ngạn kêu anh em dừng lại. Chỗ này lựu đạn từ ngoài khó liệng tới, mà nếu có liệng tới cũng bị nhiều vách đá chặn lại. Vào đến nơi, chợt Ngạn nghe anh em lao nhao kêu:
- út Quyên đâu, út Quyên đâu rồi?
Ngạn xộc tới, kêu giật giọng:
- Quyên, Quyên?
Không có tiếng đáp. Không có Quyên, Ngạn liền quay phắt người, chạy vụt trở ra. Tới chạt theo anh, kêu:
- Anh Ngạn, anh Ngạn trở lại để tôi đi cho!
Nhưng bóng Ngạn đã biến khuất hang. Anh trở ra chỗ cũ, bò từ hốc đá này sang hốc đá khác mà kêu:
- Quyên, Quyên ơi!
Nhưng vẫn không có tiếng Quyên đáp. mãi sau, Ngạn mò đụng chân Quyên trong hốc đá. Quyên nằm sấp, hai tay khoanh dưới ngực, Ngạn hoảng sợ ôm xốc lấy cô. Anh áp mặt mình lên mũi Quyên, nghe Quyên hãy còn thở thoi thóp. Anh vội rờ nhanh từ đầu đến chân Quyên. Không thấy có máu. Anh vội khoác súng lên vai, lòn tay bố bổng Quyn chạy lom khom vào trong.
Ngoài hang, trời đã sáng rõ.
Một tên đại úy to lớn, mặc quần cụt vằn đỏ sẫm tay cầm súng ngắn, la hét bọn lính:
- Liệng nữa! Tụi bây cứ liệng hết mấy thùng này cho tao!
Bịn lính xáp lại bên những thùng lựu đạn phếch sơn màu xám đã mở nắp. Chúng lấy trong đó ra những trái lựu đạn MK3 mới tinh, lánh lấy, chia cho nhau. Mỗi tên cầm hai trái, đưa lân ghé răng cắn chốt. Chúng lò dò đứng ở hai bên mép cửa hang rồi bất thần chạy vọt qua, liệng lựu đạn vào trong hang.
Từ sáng sớm, tên đại úy đã cho khiêng tới đây bốn mươi thùng lựu đạn, để thực hiện cái kế hoạch "tấn công dồn dập" mà hai tên cố vấn Mỹ mới xuống hôm qua đã đề ra. Mỗi thùng như thế chứa hai chục trái MK3. Từ nãy giờ chúng đã tọng vào hang gần mười thùng, vị chi tất cả khoảng trên dưới hai trăm trái. Khói đen che kín cả miệng hang, chẳng còn trông thấy gì nữa.
Nhưng tên đại úy vẫn chưa cho ngừng lại. Hắn ra lệnh bọn lính tiếp tục làm cái trò ấy đến nỗi chúng chạy mỏi cả chân, và có đứa ê ẩm cả hàm răng, vì phải cắn chốt lựu đạn nhiều quá.
Bọn giặc liệng hết bốn mươi thùng lựu đạn thì mặt trời đã lên cao.
Khói quyện dày ở cửa hang đang lắng dần xuống. Tên đại úy thét lính xông và. Thằng lính nào cũng chần chừ. Tên đại uý tức giận la lên:
- Tụi nó chết mẹ hết rồi mà còn sợ gì nữa!
Đoạn, hắc xốc khẩu côn 12 trong tay, hùng hổ gạt bọn lính:
- Đ.mẹ, đồ chết nhát, dang ra, để tao vô!
Hắn nghinh ngang cầm súng chạy vô miệng hang. Mờy tên "gạc-đờ-co" của hắn xách súng chạy theo, cũng nghinh ngang như hắn.
Tên đại úy vừa bước vào hang liền bị một phát đạn từ trong bắn trúng giữa miệng, té lật ngửa. Đôi chân đi dày da đen cao cổ của hắn chòi chòi đạp đạp vào giữa lớp khói, Tay hắn buông rơi khẩu súng ngắn chưa bắn được lấy một phát. Toàn thân hắn bỗng giãy lên tê tê như một con cá lóc bị đập đầu. Mờy tên "gạc-đờ-co" bỏ mặc hắn nằm đấy, chạy nhào trở lại. Bản mặt thằng đại úy bấy giờ loang máu, đỏ lòm như chiếc quần cụt hắn đang mặc. Và cái thân hình to lớn đỏ đầu đỏ đít ấy bị lớp khói trên vòm hang lắng xuống, dần dần mờ phủ.
2.
Quyên, Quyên!
Sứ bế em gái mình trên tay, gọi giật. Chị gọi mấy lượt như thế mà mắt Quyên vẫn nhắm nghiền. Con Thúy cũng nhào ôm lấy Quyên mà kêu:
- Dì út, dì út!
Rồi nó khóc thét. Chị Sứ đưa tay hấp tấp sờ khắp người Quyên nhưng chị không tìm thấy vết thương nào cả. Có lẽ đúng như Ngạn nói, Quyên bị tức hơi lựu đạn. Chị xoa mạnh ngực em, như Năm Nhớ đã xoa từ lúc Ngạn đem Quyên vào. Nhưng Quyên vẫn không động đậy. Cô nằm sõng trượt trên tay chị, tóc xổ ra, rũ chấm xuống mặt đá.
Bờy giờ đến lượt anh em thắp nến lên cho Quyên, như Quyên đã thắp nến lên cho thằng Bé.
Bên ngọn nến cháy nhểu ròng những giọt sáp trắng, khuôn mặt tái nhợt, cặp mày cong cong của cô hơi nhíu lại, và đôi môi khéo hờ của cô như muốn nói tiếp câu chuyện gì đang nói nửa chừng. Ôm gọn trong tay mình các cơ thể trẻ trung mềm mại của Quyên, Sứ bối rối lo lắng từng giây. Chị có cảm tưởng như bồng trên tay mình con bé Quyên nhỏ dại hồi nào, để dỗ cho nó ngủ, để hát ru nó những câu hát đưa em ầu ơ, vời vợi; những câu hát mà mẹ chị đã ru cho tuổi thơ của chị. Trong tay chị giờ đây là đứa em yêu dấu nhất đời, là đứa em mà cho chị chỉ thoáng thấy trên tay mẹ chị có một lần, giữa buổi chiều trời chuyển mưa to, khi những người lính mặc áo "bành tô" vàng dong cha chị đi ngang qua nhà để đem ra triền Hòn xử bắn. Đây là đứa em mà Sứ đã bế nó lần bước xuống bậc thang nhà một cách khó nhọc, ẵm nó đi chơi tha thẩn dưới những gốc xoài, gốc mít. Rồi khi nó lớn lên, chính chị đã đánh đũa chuyền hoặc búng me với nó, chính chị đã nhường nhịn cho nó gói bánh nhiều hơn, cũng như nhường nó những trái xoài chín hơn. Đứa em bây giờ đây đang nằm thiêm thiếp trên tay chị. Sứ cứ hối hận nghĩ rằng phải chi ban nãy chị không để Quyên đi châm nước; thay vào đó là chị, chị thấy phải hơn.
... Một lát, Ngạn đi vào, tới đứng dưới phiến đá. Anh đứng nhìn Quyên hồi lâu, mà Quyên không hay biết gì cả. Khuôn mặt anh hãy còn hết sức căng thẳng. Mồ hôi chảy ròng ở hai bên thái dương, nhễu từng giọt xuống cổ áo anh. Thấy Quyên nằm tư lự ngước nhìn lên vòm hang, Ngạn không nhịn được cười. Anh thò tay chộp lấy bàn tay Quyên, khiến cô giật mình rụt phắt ngay chân lại. Ngạn nhô hẳn đầu lên. Quyên trông thấy anh, cô mừng quá, nhổm ngay dậy chụp lấy anh, véo véo vào vai anh mấy cái:
- Làm người ta hết hồn!
Ngạn người, lắc đầu:
- Mới sống lại mà đã giỡn rồi, tôi phục "cô" quá!
- Phục gì, rút lui bỏ người ta mà còn nói...
Ngạn chỏi tay lên mặt phiến đá, nhảy lên. Báng súng tôm-xông anh khoác nơi vai va mạnh vào mỏm đá. Anh cởi súng ra, nằm ngả đại lên mình con Thúy, thở hì hì. Con Thúy thích chí cười không ra tiếng.
Ngạn nhìn Quyên:
- Hồi nãy, anh tưởng em chết thiệt rồi chớ!
- Chết, chết sao được!... Không có anh, em nằm đó một lát rồi cũng bò vô được thôi!
Ngạn trề môi:
- Làm tàng hoài. Cho em hay, hồi nãy anh mà không ra vác em thì tụi nó lượm em rồi. Lượm như lượm một củ khoai vậy!
Quyên nghe nói, cô im đi một giây rồi chì chiết:
- ờ, sao anh không bỏ con nhỏ làm tàng đó cho nó chết. Vác nó đi làm chi cho mệt?
Ngạn nhoẻn miệng cười, không nói gì cả. Con Thúy thì vẫn nằm yên để Ngạn gác đầu lên bụng nó. Ngạn nói:
- Hồi nãy đem em vô đây, anh trở ra, tụi nó vẫn còn liệng lựu đạn không biết bao nhiêu mà kể. Rồi tụi nó xông vô. Anh bắn một thằng coi "đã" hết sức. Thằng đó bạn quần cụt đỏ lòm. Hai thằng bò vào vác xác nó, liền bị chút Đạt nhỏ bắn chết một...
Ngạn nói:
- Bây giờ yên rồi. Anh Ba Rèn và anh Hai Thép đang ở ngoài đó.
Nói xong câu ấy, mắt Ngạn lim dim, Quyên còn định nói chuyện với anh nữa, nhưng mắt Ngạn đã nhắm lại. Chốc sau, Ngạn bắt đầu cất tiếng ngáy. Quyên nâng đầu Ngạn để con Thúy lăn ra, và cô kéo cái khăn trên cổ mình xuông, vo lại gối đầu Ngạn. Cô nhè nhẹ đưa tay quệt chùi mồ hôi ở hai bên thái dương Ngạn. Rồi ngồi đó, cô mê mải nhìn Ngạn ngủ. Bây giờ, khi Ngạn đã ngủ, nghĩa là khi anh không còn nhìn thấy cô nữa, thì là lúc cô để lộ hết lòng yêu thương ra mặt. Đôi mắt của cô cháy bỏng hơn, khi cô nhìn thấy mọi cái gì trên người Ngạn cũng đều còn in rành rạnh dấu vết của buổi sáng dữ dội. Chiếc áo sơ mi đen ngắn tay anh mặc rách toạc một đường nơi vai. Hình như khắp thân anh vẫn phảng phất mùi khói súng. Nơi cườm tay, khuỷu tay có nhiều vết sây sát rướm màu mà Quyên đoàn là bị đá cáo. Rất có thể là anh bị những vết sây sát đó trong lúc kiếm cô ở các hốc hang. Quyên lục lọi trong chiếc túi chị Sứ lấy ra một chai dầu cù là, dùng ngón tay trỏ bệt dầu thoa lên những chỗ rướm máu trên tay Ngạn.
Đang thoa dầu cho Ngạn, bất chợt Quyên nghe tiếng radio từ ngoài hang vọng vào.
Và tiếng anh Hai Thép kêu lớn:
- Anh em ơi, lại nghe Bác nói chuyện, lại nghe Hồ Chủ tích nói chuyện đây nè!
Trong hang mọi người reo ầm lên. Rồi tiếng chân chạy nghe thình thịch, Quyên luýnh quýnh lay Ngạn:
- Dởy, dậy anh Ngạn!
- Cái gì? Cái gì?
Ngạn giật mình ngơ ngác hỏi:
- Dởy Bác nói chuyện kìa, trời ơi, mau mau đi!
Ngạn ngồi bật ngay dậy, với tay xách súng. Con Thúy đeo vào cổ anh. Quyên nhảy từ phiến đá xuống, chạy nhào về phía có tiếng radio đang phát văng vẳng, Ngạn cõng con Thúy tất bật chạy theo.
Anh Hai Thép hai tay nâng chiếc "trăn-xi-to" đi về góc hang chỗ anh em bị thương. Mọi người ở trong hang vây quanh theo. Anh đi lại gần chỗ Thẩm và thằng Bé thì ngồi thụp xuống, mở máy to hơn. Trong máy, Hồ Chủ Tịch đang nói. Cả hang đang nhốn nháo bỗng im phắc. Chỉ còn giọng Người cất lên, ấm áp, sang sảng:
- Bước sang năm mới dương ịch một chín sáu mốt, miền Bắc đã tròn bảy năm ra sức khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam đã trải qua bảy năm đấu tranh cực kỳ gay go và anh dũng. Đế quốc Mỹ đang ra sức biến miền Nam nước ta thành một thuộc địa kiểu mới của chúng, nhưng đồng bào miền Nam nhất quyết không chịu làm nô lệ. Đế quốc Mỹ và bọn tay sai Ngô Đình Diệm đã gây ra không biết bao nhiêu cảnh chết chóc đau thương...
Người vừa nói đến đây thì trong hang đang im phăng phắc bỗng có tiếng khóc òa lên. Đó là tiếng khóc của chị Sứ. Tự nãy giờ, Quyên hết sức cố nén, nay nghe chị mình khóc, cô liền òa khóc theo. Và rồi sau Quyên, cả hang đều nức nở, giữa lúc tiếng nói của Hồ Chủ Tịch vẫn tiếp tục sang sảng cất lên trên tiếng sụt sùi của mọi người. Tiếng nói của người cha lớn và vị lãnh tụ yêy kính đời đời đó lan qua các phiến đá, dội lên vòm hang, thấm sâu từng chữ từng lời vào lòng mỗi người. Anh cũng cố nén bớt cái tiếng khóc của mình để nghe cho hết lời Người nói, nhưng vừa mới nén được thì lời nói của Người lại làm họ khóc lớn hơn...
Mà họ không khóc sao được! Chỉ riêng tiếng nói của Người cũng đã làm cho họ khóc rồi. Huống hồ Người đang nói về họ, nói đúng vào giữa lúc cái hang Hòn xa xôi bé nhỏ này đang diễn ra một trận đấu cực kỳ ác liệt.
họ khóc là phải lắm.
Nhưng đây không phải là những giọt lệ thường. Đây là những giọt lệ lạ lùng nhất đã trào ra khi tiếng nói của người cha Việt Nam cất lên, khi hang động ngập tràn cái không khí thiêng liêng kỳ diệu, khi nước uống đã cạn, và trong hang hãy còn nồng nặc mùi khói súng. Đây là nỗi xúc động thần thánh chỉ có được trên mảnh đất miền Nam rướm máu, nỗi xúc động về lòng tự hào, lòng yêu kính, và về sự sung sướng trong đó hình như có pha chút gì xót tủi.
Tiếng nói của Hồ Chủ tịch vẫn đang nói:
- Mười bốn triệu đồng bào ta ở miền Nam đang vùng lên oanh liệt chống lại đế quốc Mỹ và tay sai. Cuộc đấu tranh ấy có được miền Bắc là chỗ dựa vững chức và được nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới đồng tình, hiện đang ngày càng giành nhiều thắng lợi. Đồng bào ta ở miền Bắc luôn hướng về miền Nam anh hùng, luôn hướng về miền Nam thành đồng Tổ quốc!
Ngạn đang cõng con Thúy đứng sững. Nghe tới đấy, anh rùng mình, cổ họng nghẹn lại. Quyên nép sát vào vai anh, nhưng tất cả mọi người đang đứng sát lại bên nhau. Bàn tay Quyên cứ mỗi lúc một nắm chặt tay Ngạn hơn. Trong kia, anh Thẩm gượng một chân, đứng lên, lưng anh Thẩm tựa vào vách hang, hai bàn tay anh bám vịn vách đá, rờ bấu, run run...
Còn thằng Bé, nó cũng đã chống cánh tay còn lại, nhổm dậy từ lúc nào. Đằng sau, chị Sứ đỡ nhẹ lấy vai nó. Trên mặt của hai chị em nước mắt đều đang rơi lã chã.
3.
Chiều hôm ấy, nước cũng không còn để nấu cháo cho anh em bị thương nữa. Anh Hai Thép đưa cả bi-đông nước của mình cho Sứ. Nước trong bi-đông là phần chia cho anh ban sáng, Anh chỉ mới uống vài hớp.
Tất cả những anh em khác ai cũng mau mắn cầm bi-đông đổ trút những giọt nước cuối cùng vào trong xoong chỉ được lưng một nửa. Nhìn nước trong xoong, Sứ biết trước là nồi cháo này sẽ đặt lắm. Bưng xoong nước đi gần tới bếp, chị dừng lại, nhớ sực tới nửa ca nước để dành cho con Thúy. Chị nghĩ: "Thêm nửa ca đó thì chú Thẩm và Bé mới có chút nước húp". Nghĩ vậy, chị liền bưng cái xoong đi vào chỗ phiến đá.
Con Thúy không có ở đấy, Sứ đặt xoong xuống phiến đá, mò tay vào hốc tìm ca nước. Cầm cái ca trong đó chỉ sóng sánh có một nửa nước, chị Sứ nhìn mãi, chưa đổ vào xoong. Chị nghĩ: "Nếu mình đổ hết chỗ này thì con Thúy khát, lấy đâu cho nó uống?". Cầm cái ca, chị Sứ cứ phân vân, do dự. nghĩ đến anh em bị thương, tay chị muốn nghiên đổ ca nước, nhưng nghĩ đến con, tình mẫu tử như níu bàn tay chị lại. Cuối cùng, chị tử tử đổ ca nước vào xoong, bưng xuống, lặng lẽ đi về phía bếp. Sứ vốc gạo bỏ vào xoong, bắc lên. Không có nước để vo, Sứ thấy bứt rứt trong lòng. Và từ đấy, ngồi coi nòi cháo, chị cứ nghĩ đốn nước. Thực ra thiếu nước thì cả hang đều lo, nhưng phần chị, sao chị vẫn cảm thấy như mình chịu trách nhiệm nặng hơn. Chị không phải là người trông coi căn cứ, nhưng khi chị lâm vào hoàn cảnh thiếu miếng ăn miếng uống, chị cắt rức nhiều hơn ai cả. ở chị, cái thiên chức phụ nữ bẩm sinh vốn đã thế. Trong gia đình cũng như trong anh em đồng chí, chị luôn nhường phần mình. Mà chị lấy thế làm sung sướng. ở đời, nếu có người đàn bà nào chỉ biết lấy sự thỏa mãn riêng mình làm sung sướng thì Sứ không phải là loại người đàn bà kiểu đó. Chị là người chỉ sung sướng bằng sự sung sướng của mẹ, anh, em, đồng chí, và khi có con, chị dành cho con tất cả những gì mình có. Từ lúc vào hang đến giờ, chị là người uống nước ít nhất. Chị uống có một ngụm từ trưa hôm qua tới nay. Việc này cũng chỉ riêng có chị biết mà thôi.
Nào là chị không khát! Chị khát lắm. Ngay bây giờ, sau khi nhai mấy vốc gạo rang, chị càng thấy thèm miếng nước. Chị mường tượng tới làn nước trong vắt và sưới Lươn, và thoáng có ý nghĩ nhân lúc ban đêm, biết đâu chừng có thể len lỏi bò ra đó múc nước được. Có thể lắm chứ! Đâu phải khúc suối nào cũng đều có giặc gác!
Sau kho xoong cháu đả sôi, Sứ rút bớt lửa. Đợi cháo nhừ, chị nhấc nồi cháo xuống.
Chị múa một ca cháo đem lại đưa cho Thẩm. Còn thằng Bé thì chị đút cho nó. Bữa nay, thằng Bé đã khá. Nó ăn hết ca cháo đầy. Đút nó ăn xong, Sứ lấy khăn chùi miệng cho nó. Chợt thằng Bé nói:
- Chịba, cho em miếng nước
Sứ đành phải nói thiệt cho nó biết là không còn nước nữa, thì nó im lặng, hấp háy mắt. Hình như nó ngỡ còn nước, mà tại nó không được uống.
Chị Sứ hiểu ý, liền dịu dàng vuốt tóc nó, nói:
- Hết nước thiệt rồi, em à, chị Ba không dối em đâu... Để tối, tối chị đi múc nước về nấu cho em uống...
Thằng Bé nói:
- Vậy chừng nào có nước chị đem liền cho em uống nghe!
- ừ, chừng nào có, chị sẽ cho em uống!
Thấy Sứ sắp đi, thằng Bé nắm tay Sứ, khẩn khoản:
- Chị Ba đừng đi, ngồi đây chơi với m. Em nằm một mình buồn quá hà!
Nghe thằng Bé nói thế, Sứ ngồi lại. Thằng Bé đưa mắt ngó lên vòm hang:
- Hồi trưa, nghe Bác Hồ nói chuyện, em tưởng như Bác biết mình hiện đương ở trong hang... Mà em lại cứ tưởng Bác biết em mới chặt tay vậy. Thiệt, nghe Bác nói. sao em ngờ ngợ Bác biết hết, biết mình quyết tử với tụi nó, biết mình khát nước...
Sứ nghe thằng Bé nói sao giống như mình nghĩ quá, chị cầm tay nó, bảo:
- Phải, bác Hồ biết hết, em à!... ở miền Nam mình cực khổ, đau đớn hay gan góc, bác đều rõ, nên Bác mới nói: "Miền Nam phải trải qua bảy năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng". Đó, em nhớ không, bác nói vậy là Bác biết rõ lắm nghe!
- Chị Ba có thấy tiếng Bác lúc đó hơi run run không? Chị Ba ơi, nghe Bác nói rồi, em thấy tay em bị cụt như vậy đâu có nhằm nhè gì. Em chỉ tức là mới xáp chiến một trận mà bị thương sớm quá, phải chi...
Sứ an ủi thằng Bé:
- Đừng lo, em cụt một tay là thường. Thiếu gì người cụt một tay mà vẫn chiến đấu.
- Tay em lành rồi em cũng xin ở du kích. Rủi có chết thì thôi, nếu tới ngày thống nhất, may phước em còn sống, em sẽ kiếm cách gửi thơ thưa với Bác rằng trong ngày đó, tháng đó, năm đó, em còn có một tay và em nằm trong hang Hòn này, em đã nghe Bác nói... chị nhắm được không?
Sứ nghe thằng Bé nói thì giật mình, không ngờ nó nghĩ ra đến như vậy. Chị ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Được chớ... Đâu cần gì tới thống nhất. Chừng nào mạnh rồi, em viết thơ cho Bác cũng được mà!
Thằng Bé nghe nói, vẻ mặt vừa rạng rỡ vừa lo lắng:
- Nói vậy chớ đâu được... Em nói chơi chớ em không dám viết đâu.
- Sao lại không... em viết được, em xứng đáng được viêt thơ cho Bác lắm.
- Không, không được đâu!
Thằng Bé vội nói rồi nó lại đưa mắt ngó lên vòm hang cao. Chẳng biết nó suy nghĩ những gì, chẳng biết nó có tính viết thư hay không viết thư, nhưng rõ ràng là nó đang sung sướng về điều nó nghĩ, cùng những lời chị Sứ, đã đem đến cho nó niềm vui ngay tự bây giờ.
ánh sáng từ trên vòm hang đã mờ đi. Có lẽ bên ngoài chiều hôm buông xuống rồi. Dần dần, Sứ không nhìn thấy rõ mặt thằng Bé nữa. Chị chỉ nghe hơi thở nhè nhẹ và bàn tay của nó ấm lôn trong tay chị. Sứ mò mẫm định tìm đến đốt. Nhưng thằng Bé ngăn lại:
- Thôi, đừng đốt chị, hao lắm!
Sứ nghe thằng Bé, không đốt nến nữa!
Trong bóng tối tràn ngập, chị ngồi dụm ha gối chân lại, đưa tay xổ đầu tóc. Tóc chị xõa tràn bờ vai, rũ xuống mặt đá. Chị kéo tóc ra trước ngực, lần các ngón tay vuốt gỡ mớ tóc rối. Tóc chị Sứ dày và mượt lắm. Mỗi lúc xổ tóc ra để bới lại lần nào chị cũng nâng tóc mình vuốt ve, âu yếm. Không nói được thành lời làm sao suối tóc mát rượi của chị như có sự sống riêng, linh hồn riêng. Đối với chị, hình như là nó có tiếng nói, và mỗi lần nâng nó trên tay, chị liền có cảm tưởng trò chuyện rất đỗi yêu thương. Làn tóc gợi chị nhớ tới bàn tay anh San, bàn tay mẹ. Anh San ngày trước vẫn thường lùa tay vào mái tóc này. Còn mẹ chị thì vẫn hay ngồi bới lại đầu cho chị. Mẹ chị còn thường múc nước giội cho chị gội đầu nữa. Hình như mẹ chị sung sướng lắm khi được chính tay làm những việc đó, mặc dù có lúc bà cứ la lên: "Phật ơi, một chục bữa rồi tao chớ thấy mày gội đầu nghe Sứ!" hay là khi xối nước cho chị, mẹ cứ giục: "Quào mạnh tay một chút giùm cho tao nhờ coi!" Sứ mỉm cười nhớ lại những câu nói ấy của mẹ, lòng càng thêm lo lắng và tội nghiệp cho mẹ mấy hôm nay vò võ một mình.
Vừa bới lại đầu tóc xong, chị chợt nghe tiếng Quyên gọi. Chị đặt cây nến và cái bật lửa vào tay thằng Bé, dặn:
- Đây, chừng nào muốn sáng thì em thắp lên!
Sứ đứng dậy, đi ra. Gặp chị, Quyên ôm cổ chị, thì thào.
- Anh Trọng với anh Ba Rèn đã bò ra ngoài hang rồi! Mấy ảnh ra dọ thử tình hình ở ngoài...
- Vậy hả? Đi lâu chưa?
- Mới vừa đi!
- Con Thúy đâu rồi?
- Nó đang ngồi chơi với anh Hai ngoài kia!
Quyên và Sứ cùng đi ra ngoài. Hai chị em đến bên chỗ anh Hai Thép:
- Sứ hả? - Anh Hai hỏi.
- Dạ
Con Thúy nghe tiếng Sứ liền kêu "má". Chị bảo con:
- Ngồi đó chơi với bác Hai đi con! Má cũng ở đây chớ không có đi đâu đâu.
Rồi sứ nói:
- Anh Hai à, theo anh, liệu tụi nó vây mình lâu không?
- Vẫn chưa thấy triệu chứng gì tỏ ra là tụi nó rút. Hồi chiều, anh cho chú Đạt leo lên hang coi, thấy tụi nó đi vác rơm của đồng bào về chất có đống. Không biết nó tính làm gì.
- Hay là nó muốn đốt hang? Quyên nói.
- Cũng có thể. Căn cứ vào lối đánh của tụi nó từ hai hôm nay, anh thấy tụi nó lần này quyết tâm tiêu diệt mình lắm. Thiệt ra tiêu diệt trên dưới hai mươi người mình đây thì cũng không ăn nhằm gì, nhưng ý đồ thằng địch coi bộ muốn tiêu diệt ta ở đây để làm núng ta ở chỗ khác. Cho nên về phía ta cũng phải thấy rõ là nếu ta giải quyết được vấn đề nước uống trong hang và ở ngoài xóm tiến hành đấu tranh mạnh mẽ. Nhược điểm của thằng địch là không thể giam quân ở đây lâu đâu. Còn mình thì rất tiếc không nắm được tình hình ngoài xóm mấy hôm nay ra sao.
Sứ nói:
- Em tin bà con không để chúng yên đâu. ở ngoài đó chị Hai với mấy chị, lại được anh Tám Chấm giúp đỡ, thế nào cũng đấu tranh kết hợp chặt. Về vấn đề nước uống của mình thì đợi mấy ãnh đi bám về voi. Nếu có thể mò ra khúc suối nào đó múc được, tụi em sẽ đi. Tụi em đội cà om quen hơn...
Anh Hei Thép bảo:
- ờ, để đợi anh em bám về coi sao đã.
Anh Hai nói thế rồi ở radio rà đài Hà Nội. Từ trong máy vẳng ra tiếng đàn bầu đang dạo bản Câu hò trên bến Hiền Lương. Nghệ sĩ chơi đời có lẽ đang chơi với những ngón tay xúc động run rẩy. Hình như có lúc anh ta nén thở hay sao mà tiềng đờn cứ oằn oại, lắm lúc nghe như chới với rồi lại lắng đọng mãi một chỗ, tưởng như sợi tơ đời bị đứt ngang để rồi sau đó trở nên réo rắt, thiết tha hơn. Và tiếng đời cứ tâm sự mãi. Cho đến khi giọng người con gái trong máy cất lên điệp khúc thứ hai của bài hát thì tiếng đời cũng cứ còn vương vít quyền quyện không thôi...
Quyên bỗng thấy chị Sứ nhè nhẹ đưa tay ôm ngang thắt lưng mình, rồi cằm chị đặt lên vai mình.
Quyên biết chị Sứ cảm động, vì lời hát ấy đang nói về lòng thủy chung, đang nói về cảnh ngộ chị. Bài hát ấy chính Quyên đã có lần chép và rủ chị cùng học với mình, nhưng chị Sứ chỉ học để biết hát, chớ về sau Quyên không thấy chị mình hát bài hát đó bao giờ.
Khi tiếng hát trong đà đã dứt rồi, chị Sứ vẫn đặt cằm nơi vai em, lặng lẽ. Lâu sau, chị mới nhấc cằm ra, bước tới bảo con Thúy:
- Thôi đi ngủ, con!
Con Thúy ngoan ngoãn với tay choàng lên vai mẹ. Trước khi cõng con vào trong, Sứ khẽ dặn Quyên:
- Chừng nào mấy ảnh về thì kêu chị, nghe Quyên! Chị đem con Thúy vô cho nó ngủ cái đã...
Sứ cõng con đi mò vào ngõ hang. Dọc đường, con Thủy ngoẻo đầu xuống vai chị. Chị hỏi:
- Ngủ rồi hả Thúy?
Con bé không đáp. Hơi thở của nó phả nhè nhẹ vào mang tai chị, âm ấm, nhồn nhột. Chị dò dẫm, rén bước bi thật kỹ, cố sao cho con khỏi bị thức giấc. Về tới sát ohiến đá chị miết chặt mười ngón chân đặt trên tảng đá, bước lên. Rồi khi đã lên tới phiến đá, chị day lưng lại, rùn hai gối chân ngồi bệt xuống. Chị ngả người đặt con nằm xuống phiến đá khéo léo đến nỗi nó không hay biết gì cả. Tuy nhiên, với bản năng đặc biệt, đôi bàn tay bé bỏng của nó cứ bám riết lấy vai chị một lúc rồi mới chịu buông ra.
Sứ lấy cá khăn trên cổ mình xuống, đắp lên người con. Nghe chừng tiết trời đã bắt đẩu se se lạnh, chị sợ con không đủ ấm, liền cởi cả chiếc áo bà đa đen đang mặc đắp thêm cho con. Bây giờ chị chỉ còn mặc một chiếc áo túi ngắn tay bằng lụa đen. Chị nghĩ bụng: "bận cái áo này nếu có đi lấy nước cũng gọn!". Một lần nữa, chị sờ soạng từ đầu chí chân con Thúy, đắp vén kỹ cho nó, rồi mới cầm chiếc đèn pin quay lưng bỏ đi. Nhưng lạ thay, lần này con Thúy không giật mình gọi chị gì cả mà sao chị cứ nhấp nhứ bàn chân chưa muốn đặt xuống phiến đá bên dưới. Có cái mãnh lực gì ờ sau lông cứ níu kéo chị lại, không để chị bước hẳn. Cuối cùng, chị đã quay mình lại, lắng nghe hơi thở của con. Và cũng chỉ thế thôi, chị lại từ từ bỏ đi.
Nhưng có quay lại một chút như thế, bây giờ chị mới thấy yên tâm
Sứ ra tới hang bùng binh, anh em vẫn chưa về.
Anh Hai Thiệp hỏi sứ:
- Con Thúy ngủ rồi hả?
- Ngủ rồi!
- Con nít thiệt khỏe quá! Giặc giả gì nó cũng khỏi cần lo, cứ việc ngủ yên.
Quyên nãy giờ cứ đi ra cửa hang rồi lại đi vào. Cô thấp thỏm nói:
- Sao lâu quá mà mấy ảnh chưa về! Không biết có chuyện gì không?
Nói cong, cô ngồi ghé lên tảng đá. Thì ngay lúc ấy ngoài ngõ hang, có tiếng Trọng kêu:
- Anh Hai, anh Hai đâu?
- Đây, tôi đây!
Anh Hai Thép đứng ngay dậy. Trọng và anh Ba Rèn ùa vào hang. Anh Hai hỏi:
- Sao?
Ba Rèn nói:
- Chuẩn bị đi lấy nước đi. Tụi tôi bám rồi. Tụi nó chỉ đóng quân ở bên kia suối, còn trong mé vườn bên này thì êm ro không có gì
- Chắc ăn không?
- Chắc, nhưng phải ra liền,e tình hình thay đổi.
- Vậy thì đi... Quyên ơi, cà om có ở đây chưa?
Quyên mau mắn đáp:
- Có em đem ra rồi.
Anh Hai Thép nói:
- út Quyên còn yếu không đi được đâu.
- Em mạnh rồi, để em đi mà!
- Thôi con Quyên bây ở lại! - Anh Ba Rèn nói cương quyết.
Sứ cũng bảo:
- Thôi út Quyên đừng đi em. Em chạy vô lêu Năm Nhớ đi với chị!
Quyên miễn cưỡng chạy vào hang trong. Lát sau, cô cùng Năm Nhớ trở ra.
Ba rèn dặn Sứ và Năm Nhớ:
- Tuyệt đối không được nói chuyện nghe! Tụi tao đi trước mấy đức tụi bây đi sau, mà phải đi cho êm...
Trọng xốc khẩu tôm-xông lên:
- Đi đi!
Sứ và Năm Nhớ xắn ống quần lên quá gối. Hai người đội cà om theo Trọng và anh Ba Rèn luồn ra miệng hang. Ra tới miệng hang, Ngạn và anh em gác ở đó đều dặn họ phải cẩn thận.
Sứ bước ra tới gần cửa hang thì nghe mùi khói thuốc lựu đạn xông vào mũi nồng nồng. Và khi đã lọt ra tới bên ngoài, chị cảm thấy khỏe khoắn hơn lúc ở trong hang gấp bội. Chị thở hít luôn mấy hơi.
Bốn người cúi mình lom khom chạy qua bãi cỏ trống. Chị Sứ chạy sau, hai tay vịn cái cà om trên đầu. Vào tới vườn dừa, mọi người chậm lại, mò mẫm. Đimột đỗi, bỗng thấy phía trước có đèn pin xẹt ngang. Mọi người ngồi thụp xuống, im thin thít. Một tốp lính kéo qua trước mặt họ, cách chừng mười thước. ánh đèn pin vụt tắt ngắm. Có tiếng chân giầy giẫm sạt sạt trên các tàu lá dừa khô. Đợi chúng đi khỏi, bốn người lại đứng dậy, đi tới. Họ đã đến sát bên bờ con suối Lươn. Chỗ dẫn ra suối là một bải sỏi trống. Trọng với Ba Rèn ghìm súng, khoát mạ và Năm nhớ vội nhắc cà om trên đầu chạy xuống bờ suối. Năm Nhớ tới suối trước, vục ngay cái cà om xuống nước. Sứ cũng chạy nhanh xuống. Chị nghe tiếng bọn giặc nói chuyện lao xao ở bờ xuối bên kia. Trong các lều vải sáng ánh đèn khí đá, bọn giặc đang đánh bài "dì dách". Có tiếng thằng cầm cái hỏi: "Kéo nữa thôi?" và thằng tay con đáp - "Kéo chớ!". Sứ bình tĩng nghiên miệng cà om, múc đầy một cà om nước. Bên cạnh chị, Năm Nhớ đang vốc nước suối uống. Uống mấy vốc rồi cư ta mới đội cà om chạy lên. Sứ cũng định vốc nước uống nhưng thấy Năm Nhớ đã chạy lên, chị vội bợ cà om chạy theo Năm Nhớ.
Khi đã lẫn vào vườn dừa tối om om, Sứ nghĩ bụng: "Vậy là ổn, chỉ còn từ đây về hang nữa thôi!"
Trọng và anh Ba Rèn vượt lên trước, kế đó là Năm Nhớ rồi tới chị Sứ. Đi trong cườn tối, Sứ ngờ quạng đưa tay ra phía trước. Vậy mà mấy lần chị vấp phải rễ dừa, nước trong cà om cứ sóng sánh muốn đổ. Lát sau, giẫm phải một tàu lá rụng, chị liền dừng lại, đặt cà om xuống đất. Chị lè lẹ mò mẫm tước mấy cái lá dừa, vo khoanh lại bỏ vào miệng cà om. Khi chị sắp nhấc cà om đội lên đầu, thình lình có tiếng chân chạy tới, giẫm lạo xạo trên lá dừa, chị vội đứng nép vào một thân dừa. Nhưng muộn rồi, mấy ánh đèn pin cùng một lúc đã chiếu thẳng vào mặt chị. Một tên biệt kích đi đầu đã nhác thẳng vào mặt chị. Chị liệng mạnh cái cà om vào mặt nó, rồi vút chạy. Bọn chúng xổ theo. Một thằng túm được đầu tóc chị giật mạnh, khiến chị ngã ra phía sau. Rồi ba bốn thằng xúm lại đè chặt lấy chị. Tên thiếu úy Ba, chỉ huy phó đại đội biệt kích cầm lăm lăm khẩu súng cạc bin bước tới nhìn người phụ nữ lạ mặt đang bị lính của hắn trói. Hắn quay ra sau, gọi:
- Tụi bây thằng nào có ở Hòn Đất lại đây nhìn mặt con này coi!
Một tên lính từ sau len tới. Nó ngó qua mặt chị Sứ, thằng lính đó liền la lên:
- A, con Sứ!
- Mày biết nó à?
- Biết, con này là Việt cộng chánh hẩu!
Tên thiếu uý lừ lừ nhìn Sứ, nắm ngực áo Sứ, hất hàm hỏi:
- Phải mày tên là Sứ không?
Chị Sứ gật đầu:
- Phải.
- Mày đi với ai?
- Đi với nhiềungười. Giờ thì họ vô tới hang hết rồi.
- Có múc nước không?
- Sao lại không!
Thằng thiếu úy Ba nghe nói thế liền bậc cười ha hả:
- Tốt lắm! Nếu có múc nước thì tốt lắm!
Chị Sứ trố mắt nhìn hắn, không hiểu tại sao hắn lại bảo thế.
Tên thiếu úy thọc hai tay vào túi quần, đắc chí nói từng tiếng một:
- Tụi - ta - đã - bỏ - thuốc - độc - xuống - khúc - suối - này - rồi.
Sứ mở mắt to kêu "á" một tiếng đầy sợ hãi. Đột nhiên chị nhào tới, định chạy về hướng hang Hòn. Nhưng chị không chạy được. Một tên biệt kích đã giữ chặt tóc chị bấy giờ xổ tung cả ra.
Tên thiếu úy cười gằn:
- Chạy đi đâu? ... Tụi đồng chí của mày rồi sẽ chết nhăn răng hết ráo, hiểu chưa?
Hắn thét bọn lính:
- Dắt nó về!
Sứ bị bọn lính lôi đi xềnh xệch. Tóc chị rủ xuống gần chấm gót. Sứ mấy lượt vùng vằng cưỡng lại, không chịu đi. Mỗi bước chân rời xa hang Hòn lúc này của chị sao cứ nặng trịch như chì. Chị muốn thét lên thấu tới trong hang, bảo anh em đừng có uống nước trong cà om Năm Nhớ đội về đó. Chị lo sợ nghĩ tới con, tới em cùng những đồng chí thân yêu của mình. Đang đi chị quay lại, phẫn uất nghiến răng thét:
- Đồ độc ác, đồ hèn mạt!
Tên thiếu úy bị mắng, tức giận trở báng súng đánh quật ngang lưng chị, khiến chị té khuỵu xuống. Trong ánh đèn pin lia ngang, tên thiếu uý nhìn thấy nước mắt chị trào ra. Hắn chế giễu.
- Vậy mà cũng đi làm Việt cộng! Mới ăn một báng súng đã khóc rồi kìa!
Sứ thấy nó hiểu lầm về giọt nước mắt của mình quá, nên bĩu môi.
- Nè, bộ mày tưởng vì mày đánh mà tao khóc hả? Nói cho mày biết, vì anh em tao, tao mới khóc chứ không phải vì mày đánh tao đâu, nghe chưa?
Anh Đức
Hòn đất
Chương 4
4.
Thằng Xăm mừng rơn lên khi hay tin tên thiếu úy bắt được Sứ. Đang nằm trong lều, hắn nhổm dậy, co ro cánh tay bị thương, đi lộc xộc qua lại rồi khom lưng chui ra khỏi lều.
Bọn lính biệt kích đã về tới bờ suối bên kia. Chúng lôi Sứ xuống suối. Chị té nhào, ướt cả mình mẩy. Nước ở quãng suối này chỉ lên đến đầu gối. Sứ dầm chân xuống dòng suối buốt lạnh, đi qua. Dòng suối cuốn áng tóc dày mượt của chị, trôi loang loáng. Đặt chân lên tới bờ sỏi bên, chị ngước nhìn thấy hai ba thằng lính đang đứng xách đèn khí sáng rỡ. Chúng giơ cao đèn lên. Liền lúc đó, Sứ nhác trông thấy thằng Xăm, hắn đang đứng im, tay trái vịn cằm, tay phải bị thương treo băng co lên. Sứ cất bước, giả như không trông thấy, đi ngang qua hắn. Thằng Xăm vẫn đứng im, không nhúc nhích, vẻ mặt hắn lạnh lùng như tạc bằng đá. Đợi Sứ vừa đi khỏi hai bước, hắn gọi giật:
- Đứng lại, con kia!
Chị Sứ dừng chân, nhưng không ngoảnh lại. Thằng Xăm bước sải tới sát bên Sứ, nhát mắt.
- Nè, quên tao rồi sao?
Sứ liếc hắn, rồi lại nhìn thẳng tới trước, không đáp. Thằng Xăm ngó chị một lúc rồi nói:
- Đ.mẹ, tao cứ tưởng tụi bay ở lì trong hang chớ!... Té ra tụi bay cũng biết khát nước. Mà tao ngỡ là bắt được ai kia chớ đâu dè là mày. Thiệt tao không dè năm kia thả mày về để mày theo Việt cộng!
Sứ nhếch miệng nói nho nhỏ:
- Mày nói không dè tao theo Việt cộng, còn tao thì tao không dè lâu ngày gặp mày, thấy mày vẫn y như trước.
- Y như trước là sao?
- Là ăn nói thô lỗ. Đến như mày là trung úy mà cũng ăn nói như vậy, hèn chi người ta chê "quân đội cộng hòa" tụi mày lưu manh là phải lắm...
Bị Sứ nói như tát nước sôi vào mặt, tên Xăm giận điếng người. Hắn nắm chuôi dap "cúp cúp" ở thắt lưng, rút soạt dao ra. Hắn đưa lưỡi dao dài và sáng đó ngang tầm mắt, ngắm nghía. Mấy giây sau, bỗng hắn cau mày, từ từ hạ lưỡi dao xuống, đút trả vào vỏ.
- Đóng cọc trói nó lại đây cho tao! - hắn thét lớn.
Bọn biệt kích chạy đi lấy cây, đẽo sàn sạt. Lát sau chúng xốc một cây cọc tràm trên bờ suối, rồi dắt Sứ lại trói ghịt vô. Thằng Xăm bước tới mặt Sứ, nghiến răng:
- Đáng lẽ tao mổ bụng mày liền bây giờ để coi lá gan của mày lớn tới bực nào. Ngặt làm như vậy mày chết mau quá. Tao cho mày sống đôi ngày nữa để chôn chung một lỗ với anh em đồng chí của mày!
Nói xong, thằng Xăm quay lưng đi vào lều. Bọn lính giơ những cây đèn khí ra sau lưng Sứ, rọi coi trói Sứ như vậy đã thật chắc chưa. Rồi chúng cũng xách đèn bỏ đi. Chỉ còn lại một mình tên lính cầm súng đứng gác trước cửa lều thằng Xăm.
Sợi dây dù thít chặt hai bắp tay trần của chị Sứ vào cây cọc. Cứ mỗi lúc, Sứ có cảm giác sợi dây ấy càng thít chặt bắp tay mình hơn. Chị Quỳ trên đất sỏi, mái tóc ướt đẫm sau lưng chị rũ đầy, xõa che kín phủ cả hai gót chân. Đêm bỗng nhợt dần, vì trăng sắp lên. Từ chỗ bị trói, Sứ có thể nhìn ra biển cả. Trước đó một chút thì chị chẳng thấy gì đâu nhưng bây giờ chị đã nhìn thấy biển trước mặt mình. Chị tự nhủ: "Trăng lên rồi!" và mở to đôi mắt, chị nhìn sóng biển chợt hiện ra, lao xao. Bây giờ hầu như chị đã quên phắt ngay lưỡi dao của thằng Xăm, quân mình đang bị trói, quân cả tên lính gác đang đi đi lại lại kia. Giờ chị chỉ trông thấy có mỗi mặt biển đang nhấp nhô sáng rộng ra đó, chị chỉ trông thấy cái ánh biếc ngời như tự lòng biển thẳm đang xô dậy trên đầu các ngọn sóng đó.
Vầng trăng mười tám ngoi lên, vàng rực. Rồi trăng treo cao lên mải. Đến lúc màu trăng đọng lại vàng ối, Sứ liền thấy mặt trăng giống hệt trái xoài Hòn chín, không có cuống, treo lư lửng giữa không trung xanh nhạt.
Đêm nay trời lặng. Sóng biển rì rầm như kể những chuyện không bao giờ hết. Thỉnh thoảng, gió biển từ ngoài khơi lùa qua bờ bãi, thổi vào hơi thở ấm ấm mang vị muối. Tấm áo lụa mỏng ngắn tay của Sứ se se khô lại. Tóc chị rồi cũng dần dần được gió biển vuốt cho ráo đi. ánh Trăng đổ tràn trên bờ suối, làm nối rõ bóng Sứ đang quỳ, nổi rõ cây cọc nhú lên quá đầu chị độ trong gang tay. lát sau, tóc Sứ chợt vờn nhẹ. Thế rồi mái tóc ấy bồng lên, bay xõa theo chiều gió. Chẳng còn thấy đầu cây cọc kia đâu nữa. Chỉ có áng tóc tắm ánh trăng của Sứ đang bay lượn. Đêm càng khuya, gió thổi càng nhiều. Sứ không nhìn vầng trăng nữa. Chị ngoảnh về Hòn Đất đen sẫm một vòm, ở sát kề bên chị. Lòng chị rối bời lên vì không biết sự thể trong đó bây giờ ra sao. Có lẽ anh em đồng chí đều bị trúng độc cả rồi cũng nên. Đang khát mà gặp cà om nước của Năm Nhớ đem về ai lại không uống! Trời ơi, anh em có biết đâu nước trong cà om có thuốc độc. "Năm Nhớ ơi, chúng nó giết em rồi!" Sứ kêu lên trong lòng, và rùng mình nhớ lại ban nãy chính chị cũng đã định vốc nước đó lên uống. Nhìn xuống dòng sông đang loang loáng chảy xiết, Sứ giật mình sực nhớ lại quãng suối nước ban nãy hình như không chảy. Phải rồi, nước ở đó không chảy như ở đây. Chúng nó ngăn lại đổ bỏ thuốc độc mà! "Anh San ơi, anh ở ngoài đó có thấu không, tụi Mỹ - Diệm nó ác độc thế đó, anh có biết không?"
Trong đêm thâu bàng bạc ánh trăng, chị Sứ gọi chồng mà nói. Chị nói với chồng từ xa, lòng đau đớn không ngờ mình lại nói ra những lời ấy tại lòng suối mà tám năm về trước đã có lần chồng chị đứng dưới khoát nước lên cho chị gội đầu. Rồi chính tay anh ấy cầm lược chải gỡ từng mớ tóc rối cho chị. Tại bên bờ suối này đây, chị đã từng có những phút giây sung sướng. Bây giờ thì trái ngược hẳn. Bây giờ, sợi dây dù buộc chặt đến nỗi từ bắp tay chị trở xuống đã tê đi không còn có cảm giác gì nữa. lưng chị loi lói thốn đau vì cái báng súng thằng thiếu úy đánh chị ban nãy. Nhưng bây giờ cái làm chị khổ sở nhất vẫn là nỗi lo đang vò xé lòng chị. Chị lo cho mình thì ít mà lo cho anh em đồng chí trong hang, lo cho em gái và nhất là đứa con bé bỏng thương yêu của chị.
Suốt đêm, Sứ mở mắt trao tráo. Vầng trăng lên cao đến đỉnh đầu, rồi khuất ra sau lưng chị, mà nỗi lo của chị vẫn không vơi.
Gần sáng, mệt mỏi, Sứ ngoẻo đầu ngủ thiếp đi, trong lúc dòng suối bên dưới vẫn chày, reo theo khe khẽ. Và gió biển khưi vẫn ùa vào, thổi thay tóc chị ra phía sau như những làn sóng.
... Sứ thiếp đi được một giấc dài. Lúc chị tỉnh dậy, trời đã rạng sáng. Bọn lính từ trong các lều vải kéo ra đứng đầy bên bờ suối. Thằng Xăm dẫn hai thằng Mỹ đi xồng xộc đến bên Sứ. Hắn đưa mũi giày nhấc cằm chị lên. Hai thằng Mỹ nhìn mặt Sứ chăm chăm rồi xì xồ nói với nhau thứ tiếng của nó.
- Con Việt cộng này có đôi mắt ương ngạnh nhưng rất đẹp!
- Nói chung là nó đẹp!
Bọn lính tập hợp trên bờ đã bắt đầu lũ lượt lội ngang suối, qua bên kia. Hai tên Mũ rời chỗ chị Sứ một cách tiếc rẽ, men xuống suối. Bọn lính biệt kích khom lưng cõng chúng lội qua. Thằng Xăm cũng quay đi, nhưng mới đi mấy bước, hắn quay lại nói với Sứ:
- Mày ráng quỳ đợi đó. Bữa nay, tụi tao vô hang xách cổ hết đồng bọn của mày về cho mà coi!
Hắn nói và co co cánh tay buộc băng, bước xuống vệ suối. Một thằng lính đứng lom khom đợi sẵn, cõng hắn lên, lội sồn sột. Hôm nay, thằng Xăm cũng đi. Chị Sứ ngoảnh nhìn bọn chúng kéo vào Hòn, lòng hồi hộp chờ đợi. Trên bờ suối bây giờ chỉ còn lại năm bảy tên lính vừa nấu cơm vừa coi chừng chị. Bọn chúng ngồi bên bếp lửa mới nhóm, ngó chị Sứ, kháo chuyện với nhau:
- Tụi mình không dễ dầu gì kiếm được một con vợ ngộ như con nhỏ này đâu!
- ờ, đàn bà có nhan sắc mà theo Việt cộng, thiệt uổng!
Sứ nghe chúng nó nói, lấy làm khó chịu mà hơi tức cười. Chị làm thinh, ngước mắt nhìn ra phía biển. Trời đã sáng rõ. Hồi đêm, Sứ nhìn thấy những lạng sóng vàng lấp lánh ánh trăng, bấy giờ trước mặt chị là những lạng sóng hồng, lao xao, rối rít. màu tím nhạt trên bầu trời biển đã ngả sang mày hồng sen, phơn phớt. Buổi sáng mát rợi mở ra cho Sứ nhìn thấy tất cả những gì đêm qua chị còn chưa thấy rõ. Ban mai như kế tục cái đêm trăng thanh, òa vào lòng chị, an ủi thêm chị bằng những sắc màu của nó. Và chính nó đã cho chị nhìn thấy toàn cảnh Hòn Đất.
Chị Sứ yêu biết bao nhiêu cái chốn này, nơi chị oa oa cất tiếng khóc đầu tiên, nơi quả ngọt trái sai đã thắm hồng da thịt chị. Chính tại dẻo đất này, mẹ chị đã hát ru chị ngủ, và đến lúc làm mẹ, chị lại hát ru cho con những câu hát ngày xưa. Chính tại đây chị đã giơ nắm tay nhỏ nhắn lên chào lá cờ Đảng, nên từ đó chị càng biết yêu thêm cha mẹ, chồng con, anh em, đồng chí. Chị Sứ đả yêu Hòn Đất bằng cái tình yêu hầu như là máu thịt. Chị thương ngôi nhà sàn lâu năm có cái bậc thang, nơi mà bất cứ lúc nào đứng đó chị cũng có thể nhìn thấy sóng biển, thấy xóm nhà xen lẫm trong vườn cây, thấy ruộng đồng, thấy núi Ba Thê vòi või xanh lam cứ mỗi buổi hoàng hôn lại hiện trắng những cánh cò.
Có lẽ chưa lúc nào chị Sứ yêu Hòn Đất oặn lòng như buổi sáng hôm nay. Lúc quỳ trước cái chết lại là lúc chị thấy yêu hơn sự sống, yêu hơn mảnh đất chôn nhau mà mình minh giờ đang trải ra một ngày mới.
ánh nắng lên tới bờ cát, lướt qua những thân tre nghiêng nghiêng, vàng óng. Nắng đã chiếu sáng lòa cửa biển. Và xóm lưới cũng ngập trong nắng đó.
Sứ nhìn những làn khói bay lên từ cái mái nhà chen chúc của bà con làm biển. Sứ còn ngó thấy rõ những vạt lưới đan bằng sợi óng ánh, phất phơ, bên cạnh những vạt lưới đen ngăm, trùi trũi.
Nắng sớm đẫm chiếu người Sứ. ánh nắng chiếu vào đôi mắt chị, tắm rợp mái tóc, phủ đầy đôi bờ vai tròn trịa của chị.
Nhưng tất cả những ánh nắng đó bất thần như động đậy lên cả một lúc. Một loạt súng nổ ran ở phía hang Hòn. Sứ giật mình ngoảnh lại. Súng nổ mỗi lúc một dữ dội. Chị nghe tiếng tiểu liên, tôm-xông bắn ngắt quãng và tiếng súng trường "bầm bầm" nhịp từng phát một. Bọn lính chạy ùa cả ra bờ suối, ngóng về hang Hòn. Mắt Sứ vụt sáng rựa. Ban đầu chị ngờ là tiếng súng của giặc, nhưng giờ chị nhận rõ là tiếng súng của anh em trong hang bắn ra. Chị lắng tai nghe thấy giữa những loạt súng nổ, dậy lên tiếng la chói lói,. văng vẳng. Mừng quá, Sứ muốn tung cả dây tróu mà nhảy lên vỗ tay hoan hô thỏa mãn. Sứ sung sướn nghĩ: "Vậy là anh em còn sống, còn chiến đấu..."
Một thằng lính đứng trên bờ suối vọt miệng:
- Súng nổ "mũng" này thì bữa nay thế nào cũng có khiêng về vài "con" nữa cho coi!
- Nè, saonói tụi nó uống nhầm thuốc độc rồi?
- Biết đâu... Nói vậy chớ có khi tụi nó uống mà không chết. Khúc suối minh mông dài nhằng như vậy mà bỏ thuốc độc thì có ăn thua mẹ gì!
Thằng biệt kích vừa nói xong câu ấy chợt nhớ có mặt Sứ, nó quay lại hầm hầm nhìn chị, giơ ngón tay lên dọa:
- Ê, nói vậy chớ đừng có mừng nghe "em"! Thân "em" như con cá trê bị chặt ngạnh để trên thớt rồi...
Sứ liếc nhìn nó muốn nói lại một câu. Nhưng chị nghĩ: "Nói với nó chỉ uổng lời mình". Thật ra thì chị chẳng mừng cho thân chị đâu. Chị mừng đây là mừng trong hang vẫn nổ súng, nghĩa là anh em vẫn còn sống, còn chiến đấu, chớ không phải để tụi nó vô xách ra, như thằng Xăm vừa nói.
Giữa lúc đó, tiếng súng trong hang đột nhiên im bặt. Lát sau tiếng trung liên rộ lên hàng tràng dài, không ngớt. Sứ biết bọn giặc đang bắn trả lại. Chị nghĩ bụng: "Không lo, giỏi lắm thì cũng như ngày hôm qua hôm kia thôi"
lát sau, giữa tiếng súng hãy còn nỗ giòn giả. Sứ bỗng thấy từ trong vườn dừa nhô ra một tốp lính. Chúng khiêng những tên bị thương xồng xộc ra suối. Tốp lính bên này suôi cũng vừa trông thấy. Thằn ban nãy nói:
- Thấy chưa tụi bây? ... tao đã nói rồi mà!
Tên này vụt chạy xuống sát mé suối , hỏi to:
- Ê, thằng nào đó tuị bây?
Bọn lính đang khiêng không trả lời. Chúng cố rị chân để xuống cái dốc thoai thoải. Tới bờ suối, chúng để lại bọn bị thương xuống cát. Trong số đó có một tên Mỹ đang chòi đạp và rống lên dữ dội. Tụi lính đưa tay vuốt mồ hôi, hổi hển.
- Đ.mẹ trung úy nói tụi nó uống thuốc độcc hết hết rồi... biểu tụi tao vô hang... Mới nhảy vô, tụi nó ở trong xổ ra, chết hết sáu thằng, còn năm thằng bị thương. Có một thằng Mỹ gần xí lắc léc rồi đây nè!
- Bộ tụi nó cũng vô hang sao?
- Không, nó đứng ở ngoài xa, bị lạc đạn!
Bên kia suối, tên Mỹ to lớ đang giãy giụa. Hai tay nó cào cấu, bươi bươi lớp cát. Hồi sau, nó không la rống nữa, chân đạp mạnh mấy cái rồi nghẻo vật đầu sang một bên. Chiếc mũ ba rèm úp chặt lấy mặt nó, tối om om. Tên lính biệt kích cúi xuống để tay lên mũi tên Mỹ. Tên lính kêu lên:
- Nó chết rồi!
- Chết rồi à?
- Hết thở rồi.
Tên biệt kích lặp lại với giọng thản nhiên. nó đứng chàng hãng, hai tay chống mạnh nhìn xác tên Mỹ nằm im dưới đất. Một tên bên này bảo:
- Ê, khiêng nó đưa qua đây đi. Để nó nằm đó lát nữa bị "cạch" da!
- "Cạch" mẹ gì, bộ có mình nó biết chết sao! Khiêng mấy thằng còn sống của mình qua trạm cứu thương trước đã!
Bọn lính xốc khiêng bốn bên ngụy bị thương lội qua suối. máu từ các vết thương của chúng nhểu giọt xuống suối đỏ loang. Lúc chúng khiêng qua mặt Sứ, chị thấy rõ từng giọt máu rơi xuống cát, vấy thành hàng, dẫn rải theo gót chân của bọn lính đang khiêng.
Xác tên Mỹ bên kia bờ suối rồi cũng được bọn lính đưa sang. Chiếc mũ ba rèm trụt khỏi gáy tên Mỹ, rớt lại giữa dòng suối, trôi cuối đi. Sứ thấy lướt qua mặt mình một mớ tóc hoe hoe đỏ, xõa xượi và chiếc mũ khoằm khoằm nhô cao.
Tiếng súng trong hang đã ngớt
Tâm linh Sứ bỗng như báo trước một điều gì ghê gớm sắp xảy đến. Chị chuẩn bị tinh thần sẵn sàng chịu đựng. Lời nói của anh San chợt vẳng lên rất rõ bên tai chị: "Chuyện gì mình cũng có lường tính trước thì tới lúc xảy ra mình vẫn vửng tâm hơn"
Và Sứ bắt đầu thầm nói với chồng:
- "Được rồi, em sẽ làm theo lời anh, anh ơi! Bây giờ, em vững tâm lắm rồi... Chắc lần này em không còn gặp anh nữa. Vậy khi trở về, anh cũng đừng buồn, Em thương cho anh lắm, vì em biết bảy năm qua anh vẫn nhớ tới mẹ con em. Em biết ngày trở về không có em, chắc anh sẽ buồn nhiều. Tha lỗi cho em, nghe anh! Nhưng nếu còn con Thúy, thì anh hãy coi đó là sự đền đáp của tình em. Anh hãy nhìn con, tức là anh nhìn thấy em rồi... Tới giờ phút này, em cũng chưa biết con ra sao, nhưng em tin là con mình còn sống, vì các đồng chí trong hang đều còn nắm chặt tay súng..."
Sứ thầm nói và chị cảm thấy như có chồng đứng bên cạnh mình thực. Rồi chị thủ thỉ với mẹ và em gái:
- "Má, bây giờ má đương làm gì? Má đương dọn vườn hay cho heo ăn? Ba ngày rồi con không thấy mặt má... E con cũng không còn thấy má được nữa... Nếu con chết, má nuôi con Thúy cho con, nghen má! Má hãy coi con Thúy như là con Sứ của má hồi nhỏ. Vậy thì con vẫn còn ở với má hoài chớ con không chết... Em Quyên oi, em xây dựng với Ngạn là phải đó. Ngạn là một thanh niên tốt, một đảng viên tốt. Chị chắc không dự được đám cưới của em. Nhưng không sao, chị vui và tin rằng đời em sẽ sung sướng. Em ráng công tác, thay chị săn sóc má, săn sóc con Thúy. Em thương con Thúy nhiều nhiều cho chị, nghe em út..."
Thổ lộ câu này. Sứ cũng có cảm tưởng rằng mẹ và em gái đang nghe mình nói. Nhớ tới con Thúy, chị khẽ kêu: - "Thúy ơi, con đừng chết, nghen con..." Và rồi chị âu yếm với con trong tưởng tượng. Chị ôm chầm lấy đầu con mà vuốt ve, hôn hít. Nhưng đều là trong tưởng tượng.
Quả nhiên, Sứ lường lính không sai. Việc chị ngờ đến đã đến.
Giữa lúc chị còn mải mê âu yếm với đứa con trong tưởng tượng thì mấy tên lính chạy từ trong hang Hòn về đến suối, lội gấp qua, chạy thẳng đến trước mặt chị. Một thằng mở phăng sợi dây trói buộc ngang mình chị:
- Đứng dậy!
Sứ tính đứng lên, nhưng đứng không được. Quỳ suốt đêm qua tới giờ, chân chị tê hết cả. Tên lính xốc tay chị lôi đi. Hai chân chị bị kéo lết trên sỏi. Xuống tới mé suối, chị vùng vằng:
- Buông tôi ra, để tôi đi!
Tên lính buông tay chị
Sứ co co chân một lúc mới nhón đi được. Chị chậm rãi lội ngang quãng suối mà hồi đêm hôm chị đã lội qua. Đến bờ bên kia, một tên lính khoát tay chỉ vào hang Hòn. Rồi nó đi xốc lên trước. Tên lính đi sau nói:
- Nè, chị biết đắt chị đi đâu không?
- Không
- Thiếu tá chỉ huy kêu đem chị về trỏng đấy. Số mạng chị còn lớn lắm!
Nghe tên lính nói, Sứ nghĩ: "Nó tính làm gì mình? Chắc nó có âm mưu gì đây. Được, cứ đổ coi, làm gì thì làm, tụi mày cẫn là tụi mày, tao vẫn là tao..."
Hai tên lính dắt Sứ vào trong vườn dừa, đưa chị đến trước mặt tên thiếu tá chỉ huy hành quân.
Tên thiếu tá này mặt xương, nước da đen nhánh. Hắn không đội mũ kết gì cả. Có lẽ hắn muốn chưng bộ tóc hớt kiểu tài tử, chải láng mướt, ốp sát vào gáy. Hắn nhịp nhịp trong tay một cái que gỗ đánh "vec-ni" nâu bóng loáng, ở đầu thanh que có bịt bạc (ấy là hắn bắt chước các tên trung tướng tay sai, hồi này đang bắt đầu có cái mốt ra trận không cầm súng mà cầm gậy chỉ huy)
Cùng đứng với tên thiếu tá, còn có thằng Xăm và lũ biệt kích.
Thấy Sứ, tên thiếu tá liền nhìn chị với đôi con mắt lấy lại vẻ nghiêm nghị. Hắn cầm thanh que, khẽ nhịp vào lòng bàn tay trái xòe ra. Sau một lúc ngắm nghía và nhoẻn một nụ cười gian giảo, hắn vẫn cứ nhịp nhịp thanh que vào lòng bàn tay:
- Cha, mặt mày coi sáng sủa như vầy mà lại theo Việt cộng à?
Sứ day nhìn chỗ khác.
- Nghe nói cô có người chồng tập kết, tôi cũng chẳng nói chi, có lẽ tôi còn khen cô nữa đó. Nhưng cô đi theo Việt cộng thì tôi không khen cô đâu. Đi theo Việt cộng là đi vô con đường chết...
Sứ mỉm cười. Nụ cười của chị như nói: "Mày không còn có chuyện khác nữa sao? Chuyện đó tụi mày nhai tới nhai lui tao nghe chán ra rồi, thôi đi!..."
Nhưng tên thiếu tá không chịu thôi. Trái lại, đứng trước Sứ hình như hắn muốn trổ tài. Hắn ba hoa một lúc về chủ nghĩa "nhân vị", về "đồng tiến xã hội", về lực lượng hùng hậu của "chính phủ quốc gia" do Ngô tổng thống lãnh đạo mà những người lính chiến như hắn là những người tiêu biểu. Cuối cùng, hắn kết luận:
- Cô đừng có trông đợi gặp chồng cô cho mất công. Không có thống nhất đâu. Còn chúng tôi và còn nước bạn Huê-Kỳ thì ở đây không có thống nhất gì ráo!
Về điểm này, chị Sứ không nhịn được nên chị trả lời:
- Tụi Mỹ với mấy người thì tính như vậy, nhưng nhân dân thì tính khác. Nhân dân tính sớm muộn gì cũng tiêu diệt mấy người, để có thống nhất!
Nghe Sứ nói, tên thiếu tá trố mắt, cười hẹ hẹ:
- Tiêu diệt tụi tôi? Chừng nào mới tiêu diệt được tụi tôi?
Hắn vung tay chỉ về phía miệng hang:
- Cô cứ coi kia, tụi đồng chí của cô trong hang cao lắm thì ngày mai cũng phải bò ra. Có mấy đứa với mất cây súng quèn mà đòi tiêu diệt...
- Anh em tôi trong hang chưa bò ra đâu!
Nụ cười gian giảo vụt tắt trên khuôn mặt thằng thiếu tá. Mặt hắn dần dần tái sạm lại. Hắm im đi một lúc để nén cơn giận, rồi day qua hỏi bọn lính:
- Đem máy nói lại chưa?
Bọn lính bảo rằng máy nói đã đem ra, và dây điện cũng xong. Tên thiếu tá khoát tay:
- Thôi, dắt nó đi!
Bọn lính biệt kích của thằng Xăm đẩy chị Sứ chúi nhào về phía trước. Tên thiếu tá và thằng Xăm xồng xộc đi theo sau lưng.
Một thằng thiếu uý tâm lý chiến mặt non choẹt, lấm chấm đầy mụn, tay cầm chiếc ng chực sẵn.
Tên thiếu tá bước lên sát chị Sứ:
- Nãy giờ tôi nói chuyện hòa nhã với cô, bây giờ thì tôi nói chuyện cứng rắn. Nghe tôi hỏi đây, bây giờ cô muốn sống hay chết? Nếu cô muốn sống, tôi hứa đảm bảo cho sống, nếu cô muốn chết tôi sẵn lòng cho cô chết trong nháy mắt. Cô trả lời đi, trả lời liền đi!
Chị Sứ nhìn thẳng vào mặt hắn. Lát sau, chị nói:
- Sao tôi lại muốn chết? ở đời đâu có ai muốn chết!
Nụ cười tái hiện trên đôi môi của thằng thiếu tá:
- à, tè ra cô cũng muốn sống...
Hắn cầm thanh que trỏ về phía miệng hang:
- Dễ thôi. Chỉ cần cô cho tôi một câu: cô hãy nói với tụi trong hang rằng cô đã đầu hàng, và kêu gọi tụi nó ra đầu hàng như cô... Cô hãy nói rằng tụi tôi đối xử tử tế với cô, đối xử tử tế với bất cứ ai bỏ súng xuống, đi ra khỏi hang... Được chớ?
Tên thiếu tá dừng lại, chờ đợi. Trong lúc ấy, tên thiếu úy tâm lý chiến cầm cái mi-crô bước nhón tới, để cái micrô lên ngay trước mặt chị Sứ. Đồng thời, thằng Xăm cũng đả rút soạt lưỡi dao "cúp cúp" Mỹ đeo lên hông bước thoắt đến đứng sát một bên Sứ. Tên thiếu tá chắp tay sau lưng, mắt dõi cử chỉ của Sứ. Hắn tin rằng chị sẽ khuất phục trước cái chết. Hắn tin chắc như vậy, vì thể theo bụng dạ của hắn, thì nếu lâm vào cảnh ngộ này, hắn sẽ còn làm hơn thế nữa để được sống. Vả chăng trước mặt hắn, chị Sứ là người phụ nữ, mà chị lại là một phụ nữ có nhan sắc, thì lẽ nào chị có thể cưỡng lại sự sống hay sao. Chính hắn, hắn còn tiếc thay huống hồ là chị.
Nhưng chị Sứ vẫn đứng yên, chị nhìn chiếc micrô bằng bụm tay, mặt lỗ chỗ như tổ ong, bụng nghĩ nếu mình nói vào đây tất tiếng nói sẽ lớn hơn. Nhìn về phía miệng hang, chị biết rõ từng anh em lúc nào cũng có mặt đó, và nếu chị nói, anh em đều có thể nghe thấy cả.
Tên thiếu tá sốt ruột hất hàm hỏi:
- Sao? Chịu hay không, trả lời đi!
Chị Sứ bước lên một bước, gật:
- Được, để tôi nói!
5.
Trong hang, anh em vẫn ghìm súng đợi. Sau lúc địch xộc và rồi bị đánh bật ra, chúng không xộc vào nữa. Đã gần một tiếng đồng hồ rồi, địch không mở thêm một trận tấn công nào mới. Nhưng anh em vẫn ngó thấy chúng còn lố nhố, thấp thoáng qua lại trong vườn dừa, cho nên anh em vẫn ở nguyên chỗ cũ súng không rời tay.
Ngạn nói với anh Hai Thép:
- Sợ chị Sứ bị bắt hay bị tụi nó bắn chết rồi quá!
- Có thể bị bắt. Hồi đêm đâu có nghe tiếng súng nổ!
Anh Hai Thép đáp thế và im lặng. Suốt đêm qua cho tới sáng nay, người lãnh đạo cuộc chiến đấu này bị đặt trước những sự biến không ngờ. Đêm qua, cô Nhớ sau khi đưa nước về tới hang, liền ôm bụng kêu đau và một lát sau mặt cô tái nhợt, người toát đầy mồ hôi lạnh, Anh Hai sinh nghi, hỏi cô có uống vốc nước suối nào không. Cô đáp là có. Vừa đáp xong, cô liền ngã vật xuống. Anh Hai lập tức thọc tay chọc cổ cô. Năm Nhớ ói ra một bãi nước lõng bõng, vàng lè. Từ bãi ấy xông lên một mùi nồng nồng rất khó chịu. Anh Hai Thép kết luận rằng địch đã đầu độc suối, chính Năm Nhớ đã uống phải vốc nước suối có thuốc độc rồi. Nhưng nhờ kịp thời là, cho Năm Nhớ nôn tháo nên cô nằm mê man một lúc thì tỉnh lại. Cái cà om nước của Năm Nhớ đem về lập tức bị đổ bỏ. Thế là trong hang vẫn ở trong cá tình trạng thiếu nước như cũ. Hơn thế, trong chuyến đi lấy nước, chị Sứ đã bị mất tích. Sứ không trở về, việc đó làm cho tất cả hang suốt đêm qua không ai ngủ được. Vào lúc nửa đêm, con Thúy giật mình thức giấc trên phiến đá, kêu: "Mà, má ơi!", rồi không có tiếng má nó đáp và ôm lấy nó như mọi khi, nó òa khóc. Quyên phải đến dỗ cho nó ngủ lại. Nhưng sáng ra thì con bé khóc thực sự, vì nó đi kiếm khắp hang mà chẳng thấy má nó đâu cả. Quyên phải nói dối má nó đi công tác ra ngoài xóm.
Việc chị Sứ đi lấy nước không trở về khiến cho cả hang hết sức lo lắng. Phải chi chính mắt họ trông thấy chị bị bắn chết thì sự việc cũng là rõ ra. Đằng này họ không biết cái gì đã xảy đến với chị. Đêm hôm qua, khi Trọng và anh Ba Rèn về tới hang, thấy thiếu Sứ, hai anh liều quay lại, nhưng không tìm gặp chị. Lượt sau chính Ngạn xách súng cùng hai anh đi kiếm chị nữa. Họ mõ mẫm, sờ soạn từng gốc dừa, ngờ rằng chị đang nằm mê man bất tỉnh cạnh một gốc dừa nào đó ở lối đi lấy nước, vì họ ngờ chị cũng có thể vốc nước suối mà uống như cô Năm Nhớ. Nhưng rồi cả Ngạn cũng thất vọng. Anh đã quần giáp một khu vườn mà vẫn không thấy gì cả.
Đêm hôm qua, có thể nói là một đêm mà cả hang thấp thỏm, lo âu. Mất chị Sứ ai cũng cảm thấy như mình có lỗi, và lòng cứ dấy lên sự nhức nhối, hối hận. Ai cũng tưởng như chính mình phải gánh lấy trách nhiệm ấy. Dộu rằng trong cuộc chống trả này, chị chưa trực tiếp cầm súng, nhưng chị đã lo cho họ từng miếng ăn, giọt nước. Có chị là có sự chăm sóc, có những bước đi nhẹ nhàng không động, có sự dịu dàng đưa cho, và là vì từ buồi lớn thành người con gái, chị đã để lại trong lòng họ nhiều tình thương mến. Cũng giống như dòng suối, lá cành, hoa quả, chị Sứ như thuộc về Hòn Đất, không tách ra được, chị thuộc về niềm hãnh diện của xóm làng, kể cả sắc đẹp lẫn tính tình. Hơn nữa, chị còn là tấm gương chung thủy, là một người phụ nữ ôm riết lấy xóm làng đó, bà con đó, mà vượt qua mọi điều thử thách.
Anh Hai Thép lòng giày vò hối hận vì đêm qua đã để Sứ đi, mặc dầu anh thấy rằng mình nghĩ như thế là không được. Trong chuyến đi lấy nước ấy, nếu không là chị Sứ thì là người khác, và rốt cuộc cũng sẽ có một người gặp nạn cũng đều gây ra tổn thất trong lòng anh. Tuy nhiên, việc không may xảy ra với chị Sứ làm cho người bí thư này bị bứt rứt, giày vò hơn. Nếu như trong những năm gian khổ, mọi người đều phải vất vả của người vợ trẻ có chồng tập kết. Cũng cách đây hai hôm, Sứ đã đưa cho anh em lá thư của chồng từ miền Bắc gởi về, Anh còn nhớ rõ lúc đưa thư cho anh, mấy ngón tay của Sứ run quá và anh thấy đôi mắt Sứ lúc ấy ánh lên biết bao hy vọng. Nhớ lần sau lúc chị bị bọn trên quận bắt, Sứ đã bảo với anh: - "Em không tiếc cho thân em đâu, rủi em có chết em cũng không tiếc, chỉ thương cho con Thúy, với lại em chết thì tội nghiệp cho anh Ba. Thống nhất trở về không có em, thế nào ảnh cũng buồn nhiều".
Anh Hai Thép đã từng thấy trong những lúc cách mạng gặp khó khăn, có những người phụ nữ như thế. Họ muốn giữ mình được mãi mãi trọn vẹn là một đứa con gái yêu của Đảng, của chamẹ, của quê hương. Và đồng thời họ cũng cố sức giữ sao cho tấm thân mình được trinh nguyên, để khi đất nước được thống nhất, họ vẫn dành cho chồng mình những điều hạnh phúc. Thật không ai tin tưởng thống nhất và đấu tranh chờ đợi cái ngày ấy bằng họ.
Trong số phụ nữ đó, nổi rõ lên trước mặt anh là Sứ. Đêm hôm qua, anh đã nghe con Thúy giật mình cất tiếng gọi mẹ. Suốt từ đấy, anh cảm thấy gánh nặng của cuộc chiến đấu như càng đè trĩu lên vai anh. Đến sáng, khi nỗi lo của anh chưa trút được thì súng lại nổ. Anh chạy ra miệng hang. Cũng như những lần trước, lần này anh em đã đánh bật chúng nó ra ngay tức khắc. Có điều hơi lạ là sáng nay chúng xộc vào hang rất táo bạo. Vì thế mà chúng nằm lại trước miệng hang cũng nhiều hơn. Phần đông chúng đều nằm lật ngửa. Có tên chưa chết, chân duỗi soàn soạt, kêu hồng hộc như heo bị thọc huyết. Cuối cùng chúng nó cũng không còn kêu nữa.
Từ bấy đến giờ, anh em đón đợi chúng đột nhập lần thứ hai, nhưng vẫn chưa thấy chúng động tĩnh gì. Từ khi rút ra, chúng chỉ quạt trung liên vào chớ không thấy bóng một đứa nào xông vào hết. Anh Hai Thép luôn nhắc:
- Phải luôn luôn sẵn sàng. Có thể tụi nó tính mưu kế gì mới.
Nắng đã lên. Quyên đả đem túm gạo rang ra, đi đến từng chỗ phân phát cho anh em. Những tên giặc trước hang đều đã chất hẳn. Chúng nằm im, phơi mặt dưới ánh mặt trời. Trong vườn dừa, bọn giặc đi qua đi lại, lóng ngóng, nhấp nhỏm. Lâu lâu, chúng lại xổ vào miệng hang một băng trung liên. Rồi lại yên lặng. Có thể nghe thấy tiếng chim bắt đầu kêu chin chít, tiếng sóc chạy sột soạt trên các tàu lá dừa, và xa hơn là tiếng rì rào của sóng biển. Phút giây yên tĩnh này thật là căng thẳng, nó không cho mọi người nghỉ, cứ bắt mọi người phải để tay nơi cò súng. Và nếu những bóng xám đột nhiên lại xuất hiện ở cửa hang, thì sẽ không có chút yên tỉnh nào nữa. Súng sẽ nổ và những bóng xám sẽ quỵ xuống.
Anh em cầm súng ngồi sau các hốc đá ngày càng tin chắc hơn, rằng bọn giặc không thể nào lại có thể tránh được những phát đạn của họ. Cửa hang như một khoảnh định rất chuẩn xác, chỉ cần họ bình tĩnh mà bắn thì thế nào họ cũng bắn trúng. Càng ngày cái hang càng lộ rõ lợi thế cũng như nhược điểm. Lợi thế ấy là địa hình phòng ngự vững chắc. Nhược điểm ấy là thiếu nước. Chính vì vấn đề nước mà Năm Nhớ suyết chết, còn chị Sứ không trở về. Ngay bây giờ, ai cũng thấy họng mình khô khốc. Sau lần chiến đấu, mồ hôi lại đổ, cái khát càng dày vò mọi người dữ hơn. Anh Ba Rèn cứ rít lên từng chặp:
- Thiệt là quân chó đẻ! Tới suối nước mà nó cũng bỏ thuốc độc.
Anh chửi luôn mấy câu rất tục, bất chấp sự có mặt của Quyên ở đó, rồi thề rằng tên giặc nào bây giờ nhảy vô mà anh bắn hụt nó thì anh không phải là con người. Anh lại vung tay đấm vô ngực mình, vật vã oán mình sao hồi đêm mình lại không đi cản hậu.
- Tôi cứ ngỡ là tụi tôi đi đầu, nếu có đụng tụi nó thì đụng trước.
- Cũng tại tôi - Anh Hai Thép nói - Tại tôi không lường tới chỗ tụi nó bỏ thuốc độc. Đáng lẽ thì phải lường được hết sự hung ác của tụi nó, đằng này...
Chưa nói hết câu, chợt anh Hai dừng lại. Bên ngoài vụt có tiếng gì "rè rè", và tiếng loa phóng thanh đột ngột cất lên:
- a-lô! Nghe đây, nghe đây!
Tất cả đều nín im. Tiếng loa vọng vào hang ồm ồm:
- Quân đội Việt Nam Cộng hòa loan báo cho các phần tử Việt cộng trong hang được rỏ, cô Nguyễn Thị Sứ là đồng bọn với các người, nay đã lọt vào tay quân đội và đã quy thuận chánh nghĩa quốc gia. Sau khi đã quy thuận, nay cô Sứ có lời nói chuyện với các người...
Tiếng loa ngưng lại. Máy nói kêu khọt khẹt. Trong hang, mọi người sửng sốt ngó ra. Nhưng họ không thấy gì cả. Bọn giặc đặt cuộc nói chuyện ấy ở một nơi mà tầm súng trong hang không thể bắn ra được. Cặp mắt người này nhìn người kia, như hỏi nhau rằng có cái tiếng loa ấy thật không, hai tai mình nghe lầm. Không ai tin ở tai mình nữa. Nhưng sự thực là ai cũng nghe thấy. Không thể ngộ nhận về tiếng loa ấy được. Lúc đó, Quyên mới vốc một vốc gạo rang định đưa cho Ngạn là người cô phân phối sau cùng, thì chợt nghe tiếng loa. Tay cô lẫy bẩy buông xòa vốc gạo đổ xuống lòng bàn tay Ngạn. Mặt cô tái hẳn lại. Cô đứng im, mắt mở to đầy vẻ kinh hoàng, môi dưới của cô giựt giựt luôn mấy cái, tưởng chừng cô sắp òa lên khóc. Nhưng không, cô cắn chặt lấy môi dưới đang giựt giựt đó, hai bàn tay từ từ nắm chặt lại, và vẫn đứng im. Cô lặng người đi mà đợi một sự việc ghê gớm xảy đến. Chưa bao giờ Ngạn thấy Quyên hoảng sợ run rẩy đến tội nghiệp như thế. Bất giác Ngạn nhớ đến sự hiểu lầm của Quyên trước kia đối với anh, và anh tưởng như thấy lại được phần nào cái dáng dấp vật vã đau đớn của Quyên dạo nọ.
Anh Hai Thép cau mày nhìn ra cửa hang. Anh cũng không nhìn thấy gì. Anh nghĩ: "Rõ ràng là Sứ bị bắt cưỡng ép, nhưng lẽ nào Sứ lại nghe theo sự cưỡng ép của tụi nó. Không, không bao giờ Sứ lại như thế... Nhưng biết đâu được... Cô ta còn trẻ, còn con nhỏ, còn mẹ, còn nhiều cái ràng buộc với sự sống. Nếu cô ta nghe theo tụi nó mà nói những lời phải bội nthì thật hết sức tai hại. Chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt đến cuộc chiến đấu đang giữa lúc gay go. Nhất là Sứ, người mà ai cũng thương cũng quý. Lời nói của một người như Sứ lúc này rất hệ trọng..."
Tiếng khọt khẹt phát ra từ cái micrô kia đã dứt. Giọng nói ồm ồm của tên giặc giờ lại hăm hở sủa vào máy:
- Các người trong hang chú ý, chú ý! Đây, tiếng nói của chị Nguyễn Thị Sứ...
Mọi người trong hang đều nhìn ra. Đây cũng là những phút giây chờ đợi căng thẳng, thử thách. Nhưng mọi người không phải đợi lâu. Ngoài kia đã vọng vào tiếng nói hết sức quen thuộc, ai cũng nhận ra ngay là tiếng nói của Sứ:
- Thưa các đồng chí, tôi là Sứ đây...
Tiếp đó, bỗng chị vụt nói rất nhanh:
- Các đồng chí đừng tin, tụi nó nói láo, tôi không bao giờ đầu hàng. Các đồng chí ơi, đừng uống nước suối, đừng bỏ súng. Trong đó còn mạnh giỏi hết không, con tôi còn sống không? Nếu còn thì bắn một phát súng cho tôi mừng!...
Mấy lời cuối cùng chị Sứ nói sao mà vội vã, sao mà dồn dập, khẩn thiết! Tiếng chị như gào lên trong máy, cấp bách, dữ dội.
Mọi người trong hang đều ngẩng mặt, đứng hết cả dậy. Trên những khuôn mặt ấy bỗng chãy ròng nước mắt. Anh Ba Rèn nhảy phắt ra giữa hang. Anh xoạc chân đưa khẩu ga-răng lên vai, bắn chĩa ra ngoài luôn ba phát "bầm, bầm, bầm"...
6.
Nghe Sứ nói đến đấy, thằng thiếu tá tái mặt chửi lớn. Thằng Xăm thì co chân đá chị ngã chúi xuống rồi nhảy lên người chị, giẫm đạp. Nhưng huyền diệu thay cho cái tiếng súng. Nó làm rạng rỡ khuôn mặt đang áp sát đất của chị Sứ. Hình chị như không hề bị đạp tá. Chị sung sướng quá, chị mừng quá. Tiếng súng đã đáp lời chị, đáo lại hy vọng sau rốt mà chị hết lòng mong mỏi. "Như vậy là vẫn còn, vẫn còn sống!" Chị nghĩ thế và gượng nhổm lên, nhìn vào hang Hòn. Đôi mắt chị mở to ngoái nhìn về cái hang ấy. Có thể là chị nhìn qua cái hang ấy. Trong đôi mắt có ánh vui mừng, ánh cháy bỏng, đau đáu. Đôi mắt đó lưu luyến không nỡ rời, ngập ngựa những yêu thương, những hy vọng, vừa mãn nguyện vừa căm oán, vừa sung sướng nhưng lại vừa mông mênh cái đau giã biệt. Cho nên đôi mắt đó vốn đã đẹp nay càng tuyệt đẹp.
Tên thiếu tá hạ lệnh:
- Treo nó lên cây! Treo nó lên dừa ngã kia kìa, cho đồng bọn nó được ngó thấy!
Ba bốn tên biệt kích xông tới, túm lấy Sứ, lôi Sứ dậy. Chùng dùng một sợi dây dài buộc thêm vào hai khuỷu tay đã bị trói của chị. Thằng Xăm co ro cánh tay, dớn dác chạy tới ngắm nghía một cây dừa ngã xoài thân trước mặt hang. Hắn nói:
- Treo nó lên!
Hắn hất hàm sai một tên lính có đeo dao:
- Mày leo lên vạt một cái khất để tròng dây cho khỏi tuột. Mau đi
Tên lính nghe lời thằng Xăm, leo lên. Leo được nă, sáu thước, tên lính rút dao chặt bồm bộp vào thân dừa. Thằng Xăm đứng dưới ngước nhìn. Khi tên lính đả chặt được một khắc quanh thân dừa, thằng Xăm nói:
- Thôi, được rồi, xuống đi!
Tên lính ném lưỡi dao, tuột xuống. Hắn vừa tuột xuống gần tới gốc thì thằng Xăm chộp mối dây buộc Sứ đưa cho hắn, bảo hắn leo trở lên mắc vào cái khấc mới vạt đó.
Bọn lính giữ chặt lấy Sứ. Hai tên đứng đón mối dây, sửa soạn kéo sểng Sứ lên.
Sứ nói:
- Tụi mày treo tao lên thì anh em tao ở trong hang có thể ngó thấy tao, nhưng anh em tao càng thêm căm thù tụi mày chớ không sợ tụi mày đâu!
Lời nói của Sứ làm hai tên lính cầm mối dây ngần ngừ chưa kéo. Thằng Xăm tức giận nạt:
- Kéo!
Hai tên lính giật mình kéo rị mối dây...
Chúng còn ghì chân Sứ để chị không vùng vẫy được. Lúc chân Sứ đã bị kéo khỏi mặt đất, bọn chúng mới bỏ ra. Một tên không may bị Sứ xỉa trúng ngón chân vào mặt. Nó bưng mặt la lên:
- Đ.mẹ, con nhỏ này dữ quá!
Sứ bị sợi dây kéo lên mỗi lúc một cao, lơ lửng, nghiêng nghiêng. Hai bắp tay trần trắng tươi của chị bị sợi dây rút ngược, tréo ngoặt... Đây là đôi tay đẹp đẽ và mát rượi. Đây là đôi tay làm lụng và vén khéo. Đôi tay này đã có khi rụt rè, đã nhiều lần âu yếm, đã có lúc run lên ôm lấy chồng, ôm lấy con, mẹ và em, cô bác và đồng chí. Nên đôi tay đó bị trói ngoặt trông sao mà tàn nhẫn, trông mà uất, mà thương. Sợi dây tàn bạo cứ kéo lấy đôi tay, lôi sểnh tấm thân mảnh khảnh. Trên tấm thân đó cái gì cũng mịn màng, từ mái tóc rủ gần tới gót chân, từ khuôn mặt tái đi vì đau đớn, từ bộ ngực căng căng sau lần áo lụa đen mỏng. Sợi dây tàn bạo kéo lên không trung người con gái xứ Hòn, người con gái miền Nam, đã một lần sinh hạ, ngóng trông, chung thủy. ở đây, trong lúc này, cái gì cũng tàn bạo. Từ đường dây đó, từ những tên giặc đứng bên dưới đó, ngoại trừ ánh mặt trời và cây cối. ánh nắng xuyên qua lá dừa mà gội đẫm mái tóc tốt dày của Sứ, gội tờ đầu đến chân Sứ. Và làn gió sang xuân, và hơi thở của biển. Sứ vẫn phân biệt được làn gia man mác của đồng bội và hơi gió biển mặn mòi, âm ấm. Trong lúc đôi cánh tay đau điếng, trái sái, Sứ cố nhìn tới hang Hòn bị những tàu lá dừa che xõa. Ôi, sao làn gió không thổi vẹt những tàu lá nọ, để may ra vào những giờ phút quý báu này, chị có thể nhìn thấy những bóng người thương mến! Biết đâu chừng chị có thể nhìn thấy Quyên đang cõng con Thúy? trời ơi, giá mà giữa lúc này chị được nhìn thấy con Thúy, dù là chỉ nhìn thấy nó một thoáng mà thôi! Trong phút chốt, Sứ nhớ lại đêm hôm qua. Chị nhớ đôi bàn tay bé bỏng của con bám riết lấy vai chị. Lúc rời phiến đá, chị đã dừng bước như thế nào, chị đã cảm thấy có một sức mạnh vô hình trì níu chị lại như thế nào. Chị nhớ mình đã cởi áo đắp cho con. Phải rồi, đó chính là những phút giây sau rốt, gần nhất, giữa chị và con. Đó chính là cái mốc của tình mẫu tử, cũng như đêm rạng ngày anh San lên đường tập kết và cái mốc gần nhất của tình chồng vợ mà chị hằng ghi dấu.
Sứ nhớ từ hai cái mốc ấy nhớ đi. Chị tự nhủ: "Bữa nay, có lẽ mình chết. Nhưng mình chỉ thấy tiếc chớ không ân hận, mắc cở gì cả... Tới phút này đối với Đảg, mình vẫn y nguyên, như chị Minh Khai, như Võ Thị Sáu... nên từ phút này trở đi, mình cũng phải giữ được như vậy..."
Bị treo lơ lửng giữa cây dừa lão ngã rạp, Sứ luôn chuẩn bị tinh thần kiên trì cho tới cùng. Nhưng chừng hai mươi phút trôi qua mà bọn giặc không đả động gì thêm. Thằng Xăm bỏ đi đâu một lúc, giờ mới quay lại. Hắn đứng bên dưới, ngước mắt, ngó chị lườm lườm. Rồi hắn rảo bước tới lui, vẻ nôn nóng như chờ đợi một cái gì. Thằng thiếu tá thì nửa ngồi nửa nằm, lưng dựa vào một gốc dừa. Hắn cắn cái ống đót bằng ngà, nheo nheo mắt nhìn Sứ, qua làn khói mà hắn nhả ra không ngớt.
"Nó tính làm gì mình nữa đây?" Sứ lại tự hỏi. Và chị lo sợ nghĩ đến một việc mà chị ngờ rằng bọn giặc có thể làm. "Trời ơi, nếu tụi nó đem má mình tới... Đừng... đừng, má ơi, má đừng tới đây!..."
Sự hồ nghi của Sứ không sai. Khi chị mới ngờ và kêu lên trong lòng như thế, thì lúc ngoái nhìn ra sau, chị đã trông thấy mẹ. Bà đi giữa hai tên biệt kích. Vẫn cái dáng gầy gầy, hiền hậu, quen thuộc ấy. Vẫn chiếc khăn rằn đỏ vắt vai và bộ quần áo tơ dệt ngả màu. Nhưng không phải chỉ có mỗi mình mẹ. Đằng sau có tiếng ồn ào của đông đảo bà con và tên lính biệt kích cứ đi day lui, tay ghìm khẩu cạc bin. Rồi một toán lính giăng ngang lối đi thành một cái hàng rào. Tên thiếu tá dụi dụi cái ống đót xuống rễ dừa, đứng bật dậy hỏi:
- Cái gì đó, cái gì mà họ la ó rần rần vậy?
- Thưa thiếu tá, họ đòi thả bà già. Họ nói bà già không cọ tội gì, tại sao lại vô cớ bắt bà?
Tên thiếu tá bảo một tên thiếu uý đứng cạnh: - Anh cho chặn họ lại. Không được để họ tràn lên, nghe chưa?
Rồi hắn bảo tên Xăm:
- Dắt bà già đó lên cho bả giáp mặt với con bả đi!
Thằng Xăm bước tới trước mặt mẹ Sáu, khoát tay chỉ về phía cây dừa treo Sứ:
- Con của bà nó cứng cổ lắm, nên nó đã bị treo lên kia kìa! Bà tới nói phải quấy cho nó nghe đi! Ông thiếu tá hứa nếu bà nói nó ưng chịu đầu hàng và kêu gọi tụi trong hang đầu hàng thì ổng cho hạ dây thả nó liền.
Thằng Xăm nói chưa hết câu, mẹ Sáu đã dang tay vẹt mấy tên lính trước mặt, chạy nhào về phía Sứ.
Sứ trông thấy đôi tay nghều ngào, mái tóc bạc trắng bay xõa của mẹ. Và chiếc khăn rằn đỏ trên vai mẹ chị rơi xuống đất. Còn mấy bước nữa đến chỗ Sứ, mẹ không đi được nữa, chân mẹ lóng cóng, khuỵu xuống. Nhưng mẹ nhổm lên, chạy tới. Cuối cùng, Sứ nhận ra đôi tay mẹ lập cập quàng lấy bắp chân mình, ôm riết. Rồi đầu mẹ, mặt mẹ giúo vào chân chị. Liền đó, chị nghe sao bắp chân mình ướt nóng, giàn giụa. Tiếng mẹ chị bắt đầu nấc lên ở bên dưới, nghẹn tắt. Sứ mở to mắt, nhìn xuống mái tóc bạc phơ và đôi vai gầy của mẹ đang rung rung. Lòng đau điếng, Sử ngoảnh nhìn nơi khác. Đôi mắt Sứ vụt đỏ hoe, không chớp. Nhưng Sứ cố nén, để nước mắt khỏi trào ra. Sứ muốn khóc, nhưng chị cưỡng lại. Chị không muốn để bọn giặc hiểu lầm một lần nữa, và để mẹ mình khỏi đau đớn thêm. Chị hồi hộp mong sao mẹ đừng thốt một lời nào, đừng nói một tiếng nào. Giữa lúc này, chị mong mẹ cứ im lặng, và thương chị, mẹ hãy cứ ôm chị thế đó, như ngày nào chị còn bé dại. Như chị cũng đã tính, nếu như vì quá thương chị mà mẹ lỡ nói với chị lời nói không phải, thì chị cũng không nghe theo đâu. nhưng như vậy ắt chị sẽ đau đớn. Thật là chưa bao giờ, chưa lần nào Sứ phải riết giữ lòng mình một cách quyết liệt đến thế. Cũng chưa lần nào chị có cái cảm giác xao xuyến lạ lùng đến thế. Đôi tay đó, khuôn mặt đó giờ đang áp vào chân chị, truyền khắp người chị một tình yêu giãy giục.
Hơn cả con mình, mẹ Sáu còn oằn oại gấp bội. Hai mươi bảy năm đẻ con ra và nuôi con lớn lên, mẹ đã nặn vắt từng giọt sửa, chắt chiu từng tấm áo. Đôi chân thon thả treo lư lửng này đây, chính mẹ là người trông thấy nó cất bước đi chập chững đầu tiên. Còn suối tóc mượt mà rủ xuống tới vai mẹ đây, chính mẹ cũng đã vuốt ve khi nó hảy còn lơ thơ bệt dính trên đầu. Rồi những tiếng ngọng nghịu, rồi những ngày mẹ lâm vào cảnh góa bụa, chính đứa con gái này đã cảm hiểu và đỡ đần cho mẹ nhiều nhất trong những năm tháng gieo neo. Mà lúc lớn lên, đứa con ấy nào có sung sướng gì cho cam! Nó lại cun cút nuôi con. Đới mẹ thế nào, đời con gái lớn mẹ cũng thế ấy. Một đứa con như thế mà lại phải dứt ra, mẹ Sáu không đau lòng sao cho được!
Nhưng muốn giữ lấy con, mẹ càng không thể nói những lờn bọn giặc buộc mẹ nói.Thiêng liêng hơn đứa con mang nặng đẻ đau đó còn cả xóm làng này, còn cả cái hang đang chống trả quyết liệt này. Thiêng liêng hơn đứa con của mẹ là cuộc cách mạng mà mẹ suốt đời tin tưởng và gắn bó.
- Bà già, bà nói đi! Nếu bà muốn cho con bà sống thì bà nói sao cho nó nghe đó thì nói!
Thằng thiếu tá đứng bên lại nhắc. Đôi chân hắn rậm rịch cứ như dẫm lên ổ kiến lửa. Thình lình, Sứ bỗng thấy mẹ buông rời chân mình ra. Mẹ chị day qua phía thằng thiếu tá. Sứ nghe rõ từng tiếng mẹ mình nói:
- Con tôi lớn rồi, nó có khí khôn của nó... ý nó muốn sao xin cứ để nó liệu lấy!
Nghe mẹ nói thế, Sự chịu không nổi nữa, nước mắt chị trào ra, chảy ròng ròng. Chị vặn mình trên dây la lớn:
- Cởi dây cho tao xuống, mau đi!
Tên thiếu tá nhìn thằng Xăm, nháy mắt. Thằng Xăm ướm hỏi:
- Sao, chịu rồi hả?
- Được rồi, mở dây cho tao đi! - Sứ nói
- Mở dây cho nó... tụi bây. Đem micro lại đây!
Bọn lính tháo dây buộc nơi cái cọc cặm bên dưới. Sợi dây từ từ buông hạ Sứ xuống. Người chị nghiêng nghiêng, trông chừng không thể đứng được. Bà mẹ giơ cả hai tay đỡ lấy con. Do đó, lúc chân Sứ mới chạm đất, thì đầu chị đã áp vào vai mẹ. Rồi cứ thế, chị ôm chặt lấy mẹ. Chị hôn khắp khuôn mặt nhăn nheo giàn giục nước mắt của mẹ. Chị hôn gấp gấp và sau rốt chị chỉ nghẹn ngào thốt được một câu đứt quãng: - Mà, má... má nuôi con Thúy cho con nghe má!...
Tên thiếu tá bước tới, tách bà mẹ ra khỏi Sứ. Hắn nói:
- Thôi, đủ rồi, bấy nhiêu đủ rồi!
Hắn đưa hai tay chỉ về phía tên thiếu ủy tâm lý chiến đang cầm micro chực sẵn bảo Sứ:
- Nói đi!
Sứ hỏi:
- Nói sao?
- Nói như lần đầu tao biểu, kêu mấy thằng đó buông súng đầu hàng. Cứ vậy mà nói!
- Mở trói cho tao đi!
- Không. Nói rồi sẽ mở trói!
Sứ không thốt thêm một lời nào nữa. Chị bước tới và nhanh như cắt, chị co chân đá thốc cái micro trên tay thằng thiếu úy. Chiếc micro văng hắn đi, lôi thốc theo cả sợi dây điện. lăn lông lốc.
Tên thiếu tá kêu ré lên một tiếng như bị ai bóp cổ. Hắn nhảy tới, đấm túi bụi vào mặt Sứ. Bà mẹ xổ vào. Hắn vung tay gạt mẹ ngã quay lơ ra, la lớn:
- Xăm chặt đầu con nhỏ này cho tao!
Thằng Xăm rút soạt lưỡi "cúp cúp" sáng loáng xông tới như một con thú. Hắn co thúc cánh tay bị thương sát vào bụng, vung dao lên chém mạnh vào gáy Sứ. Nhưng kỳ lạ quá, nhát dao đầu tiên đó mới chạm vào bỗng thấy bật trở lại. Thằng Xăm chém tiếp hai nhát thiệt mạnh nữa. Đầu Sứ chỉ chúi giật tới trước. Cả ba nhát dao đều chém không đứt đầu chị. Thằng Xăm chùn tay, thở hồng hộc. Hắn liếc nhìn lưỡi dao, ngờ vực. Nhưng đây nào phải vì lưỡi dao Mỹ không bén! Đây tại bởi tóc chị Sứ dày quá. Đây chính bởi lưỡi dao chạm phải một suối tóc tốt tươi nhất, suối tóc của hai mươi bảy tuổi đời con gái, vừa mượt vừa dày, gồm muôn ngàn sợi bền chặt rủ từ đỉnh đầu bất khuất đó tủ chấm xuống sát đôi gót chân bất khuất đó.
Bà mẹ đã ngất đi trên bãi cỏ.
Mãi khi hai tên biệt kích xông vào phụ lựa, hè hụi chụp tóc Sứ kéo ngược ra phía trước, thì thằng Xăm mới chém một nhát trúng gáy Sứ. Nhưng chị vẫn chưa chết. Thằng Xăm vung dao lên định chém nữa thì bỗng tên thiếu tá giơ tay ngăn lại:
- Thôi đừng, đừng chém, treo nó lên!
Bọn giặc lại rút Sứ lên thân dừa, tên thiếu tá hậm hực nói:
- Để nó ngắc ngoải như vậy, hay hơn. Để nó rên cho thấu tới tai tụi trong hang!
... Sau khi chém đến dao thứ tư, thằng Xăm bỗng liệng dao ôm vai lảo đảo đi tới bên gốc dừa. Hắn tựa lưng vào thân dừa, mở cúc sáo ngựa. Nơi bả vai bên trái của hắn, chỗ có buộc băng, thấy nhuộm đỏ máu. Không phải do ai đâm ai chém, mà là vì hắn đã ráng quá sức để chém Sứ, nên vết thương của hắn bị chấn động, phá miệng và máu hắn mới ồng ộc tuôn ra thế đó.
Anh Đức
Hòn đất
Chương 5
1.
Sau ba phát súng bắn đáp lại lời yêu cầu của Sứ, mọi người trong hang không nghe thấy gì nữa. Họ không rõ những gì đã xảy đến với Sứ ngoài đó nữa. Đứng tại chỗ của mình, tay họ ghìm chặt súng, mắt rưng rưng. Anh Ba Rèn và một số anh em đòi đánh ra giải thoát cho Sứ. Nhưng anh Hai Thép lắc đầu không cho.
Hai Thép mím chặt môi, lẩm bẩm:
- Chắc tụi nó giết cô Sứ rồi!
Không ai nói sao cả. Nhưng ai cũng nghĩ là Sứ đã hy sinh.
Hôm nay, lần đầu tiên trong cuộc chiến đấu, sao người nào cũng cảm thấymình như vừa mất đi một cái gì hết sức quý giá. Mà đồng thời họ lại như tiếp nhận được một cái gì rất đỗi lớn lao. Trong trái tim của từng người đang cầm súng này vừa chứa nỗi đau, vừa chứa đầy căm oán. Tưởng chừng mỗi trái tim đều đang tuôn ra khắp châu thân những luồng máu nóng sôi, cứ trào lên, trào lên không ngớt. Chưa có ai, dù chỉ một đôi khi, lại được nghe cái tiếng tuyệt diệu như tiếng nói của Sứ vừa nói với họ. Chưa có ai, dù chỉ là một lần, mà lòng lại yêu thương nhiều đến thế, căm thù và siết chặt ý chí chiến đấu của mình mạnh đến thế.
Trong hang, Quyên đã khóc. Nhưng bây giờ thì cô không thể khóc nữa. Cô phải gạt nước mắt, vì con Thúy lại bíu lấy cô mà hỏi má nó đi đâu, mà nó đi chừng nào về? Quyên lại nói dối con Thúy rằng má nó ra xóm công tác rồi sẽ về thôi. Cô không thể nói thực với cháu mình. "Nó còn bé quá, nó không thể kìm giữ như mình đâu!" Quyên nghĩ thế. Trong hang tối, Quyên ôm cháu, đau đới nghĩ rằng lần này chắc nó mất mẹ thực rồii. Nâng trên tay mình tấm áo của chị Sứ còn để lại, nước mắt Quyên cứ ứa ra. Cô đưa chiếc áo đó lên miệng day day, dứt dứt. Từ tấm áo, Quyên nghe rõ mùi mò hôi âm ấm. Mùi vị này sao mà âu yếm, sao mà dịu ngọt, hệt như chính cái hơi thở của chị Sứ thường khi vẫn phả vô mặt Quyên. Chiếc áo bà ba đen này chính mẹ cô đã dệt mót những sợi tơ càng, vừa đủ may một cặp áo, cho cô một chiếc và chị Sứ một chiếc. Chiếc áo của cô thì cô đang mặc trong mình. Mà chiếc áp của chị Sứ thì chị ấy cũng còn đang để lại đây. Lúc ra suối, chị đã cởi đắp cho con. Đêm hôm qua, chắc chị lạnh lắm. "Chị Sứ ơi, mặc chiếc áo má may cho chị em mình một lươợt này, em sẽ nhớ chị lắm thôi. làm sao em quên được chị hồi nhỏ, chị hồi còn con gái, và lúc chị làm người mẹ nuôi con. Thôi thì từ nay em sẽ phải là chị, nuôi má, nuôi con Thúy, em phải là người con gái như chị, người đảng viên như chị, rồi em cũng sẽ phải là một người mẹ như chị vậy!"... Trong cơn thổn thức, tay Quyên mày mò túi áo chị, đụng nhằm cái thơ. Nhưng hang mờ tối,cô không biết, liền móc cất vào áo của mình.
Bên ngoài chợt có tiếng gì lanh lảnh, ồm ồm. Nghe đâu như lại có tiếng loa. Quyên giằng con Thúy ra:
- Con ở đây, dì ra ngoải một chút!
Quyên chạy ra hang. Tiếng ồm ồm không còn nữa. Cô gặp Ngạn. Mắt Ngạn long lên coi rất dữ tợn. Anh hổn hển bảo:
- Tụi nó mới bắc loa vô nói là đã chém chị Ba rồi treo lên. Nó lại kêu mình đầu hàng nữa!
Quyên kêu "trời ơi" rồi chạy xổ ra miệng hang. Anh Hai Thép chồm người kéo cô lại. Cô khóc tức tưởng trên vai anh Hai Thép. Bấy giờ Ngạn, anh Ba Rèn và bốn anh em khác lại đề nghị cho họ đánh thốc ra. Anh Hai Thép vẫn lắc đầu.
Ngạn nói:
- Tôi phải ra, tôi không chịu nỗi nữa đâu!
- Tôi cũng vậy - Anh Ba Rèn xốc cây súng lên - Tôi chết tôi chịu, chớ nó giết cô Sứ, tôi ở đây tôi chịu không nổi.
Anh Hai Thép nói:
- Vì cuộc chiến đấu cần phải được giữ vững, tôi nhắc lại, không anh nào được tự ý xông ra hết!
Bốn năm người, trong đó có Ngạn và Ba Rèn, đều khựng lại. Anh Hai Thép nói:
- Trở về chỗ của mình ngay đi!
Dừng lại một giây, anh dứ dứ bàn tay:
- Trả thù cho Sứ phải là ở đây, là phải đánh thắng trận này!
Bốn năm người không ai bảo ai, kẻ trước người sau lặng lẽ lui về chỗ. Quyên cũng đã bớt khóc. Anh Hai Thép đến bên, để tay lên vai cô, khẽ nói:
- Thôi, vô trong hang đi Quyên! Vô trỏng với con Thúy. Đừng khóc nữa em, đừng thèm khóc...
Quyên nghe lời anh Anh, cắn cắn ngón tay, bước từng bước một đi vào hang trong. Khi Quyên đi rồi, Anh Hai Thép ngồi xuống tảng đá, vê một bộ râu mép mấy bữa không cạo mọc ra rất rậm, nói giọng như thường:
- Tụi này nó bắt đầu đem loa phóng thanh gắn trước hang để chơi cái trò tâm lý chiến rồi đó. Không dè vừa rồi bị Sứ mượn loa phóng thanh nói chuyện với mình, cổ võ mình; thành ra phản tác dụng ráo trọi. Sứ khá lắm cứng lắm. Tội nghiệp, Sứ cứ tưởng mình chưa biết nuối suối có thuốc độc, Sứ dặn mình đừng uống. Anh em coi Sứ còn dặn tụi mình đừng buông súng, đừng bao giờ buông súng...
- Còn lâu mình mới buông súng - Anh Ba Rèn nói - Trừ phi mình chết hết...
Chú Tư Nghiệp bĩu môi:
- Chừng nào mình mới chết hết? Còn một cái be sườn, tôi cũng chơi với nó hết cái be sườn đó. Mà nhắm có chết, mình cũng tháo súng vụt bỏ chớ ai thèm để cho nó lấy!
- Chú Tư nói phải quá! Cháu cũng làm y như chú, nhưng bây giờ chú còn nước cho ... cho cháu uống miếng đi, khát quá!
Đạt nhỏ nói, rồi chú Tư cười "ngoại giao". Chú Tư Nghiệp bảo:
- Cái thằng uống nước thiệt dữ, uống như là trâu uống...
Chú Tư Nghệp trao bi-đông cho Đạt. Đạt cầm bi-đông đưa lên miệng. Trong bi-đông không chảy ra một giọt nước nào cả. Đạt định la: "ối, ông già chơi không sướng!" nhưng Đạt ghìm lại không la. Đạt giả dò chép miệng như mới tu xong ngụm nước, rồi cậu chuyển bi-đông qua Tới nói:
- Anh Tới làm tạm một miếng cho thông cổ đi!
Tới bị mắc lừa, đỡ bi-đông kề miệng uống. Đạt nón không được, cười rũ. Tới đỏ mặt, liệng cái bi-đông vô hốc đá. Chú Tư Nghiệp cũng cười ngất, rồi còn hỏi:
- Uống "đã" chưa?
- ổng cho tụi mình uống bi-đông không mà ổng còn hỏi nữa chớ!
Chú Tư Nghiệp càng cười lớn:
- Hồi sáng tôi đã nói là hết rồi. Ai biểu mấy ông...
Chú Tư Nghiệp đứng tuổi rồi, mà lắm khi vẫn cứ gọi bọn nhỏ bằng ông. Chú trước vốn là tín đồ Hòa Hảo, mới cắt tóc và ăn mặn hai năm nay. Con người ấy vừa tin Trời Phật, nhưng lại rất nghịch ngợm. Sự thật cái bi-đông của chú đã hết nước từ đêm hôm qua. Đêm hôm qua thì còn một chút, chú đã dốc hết cho thằng Bé.
Bây giờ cả hang đều hết không còn một giọt. Cơn khát càng vò xé cổ họng mọi người. Anh Ba Rèn nói:
- Cứ mửng này chắc đái mà uống quá!
- Chắc giống la-ve lắm. Hồi kháng chiến có đồng chí mình vượt Côn Đảo, ra giữa biển khát quá cũng phải đái mà uống.
Năm Tấn lắc đầu:
- Cái gì chớ thứ la-ve đó tôi không ghé. Thà là nhịn khát:
Anh Ba Rèn bảo Năm Tấn:
- Ông sao khó tánh quá? Thời buổi giặc giã đâu phải lúc nào ông cũng ngồi tréo ngoảy sai vợ con pha trà cho ông uống được.
Mọi người đều cười. Tới xế chiếu, sau khi nhai mấy vốc gạo rang. Ba Rèn khát quá không chịu được, anh ta đái vô bi-đông. Nhân lúc anh Hai Thép đã đi vào trong, anh cầm bi-đông nước đái lắc lắc, rủ mọi người uống. Chưa ai hưởng ứng theo, anh liền uống trước. Tợp xong một ngụm anh "khà" một cái ra vẻ khoái trí, rồi kêu lên:
- Khá quá, anh em ơi!... Cứ việc làm đi, chết tôi chịu cho.
Dần dà có mấy anh cũng uống theo. Lúc đó, anh Hai Thép đi ra, thấy thế muốn can họ nhưng anh không mở miệng can họ được. Bản thân anh, anh cũng khô khát cả cổ. Với lại, cái chuyện đó đối với anh cũng không có gì là ghê gớm. Năm đen tối, tuy chưa phải đái ra để uống, nhưng có lần anh phải nhịn đói bốn hôm liền, bắt con còng sống nhai rau ráu., Có đêm anh bị cảm nặng trong "cứ' rừng, chính Ba Rèn đây đã cắt máu cho anh bằng một con dao phay. Đêm ấy, trong chòi không đèn đóm. Ba Rèn phải bật lửa xành xạnh. Khổ nỗi, cái bật lửa của Ba Rèn lúc đó cũng đã mòn tin cứ phải rút gòn ở đít. Quẹt phừng lên được một cái thì Ba Rèn lại vội vàng kề dao phay cắt vào sống lưng anh, nặn vọt máu bầm ra. ấy thế mà rồi anh cũng qua khỏi cơn cảm đó. Thuở giờ, người ta nói ăn tấm heo như nói đến một thức ăn tồi tệ, nhưng tấm heo thì anh củng đã ăn. Cái bàn chân trái bị thương cụt mất hai ngón của anh buộc anh dạo đó cứ mỗi lần mò ra xóm, anh đều phải trần mình lội dưới rạch, vì bọn địch đã có lần nhận được dấu chân anh trên đường đi cề xóm, nên chúng lùng anh ráo riết. Kể ra thì còn không biết bao nhiêu gian khổ khác mà anh đã trải qua. Vì vậy, cái chuyện khát quá phải đái để uống, tuy khiến anh bơi bất nhẫn, nhưng không khiến anh ghê gớm.
Nhưng đột nhiên anh sực nhớ mang máng đâu hình như bữa trước anh nhác ngó thấy trên tảng đá nào đó trong hang có đọng vài vũng nước. Anh bảo anh em:
- Thôi, đừng uống nữa. Để tôi đi kiếm coi có nước vũng không, may ra.
Nói rồi anh đi vào hang, bấm đèn dọi coi từng tảng đá một. Kiếm mải mới gặp trên một tảng đá hơi trũng mặt, còn đọng lại một vũng nước mưa hàng hai bụm tay. Anh khoát thử một miếng nước đưa lên ngửi. Từ vốc nước bốc lên mùi lá mục, nghe thôi thối. Anh chặc lưỡi nghĩ: "Ăn thua gì?". Anh rời tảng đá trở ra kêu người nào khát nhất đi theo anh. Tất cả năm người trong đó có cả anh Ba Rèn, chú Diệp nhỏ. Riêng anh Năm Tấn thì không đi. Anh ta nói:
- Thôi mấy ông đi đi, thứ nước thúi hoắc đó, tôi không chơi!
Đứng trên tảng đá, anh Hai Thép với tay kéo từng người lên. Anh bấm đèn chỉ vũng nước. Anh Ba Rèn nói: - Đỡ quá! - Đoạn anh vỗ vai cậu Diệp học sinh:
- Thôi, nhường chú em đẹp trai này làm trước.
Diệp nhìn vũng nước vàng màu cà phê, do dự. Anh Ba Rèn bảo:
- Làm đi chú em, có bịnh tôi chịu cho. Thuở giờ tôi biết chú em ở Sài Gòn uống rặt la-ve xá xị, bây giờ lâm cảnh ngặt nghèo, chú em phải nhắp đỡ vài hớp đặng chịu động. Còn đánh lâu lắm đa, chú em!
Cậu thanh niên học sinh nhoẻo miệng cười, rồi ngoan ngoãn khuỵu hai gối chân, nằm sấp xuống tảng đá. Dưới ánh đèn pin, bộ mặt trắng trẻo của cậu ta nhóng tới bên vũng nước. Cậu thè lưỡi uống ực ực hai ba hớp rồi đứng nhổm ngay dậy. Một tay phủi đít quần "đạc-cơ-rông", một tay cậu ta đưa lên quẹt mép, cười chành bành cái miệng. Anh Ba Rèn nháy mắt hỏi:
- Có khá không bồ?
- Cũng đỡ...
- Thì tôi nói đỡ lắm mà. Tới tôi...
Anh Ba Rèn lại nằm sấp xuống y như cậu Diệp. Anh tợp hai hớp, đứng dậy khoát tay bảo người bên cạnh:
- Làm đi!
Người đó cũng làm y như động tác của anh Ba Rèn. Cứ thế lần lượt hết người này tới người khác. Vũng nước phút chốc cạn queo. Cuối cùng, khi đến phiên anh Hai Thép thì nước chỉ còn lấp xấp, thành ra anh phải thè lưỡi liếm.
Anh Hai liếm khô chỗ nước đọng, đứng dậy. Chợt anh nghe phía trong vẳng ra tiếng thằng Ba Phi ho khúc khắc. Anh Ba Rèn hất hàm về hướng có tiếng ho"
- Tôi đã nói thế, để thứ đó chỉ tốn gạo hao nước. Thôi, cứ giao tôi, tối nay tôi đưa nó đi theo ông bà ông vải cho rồi!
Anh Hai Thép nói:
- Chưa được, muốn xử nó phải có trên thông qua. Vả lại, để có đủ mặt bà con thì tốt hơn. Ông nóng quá! Giết một thằng, dù thằng đó là ác ôn, cũng phải để quần chúng hỏi tội rõ ràng. Có cái là tôi thấy để nó ở hốc hang này không ổn, mình bàn công chuyện nó nghe ráo. Có lẽ tối nay phải dời hai đứa nó vô sâu hơn chút nữa.
- Phải đó, tối nay nên dời nó đi!
Ra ngoài, anh Hai Thép gọi Ngạn đến bàn:
- Lát tối, cho một tổ bám ra ngoài coi sao? Với lại kiếm cách leo bẻ một ít dừa. Bẻ được dừa thì đỡ lắm, vừa có nước uống, lại vừa có cái để nhấm nháp.
Ngạn bảo để Ngạn đi với Tới và Trọng. Anh Hai Thép hỏi:
- Hai cậu đó leo dừa giỏi không?
- Leo khá.
- Vậy thì được. Nhưng phải hết sức cẩn thận, dò dẫm từng bước. Đêm nay trăng còn tỏ, phải thận trọng mới được.
- Tôi sẽ chú ý, anh đừng lo - Ngạn nói.
Ngạn dạy sang anh Ba Rèn cười cười:
- Nè, tụi tôi có công thộp thằng Ba Phi. Có xử thì tôi phải xử nó, chớ việc đó không phải phần anh đâu! Ba Rèn trề môi:
- Chú mà chém chắc nổi gì, chú chém run tay đâu có ngọt bằng tôi được!
- Không, nếu tôi chém, tay không không run đâu!
Ngạn nói thế và anh đi gọi Tới, Trọng chuẩn bị.
Ba người lột áo ra, buộc ngang đầu. Mỗi người chỉ mặc độc cái quần cụt, thắt mấy băng đạn tôm-xông và mấy quả MK3 nơi sườn. Họ cầm tôm-xông ngồi chồm hổm dưới hốc đá đợi trời tối.
Ngạn nhìn cái lối mòn ngoằn ngèo ngoài miệng hang cứ mỗi lúc một đẫm bóng chiều hôm. Nắng đã tắt từ lâu, và ngày cũng sắp không còn nữa. Xa xa ngoài kia, vườn dừa bỗng rì rào. Những tàu lá dừa ngả sang màu biếc sẫm, lả lay trong gió, trong lúc âm vang của sóng biển vẫn mạnh mẽ, ầm ã. Vườn dừa ngan ngát như đắm mình trong sương khói. Chẳng mấy chốc, cả vườn dừa nổi gió và cái lối mòn ngoằn ngoèo ấy nhòa đi - Đêm tối tràn ngập. Địch bắt đầu bắn súng. Bây giờ Ngạn nghe tiếng sóng rõ hơn. Anh thấy bóng đêm như cái bàn tay có phép vỗ im được mọi tiếng động nhỏ khác để cho biển, chỉ mỗi mình biển là được cất cao giọng nói. Triệu triệu lớp sóng từ ngàn khơi vỗ vào bờ lộng đó, muôn đời vẫn là cái tiếng nói lớn lao bền bỉ nhất của quả đất.
Mấy đêm qua, đêm nào mà Ngạn lại không nghe tiếng biển dội vào, và anh nghe tiếng biển ấm hẳn hơn trước. Anh có cảm tưởng vách hang như là chất da thịt mặt trống, mà sóng dội liên hồi vào đó thì nghe rùng rùng chứ không gầm gào và rền rĩ.
Hôm nay mới mười tám tháng chạp âm chạp, nên đêm không đen lắm. Mới vào đêm một chốc, ngoài hang đã tái nhợt. Ngạn lại trông thấy cái lối mòn mờ mờ hiện ra và những tàu lá dừa ngoài kia lại đung đưa, lấp lánh.
Ngạn xách súng, nhổm dậy, khẽ nói qua hơi thở:
- Đi được rồi!
Tới và Trọng đứng vụt lên. Họ cùng dừng lại miệng hang một giây, rồi mới bước thoát ra ngoài. Súng cắp nách, Ngạn khom lưng, tay trái đưa ra phía trước. Anh không đi theo lối mòn, mà đi một lối khác, ngang đó. Cả ba lom khom, bò vào ven vườn dừa. Họ vào được tới ven vườn một cách êm thấm.
Mới lẩn vô được mươi thước, bỗng Ngạn nghe mấy phát ga-răng nổ sát bên. Địch bắt đầu bắn cầm canh. Sau đó, nghe trong vườn tụi lính nói chuyện lào xào, Ngạn rỉ tai Tới và Trọng:
- Nó bắn cầm chìa không có gì đâu!
Tới nói:
- Bẻ dừa đi. Bẻ để đây, một chốc mình quẩy về!
- Bẻ thì bẻ!
Tới và Trọng chọn hai cây dừa thấp, ở trên chóp loáng thoáng những quày dừa rất sai quả. Hai anh đưa súng cho Ngạn, sửa soạn leo lên. Ngạn khẻ dặn:
- Đợi nó bắn súng hẵng buông xuống, để tụi lính khỏi nghe thấy!
Tới gật đầu.
Hai anh leo dừa giỏi, nên không cần có nài. Trong nháy mắt, cả hai đã biến mất trên chót ngọn. Tới và Trọng vặt cuống dừa trèo trẹo. Đợi lúc súng giặc vừa bắn "bóc đùng", hai anh thả dừa rớt xuống. Tiếng dừa rụng bị tiếng súng át mất. Trong vòng ba phát súng nổ, họ buông xuống đất sáu trái. Trái dừa nào rớt xuống Ngạn cũng lượm gom lại, để một đống. Thấy bẻ nhiều không thể mang hết. Ngạn khẽ vỗ bộp bộp vào thân dừa. Tới và Trọng biết ý, tuột xuống. Ngạn đưa súng lại cho họ. Cả ba để đống dừa ở đấy, men vào vườn sâu hơn chút nữa. Mới đi được vài bước, bỗng Ngạn giơ tay ra sau chặn Tới và Trọng lại. Anh ngó thấy phía trước có ba bốn chấm lửa bằng đầu đũa. Đó là bọn lính đang ngồi buồn hút thuốc. Mùi thuốc lá Thủ bay thoảng tới, găn gắt. Ba người nép mình sau cây dừa, ngồi thụp xuống. Ngạn chĩa họng súng về hướng đó. Mấy tên địch ngồi rất gần, đến nỗi khi chúng rít thuốc thì đầu những điếu thuốc đỏ rực lên, soi rõ từng cái sống mũi, từng bộ mặt nhờn nhờn của chúng. Những bộ mặt đó lúc biến đi, lúc lại hiện lên. Chợt Ngạn nghe một thằng nói:
- Đ.mẹ, hôm rồi tụi nó bắn đại úy mình tè bật ngửa miệng hang ngó ớn quá! Liệng gần một ngàn trái MK3 vô đó mà không ăn nhậu gì hết!
Một tên khác thở ra:
- Nấn ná ở đây hoài rầu thấy mẹ! Tụi nó núp ở trỏng coi bộ quyết lòng sanh tử với mình quá. Bốn bữa rày tụi nó tém mình gần một trăm đứa chớ ít sao?
- Còn mình chỉ bắt được một đứa phụ nữ. Thiếu tá dự dỗ nó hết lời mà không ăn thua. Con nhỏ đó mặt mũi hiền lành dễ coi mà thiệt là gan mật! Đưa micro để nó kêu tụi kia đầu hàng thì nó lại kêu tụi kia đừng buông súnb. Thiếu tá cho treo nó lên cây dừa rồi bắt dẫn bà già nó tới. Ngó thấy bà già, con nhỏ rưng rưng nước mắt. Ông thiếu tá tưởng nó xiêu lòng, hạ dây cho nó xuống, biểu nó kêu gọi tụi trong hang lần nữa ai dè nó co chân đá cái micrô văng đi... - Ngừng một chút, tên lính tiếp: - Nói thiệt với tụi bay, lúc trung úy Xăm rút dao chém, sao tao mắc cỡ hết sức...
- Trung úy Xăm chém cô ta không chết mà ông bị chấn thương ộc máu coi ghê quá!
Một tên lính chép miệng:
- Không biết bây giờ chết chưa?
- Ai chết?
Cái cô đó đó!
- Chết rồi. Nghe đâu mới chết hồi tắt nắng...
Ngạn gục mặt xuống bãi cỏ, cổ nghẹn lại. Tên lính lại nói:
- Trung úy Xăm chém bốn dao mới trúng một dao. Lúc đó cổ chưa chết, ông thiếu tá sai treo lên, tính để cô oằn oại rên la cho Việt cộng trong hang nghe mà thối chí. Nhưng từ đó cho tới chiều, cổ không rên la chi hết.
- Không, hồi gần chết cô có la. Tao nghe cổ giãy mình trên dây rồi la với đám dân chúng ngoài xóm lúc đó vừa tràn tới: - "Cô bác ơi, hãy trả thù cho con!" Cổ la vậy, lại kêu cụ Hồ, giãy mấy cái nữa mới chết!
Đang nói, giọng tên lính bỗng hổn hển:
- Tao chỉ... chỉ kịp nghe vậy... rồi bỗng thấy đám dân chúng hét lên, rần rần xổ tới. Toàn là đờn bà với ông già, con nít. Họ cấu xé, chửi rủa, đánh đạp tụi tao không sợ gì súng ống. Có một bà Thổ vác dao dâu nhào vô tính chém trung úy Xăm. Tụi biệt kích cản lại bị bả chém xoạc vai một thằng.
Tụi lính tính bắn trả thì trung úy Xăm kêu: "Đừng bắn, đừng bắn!". Nghe nói bà Thổ đó là bà già ruột trung úy Xăm... Còn tao mới hoạn nạn chớ, tao bị họ xô té ngửa, rồi một con mẹ mập ú chạy đạp lên người tao... muốn nín thở. Lúc tao ngồi dậy được thì dân chúng họ đã chặt dây hạ xác cô phhụ nử xuống. Họ cùng bà mẹ cổ cõng xác cổ chạy đi. Thiếu tá ra lệnh giựt xác lại. ổng la" - "Tôi bắn mấy người không còn một con đỏ bây giờ! Mấy người bao bọc chôn thây Việt cộng hả?". Dân chúng họ trả lời: "Chúng tôi chôn con cháu chúng tôi chớ chúng tôi không biết là Việt cộng gì hết!". Họ nói vậy rồi cứ khiêng đi. Thiếu tá phải nhượng bộ, để họ khiêng. Mà không nhượng bộ sao được, họ bất kể súng đạn, cứ rần rần, rần rần!... Lúc đó, tụi tao mà bắn thì thế nào họ cũng có chết, nhưng tụi tao không bắn...
Tên lính ngừng nói. Chúng lại im lặng mồi thuốc, hút thuốc. Lát sau, có mấy thằng đứng dậy. Một tên bảo:
- Chưa tới phiên gác, mình thả bậy vô xóm chơi. ở trong xóm có một ông già mù đờn độc huyền hay lắm...
Mấy thằng lính đi về phía Ngạn. Anh nín thở, nép sát sau gốc dừa. Chúng đi ngang, nhả khói thuốc bay tạt vào mũi anh.
Khi chúng đi khỏi rồi, chỗ ban nãy cũng còn lại vài tên. Một tên thở ra cái "khì":
- Cha... Tết này không biết mình ăn Tết ở đâu đây?
- Tao ngán nhứt là xuống miệt Cà Mau!
- Nói Cà Mau chi cho xa! Mình mà còn láng cháng ở đây, thì Tết này cũng không về được với vợ con đâu!
- Thôi thì ráng né, đừng vô cái hang thảm thiết đó nữa. Hết võng khiêng rồi nghe, mậy?
- Biết làm sao mà né, nó bắt vô mày không vô mà được à?... Trời ơi, hôm qua tao đi ngang trường học, nghe tụi bị thương nằm đó kêu la dữ quá?
- Tao thấy nghe theo hạ sĩ Cơ thì may ra mới toàn tánh mạng được!
- Chín Cơ hả? Y nói sao?
Đến đây, hai tên lính cùng hạ thấp giọng, thì thào. Ngạn không còn nghe rõ chúng nói gì với nhau. Anh mằm in một lát rồi đưa chân khèo Tới,Trọng, ra ý bảo họ bò lui ra. Ba người lần mò trở lại chỗ để đống dừa ban nãy. Trong bóng tối, họ tước vỏ dừa, hì hục buộc lại thành cặp. Mỗi người khoác lên cổ mình một cặo, rồi theo đường cũ, đi về phía hang. Suốt quãng đường trở lại hang, Ngạn đau đớn nghĩ: "Thế là chị Sứ không còn nữa, chị ấy chết thiệt rồi!". Nỗi thương tiếc và căm oán ngập ngụa lòng anh. Trong khi đó,hai quả dừa anh vắt qua cổ cũng mỗi lúc một thêm nặng trĩu.
2.
Nơi hốc đá tận cùng mà vợ chồng thằng Ba Phi bị trói bỏ đấy không lúc nào có ánh sáng, dù là thứ ánh sáng hiếm hoi mờ ảo của hang động. Trong hốc hang này, ngày cũng như đêm, chỉ có bóng tối, thứ bóng tối ở chỗ hẹp tuồng như đặc sệt lại. Mỗi ngày một lần, khi thì Quyên, khi thì Năm Nhớ, đem đến cho vợ chồng tên gián điệp đó những vốc gạo rang. Nước lúc nàp chúng cũng được uống. Quyên nói với chúng.
- ở đây không có nước nhiều đâu!
Lúc Quyên đi khỏi, thằng chồng rít lên trong cổ họng:
- Không có nước? Nó không muốn cho mình uống chớ không có!
Mụ vợ nín im, lo sợ và rầu rĩ. Thằng Ba Phi lại nói, giọng nó pha tiếng cười:
Mấy bữa rày bị vây siết dữ rồi...Mẹ, chịu không thấu đâu! Sớm muộn gì mấy "ổng" cũng tràn vô hang cho coi!
Y còn vỗ về vợ:
- Tao bảo đừng có khóc, đừng có lo, không chết đâu mà sợ! Mấy "ổng" mà tràn vô hang là mình sống, nhứt định sống!
Rồi y gầm gừ:
- Đ.mẹ, chừng đó rồi biết tay tao!... Tao chặt không chừa một đứa. Thứ nhất là thằng Hai Thép, thằng đó cầm đầu ở đây, rồi ến mấy thằng bắt mình đêm nọ, rồi thằng Ba Rèn, chặt ráo!
- Trời oi, im đi ông ơi!... Tôi sợ lắm! Tôi sợ tới cùng mấy "ổng" tràn vô thì mình cũng không còn. Thế nào họ cũng giết mình trước.
Nghe vợ nói, thằng chồng nín lặng. Câu nói của mụ vợ một lần nữa lại tới bên nỗi lo sợ trong lòng y khiến mấy bữa nay y vẫn phập phồng. "Có thể như vậy lắm. Có thể tụi nó sẽ ra tay xử mình trước lắm". Mỗi khi nghĩ tới điều đó, đôi khuỷu tay bị trói chặt của y bỗng dưng run lên cầm cập. Nhưng trong nỗi kinh sợ, y vẫn hy vọng được giải thoát. Và y bấu níu lấy hy vọng đó, bằng cái tâm địa bất lương cố hữu của y, bằng tất cả sự căm oán và hằn học lúc nào cũng rắp sẵn, nung nấu. Trong con người thằng chỉ điểm hói trán này đang diễn ra một tâm trạng đợi chờ thấp thỏm. Khi thì hy vọng thúc y chồm lên, khi thì thất vọng xô y khuỵu xuống. Con cáo độc mắc bẫy thế nào, y cũng thế ấy. Nhưng còn hơn con cáo, y chẳng những muốn thoát bẫy,mà lại còn muốn cấu xé sau khi xổ ra được. Sự hy vọng cùng sự thất vọng của y lộ ra rõ nhất lúc địch mở các đợt đột kích vào hang. Lúc súng hoặc lựu đạn nổ ầm ầm,là lúc y chồm dậy, khấp khởi. Tay chân y lúc ấy tưởng như mọc móng mọc vuốt. Trong bóng tối xó hang, y không ngớt lấy cẳng hích đùi vợ, tính đâu cái giờ phút thoát bẫy đã đến. Nhưng khi nghe những phát súng lẻ nổ chắc chắn từng phát một, y lại hoài nghi. Rồi, các đợt đột kích bị đánh bật, trả về cho hang động sư yên tĩnh thường lệ. Đợi mãi vẫn không có ai vào mở trói, lúc đó y lại thất vọng lại vật lưng vào vách đá mà thở hổn hển. Mỗi lần anh em trong hang phản xung phong thắng lợi là một lần mối hy vọng độc ác giãy giụa trong người thằng Ba Phi bị dập tắt. Và tấn bi kịch của y vẫn hoàn nguyên. Vẫn là vòng dây siết lấy đôi khủyu tay, vẫn là hốc hang sâu thẳm đầy bóng tối chớ không hé ra được một tia sáng.
Song dù thế, y vẫn chờ đợi. Với hai lỗ tai giảo hoạt, y rình nghe mọi lời nói và mọi tiếng động từ bên ngoài lọt vào. Vì thế, tuy bị giam cầm ở hốc hang trong cùng, nhưng y vẫn biết được phần lớn cái gì đã xảy ra trong bốn ngày đêm quyết chiến.Y đã bắt đầu có cái thói quen nhổm dậy kể từ khi loạt súng thứ nhất của bọn giặc nổ ran. Buổi sáng lựu đạn nổ ngót một ngàn trái là một trong những buổi sáng mừng rỡ của đời y. Đêm chặt tay thằng Bé đối với y là một đêm hả hê. Hôm Quyên bị bất tỉnh về những quả lựu đạn MK3 và Năm Nhớ bị trúng độc, y khoái trá. Cả về việc chị Sứ ra đi không trở về hang, y cũng biết. Rồi cái chuyện giặc bắc loa buộc chị Sứ kêu gọi đầu hàng cũng gieo vào lòng y nỗi mừng khấp khởi, nhưng y rất dỗi kinh ngạc và hậm hực khi biết bị Sứ đã nói ngược lại. Không có nước uống, cổ họng y cũng khô khát như ai. Nhưng trong nỗi khổ thiếu nước, lòng y cũng vẫn dấy lên cái hy vọng độc địa là nếu không có nước thì mọi người trong hang này không thể chống trả lâu được. Riêng khi biết rằng chị Sứ có thể chết đi thì y lo nơm nớp. Không phải lo cho tính mệnh Sứ, mà lo cho tính mệnh của y: "Chắc tụi nó giết mình để trả thù". Đôi khi y cũng không muốn đám người trong hang bị đánh nột quá, vì thế theo sự suy đoán của y, một khi nột quá họ có thể xử tội y trước.
Ngày cũng như đêm, y cứ lo quẩn về số phận của vợ chồng y, nhất là của y. Trước sự đe dọa của cái chết,thằng chỉ điểm ác ôn này có nhiều ý nghĩa diễn biến hết sức lạ lùng. Tất cả mọi ý nghĩa đó đều đen như chính cái bóng tối đang vây quanh y.
Đêm này, giữa lúc mụ vợ thở dài sườn sượt. Trước sự đe dọa của cái chết, tên Ba Phi bỗng giật mình thấy có cái chi rọi sang sáng trước mặt.
Thì ra đó là ánh nến. Người cầm nến đi xồng xộc về phía y. Mấy bữa nay, trước mặt y chỉ tuyền là bóng tôi nên y bị lóa chưa kịp nhận ra ai, thì đã nghe:
- Đứng dậy!
Người nói ấy là anh Hai Thép
Tên Ba Phi vội vã đứng lên. Cả mụ vợ cũng rối rít đứng lên theo. Nhưng anh Hai Thep giỡ ngón tay ngăn mụ lạibảo mụ cứ ngồi đó. Anh quắt mắt nhìn tên Ba Phi:
- Nghe tao hỏi, mấy bữa nay mày đã thấy ra tội của mày chưa? Như vậy mày đáng chết chưa?
Thằng chỉ điểm cúi thấp chiếc đầu hói, im lặng:
- Nói - Anh Hai Thép lớn tiếng giục.
Bờy giờ, y đáp một tiếng cụt ngủn:
- Đáng!
Anh Hai Thép gật đầu:
- ờ, đáng chết!
Ngừng một giây, anh nhìn y nói tiếp:
- Thôi đi!
Tên Ba Phi thoạt nghe thế thì liền lúc đó, hai gối chân y tự nhiên rủn xuống. Nhưng ở phía sau, anh Ba Rèn đã lách tới,lẹ làng đưa cánh tay lực lưỡng xốc ngay nách y dậy.
Anh Ba Rèn chợt thấy thằng Ba Phi như không còn có chân nữa. Đôi chân đó giờ cứ như cái gọng bún, cứ ngoặt ngoẹo rủn xuống.
Anh Hai Thép giơ cao ngọn nến soi lối cho Ba Rèn vừa lôi xốc thằng Ba Phi đi vừa càu nhàu:
- Thằng này sở quá, chưa chi đã xỉu rồi!
Anh Ba Rèn đem nó vào cuối hang. Chỗ này ở gần chỗ để một cái lu mái lớn màu thổ chu đựng di cốt sáu đồng chí bị giặc thảm sát. Đó là những xương cốt mà hồi năm ngoái chị em Sứ đã lén lút mò nhặt từ trong bàu rừng.
Bọn giặc đập đầu các đồng chí ta bằng cột chèo rồi liệng xác xuống tàu. ba ngày trời, Sứ và Quyên đi kiếm không gặp. Tới bữa trưa ngày thứ tư, hai cô mò vô rừng tràm thì bỗng nghe tiếng chó hoang tru từng hồi dài. Hai cô lẩn tới đó, thấy một bầy chó bốn năm con từ dưới tàu chạy lên, mồm ngoạm những chiếc xương tước thịt lòng thòng. Chính Sứ vác cây tất tả đuổi đánh bầy chó, giật lại từng cái xương, còn Quyên thì xăng quần lội xuống quờ tay mò. Hai người mò hết tất cả những xương dưới bàu, túm vào vải nhựa vác về Hòn giấu. Bấy giờ thì chẳng còn nhận ra xương là của ai nữa. Đồng khởi lên rồi, xương đó mới được đặt vào lu mái để ở đây.
Xốc thằng Ba Phi quá khỏi cái lu để xương một chút, anh Ba Rèn đặt dựa y vào vách đá. Đầu thằng chỉ điểm vẫn nghẹo xuống. Anh Ba Rèn và anh Hai Thép đứng đợi mãi, một lát sau y mới tỉnh dậy.
Hai người lôi y vào tận trong cùng. Lúc trở ra, Anh Hai Thép nói với anh Ba Rèn:
- Tôi coi tụi ác ôn thì đứa nào cũng vậy, ông à.Tụi nó có gan giết người, chớ không có gan chịu chết. Hồn nãy, nó ngỡ mình đưa nó đi giết nên nó chết giấc đó!
- Thì thứ đó mà gan góc mẹ gì! Có tài chỉ chọc chớ nhát hít thôi.
Hai người ra tới ngoài miệng hang thì Ngạn cũng vừa về tới. Anh liệng cặp dừa xuống đất giữa tiếng vỗ tay hoang hô rôm rốp của mọi người. Tới và Trọng cũng vào đến nơi, tháo cặp dừa trên cổ để xuống. Quyên sờ soạng tìm đến bên Ngạn. Ngạn đứng hồi lâu mới nặng nhọc nói:
- Chị Ba hy sinh rồi!
Tất cả mọi người đều đứng sững lại ở cái động tác của mình. Có những bàn tay đang vỗ trong bóng tốt, chợt từ từ để xuống, Ngõ hang bỗng chốc trở nên hết sức im lặng. Anh Hai Thép đến sát bên Ngạn, khẽ hỏi giọng đau đớn:
- Chú lần tới được chỗ cô Sứ chết à?
- Không, chị ấy không còn ở đó nữa, bà con đã đem chị về xóm rồi. Tụi tôi nghe bọn lính nói chuyện với nhau.
... Ngạn ngồi bệt xuống giữa ngõ hang, kể lại với anh em câu chuyện mấy tên lính trò chuyện ban nãy. Đến cuối, lúc lặp lại lời chị Sứ gọi bà con, gọi Bác trước lúc giãy mình chết, Ngạn nghẹn ngào không nói được nữa. Quyên vùng khóc nức nở. Cô gục vào vai Ngạn, Đầu cô cứ rung lên trên chiếc vait rần rịn ướt mồ hôi của Ngạn. Mọi anh em đều úa nước mắt. Nhưng ai cũng cố nén không để bật khóc thành tiếng, dù trước đó, họ vẫn nghĩ là Sứ khó sống được, nhưng họ chưa biết chắc Sứ đã chết và biết chết như thế nào. Bây giờ nghe Ngạn kể, họ mới thấy đau đớn thật sự. Và cùng một lúc, ai cũng chợt nhận ra hình như tình yêu mến và sự hiểu biết của bản thân mình trước nay đối với Sứ đều là không đủ. Dường như người con gái đó đang ở trên cao, mà họ còn đứng thấp, nên với lên chưa tới. Đức kiên trinh và cái vẻ đẹp dịu dàng của người con gái đó chừng như bây giờ mới lộ ra hết, mà lại rất gần, rất quen. Kìa, chị đang khẽ mỉm cười và lặng lẽ. Kia, khuôn mặt trái xoan thon thả của chị đang mở to đôi mắt đẹp đẽ chân thật. Kia là mái tóc óng mượt tươi tốt mà cả Hòn Đất ai cũng lấy làm hãng diện. Những nét đó từ nay chẳng thể phôi pha trong lòng họ. Những tiếng nói sau cùng của chị củng không sao tắt được giữa lòng họ.
Thế là một lần nữa trong đời, anh Hai Thép cảm thấy tim mình như bị những móng sắc vô hình quào cấu. Anh từ từ đứng dậy, run run nói:
- Các đồng chí thấy không, sống với anh em đồng chí Sứ lo từng miếng cơm giọt nước, hiền lành nhường nhịn tất cả, nhưng giáp mặt với kẻ thù, Sứ thiệt cứng cỏi, thiệt không chịu thua chúng nó một tấc? Sự dặn chúng ta đừng buông súng, chúng ta phảinhớ lấy. Sứ dặn chúng ta trả thù cho Sứ, chúng ta cũng phải nhớ lấy!
Dưới ánh nến chập chờn, mọi người không ai bảo ai đều đứng lên, im phăng phắc. Đầu họ hơi cúi xuống. Họ hình dung ra Sứ, nghĩ đến chị với tất cả tình yêu mến. Trong phút đó, họ nắm chặt súng, lòng càng riết siết cái quyết tâm chiến đấu tới giọt máu chót.
... Từ đấy trở đi, không ai khóc nữa. Họ gạt những giọt lệ còn sót lại trên mi mắt.Họ móng lòng mang đêm qua mau, để rạng ngày địch tấn công vào, họ có cơ hội trả thù cho Sứ lập tức.
Anh Ba Rèn nói:
- Vậy mới biết vàng thiệt không sợ lửa. Cô Sứ là vàng thiệt đó, anh em à! Đâu có như thằng Ba Phi ban nãy, chưa chi mà đã té chết rồi.
- Chết thiệt à? - Ngạn hỏi.
- Không, chết giấc thôi!
Anh Hai Thép day hỏi Ngạn:
- Bẻ được mấy trái dừa chú?
- Sáu!
- Bẻ dễ không?
- Cũng dễ. Nhưng ở sát bên vòng vây tụi nó, phải đợi nó bắn súng mới dám buông dừa rớt xuống. Nghe tụi lính nói chuyện không sót một câu. Tụi nó hút thuốc, rít thở phào phào, thấy mặt mũi hết ráo. Coi bộ tụi nó hoang mang dữ. Thằng nào củng sợ vô hang. Tụi nó gọi cái hang mình đây là cái hang thảm thiết...
Anh hai nói:
- Nó đặt tên như vậy cũng phải, nhưng thảm thiết đây là thảm thiết đối với tụi nó, chớ đối với mình thì đây vẫn là hang Hòn Đất thôi.
Chú Tư Nghiệp gật đầu:
- Phải, tên Hòn Đất nghe hiền khô, vậy mà thằng nào ăn hiếp ăn đáp thì không được, dứt khót không được!
Ngạn nói:
- Nè, trận này có tụi Mỹ theo nữa. Chết một thằng rồi!
- Vậy sao?
- Nghe tụi lính nó là ngày hôm qua trực thăng xuống chở thằng Mỹ và mấy thằng sĩ quan ngụy bị thương về rồi. Tụi lính tức lắm, vì mấy thằng Mỹ lái trực thăng từ chối không chịu chở lính bị thương nặng!
- Tụi chó đẻ quá!
- Vậy cho lính nó sáng mắt ra chút đỉnh chớ! Tưởng đi theo Mỹ sướng lắm! Mỹ may ra chỉ có tình nghĩa với chó thôi, chứ cái thứ lính mướn mỗi tháng từ tám trăm tới một ngàn hai đó bị cụt cẳng đổ ruột thì nó dại gì mà cứu. Có cứu sống cũng là lính bị loại khỏi vòng chiến rồi, đánh cách mẹ gì được!
Ngạn nói:
- Tình hình này tôi coi bộ tụi lính thối chí dử.
Phải chi mình vừa đánh vừa kêu gọi cho tụi nó rã tinh thần thì hay quá!
Anh Ba Rèn bảo:
- May ra chỉ trông cậy ông Tám Chấn và bà con ngoài xóm làm chuyện đó, chớ mình ở đây hễ thấy thằng nào nhào vô là mình phải "bửa" lật thôi, chớ còn kêu rèo gì nữa?
- Không, mình cũng có thể làm được chớ - Chú Tư Nghiệp nói - Phải chi mình có vài cái loa!... Một mặt đánh, một mặt kêu. Như vậy tụi nó mau rã đám hơn.
- Có lý lắm, hay lắm. Nhưng làm sao kiếm được loa? - Ngạn hỏi.
Chú Tư Nghiệp ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Không có loa bằng thiếc thì làm như vầy cũng đặng... Tôi để ý thấy trên nắp cái lu mái đựng hài cốt các anh em hy sinh có đậy nhiều tầm mo cau. Lấy mo cau đó làm loa tàm tạm được. Tôi chắc vong linh anh em cũng không buồn phiền gì mình đâu!
Ba Rèn bảo:
- Buồn gì, phải chi mình đội mo cau đó đi đầu hàng thì mấy chả mới buồn, chớ đằng này... Mà chết rồi còn buồn khỉ gì nữa, cha nội!
- ấy, đừng nói vậy chớ Ba Rèn - Giọng chú Tư trở nên nghiêm trang thật sự - Anh em khuất rồi thì phải để anh em yên nghỉ, tôi ngại là ngại mình mó máy làm động xác thể anh em, tội nghiệp...
Anh Ba Rèm im đi một chốc rồi nói nhỏ, giọng hơi kéo dài ra:
- Sao lóng rày tôi để ý thấy ông đâm mê tín trở lại quá!
- Không phải mê tín, tôi... tôi... - Chú Tư Nghiệp ấp úng cãi.
Anh Hai Thép cười, xua tay:
- Thôi đi!... Anh Tư nói vậy không hẳn là mê tín đâu. Nhưng thấy tấm mo cau có thể dùng làm loa, thì cứ lấy làm, không sao. Vong linh anh em đồng chí mình còn mừng nữa chớ không buồn đâu. Anh cứ lấy mo cau đó làm loa đi anh Tư!
- Được để tôi làm... Nhưng nói là nói..
Chú Tư Nghiệp bằng lòng làm loa bằng những tấm mo cau nọ, nhưng vẫn còn tấm tức về câu nói của Ba Rèn. Đối với chữ "mê tín", chú không chịu, mặc dù từ lâu chú vẫn tin rằng có Trời, có Phật. Trong một cuộc nhậu nào đó, đã có lần chú cào sườn nói: "Nè, giả tỷ trên mặt địa cầu ba ngàn triệu con người ta đều không tin có Trời, Phật thì vẫn sót một người còn tin nghe đa!". Đoạn chú Tư trỏ vào ngực mình, nhấn mạnh từng tiếng một: "Người đó là Tư Nghiệp". Bây giờ chú Tư Nghiệp không còn ăn chay nữa, vì như chú nói - "Tôi tu tại bụng, chớ không tu tại miệng. Ăn chay cày ruộng đuối lắm, mà mặt mày xanh rời, coi kỳ quá!".
Lạ thay, con người còn tin Trời tin Phật đó lại có cái nguyện vọng hết sức tha thiết là được kết nạp Đảng. Nhiều lần, chú thắc mắc, hỏi anh Hai Thép liệu như chú có thể được vô Đảng không. Anh Hai Thép bảo: - "Được chớ, nhưng muốn làm người Đảng thì phải thực tế. Người Đảng tôn trọng sự tín ngưỡng của tín đồ các đạo, nhưng không tin có Chúa, có Phật, có Trời. Cái đó tôi nói thiệt, không giấu giếm ông làm chi. Nhưng tụi tôi tin là có kẻ bóc lột và người bị bóc lột. Tụi tôi tin là nếu mình đồng lòng đánh Mỹ - Diệm thì mình sẽ sung sướng, nông dân có đất càt, đạo giáo được gìn giữ".
Cái gì chứ đánh Mỹ - Diệm thì chú Tư Nghiệp chịu lắm. Nhưng nghe anh Hai Thép nói kiểu người Đảng như thế thì chú nghĩ mình khó vô Đảng được. Bởi vậy chú lấy làm đau khổ.Vì chú chưa rút được cái này nhưng lại muốn với tới cái kia.
Lời nói của anh Ba Rèn vừa rồi tự nhiên khơi lại nỗi khổ tâm đó của chú, chớ chú không giận anh Ba Rèn. Tánh chú không giận ai đâu. Lát sau, chú đã mò mẫm vào trong hang, thắp nến đi lấy mo cau. Rồi đến sau phiến đá mà mọi đêm mẹ con Sứ vẫn ngủ, chú lựa chỗ cắm nến, và bắt đầu hì hục gò mo cau lại để làm thành những cái loa.
... Bên trên phiến đá đó, Quyên vừa đặt lưng xuống cạnh con Thúy. Con bé đã ngủ. Nó vẫn chưa hay biết gì về cái chết của mẹ nó. Nằm bên cháu, Quyên mở mắt nhìn lên vòm hang tối đen. Đôi mắt Quyên ráo hoảng cay nóng. Cô lăn qua, ôm cháu vào lòng. Trên người con Thúy đêm nay vẫn đắp thêm chiếc áo của mẹ nó. Và dưới lần tay ve vuốt của mình, Quyên thấy mớ tóc xấp xõa trên đầu đứa cháu chừng như cũng đã mọc dày, mườn mượt, hệt như mái tóc chị Sứ ở một ngày xa xôi mà cô mang máng nhớ.
3.
Nhà vợ chồng Hai Thép có một cái hầm bí mật. Hầm này nguyên đã sẵn có hồi mấy năm đen tối. Sau khi đồng khởi lên rồi, anh Hai Thép chẳng những không lấp mà còn ra sức củng cố. Hầm trổ miệng ngay giữa nhà, nhưng có còn có tới ba bốn nhánh ăn thông ra ruộng. Nếu địch có khui miệng, cũng không dễ gì phăng ra được. Mấy hôm nay anh Tám Chấn ở dưới hầm, đêm đêm anh mới lên thở hít không khí cho khỏe rồi cũng trở xuống đốt nến làm việc. Chiều hôm ấy, vừa lúc trời vừa tắt nắng, chị Hai Thép từ ngoài xóm về giậm khẽ mấy gót chân xuống miệng hầm, và dở hầm. Anh Tám Chấn mới trồi lên, chị nghẹn ngào nói:
- Cô Ba Sứ chết rồi!
Anh Tám đau đớn lặng đi giây lát. Lát sau, anh mới khẻ hỏi:
- Chết hồi giấc nào?
- Mới chết hồi nãy, cách đây gần non một tiếng Thằng Xăm chém cô ấy. Tụi tôi đã cùng bà con giành được xác cô. Cô Sứ chết làm cả xóm đều khóc, bà con kéo ra đường ùn ùn. Lúc giành giật xác cô Sứ, đã xảy ra một cuộc ẩu đã giữa tụi tôi và lính.
- Hiện thi thể của Sứ để ở đâu?
- ở nhà má Sáu. Bà con bây giờ đã kéo tới đó đông lắm! Anh Tám Chấm đứng thẳng lên, hai tay choàng qua hai mé miệng hầm, ngó đăm đăm vào khoảng không trước mặt. Chốc sau, anh nói:
- Bây giờ thím phải ra đó ngay. Tổ chức hàng ngũ bà con lại cho chặt chẽ để đưa đám Sứ. Cần phải biến đám tang thành một cuộc biểu tình, đi khắp xóm, nhơn đó mà làm cho bà con căm thù thêm.
chị Hai Thép đáp:
- Tụi tôi cũng tính vậy. Để tôi trở ra ngoài liền...
Nói rồi, chí đứng nhổm lên định sửa soạn đậy nắm hầm. Chợt nghe anh Tám chấn lại bảo:
- Khoan đã!... Thím Hai, theo tính, liệu có thể nào điều động đám tang cô Sứ đi qua cận cửa hang Hòn được không?
Chị Hai Thép tỏ vẻ ngạc nhiên?
- Chi vậy anh?
Anh Tám Chấn không đáp, kéo áo chị ngồi xuống. Và anh dặn điều gì rất khẽ, rồi hỏi:
- Sao, thím nhắm liệu bề có được không, nếu được thì rất tốt!
Chị Hai Thép im đi một lát mới nói:
- Để tôi bàn với chị em coi, hễ có cơ hội thì kết hợp làm luôn. Thôi, tôi đi nghen anh?
- Thím Hai, thím phải cân nhắc cho kỹ, không nhường bước và cũng không để căng quá, đừng để xảy ra tình trạng ẩu đã với binh sĩ nữa... Phải tranh thủ lôi kéo họ là chánh... Mà thím nè, mấy đứa nhỏ đi đâu mất hết rồi.
- Tôi gửi tụi nó ở nhà bên rồi.
Chị Hai Thép đáp, và khi anh Tám tụt xuống, chị lẹ làng đậy nắp hầm lại, rồi lấy chổi quét qua mấy nhát. Chị Hai Thép ngắm nghía coi lại nắp hầm lượt nữa rồi dựng chổi, bươn bả đi tới nhà mẹ Sáu.
Bây giờ trời đã chập choạng. Trước sân và quanh nhà mẹ Sáu, bà con lối xóm đến đông nghịt.
Chị Hai Thép đến một lúc thì cuộc tẩm liệm bắt đầu. Khi chị và chị Ba Rèn sắo sửa đặt Sứ vào hòm, mẹ Sáu gác nhẹ đầu Sứ trên đùi, rồi cầm cái lược chải tóc cho con. Mẹ chải kỹ lưỡng, như mọi bữa mẹ vẫn chải cho Sứ. Cũng với chiệc lược thưa bằng sừng trâu đen huyền ấy! Nhưng lần này, mẹ chải rất lâu, chải mãi. Vừa chảy mẹ vừa lần gỡ hết các món tóc rối. Chải xong, mẹ bảo chị Hai Thép với giọng tỉnh hắn:
- Vợ Hai Thép coi phía sau tủ thờ có chai dầu bông bưởi, lấy dùm tao! Con Sứ nó ưa xức thứ dầu đó lắm. Hôm rồi nó kiếm ở đâu đem về để đó, chắc tính xức mà chưa kịp xức...
Chị Hai Thép mò tìm được chai dầu, mở nút, đem lại đưa cho mẹ Sáu. Mẹ Sáu cầm chai dầu, nhểu mấy giọt vào giữa lòng bàn tay, xức lên tóc con gái. Dỗu bông bưởng thoảng khắp nhà mùi hương thơm dìu dịu, trinh bạch. Mẹ sáu xức cạn chai dầu, rồi cầm lược chải lại tóc con một lần nữa. Chừng đó mẹ mớt bắt đầu bới tóc cho con, nhẹ nhàng và khéo léo. Biết bao lần mẹ đã bới mái tóc ấy, nên mẹ quen lắm. Chiều bài và tính nết của làn tóc ấy ra sao mẹ thuộc lắm.
Mẹ Sáu bới cho đứa con mình một đầu tóc thực là khéo. Đầu tóc đó trò trịa, đầy đặn hơn cả khi Sứ còn sống. Có lẽ đây là cái đầu tóc khéo nhất của Sứ, kể từ thời tóc kẹp đuôi gà của Sứ qua đi, kể từ lúc Sứ biết ham bới tóc và có đủ tóc để bới. Đầu tóc đó được bới khéo như vậy tưởng cũng không lạ. Vì đây là lần cuối cùng mà một người mẹ bới cho con, với đôi bàn tay trút hết tình âu yếm.
Bới xong, mẹ Sáu cũng chưa yên tâm rời con ra được. Mẹ với tay ra sau đầu tóc mình, rút chiếc lông nhím đồng, ghim vào đầu tóc con. Còn mớ tóc của Sứ bị thằng Xăm chém đứt hồi trưa, bà con đem về, mẹ nâng đặt lên mặt bàn thờ.
Bây giờ, mẹ mới bắt đầu khóc lặng.
Bà con nới nhẹ tay mẹ Sáu ra, dìu mẹ đến bên giường. Chị Hai Thép và chị Ba Rèn đỡ lấy Sứ, đặt Sứ vô chiếc hòm sơn màu chu. Bà con chuyền tay nhau những súc vải mùng trắng tinh đắp liệm lên mình Sứ.
Khi nắp hòm sắp sửa đậy lại, mẹ Sáu giằng mọi người ra, chạy đến. Nhưng mẹ khưng còn thấy gì nữa. Trong tiếng khóc nấc của mẹ, nắp hòm đậy xuống, liền mí, và cái hòm bấy giờ hoàn toàn đỏ, đỏ thẫm. Cái hòm trong đó có Sứ đặt giữa san nhà gỗ, nơi chị sinh ra và lớn lên, nơi chị đùa giỡn thuở còn tấm bé. Tại đây chị đã khóc, đã cười, đã chơi đánh búng và chuyền đũa. Bây giờ, tại đây chị ngủ rồi, chị ngủ mãi mãi. Nhưng cả cuộc đời hai mươi bảy năm thì chị vẫn để lại, nhất là những giờ phút chót của cuộc đời ấy.
Người ta nghe tiếng chị Hai Thép dõng dạc ra lệnh cho những bà con ở trong nhà và đứng dài từ bậc thang đổ xuống sân:
- Đốt đuốc lên!
Các bà các chị bắt đầu đốt đuốc lá dừa và đuốc rơm đánh vội. Nhiều người, trong đó cá cả Cà My, đang bó túm những vật gì vào vạt áo. Lát sau, ánh đuốc cháy sáng sân nhà.
Mẹ Sáu xin cho chôn Sứ bên mộ cha chị. Đáng lẽ bà con đưa Sứ đến thẳng chỗ mộ cha chị dưới chân Hòn thì gần hơn. Nhưng bà con không đi cái lối gần đó. Bà con đưa Sứ qua các vườn, đi qua xóm. Đám đưa tang biến thành một cuộc diễu hành đi ngang các nhà, đi ngang vườn cây, quê hương yêu dấu của người con gái đã chết. Toán lính tuần đêm đầu tiên bắt gặp đám người đó giữa một khu vườn vú sữa. Chúng thét:
- Giờ thiết quân luật mà mấy người kéo đi đâu rần rần vậy?
Thím Ba ú bước sấn lên:
- Mấy người giết con cháu chúng tôi, thì chúng tôi phải đi chôn chớ đi đâu!
Tên cầm đầu tpán đi tuần nghe nói, đưa hai tay về phía trước:
- Được, cứ đi đi!... Mấy người biểu tình luôn cũng được nữa.
Tên này nói xong, quay lưng thoát tay ra hiệu toán lính gạt ra hai bên. Đoàn người dẫn đầu là chị Hai Thép và thím Ba ú, lại tràn tới. Đuốc lá dừa trên tay họ cháy kêu lép bép. Đuốc rơm cháy dáng trên tay, họ còn cầm theo một bó đuốc dự trữ, chưa đốt. Đoàn người và lửa đuốc, cứ ồ ồ, phừng phừng, lũ lượt tốp trước tốp sau nối đuôi cái hòm ghè đầy những vai phụ nữ. Lửa đuốc chiếu cái hòm đỏ chói giữa đường đêm lòa sáng. Lửa đuốc còn rọi óng ánh những mái tóc bạc phơ của các mẹ, rọi bóng nhãy vòm lá trên đó từng chùm vú sữa tím căng da bóng lưỡng.
Mẹ Sáu đi ngay sau cái hòm, bên chị Ba Rèn và các mẹ Hòn Đất. Hai chị dìu mẹ. Nhưng mấy lần mẹ gạt tay hai chị ra, bươn tới. Giờ mẹ không khóc. Cuốn theo dòng người ồ ạt, mẹ không còn muốn khóc nữa. Có cái gì đó cứ nóng sôi trào lên trong bộ ngực già nua lép kẹp của mẹ. Ban nãy, mẹ đau đớn chia lìa con gái. Giờ đây, đi giữa đoàn người, mẹ thấy hình như không phải chỉ có mỗi con của mẹ hy sinh. Biết bao người cùng đi với mẹ đây có chồng con, anh em đã chết hoặc bị đánh dập phổi, dập gan, kẻ không còn chân, người không còn tay! Có biết bao thân nhân ruột thịt với họ giờ còn trong lao tù hoặc bị đọa đáy ngoài hải đảo! Bảy năm nay cả Hòn Đất không có mấy gia đình thoát khỏi cảnh tang tóc, khảo tra, bức hiếp. Xương người còn đó, máu người còn đây.
... Không, không phải chỉ có mỗi mình mẹ riêng chịu cảnh ấy, mà là tất cả xóm giềng. Không phải chỉ có mỗi mình mẹ tranh đấu, mà còn có trăm, ngàn người ở Hòn Đất, triệu người ở miền Nam đi tranh đấu. Sóng biển đánh ầm ầm sau lưng mẹ như bảo mẹ hãy dấn lên đau khổ mà đi. Vườn lá rào rào nỗi gió như giục giã mẹ thù kia phải trả. Xương đòi xương, máu đòi máu. Không phải chỉ có mẹ và bà con đang đi đây, còn đám con đám cháu của mẹ đang bị vây trong hang kia nữa! Năm ngày đêm ròng rã, đám con cháu đó nhịn đói nhịn khát chống trả quyết liệt. Chỉ có một người bị sa vào tay giặc, nhưng người đó không đầu hàng, người đó là con gái ruột củamẹ. Còn đứa cháy mới mồ côi, còn con rể, còn chồng hai người đàn bà đang đi bên mẹ đây - chị Hai Théo và chị Ba Rèn - còn thằng Bé con chú Tư Râu, còn bao nhiêu người mà mỗi lần nghĩ tới, thì mẹ thấy yên yên trong dạ.
Đoàn người đã kéo đến bên bờ con suối Lươn. Quân giặc đóng trên bờ suối khi nhìn thấy ánh đuốc như một đám cháy lớn trườn về phía chúng, chúng liền la lên và chạy xổ ra. Tên đại úy Cao, chỉ huy tiểu đoàn lính chủ lực vừa ở trong lều chui ra, nhác trông thấy đám người khiêng cái hòm đỏ chói thì gã hiểu ngay. Gã lập tức ra lệnh cho bọn lính cầm súng dàn hàng ngang, chắn lấy một quãng suối. Rồi gã chạy xồng xộc tới trước đoàn người, khoát mạnh tay:
- Không được đi tới!
Thím Ba ú vẫn nhẹ nhàng:
- Ông à, cháu chúng tôi bị mấy ông giết, phải để chúng tôi đem chôn chớ!
- Thiếu tá cấm chôn ba đêm.
Giọng thím ú vẫn nhẹ nhàng:
- Ông à, cháu tôi bị mấy ông giết thế đó, để lâu đâu có tiện!
- Không tiện thì mặc kẹ. Việt cộng mà cho chôn là quý rồi!
- Thưa ông, cháu tôi có theo Việt cộng đi nữa thì nó cũng là cháu tôi. Chúng tôi đem chôn nó ở chân Hòn thì có mất mát gì mấy ông đâu? Tội nghiệp, nó bị mấy ông giết cách thảm thiết quá mà!
- Con mẹ mập này ăn nói cà xốc dữ hôn? Đã nói là ban đêm ban hôm, thiếu tá không cho ai léo lánh đi đâu hết, nghe chưa?
Thím Ba ú buông tay xuội lơ, vẻ thất vọng:
- Vậy mà tôi tưởng ông có quyền ở đây, té ra ăn thua ở ông thiếu tá! Thôi đươc, vậy ông cho tôi gặp thiếu tá đổ tôi xin ổng!
Gã đại úy Cao niễng đầu qua, niễng đầu lại như để nhận dạng thím Ba ú, đoạn gã gằn giọng:
- Đòi gặp thiếu tá đặng đấu tranh hả! Coi bản mặt chị, tôi biết là dân cầm đầu đấu tranh liền mà!
Một tên lính nói chen vào:
- ối, cái chị này tôi gặp chị đi biểu tình ở Rạch Giá hoài đây!
- Ê, đừng nói bậy nghe! Tôi đang nói chuyện với ông đại uý, mấc mờ gì anh mà anh xía vô?
Thím Ba mắng tên lính xong, lại bóp bóp hai bàn tay nói với tên đại uý, vẫn với giọng nhẹ nhàng như trước:
- Ông làm ơn để chúng tôi gặp ông thiếu tá đi, thế nào ổng cũng cho. Mấy ông đánh nhau với Việt công trong hang, mấy ông bắt được họ đem giết là đủ rồi, lẽ nào lại không cho chôn?
- Không cho, gã nạt - cứ nói dai nhách!
Không nhịn được nữa, thím ba ú thét:
- Chẳng cho chúng tôi cũng đi!
Rồi bước thoắt qua mặt tên đại uý, thím khoát tay kêu mọi người tiến lên. Đoàn người ồ theo, xô rẹt những tên lính, tràn xuống suối. Gã đại uý gào lên:
- Đứng lại không tôi bắn!
Đoàn người vẫn không dừng lại. Ho giơ cao đuốc. Lội sồn sộn qua suối. Lòng suối phút chống sáng rực ánh đuốc. Tên đại uý chạy lại bảo khẽ mấy tên lính:
- " Bắn bổng đi!" Bọn lính tuân lệnh cất cao họng súng bắn "đoành đoành". Dòng người đuốc vẫn lội qua suối, tràn tới bờ bên kia. Chiếc hòm đỏ đã được đưa lên bờ. Chị Hai Thép nới chuyền ra sau:
- Nó bắn bổng, đừng sợ, đi đi!
Kinh nghiệm các cuộc đấu tranh đã từng dạy cho mọi người rằng giữa giờ phút này chỉ có tiến chớ không được lùi. Mà họ cũng nghe những phát súng bắn bổng kiểu đó nhiều lần rồi, nên họ vẫn bình tĩnh. Vả lại, mỗi người đi đây đều biết rõ ngoài việc đưa Sứ, họn cò có mục đích khác hết sức quan trọng là nhân lúc kéo tới chân Hòn, một số chị em sẽ chạy đến miệng hang liệng vào đấy những gói cơm, thức ăn và những chai nước mà họ đã chuẩn bị, đã bó chặt và giấu kín trong người từ lúc chạng vạng.
Gã đại úy Cao là một tên đã từng có kinh nghiệm đàn áp các cuộc đấu tranh nên việc hạ lệng bắn thẳng vào đoàn người gồm cả ngàn phụ nữ này là việc gã rất thận trọng. Đã đôi lần, chính gã suýt chết vì những quả đấm, những gậy gộc hoặc đá cục liệng vào ngườo khi gã cho nổ súng giết chết mấy người trong đoàn biểu tình nị. Ban đầu, gã cứ ngỡ là nếu bắn một người chết, ngàn người phải chùn lại. Lạ thay, lần nào hễ có một người chết, ngàn người đều tràn tới, đấm đạp, cấu xé vào gã và đồng bọn một cáh dữ dội. Nên bây giờ sau sáu phát súng bắn bổng, gã vẩn chưa dám hạ lệnh bắn thật. Hơn nữa, ngay từ hôm tới đây, tên thiếu tá đã căn dặn bọn gã: "Muốn tiêu diệt được tụi Việt Cộng trong hang, cần nhứt là không nên để nổ ra một cuộc đấu tranh chánh trị nào tại đây. Chọc ổ tụi đàn bà thì bô bối lắm!... Có gì mấy anh cũng phải đợi lệnh của tôi!"
Hôm đó, gã thầm phục thiếu tá là người sân sắc, thấy đơợc sự lợi hại. Bây giờ thì ổ đã động, đám đờn bà lội qua suối ùn ùn không chờ lệnh gì cả, gã biết làm sao được. Chỉ còn cách là gọi điện thoại cho thiếu tá.
Nghĩ thế, gã liền chạy tới lều truyền tin, chui vào vơ lấy ống điện thoại quay liên hồi. Bên kia đầu dây vọng lại tiếng ồ ồ ngái ngủ của tên lính trực máy:
- Ai kêu?
- Tôi đây, đại uý Cao ở tiểu đoàn ba đây. Cho tôi nói chuyện gấp với thiếu tá:
- Thiếu tá à, ổng ngủ rồi!
- Kêu dậy, kêu ổng dậy!.. Dân chúng họ biểu tình tràn qua suối rồi, mau đi!
Gã để ống nói nơi tai chờ. Tới năm phút sau, tờ bên kia mới có tiếng tên thiếu tá hỏi:
- Sao, dân chúng biểu tình hả?
- Dạ, phải. Họ đòi đem con nhỏ bị chém đi vô chân Hòn chôn, tôi không cho, họ kéo lại qua suối.
- Bắn dọa cho họ lui lại. Bắn đi!
- Thưa, bắn rồi mà họ vẫn không lui. Thưa, cho phép tôi bắn thật may ra...
- Bắn thiệt à... không, không, rắn rối lắm! Họ đã qua suối rồi hả, rượt theo, rượt theo ngăn cắt họ lại!
- Dạ dạ...
Gã đại uý bỏ ống nói ra, chạy ra ngoài, nhưng đã muộn rồi... Đứng trên bờ suối, gã chẳng còn thấy bóng một người bào nữa. Ngọn đuốc cuối cùng đã khuất vào vườn dừa. Chỉ còn thấy ánh đuốc hắt lên lá dừa chập chờn, loang loáng.
Khi gã đại úy dẫn một trung đội vượt suối rượt kịp khúc đuôi đoàn người thì cũng đúng lúc từ trong đoàn người vụt tách ra nhiều cái bóng đen, chạy riết về phía hang Hòn. Đó chính là những chị em đã được chị Hai Thép giao cho nhiệm vụ đem cơm nước vô miệng hang.
Cái bóng vụt lên trước tiên là Cà Mỵ. Một tay cô xách chai nước đã được bó lại bằng rơm, còn tay kia cô xách một gói cơm nếp nén chặt. Cà Mỵ chạy nhào tới, tất cả theo sau cô là những cô, những chị khác cũng xách nước xách cơm như cô.
Lúc Cà Mỵ chạy gần tới miệng hang, thình lình một phát súng từ trong bắn ra, nổ vang. May cho cô, viên đạn chỉ bay sướt qua tóc. Cô hoảng quá, đứng khựng lại, la ré lên, giọng lơ lớ:
- Tui đây, tui là Cà Mỵ đây, mấy anh ơi!... Tui tui đem cơm cho mấy anh mà!
Trong hang, người vừa bắn phát súng là một du kích. Anh rụng rời chúi mũi súng xuống:
- Trời ơi, Cà Mỵ đó hả? Có sao không?
- Không sao, không sao...
Cà Mỵ lắp bắp. Bóng cô lao tới miệng hang. Và cô chuồi nhẹ chai nước, gói cơm vào hang
- Mấy anh còn đủ không?
- Còn.
- Chị Sứ chết rồi, tụi tui đi đưa chị Sứ đây!
Cà Mỵ chỉ kịp hỏi và nói thế rồi chạy ngược trở ra. Người sau lại tới. Cứ thế mà liệng cơm, liệng chai nước vào. Mỗi một bóng người đều xưng tên, hỏi thăm trong hang ai còn ai mất, rồi chạy đi. Thoáng thấy bóng đen nào, từ trong cũng vẳng ra tiếng nhắn nhủ.
- Nói bà con yên tâm, tụi tôi chỉ bị thương có hai, tụi còn chiến đấu như thường!
- Bà con ngoài đó ráng đấu tranh với tụi nó. Phải đòi bồi thường tài sản bị phá. Phải làm rã ngũ tụi lính. Nhớ nghe, nhớ đấu tranh gắt lên, nghe!
- ờ, nhớ rồi, nhớ rồi!
Chợt có tiếng chú Tư Nghiệp thốt lên:
- Trời ơi, ai phải má con Lụa không?
- Phải... Phải, tía nó đó hả?... Tôi đây nè, tía nó ơi!.... Thôi tôi đi!...
Những câu hỏi hấp tấp và những câu trả lời vội vã. Người bên ngoài hỏi dồn người trong hang. Người trong hang nhắn gởi người ở ngoài. Tiếng những chai nước, gói cơm rơi lịch bịch xuống ngõ hang. Rồi tiếng thở hổn hển, tiếng chân phụ nữ lụi dụi chạy tới. Cái miệng hang sáng ánh trăng trong phút chốc đổ dồn hết bóng người này tới bóng người khác, mà bóng người nào cũng quen, cũng có kẹp tóc, búi tóc cả. Anh em du kích nhận ra em họ, con họ, vợ họ. Còn từ ngoài trông vào, các chị và các em gái chỉ thấy hang tối om, thấy những bàn tay chĩa ra chụp lấy họ. Tuy vậy, nghe tiếng nói, họ biết liền là chồng mình, là anh mình hay họ hàng lối xóm. Đều là những tiếng người thân thiết với mình cả. Năm ngày qua, họ không gặp mặt nhau, lo lắng cho nhau. Đêm thứ năm này, vầng trăng đã chứng kiến cái cảnh họ gặp nhau. Một nguồn cổ vũ kỳ lạ truyền đến cho từng người, ở trong cũng như ở ngoài, tại cửa hang mà năm ngày năm đêm địch không vào nổi. Nhữg người trong hang lòng náo nức biết rằng mình không cô độc. Những chị em sau khi vội vã chạy đi, họ mang theo cả niềm hy vọng rằng hang sẽ được giữ vững. Họ tin rằng đêm gặp gỡ hôm nay sẽ không phải là đêm cuối cùng.
Nhưng khi chị em đã chạy đi hết thì vẫn còn một bóng đen thấp bé ở lại với bóng một con chó chạy quẩn theo. Cái bóng đó tọt vào hang, đụng nhằm anh Ba Rèn.
Anh túm lấy, hỏi:
- Ai đây, sao không chạy đi?
- Tui, tui không về, tui có một trái lựu đạn!
Anh Ba Rèn chợt kêu:
- Trời ơi thằng út, mấy ông ơí
- Tui ở lại, tui không về đâu
Thằng út nói thế rồi luồn ra khỏi tay anh Ba Rèn, xớn xác quờ tay đi tới, đụng ai nó ôm nấy, ngọ ngoạy cái đầu trọc xửng bông gáo vô bụng những người đó. Nó cười khúc khích vẻ đắc chí.
- Mấy thím đó về thấy mất tui chắc hoảng hồn dữ
- út, út, mày đó hả út?
Bên trong có nhiều tiếng hỏi mừng rỡ. Thằng út nhận ra anh Năm Tấn. Nó nói:
- Chú Năm hả? Eo ơi, thím Năm ở nhà sợ chú chết rồi cứ thắp nhang vái tối ngày!
- Cái thằng dóc quá.... Nè, anh mày bị thương nằm trong kia, vô thăm anh mày đí
Thằng út đáp, giọng thản nhiên:
- Tui biết rồi, gấp gì, chút xíu tui vô thăm ảnh. Ba tui cũng biết nữa, ba tui nói đánh giặc bị thương là thường... à mà quên, tui chộp được của tụi lính một trái "láng", tui có đem theo đây nè. Mai, hễ tụi nó đánh vô tui rút chốn chia hai!
Trong hang mọi người nghe nói đều cười ồ:
- Mày thiệt con nít, chừng nào nột quá mình mới làm vật, chớ nó còn ở xa thì cứ liệng thôi, chia hai chi cho uổng mạng?
- Thằng út ậm ờ, nhưng nó nói bọc theo ngay:
- Thì... thì tui nói là gặp nột đó chớ
- ồ, nếu vậy thì được. Nhưng ở đây không đến nỗi ngặt quá phải chơi vậy đâu, bồ ơi! Hễ tụi nó vô là mình bắn hoặc liệng lựu đạn thôi!
- Vậy thì ngon quá
Thằng út xắng xở nói. Nó chợt hỏi:
- Chị út Quyên đâu mấy chú, chị út Quyên đâu?
- ở trong hang
Chợt thằng út đứng sững lại. Thình lình, mọi người nghe nó khụt khịt mũi liên tiếp mấy cái. Bỗng dưng nó nức nở òa lên kêu: - "Mấy chú ơi, chị Ba chết rồi...ư...ư....ư...".
Đứng giữa ngõ hang, nó khóc hù hụ. Ai kéo tay nó dỗ, nó cũng vùng ra, càu nhàu, tuồng như giận dỗi mọi người lắm vậy. Rồi cũng như lúc bắt đầu khóc, nó đột ngột ngưng khóc, đưa tay quệt nước mắt, hít mũi sẹt rẹt. Anh Hai Théo kéo tay nó, nói:
- út à, thôi, bây giờ mày ở lại đây với tụi tao. Nhưng tao dặn sau đây vô trong hang, có gặp con Thúy, mày không được hở miệng nói má nó chết nghe chưa? Nó mà biết thì nó khóc tụi tao dỗ không xiết đâu... à, còn mày nói mày có một trái láng hả? Đâu, đưa đây, đưa tụi tao cất cho!
Thằng út móc trái lựu đạn MK3 lộn ở lưng quần cụt ra đưa co anh Hai Théo. Nó dặn.
- Chú cất giùm tui. Hễ mất thì tui mắc đền chú!
- ừ, mất tao đền trái khác cho mày. Tụi tao có thứ này thiếu gì?
Anh em đã lượm gom lại số lương thực của đồng bào tiếp tế. Họ bấm đèn kiểm lại thấy có tới mười hai chai nước, mười hai gói ốp bẹ chuối bọc cơm nếp, cơm tẻ, và vài cái gói mo cau non bọc sáu bánh thuốc lá giông, một túi thuốc thơm hiệu Ru-bi, Những ốp bẹ chuối đựng cơm còn in dấu dau rọc tươi rói, rỉ nước. Anh em mở thử ra một ốp thì thấy cơm nếp nén, bên trong còn ấm... Giữa cơm nếp, nhét đầy những miếng thịt gà chiên vàng, thơm sực mùi tỏi sả. Anh em reo lên.
Phen này tươi rồi, nghe!
Anh Ba Rèn bảo:
Tối nay, phải bù lại mới được! Cho anh em ăn no, uống đã khát rồi tính gì thì tính. Sau đó mình hút Ru-bi, phun khói ra ngoài cho tụi lính ngửi chơi!
Anh Hai Thép nói:
Ru-bi thì có thể hút, nhưng ăn thì phải dè xẻn và uống đỡ khát thôi. Phải để dành... Có thể tụi nó còn vây mình lâu. Đề nghị giao tất cả những thứ này cho út Quyên giữ, để cô ta trọn quyền phân phối!
Phải, để út Quyên giữ, nhưng còn thuốc hút tôi lãnh giữ cho!
Chú Tư Nghiệp bảo. Mọi người đều cười rộ và đồng ý. Anh Ba Rèn le lưỡi.
Chú Tư Nghiệp nghiêm giọng:
Đừng nói vậy chớ Ba Rèn!... Tui coi trọng của chung chớ có "cá nhơn" cho tui đâu!
Ba Rèn cười hà hà
4
Nỗi đau đớn của bà Cà Xợi hôm nay đã dâng lên tới cực độ. Hồi trưa, lúc thằng Xăm giơ dao chém Sứ, bà xô lại phía nó. Nhưng bọn lính xô bà ngã xuống, giẫm đạp lên bà khiến bà ngất xỉu.
... Bà Cà Xợi tỉnh dậy trong buổi chiều tắt nắng. Cà Mỵ chạy về đầu bù tóc rối, khóc và báo cho bà hay bà là Sứ đã chết. Cà Mỵ nói xong lại chạy đi. Chỉ còn lại mỗi mình bà sờ soạng trên bộ vạt tre, giữa gian nhà trống trước trống sau gió giật vách lá hai bên xành xạch, xành xạch. Mãi một lúc, bà mới ngồi nhổm dậy được. Đôi con mắt bà đờ ra, long lanh nắng quái. Đầu tóc vàng sém của bà xổ tung, mà những tia nắng chiều rọi lên, làm mớ tóc đỏ hoe hoe như nhuốm ánh lửa. Rồi khi hết nắng, và đêm nhòa tối, bà vẫn ngồi im không cục cửa. Bóng tối từ ngoài tràn vào phủ kín bóng bà. Đến lúc trăng lên, bóng bà Cà Xợi lại hiện ra, nhưng không phải ngồi trên bộ vạt tre nữa, mà là đứng dưới đất. Người mẹ Khơ me đau kổ đó trong cách đứng coi cũng lạ. Đôi chân bà hơi loạng doạng ra, hai bàn chân châu các ngón vào, bám bíu trên đất nền nhà khô nứt những đường kẻ. Hai cánh tay bà như dán sát vào nách, và bóng bà nổi rõ hơn, hơi chúi về phía trước. Trông như cái cây sắp đổ.
Bà Cà Xợi đứng rất lâu. Có thể là bà đứng như vậy chừng non nửa tiếng đồng hồ. Thình lình, bà bước ra khỏi nhà, vẫn với cái dáng người ngã tới phía trước ấy, mà đi.
Bà mò mẫm đi trên con đường đất dẫn tới ngã ba Sĩ Lỳ. Dọc đường, có khi bà chới với, loạng choạng, hoặc ngã dúi xuống, rồi lại lò mò đứng lên, đi lại. Cái hôm bà đến tiệm thím Ba ú mua rượu, bận về bà cũng vấp ngã. Nhưng lần đó, và cả những lần trước đó, không khi nào bà vấp ngã nhiều như hôm nay, bà Cà Xợi đau đớn đến điên dại thật rồi. Thằng con bà, sau một hời gian vắng xa Hòn Đất, nay trở về đã chém một cô con gái mà người Khơ me lẫn người Việt trên Hòn đều yêu mếm. Cô con gái và mẹ của cô lại là người ơn lớn của bà Cà Xợn. Hai mươi năm về trước, trong một đêm khuya sương giá, hai mẹ đã dìu bà về nhà, bao bọc cho bà sinh ra Cà Mỵ.
Hồi đó, mới mười tuổi mà cô gái ấy đã là một cô bé nhân hậu rồi. Bà quên sao được nó đã tiếp sức với mẹ nó đưa bà về nhà. Đêm ấy, bà còn nhớ hai mẹ con đầu chùm khăn vì trời lạnh. Bà nhớ lắm. Khi anh Thạch Kha chết đi, gia đình mẹ Sáu đều thương bà, thương con Cà Mỵ, hết lòng đùm bọc cho cả hai mẹ con. Ơn lớn của gia đình mẹ Sáu, bà Cà Xợi vẫn ghi trong dạ. Bà không biết lấy gì mà đền đáp cho được. Thỉnh thoảng, bà cùng con Cà Mỵ tới tiếp mẹ Sáu vét mương, làm vườn hay vào ngày mùa thì gặt lúa, đập lúa phụ. Cái ơn kia chưa trả được bao nhiều thì nay, thằng con tàn ác do bà đẻ ra đã chém sả xuống thân cô con gái làm ơn cho bà dạo nọ.
Thằng Xăm giết chết Sứ, đó là cái lý do khiến bà Khơ me già nua chất phác này đêm nay lảo đảo, đi không vững. Nhưng bà Cà Xợi đi đâu, bà muốn đi đâu? Nào ai biết được. Chỉ biết rằng bà đang đi vất vả, trên con đường có trăng và không lấy gì lồi lõm cho lắm... Bà đang đi những bước đi đau khổ. Nhưng rồi cái bóng của bà dưới ánh trăng, cũng lọ mọ hiện tới được chỗ ngã ba Sĩ Lỳ. Tại ngã ba, khi bà đi thẳng, lúc ấy mợi lộ ra ý định của bà. Bà muốn đi lại nhà mẹ Sáu. Nhưng bà đi mò mẫm, rụt rè và sợ hãi. Tới khoảng vườn xoài, bà không dám đi giữa lối, mà tạt vào mé vườn, lẩn qua sau các gốc xoài. Không biết bà đi tới nhà mẹ Sáu mất bao lâu. Chỉ biết khi tới đó, bà đã trông thấy bà con tụ tập đông đảo lắm rồi. ấy chính là lúc mọi người sắp liệm Sứ. Bà Cà Xợi không hề trông thấy cái cảnh mẹ Sáu âu yếm, chải tóc, bới tóc cho con, đứa con gái thuở lên mười đã có lần tận lực dìu bà Cà Xợi từ đồng rạ về nhà nó. Bà không nhìn thấy cảnh ấy, vì bà có dám đặt chân vào tới cái sân đông nghịt người đó đâu! Bà len lén ngồi thụp sau một bụi khóm, ở vệ đường. Tại đó, bà có nghe thấy tiếng khóc của mẹ Sáu trong nhà vẳng ra. Bà run lên khi nghe thấy tiếng khóc ấy. Và bà đưa tay bưng kín mặt.
Khi các ngọn đuốc cháy rực giữa sân, chiếu sáng đến tận chỗ bà, bà hoảng hồn, mọp sát xuống. Lát sau, lúc bà con Hòn Đất người đuốc rầm rộ kéo đi bà ngó thấy cái hòm đỏ chói và mái tóc bạc óng của mẹ Sáu sau kẽ hở của bàn tay mình và kẽ hở của những kẽ lá khóm nhú gai sắc. Bà nín thở nhìn cái hòm, trái tim trong lồng ngực lép xẹp của bà thắt lại tưởng như không sao đập tiếp được nữa. Bởi vì bà biết rất rõ cô gái nằm trong cái hòm đó chính là Sứ. Nay Sứ đã nằm im, đã chết. Bà nhắm nghiền mắt lại. Cho dù bà nhiều lần từng nói thằng ác ôn đó không phải là con của bà, nhưng rõ ràng nó chính là con của bà, vì chính bà đã sinh ra nó. Trời ơi, cái đêm hôm ấy mới oi ả làm sao! Những bức tường của ngôi nhà nền đúc phông tô ấy mới dày kín làm sao! Tại đó, bà nằm rã rượi mồ hôi, bụng đau như xé, oằn oại mãi tới khuya mới đẻ lọt ra đứa bé, là thằng Xăm.
... Đám người đuốc đã lũ lượt kéo đi mút đuôi rồi. Có cả con Cà Mỵ của bà cũng đi nữa. Trong bụi khóm, mấy lần bà Cà Xợi nhấp nhổm muốn chạy theo họ. Nhưng bà không dám. Lần này thì bà không dám đi theo họ thật. Cà Mỵ thì khác. Còn bà, bà thấy mình là kẻ có tội, không phải mới bây giờ, nhưng bây giờ thì ghê gớm hơn, trực tiếp hơn, do đó bà không sao dám cất chân đi theo họ cho được.
Họ đã đi hết rồi. Lửa đuốc chập chờn trên những lá cành phía trước, cuối cùng khuất hẳn. Cái sân sáng lửa ban nãy giờ lại mờ tối, bàng bạc ánh trăng. Chỉ còn lại một mình bà Cà Xợi ngồi bệt sau bụi khóm. Bên kia hàng khóm nhô lá nhọn sắc như những thanh kiếm, hiện mờ mờ cái khoảnh sân, cái bậc thang, cái gian nhà sàn vách ván hãy còn leo lét cháy một thếp đèn mỡ cá. Bà Cà Xợi mở to mắt ngó gian nhà trân trân, bắt đầu tư những nấc bậc thang năm xưa, nơi đó, người con gái Việt mới chết đã có lần ráng sức dìu bà lên. Năm xưa, trong gian nhà leo lét ánh đèn đó, bà đã sinh ra con Cà Mỵ, giữa lúc mẹ Sáu rút ra trong miệng bà những cọng rạ nhừ nát. Rồi cũng tại đây, anh Thạch Kha đến đón bà về.
Xăm ơi, bọn mày ác quá, mày gieo tang tóc cho cái nhà đã đùm bọc mẹ mày trong cơn khốn đốn! Mày đã về hùa với cha mày mà giẫm đạp lên trái tim mẹ mày rồi đó Mày là con dao độc ác cứa đứt mẹ mày ra khỏi mọi người! Vì mày mà mẹ mày phải lẩn trốn trong đêm tối, không dám chạm mặt bà con.
"Sao ả-rạt đâu không vật mày đi cho rồi! Tao cầu ả-rạt vật mày chết, để có đau tao chỉ đau mỗi một lần, khỏi bị cứa đứt như vầy nữa!"
Bà Cà Xợi nguyền rủa đứa con mình. Rồi bà chới với đứng dậy, vạch lá khóm đi ra. Bà đi vào sân nhà mẹ Sáu, bụng nghĩ phải lên tắt thếp đèn đó mới được, chớ để vậy hao mỡ quá. Tới chân bậc thang lên sàn nhà; bà đưa tay rờ rẫm bậc thang, như kiếm vật gì đánh rơi. Cứ đặt chân leo lên mỗi bậc thang là bà lại rờ rẫm, như vậy. Lâu nay bà mới lên đến sàn, lần tới cái cửa bỏ ngõ. Tới cửa bà nhìn thấy ngọn đèn để trên bàn thờ vờn qua vờn lại trước gió. Đồng thời bà trố mắt rú lên khi trông thấy bên cạnh thếp đèn buông rủ một mớ tóc đen nhánh. Bà chỏi hai bàn tay về phía mớ tóc, đi giật lùi, rồi vùng chạy xuống thang. Bỗng nhiên, ngực bà như bị những đôi giày lính ban trưa tiếp tục giẫm mạnh. Bà nín thở một cái, và ngã xuống ở bậc thang cuối cùng.
Vào khoảng gần nửa đêm, mẹ Sáu và những bà con đi chôn Sứ về tới nhà gặp bà Cà Xợi nằm dưới bậc thang. Mọi người lấy làm lạ, vực bà lên nhà, cởi áo xống, đánh gió cho bà. Mẹ Sáu đưa mắt lặng lẽ nhìn đầu tóc vàng sém của bà Cà Xợi rồi ngoảnh đi nơi khác. Mẹ ngồi trân trân một lúc, mội bậm chặt. Bỗng mẹ đứng dậy đi vào bếp. Lát sau, mẹ trở ra, cầm một củ gừng già đưa cho chị Hai Thép. Chị Hai Thép cầm củ gừng, liếc thấy mắt mẹ rân rấn. Nhưng mẹ vẫn cắn chặt môi, không nói một tiếng nào cả. Chị Hai Thép nhai củ gừng cho giập ra, xát mạnh lên lưng bà Cà Xợi. Sau đó, chị dùng cái sống lược cạo sồn sột. Thím Ba ú giựt tóc cho bà. Không bao lâu, đã nghe bà rên khe khẽ.
Mọi người đã cứu được bà tỉnh dậy.
Nhưng khi tỉnh dậy, hoàn hồn nhớ ra mọi việc và sực trông thấy mẹ Sáu, bà Cà Xợi vụt nhào từ trên ván xuống, lết tới, sụp dưới chân mẹ Sáu mà lạy. Bà vừa lạy vừa khóc ròng. Bà kêu lơ lớ:
Bà giết tôi đi, bà Sáu lấy cây dao cắt cổ tui đi...!
Mẹ Sáu ngồi trơ ra đó. Rồi mẹ cũng khóc mùi
Chị Hai Thép lôi bà Cà Xợi ra, đỡ bà trên tay. Chị nói:
Bà Sáu không giết thím đâu... Thím đừng lạy, đừng khóc nữa. Bà Sáu với lối xóm đây có thù là thù thằng Xăm, thù thằng Mỹ - Diệm chớ không thù bà Cà Xợi đâu.
Tui phải giết thằng Xăm!
Bà Cà Xợi chồm dậy la lớn. Những ngón tay đen đúa của bà co quắp lại. Mắt bà mở trừng trừng nhìn ra ngoài cửa. Thím Ba ú nói:
Thôi bây giờ tôi đưa thím về nhà nghỉ, nghe?
Tui đi, mình ên tui đi được!
Không, tôi đưa thím đi...
Thím Ba ú vừa nói vừa nắm tay bà Cà Xợi dắt đi.
Thím đưa bà đi được một đỗi thì gặp Cà Mỵ cũng đang hoảng hốt chạy tìm mẹ. Thím bảo Cà Mỵ:
Con Mỵ đưa má bây về! Phải coi chừng, má bây vừa mới xỉu nữa đó!
Cà Mỵ dìu mẹ về tới nhà thì gà trong xóm đã gáy rộn. Nhưng Cà Mỵ biết đêm chưa tàn. Đấy là gà ngủ được một giấc, mở mắt thấy ánh trăng ngỡ trời sáng nên cất tiếng gáy.
Cà Mỵ đặt mẹ lên vạt xong, cô ngồi bệt xuống đất, lưng dựa vào chân vạt. Cô gục đầu xuống, đôi tay khoanh nơi gối, nghĩ tới chị Sứ, nghĩ tới cuộc gặp gỡ tại Hang Hòn ban nãy, nghẹn ngào căm tức thằng Xăm. Khác với mẹ mình, Cà Mỵ không đến nỗi đau đớn như thế. Mức độ đau đớn của cô có khác. Cô căm tức nhiều hơn và thương chị Sứ kông biết để đâu cho hết. Sau cái chết của chị Sứ, giờ đây Cà Mỵ càng sẵn sàng lao mình vào bất cứ việc gì để hỗ trợ cho cuộc chiến đấu trong hang, để báo thù cho chị Sứ, đồng thời như là để chuộc lại mọi tội lỗi mà thằng anh tàn bạo của cô đã gieo xuống đất này.
Cà Mỵ ngồi im tới trăng lặn. Giờ thì gà đã te te gáy sáng thật. Cô đứng dậy, đến đằng nhà chị Hai Thép.
Cà Mỵ vừa ra khỏi nhà thì thằng Xăm mò đến. Cùng đi với hắn có tên lính hộ vệ người bé nhỏ, đôi mắt láo liên. Đây là lần thứ hai thằng Xăm ghé qua nhà mẹ. Đầu hắn vẫn đội sụp cái kết ba rèm.
Lưỡi trai vải phía trước che muốn hết cái trán vốn đã ngắn của hắn, chỉ để lộ ra hai tròng mắt trắng dã. Thằng Xăm đi nghiêng nghiêng, vai trái hơi xệ xuống, không nhúc nhích. Tên lính loắt choắt đi trước vào nhà. Thằng Xăm chưa vào. Trong lúc trời đất còn mờ mờ chưa tỏ hẳn, hắn đứng giữa sân, niễng đầu nhìn lu nước, nhìn gian nhà trống trước trống sau... Hắn lắng tai nghe tiếng gió giật chái là xành xạch. Trước mặt hắn cây sua đũa với vòm lá thưa loang thoáng hơi sương lâu lâu lại rụng xuống vài bông trắng. Những cái bông sua đũa êm ái chạm mặt đất, không phát ra một tiếng động. Đâu đây xông vào mũi thằng Xăm mùi bùn non quăng quăng của một cái ao mới cạn. Những cái đó, từ tiếng gió giật, từ cành hoa rụng trong đêm tàn, từ mùi bùn tất cả hình như gieo vào lòng thằng biệt kích ác ôn nỗi trắc ẩn. Đứng lại mảnh sân nhà hiu quạnh của người mẹ, thằng biệt kích chừng như mới bắt đầu có lại được cảm giác thông thường của con người. Nhưng không chịu nổi lâu với cảnh đó, hắn quay phắt, đi lục xục vào nhà. Bà Cà Xợi đã thức dậy, ngồi trên bộ vạt, chân thõng xuống. Bà đã biết có thằng Xăm về, vì tên lính hộ vệ vào trước đã cho bà hay.
Thằng Xăm vào nhà, đi tới đi lui. Hắn dừng lại trước mặt bà Cà Xợi hỏi:
Tụi nó đánh má có đau không?
Bà Cà Xợi không đáp
Thằng Xăm đi tới đi lui, cánh tay trái vẫn ngay đơ:
Mà má đi theo mấy con mẹ đờn bà Hòn Đất làm chi... Phải không có má ở đó, tui ra lệnh bắn té hết!
Đứng lại giữa nền nhà giờ đã sáng ra, hắn đưa tay mặt bợ cánh tay trái bị thương, hậm hực nói:
Cái con Sứ đó cứng cổ quá, chém ba dao không dứt. Đồ đờn bà ngu, theo Việt cộng chi cho t thảm thiết. Con mẹ của nó bạc đầu mà cũng như vậy. Biểu khuyên lơn con, không chịu là không... Nè, má biết hôn, tụi trong hang gần chết hết rồi. Không cơm ăn, không nước uống, chịu sau thấu... Chút nữa ráo ráo sương, tui cho lính chất rơm trộn ớt đốt hang nữa, cho thằng nào con nào ở trỏng cũng phải chun ra hết.
Nghe thằng Xăm nói, bà Cà Xợi vẫn nín thinh. Thỉnh thoảng bà liếc mắt nhìn nó. Cái liếc nhìn của bà sáng nay trông dễ sợ. ánh mắt bà vừa tỉnh táo, vừa dại dại.
Thằng Xăm chợt hỏi:
Má nè, con Mỵ đâu rồi?
Nó đi vô xóm!
Thằng Xăm ngồi lên bộ ván giữa, ngã người nằm xuống. Hắn ngó lên nóc nhà giây lâu bỗng nhổm người dậy:
Lần này tiêu diệt hết Việt cộng rồi, tôi đóng bót ở đây. Ruộng vườn của ông già, tôi lấy lại ráo. Ai làm ruộng phải nộp lúa ruộng, ai làm vườn phải nộp tiền vườn. Mấy năm rồi, ai giựt thì bây giờ phải nộp thoái, không được thiếu một hột lúa!
Bà Cà Xợi nghe hắn nói, ngồi im một chốc mới thốt:
Thằng Xăm mày nói đóng bót vậy chớ có chắc không?
Xăm chỏi chân bật đứng ngay lên:
Chắc chớ. Nhứt định là tôi đóng bót, cất nhà lại đàng hoàng. Má với con Mỵ cứ ở không ăn, khỏi nắn nồi, đươn đát chi cho cực. Lâu lâu tôi cho xe đưa hai người lên Rạch Giá chơi. Tôi biểu vơ tôi sắm cho con Mỵ nhiều quần áo tốt. Con Mỵ mà sửa soạn vô coi ngộ lắm...
Thì để coi coi...
Bà Cà Xợi nói giọng như thường
Đoạn bà bước xuống bộ vạt, đi ra sau chuồng gà bắt luôn hai con gà tơ trói lại. Bà xách hai con gà liệng giữa nhà nói:
Xăm à, mày với chú lính đây ở lại ăn cơm nghe?
Được, được!
Vẻ mặt thằng Xăm hớn hở hẳn lên. Hắn lột cái kết ba rèm, trên đầu liệng xuống ván. Rồi hắn co giày khẽ đá hai con gà, khen:
Hai con gà này mậy đâý
Hắn vui vẻ móc bóp, lấy một tờ bạc hai trăm đưa tên lính:
Hai Nhỏ, mày đi mua rượu. Coi ở tiệm có gì nhậu được không cứ mua thêm!
Thằng lính Hai Nhỏ rón cầm tờ bạc. Thằng Xăm tháo cái bi-đông rượu, chớ một bi-đông thì không thể nào uống đủ. Thằng lính Hai Nhỏ đi ngay. Đi tới cửa nó sực nhớ cây súng trên bộ ván, quay lại tính lấy. Thằng Xăm khoát tay:
Cứ đi đi, để súng đây tao coi cho. Không lẽ Việt cộng ở trong hang lòn ra đây giựt súng sao mà sợ!
Tên Hai Nhỏ đi rồi, thằng Xăm vẫn tiếp tục sống trong cái trạng thái vui vẻ. Có lẽ đời hắn dạo ần đây chưa bao giờ được vui như vậy.
Bà Cà Xợi nhóm bếp, bắc cái trã đất lên nấu nước. Thằng Xăm nói:
ở xứ Hòn này xài cái gì cũng bằng đất, dở quá. Để rồi mua xoong nhôm chảo sắt mà nấu. ở trên Rạch Giá bây giờ đâu có ai xài thứ nồi om trã đất này nữa!
Bà Cà Xợi cầm con dao dâu kề vào cổ con gà, nghe hắn nói thế thì dừng dao ngó xuống. Bà nhổ thêm mấy cái lông nơi cổ gà rồi kề lưỡi dao cắt. Con gà hấp him đôi mắt, kêu khe khẽ trong cuống họng. Máu ở cổ gà phì ra nhểu toong toong xuống cái ơ đất kê bên dưới. Thằng Xăm ngồi chổm hổm một bên coi. Hắn buột miệng lẩm bẩm:
Coi giống máu ở cổ con Sứ nhểu xuống hôm qua quá!
Lần này, bà Cà Xợi bủn rủn muốn buông dao. Tim bà thắt lại, nhưng bà cố nén. Cầm con dao cắt cổ nốt con gà thứ hai. Thằng Xăm thì vẫn ở trong cái tâm trạng vui vẻ. Hắn giúp bà Cà Xợi một tay, vặt lông gà. Bà Cà Xợi lặng thinh làm gà. Một con gà đem luộc nước dừa xiêm, một con đem rang muối. Hai món này người Khơ me rất ưa. Một mình bà đứng trông hai bếp. P bà bắc cái ơ đổ tràn nước dừa, một bếp bà bắc cái nồi om đất. Trong nồi đã có bỏ muối hột và lót vỉ tre. Đợi muối bắt đầu nóng nhảy trong nồi bà Cà Xợi mới đặt con gà đã nhỏ hết nước lên vỉ, rồi đậy kín nắp vung. Bà trông coi hai cái bếp rất kỹ, mắt nhìn nước dừa sủi tăm và tai lắng nghe tiếng muối nổ lắc rắc. Có lẽ trong suốt đời mình chưa có khi nào bà Cà Xợi nấu nướng chăm chú, cẩn thận như buổi sáng nay.
Lúc tên lính Hai Nhỏ xách hai bi-đông rượu về, thì lát sau gà cũng đã luộc và rang xong. Con gà luộc chín mọng. Con gà rang khô se.
Bà Cà Xợi xé gà xếp vun hia vịm nhỏ, đâm muối ớt và xắc chuối cây trộn ghém. Bà bày đầy cc mâm gỗ cũ kỹ mòm mép, dọn lên bộ ván giữa.
Trong bữa ăn, bà Cà Xợi không ăn mấy. Bà uống rượu từng chén, ép thằng Xăm và tên lính cùng uống. Đây là bữa đầu tiên bà Cà Xợi ăn chung mâm với con. Thằng Xăm với tên lính Hai Nhỏ nốc rượu ừng ực, ăn thịt gà ngốn ngấu. Hai bi-đông rượu đều cạn, nhưng gà chỉ còn lại hơn nửa con. Bà Cà Xợi nói:
Để dành cho con Mỵ!
Ăn xong, tên Hai Nhỏ lăn ra ngủ. Thằng Xăm ngồi nói bâng quơ vài câu rồi cũng ngã ra ván quờ tay chụp cái kết vải đậy mặt. Lát sau hắn cất tiếng ngày khò khò.
..... Bây giờ thì Bà Cà Xợi đã đến đứng sát bên bộ ván thằng Xăm ngủ. Tay phải bà xách cây dao dâu. Tay trái bà run rẩy kéo nhẹ cái kết "ba rèm" trên mặt thằng Xăm ra. Mắt hắn vẫn nhắm nghiền, bộ mặt hắn bóng nhoáng, nhờn nhờn. Bộ mặt này trước kia đã có lúc bà Cà Xợi ghì sát vào lòng, hôn hít. Đôi môi này trước đã ngoạm bú vú bà chùn chụt. Nay bộ mặt ấy thay đổi quá. Hồi đó nó còn là một đứa bé. Nay nó là một thằng biệt kích, một kẻ đã từng mổ bụng, moi mật và ăn gan người. Hồi đó nó chả biết gì. Thế mà bây giờ nó biết sống chết cố dựng lại ngôi nhà trên chính cái nền nhà của cha nó bị nông dân phá sụp. Người ơn của mẹ nó thì nó chém chết không thương tiếc, rồi còn bảo con gà bị cắt bcổ nhểu máu thế nào thì người bị nó chém cũng nhểu máu như vậy.
Mẹ nó vốn xuất thân là một người nắn nồi đất, thế mà bây giờ nó nói nồi đất chẳng ra gì, sánh với nồi nhôm. Nó chẳng biết mẹ nó ngày xưa sống được là nhờ những cái nồi đất ấy. Nó cũng chẳng cần biết có nồi đất thì người nghèo như mẹ nó mới nấu được cơm, và có nồi đất thì mới cất được nên rượu nếp nồng nàn mà nó vẫn ưa uống hơn cả.
Thằng Xăm là đứa biết và không biết một cách có ý thức về mọi điều đó.
Tuy nhiên có lúc, hắn còn biết nghĩ đến một điều là nghĩ về mẹ và đứa em gái hắn. Mặc dù điều này cũng rất đỗi mong manh, nhưng chính bởi cái đó nên đã ba lần bà Cà Xợi giơ dao lên rồi lại từ từ hạ xuống.
Khốn thay cái khả năng duy nhất có thể cho phép thằng Xăm thoát hiểm cũng lung lay nốt,ng tội lỗi trên kia đã choáng phủ tất cả, xóa đi tất cả, không để người mẹ còn nhận được hắn là con của mình nữa. Cho nên sau những phút chần chừ do dự, bà Cà Xợi dựng con dao dâu vào vách và chạy ra khỏi nhà. Hồi lâu, giữa lúc thằng Xăm và tên lính hãy còn ngủ có hai bóng người lẻn vào cửa sau. Đó là hai du kích còn náu lại ngoài xóm... Một anh du kích đứng cầm trái lựu đạn gác cửa, còn một anh cầm mã tấu phăm phăm đi riết vào chỗ thằng Xăm ngủ.
Thằng Xăm chết ở nhát mã tấu chem phụt xuống rất nặng và gọn.
Đầu hắn đứt lìa văng ra cách cái cổ đang phun máu của hắn chừng nửa gang tay. Tên lính Hai Nhỏ nghe động giựt mình choàng dậy, chụp súng. Nó cũng liền bị anh du kích chém đổ ngay xuống ván. Nhát mã tấu này ăn xếch từ dưới lạm cằm lên tới mang tai tên lính xấu số. Lưỡi mã tấu mắc dính trong đó, anh du kích loay hoay mất một lúc, mới nhấc ra được.
5
Nắng trưa đã rọi thẳng xuống đỉnh các ngọn dừa. ánh nắng in thành vệt trên những đống rơm chất dài trong vườn. Cạnh đó, mấy bao tải chứa ớt khô và vôi bột mà bọn giặt mới vác từ suối đến cứ xếp chồng lên nhau.
Đợi mãi chẳng thấy trung úy Xăm đâu, tên thiếu úy Ba ra lệnh cho bọn lính bắt đầu đội rơm lên đầu, chia thành hai cánh, men vào hai bên mép miệng hang. Trông những tên lính vác rơm thật buồn cười. Chúng đi rón rén như kẻ trộm, mặc dù hai khẩu đại liên của chúng đặt trong mé vườn đã được nạp đạn, chĩa nòng vào miệng hang để đề phòng bất trắc. Bọn lính nối đuôi nhau đi mỗi lúc một xa. Khi chúng đi vào tới vạt cỏ ống che khuất, đến lưng, thì chỉ còn thấy những đống rơm biết đi, xô đẩy, hêu hêu trên đầu ngọn cỏ.
Chúng đến hai bên mé hang, hất rơm trên đầu xuống thành hàng đống dài, vàng lóa. Những thằng lính vác các bao ớt bột, vôi bột men ra sau cũng đã đi được nửa đường. Sau rốt tên thiếu úy gọi mấy thằng lính vác sào tre dài lêu đêu, vàng óng, xông vào. (Những cây tre này chúng vừa đốn hồi sáng ngoài bãi tre. Và do đó bà con đã kéo tới chỗ tên thiếu tá làm ầm lên. Khi tến thiếu tá chịu xuất tiền bồi thường thì những thằng lính đó mới vác tre đi được).
Anh Đức
Hòn đất
Chương 5
Vào đến miệng hang, tên thiếu úy Ba một mặt cho lính chạy vào xóm kiếm thằng Xăm, một mặt cho rạch mấy bao vôi, ớt. Chúng đổ rắc vôi và ớt bột vào tất cả các bó rơm rồi dùng sào tre xiên qua các bó rơm đó, đẩy tới miệng hang. Rơm mới đùn tới miệng hang thì súng trong bắn xổ ra. Rơm khô bị những viên đạn nóng rảy cọ xát, ngún khói và trong nháy mắt cháy bùng lên. Tên thiếu úy nằm rạp xuống cỏ từ nãy giờ thấy thế liền bật cười hô hố. Hắn co chân đạp gió lia lịa, la lên:
Tốt lắm, tụi nó mồi lửa giùm mình, đẩy rơm vô, đẩy rơm vô nữa đi!
Bọn lính cầm sào tre ra sức đẩy rơm tới giữa miệng hang. Lát sau miệng hang dùn đầy rơm, bộn bề, xù xụ. Rơm khô bén lửa cháy phừng lên giữa buổi traư nắng chang chang.
Súng bên trong cũng im mặt không bắn ra nữa. Bọn lính tiếp tục dùng sào đẩy rơm vào miệng hang. Tên thiếu úy vẫn nằm xoài trên cỏ. Theo lệnh hắn, những tên xạ thủ súng máy nằm bên cạnh đã đặt tay lên cò súng, sẵn sàng quét đạn về phía miệng hang nếu có ai từ trong đó vụt chạy ra. Tên thiếu úy chòi chòi hai gót giày giữa khoảng không, đắc chí bảo:
Đ.mẹ, khói ớt mà chịu gì nổi? Trận này chuột phải bò ra khỏi hang thôi. Hễ thằng nào vọt ra, tụi bây quét liền cho tao!
Những tên xạ thủ súng máy mím môi đợi. Nhưng chúng chưa thấy bóng người nào ra cả. Chỉ có đám lính đứng lố nhố gần miệng hang vụt chạy lùi trở lại. Tên thiếu úy hỏi lớn:
Cái gì, cái gì mà chạy?
Bọn lính không đáp. Thằng nào thằng nấy cứ ôm ngực ho sặc sụa, chạy tháo lui. Thì ra rơm cháy lên nhưng khói không chịu lùa vào hang. Luồng khói trắng xám bốc từ đống rơm cháy bị gió trong hang lồng ra, cuồn cuộn tạt qua hai bên miệng hang. Bọn lính đứng gần đó bị luồng khói độc địa phả vào mặt. Chúng hít phải hơi ớt và vôi bột, chịu không nổi, vùng chạy trối chết. Nước mắt, nước mũi trên mặt chúng chảy giàn giụa cả ra. Có thằng bị khói ớt xông lên cay buốt tận đỉnh đầu, đứng không vững phải ngồi khuỵu xuống. Có thằng mở mắt ra không được. Vừa đi vừa quờ tay như bị mù.
Tên thiếu úy Ba ức lắm, nhỏm dậy chạy lại coi. Hắn cũng liền bị khói phả vào mặt, ho sằng sặc và quay lui. Nhưng luồng khói không ngừng miết vào hai mép hang, lùa theo. Hệt như ở trong đó có người đang quạt thốc khói ra vậy. Nhưng kỳ thực trong đó nào ai quạt. Lỗi lầm này là cũng bởi tại bọn giặc quá ngu xuẩn mà thôi. Trong một cái hang đã có sẵn khối thể khí, nay lại dồn khói vào, tất nó không nhận thêm.
Ban sáng khi bọn lính đi cướp rơm của bà con trong xóm có để lộ ý định xông hang thì nhiều bà con đã cười thầm trong bụng rồi.
Ông Tư Đờn đã nói với bọn lính:
Tui tiếc chi ba cọng rơm, mấy người muốn lấy rơm đem xông Việt cộng thì cứ lấy. Tui chỉ e không ăn thua gì đâu!
Sao không ăn thuá
Không xông nổi đâu!
Một tên bảo:
Thôi, đi vác rơm đi tụi mày, ở đó nói lần khân với ổng làm chi, ổng mù, chuyện giặc giã làm sao ổng biết được!
Chúng không dè ông Từ Đờn biết rõ: Ông biết không thể nào xông khói vô hang được, nên ông mới nói thế.
Bây giờ lời nói ông đã được chứng thực. Khói cứ vẫn bay ngược trở ra. Tên thiếu úy mắt nhắm mắt mở bảo bọn lính:
Như vậy không xong. Tụi bây phải vác sào chỏi đống rơm đó vô miệng hang sâu sâu một chút mới được.
Ba bốn thằng lính cầm sào tre, mon men lại gần miệng hang vừa đi vừa tránh khói thổi tạt vô mặt. Chúng đứng lóm thóm tại đó một chút rồi liều mạng nhảy đại ra trước miệng hang, cầm sào đẩy rơm vào lia lịa. Đống rơm đang cháy bị đẩy vào sâu hơn. Bọn lính đẩy xong vội vàng chạy lùi về. Nhưng lần này tên thiếu úy và cả bọn lính đều thất vọng. Khói trong miệng hang vẫn cứ cuồn cuộn bay ra. Một bên lính giụi mắt càu nhàu:
Gẫm ra ông già mù trong xóm nói phải. Khói không chịu bay vô mà ăn thua mẹ gì!
Anh Ba à, nhắm không êm thì mình rút về tính kế khác, chớ láng cháng ở đây...
Phải đó, ở đây không nên, rủi tụi nó trong hang xổ ra mình trở tay không kịp1
Tên thiếu úy Ba tức giận quát lớn:
Không nên, không nên cái con c... Tụi nó ra thì sanh tử với tụi nó, không rút đi đâu hết thảy!
Hắn lại chửi thề thêm một câu nữa, rất tục. Rủi thay, giữa lúc hắn đang nổi giận thì từ trong mé vườn có một tên lính hớt hải chạy ra. Đó là tên lính ban nãy theo lịnh hắn vào xóm kiếm thằng Xăm.
Tên này chạy đến nơi, mặt xanh mét không còn một giọt máu. Nó nói như muốn đứt thở:
Trung.... Trung úy chết rồi!
Tên thiếu úy Ba chưng hửng, chưa kịp hỏi thì tên lính lại hổn hển nói:
Thằng Hai Nhỏ cũng chết... Trung úy với thằng Hai Nhỏ bị chém. Trung úy đứt đầu. Châu cha, máu chảy đầy một bộ ván...
Ai chém? Bắt được chưa? Mà chém ở đâu?
Tại nhà bà già của trung úy. Chưa biết ai chém. Tôi bước vô thấy hai người nằm, ruồi bu đầy cổ, chớ không thấy có ai ở đấy hết1
Thôi chết mẹ rồi,Việt cộng trong xóm bắt đầu ám sát rồi!
Tao nghi...
Mặt tên thiếu úy tái hẳn lại. Hắn hỏi:
Cho thiếu tá hay chưa?
Tên lính đáp:
Rồi, tôi chạy lên cho ổng hay rồi!
Ông nói sao?
Ông đương nhậu, buông rớt bể cái ly...
Tên thiếu úy không hỏi thêm gì nữa. Hắn liền ra lịnh bỏ cuộc un hang. Bọn lính vứt sào tre, không màng tới đám rơm còn đang cháy hù hù. Tất cả kéo nhau qua khoảng đất trống. Những tên lính bị chảy nước mắt và những tên lính không bị chảy nước mắt, tất cả đều bị cái tin rùng rợn kia làm cho chân tay bủn rủn. Đây là lần đầu tiên bọn lính biệt kích hoang mang run sợ nhất.
Lâu nay thằng Xăm gây cho chúng lòng cuồng tín cao độ. Bọn chúng vẫn tin rằng hễ có mặt thằng Xăm trong trận đánh phá nào thì trận đánh phá đó ắt phải kết quả. Chúng tin rằng đi theo thằng Xăm thì chỉ chúng giết được người khác chớ người khác không bao giờ giết được chúng. Lâu nay thằng Xăm là tiếng reo hò thúc giục chúng xông vào tội ác. Khi phát hiện trên đồng nước một bóng cán bộ nào thì hắn chạy sải tới như ngựa, hạ lệnh rượt đến cùng, dù làng nước ấy ngập có tới gối, dù người cán bộ đó ở cách xa hằng ba bốn cây số. Đi biệt kích, hắn thường đánh thức bọn chúng dậy giữa đêm mưa và nói rằng chỉ có đi trongđêm mưa mới đánh được Việt cộng. Ban đầu bọn chúng còn rụt rè chưa dám ăn thịt người, thì thằng Xăm nhai nghiến ngấu, luôn miệng bảo trên đời không có thịt con nào ngon hơn thịt con người. Đối với phụ nữ, trừ mẹ và em gái, hắn có hiếp bất cứ ai. Sau lúc hiếp hắn còn cắn vú họ, hút máu, và nói rằng máu đàn bà còn bổ hơn máu đàn ông.
Hắn là một đứa như thế. Và chính nhờ thế hắn mới được Ngô Đình Diệm phong là một trong sáu anh hùng của quân đoàn bốn, trấn cứ tại miền Tây Nam Bộ. Đại đội biệt kích của hắn chả khác gì con rắn độc, mà hắn là cái đầu. Bây giờ đầu rắn bị chặt rời nên mình rắn là cái bọn biệt kích kia cũng tức khắc oằn oại.
Trên mặt tên thiếu úy Ba, vẻ hùng hồn đã chết lặng, nhường chỗ cho nỗi hoảng sợ hiện lên làn da mặt mỗi lúc một xanh tái. Từ khoảng đất trống dẫn tới mé vườn, hắn đi vấp ngã mấy lượt. Đôi tên biệt kích còn ngó ngoái lại miệng hang. Hôm nay đứa nào cũng thấy trong người rã rời. Cái tin thằng Xăm bị chết một cách đột ngột cùng cuộc un hang thất bại gieo vào lòng chúng nỗi chán ngán đến mệt mỏi. Sau lưng chúng, đống rơm ở miệng hang đã cháy rụi. Khói trắng bay là là ra tới khoảng đất trống. Đống tro rơm trên miệng hang bỗng sụp xuống và phần trên miệng hang lộ ra.
Cả bọn kéo về tới bên bờ suối. Tên thiếu tá cũng có mặt ở đó. Khi biết việc đốt hang thất bại, hắn lầm bầm chửu tục, mặt quạu quọ
Từ đêm qua tới nay hắn gặp toàn chuyện rắc rối. Mấy hôm trước dân Hòn Đất còn im lặng. Thế mà từ sau khi hắn xuống lệnh giết chết một người con gái thì ngay đêm đó hắn bắt đầu phải đối phó với bao nhiêu vụ. Nào là dân chúng biểu tình ban đêm, nào là dân chúng bắt bọn lính đốn tre dẫn tới chỗ hắn, đòi hắn phải bồi thường. Rồi thằng Xăm bị chặt đầu, rồi kế hoạch un hang do hắn bày ra đã hỏng bét.
Sau khi chửi thề, hắn nói với tên thiếu úy Ba:
Thôi được, un hang không được thì sẽ lấp hang. Về vụ này tôi nghi trung úy Xăm và thằng Hai Nhỏ bị con mẹ đằng Thổ chém. Nghe nói con mẻ điên...
Thưa thiếu tá, tôi cũng nghi vậy. Đâu có ai vô đó... Con mẹ đo coi ghê lắm, phải bắt con mẻ đó mới được!
Nó trốn rồi. Tự nãy giờ cho lính kiếm giáp xóm mà không gặp. Tôi tính bắt con nhỏ đằng Thổ lai em của trung úy Xăm đem về khảo thử, nhưng dân chúng họ cự dữ quá, họ giựt con nhỏ đó lại...
Thưa thiếu tá, tụi dân chúng ở đây coi bản mặt đứa nào cũng lầm lầm lì lì. Chắc phải "mổ" vài đứa cho tụi nó hoảng mới được.
Tên thiếu tá không đáp, đưa cánh tay đen nhánh lên nhìn đồng hồ. Hắn nói:
Gần hai giờ rồi. Bây giờ anh cho lính tới đó vác xác hai người đem chôn đi. Tôi còn phải lại trường học coi số lính bị thương hổm rầy ra sao. Nghe nói họ rên la dữ quá. Đ.mẹ kêu trực thăng rát cổ họng mà chớ có tới một chiếc. Bộ bị Việt cộng bắn rớt hết rồi sao không biết?...
Tên thiếu tá nói xong, quay lưng kêu bọn lính đi với mình vào xóm.
.... Tại cái trường học mà ngay từ hôm đầu tiên bọn chúng đã vứt tất cả bàn ghế ra sân, tên thiếu tá đứng trước một cảnh tưởng khủng khiếp. Trên những tấm vải bạt xám trải đất, bọn lính bị thương nằm chặt hết không còn một chỗ trống. Những thân hình xám xịt, hôi hám buộc đầy bông băng cứ ngọ ngoạy tay chân, quờ qua quờ lại. Trên vải bạt vương đầy những miếng bông dán máu khô sẫm và những lớp vải băng tuột ra lòng thòng, giây máu giây đất trông rất bẩn. Bọn lính bị thương chửi rủa luôn miệng và rên rỉ đủ kiểu khác nhau tùy theo thương tích của từng tên. Chúng rên hư hư như trẻ con khóc. Chúng chắc lưỡi hoặc rít dài. Có tên thở hộc hộc và có những tên từ cuống họng chợt phá ra tiếng ơ ớ như người nằm mê gặp mộng dữ, muốn rú lên mà không rú được.
Tại đây chỉ còn lại bọn lính bị thương nặng. Bọn bị thương nhẹ có hy vọng tiếp tục cầm súng đã được chở đi hồi trưa hôm qua, cùng chuyến trực thăng đổ xuống lấy xác tên Mỹ.
Tên thiếu tá chau mày trước những hình hài lăn lộn, đang rên rỉ và chửi rủa. Mấy tên nằm ở gốc ngoài chẳng biết có thấy thiếu tá của chúng đang đứng đấy hay không, mà chúng cứ lôi tên thiếu tá ra chửi. Nghe chửi một lúc, tên thiếu tá nóng mặt hất hàm bảo bọn lính:
Tụi bây biểu nó câm miệng đi, không thôi ta xổ cho một băng đạn bây giờ!
Một tên lính chạy sấn vào nạt lớn:
Im đ, làm gì mà cứ rống lên vậy. Thiếu tá bắn chêt mẹ hết bây giờ!
Đ.mẹ, thiếu tá, thiếu tá đâu? Thiếu tá đâu?
Mấy tên lính càng chửi dữ rồi chồm tới phía cửa, muốn chụp chân tên lính vừa nói. Tên lính hoảng sợ rụt chân, lui lại. Bọn bị thương gào lên như xé họng. Chúng bò nhoài ra phía cửa hông ngôi trường, chửi xối xả vào mặt tên thiếu tá, bảo rằng chính hắn đã bắt chúng đi chết bỏ vợ bỏ con. Tên thiếu tá đứng yên cúi nhìn mấy tên lính bị thương đang chồm về phía mình. Hắn thét:
Câm, tao biểu câm miệng!
Nhưng bọn này vẫn không ngớt lời quyền rủa. Chúng còn hăm nếu mà chúng chết, chúng sẽ bắt hồn tên thiếu tá đi theo.
Một bàn tay dài ngoẵng của tên lính đã với lên tới mũi giày da đen cao cổ bám đầy bụi của tên thiếu tá. Tên thiếu tá nháy mắt bảo tên lính mang tôm-xông đứng gác tại cửa:
Bắn nó cho taó
Tên lính kéo tôm-xông ra khỏi vai. Nhưng rồi tên lính ấy cứ đứng trơ ra, miệng há hốc, ngón tay đặt nơi cò súng cứ run lẩy bẩy. Nó không bắn được. Tên thiếu tá không đợi nữa. Hắn thò tay mở bao súng rút khẩu "côn 12" chĩa xuống cái đầu băng bó đỏ lòm dưới cân mình bắn "đẹt" ngay một phát. Người lính bị thương chúi đầu xuống, hai bàn tay ôm lấy ống giày tên thiếu tá từ từ buông rời ra.
Sau khi giết chết tên lính, tên thiếu tá quay mũi súng sang tên lính cầm tiểu liên tôm-xông, nghiến hàm răng vàng lóa:
Ê, sao biểu bắn mày không bắn mậy?
Tên lính không đáp. Nhưng khẩu tôm-xông trong tay tên lính tự nhiện cũng chĩa vào người tên thiếu tá. Hai họng súng đều run run. Tên thiếu tá bỗng tái mặt. Hắn thấy đôi mắt tên lính bây đỏ ngầu, và bàn tay trái của tên lính nắm chặt lấy băng đạn tôm-xông còn đầy ắp. Lát sau, tay súng ngắn gên thiếu tá từ từ hạ xuống. Hắn vừa đưa mắt nhìn tên lính, vừa cho súng vào bao. Tên lính thì vẫn cứ chĩa họng súng vào người hắn. Đến mấy giây sau, tên lính mới chúc mũi súng, khoác mạnh vào vai.
Rời cái trường học cứ văng vẳng tiếng rên la, tên thiếu tá nghĩ: "Mình phải giết thằng này mới được. Nếu không nó sẽ bắn mình".
Tên lính cũng mấy lần liếc nhìn tên thiếu tá: "Thế nào nó cũng trả thù. Có dịp là mình phải bắn hạ nó trước!"
Trên đường đi, hai tên cùng một lúc đoán đúng bụng dạ và ý định của nhau.
Tới gần bốn giờ chiều, một chuyến máy bay trực thăng của giặc đến Hòn Đất. Giữa tiếng sóng biển, động cơ trực thăng vẫn vọng rõ, nghe hù hù, ở bên trên tiếng sóng. Đến lúc người Hòn Đất nghe tiếng động cơ ầm ầm thì ngước mắt lên, họ đã trông thấy tất cả có sáu chiếc từbiển bay vào. Gồm có bốn chiếc trực thăng hai động cơ mà bấy giờ bà con đã quen gọi là "cán gáo". Cái hình thù của những chiếc trực thăng này nom rất quái đản. Nó gieo cho bà con nông dân thuần phác cái ấn tượng về sự bất lương, vừa thô bạo lại vừa rất đỗi ma mị.
Trên vòm trời xanh ngăn ngắt, những hình thù đó hiện ra ngọ ngoạy lủi tới, đe dọa mọi người. Khi chúng bay qua khỏi bờ biển trào sóng, lập tức cả sáu chiếc đều sà xuống thấp. Những cái chong chóng to lớn ở gần đầu và gần đuôi chúng quay tít, kêu lạch cạch, tưởng chừng như chúng sắp sửa đổ xuống đến nơi. Nhưng không, chúng vẫn đang bay. Có điều là chúng bay thấp, nên vườn lá liền chuyển động. Những tàu lá dừa gặp phải trận gió cuộn lốc, lúc oằn xuống, lúc cong vút lên. Vườn vú sữa, vườn măng cụt, vườn li-ki-ma bỗng rào rào, vật vã. Tất cả mọi chiếc lá còn đẫm ánh mặt trời bị thổi riệt bay lật ngược ra sau thân cành.
Đàn trực thăng nặng nề sà qua những vườn quả đó, nơi màu xanh mướt mượt của cây lá tiếp giáp với màu xanh sẫm của biển chiều. Những con quái vật này rít rống, rền rĩ bay quá tu những trái măng cụt nâu rám, trái vú sữa tím ửng, trái mãng cầu ta xanh phơn phớt và như có rắc phấn. Chúng bay qua Hòn Đất nín lặng, bấy giờ ở miệng hang còn lơ lửng vài làn khói rơm yếu ớt, mong manh như những sợi chỉ.
Đàn trực thăng bay qua khỏi Hòn Đất một đỗi bỗng vòng trở lại ruộng trống. Lần này đầu máy bay trực thăng nhủi xuống. Tiếng động cơ nổ ầm ầm, vang rền. Trông chúng giống như những con cá lốc lơi vội, mà những cong chóng trên thân thì lại giống như những cái vây cá đang quạt. Cửa hông sáu chiếc máy bay đều đã hoác và bắc sẫn thang. Mấy tên Mỹ ló đầu ra các cửa sổ ấy, ngó xuống. Tên Mỹ nào cũng đeo kính đen lớn, mặt đỏ gay.
Sáu chiếc trực thăng lần lượt hạ xuống mặt ruộng. Những gốc rạ liền vật vã, cơ hồ như sắp bị nổ bật cả gốc lên.
Khi những chong chóng trực thăng lạch bạch quay chậm lại thì bọn lính trong vườn chạy ùa ra. Hai tên Mỹ trên máy bay bước xuống thang, đi về phía chúng. Hai tên Mỹ xì xồ nói gì, rồi có mấy tên lính chạy trở vào ven vườn. Bọn lính còn lại đi đến chỗ các máy bay đậu, leo lên thang. Chúng khuân trong máy bay ra rất nhiều bao xi măng, một số thùng sắt sơn xám, và cuối cùng là một cái chân máy chiếu bóng cùng những cái loa lớn.
Tên thiếu úy tâm lý chiến bộ mặt vênh váo chạy lộp bộp đến bên thằng lính vác cái chân chả ba. Hắn rờ rẫm cái chân máy chiếu bóng, nói với lũ lính:
ý kiến của tao đã được bên trên chấp thuận. Hay lắm, máy móc và phim đã tới. Anh em sẽ được coi xinê!
Hát bóng hả thiếu úý
Phải, hát bóng!
Bỗng phía sau lưng, một tên lính, thở dài:
Non nước này mà còn mà hát bóng. Vui vẻ gì mà hát!
Tên thiếu úy nghe lọt tai câu nói. Hắn trề môi:
Ê, không phải chiếu cho tụi bây coi đâu. Đây là chiếu cho tụi Việt cộng và dân chúng coi, hiểu chưa?
Sao lại chiếu cho Việt cộng và dân chúng coi, thưa thiếu úy?
Tụi bây khờ quá, đánh với Việt cộng mà đánh bằng súng đâu có được, phải đánh bằng cú tâm lý nữa chớ. Để tao nói cho nghe, bộ phim này là bộ phim của Hoa Kỳ, gay cấn lắm, quay cảnh Huê Kỳ đánh với Trung cộng và Bắc Cao tại một trái núi. Huê Kỳ đánh tan trái núi đó làm tụi Trung cộng và Bắc Cao chết không còn một mạng...
Tên thiếu úy dừng lại, tự trỏ vào ngực:
Sáng kiến của tao đó nghe. Tao yêu cầu trên cho đem chiếu bộ phim đó trước cửa hang để tụi Việt cộng trong hang coi đặng, rủn chí. Chừng chiếu sẽ dồn dần Hòn Đất tới coi nữa, cho nó ngán...
Bọn lính tấm tắc:
Vậy thì hay lắm1
Một tên vọt miệng khen:
ờ, chiếu cái tuồng đó chắc tụi nó ớn. Thiếu tá có sáng kiến thiệt. Hèn chi thiếu úy theo ngành tâm lý chiến là phải
Tên thiếu úy được khen phổng mũi. Hắn lấy giọng nghiêm trang:
Đánh với Việt cộng phải đánh vậy mới được chớ. Nè, mà tao dặn, tụi bây biết vậy thôi. Không được đi nói rum nghe chưa?
Bón lính bảo là sẽ không nói với ai. Chúng hè hụi khiêng vác đồ đạc vô vườn. Bọn này đi vô tới vườn thì gặp số lính bị thương cũng được võng ra tới.Tất cả có đến ngót năm mươi tên, mình mẩy băng bó, đứa nằm cong mình như con tôm, đứa nằm ngoẻo đầu trên mặt võng. Những chiếc võng ấy đi tới đây là đem theo mùi hôi thối và tiếng rên la tới đó. Trên mặt ruộng ngã chiều, bọn lính khiêng võng đi xồng xộc. Võng bố cứ oặt òa oặt oẹo đưa đẩy thân hình các tên lính đang oằn oại kia không chút thương xót. Trong bọn lính cáng võng có những tên ngồm ngoàm cạp một trái mãng cầu ta hoặc một trái vú sữa mà chúng nhặt được trong vườn. Mặt các tên lính đó coi hám ăn, hau háu. Trông chúng mới thản nhiên làm sao, trông chúng vẫn như thường. Dấn thân vào con đường đi đánh giặc mướn, tình đồng loại trong chúng đã chai đi.
Nhưng dù thế, chúng cũng còn ra sức khiêng vác bọn bị thương. Chỉ có bọn Mỹ mới thực là lạnh nhạt. Phần lớn chúng đều ngồi trên máy bay đã đậu im. Chỉ có hai tên xuống lúc nãy, giờ đứng trên khoảnh đồng, miệng ngoạm điếu thuốc dài non gang tay, phì phèo. Cả hai đều đứng xoạc chân, một tay khoanh nơi ngực, một tay thỉnh thoảng lại giật phắt điếu thuốc lá ra khỏi mép.
Khi những chiếc võng oặt oẹo tiến tới, chúng khẽ nhấc cặp kính đen đeo mắt xuống để nhìn. Rồi cả hai tên như cùng một lúc đứng nánh ra, đưa bàn tay phẩy ngang mũi. Từng chiếc võng một cứ thế nặng nề đi qua, cùng với tiếng rên và mùi hôi thối. ở một vài chiếc võng thấy nhễu xuống những giọt gì, không rõ là giọt máu hay là mủ, hay là nước rỉ vàng. Hai tên Mỹ ngoảnh mặt chỗ khác, rít thuốc, khạc nhổ lia lịa xuống ruộng.
Đám lính khiêng võng lần lượt đi qua. Những tên lính đầu sau khi trút bọn bị thương lên sàn máy bay, giờ đã quành lại. Chúng kéo lệt bệt đôi chân giày của chúng và lôi xệch những chiếc võng không trên ruộng rạ.
Sáu chiếc trực thăng bắt đầu nổ máy trở lại. Đầu tiên động cơ gầm gừ làm cho máy bay như rùng mình nhất loạt. Sau đó chúng mới gầm lớn hơn, lớn hơn nữa. Những cái chong chóng gỗ ếp nãy giờ rũ cụp xuống, nay lại dửng lên, từ từ quay. Chong chóng quay nhanh dần, nhanh dần rồi sau cùng chỉ thấy vun vút, loang loáng và phát ra tiếng ù ù, lạch bạch.
Lúc máy bay sắp cất cánh, tên thiếu tá ra tới. Hắn bắt tay hai tên Mỹ đứng dưới ruộng, nói chuyện với chúng. Trong câu chuyện, đôi khi hắn cau mày. Mặt hai tên Mỹ thì cứ khinh khnh. Thằng trung úy Mỹ vừa nói bằng cái giọng như nghẹt mũi vừa hút thuốc, hút hết điếu này lại mồi điếu khác. Về sau một tên Mỹ trên máy bay thò tay ra cửa sổ ngoắc và la:
Quick, quick!
Hai tên Mỹ quay lưng chạy về phía máy bay. Tên thiếu tá chạy theo đến bên chiếc máy bay "cán gáo" mà hai tên Mỹ vừa leo lên. Tên Trung úy Mỹ thò đầura, vẫy tay chào hắn. Hắn đứng khựng, mái tóc chải ốp xửng lên, cứng còng trước cơn gió cuộn của cánh quạt trực thăng. Sau cùng hắn giơ cả hai cánh tay ra, nói lớn:
You please, if you please
Tên trung úy nhếch miệng cười, gật gật đầu. Hắn khoát tay ra ý bảo tên thiếu tá lùi ra. Tên thiếu tá vội đi giật lùi.
Máy bay bắt đầu nổ máy mạnh hơn. Cặp thứ nhất bốc thân mình khỏi mặt đất. Chúng bay lên từng cặp một.
Tên thiếu tá giờ như đứng giữa trận dông khô. Đồng rạ dưới chân hắn chấp chới như muốn bứt gốc bay lên hết cả. Lúc những bụi rạ ấy đứng yên lại như cũ thì lạ thay, có những bụi không cất lên được nữa. Màu rạ mới trước vàng tươi, nay chợt xám ngoét.
Không phải chỉ có chỗ trực thăng hạ, cũng không phải những bụi rạ này cũng bị sức gió thô bạo của những cái chong chóng trực thăng kia xô bẹp. Đây là do những mùi máu hôi thối từ các võng nhểu xuống ban nãy, cộng thêm ánh nắng hắc của ngày tàn, nên mấy bụi rạ đó mới sinh thối lây, rủ nhẹp xuống, tên thiếu tá theo cái lối mòn rạ rũ đó mà đi vô vườn. Trong lúc sáu chiếc trực thăng một lần nữa ầm ã chở những tên lính hấp hối sà ngang vườn cây Hòn Đất, bay ra biển.
Tên trung úy ngồi ló đầu ra cửa sổ máy bay. Sau lằn kính râm màu xám nhợt, hắn nhìn thấy sóng biển chạy trườn vào bờ, rồi sóng ấy sủi trào, giạt trở lại. Hắn còn nhìn thấy bãi cát dợn lên lăn tăn, dấu vết của nước triều cùng ngày tháng. Và kia, những cọc nò nhô khỏi mặt biển không ngớt bị sóng vỗ vã. Một cái nhà trại cất trên những cột to phơi đầy lưới, chung quanh bồng bềnh vài chiếc ghe và xuồng.
Trại nò với hàng rào cách khoảng ấy gợi tên trung úy nhớ tới những cái tháp đèn và những phù tiêu trên một cửa biển nào đó mà hắn đã có dịp đi qua. Đấy là ranh giới cuối cùng đã đặt cái hòn xanh thẳm rất đỗi xa lạ kia ở lại sau lưng hắn.
Những chiếc trực thăng bay với tốc độ mau hơn. Giữa tầng không, bấy giờ chợt hiện ra mấy cụm mây khói đen trĩu nước và biển bên dưới hình như đã bắt đầu sôi sục. Sóng biển trong nháy mắt chuyển từ màu xanh mênh mông trở thành màu chỉ xám xịt.
Tên thiếu úy rụt đầu vào, hạ tấm cửa kính dầy xuống lẩm bẩm:
Trời xấu rồi!
Có lẽ sắp mưa. Tên thượng sĩ ngồi bên nói
Tên thượng sĩ nói xong đứng bật dậy khỏi ghế da, ghé mắt dòm xuống mặt biển chao sóng, miệng thì thào, run run:
Thưa trung úy, chúng ta ra tay đi thôi:
Còn gần bờ lắm.
Tên trug úy đáp và đưa tay lên xem đồng hồ. Hắn bảo:
Năm phút nữa.
Cánh tay đeo đồng hồ của tên trung úy đặt lên tấm kính cửa sổ, rờ rờ. Mấy ngón tay múp míp mọc đầy những sợi lông vàng xoăn của hắn lướt trên mặt kính, ngọ ngoạy, bồn chồn.
Từ khi bốc lên khỏi mặt đất, thân máy bay rung chuyển không ngớt. Những người lính bị thương nặng, nằm trên sàn máy bay càng thêm vật vã. Tiếng rền rĩ của họ bị động cơ ầm ầm lất ái đi không còn nghe thấy nữa.
Thân máy bay rung chuyển bắt máu từ các vết thương họ chảy ộc ra. Trường hợp chấn thương này mới gớm ghê hơn cả mọi trường hợp chấn thương khác. Nó không va xốc mạnh, nó chỉ đánh động từ từ, với nhịp độ đều đều mà không dứt. Nó là sức máy, vì vậy nó lâu bền một cách độc ác. Máu của từng người lính bị bị xốc cho chạy ra, lúc đầu còn ri rỉ, về sau cứ tuôn ồng ộc. Sàn máy bay làm bằng chất nhựa đỏ rám mặt sạn bây giờ ướt sũng máu. Và máu đó tìm chỗ chảy. Qua các đường hở nơi bậc thang, máu nhểu giọt, hòa vào cơn mưa đã bắt đầu giăng kín bầu trời, bay xiên xuống mặt biểng trắng mịt như sương như khói.
Tên trung úy Mỹ đứng dậy bỏ chân bước ngang mình bọn lính bị thương nằm nơi sàn. Hắn rẽ ngoặt vào buồng đặt máy vô tuyến điện thoại. Lát sau hắn trở ra, bước vụt qua mình các tên lính. Hắn bảo tên thượng sĩ:
Bắt đầu đi?
Tên thượng sĩ cởi áo, rón gót giày bước tới sát vách máy bay. Hắn rùn chun nắm chặt lấy một vòng sắt coi giống như cái "vô-lăng" xe có quấn đầy dây cáp, thòi ra nơi vách. Tên thượng sĩ đưa mắt liếc nhìn bọn lính nằm dưới sàn nhựa lần nữa, rồi nghiến răng xoay mạnh cái vòng sắt. Dây cáp tuồn tuột tháo ra. Lớp sàn bỗng nhiên trụt hẳn xuống, trống hoát một lỗ vuông vứt độ hai thước cạnh. Bảy tám tên lính bị thương vụt chuổi người theo khoảng sàn nhựa vừa ha ra đó, bay hắt đi. Còn vài tên không nằm đúng trên khoảng sàn, lập tức bị tên trung úy Mỹ co giày đạp hất xuống. Có tên chỉ kịp kêu "trời ơi!" rồi lọt thỏm xuống ngay. Tên sau rốt, lọt cả người xuống rồi. Nhưng hai tay với kịp, cố bám rịt lấy thành sàn. Thằng trung úy co giày định hất đôi tay ấn ra. Nhưng không biết nghĩ sao, hắn lại khom lưng cúi nhìn bàn tay người lính đang cố víu lấy mép sàn. Đôi bàn tay của người lính lóng cóng, các đốt tay ngón tay rã rời buông dần, buông dần từng phân sàn nhựa. Cuối cùng không cưỡng nổi sức gió bên dưới, mấy ngón tay đó buông hẳn.
Đám lính dẫu bị thương nặng mấy, lúc rớt xuống biển họ cũng chợt tỉnh lại. Vì nước biển chiều mưa âm ấm đã lay dậy sức sống cuối cùng trong ngót năm mưới cái cơ thể đớn đau. Chính làn nước biển đã giúp họ hiểu ra những cái phút giây khốn đốn nhất của đời họ. Khi biết rằng đây là cái chết thật sự, những con người đó bơi lội giẫy giụa một cách tuyệt vọng trong sóng. Máu hòa vào nước biển. Và nước biển mặt lại xát vào các vết thương trên người họ. Không mấy chốc họ đều đuối sức. Những lớp sóng màu chì lần lượt nhận họ chìm xuống. Những người cố vùng vẫy nhất rốt cuộc cũng bị sóng đánh gục. Tất thảy bốn mươi sáu người lính bị thương đều chỉm nghỉm xuống mặt biển chiều hôm đang gầm gào, xám xịt mưa giông.
6
Hạ sĩ Cơ nhấc ly rượu uống một hơi. Ba người lính bảo an trạc tuổi anh ta cũng nhấc ly lên uống.
Họ đặt mấy cái ly không xuống ván, thò tay rón lấy mỗi người một thớ khô mực xé để trên đĩa.
Mưa rơi trên mái quán thí Ba ú mỗi lúc một nặng hạt. Từ nãy giờ thím Ba đứng ngoài cửa nhìn trời. Thấy trời đổ mưa to, thì thím mừng lắm. Ngay từ lúc mây khói đen bay nhanh và gió trở ngọn lành lạnh, thím đã bảo bụng: "ờ, mưa đi ông, làm ơn mưa giùm một trận lớn cho anh em tôi trong hang nhờ coi!"
Sau khi nướng xong mực cho mấy người lính "cảm tình", thím Ba ra đứng luôn tại cửa. Đặt hai bàn tay xòe hết ngón nơi cạnh sườn, thím ngóng nhìn cụm mây đen kịt. Chưa bao giờ thím trông đợi trời mưa như bữa nay. Khi mưa rắc hột xuống mái nhà, thím lại mong tiếng rơi của nó hãy nặng hơn.
Ông trời làm coi được quá mấy cậu ơi!
Thím bước vô nhà và nói với bốn người lính như vậy.
Hạ sĩ Cơ bảo:
Chẳng biết mấy ổng ở trỏng có hứng được nước mà uống hay không?
Được chứ
Thím Ba ú nói nho nhỏ
Vậy, thì mấy ổng hết khát rồi!
Phải, không khát đâu. Hễ có mưa là nước chảy lọt vô kẽ hang, thiếu chi!
Hạ sĩ Cơ nói:
Mọi khi ra gần giêng ít khi có mưa lớn lắm!
Thím Ba ú cười tủm tỉm, nói giọng nửa giỡn nửa thật:
Thì mọi năm có như vầy đâu.... Tôi gẫm ông trời ổng ủng hộ cho Việt cộng đó a mấy cậu!
Một anh lính ngồi ở trong góc ngó chầm bầm những giọt mưa trên mái nhà tí tách rơi xuống cái rãnh ngoài cửa bấy giờ đã có nước cuộn chảy và nổi nhiều chiếc bong bóng nhỏ xíu. Người lính ấy nói:
Còn tôi, hễ ngó trời mưa là tôi rầu thúi ruột. Hồi giữa cái năm tôi bị bắt lính thì mái nhà tôi đã rệu quá cỡ. Lợp lá "cần đốp" thì giỏi gì một năm cũng phải lợp lại. Đằng này chịu đựng gần hai năm, chịu sao thấu? Rầu nhứt là đêm mưa, vợ la con khóc, vác chiếu chạy tới góc nào cũng đều bị dột. ở trong nhà không khác chi ngoài sân. Nên ông trời ổng đổ mưa là ổng hại tôi. Giờ tôi ngồi đây chớ vợ con ở nhà không biết chừng bị ướt ráo trọi rồi cũng nên...
Người lính dừng lại. Hai ngón tay anh ta se sẽ thớ khô, nói tiếp:
ở chỗ tôi lá lợp nhà mắc lắm. Hồi thời bình lái lá ở miệt Thủ chở lên còn dễ. Bây giờ giặc giã, khi lên khi không, mà bây giờ lái lá có chở lên cũng phải bán cho nhà vựa, chủ nhà vựa là mấy lão hội đồng xã mua của lái với giá hai ngàn một thiên, bán ra hia ngàn tám, ba ngàn sấp lên. Vợ con tôi đào tiền đâu ra mà mua?... Kẹt lắm, ở xứ tôi kẹt lá lắm!
Xin lỗi vậy chớ xứ cậu ở đâu
Thím Ba ú hỏi
ở Chắc Cà Đao, trong khu trù mật!
Thím Ba ú liếc nhìn người lính:
Chắc Cà Đao thì tôi biết... Nhưng... nhưng mà....
Thím nói tới đó, liền hạ thấp giọng vừa đủ để người lính nghe:
Cậu... cậu tính đi mà lại đi về khu trù mật nữa sao?
Không, không, khu trù mật đó bể rồi... Bể hồi tháng chín!
Thím Ba mới vỡ lẽ:
ạ, ạ... ra vậy...
Trong lúc bên ngoài mưa tầm tã, thím Ba khi bước xuống đất, khi ngồi lên ván, đong rượu rót rượu. Hết khô thì thím chế rượu đó ra đĩa, nướng khô bằng ngọn lửa rượu chờn vờn, tim tím. Hết dấm thì thím sớt dấm. Mọi việc đó thím lo chu tất, gọn gàng. Mấy người lính đều khoan khoái, song cũng có vẻ hơi cóm róm. Họ xuýt xoa miệng, họ xoắn đôi bàn tay vào nhau hoặc rờ rẫm đưa lướt tay tới lui trên đùi. Xem ra họ có vẻ sung sướng lắm, chừng như trong cuộc ời làm lính mướn khổ nhục của họ thì cái buổi chiều mưa lạnh được ngồi nhâm nhi này không phải là dễ kiếm. Mà cũng không phải người chủ quán nào cũng đối xử tử tế như thím Ba đây. Nên trong sự khoan khoái cóm róm kia của họ còn có sự cảm động. Gần một tuần lễ ở đây, họ đã tới quán thím Ba năm bảy lượt. Đầu tiên là hạ sĩ Cơ, về sau hạ sĩ Cơ rủ rê dắt thêm họ. Hôm kia hạ sĩ Cơ đã ngỏ ý với thím Ba là họ muốn bỏ trốn, nhờ thím mối mang giúp đỡ họ lọt qua Vàm Răng, thì thế nào họ cũng kiếm cách về được nhà ở Mặc Cần Dưng, Ba Dỗu, Vĩnh Hanh, và Chắc Cà Đao. Nên bữa chiều nay họ lại tới quán.
Mấy người lính tiếp tục uống rượu. Thím Ba ú cứ đưa tay rờ rờ mép cái đĩa đựng khô mãi một lúc rồi nói:
Tôi thấy mấy cậu đi cực khổ, bỏ vợ bỏ con thì tôi cũng bứt rứt, nên tôi có hứa giúp mấy cậu. Hứa là hứa vậy, chớ thiệt ra cũng ăn thua ở mấy cậu thôi... Không biết mấy cậu đã quyết ý chưa, tôi cũng ngại.
Hạ sĩ cơ vội bảo:
Thím đừng ngại, tụi tôi nhứt quyết rồi mà. Xin thím giúp cho được sớm chừng nào tốt chừng ấy. Hồi nãy thím không thấy trực thăng nó tới chở tụi bị thương bay khẳm dừ đó sao. Nếu mà thím thiệt lòng muốn tụi tôi thoát cảnh đó thì thím phải giúp tụi tôi mới được.
Đành là tôi giúp... nhưng mấy cậu phải dứt khoát không do dự...
Dứt khoát chớ, bộ thím không tin tụi tôi sao?
Người lính quê ở Chắc Cà Đao nói
Thím Ba ú bèn cười. Lát sau thím buông rời hai ngón tay ra khỏi mép đĩa, nghiêng người sang hạ sĩ Cơ nói ghé vào tai anh ta:
Thôi được, ngày mai trời sụp tối, cậu Chín dắt anh em lại ngã ba đây, tôi đợi....
Dà!
Nhớ nghe, mấy cậu phải y hẹn. Nếu trật vuột thì không có dịp nào nữa đâu, tôi đã...
Được rồi, được rồi!
Hạ sĩ Cơ gật đầu liên tiếp hai ba cái
Thím Ba lại rỉ tai anh ta:
Cậu dặn kỹ anh em là phải giữ kín. Thôi tin ở cậu...
Không sao, thím đừng lo!
Hạ sĩ Cơ uống thêm một ly nữa rồi bước xuống đi ra cửa. Thấy cơn mưa đã ngơn ngớt, anh nói:
Thôi, uống hết chỗ rượu đó rồi về anh em!
Ba người lính uống cạn ly rượu. Họ bước ra đứng nơi cửa, lóng ngóng rồi kẻ trước người sau chạy vụt ra đường. Sực nhớ lời chị Hai Thép mới căn dặn, thím Ba còn níu áo hạ sĩ Cơ dặn thêm:
Về vụ súng ống, có thêm cây nào nữa thì càng hay, nhưng khó quá thì thôi nghe, không nên lấn cấn lâu, dễ lộ. Cứ vác bốn cậu bốn cây cho chắc... Nhớ sụp tối ra ngã ba, tôi đợi mấy cậu ở đó... Bà con có gom góp được ít tiền cho mấy cậu làm lộ phí, đừng lo....
Hạ sĩ Cơ nghe vậy thì cúi thấp đầu, mắt hấp hái. Anh ta khẽ nói:
Thôi tôi về nghen thím!
Anh bước thoắt ra cửa, bấm mũi giày lên mặt đường đất trơn nhẫy, chệnh choạng chạy theo ba người lính phía trước. Chốc sau, anh đã đuổi kịp họ. Trong cơn mưa dịu bớt, anh vừa nhanh chân bước vào lào phào nói cho ba người lính biết những điều mà thím Ba ú vừa nói với anh.
Cơn mưa ngớt, nay lại đổ ào xuống, lớn hơn. Bốn người lính chạy lại, tay giớ lên, chới với.
Mưa mỗi lúc một to. Thoáng thấy bóng cây me lờ mờ hiện ra sau màn mưa giăng, hạ sĩ Cơ chỉ tay nói:
ở đó có nhà của ông già mù. Rấn tới đó đụt
Họ chạy riết tới cây me. Bốn người dừng đứng dưới gốc me, rũ rũ quần áo một lúc rồi chạy vô nhà ông Tư Đờn.
Ông già đang ngồi nứt vành cái rổ xúc, nghe tiếng giày lộp bộp thì biết ngay là lính. Ông còn phân biệt được đâu là tiếng giày bố nữa, nên biết chắc là lính bảo an. Đứa cháu gái khoảng mười hai mười ba tuổi ở trong bếp chạy ra, đứng quệt quệt tay vào ống quần hỏi:
Mấy ông kiếm gì?
Không, ghé đụt mưa chút mà em!
Một anh lính đáp và day sang nói với ông Tư:
Bác làm ơn cho tụi tôi đụt nhờ nghe bác!
Ông Tư vẫn buộc cái vành rổ:
Mấy ông cứ đụt!
Đứa gái nhỏ liếc mắt ngó họ rồi chạy vào bếp. Bốn người lính ngồi chồm hổm dưới đất, khoanh tay rế, ngó coi ông Tư nứt vành rổ. Một anh tấm tắc:
Bác đương cái rổ xúc này khéo quá!
Tui đương vụng chớ không đặng khéo đâu!
Ông Tư thoái thác. Anh lính hơi cụt hứng, xẽn lẽn. Nhưng anh ta lại cố hỏi thêm:
Như bác đương một ngày được mấy cái?
Có nan sẵn thì hai cái!
Ông Tư đáp gọn lỏn. Hỏi câu nào ông trả lời câu đó chớ không trả lời hơn.
Bác đương rổ như vậy kiếm ăn đủ không?
Ông Tư từ từ ngước cặp mắt tối đục:
Không đủ thì cũng phải đủ chớ ông. Tật nguyền: như tui thì làm bữa nào đong gạo bữa nấy. Đâu thể bẳng thiên hạ được....
Tụi tôi đi đây không chỉ đủ ăn gạo như bác thôi, chớ sung sướng khỉ gì?
Ông già nghe nói chợt buông lỏng cọng mây trên tay:
Mấy ông nói tui nghe không lọt. Thân già tàn tật như tui bì sao được với mấy ông kia chớ. Mấy ông còn đủ tay chân, cầm súng rong ruổi, tháng tháng lãnh lương, rồi thường khi còn kiếm được con gà con qué, mà mấy ông nói không sung sướng. Tôi nghe không lọt...
Nói bác không tin, chớ tụi tôi cực lắm...
Tui biết mấy cậu cực, cực mà đi tới đâu cũng có thịt trâu, thịt gà ăn...
Hạ sĩ Cơ buồn rầu chắc lưỡi:
Bác ơi, bác đừng nhiếc tụi tôi chi tội nghiệp. Tụi tôi không phải như mấy thằng bắn trâu bắt gà của bà con đâu!
Ông Tư mò kiếm cọng mây, tiếp tục xỏ buộc vành rổ:
tui đâu dám nhiếc mấy ông. Mà tui cũng đâu biết là ông lính nào bắt gà, ông lính nào bắt gà, ông lính nào không bắt gà... Tui chỉ biết lính mấy ông cốt tử là hay bắn trâu, bắt gà. Mới hôm qua đây bắt con gà mái đẻ của tui còn nằm trên ổ, cháu tui chạy theo giành hết sức mà giành không lại.
Tụi nó khác, tụi tôi khác bác ạ. Tụi tôi trước cũng là dân ruộng, chết đói thì chết chớ không giựt đồ của cô bác đâu!
Mấy ông nói vậy thì tui biết vậy chớ tui đâu biết hơn được!...
Tụi tôi nói thiệt mà!
Thôi thì tui cũng cho là mấy ông nói thiệt. Kể như bây giờ mấy ông còn tử tế, nhưng tui e đi hoài kiểu này thế nào mấy ông cũng làm ẩu. Đi lính "quốc gia" mà không giựt đồ, tui không tin!
Bốn người lính ngó nhau, không biết nói năng sao với ông Tư nữa!
Mưa bên ngoài vẫn tầm tã. Trời tối mịt. Ông già bỗng dịu giọng và đổi cách xưng hô.
Mưa lớn quá, trời tối chưa mấy cậu?
Tối rồi!
Ông Tư réo cháu:
Tím ơi, đốt đèn đi con!
Con bé ở trong bếp đang thổi lửa phù phù. Hồi sau nó rón rén bưng thếp đèn mỡ cá đi ra, đặt lên chõng tre. Rồi nó dọn đĩa chén. Nghe đứa cháu quơ đũa rột rẹt, ông Tư buông cái rổ hỏi ốn người lính:
Mấy cậu ăn cơm chưa?
Dạ rồi!
Tưởng chưa thì ở ăn cơm. Tui kêu nó nấu!
Dạ, cảm ơn bác, tụi tôi ăn rồi!
Ông Tư Đờn đứng dậy, khom lưng, tự đấm vào lưng mình thùm thụp. Ông quơ bàn tay tới trớc sờ thành chõng, ngồi lên. Con Tím đưa cho ông nó đôi đũa và chén cơm mới bới.
Ông cầm đũa, xới xới cơm trong chén. Bỗng ông giụi đầu đũa xuống chén, im đi một chốc rồi hỏi:
Vậy trước khi đi đây mấy cậu là dân ruộng?
Dạ phải
Hạ sĩ Cơ đáp
Sao không ở nhà mần ruộng, đi đây chi?
Ông Tư hỏi xong, chậm rãi và cơm. Con Tím gắp chỗ có nạc trong tô canh chua bỏ vào chén cho ông. Tô canh này đặt phía bên ông Tư. Hình như đứa cháu gái nấu tô canh riêng cho ông nó ăn. Thấy nó chỉ nhỏ nhẻ ăn với cá khô. Giữa lúc hai ông cháu ăn cơm, một anh lính thấy cây đờn độc huyền treo nơi vách thì bước tới coi. Anh ta khều sợi đồng bật lên tiếng kêu thánh thót, thốt nói:
Cây đờn này mà tiếng tốt quá!
Ông Tư vẫn lặng thinh và cơm. Nhưng đôi con mắt tối đục của ông chợt hướng về phía sợi dây đờn còn ngân rung chưa dứt. Ông bảo, giọng nghiêm trang:
Cậu nào đờn được thì lấy xuống đờn chơi, đừng khều phá!
Anh lính được dịp bợ cây đờn xuống, ra ngồi ngoài bậc cửa lẩy tăng tăng. Anh ta cũng quào được mấy câu vọng cổ. Tiếng đờn nhấp nhem của người lính nghe cứ lẩng cẩng, lúc dài ra thậm thượt, lúc lại hẫng đi như người bị nấc.
Ông Tư ăn cơm xong, mưa vẫn không ngớt. Ông bước xuống mò kiếm một cọng tre, ngồi xổm gối trên manh đệm, xỉa răng. Hai hố mắt ông ngó ra ngoài trời mưa chớ không màng tới tiếng đờn của người lính.
Anh lính quào hoài có mấy câu ý chừng cũng ngượng. Anh nói ướm
Nghe nói bác đờn hay lắm. Bác đờn nghe chơi!
Ông Tư như sực tỉnh, ngước mắt hỏi:
Cái gì? Tui đờn é à?
Phải, bác đờn đi, bác đờn đi!
Hạ sĩ Cơ cũng khẩn khoản
Ông già nín thinh hồi lâu, mới nói:
Ngón đờn của tui không tươi đâu...
Không, tụi tôi biết bác đờn hay lắm, bác đờn cho con em đây nó ca cái bản gì mà "đề cờ đề cờ" đó đi! Trời còn mưa dữ quá, tụi tôi chửa về được đâu!
Ông già vẫn khước từ:
Thiệt... không nói giấu gì mấy cậu, đời tui nghèo cực không thôi, nên chữ đờn của tui không đặng tươi. Người ta chê chữ đờn tui nghe nó ai oán lắm!...
Mặc dù ông Tư từ chối, hạ sĩ Cơ vẫn bợ cây đờn trên tay người lính nọ, trao lại cho ông.
Ông Tư sợ cây đờn rớt, bèn rút gối chân xuống, ôm cây đờn vào lòng. Ông đưa tay run run rờ lướt trên thân đờn hồi lâu, chép miệng nói:
Tối hôm nọ cũng có mấy cậu lính tới biểu tôi đờn cho mấy cậu nghe, thấy họ ăn nói tử tế như mấy cậu, mà lại cứ nài nỉ hoài, tui mới đờn... Về sau họ tới nghe chật nhà, bỏ cả canh gác tần phòng sao đó nên ông đại úy đi kiếm chửi bới om sòm. Ông đuổi mấy cậu lính về, quát tháo tui: "Ông già, tôi cấm ông không được tụ tập quyến rũ lính tới đờn ca nữa nghe!" Tui thưa: "Bẩm ông, tui đâu có tụ tập quyến rũ mấy cậu. Từ đầu tui đã nói với mấy cậu là tui không đờn, nhưng mấy cậu cứ một mực khăng khăng bắt tui đờn cho mấy cậu nghe, buộc lòng tui mới đờn...." Ông đại úy hăm tui: "Từ rày trở đi ông đừng đờn nữa, không thì tôi đập nát cây đờn của ông đa!" Tui mới thưa: "Dạ từ rày mấy cậu mà có rủ tui cũng không đờn nữa!"
Ông Tư kể và bàn tay gày guộc của ông không ngớt rờ rẫm vuốt ve thân đờn. Coi tuồng như cây đờn nay còn nằm trong lòng ông là một sự may mắn lắm vậy.
- Bây giờ bác cứ việc đờn đi, khỏi sợ. Ông đại úy "nghoẻo" hồi hôm kia rồi.
- Tui có nghe. Tui nghe đồn ổng bị bắn chết trước miệng hang.. phải không?
- Phải, chết trước miệng hang!
Vậy cái ông mới lên thay ổng thì sao. Nhắm có đòi đập bể đờn tui nữa không?
- Giọng hỏi của ông già bấy giờ chợt như có náu tiếng cười. Mấy người lính nói:
- Không đâu, thằng cha trung úy mới lên thay này nó không chú ý đâu!
Vậy thì được, để tui đờn mấy cậu nghe!
Ông Tư nói rồi liền vặn trục đờn kèn kẹt. Ông rút cây găm tre ở cuối thân đờn, cất tiếng gọi cháu:
- Tím ơi, rửa chén rồi chưa con?
- Chút xíu nữa ngoại ơi!
- ờ, rửa rồi ra đây ngoại biểu
Ông già quắp cây găm đờn trong năm ngón tay, ngồi đợi. Bốn người lính ngồi nhích tới.
Lát sau con Tím nhong nhong đi ra. Ông Tư nghe tiếng bước chân nó, liền giơ tay:
- Ngồi xuốngđây con. Ngoại đờn, con ca bản Nam ai cho mấy cậu này nghe
Đứa cháu gái nghe ông nó bảo thế thì mặt lộ vẻ không vui. Nó với tay kéo cái đuôi tóc nhỏ xíu như cái đuôi mèo ra trước ngực, nói ngủng ngoẳng:
- Con hổng ca đâu!
Ông Tư cười, bảo mấy người lính:
- Mấy cậu thấy không. Nó còn giận vụ con gà mái đẻ đó!
Rồi ông nhỏ nhẹ nói với cháu:
- Ca đi con. Mấy cậu lính đây tử tế chớ không phải như tụi hôm qua đâu. Mấy cậu.. cũng nghèo như mình.
Con Tím chẳng nói chẳng rằng, nó với cái khăn sọc vắt trên vai ông nó lau đôi bàn tay nhỏ ướt nước. Lau rồi, nó vắt khăn lên vai ông nó như cũ. Dưới ánh đèn mỡ cá chập chờn, nó mở to mắt nhìn chằm chằm xuống đệm. Thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn mấy người lính. ánh mắt của con Tím hơi dịu bớt vẻ hằn học. Khuôn mặt của nó coi sáng sủa, nhưng da mặt bị rỗ huê lấm tấm (chắc là dấu vết của một trận đậu mùa khủng khiếp nào đó để lại).
Ông già biết chắc cháu mình thế nào cũng sẽ hát, nên một tay cầm trục đờn, một tay cầm găm ông bắt đầu dạo vô. Khi những ngón tay khô gầy của ông xeo nhẹ cây găm, tức khắc sợi dây đồng chợt như rùng mình nức nở. Khúc dạo vô chưa chi nghe đã rưng rưng, thê thiết. Con Tím như bị tiếng đờn của ông nó thu hút. Đôi mắt con bé từ từ ngước lên, long lanh sáng rực. Nó nhìn ra đêm mưa rơi, và bàn tay bé nhỏ của nó bỗng bíu chặt lấy vạt áo mốc cời của người ông. Chữ đờn cuối của khúc nhạc dạo chợt ngắt ngang. Bàn tay cầm trục của ông Tư co quắp lại, giật bắn lên. Còn bên tay cầm găm của ông thì cất quá khỏi sợi dây đờn lúc ấy đang ngân cao vời vợi.
Không khí gian nhà bỗng như lắng xuống. Con Tím liền cất tiếng ca:
Khi vâng ơ..chiếu chỉ ra đề cờ..
Cây găm trong tay ông Tư cũng liền lẩy đờn rất nhanh. Chữ đờn của ông dìu đưa tiếng ca của đứa cháu bay theo:
Từ chàng đi ơ.. thiếp bặt tin đợi chờ
Như hồng nhạn cao phi
Sông Hớn ơ..bơ vơ..
Não nùng tiếng ngẩn ngơ
Má phấn ơ.. duyên phai lợt
Hồng nhan luống đợi chờ
Trướng lý đành để dính bụi trần nhơ..
Tiếng ca của con Tím nghe non nớt quá, mà tiếng đờn của ông Tư là tiếng đờn già dặn của cả một đời người sáu mươi năm tủi cực đau thương dồn nén. Sự khác biệt đó tạo nên một mối tương phản lạ lùng:
..Kìa cờ ai tiếng trống gióng xa xa
Ai hay là chiếu chỉ triệu chồng ta
Chốn giang biên chàng có hay chăng là
..
Giọng ca của con Tím chấp chới
Từ chàng ra chốn cung đao..
Thiếp trông tin chàng như cá trông sao..
Sợi dây đờn bây giờ không lẻ loi nữa. Dường như không phải chỉ có mỗi mình nó trên thân đờn nữa mà là có rất nhiều sợi. Đây thật không thể nói là ngón đờn tươi hay không tươi, ai oán hay không ai oán. Đây là tiếng đờn chạnh lòng chạnh dạ, buộc người xa vợ phải nhớ vợ, ai xa con sẽ nhớ con. Đây là sợi tơ đồng réo gọi tình thương nhớ làng quê, nhớ sông nước bến bờ, nhớ mồ mả tổ tiên. Bốn người lính đều cúi đầu, tóc phủ xõa gối.
Trong lúc tiếng đờn vẫn cứ khoắc khoải vẳng lên những tiếng đờn ly biệt, bồn chồn. Ngoàii mưa vẫn không ngừng rơi. ánh đèn mỡ cá lù mù rội những hạt mưa ngoài cửa đang bay xiên, loang loáng.
Anh Đức
Hòn đất
Chương 6
1
- Có nước rồi, có nước rồi!
Cái tiếng kêu "có nước" truyền đi khắp hang. Cả anh Thẩm và thằng Bé đang nằm cũng nhỏm dậy, ngóng về phía các ánh nến. Lát sau lại có tiếng anh em gọi báo cho nhau là nước đã chảy thành giọt. ở hang trong, Năm Nhớ cầm nến đứng soi cho Quyên ngồi nâng cái cà om kê vào giọt nước từ trên kẽ đá nhểu xuống. Giọt nước mưa đùng đục rơi từ từ, chạm đáy cà om nghe tí tách. Nước mỗi lúc mỗi chảy nhanh. Khi đáy cà om bật lên tiếng kêu trong toong toong thì nước đã chảy thành dòng, và nước trở nên trong hơn. ở vách đá bên cạnh, những đường kẻ nhỏ hơn cũng giàn giụa, ướt loáng mặt đá.
Không bao lâu cái cà om trên tay Quyên đã nặng trĩu. Cô ghé mắt nhìn, thấy nước trong cà om đã được gần nửa. Cô thở phào:
- Thôi khỏe rồi, không sợ khát nữa!
Năm Nhớ hạ thấp ngọn nến bảo:
- Đặt cà om xuống đi, hơi đâu mà bưng
Quyên nghe theo, từ từ đặt cái cà om xuống đất. Nước mưa chảy thành dòng dài và lớn hơn. Quyên vẫn ngồi bẹp nhìn dòng nước, mắt long lanh. Cô nói:
- Bữa nay mình đoạt hai cái thắng lợi mà không tốn mồ hôi. Một là tụi nó bày trò un hang. Hai là ông trời ổng mưa.. chắc ở ngoài mưa lớn lắm!
- ờ, mưa lớn nên nước nó mới chảy nhiều như vậy!
- Ông trời ổng ủng hộ mình quá. Giờ thì khỏi lo rồi. Có gạo, có nước, mình cứ ở trong hang này hoài coi nó làm gì mình cho biết1
- Anh Tám nói sợ nó đánh chất nổ
- Đánh bằng chất nổ cũng không sợ. Bất quá mình thụt vô trong một chút, nổ rồi mình lại ra. Thì cũng cỡ một ngàn trái MK3 hôm nọ là cùng!
Cái cà om đã lấp xấp muốn đầy, nước văng tung tóe, Năm Nhớ cặm nến lên đá, rút tấm vải nhựa kẹp trong nách ra. Hai cô cầm bốn chéo vải nhựa mà hứng.
Lát sau, tấm vải nhựa đã nặng trĩu một bọc nước đầy, Quyên túm lại. Cô bảo Năm Nhớ:
- Mày đi lấy hết nồi ơ lại đây
Năm Nhớ chạy đi. Chốc sau, cô trở lại nói rằng anh em đã lấy nồi xoong đem hứng nước hết rồi, giờ không còn thứ gì để chứa nước nữa.
Quyên ngồi nhổm, ngó dòng nước chảy xối, lấy làm tiếc. Bỗng cô bước tới và quỳ xuống chỏi hai tay, ngửa miệng đón lấy dòng nước. Quyên uống ừng ực. Uống thỏa thích rồi, cô quệt miệng, nánh ra, bảo Nhớ:
- Uống đi, uống cho đỡ khát đi!
Năm Nhớ cũng quỳ xuống như Quyên, ngửa mặt, để nước chảy vào miệng.
Quyên bảo:
- Để tao chạy đi kêu mấy ảnh đem đồ lại đây hứng!
Quyên chạy đi. Năm Nhớ uống xong, dụm chân ngồi giữa dòng nước tắm luôn. Nước giội tràn lên tóc, lên mặt mũi cô. Nước dán chặt quần áo vào vóc người hơi đẫy của cô.
Quyên trở lại thấy thế hỏi:
- Tăm đó hả Nhớ. Tao cũng tắm nữa.. Mấy ảnh hứng đầy hết các thứ đó rồi!
Năm Nhớ đứng dậy để dòng nước chảy xuống đầu lượt nữa rồi bước sang bên
Quyên ngồi xuống
Cô vảnh tay rút cái kẹp tóc, ngậm nơi miệng. Dòng nước xối xuống mái tóc đen nhánh, chảy ướt ròng khuôn mặt trái xoan loang loáng ánh nến. Rồi từ cổ, đến vai, đến ngực Quyên đều ướt đẫm. Bộ quầnáo đen dán sát vào người Quyên, cho thấy vóc người cô thon thả, và mảnh hơn vóc người Năm Nhớ. Cô hơi ngả đầu về phía sau, hai bàn tay vuốt vuốt từng lọn tóc.
Khi Quyên kỳ cọ chân thì dòng nước yếu dần. Năm Nhớ nói:
- Muốn tạnh mưa rồi. Thôi đi thay đồ đi!
Nói xong Năm Nhớ quay đi. Quyên cố ngước mắt hứng những giọt nước cuối cùng, rồi mới đứng dậy cầm cây nến rón rén đi về phiến đá của cô. Đứng dụm chân bên dưới, cô nhìn thấy Ngạn đang nằm lòn tay cho con Thúy gối đầu ngủ. Quyên khẽ gọi:
- Anh Ngạn ơi, lấy giùm bộ đồ tơ cho em!
- Tắm rồi hả. Có lạnh không?
- Mát lắm!
Ngạn mò soạn lấy bộ quần áo tơ đen và cái khăn đưa xuống cho Quyên
- Thay đồ lẹ lẹ đi. Coi chừng bị cảm bây giờ!
Quyên lặng lẽ đứng thay quần áo. Cô vắt bộ đồ ước cho ráo nước, trải lên ở góc phiến đá.
Lên ngồi duỗi chân sát bên Ngạn, Quyên lặng lẽ cầm khăn lau tóc. Ngạn liếc nhìn cô, rồi anh rút tay khỏi đầu con Thúy, ngồi dậy. Anh giằng nhẹ chiếc lược Quyên đang nắm trong tay, khẽ ỡ vai Quyên, chải gỡ tóc cho Quyên. cô gái ngồi im không động đậy. Hướng mắt cô ngó mông vào đêm tối, đăm đăm. Nếu như ngày thường chắc miệng cô đã chúm chím. Nhưng bây giờ thì môi cô không hé một nụ cười. Ngạn chải tóc cho Quyên như chải tóc cho đứa em gái. Anh cũng lặng lẽ. Hình như từ hôm chị Sứ mất, Ngạn gần cận chăm sóc Quyên nhiều hơn. Anh muốn an ủi người yêu bằng mọi cử chỉ trìu mến mà anh có thể làm được. Cái chết của chị Sứ khiến anh thấy phải tìm cách làm dịu bớt nỗi đau buồn của Quyên..
Bây giờ anh lại lần chải tóc cho cô. Anh chải làn tóc ướt mà ấm, là tóc ướt đậm mùi hương yêu và hỏi:
- Cậy kẹp của em đâu?
Quyên ngoan ngoãn đưa cây kẹp cho anh
Anh vừa kẹp tóc cho Quyên xong, bỗng Quyên quay lại dúi đầu vào lòng anh khóc rưng rức. Hai vai Quyên run lên, Ngạn để yên cho Quyên khóc. Một lát sau anh mới hỏi:
- Thôi, đừng khóc nữa em, đừng khóc nữa Quyên à. Anh đã nói là..
Quyên vẫn tức tưởi:
- Em thương.. thương cho chị Ba, chỉ đợi.. đợi anh Ba hoài. Bây giờ.. làm sao chỉ gặp.. gặp lại anh Ba cho được.. Hồi sáng em coi lại tấm giấy sót trong túi áo chị Ba.. hóa ra là .. là cái thơ của anh Ba mới gửi cho chỉ. Còn có một cái thơ chỉ mới viết có mấy chữ "Anh thương yêu của Sứ và con. Em vừa nhận được thư anh.."
- Em còn cất cái thơ đó hả?
Ngạn thẫn thờ hỏi và liền nghĩ tới anh San ở ngoài Bắc. Người anh bạn rể đó mà biết được sự thể này thì anh ta làm sao đứng ngồi cho yên được. Cảnh đất nước phân phối đặt bao nhiêu người vợ trẻ ở lại trong vòng nước sôi lửa bỏng. Không biết bao nhiêu tuổi xuân đã qua đi trong đợi chờ và tranh đấu. Thời gian thử thách họ từng năm một. Hai năm đầu tiên thì dễ. Nhưng bắt đầu năm thứ ba trở đi, mối thử thách trở nên gay gắt. Ngạn đã trông thấy trước mắt vô số người phụ nữ vượt qua những thử thách đó. Tuy nỗi gian khổ và năm tháng ít nhiều có làm cho họ già đi, nhưng trông họ bình tĩnh và rắn rỏi. Anh cũng đã gặp một vài chị thiếu kiên tâm và cũng có chị đã sa sẩy nhưng chị Sứ thuộc loại trên. Chị đã đi tới năm thứ bảy, cũng là năm cuối cùng của cuộc đời chị.
Ngạn bảo Quyên:
- Chị Ba hy sinh thiệt là dũng cảm
- Nhưng tội nghiệp cho chỉ..
- Anh biết.. Ai cũng buồn. Em buồn nhiều hơn là phải. Như bây giờ em có thể khóc với anh, nhưng sáng ngày..
- Sáng ngày em không khóc
- Vậy thì được. Giữa lúc tụi nó có thể nhảy vô giết mình thì phải gạt nước mắt sẵn sàng đâm lại nó.
- Em chỉ sợ con Thúy nó biết
- Thế nào rồi nó cũng biết, nhưng nó biết sau trận này thì tốt hơn!
Quyên nín thinh, cắn cắn bâu áo của Ngạn. Một lát không biết nghĩ sao, Quyên nói:
- Anh hay nhiếc em lắm
- Anh đâu có nhiếc em hồi nào!
- Có!
Ngạn nhớ lại mấy câu anh vừa nói, thì bật cười:
- Em là út, quen được má cưng nên anh mới nói vậy mà em cũng cho là nói nặng!
- Thôi thì anh nói nhé
Ngạn cười. Anh bảo:
- Thôi em ngủ đi. Ngày mai tụi nó chưa có rút đâu. Mai nữa là chẵn một tuần lễ rồi!
- Một tuần lễ mà sao em thấy lâu quá.
- Vì mình trông tụi nó rút nên thấy lâu. Hễ cái gì mình đợi hoài thì nó lâu tới
- Không phải. Tại em nghĩ có bảy ngày mà sao xảy ra nhiều chuyện quá!
Ngạn gật gù:
- Phải, xảy ra rất nhiều chuyện!
Anh ngưng lại một chốc rồi tiếp:
- Bảy ngày mà đã vậy. Mới biết trong bảy năm tại miền Nam có bao nhiêu là sự việc. Hy sinh, căm thù, anh dũng, cái gì cũng có đủ..
- Mấy đêm nay em không sao chợp mắt được..
- Em ngủ đi. Anh phải ra hang đây. Có lẽ mưa tạnh rồi!
Quyên lắng tai. Cô không còn nghe những giọt nước trong kẽ hang chảy róc rách nữa. Ngọn nến cắm trên phiến đá leo lét, sắp tăt. Trước khi ra ngoài, Ngạn cúi hôm Quyên, giữa lúc ánh nến sáng lên lần cuối cùng và phụt tắt.
Ngạn đi rồi, Quyên nằm một lúc thì thằng út đến. Nó đứng dưới hỏi vọng lên:
- Chị út ngủ thức?
- Thức, em đó hả út?
- Dạ..
Quyên nhổm dậy, với tay kéo thằng út lên. Tay thằng út mát lạnh. Quyên rờ thấy quần áo âm ẩm và đầu nó còn ướt rượt.
- Bộ em tắm hả út?
- Dạ..
Thằng út thì thào:
- Chị út ơi, chị có hay gì hôn? Mấy chú ngoài xóm chặt tiêu thằng Xăm rồi
Quyên chưng hửng:
- Sao em biết?
- Chị Cà Mỵ mới đem gạo vô miệng hang, chị không hay à?
- Cà Mỵ hả, Cà Mỵ đâu?
- Chị Cà Mỵ về rồi. Hồi trưa mưa dữ đó. Chị Cà Mỵ nói mấy chú diệt thằng Xăm với một thằng nữa. Má chị Mỵ bỏ trốn rồi.. mà sao chị Mỵ khóc dữ quá hà. Chị bị tụi lính nó làm cái gì đó..
- Em ngó thấy chị Cà Mỵ à?
- Em thấy chớ. Hồi nãy em ở ngoài.. Trời đương mưa ầm ầm thì nghe kêu: " Mấy anh ơi, tui là Cà Mỵ đây!" Em với mấy chú chạy ra. Chị Cà Mỵ chuyển đồ ăn vô, nói cái vụ đó rồi khóc thút thít. Lúc chỉ chạy đi, ông trời ổng nháng lên, sao em ngó thấy quần áo của chỉ rách te tét hết trơn hè!
Thằng út lập bập, vừa nói vừa thở. Nó quả quyết bảo rằng nó nói thiệt. Và nó nắm tay Quyên
- Không tin chị út đi với em ra hỏi mấy chú coi!
Quyên nhoài chân xuống phiến đá đi theo thằng út. Ra gần tới miệng hang, Quyên đụng phải anh Hai Thép. Cô hỏi:
- Cà Mỵ nó mới tới đây hả anh Hai?
- ờ nó mới đem cơm với thuốc hút vô. Thiệt là không ngờ anh em đã thanh toán được thằng Xăm, khá quá!
- Nghe thằng út nói em không tin. Vậy nó chết thiệt rồi à?
- Chết rồi, bà Cà Xợi thì bỏ trốn mất biệt!
Thằng út nói leo:
- Sợ bả trốn ở ngoài nhà nò của tui quá!
- Sao mày biết?
- Chỗ đó êm lắm!
Anh Hai Thép không chú ý nghe thằng út nữa. Anh bảo Quyên:
- Tao thương con Mỵ quá. Con nhỏ tốt thiệt. Ban nãy thấy kiểu nó khóc tao nghi lắm, hỏi gặn mãi nó chỉ bảo:
- "Cháu không nói đâu. Chừng nào mấy chú ra khỏi hang cháu mới nói..".Vậy rồi nó chạy vụt đi. Lạ quá, quần áo của nó rõ ràng là bị xé rách.
Quyên thốt lên:
- Trời ơi..
Cô đut ngón tay vào miệng cắn cắn, và nín bặt. Trong đêm tối cô thấy Cà Mỵ hiện ra với khuôn mặt nâu rám hay ngước lên và khóe mắt của Cà Mỵ xưa nay vốn đã ươn ướt thì giờ lại càng ướt bhơn. Đôi mắt của cô gái hiện ra trước Quyên trông sao vẫn thiệt thà, vẫn ngây thơ một cách đáng thương. Quyên nhớ những khi Cà Mỵ cười khi nắc nẻ bên suối, nhớ Cà Mỵ gánh nồi đi Tri Tôn mồ hôi rấp dính những món tóc loăn xoăn trên trán. Quyên nhớ Cà Mỵ ngồi đan cà ròn, miệng hát bài "Hoàng tử chém chằn". Tháng nắng, chiều nào ra suối Cà Mỵ cũng đặt cà om lên cỏ, chúm đôi bàn tay dịu nhỉu múa điệu của riêng cô nghĩ ra. Thoáng chốc, Quyên nhớ đến mọi nét mọi vẻ của Cà Mỵ. Cả cái cử chỉ khi Cà Mỵ ôm cô mà hôn thiệt là kêu, thiệt là nhiệt thành.
Nghe thằng Xăm chết. Quyên không mảy may thương xót. Chớ thoáng nghe đờn Cà Mỵ hình như bị bọn giặc phá hoại Quyên đau quá, thương cho Cà Mỵ quá. Song Quyên vẫn không tin.
Quyên nói với anh Hai Thép:
- Đâu chắc là Cà Mỵ đã bị tụi nó làm ẩu. Anh Hai à, chưa chắc đâu.
Mặc dù nói vậy, sao Quyên cảm thấy chừng như việc đã gần với sự thật lắm. Linh tính của cô như quả quyết với điều ấy.
2
Mưa ngớt vào lúc nửa đêm. Qua hôm sau bầu trời Hòn Đất trở lại trong trẻo. Các vườn lá trên Hòn được trận mưa đêm tắm gội cho mướt mượt.
Địch không mở thêm một cuộc tấn công nào mới. Ngồi trong cái chuồng trâu bỏ trống dùng làm chỗ đóng quân, hạ sĩ Cơ và ba người lính cùng tiểu đội hồi hộp đợi từng tiếng đồng hồ của ngày hôm ấy trôi qua. Họ hy vọng mọi sự được êm ái, để trời sụp tối là họ tới nơi hẹn gặp thím Ba. Không may cho họ, lúc xế, hạ sĩ Cơ bị tên trung úy gọi tới:
- Anh về dẫn tiểu đội của anh lên đại đội!
Hạ sĩ Cơ thiếu điều muốn run lên. Anh nín thở, nghe tên trung úy nói tiếp:
- Tối nay người ta hát bóng cho Việt cộng với dân chúng coi.. Mấy anh em lên khiêng vác, làm giàn rớ gì đó!
- Dà..
Hạ sĩ Cơ thở phào nhẹ nhõm. Anh ta hỏi:
- Dạ đi bây giờ?
- ờ, đi liền bây giờ!
Hạ sĩ Cơ nghĩ bụng: "Nguy quá, kiểu này làm sao gặp thím Ba ú cho được!"
Về tới chuồng trâu, anh kêu lính trong tiểu đội sửa soạn đi và anh gọi riêng một trong số những người lính sẽ trốn với mình, rỉ tai bảo:
- Chạy lại quán cho thím Ba biết mình bị kẹt. Hỏi thím coi hưởn trê trễ tới lối bảy tám giờ được không. Rồi chạy cho tôi hay.
Hạ sĩ Cơ dắt tiểu đội lính đi lên đại đội
Tên chỉ huy đại đội bảo an thấy hạ sĩ Cơ dắt tên lính tới thì nói:
- Đi làm chỗ hát bóng đó hả?
- Dà
- Theo tôi!
Hắn dắt hạ sĩ Cơ cùng tiểu đội lính đi vô vườn mãng cầu. ở đó một đám người gồm nhiều phụ nữ và vài ông già đang ngồi lổm nhổm, có mấy tên bảo an đứng coi chừng.
Trong số đó có chú Tư Râu ba thằng út. Chú bị bắt khi đem cá vô xóm bán. Chú đang cảu nhảu:
- Mấy ông bắt tôi đi mần bất tử như vầy bỏ nò ở nhà không ai thăm. Tôi thì có biết làm cái vụ này đâu kia chớ!
- Không biết thì người ta chỉ cho biết. Bỏ một bữa thăm nò mà cằn nhằn hoài. Mấy người ham làm giàu vừa vừa chứ. Tụi tôi đi đánh Việt cộng cho mấy người hưởng chớ ai hưởng.
- Tôi không hưởng cái khoản đó!
Chú Tư thản nhiên đáp. Tên đại đội phó nổi cục, bước tới ngó mặt chú. Hắn ngó mé bên này rồi lại ngó mé bên kia.
- Ê, tên gì mày?
- Tôi tên Tư
- Tao hỏi mày tên gì?
- Tôi nói tôi tên Tư!
Tên đại đội phó vung tay đấm mạnh vào mặt chú Tư. Nhưng chú đã lẹ làng gạt phắt tay nó ra. Đám đờn bà thấy thế vụt chạy nhào tới:
- Trời ơi, sao đánh người ta. Ông hỏi tên thì người ta nói tên, chớ sao ông lại đánh?
Một ông già bảo tên thiếu úy:
- Ông à, ông trật rồi. chú ta tên Tư thiệt mà, bà con tôi vẫn kêu chú là chú tư Râu
Tên đại đội phó quay ngoắt đi:
- Đ.mẹ, tôi không biết Tư Râu Rai gì hết. A-lê, đi làm!
Đám đàn bà léo xéo:
- Không tụi tôi không đi nè. Ai giỏi làm gì thì làm thử coi!
Không muốn không khí trở nên găng, nên chú Tư ôn tồn nói:
- Thôi mình đi mấy thím!
Nói thế xong, bỗng chú bước vụt lên ngang mặt tên thiếu úy, nói vừa đủ cho hắn nghe:
- Cậu là người Việt nên tôi chỉ gạt tay cậu ra. Chớ Mỹ mà nó đánh tôi kiểu đó, tôi vặn họng nó rồi a cậu!
Tên thiếu úy ngó sững ngừng đàn ông râu ria xồm xoàm vai u thịt bắp. Hắn đi rướn tới, nặng nề, và hoàn toàn câm lặng
Đám phụ nữ nghe lời chú Tư Râu, lẽo đẽo đi theo. Tên thiếu úy ấy sai lính khiến mọi người vác tre, vác cưa, dao rựa đi về phía hang. Bọn lính đốc thúc bà con dựng lên một cái khung tre trước miệng hang.
Giữa lúc kềm giữ cho bà con đào lỗ, cắm cột, hạ sĩ Cơ không ngớt dòm về phía miệng hang. Anh ta bảo bụng: "Còn có mấy tiếng đồng hồ nữa thì mình thoát khỏi chỗ này rồi, phải thủ kỹ mới được". Anh lính đi lại quán thím Ba ú đã về cho hạ sĩ Cơ hay rằng bất luận thế nào thím Ba cũng đợi họ tại ngã Sĩ Lỳ để dắt họ đi, nếu họ về sớm sẽ đi sớm, về muộn sẽ đi muộn, không thể dời ngày khác được.
Mãi tới choạng vạng cái khung để mắc màn ảnh mới dựng xong, sau bao lượt dùng dằng chèo kéo.
Hạ sĩ Cơ dắt tiểu đội trở về tới chuồng trâu thì trời sụp tối. Anh ta và bốn người lính nọ bưng cà men cơm ăn qua loa vài hột rồi vác súng lỏn đi..
Tới ngã ba Sĩ Lỳ, họ không thấy ai cả. Người nọ thì thào hỏi người kia.
- Cha, sao không thấy thím Ba đâu hết?
- Mày nghe thím dặn kỹ không?
- Hạ sĩ cơ hỏi
Ngay lúc đó, có tiếng bên vệ đường vọng ra:
- Anh em đó hả?
Đúng là tiếng thím Ba. Mà vẫn chưa thấy thím đâu. Lát sau mới nghe tiếng sột soạn trong bụi cây vệ đường:
- Tôi đây nè
Cái bóng to béo của thím ở trong bụi bước ra, thì thào hỏi:
- Anh em tới đủ hết chưa?
- Đủ
- Đưa súng đạn hết đây cho tôi!
Bốn người lính cởi súng đạn, run run cầm giao cho thím Ba. Thím lanh lẹ tóm xách một tay hai cây súng lủi vô bụi. Chốc sau, thím chui ra trao cho mỗi người một ốp mo cau còn bốc hơi nóng ấm:
- Đây là phần cơm của mấy cậu. Có thịt gà ở trỏng1
Bốn người lính cóm róm đỡ lấy mo cau, thím Ba bắt đầu đi vượt lên, xấp xải. Khỏi ngã ba vài ba trăm thước, thím rẽ xuống ruộng. Bốn người đi theo thím như chạy. Một đỗi sau, tới giữa đồng, họ bỗng nghe tiếng loa vọng ồm ồm trong xóm. Thím Ba hỏi:
- Cái chi vậy?
- Tụi nó lùa bà con đi coi hát bóng mà!
Thím Ba yên tâm đi tới. Sông Vàm Răng hiện ra như một kẽ trũng, đang chảy đổ ra biển. Nước sông mỗi lúc một ráo kiệt, thỉnh thoảng réo lên, như tiếng người kêu khản giọng giữa bốn bề đất trống đồng khồ.
Thím Ba ú xăm xăm đi tới bờ sông. Thím vỗ tay bộp bộp ở phía bờ bên kia sông chuỗi dậy mấy cái bóng phụ nữ vắt vẻo búi tóc:
- Chị Ba đó hả?
- ờ.
- Cho anh em qua đi. Cứ lội qua, cạn xợt thôi!
Thím Ba ú nói với bốn người lính:
- Thôi bây giờ mấy cậu đi nghe. Phận sự tôi tới đây xin hết!
Thím móc túi lấy cái gì đưa hạ sĩ Cơ:
- Đây, bà con cho chung mấy cậu ba trăm?
Hạ sĩ Cơ rụt tay lại. Thím Ba ú nhét vô tay hạ sĩ Cơ và bảo:
- Mấy cậu cầu mà xài đường. Của bà con cho, mấy cậu cứ lấy, không can chi!
Hạ sĩ Cơ buộc lòng cầm tiền. Anh ta ứ đứng ngây, miệng lúng búng câu gì không rõ. Bốn người lính từ biệt thím Ba rồi cởi giầy, lần lượt lội xuống bãi bùn.
Người phụ nữ bờ bên kia nói trỏ xuống bốn người lính đang lội ồn ột:
- Mấy cậu bận quần xà lỏn thôi, còn đồ cởi ra ém xuống sình đi! Qua đây sẽ có quần áo cho mấy cậu thay!
Bốn người nghe lời cởi quần áo giữa lòng sông cạn. Họ vo guộn những bộ binh phục bảo an vụt xuống bãi bùn rồi lấy chân đạp nhận xuống thật sâu.
Trong bóng tối lờ mờ, thím Ba ú còn nhìn thấy bóng những người lính vừa rũ bỏ binh phục đang lội lên bãi sông bên kia. Bây giờ thím Ba ú mới thiệt tin là bổn phận mình đã hoàn tất. Cái gì khiến thím hân hoan thật sự.
Thím tự nhủ: "Được bốn người cũng đỡ bốn người!"
Đến lúc anh em lên bờ bên kia. Thím mới quày lưng trở về .
Vào tới rìa xóm, thím Ba nghe tiếng người dậy lên rào rào như ong vỡ tổ. Và tiếng lính la ó vang rân, thím đứng lại một chút mới đi vô. Vừa mới ló ra ngã ba, thím liền bị một tên lính chộp tay thím lôi đi. Thằng lính la oang oang:
- Bắt được thêm con mẹ này đâý
Thím Ba ú hốt hoảng, tính xô tên lính mà chạy. Nhưng một thằng đi trờ tới chợt lầu bầu:
- Đ.mẹ, dân xứ này ngu quá, tới coi hát bóng mà cũng phải rượt như rượt gà!
Nghe vậy, thím Ba vỡ lẽ, nên không chạy. Thím dục dặc tuột tay thằng lính:
- Bỏ tôi ra, để tôi đi, làm gì mà dữ vậy!
Thằng lính buông tay thím. Nó nói:
- Muốn bà nội đi hay không đâu có ăn nhằm gì tới tôi. Lùa mấy bà đi, tôi cũng chớ có được đồng xu cắc bạc nào. Ngặt thiếu tá kêu lùa là tụi tôi phải lùá
- Đi thì đi.. Vậy chớ hát tuồng gì đó hả cậu, mà hát ở đâu?
- Bà nội này nãy giờ bộ lên chuồng ngủ rồi sao chớ? Người ta phát loa năm bảy lượt mà không nghe. Hát tuồng Huê Kỳ, hát ở trong hang!
Thím Ba ú thừa biết rồi, nhưng thím thấy cần phải đến đó, nên thím chịu đi, không cự nự gì nữa.
Lát sau, lại có một đám bà con cũng bị dồn tới. Hỏi ra thì là những người cuối cùng mà bọn giặc vừa bắt được.
Bọn lính dắt mọi người tới bãi đất trống trước miệng hang thì ở đó đã đen nghẹt những người. Loa phóng thanh của địch treo trên các cây cọc tre thét oang oang kêu bà con giữ trận tự. Nhưng đám bà con ngồi trên bãi đất trống vẫn nhốn nháo, ầm ĩ. Tên thiếu úy tâm lý chiến đêm nay đóng vai trò nổi bật. Tiếng gào của hắn trong loa không lộ vẻ bất bình mà lại lộ vẻ phấn chấn. Vì rốt cuộc, cái sáng kiến của hắn đã được đem ra thực hiện. Vì máy nổ đã khởi động, tấm vải trắng màn ảnh đã được treo, và ít ra thì cũng có tới một ngàn người bị dẫn tới ngồi trên bãi đất này.
Mặc cho đám quần chúng bị bức bách coi phim đó còn ồn ào huyên náo, tên thiếu úy vẫn cứ bắt đầu. Hắn trịnh trọng:
- Kính thưa toàn thể đồng bào. Hôm nay tôi xin hân hạnh giới thiệu cùng quý đồng bào cuốn phim hay nhứt mà chúng tôi vừa nhận được của trên. Xin lưu ý cùng toàn thể quý đồng bào, đây là cuốn phim chiến trận ở Cao Ly. Quận đội Huê Kỳ đánh phá một trái núi tên gọi Thượng Cam Lĩnh..
Đèn điện vụt tắt ngấm. Máy chiếu phim quay sè sè. Một đoàn máy bay xuất hiện, che rợp màn ảnh.
Rồi bộ binh kéo đi rầm rộ. Quân Mỹ đội nón sắt cắp súng chạy sau những xe tăng có gắn đại bác nòng dài nghễ nghện.
Những hình ảnh đầu tiên đó quả có sức lôi kéo của nó. Trên bãi đất, tiếng nhốn nháo lắng xuống dần.
ở trong hang, tổ gác miệng hang cũng nhìn thấy rõ mồn một. Anh Hai Thép nói:
-Tụi này đánh mình không nổi, giờ bày trò chiếu phim tác động đây. Để coi coi..
Ngạn ghìm súng, dán mắt theo dõi. Màn ảnh ở hơi xa một chút, nhưng anh trông thấy rõ đạn đại bác nổ, những vầng khói, cả những cái nón sắt bóng loáng và các đôi chân quấn xà cạp của quân Triều.
- Trung cuống chạy lẫn vào trong miệng hang núi sâu hoắm. Ngạn nghĩ: "Chắc tụi nó bắt lính Lý Thừa Vãn và lính Tàu Tưởng đóng cho nó quay!.."
Trên màn ảnh, các cánh quân Triều - Trung lần lượt bị tiếng máy bay, xe tăng và bộ binh Mỹ dồn vào hang. Ngạn văng tục:
- Mẹ nó nói xuyên tạc trận Thượng Cam Lĩnh. Cái phim này các đồng chí Trung Quốc quay rồi, hồi gần hòa bình, tôi có coi!
- Phải, tôi cũng có coi...
- Trọng nói.
Ngạn tiếp lời
- Ai chạy lấy mấy cái loa mo cau ra đây cho tôi!
- Để tôi đi!
Trên màn ảnh bắt đầu diễn ra những cuộc xung phong ác liệt. Quân Mỹ nhiều lượt tràn vào hang. Chúng cũng bị đánh bật ra. Rồi các giếng nước có cần vọt quanh núi đều bị quân Mỹ chiếm. Trong hang, những chiến sĩ Trung - Triều rã rượi, đói khát.. Quân Mỹ lại xung phong hết sức dũng mãnh. Kìa những chiến sĩ Triều - Trung ngã gục tại miệng hang, tay chới với buông những khẩu tiểu liên kiểu có nhiều lỗ tỏa nhiệt.
Loa phóng thanh không ngớt rít rống, giải thích. Cuối cùng tiếng loa dồn dập, câu nọ xọ câu kia:
- Bọn Trung cộng và Bắc Cao rất chi là ngoan cố. Chúng bị vây siết mà vẫn không chịu đầu hàng. Quân đội Huê Kỳ buộc lòng phải phá hang. Đây là lúc Huê Kỳ đang đem chất nổ vô!
Ngay lúc đó tarên màn ảnh quả nhiên hiện ra bọn lính Mỹ vác hòm thuốc nổ chạy xốc vô hang, dưới làn hỏa lực của các cỡ súng yểm trợ. Cuối cùng toàn bộ trái núi bị giật nổ tung, bắn ra vô vàn đất đá.
Tên thiếu úy tâm lý chiến nói một tràng kết luận:
- Quý đồng bào chắc đã thấy rõ, trái núi lớn như vậy mà còn nát vụn, huống hồ là cái Hòn này..
Tới đây, miệng loa của chúng bỗng day vào phía hang. Vẫn là cái giọng đang hồi phấn chấn của tên thiếu úy:
- A-lô, a-lô, hỡi các phần tử Việt cộng trong hang! Chúng tôi khuyên các người hãy đầu hàng. Nếu không quân đội cộng hòa buộc lòng phải đánh nát cái hang của mấy người y như trong phim này vậy..
Ngạn lập tức giơ cái loa mo cau lên, thét ra:
- Nghe đây, đồng bào hãy nghe chúng tôi nói đây! Vừa rồi tụi giặc chiếu cái phim gì đồng bào biết không? Cái phim láo đó! Đồng bào đừng tin. Chuyện này chúng tôi biết rất rõ, chính bộ đội chí nguyện Trung Quốc và bộ đội Triều Tiên đã vùi chôn giặc Mỹ tại trái núi đó!
Ngạn nói tới đây, đồng bào ở ngoài hang liền vỗ tay như sấm.
Anh nói tiếp theo:
- Bà con ơi, chúng tôi còn một người chiến đấu một người, còn hơi thở nào chiến đấu hơi thở nấy. Tất cả chúng tôi đều còn sống, còn đánh.. Bớ mấy thằng giặc theo Mỹ - Diệm, tụi bây có giỏi thì vô đây.. Vô đây tụi tao bắn đổ ruột hết thảy.. Nhướng mắt mà coi nè!
Ngạn liệng cái loa, xóc khẩu tôm-xông, nhắm vào màn ảnh bóp cò. Súng nổ, đoành đoành đoành. Màn ảnh bị lủng ba lỗ dụm vào nhau. Bà con bên ngoài lại vỗ tay, reo hò dữ dội.
Anh Thép ngăn:
- Thôi đừng bắn nữa, để dành đạn.
Đến khi bọn giặc bắt đầu xổ trung liên vào hang thì Ngạn và anh em đã nép mình sau các mỏm đá. Loạt trung niên của giặc vừa dứt. Ngạn lại bắc loa nói ra:
- Hỡi các anh em bình sĩ, chúng tôi khuyên các anh em đừng đánh vô hang nữa mà chết uổng mạng. Tốt hơn hết là đòi về hoặc đào ngũ. Nếu anh em nghe lời tụi chỉ huy xông vô đây thì chúng tôi phải nổ súng. Mà khi chúng tôi đã nổ súng thì anh em ắt phải chết.. Nói để anh em biết, ở trong này bắn ra không trật đâu!
Loạt trung liên thứ hai bây giờ lại xổ vào. ý chừng tên xạ thủ vừa đóng băng đạn mới. Nhưng giữa cái khoảng nó thay băng. Ngạn đã lợi dụng xong rồi
Buổi chiếu bóng thế là thất bại. Bà con đốt đuốc kéo về. Tiếng cười nói rộn lên khắp khu vườn. Tên thiếu úy tâm lý chiến hổn hển nguyền rủa tên thiếu tá:
- Tôi đã nói đừng lừa tụi nó tới coi mà không chịu, ai biểu tham.. Tỷ như không có tụi nó thì Việt cộng, coi ên, thối chí hay không thối chí cũng không hại. Đằng này..
.. Trong lúc đó thì tên thiếu tá vẫn đang ngồi nhậu giữa ngôi nhà nền đúc. Nghe tên lính chạy về cho hay, hắn liệng ly rượu vỡ "choang", cười kha kha:
- Đ.mẹ hư hết rồi sao hả? ối, thằng thiếu úy Sanh non lắm. Hồi nó đưa ý kiến đó, tôi nghi rồi. Ngặt nó cứ đeo theo tỉ tê ton hót hoài, tôi mới buông xuôi cho nó làm. Muốn hiểu tụi Việt cộng hỏi tôi đây nè!.. Hồi tôi làm quận ở Xợo rô, tôi trói tụi nó lại đập đầu bằng búa mà tụi nó còn không ngán. Đập thằng trước té xuống, thằng sau vẫn tự nhiên như thường. Mấy con nữ cán bộ cũng vậy, tôi càn vô cứ bắt được mấy đứa đem về ghim kim vô đầu ngón tay. Mới ghim kim xong chưa kịp lấy búa gõ thì đã có đứa nói: - "coi đây!" rồi nó vỗ mạnh mười ngón tay vô tường, lút kim. Đ.mẹ, Việt cộng là vậy đó! Không thấy con nhỏ hôm trước sao, chém gần lìa cổ rồi mà vẫn chửi. Huống chi đem tuồng hát bóng ra dụ nó dụ mẹ gì được mà dú
Tên thiếu tá nói, chửi thề, và tiếp tục rót rượu. Hắn rót tràn rượu trắng vào một cái ly mới, dằn mạnh cái chai xuống mặt bàn làm ly rượu sóng sánh đổ tạt. Hắn đưa tay ra dáng như đè vật gì trong không khí xuống:
- Th..ôi, để đó...
Hắn guay ngoắt sang bên:
- Trung úy Tự!
- Dạ, có tôi.
Một tên trung úy trạc bốn mươi tuổi đang đứng dựa tường vội vàng bước tới. Tên thiếu tá bảo:
- Anh cho trộn xi-măng, gánh gạch vô hang, như hôm nọ đã bàn..
- Ngay bây giờ à, thưa thiếu tá?
- Ngay bây giờ, phải làm cho gấy. Sáng mai tôi chỉ huy lấy mẹ cái miệng hang đó là yên!
3
Chú Tư Râu nói với Cà Mỵ:
- Té ra hồi chiều tao bị tụi nó bắt đi làm cũng không uổng công Mỵ à. Anh em trong hang nói nghe "đã" quá!
.. Trên đường ra bãi, Cà Mỵ lẽo đẽo đi theo sau lưng chú Tư. Thằng út nói vậy mà đúng. Bà Cà Xợi hiện đang ở ngoài nhà nó. Bữa trước, bà con bao bọc bà ở xóm lưới. Nhưng tụi lính lùng kiếm riết quá nên hôm qua chú Tư lảnh đem bà ra giấu ở nhà nò. Đợi lúc trên đường không còn ai, Cà Mỵ hỏi:
- Má tui hôm rày ra sao chú Tư?
- Vẫn mạnh
- Má tui có buồn hay chết xỉu nữa không chứ?
- Không.. có cái là tao thấy bả coi hơi khác khác...
- Khác sao chú!
- Tao cũng không biết. Mà bây giờ má bây mần công chuyện coi mau mắn lẹ hết sức!
- Má tôi mần công chuyện gì!
- Má bây nấu cơm, vá lưới giùm tao. Tội nghiệp, má bây cũng chưa vui..
Cà Mỵ không hỏi nữa. Cô áp đôi tay lên ngực, bước đi từng bước một. Trước mặt cô, sóng biển nhuốm ánh trăng muộn dào dạt la liếm vào bãi cát. Cô đi trong vầng trăng và tiếng sóng đó, mà tấm lòng chất phác của cô trào lên biết bao uất ức.
Hôm qua cái nhà của cô đã bị tụi giặc đốt. Và bây giờ cô cảm thấy sợ tiếng lá dừa khô kêu rắc rắc, vì trên những tàu lá đó cô đã bị mấy thằng lính thay nhau cưỡng hiếp, trong lúc cô đem cơm đi vô hang.
Chiếc xuồng của chú Tư vẫn nằm trên bãi. Sóng biển tung tóe liên tiếp sau lái xuồng. ý chừng sóng muốn vỗ tới lái chiếc xuồng đó, nhưng nó vẫn không sao vô tới được. Chú Tư Râu bước đến kéo vần chiếc xuồng. Cà Mỵ vịn be phụ đẩy với chú. Mũi xuồng chuồi xuống, rập vã vào ngọn sóng, để lại phía sau một đường cát miết dài.
Chú Tư bơi lái bằng cây chèo. Chú bơi cật lực nhưng mũi xuồng không rấn lên được bao nhiêu. Gió thổi chỉ mũi xuồng đi rất chật vật. Chiếc xuồng nhảy nhót men theo các cây hàng rào nò hiện mờ mờ, chạy dài tít tắp. Xa xa phía trước, ánh đèn đỏ nhà nò nhấp nháy như nổi trên lưng sóng. Chú Tư trỏ tay về ánh đèn nói vui vẻ:
- Má bây còn biết nổi đè lên giùm tao là bả còn tỉnh lắm. Không sao đâu!
Cà Mỵ nhìn ánh đèn. Ban đầu cô chỉ nhìn thấy ánh đèn đó, nhưng xuồng đi một đỗi sau thì cô bắt đầu thấy dạng nhà nò.
Dưới ánh trăng bàng bạc, nhà nò của chú Tư hiện ra giống như cái chuồng chim bồ câu, nổi hêu một mình giữa bốn bề sóng động.
Từ trong bãi bỗng có tiếng bìm bịp kêu giục gĩa một thôi dài. Tiếng kêu của con chim lông nâu báo con nước triều lên xuống ấy nghe tợ tiếng tù và rúc, càng về cuối nghe càng nhặt.
- Nước lên rồi! - chú Tư nói.
- Bây giờ chú tư đi thăm nò không? Để cháu đi thăm với chú nghen?
- Thôi.. Không kịp đâu Mỵ à. Để con nước ròng sáng thăm cũng được!
Chiếc xuồng vượt qua mấy cây hàng rào cuối cùng rồi cặp vào bậc thang sàn lảng của nhà nò. Cà Mỵ bò tới giơ tay bám vịn nấc thang, vừa leo lên vừa kêu lớn:
- Me, me ơi!
Bà Cà Xợi đang nằm trong chòi vùng choàng dậy. Bà chệnh choạng chạy ra. Hai mẹ con gặp nhau ở chỗ sàn nhà. Cà Mỵ vì vấp cái cây lót sàn nên khuỵu xuống, ôm ngang người mẹ. ánh trăng chiếu rọi ngấn mắt long lanh giàn giụa của Cà Mỵ đang ngước lên. Giữa lúc chú Tư đang quấn thêm vòng lòi tói nữa, buộc xuồng vào cầu thang. Sợi dây lòi tói đó cứ bật kêu rủng rẻng. Chiếc xuồng tuy đã buộc ở gầm cầu nhưng nó chẳng thể đậu yên với nhịp sóng lúc thì nâng nó lên, lúc lại níu nó xuống.
Chú tư đi vào lấy tấm đệm trải giữa sàn nhà nói:
- Thím Cà Xợi với con Mỵ ngủ ở đây nghe!
Rồi chú đến ngồi bên cái mẻ un còn ngún khói kề miệng thổi phù phù. Chú móc bì thuốc, vừa vấn thuốc vừa nói:
- Mẹ nó, mới tới đây có mấy bữa mà nhà nào nó cũng gây oán. Thím Cà Xợi à, thím với con Mỵ đừng sợ, cứ ở đây, chừng nào tụi nó rút, thím hẵng về. Chừng đó tụi tôi sẽ ráp cất nhà lại cho thím. Mùa tới có thiếu mạ cấy thì cô bác giúp đỡ, không lo..
- Tui còn có hai bàn tay, có cô bác, tui đâu lo.. Mà điều..
Bà Cà Xợi ngập ngừng, lát sau mới nói tiếp, giọng rền rẫm:
- Để thằng Xăm cũng khổ, mà nó chết rồi tôi cũng khổ.
Chú Tư ngước nhìn về phía bà Cà Xợi. Chú thấu hiểu lòng bà. Nhưng chú nói:
- Thím đừng nghĩ vậy, đừng nghĩ gì nữa.. Kể như thím không có đẻ thằng Xăm đi. Hồi giờ chủ Mưu dưỡng dạy nó, thằng Mỹ-Diệm tập dượt nó thành đứa ác ôn. Nó có còn là con thím nữa đâu. Nói thiệt, tôi mà có thằng con thế đó thì tôi chặt lâu rồi!
Bà Cà Xợi làm thinh. Chú Tư lại nói:
- Thím Cà Xợi à, trận này tụi nó về đây đánh phá tính lập bót rồi giựt đất giựt biển của mình lại ráo đó đa thím!
- Tui biết..
- Cái đó mới là cái khổ nạn lớn!
- Thằng Xăm có nói với tui, bữa nó chết..
- Nói sao?
- Nó nói là chừng tiêu diệt hết đàng mình trong hang thì nó ở lại đây luôn
- Ghê không? ở đây đặng rồi giựt đất thâu tô chớ gì, ở đây đặng bắt bà con mình trở lại cái cảnh đi mua từng thước đất nắn nồi như hồi nẩm chớ gì!
Nói thế xong, chú Tư khoát tay trỏ biển:
- Bà mẹ nó, nó tính vậy, chớ dễ dầu gì mình chịu rủ tay lần nữa thím? Thằng bé tôi nghe nói cụt tay, tôi cũng không thối chí. Tôi hứa với thím, hễ tụi nó mà nhổm khiêng gạch xây bót là tôi bỏ nò vô xóm nhập du kích liền. Hổm nay tôi cứtính tới nước cùng là cho nó chiếm được hang và anh em trong hang có hy sinh hết đi thì rồi Hòn Đất này cũng nhen nhóm đánh nữa. Nói là nói giả dụ vậy, chớ anh em ở trong đâu có chết thím..
Cà Mỵ nói:
- Tám bữa rồi nó không nhập vô hang được. Võng trong xóm đều bị tụi nó lấy để khiêng thây!
- Cứ cái "mửng" này chắc là nó phải rút. Lính tráng mất thần hết rồi. Bà con mình trong xóm mấy bữa nay hễ gặp lính là dọa. Tụi lính sợ dữ lắm. Mai tôi cũng vô trong xóm coi..
Cà Mỵ nhích tới, khẽ bảo:
- Chú tư ơi, chừng nào cần đem gạo vô hang thì để cháu đi..
Cà Mỵ nói chưa dứt câu, chú Tư bỗng rùng mình. Hôm qua lúc ghé nhà mẹ Sáu, mẹ đã kể cho chú nghe rằng Cà Mỵ đã nói với mẹ chuyện nó bị hiếp. Cà Mỵ khóc rấm rứt và bảo mẹ Sáu: "Muốn đem gạo vô hang cho mấy chú nên con liều mình bà ơi"
Chú Tư Râu thương con Cà Mỵ quá nên khi nghe cô đòi đi đem gạo nữa thì chú gạt ngang:
- Không, không..
Chú vụt cái tàn thuốc xuống kẽ sàn. Khoang tay ngồi im lúc lâu, chú mới đứng dậy nói:
- Má bây ngủ rồi. Thôi bây ngủ đi. Tao cũng đi ngủ đây! Chú Tư lại chỗ góc trại, vạch nóp chun vô. Cà Mỵ dặn:
- Gần sáng có đi thăm nò kêu cháu dậy đi với nghe chú?
- ờ, để tao kêu!
Chú Tư mới nằm xuống đã ngáy liền.
Chú ngủ một giấc dài thì Cà Mỵ mới chợp mắt thiếp đi.
Lúc bìm bịp kêu nước giựt ròng, chú Tư trở dậy. Chú lại bếp thổi lửa, hút thuốc. Hút hết điếu thuốc chú mới mò, kiếm cái lưới vợt, lom khom đi ra. Ngang chỗ Cà Mỵ nằm, thấy Cà Mỵ vẫn còn ngủ thì chú không gọi, vác vợt ra bậc thang, mở xích xuồng.
Trời hãy còn tối. Sóng vẫn đùa giỡn với làn sương phủ dày mặt biển.
Chú Tư bơi xuồng từ trụ "ông bổn", ra tới họng nò.
Vừa bơi chú vừa nghĩ bụng. "Mình bỏ một con nước, bây giờ ra thăm chắc thế nào cá cũng chạy khá!"
Buộc xuồng cập bến vô hàng rào xong, chú xốc cây vợt bước tới mũi xuồng. Nước trong nò đã giựt cạn. Mấy con cá chẽm tung mình lên rồi lại rới xuống. Cá chạy quẩn trong nò tóe nước sáng trưng. Tôm búng tanh tách, tanh tách. Chú Tư đứng chịu hai chân chữ bát nơi sạp mũi, thọc cây vợt xuống. Hai tay chú nhấc cán vợt nặng trĩu, đổ hất vào khoang xuồng. Cá giống, cá gộc, cá chẽm chuồi mình giãy đành đạch. Chú Tư xúc hết vợt này tới vợt khác, xúc mỏi cả tay. Còn mấy con cá to vẫn chạy vòng quanh nò. Chú Tư bèn thọc sâu cây vợt xuống, rà đón đặng bắt nốt. Thình lình sóng xô đập một vật gì vào dây hàng rào ở ngoài. Rồi vật ấy cứ cạp theo hàng rào mà trôi tới. Tưởng có con cá mú lớn chạy vào, chú Tư vội rút cây vợt lên, để yên, cho nó đâm thẳng vào miệng nò. Nhưng lạ quá, vật đó trôi tới miệng nò thì vướng lại, quay ngang. Chú thọc vợt xúc đại. Nhưng tay vợt của chú sao cứ trớt trợt, nằng nặng. Quỳ rạp xuống, lừa lọc mãi chú mới bợ lên mấp mé mặt nước một phần của vật ấy. Trời hơi sang sáng, chú trố mắt nhìn và buột miệng kêu: "á" lên một tiếng.
Trên miệng vợt, một mớ tóc rũ xõa, rập rềnh
- Thì ra đó là một cái xác chết.
Chú Tư trấn tĩnh lại, dùng vợt rà nâng cái xác cặp vào mé hàng rào. Không nghe mùi thối. chú nghĩ bụng: "Phải vớt lên mới được!". Nhưng ở phía ngoài hàng rào chú không thể vớt cái xác. Chú thu cây vợt về, liệng xuống khoang, và cầm chèo hộc tốc bơi xuồng vào giữa nò.
Sau một lúc loay hoay chú tìm lại được cái xác. Lúc nắm phải cặp chân mang đôi giày bố đã mềm sũng, chú Tư hiểu ngay rằng đó là một tên lính. Tay chú muốn buông cặp chân giày đó ra rồi. Chú nghĩ: "Chà, công đâu vớt nó lên! Cứ để nó nằm đây làm mồi nhử cá..". Nhưng nghĩ thế, chú đã vội nghĩ lại: "Cứ đem lên thử coi, biết đâu chừng có súng ống hoặc lựu đạn".
Chú Tư rán sức lôi cái xác lên xuồng. Thì quả là một người lính thật. Với đôi giày bố đó, với bộ quân phục xám trĩu nặng trên người anh ta đó. Giữa buổi bình minh mới hé trời hãy còn đầy sương và bốc cuộn hơi thở biển, người lính nằm ngửa trên sạp xuồng thẳng đơ. Chung quanh anh ta, những con cá chú Tư mới vợt ở nò lên vẫy giãy giụa. Chú tư khoát nước rửa tay, rồi cúi xuống. Vẫn không nghe mùi hôi thúi. Nhưng mặt người lính thì đen sạm, nứt toác. Đôi tay anh ta co co như giơ lên sắp đón ôm một vật gì vào lòng, còn các khuỷu ngón tay thì quắp lại. Chú Tư không dám nhìn lâu bộ mặt người lính vì nó gieo cho chú cái cảm tưởng hình như chú đã gặp bộ mặt đó ở đâu rồi. Cái bộ mặt trông vất vả và lương thiện, trước kia nếu không phải là dân lối ruộng thì cũng là dân hạ bạc, nếu không phải là dân tát đìa mướn thời cũng chắc là dân bạn ghe, chống chèo dầm mưa dãi gió. Cặp mắt anh ta trông mới lạ chứ, nó cứ mở he hé, cho thấy đôi con ngươi đó như có rắc tro, như dại vì nỗi tức giận và hối tiếc khôn nguôi.
Chú tư không chịu nổi khi nhìn thấy đôi tay co co giữa không trung của người lính chết, nên chú khom cúi người cầm đôi bàn tay ấy đè xuống. Nhưng cánh tay vẫn không chịu buông xuôi, vẫn cứng nhắc giơ lên, như đợi ôm lấy cái gì. Nhưng đâu có cái gì. Giữa vòng tay chết đó chỉ có làn sương tan, hơi biển vờn lên như khói, và ánh bình minh mỗi lúc một trắng sáng.
Một lần nữa chú Tư lại cố vịn bàn tay người lính đè xuống. Lần này, chú chợt chạm nhằm phải lớp chai cộm dày, nhám cứng nổi trong lòng hai bàn tay người lính. Chú vối rụt tay mình lại như bị phóng lửa. Lát sau, chú mới rón rén cầm bàn tay người lính lên nhìn. "Trời.." chú buột miệng kêu khẽ. Lòng bàn tay người lính chay nhám hết. Trừ hơi sần sần tróc trắng vì bị ngâm nước lâu. Chú Tư từ từ buông tay người lính ra. Bàn tay của chú bỗng rụng rời, yếu nhớt. Chú lẩm nhẩm trong bụng: "mình đoán không sai.. Thằng này cầm cày ít nhứt cũng mươi năm.. cái cục chai đó.."
Mãi sau chú mới mò mẫm khắp người anh ta. Không có thứ khí giới nào cả. Chú lôi ra từ túi áo anh ta một cái "bóp" bằng da giả màu nâu, đã rách beng, để lòi một mớ giấy tờ và rơi rớt mấy đồng bạc in đầu Ngô Đình Diệm ướt xỉn. Trong hai cái túi đãy nơi đùi người lính cũng chẳng có gì, ngoài một miếng cơm dừa cứng cạy đã nhớt nhợt.
Chú tư ngồi lặng trước thây người lính. Chú thẫn thờ không cần thiết gì tới chuyện vợt cá trong nò nữa. Mặc dù trong đó còn có nhiều con cá lớn, chú cũng không để tâm tới ngọn sóng luôn nhồi lắc chiếc xuồng. Lòng chú giờ cứ nhói lên, như bị rất nhiều mũi kim châm chích.
Mấy câu hỏi dồn dập đến với chú cùng một lúc: "ở đâu mà trôi vô nò mình? Chết hồi nào, trận nào? Thiệt kỳ quá! Nhưng coi bộ chết chưa lâu, cao lắm là hai ngày.. Đáng lẽ thì sình rồi, chắc nhờ nước biển mặn..". Chú tư lập vập nghĩ thế và tính tới tính lui không biết có nên chở cái xác về hay bỏ lại biển.
Bỗng chú sực nhớ tới đám lính hiện ở xóm: "Không, mình không nên bỏ cái xác xuống biển. Nên báo liền cho thím Hai Thép hay.. sẵn có cn Mỵ, để kêu nó đi.."
Chú tư bỏ không xúc cá trong nò nữa, vớ mái chèo, lái mũi xuồng hướng về phía nhà chòi, bơi riết. Vừa bơi chú vừa thầm kêu:
"Bớ tụi lính bỏ ruộng bỏ đồng, đất đai của tụi bây ở nhà cũng đương bị bọn đầu trâu mặt ngựa lăm le lấy lại, sao không lo, còn theo tiếp bọn nó đi giựt đất bà con để chết cách thê thảm.. Đồ lính ngu lính dại, tao phải đem cái thây này vô cho tụi bây ngó thấy mới được!.
Anh Đức
Hòn đất
Chương 6
4
Có tiếng gót chân giệm lên nắp hầm bộp bộp. Anh Tám Chấn nghe đúng là ba tiếng, liền nhoai người ra, chỏi tay khẽ ẩy miệng hầm. Chị Hai Thép ngồi bên trên cúi xuống, thì thào:
- Báo cáo anh vừa xảy ra một chuyện này..
- Chuyện chi?
- Cà Mỵ mới ở ngoài nhà nò chú Tư về cho tôi hay là có xác một tên lính trôi về nò, chú Tư mới vớt được.
- Lính gì? Chủ lực hay bảo an?
- Lính chủ lực, bận đồ tay-di, bị thương ở bụng. Tụi tôi nghi tên lính này bị máy bay chở đi đổ xuống biển!
Nghe nói thế, anh Tám Chấn ngoi đầu lên khỏi miệng hầm hỏi:
- Vẫn còn để cái xác đó ngoài nhà nò chú Tư à?
- Còn để ở ngoài
Anh Tám Chấn im lặng một lát rồi nói:
- Hôm kia trực thăng có tới chở lính bị thương đi, hay vớt được tên lính này ở nò thì đúng là trực thăng nó đổ rồi. Muốn biết chắc hơn, thím nên bố trí bà con hỏi nhóng tụi lính thử coi. Lựa lính chủ lực mà hỏi. Nếu binh sĩ họ xác nhận thì thím lập tức huy động bà con đem cái xác đó vô xóm, gây thành một sự xúc động và phẫn khích lớn trong binh sĩ, ra sức lôi kéo họ nhập cùng bà con đấu tranh vạch mặt Mỹ - Diệm, làm dữ với tụi chỉ huy hành quân, qua đó mà đánh sụp hẳn tinh thần chiến đấu của tất cả bọn quân lính hiện ở trên Hòn, đẩy chúng tới mức rệu rã không thể be đắp lại được..
Chị Hai Thép nói:
- Chắc phải cho tụi lính tới nhìn mặt cái thây mới được!
- Thím liệu sao cho ổn đó thì làm. Phải sắp đặt cho êm, kẻo tụi nó giựt lại cái thây!
- Tôi sẽ sắp đặt thiệt êm. Báo anh biết, lúc tôi chạy về đây, dọc đường đã thấy tụi nó hùng hùng hổ hổ kéo đi lấp hang. Nghe đâu chính thằng thiếu tá cầm đầu làm vụ đó..
- Được rồi, thím cứ đi lo chuyện này. Không dễ gì lấp hang được đâu. Nếu phát triển đấu tranh kịp thời, thằng thiếu tá đó sẽ bị lôi lưng về cho coi!
Trước khi đi, chị Hai Thép còn chạy lại bếp gọn gàng nhắc nồi cơm đem lại, đưa xuống cho anh Tám:
- Cơm sáng tôi nấu rồi đây, anh để dưới mà ăn. Trọn ngày nay chắc tôi búi lăm không về được.
- Thím ăn cơm chưa?
- Cơm nước gì nữa anh. Thôi tôi đi. Anh Tám ở nhà cũng chú ý coi chừng, hễ nghe ám hiệu trật, anh đừng mở hầm lên nghe!
Quả như lời chị Hai Thép vừa nói, từ sáng sớm thằng thiếu tá Sằng đích thân chỉ huy tấn công lấp hang. Thực ra hắn cũng chẳng xông vô. Hắn ngồi ở bên mé ngoài, chỉ huy bọn lính diễn tấn tuồng phóng qua phóng lại trước miệng hang để liệng lựu đạn. Rủi thay, hai thằng lính đầu tiên ngã vật xuống ngay vì súng trong hang bắn xổ ra. Và bốn trái lựu đạn MK3 trong tay chúng nổ tung, làm cho bốn thằng lính ấy ngã quay lơ. Tên thiếu tá ngồi cách đó mười thước bị mảnh lựu đạn văng chạt, cướp nguyên cái chỏm mũ ba rèm đang đội. Thành ra cái đầu hắn trống lốc. Bọn lính nằm thụp sau những bao xi măng, nhấp nhổm không dám chạy vọt ngang nữa.
Tên thiếu tá Sằng đưa tay sờ sờ chỏm tóc. Hoàn hồn lại, hắn rung cây gậy giục bọn lính tiếp tục tấn công. Rồi hắn lại nằm xoài xuống cỏ. Lần này bọn lính liệng vô hang được năm sáu trái. Lựu đạn nổ như bưng đất lên. Khói bốc mù mịt. Lợi dụng sự áp đảo đó, chúng bắt đầu vọt ngang như thoi, liệng thêm lựu đạn tới tấp. Lần này tiếng súng trong hang im bặt. Chỉ độc có tiếng lựu đạn nổ, kéo dài tới bốn năm phút.
Tên thiếu tá nhổm lên, quơ gậy la:
- Tấn vô mau!
Bọn lính liều mạng nhào vô miệng hang đầy khói. Chẳng thấy chúng đâu nữa. Chỉ nghe hàng loạt tôm-xông của chúng quét lia lịa trong đó.
Như lần trước, anh em đã rời ngõ hang ngoài để tránh lựu đạn nổ dồn dập. Sáu tên giặc tràn vào chiếm ngay được ngã hang ấy. Chúng ở đó bắn xỉa vào, không lui mà cũng không tiến. Cả hai phía đều không cho phép chúng tiến thoái.
Bên trong bắn ra đã đành, nhưng nay bên ngoài bọn ác ôn cũng chĩa súng thúc đít chúng. Theo lệnh tên thiếu tá, bọn lính ở ngoài xách thuổng đào móng và xốc xáo chuyển gạch đến để bịt kín miệng hang. Chúng xếp gạch vội vã. Trong tiếng súng nổ tằng tặc, tường gạch ba lớp mỗi lúc một chất cao. Bỗng bọn lính trong ngõ hang chạy nhào ra, xô bừa lớp tường mới chất đó. Tên thiếu tá vung gậy đập túi bụi vào bọn này. Hắn ra lệnh một mặt tung lựu đạn vào trong, một mặt xếp gạch lại.
Nghe lựu đạn vẫn còn nổ, anh em nín im trong các ngách. Cuối cùng miệng hang bị lấp kín. Bọn giặc trái xi măng lên. Song các kẽ hở hai bên rất khó trát. Thấy rơm hôm đốt hang còn vương vãi bên ngoài, chúng vơ guộn lại trám chặt các kẽ rồi trám xi măng lên. Muốn chắc hơn, chúng còn hè hụi xếp thêm mấp lớp gạch nữa. Bỗng giữa lúc đó, tên Sanh, thiếu úy tâm lý chiến từ trong xóm chạy ra thở hổn hển báo cáo với tên thiếu tá:
- Thiếu tá ơi, lính nó làm loạn lên ở trong.. Nguy lắm!
Tên thiếu tá hỏi giật:
- Cái gì? Lính làm sao? Hả, hả?
- Thưa.. Thưa..
- Nói mẹ ra đi, thưa thưa cái gì!
- Thưa thiếu tá, không biết dân chúng họ vớt đâu ngoài biển một cái thây lính..
Tên thiếu tá giật mình:
- Thây lính à?
- Dạ, lính.. lính chủ lực.. Họ.. họ vác vô xóm, bêu từ đầu xóm tới cuối xóm. Lính ùa ra coi. Tụi ở đại đội ba nhận ra là thằng Sáu Hơn. Tụi nó nói chiều hôm kia thằng Sáu Hơn bị thương được trực thăng chở đi cớ sao bữa nay lại chết giạt ngoài biển. Tụi nó la rùm lên, bảo là số bị thương hôm kia là trực thăng chở đi liệng xuống biển hết rồi.
Tên thiếu tá tái mặt:
- Anh ngó thấy cái xác không? Có đúng là thằng Hơn nào đó ở đại đội ba không?
- Có ngó thấy, đúng.. đúng là thằng Hơn ở đại đội ba.. kỳ quá!
Tên thiếu tá lấm lét liếc nhìn chỗ khác:
- Rồi sao nữa!
- Dạ tụi lính các đại đội khác thảy đều la ó chửi rủa.. Tụi nó chửi ba thằng Mỹ đem anh em liệng biển, nếu không liệng biển sao thằng Sáu Hơn trôi giạt vô nò..
- Trôi vô nò à?
- Dạ trôi vô nò. Thằng cha coi nò vớt được.. à quên thiếu tá đã hay tin bốn thằng bảo an bỏ trốn đêm qua chưa?
- Chưa, lại có vụ đó nữa sao?
- Dạ, bốn thằng trốn mất, không biết đi đâu!
- Đ.mẹ, chó đẻ quá!
- Thưa thiếu tá, về vụ cái thây lính Hơn, tụi lính nó làm dữ lắm. Có thằng châm lửa đốt tăng. Một số vụt súng suối nhập với dân chúng đi biểu tình..
Tên thiếu úy nghiên bộ mặt đầy mụn, lắng nghe và nói:
- Đó. Tụi nó đương la ì ì đó, thiếu tá không nghe sao?
Thiếu tá Sằng không đáp, hắn xây lại bảo tên trung úy công binh:
- Ông Tự, ông ở đây đốc thúc lập thêm gạch cho chắc nghe!
Đoạn xây qua tên thiếu úy, hắn quơ gậy:
- Đi, tôi với anh về trỏng coi sao?
Tên thiếu úy quày quả đi trước. Thiếu tá Sằng bước theo sau, lo lắng hỏi:
- Thằng cha giữ nò vác xác đó vô xóm hả?
- Nhiều người vác chớ không riêng gì thằng chả..
- Lúc đó anh ở đâu mà không ngăn tụi nó lại, hả?
- Thưa thiếu tá, tụi nó đem vô hồi nào tôi đâu có biết. Chừng biết thì vỡ lở ra hết rồi!
- Đ.mẹ, chuyện này nhứt định có bàn tay Việt cộng xúi giục!
- Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng thưa thiếu tá là có cái thây đó thiệt, chớ nếu không thì Việt cộng làm sao xúi giục được!
- Thây thể, mặt mũi còn nguyên không?
- Cũng bị tróc da chút đỉnh, nhưng ngó vô thì biết là thằng Hơn liền. Mới bắt đầu sình thôi. Gặp nước mặn lâu sình.
Thiếu tá Sằng lặng thinh. Chốc sau, hắn hươi gậy vụt cỏ sậy ngã rạp, văng tục:
- Đ.mẹ, đánh giặc kiểu này thì Ngô Tổng thống đánh cũng thua nữa chớ đừng nói gì tôi.. Đánh phía trước động rần rần ở phía sau thì thắng mẹ gì được. Hồi mới xuống tôi đã nói là phải giữ kỹ đừng cho dân chúng họ dậy lên, rốt cuộc cũng giữ không nổi..
- Bây giờ cả lính cũng dậy ổ rồi..
Tên thiếu tá tức giận rống lên:
- Được rồi. Thằng nào liệng súng tao xách đầu bắn bỏ!
Tên thiếu úy nín im. Lát sau, đi ngang cây dừa ngã, tên thiếu tá ngó sợi dây treo chị Sứ hôm nọ còn lẳng lặng:
- Thưa thiếu tá, từ cái bữa mình chặt đầu con cán bộ tóc dài nọ thì dân tụi nó mới bắt đầu làm dữ.. Đáng lẽ..
- Sao?
- Đáng lẽ mình xử chầm chậm một chút thì hay hơn. Bởi con nhỏ đó được lòng người ta ở đây lắm. Nghe đâu khắp cái Hòn này ai cũng đều yêu mến nó. Giả tỷ bữa đó mà trung úy Xăm không chặt nó thì có khi ổng chưa chết..
Tên thiếu tá lắc đầu:
- Tôi không tin, con mẹ đằng Thố đó điên mà!
- Con mẻ không điên đâu, thưa thiếu tá. Điên sao không chặt người lối xóm, sao không chặt Việt cộng?
- Thì chặt con mình mới điên dữ!
Miệng nói thế, chớ bụng dạ tên thiếu tá Sằng hết sức hoang mang. Hắn ngỡ là chính tay bà Cà Xợi giết thằng Xăm và mong sao việc người đàn bà Khơ me giết con thật sự chỉ vì điên chứ không có ý thức căm thù. Hắn không muốn nghĩ rằng đây là một sự báo thù, mặc dù hắn cảm thấy vấn đề hình như là thế. Bởi nếu mọi tội ác đều phải trả như vậy thì bản thân hắn sẽ không tránh khỏi cái chết. Hắn không lo lắm về những món nợ cũ, vì rằng hắn đã rời khỏi các vùng đất, ướt máu đỏ. Cái hắn bắn chết người lính tại trường học hay như việc đổ bọn lính bị thương xuống biển mà hắn đã biết từ trước và thỏa thuận để bọn Mỹ làm việc ấy. Hắn kéo lê cây ba-toong trên đầu ngọn cỏ, bụng rắp sẵn: "Chuyện mình bắn chết lính ở trường học thì tụi lính đều biết, nhưng chuyện mình nhượng bộ để Mỹ đổ xác lính xuống biển thì tụi nó không biết. Nếu nó có hỏi, mình phải chối phăng, nói không hay biết gì cả..! Và mình phải nổi giận phải tỏ ra uất ức: "Tôi sẽ cùng anh em tranh đấu tới cùng. Phải vậy mới được, chớ không thì.."
Hắn và tên thiếu úy Sanh lội qua suối, sang bờ bên kia. Các lều của bọn biệt kích thì có lính, còn các lều của tiểu đoàn chủ lực vắng hoe không thấy một tên lính nào. Bọn biệt kích đang dựng hai ba chục khẩu "ga-răng" ướt nước trước lều:
- Thưa thiếu tá, tụi đại đội ba liệng súng xuống suối anh em tôi mới mò lên đó!
Thiếu tá Sằng ngó qua mấy cây súng. Bây giờ tai hắn cũng đã nghe tiếng hò reo nổi dậy rất rõ. Hắn nghĩ không thể đi ra xóm một mình, nên bảo bọn biệt kích:
- Mấy anh lấy súng đi với tôi. Đem cả "ép" theo!
Bọn biệt kích vào lều lấy súng, theo tên thiếu tá, tiến vô xóm.
Lúc này nắng đã rọi tới nửa thân dừa. Đoàn người khiêng anh lính chất Sáu Hơn vừa đổ qua ngã Sĩ Lỳ. Tên thiếu tá và lũ biệt kích mới ló ra tới đường đất thì nghe bên kia ngã quẹo vang lên tiếng thét chói lói của phụ nữ.
- Đả đảo bọn Mỹ - Diệm đổ anh em binh sĩ bị thương xuống biển!
- Đả đảo!
Tiếng hô "đả đảo" hưởng ứng vang rền. Kế lại có tiếng la:
- Mỹ - Diệm phải đền mạng cho anh em binh sĩ đã chết!
- Phải đền mạng, phải đền mạng!
Nghe tiếng gào thét dữ dội và nhác thấy bụi bốc mù ở ngã quẹo, tên Sằng thụt lui trở vô vườn. Hắn lắp bắp nói với tên thiếu úy:
- Tôi về đằng chỗ tôi, anh ở đây đón gặp họ bảo họ giải tán, kêu lính phải trở về nơi đóng quân ngay. Có yêu cầu gì thì cứ đưa lên tôi, tôi chuyển cấp trên giải quyết. Anh em biệt kích cứ giữ ở đây, đừng cho họ đi lung tung các chỗ khác nếu nột quá xổ vài băng "ép" để giải tán. Thôi tôi đi đây.
Tên Sằng quay lưng, đi luôn vào vườn
Bọn biệt kích vừa dàn ngang mặt đường xong thì đoàn người kéo tới. Tên thiếu úy tâm lý chiến đứng ở giữa đoàn người và bọn biệt kích, giơ hai tay lên trời:
- Anh em cô bác ơi, đứng lại, đứng lại để tôi có vài lời!
- Nói cái gì, xê ra.
- Một người lính nạt
- Thiếu tá biểu tôi..
- Biểu cái gì..
Tốp bà con và anh em binh sĩ đi đầu đứng lại. Tên thiếu úy hạ giọng:
- Thiếu tá biểu bà con anh em đừng kéo đi la ó, rất hại. Tụi Việt cộng sẽ thừa nước đục thả câu. Bà con anh em có yêu cầu gì cứ xin nói, thiếu tá hứa sẽ chuyển về trên để trên giải quyết. Còn anh em lính ở đâu phải về đó, thiếu tá không chịu trách nhiệm về hành động của anh em!
- Tụi tôi không nói chuyện với anh. Thiếu tá đâu?
Mấy người lính xông lên, hùng hổ. Tên thiếu úy vừa bỏ chân bước lùi vừa nói:
- Thiếu tá.. ổng ở.. ở đằng nhà ngói..
- Kéo lại chỗ thiếu tá đi anh em bà con ơi!
Mấy người lính la lớn, chạy sấn lên. Đoàn người ùa theo. Bây giờ có khoảng một trăm lính đi đầu, còn bà con đều đi sau. Bọn biệt kích ở mặt đường chĩa súng vào đoàn người. Vốn ghét bọn biệt kích từ lâu, anh em càng sôi sục:
- Đ.mẹ, thằng nào giỏi thử bắn coi?
Một số đông lính thuộc đại đội một còn đeo súng thấy thế liền lên đạn rốp rốp, chạy sổ tới. Họ chĩa súng vào bọn biệt kích, sẵn sàng nhả đạn. Bọn biệt kích cũng ghìm súng chĩa vào họ. Hai bên liếc nhìn nhau như kẻ địch. Ngón tay họ đều đặt lên cò súng, nín thở, căng thẳng. Giữa lúc ấy bỗng thím Ba ú vẹt đám đông đi tới. Thím bình tĩnh đến trước mặt bọn biệt kích, đưa bàn tay phẩy nhẹ một cái vào khoảng không, lấy giọng ôn tồn bày giải với cả đôi bên:
- Thôi mà.. Mấy cậu có oán thù gì với nhau đâu mà hầm hừ đòi bắn lẫn nhau! Mấy cậu bắn nhau thì cũng là người mình đổ máu, lợi ích gì.. Nghe lời bà con tụi tôi hạ súng xuống đi!..
Lính hai bên vẫn chưa chịu hạ súng. Thím Ba ú đưa tay nhẹ nhàng đè mũi súng của hai người lính chủ lực đứng bên cạnh. Và thím nói vợi bọn biệt kích:
- Mấy cậu à, bà con với anh em đây đâu có làm gì mấy cậu. Chẳng qua Mỹ dã mang liệng lính Việt Nam mình xuống biển, nên bà con anh em mới tranh đấu.. Mấy cậu nghĩ coi anh em đi lính bị thương nó nhắm không xà được nó vụt bỏ cho gió dập sóng dồi, cho cá rỉa quạ ăn thế đó.. Theo như mấy cậu bị vậy, mấy cậu chịu nổi không?
Bọn biệt kích nín thinh. Thím Ba lại nói tiếp:
- Xưa nay loại cầm thú nó còn biết thương nhau nữa là con người.. Tụi Mỹ nó khôngbằng con thú, nó đâu có thương gì anh em. Phải thương thì nó chẳng liệng xuống biển. Đây là bà con mới vớt được có một xác chớ còn bao nhiêu cậu lính giờ không biết bị sóng xy nơi nao, không chừng đã làm mồi cho cá mập cá mú hết rồi cũng nên..
Miệng nói, tay thím Ba khoát đè các mũi súng của lính chủ lực. Giọng nói khi cất cao, khi hạ thấp, khi ngọt ngào, khi tức giận của thím Ba làm cho các mũi súng đôi bên lần lượt chúc xuống đất hết. Tên chỉ huy cánh biệt kích lườm thím Ba:
- Thôi bà nội ơi, tụi tôi đâu có ngu. Dạy đời hoài!
Thím Ba vùng cười, xởi lởi:
- Tôi đờn bà dốt nát thấy sao nói vậy, chớ đâu dám dạy đời. Mấy cậu mới thông hiểu hơn tôi nhiều chớ!
Nói chưa dứt câu, thím đi sấn lên. Lính chủ lực và bà con ùa theo. Có cả bóng mẹ Sáu cầm khăn trầu đỏ chạy tới. Mớ tóc bạc của mẹ bời lên. Bọn biệt kích xuôi xị giạt qua. Thím Ba loáng thoáng nghe chúng bảo nhau:
- Con mẹ mậy này lanh quá, cái lưỡi nó nói dẻo quẹo!
Thím Ba giả điếc, lịch phịch đí tới. Bọn biệt kích tạt sang ngồi hai bên mé vườn, để mặc đoàn người kéo qua. Cái thây người lính được đặt trên chiếc cáng lót vải tre, do hai anh lính và hai anh lính và hai người đàn ông khiêng. Chú Tư Râu cũng ở trong tốp khiêng thây, mới được thay. Chú vừa đi vừa thở phía sau. Thây người lính giờ cũng nằm giống lúc anh ta mới được chú Tư vớt lên xuồng. Hai cánh tay anh vẫn co co như thế. Đôi mắt cũng vẫn he hé, duy có da mặt của anh thì xám hẳn lại và mớ tóc lật ngược ra sau của anh trông khô cứng, xửng lên, rắc một lớp bụi hoe hoe.
Tiếng phụ nữ bây giờ lại lanh lảnh thét lên:
- Đả đảo Mỹ - Diệm đổ anh em binh sĩ bị thương xuống biển1
Đoàn người hô "đả đảo" vang trời
- Mỹ - Diệm phải đền mạng cho anh em binh sĩ đã chết1
- Phải đền mạng! Phải đền mạng1
Anh em binh lính lại hô lẩy ra từng tiếng một:
- Chúng tôi không đi càn quét!
- Chúng tôi không đi càn quét!
Đoàn người kéo tới trước cái nhà nền đúc - tên thiếu tá Sằng ở. Anh em lính chủ lực nói với bọn lính gác đứng dọc theo các trụ đá hàng rào.
- Tụi bây vô kêu thiếu tá ra đây cho anh em cô bác nói chuyện coi!
Một tên lính đáp:
- Thiếu tá đi đánh trong hang chưa về!
- Đ.mẹ, nói láo hả? Tụi tao biết thiếu tá có nhà đi vô kêu không?
Mấy người lính chủ lực vừa xốc mũi súng tới. Bọn lính gác nói:
Thôi mà, anh em với nhau mà làm gì dữ vậy?
- Nếu muốn còn là anh em thì vô kêu thiếu tá ra, bằng không thì chẳng anh em gì hết!
Bọn lính nháy mắt vào phía trong nhà, xuống giọng nhỏ:
- ổng mới về, ở trong é.. Nhưng ổng dặn tụi tuôi nói là ông chưa về
- Cứ vô kêu đi!
Một tên lính khẽ bảo:
- Mấy cha "đả" vài phút súng.. chuo tụi tôi có cớ vô kêu, kẻo sau này ổng "động" tụi tôi!
Một người lính chủ lực cất mũi súng "ga-răng", bắn "bầm bầm" hai phát. Mấy tên lính gác vừa cười vừa chạy luồn vào trong. Anh em lính và bà con đứng đợi tên thiếu tá Sằng. Đợi khá lâu mà chẳng thấy tăm hơi hắn đâu cả. Anh em lính lại nổ thêm năm sáu phát súng tự động nữa. Lát sau, mới thấy tên thiếu tá ló đầu ra hành lang. Hắn cầm cây gậy quơ quơ, từ từ bước ra cổng. Hắn lấy dáng đi rất oai vệ, hai vai cứ nhích lên nhích xuống. Đến trước mặt anh em lính, hắn quắc mắt nhìn anh em, vẻ trấn áp.
Chị Hai Thép đứng giữa đám bà con nhóng lên thấy thế liền lập tức hô các khẩu hiệu
Tiếng thét của đoàn người lại vang lên. Tên thiếu tá hơi chùn lại, không dám giương mắt hăm dọa nữa. Bà con khiêng cái cáng đặt người lính chết, phăng phăng đi tới. Tên thiếu tá khoát khoát tay:
- Thôi khỏi, thôi khỏi. Tôi biết hết rồi, tôi có nghe nói
Thím Ba ú chống mạnh tay nơi sườn, cười lại:
- ờ, thì nhất định là ông phải biết chứ. Lẽ nào tụi Mỹ nó làm mà không bàn soạn với ông!
Tên Sằng hốt hoảng, chối lia:
- Không, không.. Tôi mới biết đây thôi, trước đó tôi chớ biết. Tụi Mỹ nó làm nó đâu cho ai hay.. Tôi, tôi cũng tức lắ.. tôi sẽ cùng tranh đấu với anh em cô bác, lính của tôi, tôi đau xót lắm chớ!..
Trong hàng lính, có tiếng xì xào to nhỏ. Một người lính vụt nói:
- Nhứt định vụ này ông có bàn tính với tụi Mỹ. Ông mà đau xót mẹ gì. Trước khi tụi Mỹ chở anh em đi vụt xuống biển thì ông đã bắn chết một người rồi.. Vậy nên anh em tụi tôi đây không thể đi với mấy ông nữa, nếu đi cũng có ngày thành thằng chỏng chết trôi. Tụi tôi cương quyết trả súng về nhà làm ăn..
- Không được!
- Tên Sằng kêu lên - Anh em đừng làm vậy. Tôi, tôi sẽ cùng anh em ký tên kiến nghị gởi lên trên.
- Ký thì ký, nhưng tụi tôi không ở!
- Trời ơi, anh em đừng mắc mớp mấy con mẹ đờn bà, chúng đang đánh Việt cộng, chúng ta sắp tiêu diệt tụi nó..
Anh em lính la át:
- Chúng tôi không cần đánh.. Ông muốn tiêu diệt thì cứ ở lại đây mà tiêu diệt.
Tên thiếu tá Sằng vụt đưa hai tay lên như rán sức trì níu lại cái gì vừa vuột khỏi:
- Tụi Việt cộng đang chết nghẹt trong hang. Tôi đã cho lấp kín miệng hang lại rồ..ồi!
5
Sau khi lựu đạn ngừng nổ một lúc, anh em trở ra một lúc, anh em trở ra hang. Họ phải mò mẫm lần vách đá mà đi, không còn thấy một rọi sáng nào từ ngoài hất vào miệng hang. Đạt kêu lên:
- ủa, sao tối đến vậy kìa!
Quyên và Ngạn cũng kêu:
- ờ, sao kỳ vậy?
Đạt vung cánh tay cản mọi người lại:
- Mấy anh đứng đây, khoan đi tới, để em ra dọ coi!
Mọi người dừng lại. Đạt thụp xuống, một tay cậu ta xách khẩu "các-bin" đã lên đạn, một tay quơ quơ, bò tới. Đạt bò rất chậm. Vẫn không thấy gì cả. mãi một lát sau, thình lình tay cậu ta quơ phải tầm tường bọn giặc ngăn trước mặt. Đạt sờ khắp mặt tường. Tay cậu ta rờ rờ, nhận ra hình thù những viên gạch và các chỗ kẽ còn bửa vừa xi măng ướt. Đạt chỏi tay rán sức xô thử bức tường nhưng bức tường không nhúc nhích. Cậu ta sợ quá, lẩm bẩm:
- Chết rồi, nó hàn miệng hang lại rồi!
Cậu vội vàng đi trở vào kêu:
- Mấy anh ơi!
- Sao đó?
- Tụi nó lấp kín miệng hang rồi!
- Cái gì, lấp miệng hang à?
- Dạ, nó lấp bằng gạch, em rờ thấy.
Anh Hai Thép xô tới:
- Sao, nó lấp miệng hang hả. Cha chả, lúc nãy nó liệng lựu đạn để lấp. Vậy thì cũng mới thôi, đâu mình ra coi. Có gì thì phải phá sớm, để lâu sẽ khó khăn.
Ngạn bảo:
- Anh ở đây, để tụi tôi ra!
Ngạn cùng Quyên, anh Ba Rèn theo Đạt mò ra. Tới nơi, mọi người sờ soạng thấy quả có bức tường đúng như lời Đạt nói. Anh Ba Rèn bàn:
- Phải phá liền mới đặng, để lâu xi măng nó cứng lại thì chết cha!
- ờ, nếu để vậy thiếu không khí thở, chết ngột oan lắm. Nhưng tôi thấy không cần phá hết có lẽ mình moi gạch để trống vài lỗ thôi. Như vậy rất có lợi mình vừa có công sự che chở vừa có lỗ châu mai chìa súng bắn ra!
- Hay lắm!
Đạt hớn hở:
- Để em moi cho!
Cậu ta nói xong, bắt đầu dùng ngón tay khượi xi-măng, rồi rút từng viên gạch. Xi-măng còn ướt nên gạch rút ra không khó mấy. Ngạn rờ coi chỗ Đạt đang moi trước Ngạn, nên lát sau cậu ta đã rút được viên gạch ngoài cùng. ánh sáng liền hắt vô, Đạt thì thào:
- Tới rồi!
Giữa lúc ấy bỗng một loạt súng nổ vang. Đạt kêu "ới" một tiếng. Người cậu ta bỗng từ từ trụt xuống, đổ vào chân Ngạn. Ngạn rụt tay lại, cúi xuống ôm xốc lấy Đạt. Tay anh rờ vuốt nhằm mặt Đạt đầm đìa những máu. Anh gọi:
- Đạt, Đạt!
Nhưng Đạt không đáp. Ngạn thọc tay vào ngực áo Đạn. Tim cậu ta không còn đập nữa. Ngạn đau đớn nín lặng. Bọn địch vẫn liên tiếp bắn vào cái lỗ của Đạt vừa moi. Giữa tiếng súng chát chúa ấy. Ngạn vụt nghe văng vẳng câu Đạt nói với anh hôm trước:
- "Em khoái ăn gỏi đu đủ trộn tôm xé lắm. Lần nào về, ngoại em cũng làm cho em ăn "đã" thôi!"
.. Quyên đứng nép bên cái lỗ, lặng người đi vì đau đớn. Cô quờ kiếm khẩu "các-bin" của Đạt cầm lên, coi lại ổ đạn. Không nói một lời, cô nín thở đứng im. Đợi loạt súng địch vừa bắn dứt, cô bước nhích qua, ghé mắt nhìn vào lỗ. Quyên nhìn thấy rõ một thằng giặc đang còn nhấc khẩu tôm-xông đâm băng. Quyên lập tức chĩa mũi súng vào lỗ gạch, bóp cò. Phát súng nổ "đoàng". Một tiếng kêu "trời ơi" vẳng lên, từ bên ngoài, Quyên thu ngay súng về đứng nép nguyên lại chỗ cũ. Không nghe một loạt tôm-xông nào bắn vào nữa, cô tự nhủ: "Thằng đó chết rồi. Chắc sẽ có thằng khác tới thay". Quả vậy, lát sau nổi lên tiếng "ga-răng" nhịp "hầm hầm". Gạch bể bắn tung tóe. Quyên nghĩ bụng: "Đợi nó bắn hết lam đạn, mình nổ liền, nhứt định là nó phải chết!". Quyên đếm từng phát "ga-răng" một. đếm tới phát thứ tám Quyên lách sang. Y như lúc nãy, cô chĩa súng qua lỗ gạch bắn liền một phát. Tiếng bọn giặc ở ngoài vùng la lên, láo nháo. Sau đó Quyên không nghe chi hết. Cả tiếng súng cũng nín bặt.
Anh Ba Rèn nói:
- út Quyên giỏi lắm. Cái thằng bắn tự động đó chắc chết rồi!
Quyên không đáp, lẳng lặng khoác đai súng lên vai cúi xuốngẩy nhẹ tay Ngạn ra, giành ôm lấy xác Đạn nóng hôi hổi, ấp vào lòng mình, vuốt tóc, vuốt máu. Rồi cô bồng Đạt từ từ đứng lên, đi vào hang trong.
Anh Ba Rèn sửng sốt nói với Ngạn:
- Nè, con út Quyên bữa nay bắn hai phát súng kỳ quá! Tôi không ngờ, thiệt không ngờ..
- Nhắm có chết thằng nào không? - Ngạn hỏi
- Chết chứ, hai tiếng đó chắc chắn chết. Bắn kiểu đó thì thằng nào mà tránh khỏi
Ngạn thở ra:
- Mình chủ quan quá, không dè tụi nó còn nấp ở ngoài!
- ừ, bậy quá!
- Bây giờ tính sao anh?
- Thôi, đừng nói nữa, moi một lỗ đủ rồi.. Không chết ngột đâu mà sợ. Kệ mẹ nó, nó lấp như vậy cũng không ăn thua gì đâu!
- Ngặt mình không lọt ra ngoài đây chớ?
- Để êm êm rút vô vườn rồi mình phá, lo gì. Phá vừa một người chui lọt thôi!
- ừ.. Thôi vô trong đi!
Hai người lần vào trong hang. Anh em đang ngồi xúm quanh xác Đạt vừa được đặt nằm trên tấm vải nhựa trải đất. Năm Nhớ quỳ một gối, cầm cây nến cháy. Cạnh đó, thằng út quàng tay ôm cổ con bé Thúy đứng ngó. Anh Hai Thép xếp bằng sát bên, mắt mở trân trân nhìn bộ mặt đã lau sạch máu của Đạt. Ngay giữa trán cậu ta in rõ ba lỗ đạn tôm-xông bằng đầu ngón tay, dụm vào nhau, nhòe máu. Quyên nãy giờ vẫn ngồi bết dưới đất tay luôn vuốt đôi chân đen mốc của Đạt.
Anh Hai Thép cắn môi nói:
- Chiến đấu mà chết là chuyện thường, không nói chi. Ngặt sau đây gặp bà ngoại nó mới khổ. Biết nói sao cho ngoại nó nguôi ngoai. Bà cụ chỉ có một mình nó bà cưng nó lắm!
Chú Tư Nghiệp chắc lưỡi:
- Tiếc quá. Tui chưa thấy chú em nào bảnh như vậy? Từ bữa vô trong hang tới nay, tự tay chú em đó bắn chết ngó thấy tận mắt là sáu thằng. Cái hôm khát nước dữ, chú em cũng cứ giỡn hoài, không hé miệng than tiếng nào..
Anh Hai Thép nói nho nhỏ:
- Xương cốt của ba nó giờ cũng ở trong hang đây. Cả cha lẫn con đều hy sinh..
Chú Tư Nghiệp nói giọng nghiêm trang:
- Để.. để tối nay tôi tụng một bài kinh cho linh hồn chú em được thung thăng như thuở chú em còn sống.
- Không cần - anh Ba Rèn nói - Nên lựa một bộ quần áo khá nhứt bận cho chú, rồi chọn tấm "ni-lông" nào rộng và lành lặn nhứt để gói ghép chú là được rồi!
Quyên nghẹn ngào nói gấp:
- Để em.. để em lo!
Anh Hai Thép trỏ vào vách hang:
- Cái ba-lô Đạt để ở kia, út Quyên soạn coi có bộ nào lành lặn đem bận cho chú
Năm Nhớ cầm cây nến đứng lên
- Thôi mấy anh cứ lo ngoài miệng hang, để tụi em lo gói ghém cho Đạt
Quyên cũng đứng lên theo. Hai chị em đi vào vách hang. Năm Nhớ soi nến cho Quyên mò kiếm ba lô của Đạt. Quyên lôi từ trong hốc vách đá ra một cái ba lô nhỏ như cái túi dết may bằng tơ càng nhuộm màu già. Quyên sờ sờ làn tơ thô sợi, rưng rưng nghĩ bụng: "Chắc của ngoại nó dệt" cô mở nắp ba lô, lôi ra một cái gói vuông vức bọc vải nhựa rất kỹ. Trong gói vải nhựa ấy ngoài bộ quân phục vải bồng bột xám tro còn có một bộ bà ba đen đã vá và một quyển sổ nhỏ. Quyên lật quyển sổ. Trang đầu dán bức ảnh Hồ Chủ Tịch, bên dưới có dòng chữ viết nắn nót: "Bác Hồ"
Quyên lấy bộ quân phục rồi gói cái gói lại, đút trả vào ba-lô. Bỗng tay Quyên chạm phải vật gì cồm cộm dưới đáy ba-lô. Cô lôi vật ấy lên. Hóa ra là một cái nạng giàn thun bằng gỗ cẩm lai đen mun. Quyên cầm cái nạng giàn thun lên coi rồi thơ thẩn nhét vào
Hai cô rời hốc đá đi trở lại bên xác Đạt. Mọi người đã kéo ra miệng hang. Chỉ còn lại thằng út ôm con Thúy lặng lẽ đứng bên. Quyên bảo chúng:
- Thôi mấy đứa vô trong chỗ anh Thẩm với anh Bé chơi đi! - thằng út "dạ". Con Thúy nói nhõng nhẻo:
-Anh út cõng em..
Thằng út vốn cưng con Thúy nên nó khom lưng cho con Thúy leo lên, cõng xốc đi. Con mực ngoe nguẩy đuôi chạy theo hai đứa. Năm Nhớ trao cây nến cho Quyên nói:
- Để tao đi lấy cái khắn rấp nước lau cho Đạt rồi hẵng bận quần áo
Quyên gật đầu. Trong lúc Năm Nhớ chạy đi, Quyên cầm cây nến cúi xuống. Cô đăm đăm nhìn ba vết đạn ở giữa trán Đạt, dịu dàng đặt ngón tay lên đó. Nghĩ tới hai phát súng bắn trả ban nẫy lòng cô nặng nề đôi chút. Rõ ràng Quyên nghe tụi nó kêu "trời ơi!". Đúng là cái thằng đã giết Đạt. Nghĩ lại, Quyên mới thấy nguy hiểm. Nếu chậm một chút rất có thể cô cũng bị những viên đạn 12 ly xuyên thẳng trán hệt như Đạt và rồi cô cũng nằm đây, đợi mọi người gói lại.
Nhưng đó là bây giờ cô mới nghĩ ra, chớ lúc nãy cô chẳng nghĩ thế. Lúc nãy trước mắt cô chỉ là Đạt ngã xuống, là chị Sứ bị treo lủng lẳng, là cái lu mái chứa đầy xương trắng. Và không có gì len vào ngoài ý muốn trả thù đã giục cô vồ lấy khẩu "các-bin", bắn ra. Lúc đó cô chỉ có mỗi ý nghĩ là mình bắn trúng, phải trúng.
.. Năm Nhớ trở lại với cái khăn sọc đen đã rấp nước. Quyên cùng Năm Nhớ tháo cúc áo Đạt, cởi hết quần áo Đạt ra. Không chút e ngại, hai cô lau khắp người Đạt, cẩn thận và trìu mến như lau tắm cho đứa em trai ruột của mình. Bàn tay của hai cô gái dịu dàng vuốt sạch máu, bụi và mồ hôi suốt bảy ngày nay không ngừng tuôn chảy trên người Đạt. Các ngón tay của hai cô gái lúc run rẩy lặng đi trên tấm thân nâu rám ấy.
Hai cô bắt đầu mặc cho Đạt bộ quân phục màu tro giản dị, bộ quần áo mà khi còn sống cậu ta hằng ưa thích. Quyên vuốt các nếp nhăn trên tay áo, cổ áo Đạt.
Lúc hai cô sắp sửa bọc Đạt vào vải thì Ngạn từ ngoài miệng hang đi vô. Anh bước tới ôm lấy xác Đạt, nhìn Đạt một lúc.. Rồi chầm chậm quỳ xuống nhẹ đặt cậu lên tấm vải nhựa màu hồng nhạt trong suốt.
Quyên và Năm Nhớ cúi bế Đạt lên. Quyên và Năm Nhớ đi theo anh.. Tới một phiến đá phẳng mặt, Ngạn đặt Đạt nằm lên đó. Anh đứng im một lúc, đoạn ngước cặp mắt đỏ hoe bảo Quyên và Năm Nhớ:
- Thôi đi ra hangđi!
Ba người ra tới ngoài thì anh em hãy còn hì hục, chọc phá miệng hang. Ai cũng nhất trí nên phá vừa để một người chui lọt thôi.
Xi măng còn ướt, nên anh em tháo gạch ra cũng dễ. Lần này, kinh nghiệm hơn, anh em vừa phá lớp gạch chót thì dừng lại, nhóng nghe. Anh Ba R2n cởi áo đưa Ngạn cầm giùm:
- Thôi anh em xê ra, không cần mai nữa, để tôi đạp một cái là đổ hết..
- Coi chừng tụi nó rình như lúc nẫy nữa đó!
- Không sao!
Anh Ba Rèn khom lưng chui vào lỗ. Anh mầy mò trong đó một chốc, rồi bất thình lình anh chỏi cẳng đạp mạnh một cái. Lớp tường vừa đổ nhào, anh bò thoắt vào hang, xô mọi người nép qua bên. Quản nhiên khi mọi người vừa nép vào các hốc đá thì bọn lính bắn xối vào chỗ tường vừa bị phá trống. Anh Ba Rèn cười ha hả. Bọn địch bắn một lúc thì ngừng không bắn nữa. Anh Ba Rèn đắc chí:
- Anh em thấy chưa, rút cuộc thì gà ai nấy bồng ăn thua mẹ gí
Anh Hai Thép nói:
- Hồi nãy mình chủ quan thành ra chú Đạt mới hy sinh chứ thiệt ra nó lấp hang kiểu này càng hại cho nó.
- Bây giờ tổ trực cứ ngồi đây rình, hễ thằng nào chun vô là nện, không thèm bắn nữa!
- Hay lắm, cũng sắp hết đạn rồi!
Cái giọng khàn khàn của chú Tư Nghiệp cất lên:
- Nói không phải mê tín chớ kéo ngay ra thì trời phật có độ mình đó mấy cha. Không độ sao lúc hết nước, cháy khô cổ thì ổng mưa cho một trận. Còn bây giờ hết đạn, ổng lại xui khiến tụi giặc đắp công sự giùm mình..
Anh em nghe chú Tư nói đều phì cười. Anh Hai Thép thấy anh em có mặt ở đây gần đủ nên nói:
- Anh em mình phải cảnh giác hơn. Kiểm lại bẩy bữa nay tụi nó đã dở đủ trò ác hiểm, nào là tập trung tấn công bằng lựu đạn, nào là bỏ thuốc độc xuống suối, rồi xông khói ớt, chiếu phim tác động, lấp hang.. Sắp tới coi chừng nó dở thêm âm mưu mới, độc ác hơn. Rất có thể nó xịt chất đột hóa học vô hang, hoặc đánh thuốc nổ hoặc gì thì đó..
Anh dừng một giây, rồi nói tiếp:
- Nói để đề phòng chớ xịt chất độc hóa học thì mình rút vô sâu không dễ gì nó xịt tới, còn đánh chất nổ thì đại khái như liệng một ngàn trái MK3 thôi. Tới bữa nay tính ra đã bảy đến tám ngày rồi, mình hy sinh hai, bị thương hai, tụi nó chết và bị thương cho ít gì cũng cỡ một trăm.
Mình cũng mệt nhưng tinh thần đều vững, tụi nó thối chí lắm rồi. Bây giờ chính là lúc mình phải kiên trì. Giỏi lắm nó rán thêm năm hôm nữa rồi cũng phải bỏ cuộc. Tình hình đấu tranh trong cả tỉnh bây giờ không cho phép nó giam quân ở một nơi nào quá nửa tháng đâu, nhứt là với số quân nay đã lên tới một ngàn rưỡi. Hồi đêm tôi nghe đài tụi nó đưa tin mình đang đánh các bót miệt Thứ.
Chú Tư gật đầu:
-Hay quá, nhứt định mấy chỗ khác mình đâu để nó yên!
Quyên có ý kiến:
- Báo cáo các anh số gạo dự trữ vậy là hết rồi. Chỉ còn hai chục lít Cà Mỵ đem vô bữa nọ. Mấy em đề nghị từ giờ trở đi mỗi người chỉ ăn một lon trong ngày.
- Hai chục lít.. Cho mười chín người - Anh Thép lẩm bẩm: - Nếu ăn một lon thì chịu được ba ngày. Gay đấy, nhưng thôi cứ tạm thời như thế cái đã.. để cho tăng cường đi bẻ dừa, bẻ mít..
Ngạn nói:
- Bẻ dừa thì may ra, chớ bẻ mít không được. Hôm nọ tụi tôi cũng tính vô kiếm mít chín, nhưng vô chưa tới đã đụng. Tụi nó đóng dày nghẹt, không vô được!
Anh Hai Thép suy nghĩ rồi bảo:
- Chuyện đó để rồi coi coi.. nhứt định phải tìm cách lỏn ra hái mít ăn chứ chẳng lẽ khoanh tay chịu chết đói?
Nói tới đây, anh Hai Thép hít hít mũi, cười:
- Không biết mấy ông có nghe mùi mít chín bay vô không, chớ tôi nghe tôi thèm quá!
Anh Ba Rèn thụi anh Hai Thép:
- Thôi đi ông, làm gì mà mùi mít bay vô tới đây?
Anh Hai Thép cười cười, hỏi thêm anh em:
- Còn có vụ gì nữa không.. Anh em bị thương có gì đáng ngại không?
Năm Nhớ đáp:
- Vết thương của em Bé và anh Thẩm có đỡ dần
Nhưng em khổ quá..
Ngạn lo lắng hỏi:
- Sao, cái gì khổ. Năm Nhớ?
- Anh Thẩm ảnh cứ than vãn là chưa chi đã bị thương làm cực anh em. Mỗi lần tụi nó tấn công, ảnh cứ nhấp nhỏm níu kéo đòi em phải dìu ảnh ra ngoài này để ảnh chiến đấu. Em không chịu, sau đó ảnh giận em cả buổi..
Ngạn cười:
- Tưởng gì chứ chuyện đó không sao.. Với vết thương ấy, kể ra Thẩm có thể chiến đấu được. Nhưng chưa cần, chúng ta chưa hết người. Để tôi nói với Thẩm.
Nói tới đây, chợt Ngạn ngước nhìn Quyên hỏi:
- à, còn vợ chồng Ba Phi nó ra sao?
- Em vẫn tới đó phát gạo rang và nước. Lần nào mụ vợ cũng khóc. Hôm qua, lúc em vào, mụ ta vùng khóc rống lên rồi sụp xuống dập dập đầu dưới chân em, nói hổn ha hổn hển: - "Đừng giết vợ chồng tôi, tôi xin ăn năn, từ nay tôi không dám làm điều gì quấy nữa..". Em mới bảo: "thôi đừng có khóc.."
Mụ ta hứa hẹn thề bồi là sẽ ăn năn hối cải, mụ nói: - "Vợ chồng tôi mà còn làm quấy nữa thì vợ chồng tôi chết không phải động tay..". Rồi mụta kêu xin được mở trói, em không mở..
Anh Hai Thép nói:
- Chưa mở trói được đâu.. thôi nghe, bây giờ còn có gì mình tiếp tục giải quyết sau. Tổ nào gác hang ở lại gác, còn anh em vô nghỉ ngơi lấy sức..
Anh Ba Rèn dõng dạc hô:
- Tổ Ba Rèn ở lại nghe!
Lúc Ngạn sắp đi vào hang, bỗng anh Ba Rèn bước tới, chụp tay anh đặt lên cây dầu vuông cạnh anh đang cầm:
- Chú coi cây này ngon không! Thằng nào cả gan thò đầu vô, tôi xáng cho một cây là chết tốt!
Ngạn cầm cây dầu vuông lên nâng nâng trong tay, gật gù:
- Cây này cầm nặng tay, đập rất sướng. Ông kiếm được ở đâu hay quá!
Ba Rèn đặc ý cười khin khít, không đáp.
6
Bữa nay đã hai mươi tháng chạp ta rồi.. còn có chục ngày nữa là Tết..
Tên thiếu tá Sằng nằm ngửa trên chiếc võng đan bằng dây dù, miệng lẩm nhẩm như thế. Chiều đã xuống. Sau một ngày tranh đấu, cả Hòn Đất như hãy còn vang tiếng thét. Trên mặt đường, bụi cũng chưa lắng xuống hết. Đó đây vẳng lên tiếng trâu nghé ngọ gọi bầy, tiếng súng nổ lẻ tẻ "bốc chát" và tiếng sóng biển đồng bọn ầm ĩ!
Tên Sằng nằm giữa buổi chiều ấy, thân thể rã rời. Hắn cảm thấy không yên tâm. Hồi xế hắn buộc lòng phải ký chung vào lá đơn của những người lính đòi mở cuộc điều tra về số phận của ngót năm mưới đồng đội bị thương của họ. Sau khi đặt bút ký rồi hắn thấy nản lòng và mất nhiều tin tưởng. Cái hang Hòn có vỏn vẹn mười chín người cố thủ này chiều nay đối với hắn càng trở nên kiên cố, hóc hiểm. Nằm đây, hắn nhìn thấy đỉnh Hòn xanh ri, trơ trơ, sừng sững ra đó một cách đáng ngán. Ban trưa, giữa lúc hắn còn kỳ kèo chưa chịu ký vào lá đơn thì tên trung úy Tự trở về báo là Việt cộng đã moi được hang. Hắn bối rối, mới hạ bút ký. Chớ theo lẽ thì hắn cũng chưa chịu xuống nước đến thế. Hôm nay hắn không có được mối hy vọng như mấy hôm mới đến. Sự cả tin đánh diệt được hang Hòn của hắn cứ theo từng ngày mà sụt thấp xuống mãi. Đây là lần đầu tiên sau sáu năm, một tên thiếu tá chí cốt như hắn lại gặp trở lực lớn như vậy.
Chiều nay hắn chán lắm rồi. Hắn không muốn thúc lính xông vô hang nữa. Hắn chẳng thiết cái vùng đất Hòn nhiều cây trái này nữa. Cả bãi Tre mà buổi đầu đặt chân đến hắn đã tắc lưỡi khen đẹp và dự định trong thời gian ở đây hắn phải tắm mỗi ngày ít nhất một lần. Bây giờ bãi Tre với hắn chẳng có gì là đẹp đẽ nữa.
Đúng vào lúc hắn nằm chán ngán nhìn cái đỉnh Hòn sừng sững như thách thức, thì ở phía sau nhà có tiếng tên giữ máy bộ đàm người Bắc léo nhéo:
- A lô.. vâng, vâng. Anh dũng đây!.. Vâng, thiếu tá.. à đợi một tí nhé..
Tên Sằng nhỏm ngay dậy. Hắn hỏi tên điện báo viên người Bắc vừa ló đầu ra:
- ở đâu kêu tôi đó?
- Thưa thiếu tá, Vẻ vang gọi
Thiếu tá Sằng liền hất võng, chạy vào. Hắn tròng vội máy vào tai, cầm lấy ống nói:
- A lô, Vẻ vang đâu, Vẻ vang đâu?.. A.. Vẻ vang đó à?.. Phải.. Phải.. chính tôi đây..- Giọng tên Sằng vụt trở nên cóm róm: - Dạ, dạ..dạ tôi nghe.. Dạ, vừa rồi tôi đã báo cáo vụ đó.. Dạ không yên, khó khăn lắm. - Đến đây vẻ mặt tên Sằng vụt sa sầm rồi lại bỗng nhiên hớn hở hẳn lên: - Dạ, dạ.. trước sáng.. dạ được, dạ để tôi cho đánh.. dạ, dạ sẽ cho đánh ngay..
Tên Sằng buông máy, mặt hớn hở. Hắn gỡ ống nghe ở tai ra, đứng dậy. Tên điện báo viên tò mò hỏi:
- Thưa thiếu tá. Vẻ vang kêu đánh nữa đấy à?
Tên Sằng vui vẻ vung nắm tay:
- Chớ sao, phải đánh tới nữa chớ sao!
Bỗng hắn đặt ngón tay lên môi, ghé sát vào tai tên điện báo viên, hạ giọng:
- Nè, nói cho mình anh biết thôi.. có lịnh rút rồi!
Tên điện báo viên gật đầu
Tên Sằng quay ra ngoài. Hắn bảo một tên thiếu úy:
- Anh báo cho các ban chỉ huy tiểu đoàn, đại đội cử người về họp ngay bây giờ?
Tên thiếu úy đến một cái bàn kê gần đấy, quay điện thoại, gọi hết cánh quân này đến cánh quân khác, xuống lệnh triệu tập.
Xong rồi, y đi đốt hai cây đèn khí đã đặt lên cái bàn ở giữa nhà. Tên thiếu tá Sằng trở lại ngồi võng phì phèo điếu thuốc. Trời đã nhá nhem. Bấy giờ trước mắt hắn, đỉnh Hòn Đất mỗi lúc một sẫm đậm. Và đến khi bóng đêm đã thực sự đổ xuống, đỉnh Hòn vẫn không biến đi mà cứ hiện sờ sờ ra đó, khum khum như một chiếc mai rùa đen in nổi giữa nền trời đầu hôm nhuộm màu lam biếc.
Hồi sau, bọn sĩ quan lục tục kéo đến. Tên thiếu tá Sằng nhổm dậy:
- Tụi lính ra sao rồi, mấy anh?
- Cánh tôi bình thường!
- ở đại đội tôi tụi nó vẫn dục dặc, chửi rủa tới tối!
- Mẹ, lính ở cánh mấy anh làm kiểu đó lây qua tới bên tôi. Tụi nó cứ bàn tán hoài!
- Thôi được! - Tên Sằng cắt ngang, và đứng hẳn dậy.
Hắn đến ngồi ở cái ghế đặt đầu bàn, gõ ngón tay lóc cóc lên mặt bàn rồi báo cho tụi sĩ quan biết cái tin rút quân. Thằng nào nghe xong cũng cố nén nỗi mừng, cố nén để khỏi thở phào ra một cái. Tên Sằng nói thêm, giọng nhỏ lại:
- Lịnh trên biểu chậm gì thì trưa mai cũng phải về tới quận lỵ Tri Tôn. Cho nên chúng ra phải rút khỏi đây trước sáu giờ sáng. Mà phải rút thiệt êm. Nhớ giữ kín, đừng cho tụi lính biết trước, nghe không?
Tên Sằng dừng lại, búng khẩy tàn thuốc:
- Đó là việc chánh, còn một việc nữa rất quan trọng là trước khi rút, đêm nay chúng ra sẽ phá hang..
Bọn sĩ quan nghe nói thế liếc mắt ngó nhau. Tên Sằng biết chúng lo lắng, nên giảng giải:
- Bộ mấy anh tưởng phá banh cả hang hả? Không phải. Muốn phá banh cái hang đó phải đợi có bom nguyên tử mới phá nổi. Chúng ta hiện còn thuốc nổ hôm nọ đem xuống mà chưa xài. Đêm nay sẽ xài hết. Anh Tự đâu?
- Có tôi
- Đêm nay anh lo điều động đem mấy bọc thuốc nổ đó vô đánh hang. Còn thiếu úy Sanh, anh cho sửa soạn loa phóng thanh. Hễ vừa đánh miệng hang là anh loan tin khắp xóm cho dân chúng họ biết.
- Thưa thiếu tá, bất kỳ kết quả ra sao, chúng ta cũng loan tin?
Tên Sằng nói:
- Lẽ nào với bây nhiêu thuốc nổ đó mà không đem lại kết quả gì hay sao?
Tên trung úy công binh là Tự đáp:
- Miệng hang thì có thể phá sập. Nhưng Việt cộng nó không lắm, tôi e nó rút vô sâu như mấy lần trước thì cũng không ăn thua!
Tên Sằng chặt bàn tay xuống mặt bàn:
- Cứ đánh cho tôi!
Và hắn đứng bật dậy:
- Chúng ta cần có một tiếng vang trước khi rút khỏi chỗ này!
- Thiếu tá nói đúng, cần phải cho tụi nó biết là không phải mình yếu!
Một số tên trong đám sĩ quan ngụy hưởng ứng theo, đầy vẻ a dua. Chúng đứng dậy nói thêm vài câu chuyện với tên thiếu tá rồi lộc xộc kéo nhau ra khỏi ngôi nhà nền đúc.
Tên thiếu úy Tự và tên thiếu úy Sanh hãy còn ở lại. Tên Tự hỏi:
- Thưa thiếu tá, chừng nào khởi sự?
- Tùy anh, khởi sự chừng nào cũng được. Nhưng.. có lẽ để khuya khuya, thừa lúc tụi nó mệt mỏi buồn ngủ mà đánh thì hay hơn!
- Tôi cũng tính vậy.. Nhưng phải cho chuyển thuốc vô sớm!
- ờ phải, anh cho chuyển vô ngay bây giờ là vừa đừng đánh sớm mà cũng đừng để trễ. Đúng năm giờ sáng là rút quân anh tính sao thì tính. Có lẽ nên đánh lối mười hai giờ. Giấc đó tụi Việt cộng gác hang thế nào cũng có thằng ngủ gục..
Tên thiếu úy nói:
- Vậy đúng mười hai giờ tôi sẽ đánh!
Thiếu tá Sằng "ừ" rồi day sang tên thiếu úy Sanh dặn:
- Còn anh, giác đó đừng có ngủ quên nghe!
- Dạ tôi thức chứ đâu ngủ được. Loa phóng thanh tôi sẽ phát giữa đêm khuya. Tụi dân chúng chắc sẽ rụng rời khi nghe tin hang Hòn bị phá hủy. Gẫm ra cái phim chiếu đêm qua cũng không đến nỗi vô ích đâu thiếu tá!
Tên Sằng nhếch mép cười:
- Cái phim của anh thì ăn thua mẹ gì mà nhắc!
- Thưa thiếu tá, cái phim đó và những tiếng nổ dữ dội đêm nay khắn với nhau lắm chớ!
Tên Sằng cười lạt:
- Anh còn "nai" lắm. Đầu tôi đã mọc hai thứ tóc, tôi hiểu Việt cộng, hiểu dân chúng hơn anh nhiều mà. Cái giống họ khó bề lung lạc lắc. Anh tưởng khuya nay anh phát loa nói diệt hết tụi nó rồi dân chúng họ tin liền sao. Đâu có dễ vậy?.. Tôi đã nói, trước khi rút khỏi đây, chúng ta cần có một tiếng vang. Vậy thôi!
Tên thiếu úy Sanh còn rán hỏi:
- Một tiếng vang vô nghĩa sao?
- Sao lại vô nghĩa, anh thiệt là ngu..
Tên thiếu tá nói thế, và liền lúc đó hắn nghĩ ngay tới những điều mà hắn sắp sẵn để báo cáo lên cấp trên. Nhưng hắn chỉ chợt nghĩ tới thôi chớ không nói ra.
.. Tên trung úy Tự đã đi làm nhiệm vụ
Y không gặp một trở ngại nào trong việc điều động bọn lính vác những bọc thuốc nổ vào miệng hang. May mà những tên lính thuộc đơn vị của y chưa bị cơn lốc đấu tranh chống đối ban sáng cuốn theo. Chỉ có một sự rủi ro xảy ra sau cùng là lúc chúng vào sát miệng hang thì tên lính vác bộc phá bị vấp té đánh phịch một cái.
Do đó, tổ anh em gác ở miệng hang nghe thấy. Tổ này gồm có Trọng và hai anh du kích. Một anh tên Lến, còn anh kia tức là Hai Cá Trèn. Cả ba đều giật mình. Trọng nói:
- Cái gì giống như ai té?
- ừ, coi chừng tụi nó mò vô nghen!
Trọng chắn bàn tay, bấm đèn. Tại lỗ miệng hang vẫn như thường. Ngoài những miếng lựu đạn MK3 rải rác lúc nhúc như cứt trùng, tịnh không có gì khác. Trọng tắt đèn, Lến thì thào:
- Hồi nãy tổ của Tới gác thì êm rơ, có gì đâu?
Trọng bảo:
- Hồi nãy khác, bây giờ khác. Có khi xê xích một phút là thay đổi rồi, phải thủ kỹ mới được. Rõ ràng tôi nghe như có thằng nào vấp té!
Nói xong, Trọng nhích họng súng tôm-xông tới sát lỗ hang dặn:
- Băng đạn tôi chỉ còn chẵn mười viên. Hễ có chuyện tôi bắn vừa dứt thì mấy cha chém liền nghe. Thằng nào chun vô, cứ bình tĩnh bửa đầu nó cho tôi!
Hai anh du kích lăm lăm mã tấu trong tay:
- ừ, anh vắn hết đạn rồi cứ nánh qua một bên, để tụi tôi!
Ba người bàn với nhau như thế và sẵn sàng chờ đợi. Họ rún chân, đứng dợm trong bóng tối.
Mấy phút trôi qua, họ vẫn không thấy gì. Rồi cả mấy mươi phút sau, cũng không có gì xảy đến. Đứng riết mỏi chân họ ngồi xuống. Có tới một tiếng đồng hồ mà mọi sự vẫn bình yên. Hai Cá Trẽ nói:
- Hồi nãy chắc là chồn chạy!
- Chồn đâu ở đây. - Trọng thắc mắc
Hai Cá Trẽn cười, vẻ thông thạo:
- ở trên Hòn thiếu gì.. Anh ít ở đây nên không biết chứ các thứ chồn, khỉ, rắn hổ mây, không thiếu thứ chi.. Có cả con vích nữa, con vích lớn thì bằng cái nia, con nhỏ nhứt cũng cỡ thúng giạ.
- Chừng tan trận này về tụi mình kiếm vài con rắn hổ đất nấu cháo ăn chơi.
- Cha, thứ hổ đất bây giờ có hơi "khiếm khuyết". Đẻ ra con nào đều bị dân kiếm bắt sạch trơn. Anh ăn trăn không, con trăn lạt thua hổ đất xa, nhưng nếu mình không ham lột da bán lấy tiền, cứ để nguyên da nấu ca-ri thì ăn cũng đỡ ngặt lắm..
Hai Cá Trẽn bắt đầu nói thao thao. Anh ta thấy Trọng ưa chuyện, nên càng cao hứng:
- Anh biết con vích nó đẻ ra làm sao không?
Chẳng đợi Trọng đáp, Hai Cá Trèn nói tiếp: - Thứ đó đẻ ngộ lắm. Tháng nắng đi kiếm ăn ba đồng bảy đỗi ngoài biển, lúc trời gầm gừ muốn sa mưa nó mới bò về Hòn lo đẻ. Nó đẻ trứng bự bằng trái đu đủ, bươi đất thành hố, ủi lăn trứng xuống hố rồi lăn kềnh ra dùng mai nện láng lức. Xong rồi nó lại bỏ Hòn ra biển. Hễ trời mưa xuống là nở trứng nứt đất, vích con đội đất ngoi lên, lóp ngóp bò ra biển tự kiếm ăn..
- Ngộ quá ha! - Trọng kêu lên
Hai Cá Trèn gật đầu, thản nhiên:
- Còn nhiều thứ ngộ nữa chớ.. Giả tỷ như con nhím, ở Hòn đây cũng nhiều. Cái thứ này kỳ cục nhứt trên đời, nó vừa giống đực vừa giống cái..
- Sao?
- Nghĩa là nó tự ăn ngủ lấy, rồi có chứa, rồi đẻ..
- Cha, cha!
Hai Cá Trèn bảo:
-Hòn này có nhiều con thú quý lắm. Tôi tính tới chừng giải phóng miền Nam rồi tôi rủ người bạn ăn ý, lâu lâu đi săn bắt các loài thú trên Hòn cũng đủ hốt bạc!
Anh Lết hỏi xeo:
- Tới chừng đó rủ tôi đi không?
- Không, mày hay xạo sự quá, đi theo hư hết. Người săn thú phải có tánh ý, phải đàng hoàng..
Anh Lết cười ré, bảo Trọng:
- Anh ít về đây nên anh không biết danh thằng Hai Cá Trèn. Nó thấy anh lạ, nó đẩy dốc anh đó.. Chớ hồi cha mẹ tôi sanh tôi ra ở Hòn Đất tời giờ tôi có thấy nó bắt được một con nhen con sóc nào, chớ chưa nói tới chồn, khỉ, rùa, rắn chi cho mệt..
Hai Cá Trèn nín im một lát, đoạn nói:
- Ê Lến, vậy hôm rằm tháng bảy mày hay thằng nào vác mặt tới nhà tao ăn cháo rắn hổ đó?
- Con rắn đó thằng út đập cho mầy, mà mày dám nói là mày đào bắt, dóc quá, bữa đó có mặt vợ mày nên tao không nói, sợ mày mất mặt với vợ mày tội nghiệp..Vậy mà bây giờ mày còn khui ra!
Hai Cá Trèn cự:
- Thằng út nào đập, thằng út nào đập?
- Thằng út con chú Tư Râu chớ thằng út nào nữa. Nó có ở đây, để rồi tao kêu nó ra đối chất lo gì!
Hai Cá Trèn nín thinh. Trọng cười, nói vả lả cho anh ta đỡ ngượng:
- Cái gì chớ loài thú thì trên Hòn tôi tin chắc có nhiều:
Lến đáp:
- Có, thú thì có!
Vừa lúc ấy trong hang có tiếng chân đi ra. Hai Cá Trèn đứng dậy phủi đít bảo:
- Tổ anh Ngạn ra thay kia rồi. Thôi mình vô làm một giấc coi. Buồn ngủ quá!
Ngạn đã ra đến nơi. Cùng đi với anh có chú Tư Nghiệp và Quyên. Ngạn nói:
- Thôi anh em vô nghỉ, tới giờ rồi!
- Mười giờ hả? - Lến nói - Ngồi nghe Hai Cá Trèn nói dóc hết giờ hồi nào không hay!
Trọng nói với Ngạn:
- Tình hình không có gì. Cách đây độ một tiếng rưỡi tụi tôi có nghe một tiếng động bên ngoài, giống như ai vấp té phịch một cái..
- Vậy hả?
- Nhưng từ đó tới giờ thì vẫn êm không xảy ra chuyện chi.
-Nghe giống tiếng người vấp ngã à?
- Phải, nhưng cũng có thể là chồn chạy..
- Thôi được, đưa đèn pin cho tôi!
Ngạn ngồi xuống bấm đèn. Anh ngồi cách lỗ miệng hang chừng một thước, sau lưng anh là Quyên, rồi tới chú Tư Nghiệp. Ngạn dùng khẩu tôm-xông. Quyên nay giữ cây các-bin của Đạt. Riêng chú tư Nghiệp thì thủ cây đầu vuông cạnh của anh Ba Rèn mới đưa cho. Ngồi yên tại chỗ của mình, chú Tư Nghiệp moi thuốc ra vấn:
- Nhờ bà con bữa nọ tiếp tế nên bữa nay đâu còn mấy điếu. Tôi có để ý mấy chùm rán bay trên vách đá. Chừng nào hết thuốc, gỡ rán bay đó đem sấy hút cầm cự đỡ được.
Ngạn nói:
- Cái đêm đó.. thiệt là nhờ bà con lanh trí tiếp tế cho chớ không thì bữa nay mình nguy rồi. Thuốc chẳng có hút mà gạo cũng không có ăn, nghe vụ Cà Mỵ, Thiệt tội..
Sau câu nói của Ngạn, ba người đều im lặng. Hình như bên ngoài, trời bắt đầu nổi gió. Vì mọi người nghe gió lùa qua miệng hang mát cả chân. Đến lúc bên ngoài dậy lên tiếng rào rào, hu hú thì ai nấy biết là gió nổi thực sự rồi. Quyên có cảm giác biển mỗi lúc một ùa vào gần hơn. Cái âm ba rì rào ấy nay cứ mạnh mẽ lên dần, mạnh mẽ lên mãi. Rồi tiếng sóng dọi vào hang bắt đầu nghe rùng rùng như đổ.
- Biển lại động - Quyên khẽ kêu và chép miệng nói với Ngạn:
- Trời.. Không biết mấy bữa rầy ở ngoài ra sao.. Em lo quá. Em lo cho má quá.. Chị Ba chết.. má có chịu qua nổi không?
- Chắc má sẽ chịu nổi.. Nhưng tội nghiệp cho má. Phải nói là chị Ba hay em, má đều cưng hết, nhưng má cưng em cách bồng bột, còn với chị Ba thì má cưng cách đằm thắm. Có lần nghe má nói: 'Dộu phải đợi mươi năm, con Sứ nó cũng đợi được.. Tao chỉ lo tới chừng đó tụi nó già hết rồi.."
Quyên nín im một lúc rồi thốt:
- Thiệt.. em là con nhỏ bộc tuệch bộc toạc chớ không được như chị Ba..
Chú tư chợt cười, ghé chuyện:
- út nè, tao hỏi thiệt bây cái này, trả lời thử tao nghen?
Chú tư hỏi chi?
Chú Tư Nghiệp rít thêm hơi thuốc nữa, giụi tắt cái tàn thuốc:
- Nói con Sứ dám đợi thì tao tin.. Còn giả dụ như bây giờ Đảng xuống lệnh điều chú Ngạn đi công tác xa chừng mươi, hai mươi năm thì con út bây tính sao?
- Đâu có chuyện đi biệt luôn như vậy! - Quyên bảo
- ấy, nói giả dụ như vậy mà!
Quyên nín thinh
Chú Tư Nghiệp giục:
-Sao? Nói tao nghe coi?
Quyên chợt ngây mặt ra trong bóng tôi. Cô nghĩ: "ồ chuyện mình ít nghĩ tới thiệt đó!" Song cô thốt rất nhanh:
- Cháu không đợi! - Rồi cô bụm miệng cười
Chú Tư Nghiệp bảo:
- Đó, chú Ngạn nghe con Quyên nó nói chưa?
- Nghe chứ!
Và Ngạn cố lấy giọng mỉa mai:
- Cháu biết mà, cháu đâu có nước non gì mà người ta đợi
.. Thường Quyên và anh gắn bó với nhau không phải ở cảnh thoải mái vui chơi như người khác mà là trong hầm, trong cứ, và giờ đây trong hang mỗi một phút một giây đều căng thẳng, sôi sục, thiêng liêng. Giờ đây thấy mình có được sự kề vai sát cánh đầy đủ quá, từ đồng chí, đồng đội, từ Quyên..
Anh vừa chợt nghe có tiếng gì sột soạt rất khẽ, như là gió thổi đùa lá vào lỗ hang. Tức khắc, anh bấm đèn "pin" chiếu xuống lỗ miệng hang, rọi cho ba người trông thấy một cái bọc vải mầu xám vuông dài buộc thắt nhiều đường dây đang nhủi vào. Có một ngọn sào tre ở phía sau chỏi cái bọc đó. Và ở mép bọc, một sợi dây mồi đang ngoe nguẩy cháy ngún, xịt khói. Cả Ngạn, Quyên và chú Tư Nghiệp trố mắt kinh sợ nhìn cái mồi cháy rồn nhanh vào. Ngọn sào vừa đẩy gói bộc phá quá khỏi lỗ miệng hang, liền rụt lại. Ngạn cầm đèn và súng chưa kịp xoay xở ra sao thì Quyên đã để khẩu cac-bin xuống, nhảy chồm tới. Cô chụp đại gói bộc phá liệng trở ra khỏi lỗ hang. Khi cô lăn mình lùi lại, nằm rạp xuống, thì Ngạn đưa cánh tay đỡ lấy ngực cô. Bộc phá nổ một tiếng lớn. Đất đai hang động như bưng lên hết. Ba người bị nhấc khỏi mặt đất, rồi rớt xuống. Quyên nhờ Ngạn nâng ngực nên không bị dội tức. Cô còn tỉnh trí, quờ tay chụp lấy khẩu "cac-bin". Ngạn vội thét:
- Vô trong mau!
Anh bấm đèn rọi cho Quyên và chú Tư Nghiệp chạy trước. Rồi anh luồn theo. Vào tới ngách hang trong, ba người đứng lại. Chú Tư Nghiệp ngồi xổm, thở hổn hển:
- Thiếu chút nữa ba đứa mình biến thành bụi hết rồi! Mẹ, sợi dây mồi cháy coi thiệt ớn!
Anh em từ trong hang đổ xô ra. Anh Hai Thép hỏi:
- Ngạn đâu? Anh em có sao không?
- Tôi đây anh, không sao.. Nó chuồi bộc phá vô, tụi tôi phát hiện kịp, Quyên ôm vụt gói bộc phá ra ngoài!
- Biết thế nào nó cũng "chơi" thuốc nổ mà!
Anh Hai Thép rọi đèn ra miệng hang. Không thấy có gì, anh bảo:
- Thôi cứ tránh ở đây.. Đề phòng đanh tụi đột nhập. Ba Rèn đâu?
- Có tôi
- Tổ anh cũng lo giữ ở đây!
- Đồng ý!
Anh Ba Rèn bước tới. Anh mò kiếm chú Tư Nghiệp, rờ rẫm khắp người chú, cười hà hà:
- May quá, ông già còn nguyên ta!
Đoạn anh lần tay chú Tư, rón lấy cây dầu vuông:
- Thôi, đưa cái cây cho tôi, ông vô nghỉ!
Giữa lúc đó ngoài miệng hang lại nổ ầm một tiếng. Mọi người đang đứng dự dưng bị xốc nhớm gót lên. Đá bụi tung rào rào. Bọn địch đã đánh tiếp bộc phá thứ hai. Luồng ánh sáng rọi cho mọi người thấy một vầng khói đen xạm, dày đặc. Khắp hang rung rinh mãi hồi lâu vẫn còn nghe thấy tiếng kêu răng rắc như đá đang bị nứt. Anh Hai Thép nói:
- Tôi rọi đèn, anh em tất cả súng lên vai, chú ý theo dõi thằng nào lọt vô đây diệt ngay thằng đó!
Ngạn gác khẩu tôm-xông lên một mỏn đá. Anh chỉ cho Quyên một mỏm đá kế đó. Quyên đặt khẩu các-bin lên từ từ áp báng vào vai. Anh em khác cũng ghìm súng đợi. ánh đèn pin từ tay anh Hai Thép vẫn rọi thẳng ra hang. Quyên nhìn thấy trước mũi súng của mình, vầng khói tản ra và bức tường mất biến một nửa. Một nửa còn lại chỉ là đống gạch vụn lổn nhổn. ánh đèn pin bỗng vụt tắt. Một giây sau, khi anh Hai Thép chiếu đèn trở lại thì trong quầng ánh sáng của đèn xuất hiện rõ một thằng địch đang ôm thu lu gói bộc phá nhảy qua chỗ gạch vụn.. Ba bốn phát súng nổ vang lên cùng một lúc.
Thằng địch đứng sứng, buông gói bộc phá rớt xuống. Nó khuỵu tại chỗ, nghẻo đầu, mà hai tay vẫn ôm vòng cái gói có sợi dây ngòi đang cháy ngún. Quyên mở miệng kêu "á" lên một tiếng. Cô vừa nép vào ngách hang thì bộc phá nổ ầm.
Anh Hai Thép bấm đèn rọi ra. Miệng hang lần này cũng dày đặc khói đen như lần trước. Lúc khói tan, không trông thấy thằng địch đâu nữa. Hai bên vách, đá tuông đổ rào rào. ở trên miệng hang bị phá rộng toác, còn bên dưới đá gạch vụt đùn lên.
ánh đèn pin từ tay anh Hai Thép vẫn chiếu sáng rực. Anh em vẫn ghìm súng đợi, hy vọng sẽ cho tái diễn cái cảnh ấy lại lần nữa. Nhưng một phút trôi qua. Rồi năm phút. Mỗi mãi đến khi ánh đèn pin lu đi cũng không thấy tên địch nào ôm bộc phá nhảy vô kiểu đó nữa.
Đợi quá lâu, anh Hai Thép tắt đèn. Nhưng không yên tâm, anh lại bấm đèn lên. Cứ bấm cứ tắt mấy lượt, vẫn không thấy gì.
- Chắc nó rút rồi - anh Ba Rèn nói
Chú Tư Nghiệp ngăn:
- Khoan! Cứ rọi đèn. Trăng gần mọc rồi!
Bên ngoài gió vẫn dậy ào ào. Đôi lúc gió lùa qua miệng hang sụp lở, kêu hu hú. Và sóng biển vẫn rùng rùng như tiếng trống chầu đổ hồi, không dứt .
Các tay súng vẫn giữ nguyên tư thế sẵn sàng nhả đạn. Quyên sốt ruột vì ánh đèn pin khi nhá sáng, khi tắt ngấm. Ngón tay trỏ của cô đặt nơi cò súng thả ra, co vào không biết mấy lượt. Nhưng mắt cô lúc nào cũng mở to trố nhìn cái miệng hang chợt sáng chợt tối ấy. Thế rồi một lát sau, khi ánh đèn tắt khá lâu Quyên vẫn nhận ra miệng hang. Đúng như chú Tư Nghiệp nói, trăng đã lên. Miệng hang không tối như trước nữa. ở đó, bóng tối ngả sang mầu xanh sẫm, nhợt thêm một chút, rồi rạng biếc.
Quyên đã có thể phân biệt rõ đống gạch đen lù lổn nhổn kia với ánh trăng sáng hửng miệng hang.
Anh Hai Thép thôi không rọi đèn nữa.
Anh phân công Ba Rèn ở lại gác như bình thường và cho anh em vào nghỉ. Quãng đêm còn lại ấy trôi qua một cách yên tĩnh, yên tĩnh hơn cả những đêm hôm trước. Bộc phá không còn gầm lên, và anh em cũng chẳng nghe thấy tiếng súng bắn "bóc đùng" ở ngoài xóm như mọi đêm.
Tổ gác miệng hang đã trở ra ngồi gác sau đống gạch vụn.
Người tổ trưởng phiên gác cuối cùng là anh Hai Thép, lần đầu tiên nhìn thấy ánh bình minh được nới rộng hơn trước, qua cái miệng hang vừa bị thuốc nổ công phá hồi đêm. Khi anh kêu: 'sáng rồi!" thì lúc đây đêm đã nhợt dần, nhòa đi. Biển cũng đã lặng. Anh nghe thấy tiếng chim kêu ríu rít. Rồi anh bắt đầu nhận ra những ngọn cỏ ngoài hang ươn ướt hơi sương. ánh gnày mát rợi và dịu dàng lướt trên những ngọn cỏ đó, lan ra mãi. Bây giờ thì anh lại nhìn thấy bãi cỏ bị nhiều dấu giày xéo nát, và anh giật mình thấy anh ngay trước mặt có một khúc chân bê bết máu. Anh nói với anh em du kích cùng tổ:
- Chắc của thằng hồi hôm!
Lúc đó anh nghe sau lưng có tiếng cười hì hí.
Anh quay lại. Thì ra thằng út mới ngủ dậy, mò ra. Nó vừa giụi ghèn xong, hai tay vịn gối chân đừng rùn rùn, trố mắt nhìn cái khúc cẳng. Thằng út lè lưỡi nói:
- Coi lớn quá hên chú Hai?
- ừ, nó lãnh nguyên bao bộc phá mà vừa gì! Còn được cái cườm cẳng đó là may..
Anh Hai Thép hỏi:
- Hồi đêm hôm tụi nó đánh hang, mày hay không út?
Thằng út không đáp. Nó đang lo nhìn cái gì ở ngoài, người nhổm tới.
- Chắc là lúc đó mày ngủ khò chứ hay biết cái gì hả út? - Anh Hai Thép lại hỏi.
Thằng út vẫn lo nhướn mắt nhìn. Bỗng nó lào thào:
- Trời ơi.. tụi nó, tụi nó vố
Nó vụt trỏ tay ra phía ven vườn:
- Kìa kìa, tụi nó kéo đến nghẹt kia kìa, chú Hai ơi!
- Đâu, đâu?
Theo ngón tay thằng út, anh Hai Thép thấy quả có một đám lính kéo tới rất đông. Hình như chúng đang chạy tới. Anh thét:
- Núp vô, chuẩn bị!
Cả ba anh du kích và thằng út đều núp vào vách đá. Anh Hai Thép lên đạn khẩu "ga-răng" đánh "rốp" một cái, mắt chăm chú theo dõi. Đám lính mỗi lúc một rời xa mí vườn. Thình lình thằng út chớp mắt vụt la:
- ủa.. không phải lính!
Vừa lúc hai anh du kích cũng đồng kêu:
- ủa.. Đâu như bà con mình mà.. Ai chạy trước giống má Sáu quá, tóc trắng như bông.. Thôi đúng rồi!
Cả ba anh nhớn nhác nửa tin nửa ngờ. Thằng út chỉ chỏ reo:
- Ba tôi đó, ổng chạy tới chớ ai!
Anh Hai Thép lẩm bẩm:
- Kỳ qua, hay là tụi nó lùa bà con chạy trước làm bia đỡ đạn?
- Không, đâu có lính!
- Cứ núp sát vô!
Ngoài kia, đám người mỗi lúc một tới gần. Họ đã chạy qua quá nửa vạt đất trống. Hiển nhiên là ở phía sau họ không có một thằng lính nào. Anh Hai Theép bắt đầu nhận ra được từng người. Mẹ Sáu, vợ Ba Rèn, chú Tư Râu, anh Tấm Chấn, thím Ba ú. Trời ơi, đủ hết. Có cả vợ anh, thím Tư Nghiệp, vợ thằng Lến. Cả Hòn Đất không thiếu một ai. Người lớn, trẻ nhỏ, mạnh ai nấy chạy nhào tới, tất tưởi. Có người vấp té chúi, lại gượng dậy, lại chạy. Còn cách miệng hang vài chục bước, mấy người chạy đằng đầu đứng lại, đặt bàn tay lên miệng, hổn hển kêu lớn:
- Anh em ơ...ơi, tụi nó rút rồ..ồi!
Thấy trong hang vẫn im lìm, giữa đám người vút ó tiếng khóc òa lên. Chú Tư Râu đang khom lưng chạy tới, rán sức gào:
- Bớ anh em! Còn sống khô..ông?
Nghe rõ tiếng kêu, anh Hai Thép lách mình, xách súng nhảy qua đống gạch đá vụn. Kế đó thằng út với hai anh du kích cũng phóng vọt theo.
Anh Hai Thép cầm khẩu "ga-răng" vừa chạy lại phía bà con. Chú Tư Râu ôm chầm lấy anh. Anh Tám Chấn chạy tới chụp vai Hai Thép lắc lắc, cười nói:
- Cha chả, tưởng ông không còn về gặp má bầy trẻ nữa rồi chớ!
Mọi người vây quanh anh, vây quanh thằng út, chụp hai du kích mà đấm thùi thụi, níu kéo lăng xăng, kẻ cười, người khóc. Chị Hai Thép không cười, chị ngó nhìn anh Hai, rưng rưng nước mắt. Chị thấy mặt chồng mình nay xám xạm trông hốc hác hẳn đi. Anh Hai báo cho bà con biết mọi người còn đủ, trừ Sứ và chú Đạt. Anh đến bên vợ khẽ hỏi:
- Sắp nhỏ đâu rồi mình?
Chị Hai Thép đáp:
- Tôi gởi nó ở trong xóm
Giữa lúc đó, thằng út vùng vuột ra khỏi tay mấy người đang ôm nó, chạy trở vô hang. Anh Hai Thép đưa mắt tìm kiếm mẹ Sáu. Anh thấy mẹ Sáu đang đứng sững gần đó. Đôi mắt mẹ trân trân nhìn tới trước, ráo hoảnh. Khi anh chạy đến bên mẹ thì mẹ chẳng nói gì cả, bước đi. Mẹ bước chầm chậm về phía hang, tay phải vò chặt chiếc khăn rằn đỏ đưa lên miệng.
Anh em trong hang được thằng út vào cho hay, giờ đã ùa ra. Hai bên gặp nhau trước miệng hang, la hét, cười khóc. Trong khi đó con chó mực của thằng út chạy loăng quăng, kêu sủa mừng rỡ. Mọi người xô tới ôm ghì lấy nhau trên khoảng đất bị đạn cào bấy. Anh du kích Hai Cá Trèn cõng thằng Bé trên vai, Quyên cõng con Thúy từ trong cũng vừa luồn ra. Tới đống gạch đổ, cô nhấc mũi súng "các-bin" đeo nơi vai, rấn bước qua. Mẹ Sáu lập cập chạy tới, run rẩy dang hai tay ôm cả Quyên lẫn con Thúy vào lòng, òa khóc. Con Thúy thấy ngoại nó khóc thì cũng khóc theo, rồi nó nhớn nhác đưa mắt tìm kiếm. Hàng trăm cặp mắt đều nhìn dồn vào Thúy. Chợt con Thúy la:
Ngoại, ngoại, má con đâu, má con đâu ngoại?
Mẹ Sáu không đáp. Con Thúy vùng ra khỏi lòng ngoại nó kêu lớn:
- Má.. Má ơi!
Con bé vừa kêu vừa chạy kiếm. Nó chạy từ đám người này tới đám người khác, ai cũng hoảng sợ, nhìn nó bằng đôi mắt đau đớn lặng đi. Trong tiếng kêu xé ruột của con Thúy, tốp người trong hang vẫn tiếp tục đi ra.
Năm Nhớ xốc dìu anh Thẩm. Cái chân bị thương của Thẩm cứ cà nhắc, bước thấy bước cao.
Người thứ mười bảy và là người ra khỏi hang sau cùng là Ngạn. Anh bế trên tay mình cái bó vải nhựa trong suốt đó lờ mờ để lộ ra khuôn mặt của Đạt. Anh Tám Chấn xổ tới. Anh đứng sững trước Ngạn hồi lâu rồi lặng lẽ bước tới đưa tay đỡ lấy thân Đạt. Anh nghó trân trân khuôn mặt Đạt hồng lên sau lần vải nhựa mỏng. Đôi mắt anh mở to, đồng tử mắt không động, chốc mắt anh sau đỏ hoe, rân rấn. Không khác chi những anh em khác, khuôn mặt Ngạn như sắt lại, hốc hác, dính đầy bụi.
Người nào cũng thế. Trên mình họ, chẳng có cái quần cái áo nào còn lành. Tất cả đều bị rách ống, rách vai hoặc toạc hở lưng. Giờ họ đã đuối sức, bụng dạ lại cồn cào, cổ cháy bỏng. Chừng như bây giờ họ mới thấm mệt, rã rời.
Bước chân của họ đi hơi loạng choạng trong buổi sớm nắng hửng. Và đây là những tia nắng đầu tiên mà họ bắt gặp lại, Nắng chiếu lóng lánh các giọt sương đọng trên ngọn cỏ. ánh nắng chớm sáng ven vườn, rọi rực rỡ các vòm lá. Hòa vào trong nắng ấy là làn gió đương xuân, hây hẩy, lao rao. Ngoài kia, sau những thân tre vàng óng đang chới với đu đưa, sóng biển đẫm nắng vỗ rối rít và ngoan ngoãn trườn nhẹ vào bãi.
Đang đi, Ngạn chợt dừng chân, ngoảnh lại. Trước mặt anh, mép miệng hang như vừa bị một con quái vật khổng lồ nào cạp cho lở lói. Vách đá trước vốn là màu xanh rêu nay ám khói đen xịt. ở hai bên mép miệng hang, xi măng đã đùn đống, vung vãi. Đi hơn chục bước, Ngạn hãy còn nghe mùi máu tanh tưởi, mùa xác chết ở đây đấy, và rõ rệt hơn cả là mùi khói thuốc nổ phất lên mũi anh nồng nặc.
Viết xong hồi tháng 5 - 1965.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top