58

Constantinople
Kể từ khi đàm phán bắt đầu, tâm trạng của Abdulmejid I chưa bao giờ tốt. Vừa bị người Nga đe dọa, giờ đây đại diện Áo lại bước vào cuộc chơi.
Mestec là một nhà ngoại giao thuần túy, không hung hăng như Menshikov, và tham vọng của Áo cũng không lớn như của Nga, nên vẫn còn có thể tiếp tục đàm phán.

Abdulmejid I kiên quyết nói: "Thưa Ngài Mestec, yêu cầu của quý quốc quá đáng. Công quốc Moldavia và Công quốc Wallachia đều là phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Đế chế Ottoman, tuyệt đối không thể nhượng lại!"
(Ghi chú: Công quốc Wallachia nằm ở khu vực nam Romania ngày nay; Công quốc Moldavia bao gồm phía bắc Romania, Moldova, và một số vùng của Ukraine hiện tại. )

Tuy nhiên, lời nói này thiếu đi sự tự tin. Làm sao họ có thể cứng rắn khi đồng thời bị cả Nga và Áo nhắm đến?
Đối đầu với một bên, với sự hỗ trợ của Anh và Pháp, họ còn có thể tỏ ra mạnh mẽ. Nhưng đối đầu với cả hai, đừng nói Abdulmejid I nhụt chí, ngay cả Anh và Pháp nếu trực tiếp tham chiến cũng không đủ tự tin.
Việc chia rẽ Nga và Áo trở thành ưu tiên hàng đầu của họ. Nếu không, khi chiến tranh nổ ra, Đế chế Ottoman sẽ gần như sụp đổ hoàn toàn.

Mestec bình tĩnh giải thích: "Thưa Bệ hạ, hai công quốc nhỏ này đâu phải là lãnh thổ cố hữu của quý quốc, chúng chỉ là các quốc gia phụ thuộc mà thôi, tại sao lại không thể chuyển nhượng?
Theo tình hình hiện tại, quý quốc rõ ràng không có khả năng bảo vệ hai công quốc này. Nếu bán cho Đế quốc Áo, quý quốc còn có thể giảm bớt tuyến phòng thủ giáp ranh với Nga."

Giữ thể diện không phải là đặc quyền của nhà Thanh (Trung Quốc), Đế chế Ottoman cũng chẳng kém cạnh. "Chuyển nhượng," "bán," – đây là cách Mestec cố gắng giữ thể diện cho Abdulmejid I.
Dưới ảnh hưởng của văn hóa châu Âu, việc bán đất không phải là vấn đề lớn. Điều này dễ chấp nhận hơn nhiều so với việc đơn thuần cắt nhượng.

Nếu Áo thực sự muốn mua hai công quốc này, Abdulmejid I cũng không ngại bán. Dù sao, khi chiến tranh nổ ra, nơi này cũng không thể giữ được.
Mặc dù hai công quốc này địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ rất phù hợp để phát triển nông nghiệp, nhưng do nằm sát Nga và Áo, người Ottoman hầu như không khai thác gì, bán đi cũng không tiếc.

"Quốc gia của ngài sẵn sàng trả bao nhiêu tiền?" Abdulmejid I hỏi với vẻ kỳ vọng.

Dù sao, có thể thương lượng vẫn tốt hơn là không thể. Dù chỉ để kéo dài thời gian thỏa hiệp, Abdulmejid I cũng quyết định tiếp tục đàm phán với Áo.

Mestec dõng dạc tuyên bố: "Thưa Bệ hạ, chính phủ Áo sẵn sàng chi một trăm triệu shilling!"

Giá này rất có thành ý. Trong thời đại này, những vùng đất chưa được khai phá vốn không đáng giá là bao.

Chưa đợi Abdulmejid I trả lời, Mestec bổ sung thêm: "Tuy nhiên, hiện tại chính phủ Áo đang gặp khó khăn tài chính, không thể thanh toán một lần khoản tiền khổng lồ này. Chúng tôi dự định sẽ trả dần trong vòng một trăm năm."

Trả dần trong một trăm năm? Đây chẳng phải là trò đùa sao? Chưa kể đến lạm phát, với sức mạnh của hai bên, liệu Đế chế Ottoman có khả năng nhận được tiền không?

Bất kỳ ai có chút đầu óc đều hiểu rằng, miệng thì Mestec nói mua, nhưng thực tế là không hề có ý định trả tiền.
Trả góp trong một trăm năm hoàn toàn là một tờ séc khống. Miễn là thời hạn chưa đến, không thể nói Áo vi phạm hợp đồng.

Trong khoảng thời gian dài như vậy, nếu giữa hai nước xảy ra xung đột hoặc thậm chí đánh nhau, thì không cần trả một xu nào.
Cho dù sau một trăm năm nhận được tiền, thì cũng chẳng có ích gì. Một trăm triệu bây giờ có thể mua được hơn hai mươi ngàn km² đất, nhưng sau một trăm năm, liệu có thể mua nổi hai mươi km² hay không còn là một dấu hỏi lớn.

Việc bắt nạt người khác không thể trắng trợn như vậy. Nếu chỉ vì bị đe dọa mà nhượng bộ, chẳng phải là đang thông báo với cả thế giới rằng Đế chế Ottoman đã suy tàn, ai muốn chia cắt di sản cứ đến mà lấy sao?

Abdulmejid I chất vấn: "Thưa Ngài Mestec, ngài không đùa chứ? Toàn thế giới không có vụ làm ăn nào hài hước như thế này!"

Mestec cười mà không nói. Chính phủ Áo vốn không có ý định trả tiền để mua, ông ta đưa ra đề nghị này chỉ để cung cấp cho chính phủ Sultan một tấm màn che mặt.

Thông qua đàm phán để chiếm lĩnh hai công quốc ở lưu vực sông Danube, Mestec không ngây thơ đến mức đó. Nếu dễ dàng như vậy, cần gì phải huy động quân đội?

Đường lối trong nước rất rõ ràng, cứ tùy tiện đàm phán là được. Cho dù có thể đạt được thỏa thuận, cũng không thể ký kết ngay lúc này, nếu không thì vở kịch tiếp theo làm sao diễn?
Nếu hòa giải với Đế chế Ottoman, Áo có nên dừng chuẩn bị chiến tranh không? Nếu dừng lại, mọi nỗ lực trước đó sẽ đổ sông đổ biển; còn nếu không dừng, thảm họa còn lớn hơn, mục tiêu chiến lược sẽ bị lộ.
Lúc đó, các tiểu quốc Nam Đức đều sẽ có sự chuẩn bị, cộng thêm sự can thiệp của các cường quốc, chiến lược tiến về phía Tây gần như sẽ thất bại hoàn toàn.

Để khiến đàm phán rơi vào bế tắc, sau hai công quốc ở lưu vực sông Danube, Mestec lại đưa ra yêu cầu lãnh thổ xa hơn đối với Đế chế Ottoman, một lần chiếm trọn nửa bán đảo Balkan.

Dù Anh và Pháp hết lòng điều giải mâu thuẫn giữa hai bên, kết quả vẫn là vô ích. Tất nhiên, làm trò thì phải làm cho trót, Mestec cũng bắt đầu nhượng bộ từ từ.

Paris
Khi đàm phán tại Constantinople bắt đầu, Paris cũng trở nên náo nhiệt. Cuộc đấu tranh giữa phe Nghị viện và phe Tổng thống đã lên đến đỉnh điểm, không còn cách nào hòa giải được nữa.

Sau thời gian dài chuẩn bị, Louis-Napoleon Bonaparte cuối cùng đã sẵn sàng.

Với sự hỗ trợ của Anh, vào ngày 12 tháng 6 năm 1851, Louis-Napoleon Bonaparte phát động chính biến quân sự tại Paris, cưỡng chế giải tán Nghị viện.
Phe Nghị viện không cam chịu thất bại, tổ chức quân đội phản công, nhưng do bị phản bội mà thất bại. Louis-Napoleon Bonaparte nắm giữ quyền lực tối cao.

Khi tin tức chính biến truyền đến Vienna, Franz không hề ngạc nhiên, dù thời gian chính biến sớm hơn sáu tháng so với dự kiến.
Hiệu ứng cánh bướm đã ngày càng mạnh mẽ, ngay cả nước Pháp cũng bị ảnh hưởng. Hướng đi của thế giới trong tương lai đã trở nên méo mó. Lợi thế của kẻ biết trước đang dần mất đi.

Franz đã có sự chuẩn bị. Sự xuất hiện của ông đã thay đổi vận mệnh của nhiều người, và việc ảnh hưởng đến cục diện thế giới là điều tất yếu.
Sau cuộc chính biến tại Paris, chẳng bao lâu nữa, Louis-Napoleon Bonaparte sẽ phục hồi ngôi vị, và cặp đôi Anh-Pháp sẽ xuất hiện trên sân khấu lịch sử.

Franz không ra tay ngăn chặn. So với Napoleon III, vị quân chủ thích phô trương này không quá khó đối phó.
Nền tảng của nước Pháp rất vững chắc, việc xuất hiện một vị quân chủ thích gây rối không đáng sợ. Nhưng nếu xuất hiện một vị quân chủ thích "trồng trọt" (phát triển kinh tế), đó mới là thảm họa thực sự đối với Áo.
Đế chế cho vay nặng lãi cứ tiếp tục cho vay đi, còn việc phát triển công nghiệp, Áo sẽ đảm nhận thay.

Sau chính biến tại Paris, áp lực từ Anh giảm đi đáng kể. Với Pháp làm tay sai, tiếng nói của họ trong ngoại giao châu Âu càng trở nên quan trọng.

Abdulmejid I là người cảm nhận sâu sắc nhất. Sự hỗ trợ từ Pháp đã tăng cường, Napoleon III sắp phục hồi đã cử sĩ quan quân sự đến giúp huấn luyện quân đội Đế chế Ottoman.

Tuy nhiên, sự hỗ trợ này vẫn chưa đủ để thay đổi tình thế bất lợi hiện tại. Theo thời gian, thái độ của đại diện Nga, Công tước Alexander Menshikov, ngày càng trở nên cứng rắn hơn.

Không gọi là đàm phán, mà đúng hơn là người Nga đưa ra điều kiện, để chính phủ Ottoman chọn: chấp nhận, hoặc chiến tranh.

Người Nga dường như đã sẵn sàng cho chiến tranh. Ngày 23 tháng 7 năm 1851, cuộc đàm phán Anh-Nga tại St. Petersburg thất bại do sự khác biệt quá lớn trong lập trường của hai bên. Cuộc Chiến tranh Nga-Thổ mới đã bước vào giai đoạn đếm ngược. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #history