Phần 3 (58-80)
Quyển2: THÁI TỬ DUYỆT THẦNChương 58
Một thoáng kinh hồng trên đường Thần Võ (1)
*Tiện thể nhắc lại: Một thoáng kinh hồng (惊鸿一瞥): ý chỉ những người hay sự vật, chỉ cần thoáng nhìn một cái thôi đã để lại trong lòng những ấn tượng mãnh mẽ, khó phai.
Nhát kiếm này đâm tới, xuyên thủng tim yêu ma, giết nó ngay dưới đất.
"Hàng yêu phục ma, quan trời ban phúc!"
Hai bên đường Thần Võ, tiếng ồn ào hệt như sóng biển, sóng sau cao hơn sóng trước. Trước cổng lớn màu son của hoàng cung, trong lúc viên tràng*, hai đạo nhân đóng vai thần tiên và yêu ma xoay người thi lễ khắp bốn phía, sau đó khom người lùi sang hai bên. Mới vừa xem xong trận đấu võ hâm nóng, bầu không khí giữa chúng dân tăng vọt, chẳng những người người chen lấn chật như nêm cối hai bên đường, ngay cả trên nóc nhà cũng bò đầy khán giả to gan, nào vỗ tay, nào hò hét, nào hoan hô, nào khoa chân múa tay, ai ai cũng vui hết sức mình.
*Viên tràng: Diễn viên đi thành vòng tròn trên sân khấu để thể hiện sự chuyển cảnh.
Rầm rộ như thế, phải nói là muôn người đổ xô ra đường. Trong lịch sử nước Tiên Lạc, nếu muốn bàn về buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời nào được xưng là vô tiền khoáng hậu, vậy nhất định là hôm nay rồi!
Trên đài cao là hàng loạt vương công quý tộc mặt ngọc áo gấm, mặt mày ai nấy cũng mang nụ cười mỉm đúng mực, nhìn xuống bên dưới. Trong hoàng cung, một hàng dài mấy trăm người yên lặng chờ ở đó. Tiếng chuông vang lớn, quốc sư vuốt chòm râu dài không hề tồn tại, hô lên: "Võ sĩ mở đường!"
"Có!"
"Ngọc nữ!"
"Có!"
"Nhạc sư!"
"Có!"
"Đội kỵ mã!"
"Có!"
"Yêu ma!"
"Có."
"Duyệt Thần Võ Giả!"
Không ai trả lời. Quốc sư nhướn mày, phát hiện có gì đó không ổn, bèn quay đầu hỏi: "Duyệt Thần Võ Giả? Thái tử điện hạ đâu?"
Vẫn không ai trả lời, mà "yêu ma" khi nãy vừa đáp lời ngừng một lát rồi tháo tấm mặt nạ mặt xanh nanh vàng xuống, để lộ gương mặt thanh tú trắng ngần.
Thiếu niên này ước chừng mười sáu mười bảy tuổi, màu da và sắc môi đều nhợt nhạt, sạch sẽ, đôi mắt tựa như hai viên đá hắc diệu sáng lấp lánh, sợi tóc mềm mại, vài sợi cực mảnh vương rải rác trên trán và gò má, thoạt nhìn bình tĩnh mà lanh lợi, tạo sự đối lập rõ ràng với tấm mặt nạ yêu ma dữ tợn trong tay hắn.
Đá hắc diệu, tiếng Anh là Obsidian, còn gọi là đá vỏ chai hay đá thủy tinh núi lửa, thường có màu đen. Nó được tạo ra khi dung nham felsic phun trào ra từ núi lửa và nguội lạnh nhanh nên bên trong nó có các tinh thể rất nhỏ.
Hắn nói khẽ: "Thái tử điện hạ đi rồi."
Quốc sư suýt thì ngất xỉu.
Tốt xấu gì cũng nhớ rằng đại sự trước mắt không thể ngất, quốc sư ráng chống giữ, hỏi bằng giọng sợ vỡ mật: "Cái gì?! Sao lại đi rồi?! Điện hạ đi lúc nào?! Đội nghi trượng sắp ra khỏi đường cửa cung (con đường dẫn đến cửa cung), đài hoa kéo ra ngoài mà chỉ thấy yêu ma không thấy thần tiên, mỗi người nhổ một bãi nước bọt thì cái thân già này của ta bơi ra không nổi đâu! Mộ Tình, sao con không ngăn lại?!"
Mộ Tình cúi đầu đáp: "Trước khi đi Thái tử điện hạ có nhờ con chuyển lời, nói rằng không cần phải lo, tất cả trình tự cứ tiến hành như cũ là được, huynh ấy sẽ lập tức tới ngay."
Quốc sư lòng như lửa đốt, hỏi: "Thế này làm sao mà không lo cho được? Cái gì mà lập tức tới ngay? Lập tức là lúc nào? Ngộ nhỡ không đến kịp thì tính sao?"
Bên ngoài đường cửa cung, dân chúng chờ mấy canh giờ từ sáng sớm đến hiện tại đã không kiềm chế được nữa, đua nhau hô to thúc giục. Một đạo nhân hối hả đi tới, nói: "Quốc sư đại nhân, hoàng hậu phái người đến hỏi ngài, sao đội nghi trượng vẫn chưa xuất phát? Giờ lành sắp đến, nếu không xuất phát sẽ lố giờ mất."
Nghe xong, quốc sư chỉ cầu mong đột nhiên có phản quân tấn công vào thành ngay bây giờ, phá nát buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời này cho xong.
Thế mà lại xảy ra rắc rối vào thời khắc chết người này!
Nếu kẻ gây rắc rối là người khác, quốc sư đã sớm nổi trận lôi đình, cầm kiếm giết người cũng chẳng lạ, thế nhưng người đó lại là đồ đệ cưng mà lão hài lòng nhất, là con trai cưng tôn quý nhất nhất của nhà người ta. Đánh không được, mắng không xong, giết càng miễn bàn. Thay vì giết y, chi bằng tự sát cho rồi!
Đúng lúc này, một người băng qua đường cửa cung đen thui, cắm đầu chạy thẳng vào hoàng cung, cất cao giọng hỏi: "Quốc sư đại nhân, sao còn chưa phát lệnh ra cửa? Sắp lố giờ rồi, mọi người ở ngoài chờ sốt ruột rồi đấy!"
Người vừa đến cũng là một thiếu niên mười sáu mười bảy tuổi, dáng người thẳng tắp, thân hình cao ngất, da màu lúa mạch, lưng đeo một cây cung dài màu đen và ống đựng tên gắn lông vũ. Môi hắn mím chặt, chân mày cau lại, tuy nhỏ tuổi nhưng ánh mắt vô cùng cương nghị. Vừa thấy thiếu niên nọ, quốc sư túm lấy hắn, hỏi: "Phong Tín! Thái tử điện hạ nhà con đâu!"
Phong Tín sửng sốt, sau đó như hiểu ra chuyện gì, trong mắt nhen nhóm lửa giận, căm tức nhìn Mộ Tình bên cạnh, còn Mộ Tình chẳng nói chẳng rằng đeo mặt nạ yêu ma lên lại, không thấy rõ nét mặt. Phong Tín trầm giọng đáp: "Bây giờ không có thời gian giải thích với ngài! Lập tức xuất phát đi, Thái tử điện hạ sẽ không để ngài thất vọng đâu!"
Không còn cách nào khác. Đài hoa kéo ra ngoài mà không có Duyệt Thần Võ Giả là tiêu đời, rề rà không ra làm lỡ giờ lành cũng tiêu luôn. Quốc sư phất tay một cách tuyệt vọng, nói: "Tấu nhạc, xuất phát!"
Tuân lệnh quốc sư, sênh tiêu đàn sáo cùng vang lên. Hàng dài đội dẫn đầu, một trăm võ sĩ hoàng gia đồng thanh hét to, bắt đầu sải bước, dẫn đội nghi trượng oai vệ xuất phát.
*Tiêu là một loại nhạc cụ có dạng ống trụ tròn như sáo trúc, nhưng khi sử dụng lại để theo phương dọc và thổi dọc theo thân ống. Tiêu thường to và dài hơn sáo, do đó âm thanh của nó trầm và mộc mạc hơn.
Còn đây là cái sênh
Chiến sĩ phía trước, tượng trưng cho việc vượt mọi chông gai trên đường đời. Nối gót ngay phía sau là một thiếu nữ đồng trinh được chọn trong vạn người, xinh đẹp thanh tao, tay trắng cầm giỏ, thiên nữ rải hoa, rơi rớt thành bùn, nghiền thành bụi thơm mà vẫn ngát hương như cũ. Các nhạc sư ngồi ngay ngắn trên xe vàng được chế tạo bằng vàng ròng. Đoàn người vừa ra khỏi đường cửa cung đã làm dấy lên từng hồi tán thán, chúng dân tranh nhau cướp hoa. Có điều, dẫu những thứ này có hoa lệ, phô trương, long trọng nhường nào, chẳng qua cũng chỉ làm nền cho màn kịch chính mà thôi. Đài hoa, đài hoa sau cùng đã sắp ra rồi.
Đài hoa kéo bởi mười sáu con ngựa trắng cương vàng băng qua đường cửa cung tĩnh mịch, chậm rãi xuất hiện trước mắt vạn người. Trên đài, một yêu ma mặc áo đen, đầu đội mặt nạ dữ tợn, đeo một thanh đao trảm mã (tên một loại binh khí thời Hán) dài chín xích ngang trước người, làm động tác rút mạnh ra.
Đao trảm mã
Trái tim quốc sư thắt lại, ngóng chờ kỳ tích xuất hiện. Nhưng mà, kỳ tích không hề xuất hiện. Đoàn người nhao nhao ồ lên. Trên lầu cao, nhóm vương công quý tộc khẽ nhíu mày, đưa mắt nhìn nhau, rối rít hỏi: "Xảy ra chuyện gì vậy? Sao Duyệt Thần Võ Giả không ở trên đài?"
"Thái tử điện hạ không tới sao?"
"Liên ca ca đâu?"
Trong lầu cao, một người đàn ông khôi ngô tuấn tú và một phu nhân cao quý da dẻ trắng mịn, mặt mũi thanh nhã đang ngồi ngay ngắn, chính là quốc vương và hoàng hậu của nước Tiên Lạc. Chưa thấy người cần đến xuất hiện, hoàng hậu lo lắng nhìn sang quốc vương bên cạnh. Quốc vương cầm tay bà, dùng ánh mắt trấn an, tỏ ý cứ yên lặng theo dõi tình hình, không cần lo lắng. Tiếc rằng sóng người ở hai bên đường phía dưới lại chẳng ai chịu yên, càng kêu càng hung hãn, tiếng la hét như muốn lật tung cả nóc cung. Quốc sư chỉ hận mình không đủ can đảm tự sát ngay tại chỗ, còn Mộ Tình trên đài hoa lại bình chân như vại, không có đối thủ vẫn chẳng hề qua quýt, tự hoàn thành nhiệm vụ của mình, thanh đao dài "keng" một tiếng, cắm mạnh xuống đất, dựng dọc trước người.
Giữa bầu không khí đìu hiu, thiếu niên áo đen hoàn thành phần mở màn với tư cách là "yêu ma" một cách đủ khí thế.
Nhìn mặt mũi và thân hình, Mộ Tình gầy yếu thanh tú như một thư sinh nho nhã, nhưng mà, thanh đao nặng trịch dài tận chín xích kia lại vung nhẹ tênh trong tay hắn, như thể hoàn toàn không có sức nặng. Mười mấy đạo nhân đóng vai người phục ma lần lượt nhảy lên đài, rồi lại lần lượt bị Mộ Tình đánh ngã, đuổi xuống đài. Nói một cách công bằng, bóng đao trùng điệp, Mộ Tình đánh cũng hết sức đẹp mắt và xuất sắc, thế nên cũng có vài người reo hò ủng hộ hắn. Chỉ là, phần lớn người nào phải đến xem cái màn "yêu ma hại người" này, la hét tới tấp: "Duyệt Thần Võ Giả đâu?!"
"Thái tử điện hạ đâu rồi?"
"Chúng ta muốn xem Thái tử điện hạ đóng vai Thần Võ Đại Đế! Yêu ma xuống đi!"
Trên lầu cao, một giọng nói tức giận hỏi: "Biểu ca của ta đâu? Làm cái quái gì thế kia? Ai muốn xem mấy trò này? Mẹ kiếp, Thái tử biểu ca của ta đâu?"
Không cần nhìn cũng biết, kẻ hét lớn tiếng nhất đó, tất nhiên là Tiểu Kính Vương, Thích Dung. Quả nhiên, rất nhiều người đồng loạt ngẩng đầu lên, chỉ thấy một thiếu niên đeo vòng cổ mặc áo gấm xanh nhạt xông đến rìa lầu cao, phẫn nộ vung nắm đấm xuống phía dưới. Thiếu niên này chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi, mặt trắng mày đen, khá là sáng sủa bắt mắt, có điều sắc mặt đằng đằng sát khí, như thể sắp trèo qua lan can nhảy xuống đánh người. Nhưng vì lầu này rất cao, nhảy xuống không chết cũng té gãy chân, thế là gã tiện tay vớ lấy một chén trà bạch ngọc, ném xuống dưới.
Chén trà bay nhanh về hướng sau ót của yêu ma, mắt thấy yêu ma sẽ bị đập chết ngất tại chỗ, máu tươi giàn giụa, nào ngờ yêu ma khẽ nhích người, đao dài hất nghiêng, dùng mũi đao đỡ lấy chén trà.
Chén trà run run đứng vững trên mũi đao, khơi lên một tràng tiếng vỗ tay tán thưởng. Mộ Tình lại hất đao lên, chén trà bay xuống, được một đạo nhân dưới đài tiếp lấy, còn hắn thì thong dong đóng tiếp vai yêu ma của mình, múa đao, chém người. Thích Dung nổi giận, còn định ném tiếp thì bị hoàng hậu cho người lên kéo xuống, bấy giờ khó khăn lắm mới kéo gã xuống được. Nhưng mà, sắc mặt của chư vị hoàng tộc cũng từ từ đanh lại, có chút đứng ngồi không yên.
Duyệt Thần Võ Giả đột nhiên biến mất ngay trước buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời nào phải chuyện hay ho gì cho cam!
Đúng lúc này, một cơn bão hò reo bùng nổ trong đám người, thanh thế lớn hơn bất cứ trận hò reo nào trước đó. Chỉ thấy một bóng hình trắng như tuyết từ trên trời giáng xuống, hạ cánh ngay trước mặt yêu ma áo đen!
Người nọ đáp xuống đất, từng lớp áo trắng trải thành hình một đóa hoa đồ sộ trên đài hoa, tấm mặt nạ vàng che khuất khuôn mặt. Y một tay cầm kiếm, tay còn lại búng nhẹ lên mũi kiếm lạnh giá, "keng" một tiếng, nghe rất êm tai. Động tác này vô cùng ung dung nhàn nhã, tựa như hoàn toàn không xem yêu ma áo đen trước mặt ra gì. Yêu ma chậm rãi chĩa mũi đao về phía y, Võ Giả áo trắng chậm rãi đứng dậy.
Thích Dung nhìn mà hai mắt lóe sáng, sắc mặt đỏ lên, nhảy bật dậy la lớn: "Thái tử biểu ca! Thái tử biểu ca tới rồi!!!"
Trên lầu, dưới lầu, ai nấy cũng trố mắt nghẹn họng.
Màn lên sân khấu này, phải nói là hệt như thiên nhân giá lâm, vô cùng gan dạ!
Lầu cổng thành này cao ít nhất cũng mười mấy trượng, Thái tử điện hạ thân thể đáng ngàn vàng, không ngờ lại nhảy thẳng từ trên lầu cổng thành xuống. Vừa rồi trong nháy mắt, vô số người đã tưởng rằng thật sự là thần tiên hạ phàm, lúc này mới phản ứng kịp, không khỏi máu nóng sục sôi, da đầu tê rần, cố sức vỗ tay. Thích Dung vừa la lối vừa đi đầu vỗ tay nhiệt liệt, hét khàn cả giọng, vỗ đến nỗi hai tay đỏ gay. Quốc vương và hoàng hậu mỉm cười nhìn nhau, rồi cũng vỗ theo. Nhóm hoàng tộc còn lại cũng giãn chân mày, thở phào nhẹ nhõm, cùng vỗ tay khen ngợi. Hai bên đường Thần Võ như có triều cường cuồn cuộn, hàng trăm hàng ngàn trai tráng kích động đến mức hận không thể phá tan đám võ sĩ cản đường để xông lên ẵm người tung hô mới vừa lòng.
Trên đài hoa, một đen một trắng, hai bóng người đứng đối diện, thần tiên và yêu ma đều phẩy binh khí, cuối cùng cũng vào màn đối đầu.
Mắt thấy rốt cuộc người cũng đến kịp, trái tim thấp thỏm của quốc sư thả lỏng, bấy giờ mới bước lên lầu cao. Sau khi gật đầu một lượt với các vị đồng liêu bốn phía, quốc sư mới tìm vị trí của mình, ngồi xuống xem. Quốc vương cười hỏi: "Quốc sư, sao ngươi nghĩ ra được màn lên đài kinh thế hãi tục quá vậy? Quả thật rất ngoạn mục."
*Kinh thế hãi tục: khiến người thường cảm thấy kinh hãi, nôm na là gây sốc.
Quốc sư lau mồ hôi, cười đáp: "Đúng là ngoạn mục vô cùng. Có điều kể ra cũng sợ, cái này không phải do tiểu thần nghĩ ra, hẳn là chủ ý của Thái tử điện hạ."
Hoàng hậu lại vỗ vỗ ngực, nói: "Thằng nhóc này đúng là làm ẩu, vậy mà không nói trước một tiếng, nhảy xuống từ chỗ cao như thế, ta sợ đến mức suýt đứng dậy luôn."
Quốc sư không khỏi ngầm tự hào, đáp: "Hoàng hậu nương nương, người cứ yên tâm, Thái tử điện hạ ấy hả, võ nghệ tuyệt đỉnh, đừng nói chỉ cao mười mấy trượng, dẫu cho là lầu cổng thành cao gấp bội, ngài ấy nhắm mắt cũng có thể lên xuống dễ như chơi."
Hoàng hậu tỏ vẻ vui mừng, ôn tồn đáp: "Quốc sư biết cách dạy dỗ."
Quốc sư cười ha ha: "Nào có nào có. Thái tử điện hạ là thiên chi kiêu tử, thiên phú dị bẩm, thiên tư hơn người, thiên hoàng quý trụ (hậu duệ của hoàng tộc), chúng tiểu thần có thể dạy dỗ điện hạ đúng là phước đức ba đời. Tiểu thần có dự cảm, có Thái tử điện hạ trấn giữ, hôm nay chắc chắn sẽ là màn võ Duyệt Thần tế trời đặc sắc nhất."
Quốc sư nói liên tục bốn chữ "Thiên", trôi chảy miễn chê, quốc vương nở nụ cười, quay đầu lại nhìn, nói: "Chỉ mong là thế."
Trong buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời này, Duyệt Thần Võ Giả và Yêu Ma Võ Giả chính là hai nhân vật quan trọng nhất. Cả hai nhất định phải là thiếu niên tinh thông võ nghệ. Nhất là Duyệt Thần Võ Giả, áo mũ có hình dạng và cấu tạo nghiêm ngặt, lộng lẫy phi phàm, sau khi trang bị xong xuôi, trang phục và đạo cụ từ đầu đến chân thường nặng tới bốn năm chục cân. Trước muôn người dõi theo, Võ Giả phải gánh sức nặng này diễu quanh hoàng thành mấy vòng, còn phải hoàn thành ít nhất hai canh giờ biểu diễn võ nghệ, trong lúc đó không được phép mắc bất cứ sai lầm nào, thế chẳng phải nhất định cần có võ nghệ siêu phảm sao?
Cũng may, hai thiếu niên này đều cực kỳ xuất sắc. Ánh đao bóng kiếm, ngươi đến ta đi, càng đấu càng đã mắt, lại rất có chừng mực, coi bộ đã luyện tập vô số lần. Quốc vương hỏi: "Người đóng vai yêu ma đánh nhau với Thái tử là ai thế?"
Quốc sư ho nhẹ một tiếng, đáp: "Bẩm bệ hạ, đó là một đạo sĩ ở Hoàng Cực quán, tên là Mộ Tình."
Hoàng hậu dịu dàng nói: "Ta thấy đứa trẻ này đánh không tệ, chỉ yếu hơn hoàng nhi một chút, chắc không kém Phong Tín là bao nhỉ?"
Nghe vậy, quốc sư ra chiều không đồng ý. Thích Dung vẫn nằm sấp trên đầu gối hoàng hậu ăn nho vội nhổ một bãi nước bọt lẫn vỏ nho, nói: "Phì phì phì! Không đúng không đúng! Không phải một chút nửa chút mà là kém xa, đâu phải hạng người gì cũng so với Thái tử biểu ca được!"
Nghe vậy, hoàng hậu mỉm cười xoa đầu Thích Dung, một đám quý tộc cũng cười ngặt nghẽo, trêu chọc: "Dung nhi đúng là quấn biểu ca của nó gớm nhỉ, một ngày không khen thì khó chịu cả người."
Giữa biển người bên dưới, tiếng hét to chọc thủng cả bầu trời: "Đánh! Đánh nó! Đánh chết nó!"
"Giết yêu ma!"
Làn sóng hò hét mỗi lúc một mãnh liệt. Thích Dung cũng nằm trong số đó, gã khép hai tay đặt bên miệng, làm bộ như kèn đồng, cười ha ha nói: "Thái tử biểu ca, lên đi! Huynh dùng một tay là đủ đánh gục nó rồi, cho thằng ranh đó biết tay đi!"
Bỗng nhiên, yêu ma trên đài chém một nhát đao, Võ Giả dùng kiếm chặn lại, thế rồi "hở?" một tiếng.
Theo lý mà nói, trong buổi diễu hành tế trời, tỷ võ chỉ để duyệt thần (làm vui lòng thánh thần) và biểu diễn, nhiều nhất chỉ dùng bảy phần sức, đến điểm là ngừng. Nhưng sau khi y đỡ nhát đao đó, kiếm trong tay suýt nữa văng ra. Rõ ràng nhát đao vừa rồi, đối phương đã dùng mười phần sức.
Tạ Liên khẽ ngẩng đầu, cất cao giọng gọi: "Mộ Tình?"
Thiếu niên đóng vai yêu ma đối diện vẫn không nói tiếng nào, lại chém tiếp một nhát. Tạ Liên không có thời gian nghĩ nhiều, "keng keng", "keng keng" đỡ mấy nhát đao, nghĩ bụng: "Thế này thú vị hơn nhiều so với giả vờ đánh nhau ban nãy." Cứ thế, tinh thần phấn chấn lên hẳn, hứng thú cũng trỗi dậy.
Vậy là, tiếng reo hò long trời lở đất, binh khí tóe lửa khắp nơi. Trên đài đánh càng kịch liệt, dưới đài hô hào vang như sấm. Chợt nghe một tiếng kiếm rít, ánh sáng trắng lóa mắt, mọi người "a!" một tiếng, nín thở. Ra là, thanh đao dài chín xích của yêu ma vừa bị thanh trường kiếm của mỏng manh của Duyệt Thần Võ Giả đánh bay, tuột khỏi tay, ghim thẳng vào cột đá ở bên cạnh đài cao. Có kẻ lắm chuyện thử rút đao, song dùng sức chín trâu hai hổ cũng chẳng xi nhê chút nào, thế là không khỏi sửng sốt: "Đao gì thế này, vậy là phải mạnh nhường nào!"
Mà trên đài hoa, Duyệt Thần Võ Giả phẩy trường kiếm, lại búng nhẹ lên mũi kiếm một cái. Một tiếng "keng" trong trẻo vang lên, một tiếng cười khẽ truyền đến sau tấm mặt nạ vàng.
Tạ Liên nói bằng giọng vừa ung dung vừa vui vẻ: "Đánh không tệ. Nhưng mà, ngươi vẫn thua rồi."
Yêu ma mất binh khí, khuỵ gối dưới đất, lặng thinh không đáp, tay siết chặt thành đấm. Trong tiếng hoan hô khắp bốn phương tám hướng, Tạ Liên múa kiếm một vòng, đang định đâm nhát cuối cùng "diệt trừ" yêu ma, nào ngờ đúng vào lúc này, tiếng thét thói tai vang khắp phía trên!
Tạ Liên giật mình, thu kiếm rồi ngước đầu lên, chỉ kịp thấy rõ một bóng người mờ ảo rơi nhanh xuống từ trên tường thành.
Trong phút chốc, Tạ Liên chẳng kịp nghĩ gì, nhanh như điện xẹt, nhún chân một cái, tung người bật nhảy, nhẹ nhàng lướt lên trên.
Y phóng người lên, hai tay áo tung bay như cánh bướm, ung dung đáp xuống đất, mềm mại tựa lông vũ trắng. Vòng tay ôm vững một người, chân cũng giẫm chắc dưới đất, Tạ Liên thở phào một hơi, bấy giờ mới cúi đầu nhìn.
Trong lồng ngực, một đứa trẻ mặt quấn đầy băng vải, toàn thân bẩn thỉu đang cuộn mình trong khuỷu tay của y, ngơ ngác nhìn y.
Chương 59
Một thoáng kinh hồng trên đường Thần Võ (2)
Đứa bé này ước chừng chưa đầy bảy tám tuổi, quả là một đứa vừa gầy gò vừa nhỏ con. Ngã xuống từ nơi cao như thế, thân thể nhỏ bé của nó run cầm cập trong cánh tay của Tạ Liên, tựa như con non mới sinh của loài động vật nào đó. Nhưng mà, từ khe hở của đống băng vải quấn loạn xạ đầy đầu, một con mắt đen to tròn lộ ra, trong mắt phản chiếu một bóng hình trắng như tuyết, cứ nhìn chằm chằm Tạ Liên không chớp mắt, như thể chẳng còn thấy bất cứ thứ gì khác.
Chỉ nghe bốn phương tám hướng dấy lên từng đợt tiếng hít hơi lạnh, Tạ Liên khẽ ngước đầu, trái tim bỗng dưng chùng xuống. Bởi vì, khóe mắt y bỗng liếc thấy một vật màu vàng rơi dưới mặt đất ở phía trước cách đó không xa.
Mặt nạ vàng ròng che khuất gương mặt của y, rớt rồi.
Tạ Liên đáp xuống chính giữa đường Thần Võ, đội ngũ danh dự ở phía sau cách y mấy trượng, vẫn chưa diễu hành đến chỗ này. Biến cố đột ngột xảy ra, nhịp bước vững chãi của các võ sĩ bị sự cố thình lình nảy sinh này quấy rối, các ngọc nữ rải hoa cũng tỏ vẻ hốt hoảng, xe vàng ngừng lại, vài con ngựa trắng cao lớn giương vó cất tiếng hí, giữa tiếng sênh tiêu đàn sáo bỗng vang lên vài âm rối loạn. Có người đi, có người dừng, không thể mau chóng thống nhất bước tiến, dường như tình cảnh sắp rời tầm kiểm soát. Chúng dân hai bên đường nhất thời chưa kịp phản ứng, quốc vương Tiên Lạc trên lầu cao lại đứng phắt dậy, nhìn bóng dáng của con trai, sắc mặt âu lo mà nặng trĩu.
Quốc vương vừa đứng lên, nhóm vương công quý tộc còn lại nào dám ngồi? Ai cũng lũ lượt đứng dậy, hớt hơ hớt hải. Mông quốc sư vừa ngồi ấm ghế giờ lại lạnh, lão đang rối rít cân nhắc liệu có nên tức khắc quỳ gối cúi rạp đầu tự trách không, Thích Dung đã nhảy lên lan can, xắn tay áo lên, tức giận nói: "Lại sao thế? Xảy ra chuyện gì? Sao đội ngũ loạn hết vậy? Đám vô dụng này đang làm gì đấy? Các ngươi ăn cơm chùa hay sao mà cả ngựa cũng kéo không xong hả?!"
Sắc mặt hoàng hậu tái mét, hai hàng lông mày khẽ chau, vội vàng cho người kéo Thích Dung xuống. Mắt thấy chúng dân bắt đầu loáng thoáng có chiều hướng gây rối, một cuộc đại loạn sắp sửa nổ ra, đúng lúc này, Tạ Liên thình lình đứng dậy.
Mọi khi, Thái tử điện hạ cao quý đều núp sâu trong hoàng cung, hoặc ẩn mình trong đàn trường hoàng gia tĩnh tu, hầu như không có bất cứ dịp nào xuất đầu lộ diện trước dân chúng. Đây xem như là lần đầu tiên trước nay chưa từng có, vì thế chúng dân không khỏi bị y thu hút, đồng loạt nhìn sang. Vừa mới nhìn, bọn họ lại chẳng kiềm được mà nín thở. Chỉ thấy thiếu niên nọ mắt ngọc mày ngài, tuấn tú tột bậc, toàn thân chói sáng, rực rỡ loá mắt, khiến người ta không dám nhìn gần. Thiếu niên nọ một tay bế đứa bé, tay còn lại chậm rãi nâng kiếm, chỉa lên đài hoa.
Thấy động tác đó, yêu ma vốn dĩ đang đứng trên đài quan sát tình hình bên dưới khựng lại chốc lát rồi bất chợt bật gót chân.
Chúng dân hoảng hốt kêu lên, bóng dáng của yêu ma hệt như một áng mây đen, vút qua giữa không trung, phóng lên cây cột mà vừa rồi thanh đao tuột ra cắm vào. Hắn cầm chuôi đao, rút nó ra kéo theo đá vụn từ khe nứt, sau đó xoay người bật nhảy, đáp xuống giữa đường, ngay trước mặt Võ Giả.
Thấy hắn lập tức hiểu ý mình, đến đây phối hợp, Tạ Liên thấp giọng khen một tiếng: "Mộ Tình giỏi!"
Lần này, cả Duyệt Thần Võ Giả và yêu ma đều xuống đài. Một đen một trắng, một đao một kiếm, cuối cùng cũng chạm trán lần hai. Chúng dân máu nóng sục sôi, rồi lại bắt đầu nhốn nháo lần nữa. Trên lầu cao, sắc mặt nhóm quý tộc đồng loạt giãn ra, rốt cuộc trông cũng khá hơn một chút.
Yêu ma làm bộ muốn chém đứa bé mà Võ Giả bế trong ngực, hai tay cầm đao, đao dài bổ ngang về phía Tạ Liên. Hai người giả vờ so vài chiêu, đánh qua đánh lại, cuối cùng phi thân trở về trên đài hoa. Thừa dịp mọi người dời sự chú ý, Phong Tín lăn một vòng qua đường, túm chiếc mặt nạ, sau đó vọt vào đội nghi trượng, thấp giọng quát: "Đừng loạn vị trí! Đừng có loạn! Tiếp tục đi xem như chưa xảy ra gì hết! Đi nốt vòng này rồi về cung!"
Những người trong đội nghi trượng vội vàng kiềm nén cảm xúc, mạnh ai người nấy tự trở về vị trí, vực lại tinh thần. Còn bên kia, vừa về trên đài, thế tấn công của Mộ Tình càng mạnh hơn, Tạ Liên "keng keng" đỡ vài nhát đao, lúc này, chợt nghe đứa bé trong ngực "á" một tiếng, xem ra bị cuốn vào ánh đao bóng kiếm nên sợ xanh cả mặt. Tạ Liên dùng tay trái ôm chặt đứa bé, trầm giọng nói: "Đừng sợ!"
Nghe vậy, đứa bé níu chặt áo ngay ngực Tạ Liên. Tạ Liên dùng một tay bế nó, tay còn lại sử dụng kiếm, thành thạo có thừa. Đánh một hồi, y phát hiện đứa bé trong ngực lại run rẩy giơ tay lên ôm chặt vai mình như ôm một cọng rơm cứu mạng, bèn nói: "Không sao đâu, sẽ không có thứ gì làm đệ bị thương đâu."
Nói xong, y khẽ quát một tiếng: "Mộ Tình!"
Yêu ma đối diện gật đầu một cái khó mà phát hiện, Tạ Liên đâm một nhát kiếm tới.
Thế là trước muôn người dõi theo, rốt cuộc Duyệt Thần Võ Giả cũng đâm xuyên tim yêu ma, giết nó tại chỗ!
Mộ Tình đeo mặt nạ yêu ma, bụm "vết thương", lảo đảo lùi về sau vài bước, giãy dụa chốc lát, cuối cùng "rầm" một tiếng ngã xuống đất, không nhúc nhích nữa.
Thích Dung ở trên lầu cười há há, vỗ tay nói: "Chết rồi! Chết rồi! Thái tử biểu ca giết chết yêu ma quỷ quái rồi!"
Cùng lúc đó, đội ngũ diễu hành tế trời oai vệ tiếp tục tiến lên, đua nhanh về phía hoàng cung, đã làm hết phần việc cuối cùng, chuẩn bị bước vào đường cửa cung. Bởi cứu chữa kịp thời, tình tiết lại gây kích thích, đoạn nhạc đệm ngoài ý muốn ban nãy chẳng những không làm chúng dân oán trách mà trái lại còn khiến bọn họ hăng máu hơn. Vô số người hô "Điện hạ", hô "Thần tiên", hàng ngàn hàng vạn người bám theo sau đài hoa, đồng loạt ào về hướng hoàng cung. Vài vị tướng sĩ không thể không phái thêm số lượng võ sĩ và binh sĩ nhiều gấp mấy lần đi chặn đám dân chúng phấn khích quá độ này. Tiếc rằng, cuối cùng vẫn không cản nổi, sóng người phá vỡ phòng tuyến, chen nhau ùa lên.
Quốc vương Tiên Lạc ở trên lầu cao quát: "Vệ binh! Võ sĩ!"
Đúng vào lúc đó, mấy trăm người của đội ngũ danh dự đã tiến vào đường cửa cung, cửa chính màu son đóng két lại sau đài hoa, cờ màu phấp phới không còn tung bay nữa. Đám dân chúng vồ trúng khoảng không, bổ nhào lên cửa, tiếng đập cửa và tiếng hoan hô chấn rung trời.
Mà sau cửa cung đóng kín, trên đài hoa, vài tiếng "loảng xoảng" vang lên, Duyệt Thần Võ Giả áo trắng và yêu ma áo đen cùng ném binh khí trong tay, ngã phịch xuống đất không nhúc nhích nổi.
Mình mẩy mướt mồ hôi, Tạ Liên cởi hàng lớp thần phục xa hoa xuống, thở phào một hơi, nói: "Nguy hiểm quá nguy hiểm quá. Mệt chết ta."
Mộ Tình cũng cởi mặt nạ yêu ma nặng trịch xuống, lẳng lặng thở ra một hơi, nhưng lại không than mệt.
Mộ Tình quay đầu sang, thấy Tạ Liên còn bế đứa bé kia thì nhíu mày không nói gì. Phong Tín đuổi theo sau đài hoa lại vừa chạy vừa nói: "Điện hạ, sao huynh mang cả đứa bé này vào thế?"
Đứa bé kia nằm sấp trên ngực Tạ Liên, thân thể nho nhỏ cứng đơ, không dám nhúc nhích, thậm chí thở mạnh cũng chẳng dám. Tạ Liên ngồi dậy, nói: "Không mang vào, chả nhẽ ném ở ngoài sao? Đường sá hỗn loạn như thế, nó lại nhỏ như vậy, thả xuống chẳng mấy chốc sẽ bị giẫm chết."
Dứt lời, y bế đứa bé lên, tiện tay xoa đầu nhỏ của nó mấy cái, thuận miệng hỏi: "Bạn nhỏ, đệ mấy tuổi rồi?"
Đứa bé kia mắt không chớp, miệng cũng không nói tiếng nào. Tạ Liên tiếp tục hỏi nó, dỗ dành: "Hồi nãy sao đệ lại ngã xuống nha?"
Mộ Tình nói: "Điện hạ, e rằng đứa bé này không dám nói chuyện, bị dọa ngớ người rồi."
Tạ Liên lại xoa đầu nó mấy cái, cảm thấy đứa bé này cứ ngơ ngác chẳng thú vị gì nên không xoa nữa, bình luận: "Nó ngớ luôn rồi. Phong Tín, lát nữa ngươi tìm người dẫn nó ra ngoài từ cửa hông đi, xem coi có phải nó bị thương không, mặt quấn đầy băng vải thế kia."
Phong Tín chìa tay, nói: "Được. Đưa nó qua đây đi."
Tạ Liên bèn bế đứa bé lên, đưa tới, nào ngờ lại đưa không được, Phong Tín hỏi: "Điện hạ, sao huynh còn chưa buông tay?"
Tạ Liên nói với giọng ngạc nhiên: "Ta buông tay rồi mà?" Đoạn cúi đầu xuống nhìn, không biết nên khóc hay nên cười, ra là đôi tay của đứa bé kia níu chặt vạt áo của y, không chịu buông ra.
Mọi người sửng sốt rồi tức khắc phá lên cười ha ha. Tạ Liên tu hành ở Hoàng Cực quán, không ít thiện nam tín nữ, hoặc vì xem cho thỏa lòng hiếu kỳ, hoặc vì tín ngưỡng trong lòng, để được gặp Thái tử điện hạ một lần mà vắt nát cả óc, hao tâm tổn trí, gặp y một lần lại muốn gặp lần hai, chỉ hận không thể cùng làm đạo sĩ với y mới vừa lòng. Không ngờ anh bạn nhỏ này tuổi còn bé mà cũng có xu hướng đó rồi. Trong số hộ pháp bên cạnh đài hoa, có không ít tiểu đạo sĩ cùng tu hành ở Hoàng Cực quán, thấy vậy nhao nhao cười nói: "Thái tử điện hạ, thằng nhóc này không muốn đi nha!"
Tạ Liên cười nói: "Vậy sao? Nhưng không được rồi, ta còn phải làm chuyện của mình nữa, bạn nhỏ về nhà đi."
Nghe vậy, cuối cùng đứa bé cũng từ từ buông tay, không níu áo của y nữa, ngay sau đó, Phong Tín kéo nó qua. Đứa bé kia bị Phong Tín xốc lên, một con mắt to đen lay láy vẫn nhìn chằm chằm Tạ Liên. Thần thái này, phải nói là hệt như bị quỷ nhập. Thấy thế, rất nhiều đạo nhân ngấm ngầm lầm bầm. Tạ Liên lại chẳng hề nhìn đứa bé kia nữa, nói với Phong Tín: "Ngươi đừng xốc nó như xốc đồng nát chứ, dọa con nhà người ta rồi kìa."
Phong Tín bèn thả đứa bé xuống đất, nói: "Đừng cười nữa. Quốc sư sắp điên rồi, điện hạ à, huynh nên nghĩ xem lát nữa giải thích thế nào đi."
Nghe vậy, quả nhiên mọi người đều ngừng cười.
Nửa canh giờ sau. Hoàng Cực quán, đỉnh Thần Võ, điện Thần Võ.
Khói mây lượn lờ, tiếng tụng kinh vang từng đợt. Quốc sư và ba vị phó quốc sư ngồi ở một góc đại điện, sắc mặt sầu lo, Mộ Tình quỳ trước mặt bọn họ. Tạ Liên cũng quỳ xuống, nhưng hướng y quỳ chẳng có ai, chỉ có tượng vàng của Thần Võ Đại Đế. Phong Tín thì theo chủ, quỳ gối sau lưng y.
Quốc sư cầm chiếc mặt nạ vàng chạm trổ tỉ mỉ, hồi lâu sau mới thở dài lên tiếng: "Thái tử điện hạ ơi, Thái tử điện hạ à."
Cho dù đang quỳ, Tạ Liên cũng quỳ thẳng lưng, ngẩng đầu đáp: "Có ạ."
Quốc sư đau đớn khôn xiết, nói: "Con cũng biết rồi, trong lịch sử nước Tiên Lạc đã tổ chức biết bao buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời, nhưng chưa từng có lần nào đài nghi trượng chỉ diễu quanh thành ba vòng. Ba vòng!"
Mỗi một nghi thức và mỗi một chỗ bài trí trong buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời đều có ẩn ý phía sau. Đài hoa diễu quanh thành một vòng tượng trưng cho một năm quốc thái dân an cầu mong cho nước nhà, chính vì thế, buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời lần trước diễu hành bao nhiêu vòng thì có bấy nhiêu năm không cần tổ chức lại một sự kiện trọng đại đồ sộ như thế. Chẳng những mang điềm tốt mà còn tiết kiệm tiền bạc nữa. Ba vòng, chẳng phải ý nói chỉ bảo vệ được ba năm?
Tệ hơn nữa là, mặt nạ vàng của Duyệt Thần Võ Giả còn rớt ngay trên đường làm lễ tế.
Từ xưa đến nay, người Tiên Lạc luôn tin rằng, linh khí của cơ thể hội tụ ở ngũ quan, đầu và mặt là nơi chứa đựng thần hồn của một người, nhất định phải hiến dâng thứ tốt nhất cho ông trời, vì vậy trên đường làm lễ tế điển, Võ Giả mới buộc phải đeo một tấm mặt nạ vàng che khuất gương mặt, bởi vì mặt của Võ Giả chỉ có thể cho chư thiên thần tiên thưởng thức, người phàm không có tư cách nhìn.
Quốc sư chỉ tiếc rèn sắt không thành thép, nói: "Duyệt Thần Võ Giả trước đây, ít nhất cũng giữ được mức thấp nhất là năm vòng, nhiều nhất cũng chống được mười lăm mười sáu vòng, còn con? Con thì nhắm mắt lại cũng đi được năm mươi vòng! Một trăm vòng! Kết quả con tự bóp chết mình ở vòng thứ ba —— Sao con không bóp chết sư phụ con là ta trước đi? Vậy thì hay rồi, Thái tử điện hạ con muốn lưu danh sử sách, ta cũng muốn lưu danh sử sách với con!"
Trong đại điện, không ai dám hó hé tiếng nào. Tạ Liên lại điềm nhiên như thường, bình tĩnh nói: "Quốc sư, chi bằng ngài nhìn theo hướng này đi. Nếu đứa bé đó ngã chết không ai đỡ, máu đổ ngay trong buổi diễu hành tế trời, lẽ nào cũng không được xem là điềm xấu? Thông thường lễ tế đều phải bị cắt ngang còn gì? Bây giờ chí ít kết thúc cũng khá vẻ vang, thế đã là kết quả tốt nhất rồi. Xảy ra chuyện như vậy, chỉ có thể nói là sự cố ngoài ý muốn thôi."
Nghẹn lời giây lát, quốc sư nói tiếp: "Thằng nhóc này! Ở đó nhiều võ sĩ hoàng gia như thế, vơ đại một người chẳng đỡ được như thường sao? Cho dù đỡ không trúng chắc cũng chỉ ngã gãy tay gãy chân, có ngã chết được đâu. Con bước lên trước thêm vài bước, đánh cho đẹp mắt vào, chốc nữa không ai để ý vừa rồi có thứ gì ngã xuống đâu."
Tạ Liên lại nhướn mày, nói: "Quốc sư, ngài biết mà. Trong tình huống đó, ngoại trừ con thì không có người thứ hai nào phản ứng kịp đâu, cũng sẽ không có người thứ hai nào có thể đỡ được thằng bé mà lành lặn cả. Không đỡ thì chết một người, đỡ thì chết hai người."
Tạ Liên nói như lẽ hiển nhiên, giọng điệu chắc như đinh đóng cột. Chúng quốc sư cũng tỏ tường, y nói đúng lời thật, thế nên không tài nào phản bác được. Nhìn y quỳ gối trước tượng thần nhưng hoàn toàn không để vào mắt, bọn họ vừa tò mò, vừa buồn cười, vừa hãnh diện. Đồ đệ cưng quý báu mà, dù sao cũng không giận nổi, chỉ đành tốn vài nhúm tóc, dùng cơn đau da đầu che giấu nỗi buồn trong lòng. Ngừng một hồi, quốc sư lại nói: "Còn nữa!"
Tạ Liên khẽ cúi đầu, đáp: "Đồ nhi đang nghe."
Quốc sư nói: "Hôm nay con lên đài thể hiện không tệ. Nhưng dẫu cho không tệ cỡ nào, con cũng không thể đột nhiên đòi sửa mà chẳng đánh tiếng trước, hôm nay bệ hạ và nương nương đều bị con dọa mất mật. Con có biết ngộ nhỡ không đến kịp giờ thì sẽ ra nông nỗi nào không?"
Tạ Liên nhướn hàng mày dài, hỏi bằng giọng ngạc nhiên: "Quốc sư, chuyện này, chẳng phải trước hôm nay con đã hỏi ngài rồi sao?"
Quốc sư cũng sửng sốt, hỏi: "Con từng hỏi ta? Trước hôm nay? Hồi nào?"
Nghe vậy, Tạ Liên chau mày, nhìn sang bên cạnh, nói: "Mộ Tình?"
Chương 60
Đánh rơi viên ngọc đỏ, vô tình chọc đỏ mắt (1)
Lúc này, Phong Tín đang quỳ sau lưng Tạ Liên trầm giọng nói: "Điện hạ thật sự đã nói từ hôm trước rồi."
Mọi người nhìn hắn, Phong Tín nói tiếp: "Mấy ngày nay điện hạ vẫn luôn vắt óc suy nghĩ về buổi diễu hành tế trời, hôm qua đột nhiên nảy ra ý tưởng mới, định nhảy xuống từ lầu cổng thành, mô phỏng tư thế thiên nhân giáng trần, không cần thay đổi những sự sắp đặt khác. Nhưng lúc đó điện hạ còn đang ôn lại trình tự nghi lễ nên không đi được, bèn nhờ Mộ Tình chuyển lời đến quốc sư, hỏi ý kiến quốc sư xem việc này liệu có làm được không."
Phong Tín ngẩng đầu, đáy mắt lộ vẻ giận dữ, nói: "Mộ Tình trở về nói với điện hạ rằng mình đã báo tin cho quốc sư, thế nên điện hạ cứ ngỡ là quốc sư đã cho phép, vì vậy hôm nay mới làm như thế. Nào ngờ quốc sư chẳng hề hay biết, còn suýt nữa làm hỏng chuyện lớn?"
Chúng đạo nhân ngơ ngác nhìn nhau. Quốc sư hỏi: "Có ai nghe nói về việc này không?"
Ba vị phó quốc sư còn lại lắc đầu nguầy nguậy, ai cũng bảo không. Quốc sư quay về phía Mộ Tình, mặt mày sầu lo đổi sang giận dữ, hỏi: "Mộ Tình, con biết mà cố tình không báo sao?"
Sắc mặt và lời nói của quốc sư, rõ ràng đã nhận định Mộ Tình ngấm ngầm giở trò trong chuyện này. Nhìn thiếu niên gầy gò lặng thinh quỳ thẳng bên cạnh, Tạ Liên ngẫm nghĩ giây lát rồi lên tiếng: "Quốc sư, con nghĩ, trong chuyện này ắt hẳn có hiểu lầm gì đó."
Nghe vậy, Mộ Tình chậm rãi đưa mắt nhìn y, ánh mắt u ám. Tạ Liên nói: "Nếu cố ý giấu diếm không báo, sau khi sự việc xảy ra chỉ cần đối chất một chút là quỷ kế lộ tẩy ngay, là trách nhiệm của người nào, người đó sẽ chạy không thoát. Mộ Tình nào phải kẻ ngu ngốc thiển cận, chưa đến nỗi dùng hạ sách này đâu. Huống hồ nếu Duyệt Thần Võ Giả vắng mặt thì có lợi gì cho Yêu Ma Võ Giả cùng lên đài chứ? Mong quốc sư nghe Mộ Tình giải thích trước rồi hẵng đưa ra kết luận."
Dứt lời, y nghiêng đầu nói: "Mộ Tình nói đi, chuyện là thế nào."
Mộ Tình cụp mi mắt, nói nhỏ: "Việc hôm qua điện hạ giao cho con, con đã nói rồi."
Quốc sư nhăn mày hỏi: "Con nói hay chưa nói, lẽ nào chúng ta không rõ sao? Con nói hồi nào?"
Mộ Tình đáp: "Hôm qua, nửa canh giờ sau khi kết thúc khóa buổi tối, lúc bốn vị quốc sư đang nghỉ ngơi ở cung Tứ Tượng, đệ tử đã đứng ngoài cửa sổ thông báo."
Quốc sư quay đầu hỏi ba vị đồng liêu còn lại với giọng ngờ vực: "Hôm qua sau khi kết thúc khóa buổi tối? Lúc đó chúng ta đang làm gì nhỉ?"
Vừa hỏi xong, lão sực nhớ ra, sắc mặt không khỏi nổi màu tái xanh lúng túng, mà ba vị phó quốc sư cũng ho khù khụ vài tiếng, ậm ờ đáp: "Có làm gì đâu. Chẳng qua chỉ... nghỉ ngơi thôi, nghỉ ngơi thôi mà."
Thấy mấy vị quốc sư ấp úng, trong lòng mọi người lập tức hiểu ngay.
Ở Hoàng Cực quán, ai ai cũng tĩnh tu thanh hành (thanh hành = phẩm hạnh trong sạch), trên cơ bản không được tổ chức trò chơi gì, chỉ có vài thú vui nho nhỏ, chuyện trò để giải trí mà thôi. Trong số đó, trò được yêu thích nhất là trò thẻ bài.
Cũng chính là đánh bài. Hơn nữa chỉ được đánh lén lút, không thể để người khác nhìn thấy. Mấy vị quốc sư quanh năm ở Hoàng Cực quán bức bối phát sợ, nghiện nặng trò này. Chỉ cần bọn họ đánh bài là thể nào cũng quên mất bản thân, như mê như say, như điên như dại, bất cứ tiếng động bên ngoài nào cũng chẳng nghe vào tai. Nếu Mộ Tình trùng hợp đến ngay lúc đó thông báo ngoài cửa, liệu bọn họ nghe lọt được mấy chữ?
Một vị phó quốc sư nói: "Ồ, vậy... chắc do đông người quá, tiếng động lại quá nhỏ nên không nghe rõ. Ờ, không nghe rõ đấy."
Quốc sư lại ngờ vực hỏi: "Hôm qua con đã đến cung Tứ Tượng thật sao?"
Mộ Tình đáp: "Chính xác là thế." Để chứng minh, Mộ Tình bèn mô tả quần áo, tướng mạo và chất giọng của của đạo nhân canh giữ ngoài cửa, không sai một ly. Quốc sư buộc lòng phải tin, sau đó lại cau mày hỏi: "Nếu con đã đến cung Tứ Tượng, có thể nhờ đạo đồng ngoài cửa thông báo một tiếng hoặc vào trong nói tường tận, sao cứ phải đứng ngoài cửa hô? Cũng chẳng chứng thực xem liệu chúng ta đã nghe hay chưa?"
Mộ Tình nói khẽ: "Không phải đệ tử chưa từng thử. Đệ tử đã rất có thiện ý xin nhờ vị sư huynh canh giữ ngoài cửa, nhưng chẳng hiểu sao vị sư huynh đó cứ nhất quyết phải làm khó con, không cho con vào cung thông báo, cũng không chịu giúp con chuyển lời, thậm chí... còn mở miệng cười nhạo con, đuổi con đi."
Ngừng một lát, Mộ Tình nói tiếp: "Đệ tử không còn cách nào, chỉ đành vòng sang một bên khác của cung Tứ Tượng, đứng ngoài cửa sổ thông báo với các vị quốc sư. Sau khi nói xong, đệ tử loáng thoáng nghe được có vị quốc sư quát rằng "biết rồi, lui ra lui ra đi", đệ tử cứ ngỡ như vậy là tán thành với ý kiến của điện hạ rồi nên mới quay về."
Đám quốc sư ngậm miệng không nói.
Đang lúc đánh bài hừng hực khí thế, làm sao nghe được người ta nói gì bên ngoài chứ? Nghe được gì cũng sẽ thuận miệng đáp một câu "biết rồi", còn trên thực tế, sợ rằng tiếng nói đó phát ra từ đâu cũng chẳng biết nữa là!
Tạ Liên nhíu mày hỏi: "Có chuyện như vậy nữa sao? Đạo đồng nào ngang ngược thế? Dám vô lễ với người mà ta phái đi, coi bộ gan không nhỏ."
Mặc dù thường ngày Tạ Liên chung sống rất hòa thuận với các đạo nhân ở Hoàng Cực quán, hầu như chưa bao giờ ra vẻ ta đây, nhưng dù gì y cũng là con cháu của thiên tử, mang địa vị hoàng tử, dù lúc này đang quỳ gối trước tượng thần, song thái độ lại không hề nhún nhường. Trong chớp mắt y trở nên nghiêm túc, không giận mà vẫn tỏa ra uy nghiêm. Mọi người câm như hến, còn sắc mặt của đám quốc sư thì trở nên có chút thâm ảo.
Tạ Liên hỏi: "Hôm qua trở về, sao ngươi không nói chuyện này cho ta biết?"
Mộ Tình chuyển hướng quỳ, lạy y một cái, nhạt giọng cất lời: "Thái tử điện hạ, xin ngài đừng truy cứu vị sư huynh kia. Hôm qua trở về ta không nói với ngài chuyện này là vì không muốn làm lớn chuyện. Vốn dĩ chẳng phải chuyện to tát gì, nếu ngài ra mặt cho ta, trái lại còn gây tổn hại hòa khí đồng môn."
Tạ Liên không đồng ý, tức giận hỏi: "Hòa khí đồng môn gì đây chứ? Bắt nạt đồng môn để trút giận à?"
Nghe vậy, sắc mặt đám quốc sư bên cạnh lại càng thâm ảo hơn.
Xảy ra chuyện thế này, thật ra xét cho cùng cũng vì đám quốc sư không thích Mộ Tình.
Bọn họ không thích, các đạo đồng hầu hạ bên cạnh tất nhiên cũng hiểu ý bọn họ, hơn nữa bản thân Mộ Tình thật sự khiến người ta khó mà thích nổi, thế là các đồng môn không để yên cho Mộ Tình, hoạnh họe chê trách đủ đường, thật ra cũng là tình trạng thường thấy. Dĩ nhiên không phải đồ đệ quý báu này cố ý châm chích bọn họ, nhưng đích thực đã chích bọn họ một nhát.
Trong lúc trả lời, Mộ Tình liên tục lùi ra sau, Phong Tín lại không nghe nổi nữa, đột nhiên lên tiếng: "Lẽ ra chẳng có gì to tát thật, nhưng cứ khăng khăng bị ngươi làm cho phức tạp lên. Nếu ngươi nói thẳng với đạo đồng canh cửa rằng ngươi phụng mệnh của Thái tử điện hạ đến chuyển lời, liệu gã dám cả gan không thông báo sao? Còn nữa, hôm nay trước lúc xuất phát, quốc sư hỏi Thái tử điện hạ đi đâu, tại sao ngươi cố ý trả lời lấp lửng nước đôi như thế? Sao ngươi không nói thẳng rằng điện hạ đang ở trên lầu cổng thành chờ đội ngũ xuất phát?"
Mộ Tình lập tức bình tĩnh phản bác: "Ta cứ ngỡ quốc sư đã biết về việc này, nào ngờ quốc sư lại đột nhiên chất vấn, nên ta nhất thời sửng sốt thôi. Nhưng sau đó ta đã nói rõ với quốc sư, Thái tử điện hạ nhắn nhủ rằng không cần phải lo, tất cả trình tự cứ tiến hành như cũ là được, điện hạ sẽ lập tức tới ngay. Lúc ấy điện hạ không có mặt, nhưng vẫn còn rất nhiều người nghe thấy, cố ý hồi nào? Rồi lấp lửng nước đôi hồi nào?"
Phong Tín trừng mắt nhìn Mộ Tình. Nhưng nghĩ kỹ lại, lúc đó Mộ Tình có nói vậy thật, chỉ là quốc sư lòng như lửa đốt, không dám tùy tiện xuất phát, có muốn bới móc cũng chẳng bới ra được lỗi lớn nào có thể chứng minh Mộ Tình mưu mô khó lường. Bấy giờ, Tạ Liên cất giọng: "Được rồi, được rồi. Âm thác dương soa*, hiểu lầm mà thôi, coi như vận may không tốt, đừng tranh cãi nữa."
*Âm thác dương soa: Sai lầm nảy sinh trong hoàn cảnh ngẫu nhiên.
Sắc mặt Phong Tín khó chịu cực kỳ, nhưng ngại thân phận nên không dám làm ầm ĩ trong điện Thần Võ, vì vậy chẳng nói thêm gì. Quốc sư cũng không muốn lằng nhằng tiếp về vấn đề này, suy cho cùng nếu thật sự muốn tính, bọn họ đánh bài cũng làm lỡ việc còn gì? Thế là, lão phất tay nói: "Thôi, nói sau đi! Để chúng ta bàn bạc nghĩ cách gì đó, xem thửnên xoay chuyển tình hình thế nào. Ba người các ngươi lui xuống đi, cởi quần áo ra, nên làm gì thì làm đi."
Tạ Liên khẽ cúi người rồi lập tức đứng dậy. Phong Tín và Mộ Tình lại dập đầu một lượt theo khuôn phép, bấy giờ mới đứng dậy, theo sau Tạ Liên chuẩn bị lui xuống. Tạ Liên vừa sải một bước ra khỏi bậc cửa, chợt nghe quốc sư ở phía sau gọi: "Thái tử điện hạ."
Tạ Liên quay đầu lại. Quốc sư nói: "Hôm nay quốc vương bệ hạ và hoàng hậu nương nương hỏi han con nhiều lắm. Mấy ngày nay con có rảnh thì về thăm họ chút đi."
Tạ Liên mỉm cười đáp: "Đệ tử biết rồi."
Ra khỏi điện Thần Võ, ba người băng qua một vùng đỉnh núi lớn, trở lại đạo phòng (phòng tu đạo, phòng của đạo nhân) được xây riêng cho Thái tử điện hạ trong cung Tiên Lạc, lúc này Tạ Liên mới bắt đầu cởi bỏ hoa phục dùng cho nghi lễ.
Trước đó đã nhắc, trong buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời, áo mũ của Duyệt Thần Võ Giả có hình dạng và cấu tạo vô cùng nghiêm ngặt, gần như mỗi thứ đeo trên người đều có ngụ ý, không thể làm rối loạn một chi tiết nào. Chẳng hạn như, ngoại phục (lớp áo ngoài cùng) màu trắng ví với "thuần thánh" (thần thánh thuần khiết); trung phục (lớp áo giữa) màu đỏ ám chỉ "chính thống"; kim quan buộc tóc* quan tượng trưng cho "vương quyền" và "tài phú"; lông vũ trắng giấu trong ngực mang ý "chắp cánh lên trời"; dải đai khoác ở tay áo lại ví như "dìu dắt chúng sinh". Linh ta linh tinh.
Kim quan buộc tóc
Có thể đoán được rằng, bộ trang phục và đạo cụ này, bất luận mặc hay cởi, chắc chắn đều hết sức rườm rà và phức tạp. Có điều, Tạ Liên thân là thái tử, tất nhiên không cần tự mình làm hết mọi chuyện, y chỉ cần giang hai tay trong gian phòng thơm mùi hương đốt mát rượi, vừa nói chuyện với Phong Tín, vừa chờ Mộ Tình với tư cách là hầu cận giúp mình cởi hàng lớp trang phục Duyệt Thần, vậy là được rồi.
Áo trắng của trang phục Duyệt Thần có chất liệu thượng đẳng, hoa văn tinh tế, viền áo còn thêu hoa văn chìm màu vàng nhạt vô cùng tinh xảo, lộng lẫy mà không lộ vẻ xa xỉ, so với bộ võ phục màu đen của yêu ma, phải nói là một trời một vực. Mộ Tình vẫn mặc một thân võ phục đen thùi chưa thay ra, trang phục Duyệt Thần mà Tạ Liên đã cởi vắt trên tay, đốt ngón tay giật giật, lén lút xoa nhẹ lên chiếc áo trắng vài cái.
Ở bên cạnh, Tạ Liên tháo kim quan buộc tóc xuống, tóc dài xõa tung, y ngồi bên giường gỗ đàn hương, đá chân mấy cái, quẳng đôi ủng trắng muốt, chờ người khoác áo mới cho mình. Chờ một hồi, lại thấy Mộ Tình đứng yên không nhúc nhích, y bèn nghiêng đầu hỏi: "Sao thế?"
Mộ Tình mau chóng lấy lại tinh thần, đáp: "Điện hạ, hình như trang phục Duyệt Thần bị bẩn đôi chỗ."
Tạ Liên "ồ" một tiếng, nói: "Mang qua đây cho ta xem?"
Quả nhiên, trên võ phục trắng như tuyết bỗng dưng ịn hai dấu tay nho nhỏ đen nhẻm. Tạ Liên nhìn lướt qua, hỏi: "Là tác phẩm của anh bạn nhỏ ngã xuống từ trên trời phải không? Nhớ lúc đó nó cứ níu chặt áo ta không chịu buông. Trên mặt thằng bé còn quấn băng vải, chẳng biết là té ngã hay gặp chuyện gì nữa. Phong Tín, ngươi xem giúp nó chưa?"
Phong Tín đang bọc bảo kiếm và đao trảm mã dùng trong lúc Duyệt Thần, bực dọc đáp: "Chưa xem. Ta dẫn nó ra khỏi cung, định xem mặt giúp nó theo lời huynh, ai ngờ nó đá vào đầu gối của ta một phát, mẹ nó đau khiếp ấy."
Tạ Liên bật cười ngã xuống giường, chỉ vào Phong Tín, nói: "Chắc chắn là vì ngươi hung dữ với nó rồi. Nếu không sao nó chẳng đá ta mà chỉ đá ngươi chứ?"
Phong Tín nói: "Làm gì có! Không lâu sau thằng nhóc rách rưới như bị quỷ nhập đó đã chạy mất tăm, bằng không ta đã xách ngược nó lên ném phứt rồi, dọa cho nó khóc mới thôi."
Mộ Tình lật lật trang phục Duyệt Thần, nói: "Thằng nhóc đó chắc là ăn mày rồi, người ngợm bẩn quá, níu một tí đã đen thế này. Điện hạ, trang phục Duyệt Thần không thể vấy bẩn được, nghe bảo là điềm xấu đó."
Tạ Liên nằm dài trên giường gỗ đàn hương, tiện tay lấy một quyển sách từ đầu giường, che khuất nửa dưới gương mặt, nói: "Diễu quanh thành ba vòng, lưu danh sử sách, đã là điềm rất tốt rồi. Bẩn thì cứ bẩn, giặt là được mà."
Ngừng một lát, Mộ Tình nhạt giọng đáp: "Ừm, lúc giặt ta sẽ cố gắng cẩn thận hơn."
Tạ Liên lật quyển sách nọ, vừa khéo lật trúng một trang nói về kỹ thuật dùng đao, sực nhớ hôm nay so chiêu quyết liệt trên đài hoa, bèn cười nói: "Mộ Tình, hôm nay ở trên đài, ngươi đánh hay lắm."
Bả vai Mộ Tình hơi cứng lại.
Tạ Liên nói tiếp: "Hôm nay ta mới phát hiện, ngươi dùng thanh đao đó tốt hơn dùng kiếm nhiều."
Lúc này sắc mặt của Mộ Tình mới giãn ra, hắn xoay người, miệng thế mà lại nở nụ cười, hỏi: "Thật ư?"
Tạ Liên nói: "Ừa! Có điều, e rằng ngươi hơi bị nóng vội. Dùng đao và dùng kiếm khác nhau hoàn toàn, ngươi xem..."
Hễ bàn đến võ đạo, Tạ Liên lập tức trỗi bừng hứng thú, còn hết mình hơn cả đám quốc sư lúc đánh bài, chưa xỏ giày đã nhảy tót xuống giường, lấy tay làm đao, biểu diễn tại chỗ. Thoạt đầu nét mặt của Mộ Tình còn hơi bối rối, Tạ Liên mô tả cho hắn một hồi, hắn bắt đầu chăm chú quan sát. Tuy nhiên, Phong Tín lại huơ đao trảm mã đã bọc kỹ, đuổi Tạ Liên lên giường, quát: "Muốn đánh thì mang giày vào rồi đánh! Huynh là Thái Tử điện hạ, đầu bù tóc rối đi chân trần, còn ra thể thống gì nữa!"
Đang biểu diễn ngon trớn lại bị Phong Tín đuổi lên giường như đuổi vịt lên giá, Tạ Liên hậm hực nói: "Biết rồi!"
*Đuổi vịt lên giá: Bắt người khác làm những việc mà họ không đủ khả năng làm.
Nói đoạn, y dùng hai tay bó mái tóc dài, định buộc tóc lên rồi tiếp tục giảng kỹ cho Mộ Tình nghe. Đột nhiên, y nhướn mày nói: "Lạ thật."
Phong Tín hỏi: "Sao vậy?"
Chương 61
Đánh rơi viên ngọc đỏ, vô tình chọc đỏ mắt (2)
Tạ Liên nhéo nhéo vành tai, tự nhủ: "Một bên khuyên tai rớt đâu mất rồi."
Người Tiên Lạc cho rằng, đạo gia tu hành đến cảnh giới hoàn mỹ cuối cùng chính là "âm dương hòa hợp", "đực cái cùng xác". Thần thánh chia làm nhiều loại, biến ảo khôn cùng, hiển nhiên không bị hạn chế bởi giới tính, có thể là nam cũng có thể là nữ. Do đó, quan niệm này cũng thể hiện trên thiết kế của trang phục Duyệt Thần. Xưa nay trang phục và phụ kiện của mỗi đời Duyệt Thần Võ Giả đều mang đầy đủ hình thức lẫn chi tiết của đồ nam lẫn đồ nữ, như vòng tay hay khuyên tai chẳng hạn. Khi đóng vai Duyệt Thần Võ Giả, Tạ Liên cũng bấm lỗ đeo một đôi khuyên tai.
Đó là một đôi ngọc san hô đỏ thẫm hết sức mỹ lệ, có quầng sáng lấp lánh chuyển động, trơn bóng sáng rỡ, cực kỳ quý hiếm. Nhưng vừa rồi khi buộc tóc, Tạ Liên mới phát hiện ra ngọc san hô đỏ ban đầu vốn có một đôi, nay chỉ còn lại một chiếc.
Y vừa nói mình đánh mất khuyên tai, sắc mặt Mộ Tình vốn đang thoải mái dễ chịu bỗng chốc đanh lại vài phần, vậy mà hai người kia lại hoàn toàn không chú ý. Đầu tiên, Phong Tín tìm hết một lượt từ trong ra ngoài phòng, cuối cùng tay không trở lại, nói: "Huynh cứ quên trước quên sau thế đấy, vật đeo trên tai mà cũng mất cho được. Nếu không tìm thấy trong cung Tiên Lạc thì để ta ra ngoài tìm thử dọc đường xem sao, tuyệt đối đừng làm mất trong buổi diễu hành tế trời."
Tạ Liên cũng thấy lạ nhưng chẳng hề để bụng, đáp: "Có thể lắm. Nếu thế thì không tìm lại được đâu, mất rồi thì thôi."
Mộ Tình lại mang cái chổi mà mình thường dùng để quét nhà đến, cất giọng nhàn nhạt: "Viên ngọc ấy trân quý vô ngần, nếu tìm được vẫn nên tìm thử đi. Để xem nó có rơi xuống gậm giường gậm tủ không." Nói đoạn bắt đầu quét nhà. Tạ Liên bảo: "Hay là gọi thêm vài người vào đây tìm giúp nhỉ."
Phong Tín thuận miệng đáp: "Người đông tay loạn, đừng để đồ chẳng tìm được mà còn bị người ta lén lút nhặt giấu."
Lẽ ra Mộ Tình đang ở bên kia lặng lẽ rà soát dưới gậm giường, nghe được câu này, mặt mũi bỗng nổi lên một tia trắng tái, đoạn đứng bật dậy, cái chổi trong tay "rắc" một tiếng, gãy thành hai đoạn. Tạ Liên lập tức ngẩn ngơ.
Từ sau khi rời khỏi điện Thần Võ, Phong Tín đã rất bất mãn với Mộ Tình, nhưng chưa từng nổi giận. Lúc này không ngờ Mộ Tình lại nổi cáu trước, Phong Tín điên tiết quát: "Không dưng ngươi bẻ đồ làm gì? Ai chọc gì ngươi?"
Mộ Tình lạnh lùng nói: "Ngươi muốn nói gì thì cứ việc nói thẳng, cần chi móc mỉa xỉa xói? Mất viên ngọc không liên quan đến ta."
Phong Tín xưa nay luôn ăn ngay nói thẳng, đây là đầu tiên nghe thấy có người chỉ trích mình móc mỉa xỉa xói, giận quá hóa cười, nói: "Sao ngươi không tự nói câu này với chính ngươi ấy! Ta nói cái gì? Ta đâu có bảo ngươi trộm, tự ngươi chạm vào vết đao, trong lòng có quỷ đấy chứ?"
Tạ Liên hoàn hồn, thầm nghĩ thôi tiêu rồi, bèn ngồi dậy khỏi giường, can ngăn: "Phong Tín, đừng nói nữa!"
Trán Mộ Tình thoáng chốc nổi ba bốn sợi gân xanh. Phong Tín lại thật sự chẳng nghĩ nhiều, ngơ ngác hỏi: "Sao thế?"
Tạ Liên không tiện giải thích với hắn, đành phải bảo Mộ Tình trước: "Ngươi đừng hiểu lầm, Phong Tín chỉ thuận miệng nói thôi, không phải nhắm vào ngươi đâu."
Nắm tay Mộ Tình siết chặt rồi lại buông lơi, cuối cùng không tiếp tục nổi giận nữa, chỉ là hốc mắt từ từ đỏ lên, quay sang Tạ Liên, nhìn y gằn từng chữ: "Huynh... nói không giữ lời."
Tạ Liên nói: "Không phải, ta không có!"
Mộ Tình ngậm miệng hít vài hơi, hai mắt chất chứa oán hận lườm Phong Tín một cái, rồi không nhiều lời nữa, đẩy cửa xông ra ngoài. Tạ Liên nhảy xuống giường muốn đuổi theo, nhưng đuổi được vài bước đã bị túm lại. Phong Tín nói: "Điện hạ huynh còn chưa mang giày! Đầu bù tóc rối mà ra ngoài còn thể thống gì nữa?"
Tạ Liên nói: "Giúp ta ngăn hắn lại!"
Phong Tín khuyên nhủ: "Trước hết huynh hãy mặc áo mang giày, buộc tóc cẩn thận cái đã. Để ý tên đó làm gì, thường ngày hắn cứ âm u quái đản thế nào ấy, ai biết chạm phải nhọt gì của hắn, khi không lại phát bệnh."
Mộ Tình đã sớm phủi tay chạy mất tăm mất tích, thấy có đuổi cũng không kịp, Tạ Liên đành cầm sợi dây buộc tóc vội vàng buộc lên, vừa buộc vừa than thở: "Hắn đâu có phát bệnh, nhưng thật trùng hợp, ngươi sơ ý nói sai rồi."
Phong Tín lấy bộ đạo bào màu trắng mà ngày thường Tạ Liên hay mặc từ tủ quần áo, sau đó ném cho y, hỏi: "Ta nói sai cái gì?"
Tạ Liên vừa xỏ ủng vừa đáp: "Ta không nói cho ngươi biết được. Tóm lại ngươi theo ta đi tìm hắn, nói rõ chỉ là hiểu lầm thôi, ngươi không nhắm vào hắn."
Phong Tín nhíu mày hỏi: "Huynh có chuyện gì không thể nói với ta chứ?"
Tạ Liên lặng thinh không đáp. Phong Tín càng nghi ngờ hơn, không khỏi nhớ đến sắc mặt oán hận của Mộ Tình ban nãy, đột nhiên hỏi: "Lẽ nào hắn thật sự từng trộm đồ của huynh?"
Tạ Liên vội vàng dốc sức ra hiệu cho Phong Tín im lặng, nói: "Đâu có! Đâu có!"
Thấy y phản ứng như vậy, Phong Tín lại càng chắc chắn hơn: "Thì ra là thế! Chẳng trách sắc mặt của hắn đột nhiên đổi xoạch, ra là bị chọt trúng tim đen. Hắn làm chuyện này hồi nào vậy?!"
Tạ Liên nói: "Ngươi đừng lớn tiếng như thế!"
Phong Tín bèn hạ giọng: "Xảy ra chuyện như thế mà huynh lại không nói cho ta biết! Nói mau."
Thấy Phong Tín đã hoài nghi, dù có giấu diếm tiếp thì sớm muộn cũng bị hắn tra ra, Tạ Liên đành bất đắc dĩ nói: "Không tính là trộm, nhưng mà... ầy, ta nói từ ngọn nguồn nhé. Ngươi còn nhớ hai năm trước khi mới vào Hoàng Cực quán chưa bao lâu, có lần ta đánh mất một tấm lá vàng không?"
Nghe vậy, Phong Tín trợn tròn mắt, vỗ đùi hỏi: "Lần đó à?!"
Ba năm trước, Tạ Liên ra sức nài nỉ, cuối cùng cũng được cha mẹ cho phép mình vào Hoàng Cực quán tu hành trước tuổi nhược quán*. Một năm sau, khi cung Tiên Lạc xây xong rồi, cuối cùng y cũng tràn trề phấn chấn leo núi lên đây.
*Ngày xưa đàn ông 20 tuổi sẽ làm lễ đội mũ, từ đó trở đi được công nhận là người trưởng thành, nên tuổi này cũng được gọi là tuổi nhược quán.
Tạ Liên lên núi, hành lý mang theo cũng không hẳn là nhiều, chỉ có hai xe sách và hai trăm danh kiếm mà thôi. Nhưng hoàng hậu Mẫn thị thương con, sợ con mình sống trên núi cô quạnh kham khổ, sau lại phái người đưa hai mươi tên tôi tớ và bốn xe lớn chất đầy những món đồ mà Thái tử yêu thích, ùn ùn chở lên núi Thái Thương. Trong số đó, có cả một bộ điện xếp bằng lá vàng tổng cộng một trăm linh tám lá.
Dùng lá vàng xếp thành điện là một trò chơi rất thịnh hành trong giới quý tộc Tiên Lạc. Vào lúc bấy giờ, một đống vật phẩm xa hoa chở lên núi đã khơi lên một trận bàn tán nho nhỏ. Trong Hoàng Cực quán toàn là những đạo nhân tu hành nghiêm chỉnh, họ không biết tính tình của Thái tử điện hạ ra sao, tuy ngoài mặt không dám nhiều lời, nhưng sau lưng lại xì xào bàn tán: Rốt cuộc Thái tử điện hạ này đến đây để tu hành hay chơi bời lêu lổng vậy? Con em quý tộc hoàng thất, đến góp vui gì chứ? Có thể tu ra cái giống gì?
Nghe những lời bàn tán này, Phong Tín có ý muốn phản bác, Tạ Liên lại bảo hắn kệ đi, cười nói: "Chuyện thường tình thôi mà. Sau này bọn họ tự khắc sẽ biết ta đến đây có phải để chơi không, và ai mới là người đứng đầu lứa đệ tử này của Hoàng Cực quán."
Nhưng mà không lâu sau, lại xảy ra một chuyện.
Tạ Liên trả về bốn chiếc xe và những tôi tớ mà hoàng hậu thu xếp cho mình, đến khi kiểm kê hành lý lại phát hiện thiếu mất một trong một trăm linh tám lá vàng.
Sau khi chất lên xe chở lên núi Thái Thương, đống lá vàng đó chưa bao giờ rời khỏi cung Tiên Lạc, không đánh rơi trên đường thì bị người trộm thôi. Tìm dọc đường không thấy, Tạ Liên bèn thuận miệng nói một câu với quốc sư. Vừa nghĩ đến việc lá vàng có thể bị trộm, nói không chừng trong Hoàng Cực quán có kẻ bị lá vàng mê hoặc mà phạm sai lầm, quốc sư lập tức nổi trận lôi đình, quyết chí dù có đào sâu ba thước đất cũng phải tìm cho ra lá vàng kia ở đâu. Nếu tìm thấy lá vàng ở chỗ người nào, chắc chắn sẽ nghiêm trị không tha. Thế là cả tòa Hoàng Cực quán hơn ba nghìn người không làm gì nên tội bị đánh cho trở tay không kịp, đang yên đang lành bị đuổi ra ngoài xếp hàng, lục soát từng đạo phòng một.
Một phen gióng trống khua chiêng, mệt đến sống dở chết dở, ai ngờ khi tra xong quá nửa số phòng, Tạ Liên bỗng dưng sửa lời, nói thật ngại quá, làm phiền các vị đồng môn rồi, y chợt nhớ ra bộ điện bằng lá vàng này, hình như đã bị mình đánh mất một lá lúc còn ở hoàng cung. Nói cách khác, từ đầu vốn chỉ có một trăm linh bảy lá vàng.
Để kiểm tra lá vàng mất tích kia rốt cuộc ở đâu, đêm đó Hoàng Cực quán có thể nói là rối ren hoảng loạn, người ngã ngựa đổ, kết quả tìm đến khi mồ hôi nhễ nhại, Thái tử điện hạ bỗng thốt ra một câu như thế, bao nhiêu công sức đổ sông đổ biển, không khỏi khiến cho rất nhiều đồng môn sinh lòng oán hận. Thế là khi ấy mọi người len lén nói với nhau rằng, ai bảo người ta là Thái tử điện hạ chứ, nói gì mà chả đúng, chỉ mong lần sau trí nhớ đức ngài tốt hơn một chút, nhớ ra chuyện quan trọng như vậy trước khi lục soát có phải tốt rồi không... Phong Tín ngồi nghe mà hết sức bực mình, Tạ Liên lại bảo hắn thôi kệ, yên lặng chờ ngày sau đi. Mà ngày sau, quả nhiên Tạ Liên đã trấn áp toàn diện ba nghìn đệ tử, trở thành người đứng đầu hoàn toàn xứng đáng của Hoàng Cực quán, hơn nữa vì y thật sự rất hòa đồng, không hề cậy thế lộng quyền, dần dà được đánh giá và nhận xét tốt hơn hẳn trong mấy cuộc ngồi lê đôi mách của các vị đồng môn. Phong Tín không để bụng, lâu dần cũng quên béng chuyện hồi mới đến. Ai ngờ hôm nay nhắc lại chuyện cũ, hắn mới bừng tỉnh đại ngộ, vừa sợ vừa giận: "Tấm lá vàng đó là Mộ Tình lấy hả?"
Tạ Liên nói: "Suỵt!"
Xác định bốn phía không có ai, y mới đáp: "Lá vàng đó ta đánh rơi trên đường lên núi gập ghềnh, Mộ Tình đun nước đi ngang qua, nhặt được nó trong bụi cỏ. Hắn cất ở dưới giường, chưa nghĩ ra phải xử lý thế nào, ai ngờ buổi tối quốc sư tập kích bất ngờ, đuổi tất cả mọi người ra để soát người soát phòng. Khi ấy ta còn chưa quen hắn, chẳng qua ta thấy sắc mặt của một tên tạp dịch trông rất tệ mà thôi. Sau đó ta ngồi bên ngoài, lúc bưng trà lên hắn len lén thì thầm thừa nhận với ta, ta mới biết đã xảy ra chuyện gì."
Phong Tín nói: "Lấy mà không báo, không phải trộm thì là gì? Cho nên vì giúp hắn che giấu chuyện này, huynh mới nói với người ta lá vàng đó đã mất trong hoàng cung?"
Trong lúc nói chuyện, Tạ Liên đã chuẩn bị xong xuôi, bước ra cửa nói: "Chính là như thế."
Phong Tín tức muốn chết, theo sau Tạ Liên ra khỏi cửa, nói: "Điện hạ, huynh có biết dạo ấy huynh vừa mới đến Hoàng Cực quán, có bao nhiêu người bàn ra tán vào sau lưng huynh không?"
Tạ Liên nói: "Ngươi nhỏ giọng thôi. Lúc đó sắc mặt của hắn thật sự rất tệ, tái me tái mét. Những người khác trong Hoàng Cực quán vốn đã không ưa hắn, nếu ta nói ra, coi như hắn xong đời rồi. Thân phận của ta với hắn khác nhau, tình cảnh của mỗi người trong chuyện này cũng khác, hậu quả hoàn toàn không thể đánh đồng được."
Bấy giờ có vài tiểu đạo sĩ đi đến từ phía đối diện, cung kính thi lễ, mặt mày tươi cười, gọi: "Thái tử điện hạ!" Tạ Liên cũng cười đáp lễ, hai nhóm người đi lướt qua nhau, y lại bảo Phong Tín: "Ngươi xem, ta nói yên lặng chờ ngày sau, bây giờ chẳng phải ta đã chung sống hòa thuận với các vị đồng môn rồi sao? Còn ai dám bàn ra tán vào?"
Hai người đến đạo phòng của Mộ Tình, chẳng thấy người đâu, bèn trở ra ngoài tìm kiếm. Phong Tín nói: "Lúc đó ta thấy lạ rồi, sao ta không biết huynh đã làm mất một lá vàng trong cung chứ. Không ngờ sau hai năm huynh vẫn không chịu nói cho ta biết chuyện này, còn bảo với ta là huynh quen hắn khi hắn đang quét nhà cơ đấy!"
Tạ Liên nói: "Về sau hắn cầu xin ta đừng kể chuyện này cho người khác biết. Nếu ta đã đồng ý, tất nhiên không thể kể với ai, dù là ngươi cũng không được. Bây giờ ngươi đã biết chuyện, xem như là ta thất tín, nhưng ngươi nhất định không được kể cho người khác."
Phong Tín nói: "Như vậy đâu tính là thất tín. Nào phải huynh nói cho ta biết, là tự hắn có tật giật mình để lộ sơ hở bị ta nắm thóp."
Tạ Liên đe dọa: "Không được không được, ngươi mau thề tuyệt đối không kể chuyện này ra ngoài. Bằng không ta sẽ tuyệt giao với ngươi, mà ngươi còn không cưới được vợ nữa."
Phong Tín phun ra một tràng: "Huynh tuyệt giao với ta đi! Tuyệt giao hôm trước, hôm sau dân chúng cả nước Tiên Lạc từ trên xuống dưới sẽ biết một chuyện: Lúc mặc quần áo Thái tử điện hạ bị chính đôi tất của mình siết cho ngất xỉu... Thôi được rồi! Không kể thì không kể. Mẹ nó ai mà thèm buôn dưa lê chứ."
Ngừng một hồi, Phong Tín vẫn nói tiếp: "Nói không chừng hắn cho rằng ta luôn nhằm vào hắn là vì ta biết hắn lấy trộm lá vàng, thật ra ta chỉ không thích kiểu người như hắn thôi. Đàn ông con trai suốt ngày nghĩ nhăng nghĩ cuội, dám chắc từ lâu đã nghi ngờ huynh nói cho ta biết. Phi tần trong cung còn chưa đa sầu đa cảm như hắn, nhìn là thấy phiền."
Tạ Liên nói: "Cũng đâu có tệ như ngươi nói. Xưa nay ở Hoàng Cực quán chưa từng nghe nói có người nào mất đồ, chứng tỏ hắn mới phạm lỗi lần đầu, suy cho cùng cũng vì mẹ hắn... Ầy, dù sao hắn cũng liên tục cam đoan với ta rằng sau này tuyệt đối sẽ không làm chuyện như thế nữa, cho hắn một cơ hội cũng không có gì quá đáng. Hắn cũng giữ lời mà. Vả lại hôm nay lúc anh bạn nhỏ kia ngã xuống, nếu Mộ Tình không phối hợp với ta, lễ tế trời đã không thể kết thúc đẹp như thế."
Phong Tín cười khẩy: "Dù sao huynh cũng đã xong ba vòng, lưu danh sử sách, tất nhiên hắn không cần tiếp tục làm huynh khó chịu. Điện hạ, ta nói cho huynh biết, những lời hôm nay hắn nói trong điện Thần Võ, ta không tin dù chỉ một chữ. Hoàng Cực quán từ trên xuống dưới, ai mà không biết khi quốc sư đánh bài thì người thân cũng chẳng nhận? Hắn lại chọn đúng lúc đó để nói, còn sống chết không chịu nói rõ là phụng mệnh của ai, giống như cố tình làm hỏng việc vậy."
Tạ Liên lại lắc đầu, nghiêm nghị nói: "Thật ra nhắc đến việc này, đại khái cũng có chỗ ta suy nghĩ không chu toàn. Ta biết Mộ Tình không được ưa thích, vốn định để hắn giúp ta làm nhiều việc hơn, người khác biết hắn là thị tòng của ta tự nhiên cũng sẽ khách khí với hắn hơn. Nhưng ta đâu ngờ người ngoài lại không khách khí với hắn đến mức đó, chẳng những không hoàn thành tốt công việc mà còn khiến thuộc hạ của mình rước bực vào người. Ngươi thử nhìn từ góc độ khác, sẽ phát hiện tính tình quái gở của hắn cũng thông cảm được."
Phong Tín không hề đồng tình: "Đó là tại hắn quái gở, huynh việc gì phải nhận vào mình? Huynh là Thái tử điện hạ, huynh muốn cất nhắc ai, lẽ nào lại mắc nợ kẻ đó? Điện hạ, ta thật sự không hiểu vì sao huynh lại coi trọng hắn đến thế."
Tạ Liên mỉm cười, đáp: "Phong Tín, hẳn ngươi cũng biết, trên đời có rất nhiều người chỉ là đá cuội trong mắt ta."
Phong Tín không tài nào hiểu nổi. Tạ Liên chắp tay mà đi, nói: "Đá cuội dễ có, mỹ ngọc khó cầu. Bao nhiêu năm qua, trên con đường võ, ta chỉ thấy hai người xứng danh mỹ ngọc. Một viên là ngươi. Viên còn lại, chính là hắn."
Y đột ngột dừng chân, ngoái đầu lại, ánh mắt sáng quắc: "Ta thật sự cảm thấy Mộ Tình là một người vô cùng có thiên phú. Một viên ngọc đẹp như thế, lẽ nào chỉ vì xuất thân và tính cách mà để ngọc thô phủ bụi trần, không thể phô trọn vẻ đẹp?"
Tạ Liên cương quyết nói: "Không! Ta cho rằng, như vậy là không đúng. Ngươi hỏi ta vì sao lại coi trọng hắn đến thế ư? Cũng giống như lý do ta coi trọng ngươi thôi. Thứ gì nên tỏa sáng, ta nhất định phải cho nó tỏa sáng. Hơn nữa, ta không tin thiện ý sẽ đổi lấy kết quả không tốt."
Phong Tín cũng dừng chân theo, nghe y nói xong thì gãi gãi đầu, đáp: "Dù sao huynh biết bản thân mình muốn gì là tốt rồi, còn làm thế nào là chuyện của huynh."
Tạ Liên nói: "Ừm. Cho nên, rốt cuộc Mộ Tình đã chạy đi đâu?"
Lúc này lại có vài tiểu đạo sĩ đi đến từ phía đối diện, tay xách theo giỏ, đùa giỡn suốt một đường. Thấy Tạ Liên, ai nấy cũng vui mừng hớn hở, đồng thanh gọi: "Thái tử điện hạ!"
Tạ Liên cũng cười đáp lễ. Mấy người kia đi sang đây, nâng giỏ lên trước mặt y, hớn hở nói: "Điện hạ có ăn anh đào không? Ta đã rửa trong nước suối nguồn, sạch mà ngọt lắm."
Trong giỏ đựng đầy những quả anh đào đỏ au, trông hết sức đáng yêu. Tạ Liên và Phong Tín chọn vài quả để ăn, mùi vị thanh ngọt vô cùng. Tiểu đạo sĩ kia hỏi: "Vừa rồi khi tới đây ta có nghe loáng thoáng điện hạ hỏi về Mộ Tình, ngài đang tìm hắn phải không? Chúng ta đi từ rừng anh đào tới đây, hình như đã gặp hắn ở đó."
Tạ Liên nói: "Vậy ư? Cảm ơn đã báo tin."
Thế là hai người đi về phía rừng cây anh đào. Trên núi Thái Thương, ngoại trừ rừng phong trải rộng khắp đồi núi ruộng nương, thì còn trồng rất nhiều cây ăn quả khác nhau như đào, lê, quýt, và cả cây anh đào. Những cây ăn quả này bồi bổ bằng nước suối nguồn, tắm mình trong mây mù, ánh nắng và mưa móc, kết ra quả trái dồi dào linh khí. Những quả trái đó ngoại trừ hiến vào hoàng cung, còn đâu chỉ dành cho các đệ tử trong quán tu hành mệt nhọc hái xuống ăn, bên ngoài Hoàng Cực quán có bỏ trăm lượng vàng cũng khó mua. Đi qua từng gốc cây anh đào, giữa lá cây xanh nõn mới trổ treo từng chuỗi quả như ngọc san hô đỏ, đẹp mắt vô cùng. Tạ Liên và Phong Tín đi một vòng trong rừng tìm Mộ Tình, chẳng mấy chốc đã nghe đằng trước loáng thoáng truyền đến tiếng cãi vã, không khỏi dừng bước chân.
Chương 62
Đánh rơi viên ngọc đỏ, vô tình chọc đỏ mắt (3)
Chỉ thấy bốn năm đạo nhân áo trắng đứng đằng trước, mỗi người đều xách một chiếc giỏ, hình như là tới hái quả. Nhưng bây giờ bọn họ chẳng những không vây quanh cây ăn quả, trái lại có vẻ như đang vây quanh người nào đó. Tuy rằng khoảng cách khá xa, nhưng với lực tai của hai người thì vẫn nghe rõ được nội dung tranh cãi. Một đạo nhân trẻ tuổi nói: "Hèn gì dạo này ta cứ cảm thấy trái cây trong rừng ít đi, ra là có kẻ ngồi ở đây cả ngày trộm trái cây."
Một giọng nói nhẹ nhàng cất lên: "Quả rừng trên núi Thái Thương, chỉ cần là đệ tử trong quán thì ai cũng hái được, tại sao lại nói là 'trộm'? Huống hồ trong rừng có hàng trăm hàng ngàn cây ăn quả, với sức của một mình ta không thể nào làm trái cây ít đi được."
Giọng nói này là của Mộ Tình, nhìn một góc quần áo của hắn lộ ra từ trong đám người, xem ra đã cởi bỏ áo đen của yêu ma, đổi về đạo bào giản dị ngày thường mặc. Đạo nhân kia hừ một tiếng, nói: "Nếu chỉ là phần của một mình ngươi, dĩ nhiên sẽ không ít đi bao nhiêu, nhưng ngươi không chỉ hái riêng phần mình mà còn muốn lén lút mang xuống núi cho người khác ăn, nhặt chút của hời, vô sỉ hết chỗ nói."
Tạ Liên đã hiểu. Lại là đồng môn chướng mắt Mộ Tình đang kiếm chuyện.
Mộ Tình nhà nghèo, mẹ hắn sống vô cùng túng thiếu trong kinh thành dưới chân núi, trước đây chỉ có thể thêu thùa may vá cho người ta sống qua ngày, về sau hỏng mắt nên không thêu thùa được nữa, chỉ đành đợi con trai mang chút tiền công tạp dịch từ trên núi xuống nuôi gia đình. Đôi lúc Mộ Tình sẽ hái một ít trái cây trên núi Thái Thương đem xuống cho mẹ ăn đồ tươi, việc này cũng chẳng có gì to tát, bởi vì không hề có quy định không được làm thế, nhưng nói ra cũng hơi mất mặt. Mang chuyện này lên bàn tiệc để châm chọc thì càng khiến người ta lúng túng hơn. Mộ Tình nói bằng giọng lành lạnh: "Chúc sư huynh, thường ngày ta không tiếp xúc nhiều với ngươi, nhưng ngươi lại năm lần bảy lượt nhắm vào ta, hôm qua cũng là ngươi không cho ta vào cung Tứ Tượng báo tin cho các quốc sư, không biết rốt cuộc ta đã chọc trúng chỗ nào của ngươi?"
Thanh niên họ Chúc kia chính là tiểu đạo sĩ hầu hạ quốc sư ở cung Tứ Tượng, vừa nghe Mộ Tình nhắc đến việc này liền nổi giận, nói: "Chính ngươi không chuyên tâm chuyển lời suýt nữa làm lỡ chuyện lớn mà còn quay sang trách ngược lại ta? Chỉ trách hôm qua ngươi cứ lấp la lấp lửng làm người khác tưởng ngươi mưu đồ gây rối, nếu ngươi sớm nói thẳng rằng mình đến làm gì thì có ra nông nỗi như vậy không? Suýt thì làm hỏng chuyện lớn hôm nay của Thái tử điện hạ, khi nãy ta còn bị quốc sư gọi tới mắng cho một tăng!" Nói đoạn ném chiếc giỏ trong tay, gọi những kẻ khác lên bao vây. Tạ Liên nhìn không được, quát: "Khoan đã!"
Vừa nghe tiếng, mấy gã đạo nhân đó giật bắn mình, quay đầu lại nhìn, thốt: "Thái tử điện hạ!"
Tạ Liên và Phong Tín đi tới, ở bên kia, Mộ Tình đã bị gã Chúc sư huynh xốc cổ áo đè lên tàng cây, vẫn chưa bắt đầu đánh. Nếu như đánh thật, Mộ Tình dù có một chọi hai mươi cũng chắc chắn sẽ chiếm thế thượng phong, nhưng nếu hắn muốn ở lại Hoàng Cực quán thì tuyệt đối không thể ra tay đánh.
Tạ Liên cười tủm tỉm hỏi: "Các vị sư huynh sư đệ đang làm gì thế?"
Gã Chúc sư huynh kia cũng được xem là mặt mày đẹp trai sáng sủa, xưa nay vô cùng ngưỡng mộ Thái tử điện hạ, nghe vậy thì sửng sốt, vội vã buông Mộ Tình ra, nói: "À, à, chúng ta..."
Tạ Liên tiếp tục cười tủm tỉm, nói: "Mặc dù không biết vì sao các vị lại tranh chấp, có điều Mộ Tình là hầu cận của ta, hắn làm gì thông thường đều xuất phát từ chủ ý của ta. Ta chẳng rõ bảo hắn tới đây hái chút trái cây, sao lại giống như phạm lỗi gì thế?"
Vài gã đạo nhân cuống quýt cúi người, nói: "Không có, không có! Thì ra là điện hạ ngài bảo hắn tới, là chúng ta hiểu lầm thôi!" Bên kia, Mộ Tình tựa vào một thân cây, nghe Tạ Liên nói là y bảo mình tới, đầu tiên là sửng sốt, sau đó sửa lại cổ áo, cúi đầu lặng thinh. Mấy gã đạo nhân kia túa mồ hôi lạnh, liên tục xin lỗi Tạ Liên và Mộ Tình, cuối cùng vắt giò xách giỏ chạy ra khỏi rừng cây anh đào. Thấy chiếc giỏ mà Mộ Tình mang đến bị ném qua một bên, Tạ Liên khom lưng nhặt lên đưa cho hắn, hỏi: "Cần giúp không?"
Mộ Tình không nhận giỏ, chỉ ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm mặt Tạ Liên với vẻ phức tạp, hồi lâu sau mới lên tiếng: "Thái tử điện hạ."
Tạ Liên nói: "Cái gì?"
Mộ Tình hỏi: "Tại sao huynh cứ xuất hiện vào những lúc thế này vậy?"
Tạ Liên: "?"
Phong Tín không hài lòng, nói: "Lời này của ngươi có ý gì? Những lúc thế này ra mặt giúp ngươi không tốt à?"
Mộ Tình liếc Phong Tín một cái rồi nhận giỏ. Bấy giờ, Phong Tín nghểnh cổ, nói bằng giọng cứng nhắc: "Ngươi nghe cho rõ đây, chuyện vừa rồi, xem như ta không đúng. Ta không có nhắm vào ngươi, chỉ thuận miệng nói vậy thôi. Ngươi khỏi cần nghĩ nhăng nghĩ cuội, nghi cái này ngờ cái kia. Ngoại trừ Thái tử điện hạ, ta không quan tâm chuyện của người khác, cũng chẳng có hứng thú buôn dưa lê. Đã nói đến vậy rồi, ngươi bớt hờn dỗi đi!"
"Phụt!" Lẽ ra Tạ Liên cảm thấy giọng điệu của Phong Tín quá hung hăng, nhưng nghe đến câu cuối cùng, chẳng hiểu sao lại buồn cười. Mộ Tình cũng lườm nguýt Phong Tín, Tạ Liên thì khoát tay nói: "Được rồi được rồi. Phong Tín nói toàn lời thật đó. Cắt bỏ đoạn ban nãy đi, coi như chưa xảy ra gì hết."
Lát sau, Mộ Tình bí xị nói: "Viên ngọc san hô đỏ đó, lát về ta lại tìm tiếp. Biết đâu làm rớt trên đường."
Tạ Liên nhủ thầm tỏ ra thờ ơ quá cũng không tiện, bèn nói: "Được rồi, vậy khi nào ngươi rảnh thì làm phiền ngươi vậy. Có điều nếu rớt trên đường, vậy chắc đã bị người ta nhặt rồi."
Dường như không còn gì khác để nói, Mộ Tình nhặt mấy chùm quả anh đào rơi vãi dưới đất vào trong giỏ. Vốn dĩ Mộ Tình cũng chẳng hái bao nhiêu chùm, nhặt xong chuẩn bị ra khỏi bìa rừng, Tạ Liên lại ngẩng đầu trông thấy rất nhiều quả anh đào đỏ tươi ngon mọng nước, thế là tiện tay hái vài chùm thả vào trong giỏ của Mộ Tình.
Mộ Tình hơi sửng sốt, Tạ Liên nói: "Lần sau ngươi hái trái cây đem về cho mẹ mình, cứ nói là phụng mệnh của ta tới hái, vậy thì không ai nói gì đâu. Quốc sư bảo ta mấy ngày tới về hoàng cung một chuyến, ta dự định ngày mai lên đường, hay là ngày mai ngươi cũng xuống núi thăm mẹ đi? Hôm nay cứ về trước đã."
Thật lâu sau, cuối cùng Mộ Tình mới đáp khẽ: "Cảm ơn điện hạ."
Hôm sau, Tạ Liên dẫn Phong Tín và Mộ Tình xuống núi.
Vừa xuống núi, đã trông thấy một chiếc xe ngựa lấp lánh ánh vàng trước cổng chùa, một thiếu niên áo gấm cổ đeo vòng tay cầm roi ngựa, nằm ở trước xe, hai chân bắt chéo giơ lên cao, điệu bộ kiêu căng ngạo mạn. Vừa nhìn thấy Tạ Liên ra khỏi cổng chùa, thiếu niên đó nhảy bật dậy, chạy ào về phía này, mừng rỡ gọi: "Thái tử biểu ca!"
Cổng chùa
Thiếu niên đó tất nhiên là Thích Dung, cũng chỉ có Thích Dung ăn rảnh ở không đến dưới chân núi Thái Thương ôm cây đợi thỏ chặn đường Tạ Liên. Gã nhảy hai bước sang đây, hớn hở nói: "Cuối cùng ta chờ được huynh rồi!"
Tạ Liên mỉm cười, xoa đầu Thích Dung, cười hỏi: "Thích Dung lại cao hơn rồi à? Sao ngươi biết hôm nay ta về cung?"
Thích Dung cười hì hì: "Ta có biết đâu. Ta chỉ canh chừng vậy thôi, huynh rồi cũng sẽ ra ngoài, ta không tin mình chờ không được."
Tạ Liên nói với vẻ bất đắc dĩ: "Ngươi rảnh quá ha. Có đọc sách đàng hoàng không? Có luyện kiếm đàng hoàng không? Nếu mẫu hậu còn bảo ta kiểm tra bài tập của ngươi, ta sẽ không nói tốt giúp ngươi nữa đâu."
Thích Dung đảo tròng mắt, nhảy dựng lên: "Thôi khoan nói mấy thứ đó! Huynh nhìn xe mới của ta nè! Thái tử biểu ca lên đi, ngồi xe của ta về cung đi!" Nói đoạn nắm tay Tạ Liên kéo y lên xe, Tạ Liên chỉ cảm thấy nguy hiểm muôn trùng, hỏi: "Ngươi lái xe à?" Phong Tín và Mộ Tình cũng lên theo, theo lý mà nói, người hầu phải ngồi trước xe, thế nhưng Thích Dung lại xụ mặt, hất roi ngựa, gắt giọng: "Ta bảo Thái tử biểu ca lên xe chứ có bảo các ngươi lên đâu. Hai kẻ hèn mạt mà cũng muốn chạm vào xe vàng của ta, còn không mau cút đi!"
Tạ Liên quát khẽ: "Thích Dung!"
Phong Tín đã gặp Thích Dung vài lần, cũng sớm biết cái đức hạnh há mồm tiện nhân ngậm mồm đi chết đi của gã, Mộ Tình chưa bao giờ vào hoàng cung, hiển nhiên cũng chưa từng tiếp xúc gần với vị Tiểu Kính Vương này. Thích Dung tủi thân hết biết, nhưng nhìn Tạ Liên có vẻ muốn đi, gã đành phải nén đau đồng ý cho hai kẻ hèn mạt này lên xe vàng bảo bối của mình.
Nào ngờ vừa lên xe, cả ba người đều hối hận. Thích Dung lái xe phải nói là y như thằng điên, tay cầm roi ngựa quất liên tục, miệng chẳng biết đang la lối cái gì, quất đến nỗi ngựa trắng hoảng sợ hí lên bánh xe xoay tít tắp, xông ngang đánh thẳng trên đường cái, Tạ Liên luôn miệng hô ngừng cũng không ngừng, nhiều lần suýt thì tông ngã người đi đường và sạp hàng, may nhờ Phong Tín và Mộ Tình ở phía trước thường túm dây cương ghìm ngựa trước vực đá, bằng không chạy suốt dọc đường ít nhất cũng phải đền hai chục mạng người. Chờ khi đến trước hoàng cung, cuối cùng bánh xe cũng từ từ giảm tốc độ, ba người Tạ Liên Phong Tín Mộ Tình đồng loạt thở phào nhẹ nhõm. Tạ Liên lau mồ hôi lạnh, Phong Tín và Mộ Tình mỗi người bị Thích Dung quất hơn mười roi, trên tay hằn đầy vết roi. Còn Thích Dung thì đứng dậy giẫm lên mông con ngựa trắng cao lớn, đắc ý nói: "Thái tử biểu ca, sao hả, ta lái xe không tệ chứ!"
Tạ Liên xuống xe, nói: "Ta phải bảo phụ hoàng và mẫu hậu tịch thu xe của ngươi."
Thích Dung kinh hãi: "Sao lại như vậy!"
Quốc phong của Tiên Lạc (quốc phong = phong tục quốc gia), một yêu vàng, hai yêu đá quý, ba yêu giai nhân, bốn yêu âm nhạc, năm yêu thư họa (thư pháp và hội họa). Hoàng cung Tiên Lạc là đỉnh cao dung hòa tất cả những thứ họ yêu thích vào làm một. Băng qua quảng trường đồ sộ, đi xuyên qua hành lang màu son, không phải đâu đâu cũng toàn là vàng khối tượng ngọc xa hoa. Thư họa tinh mỹ có thể được nhìn thấy khắp nơi, tiếng nhạc dập dềnh thi thoảng lại truyền đến, tựa như chốn bồng lai tiên cảnh.
Hoàng cung là nhà của Tạ Liên, từ nhỏ y đã lớn lên tại đây. Phong Tín mười bốn tuổi được chọn làm thị vệ, sớm đã chẳng còn lấy làm lạ. Chỉ có Mộ Tình lần đầu tiên nhìn thấy kiến trúc như thế nên không khỏi choáng ngợp. Nhưng càng choáng ngợp lại càng cẩn thận, càng không dám để người khác nhìn thấu cảm xúc, càng không dám đi nhầm bước nào.
Tạ Liên đi gặp hoàng hậu Mẫn thị trước. Hoàng hậu đang ở trong cung Tê Phượng, tựa vào bàn nhỏ nếm trà, trước đó đã nghe người thông báo Thái tử điện hạ trở về, mừng đến nỗi mặt mũi tươi rói, con trai còn chưa đến gần đã chìa hai tay, nói: "Cuối cùng chịu về thăm mẹ rồi sao?"
Phong Tín và Mộ Tình canh giữ ngoài điện, Tạ Liên và Thích Dung vào điện, y bước qua nắm tay mẹ mình, nói: "Chẳng phải hai tháng trước con vừa về sao?"
Hoàng hậu trách cứ: "Thằng nhóc con đúng là vô lương tâm. Dung nhi còn biết phải dành nhiều thời gian bầu bạn với người già như mẹ, con hai tháng không về nhà mà còn không biết xấu hổ nói hùng hồn thế kia."
Tạ Liên cười đáp: "Mẫu hậu già chỗ nào chứ? Rõ ràng mới có mấy chục tuổi! Nhìn còn tưởng cùng lứa với con ấy chứ."
Hoàng hậu nghe mà vui vẻ. Tuy bà có đứa con trai lớn như Tạ Liên, nhưng vì sống trong nhung lụa và bảo dưỡng cực tốt, nên bà vẫn còn là một quý phu nhân tuyệt sắc, song ngoài miệng bà vẫn khiển trách: "Nịnh bợ." Thấy trên bàn nhỏ có một chiếc chén ngọc, thứ bên trong tỏa ra mùi thơm mát lạ kỳ, Tạ Liên ngạc nhiên hỏi: "Đây là gì thế?" Nói đoạn cầm chén lên, hoàng hậu lại nói: "Đừng uống! Cái đó không uống bừa được."
Chương 63
Đánh rơi viên ngọc đỏ, vô tình chọc đỏ mắt (4)
Tạ Liên ngạc nhiên hỏi: "Có gì mà không thể cho con uống?"
Hoàng hậu cầm chén ngọc nhỏ, đổ một ít ra, ấn lên khăn tay, đoạn lau mặt vài cái, nói: "Trước đó mấy hôm, núi Thái Thương cống nạp một mớ quả tươi, mẹ không thích ăn quả anh đào, nhưng có một phương thuốc nói có thể giã nát nó thoa lên mặt, nên mẹ mới ép một ít dùng chơi, mà thấy chẳng có tác dụng gì, đang định gọi người đem đổ, sao có thể cho người khác uống được?"
Tạ Liên nghe vậy thì cười cười, nhưng rồi chợt nhớ đến chuyện hôm qua. Mẹ của Mộ Tình một năm không được ăn quả anh đào bao nhiêu lần, Mộ Tình hái quả anh đào trên núi Thái Thương còn bị người ta đâm chọc, Tạ Liên không khỏi có chút cảm khái, sợ Mộ Tình nghe thấy sẽ khó chịu bèn mỉm cười đổi đề tài, hỏi: "Vậy có cái gì cho con ăn được không?"
Hoàng hậu cười nói: "Nghe con nói kìa, để người ngoài nghe được lại tưởng mẹ bỏ đói con, thật ra là từ nhỏ con đã kén ăn, mẹ nuôi không mập. Lên núi lâu thế mà gầy xọp như vầy, hôm nay mẹ bảo con ăn gì thì con phải ăn nấy, không được kén cá chọn canh."
Mẹ con hai người trò chuyện một hồi, hoàng hậu hỏi về sự cố ngoài ý muốn trong buổi diễu hành tế trời, lòng vẫn lo lắng khôn nguôi: "Nghe ý của quốc sư, dường như việc này rất nghiêm trọng, vẫn chưa biết nên làm sao cho phải? Con có bị trách phạt không?"
Tạ Liên còn chưa trả lời, Thích Dung đã cướp lời: "Hứ, việc này nào phải lỗi của Thái tử biểu ca, kẻ ngã xuống từ trên tường thành có phải huynh ấy đâu. Cho dù muốn phạt, cũng nên phạt cái thằng nhãi chết bầm kia."
Tạ Liên nghĩ thầm: "Thằng nhãi chết bầm là cái gì." Y còn chưa uốn nắn Thích Dung, hoàng hậu đã bật cười. Đúng lúc này, bà chú ý đến hai người ngoài điện, nói: "Cậu trai kế bên Phong Tín là ai đấy? Lần đầu tiên thấy bên cạnh con có thêm một người."
Tạ Liên vui vẻ đáp: "Đó là Mộ Tình, hôm qua cậu ta đóng vai yêu ma trên đài đó."
Nghe vậy, hai hàng lông mày của Thích Dung khẽ nhướn lên. Hoàng hậu nói: "Ồ? Bảo cậu ta vào đây xem nào. Phong Tín cũng vào đi."
Vì vậy, Phong Tín và Mộ Tình bước vào điện, khụy gối trước mặt hoàng hậu. Hoàng hậu nhìn kỹ Mộ Tình một phen rồi nói với Tạ Liên: "Hôm qua mẹ thấy cậu ta đánh rất khá, ra là một cậu chàng điển trai thế này, tướng mạo trông y hệt một vị tể tướng lịch thiệp, không ngờ dùng đao lại hung mãnh đến thế."
Tạ Liên mỉm cười: "Vậy sao? Con cũng cảm thấy cậu ta tốt lắm."
Lúc này, Thích Dung lại lạnh lùng cất lời: "Ồ? Yêu ma hôm qua là nó hả?"
Tạ Liên vừa nghe là biết không ổn, quả nhiên giây tiếp theo, Thích Dung bất thình lình cáu lên, vớ lấy chén ngọc trên bàn nhỏ, tạt thẳng lên đầu Mộ Tình, quát: "Thưởng cho ngươi đấy!"
Tạ Liên nhanh tay lẹ mắt đánh rớt tay Thích Dung, nhờ vậy mới không để gã tạt trúng mặt Mộ Tình. Y xốc Thích Dung lên, nói: "Thích Dung, ngươi làm gì thế!"
Thích Dung bị Tạ Liên xốc lên mà vẫn còn nhe nanh múa vuốt, nói: "Biểu ca, ta chỉ giúp huynh dạy dỗ cái thằng hạ nhân không biết thân biết phận này thôi! Hôm qua lúc huynh chưa đuổi tới, một mình nó trên đài diễn hăng say lắm, khoe mẽ suốt đấy chứ. Nó là cái thá gì, tưởng mình là nhân vật chính của buổi diễu hành tế trời chắc? Còn muốn tạo phản à!"
Hoàng hậu ngây ngẩn cả người, nói: "Dung à, con... con đang làm gì vậy?" Mộ Tình không bị tạt trúng đầu mà bị tạt trúng quần áo, nhưng vì hoàng hậu không bảo đứng dậy nên hắn vẫn quỳ gối dưới đất, sắc mặt trắng một cách u ám. Tạ Liên đưa Thích Dung cho Phong Tín, nói: "Đừng để nó đánh người." Phong Tín dùng một tay ghìm Thích Dung, Thích Dung lại liên tục đấm đá Phong Tín, phun phì phì: "Ngươi là ai, gan chó lớn quá nhỉ, dám tùy tiện dùng tay ngươi chạm vào ta!"
Tạ Liên vô cùng đau đầu, nói: "Thích Dung, dạo này ngươi càng lúc càng càn rỡ!" Dứt lời quay sang nói với hoàng hậu: "Mẫu hậu, con quên nói chuyện này, mẹ tịch thu xe vàng của nó đi."
Thích Dung hoảng hốt, hét lớn: "Đừng mà đừng mà! Dựa vào đâu chứ! Đó là quà sinh nhật dì tặng cho ta!"
Tạ Liên nói: "Là cái gì cũng phải tịch thu. Vừa rồi ở trên đường suýt thì gây tai nạn, trước khi ngươi chưa thể lái xe đàng hoàng, đừng đụng vào thì hơn."
Hoàng hậu "ồ" một tiếng, hỏi: "Suýt thì gây tai nạn? Gây tai nạn gì?"
Tạ Liên bèn kể lại điệu bộ điên cuồng của Thích Dung khi lái xe, Thích Dung tức đến mức viền mắt ửng đỏ, nói: "Thái tử biểu ca nói oan cho ta! Rõ ràng ta chưa tông trúng người nào hết!"
Tạ Liên dở khóc dở cười, nói: "Đó là vì có người kéo ngươi lại!"
Thích Dung thoắt cái giãy khỏi tay Tạ Liên, tức tối chạy ra khỏi cung Tê Phượng, hoàng hậu gọi mấy tiếng cũng không trở lại, chỉ đành nói một cách bất đắc dĩ: "Ngày mai mẹ sẽ nói tiếp chuyện tịch thu xe với nó. Ôi, thằng nhóc này muốn có chiếc xe lâu lắm rồi, trước đó vài hôm mừng sinh nhật nó, mẹ thấy nó muốn quá nên mới tặng cho nó, nào biết lại ra nông nỗi này? Sớm biết vậy mẹ đã không tặng rồi."
Tạ Liên hỏi: "Sao nó cứ phải đòi một chiếc xe?"
Hoàng hậu đáp: "Bảo là như vậy thì lúc nào cũng lên núi Thái Thương đón con về cung được."
Nghĩ đến việc Thích Dung chung quy cũng có ý tốt với mình, Tạ Liên im lặng không nói tiếng nào. Lát sau, y mở miệng: "Mẹ vẫn nên tìm một người thầy cho nó, uốn nắn lại tính nết của nó, cứ cái đà này, tuyệt đối không được đâu."
Hoàng hậu thở dài: "Làm gì có thầy nào trị được nó chứ? Xưa nay nó chỉ nghe lời con nói, chẳng lẽ bảo nó lên núi tu thân dưỡng tính với con? Quốc sư lại sống chết không chịu nhận nó làm đồ đệ."
Tạ Liên tưởng tượng thôi cũng thấy vừa buồn cười vừa đáng sợ, lắc đầu nói: "Với tính nết của Thích Dung, nếu vào Hoàng Cực quán, chỉ sợ cả ngọn núi Thái Thương sẽ gà chó không yên."
Đối với vấn đề này, mẹ con hai người đều đau đầu không thôi, nghĩ mãi không ra cách nào, chỉ đành tạm thời gác lại. Trời sẩm tối, Tạ Liên gặp cha mẹ, trò chuyện ngắn ngủi một chốc rồi muốn rời khỏi hoàng cung.
Ai ai cũng biết, Thái tử điện hạ một lòng say mê tu đạo, từ khi lên núi Thái Thương gia nhập Hoàng Cực quán, y và cha mẹ luôn gần nhau thì ít xa cách thì nhiều. Lần này y về, trái lại quốc vương không nói gì nhiều, còn hoàng hậu cứ quyến luyến không nỡ xa con. Rời khỏi hoàng cung, Tạ Liên tùy ý đi dạo trong hoàng thành, tiện thể làm theo lời hôm qua nói, đưa Mộ Tình về nhà một chuyến.
Nhà cao cửa son và ổ chuột của dân nghèo, thông thường chỉ cách nhau một con hẻm. Căn nhà năm xưa của Mộ Tình nằm trong một con hẻm nhỏ tối tăm tại chốn phồn hoa nhất của hoàng thành.
Ba người vừa đến đầu ngõ, đã thấy năm sáu đứa nhóc quần áo rách rưới nhào tới, rối rít gọi: "Ca ca. Ca ca về rồi!"
Ban đầu Tạ Liên còn cảm thấy kỳ quặc, sao vừa trông thấy người lạ đã gọi ca ca rồi, sau đó mới phát hiện, "ca ca" mà đám nhóc này gọi không phải mình mà là Mộ Tình. Bé con gọi Mộ Tình ngọt xớt, nhưng Mộ Tình lại không để ý, nói: "Lần này không có. Mấy đứa đừng gọi lung tung."
Tuy mặt Mộ Tình trơ ra, nhưng giọng điệu không thật sự lạnh lùng. Dứt lời, Mộ Tình nói với Tạ Liên: "Xin điện hạ bỏ qua cho, đây là đám nhóc sống lân cận." Rõ ràng đám nhóc kia khá thân với Mộ Tình, mọi khi chơi đùa quen rồi, hoàn toàn không sợ hắn, còn cười hì hì vây quanh bọn họ, chìa đôi tay nhỏ bẩn thỉu, tìm Mộ Tình đòi ăn. Cuối cùng, Mộ Tình vẫn lấy một chùm quả anh đào đỏ như hồng ngọc từ trong túi, chia cho bọn nó.
Thấy thế, Phong Tín kinh ngạc không thôi, dường như cảm thấy Mộ Tình làm vậy là chuyện kỳ lạ nhường nào. Cũng khó trách Phong Tín, dù gì Mộ Tình cũng mang một gương mặt thư sinh thoạt nhìn rất đỗi lạnh nhạt, cái loại mà dẫu có người qua đường chết đói trước mặt cũng phải đậy kín phần ăn của mình... Trái lại, Tạ Liên không lấy làm kinh ngạc. Lẽ ra y cũng muốn lục chút gì đó cho đám nhóc này, nhưng đâu phải y mang kẹo bên mình suốt, thế nên bảo Phong Tín cho bọn nhỏ chút tiền, rồi lại cảm thấy giống xua đuổi ăn mày quá, nói chung cứ có cảm giác không ổn. Ai ngờ đúng vào lúc này, chợt nghe tiếng lọc cọc inh ỏi, cùng với một tràng tiếng ngựa hí, ngoài đường cái truyền đến tiếng thét chói tai.
Mọi người nghiêm mặt, Tạ Liên lao ra khỏi hẻm. Hai bên đường ngổn ngang lộn xộn, người ngã ngựa đổ, người đi đường đua nhau chạy trốn, táo đỏ lê vàng rơi vãi đầy đất. Còn chưa thấy rõ xảy ra chuyện gì, chỉ nghe một thiếu niên cười sằng sặc quát: "Tránh ra tránh ra, tránh ra hết coi! Kẻ nào không có mắt nhìn, giẫm chết ta mặc xác đấy nhé!"
Phong Tín mắng một tiếng: "Lại là Thích Dung!"
Quả nhiên, Thích Dung đứng trên chiếc xe vàng xa hoa của mình, mặt mũi đằng đằng sát khí, giơ roi ngựa vẫy tứ tung, quất đến nỗi ngựa trắng hí ầm ĩ. Tạ Liên nói: "Ngăn nó lại!"
Cỗ xe vàng rít gào phóng qua trước mặt bọn họ, Phong Tín đáp "rõ!" rồi xông lên phía trước. Tạ Liên đang định đi xem người đi đường và sạp hàng bị Thích Dung lái xe tông ngã, kiểm tra xem có ai bị thương không, thế rồi bỗng thấy có chỗ nào không ổn. Y quay phắt đầu lại, chỉ thấy sau cỗ xe vàng đồ sộ kéo theo một sợi dây thừng thô dài, còn phần đuôi của sợi dây buộc vào một chiếc bao bố. Hình như bao bố trùm thứ gì đó, thứ đó vẫn còn vùng vẫy liên tục bên trong. Xem ra, trong bao bố đựng một người.
Trong nháy mắt, Tạ Liên chỉ cảm thấy sởn hết gai ốc. Giây tiếp theo, y sấn bước xông tới.
Con ngựa trắng bị Thích Dung quất cho phi như điên, ngay cả bánh xe ngựa cũng xoay như chong chóng, Phong Tín đi lên trước chặn ngựa, nhưng chỉ e không chặn được trong một sớm một chiều. Tạ Liên thì sải ba bước đuổi theo xe ngựa, trường kiếm ra khỏi vỏ, vung kiếm chém xuống. Theo tiếng động, dây thừng bị chặt đứt, bao bố kia cũng rơi xuống đất, lăn vài vòng rồi nằm yên.
Tạ Liên cúi người xem thử. Chẳng biết bị kéo lê dưới đất bao lâu, chiếc bao bố bị ma sát đến rách bươm, bẩn thỉu cùng cực, loang lổ vết máu, chẳng khác gì bao đựng xác. Tạ Liên lại chém một nhát nữa, chặt đứt sợi dây buộc miệng bao, vừa mở ra nhìn thử, quả nhiên bên trong đựng một người. Hơn nữa, còn là một đứa bé!
Tạ Liên xé toạc bao bố. Đứa bé kia cuộn thành một cục ở trong bao, ôm chặt đầu mình, trên quần áo bẩn thỉu toàn là máu tươi và vết chân quá lớn so với nó, tóc tai cũng bê bết máu, rối nùi bù xù, rõ ràng đã bị người ta đánh một trận tơi bời, quả thật nhìn không ra hình người. Mà nhìn thân hình này, cùng lắm chỉ mới bảy tám tuổi, nhỏ ơi là nhỏ, đứa bé run bần bật như bị lột một lớp da, thật sự không biết làm sao sống sót được sau khi bị hành hung và kéo lê như thế.
Tạ Liên lập tức đưa tay mò cổ của đứa bé, tìm được nhịp đập còn chưa quá yếu mới thở phào một hơi, vội vã bế thân thể nhỏ nhắn của nó lên, quay đầu giận điên người quát: "Phong Tín! Cản Thích Dung lại cho ta!!!"
Thật sự Tạ Liên chưa bao giờ nghĩ rằng, ở nước Tiên Lạc còn có thể xảy ra chuyện thế này. Giữa ban ngày ban mặt, ngay trên đường cái, một quý tộc đựng một người sống trong bao bố, kéo lê sau xe ngựa! Nếu y không nhìn thấy rồi ngăn lại, chẳng phải hôm nay đứa bé nhỏ xíu này sẽ bị kéo chết tươi sao?!
Xa xa đằng trước truyền đến từng đợt tiếng ngựa hí và tiếng rống giận của Thích Dung, lát sau, Phong Tín cất cao giọng: "Cản lại!"
Tạ Liên đuổi theo vài bước lên trước, vừa khéo nghe Thích Dung hét thảm một tiếng, tức giận mắng: "Tên hạ nhân coi trời bằng vung nhà ngươi lại dám làm ta bị thương, ai cho ngươi gan đó?!!"
Thì ra, Phong Tín không cản được Thích Dung nên giật dây cương ghìm ngựa. Tất nhiên Thích Dung không để Phong Tín làm thế, hai bên giành qua giành lại, trong lúc nguy cấp, gã bị Phong Tín vô ý đụng phải hất xuống xe ngựa. Thích Dung ngã xuống đất lăn mấy vòng, đầu gối bị cứa rách, thấy bốn phía đứng đầy người vây xem, gã chỉ cảm thấy vừa căm phẫn vừa mất mặt. Tạ Liên lên tiếng: "Ta cho đấy!"
Thích Dung há há miệng, ú ớ: "Thái tử biểu ca!"
Tạ Liên giận dữ nói: "Ngươi nhìn thử chuyện mà mình làm đi! Thích Dung, ta thật sự..."
Lúc này, Tạ Liên bỗng nhiên cảm giác được, đứa bé trong lòng khẽ co rụt, dường như chậm rãi buông đôi tay ôm đầu, lén lút nhìn y qua cùi chỏ.
Tạ Liên lập tức kìm cơn giận, cúi đầu dịu giọng hỏi: "Đệ thấy sao rồi? Có chỗ nào đau lắm không?"
Đứa bé thế mà vẫn còn tỉnh táo, không ngất xỉu vì đau, cũng không bị dọa cho sững người, còn lắc lắc đầu với y. Thấy nửa bên mặt lộ ra của nó bê bết máu, Tạ Liên muốn xem thử đầu nó có bị thương không, nào ngờ đứa bé lại che nửa bên mặt khác, liều mạng không cho y xem.
Chương 64
Đánh rơi viên ngọc đỏ, vô tình chọc đỏ mắt (5)
Tạ Liên dỗ dành: "Đừng sợ, không sao đâu, ta chỉ muốn xem tình trạng vết thương của đệ thôi." Thế nhưng đứa bé càng bụm chặt hơn, chỉ để lộ mỗi một con mắt to đen láy, toát nên vẻ kinh hoảng. Nhưng vẻ kinh hoảng này lại chẳng giống sợ bị y đánh, trái lại trông như chỉ sợ bị y phát hiện điều gì thôi.
Nhìn nửa bên mặt nhỏ nhắn và một con mắt của đứa bé, Tạ Liên chợt có cảm giác mình đã gặp nó ở đâu rồi, không khỏi híp mắt lại. Thấy sắc mặt y hết sức khó coi, Thích Dung nói: "Thái tử biểu ca, hôm qua thằng nhãi chết bầm này phá hoại lễ lớn của huynh, ta giúp huynh trút giận thôi. Yên tâm đi, ta biết chừng mực, không chết được đâu."
Quả nhiên, đứa bé mà y ôm trong ngực chính là đứa bé ngã xuống từ trên lầu cổng thành trên đường làm lễ Thượng Nguyên tế trời hôm qua!
Thảo nào Tạ Liên càng nhìn nó càng thấy quen mắt, đứa bé này ngay cả quần áo cũng không thay, vẫn là bộ đồ hôm qua, có điều qua một trận tay đấm chân đá và kéo lê dưới đất nên còn bẩn hơn hôm qua, hoàn toàn nhìn không ra là cùng một bộ, càng nhìn không ra là cùng một người. Tạ Liên không thể nhịn được nữa, quát: "Ai nói với ngươi là ta muốn trút giận? Liên quan gì đến đứa bé này? Có phải lỗi của nó đâu!"
Thích Dung lại nói một cách đúng lý hợp tình: "Tất nhiên là lỗi của nó. Nếu không tại nó, sao huynh lại bị quốc sư khiển trách chứ?"
Vụ này náo động dữ dội, người đi đường vây xem càng tụ càng đông, xì xào bàn tán. Trùng hợp thay, lúc này Mộ Tình cũng đi tới, Thích Dung giơ roi chỉa vào Mộ Tình, sắc mặt không phục lẫn với một tia tàn nhẫn, nói: "Còn cái tên hạ nhân nhà ngươi nữa. Vừa nhìn là biết không an phận thủ thường, nếu bây giờ huynh không liệu mà trừng trị, mai này sớm muộn gì nó cũng sẽ tạo phản đạp lên đầu chủ nhân là huynh. Ta giúp huynh dạy dỗ nó, vậy mà huynh lại che chở cho nó, tố cáo ta. Bây giờ dì dượng túm cổ ta sạc cho một trận, còn tịch thu xe vàng của ta. Biểu ca, đó là quà sinh nhật của ta đấy! Ta mong mỏi hơn hai năm đó!"
Mộ Tình lập lờ lia mắt nhìn Thích Dung. Tạ Liên giận quá hóa cười, nói: "Ta không cần ngươi muốn tốt cho ta như thế. Rốt cuộc ngươi đang trút giận cho ta, hay đang trút giận cho chính mình?"
"..." Thích Dung nói: "Biểu ca, sao huynh lại nói những lời này với ta? Vậy ta bênh vực huynh lại là ta sai sao?"
Nói chuyện với gã không thông, Tạ Liên răn đe: "Thích Dung, ngươi nghe cho kỹ đây, từ nay về sau, ngươi không được đụng đến đứa bé này nữa. Một ngón tay cũng không được, có nghe rõ chưa!"
Bấy giờ, cần cổ Tạ Liên bỗng nhiên sít lại. Dù đang trong cơn giận dữ, y cũng hơi sửng sốt, cúi đầu nhìn thử, chỉ thấy đứa bé kia vùi mặt trong ngực mình, đôi tay ôm chặt cổ mình. Phát hiện nó run như cầy sấy, Tạ Liên cứ ngỡ nó đau chỗ nào, vội hỏi: "Sao thế?"
Người ngợm đứa bé kia dính đầy bùn đất, cát bụi, máu tươi, bẩn không chịu được, tất cả dây hết vào áo trắng của Tạ Liên, song Tạ Liên chẳng hề để ý, nhẹ nhàng vỗ lưng nó như trấn an, trầm giọng nói: "Không sao đâu. Bây giờ ta dẫn đệ đi gặp đại phu."
Đứa bé kia không đáp lời, nhưng ôm y càng chặt hơn. Liều chết không buông, như thể đang ôm một cọng rơm cứu mạng. Thấy Tạ Liên không hề tiếp nhận tình cảm của mình, một lòng bênh vực người ngoài, lại thấy đứa bé kia trây trét máu nhầy đất bẩn lên người Tạ Liên, Thích Dung giận sôi máu, roi ngựa vung lên, định quất vào sau ót đứa bé. Phong Tín vẫn đứng bên cạnh, lúc này thình lình tung một cú đá, đá trúng cánh tay của Thích Dung.
"Rắc" một tiếng, Thích Dung hét toáng lên, roi ngựa rơi xuống đất, cánh tay phải cong gãy với một góc độ bất thường, mềm oặt thõng xuống. Mà gã còn tỏ ra không thể tin nổi, một lúc lâu sau mới từ từ ngẩng đầu lên, nhìn Phong Tín chòng chọc, gằn từng chữ: "Ngươi, thế mà dám, đánh gãy cánh tay của ta!"
Câu nói này, rét thấu xương. Phong Tín đá xong mới kịp nhận ra mình đã làm gì, sắc mặt khẽ biến, mà sắc mặt của Mộ Tình còn biến đổi kịch liệt hơn hắn.
Ngày thường bọn họ ngấm ngầm căm ghét Thích Dung thế nào là một chuyện, nhưng với tư cách là thị vệ, nhất thời lỡ tay đánh gãy cánh tay của hoàng thân quốc thích lại là chuyện hoàn toàn khác!
Mặc dù khi nãy Tạ Liên dùng cả hai tay ôm đứa bé, sau lưng toàn là người đi đường vây xem, không tiện né tránh, nhưng nếu y muốn tránh cũng dễ như trở bàn tay. Chỉ là Thích Dung khí thế hùng hổ, thường bất thình lình nổi điên, Phong Tín ra tay quá nhanh không kịp cân nhắc kỹ, cục diện hiện giờ càng hỗn loạn, không cản kịp nên cũng không quan tâm nhiều thế.
Lớp áo trước ngực đã bị máu tươi nhuộm thấu, sợ còn kéo dài nữa đứa bé này sẽ chết, Tạ Liên quả đoán ra quyết định, hắng giọng nói lớn: "Các vị, hôm nay nếu ai ở đây bị liên lụy, có tổn thất gì, tạm thời ghi lại trước, sau này ta sẽ chịu trách nhiệm toàn bộ, tuyệt không thoái thác!"
Ngay sau đó, y nói với Phong Tín và Mộ Tình: "Trước tiên cứu đứa bé này đã. Đưa Thích Dung đi đi, đừng để nó tiếp tục làm càn bên ngoài!" Dứt lời, Tạ Liên bế đứa bé xoay người phóng về phía hoàng cung. Phong Tín tuân lệnh, sắc mặt khôi phục như thường, nhấc Thích Dung đang phẫn nộ lên, theo sau Tạ Liên phóng về phía hoàng cung. Thấy Thái tử điện hạ mới đi một canh giờ lại vọt về như gió lửa, đám binh sĩ trước đường cửa cung dẫu thấy khó hiểu nhưng nào dám ngăn cản. Thế là, Tạ Liên chạy thẳng một mạch đến chỗ ngự y, bảo Phong Tín và Mộ Tình trông chừng Thích Dung canh giữ bên ngoài, còn mình thì vào trong.
Thái tử điện hạ hiếm khi hồi cung, hiếm khi ra lệnh, dĩ nhiên các ngự y phải tức tốc chạy tới. Tạ Liên đặt đứa bé kia lên ghế, nói: "Làm phiền các vị. Vừa rồi đứa nhỏ này bị nhiều người lớn đánh đập, còn bị người ta nhét vào bao bố kéo lê dưới đất suốt một đường, làm phiền xem trước hộ ta đầu nó có bị thương không, đây là chuyện quan trọng nhất."
Tuy các ngự y chưa từng thấy vị hoàng thất quý tộc nào bế một đứa bé ất ơ nhơ nhớp xông vào bảo bọn họ chữa trị, nhưng cũng biết người ta bảo mình làm gì thì phải làm nấy, thế là vâng dạ đáp lời. Một người lên tiếng: "Bạn nhỏ, thả tay xuống trước đi."
Nhưng mà, đứa bé được Tạ Liên bế một mạch tới đây, dọc đường ngoan ơi là ngoan, bây giờ lại nhất quyết không nghe, bụm kín nửa bên mặt phải, nói sao cũng không chịu thả tay xuống. Kiểu này dẫu cho ngự y có nhẫn nại cỡ nào, bệnh nhân không hợp tác thì làm sao chữa được. Chúng ngự y nhìn Tạ Liên: "Thái tử điện hạ, vậy...?"
Tạ Liên khẽ nâng tay, nói: "Chắc nó sợ người lạ. Không có gì, để ta."
Đứa bé kia ngồi trên ghế, Tạ Liên không thể nhìn thẳng vào nó, y bèn cúi người, khom lưng một chút, nghiêng đầu hỏi: "Đệ tên gì?"
Con mắt to của đứa bé nhìn y chằm chằm, trong đồng tử đen láy phản chiếu ảnh ngược trắng muốt của một người. Ánh mắt của nó, nếu phải hình dung thì quả đúng như Phong Tín nói —— "Hệt như mê muội, chẳng khác nào bị quỷ nhập", không nên xuất hiện trên người một đứa bé.
Hồi lâu sau, nó mới cúi đầu đáp: "...Hồng..."
Giọng nó vừa thấp vừa nhỏ, úp úp mở mở, dường như không muốn nói, hoặc như có chút ngại ngùng. Tạ Liên chỉ nghe rõ mỗi chữ "Hồng", hỏi tiếp: "Đệ mấy tuổi?"
Đứa bé đáp: "Mười tuổi."
Tạ Liên chỉ thuận miệng hỏi một chút, định bụng xua tan lòng cảnh giác của đứa bé, nghe nó ngượng nghịu đáp "mười tuổi", y không khỏi sửng sốt, nghĩ thầm: "Mình còn tưởng chỉ mới bảy tám tuổi, ra là mười tuổi cơ à? Vậy đứa bé này ốm yếu quá rồi."
Dừng một chút, Tạ Liên mỉm cười nói: "Bây giờ các vị đại phu đang xem vết thương giúp đệ, đệ đừng sợ, thả tay xuống được không?"
Nghe xong, đứa bé lại do dự lắc đầu. Tạ Liên hỏi: "Tại sao không chịu?"
Im lặng hồi lâu, nó mới đáp: "Xấu."
Nó chỉ đáp một chữ như thế, dù dỗ dành cỡ nào cũng không chịu nghe lời buông tay cho ngự y xem đầu. Tạ Liên thề thốt không chê xấu, y không nhìn, y xoay người sang chỗ khác mà nó cũng không chịu. Tuổi còn nhỏ nhưng cố chấp cực kỳ. Bất đắc dĩ quá, các vị ngự y buộc phải hỏi nó vài vấn đề, bảo nó phân biệt vài con số ra dấu bằng tay, xác nhận nó không choáng đầu, cũng không đau đầu, nhìn hay nghĩ đều rõ ràng, bấy giờ mới chữa vết thương trên người nó trước.
Chữa một hồi, các vị ngự y có vẻ hết sức buồn bực, tặc lưỡi kêu lạ. Tạ Liên một mực ở bên cạnh trông chừng, nghe vậy bèn hỏi: "Các vị, sao thế?"
Một ngự y nhịn không được mở miệng: "Thái tử điện hạ, bạn nhỏ này thật sự đã bị người ta đánh đập một trận, rồi bị nhét vào bao bố kéo lê một đường sao?"
Im lặng một hồi, Tạ Liên nói: "Bộ giả được à."
Ngự y nói: "Vậy thật là... giỏi quá. Ta chưa từng thấy người nào ngoan cường như thế. Gãy năm xương sườn và một chân, cùng với đủ loại vết thương lớn nhỏ, cộng gộp lại mà vẫn tỉnh táo như thường, còn ngồi thẳng lưng nói chuyện với người khác. Người lớn còn khó mà làm được, huống chi là một đứa bé mười tuổi?"
Tạ Liên vừa nghe, không ngờ tình trạng vết thương lại nghiêm trọng đến thế, cơn giận với Thích Dung càng tăng thêm. Lại nhìn đứa bé đó, nó ngồi trên ghế như chẳng hề cảm giác được đau đớn, chỉ là vẫn dùng một con mắt đen láy to tròn lén lút nhìn y. Sau khi phát hiện mình bị Tạ Liên bắt gặp, nó lập tức quay đầu đi.
Chương 65
Đánh rơi viên ngọc đỏ, vô tình chọc đỏ mắt (6)
Thấy vậy, chẳng hiểu sao Tạ Liên lại cảm thấy nó vừa buồn cười vừa đáng thương, bèn hỏi: "Vết thương của đứa bé này có thể hồi phục hết chứ?"
Một ngự y quấn từng lớp băng vải mới quanh đầu đứa bé, đáp: "Tất nhiên không thành vấn đề."
Bấy giờ Tạ Liên mới yên tâm, gật đầu nói: "Làm phiền."
Lúc này, có cung nhân đến thông báo, quốc vương bệ hạ và hoàng hậu giá lâm. Chúng ngự y lập tức đồng loạt đứng dậy, ra ngoài nghênh đón hành lễ. Tạ Liên bế đứa bé kia lên giường, dặn dò: "Đệ nằm yên đây, nghỉ ngơi trước đi." Ngẫm lại, đứa bé này sợ người lạ, lát nữa đông người biết đâu sẽ dọa nó sợ, y bèn thả rèm bên giường xuống, sau cùng mới đứng dậy.
Một đám người hầu và cung nhân vây quanh quốc vương và hoàng hậu đi vào điện. Hoàng hậu mặt mày trắng bệch, hỏi: "Sao hoàng nhi xuất cung rồi lại vội vã trở về? Phải chăng bị thương gì ở bên ngoài?"
Tạ Liên đáp: "Xin mẹ yên tâm, con không có bị thương. Bị thương là người khác."
Lúc này, Thích Dung ở trong góc la lên: "Dì ơi, cứu con!"
Bấy giờ hoàng hậu mới phát hiện, Thích Dung thế mà lại bị Phong Tín ghìm chặt, trấn áp ở một bên, không khỏi giật mình. Bà một lòng lo lắng con trai có khỏe mạnh bình an hay không, hoàn toàn không chú ý gì khác, thấy vậy mới hỏi: "Dung nhi sao vậy con?"
Quốc vương lại nhướn mày, hỏi: "Phong Tín, sao ngươi lại bắt Tiểu Kính Vương như bắt phạm nhân thế kia?"
Bệ hạ giá lâm, Phong Tín vốn nên lập tức hành lễ như Mộ Tình và những người khác, nhưng vì đang tóm Thích Dung nên không rút tay được, tình cảnh có hơi khó xử. Tạ Liên nói: "Là con bảo Phong Tín bắt."
Thích Dung nâng tay phải của mình lên, nói: "Dì, cánh tay của con gãy rồi."
Hoàng hậu còn chưa kịp đau lòng, Tạ Liên đã lạnh lùng mở miệng: "Ngươi gãy một cánh tay, vậy đứa bé bên trong thì sao?"
Quốc vương hỏi: "Đứa bé nào?"
Tạ Liên nói: "Một đứa bé mười tuổi. Tay trói gà không chặt, vốn dĩ thể trạng đã ốm yếu, Thích Dung phái thuộc hạ đi đánh hội đồng nó. Nếu không phải đứa bé kia mạng lớn, chỉ sợ đã phơi thây tại chỗ, bị Thích Dung đánh chết tươi!"
Như thể nghe được chuyện đáng cười, Thích Dung trợn mắt nói: "Một đứa bé mười tuổi, tay trói gà không chặt? Thể trạng ốm yếu? Biểu ca, tại huynh không biết thằng nhãi chết bầm này hung hãn cỡ nào, dã man thế nào, lợi hại nhường nào thôi, nó giả vờ đáng thương trước mặt huynh đấy. Ta gọi năm sáu người mà vẫn không bắt được thằng nhãi đó, bị nó tay đấm chân đá, dùng răng cắn xé, đến nỗi máu me đầy mình. Nếu không phải nó chọc giận ta, ta cần gì kéo lê nó sau xe ngựa?"
Nghe vậy, sắc mặt của quốc vương và hoàng hậu đồng loạt thay đổi. Tạ Liên hít sâu một hơi, quát: "Câm miệng! Ngươi làm những việc này bộ vẻ vang lắm sao?"
Ngày thường đâu phải Thích Dung không thích xuất đầu lộ diện, tác phong lại ngạo mạn như thế, nào có chuyện dân chúng trong hoàng thành nhìn không thấy? Sau khi nhìn thấy, nào có chuyện không lấy nó làm đề tài trà dư tửu hậu?
Quốc vương nhìn sang hoàng hậu, sắc mặt hơi tái, nói: "Đưa Tiểu Kính Vương xuống, ngự y, chữa cánh tay cho nó đi. Tịch thu xe vàng, cấm túc tự kiểm điểm, một tháng không được thả ra ngoài."
Người hầu theo sau quốc vương lập tức đáp lời, bước lên dẫn Thích Dung đi, lúc này Phong Tín mới buông tay. Thích Dung lại chẳng coi ra gì, hừ một tiếng, nói: "Tịch thu thì tịch thu đi, con đã sớm biết hôm nay là lần chạy cuối cùng rồi."
Nghe Thích Dung không hề có lòng hối cải, hoàng hậu thở dài. Tạ Liên nói: "Xem ra chỉ cấm túc tự kiểm điểm một tháng, e rằng lần sau nó sẽ còn tái phạm, cần phải quản giáo nghiêm khắc hơn."
Thích Dung sửng sốt, giận dữ nói: "Thái tử biểu ca, huynh..." Ngay sau đó, gã đảo tròng mắt, nói: "Được. Ta thừa nhận chuyện này là ta không đúng. Bất luận bệ hạ phạt ta cái gì, Thích Dung tuyệt không chối từ."
Câu tiếp theo, gã đổi đề tài, nói: "Nhưng mà, có phải thuộc hạ của Thái tử biểu ca cũng nên bị trách phạt không? Dì dượng, cánh tay của con bị tên Phong Tín này đánh gãy đấy!"
Nghe vậy, quốc vương tức khắc nhìn về phía Phong Tín, sắc mặt vừa kinh ngạc vừa tức giận. Phong Tín khẽ cúi đầu, Mộ Tình thì lẳng lặng nhích sang bên cạnh hai bước.
Quốc vương lạnh lùng lên tiếng: "Phong Tín, ngươi là người hầu tùy thân của Thái tử điện hạ. Đích thực Thái tử đối xử với ngươi rất tốt, nhưng chẳng lẽ vì thế mà ngươi lại quên mất thân phận của mình, vênh váo xấc xược hay sao? Chức trách của ngươi là hầu hạ điện hạ, ngươi hầu hạ thế đấy à? Biểu đệ Tiểu Kính Vương của Thái tử điện hạ mà ngươi cũng dám đánh."
Nghe vậy, Phong Tín định quỳ xuống. Tạ Liên lại nói: "Không cần quỳ."
Chắc chắn người đầu tiên mà Phong Tín nghe lời là Tạ Liên, mặc dù là bệ hạ lên tiếng, hắn cũng chỉ ưu tiên mệnh lệnh của điện hạ, thế là lập tức ngừng quỳ. Thấy vậy, sắc mặt quốc vương càng không hài lòng.
Tạ Liên nói: "Phong Tín đánh gãy cánh tay của Thích Dung là sự thật, nhưng xét nguyên do cũng vì bảo vệ chủ nhân. Chưa kể Thích Dung là người phạm lỗi trước, Phong Tín không hề làm sai, hà tất phải quỳ xuống?"
Quốc vương nói: "Mặc kệ hắn vì cái gì, hắn cũng đã mạo phạm Tiểu Kính Vương. Chủ tớ khác nhau, tôn ti phân rõ, đừng nói bổn vương bảo hắn quỳ xuống, cho dù bây giờ bổn vương lập tức phạt đánh hắn một trăm gậy cũng chẳng có gì không thỏa đáng."
Tuy quốc vương không có quan hệ thân thiết và tình cảm sâu đậm với Thích Dung như hoàng hậu, nhưng dù sao Thích Dung cũng là người của hoàng thất, không thể xâm phạm. Thích Dung rất rõ điều này, liếc xéo nói: "Phạt đánh thì không cần, dù sao hắn cũng là người của Thái tử biểu ca, con cũng không muốn làm khó hắn quá. Con chỉ muốn hắn tự đánh gãy cánh tay của mình, sau đó quỳ xuống dập đầu ba cái với con, vậy con sẽ không truy cứu gì nữa."
Quốc vương chậm rãi gật đầu, dường như cảm thấy hành động này khả thi. Tạ Liên lại nói: "Nếu muốn phạt Phong Tín, vậy phạt con trước đi. Phong Tín là người hầu của con, thứ nhất hắn không làm gì sai, thứ hai dù có sai cũng là nghe lệnh của con, con chịu thay hắn mới phải."
Nghe Tạ Liên nói thế, vẻ tức giận thoáng hiện trên gương mặt quốc vương.
Có lẽ tất cả cha con trên đời này đều phải trải qua sự thay đổi như thế. Lúc con trai còn bé sẽ xem cha như đại anh hùng tài ba nhất trong thiên hạ, là tấm gương của mình, sùng bái đến tận cùng. Mà sau khi lớn đến độ tuổi nhất định, con trai sẽ bắt đầu hoài nghi tất thảy của cha, thậm chí còn từ từ phản cảm, cuối cùng hai bên đều cự nự không tán đồng nhau.
Tạ Liên lên núi Thái Thương tu hành, mục đích chủ yếu tất nhiên bởi vì tập võ cầu đạo đích thực là điều mà y hướng tới. Tuy nhiên, thật ra y không hề cố chấp với việc cầu ở đâu, cầu với thân phận nào.
Cái gọi là "Đạo", nghĩa trên mặt chữ, là "người đi trên đường" (Đạo 道 còn có nghĩa là 'con đường'). Chỉ cần một người hết lòng hướng đạo, ở đâu cũng là tu hành, chưa hẳn cứ phải làm đủ hình thức, câu nệ với việc lên núi nhập quán. Sở dĩ Tạ Liên ra sức nài nỉ, khăng khăng đòi lên núi, còn có một nguyên nhân khác, đó là vì, y cảm thấy mình thật sự không nói chuyện được với cha.
Thân là Thái tử Tiên Lạc, Tạ Liên vừa ra đời, quốc vương Tiên Lạc đã vạch sẵn đường cho cuộc đời y. Hồi bé thì còn đỡ, tuổi nhỏ không phiền muộn gì, Tạ Liên cũng chỉ cần cha mẹ cùng mình xếp điện lá vàng, vui chơi đùa nghịch. Mà theo tuổi tác lớn dần, càng ngày Tạ Liên càng phát hiện, cha không chỉ là cha mà còn là một quốc vương, rất nhiều suy nghĩ và cách làm của hai bên không thể hòa hợp. Chẳng hạn như, cái gọi là uy nghiêm hoàng thất chính là một trong những thứ mà Tạ Liên ghét nhất.
Nếu không thể nào hòa hợp được, vậy tránh xa nhau ra cho lành. Mỗi lần về cung, y trò chuyện với mẹ vui vẻ biết bao nhiêu, nhưng chẳng bao giờ trút bầu tâm sự với cha. Hai bên cũng cực ít khi chủ động đáp lời nhau, lần nào cũng là hoàng hậu đứng giữa hòa giải.
Vốn dĩ quan hệ giữa hai cha con đã căng thẳng mấy tháng qua, bây giờ Tạ Liên liên tục kiên trì, không chịu nhún nhường, quốc vương bèn nói: "Được, vậy con chịu thay hắn đi, để xem con có làm được không!" Tạ Liên nói: "Dĩ nhiên là được!" Thấy cha con hai người lại đối chọi, hoàng hậu vội kêu lên: "Tội tình gì phải thế?"
Lúc này, Phong Tín một mực im thin thít bỗng nhiên nâng tay trái lên, đánh xuống cánh tay phải."Rắc" một tiếng, mọi người giật mình, nhìn theo hướng phát ra tiếng, chỉ thấy cánh tay phải của Phong Tín cũng mềm oặt buông thõng như Thích Dung. Tạ Liên vừa sợ vừa giận, nói: "Phong Tín!"
Trán ứa mồ hôi lạnh, Phong Tín không nói hai lời quỳ xuống trước Thích Dung, cộp cộp cộp dập đầu ba cái, Tạ Liên muốn ngăn cũng không được. Thích Dung vô cùng đắc ý, cười há há: "Được rồi, bản vương miễn cưỡng tha thứ cho ngươi vậy. Sớm làm thế có phải tốt rồi không?"
Tuy cánh tay gã cũng bị gãy, nhưng lúc rời đi lại thần thanh khí sảng, như thể đánh thắng một trận. Mà Phong Tín vẫn còn quỳ dưới đất, Mộ Tình đứng bên cạnh nhìn cảnh tượng này, sắc mặt mơ hồ trở nên xám ngoét, chẳng biết đang nghĩ gì. Tạ Liên thì quay phắt về phía cha mình, tức giận nói: "Cha! ..."
Phong Tín dùng tay trái kéo y lại: "Điện hạ!"
Hoàng hậu cũng chìa tay kéo y lại. Trong lòng Tạ Liên biết rõ, Phong Tín đi theo mình từ năm mười bốn tuổi, rất được hoàng hậu ưu ái, không đành lòng nhìn cha con hai người tranh chấp khiến hoàng hậu buồn khổ nên mới làm như vậy. Nếu bây giờ y nổi nóng thì khác nào lãng phí tâm ý của Phong Tín, chỉ đành ép mình nhịn xuống, nhưng trong lòng đã giận sôi. Lúc này sắc mặt quốc vương mới phần nào dịu lại, sầm mặt đi ra ngoài.
Trước giờ hoàng hậu cũng rất thích Phong Tín, bà thở dài: "Ôi, bé ngoan, tủi thân ngươi rồi."
Phong Tín đáp: "Xin hoàng hậu tuyệt đối đừng nói vậy, chức trách mà thôi."
Nghe câu này, ánh mắt Mộ Tình lấp lóe, trông như lẳng lặng cười lạnh một tiếng. Tạ Liên nhắm mắt lại, nói: "Mẹ, nếu mẹ thật sự không quản được Thích Dung thì nhốt nó lại đi."
Hoàng hậu thở dài, gật đầu, rồi lại lắc đầu, sau đó cũng rời đi.
Tạ Liên mời một ngự y tới, bảo ngự y xử lý tay phải của Phong Tín, nói: "Phong Tín, xin lỗi."
Người bên cạnh vừa đi, Phong Tín lập tức đổi thái độ, cười nhạo: "Có gì đâu chứ. Ta dám đánh gã còn sợ gã trả thù sao?" Dừng một chút, lại khuyên nhủ: "Điện hạ, huynh dạy dỗ Thích Dung dĩ nhiên là đúng, nhưng vẫn không nên gây gổ với bệ hạ. Bệ hạ là quốc vương, lại là nhân vật thuộc thế hệ trước, suy nghĩ khác chúng ta nhiều lắm. Cha con hai người cãi nhau, hoàng hậu thấy vậy sẽ buồn lòng. Vốn dĩ bà cũng có chỗ khó xử."
Làm sao Tạ Liên lại không biết, mẹ mình có chỗ khó xử?
Mẹ của Thích Dung chính là em ruột của hoàng hậu, tỷ muội tình thâm, hồi trẻ mẹ Thích Dung không hiểu chuyện, tình đầu chớm nở, một lòng theo đuổi tự do, nhẹ dạ cả tin lời ngon tiếng ngọt, hủy hôn sự định sẵn, bỏ trốn theo một gã thị vệ trong phủ. Ngờ đâu sở giá phi nhân*, thân thể vàng ngọc rúc trong gian nhà y hệt ổ chó chưa đầy nửa năm, thị vệ kia bộc lộ bản chất ăn chơi đàng điếm, sau khi Thích Dung ra đời, gã càng bạo hành thê tử nhiều hơn. Cuối cùng, mẹ con hai người thật sự chịu không nổi nữa, Thích Dung vừa được năm tuổi, bà chán chường thất vọng đưa con trai về nhà. Bởi vì việc này sớm đã trở thành một vụ tai tiếng quý tộc, bà đóng cửa không ra ngoài, cả đời âu sầu khổ não, chỉ dành gấp bội tình yêu cho con trai độc nhất.
*Sở giá phi nhân: Người mà mình gả cho không thể nhờ cậy được, không phải là người mình yêu.
Có một lần bạo loạn, mẹ của Thích Dung vì cứu hoàng hậu mà chẳng may trúng tên lạc, trước khi lâm chung, bà gửi gắm Thích Dung cho mẹ của Tạ Liên.
Hoàng hậu tất nhiên tận tâm tận sức. Nhưng mà con của người khác, chung quy cũng gây khó xử. Không dễ quản, quản nghiêm quá thì giống như yêu cầu khắt khe, niệm tình nghĩa nên không đành lòng; mà không quản cũng không được, quản ít lại thì đức hạnh sẽ thành như bây giờ, nếu không uốn nắn, sau này chỉ càng tệ hại hơn. Hoàng hậu cũng thường xuyên cảm thấy khó hiểu, rõ ràng cách mình chăm sóc Tạ Liên và Thích Dung chẳng khác là bao, nhưng tại sao con nuôi ra, tính tình lại chênh lệch lớn đến thế?
Lúc này, Tạ Liên sực nhớ, trong phòng còn có đứa bé vẫn nằm trên giường. Y vén rèm lên xem, chẳng biết đứa bé kia lại ngồi dậy từ bao giờ, hình như đang nhìn ra ngoài qua khe hở. Tạ Liên vừa vén rèm, nó lại ngoan ngoãn nằm xuống. Tạ Liên nói: "Hồi nãy bên ngoài cãi nhau làm đệ sợ hả? Đừng để ý, không liên quan đến đệ đâu."
Một ngự y nói: "Thái tử điện hạ, vết thương của bạn nhỏ này đã xử lý xong, chỉ cần tĩnh dưỡng là được."
Tạ Liên gật đầu đáp: "Làm phiền rồi."
Nói đoạn lại cúi người xuống, hỏi đứa bé kia: "Nhà đệ ở đâu? Ta đưa đệ về nhé?"
Đứa bé lắc đầu, đáp: "Không có nhà."
Phong Tín nâng cánh tay bị treo của mình lên, hỏi: "Không có nhà? Chả nhẽ là ăn mày thật sao?"
Nhìn đứa bé này vừa gầy vừa nhỏ, quần áo dơ bẩn, cũng không phải không có khả năng. Nếu không có nhà để về, cũng không thể ném nó trong hoàng cung hay ném ngoài đường được. Suy tính một hồi, Tạ Liên nói: "Nếu đã như vậy, trước tiên dẫn nó về núi Thái Thương với ta đi."
Nào ngờ, Mộ Tình bất chợt lên tiếng: "Nó nói dối."
Chương 66
Nhân thượng vi nhân, nhân hạ vi nhân (1)
Câu này theo tui tìm hiểu thì là: Kẻ trên cũng là người, kẻ dưới cũng là người.
Tạ Liên quay đầu hỏi: "Sao lại nói vậy?"
Mộ Tình đáp: "Trẻ con lang thang không nhà để về trong hoàng thành đều cùng một nhóm, thường xuyên đến gần nhà của ta xin ăn, ta quen hết chúng nó, trước giờ chưa từng nhìn thấy đứa bé này."
Đứa bé kia im lặng nhìn Mộ Tình. Phong Tín ngờ vực hỏi: "Chúng nó luôn tìm ai xin ăn? Ngươi á? Ngươi chịu cho hả?"
Mộ Tình lườm hắn: "Bám víu dữ quá, không cho thì còn cách nào?"
Phong Tín vẫn cảm thấy khó tin, không bình luận nữa, nói: "Ồ."
Tạ Liên nhìn bọn họ nói chuyện mà buồn cười. Mộ Tình nói tiếp: "Chưa kể trên quần áo của nó có vài miếng vá, nhìn đường may này, nhất định là người lớn mới vá lại gần đây, trong nhà nó ít nhất cũng có một người lớn tuổi. Có lẽ gia cảnh không được tốt lắm, nhưng tuyệt đối không phải là ăn mày."
Hiển nhiên xưa nay Tạ Liên chưa từng chú ý đến đường may của miếng vá trông như thế nào, cũng chẳng nhìn ra có phải là người lớn vá không, nhưng trước đây Mộ Tình là tạp dịch của Hoàng Cực quán, ở nhà cũng từng làm nhiều việc vụn vặt để kiếm sống, nhìn kỹ lại, quả nhiên là thế, Tạ Liên bèn hỏi: "Trong nhà đệ có người lớn sao?"
Đứa bé lắc đầu, Mộ Tình nói: "Chắc chắn có. Nó không về, đảm bảo bây giờ người nhà đang sốt sắng đi tìm."
Đứa bé kêu lên: "Không, không đâu! Không có ai hết!" Dường như sợ bị đưa về, nói xong nó giang hai tay ra, có vẻ muốn ôm Tạ Liên. Trên người nó vẫn bê bết vết máu và bùn đất, Phong Tín nhìn không nổi nữa, nói: "Thằng nhóc ngươi làm gì thế? Vừa rồi tình thế cấp bách thì thôi đi, bây giờ còn không hiểu chuyện à. Đây là Thái tử điện hạ, Thái tử điện hạ đó ngươi hiểu không?"
Đứa bé thoáng chốc rút tay về, nhưng vẫn nhìn Tạ Liên đăm đăm, nói: "Ở nhà cãi nhau, bị đuổi ra ngoài. Đi lâu ơi là lâu, nhưng không có nơi nào để đến."
Ba người đưa mắt nhìn nhau. Hồi lâu sau, Phong Tín hỏi: "Vậy xử lý sao đây?"
Một ngự y đề xuất: "Nếu điện hạ thấy khó xử, có thể để nó ở lại đây, phái vài cung nhân chăm sóc nó là được."
Trầm ngâm giây lát, Tạ Liên khẽ lắc đầu.
Chung quy y vẫn sợ Thích Dung chưa từ bỏ ý định, còn muốn chuồn ra ngoài gây sự, bèn nói: "Theo ta thấy, trước hết vẫn nên để ta trông nom, chờ vết thương của nó lành lại. Xem ra nhà nó e là cũng không tài nào chăm sóc nó chu đáo được. Lát nữa Phong Tín đi xử lý những sạp hàng bị Thích Dung tông ngã, tiện thể phái vài người tìm xem cha mẹ của đứa bé này ở đâu, báo cho bọn họ biết một tiếng cũng tốt, bảo bọn họ không cần lo lắng."
Phong Tín gật đầu: "Được."
Một cánh tay của hắn còn treo, tay còn lại định xốc đứa bé lên. Tạ Liên cười nói: "Ngươi bị thương mà, hay là thôi đi."
Phong Tín lại không hề để bụng, nói: "Gãy một tay còn tay khác có sao đâu. Cho dù gãy cả hai tay, ta dùng răng ngậm cổ áo của nó cũng có thể đưa nó lên núi cho huynh."
Mộ Tình âm thầm trợn mắt, nói: "Thôi, để ta làm cho." Nào ngờ mới bước lên một bước, đứa bé kia đã tự nhảy xuống giường, nói: "Ta tự đi được."
Thái độ chống cự bộc lộ trong lời nói và vẻ mặt, khiến cho bước thứ hai của Mộ Tình trở nên hết sức xấu hổ, chẳng biết có nên bước tiếp không. Nhìn bạn nhỏ này gãy năm xương sườn và một chân mà vẫn tràn trề năng lượng như thế, Tạ Liên thật sự không biết nên cười hay nên đau lòng, nói: "Đừng chạy lung tung nha!" Nói xong khẽ khom lưng, bế nó lên.
Ba người mang theo một đứa bé, ra khỏi cửa cung. Do khi nãy Thích Dung vừa gây sự trên phố, quấy nhiễu người đi đường, tông ngã không ít sạp hàng, Tạ Liên cảm thấy vô cùng chột dạ, không có mặt mũi gặp bách tính trong hoàng thành, cả bọn đều chán nản ỉu xìu, không dám xuất đầu lộ diện, bèn chọn đường nhỏ mà đi. Dọc đường đi, đứa bé kia rúc trong khuỷu tay của Tạ Liên ngoan hết biết, bảo nó đừng lên tiếng là nó im re không nói tiếng nào, Phong Tín trố mắt nói: "Hôm qua thằng nhóc này đá ta, hôm nay lại bày điệu bộ này, đúng là trông người bày cỗ mà."
Mộ Tình nói: "Thái tử điện hạ ấy hả, tất nhiên được yêu thích hơn người bình thường nhiều."
Chẳng hiểu tại sao, cho dù Mộ Tình đang nói lời khen, ngôn từ câu chữ cứ luôn có chỗ khiến người khác khó chịu. Phong Tín lập tức không muốn để ý đến hắn nữa. Đi một hồi, Phong Tín nói: "Không được. Ta vẫn cảm thấy, điện hạ huynh không thể bế một đứa nhóc không rõ lai lịch cho người ta chiêm ngưỡng như thế được."
Tạ Liên hỏi: "Có gì ghê gớm lắm à?"
Phong Tín nói: "Huynh là Thái tử điện hạ đấy!"
Nói đoạn, Phong Tín liếc thấy đầu con hẻm phía trước đặt một chiếc xe đẩy xập xệ, nói: "Đặt thằng nhóc lên đó kéo đi đi!"
Mộ Tình nói ngay: "Nói trước nha, ta không kéo thứ đó lên núi đâu."
Phong Tín nói: "Chẳng ai mượn ngươi kéo." Dứt lời, hắn chìa tay lôi đứa bé ra khỏi ngực Tạ Liên. Vừa vào tay Phong Tín, đứa bé lại bắt đầu giãy dụa, Tạ Liên nói: "Bỏ đi bỏ đi. Biết đâu chừng xe này còn có người cần!" Nhưng Phong Tín đã đặt đứa bé lên xe. Đúng lúc này, cách đó không xa, có một người chợt thốt lên: "Ngài đây là... Thái tử sao?"
Lập tức có người hét lớn: "Đúng đúng đúng! Đó là Thái tử đấy! Hôm qua mặt nạ của y rớt xuống, ta tận mắt nhìn thấy mặt y mà! Chính là y!!!"
"Bắt y lại!!!"
Trong lòng ba người đều lộp bộp một tiếng. Mặc dù Tạ Liên không hề cho rằng mình đã làm sai trong buổi diễu hành tế trời hôm qua, nhưng y cũng biết chưa chắc người khác nghĩ giống mình. Duyệt Thần Võ đứt gánh giữa đường là điềm xấu cực lớn, đám hoàng thất quý tộc kiêng kỵ, còn đám dân chúng qua cơn phấn khích hôm trước, hồi tưởng lại sau vụ việc, hỏi dò khắp nơi rốt cuộc sự cố ngoài ý muốn này đại diện cho điều gì, có lẽ sẽ không mấy khoan dung. Chưa kể hôm nay Thích Dung gây sự ngoài đường, chọc cho oán than dậy đất, nếu bây giờ bị bao vây, đảm bảo sẽ không tốt lành. Còn chưa nghĩ kỹ, Mộ Tình bất thình lình túm lấy y, nói: "Điện hạ, chạy mau!"
Phong Tín cũng kéo xe đẩy giục y: "Điện hạ, ta gãy một cánh tay, không chặn được đám bạo dân này đâu, đi thôi!"
Nhưng ngoài con hẻm nhỏ, đám dân chúng trên đường đã kích động ào tới, chắn tất cả lối đi. Bốn người không còn đường lui, thấy vô số cặp mắt mở to vây tới, Tạ Liên bấm bụng nghĩ: "Cùng lắm là bị hành hung một trận, mình không đánh trả là được!"
Nào ngờ tuy sóng người trào dâng, nhưng không có vây đánh một trận như dự đoán, mà là mười bảy mười tám đôi tay duỗi tới, ném Tạ Liên lên, đồng thanh reo hò: "Thái tử điện hạ!"
Bị tung lên rồi rơi xuống mấy lần, Tạ Liên vẫn duy trì điệu bộ điềm nhiên như trước. Mọi người bảy mồm tám lưỡi tranh nhau nói: "Thái tử điện hạ, cú nhảy của ngài trên đường Thần Võ hôm qua, phải nói là ngoạn mục quá xá!"
Có người tán thán: "Cú nhảy đó cũng lợi hại lắm luôn! Thiệt đó thiệt đó, lúc ấy ta còn tưởng là Thần Võ Đại Đế đích thân giá lâm nữa, da gà da vịt nổi hết cả!"
Có người khẳng định: "Điện hạ cứu đứa bé không hề sai! Mạng của người khác là mạng, mạng của con nhà nghèo khổ chúng ta không phải là mạng sao? Nếu là ta, ta cũng sẽ làm thế!"
Có người căm giận: "Đúng vậy. Hôm nay nghe có kẻ nói điện hạ làm hỏng chuyện lớn, ta nghe không lọt lời này, nếu người rớt xuống là hoàng thân quốc thích, chỉ sợ mấy kẻ đó sẽ không nói vậy nữa. Điện hạ ngài tuyệt đối đừng để ý tới loại người như thế!"
"Điện hạ mới thật sự nghĩ cho chúng ta..."
Từ chột dạ lúc ban đầu, đến bối rối trên đường, cuối cùng bị từng gương mặt quá đỗi niềm nở này cảm hóa. Đám người túm tụm quanh Tạ Liên đi ra ngoài, tới trên đường thì người càng tụ càng đông. Phong Tín, Mộ Tình và đứa bé kia bị ngăn cách ở tầng ngoài, chen không vào nổi, chỉ có thể đi theo sau đội ngũ dài ngoằng. Dòng người tấp nập nghìn nghịt này, so ra chẳng hề kém cạnh thanh thế của buổi diễu hành tế trời hôm qua. Mỗi khi Tạ Liên muốn đi đều bị cưỡng ép nhét trở lại, khi được tung lên chỗ cao nhất lần nữa, bọn họ lại không cho y xuống.
Tạ Liên không khỏi cảm thấy vừa buồn cười vừa yên tâm: "Ý kiến của dân chúng và các quốc sư hoàn toàn trái ngược, xem ra, ta làm đúng rồi."
Trở lại núi Thái Thương, nắng chiều vẫn cháy gắt như trước.
Băng qua cổng chùa đồ sộ, trên đường núi dài lát đá xanh toàn là các đạo nhân gánh thùng nước, lưng vác củi chạy lên chạy xuống, ai ai cũng chào hỏi nhóm người Tạ Liên, khá nhiều người ngạc nhiên nhìn bốn người một xe kỳ quặc này. Phong Tín dùng một tay kéo xe, trông hệt như một con trâu đen cần mẫn trong thời kỳ sung sức. Thoạt đầu Tạ Liên và Mộ Tình còn nín cười gần chết, sau đó không lay chuyển được nên kệ luôn.
Rừng phong bạt ngàn, bánh xe xoay chầm chậm. Lúc leo lên núi, Tạ Liên đi phía sau đẩy xe. Do tâm trạng rất tốt, y thuận miệng hỏi đứa bé thêm một câu: "Bạn nhỏ, rốt cuộc đệ tên là gì? Hồng gì nhỉ?"
Đứa bé chăm chú nhìn Tạ Liên, nhỏ giọng đáp: "Đệ... đệ không có tên."
Tạ Liên ngẩn ra, hỏi: "Mẹ đệ chưa đặt tên cho đệ sao?"
Đứa bé lắc đầu, nói: "Mẹ đệ mất rồi."
Tạ Liên sinh lòng thương hại, hỏi: "Vậy trước đây mẹ đệ gọi đệ là gì?"
Chần chờ giây lát, đứa bé đáp: "Hồng Hồng Nhi."
Tạ Liên bật cười: "Nhũ danh này của đệ đáng yêu quá, thế ta gọi đệ như vậy nha."
Dường như hễ nói chuyện với Tạ Liên là Hồng Hồng Nhi lại ngượng ngùng, nó cúi đầu thật thấp. Lúc này, hoàng hôn đã phủ xuống, trên mỗi đỉnh núi đằng xa, đèn đuốc của các đạo quán lần lượt thắp lên. Trong đó, sáng nhất chính là đỉnh cao nhất của núi Thái Thương, đỉnh Thần Võ.
Điện Thần Võ trên đỉnh Thần Võ sáng rực như ban ngày, ánh lửa rải rác hội tụ ở đỉnh núi. Nhìn một hồi, Tạ Liên thở dài.
Thở dài không phải vì mệt mỏi, mà là vì cảnh tượng này quá đẹp và hùng vĩ. Mỗi một đốm lửa chính là một ngọn đèn sáng thờ cúng trong điện Thần Võ. Mỗi một ngọn đèn chính là lời cầu nguyện thành kính nhất của một tín đồ. Đèn Trường Minh trong điện thần càng nhiều, pháp lực của vị thần quan đó càng mạnh. Nếu muốn cúng một ngọn đèn trong điện Thần Võ ở Hoàng Cực quán, ngàn vàng khó cầu. Có tiền, có quyền, có năng lực, có tình, có duyên, nhất định phải trúng một trong năm cái mới có thể vào quán cúng đèn. Tuy nhiên, trên đời có càng nhiều người chẳng trúng cái nào trong năm cái trên.
Bốn người dừng chân, thất thần nhìn điện Thần Võ huy hoàng như mặt trời, nét mặt mỗi người mỗi khác. Lúc này, chợt nghe một giọng nói hơi quen tai cất lên: "Thái tử điện hạ!"
Tạ Liên vừa ngoái đầu, chỉ thấy một thanh niên mặt mày sáng sủa chạy vội về phía mình, không ngờ lại là đạo nhân giữ cửa ở cung Tứ Tượng. Y nghiêm mặt hỏi: "Chúc sư huynh, chuyện gì mà gấp vậy?"
Thấy Mộ Tình ở sau lưng y, Chúc sư huynh tỏ ra hơi xấu hổ, vờ như không thấy Mộ Tình, nói: "Quốc sư cho mời, tìm ngài lâu lắm rồi, bây giờ đang ở điện Thần Võ, chờ ngài đến đó."
Nghe vậy, Tạ Liên sửng sốt, lòng biết tám phần mười là vì sự cố ngoài ý muốn trong buổi diễu hành tế trời hôm qua, bèn nói: "Được, làm phiền sư huynh rồi."
Ra lệnh cho Phong Tín và Mộ Tình đưa Hồng Hồng Nhi về cung Tiên Lạc trước, Tạ Liên một mình lên đỉnh Thần Võ.
Ngoài đại điện, khói mây lượn lờ tỏa ra từ đỉnh hương bao trùm đến độ cả tòa điện Thần Võ trông tựa như mộng ảo. Hai bên đỉnh hương, từng dãy đèn Trường Minh nổi lơ lửng trên không, xếp ngay ngắn thành bức tường đèn. Mỗi ngọn đèn Trường Minh đều dùng thể chữ Lệ* đoan chính trang trọng viết tên họ và lời cầu nguyện của người cúng đèn. Vào điện, hai bên đại điện cũng là từng dãy đèn Trường Minh lơ lửng trên không. Đèn Trường Minh cúng trong điện thần càng quý báu hơn đèn cúng ở ngoài điện.
*Thể chữ Lệ là một kiểu chữ thư pháp Trung Quốc. Đây là loại chữ giản lược từ thể chữ Triện, gần với chữ viết Trung Quốc hiện đại.
Trước điện thần đồ sộ, chủ quốc sư đang dâng nhang trước tượng Thần Võ Đại Đế, ba vị phó quốc sư ở sau lưng lão, đồng loạt vái lạy tượng thần.
Sau khi vào trong, Tạ Liên khẽ rướn đầu, mở miệng: "Quốc sư."
Mấy vị quốc sư lạy xong mới quay đầu lại, ra hiệu cho y bước lên. Vì vậy Tạ Liên cũng đi qua, lấy nhang, dâng lên một cách thành kính.
Hồi lâu sau, quốc sư mới lên tiếng: "Thái tử điện hạ, mấy người chúng ta đã thương lượng một lượt, chuyện về buổi diễu hành tế trời, chỉ có hai cách giải quyết."
Tạ Liên đáp: "Quốc sư mời nói."
Quốc sư nói: "Cách thứ nhất, tìm đứa bé phá hoại lễ tế tới đây, chúng ta lập đàn làm phép, ít nhất phải phong bế một giác quan của nó, xem như chuộc tội."
Chương 67
Nhân thượng vi nhân, nhân hạ vi nhân (2)
Tạ Liên ngẩng phắt đầu lên, nói: "Không thể được."
Y lặp lại lần nữa như chém đinh chặt sắt: "Tuyệt đối không được."
Quốc sư gật đầu: "Ta cũng đoán trước con sẽ trả lời như thế. Cho nên, chúng ta sẽ đặt trọng tâm suy xét vào cách thứ hai."
Tạ Liên cất giọng nghiêm nghị: "Mời nói."
Quốc sư nói tiếp: "Cách thứ hai, chính là Thái tử điện hạ con tự mình sám hối trước toàn thể dân chúng nước Tiên Lạc, tạ tội với trời xanh, rồi lại diện bích một tháng."
Tạ Liên ung dung đáp: "Không được."
Quốc sư ngẩn ra, nói: "Không phải ta bắt con diện bích hối lỗi thật đâu, chỉ là trên danh nghĩa... Khụ." Chợt nhớ ra mình đang đứng trước tượng của Thần Võ Đại Đế, lão vội vàng đổi giọng: "Chỉ cần con đủ thành tâm là được rồi."
Tạ Liên lặp lại: "Không được."
Quốc sư hỏi: "Lý do là gì?"
Tạ Liên đáp: "Quốc sư, hôm nay con xuống núi, ngài biết con đã nhìn thấy gì không? Dân chúng trong hoàng thành chẳng những không trách móc sự cố ngoài ý muốn xảy ra trong buổi diễu hành tế trời, trái lại còn tán thưởng hết lời. Điều này chứng tỏ dân chúng nước ta đều cảm thấy con chọn cứu đứa bé kia là đúng."
"Mà nếu dựa theo lời ngài nói, một việc làm đúng lại bị quy là sai lầm rồi trừng phạt, bọn họ sẽ nghĩ thế nào đây? Vậy có khác nào nói với mọi người, cứu một mạng người chẳng những không hơn xây tháp bảy bậc, mà trái lại còn phải tự nhận tội? Thế từ nay trở đi, bọn họ nên nghĩ thế nào, làm thế nào?"
Quốc sư nói: "Thật ra chuyện này đúng hay sai chẳng hề quan trọng, bây giờ con phải lựa chọn một trong hai con đường. Trên đời làm gì có chuyện vẹn cả đôi đường, hoặc để đứa bé kia gánh vác trách nhiệm, hoặc để con gánh."
Tạ Liên nói: "Đúng hay sai rất quan trọng. Nếu nhất định phải chọn, con sẽ chọn con đường thứ ba."
Quốc sư day day ấn đường, nói: "Chuyện này... Thái tử điện hạ, thứ lỗi cho ta nói thẳng, cớ sao con phải quan tâm bọn họ suy gì nghĩ gì? Hôm nay bọn họ nghĩ thế này, ngày mai lại nghĩ thế nọ, con không cần phải chấp nhất mấy chuyện vặt vãnh này. Tin lời ta đi, người ta muốn làm gì, sau khi chuyện này qua rồi, họ vẫn sẽ làm thế thôi, sẽ không cảm động vì con, cũng không lấy con làm gương đâu. Chúng ta có chuyện quan trọng hơn cần làm, đó là cẩn thận hầu hạ phục dịch đấng bề trên."
Im lặng một lát, Tạ Liên mở lời: "Quốc sư, thật ra từ ngày con bái sư vào Hoàng Cực quán đến nay, tu càng nhiều nghĩ càng lâu, con vẫn có một ý kiến chưa dám nói ra."
Quốc sư hỏi: "Ý kiến gì?"
Tạ Liên đáp: "Chúng ta thờ thần lạy thần như thế, có thật là đúng đắn không?"
Lặng thinh một lát, quốc sư nói: "Bọn họ không thờ thần lạy thần thì chúng ta hít gió Tây Bắc mà sống chắc? Lẽ nào Thái tử điện hạ con cảm thấy trăm ngàn năm qua, biết bao tín đồ tin thờ thần quan đều là tin lầm sao?"
Tạ Liên lắc đầu, suy nghĩ một hồi rồi nói: "Tin thờ dĩ nhiên không sai, có điều đệ tử cho rằng không nên quỳ lạy."
Y ngẩng đầu, chỉ vào pho tượng Thần Võ Đại Đế đồ sộ chói lọi và lộng lẫy vàng son, nói: "Người phi thăng thành thần. Đối với con người, thần linh là tiền bối, là người dẫn đường, là ngọn đèn sáng, nhưng không phải chủ nhân. Hiển nhiên họ sẽ cảm tạ, cũng có thể tán thưởng thần linh, nhưng tuyệt đối không nên sùng bái. Chẳng hạn như buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời, con nghĩ thái độ đúng đắn nên là cảm tạ và chung vui, chứ không phải sợ hãi, lấy lòng, thấp thỏm lo sợ, thậm chí còn đặt mình vào vị trí của kẻ nô bộc."
Quốc sư đứng nghiêm không đáp, mà ba vị phó quốc sư đã nhấp nhổm không yên, lũ lượt quay đầu lại.
Tạ Liên tiếp lời: "Xảy ra chuyện ngoài ý muốn, biết làm sao được. Con nguyện cúng ngàn ngọn đèn chiếu suốt đêm dài, dẫu làm thiêu thân lao đầu vào lửa cũng chẳng sợ. Nhưng con không muốn cúi đầu vì mình đã làm việc đúng. Diện bích hối lỗi? Con có lỗi gì? Người khác cũng nào có lỗi? Cái này giống như Thích Dung làm điều ác nhưng người trừng trị kẻ ác là Phong Tín lại phải chịu phạt, đây là đạo lý gì? Nếu trời xanh có mắt, ắt sẽ không giáng tội vì lý do này."
Quốc sư nhìn sang chỗ khác, hỏi: "Thái tử điện hạ, vậy ta hỏi con, ngộ nhỡ trời thật sự giáng tội thì sao? Đến lúc đó, con có chịu nhận lỗi không?"
Tạ Liên đáp: "Nếu thật sự là thế, tức là trời sai, con đúng. Con sẽ kháng cự với trời đến cùng."
Nghe vậy, quốc sư thoáng biến sắc, cười nói: "Thái tử điện hạ, những lời con nói thật can đảm quá."
Ba vị phó quốc sư đồng loạt nhìn về phía lão, ngập ngừng muốn nói lại thôi. Đúng lúc này, ngoài điện chợt nổi lên âm thanh báo động, dường như có rất nhiều chiếc chuông reo cùng một lúc. Lần này, bốn vị quốc sư không ngồi yên được nữa, đua nhau chạy ra sau điện.
Tạ Liên cũng nối gót phía sau, chạy theo bọn họ qua vài tòa nhà nằm sau điện Thần Võ, đến trước một tòa điện tám góc đen kịt. Chỉ thấy cửa tòa hắc điện mở toang hoác, vô số luồng khói mờ bay vù vù ra từ đó.
Quốc sư kêu la thảm thiết: "Chúc An đâu rồi?! Chết đâu mất rồi! Chuyện gì thế này?!"
Vài đạo nhân canh gác hớt ha hớt hải chạy tới, người đứng đầu đám này chính là gã Chúc sư huynh kia: "Quốc sư!!! Con ở đây nè! Con cũng không biết chuyện gì xảy ra nữa, cánh cửa này khóa rất kỹ, thế mà vừa rồi lại đột ngột mở ra!"
Quốc sư bứt tóc nói: "Mau đi lấy cái lọ phong hồn mới!" (phong hồn = phong ấn linh hồn)
Tạ Liên xông thẳng lên trước. Bốn phương tám hướng của gian hắc điện này được chia thành những ô vuông bằng gỗ đàn hương lớn nhỏ không đều, đan xen chằng chịt, trên các ô vuông bày vô số lọ gốm, bình sứ, hộp ngọc muôn màu muôn vẻ. Ban đầu mỗi vật chứa đều được sắp xếp ngay ngắn, những cái nút lọ màu đỏ đều được nhét kín mít, miệng lọ niêm phong bằng bùa vàng chữ đỏ. Nhưng giờ đây nhiều cái đã bị đập vỡ, số còn lại không ngừng tự động rơi xuống khỏi giá, cho dù không rơi cũng lắc lắc lư lư.
Bên trong mỗi vật chứa dùng để phong hồn ấy đều phong ấn một con yêu ma quỷ quái từng quấy phá. Đằng sau mỗi tòa điện thần trên núi Thái Thương đều có một gian hắc điện như thế, dùng cửa xoay làm bằng những thánh khí trong sạch để trấn áp bọn chúng. Chẳng biết đã xảy ra chuyện gì mà chúng đột nhiên bạo động, đồng loạt xông ra!
Tạ Liên nói: "Không kịp nữa rồi!"
Nói đoạn, y tung chân đá cửa. Ngoài cửa vốn dĩ có một chiếc khóa sắt nhưng đã bị đám oán linh phá cửa xông ra đập gãy, Tạ Liên bèn rút bội kiếm, dùng mũi kiếm viết vài chữ lên không trung, sau đó tiện tay cắm thẳng xuống đất. Y mang hơn hai trăm thanh kiếm lên núi, gần như ngày nào cũng đổi một thanh mang bên người, thanh nào cũng là danh kiếm độc nhất vô nhị đương thời. Kiếm kia cắm nghiêng trên mặt đất, quả nhiên cánh cửa đó không mở ra được nữa, chỉ nghe tiếng va đập loạn xạ đầy giận dữ của đám oán linh trong hắc điện.
Rời khỏi hắc điện, ngẩng đầu nhìn lên, Tạ Liên thấy mây đen bốc lên từ các hắc điện đặt sau những điện thần khác nhau trên mỗi đỉnh núi. Đám oán linh đó vọt hết lên trời rồi hội tụ về một hướng khói đặc bốc cuồn cuộn. Chúc An hỏi: "Đó là đâu thế? Sao bọn chúng đều bay về hướng đó?"
Quốc sư mắng: "Ngươi choáng đầu rồi hả, đó là cung Tiên Lạc!"
Đoàn người như đạp gió mà đi, chỉ trong chớp mắt đã đến đỉnh Tiên Lạc. Mà trên núi Thái Thương, từ sau vô số điện thần trên vô vàn đỉnh núi tản ra những luồng khói đen mịt mù, lao vù vù về phía đỉnh Tiên Lạc, hình thành một đám mây khổng lồ dạng lốc xoáy phía trên cung Tiên Lạc. Quốc sư nói: "Cung Tiên Lạc của con làm sao thế?! Yêu ma quỷ quái phong ấn trong hắc điện đều bị thu hút về hướng đó, con đã đặt cái gì trong cung?!"
Tạ Liên cũng kinh ngạc không thôi, đáp: "Chẳng có gì hết! Chỉ có..."
Chỉ có cái gì cơ? Tạ Liên chợt nhớ ra: Đứa bé kia!
Đúng lúc này, Chúc sư huynh nói: "Không hay rồi quốc sư!! Bên Thái tử điện hạ nổi lửa rồi!"
Quả nhiên, một góc của cung Tiên Lạc đã bốc cháy, ánh lửa ngút trời, hắt đến độ mây đen bên trên thoáng nhuốm màu đỏ ửng. Nhưng xa xa dưới chân núi Thái Thương, dân chúng trong hoàng thành giờ này vẫn chưa đi ngủ chứng kiến cảnh tượng như thế, hoàn toàn không biết đã xảy ra chuyện không hay, lại còn hớn hở rủ rê người khác xem chuyện lạ: "Oa! Các đại thần trên núi tiên làm phép kìa, đẹp ghê!"
Mới chớp mắt đoàn người đã đến cung Tiên Lạc. Tạ Liên không để quá nhiều tôi tớ trong cung, mấy chục đạo nhân chạy từ nơi khác tới đang ra sức múc nước giếng dập lửa. Do không thấy hai người hầu kia đâu, Tạ Liên bèn xông thẳng vào trong. Oán linh từ tất cả các tòa hắc điện trên núi Thái Thương đều tụ tập tại đây, trong cung Tiên Lạc gần như đã hóa thành đêm đen, xòe tay không thấy năm ngón. Tạ Liên mơ hồ trông thấy giữa đại điện có hai bóng người, bèn gọi: "Phong Tín! Mộ Tình!"
Hai người kia đang khổ sở chống đỡ một trận pháp phòng hộ, không cho phép tà linh xâm phạm. Quả nhiên, nghe có tiếng Phong Tín vang lên: "Điện hạ, đừng vào đây! Đứa bé này lạ lắm, những thứ kia đều lao về phía nó!"
Bấy giờ Tạ Liên mới để ý sau lưng hai người kia còn có một cái bóng nhỏ màu đen nữa. Hình như nó đang ôm đầu quỳ dưới đất, thanh minh: "Không phải ta!!!"
Quan sát chốc lát, Tạ Liên nói: "Các ngươi đừng chống đỡ nữa, buông ra đi!"
Mộ Tình nói: "Không buông được! Nếu buông ra, mấy thứ này sẽ nổi điên, chờ khi ta tìm được bọn chúng thì trong này đã..." Tạ Liên lại quát: "Không sợ. Buông ra! Ngay lập tức!"
Mộ Tình cắn răng một cái, đồng loạt rút tay cùng Phong Tín. Quả nhiên sau khi mất sức mạnh kiềm chế, đám oán linh kia la ó rít gào, tức khắc phát rồ!
Nhưng ngay sau đó, Tạ Liên duỗi tay ra, tóm cổ một luồng khói đen với khí thế như chớp giật.
Y thật sự không cần nhìn, trực tiếp dùng tay không tóm một luồng khói đen, siết chặt nó trong lòng bàn tay. Sau khi y tóm được oán linh này, tất cả oán linh đang điên cuồng bay tán loạn khắp cung Tiên Lạc đều trở nên vật vờ.
Bên ngoài cung Tiên Lạc, mọi người ngấm ngầm gật đầu.
Khi vô số oán linh rơi vào trạng thái hỗn loạn và cùng nháo nhào lao về một nơi, bản năng sẽ mách bảo chúng đi theo con mạnh nhất trong số đó.
Chỉ cần bắt được con này, những con còn lại sẽ như rắn mất đầu, nhất thời mất đi phương hướng. Lúc này đây, Tạ Liên chỉ cần liếc mắt một cái đã nhìn thấu con nào mạnh nhất, đồng thời tóm cổ nó, không cho nó bất cứ cơ hội nào. Khẽ dùng sức một chút, oán linh này đã tan thành tro bụi trong tay y.
Ngay sau đó, bốn vị quốc sư nâng tay áo lên, hô to: "Trở về đi!"
Đánh mất thủ lĩnh, đám oán linh bay tán loạn trong cung Tiên Lạc như ruồi nhặng mất đầu, cuối cùng chẳng còn cách nào khác, chúng nó đành ấm ức cam chịu quay về túi càn khôn trong tay áo các vị quốc sư. Mấy chục đạo nhân đi vòng quanh dập tắt những mồi lửa còn sót lại, luồng khói đen mịt mù trong điện dần dần tan biến, bấy giờ Tạ Liên mới nhìn rõ dáng vẻ của ba người kia.
Phong Tín và Mộ Tình quỳ một gối dưới đất, chưa hoàn hồn lại. Mà sau lưng bọn họ, đứa bé kia vẫn ôm đầu câm như hến. Mấy vị quốc sư đã bước vào, vừa thấy nó đã hỏi ngay: "Đứa bé này từ đâu đến? Vừa rồi Phong Tín nói tất cả oán linh đều lao về phía nó? Chuyện này là sao?"
Tạ Liên đáp: "Đây là đứa bé ngã xuống khỏi tường thành trong buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời."
Các quốc sư kinh hãi. Quốc sư hỏi tiếp: "Sao con lại mang nó lên đây?"
Tạ Liên lắc đầu, không còn lòng dạ nào giải thích, hỏi Phong Tín: "Nó đã làm gì mà kéo hết oán linh trong hắc điện tới đây vậy?"
Phong Tín đứng dậy trả lời, một cánh tay vẫn còn treo lùng lẳng: "Ta cũng không biết nó đã làm gì! Nhưng nó vừa lên núi, bước vào cung Tiên Lạc chưa được bao lâu thì cái mớ đen kịt này bỗng dưng bay tới từ những đỉnh núi khác, tất cả đều lao vào trong điện vây lấy nó, càng tụ càng đông, muốn ra cũng ra không được."
Nhìn bốn bề cung Tiên Lạc nào tường nào cột bị thiêu rụi thành màu cháy sém, Tạ Liên hỏi: "Còn ngọn lửa này thì sao?"
Mặt mũi lấm lem bụi bẩn, Mộ Tình đáp: "Chúng ta ra không được, đành phải vẽ trận trấn giữ. Đám oán linh này bèn châm nến, đốt màn lụa, muốn ép chúng ta khỏi trận pháp."
Phong Tín nói: "Cũng may điện hạ mau chóng đuổi đến, vừa ra tay đã nắm được thóp của bọn chúng, bằng không đốt thêm lát nữa thì cả trận lẫn người đều bị thiêu rụi."
Nghe vậy, Mộ Tình khép mắt, hơi cúi đầu. Mà phía bên kia, các vị quốc sư đã vây quanh đứa bé, bắt đầu quan sát kỹ lưỡng.
Tạ Liên hỏi: "Quốc sư, đứa bé này có chỗ nào không ổn à?"
Nếu có chỗ nào không ổn, chẳng hạn như bị yêu ma quỷ quái nhập vào người, thì Tạ Liên chỉ cần liếc mắt một cái đã nhìn ra. Tu hành ở Hoàng Cực quán mấy năm, y chuyên môn luyện nhãn lực, hiếm có thứ gì qua mắt y được, nhưng y không hề nhìn ra đứa bé này có vấn đề gì. Quốc sư lắc đầu, hẳn là cũng không nhìn ra, hỏi đứa bé kia: "Ngươi sinh vào ngày giờ tháng năm nào?"
Dường như Hồng Hồng Nhi rất cảnh giác và ngập tràn địch ý với tất cả mọi người, chỉ im thin thít nhìn Tạ Liên. Tạ Liên ôn tồn bảo: "Đệ nói đi, quốc sư muốn xem số mệnh của đệ là vì muốn tốt cho đệ thôi."
Tạ Liên vừa mở lời, Hồng Hồng Nhi đã lí nhí đọc ngày giờ tháng năm sinh của mình. Quốc sư nhíu mày, bấm đốt ngón tay bắt đầu tính toán. Vài người đưa mắt nhìn quốc sư, thì thầm bàn luận chốc lát, sắc mặt càng lúc càng nghiêm nghị, ánh mắt nhìn Tạ Liên cũng ngày một nặng nề hơn.
Tuy quốc sư là một thanh niên lanh lợi thoạt nhìn mới hơn ba mươi tuổi, nhưng Tạ Liên hiểu rất rõ, sư phụ của mình rốt cuộc phải bản lĩnh nhường nào mới có thể trấn giữ Hoàng Cực quán. Quốc sư đứng đầu Tiên Lạc là Mai Niệm Khanh có thuật bói toán tuyệt đỉnh, danh chấn thiên hạ. Tạ Liên đã học kiếm học pháp với vài vị quốc sư, nhưng chưa bao giờ học xem tướng đoán mệnh với chủ quốc sư, chỉ vì quốc sư nói đây là mẹo giang hồ, y thân là thái tử tôn quý ngàn vàng không cần phải học nó, vả lại chính bản thân y cũng không thấy hứng thú, thế nên chưa từng đọc về môn này, nhưng chỉ cần quốc sư ra tay thì tuyệt đối không sai được.
Sau một hồi tính toán, mồ hôi lạnh trên trán quốc sư ngày càng nhiều, lão khẽ lẩm bẩm: "Chẳng trách... chẳng trách... chẳng trách buổi diễu hành tế trời bị nó phá hỏng, đám âm linh trong hắc điện nghe đến nó là phấn khởi, cung Tiên Lạc cũng bốc cháy, thật... thật... thật đúng là..."
Tạ Liên hỏi: "Đúng là gì cơ?"
Quốc sư lau mồ hôi lạnh, bỗng dưng lùi một chặp ra xa tám trượng, nói: "Thái tử điện hạ, con nhặt phải một thứ khó lường lên núi rồi! Đứa bé này độc lắm, nó mang mệnh thiên sát cô tinh đuổi tận giết tuyệt, là hạng người mà những thứ âm tà thích nhất, dính vào nó chỉ tổ xúi quẩy, thân với nó cầm chắc cái chết!"
*Thiên sát cô tinh: ý nói những người xui xẻo mang điềm xấu gieo tai họa cho người xung quanh nên định trước sẽ cô độc suốt đời.
Lời còn chưa dứt đã nghe một tiếng hét lớn, Hồng Hồng Nhi nhảy dựng lên, thình lình đâm sầm về phía quốc sư.
Giọng đứa bé tuy vẫn còn non nớt, nhưng tiếng hét của nó lại tràn đầy phẫn nộ, giống như trong lòng chất chứa đau đớn và tuyệt vọng vô cùng vô tận, khiến cho những người có mặt nghe mà run rẩy. Rõ ràng đứa bé này toàn thân chi chít vết thương, thế mà vẫn liên tục đánh đấm cắn xé, quả thật giống hệt một con chó điên mắt đỏ ngầu, hung hãn tột độ. Vài vị phó quốc sư cản Hồng Hồng Nhi lại, quốc sư cuống quýt lùi ra sau, vừa lùi vừa nói: "Mau đuổi nó xuống núi, mau đuổi nó xuống núi! Đừng ai đụng vào nó, ta nói thật đấy. Mệnh nó độc lắm, tuyệt đối đừng đụng vào nó!"
Vài vị phó quốc sư vội vàng bắt chước quốc sư tránh né đứa bé, Mộ Tình và Phong Tín không biết có nên làm theo không. Thấy người ta tránh mình như tránh rắn rết, đứa bé kia ngơ ngác, thế rồi càng đánh càng hăng, vừa cắn vừa hét khản cổ: "Ta không phải! Ta không phải!! Ta không phải!!!!"
Bỗng nhiên, một đôi tay vòng qua hông nó, ôm lấy thân thể của nó. Một giọng nói cất lên trên đầu nó: "Đệ không phải. Ta biết đệ không phải. Được rồi, đừng khóc nữa. Ta biết đệ không phải mà."
Đứa bé ra sức mím môi, siết chặt hai ống tay áo trắng tinh vòng qua hông mình, cố nín nhịn thật lâu, cuối cùng vẫn nhịn không nổi, con mắt đen trợn tròn bỗng chảy một dòng nước mắt, nó òa khóc nức nở.
Tạ Liên ôm nó từ sau lưng, nói bằng giọng quả quyết: "Không phải vấn đề của đệ. Không phải lỗi của đệ."
Chương 68
Nhân thượng vi nhân, nhân hạ vi nhân (3)
Hồng Hồng Nhi xoay phắt người, dúi mặt vào lòng Tạ Liên, điên cuồng hét lớn.
Tiếng hét này không có câu chữ, chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí không phải là tiếng khóc, nhưng lại khiến người ta sởn gai ốc. Nếu không nhìn thấy là ai, có lẽ còn cho rằng đây là tiếng gào rống phát tiết của một người trưởng thành cận kề bờ vực sụp đổ, hoặc là thú con bị một đao cắt cổ họng đang hấp hối giãy chết, dường như chỉ có chết ngay lập tức mới là sự giải thoát của nó. Ai cũng có thể phát ra loại âm thanh này, duy chỉ không nên phát ra từ một đứa bé mười tuổi. Chính vì thế, nó khiến cho tất cả mọi người sững sờ.
Hồi lâu sau, quốc sư mở miệng: "Ta nói thật, buông ra thì tốt hơn."
Bấy giờ Phong Tín mới phục hồi tinh thần, nói: "Điện hạ! Mau buông nó ra, huynh coi chừng..." Có điều cuối cùng Phong Tín vẫn không nỡ nói tiếp.
Tạ Liên đáp: "Không sao đâu."
Gã Chúc sư huynh kia lại hết mực quan tâm đến an nguy của Thái tử điện hạ, thấy Hồng Hồng Nhi dụi nước mũi nước mắt lẫn máu me lên đạo bào trắng muốt của Tạ Liên, gã bèn bước lên kéo nó ra, miệng nói: "Bạn nhỏ, không được đâu!"
Ai ngờ gã càng kéo, đứa bé lại la í ới, liều chết không buông, dùng cả tay lẫn chân ôm càng chặt hơn. Ba bốn đạo nhân lên đây bảy tay tám chân cũng không kéo nó xuống được, trái lại còn khiến nó bám dính lên người Tạ Liên hệt như con khỉ nhỏ. Tạ Liên vừa thấy buồn cười vừa thấy tội nghiệp, bèn dùng một tay nâng Hồng Hồng Nhi, vuốt ve sống lưng gầy guộc của nó để vỗ về, đồng thời giơ tay còn lại lên, nói: "Thôi bỏ đi. Không cần lo lắng, cứ để nó như vậy đi."
Dừng một hồi, phát hiện đứa bé trong lòng không co giật nữa, từ từ yên tĩnh lại, Tạ Liên mới thấp giọng hỏi người bên cạnh: "Cung Tiên Lạc bốc cháy, không có người khác bị thương chứ?"
Mộ Tình nói: "Không. Chỉ có vài người bọn ta ở lại trong cung."
Bởi vì cung Tiên Lạc đã bị đốt thành một mảng vách nát tường xiêu cháy sém, tất nhiên Tạ Liên không thể nán lại nữa.
Sau khi xác nhận chỉ đốt gian phòng chứ không làm ai bị thương, nhóm đạo nhân đuổi lên đỉnh núi bắt đầu dọn dẹp hiện trường, khi lật thấy những tàn tích lấp lánh ánh vàng và đá quý chuyển màu đen, ai cũng đau lòng khôn xiết, còn Tạ Liên lại không hề để tâm.
Ngoại trừ đồ vật sử dụng thường ngày có hơi tinh xảo một chút, từ đầu Tạ Liên cũng chẳng đặt vật phẩm quý báu gì trong cung Tiên Lạc. Thứ quý báu nhất, chính là hơn hai trăm thanh danh kiếm mà y sưu tầm được, nhưng vàng thật không sợ lửa, những danh kiếm đó vốn được rèn nên từ muôn lần tôi luyện trong ngọn lửa hừng hực, thế nên chẳng hề hấn gì. Sau khi tự lục chúng ra, Tạ Liên tạm thời cất giữ chúng trong cung Tứ Tượng của các quốc sư.
Về phần Hồng Hồng Nhi, nó ôm ghì Tạ Liên khóc nức nở một trận, khóc mệt rồi thiếp đi. Lẽ ra Tạ Liên định đưa nó xuống núi Thái Thương, tìm một nơi thu xếp cho nó, quốc sư lại muốn y đến cung Tứ Tượng một chuyến, vậy nên Tạ Liên dẫn nó qua đó trước.
Đặt đứa bé lên chiếc giường trong phòng, Tạ Liên tiện tay nhét góc chăn cho nó, sau đó thả rèm, dẫn Phong Tín và Mộ Tình ra ngoài, hỏi: "Quốc sư, số mệnh của đứa bé này thật sự đáng sợ thế sao?"
Quốc sư trề môi nói: "Chi bằng con tự tính mà xem, sau khi nó xuất hiện đã xảy ra những chuyện gì?"
Ba người lặng thinh. Đứa bé này vừa xuất hiện đã rơi xuống tường thành dưới ánh nhìn chăm chú của hàng vạn người, khiến cho buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời đứt quãng sau ba vòng. Đến khi nó xuất hiện lần nữa, Thích Dung vì trút giận lên nó mà phóng ngựa kéo lê nó dưới đất, quấy nhiễu dân chúng trên đường, hại Phong Tín gãy tay, Tạ Liên và quốc vương xích mích, hoàng hậu rơi nước mắt. Bây giờ lại làm cho oán linh bị trấn áp trong hắc điện trên khắp núi Thái Thương phá phong ấn mà ra, còn đốt cháy cung Tiên Lạc. Phải nói là vận rủi liên tục, như bóng với hình.
Tạ Liên hỏi: "Có cách nào giải quyết được không?"
Quốc sư nói: "Giải quyết? Con ám chỉ điều gì? Sửa đổi số mệnh à?"
Tạ Liên gật đầu. Quốc sư nói: "Điện hạ, con không học thuật số với ta, cho nên ở phương diện này, quả thật con chẳng hiểu gì hết. Nếu con hiểu, con sẽ không hỏi như vậy."
Tạ Liên sửng sốt, ngồi ngay ngắn lại, nói: "Nguyện lắng tai nghe."
Quốc sư lấy ấm trà trên bàn, rót một chén trà, nói: "Thái tử điện hạ, con có còn nhớ, năm con tròn sáu tuổi, bệ hạ và hoàng hậu triệu ta vào cung xem bói cho con, ta đã từng hỏi một vấn đề không?"
Nhìn chén trà bốc khói kia, Tạ Liên ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: "Ý ngài là chén nước hai người ư?"
Năm đó vì suy lường số mệnh cho Thái tử Tạ Liên, quốc sư hỏi y rất nhiều vấn đề. Có vấn đề có lời giải, có vấn đề không lời giải, Tạ Liên đáp câu nào quốc sư lại khen ngợi đủ kiểu, quốc vương và hoàng hậu nghe mà cười tươi rói, cũng có không ít câu hỏi đáp lưu truyền thành giai thoại. Nhưng trong đó có một vấn đề, sau khi Tạ Liên trả lời, quốc sư không đưa ra bất luận đánh giá nào, thế giới bên ngoài cũng không nghe nhiều nên thuộc*, ngay cả Phong Tín cũng chẳng rõ ràng lắm, Mộ Tình lại càng chưa nghe bao giờ. Vấn đề này chính là "chén nước hai người".
*Nghe nhiều nên thuộc: ý nói nghe được rất nhiều lần nên có thể thuật lại cặn kẽ.
Quốc sư nói: "Hai người đi trong hoang mạc, khát đến gần chết, chỉ còn thừa lại một chén nước. Người uống thì sống, người không uống thì chết. Nếu con là thần, chén nước cho ai? —— Con khoan hãy nói, để ta hỏi người khác, con nhìn xem họ trả lời thế nào."
Câu sau của quốc sư là nói với hai người đứng hầu ở cách đó không xa. Mộ Tình cân nhắc chốc lát, dè dặt đáp: "Có thể xin quốc sư cho biết, hai người này lần lượt là người nào, phẩm chất ra sao, ưu khuyết điểm thế nào không? Nhất định phải hiểu rõ mới đưa ra quyết định được."
Phong Tín lại nói: "Không biết! Đừng hỏi con, bảo hai người đó tự quyết định đi."
Tạ Liên phì cười, quốc sư hỏi: "Con cười cái gì? Con còn nhớ mình trả lời thế nào không?"
Tạ Liên thu lại nụ cười, nghiêm mặt nói: "Cho thêm một chén."
Nghe vậy, Phong Tín và Mộ Tình người thì xoay mặt, người thì cúi đầu, dường như không dám nghe hết. Tạ Liên quay đầu lại, trịnh trọng nói: "Các ngươi cười gì? Ta nghiêm túc đó. Nếu ta là thần, chắc chắn ta sẽ cho thêm một chén."
Tay của quốc sư vuốt nhẹ chén trà, nước trà tự chuyển động chầm chậm trong chén, như thể có sinh mạng. Quốc sư tiếp tục nói: "Số mệnh trên đời, là tốt hay xấu, đều có định số (số mệnh nhất định). Tương tự như chén nước này, chung quy cũng chỉ có bấy nhiêu, con uống đủ rồi, người khác sẽ không có mà uống. Một người được thêm thì một người mất bớt. Từ xưa đến nay, suy cho cùng tất cả phân tranh đều vì người thì nhiều mà nước chỉ có một chén, cho ai cũng có lý. Muốn sửa mệnh đổi mệnh sao? Tuy khó đấy nhưng không phải bất khả thi. Nhưng nếu con sửa lại số mệnh của đứa bé này, vậy số mệnh của người khác cũng sẽ bị sửa theo, oan nghiệt lại tăng thêm. Lúc trước con nói muốn cho thêm một chén nước, cũng như hôm nay con nói muốn chọn con đường thứ ba vậy, muốn mở nguồn nước mới, nghĩ thì hay lắm, nhưng ta nói cho con biết, căn bản không thể làm được đâu."
Tạ Liên yên lặng lắng nghe, không đồng ý nhưng cũng không phản bác nhiều, chỉ nói: "Cảm ơn quốc sư chỉ bảo."
Quốc sư uống nước trà, chép chép miệng, nói: "Thôi khỏi cần. Dù sao chỉ bảo con mà con có nghe đâu."
"..." Tạ Liên bị nhìn thấu ho nhẹ một tiếng, đáp: "Quốc sư, hôm nay trước điện Thần Võ, đệ tử nhất thời kích động, nói năng đụng chạm, có nhiều mạo phạm, mong quốc sư rộng lòng tha thứ."
Quốc sư lồng hai tay vào tay áo, cười nói: "Con là đệ tử ruột của ta, lại là Thái tử điện hạ, ta không rộng lòng tha thứ sao được? Điện hạ, ta có thể nói, con là người được trời ưu ái nhất mà ta từng gặp."
Không hiểu ý nghĩa của lời này, Tạ Liên dỏng tai lắng nghe. Quốc sư nói tiếp: "Con có thiên phú, có hoài bão, sẵn lòng dốc sức, chịu cực chịu khó. Xuất thân cao quý, bản tính thiện lương. Không ai xứng với bốn chữ thiên chi kiêu tử hơn con. Nhưng ta vẫn không yên tâm về con. Ta sợ con không qua được cửa ải kia."
Tạ Liên hỏi: "Không yên tâm là ý gì?"
Quốc sư nói: "Dù rằng con đã đạt đến độ cao như thế, nhưng có vài điều còn lâu con mới hiểu, người khác cũng không thể dạy được. Chẳng hạn những gì hôm nay con nói trên điện Thần Võ, không nên sùng thần bái thần gì gì đó, tuy có rất ít người nghĩ đến lý lẽ này, con tuổi còn trẻ đã tự có suy tính, không tệ, nhưng con đừng tưởng rằng trên trời dưới đất từ xưa đến nay chỉ có một mình con nghĩ đến điều đó."
Tạ Liên khẽ mở to mắt, quốc sư nói: "Lời con nói hôm nay, từ vài thập niên trước hay thậm chí mấy trăm năm trước đã có người nghĩ đến rồi, nhưng nó không thể trở thành đại thế (xu thế chung), giọng quá nhỏ nên chẳng mấy ai nghe được, cớ sao lại như vậy? Con có từng nghĩ tới chưa."
Trầm ngâm giây lát, Tạ Liên nói: "Bởi vì mặc dù đã nghĩ đến, song những người đó lại không làm, hơn nữa không đủ kiên định."
Quốc sư hỏi: "Vậy còn con? Con dựa vào đâu mà cho rằng mình đủ kiên định?"
Tạ Liên đáp: "Quốc sư, ngài cảm thấy, con có thể phi thăng không?"
Quốc sư nhìn y, nói: "Con không phi được thì không ai phi được cả. Chỉ là vấn đề sớm muộn thôi."
Tạ Liên mỉm cười, nói: "Vậy thì, xin ngài nhìn nhé."
Y chỉ trời nói: "Nếu mai này có một ngày con phi thăng, con nhất định sẽ làm cho tất cả những gì hôm nay con nói trở thành đại thế!"
Phong Tín và Mộ Tình canh giữ sau lưng Tạ Liên, thu hết những lời y nói vào tai, cả hai đều vô thức ngẩng đầu lên. Phong Tín khẽ nhếch khóe miệng, mà ánh sáng nơi đáy mắt của Mộ Tình lại giống Tạ Liên như đúc. Quốc sư gật đầu nói: "Được, vậy ta sẽ chống mắt lên nhìn —— Có điều ta không cho rằng con phi thăng quá sớm là chuyện tốt. Ta hỏi con, cái gì gọi là đạo?"
Tạ Liên rướn đầu, đáp: "Theo lời ngài nói, người đi trên đường, tức là đạo."
Quốc sư nói: "Đúng thế. Nhưng mà, con đường con đi còn chưa đủ dài. Vậy nên ta cảm thấy, đây là lúc cho con xuống núi để đi rồi."
Hai mắt Tạ Liên sáng ngời. Quốc sư nói: "Năm nay con cũng mười bảy rồi, bây giờ cho phép con xuống núi Thái Thương, ra ngoài du ngoạn trải nghiệm."
Tạ Liên nói: "Vậy đúng lúc lắm!"
Y ở hoàng thành một ngày, nghĩ đến quốc vương và Thích Dung là thấy hơi bức bối, vả lại cung Tiên Lạc tráng lệ như thế bị thiêu rụi rồi, khó tránh phải lằng nhằng với cha mẹ thêm nữa, chi bằng lại rời xa hơn, tập trung đi con đường của mình.
Lúc này, quốc sư lại nói: "Thái tử điện hạ, biết bao năm qua, có một câu nói truyền miệng luôn được xem là chuyện đương nhiên, nhưng thật ra những lời đó sai rồi, chỉ là chưa ai phát hiện thôi."
Tạ Liên hỏi: "Câu nào?"
Quốc sư đáp: "Người đi lên, thành thần; người đi xuống, thành quỷ."
Tạ Liên suy nghĩ một hồi rồi hỏi lại: "Câu này có chỗ nào không đúng sao?"
Quốc sư nói: "Dĩ nhiên không đúng rồi. Con hãy nhớ kỹ: Người đi lên, vẫn là người; đi xuống, vẫn là người như cũ."
Tạ Liên còn đang nghiền ngẫm lời này, quốc sư vỗ vỗ vai y, ngoảnh đầu lại nhìn, nói: "Tóm lại, về đứa bé này... con không cần để bụng quá nhiều, mỗi người có số mệnh của riêng mình. Có rất nhiều lúc, không phải con muốn giúp là có cách giúp được đâu. Có chuyện gì, sau này hẵng nói. Trước tiên ra ngoài trải nghiệm đi. Chỉ mong khi trở lại con sẽ trưởng thành hơn."
Nhưng mà, tất cả mọi người đều không ngờ rằng, ngay đêm hôm đó, đứa bé kia trốn ra khỏi Hoàng Cực quán, biến mất.
Càng không ai ngờ được rằng, sau lần du ngoạn này, Thái tử Tạ Liên gần mười bảy tuổi của nước Tiên Lạc đánh bại Quỷ hồn vô danh trên cầu Nhất Niệm, cứ thế phi thăng giữa sấm vang chớp giật.
Ba giới chấn động.
Chương 69
Vớt tiền của tiên, tướng sĩ lỗ mãng gặp Thái tử
"Mở ——"
Đi kèm với một tiếng hô hào hùng hậu, gấm vóc đỏ thẫm rơi xuống đất. Giữa hàng ngàn người, nhất thời bùng lên tiếng hoan hô ngút trời.
Đây là một pho tượng thần Thái tử bằng vàng ròng. Một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa*, ví với "Vốn có năng lực diệt thế, không đánh mất lòng tiếc hoa". Đường nét gương mặt tượng thần dịu dàng, mắt ngọc mày ngài, nét môi mỹ lệ, khóe miệng khẽ nhếch, cười như không cười. Nói đa tình mà không ngả ngớn, nói vô tình cũng chẳng hững hờ, là một tướng mạo từ bi mà tuấn tú.
*Cầm hoa ở đây là chỉ dùng ngón cái và ngón trỏ để cầm nha, tương tự như vầy.
Đây là tòa điện Thái Tử thứ tám ngàn trong lãnh thổ nước Tiên Lạc.
Phi thăng ba năm, đất bằng dựng nên tám ngàn tòa điện thần. Sự ủng hộ nhiệt liệt vô tiền khoáng hậu như thế, tuyệt đối là tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả, độc nhất một phần.
*Tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả: Trước nay chưa từng có ai làm được.
Nhưng điện thờ thứ tám ngàn này, cũng không phải là tượng thần Thái tử nguy nga quý giá nhất. Trên núi Thái Thương, đỉnh núi nơi Thái tử điện hạ tu hành vào thuở thiếu thời, nay đã được đặt tên là "đỉnh Thái Tử". Chính tại nơi đó, cung Tiên Lạc thứ nhất được dựng nên. Sau khi pho tượng thần Thái tử đầu tiên được đúc xong, cũng chính tại nơi đó, quốc vương bệ hạ đích thân vén màn. Pho tượng thần Thái tử ấy cao đến năm trượng (16.5m), kỹ thuật điêu khắc sinh động như thật. Cả pho tượng chế tạo từ vàng ròng, chính là "thân vàng" hàng thật giá thật.
Trong cung Tiên Lạc, khách hành hương nườm nượp không ngớt, đạp phá bậc cửa. Đỉnh hương trước điện cắm chi chít nén dài nén ngắn, hòm công đức cũng to lớn bền chắc hơn hòm công đức trong những ngôi miếu bình thường, bởi vì nếu không làm lớn một chút, thông thường chưa đến một ngày đã bị ném đầy đồ cúng, người đến sau không bỏ vào được. Mới vừa vào quán, còn có một hồ nước sâu trong vắt cũng bị ném đầy tiền xu, lấp lóe ánh xanh dưới gợn sóng lăn tăn, mấy con rùa già trong hồ ngày nào cũng bị tiền của khách hành hương trên cầu đá nện cho rụt vào mai rùa không dám ló đầu ra, các đạo nhân khuyên can du khách thế nào cũng vô dụng. Phía trong tường đỏ cao rộng của đạo quán trồng đầy hoa mai, trên cành cây cột vô số dải băng cầu phúc rực đỏ. Băng đỏ tung bay theo gió giữa biển hoa, phồn hoa tựa gấm.
Còn trong đại điện, Tạ Liên ngồi ngay ngắn dưới tượng thần của mình, quan sát mọi người. Không ai trông thấy y, nhưng y lại có thể ngồi nhìn đám khách hành hương bên dưới nhao nhao bàn tán:
"Sao trong điện Thái Tử này không có đệm hương bồ dùng để quỳ lạy vậy?"
"Đúng rồi, quán chủ cũng nói không được quỳ, quán cũng mở rồi mà không được quỳ là sao?"
Có một người nói: "Các ngươi mới tới cung Tiên Lạc lần đầu tiên nhỉ, cung Tiên Lạc luôn là thế mà. Nghe nói sau khi phi thăng, Thái tử điện hạ báo mộng cho rất nhiều ông từ và quán chủ, nói người tin mình không cần quỳ. Vậy nên trong điện Thái Tử không có chỗ quỳ lạy."
Tuy rằng người khác chẳng hề nhìn thấy Tạ Liên, Tạ Liên vẫn gật gật đầu. Ngờ đâu, những người khác lại cười nói: "Đây là cái đạo lý gì? Thần tiên là để quỳ lạy kia mà? Tin nhảm à."
Tạ Liên nghẹn họng. Lại nghe có người phụ họa: "Đúng đó, quỳ thì nhất định phải quỳ. Quỳ mới tỏ ra thành tâm chứ!"
"Không có đệm hương bồ cũng chẳng sao, chúng ta quỳ dưới đất đi."
Thế là một người tiên phong quỳ xuống, ngay lập tức, hàng loạt người khắp bốn bề đều quỳ theo. Hàng trăm hàng ngàn người chen chúc trong điện ngoài điện, dập đầu bái lạy tượng thần hết lớp này đến lớp khác, miệng lẩm nhẩm đọc, âm thầm hứa nguyện cầu phúc. Tạ Liên lẳng lặng tránh ra, nghĩ bụng: "Thôi vậy, cứ từ từ mà tiến."
Giây tiếp theo, vô số ầm ĩ tiếng người hệt như sóng lớn từ bốn phương tám hướng ập về phía y.
"Cầu trúng tuyển khoa cử! Trúng tuyển khoa cử! Năm nay nhất định phải trúng tuyển khoa cử! Trúng rồi sẽ hoàn nguyện!"
*Hoàn nguyện: Người cầu xin thần phù hộ thực hiện những gì mình hứa với thần sau khi đạt được nguyện vọng.
"Lên đường bình an!"
"Cô nương mà ta để ý toàn để ý sư huynh của ta, xin ngài hãy làm cho huynh ấy xấu xí một chút, xin ngài đó."
"Con mẹ nó, ta không tin ta vẫn không sinh được một nhóc bụ bẫm!!!"
... Cầu gì cũng có, Tạ Liên nghe mà đầu to như cái đấu, vội vàng bắt quyết niệm chú, ngăn cách mọi âm thanh. Bên này tai y vừa yên tĩnh lại, chỉ nghe một tiếng kêu to, một người mặc áo đen hai tay bịt lỗ tai chạy ra từ sau điện, la toáng lên: "Cái quỷ gì thế này!!!"
Chúng khách hành hương hoàn toàn không phát hiện sự xuất hiện của người này, tiếp tục dập đầu bái lạy. Tạ Liên thở dài một hơi, vỗ vai người nọ, cười nói: "Phong Tín, cực thân ngươi rồi."
Cung Tiên Lạc nhang đèn dồi dào như vậy, lời cầu nguyện mà mỗi ngày Tạ Liên có thể nghe được nào chỉ hơn một ngàn. Ban đầu, y còn xông xáo nhờ vào tinh thần ham mới lạ, chẳng phân lớn nhỏ tự mình làm hết, về sau người cầu phúc thật sự quá nhiều, y bèn ném một phần cho Phong Tín và Mộ Tình. Những cái nào nằm trong phạm vi chức trách của y, những cái nào có thể bỏ qua, hai người xem qua một lượt, sau đó lọc ra cái nào cần chú trọng giao cho Tạ Liên.
Mộ Tình xem xong sẽ báo cáo cho y, trước giờ chưa từng phàn nàn câu nào, Phong Tín thì không tài nào hiểu nổi vì sao có người cứ thích cầu bậy bạ một tràng, ngay cả hòa hợp chuyện phòng the cũng đến cung Tiên Lạc để cầu. Tạ Liên là Võ Thần, làm sao quản loại chuyện đó được? Cứ như thế mãi, còn khiến cho những thần quan khác có ý kiến bất mãn, ngấm ngầm ám chỉ bọn họ không ị mà chiếm hầm cầu, quản không được còn muốn lôi kéo tín đồ qua, đúng là cạn lời mà. Tay bịt tai của Phong Tín lần lữa không chịu buông, dù rằng bịt tai thật ra chẳng có tác dụng gì. Hắn nói: "Điện hạ, sao huynh nhiều nữ tín đồ quá vậy!"
Tạ Liên lồng hai tay vào tay áo, ngồi trong khói mây lượn lờ, mỉm cười nói: "Nhiều nữ tín đồ không tốt sao? Mỹ nhân như mây, cảnh đẹp ý vui."
Phong Tín ra chiều sợ hãi: "Không tốt chút nào hết, nữ tín đồ hình như suốt ngày ngoại trừ cầu cho lớn lên xinh đẹp gả vào nhà lành sinh được con trai thì chẳng còn nguyện vọng nào khác, không ai đàng hoàng cả, ta thấy các nàng là đau đầu!"
Tạ Liên mỉm cười, đang định tiếp lời, đột nhiên, đoàn người náo loạn. Tạ Liên và Phong Tín nhìn ra ngoài điện, chỉ nghe có người hạ giọng nói: "Tiểu Kính Vương tới rồi, đi mau đi mau! Tiểu Kính Vương tới rồi!"
Vừa nghe ba chữ "Tiểu Kính Vương", mọi người cứ như nghe được "Đại Ma Vương", ai cũng sợ xanh mặt, hốt hoảng giải tán. Chỉ trong nháy mắt, hệt như có gió lốc thổi qua, khách hành hương vốn dĩ đang thăm viếng tượng thần tháo chạy gần hết. Lát sau, một thiếu niên áo gấm dáng vẻ cao quý thân khoác áo choàng, hai tay bê một ngọn đèn cúng* làm bằng ngọc lưu ly, bước qua bậc cửa, nghênh ngang tiến vào. Nếu không nhìn cặp mắt, dung mạo của thiếu niên này có ba bốn phần tương tự Tạ Liên, mà khi nhìn cặp mắt lại cảm thấy gã quá ngạo nghễ chói lóa, không phải Thích Dung thì còn ai?
*Bảo đăng: ý chỉ đèn dùng để cúng thần phật, hoặc đèn chạm trổ hoa lệ.
Bây giờ Thích Dung cũng tầm mười bảy mười tám tuổi, mặt mày nẩy nở, khí chất trầm lắng, cũng xem như có vài phần phong thái của nam tử quý tộc. Gã vào cửa, nhưng không cho phép thuộc hạ và tùy tùng vào theo, hai tay bê ngọn đèn, bước vào trong điện, vén áo choàng quỳ dưới mặt đất sạch sẽ, nâng đèn qua khỏi đỉnh đầu, nghiêm trạng lạy vài cái. Hai người trên bệ thờ đưa mắt nhìn nhau, Phong Tín chép miệng, Tạ Liên đọc hiểu vẻ bực mình trong mắt hắn.
Ba năm trước, lúc Tạ Liên rời khỏi hoàng thành ra ngoài du ngoạn, Thích Dung còn đang bị cấm túc, sau khi trở về, y còn chưa kịp gặp biểu đệ này một lần, tối đó đang say giấc nồng đã đùng đoàng phi thăng. Trong ba năm nay, Tạ Liên báo mộng không ít lần cho cha mẹ và quốc sư, cũng báo cho Thích Dung một lần, khuyên bảo Thích Dung từ nay về sau phải thiện chí giúp người, kiềm chế tính tình, không được càn quấy. Thế là Thích Dung hết sức tích cực đi khắp nơi tham gia xây dựng đạo quán miếu thờ, cúng đèn và quyên tặng công đức.
Tuy rằng gã làm rất gắng sức, vô cùng thành kính, nhưng vẫn thường xuyên gây chút rắc rối như cũ, nhiều lần Phong Tín phải xuống thu dọn tàn cuộc, vì vậy Tạ Liên cũng hiểu được tại sao Phong Tín bực mình.
Bên kia, Thích Dung bái xong, nói bằng giọng trách móc: "Thái tử biểu ca, đây là ngọn đèn thứ năm trăm mà ta cúng cho huynh, kẻ làm em này trung thành với huynh như thế, chừng nào huynh mới đến gặp ta đây? Báo mộng cho ta lần nữa cũng được mà. Dì dượng cũng nhớ huynh da diết, huynh lại chẳng buồn ngó ngàng đến chúng ta, đúng là cao ngạo lạnh lùng mà."
Thích Dung hoàn toàn không phát hiện Phong Tín đang đứng bên cạnh gã nhắc nhở Tạ Liên: "Huynh đừng bao giờ để ý đến gã. Đế Quân đã nói với huynh, nếu sự cố không nghiêm trọng thì thần quan tuyệt đối không thể tự lén lút hiển linh trước mặt người phàm. Họ hàng thân thuộc lại càng phải kiêng kỵ."
Tạ Liên nói: "Yên tâm, dĩ nhiên ta biết rồi."
Thích Dung nâng ngọn đèn đứng dậy, cầm lấy một cây bút, cúi đầu bắt đầu viết chữ lên đèn. Do lòng mang nỗi ám ảnh với Thích Dung, Tạ Liên và Phong Tín nhịn không được cùng nhích lại gần xem thử rốt cuộc gã viết cái gì, thấy chỉ là mấy lời bình thường như quốc thái dân an mưa thuận gió hoà này kia chứ không phải cầu mong ai đó bị chém cả nhà ở cổng chợ, hai người đều thở phào một hơi. Đến khi nhìn lại Thích Dung viết nắn nót từng nét từng chữ, Tạ Liên không khỏi nhớ đến một việc khác.
Hồi Thích Dung mới vừa theo mẹ về nhà, một lần nọ, có một đám vương công quý tộc kết bạn với nhau lên núi Thái Thương cầu phúc. Mẹ của Thích Dung bỏ trốn theo dân đen rồi chạy ngược trở về, cho nên không dám ra ngoài gặp người, nhưng vẫn muốn cầu phúc cho con trai, để nó có thêm kiến thức, không thể chui rúc một chỗ với mình suốt ngày rồi biến thành ếch ngồi đáy giếng được, vì vậy mới nhờ hoàng hậu dẫn Thích Dung theo.
Mặc dù đã cố hết sức ém xuống, nhưng chuyện bê bối của giới quý tộc bao giờ cũng truyền nhanh hơn mũi tên gắn cánh, trong hoàng thành làm gì có ai không biết chuyện của mẹ con Thích Dung? Bởi vậy, con em quý tộc thời đó đều tự giác gạt Thích Dung ra ngoài, không nói chuyện hay chơi đùa với gã. Tạ Liên thấy xích đu bèn chạy lên chơi, tất cả những đứa trẻ cùng tuổi đều chơi chung với y, thay phiên nhau giúp Thái tử điện hạ đẩy xích đu, còn lấy làm vinh hạnh. Lúc Tạ Liên đung đưa lên chỗ cao nhất, tình cờ cúi đầu nhìn thấy Thích Dung núp sau bóng mẫu hậu của mình, thò đầu ra ngửa mặt nhìn mình đầy hâm mộ.
Tới điện Thần Võ, những người lớn cúng đèn xong, trước tiên cùng các quốc sư đi xin xăm, giải xăm và trò chuyện, để lại một đám nhóc trong điện Thần Võ cúng đèn nhỏ chơi đùa. Lần đầu tiên gặp hoàng hậu, Thích Dung không biết hoàng hậu đã cúng giúp mẹ con mình một ngọn, thấy mấy ngọn đèn kia tinh xảo đẹp mắt nên cũng muốn cúng đèn cầu phúc. Thích Dung tuổi còn nhỏ chưa hiểu nhiều, đi khắp nơi hỏi người ta nên viết lời cầu phúc ước nguyện cho mẹ như thế nào. Mấy đứa nhóc cùng tộc với Thích Dung mọi khi ở nhà cũng rất ghét Thích Dung, chịu sự ảnh hưởng của trưởng bối nên cũng cảm thấy mẹ con bọn họ làm mất mặt nhà mình, thế là cố ý giở trò gạt Thích Dung. Tạ Liên tập trung tinh thần viết xong ngọn đèn của mình, vừa đặt bút xuống thì nghe có người ở sau lưng mình hi hi ha ha, cười một cách bất bình thường, ngoảnh đầu lại nhìn chỉ thấy Thích Dung tay dính đầy mực nước, ôm một ngọn đèn như báu vật, cười hớn hở chuẩn bị đem cúng. Mà trên ngọn đèn đó viết chín chữ xiêu vẹo, "Thích Dung mong sớm ngày quy thiên với mẹ".
Tạ Liên ném phăng ngọn đèn đó tại chỗ, nổi trận lôi đình.
Khi đó y cũng chưa lớn, nhưng lại dọa tất cả thiếu niên quý tộc sợ đến quỳ rạp dưới đất, không dám hó hé tiếng nào. Phát giận xong, Tạ Liên tự mình viết lại một ngọn đèn khác cho Thích Dung, không còn kẻ nào dám giở trò nữa. Sau đó xuống núi, y lại đi chơi xích đu. Lần này, Thích Dung chạy ra từ sau lưng hoàng hậu, chủ động đứng sau đẩy xích đu cho y. Thích Dung thấp hơn Tạ Liên, nhưng đẩy rất gắng sức, vẫn ở phía dưới ngửa mặt nhìn Tạ Liên, chỉ là ánh mắt từ hâm mộ đổi sang sùng bái. Sau đó nữa, Thích Dung biến thành cái đuôi của Tạ Liên, suốt ngày lắc lư bám theo sau "Thái tử biểu ca".
Phải thừa nhận rằng, Thích Dung của ngày trước vẫn được xem là một người khá bình thường, cũng không biết xảy ra chuyện gì mà càng ngày càng vặn vẹo. Có điều trong ba năm qua, người và việc mà Tạ Liên phải quan tâm nhiều vô kể, không có thời gian chú ý người xưa, cũng không biết gã có tiến bộ hay không.
Nghĩ đến đây, Thích Dung đã cúng đèn xong, chuẩn bị rời khỏi điện. Nào ngờ lùi một hồi lại đụng trúng một người phía sau. Thích Dung lảo đảo, đoạn xoay phắt người, chẳng buồn nhìn đã mắng ngay: "Cái quái gì thế? Ngươi mắt mù hay chết đứng rồi mà không biết tránh ra?"
Gã vừa mở miệng, Tạ Liên với Phong Tín cùng đỡ trán, nghĩ thầm: "Không thay đổi. Vẫn y như xưa!"
Có lẽ vì trước năm tuổi luôn sống chung với cha, khó tránh tiêm nhiễm thói chợ búa và tính tình cáu kỉnh của cha, cho dù sau này hoàng hậu kiên nhẫn dạy bảo Thích Dung cỡ nào, hễ mà gã kích động, nói theo lời của quốc sư, thì gã vẫn sẽ "lộ rõ nguyên hình". Chắn đường Thích Dung là một thanh niên áo quần rách rưới, tầm hai mươi bốn hai mươi lăm tuổi, vác một bọc hành lý thô sơ, đôi giày rơm gần như bị mài đến mất đế mất mép, lam lũ mỏi mệt. Có điều tuy thanh niên này sắc mặt tiều tụy, bờ môi khô nứt, xương gò má lõm xuống, nhưng ngũ quan lại hết sức đoan chính, gầy mà không yếu, ánh mắt sáng rỡ, hỏi: "Đây là đâu vậy?"
Thích Dung nói: "Đây là cung Tiên Lạc, điện Thái Tử!"
Người nọ lẩm bẩm: "Điện Thái Tử? Thái tử? Nơi này là hoàng cung thật sao?" Thấy tượng thần trong điện, bị vàng ròng thuần chất rọi cho sắc mặt nhuốm vàng, người nọ hỏi tiếp: "Đây là vàng ư?"
Thấy đạo quán này quá tráng lệ, người nọ ngỡ rằng điện thần là hoàng cung. Bên cạnh có kẻ hầu bước lên xua đuổi, nói: "Dĩ nhiên là vàng rồi. Điện Thái Tử là điện thần của Thái tử, không phải điện Thái Tử trong hoàng cung! Ngay cả đây là đâu cũng không biết, ngươi là dã nhân đến từ phương nào?"
Người nọ hỏi: "Vậy rốt cuộc hoàng cung nằm ở đâu?"
Thích Dung híp mắt nói: "Ngươi hỏi cái này làm gì?"
Đối phương nói một cách nghiêm túc: "Ta muốn đến hoàng cung gặp quốc vương. Ta có lời muốn nói với ngài ấy."
Thích Dung và mấy kẻ theo hầu đều bật cười, mặt lộ vẻ khinh miệt, nói: "Thứ dân quê đến từ nơi nào kia, ngươi muốn tới hoàng cung để làm gì? Lại còn gặp quốc vương nữa, ngươi nói gặp là cho ngươi gặp chắc? Tới hoàng cung rồi, chỉ sợ ngay cả cổng chính ngươi cũng không vào được."
Không hề suy suyển vì bị cười nhạo, người nọ nói: "Để ta thử xem. Biết đâu làm được."
Thích Dung cười ha ha: "Vậy ngươi thử đi." Nói đoạn nhấc tay lên, cố ý chỉ hướng ngược lại cho người nọ. Người nọ đáp: "Cảm ơn." Dứt lời vác bọc hành lý, xoay người đi ra ngoài quán. Lên đến cầu đá, bỗng nhiên dừng chân nhìn xuống. Xuyên qua nước hồ trong vắt, có thể thấy hàng lớp tiền xu lẳng lặng nằm dưới đáy hồ.
Thanh niên này trông như suy tư chốc lát, giây tiếp theo, hắn trèo qua lan can cầu đá, nhảy xuống dưới hồ.
Thân thủ của hắn vô cùng mạnh mẽ, sau khi nhảy xuống hồ, hắn khom lưng vớt hết vốc tiền này đến vốc tiền khác dưới đáy hồ, nhét vào trong ngực và bọc hành lý của mình. Bởi vì chưa từng thấy người nào ngay cả tiền của thần tiên cũng dám cướp, Tạ Liên và Phong Tín đều ngẩn ngơ. Thích Dung cũng sửng sốt, sau đó giận tím mặt, xông tới đập lan can quát to: "Mẹ kiếp! Ngươi làm cái gì đấy?! Mau kéo nó lên cho ta!!! Thật đúng là khốn kiếp!!!"
Vài kẻ hầu vội vã nhảy xuống nước kéo người nọ, ngờ đâu thanh niên này võ nghệ cao cường, tay đấm chân đá, thế mà chẳng ai làm gì được hắn. Thích Dung ở bên trên nhìn mà nổi cơn tam bành, cả đám đạo nhân trong quán cũng đành người bó tay. Thanh niên kia vớt một đống tiền nặng trịch, vác bọc hành lý chuẩn bị trèo lên bờ, nào ngờ đạp trúng rêu xanh, trượt chân một cái, ngã tõm xuống nước với tư thế ngửa mặt lên trời, bấy giờ đám kẻ hầu mới nhân cơ hội tóm cổ hắn, vặn tay đưa hắn lên bờ. Thích Dung nhấc chân đá ngay một cú, mắng: "Tiền này mà ngươi cũng dám cướp!"
Lúc Thích Dung nhấc chân, Phong Tín đứng sát bên cạnh, nắm chắc thời cơ tiện tay cản lại, vì vậy cú đá này tuy Thích Dung ra đòn hung bạo, nhưng thực tế đá vào người đối phương không đến nỗi nghiêm trọng. Mặc dù Thích Dung không thấy Phong Tín đứng bên cạnh phá rối, nhưng cũng phát hiện có chỗ nào là lạ, như thể bị quỷ đè chân, đá mạnh bảy tám cú đều có cảm giác đó, không khỏi có chút buồn bực. Chẳng biết có phải sặc nước không, thanh niên kia ho khù khụ vài tiếng, nói: "Tiền này đặt trong hồ cũng chỉ để đó, tại sao không thể cho ta lấy đi cứu người?"
Thích Dung đá chưa sướng chân, cuối cùng chán ngán hỏi: "Cứu người nào? Ngươi là ai? Từ đâu đến?"
Gã hỏi như vậy, đơn giản là vì muốn gán tội danh cho thanh niên này rồi nhốt vào đại lao, thế nhưng thanh niên lại là một người thật thà, đáp: "Ta tên Lang Anh, sống tại Vĩnh An, nơi đó gặp nạn hạn hán, không có nước nên hoa màu không mọc nổi, mọi người không có đồ ăn, không có tiền xài. Nơi này có nước uống, có đồ ăn, có tiền xài, dùng vàng đúc tượng, ném tiền xuống nước, cớ sao không thể chia một ít cho chúng ta?"
Vĩnh An là một tòa thành lớn trong biên giới nước Tiên Lạc, Tạ Liên đứng dậy, sắc mặt sa sầm, hỏi: "Phong Tín, gần đây bên Vĩnh An gặp nạn hạn hán à? Sao ta không nghe nói gì hết?"
Phong Tín quay đầu đáp: "Không biết, ta cũng chưa nghe nói bao giờ, lát nữa hỏi Mộ Tình xem sao?"
_____________
Tác giả nói:
Chín năm giáo dục bắt buộc quan trọng lắm, bạn nhỏ phải cố gắng học tập tiếp thu văn hóa tri thức mới không bị người ta lừa gạt, nếu không sẽ bị ảnh hưởng tâm lý đó nha. (chắc nói Thích Dung)
Đoạn "xem ta như ý nghĩa sống" không có lược bớt! Sẽ viết!
____________
Lang Anh, để ý cái họ nha, nói vậy hiểu rồi nha, ai không hiểu úp mặt vô tường kiểm điểm gấp =)))
Chương 70
Tượng vàng ngã, tướng sĩ lỗ mãng chôn đứa con tội nghiệp
Tạ Liên nói: "Gọi cho Mộ Tình ngay."
Phong Tín khép ngón trỏ và ngón giữa tay phải, đặt lên huyệt thái dương, thông linh với Mộ Tình. Bên kia, Thích Dung mắng: "Ra là chạy đến từ cái xó Vĩnh An, đúng là núi nghèo nước độc sinh điêu dân. Bộ nghèo là được quyền cướp tiền của thần tiên à?"
Lang Anh nói: "Ta không có cướp. Bây giờ ta lạy thần tiên mà các ngươi thờ, ta quỳ gối dập đầu trước ngài ấy, cầu xin ngài ấy cho ta tiền cứu mạng người dân quê nhà ta, ngài ấy có cứu chúng ta không?"
Thích Dung nghẹn họng, nhủ thầm nếu như nói có, chắc không phải cái thằng này sẽ trèo lên từ lan can ôm tiền bỏ chạy như đúng lý hợp tình chứ? Vì vậy, gã nói: "Thái tử điện hạ là thần tiên, thần tiên đều bận tối tăm mặt mũi, ai mà rảnh để ý tới hạng điêu dân các ngươi!"
Nghe vậy, Lang Anh chậm rãi gật đầu, nói: "Ta cũng cho rằng sẽ không để ý. Đâu phải chúng ta chưa từng van lạy, chẳng phải từ đầu chí cuối đều vô dụng sao? Nên chết vẫn chết thôi."
Lòng Tạ Liên chấn động, một đạo nhân quát lên: "Cái kẻ này, dám nói lời bất kính như thế trong điện thần, không sợ thiên nhân giáng tội sao!"
Lang Anh lại nói: "Chẳng sao cả. Giáng thì giáng đi. Đã không sợ ngài ấy không cứu, còn sợ ngài ấy giáng tội sao?"
Thích Dung phất tay, một đám kẻ hầu chờ chực đã lâu đua nhau xông lên, vây quanh thanh niên kia tay đấm chân đá. Phong Tín ở bên trong tận dụng mọi điều kiện có thể, tiêu trừ độ lực đấm đá của bọn chúng, vì thế tuy Lang Anh trông như bị đè xuống hành hung, nhưng mặt mũi lại ngớ ra, không tránh không né, chỉ thỉnh thoảng nâng tay che bọc hành lý trên lưng mình. Thích Dung thì cầm một nắm hạt dưa, vừa cắn vừa rung đùi, quát: "Đánh, đánh mạnh vào cho bản vương!" Đúng là rặt một bộ kẻ gian ác. Nghe gã tự xưng, Lang Anh bỗng dưng ngẩng đầu lên, hỏi: "Ngươi là vương? Vương gì cơ? Ngươi sống trong hoàng cung sao? Ngươi gặp được quốc vương sao?"
Thích Dung thuận miệng phun một cái: "Ta là ông nội của ngươi đấy! Ngươi còn trông mong được gặp quốc vương bệ hạ à? Bệ hạ ngày bận ngàn việc, ai mà rảnh để ý tới ngươi."
Lang Anh lắc lắc cổ, ngoan cường hỏi: "Tại sao không rảnh để ý tới ta? Thần tiên không rảnh để ý tới ta, bệ hạ cũng không rảnh để ý tới ta, vậy cuối cùng ai rảnh để ý tới ta đây? Rốt cuộc ta nên đi tìm ai? Quốc vương có biết bên Vĩnh An đã chết rất nhiều người không? Người trong hoàng thành có biết không? Nếu biết thì tại sao thà ném tiền xuống nước cũng không muốn cho chúng ta?"
Thích Dung cười sằng sặc: "Tiền của bọn ta, thích tiêu thế nào thì tiêu thế nấy, cho dù chơi lia đồng xu trên mặt nước cũng chẳng mắc mớ gì đến người khác, dựa vào đâu phải chia cho các ngươi? Ngươi nghèo thì ngươi có lý à?"
Tuy rằng lời trên cũng có lý lẽ nhất định của nó, nhưng nói vào lúc này thật sự không phù hợp cho lắm. Tạ Liên đang định nghĩ cách bịt miệng Thích Dung lại, ngay lúc đó, một thiếu niên áo đen vội vã vòng ra từ sau điện, hỏi: "Điện hạ cho gọi ta có chuyện gì?"
Tạ Liên ngoắc tay, nói: "Mộ Tình mau tới đây. Mấy ngày nay trong số những lời cầu nguyện ngươi nhận được, có nghe về tin tức Vĩnh An gặp nạn hạn hán không?"
Mộ Tình cũng sửng sốt: "Không có nghe nói."
Phong Tín buột miệng thốt ra trong lúc cấp bách: "Làm sao không có được? Dân chạy nạn bên kia trốn đến đây luôn rồi!"
Giọng điệu của Phong Tín quá chắc chắn, khiến cho sắc mặt Mộ Tình hơi đanh lại, gượng gạo nói: "Ta nói đúng sự thật thôi, chính xác là không có. Chẳng lẽ ý của ngươi là ta cố tình biết mà không báo? Vậy ngươi có nhận được không? Nếu thật sự có người Vĩnh An khẩn cầu giải hạn, điện Thái Tử là tháng lẻ do ta phụ trách, tháng chẵn do ngươi phụ trách, chắc không đến mức toàn bộ lời cầu phúc liên quan đến nạn hạn hán đều tập hợp vào tháng lẻ đâu nhỉ, nên ngươi cũng chẳng biết tẹo nào hết."
Phong Tín ngẩn ra, ngẫm lại đúng là có lý, bèn nói: "Ta đâu có nói ngươi cố tình. Ngươi nghĩ nhiều quá rồi."
Nghe như bọn họ lại sắp bắt đầu cãi cọ, Tạ Liên đau đầu làm dấu "tạm dừng", nói: "Được rồi, Phong Tín không có ý đó đâu. Ngừng ngay đi."
Hai người lập tức ngậm miệng không tranh cãi nữa. Đúng lúc Thích Dung nhìn thuộc hạ đánh Lang Anh rốt cuộc cũng phát ngán, gã vớ cái túi nhỏ đựng vỏ hạt dưa, nói: "Lôi thằng trộm cắp này vào đại lao nhốt đi." Đám người hầu đáp: "Tuân lệnh!" Sau đó vài kẻ nhấc Lang Anh lên.
Tạ Liên nói: "Giải quyết vấn đề hiện tại trước đã, cứu người này ra, rồi ta sẽ hỏi kỹ hắn về chuyện của Vĩnh An."
Sắc mặt dịu lại, Mộ Tình dè dặt đáp: "Điện hạ muốn giải quyết thế nào? Huynh không thể tùy tiện hiển linh được."
Sau khi phi thăng, quy tắc mà Tạ Liên không tài nào hiểu được chính là cái này. Bảo rằng thần quan phải cứu rỗi chúng sinh, thế mà cứ khăng khăng muốn ra vẻ ta đây, ngự trị trên chúng sinh, không được tùy tiện hiển linh, khiến cho y thường xuyên khoanh tay bó gối, phiền muộn vô cùng. May là Tạ Liên cũng có không ít cách đối phó, y không nghĩ ngợi gì, cũng chẳng buồn ngoảnh đầu, đưa tay đẩy một cái. Phát hiện cái bóng trên mặt đất thoáng lắc lư, đám người phía trước ngờ vực xoay người lại. Giây tiếp theo, Thích Dung kêu thảm thiết: "Thái tử biểu ca ——"
Cái đẩy này, Tạ Liên thế mà lại đẩy ngã tượng thần của mình!
Pho tượng vàng cầm kiếm cầm hoa tao nhã tuấn tú như nghiêng mà không nghiêng, từ từ ngả sang một bên. Sắc mặt Thích Dung trông tan nát ruột gan cứ như nhìn thấy mẹ mình thắt cổ đá ghế, chẳng còn hơi sức để ý Lang Anh, chạy ào qua ôm chặt đùi tượng thần, ngoan cường chống đỡ, gào khản cổ: "Lũ vô dụng các ngươi còn chờ gì nữa! Mau giúp ta đỡ huynh ấy! Đừng để Thái tử biểu ca ngã!! Huynh ấy không thể ngã được!!!"
Thích Dung thì đau xé ruột, còn Tạ Liên lại bình chân như vại đi lướt qua người gã, bước ra khỏi điện Thái Tử, mặt của Phong Tín và Mộ Tình muốn nứt cả ra. Hồi lâu sau, Phong Tín mới nói: "Điện hạ! Đây là tượng thần của huynh đó!"
Chuyện ngã tượng này là điềm xấu, ít nhiều cũng sẽ kiêng kỵ phần nào. Thần quan tự đẩy ngã tượng thần của mình như thế, đúng là mới nghe lần đầu, chuyện lạ ba giới. Tạ Liên nói: "Một cục vàng to thôi mà, không làm vậy sao dời lực chú ý của bọn chúng được. Các ngươi đè tượng vàng đó đi, đừng để bọn chúng thoát ra được, ta sẽ đi gặp người kia."
Dù rằng không nói tiếng nào, nhưng Phong Tín và Mộ Tình chỉ có thể nghe lệnh, mỗi người đứng cạnh tượng thần duỗi một ngón tay đè tượng. Bọn họ chỉ cần ra nhiêu đó sức là đủ, mấy người kia dốc hết sức bình sinh mà cũng không nâng lên nổi, chỉ còn cách miễn cưỡng cầm cự, nghiến răng nghiến lợi nói: "...Không hổ là vàng thật, đủ cân lượng phết!"
Thấy cả đám người chẳng để ý đến mình nữa, Lang Anh ngã ngồi bên ngoài nhìn chằm chằm tượng thần lấp lánh ánh vàng kia hồi lâu, cuối cùng vẫn đứng dậy, phủi phủi bụi trên người, vác bọc hành lý chạy ra ngoài. Tạ Liên đi theo sau hắn, chờ hắn chạy tuốt ra xa, chui vào một rừng cây rậm rạp xanh tươi, dáo dác nhìn quanh, sau cùng mới ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Tạ Liên thì núp ở sau cây, tiện tay bắt quyết niệm chú, biến thành một tiểu đạo sĩ áo trắng.
Biến hình xong, Tạ Liên nhìn mình từ trên xuống dưới, sau khi xác định không có sơ hở, y vung phất trần một cái, đang nghĩ xem xuất hiện kiểu nào mới không đột ngột thì thấy Lang Anh ngồi chồm hổm bên một vũng nước cạnh gốc cây, miệt mài dùng hai tay đào một cái hố dưới đất.
"..."
Đôi tay của thanh niên này rất thô to, một bàn tay xúc xuống, đã rộng mà còn sâu, đào cho bùn đất văng tung tóe, hệt như một con sói đen gầy gò. Tạ Liên đang kinh ngạc với việc tự dưng Lang Anh lại đào hố, chỉ thấy hắn chùi bùn đất lên quần, đoạn dùng tay múc một vốc nước trong vũng nước, đưa đến bên miệng.
Thấy thế, Tạ Liên không trốn được nữa, vội vã bước ra chặn tay hắn lại, lấy một bình nước từ túi càn khôn trong tay áo, đưa cho hắn.
Lang Anh đã ngậm một ngụm nước múc từ vũng nước, đang phồng má nuốt xuống, thấy tiểu đạo sĩ này thình lình xuất hiện cũng chẳng lấy làm lạ, hơn nữa cũng không chối từ, nhận bình tu ừng ực một hơi cạn sạch, uống xong mới nói: "Cảm ơn."
Nếu đã đột ngột xuất hiện, Tạ Liên cũng không chú trọng lời dạo đầu tự nhiên gì nữa. Y cố gắng vẫy phất trần sao cho trông đáng tin cậy và đầy cốt cách tiên nhân, nói: "Anh bạn này, ngươi từ đâu đến, muốn đi nơi nào?"
Lang Anh đáp: "Chúng ta đến từ Lang Nhi Loan của thành Vĩnh An, lẽ ra muốn đến hoàng cung. Bây giờ ta đổi ý rồi, không đi nữa."
Tạ Liên sửng sốt, hỏi: "Chúng ta?"
Lang Anh gật đầu: "Chúng ta. Ta, và con ta."
Tạ Liên càng bối rối hơn, trong lòng lại thoáng thấy ớn lạnh. Chỉ thấy Lang Anh tháo bọc hành lý trên lưng xuống, mở ra, nói: "Con ta."
Thứ được quấn trong bọc hành lý trên lưng hắn, thế mà lại là thi thể của một đứa con nít!!!
Thân hình của đứa bé cực nhỏ, xem ra chưa đầy hai ba tuổi, mặt mũi vàng vọt, đôi má lõm xuống, vài sợi lông tơ vàng nhạt lưa thưa trước trán, ngoài ra còn nổi một ít rôm sảy. Gương mặt nhỏ nhắn của nó nhíu thành một biểu cảm kỳ quặc, trông như sắp khóc tới nơi, khó chịu tột cùng. Hai mắt đã nhắm lại, nhưng miệng vẫn còn há, tiếc rằng không phát ra được tiếng nào nữa.
Con ngươi của Tạ Liên chợt co rút, cõi lòng bàng hoàng, thốt không nên lời. Thảo nào y cứ cảm thấy thái độ của thanh niên này có gì đó không ổn, không nói được kỳ quặc chỗ nào, chỉ cảm thấy không giống người bình thường. Nói năng, hành động, như thể hoàn toàn không suy xét đến hậu quả, xông ngang đánh thẳng, bất chấp ngọn ngành. Bây giờ xem ra, người này làm gì còn hậu quả nào cần suy xét nữa?
Cho Tạ Liên xem con trai xong, Lang Anh bọc con lại, cẩn thận nhét góc bọc. Nhìn nét mặt và động tác chuyên tâm của hắn, trong lòng Tạ Liên khó chịu khôn tả. Đây là lần đầu tiên y nhìn thấy thi thể của đứa trẻ nhỏ như thế, lắp bắp hỏi: "Ngươi... con của ngươi chết như thế nào?"
Lang Anh vác bọc hành lý trên lưng, ngơ ngác nói: "Chết thế nào hả... ta cũng không biết chết thế nào nữa. Vừa khát, vừa đói, vừa bệnh, hình như cái nào cũng có một chút."
Hắn gãi gãi đầu, nói: "Lúc vừa cõng ra khỏi Vĩnh An, nó còn ho được vài tiếng, ở đằng sau kêu ta cha ơi cha ơi. Dần dà nó không lên tiếng nữa, chỉ ho khù khụ thôi. Rồi sau đó, ngay cả ho cũng không có, ta còn tưởng nó đang ngủ. Đến khi tìm được đồ ăn, lúc định gọi nó dậy, nó chẳng dậy nổi nữa."
Không ngờ đứa bé này lại chết trên đường chạy nạn.
Lang Anh lắc đầu, nói: "Ta không biết chăm sóc trẻ con. Nếu vợ ta biết con trai đã chết chắc sẽ mắng ta té tát cho mà xem."
Im lặng một hồi, hắn nói tiếp: "Ta ước gì vợ ta còn có thể mắng ta."
Ánh mắt của hắn từ đầu chí cuối vẫn bình thản như thường, tựa như một khúc cây chết rũ, một đầm nước tối mịt, không dậy nổi chút sức sống và gợn sóng. Cổ họng Tạ Liên sít chặt, hồi lâu sau mới khẽ mở miệng: "Ngươi... ngươi... chôn đi."
Lang Anh gật đầu: "Ừ. Ta muốn chọn nơi tốt một chút, nơi này không tệ, có cây chắn ánh nắng, còn có nước nữa. Chôn xong ta sẽ quay về. Cảm ơn nước của ngươi."
Hắn ho khan vài tiếng, đoạn cúi người tiếp tục dùng tay đào hố. Tạ Liên lại lầm bầm: "Không. Ngươi đừng nói cảm ơn ta... đừng nói cảm ơn ta, đừng nói."
Bấy giờ, Phong Tín và Mộ Tình cũng chạy tới, thấy bên này một người đào hố một người đờ đẫn thì ù ù cạc cạc. Tạ Liên chẳng còn tâm trạng nói nhiều, ngơ ngác lặp lại vài câu, nửa ngày sau mới sực nhớ, chỉ cho nước là chưa đủ, người này còn phải về Vĩnh An, thế là y bèn thò tay vào tay áo, mò mẫm hồi lâu, cuối cùng móc ra một thứ, đưa cho đối phương: "Ngươi lấy cái này đi."
Lang Anh dừng động tác, nhìn kỹ thứ trong tay Tạ Liên. Đó là viên ngọc đỏ thẫm lớn chưa bằng móng tay, màu sắc trong suốt, sáng bóng lấp lánh, đẹp đến động lòng. Dẫu cho không biết đây là cái gì, chỉ cần nhìn một cái cũng hiểu vật nhỏ này chắc chắn giá trị liên thành.
Đây chính là bên khuyên tai còn lại trong đôi khuyên tai ngọc san hô đỏ mà Tạ Liên đeo vào buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời ba năm trước. Mộ Tình cũng xem như có ấn tượng sâu sắc với viên ngọc này, vừa thấy nó là thay đổi sắc mặt. Lang Anh cũng không chối từ, như đã mất sạch lễ tiết và đắn đo mà người bình thường nên có, hắn đưa tay nhận ngay, nói: "Cảm ơn."
Lang Anh cẩn thận cất viên ngọc vào trong đai lưng, đoạn tháo bọc hành lý trên lưng, nhẹ nhàng thả xuống hố, nói: "Cha sẽ quay về gặp con ngay."
Nói xong, hắn trịnh trọng dùng tay vun đất phủ lên bọc vải. Tạ Liên đỡ trán, nhắm nghiền mắt. Qua một hồi nữa, hắn bước nhanh đi mất, Phong Tín ngạc nhiên hỏi: "Điện hạ, hắn chôn thứ gì thế? Hắn nói 'cha'? Này là chôn người sao?"
Mộ Tình thì lại quan tâm chuyện khác, nói: "Điện hạ, ta mới vừa đi điều tra, làm rõ sự việc rồi. Bên Vĩnh An vốn dĩ đã không giàu có, cung quán miếu thờ xây rất ít, chưa kể hình như đạo quán bên kia có nơi quy định rằng, người không thờ phụng thì không được vào cung quán thăm viếng, vì thế vào được điện Thái Tử toàn là người giàu có, còn người nghèo gặp nạn căn bản không vào được..."
Tạ Liên không trả lời, trầm giọng nói: "Các ngươi, đến Vĩnh An xem tình hình. Ta, đến gặp quốc sư, hỏi cho ra lẽ rốt cuộc là chuyện thế nào."
Từ trước đến nay sắc mặt y chưa bao giờ khó coi như thế, hai người hầu không dám sơ suất, đồng thanh đáp lời, lập tức xuất phát. Tạ Liên thì xoay người lao nhanh về phía núi Thái Thương.
Xem ra tình hình thiên tai ở Vĩnh An, e rằng chỉ lớn chứ không nhỏ. Nhưng mà, cho dù y không nghe được tiếng cầu phúc, bên hoàng cung không thể nào không biết!
Chương 71
Thần tiên trên trời không thể nhúng tay chuyện nhân gian
Núi Thái Thương, đỉnh Thái Tử.
Đến canh giờ này, du khách trên núi không thể nán lại nữa, tất cả đều đã bị mời ra ngoài cổng chùa, rời khỏi Hoàng Cực quán. Trong cung Tiên Lạc, tiếng tụng kinh vang từng đợt, hơn một ngàn đạo nhân đang học lớp buổi tối, còn bốn vị quốc sư thì chủ trì việc hành đạo bên chân tượng vàng cao đến năm trượng.
Trong điện Thái Tử, hai bên là đèn cầu phúc xếp thành hàng từ mặt đất đến nóc điện. Tạ Liên giáng xuống từ trên trời, nhẹ nhàng đáp lên bệ thờ, vừa khéo ngồi ngay ngắn trước tượng thần của mình.
Y phất tay, đất bằng bỗng nổi một trận gió, vô số ngọn đèn bắt đầu xoay chầm chậm. Đèn đuốc chập chờn, các đạo nhân rối rít ngẩng đầu lên, tặc lưỡi bảo lạ, tiếng thì thầm vang loáng thoáng. Lẽ ra quốc sư đang nhắm nghiền hai mắt ngồi yên trên ghế, thế rồi đột nhiên mở mắt ra, nói: "Hôm nay dừng ở đây. Về hết đi."
Các đạo nhân đứng dậy lui ra ngoài, ba vị phó quốc sư còn lại tuy không nhìn thấy chân thân của Tạ Liên, nhưng cũng đoán được có thứ gì đó vừa đến, cả ba đồng loạt lui ra, đóng cửa lớn của điện thần. Cửa lớn vừa khép lại, Tạ Liên vội vã mở lời. Y nói: "Quốc sư, ngài có biết chuyện đại hạn ở Vĩnh An không? Phía phụ hoàng dường như chẳng có động tĩnh gì, phải chăng trong triều đã xảy ra chuyện gì? Hay là phụ hoàng không nắm rõ tình hình cụ thể?
Thần quan không thể tự lén lút hiển linh trước mặt người phàm, chỉ có một trường hợp ngoại lệ, đó là trước mặt người tu đạo có địa vị cao như quốc sư hay chưởng giáo (người quản lý một giáo phái). Người có đạo hạnh cao thâm đến cấp bậc như thế chính là người thay mặt cho thần quan dưới phàm trần, vậy nên Tạ Liên có thể trao đổi trực tiếp với quốc sư. Quy tắc "không được quỳ lạy trong điện Thái Tử", chính là Tạ Liên mượn lời quốc sư truyền đạt xuống.
Y cứ ngỡ là có tình huống đặc biệt nào đó khiến quốc vương không có thời gian giải quyết tình hình thiên tai ở Vĩnh An, chỉ bất đắc dĩ mà thôi, hoặc quốc vương không biết chuyện đã nghiêm trọng đến mức chết nhiều người như thế, ngờ đâu quốc sư lại đáp: "Quốc vương bệ hạ vẫn khỏe, không xảy ra chuyện gì lớn, cũng nắm rõ tình hình thiên tai ở Vĩnh An."
Tạ Liên ngẩn ra, hỏi: "Vậy tại sao mỗi lần phụ hoàng đến Hoàng Cực quán, con chẳng bao giờ nghe người cầu phúc cho Vĩnh An? Tại sao ngay cả một câu cũng không nhắc tới?"
Mặc dù y và cha quanh năm bất hòa, nhưng cũng biết quốc vương không phải là một vị vua hồ đồ. Tuy rằng luôn tự phụ mình là thiên tử cao quý, đặt nặng tôn ti, nhưng cũng không đến nỗi thờ ơ với người dân gặp nạn. Quốc sư đáp: "Chuyện này không liên quan đến quốc vương bệ hạ, là ta đề nghị người và hoàng hậu không nhắc tới Vĩnh An trong lúc cầu phúc."
"..."
Tạ Liên hỏi: "Vì sao?"
Quốc sư đáp: "Vì vô dụng thôi."
Tạ Liên kinh ngạc: "Vô dụng là sao?"
Ngừng một chút, đầu óc y mới kịp thông, nói: "Ý ngài là, vì con là Võ Thần nên không thể quản chuyện hạn hán, bởi vậy đề cập với con là vô dụng ư? Nhưng phải chăng ngài đã quên, con không chỉ là Võ Thần, con còn là Thái Tử Tiên Lạc. Dân chúng nước con giờ đang chìm sâu trong nước sôi lửa bỏng, làm sao con có thể ngồi yên phớt lờ?" Suy nghĩ một lát, Tạ Liên nói tiếp: "Việc cấp bách lúc này chính là cứu chữa nạn dân Vĩnh An. Phiền ngài thay con góp ý với phụ hoàng, đừng xây thêm miếu thần điện thần gì nữa, điện Thái Tử khắp cả nước đã nhiều lắm rồi, con cũng không cần nữa. Còn đống tượng vàng kia nữa, có thể nung chảy hết, phát tiền cứu trợ thiên tai. Phía Tây Vĩnh An đại hạn thiếu nước, vậy thì đào một con sông, dẫn nước từ phía Đông sang, tưới tiêu hoa màu, bồi dưỡng đất đai..."
Tạ Liên vừa nói, quốc sư vừa lắc đầu, lẩm bẩm: "Quá sớm. Quá sớm."
Tạ Liên hỏi bằng giọng khó hiểu: "Ngài nói cái gì quá sớm cơ?"
Quốc sư đáp: "Vì đâu ta lại nói con không nên phi thăng quá sớm, bây giờ con đã hiểu chưa? Bởi vì dân chúng nước con vẫn chưa chết hết."
"..." Tạ Liên trợn tròn hai mắt, trầm giọng tức giận nói: "Quốc sư! Ngài... ngài đang nói lời gì thế? Cái gì gọi là... cái gì gọi là dân chúng nước con chưa chết hết?!"
Quốc sư đáp: "Con đã là thần, nhưng con vẫn không quên được thân phận khi làm người phàm của mình, vương vấn không dứt, chưa thể đoạn tuyệt với trần gian. Nhưng nếu con dấn thân vào rồi lại bất lực, cuối cùng chỉ có một mớ rối ren mà thôi."
Tạ Liên ngồi trên bệ thờ, quốc sư đứng bên dưới, rõ ràng là Tạ Liên đang nhìn xuống, nhưng khi quốc sư nói những lời này, dường như lão mới là người ngồi tít trên cao. Tạ Liên hỏi: "Sao con có thể bó tay bất lực được? Chỉ cần chịu làm, sẽ có hồi báo. Cứu được bao nhiêu hay bấy nhiêu, cho dù chỉ cứu được một người trở về cũng còn hơn không hỏi han đến. Nếu ngài không muốn thay con chuyển lời tới phụ hoàng, vậy để con tự đi tìm người."
Tạ Liên đột nhiên đứng dậy, quốc sư túm tay áo của y, quát: "Quay lại đây! Con có biết tại sao thần quan không thể tùy tiện hiển linh trước mặt người phàm không? Quy định được đặt ra hàng trăm ngàn năm qua, tất có đạo lý của nó, đừng làm chuyện ngu xuẩn!"
Tạ Liên quay phắt đầu lại, nói: "Vậy con có thể làm gì đây? Cái này không được, cái kia cũng không nốt, quốc sư, hiện giờ trên lãnh thổ của con, rất nhiều người đã chết! Thần được xưng là thần chẳng phải vì có thể cứu vớt chúng sinh sao? Nếu lúc này mà con cũng không thể xuất hiện, vậy lúc nào mới xuất hiện được đây?! Rốt cuộc ý nghĩa của việc con phi thăng là gì?!"
Quốc sư bắt lấy y, thở dài: "Thái Tử điện hạ ơi Thái Tử điện hạ à, con có biết, ta nhìn thấy gì không?"
Giây lát sau, Tạ Liên bình tĩnh lại, ngồi xuống đáp: "Mời nói."
Quốc sư chăm chú nhìn y, nói: "Ta nhìn thấy tương lai của con, tối đen như mực."
Tạ Liên nhìn thẳng vào quốc sư, nói: "Chắc ngài nhìn lầm rồi. Con chỉ thích mặc đồ trắng."
Quốc sư nói: "Ta sợ con không cứu vớt được dân chúng nước con, ngược lại còn bị họ kéo xuống khỏi thần đàn."
Tạ Liên đáp: "Dân chúng nước con không như thế đâu, họ biết phân biệt rạch ròi phải trái mà. Nếu con không thể cứu vớt họ, bản thân con ngồi trên thần đàn cũng chẳng có ý nghĩa gì."
Một lúc sau, quốc sư than thở: "Tuy việc phụ hoàng con làm không thể nói là đúng, nhưng cũng không thể nói là sai. Con nói muốn phát tiền cứu trợ thiên tai, thật ra không phải phụ hoàng con chưa từng phát, con có thể xem thử hiệu quả thế nào. Con nói muốn đào sông dẫn nước, con hãy tự đi mà xem con sông kia liệu có làm được hay không."
Tạ Liên gật đầu: "Hiểu rồi. Cảm ơn quốc sư."
Sau khi rời khỏi núi Thái Thương, y đi một mạch về phía Tây, tới thành Vĩnh An của nước Tiên Lạc.
Hai mươi năm qua, Tạ Liên chưa bao giờ cảm thấy mặt trời lại nóng cháy và trí mạng đến thế. Bước chân đầu tiên đặt lên mảnh đất này, y lập tức cảm thấy khô nóng khó chịu, dường như mọi vật trong không khí đều bị bóp méo. Mặt trời chói chan giữa trời cao, đất đai nứt nẻ thành từng mảng vỡ vụn, cằn cỗi một cách đáng sợ. Ven đường có một rãnh sâu, hình như trước đây nó là một đường sông, nhưng vì hạn hán mà khô đến thấy cả đáy, lòng sông đen ngòm tỏa ra mùi tanh hôi khác thường. Sau khi đi thật lâu, Tạ Liên vẫn chẳng nhìn thấy bất cứ một mảnh ruộng nương nào. Biết đâu có đấy, nhưng ắt hẳn chẳng còn nhận ra nó từng là ruộng nương nữa rồi.
Tạ Liên vừa đi vừa nhìn bốn phía, làn gió khô nóng thổi mái tóc dài của y bay tán loạn, nhưng y hoàn toàn chẳng có tâm trạng mà chỉnh lại. Bấy giờ, chợt nghe phía sau có một người kêu lên: "Điện hạ!"
Tạ Liên vừa quay đầu lại, chỉ thấy hai bóng người áo đen hối hả chạy tới, chính là Phong Tín và Mộ Tình. Tạ Liên hỏi ngay: "Có tin tức gì không?"
Phong Tín giũ vạt áo trước ngực để quạt gió, đáp: "Có. Trong một hai năm qua, toàn bộ phía Tây đều thiếu nước, năm nay mới bùng phát. Vĩnh An là nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất, sông khô cạn, trời không mưa, đất không thể trồng trọt. Nhà nào có tiền thì đỡ hơn, chỉ cần bỏ tiền là mua được nước và thức ăn ở phương xa. Có điều đại đa số những người có tiền đã sớm dọn nhà sang phía Đông cả rồi. Những người còn sót lại, một là nghèo, hai là chạy không nổi."
Tạ Liên chau mày: "Quốc sư nói không phải phụ hoàng của ta chưa từng làm gì, cũng như đã hạ lệnh cứu trợ thiên tai, tại sao vẫn nghiêm trọng như vậy?"
Mộ Tình lạnh lùng đáp: "Phát mười phần, cứ xuống một tầng lại bị bòn rút một tầng, cuối cùng bòn rút hết sạch chẳng còn lại gì nữa, tất nhiên vẫn sẽ nghiêm trọng như vậy thôi. Theo ta thấy, so với việc tặng không nuôi lũ sâu mọt kia, thà rằng không phân phát nữa."
Nín lặng chốc lát, Tạ Liên nén giận nói: "Ta phải làm cho lũ sâu mọt đó phun ra nguyên vẹn những thứ đã nuốt vào."
Mộ Tình nhắc nhở: "Điện hạ, huynh lại quên nữa rồi, việc này không phải do huynh cai quản. Thần quan không thể nhúng tay vào thị phi thế gian. Băng dày ba thước không phải do cái lạnh trong một ngày tạo nên (một việc xảy ra đều có nguyên nhân ẩn tích lũy trong lâu dài), quốc vương bệ hạ là người chuyên quản chuyện nhân gian, đây là chức trách của ngài ấy, ngài ấy còn chưa quản nổi, bản thân huynh gánh trên mình vô số lời cầu nguyện của các tín đồ, làm sao ứng phó được? Huynh cái này cũng muốn quản, cái kia cũng muốn quản, cuối cùng sẽ rước họa vào thân. Huống hồ, đây cũng chỉ là trị ngọn không trị gốc."
Phong Tín lấy tay che nắng, nói: "Muốn trị tận gốc, vẫn phải có nước mới được. Bằng không thì, điện hạ nhờ quốc sư chuyển lời đến quốc vương bệ hạ, chuyển nước từ phía Đông sang chia đều cho phía Tây?"
Tạ Liên lắc đầu: "Lúc nãy ta đã nói ý định này với quốc sư rồi."
Phong Tín hỏi: "Quốc sư nói thế nào?"
"..." Tạ Liên nghẹn lời một lát mới đáp: "Tóm lại là nói không được. Có điều bây giờ ta phát hiện, đích thực không khả thi cho lắm. Muốn chuyển nước, trước tiên phải đào sông, nhưng đào sông phải huy động sức dân, cũng không biết cần bao nhiêu năm, hơn nữa còn hao người tốn của, không thể tiêu phí được nữa."
Phong Tín gật đầu: "Cũng đúng, nước xa không cứu được lửa gần."
Suy tính chốc lát, Tạ Liên nói: "Tuy nhiên, nếu con đường của người phàm không giải quyết được, biết đâu chừng có thể thử con đường của Thiên giới. Nghe nói mấy năm trước, Vũ Sư thay nhiệm kỳ, có một vị Vũ Sư mới phi thăng, tính tình lầm lì quái gở, để ta xem thử có thể tới cửa thăm hỏi, thỉnh cầu hắn liệu có thể dùng hình thức đổ mưa dẫn nước từ phía Đông sang phía Tây không."
Kể từ sau khi phi thăng, ngoại trừ đi gặp Quân Ngô, Tạ Liên chưa hề chủ động ghé thăm bất cứ thần quan nào, cũng không cố ý lôi kéo quan hệ với bất cứ ai, đối xử bình đẳng với mọi người trong Thông Linh trận. Y muốn đi thăm hỏi vị thần quan nào, quả thật là chuyện vô cùng hiếm thấy. Mộ Tình lại nói: "Không được."
Tạ Liên quay đầu hỏi: "Sao vậy?"
Mộ Tình đáp: "Điện hạ, vừa rồi ta đã điều tra kỹ lưỡng, thực chất hai năm qua, không phải Vĩnh An hay phía Tây thiếu nước, mà là toàn bộ Tiên Lạc đều thiếu nước. Chỉ là phía Đông Tiên Lạc sát biển, gần hồ, dọc sông, nên không biểu hiện quá rõ ràng, vì vậy trước mắt vẫn chưa thành tai họa, nhưng toàn bộ lượng nước và lượng mưa đều ít hơn trước nhiều."
Tạ Liên trợn to mắt, Mộ Tình nói tiếp: "Nếu thật sự đào một con sông, hoặc dùng cách đổ mưa chuyển nước từ phía Đông sang phía Tây, vậy nhìn chung bên Vĩnh An đúng là có thể thuyên giảm đôi chút, nhưng không cứu được triệt để, chỉ có thể xem như cho bọn họ thêm một hơi kéo dài tính mạng thôi. Mà cùng lúc đó, phía Đông Tiên Lạc rất có khả năng sẽ xảy ra hạn hán."
Cõi lòng bắt đầu căng thẳng, Tạ Liên nói: "Nhưng khu vực phồn hoa và đa số dân cư của Tiên Lạc đều tập trung ở phía Đông, gấp hơn ba lần phía Tây, đặc biệt là hoàng thành. Một khi bên này xảy ra hạn hán..."
Phong Tín cũng lập tức phản ứng lại, nói: "Chắc chắn hậu quả còn nghiêm trọng hơn Vĩnh An, người chết cũng sẽ nhiều hơn!"
Mộ Tình gật đầu, nghiêm túc nói: "Do đó bạo loạn nổi lên cũng sẽ lớn hơn nhiều."
Hít sâu một hơi, Tạ Liên lên tiếng: "Vậy nên, đây là nguyên nhân mà quốc sư nói, việc phụ hoàng ta làm chưa chắc là đúng nhưng cũng chưa chắc là sai ư? Chẳng qua phụ hoàng đang lựa chọn mà thôi."
Mộ Tình nói: "Vậy nên, điện hạ à, không ai đến điện của huynh cầu phúc cho Vĩnh An là chuyện tốt. Huynh nên giao cho quốc vương bệ hạ lựa chọn đi."
Tạ Liên không đáp, quay đầu đi.
Dọc đường, y nhìn thấy người nào cũng đen trũi gầy trơ xương, đàn ông hay trẻ nhỏ đều để tay trần, xương sườn trước bộ đều tỏa ra mùi tanh tưởi của kẻ hấp hối, khiến người ta muốn thét lên, trốn chạy khỏi mảnh ngực nhô lên từng hàng, rõ ràng tột độ, phụ nữ da dẻ khô nứt, hai mắt thẫn thờ. Mọi người chẳng ai muốn nhúc nhích, cũng không còn sức để động đậy, tất cả bốc đầy mùi hấp hối tanh tưởi, khiến cho người ta muốn ré lên trốn khỏi vùng đất thoi thóp này, lập tức trở về vương đô phồn hoa ca múa vàng son.
Hồi lâu sau, Tạ Liên mở miệng: "Các ngươi ở lại đây giúp ta trước đi, chuyển được bao nhiêu nước qua đây hay bấy nhiêu. Để ta nghĩ xem."
Phong Tín đáp: "Được. Huynh cứ từ từ suy nghĩ, nghĩ được rồi thì nói cho ta biết nên làm sao là được."
Tạ Liên vỗ vai Phong Tín, xoay người rời đi. Mộ Tình lại ở phía sau hờ hững nói: "Điện hạ, huynh nên suy nghĩ thật kỹ. Chúng ta có thể giúp mười ngày hai mươi ngày, nhưng không thể giúp một năm hai năm, cứu được một trăm người nhưng không cứu được mấy trăm ngàn người. Dù sao huynh cũng là Võ Thần, không phải Thủy Thần, cho dù là Thủy Thần, cũng không thể tạo nước vô cớ. Nếu không giải quyết được tận gốc, cứ như vậy cũng không phải cách hay. Chỉ như muối bỏ biển thôi."
Chương 72
Gặp người trong đời, gặp hoa trong mưa (1)
Nghe vậy, bước chân của Tạ Liên khựng lại, cuối cùng vẫn không ngoái đầu, vẫy vẫy tay rồi tiếp tục đi về phía trước.
Trở về hoàng thành Tiên Lạc, trước tiên Tạ Liên đến hoàng cung.
Y cũng không biết tại sao mình muốn đến, có điều không phải vì muốn gặp cha mẹ. Không riêng gì nguyên nhân thân là thần quan không được tự lén lút hiển linh trước mặt người phàm, quan trọng hơn là, tuổi tác càng cao, rời nhà càng lâu, y càng không biết nên nói chuyện với cha mẹ thế nào, có lẽ tất cả những người làm con trên đời này đều như thế. Chính vì vậy, y ẩn thân đi lung tung một vòng khắp hoàng cung mà mình rõ như lòng bàn tay, nhưng không tìm được quốc vương bệ hạ ở nơi nào khác, cuối cùng đến cung Tê Phượng mới nhìn thấy cha mẹ.
Hai người đã lệnh cho cung nhân lui xuống, đang trò chuyện với nhau. Hoàng hậu ngồi bên tháp, tay nghịch một chiếc mặt nạ vàng, chính là chiếc mà Tạ Liên đeo trong buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời ba năm trước. Gương mặt và ngũ quan của chiếc mặt nạ vàng được dày công điêu khắc dựa theo mặt thật của Tạ Liên, vì vậy Tạ Liên đeo nó rất vừa vặn, không cảm thấy có gì khác thường, nhưng khi thấy nó trong tay người khác lại hơi rờn rợn. Quốc vương ngồi bên cạnh nói: "Đừng nghịch cái đó nữa, mau đặt xuống qua ấn đầu cho ta đi."
Dù rằng trước mặt người khác, quốc vương và hoàng hậu làm chu toàn mọi lễ nghĩa, nhưng từ nhỏ Tạ Liên đã thấy rõ nhất, sau lưng người khác, cha mẹ mình chỉ là một cặp vợ chồng bình thường cũng sẽ cằn nhằn lải nhải thôi. Quả nhiên, hoàng hậu thả mặt nạ xuống, qua ngồi xoa nhẹ hai bên huyệt thái dương giúp quốc vương, rồi bỗng gạt tóc của ông, nói: "Tóc chàng lại bạc rồi."
Tạ Liên tập trung nhìn kỹ, hai bên tóc mai của cha mình đúng là lốm đốm bạc, vô cớ thêm ba phần già cỗi. Y nhủ thầm: "Chẳng phải dạo trước phụ hoàng mới đến Hoàng Cực quán cầu phúc sao? Lúc đó tóc phụ hoàng còn đen mà, sao tự dưng lại bạc?"
Hoàng hậu lấy một chiếc gương đồng định cho quốc vương xem, quốc vương lại nói: "Không xem không xem. Lần sau trước khi lên núi Thái Thương nhuộm chút là đen thôi."
Bấy giờ Tạ Liên mới kịp phản ứng: "Tóc của phụ hoàng không phải mới bạc gần đây! Mà đã bạc từ lâu rồi, chỉ là trước mỗi lần đến gặp mình đều nhuộm đen. Còn mình suốt ngày nghe tín đồ cầu nguyện, bôn ba mệt mỏi, ít bao giờ chủ động về thăm cha mẹ nên mới không phát hiện."
Sau khi nghĩ thông suốt điều này, trong lòng Tạ Liên hổ thẹn vô cùng, thật may là bây giờ cha mẹ không nhìn thấy y ở đây. Hoàng hậu vừa xoa bóp đầu cho quốc vương vừa trách móc: "Ngày nào thiếp cũng bảo chàng nghỉ ngơi sớm đi, chàng không nghe lời của thiếp, còn nói thiếp suốt ngày cằn nhằn chàng. Nhìn xem bây giờ xấu như vầy, hoàng nhi mà thấy thì càng không muốn ngó ngàng tới chàng cho coi."
Quốc vương hầm hừ: "Từ lúc hoàng nhi của nàng trưởng thành đủ lông đủ cánh, vốn dĩ đã không ngó ngàng tới ta." Nói thì nói vậy, ông lại nhịn không được len lén liếc gương đồng bên giường, lầm bầm: "Cũng đâu có xấu lắm, chẳng phải vẫn là gương mặt này sao?"
Tạ Liên không khỏi sửng sốt, thật sự không ngờ rằng sau lưng mình, phụ hoàng còn có một mặt như thế, lại còn "nói xấu" mình với giọng điệu chua chát vậy nữa, khiến y lập tức phì cười. Hoàng hậu cũng nín cười nói: "Rồi rồi rồi, không xấu. Sức khỏe lớn hơn trời, hôm nay nghỉ ngơi sớm đi."
Quốc vương lắc đầu: "Không nghỉ ngơi được. Dạo này có nhiều người Vĩnh An chạy đến hoàng thành. Đến thì đến đi, thế mà cứ phải rêu rao khắp nơi, làm cho lòng người hoang mang, nan giải vô cùng."
Thì ra cha mình bạc tóc là vì đại hạn ở Vĩnh An, trong lòng Tạ Liên khó chịu khôn tả. Hoàng hậu gật đầu đáp: "Thiếp nghe Dung nhi nói, hôm nay nó cũng gặp phải một người Vĩnh An, nghe đâu muốn cướp tiền trong miếu, thật đáng sợ."
Quốc vương trầm ngâm nói: "Đúng thế, đáng sợ. Mấy chục hay mấy trăm người tới thì thôi, nhưng ngộ nhỡ hơn trăm ngàn người bọn họ đổ xô tới, rồi cả bọn chạy tán loạn trong hoàng thành, hậu quả thật khó tưởng tượng nổi."
Do dự một hồi, hoàng hậu nói: "Vậy cũng chưa hẳn. Nếu đàng hoàng an phận, tới thì tới đi."
Quốc vương nói: "Vua của một nước, sao có thể lấy 'chưa hẳn' ra mạo hiểm? Hơn nữa bọn họ tuyệt đối không thể tới đây, nuôi thêm vài người không chỉ đơn giản như bày thêm vài đôi đũa, bên trong phức tạp lắm, nàng không rõ đâu, không nói nữa."
Hoàng hậu đáp: "Được, không nói nữa. Những gì mà chàng nói, từ đầu thiếp đã không hiểu rồi, nếu hoàng nhi còn ở đây thì tốt quá, ít nhất cũng có thể san sẻ phần nào cho chàng."
Quốc vương lại hầm hừ: "Nó? Nó thì làm được gì? Không làm ta lo lắng thêm đã đỡ lắm rồi."
Nhắc đến Tạ Liên, quốc vương có vẻ dậy hứng ngay: "Ta không thèm nói đến hoàng nhi của nàng nữa, hơn mười mấy tuổi đầu mà nuôi y như công chúa. Nó có biết cũng vô dụng, chỉ tổ thêm phiền não mà thôi. Nó cứ ngoan ngoãn bay trên trời đi, không biết gì là tốt nhất, làm chuyện của riêng nó, bây giờ nó đâu còn là Thái tử, nhân gian không liên quan đến nó, thích bay thì cứ cho nó bay đủ."
Tạ Liên im lặng nghe cha trách móc mình hăng say, hoàng hậu thì mỉm cười đẩy quốc vương một cái: "Bây giờ chàng biết nói nó là công chúa rồi hả, công chúa còn không phải vì chàng nuông chiều từ nhỏ mà ra sao? Còn muốn trách ngược lại thiếp à?" Nói đoạn, hoàng hậu thở dài: "Thằng nhóc này cái gì cũng tốt, mỗi tội không nhớ nhà thôi. Lúc trước học nghệ ở Hoàng Cực quán đã thế rồi, hở ra là mấy tháng không về nhà. Bây giờ phi thăng còn lợi hại hơn, ba năm cũng không gặp được một lần, chẳng biết bao giờ mới gặp được đây."
Hoàng hậu bắt đầu phàn nàn, quốc vương lại giải vây cho Tạ Liên: "Phụ nữ như nàng thì biết gì. Quốc sư nói quy tắc của Thiên giới là như thế, sao có thể tiếp tục xem nó như người phàm? Nàng gọi hoàng nhi của nàng về khác nào muốn kéo chân sau của nó?" (kéo chân sau = gây cản trở)
Hoàng hậu vội nói: "Thiếp chỉ nói vậy thôi. Thiếp sẽ không nói ra yêu cầu này trước mặt nó." Bà lại lầm bầm: "Nhìn tượng thần cũng được, không khác gì mấy, đâu đâu cũng là tượng thần của nó."
Nhìn cha mẹ hồi lâu, lồng ngực Tạ Liên dâng từng cơn chua xót, cổ họng như nhét thứ gì đó, nghẹn đến khó chịu tột độ, chỉ cảm thấy không chờ thêm được nữa, nhưng y lại không thể xuất hiện, không phải vì sợ vi phạm thiên quy, mà là xuất hiện rồi cũng không biết nên nói gì cho phải. Đối với chuyện ở Vĩnh An, tạm thời y cũng chưa nghĩ ra được cách giải quyết nào tốt, đột ngột xuất hiện chỉ làm cha mẹ luống cuống mà thôi.
Tạ Liên nhanh chóng rút khỏi hoàng cung, đi ra bên ngoài, hít sâu vài hơi, bấy giờ tâm trạng mới bình phục. Ổn định cảm xúc, vực dậy tinh thần, nghĩ thầm thở dài chi bằng hành động, y tiện tay bắt quyết niệm chú, đổi sang hình hài tiểu đạo sĩ áo trắng, chạy một vòng quanh hoàng thành, đo lường và ghi chép khắp nơi. Chạy đôn chạy đáo, bận rộn cả ngày, cuối cùng y cũng lấy được đáp án xác định.
Mặt nước của tất cả sông hồ trong hoàng thành Tiên Lạc, đích thực đều thấp hơn trước đây. Lúc còn ở Hoàng Cực quán, có vài lần y chuồn xuống núi chơi, từng chèo thuyền du ngoạn trên con sông lớn nhất chạy dài xuyên nước Tiên Lạc – sông Lạc, mặt nước ngày ấy chỉ thấp hơn bờ đê một chút, nhưng bây giờ lại thấp hơn nhiều xích, hơn nữa cư dân trong thành đều bảo đã như vậy từ lâu chứ không phải mới đây. Lúc trước Tạ Liên không để ý, bây giờ để ý mới ngộ ra đủ mọi dấu hiệu nhìn mà phát hoảng. Ban đầu y còn hy vọng thông tin của Mộ Tình nhầm lẫn nên mới tự đến chứng thực, bây giờ không thể không thừa nhận, Mộ Tình vẫn không làm mình thất vọng như cũ.
Sau khi xác nhận sự thật này, Tạ Liên ngẩn người đứng lặng ven bờ sông, như có điều nghiền ngẫm. Thỉnh thoảng có người đi đường lướt ngang qua Tạ Liên, hoặc mỉm cười gật đầu, hoặc tò mò nhìn ngó, còn lại chủ yếu vẫn vui vẻ chuyện ai nấy làm. Chẳng biết đứng bao lâu, mây mù xa nơi chân trời tụ lại, bốn phía tí ta tí tách, thế mà lại đổ mưa lâm râm.
Người đi đường rối rít che đầu nhìn trời, nói: "Xui xẻo ghê! Trời mưa rồi, mau về thôi!"
"Đúng đó, ghét thật!"
Hạt mưa rơi tí tách, nện vào mặt và người Tạ Liên, lúc này y mới kịp phản ứng, lẩm bẩm: "Mưa rồi ư?"
Người trong hoàng thành gặp mưa tránh còn không kịp, chỉ trời mới biết một đầu khác của nước Tiên Lạc có bao nhiêu người khao khát được một trận mưa lớn đã đời như thế. Vài người bung dù chạy ào qua, thấy Tạ Liên vẫn đứng dưới mưa bèn kéo y một cái, thúc giục: "Ơ tiểu đạo trưởng này, sao ngươi còn không chạy? Mưa càng lúc càng lớn kìa!"
Thế là Tạ Liên cũng lóng ngóng chạy theo, cùng chạy đến dưới một hàng hiên dài. Những người kia cất dù, cười ha ha với nhau: "May là hôm nay ra cửa thấy nhiều mây nên mang dù theo, không thì ướt như chuột lột rồi."
"Đã lâu trời không mưa, e rằng trận này tích tụ lâu rồi, sẽ mưa lớn cho xem."
"Ôi trời ngươi nhìn đi, lớn thật rồi kìa! Sắp thành mưa xối xả rồi!"
Hạt mưa rơi xuống đất, tan vỡ văng tung tóe. Chất giọng hết sức thân thuộc của những người này càng khiến Tạ Liên cảm nhận được sâu sắc rằng, đây là nơi mình sinh ra và lớn lên, đây là con dân mà mình quen thuộc.
Trò chuyện một hồi, trận mưa từ từ nhỏ dần, mấy người kia nói: "Nhân lúc bây giờ nhỏ được chút, mau đi thôi!" Dứt lời lũ lượt bung dù rời khỏi mái hiên, còn Tạ Liên vẫn đứng yên tại chỗ. Mấy người kia ngoái đầu nhìn y, bàn bạc vài câu, một người đi tới, đưa một cây dù cũ trong tay cho y, nói bằng giọng khách sáo: "Tiểu đạo trưởng ơi, có phải không về được không? Ta thấy mưa vẫn còn hơn lớn đó, hay là ngươi lấy dù này dùng đi."
Bấy giờ Tạ Liên mới hồi thần, hỏi: "Cảm ơn nhé. Vậy ngài thì sao?"
Mấy người đứng trong mưa phía trước nói lớn: "Chúng ta còn dù đây, chen vô chung được mà, đi thôi đi thôi!"
Nghe đồng bạn thúc giục, người nọ nhét dù vào tay Tạ Liên rồi chạy mất. Cả bọn lạch bạch đạp nước chạy xa, Tạ Liên thì nắm cây dù kia, đứng yên chốc lát. Đột nhiên, y thấy phía trước cách đó không xa có một ngôi miếu nhỏ không quá bắt mắt, bèn bung dù đi về phía đó giữa làn mưa. Đến gần miếu rồi, thấy câu đối trước hai bên cửa miếu lần lượt viết "Thân tại vô gián"
"Lòng tại đào nguyên", cuối cùng mới xác định đây là một tòa điện Thái Tử.
Trong ba năm dựng nên tám ngàn đạo quán, tất nhiên không phải tòa đạo quán nào cũng nguy nga tráng lệ khiến người thán phục như tòa trên núi Thái Thương, trong số đó cũng có không ít tòa là nhân sĩ thôn làng dân gian xây cho đủ số để góp vui. Không dựng hòm công đức, không có ông từ, chỉ lập một pho tượng bằng đất sét, bày mấy cái khay, cúng một ít bánh ngọt và trái cây. Người có lòng thỉnh thoảng tới quét dọn một chút là có thể tự chiếm một điện rồi.
Núp trong xó xỉnh không bắt mắt ấy, chính là một điện Thái Tử cũng chẳng bắt mắt là bao. Còn chưa vào trong, Tạ Liên đã trông thấy một pho tượng thần Thái tử gần như có thể nói là ngây ngô đáng yêu: Áo quần lòe loẹt, gò má loang lổ phấn trắng, điệu cười ngớ ngẩn, chẳng khác gì một con búp bê lớn. Nếu không phải lòng đầy tâm sự, chắc chắn Tạ Liên đã cười ra tiếng.
Ba năm qua, tượng Thái tử mà Tạ Liên nhìn thấy không năm ngàn cũng được ba ngàn, trước giờ chưa từng thấy pho tượng Thái tử nào giống mình như đúc, giống nhất có lẽ chỉ tầm bảy phần, còn lại không phải quá xấu thì là quá đẹp. Đa số các thần quan khác đều là tượng thần quá xấu, vừa khéo Tạ Liên thì trái ngược, có cái đẹp đến mức biến dạng, đẹp đến mức bản thân y cũng thấy ngại. Vốn dĩ y cũng không nhìn kỹ pho tượng đất sét này, chỉ lia mắt qua thôi, nào ngờ lại tình cờ bắt gặp một vật gì đó trắng muốt, thế là đường nhìn lại lia trở về.
Tay trái của pho tượng Thái tử làm bằng đất sét thô sơ ấy, cầm một bó hoa trắng như tuyết.
Cánh hoa trắng noãn, dính một ít giọt sương lóng lánh, mềm mại đến lạ, một mùi thơm dịu như có như không thoang thoảng trong không khí, đáng yêu vô ngần. Tư thế chuẩn mực của tượng Thái tử Tiên Lạc là "một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa", nhưng hoa mà tay trái cầm, tất nhiên là hoa vàng, hoa đá quý, hoa ngọc thạch được chế tạo bằng kỹ thuật tuyệt đỉnh, đây là lần đầu tiên Tạ Liên nhìn thấy có tượng thần của mình cầm hoa thật, vì vậy không khỏi nhích lại gần hơn.
Nhìn kỹ y mới phát hiện, ban đầu tay trái của pho tượng Thái tử này hẳn là thật sự từng cầm một cành hoa đất sét. Nhưng không biết do thợ khắc tượng không khéo tay nên cành hoa rớt mất, hay bị ai đó đùa dai tháo xuống, bây giờ trong nắm tay trái chỉ còn một lỗ nhỏ. Bó hoa trắng nho nhỏ ấy, vừa khéo cắm trong lỗ nhỏ này. Nếu ai đó hái tới chỉ để lấp đầy lỗ hổng trong tay trái của pho tượng đất sét này, vậy đúng là có lòng.
Vừa nghĩ đến đây, Tạ Liên chợt nghe được tiếng bước chân dồn dập. Y không quay đầu lại, đầu tiên ẩn thân mình, cầm dù nhẹ nhàng phóng lên bệ thờ, lúc này mới xoay người nhìn xuống dưới. Chỉ thấy trong làn mưa tầm tã mịt mù ngoài miếu, một thiếu niên chạy ào vào.
Thiếu niên này chỉ tầm mười hai mười ba tuổi, toàn thân ướt đẫm, trên người là quần áo sờn cũ, trên mặt là băng vải bẩn thỉu. Tay phải khum lại bao lấy nắm tay trái, như thể đang che chở thứ gì đó. Sau khi chạy đến giữa miếu, nó mới từ từ mở hai tay ra.
Một bó hoa nho nhỏ trắng ngần, lẳng lặng nở rộ trong tay nó.
_________________
Tác giả nói:
Mỗi ngày bí văn bí bí bí bước cuối cùng: Bí tiêu đề! Cuối cùng tôi vẫn cảm thấy "Phùng nhĩ" (Gặp ngươi) lãng mạn hơn "Phùng nhân" (Gặp người).
"Gặp được ngươi", chỉ ba chữ thôi đã thấy là một trong những chuyện lãng mạn nhất trên thế giới rồi.
Chương 73
Gặp người trong đời, gặp hoa trong mưa (2)
Nhớ tới gì đó, Tạ Liên khẽ "ồ" một tiếng.
Gương mặt quấn hàng lớp băng vải ấy, không khỏi khiến y liên tưởng đến đứa bé mình gặp vào ba năm trước. Nhưng y cũng không dám chắc chắn, nghĩ theo khía cạnh bi quan, sau khi một thân một mình trốn xuống núi Thái Thương, đứa bé đó thật sự có thể sống thêm ba năm sao?
Lúc này, thiếu niên nọ đi tới, nhón đầu ngón chân, lấy bó hoa khỏi tay tượng đất sét, đổi thành bó hoa trong tay mình. Tạ Liên ngồi trên bệ thờ thấy rất rõ ràng, bó hoa mới thay ấy, cánh hoa càng mềm mại, tươi tốt, căng mọng, mùi hương càng thêm thơm ngào ngạt, nhất định là vừa vừa mới hái. Chẳng lẽ ngày nào nó cũng đến ngôi miếu không bắt mắt này, thay một bó hoa tươi mới hái cho tay trái của pho tượng đất sét đó?
Chưa kể sau khi hiến tặng hoa tươi, thiếu niên nọ đứng dưới tượng đất sét Thái tử, khép tay kết ấn, yên lặng cầu phúc, chẳng hề quỳ xuống rồi hẵng nói một cách vô tội vạ như người ngoài, đích thực đã để những lời Tạ Liên nói vào tai.
Ba năm. Biết bao tín đồ từng thăm viếng Tạ Liên, có quan lại quyền quý, có nhân vật kiệt xuất đương thời, có tài lực kinh thế hãi tục, nhưng người thật sự khiến Tạ Liên cảm thấy "có lòng" lại là một đứa nhóc mới mười hai mười ba tuổi, hơn nữa còn là đứa nhóc áo quần tả tơi mà những điện vàng lộng lẫy tráng lệ không đời nào cho vào, bởi vậy chỉ có thể đến miếu thần thôn làng này thăm viếng.
Cảm xúc này quả là khó diễn tả.
Lúc này, ngoài cửa miếu truyền đến tiếng đạp nước bành bạch, một đám con nít bung dù cười đùa ầm ĩ chạy qua. Ban đầu Tạ Liên cho rằng chúng nó chỉ đi ngang qua, nào ngờ đám thiếu niên này chạy qua rồi lại chạy ngược về, như thể phát hiện thứ gì hiếm lạ lắm, vỗ tay nói: "Ái chà chà, thằng xấu xí lại bị đuổi cổ kìa!"
Đám thiếu niên này cũng cỡ tuổi tín đồ nhỏ trong miếu, nhưng ai cũng cao lớn hơn nó, xem ra được cha mẹ nuôi dưỡng rất tốt. Hẳn do sắp đến ngày lễ, đứa nào đứa nấy cũng mặc áo mới xỏ giày mới. Chúng nó đứng trước cửa miếu đạp nước đùa giỡn, nụ cười hồn nhiên hoạt bát, không mang nửa điểm ác ý, dường như không hề cảm thấy "thằng xấu xí" là lời nói bậy, cũng chẳng cảm thấy ngôn từ của mình tổn thương người khác, thật sự chỉ cho rằng gọi như vậy thú vị mà thôi. Thiếu niên nọ siết tay thành đấm, nhưng vì nắm tay quá nhỏ, không hề có sức uy hiếp, đám nhóc ngoài cửa lại la to: "Hôm nay thằng xấu xí lại ngủ trong miếu rồi, coi chừng về nhà mẹ ngươi đánh chết ngươi!"
Tạ Liên nhíu mày. Một con mắt chi chít tơ máu của thiếu niên lộ ra dưới băng vải, nó giơ nắm đấm giận dữ gào lên: "Ta không có nhà!! Ta không có mẹ! Bà ta không phải là mẹ ta! Cút đi! Cút hết đi! Còn la nữa ta đánh chết các ngươi đó!!!"
Đám nhóc kia lại chẳng hề sợ hãi, le lưỡi nói: "Ngươi dám đánh bọn ta, coi chừng bọn ta lại mách cha ngươi, cho ổng dạy dỗ ngươi."
Có đứa nháy mắt ra hiệu, nói: "Đúng đó, ngươi không có mẹ là vì mẹ ngươi không cần ngươi. Ngươi cũng không có nhà, người nhà ngươi cũng ghét bỏ ngươi, nên ngươi chỉ còn nước ở trong cái miếu đổ nát này..."
Nói đến đây, thiếu niên nọ thình lình hét lớn một tiếng, bổ nhào qua.
Đầu nó tuy nhỏ nhưng khí thế tràn trề, tiếng hét hung bạo của nó dọa cho mấy đứa nhóc kia muốn chạy trốn, nhưng cái đứa đang đánh nhau túi bụi với nó lại hô lên: "Sợ cái gì! Bọn mình đông người mà!" Thế là cả đám lại quay trở về, bảy tay tám chân kéo nó đánh nó. Tạ Liên thật sự không nhìn nổi nữa, y phất tay một cái, một luồng năng lượng kỳ lạ bỗng nhiên xuất hiện trong không khí tách hai tốp thiếu niên ra. Ngay sau đó, mặt đất ầm ầm sủi lên một đống bọt nước, hất đám thiếu niên kia ngã lộn nhào.
Dù sao cũng là con nít, tự dưng ngã nhào một cách quỷ dị như thế, còn uống một ngụm nước bẩn lẫn bùn đất, đồ mới trên người cũng ướt nhẹp, trở nên còn te tua bẩn thỉu hơn cả đối tượng mà mình cười nhạo, đám nhóc thoắt cái chuyển từ cười ha ha sang khóc hu hu, bò dậy khỏi mặt đất, khóc bù lu bù loa cầm dù chạy biến.
Tạ Liên lắc đầu. Mình đây đường đường là Võ Thần, diệt trừ tà ma quỷ quái, đảm bảo lên đường bình an, đây là lần đầu tiên can thiệp vào loại tranh chấp trẻ con này, dù rằng vẫn là đuổi cổ bên xấu xa, nhưng chẳng có chút cảm giác thành tựu nào. Quay đầu lại nhìn thiếu niên nọ, Tạ Liên hơi sửng sốt.
Trong lúc hỗn loạn, băng vải trên đầu nó bị kéo xuống phân nửa, để lộ nửa gương mặt toàn là vết bầm tím sưng tấy, hiển nhiên không phải do vừa rồi bị đánh. Tạ Liên còn chưa kịp nhìn kỹ, nó đã lẳng lặng quấn băng lại, ôm đầu gối, ngồi bên chân tượng đất sét.
Tạ Liên đến gian miếu Thái tử này, ý định ban đầu là muốn tìm chỗ nào gần để triệu tập Phong Tín và Mộ Tình, truyền lệnh bàn bạc chuyện quan trọng, nào ngờ lại gặp được bạn nhỏ này, thế rồi kiềm lòng không đặng bắt đầu chú ý, sau khi phát lệnh triệu tập, y ngồi chồm hổm bên cạnh quan sát nó. Ngồi chưa được bao lâu, từ bụng thiếu niên nọ truyền ra tiếng ùng ục. Trong khay cúng có chút trái cây và bánh ngọt, dù trông khô quắt không ngon miệng lắm, nhưng có còn hơn không. Tạ Liên bèn chọn một quả, nhẹ nhàng ném lên người nó.
Bị trái cây đập trúng, thiếu niên bỗng chốc đưa hai tay ôm đầu, cuộn thành một cục, bày ra tư thế phòng ngự, như thể thứ ném lên người mình là một tảng đá, hơn nữa lập tức sẽ có nhiều đá hơn ném tới. Qua một hồi lâu, sau khi dáo dác nhìn xung quanh, phát hiện chỉ là trái cây chứ không có người thứ hai ở đây, nó chần chờ một hồi rồi nhặt trái cây lên, lau vào áo mấy cái, đoạn thả vào khay cúng, rốt cuộc thà chịu đói chứ không ăn đồ cúng trong khay.
Tiếp theo, nó đi tới cửa, nhìn mưa tầm tã ngoài miếu, trông có vẻ muốn ra ngoài tìm thức ăn, nhưng mưa thật sự quá lớn, không muốn dầm mưa nữa nên lại quay trở về, cuộn mình ngủ bên chân tượng đất sét.
Lúc này, Phong Tín và Mộ Tình nghe lệnh chạy tới. Hai người vòng ra từ sau miếu, Phong Tín buồn bực hỏi: "Điện hạ, huynh tìm đâu ra gian miếu Thái Tử nhỏ xíu này vậy? Tại sao phải truyền lệnh ở đây?" Vừa cúi đầu, chợt thấy một người co mình nằm dưới đất, suýt nữa thì đạp trúng, Phong Tín buột miệng thốt ra: "Mẹ nó sao lại có thằng nhóc ở đây nữa?!"
Mộ Tình cũng cúi đầu, nhìn kỹ vài lần rồi vội hỏi: "Điện hạ, đây là đứa bé trốn khỏi núi Thái Thương ba năm trước sao?"
Tạ Liên lắc đầu: "Không dám chắc. Chẳng biết nó tên gì, cũng không biết mặt mũi trông như thế nào."
Ba người đứng quanh một đứa bé hoàn toàn không hay biết gì nói vài câu, thiếu niên nọ trở mình lăn qua lăn lại dưới đất, lau mặt một cái, thế mà lau ra máu ở miệng mũi và khóe môi. Thấy vậy, Tạ Liên càng cho rằng không thể mặc nó tiếp tục nằm như thế, nói: "Để đứa bé này rời khỏi đây trước đi. Sắc trời tối rồi, miếu này không phải nơi tốt để qua đêm."
Phong Tín nói: "Phải chăng nó không có nơi nào để đi? Nếu là như vậy, e rằng chỉ có thể qua đêm ở đây thôi."
Tạ Liên nói: "Nó có nhà, nhưng chắc ở nhà không tốt lắm. Dù vậy, miếu này cũng không phải nơi tốt, trước khi đi hãy tìm cho nó chút đồ ăn, trên người nó còn có vết thương."
Mộ Tình lại nói: "Điện hạ, thứ lỗi cho ta nói thẳng, trước mắt không có thời gian lo mấy chuyện vặt vãnh này. Huynh triệu chúng ta tới đây phải chăng đã có quyết định gì?"
Thần quan Thượng thiên đình, xưa nay chưa từng có vị nào thu hết lời cầu nguyện của tất cả tín đồ. Phải biết tín đồ trên đời hàng ngàn hàng vạn, gặp ai cũng lo chẳng phải sẽ phiền chết hay sao, bởi vậy đôi lúc sẽ mở một mắt nhắm một mắt, vờ như không nghe thấy một số lời cầu nguyện thâm ảo hoặc nhỏ nhặt không đáng kể, nhờ vậy bớt được rất nhiều phiền toái. Nhưng mà, có lẽ do Tạ Liên tuổi còn rất trẻ, tinh lực dồi dào, còn chưa đến lúc tán đồng với kiểu ứng biến linh hoạt này. Suy nghĩ một hồi, y cầm chiếc dù được người qua đường tặng, đi ra ngoài miếu.
Tạ Liên chậm rãi mở dù ra, hạt mưa nện lộp độp xuống mặt dù. Nghe tiếng động này, thiếu niên nằm dưới đất cứ tưởng có người đến gần nên khẽ khàng cựa mình. Nhưng hẳn do nghĩ rằng có người đến cũng không liên quan đến mình, nó lại nằm trở xuống. Tạ Liên đặt chiếc dù đã mở bung ở cửa, thiếu niên nghe tiếng động vẫn vang mãi không dứt, có lẽ cuối cùng cũng thấy kỳ lạ, nó bèn đứng dậy đi ra xem thử, chỉ thấy một chiếc dù đỏ đặt nghiêng dưới đất trong làn mưa, tựa như đóa hoa đỏ thẫm nở rộ một cách trơ trọi. Thiếu niên lập tức ngây ngẩn cả người.
Thấy thiếu niên bước lên ôm dù, Mộ Tình nói: "Điện hạ, đến bước này là được rồi. Làm lộ liễu quá, để nó phát hiện chỉ tổ rước phiền phức."
Ngờ đâu Tạ Liên chưa trả lời, thiếu niên lại nhào trở vào, đứng sau bọn họ gọi lớn: "Thái tử điện hạ!"
Ba người đồng loạt giật cả mình, ngoái đầu lại nhìn, chỉ thấy thiếu niên nọ ôm dù, mắt đỏ ngầu, kích động cực độ, ngửa đầu nói với tượng đất sét: "Thái tử điện hạ! Là huynh sao?!"
Phong Tín không biết trước đó Tạ Liên đã giúp nó đuổi một đám trẻ ranh, còn ném trái cây cho nó, nên ngạc nhiên nói: "Thằng nhóc này cũng nhạy phết, vậy mà lại bị nó phát hiện." Mộ Tình lại như đã đoán được tương lai, đưa mắt nhìn Tạ Liên.
Thiếu niên nọ nói: "Nếu huynh có ở đây, xin huynh trả lời ta một vấn đề!"
Ngồi tít trên thần đàn cao ngất, mỗi ngày Tạ Liên nghe được vô số lần "Xin ngài hiển linh đi". Âm thanh nào nghe nhiều rồi cũng sẽ mất cảm giác. Nhưng mà, mỗi khi nghe được tiếng gọi đó, y vẫn sẽ vô thức ngắm nhìn, vô thức dừng chân. Mộ Tình ở bên cạnh nhắc nhở: "Điện hạ, không cần để ý đâu."
Tạ Liên không đáp.
Hai tay ôm ghì chiếc dù, thiếu niên nọ cắn răng nói: "Ta đau đớn lắm! Ngày nào ta cũng hận không thể chết quách cho xong, ngày nào cũng muốn giết sạch người trên thế giới này rồi tự giết chính mình! Ta sống rất đau đớn!"
Một đứa trẻ mười hai mười ba tuổi hét lên những lời như thế, cảnh tượng này đúng là vừa buồn cười vừa đáng thương. Thế nhưng trong thân thể bé nhỏ của nó như có thứ gì đó bùng nổ, chống đỡ sự căm phẫn và tiếng gào rống của nó.
Phong Tín cau mày hỏi: "Nó bị gì thế? Giết sạch người trên thế giới này, đây là lời mà con nít nói sao?"
Mộ Tình hờ hững đáp: "Tại nó còn nhỏ quá thôi. Lớn thêm chút nữa, nó sẽ nhận ra rằng những gì bây giờ mình nếm trải chẳng thấm vào đâu cả."
Dừng một thoáng, Mộ Tình nhìn Tạ Liên, nói: "Những người đau đớn trên đời này nhiều vô kể. Chẳng hạn như đại hạn ở Vĩnh An, có người Vĩnh An nào đau đớn thua nó đâu. Điện hạ không cần phải để ý. Nên làm gì thì làm thôi."
Tạ Liên nói khẽ: "Chắc là vậy."
Với người khác mà nói, có lẽ sự đau đớn của một người chỉ là chút phiền toái vặt vãnh không đáng nhắc đến mà thôi.
Thiếu niên nọ ngửa đầu nhìn Tạ Liên, con mắt đỏ rực nhưng lại không rơi lệ, một tay ôm dù, một tay chìa ra níu vạt áo của tượng đất sét, chất vấn: "Rốt cuộc vì sao ta còn sống trên đời này? Rốt cuộc con người sống sót có ý nghĩa gì chứ?"
Lặng im hồi lâu, không ai trả lời, dường như đã lường được kết quả này, thiếu niên từ từ cúi thấp đầu.
Ngờ đâu, một giọng nói bất chợt phá vỡ sự yên lặng, vang lên trên đầu nó: "Nếu không biết phải sống tiếp như thế nào, vậy sống tiếp vì ta đi."
Phong Tín và Mộ Tình đứng cạnh Tạ Liên không nghĩ rằng y sẽ thật sự trả lời, hơn nữa còn trả lời kiểu đó, cả hai trợn trừng mắt, nói: "...Điện hạ?!"
Thiếu niên nọ ngẩng phắt đầu lên, nhưng không nhìn thấy bất kỳ ai, chỉ nghe một giọng nói dịu dàng như ẩn như hiện truyền đến từ phía trên tượng đất sét:
"Vấn đề mà đệ hỏi, ta cũng không biết nên trả lời thế nào. Có điều nếu đệ không biết mình sống tiếp có ý nghĩa gì, vậy chi bằng tạm thời xem ta là ý nghĩa đó đi."
Sắc mặt Phong Tín và Mộ Tình như nứt ra, cả hai đồng loạt đưa tay bụm miệng Tạ Liên, hét lớn: "Đừng nói nữa điện hạ! Huynh phạm quy rồi! Phạm quy rồi!"
Trước khi bị bọn họ bụm miệng, Tạ Liên vẫn tranh thủ hô một câu: "Cảm ơn hoa của đệ! Đẹp lắm, ta rất thích!"
__________________
Tác giả nói cây dù đỏ đó không phải cây dù đỏ của Hoa Thành sau này nha, dù của Hoa là dù xịn độc nhất vô nhị được đặc chế gì đó, có thể chặn núi đao qua chảo dầu lợi khí giết thần bla ble =)))
Chương 74
Mưa khó, xin Vũ Sư cho mượn nón mưa
Nón ở đây là nón lá
Thiếu niên nọ ngây ngẩn cả người.
Phong Tín và Mộ Tình chỉ hận không thể mọc tám tay bảy chân chặn Tạ Liên lại, khó khăn lắm mới kéo được y xuống, y lại hất hai người họ ra, nói: "Biết rồi! Không nói nữa! ta biết mình phạm luật mà, các ngươi vờ như không nghe thấy chẳng phải được rồi sao. Chỉ cần các ngươi không nói, sẽ không ai biết cả. Chỉ một lần này thôi. Không được phép truyền ra ngoài, nghe rõ chưa?"
Nét mặt trông như bị ép nhai tất, Mộ Tình lắc đầu lẩm bẩm: "Sao lại có người như huynh chứ... Hùng hồn nói ra mấy lời như 'sống tiếp vì ta', thật đúng là..."
Tạ Liên vốn chẳng cảm thấy có vấn đề gì, nghe Mộ Tình nói vậy lại cảm thấy có vấn đề thật, thoáng cái đỏ bừng cả mặt. Phong Tín lập tức nghiêm mặt nói: "Được rồi! Điện hạ đã bảo không nói nữa, ngươi còn nhắc làm gì?" Nhưng khóe miệng của chính hắn lại giật giật. Tạ Liên không nhìn nổi nữa, biện bạch: "Gì đó gì đó, rõ ràng lời ta nói rất hữu dụng mà. Các ngươi nhìn kìa."
Thiếu niên nọ ngồi đờ đẫn hồi lâu, không nghe được tiếng của Tạ Liên nữa, thế là dùng sức xoa mặt, lấy khay đồ cúng trên bàn xuống, ôm vào trong ngực, bắt đầu ăn trái cây và bánh ngọt khô quắt trong khay, cố gắng nhai nuốt, ăn như một con thú nhỏ vừa đáng thương vừa hung hăng. Tạ Liên khom lưng nhìn nó, đoạn nở nụ cười, nói với hai người kia: "Các ngươi nhìn đi, hữu dụng nha. Hồi nãy nó không ăn, giờ đã ăn rồi này."
Mộ Tình đáp: "Rồi rồi, hữu dụng. Huynh là thần mà."
Phong Tín cũng đáp: "Đúng đúng, hữu dụng. Huynh là thần mà."
"..."
Tạ Liên nghiêm nghị nói: "Đúng vậy, ta là thần. Gọi các ngươi tới, đích thực là vì ta đã có quyết định."
Nói đến đây, bầu không khí vừa thoải mái chưa được bao lâu bỗng chốc lại trở nên nặng nề, Phong Tín hỏi: "Làm thế nào?", còn Mộ Tình lại hỏi: "Vẫn quản à?"
Tạ Liên nói: "Quản chứ. Rất đơn giản. Nước trong Tiên Lạc không đủ, vậy thì đến quốc gia ngoài Tiên Lạc thôi."
Mộ Tình ngập ngừng lên tiếng: "Đến quốc gia khác? Vậy có xa quá không? Chỉ sợ phải mượn pháp bảo của một ít thần quan thủy pháp (thần quan có pháp thuật liên quan đến nước), hơn nữa thần quan trấn giữ quốc gia khác chưa chắc đã đồng ý."
Dĩ nhiên Tạ Liên đã cân nhắc đến điều này, nói: "Ta cứ thử trước xem sao, còn hơn là không làm gì cả. Các ngươi tiếp tục ở lại Vĩnh An trước đã, tăng cường cứu trợ vùng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, ta trở về Thượng thiên đình, có vấn đề gì không?"
Phong Tín đáp: "Không vấn đề gì. Phía sau có ta gánh cho."
Mộ Tình ngẫm nghĩ rồi lại hỏi: "Điện hạ, vậy những lời cầu nguyện của tín đồ trong điện Thái tử bên huynh thì sao?"
Tạ Liên đáp: "Đây cũng là chuyện ta định nói. Trước tiên ngươi cứ lọc ra những việc quan trọng giải quyết thay ta, những việc không quá nguy cấp có thể tạm ém xuống."
Mặc dù không thấy lạc quan lắm, Mộ Tình vẫn nói: "Huynh là Thái tử điện hạ, nghe lời huynh vậy. Nhưng mà, ta kiến nghị không nên ém quá lâu."
Ta Liên vỗ vai hai người, Phong Tín và Mộ Tình hành lễ rồi lui xuống. Trong một tấc vuông của ngôi miếu nhỏ, chỉ còn lại Tạ Liên và đứa bé kia. Tạ Liên đi ra khỏi miếu, ngoảnh đầu nhìn một cái, không nán lại nữa mà lao thẳng lên Tiên kinh.
Ban đầu y định đi thăm hỏi mấy vị thần quan thủy pháp trước, nhưng lạ ở chỗ mấy vị đứng đầu đều trùng hợp không có mặt trong phủ ở Tiên kinh, chỉ còn đúng một vị Vũ Sư không sống ở Tiên kinh. Tạ Liên đang đi vội trên con đường ở Tiên kinh, người đầu tiên đi lướt qua là một nữ văn quan áo đen cầm mấy xấp tài liệu, cô nàng mỉm cười cất giọng: "Thái tử điện hạ, xem như ngài đã về rồi."
Tạ Liên vội hỏi: "Nam Cung, ngươi đến đúng lúc lắm, ngươi có biết phủ đệ của Vũ Sư ở đâu không?"
Cô gái mặc áo đen này tên là Nam Cung Kiệt, là một văn quan cấp thấp của Hạ thiên đình. Sau khi Tạ Liên phi thăng, rất nhiều việc lặt vặt đều do nàng giao nhận và xử lý. Vì nguồn tin của nàng nhanh nhẹn và làm việc thỏa đáng, Tạ Liên rất có thiện cảm với nàng. Nam Cung Kiệt đáp: "Hiện giờ Vũ Sư đại nhân vẫn chưa xây xong phủ đệ, đang tạm trú tại nước Vũ Sư ở phía Nam." Sau khi chỉ cho Tạ Liên chỗ ở của Vũ Sư, nàng lại hỏi: "Ngài tìm vị đại nhân đó làm gì thế?"
Tạ Liên đáp: "Có việc gấp, cảm ơn nhé." Đang định rời đi, y chợt xoay người lại, ho nhẹ một tiếng, ngượng ngùng hỏi: "Nam Cung à, ngươi quen khá thân với các thần quan trên Thượng Thiên Đình, có thể cho ta biết, Vũ Sư đại nhân có... đặc biệt thích cái gì không?"
Thông thường sau khi thần quan mới nhậm chức phi thăng, nếu khôn khéo một chút sẽ đến thăm miếu lớn của tất cả các vị thần quan cùng thiên đình và tặng quà một lượt. Đây chính là nể mặt, mà cũng gần như là quy luật bất thành văn, song vì Tạ Liên phi thăng quá đột ngột, lúc vừa lên không có ai dẫn dắt hay dạy bảo y. Đến tận sau này quốc sư nhắc nhở y, một là đã bỏ lỡ thời cơ tốt nhất, lại tặng nữa thì rất kỳ cục, hai là loại chuyện này khó tránh khiến người ta liên tưởng đến tham quan đi cửa sau ở nhân gian. Với tư cách là Thái tử, Tạ Liên cảm thấy việc này không ổn, cuối cùng y vẫn quyết định thuận theo tự nhiên, chung quy sẽ có cơ hội dùng cách thức chân thành và thỏa đáng để kéo gần quan hệ với các tiên liêu (những người cùng làm tiên).
Ban đầu phong thái đẹp đẽ là thế, bây giờ thái độ lại hoàn toàn trái ngược, chủ động hỏi một vị thần quan thích thứ gì cứ như chuẩn bị hối lộ người ta, khó tránh cảm thấy ngượng ngùng, nhưng nếu không làm vậy cũng chẳng còn cách nào khác. Mấy vị sống ở Tiên kinh chí ít cũng từng nói chuyện trong Thông Linh trận, có điều kiện hay ân tình gì cũng dễ dàng thương lượng được. Nhưng Vũ Sư thì lại chưa hề tiếp xúc bao giờ, lần đầu đến nhà thăm hỏi, Tạ Liên cũng ngại khiến người ta hiểu lầm mình muốn mượn không pháp bảo.
Nam Cung Kiệt lập tức hiểu ra, đáp: "Ngại quá, e rằng không giúp được điện hạ rồi. Vũ Sư đại nhân tính tình khiêm tốn, đừng nói là ta, chỉ sợ cả thiên giới cũng chẳng ai biết sở thích riêng của vị đại nhân ấy. Xin lỗi nha."
Mặt Tạ Liên hơi đỏ: "Không sao, đừng để bụng, cảm ơn."
Nam Cung Kiệt lại nói: "Nhưng nếu ngài có chuyện quan trọng cần tìm gặp, đừng ngại trực tiếp đến nhà thăm hỏi. Theo tính cách của Vũ Sư đại nhân, chưa chắc sẽ không gặp ngài."
Tạ Liên cảm ơn lần nữa rồi đi một mạch về phía Nam theo hướng nàng chỉ, đến nơi Vũ Sư đang ở tạm.
Đó là một thôn trang nho nhỏ, non xanh nước biếc, phong cảnh tươi đẹp, nhưng Tạ Liên hoàn toàn không có lòng dạ nào mà thưởng thức. Băng ngang qua một thửa ruộng, cuối cùng cũng nhìn thấy tấm bia đá có khắc chữ "Vũ". Theo lý mà nói, đi qua bia đá này chính là địa bàn Vũ Sư đang ở tạm, đáng ra những vật sinh hoạt tại đây đều là thuộc hạ của Vũ Sư. Tuy nhiên suốt chặng đường Tạ Liên đi, chỉ thấy khắp nơi đều là ruộng đồng mơn mởn, trong ruộng có trâu kêu ò ò, có guồng nước xoay cuồn cuộn, có nông phu đang cần cù cấy mạ, cạnh ruộng còn có một gian nhà tranh xiêu vẹo, chẳng hề có chút phong thái tiên phong đạo cốt nào, khiến cho Tạ Liên thật sự hoài nghi mình đến nhầm chỗ rồi. Chẳng phải nơi này là một thôn nhỏ làm nông tàn tạ hẻo lánh sao?
Giữa lúc y đang ngờ vực, con trâu đen đang cày bừa bên kia đột nhiên tru vài tiếng ò ò, sau đó đứng thẳng dậy, duỗi hai chân trước tự tháo lưỡi cày cho mình. Thân thể cường tráng từ từ thu nhỏ, mũi trâu dài thòng cũng dần dần thu ngắn lại. Chỉ trong nháy mắt, từ một con trâu đen bóng loáng đã hóa thành một nông phu vai trần.
Nông phu cao to tráng kiện, bắp thịt từng múi rõ ràng, đường nét gương mặt rắn rỏi, mũi đeo một cái khuyên sắt sáng loáng hệt như con trâu kia, miệng còn đang ngậm một cọng cỏ. Mấy nông dân còn lại tận mắt chứng kiến màn biến hình đáng sợ này vẫn tiếp tục làm việc như đã nhìn mãi thành quen. Bấy giờ Tạ Liên mới khẳng định, những vật ở đây đều không phải là người phàm, y bước lên trước, chắp tay hỏi: "Xin hỏi đạo hữu, Vũ Sư đại nhân đang sống tạm ở nơi này sao?"
Nông phu hóa thành từ trâu đen chỉ tay sang bên bờ, đáp: "Ừ. Vũ Sư đại nhân sống trong đó."
"..."
Tạ Liên nhìn đi nhìn lại mấy lần, cuối cùng xác định hướng mà nông phu chỉ cho mình, chỉ có gian nhà tranh nhỏ trông như gió thổi là sụp mưa rơi là dột kia.
Dẫu cho là miếu Thái Tử thôn quê tồi tàn nhất của y, so ra cũng danh giá và sung túc hơn gian nhà nhỏ này, Tạ Liên không khỏi cảm thấy kỳ lạ. Nghe bảo trước khi Vũ Sư đại nhân phi thăng cũng giống như y, là hậu duệ hoàng tộc của nước Vũ Sư, chính vì lẽ đó, y mới không trực tiếp dùng những loại đá quý hiếm có trên đời làm quà tặng Vũ Sư, có lẽ cảm nhận của Vũ Sư về chúng cũng như y thôi, chẳng lấy làm lạ gì. Vì đâu sau khi phi thăng, Vũ Sư lại sa sút đến mức này? Có lẽ, đây cũng là một cách thức tu luyện.
Tạ Liên không giảm bớt chút lễ nghi nào, cảm ơn nông phu kia rồi đến gần gian nhà nhỏ, đứng bên ngoài cất cao giọng gọi: "Vũ Sư đại nhân, Thái tử Tiên Lạc Tạ Liên mạo muội đến thăm, chưa kịp báo trước, mong ngài lượng thứ."
Trong nhà không có tiếng động, nông phu kéo lưỡi cày đi tới, hỏi: "Hả? Ngươi là vị Thái Tử điện hạ mười bảy tuổi đã phi thăng đấy sao?"
Tạ Liên đáp: "Hổ thẹn."
Nông phu nói: "Có gì đâu mà hổ thẹn, sự thật mà. Nhưng Vũ Sư đại nhân không thích gặp người, gần đây còn bị thương, e rằng không thể ra gặp ngươi được."
Nghe vậy, Tạ Liên thấy hơi thất vọng, nhưng vẫn ôm lòng muốn thử: "Có thể nhờ ngài chuyển lời thay ta không? Tại hạ có chuyện quan trọng muốn nhờ. Nếu Vũ Sư đại nhân nghe xong mà thấy có điều bất tiện, ta tuyệt đối không miễn cưỡng."
Nông phu cười ha ha đáp: "Không cần ta phải chuyển lời, chúng ta biết tỏng ngươi đến làm gì mà. Tiên Lạc không có nước, cảm giác không mấy dễ chịu nhỉ?"
Tạ Liên sửng sốt, hỏi: "Ngài biết chuyện Tiên Lạc ư?"
Nông phu đáp: "Dĩ nhiên là biết. Đâu chỉ mấy kẻ sống ở khe núi bần cùng hẻo lánh như chúng ta biết, Tiên Lạc tai họa ập đầu, bây giờ còn ai mà không rõ? Chuyện của ngươi, chính ngươi không thấu được, nhưng người khác nhìn chằm chằm ngươi cả ngày, còn rõ hơn bản thân ngươi nữa, nói không chừng trong lòng còn đang hí hửng đấy, ha ha. Ngươi đến xin Vũ Sư cho mượn pháp bảo để cứu trợ đúng không?"
Bị nông phu vạch trần, lúc này Tạ Liên mới nhận ra, những thần quan trên Thượng thiên đình không phải là trùng hợp vắng mặt, mà đã quá rõ mục đích tìm gặp của y, cố ý đóng cửa không tiếp, hoặc đã tránh đi từ sớm, không muốn vướng vào vụ rắc rối này. Tạ Liên thở dài, nghĩ thầm: "Chẳng lẽ ngay từ đầu, đáng ra phải đến thăm một lượt từng ngôi miếu lớn, về sau gặp lại mới dễ giải quyết?" Nghĩ đến có chút chán nản, y nói khẽ: "Đúng là như thế, nếu Vũ Sư đại nhân không tiện, tại hạ quyết không bám riết."
Nông phu lại hỏi: "Sao ngươi lại không bám riết? Tự ái à? Đây là chuyện lớn sống còn của dân chúng nước ngươi, chẳng phải ngươi nên bám dai như đỉa sao? Muốn ngươi hạ mình xuống một chút đã không chịu nổi hả? Người trẻ tuổi không thể thiếu kiên nhẫn như vậy được. Nói câu này hơi khó nghe, Vũ Sư đại nhân giúp ngươi là vì tình cảm, không giúp ngươi là giữ bổn phận. Cho ngươi mượn là tâm trạng tốt, không cho ngươi mượn thì sau này ngươi cũng không được oán trách."
Tạ Liên biết rõ những lời hắn nói đều có lý, nhưng giờ đã sứt đầu mẻ trán, lại thêm giọng điệu không mấy thân thiện, sự bực bội hơi trào lên, ngẩng đầu nghiêm mặt nói: "Những gì ngươi nói ta đều rõ cả, ta cũng tuyệt đối sẽ không oán trách sau lưng, ngươi cần gì phải suy diễn ta như thế? Ta nói sẽ không bám riết chỉ vì không muốn phí công mà còn làm Vũ Sư đại nhân khó xử. Nếu Vũ Sư đại nhân không thấy khó xử, chỉ cần ta bám riết là mượn được pháp bảo, vậy bảo ta chắp tay dâng lên tám ngàn đạo quán, quỳ xuống dập đầu lạy ngươi một trăm cái cũng có gì khó đâu?"
Nông phu cười ha ha: "Giận rồi hả? Tính khí trẻ con. Bắt lấy này!"
Nông phu vừa ném, Tạ Liên giơ tay đón lấy một chiếc nón trúc màu xanh, chính là cái mà thoạt đầu nông phu đeo trên lưng. Tạ Liên hỏi: "Đây là?"
Nông phu đáp: "Thứ ngươi muốn mượn đấy. Trước khi ngươi tới, Vũ Sư đại nhân đã bảo ta giao cho ngươi. Dùng cho cẩn thận, nếu làm hỏng chúng ta không tha cho ngươi đâu."
Tạ Liên trợn to mắt, hỏi: "Tại sao?"
Nông phu đáp: "Đã nói tại sao rồi mà? Cho ngươi mượn là vì tâm trạng tốt. Thần quan khác không cho ngươi mượn, Vũ Sư đại nhân cứ muốn cho ngươi mượn đấy. Vũ Sư đại nhân muốn làm gì thì làm nấy thôi."
Tạ Liên luôn miệng nói: "Cảm ơn! Cảm ơn!"
Nông phu lại cất lời: "Ngươi cũng đừng vui mừng quá sớm, Thái tử điện hạ à. Tuy Vũ Sư đại nhân phi thăng lâu hơn ngươi, nhưng tín đồ lại không nhiều bằng ngươi, pháp lực cũng kém xa ngươi, hơn nữa còn đang bị thương, ngoại trừ cho ngươi mượn vật này, những việc còn lại ngươi chỉ có thể tự dựa vào mình thôi. Nước xa không cứu được lửa gần, nón Vũ Sư chỉ có thể dời mưa, không thể tạo nước. Nước của Tiên Lạc các ngươi không đủ dùng, chỉ có thể đi mượn quốc gia khác, nhưng chưa chắc quốc gia khác đã bằng lòng, chỉ có nước Vũ Sư quanh năm dồi dào mới có dư. Thế nhưng núi dài nước xa, mỗi lần dùng đều phải tiêu hao một lượng lớn pháp lực của ngươi, pháp lực ngươi có nhiều hơn nữa rồi cũng có lúc cạn kiệt thôi."
Tạ Liên lại hiểu rất rõ, chịu cho một người không có quan hệ gì mượn pháp bảo của mình là chuyện khó khăn nhường nào. Y khom người thật thấp, gọi với về phía nhà tranh: "Vũ Sư đại nhân bằng lòng vươn tay giúp đỡ, tại hạ đã cảm kích muôn phần. Đại ân không lời nào cảm tạ hết, sau này nếu có gì ta giúp được, xin Vũ Sư đại nhân cứ việc sai bảo. Cáo từ!"
Mượn được pháp bảo, Tạ Liên tức khắc tìm một sông hồ ở phía Nam, dùng nón Vũ Sư thu một lượng nước lớn trong hồ, băng qua nghìn dặm, trở lại Vĩnh An ở Tiên Lạc, tìm đến thôn trang hạn hán nghiêm trọng nhất, Lang Nhi Loan, đứng trên mây lật nón lại.
Ngay lập tức, từ trên trời đổ xuống một trận mưa nhỏ tí tách. Tạ Liên nhảy khỏi đám mây, hai chân tiếp đất, các thôn dân đang sống dở chết dở chưa thể nào tin nổi, có người lao ra cửa tắm mưa nhảy nhót reo hò, có người vội vã xách chậu lớn chậu nhỏ rửa mặt rửa chân trong nhà ra hứng mưa.
Thấy thế, Tạ Liên thở phào nhẹ nhõm, bấy giờ mới nở nụ cười. Lúc này, chợt nghe một tiếng gọi từ xa vọng tới: "Thái tử điện hạ!"
Y quay đầu lại, chỉ thấy Mộ Tình nửa mặt u ám, vòng ra từ sau một thân cây. Thấy sắc mặt Mộ Tình không tốt, Tạ Liên biết ngay có chuyện không ổn, bèn hỏi: "Sao thế, xảy ra chuyện gì rồi?"
Chương 75
Đóng cổng thành, Vĩnh An tuyệt đường sống (1)
Mộ Tình nói: "Điện hạ, sao huynh đi một phát nhiều ngày thế?"
Tạ Liên ngẩn ra: "Ta đi lâu lắm sao?"
Đi đi đến đến, lên trời xuống đất, thu nước trong hồ, đạp mây tạo mưa, chẳng phân ngày đêm, sớm đã tiêu tốn rất nhiều thời gian, mà y lại không hề phát giác. Mộ Tình nói: "Nhiều ngày lắm rồi! Lời cầu nguyện của tín đồ bên điện Thái Tử đã chất thành núi."
Lúc này, Tạ Liên phát giác mưa phùn yếu dần, bèn vươn tay ra, nói: "Chẳng phải ta đã dặn dò, bảo các ngươi mau chóng giải quyết những việc quan trọng sao?"
Mộ Tình đáp: "Những gì giải quyết được, tất nhiên chúng ta đã giải quyết hết rồi, nhưng mà... còn rất nhiều lời cầu nguyện mà chúng ta không đủ tư cách vượt cấp làm thay. Bởi vậy trước đó ta mới bảo điện hạ đừng ém quá lâu, mau mau trở về."
Mộ Tình nói hết câu, mưa cũng tạnh. Thời gian kéo dài của cơn mưa này còn ngắn hơn tưởng tượng của Tạ Liên, lòng y không khỏi trĩu nặng. Mây đen giữa trời dần dần tản ra, chầm chậm rơi vào chiếc nón trúc màu xanh, Tạ Liên chìa hai tay bắt lấy, nói: "Nhưng ngươi nhìn tình hình này đi, ta cũng không thể phân thân được."
Mộ Tình nhíu mày: "Điện hạ, huynh mượn được pháp bảo của Vũ Sư rồi sao? Nước này dời đến từ đâu?"
Tạ Liên nói: "Nước Vũ Sư ở phía Nam."
Mộ Tình hỏi: "Xa vậy ư? Một lần dời thế này tốn bao nhiêu pháp lực của huynh? Hơn nữa phạm vi mỗi lần đổ mưa rất nhỏ, lại không kéo dài được bao lâu, cứ hao tốn kiểu này, huynh làm sao ứng phó nổi lời cầu nguyện của tín đồ trong điện Thái Tử?"
Không cần Mộ Tình nói, Tạ Liên cũng tỏ tường. Y là Võ Thần, tín đồ trong điện Thái Tử là căn cơ lập điện và cội nguồn pháp lực của y. Hành động này chẳng khác nào bỏ căn cơ theo đuổi cái khác, hễ mà sơ sẩy, sợ rằng hai bên đều lo không xong, nhưng ngoại trừ làm thế, còn cách nào nữa chứ?
Tạ Liên nói: "Ta biết. Nhưng cứ cái đà này, nếu bên Vĩnh An bùng phát bạo động, sớm muộn gì cũng lan đến điện Thái Tử."
Mộ Tình lại nói: "Đã sắp bùng phát rồi!"
Tạ Liên hoảng hốt: "Gì cơ?"
Sau khi nghe Mộ Tình thông báo, Tạ Liên tức tốc trở về hoàng thành Tiên Lạc. Đi đến đường Thần Võ, vừa khéo gặp phải một nhóm binh sĩ hoàng gia võ trang đầy đủ, đang cầm lợi khí (vũ khí sắc bén) áp giải một đám đàn ông đầu tay đeo gông áo quần rách rưới đi tới. Dân chúng đứng đầy hai bên đường, sắc mặt ai nấy cũng vừa kích động vừa căm phẫn. Phong Tín tay giương cung đen, bày thế trận sẵn sàng đón địch, dường như đang đề phòng dân chúng hai bên bạo động. Tạ Liên quát: "Phong Tín! Những người bị áp giải là ai? Phạm tội gì? Đưa đi đâu?"
Nghe giọng Tạ Liên, Phong Tín bước nhanh tới, nói: "Điện hạ! Những người này đều là người Vĩnh An."
Hàng đàn ông này ai cũng cao gầy, màu da hơi sạm, tầm vài chục người. Phía sau nhóm binh sĩ áp giải bọn họ còn có vài cụ già, cùng với một ít phụ nữ và trẻ em mặt đầy hoảng hốt. Tạ Liên hỏi: "Đằng sau cũng toàn là người Vĩnh An?"
Mộ Tình đáp: "Phải."
Thì ra mấy tháng nay Vĩnh An gặp đại hạn, những người trước đây định cư ở Vĩnh An lục tục chạy nạn sang phía Đông. Một nhóm vài chục người thì chưa thấy rõ, nhưng tính đến hiện tại đã có hơn năm trăm người chạy nạn sang đây. Hơn năm trăm người đó tụ lại một chỗ, đầu người đông nghìn nghịt, vậy thì thấy rất rõ.
Nhóm người Vĩnh An này chưa quen với cuộc sống nơi đây, hai bàn tay trắng, vừa mở miệng là lộ rõ chất giọng vùng khác, đặt chân đến một thành trì xa lạ mà phồn hoa, dĩ nhiên muốn xúm thành một tốp sưởi ấm cho nhau, vì vậy bọn họ tìm khắp hoàng thành Tiên Lạc, cuối cùng tìm được một vùng đất xanh tốt không người sinh sống, thế là vui mừng khôn xiết, dựng nhà lều ở đây làm chỗ nghỉ chân.
Thật không may là, tuy vùng đất xanh tốt này đích thực không người sinh sống, nhưng lại là ánh trăng sáng trong lòng nhân sĩ hoàng thành. Người Tiên Lạc người quen hưởng thụ và thưởng thức, vì cái đẹp nơi đây, rất nhiều người dân hoàng thành rảnh rỗi không có gì làm sẽ đến vùng đất xanh tốt này tản bộ, khiêu vũ, luyện kiếm, ngâm thơ, vẽ tranh, tụ họp. Còn Vĩnh An tọa lạc tại phía Tây Tiên Lạc, đất đai cằn cỗi, vốn đã nghèo nàn, tính tình và phong tục của dân chúng nơi đó cũng khác xa dân chúng phía Đông Tiên Lạc. So với bọn họ, dân chúng hoàng thành thường có thể ý thức sâu sắc hơn rằng mình mới là "người Tiên Lạc" chính thống. Giờ đây, chốn khi xưa thanh nhã lại bị một đám dân chạy nạn chiếm đóng, suốt ngày nấu thuốc, khóc than, giặt quần áo, nhóm lửa, mùi mồ hôi và mùi thức ăn thừa thúi rình bay đầy, khiến cho rất nhiều người dân sống lân cận không tài nào chịu nổi, oán giận không ngớt.
Thật ra mấy cụ già Vĩnh An dẫn đầu thừa biết điều đó chứ, bọn họ cũng muốn dời sang nơi khác, nhưng hoàng thành vốn đã đông dân cư, dời đến đâu cũng chật ních người, không tìm được nơi nào khác có thể xếp chỗ cho nhiều người như thế, huống chi trong hơn năm trăm người này còn có trẻ em và phụ nữ già yếu bị thương bị bệnh, không thích hợp di chuyển nhiều lần, vậy nên buộc phải hành xử thận trọng, mặt dày ở lì không đi. Dân chúng hoàng thành tuy bất mãn là thế, nhưng dù sao cũng là người một nước, nếu đã gặp nạn thì tạm thời ráng nhịn vậy.
Nghe đến đó, hàng binh sĩ áp giải vài chục gã đàn ông Vĩnh An đi tới cổng chợ, quát tháo ra lệnh: "Quỳ xuống!"
Những người Vĩnh An kia tỏ vẻ không phục, nhưng đao kề trên cổ, không quỳ cũng phải quỳ. Thấy bọn họ quỳ xuống nhấp nhô cao thấp không đều, dân chúng hoàng thành đứng vây xem có người thở dài, có người hả giận. Tạ Liên hỏi: "Theo lời ngươi nói, hai bên đều đang nhẫn nhịn, vậy hôm nay là sao đây?"
Phong Tín và Mộ Tình còn chưa trả lời, trong đám dân có một người phụ nữ dập đầu gào khóc*: "Lũ trộm cướp man rợ các ngươi! Trộm gà trộm chó rồi còn đánh tướng công ta ra nông nỗi đó, muốn bò dậy cũng bò không nổi, nếu tướng công ta có mệnh hệ gì, ta liều mạng với các ngươi!"
*Nguyên văn là 哭天抢地: ý bảo miệng kêu trời, đập đầu xuống đất gào khóc tức tưởi.
Vài người bên cạnh vội vàng an ủi nàng, có người còn trách mắng: "Kẻ bỏ nhà rời quê đến địa bàn của người khác mà chẳng biết an phận thủ thường!"
"Đúng đấy, đến nhà người khác mà không khách sáo tí nào, còn trộm đồ nữa!"
Một chàng trai trẻ đeo gông không giữ được bình tĩnh, biện bạch: "Từ đầu đã nói không phải là bọn ta trộm! Kẻ ra tay trước cũng không phải bọn ta! Chưa kể bên bọn ta cũng có người bị thương..." Một cụ già quát bảo ngừng: "Đừng nói nữa!"
Chàng trai trẻ kia tức tối ngậm miệng. Phong Tín nói: "Trong hoàng thành có người mất một con chó, bởi vì trước đây có trẻ em Vĩnh An đói quá trộm vịt của người ta luộc ăn, nên lần này cũng tình nghi là bị người Vĩnh An bắt đi nướng ăn, thế là chạy sang bên bọn họ hỏi, nói không hợp một câu đã choảng nhau."
Tạ Liên chỉ cảm thấy không lý giải nổi: "Chỉ vì một con chó mà làm ầm ĩ như thế, bắt nhiều người như thế sao?"
Phong Tín đáp: "Đúng vậy, chỉ vì một con chó mà ầm ĩ như thế. Hai bên nhịn nhau đã lâu, chuyện nhỏ cũng thành chuyện lớn. Hai bên đều thề thốt nói rằng đối phương ra tay trước, là lỗi của đối phương, choảng nhau túi bụi một trận, không hiểu sao càng đánh càng lớn."
Một binh sĩ dẫn đầu quát: "Tụ tập gây rối, nghiêm trị không tha! Đeo gông thị chúng, không được tái phạm!" Nói xong lùi ra, giây tiếp theo, hàng loạt người bắt đầu ném rau cải và trứng thối vào đám đàn ông Vĩnh An kia. Mấy người lớn tuổi thì khom lưng nói khắp bốn phía: "Xin lỗi, các vị, xin lỗi."
"Xin thủ hạ lưu tình, thủ hạ lưu tình."
*Thị chúng: bêu trước đám đông, thường chỉ trừng trị phạm nhân trước công chúng.
Mặc dù Tạ Liên cho rằng đúng là chuyện bé xé ra to, hoang đường tột độ, nhưng đại khái vẫn thông hiểu được, nói: "Vậy rốt cuộc có phải bọn họ trộm không? Tìm được con chó kia chưa?"
Phong Tín lắc đầu: "Chuyện đó ai biết được. Ăn xong chỉ cần đổ vụn xương, còn ai tìm được nữa? Có điều nhìn nét mặt, ta cảm thấy không giống là do bọn họ trộm."
Nhưng mà, hiển nhiên binh sĩ hoàng thành sẽ phán xét nghiêng về phía dân chúng hoàng thành, bất luận có trộm hay không, nếu đã đánh nhau thì chắc chắn là do người Vĩnh An không đúng. Nhất là khi cánh đàn ông hoàng thành rất thích vui đùa, không giỏi đánh nhau như đàn ông Vĩnh An, xem ra lần này bị người vùng khác đánh tơi bời, mất sạch thể diện, oán thù kết sâu. Tạ Liên lắc đầu, lia mắt qua nhìn, chợt phát hiện trong hàng đàn ông Vĩnh An này có một thanh niên cúi đầu đứng giữa trông vô cùng quen mắt, chính là thanh niên Lang Anh chôn con trong khu rừng nhỏ kia.
Tạ Liên lập tức ngẩn ra. Lúc này, gần đó có người oán trách: "Sao ta cảm thấy mấy tháng nay người Vĩnh An trong hoàng thành càng đến càng đông nhỉ, hôm nay còn dám đánh người nữa."
"Chắc không phải bọn họ muốn qua đây hết chứ?"
Một gã đàn ông trông như thương nhân vung hai tay loạn xạ, nói: "Quốc vương bệ hạ sẽ không đồng ý đâu! Mấy hôm trước nhà của ta đã bị người Vĩnh An vào trộm đồ, nếu bọn họ túa qua đây hết, vậy còn được sao?"
Nghe gã nói thế, Lang Anh vẫn một mực cúi đầu mặc cho rau quả ném đầy mặt thình lình ngẩng đầu lên, nói: "Ngươi nhìn thấy à."
Không ngờ người này lại nói chuyện với mình, thương nhân kia thuận miệng đáp: "Cái gì?"
Lang Anh hỏi: "Người Vĩnh An trộm đồ nhà ngươi, là ngươi tận mắt nhìn thấy sao?"
"..." Thương nhân kia nói: "Ta không tận mắt nhìn thấy, nhưng trước giờ luôn yên lành, sau khi các ngươi tới mới tự dưng bị trộm, chẳng lẽ nó không liên quan chút nào đến các ngươi?"
Lang Anh gật đầu: "Thì ra là thế. Ta hiểu rồi. Trước khi chúng ta đến, kẻ trộm đồ đều là các ngươi, sau khi chúng ta đến, kẻ trộm đồ đều là chúng ta..."
Lời còn chưa dứt, một trái hồng chín rữa bay xoáy tới, đập vào khóe miệng của Lang Anh, trông như nôn ra một đóa hoa máu lớn. Thương nhân kia phì cười ra tiếng, ánh mắt Lang Anh hờ hững, ngậm miệng không nói nữa.
Tạ Liên biến đổi những hòn đá sắc nhọn ném về phía các thanh niên Vĩnh An, để bọn họ không đến mức máu chảy đầu rơi. Trận thị chúng này tiến hành mãi đến chập tối, dân chúng vây xem từ từ giải tán, đám binh sĩ thấy đủ rồi, bây giờ mới ngạo mạn mở gông, cảnh cáo sau này không được gây chuyện thị phi nữa, bằng không nhất định không dễ dàng bỏ qua. Mấy người lớn tuổi một mực cúi người gật đầu cười làm lành, cam đoan sẽ không tái phạm, Lang Anh lại tỏ ra bình thản, tùy ý bỏ đi. Thấy hắn đi một mình, Tạ Liên chộp đúng thời cơ, vụt ra từ sau thân cây, chặn đường của hắn.
Tạ Liên bất chợt xuất hiện, đầu tiên ánh mắt của Lang Anh chuyển lạnh, trong phút chốc, dường như muốn ra tay bóp cổ họng của y. Ngay tích tắc sau khi thấy rõ người đến, hắn rút lại cánh tay còn chưa duỗi ra, nói: "Là ngươi."
Hình dạng mà Tạ Liên hóa thành chính là tiểu đạo sĩ kia. Bị cái vồ hụt khi nãy của Lang Anh làm cho thoáng sửng sốt, y nghĩ thầm: "Võ nghệ của người này khá lợi hại." Sau đó nói: "Ta đã tặng viên ngọc đó cho ngươi, sao ngươi không mang nó về Vĩnh An?"
Lang Anh nhìn y, đáp: "Con ta ở đây, ta cũng ở đây."
Ngừng một hồi, hắn lấy viên ngọc san hô ra khỏi dây lưng, nói: "Ngươi muốn lấy lại cái này không? Trả ngươi."
Trên bàn tay Lang Anh đưa viên ngọc qua còn có vết bầm do đeo gông. Im lặng chốc lát, Tạ Liên không nhận, nói: "Về đi. Hôm nay Lang Nhi Loan mưa rồi."
Y chỉ trời, nói: "Ngày mai! Sẽ còn mưa nữa. Ta đảm bảo đấy, nhất định sẽ mưa."
Lang Anh lại lắc đầu, nói: "Bất luận có mưa không cũng không về được nữa."
Nhìn bóng lưng Lang Anh bỏ đi, Tạ Liên ngớ người giây lát, chỉ cảm thấy phiền muộn vô cùng.
Thuở xưa lúc chưa phi thăng, dường như chẳng có muộn phiền chi, y muốn làm gì là sẽ làm được tuốt. Nào ngờ sau khi phi thăng, dường như trong lúc bất chợt, y đã bị phiền muộn vô cùng vô tận bủa vây. Có phiền muộn của người khác, cũng có phiền muộn của chính mình. Muốn làm một chuyện mà lại khó khăn như thế, được này mất nọ, lực bất tòng tâm. Tạ Liên thở dài rồi cũng xoay người rời khỏi, quay về điện Thái Tử, giải quyết lời cầu nguyện tồn đọng suốt nhiều ngày của các tín đồ.
Dẫu vậy, Tạ Liên cũng không phải là người phiền muộn nhất. Quốc vương mới phải.
Nỗi lo của quốc vương Tiên Lạc trở thành sự thật, hơn năm trăm người Vĩnh An kia chỉ là bước đầu mà thôi.
Trong nhiều lần xuôi Nam ngược Bắc, Tạ Liên cầm nón Vũ Sư mượn được, dùng năng lực của một mình mình, làm phép tạo mưa. Mỗi lần tạo mưa phải tốn ít nhất năm sáu ngày và lượng lớn pháp lực, nếu không phải là y, e rằng thật sự không có người nào chịu được kiểu bôn ba chạy đôn chạy đáo như thế. Tất nhiên, ngoại trừ Quân Ngô. Nhưng nơi cai quản của Thần Võ Đại Đế rộng hơn y nhiều, tín đồ và lãnh thổ cần tiêu tốn tinh lực cũng nhiều hơn một nước Tiên Lạc, làm sao Tạ Liên có thể đi xin Quân Ngô hao tâm tổn trí vì việc này? Huống chi một lần chỉ có thể tưới mát một phần đất nhỏ của Vĩnh An, mà còn không kéo dài được bao lâu, tuy có thuyên giảm nhưng không thể trị tận gốc. Vì vậy một tháng sau, người Vĩnh An bắt đầu chính thức kết bè kết đội di cư về phía Đông. Ban đầu là một nhóm vài chục người, bây giờ là vài trăm người, vài nghìn người, nhiều vô số kể, hội tụ thành sông.
Qua thêm một tháng, quốc vương Tiên Lạc ban hành một mệnh lệnh: Xét thấy mấy tháng nay giao tranh không ngừng, ẩu đả liên miên, vì duy trì an ninh trong hoàng thành, bắt đầu từ hôm nay, người Vĩnh An lang bạt trong vương đô Tiên Lạc phải rút hết khỏi hoàng thành. Mỗi người được cho lộ phí nhất định, đến thành trấn khác an cư trú tạm.
Ngay trước mặt dòng người Vĩnh An nườm nượp đi về phía Đông, đóng cổng chính hoàng thành Tiên Lạc.
___________________
Tác giả nói:
Bọn họ là hai tỉnh của một nước, thủ đô và một thành phố tuyến 3 nghèo nàn, nội loạn, mọi người đừng quên nha! Còn nữa, tình huống không giống, đừng mang vào đời thực!
Chương 76
Đóng cổng thành, Vĩnh An tuyệt đường sống (2)
"Mở cổng!"
"Cho chúng ta vào!"
Các binh sĩ lùi vào trong thành, cổng lớn ngàn cân khép lại. Những người bị đám binh sĩ trục xuất ra ngoài cổng túa về như cơn thủy triều đen kịt, nện ầm lên cổng. Các tướng sĩ trên cổng thành hét lớn: "Rút đi! Rút đi! Ai đã lãnh lộ phí có thể khởi hành rồi, đi về phía Đông, đừng dừng dọc đường!"
Tuy nhiên, những người Vĩnh An này rời bỏ quê hương, chạy nạn suốt một đường, đi đến hoàng thành gần với mình nhất. Cổng chính hoàng thành đóng trước mặt bọn họ, nếu muốn sống thì phải vòng qua hoàng thành, đi đoạn đường dài hơn để đến thành trì càng xa về phía Đông.
Thế nhưng đi cả chặng đường đến đây đã trải qua biết bao gian khó, tử thương vô số, nào còn thừa sức tiếp tục đi về phía trước? Cho dù mỗi người được phát cho một ít lộ phí, nước và lương khô, nhưng liệu chống được mấy ngày trên đường đây?
Ai nấy cũng mặt xám mày tro, có người kéo lê nồi niêu xoong chảo, có người cõng trẻ con, có người khiêng cáng cứu thương, dìu thì dìu, nằm thì nằm, đi không nổi nữa, ngồi thành từng tốp trước tường thành. Đám đàn ông trẻ tuổi còn sức để nổi giận, đập cổng thành hô lớn: "Các ngươi không thể làm vậy được! Các ngươi muốn bọn ta chết sao!"
"Đều là người Tiên Lạc với nhau, các ngươi có cần đuổi cùng giết tận như vậy không!"
Một người đàn ông gào đến khản cổ: "Đuổi bọn ta ra thì thôi đi, ta không vào, nhưng cho vợ con ta ở lại được không?!"
Như kiến càng lay cây, cổng thành chẳng hề nhúc nhích.
Tạ Liên đứng trên lầu cổng thành. Áo trắng bay phần phật, y lướt qua tường chắn mái, nhìn xuống bên dưới. Phía ngoài hoàng thành toàn là đầu người chậm chạp lúc nhúc, chi chít đông nghịt, cực giống bầy kiến mà y từng thấy vào thuở nhỏ chơi trong ngự hoa viên.
Lúc đó xuất phát từ tò mò, y nhìn thêm vài lần, vừa duỗi một ngón tay định chọt lén thì có cung nhân kêu lên ngay: "Điện hạ, thứ này bẩn muốn chết, không được chạm, không được chạm!" Sau đó nhấc váy chạy vội qua đây, đạp vài cái nghiền chết bầy kiến ấy.
Lúc kiến dế còn sống, ngoài chi chít lít nhít thì chẳng có gì đẹp mắt, bị giẫm chết lại biến thành một bãi thua cả bùn cặn, càng chẳng đẹp đẽ gì cho cam.
Còn bên trong hoàng thành, vạn nhà đèn đuốc sáng trưng, ca múa vui vẻ. Một bức tường thành, tách rời hai thế giới khác nhau một trời một vực.
Người Vĩnh An đến sau không được vào thì thôi, vậy mà người ở trong từ trước cũng bị đuổi ra. Tuy nhẫn tâm thật, nhưng Tạ Liên có thể hiểu được, đó là bởi vì mấy tháng nay, dân hoàng thành và dân Vĩnh An xung đột gây sự càng lúc càng nhiều, để cả đám đàn ông như thế trong thành, chỉ sợ lỡ như bọn họ nội ứng ngoại hợp gây nhiễu loạn.
Tuy nhiên, có một điều Tạ Liên cho rằng vẫn thương lượng được, y nghiêm túc nói: "Tại sao phụ nữ và trẻ em cũng phải rút luôn? Trong đó có một số người chẳng còn đi được bao xa nữa."
Phong Tín và Mộ Tình đứng hầu sau lưng y. Mộ Tình đáp: "Muốn rút thì phải rút đi cùng nhau. Không lo ít chỉ lo chia không đều, không thể phân biệt đối xử, bằng không khó tránh kích động kẻ khác. Dựa vào đâu họ ở lại được còn ta thì không?"
Phong Tín nói: "Ngươi nghĩ nhiều quá."
Mộ Tình hờ hững cất giọng: "Sẽ có người nghĩ thế đấy. Hơn nữa nếu vợ và con đều ở lại, đám đàn ông đó sẽ không chịu đi quá xa, sớm muộn cũng sẽ quay trở lại. Giữ người trong thành chẳng khác nào để lại tai họa về sau."
Nhóm người Vĩnh An này không chịu đi, các tướng sĩ phía trong cổng thành cũng không đi được, nói: "Hừ, cứ nhây thế đi!"
Quốc vương bệ hạ đã hạ lệnh, lẽ nào bọn chúng cho rằng ngồi đây ăn vạ sẽ có tác dụng sao? Nhây được một hai ngày thôi, lẽ nào nhây được một hai tháng, một hai năm?
Dân chúng và tướng sĩ trong hoàng thành đều cho là thế. Có người Vĩnh An vì tuyệt vọng mà chấp nhận số phận, quyết định đánh cược một lần, tiếp tục đi về phía Đông, nhưng số lượng đó không nhiều. Phần lớn vẫn mong mỏi ngồi trước cổng thành, ngóng trông hoàng thành mở cổng cho mình vào, chí ít cho mình một chốn dừng chân để thu xếp sơ trước rồi tiếp tục lên đường. Thêm nhiều người Vĩnh An mới tới, nhìn cổng thành đóng chặt cũng thất vọng vô cùng, nhưng thấy nhiều người ngồi canh như thế, bọn họ cũng ôm lòng kỳ vọng và mong đợi gia nhập đại đội.
Thế là ba bốn ngày sau, người tụ tập ở cổng thành càng lúc càng đông, mấy chục ngàn người gần như đã dựng trại đóng quân tại đây, tạo nên một cảnh tượng hoành tráng. Bọn họ miễn cưỡng chèo chống nhờ nước và lương khô mà quốc vương phân phát, nhưng đã sắp đến cực hạn.
Cực hạn này, xảy ra vào ngày thứ năm.
Năm ngày qua, ngày nào Tạ Liên cũng chia một ngày làm ba, một phần dùng cho tín đồ điện Thái Tử, một phần dùng cho thu xếp chuyển nước tạo mưa, một phần dùng cho chăm sóc dân chúng Vĩnh An ngoài thành, tuy có Phong Tín và Mộ Tình phụ giúp, nhưng đôi lúc y cũng cảm thấy không kham nổi gánh nặng, có lòng mà không đủ sức. Ngày hôm đó, vào đúng canh giờ y không canh giữ ở ngoài thành, dưới ánh mặt trời gay gắt, trước cổng thành đột nhiên vang lên một tiếng hét thảm.
Tiếng hét thảm là của một cặp vợ chồng đang bế một đứa bé. Người người đua nhau vây quanh họ, hỏi: "Thằng bé này sao thế?"
"Đói hay khát?" Lát sau kinh hãi kêu lên: "Mọi người đem chút nước tới đây đi, sắc mặt thằng bé này không ổn rồi!"
Phụ nhân kia khóc lóc đút nước cho đứa bé ngộp đến nỗi mặt đỏ au, song tất cả nước đều bị nôn ra. Cha nó nói: "Ta không biết xảy ra chuyện gì nữa, nó bị bệnh rồi, đại phu, cần đại phu!" (Phụ nhân = phụ nữ đã có chồng)
Bế con trai xông đến trước cổng thành, hắn đập cổng rầm rầm: "Mở cổng, mở cổng cứu mạng với! Có người sắp chết, con ta sắp chết!"
Dĩ nhiên binh sĩ phía trong không dám mở cổng. Bất luận có phải thật sự có người sắp chết hay không, ngoài cổng tận mấy chục ngàn người, mở cổng rồi đừng mong đóng lại nữa, vì vậy chỉ dám thông báo cho tướng sĩ cấp trên. Khí trời oi bức, các tướng sĩ canh giữ suốt nhiều ngày cũng có hơi cáu kỉnh, nói qua quýt lấy lệ: "Cho hắn nước và thức ăn." Thế là bọn họ dùng một sợi dây thừng, treo chút nước và thức ăn đưa xuống dưới. Cha đứa bé kia nói: "Cảm ơn các ngươi, cảm ơn các vị tướng sĩ đại ca, nhưng chúng ta không cần nước và thức ăn, có thể nào tìm giúp chúng ta một đại phu không?"
Điều này thật sự khiến người ta khó xử, không thể cho hắn vào cổng tìm đại phu, cũng không thể treo một đại phu đưa xuống cho hắn. Có trời mới biết ra đến ngoài cổng, đám dân đói bụng suốt bốn năm ngày đó sẽ làm nên chuyện gì? Vì vậy, mấy vị tướng quân nói: "Bỏ đi, đừng quan tâm, cứ lờ đấy, không chết được đâu. Nếu hỏi nữa thì bảo đã thông báo rồi, đang đi xin chỉ thị của quốc vương bệ hạ."
Liên tục mấy ngày buồn phiền vì chuyện của Vĩnh An, quốc vương đã nhiều lần nổi giận, dĩ nhiên không ai dám đi quấy rầy ngài vì chút chuyện vặt này. Các binh sĩ đáp lại theo lời dặn, cha đứa bé kia mới yên tâm, luôn miệng nói cảm tạ, đội ơn quốc vương, quỳ xuống đất dập đầu. Nhưng hết canh giờ này đến canh giờ khác trôi qua, bóng nắng chói chan ngả từ bên này sang bên kia, đại phu mãi không xuất hiện, đứa bé trong ngực lại càng lúc càng nóng.
Cặp vợ chồng kia bế con mà tay run cầm cập, cha đứa bé đổ mồ hôi lạnh đầy đầu, lẩm bẩm: "Còn có người tới không? Còn mở cổng cho ta không?"
Cuối cùng hắn không nhịn được nữa, lớn tiếng gọi với lên cổng thành: "Các tướng quân, thật xin lỗi, ta muốn hỏi một chút... Đại phu đâu?"
Binh sĩ đáp: "Đã đi xin chỉ thị của quốc vương bệ hạ, ngươi chờ thêm chút đi."
Bên dưới có người không kiềm được: "Hai canh giờ trước đã nói đi rồi, sao đến giờ vẫn chưa trở lại?"
Đám binh sĩ nghe theo chỉ thị của cấp trên, đáp xong không đếm xỉa tới nữa. Những người dưới tường thành vừa tức giận, vừa bất đắc dĩ, vừa đau lòng, bọn họ túm tụm quanh đứa bé, bắt đầu hoài nghi: "Mấy người đó thật sự đã thông báo cho quốc vương bệ hạ sao? Không phải đang gạt chúng ta chứ?"
Cha đứa bé không chờ được nữa, hạ quyết tâm cõng con trai buộc sau lưng mình, dặn dò vợ vài câu. Phụ nhân kia tháo một lá bùa hộ mệnh trên cổ, đeo vào cổ chồng. Người đàn ông nọ chạy nhanh về phía tường thành, thử trèo lên trên.
Mặt bên tường thành được xây theo kiểu cực khó đặt tay, cha đứa bé túm vài cái nhưng không trèo lên được, đám đàn ông còn lại rối rít nói: "Để ta giúp ngươi!" Sau đó chạy qua nâng hắn lên. Mấy chục người xếp chồng lên nhau, đưa hắn lên chỗ cao hơn một trượng. Đến đây, cha đứa bé mới miễn cưỡng nắm lấy sợi dây thừng vừa rồi được dùng để treo nước và thức ăn, tiếp tục trèo lên trên. Mấy chục ngàn người bên dưới hồi hộp theo dõi cha đứa bé, không dám cổ vũ hắn cố lên, sợ bị phát hiện. Nhóm binh sĩ trên lầu cổng thành đã canh giữ vài ngày, đám dân chạy nạn Vĩnh An này cũng không gây nên chuyện lớn gì, khó tránh có chút lơi lỏng, chờ khi cha đứa bé trèo đến gần phân nửa, bọn họ mới bất chợt phát hiện có một người bám trên tường thành, bèn cất giọng quát to: "Làm gì vậy! Không được phép trèo tường! Kẻ nào trèo tường giết không tha! Có nghe rõ không, kẻ nào trèo tường giết không tha!"
Nghe bọn họ uy hiếp, cha đứa bé cũng hô lớn: "Ta không có ác ý! Ta chỉ muốn đưa con đi xem bệnh, sẽ không làm gì hết!" Vừa hô vừa tiếp tục trèo lên trên. Một gã tướng quân vốn đang dùng cơm, vừa hay tin này thì nổi cơn tam bành. Nếu hắn ta trèo lên bình yên vô sự, mở ra tiền lệ đó, thế chẳng phải sau này sẽ có vô số người Vĩnh An noi theo? Nhất định phải cản lại! Thế là gã sải bước dài, đứng bên bờ tường rống xuống dưới: "Ngươi không muốn sống nữa sao! Lập tức xuống ngay, nếu còn không xuống chúng ta không tha cho ngươi đâu!"
Mà người đàn ông nọ đã trèo đến nơi rất cao, qua được hơn phân nửa, cố thêm một chút là lên tới rồi, tất nhiên không chịu dừng lại. Xưa nay trong quân doanh, gã tướng quân kia luôn nói một là không có hai, chẳng ai dám trái lệnh của gã, ai dám trái lệnh thì đơn giản thôi. Gã đi tới bên tường, rút kiếm ra chém một nhát, sợi dây thừng đứt phựt.
Người đàn ông nọ nắm sợi dây thừng bị chém đứt, rơi xuống từ lưng chừng không trung. Giữa tiếng thét chói tai của vô số người, ngã phịch xuống nền đất cứng ngoài cổng thành.
Tạ Liên xuất hiện ngay sau đó.
Người đàn ông nọ ngã đưa lưng xuống đất, mà lưng hắn còn cõng đứa bé."Đùng" một tiếng, đứa bé bị ép thành một bãi thịt vụn nát bấy, một đóa hoa máu bắn tóe ra mấy trượng. Cổ của cha nó cũng bẻ gãy, hai mắt trợn tròn, một lá bùa hộ mệnh trượt khỏi cần cổ méo lệch, chính giữa viết hai chữ "Tiên Lạc", có hoa văn thêu bằng chỉ vàng, chính là bùa hộ mệnh khai quang lấy từ điện Thái Tử.
Vào khoảnh khắc trước khi trèo lên, người đàn ông nọ và vợ mình từng nắm bùa hộ mệnh, lặng lẽ khẩn cầu Thái tử điện hạ phù hộ, thế nên Tạ Liên mới nghe được tiếng cầu nguyện của bọn họ mà đuổi tới nơi này.
Tiếc rằng suy cho cùng, y nào phải những nhân vật chính anh hùng trong thoại bản* truyền kỳ, lần nào cũng có thể hiện thân vào đúng một khắc trước khi đao chém xuống, hô đao hạ lưu nhân trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc. Phụ nhân kia không đủ can đảm lật xác chồng lại xem con trai biến thành hình dạng gì, nàng bụm mặt gào to một tiếng, không nhìn mà lao thẳng về phía trước, đâm đầu vào tường, "cộp" một tiếng, ngã xuống không nhúc nhích nữa.
*Thoại bản: hình thức tiểu thuyết Bạch thoại phát triển từ thời Tống, chủ yếu kể chuyện lịch sử và đời sống xã hội đương thời, thường được dùng làm cốt truyện cho các nghệ nhân sau này. (theo vndic)
Ngay trước mắt Tạ Liên, dưới bức tường hoàng thành, chỉ trong nháy mắt đã có thêm ba thi thể!
Y còn chưa kịp phản ứng, dân chúng ngoài cổng thành đã không chịu nổi nữa.
Có người bắt đầu mắng: "Chết cả rồi, một nhà ba người chết cả rồi! Nhìn đi, đây là tướng quân tốt phụng sự cho quốc vương bệ hạ của chúng ta đấy! Không cứu chúng ta, ngược lại còn ép chúng ta vào đường chết!"
"Không cho chúng ta vào cũng không đưa người ra, bảo người ta phải làm sao đây? Ba mạng người máu me đầm đìa đang nhìn các ngươi đấy!"
"Bảo rằng người Vĩnh An phải rút hết khỏi hoàng thành, thế tại sao những kẻ giàu có kia không rút chung luôn? Chúng ta không tiền không quyền thì đáng phải chờ chết phải không? Xem như ta đã nhìn rõ rồi!"
"Không nhịn được nữa... thật sự không nhịn được nữa. Thuế cần thu hàng năm thu đâu có ít, lúc cứu trợ thiên tai bay đi đâu hết rồi?"
"Thà đút tiền nuôi lũ sâu mọt đó xây miếu cho con mình chứ không cứu tế nạn dân, chỉ cho chút nước và lương khô rồi đuổi đi, coi chúng ta là gì chứ? Hôn quân, hôn quân!"
Binh sĩ trên lầu cổng thành quát to bảo ngừng, tướng quân kia có tình thế nào mà chưa từng nhìn thấy, vì vậy chẳng để vào mắt. Tuy nhiên, tình hình đã mơ hồ vượt khỏi tầm kiểm soát. Hàng ngàn hàng vạn đôi tay căm phẫn đẩy cổng chính, có người còn dứt khoát dùng đầu hay thân mình mà tông, lần này không còn là kiến càng lay cây nữa.
Cổng thành nhúc nhích, thậm chí cả tòa lầu cổng thành cũng lờ mờ rung chuyển!
Từ khi sinh ra tới nay, Tạ Liên chưa bao giờ chứng kiến tình hình thế này. Nhân dân mà y nhìn thấy luôn thân thiết, hoà đồng, ấm no, đáng mến. Những người mặt mày méo xệch khóc la thảm thiết này, khiến y như lọt vào một thế giới hoàn toàn lạ lẫm, không khỏi sởn hết gai ốc. Ngay cả khi chạm trán yêu ma tà linh khủng bố nhất, y cũng chưa hề có cảm giac như thế. Đúng lúc này, trên lầu cổng thành truyền đến một tiếng gầm giận dữ.
Tạ Liên quay phắt đầu lại, chỉ thấy một bóng người cao gầy bóp cổ gã tướng quân khi nãy chém đứt dây thừng khiến cho ba người dưới tường thành bỏ mạng, "rắc" một tiếng giòn vang, bẻ gãy cổ của gã.
Đám binh sĩ cũng không biết người này đột ngột xuất hiện thế nào, cả bọn sợ mất mật, gào thét cầm kiếm vây tới: "Kẻ nào đấy?!"
"Ngươi lên đây bằng cách nào?!"
Tạ Liên lại nhanh chóng chú ý đến tay đối phương, đôi tay ấy đã máu thịt lẫn lộn. Người này thế mà lại dùng một đôi tay bằng xương bằng thịt, bấu vào tường thành gần như không có kẽ hở trèo lên trên. Mà khi bóng người kia quay lại, quả nhiên là Lang Anh!
Lang Anh bị binh sĩ bao vây chẳng hề suy suyển, lật tường chắn mái ném thi thể của gã tướng quân kia xuống lầu cổng thành, còn mình thì giẫm lên thi thể đó, xem nó như bàn đạp giảm xóc, nhảy xuống.
Một khắc trước khi nhảy xuống, hắn nhìn thẳng về phía Tạ Liên, nhưng không phải nhìn Tạ Liên, mà là xuyên qua Tạ Liên, nhìn hoàng cung tọa lạc tại chính giữa hoàng thành.
Kể từ hôm đó, nước Tiên Lạc chìm sâu vào hỗn loạn.
Chương 77
Tiên Lạc loạn, Thái tử trở về nhân gian
Dựa vào đám dân tị nạn Vĩnh An lang thang lưu lạc này, muốn đối đầu với quân đội hoàng thành Tiên Lạc, chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, châu chấu đá xe.
Song, những người đã không còn đường lui sẽ có can đảm lấy trứng chọi đá, châu chấu đá xe. Sau một hồi hỗn loạn, cuối cùng mấy chục ngàn người Vĩnh An cũng rời khỏi cổng thành, rút lui cách ra một khoảng, chuyển nơi dựng trại đóng quân.
Bọn họ nhất định không chịu đi. Biết đâu chừng sẽ bỏ mạng dọc đường, lằng nhằng ở đây nói chung cũng phải chết, có gì khác đâu? Nhờ vào nước và lương thực quốc vương phát cho trước đó, cùng với vỏ cây, cỏ dại, rễ cây, sâu rắn chuột kiến hoang dã, và cả oán hận lẫn không cam lòng tích tụ nhiều ngày qua, những người này liều chết chống chọi bằng sức sống kiên cường vượt xa tưởng tượng. Mấy ngày sau, hơn ngàn người vội vã tập hợp lại cầm cuốc, bừa, đá, cành cây, quay trở lại đánh một trận.
Tuy trận này đánh bừa đánh loạn, thua đến thảm thương, hơn một ngàn người mà thương vong quá nửa, nhưng không phải không có thu hoạch gì. Một mình Lang Anh xông vào lầu cổng thành, khiêng được vài bao lương thực và mấy bọc binh khí, mặc dù bị thương nghiêm trọng, nhưng trái lại đã khơi dậy ý chí chiến đấu của đám quần chúng liều mạng.
Lúc này, tính chất của bọn họ đã tiến gần hơn tới hai chữ "giặc cướp". Một lần, hai lần, rồi ba lần, các binh sĩ Tiên Lạc phát hiện, đám "giặc cướp" này tiến bộ rất nhanh.
Đám người tập kích loạn xạ không hề có kinh nghiệm ban đầu dần dần mò ra đường lối, kẻ tới mỗi lần một khó giải quyết hơn, kẻ về được cũng ngày càng nhiều hơn, còn có một làn sóng dân tị nạn mới nghe tin ùn ùn kéo đến gia nhập, mở rộng đội ngũ của bọn họ. Vì chuyện làm sao giải quyết đám "giặc cướp" này, nội bộ nước Tiên Lạc cãi nhau đến long trời lở đất, mà sau khi những cuộc xung đột hoang đường thế này diễn ra năm sáu lượt, Tạ Liên chẳng thể đứng ngoài bàng quan được nữa.
Đã nhiều ngày y không lên Thượng thiên đình báo danh, lần này vừa về Tiên kinh, y lặng thinh chạy thẳng vào điện Thần Võ. Lúc xông vào, Quân Ngô đang ngồi trên vị trí cao nhất, các thần quan đều cúi đầu nghe lệnh, dường như đang bàn bạc việc quan trọng. Nếu như trước đây, Tạ Liên sẽ chọn ngày khác ghé thăm, nhưng hôm nay y không chờ nổi nữa, không quanh co lòng vòng mà mở miệng nói thẳng: "Đế Quân, ta muốn trở về nhân gian."
Các thần quan đều kinh ngạc, sau đó che miệng không thốt câu nào, không muốn để lộ quá nhiều cảm xúc. Quân Ngô nghĩ ngợi giây lát rồi đứng dậy khỏi bảo tọa, ôn tồn nói: "Tiên Lạc, ta cũng biết đại khái đã xảy ra chuyện gì, nhưng ngươi bình tĩnh lại trước đã."
Tạ Liên đáp: "Đế Quân, ta đến đây không phải để hỏi ý kiến, mà là để thông báo. Con dân của ta đang rơi vào cảnh nước sôi lửa bỏng, xin thứ cho ta không thể bình tĩnh được."
Quân Ngô lên tiếng: "Chuyện đời tự có định số. Ngươi phải biết, một khi ngươi xuống, sẽ phạm vào lệnh cấm."
Tạ Liên đáp: "Phạm vào lệnh cấm thì cứ phạm vào lệnh cấm!"
Nghe vậy, các thần quan đều biến sắc. Quả thật xưa giờ chưa từng có vị thần quan nào dám hùng hồn dõng dạc thốt ra mấy câu như thế. Cho dù Quân Ngô có ưu ái vị Thái tử Tiên Lạc tuổi còn trẻ đã phi thăng này đến đâu, y cũng hơi to gan quá rồi.
Kế đó, Tạ Liên khom người cúi đầu, nói: "Xin người mở một con đường, cho ta chút thời gian. Nay đã khai chiến, thương vong là không thể tránh khỏi, nhưng nếu ta có thể dẹp yên cuộc chiến này, giảm số người chết đến mức thấp nhất, khống chế sự việc trong phạm vi nhỏ nhất, sau khi cuộc chiến kết thúc, ta nhất định sẽ tự nguyện trở về xin trị tội, đến lúc đó tùy người xử trí. Bất kể có đè ta dưới núi một trăm năm, một ngàn năm, một vạn năm! Ta tuyệt đối không hối hận!"
Nói đoạn, y giữ nguyên tư thế cúi đầu, lui ra ngoài điện. Quân Ngô gọi: "Tiên Lạc!"
Bước chân Tạ Liên khựng lại. Quân Ngô nhìn y, thở dài: "Ngươi không cứu được tất cả mọi người đâu."
Tạ Liên chậm rãi đứng thẳng lên, nói: "Có cứu được tất cả mọi người không, ta phải thử mới biết được đáp án. Cho dù trời nói ta nhất định phải chết, nhưng nếu thanh kiếm kia không xuyên qua tim ta, ghim chặt ta dưới đất không nhúc nhích nổi, ta vẫn sẽ sống sót, ta sẽ níu một hơi tàn, đấu tranh đến cùng!"
Lần này trở lại nhân gian, khác hẳn những lần trước đây. Tạ Liên cảm thấy có thứ gì đó đã bị ném mất. Có chút nhẹ nhõm, lại có chút nặng nề. Bước đầu tiên, y vội vã trở về hoàng cung trước.
Quốc vương và hoàng hậu ở phía sau ngự thư phòng, nét mặt âu sầu mỏi mệt, nhỏ giọng trò chuyện với nhau. Tạ Liên đi tới ngoài cửa, căng thẳng giây lát rồi bình ổn cảm xúc, vén rèm lên, bước vào trong, cất tiếng gọi: "Phụ hoàng."
Quốc vương và hoàng hậu đồng thời quay đầu lại, cả hai đều sững sờ. Trong khoảnh khắc, vẫn là hoàng hậu đứng dậy trước, mừng rỡ nói: "Hoàng nhi!"
Bà chìa hai tay bước qua đón con, Tạ Liên đỡ lấy bà. Song nụ cười còn chưa kịp tắt, chợt thấy quốc vương sầm mặt hỏi: "Con xuống đây làm gì!"
Nụ cười bên môi Tạ Liên cứng đờ.
Trước đó nghe được cha mẹ ngầm nói chuyện trong hoàng cung, Tạ Liên cảm thấy cha mình vẫn nhớ thương mình chứ không hề có nhiều ý kiến với mình như ông thể hiện mặt ngoài. Cứ ngỡ mình trở về, ít nhiều gì quốc vương cũng sẽ tỏ chút vui mừng, nếu vậy chắc chắn mình cũng sẽ tỏ thái độ mềm mỏng hòa thuận. Nào ngờ quốc vương lại phản ứng như vậy, sắc mặt không hài lòng chút nào, thế là Tạ Liên cũng nổi nóng, nghiêm giọng hỏi: "Sao con lại xuống ư, còn không phải đều vì người sao? Vĩnh An loạn lạc như hôm nay, người tự hỏi lòng xem có phải mình cũng gánh trách nhiệm nhất định không?"
Sắc mặt quốc vương biến đổi, lạnh lùng hỏi: "Trách nhiệm của ta? Đây là lời con nên nói với ta sao?!"
Không ngờ ông giận đến mức không chú ý đến việc tự xưng. Hoàng hậu rơi nước mắt nói: "Đã ra nông nỗi này rồi, hai người còn muốn tranh cãi nữa sao?"
Tạ Liên đáp: "Không phải tranh cãi, mà là nói lý lẽ. Cho dù người là quốc vương, là phụ hoàng của con, nhưng nếu người có trách nhiệm, sao con không được nói chứ? Tại sao không dốc sức cứu trợ thiên tai? Cứ cho là tiền cứu trợ bị ngốn ở từng tầng, vậy tại sao không trừng trị lũ tham quan ô lại đó? Nếu người nghiêm trị mạnh tay, bắt kẻ nào xử kẻ nấy, làm gì còn sâu mọt nào dám tham ô nữa, chẳng lẽ tình hình không tốt hơn hiện tại sao?"
Trán nổi gân xanh, quốc vương đập bàn quát: "Im miệng! Con tưởng quốc khố là cái động không đáy, hổng bao nhiêu lấp bấy nhiêu sao? Lại còn bắt kẻ nào xử kẻ nấy, nếu dễ dàng như thế, nhờ một tiếng ra lệnh của vua là thế như vũ bão hiệu quả tức thời, thì tại sao tham quan trong các triều đại chưa từng bị diệt tận gốc chứ? Con thì hiểu cái gì, trẻ con ngu dốt, còn muốn bàn chuyện trị quốc với ta!"
Tạ Liên nói: "Được, con không hiểu. Vậy cho dù hoàng thành không còn chốn dung thân cho dân tị nạn, rút đi là lẽ tất yếu, nhưng vì sao người không cấp thêm lộ phí cho dân tị nạn? Tại sao không trấn an lòng họ, phái quân đội hộ tống họ về phía Đông?"
Quốc vương trợn tròn mắt, chỉ tay lên trời mắng: "Cút! Cút mau! Cút về trời của con đi! Thấy con là phiền rồi! Không được phép xuất hiện nữa!"
Tạ Liên mang lòng nhiệt huyết giáng trần, vừa gặp cha mẹ lần đầu đã nghe cha bảo muốn mình cút về trời, y không hé răng nói câu nào, khom người với cha rồi lui xuống. Hoàng hậu đuổi theo kéo y lại, gọi: "Hoàng nhi à!"
Tạ Liên dịu giọng nói: "Mẫu hậu, người đừng lo lắng, con chỉ đi quanh vương đô xem xét tình hình hiện tại thôi."
Hoàng hậu lắc đầu giảng giải: "Hoàng nhi, mẹ không hiểu mấy chuyện quốc gia đại sự, nhưng mẹ hiểu phụ hoàng của con. Ông ấy làm quốc vương thế nào, bao nhiêu năm qua, mẹ nhìn thấy mà. Có thể lòng con cảm thấy ông ấy làm không tốt, đôi lúc mẹ cũng thấy vậy, chỉ là mẹ không nói thôi. Nhưng con đừng nói ngay mặt ông ấy như thế, dù sao ông ấy cũng là phụ hoàng của con. Con nói thẳng mặt rằng ông ấy không dốc sức, vậy thì nặng lời quá."
Tạ Liên muốn nói lại thôi. Hoàng hậu tiếp tục nói: "Tuy con là Thái tử, nhưng chưa từng làm quốc vương bao giờ. Trị quốc không giống như con tu đạo. Lúc con mới vào Hoàng Cực quán, quốc sư đã từng nói, tu đạo chỉ quan tâm đến "bản tâm" (tâm của mỗi người), nói vậy đúng chứ?"
Tạ Liên chậm rãi gật đầu, hoàng hậu nắm tay y, nói: "Nhưng còn nhiều việc khác trên đời, chỉ dốc sức thôi cũng vô dụng, con còn phải có năng lực. Chẳng những con cần có năng lực, thuộc hạ dưới trướng con cũng phải có năng lực, năng lực thôi vẫn chưa đủ, còn phải đồng lòng với con nữa."
Tạ Liên im lặng không đáp. Hồi lâu sau, y hỏi: "Có phải quốc khố cạn kiệt lắm rồi không? Con không cần miếu thờ, bảo ông ấy đừng xây cho con nhiều miếu như vậy, dẹp hết đống tượng vàng đó đi."
Hoàng hậu nói bằng giọng bất đắc dĩ: "Thằng nhóc này... xây miếu tất nhiên có tâm ý riêng của phụ hoàng con, muốn cho con những gì tốt đẹp, muốn con trên trời được nở mày nở mặt. Nhưng con có biết, trong tám ngàn đạo quán, rốt cuộc có bao nhiêu tòa thật sự do phụ hoàng con xây không? Chắc con không biết đâu."
Đúng là Tạ Liên không biết thật. Y nghĩ ngợi rồi trả lời: "...Một nửa ư?"
Hoàng hậu đáp: "Nếu phụ hoàng con thật sự dùng tiền trong quốc khố xây bốn ngàn điện Thái Tử, không cần chờ dân Vĩnh An nổi loạn, hoàng thành đã loạn trước rồi. Nếu quốc khố rỗng tuếch, lấy đâu ra tiền xây nhiều như thế? Phụ hoàng con chỉ xây hơn hai mươi tòa thôi, người khác học theo ông ấy, cũng xây theo phong trào, muốn lấy lòng ông ấy, lấy lòng con, cái này cũng đổ lên đầu phụ hoàng con sao?"
Tạ Liên ngập ngừng: "Con..."
Hoàng hậu nói khẽ: "Đúng là phụ hoàng con làm chưa đủ tốt, nhưng ông ấy đã... cố hết sức rồi. Có điều chuyện trên đời này, chỉ cố hết sức thôi là chưa đủ."
Ngưng một lát, bà nói tiếp: "Bây giờ con thấy những người Vĩnh An đó đáng thương nên trách cứ phụ hoàng con. Nhưng tất cả đều là con dân của ông ấy, lẽ nào toàn là chúng ta ức hiếp họ sao? Thật ra..."
Nói được nửa chừng, quốc vương trong ngự thư phòng giận dữ quát lên: "Nàng nói nhảm với nó nhiều như thế làm gì, bảo nó mau biến về trời đi!"
Hoàng hậu quay đầu, thở dài: "Hoàng nhi, con... con đừng xuống nữa. Con nên về đi thôi."
Rời khỏi hoàng cung, Tạ Liên đi men theo một con hẻm nhỏ bên đường Thần Võ, đúng lúc Phong Tín và Mộ Tình chạy tới. Mộ Tình vừa đến đã hỏi bằng giọng không thể tin nổi: "Điện hạ! Huynh tự xin hạ phàm ư? Huynh tới điện Thần Võ nói với Đế Quân rồi sao??"
Tạ Liên đáp: "Ừ."
Mộ Tình hỏi: "Tại sao không nói trước với ta một tiếng?"
Phong Tín thấy khó hiểu: "Ngươi có ý gì. Điện hạ muốn làm gì còn phải khai báo với người khác sao?"
Mộ Tình có chút thất lễ, nói: "Tại sao lại không? Chúng ta là người của huynh ấy mà, bây giờ chúng ta buộc chung một chỗ với huynh ấy, mọi cử chỉ của huynh ấy đều gắn chặt với tình cảnh của chúng ta, ta muốn biết huynh ấy định làm gì thì sai chỗ nào?"
Phong Tín hỏi vặn lại: "Điện hạ làm gì chúng ta đều phải theo cơ mà? Huynh ấy muốn làm gì, lên trời hay xuống đất, huynh ấy có chủ kiến của riêng mình, ngươi đang sợ gì chứ?"
"Ngươi!" Mộ Tình đáp: "Không phải ta sợ! Chỉ là ta..."
Tạ Liên xua tay: "Đủ rồi. Đừng cãi nhau nữa!"
Phong Tín và Mộ Tình tức thì im miệng. Lúc này, một đội ngũ diễu hành ngang qua đường lớn, hàng trăm hàng ngàn bách tính cao giọng hò hét: "Vĩnh An chưa diệt, nước không ngày yên!"
"Ung nhọt quấy loạn đất nước, ức hiếp người quá đáng!"
Người Tiên Lạc chưa từng công kích thứ gì mạnh mẽ đến thế, còn diễu hành sôi nổi rầm rộ, Tạ Liên không khỏi thấy lạ. Phong Tín lại cau mày hỏi: "Sao trong kia lại có cả phụ nữ vậy?"
Quả đúng là thế, trong đội ngũ diễu hành, một thiếu nữ xông lên ngay hàng đầu tiên. Thân hình thiếu nữ nhỏ gầy, da trắng như tuyết, mắt sáng đen láy, gò má ửng hồng, nhưng không phải xấu hổ mà là giận dữ, vô cùng gây chú ý. Lúc này Mộ Tình đã bình ổn cảm xúc, lạnh nhạt hỏi: "Điện hạ không nhận ra nàng sao?"
Tạ Liên đáp: "Không nhận ra."
Phong Tín lại cau mày hỏi: "Hình như hơi quen mắt thì phải?"
Mộ Tình trả lời: "Đó là một trong những ngọn nguồn."
Tạ Liên hỏi: "Ngọn nguồn gì cơ?"
Mộ Tình đáp: "Ngọn nguồn của cái không đội trời chung. Trước đó do người Vĩnh An trong hoàng thành mỗi lúc một đông, có người không chung sống đàng hoàng, lén lút gây sự khắp nơi, trong triều còn đang bàn bạc việc trục xuất, tin đồn đã sớm truyền ra ngoài. Có một người Vĩnh An muốn ở lại, không muốn đi, đâm ra bí quá hóa liều, trong một đêm nọ, gã lẻn vào nhà một người giàu bắt cóc con gái nhà đó đi."
Mộ Tình nói vậy, Tạ Liên nghe sơ vẫn chưa hiểu lắm: "Không muốn đi sao lại bắt cóc con gái một nhà giàu?"
Mộ Tình đưa mắt nhìn y, đáp: "Muốn cưới cô gái đó. Nhưng nếu không cưỡng ép bắt cóc, sẽ chẳng có con gái nhà nào trong hoàng thành chịu gả cho người Vĩnh An."
Tuy Mộ Tình không nói rõ, Tạ Liên cũng đã hiểu rồi.
Y chưa từng nghĩ rằng lại có thể như vậy, hóa ra trên đời này cũng có loại người đó, hóa ra cũng xảy ra loại chuyện đó, đột nhiên trào lên xung động muốn nôn mửa. Phong Tín mắng ngay tại chỗ: "Gớm quá!"
Lúc này, một đám bà cô vội vã chạy lên, khom lưng định kéo thiếu nữ kia xuống, xem ra nàng ta thừa dịp người nhà không chú ý tự mình chạy ra ngoài. Thiếu nữ không nghe, la hét: "Sợ cái gì! Ta có gì phải xấu hổ chứ? Có phải lỗi của ta đâu!"
Phong Tín ngạc nhiên nói: "Tính tình của nha đầu này dữ dội thật."
Mộ Tình kể: "Đúng vậy. Vốn dĩ nhà nàng đâu phải nhà tầm thường, cha nàng là trọng thần trong triều, nhà mẹ là thương gia giàu có trong hoàng thành, không nuốt được vụ thiệt thòi này, càng không thể vì mặt mũi mà lấy chồng. Trước tiên đánh chết người Vĩnh An đó, không lâu sau, những thương gia giàu có và nhân vật tiếng tăm trong toàn thành ký vào một lá thư, liệt kê tội trạng của những người Vĩnh An vào thành từ trước đến nay, khẩn cầu quốc vương bệ hạ nhốt tất cả những người này vào đại lao, nghiêm trị không tha. Lập trường của các đại thần ra sao, chắc không cần phải nói nữa."
Ngừng một lát, Mộ Tình hời hợt nói tiếp: "Nghe nói cha của cô gái này từng muốn đưa nàng vào cung tranh ngôi vị Thái tử phi, ắt hẳn điện hạ phải gặp nàng vài lần từ lâu rồi chứ, sao lại không nhận ra."
Cuối cùng Tạ Liên cũng phát hiện, tất cả mọi việc phức tạp hơn so với mình tưởng tượng nhiều.
Trong và ngoài thành, sớm đã không đội trời chung. Thần dân kích động căm phẫn, chỉ hận không thể tóm gọn một mẻ, đuổi cùng giết tuyệt, nếu sách lược của quốc vương nghiêng về phía người Vĩnh An, vậy khác nào đang tự tát vào mặt người bên mình? Quyết định cuối cùng là phát một khoản lộ phí từ quốc khố cạn kiệt cho bọn họ rút khỏi, tuy nhìn thì có vẻ khó coi, nhưng e rằng vẫn sẽ rước thêm bất mãn từ số đông.
Thứ đáng sợ hơn sự bất mãn của kẻ địch, chính là sự bất mãn của thần dân mà mình đang trị vì. Tuy nói tất cả vốn dĩ đều là thần dân Tiên Lạc, nhưng hiện tại chỉ e chẳng còn mấy ai nhận định như vậy nữa.
Y ngồi tít trên cao, đã lâu không biết chuyện nhân gian, mà cha y vẫn còn ở nhân gian. Là vua của một nước, muốn dùng tiền, muốn dùng người, vị trí đang đứng, áp lực phải gánh, băn khoăn cần có cùng với người lẫn việc phải dàn xếp, sao có thể giống như y được? Cũng như người Vĩnh An từ bên ngoài tới hoàng thành chiếm đất, náo loạn trộm cắp này kia, với một vị Võ Thần trong miếu mà nói, chung quy cũng chỉ là chuyện nhỏ, không đáng nổi giận vì nó, nhịn một chút là qua. Nhưng với dân chúng trong hoàng thành, đó lại là hiện thực, ngày ngày xua mãi không đi, là sự giày vò khó dung thứ, là mối nguy hại có khả năng bùng nổ vào bất cứ lúc nào. Cảm thấy đơn giản hoặc không đáng kể, chẳng qua vì người đứng trong vị trí đó không phải y mà thôi.
Tạ Liên không khỏi nghĩ đến hai bên tóc mai của quốc vương đã bạc hơn nhiều so với lần trước gặp mặt. Lần trước bảo rằng muốn nhuộm, e là sau đó không còn sức đi nhuộm nữa.
Thuở còn bé, y tin chắc rằng cha mình là bậc quân vương vĩ đại nhất trên đời này, càng lớn càng nhận ra không phải là như thế. Tuy cha y là quốc vương, nhưng chưa thể tính là anh minh vô song, đôi lúc còn hơi bảo thủ, thường phạm sai lầm, bỏ đi thân phận hết sức cao quý đó thì chỉ là một người phàm tục thôi.
Càng hiểu rõ lại càng thất vọng, quốc vương phát hiện sự thất vọng của y nên càng lúc càng không thể khoan nhượng cho từng ánh mắt không tán đồng, từng lời không chấp nhận của y, và điều khó mà khoan nhượng nhất, để y nhìn thấy sự thất bại của mình.
Trên đời này, không có người cha nào hy vọng con trai nhìn thấy mặt thất bại của mình. Người cha nào cũng hy vọng rằng, trước mặt con cái, mình mãi mãi luôn là người vĩ đại. Mà Tạ Liên xuất hiện ngay lúc đó như trách mắng cha mình: Cha làm quá tệ! Tệ đến mức con buộc phải xuống đây giúp cha cứu vãn tình hình. Bất luận với tư cách của một quốc vương hay một người cha, nghe được lời này, trong lòng làm sao dễ chịu được?
Rốt cuộc thiếu nữ kia cũng bị mấy tì nữ trong nhà ba chân bốn cẳng lôi trở về, số bách tính còn lại vẫn tiếp tục diễu hành, phất cờ hò hét, chẳng hét gì ngoài một việc: Giết! Khai chiến! Cho đám người Vĩnh An ngoài thành biết mặt!
Hồi lâu sau, Mộ Tình lên tiếng: "Điện hạ, huynh vẫn nên xin lỗi Đế Quân rồi trở về đi thôi. Việc đã đến nước này, thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mất hết cả rồi."
Cũng giống như những lời Quân Ngô nói với y trên điện Thần Võ: Chuyện đời tự có định số. Câu nói này, há chẳng phải đang nói cho y biết: Vận mệnh nước Tiên Lạc của ngươi đã tận, mặc kệ nó đi.
Ngay cả hoàng hậu, mẹ của y, ngày nhớ đêm mong, chỉ trông ngóng được gặp y, nhưng đến lúc gặp được rồi lại rưng rưng nước mắt bảo y trở về, đừng quản nữa. Làm sao Tạ Liên lại không biết, cha mẹ không muốn mình phải đối mặt với cửa ải khó khăn này, thà rằng mình đứng ngoài bàng quan, tự lo cho mình là được rồi.
Nhưng mà, sao có thể như vậy được?
"..."
Tạ Liên trầm giọng nói: "Sẽ không đâu!"
Dứt lời, y sải bước ra ngoài.
Chương 78
Dẹp yên Vĩnh An, Thái tử ra chiến trường
Phong Tín và Mộ Tình sau lưng y đều giật mình, gọi: "Điện hạ!" Thế rồi tức tốc xông ra, che chở ở hai bên người Tạ Liên.
Nhưng mà, dân chúng trên khắp đường Thần Võ đã trông thấy thiếu niên áo trắng xuất hiện ở phía trước, ngay chính giữa đường. Đội ngũ nháo nhào một phen rồi tập hợp trở lại. Hơn một ngàn người vây thành từng hàng từng lớp quanh Tạ Liên, người đầu tiên hỏi bằng giọng không dám khẳng định: "Ngài là... ngài là Thái tử điện hạ ư?"
Người thứ hai ngập ngừng: "Chẳng phải Thái tử điện hạ đã phi thăng, từ lâu đã không còn là người phàm, sao ngài ấy lại xuất hiện ở đây?"
Người thứ ba cất cao giọng: "Là ngài ấy đấy! Ba năm trước trong buổi diễu hành Thượng Nguyên tế trời, ta đã tận mắt nhìn thấy, đúng là Thái tử điện hạ!"
Càng lúc càng có nhiều người nhận ra Võ Thần mà mình ngày đêm thờ cúng, Tạ Liên từ tốn đáp: "Là ta. Ta đã về rồi."
Thế là, dân chúng phát rồ.
"Thần tiên giáng trần! Đây là thần tiên giáng trần sờ sờ trước mắt nè!"
"Thiên nhân hạ phàm rồi!"
"Chắc chắn vì không đành lòng nhìn chúng ta tiếp tục bị giặc cướp ức hiếp nữa nên điện hạ mới xuống đó!"
Lập tức có người tràn trề hy vọng hỏi: "Thái tử điện hạ, ngài sẽ thống lĩnh chúng ta đánh bại người Vĩnh An sao? Nhất định là vậy phải không? Nhất định là vậy rồi!"
Khựng lại giây lát, Tạ Liên bình tĩnh nói: "Ta trở về là vì bảo vệ nước Tiên Lạc, bảo vệ con dân của ta."
Nghe câu này, Phong Tín và Mộ Tình đứng cạnh Tạ Liên không dám khẳng định rốt cuộc y có ý gì, nhưng chúng dân máu nóng sục sôi lại đơn phương tình nguyện lý giải hàm nghĩa của câu đó. Mà Tạ Liên tự có suy xét của mình, tim đập ngày càng kịch liệt, cắn răng nói: "...Hãy tin tưởng ta!"
Y siết tay thành đấm, nói: "Sự thờ phụng của các ngươi sẽ cho ta năng lượng mạnh hơn. Có phần năng lượng đó, ta sẽ thề chết bảo vệ Tiên Lạc, che chở chúng sinh. Xin các ngươi tin tưởng ta!"
Mọi người chỉ chờ mỗi giờ phút này, thứ họ muốn chính là lời cam đoan đó của Tạ Liên, cả bọn lập tức hoan hô nhiệt liệt, vây từng vòng quanh Thái tử điện hạ mà vái lạy: "Thề chết theo ngài! Đi theo điện hạ!"
"Bảo vệ Tiên Lạc!"
Nghe nói "Thần tiên hạ phàm", dân chúng hoàng thành túa ra từ phố lớn ngõ nhỏ, chỉ vì một lần chứng kiến kỳ tích ngàn năm hiếm có này, thậm chí vệ binh hoàng thành hay tin đuổi tới cũng không dám làm càn mà còn gia nhập hàng ngũ vái lạy. Ba người bị kẹp giữa đường nửa bước cũng khó đi, Phong Tín và Mộ Tình không thể không cố gắng duy trì trật tự, quát: "Đừng chen lấn, đừng chen lấn nữa!"
Tuy nhiên chẳng hiệu quả là bao, ai cũng muốn chen đến vị trí gần Thái tử điện hạ nhất, dùng tay mò mẫm góc áo của vị thần nhân giáng trần này, như thể cả người đều được khai quang vậy. Cuối cùng kinh động đến quốc vương trong hoàng cung, quốc vương phái vài vị tướng quân dẫn binh sĩ võ trang đầy đủ ra ngoài, bấy giờ mới đuổi được đám dân chúng cuồng nhiệt.
Sau khi tất cả mọi người giải tán, Tạ Liên trông thấy một thứ dưới mặt đất lưu đầy dấu chân lộn xộn và bụi bặm mịt mù. Y bước lại gần, cúi người nhặt nó lên.
Đó là một đóa hoa, nhưng đã bị nhiều người giẫm đạp, gần như nghiền thành màu bùn, chỉ thấy được chút màu trắng tinh khôi ban đầu từ vài cánh hoa sót lại.
Mùi thơm dịu thoang thoảng ấy cũng không còn như xưa, chẳng mấy chốc đã nhạt phai.
Sau khi nghĩ thông suốt một số chuyện, lần này Tạ Liên quay về hoàng cung, thái độ dành cho quốc vương cũng ôn tồn hơn nhiều. Vì vậy, sắc mặt mà quốc vương dành cho y cũng hòa hoãn không ít, hai cha con mỗi người lùi một bước, xem như tạm thời đạt được hòa bình, mà quốc sư có vẻ đã sớm lường được Tạ Liên sẽ hạ phàm nên chẳng nói tiếng nào.
Trước đây Tạ Liên cho rằng, cả nước một lòng, chuyện lớn trước mắt, tất cả mọi người đều nghe lời quốc vương là chuyện đương nhiên. Nhưng khi thật sự ngồi xuống tham dự, bản thân y mới lĩnh hội được quốc vương là cương vị phiền não biết nhường nào. Quan lại trong một triều, hóa ra còn chia thành rất nhiều phe phái nhỏ, mỗi phe phái đều có tính toán của riêng mình, về việc rốt cuộc nên định đoạt một chuyện lớn ra sao, bọn họ có thể tranh luận không ngừng nghỉ suốt bảy ngày. Người nào phái nào cũng nói mình vì nước vì dân, nhưng thật ra chưa chắc trong lòng họ nghĩ như thế.
Đối với người Vĩnh An đóng quân ngoài thành và chính thức suy xét việc phân đình kháng lễ*, ý kiến của bọn họ rề rà mãi không thống nhất. Có người chủ trương phái quân tiêu diệt thẳng tay, không đủ cớ thì thêu dệt thêm mấy cái, chụp mũ thêm nhiều tội danh, có người lại không đồng ý.
*Phân đình kháng lễ: là lễ tiết tiếp đãi đời xưa, chủ nhân đứng ở mé đông đình viện, khách nhân đứng ở mé tây, cùng nhau hành lễ. Ý bảo quan hệ ngang vai ngang vế, hai bên ngang hàng.
Loạn lạc Vĩnh An, khởi đầu bởi thiên tai, bùng lên do nhân họa (họa do con người gây nên), một nhà ba người ngã chết ở cổng hoàng thành quả là ngòi nổ không thể nào tệ hơn, nếu không phải gã tướng quân chém đứt dây thừng đã bị Lang Anh tay không bóp gãy cổ, gã trở về cũng sẽ bị phạt nặng. Nói khó nghe một chút, cho dù nội bộ phức tạp thế nào hay có nhiều nguyên nhân ra sao, nhìn từ mặt ngoài, chuyện này rõ là quan ép dân phản. Việc đã đến nước này, náo động ầm ĩ, cố gán tội danh, chỉ càng khơi dậy ác cảm, dẫu thêu dệt cớ gì cũng không giấu được người khác. Nếu phái quân đi diệt sẽ tỏ rõ quốc vương vô đạo, khó xưng đội quân nhân nghĩa. Bịt miệng dân khó hơn ngăn nước dòng sông, một khi để lại tiếng bạo ngược, chẳng những không thể phục dân mà sợ rằng những quốc gia lận cận sẽ thừa dịp giương cờ thay trời hành đạo mà gây sự. Nghĩ theo góc độ khác, đám dân Vĩnh An đó có gì đáng sợ chứ? Bọn chúng núp trong núi rừng hoang dã, không lương thực không binh khí, có thể náo loạn được bao lâu?
Thế nên, cuối cùng chủ trương sau đã giành được thế thượng phong: Nếu người Vĩnh An dám cả gan xâm phạm, tới lần nào giết lần đó; không xâm phạm thì để bọn chúng tự sinh tự diệt, Tiên Lạc chẳng cần tốn một binh một tốt nào, đánh tới đánh lui sẽ tự hao tốn gần hết mà thôi.
Với tư cách là Võ Thần, Tạ Liên hạ phàm, tất nhiên phải phát huy tác dụng trên chiến trường. Vì vậy trong quân không thiếu những người ra sức cổ xuý: Phe nào có Thái tử điện hạ chính là phe chính nghĩa, đội quân nào có Thái tử điện hạ chính là quân đoàn của thần!
Nhất thời, hàng loạt trai tráng khắp toàn quốc hăng hái tòng quân, chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi, quân số nước Tiên Lạc đã tăng gấp bội. Động tĩnh lớn như thế, hình như bên Vĩnh An cũng nhận được tin tức. Vốn dĩ bọn họ hành động cũng xem như dồn dập, hết nhóm nhỏ này đến nhóm nhỏ khác, nhưng rồi bất chợt im lìm, như thể có điều kiêng dè, đang ngấm ngầm tích sức, khiến cho tướng sĩ bên Tiên Lạc cũng căng thẳng không thôi, cố hết sức miêu tả cho Tạ Liên biết "cái tên Lang Anh lần nào cũng xông lên trước nhất" đáng sợ nhường nào. Nghe cái tên này, nhớ lại thi thể đứa bé hôm ấy mình nhìn thấy, tâm trạng của Tạ Liên không khỏi có hơi phức tạp.
Hai tháng sau, cuối cùng người Vĩnh An im hơi lặng tiếng một thời gian cũng phát động tấn công lần nữa.
Trận chiến này, Tạ Liên chỉ mang một thanh kiếm nhẹ tênh ra trận, ngay cả mũ giáp cũng không mặc. Chưa đầy nửa canh giờ, chiến đấu đã kết thúc.
Giữa mùi máu tanh che trời rợp đất, các chiến sĩ Vĩnh An còn sót lại vứt hết mũ giáp, vắt giò chạy trốn. Binh sĩ nước Tiên Lạc còn chưa kịp phản ứng, chỉ thấy bốn phía toàn là bóng người nằm la liệt, không một kẻ địch nào còn đứng thẳng nổi, mà Thái tử điện hạ của bọn họ đang từ từ đút kiếm vào vỏ, ngay cả góc áo cũng không bẩn một chút nào.
Hồi lâu sau, bọn họ mới xác nhận được chiến thắng áp đảo của phe mình, thế là đua nhau nhảy cẫng lên, giơ kiếm chỉ trời, mặc sức hú hét.
Đêm hôm đó, các tướng sĩ Tiên Lạc tổ chức một buổi tiệc mừng công trên lầu cổng thành.
Lâu rồi chưa được nở mày nở mặt như thế, đám binh sĩ reo hò nhảy nhót, nâng chén ca ngợi Thái tử điện hạ. Tạ Liên lại từ chối tất cả rượu mời, một mình đến bên góc lầu cổng thành hóng gió đêm cho tỉnh táo.
Rõ ràng y không uống một chén rượu nào, nhưng vẫn có cảm giác ruột thiêu mặt đốt, hai má ửng đỏ, đầu ngón tay còn khẽ khàng run rẩy.
Đây là lần đầu tiên trong đời y giết người. Mới lần đầu tiên, y đã giết hơn một ngàn người.
Dế kiến.
Trong đầu Tạ Liên, hai chữ đó xuất hiện hết lần này đến lần khác. Trước sức mạnh của y, người phàm không chịu nổi một kích, thậm chí chẳng ai đỡ nổi một cái nắm tay nhẹ bẫng của y. Tước đoạt sinh mạng của người khác là chuyện dễ dàng biết mấy, tựa như cung nhân giẫm chết bầy kiến kia, khiến y đánh mất lòng kính nể mỗi khi vung kiếm.
Tạ Liên tựa bên tường chắn mái, hít sâu vài hơi, lắc lắc đầu, vứt đi mớ tạp âm đó, thất thần nhìn chằm chằm từng điểm ánh lửa trong khe núi đằng xa. Không lâu sau, hai tiếng bước chân tới gần.
Chẳng cần ngoái đầu, Tạ Liên cũng biết người đến là ai. Y nói: "Các ngươi không đi uống chút rượu ăn mừng à?"
Mộ Tình hầm hừ: "Có gì ngon mà uống, tình thế có lạc quan đâu."
Nghe vậy, Tạ Liên xoay người hỏi: "Các ngươi cũng nhìn ra rồi sao?"
Quả thật không lạc quan cho lắm. Mặc dù trận này đánh thắng, nhưng trên thực tế, lần tấn công hôm nay mạnh hơn tất cả những lần tấn công trước đây của người Vĩnh An.
Chẳng những nhân số tăng nhiều, mô hình trận địa, binh khí và cách điều động của bọn họ, tất cả đều vượt bậc về chất lượng, thậm chí không ít người còn trang bị mũ giáp. Tuy thô sơ xấu xí, nhưng đã ra dáng quy mô của quân đội chính quy. Khó mà tưởng tượng được rằng, đây thật ra chỉ là một đám dân quê chân đất.
Mộ Tình khoanh tay, cau mày nói: "Hoàn cảnh cực đoan gian khổ đích thực sẽ khiến người ta trưởng thành thần tốc, nhưng dẫu khó khăn gian khổ thế nào cũng sẽ không dưng sản sinh vật tư. Chuyện này không hợp lý."
Phong Tín thì thẳng thắn hơn, nói ngắn gọn: "Chắc chắn bọn họ có viện trợ từ bên ngoài."
Tạ Liên gật đầu. Mộ Tình nói: "Ta không tin những tướng sĩ đó chẳng ai nhìn ra, thế nhưng bọn họ vẫn ăn mừng như thường, đơn giản là vì bên này có huynh, bọn họ cho rằng thắng là cái chắc."
Thật ra Tạ Liên cảm thấy chuyện này không có vấn đề gì, nói: "Trận đầu ta đến đã đánh thắng, bọn họ vui vẻ một chút cũng tốt thôi, coi như khích lệ sĩ khí."
Ngần ngừ một lát, Phong Tín vẫn nói: "Điện hạ, sắc mặt của huynh không được tốt lắm. Huynh, có phải vẫn còn tạo mưa cho bên Vĩnh An không?"
Tạ Liên nói: "Phải."
Không có gì bất ngờ, Mộ Tình tỏ vẻ không tán thành, nói: "Thứ lỗi cho ta nói thẳng, bây giờ tạo mưa cũng vô dụng, đó mới là cái động không đáy thật sự. Điện hạ, cho dù tình hình hạn hán của Vĩnh An thật sự có thể giảm triệt để, chỉ e đám người ngoài thành cũng sẽ không rút lui."
Tạ Liên nói: "Ta biết. Nhưng ta đi tạo mưa không phải vì để đám người đó rút lui, chỉ vì không muốn những người còn ở lại Vĩnh An chết khát thôi. Đây chính là mục đích ban đầu của ta, sẽ không thay đổi vì bất cứ chuyện gì."
Phong Tín vẫn không yên tâm lắm, hỏi: "Huynh chống nổi sao?"
Tạ Liên vỗ vai Phong Tín, nói: "Yên tâm, ta có tám ngàn đạo quán cơ mà, hơn nữa tín đồ cũng đủ nhiều, dĩ nhiên không thành vấn đề. Có điều..."
Y dùng tay còn lại khoác vai Mộ Tình, thở dài: "Hôm nay cũng may có hai ngươi giúp đỡ, cảm ơn các ngươi theo cùng ta."
Hôm nay trên chiến trường, hai người hầu của y còn khổ hơn y nhiều, giết đến nỗi toàn thân vấy máu. Phong Tín nói: "Không cần nói vậy đâu." Mộ Tình thì ậm ờ "ồ" một tiếng.
Tay khẽ dùng sức, Tạ Liên kéo ba người lại gần nhau hơn, thành khẩn nói: "Không chỉ hôm nay mà từ trước tới nay đều phải cảm ơn hai ngươi nhiều. Ta hy vọng rằng, hình ảnh ba người chúng ta người kề vai chiến đấu có thể lưu danh muôn đời."
"..."
"..."
Qua giây lát, Phong Tín cười ha ha. Mộ Tình nói bằng giọng không thể tin nổi: "Ta phát hiện huynh luôn có thể hùng hồn thốt ra những lời rất là... Rõ thật là..." Hắn lắc đầu, nói: "Thôi bỏ đi."
Khó khăn lắm khóe miệng của Tạ Liên mới nhếch lên một chút, nhưng cười chưa được bao lâu, sắc mặt đột nhiên chuyển lạnh, quát: "Ai?!"
"Keng" một tiếng, trường kiếm của Tạ Liên ra khỏi vỏ. Y khều nhẹ một cái, lôi một bóng đen ra khỏi góc tường chắn mái.
Người nọ trốn trong góc đã lâu, nín thở tập trung tinh thần, nãy giờ vẫn chưa bị phát hiện. Lẽ ra Tạ Liên chỉ định dùng mũi kiếm treo đối phương lên hù dọa một phen, ngờ đâu hôm nay trên chiến trường y giết người quá bạo, cánh tay vẫn còn run bần bật, ra tay có phần mất chừng mực, cú lôi này dùng quá nhiều sức nên hất phăng người nọ khỏi tường.
Dưới ánh trăng, giữa không trung, ba người đều thấy rõ đối phương mặc trang phục của binh sĩ phe mình, thân hình trông như một thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi. Ngay giây tiếp theo, người nọ rơi xuống, biến mất không còn bóng dáng. Thấy có người sắp ngã xuống dưới lầu cổng thành, Tạ Liên nghĩ thầm tiêu rồi, đoạn tung người nhảy ra.
Mũi chân y bám vào rìa tường chắn mái, thân thể treo ngược, nhanh như chớp chìa tay kéo một cái, đúng lúc túm được một cánh tay của đối phương. Cả người binh sĩ thiếu niên nọ lơ lửng giữa không trung, lắc qua lắc lại mấy cái, đoạn ngẩng đầu nhìn lên. Cái nhìn này, nương theo ánh trăng mờ ảo, Tạ Liên thấy được gương mặt của đối phương, không khỏi mở to hai mắt.
___________________
Tác giả nói:
Hoa Hoa cao hơn rồi, trổ mã! Thiếu niên tuổi dậy thì! Ha ha ha ha ha
Bất luận xuất hiện nội dung giả tưởng cỡ nào cũng xin mọi người nhớ kỹ, đây là một câu chuyện thần thoại!
Chương 79
Dốc Bối Tử, Thái tử sa chân vào ổ ma
Cú tung người nhảy lên của Tạ Liên quả thật có hơi đáng sợ, nhưng tất nhiên hai người hầu của y biết rõ, điều này chẳng là gì với y. Mộ Tình không nhúc nhích, còn Phong Tín vẫn kéo một phát. Tạ Liên dùng thêm chút sức, nhấc tiểu binh sĩ kia lên, chân hai người đáp xuống lầu cổng thành. Tạ Liên hỏi: "Ngươi là binh sĩ dưới quyền ai, sao lại nấp ở đây?"
Tay và đầu của tiểu binh sĩ quấn đầy băng vải, trên băng vải còn rướm chút vết máu, xem ra thương tích chồng chất. Điều này cũng chẳng có gì lạ, trận đại chiến hôm nay có rất nhiều binh sĩ bị thương cũng băng bó thế này, nhưng nó cứ nấp trong bóng tối không nói tiếng nào, việc này rất đáng ngờ. Mộ Tình lên tiếng: "Chẳng lẽ là mật thám của người Vĩnh An, bắt nó lại thẩm tra đi."
Tạ Liên cũng nghi là thế, nhưng hoàng thành canh phòng nghiêm ngặt, kẻ địch khó mà trà trộn vào được, trừ phi là Lang Anh, mà tiểu binh sĩ này rõ ràng vẫn còn là một thằng nhóc choai choai. Bấy giờ, Phong Tín lại ngạc nhiên nói: "Điện hạ, huynh không nhớ thằng nhóc này à? Ban ngày nó cứ xông lên phía trước huynh, là đứa ở ngay tuyến đầu trận địa."
Tạ Liên ngẩn ra, hỏi: "Vậy sao?"
Ban ngày chém giết, y hoàn toàn không có thời gian chú ý đến bất cứ gì khác, chỉ biết có ai giơ kiếm muốn giết mình, mình sẽ vung kiếm đánh trả, thậm chí còn chẳng chú ý đến Phong Tín và Mộ Tình, hơi đâu mà chú ý đến tiểu binh sĩ khác?
Phong Tín khẳng định: "Đúng vậy. Ta nhớ thằng nhóc này, nó tấn công quyết liệt lắm, cứ như không muốn sống vậy."
Nghe Phong Tín nói thế, Tạ Liên bèn quan sát kỹ binh sĩ thiếu niên nọ. Tự dưng nó lại đứng thẳng lên, ngẩng đầu ưỡn ngực, có vẻ hơi cứng đờ, rồi lại như đang đứng tư thế nghiêm. Mộ Tình hỏi: "Vậy nó cũng không nên lén lút nấp ở đây, ai biết nó tới nhìn trộm hay nghe trộm chứ?"
Tuy ngoài miệng nói vậy, nhưng thật ra Mộ Tình đã buông lòng cảnh giác. Bởi vì trong quân đội Tiên Lạc đang ra sức cổ xúy cái gọi là "Đội quân thần tiên, thiên mệnh sở quy", nhiều người trẻ tuổi vì theo Tạ Liên mà tòng quân, trong đó không thiếu những thiếu niên lớn tầm tuổi này, mà rất nhiều người là kẻ sùng bái trung thành của Tạ Liên, từ nhỏ đã vái lạy tượng thần của y, nghe tiếng thơm của Thái tử điện hạ mà lớn lên, muốn lén lút tiếp cận để được gặp Võ Thần cũng không phải mới lần một lần hai, chẳng hiếm lạ gì.
*Thiên mệnh sở quy: Ý trời đã định.
Tạ Liên nói: "Được rồi, sợ bóng sợ gió thôi", rồi lại dịu giọng nói với binh sĩ thiếu niên nọ: "Ban nãy đã dọa ngươi rồi, xin lỗi nhé."
Thiếu niên không hề tỏ ra sợ hãi, chỉ đứng càng thẳng hơn, khẽ cất giọng: "Điện hạ..."
Nào ngờ lời còn chưa dứt lời, biến cố đã xảy ra. Binh sĩ thiếu niên nói chưa hết câu thì đột ngột nhào về phía Tạ Liên!
Tưởng nó muốn đánh lén, Tạ Liên nhích người tránh ra, giơ tay định dùng bàn tay chém xuống một phát. Với sức của y, phát này chém xuống, chắc chắn thiếu niên nọ sẽ lập tức bỏ mạng. Nào ngờ, y chợt thấy sống lưng lạnh toát, tay giơ ngang chừng thình lình chuyển hướng, trở tay chặn một mũi tên bắn lén phóng tới sau lưng mình.
Hóa ra thiếu niên nọ nhào về phía y là vì trông thấy ánh lóe của mũi tên bay giữa không trung. Ban đầu Tạ Liên đứng đưa lưng về phía tường chắn mái, sau lưng bị tập kích mà không hề sợ hãi, trái lại còn nhảy lên bờ tường, nhìn thẳng xuống dưới. Chỉ thấy trên mảng đất bằng trống trải trước cổng thành, một người đơn độc như ẩn như hiện đứng đằng xa, vì kẻ nọ mặc quần áo sẫm màu, hòa mình vào đêm tối, thế nên rất khó phát hiện. Phong Tín tức tốc chạy đến cạnh Tạ Liên, giương cung bắn một mũi tên. Nhưng kẻ nọ đã sớm tính được khoảng cách, cố ý đứng xa tít, mũi tên bắn ra, khiến cho Tạ Liên nhìn về phía hắn, hắn vẫy vẫy tay, yên lặng quay lưng chuồn mất, rút lui cực nhanh. Lúc mũi tên của Phong Tín bay tới thì đã muộn, nó ghim ngay vị trí cách chân hắn mấy tấc. Phong Tín tức giận đập tường thành, đá bụi rơi lả tả: "Đó là kẻ nào?!"
Còn là kẻ nào được nữa? Tạ Liên nói: "Lang Anh!"
Các binh sĩ Tiên Lạc cũng phát hiện điều bất thường, chạy nhanh hò hét bốn phía, nhưng xuất phát từ cảnh giác, bọn họ không lập tức hạ lệnh mở cổng thành truy kích mà đi khắp nơi xin ý kiến của cấp trên. Lang Anh bắn xong mũi tên rồi vẫy tay chuồn mất, quả thật cứ như đặc biệt tới chào hỏi Tạ Liên, Mộ Tình chau mày hỏi: "Hắn tới làm gì? Ra oai à?"
Phong Tín giận dữ nói: "Hôm nay trên trận mạc Vĩnh An bị đánh cho tan tác, hắn cũng chỉ miễn cưỡng thoát khỏi tay điện hạ thôi, có gì mà ra oai!"
Sờ thấy trên mũi tên bắn lén có buộc thứ gì đó, Tạ Liên tháo xuống đi qua soi bên ánh lửa, là một dải dây vải, có vẻ như được xé từ áo gấm màu xanh, trên vải vẫn còn vết máu ướt đẫm, mở ra xem thử, thế mà lại viết một chữ "Thích" nguệch ngoạc.
Tạ Liên lập tức vo mảnh vải lại, cất giọng hỏi: "Thích Dung đâu? Thích Dung không ở trong hoàng cung sao!"
Phong Tín nói với binh sĩ bên cạnh: "Mau vào thành xác nhận!"
Các binh sĩ hối hả lui xuống. Đây đích thực là một góc của chiếc áo choàng mà Thích Dung thích mặc nhất, Lang Anh lại nổi tiếng xuất quỷ nhập thần, khả năng Thích Dung thật sự bị hắn bắt đi không hề nhỏ, việc này không được chậm trễ, Tạ Liên nói: "Để ta đuổi theo xem sao."
Thấy Phong Tín cũng bước qua, y nói: "Các ngươi giữ chắc cổng thành, đừng đi lung tung, coi chừng là điệu hổ ly sơn."
Phong Tín đeo cung lên, hỏi: "Huynh không dẫn ai theo hết à?"
Nếu bên Vĩnh An không ồ ạt xâm lấn trước, Tạ Liên không hề muốn Tiên Lạc chủ động xuất binh. Nếu Thích Dung rơi vào tay địch, một mình y đưa về được rồi, nhưng nếu dẫn binh theo, ắt sẽ làm to chuyện, người chết tuyệt đối không chỉ một hai người. Hiện tại, Tạ Liên vẫn muốn khống chế sự việc trong phạm vi nhỏ nhất, bèn đáp: "Không. Bọn chúng không làm gì được ta đâu."
Dứt lời, tay ấn nhẹ lên tường, Tạ Liên nhảy khỏi lầu cổng thành, nhẹ nhàng đáp xuống đất, mau chóng đuổi theo hướng Lang Anh rút lui. Chạy một hồi, nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân đuổi theo, y ngoảnh đầu lại nhìn, ra là binh sĩ thiếu niên kia. Tạ Liên nói với nó: "Ta không cần người giúp, ngươi trở về đi!"
Thiếu niên lắc đầu, Tạ Liên lại nói: "Về đi!" Dứt lời bước chân tăng tốc, thoáng chốc đã bỏ xa thiếu niên kia, không nhìn thấy nữa.
Chạy năm sáu dặm, tiến vào một ngọn núi. Ngọn núi này không dốc đứng mà giống một dốc núi hơn, cho nên được gọi là dốc Bối Tử. Theo do thám, sau khi người Vĩnh An rút lui, phần lớn quân đội và dân chúng đều đóng ở đây. Cây cối trên dốc Bối Tử rậm rạp um tùm, vào ban đêm, tiếng vang quái lạ vang khắp rừng rậm tối mịt, tựa như có vô số sinh vật đang ẩn náu, nhìn chòng chọc như hổ đói. Tạ Liên đi sâu vào trong núi, nín thở tìm kiếm hồi lâu, chợt thấy có bóng người dài dài treo trên thân cây đằng trước, vừa nhìn kỹ lại, y cất tiếng gọi: "Thích Dung!"
Đó đúng là Thích Dung. Gã bị treo ngược trên cây, trông như đã bị người khác đánh đập một trận, hôn mê bất tỉnh, máu mũi chảy ngược, một bên mắt bầm tím. Tạ Liên rút kiếm khỏi vỏ, vung kiếm chặt dây thừng, đỡ lấy Thích Dung rơi xuống, vỗ vỗ lên mặt gã. Thích Dung từ từ tỉnh tại, vừa thấy y đã kêu lớn: "Thái tử biểu ca!"
Tạ Liên đang cởi trói cho Thích Dung, sau lưng bất chợt lạnh toát, trở tay dùng trường kiếm chặn lại. Vừa ngoảnh đầu, chỉ thấy Lang Anh hai tay nắm một thanh trọng kiếm, chém về phía mình.
Hai người leng keng so vài chiêu, chẳng mấy chốc Tạ Liên đã đánh bay kiếm của Lang Anh, tiếp theo đạp vào cẳng chân của hắn, khiến hắn ngã sóng soài, cuối cùng chỉa mũi kiếm vào yết hầu hắn, kết thúc trận chiến, nói: "Ngươi biết ngươi không phải là đối thủ của ta, đừng đánh nữa."
Hôm nay bọn họ giao tranh trên chiến trường, hễ ai xông về phía Tạ Liên đều bị Tạ Liên giết chết, chỉ có Lang Anh chịu một kiếm của y ngay chính diện mà vẫn sống sót, lê thân thể bị thương trở về. Bất cứ ai cũng nhìn ra được, Lang Anh chính là thủ lĩnh của đám người Vĩnh An, Tạ Liên bảo hắn "đừng đánh nữa", tất nhiên không chỉ có một lớp nghĩa.
Tạ Liên nói tiếp: "Chỉ cần các ngươi không chủ động xâm lấn, ta đảm bảo binh sĩ hoàng thành sẽ không tấn công các ngươi. Lấy nước và lương thực rồi đi đi."
Lang Anh nằm dưới đất, nhìn thẳng vào mắt Tạ Liên, ánh mắt ấy không khỏi khiến lòng người hoảng sợ. Hắn hỏi: "Thái tử điện hạ, ngươi cho rằng việc ngươi làm là đúng sao?"
Sắc mặt Tạ Liên cứng đờ. Thích Dung ở bên cạnh lại mắng chửi: "Nói nhảm! Ngươi biết Thái tử biểu ca là ai không? Huynh ấy là thần tiên trên trời! Huynh ấy không đúng, chẳng lẽ đám cẩu tặc phản quốc các ngươi đúng à?"
Tạ Liên quát: "Thích Dung, im miệng!"
Câu hỏi của Lang Anh, y không trả lời được. Từ tận đáy lòng, thật ra y cảm thấy việc mình làm có chỗ sai. Tuy nhiên, đây là cách tốt nhất mà y nghĩ ra được. Nếu y không bảo vệ Tiên Lạc chống lại sự xâm lăng, chẳng lẽ cứ mặc cho đám phản dân Vĩnh An tấn công hết lần này đến lần khác, thậm chí đánh giết vào hoàng thành sao?
Một người hai người giơ kiếm xông về phía y, y có thể biết điểm dừng chỉ đánh cho ngất xỉu. Nhưng trên chiến trường đao kiếm vô tình, y không có sức đánh ngất từng người, y chỉ có thể không suy nghĩ nữa rồi vung kiếm thôi. Lang Anh hỏi như vậy, vừa khéo gợi lên âm thanh từ đáy lòng y: Ngươi cho rằng việc ngươi làm là đúng sao?
Thích Dung lại chẳng băn khoăn như Tạ Liên, nói: "Ta nói sai gì chứ? Biểu ca, nếu huynh đã tới rồi, vậy mau giết hết đám cẩu tặc này đi! Mấy chục người bọn chúng đánh một mình ta đó!"
Thường ngày Thích Dung ngang ngược lộng hành trong hoàng thành, tất nhiên có rất nhiều người Vĩnh An căm thù gã, thừa cơ trả thù là chuyện khỏi phải bàn. Đương nhiên, thật ra những người Tiên Lạc thù ghét Thích Dung cũng chẳng ít. Bây giờ Tạ Liên không rảnh để ý tới gã, nói với Lang Anh: "Ngươi muốn cái gì? Muốn mưa, Vĩnh An vẫn sẽ mưa tiếp. Muốn vàng, ta đẩy tượng vàng cho ngươi. Muốn thức ăn, ta... sẽ nghĩ cách. Nhưng đừng khơi mào chiến tranh nữa, cùng nhau tìm lối giải quyết, tìm con đường thứ ba, được không?"
Những lời này đều là lời Tạ Liên không kìm được mà thốt ra, chưa chắc Lang Anh đã hiểu "con đường thứ ba" là gì, nhưng hắn lại đáp không chút do dự: "Ta chẳng muốn gì cả. Ta cũng chẳng cần gì hết. Thứ duy nhất ta muốn, chính là nước Tiên Lạc không còn trên cõi đời này nữa. Ta muốn nó biến mất."
Giọng hắn đều đều, nhưng chẳng hiểu sao lời nói lại khiến người khác không rét mà run. Hồi lâu sau, Tạ Liên trầm giọng đáp: "...Ngươi muốn dẫn người tới đánh, ta không thể khoanh tay đứng nhìn. Các ngươi không có cửa thắng đâu. Cho dù những người Vĩnh An đi theo ngươi sẽ chết, ngươi cũng phải làm thế sao?"
Lang Anh đáp: "Phải."
"..."
Lang Anh đáp thản nhiên đến thế, kiên định đến thế, khớp xương Tạ Liên kêu răng rắc, nhưng chẳng còn lời nào để nói. Lang Anh thốt từng câu từng chữ: "Ta biết ngươi là thần. Không sao cả. Cho dù là thần, cũng đừng mong khiến ta dừng lại."
Tạ Liên biết, Lang Anh nói lời thật. Bởi vì thứ ẩn trong giọng điệu của gã, Tạ Liên không thể nào quen thuộc hơn —— Đó là lòng quyết tâm không bao giờ chùn bước của một người. Khi y nói với Quân Ngô "cho dù trời muốn ta phải chết", lòng quyết tâm trong đó giống hệt lòng quyết tâm của Lang Anh lúc này!
Câu nói ấy của Lang Anh không khác gì đang tuyên bố, hắn sẽ tiếp tục kêu gọi vô số người Vĩnh An người trước ngã xuống, người sau kế bước mà tấn công, vĩnh viễn không ngừng lại. Nếu đã như vậy, bây giờ Tạ Liên nên làm gì đã quá rõ ràng rồi.
Một tay Tạ Liên vẫn đang cầm kiếm, hiện tại đổi thành hai tay. Ngay lúc hai tay y đang run rẩy, định đâm xuống yết hầu của Lang Anh, sau lưng bỗng nhiên truyền đến tiếng "cọt cà cọt kẹt" quái lạ, cùng với tiếng cười lạnh the thé.
Không ngờ phía sau có một người im hơi lặng tiếng xuất hiện, Tạ Liên rất đỗi kinh ngạc, quay đầu lại nhìn thì trợn tròn mắt.
Xuất hiện đúng vào lúc này, khả năng lớn nhất là tướng sĩ phe địch, có lẽ vô số đao kiếm đã nhằm vào y rồi, nhưng thật không ngờ rằng, sau lưng y lại là một kẻ quái đản như thế.
Kẻ nọ mặc đồ tang trắng nhợt, mặt cũng đeo một chiếc mặt nạ nhợt nhạt, nửa bên mặt khóc nửa bên mặt cười, kỳ quặc tột cùng. Gã ngồi trên dây leo giữa hai cây đại thụ, tiếng "cọt cà cọt kẹt" phát ra khi gã đung đưa dây leo qua lại, thoạt nhìn cứ như đang đẩy xích đu. Thấy Tạ Liên quay đầu, gã giơ hai tay lên, vừa thong thả vỗ tay bôm bốp, miệng vừa phát ra từng tiếng cười lạnh. Không hiểu sao Tạ Liên lại thấy rợn tóc gáy, nghiêm giọng hỏi: "Ngươi là thứ gì thế?"
Y dùng từ "thứ gì", bởi vì trực giác nói cho y biết, đây nhất định không phải là con người!
Đúng lúc đó, Tạ Liên chợt phát hiện mũi kiếm trong tay có gì đó không ổn, Thích Dung cũng hét toáng lên. Tạ Liên quay đầu lại nhìn, mặt đất phía trước nứt thành một rãnh dài, Lang Anh vốn đang nằm dưới đất bị khe nứt nuốt vào. Mặt đất nhanh chóng khép lại, Tạ Liên vô thức đâm kiếm xuống tâm đất. Phát hiện mũi kiếm toàn chạm đến bùn đất, không đâm trúng máu thịt, bấy giờ y mới nhận ra, đường kiếm này không giết chết được Lang Anh, cũng không biết nên tiếc hay nên mừng. Lúc này, kẻ mặc áo trắng lại phát ra tiếng cười khùng khục quỷ quái, Tạ Liên giơ tay phóng kiếm về phía gã.
Đường kiếm này bay nhanh như chớp, đâm xuyên qua thân thể gã ta, ghim gã lên cây, song gã chẳng thốt tiếng nào, rũ oặt xuống đất. Tạ Liên xông tới xem xét, nhưng chỉ nhìn thấy một bộ áo trắng mềm rũ dưới đất, người mặc áo đã vô cớ biến mất!
Sự xuất hiện và biến mất của người này đều kỳ dị khôn tả, Tạ Liên hốt hoảng, không dám sơ suất, một tay xốc Thích Dung lên, nói: "Đi."
Thích Dung lại la lên: "Đừng đi! Biểu ca, phóng hỏa đốt núi đi biểu ca! Trên ngọn núi này có rất nhiều người Vĩnh An, lũ điêu dân ăn vạ không chịu đi ở cổng thành đều ẩn nấp trên núi, mau châm lửa thiêu rụi bọn chúng đi!"
Tạ Liên kéo Thích Dung đi được một đoạn, cảm thấy âm khí xung quanh càng lúc càng nặng, tựa như có vô số cặp mắt đang nhìn hai người họ, bèn nói: "Kẻ ban nãy quái đản thế nào, ngươi không thấy sao? Nơi này không nên ở lâu."
Thích Dung hỏi: "Quái đản thì sao? Huynh là thần mà, cần gì phải sợ loại tiểu yêu ma này? Dám đến phá rối thì cứ giết thẳng tay."
Tạ Liên nói: "Về trước đã rồi tính sau."
Thấy Tạ Liên qua loa lấy lệ, không chịu đốt núi, Thích Dung trừng mắt hỏi: "Tại sao chứ? Đám người đó đánh ta ra nông nỗi này, muốn đối nghịch với chúng ta, vừa rồi huynh cũng nghe mà, tên kia bảo muốn diệt Tiên Lạc đó! Muốn diệt nước của chúng ta! Sao huynh lại không giết sạch bọn chúng, giống như hôm nay huynh làm trên chiến trường ấy!"
"..." Tạ Liên nghẹn hơi, giận dữ quát: "Sao đầu ngươi cứ luôn nghĩ đến việc giết sạch giết sạch vậy! Dân thường và binh sĩ làm sao mà giống nhau được?"
Thích Dung hỏi vặn lại: "Có gì không giống chứ? Không phải đều là người sao, giết ai mà chẳng giống nhau?"
Tạ Liên như bị gã chọc trúng nỗi đau, huyết khí trào lên: "Ngươi...!"
Lúc này, y chợt cảm thấy cổ chân bị siết một cái, cúi đầu nhìn thử, ra là một bàn tay phù nề thò ra từ bụi cây rậm rạp bên cạnh, thình lình túm lấy giày của y!
Cùng lúc đó, phía trước "bịch bịch" vài tiếng, bảy tám bóng người từ trên cây rớt xuống như mưa, co quắp dưới đất không bò dậy nổi. Tuy là hình người, nhưng lại trần như nhộng, giống như vô số con sâu thịt to tướng, chậm chạp ngọ nguậy bò về phía này. Thích Dung la thất thanh: "Kẻ nào?!"
Tạ Liên vung kiếm chặt đứt bàn tay đó, trầm giọng nói: "Không phải người, là Bỉ Nô!"
Trước đây Tạ Liên chưa từng nghe nói có ngọn núi nào gần hoàng thành từng xuất hiện thứ này, dù cho có yêu ma quỷ quái gì cũng sẽ nhanh chóng bị đạo nhân của Hoàng Cực quán xử gọn, vì vậy đám Bỉ Nô này chỉ có thể bị ai đó cố ý thả vào đây thôi.
Tạ Liên hoàn toàn không ngờ rằng, trận chiến này lại có cả những vật không phải người tham gia. Hồi tưởng lại các manh mối ban nãy, y càng lúc càng cảm thấy, kẻ nọ và Lang Anh là cùng một giuộc, bắt cóc Thích Dung chỉ là muốn dụ y tới thôi, nhưng lúc này không có thời gian suy nghĩ kỹ càng. Mỗi lần Tạ Liên vung kiếm đều có thể chém ngang bảy tám Bỉ Nô thành hai nửa, nhưng một khi Bỉ Nô xuất hiện đều thành đàn thành lũ, quả nhiên, khắp lùm cây bụi cỏ vang lên tiếng rào rào, lay động càng lúc càng dữ dội, càng lúc càng nhiều hình người màu da mặt mũi nhòe mờ bò tới, xông ào ạt về phía Tạ Liên, hơn nữa cũng chỉ nhắm vào Tạ Liên. Tạ Liên vung một kiếm chém chết mười con thì lập tức có hai mươi con nhào tới. Giữa lúc y đang vung kiếm không ngừng nghỉ, một Bỉ Nô trên cây nhắm chuẩn lưng Tạ Liên, ập xuống từ trên trời.
Ngờ đâu còn chưa kịp đến gần, nó đã bị một tia sáng lạnh lẽo chặt đứt. Thích Dung không đem theo vũ khí, dĩ nhiên không thể là Thích Dung chặt, Tạ Liên quay đầu nhìn, phát hiện người vung kiếm lại chính là binh sĩ thiếu niên kia!
Ở trước cổng thành, nó bị Tạ Liên bỏ xa không thấy bóng dáng, vậy mà vẫn theo được tới đây, tìm thấy bọn họ. Thiếu niên cầm một thanh kiếm mẻ, quét vài đường đã chém được mấy con Bỉ Nô, hữu dụng vô cùng. Thứ này vừa bò vừa tiết ra thể dịch cực kỳ nhớp nháp, Thích Dung hét lên gớm quá, đạp mạnh nhiều cú lên đầu một con Bỉ Nô hơi yếu, phát hiện thứ này không hề đáng sợ, bực bội nói: "Cũng chẳng có gì ghê gớm nhỉ?"
Gã không biết rằng, Bỉ Nô vẫn thường xuất hiện chung với tà vật hung tàn khác. Tạ Liên cắn rách môi, hai ngón tay phải quệt máu tươi, bôi nhanh lên lưỡi kiếm. Sau cùng y nhét kiếm vào tay Thích Dung, lên tiếng: "Hai người các ngươi cầm thanh kiếm này đi trước đi! Sẽ không có thứ gì dám đến gần các ngươi đâu, dọc đường đi nghe thấy cái gì cũng không được quay đầu lại, nhớ kỹ, tuyệt đối không được quay đầu lại!"
Thích Dung nói: "Biểu ca! Ta..."
Tạ Liên ngắt lời: "Thứ lợi hại còn ở phía sau, lát nữa nó tới ta không lo cho các ngươi được đâu. Chi bằng quay về báo tin đi!"
Thích Dung không nói gì nữa, cầm kiếm chạy thục mạng. Bảo kiếm trong tay gã đã được Tạ Liên làm phép khai quang, Bỉ Nô và các tà vật khác đều không dám đến gần, nhờ vậy mà một đường thông thoáng, chẳng mấy chốc đã biến mất. Binh sĩ thiếu niên kia vẫn chưa đi, Thích Dung đã chạy trước rồi, Tạ Liên cũng không có bảo kiếm hộ thân thứ hai để cho nó, đành phải thay kiếm thành tay, đánh giết liên tục, cộng với thiếu niên ra sức phối hợp, sau một nén nhang, cuối cùng tất cả Bỉ Nô cũng bị diệt sạch.
Dưới đất vương vãi dịch nhờn và thi thể, mùi tanh nồng nặc. Sau khi xác nhận không còn sót lại một con Bỉ Nô nào, Tạ Liên ổn định nhịp thở, xoay người nói với thiếu niên: "Ngươi dùng kiếm không tệ."
Thiếu niên nắm chặt thanh kiếm, vốn dĩ còn đang thở hổn hển, thoắt cái lại đứng thẳng dậy, đáp: "Vâng, vâng ạ."
Tạ Liên hỏi: "Có phải ta đang ra lệnh đâu, sao ngươi lại nói vâng với ta? Khi nãy ta ra lệnh cho ngươi trở về, sao ngươi không nói vâng?"
Thiếu niên đáp: "Vâng." Dứt lời mới nhận ra có gì đó kỳ lạ, thế là lại đứng càng thẳng hơn.
Tạ Liên lắc đầu, suy nghĩ một hồi, đột nhiên nhếch miệng nói: "Có điều, ngươi, thích hợp dùng đao hơn."
Chương 80
Ôn nhu hương khổ dục giữ thân vàng (1)
*Ôn nhu hương: ý chỉ các cô gái dịu dàng quyến rũ chu đáo, là một cách nói mờ ám, không khen cũng không chê, ngoài ra còn dùng để chỉ nữ sắc khiến người ta mê say."Ôn nhu hương" dịch thẳng ra là "làng ôn nhu", từ "hương" ở đây là thôn làng chứ không phải là mùi thơm nha.
Cụm này xuất phát từ chuyện của Triệu Phi Yến ở thời hôn quân Hán Thành đế. Tóm gọn đây là mỹ nhân xuất thân từ ca vũ, vì thân người uyển chuyển nhẹ hẫng nên gọi là "Phi Yến." Nàng ta là người có tham vọng và ham mê quyền lực, được tiến cung và sủng hạnh rồi thì lộng hành trong hậu cung. Triệu Phi Yến còn tiến cử muội muội mình là Triệu Hợp Đức vào cung mưu cho mình lên ngôi hoàng hậu. Hai tỷ muội này đã giết hại biết bao phi tần và cả hoàng hậu. Hán Thành đế ham mê sắc đẹp họ tới nỗi cho xây một tòa Chiêu Dương điện vì Triệu Hợp Đức và gọi là "Ôn nhu hương" (làng ôn nhu). Hán Thành đế còn nói: "Thà rằng ta chết già ở làng ôn nhu chứ quyết không giống như Võ đế muốn tìm Bạch Vân tiên hương gì đó!" (theo Phỉ Thúy)
Thiếu niên nọ sửng sốt, hỏi: "Vì sao?"
Hồi tưởng lại từng chiêu thức vừa rồi nó chém giết Bỉ Nô, Tạ Liên tiện tay múa vài đường, nói: "Ngươi chưa thử dùng đao bao giờ sao? Ngươi dùng kiếm, đường kiếm biến ảo, tuy vừa nhanh vừa hung hãn, nhưng có vẻ hơi bó tay bó chân, không phát huy được trọn vẹn. Nếu chưa từng dùng đao, chi bằng lần sau thử xem, ta nghĩ có lẽ uy lực sẽ mạnh hơn."
Mỗi khi thấy ai đó ra chiêu có chỗ đặc sắc, Tạ Liên lại nhịn không được muốn trao đổi vài câu, không phải lên mặt dạy đời, mà là lòng đầy hứng thú muốn nhiệt tình ngâm cứu và thảo luận với đối phương. Do kinh nghiệm chiến đấu của y quá phong phú, thông thường chẳng cần phải nghĩ, nhìn một cái là biết ngay, nhưng nhất thời không nói được nguyên nhân vì đâu, chỉ cảm thấy chắc chắn là vậy thôi. Đa số những người bên cạnh vì kính nể thân phận của y nên mới chịu lắng nghe, ít có người nào thật lòng nghĩ xem y nói có chí lý hay chăng. Còn thiếu niên nọ lắng nghe hết sức chăm chú, dường như đang suy tư, thỉnh thoảng lại nhìn lưỡi kiếm trong tay. Nói được vài câu, khắp mảnh rừng tối mịt đột nhiên vang lên tiếng xào xạc, như thể có thứ gì đó bò nhanh qua. Tạ Liên sực nhớ hiện giờ mình vẫn nằm trong tình thế hiểm nguy bốn bề, hứng thú này đến không đúng lắm, thế là lập tức nghiêm mặt trở lại: "Không biết trên ngọn núi này còn tà vật nào khác không, nhất định phải xử gọn một lượt."
Thiếu niên gật đầu cái rụp, dùng hai tay dâng thanh kiếm sắt trong tay mình, Tạ Liên lắc đầu nói: "Ngươi tự bảo vệ mình là được. Khi nãy ngươi không đi, bây giờ hết đi được rồi. Ta sẽ cố hết sức bảo vệ ngươi, ngươi cũng phải hết sức cảnh giác."
Lúc này, lại thấy bụi cỏ lay động, có thứ gì đó nhảy vút qua, Tạ Liên phất tay tung một chưởng, đánh trúng nó, vật kia ré lên một tiếng "grào" thảm thiết rồi không nhúc nhích nữa. Ngửi được mùi máu tanh, Tạ Liên không khỏi thấy lạ: Nếu là Bỉ Nô, sau khi bị đánh nát, chúng nó sẽ chảy toàn dịch thể nhớp nháp, độ dính cực cao, chứ không tỏa ra mùi máu tanh thế này, vì vậy y bèn bước tới kiểm tra. Đẩy bụi cỏ ra, quả nhiên bên trong là một con Bỉ Nô đầu to đã bị một chưởng của y đánh cho tan xác, nhưng thứ toả ra mùi máu tanh không phải là nó, mà là thứ nó ngậm trong miệng —— Một mảnh da đầu rách gắn tóc dài!
Bỉ Nô gặm bã thức ăn mà sống, xem ra đã có người sống bị giết hại. Quãng đường nó bò tới đây để lại từng vệt máu nhỏ giọt trên bụi cỏ, Tạ Liên lập tức lần theo vết máu này đi về phía trước, binh sĩ thiếu niên nọ theo sát y. Càng đi về phía trước, vết máu càng dày đặc, mùi máu tanh cũng càng nồng, không lâu sau, chợt nghe tiếng khóc yếu ớt của ai đó.
Tiểu binh sĩ giơ kiếm chắn trước người Tạ Liên, Tạ Liên lại kéo nó ra sau. Vòng qua một mảng bụi cây trổ hoa, một hang núi khá lớn hiện ra trước mắt hai người.
Có lẽ hang núi này vốn là nơi trú tạm của một số người, nhưng bây giờ xác nằm la liệt, hai ba chục con Bỉ Nô bám lấy thi thể dưới đất, gặm cắn thỏa thích, ngoài ra còn năm sáu con đang vây quanh một thiếu nữ. Sắc mặt nàng ta đau đớn, bụng bị mổ ra, nội tạng đổ đầy đất, nhưng người vẫn còn sống. Dường như khi nãy nàng còn đang trang điểm sơ qua, bên tóc mai cài nhiều đóa hoa đỏ thẫm, dòng máu đỏ tươi tôn lên màu hoa đỏ thẫm bên tóc mai của nàng, tàn nhẫn cùng cực.
Mà đám Bỉ Nô kia đang liếm láp nội tạng nóng hôi hổi của nàng, chuẩn bị há miệng ra gặm, chợt nghe có người tới gần, chúng đồng loạt quay đầu lại, bổ nhào về hướng này. Con ngươi chẳng buồn xoay, Tạ Liên tung một chưởng đánh chết cả lũ, sau đó lập tức kiểm tra thi thể. Những thi thể này nữ có nam có, trẻ có già có, ai cũng mặt xám mày tro, thân mặc áo vải đơn sơ, chính xác đều là dân thường Vĩnh An, Tạ Liên không khỏi giật mình.
Y cho rằng yêu ma quỷ quái thình lình xuất hiện trong ngọn núi này đều do kẻ mặc áo trắng quỷ dị kia đưa tới. Kẻ mặc áo trắng cứu Lang Anh, tám phần mười là cùng một giuộc với hắn, nhưng vì sao lũ Bỉ Nô này lại dùng dân thường Vĩnh An làm thức ăn? Vật không phải người sẽ không vô duyên vô cớ kết minh với con người, chẳng lẽ đây là điều kiện trao đổi của Lang Anh? Dùng tính mạng của người đi theo mình làm tiền vốn?!
Cô gái kia vừa đau vừa sợ, miệng khạc máu tươi, nghẹn ngào nói: "Đừng giết ta mà, ta chưa từng làm chuyện gì xấu gì hết, đừng giết ta!"
Tạ Liên kìm lòng không đặng nhớ tới một nhà ba người chết dưới tường thành hôm đó, bọn họ cũng đã làm chuyện xấu gì đâu? Y cúi người, giọng điệu càng hiền hòa hơn: "Đừng sợ. Không sao đâu, ta tới cứu muội đây."
Tiểu binh sĩ kia lại rút kiếm chỉa vào cô gái, nói: "Điện hạ, coi chừng là yêu tinh núi sâu."
Dĩ nhiên Tạ Liên biết có khả năng đó, khả năng cực lớn là đằng khác, nhưng sau khi đắn đo, y vẫn cảm thấy không thể bỏ mặc, cẩn thận là được rồi. Y bắt mạch cho cô gái chốc lát, lật xem chỉ tay và vân tay của nàng, nhanh chóng xác định nàng là người sống, hơn nữa chưa luyện võ bao giờ, trói gà còn không chặt, thế là lập tức bắt đầu cứu chữa, lấy lọ thuốc ra khỏi tay áo, vặn mở nút lọ, một luồng khói màu trắng mờ lan ra, tỏa mùi thơm ngát.
Thuốc này chẳng những có thể làm chậm triệu chứng tạm thời của các loại độc lạ mà còn có tác dụng với vết thương, Tạ Liên không hề tiếc rẻ linh dược, dùng hết cả lọ cho nàng, hỏi: "Đỡ hơn chút nào chưa?"
Tình trạng vết thương của cô gái rất nghiêm trọng, thảm không nỡ nhìn, sau khi hít luồng khói kia, sắc mặt nàng cũng hồng hào phần nào, yếu ớt gật gật đầu. Tạ Liên hỏi tiếp: "Các ngươi là người Vĩnh An ư? Sao lại ra nông nỗi này?"
Cô gái nói trong nước mắt: "...Phải, ta là người Vĩnh An. Ta cũng không biết tại sao nữa, lẽ ra, hức, lẽ ra đang yên lành, tự dưng cha ta lại chết, ca ca ta cũng chết luôn..."
Tạ Liên vỗ nhẹ lên vai nàng, hỏi: "Hung thủ hại chết họ là ai? Hay là thứ gì?"
Cô gái nức nở nói: "Hung thủ hại chết họ chính là... chính là... là ngươi!"
Nói đến câu cuối cùng, sắc mặt nàng bỗng trở nên dữ tợn, hai mắt sáng quắc, giang hai tay ôm chầm Tạ Liên!
Binh sĩ thiếu niên một mực đứng bên cạnh cảnh giác, phản ứng cực nhanh, đâm kiếm vào sống lưng nàng. Cô gái kia vốn đã bị thương nặng, bị thiếu niên đâm trúng, tuyệt đối không còn đường sống, nhưng nàng lại khoái chí cười hô hố, liều chết ôm Tạ Liên không chịu buông, duy trì tư thế đó, tắt thở bỏ mạng. Nàng ôm quá chặt, vất vả lắm binh sĩ thiếu niên mới kéo thi thể của nàng ra được, sau đó cất tiếng gọi: "Điện hạ! Huynh sao rồi?"
Tạ Liên cũng ngỡ rằng thiếu nữ này muốn đánh lén, nhưng nàng không mang lợi khí, ngay cả cắn xé cũng không, chỉ ôm chặt lấy y, dường như chỉ vậy là thỏa mãn, đến chết cũng không buông. Y ngơ ngác nói: "Ta không sao, ta..."
Lời còn chưa dứt, như thể đang chế nhạo y, một cảm giác choáng váng đột nhiên kéo tới.
Tiểu binh sĩ trừng to một con mắt đen láy, gọi: "Điện hạ?!"
Tạ Liên chỉ cảm thấy gan ruột nóng rẫy một cách khó chịu, nói không nên lời, cũng không muốn nói gì, càng không muốn nghe người ta nói. Y lắc lắc đầu, nhấc tay không nói tiếng nào. Bấy giờ, khắp bốn bề lại truyền đến tiếng cười đùa của con gái.
"Hi hi hi hi..."
"Hí hí hí hí..."
Hai người kinh ngạc phát hiện, bốn phía không hề có người thứ ba. Thứ phát ra tiếng cười, thế mà lại là những đóa hoa đỏ thẫm kia!
Tạ Liên tức khắc hiểu ngay mình đã rơi vào cạm bẫy nào ——
Ôn nhu hương!
Ôn nhu hương này không phải ôn nhu hương kia. Ôn nhu hương chính là một loại hoa yêu thích sống tụ tập, hút tinh khí và máu tanh của đàn ông mà sống. Mùi hương của bọn chúng không phải thứ tốt gì, Tạ Liên vội nói: "Mau bịt kín mũi miệng của ngươi lại, đừng hít mùi hương của hoa đó!"
Binh sĩ thiếu niên vốn đã quấn đầy băng vải, lọc bớt một tầng, cho nên mới không hít phải mùi hương đó. Nghe vậy, nó siết chặt băng vải, chợt nhận ra Tạ Liên không có gì che chắn, bèn xe phần tay áo sạch nhất trên người mình, dùng sức chà xát rồi phủi sạch sẽ, cuối cùng dùng hai tay đưa cho Tạ Liên. Tạ Liên lại nói: "Không cần đâu. Vô dụng thôi."
Lúc y cứu chữa cô gái kia, mặc dù có phòng bị, nhưng không phòng bị mùi hương, chưa kể nhích vào quá gần, không biết thứ nàng cài bên tóc mai là một đóa "Ôn nhu hương", trước khi chết nàng còn ôm chặt Tạ Liên để đảm bảo không có sai sót nào. Nói cách khác, Tạ Liên sớm đã vô thức hít sâu vài hơi Ôn nhu, lần này xem như "thấm tận tim gan" thật rồi.
Sau khi mùi Ôn nhu nhập vào người, nam giới sẽ huyết khí sục sôi. Trước tiên rệu rã, sau đó nóng nảy. Bây giờ cả người mềm nhũn như bị rút gân, lát nữa qua cơn tê dại sẽ biến thành một thùng thuốc nổ. Nếu bây giờ kẻ mặc áo trắng quỷ dị kia xuất hiện lần nữa, Tạ Liên thật sự không biết mình nắm chắc bao nhiêu phần thắng, vốn dĩ y cũng không rõ đối phương có bao nhiêu bản lĩnh, phản ứng đầu tiên chính là mò mẫm tìm lọ thuốc, nhưng lấy ra mới sực nhớ, vì cứu thiếu nữ kia mà thuốc đã dùng hết, nhưng cuối cùng người cũng không sống sót.
*Tác giả lúc thì viết 温柔香, lúc thì 温柔乡, hai cái đều đọc là "Ôn nhu hương", nhưng 香 (mùi hương) và 乡 (thôn làng) khác nhau, nên sẽ dịch lần lượt thành mùi Ôn nhu và Ôn nhu hương.
Tạ Liên liếc nhìn thi thể bên cạnh, cô gái kia vẫn còn cười tươi rói, như thể mừng rỡ từ tận đáy lòng vì trước khi chết đã làm địch nhân trúng kế, cuối cùng có thể đi gặp người thân. Chỉ trách cảnh tượng đẫm máu làm nhạt sắc diễm lệ nguy hiểm của đóa hoa, mùi máu làm phai mùi hoa dị thường, Tạ Liên cũng chưa bao giờ nghĩ rằng, trên mặt một cô gái chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi lại xuất hiện thần sắc oán hận sâu đậm đến thế, cũng như có thể làm nên chuyện quyết tuyệt đến vậy.
Bên kia, lũ hoa yêu phấn khích không thôi, thì thầm:
"Mắc câu rồi."
"Câu được rồi."
"Đúng là vị Thái tử điện hạ kia đó nha."
"Là chàng ấy đó."
"Đẹp trai ghê... ôi rễ của ta, rễ của ta sắp mất kiểm soát bò ra khỏi đất rồi!"
Binh sĩ thiếu niên vung kiếm chém tới, diệt sạch một mảng khóm hoa, nhưng cuống hoa của chúng lại mềm dẻo đến lạ, thanh kiếm mẻ kia chém một lần, chém lần nữa lại cùn mất một chút. Lũ hoa yêu lắc lư kêu toáng lên: "Ơ hay! Tiểu ca ca miệng còn hôi sữa này hung dữ quá nha! Khó khăn lắm người ta mới sắp nở hoa, ngươi định đền cho ta thế nào đây!"
Binh sĩ thiếu niên giận đến mức mắt bốc lửa: "Muốn chết phải không! Ta sẽ châm lửa thiêu rụi các ngươi!"
Lũ hoa yêu bắt chéo lá xanh trên cuống, kêu la: "Lợi hại quá nha! Bọn ta có chọc gì ngươi đâu, mắc gì ngươi giận ghê thế!"
Tạ Liên cũng nói: "Đừng đốt! Chúng nó là yêu, đốt... sẽ sản sinh khí độc. Cũng không thể nhổ được!" Thiếu niên lập tức ngừng bàn tay định nhổ, Tạ Liên uể oải cất lời: "Trên cuống toàn gai độc đấy..."
Lũ hoa yêu nũng nịu nói: "Ôi chao, Thái tử điện hạ dịu dàng ghê cơ, cảm ơn chàng bảo vệ bọn ta nha. Chờ chút, bọn ta sẽ kết trái ngay đây! Nhất định sẽ yêu thương chàng tận tình, hí hí hí hí..."
"Trai tráng tu luyện đồng tử công* từ nhỏ không nhiều lắm, mặc dù phá thân thì pháp lực sẽ tụt mất một cảnh giới, nhưng mà chỉ đành tủi thân chàng thôi, hi hi hi hi..."
*Đồng tử công: một công pháp huấn luyện của võ thuật Thiếu Lâm, thiếu niên nhi đồng tập luyện là thích hợp nhất, ngoài ra luyện công phu này còn giúp chân khí đan điền dồi dào, gân cốt mềm dẻo như mang thân trẻ nhỏ.
Lũ hoa Ôn nhu hương cọ xát lẫn nhau, phát ra tiếng cười khanh khách, ý dâm từ từ lộ rõ, binh sĩ thiếu niên nghe mà ngơ ngác hồi lâu, nào là "đồng tử", "phá thân", "cảnh giới", có vẻ nửa hiểu nửa không, nhưng vẫn nghe ra được đó không phải lời hữu ích gì. Nó vừa ra sức vung kiếm chém hoa vừa rống giận, muốn át đi tiếng trêu chọc của lũ hoa yêu, không cho Tạ Liên nghe thấy. Tạ Liên lại siết hai tay đến nỗi đốt ngón tay kêu răng rắc.
Thì ra là thế!
Thì ra một loạt những việc xảy ra tối nay, đích thực là chiêu trò bày riêng để đối phó với y.
Chỉ bắt cóc một mình Thích Dung, tức đã chắc mẩm với sự ngạo mạn và suy tính của Võ Thần Tiên Lạc như y, nhất định sẽ chọn cách đơn độc đuổi theo, chuyện lớn hóa nhỏ. Còn thiếu nữ trọng thương thì nhằm mục đích tiêu hết linh dược của y, khiến y hít mùi Ôn nhu rồi chẳng thể hóa giải trong phút chốc. Yêu ma quỷ quái và người sống kết hợp với nhau, chỉ vì chờ y tại bước này.
Đạo mà Tạ Liên tu, đúng là có yêu cầu nhất định phải giữ thân đồng tử. Sau khi đạo nhân dòng này phi thăng, những người đến thăm viếng cũng tin chắc rằng vị thần mà mình vái lạy tất nhiên siêu phàm thoát tục, không nhiễm nhân dục (dục vọng bản năng của loài người). Vì thế nếu không giữ mình, chắc chắn sẽ làm tín đồ suy sụp, pháp lực giảm mạnh. Tuy không nghiêm trọng đến mức từ thần quan rớt thẳng xuống thành người phàm, mai này khổ tu mấy năm vẫn có cơ hội bù trở lại, nhưng vào giờ phút mấu chốt này, làm gì còn thời gian trống cho y đóng cửa khổ tu mấy năm chứ!
Hoàng Cực quán có quy tắc và luật cấm vô cùng nghiêm ngặt, với tư cách là người ưu tú hàng đầu trong quán, Tạ Liên chưa bao giờ phạm quy vượt rào, tự nhận từ lâu mình đã tu thành sắt đá, gió bão có thổi cũng không gợn nổi sóng xô biển lòng, y cũng từng trải nghiệm khá nhiều thử thách thế này, lần nào cũng có thể vượt ải trót lọt. Nhưng tuy lòng tĩnh như mặt nước lặng, suy cho cùng tuổi còn trẻ da mặt mỏng, bây giờ còn có một binh sĩ bé nhỏ đứng bên cạnh nghe lũ hoa yêu tạt những lời dâm ô trắng trợn lên người y, chưa kể mùi hoa quấn quíu, máu nóng sôi sục, rục rịch nôn nóng, Tạ Liên không khỏi cảm thấy hơi xấu hổ, sắc mặt cũng nhuốm màu đỏ ửng, nhưng đáng hận thay vẫn không đứng dậy nổi.
Bây giờ còn miễn cưỡng chống được, nhưng nếu lũ Ôn nhu hương này kết trái thật, vậy xem như gặp rắc rối to. Cách tốt nhất dĩ nhiên là tức tốc trở lại hoàng thành, bảo Phong Tín và Mộ Tình hộ pháp, nhưng hiện giờ thậm chí đứng lên cũng nhũn hết cả chân, Tạ Liên chẳng còn cách nào, đành phải gọi tiểu binh sĩ kia: "Ngươi... qua đây."
______________
Tác giả nói:
Dĩ nhiên sẽ không tuốt súng giùm hoặc X giùm... Có điều X vỡ lòng của Hoa Hoa đã mở ra từ đây... (?)
Phá thân chỉ tổn hại pháp lực, không tổn hại võ lực. Tuy võ lực và pháp lực có thể bổ trợ cho nhau, nhưng chúng khác nhau về bản chất. Hơn nữa chỉ là đạo mà Tạ Liên chọn hố cha vậy thôi, sinh hoạt X sẽ tổn hại tu vi. Có thần quan rất thông minh, chọn đạo trái lại càng X càng mạnh, có điều đa số đạo là sinh hoạt X và tu vi không liên quan tới nhau.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top