Ham doi tuan duong ham Nhat trong ww2 p1
Đặt hàng: 1932
Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Tone
Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Mitsubishi tại Nagasaki
Đặt lườn: 1 tháng 12 năm 1934
Hạ thủy: 21 tháng 11 năm 1937
Hoạt động: 20 tháng 11 năm 1938[1]
Bị mất: Bị máy bay Mỹ đánh chìm ngày 24 tháng 7 năm 1945 tại Kure, Hiroshima, tọa độ 34°14′N 132°30′E
Xóa đăng bạ: 20 tháng 11 năm 1945
Các đặc tính chung Lượng rẽ nước: 11.213 tấn (tiêu chuẩn); 15.443 tấn (sau cùng) Chiều dài: 189,1 m (620 ft 5 in) Mạn thuyền: 19,4 m (63 ft 8 in) Tầm nước: 6,2 m (20 ft 4 in) Lực đẩy: 4 turbine hộp số Gihon 8 × nồi hơi công suất 152.000 mã lực (113,4 MW) Tốc độ: 65 km/h (35 knot) Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 33,3 km/h (8.000 hải lý ở tốc độ 18 knot) Quân số: 874 Vũ khí: 8 × pháo 203 mm (8 inch) (4×2) 8 × pháo 127 mm (5 inch) 12 × súng phòng không 25 mm (6×2) 12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (4×3) Vỏ giáp: đai giáp 100 mm (4 inch) sàn tàu 35 mm (1,4 inch) Máy bay: 6 × thủy phi cơ
Tone (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc Chikuma. Tên của nó được đặt theo sông Tone tại khu vực Kantō của Nhật Bản. Nó từng được sử dụng rộng rải trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị đánh chìm tại Kure vào ngày 24 tháng 7 năm 1945. Thiết kế và chế tạo Lớp tàu tuần dương Tone được chấp thuận cho chế tạo vào năm 1932. Tone được thiết kế cho các nhiệm vụ tuần tra trinh sát tầm xa và có thể mang theo một lượng thủy phi cơ lớn. Tone được đặt lườn vào ngày 1 tháng 12 năm 1934 tại xưởng đóng tàu của hãng Mitsubishi tại Nagasaki. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 11 năm 1937 và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 11 năm 1938. Lịch sử hoạt động Trận Trân Châu Cảng Vào cuối năm 1941, Tone cùng với con tàu chị em với nó Chikuma được phân về Hải đội Tuần dương 8, và đã hiện diện trong cuộc Tấn công Trân Châu Cảng. Sáng sớm ngày 7 tháng 12 năm 1941, Tone và Chikuma mỗi chiếc đã cho phóng lên một chiếc thủy phi cơ Aichi E13A1 "Jake" để trinh sát thời tiết bên trên đảo Oahu lần cuối cùng. Lúc 06 giờ 30, Tone và Chikuma mỗi chiếc lại tung ra một chiếc thủy phi cơ hai chỗ ngồi tầm ngắn Nakajima E8N "Dave" hoạt động như những tiêu điểm radar và tuần tra về phía Nam của Lực lượng tấn công. Thủy phi cơ của Tone đã bay về phía Lahaina, nhưng không phát hiện được sự hiện diện của bất kỳ hạm đội Mỹ nào. Trong cuộc tấn công diễn ra sau đó, các thiết giáp hạm Arizona, Oklahoma, West Virginia và California bị đánh chìm, trong khi Nevada, Pennsylvania, Tennessee, Maryland cùng nhiều tàu chiến nhỏ khác bị hư hại. Vào ngày 16 tháng 12, Hải đội Tuần dương 8 được lệnh hỗ trợ cho nỗ lực nhằm chiếm đảo Wake lần thứ hai. Tone tung ra hai thủy phi cơ "Dave" làm nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm. Sau khi Wake thất thủ, Hải đội Tuần dương 8 quay trở về Kure, Hiroshima. Đến ngày 14 tháng 1 năm 1942, Hải đội Tuần dương 8 đặt căn cứ tại Truk thuộc quần đảo Caroline, và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Rabaul thuộc New Britain cũng như các cuộc tấn công nhắm vào Lae và Salamaua thuộc New Guinea. Vào ngày 24 tháng 1 năm 1942, máy bay của Tone đã tấn công quần đảo Admiralty. Sau cuộc không kích do Phó Đô đốc William Halsey, Jr trên chiếc tàu sân bay Enterprise thực hiện nhắm vào Kwajalein diễn ra ngày 1 tháng 2, Tone rời Truk cùng Lực lượng tấn công tàu sân bay tiến hành truy đuổi bất thành. Sau đó Chikuma và Tone tham gia vào cuộc Ném bom cảng Darwin thuộc Australia vào ngày 19 tháng 2, tiêu diệt 15 máy bay và đánh chìm 11 tàu. Trong trận này, Tone tung ra một thủy phi cơ nhằm mục đích trinh sát thời tiết trước cuộc tấn công, nhưng hệ thống liên lạc radio của chiếc máy bay bị hỏng và nó buộc phải quay về tàu. Sau đó, một thủy phi cơ khác được tung ra, và đã hoạt động thành công hơn khi bắn rơi được một chiếc PBY Catalina của Không quân Hoàng gia Australia. Trận chiến biển Java Vào ngày 1 tháng 3 năm 1942, Tone phát hiện ra chiếc tàu khu trục cũ Edsall ở vị trí 250 dặm về phía Nam Đông Nam đảo Christmas. Bốn ngày sau, thủy phi cơ của Tone và Chikuma đã tham gia cuộc tấn công vào Tjilatjap. Ngày 6 tháng 3, Tone vớt được một thủy thủ Anh trôi dạt trên biển sau khi thuyền của anh ta bị đánh đắm ngoài khơi Java kể từ ngày 27 tháng 2. Không kích Ấn Độ Dương Ngày 5 tháng 4 năm 1942, Tone nằm trong thành phần một lực lượng đặc nhiệm lớn, đã tung ra 315 máy bay không kích vào Columbo, Ceylon. Kết quả là các tàu chiến Tenedos, Hector cùng 27 máy bay bị tiêu diệt và trên 500 người thiệt mạng ngay tại cảng, trong khi các tàu tuần dương Cornwall và Dorsetshire bị đánh chìm ngoài biển. Tone cùng với lực lượng đặc nhiệm rút lui về Nhật bản vào giữa tháng 4 năm 1942, khi nó hầu như ngay lập tức được giao nhiệm vụ truy đuổi bất thành Lực lượng Đặc nhiệm 16.2 của Đô đốc Halsey bao gồm chiếc tàu sân bay Hornet sau vụ Đột kích Doolittle. Trận Midway Trong trận Midway, Tone cùng Hải đội Tuần dương 8 nằm trong thành phần Lực lượng Tấn công tàu sân bay của Phó Đô đốc Nagumo Chūichi. Vào ngày 4 tháng 6, Tone và Chikuma mỗi chiếc đã cho phóng lên hai thủy phi cơ "Jake" để trinh sát trong một phạm vi rộng đến 300 dặm nhằm truy tìm các tàu sân bay Mỹ. Máy bay của Tone đã tìm thấy mục tiêu, nhưng do hệ thống báo cáo quan liêu nội bộ bên trong cấu trúc chỉ huy, bản báo cáo của nó đã không được chuyển giao ngay cho Đô đốc Nagumo. Kết quả là ông đã ra lệnh cho máy bay của mình chuẩn bị một đợt không kích khác xuống đảo Midway trước khi nhận được báo cáo, đưa đến kết quả bi thảm là bị đánh chìm tất cả bốn tàu sân bay hạm đội. Tone cũng bị máy bay từ tàu sân bay Mỹ tấn công trong trận này, nhưng không bị thiệt hại nào ngoại trừ một máy bay "Dave" cùng đội bay của nó. Sau đó Chikuma và Tone được điều đến giúp đỡ lực lượng tấn công quần đảo Aleut của Phó Đô đốc Boshiro Hosogaya. Tuy nhiên, sự phản công của lực lượng Đồng Minh tại đây đã không diễn ra như dự tính, nên Hải đội Tuần dương 8 bình yên quay trở về. Trận chiến Đông Solomon Chuẩn Đô đốc Chuichi Hara tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 8 từ ngày 14 tháng 7 năm 1942. Cùng với việc lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên đảo Guadalcanal, Chikuma và Tone được lệnh tiến về phía Nam vào ngày 16 tháng 8 cùng với các tàu sân bay Shōkaku, Zuikaku, Zuihō, Junyō, Hiyō và Ryūjō. Chúng được tháp tùng bởi các thiết giáp hạm Hiei và Kirishima, tàu chở thủy phi cơ Chitose cùng các tàu tuần dương Atago, Maya, Takao và Nagara. Vào ngày 24 tháng 8 năm 1942, các tàu tuần dương Kumano, Suzuya và Mogami của Hải đội Tuần dương 7 đến gia nhập tăng cường cho lực lượng hạm đội tại khu vực Guadalcanal. Sáng hôm sau, một chiếc thủy phi cơ PBY Đồng Minh phát hiện ra Ryūjō, và sau đó những chiếc máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless và máy bay ném bom-ngư lôi TBF Avenger cất cánh từ Enterprise đã tấn công nó nhưng không thành công. Bảy thủy phi cơ của Tone và Chikuma đã được tung ra để truy tìm hạm đội Mỹ; và một chiếc xuất phát từ Chikuma đã phát hiện ra lực lượng Mỹ, nhưng đã bị bắn rơi trước khi kịp gửi bản báo cáo. Tuy nhiên, một thủy phi cơ thứ hai đã thành công, và hạm đội Nhật tung ra đợt tấn công nhắm vào Enterprise, đánh trúng nó ba quả bom khiến sàn tàu bằng gỗ bốc cháy. Cùng lúc đó, người Mỹ cũng phát hiện ra hạm đội Nhật, và Ryūjō bị đánh chìm bởi máy bay xuất phát trừ tàu sân bay Saratoga. Trong trận này, Tone cũng bị tấn công bất thành bởi hại chiếc Avenger khi những quả ngư lôi Mark 13 phóng ra đều bị trượt, và chiếc tàu tuần dương quay trở về Truk an toàn. Trận chiến Santa Cruz Trong suốt tháng 10, Chikuma và Tone tuần tra tại khu vực phía nam quần đảo Solomon, chờ đợi cơ hội tái chiếm sân bay Henderson. Vào ngày 19 tháng 10, Tone cùng với tàu khu trục Teruzuki được tách ra thực hiện nhiệm vụ độc lập trinh sát các tàu chiến Mỹ. Cả hai chiếc đều hoạt động tại khu vực ngoài khơi quần đảo Santa Cruz cho đến khi một chiếc thủy phi cơ Kawanishi H6K "Emily" xuất phát từ đảo san hô Jaluit nhìn thấy một tàu sân bay ngoài khơi quần đảo New Hebride. Vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, ở vị trí 250 dặm về phía Đông Bắc Guadalcanal, lực lượng đặc nhiệm của Chuẩn Đô đốc Abe Hiroaki tung ra bảy thủy phi cơ để tuần tiểu khu vực phía Nam Guadalcanal. Chúng trông thấy hạm đội Mỹ, và cuộc tấn công mà Đô đốc Abe tung ra sau đó với 13 máy bay ném bom-ngư lôi Nakajima B5N2 "Kate" đã đánh chìm tàu sân bay Hornet cũng như làm hư hại chiếc thiết giáp hạm South Dakota và chiếc tàu tuần dương San Juan. Tuy nhiên, hai trong số bốn thủy phi cơ mà Tone phóng lên trong cuộc tấn công này đã bị bắn rơi. Sau đó, Tone hỗ trợ các nỗ lực tăng viện cho lực lượng Nhật tại Guadalcanal cho đến giữa tháng 11 năm 1942, rồi sau đó được giao nhiệm vụ tuần tra từ căn cứ ở Truk cho đến giữa tháng 2 năm 1943. Sau khi quay về Maizuru ngày 21 tháng 2 để được nâng cấp, khi nó được trang bị bổ sung hai khẩu đội pháo phòng không nòng đôi 25 mm Kiểu 96 cùng một hệ thống radar dò tìm không trung Kiểu 21. Vào ngày 15 tháng 3 năm 1943, Chuẩn Đô đốc Fukuji Kishi tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 8, và Tone được lệnh quay trở lại khu vực Truk. Tuy nhiên, vào ngày 17 tháng 5, Chikuma và Tone được giao nhiệm vụ tháp tùng chiếc thiết giáp hạm Musashi quay trở lại Tokyo đưa di hài của Đô đốc Yamamoto Isoroku về làm lễ quốc tang tại chính quốc. Tone quay trở lại Truk vào ngày 15 tháng 7, và đã tránh được nhiều cuộc tấn công bằng tàu ngầm dọc theo đường đi. Từ tháng 7 đến tháng 11, Tone tham gia nhiều chuyến vận chuyển binh lực đến Rabaul, và những chuyến tuần tra tại quần đảo Marshall để truy đuổi bất thành hạm đội Mỹ. Khi quay trở về Kure vào ngày 6 tháng 11, Tone lại được trang bị thêm các khẩu pháo phòng không 25 mm, nâng tổng số lên 20 nòng pháo. Hải đội Tuần dương 8 bị giải thể vào ngày 1 tháng 1 năm 1944, nên cả hai chiếc Tone và Chikuma đều được phân về Hải đội Tuần dương 7 cùng với Suzuya và Kumano dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Nishimura Shoji. Tone quay trở lại Truk vào ngày 2 tháng 1. Trong tháng 2, Tone hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Nhật Bản từ Truk về Palau. Từ ngày 1 tháng 3 năm 1944, Tone tham gia vào đợt đánh cướp tàu buôn tại Ấn Độ Dương. Ngày 9 tháng 3, Tone đánh chìm chiếc tàu chở hàng Anh Quốc SS Behar, bắt giữ 108 người sống sót. Trong số những người sống sót, 32 người được chuyển lên bờ tại Batavia như những tù binh chiến tranh. Đô đốc Sakonjo Naomasa trên chiếc soái hạm Aoba đã ra lệnh "thanh lý" số tù binh còn lại, và họ bị đưa lên boong tàu và bị chém đầu.[2][3] Ngày 20 tháng 3 năm 1944, Chuẩn Đô đốc Kazutaka Shiraishi tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 7. Trận chiến biển Philippine Ngày 13 tháng 6 năm 1944, Đô đốc Soemu Toyoda ra mệnh lệnh thực hiện "Chiến dịch A-Go" nhằm phòng thủ bảo vệ quần đảo Mariana. Tone được phân về Lực lượng "C" thuộc Hạm đội Cơ động của Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, vốn đã băng qua biển Visayan để đi đến biển Philippine hướng về phía Saipan. Vào ngày 20 tháng 6, sau khi các thiết giáp hạm Haruna và Kongo cùng tàu sân bay Chiyoda bị tấn công bởi máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ Bunker Hill, Monterey và Cabot, và khi hầu hết lực lượng không quân yểm trợ trên không đã bị tiêu diệt trong cái gọi là "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại", Tone rút lui cùng với Hạm đội Lưu động về phía Okinawa, và sau đó là Kure. Trong khi ở lại Kure từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1944, Tone được trang bị bổ sung các khẩu pháo phòng không 25-mm Kiểu 96, nâng tổng số lên 57 nòng súng. Hai hệ thống radar mới dò tìm mặt đất Kiểu 22 và một hệ thống dò tìm trên không Kiểu 13 cũng được trang bị. Sau khi tham gia vận chuyển binh lính đến Okinawa, Tone được phái đến Singapore vào tháng 7. Trận chiến vịnh Leyte Ngày 23 tháng 10 năm 1944, Tone cùng với Kumano, Suzuya và Chikuma khởi hành rời Brunei hướng về phía Philippines cùng với Lực lượng Tấn công Lưu động của Phó Đô đốc Kurita. Trong trận chiến eo biển Palawan, các tàu tuần dương Atago và Maya bị tàu ngầm đánh chìm, và chiếc Takao bị hư hại. Vào ngày 24 tháng 10, Hải đội Tuần dương 7 nằm trong thành phần "Lực lượng Trung tâm" của Phó Đô đốc Kurita Takeo. Trong trận chiến biển Sibuyan diễn ra sau đó, Lực lượng Trung tâm phải chịu đựng mười một đợt không kích bởi máy bay Mỹ xuất phát từ các tàu sân bay của Đội Đặc nhiệm 38.2, kết quả là chiếc siêu thiết giáp hạm Musashi bị đánh chìm và Tone trúng bom. Ngày hôm sau, trong trận chiến ngoài khơi Samar, Yamato, Nagato, Haruna và Myoko bị hư hại. Tone đã tấn công tàu khu trục Mỹ Heermann nhưng bị ngăn trở bởi các đợt không kích. Nó rút lui an toàn ngang qua eo biển San Bernardino mà không phải chịu đựng thiệt hại gì thêm, nhưng chiếc tàu chị em với Tone là Chikuma cùng Chokai và Suzuya đều bị mất. Ngày 6 tháng 11, Tone rời Brunei hướng đến Manila, rồi sau đó đi đến Mako thuộc quần đảo Pescadores và Kure. Quay trở vào ụ tàu tại Maizuru, Tone lại được trang bị thêm bốn khẩu đội phòng không ba nòng 25 mm phía sau tàu, nâng tổng số lên 62 nòng pháo. Radar Kiểu 21 cũng được thay thế bằng Kiểu 22. Hải đội Tuần dương 7 bị giải tán vào ngày 21 tháng 11 và Tone được phân về Hải đội Tuần dương 5 cùng với Kumano. Sau khi công việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 18 tháng 2 năm 1945, Tone được bố trí đến Etajima, nơi nó được neo đậu và sử dụng như một tàu huấn luyện. Chiếc tàu tuần dương bị hư hại nhẹ trong một cuộc không kích vào ngày 19 tháng 3. Vào ngày 24 tháng 7 năm 1945, Lực lượng Đặc nhiệm 38 tung ra một đợt không kích vào Kure với ý định tiêu diệt hoàn toàn Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chín máy bay xuất phát từ tàu sân bay Monterey đã nhắm vào Tone và đánh trúng nó ba quả bom, khiến chiếc tàu tuần dương mắc cạn xuống đáy vịnh. Phần thân tàu nổi trên mặt nước còn bị tấn công một lần nữa vào ngày 28 tháng 7 bởi rocket và bom xuyên thép của máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Wasp và Ticonderoga. Sau chiến tranh, Tone được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 11 năm 1945. Thân tàu được vớt lên và tháo dỡ trong những năm 1947 - 1948. Đặt hàng: 1927
Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Takao
Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Yokosuka
Đặt lườn: 28 tháng 4 năm 1927
Hạ thủy: 12 tháng 5 năm 1930
Hoạt động: 31 tháng 5 năm 1932
Bị mất: Bị đánh chìm như một mục tiêu tác xạ ngày 19 tháng 10 năm 1946 tại Eo biển Malacca
Xóa đăng bạ: 3 tháng 5 năm 1947
Các đặc tính chung Lượng rẽ nước: 9.850 tấn (tiêu chuẩn); 15.490 tấn (đầy tải) Chiều dài: 192,5 m (631 ft 8 in) mực nước 203,8 m (668 ft 6 in) chung Mạn thuyền: 18,0 - 20,7 m (59 - 68 ft) Tầm nước: 6,1 - 6,3 m (20 ft - 20 ft 8 in) Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước 12 × nồi hơi Kampon 4 × trục công suất 133.100 mã lực (99,3 MW) Tốc độ: 65,7 km/h (35,5 knot) Tầm xa: 15.700 km ở tốc độ 26 km/h (8.500 hải lý ở tốc độ 14 knot) Quân số: 773 Vũ khí: ban đầu: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 caliber (5x2) 4 × pháo 120 mm (4,7 inch) góc cao (4x1) 2 × pháo phòng không 40 mm (2x1) 8 × ống phóng ngư lôi 609 mm (24 inch) cuối cùng: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 caliber (5x2) 4 × pháo 120 mm (4,7 inch) góc cao (4x1) 66 × súng phòng không 25 mm 16 × ống phóng ngư lôi 609 mm (24 inch) Vỏ giáp: đai giáp 37 đến 127 mm (1,5 - 5 inch) sàn tàu 40 mm (1,5 inch) vách ngăn 75 - 100 mm (3 - 4 inch) tháp súng 25 mm (1 inch) Máy bay: 3 thủy phi cơ (1 × Aichi E13A1 "Jake", 2 × F1M2 "Pete") 2 × máy phóng Takao (tiếng Nhật: 高雄) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp Myōkō trước đó. Takao đã hoạt động cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi đầu hàng lực lượng Anh tại Singapore và bị đánh chìm tại eo biển Malacca. Thiết kế và chế tạo Những tàu chiến thuộc lớp Myōkō được xem là không ổn định và nhiều kinh nghiệm rút ra đã được áp dụng cải tiến cho lớp Takao. Chúng là những tàu chiến nhanh và mạnh mẻ, trang bị mười khẩu pháo 203 mm (8 inch) và bốn khẩu pháo 120 mm (4,7 inch), tám ống phóng ngư lôi và nhiều vũ khí phòng không hổn hợp, một hỏa lực đủ mạnh để đối đầu với bất kỳ tàu tuần dương của mọi lực lượng hải quân trên thế giới. Những chiếc trong lớp Takao được chấp thuận trong năm tài chính 1927 như một phần trong chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản về một trận chiến quyết định. Chúng tạo nên xương sống cho lực lượng tấn công chiến đấu tầm xa. Takao được chế tạo tại Xưởng hải quân Yokosuka, và giống như những con tàu chị em với nó, tên nó được đặt theo tên một ngọn núi: Núi Takao (tiếng Nhật: 高雄山) tọa lạc tại ngoại ô Kyoto.[1] Takao được đặt lườn vào ngày 28 tháng 4 năm 1927, được hạ thủy vào ngày 12 tháng 5 năm 1930 tại Xưởng hải quân Yokosuka và được đưa vào hoạt động ngày 31 tháng 5 năm 1932. Lịch sử hoạt động Lúc khởi đầu Chiến tranh Thái Bình Dương, Takao đặt dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Đại tá Hải quân Asakura Bunji và được phân về Hải đội Tuần dương 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc (sau này là Đô đốc) Kondo Nobutake cùng với các con tàu chị em với nó Maya, Chokai và Atago, và được trao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Malaya và Philippines. Vào cuối tháng 12 năm 1941, nó bắn pháo hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen trên đảo Luzon tại Philippines. Đầu năm 1942, Takao hoạt động tại khu vực biển Java trong khuôn khổ Trận chiến biển Java Sea vào đầu tháng 3. Vào ngày 1 tháng 3, một trong số các thủy phi cơ của Takao đã ném bom chiếc tàu buôn Hà Lan Enggano. Đêm hôm sau, Takao và Atago tiêu diệt chiếc tàu khu trục Pillsbury cũ của Hải quân Mỹ và nó chìm mà không có người nào sống sót. Sáng sớm ngày 4 tháng 3, Takao, Atago, Maya và hai tàu khu trục của Hải đội Khu trục 4, Arashi và Nowaki đã tấn công một đoàn tàu vận tải gần Tjilatjap. Chiếc xà lúp HMAS Yarra của Hải quân Hoàng gia Australia đã ra sức bảo vệ cho đoàn tàu vận tải trong một giờ rưỡi trước khi bị đánh chìm chỉ với 34 người sống sót trong tổng số 151 thành viên thủy thủ đoàn. [2] Sau đó, các tàu tuần dương Nhật đã đánh chìm ba chiếc trong đoàn tàu vận tải: tàu chở dầu Francol, tàu quân nhu Anking, và một tàu quét mìn. Hai tàu chở hàng Hà Lan cũng bị chiếm giữ. Vào tháng 6 năm 1942, Takao và Maya hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng quần đảo Aleut. Vào ngày 3 tháng 6 năm 1942, những thủy phi cơ trinh sát của nó bị các máy bay tiêm kích Curtiss P-40 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ trú đóng tại Umnak tấn công và hai chiếc bị bắn rơi. Ngày 5 tháng 6, Takao bắn rơi một máy bay ném bom B-17 Flying Fortress. Vào tháng 8 năm 1942, Takao tham gia Chiến dịch Ka, một đợt tăng cường cho lực lượng Nhật Bản trong trận Guadalcanal, và tham gia Trận chiến quần đảo Santa Cruz vào ngày 26 tháng 10. Một cố gắng có chủ định để bắn phá căn cứ của Mỹ tại sân bay Henderson đã dẫn đến trận Hải chiến Guadalcanal vào sáng sớm ngày 15 tháng 11 năm 1942. Thiết giáp hạm Kirishima, được sự hỗ trợ của các tàu tuần dương Takao và Atago, đã đối đầu cùng các thiết giáp hạm Mỹ Washington và South Dakota. Cả ba tàu chiến Nhật đã bắn trúng South Dakota nhiều phát đạn pháo khiến nó hư hỏng nặng; Takao và Atago còn bắn ngư lôi Long Lance nhằm vào Washington nhưng đều trượt. Tuy nhiên, Kirishima bị Washington bắn hỏng và phải tự đánh đắm sáng hôm sau. Atago bị hư hại trong khi Takao thoát ra an toàn nhưng phải rút lui về Truk. Đầu năm 1943, Takao hỗ trợ cho Chiến dịch Ke, cuộc triệt thoái lực lượng Nhật khỏi đảo Guadalcanal. Sau đó, dưới quyền chỉ huy của Inoguchi Toshihira, nó hoạt động tại khu vực Trung Thái Bình Dương từ căn cứ Truk. Ngày 5 tháng 11 năm 1943, trong khi đang được tiếp nhiên liệu tại Rabaul trong quần đảo Bismarck, Takao bị các máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless từ tàu sân bay USS Saratoga tấn công, và bị trúng hai quả bom khiến 23 người thiệt mạng và hư hại hệ thống lái. Nó bị buộc phải quay về Yokosuka tại Nhật Bản và vào ụ tàu để sửa chữa. Ngày 22 tháng 10 năm 1944, Takao gia nhập "Lực lượng Trung tâm" của Đô đốc Takeo Kurita và khởi hành từ vịnh Brunei để tham gia Trận chiến vịnh Leyte. Sang ngày 23 tháng 10, khi đang di chuyển ngang qua đảo Palawan, lực lượng Nhật Bản bị hai tàu ngầm Mỹ tấn công. Lúc 06 giờ 34 phút, Takao trúng hai quả ngư lôi phóng từ tàu ngầm USS Darter, làm hỏng hai trục và ngập nước ba phòng nồi hơi. Nó bị buộc phải quay trở về Brunei, và được hộ tống bởi các tàu khu trục Naganami và Asashimo, chiếc tàu phóng ngư lôi Hiyodori và tàu vận tải Mitsu Maru. Lực lượng này bị các tàu ngầm Darter và Dace tiếp tục săn đuổi cho đến sau nữa đêm ngày 24 tháng 10, khi Darter mắc cạn vào một bãi san hô tại bãi đá ngầm Bombay và Dace phải ở lại để cứu hộ. Takao bị hỏng nặng đến mức không thể sửa chữa tại Singapore, cũng như không thể (và không có khả năng) kéo về Nhật Bản để sửa chữa. Vì vậy một phần đuôi tàu được cắt rời ra, và nó được cho neo đậu và sử dụng như một pháo đài phòng không nổi để phòng thủ Singapore. Trong khi thả neo tại đây, nó là mục tiêu của cuộc tấn công được thực hiện bởi tàu ngầm bỏ túi Anh XE-3 (Chiến dịch Struggle) vào ngày 31 tháng 7 năm 1945 dưới sự chỉ huy của Trung úy Ian Edward Fraser và Thủy thủ James Joseph Magennis.[3] Magennis đã gắn được sáu quả "mìn hàu" vào thân chiếc Takao; và khi phát nổ đã tạo ra một lổ thủng lớn 20 m x 10 m. Đa số các khẩu pháo của Takao bị mất tác dụng, hệ thống điều khiển hỏa lực bị phá hủy và nhiều ngăn bị ngập nước. Vào ngày 5 tháng 9 năm 1945, căn cứ hải quân của Nhật Bản tại Eo biển Johor chính thức đầu hàng lực lượng Anh, và việc tiếp quản chiếc Takao, lúc đó vẫn có một số ít thủy thủ duy trì hoạt động, diễn ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1945. Cuối cùng nó được kéo ra Eo biển Malacca để sử dụng như một mục tiêu tác xạ cho chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Newfoundland và bị đánh chìm vào ngày 19 tháng 10 năm 1946. Đặt hàng: 1931
Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Mogami
Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Yokosuka
Đặt lườn: 11 tháng 12 năm 1933
Hạ thủy: 20 tháng 11 năm 1934
Hoạt động: 31 tháng 10 năm 1937[1]
Bị mất: Bị đánh chìm ngày 25 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến ngoài khơi Samar tại tọa độ 11°45.2′N 126°11.2′E
Xóa đăng bạ: 20 tháng 12 năm 1944
Các đặc tính chung Lượng rẽ nước: 8.500 tấn (ban đầu) 13.670 tấn (sau cùng) Chiều dài: 197 m (646 ft 4 in) (ban đầu) 198 m (649 ft 7 in) (sau cùng) Mạn thuyền: 18 m (59 ft) (ban đầu) 20,2 m (66 ft 4 in) (sau cùng) Tầm nước: 5,5 m (18 ft) (ban đầu) 5,89 m (19 ft 4 in) (sau cùng) Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước 10 × nồi hơi Kampon; 4 × trục công suất 152.000 mã lực (113 MW) Tốc độ: 68,5 km/h (37 knot) (ban đầu) 65 km/h (35 knot) (sau cùng) Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h (8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot) Quân số: 850 Vũ khí: ban đầu: 15 × pháo 155 mm (6,1 inch)/60 cal (5x3) 8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2) 4 × súng phòng không 40 mm 12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) sau cùng: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 cal (5x2) 8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2) 30 × súng phòng không 25 mm 12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) Vỏ giáp: đai giáp 100-125 mm (4-5 inch) sàn tàu 35-60 mm (1,5-2,5 inch) tháp súng 25 mm (1 inch) Máy bay: 3 × thủy phi cơ
Suzuya (tiếng Nhật: 鈴谷 suzuya) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp Mogami. Tên của nó được đặt theo tên con sông Suzuya tại khu vực Tohoku, Nhật Bản. Suzuya từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị máy bay Mỹ đánh chìm trong trận chiến ngoài khơi Samar ngày 25 tháng 10 năm 1944. Thiết kế và chế tạo Được chế tạo trong Chương trình Tăng cường Hạm đội 1931, những chiếc trong lớp Mogami được thiết kế bởi Yuzuru Hiraga, và được chế tạo như những tàu tuần dương "hạng nhẹ" theo quy định của Hiệp ước Hải quân Washington; nhưng áp dụng những kỹ thuật mới nhất, trang bị năm tháp pháo đa dụng ba nòng 155 mm (6,1 inch) có góc nâng lên đến 55°. Để giảm trọng lượng, người ta áp dụng kỹ thuật hàn điện, sử dụng nhôm trong chế tạo cấu trúc thượng tầng, và chỉ có một ống khói duy nhất. Kiểu động cơ turbine hộp số mới, cùng với dàn hỏa lực phòng không rất hùng hậu, cho phép chúng có tốc độ rất nhanh và bảo vệ tốt. Chúng tỏ ra khá lớn so với những chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ, và các tháp súng được thiết kế sao cho có thể nhanh chóng chuyển đổi sang kiểu pháo 203 mm (8 inch) nòng đôi. Dù sao, lớp Mogami cũng mắc phải một số vấn đề kỹ thuật do thiết bị chưa được thử nghiệm và trọng lượng bên trên quá nặng tạo ra sự mất ổn định khi đi ngoài biển khơi trong thời tiết xấu. Suzuya được hoàn tất tại Xưởng hải quân Yokosuka vào tháng 1 năm 1936, nhưng được đưa về lực lượng dự bị trong khi chờ đợi có chỗ trống trong ụ tàu để tiến hành cải tạo. Đến năm 1937 cả bốn chiếc trong lớp đều được "cải biến" thành những tàu tuần dương hạng nặng với mười khẩu pháo chính cỡ nòng 203 mm (8 inch); công việc tái cấu trúc và tái trang bị chỉ hoàn tất vào ngày 30 tháng 9 năm 1939. Lịch sử hoạt động Giai đoạn mở màn Thế Chiến II Được phân về Hải đội Tuần dương 7 cùng các tàu chị em với nó Mogami, Mikuma và Kumano, vào đầu năm 1941, từ căn cứ tiền phương của nó ở Hải Nam, Suzuya tham gia vào việc chiếm đóng Nam Kỳ tại Đông Dương sau khi Đế quốc Nhật Bản và chính phủ Vichy đạt được thỏa thuận về việc sử dụng các căn cứ không quân và hải quân tại đây từ tháng 7 năm 1941. Vào lúc diễn ra trận tấn công Trân Châu Cảng, Suzuya được giao nhiệm vụ hỗ trợ cuộc chiếm đóng Malaya trong thành phần Hải đội Tuần dương 7 thuộc Hạm đội Viễn chinh Phương Nam 1 của Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, trực tiếp bảo vệ cho các cuộc đổ bộ quân Nhật lên Singora, Patani và Kota Bharu. Vào ngày 9 tháng 12 năm 1941, tàu ngầm Nhật I-65 báo cáo trông thấy Lực lượng Z của Hải quân Hoàng gia Anh bao gồm chiếc thiết giáp hạm HMS Prince of Wales, tàu chiến-tuần dương HMS Repulse và các tàu khu trục hộ tống. Bản báo cáo này được tàu tuần dương hạng nhẹ Sendai thu được, và chuyển tiếp đến Đô đốc Ozawa lúc đó đang ở trên soái hạm của mình là tàu tuần dương Chokai. Tuy nhiên, việc thu tín hiệu rất kém và bản thân bức thông điệp phải mất thêm 90 phút để giải mã. Hơn nữa, bản báo cáo của I-65 không chính xác về hướng tiến của Lực lượng Z. Hai chiếc thủy phi cơ Aichi E13A1 "Jake" phóng lên từ Suzuya và Kumano dự tính để theo dõi Lực lượng Z, nhưng cả hai đều bị buộc phải đáp xuống biển do hết nhiên liệu, và chỉ có đội bay của Suzuya được cứu vớt. Ngày hôm sau, Lực lượng Z bị áp đảo bởi những máy bay ném bom-ngư lôi của Không đoàn 22 xuất phát từ Đông Dương, và bị tiêu diệt. Vào tháng 12 năm 1941, Suzuya được giao nhiệm vụ chiếm đóng Sarawak, cùng với tàu tuần dương Kumano hỗ trợ cuộc đổ bộ quân Nhật xuống Miri. Từ căn cứ của nó tại vịnh Cam Ranh, nó khởi hành cùng với Kumano để hỗ trợ các cuộc đổ bộ tại Anambas, Endau, Palembang và đảo Banka, Sabang tại Sumatra và Java từ cuối tháng 12 năm 1941 đến giữa tháng 3 năm 1942. Suzuya còn tham gia việc chiếm đóng quần đảo Andaman vào ngày 20 tháng 3 năm 1942. Không kích Ấn Độ Dương Từ ngày 1 tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 đặt căn cứ tại Mergui, Burma hợp cùng Hải đội Tuần dương 4 để tham gia cuộc Không kích Ấn Độ Dương. Mikuma, Mogami và tàu khu trục Amagiri được tách ra để thành lập "Đội phía Nam" với vai trò truy lùng các tàu buôn đối phương trong khu vực vịnh Bengal; trong khi Suzuya, Kumano và tàu khu trục Shiokaze đảm trách các khu vực phía Bắc. Tàu tuần dương Chokai, tàu tuần dương hạng nhẹ Yura thuộc Hải đội Khu trục 4, tàu sân bay Ryujo cùng các tàu khu trục Ayanami, Yugiri và Asagiri hình thành nên đội trung tâm để tăng cường các lực lượng phía Nam hay phía Bắc khi cần thiết. Trong vài tuần sau đó, đội phía Bắc đã đánh chìm tàu buôn Mỹ tải trọng 4.986 tấn Exmoor và các tàu buôn Anh Autoclycus tải trọng 7.621 tấn, Malta 9.066 tấn và Shinkuang 2.440-ton. Tổng cộng Hải quân Nhật đã đánh chìm hơn 20 tàu trong thời gian ở lại ngắn ngủi tại vịnh Bengal. Sau đó, Suzuya được cho rút lui về Kure để sửa chữa, rồi được gửi đến Guam để gia nhập Đội vận chuyển Đổ bộ của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka đang chuẩn bị cho trận Midway. Trận Midway Ngày 5 tháng 6 năm 1942, Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh cho Hải đội Tuần dương 7 tiến hành bắn pháo xuống đảo san hô Midway nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên đảo này. Lúc đó, Hải đội Tuần dương 7 và Hải đội Khu trục 8 còn cách mục tiêu 660 km (410 dặm), nên họ lao đi với tốc độ lên đến 65 km/h (35 knot); và vì biển động nên những chiếc tàu khu trục bị tụt lại. Đến 21 giờ 20 phút, mệnh lệnh bị hủy bỏ. Tuy nhiên, sự di chuyển đã đặt Hải đội Tuần dương 7 vào trong tầm bắn ngư lôi của chiếc tàu ngầm Mỹ USS Tambor, vốn bị tàu tuần dương Kumano phát hiện. Với tư cách soái hạm, Kumano ra lệnh chuyển hướng đồng loạt 45° sang mạn trái để tránh nguy cơ trúng ngư lôi. Mệnh lệnh chuyển hướng khẩn cấp được chiếc soái hạm và chiếc Suzuya thực hiện đúng, nhưng chiếc thứ ba trong đội hình Mikuma đã sai lầm thực hiện chuyển hướng 90°. Phía sau nó, Mogami chuyển hướng 45° như được chỉ thị, và điều này đã dẫn đến việc va chạm, khi Mogami đâm mạnh vào hông chiếc Mikuma bên mạn trái ngay bên dưới cầu tàu, khiến cả hai đều bị hư hại nặng. Suzuya quay trở về Kure vào ngày 23 tháng 6 và Hải đội Tuần dương 7 được điều từ Hạm đội 2 sang Hạm đội 3. Sau khi quay lại Singapore, Hải đội Tuần dương 7 (Suzuya và Kumano) được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc tấn công Miến Điện từ ngày 28 tháng 7 năm 1942. Trong khi di chuyển tại eo biển Malacca, Suzuya bị tàu ngầm O-23 của Hải quân Hoàng gia Hà Lan tấn công với bốn quả ngư lôi nhắm vào nó, nhưng đều bị trượt. Tuy nhiên, với việc lực lượng Mỹ tiến hành đổ bộ lên Guadalcanal vào ngày 7 tháng 8, Suzuya nhanh chóng được gọi đến mặt trận Nam Thái Bình Dương. Các chiến dịch tại quần đảo Solomon Ngày 24 tháng 8 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 gia nhập lực lượng tấn công tàu sân bay của Phó Đô đốc Chuichi Nagumo, bao gồm các tàu sân bay Shokaku, Zuikaku, Zuiho và Ryujo) cùng tàu tuần dương Chikuma ở về phía Đông Bắc Guadalcanal. Trong Trận chiến Đông Solomon diễn ra sau đó, tàu sân bay Mỹ USS Saratoga đã đánh chìm chiếc tàu sân bay Nhật Ryujo; nhưng Suzuya ở quá xa để có thể tham dự vào trận chiến. Sau đó Suzuya tuần tra tại khu vực giữa Truk và quần đảo Solomon cho đến giữa tháng 10. Ngày 26 tháng 10 năm 1942, lực lượng tấn công tàu sân bay của Nagumo lại giáp chiến cùng các tàu sân bay USS Enterprise, USS Hornet, thiết giáp hạm USS South Dakota và tàu tuần dương USS San Juan trong trận Santa Cruz, đánh chìm chiếc Hornet và làm hư hại những chiếc khác. Trận đánh này thuần túy là những cuộc không kích tầm xa, nên một lần nữa Suzuya lại ở quá xa để có thể tham gia chiến đấu trực tiếp. Vào đầu tháng 11, Hải đội Tuần dương 7 được lệnh tăng cường cho Hạm đội 8 của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa tại Shortland, và tham gia bắn phá sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal vào ngày 14 tháng 11. Các tàu tuần dương Suzuya, Maya, Tenryu, Chokai, Kinugasa và Isuzu cùng các tàu khu trục Kazagumo, Makigumo, Michishio, Yugumo, Asashio và Arashio đã bắn phá sân bay Henderson với 989 quả đạn pháo 203 mm (8 inch). Trên đường rút lui, lực lượng đặc nhiệm bị tàu ngầm Mỹ USS Flying Fish tấn công nhưng đều trượt, và sau đó là máy bay cất cánh từ tàu sân bay Enterprise và từ Guadalcanal. Kinugasa bị đánh chìm, Chokai và Maya bị hư hại, riêng Suzuya thoát được mà không bị thiệt hại, và cho đến đầu tháng 1 năm 1943 tiếp tục nhiệm vụ tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải di chuyển giữa Truk, Kavieng và Rabaul. Suzuya quay trở về Kure vào ngày 12 tháng 1 năm 1943 để sửa chữa, và cũng để bổ sung thêm hỏa lực phòng không và một hệ thống radar dò tìm trên không Kiểu 21. Nó quay trở lại Kure một lần nữa vào ngày 6 tháng 4, khi các khẩu súng máy 13 mm nòng đôi được thay thế bằng hai khẩu 25 mm AT/AA Kiểu 96 đa dụng ba nòng. Suzuya rời cảng Yokosuka vào ngày 16 tháng 6 năm 1943 cùng một đoàn tàu vận tải tiếp liệu quan trọng đi đến quần đảo Solomon, và sau đó thực hiện các chuyến đi lại con thoi giữa Truk và Rabaul cho đến cuối năm đó. Vào ngày 18 tháng 7, Suzuya bị những chiếc máy bay ném bom-ngư lôi TBM Avenger của Thủy quân Lục chiến Mỹ đặt căn cứ tại Guadalcanal tấn công ngoài khơi Kolombangara, nhưng thoát được mà không bị thiệt hại. Vào ngày 3 tháng 11, Suzuya cùng với Mogami và Chikuma được cho tách ra từ Rabaul để tiến hành bắn phá vào lực lượng Mỹ vừa mới đổ bộ xuống vịnh nữ hoàng Augusta trên đảo Bougainville Nhưng cuộc nả pháo bị ngăn chặn chặn bên ngoài tầm pháo nhờ hoạt động thắng lợi của Đô đốc Merill, đánh chìm được chiếc Sendai. Suzuya quay trở lại cảng Rabaul vào ngày 5 tháng 11, đúng vào lúc lực lượng Mỹ tung ra đợt tấn công với 97 máy bay xuất phát từ các tàu sân bay USS Saratoga và USS Princeton. Suzuya là một trong số ít tàu hiếm hoi không bị đánh trúng trong trận này. Vào ngày 1 tháng 2 năm 1944, Suzuya hỗ trợ cho cuộc triệt thoái khỏi Truk. Ngày 20 tháng 3 Chuẩn Đô đốc Shiraishi Kazutaka tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 7; và sau đó Suzuya trải qua một đợt tái trang bị tại Singapore vào ngày 24 tháng 3, khi nó được bổ sung thêm tám khẩu súng phòng không nòng đơn 25 mm Kiểu 96. Trận chiến biển Philippine Vào ngày 13 tháng 6 năm 1944, Đô đốc Soemu Toyoda, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh tiến hành Chiến dịch "A-Go" để phòng thủ quần đảo Mariana Islands. Suzuya được phân về "Lực lượng C" của Đô đốc Kurita Takeo cùng với các thiết giáp hạm Yamato và Musashi, các tàu sân bay Zuiho, Chiyoda và Chitose cùng các tàu tuần dương Atago, Takao, Maya, Chokai, Kumano, Chikuma, Tone và Noshiro. Ngày 19 tháng 6, Hạm đội Cơ động Nhật Bản đã tấn công Lực lượng Đặc nhiệm 58 Mỹ ngoài khơi Saipan, nhưng đã phải chịu đựng thiệt hại nặng nề về không lực hải quân trong trận không chiến mà phía Mỹ đặt cái tên lóng là "Cuộc săn vịt trời Mariana vĩ đại". Khi hạm đội Mỹ phản công vào chiều tối ngày hôm sau, lúc 20 giờ 30 phút ngày 20 tháng 6, hai giờ sau khi bị đánh trúng ngư lôi phóng ra bởi máy bay Grumman TBM Avenger từ tàu sân bay USS Belleau Wood, tàu sân bay Hiyo bị nổ tung và chìm. Đêm đó, Suzuya rút lui cùng với phần còn lại của Hạm đội Nhật Bản về Okinawa. Quay trở lại Kure vào ngày 25 tháng 6 năm 1944, Suzuya một lần nữa được tái trang bị. Nó được bổ sung thêm bốn tháp súng ba nòng và 10 tháp súng nòng đơn phòng không 25 mm Kiểu 96, đưa tổng số lên 50 nòng (14×3 và 18×1), cùng các hệ thống radar dò tìm mặt đất Kiểu 22 và dò tìm trên không Kiểu 13. Ngày 8 tháng 8, Suzuya rời Kure quay lại khu vực Singapore và Brunei, tham gia các cuộc huấn luyện hạm đội và tuần tra trong khu vực Singapore-Brunei trong suốt tháng 10. Vào lúc này, hệ thống radar Kiểu 22 Kai 4M được nâng cấp lên loại Kai 4S dùng cho việc kiểm soát hỏa lực. Trận chiến vịnh Leyte Cuối tháng 10 năm 1944, hạm đội Nhật Bản được tập trung tại Brunei nhằm đối phó với mối đe dọa về một cuộc đổ bộ của lực lượng Mỹ lên Philippine. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1944, trong Trận chiến ngoài khơi Samar, Suzuya tấn công vào ba chiếc tàu sân bay hộ tống của Đội Đặc nhiệm 77.4 thuộc Đệ Thất hạm đội, và bị chống cự bởi cuộc tấn công của mười chiếc máy bay ném bom-ngư lôi TBM Avenger, khi một quả bom ném suýt trúng làm hư hại chân vịt bên mạn trái. Đến 10 giờ 50 phút, Suzuya chịu đựng một đợt tấn công khác bởi 30 máy bay xuất phát từ tàu sân bay. Một quả bom ném suýt trúng đích khác đã làm kích nổ quả ngư lôi Long Lance trong ống phóng số 1, làm phát sinh các đám cháy, gây hư hại phòng động cơ bên mạn phải và phòng nồi hơi số 7. Lệnh bỏ tàu được đưa ra lúc 11 giờ 50 phút, và Suzuya bị chìm lúc 13 giờ 22 phút tại tọa độ 11°45.2′N 126°11.2′E. Tàu khu trục Okinami đã vớt được Thuyền trưởng Teraoka cùng 401 thành viên thủy thủ đoàn, trong khi các tàu chiến Mỹ vớt thêm được một số người khác sau đó. Suzuya được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 12 năm 1944.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top