YThienDoLongKy_11_19
Hồi 11
HỮU NỮ TRƯỜNG THIỆT LỢI NHƯ THƯƠNG
Đàn bà hồ đã mấy tay,
Một lời gươm giáo rung cây gẫy cành.
Trương Tam Phong dắt Vô Kỵ xuống khỏi núi Thiếu Thất, nghĩ bụng tính mệnh của thằng nhỏ không kéo dài được lâu, cũng không còn cách nào để trị bệnh nên nói chuyện vui cho nó nghe để giải sầu. Hôm đó đến bờ sông Hán Thủy, hai ông cháu thuê thuyền qua sông. Đến giữa giòng, nước sông cuồn cuộn, chiếc đò ngang nhồi lên hụp xuống, trong lòng Trương Tam Phong cũng dao động chẳng khác gì ba đào.
Trương Vô Kỵ bỗng nói:
- Thái sư phụ, ông đừng quá lo, cháu chết rồi sẽ gặp lại cha mẹ cháu, như thế cũng thích.
Trương Tam Phong nói:
- Cháu đừng nói vậy, dù thế nào chăng nữa, thái sư phụ cũng sẽ tìm cách cứu cháu được.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cháu vẫn nghĩ rằng nếu như học được Cửu Dương thần công của phái Thiếu Lâm, cháu sẽ nói lại cho tam sư bá nghe, thế thì hay lắm.
Trương Tam Phong hỏi:
- Sao lại hay?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Hi vọng là tam sư bá tu luyện võ công của cả hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương có thể trị được chân tay khỏi tàn phế.
Trương Tam Phong thở dài:
- Du tam bá của cháu bị gân cốt ngoại thương, nội công có cao cường thế nào cũng không trị lành được.
Ông nghĩ thầm: "Thằng bé này biết mình không sống được, vậy mà lại không sợ chết, lại nghĩ đến việc trị cho Du Đại Nham khỏi tàn tật, tâm địa như thế thật đúng là bản sắc của kẻ hiệp nghĩa chúng ta". Đang định khen ngợi nó vài câu, bỗng nghe trên sông một giọng oang oang từ xa truyền đến:
- Mau dừng thuyền lại, giao đứa trẻ cho ta, phật gia sẽ tha mạng cho, nếu không đừng trách ta vô tình.
Tiếng nói đó từ sóng truyền đến, lọt vào tai vẫn rõ ràng, hiển nhiên kẻ đó nội lực không phải là yếu. Trương Tam Phong cười thầm trong bụng: "Kẻ nào lớn mật, dám bảo ta để thằng bé lại?"
Ngẩng dầu lên ông thấy có hai chiếc thuyền đang chèo như bay từ xa tới, nhìn kỹ thấy trên một chiếc thuyền nhỏ có một đại hán râu xồm, hai tay hai mái chèo thật gấp, trong lòng thuyền còn hai đứa bé một nam một nữ. Đằng sau là một chiếc thuyền khá lớn, trong thuyền có bốn phiên tăng đứng đó, lại thêm bảy tám võ quan Mông Cổ. Bọn võ quan cầm những ván gỗ làm giầm chèo phụ. Gã râu xồm rất khỏe, mỗi lần quạt mái chèo, chiếc thuyền nhỏ vọt lên cả trượng, thế nhưng đằng sau người nhiều thế mạnh, hai chiếc thuyền mỗi lúc một xích lại gần nhau hơn. Chẳng bao lâu, bọn võ quan và phiên tăng lắp tên vào cung hướng về phía đại hán nọ bắn tới, tiếng tên bay nghe vèo vèo.
Trương Tam Phong nghĩ thầm: "Thì ra bọn họ bảo gã râu xồm này để đứa bé lại". Ông bình sinh ghét nhất quan binh Mông Cổ tàn sát người Hán, thấy vậy liền định bụng ra tay cứu giúp. Đại hán nọ tay trái chèo thuyền, tay phải giơ mái giầm gạt những mũi tên bắn tới, thủ pháp thật là nhanh nhẹn. Trương Tam Phong khen thầm: "Người này võ công không phải tầm thường, quả là kẻ anh hùng lâm nạn, làm sao ta có thể ngồi nhìn mà không cứu?". Ông quay đầu nói với người lái đó:
- Thuyền gia, chặn họ lại.
Người chủ thuyền thấy tên bay như mưa, đã sợ mất cả hồn vía, tay chân luống cuống, đang lo chạy không kịp, làm sao lại dám tiến lên ngăn họ. Y run run đáp:
- Lão ... lão đạo gia có nói đùa không đấy?
Trương Tam Phong thấy tình thế khẩn cấp, cướp lấy sào chống, đẩy mạnh mấy cái xuống nước, chiếc thuyền liền quay ngang, vọt ra chặn hai chiếc thuyền kia. Bỗng nghe "A" một tiếng thảm khốc, đứa con trai trên chiếc thuyền nhỏ bị trúng một mũi tên. Gã râu xồm thất kinh, cúi xuống xem xét, đầu vai và lưng lập tức trúng mấy mũi tên, mái chèo trong tay cầm không vững, rơi tõm xuống sông, chiếc thuyền liền ngừng lại. Thuyền lớn phía sau lập tức vọt lên, bảy tám tên quan quân Mông Cổ và phiên tăng liền nhảy lên trên thuyền nhỏ.
Gã râu xồm tuy vậy vẫn bất khuất, tay đấm chân đá, hết sức chống cự. Trương Tam Phong kêu lớn:
- Thát tử dừng tay, chớ có hành hung giết người.
Ông vội vã chèo thêm vài cái nữa cho thuyền tới gần hơn, nhún mình một cái, hai tay áo phiêu phiêu, từ trên không nhẹ nhàng đáp xuống chiếc thuyền nhỏ. Hai tên quan binh Mông Cổ nhắm vào ông bắn tới Trương Tam Phong vẫy tay áo hất hai mũi tên ra ngoài. Chân ông vừa chạm thuyền, chưởng trái liền đánh ra, lập tức hai tên phiên tăng bị văng ra xa hơn một trượng, bõm bõm hai tiếng, rơi thẳng xuống sông. Bọn võ quan thấy ông như thiên tướng từ trời bay xuống, vừa ra tay đã đánh hai tên phiên tăng cao cường nhất bay đi, không khỏi kinh hãi. Tên võ quan thủ lãnh quát lớn:
- Lão đạo khùng kia, ngươi làm gì thế?
Trương Tam Phong mắng lại:
- Bọn Thát tử chó má, chỉ giỏi hành hung tác ác, tàn hại lương dân, có cút đi không nào?
Tên võ quan kia đáp:
- Ngươi biết tên này là ai không? Y là dư đảng của phản tặc ma giáo ở Viên Châu, cả thiên hạ ai ai cũng muốn tróc nã khâm phạm.
Trương Tam Phong nghe thấy "phản tặc ma giáo ở Viên Châu", giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: "Không lẽ y là thuộc hạ của Chu Tử Vượng?", quay đầu lại hỏi đại hán râu xồm:
- Y nói có đúng không?
Người râu xồm toàn thân máu me, tay trái ôm đứa con trai, hổ nhãn rưng rưng, nói:
- Tiểu chúa công ... tiểu chúa công bị chúng nó bắn chết rồi.
Câu đó vô hình chung thừa nhận thân phận của mình. Trương Tam Phong trong lòng lại càng kinh khủng hơn, hỏi:
- Phải chăng đây là lang quân của Chu Tử Vượng?
Đại hán trả lời:
- Đúng thế, tiểu nhân phụ lòng ủy thác rồi, cái mạng nhỏ này cũng không muốn sống nữa.
Y nhẹ nhàng đặt cái xác đứa bé xuống, xông vào viên quan kia. Thế nhưng y vốn đã bị thương, trên vai trên lưng hai mũi tên còn cắm vào, đầu tên lại có tẩm thuốc độc, vừa nhảy lên đã kêu một tiếng "Ối" rồi ngã lăn ra sàn thuyền. Cô bé gái kia thì ôm một xác chết đàn ông ở trong khoang, khóc lớn:
- Cha ơi, cha ơi.
Trương Tam Phong nhìn trang phục người đó, hiển nhiên là người chủ thuyền. Ông nghĩ thầm: "Nếu mình biết là nhân vật trong ma giáo, chuyện không đâu này mình đã không nhúng tay vào. Thế nhưng mình đã ra tay thì không thể nửa chừng rồi bỏ được". Ông quay qua nói với tên võ quan:
- Đứa trẻ này đã chết, còn người kia đã trúng độc tiễn, trong chốc lát cũng sẽ chết theo, các ngươi đã lập công rồi, thôi đi nơi khác.
Tên võ quan nói:
- Không được, phải chặt hai cái thủ cấp đó mới xong.
Trương Tam Phong nói:
- Sao ngươi lại quá quắt đến thế?
Gã võ quan hỏi lại:
- Lão đạo là ai? Cớ gì lại nhúng tay vào việc này?
Trương Tam Phong mỉm cười, nói:
- Ngươi hỏi ta làm gì? Việc thiên hạ thì người trong thiên hạ ai chẳng làm được.
Tên võ qua đưa mắt, nói:
- Đạo trưởng đạo hiệu là chi? Xuất gia ở đạo quan nào?
Trương Tam Phong chưa kịp trả lời, hai tên quan quân Mông Cổ đột nhiên vung trường đao, nhắm vai ông chém xuống. Thế hai lưỡi đao đó xuống thật nhanh, trong chiếc thuyền nhỏ cách nhau lại gần không cách gì có thể tránh được.
Trương Tam Phong nghiêng người, ông vốn dĩ quay mặt về phía đầu thuyền, ông chỉ xoay nhẹ, mặt quay sang phía trái, hai lưỡi đao liền chém vào khoảng không. Hai chưởng ông vung lên, đẩy luôn vào lưng của hai tên đó, quát:
- Cút đi.
Chưởng lực nhả ra, hai tên võ quan bay lên, nghe bình bình hai tiếng, rơi trúng ngay cái thuyền bọn chúng vừa đi. Mấy chục năm nay ông không cùng ai động thủ quá chiêu, lúc này ra tay quả là dùng dao mổ trâu để giết gà nhưng vẫn nhanh nhẹn như thường. Gã võ quan đầu lãnh kia há hốc mồm, lập cập nói:
- Ngươi ... ngươi ... ngươi ... có phải là ... là ...
Trương Tam Phong tay áo vũ động, quát lớn:
- Lão đạo trước nay chỉ chuyên giết Thát tử thôi.
Các võ quan và phiên tăng chỉ thấy gió thổi ập vào mặt, ai nấy đều khó thở. Khi Trương Tam Phong ngừng tay, mọi người mặt trắng bệch, đều cùng la hoảng, tranh nhau chạy về thuyền lớn, cứu mấy phiên tăng rơi dưới nước rồi vội vã chèo đi.
Trương Tam Phong lấy trong bọc ra đơn được, nhét vào mồm đại hán râu xồm, chèo chiếc thuyền nhỏ đến chiếc đò ngang, định đỡ y qua, nào ngờ đại hán đó tính tình thật cứng cỏi, một tay ôm xác đứa con trai, một tay ôm đứa con gái, nhẹ nhàng nhảy qua thuyền bên kia. Trương Tam Phong thầm gật đầu: "Người này đã bị thương nặng, vậy mà vẫn trung với ấu chúa như thế, quả thực là một hảo hán tử khí khái. Tuy lần này ta lỡ tay cứu y, nhưng người như thế ra tay cứu cũng đáng". Oạng qua trở lại chiếc đò ngang, giúp đại hán nọ nhổ những mũi tên độc ra, bôi thuốc trị thương. Đứa con gái nhìn xác cha theo chiếc thuyền trôi đi, chỉ còn nước ngồi khóc. Gã râu xồm nói:
- Bọn cẩu quan thật là tàn ác, vừa lên thuyền là bắn chết ngay thuyền phu, nếu lão đạo gia không cứu kịp, đứa con gái nhà thuyền chài kia chắc cũng bị chúng giết chết.
Trương Tam Phong nghĩ thầm: "Hiện thời Vô Kỵ không đi lại được, hán tử này lại là khâm phạm, nếu vào nghỉ trong khách điếm tại Lão Hà Khẩu ta phải chiếu cố cho cả hai người, e chẳng chu toàn được". Ông lấy ra ba lượng bạc giao cho người lái thuyền, nói:
- Chú lái đò ơi, phiền chú thuận theo dòng đi về hướng đông, qua Tiên Nhân Độ cho chúng tôi lên Thái Bình điếm nghỉ ngơi.
Người lái đò thấy ông đánh bọn quan binh Mông Cổ một trận tơi bời hoa lá, vốn đã vạn phần kính sợ, huống chi lại được thưởng nhiều tiền như thế, lập tức luôn mồm vâng dạ, bẻ lái thuyền qua hướng đông.
Đại hán đó ở tại sàn thuyền khấu đầu nói:
- Lão đạo gia cứu mạng cho tiểu nhân, Thường Ngộ Xuân này xin rập đầu bái tạ.
Trương Tam Phong đưa tay đỡ dậy, nói:
- Thường anh hùng không cần phải dùng đại lễ.
Vừa nắm tay y, thấy bàn tay lạnh như băng, hơi kinh hoảng, vội hỏi:
- Phải chăng Thường anh hùng đã bị nội thương?
Thường Ngộ Xuân nói:
- Tiểu nhân từ Tín Dương hộ tống tiểu chủ xuôi Nam, giữa đường bốn lần tiếp chiến với bọn ưng trảo của Thát Đát đuổi theo, trên ngực và sau lưng bị một phiên tăng đánh trúng hai chưởng.
Trương Tam Phong cầm cổ tay, thấy mạch nhảy rất yếu, vội cởi áo y ra để xem vết thương, lại càng kinh hãi, thấy chỗ trúng chưởng sưng vù lên cả tấc, không phải là nhẹ, giá như người khác chắc không chịu nổi. Người này chạy trốn hàng ngàn dặm, lại còn phải chống trả cường địch, quả là anh hùng. Thấy vậy ông liền khuyên y đừng nói năng nhiều, chỉ ở trong khoang tĩnh dưỡng.
Cô bé gái tuổi chừng lên mười, quần áo cũ kỹ, hai chân không mang giày dép, tuy con nhà thuyền chài nghèo khổ, nhung mặt mày xinh xắn, thể nào sau này cũng thành một mỹ nhân, chỉ ngồi sụt sùi gạt nước mắt. Trương Tam Phong thấy cô bé đáng thương, hỏi:
- Cô nương, tên cô là gì?
Cô gái đáp:
- Cháu họ Chu, tên là Chu Chỉ Nhược.
Trương Tam Phong nghĩ thầm: "Con nhà thuyền chài mà sao đặt tên thật hay" nên hỏi tiếp:
- Thế nhà cháu ở đâu? Trong nhà còn những ai? Để ta gọi đò đưa cháu về.
Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp:
- Chỉ có hai cha con cháu sống với nhau trên thuyền thôi ... chứ không có ai khác.
Trương Tam Phong ớ một tiếng, nghĩ thầm: "Cô gái này nhà tan người mất, lại bé bỏng quá, làm thế nào bây giờ đây?"
Thường Ngộ Xuân nói:
- Lão đạo gia võ công cao cường, từ xưa tới nay, tiểu nhân chưa thấy ai như thế bao giờ, xin vô phép hỏi pháp hiệu của ngài là gì?
Trương Tam Phong cười:
- Lão là Trương Tam Phong.
Thường Ngộ Xuân "A!" lên một tiếng, vội nhỏm dậy, lớn tiếng:
- - Hóa ra lão đạo gia là Trương Chân Nhân của núi Võ Đương, thảo nào thần công cái thế, Thường Ngộ Xuân hôm nay may mắn được gặp tiên trưởng.
Trương Tam Phong mỉm cười:
- Lão đạo bất quá sống hơn vài năm, có gì là tiên với lại không tiên. Xin Thường anh hùng mau nằm xuống, đừng làm động đến vết thương.
Ông thấy Thường Ngộ Xuân khẳng khái hào sảng, ăn nói ào ào, cảm thấy mến y vô cùng, nhưng nghĩ đến y là người trong ma giáo, nên không muốn nói chuyện nhiều, liền nhạt nhẽo:
- Ngươi bị thương không phải là nhẹ, chớ nên nói nhiều.
Trương Tam Phong tính tình khoáng đạt, đối với chính tà hai đường, vốn không quá thiên kiến. Trước đây ông đã từng nói với Trương Thúy Sơn:
- Hai chữ chính tà, thật khó phân biệt. Đệ tử trong chính phái mà có tâm thuật bất chính, thì cũng là tà đồ; còn trong tà phái có người nhất tâm hướng thiện, thì cũng là chính nhân quân tử.
Lại còn nói giáo chủ Thiên Ưng giáo là Ân Thiên Chính tuy tính tình nóng nảy, hành sự khác người, nhưng cũng là kẻ quang minh lỗi lạc, có thể kết làm bạn được. Thế nhưng từ khi Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết, ông thương đứa học trò yêu, đối với Thiên Ưng giáo hết sức căm giận, tự nhủ đệ tử thứ ba Du Đại Nham cả đời tàn phế, đệ tử thứ năm Trương Thúy Sơn thân tử danh liệt, cũng do Thiên Ưng giáo mà ra. Tuy nén lòng không đi kiếm Ân Thiên Chính hỏi tội phục thù, nhưng dù bụng dạ có rộng rãi đến đâu, hai chữ "tà ma" càng lúc càng thấy ghét bỏ.
Kẻ tên gọi Chu Tử Vượng kia chính là đại đệ tử của Di Lặc Tông trong Minh giáo, năm trước khởi sự tại Viên Châu đất Giang Tây, tự lập làm đế, lấy quốc hiệu là Chu, chẳng bao lâu bị quân Nguyên tiêu diệt, còn Chu Tử Vượng bị bắt chém đầu. Di Lặc Tông và Thiên Ưng giáo tuy không cùng một phái nhưng đều là chi lưu của Minh giáo, có liên hệ với nhau rất sâu xa. Khi Chu Tử Vượng khởi sự, Ân Thiên Chính có thanh viện[1] tại Triết Giang. Trương Tam Phong hôm nay cứu Thường Ngộ Xuân, chỉ vì nhất thời lòng hiệp nghĩa khích động, và lúc đầu cũng không biết y thuộc Minh giáo, nên không lấy gì hợp với bản nguyện.
Canh hai đêm đó thuyền đến Thái Bình điếm. Trương Tam Phong bảo thuyền phu rời thị trấn đến một cái bến ở xa. Người lái đò lên chợ mua đồ ăn, nấu cơm, bày trên thuyền nào thịt gà, thịt heo, cá, rau cả thảy đến bốn bát lớn. Trương Tam Phong bảo Thường Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược ăn trước, còn tự mình đút cho Trương Vô Kỵ ăn. Thường Ngộ Xuân hỏi nguyên do, Trương Tam Phong nói là y bị hàn độc xâm nhập tạng phủ, đã điểm huyệt đạo các nơi, tạm thời chưa nguy đến tính mệnh. Trương Vô Kỵ tủi thân, nghẹn ngào không nuốt nổi miếng cơm xuống họng. Trương Tam Phong lại gặng đút nữa, y lắc đầu, không chịu ăn.
Chu Chỉ Nhược đón lấy chén cơm trong tay Trương Tam Phong, nói:
- Đạo trưởng ăn trước đi, để cháu bón cơm cho vị tiểu tướng công này.
Trương Vô Kỵ nói:
- Ta no rồi, không muốn ăn nữa.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Tiểu tướng công, nếu anh không ăn, lão đạo trưởng trong lòng không vui, ăn cơm không nổi, chẳng hóa ra cũng bị đói ư?
Trương Vô Kỵ nghĩ cô ta nói quả không sai, nên khi Chu Chỉ Nhược đưa cơm tới miệng vội há mồm ăn. Chu Chỉ Nhược gỡ hết xương cá, xương gà, mỗi miếng cơm lại rưới thêm tí nước thịt, Trương Vô Kỵ ăn thấy thật ngon miệng, hết cả một bát lớn.
Trương Tam Phong trong lòng thấy an ủi, nghĩ thầm: "Vô Kỵ số khổ, từ bé cha mẹ chết sớm, lại bị bệnh nặng. Nếu được người con gái có ý tứ thế này chăm sóc quả thật là hay".
Thường Ngộ Xuân không đụng tới thịt cá, chỉ ăn sạch bát rau, tuy đang trọng thương, nhưng cũng ăn hết bốn bát cơm trắng. Trương Tam Phong không kiêng thịt, thấy y ăn uống thật hào sảng, nên khuyên y ăn tí thị gà. Thường Ngộ Xuân nói:
- Trương chân nhân, tiểu nhân thờ Bồ Tát nên không ăn mặn.
Trương Tam Phong "A" một tiếng:
- Ồ lão đạo quên.
Lúc đó mới nhớ là người trong ma giáo qui củ rất nghiêm, không ăn mặn, từ đời Đường tới giờ, đều thế cả. Cuối thời Bắc Tống, đại thủ lãnh của Minh giáo là Phương Lạp khởi sự tại Triết Đông, đương thời quan cũng như dân gọi họ là "đạo ăn chay thờ ma". Ăn chay và phụng thờ ma vương là hai qui luật lớn của ma giáo, đã truyền từ mấy trăm năm nay. Đời nhà Tống, quan phủ chém giết ma giáo rất ngặt, người trong võ lâm cũng coi họ chẳng ra gì, vì thế giáo đồ hành sự cực kỳ ẩn bí, tuy ăn chay nhưng đối với người ngoài phải giả xưng là thờ Phật, bái Bồ Tát, không dám tiết lộ thân phận của mình.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Trương chân nhân, ngài có ơn cứu mệnh đối với tôi, lại đã biết rõ lai lịch rồi, nên không dám dấu diếm. Tiểu nhân là người trong Minh giáo, phụng sự Minh tôn. Triều đình quan phủ đối với chúng tôi mười phần căm ghét, người hiệp nghĩa trong các danh môn chính phái cũng coi nhẹ chúng tôi, thậm chí đến bọn đốt nhà cướp của, giết người không gớm tay trong hắc đạo cũng gọi chúng tôi là yêu ma quỉ quái. Lão nhân gia đã biết rõ lai lịch của chúng tôi mà vẫn ra tay tương cứu, cái ân đức đó, quả thực tôi không biết lấy gì báo đáp.
Trương Tam Phong cũng đã từng nghe qua về lai lịch của ma giáo, biết ma giáo phụng thờ đại ma vương tên là Ma Ni, người trong tôn giáo gọi là Minh Tôn. Tôn giáo này đến trung thổ từ đời Nguyên Hòa, Hiến Tông nhà Đường, khi đó gọi là Ma Ni giáo lại còn gọi là Đại Vân Quang Minh giáo, giáo đồ tự xưng Minh giáo nhưng người ngoài gọi họ là Ma giáo[2]. Ông trầm ngâm giây lát, nói:
- Thường anh hùng ...
Thường Ngộ Xuân vội nói:
- Lão đạo gia, ngài đừng gọi anh hùng, hào kiệt gì, cứ gọi trống không Ngộ Xuân là được rồi.
Trương Tam Phong nói:
- Được rồi, Ngộ Xuân, năm nay anh bao nhiêu tuổi?
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Cháu vừa đúng hai mươi.
Trương Tam Phong hỏi như thế vì thấy y tuy mặt đầy râu ria, nhưng ăn nói cử chỉ xem chừng còn trẻ lắm, nghe xong gật đầu:
- Anh như thế cũng chỉ mới lớn, tuy đầu nhập ma giáo, nhưng sa chân chưa sâu, nếu biết sớm quay đầu lại thì cũng chưa muộn. Ta có một câu muốn khuyên anh, anh nghe cũng đừng giận.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Lão đạo gia dạy bảo, tiểu nhân làm sao dám giận.
Trương Tam Phong nói:
- Tốt lắm, ta khuyên anh hôm nay thay lòng đổi dạ, bỏ tà giáo đi. Nếu anh không hiềm phái Võ Đương bản lĩnh kém cỏi, lão đạo sẽ bảo đại đồ nhi Tống Viễn Kiều thu anh làm đệ tử. Sau này anh hành tẩu giang hồ, hiên ngang oai phong, không ai dám coi thường anh cả.
Tống Viễn Kiều đứng đầu bảy đệ tử, danh chấn thiên hạ, những người tầm thường trong võ lâm được gặp một lần cũng không phải dễ. Võ Đương chư hiệp đến những năm gần đây mới bắt đầu thu đồ đệ nhưng tuyển chọn thật nghiêm, nếu không phải người có căn cốt tư chất, phẩm hạnh tính tình đều tốt, thì không thể nào được nhận vào làm môn hạ phái Võ Đương. Thường Ngộ Xuân xuất thân ma giáo, người thường nghe tới đã nhíu mày, vậy mà được Trương Tam Phong biệt đãi, muốn y đầu nhập môn hạ Tống Viễn Kiều, cứ như người trong võ học thì thật là một phúc duyên cực kỳ khó gặp trên đời.
Nào ngờ Thường Ngộ Xuân khẳng khái nói:
- Tiểu nhân được Trương chân nhân coi trọng, thực cảm kích không để đâu cho hết. Thế nhưng tiểu nhân đã thuộc Minh giáo rồi, suốt đời không thể nào bội giáo được.
Trương Tam Phong lại khuyên thêm mấy câu nữa, Thường Ngộ Xuân kiên quyết không nghe. Trương Tam Phong thấy y chấp mê không tỉnh ngộ, chỉ còn nước lắc đầu thở dài, nói:
- Còn tiểu cô nương này ...
Thường Ngộ Xuân nói:
- Lão đạo trưởng không lo, cha cô này vì tôi mà chết, tiểu nhân sẽ tìm cách chiếu liệu cho.
Trương Tam Phong nói:
- Được rồi, nhưng anh không được để cho nó gia nhập quí giáo đâu nhé.
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Không biết chúng tôi có làm tội ác gì lớn lao mà ai ai đều khinh thị, coi người trong Minh giáo như rắn độc, thú dữ. Vâng, đạo trưởng đã dặn như thế, tiểu nhân xin tuân mệnh.
Trương Tam Phong ôm Vô Kỵ vào lòng, nói:
- Nếu thế thì mình từ biệt nhau nơi đây.
Ông không muốn dây dưa với người trong ma giáo, nên bốn chữ "sau này gặp lại" không nói ra. Thường Ngộ Xuân lại bái tạ một lần nữa. Chu Chỉ Nhược nói với Trương Vô Kỵ:
- Tiểu tướng công, tướng công mỗi ngày nhớ ăn cho no, để lão đạo gia khỏi lo lắng.
Trương Vô Kỵ nước mắt tuôn tràn, nghẹn ngào nói:
- Đa tạ cô có lòng tốt, thế nhưng ... thế nhưng ta cũng chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn đâu.
Trương Tam Phong lòng buồn bã, lấy tay áo, chùi nước mắt trên má Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược kinh hãi hỏi lại:
- Sao thế? Ngươi ... ngươi ...
Trương Tam Phong nói:
- Tiểu cô nương, lòng dạ cô thật tốt, chỉ mong sau này cô đi theo con đường chính đáng, nhất quyết đừng rơi vào vòng tà ma.
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Vâng, thế còn vị tiểu tướng công này nói là chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn là sao?
Trương Tam Phong lặng lẽ không trả lời. Thường Ngộ Xuân nói:
- Trương chân nhân, lão nhân gia công lực thâm hậu, thần thông quảng đại, vị tiểu gia này trúng độc dĩ nhiên không phải nhẹ, có thể hóa giải được chăng?
Trương Tam Phong đáp:
- Được chứ.
Thế nhưng tay trái ông thõng bên dưới xua xua mấy cái, ý muốn nói là mặc dù bệnh tình y coi như vô phương nhưng không muốn cho Vô Kỵ biết. Thường Ngộ Xuân thấy ông xua tay, giật mình kinh hoảng, nói:
- Tiểu nhân bị nội thương nặng, đang định đi nhờ một vị thần y chữa cho, sao không cho vị tiểu gia này đi luôn thể?
Trương Tam Phong lắc đầu đáp:
- Hàn độc đã chạy khắp tạng phủ, thuốc men tầm thường chữa không khỏi được đâu, chỉ còn ... chỉ còn từ từ hóa giải thôi.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Thế nhưng vị thần y này quả có năng lực cải tử hoàn sinh.
Trương Tam Phong sững người, chợt nghĩ ra bèn hỏi:
- Ngươi có phải định nói tới "Điệp Cốc Y Tiên" chăng?
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Chính ông ta, thì ra lão đạo trưởng cũng đã nghe tới tên Hồ sư bá của tiểu nhân.
Trương Tam Phong trù trừ, nghĩ thầm: "Ta đã nghe gã Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu này tuy y đạo cực kỳ cao minh, nhưng lại là người trong ma giáo, xưa nay võ lâm nhân sĩ không ai muốn nói tới. Huống chi tính tình y lại hết sức quái dị, chỉ cần là người trong ma giáo y sẽ tận lực cứu chữa, không lấy một đồng, còn người ngoài cầu y, dù cả vạn lượng vào chồng trước mặt y cũng không đoái hoài đến, thành thử còn một cái ngoại hiệu "Kiến Tử Bất Cứu". Nếu quả là người đó thì đành để Vô Kỵ hàn độc phát tác mà chết còn hơn để y rơi vào vòng ma giáo".
Thường Ngộ Xuân thấy ông nhíu mày suy nghĩ, hiểu rõ tâm ý của Trương Tam Phong liền nói:
- Trương chân nhân, Hồ sư bá tuy trước nay không chữa bệnh cho người ngoại đạo, nhưng tiểu nhân được lão đạo trưởng cứu, đại ân thâm trọng, Hồ sư bá không thể không phá lệ. Nếu ông ấy không chịu ra tay thì tiểu nhân nhất định không để yên.
Trương Tam Phong nói:
- Vị Hồ tiên sinh đó y thuật như thần, ta cũng đã từng nghe tiếng. Có điều hàn độc trong thân thể Vô Kỵ, không phải tầm thường ...
Thường Ngộ Xuân lớn tiếng nói:
- Vị tiểu gia này nếu như cùng lắm trị không xong, thì đằng nào cũng chết, còn có gì mà phải lo?
Y tính tình sảng trực, bụng nghĩ sao liền nói ra không kiêng dè gì cả. Trương Tam Phong nghe nói "thì đằng nào cũng chết", trong lòng chấn động nghĩ thầm: "Tên này ăn nói lỗ mãng nhưng quả không sai, xem ra Vô Kỵ chỉ còn sống được độ một tháng nữa thôi, thôi thì đành đánh liều cầu may vậy". Ông trước nay giao thiệp với ai luôn luôn hết lòng hết dạ, coi ai cũng như mình không nghi ngại, Thường Ngộ Xuân này quả là người trọng nghĩa, thế nhưng Vô Kỵ là giọt máu duy nhất của đứa học trò yêu, nay bảo ông giao vào tay một đệ tử ma giáo, tà ác nổi danh, làm sao có thể yên tâm, thành ra nhất thời không sao quyết định được.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Trương chân nhân không muốn đến gặp Hồ sư bá, điều đó cháu cũng hiểu rồi. Trước nay chính tà hai bên không đứng chung, Trương chân nhân là đại tông sư đương thời, lẽ nào đi cầu tà ma ngoại đạo? Hồ sư bá tính tính cổ quái, gặp Trương chân nhân ăn nói vô lễ, hai bên lại gây chuyện không chừng. Vị Trương huynh đệ này tốt hơn do cháu đưa tới, nhưng chắc Trương chân nhân không an lòng. Thôi thì thế này, cháu đưa Trương huynh đệ tới nhờ Hồ sư bá xin ông ấy từ từ cứu chữa, sau đó cháu sẽ lên núi Võ Đương làm con tin. Trương huynh đệ nếu như có gì, Trương chân nhân cứ một chưởng đánh cháu chết là xong.
Trương Tam Phong không khỏi bật cười, nghĩ thầm nếu như Trương Vô Kỵ có gì sơ sẩy, ta đánh ngươi chết để làm chi? Nếu ngươi không lên núi Võ Đương thì ta biết đi đâu mà tìm? Thế nhưng trước mắt Vô Kỵ hàn độc đã đi vào gan phổi rồi, quả đúng là" đằng nào cũng chết", ở lúc sinh tử này đành phải quyết định dứt khoát, bèn nói:
- Thế thì đành gửi anh vậy. Thế nhưng phải nói trước, Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, phái Võ Đương chúng tôi cũng không chịu ơn quí giáo đâu.
Ông biết ma giáo hành sự ngụy bí, nếu như dính dấp với họ, họ sẽ luẩn quẩn với mình hoài, không biết hậu hoạn đến chừng nào, Trương Thúy Sơn đã thân bại danh liệt, thật là rành rành ra đấy. Thường Ngộ Xuân ngang nhiên đáp:
- Trương chân nhân coi Minh giáo chúng tôi chẳng ra gì cả, nhưng thôi cứ theo đúng lời dạy bảo là xong.
Trương Tam Phong nói:
- Anh thay ta chăm sóc cho Vô Kỵ, nếu như âm độc trong thân thể trừ được, thì anh dẫn nó lên núi Võ Đương. Còn việc anh lên núi làm con tin, cái đó không cần thiết.
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Tiểu nhân xin hết sức cố gắng.
Trương Tam Phong nói:
- Còn tiểu cô nương này, ta dẫn lên núi Võ Đương, sẽ thu xếp lo liệu sau.
Thường Ngộ Xuân lên bờ dùng tay đào một cái hố dưới một gốc cây to, đem Chu công tử lột hết quần áo rồi mới đem chôn, quì trước phần mộ lạy mấy lạy. Thì ra qui củ của Minh giáo là "khỏa táng", khi sinh ra không một mảnh vải che thân, thì khi chết đem chôn cũng không mặc quần áo. Trương Tam Phong không hiểu lý do, chỉ nghĩ thầm bọn người này làm gì cũng tà môn thần bí.
Sáng hôm sau, Trương Tam Phong dắt Chu Chỉ Nhược, chia tay cùng Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân. Trương Vô Kỵ từ khi cha mẹ chết đến giờ, coi Trương Tam Phong như ông nội, bây giờ bất ngờ phải xa, không khỏi nước mắt ròng ròng. Trương Tam Phong ôn tồn nói:
- Vô Kỵ, khi nào cháu khỏi bệnh rồi, Thường đại ca sẽ đưa cháu về núi Võ Đương. Cháu ngoan, chỉ xa ông vài tháng, không có gì phải buồn.
Trương Vô Kỵ chân tay không cử động được nhưng nước mắt không ngừng chảy dài trên má. Chu Chỉ Nhược trở lại thuyền, lấy trong bọc ra một cái khăn tay, lau nước mắt cho nó, mỉm cười rồi nhét chiếc khăn vào trong túi Vô Kỵ, sau đó mới lên bờ.
Trương Vô Kỵ nhìn theo thái sư phụ cùng Chu Chỉ Nhược đi về hướng tây, thấy cô gái không ngớt quay đầu giơ tay vẫy nó, mãi đến khi đi khuất sau một hàng dương liễu mới thôi. Lúc này thằng bé thấy mình thê lương lẻ bóng, đau khổ vô chừng, không nhịn nổi khóc òa lên. Thường Ngộ Xuân nhíu mày hỏi:
- Trương huynh đệ, năm nay chú bao nhiêu tuổi?
Trương Vô Kỵ nghẹn ngào đáp:
- Mười hai tuổi.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Hay nhỉ, mười hai tuổi rồi, đâu có còn bé bỏng gì nữa, vậy mà khóc hu hu, không biết xấu. Hồi ta mười hai tuổi, bị đánh không biết mấy trăm lần, nhưng không bao giờ phải chảy nước mắt cả. Nam tử hán đại trượng phu, máu chảy thì được, nước mắt chảy thì không. Nếu chú mày còn thút thít không nín, ta sẽ cho chú mày mấy cái tát.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi không muốn rời xa thái sư phụ nên tôi khóc, còn ai đánh tôi tôi không khóc đâu. Anh muốn đánh tôi cứ việc đánh, hôm nay anh đánh tôi một quyền, ngày sau tôi đánh lại anh mười quyền.
Thường Ngộ Xuân ngạc nhiên, cười ha hả, nói:
- Hảo huynh đệ, hảo huynh đệ, thế mới là một nam tử có cốt khí chứ. Chú mày ghê gớm như thế, làm sao ta dám đánh chú mày.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi cử động còn không được, tại sao đại ca không dám đánh tôi?
Thường Ngộ Xuân cười đáp:
- Hôm nay ta đánh chú mày, sau này chú mày theo học thái sư phụ võ công, thần quyền của phái Võ Đương, làm sao ta chịu mổi mười cú đấm.
Trương Vô Kỵ nghe vậy cũng bật cười, thấy vị Thường đại ca này tuy tướng mạo hung dữ nhưng không phải là người xấu. Thường Ngộ Xuân thuê giang thuyền đi xuống Hán Khẩu, đến Hán Khẩu đổi qua thuyền lớn đi theo Trường giang xuôi về hướng đông. Nơi Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ẩn cư là Hồ Điệp Cốc[3], ở tại bên cạnh hồ Nữ Sơn, thuộc Hoàn Bắc[4].
Trường giang từ Hán Khẩu đến Cửu Giang, chảy theo hướng đông nam, qua Cửu Giang rồi mới bẻ theo hướng đông bắc đi vào cảnh giới đất Hoàn. Hai năm trước, Trương Vô Kỵ từng đi thuyền ngược lên hướng bắc, nhưng lúc đó có cha mẹ cùng đi, lại có nhị bá Du Liên Châu đồng hành, đường đi biết bao nhiêu thích thú. Hôm nay cha mẹ đều đã mất cả rồi, còn mình sống dở chết dở theo Thường Ngộ Xuân đi chữa bệnh, sướng khổ hai đằng, thật cách nhau một trời một vực. Thế nhưng y sợ Thường Ngộ Xuân nổi cáu, tuy trong lòng đau buồn nhưng không dám chảy nước mắt. Lúc đó trên thân thể y những huyệt đạo Trương Tam Phong điểm đã tự động giải khai rồi, mỗi khi hàn độc phát tác đau đớn chịu không nổi, y chỉ còn cách nghiến răng cố chịu, đến nỗi môi trên môi dưới đầy vết răng, mà âm hàn xâm nhập mỗi ngày mỗi nặng thêm.
Khi đến Qua Phụ ở hạ du Tập Khánh, Thường Ngộ Xuân bỏ thuyền lên bờ, mướn một cỗ xe lớn, đi về hướng bắc, vài ngày sau đến Quang Minh ở phía đông của Phượng Dương. Thường Ngộ Xuân biết rằng vị Hồ sư bá này không thích người ngoài biết được chỗ ông ta ẩn cư, khi đến cách hồ Nữ Sơn khoảng hai chục dặm thì bắt xe phải quay đầu, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng, băng băng đi tới.
Y vẫn tưởng hai chục dặm đi một mạch là tới, nào ngờ vì bị trúng hai âm chưởng của phiên tăng, nội thương khá nặng, chỉ đi được một dặm thì gân cốt đã mỏi nhừ, đau nhức, thở hồng hộc bước đi không nổi. Trương Vô Kỵ không nỡ để y đi tiếp nên nói:
- Thường đại ca, để tiểu đệ đi một mình cũng được, đại ca đừng phí sức.
Thường Ngộ Xuân tức khí, giận dữ nói:
- Bình thời ta đi một hơi cả trăm dặm chưa thấy mệt, không lẽ mấy tên tặc hòa thượng đánh có hai chưởng, đã đi không nổi sao?
Y hiếu thắng càng ra sức đi nhanh hơn. Thế nhưng nội thương vốn đã trầm trọng, lại thêm nóng nảy cố sức, chỉ được vài chục trượng, đã thấy các khớp xương trong người như muốn rời ra, nhưng không chịu nhận mình yếu, cũng không chịu bỏ Vô Kỵ xuống, chỉ còn loạng choạng đi từng bước một.
Đi như thế thật là chậm, đến lúc trời tối, chưa được một nửa đường, đường núi lại cheo leo, càng vào sâu càng khó đi. Đi đến giữa một khu rừng, Thường Ngộ Xuân bỏ Trương Vô Kỵ xuống đất, nằm thẳng cẳng nghỉ mệt. Y lấy trong bọc ra mấy cái bánh trái chia cho Vô Kỵ một nửa cùng ăn. Thường Ngộ Xuân nghỉ độ nửa giờ, lên đường đi tiếp. Vô Kỵ cực lực khuyên y nên ngủ lại trong rừng một đêm, đợi trời sáng hãy tiếp tục. Thường Ngộ Xuân nghĩ quả thực nếu trời tối thế này mà đi tiếp, nửa đêm nửa hôm đến kinh động Hồ Thanh Ngưu, thể nào cũng làm ông ta nổi giận, đành nghe lời. Hai người ngồi dưới một gốc cây to, dựa vào nhau mà ngủ.
Ngủ đến nửa đêm, hàn độc trong người Trương Vô Kỵ lại phát tác, run rẩy không ngừng. Y sợ sẽ làm Thường Ngộ Xuân tỉnh dậy nên không dám kêu, chỉ cố chịu đựng. Ngay lúc đó bỗng có tiếng binh khí va chạm nhau từ xa vọng tới, lại có tiếng người:
- Định chạy đi đâu?
- Chặn bên phía đông, dồn y vào trong rừng.
- Kỳ này nhất định không cho thằng trọc chạy thoát.
Sau đó có tiếng bước chân, có mấy người chạy vào trong rừng. Thường Ngộ Xuân kinh hoảng tỉnh giấc, tay phải rút đơn đao ra, tay trái ôm Trương Vô Kỵ, định sẽ vừa đánh vừa chạy. Trương Vô Kỵ nói khẽ:
- Hình như không phải họ đi kiếm bọn mình đâu.
Thường Ngộ Xuân gật đầu, nép mình sau gốc cây nhìn ra, trong đêm tối thấy có bảy tám người vây đánh một người, người đó tay không, song chưởng bay múa, ép cho địch nhân không thể tới gần được. Đánh nhau một hồi, vòng vây những người kia dần dần thắt lại.
Một hồi sau, ánh trăng non từ trong đám mây chui ra chiếu xuống, dãi khắp bốn bề, thấy người bị vây kia là một nhà sư cao gầy chừng bốn chục tuổi mặc áo bào trắng. Những người vây đánh y có tăng có đạo, lại có người mặc theo lối tục gia, lại có thêm hai người đàn bà, tổng cộng tám người cả thảy. Hai nhà sư mặc áo màu xám tro một người cầm thiền trượng, một người cầm giới đao, mỗi lần thiền trượng đánh ngang giới đao múa che bên cạnh thì gió bay ra khiến lá cây rụng xuống lả tả. Một đạo nhân tay cầm trường kiếm, thân pháp nhanh nhẹn, dưới ánh trăng múa ra lấp lóe kiếm hoa từng vùng. Một hán tử thấp bé cầm song đao, lăn qua lăn lại dưới đất, dùng Địa Đường đao pháp tấn công hạ bàn của nhà sư áo trắng.
Hai người đàn bà thân hình mảnh dẻ, đều cầm trường kiếm, kiếm pháp thật là linh động nhẹ nhàng. Đấu được một hồi, một trong hai người quay ngang, nửa mặt chiếu dưới ánh trăng, Trương Vô Kỵ bất giác suýt tí nữa kêu lên: "Kỷ cô nương". Người đó chính là vị hôn thê của Ân Lê Đình Kỷ Hiểu Phù. Lúc mới xem tám người vây đánh một người, Trương Vô Kỵ thấy họ lấy nhiều chống ít không công bình, lòng mong thầm hòa thượng nọ có thể đột phá vòng vây chạy thoát. Bây giờ nhận ra được Kỷ Hiểu Phù rồi, tin chắc nhà sư nọ là kẻ địch của Kỷ cô nương ắt không phải kẻ tốt, lòng liền xoay qua ủng hộ phe Kỷ Hiểu Phù.
Năm xưa khi cha mẹ tự tận, Kỷ Hiểu Phù từng ngọt ngào an ủi nó, tuy Vô Kỵ không nhận cái vòng vàng đeo cổ cô ta cho, nhưng sau nghĩ lại cái hảo ý của cô ta thật đáng cảm kích. Vô Kỵ thấy hòa thượng bị vây kia võ công thật cao cường, chưởng pháp lúc nhanh lúc chậm, hư hư thực thực, biến huyễn đa đoan, khi ra tay nhanh thì ngay cả đường đi của bàn tay y cũng không nhìn rõ. Bên Kỷ Hiểu Phù tuy đông người nhưng đánh lâu y vẫn không chịu kém.
Bỗng nghe một hán tử quát lên:
- Dùng ám khí tấn công.
Một hán tử và một đạo nhân liền dạt qua hai bên, sau đó nghe tiếng vèo vèo liên tiếp, thiết đạn và phi đao bắn ào ào vào hòa thượng áo trắng khiến cho nhà sư không chống đỡ nổi. Đạo nhân râu dài cầm kiếm quát lên:
- Bành hòa thượng, bọn ta không muốn giết ngươi đâu, việc gì ngươi phải đánh đến cùng? Ngươi đem Bạch Qui Thọ đưa ra, chúng ta sẽ cười mà tha liền, có phải hay không?
Thường Ngộ Xuân giật mình kinh hãi, hạ giọng:
- Vị đó là Bành hòa thượng?
Khi trước đi thuyền, Vô Kỵ từng nghe cha mình kể chuyện dương đao lập uy trên Vương Bàn Sơn đảo cho Du nhị bá nghe, biết tại sao các môn phái kết oán thù với Thiên Ưng giáo. Bạch Qui Thọ chính là đàn chủ Huyền Võ đàn còn sống sót, lâu nay các môn phái đánh nhau với Thiên Ưng giáo cũng vì muốn Bạch đàn chủ thổ lộ tung tích của Tạ Tốn. Y nghĩ thầm: "Không lẽ vị Bành hòa thượng này cũng là nhân vật trong giáo phái của mẹ ta?".
Chỉ nghe Bành hòa thượng lớn tiếng nói:
- Bạch đàn chủ đã bị các ngươi đánh trọng thương, không nói gì ta với y có chút uyên nguyên, dù chẳng liên quan gì cũng đâu có thể thấy người chết mà không cứu?
Đạo nhân râu dài nói:
- Cái gì mà "kiến tử bất cứu"? Bọn ta có định giết y đâu, chỉ muốn biết tin tức của một người thôi.
Bành hòa thượng đáp:
- Các ngươi muốn hỏi chỗ ở của Tạ Tốn, sao không đến tìm phương trượng chùa Thiếu Lâm mà hỏi?
Một tăng nhân mặc áo xám tro liền kêu lên:
- Đó là ác kế của yêu nữ Thiên Ưng giáo Ân Tố Tố giá họa cho chùa Thiếu Lâm ta, ai tin cho nổi?
Nhà sư đó hiển nhiên thuộc phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ nghe y nhắc đến tên của mẹ mình, vừa hãnh diện, vừa đau lòng, nghĩ thầm: "Mẹ ta qua đời đã hai năm, nhưng vẫn còn làm cho các ngươi phải đau đầu". Bỗng nghe đạo nhân đứng bên ngoài vòng kêu lên:
- Tất cả nằm xuống.
Sáu người nghe thế, vội vàng hụp xuống, chỉ thấy bạch quang lấp loáng, năm thanh phi đao vù vù phóng ra, nhắm thẳng vào đầu Bành hòa thượng. Đúng ra Bành hòa thượng chỉ cần cúi đầu, khom lưng nhào về phía trước, hay dùng thiết bản kiều ngửa người về sau là phi đao đã bay trượt ra rồi, nhưng khi đó dưới đất sáu người cùng dựng binh khí lên, chặn hết hạ tam lộ của y, làm sao cúi mình né tránh được?
Trương Vô Kỵ kinh hãi, thấy Bành hòa thượng nhảy vọt lên, năm ngọn phi đao bay dưới chân, tuy y né được nhưng thiền trượng giới đao của hai nhà sư Thiếu Lâm, kiếm của đạo nhân râu dài vẫn đâm tới đùi y. Bành hòa thượng còn đang ở trên không, đành phải mạo hiểm, chưởng trái đánh ra, nghe bịch một tiếng, trúng đầu một tăng nhân, tay phải liền móc một cái, cướp ngay được giới đao của y, thuận thế gạt vào thiền trượng, mượn sức thân hình liền bay ra xa hai trượng.
Nhà sư Thiếu Lâm bị đánh trúng thiên linh cái chết ngay lập tức. Những người khác liền giận dữ hò hét đuổi theo, còn Bành hòa thượng chân khập khiễng ngã lăn ra đất, bảy người liền bao quanh y. Nhà sư cầm thiền trượng chẳng khác gì con hổ điên, liên tiếp đánh xuống mồm gào:
- Bành hòa thượng, ngươi giết sư đệ ta, ta quyết thí mạng với ngươi.
Đạo nhân râu dài kêu lên:
- Đùi y trúng yết vĩ câu[5] ám khí của ta rồi, chỉ chốc lát chất độc phát tác là chết thôi.
Quả nhiên chân Bành hòa thượng không đứng vững, lảo đảo không yên. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: "Y là một đại nhân vật trong Minh giáo ta, không thể không cứu". Dù y đang bị trọng thương nhưng vẫn định xông ra cứu người, nên hít một hơi dài, chân trái nhảy tới. Nào ngờ y hô hấp quá nhanh, bước lại dài liền động đến vết thương trên ngực, đau quá muốn xỉu. Ngay lúc đó Bành hòa thượng nhảy vọt lên, cũng ngã lăn ra, có lẽ chất độc làm y chết rồi. Thường Ngộ Xuân cố nhịn đau, giương mắt xem động tĩnh, thấy bảy người kia vẫn không dám đến gần Bành hòa thượng.
Đạo nhân râu dài nói:
- Hứa sư đệ, ngươi bắn hai ngọn phi đao xem thế nào.
Đạo nhân nọ liền giơ tay phải lên, nghe cách cách hai tiếng, một ngọn phi đao bắn trúng vai phải, một ngọn phi đao bắn trúng đùi trái của Bành hòa thượng. Bành hòa thượng không động đậy, hiển nhiên không còn sống nữa. Đạo nhân râu dài nói:
- - Tiếc quá, tiếc quá, y chết mất rồi, không biết y dấu Bạch Qui Thọ ở đâu?
Bảy người lập tức tiến lên vây quanh xem xét. Bỗng nghe bình bình bình bình bình liên tiếp, năm người bị đánh văng ra ngoài. Bành hòa thượng liền đứng lên, đầu vai và đùi vẫn còn cắm phi đao. Thì ra đùi y trúng ám khí tẩm độc, biết rằng không thể tiếp tục đấu, bèn giả cách chết, dụ địch tới gần, dùng Đại Phong Vân Phi Chưởng thủ pháp nhanh như điện chớp đánh vào ngực năm người đàn ông. Y nằm trên mặt đất đã ám vận chân khí chờ sẵn, nên năm chưởng đó thật là cương mãnh lợi hại.
Kỷ Hiểu Phù và sư tỉ đồng môn Đinh Mẫn Quân giật mình kinh hãi, vội vàng nhảy ra ngoài, nhìn lại năm người đồng bạn, người nào cũng ứa máu mồm, hai người công lực kém hơn luôn mồm kêu la. Thế nhưng Bành hòa thượng vận kình gấp rút, cũng đứng không vững lảo đảo muốn ngã. Gã đạo nhân râu dài nói:
- Đinh Kỷ hai vị cô nương, mau dùng kiếm đâm y đi.
Hai bên chín người thì một tăng nhân Thiếu Lâm đã chết, Bành hòa thượng và năm người khác đều bị trọng thương, chỉ còn Kỷ Hiểu Phù và Đinh Mẫn Quân là chưa sao cả. Đinh Mẫn Quân nghĩ thầm: "Bộ ngươi tưởng ta không biết dùng kiếm hay sao mà ngươi phải chỉ điểm?" Thị liền sử chiêu Hư Thức Phân Kim vung kiếm lên chém xuống cổ Bành hòa thượng. Bành hòa thượng thở dài một tiếng, nhắm mắt chờ chết, bỗng nghe một tiếng leng keng binh khí chạm nhau, mở mắt ra nhìn, thì ra Kỷ Hiểu Phù vung kiếm gạt binh khí của sư tỉ ra. Đinh Mẫn Quân ngạc nhiên hỏi:
- Sao thế?
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Sư tỉ, Bành hòa thượng chưởng hạ lưu tình, mình không nên đuổi tận giết tuyệt.
Đinh Mẫn Quân nói:
- Cái gì mà chưởng hạ lưu tình, đó là vì y không còn sức đấy chứ.
Thị liền gay gắt nói:
- Bành hòa thượng, sư muội của ta lòng dạ từ bi, cứu mạng cho ngươi, vậy Bạch Qui Thọ đang ở đâu mau nói cho ta nghe.
Bành hòa thượng ngửa cổ lên cười lớn, nói:
- Đinh cô nương, cô xem Bành Oánh Ngọc này nhẹ quá. Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương đành chịu tự vẫn mà chết, nhưng quyết không nói ra chỗ ở của nghĩa huynh. Bụng dạ của Bành Oánh Ngọc này tuy không can đảm nghĩa liệt được như Trương ngũ hiệp, dù bất tài nhưng cũng cố học cho được như thế.
Nói tới đây y hộc máu, phải ngồi bệt xuống. Đinh Mẫn Quân bước tới, giơ chân phải đá luôn ba cái vào chỗ mạng sườn để y không còn cách nào bất ngờ tập kích được nữa. Mấy câu đó của Bành hòa thượng khiến nhiệt huyết trong lòng Vô Kỵ dâng lên, đối với y vừa thấy thân cận, lại sinh cảm kích. Cha y Trương Thúy Sơn tự vẫn chết, những người trong danh môn chính phái khi nói tới đều cho rằng: "Một thiếu niên anh hiệp tài tuấn như thế, chỉ vì lụy phải tà giáo yêu nữ, sẩy một bước thành cái hận nghìn thu, đến nỗi thân tử danh liệt, để cả phái Võ Đương đều phải chịu chung cái nhục".
Những câu đó tuy Trương Vô Kỵ không nghe thấy nhưng y tại thái sư phụ và các sư thúc bá ngôn ngữ thần sắc, thấy họ ngoài việc thương tâm không khỏi oán trách giận dữ đối với mẫu thân, cho rằng cha y suốt đời việc gì cũng tốt, chỉ vì lấy vợ nhầm mà ra nông nỗi, chưa ai như Bành hòa thượng tỏ lời khâm phục cả.
Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp:
- Trương Thúy Sơn mắt mù nên mới kết hôn cùng tà giáo yêu nữ, cái đó chính là tự hạ mình, có gì đáng phải học? Phái Võ Đương của y ...
Kỷ Hiểu Phù xen vào:
- Sư tỉ ...
Đinh Mẫn Quân nói:
- Ngươi đừng lo, ta không nói gì tới Ân lục hiệp đâu mà sợ.
Thị rung kiếm một cái chỉ vào mắt phải của Bành hòa thượng, nói:
- Nếu ngươi không nói, ta đâm mù mắt phải của ngươi trước, sau đó sẽ đâm mù mắt trái, kế đó đâm thủng tai phải, rồi đâm thủng tai trái, rồi cắt mũi ngươi, nói chung là ta không cho ngươi chết yên chết lành đâu.
Mũi kiếm của thị sáng quắc chỉ cách mắt Bành hòa thượng chừng nửa tấc, không ngừng rung động. Bành hòa thượng giương to đôi mắt, lạnh lùng nói:
- Ta thường ngưỡng mộ Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi hành sự ác độc, những học trò bà ta cũng chẳng khác bao nhiêu. Bành Oánh Ngọc hôm nay rơi vào tay ngươi, ngươi cứ việc giở những trò kiệt tác của phái Nga Mi xem thử.
Đinh Mẫn Quân lông mày dựng lên, hằn học nói:
- Thằng trọc chết toi, ngươi dám làm nhục sư môn của ta ư?
Trường kiếm liền lập tức phóng tới, đâm mù mắt phải của Bành Oánh Ngọc, rồi đưa qua đụng vào mí mắt bên trái. Bành hòa thượng cười ha hả, mắt phải máu chảy ròng ròng, mắt bên trái vẫn trừng trừng nhìn y thị. Đinh Mẫn Quân bực mình, quát lên:
- Ngươi không phải là người của Thiên Ưng giáo, việc gì phải vì chết vì Bạch Qui Thọ?
Bành Oánh Ngọc hiên ngang đáp:
- Đại trượng phu có đạo lý của mình, dù ta có nói cho ngươi nghe, ngươi cũng chẳng hiểu được đâu.
Đinh Mẫn Quân thấy y không còn cách gì phản kháng, nhưng thần sắc đối với mình vẫn tỏ vẻ khinh miệt, trong cơn phẫn nộ liền đâm tới cho y mù nốt mắt trái. Kỷ Hiểu Phù vung kiếm nhẹ nhàng gạt ra, nói:
- Sư tỉ, gã hòa thượng này cứng đầu lắm, làm cách nào y cũng không nói đâu, giết y cũng uổng thôi.
Đinh Mẫn Quân nói:
- Y dám chửi sư phụ tâm địa độc ác, để ta cho y coi tâm địa độc ác cỡ nào. Bọn yêu nhân trong ma giáo, để sống trên đời chỉ làm hại người lương thiện, giết được đứa nào là thêm công đức đứa ấy.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Tên này xem ra là một hán tử cứng cỏi. Sư tỉ, theo ý tiểu muội mình nên tha cho hắn.
Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:
- Hai vị sư huynh phái Thiếu Lâm một chết một bị thương, hai vị đạo trưởng phái Côn Lôn bị thương nặng, hai vị đại ca phái Hải Sa bị thương cũng không nhẹ, chẳng lẽ y hạ thủ không độc ác hay sao? Để ta đâm mù nốt mắt trái y đi, rồi hãy tra hỏi.
Tiếng "hỏi" vừa dứt, kiếm liền lóe lên đâm luôn vào mắt trái Bành hòa thượng. Kỷ Hiểu Phù liền vung kiếm, nhẹ nhàng khéo léo gạt kiếm của Đinh Mẫn Quân ra, nói:
- Sư tỉ, người này dĩ nhiên không còn sức lực chống trả, nếu mình đả thương y, trên giang hồ truyền ra, không khỏi không tốt cho phái Nga Mi chúng ta.
Đinh Mẫn Quân nhướng lông mày, quát:
- Đứng tránh ra, đừng xen vào chuyện của ta.
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Vâng.
Trường kiếm của Đinh Mẫn Quân lại rung động đâm vào mắt trái của Bành hòa thượng, lần này tăng thêm ba phần kình lực. Kỷ Hiểu Phù trong lòng không nỡ, lại đưa kiếm gạt ra. Nàng thấy sư tỉ kiếm thế mạnh mẽ, khi đưa kiếm gạt phải dùng nội lực, hai thanh kiếm chạm nhau, nghe keng một tiếng tóe lửa. Hai người bị chấn động khiến tay tê chồn, phải lùi hai bước. Đinh Mẫn Quân giận quá, quát lên:
- Ngươi năm lần bảy lượt bảo vệ cho tên yêu tăng ma giáo, chẳng hay có ý gì?
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Tiểu muội chỉ muốn sư tỉ đừng hành hạ y, muốn y nói nơi chốn của Bạch Qui Thọ cứ từ từ hỏi được rồi.
Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
- Bộ ngươi tưởng ta không biết bụng dạ ngươi hay sao. Ngươi thử hỏi lòng thì biết: "Tại sao Ân lục hiệp của phái Võ Đương mấy lần thúc giục làm đám cưới ngươi cứ việc cớ này cớ nọ, ngay cả cha ngươi hối thúc, ngươi thà bỏ nhà ra đi chứ không nghe?".
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Việc riêng của tiểu muội có liên quan gì đến chuyện này đâu? Tại sao sư tỉ lại giằng hai chuyện làm một?
Đinh Mẫn Quân nói:
- Hai đứa mình ai chẳng biết, có điều trước mặt người ngoài không nên vạch áo cho người xem lưng đấy thôi. Ngươi thì thân tại Nga Mi nhưng lòng dạ thì để trong ma giáo.
Kỷ Hiểu Phù mặt tái nhợt, run run nói:
- Tiểu muội lúc nào cũng kính trọng sư tỉ, không bao giờ dám đắc tội, sao hôm nay sư tỉ lại làm nhục tiểu muội?
Đinh Mẫn Quân nói:
- Được rồi, nếu lòng dạ ngươi không phải hướng về ma giáo, thì ngươi thay ta dùng kiếm đâm mù mắt trái y xem nào.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Bản môn từ khi Tiểu Đông Tà Quách tổ sư sáng phái tới nay, đồng môn không xuất gia làm ni cô, hay không chịu lấy chồng thật là nhiều, tiểu muội không muốn xuất giá cũng là chuyện thường. Tại sao sư tỉ cứ nhất định phải ép tiểu muội?
Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp:
- Ta không phải muốn nghe ngươi nói chuyện vờ vĩnh. Ngươi không đâm mù mắt y, ta sẽ nói toạc chuyện của ngươi ra cho mọi người biết đó.
Kỷ Hiểu Phù dịu dàng nói:
- Sư tỉ, mong sư tỉ niệm tình đồng môn, đừng bức bách tiểu muội.
Đinh Mẫn Quân cười đáp:
- Ta có bắt ngươi làm điều gì khó khăn đâu. Sư phụ sai chúng ta đi nghe ngóng tin tức Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, gã hòa thượng này là đầu mối duy nhất có thể biết được. Y đã không cho biết lại còn sát thương bao nhiêu đồng bạn, ta đâm mù mắt phải của y, ngươi đâm mù mắt trái của y, cái đó cũng phải thôi, vì cớ gì ngươi không chịu xuống tay?
Kỷ Hiểu Phù hạ giọng:
- Y đối với chúng ta thủ hạ lưu tình, mình cũng nên nghĩ lại mà không nên đuổi tận giết tuyệt. Tiểu muội lòng dạ mềm yếu, không hạ thủ được.
Nói rồi nàng tra kiếm vào vỏ. Đinh Mẫn Quân cười nhạt:
- Ngươi lòng dạ mềm yếu ư? Sư phụ vẫn thường khen ngươi kiếm pháp tàn độc, tính tình cương nghị, rất giống sư phụ, đã có ý truyền y bát cho ngươi, ngươi làm sao lòng dạ mềm yếu được?
Hai sư tỉ muội đồng môn lời qua tiếng lại, mọi người nghe chẳng hiểu đâu vào đâu, bây giờ nghe nói thế, xem ra Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi rất thương yêu Kỷ Hiểu Phù, đã có ý truyền y bát cho nàng, Đinh Mẫn Quân trong lòng đố kỵ, lần này không biết nắm được cái bí mật gì của sư muội, nên định nói xấu nàng trước mặt mọi người. Trương Vô Kỵ vẫn cảm kích chuyện Kỷ Hiểu Phù đối với mình thân thiết, chăm lo khi trước, nay thấy nàng bị bức bách, chỉ hận không thể nhảy ra cho Đinh Mẫn Quân mấy cái tát tai.
Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói:
- Kỷ sư muội, để ta hỏi đây. Hôm đó sư phụ triệu tập tất cả đồng môn đệ tử trên núi Nga Mi truyền thụ hai pho Diệt Kiếm và Tuyệt Kiếm chính lão nhân gia sáng tác, tại sao ngươi không đến? Để cho lão nhân gia phải nổi cơn lôi đình?
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Tiểu muội ở Cam Châu đột nhiên bị bệnh, không cử động được. Việc đó tiểu muội đã bẩm rõ sư phụ rồi, sao sư tỉ lại tự nhiên hỏi đến?
Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
- Chuyện này ngươi che mắt được sư phụ, nhưng đâu có che mắt được ta. Ta còn một câu hỏi, nếu ngươi chịu đâm mù mắt gã hòa thượng kia thì ta không truy vấn nữa.
Kỷ Hiểu Phù cúi đầu không trả lời, trong lòng dường như có điều khó nghĩ, nói nhỏ:
- Sư tỉ không còn nghĩ gì đến tình nghĩa đồng môn đồng học nữa ư?
Đinh Mẫn Quân hỏi:
- Ngươi đâm hay không đâm?
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Sư tỉ cứ yên tâm, sư phụ nếu muốn truyền y bát cho, tiểu muội cũng nhất định không dám nhận đâu.
Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:
- Giỏi nhỉ. Ngươi nói như thế, chẳng hóa ra ta vì ghen tức với ngươi sao? Ta có điểm nào không bằng ngươi mà phải vị tình, mà phải để ngươi nhường cho? Ngươi có đâm hay không thì bảo?
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Tiểu muội có làm gì sai quấy, nếu sư tỉ muốn trách phạt, tiểu muội đâu có dám không tuân theo? Ở đây có các bằng hữu môn phái khác, nếu sư tỉ bức bách ...
Nói đến đây nàng sụt sùi rơi lệ.
Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
- Hừ, ngươi đừng giả vờ làm như đáng thương lắm đấy, trong bụng không biết đang rủa thầm ta những gì. Năm đó ngươi ở Cam Châu, không nhớ ba năm hay bốn năm trước nhỉ, ta nhớ không rõ lắm, chỉ có ngươi mới nhớ được thôi. Lúc đó có thực ngươi sinh bệnh không? Sinh thì có sinh, nhưng là sinh con thì có.
Kỷ Hiểu Phù nghe nói thế, lập tức xoay mình chạy đi. Đinh Mẫn Quân đã đoán trước nàng sẽ đào tẩu, phi thân lên trước, giơ trường kiếm ra cản ngay trước mặt, nói:
- Ta khuyên ngươi mau đâm mù mắt Bành hòa thượng đi, nếu không ta sẽ hỏi cha của đứa bé đó là ai? Sẽ hỏi tại sao ngươi là đệ tử danh môn chính phái mà lại đi che chở cho yêu tăng của ma giáo?
Kỷ Hiểu Phù ấp úng nói:
- Chị ... chị để tôi đi.
Đinh Mẫn Quân chỉ trường kiếm vào ngực nàng, lớn tiếng:
- Ta hỏi ngươi, ngươi nuôi đứa nhỏ đó ở đâu? Ngươi là vị hôn thê của Ân Lê Đình Ân lục hiệp của phái Võ Đương, sao lại sinh con với người khác?
Câu nói trắng trợn đó vào tai mọi người ai nấy đều giật mình. Trương Vô Kỵ trong lòng hoang mang: "Kỷ cô nương là người tốt sao lại đối xử không phải với Ân lục thúc như thế?". Y đối với việc trai gái dĩ nhiên chưa hiểu biết, nhưng Thường Ngộ Xuân, Bành hòa thượng, đạo nhân râu dài của phái Côn Lôn mọi người, ai ai cũng đều kinh ngạc.
Kỷ Hiểu Phù mặt nhợt nhạt, chạy lao về phía trước. Đinh Mẫn Quân đột nhiên hạ sát thủ, đâm tới một kiếm lút vào vai bên phải của sư muội tới tận xương. Kỷ Hiểu Phù bị thương không phải nhẹ, cũng không nhịn nữa, tay trái rút kiếm, nói:
- Sư tỉ, chị đã khăng khăng làm khó, tiểu muội không thể nể nang được nữa.
Đinh Mẫn Quân biết rằng hôm nay đã làm cho sư muội mất mặt, nói toạc chuyện bí mật của nàng ra rồi, ắt sẽ giết mình để bịt miệng. Võ công y thị không bằng Kỷ Hiểu Phù, thể nào cũng đánh thí mạng, sự việc thật là nguy hiểm, thành thử thừa cơ đâm trước một kiếm vào vai bên phải. Nghe nàng nói thế, Đinh Mẫn Quân lập tức sử chiêu Nguyệt Lạc Tây Sơn, đâm thẳng vào bụng dưới của sư muội. Kỷ Hiểu Phù vai phải đau đớn, thấy sư tỉ sử chiêu thứ hai không chút dung tình, lập tức dùng tay trái trả lại một chiêu.
Hai chị em đều biết rõ kiếm pháp của nhau, thế công thế thủ tuy rất nghiêm nhặt nhưng cũng rất kịch liệt. Những người khác ai nấy đều bị trọng thương, không cách nào khuyên giải, cũng không giúp bên nào được, chỉ còn cách giương mắt nhìn, trong lòng không khỏi ngầm bội phục: "Phái Nga Mi là một trong bốn đại môn phái hiện nay, kiếm thuật quả nhiên cao minh, danh bất hư truyền".
Vết thương trên vai Kỷ Hiểu Phù xuất huyết không ngừng, càng đấu máu chảy càng nhiều, nàng phải luôn luôn sử sát chiêu mong đẩy được Đinh Mẫn Quân giãn ra, để có đường bỏ chạy. Thế nhưng nàng dùng tay trái sử kiếm nên không mấy thành thục, lại thụ thương nên võ công chỉ còn độ ba phần. Thế nhưng Đinh Mẫn Quân vốn dĩ rất ngại người sư muội này, không dám tiến vào thật gần, chỉ cố đánh dây dưa chờ nàng chảy máu nhiều tự nhiên sẽ suy kiệt. Kỷ Hiểu Phù cước bộ chậm dần, kiếm pháp bắt đầu tán loạn, xem ra không còn chịu nổi nữa. Đinh Mẫn Quân lại đâm soẹt soẹt hai cái trúng đầu vai phải của Kỷ Hiểu Phù, khiến cho một nửa người nàng dính đầy máu tươi.
Bành hòa thượng đột nhiên cao giọng:
- Kỷ cô nương, cô lại đâm mắt trái tôi đi, Bành hòa thượng này đối với cô cảm kích không cùng.
Y nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù cam chịu hi sinh tính mạng bảo vệ cho mình đã là chuyện khó, huống chi Đinh Mẫn Quân lại còn đem thanh danh trinh bạch ra uy hiếp, đối với đàn bà còn nặng hơn cái chết nhiều. Thế nhưng lúc này dù Kỷ Hiểu Phù có đến đâm mù mắt Bành hòa thượng thì Đinh Mẫn Quân cũng không bỏ qua, y thị biết nếu hôm nay không thừa cơ hạ thủ trừ khử người sư muội này, ngày sau họa hoạn không biết đâu mà lường được.
Bành hòa thượng thấy Đinh Mẫn Quân kiếm chiêu độc ác, liền lớn tiếng chửi:
- Đinh Mẫn Quân, ngươi thực là mặt dầy. Thảo nào trên giang hồ gọi ngươi là Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân cũng phải. Ngươi bụng dạ như rắn rết, mặt mày xấu hơn cả Chung Vô Diệm. Nếu trên đời này đàn bà con gái ai ai cũng xấu như ngươi, khiến cho vừa gặp đã buồn mửa, đàn ông con trai chắc đi tu hết. Nếu như Độc Thủ Vô Diệm mà đứng ở trước mặt, Bành hòa thượng này đã đi tu rồi xem ra cũng chưa đủ, nếu mù thêm cả hai mắt mới thật là sướng.
Thực ra Đinh Mẫn Quân tuy không phải là một mỹ nhân nhưng cũng có đôi chút nhan sắc, mặt mũi dễ nhìn không đến nỗi nào. Bành hòa thượng hiểu rõ tâm lý, biết trên đời này người con gái nào dù xấu hay đẹp đều ghét kẻ chê mình khó coi, nếu bị ai chê thể nào cũng căm giận thấu xương. Y thấy tình thế nguy cấp, liền thuận mồm nói lăng nhăng, ban cho nàng ta cái tên Độc Thủ Vô Diệm, mong y thị nổi cơn tam bành lục tặc lên, quay qua đối phó với mình, Kỷ Hiểu Phù sẽ thừa cơ thoát thân, hay ít nhất cũng tìm cách buộc vết thương lại.
Thế nhưng Đinh Mẫn Quân đã định sẽ giết cho bằng được Kỷ Hiểu Phù, có còn sợ Bành hòa thượng chạy đi đâu được nữa, nên những lời nhục mạ của y chỉ để ngoài tai.
Bành hòa thượng lại lớn tiếng nói:
- Kỷ nữ hiệp băng thanh ngọc khiết, trên chốn giang hồ có ai không nghe, không biết? Thế nhưng con mụ Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân kia vốn dĩ lẳng lơ, toan tính mồi chài Ân Lê Đình của phái Võ Đương. Ân Lê Đình đâu thèm ngó ngàng gì tới, mụ mới tính đường gia hại Kỷ nữ hiệp. Hà hà, ngươi gò má cao nghệu, mồm rộng đến mang tai, nước da đen như ma lem, thân hình gầy như que củi, kẻ anh tuấn tiêu sái như Ân lục hiệp đời nào thèm ngó tới. Sao ngươi không soi gương cho thấy cái bản mặt, lại năm lần bảy lượt liếc mắt tống tình ...
Đinh Mẫn Quân nghe tới đây giận muốn điên người, nhảy một cái tới trước Bành hòa thượng, giơ kiếm đâm thẳng vào miệng y. Đinh Mẫn Quân quyền cốt quả có hơi cao, miệng thì không phải loại nhỏ như trái anh đào, nước da cũng không trắng nõn, thân thể bẩm sinh cao dong dỏng, vẫn thấy quả mình có đôi điểm không được vừa ý cho lắm. Thế nhưng người ngoài nếu không để ý kỹ cũng chẳng ai nhìn ra. Nào ngờ Bành hòa thượng mục quang sắc bén, không những đã nhận được lại còn thêm dầu thêm mỡ, một nói thành mười, khiến thị không nổi giận sao được?
Hơn nữa y thị chưa gặp Ân Lê Đình bao giờ, cái chuyện "năm lần bảy lượt liếc mắt tống tình" gì gì đó làm sao có thể? Kiếm của y thị vừa đâm tới, từ trong rừng đột nhiên một người phóng ra, quát lên một tiếng, chặn ngay trước mặt Bành hòa thượng. Người đó thân pháp cực nhanh, Đinh Mẫn Quân không kịp thu chiêu, trường kiếm vẫn còn đâm tới. Người này so với Bành hòa thượng thấp hơn đến nửa cái đầu, thanh kiếm đâm luôn vào trán y.
Cũng ngay trong giờ khắc như một ánh chớp lòe ấy, người nọ múa chưởng đánh ra, trúng ngay ngực Đinh Mẫn Quân, nghe bình một tiếng, y thị văng xa mấy bước, ngã lăn ra, hộc máu mồm, còn thanh trường kiếm vẫn cắm vào trán người nọ, xem ra y không sống được nữa rồi.
Đạo nhân râu dài của phái Côn Lôn đi tới mấy bước, kinh hoảng kêu lên:
- Bạch Qui Thọ! Bạch Qui Thọ!
Nói xong hai gối y nhũn xuống, ngồi bệt xuống đất. Thì ra người nhảy ra chịu thay cho Bành hòa thượng nhát kiếm đó, chính là Huyền Võ Đàn đàn chủ Bạch Qui Thọ của Thiên Ưng giáo. Y bị trọng thương rồi, nghe tin Bành hòa thượng vì che dấu cho mình nên bị hảo thủ các phái Thiếu Lâm, Côn Lôn, Nga Mi, Hải Sa vây đánh, nên cố hết sức kiếm tới nơi. Y chưởng lực hùng hậu, lúc sắp chết đánh ra khiến Đinh Mẫn Quân bị gãy mấy rẻ xương sườn.
Kỷ Hiểu Phù kinh hoàng cố gắng trấn định, xé vạt áo buộc vết thương trên vai, đưa tay giải những huyệt đạo bị điểm ở hông Bành Oánh Ngọc, không nói một lời, quay mình đi thẳng. Bành hòa thượng nói:
- Kỷ cô nương, xin dừng bước để Bành Oánh Ngọc này lạy cô một lạy.
Nói xong quì xuống hành lễ. Kỷ Hiểu Phù né qua một bên không nhận đại lễ của ông ta. Bành hòa thượng nhặt trường kiếm của đạo sĩ râu dài lên, nói:
- Mụ Đinh Mẫn Quân này nói năng láo lếu, hủy báng thanh danh của cô nương, không nên để cho y thị sống.
Nói xong đưa kiếm lên nhắm yết hầu cô ta đâm tới. Kỷ Hiểu Phù tay trái giơ kiếm gạt ra nói:
- Y là đồng môn sư tỉ của tôi, tuy y thị đối với tôi vô tình, nhưng tôi không thể là kẻ vô nghĩa.
Bành hòa thượng nói:
- Sự đã đến thế này, nếu không giết y thị, người đàn bà này về sau sẽ rất bất lợi cho cô.
Kỷ Hiểu Phù rơi lệ đáp:
- Tôi là người con gái thật là xui xẻo, thiếu may mắn, nhưng số mệnh sao thì chịu vậy. Bành đại sư, ông đừng giết sư tỉ của tôi.
Bành hòa thượng đáp:
- Kỷ nữ hiệp đã bảo như thế, đâu dám không tuân theo.
Kỷ Hiểu Phù quay qua nói với Đinh Mẫn Quân:
- Sư tỉ, chị tự bảo trọng lấy thân.
Nói xong tra kiếm vào vỏ, đi ra khỏi rừng. Bành hòa thượng nói với năm người bị trọng thương nằm dưới đất:
- Bành hòa thượng ta với các ngươi nguyên không có oán cừu gì ghê gớm, vốn không cần giết các ngươi làm gì. Thế nhưng hôm nay những gì mụ họ Đinh này vu miệt Kỷ nữ hiệp, tất cả đều nghe vào tai, nếu như truyền ra giang hồ, Kỷ nữ hiệp còn sao là người được nữa? Ta bất đắc dĩ không thể để một ai sống sót, bọn ngươi cũng đừng trách ta.
Nói xong mỗi người một nhát kiếm, giết hai đạo nhân của phái Côn Lôn, nhà sư phái Thiếu Lâm, hai hảo thủ của phái Hải Sa rồi tới rạch một đường vào vai Đinh Mẫn Quân. Đinh Mẫn Quân sợ đến mất cả hồn vía, nhưng bị trọng thương rồi, không còn cách gì kháng cự, chửi:
- Thằng giặc trọc, ngươi đừng giở trò hành hạ, mau đâm ta một kiếm chết cho xong.
Bành hòa thượng cười đáp:
- Đàn bà xấu xa, mồm rộng da vàng như ngươi, ta đâu có dám giết. Chỉ sợ ngươi vào địa ngục rồi, khiến cho hàng nghìn hàng vạn ác quỉ dưới âm sợ quá chạy cả lên trần, Diêm vương phán quan thượng thổ hạ tả, không phải tội nghiệt sao?
Nói xong cười lên ba tiếng, ném trường kiếm, ôm thi thể Bạch Qui Thọ, lại khóc ba tiếng rồi bỏ đi.
Trận đấu trong rừng kinh tâm động phách đêm hôm đó, Thường Ngộ Xuân và Trương Vô Kỵ hai người chứng kiến từ đầu đến cuối, nghe rõ từng lời, đến khi Đinh Mẫn Quân đi rồi, hai người mới thở ra. Trương Vô Kỵ nói:
- Thường đại ca, Kỷ cô nương là vợ chưa cưới của Ân lục thúc tôi, cái bà họ Đinh kia lại nói ... nói cô ấy có con với người khác, đại ca nghĩ cái đó thật hay giả?
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Con mụ đó nói năng quấy quá, đừng tin làm gì.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế, sau này tiểu đệ sẽ nói với Ân lục thúc dạy cho mụ một trận, để cho Kỷ cô nương khỏi bực mình.
Thường Ngộ Xuân vội đáp:
- Đừng, đừng, nhất định không nên nói cho Ân lục thúc của ngươi biết chuyện này, hiểu chưa? Ngươi nói ra là hỏng việc hết đấy.
Trương Vô Kỵ lạ lùng:
- Sao thế?
Thường Ngộ Xuân nói:
- Thì những ngôn ngữ khó nghe như thế, ngươi chẳng nên nói cho ai cả.
Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, một hồi sau mới hỏi lại:
- Thường đại ca, có phải đại ca sợ rằng việc này có thật, đúng không?
Thường Ngộ Xuân thở dài:
- Quả thật ta cũng không biết nữa.
Đến khi trời sáng, Thường Ngộ Xuân đứng lên, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng, hăng hái đi tiếp. Y nghỉ ngơi đã nửa đêm, tinh thần khôi phục, bước đi nhanh nhẹn hơn nhiều. Đi được vài dặm, chuyển qua một con đường lớn. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: "Hồ sư bá ẩn cư Hồ Điệp Cốc là nơi thật hoang tịch, sao lại có đường lớn đi tới là sao? Hay mình đi nhầm đường rồi?"
Y đang định tìm người dân vùng này hỏi thăm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, bốn tên lính Mông Cổ tay múa trường đao phi ngựa đến, kêu lớn:
- Mau lên, mau lên!
Đi đến sau lưng Thường Ngộ Xuân, giơ đao nhứ nhứ xua y đi về phía trước. Thường Ngộ Xuân kêu khổ thầm" Không ngờ hôm nay thân vào miệng cọp, lại còn chết thêm cái mạng của Trương huynh đệ nữa".
Lúc này y võ công mất hết, dù một tên lính tầm thường cũng không đánh nổi, đành lết từng bước đi tới. Chỉ thấy trên đường bách tính lục tục kéo ra, tất cả đều bị quân Nguyên dồn như súc vật. Thường Ngộ Xuân bụng nghĩ thầm "Thì ra Thát tử đang lùa dân chứ không phải định bắt ta may ra mình còn có đường sống". Y bèn đi theo đoàn người, đến một ngã ba, thấy một tên quân quan Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa, chỉ huy sáu bảy chục tên lính, người nào cũng cầm đại đao. Người dân đi ngang qua đầu ngựa, ai ai cũng quì xuống khấu đầu. Một tên người Hán thông dịch hỏi:
- Họ gì?
Người đó đáp xong, tên Nguyên binh bên cạnh thuận chân liền đá vào mông một cái, có khi thì một cái bạt tai, người dân liền vội vàng chạy đi. Gặp một người dân nói họ Trương, tên lính Mông Cổ liền giữ lại, bắt y đứng qua một bên. Có người dân khám trong giỏ thấy có một chiếc dao cắt rau mới mua ở chợ, tên Nguyên binh cũng bắt đứng qua một bên.
Trương Vô Kỵ xem thấy tình thế không ổn, ghé vào tai Thường Ngộ Xuân nói nhỏ:
- Thường đại ca, đại ca giả vờ vấp ngã lăn qua một bên chui vào đám cỏ cởi bỏ chiếc đao đi.
Thường Ngộ Xuân vỡ lẽ, lập tức hai chân khụy xuống, lăn luôn vào trong đám cỏ dày, cởi bội đao ra, giả đò suýt soa, khập khiễng đi đến trước tên quan quân. Tên Hán nhân thông dịch chửi:
- Đồ mọi, không biết qui củ gì hết, thấy quan lớn sao không khấu đầu?
Thường Ngộ Xuân nghĩ tới toàn gia của cố chủ Chu Tử Vượng bị quân Mông Cổ giết, lúc này thà chết chứ không chịu lạy tên Thát tử. Một tên Nguyên binh thấy chàng cứng đầu, liền quét vào khoeo chân, Thường Ngộ Xuân đứng không vững liền phải quị xuống. Tên thông dịch người Hán quát hỏi:
- Họ gì?
Thường Ngộ Xuân chưa kịp hồi đáp, Trương Vô Kỵ nói thay:
- Họ Tạ, đây là anh tôi.
Tên lính Nguyên giơ chân đá đít Thường Ngộ Xuân một cái, nói:
- Cút mau.
Thường Ngộ Xuân tức giận vô cùng, đứng dậy, ngấm ngầm lập một trọng thệ: " Trong đời ta nếu không đuổi được bọn Thát tử ra ngoài sa mạc, Thường Ngộ Xuân này không kể là người". Chàng cõng Trương Vô Kỵ lên, hối hả đi về hướng bắc, chỉ mới được vài chục bước nghe tiếng người kêu la thảm thiết, hai người quay đầu lại, thấy hơn chục người dân bị bắt đứng qua một bên đã đầu một nơi, thân một nẻo nằm chết trên mặt đất.
Thì ra thời đó chính sách bạo ngược, dân chúng nổi lên thật nhiều, đại thần Mông Cổ có ý giết sạch người Hán, nhưng giết sao cho xuể. Thái sư Ba Diên[6] lại ra một pháp lệnh rất tàn ác, giết tất cả những người Hán nào mang các họ Trương, Vương, Lưu, Lý, Triệu. Người Trung Hoa bốn họ Trương, Vương, Lưu, Lý là đông nhất, còn họ Triệu là hoàng tộc Tống triều. Nếu bốn họ đó giết hết rồi, nguyên khí người Hán ắt tổn thất nặng nề.
Về sau những người trong các họ đó hàng Nguyên làm quan cũng rất đông, có đại thần Mông Cổ khuyến cáo hoàng đế, mới bãi bỏ cái lệnh đồ sát quái gở đó, nhưng dân đen chết vì lệnh dụ này cũng không biết bao nhiêu mà kể.
Thường Ngộ Xuân đi nhanh hơn, đến những vùng hoang vắng, biết rằng Hồ Thanh Ngưu ẩn cư chắc ở đâu đó, chỉ cần kiên nhẫn tìm kiếm. Trên đường đi hoa cỏ rực rỡ đủ màu, khắp núi rừng chỗ nào cũng toàn là hoa, nắng xuân nhấp nhô nhưng nghĩ đến thảm trạng vừa qua còn lòng dạ nào mà thưởng ngoạn. Đi qua mấy chỗ quẹo, thấy trước mặt là một vách núi, đường đã hết rồi.
Chính khi còn đang ngơ ngác chưa biết đâu, bỗng thấy mấy con bướm từ trong những khóm hoa bay ra. Trương Vô Kỵ nói:
- Nơi đó nếu gọi là Hồ Điệp Cốc thì mình cứ đi theo những con bướm này xem sao.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Tốt lắm.
Y liền đi vào trong khu rừng hoa. Đi khỏi rừng hoa, trước mặt là một con đường mòn. Thường Ngộ Xuân đi thêm một quãng thấy mỗi lúc bướm một nhiều, có con trắng có con vàng, con đen con tím dập dìu. Bướm cũng không sợ, đến gần đậu cả lên đầu, trên vai, trên tay hai người. Hai người biết đã đến Hồ Điệp Cốc nên đều thấy phấn khởi. Trương Vô Kỵ nói:
- Để tiểu đệ đi chầm chậm được rồi.
Thường Ngộ Xuân bèn bỏ y xuống đất. Đi đến quá ngọ, thấy có một giòng suối chảy lượn quanh sáu, bảy gian nhà tranh, trước sau mỗi gian nhà đều có vườn, trồng đủ loại hoa cỏ. Thường Ngộ Xuân nói:
- Đến rồi, đây hẳn là vườn thuốc của Hồ sư bá.
Y đến trước những căn nhà tranh, cung kính lớn tiếng gọi:
- Đệ tử Thường Ngộ Xuân khấu kiến Hồ sư bá.
Một lúc sau, trong nhà đi ra một tiểu đồng, nói:
- Mời vào.
Thường Ngộ Xuân liền dắt tay Trương Vô Kỵ đi vào trong nhà, thấy một người tuổi trạc trung niên, thần thanh cốt tú, chăm chú xem một đồng nhi khác quạt lò đun thuốc, trong nhà đầy mùi dược thảo. Thường Ngộ Xuân quì xuống khấu đầu, nói:
- Hồ sư bá mạnh khỏe chứ.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, người này chắc hẳn phải là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu nên cũng hành lễ chào một câu:
- Hồ tiên sinh.
Hồ Thanh Ngưu nhìn Thường Ngộ Xuân gật đầu, nói:
- Việc của Chu Tử Vượng ta cũng đã có biết. Âu cũng là cái số, bọn Thát tử khí vận chưa tuyệt, bản giáo chưa đến thời kỳ quang đại.
Ông ta đưa tay cầm mạch trên cổ tay Thường Ngộ Xuân, cởi áo ra nhìn vết thương trên ngực, nói:
- Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng của phiên tăng, đúng ra thì cũng không sao cả, nhưng vì sau khi trúng chưởng rồi sử lực quá nhiều, hàn độc công tâm, trị cho khỏi cũng mất khá nhiều công phu.
Chỉ vào Trương Vô Kỵ hỏi:
- Còn thằng bé này là ai?
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Sư bá, y tên là Trương Vô Kỵ, là con trai của Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương.
Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, mặt có vẻ giận dữ, nói;
- Người của phái Võ Đương ư? Ngươi đem y đến đây làm gì?
Thường Ngộ Xuân liền đem chuyện y bảo vệ con của Chu Tử Vượng đào tẩu ra sao, bị quan binh Mông Cổ vây bắt, Trương Tam Phong giải cứu thế nào nói cho Hồ Thanh Ngưu nghe, sau cùng kết luận:
- Đệ tử được thái sư phụ của y cứu mạng, cầu khẩn sư bá phá lệ, cứu y một lần.
Hồ Thanh Ngưu cười nhạt đáp:
- Ngươi khẳng khái nhỉ, biết báo đáp ân tình. Hừ, thế nhưng Trương Tam Phong cứu ngươi chứ có phải cứu ta đâu. Ngươi đã thấy ta phá lệ bao giờ chưa?
Thường Ngộ Xuân quì xuống đất, liên tiếp rập đầu, nói:
- Sư bá, cha của tiểu huynh đệ này vì không chịu bán rẻ bạn bè, cam nguyện tự vẫn, là một hảo hán tử tiếng tăm lừng lẫy.
Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:
- Hảo hán tử? Trong thiên hạ biết bao nhiêu là hảo hán tử, ta trị được bao nhiêu người? Y chẳng phải là người của phái Võ Đương ư? Là người danh môn chính phái sao còn kẻ tà giáo ngoại đạo như ta chữa trị?
Thường Ngộ Xuân nói:
- Mẫu thân của Trương huynh đệ là con gái của Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, y có một nửa là người của bản giáo.
Hồ Thanh Ngưu nghe đến đây, lòng thấy dịu lại, gật đầu:
- Thôi, ngươi đứng dậy. Nếu y là cháu ngoại của Ân Bạch Mi Thiên Ưng giáo thì lại khác.
Y đến trước mặt Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nói:
- Này cháu, ta từ trước đến nay có qui củ, quyết không chữa trị cho người xưng là hiệp nghĩa, danh môn chính phái. Nếu mẹ cháu là người trong bản giáo, trị thương cho cháu không phải là phá lệ. Ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương vốn là một trong tứ đại pháp vương của Minh giáo, sau này y sáng lập Thiên Ưng giáo vì bất hòa với anh em, chứ không phải vỉ phản lại Minh giáo, có thể coi như một chi phái của Minh giáo. Cháu phải đáp ứng một điều, sau khi ta chữa cháu khỏi rồi, cháu phải quay về với ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, từ nay không còn là đệ tử của phái Võ Đương nữa.
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, Thường Ngộ Xuân đã nói:
- Sư bá, chuyện đó không được. Trương Tam Phong Trương chân nhân đã nói từ trước với đệ tử rằng: "Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, dù có chữa nó khỏi bệnh, phái Võ Đương chúng tôi cũng không chịu ơn quí giáo đâu".
Hồ Thanh Ngưu lông mày dựng ngược, nổi giận, gay gắt nói:
- Hừ, Trương Tam Phong là cái gì? Y coi thường chúng ta như thế, tại sao ta phải vì y mà xuất lực? Này cháu, trong lòng cháu quyết định thế nào?
Trương Vô Kỵ biết rằng âm độc đã lan ra khắp lục phủ ngũ tạng trong cơ thể rồi, dù nội lực thâm hậu như thái sư phụ, cũng đành bó tay, mình có sống được hay không, toàn do vị thần y này chịu hay không chịu chữa. Thế nhưng thái sư phụ lúc chia tay dã từng thiết tha nhắn nhủ, quyết chớ nên hãm thân ma giáo, để rơi vào cảnh vạn kiếp không thoát ra được. Tuy chưa biết ma giáo xấu xa đến chừng nào, vì sao mỗi lần nhắc đến thái sư phụ và các sư bá sư thúc đều ghét cay ghét đắng, nhưng y đối với thái sư phụ sùng kính vô tỉ, tin tưởng chắc chắn là ông nói gì quyết không sai, nghĩ thầm: "Thà rằng để ông ta không chịu chữa, hàn độc phát tác chết đi còn hơn vi bội lời giáo huấn của thái sư phụ". Y lớn tiếng nói:
- Hồ tiên sinh, mẹ cháu là đường chủ của Thiên Ưng giáo, cháu tin rằng Thiên Ưng giáo chắc phải tốt đẹp. Thế nhưng thái sư phụ đã từng dặn cháu rằng quyết không thể gia nhập ma giáo, cháu đã bằng lòng, không lẽ nói mà không giữ lời? Nếu tiên sinh không trị thương cho cháu, thì cũng đành vậy. Nếu cháu tham sống sợ chết, miễn cưỡng theo lời của tiên sinh, thì dù có trị lành cho cháu, thì trên đời này cũng chỉ thêm một kẻ bất tín bất nghĩa, có ích lợi gì?
Hồ Thanh Ngưu trong bụng cười khẩy: "Thằng nhãi này to mồm khoác lác, làm ra vẻ anh hùng hảo hán, để ta không trị cho ngươi, xem ngươi có quì xuống cầu khẩn hay không?". Quay qua Thường Ngộ Xuân nói:
- Y đã quyết ý không gia nhập bản giáo, Ngộ Xuân, ngươi bảo y đi ra, trong nhà Hồ Thanh Ngưu đời nào có người chết vì bệnh bao giờ?
Thường Ngộ Xuân vốn biết vị sư bá này tính tình chấp nê dị thường, nói một là một, ông ta đã không chịu chữa rồi, có cầu cũng vô ích bèn quay qua Trương Vô Kỵ nói:
- Tiểu huynh đệ, Minh giáo tuy không chung đường lối với các nhân vật hiệp nghĩa trong danh môn chính phái, nhưng từ thời Đại Đường đến nay, đời nào cũng có anh hùng hảo hán. Huống chi ông ngoại ngươi là giáo chủ Thiên Ưng giáo, mẹ ngươi là đường chủ Thiên Ưng giáo, ngươi chịu nghe lời Hồ sư bá, sau này Trương chân nhân có hỏi thì ta chịu hết cho.
Trương Vô Kỵ đứng thẳng dậy, nói:
- Thường đại ca, đại ca như vậy là đã hết lòng hết dạ, thái sư phụ của tiểu đệ không trách gì đại ca đâu.
Nói xong ngang nhiên đi ra cửa. Thường Ngộ Xuân kinh hoảng, vội hỏi:
- Ngươi đi đâu đó?
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu tôi chết ở Hồ Điệp Cốc, e rằng sẽ làm hỏng mất cái tên "Điệp Cốc Y Tiên".
Y nói xong xăm xăm đi ra khỏi căn nhà tranh. Hồ Thanh Ngưu cười nhạt nói:
- Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu đã nổi tiếng trong thiên hạ, chết ở bên ngoài cái "Chuồng Bò[7]" trong Hồ Điệp Cốc, đâu phải chỉ một mình thằng bé này.
Thường Ngộ Xuân chẳng nghe ông ta nói thêm, vội chạy ra đuổi theo Trương Vô Kỵ, bế xốc thằng bé vào, thở hổn hển nói:
- Hồ sư bá, sư bá nhất định không cứu y, phải không?
Hồ Thanh Ngưu cười đáp:
- Ngoại hiệu của ta là Kiến Tử Bất Cứu, bộ ngươi chưa biết hay sao mà còn hỏi.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Thế còn vết thương trên người đệ tử, sư bá sẽ chữa phải không?
Hồ Thanh Ngưu đáp:
- Đúng vậy.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Được, đệ tử đã nhận lời với Trương chân nhân là sẽ chữa cho chú em này, không thể nào để cho người trong chính phái nói là đệ tử Minh giáo nói không giữ lời. Đệ tử không cầu sư bá trị bệnh, sư bá trị cho vị huynh đệ này đi. Một mạng đổi một mạng, sư bá cũng không phải thiệt thòi.
Hồ Thanh Ngưu nghiêm mặt đáp:
- Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng, thương thế không phải nhẹ. Nếu như ta lập tức trị cho ngươi thì có thể khỏi hẳn. Qua bảy ngày thì chỉ mong sống được nhưng võ công từ rày sẽ không bảo toàn. Mười bốn ngày sau nếu không có lương y trị cho, thương thế phát ra thì hết cứu.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Đó là công lao thấy chết không cứu của sư bá, đệ tử chết cũng không oán giận.
Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Ta không cần ông cứu, không cần ông cứu.
Y quay đầu qua Thường Ngộ Xuân nói:
- Thường đại ca, bộ đại ca nghĩ Trương Vô Kỵ này là phường tiểu nhân đê hèn hay sao? Đại ca đem tính mạng của mình đánh đổi tính mạng của tiểu đệ, dù tiểu đệ có sống thì đời cũng có gì thú vị nữa đâu.
Thường Ngộ Xuân không muốn tranh cãi nên cởi thắt lưng, trói chặt thằng nhỏ vào trên ghế. Trương Vô Kỵ vội nói:
- Đại ca không thả ta ra, ta sẽ chửi cho mà xem.
Thấy Thường Ngộ Xuân không thèm lý tới, y liền chửi lớn:
- Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu, thật đúng là ngu như bò, không bằng con vật.
Hồ Thanh Ngưu thấy y chửi bậy bạ cũng không nổi giận, chỉ lạnh lùng nhìn y. Thường Ngộ Xuân nói:
- Hồ sư bá, Trương huynh đệ, xin cáo từ. Ta đi tìm thầy chữa thuốc.
Hồ Thanh Ngưu cười nhạt:
- Trong tỉnh An Huy này không có thầy lang nào cho ra hồn cả, trong bảy ngày ngươi chưa ra khỏi cảnh giới của tỉnh An Huy.
Thường Ngộ Xuân ha hả cười:
- Có sư bá thấy chết không cứu, thì cũng có sư điệt đáng sống không chết.
Nói xong hùng dũng đi ra cửa. Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:
- Ngươi bảo một mạng đổi một mạng, nhưng ta đã nhận lời đâu? Cả hai ta đều không cứu.
Tiện tay y nhặt trên bàn một khúc sừng hươu, nghe vù một tiếng, ném ra, trúng ngay huyệt đạo ở khoeo chân Thường Ngộ Xuân. Thường Ngộ Xuân kêu ối một tiếng, ngã lăn ra đất, không đứng dậy được.
Hồ Thanh Ngưu đến gần cởi dây trói cho Trương Vô Kỵ, nắm hai cổ tay thằng nhỏ, định vứt nó ra ngoài để cho hai người sống chết mặc bay. Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Ngươi làm gì thế?
Hàn độc xông lên đầu não, lập tức bất tỉnh nhân sự.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Lên tiếng ủng hộ
[2] Xem thêm Minh giáo, khảo luận của người dịch
[3] Thung lũng có nhiều bướm
[4] Hoàn là tên đất ngày xưa, nay thuộc tỉnh An Huy, có con sông Dương Tử (Trường giang) chảy qua chia thành mạn bắc (Hoàn Bắc) và mạn nam (Hoàn Nam)
[5] ám khí hình đuôi con rết
[6] Bayan, thái sư trong khoảng 1328-1340
[7] Thanh Ngưu là con bò đen nên ông ta ví nhà của mình là cái chuồng bò
Hồi 12
CHÂM KỲ CAO HỀ DƯỢC KỲ HOANG
đây nhưng nghiệp chưa tròn,
Hoa Đà, Biển Thước cũng còn bó tay.
Hồ Thanh Ngưu vừa cầm cổ tay Trương Vô Kỵ, thấy mạch của thằng nhỏ đập rất lạ lùng, không khỏi kinh hãi, vội ngưng thần xem xét, nghĩ thầm: "Hàn độc thằng bé này bị trúng thật là cổ quái, không lẽ Huyền Minh thần chưởng chăng? Chưởng pháp này thất truyền đã lâu, trên đời này đâu còn ai biết sử dụng". Lại nghĩ tiếp: "Nếu không phải là Huyền Minh thần chưởng, thì là cái gì? Âm hàn độc địa thế này, không có môn chưởng lực nào khác cả. Y trúng phải chưởng lực cũng đã lâu, sao vẫn chưa chết, cũng thật lạ kỳ. Đúng rồi, lão đạo Trương Tam Phong dùng nội lực thâm hậu của mình giúp nó sống lây lất, đến bây giờ âm độc đã lan vào khắp lục phủ ngũ tạng, bám sâu ở trong đó, chỉ có thần tiên mới cứu nó sống được thôi".
Nghĩ vậy y bỏ Trương Vô Kỵ trở lại trên ghế. Qua một lúc sau, Trương Vô Kỵ từ từ tỉnh lại, thấy Hồ Thanh Ngưu ngồi trước mặt, đăm đăm nhìn ngọn lửa trong lò nấu thuốc, xuất thần suy nghĩ, còn Thường Ngộ Xuân vẫn còn nằm ở bãi cỏ trước nhà. Ba người ba tâm sự khác nhau, chẳng ai nói một câu nào.
Hồ Thanh Ngưu cả đời mê say nghề thuốc, những chứng bệnh khó khăn tưởng như bó tay đến y đều chữa khỏi, nên mới được cái danh hiệu Y Tiên. Chữa bệnh mà được chữ tiên có nghĩa là kỹ thuật thần kỳ lắm, không phải người thường. Thế nhưng hàn độc của Huyền Minh thần chưởng, y trong đời chưa từng gặp qua, mà trúng rồi lại dây dưa mấy năm không chết đến khi hàn độc lan vào lục phủ ngũ tạng thì lại càng không thể có được. Y đã định không chữa cho Trương Vô Kỵ, nhưng khi gặp được cái chứng quái lạ, cả đời chưa chắc gặp này, có khác gì tửu đồ gặp rượu ngon, kẻ háu ăn ngửi mùi thịt, làm sao bỏ cho nổi?
Nghĩ ngợi một hồi lâu, sau cùng y nghĩ ra một cách: "Ta cứ chữa cho nó khỏi đã, sau đó sẽ giết nó đi". Thế nhưng muốn đuổi được hết âm độc trong ngũ tạng lục phủ ra, đâu phải dễ dàng. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ mấy tiếng đồng hồ, lấy ra mười hai miếng đồng nhỏ, vận nội lực cắm vào các huyệt Trung Cực ở dưới đan điền, Thiên Đột ở dưới cổ, Kiên Tỉnh ở trên vai ... tổng cộng mười hai chỗ. Huyệt Trung Cực là điểm tụ hội của Túc Tam Âm và Nhâm Mạch. Thiên Đột thì là chổ gặp nhau của Âm Duy và Nhâm Mạch, còn Kiên Tỉnh thì là điểm hội tụ của Thủ Túc Thiếu Dương, Túc Dương Minh, Dương Duy. Mười hai miếng đồng đó cắm xuống rồi, mười hai kinh thường mạch và kỳ kinh bát mạch liền bị phân cách ra.
Trong cơ thể con người tâm, phế, tì, can, thận là ngũ tạng, thêm tâm bao sáu bộ phận đó thuộc âm; vị, đại trường, tiểu trường, đảm, bàng quang, tam tiêu là lục phủ, sáu bộ phận đó thuộc dương[1]. Ngũ tạng lục phủ cộng thêm tâm bao gọi là thập nhị kinh thường mạch. Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Âm Duy, Dương Duy, Âm Kiều, Dương Kiều tám mạch không thuộc các mạch chính kinh âm dương, không phối hợp biểu lý, đi theo những đường riêng, gọi là kỳ kinh bát mạch.
Sau khi các thường mạch và kỳ kinh trên thân thể Vô Kỵ cách biệt ra rồi, âm độc trong ngũ tạng lục phủ không còn thông được với nhau, Hồ Thanh Ngưu mới dùng ngải hơ[2] hai huyệt Vân Môn, Trung Phủ trên đầu vai, sau đó lại hơ các huyệt Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế, Thiếu Thương từ cánh tay xuống đến ngón tay cái, mười một huyệt đó thuộc Thủ Thái Âm Phế Kinh cốt để tiêu giảm âm độc trong phổi của Vô Kỵ. Cách đó lấy nhiệt công hàn, khổ sở mà Trương Vô Kỵ phải chịu cũng chẳng kém gì lúc âm độc phát tác. Cứu xong Thủ Thái Âm Phế Kinh, tiếp đến Túc Dương Minh Vị Kinh, Thủ Quyết Âm Tâm Bao Kinh ...
Khi ra tay, Hồ Thanh Ngưu chẳng cần để ý đến Trương Vô Kỵ có đau hay không, ông ta dùng ngải hơ đến nỗi toàn thân thằng bé chỗ nào cũng đen xì. Trương Vô Kỵ không tỏ ra yếu hèn, nghĩ thầm: "Chắc ngươi tưởng ta sẽ rên rỉ kêu la, ta nhất định không thèm xuýt xoa lấy một tiếng". Y tiếp tục nói chuyện với Hồ Thanh Ngưu về phương vị các huyệt đạo. Tuy y không thông y lý, nhưng nghĩa phụ Tạ Tốn đã từng truyền dạy phép điểm huyệt, giải huyệt, và thuật chuyển dịch huyệt đạo. Thành thử, các vị trí huyệt đạo y cũng rất tỏ tường. So với vị đương thế thần y này, kiến thức của Vô Kỵ về kinh mạch thật là thô thiển, nhưng có liên quan tới y lý chính là ngành mà Hồ Thanh Ngưu rất tâm đắc. Hồ Thanh Ngưu một mặt cứu ngải để rút chất độc trong cơ thể y ra, một mặt giảng giải thao thao bất tuyệt.
Trương Vô Kỵ nghe vào tai, mười phần thì chín phần chẳng hiểu chi cả, nhưng không dám để lộ là "Phái Võ Đương chúng tôi chẳng biết gì cả", thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, cùng ông ta biện luận một hồi. Hồ Thanh Ngưu lại càng xiển thuật, đến khi biết ra "thằng nhãi này thực ra có biết gì đâu, chỉ nói năng lăng nhăng" thì cũng đã mất bao nhiêu là nước bọt. Thế nhưng ở chỗ thâm sơn cùng cốc như thế này, trừ vài đứa tiểu đồng nấu cơm, đun thuốc có ai bạn bè đâu, hôm nay có thằng bé này, cùng y nói nọ nói kia về huyệt đạo, kể cũng thích thú.
Đến khi hơ hết mấy trăm huyệt trên mười hai thường mạch thì trời đã xế chiều. Tiểu đồng dọn cơm lên để trên bàn, lại đem một mâm cơm và rau đưa ra bên ngoài cho Thường Ngộ Xuân ăn. Đêm đó Thường Ngộ Xuân phải ngủ ở bên ngoài. Trương Vô Kỵ cũng không ngỏ lời cầu khẩn Hồ Thanh Ngưu, đến khi đi ngủ y đi ra nằm cạnh Thường Ngộ Xuân, hai người cùng ngủ trên bãi cỏ, để tỏ cái lòng có nạn cùng chịu. Hồ Thanh Ngưu giả như nhìn mà không thấy, chẳng thèm nói đến nhưng trong bụng cũng lấy làm lạ: "Thằng bé này quả thực không giống những trẻ con khác".
Sáng sớm hôm sau, Hồ Thanh Ngưu lại dùng hết nửa ngày để hơ các huyệt đạo trên kỳ kinh bát mạch của Vô Kỵ. Mười hai kinh thường mạch cũng tựa như sông cái sông con, luôn luôn chảy không ngừng, kỳ kinh bát mạch cũng tựa như hồ biển, súc tích tàng trữ, thành ra muốn trừ khử âm độc trong kỳ kinh bát mạch, xem ra lại còn khó hơn. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ viết một toa thuốc, khước tà phù chính, bổ hư tả thực, dùng phương pháp gậy ông đập lưng ông "dĩ hàn trị hàn". Trương Vô Kỵ uống thang thuốc đó rồi, bị lạnh run hết nửa ngày nhưng sau đó tinh thần thêm thư thái hơn trước.
Sau buổi trưa, Hồ Thanh Ngưu lại châm cứu cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cố nói khích ông ta để ông ta chữa cho Thường Ngộ Xuân nhưng Hồ Thanh Ngưu không thèm lý đến, chỉ lạnh lùng đáp:
- Cái ngoại hiệu Điệp Cốc Y Tiên của ta có điểm danh quá kỳ thực. Chữ tiên đâu có thể vọng xưng được đâu? Thế nhưng người ta gọi là Kiến Tử Bất Cứu ta lại thích hơn.
Khi đó ông ta đang châm tại huyệt Ngũ Khu giữa hông và đùi của Trương Vô Kỵ, huyệt đó là nơi hội tụ của Túc Thiếu Dương và Đới Mạch, bên cạnh thủy đạo một tấc năm phân. Trương Vô Kỵ nói:
- Trên cơ thể con người thì đới mạch kỳ lạ nhất. Hồ tiên sinh, ông có biết không, có người không có đới mạch đó.
Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, nói:
- Chỉ nói bậy. Làm sao lại không có đới mạch được?
Trương Vô Kỵ vốn chỉ thuận miệng nói lăng nhăng, liền tiếp:
- Thiên hạ rộng lớn như thế, chuyện lạ đến đâu cũng có, huống chi đới mạch theo cháu chẳng có lợi ích gì cả.
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Đới mạch kỳ lạ thì đúng, nhưng bảo là vô dụng thì sai. Những y sư tầm thường không biết cái tinh áo bên trong, châm kim cắt thuốc không khỏi sai lầm. Ta có viết một cuốn Đới Mạch Luận, ngươi đọc thì biết.
Ông ta liền đi vào phòng, lấy ra một bộ sách mỏng, giấy đã vàng đem ra đưa cho Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giở trang đầu, thấy viết:
Mười hai kinh và kỳ kinh thất mạch, đều lưu chuyển đi lên đi xuống. Riêng đới mạch bắt đầu từ bụng, bên dưới mạng sườn, đi quanh thân mình một vòng ở eo, như cái đai thắt ngang. Xung, nhâm, đốc ba mạch cùng bắt đầu nhưng đi ba hướng khác nhau, một gốc mà ba ngọn, cùng quấn chung quanh đới mạch.
Sau đó ông bình luận những sai lầm trong y thư xưa nay, Thập Tứ Kinh Phát Huy nói đới mạch có bốn huyệt, Châm Cứu Đại Thành nói đới mạch có sáu huyệt, thực ra có đến mười huyệt, trong đó hai huyệt ẩn hiện vô chừng, khi có khi không, rất khó biện. Trương Vô Kỵ đọc tiếp xuống dưới, tuy không rõ những áo diệu bên trong, nhưng cũng biết cuốn sách này kiến thức không phải tầm thường nên đem những chỗ ông phê bình cổ nhân ra thỉnh giáo.
Hồ Thanh Ngưu rất vui vẻ, một mặt tiếp tục châm, một mặt giải thích, đến khi mười huyệt của đới mạch đã châm xong, ông ta mới ngồi nghỉ một chút, nói tiếp:
- Ta còn một bộ Tí Ngọ Châm Cứu Kinh ghi tất cả những điều tâm huyết trong đó.
Ông ta vào trong phòng đem ra một bộ tất cả mười hai quyển y kinh chép tay. Hồ Thanh Ngưu biết thằng bé này không biết gì về y lý, nhưng y ẩn cư nơi hoang cốc đã lâu, cũng cảm thấy tịch mịch. Những người trước đây đến xin chữa bệnh tuy rất đông, nhưng ai ai cũng chỉ khen ông ta y thuật như thần, những lời đó hai mươi năm nay nghe đã chán. Thực ra chuyện ông ta hãnh diện nhất trong đời không phải "y thuật" tinh tường, mà ở tại "y học", trong đó nhiều điều phát minh sáng kiến mà những người đi trước chưa ai tìm ra. Ông ta biết những thành tựu đó vô cùng to lớn, nhưng chỉ có thể cô phương tự thưởng[3], khiến không khỏi bẽ bàng. Bây giờ thấy thiếu niên này ham thích đọc sách trước tác của mình, ngầm cảm thấy có cái tình tri kỷ, nên đem bộ sách đắc ý cho xem.
Trương Vô Kỵ giở ra xem, thấy mỗi trang viết kín mít những chữ nhỏ bằng con ruồi theo lối chữ tiểu khải, huyệt đạo bộ vị, thuốc men phân lượng, thời khắc và cách châm nông sâu, không gì không chú thích minh bạch. Y bỗng tâm niệm một điều: "Mình duyệt xem có đoạn nào nói về cách chữa thương cho Thường đại ca hay không?" Giở đến quyển số chín Võ Học Thiên trong đó có phần Chưởng Thương Trị Pháp thấy có Hồng Sa Chưởng, Thiết Sa Chưởng, Độc Sa Chưởng, Miên Chưởng, Khai Sơn Chưởng, Phá Bi Chưởng ... các loại chưởng lực, các chứng thương, cách cấp cứu, cách trị liệu, đều có ghi đầy đủ. Đọc hết hơn một trăm tám mươi loại, quả nhiên có Tiệt Tâm Chưởng.
Trương Vô Kỵ mừng lắm, lập tức chăm chú đọc kỹ một lần, trong đó mô tả kỹ càng, nhưng trị pháp lại thật giản lược, chỉ nói "chữa bằng cách châm bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì, theo biến chuyển của âm dương, ngũ hành, xét hàn, thử, táo, thấp, phong[4] năm loại thời tiết, tùy tình trạng hỉ, nộ, ưu, tư, khủng[5] ngũ tình của bệnh nhân mà bốc thuốc".
Y đạo Trung quốc biến hóa đa đoan, cùng một chứng bệnh, người thầy thuốc phải quan sát trời nóng hay lạnh, đêm hay ngày, bên ngoài hay bên trong, đầy hay vơi, đầu hay cuối, động hay tĩnh, đàn ông hay đàn bà, người lớn hay trẻ em ... tùy từng trường hợp mà đưa ra phương thức chữa, mọi thay đổi đều do y sinh chứ không có qui tắc nhất định. Chính vì thế mà thầy thuốc giỏi với thầy thuốc xoàng cách nhau một trời một vực. Cái áo diệu đó Trương Vô Kỵ không biết, nên đọc phương pháp vài lần cốt chăm chăm nhớ trong đầu. Cuối cùng trong Chưởng Thương Trị Pháp chính là Huyền Minh thần chưởng, có viết các triệu chứng khi bị thương, nhưng tại trị pháp chỉ có ghi một chữ "Không".
Trương Vô Kỵ gập bộ sách lại, cung kính đặt trên bàn, nói:
- Bộ Tí Ngọ Châm Cứu Kinh này của Hồ tiên sinh bác đại tinh thâm, vãn bối đọc mười phần thì chín phần không hiểu gì cả, xin mong được chỉ điểm. "Ngự âm dương ngũ hành chi biến" là thế nào?
Hồ Thanh Ngưu giải thích mấy câu, chợt tỉnh ngộ, nói:
- Ngươi định hỏi làm thế nào để trị thương cho Thường Ngộ Xuân, phải không? Ha ha, chuyện khác thì ta nói, chuyện đó ta không nói.
Vô Kỵ không còn cách nào khác hơn, đành phải tra khảo trong các y thư, Hồ Thanh Ngưu để y muốn đọc gì thì đọc, không cấm đoán. Trương Vô Kỵ chăm chú nghiên cứu suốt ngày đêm, quên ăn quên ngủ, không chỉ đọc hết hơn một chục bộ sách Hồ Thanh Ngưu soạn ra, mà cả Hoàng Đế Nội Kinh, Hoa Đà Nội Chiêu Đồ, Mạch Kinh của Vương Thúc Hòa, Thiên Kim Phương, Thiên Kim Dực của Tôn Tư Mạc, Ngoại Đài Bí Yếu của Vương Đảo ... các loại kinh điển trong nghề thuốc, cũng đều đọc cả cốt tìm hiểu ý nghĩa các câu đề cập đến trong phương pháp trị Tiệt Tâm Chưởng, chỗ nào có liên quan là đọc kỹ suy nghĩ. Mỗi ngày Hồ Thanh Ngưu châm cứu cho y hai lần, một lần giờ thìn, một lần giờ thân để trừ âm độc.
Cứ như thế mấy ngày liền, Trương Vô Kỵ cắm cúi đọc đủ các loại sách, tuy nhớ được một mớ y lý, thang thuốc, nhưng cái tinh diệu trong y học, y tuổi nhỏ học vấn nông cạn, làm sao trong vài ngày mà hiểu được? Bấm ngón tay tính toán, y đến Hồ Điệp Cốc đã sáu ngày. Hồ Thanh Ngưu đã nói thương thế của Thường Ngộ Xuân nếu do ông ta chữa trong vòng bảy ngày có thể khỏi hẳn, ngoài bảy ngày thì dù có trị được võ công cũng mất hết. Thường Ngộ Xuân đã nằm ngoài cỏ sáu ngày sáu đêm, đến hôm nay trời lại đổ mưa. Hồ Thanh Ngưu thấy chỗ y nằm trũng đầy bùn nước, nhưng tuyệt nhiên không lý tới. Trương Vô Kỵ hết sức giận dữ, nghĩ thầm: "Ta đọc trong các sách thuốc, trừ sách do ngươi soạn ra, sách nào cũng viết là phàm người trong y đạo phải có lòng tế thế huệ dân, còn ngươi thân đầy một bụng y thuật, nhưng lại thấy chết không cứu, vậy thì còn gọi là lương y sao được?".
Đến chiều, trời mưa lại càng thêm nặng hạt, sấm chớp ầm ầm, hết tiếng rền nọ lại đến tiếng sét kia. Trương Vô Kỵ nghiến răng, nghĩ thầm: "Ngoài việc ta đánh liều chữa cho Thường đại ca, không còn cách nào khác". Nghĩ vậy y lấy trong tủ thuốc của Hồ Thanh Ngưu ra tám mũi kim vàng, chạy ra ngồi cạnh Thường Ngộ Xuân, nói:
- Thường đại ca, mấy ngày qua tiểu đệ tận tâm kiệt lực, nghiên cứu đọc Hồ tiên sinh y thư, tuy chưa thông hiểu nhưng thời giờ khẩn cấp, không còn diên trì được nữa rồi. Tiểu đệ chỉ còn cách mạo hiểm hạ châm cho Thường đại ca, nếu chẳng may có chuyện gì, tiểu đệ sẽ không sống một mình đâu.
Thường Ngộ Xuân cười ha hả, nói:
- Tiểu huynh đệ sao lại nói như thế? Ngươi mau mau châm kim chữa bệnh cho ta, nếu may mà trời cho khỏi được, ta sẽ trêu ghẹo Hồ sư bá một phen. Còn nếu mới châm một hai mũi mà ta chết rồi, cũng còn hơn sống mà phải nằm trong vũng bùn này chịu khổ.
Trương Vô Kỵ hay tay run rẩy, nhìn kỹ mò đúng huyệt đạo của Thường Ngộ Xuân, lập cập cầm một mũi kim châm vào huyệt Quan Nguyên. Y chưa được tập luyện thuật châm cứu, cách đâm kim vào hết sức vụng về, chỉ bắt chước cách Hồ Thanh Ngưu châm cho mình mỗi ngày, theo đó mà làm. Những mũi kim của Hồ Thanh Ngưu lại do vàng ròng đúc thành nên rất mềm, không phải là người có nội lực thâm hậu không thể sử dụng được. Trương Vô Kỵ dùng sức hơi quá nên cái kim bị cong vẹo đi, không tiến sâu hơn được nữa, đành phải rút ra châm lại. Nếu đúng theo châm cứu thuật, rút ra không chảy máu, nhưng vì y lúng túng châm không đúng chỗ, máu từ huyệt Quan Nguyên của Thường Ngộ Xuân chảy vọt ra. Huyệt Quan Nguyên nằm ở bụng dưới là chỗ yếu hại của con người nên chảy máy không cầm được, Trương Vô Kỵ trong bụng càng nôn nóng không còn biết làm gì.
Bỗng nghe đằng sau có tiếng người cười ha hả, Vô Kỵ quay lại, thấy Hồ Thanh Ngưu tay chắp sau lưng, dáng vẻ tự đắc, cười khà khà nhìn y hay tay đầy máu. Trương Vô Kỵ vội hỏi:
- Hồ tiên sinh, huyệt Quan Nguyên của Thường đại ca chảy máu không ngừng, phải làm cách nào đây?
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Dĩ nhiên ta biết cách nào cầm máu, nhưng việc gì phải nói cho ngươi nghe?
Trương Vô Kỵ ngang nhiên nói:
- - Thôi bây giờ một mạng đổi một mạng, xin ông mau cứu Thường đại ca, tôi lập tức chết ngay trước mặt ông là xong.
Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng đáp:
- Ta đã nói không chữa là không chữa. Hồ Thanh Ngưu này chỉ thấy chết không cứu chứ đâu phải quỉ vô thường đi đòi mạng, ngươi chết có ích lợi gì cho ta đâu? Dù có chết mười Trương Vô Kỵ cũng không cứu được một Thường Ngộ Xuân.
Trương Vô Kỵ biết có nói thêm cũng chỉ mất thì giờ, nghĩ thầm kim này mềm quá, không thể dùng được, lúc này không còn cách nào đi kiếm các loại kim khác, đồng châm thiết châm không thấy đâu, suy nghĩ một chút, bèn đi tìm một khúc tre, dùng dao chẻ thành mấy cái tăm, đâm vào bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên Thiên Trì trên người Thường Ngộ Xuân.
Mấy cái tăm tre quả nhiên đâm vào không thấy máu chảy. Một lúc sau, Thường Ngộ Xuân nôn ra mấy ngụm máu bầm. Trương Vô Kỵ không biết mình châm lung tung như thế khiến cho Thường Ngộ Xuân bệnh nặng thêm hay có công hiệu trục được ứ huyết trong cơ thể ra, quay đầu lại nhìn Hồ Thanh Ngưu thấy ông ta tuy trên mặt nụ cười có vẻ chế riễu, nhưng có ẩn vài phần khen ngợi. Trương Vô Kỵ biết mấy mũi trúc châm của mình đâm xuống không hẳn sai lạc, nên chạy vào trong lục lọi y thư, suy nghĩ thật kỹ, viết một cái toa thuốc. Tuy y đọc trong sách biết vị nào chữa bệnh nào nhưng sinh địa, sài hồ hình dạng ra sao, ngưu tất, mật gấu như thế nào, y chưa biết đến, đành phải trơ trẽn đem toa thuốc giao cho thằng nhỏ nấu thuốc, nói:
- Nhờ anh theo toa này nấu dùm một thang.
Thằng nhỏ đem toa thuốc trình cho Hồ Thanh Ngưu xem, hỏi ông ta xem có nên nấu không. Hồ Thanh Ngưu nhăn mũi hừ một tiếng nói:
- Thật nực cười, nực cười.
Y cười khẩy mấy tiếng, nói:
- Ngươi cứ theo đó mà nấu. Y uống xong nếu không chết thì trên đời này không còn ai chết nữa.
Trương Vô Kỵ vội giật lại toa thuốc, giảm phân lượng mỗi thứ một nửa. Tên tiểu đồng cứ theo đó mà cắt đem nấu thành một tô thật đặc.
Trương Vô Kỵ bưng bát thuốc ra để vào miệng Thường Ngộ Xuân nghẹn ngào nói:
- Thường đại ca, uống thang thuốc này vào lành hay dữ, tiểu đệ hoàn toàn không biết ...
Thường Ngộ Xuân cười đáp:
- Tốt lắm, tốt lắm, cái này đúng là thằng mù chữa kẻ thong manh.
Y nhắm mắt, ngửa cổ uống một hơi hết sạch cả cặn. Đêm hôm đó Thường Ngộ Xuân bụng đau như dao cắt, nôn ọe ra máu không ngừng. Trương Vô Kỵ dưới gió mưa sấm chớp hầu hạ y suốt cả đêm. Đến sáng sớm hôm sau, mưa ngừng hạt, Thường Ngộ Xuân cũng bớt thổ huyết, máu nôn ra không còn đen mà đã thành tím, rồi từ tím sang đỏ. Thường Ngộ Xuân mừng nói:
- Tiểu huynh đệ, thuốc ngươi cắt hóa ra uống không chết, xem ra thương thế lại giảm đi nhiều.
Trương Vô Kỵ mừng rỡ nói:
- Thuốc của tiểu đệ uống thấy thế nào?
Thường Ngộ Xuân cười đáp:
- Cha ta đã biết trước có ngày như thế này nên đã đặt tên cho ta là "Thường Ngộ Xuân", nghĩa là thường thường gặp được danh y diệu thủ hồi xuân[6] mà. Có đều chú mày cắt thuốc xem chừng hơi bá đạo, uống vào bụng chẳng khác nào có mấy chục con dao nhỏ đâm chém loạn xạ trong ấy.
Trương Vô Kỵ nói:
- Đúng thế, đúng thế. Xem ra liều lượng quả có hơi nặng.
Thực ra y ra toa nào chỉ có "hơi nặng" mà quả là nặng gấp mấy lần bình thường, lại không có những vị khác để điều hòa phụ giúp, nên công phạt càng mạnh hơn. Tuy y đã đọc trong sách của Hồ Thanh Ngưu về thuốc nào trị bệnh nào nhưng đạo dùng thuốc "quân thần tá sứ" hoàn toàn chẳng thông hiểu, nếu Thường Ngộ Xuân không thể phách cường tráng, khỏe mạnh hơn người thì ắt đã ô hô ai tai rồi.
Hồ Thanh Ngưu rửa mặt chải đầu xong, khoan thai đi ra, thấy Thường Ngộ Xuân mặt mũi hồng hào, tinh thần sảng khoái, không khỏi giật mình nghĩ thầm: "Một tên thông minh lớn mật, một tên thể phách tráng kiện, thương thế của Tiệt Tâm Chưởng thế mà trị được rồi".
Trương Vô Kỵ cũng viết thêm một toa thuốc bổ, nào là nhân sâm, lộc nhung, thủ ô, phục linh bao nhiêu loại bổ dược quí giá viết cả ra. Trong nhà Hồ Thanh Ngưu chứa biết bao nhiêu là thuốc, loại nào cũng đều là loại thật tốt, nên dược lực thật mạnh. Uống thuốc bổ như thế mươi ngày, Thường Ngộ Xuân thấy thần thái sung mãn, võ công hoàn toàn trở lại như xưa, nói với Trương Vô Kỵ:
- Tiểu huynh đệ, hiện nay thương thế của ta hoàn toàn khỏi hẳn rồi, ngày ngày ngươi ra nằm dầm sương với ta xem ra không hợp lý. Thôi vậy anh em mình từ biệt nhau.
Trong hơn một tháng qua, Trương Vô Kỵ và y cùng chung hoạn nạn, hai bên xả thân, thành một đôi bạn sinh tử có nhau, nay phải chia tay, thật quyến luyến không muốn rời. Thế nhưng biết rằng Thường Ngộ Xuân không thể ở mãi tại đây, Vô Kỵ đành nuốt lệ chấp nhận.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Tiểu huynh đệ, ngươi đừng quá khổ sở. Ba tháng nữa, ta sẽ quay lại thăm, nếu lúc đó hàn độc trong thân thể ngươi hết rồi, sẽ dẫn ngươi trở về núi Võ Đương để gặp lại thái sư phụ.
Y đi vào trong nhà bái biệt Hồ Thanh Ngưu, nói:
- Đệ tử thương thế nay đã đỡ, tuy là do Trương huynh đệ ra tay chữa trị nhưng toàn là do sách thuốc của sư bá mà theo, lại uống không biết bao nhiêu là dược vật quí giá của sư bá.
Hồ Thanh Ngưu gật đầu:
- Thế nhưng cũng chưa xong đâu. Thương thế của ngươi tuy đã đỡ, nhưng tuổi thọ cũng bị giảm mất bốn mươi năm.
Thường Ngộ Xuân không hiểu, hỏi lại:
- Sao thế?
Hồ Thanh Ngưu đáp:
- Cứ theo thể phách của ngươi mà nói, ít ra ngươi cũng sống đến tám mươi. Thế nhưng thằng bé dùng thuốc sai lầm, lúc hạ châm lại không đúng cách, từ nay trở về sau, mỗi khi trời âm u mưa gió, ngươi sẽ thấy toàn thân đau nhức, nói chung đến khoảng bốn mươi tuổi, sẽ phải đi gặp Diêm Vương thôi.
Thường Ngộ Xuân cười ha hả, hiên ngang đáp:
- Đại trượng phu giúp đời trả nợ nước, nếu như lập nên công nghiệp, thì ba mươi tuổi cũng đã đủ, cần gì phải đến bốn mươi? Còn như sống đời tầm thường, dù có sống đến trăm tuổi, cũng chỉ tốn cơm tốn gạo mà thôi.
Hồ Thanh Ngưu lại gật đầu, nhưng không nói thêm nữa.[7]
Trương Vô Kỵ tiễn chân ra đến tận cốc khẩu, Thường Ngộ Xuân giục y trở lại, hai người mới gạt lệ chia tay. Trương Vô Kỵ trong bụng thầm toan tính: "Ta chữa trị, cắt thuốc sai lầm khiến Thường đại ca giảm thọ bốn mươi năm. Thân thể anh ấy vì ta mà tổn hại, không lẽ về sau ta không thể làm gì giúp ích được sao? Ta phải tìm cách nào làm cho anh ấy hoàn toàn khôi phục như trước mới xong".
Từ đó ngày ngày Hồ Thanh Ngưu châm cứu, kê toa cắt thuốc cho Trương Vô Kỵ để tiêu trừ âm độc trong thân thể. Trương Vô Kỵ cũng ngày đêm chăm chú đọc sách thuốc, ghi nhớ dược điển, gặp chỗ nào nghi nan không rõ liền hỏi lại Hồ Thanh Ngưu. Chuyện đó Hồ Thanh Ngưu rất thích nên lại càng ra công giải thích chỉ điểm. Có khi Vô Kỵ đưa ra những câu hỏi lạ lùng, suy nghĩ khác thường mà trước đây Hồ Thanh Ngưu chưa hề tưởng đến. Lúc đầu ông ta định bụng chữa khỏi Trương Vô Kỵ rồi sẽ ra tay giết thằng bé, nhưng bây giờ nghĩ nếu nó chết đi sẽ mất một người bạn tâm đầu ý hợp nên không còn nghĩ đến việc khỏi sớm chết sớm nữa.
Cứ như vậy mấy tháng liền, một hôm Hồ Thanh Ngưu bỗng nhiên phát giác, huyệt Quan Xung ở bên cạnh ngón tay vô danh, huyệt Thanh Lãnh Uyên ở cách khoeo tay hai tấc, huyệt Ti Trúc Không ở chỗ lõm sau lông mày khi châm vào không phản ứng gì cả. Ba huyệt đó đều thuộc Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh. Tam tiêu bao gồm thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu là một trong lục phủ, từ trước tới nay y thư chép là rất huyền diệu bí áo, khó lòng tìm được.[8] Hồ Thanh Ngưu tiềm tâm suy nghĩ, dùng đủ mọi loại phương pháp xảo diệu vẫn không trục được âm độc trong tam tiêu của Vô Kỵ. Hơn mười ngày sau, đầu tóc ông ta đã bạc thêm hơn chục sợi mà chưa đến đâu.
Trương Vô Kỵ thấy ông ta lao thần suy nghĩ, hết sức khổ não, trong lòng không khỏi cảm kích, thấy dạ không an, nói:
- Hồ tiên sinh, ông đã tận tâm kiệt lực khu độc cho cháu. Trên đời này có ai không chết đâu, âm độc chạy vào tam tiêu của cháu không đuổi ra được, âu cũng là số mệnh phải chịu, tiên sinh không phải quá phí tâm sức, vì chuyện cứu mạng cho cháu mà tổn lao thân thể.
Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, lạnh lẽo đáp:
- Ngươi coi Minh giáo, Thiên Ưng giáo không vào đâu, đời nào ta muốn cứu mạng cho mi? Chỉ có điều ta trị bệnh cho ngươi không khỏi, hóa ra cái tên Điệp Cốc Y Tiên là kẻ vô năng hay sao? Ta định bụng sau khi chữa khỏi cho ngươi rồi sẽ giết ngươi chết.
Trương Vô Kỵ không khỏi lạnh người, nghe ông ta nói một cách thản nhiên tưởng như coi chuyện đó chẳng vào đâu, biết y đã nói ra khỏi miệng rồi quyết không thay đổi, thở dài nói:
- Cháu xem ra âm độc trong cơ thể không cách nào trừ được, tiên sinh không cần ra tay, cháu cũng phải chết. Thế nhân xem ra chỉ muốn người khác chết sạch thì mới vui lòng. Chúng ta học võ luyện công, chẳng phải là để giết người khác hay sao?
Hồ Thanh Ngưu nhìn vào khoảng không xa vắng ngoài nhà, xuất thần hồi lâu, buồn bã nói:
- Khi ta còn trẻ ra sức học thuốc, lập chí tế thế cứu nhân, nhưng rồi ra mới biết mình lầm. Ta cứu người ta rồi, người ta quay lại hại ta thật là tàn nhẫn. Có một chàng trai kia trúng phải Kim Tàm trùng độc ở Miêu Cương Quí Châu, là loại độc chất vô cùng nguy hiểm, người trúng độc này thể nào cũng chết nhưng trước khi chết còn phải chịu thống khổ không chịu nổi. Ta ba ngày ba đêm không ngủ, hao phí tâm sức cứu được y, cùng y nghĩa kết kim lan, tình như ruột thịt, lại hứa gả đứa em gái cho y. Nào ngờ về sau y lại hại em ta đến phải chết. Ngươi có biết y là ai không? Hiện nay y chính là một thủ não danh tiếng vang lừng của một danh môn chính phái đó.
Trương Vô Kỵ thấy trên mặt y các bắp thịt giựt giựt, thần tình cực kỳ đau khổ, trong lòng không khỏi thương xót, nghĩ thầm: "Thì ra ông ta đã từng gặp nhiều thảm cảnh, vì thế nên mới có cái tính "kiến tử bất cứu". Bèn hỏi:
- Tên vong ân phụ nghĩa, lòng lang dạ thú đó là ai thế?
Hồ Thanh Ngưu nghiến răng nói:
- Y ... y chính là chưởng môn phái Hoa Sơn Tiên Vu Thông.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sao tiên sinh không đi tìm y mà trả thù?
Hồ Thanh Ngưu thở dài:
- Trước sau ta đã đi kiếm y ba lần, đều bị thảm bại, lần sau cùng tưởng chết về tay y rồi. Người này võ công cao cường, lại thêm cơ trí tuyệt luân, ngoại hiệu của y là Thần Cơ Tử, ta tài nghệ kém y xa. Huống chi y lại là chưởng môn phái Hoa Sơn, người nhiều thế mạnh. Minh giáo ta mấy năm nay chia năm xẻ bảy, cao thủ trong bản giáo tàn sát lẫn nhau, ai ai cũng nói là mình bận nên không ai giúp đỡ cả. Hơn nữa, ta cũng xấu hổ không đi nhờ cậy ai. Cái oán cừu đó, chỉ e không thể báo thù được. Ôi, đứa em khốn khổ của ta ơi, từ bé ta mồ côi, anh em nương tựa lẫn nhau ...
Nói đến đây, nước mắt rưng rưng.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Y thực ra không phải là kẻ vô tình lạnh lùng đâu". Hồ Thanh Ngưu đột nhiêu gay gắt nói:
- Chuyện ta nói hôm nay, từ rày không được đề cập đến nữa, nếu tiết lộ cho người khác biết, ta sẽ làm cho người sống không được, chết không xong.
Trương Vô Kỵ định cãi lại vài câu, nhưng bỗng thấy chạnh lòng, biết người này vì gặp thảm sự nên chẳng chấp nê, liền nói:
- Cháu không nói đâu.
Hồ Thanh Ngưu xoa đầu nó, thở dài:
- Tội nghiệp, tội nghiệp.
Nói xong quay vào hậu đường.
Từ khi Hồ Thanh Ngưu nói chuyện với Trương Vô Kỵ, lại thấy hàn độc đã chạy vào tam tiêu không có thể khu trừ được, dù được người tinh thâm y thuật chữa trị, cũng chỉ sống thêm được vài năm, khiến ông ta biến đổi tâm tình. Tuy ông ta không thổ lộ thêm về thân thế, tâm sự, nhưng thấy thằng bé nhạy hiểu lòng người, lại sống nơi núi rừng tịch mịch, có một người bạn như thế rất tốt nên ngày ngày ông ta chỉ điểm cho Vô Kỵ về biến hóa âm dương, ngũ hành trong y học cùng các cách châm kim, kê toa bốc thuốc. Trương Vô Kỵ ra công nghiên cứu, hết sức dụng tâm học tập. Hồ Thanh Ngưu thấy ngộ tâm của y thật cao, đọc các sách y thư như Hoàng Đế Hà Mô Kinh, Tây Phương Tử Minh Đường Cứu Kinh, Thái Bình Thánh Huệ Phương, Châm Cứu Giáp Ất Kinh, Thiên Phương Kinh của Tôn Tư Mạc ... đều rất am tường, không khỏi than thầm: "Cứ như tài trí của thằng bé này, lại được gặp minh sư trăm năm khó gặp như ta chỉ dạy, chưa đến hai mươi tuổi cũng đã ngang ngửa với Hoa Đà, Biển Thước rồi, tiếc rằng ... tiếc rằng ... than ôi!"
Ý ông ta muốn nói đến là dù Vô Kỵ y học có giỏi bao nhiêu, nhưng số chẳng sống được lâu, thì việc chăm chỉ cần mẫn kia có ích gì? Thế nhưng Trương Vô Kỵ trong bụng đã có chủ tâm, y quyết ý học thành y thuật cao minh, để khi gặp lại Thường Ngộ Xuân, sẽ chữa cho y được trở lại bình thường, hoặc chữa cho Du Đại Nham không còn cần phải ai nâng dắt, đi đứng một mình được. Đó chính là hai đại tâm nguyện của nó, nếu hoàn thành được thì dù có chết đi cũng không có gì ân hận.
Sống trong thung lũng an tĩnh vô sự, ngày tháng trôi qua, chẳng mấy chốc đã hơn hai năm, Trương Vô Kỵ nay đã mười bốn tuổi. Trong hai năm đó, Thường Ngộ Xuân có đến thăm y mấy lần, nói Trương Tam Phong nghe tin bệnh tình của Vô Kỵ có chiều thuyên giảm, mười phần hoan hỉ, dặn cứ ở lại Hồ Điệp Cốc thêm, bao giờ khỏi hẳn thi thôi. Trương Tam Phong và sáu người đệ tử cũng gửi cho nó quần áo, đồ dùng, tất cả ai cũng nhớ nhung, nhưng vì môn phái khác biệt, không tiện đến thăm.
Trương Vô Kỵ đối với thái sư phụ và các sư thúc, sư bá càng thương nhớ nhiều, hận không thể về núi Võ Đương ngay để gặp lại. Thường Ngộ Xuân cũng cho hay tin tức bên ngoài, mấy năm nay người Mông Cổ đối với Hán nhân càng thêm bạo ngược, trăm họ không đủ ăn, trộm cướp nổi lên như rươi, xem chừng thiên hạ sắp sửa đại loạn. Ngoài ra, các danh môn chính phái trên giang hồ tranh chấp với ma giáo, tà phái mỗi ngày thêm kịch liệt, hai bên chết chóc cũng nhiều, oán cừu ngày càng thêm sâu.
Mỗi lần Thường Ngộ Xuân đến Hồ Điệp Cốc đều ở lại vài ngày, dường như công việc trong Minh giáo ngày càng thêm bận rộn.
Một buổi tối, Trương Vô Kỵ đang đọc cuốn "Thử Sự Nan Tri[9]" của Vương Hảo Cổ, bỗng thấy thấy mệt mỏi, đầu óc mơ mơ màng màng, lập tức lên giường ngủ. Hôm sau tỉnh dậy thấy nhức đầu khôn cùng, đang định đi kiếm mấy loại thuốc trị phong hàn, khi vào trong sảnh thì mặt trời đã ngả về phương tây, hóa ra đã quá trưa. Y giật mình kinh hãi: "Sao mình ngủ giấc này lâu thế, xem ra mình bị bệnh mất rồi". Vội vàng tự bắt mạch nhưng không thấy gì khác lạ, lòng thầm kinh hãi: "Không lẽ âm độc trong người mình phát tác, đến ngày tận số rồi chăng?".
Vô Kỵ đến ngoài phòng của Hồ Thanh Ngưu thấy cửa đóng chặt, ho khẽ một tiếng. Hồ Thanh Ngưu ở bên trong nói ra:
- Vô Kỵ, hôm nay trong người ta không được khỏe, cổ họng đau, ngươi tự mình học đi nhé.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vâng.
Y quan tâm đến bệnh tình của Hồ Thanh Ngưu nên hỏi tiếp:
- Tiên sinh, để cho cháu xem thử cổ họng tiên sinh xem thế nào, được không?
Hồ Thanh Ngưu giọng khàn khàn đáp:
- Không cần đâu, ta soi gương xem thử, thấy không có gì nặng lắm, đã uống Ngưu Hoàng Tê Giác Tán rồi.
Đến chiều hôm đó, khi tiểu đồng mang cơm vào phòng, Trương Vô Kỵ cũng đi theo, thấy Hồ Thanh Ngưu mặt mày tiều tụy, nằm trên giường. Hồ Thanh Ngưu xua tay:
- Ra ngoài đi, cậu có biết ta bị bệnh gì không? Đậu mùa đấy.
Trương Vô Kỵ nhìn trên mặt, trên tay ông ta, quả nhiên đầy những chấm đỏ, nghĩ thầm bệnh đậu mùa phát ra rất độc địa, nếu chữa không khéo, nặng ắt chết, nhẹ cũng rỗ mặt. Hồ Thanh Ngưu y đạo tinh thâm, dù có nhiễm bệnh cũng tự chữa lấy được nhưng Vô Kỵ vẫn không khỏi lo lắng. Hồ Thanh Ngưu nói:
- Cậu không được vào phòng ta, đũa bát chén đĩa cho ta, đều phải dùng nước nóng tráng qua, cậu và các tiểu đồng không được dùng chung.
Ngẫm nghĩ một lát, ông ta nói tiếp:
- Vô Kỵ, cậu nên ra khỏi Hồ Điệp Cốc tìm nơi tá túc một thời gian độ nửa tháng, để khỏi lây bệnh đậu mùa của ta .
Trương Vô Kỵ vội nói:
- Không cần. Tiên sinh bị bệnh, cháu lại đi khỏi, ai lo lắng cho ông? Dẫu gì cháu cũng hiểu y lý hơn những tiểu đồng này.
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Nhưng cậu tránh đi vẫn hơn.
Thế nhưng dù ông ta nói sao, Vô Kỵ nhất định không chịu. Mấy năm qua, hai người sớm tối có nhau, Hồ Thanh Ngưu tuy tính tình quái dị, hai thầy trò dẫu sao cũng vẫn có tình, huống chi lúc hoạn nạn lại đi khỏi, thật là không hợp bản tính của Trương Vô Kỵ chút nào. Hồ Thanh Ngưu nói:
- Thôi được. Thế nhưng cậu tuyệt đối không được bước chân vào trong phòng của tôi.
Cứ như thế ba ngày liền, sớm tối Vô Kỵ lại trước cửa phòng hỏi thăm, thấy Hồ Thanh Ngưu tuy bị khản tiếng, tinh thần vẫn đầy đủ, cơm nước xem ra còn ăn nhiều hơn lúc thường, chắc không có gì đáng ngại. Hồ Thanh Ngưu mỗi ngày đọc các vị thuốc cùng liều lượng, tiểu đồng theo đó mà sắc đem vào phòng cho ông ta. Đến chiều hôm thứ tư, Trương Vô Kỵ ngồi trong thảo đường đọc Hoàng Đế Nội Kinh đến thiên Tứ Khí Điều Thần Đại Luận tới câu:
Cho nên thánh nhân không trị bệnh đã phát ra rồi mà trị bệnh từ khi chưa phát, không trị khi đã loạn rồi mà trị từ khi chưa loạn, chính là vì thế. Đại bệnh có rồi mới cho thuốc, loạn đã có rồi mới cứu chữa, có khác nào khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau rồi mới đúc chùy, chẳng đã trễ ư?
(Thị cố thánh nhân bất trị dĩ bệnh, trị vị bệnh, bất trị dĩ loạn, trị vị loạn, thử chi vị dã. Đại bệnh dĩ thành nhi hậu dược chi, loạn dĩ thành nhi hậu trị chi, thí do khát nhi xuyên tỉnh, đấu nhi chú trùy, bất diệc vãn hồ?)
Không khỏi gật đầu khen hay, nghĩ thầm: "Mấy câu này quả thật là hay, khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau mới đi đúc binh khí làm sao cho kịp. Quốc gia loạn rồi trở lại thanh bình, dù có an định nhưng nguyên khí không khỏi thương tổn rất nhiều. Trị bệnh thì phải trị từ khi chưa có bệnh mới là hay. Thế nhưng bệnh đậu mùa của Hồ tiên sinh là do bên ngoài nhiễm vào, có muốn trị từ trước cũng không được". Lại nghĩ đến Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận trong Nội Kinh có mấy câu:
Người giỏi chữa bệnh chữa khi bệnh còn ngoài da, thứ đến là người chữa khi bệnh ở máu thịt, thứ nữa là chữa khi bệnh ở gân mạch, sau nữa mới đến bệnh trong lục phủ, sau nữa mới đến bệnh vào trong ngũ tạng. Trị ngũ tạng thì đã nửa phần sống, nửa phần chết.
(Thiện trị giả trị bì mao, kỳ thứ trị cơ phu, kỳ thứ trị cân mạch, kỳ thứ trị lục phủ, kỳ thứ trị ngũ tạng. Trị ngũ tạng giả, bán tử bán sinh dã)
Vô Kỵ nghĩ thầm: "Lương y thấy bệnh mới chớm là đã trị. Bệnh đã vào đến lục phủ ngũ tạng mới chữa trị, chỉ còn có một nửa phần hi vọng thôi. Như ta âm độc đã tan vào lục phủ ngũ tạng, đâu phải chỉ nửa sống nửa chết mà là chín chết một sống rồi".
Y còn đang tấm tắc khen kiến thức trác tuyệt của người xưa, lại nghĩ đến thương thế của mình, bỗng nghe có tiếng vó ngựa từ ngoài cửa thung lũng vọng tới, chẳng bao lâu đã đến ngay bên ngoài căn nhà tranh rồi một người lớn tiếng nói:
- Võ lâm đồng đạo, xin được gặp Y Tiên Hồ tiên sinh, để nhờ lão nhân gia trị bệnh.
Trương Vô Kỵ đi ra ngoài cửa, thấy một người mặt mũi đen sì đứng bên ngoài, tay dắt ba con ngựa, trên hai con ngựa nằm phục hai người, quần áo loang lổ đầy vết máu, rõ ràng thân bị trọng thương. Hán tử đó đầu băng một mảnh vải trắng, trên cũng thấm đầy máu tươi, tay phải cũng có băng treo lủng lẳng trên cổ, xem ra bị thương cũng không phải nhẹ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Các vị đến thật không đúng lúc, chính Hồ tiên sinh cũng đang bị bệnh, nằm trên giường không dậy được, không thể nào trị bệnh cho quí vị được, xin đi kiếm thầy lang khác.
Hán tử đó nói:
- Chúng tôi chạy mấy trăm dặm đến đây, sống chết chỉ trong sớm tối, chỉ còn trông chờ Y Tiên cứu mạng thôi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Hồ tiên sinh đang bị bệnh đậu mùa, bệnh thế thật là ghê gớm, đó là chúng tôi nói thực, không dám man trá đâu.
Người kia nói:
- Ba người chúng tôi lần này bị trọng thương nếu như không được Y Tiên cứu, thì chỉ có nước chết thôi. Xin phiền tiểu huynh đệ bẩm lại một lời, để xem Hồ tiên sinh dạy bảo thế nào.
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu đã như thế, xin quí vị cho biết tôn tính đại danh.
Hán tử trả lời:
- Ba người chúng tôi tiện danh không đáng nói, chỉ nói là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.
Nói đến đây, thân hình y lảo đảo muốn ngã, xem ra không chịu nổi nữa rồi, há mồm ọe ra một ngụm máu tươi. Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm Tiên Vu Thông của phái Hoa Sơn là kẻ đại thù của Hồ tiên sinh, không biết ông ta xử trí thế nào, đi đến trước phòng của Hồ Thanh Ngưu nói:
- Tiên sinh, ngoài cửa có ba người bị thương nặng đến xin chữa bệnh, nói là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.
Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, gắt:
- - Không chữa, không chữa, bảo chúng nó cút đi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vâng.
Y trở lại thảo đường nói với người kia:
- - Hồ tiên sinh bệnh tình trầm trọng lắm, không thể nào tiếp khách được, kin tha lỗi cho.
Gã kia nhíu mày, đang định năn nỉ thêm nữa thì một gã gầy gò đang nằm phục trên lưng ngựa bổng ngửng đầu lên, giơ tay búng ra, một ánh vàng lấp lánh, nghe cạch một tiếng, một ám khí nho nhỏ rơi ngay trên bàn trong nhà. Gã hán tử gầy gò nói:
- Ngươi đem mũi Kim Hoa này cho Kiến Tử Bất Cứu xem, nói ba người bọn ta đều bị chủ nhân của bông hoa vàng này đả thương. Người đó nay mai sẽ đến tìm y để rửa hận, nếu Kiến Tử Bất Cứu trị khỏi cho bọn ta, ba người sẽ ở lại đây, giúp ông ta ngự địch. Dù võ công bọn ta chẳng ra gì, nhưng dù sao cũng có thêm ba tay giúp sức.
Trương Vô Kỵ thấy tên này ăn nói xấc láo, không phải như hán tử nọ có vẻ lễ độ, đi đến bên cạnh bàn, thấy ám khí nọ là một bông hoa mai đúc bằng vàng, cũng to y hệt một bông mai thật, bạch kim làm nhụy hoa, trông thật là tinh xảo. Y đưa tay cầm lấy, nào ngờ cái búng của gã gầy gò nọ rất mạnh, bông hoa khảm chặt xuống bàn, đành phải lấy ra kẹp dùng để gắp thuốc, nạy mấy cái mới lấy ra được. Y nghĩ thầm: "Võ công của tên gầy gò này không phải dở, nhưng bị chủ nhân bông hoa vàng này đánh cho bị thương nặng như thế, y nói người đó đến tầm cừu, mình cũng nên cho tiên sinh biết".
Y cầm bông hoa đến bên ngoài phòng của Hồ Thanh Ngưu chuyển thuật lời của gã gầy gò. Hồ Thanh Ngưu nói:
- Đem vào cho ta xem.
Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng mở cửa phòng, vén tấm màn ra, thấy trong phòng tối như mực, biết rằng người bị đậu mùa sợ gió sợ ánh sáng, cửa sổ đều dùng mền che kín. Hồ Thanh Ngưu trên mặt che một miếng vải xanh, chỉ để lộ đôi mắt. Trương Vô Kỵ cảm thấy sợ hãi: "Không biết dưới miếng vải kia, các nốt đậu trên mặt ông ta mọc như thế nào? Sau khi khỏi rồi, liệu có bị rỗ không?".
Hồ Thanh Ngưu nói:
- - Để bông hoa vàng trên bàn cho ta, rồi đi ra cho mau.
Trương Vô Kỵ y lời để bông hoa xuống bàn, vén màn đi ra, chưa kịp đóng cửa đã nghe Hồ Thanh Ngưu nói:
- Ba tên đó chết sống ra sao, họ Hồ này không can hệ gì. Hồ Thanh Ngưu chết hay sống, cũng chẳng cần ba tên đó phải để tâm đến.
Nghe vèo một tiếng, bông hoa vàng đó xuyên qua màn cửa, bay vụt ra ngoài, nghe keng một tiếng rơi trên mặt đất. Trương Vô Kỵ đã ở chung với ông ta hơn hai năm rồi, không từng thấy ông ta luyện võ công, không ngờ vị thần y trông vẻ thư sinh này lại là một cao thủ, tuy đang bị bệnh nhưng không võ công không mất.
Trương Vô Kỵ nhặt bông kim hoa lên, đem trả lại cho gã gầy gò, lắc đầu:
- Hồ tiên sinh quả thật bệnh nặng ...
Bỗng nghe tiếng chân ngựa cộp cộp, tiếng xe rầm rập, một chiếc xe ngựa chạy vào trong thung lũng. Trương Vô Kỵ đi ra khỏi cửa, thấy con ngựa chạy rất nhanh, chỉ chớp mắt đã tới trước cửa, ngừng ngay lại. Trên xe đi xuống một thanh niên nước da vàng vọt, ôm ra một lão già đầu hói, hỏi:
- Điệp Cốc Y Tiên Hồ tiên sinh có nhà không? Môn hạ phái Không Động là Thánh Thủ Già Lam[10] Giản Tiệp từ xa đến chữa bệnh ...
Nói chưa hết câu, y đã lảo đảo, cùng ông già đầu hói hai người đều ngã lăn xuống đất. Cũng thật lạ, hai con ngựa kéo xe đồng thời kiệt sức, miệng sùi bọt mép, gục luôn xuống. Xem thần tình của hai người, không hỏi cũng biết là từ xa bôn ba đến đây, đi đường không nghỉ, nên cả người lẫn ngựa mới mỏi mệt đến thế. Trương Vô Kỵ nghe nói bốn chữ "môn hạ Không Động", nghĩ đến trên núi Võ Đương bức tử cha mẹ mình có các trưởng lão của phái này, tuy gã đầu hói này hôm đó không thấy lên núi, nhưng chắc cũng chẳng phải kẻ tốt lành gì, đang định cự tuyệt, lại thấy sơn đạo thấp thoáng, thêm bốn năm người chạy đến, kẻ thì chống gậy khập khiễng, kẻ thì người nọ đỡ người kia, người nào cũng bị thương cả.
Trương Vô Kỵ nhíu mày, không đợi bọn đó đến gần, lớn tiếng nói:
- Hồ tiên sinh bị bệnh đậu mùa, chính ông ta cũng không biết sẽ ra sao, không thể nào trị thương cho các vị được. Xin các vị sớm đi tìm danh y, để khỏi lỡ dịp chữa thương.
Đến khi bọn đó tới gần hơn, nhìn rõ tất cả năm người, người nào mặt cũng tái mét nhưng trên người không có dấu máu, xem ra đều bị nội thương. Người đi đầu vừa cao vừa mập, nhìn gã đầu hói Giản Tiệp và gã gầy gò gật đầu, ba người nhìn nhau cười gượng, hóa ra họ đều biết nhau. Trương Vô Kỵ hiếu kỳ, hỏi:
- Các ông cũng đều bị chủ nhân bông hoa vàng đả thương phải không?
Gã mập đáp:
- Chính thế.
Hán tử đến đầu tiên mới bị hộc máu hỏi lại:
- Tiểu huynh đệ họ gì? Bà con với Hồ tiên sinh ra sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi là bệnh nhân của Hồ tiên sinh, Hồ tiên sinh nói không chữa là nhất định không chữa đâu, các ông có nán lại đây cũng vô ích.
Hai bên đang nói chuyện lại có thêm bốn người nữa tới, có kẻ đi xe, có kẻ cưỡi ngựa, cả bọn ai ai cũng muốn gặp Hồ Thanh Ngưu. Trương Vô Kỵ thấy lạ lùng: "Hồ Điệp Cốc là nơi hoang vắng, ngoại trừ người trong ma giáo ra, trên giang hồ rất ít người biết đến. Những người này không phải Không Động thì cũng Hoa Sơn, đều không phải người đồng đạo, sao lại không hẹn mà cùng bị thương, lại không hẹn mà cùng đến đây xin chữa bệnh?" Lại nghĩ thầm: "Chủ nhân của bông kim hoa này tài nghệ ghê gớm đến thế, muốn giết những người này nào có khó khăn gì, sao lại chỉ đánh cho họ trọng thương thôi?".
Mười bốn người đó, có người lên tiếng khẩn cầu, có người một lời không nói, nhưng không ai chịu đi, nhìn ra trời đã sắp tối, mười bốn người ngồi chật cả căn nhà lá. Đứa tiểu đồng nấu ăn đem cơm cho Trương Vô Kỵ, y không nể nang khách sáo gì, ngồi ăn tự nhiên, đốt một ngọn đèn dầu giở sách thuốc ra ngồi đọc, đối với bọn người kia làm như không thấy, nghĩ thầm: "Ta học y thuật của Hồ tiên sinh nhưng cũng phải học luôn cả cái công phu Kiến Tử Bất Cứu của ông ta nữa".
Đêm vắng lặng, trong căn nhà tranh ngoài tiếng sột soạt của Trương Vô Kỵ giở sách, và tiếng thở nặng nề của bọn người bị thương, không còn âm thanh gì khác. Bỗng dưng từ con đường mòn ở bên ngoài có tiếng bước chân nhẹ nhàng của hai người, chậm chạp đi về hướng căn nhà tranh. Một lúc sau, giọng thánh thót của một đứa con gái nhỏ cất lên:
- Mẹ, trong nhà có ánh đèn, mình đến nơi rồi.
Cứ theo giọng đó thì đứa trẻ còn nhỏ lắm. Có tiếng một người đàn bà nói:
- Con có mệt không?
Đứa bé nói:
- Con không mệt. Mẹ ơi, thầy lang trị bệnh cho mẹ mẹ sẽ hết đau.
Người đàn bà đáp:
- Ừ, nhưng không biết thầy lang có chịu chữa cho mẹ không nữa.
Trương Vô Kỵ trong lòng chấn động: "Người đàn bà này giọng nói nghe quen lắm, hình như Kỷ Hiểu Phù cô cô thì phải". Lại nghe cô bé con nói:
- Thể nào thầy thuốc cũng chữa cho mẹ mà. Mẹ đừng sợ, mẹ đã đỡ đau chưa?
Người đàn bà nói:
- Mẹ bớt đau rồi. Ôi, tội nghiệp cho con.
Trương Vô Kỵ nghe đến đây, không còn hoài nghi gì nữa, chạy ra ngoài cửa, kêu lên:
- Kỷ cô nương, có phải cô không? Cô bị thương đấy ư?
Dưới ánh trăng thấy một người đàn bà mặc áo xanh, tay dắt một đứa bé gái, chính là nữ hiệp phái Nga Mi Kỷ Hiểu Phù. Khi nàng gặp Trương Vô Kỵ trên núi Võ Đương, lúc đó nó chưa đầy mười tuổi, lúc này cách nhau gần năm năm, Trương Vô Kỵ từ một đứa bé đã thành một thiếu niên, trong đêm tối đột nhiên gặp lại, làm sao còn nhận cho ra, ngạc nhiên chỉ lắp bắp:
- Cậu ... cậu ...
Trương Vô Kỵ nói:
- Kỷ cô nương, cô không nhận ra cháu sao? Cháu là Trương Vô Kỵ. Lúc ở trên núi Võ Đương hôm cha mẹ cháu qua đời, có gặp cô một lần.
Kỷ Hiểu Phù kinh hoảng "A" một tiếng, không ngờ lại gặp y ở nơi này, nghĩ đến mình là thân con gái chưa chồng, nay tay lại dắt một đứa con. Trương Vô Kỵ lại là sư điệt của người chồng chưa cưới Ân Lê Đình, tuy tuổi còn nhỏ, nhưng cũng không thể nào giải thích cho xuôi, không khỏi vừa thẹn vừa quẫn mặt đỏ bừng. Nàng bị thương vốn không phải nhẹ, kinh hoảng rồi, thân hình lảo đảo dường như muốn ngã.
Đứa con gái chỉ chừng tám chín tuổi, thấy mẹ loạng choạng, vội hai tay đưa ra đỡ ï. Tuy nhiên nó bé bỏng yếu sức làm sao đỡ nổi xem ra hai người cùng ngã. Trương Vô Kỵ vội chạy đến đỡ vai Kỷ Hiểu Phù, nói:
- Kỷ cô nương, mời cô vào đây nghỉ một chốc.
Y dìu nàng vào trong thảo đường, dưới ánh đèn thấy vai và cánh tay bên trái bị đao kiếm chém cực kỳ trầm trọng, lớp vải băng không ngừng rỉ máu tươi, lại thấy cô ta ho liên tục, không sao ngăn được. Y thuật của Trương Vô Kỵ lúc này đã hơn xa những bậc "danh y" bình thường, thấy tiếng ho của nàng có vẻ khác lạ, biết là lá phổi đã bị chấn thương nặng, liền nói:
- Kỷ cô nương, cô dùng tay phải đối chưởng với người ta đã bị thương ở phế mạch thái âm.
Nói rồi lấy ra bảy mũi kim châm, xuyên qua áo châm vào hiệt Vân Môn ở đầu vai, huyệt Hoa Cái ở trên ngực, huyệt Xích Trạch ở cùi chỏ ... tổng cộng bảy chỗ. Lúc này thuật châm cứu của y so với lúc trị thương cho Thường Ngộ Xuân quả là một trời một vực. Trong hơn hai năm qua, y theo Hồ Thanh Ngưu tiềm tâm khổ học, cả chẩn đoán bệnh tình, cách biến hóa dùng thuốc đã hiểu biết rất nhiều, tuy so với Hồ Thanh Ngưu còn kém xa, nhưng riêng châm cứu thì đã học được bảy, tám thành bản lãnh của Y Tiên.
Lúc đầu Kỷ Hiểu Phù thấy y lấy kim ra chưa biết dụng ý, nào ngờ Vô Kỵ thủ pháp cực nhanh nhẹn, chỉ trong nháy mắt, bảy mũi kim đã đâm vào các huyệt đạo. Bảy huyệt đó đều thuộc Thủ Thái Âm Phế Kinh, kim vừa châm xong, tình trạng tức ngực liền giảm ngay. Nàng vừa mừng vừa sợ, nói:
- Hảo hài tử, đâu có ngờ cháu ở đây, lại học được bản lãnh thần kỳ như thế.
Hôm ở trên núi Võ Đương, Kỷ Hiểu Phù thấy Trương Thúy Sơn, Ân Tố Tố tự sát, thương xót Trương Vô Kỵ cô đơn khổ sở, từng dịu giọng an ủi, lại lấy cái vòng vàng đeo cổ ra cho nó. Thế nhưng lúc đó Trương Vô Kỵ trong lòng phẫn khích, buồn đau coi ai lên núi cũng đều là kẻ thù bức tử cha mẹ nó, thành thử đã hục hặc cả với Kỷ Hiểu Phù, khiến nàng không biết phải ăn nói ra sao. Về sau khi Trương Vô Kỵ đã lớn lên, nghe hôm đó cha nó và các sư bá, sư thúc đã toan cùng các nữ hiệp phái Nga Mi liên thủ, cùng chống cường địch, mới hay phái Nga Mi là bạn chứ không phải thù, cho nên tấm lòng của Kỷ Hiểu Phù đối với nó, mỗi khi nghĩ lại không khỏi cảm kích.
Đêm nọ ở trong rừng hai năm trước, Vô Kỵ cùng Thường Ngộ Xuân đã thấy Kỷ Hiểu Phù ra sức cứu Bành hòa thượng, biết là vị Kỷ cô nương này đối với người rất tốt, còn việc nàng chưa chồng mà đã có con, vì đâu mà đối đãi không phải với Ân thúc thúc, tuổi còn nhỏ, chuyện nam nữ y chưa để ý tới, nghe qua rồi không để vào tai, cũng không nhớ tới. Còn Kỷ Hiểu Phù trong lòng hổ thẹn, bất ngờ gặp một người quen của Ân Lê Đình nên không khỏi quẫn bách, tưởng như không có cách nào tránh mặt, đâu biết việc này hai năm trước Vô Kỵ đã nghe Đinh Mẫn Quân nói tới. Tuy nhiên y cho rằng Đinh Mẫn Quân là kẻ xấu xa, thành thử những gì cô ta nói ra chưa hẳn đã xấu.
Vô Kỵ thấy đứa con gái của Kỷ Hiểu Phù đứng bên cạnh mẹ, mặt đẹp như tranh vẽ, đôi mắt to đen láy chăm chăm nhìn mình một cách hiếu kỳ. Cô bé ghé tai mẹ nói nhỏ:
- Mẹ, cậu bé này là thầy lang đấy ư? Mẹ có còn đau không?
Kỷ Hiểu Phù nghe đứa bé gọi mẹ, mặt lại đỏ bừng, đến nước này không còn có thể dấu được nữa, lộ vẻ sượng sùng, nói:
- Đây là Trương gia ca ca, cha anh ấy là bạn của mẹ.
Quay sang Trương Vô Kỵ nói:
- Nó ... nó tên là Bất Hối.
Ngừng lại một lát, nói tiếp:
- Họ Dương, tên là Dương Bất Hối.
Trương Vô Kỵ cười đáp:
- Hay nhỉ, tên tiểu muội muội cũng na ná như tên anh, anh là Trương Vô Kỵ, cô em là Dương Bất Hối.
Kỷ Hiểu Phù thấy Vô Kỵ thần sắc bình thường, không có vẻ gì trách cứ, lòng thấy yên tâm, quay sang con nói:
- Bản lãnh của Vô Kỵ ca ca giỏi lắm, mẹ không còn đau nhiều nữa.
Đôi mắt linh hoạt của Dương Bất Hối chuyển qua mấy vòng, đột nhiên chạy tới ôm lấy Vô Kỵ, hôn trên má y một cái. Ngoài mẹ ra, cô bé chưa từng gặp người ngoài, lần này mẫu thân bị trọng thương, trong cơn hoạn nạn được Trương Vô Kỵ làm cho mẹ bớt đau, trong lòng hết sức cảm kích. Trước nay mỗi khi thương mẹ, cô bé thường sà vào lòng ôm mẹ hôn lên má, nên lúc này cũng làm thế với Trương Vô Kỵ.
Kỷ Hiểu Phù mỉm cười nói:
- Bất nhi, đừng làm vậy, Vô Kỵ ca ca không thích đâu.
Dương Bất Hối mở to đôi mắt, không hiểu nguyên do, hỏi lại Trương Vô Kỵ:
- Anh không thích ư? Sao anh lại không thích em thương anh?
Trương Vô Kỵ cười đáp:
- Anh thích lắm chứ, anh cũng thương em nữa.
Y nhẹ nhàng hôn lên đôi má bầu bĩnh của cô bé. Dương Bất Hối vỗ tay cười:
- Thầy lang nhỏ ơi, anh mau mau trị cho mẹ em hết bệnh, em sẽ hôn anh lần nữa.
Trương Vô Kỵ thấy cô em nhỏ này thơ ngây lanh lợi, thật là dễ thương. Y từ hơn mười năm nay, những người quen biết đều là sư bá, sư thúc lớn tuổi hơn nhiều, Thường Ngộ Xuân tuy gọi nhau huynh đệ, nhưng cũng lớn hơn tám tuổi. Hôm ở trên thuyền gặp Chu Chỉ Nhược, hai đứa cũng chỉ ở với nhau một ngày, rồi lại chia tay, ngoài ra chưa hề có một người bạn nhỏ nào, lúc này không khỏi nghĩ thầm: "Giá như có được đứa em gái dễ thương như thế này, mình sẽ thường thường dẫn nó đi chơi".
Y chỉ mới mười bốn tuổi, còn nhiều tính trẻ con, nhưng tuổi thơ đã nhiều gian truân, chẳng được mấy lúc vui đùa. Kỷ Hiểu Phù thấy bọn Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp cũng bị thương nặng, rõ ràng chưa được chữa trị gì cả, nàng không muốn được ưu tiên nên nói:
- Các vị này đến đây trước cô, cháu xem cho họ đã. Bây giờ cô thấy đỡ nhiều lắm rồi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Bọn họ đến nhờ Hồ tiên sinh chữa trị đâu ngờ chính tiên sinh cũng đang bị bệnh nặng, không chữa cho ai được. Thế nhưng mấy người này không chịu đi. Kỷ cô cô, cô không phải nhờ đến Hồ tiên sinh chữa bệnh, cháu ở đây cũng đã lâu, biết chút đỉnh y đạo, nếu cô bằng lòng, để tiểu điệt xem thương thế ra sao.
Kỷ Hiểu Phù cũng chẳng khác gì bọn Giản Tiệp, sau khi bị thương được người ta chỉ đến Hồ Điệp Cốc cầu Hồ Thanh Ngưu, thấy tình trạng của bọn người kia, rõ ràng Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu không chịu chữa. Khi Trương Vô Kỵ châm kim các yếu huyệt nàng thấy lập tức kiến hiệu, xem ra tuy tuổi y còn nhỏ, y đạo cũng đã rất cao minh, nay nghe nói thế liền đáp:
- Vậy thì cám ơn cháu. Đại quốc thủ không chịu chữa, nay được tiểu quốc thủ chữa nào có khác gì.
Trương Vô Kỵ liền mời nàng vào trong phòng, cắt bỏ khúc áo nơi vết thương, thấy trên vai nào có tới ba vết đao chém, xương cánh tay cũng bị gãy, một chỗ bị nát vụn. Xương gãy như thế, nếu ở bên ngoài việc tiếp cốt thật là khó khăn nhưng đối với đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên lại không có gì gay go, y bèn nối xương rắc thuốc cho nàng, lại kê thêm một toa thuốc nói tiểu đồng theo đó mà đun. Đây là lần đầu y nối xương gãy, thủ pháp không được nhanh nhẹn, nhưng cũng chỉ một giờ sau mọi việc đều xong, nói:
- Kỷ cô cô, cô nên nằm ngủ một giấc, khi thuốc mê tan hết rồi, vết thương sẽ đau lắm đấy.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Cám ơn cháu.
Trương Vô Kỵ lại đi đến phòng thuốc, lấy một vốc táo tàu, mận khô đem cho Dương Bất Hối, nào ngờ đêm qua thức khuya, lúc này cô bé đã rúc vào lòng mẹ ngủ say sưa. Trương Vô Kỵ bỏ táo, mận vào túi cho nó, quay trở lại thảo đường.
Tên đệ tử phái Hoa Sơn bị thổ huyết thấy y vội đứng dậy, chắp tay vái một cái thật sâu, nói:
- Tiểu tiên sinh, nếu Hồ tiên sinh bị nhiễm bệnh, chắc phải phiền thầy chữa bệnh cho chúng tôi, cả bọn ai ai cũng cảm kích đại đức.
Trương Vô Kỵ từ khi học ngành thuốc tới nay, ngoại trừ Thường Ngộ Xuân và Kỷ Hiểu Phù, chưa hề dùng đến, nay thấy mười bốn người này, kẻ thì nội tạng chấn thương, kẻ thì chân tay gãy, mỗi người một loại thương thế chẳng giống nhau. Người đời thường nói rằng học phải được dùng, nên y cũng muốn thử, ngặt nỗi Hồ Thanh Ngưu đã nói không chữa, nên đáp:
- Đây là nhà của Hồ tiên sinh, tiểu khả cũng chỉ là bệnh nhân thôi, đâu dám tự tiện như thế.
Gã hán tử nọ trông mặt đặt tên, thấy y từ chối không có vẻ quyết liệt, lại chắp tay nịnh thêm một câu:
- Xưa nay danh y người nào cũng phải già cả năm, sáu mươi tuổi, ai ngờ thầy tuổi còn trẻ quá mà đã có được bản lãnh như thế, quả thực trên đời ít thấy, xin thầy ra tay chữa cho.
Gã mập trông như nhà buôn nói:
- Bọn chúng tôi mười bốn người trên giang hồ cũng có chút danh tiếng, nếu được tiểu tiên sinh cứu chữa, cả bọn ra ngoài tuyên dương, ai ai cũng nghe đến đại danh y thuật như thần của thầy, chỉ trong sớm tối, tên thầy đã truyền khắp thiên hạ rồi.
Trương Vô Kỵ tuổi còn nhỏ, không biết tình đời, nghe hai người nịnh mấy câu, không khỏi hoan hỉ, nói:
- Dang vang thiên hạ đâu có để làm gì? Hồ tiên sinh nếu không chữa, tôi cũng không làm sao được. Thế nhưng các ông bị thương nặng cả, thôi để tôi cắt cho các ông thuốc giảm đau thì được.
Nói rồi y lấy ra kim sang ra bôi cho họ cầm máu, bớt nhức.
Khi Vô Kỵ coi kỹ vết thương mỗi người, càng coi càng cảm thấy lạ lùng kinh dị. Thì ra mỗi người một loại thương thế, mà cách đả thương cũng khác nhau, toàn là những loại mà từ trước đến nay Hồ Thanh Ngưu chưa từng dạy qua bao giờ. Có người thị bị ép uống mấy chục mũi cương châm, trên kim lại có tẩm thuốc độc. Có người thì bị nội lực đánh dập can tạng nhưng các huyệt Hành Gian, Trung Phong, Âm Bao, Ngũ Lý là các yếu huyệt để trị gan lại bị dao đâm nát, hiển nhiên người hạ thủ cũng tinh thông y lý, cốt để thầy thuốc không có cách chữa. Có người thì hai lá phổi bị cắm hai cái đinh sắt, không ngừng ho ra máu. Có người gân cốt hai bên bị đánh đứt nhưng tim phổi lại không sao. Có người hai tay bị cắt đứt, nhưng tay phải nối qua tay trái, tay trái nối qua tay phải, máu me bê bết, trông không ra hình thù gì. Lại một người khác cả người bầm tím, nói là bị rết, bò cạp, ong vàng hai mươi loại độc trùng cùng cắn.
Trương Vô Kỵ chỉ mới coi sáu bảy người đã phải nhíu mày, nghĩ thầm: "Những người này thương thế cổ quái như thế, đến một loại ta còn trị chưa xong. Hung thủ ra tay đánh người, sao lại hành hạ người ta ác độc ghê gớm đến vậy?"
Bỗng y chợt nghĩ ra: "Vết thương trên vai và cánh tay Kỷ cô cô xem ra bình thường, hay là cô bị nội thương nào đặc biệt, không lẽ một mình cô không giống người khác?". Y vội quay vào phòng trong, nắm tay bắt mạch Kỷ Hiểu Phù, lập tức giật mình, thấy mạch cô ta lúc mạnh lúc yếu, lúc sáp, lúc hoạt[11], hiển nhiên nội tạng có gì khác thường, nhưng tại sao lại ra như thế, quả thật khó biết.
Mười bốn người kia thương thế khác lạ, Vô Kỵ chẳng để tâm, còn thầm nghĩ bọn người phái Không Động có liên quan đến việc bức tử cha mẹ mình, lúc này bị chứng quái dị, có chết cũng đáng. Thế nhưng thương thế của Kỷ Hiểu Phù thì không thể không chữa, nên y bèn đi tới trước phòng của Hồ Thanh Ngưu, hạ giọng hỏi:
- Tiên sinh, ông đã ngủ chưa?
Nghe Hồ Thanh Ngưu nói:
- Chuyện gì thế? Dù có là ai ta cũng không chữa.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vâng. Có điều những người này bị thương, sao thật là kỳ quái.
Y đem tất cả bệnh trạng mỗi người nhất nhất kể lại cho Hồ Thanh Ngưu nghe. Hồ Thanh Ngưu ở cách chiếc mền che chăm chú nghe, chỗ nào không rõ ràng, bảo Trương Vô Kỵ đi ra coi lại rồi cho hay. Trương Vô Kỵ tốn mất cả nửa giờ mới kể hết các chứng của mười lăm người kia. Hồ Thanh Ngưu miệng không ngớt ừ hử, rõ ràng đang suy nghĩ, một lúc lâu sau mới nói:
- Hừ, những quái thương này, ngoài ta ra không ai ...
Đằng sau Trương Vô Kỵ bỗng có người tiếp lời:
- Hồ tiên sinh, vị chủ nhân của bông hoa vàng bảo tôi nhắn lại với ông là "Ngươi uổng xưng Y Tiên, trong mười lăm loại kỳ thương quái độc này, không thể chữa nổi một loại nào cả". Ha ha, quả nhiên ông chỉ trốn ở trong nhà, giả vờ bị bệnh.
Hồi 12 tiếp
CHÂM KỲ CAO HỀ DƯỢC KỲ HOANG
Trương Vô Kỵ quay đầu lại, thấy người nói câu đó chính là gã hói đầu Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp của phái Không Động. Trên đầu y không còn một sợi tóc nào, thoạt tiên Trương Vô Kỵ tưởng y trời sinh đầu hói, sau mới biết y bị người ta bôi một loại thuốc độc lên, đầu tóc rụng sạch, độc dược còn đang ăn xuống, e rằng chỉ vài ngày nữa lan tới tận óc, không khỏi điên cuồng. Lúc này hai tay y bị đồng bạn dùng xích sắt khóa chặt không để cho y đưa lên đầu gãi, nếu không cái cảnh bị ngứa không chịu nổi thế này, chắc y đã cào lòi xương sọ ra rồi.
Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng đáp:
- Ta trị được hay không được cũng chẳng sao, nhưng ta không chữa cho ngươi. Ta xem ngươi chỉ còn sống được bảy tám ngày, sao không mau về nhà, còn gặp vợ con được một lần, ở đây nói lảm nhảm, có ích lợi gì?
Giản Tiệp đầu ngứa chịu không nổi, y vẫn thường hoặc cọ sát, hoặc lao đầu vào tường, lúc này xích khóa tay chân kêu loảng xoảng, thở hổn hển nói:
- Hồ tiên sinh, chủ nhân bông hoa vàng sớm tối sẽ đến tìm nhà ngươi, ta xem ngươi cũng chẳng được chết yên lành đâu, cả bọn liên thủ, cùng chống cường địch, chẳng hơn là ngươi nằm trốn trong phòng bó tay chờ chết hay sao?
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Bọn ngươi nếu đánh nổi y thì đã giết được hắn rồi, ta được thêm mười lăm cái bị thịt giúp vào thì có ích gì?
Giản Tiệp lại năn nỉ thêm một hồi, Hồ Thanh Ngưu không thèm lý tới. Sau cùng Giản Tiệp nổi khùng lên, quát lớn:
- Được rồi, đằng nào cũng chết, ta cho một mồi lửa đốt cái chuồng chó này cho biết tay. Bọn ta vào đâm cho ngươi mấy nhát, để cùng với tên thầy lang khốn nạn này cùng chết cho xong.
Lúc đó bên ngoài một người khác đi vào, chính là gã hồi trước thổ huyết. Y thò tay vào bọc lấy ra một cái nga mi thích, giơ ra dí vào ngực Giản Tiệp, lạnh lùng nói:
- Ngươi đắc tội với Hồ tiền bối, họ Tiết này thanh toán ngươi trước. Ngươi muốn dao nhuộm máu thì để ta cho ngươi biết tay.
Võ công Giản Tiệp vốn cao hơn gã họ Tiết, nhưng y tay chân bị xích chặt, không sao kháng cự được, chỉ còn nước trợn mắt, thở hồng hộc. Gã họ Tiết lớn tiếng nói:
- Hồ tiền bối, vãn bối là Tiết Công Viễn, là môn hạ của Tiên Vu tiên sinh phái Hoa Sơn, xin khấu đầu trước lão nhân gia.
Nói xong quì xuống, rập đầu mấy cái. Giản Tiệp lúc ấy trong lòng có chút hi vọng, Hồ Thanh Ngưu nói nặng không nghe, gã tiểu tử này lạy lục cầu khẩn, có khi lại được không chừng. Tiết Công Viễn hành đại lễ xong, nói:
- Hồ tiền bối thân thể khiếm an, bọn chúng tôi thật là kém phúc. Ở đây có vị tiểu huynh đệ y đạo cao minh, xin Hồ tiền bối ưng thuận cho cậu ấy trị bệnh cho chúng tôi. Chúng tôi người người bị thương quái lạ, trừ đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên ra, khắp thiên hạ không người nào có thể trị khỏi được.
Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:
- Thằng bé đó tên là Trương Vô Kỵ, là đệ tử của phái Võ Đương, con trai của Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp, đệ tử tái truyền của Trương Tam Phong. Còn Hồ Thanh Ngưu này là người trong Minh giáo, các người trong danh môn chính phái coi không ra gì, sao có can hệ gì với cao nhân đệ tử như y? Y trong người trúng phải âm độc, cầu ta chữa bệnh, nhưng ta đã lập trọng thệ trừ người trong Minh giáo ra, quyết không chữa cho người ngoại đạo. Tên họ Trương đó không chịu gia nhập Minh giáo, ta đâu có chữa cho y làm chi?
Tiết Công Viễn thất vọng, lúc đầu y tưởng Trương Vô Kỵ là đệ tử của Hồ Thanh Ngưu, bản lãnh chẳng bằng sư phụ, gặp chỗ nghi nan, Hồ Thanh Ngưu thể nào chẳng chỉ điểm, nào ngờ chính y cũng chỉ là bệnh nhân xin chữa không được mà thôi.
Lại nghe Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
- Các ngươi ở lì nhà ta không chịu đi, hừ, bộ các ngươi tưởng ta sẽ rủ lòng thương sao? Bọn ngươi thử hỏi thằng bé đó xem, nó ở đây bao lâu rồi?
Tiết Công Viễn và Giản Tiệp nhìn Trương Vô Kỵ, chỉ thấy y giơ hai ngón tay, rồi lại giơ một ngón. Tiết Công Viễn hỏi:
- Hai mươi ngày rồi ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tính ra hai năm hai tháng rồi.
Giản Tiết hai người mặt mày ngơ ngẩn, cùng buông một tiếng thở dài. Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
- Y có ở lì đây mười năm, ta cũng không cứu mạng đâu. Trong vòng một năm nữa thôi, âm độc tích tụ trong lục phủ ngũ tạng sẽ phát tác, y không cách nào sống được đến ngày này sang năm. Ta Hồ Thanh Ngưu trước đây từng lập trọng thệ trước Minh tôn là dù cho cha ruột ta, con cái ta, nếu không phải đệ tử Minh giáo, ta cũng sẽ không chữa thuốc cứu mạng cho đâu.
Giản Tiệp và Tiết Công Viễn hai người thất vọng, đang định đi ra, Hồ Thanh Ngưu bỗng nói:
- Gã đệ tử phái Võ Đương này cũng biết đôi chút nghề thuốc, y lý của phái Võ Đương tuy còn kém xa Minh giáo ta, nhưng cũng không đến nỗi làm chết người. Phái Võ Đương có cứu người cũng tốt, mà thấy chết không cứu cũng tốt, không liên hệ gì đến Minh giáo hay Hồ Thanh Ngưu cả.
Tiết Công Viễn sựng người, nghe giọng lưỡi y dường như muốn Trương Vô Kỵ ra tay chữa cho họ, liền nói:
- Hồ tiền bối, vị Trương tiểu hiệp này nếu ra tay cứu độ, chúng tôi cũng có hi vọng sống phải không?
Hồ Thanh Ngưu đáp:
- Y cứu hay không cứu, có liên quan chó gì đến ta đâu? Vô Kỵ, ngươi nghe đây, ở trong nhà của Hồ Thanh Ngưu, ngươi không được trổ nghề chữa bệnh, trừ khi ra khỏi nhà ta rồi, thì ngươi làm gì ta không cần biết.
Tiết Công Viễn và Giản Tiệp mới đầu cũng thầm hi vọng, bây giờ nghe nói thế, lại đâm ra hoang mang, không biết ý tứ ông ta thế nào. Trương Vô Kỵ so với họ thông minh hơn nhiều, lập tức hiểu ngay, nói:
- Hồ tiên sinh trong người có bệnh, các ông không nên quấy nhiễu ông ấy nữa, xin tất cả cùng đi ra.
Ba người ra đến thảo đường, Trương Vô Kỵ nói:
- Các vị, tiểu khả tuổi nhỏ kiến thức nông cạn, vết thương các vị lại thật quái dị, chữa được hay không, không có gì chắc chắn. Nếu các vị tin tưởng ở tôi, thì để tiểu khả hết sức xem sao, sống chết là ở số trời.
Lúc này mỗi người ai cũng bị thương không ngứa thì đau, không tê thì xót, ai cũng sống dở chết dở, dù có bảo uống tì sương độc dược, họ cũng coi như ăn cục kẹo miễn là hết được đau khổ, nên khi nghe Trương Vô Kỵ nói thế, ai nấy đều vui mừng bằng lòng.
Trương Vô Kỵ nói:
- Hồ tiên sinh không cho phép tiểu khả ra tay trong nhà ông ta, để nếu như chết người làm tổn lụy cái danh Y Tiên, vậy xin tất cả ra ngoài.
Mọi người còn đang phân vân, thấy y bất quá chỉ mười bốn, mười lăm, tài ba dẫu sao cũng có giới hạn, ở trong nhà Y Tiên, ít ra còn có chỗ nương tựa, nếu đi ra khỏi nhà rồi, lỡ y chữa lăng chữa nhăng, thương thế càng nặng, chỉ khổ thêm.
Giản Tiệp lớn tiếng nói:
- Đầu ta ngứa muốn chết, tiểu huynh đệ, xin ngươi trị cho ta trước.
Nói xong y loảng xoảng kéo dây xích chạy ra ngoài. Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, đi vào phòng thuốc lấy Nam Tinh, Phòng Phong, Bạch Chỉ, Thiên Ma, Bạch Phụ Tử, Hoa Nhị Thạch hơn mười vị thuốc, sai tiểu đồng cho vào cối giã nát, trộn rượu mạnh, chế thành cao đem ra đắp lên đầu Giản Tiệp.
Cao vừa đắp lên, Giản Tiệp đau quá nhảy chồm chồm, vừa nhảy vừa kêu:
- Đau quá, đau đến chết mất. Ôi, thế nhưng đau cũng được, so với ngứa còn đỡ khổ hơn nhiều.
Y nghiến răng trèo trẹo, trên bãi cỏ nhảy lên nhảy xuống, kêu luôn mồm:
- Đau quá đi, con mẹ nó, thằng nhỏ này quả có bản lãnh. Không, Trương tiểu hiệp, họ Giản này phải cám ơn cậu mới phải.
Bọn người kia thấy Giản Tiệp đầu ngứa có công hiệu ngay, lập tức ùa ra nhờ Trương Vô Kỵ trị bệnh. Lúc đó có một người ôm bụng, lăn lộn dưới đất kêu rên, thì ra y bị bắt ép phải nuốt hơn ba chục con đỉa sống. Những con đỉa đó vào trong bụng liền bám vào thành dạ dày và ruột hút máu. Trương Vô Kỵ nhớ đến trong y thư có chép: Đỉa gặp mật liền hóa thành nước. Ở Hồ Điệp Cốc có rất nhiều mật hoa, liền sai tiểu đồng đem ra một bát lớn, cho y uống.
Cứ như thế đến khi trời sáng, Kỷ Hiểu Phù và Dương Bất Hối tỉnh dậy đi ra khỏi phòng, thấy Trương Vô Kỵ đầu toát mồ hôi đang trị thương cho mọi người. Kỷ Hiểu Phù liền vào giúp y băng bó, và truyền tin việc lấy các loại thuốc. Chỉ có Dương Bất Hối vô tư vô lự, miệng nhai táo, mận chạy tung tăng đuổi bướm. Mãi đến quá trưa, Trương Vô Kỵ mới xong bước đầu trị ngoại thương, người nào chảy máu thì cầm máu, người nào đau thì giảm đau. Thế nhưng mỗi người đều bị thương rất cổ quái, phức tạp, không phải chỉ ở ngoài mà xong. Trương Vô Kỵ về phòng nằm ngủ một lát, trong cơn mơ màng nghe tiếng người rên rỉ, vội choàng dậy chạy ra, thấy vài người bớt đau nhưng quá nửa lại trở thành nguy kịch. Y không biết phải làm sao, đành chạy vào nói lại cho Hồ Thanh Ngưu nghe.
Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng đáp:
- Bọn đó không phải người trong Minh giáo, sống cũng tốt mà chết cũng không sao, ta không cần biết đến.
Trương Vô Kỵ chợt động tâm cơ, nói:
- Nếu như có một đệ tử Minh giáo, bên ngoài không thương tích gì, nhưng bên trong máu tụ lại trương phù lên, mặt đỏ phị, mê man sắp chết, tiên sinh sẽ phải trị cách nào?
Hồ Thanh Ngưu đáp:
- Nếu người đó là đệ tử Minh giáo thì ta dùng Sơn Giáp, Qui Vĩ, Hồng Hoa, Sinh Địa, Linh Tiên, Huyết Kiệt, Đào Tiên, Đại Hoàng, Nhũ Hương, Một Dược, đem rượu đun lên, cho thêm Đồng Tiện, uống vào sẽ tả ứ huyết ra.
Trương Vô Kỵ lại hỏi:
- Nếu như có một đệ tử Minh giáo bị người ta đổ thiếc vào tai trái, tai phải thì bị đổ thủy ngân, mắt thì bị trét sơn sống, đau đớn chịu không nổi, không nhìn thấy được, thế thì phải làm sao?
Hồ Thanh Ngưu nổi giận đùng đùng:
- Đứa nào mà đám hại đệ tử Minh giáo của ta đến mức đó?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Kẻ đó quả thật tàn ác, nhưng cháu nghĩ là mình phải trị thương tai mắt cho đệ tử Minh giáo đó trước, sau đó mới truy hỏi xem kẻ thù là ai cũng được.
Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ một chốc nói:
- Nếu người đó là đệ tử Minh giáo, ta sẽ dùng thủy ngân đổ vào tai trái, thiếc sẽ tan vào thủy ngân, theo đó mà chảy ra ngoài. Còn ta dùng kim vàng ngoáy tai phải, thủy ngân sẽ bám vào kim từ từ kéo ra. Còn sơn sống vào mắt, thử giã cua lấy nước đắp vào có thể hóa giải được không chừng.
Cứ như thế, Vô Kỵ đem hết những y án khó khăn nghi nan từng việc một kể lại, giả thác làm như đệ tử Minh giáo bị thương hỏi Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu dĩ nhiên hiểu dụng ý của y, nhưng vẫn dạy y cách điều trị. Thế nhưng những vết thương đó hết sức quái dị, Trương Vô Kỵ theo đó mà chữa nhưng vẫn không kiến hiệu, Hồ Thanh Ngưu lại phải suy nghĩ một hồi rồi đưa ra một cách khác.
Cứ như thế năm sáu ngày sau, thương thế mọi người đều đỡ dần. Nội thương của Kỷ Hiểu Phù vốn do trúng độc, Trương Vô Kỵ chẩn đoán rõ ràng rồi mới dùng Sinh Long Cốt, Tô Mộc, Thổ Cẩu, Ngũ Linh Chi, Thiên Kim Tử, Cáp Phấn[12] các loại cho cô ta uống, giải độc, làm tan máu bầm, bắt mạch lại thấy mạch tế hoãn, thương thế giảm nhiều.
Lúc này mọi người đã đựng bên ngoài thảo đường một cái nhà tranh, dưới đất trải rơm làm chiếu để nằm. Hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù thì ở một cái chòi cách đó vài trượng, do Trương Vô Kỵ yêu cầu mọi người dựng giùm. Mười bốn người đó vốn là hào khách tung hoành ngang dọc trên chốn giang hồ, lúc này tính mạng nằm trong tay Trương Vô Kỵ, nhất nhất việc gì thiếu niên này sai bảo không dám trái lời. Dịp này tuy Trương Vô Kỵ phải một phen tân khổ nhưng cũng học được rất nhiều điều hay, nhiều phương thuốc lạ, nhiều cách chữa thần kỳ của Hồ Thanh Ngưu.
Một buổi sáng sớm, khi Trương Vô Kỵ quan sát Kỷ Hiểu Phù, bỗng thấy giữa lông mày nàng có ẩn ẩn một làn hắc khí, dường như thương thế trở bệnh, những độc khí tiêu giải rồi nay lại quay về, vội vàng giơ tay bắt mạch, lại bảo nàng nhổ một bãi nước bọt, hòa vào Bách Hợp Tán để xem, quả nhiên độc tính trong cơ thể lại tăng. Trương Vô Kỵ suy nghĩ một hồi không giải thích được, chạy vào nội đường thỉnh giáo Hồ Thanh Ngưu, Hồ Thanh Ngưu thở dài, đưa ra phép trị. Trương Vô Kỵ theo đó mà làm, quả nhiên hữu hiệu. Thế nhưng đầu Giản Tiệp lại loét ra, thối tha chịu không nổi. Chỉ trong vài ngày cả mười lăm người thương thế đều biến chuyển khó chữa, rõ ràng đã bớt đến tám chín thành chỉ một đêm bệnh lại trở nặng.
Trương Vô Kỵ không rõ tại sao, vào hỏi Y Tiên, Hồ Thanh Ngưu nói:
- Những người này bị thương không phải tầm thường, nếu chỉ chữa một lần là xong thì việc gì phải đến Hồ Điệp Cốc năn nỉ ta chữa bệnh?
Đêm hôm đó, Trương Vô Kỵ nằm trên giường suy nghĩ: "Thương thế phản phục, tuy cũng là chuyện thường, nhưng sao lại cả mười lăm người đều bị hết, huống chi biến đi rồi lại biến lại quả thật lạ kỳ". Nằm trằn trọc mãi đến canh ba, cũng vì chuyện đó nên không ngủ được. Bỗng dưng ngoài song cửa có tiếng chân người đạp lên lá cây xào xạc, ai đó đang dùng khinh công đi qua.
Trương Vô Kỵ nổi tính hiếu kỳ, lè lưỡi nhấm giấy dán cửa sổ, nhìn ra ngoài, thấy bóng người sau lưng vụt qua, nấp sau một cây hòe, nhìn quần áo, quả nhiên là Hồ Thanh Ngưu.
Vô Kỵ lạ quá, nghĩ thầm: "Hồ tiên sinh dậy làm gì? Không biết bệnh đậu mùa ông ta đã khỏi chưa?" Thế nhưng xem các đi đứng của Hồ Thanh Ngưu, rõ ràng không muốn cho ai trông thấy, một lúc sau, thấy ông ta đi về phía cái chòi của mẹ con Kỷ Hiểu Phù. Trương Vô Kỵ tim đập thình thịch, tự hỏi: "Ông ta đến làm nhục Kỷ cô cô chăng? Tuy ta không phải là địch thủ của ông ta nhưng việc này không thể không can thiệp". Y lập tức nhảy ra ngoài cửa sổ, rón rén chạy theo Hồ Thanh Ngưu, thấy y lẻn vào căn lều. Cái chòi đó làm vội cho xong, không tường không cửa, chỉ cốt che mưa trú nắng, người ngoài ai vào cũng được.
Trương Vô Kỵ gấp gáp, chạy vội đến phía sau căn lều, nằm phục xuống nhìn vào, thấy mẹ con Kỷ Hiểu Phù ôm nhau say sưa nằm ngủ trên đám cỏ khô, Hồ Thanh Ngưu lấy trong bọc ra một viên thuốc, bỏ vào bát thuốc rồi quay mình đi ra. Chỉ trong nháy mắt, Trương Vô Kỵ cũng nhìn rõ ông ta mặt che tấm vải xanh, không biết bệnh đã đỡ chưa. Y lập tức hiểu ngay, trên lưng đổ mồ hôi lạnh: "Thì ra Hồ tiên sinh nửa đêm ra ngoài lén hạ độc, cho nên những người này bệnh mới không khỏi".
Hồ Thanh Ngưu lại đi vào căn nhà tranh của bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn, rõ ràng cũng đến cho họ uống thuốc độc, đợi một lúc lâu chưa thấy ông ta đi ra, chắc là vì mười bốn người này mỗi người một cách khác nhau nên mất nhiều thì giờ. Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng chạy vào trong cái chòi của Kỷ Hiểu Phù, cầm bát thuốc lên ngửi. Bát thuốc này vốn đựng Bát Tiên Thang, để cho cô ta sáng sớm uống, bây giờ có mùi nồng nặc xông lên mũi. Vừa lúc đó, bên ngoài có tiếng chân nhẹ nhàng đi qua, biết là Hồ Thanh Ngưu đã quay trở về phòng ngủ.
Trương Vô Kỵ bỏ bát thuốc xuống, khẽ gọi:
- Kỷ cô cô, Kỷ cô cô.
Kỷ Hiểu Phù võ công không phải kém, đúng ra tai mắt rất thính, dù có đang ngủ say, chỉ cần một tiếng động nhẹ là tỉnh ngay, nhưng Trương Vô Kỵ gọi đến mấy lần nàng vẫn chưa thức giấc. Trương Vô Kỵ đành giơ tay lay đầu vai, lay đến bảy tám lần, Kỷ Hiểu Phù lúc đó mới mở choàng mắt, kinh hãi hỏi:
- Ai đó?
Trương Vô Kỵ hạ giọng:
- Kỷ cô cô, cháu Vô Kỵ đây. Bát thuốc của cô có người bỏ thuốc độc vào, không nên uống nữa. Cô đem ra đổ xuống suối nhưng làm như không biết, sáng mai cháu sẽ nói rõ cho cô nghe.
Kỷ Hiểu Phù gật đầu. Trương Vô Kỵ ngại Hồ Thanh Ngưu phát giác, về đến phòng mình nhảy cửa sổ vào nhà.
Hôm sau, ăn sáng xong, Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối cùng nhau chạy đuổi bướm trong thung lũng, càng đuổi càng xa. Kỷ Hiểu Phù biết ý, lẽo đẽo theo sau. Mấy hôm nay, Trương Vô Kỵ vẫn thường dẫn Bất Hối đi chơi, nên ai nấy thấy ba người đi cùng chẳng ai để ý. Đi khoảng hơn một dặm, đến một triền núi, Trương Vô Kỵ mới ngồi xuống bãi cỏ. Kỷ Hiểu Phù nói với con:
- Bất nhi, con đừng đuổi bướm nữa, mau đi hái hoa làm ba cái vòng đội đầu cho mỗi người một cái.
Dương Bất Hối thích lắm vội chạy đi hái hoa, bẻ lá.
Trương Vô Kỵ nói:
- Kỷ cô cô, không biết Hồ Thanh Ngưu có gì thù oán với cô mà lại ra tay hạ độc?
Kỷ Hiểu Phù kinh ngạc nói:
- Ta với Hồ tiên sinh không hề biết nhau, cho đến hôm nay cũng chưa gặp ông ta lần nào, làm gì có chuyện "thù oán"?
Nàng trầm ngâm giây lát, nói tiếp:
- Cha ta và sư phụ mỗi khi nói tới Hồ tiên sinh, đều bảo ông ta y thuật như thần, là người thiên hạ đời nay không ai sánh kịp, chỉ tiếc lại ở trong Minh giáo, đi con đường tà. Cha ta và sư phụ cũng không biết ông ta, vậy sao, sao ... ông ta lại hạ độc hại ta nhỉ?
Trương Vô Kỵ liền đem việc Hồ Thanh Ngưu lén bỏ thuốc độc đêm qua thuật lại cho Kỷ Hiểu Phù nghe, rồi nói:
- Cháu ngửi mùi thang thuốc Bát Tiên thấy có cỏ Thiết Tuyến và nấm Thấu Cốt xông lên mũi. Hai vị thuốc này vốn dĩ có thể trị thương nhưng độc tính rất mạnh, cắt thuốc không thể cho nhiều, lại kỵ với những vị trong Bát Tiên Thang, có hại cho cơ thể. Tuy không chí mạng nhưng sẽ làm dây dưa khó chữa.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Ngươi nói cả mười bốn người kia cũng bị như vậy, việc này quả thực kỳ quái. Nếu nói cha ta hay phái Nga Mi vô ý đắc tội với Hồ tiên sinh, không lẽ cả mười bốn người kia cũng như thế?
Trương Vô Kỵ hỏi lại:
- Kỷ cô cô, Hồ Điệp Cốc này thật kín đáo, làm sao mọi người ai cũng biết mà tìm tới đây? Chủ nhân bông hoa vàng đả thương cô là ai? Những việc đó vốn không can hệ gì tới cháu đáng lẽ không nên hỏi nhưng việc trước mắt sao quá nhiều đầu dây mối nhợ, xin cô đừng trách.
Kỷ Hiểu Phù đỏ mặt, hiểu ngay ý Trương Vô Kỵ muốn gì, y ngại chuyện này có liên quan đến việc cô ta chưa chồng sao đã có con, e nói ra xấu hổ, liền nói:
- Cháu cứu tính mạng cô, cô cũng chẳng dấu cháu làm gì? Huống chi cháu đối đãi với cô và em Bất Hối thật tử tế, tuy cháu còn nhỏ tuổi, những nỗi khổ trong lòng, ngoài cháu ra, trên đời này cô chưa nói với một ai khác.
Nói đến đây nàng không cầm được nước mắt. Kỷ Hiểu Phù lấy khăn tay chùi hai giòng lệ nói:
- Khoảng hai năm trước, cô và một vị sư tỉ có chuyện bất hòa nên không dám quay về gặp sư phụ nữa, cũng không dám về nhà ...
Trương Vô Kỵ xen vào:
- Hừ, con mụ Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân quả là tệ hại. Cô cô, cô không việc gì phải sợ y thị cả.
Kỷ Hiểu Phù lạ lùng:
- Ồ, làm sao cháu biết?
Trương Vô Kỵ bèn kể lại chuyện đêm hôm đó vì sao y và Thường Ngộ Xuân ẩn nấp ở trong rừng, thấy cô ta cứu Bành hòa thượng ra sao. Kỷ Hiểu Phù buồn bã thở dài, nói:
- Nếu muốn người ta không biết, chỉ có thể đừng làm[13]. Tai mắt người trên đời, không thể nào che dấu được.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cô cô, Ân lục thúc tuy là một người rất tốt, nhưng nếu cô không thích, không lấy lục thúc thì cũng không có gì quan trọng. Lần tới cháu gặp lục thúc, cháu sẽ nói ông ấy đừng ép uổng cô làm chi.
Kỷ Hiểu Phù thấy Vô Kỵ nói chuyện thật ngây thơ, coi mọi việc trên đời đều nhẹ nhàng như thế, không khỏi gượng cười, ôn tồn nói:
- Hài tử, không phải ta có ý phụ bạc Ân lục thúc đâu, sự tình lúc đó không còn cách nào khác hơn, nhưng ... nhưng về sau ta cũng không có gì phải hối hận ...
Nàng thấy khuôn mặt Vô Kỵ thật là trong sáng, nghĩ thầm: "Tâm địa thằng bé này chẳng khác chi một tờ giấy trắng, những chuyện tình ái nam nữ, chẳng nên nói với nó thì hơn, vả lại chuyện trước mắt không có liên hệ gì đến đó cả". Nàng nói tiếp:
- Ta và Đinh sư tỉ gây gỗ rồi, nên sau đó không về lại núi Nga Mi, dẫn Bất nhi về ẩn cư ở núi Thuấn Canh ở phía tây cách ba trăm dặm. Hai năm qua, ngày ngày chỉ làm bạn với người dân quê, kẻ đốn củi, thật là tiêu dao an lạc. Nửa tháng trước, ta dẫn Bất nhi lên trên chợ mua vải, định may cho con bé vài cái áo mới, thấy trên góc tường vẽ bằng phấn trắng một vòng hào quang giữa có một thanh kiếm nhỏ, nét bút còn mới. Đó là dấu hiệu gọi đồng môn của phái Nga Mi, ta trông thấy không khỏi kinh hoàng. Suy nghĩ một hồi, ta với Đinh sư tỉ tuy bất hòa, nhưng không phải lỗi ở ta, ta cũng không làm chuyện gì khi sư phản môn, hôm nay thấy đồng môn lâm nạn, không thể không đến cứu giúp. Nghĩ thế ta đi theo dấu hiệu chỉ đường, tới Phượng Dương.
Ở trong thành Phượng Dương, ta lại nhìn thấy dấu hiệu, liền dắt Bất nhi đến Lâm Hoài Các tửu lâu, đã có bảy tám nhân sĩ võ lâm chờ sẵn, Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp của phái Không Động, Tiết Công Viễn của phái Hoa Sơn cùng ba sư huynh đệ cũng trong số đó. Thế nhưng không có đồng môn phái Nga Mi.
Ta trước đây đã từng gặp Tiết Công Viễn, Giản Tiệp rồi, hỏi nguyên do thì mọi người đều nhận được tín hiệu của đồng môn, liền tìm đến nơi này phó ước, còn vì chuyện gì thì chẳng ai hay biết.
Hôm đó ta chờ cả ngày, không thấy đồng môn Nga Mi nào cả, nhưng về sau lại kéo đến thêm mấy người, có Thần Quyền Môn, có Cái Bang, ai cũng nói là nhận được ước hiệu kêu gọi của đồng môn. Hôm sau lại có thêm mấy người khác, nhưng cũng chỉ những người nhận tín hiệu chứ không có ai là người đưa tín hiệu cả. Mọi người bàn với nhau xong đều nghi ngờ: Phải chăng cả bọn bị địch nhân đùa rỡn?
Thế nhưng cả mười lăm người tụ tại Lâm Hoài Các tửu lâu, bao gồm cả thảy chín môn phái, mỗi môn phái truyền tín hiệu hoàn toàn khác nhau, lại nghiêm thủ bí mật, ngoài người trong bản môn ra, người khác nhìn thấy không thể biết ý nghĩa thế nào. Nếu quả có địch nhân ở bên trong lén bố trí âm mưu, không lẽ y biết cả mật hiệu của toàn thể chín môn phái? Ta vốn dắt theo Bất nhi ngại gặp hung hiểm, lại cũng không muốn gặp đồng môn, thấy không phải phái Nga Mi cầu cứu liền dắt Bất nhi toan đi về.
Ta vừa xuống tửu lâu, bỗng nghe có tiếng cộc cộc, dường như có ai dùng gậy gõ vào bậc thang, tiếp theo là tiếng ho khúc khắc, thấy một bà lão lưng còng, tóc trắng như bông đi lên. Bà ta cứ đi vài bước lại ho mấy tiếng, thật là khó khăn, bên cạnh là một cô gái chừng mười hai, mười ba đỡ cánh tay trái. Ta thấy bà lão già cả, lại bệnh hoạn, liền đứng tránh qua một bên, nhường cho bà ta lên trước. Cô bé con thần thanh cốt tú, khuôn mặt thật là xinh đẹp. Bà lão tay phải cầm một cây gậy chống bằng gỗ trắng, mặc áo vải, trông như một bà cụ nghèo nàn, nhưng tay trái cầm một chuỗi tràng hạt màu vàng sáng lấp lánh, nhìn kỹ, thì ra chuỗi tràng hạt đó mỗi một hạt niệm châu đều đúc bằng vàng, hình bông hoa mai ...
Trương Vô Kỵ nghe đến đây, nhịn không nổi vội nói chen vào:
- Bà cụ đó chắc là chủ nhân của bông hoa vàng, phải không?
Kỷ Hiểu Phù gật đầu:
- Đúng vậy. Thế nhưng lúc đó có ai nghĩ ra đâu?
Nàng lấy trong bọc ra một bông hoa mai nhỏ đúc bằng vàng, giống y hệt bông hoa mà lúc trước Trương Vô Kỵ đã đem vào cho Hồ Thanh Ngưu xem. Trương Vô Kỵ thấy lạ lùng, mấy hôm nay y vẫn nghĩ "chủ nhân những bông hoa vàng" này phải là một người hung ác dễ sợ, hình dạng ghê gớm, nay nghe Kỷ Hiểu Phù nói, hóa ra chỉ là một bà lão bệnh hoạn, quả thực y không thể nào tưởng tượng nổi.
Kỷ Hiểu Phù nói tiếp:
- Bà cụ đó lên trên lầu rồi lại ho một trận nữa. Cô bé gái nói: "Bà ơi, bà uống thuốc nhé?". Bà lão gật đầu, cô gái móc ra một cái bình sứ, lấy trong bình ra một viên thuốc, bà già nhai trệu trạo xong niệm mấy câu: "A Di Đà Phật, A Di Đà Phật". Đôi mắt già nua hấp háy, nói lẩm bẩm: "Chỉ có mười lăm người, hừ, ngươi hỏi họ thử xem, hai phái Võ Đương và phái Côn Lôn có ai đến không?"
Khi bà ta lên trên lầu không ai để ý, bây giờ nghe nói thế, mấy người tai thính trên chốn giang hồ liền quay đầu lại, thấy bà lão ốm yếu nghèo nàn, ai nấy tưởng mình nghe lầm. Cô bé con lớn tiếng nói: "Này, bà của ta hỏi các ngươi, hai phái Võ Đương và Côn Lôn có ai đến không?". Mọi người ai nấy sững sờ, không ai trả lời. Một lát sau, Giản Tiệp của phái Không Động mới trả lời: "Tiểu cô nương, cô nói gì thế?". Cô bé đó nói: "Bà của ta hỏi: Vì sao không thấy đệ tử hai phái Võ Đương và phái Côn Lôn?". Giản Tiệp hỏi lại: "Hai người là ai?". Bà lão lại gập người ho sù sụ một hồi.
Đột nhiên, một làn tập phong ào tới trước ngực ta. Làn gió đó không biết từ đâu đánh tới, nhưng nhanh lạ thường, ta vội đưa chưởng ra chống đỡ, thấy tức ngực, khí huyết dồn lên, đứng không vững, ngồi phịch xuống sàn, ói ra mấy ngụm máu tươi. Ta còn đang hoang mang chưa biết phải làm gì, thấy bà lão thân hình phiêu động, đông đánh ra một chưởng, tây đấm ra một quyền, thỉnh thoảng vẫn ho vài tiếng, trong nháy mắt đánh ngã tất cả mười bốn người còn lại. Bà ta ra tay thật bất ngờ, thân pháp lại quá nhanh nhẹn, kình lực mạnh mẽ, cả mười lăm người không ai trả lại được một chiêu, nửa thức nào. Người thì bị điểm huyệt, kẻ lại bị nội lực chấn thương tạng phủ. Lão bà bà đó liên tiếp vung tay trái, từng đóa hoa mai trong chuỗi tràng hạt lần lượt phóng ra, cắm vào cánh tay mỗi người. Bà ta quay lại, vịn vào cô gái, nói: "A Di Đà Phật" xong rồi run rẩy đi xuống lầu. Chỉ nghe tiếng gậy của bà ta gõ vào bậc thang cộc cộc chầm chậm, mỗi bước một xa hơn, thỉnh thoảng có tiếng ho khúc khắc truyền đến.
Kỷ Hiểu Phù nói đến đây, Dương Bất Hối đã kết được một cái vòng đội đầu bằng hoa, cười khúc khích chạy đến, nói:
- Mẹ, cái vòng hoa này cho mẹ đội nè.
Nói xong đội lên đầu Kỷ Hiểu Phù. Kỷ Hiểu Phù cười, kể tiếp:
- Lúc đó trên tửu lâu, cả mười lăm người đều nằm gục dưới sàn, có người thì còn rên được mấy tiếng, có người thở hổn hển không ra hơi ...
Dương Bất Hối kinh hãi:
- Mẹ, mẹ nói chuyện bà già ác ôn đấy ư? Đừng nói, đừng nói, con sợ lắm.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Bé ngoan, con chạy đi hái hoa làm cho anh Vô Kỵ một cái vòng nữa.
Dương Bất Hối nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi lại:
- Anh thích hoa màu nào?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Anh thích màu đỏ, ồ, có cả màu trắng nữa, càng to càng tốt.
Dương Bất Hối giang hai tay nói:
- Bây lớn được không?
Trương Vô Kỵ nói:
- Được, cỡ bấy nhiêu đó.
Bất Hối vỗ tay vừa chạy vừa nói:
- Em làm xong anh phải đội đó nghe.
Kỷ Hiểu Phù kể tiếp:
- Trong khi ta đang mê man, thấy khoảng một chục người, toàn là tửu bảo, chưởng quĩ, nấu ăn trong tửu lâu, đi tới khiêng cả bọn xuống nhà bếp. Bất nhi lúc đó sợ quá khóc òa lên, líu ríu theo mẹ. Tên chưởng quĩ tay cầm một tờ giấy, chỉ Giản Tiệp nói: "Bôi thuốc cao vào đầu tên này". Lập tức một tên tửu bảo đem thuốc cao đã dự bị sẵn bôi lên đầu Giản Tiệp. Tên chưởng quĩ lại coi tờ giấy, chỉ một người nói: "Chặt tay bên phải tên này ráp qua tay bên trái". Hai tên đầu bếp lấy hai con dao sắc, theo đúng thế mà làm. Đến lượt ta may quá không bị hình phạt cổ quái nào, chỉ bắt uống một bát thuốc ngòn ngọt. Ta biết là thuốc đó thể nào cũng có chất cực độc, nhưng lúc đó số phận trong tay người, làm sao phản kháng gì được?
Sau khi cả mười lăm người bị họ thi hành những khổ hình quái dị xong, tên chưởng quĩ nói: "Các ngươi người nào cũng bị những chứng bất trị, không ai sống nổi quá mười ngày nửa tháng. Nhưng chủ nhân của bông hoa vàng nói rằng, lão nhân gia với các ngươi không thù không oán, thấy các ngươi thật đáng thương nên mở lòng từ bi chỉ cho một con đường sống. Các ngươi đi đến bờ hồ Nữ Sơn, kiếm Hồ Điệp Cốc khẩn cầu một người xưng là Điệp Cốc Y Tiên tên Hồ Thanh Ngưu chữa trị cho. Nếu như y bằng lòng ra tay, các ngươi mới mong hi vọng sống được, ngoài ra trên đời này không ai cứu nổi các ngươi đâu. Tên Hồ Thanh Ngưu này cũng còn một cái ngoại hiệu Kiến Tử Bất Cứu, các ngươi nếu không hết sức cầu khẩn, y chắc chắn không chịu động thủ. Các ngươi cũng nhắn với Hồ Thanh Ngưu rằng, chủ nhân bông hoa vàng không lâu sẽ đến kiếm y, bảo y nên mau mau chuẩn bị hậu sự là vừa". Y nói xong chỉ rõ lộ trình, cả bọn liền kéo nhau đến đây.
Trương Vô Kỵ càng nghe càng lấy làm lạ, nói:
- Kỷ cô cô, nếu như thế thì tất cả bọn chưởng quĩ, đầu bếp, tửu bảo đều cùng một bọn với bà già ác ôn kia ư?
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Xem ra bọn đó đúng là thủ hạ của bà ta, tên chưởng quĩ cứ theo những điều viết trên tờ giấy của bà già ác ôn mà thi hành những khổ hình. Cho đến hôm nay, ta vẫn chưa minh bạch, tại sao mụ ta lại làm những việc quái dị đó? Nếu như có thù oán với bọn ta, muốn giết tất cả thì chỉ cần giơ tay là xong. Còn như muốn cho cả bọn thêm đau khổ, thì phải hành hạ thêm cách khác chứ sao lại chỉ đường cho đến tìm Hồ tiên sinh xin chữa trị? Lại nói không bao lâu nữa bà ta sẽ đi kiếm Hồ tiên sinh báo thù, không lẽ dùng phải dùng những cách thiên kỳ bách quái kia để thử tài Hồ tiên sinh chăng?
Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, nói:
- Nếu Kim Hoa bà bà muốn kiếm Hồ tiên sinh để gây sự, cứ lý mà nói, Hồ tiên sinh quả muốn chữa khỏi cho mọi người rồi cùng tất cả chung sức chống địch. Chính thế mà miệng ông ta nói không chữa, nhưng vẫn chỉ cho cháu các phương pháp giải cứu, đem áp dụng quả nhiên cực kỳ công hiệu. Nói trắng ra, ông ta ngoài mặt nói không, nhưng bên trong mượn tay cháu cứu người. Có điều là dạy cháu chữa cho mọi người khỏi rồi, nửa đêm lại len lén hạ độc, để cho mọi người sống dở chết dở, thật là kỳ quái.
Hai người bàn tán hồi lâu, không hiểu lý do tại sao. Dương Bất Hối đã làm được một cái vòng hoa thật to, để cho Trương Vô Kỵ đội trên đầu. Trương Vô Kỵ nói:
- Kỷ cô cô, từ rày chỉ khi nào chính cháu mang thuốc đến cô hãy uống, ngoài ra đừng có uống thuốc nào khác. Ban đêm cô nằm nhớ để sẵn binh khí, phòng có người gia hại. Trước mắt xem ra cô chưa đi khỏi đây được, để cháu làm ít thuốc tễ cho cô uống, sau khi không còn nội thương, sẽ tìm cách dẫn Bất Hối muội muội đào tẩu.
Kỷ Hiểu Phù gật đầu, nói:
- Này cháu, nếu gã họ Hồ có bụng khó dò như thế, cháu ở với y không phải là chuyện hay, hay là mình cùng trốn đi là hơn.
Trương Vô Kỵ nói:
- Ồ, ông ta trước nay đối với cháu thật tử tế. Hồi xưa ông ấy có nói rằng, chữa khỏi âm độc trong thân thể cháu xong rồi sẽ ra tay giết cháu. Thế nhưng ông ấy trị không xong, thành thử chẳng cần phải ra tay làm chi. Đúng ra lúc này mình cùng trốn đi, thật là ổn thỏa, thế nhưng trị nội thương cho cô còn mấy điều chưa rõ, cháu phải hỏi lại Hồ tiên sinh mới được.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Ông ta len lén hạ độc hại ta, nếu có dạy cháu phương thuật chữa trị sẽ cố ý nói sai không chừng.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không hẳn thế đâu. Những phương pháp Hồ tiên sinh dạy cháu tất cả đều hiệu nghiệm như thần. Nếu có gì đúng hay sai, cháu đều biện biệt được. Lạ là ở chỗ đó. Cháu nghĩ rằng nếu như chủ nhân bông hoa vàng đến gây chuyện với Hồ tiên sinh, ông ta đang bị bệnh, nhân lúc ông ta gặp khó khăn cháu bỏ đi không đành. Thế nhưng xem ra Hồ tiên sinh giả vờ bị bệnh đấy thôi.
Tối hôm đó, Trương Vô Kỵ không ngủ, đến lúc canh ba, quả nhiên lại nghe thấy tiếng chân Hồ Thanh Ngưu từ trong phòng đi ra, đến cái chòi của Kỷ Hiểu Phù bỏ thuốc độc. Cứ như thế ba ngày liền, Kỷ Hiểu Phù vì không uống thuốc có độc nên bệnh tình thuyên giảm rất nhanh. Còn bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn lại tái phát, bệnh trở qua trở lại, có mấy người tính tình nông nổi đã tỏ giọng oán thán, chê Trương Vô Kỵ y thuật kém cỏi. Trương Vô Kỵ không thèm lý tới, nghĩ thầm chỉ một đêm nữa thôi, sẽ cùng mẹ con Kỷ Hiểu Phù trốn đi thật xa, vì âm độc trong người mình không trừ được, nên cũng chẳng về núi Võ Đương làm gì để thái sư phụ và các sư thúc, sư bá khỏi thêm đau lòng, chi bằng kiếm một nơi thật hoang vắng rồi chết để khỏi ai hay.
Đêm hôm đó khi đi ngủ, Trương Vô Kỵ nghĩ đến sáng sớm mai mình sẽ ra đi, Hồ Thanh Ngưu tuy cổ quái nhưng đối với mình không có gì không phải, nếu không nhờ ông ta chữa bệnh làm sao sống được đến hôm nay? Hơn hai năm qua, lại được ông ta dạy cho biết bao nhiêu là y thuật, nghĩ đến điều đó, khi sắp ra đi thấy buồn man mác, bèn đến trước phòng ông ta, hỏi thăm vài câu. Y tưởng đến việc Kim Hoa bà bà nay mai sẽ đến sinh sự, không biết ông ta chống trả cách nào, lòng không khỏi lo lắng, bèn nói:
- Hồ tiên sinh, ông ở tại Hồ Điệp Cốc này sống cũng đã lâu, bộ không thấy chán sao? Chi bằng đi nơi khác chơi cho đỡ buồn.
Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên nói:
- Ta đang bị bệnh, làm sao đi được?
Trương Vô Kỵ nói:
- Kiếm một cỗ xe thì đi được chứ khó gì. Chỉ cần dùng vải che kín cửa trong cửa ngoài, không để cho gió vào là được. Nếu ông muốn đi ra ngoài, cháu sẽ đi cùng.
Hồ Thanh Ngưu thở dài:
- Hài tử, cám ơn cháu có lòng tốt. Trời đất tuy rộng, nhưng e rằng ở đâu cũng thế thôi. Mấy hôm nay cháu thấy trong ngực thế nào? Ở đan điền hàn khí có xông lên không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Hàn khí mỗi ngày một nặng, không có thuốc gì chữa được cả, thôi cũng đành để tự nhiên tới đâu hay đó.
Hồ Thanh Ngưu im lặng một hồi, nói:
- Để ta cho một cái toa cứu mệnh cho cháu, dùng Đương Qui, Viễn Chí, Sinh Địa, Độc Hoạt, Phòng Phong năm vị, đến canh hai dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn, uống ngay đi.
Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, thấy năm vị đó chẳng liên quan gì với bệnh của mình, dược tính xem ra có chỗ xung đột là khác, dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn thật chẳng thông chút nào, hỏi lại:
- Tiên sinh, những thuốc đó phân lượng ra sao?
Hồ Thanh Ngưu nổi giận:
- Phân lượng càng nhiều càng tốt. Ta đã nói rồi sao không mau mau cút ra đi.
Mấy năm qua, mỗi khi Hồ Thanh Ngưu bàn luận y lý, dược tính với Trương Vô Kỵ đối với y nửa học trò, nửa bạn hữu, luôn luôn có vẻ lễ mạo, lúc này ăn nói chẳng chút lưu tình, Trương Vô Kỵ nghe xong, không khỏi nổi giận bừng bừng quay về phòng ngủ, nghĩ thầm: "Ta có bụng khuyên ông ta đi xa tránh họa, để khỏi bị sỉ nhục, vậy mà lại cho một cái toa láo lếu, tưởng mình không biết hay sao?". Y nằm trên giường, nghĩ đến ngôn ngữ vô lễ của Hồ Thanh Ngưu, đang mơ mơ màng màng định ngủ, bỗng dưng nghĩ ra: "Đương Qui, Viễn Chí ... sao lại phân lượng càng nhiều càng tốt là sao? Hay là ... hay là ông ta muốn nói Đương Qui là "nên đi về đi"?"
Khi nghĩ ra Đương Qui là nên đi về đi, y lại nghĩ tiếp Viễn Chí ắt là "chí ở phương xa, cao bay xa chạy", Sinh Địa và Độc Hoạt thì ý đã rõ ràng đó là sinh lộ, có thể sống được. Còn Phòng Phong thì sao? Ồ, thì là nên "đề phòng tiết lộ phong thanh". Y nghĩ tiếp: "canh hai dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn, uống ngay". Xuyên Sơn Giáp là theo đường núi đào tẩu, đừng theo đường lớn mà đi, canh hai này nên trốn lập tức.
Nghĩ đến đây y thấy cái toa thuốc quái đản của Hồ Thanh Ngưu đã giải được liền nhỏm dậy, nhưng lại nghĩ tiếp: "Hồ tiên sinh biết rằng trước mắt đại họa lâm đầu, nên có lòng tốt bảo mình đi trốn, thế nhưng lúc này địch nhân chưa đến, sao ông ta không nói trắng ra cho mình hay, mà lại dùng mật ngữ như thế? Nếu như ta không nghĩ ra, có phải làm hỏng việc không? Bây giờ canh hai đã qua rồi, mình nên chạy ngay. Y nghĩ thầm ắt Hồ tiên sinh có điều khó nói cần dấu, nên trong những ngày qua không chịu trốn đi, rất có thể bên trong đã an bài cơ quan xảo diệu để đối phó với cường địch rồi. Tuy ông ta nói mình "Phòng Phong, Độc Hoạt", nhưng mẹ con Kỷ cô cô không thể không cứu.
Nghĩ thế y lặng lẽ ra khỏi phòng, đi đến cái chòi tranh của Kỷ Hiểu Phù. Y thấy Kỷ Hiểu Phù nằm trên đám cỏ, nhưng có một người đang cúi xuống đè lên người nàng. Đêm đó có trăng sáng, dưới ánh trăng chiếu vào căn lều, Trương Vô Kỵ thấy người đó mặc áo xanh, đầu đội khăn vuông, vải xanh che mặt, chính là Hồ Thanh Ngưu, trong một chớp mắt bao nhiêu mối nghi ngờ nổi dậy.
Hồ Thanh Ngưu tay trái đè lên mặt Kỷ Hiểu Phù, ép cô ta phải há miệng ra, tay phải cầm một viên thuốc, tính nhét vào mồm nàng. Trương Vô Kỵ thấy tình hình nguy cấp, vội nhảy vào, kêu lên:
- Hồ tiên sinh, ông không thể hại người ...
Người kia kinh hãi quay đầu lại, tay lơi ra, nghe bình một tiếng, lưng đã bị Kỷ Hiểu Phù đánh trúng một chưởng. Thân hình y ngã xuống, chiếc khăn che mặt cũng tung ra một bên. Trương Vô Kỵ vừa nhìn qua, bất giác kinh hãi kêu lên. Thì ra người đó không phải Hồ Thanh Ngưu, mà là một người đàn bà trung niên, mặt hoa da phấn.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Lục phủ ngũ tạng nói về chức năng của các bộ phận chứ không phải chi nói về cơ quan theo nghĩa sinh lý học (xin xem thêm Đông Y và Chân Khí Vận Hành Pháp của dịch giả)
[2] tức là cứu (châm là dùng kim đâm vào huyệt-acupunture, cứu là dùng ngải đốt hơ nóng bên ngoài-moxibustion)
[3] tự thưởng thức cái thơm tho của mình
[4] lạnh, nóng, khô, ẩm ướt, gió
[5] vui, giận, lo, suy nghĩ, sợ hãi
[6] người thầy thuốc giỏi có thể cải tử hoàn sinh
[7] Theo Minh Sử, truyện Thường Ngộ Xuân viết: Thường Ngộ Xuân bị bạo bệnh mà chết năm bốn mươi tuổi.
[8] Theo y thư Trung Quốc, tam tiêu được dùng để hình dung các loại tuyến nội tiết trong cơ thể. Hiện nay y khoa Tây phương cũng chưa hiểu rõ lắm về hoạt động và sự điều hòa của các tuyến nội tiết, là một bộ môn rất khó khăn trong y khoa.
[9] những điều khó biết
[10] thần hộ vệ đức Phật (Sanharama)
[11] mạch sáp là trì trệ, đi không trơn, mạch hoạt là mạch đi nhanh
[12] vỏ sò tán nhuyễn
[13] Nhược yếu nhân bất tri, Trừ phi kỷ mạc vi.
Hồi 13
BẤT HỐI TRỌNG TỬ DU NGÃ TƯỜNG
Chính tà hai ngả duyên thành tội,
Thân đã trao rồi, hạt máu rơi.
Trương Vô Kỵ thấy đó là một người đàn bà, lạ lùng không sao kể xiết, hỏi:
- Bà ... bà là ai?
Người đàn bà đó lưng trúng trọng thủ của phái Nga Mi, đau đến mặt mày tái mét, không nói được. Kỷ Hiểu Phù hỏi:
- Bà là ai? Vì cớ gì mà lại mấy lần đến hại tôi?
Người đàn bà lặng thinh không trả lời. Kỷ Hiểu Phù rút trường kiếm, chỉ vào ngực bà ta. Trương Vô Kỵ nói:
- Để cháu đi xem Hồ tiên sinh coi ông ta ra sao.
Y sợ rằng Hồ Thanh Ngưu đã bị độc thủ của người đàn bà này, nghĩ chắc y thị cũng cùng phe với Kim Hoa ác bà. Y bèn rảo bước đi qua bên ngọa thất của Hồ Thanh Ngưu, đẩy cửa mở toang ra, nghe bình một tiếng, kêu lên:
- Tiên sinh, tiên sinh, ông có sao không?
Y gọi nhưng không nghe tiếng trả lời. Trương Vô Kỵ càng lo, mò trên bàn kiếm được đồ đánh lửa, đốt một ngọn nến lên, trên giường trống trơn, không thấy Hồ Thanh Ngưu đâu cả.
Trương Vô Kỵ e sợ sẽ thấy Hồ Thanh Ngưu đã bị mụ đàn bà kia hạ thủ nằm chết, lúc này nhìn quanh không có ai, lại an tâm, nghĩ thầm: "Nếu địch nhân bắt tiên sinh đi, lúc này chắc chưa bị sát hại". Đang định đuổi theo, bỗng nghe dưới gầm giường có tiếng thở nặng nề, y cúi xuống soi đèn, thấy Hồ Thanh Ngưu chân tay bị trói chặt, nhét dưới đó. Trương Vô Kỵ mừng quá, vội lôi ông ta ra, thấy miệng bị nhét một hạt dẻ lớn, không nói năng gì được.
Trương Vô Kỵ móc hạt dẻ từ trong miệng Hồ Thanh Ngưu ra, tiện tay cởi dây trói chân tay. Hồ Thanh Ngưu vội hỏi:
- Người đàn bà kia đâu?
Trương Vô Kỵ nói:
- Bà ta bị Kỷ cô cô chế ngự rồi, không chạy được đâu. Tiên sinh, ông không bị thương chứ?
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Ngươi không cần phải cởi dây trói cho ta vội, mau mau đem bà ta đến gặp ta, mau mau, chậm một chút e không kịp đâu.
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi lại:
- Sao thế?
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Mau đem bà ta tới đây, ồ không, ngươi mau lấy ba viên Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan cho bà ta uống trước, để ở ô kéo thứ ba, mau lên.
Y luôn mồm thôi thúc, thần sắc thật là gấp gáp. Trương Vô Kỵ biết Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan là linh dược giải độc, Hồ Thanh Ngưu phối chế bằng không biết bao nhiêu dược vật trân kỳ, chỉ cần một viên đã đủ hóa giải kịch độc, lúc này nói cho bà kia uống đến ba viên, không lẽ bà ta bị trúng độc phân lượng nặng lắm sao?
Thế nhưng vẻ mặt Hồ Thanh Ngưu thực lạ lùng, hết sức cấp bách nên không dám hỏi thêm, vội lấy Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan, chạy ra cái chòi của Kỷ Hiểu Phù nói với người đàn bà kia:
- Mau uống ngay.
Người đàn bà mắng lại:
- Cút đi, ai cần lòng tốt của thằng tiểu tặc.
Thì ra bà ta ngửi mùi Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan biết ngay là thuốc giải độc. Trương Vô Kỵ nói:
- Đây là Hồ tiên sinh cho bà uống đó.
Bà kia nói:
- Cút mau, cút mau.
Bà ta bị Kỷ Hiểu Phù đánh ngã rồi, tiếng nói thật yếu ớt. Trương Vô Kỵ không biết rõ ý định của Hồ Thanh Ngưu, đoán rằng khi con nữ tặc này trói chân tay ông ta đã bị ông ta dùng một loại ám khí cực độc đả thương, nhưng lại muốn giữ cho y thị sống để tra hỏi mọi việc, liền bóp mồm bà ta nhét ba viên thuốc vào, nói với Kỷ Hiểu Phù:
- Mình đem mụ này giao lại cho Hồ tiên sinh, để xem ông ta định đoạt ra sao.
Kỷ Hiểu Phù liềm điểm huyệt người đàn bà, cùng Trương Vô Kỵ hai bên mỗi người đỡ một cánh tay, lôi bà ta vào ngọa thất của Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu vẫn còn nằm lăn quay trên mặt đất, vừa thấy người đàn bà kia vào, vội hỏi ngay:
- Uống thuốc chưa?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Uống rồi.
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Tốt lắm, tốt lắm.
Vẻ mặt ông ta tỏ vẻ vui mừng. Trương Vô Kỵ liền cắt dây trói cho Hồ Thanh Ngưu.
Hồ Thanh Ngưu chân tay vừa được tự do, lập tức đến vạch mắt người đàn bà ra xem, xem huyết sắc bên trong mắt, lại thò tay ra xem mạch, kinh hoảng kêu lên:
- Bà ... bà sao lại bị nội thương thế này? Ai đánh bà đó?
Giọng ông ta vừa kinh hoảng, vừa lo lắng. Người đàn bà bĩu môi, hừ một tiếng, nói:
- Thì cứ hỏi tên đồ đệ của ông thì biết.
Hồ Thanh Ngưu quay đầu lại, hỏi Trương Vô Kỵ:
- Có phải ngươi đả thương bà ấy không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Bà ta đang ...
Mới nói đến đây, Hồ Thanh Ngưu liền bốp bốp tát y hai cái liền. Hai chưởng đó thật mạnh mẽ, ngoài liệu định của mọi người, Trương Vô Kỵ hoàn toàn không phòng bị, cũng không né tránh bị ông ta đánh mắt nổ đom đóm, tưởng chừng muốn ngất đi. Kỷ Hiểu Phù liền vung kiếm ra, quát lên:
- Ngươi làm gì thế?
Hồ Thanh Ngưu không thèm để ý tới món binh khí sáng quắc trước mặt, hỏi người đàn bà:
- Bà thấy trong ngực thế nào? Bụng có đau không?
Thái độ ông ta thật ân cần, so với cái phong phạm Kiến Tử Bất Cứu bình thời thật khác xa. Người đàn bà kia vẫn lạnh lùng không thèm để ý. Hồ Thanh Ngưu giải khai huyệt đạo cho người đàn bà, xoa bóp chân tay, lại lấy ra mấy loại thuốc, cẩn thận đút vào miệng, sau đó mới bế bà ta đặt lên giường rồi nhẹ nhàng đắp chăn lên. Hành động ôn nhu trìu mến đó, nào phải là đối phó với địch nhân? Trương Vô Kỵ xoa xoa chỗ sưng vều trên má, càng nhìn càng không hiểu nổi.
Hồ Thanh Ngưu vẻ mặt thương xót, nhìn người đàn bà một hồi, nhỏ nhẹ nói:
- Phen này bà đã trúng độc lại thêm bị thương, nếu như ta có thể trị lành được thì mình từ nay không tỉ thí nữa nhé?
Người đàn bà cười:
- Bị thương nhẹ có đáng gì. Thế nhưng tôi uống thuốc độc gì, làm sao ông biết được? Nếu như ông chữa lành cho tôi được, tôi cảm phục ông lắm. Chỉ sợ rằng bản lãnh của Y Tiên, chưa chắc đã bằng được Độc Tiên đâu?
Nói xong nở một nụ cười, vẻ mặt thật là kiều mị. Trương Vô Kỵ tuy chuyện tình ái trai gái không hiểu rõ lắm, thế nhưng cũng nhìn thấy hai người quả thực yêu nhau thắm thiết. Hồ Thanh Ngưu nói:
- Mười năm trước, ta đã từng nói Y Tiên không thể nào sánh kịp Độc Tiên, bà vẫn không chịu tin. Ôi, thử đâu không thử, lại lấy ngay chính mình ra để tỉ thí. Lần này tôi chỉ mong Y Tiên thắng được Độc Tiên một chuyến. Nói dại nếu có chuyện gì, tôi chẳng muốn sống một mình đâu.
Người đàn bà nhếch mép cười, nói:
- Thế nhưng nếu tôi thử vào người khác, ông lại nhường tôi, làm như tài nghệ không bằng tôi vậy. Hì hì, lần này tôi hạ độc chính mình, ông không thể không hết sức ra tay.
Hồ Thanh Ngưu vuốt tóc bà ta, thở dài nói:
- Tôi thật lo hết sức, thôi bà đừng nói nữa, nhắm mắt lại dưỡng thần đi. Nếu bà ngầm vận khí tự hại mình, như thế tỉ thí không công bình.
Người đàn bà mỉm cười:
- Thắng hay bại phải quang minh lỗi lạc, tôi đâu có phải loại người tệ hại đến thế.
Nói xong bà ta nhắm mắt lại, trên khóe miệng còn nở một nụ cười. Hai người nói chuyện với nhau, Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ chỉ trơ trơ không hiểu. Hồ Thanh Ngưu quay lại, vái Trương Vô Kỵ một cái thật sâu, nói:
- Tiểu huynh đệ, tôi nhất thời hốt hoảng, đắc tội với cậu, xin tha thứ cho.
Trương Vô Kỵ hậm hực nói:
- Cháu chẳng hiểu gì cả, không biết chuyện này là thế nào.
Hồ Thanh Ngưu giơ tay lên, tự vả vào mình hai cái thật mạnh, nói:
- Tiểu huynh đệ, cậu có đại ân cứu mạng cho tôi, chỉ vì nhất thời lo lắng cho chuyết kinh[1], nên đã mạo phạm.
Trương Vô Kỵ lạ lùng:
- Bà ấy ... bà ấy là phu nhân của tiên sinh đấy ư?
Hồ Thanh Ngưu gật đầu đáp:
- Chính thị chuyết kinh. Nếu cậu vẫn còn chưa hả giận, xin cậu cứ tát tôi hai cái nữa, nếu không tôi xin rập đầu tạ tội với cậu. Cậu cứu mạng tôi thì không nói làm gì, nhưng cậu cứu mạng cả vợ tôi nữa.
Bình thời ông ta đoan nghiêm trang trọng, Trương Vô Kỵ đối với ông có đôi phần kính sợ, lúc này thấy ông ta tự đánh mình hai cái, lại thấy thành khẩn tạ tội, đến khi biết ra người đàn bà đó là vợ ông ta, cơn giận của y tiêu tán hết, nói:
- Khấu đầu tạ tội thì đâu dám nhận, tiên sinh đánh tôi hai cái có sá gì đâu. Có điều tôi vẫn chưa rõ mọi chuyện.
Hồ Thanh Ngưu mời Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ ngồi xuống, nói:
- Câu chuyện hôm nay đã đến nước này, ta cũng không còn có thể dấu được nữa. Chuyết kinh họ Vương, khuê danh Nạn Cô, cùng với ta là sư huynh muội đồng môn. Khi hai chúng ta cùng nhau học nghệ ở sư môn, ngoài võ công, ta chuyên về y đạo, còn nàng học độc thuật. Nàng nói người ta sở dĩ học võ, cũng chỉ để giết người, độc thuật cũng dùng để giết người, võ thuật và độc thuật vì thế tương phụ tương thành. Chỉ cần tinh thông độc thuật thì võ công cũng mạnh không bờ bến. Còn y đạo dùng để trị bệnh cứu người, đối với võ thuật lại trái ngược nhau. Ta cũng phục lời nói của chuyết kinh, kiến thức nàng cao gấp mười ta, có điều ta lại thích chữa bệnh, nên cứ u mê theo con đường của mình. Cũng vì ta ngoan cố làm tàng, không chịu nghe lời khuyên nhủ nên phụ cái mỹ ý của nàng.
Sở học tuy bất đồng, tình cảm vẫm tốt đẹp, sư phụ tác thành cho hai người, kết thành vợ chồng, về sau dần dần cũng có chút danh trên giang hồ. Có người gọi ta là Y Tiên, còn gọi chuyết kinh là Độc Tiên. Cách sử dụng chất độc của nàng thần diệu vô cùng, không những trên đời không ai sánh kịp mà lại còn thanh xuất ư lam, hơn xa cả sư phụ ta nữa. Hạ độc mà được chữ Tiên thì quả là siêu phàm, không ai bì được. Thế nhưng ta không suy nghĩ sâu xa, có mấy lần nàng dùng thuốc loại chậm phát tác hạ độc người ta, kẻ trúng độc đến ta cầu xin chữa bệnh, ta lại hồ đồ chữa khỏi. Lúc đó ta lấy làm đắc chí lắm, có biết đâu rằng như thế là một hành vi bất trung bất nghĩa đối với ái thê, thực là bội bạc, có thể gọi là thuộc loại "lòng lang dạ thú" cũng không có gì quá đáng.
Kẻ bị thương dưới tay của Độc Tiên, Y Tiên lại đem chữa khỏi, không khỏi làm phạm cái bản ý của người vợ yêu quí, cũng chẳng phải Y Tiên tài nghệ cao hơn Độc Tiên hay sao?
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ hai người nghe rồi thầm lắc đầu, trong lòng không khỏi bất mãn. Lại nghe Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
- Nàng đối với ta trước nay ôn nhu hòa thuận, nghĩa nặng tình sâu, trong tất cả đàn bà ở thế gian này, không thể nào kiếm ra một người thứ hai như thế. Thế nhưng cái thái độ sính cường hiếu thắng đối với ái thê, lại hết lần này qua lần khác. Nội nhân[2] chỉ có là người bằng đất, mới có thể trơ trơ ra được. Về sau ta biết mình quá sai lầm mới lập trọng thệ, phàm người nào nàng ra tay hạ độc, ta quyết không bao giờ ra tay chữa bệnh. Ngày này tháng khác, cái tên Kiến Tử Bất Cứu mới truyền ra ngoài.
Chuyết kinh thấy ta biết lỗi, xem ra có cơ sửa đổi tính tình, nên mới làm hòa với ta. Thế nhưng chỉ được vài năm, ta lại gặp một bệnh án trúng độc cực kỳ cổ quái. Ta vừa thấy biết ngay trừ chuyết kinh ra, không ai có thể hạ độc như thế cho nên quyết tâm không chữa. Thế nhưng người đó bệnh tình thật là lạ lùng, ta nhịn được vài ngày, sau cùng mất hết sức tự chế, ra tay trị cho y lành.
Chuyết kinh không hề cãi ta nửa lời, chỉ nói: "Được rồi, Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu quả nhiên y đạo thông thần, thế nhưng Độc Tiên Vương Nạn Cô này nhất định không phục, hai người tỉ thí lần nữa, để xem Y Tiên chữa bệnh giỏi, hay Độc Tiên độc thuật ghê gớm hơn?"
Ta hết lời xin lỗi, nhưng nàng nhất định không chịu đấu dịu. Thì ra kỳ này nàng hạ độc, không phải vì có thù oán với ai, chỉ vì mới nghiên cứu tìm ra một loại kỳ diệu, không thuốc nào chữa nổi. Nàng mới đem thuốc đó thí nghiệm vào một người, đâu ngờ ta nhất thời làm phách, không biết đầu đuôi gì cả, chữa khỏi cho người kia. Ta đối với ái thê không một chút nương tình, còn gọi là người sao được?
Trong mấy năm sau đó, nàng càng cố công nghiên cứu độc thuật, kiếm người hạ độc cho ta chữa. Hai người không ngừng tỉ thí tài năng. Một phần cũng vì nàng độc thuật thần diệu, còn y thuật của ta cũng có lúc cùng, một phần ta không muốn để nàng bực tức, cho nên có mấy người chữa không khỏi, đành chịu bó tay. Thế nhưng chuyết kinh lại càng phẫn nộ, bảo rằng ta coi nàng chẳng ra gì, cố ý nhường nhịn, không cùng nàng toàn lực tỉ thí, đùng đùng đi khỏi Hồ Điệp Cốc ta khuyên nhủ cách nào cũng không quay trở lại.
Sau đó ta tuy không dám khinh thị vọng động, nhưng trị bệnh là cái ý thích trời sinh, đam mê đó không cách nào bỏ được, mỗi khi gặp kỳ bệnh quái độc, là phải ra tay chữa. Có biết đâu là những người ta chữa khỏi kia, có người do chính chuyết kinh phục độc, nhưng vì nàng ra tay hết sức xảo diệu không để lộ hình tích nên ta tra xét không ra, lại hồ đồ chữa cho bằng hết. Làm như thế, không khỏi tổn thương tình vợ chồng. Ôi, ta Hồ Thanh Ngưu nên đổi tên thành Hồ Xuẩn Ngưu mới phải. Người như Nạn Cô mà phải chịu hạ mình lấy ta, không biết ta đã tu bao nhiêu kiếp mà có phúc dường ấy, ta lại không lo hầu hạ nàng, thương yêu nàng, cứ để cho nàng phải giận lẫy, đến nỗi nàng phải bỏ nhà ra đi, lang thang nơi chân trời góc biển, chịu biết bao khổ sở phong sương. Huống chi trên chốn giang hồ, nhân tâm hiểm trá, bọn độc ác thật là đông, nàng yếu đuối một mình, làm sao ta yên tâm cho được?
Y nói tới đây, lòng sám hối thành khẩn hiện ra trên nét mặt. Kỷ Hiểu Phù liếc mắt nhìn Vương Nạn Cô nằm trên giường, nghĩ thầm: "Vị Hồ phu nhân này tên là Độc Tiên, trên đời này còn ai dám hạ độc bà ta nữa? Bà ta không hại người, cũng đã là may lắm rồi, ai cũng phải tạ trời tạ đất, chứ ai dám đến hại bà ta? Hồ tiên sinh sợ vợ như sợ cọp, khiến cho ai cũng phải nực cười".
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Vì thế ta lập trọng thệ, nếu không phải người trong Minh giáo thì ta không trị để khỏi vô ý làm hỏng kiệt tác của Nạn Cô. Nên biết vợ chồng ta là người của Minh giáo, huynh đệ tỉ muội trong bản giáo, Nạn Cô không đời nào hạ độc cả.
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, nghĩ thầm: "Thì ra nếu không phải người trong Minh giáo ông ta không chữa chính là vì thế". Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:
- Bảy năm trước, có một đôi vợ chồng già trúng kịch độc, đến Hồ Điệp Cốc nhờ chữa, họ là Kim Hoa bà bà và Ngân Diệp tiên sinh, chủ nhân Linh Xà đảo ngoài Đông Hải. Hai vợ chồng đó đến Hồ Điệp Cốc lễ số thật là chu đáo, nhưng Kim Hoa bà bà không biết vô tình hay cố ý để lộ một chút võ công, ta nhìn thấy, không khỏi sợ run. Ta tuy không dám thẳng thắn cự tuyệt không chữa, nhưng hai người cũng biết, ta đã quay đầu không còn đi theo con đường mê đắm cũ, hối cải tội lỗi rồi, đâu có dám tái phạm. Thành ra sau khi bắt mạch cho hai người đó xong, chỉ nói: "Cứ theo mạch lý của hai vị, lão đảo chủ và lão phu nhân tuy tuổi đã cao, mạch vẫn không khác gì người còn trẻ cả, chắc là vì nội lực trác tuyệt mà ra. Người già mà mạch như còn trẻ, vãn sinh đây là lần đầu mới thấy qua". Kim Hoa bà bà nói: "Tiên sinh cao minh lắm". Ta nói: "Hai vị trúng độc không giống nhau. Lão đảo chủ không thuốc gì chữa được, nhưng cũng còn sống thêm vài năm; còn lão phu nhân trúng độc không nhiều, có thể dùng nội lực bản thân tự hóa giải".
Ta hỏi đến người đã hạ độc thì biết là một người Mông Cổ thủ hạ của một đầu đà câm điếc người Tây Vực, không can hệ gì đến chuyết kinh, nhưng ta đã nói trước trừ đệ tử trong Minh giáo ra, ta không trị cho người ngoài, nên không thể vì hai vợ chồng đó mà phá lệ. Kim Hoa bà bà hứa sẽ báo đáp thật trọng hậu, chỉ xin cứu mạng cho lão đảo chủ thôi. Thế nhưng ta nghĩ tình vợ chồng, nên đành tụ thủ không chữa. Hai ông bà đó cũng không dùng võ lực bức bách, chỉ lặng lẽ bỏ đi. Kim Hoa bà bà lúc ra khỏi có nói một câu: "Ha ha, Minh giáo, Minh giáo, thì ra cũng chỉ lại Minh giáo". Ta biết rằng vì không chịu chữa bệnh, giải độc cho người đã kết biết bao nhiêu là ân oán, tạo ra bao nhiêu kẻ thù. Thế nhưng tình vợ chồng sâu nặng, không thể vì người ngoài mà làm thương tổn cái tình kháng lệ[3], hai người nghĩ có phải không?
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ lặng yên không nói, trong bụng hai người thấy chủ trương Kiến Tử Bất Cứu không có gì là phải lắm. Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:
- Gần đây chuyết kinh ở bên ngoài nghe tin, Ngân Diệp tiên sinh bị chất độc phát tác đã chết, Kim Hoa bà bà đi tìm ta để rửa hận. Chuyện đó không phải chuyện thường, vợ chồng tình nặng nên nàng vội quay về cùng ta tính toán chuyện chống trả. Nàng thấy trong nhà có thêm một người lạ nên đêm đó trước hết bỏ thuốc mê cho Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ bấy giờ mới vỡ lẽ: "Hôm đó ta ngủ tới quá trưa hôm sau mới dậy, thì ra trúng phải mê dược của Hồ phu nhân, vậy mà mình tưởng là sinh bệnh. Vị Độc Tiên này hạ thủ không ai hay biết, quả thực lợi hại vô cùng".
Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
- Ta thấy chuyết kinh đột nhiên trở về, trong lòng vui mừng lắm. Nàng bảo ta giả vờ bị bệnh đậu mùa không gặp người ngoài, hai người chỉ ở trong phòng, cùng suy nghĩ phương cách đối phó với Kim Hoa bà bà. Vị tiền bối này bản lãnh quá cao, có muốn chạy cũng không thể nào chạy được. Mấy ngày sau, Tiết Công Viễn, Giản Tiệp và Kỷ cô nương tất cả mười lăm người lục tục kéo đến.
Ta vừa nghe tình hình bị thương của mỗi người biết là Kim Hoa bà bà có ý muốn thử ta cho biết, xem ta có thực sự giữ lời, ngoại trừ đệ tử Minh giáo, sẽ không chữa cho bất cứ ai ngoại giáo chăng. Mười lăm người là mười lăm kỳ thương quái bệnh, họ Hồ này lại say mê nghề thuốc như tính mạng, chỉ cần thấy một trong những quái thương này, đã không thể nào nhịn nổi mà không ra tay chữa thử xem sao, huống chi là cả mười lăm người? Thế nhưng ta đã rõ tâm ý của Kim Hoa bà bà, chỉ cần ta chữa khỏi cho một người, bà ta sẽ báo cừu trên người ta những hình phạt tàn ác gấp trăm lần như thế, thành thử dù ngứa chân ngứa tay muốn chữa nhưng đành phải làm lơ. Cho đến khi Vô Kỵ đến hỏi cách chữa trị, ta mới nói ra. Nhưng ta cũng nói rõ rằng Vô Kỵ là đệ tử của phái Võ Đương, cùng Hồ Thanh Ngưu này không can hệ gì cả.
Nạn Cô thấy Vô Kỵ theo đúng cách ta chỉ điểm, chữa bệnh thấy linh nghiệm, trong lòng lại phát cáu, tối tối lại lén bỏ thuốc độc vào thuốc men, thực phẩm, tiếp tục việc đua tài cùng với ta. Hơn nữa, nàng cũng có lòng muốn bảo vệ cho ta, vì nếu Vô Kỵ chữa khỏi mười lăm người này, Kim Hoa bà bà sẽ thể nào cũng đổ tội lên đầu Hồ Thanh Ngưu này. Mười lăm người ai ai cũng là võ lâm hảo thủ, nếu nàng đến bên hạ độc lẽ nào họ chẳng phát giác? Thì ra nàng đánh thuốc mê cả bọn trước, sau đó mới tùy từng trường hợp mà thí dụng các loại độc dược khác nhau. Thủ đoạn cao minh đó trước đây chưa ai bằng mà cả sau này e cũng chẳng ai theo kịp.
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, bấy giờ mới hiểu tại sao Trương Vô Kỵ đi đến cái chòi của Kỷ Hiểu Phù phải lay nàng mấy lần mới tỉnh dậy. Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
- Trong mấy ngày liền, bệnh của Kỷ cô nương thuyên giảm thật nhanh, xem ra thuốc độc Nạn Cô sử dụng không hiệu nghiệm. Nàng để ý tra xét, mới hay là Vô Kỵ phát giác ra được bí mật nên định hạ độc luôn cả Vô Kỵ nữa. Ôi, người đời nói núi sông dễ đổi, bản tính khó thay. Ta Hồ Thanh Ngưu đối với ái thê quả thực hết lòng hết dạ vốn dĩ nhất quyết thõng tay không nhúng vào nhưng đêm hôm qua Vô Kỵ lại khuyên ta xuất du để tránh đại họa, lòng ta bỗng cảm động nên mới ra một cái toa thuốc, nói gồm các vị Đương Qui, Sinh Địa, Viễn Chí, Phòng Phong, Độc Hoạt, vì lúc đó Nạn Cô đang ở bên cạnh, không tiện nói rõ ra.
Thế nhưng Nạn Cô thông minh tuyệt đính, lại biết dược tính, nghe cái toa thuốc đó không bình thường, chỉ suy nghĩ là biết ngay mưu tính của ta. Nàng bèn trói ta lại, tự mình lấy ra mấy loại thuốc kịch độc uống, nói:
- Sư ca, hai đứa mình người vợ chồng hơn hai chục năm qua, biển cạn núi mòn tình không thay đổi. Thế nhưng sư ca vẫn coi độc thuật của tiểu muội không ra gì, dù em dùng loại gì, anh cũng cứu được cả. Lần này chính em uống mấy loại kịch độc, nếu anh cứu sống được em, thì em mới thực là phục anh.
Ta sợ hãi hết cả hồn vía, luôn mồm chịu thua, hết lời năn nỉ, nàng bèn nhét vào mồm ta một quả hồ đào khiến ta không nói được nữa. Chuyện về sau thế nào, các người đã biết rồi.
Nói xong ông ta liên tiếp lắc đầu. Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ cùng ngỡ ngàng, không khỏi vừa tức cười vừa bực mình, hai vợ chồng này thật là cổ quái, trên đời ít ai như thế. Hồ Thanh Ngưu đối với vợ yêu quá hóa sợ, cũng chẳng hề gì, Vương Nạn Cô nhất định phải hơn chồng cho bằng được, đến mức không sợ cả hạ độc chính mình. Hồ Thanh Ngưu lại nói:
- Các người nghĩ mà xem, ta còn cách nào bây giờ đây? Kỳ này nếu như ta trị cho nàng khỏi được, như thế có khác gì chứng minh bản lãnh của ta hơn nàng, đời nàng rồi sẽ uất ức không vui. Còn nếu không trị được, ắt nàng sẽ nhất mệnh tây qui rồi. Ôi, chỉ mong Kim Hoa bà bà sớm đến đây, đánh ta một gậy chết đi cho rồi, để Nạn Cô khỏi phải phiền não. Huống chi mấy năm nay bản lãnh hạ độc của nàng đại tiến, ta đến bây giờ cũng không biết nàng đã dùng những loại độc dược gì, làm sao giải cứu, không biết phải bắt đầu từ đâu.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tiên sinh y thuật thông thần, không lẽ sư mẫu[4] dùng những loại độc dược gì cũng chẩn đoán không ra ư?
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Sư mẫu ngươi mấy năm nay sử độc xuất thần nhập hóa, lần này ta không cách gì có thể chữa khỏi cho nàng được cả. Ta đoán rằng có lẽ nàng uống những loại như tam trùng tam thảo, nhưng sáu loại chất độc đó phối hợp thế nào, ta vẫn không hiểu được.
Một mặt nói, một mặt ông ta giơ ngón tay trỏ bàn tay phải ra viết một cái toa thuốc trên bàn, rồi xua tay nói:
- Thôi hai người ra đi, nếu như Nạn Cô chết đi, ta cũng không sống một mình cho đành.
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ cùng đáp:
- Vậy xin tiên sinh bảo trọng và cố gắng khuyên sư mẫu.
Hồ Thanh Ngưu hỏi:
- Khuyên bà ấy cái gì bây giờ? Mọi chuyện đều do ta cả, thật đáng chết.
Nói đến đây thanh âm trở nên nghẹn ngào. Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ liền ra ngoài. Hồ Thanh Ngưu xoay tay lại điểm các huyệt đạo ở lưng và ở ngang hông bà vợ, nói:
- Sư muội, chồng em không đủ tài, không thể nào trị được chất độc tam trùng tam thảo, chỉ còn cách theo nhau đi xuống địa phủ, thành vợ chồng nơi suối vàng.
Nói xong ông móc trong bọc của Vương Nạn Cô, lấy ra mấy bọc thuốc bột, quả nhiên không ngoài dự tính, là ba loại độc trùng và ba loại độc thảo phơi khô tán ra chế thành. Vương Nạn Cô không thể cử động, nhưng miệng vẫn còn nói được, kêu lên:
- Sư ca, chàng không thể uống thuốc độc được đâu.
Hồ Thanh Ngưu không thèm để ý tới, đổ luôn gói thuốc ngũ sắc lóng lánh đó vào mồm, dùng nước bọt uống luôn xuống ruột. Vương Nạn Cô hãi hùng thất sắc, lắp bắp:
- Sao anh uống nhiều thế? Bấy nhiêu thuốc độc, đến ba người cũng chết.
Hồ Thanh Ngưu cười buồn, ngồi xuống cái ghế trên đầu giường Vương Nạn Cô, chỉ trong giây lát đã thấy trong bụng như có trăm ngàn con dao đâm chém. Y biết là Đoạn Trường Thảo phát tác đầu tiên, qua một lát nữa, năm loại độc tính của năm độc vật kế tiếp có hiệu lực theo. Vương Nạn Cô cuống quít:
- Sư ca, sáu loại độc vật của em có cách giải đó.
Hồ Thanh Ngưu đau đến toàn thân run rẩy, hai hàm răng đánh vào nhau lách cách, lắc đầu:
- Ta ... ta không tin ... ta ... ta chỉ muốn chết thôi.
Vương Nạn Cô kêu lên:
- Mau mau uống Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan và Ngọc Long Tô Hợp Tán, sau đó châm cứu để lấy chất độc ra.
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Làm thế có ích gì đâu?
Vương Nạn Cô vội nói:
- Em uống thuốc độc phân lượng rất ít, anh uống nhiều quá, mau mau cứu chữa kẻo không kịp mất.
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Anh toàn tâm toàn ý yêu thương em, nhưng em lại cứ muốn cùng anh tranh cường đấu thắng, anh thấy sống trên đời này cũng chẳng có ý vị gì, thà chết sướng hơn, kẻo lại ... ối chao ôi ... chao ôi ...
Mấy tiếng rên rỉ đó không phải giả nữa mà lúc này nọc độc của rắn hổ và nhện đã tấn công vào tim phổi, Hồ Thanh Ngưu thần trí từ từ hôn mê, sau cùng bất tỉnh nhân sự. Vương Nạn Cô lớn tiếng khóc lóc:
- Sư ca, sư ca, cũng đều tại em cả, anh đừng chết ... em sẽ không bao giờ còn tỉ thí với anh nữa.
Hai vợ chồng mấy chục năm nay lúc nào cũng tranh giành hơn thua, nhưng thực ra tình sâu nghĩa nặng. Vương Nạn Cô chính mình không sợ chết, lúc trượng phu uống thuốc độc tự tử, thì lại kinh hoảng đau thương, nhưng huyệt đạo bị điểm, không có cách nào ra tay cứu được.
Trương Vô Kỵ nghe tiếng Vương Nạn Cô kêu khóc, chạy vào trong phòng, hỏi dồn:
- Sư mẫu, làm cách nào cứu sư phụ bây giờ đây?
Vương Nạn Cô thấy y chạy vào, thật đúng là gặp được cứu tinh, vội nói:
- Mau mau cho ông ấy uống Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan và Ngọc Long Tô Hợp Tán, dùng kim châm các huyệt Dũng Tuyền, Cưu Vĩ ...
Ngay lúc đó, từ ngoài cổng đột nhiên truyền vào mấy tiếng ho, trong đêm tối nghe rõ mồn một. Kỷ Hiểu Phù chạy vụt vào phòng, mặt trắng bệnh, nói lắp bắp:
- Kim Hoa bà bà ... Kim Hoa ...
Hai chữ bà bà chưa nói dứt, cánh cửa không có gió mà tự động mở ra, một bà già lưng còng dắt một cô gái tuổi chừng mười hai mười ba, đã ở trong nhà từ lúc nào, chính là Kim Hoa bà bà.
Kim Hoa bà bà thấy Hồ Thanh Ngưu hai tay ôm bụng, mặt đem sạm, hơi thở yếu ớt, sắp chết đến nơi, không khỏi kinh ngạc, hỏi:
- Y làm sao thế?
Người ngoài chưa kịp trả lời, Hồ Thanh Ngưu bỗng duỗi chân một cái, chết rồi. Vương Nạn Cô khóc òa lên:
- Sao anh phải tự làm khổ mình đến thế, uống thuốc độc chết mất rồi.
Lần này Kim Hoa bà bà từ đảo Linh Xà trở lại Trung Nguyên, ngoài việc đi tìm kẻ thù đã làm chồng bà ta chết, cũng còn đi kiếm Hồ Thanh Ngưu để trả oán, nào ngờ bà ta vừa đến nơi, chính lúc Hồ Thanh Ngưu đã uống thuốc độc. Bà ta cũng là một đại hành gia về thuốc độc nên vừa nhìn sắc mặt Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô đã biết ngay họ trúng độc rất nặng, không có thuốc gì chữa được. Bà ta lại tưởng Hồ Thanh Ngưu vì sợ mình nên phục độc tự tận, cái mối đại cừu coi như đã trả xong, thở dài một tiếng, nói:
- Tác nghiệt, tác nghiệt.
Dắt tay cô bé đi ra khỏi phòng. Bà ta vừa ra khỏi căn nhà tranh, tiếng ho khúc khắc đã từ hơn một chục trượng vọng lại, thân pháp nhanh đến thế, không ai có thể ngờ nổi.
Trương Vô Kỵ giơ tay sờ vào tâm khẩu Hồ Thanh Ngưu, thấy tim vẫn còn thoi thóp đập, vội vàng lấy Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan và Ngọc Long Tô Hợp Tán cho ông ta uống, lại dùng kim châm các huyệt Dũng Tuyền, Cưu Vĩ ... để lấy chất độc ra, sau đó cũng dùng phương pháp đó trị cho Vương Nạn Cô.
Khoảng hơn nửa giờ sau, Hồ Thanh Ngưu từ từ tỉnh lại. Vương Nạn Cô mừng quá nước mắt ròng ròng, luôn mồm kêu lên:
- Tiểu huynh đệ, toàn do cậu cứu mạng chúng tôi.
Nói xong liền viết một cái toa thuốc, sai tiểu đồng đem sắc để trừ độc trong cơ thể hai người. Phương pháp giải độc của Vương Nạn Cô thực ra không lấy gì làm cao minh cho lắm, theo đúng phương pháp của bà ta không thể nào loại được hết chất độc trong người ra. Trương Vô Kỵ theo phương thuốc mà Hồ Thanh Ngưu trước đây đã viết trên bàn, thay đổi các vị thuốc, Vương Nạn Cô tuyệt nhiên không biết. Vô Kỵ nói:
- Mụ Kim Hoa bà bà nghĩ rằng Hồ tiên sinh uống thuốc độc chết rồi, cũng đỡ được một mối lo tâm phúc.
Y thấy Kim Hoa bà bà thoắt cái đã đến, thoắt cái lại đi, hình như quỉ mị, lúc này nghĩ lại không khỏi lạnh người. Vương Nạn Cô nói:
- Nghe người ta nói, Kim Hoa bà bà hành sự hết sức kỹ càng, hôm nay tuy bà ta đi rồi, nhưng mai sau thể nào cũng quay lại tra xét. Vợ chồng ta phải đi trốn ngay. Tiểu huynh đệ, xin cậu làm giùm hai cái mộ phần, trên bia đề rõ tên tuổi vợ chồng chúng tôi.
Trương Vô Kỵ vâng lời. Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô uống thuốc giải độc rồi, lập tức thu thập hành trang. Hai tên dược đồng mỗi đứa được mười lạng bạc, bảo tự tìm đường về nhà. Hai vợ chồng ngồi một chiếc xe, nhân trời tối đi ngay.
Trương Vô Kỵ tiễn đưa ra tới cửa thung lũng, một già một trẻ hơn hai năm qua sớm tối có nhau, nay phải chia tay, đều cảm thấy quyến luyến không muốn rời. Hồ Thanh Ngưu lấy ra một bộ y thư viết tay, nói:
- Vô Kỵ, tất cả sở học một đời của ta, đều viết hết trong bộ sách này, trước đây ta vẫn giữ bí mật, không cho ai xem, nay cho ngươi đó. Âm độc của Huyền Minh thần chưởng trong người ngươi thật là khó trừ, ta thực không biết phải làm sao, chỉ mong ngươi tham cứu bộ y thư này, tìm ra được phương pháp khu trừ hàn độc, sau này mình ắt sẽ còn dịp gặp lại nhau.
Trương Vô Kỵ tạ ơn nhận lấy. Vương Nạn Cô nói:
- Cậu cứu mạng vợ chồng tôi, lại làm cho chúng tôi hòa hợp trở lại, tôi mong mang hết công phu một đời truyền cho cậu. Thế nhưng cả đời tôi chỉ nghiên cứu việc hạ độc thương nhân, cậu có học cũng không dùng được. Chỉ mong cậu sớm bình phục, sau này tôi sẽ tìm dịp báo đáp.
Trương Vô Kỵ nhìn theo đến khi chiếc xe không còn hình bóng nữa mới quay trở lại căn nhà tranh. Sáng sớm hôm sau y đắp hai cái mộ bên cạnh nhà, lại đi ra khỏi thung lũng kiếm thợ đục hai tấm bia đá, một tấm đề "Điệp Cốc Y Tiên Hồ tiên sinh Thanh Ngưu chi mộ", một tấm đề "Hồ phu nhân Vương thị chi mộ". Bọn Giản Tiệp thấy vợ chồng Hồ Thanh Ngưu cùng chết cả, mới hay việc y bị bệnh nặng không phải để đánh lừa người, đều rất thương tiếc.
Vương Nạn Cô đi rồi, không còn ai ám trung hạ độc, Trương Vô Kỵ trị bệnh cho mọi người mỗi ngày một đỡ, chỉ mươi hôm trước sau cảm tạ ra đi. Mẹ con Kỷ Hiểu Phù không biết đi đâu, nên ở lại thêm ít ngày nữa.
Trong mấy ngày đó, Trương Vô Kỵ chăm chú đọc bộ y thư Hồ Thanh Ngưu sáng tác, thấy quả nhiên bên trong bác đại tinh thâm, tinh vi áo diệu, không hổ cái tên Y Tiên. Y chỉ đọc tám chín ngày, y thuật đã đại tiến, thế nhưng làm sao để khu trừ âm độc trong cơ thể, y vẫn chưa tìm ra đầu mối. Y lật qua lật lại đọc kỹ mấy lần, sau cùng không còn hi vọng gì, nghĩ thầm: "Hồ tiên sinh nếu biết cách trị thương cho ta, thì ắt đã làm rồi? Còn nếu ông ta không biết, thì dĩ nhiên trong sách làm sao có chép được". Nghĩ đến như thế, bao nhiêu hi vọng đều tiêu tan.
Y gập sách lại, đi ra ngoài nhìn hai cái mộ giả, nghĩ thầm: "Không đến một năm nữa, ta cũng sẽ ngủ một giấc nghìn thu dưới lòng đất rồi. Bia trên mộ ta không biết sẽ viết những gì?". Y còn đang suy nghĩ xuất thần, bỗng nghe từ sau lưng có mấy tiếng ho, Trương Vô Kỵ giật mình quay lại, thấy Kim Hoa bà bà vịn vai cô bé mặt mày xinh đẹp, đang lẩy bẩy đứng cách y chừng vài trượng.
Kim Hoa bà bà hỏi:
- Này bé con, ngươi là gì của Hồ Thanh Ngưu? Sao lại đứng nơi đây rầu rĩ?
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi bị trúng âm độc của Huyền Minh thần chưởng ...
Kim Hoa bà bà đi lại, giơ tay nắm cổ tay y xem mạch, lạ lùng hỏi:
- Huyền Minh thần chưởng? Trên đời này quả có môn công phu đó hay sao? Ai đánh ngươi thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Người đó ăn mặc như quan quân Mông Cổ, nhưng không biết thực sự là ai. Tôi đến Hồ tiên sinh để chữa bệnh, nhưng ông ấy nói tôi không phải là người trong Minh giáo, nên không chịu chữa. Bây giờ ông ấy uống thuốc độc chết rồi, bệnh của tôi sẽ không thể nào khỏi được nữa, nghĩ đến chuyện đó thấy đau lòng.
Kim Hoa bà bà thấy Vô Kỵ anh tuấn, nho nhã dễ làm cho người ta cảm mến, nay bị căn bệnh bất trị, nên than thở:
- Tiếc quá, tiếc quá.
Trương Vô Kỵ trong đầu bỗng dưng nổi lên ba câu nói: "Sinh tử tu đoản, khởi năng cưỡng cầu? Dư ố hồ tri duyệt sinh chi phi cảm gia? Dư ố hồ tri ố tử chi phi nhược táng nhi bất tri qui giả gia? Dư ố tri phù tử giả bất hối kỳ thủy chi kỳ sinh hồ" Ba câu đó từ sách của Trang Tử. Trương Tam Phong sùng tín Đạo giáo, bảy người đệ tử của ông tuy không phải là đạo sĩ, nhưng cuốn bảo điển của họ là Nam Hoa Kinh của Trang Tử, ai ai cũng đều thuộc lòng. Trương Vô Kỵ khi còn ở trên Băng Hỏa đảo, lúc năm tuổi Trương Thúy Sơn dạy y tập đọc tập viết, vì không có sách vở gì, chỉ vạch đất thành chữ dạy con, nên đem sách Trang Tử dạy cho y. Mấy câu đó ý tứ như sau: "Con người đời sống ngắn dài, không thể miễn cưỡng được. Nếu biết như thế thì người đời tham sống chẳng phải là u mê không tỉnh hay sao? Nếu biết như thế thì người đời sợ chết có khác gì tuổi trẻ lưu lạc nên quên cả đường về hay sao? Nếu biết như thế thì người chết đi có khi lại hối hận là trước đây đã từng mong sống hay sao?"
Ý tứ nguyên thủy của Trang Tử khi diễn giải ra là sống chưa chắc đã sướng mà chết cũng chưa chắc đã khổ, sống chết thực ra không khác gì nhau bao nhiêu. Con người ta khi còn sống, chẳng qua cũng chỉ là "một giấc mộng lớn" mà thôi, nên khi chết đi chính là "tỉnh mộng", không chừng sau khi chết, lại thấy rằng trước đây mình ham sống thật là ngu xuẩn, sao không chết sớm? Cũng chẳng khác gì sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng, đau thương, tỉnh lại, cảm thấy giấc mộng vừa qua thật là dài.
Trương Vô Kỵ tuổi còn nhỏ, vốn không hiểu được cái đạo lý của hai chữ sinh tử, nhưng trong bốn năm qua, ngày ngày sống trong cái ranh giới giữa sống và chết nên vì thế thấu hiểu cái hàm nghĩa của Trang Tử. Trước đây y không tin những lời của Trang Tử, nhưng nay những ngày sống trên thế gian này chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay, nên cũng mong được sau khi chết đi sẽ lạc vào kỳ cảnh, và hối hận rằng trước đây mình đã tham sống.
Lúc này y nghe Kim Hoa bà bà luôn mồm nói "Tiếc quá, tiếc quá", nên mỉm cười, thuận miệng nói ra ba câu của Trang Tử. Kim Hoa bà bà hỏi lại:
- Ngươi nói thế là ý làm sao?
Trương Vô Kỵ giải thích xong, Kim Hoa bà bà bỗng dưng ngơ ngẩn. Bà ta nghĩ đến người chồng đã quá cố, thế nhưng tình vợ chồng mấy mươi năm, ân ái vô ngần, bỗng dưng âm dương đôi ngả, không còn bao giờ thấy lại được nhau, nhưng cũng chẳng khác gì người đi chơi xa, nay chết đi tức là quay trở về nhà. Nếu thế thì khi chồng bà ta bị cừu nhân hạ độc, Hồ Thanh Ngưu không chịu chữa trị, cũng chưa hẳn là xấu. "Quê cũ, quê cũ ư? Liệu rằng trở về quê cũ, có tốt lành hơn ở phương xa chăng?"
Cô bé ở bên cạnh Kim Hoa bà bà hoàn toàn chẳng hiểu mấy câu của Trương Vô Kỵ có ý nghĩa gì, chẳng hiểu sao bà bà vừa nghe xong, lại như ngây như dại. Cô giương đôi mắt xinh đẹp nhìn bà bà, rồi lại nhìn Trương Vô Kỵ, hết nhìn người nọ lại nhìn người kia.
Sau cùng Kim Hoa bà bà thở dài, nói:
- Chuyện ở cõi u minh, quả thực hết sức mơ hồ. Tuy chết không hẳn đã đáng sợ, vì đã là người có ai khỏi chết, làm sao tránh khỏi cái ngày đó được. Thế nhưng sống thêm được ngày nào thì hay ngày đó vậy thôi.
Trương Vô Kỵ thấy cả bọn Kỷ Hiểu Phù mười lăm người bị Kim Hoa bà bà đả thương thật là tàn nhẫn, lại thấy vợ chồng Hồ Thanh Ngưu sợ bà ta đến nỗi không còn cả cái can đảm đào tẩu nữa, nghĩ chắc Kim Hoa bà bà phải là người hung tàn vô hạn, thế nhưng khi gặp mặt rồi thì lại hoàn toàn khác hẳn. Hôm đó dưới ánh đèn gặp qua một lần, y nhìn chưa được rõ, hôm nay gặp đây thấy chỉ là một bà lão hiền hậu dễ mến, tuy các bắp thịt trên mặt dường như chai cứng, lại đầy vết nhăn như da gà, không lộ ra vẻ buồn vui giận ghét, nhưng ánh mắt trong vắt sáng ngời, linh hoạt chẳng khác gì một cô gái còn xuân, lộ rõ vẻ ôn hòa thân thiết.
Kim Hoa bà bà lại hỏi:
- Này bé con, thế cha cháu tên gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cha cháu họ Trương, tên là Thúy Sơn, là đệ tử của phái Võ Đương.
Tuy nhiên y không đề cập đến chuyện cha y tự vẫn chết. Kim Hoa bà bà hết sức lạ lùng, nói:
- Thế ra ngươi là con trai của Trương ngũ hiệp phái Võ Đương, như thế có phải tên ác nhân dùng Huyền Minh thần chưởng đả thương ngươi chỉ vì muốn bức bách ngươi thổ lộ nơi chốn của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn và thanh đao Đồ Long chăng?
Trương Vô Kỵ nói:
- Đúng thế, y dùng đủ mọi loại độc hình nhưng cháu thà chết chứ không chịu nói.
Kim Hoa bà bà hỏi lại:
- Thế cháu có thực là biết hay không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ồ, Kim Mao Sư Vương là nghĩa phụ của cháu, cháu nhất định không thể nào thổ lộ được.
Kim Hoa bà bà giơ tay trái ra, nắm ngay lấy hai tay Vô Kỵ. Chỉ thấy xương kêu lách cách, Trương Vô Kỵ thấy đau đến gần như bất tỉnh, lại thấy một luồng hàn khí thấu xương, từ hai tay truyền vào trong ngực, khí lạnh đó khác hẳn Huyền Minh thần chưởng, nhưng cũng đau đớn khó chịu chẳng kém gì. Kim Hoa bà bà dịu dàng nói:
- Bé con ngoan, ngươi mau nói chỗ ở của Tạ Tốn cho ta nghe, bà bà sẽ chữa khỏi âm độc cho ngươi, lại tuyền cho ngươi công phu thiên hạ vô địch.
Trương Vô Kỵ đau đến nước mắt chảy ròng ròng, nhưng vẫn hiên ngang đáp:
- Cha mẹ tôi thà phải hi sinh tính mạng chứ không chịu tiết lộ hành tàng của bạn bè. Kim Hoa bà bà, bà tưởng tôi là kẻ bán rẻ cha mẹ hay sao?
Kim Hoa bà bà mỉm cười:
- Được lắm, được lắm. Cha ngươi đâu, y có ở đây không?
Bà ta ngấm ngầm vận nội công, bàn tay nắm cổ tay y tựa như một cái vòng sắt hẹp lại vài phân. Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:
- Sao bà không đổ thủy ngân vào tai tôi? Sao không bắt tôi nuốt kim vào bụng? Ăn đỉa sống? Bốn năm trước, khi tôi chỉ mới là một đứa bé, cũng đã không sợ ác hình của tên khốn kiếp kia, nay đã lớn rồi, không lẽ lại không bằng ngày xưa?
Kim Hoa bà bà cười ha hả, nói:
- - Thì ra ngươi đã thành người lớn rồi đấy, không còn là đứa bé con nữa, ha ha, ha ha ...
Bà ta cười mấy tiếng, thả tay Vô Kỵ ra, cổ tay cho chí ngón tay tất cả đều tím bầm. Cô bé gái liếc y một cái, nói:
- Mau tạ ơn bà bà tha mạng đi.
Trương Vô Kỵ hứ một tiếng, nói:
- Bà ta giết ta đi xem chừng còn sướng hơn, có gì mà phải tạ ơn?
Cô gái nhíu mày, nói dỗi :
- Người gì mà không chịu nghe lời, ta không thèm lý tới ngươi nữa.
Nói xong cô quay ngoắt đi, nhưng mắt vẫn len lén liếc xem y làm trò gì. Kim Hoa bà bà mỉm cười nói:
- A Ly, con sống một thân một mình trên đảo, không có ai chơi đùa, cô đơn lắm. Thôi mình bắt thằng nhỏ này đem về, bắt nó hầu hạ con, có thích không? Chỉ có điều thằng này cứng đầu, bướng bỉnh lắm, không chịu nghe lời.
Cô bé nhướng lông mày, vỗ tay nhoẻn miệng cười, đáp:
- Thế thì hay lắm, thôi mình bắt nó đi. Nếu nó không nghe lời, bộ bà bà không có cách trị nó hay sao?
Trương Vô Kỵ nghe hai người một hỏi một đáp, trong dạ bồn chồn. Nếu như Kim Hoa bà bà giết y ngay tại đây thì cũng đành lòng, còn nếu họ bắt lên trên cái đảo quái quỉ gì đó, sống chẳng sống, chết chẳng chết, lây lất để cho hai người hành hạ, xem ra còn khốn khổ hơn nhiều.
Kim Hoa bà bà gật đầu, nói:
- Ngươi đi theo ta, mình trước hết đi tìm một người, làm một việc, xong rồi sẽ trở về Linh Xà đảo.
Trương Vô Kỵ giận dữ nói:
- Các người không phải tử tế, ta nhất định không đi theo.
Kim Hoa bà bà mỉm cười nói:
- Trên đảo Linh Xà của bọn ta cái gì cũng có cả, ăn chơi những thứ ngươi chưa từng thấy bao giờ. Bé con ngoan, theo bà bà đi.
Trương Vô Kỵ đột nhiên quay mình, co giò chạy. Nào ngờ, chỉ mới một bước, Kim Hoa bà bà đã chặn ngay trước mặt y. Trương Vô Kỵ nghiêng người, xoay qua chạy về hướng tả, nhưng cũng chỉ một bước, Kim Hoa bà bà cũng lại ở trước mặt y rồi, nhỏ nhẹ nói:
- Này con, con chạy không được đâu, ngoan ngoãn theo ta đi nào.
Trương Vô Kỵ nghiến răng, nhắm ngay bà ta đánh ra một chưởng. Kim Hoa bà bà hơi né mình, nhắm ngay bàn tay y ghé mồm thổi một cái. Bàn tay Trương Vô Kỵ vốn đã bị bà ta nắm khiến máu đọng lại sưng vù, nay lại thêm một làn hơi thổi đến, chẳng khác gì dùng dao ngoáy vào một vết thương, đau đến phải nhảy dựng lên.
Bỗng nghe tiếng một bé gái cất lên:
- Vô Kỵ ca ca, anh chơi đùa ở đâu đó? Em tới đây nè.
Chính là Dương Bất Hối chạy đến, rồi Kỷ Hiểu Phù cũng từ trong lùm cây bước ra. Hai mẹ con mới đi chơi ở ngoài đồng về, bỗng thấy Kim Hoa bà bà, mặt Kỷ Hiểu Phù lập tức trắng bệch, nhưng cố thu hết can đảm, run run nói:
- Bà bà, bà không nên làm khó trẻ con.
Kim Hoa bà bà trừng mắt nhìn Kỷ Hiểu Phù, lạnh lùng nói:
- Ngươi chưa chết à? Chuyện của lão thái bà, ai cho ngươi chõ miệng vào? Ra đây cho ta xem, sao đến hôm nay vẫn còn chưa chết?
Kỷ Hiểu Phù xuất thân danh gia võ học, lại là cao đồ của một danh môn, đúng ra rất có đảm lược, nhưng lúc này vì lo cho con, không dám khinh thị mạo hiểm, liền nắm tay Bất Hối lùi lại một bước, hạ giọng nói:
- Vô Kỵ, cháu qua đây.
Trương Vô Kỵ co chân định đi, cô bé A Ly kia liền lật tay chộp ngay Tam Dương Lạc trên cánh tay y, nói:
- Đứng lại đây. Ngươi tên Vô Kỵ, họ Trương, vậy là Trương Vô Kỵ, phải không nào?
Tam Dương Lạc đã bị nắm, Trương Vô Kỵ lập tức nửa thân trên tê dại, không thể cử động được, trong bụng vừa sợ vừa tức, kêu to:
- Mau thả ta ra!
Bỗng nghe một tiếng đàn bà trong trẻo nói:
- Hiểu Phù, sao con lại nhút nhát thế? Đi ra thì đi ra chứ có sao.
Kỷ Hiểu Phù vừa mừng vừa sợ, quay đầu lại kêu lên:
- Sư phụ.
Thế nhưng đằng sau nào thấy ai, cố gắng nhìn kỹ, mới thấy ở đằng xa một ni cô mặc áo bào màu tro từ từ đi tới, chính là Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi. Đằng sau bà ta có hai đệ tử đi theo, một người là sư tỉ Đinh Mẫn Quân, còn người kia là sư muội Bối Cẩm Nghi.
Kim Hoa bà bà thấy bà ta còn xa đến thế, mặt mũi chưa nhìn rõ, thế nhưng thanh âm truyền vào tai rõ ràng như chỉ đứng cách chừng một thước, nội lực quả là thâm hậu. Tên tuổi của Diệt Tuyệt sư thái vang dậy đã lâu, trong võ lâm không ai không biết, có điều bà rất ít khi hạ sơn, không mấy người từng gặp được. Khi đến gần mới thấy bà ta chừng bốn mươi nhăm tuổi, mặt mày đúng ra rất đẹp, có điều hai hàng lông mày lại xiên xiên đổ xuống, khiến khuôn mặt biến thành kỳ bí, hơi giống kẻ đóng vai quỉ mị trong các vở tuồng.
Kỷ Hiểu Phù tiến lên quì xuống khấu đầu, nói khẽ:
- Sư phụ, lão nhân gia mạnh khỏe.
Diệt Tuyệt sư thái đáp:
- Nếu chẳng vì giận ngươi đến chết thì cũng khỏe.
Kỷ Hiểu Phù quì đó không dám đứng dậy, nghe thấy Đinh Mẫn Quân đứng phía sau sư phụ cười nhạt một tiếng, biết là vị sư tỉ này nói xấu nàng rất nhiều, lưng không khỏi toát mồ hôi lạnh. Diệt Tuyệt sư thái thản nhiên nói:
- Vị bà bà này bảo người đi đến cho bà ta coi, tại sao đến hôm nay vẫn chưa chết, sao ngươi không lại xem bà ta làm gì nào.
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Vâng.
Nàng đứng lên mạnh mẽ đi đến trước mặt Kim Hoa bà bà, lớn tiếng nói:
- Kim Hoa bà bà, sư phụ của tôi đã đến rồi. Những chuyện cường hung bá đạo của bà, sư phụ tôi sẽ thanh toán cho tôi đó.
Kim Hoa bà bà ho vài tiếng, ngước mắt nhìn Diệt Tuyệt sư thái, gật đầu, hỏi:
- Ồ, hóa ra bà là chưởng môn phái Nga Mi, ta đánh đệ tử của bà, bà làm gì ta?
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:
- Đánh càng tốt. Bà thích đánh thì cứ đánh, đánh chết cũng không sao.
Kỷ Hiểu Phù lòng như dao cắt, kêu lên:
- Sư phụ.
Hai hàng lệ nóng hổi chảy dài trên má. Nàng biết sư phụ trước nay rất bênh học trò, đệ tử đắc tội với người ngoài, dù có sai mười mươi, bà ta vẫn cưỡng từ đoạt lý cãi cho bằng được. Lúc này nói ra như thế, có khác gì không còn coi nàng là đệ tử nữa.
Kim Hoa bà bà nói:
- Ta cùng phái Nga Mi không thù không oán, đánh qua một lần cũng đủ rồi. A Ly, thôi mình đi.
Nói xong từ từ quay mình đi. Đinh Mẫn Quân không biết Kim Hoa bà bà lai lịch ra sao, thấy bà ta già cả yếu đuối, trông vẻ bệnh hoạn, lại dám vô lễ với sư phụ, trong lòng tức bực, lập tức vọt lên, chặn ngay trước mặt bà ta, quát lớn:
- Bà chưa xin lỗi sư phụ tôi mà đã định bỏ đi sao?
Nói xong tay phải rút kiếm ra khỏi vỏ nửa chừng, ra vẻ thị uy. Kim Hoa bà bà đột nhiên giơ hai ngón tay, kẹp nhẹ vào bao kiếm của y thị, rồi bỏ ra, cười nói:
- Đồng vụn sắt han mà cũng đem ra dọa người à?
Đinh Mẫn Quân lửa giận bừng bừng, lập tức rút kiếm. Nào ngờ y thị cố gắng mấy lần, thanh kiếm vẫn không rút ra được. A Ly cười nói:
- Đồng vụn sắt han, nay bị sét rồi.
Đinh Mẫn Quân lại sử kình, nhưng vẫn không thể rút kiếm. Mới hay Kim Hoa bà bà vừa kẹp tưởng như đùa chơi vào bao kiếm nhưng đã tiềm vận nội lực, làm bao kiếm lõm vào, ngậm chặt lấy lưỡi kiếm. Đinh Mẫn Quân muốn rút ra mà không nổi, không chịu thua, nhưng mặt mũi đỏ bừng, điệu bộ rất ư tức tối.
Diệt Tuyệt sư thái chầm chậm bước tới, dùng ba ngón tay cầm vào cán kiếm, nhẹ nhàng lắc một cái, bao kiếm lập tức tách thành hai mảnh, lưỡi kiếm tuột ra, nói:
- Thanh kiếm này tuy không phải là lợi khí, bảo nhận, nhưng cũng không đến nỗi là đồng vụn sắt han. Kim Hoa bà bà, sao ngươi không ở yên trên Linh Xà đảo, lại đến Trung Nguyên sinh sự làm gì?
Kim Hoa bà bà thấy Diệt Tuyệt sư thái dùng ba ngón tay rung bao kiếm vỡ ra làm hai, trong lòng hơi sợ, nghĩ thầm: "Mụ tặc ni này thanh danh rất lớn, quả nhiên cũng có điểm chân thực công phu". Liền cười hì hì đáp:
- Chồng ta chết rồi, ở một mình trên đảo buồn chán quá, thành thử đi chỗ này chỗ kia, để xem có hòa thượng đạo sĩ nào vừa ý, bắt một người đem về làm bạn.
Bà ta cố ý nói "hòa thượng đạo sĩ" để xỏ xiên đối phương thân là ni cô mà cũng đi nơi này nơi khác. Đôi lông mày rủ xuôi của Diệt Tuyệt sư thái lại càng xụ xuống, trường kiếm ngóc lên, hạ giọng quát:
- Lấy binh khí ra.
Bọn Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù từ khi theo học đến nay, chưa từng thấy sư phụ cùng người động thủ, nhưng Kỷ Hiểu Phù biết Kim Hoa bà bà võ công vô cùng quái dị, không khỏi lo lắng.
Trương Vô Kỵ tay bị A Ly nắm chặt, thân trên mỗi lúc một tê, quát lên:
- Mau bỏ ta ra. Ngươi giữ ta làm gì?
A Ly thấy Kỷ Hiểu Phù đứng bên có thể can thiệp, nếu không thả y ra, nàng sẽ động thủ, lúc đó không thả không xong, dụng sức đẩy một cái, buông Vô Kỵ ra, cười khẩy:
- Để xem ngươi chạy đâu cho thoát.
Kim Hoa bà bà ôn tồn cười nói:
- Năm xưa Quách Tương Quách nữ hiệp của phái Nga Mi kiếm pháp danh động thiên hạ, dĩ nhiên là cực kỳ cao minh, nhưng không biết truyền xuống đồ tử, đồ tôn còn học được mấy phần?
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:
- Dù chỉ có được một thành, cũng đủ quét sạch tà ma ngoại đạo.
Kim Hoa bà bà chăm chú nhìn mũi kiếm của đối phương không chớp mắt, đột nhiên giơ quài trượng trong tay lên điểm vào thân kiếm. Diệt Tuyệt sư thái trường kiếm rung động, nhằm ngay đầu vai bà ta đâm tới. Kim Hoa bà bà vừa ho, vừa giơ quài trượng gạt ra. Diệt Tuyệt sư thái thân đi theo kiếm, nhanh như điện đã luồn ra sau lưng đối phương, chân chưa vững, kiếm chiêu đã ra. Kim Hoa bà bà không quay đầu lại, múa xoay quài trượng, đưa ra sau lưng gạt thanh kiếm.
Hai người ra ba bốn chiêu, trong lòng đều thầm phục đối phương tài nghệ cao siêu. Bỗng nghe một tiếng keng, thanh kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái gãy ra làm hai. Thì ra kiếm trượng chạm nhau, trường kiếm đã bị quài trượng chấn gãy.
Những người bên ngoài trừ A Ly ra, ai nấy đều kinh hãi. Cái gậy trong tay Kim Hoa bà bà cũ kỹ xấu xí, trông không đẹp mắt chút nào, dường như không phải vàng mà cũng chẳng phải sắt, vậy mà đánh gãy được lợi kiếm, chắc hẳn phải nhờ ở nội lực thâm hậu. Thế nhưng khi Kim Hoa bà bà và Diệt Tuyệt sư thái hai bên binh khí chạm nhau, cả hai đều biết sở dĩ trường kiếm gãy đôi, chính là vì quài trượng cứng rắn hơn, chứ không phải vì nội lực mà thắng. Cái gậy đó là một loại đặc sản dưới đáy biển bên cạnh đảo Linh Xà, gọi là San Hô Kim, là một loại san hô hỗn hợp nhiều loại kim khí mà kết thành, nằm sâu dưới đáy biển cả muôn vạn năm, chặt sắt như chặt đậu phụ, đập đá như đập cục bông, binh khí dù có sắc bén thế nào, đụng phải đều gãy.
Kim Hoa bà bà cũng không tiến lên tấn công, chỉ chống gậy đứng tại chỗ, ôm ngực ho. Ba đệ tử phái Nga Mi Kỷ Hiểu Phù, Đinh Mẫn Quân, Bối Cẩm Nghi sợ sư phụ bị thương đều lập tức xông lên đứng cạnh sư phụ để tiếp ứng. A Ly lại vung tay ra, nắm cổ tay Trương Vô Kỵ, cười nói:
- Ta đã bảo ngươi chạy không được đâu, có đúng không nào?
Hành động của cô ta xuất kỳ bất ý, Trương Vô Kỵ không né tránh kịp, mạch môn bị cầm, nửa thân lập tức tê dại. Y hai lần bị cô bé này đùa rỡn, vừa thẹn vừa giận, vừa cấp bách vừa bực mình, giơ chân phải đá vào hông cô ta. A Ly gia tăng kình lực mấy ngón tay, chân Trương Vô Kỵ mới nhắc lên được nửa thước đã cứng nhắc. Y hậm hực kêu lên:
- Ngươi có buông ta ra không nào?
A Ly cười đáp:
- Ta không buông, ngươi làm gì được ta?
Trương Vô Kỵ gập người xuống, há mồm ngoặp ngay vào lưng bàn tay cô gái cắn mạnh một cái. A Ly thấy tay đau nhói, kêu hoảng lên:
- - Ái chà.
Tay phải buông ra, năm ngón tay trái giơ lên chộp vào mặt Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nhảy lùi về phía sau nhưng không kịp, bị móng tay giữa của cô ta đâm vào, rạch một đường dài trên má. Bàn tay phải của A Ly bị Vô Kỵ cắn một cái máu chảy ròng ròng, đau đến muốn khóc. Hai đứa trẻ ở bên cạnh đánh nhau, Kim Hoa bà bà không hề liếc mắt chẳng ngó ngàng gì đến. Diệt Tuyệt sư thái vứt nửa thanh kiếm gãy xuống đất, nói:
- Đây là binh khí của học trò tôi, không đủ sức chịu đụng chạm với cao nhân.
Nói xong bà ta cởi cái bọc trên vai xuống, lấy ra một thanh cổ kiếm dài chừng bốn thước. Kim Hoa bà bà liếc mắt qua, thấy trên bao kiếm ẩn một làn khí xanh, kiếm chưa ra khỏi bao, đã biết không phải một vật bình thường, trên vỏ kiếm thêu bằng tơ vàng hai chữ "Ỷ Thiên". Bà ta giật mình kinh hãi, buột miệng:
- Ỷ Thiên kiếm.
Diệt Tuyệt sư thái gật đầu, nói:
- Đúng thế, Ỷ Thiên kiếm đó.
Trong đầu Kim Hoa bà bà lập tức hiện lên sáu câu võ lâm vẫn tương truyền: "Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng, Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong". Mụ lẩm bẩm:
- Thì ra kiếm Ỷ Thiên nằm trong tay phái Nga Mi.
Diệt Tuyệt sư thái quát lên:
- Tiếp chiêu.
Bà ta cầm cán kiếm nhưng không rút ra khỏi bao, dùng cả kiếm lẫn bao đâm vào ngực Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà giơ quài trượng lên gạt. Diệt Tuyệt sư thái cổ tay hơi rung một cái, bao kiếm đã chạm vào cây gậy. Chỉ nghe một tiếng "xoẹt" nhỏ như xé một tờ giấy dày, thanh thần vật hải ngoại của Kim Hoa bà bà, một loại chí bảo trong kinh khí, San Hô Kim quài trượng kia đã gãy thành hai mảnh.
Kim Hoa bà bà trong lòng chấn động, nghĩ thầm: "Thanh kiếm Ỷ Thiên kia chưa ra khỏi bao mà đã lợi hại như thế, quả thật danh bất hư truyền". Bà ta chăm chăm nhìn thanh bảo kiếm một hồi, nói:
- Diệt Tuyệt sư thái, xin bà cho tôi nhìn lưỡi kiếm xem ra thế nào?
Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu, lạnh lùng đáp:
- Thanh kiếm này ra khỏi vỏ rồi, chưa uống máu người thì không chịu vào bao.
Hai người lặng thinh nhìn nhau một lúc lâu không ai nói gì.
Kim Hoa bà bà biết rằng vị ni cô này công lực không kém gì mình, lại thêm chiêu số kỳ diệu chưa nhìn ra được. Bà ta là chưởng môn của phái Nga Mi, tài nghệ ắt không phải bình thường, lại có trong tay thanh bảo kiếm Ỷ Thiên số một trên đời, nhất định không thể địch lại, nên ho nhẹ mấy tiếng, quay đầu nắm tay A Ly thản nhiên cất bước ra đi.
A Ly quay đầu lại gọi:
- Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ.
Tiếng kêu mỗi lúc một xa, nhỏ dần rồi chìm hẳn. Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù, Bối Cẩm Nghi ba người thấy sư phụ đắc thắng, địch nhân phải bỏ đi đều vô cùng hoan hỉ. Đinh Mẫn Quân nói:
- Sư phụ, bà già đó đúng là có mắt không thấy Thái Sơn, dám động thủ với lão nhân gia để mua lấy cái khổ.
Diệt Tuyệt sư thái nghiêm mặt nói:
- Từ rày trở đi các ngươi đi lại trên giang hồ, mỗi khi nghe thấy tiếng ho của mụ ta thì nên tránh cho xa.
Khi bà vung kiếm lên tấn công, tuy chặt đứt được quài trượng của đối phương, nhưng khi ra tay đã dùng đến Nga Mi Cửu Dương Công tu luyện trên ba mươi năm nay. Thần công này khi chạm vào Kim Hoa bà bà như chìm vào trong đại dương, không còn tăm hơi gì, chỉ lay động tà áo mà thôi chứ không đẩy lùi bà ta được một bước. Bây giờ nghĩ lại, trong bụng không khỏi kinh hãi, biết rằng bà ta nội lực rất cao siêu, lực xương sống lại vững chãi, chẳng khác gì kẻ tráng niên, không có vẻ gì một bà già hom hem yếu đuối, tu luyện đạt tới mức như thế thật khó mà hiểu nổi.
Diệt Tuyệt sư thái ngửng đầu nhìn trời, xuất thần hồi lâu, nói:
- Hiểu Phù, theo ta.
Bà không thèm nhìn đồ đệ, đi vào trong căn nhà tranh. Ba người Kỷ Hiểu Phù cùng đi theo. Dương Bất Hối kêu lên:
- Mẹ ơi.
Cũng định chạy theo. Kỷ Hiểu Phù biết lần này sư phụ chính bản thân xuống núi, trước là thanh lý môn hộ, tuy mình trước đây được thầy sủng ái, nhưng sư thái tính tình nghiêm khắc, không biết sẽ xử mình ra sao, quay lại nói với con:
- Con đi ra ngoài chơi, đừng theo mẹ.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Con mụ họ Đinh tính tình tồi tệ, chắc là đã ton hót với sư phụ, nói xấu Kỷ cô cô. Mọi việc đêm hôm đó ta chính mắt nhìn thấy, chỉ thấy mụ Độc Thủ Vô Diệm này chẳng ra gì. Nếu như mụ ta nói quấy nói quá, đổi trắng thay đen, ta sẽ tiến ra biện minh cho Kỷ cô cô". Nghĩ thế y bèn len lén luồn qua sau nhà, nép mình bên song cửa, nín thở nghe lén.
Chỉ thấy trong nhà không một tiếng động, chẳng ai nói câu gì. Qua một lúc lâu, Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Hiểu Phù, chuyện của ngươi, ta muốn chính miệng ngươi nói ra.
Kỷ Hiểu Phù nghẹn ngào nói:
- Sư phụ, con ... con ...
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Mẫn Quân, ngươi lại hỏi nó coi.
Đinh Mẫn Quân đáp:
- Vâng. Kỷ sư muội, trong môn phái chúng ta, điều giới luật thứ ba là gì?
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Giới dâm tà phóng đãng.
Đinh Mẫn Quân hỏi tiếp:
- Đúng rồi. Còn điều giới thứ sáu là gì?
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Giới lòng hướng người ngoài, phản bội sư môn.
Đinh Mẫn Quân hỏi thêm:
- Người vi phạm giới luật thì xử tội thế nào?
Kỷ Hiểu Phù không trả lời câu hỏi của y thị, quay sang Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Sư phụ, việc này bên trong có những điều khó khăn đệ tử không biết nói cùng ai, không giống như Đinh sư tỉ thuật lại.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Được, ở đây không có ai khác, ngươi kể lại rõ ràng cho ta nghe xem nào.
Kỷ Hiểu Phù biết rằng hôm nay mình lâm vào bước đường cực kỳ trọng đại, không cách nào dấu diếm được nữa, liền nói:
- Sư phụ, năm đó bên mình nghe tin về việc Vương Bàn Sơn đảo, sư phụ hạ lệnh cho chúng con sư huynh muội mười sáu người hạ sơn, chia nhau ra dò thám chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Đệ tử đi về hướng Đại Thụ Bảo ở Xuyên Tây, trên đường gặp một người đàn ông, tuổi trạc trung niên mặc áo trắng, độ chừng bốn mươi. Đệ tử đi đến đâu, y theo tới đó. Đệ tử vào khách điếm, y cũng vào khách điếm, đệ tử dừng chân, y cũng dừng chân. Ban đầu đệ tử không lý tới y, về sau thấy bực mình quá, mới lên tiếng trách cứ. Người đó ăn nói điên điên khùng khùng, đệ tử không nhịn nổi, liền rút kiếm đâm y. Người đó không mang binh khí nhưng võ công tuyệt cao, chỉ một vài chiêu, đã đoạt mất trường kiếm trong tay đệ tử.
Con trong lòng kinh hoảng, lập tức bỏ chạy, nhưng người đó không đuổi theo. Sáng sớm hôm sau, khi con ở trong điếm phòng tỉnh dậy, đã thấy thanh kiếm của mình để ngay bên cạnh gối. Đệ tử giật mình kinh hãi, đi ra khỏi khách điếm lại thấy người kia đi theo rồi. Con nghĩ động võ với y cũng không ăn thua gì, chỉ còn cách ngọt ngào cầu khẩn, nói rằng hai người không thân thích họ hàng, cũng chẳng quen biết nhau, lại thêm nam nữ hữu biệt, ông cứ đi theo tôi là có ý gì. Con nói thêm, tôi tuy võ công không bằng được ông, nhưng phái Nga Mi chúng tôi không phải chuyện thường.
Diệt Tuyệt sư thái Ừ một tiếng, ra chiều bằng lòng học trò mình ăn nói đắc thể. Kỷ Hiểu Phù nói tiếp:
- Người đó bật cười, nói: "Võ công của một người mà còn phân môn phái thì mới chỉ là hạ thừa. Cô nương nếu chịu đi theo tôi sẽ có dịp sáng mắt, tôi sẽ dạy cho cô thấy trời đất bao la của võ học trên đời này".
Diệt Tuyệt sư thái tính tình cô độc, cả đời tiềm tâm học võ, sống ngăn cách với chuyện bên ngoài, nghe Kỷ Hiểu Phù chuyển thuật lời của gã kia, nói là "Võ công của một người mà còn phân môn phái thì mới chỉ là hạ thừa", lại thêm "sẽ dạy cho cô thấy trời đất bao la của võ học trên đời này" không khỏi cảm thấy tò mò liền hỏi:
- Thế là ngươi đi theo y xem y có bản sự gì cổ quái, phải không?
Kỷ Hiểu Phù mặt đỏ lên, nói:
- Sư phụ, y là một người đàn ông không quen biết, đệ tử lẽ nào lại chịu đi theo y.
Diệt Tuyệt sư thái bấy giờ mới vỡ lẽ ra, nói:
- - Ừ phải, vậy ngươi bảo hắn mau cút đi chỗ khác?
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Đệ tử trăm phương nghìn kế trốn tránh y, nhưng không cách nào thoát khỏi tay y, sau cùng bị y bắt được. Oại, đệ tử bất hạnh, gặp phải cái oan nghiệt kiếp trước ...
Nàng nói tới đây, âm thanh càng lúc càng nhỏ. Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
- Rồi sau ra sao?
Kỷ Hiểu Phù nói nhỏ:
- Đệ tử chống cự không nổi, thất thân với y. Y giám thị con cực kỳ nghiêm nhặt, khiến cho con muốn chết cũng không xong. Cứ như thế suốt mấy tháng trường, bỗng có kẻ địch đến tìm y, đệ tử thừa cơ trốn thoát, chẳng bao lâu biết ra là đã có mang, không dám thưa cùng sư phụ, chỉ còn nước lén sinh ra một đứa con.
Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
- Tất cả thực là như thế ư?
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Đệ tử nghìn vạn lần không dám nói dối sư phụ.
Diệt Tuyệt sư thái trầm ngâm một hồi, nói:
- Tội nghiệp con thật đáng thương. Ôi, việc này đâu có phải lỗi ở con đâu.
Đinh Mẫn Quân nghe lời nói của sư phụ có vẻ thương xót Kỷ Hiểu Phù, liền hậm hực nhìn nàng một cái. Diệt Tuyệt sư thái thở dài, hỏi:
- Thế bây giờ con định ra sao?
Kỷ Hiểu Phù rơi lệ đáp:
- Đệ tử do gia nghiêm định đoạt, vốn đã hứa gả cho Ân lục gia phái Võ Đương, nay gặp phải biến cố này, chỉ mong sư phụ nhủ lòng cho con xuất gia, cắt tóc làm ni cô.
Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu:
- Chuyện đó không nên. Ôi, vậy tên đàn ông bại hoại đã hại đời con kia tên hắn là gì?
Kỷ Hiểu Phù hạ giọng nói:
- Y ... y họ Dương, đơn danh một chữ Tiêu.
Diệt Tuyệt sư thái bỗng nhảy dựng lên, tay áo phất một cái, nghe lách cách, mặt bàn đã bị bà ta đánh vỡ một bên. Trương Vô Kỵ nấp bên ngoài cửa nghe lén, sợ đến mất cả hồn vía. Kỷ Hiểu Phù, Đinh Mẫn Quân, Bối Cẩm Nghi ba người mặt liền biến sắc.
Diệt Tuyệt sư thái gằn giọng hỏi:
- Ngươi bảo tên hắn là Dương Tiêu? Có phải là đại ma đầu của Ma giáo, tự xưng cái gì "Quang Minh Tả Sứ Giả" Dương Tiêu đấy không?
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Y ... y ... là người trong Minh giáo, hình như trong giáo phái này cũng có chút địa vị.
Diệt Tuyệt sư thái mặt đầy vẻ giận dữ, nói:
- Minh giáo cái gì? Cái đó là bọn Ma giáo thương thiên hại lý, vô ác bất tác. Y ... y trốn ở đâu? Ở trên Quang Minh Đính dãy Côn Lôn chăng? Để ta đi tìm y.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Y nói, bọn họ Minh giáo ...
Diệt Tuyệt sư thái quát lên:
- Ma giáo.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Vâng. Y nói tổng đàn của Ma giáo vốn đặt trên đỉnh Quang Minh, nhưng những năm gần đây nội bộ bất hòa, y không tiện ở lại đỉnh Quang Minh, để người khác khỏi nói là y muốn làm giáo chủ, nên dời qua ẩn cư trên Tọa Vong Phong cũng thuộc dãy Côn Lôn, nhưng chỉ nói cho một mình đệ tử biết thôi, trên giang hồ không ai hay cả. Sư phụ đã hỏi đến, đệ tử không dám không thưa. Sư phụ, người đó ... người đó là kẻ thù của bản phái đấy ư?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Thù sâu như biển. Đại sư bá ngươi Cô Hồng Tử, đã bị tên đại ma đầu này chọc giận quá mà chết.
Kỷ Hiểu Phù hết sức kinh hãi, nhưng không khỏi kiêu hãnh ngầm, đại sư bá Cô Hồng Tử là một cao thủ năm xưa danh chấn thiên hạ, vậy mà bị "chàng" chọc tức mà chết. Nàng muốn hỏi cho rõ đầu đuôi nhưng không dám mở mồm.
Diệt Tuyệt sư thái ngẩng đầu nhìn trời, hậm hực nói một mình:
- Dương Tiêu, ôi Dương Tiêu ... bao nhiêu năm nay ta không biết ngươi ở đâu, bây giờ trời xui đất khiến để ngươi lọt vào tay ta ...
Đột nhiên bà quay đầu lại, nói:
- - Được rồi, ngươi thất thân với y, lại bảo vệ cho Bành hòa thượng, đắc tội với sư tỉ, dối trá sư phụ, lén nuôi hài nhi ... tất cả những điều đó ta không nhắc đến nữa. Ta sai ngươi làm một việc, đại công cáo thành rồi, ngươi trở lại núi Nga Mi, ta sẽ đem y bát và kiếm Ỷ Thiên truyền lại cho ngươi, lập ngươi làm người kế thừa chức chưởng môn bản phái.
Câu nói đó khiến tất cả mọi người ai nấy đều kinh ngạc. Đinh Mẫn Quân vừa ghen tức, vừa thù hận, oán trách sư phụ sao chẳng phân biệt trắng đen, làm điều nghịch lý. Kỷ Hiểu Phù nói:
- Sư phụ có sai bảo gì, đệ tử phải hết lòng hết sức, theo đó mà làm. Còn việc thừa hưởng y bát chân truyền của ân sư, đệ tử biết mình đức hạnh khiếm khuyết, võ công kém cỏi, không dám vọng tưởng chuyện đó.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Ngươi theo ta ra đây.
Bà nắm tay Kỷ Hiểu Phù lẹ làng lướt ra khỏi căn nhà tranh, lên một triền núi ở phía trái thung lũng, đến một nơi thật trống trải mới ngừng lại.
Trương Vô Kỵ từ xa nhìn tới, thấy Diệt Tuyệt sư thái đứng tại nơi cao nhất, nhìn chung quanh bốn bề một vòng, sau đó mới kéo Kỷ Hiểu Phù lại gần bên, nói nhỏ bên tai nàng. Thì ra bà ta muốn nói một chuyện cực kỳ bí mật, khỏi sợ chuyện tai vách mạch rừng, e người khác nghe lén nên ngay cả hai người học trò kia cũng không cho theo.
Trương Vô Kỵ náu mình đằng sau mao ốc không dám thò mặt ra, chỉ xa xa nhìn Diệt Tuyệt sư thái nói một hồi, Kỷ Hiểu Phù cúi đầu suy nghĩ, sau cùng lắc đầu, thần thái cực kỳ kiên quyết, hiển nhiên không chịu theo lệnh sư phụ. Lại thấy Diệt Tuyệt sư thái giơ tả chưởng lên, dường như định đánh xuống, nhưng tay ngừng lại trên không, không hạ xuống, dường như cho nàng cơ hội sau cùng có chịu hồi tâm chuyển ý hay chăng.
Trương Vô Kỵ tim đập thình thình, nghĩ thầm chưởng đó đánh xuống đầu, Kỷ Hiểu Phù không sao sống được. Hai mắt y không dám chớp, chăm chú nhìn Kỷ Hiểu Phù. Chỉ thấy nàng quì hai gối xuống, nhưng vẫn kiên quyết lắc đầu. Diệt Tuyệt sư thái giơ tay đánh xuống, trúng ngay giữa đỉnh đầu nàng, Kỷ Hiểu Phù thân hình rung lên mấy cái, quỵ xuống, dãy dãy vài lần rồi nằm bất động.
Trương Vô Kỵ vừa kinh hãi, vừa đau lòng, nằm phục trong đám cỏ cao sau nhà, không dám động đậy. Ngay lúc đó, Dương Bất Hối khúc khích cười mấy tiếng, ở đâu ôm choàng lên lưng Trương Vô Kỵ, nói:
- Bắt được anh rồi, bắt được anh rồi.
Thì ra con bé chạy chơi ngoài đồng, thấy Trương Vô Kỵ nằm dấu mình trong đám cỏ, lại tưởng y đang chơi trò trốn tìm với mình, nên chạy tới bắt y. Trương Vô Kỵ vòng tay qua kéo nó vào lòng, một tay bịt chặt miệng đứa nhỏ, ghé tai nó nói nhỏ:
- Không được nói, đừng để ác nhân nhìn thấy mình.
Dương Bất Hối thấy mặt y xanh lè đầy vẻ kinh hoàng, cũng sợ theo.
Diệt Tuyệt sư thái từ trên đồi cao hối hả đi xuống, bảo Đinh Mẫn Quân:
- - Đi kiếm đâm chết nghiệt chủng của nó đi, khỏi lưu mầm họa.
Đinh Mẫn Quân thấy sư phụ dùng trọng thủ đánh chết Kỷ Hiểu Phù, tuy trong lòng ngầm hoan hỉ, nhưng cũng không khỏi sợ hãi, nghe nói thế, liền mượn trường kiếm của sư muội Bối Cẩm Nghi, cầm trong tay đi tìm Dương Bất Hối.
Trương Vô Kỵ ôm chặt Dương Bất Hối, co mình chui trong đám cỏ dày, ngay cả thở cũng không dám thở mạnh. Đinh Mẫn Quân chạy trước chạy sau đi kiếm một hồi, không thấy tung tích con bé đâu, đang định tìm kỹ một lần nữa, Diệt Tuyệt sư thái đã cất tiếng mắng:
- Thật là đồ vô dụng, có đứa trẻ con mà tìm cũng không ra.
Bối Cẩm Nghi bình thời chơi với Kỷ Hiểu Phù tương đối thân thiết, mắt thấy nàng chết thảm dưới chưởng của sư phụ, lại còn muốn giết nốt đứa con côi, trong lòng thấy bất nhẫn, bèn nói:
- Con thấy đứa nhỏ đó hình như chạy ra ngoài thung lũng rồi.
Nàng biết sư phụ tính tình cấp tháo, nếu ở bên ngoài kiếm không ra, sẽ không hơi đâu mà chạy vào tìm lần nữa. Tuy đứa bé con đó một thân một mình lênh đênh chưa chắc sống được, nhưng cũng còn hơn chính mắt nhìn thấy Đinh Mẫn Quân đâm nó một nhát chết tươi. Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Vậy sao không nói sớm?
Bà hầm hầm trừng mắt nhìn người đệ tử, rồi chạy trước ra khỏi sơn cốc. Đinh Mẫn Quân và Bối Cẩm Nghi lật đật chạy theo. Dương Bất Hối đâu đã biết mẫu thân vừa gặp đại họa, đôi mắt đen láy luôn luôn chuyển động ý như muốn hỏi chuyện gì. Trương Vô Kỵ ghé tai sát đất nghe ngóng, thấy tiếng chân ba người mỗi lúc một xa, nhỏm dậy, dắt Dương Bất Hối chạy lên đồi cao. Dương Bất Hối cười:
- Vô Kỵ ca ca, ác nhân đi rồi ư? Mình chạy lên núi chơi, có phải không?
Trương Vô Kỵ không trả lời, cầm tay nó chạy thẳng tới chỗ Kỷ Hiểu Phù. Dương Bất Hối chạy tới gần mới thấy mẹ nằm dưới đất, giật mình kinh hãi, ngồi thụp xuống ôm choàng lấy Kỷ Hiểu Phù, kêu lên:
- Mẹ ơi, mẹ ơi.
Trương Vô Kỵ vội thăm hơi thở của Kỷ Hiểu Phù, khí tức thật là yếu ớt, thấy xương sọ của nàng bị Diệt Tuyệt sư thái đánh một chưởng vỡ tan, dù có Hồ Thanh Ngưu ở đây, cũng không thể nào cứu được. Kỷ Hiểu Phù hé mắt nhìn, thấy Trương Vô Kỵ và con mình, miệng mấp máy, dường như muốn nói, nhưng không thốt ra được một lời, trên mắt hai giọt lệ chảy xuống. Trương Vô Kỵ lấy kim châm trong bọc ra, châm vào các huyệt Thần Đình, Ấn Đường, Thừa Khấp ... mấy chỗ, để nhất thời cảm giác đau đớn không truyền lên não.
Kỷ Hiểu Phù tinh thần hơi phấn chấn, nói thều thào:
- Cô nhờ ... nhờ cháu ... đưa nó đến bố nó ... cô không chịu ... không chịu hại cha nó ...
Nàng thò tay lên ngực, dường như định lấy cái gì, đột nhiên đầu nghẹo qua một bên, tắt thở chết rồi. Dương Bất Hối ôm lấy thi thể mẹ, khóc òa lên, miệng không ngớt kêu:
- Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ đau lắm hả? Mẹ đau lắm hả?
Thân thể Kỷ Hiểu Phù lạnh dần, nhưng con bé vẫn tiếp tục hỏi mãi. Nó không hiểu sao mẹ nó không cử động, cũng không trả lời cho nó.
Trương Vô Kỵ vừa đau lòng, vừa buồn bã, nghĩ đến lúc cha mẹ mình chết, y cũng nằm ôm xác hai người, nhịn không nổi nước mắt cũng ròng ròng. Hai đứa khóc một hồi, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Kỷ cô cô lúc lâm tử, nhờ mình đưa em Bất Hối đi kiếm cha nó. Cha nó tên là Dương Tiêu, là Quang Minh tả sứ giả trong Minh giáo, ở trên ngọn núi gì tên là Tọa Vong Phong trong dãy Côn Lôn. Ta phải đưa nó đến đó". Nó đâu biết là dãy Côn Lôn ở phía cực tây, cách mấy vạn dặm, hai đứa trẻ con làm sao tới được? Lại thấy khi Kỷ Hiểu Phù tắt thở còn cố lấy cái gì đó trong ngực ra, nên vội sờ trên cổ nàng, thấy có một sợi dây tơ, một đầu có một chiếc thiết bài đen sì, trên mặt có tơ vàng thêu thành hình một ngọn lửa đang cháy.
Trương Vô Kỵ không biết cái này là cái gì nhưng cũng cởi ra, đeo vào cổ Dương Bất Hối. Y vào trong nhà lấy ra một cái xẻng, đào một cái hố chôn Kỷ Hiểu Phù. Lúc này Dương Bất Hối khóc đã kiệt sức, nằm lăn ra ngủ. Khi con bé tỉnh dậy, Trương Vô Kỵ phải nói mãi nó mới tin là mẹ nó bay lên trời rồi, phải thật lâu mới từ trên trời xuống gặp nó.
Sau đó Trương Vô Kỵ vào nhà nấu qua quít một nồi cơm, cùng Dương Bất Hối ăn rồi đi ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Vô Kỵ thu thập hành lý thành hai gói nhỏ, cầm theo mấy chục lượng bạc Hồ Thanh Ngưu để lại, dẫn Dương Bất Hối lên trên mộ mẹ lạy mấy lạy rồi dắt nhau ra khỏi Hồ Điệp Cốc.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Người vợ vụng về của tôi (tiếng khiêm tốn)
[2] người giữ việc trong nhà, thời xưa để chỉ người vợ
[3] tình vợ chồng (nói một cách văn vẻ)
[4] tiếng Trung Hoa, tiên sinh vừa để gọi một người học thức đáng kính, vừa để gọi ông thầy dạy chữ mình. Vô Kỵ hiện nay coi như là học trò của Hồ Thanh Ngưu nên gọi Vương Nạn Cô là sư mẫu.
Hồi 14
ĐƯƠNG ĐẠO THỜI KIẾN TRUNG SƠN LANG
Mang danh chính phái ai người,
Làm ơn trả oán như loài sói lang.
Hai đứa đi hơn nửa ngày mới ra khỏi Hồ Điệp Cốc, Dương Bất Hối chân nhỏ bước ngắn không còn đi nổi nữa. Ngồi nghỉ một hồi, lại đứng dậy đi tiếp. Đi rồi nghỉ, nghỉ rồi đi, chiều hôm đó không kiếm được khách điếm, hai đứa đi đến trời tối, vẫn còn đi lang thang trong hoang sơn dã lãnh, bốn phía sói tru cú rúc, khiến cho Bất Hối sợ quá khóc òa lên.
Trương Vô Kỵ trong bụng cũng mười phần sợ hãi, thấy bên đường có một cái hốc đá, liền dắt Dương Bất Hối chui vào, ôm em vào lòng, lấy hai tay bịt tai lại để nó khỏi nghe thấy tiếng thú đói rú lên trong đêm. Đêm đó hai đứa bé vừa đói vừa sợ, qua một đêm khủng khiếp, sáng hôm sau mới đi vào trong núi kiếm trái cây dại để ăn, thuận theo đường núi đi một hồi lại nghỉ một chốc. Đi đến trưa, Dương Bất Hối đột nhiên kêu thất thanh, chỉ vào một cái cây lớn bên cạnh đường.
Trương Vô Kỵ nhìn theo, thấy trên cây treo lủng lẳng đong đưa hai cái xác người, sợ quá vội nắm tay em quay đầu chạy. Hai đứa hoảng hốt bước thấp bước cao chưa được bao xa, vấp phải một hòn đá cùng ngã lăn xuống. Trương Vô Kỵ thu hết can đảm quay đầu lại nhìn, lần này lại càng kinh hãi, buột miệng kêu lên:
- Hồ tiên sinh.
Thì ra cái xác treo trên cây kia bị gió thổi quay lại, chính là Hồ Thanh Ngưu. Cái xác khô kia tóc dài phủ xuống lưng, là một người đàn bà, nhìn phục sức chính thị Vương Nạn Cô, vợ của Hồ Thanh Ngưu. Gió núi thổi vào xác và mái tóc dài của bà ta, càng làm tăng thêm âm khí u uất.
Trương Vô Kỵ cố gắng trấn tĩnh, tự nhủ: "Không sợ, không sợ". Y từ từ đứng lên, từng bước từng bước tiến lại, nhìn kỹ đúng là xác của hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu, trên mặt có đốm lấp lánh, như nạm trên mặt mỗi người một bông hoa vàng. Trương Vô Kỵ hiểu ra: "Thì ra họ không chạy thoát độc thủ của Kim Hoa bà bà".
Lại thấy dưới giòng suối một chiếc xe vỡ nát, một con la nằm chết chìm trong đó. Trương Vô Kỵ bàng hoàng chảy nước mắt, cởi dây hạ hai cái xác vợ chồng Hồ Thanh Ngưu xuống gốc cây, bỗng nghe một tiếng cạch, từ trong bọc của Vương Nạn Cô rơi ra một quyển sách. Y nhặt lên, đó là một bộ sách chép tay, tựa đề năm chữ "Vương Nạn Cô Độc Kinh". Giở ra xem, trong sách những chữ nhỏ bằng đầu ruồi theo lối chữ khải, viết chi chít độc tính của những loại độc vật, cách sử dụng và hóa giải, ngoài độc dược, độc thảo, còn các loại côn trùng như rắn, rết, bò cạp, nhện kể cả các loại cổ quái lạ lùng như cá, cắc kè, chim, thú, hoa, cây đất đá, đều có ghi cả. Y tiện tay bỏ luôn vào bọc, xếp song song thi thể vợ chồng Hồ Thanh Ngưu rồi lấy đất đá đắp lên thành hai cái gò, quì xuống lạy mấy lạy, sau đó dắt tay Dương Bất Hối theo đường mà đi.
Hai đứa đi được vài dặm thì gặp đường lớn, chẳng bao lâu đến một thị trấn nhỏ, Trương Vô Kỵ định đi mua cơm ăn, nào ngờ trong phố nhà nào cũng bỏ không, chẳng thấy một bóng người nào. Hai đứa không còn cách nào khác, đành phải đi tiếp. Ruộng nương hai bên đường đều không trồng cấy gì, cỏ dại mọc đầy, trông thật hoang lương.
Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, Dương Bất Hối thật ngoan, cố nhịn đói không khóc, gắng sức bước đi, vì nó cũng đâu biết làm gì. Đi được một lúc, thấy bên đường nằm chết mấy xác người, bụng lép kẹp, hai má hõm xuống, nhìn qua cũng biết ngay là chết đói. Càng đi càng thấy người chết mỗi lúc một nhiều, Trương Vô Kỵ càng thêm sợ hãi: "Không lẽ mình không thể kiếm được cái gì để ăn sao? Chắc hai đứa rồi cũng chết đói mất thôi". Đi đến chiều, đến một khu rừng, thấy bên trong có một làn khói trắng bốc lên. Trương Vô Kỵ mừng lắm, từ khi ra khỏi Hồ Điệp Cốc y chưa thấy khói lửa, nên vội vàng nhắm phía làn khói hối hả đi tới.
Khi tới gần, Vô Kỵ thấy hai gã áo quần bẩn thỉu ngồi bên cạnh một cái chảo nước đang bốc hơi nghi ngút, đang thêm củi vào bếp. Hai gã đó nghe thấy tiếng chân người, quay lại thấy Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối, trên mặt liền ra vẻ vui mừng, cùng nhảy cẫng lên. Một người vẫy tay gọi:
- Bé con, tốt quá, lại đây, mau lại đây. Có người lớn nào đi cùng không? Hai đứa đi đâu thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chỉ có hai đứa chúng cháu thôi, không có người lớn.
Hai người kia nhìn nhau cười ha hả, cùng kêu lên:
- May thật, may thật.
Trương Vô Kỵ đói muốn lả, thò đầu nhìn vào trong chảo xem họ nấu gì, thấy bên trong đang sôi sục, toàn là cỏ xanh. Một tên đi tới túm lấy Dương Bất Hối, nhe răng cười:
- Con dê con này vừa trắng vừa béo, đêm nay mình được một bữa no, sướng thật.
Tên kia tiếp lời:
- Đúng thế, thằng con trai để đến ngày mai hãy ăn.
Trương Vô Kỵ giật mình hinh hãi, quát lên:
- Làm gì thế? Mau bỏ em ta ra.
Gã kia không thèm lý tới, soẹt một tiếng đã xé ngay áo của Dương Bất Hối, thò tay vào giày ủng rút ra một con dao găm, cười:
- Lâu quá không được ăn loại dê non béo thế này.
Y xách Dương Bất Hối để qua một bên, dường như muốn làm thịt. Tên kia liền cầm một cái bát sành để ở phía sau, nói:
- Máu dê bỏ phí lắm, để mình nấu một nồi cháo huyết, ăn cũng ngon ra phết.
Trương Vô Kỵ sợ đến hết cả hồn vía, xem chừng bọn chúng không phải đùa, có ý muốn giết Dương Bất Hối thực, kêu to:
- Các ngươi định ăn thịt người à? Sao không sợ thương thiên hại lý?
Gã cầm bát cười:
- Bố mày ba tháng nay không được hạt gạo nào vào bụng, không ăn thịt người, không lẽ ăn thịt bò thịt dê sao?
Y sợ Trương Vô Kỵ bỏ chạy vội đến nắm cổ nó. Trương Vô Kỵ nghiêng người né tránh, tay trái gạt ra, tay phải đánh ra một chưởng, trúng ngay giữa chỗ yếu hại trên lưng. Y được Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn truyền thụ bí quyết võ công, lại được phụ thân dạy cho Võ Đương trường quyền, mấy năm nay tuy chuyên tâm học nghề thuốc, không luyện võ, nhưng những gì đã tập đã xem toàn là thượng thừa công phu. Chưởng đó y hết sức đánh ra, dù người tập võ nhiều năm cũng chưa chắc đỡ nổi, huống chi một gã nhà quê tầm thường? Gã đó hự một tiếng nằm gục ngay xuống, không còn động đậy gì nữa.
Trương Vô Kỵ lập tức nhảy lại bên cạnh Dương Bất Hối, tên còn lại quát lên:
- Để tao giết mày trước.
Y giơ con dao lên đâm vào ngực Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ sử chiêu Nhạn Sí Thức trong Võ Đương trường quyền, chân phải đá lên, trúng ngay cổ tay tên nọ, con dao văng mất. Tiếp theo y sử Uyên Ương Liên Hoàn Thối, chân trái đá tiếp theo, trúng ngay cằm kẻ địch. Người đó đang há mồm quát tháo, hàm dưới bị đá trúng ngậm ngay lại, răng cắn trúng lưỡi, máu phun vọt ra, lập tức bất tỉnh. Trương Vô Kỵ vội chạy tới đỡ Dương Bất Hối.
Ngay lúc đó có tiếng chân người, lại có mấy người khác đi vào rừng. Dương Bất Hối sợ đến quýnh quáng, vừa nghe tiếng người nói lập tức sà vào lòng Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thò đầu ra thăm dò, lúc ấy mới yên tâm kêu lớn:
- Có phải Giản đại gia, Tiết đại gia không?
Đi vào rừng gồm cả thảy năm người, một người là Giản Tiệp của phái Không Động, ngoài ra là Tiết Công Viễn và hai người đồng môn phái Hoa Sơn, bốn người này đều do Vô Kỵ trị bệnh lúc trước. Người sau cùng là một thanh niên chừng đôi mươi, tướng mạo uy tráng, trán rất rộng, Trương Vô Kỵ chưa từng gặp bao giờ.
Giản Tiệp ồ lên một tiếng, nói:
- Trương huynh đệ, ngươi ở đây đấy ư? Hai người này bị sao thế?
Nói rồi chỉ hai gã kia đang nằm dưới đất. Trương Vô Kỵ hậm hực hể lại mọi chuyện, sau cùng kết luận:
- Đến người sống mà họ còn ăn, quả thực là vô pháp vô thiên.
Giản Tiệp đưa mắt nhìn Dương Bất Hối, đột nhiên khóe miệng chảy nước dãi, lè lưỡi liếm môi, nói lẩm bẩm:
- Con mẹ nó, năm ngày năm đêm rồi không có hạt gạo nào vào bụng, chỉ ăn toàn rễ cỏ với vỏ cây ..., ôi chao, mềm mại trắng trẻo thế kia, mập mạp mơn mởn ...
Trương Vô Kỵ thấy mắt y toát ra vẻ thèm khát, trông chẳng khác gì một con chó sói đói đang rình mồi, lại nhe răng trắng nhởn, thần tình thật đáng sợ, lập tức kéo Dương Bất Hối vào lòng.
Tiết Công Viễn hỏi:
- Thế mẹ con bé đâu?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Nếu mình bảo Kỷ cô cô chết rồi, thể nào bọn họ cũng có ý đồ không tốt". Liền nói:
- Kỷ nữ hiệp đi mua gạo, chút nữa về ngay.
Dương Bất Hối bỗng nói:
- Không đâu, mẹ cháu bay lên trời rồi.
Giản, Tiết nghe hai đứa, biết ngay Kỷ Hiểu Phù đã chết, Tiết Công Viễn cười khẩy nói:
- Mua gạo? Chung quanh đây năm trăm dặm, nếu ngươi kiếm được một hạt gạo thì ta chịu ngươi là giỏi.
Giản Tiệp đưa mắt cho Tiết Công Viễn, hai người cùng nhảy xổ tới. Giản Tiệp hai tay nắm hai cánh tay Trương Vô Kỵ, Tiết Công Viễn giơ tay bịt mồm Dương Bất Hối, tay phải liền bế xốc con bé lên. Trương Vô Kỵ sợ hãi kêu:
- Các ngươi làm gì thế?
Giản Tiệp cười:
- Phủ Phượng Dương này cả nghìn dặm đều bỏ hoang, bọn ta đói quá nhịn không nổi nữa rồi. Con bé này đâu có phải là gì của ngươi, để rồi ta chia cho ngươi một phần.
Trương Vô Kỵ chửi:
- Các ngươi tự cho là anh hùng hảo hán thật uổng, lại đi hiếp đáp một đứa trẻ mồ côi? Việc này truyền ra ngoài, các ngươi còn làm người sao nổi?
Giản Tiệp tức quá, tay trái nắm chặt Vô Kỵ, tay phải tát luôn cho y hai cái, quát lớn:
- Cả thằng chó này ta cũng làm thịt luôn, bọn ta xem chừng một con dê con không đủ.
Vô Kỵ mới rồi đánh ngã hai người nhà quê thật dễ dàng, nhưng Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp là cao thủ của phái Không Động, có mấy chục năm công phu, Trương Vô Kỵ bị y nắm chặt, làm sao thoát thân nổi. Hai tên sư đệ của Tiết Công Viễn liền lấy dây thừng, trói luôn cả hai đứa bé lại. Trương Vô Kỵ biết hôm nay mình không sao thoát chết, trong cơn cuồng nộ, cảm thấy hối hận, biết thế lúc trước không cứu mấy tên này, để khỏi gặp cảnh nhân tâm phản phúc, lấy oán báo ân.
Giản Tiệp nói:
- Thằng chó này, mày chữa vết thương trên đầu ông, mày nghĩ ông phải chịu ơn mày, có phải không? Trong bụng mày đang chửi thầm ông chứ gì?
Trương Vô Kỵ nói:
- Thế chẳng phải là lấy oán báo ân hay sao? Ta với các ngươi không quen không biết, nếu ta không ra tay cứu cho, kỳ thương quái độc của bốn người có khỏi được không?
Tiết Công Viễn cười:
- Trương thiếu gia, chúng tôi bị thương rồi bao nhiêu cái xấu lộ ra hết, mọi việc cậu đều nhìn thấy cả, nếu như truyền ra, người trên giang hồ còn coi chúng tôi ra gì nữa. Hôm nay chúng tôi đói đến lả ra rồi, không có miếng thịt bỏ vào bụng thì chắc không sống nổi. Cậu cứu người cứu cho đến cùng, làm ơn thì làm ơn cho trót, rộng lòng cứu thêm một lần nữa.
Giản Tiệp dáng điệu hung ác trông dễ sợ thì đã đành, tên Tiết Công Viễn cười hì hì nhưng tính tình nham hiểm, Trương Vô Kỵ vừa nhìn đã lạnh cả gáy, kêu lớn:
- Ta là đệ tử của phái Võ Đương, cô em này là phái Nga Mi, các ngươi giết bọn ta thì được, nhưng Võ Đương ngũ hiệp và Diệt Tuyệt sư thái không lẽ cũng bỏ qua hay sao?
Giản Tiệp kinh ngạc, "A" lên một tiếng, nghe y nói quả không sai, phái Võ Đương và phái Nga Mi không phải tầm thường. Tiết Công Viễn cười đáp:
- Ở đây chỉ có trời biết đất biết, cậu biết tôi biết, đợi cậu vào trong bụng tôi rồi hãy đi tố cáo với lão đạo Trương Tam Phong.
Giản Tiệp cười sằng sặc, nói:
- Bụng đói đến nổ đom đóm thế này, dù ngươi có là em ruột, con ruột thì ta cũng ăn cả xương lẫn da.
Y quay lại nói với hai tên sư đệ của Tiết Công Viễn:
- Mau đi nhóm lửa đun nước, còn đợi gì nữa?
Hai gã kia vội nhặt cái chảo ở dưới đất lên, một gã chạy ra suối lấy nước, còn một gã thì đi chụm lửa. Trương Vô Kỵ nói:
- Tiết đại gia, hai người này đằng nào cũng chết rồi, các ông bụng đói muốn ăn thịt người, thì ăn họ đi có hơn không?
Tiết Công Viễn cười đáp:
- Hai tên này chỉ có da bọc xương, vừa già vừa dai, vừa hôi vừa cứng, đời nào dê non không ăn, lại ăn thịt dê già?
Trương Vô Kỵ xưa nay rất là can đảm, dù có đánh y, giết y, cũng không nửa lời xin tha, nhưng lúc này rơi vào tay kẻ ác, đang toan giết người ăn thịt, không khỏi kinh hoảng, nên mới năn nỉ mấy câu. Tiết Công Viễn trái lại cười lên ha hả:
- Ha ha, đệ tử phái Võ Đương, phái Nga Mi trên giang hồ xưng hùng xưng bá, hôm nay lại bị ta từng miếng từng miếng nuốt vào bụng, Trương Tam Phong và Diệt Tuyệt lão ni biết được không tức chết thì thôi.
Trương Vô Kỵ cố gắng thu hết sức kêu lên:
- Tiết đại gia, nếu các ông không ăn thịt người không được, thì ăn tôi đi, chỉ mong các ông thả cô em này ra, Trương Vô Kỵ này chết cũng không oán.
Tiết Công Viễn hỏi lại:
- Tại sao thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Khi mẹ nó qua đời, có nhờ tôi đưa em bé này đến cho cha nó. Hôm nay các ông ăn thịt tôi chắc cũng đủ no, ngày mai đi mua thịt bò thịt dê mà ăn, tha cho cô bé này.
Giản Tiệp thấy y sắp chết không sợ, tuy tuổi còn nhỏ, nhưng quả có phong thái hiệp nghĩa, trong lòng cũng hơi khâm phục, không khỏi động tâm, trù trừ nói:
- Nghĩ sao?
Tiết Công Viễn nói:
- Tha cho con nhãi này cũng không hề gì, có điều tiết lộ phong thanh, sau này bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu tìm đến, Giản đại ca đánh nổi họ thì làm.
Giản Tiệp gật đầu nói:
- Tiết huynh đệ nói phải lắm. Ta thật là kẻ hồ đồ, không nghĩ trước, nghĩ sau gì cả.
Nói đến đây, tên đệ tử phái Hoa Sơn đã bưng được chảo nước về, để lên lò đun. Trương Vô Kỵ biết sự tình khẩn cấp, kêu lên:
- Bất Hối muội muội, em thề với họ sau này quyết không nói chuyện này với ai.
Dương Bất Hối ngơ ngác không hiểu khóc nói:
- Đừng ăn anh Vô Kỵ, đừng ăn anh Vô Kỵ.
Con bé không biết Vô Kỵ muốn nói gì, chỉ lờ mờ hiểu là y xả thân để cứu mình. Người thanh niên hiên ngang từ nãy chỉ ngồi một bên, không nói không rằng. Giản Tiệp liếc y một cái, hỏi:
- Từ tiểu xá, có muốn ăn thịt dê cho lên tinh thần không?
Ở vùng Hào Tứ, thanh niên còn trẻ gọi là tiểu xá. Thanh niên kia đáp:
- Có.
Y rút trong lưng ra một con dao găm, nói:
- Giết chó làm dê là nghề của mỗ.
Y để dao lên miệng cắn, một tay xách Trương Vô Kỵ, một tay xách Dương Bất Hối, đi xăm xăm ra hướng giòng suối. Trương Vô Kỵ ngoạc mồm chửi, định ghé răng cắn tay y, nhưng vươn không tới.
Gả thanh niên họ Từ kia đi được mươi bước, Tiết Công Viễn gọi lại:
- Từ tiểu xá, ở chỗ đó làm thịt được rồi.
Gã họ Từ quay đầu lại nói:
- Ra suối mổ bụng rửa ruột tốt hơn, rửa thế mới sạch.
Trong miệng y ngậm con dao, nói ú ớ nghe không rõ, chân vẫn không dừng bước. Tiết Công Viễn nói:
- Ta bảo ngươi ở đó, thì cứ ở đó.
Y xem ra gã họ Từ có điều gì không ổn, sợ y ăn một mình, xách hai đứa nhỏ chạy mất. Từ tiểu xá nói nhỏ:
- Chạy mau.
Y bỏ hai đứa trẻ xuống đất, lấy dao cắt dây trói cho hai người. Trương Vô Kỵ nói:
- Đa tạ đại ân cứu mạng.
Nắm tay Dương Bất Hối phóng mình bỏ chạy. Giản Tiệp và Tiết Công Viễn cùng rống lên, phóng mình đuổi theo. Từ tiểu xá vung dao chặn ngang:
- Đứng lại.
Giản Tiệp và Tiết Công Viễn thấy y đưa dao chỉ vào ngực, đứng chắn đường uy thế lẫm liệt, không khỏi ngạc nhiên. Giản Tiệp hét lên:
- Làm gì thế?
Từ tiểu xá nói:
- Bọn mình hành tẩu giang hồ mà lại hiếp đáp kẻ yếu đuối, không sợ anh hùng thiên hạ cười cho ư?
Tiết Công Viễn giận dữ nói:
- Đang đói bỏ mẹ, đến bố mẹ ruột tao cũng ăn nữa là.
Y hét lên giơ tay ra hiệu cho hai tên sư đệ:
- Đuổi theo mau, đuổi theo mau.
Trương Vô Kỵ thấy Dương Bất Hối không chạy nhanh được, vội ôm nó lên, y vốn đã người bé chân ngắn, nay lại càng chậm hơn nữa. Giản Tiệp và Tiết Công Viễn hai người liền rút binh khí ra, giáp công gã họ Từ. Đánh một hồi, Giản Tiệp chém một đao trúng đùi Từ tiểu xá, lập tức máu tươi tung tóe. Từ tiểu xá chống trả không lại, đột nhiên vung con dao lên ném luôn vào Tiết Công Viễn. Tiết Công Viễn nghiêng người né tránh, Từ tiểu xá vội vàng bỏ chạy. Giản Tiết hai người không đuổi theo, chạy đi đuổi bắt Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối. Từ tiểu xá từ xa nói vọng lại:
- Trương huynh đệ đừng sợ, ta đi gọi thêm người đến cứu ngươi.
Giản Tiết hai người chạy lên vây, bắt trói cả Trương Vô Kỵ lẫn Dương Bất Hối lại. Giản Tiệp trừng mắt chửi:
- Tên họ Từ phản phúc, thật chẳng ra gì, các ngươi sao lại đi chung với hắn?
Tiết Công Viễn nói:
- Trên đường gặp hắn đi cùng, biết đâu được tốt hay xấu. Y nói họ Từ, tên Từ Đạt chi đó. Ngươi đừng tin lời nói của hắn làm gì, trời sắp tối, đi đâu mà kiếm người tới giúp hắn được.
Một tên đệ tử phái Hoa Sơn nói:
- Nghe giọng hắn thì là người bản địa phủ Phượng Dương này, chắc y đi gọi mấy người nhà quê đến, bọn mình đâu có sợ.
Giản Tiệp cười nói:
- Người ở phủ Phượng Dương, ha ha, người nào người nấy đói nhăn răng ra. Thôi bọn mình đem nấu hai con dê này lên cho thơm, đớp một bụng cho no đã.
Lần thứ hai bị bắt lại, Trương Vô Kỵ bị bọn chúng đánh cho mặt mũi thâm tím, quần áo rách toang, tiền bạc vật dụng trong người rơi tung tóe. Y nghĩ thầm:
- Thì ra vị đại ca này tên là Từ Đạt, là một người bạn thật tốt, tiếc rằng mình sắp chết đến nơi, không được kết giao với anh ta.
Y cúi đầu, thấy một cuốn sách giấy vàng lật trên mặt đất, theo gió mở ra, chính là bộ Độc Kinh từ trong thi thể Vương Nạn Cô, nên đưa mắt nhìn, thấy trong sách viết hai chữ "Nấm Độc", bên dưới chữ nhỏ mô tả kỹ càng các loại nấm độc, mùi vị, màu sắc, độc tính, từng loại khác nhau. Y trong lòng đang hoang mang còn ghi nhớ sao được. Bỗng dưng y chợt nhìn thấy cách bốn năm thước phía bên trái, dưới một khúc gỗ mục mọc đâu chừng một chục cái nấm, màu sắc thật là rực rỡ, trong bụng nghĩ thầm: "Không biết đây là loại nấm gì, chẳng biết có độc hay không? Trong Độc Kinh có viết là nấm độc thường có màu sắc rực rỡ. Nếu những cây nấm này mà là nấm độc thì em Bất Hối có cơ sống sót".
Y bấy giờ không mong mình được sống, biết hàn độc trong cơ thể không dễ gì trừ được, hôm nay có thoát chết, thì bất quá cũng chỉ sống thêm vài tháng, nên trong lòng chỉ mong cứu được Dương Bất Hối. Y ngồi dưới đất, dùng chân và mông nhích dần, quay tay lại nhổ hết những cây nấm đó. Lúc đó trời cũng đã tối, cả bọn đang đói lòng, chẳng ai lưu ý đến y.
Trương Vô Kỵ bỗng nhìn về phía Từ Đạt chạy đi, nhảy phắt lên, kêu lớn:
- Từ đại ca, anh mang người đến đấy à. Cứu mạng, cứu mạng.
Bọn Giản Tiệp tưởng thật, cả bốn người liền rút binh khí ra, đứng cả dậy. Trương Vô Kỵ thừa lúc bọn kia nhìn về hướng khác, lùi lại hai bước, thả mấy cây nấm vào trong chảo. Bọn Giản Tiệp không thấy ai, liền chửi:
- Đồ chó đẻ, bộ mày điên hay sao chứ có ai đến cứu mày.
Tiết Công Viễn nói:
- Thôi khai đao đi, ai ra tay đây?
Giản Tiệp nói:
- Để ta giết con bé con, còn ngươi giết thằng nhỏ.
Nói xong y liền xách Dương Bất Hối lên. Trương Vô Kỵ nói:
- Tiết đại gia, tôi khát nước quá, ông cho tôi uống một bát nước nóng, tôi chết đi không thành quỉ quấy phá ông.
Tiết Công Viễn cười đáp:
- Được, uống bát nước thì có gì không được?
Y liền múc một bát nước đưa cho y. Bát nước chưa tới miệng, Trương Vô Kỵ đã lên tiếng khen:
- Thơm quá, thơm quá.
Mấy cây nấm này nấu trong nước nóng, quả thực thơm phức. Tiết Công Viễn vốn đã đói meo, ngửi thấy mùi canh nấm, liền không cho Trương Vô Kỵ uống nữa, tự mình uống luôn, lè lưỡi liếm môi, nói:
- Ngon quá là ngon.
Lại uống thêm một bát nữa. Giản Tiệp cũng xông tới, uống một tô lớn, chưa đủ, lại làm thêm một bát nữa. Hai người đệ tử phái Hoa Sơn cũng uống mỗi người hai bát. Cả bọn đang đói, được mấy bát canh nóng vào bụng đều cảm thấy khỏe khoắn hẳn lên. Giản Tiệp còn vớt mấy tai nấm trong chảo ra, ăn nhồm nhoàm. Chẳng ai hỏi đến những cây nấm đó từ đâu mà có.
Giản Tiệp ăn hết mấy cây nấm rồi, giơ tay vỗ bụng, cười nói:
- - Ăn lót lòng trước, ăn thịt dê sau.
Tay trái nắm gáy Dương Bất Hối nhắc lên, tay phải giơ dao ra. Trương Vô Kỵ thấy cả bọn uống canh nấm xong chẳng sao cả, nghĩ thầm nấm này không độc, không khỏi kêu khổ thầm. Giản Tiệp bước tới hai bước, bỗng kêu lên:
- Ối chà.
Thân hình giật giật mấy cái, ngã khuỵu xuống đất, vứt luôn cả dao lẫn Dương Bất Hối sang một bên. Tiết Công Viễn kinh hãi gọi:
- Giản huynh, sao thế?
Y chạy đến cúi xuống xem, vừa mới cong lưng thì cũng không đứng lên được, gục luôn lên trên mình Giản Tiệp. Hai gã đệ tử phái Hoa Sơn cũng bị trúng độc chết luôn.
Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Tạ trời tạ đất.
Lăn đến bên con dao, thò tay chộp lấy, cắt dây trói cho Dương Bất Hối. Dương Bất Hối run rẩy, cắt trúng tay Vô Kỵ hai chỗ mới đứt được sợi dây. Hai người chết đi sống lại, vui sướng không cùng, ôm chặt lấy nhau. Một lúc sau, Vô Kỵ đi lại coi bốn người bọn Giản Tiệp, thấy người nào mặt cũng đen xì, bắp thịt co quắp, nằm chết trông thật đáng sợ, nghĩ thầm: "Độc vật giết được kẻ ác, cũng cứu được người lành". Liền đem bộ Vương Nạn Cô Độc Kinh trân trọng cất vào trong bọc, định bụng sau này sẽ từ từ nghiên cứu.
Trương Vô Kỵ dắt tay Dương Bất Hối tìm đường ra khỏi khu rừng. Còn đang lần mò, bỗng thấy phía đông có ánh lửa chiếu sáng, có bảy tám người tay cầm binh khí, xông xông đi tới. Trương Dương hai đứa vội chui vào trong cỏ lẩn trốn. Bọn người đó đi tới gần, thấy người đi đầu chính là Từ Đạt, tay trái giơ cao bó đuốc, tay phải cầm một cây giáo dài, lớn tiếng kêu lên:
- Bọn ác tặc thương thiên hại lý ăn thịt người kia, mau ra đây nạp mạng.
Cả bọn chạy vào trong rừng thấy bốn người bọn Giản Tiệp nằm chết dưới đất, đều thật kinh ngạc. Từ Đạt kêu lên:
- Trương huynh đệ, chú mày có sao không? Bọn ta đến cứu ngươi đây.
Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Từ đại ca, tôi ở đây.
Y từ trong bụi cỏ chui ra. Từ Đạt mừng lắm, vội bế y lên, nói:
- Trương huynh đệ, người hiệp nghĩa như chú mày, không nói gì trẻ con, mà đến người lớn cũng ít thấy. Ta vẫn sợ chú mày đã chết về tay bọn ác tặc này rồi, may sao ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, quả thực báo ứng không sai.
Y hỏi xem bọn Giản Tiết tại sao trúng độc, Trương Vô Kỵ liền kể chuyện bỏ nấm vào nồi nước, ai nấy đều phục y thông minh. Từ Đạt nói:
- Những người này đều là bạn tốt của ta, bọn họ đang giết một con bò, đang nấu trong chùa Hoàng Giác, ta đến gọi liền đi ngay. Thế nhưng nếu không phải Trương huynh đệ cơ trí, bọn ta đến thì cũng đã muộn rồi.
Sau đó đưa Trương Vô Kỵ đi giới thiệu từng người. Người mặt vuông tai lớn kia tên Thang Hòa, người anh khí phơi phới tên Đặng Dũ, người cao gầy mặt đen tên Hoa Vân, hai anh em trắng trẻo là Ngô Lương và Ngô Trinh. Sau cùng là một nhà sư, mặt mũi xấu xí, cằm đưa ra như lưỡi cày, mặt nổi từng cục đầy sẹo và nốt ruồi,, hai mắt sâu nhưng lấp lánh có thần. Từ Đạt nói:
- Vị này là Chu đại ca, tên Nguyên Chương, hiện nay đang tu ở chùa Hoàng Giác.
Hoa Vân cười:
- Nhưng hòa thượng này phong lưu khoái hoạt lắm, không thích tụng kinh lễ Phật, ngày nào cũng ăn nhậu.
Dương Bất Hối thấy tướng mạo xấu xí của Chu Nguyên Chương, sợ hãi, trốn ở sau lưng Vô Kỵ. Chu Nguyên Chương cười nói:
- Hòa thượng này hay ăn thịt nhưng không ăn thịt người, cô em đừng sợ.
Thang Hòa nói:
- Nồi thịt bò bọn mình nấu chắc giờ này chín rồi đó.
Hoa Vân nói:
- Đi mau lên, cô em. Để ta cõng.
Y liền cõng Dương Bất Hối hối hả rảo bước. Trương Vô Kỵ thấy những người này hào sảng nhanh nhẹn, trong lòng hết sức thích thú. Đi độ bốn năm dặm thì đến một cái miếu. Vào trong đại sảnh, đã ngửi thấy mùi thịt bò thơm phức. Ngô Lương kêu lên:
- Chín rồi, chín rồi.
Từ Đạt nói:
- Trương huynh đệ, ngươi ngồi đây nghỉ, để bọn ta vào lấy thịt bò ra.
Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối liền ngồi trên cái chiếu ngoài đại sảnh. Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ ... bảy người mỗi người một tay, bưng từng bát thịt lớn ra. Hai anh em Ngô Lương, Ngô Trinh thì đi lấy một vò rượu trắng, cả bọn ngồi ngay trước tượng Bồ Tát ăn nhậu. Vô Kỵ và Bất Hối đói đã mấy ngày, lúc này có thịt bò ăn, không nói cũng biết sướng là chừng nào. Hoa Vân nói:
- Từ đại ca, giáo qui của chúng ta cái gì cũng hay, thế nhưng mà không cho ăn thịt, xem ra có điểm không phải.
Trương Vô Kỵ trong lòng rung động, nghĩ thầm: "Thì ra bọn họ thuộc Minh giáo. Qui củ của Minh giáo chỉ ăn chay, thờ Ma vương, vậy sao họ lại ở đây ăn thịt bò".
Từ Đạt nói:
- Đệ nhất yếu nghĩa của giáo qui là "hành thiện khứ ác", ăn thịt tuy không tốt, nhưng chỉ là sau cùng. Hiện giờ đây mình không gạo không rau, không lẽ ngồi nhìn thịt bò mà chịu chết đói hay sao?
Đặng Dũ vỗ tay reo lên:
- Từ đại ca trước nay nói gì cũng đều đúng cả, thôi mình ăn đi, ăn đi.
Cả bọn đang ăn, bên ngoài bỗng có tiếng chân người, tiếp theo có người gõ cửa. Thang Hòa nhỏm dậy kêu lên:
- Bỏ cha, người nhà Trương viên ngoại tìm đến đây rồi.
Chỉ thấy cửa miếu bị người đẩy mở toang ra, hai tên đầy tớ ưỡn ngực sừng sộ đi vào. Một tên nói:
- Giỏi nhỉ, con bò đực của nhà viên ngoại, quả nhiên bọn bay ăn trộm về làm thịt rồi.
Nói rồi y xông tới nắm cổ Chu Nguyên Chương. Tên kia nói:
- Tên tặc hòa thượng này, hôm nay chứng cớ rành rành, hết chối nhé. Để ta giải ngươi lên quan phủ, đánh một trận cho chết luôn.
Chu Nguyên Chương cười đáp:
- Các ngươi chỉ nói láo thôi, sao dám vu cho bọn ta ăn trộm bò của nhà viên ngoại? Người xuất gia ăn chay niệm Phật, ngươi lại bảo ta ăn thịt, thật là tội lỗi.
Gã đầy tớ chỉ thịt bò trong bát, quát lên:
- Cái này không phải thịt bò thì là cái gì?
Chu Nguyên Chương đưa mắt cho những người kia, cười hì hì nói:
- Ai bảo là thịt bò?
Hai anh em Ngô Trinh, Ngô Lương đi đến đằng sau hai tên đầy tớ, quát lên một tiếng, nắm chặt tay của hai tên này. Chu Nguyên Chương lấy trong lưng ra một con dao ngắn, cười:
- Hai vị đại ca, quả không dám dấu., thịt bọn ta đang ăn không phải thịt bò, mà là thịt người. Hôm nay bọn ngươi thấy rồi, đành phải ăn thịt luôn cả hai để diệt khẩu, khỏi tiết lộ ra ngoài.
Nghe xoẹt một tiếng, y đã xé rách áo của một tên gia nhân, để lộ ngực ra, dùng mũi dao rạch một đường. Tên đầy tớ kinh hãi, luôn mồm kêu:
- Tha ... tha cho tôi ...
Chu Nguyên Chương bốc một nắm thịt, chia ra nhét vào mồm hai tên này, quát:
- Nuốt mau.
Hai đứa không dám nhai, trợn trạo nuốt xuống bụng. Chu Nguyên Chương lại chạy xuống bếp, lấy thêm một nắm lông bò, nhét vào mồm chúng, quát:
- Nuốt ngay.
Hái đứa lại nhăn nhó nuốt cho hết. Chu Nguyên Chương cười:
- Cho các ngươi về nói lại với viên ngoại là bọn ta ăn cắp con bò, cả bọn mổ bụng đối chất, để xem ai ăn thịt bò mà không chịu nhổ cho sạch lông.
Y lật con dao, dùng sống dao lướt nhẹ trên bụng tên đầy tớ. Tên đó thấy con dao lạnh như băng lướt trên bụng, sợ quá kêu toáng lên.
Hai anh em họ Ngô cười lên ha hả, giơ chân đạp vào mông hai tên đầy tớ, đá văng ra bên ngoài điện. Cả bọn yên tâm ngồi ăn tiếp, cười hai tên đầy tớ mua lấy cái khổ, bình thời hay ỷ thế Trương viên ngoại, hà hiếp dân làng, nay sợ bị mổ bụng đối chất, hẳn không dám nói lại là bọn họ ăn cắp bò.
Trương Vô Kỵ vừa tức cười, vừa bội phục, nghĩ thầm: "Hòa thượng họ Chu này tuy diện mạo khó coi, nhưng hành sự thật là nhanh nhẹn quả quyết, chế phục người khác không sao chống trả được, thủ đoạn quả là ghê gớm".
Chu Nguyên Chương đã nghe Từ Đạt nói qua, Trương Vô Kỵ xả thân chịu chết để cứu Dương Bất Hối, cảm mến cái tính tình hiệp nghĩa của cậu bé, không giống như những trẻ con bình thường, nên rót rượu mời ăn, coi y chẳng khác gì một người bạn thân.
Ăn uống đến khi say sưa, Đặng Dũ bỗng thở dài:
- Người Hán chúng ta bị bọn rợ Hồ áp bức, trăm cay nghìn đắng, đến nay cơm không có mà ăn, cảnh này làm sao chịu cho nổi?
Hoa Vân vỗ đùi:
- Mắt thấy dân chúng ở phủ Phượng Dương này chết đói đến một nửa rồi, xem ra thiên hạ chỗ nào cũng thế, chẳng lẽ giương mắt chịu chết đói, thà bằng sống mái một trận với bọn Thát tử còn hơn.
Từ Đạt lớn tiếng nói:
- Hiện nay người giết người như giết con chó, chú em và cô bé này suýt nữa thì vào bụng người khác rồi. Trong thiên hạ biết bao nhiêu lương dân bách tính biến thành dê thành bò cho người khác ăn? Là kẻ nam tử Hán, đại trượng phu không biết cứu dân chúng ra khỏi nơi nước lửa, có sống cũng bằng thừa.
Thang Hòa nói:
- - Đúng thế, hôm nay bọn mình hên, ăn cắp được một con bò mà ăn, ngày mai chắc gì đã trộm được con khác? Nói đúng ra, trên đời nay chẳng mấy ai đủ ăn, chẳng lẽ anh hùng hào kiệt ai ai cũng thành trộm cướp cả hay sao?
Cả bọn càng nói càng phẫn uất, ai cũng lớn tiếng chửi bọn Mông Cổ hại người. Chu Nguyên Chương nói:
- Bọn mình ngồi đây chửi ngàn câu, vạn câu liệu bọn Thát tử có rụng cái lông nào không? Là Hán tử có lòng thì kéo nhau đi giết chúng mới hay.
Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, anh em họ Ngô cả bọn đều đồng thanh kêu lên:
- Đi, đi ngay.
Từ Đạt nói:
- Chu đại ca, anh làm hòa thượng xem không còn ổn nữa rồi. Đại ca tuổi lớn hơn cả, tất cả anh em nghe lệnh anh.
Chu Nguyên Chương không từ chối, nói:
- Từ nay trở đi anh em mình đồng sinh cộng tử, có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu.
Cả bọn đều bưng chén lên uống cạn, rút dao chém lên bàn, hào khí ngất trời.
Dương Bất Hối thấy mọi người làm như thế không biết chuyện gì, trong lòng sợ hãi. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Thái sư phụ vẫn thường căn dặn đừng nên kết giao với người của Ma giáo. Thế nhưng Thường đại ca và bọn Từ đại ca này đều là người Ma giáo, so với bọn đệ tử danh môn chính phái như Giản Tiệp, Tiết Công Viễn, lại tốt gấp vạn lần". Y trước nay đối với Trương Tam Phong hết sức kính phục, thế nhưng từ khi có những kinh lịch bản thân, thấy thái sư phụ đối với người Ma giáo không khỏi thiên kiến. Tuy vậy y vẫn không dám trái lời dạy của thái sư phụ.
Chu Nguyên Chương nói:
- Hảo hán tử nói là làm, bây giờ mình ăn no rồi, hành sự là vừa. Nhà Trương viên ngoại hôm nay làm tiệc thết đãi bọn Thát tử, bọn mình tới đó giết sạch chúng đi.
Hoa Vân nói:
- Được lắm.
Nói xong cầm đao đứng lên. Từ Đạt nói:
- Khoan đã,.
Y chạy xuống bếp lấy một cái giỏ, bỏ vào mười bốn, mười lăm cân thịt bò chín, đưa cho Trương Vô Kỵ:
- Trương huynh đệ, chú em tuổi còn nhỏ, không thể theo bọn ta đi làm công việc giết quan tạo phản được. Anh em ta ai cũng nghèo rớt mồng tơi, không có tiền bạc gì, đành tặng cho chú em vài cân thịt. Nếu như anh em bọn ta không chết, sau này sẽ gặp lại nhau, mình sẽ lại cùng nhau chén một bữa thịt bò.
Trương Vô Kỵ cầm lấy cái giỏ, nói:
- Chỉ mong các vị kiến lập đại công, đuổi sạch bọn Thát tử, để cả thiên hạ ai cũng có cơm ăn.
Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ cả bọn nghe thế, ai nấy vỗ tay khen ngợi, nói:
- Trương huynh đệ, chú mày nói đúng lắm, bọn mình sẽ gặp nhau sau.
Nói xong cả bọn xách đao cùng ra khỏi miếu. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Bọn họ đi giết Thát tử, nếu như mình không bận dẫn tiểu muội tử, thì cũng đi theo họ rồi. Tuy nhiên họ chỉ có bảy người, ắt sẽ vào thế ít không chống được nhiều, thể nào bọn Thát tử và tráng đinh trong nhà Trương viên ngoại cũng sẽ đuổi đến đây, mình không thể ở cái miếu này được nữa". Nghĩ thế y bèn xách giỏ thịt cùng Dương Bất Hối ra đi.
Trong đêm tối hai đứa trẻ đi được độ bốn năm dặm, thấy phương bắc lửa hồng rực cả một góc trời, thế thật ác liệt, biết bọn Chu Nguyên Chương, Từ Đạt đã làm xong việc, đốt trang viện của Trương viên ngoại rồi, trong lòng rất vui vẻ. Đêm hôm đó hai anh em ngủ trong núi, đến sáng thì theo hướng tây mà đi.
Hai đứa trẻ đi đường xa phải chịu biết bao phong sương đói rét, nói sao cho hết. Cũng may cha mẹ Dương Bất Hối đều là danh gia võ học, thể chất tiên thiên khỏe mạnh, tuy nhỏ thế mà đi đường xa cũng không bệnh tật gì, thỉnh thoảng cảm mạo sơ sài, Trương Vô Kỵ hái ít thảo dược, cho nó uống là hết ngay. Thế nhưng hai đứa vừa đi vừa nghỉ, mỗi ngày chỉ được hai ba chục dặm, mười lăm mười sáu ngày, mới đến địa phận tỉnh Hà Nam. Tỉnh Hà Nam so với An Huy cũng không khác gì bao nhiêu, chỗ nào cũng đói khổ. Trương Vô Kỵ làm một bộ cung tên, bắn chim săn thú, bữa đói bữa no, cùng Dương Bất Hối chầm chậm đi về hướng tây.
Cũng may trên đường hai đứa không gặp quan binh Mông Cổ, cũng không gặp nhân vật giang hồ, còn như bọn vô lại gian manh tầm thường có ý muốn cướp đoạt thì đâu phải là đối thủ của Trương Vô Kỵ.
Một hôm y gặp một ông già đứng nói chuyện chơi, nói định đi đến ngọn Tọa Vong Phong trong dãy Côn Lôn. Ông già trợn tròn mắt, kinh ngạc đến thừ người ra, nói:
- Này chú em, núi Côn Lôn cách đây đến mười vạn tám nghìn dặm, nghe nói ngày xưa chỉ có Đường tăng đi thỉnh kinh, mới đi đến đó thôi. Hai đứa còn nhỏ, liệu có điên không? Cửa nhà các ngươi ở chỗ nào mau mau đi về.
Trương Vô Kỵ nghe nói thế không khỏi sờn lòng, nghĩ thầm: "Núi Côn Lôn ở xa thế, làm sao mình đến đó được, đành phải đi về núi Võ Đương gặp thái sư phụ rồi hãy hay". Thế nhưng y lại nghĩ: "Ta nhận trọng thác của người, dù đường có xa, không thể giữa đường bỏ cuộc. Thọ mệnh của ta không được bao lâu nữa, nếu trước khi chết không đưa được em Bất Hối đến nơi thì quả là không phải đối với Kỷ cô cô". Y không nói chuyện thêm với ông già đó nữa, cầm tay Dương Bất Hối lên đường đi tiếp.
Lại đi thêm hai mươi ngày nữa, quần áo hai đứa trẻ đã rách bươm, mặt mày tiều tụy. Cái khổ nhất của Vô Kỵ là thỉnh thoảng Dương Bất Hối lại nhớ mẹ, hỏi sao mãi mẹ nó không từ trên trời bay xuống, lại khóc một hồi lâu. Trương Vô Kỵ phải dùng đủ cách cho nó tin là cứ đi mãi về hướng tây là sẽ gặp mẹ, rồi kể chuyện cho nó nghe, nhăn mặt làm hề, con bé mới đổi khóc thành cười.
Hôm đó khi đến Trú Mã Điếm[1], đã đến thời cuối thu đầu đông, gió bấc thổi đến, hai đứa trẻ quần áo mỏng manh, không khỏi lạnh run. Trương Vô Kỵ cởi chiếc áo ngoài rách nát ra cho Dương Bất Hối mặc thêm. Dương Bất Hối nói:
- Vô Kỵ ca ca, anh không lạnh ư?
Trương Vô Kỵ nói:
- Anh không lạnh, nóng thì có.
Y nhảy lên nhảy xuống mấy cái. Dương Bất Hối nói:
- Anh tử tế với em quá. Anh cũng lạnh mà lại cởi áo cho em mặc.
Con bé tự nhiên nói một câu như người lớn khiến Trương Vô Kỵ không khỏi ngạc nhiên. Ngay lúc đó, bỗng nghe từ triền núi phía sau truyền đến tiếng binh khí giao đấu loảng xoảng, tiếp theo là tiếng chân người, một người đàn bà lên tiếng:
- Ác tặc, ngươi trúng phải Táng Môn Đinh có tẩm độc của ta rồi, càng chạy nhanh thì càng mau phát tác.
Trương Vô Kỵ vội vàng kéo tay Dương Bất Hối chui vào trong đám cỏ bên đường nằm xuống, thấy một tráng hán chừng ba mươi tuổi chạy đến, đằng sau vài trượng có một người đàn bà cầm song đao đuổi theo. Người đàn ông chân hơi khập khiễng, đột nhiên quị xuống, ngã lăn ra đất. Người đàn bà đuổi tới nơi, kêu lên:
- Cuối cùng rồi ngươi cũng chết dưới tay cô nương.
Hán tử từ dưới đất bỗng nhảy vọt lên, chưởng phải đánh ra, nghe bịch một cái trúng ngay ngực cô gái. Cú đánh đó lực đạo cương mãnh, cô gái kia liền ngã ngửa ra, hai thanh đao trong tay văng ra xa. Người đàn ông liền rút Táng Môn Đinh cắm trên lưng mình ra, hậm hực nói:
- Mau lấy giải dược ra.
Người con gái cười khẩy:
- Lần này sư phụ sai bọn ta đuổi bắt ngươi, chỉ đưa ám khí tẩm độc, không cho thuốc giải. Ta bị rơi vào tay ngươi, làm gì cũng phải chịu. Có điều ngươi không có hi vọng gì sống được đâu.
Hán tử nọ lấy tay trái cầm đao chỉ ngay yết hầu cô gái, tay phải mò trong túi áo kiếm, quả nhiên không thấy thuốc giải. Y tức giận lắm, cầm cái Táng Môn Đinh có tẩm độc kia ném mạnh, cắm sâu vào vai cô gái, quát lên:
- Để cho ngươi thưởng thức mùi vị của chất độc Táng Môn Đinh, phái Côn Lôn các ngươi ...
Câu nói chưa dứt, thuốc độc trên lưng phát tác, người nhũn ra nằm phịch xuống. Cô gái kia cố gượng đứng dậy, nhưng ọe một tiếng thổ ra một ngụm máu tươi, rồi lại ngồi bệt xuống, rút Táng Môn Đinh trên vai ra vứt xuống đất.
Một trai một gái nằm trên bãi cỏ bên cạnh đường, hô hấp khó khăn, ho liên tiếp. Trương Vô Kỵ từ khi chữa bệnh cho Giản Tiệp, Tiết Công Viễn lại gặp ác báo đến giờ, đối với người trong võ lâm có lòng dè dặt, lúc này nằm một bên quan sát động tĩnh, không dám thò đầu ra. Một lát sau, nghe người đàn ông thở dài một tiếng, nói:
- Tô Tập Chi này hôm nay táng mệnh ở Trú Mã Điếm, không biết có tội gì với phái Côn Lôn các ngươi, quả thật chết không nhắm mắt được. Các ngươi đuổi theo ta đến mấy ngàn dặm, không giết ta không xong, cũng vì cớ gì thế? Chiêm cô nương, cô có lòng tốt nói cho tôi nghe nào.
Lời nói xem ra không có gì thù hằn nhau cả. Cô gái kia tên Chiêm Xuân biết sự ghê gớm của chất độc trên Táng Môn Đinh, trước mắt thấy mình với y cả hai cùng chết, bao nhiêu oán thù đều tan ra mây khói, buồn bã nói:
- Ai bảo ngươi coi lén sư phụ ta luyện kiếm, pho Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm đó nếu không phải do đích thân lão nhân gia truyền thụ, bản môn đệ tử mà nhìn trộm cũng đã bị tội móc mắt rồi, huống chi là người ngoài.
Tô Tập Chi "A" lên một tiếng, nói:
- Con mẹ nó, đáng chết lắm, đáng chết lắm.
Chiêm Xuân giận dữ nói:
- Ngươi chết đầu nước rồi, sao còn dám chửi sư phụ ta?
Tô Tập Chi nói:
- Ta chửi thì đã sao? Thế không phải oan uổng ư? Ta trên đường đi qua núi Bạch Ngưu, vô ý thấy sư phụ cô luyện kiếm, lấy làm hiếu kỳ mới đứng coi một lúc. Không lẽ ta chỉ nhìn một lát mà đã học hết pho kiếm pháp ấy hay sao? Nếu tôi thực có chút tài cán, mấy đệ tử Côn Lôn làm gì được nào? Chiêm cô nương, để tôi nói cô nghe này, sư phụ cô Thiết Cầm tiên sinh bụng dạ nhỏ nhen quá, không nói chuyện tôi chưa học được một chiêu nửa thức nào trong Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm, mà dù có học được vài chiêu cũng không thể coi là tử tội được.
Chiêm Xuân lặng yên không nói nhưng trong bụng cũng thấy sư phụ quả là chuyện bé xé ra to, chỉ mới thấy Tô Tập Chi lén coi kiếm pháp liền phái sáu đệ tử đuổi theo hàng nghìn dặm giết cho bằng được, để đến tình trạng lưỡng bại câu thương, sự đến thế này quả thật y không còn nói láo làm gì, việc y không học lén võ công có lẽ là sự thật.
Tô Tập Chi nói tiếp:
- Ông ta đưa cho các ngươi ám khí tẩm thuốc độc, lại không cho giải dược, trong võ lâm làm gì có qui củ đó? Con mẹ nó ...
Chiêm Xuân nhỏ nhẹ nói:
- Tô đại ca, tiểu muội hại đại ca, lúc này trong bụng quả thật là hối hận, nhưng chính tiểu muội cũng chết theo, âu cũng là cái số. Chỉ khổ cho trong nhà anh, bà chị cùng các cháu, cái đó mới đáng kể.
Tô Tập Chi thở dài:
- Vợ tôi hai năm trước qua đời rồi, để lại hai đứa con một trai một gái, một đứa lên sáu, một đứa lên bốn, ngày mai là thành mồ côi không cha không mẹ rồi.
Chiêm Xuân hỏi:
- Thế trong nhà còn ai nữa không? Có ai chăm sóc cho hai đứa nhỏ không?
Tô Tập Chi nói:
- Hiện nay thì bà chị dâu tôi trông nom. Bà chị dâu tôi tính tình dữ tợn, điêu ngoa lắm, còn tôi thì còn e ngại vài phần. Ôi, từ nay hai đứa trẻ chắc sẽ khốn khổ lắm.
Chiêm Xuân nói nhỏ:
- Âu cũng tại em gây ra cái tội nghiệt này.
Tô Tập Chi lắc đầu:
- Cái đó cũng không trách cô được. Cô phụng nghiêm lệnh của sư môn, không thể không tuân theo, chính cô cũng chẳng có oán cừu gì với tôi cả. Đúng ra, tôi trúng ám khí tẩm độc của cô rồi, chết thì đã đành, tại sao lại còn đánh cô một chưởng, lại dùng ám khí đả thương cô? Nếu không tôi cứ tình thực nói ra, cô có lòng tốt, sẽ có cách lo liệu cho hai đứa con khốn khổ của tôi.
Chiêm Xuân cười buồn:
- Tôi là hung thủ làm chết anh, sao anh còn nói tôi có lòng tốt.
Tô Tập Chi nói:
- Tôi không trách gì cô đâu, thực đó, không trách gì đâu.
Mới hồi nãy hai người xả thân ác đấu, bây giờ cùng sắp chết đến nơi, lưu luyến cuộc đời nên nói ra toàn điều nhân thiện. Trương Vô Kỵ nghe đến đây, nghĩ thầm: "Một nam một nữ này xem chừng tâm địa không ác độc, huống chi trong nhà gã họ Tô kia còn hai đứa trẻ con". Nghĩ đến mình và Dương Bất Hối là hai đứa trẻ mồ côi khổ sở, liền từ trong đám cỏ chui ra, nói:
- Chiêm cô nương, trên Táng Môn Đinh của cô tẩm loại thuốc độc gì?
Chiêm Xuân và Tô Tập Chi hai người bỗng thấy trong bụi cỏ chui ra một thiếu niên, một cô gái nhỏ, lấy làm kỳ quái, nghe Trương Vô Kỵ hỏi như thế đều kinh ngạc. Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi biết chút y lý, vết thương trúng độc của hai vị, chưa hẳn không thể cứu được đâu.
Chiêm Xuân nói:
- Loại độc dược gì, tôi cũng không biết. Vết thương lúc này ngứa chịu không nổi. Sư phụ tôi nói rằng, trúng Táng Môn Đinh rồi, chỉ còn sống được bốn giờ thôi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Để tôi xem vết thương ra sao.
Tô Chiêm hai người thấy y tuổi nhỏ, quần áo rách rưới, toàn thân dơ dáy, trông không khác gì một thằng ăn mày con, làm sao tin rằng y có thể trị độc. Tô Tập Chi sẵng giọng nói:
- Hai người chúng tôi chỉ còn khoảnh khắc là chết rồi, trẻ con đừng ở đây làm phiền nhiễu, mau cút ra xa xa đi.
Trương Vô Kỵ không thèm để ý tới y, nhặt chiếc Táng Môn Đinh ở dưới đất lên, đưa lên mũi thấy có mùi thơm nhè nhẹ như hoa lan. Trong mấy hôm nay, trên đường đi mỗi khi có thì giờ rảnh rỗi, đều ngồi đọc quyển Độc Kinh của Vương Nạn Cô để lại, nên các loại độc vật độc dược thiên kỳ bách quái trong thiên hạ đều ghi nhớ trong lòng. Thành thử khi y vừa ngửi thấy mùi hương, biết ngay trên mũi Táng Môn Đinh này có tẩm chất nước độc lấy từ hoa Thanh Đà La. Trong Độc Kinh có viết loại trấp dịch lấy từ loại hoa này vốn dĩ tanh hôi, không có độc tính, dù uống cả bát cũng không có hại, thế nhưng khi trộn với máu tươi sẽ trở thành kịch độc, mùi hôi lại biến thành mùi thơm. Y liền nói:
- Đinh này tẩm chất độc của hoa Thanh Đà La.
Chiêm Xuân cũng không biết trên mũi Táng Môn Đinh có tẩm loại độc dược gì, thế nhưng nàng biết trong vườn của sư phụ quả có trồng loại kỳ hoa này nên lạ lùng hỏi:
- Ồ, sao cậu biết?
Nên biết hoa Thanh Đà La rất là khó thấy, gốc ở Tây Vực xưa nay không hề có nơi trung thổ. Trương Vô Kỵ gật đầu, nói:
- Tôi biết chứ.
Y cầm tay Dương Bất Hối, nói:
- Chúng tôi đi đây.
Chiêm Xuân vội gọi:
- Tiểu huynh đệ, nếu cậu biết cách chữa, xin cậu ra tay cứu hai người chúng tôi.
Trương Vô Kỵ vốn dĩ có lòng muốn cứu, nhưng bỗng nhớ tới khuôn mặt hung ác của bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn khi định ăn thịt hai đứa, không khỏi chần chừ. Tô Tập Chi nói:
- Tiểu tướng công, tại hạ có mắt không biết cao nhân, xin đừng bắt lỗi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Được rồi, để tôi thử xem sao.
Y lấy kim châm, châm vào huyệt Đản Trung ở trên ngực, và huyệt Khuyết Bồn ở hai bên vai của Chiêm Xuân, để chặn cơn đau chưởng thương rồi nói:
- Hoa Thanh Đà La này gặp máu mới thành độc, vào trong bụng lại không sao. Hai vị bây giờ người nọ hút máu ở vết thương cho người kia, bao giờ trong máu không còn đóng cục nữa thì thôi.
Tô Tập Chi và Chiêm Xuân cả hai đều thấy hơi bất tiện, nhưng lúc này tính mệnh là quan trọng, vết thương lại ở trên vai, sau lưng không thể tự mình hút lấy được đành phải thay phiên người nọ hút máu cho người kia. Trương Vô Kỵ đi tìm trong sườn núi ba loại thảo dược, nhai nhuyễn rồi đắp lên vết thương cho hai người, nói:
- Ba vị thuốc này chỉ giúp chất độc tạm thời không xông lên chứ không có thể giải độc. Bây giờ mình đi đến thị trấn nào gần đây, tìm dược phòng, tôi sẽ kê toa để liệu độc cho hai vị.
Vế thương của Tô Chiêm vốn dĩ cực kỳ ngứa ngáy không chịu nổi, nay đắp thuốc lên, thấy mát mẻ dễ chịu, tay chân cũng hết tê bại, nên luôn mồm cám ơn. Hai người chặt hai cành cây làm gậy chống, chầm chậm bước đi. Chiêm Xuân hỏi sư thừa lai lịch của Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ không muốn nói rõ, chỉ nói từ bé đã biết qua thuốc men.
Đi độ hơn một tiếng đồng hồ thì đến Sa Hà Điếm, bốn người thuê phòng nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ viết một cái toa, Tô Tập Chi liền nhờ người chủ phòng đi cắt thuốc. Năm đó một dải Dự Tây không bị thiên tai, tuy người Mông Cổ có bá đạo tàn nhẫn không khác gì các nơi, nhưng dân chúng cũng còn cơm ăn, Sa Hà Điếm vì thế hàng quán vẫn mở như thường. Người chủ quán đem thuốc về, Trương Vô Kỵ liền sắc lên, cho Tô Tập Chi và Chiêm Xuân uống.
Bốn người ở tại khách điếm ba ngày, Trương Vô Kỵ mỗi ngày lại đổi toa thuốc, trong uống ngoài thoa, đến ngày thứ tư, chất độc trong người Tô, Chiêm đã trục ra hết. Hai người hết sức cảm kích, hỏi thăm Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối đang định đi đâu. Trương Vô Kỵ liền nói địa danh Tọa Vong Phong trong dãy núi Côn Lôn.
Chiêm Xuân nói:
- Tô đại ca, tính mạng của hai người mình toàn do vị tiểu huynh đệ này cứu, thế nhưng năm người sư huynh vẫn đi khắp nơi tìm anh, thành thử việc này chưa xong đâu. Vậy đại ca đi theo tôi lên núi Côn Lôn một phen, anh nghĩ sao?
Tô Tập Chi giật mình kinh hãi, nói:
- Lên núi Côn Lôn ư?
Chiêm Xuân nói:
- Đúng thế. Anh đi cùng với tôi đến bái kiến gia sư, nói rõ anh chưa hề học được một chiêu nửa thức nào của Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm cả. Việc này nếu không được chính lão nhân gia tha thứ, đời anh sau này họa hoạn không biết đâu mà lường.
Tô Tập Chi trong bụng tức giận, nói:
- Phái Côn Lôn các ngươi thật chèn ép người quá lắm, ta chỉ mới nhìn qua một chút, vậy mà suýt nữa đến quỉ môn quan, thế mà cũng vẫn chưa xong.
Chiêm Xuân dịu dàng nói:
- Tô đại ca, xin anh đặt mình vào tình cảnh của tiểu muội mà tha thứ cho. Việc em về nói với sư phụ là anh thực sự chưa học được chút kiếm pháp nào thì cũng không phải là gì khó khăn, thế nhưng nếu năm vị sư huynh nếu lại ra tay đả thương anh, lòng tiểu muội làm sao chịu được.
Hai người sống chết cùng nhau mấy hôm nay, trong lòng đã sinh tình ý, Tô Tập Chi nghe nàng nói lời chân thành ôn nhu kia, bao nhiêu bực tức trong lòng tiêu tán hết, nghĩ thầm: "Phái Côn Lôn người nhiều thế mạnh, nếu họ cứ như bóng ma không tan theo đuổi mình hoài, phải có ngày chết dưới tay họ mới thôi". Chiêm Xuân thấy y trầm ngâm, lại nói:
- Anh chịu khó đi theo em một chuyến. Nếu anh có chuyện gì gấp gáp, sau khi mình về núi Côn Lôn rồi, tiểu muội sẽ đi cùng với đại ca lo liệu cho.
Tô Tập Chi mừng nói:
- Được rồi, cứ như thế vậy. Nhưng không biết tôn sư có chịu tin không?
Chiêm Xuân nói:
- Trước nay sư phụ vẫn yêu thương em, em năn nỉ một hồi, thể nào cũng không làm khó gì anh đâu. Việc này xong rồi, tiểu muội sẽ đi thăm con trai, con gái anh để cho chúng nó khỏi bị bà chị dâu hành hạ.
Tô Tập Chi thấy nàng nói như thế, rõ ràng có ý hứa hẹn, trong lòng mừng lắm, nói với Trương Vô Kỵ:
- Tiểu huynh đệ, tất cả bọn mình lên núi Côn Lôn, cùng đi với nhau cho có bạn đồng hành.
Chiêm Xuân nói:
- Sơn mạch núi Côn Lôn dài hàng nghìn dặm, biết bao nhiêu ngọn, Tọa Vong Phong không biết ở chỗ nào. Thế nhưng phái Côn Lôn nếu muốn tìm ngọn núi Tọa Vong ắt sẽ kiếm ra.
Hôm sau Tô Tập Chi đi mướn một cỗ xe lớn, để cho Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối ngồi, còn mình và Chiêm Xuân cưỡi ngựa theo sau. Đi đến thị trấn lớn ở đằng trước, Chiêm Xuân lại đi mua cho Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối mấy bộ quần áo, thay đổi cho hai đứa. Tô Chiêm hai người thấy hai đứa trẻ tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới rồi, con trai tuấn nhã, con gái mỹ miều, đều lớn tiếng khen ngợi.
Hai đứa cho tới bây giờ mới khỏi cái cảnh khổ sở đường xa, ăn uống cũng khá, thân thể từ từ mập mạp lên. Càng đi về hướng tây, thời tiết mỗi ngày một lạnh, nhưng đường đi có Tô Tập Chi và Chiêm Xuân lo liệu nên mọi sự bình an. Đến Tây Vực rồi, phái Côn Lôn thế lực hùng mạnh, nên không có gì trở ngại, có điều cát vàng thổi vù vù vào mặt, gió lạnh thấu xương thực là khó chịu.
Cuối cùng rồi cũng đến Tam Thánh Ao[2] trong dãy Côn Lôn, khắp nơi cỏ xanh tươi tốt, hoa thơm cây trái. Tô Tập Chi và Trương Vô Kỵ không ngờ giữa nơi hoang sơn lạnh lẽo lại có một nơi đẹp đẽ đến thế nên thực hoan hỉ bội phần. Thì ra Tam Thánh Ao này bốn bề núi non cao vút tới tận mây xanh, chắn gió lạnh. Phái Côn Lôn trong bảy tám chục năm từ khi Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Đạo sáng lập đến nay, các đời chưởng môn hao phí không biết bao nhiêu công sức chỉnh đốn sơn ao này, sai các đệ tử tới tận Giang Nam ở phía đông, Thiên Trúc ở phía tây đem các loại kỳ hoa dị chủng đem về trồng.
Chiêm Xuân dẫn ba người đến Thiết Cầm Cư, nơi ở của Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung. Vừa mới bước vào, thấy sư huynh đệ tỉ muội ai ai cũng có vẻ buồn lo, gặp nàng chỉ nhẹ gật đầu, không nói năng gì cả. Chiêm Xuân trong lòng áy náy, không hiểu chuyện gì xảy ra, cầm tay một sư muội ra hỏi:
- Sư phụ có nhà không?
Người sư muội đó chưa kịp trả lời đã nghe tiếng quát tháo, mắng chửi của Hà Thái Xung từ hậu đường vọng ra:
- Rặt một phường giá áo túi cơm. Bao nhiêu chuyện bảo làm, không một chuyện nào làm xong cả. Có một bọn đệ tử ăn hại như chúng bay để làm gì?
Tiếp theo là một tiếng vỗ bàn vang dội. Chiêm Xuân nói nhỏ với Tô Tập Chi:
- Sư phụ đang bực mình, mình đừng vào gặp vội, ngày mai hãy tính.
Hà Thái Xung đột nhiên gọi:
- Có phải Xuân nhi đó không? Sao thập thà thập thò gì ngoài đó? Thủ cấp của Tô tiểu tặc có chưa?
Chiêm Xuân mặt liền biến sắc, vội đi vào nội sảnh, quì xuống khấu đầu, thưa:
- Đệ tử bái kiến sư phụ.
Hà Thái Xung nói:
- Việc ta sai ngươi đi làm đến đâu rồi? Tên tiểu tặc họ Tô ra sao?
Chiêm Xuân đáp:
- Tên họ Tô hiện đang ở bên ngoài, đến để khấu đầu tạ tội với sư phụ. Y nói y không biết qui củ, quả thực đã sơ sót xem sư phụ thi diễn kiếm pháp, nhưng kiếm pháp bản phái tinh vi áo diệu nên y xem rồi, chỉ biết đây là một loại kiếm thuật thiên hạ vô song, thế nhưng hay ở chỗ nào, chỉ biết là hay nhưng lại không lãnh hội được.
Nàng theo học sư phụ đã lâu, biết ông ta rất tự phụ về võ công, nên nói Tô Tập Chi cực lực ca ngợi võ công bản môn, sư phụ thể nào cũng cao hứng mà tha tội cho anh chàng ta.
Nếu phải lúc bình thời, cái câu khen nịnh ấy thể nào Hà Thái Xung cũng khoái chí lắm, nhưng hôm nay trong lòng ông ta đang bực bội, chỉ hừ một tiếng, nói:
- Việc này ngươi làm khá lắm. Đem giam tên họ Tô tại thạch thất phía sau núi, ta sẽ phát lạc sau.
Chiêm Xuân thấy sư phụ đang giận, không dám mở miệng cầu xin, liền nói:
- Vâng.
Lại hỏi tiếp:
- Các sư mẫu đều khỏe? Để con ra sau khấu đầu.
Hà Thái Xung có cả thảy năm người thê lẫn thiếp, sủng ái nhất là tiểu thiếp thứ năm. Chiêm Xuân muốn xin sư phụ tha cho Tô Tập Chi nên định nói với bà ngũ sư mẫu này xin hộ. Hà Thái Xung trên mặt lộ vẻ buồn rầu, thở dài một tiếng nói:
- Ngươi xuống thăm cô năm cũng phải, cô ấy bệnh nặng lắm, ngươi may về kịp gặp được một lần.
Chiêm Xuân giật mình kinh hãi nói:
- Cô năm không khỏe ư? Không hiểu bệnh gì thế?
Hà Thái Xung thở dài:
- Biết được bệnh gì thì đã hay. Đã gọi đến bảy tám thầy thuốc có tiếng đến xem, vậy mà đến bệnh gì cũng không nói được, toàn thân sưng vù, một người như hoa tựa ngọc, vậy mà phù lên ... ôi, không muốn nói nữa ...
Nói đến đây y liên tiếp lắc đầu, nói thêm:
- Thu bao nhiêu là đồ đệ, không đứa nào làm được việc gì. Bảo chúng nó đi đến núi Trường Bạch kiếm thiên niên lão sơn nhân sâm đã hai tháng rồi, chưa đứa nào về, bảo chúng nó đi kiếm tuyết liên, thủ ô để cứu mạng, cũng chỉ về tay không.
Chiêm Xuân nghĩ thầm: "Từ đây đến núi Trường Bạch đường xa vạn dặm, đâu phải đến là về ngay. Đến được Trường Bạch Sơn, chắc gì đã kiếm được nhân sâm nghìn năm. Còn như tuyết liên, thủ ô các loại thuốc trân quí có thể khởi tử hoàn sinh, kiếm cả đời chưa chắc đã thấy, trong một lúc làm sao kiếm cho ra?" Nàng biết sư phụ cưng cô tiểu thiếp này chẳng khác gì tính mệnh mình, nay cô ta bệnh nặng không trị được nên giận cá chém thớt, đổ tội lên đầu người khác.
Hà Thái Xung lại nói:
- Ta đã dùng nội lực thử kinh mạch cô ta, không thấy điểm nào khác lạ. Hừ hừ, cô năm mà không sống được ta sẽ giết sạch bọn lang băm trong thiên hạ.
Chiêm Xuân nói:
- Để đệ tử xuống thăm.
Hà Thái Xung nói:
- Được, để ta đưa ngươi đi.
Hai thầy trò cùng xuống phòng ngủ của cô năm. Chiêm Xuân vừa bước vào đã ngửi thấy toàn là mùi thuốc, vén màn lên, chỉ thấy mặt cô ta sưng phù lên như Trư Bát Giới, hai mắt híp sâu vào trong thịt, không mở ra nổi, hơi thở gấp gáp, như đang kéo bễ. Ngũ cô vốn dĩ là một mỹ nhân, nếu không Hà Thái Xung đâu có mê say đến thế, lúc này bệnh hoạn, biến thành xấu xí, Chiêm Xuân trông thấy không khỏi sờn lòng. Hà Thái Xung nói:
- Gọi bọn lang băm ra đây xem nào.
Bà vú phục thị trong phòng vội vàng vâng dạ, đi ra. Một lúc sau, nghe thấy tiếng xích kêu loảng xoảng, đi vào bảy ông thầy lang. Bảy người chân đều bị xích dính liền với nhau, hình dung tiều tụy, thần sắc buồn khổ. Những người đó đều là thầy thuốc có tiếng ở Tứ Xuyên, Vân Nam, Cam Túc, bị Hà Thái Xung cho đệ tử đến nửa mời nửa bắt đem về đây. Thế nhưng bảy người danh y định bệnh mỗi người một khác, người thì bảo là phù thủng, người thì bảo là trúng tà, cho toa cắt thuốc rồi, uống không hiệu nghiệm, thân thể cô năm mỗi ngày một sưng thêm. Hà Thái Xung nổi giận, đem bảy vị danh y xiềng lại, nói là nếu cô năm trị không hết, bảy tên lang băm - danh y nay biến thành lang băm - sẽ bị chôn sống theo.
Bảy người thầy lang trổ hết tài nghệ bình sinh, nhưng bệnh cô năm ngày càng sưng, ai cũng lo tính mệnh mình sẽ chẳng còn, mỗi lần hội chẩn, đều lớn tiếng cãi cọ liên miên, người này chê bai sáu người còn lại, nói cô năm sở dĩ nặng thêm, toàn là do bọn kia làm hại, còn mình vô can. Lần này bảy người tiến vào, chẩn mạch xong, ba điều bốn chuyện, lại bắt đầu tranh chấp. Hà Thái Xung lo quá hóa giận, lớn tiếng mắng chửi mới át được tiếng bọn danh y biến thành lang băm kia.
Chiêm Xuân bỗng chợt nghĩ ra, nói:
- Sư phụ, con có đem từ Hà Nam về một thầy lang, tuổi tác tuy còn nhỏ, bản lãnh so với mấy người này còn cao hơn.
Hà Thái Xung mừng quá, kêu lên:
- Sao con không nói sớm, mời vào mau, mời mau.
Mỗi vị danh y khi mới đến, y đều đối đãi cực kỳ cung kính, thế nhưng khi từ "danh y" biết thành "dung y" rồi, y sẽ không còn nể nang gì nữa. Chiêm Xuân quay lại đại sảnh, dẫn Trương Vô Kỵ vào. Trương Vô Kỵ vừa gặp Hà Thái Xung, nhận ngay ra y có mặt trong đám người năm xưa lên núi Võ Đương bức tử cha mẹ mình, lòng không khỏi căm hận. Thế nhưng Trương Vô Kỵ xa cách đã bốn năm năm, mặt mày thân thể biến đổi rất nhiều, Hà Thái Xung không sao nhận ra được, thấy chỉ là một thiếu niên mười bốn, mười lăm, gặp mình lại không khấu đầu hành lễ, chỉ khinh khỉnh nhìn, thần sắc hết sức lạnh nhạt, nên cũng không thèm lý đến, quay sang hỏi Chiêm Xuân:
- Con bảo thầy thuốc nào đâu?
Chiêm Xuân đáp:
- Chính là chú em này đây. Y đạo của y thật là tinh thâm, xem ra còn giỏi hơn nhiều danh y khác.
Hà Thái Xung đời nào chịu tin, nói:
- Vô lý, vô lý.
Chiêm Xuân đáp:
- Đệ tử trúng phải độc chất của hoa Thanh Đà La, chính nhờ chú ta trị khỏi đó.
Hà Thái Xung kinh ngạc, nghĩ thầm: "Nếu không có giải dược của môn phái mình, trúng phải chất độc của hoa Thanh Đà La đều chắc chắn chết, tiểu tử này có thể trị được, chắc là tà môn". Y nhìn Trương Vô Kỵ đánh giá một hồi, hỏi:
- Này cậu, cậu biết chữa bệnh thật à?
Trương Vô Kỵ nghĩ tới tình cảnh chết thảm của cha mẹ mình, trong bụng đối với Hà Thái Xung hết sức căm thù, nhưng bản tính y trời sinh không hay nhớ oán cũ, nếu không đã chẳng chữa cho bọn Giản Tiệp, cũng chẳng liệu độc cho Chiêm Xuân của phái Côn Lôn, nghe Hà Thái Xung hỏi sõng như thế, tuy bụng không thích, nhưng cũng gật đầu.
Y vừa tiến vào phòng đã ngửi thấy một mùi rất cổ quái, qua một lúc sau, lại thấy mùi hương đó lúc đậm lúc nhạt rất đặc biệt, liền đến trước giường cô năm quan sát mặt cô ta một hồi, bắt mạch hai tay, đột nhiên lấy ra một mũi kim châm, chích ngay vào khuôn mặt sưng như trái dưa hấu của cô năm. Hà Thái Xung kinh hãi, quát lên:
- Ngươi làm gì thế?
Định giơ tay nắm Trương Vô Kỵ, nhưng y đã rút kim ra, trên mặt cô năm không thấy có huyết dịch hay nước chảy. Năm ngón tay Hà Thái Xung còn cách lưng Trương Vô Kỵ chừng nửa thước vội ngừng lại, thấy y cầm kim lên mũi ngửi, rồi gật gật đầu. Hà Thái Xung trong bụng thấy có chút hi vọng, hỏi:
- Tiểu ... tiểu huynh đệ, bệnh này liệu có chữa được không?
Với tư cách tôn sư một môn phái như ông ta, mà gọi Trương Vô Kỵ một câu "tiểu huynh đệ" phải nói là khách sáo lắm rồi.
Trương Vô Kỵ không trả lời, cúi xuống gầm giường cô năm quan sát một hồi, lại mở cửa sổ xem xét vườn hoa ngoài song cửa, đột nhiên nhảy ra, đi xem các cây hoa. Hà Thái Xung sủng ái cô năm, ngoài vườn chỗ cô nằm trồng toàn các loại kỳ hoa dị thảo, lúc này thấy Trương Vô Kỵ hành động quái lạ, trong bụng nóng như lửa đốt, chỉ mong lập tức ra toa cắt thuốc, trị lành quái bệnh cho cô năm, y lại ra vườn ngắm hoa vui thú, làm sao không khỏi nổi giận. Thế nhưng đang lúc thúc thủ vô sách có được chút hi vọng, nên y đành cố nén nộ khí, nhưng mặt cũng tím ngắt, hơi thở hổn hển.
Chỉ thấy Trương Vô Kỵ xem hoa một hồi, gật gật đầu như đã hiểu, quay trở lại phòng nói:
- Bệnh có thể trị được nhưng tôi không muốn chữa. Chiêm cô nương, tôi đi đây.
Chiêm Xuân nói:
- Trương huynh đệ, nếu cậu chữa được bệnh cho cô năm, cả phái Côn Lôn trên dưới ai ai cũng đều cảm tạ đại đức của cậu, vậy xin cậu ra tay trị giùm cho.
Trương Vô Kỵ chỉ Hà Thái Xung nói:
- Trong những người bức tử cha mẹ tôi, có cả Thiết Cầm tiên sinh, đời nào tôi lại cứu thân nhân của ông ấy?
Hà Thái Xung kinh hoảng, hỏi lại:
- Tiểu huynh đệ, cậu họ gì? Lệnh tôn lệnh đường là ai?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi họ Trương, tiên phụ là đệ tử thứ năm của phái Võ Đương.
Hà Thái Xung giật mình: "Thì ra y là con trai của Trương Thúy Sơn. Phái Võ Đương quả thực ghê gớm, y gia học uyên nguyên ắt hẳn có tài". Lập tức đổi mặt buồn rầu thở dài, nói:
- Trương huynh đệ, lệnh tôn khi còn tại thế, tại hạ cùng ông ta giao tình rất thân, khi ông ấy tự vẫn chết đi, tôi đau lòng biết mấy ...
Y vì muốn cứu người ái thiếp, nên phải thuận miệng đặt điều ra. Chiêm Xuân cũng vội nói đốc vào cho sư phụ:
- Lệnh tôn lệnh đường chết rồi, gia sư than khóc một hồi, thường nói cùng các đệ tử chúng tôi là lệnh tôn là người gia sư thân thiết nhất. Trương huynh đệ, sao cậu không nói sớm? Nếu biết cậu là lệnh lang của Trương ngũ hiệp, tôi đã kính trọng cậu gấp mấy lần rồi.
Trương Vô Kỵ bán tín bán nghi, nhưng y bình sinh không hay ghi nhớ chuyện hận thù, liền nói:
- Vị phu nhân này không bị bệnh gì quái lạ cả, trúng phải nọc độc của Kim Ngân huyết xà đó thôi.
Hà Thái Xung và Chiêm Xuân cùng kêu lên:
- Kim Ngân huyết xà?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế, loại độc xà này tôi cũng chưa thấy bao giờ. Thế nhưng phu nhân mặt mày sưng phù, kim châm đâm vào có mùi đàn hương. Hà tiên sinh, xin ông nhìn chân phu nhân xem, trên mười đầu ngón chân thể nào cũng có vết răng nho nhỏ.
Hà Thái Xung vội vàng giở chăn đắp trên người cô năm, chăm chú quan sát mười đầu ngón chân, quả nhiên mỗi ngón chân đều có vài vết răng đen tím, nhưng nhỏ như hạt gạo, nếu không cố ý tìm kiếm, không thể nào thấy được.
Hà Thái Xung vừa thấy xong, lòng tin tưởng vào Trương Vô Kỵ tăng lên gấp mười, nói:
- Đúng quá, đúng quá, đầu ngón chân nào cũng có vết răng, tiểu huynh đệ cao minh thực. Tiểu huynh đệ nếu biết nguồn gốc căn bệnh, ắt biết cách chữa. Tiện thiếp khỏi rồi, thể nào tôi cũng tạ ơn thật hậu.
Y quay đầu lại mắng bảy ông thầy lang:
- Thế mà bảo phong hàn trúng tà, toàn là nói láo nói lếu. Trên đầu ngón chân cô ấy có vết răng, sao bảy tên bị thịt ăn hại không đứa nào trông thấy?
Tuy y mắng chửi nhưng trong giọng đầy những vui mừng hớn hở. Trương Vô Kỵ nói:
- Bệnh của phu nhân vốn thật đặc biệt, bọn họ không định được căn nguyên, cũng không có gì đáng trách, vậy xin thả cho họ về đi.
Hà Thái Xung cười đáp:
- Đúng lắm, đúng lắm. Đã có đại giá quang lâm của tiểu huynh đệ, để bọn lang băm này ở đây thêm chỉ tổ bực mình. Xuân nhi, cho mỗi người một trăm lượng bạc, bảo họ tự tìm đường về nhà.
Bảy ông thầy lang thật là chết đi sống lại, ai nấy đều mừng rỡ hết sức, vội vã ra ngay, sợ Trương Vô Kỵ chữa không xong, Hà Thái Xung lại đem tên "lang băm con" này xích luôn chung cho cả tám tên lang băm lớn bé tuẫn táng theo ái thiếp của y. Trương Vô Kỵ nói:
- Xin gọi đầy tớ khiêng giường của phu nhân ra, dưới gầm giường có cái lỗ nhỏ, chính là hang của Kim Ngân huyết xà.
Hà Thái Xung không đợi đầy tớ ra tay, tay phải nắm ngay chân giường, kéo luôn cả người lẫn giường ra, quả nhiên dưới đất có một cái lỗ, vừa mừng vừa tức, kêu lên:
- Mau đem lưu hoàng đốt lửa vào đây, xông cho con rắn độc chạy ra, chặt nó thành nghìn vạn mảnh.
Trương Vô Kỵ vội xua tay:
- Không được đâu, không được đâu. Chất độc mà phu nhân trúng phải, toàn do hai con rắn độc này chữa cả. Nếu giết chúng đi, bệnh của phu nhân trị không được nữa đâu.
Hà Thái Xung nói:
- Thì ra là thế. Trung gian nguyên ủy thế nào, xin được thỉnh giáo.
Hai chữ "thỉnh giáo", từ khi nghiệp sư chết đi đến giờ, hôm nay lần đầu tự miệng y nói ra. Trương Vô Kỵ chỉ bồn hoa trước cửa sổ nói:
- Hà tiên sinh, bệnh tình của tôn phu nhân đều do tám cây lan Linh Chi trong vườn hoa kia mà ra.
Hà Thái Xung nói:
- Cây đó gọi là lan Linh Chi ư? Ta không biết tên gọi là gì, một vị bằng hữu biết ta thích hoa cỏ, đem từ Tây Vực về tám bồn hoa lan cho ta. Hoa này khi nở có mùi đàn hương, sắc hoa lại thật là kiều diễm, không ngờ trồng lại sinh họa.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cứ theo sách viết, loại lan Linh Chi này củ tròn như trái cầu màu đỏ như lửa, trong củ đó có chất cực độc. Mình ra đào thử xem có đúng thế không.
Lúc đó các đệ tử đều nghe tin có một thầy lang trẻ đến chữa quái bệnh cho ngũ sư mẫu, nam đệ tử không tiện vào phòng, nhưng sáu nữ đệ tử trong đó có cả Chiêm Xuân đang đứng gần bên, nghe Trương Vô Kỵ nói như thế, liền có hai người đi lấy mai ra đào một cây lan Linh Chi lên. Quả nhiên dưới đất có một cái củ tròn đỏ như lửa, hai cô đệ tử nghe nói củ này có chất kịch độc, không dám dùng tay cầm.
Trương Vô Kỵ nói:
- Xin các vị đào cả tám cái củ lên, cho vào bồn sành, bỏ thêm tám cái trứng gà, một bát máu gà, giã cho nhuyễn thành hồ. Khi làm việc nhớ cẩn thận, đừng để dính vào da thịt.
Chiêm Xuân vâng lời, chính mình cùng hai người sư muội làm đúng như lời dặn. Trương Vô Kỵ lại bảo lấy hai ống tre dài chừng một thước, một cái que tre, để sẵn một bên.
Chẳng mấy chốc những củ Linh Chi Lan đã quết thành hồ, Trương Vô Kỵ lấy hồ đó đổ xuống đất thành một cái vòng tròn, nhưng để khuyết một khoảng chừng hai tấc, nói:
- Nếu quí vị thấy có sự gì kỳ lạ, xin đừng lên tiếng, để độc xà khỏi kinh hoảng, chạy mất tăm mất tích. Các vị đi lấy cam thảo và bông gòn nhét vào mũi.
Mọi người đều làm y như thế. Trương Vô Kỵ cũng bịt chặt mũi lại, sau đó lấy lửa đốt lá lan Linh Chi ngay trước hang rắn. Chưa đến thời gian uống xong một tuần trà, đã thấy trong động chui ra một con rắn nhỏ, thân mình đỏ như máu, trên đầu có một cái mào màu vàng. Con rắn từ từ chui ra, thì ra nó có bốn chân, dài chừng tám tấc. Trong động lại chui ra một con rắn nữa, thân hình ngắn hơn, hình dáng tương tự, nhưng cái mào trên đầu màu bạc.
Bọn Hà Thái Xung thấy hai con quái xà đều nín thở không dám lên tiếng. Loại độc xà dị tướng này dĩ nhiên có chất độc nhưng ai nấy võ công cao cường, không sợ, thế nhưng nếu làm nó sợ chạy mất, e rằng quái bệnh của phu nhân không thể chữa khỏi.
Lại thấy hai con rắn thè lưỡi ra, liếm lẫn nhau xem chừng thân mật lắm. Chúng lại cọ vào nhau rồi từ từ đi vào trong vòng hồ làm bằng lan Linh Chi. Trương Vô Kỵ vội vàng lấy một ống tre chặn ngay chỗ khuyết của vòng, cầm cái gậy lên gạt nhè nhẹ vào đuôi con ngân quan huyết xà một cái. Con rắn đó nhanh như chớp, mọi người chỉ thấy một ánh sáng bạc lóe lên, đã chui ngay vào trong ống tre.
Con kim quan huyết xà cũng muốn vào theo, nhưng ống tre rất nhỏ chỉ đủ chỗ cho một con, con rắn mào vàng không sao vào được, chỉ có nước kêu ù ù. Trương Vô Kỵ lại lấy ống tre kia rồi dùng que gạt cho kim quan huyết xà chui vào nốt. Y vội vàng lấy nắp gỗ đóng chặt hai con rắn lại.
Từ khi con kim quan huyết xà từ trong hang chui ra, mọi người ai nấy hồi hộp, lo lắng, đến khi Vô Kỵ đóng nắp ống tre lại rồi, mọi người mới cùng thở phào một tiếng. Trương Vô Kỵ nói:
- Xin đem vài thùng nước nóng, rửa sạch sàn nhà đừng để lưu lại độc tính của Linh Chi Lan.
Sáu cô đệ tử liền xuống nhà bếp đun nước, chẳng bao lâu đã rửa sạch không còn tơ tóc gì. Trương Vô Kỵ ra lệnh cho đóng kín cửa sổ, lại bảo đem hùng hoàng, minh phàn,[3] đại hoàng, cam thảo ... các loại dược vật, giã nhỏ thành bột, trộn với vôi sống, đổ vào trong ống tre có con ngân quan huyết xà, con rắn lập tức kêu lên ù ù. Con kim quan huyết xà bên chiếc ống kia lập tức kêu lên đáp ứng. Trương Vô Kỵ mở nắp con kim xà, con rắn liền từ trong ống vọt ra, chạy quanh chiếc ống có con ngân xà vài vòng, có vẻ cấp bách, đột nhiên nhảy vọt lên giường, chui vào trong chiếc mền của cô năm.
Hà Thái Xung kinh hoảng, "A" lên một tiếng. Trương Vô Kỵ xua xua tay, nhẹ nhàng mở chiếc chăn lên, thấy con kim quan huyết xà đang cắn chặt ngón chân giữa bàn chân bên trái của cô năm. Trương Vô Kỵ lộ vẻ vui mừng, hạ giọng nói nhỏ:
- Phu nhân trúng phải chất độc của kim ngân huyết xà, nay lại chính đôi rắn này hút ra khỏi thân thể.
Độ tàn nửa nén hương, con rắn thân thể phình to gấp mấy lần, cái mào trên đầu sáng lấp lánh. Trương Vô Kỵ mở nắp ống đựng con ngân xà ra, con kim xà lập tức từ trên giường nhảy xuống, chạy đến chiếc ống, miệng nhả độc huyết mớm cho con ngân xà. Trương Vô Kỵ nói:
- Tốt lắm, mỗi ngày cứ hút độc như thế này hai lần, để tôi biên một cái toa bớt sưng, bổ hư, chỉ trong vòng mười ngày là có thể khỏi hẳn.
Hà Thái Xung mừng lắm, mời Trương Vô Kỵ vào trong thư phòng, hỏi:
- Tiểu huynh đệ kỹ thuật thần kỳ, vụ này do duyên cớ gì, xin được thỉnh giáo.
Trương Vô Kỵ nói:
- - Cứ theo sách viết, đôi kim quan, ngân quan huyết xà này, trong các độc chất của thiên hạ đứng hàng thứ bốn mươi bảy, không phải là loại độc vật ghê gớm lắm đâu. Thế nhưng có một đặc điểm, tính thích ăn những loại có chất độc chẳng hạn như tì sương, hạc đính hồng, khổng tước đảm, trẩm tửu[4] ... đều rất ưa. Trong bồn hoa ngoài cửa sổ của phu nhân có trồng Linh Chi Lan là loại cây có chất độc rất ghê gớm nên đã dẫn dụ kim ngân huyết xà đến.
Hà Thái Xung gật đầu nói:
- Thì ra là thế.
Trương Vô Kỵ nói:
- Kim ngân huyết xà bao giờ cũng có một con trống một con mái sống chung với nhau, mới rồi tôi dùng hùng hoàng các loại dược vật để hun con ngân quan thư xà, kim quan hùng xà vì muốn cứu bạn nó, nên chạy tới cắn ngón chân phu nhân hút máu độc ra nuôi con mái. Kế đây tôi sẽ dùng thuốc để trị con hùng xà, con thư xà ắt cũng hút máu độc nuôi con trống, cứ đổi qua đổi lại, dần dần sẽ hút hết máu độc trong người phu nhân ra.
Nói đến đây, y chợt nghĩ ra một việc: "Thế nhưng đôi huyết xà này thoạt đầu tại sao lại đến cắn ngón chân của phu nhân, bên trong ắt có điều gì khác lạ. "Y chưa nghĩ ra được tại sao nên không nói ra.
Hôm đó Hà Thái Xung mở tiệc tại hậu đường, khoản đãi Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối. Trương Vô Kỵ nghĩ Dương Bất Hối là con tư sinh của Kỷ Hiểu Phù, nói ra e sẽ tổn thương thanh danh của phái Nga Mi nên khi Hà Thái Xung hỏi đến lai lịch, chỉ nói mơ hồ đôi câu không rõ ràng. Qua vài ngày, mặt cô năm giảm sưng, tinh thần khôi phục, đã bắt đầu ăn uống lại. Trương Vô Kỵ liền ngỏ lời cáo từ, Hà Thái Xung nhất định nài nỉ ở lại, chỉ sợ bệnh của ái thiếp tái phát. Đến hơn mười ngày, bệnh phù của cô năm hoàn toàn khỏi hẳn.
Cô năm sửa soạn một bữa tiệc thật linh đình để đích thân cảm ơn Trương Vô Kỵ, lại mời Chiêm Xuân ngồi bồi tiếp. Cô ta tuy dung mạo còn tiều tụy, nhưng nét đẹp vẫn như xưa, Hà Thái Xung thập phần hoan hỉ.
Chiêm Xuân nhân lúc sư phụ cao hứng, xin ông ta thu Tô Tập Chi làm môn đệ. Hà Thái Xung ha hả cười:
- Xuân nhi, cái kế Phủ Để Trừu Tân[5] quả thực hay lắm, ta thu tên tiểu tử họ Tô đó làm học trò, mai mốt sẽ truyền cho nó Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm, thành ra trước đây có nhìn lén một lần cũng chẳng hề chi.
Chiêm Xuân cười:
- Sư phụ, nếu như không vì gã họ Tô nhìn trộm lão nhân gia sử kiếm, đệ tử đâu có phải đi bắt y, thì làm sao gặp được Trương thế huynh. Cố nhiên sư phụ và ngũ cô hồng phúc tề thiên thì đã đành, lại thêm Trương thế huynh y đạo cao minh, nhưng tên họ Tô nói cho cùng cũng có một tí công lao nho nhỏ.
Cô năm nói với Hà Thái Xung:
- Ông thu bao nhiêu là đệ tử, thế nhưng lúc gặp chuyện nào có đứa nào giúp được gì, chỉ có mình Chiêm cô nương lập được đại công. Chiêm cô nương đã nhắm gã tiểu tử đó, ắt hẳn phải là người khá, ông thu thêm một đệ tử nữa, sau này lại là người đắc lực nhất không chừng.
Người ái thiếp này nói gì Hà Thái Xung cũng nghe nên liền nói:
- Được rồi, thu y cũng được có sao, nhưng có một điều kiện.
Cô năm hỏi:
- Cái gì thế?
Hà Thái Xung nghiêm nét mặt:
- Y gia nhập môn hạ của ta rồi, phải chú tâm học nghệ, không được si tâm vọng tưởng Xuân nhi, định lấy nó làm vợ, cái đó ta nhất định không bằng lòng.
Chiêm Xuân mặt mày đỏ ửng, thẹn thùng cúi đầu xuống. Cô năm cười khúc khích, nói:
- Ối chào, ông làm sư phụ thì chính mình phải làm gương, chính mình năm thê bảy thiếp, lại cấm học trò lấy nhau là sao?
Hà Thái Xung vốn chỉ định nói đùa Chiêm Xuân, nghe thế bèn cười ha hả, nói:
- Uống rượu đi nào, uống nào.
Một con a hoàn bưng khay, trên khay để một vò rượu, đi đến bên mâm tiệc, rót rượu cho từng người. Rượu này đặc sệt như keo, màu sắc vàng ửng, thơm ngon nức mũi. Hà Thái Xung nói:
- Trương huynh đệ, đây là danh sản của bản sơn, làm bằng hổ phách mật lê trên đỉnh núi, gọi là Hổ Phách Mật Lê Tửu, bên ngoài không có được, mình nên uống thêm với nhau ít chén.
Y trong bụng nghĩ thầm: "Làm thế nào để lừa được nó nói ra chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn nhỉ? Việc này phải từ từ tính kế, nhất định không thể gấp gáp được". Trương Vô Kỵ vốn không biết uống rượu, nhưng thấy mùi loại rượu Hổ Phách Mật Lê Tửu này xông lên ngào ngạt, nên cũng đưa chén ra, đang toan đưa lên môi, đột nhiên hai con kim ngân huyết xà trong bọc cùng kêu lên u u. Trương Vô Kỵ chợt động tâm, kêu lên:
- Rượu này không uống được.
Mọi người ngạc nhiên, đều vội đặt ly xuống. Trương Vô Kỵ lấy ống tre trong bọc ra, thả con kim quan hùng xà, con rắn liền đi tới bên cạnh chén rượu, thò đầu uống sạch không để lại một giọt. Trương Vô Kỵ lại cho nó vào trong ống, thả con ngân quan thư xà ra, cho nó uống một chén. Hai con rắn này rất quấn quít nhau, nếu chỉ thả một con trống hay mái sẽ không bao giờ đi xa, lại rất dễ bảo, thế nhưng nếu thả cả hai con ra một lượt thì khó có thể bắt trở lại, không những thế có khi còn hung bạo cắn lại người nuôi.
Cô năm cười:
- Tiểu huynh đệ, đôi rắn của chú biết uống rượu, trông hay quá nhỉ?
Trương Vô Kỵ nói:
- Xin cho người đem ra một con chó hay con mèo thử xem.
Đứa đầy tớ đáp lời, quay mình toan đi vào. Trương Vô Kỵ nói:
- Chị này đứng lại đây đừng đi đâu, để người khác đi lấy con mèo, con chó được rồi.
Một lát sau, một người đầy tớ đem một con chó vàng vào. Trương Vô Kỵ lấy chén rượu trước mặt Hà Thái Xung, đổ vào mồm con chó. Con chó vàng hộc lên mấy tiếng, thất khổng ứa máu chết ngay.
Cô năm sợ đến toàn thân run rẩy, nói:
- - Trong rượu có thuốc độc ... ai ... ai định hại chúng ta thế này, Trương huynh đệ, sao cậu biết được?
Trương Vô Kỵ nói:
- Kim ngân huyết xà thích ăn độc vật, chúng ngửi thấy chất độc trong rượu, nên cao hứng kêu lên.
Hà Thái Xung mặt tím lại, chộp ngay cổ tay đứa a hoàn, hỏi khẽ:
- Rượu độc này ai bảo ngươi đem lên đây?
Con ở đó sợ đến hết cả hồn vía, run rẩy đáp:
- Con ... con không biết rượu ... rượu có độc. Con ... con đem dưới nhà bếp lên ...
Hà Thái Xung hỏi:
- Ngươi từ nhà bếp lên, có gặp ai không?
A hoàn đáp:
- Đi tới hành lang có gặp chị Hạnh Phương, chị ta giữ lại nói chuyện một lát, mở bình rượu ra ngửi mùi.
Hà Thái Xung, cô năm, Chiêm Xuân ba người nhìn nhau, đều có vẻ hãi sợ. Thì ra Hạnh Phương là người hầu của bà vợ cả. Trương Vô Kỵ nói:
- Hà tiên sinh, việc này tôi vẫn ngần ngại không nói ra, chỉ bên trong đang cố tra xét. Ông thử nghĩ xem, đôi Kim Ngân huyết xà này lúc đầu tại sao lại đến cắn ngón chân phu nhân để nọc độc truyền vào trong người? Cái đó cũng dễ hiểu, trong người phu nhân vốn đã có mạn tính độc dược sẵn rồi, mới dụ đôi Kim Ngân huyết xà đến. Người đã bỏ chất độc cho phu nhân và người hôm nay bỏ chất độc vào rượu chắc cũng là một.
Hà Thái Xung chưa kịp trả lời, đột nhiên rèm cửa mở ra, một bóng người thấp thoáng, Trương Vô Kỵ thấy dưới hai bên vú trên ngực đau nhói, đã bị người ta điểm trúng huyệt đạo rồi một giọng nói sắc như dao cất lên:
- Ngươi nói không sai chút nào, chính ta hạ độc đó.
Người vừa đi vào là một người đàn bà cao lớn, tuổi đã quá trung niên, tóc hoa râm, hai mắt có uy, trong lông mày dường như có sát khí. Người đàn bà đó nói với Hà Thái Xung:
- Tôi bỏ nọc rết vào trong rượu, ông làm gì nào?
Cô năm vẻ mặt hoảng sợ, lập tức đứng dậy, cung kính chào:
- Thái thái.
Thì ra người đàn bà cao to này là nguyên phối của Hà Thái Xung, tên là Ban Thục Nhàn, vốn là sư tỉ của ông ta. Hà Thái Xung thấy vợ hùng hổ tiến vào phòng, ngồi im không nói, chỉ hừ một tiếng. Ban Thục Nhàn nói:
- Tôi hỏi ông, chính tôi hạ độc đó, ông làm gì nào?
Hà Thái Xung nói:
- Bà không ưa cậu bé này, cũng chẳng sao cả. Thế nhưng bà làm vậy không phân biệt trắng đen, lỡ tôi uống phải rượu độc vào trong bụng, thì có phải hỏng không?
Ban Thục Nhàn giận dữ nói:
- Tất cả những người ở đây có ai tốt lành gì đâu, chết bớt ai thì đỡ ngứa mắt một chút.
Bà ta cầm hồ rượu lên lắc thử, có tiếng óc ách, còn đến quá nửa bình, liền rót một ly đầy, đặt ngay trước mặt Hà Thái Xung, nói:
- Ta định hạ độc chết cả năm người, nhưng tên tiểu quỉ này phát giác, vậy ta tha cho bốn người khỏi chết. Còn một chén này ai uống cũng được. Lão quỉ, ông tùy ý lo liệu.
Nói xong nghe soẹt một tiếng đã rút kiếm cầm trên tay. Ban Thục Nhàn là một nhân vật kiệt xuất trong phái Côn Lôn, còn lớn hơn Hà Thái Xung hai tuổi, nhập môn cũng sớm hơn ông ta, võ công không kém gì chồng. Hà Thái Xung khi còn trẻ anh tuấn tiêu sái, rất được vị sư tỉ này ưa thích. Sư phụ của họ là Bạch Lộc Tử đấu với một cao thủ của Minh giáo mà chết, không kịp để lại di ngôn khiến các đệ tử tranh đoạt chức chưởng môn, không ai chịu nhường ai. Ban Thục Nhàn lúc đó hết sức suy cử Hà Thái Xung, hai người hợp lực, thế lực mạnh hẳn, so với các sư huynh đệ khác không ai sánh được, nên Hà Thái Xung mới được tiếp nhiệm ngôi vị. Ông ta nhớ ơn cảm đức nên lấy vị sư tỉ này làm vợ. Khi còn trẻ thì không sao, nhưng khi tuổi càng lớn, Ban Thục Nhàn so với Hà Thái Xung xem như già hơn chục tuổi. Hà Thái Xung lấy cớ không có con nối dõi tông đường, nên nạp thêm thị thiếp.
Trong mấy chục năm nay tích uy, lại thêm Hà Thái Xung biết mình không nên không phải, trong lòng hổ thẹn, đối với vị vừa là sư tỉ vừa là nghiêm thê này càng thêm nể sợ. Thế nhưng sợ là một chuyện, thị thiếp cứ lấy hết người này đến người khác, nhưng mỗi khi thêm một phòng, thì đối với vợ lại sợ thêm mấy phần. Lúc này Hà Thái Xung thấy vợ để chén rượu độc trước mặt mình, ông ta hoàn toàn không có ý gì chống lại, nghĩ thầm: "Bản thân mình đương nhiên không uống rồi, cô năm và Xuân nhi lẽ dĩ nhiên cũng không, Trương Vô Kỵ là ân nhân cứu mạng của mình, chỉ có con bé con này là đối với mình vô thân vô cố". Y liền đứng lên, đưa chén rượu cho Dương Bất Hối nói:
- Này bé, ngươi uống chén rượu này đi.
Dương Bất Hối kinh hãi, nó vừa thấy một con chó to khỏe thế mà uống một chén rượu đã lăn ra chết tươi, nên đâu dám cầm chén rượu, khóc òa lên:
- Tôi không uống, tôi không uống.
Hà Thái Xung liền nắm ngay ngực nó, định đổ chén rượu vào mồm. Trương Vô Kỵ liền thản nhiên nói:
- Để tôi uống cũng được.
Hà Thái Xung trong bụng không bằng lòng nhưng không dám buông lời cự tuyệt. Ban Thục Nhàn bụng dạ ghen ghét, muốn bỏ thuốc độc giết người thiếp mà Hà Thái Xung sủng ái nhất là cô năm, tưởng đã chắc ăn, nào ngờ Trương Vô Kỵ từ đâu tới cứu nàng ta khỏi, thành thử trong bụng ghét cay ghét đắng thiếu niên này, nên lạnh lùng nói:
- Thằng bé này nhiều trò cổ quái, có giải dược không chừng. Nếu ngươi thay nó uống thì một chén không đủ, phải uống cạn cả bình.
Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn Hà Thái Xung, mong y sẽ đưa ra vài lời khuyên giải, nào ngờ lão ta chỉ cúi đầu không dám hé môi nói một lời. Chiêm Xuân và cô năm cũng lặng thinh, sợ nếu mở miệng, Ban Thục Nhàn lại trút cơn giận lên đầu mình, bắt uống hơn nửa vò rượu kia không chừng. Trương Vô Kỵ trong lòng tê tái, nghĩ thầm: "Mấy người này tính mệnh đều do mình cứu cả, nhưng khi ta vừa gặp nguy nan, bọn họ liền tụ thủ bàng quan, đến một lời xin giùm cũng không dám". Y liền nói:
- Chiêm cô nương, sau khi tôi chết rồi, nhờ cô đưa em bé này đến Tọa Vong Phong kiếm cha nó, liệu có được chăng?
Chiêm Xuân nhìn sư phụ thấy Hà Thái Xung gật đầu, liền nói:
- Được rồi, tôi sẽ đưa nó đi.
Tuy nhiên trong lòng cô ta nghĩ thầm: "Dãy Côn Lôn dài cả nghìn dặm, biết Tọa Vong Phong ở chỗ nào mà tìm?" Trương Vô Kỵ thấy cô ta nói cho qua chuyện, không một chút thành ý nào, biết những người này toàn là loại vô tình bạc bẽo, có nói thêm cũng chỉ phí lời, cười khẩy:
- Phái Côn Lôn là một danh môn đại phái trong võ lâm, hóa ra là thế. Hà tiên sinh, đưa rượu cho tôi uống.
Hà Thái Xung nghe thế trong bụng tức giận, chỉ muốn cho Vô Kỵ uống rượu chết đi cho xong, để cho vợ mình hả dạ, khỏi tìm kế khác giết hại cô năm, chuyện cấp bách quan trọng như lửa cháy lông mày, còn tung tích Tạ Tốn không cần nữa, liền cầm ngay vò rượu đổ thẳng vào mồm Trương Vô Kỵ.
Dương Bất Hối ôm chặt lấy anh, khóc òa lên. Ban Thục Nhàn khinh khỉnh nói:
- Ngươi y thuật có giỏi, ta thử xem có cứu được chính mình không nào?
Y thị liền giơ ngón tay điểm vào đầu vai và mạng sườn Vô Kỵ mấy chỗ, lại xoay ngược cán kiếm điểm mấy đại huyệt trên người tất cả Hà Thái Xung, Chiêm Xuân, cô năm và Dương Bất Hối, nói:
- Hai giờ nữa ta sẽ quay lại tha cho các ngươi.
Khi bà ta điểm huyệt, Hà Thái Xung và Chiêm Xuân không dám động đậy, cũng không dám né tránh. Ban Thục Nhàn quay lại nói với những thị tì đang đứng bên cạnh:
- Đi ra hết.
Bà ta ra sau cùng, quay tay đóng cửa, vừa đi cười nhạt liên tiếp.
Uống rượu độc rồi, chỉ giây lát Vô Kỵ bụng đau như cắt, thấy Ban Thục Nhàn ra khỏi phòng đóng cửa lại, nghĩ thầm: "Ngươi đi khỏi rồi, chưa chắc ta đã chết đâu". Y cố nhịn đau, ám tự vận khí, dùng phương pháp Tạ Tốn truyền cho, trước hết tự giải các huyệt đạo bị điểm, sau đó nhổ mấy sợi tóc trên đầu, cho vào trong cổ họng ngoáy ngoáy, ngứa miệng ọe một tiếng nôn ra, rượu độc mười phần cũng thổ ra được tám chín. Hà Thái Xung, Chiêm Xuân thấy y đã bị điểm huyệt mà vẫn cử động được, đều lấy làm vô cùng kinh ngạc.
Hà Thái Xung muốn ra tay ngăn trở, nhưng khổ nỗi chính y cũng bị vợ điểm huyệt, tuy một thân võ công cũng chỉ đành giương mắt nhìn, có nóng nảy cũng không làm gì được. Trương Vô Kỵ thấy trong bụng vẫn còn đau, cố mửa thêm nhưng không được, nghĩ bụng phải thoát khỏi nguy cơ trước, sau sẽ tìm cách trừ độc, liền đưa tay giải huyệt cho Dương Bất Hối. Nào ngờ thủ pháp điểm huyệt của Ban Thục Nhàn rất tinh diệu, Trương Vô Kỵ nắn mãi vẫn không giải được, lúc này sự thế khẩn bách, không dám thử các phương pháp khác, nên ôm con bé lên, mở cửa sổ nhìn ra, không thấy ai liền bỏ Dương Bất Hối ra ngoài.
Nếu Hà Thái Xung dùng chân khí thúc đẩy các huyệt đạo, chỉ nửa giờ là các huyệt đạo cũng giải khai, nay thấy Trương Vô Kỵ đang định bỏ trốn, sợ khi bà vợ tra hỏi thể nào cũng gây rắc rối, huống chi để một thằng bé con phái Võ Đương tay không trốn từ Tam Thánh Đường của phái Côn Lôn xuống, đem chuyện vong ân phụ nghĩa của mình truyền khắp giang hồ, thì còn mặt mũi nào xưng là một đại tông sư?
Thành thử không thể nào không bắt y lại giết đi, nên y hít một hơi dài, đang tính kêu lên báo động cho vợ biết. Trương Vô Kỵ đã tính đến chuyện đó, lấy trong bọc ra một viên thuốc màu đen, nhét vào mồm cô năm, nói:
- Đây là một viên Cưu Tì Hoàn, mười hai giờ đồng hồ sau, ngũ phu nhân sẽ bị đứt ruột, đứng tim mà chết. Tôi sẽ để thuốc giải cách đây ba mươi dặm trên một cây to, có đánh dấu, ba giờ đồng hồ sau, Hà tiên sinh có thể sai người đến lấy. Nếu tôi đi ra mà bị bắt lại, thì có thêm một người nữa chết cùng với tôi cũng là điều hay.
Vô Kỵ làm như thế thật ngoài dự liệu của Hà Thái Xung, y trầm ngâm một chút, nói nhỏ:
- Tiểu huynh đệ, tuy Tam Thánh Đường của chúng tôi không phải đầm rồng hang hổ gì, nhưng hai đứa trẻ như các ngươi, không thể nào qua được đâu.
Trương Vô Kỵ biết y không nói sai, lạnh lùng đáp:
- Thế nhưng viên thuốc Cưu Tì Hoàn mà ngũ phu nhân vừa uống, tại đây ngoài tôi ra không ai có thể giải cứu được.
Hà Thái Xung nói:
- Được rồi, cậu giải huyệt cho tôi, tôi sẽ đích thân đưa cậu xuống núi.
Hai huyệt Hà Thái Xung bị điểm là Phong Trì và Kinh Môn, Trương Vô Kỵ liền xoa bóp các huyệt Thiên Trụ, Hoàn Khiêu, Đại Truy, Thương Khúc một hồi, nhưng không hiệu quả. Hai người thầm phục lẫn nhau, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Công phu điểm huyệt của phái Côn Lôn quả là ghê gớm, Hồ tiên sinh truyền cho ta tất cả bảy phương pháp giải huyệt khác nhau, ta áp dụng mà không có hiệu quả".
Hà Thái Xung lại nghĩ bụng: "Tiểu tử này sao biết nhiều phương pháp giải huyệt thế, thủ pháp quái dị, thực là cao minh. Sư tỉ rõ ràng điểm bảy tám chỗ trên người y, vậy mà sao không ăn thua gì cả? Phái Võ Đương những năm gần đây danh chấn giang hồ, lão đạo Trương Tam Phong quả thực bản lãnh không ai sánh kịp. Hôm đó ở trên núi Võ Đương, may mà mình không động thủ với họ, nếu không thể nào cũng bị bẽ mặt. Một đứa bé con mà đã thế này, lớn lên còn lợi hại gấp mười".
Y không biết công phu tự thông huyệt đạo của Vô Kỵ là học ở Tạ Tốn, còn phép giải huyệt là do Hồ Thanh Ngưu truyền thụ, việc phái Võ Đương danh chấn thiên hạ với hai công phu bản lãnh của Vô Kỵ không có liên can gì.
Hà Thái Xung thấy y giải huyệt không hiệu quả, bỗng chợt nghĩ ra, nói:
- Cậu đem bình trà lại đây, cho tôi uống vài ngụm.
Trương Vô Kỵ không hiểu sao y đột nhiên lúc này lại đòi uống trà, nhưng chắc rằng vì lo lắng cho tính mạng ái thiếp, không dám giở trò gì với mình, nên lấy bình trà đem lại để vào miệng cho ông ta uống. Hà Thái Xung uống một ngụm to, nhưng không nuốt xuống, nhắm thẳng vào huyệt Thanh Lãnh Uyên ở khoeo tay phun mạnh một cái. Một luồng nước vọt thẳng ra nghe phụp một tiếng, lập tức giải ngay huyệt đạo trên tay y.
Trương Vô Kỵ từ khi đến Tam Thánh Đường ở núi Côn Lôn, chỉ thấy Hà Thái Xung lo lắng buồn rầu vì bệnh trạng của cô năm, sợ vợ cả chiều vợ lẽ, vừa khiếp nhược vừa nhỏ nhen, chẳng khác gì một người đàn ông tầm thường, bây giờ lần đầu thấy y hiển thị võ công, không khỏi giật mình kinh sợ: "Võ công của vị chưởng môn phái Côn Lôn thâm hậu như thế, vậy mà trước nay mình vẫn cứ coi thường ông ta. Xem ra ông ta không kém gì Du nhị sư bá, Kim Hoa bà bà, Diệt Tuyệt sư thái. Lúc đầu mình thấy ông ta tầm thường, kém cỏi, quên rằng ở vị trí chưởng môn phái Côn Lôn ắt phải có điểm người khác không theo kịp. Luồng tên nước này mà nhắm vào mặt hay ngực ta, thể nào mình cũng chết ngay".
Hà Thái Xung lấy tay phải quay quay vài vòng, rồi tự giải huyệt ở trên đùi mình, nói:
- Ngươi cho cô ta uống giải dược trước đi, ta sẽ đưa ngươi ra khỏi thung lũng an toàn.
Trương Vô Kỵ lắc đầu, Hà Thái Xung vội vã nói:
- - Ta là chưởng môn phái Côn Lôn, không lẽ thất tín với một đứa trẻ như ngươi sao? Lỡ như độc tính phát tác, thì biết làm cách nào bây giờ?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chất độc không phát bất ngờ đâu.
Hà Thái Xung thở dài một tiếng, nói:
- Được rồi, bọn mình lẻn đi vậy.
Hai người đi ra bằng cửa sổ, Hà Thái Xung dùng tay phất nhẹ một cái vào lưng Dương Bất Hối, lập tức giải ngay huyệt đạo cho cô bé, thủ pháp khinh linh không ai bì kịp. Trương Vô Kỵ thật là bội phục, ánh mắt lộ vẻ hâm mộ, Hà Thái Xung biết được tâm ý của y, mỉm cười, mỗi tay dắt một đứa, vòng qua hoa viên đằng sau Tam Thánh Đường, theo cửa hông mà đi.
Tam Thánh Đường trước sau có đến chín lối vào, đi khỏi hoa viên, lại theo một dãy hoa vòng vèo, qua khỏi nhiều sảnh đường khác nữa. Chỉ thấy nhà cửa san sát, cổng trong cổng ngoài, nếu không do Hà Thái Xung đích thân dẫn đi, Trương Vô Kỵ thể nào cũng lạc, dù đệ tử phái Côn Lôn không ngăn trở cũng chưa chắc đã qua được.
Qua khỏi Tam Thánh Đường, Hà Thái Xung tay phải bồng Dương Bất Hối, tay trái cắp Trương Vô Kỵ, thi triển khinh công theo hướng tây bắc mà chạy. Trương Vô Kỵ bị y ôm lên, thân hình nhẹ nhàng bay bổng, mỗi lần nhảy cả hơn một trượng, chỉ thấy gió ù ù bên tai, chẳng khác gì bay trong không trung, khiến cho tấm lòng kính phục phái Côn Lôn và bản thân Hà Thái Xung tăng thêm mấy phần.
Y biết chất độc trong bụng chưa hết, vội vàng móc trong bọc ra hai viên thuốc giải độc, uống vào lúc ấy mới yên tâm. Đang chạy đi, bỗng nghe tiếng đàn bà kêu:
- Hà Thái Xung .... Hà Thái Xung .... mau đứng lại ta bảo ...
Tiếng nói đó theo gió mà tới, tưởng như thật xa, mà cũng thật gần, chính là giọng của Ban Thục Nhàn. Hà Thái Xung hơi chần chừ, rồi đứng lại, thở dài nói:
- Tiểu huynh đệ, hai người mau chạy đi, nội nhân đuổi tới nơi rồi, ta không thể giúp hai người được nữa.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Người này đối với ta cũng không đến nỗi tệ bạc lắm" liền nói:
- Hà tiên sinh, ông về đi được rồi. Viên thuốc tôi cho cô năm uống không phải độc dược đâu, cũng chẳng phải Cưu Tì Hoàn, chỉ là một viên thuốc giảm ho, thông cổ Tang Bối Hoàn thôi. Mấy hôm trước Bất Hối muội muội bị ho, tôi bào chế cho nó uống, còn mấy viên để lại, không khỏi làm ông kinh sợ.
Hà Thái Xung vừa tức vừa sợ, lại cũng yên tâm, quát lên:
- Có thật không phải độc dược chăng?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ngũ phu nhân do tay tôi cứu sống, lẽ nào lại bỏ thuốc độc hại bà ta.
Chỉ nghe Ban Thục Nhàn liên tiếp kêu réo:
- Hà Thái Xung ... Hà Thái Xung ... ngươi chạy có nổi không?
Tiếng gọi càng lúc càng gần. Hà Thái Xung sở dĩ ôm Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối chạy trốn, chỉ vì sợ ái thiếp của y độc tính phát tác không trị kịp, bây giờ biết chắc thuốc cô năm uống không phải là thuốc độc, hóa ra bị thằng nhỏ này đánh lừa, cơn giận bùng lên, y liền giáng cho Vô Kỵ bốp bốp bốp bốp bốn cái tát liền, khiến hai má thằng nhỏ sưng vù lên, mồm đầy máu.
Trương Vô Kỵ trong lòng hết sức hối hận, vội sử chiêu Đảo Kỵ Long trong Võ Đương trường quyền, giơ tay đỡ. Chiêu này ví như cỡ Du Liên Châu sử dụng, ắt uy lực vô cùng, nhưng Vô Kỵ chỉ học được chút vỏ bên ngoài, làm sao có thể chống được với chưởng môn phái Côn Lôn? Hà Thái Xung hoi nghiêng mình né qua, đánh ra một chưởng trúng ngay mắt phải Vô Kỵ, khiến mắt sưng lên. Trương Vô Kỵ biết bản lãnh mình so với ông ta hơn kém quá xa, một chiêu không ăn thua gì, đành thõng tay đứng chịu không kháng cự gì nữa.
Thế nhưng Hà Thái Xung đâu phải thằng bé đứng yên mà ngừng tay, y tay trái một cái, tay phải một cái đánh liên tiếp không ngừng. Tuy chưởng của ông ta không vận nội lực, nếu không một cú là đánh chết nó ngay, nhưng dù sao, chưởng nào chưởng nấy cũng làm cho Vô Kỵ mắt hoa đầu váng, đau đớn không sao chịu nổi.
Y vừa bắt đầu dụng kình, Ban Thục Nhàn đã dẫn hai đệ tử chạy đến, lặng lẽ đứng một bên. Ban Thục Nhàn thấy Trương Vô Kỵ hoàn toàn không kháng cự, không thấy hứng thú nói:
- Ngươi đánh con bé đó thử coi.
Hà Thái Xung hơi chuyển người qua, nghe bốp một cái, đã tát cho Dương Bất Hối một cái. Dương Bất Hối đau quá, lập tức khóc ré lên. Trương Vô Kỵ giận dữ nói:
- Ngươi đánh ta đi, sao lại ăn hiếp một đứa con gái nhỏ?
Hà Thái Xung không thèm để ý, lại giơ tay đánh Dương Bất Hối tiếp. Trương Vô Kỵ nhảy tới, lấy đầu húc vào bụng y. Ban Thục Nhàn cười khẩy nói:
- Một đứa bé như thế, còn có tình nghĩa, có đâu như ngươi trăng hoa, là một đứa vô tình vô nghĩa.
Hà Thái Xung nghe vợ mỉa mai, mặt đỏ bừng, chộp cổ Trương Vô Kỵ, ném ra bên ngoài, quát lớn:
- Đồ chó má, cho mày đi theo bố mẹ mày.
Y ném cái đó sử dụng lực thật sự, nhắm ngay một tảng đá lớn ở sườn núi liệng tới. Trương Vô Kỵ thấy thân hình bay vụt đi, chỉ nháy mắt sẽ đập vào tảng đá, đầu nát như tương.
Nào ngờ ngay lúc đó từ đâu một luồng lực đạo bay tới, đỡ lấy y đứng thẳng trên mặt đất ngay bên cạnh tảng đá. Trương Vô Kỵ hồn phách chưa định, vừa đứng xuống giương đôi mắt sưng vù nhìn qua, thấy cách độ năm thước, một thư sinh trung niên mặc trường bào trắng bằng vải thô đứng đó.
Ban Thục Nhàn và Hà Thái Xung cùng kinh hãi, thư sinh này đến từ lúc nào, ở đâu đến, sao họ không hề hay biết, dù y có trốn ở sau tảng đá, với bản lãnh của hai người lẽ nào không phát giác? Hà Thái Xung khi ném Trương Vô Kỵ vào tảng đá, lực đạo ít ra cũng năm sáu trăm cân, vậy mà thư sinh đó tay áo chỉ cuộn một cái, lập tức tiêu giải, để Trương Vô Kỵ sang một bên, hiển nhiên võ công thực là cao siêu. Người đó chỉ độ trên dưới bốn mươi, tướng mạo tuấn nhã, có điều hai lông mày hơi xuôi xuống, hai bên mép có mấy ngấn sâu, không khỏi có tướng buồn rầu khổ sở. Y không nói năng, không động đậy, thần sắc thản nhiên, tưởng như đang mải mê nghĩ chuyện đâu đâu, không để ý tới việc trước mắt.
Hà Thái Xung đằng hắng một tiếng, hỏi:
- Các hạ là ai? Tại sao lại nhúng tay vào việc người khác, can dự vào việc của phái Côn Lôn?
Thư sinh đó lạnh lùng đáp:
- Có phải hai vị là Thiết Cầm tiên sinh và Hà phu nhân chăng? Tại hạ là Dương Tiêu.
Hai chữ Dương Tiêu vừa ra khỏi cửa miệng, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn, Trương Vô Kỵ không hẹn mà cùng "A" lên một tiếng. Có điều tiếng kêu của Vô Kỵ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, còn vợ chồng họ Hà thì vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ. Chỉ nghe soẹt soẹt, hai đệ tử của phái Côn Lôn đã rút kiếm khỏi bao, chuyển ngược cán lại đưa cho sư phụ sư mẫu.
Hà Thái Xung giơ kiếm ngang bụng, ra thế sử chiêu Tuyết Ủng Lam Kiều. Ban Thục Nhàn mũi kiếm xeo xéo xuống đất, ra chiêu Mộc Diệp Tiêu Tiêu. Hai chiêu này đều là kiếm pháp tinh áo của phái Côn Lôn, thoạt trông có vẻ tầm thường, dễ dàng sơ sài, nhưng thực ra bên trong có ẩn bảy tám chiêu hết sức ghê gớm. Hai người cũng đã vận nội lực lên cánh tay phải, chỉ cần rung cổ tay một cái, kiếm quang lóe lên là đã đâm bảy tám chỗ yếu hại trên người địch nhân. Lúc này hai người gặp phải kình địch, đành giở hết bình sinh tuyệt học ra đối phó.
Dương Tiêu vẫn bình thản tưởng như không biết đến, nghe Trương Vô Kỵ trong tiếng kêu đầy vẻ vui mừng, hơi ngạc nhiên, quay sang liếc y một cái. Lúc này mặt Trương Vô Kỵ đầy máu tươi, mũi sưng mắt bầm, bị Hà Thái Xung đánh không còn ra hình thù gì nữa, nhưng trong lòng đầy hoan hỉ, tuy khó coi như thế nhưng niềm vui sướng vẫn lộ ra. Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Ông ... ông có phải là Quang Minh tả sứ giả của Minh giáo Dương Tiêu Dương bá bá đấy không?
Dương Tiêu gật đầu, hỏi:
- Sao một đứa bé như cậu lại biết được tên tôi?
Trương Vô Kỵ chỉ vào Dương Bất Hối, nói:
- Nó là con gái của bác đó.
Y nắm tay Dương Bất Hối đưa đến nói:
- Bất Hối muội muội, mau gọi cha đi, mau gọi cha đi. Anh em mình cuối cùng đã tìm thấy ông ấy rồi.
Dương Bất Hối giương mắt trừng trừng nhìn Dương Tiêu, mười phần đến chín không tin, ông ta có phải cha nó không nó cũng không cần, chỉ hỏi lại:
- Mẹ con đâu? Sao mẹ chưa bay từ trên trời xuống?
Dương Tiêu trong lòng bàng hoàng, chộp lấy đầu vai Trương Vô Kỵ, hỏi:
- Này cậu bé, ngươi nói cho rõ ràng. Nó ... nó là con của ai, mẹ nó là ai?
Y tay dụng lực nắm chặt, đầu vai Trương Vô Kỵ kêu lách cách, đau thấu tâm can. Trương Vô Kỵ không chịu hèn, quyết không kêu đau, nhưng sau cùng cũng phải "A" lên một tiếng, nói:
- Nó là con gái bác, mẹ nó là nữ hiệp Kỷ Hiểu Phù của phái Nga Mi.
Mặt Dương Tiêu vốn đã xanh xao, lúc này lại không còn chút huyết sắc nào, run run nói:
- Nàng ... nàng có con gái ư? Nàng ... nàng bây giờ ở đâu?
Vội vàng cúi xuống bế Dương Bất Hối lên, thấy con bé bị Hà Thái Xung đánh hai cái tát, mặt sưng vù, nhưng trong nét mày ánh mắt, vẫn có vài phần xinh tươi của Kỷ Hiểu Phù. Đang định hỏi lại, đột nhiên Dương Tiêu thấy trên cổ nó có một sợi dây tơ đen, nhẹ nhàng kéo ra, thấy ở đầu kia có đeo một cái thiết bài, trên thiết bài có một ngọn lửa đang bốc cháy kết bằng chỉ vàng. Đó chính là Thiết Diễm Lệnh của Minh giáo mà y đã tặng cho Kỷ Hiểu Phù, nên không còn hoài nghi gì nữa, liền ôm chặt Dương Bất Hối vào lòng, hỏi:
- Mẹ con đâu? Mẹ con đâu?
Dương Bất Hối nói:
- Mẹ con đi lên trời rồi, con đang đi tìm, ba có thấy mẹ con không?
Dương Tiêu thấy nó còn bé quá, nói năng không rõ ràng, đưa mắt cho Trương Vô Kỵ có ý dò hỏi. Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nói:
- Dương bá bá, cháu nói ra bác đừng buồn. Kỷ cô cô bị sư phụ cô ta đánh chết rồi, lúc sắp chết ...
Dương Tiêu la lớn:
- Ngươi dối ta, ngươi dối ta.
Nghe một tiếng cách, cánh tay trái của Vô Kỵ đã bị y bóp gãy, lịch bịch lịch bịch, cả hai người đều ngã lăn ra, tay phải Dương Tiêu vẫn còn ôm chặt đứa con gái.
Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đưa mắt nhìn nhau, hai người cùng vung kiếm tới, chia nhau chỉ ngay vào cổ họng và giữa hai lông mày Dương Tiêu. Dương Tiêu là đại cao thủ của Minh giáo, uy danh rất lớn. Sư phụ của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn là Bạch Lộc Tử chết dưới tay người của Minh giáo, thủ phạm đích thực là ai không biết, nhưng người của phái Côn Lôn đều đổ riệt cho Dương Tiêu. Hôm nay hai vợ chồng họ Hà bất ngờ gặp y tại đây, trong bụng hết sức phập phồng, chưa biết sẽ ra sao, bỗng thấy y đột nhiên bất tỉnh, quả thực là dịp may trời cho, lập tức ra tay chế ngự hai nơi yếu hại.
Ban Thục Nhàn nói:
- Chặt đứt hai tay y đã rồi tính sau.
Hà Thái Xung đáp lời:
- Đúng thế.
Lúc đó Dương Tiêu chưa tỉnh lại, Trương Vô Kỵ thì chỗ gãy trên tay đau nhói đến toát mồ hôi, nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, thấy tình thế nguy cấp, vội lấy chân điểm nhẹ vào huyệt Bách Hội trên đầu Dương Tiêu.
Huyệt Bách Hội liên quan đến óc, nay bị chấn động, Dương Tiêu lập tức tỉnh lại, vừa hé mắt ra, thấy hơi lạnh rung rung, một mũi kiếm đang để ngay mi tâm mình, kế tiếp ánh sáng xanh lấp lánh, một thanh kiếm khác chém xuống tay trái. Y dù muốn ra chiêu chống trả, không sao kịp nữa, huống chi kiếm của Ban Thục Nhàn chế ngự ngay chỗ yếu hại trên người khiến không thể nào cử động được, nên vội vàng vận chân khí ra tay trái.
Trường kiếm của Hà Thái Xung chém xuống, đột nhiên mũi kiếm trượt sang một bên, lưỡi kiếm cũng không xuống được, giống như chém phải một vật vừa trơn vừa dai, nhưng thấy máu đã vọt ra tay áo trắng, y cũng đã bị thương.
Ngay lúc đó, thân hình Dương Tiêu đột nhiên chuồi về phía sau hơn một trượng, tưởng như có ai lấy dây buộc vào cổ y dùng thủ pháp thật nhanh kéo đi. Kiếm của Ban Thục Nhàn vốn đã để vào mi tâm của Dương Tiêu, thân y tuột về sau nhanh quá, mũi kiếm liền rạch từ giữa hai lông mày xuống mũi, miệng, ngực thành một đường máu dài, sâu đến vài phân. Chiêu này thực là nguy hiểm, nếu mũi kiếm của Ban Thục Nhàn chỉ nhấn sâu thêm độ nửa tấc, Dương Tiêu sẽ không khỏi bị cái họa mổ bụng phanh thây. Thân hình y vừa lướt ra được, lập tức dựng tưng lên, tưởng như thân thể có một cái lò so, nhưng người thì lại cứng đơ đơ, trông không khác gì một xác chết.
Dương Tiêu vừa đứng lên, hai chân đạp xuống, nghe lách cách hai tiếng, song kiếm của vợ chồng họ Hà gãy đôi ngay. Tuy hai chân của y đạp xuống có trước có sau, nhưng nhanh như ánh chớp, tưởng như đạp xuống cùng một lúc vậy. Với tài nghệ kiếm pháp của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn, Dương Tiêu võ công tuy cao, nhưng cũng không thể nào chỉ một chiêu đã đạp gãy binh khí của hai người, nhưng vì chiêu số quái dị, đã trọng thương rồi lại đột nhiên thoát thân phản kích, vợ chồng họ Hà đang kinh hãi, không kịp rút kiếm về.
Dương Tiêu lập tức hai chân đá ra, hai mảnh lưỡi kiếm lập tức chia ra bắn vào hai người. Vợ chồng Hà Thái Xung liền giơ hai thanh kiếm gãy ra đỡ, tuy gạt được ra nhưng cũng hoảng sợ, vội nhảy lùi về phía sau, người đứng bên tây bắc, kẻ đứng phía đông nam. Hai vợ chồng mỗi người cầm một nửa thanh kiếm, dương kiếm chỉ lên trời, âm kiếm chỉ xuống đất, song kiếm hợp bích, sử dụng Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn, trong lòng tuy hoảng hốt, nhưng vẫn khí định thần nhàn, ngưng trọng như núi.
Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn nổi danh đã mấy trăm năm, là một trong những kiếm pháp nổi danh trong thiên hạ, hai vợ chồng họ Hà đồng môn học nghệ, từ trẻ luyện đến già, tinh thục vô cùng. Dương Tiêu đã mấy lần đại chiến với phái Côn Lôn, biết kiếm pháp này rất lợi hại, tuy không sợ gì, nhưng muốn đánh bại hai người không thể nào dưới vài trăm chiêu, lúc này chĩ nghĩ đến việc sống chết của Kỷ Hiểu Phù, làm gì có bụng nào mà tranh đấu. Huống chi trên tay và trên mặt thương thế không phải là nhẹ, nếu để máu chảy mãi, sẽ thực là hung hiểm, nên cười nhạt nói:
- Phái Côn Lôn càng ngày càng tệ hại, hôm nay ta tạm bỏ qua, sau này sẽ kiếm hiền kháng lệ[6] đòi món nợ này.
Y tay trái bồng Dương Bất Hối, tay phải nắm Trương Vô Kỵ, không thấy y cử động đôi chân, đột nhiên thụt lùi hơn một trượng, xoay mình một cái đã vọt ra ngoài mấy trượng. Vợ chồng Hà Thái Xung đang kinh hoảng, nay thấy tên đại ma đầu tự ý bỏ đi, nên nào dám đuổi theo.
Dương Tiêu dắt hai đứa trẻ chạy một mạch luôn mấy dặm, đột nhiên ngừng lại, hỏi Trương Vô Kỵ:
- Kỷ Hiểu Phù cô nương sự thể như thế nào?
Y đang chạy nhanh, nào ngờ muốn dừng là dừng, thân hình như đóng chặt dưới đất, không di động nửa phân. Trương Vô Kỵ thu thế không kịp, ngã bổ nhào về trước, nếu không được Dương Tiêu níu lại, ắt đã lăn dưới đất, nghe y hỏi như thế, thở hổn hển mấy lần mới nói:
- Kỷ cô nương đã chết rồi, bác tin cũng được, không tin cũng không sao, việc gì phải bóp gãy tay cháu.
Dương Tiêu trên mặt thoáng vẻ ân hận, hỏi tiếp:
- Nàng ... vì sao nàng chết?
Thanh âm dường như có chiều nghẹn ngào. Trương Vô Kỵ uống phải độc tửu của Ban Thục Nhàn, tuy đã nôn ra gần hết, trên đường cũng đã uống hai viên thuốc giải độc, nhưng chất độc chưa hết hẳn, lúc này trong bụng lại bắt đầu đau. Y lấy con kim quan huyết xà cho nó cắn đầu ngón tay trỏ hút chất độc, một mặt kể cho Dương Tiêu nghe tại sao y biết được Kỷ Hiểu Phù, làm sao trị bệnh cho cô ta, tại sao nàng bị Diệt Tuyệt sư thái đánh chết kể lại đầu đuôi. Đến khi kể xong, kim quan huyết xà cũng đã hút hết máu độc trong cơ thể y.
Dương Tiêu lại hỏi kỹ những lời nàng thốt ra khi sắp chết, rơi lệ nói:
- Diệt Tuyệt ác ni ép nàng phải đến hại ta, chỉ cần nàng nhận lời, là sẽ lập được đại công với phái Nga Mi, có thể kế thừa chức vụ chưởng môn. Ôi, Hiểu Phù ôi Hiểu Phù, em thà chết chứ không chịu làm. Thực ra, em chỉ cần giả vờ ưng thuận, hai đứa mình chẳng những gặp lại nhau, mà cũng chẳng chết dưới tay của Diệt Tuyệt ác ni đâu.
Trương Vô Kỵ nói:
- Kỷ cô cô là người chính trực, cô không muốn lén hạ độc thủ hại bác, lại cũng không muốn dùng lời giả dối để đánh lừa sư phụ.
Dương Tiêu buồn bã nhếch mép:
- Cậu quả thực đáng là người tri kỷ của Hiểu Phù... đâu ngờ rằng sư phụ nàng độc ác đến thế, đang tâm giết nàng.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cháu đáp ứng Kỷ cô cô, đưa Bất Hối muội muội đến giao cho bác ...
Dương Tiêu giật mình, nói:
- Bất Hối muội muội?
Y quay sang hỏi Dương Bất Hối:
- Con yêu quí của bố, con họ gì? Tên gì?
Dương Bất Hối đáp:
- Con họ Dương, tên là Bất Hối.
Dương Tiêu ngửng đầu lên hú một tiếng dài, làm chấn động bốn bề, lá cây rơi lả tả hồi lâu chưa dứt, nói:
- Con quả thực họ Dương. Bất Hối, Bất Hối. Đúng rồi, Hiểu Phù ơi, tuy ta cưỡng bức em, nhưng không vì thế mà em hối tiếc.
Trương Vô Kỵ đã nghe Kỷ Hiểu Phù kể qua cái nghiệt duyên của hai người, lúc này thấy Dương Tiêu anh tuấn tiêu sái, tuổi tuy có hơi lớn, nhưng không mất cái phong độ của một người đàn ông đẹp trai, so với Ân Lê Đình lục thúc vẫn còn tính khí trẻ con, thì người như Dương Tiêu vẫn dễ được đàn bà say đắm hơn. Kỷ Hiểu Phù bị y cưỡng bức thất thân nhưng lại đổi thành mê say y, cũng không trách cô ta được. Ở vào tuổi của Vô Kỵ tuy không hiểu rõ mọi bề, nhưng cũng mơ hồ nhận ra điều đó.
Tay trái của Trương Vô Kỵ bị gãy đau đớn không chịu nổi, nhất thời không kiếm ra các loại dược vật để tiếp cốt và giảm đau, đành phải nối xương trước, đắp ít lá làm bớt sưng, bẻ hai cành cây dùng vỏ cây bó lại để giữ cánh tay. Dương Tiêu thấy y tuổi còn nhỏ, một tay tiếp cốt trị thương, thủ pháp thập phần khéo léo cũng lấy làm lạ.
Trương Vô Kỵ buộc tay xong rồi, nói:
- Dương bá bá, cháu không phụ lòng ủy thác của Kỷ cô cô, Bất Hối muội muội đã gặp được cha. Vậy mình chia tay từ đây.
Dương Tiêu nói:
- Cậu đường xa vạn dặm, đưa con ta đến, lẽ nào ta không có gì báo đáp? Cậu muốn gì, chỉ cần mở miệng nói ra, chuyện gì mà Dương Tiêu này không làm được, vật gì mà ta không lấy được, thiên hạ chắc cũng không mấy người làm nổi.
Trương Vô Kỵ cười ha hả, nói:
- Dương bá bá, bác xem Kỷ cô cô nhẹ thể quá, uổng công cô ấy chết vì bác.
Dương Tiêu mặt mày đại biến, quát hỏi:
- Ngươi nói gì?
Trương Vô Kỵ nói:
- Kỷ cô cô không coi thường cháu, nên mới gửi con để cháu mang đến cho bác, nếu vì cháu cầu gì mà đến đây, người như thế có đáng để gửi gấm chăng?
Y trong bụng nghĩ thầm: "Trên đường đi em Bất Hối gặp biết bao điều nguy nan, ta bao nhiêu lần lấy thân ra đỡ? Nếu ta là kẻ tham lợi vô nghĩa, làm gì cha con hôm nay có thể đoàn viên?". Thế nhưng y không phải là người thích khoe khoang công lao, một câu cũng không đề cập đến những nguy khốn dọc đường, nên chỉ nói thêm vài câu rồi cúi đầu vái chào, quay mình ra đi.
Dương Tiêu nói:
- Khoan đã, cậu giúp tôi một việc to tát như thế, Dương Tiêu trước nay có oán tất trả, có ơn tất đền. Cậu theo ta, chỉ trong một năm, ta sẽ truyền cho cậu vài pho võ công trên đời ít ai địch lại.
Trương Vô Kỵ chính mắt thấy y đạp gãy hai thanh trường kiếm của vợ chồng Hà Thái Xung, võ công cao cường như thế, trên giang hồ quả thực ít ai sánh kịp, chỉ cần học được của y một chiêu, nửa thức sẽ có ích rất nhiều. Thế nhưng nghĩ đến thái sư phụ từng dặn đi dặn lại, không được lai vãng với người trong Ma giáo, huống chi tuy võ công có cao, nhưng y sao bằng được thái sư phụ? Hơn nữa mình chỉ còn sống được nửa năm nữa thôi, dù có học được võ công tuyệt thế vô địch, cũng có làm gì? Nghĩ thế y bèn nói:
- Đa tạ Dương bá bá đã có lòng, nhưng vãn bối là đệ tử phái Võ Đương, không dám đi học cao chiêu của phái khác.
Dương Tiêu "A" lên một tiếng, nói:
- Thì ra cậu là đệ tử phái Võ Đương? Thế Ân Lê Đình ... Ân lục hiệp ...
Trương Vô Kỵ tiếp lời:
- Ân lục hiệp là sư thúc của cháu, từ khi tiên phụ chết đi, Ân lục thúc đối với cháu chẳng khác gì chú ruột. Cháu nhận lời gửi gấm của Kỷ cô cô đưa em Bất Hối đến núi Côn Lôn, đối với Ân lục thúc không khỏi ... không khỏi có điều bất ổn trong lòng.
Dương Tiêu gặp ánh mắt của y bỗng thấy ăn năn, tay phải vẫy một cái, nói:
- Dương mỗ thâm cảm đại đức, hổ thẹn không có gì báo đáp. Nếu đã như thế, sau này mong có dịp gặp lại.
Thân hình y động nhẹ một cái, đã vọt ra ngoài mấy trượng. Dương Bất Hối kêu to:
- Vô Kỵ ca ca, Vô Kỵ ca ca.
Nhưng Dương Tiêu đã thi triển khinh công, trong khoảnh khắc đã đi xa tít, những tiếng Vô Kỵ ca ca nhỏ dần, sau cùng cả người lẫn âm thanh đều biến mất.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Địa danh thuộc tỉnh Hà Nam, phía bắc huyện Xác Sơn bốn mươi dặm.
[2] Đúng nghĩa là một chỗ đất trũng
[3] phèn trắng
[4] tì sương tức là thạch tín, hay nhân ngôn, hạc đính hồng là cái mào con hạc, khổng tước đảm là mật chim công, trẩm tửu là lông chim trẩm ngâm vào rượu đều là những chất độc
[5] rút bớt củi dưới bếp đang đun, một trong ba mươi sáu kế ngày xưa (Tam Thập Lục Kế) ý nói nhân việc nọ làm việc kia luôn thể
[6] vợ chồng (chữ dùng văn vẻ)
Hồi 15
KỲ MƯU BÍ KẾ MỘNG NHẤT TRƯỜNG
Sông sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng[1].
Trời mưa bong bóng phập phồng,
Trăm mưu nghìn kế cũng không ra gì.
Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối hai đứa đi chung với nhau cả vạn dặm sang Tây Vực, như hình với bóng, đột nhiên chia tay, không khỏi bàng hoàng trống trải, nhưng nghĩ lại không phụ tấm lòng ủy thác của Kỷ Hiểu Phù, đưa cô bé đến đưa tận tay Dương Tiêu, cũng thấy an ủi. Y đứng ngơ ngẩn một hồi, lại sợ bọn Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn phái Côn Lôn tìm thấy, nên cứ theo hướng rừng sâu núi thẳm mà tiến vào.
Đi như thế hơn chục ngày, vết thương trên tay cũng đỡ, nhưng y vẫn chỉ loanh quanh trong dãy Côn Lôn, không tìm được đường ra khỏi núi. Hôm đó y đi đã nửa ngày trời, ngồi trên một tảng đá nghỉ chân, bỗng nghe từ hướng tây bắc vọng đến tiếng chó sủa, nghe phải đến hơn chục con. Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần, dường như đang đuổi theo một con dã thú.
Trong khi chó đang sủa, một con khỉ nhỏ hoảng hốt chạy tới, sau lưng có cắm một mũi tên ngắn. Con khỉ đó chạy đến cách Vô Kỵ chừng hơn một trượng thì ngã lăn ra, vì dính mũi tên trên lưng nên không trèo lên cây được, chạy đến đây kiệt sức, không gượng nổi nữa. Trương Vô Kỵ đi đến xem, mắt con khỉ lộ vẻ hoảng sợ van lơn, y động tâm nghĩ thầm: "Ta bị người của phái Côn Lôn rượt bắt, cũng khổ sở không khác gì ngươi". Nghĩ thế bèn bế con khỉ lên, nhẹ nhàng rút mũi tên ra, lấy thuốc trong bọc ra rịt vết thương cho nó.
Ngay lúc đó, tiếng chó sủa đã tới gần, Trương Vô Kỵ liền mở áo ra, dấu con khỉ vào trong bụng, có mấy tiếng gâu gâu gâu, hơn một chục con chó săn cao lớn đã vây quanh y. Những con chó đánh hơi theo dấu con khỉ, nhe răng gầm gừ nhưng chưa dám xông lại. Trương Vô Kỵ thấy những con chó đó trông thật dữ tợn, răng dài trắng nhởn, trong lòng sợ hãi, biết nếu mình vứt con khỉ ra chúng sẽ nhảy tới vồ ngay và buông tha cho mình. Thế nhưng từ bé y đã được cha giáo huấn, mọi việc đều coi hiệp nghĩa là trọng, nên đối với một con thú hoang cũng không phụ lòng, lập tức nhảy qua đầu bầy chó săn, co giò chạy, bầy chó lập tức hùng hổ vừa sủa vừa đuổi theo.
Chó săn chạy rất nhanh, Trương Vô Kỵ chỉ chạy được mươi trượng là chúng đã đuổi kịp. Y nghe đùi đau nhói, đã bị một con chó cắn trúng, giữ rịt lại không nhả. Y quay lại xuất tận toàn lực đánh một chưởng, trúng ngay đầu con chó văng đi mấy vòng, nằm chết ngất. Những con chó còn lại lập tức xông lên.
Trương Vô Kỵ tay đấm chân đá, hết sức chống cự. Tay y đau chưa khỏi hẳn nên bên trái không cử động được, chẳng bao lâu đã bị một con chó cắn phải, rồi bốn bề tám hướng bầy chó xông vào cắn loạn xạ, đầu mặt vai lưng chỗ nào cũng bị răng của chúng ngoặp vào. Trong cơn hoảng hốt, dường như có nghe mấy tiếng người thanh thoát kêu la, nhưng xem chừng ở xa lắm, mắt y tối sầm, rồi không còn biết gì nữa.
Trong cơn hôn mê, y thấy vô số sài lang hổ báo xông tới cắn, muốn há mồm kêu, nhưng không thốt ra được tiếng nào, bỗng nghe có tiếng người nói:
- Bớt nóng rồi, may ra không chết.
Trương Vô Kỵ mở mắt ra, vật đầu tiên y nhìn thấy là một ngọn đèn vàng vọt, mới biết mình đang nằm trong một căn phòng nhỏ, một hán tử trung niên đứng ngay trước mặt. Trương Vô Kỵ hỏi:
- Đại ... đại thúc ... sao tôi ...
Chỉ nói được vài tiếng, thấy toàn thân đau nhức như phải bỏng, bấy giờ mới từ từ hồi tưởng lại, mình đã bị một bầy chó dữ xông vào xâu xé. Hán tử đó nói:
- Tiểu tử, ngươi mạng lớn lắm, không chết đâu, thấy thế nào? Có đói không?
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Tôi ... tôi đang ở đâu thế?
Lúc ấy các vết thương lại đau tấy lên, bất tỉnh lần nữa.
Lần thứ hai y tỉnh lại, gã trung niên hán tử đó không còn trong phòng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ta không sống được lâu, sao lại chịu biết bao nhiêu là dày vò thế này?" Cúi đầu xuống nhìn thấy trên ngực dưới cổ, bắp tay, đùi vế chỗ nào cũng toàn là băng vải, mùi thuốc xông lên ngạt mũi, thì ra có ai đó bó thuốc vào các vết thương. Từ các mùi dược thảo, biết người nào đó trình độ dùng thuốc kém cỏi, trong các dược vật có hạnh nhân, mã tiền tử, phòng phong, nam tinh các vị thuốc trị chó dại cắn. Thuốc này để trừ nọc độc cũng khá linh hiệu, thế nhưng cắn y không phải chó dại, chỉ cân cốt cơ nhục bị tổn thương, thuốc không đúng bệnh, càng thêm đau đớn. Y không cách nào dậy được, đợi đến trời sáng người trung niên hán tử kia lại đến thăm.
Trương Vô Kỵ nói:
- Đại thúc, đa tạ chú đã cứu tôi.
Hán tử đó nói:
- Đây là Hồng Mai sơn trang, tiểu thư của chúng tôi cứu cậu đó. Cậu có đói chưa?
Nói xong đi ra bưng một tô cháo lớn đem vào. Trương Vô Kỵ ăn mấy thìa, thấy ngực nặng chình chịch, đầu váng mắt hoa, không ăn thêm được nữa.
Cứ như thế tám ngày liền, mới gượng dậy nhưng chân bông bênh không có hơi sức. Y biết mình mất máu quá nhiều, nhất thời chưa thể hồi phục. Hán tử đó mỗi ngày đem cơm, thay thuốc cho y, rõ ràng có vẻ miễn cưỡng, phiền toái. Trương Vô Kỵ mười phần cảm kích, nhưng vì y không được vui, nên trong bụng biết bao nhiêu điều nghi nan cũng không dám mở miệng hỏi. Hôm đó y thấy gã này mang lại nào là phòng phong, nam tinh các loại dược vật đã tán quết thành hồ, Trương Vô Kỵ nhịn không nổi nói:
- Đại thúc, các loại thuốc này trị không đúng bệnh, phiền chú đổi giùm tôi mấy vị khác có được không?
Gã hán tử đó trừng mắt lườm y chăm chăm hồi lâu mới nói:
- Toa thuốc này lão gia kê đơn, lại còn sai được ư? Ngươi bảo thuốc không đúng bệnh, thế sao ngươi chết đi mà lại sống lại được? Ta nói thực, trẻ con không nên nói năng bậy bạ, lão gia nghe thấy thể nào cũng giận, ngươi cũng phải biết điều một chút.
Nói xong lấy dược hồ đắp lên các vết thương, Trương Vô Kỵ chỉ còn có nước gượng cười mà chịu. Gã hán tử đó nói tiếp:
- Ta xem ngươi thương thế đã bớt nhiều rồi, nên đến gặp lão gia, thái thái, tiểu thư khấu đầu tạ ơn cứu mạng.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chuyện đó nên lắm, nhờ đại thúc dẫn tôi đi.
Hán tử đó đưa y ra khỏi căn phòng, qua một hành lang dài, lại qua thêm hai sảnh đường nữa, đến một căn phòng ấm áp. Lúc đó trời đã đầu mùa đông, một giải Côn Lôn trời lạnh ngắt, nhưng căn noãn các này ấm áp như ở mùa xuân, không biết lửa đốt nơi đâu. Trong phòng trần thiết huy hoàng xán lạn, ghế giường đều trải nệm may bằng gấm mềm. Trương Vô Kỵ từ trước tới nay chưa vào một căn phòng nào phú lệ sang trọng đến thế, thấy mình y phục dơ dáy, đứng trong căn noãn các này thật chẳng xứng chút nào, không khỏi tự thẹn mình ô uế.
Căn phòng đó không có ai cả, nhưng hán tử đó thần sắc hết sức cung kính, khom lưng bẩm báo:
- Thằng bé bị chó cắn đã khỏe rồi, nay đến khấu đầu trước lão gia, thái thái tạ ơn.
Y nói xong mấy câu, đứng thẳng tay chờ, đến hơi thở cũng không dám thở mạnh. Qua một lúc lâu, thấy đằng sau bức bình phong có một thiếu nữ chừng mười lăm, mười sau tuổi đi ra, liếc xéo Trương Vô Kỵ một cái, nói:
- Kiều Phúc, lại ông nữa, sao lại mang thằng nhỏ này tới đây? Lỡ chấy rận trên người nó nhảy ra thì làm thế nào?
Kiều Phúc đáp:
- Dạ phải, dạ phải.
Trương Vô Kỵ vốn đã bối rối phập phồng, nay nghe nói thế, mặt đỏ bừng, ngoài bộ quần áo trên người y đâu có y phục nào khác mà thay đổi, quả thực sinh đầy chấy rận, vị tiểu thư này nói không sai. Cô gái đó mặt trái xoan, tóc xõa xuống vai, mặc không biết loại lụa là gấm vóc gì mà lấp lánh phát quang, tay đeo vòng vàng, người ăn mặc sang cả như thế trước nay y chưa gặp bao giờ. Vô Kỵ nghĩ thầm: "Khi ta bị bầy chó vây cắn, hình như có tiếng một người con gái quát chúng buông tha ra, Kiều Phúc đại thúc lại nói là tiểu thư của ông ta cứu mình, vậy mình nên rập đầu tạ ơn cho phải". Nghĩ thế bèn quì xuống khấu đầu, nói:
- Đa tạ tiểu thư ra tay cứu, suốt đời tôi không dám quên đại ân này.
Thiếu nữ nọ ngạc nhiên, cười khúc khích, nói:
- Này bác Kiều Phúc, nó làm trò gì thế? Bác tính đùa rỡn thằng ngốc này đấy ư?
Kiều Phúc cười đáp:
- Tiểu Phượng tỉ tỉ, thằng ngốc này quì lạy cô mấy cái, không dám nhận hay sao. Thằng bé đần độn chưa bao giờ ra ngoài đời, thấy cô lại tưởng là tiểu thư. Nói đúng ra, dù cho con hầu đầy tớ trong nhà này, so với thiên kim tiểu thư nhà khác còn tôn quí hơn nhiều.
Trương Vô Kỵ kinh hoảng, vội vàng đứng dậy, nghĩ thầm: "Chết rồi, hóa ra thị chỉ là một con hầu, vậy mà mình lại tưởng là tiểu thư". Mặt y vừa đỏ vùa trắng, thẹn thùng không biết để đâu cho hết.
Tiểu Phượng cố nhịn cười, nhìn Vô Kỵ từ đầu đến chân để đánh giá. Trên mặt mũi thân thể của y vết máu chưa rửa sạch, lốt chó cắn thì buộc đầy băng vải, biết mình hôi hám khó coi, giận dưới đất sao không có cái lỗ nào để chui xuống. Tiểu Phượng giơ tay che mũi nói:
- Lão gia thái thái đang bận, không đến chào được, chỉ có tiểu thư thôi.
Nói xong vòng ra xa xa, đi trước dẫn đường, sợ chấy rận trong người Trương Vô Kỵ nhảy qua mình. Trương Vô Kỵ đi theo Kiều Phúc và Tiểu Phượng, trên đường gặp tì bộc gia nhân ai nấy đều phục sức đẹp đẽ, lầu son gác tía chỗ nào cũng thật là sang trọng. Y từ lúc sinh ra đến khi lên mười sống ở Băng Hỏa đảo, mấy năm sau thì một nửa ở trên núi Võ Đương, một nửa sống tại Hồ Điệp Cốc, ăn uống sinh hoạt hết sức giản phác, dù có nằm mơ cũng không bao giờ tưởng tượng nổi trên đời này lại có một gia đình giàu có đến thế.
Đi một hồi đến trước một tòa đại sảnh, thấy tấm biển viết ba chữ Linh Ngao Doanh. Tiểu Phượng vào trong sảnh trước, một lúc sau đi ra vẫy tay, Kiều Phúc liền đưa Trương Vô Kỵ vào.
Trương Vô Kỵ vừa đến cửa không khỏi giật mình. Y thấy trong sảnh ba chục con chó to khỏe hung dữ, chia thành ba hàng ngồi dưới đất, một thiếu nữ mặc áo hồ cừu toàn trắng ngồi trên một chiếc ghế lót da hổ, tay cầm roi da, cất giọng trong trẻo quát:
- Tiền tướng quân, yết hầu.
Một con mãnh khuyển liền nhảy vọt tới, cắn ngay vào cổ họng một người đứng bên tường. Trương Vô Kỵ thấy tình cảnh tàn nhẫn đó, nhịn không nổi kêu lên "Ôi chao" một tiếng, thấy con chó ngoạm được một miếng thịt, đứng dưới đất xé ăn. Y vừa định thần, nhìn rõ người này chỉ là một hình nhân làm bằng da, chung quanh thân mình những chỗ yếu hại treo đầy những miếng thịt. Nữ lang đó lại quát:
- Xa Kỵ tướng quân, bụng dưới.
Một con chó khác liền nhảy ra xông lên táp vào bụng của bù nhìn. Những con chó đó được huấn luyện có qui củ, theo lệnh mà cắn vào bộ vị không sai sẩy chút nào. Trương Vô Kỵ sau phút sửng sốt, lập tức nhận ra, chính bầy ác khuyển hôm đó cắn mình ở trong núi, nay nhớ lại, người quát tháo đàn chó chính là tiếng cô gái này. Y vẫn nghĩ tiểu thư là ân nhân cứu mạng, lúc này mới biết mình bị biết bao khổ sở chính là do cô ta gây nên, nhịn không nổi nộ khí xông lên, nghĩ thầm: "Không xong, không xong, cô nàng có bọn chó săn, ta không thể làm gì được. Nếu sớm biết như thế này, thà chết trong hoang sơn còn hơn là ở tại nhà cô ta dưỡng thương". Y liền cởi hết dây băng vải, vứt xuống đất, quay mình bước đi.
Kiều Phúc kêu lên:
- Ê, ê, ngươi làm trò gì thế? Đây chính là tiểu thư, sao không tiến lên khấu đầu?
Trương Vô Kỵ giận dữ đáp:
- Hứ, ta phải tạ ơn cô ta ư? Bọn ác khuyển cắn ta, chẳng phải là chó cô ta nuôi hay sao?
Nữ lang nọ quay đầu lại, thấy y đang nổi cáu, liền nhoẻn một nụ cười, vẫy tay gọi:
- Tiểu huynh đệ, ngươi lại đây.
Trương Vô Kỵ lúc này đối diện với nàng, tim đập thình thịch không dứt. Cô ta dung nhan kiều mị, da dẻ trắng trẻo mịn màng. Tai y lập tức ù đi, mồ hôi trên lưng chảy xuống, chân tay không khỏi hơi run rẩy, vội cúi đầu xuống không dám nhìn, khuôn mặt xanh xao không một chút huyết sắc nay đỏ bừng.
Cô gái cười nói:
- Cậu lại đây nào.
Trương Vô Kỵ ngửng đầu liếc nàng một cái, gặp phải làn thu ba long lanh, lòng mơ mơ hồ hồ, tự nhiên từ từ di động tới. Cô gái lại mỉm cười:
- Tiểu huynh đệ, cậu giận tôi, có phải không nào?
Trương Vô Kỵ bị bầy chó cắn xé chịu biết bao đau khổ, lẽ nào không căm tức? Thế nhưng bây giờ đứng trước mặt nàng, cảm thấy hơi thở nàng tỏa ra một mùi thơm như hoa lan, từng lớp từng lớp u hương phả đến, khiến y ngất ngây, làm sao còn nói lên được một chữ "giận", lập tức lắc đầu nói:
- Không đâu.
Cô gái đó nói:
- Tôi họ Chu, tên Cửu Chân, còn cậu tên gì?
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi tên Trương Vô Kỵ.
Chu Cửu Chân nói:
- Vô Kỵ, Vô Kỵ. Ồ, cái tên đó thật là cao nhã, chắc tiểu huynh đệ phải là con nhà thế gia. Thôi, cậu ngồi ở đây đi.
Nói xong nàng chỉ một cái ghế thấp bên cạnh. Trương Vô Kỵ từ khi cha sinh mẹ đẻ tới giờ, đây là lần đầu bị rơi vào cái ma lực kinh tâm động phách của mỹ nhân, lúc này Chu Cửu Chân có bảo y nhảy vào hầm lửa, chắc cũng không do dự nhảy ngay, thấy nàng bảo ngồi bên cạnh, thực là hoan hỉ không để đâu cho xiết, lập tức rón rén ngồi xuống.
Tiểu Phượng và Kiều Phúc thấy tiểu thư biệt đãi thằng nhỏ vừa dơ dáy, vừa hôi hám ấy như thế, đều không thể nào hiểu nổi. Chu Cửu Chân lại thánh thoát quát:
- Chiết Xung tướng quân, tâm khẩu.
Một con chó lớn khác lại nhào ra, táp vào hình nộm kia. Thế nhưng miếng thịt ở tâm khẩu của hình nhân đã bị con chó khác ăn mất rồi, con chó liền đớp luôn miếng thịt khác treo ở dưới mạng sườn, ăn luôn. Chu Cửu Chân giận dữ nói:
- Đồ tham ăn, mi không nghe lệnh hả?
Nàng cầm roi da, quất liền hai cái vút vút. Cái roi đó có đầy gai nhọn nên khi đánh ra để lại trên lưng con vật hai đường máu dài. Con chó vẫn chưa chịu nhả miếng thịt, trái lại gầm gừ thị uy. Chu Cửu Chân quát lớn:
- Mi vẫn không nghe?
Trường tiên lại vung ra, đánh con chó lăn lộn dưới đất, trên thân chỗ nào cũng có máu chảy. Nào đánh roi thủ pháp linh hoạt, dù cho con chó có lăn lộn né tránh cách nào, vẫn không tránh được. Sau cùng con chó phải bỏ miếng thịt, nằm phục dưới đất bất động, chỉ còn rên ư ử. Thế nhưng Chu Cửu Chân nào đã tha, tiếp tục đánh đến khi con vật chỉ còn thoi thóp mới nói:
- Kiều Phúc, đem nó xuống bó thuốc.
Kiều Phúc đáp lời:
- Tuân lệnh tiểu thư.
Y liền ôm con chó bị thương ra khỏi sảnh, giao cho người đầy tớ chuyên lo việc nuôi chó lo liệu việc chữa trị. Bầy chó thấy tình cảnh đó, con nào con nấy sợ đến mất vía, không dám nhúc nhích.
Chu Cửu Chân trở lại ghế ngồi, quát:
- Bình Khấu tướng quân, đùi trái. Uy Viễn tướng quân, tay phải. Chinh Đông tướng quân, mắt.
Từng con chó nhảy ra theo đúng lệnh truyền mà cắn, không con nào sai bộ vị. Mấy chục con chó, con nào cũng được phong làm tướng quân, nàng chỉ huy tất cả, đương nhiên trở thành đại nguyên soái.
Chu Cửu Chân quay đầu lại mỉm cười:
- Tiểu huynh đệ coi mấy con súc sinh này có hèn không? Không cho một trận đòn thì không chịu nghe lời.
Trương Vô Kỵ tuy bị bầy chó cắn cho một trận thật khốn khổ, nhưng khi chứng kiến thảm trạng con chó bị đòn, trong bụng không khỏi chạnh lòng. Chu Cửu Chân thấy y không nói năng gì, cười hỏi:
- Cậu nói cậu không giận tôi, sao không trả lời? Cậu làm sao mà đến được Tây Vực? Cha mẹ cậu đâu?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, mình lênh đênh thế này, nếu đề cập đến tên tuổi thái sư phụ và cha mẹ, không khỏi làm nhục đến ông cha, nên nói:
- Cha mẹ tôi đều đã mất cả, ở trung nguyên không sống nổi, nên bỏ xứ đi lang thang đến nơi này.
Chu Cửu Chân cười nói:
- Tôi bắn con khỉ, ai bảo cậu dấu nó vào trong bụng làm gì, bụng đói quá nên định ăn thịt khỉ, có phải không nào? Đâu có ngờ chó của tôi lại xông vào cắn xé cho tan tành như thế.
Trương Vô Kỵ đỏ mặt, liên tiếp lắc đầu, nói:
- Tôi không định ăn thịt con khỉ đâu.
Chu Cửu Chân lại cười:
- Cậu ở trước mặt tôi, phải ngoan ngoãn không được chối quanh nghe chưa.
Nàng chợt nghĩ ra một chuyện, hỏi thêm:
- Cậu học võ gì thế? Đánh một chưởng mà vỡ đầu con Tả tướng quân của tôi chết tươi, chưởng lực không phải nhẹ.
Trương Vô Kỵ nghe nói mình đánh chết con chó yêu quí của cô ta, không khỏi ân hận, nói:
- Lúc đó tôi kinh hoảng, ra tay có lẽ hơi nặng. Hồi còn bé tôi cha tôi có dạy đôi ba năm quyền cước, nhưng có biết võ công gì đâu.
Chu Cửu Chân gật đầu, nói với Tiểu Phượng:
- Ngươi đem y xuống tắm rửa, thay quần áo đi.
Tiểu Phượng bĩu môi nói:
- Vâng.
Rồi dẫn y ra ngoài. Trương Vô Kỵ quyến luyến không muốn rời, đến cửa sảnh, nhịn không nổi quay đầu lại nhìn cô ta một cái, nào ngờ chính lúc đó Chu Cửu Chân cũng nhìn y, hai mắt gặp nhau nàng liền long lanh khóe thu ba, nở một nụ cười. Trương Vô Kỵ thẹn đến chân tóc cũng đỏ bừng, hồn vía đâu đâu, không nhìn thấy bậc cửa, vấp một cái ngã bổ tới trước. Y khắp người đâu cũng đầy vết thương, nay ngã nhào, mấy chỗ đau nhói, nhưng không dám kêu, vội lồm cồm đứng dậy. Tiểu Phượng cười khúc khích nói:
- Gặp tiểu thư nhà ta, ai ai cũng thần hồn điên đảo. Không ngờ ngươi còn bé mà cũng đã gớm thế đấy.
Trương Vô Kỵ quýnh quíu, liền rảo bước đi trước. Đi được một lúc, Tiểu Phượng lại cười:
- Ngươi đến phòng bà chủ để tắm rửa, thay quần áo ư?
Trương Vô Kỵ đứng lại nhìn kỹ, quả nhiên thấy căn phòng trước mặt rèm thêu trướng rủ, nơi này chưa từng đến bao giờ, hóa ra y lạng quạng nên đã đi lạc đường. Con a đầu Tiểu Phượng là đứa láu lỉnh, không nói trước, đợi đến khi y đi nhầm chỗ rồi bấy giờ mới ra lời chọc ghẹo. Trương Vô Kỵ mặt đỏ bừng, cúi đầu không nói năng, Tiểu Phượng nói:
- Ngươi gọi ta một câu "Tiểu Phượng tỉ tỉ, xin chị cứu tôi" thì ta sẽ dẫn ngươi đi ra.
Trương Vô Kỵ ấp úng:
- Tiểu Phượng tỉ tỉ ...
Tiểu Phượng giơ ngón tay lên má, giả vờ nghiêm nghị hỏi:
- Hừ, ngươi gọi gì ta?
Trương Vô Kỵ nói:
- Xin chị cứu tôi, dẫn tôi ra.
Tiểu Phượng cười:
- Thế thì được rồi.
Con bé liền dẫn Vô Kỵ quay trở lại căn phòng nhỏ của y, nói với Kiều Phúc:
- Tiểu thư dặn là cho nó đi tắm rửa, thay một bộ quần áo sạch sẽ.
Kiều Phúc vội vàng đáp:
- Vâng, vâng.
Lời lẽ tỏ ra hết sức cung kính, xem ra Tiểu Phượng tuy cũng chỉ là một đứa a hoàn, nhưng vai vế cao hơn những tì bộc khác. Năm sáu tên đầy tớ liền tiến lên, đứa này chào một câu "Tiểu Phượng tỉ tỉ", đứa kia chào một câu "Tiểu Phượng tỉ tỉ". Tiểu Phượng không thèm để ý tới họ, bất ngời quay lại vái Trương Vô Kỵ một cái. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:
- Cô ... sao lại ...
Tiểu Phượng cười đáp:
- Lúc trước ngươi khấu đầu lạy ta, bây giờ ta hoàn lễ.
Nói xong cô nàng thoăn thoắt về phòng. Kiều Phúc bèn đem chuyện Trương Vô Kỵ nhận lầm Tiểu Phượng là tiểu thư nên khấu đầu chào nàng ra kể lại, lại thêm dầu thêm mỡ nghe thật khôi hài, khiến bọn đầy tớ cười như chợ vỡ. Trương Vô Kỵ lủi thủi vào phòng, nhưng không nổi giận, ôn lại tất cả từ nét cười, lời nói của tiểu thư lúc nãy để nhấm nháp cái thú vui được gặp nàng.
Y đi tắm rửa xong, thấy bộ quần áo Kiều Phúc đem đến cho mình thay là loại vải xanh may thẳng, dùng cho đầy tớ, trong bụng phẫn nộ: "Ta đâu có phải là loại nô bộc hạ lưu sao lại đưa cho ta mặc loại y phục này?". Y bèn lấy lại bộ quần áo cũ rách của mình mặc vào, nhưng thấy những chỗ rách to, trơ xương hở thịt, nghĩ thầm: "Tiểu thư thể nào cũng gọi ta lên hỏi chuyện, thấy mình ăn mặc rách rưới dơ bẩn thế này, ắt sẽ không vui. Thực ra nếu mình có phải làm đầy tớ cho nàng chăng nữa, để nàng sai bảo thì có gì đâu mà không được". Y nghĩ thế thấy lòng thản nhiên, liền mặc bộ quần áo đầy tớ vào.
Nào ngờ không chỉ một ngày tiểu thư chẳng cho gọi y, hơn mười ngày sau, con a hoàn Tiểu Phượng cũng không ghé đến, đừng nói gì cô chủ. Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn, nhớ đến nét mặt, thanh âm, nụ cười kiều mị của Chu Cửu Chân mà cả đến lúc nàng dữ tợn đánh con chó, trông cũng khả ái. Y mong có thể đến hậu viện, đứng xa xa nhìn nàng một cái, nghe nàng nói chuyện với ai cũng được, nhưng Kiều Phúc đã dặn đi dặn lại mấy lần, nếu không được chủ nhân gọi đến, không được bước qua khỏi cổng, nếu không sẽ bị bầy chó xông ra cắn xé. Trương Vô Kỵ nghĩ đến bầy chó hung dữ, tuy trong bụng muốn lắm nhưng vẫn không dám héo lánh đến hậu viện.
Lại thêm hơn một tháng nữa, xương cánh tay của y đã liền như cũ, các vết chó cắn nay cũng lành, nhưng tên cánh tay, trên đùi vẫn còn nhiều vết sẹo để lại không thể nào hết được, nhưng nghĩ đến đây là những vết răng của bầy chó yêu của tiểu thư, y lại thấy lòng rộn ràng trìu mến. Đến hồi này, hàn độc trong người y cứ mấy ngày lại phát tác một lần, lần sau lại càng tệ hại hơn lần trước.
Hôm đó y bị lên cơn hàn độc, nằm co trên giường, lấy chăn chùm chặt, toàn thân run bần bật. Kiều Phúc vào phòng thấy thế đã quen nên không lấy làm lạ, nói:
- Bao giờ ngươi hết cơn, húp một bát cháo hổ lốn[2] là khỏi. Còn đây là quần áo mới thái thái ban cho dịp năm mới.
Nói xong y để một cái bao trên bàn. Trương Vô Kỵ cắn răng chịu đến quá nửa đêm cơn hàn độc mới từ từ bớt dần, ngồi dậy mở chiếc bao ra xem, thấy có một chiếc áo da mới may, bên trong lót bằng lông cừu dày trắng, trong bụng mừng thầm. Loại áo da này may cùng một loại cho các đồng bộc, xem như có vẻ họ Chu coi y như đầy tớ thật rồi. Trương Vô Kỵ tính tình hiền lành, cũng chẳng lấy gì làm khó chịu, nhưng không khỏi xót xa, nghĩ thầm: "Không ngờ ta đã ở đây hơn một tháng rồi, chớp mắt đã qua năm mới. Hồ tiên sinh bảo ta chỉ sống được một năm, qua Tết này, ta không còn thấy cái Tết thứ hai nào nữa".
Những nhà giàu có khi đến năm cùng tháng tận, lại càng có cái khí tượng tưng bừng. Bọn gia nhân hối hối hả hả, kẻ quét vôi, người sơn cửa, giết heo giết dê nhộn nhịp. Trương Vô Kỵ phụ Kiều Phúc một tay làm việc tạp dịch, chỉ mong chóng đến Tết, sẽ gặp lão gia, thái thái, tiểu thư rập đầu chúc tết, được gặp lại Chu Cửu Chân, được nhìn nàng một lần, rồi sẽ lặng lẽ bỏ đi thật xa, vào nơi rừng sâu núi thẳm tự tìm nơi an nghỉ, hơn là ngày ngày tụm năm tụm ba cùng bọn Kiều Phúc.
Trong tiếng pháo trúc rền vang, đã đến ngày tết Nguyên Đán. Trương Vô Kỵ đi theo Kiều Phúc đến đại sảnh để chúc tết chủ nhân. Chỉ thấy một đôi vợ chồng trung niên diện mục thanh tú ngồi trong đại sảnh, bảy tám chục người đầy tớ cùng quì dưới đất. Hai người đó cười khì khì nói:
- Tất cả các anh em vất vả quá.
Hai người quản gia đứng bên phân phát tiền lì xì, Trương Vô Kỵ cũng được hai nén bạc. Y không thấy tiểu thư trong lòng mười phần thất vọng, tay cầm hai đĩnh bạc mà lòng phập phồng, bỗng nghe một giọng kiều mị từ ngoài cửa vọng vào:
- Biểu ca[3], năm nay anh sang sớm nhỉ.
Chính là tiếng của Chu Cửu Chân. Có tiếng đàn ông cười nói:
- Sang chúc tết cậu mợ không lẽ lại đi trễ sao?
Trương Vô Kỵ trong lòng bồi hồi, trái tim dường như muốn nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài, mồ hôi đổ đầy hai lòng bàn tay. Y trông ngóng hơn hai tháng nay, bây giờ mới lại được nghe giọng nói của Chu Cửu Chân, bảo sao không khỏi hồn vía lên mây? Lại nghe tiếng một thiếu nữ khác cười:
- Mới sáng sớm sư ca đã xăm xăm đi đi qua, chẳng biết đi chúc tết hai vị tôn trưởng, hay là đi chúc tết biểu muội nữa?
Họ còn đang nói chuyện đã thấy ba người tiến vào sảnh môn, đám gia nhân voại vàng đứng tránh qua, còn Trương Vô Kỵ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như trời trồng, mãi khi Kiều Phúc kéo mạnh một cái, mới dạt qua một bên.
Trong ba người thì người đi giữa là một thanh niên, Chu Cửu Chân đi ở bên trái, mặc áo điêu cừu toàn hồng, màu đỏ ánh lên càng làm cho khuôn mặt nàng thêm kiều diễm không bút mực nào tả nổi. Bên kia của thanh niên là một cô gái khác. Từ khi Chu Cửu Chân tiến vào trong đại sảnh rồi, Vô Kỵ nhìn nàng không chớp mắt, cũng chẳng xem đôi thanh niên nam nữ kia đẹp xấu thế nào, mặc áo đỏ hay xanh. Hai người chúc tết gia chủ những gì, nói qua nói lại ra sao, y mắt mở trừng trừng mà không thấy gì cả, nghe tai này qua tai kia, trong mắt chỉ thấy một mình Chu Cửu Chân.
Thực ra y tuổi còn nhỏ, chuyện tình ái nam nữ nào đã biết gì, nhưng mỗi người trên đời, lần đầu gặp một người xinh đẹp, ai chẳng thần hồn điên đảo, như si như ngốc, Trương Vô Kỵ thì cũng thế thôi. Huống chi Chu Cửu Chân dung nhan diễm lệ, trong khi vào cảnh nguy nan gặp phải nên không giữ nổi lòng say mê, y chỉ cần được nhìn nàng một lần, nghe nàng nói một câu cũng đã sung sướng vô cùng.
Vợ chồng chủ nhân cùng ba thanh niên nam nữ nói chuyện một hồi, Chu Cửu Chân nói:
- Ba, má, con đi dạo chơi với biểu ca và Thanh muội nhé.
Trong thanh âm có ba phần trẻ con nhõng nhẽo. Hai vợ chồng trang chủ mỉm cười gật đầu. Chu phu nhân cười nói:
- Chân nhi phải ăn nói nhỏ nhẹ với Võ gia muội tử, ba anh em mồng một Tết không được cãi nhau nghe chưa?
Chu Cửu Chân cười:
- Má, sao má không dặn biểu ca, bảo anh ấy đừng ăn hiếp con.
Ba người vừa cười đùa nói chuyện vừa đi ra lối hậu viện. Trương Vô Kỵ không tự chủ được, lẽo đẽo đi theo ở đằng xa. Hôm đó ngày Tết nên ai muốn làm gì thì làm, đi chơi cũng được, đánh bạc cũng được, không ai nói gì y cả.
Bấy giờ Trương Vô Kỵ mới nhìn kỹ, thanh niên kia dung mạo anh tuấn, cao ráo hiên ngang, tuy ở vào thời tiết đại hàn nhưng cũng chỉ mặc một chiếc áo gấm đoạn mỏng màu vàng, rõ ràng nội công không phải là kém. Thiếu nữ kia mặc điêu cừu màu đen, thân hình mảnh dẻ, cử chỉ ngôn ngữ thật là nhu mì, tướng mạo so với Cửu Chân cũng chẳng kém gì, nhưng dưới mắt Vô Kỵ, tiểu thư thật như tiên trên trời nàng ta không sao sánh kịp. Cả ba người đều khoảng mười bảy, mười tám tuổi.
Ba người vừa nói chuyện vừa đùa rỡn, đi về phía dãy nhà sau. Thiếu nữ kia nói:
- Chị Cửu Chân, công phu Nhất Dương Chỉ của chị luyện đã thêm được hai tầng chưa? Biểu diễn cho em xem một chút được không nào?
Chu Cửu Chân nói:
- Ối chao, tài nghệ của em lại không hơn chị hay sao? Dù chị có luyện thêm mười năm nữa, cũng làm sao chịu nổi một cái phẩy tay của môn Lan Hoa Phất Huyệt Thủ nhà họ Võ.
Thanh niên kia liền cười:
- Hai cô đừng có khiêm tốn nữa, tên tuổi vang lừng của Tuyết Lĩnh Song Chu[4] có ai chẳng biết là ghê gớm.
Chu Cửu Chân nói:
- Tiểu muội ở nhà luyện một mình, làm sao tiến bộ nhanh được bằng hai người có sư huynh sư muội tập chung với nhau? Hai người hôm nay đối luyện, ngày mai tập dợt, một ngày chẳng tiến xa hàng nghìn dặm ư?
Thiếu nữ nọ thấy Chu Cửu Chân có vẻ so kè, nhếch mép cười, không trả lời, lại càng tỏ ra mặc nhiên thừa nhận. Thanh niên kia sợ Chu Cửu Chân bực mình, vội nói:
- Cái đó chưa hẳn như vậy, Chân muội có hai vị sư phụ, cậu và mợ cùng dạy cho, chắc chắn giỏi hơn hai người chúng ta rồi.
Chu Cửu Chân hậm hực nói:
- Chúng ta, chúng ta mãi. Hứ, sư muội chắc chắn phải thân hơn biểu muội rồi. Em nói chuyện chơi với Thanh muội, biểu huynh nhất định phải nhảy vào bênh mới xong.
Nói xong quay qua chỗ khác làm mặt giận lẫy. Thanh niên kia cười làm lành:
- Biểu muội thân mà sư muội cũng thân, lòng bàn tay là thịt mà lưng bàn tay cũng là thịt, không phân biệt chỗ này chỗ khác. Biểu muội dẫn bọn ta đi xem những thủ môn đại tướng quân của em, liệu có được chăng? Những tướng quân đó do em huấn luyện nhất định là càng ngày càng lợi hại.
Chu Cửu Chân lại cao hứng, nói:
- Được chứ.
Vội vàng đi trước dẫn họ đến Linh Ngao Doanh. Trương Vô Kỵ đi theo xa xa, thấy ba người cười cười nói nói, không biết họ nói gì, nên cũng đi theo vào nơi tập chó.
Thì ra Chu Cửu Chân là con cháu của Chu Tử Liễu. Thiếu nữ kia họ Võ tên là Võ Thanh Anh, là hậu nhân của Võ Tam Thông, thuộc dòng Võ Tu Văn. Võ Tam Thông và Chu Tử Liễu đều là đệ tử của Nhất Đăng đại sư, võ công vốn cùng một mối mà ra. Thế nhưng sau một trăm năm truyền xuống mấy đời, hai nhà đều có thêm bớt biến hóa. Hai anh em Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn bái đại hiệp Quách Tĩnh làm sư phụ, tuy cũng học qua Nhất Dương Chỉ, nhưng võ công lại nghiêng về loại cương mãnh của Cửu Chỉ Thần Cái Hồng Thất Công hơn[5]. Thanh niên kia tên Vệ Bích là anh con cô con cậu với Chu Cửu Chân, người đã anh tuấn, tính tình lại ôn nhu hòa thuận, cả hai nàng Chu Cửu Chân và Võ Thanh Anh đều thầm có lòng quyến luyến.
Chu Võ hai nàng tuổi tác cũng ngang nhau, đều cùng xinh đẹp, xuân lan thu cúc, mỗi người một vẻ, võ học gia truyền cũng không bên nào dưới bên nào, mấy năm trước được giới võ lâm trong dãy Côn Lôn hợp xưng là Tuyết Lĩnh Song Chu. Hai cô gái vẫn ngầm tranh nhau, Vệ Bích không biết thương bên nào bỏ bên nào nên chỉ giữ nước đôi. Mỗi khi ba người ở gần nhau, ngoài mặt ra điều khách sáo nhưng hai cô thể nào cũng nói cạnh nói khóe, không ai nhường ai. Tuy nhiên Võ Thanh Anh kín đáo hơn, lại được cùng Vệ Bích đồng môn học nghệ, sớm tối gặp nhau, có lợi thế hơn Chu Cửu Chân nhiều.
Chu Cửu Chân ra lệnh cho những cẩu bộc trông coi việc nuôi chó thả chúng ra. Những con chó theo lệnh mà thi hành, không con nào dám sai trái, Vệ Bích khen ngợi không tiếc lời, Chu Cửu Chân rất lấy làm đắc ý. Võ Thanh Anh nhếch môi cười:
- Sư ca, sau này anh sẽ là Quán Quân, hay là Phiêu Kỵ[6]?
Vệ Bích ngạc nhiên, hỏi:
- Sư muội nói gì?
Võ Thanh Anh nói:
- Sư ca chịu nghe lời Chị Cửu Chân lắm, thể nào chị ấy chẳng phong cho anh một chức Quán Quân tướng quân hay Phiêu kỵ tướng quân. Có điều phải coi chừng ngọn roi da mới được.
Khuôn mặt tuấn mỹ của Vệ Bích đỏ bừng, trong lông mày nhuốm vẻ bực dọc, hừ một tiếng, nói:
- Chỉ nói nhăng cuội, sư muội mắng ta là chó đấy ư?
Võ Thanh Anh mỉm cười:
- Các tướng quân vẫy đuôi nịnh nọt, hầu hạ dưới bàn phấn của mỹ nhân, thích thú biết bao, có gì là không phải?
Chu Cửu Chân phật ý nói:
- Biểu ca là con chó, không biết sư muội của anh là cái gì nhỉ?
Trương Vô Kỵ nghe đến đây, nhịn không nổi cười "Ha" lên một tiếng, nhưng biết ngay là mình thất thố, vội vàng bịt miệng quay đi chỗ khác. Võ Thanh Anh tức giận cành hông, nhưng không tiện nói thẳng vào mặt Chu Cửu Chân, đứng dậy nói:
- Chị Cửu Chân, thằng đầy tớ trong quí phủ sao phép tắc quá nhỉ. Bọn mình ngồi nói chuyện vui, thứ người thấp hèn như nó đã ngang nhiên đứng bên nghe lén, lại còn cười hô hố. Sư ca, tiểu muội về trước đây.
Chu Cửu Chân bỗng dưng nhớ lại Trương Vô Kỵ đã từng một chưởng đánh chết Tả Tướng Quân của mình, kình lực trên tay không phải là kém, cười nói:
- Thanh muội, cô đừng nổi giận là gì, cũng đừng coi thường thằng nhỏ đó. Công phu võ học nhà họ Võ tuy cao nhưng trong ba chiêu mà đánh ngã được "thằng nhỏ hạ tiện" đó thì ta mới thật là phục cô đó.
Võ Thanh Anh nói:
- Hứ, hạng người như thế có đáng để tôi ra tay không? Chị Cửu Chân, chị đừng có coi thường tiểu muội quá như thế.
Trương Vô Kỵ nhịn không nổi lên tiếng:
- Võ cô nương, tôi cũng có cha mẹ sinh ra, chẳng lẽ không phải con người hay sao? Hay cô là thần tiên bồ tát, công chúa nương nương gì chăng?
Võ Thanh Anh không thèm nhìn y, quay sang Vệ Bích nói:
- Sư ca, anh để cho thằng nhãi đó cãi lại em mà không bênh lấy một tiếng.
Vệ Bích thấy cô sư muội xinh đẹp có dáng nhõng nhẽo, đã thấy mềm lòng, tuy không có ý phân biệt Tuyết Lĩnh Song Chu ai hơn ai kém, nhưng y biết võ công sư phụ cao siêu không biết đâu mà kể, mình mới chỉ được dạy một hai phần mười, muốn học tuyệt thế công phu, không thể không chiều lòng sư muội, nên nói với Chu Cửu Chân:
- Biểu muội, thằng nhỏ đó võ công khá lắm phải không? Để cho ta thử nó có được không nào?
Chu Cửu Chân biết y muốn bênh sư muội, nhưng nghĩ ra một điều: "Tiểu tử họ Trương này không biết lai lịch ra sao, để cho biểu ca ép nó phải lộ gốc gác cũng là hay lắm" liền nói:
- - Được lắm, để y lãnh giáo một chút tuyệt học nhà họ Võ thì cũng là điều hay. Thằng nhỏ này, chính tôi cũng không biết môn phái nào đệ tử ai nữa.
Vệ Bích lạ lùng hỏi lại:
- Thế ra võ công của y không phải từ quí phủ sao?
Chu Cửu Chân nói với Trương Vô Kỵ:
- Ngươi nói cho biểu thiếu gia hay, ngươi là người của môn phái nào?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Các ngươi khinh thường ta đến thế, nếu nói ra môn phái cha mẹ, không khỏi làm nhục đến thái sư phụ và phụ mẫu quá cố hay sao? Vả lại ta cũng chưa thực sự luyện võ công của phái Võ Đương nữa" liền nói:
- Tôi cha mẹ chết từ khi còn nhỏ, lưu lạc giang hồ, không học qua võ công nào cả, chỉ có khi còn bé cha tôi có chỉ dạy cho chút đỉnh thôi.
Chu Cửu Chân hỏi:
- Thế cha ngươi tên là gì? Thuộc môn phái nào?
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
- Tôi không muốn nói.
Vệ Bích cười:
- Không lẽ ba người mình lại không nhìn ra được hay sao?
Y chậm rãi bước ra sân, cười nói:
- Tiểu tử, ngươi ra đỡ của ta ba chiêu xem thử nào?
Nói xong quay sang Võ Thanh Anh nháy mắt một cái, ý muốn nói: "Sư muội đừng buồn, để ta đánh cho thằng nhãi này một trận cho sư muội hả dạ".
Người đã rơi vào cái lưới tình thì dù nhất cử nhất động, một câu nói, một nụ cười của tình nhân đều không bỏ sót, cái nháy mắt của Vệ Bích Chu Cửu Chân đều thấy cả. Nàng thấy Trương Vô Kỵ không muốn ra đấu, nên ngoắc y lại gần, ghé tai y nói nhỏ:
- Biểu ca ta võ công rất cao, ngươi không cần phải thắng y, chỉ làm sao chịu được ba chiêu, cũng đã làm cho ta nở mày nở mặt lắm rồi.
Nói xong nàng vỗ vai y một cái, ý muốn khuyến khích. Trương Vô Kỵ biết mình không phải là địch thủ của Vệ Bích, nếu ra sân đấu với y, chỉ mang lấy cái nhục vào thân, làm trò cười cho người ta thôi. Thế nhưng đứng trước Chu Cửu Chân rồi, không khỏi mê mẩn, lại nghe nàng ta ngon ngọt dỗ dành, mùi hương thoang thoảng, còn có chủ ý thế nào được? Trong lòng y chỉ nghĩ: "Tiểu thư nhắn nhủ ta, dù gian nan hung hiểm thế nào cũng phải làm, bị vài cú đấm cú đá thì đã sao?" Y lơ mơ đi tới trước mặt Vệ Bích, đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn.
Vệ Bích nói:
- Tiểu tử, tiếp chiêu này.
Bốp bốp hai tiếng, y đã đánh Vô Kỵ hai cái tát tai. Hai chưởng đó đánh ra thật nhanh, Trương Vô Kỵ vừa định giơ tay đỡ, mặt đã trúng rồi, hai má lập tức sưng hằn dấu bàn tay. Vệ Bích biết được y chẳng phải do nhà họ Chu truyền thụ võ công, không ngại làm bỉ mặt Chu Cửu Chân và cậu mợ, ra tay không dung tình chút nào. Thế nhưng hai chưởng đó y không sử dụng nội lực, nếu không thì đã gãy răng vỡ mặt, lăn ra bất tỉnh rồi.
Chu Cửu Chân kêu lên:
- Vô Kỵ, hoàn chiêu đi.
Trương Vô Kỵ nghe thấy tiếng kêu của tiểu thư, tinh thần phấn chấn, vù một tiếng đã đánh ra một quyền. Vệ Bích nghiêng người né tránh, khen ngợi:
- Hảo tiểu tử, cũng có một hai miếng.
Y lắc mình nhảy qua đằng sau Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ vội vàng quay lại, nào ngờ Vệ Bích ra tay cực nhanh, đã chộp được cổ, giơ tay xách y lên, cười nói:
- Cho ngươi té như chó ăn phân.
Nói xong ra sức ném y xuống đất. Trương Vô Kỵ tuy đã học qua Tạ Tốn mấy năm võ công, nhưng lúc ấy tuổi còn quá nhỏ, Tạ Tốn lại chỉ bắt y nhớ khẩu quyết và chiêu số, không cốt chiến đấu thực sự, nay gặp một danh môn đệ tử như Vệ Bích, chân tay luống cuống, không thi triển được chút nào. Y bị Vệ Bích ném ra, đang toan giơ tay đỡ nhưng không kịp nữa, nghe bình một tiếng, trán và mũi đã giáng xuống sàn, máu tươi chảy ra tung tóe.
Võ Thanh Anh vỗ tay khen ngợi, cười khanh khách, nói:
- Chị Cửu Chân, võ công nhà họ Võ xem có được không?
Chu Cửu Chân vừa thẹn vừa tức, nếu nói công phu Võ gia không hay, ắt sẽ đắc tội với Vệ Bích, nếu nói là giỏi, hóa ra lại thua Võ Thanh Anh, chỉ đành mặt hầm hầm lặng thinh không nói.
Trương Vô Kỵ lồm cồm đứng dậy, lấm lét nhìn Chu Cửu Chân, thấy nàng nhíu lông mày, nghĩ thầm: "Dù ta có phải táng mạng cũng không để cho tiểu thư phải mất mặt". Y nghe Vệ Bích cười nói:
- Biểu muội, gã tiểu tử này đến võ công mèo quào cũng chẳng biết, nói gì đến môn phái?
Trương Vô Kỵ đột nhiên xông lên, giơ chân đá vào bụng dưới gã. Vệ Bích cười kêu lên:
- Ối chà.
Thân hình y hơi ngả về sau, tránh được ngọn cước, tiếp theo giơ tay trái nắm ngay lấy bàn chân chưa kịp rút về, liệng ra ngoài. Tuy cái ném đó y chỉ sử dụng ba thành kình lực nhưng Vô Kỵ cũng như tên rời khỏi dây cung, bay thẳng vào tường. Trong cơn nguy cấp y dùng sức nhảy lên một cái, xoay người lại để lưng chạm vào tường, tuy thoát được cái họa vỡ đầu gãy xương, nhưng lưng đau nhói tưởng như từng đốt xương sống đều rời ra cả, thân hình sụm xuống chân tường như một cục bùn nát, không đứng lên được.
Tuy y đau đớn thật, trong lòng vẫn khắc khoải nghĩ đến khuôn mặt Chu Cửu Chân, trong lúc mơ màng, nghe nàng nói:
- Thằng nhãi này thật là đồ vô dụng. Thôi bọn mình ra vườn hoa chơi đi.
Nghe giọng nàng thật là bực tức. Trương Vô Kỵ không biết từ đâu kéo tới một luồng lực khí, xoay mình nhảy lên, bay vọt tới trước, phát chưởng đánh thẳng vào Vệ Bích.
Vệ Bích cười ha hả, múa chưởng đỡ, nghe bịch một tiếng, thân hình rung động lùi lại một bước. Thì ra chưởng đó của Trương Vô Kỵ là chiêu do cho y Trương Thúy Sơn dạy cho khi đang lênh đênh trên chiếc bè trong Võ Đương trường quyền tên là Thất Tinh Thủ. Võ Đương trường quyền là công phu nhập môn của phái Võ Đương, quyền chiêu thực ra không có gì áo diệu, nhưng phái Võ Đương đi theo một đường hoàn toàn mới trong võ học, chuyên về nhu khắc cương, nhược thắng cường, không phải ở chỗ dùng kình lực đả thương địch thủ mà là dùng ngay cái kình lực của địch phản kích lại, nếu địch đánh tới một cân thì phản kích lại cũng một cân, mà đánh mình trăm cân thì cũng lại dùng trăm cân trả về, chẳng khác gì dùng quyền đấm vào bức tường, xuất quyền càng mạnh thì thân thể mình càng bị tổn thương nặng nề. Năm xưa khi Giác Viễn đại sư tụng pho Cửu Dương Chân Kinh, đã từng nói tới "dĩ kỷ tòng nhân, hậu phát chế nhân" (ta đi theo người, ra sau mà chế ngự được địch), Trương Tam Phong sau này lấy câu đó đem vào quyền pháp của phái Võ Đương, nếu phải tay những bậc cao thủ như bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu còn có thể tống thêm kình lực của mình nhưng Trương Vô Kỵ học rất là nông cạn không biết rằng mình đã bao hàm phương cách võ công thượng thừa để phản kích lại địch thủ.
Vệ Bích thấy cánh tay mình tê chồn, trong ngực huyết khí trộn trạo, lập tức nghiêng người múa chưởng, đánh vào sau lưng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ đánh ngược lại phía sau một chưởng, dùng chiêu Nhất Điều Tiên. Vệ Bích thấy chưởng thế của y kỳ diệu, vội lật người về sau, nhưng đầu vai đã bị ba ngón tay của y quét trúng, tuy không đau đớn gì, nhưng Chu Cửu Chân và Võ Thanh Anh đã trông thấy, so ra đã thua một chiêu.
Vệ Bích trước mặt ý trung nhân bị thua như thế làm sao chịu nổi? Lúc đầu y cùng Trương Vô Kỵ giao đấu, thấy đối phương tuổi nhỏ, thân phận ti tiện, nếu có thắng cũng chẳng vinh hạnh gì, chẳng qua chỉ đem y ra đùa chơi một lát, để cho Võ Thanh Anh vui lòng, nên quyền cước chỉ sử dụng hai ba thành lực, lúc này bị thất thố luôn hai lần, quát lên một tiếng:
- Tiểu quỉ, ngươi không sợ chết ư?
Nghe vù một tiếng, nhắm ngay ngực Vô Kỵ đánh ra một quyền. Chiêu đó tên là Trường Giang Tam Điệp Lãng[7] bên trong bao gồm ba luồng kình lực, nếu địch nhân dùng toàn lực đỡ được luồng kình lực thứ nhất, không ngờ rằng luồng kình lực thứ hai đến tiếp theo, rồi luồng kình lực thứ ba sẽ ào ào đổ vào, không phải cao thủ võ học, bị trúng chiêu này không chết cũng trọng thương.
Trương Vô Kỵ thấy đối phương chiêu thế ghê gớm, trong lòng sợ hãi, nhưng không còn kịp suy nghĩ gì nữa, nhớ đến thủ pháp năm xưa cha mình dạy trên chiếc bè, hai tay làm thành chiếc vòng, dùng chiêu Tỉnh Lan[8] chống đỡ. Chiêu này bác đại tinh thâm, Trương Vô Kỵ biết sao được chỗ vi diệu trong đó, chỉ vì trong cơn nguy cấp, thuận tay sử dụng mà thôi. Vệ Bích tay phải đánh ra, trúng ngay cánh tay phải của Trương Vô Kỵ, đệ nhất đạo kình lực trong quyền chiêu như rơi vào trong bể cả, lập tức mất tăm mất tích, còn đang kinh hãi, chỉ nghe lách cách một tiếng, đệ nhị đạo kình lực quay trở lại mình, xương cánh tay của y đã bị gãy rồi. Cũng may là đệ tam đạo kình lực chưa dùng tới, nếu không Trương Vô Kỵ vì không hiểu chỗ diệu dụng của chiêu Tỉnh Lan, luồng kình lực thứ ba ắt sẽ làm cả hai bị thương nặng.
Chu Cửu Chân và Võ Thanh Anh cả hai đồng thời kêu lên, chạy đến bên cạnh Vệ Bích để xem thương thế. Vệ Bích cười gượng:
- Không sao, tại ta nhất thời sơ ý.
Chu Cửu Chân và Võ Thanh Anh đau lòng vì thấy tình lang bị thương, hai người không hẹn mà cùng múa chưởng đánh thẳng vào Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ một chiêu đánh gãy tay Vệ Bích nhưng bản thân cũng bị chấn động ngã ngửa ra, đứng dậy chưa vững, Chu Võ hai nàng đã đánh tới. Y quên cả né tránh, một chưởng đánh trúng ngực, một chưởng trúng đầu vai, lập tức ọc ra một ngụm máu tươi. Thế nhưng y trong lòng đau đớn, không phải vì vết thương trên cơ thể, nghĩ thầm: "Ta xả mệnh chiến đấu cốt để cho tiểu thư khỏi mất mặt, đến khi thắng rồi, sao lại đánh ta".
Vệ Bích kêu lên:
- Hai vị ngừng tay.
Chu Võ hai nàng theo lời dừng lại, thấy y mặt mày tím ngắt giơ tay trái lên đánh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ vội vàng nhảy qua tránh né. Chu Cửu Chân vội nói:
- Biểu ca, anh đã bị thương, việc gì phải hơn thua với thằng nhãi này làm gì? Đó là lỗi của tiểu muội để cho anh động thủ với y.
Cứ như bình thời tính khí kiêu ngạo, bảo nàng ta chịu cúi đầu nhận sai với ai, thật là thiên nan vạn nan, nay không vì tình lang bị gãy tay, trong lòng xót xa, quyết không thể nào hạ lời năn nỉ. Nào ngờ Vệ Bích nghe xong, lại càng tức tối, cười khẩy:
- Biểu muội, thằng ở nhà cô bản lãnh cao cường, cô có sai trái gì đâu? Chỉ vì ta kém cỏi đấy thôi.
Nói xong giơ tay đẩy Chu Cửu Chân ra một bên, rồi tiếp tục múa chưởng đánh tới.
Trương Vô Kỵ vừa định lùi lại tránh né, Võ Thanh Anh liền đưa hai tay giữ ngay hậu tâm y lại, khiến y không cách gì thụt lui, quyền của Vệ Bích trúng ngay sống mũi, lập tức máu tuôn xối xả. Võ Thanh Anh mưu mẹo khôn ngoan hơn Chu Cửu Chân nhiều, nàng chỉ ám trung tương trợ sư ca, không để lộ manh mối, để cho Vệ Bích được nở mày nở mặt, trong lòng cảm kích. Chu Cửu Chân thấy thế, nghĩ thầm: "Ngươi biết giúp sư ca của ngươi, không lẽ ta không biết tương trợ biểu ca của ta". Nghĩ thế lập tức ra tay, tiến lên giáp công.
Võ công Trương Vô Kỵ vốn kém xa Vệ Bích, lại thêm hai nàng Chu Võ ra tay, một người công khai, một người ngầm giúp, chỉ trong khoảnh khắc đã bị ba người tay đấm chân đá, trúng liên tiếp bảy tám chiêu, lại hộc ra mấy ngụm máu. Y trong lòng phẫn uất, nhất quyết chết thì thôi, đem ba mươi hai thế Võ Đương trường quyền được cha dạy cho ra sử dụng, tuy công lực chưa đủ, quyền cước không có sức, nhưng sở học đều là gia số thượng thừa, nên cũng cầm cự được khoảng một chén trà mà chưa bị đánh ngã.
Chu Cửu Chân quát lớn:
- Thằng nhỏ thối tha ở đâu đến, dám vào Chu Võ Liên Hoàn Trang làm loạn, chắc ngươi không muốn sống nữa rồi.
Nàng thấy Vệ Bích giơ tả chưởng vận kình đánh ra liền dùng vai huých mạnh một cái, xô Trương Vô Kỵ vào ngay đầu chưởng của y. Chỗ cánh tay gãy của Vệ Bích càng lúc càng đau, y không muốn đấu dây dưa với thằng nhỏ này, chưởng đó đánh ra, dĩ nhiên sử dụng đủ mười thành lực. Trương Vô Kỵ bị đẩy về phía trước, thân hình không còn tự chủ được, chỉ thấy kình phong ùa vào mặt, biết không cách nào tránh đỡ nhưng cũng phải giơ hai tay ra chịu.
Ngay lúc đó nghe thấy một thanh âm uy nghiêm quát lên:
- Khoan đã.
Một bóng màu xanh thấp thoáng, một người từ bên cạnh đã phóng tới, giơ tay gạt tay Vệ Bích ra. Chỉ thấy y nhẹ nhàng giơ tay đỡ khiến Vệ Bích chân đứng không vững, lùi lại mấy bước, tưởng như muốn ngồi phịch xuống, nhưng người áo lam thân pháp nhanh nhẹn vô cùng đã vọt ra sau đỡ vào vai y, Vệ Bích mới gượng lại được.
Chu Cửu Chân kêu lên:
- Cha.
Võ Thanh Anh cũng kêu:
- Chu bá phụ.
Vệ Bích thở hổn hển, nói:
- Thưa cậu.
Người đó chính là Chu Trường Linh, cha của Chu Cửu Chân. Khi Vệ Bích bị thương gãy tay, việc không phải nhỏ, đám cẩu bộc ở Linh Ngao Doanh vội vàng phi báo chủ nhân, Chu Trường Linh lập tức chạy đến, thấy ba người đang vây đánh Trương Vô Kỵ. Y đứng bên cạnh quan sát một hồi, đến lúc thấy Vệ Bích giở sát thủ mới ra tay cứu mạng Trương Vô Kỵ.
Chu Trường Linh trừng mắt nhìn Chu Cửu Chân và Vệ Võ hai người, mặt lộ vẻ tức tối, đột nhiên tát trái một cái, trúng ngay mặt Chu Cửu Chân, quát lên:
- Giỏi nhỉ, giỏi nhỉ, con cháu nhà họ Chu ngày một tiến bộ. Ta sinh được đứa con gái như ngươi, mai mốt còn mặt mũi nào gặp tổ tiên ở dưới suối vàng hay chăng?
Chu Cửu Chân từ nhỏ được cha mẹ hết sức nuông chiều, chưa từng nói nặng một lời, hôm nay trước mặt mọi người bị cha đánh cho một bạt tai, trước mắt thấy trời đất quay cuồng, không biết nói sao, một lát sau mới khóc òa lên. Chu Trường Linh quát lớn:
- Câm mồm, không được khóc.
Thanh âm đầy uy nghiêm, tiếng vọng chấn động cả căn phòng, bụi từ xà nhà bay xuống lả tả. Chu Cửu Chân trong lòng sợ hãi, vội ngừng bặt.
Chu Trường Linh nói:
- Nhà họ Chu ta bao đời tương truyền, luôn luôn lấy hiệp nghĩa làm trọng, cao tổ[9] của ngươi Tử Liễu Công phò tá Nhất Đăng đại sư, tại nước Đại Lý làm quan đến chức Tể Tướng, sau lại giúp thủ thành Tương Dương, danh dương thiên hạ, là bậc anh hùng biết chừng nào. Ngờ đâu con cháu lại chẳng ra gì, đến đời ta Chu Trường Linh lại có một đứa con gái như thế, ba người lớn vây đánh một đứa trẻ con, lại còn định giết chết nó. Thử hỏi ngươi thế có đáng xấu hổ không? Có đáng xấu hổ không?
Tuy ông ta trách mắng con mình, nhưng câu đó Vệ Bích và Võ Thanh Anh nghe vào tai, câu nào câu nấy chẳng khác gì dao đâm vào thịt, đều thấy không còn mặt mũi nào mà sống cả. Trương Vô Kỵ toàn thân đau đớn, mấy lần muốn xỉu, cố nghiến răng chịu đựng mới miễn cưỡng đứng được, nhưng đầu óc vẫn sáng suốt, nghe Chu Trường Linh nói như thế, sinh lòng bội phục, nghĩ thầm: "Thị phi phân minh, quả thực đúng là người hiệp nghĩa". Y thấy Chu Trường Linh giận đến mặt mày vàng khè, toàn thân run rẩy, không ngừng thở hổn hển. Vệ Bích ba người cúi gầm mặt xuống, không dám ngửng lên chạm với ánh mắt ông ta.
Trương Vô Kỵ thấy gương mặt hoa da phấn của Chu Cửu Chân một bên sưng húp, rõ ràng một chưởng của phụ thân đánh không phải nhẹ, dáng nàng vừa thẹn vừa sợ, trông thật đáng thương, muốn khóc mà không dám khóc, chỉ lấy răng cắn chặt môi dưới, liền nói:
- Lão gia, việc này không liên quan gì đến tiểu thư.
Y nói xong, không khỏi giật mình kinh hãi, thì ra y đã ú ớ như người câm, nói không thành tiếng, yết hầu đã bị Vệ Bích đánh cho bị thương nặng. Chu Trường Linh nói:
- Vị tiểu huynh đệ này quyền cước không thành chương pháp, hiển nhiên chưa từng bái sư học võ nghệ, chỉ do cái khí khái dũng mãnh, sống chết chống đỡ, càng khiến cho người ta kính phục. Ba người chúng bay hà hiếp một người không biết võ công, những lời dạy dỗ hàng ngày của sư trưởng, phụ mẫu, có nhớ được câu nào không?
Câu nói của ông ta là một lời trách mắng hết sức nghiêm nhặt, không nể tình Vệ Bích và Võ Thanh Anh chút nào. Trương Vô Kỵ nghe thế, trong lòng càng thêm khắc khoải bất an. Chu Trường Linh lại hỏi tiếp làm sao Vô Kỵ đến trang viện, tại sao lại mặc y phục đầy tớ, một mặt hỏi thăm, một mặt sai người lấy thuốc trị thương và cao tiếp cốt để chữa cho Vô Kỵ và Vệ Bích. Chu Cửu Chân biết cha đang cơn giận dữ, không dám dối trá, bèn kể lại chuyện Vô Kỵ dấu con khỉ nhỏ, vì sao bị bầy chó cắn cho bị thương, rồi mình cứu y đem về trang viện thế nào.
Chu Trường Linh càng nghe lông mày càng nhíu lại, đợi con gái kể xong, hậm hực quát:
- Vị Trương huynh đệ này vì nghĩa mà cứu con khỉ, thật là bụng dạ nhân từ hiệp nghĩa, vậy mà ngươi lại coi người ta là tôi đòi. Như thế mai sau truyền ra bên ngoài, giang hồ hảo hán sẽ bảo Kinh Thiên Nhất Bút Chu Trường Linh là tên bất nhân bất nghĩa. Ngươi nuôi chó dữ, ta vẫn tưởng chỉ để cho vui thôi, biết đâu ngươi lớn mật dám sai chó cắn người? Hôm nay ta không đánh chết con a đầu này, Chu Trường Linh này còn mặt mũi nào mà nhìn anh hùng võ lâm nữa?
Chu Cửu Chân thấy cha đã nổi giận thực sự, hai gối gập lại quì ngay xuống, kêu lên:
- Thưa cha, từ nay con không dám thế nữa.
Chu Trường Linh vẫn còn cuồng nộ chưa thôi, Vệ Bích và Võ Thanh Anh cũng vội vàng quì xuống cầu khẩn. Trương Vô Kỵ nói:
- Lão gia ...
Chu Trường Linh vội ngắt lời:
- Tiểu huynh đệ, cậu đâu có phải gọi tôi là lão gia? Tôi hơn cậu vài tuổi, cùng lắm gọi tôi một chữ tiền bối là đủ rồi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vâng, vâng, Chu tiền bối. Việc này không trách tiểu thư được, cô ấy không chủ ý làm như thế.
Chu Trường Linh nói:
- - Chúng bay coi đó, người ta tuổi nhỏ đã có được cái khí độ hoài bão như thế, , ba đứa chúng bay sao bằng được? Đầu năm đầu tháng, Võ cô nương lại là khách, đáng lẽ ta không nên nổi cơn thịnh nộ, nhưng việc này quá lắm không chịu nổi, chỉ bọn hắc đạo hèn hạ mới làm, chứ người hiệp nghĩa ai lại như thế. Nay tiểu huynh đệ đây đã xin cho, ta cho chúng bay đứng dậy.
Ba người thẹn thùng ủ rũ, liền đứng cả lên. Chu Trường Linh quay sang nói với bọn đầy tớ lo việc nuôi chó:
- Những con ác khuyển đâu rồi? Đem thả chúng ra đây.
Bọn cẩu bộc vâng lời, thả bầy chó ra. Chu Cửu Chân thấy cha vẻ mặt hầm hầm, không biết ông ta định làm gì, nói khẽ:
- Cha.
Chu Trường Linh cười nhạt nói:
- Mi nuôi bầy chó dữ này để cắn người, giỏi nhỉ. Vậy mi bảo chúng nó lại cắn ta xem nào.
Chu Cửu Chân khóc nói:
- Thưa cha, con biết tội rồi.
Chu Trường Linh hừ một tiếng, đi vào trong bầy chó, huy động song chưởng, bốp bốp bốp bốp bốn tiếng, bốn con chó lớn đã vỡ đầu, chết ngay tại chỗ. Người đứng chung quanh ai nấy sợ mất vía, không nói được câu nào. Chu Trường Linh tay đấm chân đá, lúc chém lúc đâm, chỉ thấy ông ta thân hình phiêu động, một bóng màu lam đi quanh bầy chó một vòng, hơn ba mươi con chó đã bị đánh chết, không nói gì chuyện cắn lại, mà muốn chạy vài bước cũng không kịp nữa. Y ra tay đánh chết bầy chó, dĩ nhiên vì chúng chưa nhận được lệnh của Chu Cửu Chân, lại thêm xuất kỳ bất ý. Thế nhưng ông ta ra tay nhanh như gió cuốn mưa sa, chưởng lực lại hết sức mạnh mẽ, Vệ Bích, Võ Thanh Anh, Trương Vô Kỵ xem mà le lưỡi kinh ngạc.
Chu Trường Linh bế ngang Trương Vô Kỵ lên, đem thẳng vào phòng mình dưỡng thương. Chẳng mấy chốc Chu phu nhân và Chu Cửu Chân đi đến lo liệu thuốc thang. Trương Vô Kỵ bị chó cắn mất máu rất nhiều, thân thể vốn đã suy nhược, lần này bị thương lại không phải nhẹ, nên hôn mê mấy ngày liền, đến khi tỉnh lại, liền tự mình kê toa để điều dưỡng và trị bệnh, sai người theo đó mà hốt nên hồi phục rất mau. Chu Trường Linh thấy y dùng thuốc như thần, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ.
Trong hơn hai mươi ngày dưỡng thương, Chu Cửu Chân thường luẩn quẩn bên giường của Trương Vô Kỵ, lúc hát lúc ra câu đố, kể chuyện nói đùa, chẳng khác gì chị lớn săn sóc đứa em trai, chuyện lớn chuyện nhỏ đều thật chu đáo.
Trương Vô Kỵ bệnh thuyên giảm dậy được rồi, Chu Cửu Chân cũng mỗi ngày bầu bạn với y cả nửa buổi. Khi nàng theo cha học võ công, cũng không tị hiềm mà cũng gọi Trương Vô Kỵ đến một bên quan sát. Chu Trường Linh đã hai lần nói ướm lời, có ý muốn thu y làm đồ đệ, nguyện đem một đời võ công truyền cho, nhưng thấy y không tiếp lời, về sau không đề cập đến nữa. Tuy nhiên ông ta vẫn đối đãi hết sức thân thiết, coi không khác gì con cái trong nhà.
Võ công nhà họ Chu và thư pháp có liên quan, mỗi ngày Chu Cửu Chân đều phải tập viết, nên cũng rủ Trương Vô Kỵ cùng nàng học tập. Trương Vô Kỵ từ khi rời Băng Hỏa đảo đến Trung thổ rồi, gặp toàn những chuyện lênh đênh khốn khổ, lo lắng bệnh hoạn, làm gì có được những ngày an lạc như thế này bao giờ?
Chớp mắt đã tới trung tuần tháng hai, hôm đó Trương Vô Kỵ và Chu Cửu Chân ở trong thư phòng đang tập viết, bỗng con a hoàn Tiểu Phượng chạy vào bẩm:
- Tiểu thư, Diêu nhị gia đã từ Trung Nguyên trở về rồi.
Chu Cửu Chân mừng lắm, vứt bút xuống kêu lên:
- Hay lắm, ta đợi ông ấy già nửa năm rồi, đến bây giờ mới về tới.
Nàng cầm tay Trương Vô Kỵ, nói:
- Vô Kỵ đệ, bọn mình đi xem nào, không biết Diêu nhị thúc có mua đủ những món đồ của ta không.
Hai người nắm tay nhau đi ra đại sảnh, Trương Vô Kỵ hỏi:
- Diêu nhị thúc là ai vậy?
Chu Cửu Chân nói:
- Ông ấy là anh em kết nghĩa của gia gia ta, tên là Thiên Lý Truy Phong Diêu Thanh Tuyền. Năm ngoái cha ta nhờ ông ấy đem lễ vật đi Trung Nguyên, ta có nhắn ông ấy sang Hàng Châu mua giùm phấn son và vải vóc, sang Tô Châu mua mẫu hàng, kim chỉ, khung thêu, lại mua thêm bút Hồ Châu, mực Tuyên Châu, nghiên thiếp thư tịch, không biết ông ta có mua đủ không.
Nàng bèn giải thích, Chu gia trang nằm trong dãy Côn Lôn Tây Vực, những loại hàng tốt chung quanh một nghìn dặm không nơi nào có bán. Núi Côn Lôn cách trung thổ hàng vạn dặm, mỗi lần đi về mất cả vài ba năm nên mỗi khi có người đi Trung Nguyên, Chu Cửu Chân đều nhờ mua giùm một số dụng phẩm lớn.
Hai người đến gần sảnh môn, nghe thấy tiếng người khóc hu hu, không khỏi giật kình kinh hãi, đi vào trong phòng, lại càng lạ lùng, thấy Chu Trường Linh và một hán tử trung niên cao gầy đang quì dưới đất ôm nhau khóc. Hán tử đó mặc đồ tang màu trắng, lưng thắt một sợi dây lưng bện bằng cỏ. Chu Cửu Chân đi đến gần, kêu lên:
- Diêu nhị thúc.
Chu Trường Linh bỗng khóc òa lên, kêu:
- Chân nhi, Chân nhi. Đại ân nhân của nhà ta Trương ngũ gia, Trương ... ngũ gia ... ông ấy ... ông ấy ... đã chết rồi.
Chu Cửu Chân hoảng hốt:
- Làm sao lại thế? Trương ân công ... mất tích mười năm, không phải đã trở về bình yên đấy ư?
Diêu Thanh Tuyền nghẹn ngào nói:
- Mình ở nơi xa xôi hẻo lánh này, tin tức đâu có đúng, có biết đâu Trương ân công hơn bốn năm trước, đã cùng phu nhân hai người tự vẫn chết rồi. Ta chưa lên tới núi Võ Đương, trên đường đi ở Thiểm Tây thì đã nghe tin này rồi. Khi lên núi gặp được Tống đại hiệp và Du nhị hiệp, mới biết là thực, ôi ...
Trương Vô Kỵ càng nghe càng kinh ngạc, đến đoạn sau không còn nghi ngờ gì nữa, người mà họ gọi là "đại ân nhân Trương ngũ gia" kia, chính là cha ruột mình Trương Thúy Sơn. Y thấy Chu Trường Linh và Diêu Thanh Tuyền hai người khóc thật thảm thiết, Chu Cửu Chân cũng sụt sùi rơi lệ, nhịn không nổi toan tiến lên thổ lộ thân phận của mình, nhưng chợt nghĩ ra: "Từ trước tới nay ta nhất quyết không nói ra thân thế, bây giờ lại lộ chân tướng ra, Chu bá phụ và Chị Cửu Chân ắt sẽ không tin, lại nghĩ mình mạo nhận để cầu ân, không khỏi coi thường".
Một lát sau, lại thấy trong nội điện tiếng người khóc vang, Chu phu nhân được a hoàn đỡ ra, liên tiếp vặn hỏi Diêu Thanh Tuyền. Diêu Thanh Tuyền trong cơn đau lòng, quên cả chào hỏi nghĩa tẩu, lập tức kể lại đầu đuôi chuyện Trương Thúy Sơn tự cắt cổ chết. Trương Vô Kỵ tuy cố gắng nén lòng, không khóc thành tiếng, nhưng nước mắt cũng nhỏ xuống ròng ròng. Trong đại sảnh ai ai cũng khóc lóc, nên chẳng ai để ý đến y.
Chu Trường Linh đột nhiên giơ chưởng lên vỗ xuống, nghe lách cách, đánh vỡ một bên chiếc bán bát tiên trước mặt, nói:
- Nhị đệ, chú nói rõ ràng lại cho tôi nghe, những người nào đã lên núi Võ Đương bức tử ân công ân tẩu?
Diêu Thanh Tuyền nói:
- Tiểu đệ vừa nghe được tin tức, định vội vàng trở về báo cho đại ca, nhưng nghĩ lại phải biết được tên tuổi kẻ thù là cần thiết. Tính ra bọn lên núi Võ Đương bức tử ân công từ tam đại thần tăng của phái Thiếu Lâm trở xuống, nhân số không phải là ít, tiểu đệ phải đi các nơi dò hỏi, thành thử mới mất nhiều thì giờ đến thế.
Nói rồi kể lại tất cả những người trong các phái Thiếu Lâm, Không Động, Côn Lôn, Nga Mi, các bang hội Hải Sa, Cự Kình, Thần Quyền, Vu Sơn, những ai đã lên núi Võ Đương gây chuyện với Trương Thúy Sơn như Không Văn phương trượng, Không Trí đại sư, Hà Thái Xung, Tĩnh Huyền sư thái, Quan Năng ... đều nói ra hết.
Chu Trường Linh khẳng khái nói:
- Nhị đệ, những người đó đều là cao thủ số một số hai trong võ lâm hiện nay, bọn mình đánh một người cũng không lại. Thế nhưng Trương ngũ gia đối với mình ơn nặng tày non, anh em mình dù có tan xương nát thịt, cũng phải trả mối thù này cho ông ta.
Diêu Thanh Tuyền gạt lệ đáp:
- Đại ca nó phải lắm, tính mệnh anh em mình, đều do Trương ngũ gia cứu cả, dẫu sao cũng đã sống thêm được mười mấy năm rồi, nay trả lại cho Trương ngũ gia cũng phải lắm. Việc mà tiểu đệ ân hận nhất là không gặp được công tử của Trương ngũ gia, nếu không cũng chuyển đạt được ý của đại ca, tốt nhất là mời được cậu ấy đến đây, anh em mình hết tâm hết sức, chăm sóc hầu hạ Trương công tử.
Chu phu nhân lại căn vặn hỏi kỹ về Trương công tử. Diêu Thanh Tuyền nói chỉ biết y bị thương nặng, không biết chữa bệnh nơi đâu, xem chừng năm nay chỉ chừng tám chín tuổi, chắc là Trương Tam Phong sẽ truyền cho tuyệt thế võ công, sau này lên tiếp nhiệm chưởng môn phái Võ Đương. Hai vợ chồng Chu Trường Linh quì xuống lạy trời lạy đất, chúc mừng họ Trương đã có người nối dòng.
Diêu Thanh Tuyền nói:
- Đại ca bảo tiểu đệ đem biếu Trương ân công thiên niên nhân sâm vương, Thiên Sơn tuyết liên, giấy Ngọc Sư, chủy thủ ô kim ... các loại vật phẩm, tiểu đệ đều để lại trên núi Võ Đương, nhờ Tống đại hiệp giao lại cho Trương công tử.
Chu Trường Linh nói:
- Làm thế phải lắm, làm thế phải lắm.
Ông ta quay lại nói với con:
- Gai đình ta thụ đại ân như thế nào, con cũng nên nói cho Trương huynh đệ nghe cho biết.
Chu Cửu Chân nắm tay Trương Vô Kỵ, đi đến thư phòng của phụ thân, chỉ cho y coi một bức tranh lớn treo trên tường giữa phòng. Bức trung đường đó bên phải có đề bảy chữ: "Trương công Thúy Sơn ân đức đồ".
Trương Vô Kỵ từ trước tới nay chưa hề vào trong thư phòng của Chu Trường Linh, lúc này thấy tên của cha mình, mắt rưng rưng lệ, thấy bức tranh vẽ một nơi hoang dã, một võ sĩ trẻ tuổi, diện mạo anh tuấn, tay trái cầm ngân câu, tay phải múa thiết bút, đang đấu với năm người mặt mũi hung ác. Trương Vô Kỵ biết đây chính là cha mình, tuy mặt mày không giống lắm, tưởng như trông thấy chính hình ảnh của y. Dưới đất còn có hai người, một người là Chu Trường Linh, một người là Diêu Thanh Tuyền. Ngoài ra còn hai người khác mình một nơi, đầu một nẻo. Bên góc trái có vẽ một phụ nữ còn trẻ, mặt mày hốt hoảng, chính là chu phu nhân, trong tay bế một đứa con gái nhỏ. Trương Vô Kỵ nhìn kỹ, thấy cô gái trên môi có một nốt ruồi nhỏ, chính là Chu Cửu Chân. Bức trung đường đó giấy đã ngả màu vàng, tối thiểu cũng đã phải mười năm.
Chu Cửu Chân chỉ vào bức tranh giải thích cho y rõ. Ngày đó Chu Cửu Chân mới sinh chưa lâu, Chu Trường Linh vì phải trốn lánh kẻ thù, cùng nhau đi qua phương tây, giữa đường lại bị kẻ đối đầu đuổi đến. Hai người sư đệ bị địch giết chết, ông ta và Diêu Thanh Tuyền cũng đã bị đánh ngã. Địch nhân đang tính hạ độc thủ, may được Trương Thúy Sơn đi qua, trượng nghĩa ra tay, đánh đuổi được bọn kia, cứu tính mạng cho toàn thể gia đình. Cứ tính toán ngày giờ, lúc này là trước khi Trương Thúy Sơn đi Băng Hỏa đảo.
Chu Cửu Chân kể xong câu chuyện rồi, buồn rầu nói:
- Bọn ta sống ẩn nơi hoang tịch, tin tức Trương ân công từ hải ngoại trở về mãi năm ngoái mới biết. Gia gia từng lập thệ là không bao giờ đạp chân trở lại Trung nguyên, nên mới vội vàng sai Diêu nhị thúc đem lễ vật quí báu, lên núi Võ Đương bái kiến, nào ngờ ...
Nói đến đây, một tên thư đồng tiến vào mời nàng đến linh đường hành lễ. Chu Cửu Chân vội vã quay trở lại phòng, thay y phục sạch sẽ, cùng Trương Vô Kỵ đến hậu đường. Chỉ thấy trong sảnh đường bày hai linh vị, đốt nến trắng, một linh bài trên đề : Ân công Trương đại hiệp húy Thúy Sơn chi linh vị, một bài vị đề: Trương phu nhân Ân thị chi linh vị. Vợ chồng Chu Trường Linh và Diêu Thanh Tuyền cùng quì lạy dưới đất, khóc lóc thật là thảm thiết. Trương Vô Kỵ cũng theo Chu Cửu Chân cùng quì xuống vái lạy.
Chu Trường Linh xoa đầu y, nghẹn ngào nói:
- Tiểu huynh đệ, tốt lắm, tốt lắm. Vị Trương đại hiệp này khẳng khái lỗi lạc, thật là một kỳ nam tử đương thế vô song, tuy cậu không biết ông ta, không họ hàng thân thích, nhưng lạy ông ta một lạy, cũng phải lắm.
Ở vào hoàn cảnh này, Trương Vô Kỵ không thể nào tự nhận mình chính là con của vị Trương ân công kia, nghĩ thầm: "Vị Diêu nhị thúc nọ nghe tin sai lầm, bảo ta chỉ chừng tám chín tuổi, nếu lúc này ta đứng ra nhận, bọn họ chắc không thể nào tin đâu". Bỗng nhiên Diêu Thanh Tuyền nói:
- Đại ca, người họ Tạ kia ...
Chu Trường Linh đằng hắng một tiếng, nháy mắt ra hiệu, Diêu Thanh Tuyền lập tức hiểu ý, nói trớ đi:
- Việc lễ tạ kia mình làm thế nào? Có cần phải phát tang ân công không?
Chu Trường Linh nói:
- Cái đó tùy chú phải làm gì thì làm.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Rõ ràng ông ta nói là "họ Tạ", sao tự nhiên lại đổi ngay thành "lễ tạ"? Họ Tạ? Họ Tạ? Không lẽ nói đến nghĩa phụ của mình?
Đêm hôm đó, Trương Vô Kỵ nằm nghĩ đến cha đến mẹ đã qua đời, lại nhớ tới nghĩa phụ đang sống kiếp sống thừa nơi đảo hoang miền cực bắc, trằn trọc mãi không ngủ được.
Sáng hôm sau trở dậy, nghe tiếng bước chân nhẹ nhàng, mũi lại ngửi thấy một mùi u hương, thấy Chu Cửu Chân đang bưng nước rửa mặt vào phòng. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, hỏi:
- Chị Cửu Chân, sao ... sao chị lại cho tôi ...
Chu Cửu Chân nói:
- Đầy tớ a hoàn đi sạch cả rồi, ta phục thị cậu một lần đã có sao đâu?
Trương Vô Kỵ càng kinh ngạc, hỏi lại:
- Vì ... vì sao lại đi hết cả?
Chu Cửu Chân nói:
- Cha ta hôm qua cho họ nghỉ hết, mỗi người cho một ít tiền, để cho họ đi về quê, vì ở đây sẽ gặp nguy hiểm.
Nàng ngừng lại một chút, nói tiếp:
- Cậu rửa mặt xong, cha ta có chuyện muốn nói với cậu.
Trương Vô Kỵ vội vàng rửa mặt qua loa, Chu Cửu Chân chải đầu cho y, rồi cả hai cùng đến thư phòng của Chu Trường Linh. Cái trang viện này vốn dĩ có đến bảy tám chục tì bộc, bây giờ không còn một bóng người. Chu Trường Linh thấy hai người vào phòng, nói:
- Trương huynh đệ, tôi kính trọng bụng dạ nhân hiệp, anh hùng khí khái của cậu, vốn dĩ muốn cậu ở với chúng tôi tám năm, mười năm, nhưng trước mắt sắp xảy ra biến cố, nên đành phải cùng cậu chia tay, xin Trương huynh đệ đừng trách.
Nói xong đưa ra một cái mâm, trong mâm để mười hai đĩnh vàng, mười hai đĩnh bạc, lại thêm một thanh đoản kiếm phòng thân, nói:
- Đây là chút quà mọn của ngu phu phụ và tiểu nữ, xin Trương huynh đệ nhận lấy, nếu lão phu phen này không chết, sau này thể nào cũng gặp lại nhau ...
Nói đến đây, thanh âm nghẹn ngào, không nói tiếp được nữa. Trương Vô Kỵ tránh qua một bên, hiên ngang đáp:
- Chu bá bá, tiểu điệt tuy tuổi nhỏ vô dụng, nhưng không phải là phường tham sống sợ chết. Nếu trong phủ nay mai có gặp nguy nan, tiểu điệt nhất quyết không bỏ đi. Nếu như không giúp được bá phụ và tỉ tỉ chuyện gì, cũng xin cùng bá phụ và tỉ tỉ đồng sinh cộng tử.
Chu Trường Linh khuyên nhủ thêm mấy lần, nhưng Trương Vô Kỵ nhất định không nghe. Chu Trường Linh thở dài nói:
- Ôi, trẻ con không biết sợ là gì, thôi để ta nói hết khúc nhôi cho cậu nghe vậy, nhưng trước hết cậu phải thề, không tiết lộ chuyện bí mật này với ai, cũng không được hỏi thêm gì nữa.
Trương Vô Kỵ liền quì xuống lớn tiếng nói:
- Hoàng thiên ở trên, những gì Chu bá bá nói với tôi, nếu tôi nói lại với người khác, hay lắm lời hỏi thêm, thì sẽ bị loạn đao phân thây, thân bại danh liệt.
Chu Trường Linh đỡ y dậy, thò đầu nhìn ra ngoài song cửa thám sát một vòng, rồi lại phi thân lên mái nhà, xét kỹ chung quanh bốn bề không có ai, mới quay vào thư phòng, ghé tai nói nhỏ với Trương Vô Kỵ:
- Điều ta nói cho cậu, cậu chỉ ghi nhớ trong lòng, không được hỏi lại ta câu nào, để đề phòng tai vách mạch rừng.
Trương Vô Kỵ gật đầu. Chu Trường Linh hạ giọng nói:
- Hôm qua khi Diêu nhị đệ đến báo tin Trương ân công đã chết, có mang theo một người, người này họ Tạ tên Tốn, ngoại hiệu là Kim Mao Sư Vương ...
Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, thân hình run lên. Chu Trường Linh nói tiếp:
- Vị Tạ đại hiệp này cùng với Trương ân công đã cùng nhau tám lạy kết làm anh em, ông ta cùng các môn các phái đã kết thâm cừu, vợ chồng Trương ân công sỡ dĩ tự vẫn, chính là vì không chịu tiết lộ chỗ ở của nghĩa huynh. Tạ đại hiệp không biết vì sao trở về Trung thổ được, ra tay rửa hận cho Trương ân công, giết rất nhiều cừu nhân, nhưng vì ở vào thế mãnh hổ nan địch quần hồ nên đã bị trọng thương. Diêu nhị đệ là người cơ trí, cứu được ông ta chạy về đến đây, nhưng kẻ đối đầu trong chớp mắt sẽ đuổi tới. Bên địch người nhiều thế mạnh, bọn ta nhất định không sao chống trả được. Ta chỉ còn xả mệnh báo ân, quyết ý vì Tạ đại hiệp mà chết, nhưng cậu với ông ta không có dây mơ rễ má, chẳng việc gì phải bỏ mạng nơi đây? Trương huynh đệ, ta đã nói hết lời, cậu mau mau ra đi là hơn. Địch nhân tới nơi, ngọc đá đều vỡ, chậm trễ không kịp đâu.
Trương Vô Kỵ nghe nói trong bụng nóng như lửa đốt, vừa mừng vừa lo, không ngờ rằng nghĩa phụ lại có mặt nơi đây, hỏi lại:
- Ông ta đang ở ...
Chu Trường Linh giơ tay phải ra, bịt ngay miệng y lại, ghé tai nói thầm:
- Không được nói chuyện. Địch nhân thần thông quảng đại, một câu sơ hở, là nguy hiểm đến tính mạng Tạ đại hiệp. Ngươi quên lời thề rồi sao?
Trương Vô Kỵ gật đầu. Chu Trường Linh nói:
- Ta đã nói rõ cho cậu rồi. Trương huynh đệ, cậu tuy tuổi còn nhỏ, nhưng ta coi cậu như bạn bè, bao nhiêu bí mật cho cậu biết cả, không dấu diếm gì hết, cậu nên ra đi ngay mới kịp.
Trương Vô Kỵ nói:
- Bá bá nói hết cho cháu rồi, cháu lại càng nhất định không đi.
Chu Trường Linh trầm ngâm một hồi, thở dài một tiếng, nói chắc nịch:
- Được rồi, từ nay về sau chúng mình đồng sinh cộng tử, không nói thêm nữa. Việc không thể để chậm trễ, mình phải ra tay ngay.
Nói xong cùng Chu Cửu Chân và Trương Vô Kỵ đi ra khỏi cổng, đã thấy Chu phu nhân và Diêu Thanh Tuyền đã chờ sẵn ở bên ngoài, bên cạnh để mấy cái bao chuẩn bị đi xa. Trương Vô Kỵ nhìn quanh quất, không thấy hình bóng nghĩa phụ đâu cả.
Chu Trường Linh cầm một mồi lửa châm vào mấy bó đuốc, rồi vào trong châm ngòi. Chỉ trong khoảnh khắc, lửa đã bừng bừng lên cao, rồi bén sang phía tây. Thì ra mấy trăm gian phòng của trang viện này đã tưới dầu. Vùng Thiên Sơn Tây Vực, Côn Lôn một dãy có rất nhiều dầu lửa, thường từ lòng đất phun ra chảy như suối, lấy đem về có thể đốt lên đun nấu. Bao nhiêu tòa nhà hoa lệ dài hàng dặm của Chu gia trang, vì có dầu hỏa giúp sức nên cháy thật nhanh.
Trương Vô Kỵ thấy những cột kèo trạm trổ bị lẫn vào trong đống lửa cháy bùng bùng, lòng không khỏi cảm kích: "Cả một đời Chu bá bá công lao gây dựng, biết bao nhiêu tâm huyết, một buổi đã thành tro, cũng chỉ vì cha ta và nghĩa phụ. Một người có nghĩa khí như thế quả thực trên đời ít có".
Hôm đó vợ chồng Chu Trường Linh, Chu Cửu Chân và Trương Vô Kỵ bốn người ở trong một hang núi qua đêm. Năm tên đệ tử thân tín của Chu Trường Linh cầm binh khí, do Diêu Thanh Tuyền chỉ huy, ở bên ngoài động canh gác. Ngọn lửa đó cháy đến ngày thứ ba mới từ từ lụi dần, cũng may địch nhân chưa đuổi đến kịp.
Đến tối ngày thứ ba, Chu Trường Linh dẫn vợ con đệ tử, cùng Diêu Thanh Tuyền, Trương Vô Kỵ ra khỏi hang núi, đi theo một con đường ngoằn ngoèo tối thui, tới mấy gian thạch thất nằm sâu dưới đất. Trong những phòng đó lương thực nước uống đều chuẩn bị đầy đủ, chỉ có điều hơi nóng.
Chu Trường Linh thấy Vô Kỵ không ngớt dùng tay áo lau mồ hôi, cười hỏi:
- Vô Kỵ đệ, cậu thử nhìn kỹ xem, tại sao ở đây lại nóng đến thế? Cậu có biết mình đang ở đâu không?
Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi khét, lập tức vỡ lẽ:
- A, thì ra mình đang ở bên dưới trang viện.
Chu Cửu Chân cười nói:
- Cậu thông minh thật.
Trương Vô Kỵ thấy Chu Trường Linh tính toán chu đáo như thể hết sức bội phục. Địch nhân đem người tới tấn công, thấy Chu gia trang đã thành đống gạch vụn, ắt sẽ đi nơi khác tìm kiếm, đâu có ngờ Tạ Tốn lại ẩn náu dưới đống tro tàn. Y thấy một bên thạch thất có một tấm cửa sắt đóng chặt, nghĩ bụng nghĩa phụ ắt ẩn thân trong đó, tuy rất nóng lòng gặp lại cha nuôi cho thỏa lòng mong nhớ, nhưng thấy tình thế nguy cấp, đến nói chuyện với Chu Trường Linh cũng không được, nên nào dám khinh suất vọng động. Nếu như làm lỡ đại sự, mình có mất mạng cũng không nói gì, liên lụy đến nghĩa phụ và toàn thể gia đình họ Chu, tội lỗi biết đâu mà kể?
Ở dưới hầm độ nửa ngày, khí nóng giảm dần, mọi người trải áo điêu ra, toan nằm ngủ, bỗng nghe tiếng vó ngựa của một đoàn người từ xa vọng đến, chẳng mấy chốc đã ngay trên đỉnh đầu. Chỉ nghe thấy tiếng người ồm ồm nói:
- Lão tặc Chu Trường Linh chắc là hộ tống Tạ Tốn chạy mất rồi, đuổi theo mau, đuổi theo mau.
Mọi người tuy ở sâu dưới đất nhưng tiếng người nghe rõ mồn một, thì ra dưới địa đạo có ống sắt thông lên trên nên thanh âm truyền xuống. Tiếng chân ngựa lại rầm rập chạy đi, mỗi lúc một xa.
Đêm hôm đó truy binh đi đến trên đầu tất cả năm đoàn, có phái Côn Lôn, Không Động, Cự Kình còn hai đoàn nghe không rõ lai lịch. Mỗi đoàn ít cũng bảy tám người, nhiều thì đến hơn một chục, đao kiếm loảng xoảng, ngựa hí vang, bọn nào cũng ra lời nguyền rủa, khí thế hung hăng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Nghĩa phụ ta nếu hai mắt không mù, lại không trọng thương thì có coi bọn yêu ma tiểu quỉ này vào đâu".
Đến khi đoàn người thứ năm đi xa rồi, Diêu Thanh Tuyền mới lấy nắp gỗ bịt kín những ống thông hơi, để tiếng nói của người trong đường hầm khỏi lọt ra bên ngoài khiến người đi qua nghe thấy được. Thế nhưng y vẫn nói hết sức nhỏ:
- Để đệ đi xem thương thế của Tạ đại hiệp thế nào.
Chu Trường Linh gật đầu. Diêu Thanh Tuyền giơ tay vận động cơ quan bên cạnh tấm cửa sắt, cánh cửa từ từ mở ra. Y cầm một bát đèn dầu, đi vào bên trong. Lúc này Trương Vô Kỵ không còn nhịn được, liền đứng dậy, ghé mắt nhìn theo lưng của Diêu Thanh Tuyền, thấy một hán tử thân hình cao lớn nằm quay lưng lại. Trương Vô Kỵ nhìn thấy tấm lưng to rộng của nghĩa phụ, lập tức nước mắt trào ra. Diêu Thanh Tuyền nói nhỏ:
- Tạ đại hiệp, có đỡ chút nào chăng? Muốn uống nước không?
Đột nhiên kình phong ào ào, chiếc bát đèn trong tay Diêu Thanh Tuyền tắt phụp, tiếp theo nghe bình một tiếng, y đã bị Tạ Tốn đánh một chưởng văng ra khỏi thiết môn, rơi xuống đất nghe bịch một cái. Chỉ nghe Tạ Tốn quát lớn:
- Bọn cẩu tặc phái Thiếu Lâm, phái Côn Lôn, phái Không Động có giỏi thì vào đây, vào đây. Ta Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn há có sợ gì chúng bay.
Chu Trường Linh kêu lên:
- Không xong, Tạ đại hiệp thần trí mê hồ rồi.
Y đi đến bên cửa, nói vào:
- Tạ đại hiệp, chúng tôi là bằng hữu chứ không phải cừu địch.
Tạ Tốn cười khẩy đáp:
- Bằng hữu cái gì? Đừng có hoa ngôn xảo ngữ, định đánh lừa ta ư?
Y hung hăng bước ra khỏi cửa sắt, giơ chưởng đánh vào ngực Chu Trường Linh. Chưởng đó kình lực ghê gớm khiến cho tất cả các ngọn đèn trong phòng đều lung lay muốn tắt. Chu Trường Linh không dám chống đỡ, vội né qua một bên, Tạ Tốn liền đánh luôn chưởng trái vào mặt y. Chu Trường Linh chẳng đặng đừng, giơ tay gạt ra, thân hình rung động, lùi lại hai bước. Trương Vô Kỵ thấy biến cố bất ngờ, không khỏi kinh hoảng đờ người ra.
Gã Tạ Tốn đó quyền chưởng vù vù như gió, mạnh mẽ vô cùng, Chu Trường Linh không dám chống đỡ, chỉ có nước lùi lại. Chưởng đó Tạ Tốn đánh không trúng Chu Trường Linh quét vào tường, lập tức đá vỡ lả tả, ví thử trúng vào người làm sao chịu nổi?
Gã Tạ Tốn đó tóc dài phủ xuống vai, hai mắt sáng như điện, trên mặt đầy những vết máu, miệng hầm hè, chưởng thế mỗi lúc một mạnh. Chu phu nhân và Chu Cửu Chân sợ hãi nép vào một góc phòng. Chu Trường Linh thấy y quyền chưởng đánh tới, chỉ còn nước giơ chiếc bàn ở bên cạnh ra đỡ. Tạ Tốn bình bình hai quyền, lập tức đánh chiếc bàn đó vỡ tan.
Trương Vô Kỵ hoảng hốt luống cuống, há mồm đứng như trời trồng ở một bên. Người bảo là Tạ Tốn kia tuyệt nhiên không phải Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn nghĩa phụ của y. Nghĩa phụ của y đã mù hai mắt, người này mắt vẫn còn nguyên. Lại thấy người kia một chưởng đánh ra, Chu Trường Linh lưng đã tựa vào tường, không còn cách gì lùi thêm được nữa, nhưng không đưa tay ra đỡ, kêu lên:
- Tạ đại hiệp, tôi không phải là địch nhân của ông, tôi không đánh trả lại.
Đại hán kia không lý gì tới, một chưởng đánh thẳng vào ngực ông ta. Chu Trường Linh thần sắc thật thê thảm, lại kêu lên:
- Tạ đại hiệp, ông không tin tôi ư?
Gã kia quát lớn:
- Cẩu tặc, nếm thêm một quyền nữa.
Y lại đánh tới một quyền. Chu Trường Linh ộc ra một ngụm máu, giọng run run nói:
- Ông là nghĩa huynh của ân công, có đánh chết tôi, tôi cũng không hoàn thủ.
Gã đại hán cười như điên cuồng:
- Không trả đòn càng tốt, để ta đánh chết ngươi.
Trái một quyền, phải một quyền đều trúng ngay ngực. Chu Trường Linh "A" lên một tiếng thảm thiết, thân hình xụm xuống. Gã đại hán kia không chút dung tình, lại ra quyền đánh tới. Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, tay hết sức gạt ra, thấy quyền kình rất mạnh, chỉ đau nhói mà không lay chuyển chút nào, không còn kể sống chết, kêu lên:
- Ngươi không phải Tạ Tốn, ngươi không phải ...
Đại hán kia giận dữ nói:
- Thằng tiểu quỉ này biết cái gì?
Giơ chân lên đá y. Trương Vô Kỵ nghiêng qua một bên tránh được, kêu lên:
- Ngươi mạo nhận Kim Mao Sư Vương, không có ý tốt, giả đó, giả đó ...
Chu Trường Linh vốn đã nằm gục dưới đất, nghe Trương Vô Kỵ kêu la, lập tức cố gượng đứng lên, chỉ vào đại hán kia nói:
- Ngươi ... ngươi không phải ... ngươi lừa ta ...
Đột nhiên một ngụm máu nữa ộc ra, phun ngay vào mặt đại hán, thân hình đổ nhào về trước, thuận thế điểm luôn vào huyệt Thần Phong dưới vú phải trên ngực y. Chu Trường Linh đã bị thương nặng, vốn không phải địch thủ của gã kia, thế nhưng nhân cơ hội hộc máu nhào người tới, xuất kỳ bất ý, dùng công phu gia truyền Nhất Dương Chỉ điểm trúng đại huyệt. Chu Trường Linh lại điểm thêm hai huyệt khác ở hông và sườn, nhưng chính mình cũng chịu không nổi, lăn ra bất tỉnh. Chu Cửu Chân và Trương Vô Kỵ vội tiến lên đỡ dậy.
Qua một hồi, Chu Trường Linh từ từ tỉnh lại, hỏi Trương Vô Kỵ:
- Y ... y ...
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chu bá bá, cháu không còn dấu bác được nữa, người mà bác gọi là ân công, chính là cha ruột của cháu còn Kim Mao Sư Vương là nghĩa phụ của cháu, làm sao cháu còn nhận lầm cho được?
Chu Trường Linh lắc đầu, gượng cười, vẻ mặt trông ra không tin chút nào. Trương Vô Kỵ nói:
- Cha nuôi của cháu hai mắt đã mù, còn người này hai mắt hoàn hảo, đó là cái sai sót lớn nhất. Nghĩa phụ cháu hỏng mắt ở hải ngoại, việc này người ngoài không ai biết được. Người này trước nay mạo nhận, không biết chuyện cha nuôi cháu đã mù.
Chu Trường Linh mừng nói:
- Vô Kỵ đệ, có thực cháu là con của ân công nhà ta không? Nếu thế thì hay lắm, hay lắm.
Thế nhưng Chu Trường Linh vẫn còn hồ nghi, Trương Vô Kỵ bèn đem chuyện y đi đến núi Côn Lôn thế nào kể qua cho ông ta nghe. Diêu Thanh Tuyền đứng bên nghe luôn, hỏi cặn kẽ y tình hình trên núi Võ Đương thế nào, lại tra hỏi việc vợ chồng Trương Thúy Sơn hôm đó tự vẫn ra sao, thấy y nói không sai một mảy, bấy giờ mới tin.
Thế nhưng Chu Trường Linh vẫn còn lấy làm khó nghĩ nói:
- Nếu như thằng bé này nói láo, chúng mình đắc tội với Tạ đại hiệp, thì làm sao bây giờ?
Diêu Thanh Tuyền liền rút chủy thủ, chỉ vào mắt phải của đại hán đó, nói:
- Bằng hữu, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hai mắt đã hủy rồi, nếu ngươi muốn học ông ta, thì phải học cho tới nơi tới chốn, hôm nay ta hủy đôi mắt của ngươi trước. Họ Diêu này bị ngươi phỉnh gạt, nếu không có vị tiểu huynh đệ này nhìn ra, có phải là Chu đại ca của ta chết mà không biết đầu đuôi ra sao ư?
Nói xong đâm nhứ một cái, dao găm đã rạch vào mí mắt, hỏi thêm:
- Ngươi thực sự là ai? Tại sao lại mạo xưng Kim Mao Sư Vương?
Đại hán đó giận dữ đáp:
- Có giỏi thì một đao giết ta đi. Khai Bi Thủ Hồ Báo này là hạng người nào? Chịu để cho ngươi bức cung hay sao?
Chu Trường Linh "A" lên một tiếng, nói:
- Khai Bi Thủ Hồ Báo. Ồ, thì ra ngươi là phái Không Động.
Hồ Báo lớn tiếng nói:
- Thiên hạ các môn các phái đều biết Chu Trường Linh muốn báo thù cho Trương Thúy Sơn. Người đời có nói rằng: "tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tao ương[10]".
Diêu Thanh Tuyền quát lớn:
- Ngươi dụng tâm thật là ác độc.
Y liền đẩy một dao nhắm ngay ngực y đâm tới. Chu Trường Linh tay trái khua ra, chộp ngay cổ tay Diêu Thanh Tuyền, nói:
- Nhị đệ, khoan đã, nếu lỡ y thực sự là Tạ đại hiệp thì anh em mình chết vạn lần cũng không lấy lại được.
Diêu Thanh Tuyền nói:
- Trương huynh đệ đã nói rõ ràng rồi. Đại ca nếu còn nghĩ ngợi gần xa, không quyết đoán được, cái đại họa trước mắt không sao tránh khỏi.
Chu Trường Linh lắc đầu nói:
- Chúng ta thà rằng thân mình chịu nghìn nhát dao, nhưng nhất định không nên để tổn thương một sợi lông của nghĩa huynh ân công.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chu bá bá, người này nhất định không phải là nghĩa phụ của cháu. Cha nuôi cháu có ngoại hiệu Kim Mao Sư Vương, tóc vàng, còn người này tóc đen.
Chu Trường Linh trầm ngâm một hồi, gật đầu, nắm tay Trương Vô Kỵ, nói:
- Tiểu huynh đệ, cậu đi theo tôi.
Hai người ra khỏi thạch thất, rồi ra khỏi thạch động, đi đến một mỏm đá cheo leo ở sườn núi phía sau, ngồi ngang vai nơi đó. Chu Trường Linh nói:
- Tiểu huynh đệ, nếu người này không phải là Tạ đại hiệp, bọn mình không thể không giết y, nhưng ta muốn trong lòng không còn hồ nghi chút nào nữa, cậu nghĩ có phải không?
Trương Vô Kỵ nói:
- Bác sợ có điều gì lầm lỡ, cái đó cũng phải. Thế nhưng người này thật không phải nghĩa phụ của cháu, Chu bá bá cứ an lòng.
Chu Trường Linh thở dài một tiếng, nói:
- Hài tử, ta khi còn trẻ từng sai xẩy nhiều lần. Hôm nay ta sở dĩ không trả đòn, để đến nỗi thân bị trọng thương vì sợ mình lại lầm lẫn nữa. Sai lầm rồi không thể lấy lại, việc này có can hệ trọng đại, ta có chết cũng không sao, nhưng bằng giá nào cũng phải bảo hộ ngươi và Tạ đại hiệp được bình an. Ta cũng muốn hỏi rõ chỗ ở của Tạ đại hiệp để cho thật yên tâm, nhưng việc đó ta không tiện ngỏ lời.
Trương Vô Kỵ trong lòng khích động nói:
- Chu bá bá, bác vì cha và nghĩa phụ của cháu, hủy tất cả gia sản đáng giá hàng trăm vạn, chính bản thân mình lại bị thương nặng, không lẽ cháu còn chưa tin được bác hay sao? Tình hình của nghĩa phụ cháu, dù bác không hỏi, cháu cũng sẽ nói cho bác nghe.
Sau đó y đem chuyện cha mẹ và nghĩa phụ vì sao phiêu lưu đến tận Băng Hỏa đảo, tại sao ở đó mười năm, rồi ba người kết bè trở về Trung thổ thế nào, nói ra bằng hết. Trong câu chuyện đến quá nửa thì y do cha mẹ kể lại cho nghe, nhưng cũng thật là rõ ràng minh bạch.
Chu Trường Linh lại hỏi đi hỏi lại, vặn vẹo đủ điều, Trương Vô Kỵ ở Băng Hỏa đảo học võ ra sao, bằng cách nào đưa được Dương Bất Hối qua đây, ở trên Tam Thánh ao gặp nạn đầu đuôi tình hình, chuyện gì cũng hỏi thật kỹ, nghe Trương Vô Kỵ nói không có điều gì sơ hở, lúc ấy mới thực bụng tin, thở phào một cái, ngửng đầu nhìn trời nói:
- Ân công hỡi ân công, người ở trên trời linh thiêng, xét rõ lòng tôi; Chu Trường Linh nguyện đem hết tâm hết sức, nuôi dưỡng Vô Kỵ huynh đệ thành người. Có điều kẻ địch thế mạnh vẫn đang dòm dỏ, tôi võ nghệ kém cỏi, không biết có làm tròn được trách nhiệm hay không, xin ân công phù hộ.
Nói xong quì xuống đất, hướng lên trời khấu đầu. Trương Vô Kỵ vừa thương tâm, vừa cảm kích, cũng quì ngay xuống.
Chu Trường Linh đứng lên, nói:
- Bây giờ trong lòng ta không còn nghi ngờ gì nữa. Ôi, Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Lôn, Không Động chẳng phái nào không người nhiều thế lớn, võ công cao cường. Tiểu huynh đệ, lúc đầu ta quyết ý thí cái mạng già này, giết được cừu nhân đứa nào hay đứa nấy, để báo đại ân của lệnh tôn. Thế nhưng hôm nay việc nuôi con côi là quan trọng, báo thù xuống hàng thứ hai. Chỉ hiềm trời đất mênh mông, biết đi đâu mà tránh cái đại nạn bây giờ? Ngay chỗ ở của ta vốn đã xa xăm hẻo lánh đến thế, họ cũng tìm đến được, làm gì còn chỗ nào hoang vắng hơn thế bây giờ?
Ông ta ngừng lại một lát, nói tiếp:
- Tạ đại hiệp một thân một mình trên Băng Hỏa đảo, trong mấy năm qua, ắt hẳn thê thảm lắm. Ôi, vị đại hiệp đó đối với ân công ân tẩu cao nghĩa biết dường nào, ta chỉ mong được gặp ông ta một lần, có chết cũng cam.
Trương Vô Kỵ nghe y nói đến nghĩa phụ phải sống khổ sở cô đơn nơi đảo vắng, thật là khó khăn, bỗng chợt nghĩ ra, nói xen vào:
- Chu bá bá, hay là tất cả chúng mình cùng đến Băng Hỏa đảo, có được không? Hồi cháu ở trên đảo sung sướng biết bao nhiêu, đến khi về Trung Thổ rồi, những gì thấy qua, những gì phải chịu, nếu không phải người ta toan giết hại thì cũng làm cho kinh hoảng.
Chu Trường Linh nói:
- Tiểu huynh đệ, cậu có thực muốn về Băng Hỏa đảo để sống không?
Trương Vô Kỵ trù trừ không trả lời, nghĩ thầm bản thân mình không còn sống được bao ngày, huống chi đi Băng Hỏa đảo hải trình gian nan, không biết có đến nơi không, e rằng lụy cả đến gia đình toàn gia mạo hiểm, biển cả vô tình, sơ sẩy là cả bọn sẽ vùi thân trong sóng to gió cả.
Chu Trường Linh nắm hai tay y, nhìn vào mặt, nói:
- Tiểu huynh đệ, cháu với ta không còn là người ngoài, có gì cứ nói thật, cháu có muốn về lại Băng Hỏa đảo không?
Giọng nói ông ta hết sức chân thành. Trương Vô Kỵ lúc này trong lòng, quả thực chán ngán lòng dạ hiểm ác của giới giang hồ, chỉ mong trước khi chết được gặp lại nghĩa phụ một lần, nếu được chết trong lòng người cha nuôi, thì không còn cầu gì hơn nữa. Trước mặt Chu Trường Linh, y không thể nào dấu diếm tâm sự, nên chầm chậm gật đầu.
Chu Trường Linh không hỏi thêm nữa, dắt tay Trương Vô Kỵ trở về thạch thất, nói với Diêu Thanh Tuyền:
- Tên đó quả là gian tặc, không còn ngờ gì nữa.
Diêu Thanh Tuyền gật đầu, tay cầm chủy thủ, đi vào trong mật thất. Chỉ nghe Khai Bi Thủ Hồ Báo rống lên một tiếng thảm thiết, hẳn đã bị thanh toán rồi. Diêu Thanh Tuyền từ trong mật thất bước ra, đóng cửa sắt lại, thấy trên con dao găm còn dính máu tươi, tiện tay chùi luôn vào gót giày.
Chu Trường Linh nói:
- Tên tặc tử đó đến nằm phục nơi đây, tung tích của bọn mình e đã lộ rồi, căn hầm này không còn ở được nữa.
Nói xong dẫn tất cả mọi người, đi ra khỏi thạch động, đi khoảng hơn hai mươi dặm, vượt qua hai ngọn núi, vào một thung lũng đến dưới một cây to thấy có bốn năm căn nhà nhỏ. Bấy giờ trời đã mờ mờ sáng, mọi người vào trong nhà rồi, Trương Vô Kỵ thấy trong nhà để toàn cày bừa, lưỡi liềm các loại nông cụ, cùng lương thực bếp núc đều có đủ.
Xem ra Chu Trường Linh đề phòng kẻ địch, chung quanh nơi ở đã an bài nhiều nơi trú ẩn. Chu Trường Linh bị thương nặng không thể dậy được, Chu phu nhân liền lấy giày cỏ, áo vải, khăn bịt đầu cho mọi người thay. Chỉ chốc lát gia đình đại phú biến thành nhà quê, thôn nữ, tuy giọng nói, cử chỉ không giống, nhưng nếu chỉ nhìn xa xa không đến gần quan sát kỹ không thể nào phát giác được.
Ổ ngôi nhà nông ấy ở được ít ngày, Chu Trường Linh vì có phương thuốc tổ truyền của vùng Vân Nam, uống vào thuyên giảm rất nhanh, cũng may địch nhân chưa đuổi theo đến được. Trương Vô Kỵ trong khi nhàn rỗi quan sát, thấy Diêu Thanh Tuyền ngày nào cũng ra ngoài nghe ngóng tin tức, còn Chu phu nhân đốc thúc đệ tử thu thập hành lý bỏ vào bao, quả nhiên đang tính chuyện viễn hành. Y biết Chu Trường Linh vì việc báo ơn tị nạn, quyết ý đưa cả nhà ra khơi tìm Băng Hỏa đảo nên trong lòng hết sức vui mừng.
Đêm hôm đó Vô Kỵ đang ngủ trên giường, nghĩ đến nếu như mình trời cho không chết, đến được Băng Hỏa đảo, cả đời sẽ cùng chị Cửu Chân tỉ đẹp như tiên kia chung sống, bỗng thấy đỏ mặt nóng tai, tim đập thình thịch. Y lại nghĩ Chu bá bá, Diêu nhị thúc và nghĩa phụ sau khi gặp nhau, ba người kết thành bằng hữu, ở trên đảo không lo không lắng sống đời tiêu dao tháng ngày, chẳng sợ Mông Cổ Thát tử tàn sát hà hiếp, cũng chẳng sợ kẻ địch trong võ lâm đánh trước đâm sau, được sống như thế không còn gì hơn nữa. Y càng nghĩ càng vui sướng, quên cả bản thân đang bị hàn độc, chẳng còn ở trên đời bao lâu, nên thao thức đến tận nửa đêm vẫn chưa ngủ.
Còn đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe tiếng cửa nhè nhẹ mở, một bóng người đã lẻn vào phòng. Trương Vô Kỵ hơi lấy làm lạ lùng, mũi bỗng ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, chính là mùi phấn hương mà Chu Cửu Chân vẫn dùng hàng ngày. Y đột nhiên mặt đỏ bừng, thẹn không để đâu cho hết.
Chu Cửu Chân rón rén đến trước giường, hạ giọng hỏi khẽ:
- Vô Kỵ đệ, cậu đã ngủ chưa?
Trương Vô Kỵ không dám trả lời, hai mắt nhắm nghiền, giả vờ ngủ say. Một lát sau, có mấy ngón tay ấm áp mềm mại sờ vào mi mắt y. Trương Vô Kỵ vừa sợ vừa mừng, vừa hoảng vừa thẹn, chỉ mong nàng ta mau ra khỏi phòng. Y trong lòng đối với Chu Cửu Chân kính trọng không cùng, chỉ mong mỗi ngày được nhìn nàng vài lần, cũng đã thỏa lòng thỏa dạ, trong lòng không có một ý niệm lãng mạn nào, còn việc sau này lấy nàng làm vợ y chưa bao giờ nghĩ đến. Bây giờ bỗng dưng nửa đêm nàng vào phòng mình, làm sao tay chân y không luống cuống? Y bỗng nhiên nghĩ thầm: "Hay là Chị Cửu Chân có chuyện gì quan trọng khẩn cấp, nửa đêm muốn đến nói cho mình nghe?". Ngay lúc đó, bỗng thấy huyệt Đàn Trung trên ngực tê đi, rồi kế tiếp các huyệt Kiên Trinh, Thần Tàng, Khúc Trì, Hoàn Khiêu cũng bị điểm.
Việc này xảy ra thật ngoài sức tưởng tượng của Vô Kỵ, không hiểu sao nửa đêm Chu Cửu Chân lại đến điểm huyệt mình? Y chợt thấy hối tiếc: "À, chị Cửu Chân chắc là khi thăm dò xem mình ngủ có cảnh giác hay không. Ngày mai chị ấy sẽ đến giải huyệt cho mình, chắc sẽ chọc ghẹo mình một phen. Nếu biết như thế, khi chị ấy vào phòng, mình nhỏm dậy dọa cho một trận, để cho chị ấy sáng mai khỏi khoa trương".
Chỉ thấy nàng ta nhè nhẹ mở cửa sổ, phi thân đi ra, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Mình sẽ tự giải huyệt ngay, đi theo đằng sau, làm ma nhát, chắc là vui lắm". Y lập tức sử dụng phép giải huyệt Tạ Tốn dạy cho để mở các huyệt đạo bị phong. Thế nhưng môn Nhất Dương Chỉ gia truyền của Chu Cửu Chân thật là ghê gớm, y phải mất hơn nửa giờ, mới giải hết được các huyệt bị điểm. Đó cũng là vì công phu của Chu Cửu Chân chưa lấy gì làm cao, lại không muốn để y biết được, nên dùng lực thật nhẹ, nếu không phép giải huyệt của y có kỳ diệu cỡ nào, cũng không thể nào tự giải được. Đến khi y đứng được dậy, hối hả mặc quần áo, nhảy ra ngoài song cửa thì bốn bề im lìm, làm gì còn thấy hình bóng Chu Cửu Chân đâu?
Y đứng giữa trời tối đen, không khỏi thất vọng, bỗng nghĩ lại: "Chị Cửu Chân ngày mai có cười mình vô dụng, thì cứ nhường cho chị ấy một phen, việc gì phải hơn thua với cô nàng? Bình thời ta vẫn mong làm nàng vui lòng, cũng không phải dễ, tối hôm nay nếu đuổi kịp, không chừng nàng lại giận mình là khác". Y tự nhủ như thế, trong lòng bỗng thấy an ủi. Lúc này mới vào đầu xuân, trong sơn cốc hoa dại ngát hương, y không thể nào ngủ được, nên thả bộ dọc theo con suối mà đi. Trên triền núi tuyết đóng mới tan, theo dòng chảy xuống, những tảng băng nhỏ chạm nhau, kêu leng keng.
Y đi được một lát, bỗng từ trong rừng phía bên trái vọng ra mấy tiếng cười khúc khích, chính là giọng của Chu Cửu Chân. Trương Vô Kỵ hơi kinh hoảng, nghĩ thầm: "Chị Cửu Chân nhìn thấy mình rồi hay sao?". Lại nghe thấy nàng nói nhỏ:
- Biểu ca, không được nghịch nữa, bộ anh tưởng em không dám đánh anh sao?
Tiếp theo là mấy tiếng cười sảng khoái của đàn ông, chẳng nói cũng biết là Vệ Bích. Trương Vô Kỵ trong lòng chấn động, tưởng như muốn bật khóc, giấc mộng nửa ngày qua nay thành mây khói, trong lòng liền minh bạch: "Chị Cửu Chân điểm huyệt đạo của ta, nào có phải để đùa với mình. Nàng nửa đêm đi gặp biểu ca, sợ ta biết được đấy thôi". Y thấy tay tê đi, chân mềm nhũn, nghĩ thầm: "Ta chỉ là một đứa trẻ nghèo khổ không nhà không cửa, văn tài võ công, nhân phẩm tướng mạo, không điểm nào không kém xa Vệ tướng công. Chị Cửu Chân cùng y vốn đã có tình nghĩa anh em con cô cậu, thật là trai tài gái sắc, xứng đôi vừa lứa[11]".
Y tự nhủ như vậy, thở dài một tiếng nhỏ, bỗng nghe tiếng chân người, ai đó từ hậu viện đi tới. Ngay lúc đó, Chu Cửu Chân và Vệ Bích hai người nói chuyện nho nhỏ, nắm tay nhau bước ra. Trương Vô Kỵ không muốn chạm trán với họ, vội vàng nép mình sau một cây to. Bỗng thấy tiếng chân người tiến tới gần, Chu Cửu Chân đột nhiên kêu lên:
- Cha, ... cha ....
Giọng nàng run run, dường như sợ hãi lắm, thì ra người ở bên kia chính là Chu Trường Linh. Chu Trường Linh thấy con gái nửa đêm lén đi gặp cháu mình, xem chừng giận lắm, hừ một tiếng nói:
- Chúng bay ở ngoài này làm gì?
Chu Cửu Chân cố làm ra vẻ tự nhiên, cười nói:
- Cha, biểu ca và con hai người lâu không gặp nhau, hôm nay có dịp ghé đến, nên chúng con ra nói chuyện chơi ấy mà.
Chu Trường Linh nói:
- Con nhãi này thật là to gan, nếu để cho Vô Kỵ biết ...
Chu Cửu Chân vội ngắt lời:
- Con đã nhè nhẹ điểm năm đại huyệt của y rồi, lúc này chắc còn đang ngủ say, để lát nữa con sẽ giải khai huyệt đạo, không thể nào y biết được.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Chu bá bá đã biết là ta thích chị Cửu Chân, chỉ vì cha ta có ơn với ông ta, nên không muốn ta đau lòng thất vọng. Kỳ thực tuy ta có thích chị Cửu Chân thật, nhưng bụng mình không có ý gì, Chu bá bá ơi,, bác đối với cháu thật tốt quá".
Lại nghe Chu Trường Linh nói:
- Dù sao chăng nữa nhưng cũng phải thật là dè dặt, biết bao công lao tính toán, đừng để nó thấy được mối manh sơ xuất.
Chu Cửu Chân cười nói:
- Hài tử biết điều đó rồi.
Vệ Bích nói:
- Thưa cậu cháu phải đi về đây. Chắc sư phụ cháu đang đợi.
Chu Cửu Chân đối với y thật quyến luyến, nói:
- Để em đưa anh về.
Chu Trường Linh nói:
- Hay lắm, ta cũng muốn đến bàn lại một lần nữa với sư phụ cháu. Bọn mình lần này ra biển đi Băng Hỏa đảo, tất cả mọi việc phải sắp xếp cho chu đáo, chớ có sai sẩy chuyện gì.
Nói xong cả ba người cùng đi về hướng tây. Trương Vô Kỵ thấy hơi lạ lùng, biết sư phụ của Vệ Bích tên là Võ Liệt, là cha của Võ Thanh Anh. Nghe lời của Chu Trường Linh, dường như cha con họ Võ và Vệ Bích cũng cùng đi Băng Hỏa đảo, sao trước đây chưa nghe nói tới bao giờ? Chuyện này càng nhiều người biết, càng khó giữ gìn cho khỏi tiết lộ phong thanh, càng dễ nguy hiểm cho nghĩa phụ. Y trầm ngâm một hồi, đột nhiên nghĩ đến câu nói của Chu Trường Linh: "biết bao công lao tính toán, đừng để nó thấy được mối manh sơ xuất". Mối manh sơ xuất, sơ xuất, sao lại sơ xuất nhỉ?
Nghĩ đến hai chữ "sơ xuất", tự nhiên một mối nghi vấn mơ mơ hồ hồ trước nay vẫn ở trong đầu y, bây giờ hiện ra ngay trước mắt: bức tranh "Trương Công Thúy Sơn Ân Đức Đồ" sao tướng mạo ai vẽ cũng giống, nhưng có khuôn mặt trái soan của cha y lại vẽ thành mặt vuông? Cha y mắt mũi quả không sai, vì hai cha con mặt mày tương tự, nhưng có khác là Trương Thúy Sơn mặt hình bầu dục, khác hẳn khuôn mặt Trương Vô Kỵ vuông vức chữ điền.
Cứ lời Chu Trường Linh, bức tranh này chính ông ta vẽ ra hơn mười năm trước, dù tài nghệ đan thanh không giỏi, cũng không thể nào vẽ mặt của đại ân nhân mình hoàn toàn khác hẳn như thế. Trương Thúy Sơn ở trong bức tranh chẳng khác nào Trương Vô Kỵ khi đã lớn. À, lại còn thêm một điểm nữa, cây bút cha nó sử dụng là loại bút thẳng đầu nhọn, hình giống như bút lông. Khi mới trở về đại lục, cha y có mua ở tiệm bán binh khí một cây phán quan bút, nói là chiều dài và trọng lượng tuy có thể tạm dùng được, nhưng có điều bút lại có thêm một bàn tay bằng sắt, trông không vừa mắt chút nào. Mẹ y có nói rằng sau khi có chỗ ăn ở xong xuôi, sẽ đi thuê người rèn một thanh bút khác. Cây bút trong bức tranh cha y dùng là loại phán quan bút thường mà thợ rèn vẫn bán. Chu bá bá là một đại hành gia chuyên sử dụng phán quan bút, vẽ cái gì sai thì còn được, không lẽ lại vẽ cây bút trong tay cha y cũng sai?
Nghĩ đến chuyện đó, trong bụng y không khỏi hoang mang, dường như đã có câu trả lời, có điều cái đáp án đó quá ư khủng khiếp, cách nào cũng không dám nghĩ thêm nữa, chỉ còn nước tự an ủi: "Dù sao mình cũng không nên nghĩ ngợi lăng nhăng, Chu bá bá đãi mình như thế, sao mình lại nổi lòng ngờ vực? Chi bằng quay về phòng nằm ngủ, chứ để họ biết mình đêm hôm khuya khoắt ra ngoài, không chừng mất mạng".
Nghĩ đến "không chừng mất mạng", tự nhiên y nổi gai ốc, không hiểu một nỗi sợ từ đâu ùa đến. Y đứng xuất thần một hồi, rồi lần mò theo hướng cha con Chu Trường Linh, thấy trong rừng sâu có ánh đèn le lói, hóa ra nơi đó lại có một căn nhà. Tim Vô Kỵ đập thình thịch, rón rén đi về phía ánh lửa. Đến phía sau nhà, y định thần, ghé mắt nhìn theo khe cửa dòm vào. Cha con Chu Trường Linh và Vệ Bích ngồi quay lưng về phía cửa sổ đang nói chuyện với ai. Hai người ngồi quay lưng lại phía Vô Kỵ nên y không nhìn rõ mặt, nhưng trong đó có một cô gái chính là Võ Thanh Anh, một trong hai của Tuyết Lĩnh Song Chu. Người đàn ông kia thân hình to lớn, đang lắng tai nghe Chu Trường Linh sắp đặt giả làm khách thương để đến được vùng Sơn Đông ngõ hầu ra khơi ra sao. Y lặng yên không nói một câu, chỉ liên tiếp gật đầu.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Mình thật đúng là trông gà hóa cuốc, lo sợ hão huyền. Người này chắc là Võ Liệt Võ trang chủ, Chu bá bá cùng ông ta giao hảo rất thân nên mới rủ ông ta cùng đi ra Băng Hỏa đảo, cũng là chuyện thường tình, mình chẳng nên quá lo lắng như thế".
Lại nghe Võ Thanh Anh nói:
- Cha, thế lỡ trên mặt biển mênh mông mình không tìm thấy hòn đảo nhỏ đó thì sao? Về cũng không xong thì biết làm thế nào?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Vị này quả là Võ trang chủ". Y nghe Võ Liệt nói:
- Nếu con sợ thì đừng đi nữa. Ở trên đời này, nếu không trải qua gian nan khốn khổ, làm sao có được lúc vinh quang?
Võ Thanh Anh nũng nịu đáp:
- Con chỉ hỏi thế, vậy mà cha đã dạy dỗ ngay rồi.
Võ Liệt cười nói:
- Việc này có khác gì gieo hột xúc xắc, một ăn một thua. Nếu mình số may, cả bọn đến được Băng Hỏa đảo, gã Tạ Tốn kia dù võ công cao cường, nhưng chỉ có một mình, huống gì hai mắt lại mù, đâu có phải là địch thủ của mình ...
Trương Vô Kỵ nghe đến đây, một làn hơi lạnh chạy dọc theo xương sống đi lên, rợn cả người. Lại nghe Võ Liệt nói tiếp:
- ... thanh đao Đồ Long sẽ về tay chúng ta. Lúc đó "hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng", ta cùng Chu bá bá của ngươi hai người sánh vai trở thành võ lâm chí tôn. Còn như người tính mà trời chẳng cho, tất cả chết trên biển cả, ôi, đời này có ai không chết bao giờ?
Vệ Bích nói:
- Nghe nói Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn võ công trác tuyệt, trên đảo Vương Bàn Sơn chỉ hú lên một tiếng, khiến mấy chục hảo thủ giang hồ đều mất trí cả. Theo ý đệ tử, bọn mình lên đến đảo rồi, không cần phải công khai giao chiến với y, chỉ cần lén bỏ thuốc độc vào đồ ăn thức uống, không nói gì y đã mù, dù cho mắt có còn sáng, cũng không thể nào ngờ đến việc đứa con nuôi của y lại đem người đến hại mình cả.
Chu Trường Linh gật đầu:
- Cháu Bích nói đúng lắm. Có điều hai họ Võ Chu, các đời trước đều là hiệp sĩ danh môn chính phái, xưa nay không dùng độc dược bao giờ, đến cả ám khí cũng không tẩm thuốc. Thành thử phải dùng loại thuốc độc nào để y uống vào không hay biết thì ta không biết gì cả.
Vệ Bích nói:
- Diêu nhị thúc đi lại nhiều nơi Trung Nguyên, có thể biết, nhờ ông ấy mua để chuẩn bị chắc được.
Võ Liệt quay qua vỗ vai Chu Cửu Chân, cười nói:
- Chân nhi ...
Lúc đó y quay đầu lại, Trương Vô Kỵ trông thấy rõ mặt, không khỏi giật mình kinh hãi. Thì ra người này chính là kẻ đã giả làm nghĩa phụ của y Khai Bi Thủ Hồ Báo, việc y đánh Chu Trường Linh bị thương nặng, sau đó bị Diêu Thanh Tuyền dùng dao đâm chết vân vân đều không phải thật. Bấy giờ Vô Kỵ mới biết bọn họ vì muốn tất cả những màn kịch đó đóng cho tròn, một chưởng đánh ra đá trên tường rơi lả tả, hay đánh vỡ nát một cái bàn danh mộc, nên phải nhờ Võ Liệt ra tay. Lại nghe y cười nói với Chu Cửu Chân:
- Muốn cho tấn tuồng này được xuôi chèo mát mái thì cháu phải ra vẻ thân thiết với thằng tiểu quỉ đó, đến khi giết xong Tạ Tốn mới thôi, nhất định đừng để lộ một chút sơ hở nào.
Chu Cửu Chân nói:
- Cha, cha phải bằng lòng cho con một chuyện.
Chu Trường Linh hỏi:
- Chuyện gì?
Chu Cửu Chân đáp:
- Cha bảo con hầu hạ tên tiểu quỉ đó, bấy lâu nay chịu không biết bao điều khổ sở. Từ nay tới khi lên đến Băng Hỏa đảo, giết xong Tạ Tốn còn phải một thời gian dài, chẳng biết còn phải chịu bao nhiêu đắng cay nữa. Đợi khi cha lấy được đao Đồ Long, cha cho con được một nhát giết thằng quỉ đó.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nói câu tàn nhẫn đó, mắt tối sầm, dường như muốn ngất đi, loáng thoáng nghe Chu Trường Linh đáp:
- Bọn mình phen này dùng xảo kế lừa gạt y, dụ y nói ra chỗ ở của Kim Mao Sư Vương, đúng ra cũng là không phải. Tên tiểu tử đó cũng không phải là người xấu, mình giết Tạ Tốn xong, lấy được đao Đồ Long rồi, chỉ cần chọc mù hai mắt y, bỏ lại Băng Hỏa đảo cũng đủ rồi.
Võ Liệt khen ngợi:
- Chu đại ca quả thực tâm địa nhân thiện, không mất đi truyền thống nghĩa hiệp.
Chu Trường Linh thở dài:
- Nước cờ này của anh em ta quả thực vạn bất đắc dĩ. Võ nhị đệ, mình ra khơi rồi, thuyền của chú phải đi xa xa thuyền của tôi, nếu đi gần quá, e rằng tiểu tử đó có thể sinh nghi, thế nhưng nếu xa quá thì lại sợ mất liên lạc. Những tài công thủy thủ cũng phải hết sức chú ý mới được.
Võ Liệt đáp:
- Đúng thế, Chu đại ca quả thực là mọi việc chu đáo quá.
Trương Vô Kỵ trong bụng rối như tơ vò, tự hỏi: "Ta không hề thổ lộ thân phận, không hiểu sao bọn họ lại nhìn ra được? Ồ, có lẽ khi bị Vệ Bích và hai nàng Chu Võ vây đánh ta hết sức chống trả, đã sử dụng tâm pháp của phái Võ Đương. Chu bá bá kiến văn rộng rãi, lúc đó liền nhìn ra lai lịch của ta. Ông ta biết cha mẹ ta thà cứa cổ chết chứ không tiết lộ chỗ ở của nghĩa phụ, nếu dùng sức mạnh, không thể nào bức bách ta thổ lộ chân tướng được. Vì thế y giả tạo bức tranh, đốt tiêu nhà cửa, lại dùng khổ nhục kế để khiến ta cảm động. Ông ta chẳng cần hỏi một câu, chính ta lại mở lời cầu y đưa về Băng Hỏa đảo. Chu Trường Linh ơi Chu Trường Linh, gian kế của ngươi quả thực là độc ác hết chỗ nói".
Bấy giờ Chu Trường Linh và Võ Liệt liền bàn qua các kế hoạch hải hành. Trương Vô Kỵ không dám nghe thêm, vội vàng nín thở, rón rén bước đi, mỗi lần đạp chân lại nghe ngóng trong nhà không có động tĩnh gì, mới dám bước thêm bước nữa. Y biết Chu Trường Linh và Võ Liệt hai người võ công cực kỳ cao cường, mình chỉ cần sơ xẩy một chút, đạp trúng một cành khô thôi lập tức bọn họ biết liền. Y đi hơn ba chục bước hết sức chậm chạp, đến khi cách căn nhà hơn một chục trượng rồi, mới co giò chạy thật nhanh.
Y cắm đầu chạy không cần tìm đường, chỉ nhắm hướng rừng sâu trên triền núi mà tới, càng sâu càng cao, càng chạy càng nhanh, sau cùng chạy như bay, hơn một tiếng đồng hồ vẫn không dám dừng lại để thở. Chạy trốn hơn nửa đêm, đến khi trời tờ mờ sáng, thấy mình đang ở trong một rừng rậm nơi tuyết lĩnh. Y ngoảnh lại xem Chu Trường Linh có đuổi theo không, vừa quay đầu không khỏi kêu khổ, thấy mặt tuyết để lại một hàng dấu chân dài. Tây Vực trời rất lạnh, bây giờ tuy đã vào mùa xuân, nhưng trên đỉnh núi tuyết còn đọng chưa tan. Y bỏ chạy thục mạng, hết sức trèo lên đỉnh núi, nào ngờ lại khiến cho tiết lộ đường đi nước bước của mình.
Ngay khi đó, đằng trước vọng tới tiếng chó sói tru, nghe thật ghê rợn. Trương Vô Kỵ trèo lên một mỏm đá nhìn xuống, thấy sười núi bên kia có bảy tám con chó sói lớn đang ngửng đầu, nhe răng múa vuốt sủa hướng về y, rõ ràng muốn xông vào ăn thịt. Có điều ở giữa là một vực sâu không thấy đáy, chúng không thể nào vượt qua được. Y quay đầu nhìn lại, lập tức tim nhói lên một cái. Trên sườn núi có năm cái chấm đang chầm chậm di động về hướng y, chính là người của Chu Võ hai nhà. Lúc này còn cách xa, tưởng như năm người đi không nhanh, nhưng thực ra họ đi vùn vụt, chỉ trong một giờ nữa sẽ đuổi tới nơi.
Trương Vô Kỵ cố định thần, trong bụng toan tính: "Ta thà để cho bầy sói đói kia xé xác mà ăn, nhưng nhất quyết không để rơi vào tay bọn ác ôn cho họ hành hạ". Y nghĩ đến mình đối với Chu Cửu Chân hết lòng si mê kính trọng, nào ngờ con người mặt đẹp như tiên kia, bụng dạ lại như rắn rết. Y vừa hổ thẹn, vừa đau lòng, vội vàng co giò chạy thẳng vào rừng sâu.
Trong khu rừng, lau cỏ mọc cao đến lưng nhưng không có tuyết đóng, thành ra dấu chân cũng không dễ gì thấy được. Y chạy một hồi, trong lòng thấy dịu đi một chút, hàn độc trong người bỗng dưng phát tác, hai chân tự nhiên tê dại không sao cử động được, vội chui vào một bụi cỏ dày, mò mẫm cầm được một cục đá hình tam giác cạnh sắc nhọn, định bụng nếu Chu Trường Linh tìm thấy y, y sẽ lập tức dùng cục đá đập vào huyệt Thái Dương tự sát.
Y hồi tưởng lại mọi chuyện hơn hai tháng qua sống nhờ nơi Chu gia trang, càng nghĩ càng chua chát: "Phái Không Động, phái Hoa Sơn, phái Côn Lôn đâu đâu cũng lấy oán báo ân, ta cũng chẳng thèm để ý, thế nhưng ta đối với Chân tỉ thành tâm như vậy, thế nhưng chẳng qua cũng chẳng khác gì ... Ôi, mẹ ta khi sắp chết đã dặn dò ta những gì? Sao ta lại không coi những lời đó vào đâu?".
Mấy câu nói của mẹ y trước khi chết, nay rõ ràng từng lời vọng vào tai:
- Hài nhi, khi con khôn lớn rồi, phải đề phòng đàn bà lừa dối con. Đàn bà càng đẹp, lừa người càng giỏi.
Hai giòng lệ nóng hổi trào lên mắt, trước mắt cảnh vật nhòa đi: "Mẹ ta khi nói với ta mấy câu này thì chủy thủ đã cắm vào trong ngực rồi. Mẹ ta cố nhịn đau để dặn dò ta như thế, sao ta lại không ghi nhớ những lời huyết lệ kia trong lòng. Nếu ta không biết phép xung giải huyệt đạo, trời xui đất khiến nghe được âm mưu của Chu Trường Linh, bọn họ sắp đặt kín đáo đến thế, ắt ta sẽ đưa họ tới Băng Hỏa đảo, thể nào cũng hại cả đến tính mạng của nghĩa phụ nữa".
Y trong lòng đã quyết, đầu óc tỉnh táo, đối với âm mưu tính toán của cha con Chu Trường Linh bây giờ rõ ràng: Chu Trường Linh vừa đoán được y là con trai Trương Thúy Sơn liền ra tay đánh chết bầy chó dữ, tát con gái, để Trương Vô Kỵ tin rằng y là hiệp sĩ thị phi phân minh, nhân nghĩa hơn người. Đến khi y đốt tất cả cơ ngơi hoa lệ rộng lớn, tuy có đáng tiếc thật, nhưng so với thanh đao Đồ Long "võ lâm chí tôn" thì đâu có đáng gì. Người tính toán mau lẹ, quyết đoán như thế quả thật là ghê gớm đáng ngại.
Y lại nghĩ: "Khi ta còn ở trên đảo, ngày ngày thấy nghĩa phụ ôm thanh đao này xuất thần suy nghĩ, trong mười năm trời, vẫn không tìm ra được cái bí mật trong đó. Nghĩa phụ tuy thông minh, nhưng là người trực tính. Gã Chu Trường Linh này cơ trí hơn người, mưu sâu kế rộng, hơn nghĩa phụ ta xa. Nghĩa phụ không nghĩ ra nhưng khi thanh đao đến tay Chu Trường Linh, quá nửa là y có thể tìm ra được ...".
Nghĩ đi nghĩ lại, những ý tưởng đó quay qua trở tới, bỗng nghe thấy tiếng chân người, Chu Trường Linh và Võ Liệt đã tới được khu rừng sâu. Võ Liệt nói:
- Tên tiểu tử đó chắc là ẩn náu trong khu rừng này rồi, không cần phải đi xa hơn nữa để kiếm hắn ...
Chu Trường Linh vội vàng cướp lời y, nói:
- Ôi, không biết Chân nhi nói năng sai sẩy ra làm sao, để Trương huynh đệ phải giận dỗi. Ta thật lo lắng, cậu ấy tuổi còn nhỏ, ở nơi băng tuyết bao phủ như thế này lỡ có chuyện gì, dù ta tan xương nát thịt, vẫn không nên không phải với Trương ân công.
Mấy câu đó y nói ra thật là lo lắng, phiền trách chính mình. Trương Vô Kỵ nghe thế bỗng nổi da gà, nghĩ thầm: "Y chưa bỏ cái mưu đồ, vẫn còn định dùng lời ngon ngọt để lừa ta".
Chỉ thấy Chu, Võ hai người tay cầm gậy, khua trong vùng cỏ cao dò xét, Trương Vô Kỵ cố co rút mình, không dám động đậy. Cũng may là khu rừng này rất rộng, không cách gì có thể tìm hết mọi nơi được. Chẳng mấy chốc Vệ Bích và Tuyết Lĩnh Song Chu cũng đến. Năm người khua kiếm trong khu rừng cả nửa ngày vẫn không kiếm thấy, ai ai cũng mệt mỏi cả rồi, liền ngồi trên những tảng đá nghỉ ngơi. Thực ra chỗ họ ngồi chỉ cách chỗ Vô Kỵ ẩn náu chừng ba trượng, nhưng vì rừng rậm cỏ cao, nên che khuất hết thân hình y.
Chu Trường Linh nghĩ ngợi một chốc, đột nhiên lớn tiếng quát:
- Chân nhi, ngươi vì sao mà đắc tội với Vô Kỵ huynh đệ, để đến nỗi cậu ta nửa đêm, nửa hôm phải bỏ đi không nói một lời?
Chu Cửu Chân ngạc nhiên, Chu Trường Linh liền đưa mắt nháy cô ta một cái. Trương Vô Kỵ nằm phục trong đám cỏ nhưng cái đưa mắt của y nhìn thật rõ ràng. Chu Cửu Chân hiểu ý, cũng lớn tiếng đáp lại:
- Con chỉ đùa với cậu ấy thôi, điểm huyệt chơi thôi mà đâu ngờ lại tưởng là thật.
Nói xong nàng cất giọng gọi:
- Em Vô Kỵ, em Vô Kỵ ơi, mau ra đây để chị Cửu Chân xin lỗi.
Tuy giọng nói lớn nhưng vẫn kiều mị uyển chuyển, đầy quyến rũ. Nàng ta gọi một hồi, thấy không động tĩnh gì, đột nhiên òa lên khóc, nói:
- Cha ơi, cha đừng đánh con, đừng đánh con. Con đâu có cố ý đắc tội với em Vô Kỵ.
Chu Trường Linh giơ tay lên vỗ vào đùi mình kêu bồm bộp, mồm lớn tiếng quát mắng. Chu Cửu Chân không ngừng kêu la thảm thiết, tưởng như bị cha đánh thật đau không chịu nổi. Võ Liệt, Võ Thanh Anh và Vệ Bích đứng bên nhìn hai cha con cố nhịn cười.
Trương Vô Kỵ xem hai cha con đóng kịch, lại nghe thanh âm, trong lòng bồi hồi, nghĩ thầm: "Cũng may ta nhìn rõ thần tình của hai người, nếu chỉ nghe giọng nàng rên xiết, thể nào ta cũng mềm lòng nhịn không nổi mà chui ra".
Cha con Chu Trường Linh cũng đoán được Vô Kỵ chỉ ở trong khu rừng này chứ không đâu khác, nên một người cứ chửi mắng, một người cứ van xin, thanh âm càng lúc càng thêm thống thiết. Trương Vô Kỵ hai tay bịt chặt tai lại, nhưng tiếng nói vẫn xuyên vào trong đầu, càng lúc càng không chịu nổi, sau cùng bực quá, tung mình nhảy ra, kêu lên:
- Các người đừng làm trò ma quỉ, chẳng lẽ còn lừa ta được nữa hay sao?
Năm người Chu Trường Linh lớn tiếng reo hò:
- Ở đây rồi.
Trương Vô Kỵ gọi:
- Chị Cửu Chân, giỏi nhỉ.
Y chạy ra khỏi khu rừng, cắm đầu cắm cổ chạy. Chu Trường Linh và Võ Liệt phi thân nhào tới, theo hướng y chạy đuổi theo.
Trương Vô Kỵ đã quyết ý chết, không do dự, lao thẳng về phía vực sâu muôn trượng. Khinh công của Chu Trường Linh hơn y rất xa nên khi Vô Kỵ chạy đến bờ vực, Chu Trường Linh đã đuổi tới sát sau lưng, giơ tay chộp vào y. Trương Vô Kỵ thấy đau nhói, năm ngón tay phải của Chu Trường Linh đã nắm chặt lấy xương sống, nhưng ngay lúc đó chân y đã đạp vào chỗ không, thân hình y đã chênh vênh ngay trên khe núi. Chân trái y lập tức nhảy vọt tới, cả người lao thẳng về phía trước.
Chu Trường Linh đâu ngờ y lại nhảy xuống vực tự tận, bị y lôi theo, cả hai rơi xuống. Với mấy chục năm tu luyện võ công của y, nếu y lập tức buông tay nhảy vọt về, có thể bảo tồn tính mệnh. Thế nhưng y biết chỉ lỏng năm ngón tay thì không còn cơ hội nào đoạt được thanh đao Đồ Long "võ lâm chí tôn" kia nữa, bao nhiêu suy tính hi sinh trong hai tháng qua, sẽ đi theo tòa nhà to lớn đẹp đẽ thành tro bụi, trôi theo dòng nước.
Chỉ mới do dự, Trương Vô Kỵ đã rơi xuống thật nhanh, Chu Trường Linh kêu lên:
- Không xong rồi.
Y vươn tay lại phía sau toan chộp lấy tay Võ Liệt đưa ra cho y nắm, nhưng còn cách xa hơn một thước, mà tay kia nắm Trương Vô Kỵ cũng không dám buông ra. Hai người từ trên vách núi rơi xuống vực sâu vạn trượng bên dưới, nghe tiếng Võ Liệt và Chu Cửu Chân kinh hoảng kêu la từ trên đầu truyền xuống, chỉ nháy mắt đã không còn nghe được nữa. Hai người rơi xuyên qua những đám mây mù trong khe núi thẳng xuống đáy vực.
Trong đời Chu Trường Linh trải qua không biết bao nhiêu sóng gió, gặp lúc nguy nhưng tâm không loạn, nghe thấy bên tai gió thổi vù vù, thân mình tiếp tục rơi vùn vụt xuống, đôi khi gặp cây trên vách đá mọc trồi ra, y liền thò tay chụp lấy nhưng mấy lần đều cách cả thước, mãi sau mới trúng được một cành. Thế nhưng hai người rơi xuống lực rất mạnh, cành cây chịu không nổi, lách cách một tiếng, một cành tùng to bằng bắp tay gãy lìa. Thế nhưng nhờ thế cũng rơi chậm lại, Chu Trường Linh có được chỗ mượn sức, hai chân khòe ra, dùng chiêu Ô Long Giảo Trụ, quấn chặt lấy một cây tùng, nhắc Trương Vô Kỵ lên để y lên trên cành cây, chỉ sợ y lại nhảy xuống vực tự tử nữa nên nắm chặt cánh tay không buông.
Trương Vô Kỵ thấy mình vẫn không thoát khỏi tay y, trong lòng cực kỳ thất vọng, hậm hực nói:
- Chu bá bá, dù cho bác hành hạ tôi đến mực nào, cũng đừng mong nghĩ tới việc đưa bác đi kiếm nghĩa phụ.
Chu Trường Linh lộn người, ngồi vững vàng trên cây tùng rồi, ngửng đầu nhìn lên, bọn Chu Cửu Chân dĩ nhiên không thấy đâu, tiếng gọi cũng không nghe tới nữa, tuy là tay tài cao mật lớn, nghĩ lại chuyện chết đi sống lại vừa rồi, trong bụng y không khỏi rùng mình, trán từng giọt mồ hôi nhỏ xuống. Y định thần rồi, cười nói:
- Tiểu huynh đệ, cậu nói gì tôi hoàn toàn không hiểu. Cậu chớ có nghĩ ngợi lăng nhăng.
Trương Vô Kỵ nói:
- Gian mưu của bác tôi đã biết rồi, không còn dùng được nữa đâu. Nếu bác ép tôi đưa đi Băng Hỏa đảo, tôi sẽ chỉ đông tây lung tung, tất cả cùng chết trên biển cả, bác tưởng tôi không dám làm hay sao?
Chu Trường Linh nghĩ những lời đó quả thực là như thế, trước mắt phải dịu ngọt với y, rồi sau này sẽ để con gái mình dối phò may ra có diệu sách. Y nhìn quanh bốn bề, trèo lên trên thì không sao làm nổi, còn dưới chân vực sâu không thấy đáy, mà dù có đến được đáy vực, mười phần đến chín không có lối ra, cách duy nhất là men theo đường vách dốc xiên xiên mà bò lần ra ngoài. Y nói với Trương Vô Kỵ:
- Tiểu huynh đệ, cậu đừng có bao giờ lại nghi ngờ như thế, tôi sẽ không ép cậu đưa tôi đi kiếm Tạ đại hiệp. Nếu nói sai lời, họ Chu này sẽ bị hàng vạn mũi tên cắm vào thân, chết không có chỗ chôn.
Y lập lời thề đó thực không phải nói không, nghĩ thầm nếu y nhất định tự tận, thì dù mình có bức bách cách nào cũng vô ích, chỉ làm sao dụ dỗ để y cam tâm tình nguyện làm mới xong.
Trương Vô Kỵ thấy y thề nguyền như vậy, trong bụng cũng dịu đi một chút. Chu Trường Linh lại nói:
- Hai người mình từ từ bò dần ra, cậu chớ nên nhảy xuống, nghe chưa?
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu bác không ép tôi, tội việc gì phải đi tìm cái chết?
Chu Trường Linh gật đầu, lấy ra một con dao ngắn, lột vỏ cây tết thành một sợi dây, hai đầu buộc vào hông mình và Vô Kỵ. Hai người men theo vách núi đã tan tuyết, bò từ từ về hướng có ánh sáng mặt trời.
Vách núi đó vốn đã dốc, lại thêm băng tuyết bám vào lại càng trơn trượt, Trương Vô Kỵ hai lần tuột tay, đều nhờ Chu Trường Linh dùng sức kéo lại nên mới khỏi rơi xuống vực sâu bên dưới. Thế nhưng trong bụng Trương Vô Kỵ lại không cảm ơn, nghĩ thầm: "Ngươi chỉ nghĩ đến thanh bảo đao Đồ Long chứ nào có thực tâm cứu ta đâu?".
Hai người trèo một hồi lâu, chân tay đầu gối bị đá nhọn cắt rách, máu chảy chan hòa, sau cùng đến được đoạn không còn quá dốc nữa, đứng dậy được, từng bước, từng bước cố gắng đi lên. Đi qua được một bức tường đá trông tựa một bình phong, Chu Trường Linh không nhịn nổi phải kêu khổ. Trước mắt mây mù mang mang, không còn một lối đi nào khác mà đang ở ngay trên một bình đài cực cao, ba bề trống không. Cái bình đài đó rộng phải đến vuông vức hơn chục trượng, nhưng nhô ra giữa trời, lên không xong mà xuống cũng không xong, quả đúng là chỗ chết. Trên mặt chỗ đá phẳng này toàn là băng tuyết, không cây cối gì, cũng không thú vật.
Trương Vô Kỵ lại thấy vui mừng, cười nói;
- Chu bá bá, bác hết sức mưu tính, cuối cùng lại chỉ đến được một chỗ chân không đến đất, cật không đến trời như thế này. Nếu bây giờ có được thanh đao Đồ Long trong tay, liệu bác có làm gì được không?
Chu Trường Linh mắng nó:
- Đừng có nói nhăng nói cuội nữa.
Y ngồi xuống xếp bằng, ăn hai nắm tuyết, vận khí một hồi, nghĩ thầm: "Tuy bây giờ mình có mệt nhưng tinh lực vẫn còn, ở đây chịu đói thêm một ngày nữa, e rằng khó mà thoát ra được".
Y đứng dậy nói:
- Ở đây đường về phía trước cụt rồi, bọn mình quay trở lại tìm lối khác.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi lại thấy ở đây thích lắm, quay lại làm gì?
Chu Trường Linh bực dọc nói:
- Ở đây có gì ăn đâu mà ở?
Trương Vô Kỵ cười đáp:
- Không ăn những món của người đời càng tốt, mình tu tiên luyện đạo đã sao.
Chu Trường Linh trong lòng giận dữ, nhưng biết nếu mình áp bức y, không chừng nó nhảy xuống dưới vực sâu nên nói:
- Được, ngươi ở đây nghỉ thêm một chốc, ta đi tìm đường nếu thấy sẽ quay lại kiếm ngươi sau. Đừng có đến gần bờ đá, coi chừng rơi xuống đó.
Trương Vô Kỵ cười:
- Việc sống chết mất còn của tôi, sao bác phải lo quá vậy? Đến phút này mà bác còn hoang tưởng chuyện tôi đưa bác đến Băng Hỏa đảo ư, tôi khuyên bác nên quên chuyện ấy đi là hơn.
Chu Trường Linh không trả lời, theo đường cũ quay về, đến chỗ cây đại tùng, y trở sang bên trái tìm xem có đường đi không. Chỗ này vách núi thật là hung hiểm, nhưng vì không phải chiếu cố cho Trương Vô Kỵ nên y đi thật nhanh, khi chạy khi bò độ nửa giờ đã đến một mỏm đá nhô ra ngoài. Đến được huyền nhai này, nhìn quanh không có lối đi khác, y buông tiếng thở dài, thừ người ra một hồi, lại quay trở về cái bình đài hồi nãy.
Trương Vô Kỵ không cần hỏi thêm, chỉ trông mặt y đã biết không có lối ra, nghĩ thầm: "Ta trúng phải Huyền Minh thần chưởng, âm độc nan trừ, bấm đốt ngón tay, xem ra thọ mệnh đã đến lúc hết, dù chết ở chỗ nào thì cũng thế thôi. Còn y rõ ràng đang mạnh khỏe, có phúc không biết hưởng, hoang tưởng cái gì gọi là võ lâm chí tôn, lại cùng ta ở nơi băng thiên tuyết địa này chết đói, thật là đáng thương biết bao".
Lúc đầu y căm ghét Chu Trường Linh gian trá xảo quyệt, rơi xuống vực rồi sau khi thoát hiểm còn chọc ghẹo y mấy câu, lúc này thấy rằng không còn đường sống, Chu Trường Linh thất vọng não nề, trong lòng không khỏi thương hại nên ôn tồn nói:
- Chu bá bá, bác niên kỷ cũng cao rồi, bao nhiêu vinh hoa sung sướng cũng đã hưởng rồi, đến lúc này có chết đi, cũng đâu có gì đáng tiếc? Đừng phải quá khổ sở như thế.
Chu Trường Linh đối với Trương Vô Kỵ còn nhẫn nhịn vì vẫn hi vọng một ngày nào đó có thể khiến y động lòng, dẫn mình đến Băng Hỏa đảo, lúc này thấy sinh lộ hoàn toàn không có, sở dĩ bị hãm vào tuyệt cảnh như thế này, toàn do tên tiểu tử này mà ra, tấm lòng oán giận làm sao tiêu cho được? Hai mắt y như nảy lửa, hầm hầm nhìn y.
Trương Vô Kỵ thấy khuôn mặt vốn dĩ ôn hòa phúc hậu của vị trưởng giả này biến thành hung ác chẳng khác gì một con dã thú, không khỏi khiếp sợ, kêu lên một tiếng, đứng dậy bỏ chạy. Chu Trường Linh quát lên:
- Chỗ này còn đường cho mi chạy hay sao?
Giơ tay chộp vào lưng y, quyết ý sẽ hành hạ một phen, cho nếm đủ mùi khổ sở rồi mới chết. Trương Vô Kỵ lao về phía trước, thấy vách núi bên trái tối đen dường như có một cái hang, không kịp suy nghĩ, liền chui tọt vào, nghe soẹt một tiếng, ống quần đã bị Chu Trường Linh xé mất một miếng, trên đùi cũng bị cào rách. Trương Vô Kỵ lật đật trườn vào trong hang, đột nhiên bình một cái, trán đã va vào đá, mắt nổ đom đóm. Y biết rằng Chu Trường Linh lúc này đã trở mặt, bao nhiêu thủ đoạn hung ác tàn độc đều có thể làm, trong cơn hoảng hốt, cứ cố chui vào trong động. Thế nhưng chui vào trong cái hang tối thui này cũng là hãm vào tuyệt địa, không sao thoát được độc thủ đối phương, nhưng không còn kế nào khác. Cũng may là cái hang này càng lúc càng hẹp, bò được độ mươi trượng thì y còn lọt nhưng Chu Trường Linh thì không sao tiến thêm được nữa.
Trương Vô Kỵ lại trườn vào thêm vài trượng nữa, bỗng thấy đằng trước có ánh sáng, trong lòng mừng quá, cả tay lẫn chân cùng xoải cho nhanh. Chu Trường Linh vừa tức giận, vừa gấp rút, kêu lên:
- Thôi ta không hại ngươi đâu, đừng chạy nữa.
Thế nhưng Trương Vô Kỵ nào có để ý gì đến y.
Chu Trường Linh vận nội lực, giơ tay đánh mạnh vào vách núi. Đá núi cứng rắn dị thường, một chưởng đánh vào, chấn động đau nhói lòng bàn tay, còn vách đá không bị suy suyển chút nào. Y mò cây đoản đao, định đào rộng hang núi ra, nhưng chỉ được mấy nhát, nghe cách một tiếng, con dao găm bằng đồng xanh gãy làm đôi. Chu Trường Linh nổi cơn thịnh nộ, vận kình vào hai vai, len về phía trước, thân hình quả nhiên tiến thêm được một thước nữa. Thế nhưng muốn vào thêm thì không sao được, đá núi cứng rắn ép vào ngực và lưng, dường như không thở nổi.
Y thấy tức ngực đành phải lùi lại, không ngờ thân thể đã bị kẹt trong khe đá, tiến lên đã không xong, mà lui lại cũng không được. Y hồn phi phách tán, dùng hết sức bình sinh, hai vai hẩy mạnh vào vách núi, thân hình mới lui lại được một thước, cảm thấy ngực nhức nhối, hóa ra đã gãy mất một chiếc xương sườn.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Ca dao
[2] Nguyên tác lạp bát chúc là loại cháo nấu bằng gạo nếp, trộn với các cốc loại khác và trái cây khô. Cháo này theo tục lệ Tàu được nấu trong dịp cuối năm vào ngày lễ Thích Ca thành đạo ngày 8 tháng 12 âm lịch (lạp bát nghĩa đen là ngày mồng tám tháng chạp).
[3] Anh con cô con cậu
[4] Hai người con gái đẹp nơi dãy núi tuyết (ý nói vùng Côn Lôn Tây Vực).
[5] Xem thêm anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Hiệp Lữ
[6] danh hiệu hai chức võ quan
[7] ba đợt sóng trên sông Dương Tử
[8] bờ giếng
[9] tổ năm đời gọi là cao tổ (ông nội của ông nội mình, great-great grandfather)
[10] ra tay trước thì mạnh, ra tay sau thì gặp họa
[11] Bên Tàu anh em con cô con cậu có thể thành hôn
Hồi 16
BÁC CỰC NHI PHỤC THAM CỬU DƯƠNG
Đau lòng nát cả con tim,
Vào nơi tử địa ta tìm đường sinh.
Trương Vô Kỵ tiếp tục bò vào trong cái hang hẹp đó thêm vài trượng nữa, thấy trước mắt càng lúc càng sáng thêm, bò thêm một đoạn, đột nhiên ánh sáng chói lòa chiếu vào mặt. Y vội nhắm mắt lại, định thần rồi mở mắt ra, thấy đằng trước là một thung lũng xanh tươi, cây cối hoa cỏ chen lẫn với nhau đủ màu.
Y lớn tiếng reo mừng, từ sơn động chui ra. Cái hang đó cách mặt đất không đầy một trượng, nhảy nhẹ một cái đã đến mặt đất. Chân y đạp lên cỏ mượt như nhung, mũi ngửi thấy hoa thơm ngào ngạt, tai nghe chim hót ríu rít, trái cây trĩu cành, ai ngờ rằng đằng sau cái hang tối đen kia, lại có một nơi cảnh giới thần tiên thế này. Lúc dó y không nghĩ tới vết thương đau đớn, ra sức chạy về đằng trước, đến hơn hai dặm mới gặp một ngọn núi cao ngăn lại. Y đưa mắt nhìn bốn bề, thấy cái thung lũng này vây quanh là núi cao chập chùng, xem ra từ đời xa xưa chưa bao giờ có vết chân người. Những ngọn núi tuyết phủ vươn lên tận mây xanh thành những bức thành hết sức hùng vĩ hiểm trở, không cách gì có thể leo ra leo vào được.
Trương Vô Kỵ vô cùng sung sướng, thấy bảy tám con sơn dương đang ăn cỏ, nhưng cũng không sợ hãi chạy đi, trên cây hàng chục con khỉ đùa chơi nhảy nhót, xem ra những loại mãnh thú như hổ báo thân thể nặng nề, không thể nào vượt qua được những ngọn núi mà vào tới đây. Y nghĩ thầm: "Ông trời đãi mình kể cũng không bạc, sắp xếp để mình vào được cảnh trí thần tiên thế này làm nơi yên nghỉ ngàn thu".
Y chậm rãi quay lại nơi cửa hang, nghe thấy tiếng Chu Trường Linh ở bên trong kêu gọi:
- Tiểu huynh đệ, ngươi ra đây, ở trong động không sợ buồn chết đi được ư?
Trương Vô Kỵ lớn tiếng cười:
- Ở trong này vui lắm.
Y đến những cây thấp hái vài trái cây không biết tên là gì, cầm trên tay thấy mùi thơm ngào ngạt, cắn thử một miếng, ngon ngọt lạ thường, dòn hơn đào, thơm hơn táo, lại nhiều nước hơn mận. Y hái một trái vứt vào trong hang, kêu lên:
- Bắt lấy, ăn ngon lắm.
Trái đó đụng vào vách đá đã vỡ nát. Chu Trường Linh ăn cả vỏ lẫn hạt, ăn xong lại càng thấy đói hơn, kêu lên:
- Tiểu huynh đệ, cho ta thêm vào trái nữa.
Trương Vô Kỵ nói:
- Bác tâm địa tồi bại, có chết đói cũng đáng. Nếu muốn ăn sao không tự mình vào mà lấy.
Chu Trường Linh đáp:
- Thân thể tôi to quá, chui không lọt vào hang.
Trương Vô Kỵ cười:
- Bác chẻ ra làm hai, không biết đã lọt chưa?
Chu Trường Linh nghĩ âm mưu mình đã bị bại lộ rồi, Trương Vô Kỵ chắc sẽ để cho mình chết đói từ từ để báo thù, lúc này vết thương trên ngực đau tấy, liền mở mồm chửi:
- Tặc tiểu quỉ, trong động đó có trái cây, không lẽ đủ cho ngươi ăn suốt đời sao? Ta ở ngoài hang chết đói, ngươi có giỏi thì sống thêm được vài ngày, trước sau gì rồi cũng chết thôi.
Trương Vô Kỵ không thèm để ý tới y nữa, ăn bảy tám trái bụng đã thấy no. Một hồi sau, bỗng có một làn khói từ trong hang bốc ra. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, lập tức hiểu ngay, Chu Trường Linh ở bên kia đốt cành thông, định dùng khói hun cho y phải chui ra, đâu có biết bên trong còn một khu trời đất bao la thế này, dù có đốt nghìn cành vạn cành thông, cũng chẳng ăn thua gì.
Y càng nghĩ càng tức cười, giả vờ ho sặc sụa. Chu Trường Linh kêu lên:
- Tiểu huynh đệ, mau chui ra, ta thề rằng không hại ngươi đâu.
Trương Vô Kỵ kêu lên một tiếng "A" làm như ngất xỉu, rồi bỏ đi. Y theo hướng tây đi chừng hai dặm thấy từ trên vách núi cao đổ xuống một dòng thác, chắc là tuyết tan chảy thành, ánh sáng mặt trời chiếu vào trông như một con rồng lớn bằng ngọc, thật là tráng lệ. Dòng thác đó chảy vào một cái đầm nước trong vắt, nhưng nước hồ sao không thấy dâng lên, hiển nhiên có đường chảy đi nơi khác. Y ngắm cảnh một lúc, cúi xuống nhìn thấy chân tay đầy rêu xanh bùn đất, lại vô số vết máu do cỏ sắc gai nhọn cào phải, nên đi đến cạnh hồ, bỏ giày vớ ra, lội xuống dưới hồ rửa.
Tắm rửa một hồi, bỗng dưng nghe soạt một tiếng, từ trong hồ phóng lên một con cá trắng lớn, phải dài đến hơn một thước. Trương Vô Kỵ vội đưa tay chộp, tuy trúng mình cá nhưng trơn trượt vuột khỏi tay. Y cúi xuống bên hồ chăm chú nhìn, thấy dưới dòng nước xanh một bầy cá chừng hơn chục con đang bơi lội.
Tài nghệ bắt cá, y đã học từ bé khi còn ở trên Băng Hỏa đảo nên liền bẻ một cành cây, một đầu nhọn, đứng bên cạnh đầm lặng yên chờ đợi, đến khi một con cá trồi lên mặt nước, liền sử kình lao xuống, trúng ngay thân con cá. Y mừng rỡ hò reo, dùng cành cây mổ cá ra rửa sạch ruột, sau đó kiếm cành khô, đem hỏa đao hỏa thạch gây lửa, nướng con cá. Chẳng bao lâu mỡ cá nhểu ra, thấy đã chín đem ra ăn thật thơm, tưởng như chưa bao giờ được ăn món gì ngon đến thế. Chỉ trong phút chốc, y đã ăn sạch cả con cá to.
Đến trưa hôm sau, y lại ra bắt một con cá nữa, nghĩ thầm: "Mình nhất thời chưa chết, phải giữ lấy lửa kẻo hết mất mồi thì thật phiền". Nghĩ thế y vun tro thành vòng tròn, vùi những cành cây cháy giở trong đó, phòng lửa khỏi tắt. Ở trên Băng Hỏa đảo các dụng cụ toàn tự chế lấy, nay ở nơi hoang dã này một mình, y cũng không bị khó khăn, nặn đất thành bồn, bện cỏ thành nệm.
Đến chiều tối, nghĩ tới Chu Trường Linh đang đói meo nên hái một bọc trái cây ném vào trong động. Y sợ Chu Trường Linh ăn cá sẽ có sức khỏe vượt qua được hang núi thì thật hỡi ôi nên không bắt cho y ăn.
Đến ngày thứ tư, y đang nặn một cái bếp, bỗng nghe có tiếng khỉ kêu chí chóe thảm thiết ra chiều cấp bách. Y theo tiếng lần tới, thấy dưới chân vách núi có một con khỉ bị ngã, chân sau bị một khối đá đè lên, không cử động được, dường như từ trên cao xẩy chân rơi xuống. Y tiến tới bẩy hòn đá lên, kéo con khỉ ra, chân bên phải của nó bị gãy, đau quá kêu khèng khẹc liên hồi.
Trương Vô Kỵ bẻ hai cành cây làm giá buộc chỗ chân gãy cho con khỉ. Lại tìm một số dược thảo, giã nát đắp vết thương cho con vật. Tuy trong u cốc khó tìm đúng các loại thuốc cho thật linh hiệu, nhưng nhờ thủ thuật tiếp cốt khéo léo của y, chỗ chân gãy của con khỉ cũng có thể lành được.
Con khỉ đó cũng biết trả ơn nên hôm sau đi hái rất nhiều trái cây cho Trương Vô Kỵ, chỉ mười ngày sau chỗ gãy đã khỏi. Bên trong thung lũng ngày dài không việc gì làm, y chỉ cùng bầy khỉ nô đùa, nếu không vì hàn độc thỉnh thoảng lên cơn, sống ở đây quả thực thần tiên thích thú. Cũng có khi y thấy những con sơn dương đi qua, toan bắt làm thịt, nhưng thấy đàn dê nhu thuận dễ thương, không đành hạ thủ. Cũng may trái cây và cá trong hồ rất nhiều nên không thiếu cái ăn. Mấy hôm sau, y lại bắt được mấy con gà rừng dưới khe núi, ăn cũng thật ngon.
Cứ như thế hơn một tháng. Một buổi sớm, y còn đang mơ màng chưa tỉnh giấc, bỗng cảm thấy có một bàn tay to lớn đầy lông lá sờ vào mặt. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, vội nhỏm dậy, thấy một con vượn lớn, lông trắng xóa ở ngay bên cạnh, trong tay bế một con khỉ nhỏ hàng ngày vẫn thường cùng y đùa nghịch. Con khỉ nhỏ chút cha chút chít liên hồi, chỉ vào bụng con vượn lớn. Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi thối rữa, trên bụng con vượn máu mủ bê bết, có một cái nhọt lớn, liền cười:
- Được, được. Thì ra ngươi đem bệnh nhân đến gặp thầy lang phải không?
Con vượn trắng giơ tay ra, cầm một trái bàn đào to bằng nắm tay, cung kính dâng lên. Trương Vô Kỵ thấy trái bàn đào đó thật to, chín đỏ, nghĩ thầm: "Mẹ ta có kể chuyện đời xưa, có một bà tiên là Vương Mẫu ở trong núi Côn Lôn, mỗi lần sinh nhật lại thết tiệc bàn đào, mời quần tiên đến dự. Tây Vương Mẫu chẳng biết có thật hay không, còn chuyện ở trong núi Côn Lôn có bàn đào lớn thì chẳng phải là ngoa". Liền cười nhận lấy, nói:
- Ta không lấy tiền chữa, dù không có tiên đào, ta vẫn chữa bệnh cho ngươi.
Y đưa tay nắn nhẹ vào bụng con vật, không khỏi giật mình. Thì ra cái nhọt của con vượn không phải chỉ nhỏ tròn một tấc mà cứng ngắc, to gấp mười lần ung sang thường. Trong y thư chưa bao giờ chép cái nhọt nào lớn đến thế, nếu tất cả chỗ cứng này đều hóa mủ, e rằng không thể nào trị được. Y bắt mạch cho con vượn thấy không có gì nguy hiểm, vạch đám lông dày dưới bụng ra xem, nhìn cái mụn, lại càng kinh hoảng, thấy ở bụng lồi lên một cục vuông vuông, bốn bề khâu lại bằng chỉ, rõ ràng có bàn tay người nhúng vào, khỉ vượn dù thông minh cũng không thể nào biết may vá. Y coi kỹ cái nhọt lần nữa, biết là cái vật gì bên trong làm tắc nghẽn huyết mạch, khiến thịt bụng bị thối lâu mà không khỏi, muốn trị bệnh không thể không lấy cái vật ở bên trong ra.
Nói tới mổ xẻ trị bệnh, y đã học được của Hồ Thanh Ngưu rất tinh thông, không khó khăn gì. Thế nhưng trong tay không có dao kéo, lại không thuốc men, nên thật là khó. Y suy nghĩ rồi cầm một khối nham thạch, hết sức ném vào một tảng đá khác, kiếm trong những mảnh vỡ một mảnh có cạnh sắc, từ từ cắt những mối chỉ quanh bụng của bạch viên. Con vượn đó đã già lắm, có chút linh tính, biết Trương Vô Kỵ trị bệnh cho mình nên tuy bụng rất đau nhưng vẫn chịu đựng không động đậy gì cả.
Trương Vô Kỵ cắt xong phía bên trái và bên trên đường chỉ khâu, vạch góc lớp da bụng lên, trong đó có một cái bao bằng vải dầu. Y thật lạ lùng, nhưng không kịp mở ra xem chỉ bỏ cái bọc đó qua một bên, rồi vội vàng may bụng con bạch viên lại. Trong tay y không có kim chỉ, đành lấy xương cá làm kim, đục trên da những lỗ nhỏ, rồi lấy vỏ cây tước ra làm chỉ, xuyên vào những lỗ đó buộc lại, cố khâu cho xong rồi lấy thuốc bôi lên. Làm công việc đó mấy gần nửa ngày mới hoàn tất, con vượn tuy rất khỏe, nhưng cũng nằm thẳng cẳng dưới đất không động đậy gì nổi.
Trương Vô Kỵ rửa tay và máu me dính trên cái bao rồi mở ra coi, hóa ra trong đó có bốn cuốn kinh thư mong mỏng, vì có vải dầu gói chặt nên ở trong bụng con vượn đã lâu, những cuốn kinh thư đó không bị hư hại. Bìa cuốn kinh viết mấy chữ loằng ngoằng, y không đọc được chữ nào, trên cả bốn cuốn đó đều viết những văn tự quái dị, nhưng giữa những hàng chữ, lại có viết một hàng Trung văn chữ khải nhỏ bằng đầu ruồi.
Y định thần, coi kỹ từ đầu, hình như trong đó viết về yếu quyết luyện khí vận công, chầm chậm đọc xuống dưới, đột nhiên giật mình, thấy có ba hàng kinh văn rất quen thuộc, chính là Võ Đương Cửu Dương Công mà thái sư phụ và Du nhị bá đã dạy cho y, nhưng về sau thì văn tự lại không giống. Y thuận tay xem hết, qua mấy trương, lại thấy có mấy câu trong Võ Đương Cửu Dương Công nhưng những đoạn khác lại hoàn toàn khác hẳn những gì thái sư phụ và Du nhị bá dạy.
Y tim đập bình bình, gập sách lại ngồi suy nghĩ: "Bộ kinh thư này là sách gì đây? Sao lại có Võ Đương Cửu Dương Công ở trong đó? Sao lại không hoàn toàn giống như võ công bản môn là thế nào? Kinh văn sao lại gấp mười của phái Võ Đương là sao?".
Nghĩ đến đó, chợt nhớ ra thái sư phụ khi dẫn y lên chùa Thiếu Lâm đã kể cho nghe một câu chuyện cũ: sư phụ của thái sư phụ là Giác Viễn đại sư học được Cửu Dương Chân Kinh trước khi chết có tụng cuốn kinh này, ba người gồm có thái sư phụ Trương Tam Phong, Quách Tương nữ hiệp, và Vô Sắc đại sư của phái Thiếu Lâm mỗi người nhớ được một phần, vì thế ba phái Võ Đương, Nga Mi, Thiếu Lâm võ công đại tiến, mấy chục năm qua mỗi bên một vẻ, danh chấn võ lâm."Hay là đây là bộ Cửu Dương Chân Kinh bị người ta lấy cắp? Chắc thế, thái sư phụ có nói, bộ Cửu Dương Chân Kinh này viết ở mép lề cuốn kinh Lăng Già, những chữ lăng quăng này, có lẽ là kinh Lăng Già bằng tiếng Phạn. Thế nhưng tại sao lại nằm trong bụng con vượn?".
Bộ kinh thư này đích thật là bộ Cửu Dương Chân Kinh, thế nhưng tại sao nằm trong bụng con vượn thì thế gian này không còn ai biết được nữa. Thì ra hơn chín mươi năm trước đây, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây ăn cắp bộ kinh này trong Tàng Kinh Các của chùa Thiếu Lâm, bị Giác Viễn đại sư đuổi đến tận đỉnh núi Hoa Sơn, thấy không thể nào chạy thoát, may ở bên cạnh có một con vượn xám, hai tên đó bèn nghĩ ra một kế, mổ bụng con vượn ra, đem kinh thư dấu vào trong đó. Đến khi Giác Viễn, Trương Quân Bảo và Dương Quá lục soát trong người hai tên này, không thấy kinh thư, nên thả cho họ và con vượn xuống núi[1]. Việc mất bộ Cửu Dương Chân Kinh trở thành một nghi án lớn của võ lâm trong khoảng một trăm năm nay.
Về sau Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây dẫn con vượn qua Tây Vực, nhưng bụng hai tên vẫn úy kỵ lẫn nhau, sợ đối phương tập thành công võ công trong kinh thư trước sẽ giết hại mình nên đứa nọ canh chừng đứa kia, lần lữa không dám lấy bộ kinh trong bụng con vượn ra. Sau cùng bọn họ đến được Kinh Thần Phong trong dãy Côn Lôn, Tiêu Doãn hai người mới ra tay ám toán, đánh nhau đến nước lưỡng bại câu thương. Thành ra bộ kinh vô thượng tâm pháp tu tập nội công này cứ vẫn nằm trong bụng con vượn.
Võ công Tiêu Tương Tử vốn cao hơn Doãn Khắc Tây một mức, nhưng vì khi trên đỉnh núi Hoa Sơn y đánh Giác Viễn đại sư một quyền, vì sức phản chấn nên bị trọng thương, hóa ra khi đấu với Doãn Khắc Tây lại chết trước. Khi lâm tử, Doãn Khắc Tây gặp được Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Đạo, lương tâm không an, nên nhờ y đến chùa Thiếu Lâm cáo tri Giác Viễn đại sư rằng bộ kinh thư này hiện đang ở trong bụng loài viên hầu. Thế nhưng khi y nói thần trí đã mơ hồ, giọng thều thào, thành ra câu "kinh tại hầu trung", Hà Túc Đạo lại nghe thành "kim tại du trung[2]". Hà Túc Đạo thủ tín, quả nhiên đến Trung Nguyên, chuyển lại câu "kim tại du trung" cho Giác Viễn. Giác Viễn không hiểu ý nghĩa là gì, mà cũng vì câu này nổi lên một trận phong ba, và trong võ lâm có thêm hai phái Võ Đương và Nga Mi.
Còn con vượn xám kia cũng thật may, ở trong núi Côn Lôn ăn tiên đào, được hưởng cái linh khí thiên địa, qua hơn chín mươi năm vẫn còn chạy nhảy như bay, toàn thân lông dài đen thuở nào nay đã thành trắng xóa, thành một con bạch viên. Có điều bộ kinh thư vẫn nằm trong bụng, làm cản trở ruột nên thỉnh thoảng bị đau, cái vết thương đó khi loét khi lành, mãi đến hôm nay mới được Trương Vô Kỵ lấy ra, nếu đứng về mặt con vượn thì quả là bớt được một mối họa trong gan ruột.
Những chuyện đầu dây mối nhợ đó thì dù người nào có thông minh gấp trăm Trương Vô Kỵ cũng nghĩ không ra. Trương Vô Kỵ thừ người một hồi, biết là không thể nào hiểu được, cũng chẳng phí tâm suy nghĩ làm gì, lấy trái bàn đào con vượn tặng cho, cắn một miếng, thấy nước thật là ngon ngọt chảy xuống cổ họng, so với những loại trái cây vô danh mà nó kiếm được ở trong thung lũng ngon hơn nhiều.
Trương Vô Kỵ ăn xong trái bàn đào, nghĩ thầm: "Thái sư phụ năm xưa có nói, nếu như ta tập được Cửu Dương Thần Công của cả ba phái Nga Mi, Thiếu Lâm, Võ Đương thì may ra có thể khu trừ được âm độc trong cơ thể. Thế nhưng Cửu Dương Công của cả ba môn phái đều từ Cửu Dương Chân Kinh mà ra, nếu bộ kinh văn này đúng là Cửu Dương Chân Kinh thì mình theo đó luyện tập, thì còn hơn học thần công của cả ba phái. Ở trong sơn cốc này chẳng có việc gì làm, mình cứ theo sách mà tập. Còn nếu như mình nghĩ sai, bộ kinh thư này không có ích lợi gì, quá lắm lại thêm có hại, thì cũng chỉ đến chết là cùng".
Y lòng không còn e ngại gì nên đem ba quyển kinh thư cất tại một nơi khô ráo, trên phủ cỏ khô, lấy thêm ba tảng đá đè lên để bọn khỉ vượn khỏi nghịch, con này giựt của con kia không chừng có khi xé rách mất bộ sách. Y chỉ giữ trong tay một quyển thứ nhất, trước hết đọc đi đọc lại vài lần, cho thật thuộc lòng, sau đó theo trong sách chỉ, tập từ câu thứ nhất trở đi.
Y nghĩ thầm, dù cho ta có theo sách này mà tập thành thần công, tống được hết âm độc ra ngoài thì bị giam hãm trong thung lũng này, bốn bên vách núi vây quanh, cũng không thể nào ra được. Trong u cốc ngày rộng tháng dài, hôm nay luyện xong cũng thế, ngày mai luyện xong cũng chẳng sao, không có gì khác cả. Mà nếu có luyện không thành thì cũng là một cách tiêu hao thì giờ nhàn rỗi. Y có cái bụng thành cũng vui mà chẳng thành cũng thích nên tiến triển rất nhanh, chỉ bốn tháng ngắn ngủi đã hoàn toàn tham tường lãnh ngộ những gì ghi trong quyển kinh thứ nhất, theo đúng như thế mà luyện thành công.
Xong quyển này, bấm đốt ngón tay, hạn kỳ Hồ Thanh Ngưu cho rằng y sẽ bị hàn độc phát tác mà chết đã qua, lúc này y chỉ thấy thân thể nhẹ nhàng khỏe mạnh, toàn thân chân khí lưu động, không có dấu hiệu gì bệnh tật cả, ngay cả việc trước kia hàn độc luôn luôn phát tác, bây giờ cách một tháng mới bị một lần, mà có cũng thật là nhẹ. Chẳng bao lâu y đọc quyển thứ hai tới câu:
Hô hấp cửu dương, bão nhất hàm nguyên, thử thư khả danh cửu dương chân kinh
(Đóng mở chín mạch dương, ngậm chặt nguyên khí, cuốn sách này được gọi tên là cửu dương chân kinh)
mới biết quả thực đúng là Cửu Dương Chân Kinh, bộ bảo điển mà thái sư phụ ngày đêm khắc khoải không lúc nào quên nên vui mừng vô hạn, tập luyện càng chăm chỉ hơn nữa. Con vượn bạch cảm cái ơn trị bệnh, thường hái bàn đào đem đến cho y, là một loại trái cây bổ nguyên kiện thể. Đến khi y luyện xong một nửa quyển kinh thư thứ hai, âm độc trong người đã bị khu trừ không còn tăm hơi đâu nữa.
Mỗi ngày ngoài thì giờ luyện công, y chơi đùa với bầy khỉ vượn, mỗi khi hái được trái cây lại chia cho Chu Trường Linh một nửa, sống cuộc đời không lo không phiền, tự do tự tại. Còn Chu Trường Linh ở trên cái bình đài nho nhỏ, một ngày dài như moạt năm, mỗi khi mùa đông núi đầy băng tuyết, gió lạnh thấu xương, cái cảnh khổ kể sao cho xiết.
Trương Vô Kỵ luyện xong quyển kinh thư thứ hai không còn sợ nóng sợ lạnh. Có điều càng về sau việc tập luyện càng thêm gian nan áo diệu, tiến triển rất chậm, cuốn thứ ba mất cả một năm mới xong, còn đến cuốn thứ tư mất hơn ba năm mới hoàn toàn thành tựu.
Y ở trong u cốc băng giá này sống đến nay đã hơn năm năm, từ một đứa bé đã biến thành một thanh niên thân thể cao to. Hai năm sau cùng, thỉnh thoảng có hứng, cùng bọn khỉ vượn trèo lên vách núi, trên cao nhìn xuống bốn bề, với công lực của y lúc này, nếu muốn vượt núi mà ra không còn là chuyện khó khăn gì nữa. Thế nhưng nghĩ đến thế nhân bụng dạ âm hiểm gian trá, y không khỏi rùng mình nghĩ thầm việc gì phải ra ngoài cho thêm phiền não, chui đầu vào rọ? Chi bằng ở trong cái u cốc mỹ lệ này cho tới già, tới chết, có phải hay hơn không?
Buổi chiều hôm đó, y đem bốn quyển kinh thư từ đầu đến cuối đọc lại một lần. Đọc xong quyển cuối cùng y thấy trong lòng vui sướng, lại hơi cảm thấy trống vắng mênh mang. Y khoét một cái hang sâu chừng ba thước nơi vách núi bên trái cái hang, đem cả bốn quyển Cửu Dương Chân Kinh, cùng với cuốn Y Kinh của Hồ Thanh Ngưu, cuốn Độc Kinh của Vương Nạn Cô, tất cả gói lại trong tấm vải dầu lấy từ trong bụng con vượn trắng ra, chôn xuống đó, vùi đất lại, nghĩ thầm: "Ta lấy được bộ kinh thư từ trong bụng con vượn ra, thật là một cơ duyên thật lớn, không biết nghìn năm, trăm năm sau, có ai lạc loài đến chốn này, có được ba bộ kinh thư này không?". Y nhặt một hòn đá nhọn vạch lên vách đá sáu chữ: "Nơi Trương Vô Kỵ Chôn Kinh".
Khi y còn luyện công, ngày ngày có việc để chú tâm vào làm nên không cảm thấy tịch mịch, đến nay đại công cáo thành rồi, trong lòng lại thấy trống trải, hơn nữa thần công đã xong, đảm khí gia tăng, nghĩ thầm: "Lúc này Chu bá bá có muốn hại ta, ta cũng không sợ, chi bằng qua nói chuyện với ông ta chơi". Nghĩ thế y bèn uốn mình chui vào hang. Khi y từ hang chui ra mới có mười lăm tuổi, thân hình nhỏ bé, nay trở vào đã hai mươi tuổi, cao to thành người lớn rồi, làm sao chui qua được cái hang hẹp nữa. Y liền hít một hơi, vận công phu co rút xương lại, xương cốt toàn thân rút lại chạm nhau, các đầu xương không còn chổ nào xa rời, nhẹ nhàng luồn vào trong động.
Chu Trường Linh đang dựa lưng vào vách đá ngủ say, mơ thấy đang ở nhà mở tiệc, gia nhân đầy tớ ra vào, người quen tâng bốc, thật là uy phong khoái hoạt, đột nhiên đầu vai có ai vỗ nhẹ, choàng tỉnh dậy, mở mắt ra, thấy một bóng người cao lớn chắn ngay trước mặt. Chu Trường Linh nhảy nhổm lên, đầu óc chưa được tỉnh táo hoàn toàn, kêu lên:
- Ngươi ... ngươi ...
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
- Chu bá bá, tôi đây, Trương Vô Kỵ đây mà.
Chu Trường Linh vừa mừng vừa sợ, vừa hận vừa tức, nhìn y hồi lâu mới nói:
- Ngươi cao lớn quá rồi. Hừ, sao bấy lâu nay ngươi không ra đây nói chuyện với ta? Ta cầu khẩn thế nào ngươi cũng không lý đến là sao?
Trương Vô Kỵ nhếch mép:
- Tôi sợ bác hành hạ tôi.
Chu Trường Linh tay phải chộp ra, thi triển cầm nã thủ pháp, nắm chặt đầu vai y, sẵng giọng hỏi:
- Thế sao hôm nay lại không sợ nữa?
Đột nhiên lòng bàn tay nóng bỏng, không kìm nổi cánh tay giật một cái, vội buông ra, ngực ngâm ngẩm đau, sợ quá lùi lại ba bước, ngơ ngơ ngẩn ngẩn nhìn y, lắp bắp:
- Ngươi ... ngươi ... công phu này là gì thế?
Từ khi luyện thành Cửu Dương thần công đây là lần đầu Trương Vô Kỵ sử dụng thấy uy lực đến thế, Chu Trường Linh là cao thủ bậc nhất vậy mà bị thần công của y chấn động phải buông tay. Thấy Chu Trường Linh mặt mày hốt hoảng kinh sợ, trong lòng đắc ý, cười nói:
- Bác thấy công phu này ra sao?
Chu Trường Linh chưa hoàn hồn ấp úng:
- Cái này ... cái này là công phu gì thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đó là Cửu Dương thần công.
Chu Trường Linh kinh hãi, hỏi lại:
- Làm thế nào mà ngươi luyện thành?
Trương Vô Kỵ không dấu diếm việc làm sao trị bệnh cho con bạch viên, lấy được kinh thư từ trong bụng nó thế nào, rồi theo đó mà tu tập kể lại từ đầu chí cuối.
Câu chuyện đó chỉ khiến cho Chu Trường Linh thêm đố kỵ, lại thêm tức tối, nghĩ thầm: "Ta ở trên tuyệt phong này năm năm qua biết bao khổ sở, còn thằng tiểu tử này lại luyện thành tuyệt thế thần công". Y chẳng nghĩ đến chính mình mưu toan hại người nên mới bị rơi vào đây, cũng chẳng nhớ đến cái ơn năm năm qua đối phương hái trái cây cho mình ăn, không sót ngày nào mới nuôi y sống đến hôm nay, chỉ nghĩ là thằng nhỏ này sao may mắn quá, còn mình xui xẻo, thực là chẳng công bằng chút nào, nên cố dằn cơn giận, cười hề hề hỏi lại:
- Thế bộ Cửu Dương chân kinh đó đâu rồi? Cho ta xem một tí được không?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cho ngươi xem một tí thì đã sao, không lẽ chỉ một chốc ngươi nhớ hết được sao?" liền nói:
- Tôi chôn ở trong động, ngày mai tôi đem ra cho bác coi.
Chu Trường Linh nói:
- Ngươi cao lớn như thế, làm sao chui lọt qua cái hang?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cái hang đó cũng không hẹp lắm đâu, chỉ cần co rút mình lại dùng sức ẩy một cái, là qua được ngay.
Chu Trường Linh hỏi lại:
- Thế ngươi xem ta có chui qua được không?
Trương Vô Kỵ gật đầu:
- Để mai mình thử xem sao, bên trong động rộng lớn lắm, chứ ở trên cái bình đài nho nhỏ này quả thật là không vui chút nào.
Y nghĩ thầm nếu mình vận công ép đầu vai, xương sườn, mông và những khớp xương, may ra có thể giúp y chui lọt qua cái hang. Chu Trường Linh cười nói:
- Tiểu huynh đệ, ngươi thật tốt, người quân tử không nhớ chuyện ác cũ, trước đây ta có nhiều điều không phải với cậu, xin cậu lượng thứ cho.
Nói xong vái dài một cái. Trương Vô Kỵ vội vàng hoàn lễ, nói:
- Chu bá bá không phải đa lễ, ngày mai mình cùng nhau nghĩ cách rời khỏi nơi này.
Chu Trường Linh mừng quá, hỏi:
- Ngươi bảo có thể rời khỏi đây ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Khỉ vượn có thể trèo ra trèo vào thì mình cũng làm được.
Chu Trường Linh nói:
- Vậy sao mình không ra sớm hơn?
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
- Trước kia tôi không nghĩ tới chuyện ra khỏi đây, e ngại người ta hà hiếp, bây giờ thì không còn sợ nữa rồi nên nghĩ đến chuyện về thăm thái sư phụ và các sư bá, sư thúc.
Chu Trường Linh cười ha hả, vỗ tay nói:
- Hay quá, hay quá.
Y lùi lại hai bước, đột nhiên trượt chân, chao đi một cái kêu lên:
- Ối chà.
Chân y đạp vào khoảng không, từ trên mỏm đá rơi tõm xuống bên dưới. Y vì vui mừng quá hóa ra sơ sẩy, sự việc xảy ra thật độ ngột, Trương Vô Kỵ kinh hoảng vội cúi xuống nhìn, gọi lớn:
- Chu bá bá, bác có sao không?
Chỉ nghe từ bên dưới vọng lên hai tiếng rên thật yếu ớt. Trương Vô Kỵ mừng quá, nghĩ thầm: "May quá bác ta không rơi hẳn xuống đáy, nhưng chắc cũng bị thương". Nghe tiếng rên không quá mấy trượng, y nhìn kỹ hơn, thì may sao dưới huyền nhai này có một cây tùng mọc nhô ra, Chu Trường Linh rơi nằm vắt ngang thân cây, không động đậy. Trương Vô Kỵ xét hình thế này, với công lực hiện tại, y có thể nhảy xuống bế Chu Trường Linh nhảy trở lên không mấy khó khăn, bèn hít một hơi, nhắm ngay một cành cây to bằng bắp tay nhẹ nhàng nhảy xuống.
Chân y còn cách cành cây khoảng chừng nửa thước, bất ngờ cành cây đó rơi ngay xuống dưới, ở trên không trung làm gì có chỗ nào để mượn sức, dù y luyện thành thần công tuyệt đỉnh, nhưng người chứ đâu phải chim chóc, nên làm thế nào mà bay trở lên được? Trong đầu y xẹt qua như một ánh chớp, lập tức hiểu ngay: "Thì ra Chu Trường Linh lại dùng gian kế hại ta, y đánh gãy cành cây, cầm trên tay, đợi ta vừa nhảy xuống liền buông tay cho cành cây rơi xuống". Y hiểu được như thế thì đã muộn, thân hình tiếp tục rơi thẳng xuống dưới.
Chu Trường Linh ở trên cái bình đài nho nhỏ đó hơn năm năm, diện tích không quá mươi trượng, ở đó dù cành cây ngọn cỏ, một hòn đá, một viên sỏi cũng đều biết rõ. Y trong đêm tối giả vờ trượt chân bị thương, định rằng Trương Vô Kỵ sẽ nhảy xuống cứu, quả nhiên gian kế của y thành công khiến cho Trương Vô Kỵ rơi xuống vực sâu vạn trượng.
Chu Trường Linh cười ha hả, nghĩ thầm: "Hôm nay cho tên tiểu tử đó thành một đống thịt nát mới thỏa cái mối hận năm năm qua của ta". Y níu cái dây leo ở bên cạnh cây tùng, nhảy ngược trở lên huyền nhai tự nhủ: "Kỳ trước ta không chui lọt vào trong hang được, cũng vì quá gấp gáp nên dùng sức quá mạnh nên mới gãy xương sườn. Tên tiểu tử này thân thể còn to cao hơn ta nhiều, nếu y qua được thì mình cũng sẽ qua được. Ta lấy được Cửu Dương Chân Kinh rồi sẽ tìm đường trở về, sau này luyện thành thần công, vô địch thiên hạ, không phải sướng lắm sao? Ha ha, ha ha".
Y càng nghĩ càng đắc ý, liền theo cái hang đó mà chui vào, chẳng mấy chốc đã đến chỗ năm năm trước đây bị gãy xương sườn. Y trong bụng chỉ có một ý nghĩ duy nhất: "Tên tiểu tử đó cao to hơn ta mà chui lọt, thì ta nhất định cũng sẽ lọt". Nghĩ thế cũng đúng nhưng có một điểm y chưa nghĩ tới là Trương Vô Kỵ đã luyện thành phép rút xương trong Cửu Dương thần công.
Y bình tâm tĩnh khí tại chỗ hẹp của cái hang đó từng tấc, từng tấc trườn tới, quả nhiên so với năm năm trước đi thêm được hơn một trượng, thế nhưng đến đây rồi dù dùng lực cách nào để tiến thêm nửa tấc cũng không thể được. Y biết nếu lại làm mạnh cũng chỉ đi vào vết xe đổ năm năm trước, ắt sẽ lại gãy thêm vào cái xương sườn nên định thần, hết sức thở ra cho kỳ hết, quả nhiên người thu nhỏ lại một chút, lại tiến vào thêm được ba thước nữa. Thế nhưng vì y nhịn thở nên người mỗi lúc một ngộp, tim đập như trống hộ đê, dường như muốn xỉu, biết là không ổn, chỉ còn nước trở ra rồi tính sau.
Nào ngờ khi tiến vào chân có thể tựa vào những chỗ lồi lõm trên hang đá mà đạp, lúc trở ra không có gì để tựa cả. Khi tiến vào y giơ hai tay thẳng về trước để cho dễ thu hẹp hai vai, bây giờ hai tay bị bốn bề đá giữ chặt không thể nào mở ra nên không có một chút lực khí nào, trong bụng vẫn nghĩ: "Tại sao tiểu tử đó thân thể to lớn hơn mình nhiều mà lại có thể qua lọt, mình phải qua được. Tại sao mình lại bị kẹt ở đây, sao lại như thế được?".
Y có ngờ đâu có những chuyện không ai ngờ tới, nên một người văn tài võ công đều ở mức thượng thừa, thông minh cơ trí vào bậc nhất, nay bị kẹt trong cái sơn động hun hút này, tiến không được mà lui cũng không xong.
Trương Vô Kỵ bị trúng gian kế của Chu Trường Linh từ trên mỏm núi rơi thẳng xuống, nhất thời hối hận không để đâu cho hết: "Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi là một tên tiểu tử thực vô dụng. Ngươi đã biết Chu Trường Linh gian trá không ai bằng, vậy mà vừa gặp đã bị y lừa, thật đáng chết, đáng chết".
Y tự mắng mình đáng chết nhưng lại hết sức mong được sống, chân khí trong cơ thể lưu động, vận kình cố nhảy lên, cốt để giảm bớt sức rơi xuống, may ra rơi xuống tới đất không tan xương nát thịt. Thế nhưng đang ở trên không rơi vùn vụt, đâu có do mình, không có một chút lực nào có thể dựa vào, chỉ thấy bên tai gió vù vù thổi, trong khoảnh khắc hai mắt nhức nhối, ánh sáng từ tuyết trắng bên dưới phản chiếu vào.
Y biết rằng sống hay chết cũng ở phút này, thấy cách khoảng một trượng có một đống tuyết, lúc này đâu còn phân biệt được là tuyết hay là một khối đá màu trắng, nên đang trên không liền lộn ba vòng, nhắm ngay đống tuyết đó lao vào. Thân hình y xeo xéo một hình vòng cung, chân trái đã điểm vào, nghe ầm một tiếng cả người rơi ngập vào đống tuyết. Y khổ luyện Cửu Dương thần công hơn năm năm, nay mới phát sinh uy lực, mượn sức phản đạn của đống tuyết, búng người lên cao. Thế nhưng y rơi từ trên cao vạn trượng xuống đất sức ghê gớm là dường nào, thấy đùi đau nhói, cả hai xương đùi đều gãy cả.
Y bị thương tuy nặng nhưng đầu óc vẫn tỉnh, thấy củi cỏ bay tung tóe, hóa ra cái khối tuyết đó là nơi nông gia chứa rơm và củi, không khỏi kêu thầm: "Nguy hiểm quá, nguy hiểm quá. Nếu như đống này không phải là củi và rơm, mà là một tảng đá lớn, thì cái mạng của Trương Vô Kỵ đã ô hô rồi". Y dùng hai tay chầm chậm bò ra khỏi đống củi, lăn về phía mặt tuyết, xem lại vết thương, hít một hơi, tiếp lại chỗ gãy của xương đùi, nghĩ thầm: "Ta phải nằm đây không động đậy gì ít nhất một tháng mới có thể đi lại được. Thế nhưng nơi đây không có gì cả, đành phải lấy tay làm chân chứ không lẽ chịu nằm đây chết đói hay sao?".
Y nghĩ tiếp: "Đống củi rơm này do nông gia tích trữ, chung quanh hẳn phải có người ở". Y đã định kêu lên gọi người ta tới cứu, nhưng nghĩ lại: "Trên đời này kẻ ác thật nhiều, ta một mình nằm trên bãi tuyết dưỡng thương cũng được. Nếu kêu lên lại gặp ác nhân tới, hóa chẳng khốn khổ hay sao?". Nghĩ thế y bèn lặng yên nằm trên bãi tuyết chờ cho xương đùi từ từ liền lại.
Y nằm như thế ba ngày, bụng đói sôi lên từng chập. Y biết rằng tiếp cốt những ngày đầu không được cử động, nếu như chỗ gãy lệch đi, cả đời sẽ đi khập khiễng, thành thử bề gì cũng cố nhịn, không dám cử động chút nào, đến khi đói quá không còn chịu nổi thì bốc vài nắm tuyết bỏ vào mồm. Trong ba ngày đó y chỉ nghĩ: "Từ nay trở đi ta ở trên đời chuyện gì cũng phải cẩn thận, không để cho kẻ ác lừa mình nữa. Ngày sau chắc gì còn được may mắn, gặp đại nạn mà lại không chết như thế này".
Đến chiều ngày thứ tư, y nằm yên vận công, thấy trong lòng trống không minh lãng, toàn thân thoải mái, vết thương trên đùi tuy nặng thật, việc luyện thần công dường như vẫn tiến triển đều. Đang trong cảnh tịch mịch, bỗng nghe từ xa truyền tới mấy tiếng chó sủa, rồi càng lúc càng gần, hiển nhiên những con chó này đang đuổi theo một con dã thú. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi: "Không lẽ đâu là những con ác khuyển của Chu Cửu Chân tỉ tỉ nuôi chăng? Ồ, những con chó dữ đó đã bị Chu bá bá đánh chết rồi, nhưng đã lâu năm, chắc nàng ta lại nuôi chó khác".
Y chăm chú nhìn trong bãi tuyết, thấy một người đang chạy như bay, đằng sau có ba con chó vừa đuổi theo vừa sủa vang. Người đó rõ ràng đã hết hơi kiệt sức, bước chân loạng choạng, chạy vài bước lại ngã một cái, nhưng vì sợ nanh nhọn vuốt sắc của bầy chó dữ nên vẫn chạy thục mạng. Trương Vô Kỵ nghĩ đến mấy năm trước mình cũng bị bầy chó vây cắn, nên trong ngực không khỏi sôi lên.
Y có ý ra tay cứu người nọ, chỉ khổ là hai chân bị gãy không thể đi lại bỗng nghe người kia kêu lên thảm thiết, nằm lăn ra đất, hai con chó đã cắn vào y không nhả. Trương Vô Kỵ giận dữ kêu lên:
- Chó dữ, lại đây xem nào.
Ba con chó nghe thấy tiếng người, chạy vọt tới đánh hơi thấy Trương Vô Kỵ không phải người quen, đứng lại sủa lên mấy tiếng rồi xông vào cắn. Trương Vô Kỵ thò tay ra, búng cho mỗi con một cái vào đầu, ba con chó liền lăn ra chết ngay lập tức. Y không ngờ một cái búng nhè nhẹ lại có thể giết được ba con chó, không khỏi thầm kinh hãi uy lực của Cửu Dương thần công.
Y nghe thấy người kia rên rỉ hết sức yếu ớt, liền hỏi:
- Này vị đại ca kia, anh bị ác khuyển cắn có đau lắm không?
Người kia đáp:
- Tôi ... tôi ... chắc không xong ... tôi ... tôi
Trương Vô Kỵ nói:
- Hai chân tôi bị gãy không thể nào đi được. Xin anh cố gắng bò lại đây, tôi xem vết thương anh ra sao.
Người kia đáp:
- Vâng ... vâng ...
Y thở hổn hển cố hết sứt lết đến, lết một đoạn lại nghỉ một lát, nhưng khi đến còn cách Trương Vô Kỵ chừng một trượng thì kêu "A" lên một tiếng, nằm phục xuống bất động. Hai người còn cách nhau quá xa, một người không qua được, người kia cũng lại nằm yên, Trương Vô Kỵ hỏi:
- Đại ca, anh bị thương ở chỗ nào?
Người kia đáp:
- Tôi ... ở ngực, ở bụng ... bị chó cắn ... lòi ruột ra.
Trương Vô Kỵ kinh hoảng, biết rằng nếu vỡ bụng, ruột đã lòi ra thì không sao sống được, hỏi thêm:
- Vì cớ gì mà bầy ác khuyển này đuổi theo anh thế?
Người nọ đáp:
- - Tôi ... ban đêm đi săn heo rừng, để ... để khỏi phá rẫy, gặp đại tiểu thư nhà họ Chu ... nói chuyện với một công tử dưới gốc cây, dại dột đến gần xem ai ... tôi ... ối chao ...
Y kêu lên một tiếng, rồi không còn động tĩnh gì nữa.
Tuy y nói chưa hết câu nhưng Trương Vô Kỵ mười phần cũng đoán ra được tám chín, hẳn là Chu Cửu Chân và Vệ Bích nửa đêm ra ngoài gặp nhau, để làm sao người nhà quê này trông thấy, nên Chu Cửu Chân liền thả chó ra cắn chết y. Vô Kỵ còn đang tức giận, bỗng nghe tiếng vó ngựa từ xa vọng đến, có tiếng người huýt còi liên tiếp, chính là tiếng Chu Cửu Chân gọi bầy ác khuyển.
Tiếng chân đến gần, hai người cưỡi ngựa chạy đến, trên lưng một nam một nữ. Người đàn bà đột nhiên kêu lên:
- Ồ, sao các Bình Tây tướng quân lại chết cả thế này?
Giọng nói chính là Chu Cửu Chân. Những con chó nàng ta nuôi đều được phong danh hiệu tướng quân chẳng khác gì hồi trước. Người cưỡi ngựa đi cùng chính là Vệ Bích. Y tung mình nhảy xuống, lạ lùng nói:
- Có hai người chết ở đây nữa.
Trương Vô Kỵ trong lòng đã định bụng: "Nếu các ngươi định đến hại ta, đối đế lắm ta sẽ ra tay không nể nang gì nữa". Chu Cửu Chân thấy người nhà quê vỡ bụng lòi ruột, chết trông thật ghê rợn, còn Trương Vô Kỵ thì y phục rách bươm không thể nào rách hơn, đầu tóc bù xù, mặt đầy râu ria, nằm trên mặt tuyết không cục cựa, xem ra cũng đã bị chó cắn chết rồi. Nàng lại không muốn dây dưa ở đây lâu, phí thì giờ cùng Vệ Bích đàm tình thuyết ái, nên nói:
- Biểu ca, đi thôi. Hai tên chân lấm tay bùn này trước khi chết còn giết chết mất ba tướng quân của em.
Nàng quay đầu ngựa, chạy vọt về hướng tây. Vệ Bích thấy cả ba con chó đều chết, trong bụng hơi lạ lùng, nhưng thấy Chu Cửu Chân giục ngựa chạy xa rồi, không kịp coi kỹ hơn, cũng vội vàng nhảy lên lưng ngựa chạy theo.
Trương Vô Kỵ nghe tiếng cười trong trẻo của Chu Cửu Chân từ xa vọng lại, trong bụng hết sức giận dữ, năm năm trước đối với nàng kính trọng chẳng khác gì thần tiên, chỉ cần nàng chỉ ngón tay, bảo y lên núi đao hay nhảy vào chảo dầu, y cũng không do dự. Hôm nay gặp lại, không hiểu vì sao, lòng thấy dửng dưng, cái mị lực của nàng ta hoàn toàn biến mất. Trương Vô Kỵ nghĩ chắc vì mình công phu tu tập Cửu Dương Chân Kinh, hoặc vì tìm ra được chuyện nàng đối với mình lắm điều gian trá nên ra như thế. Y có biết đâu con trai ở trên đời, phần lớn ai cũng qua cái cầu mối tình đầu mê say, yêu một người quên ăn bỏ ngủ, không kể sống chết. Thế nhưng mối tình ấy cũng qua nhanh như bọt nước, về sau nhớ lại cái say mê của mình thuở nào, không khỏi tự cười thầm.
Lúc đó bụng y đói đến kêu lên ục ục, chỉ muốn xé một cái đùi chó ra ăn tươi nuốt sống, nhưng lại sợ Vệ Bích và Chu Cửu Chân quay trở lại, thấy y chưa chết, lại xua đám tướng quân của nàng tới cắn, mình đang gãy chân, chưa chắc đã chống cự nổi.
Tảng sáng hôm sau, một con chim kên kên thấy dưới đất có người chết, chó chết, ở trên không bay vòng vòng mấy lần, rồi đáp xuống rỉa thịt. Con chim này chắc tới số, người chết chó chết không ăn, lại đậu ngay trên mặt Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ tay chộp ngay đầu nó, chỉ bóp nhẹ là con chim chết ngay, vui mừng nói:
- Quả đúng là bữa ăn sáng từ trên trời rơi xuống.
Nhổ sạch lông con chim, xé chiếc đùi ra gặm nhồm nhoàm, tuy là thịt sống nhưng vì đói đã ba ngày nên ăn cũng thấy ngon.
Con chim đầu y chưa ăn hết, một con thứ hai đã bay xuống. Cũng nhờ thế Trương Vô Kỵ có thịt chim kên kên mà ăn để nằm trên mặt tuyết dưỡng thương, đợi cho xương đùi liền lại. Luôn mấy ngày liền, chỗ đồng không mông quạnh này không có một bóng người đi qua, bên cạnh y chỉ có ba con chó chết, một xác người. Cũng may là trời đang mùa đông, khí hậu thật lạnh, các xác chết đó không rữa thối, cảnh tịch mịch sống một mình y cũng đã quen nên không lấy gì làm khổ.
Quá trưa hôm đó, y vận qua một lượt nội công, trên đầu thấy có hai con kên kên bay vòng vòng qua lại, một hồi thật lâu, nhưng không dám đáp xuống. Bỗng thấy một con chim bay sà xuống, thế nhưng đến cách Trương Vô Kỵ chừng ba thước thì lại chuyển hướng bay vọt lên, thân pháp quay mình thật là đẹp mắt. Y tự nhiên nghĩ thầm: "Cái lối bẻ hướng này, nếu có thể dùng vào trong võ công, khi tập kích đối phương khó mà phòng bị, một lần tấn công không trúng, thì mình đã vọt ra xa rồi, kẻ địch khó mà trả đòn".
Cuốn Cửu Dương Chân Kinh mà y tập luyện chỉ hoàn toàn liên hệ đến nội công và yếu chỉ võ học, nhưng công kích phòng bị thì một nửa chiêu cũng không nhắc tới. Chính thế mà năm xưa Giác Viễn đại sư luyện thành thần công, khi bị Tiêu Tương Tử và Hà Túc Đạo tấn công chỉ vụng về, luống cuống, không biết cách nào chống trả. Trương Tam Phong cũng nhờ Dương Quá dạy cho bốn chiêu nên mới đối địch được với Doãn Khắc Tây. Trương Vô Kỵ từ bé đã học võ công, căn bản hơn xa Giác Viễn và Trương Tam Phong khi còn trẻ, thế nhưng Tạ Tốn dạy cho y cũng chỉ toàn là yếu quyết của quyền thuật, không có pháp môn nào thực dụng.
Trương Vô Kỵ bây giờ mới biết được cái khổ tâm của nghĩa phụ, ông ta một thân võ công bác đại tinh thâm, nếu như truyền thụ giải thích theo đúng trình tự từng bước từng bước, thì dạy hai chục năm chưa chắc đã hết, nên thấy thời gian gần nhau không bao nhiêu, nên chỉ dạy cho y nhớ những yếu quyết của võ công thượng thừa, sau này sẽ tự mình lãnh ngộ. Còn quyền thuật mà Trương Vô Kỵ học đúng ra, chỉ có ba mươi hai thế Võ Đương trường quyền mà cha y đã dạy cho khi lênh đênh trên chiếc bè. Y biết rằng từ nay ngoài việc liên tục tham tập Cửu Dương thần công, muốn tinh tiến hơn nữa, y phải làm sao dung hợp được nội công thượng thừa với những võ công mà Tạ Tốn truyền thụ cho. Do đó mỗi khi nhìn thấy hoa trên cành rơi xuống đất, cây kỳ lạ vươn lên trời, cả đến động tác của loài chim loài thú, biến hóa của gió của mây, y đều đối chiếu với võ công chiêu số.
Lúc này y nhìn thấy những con kên kên bay vòng vòng lên xuống, biến đổi nhiều tư thế khác nhau, càng nhìn càng xuất thần, bỗng thấy từ xa có tiếng chân người đi trên mặt tuyết, cước bộ nhẹ nhàng, xem chừng là một nữ nhân.
Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại, thấy một cô gái tay cầm giỏ tre, băng băng đi tới. Cô ta thấy trên mặt tuyết có người chết, chó chết, kêu "Ủa" một tiếng, ngạc nhiên đứng lại xem. Trương Vô Kỵ nhìn kỹ, thấy cô ta tuổi chừng mười bảy, mười tám, áo vải trâm gai, chỉ là một thôn nữ nghèo nàn. Mặt cô ta đen đủi, sưng u từng cục, hình dáng thật là xấu xí, chỉ có đôi mắt có chút linh hoạt, thân hình cũng thon nhỏ thướt tha.
Cô ta tới gần thấy Trương Vô Kỵ giương mắt nhìn, hơi kinh hoảng, hỏi:
- Ngươi ... ngươi chưa chết à?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Xem ra chưa chết.
Người hỏi đã không thông, người đáp lại cũng ngộ nghĩnh, hai người nghĩ ra, cùng nhịn không nổi cười ồ lên. Cô gái hỏi:
- Thế ngươi chưa chết, sao lại nằm ỳ ra đây làm gì vậy? Làm ta sợ hết hồn.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi từ trên núi rơi xuống, hai đùi gãy cả rồi, chỉ có nước nằm ở đây thôi.
Thiếu nữ kia lại hỏi thêm:
- Thế người này là đồng bạn của ngươi ư? Sao lại có thêm ba con chó chết?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ba con chó này ác quá, cắn chết vị đại ca này, nhưng chúng nó cũng chết luôn.
Cô gái kia nói:
- Ngươi nằm đây rồi làm sao mà sống? Bụng có đói không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Dĩ nhiên là đói, nhưng tôi không cử động được, đành nằm đây đến đâu hay đó.
Thiếu nữ mỉm cười, lấy trong giỏ ra hai cái bánh bao đưa cho y. Trương Vô Kỵ nói:
- Đa tạ cô nương.
Y nhận lấy, nhưng chưa ăn. Cô gái hỏi:
- Ngươi sợ bánh của ta có thuốc độc à? Sao chưa ăn?
Trong hơn năm năm qua, Trương Vô Kỵ chỉ đôi lần nói chuyện với Chu Trường Linh vài câu trong hang núi, chẳng có ý vị gì, ngoài ra chưa có cơ duyên nói chuyện với ai nửa lời, bây giờ thấy cô gái này tuy mặt mũi xấu xí, nhưng ăn nói lại có duyên, trong bụng hoan hỉ, liền nói:
- Vì là bánh cô nương cho tôi, nên chưa nỡ ăn.
Câu nói đó có vài phần đùa cợt, y trước nay thực thà, ăn nói chưa bao giờ có giọng lưỡi lém lỉnh, nay trước mặt cô gái này, bỗng thấy cởi mở thoải mái, không hiểu vì đâu buột miệng nói ra. Cô gái kia nghe thế, lập tức nổi giận, hứ một tiếng. Trương Vô Kỵ thấy lòng hối hận, vội vàng cầm bánh ăn, nhưng vì hấp tấp nên nghẹn ở cổ, ho lên sù sụ.
Thiếu nử đổi giận làm vui, nói:
- Đáng kiếp cái đồ ăn tham. Thứ người xấu như ma mà bụng dạ còn không tốt, hèn gì trời chẳng hại. Ai đời người khác không gãy chân, chỉ có nhà ngươi lại gãy cả hai cái đùi chó chết này.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ta năm năm nay không chải đầu cạo râu, quả đúng là xấu như ma, nhưng nhà ngươi cũng có đẹp hơn ai, hai đứa tám lượng nửa cân, thờn bơn méo miệng lại còn chê trai lệch mồm". Thế nhưng câu đó y đâu dám nói ra, vội vàng nghiêm mặt nói:
- Tôi nằm đây đã chín ngày trời, may quá mới có cô nương đi qua, cô lại cho tôi bánh, thật là cảm ơn.
Cô gái bĩu môi:
- Ta hỏi ngươi, sao người khác chẳng ai gãy chân, lại chỉ có mình ngươi gãy đùi? Ngươi không trả lời ta lấy bánh lại đó.
Trương Vô Kỵ thấy cô ta chúm chím cười, ánh mắt lộ ra thần sắc thực là tinh ma, trong bụng không khỏi rung động: "Sao mắt cô ta lại giống mẹ mình đến thế. Khi mẹ mình sắp chết đến nơi còn đánh lừa lão hòa thượng chùa Thiếu Lâm, cũng lộ ra ánh mắt như thế". Nghĩ như vậy, nhịn không nổi nước mắt doanh tròng, lã chã rơi xuống.
Cô gái nọ kêu "Ồ" một tiếng, nói:
- Thôi ta không đòi lại bánh đâu, đừng khóc nữa. Hóa ra ngươi là một thằng ngốc vô tích sự.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không phải tôi sợ mất cái bánh đâu, mà vì tôi nghĩ đến một chuyện trong lòng.
Cô gái kia vốn đã quay mình ra đi được hai bước, nghe câu đó vội ngừng lại, quay đầu hỏi:
- Tâm sự gì? Một tên đầu óc đần độn như ngươi mà cũng có chuyện lòng ư?
Trương Vô Kỵ thở dài nói:
- Tôi nghĩ đến mẹ tôi, người mẹ đã chết rồi.
Thiếu nữ nọ cười rộ lên, nói:
- Trước kia mẹ ngươi hay cho ngươi ăn bánh, có phải không?
Trương Vô Kỵ nói:
- Mẹ tôi thường cho tôi ăn bánh, thế nhưng tôi nghĩ đến bà ấy cũng vì khi cô cười, rất giống mẹ tôi.
Cô gái giận dữ:
- Đồ chết toi, bộ ta già lắm ư? Già giống mẹ ngươi chứ gì?
Nói xong nhặt dưới đất một cây củi, đánh vào người Trương Vô Kỵ hai cái. Trương Vô Kỵ muốn cướp cây củi đó thì thật dễ dàng, nhưng nghĩ thầm: "Cô ta đâu biết mẹ ta trẻ trung xinh đẹp, tưởng mẹ mình cũng xấu xí ghê tởm như con, giận cũng phải". Đợi cô ta đánh xong mới nói:
- Khi mẹ tôi qua đời, tướng mạo thật là dễ coi.
Cô gái sầm mặt lại:
- Ngươi cười ta xấu xí, bộ không muốn sống nữa hay sao? Để ta kéo chân ngươi cho biết.
Nói xong cúi xuống, làm như muốn kéo chân y. Trương Vô Kỵ kinh hoảng, xương đùi y bị gãy mới vừa bắt đầu liền, nếu cô ta kéo một cái thì bao nhiêu công lao bấy lâu nay đổ xuống sông xuống biển, vội cầm một nắm tuyết, chỉ đợi nếu cô ta đụng tới chân mình, lập tức sẽ bắn vào huyệt đạo nơi mi tâm, đánh cho cô ta bất tỉnh.
Cũng may cô ta chỉ dọa y vậy thôi, thấy y biến sắc, nói:
- Thấy ngươi sợ hết hồn hết vía, ai bảo ngươi dám trêu ta?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi mà có ý trêu ghẹo cô nương thì đùi tôi lành rồi, gãy lại ba lần, không bao giờ khỏi nữa, cả đời sẽ là đứa què chân.
Thiếu nữ cười khúc khích nói:
- Thế thì được rồi.
Nàng ngồi xuống cạnh Trương Vô Kỵ, nói:
- Mẹ ngươi là người thật xinh đẹp, sao lại đem ra ví với ta? Không lẽ ta cũng dễ coi ư?
Trương Vô Kỵ thừ người, nói:
- Tôi cũng không biết vì nguyên do gì, chỉ thấy là cô giống mẹ tôi. Tuy cô không dễ coi như mẹ tôi nhưng tôi lại thích nhìn cô.
Cô gái cong ngón tay giữa nhè nhẹ cốc vào trán y hai cái, cười:
- Con ngoan ơi, vậy ngươi gọi ta là mẹ đi nào.
Nói xong hai câu đó, chợt thấy bất nhã, cô ta vội bịt mồm quay đầu đi chỗ khác, nhưng cũng nhịn không nổi cười lên thành tiếng.
Trương Vô Kỵ nhìn cái cử chỉ của cô ta, liền nhớ tới khi còn ở Băng Hỏa đảo mẹ mình nói chuyện đùa với cha, mỗi khi lỡ lời cũng có dáng diệu như thế, bỗng thấy cô gái xấu xí này thanh nhã dễ thương, phong thái tự nhiên, không còn gì khó coi nữa. Y chăm chăm nhìn cô ta đến ngớ cả người.
Cô gái quay đầu lại, thấy Trương Vô Kỵ đang đờ đẫn, cười nói:
- Ngươi vì sao mà lại thích nhìn ta, nói ta nghe thử nào.
Trương Vô Kỵ thừ người, rồi lắc đầu:
- Tôi không sao nói được. Tôi chỉ thấy là mỗi khi nhìn cô, trong lòng tôi thật thoải mái, thật bình an, cô đối với tôi tốt quá, không hà hiếp, cũng chẳng hại tôi.
Cô gái cười:
- Ha ha, ngươi nghĩ sai rồi, ta sinh bình thích hại người khác lắm.
Đột nhiên cô ta giơ cây củi trong tay, gõ ngay vào cái đùi gãy của y hai cái, rồi nhỏm dậy ra đi. Hai cái gõ đó đúng ngay chỗ xương bị gãy, Trương Vô Kỵ xuất kỳ bất ý không đề phòng, kêu lên oai oái:
- Ái chà.
Chỉ thấy cô ta vui vẻ cười khúc khích, quay đầu lại nhăn mặt trêu y. Trương Vô Kỵ nhìn theo bóng cô ta mỗi lúc một xa, chỗ đau trên đùi chịu không nổi, nghĩ thầm: "Thì ra con gái chỉ thích hại người, người đẹp cũng hãm hại mà đến kẻ khó coi cũng làm cho ta đau khổ". Đêm hôm đó trong giấc mộng, y mấy lần nằm mơ thấy người con gái này, lại mấy lần nằm mơ thấy mẹ y, lại mấy lần khác không biết là mẫu thân hay là thiếu nữ. Y không nhìn rõ trong giấc mơ người xấu hay đẹp, chỉ thấy ánh mắt trong vắt, vừa tinh quái, vừa thiết tha trìu mến nhìn y.
Y lại nằm mơ thấy khi còn bé, mẹ y thường hay đùa nghịch với y, cố ý giơ chân cho y vấp ngã, đến khi y đau quá khóc ré lên, mới ôm y hôn hít không ngừng, luôn mồm nói:
- Cục cưng đừng khóc, mẹ làm đau con rồi.
Y bất ngờ tỉnh dậy, trong đầu đột nhiên hiện ra một câu hỏi mà xưa nay y chưa hề nghĩ tới: "Sao mẹ ta lại thích làm cho người khác khổ? Mắt nghĩa phụ cũng mẹ ta bắn mù, Du tam sư bá cũng do mẹ ta làm cho tàn phế, toàn gia của Long Môn tiêu cục ở phủ Lâm An cũng do mẹ ta giết chết, thế mẹ ta là người tốt, hay là người xấu?".
Y ngước mắt nhìn lên những ngôi sao trên trời, một hồi lâu thật lâu, thở dài một tiếng, nói:
- Không cần biết mẹ ta tốt hay xấu, cũng là mẹ ta.
Y lại nghĩ tiếp: "Nếu như mẹ ta vẫn còn sống đến hôm nay, không biết ta yêu mẹ ta chừng nào". Y lại nghĩ đến cô thôn nữ kia, chẳng duyên cớ gì cũng đánh vào cái đùi gãy của mình: "Ta có làm gì cô ta đâu, tại sao cô ta lại phải làm ta đau đớn kêu toáng lên mới hả dạ? Không lẽ cô ta chỉ thích hại người thật sao?". Y mong cô ta quay lại, nhưng cũng lại sợ cô ta sẽ nghĩ ra những trò quái ác khác để hại mình. Y mò thấy bên mình chiếc bánh ăn dở dang, nghĩ đến câu nói của cô gái: "Mẹ ngươi là người thật xinh đẹp, sao lại đem ra ví với ta? Không lẽ ta cũng dễ coi ư?" nhịn không nổi lẩm bẩm nói một mình: "Cô dễ coi, tôi thích nhìn cô lắm".
Y nằm đó nghĩ ngợi vớ vẩn hết hai ngày, nhưng cô gái quê kia không quay trở lại, Trương Vô Kỵ chắc là không bao giờ còn gặp lại cô ta nữa. Nào ngờ đến chiều ngày thứ ba, cô gái lại xách giỏ tre, từ phía sau sườn núi vòng qua, cười nói:
- Thằng quỉ, ngươi chưa chết đói đấy chứ?
Trương Vô Kỵ cười đáp:
- Chết đói một nửa già, còn sống một nửa non thôi.
Cô gái đó cười hinh hích ngồi bệt ngay xuống bên cạnh y, bỗng nhiêu giơ chân đá vào chỗ đùi gãy, hỏi:
- Thế nửa này là nửa chết hay nửa sống?
Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Ối chao, sao cô vô lương tâm đến thế?
Thiếu nữ hỏi:
- Cái gì mà vô lương tâm? Ngươi có tử tế gì với ta đâu nào?
Trương Vô Kỵ ngẩn người ra, nói:
- Hôm trước cô đánh tôi thật đau, thế nhưng tôi không giận gì cô, hai hôm nay tôi vẫn thường nghĩ đến cô là khác.
Cô gái mặt đỏ lên, muốn nổi cáu, nhưng cố dằn, hỏi lại:
- Ai cần tên xú bát quái như ngươi nghĩ đến? Ngươi chắc chẳng nghĩ gì tốt cho ta đâu, bụng rủa ta đã xấu lại ác chứ gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cô đâu có xấu, nhưng tại sao lại cứ phải làm cho người khác khổ thì cô mới vui?
Thiếu nữ kia cười khanh khách nói:
- Nếu người khác không khổ, làm sao hiện rõ cái vui trong lòng tôi được?
Nàng thấy dường như Trương Vô Kỵ không cảm thấy được cái lý đương nhiên đó, lại thấy y trong tay vẫn còn cầm trong tay cái bánh ăn dở hôm trước, đã ba hôm vẫn còn để đó nên nói:
- Chiếc bánh kia vẫn còn đây, chắc không ngon chứ gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vì là bánh cô cho tôi nên tôi không nỡ ăn.
Ba hôm trước y đã nói câu đó nhưng quá nửa là có ý đùa cợt, nhưng lúc này nói ra thật là thành khẩn. Thiếu nữ biết không phải y nói lời đãi bôi, hơi thẹn thùng, nói:
- Ta có đem bánh mới tới đây.
Nói xong lấy từ trong giỏ ra đủ thứ đồ ăn, ngoài bánh ra còn có một con gà nướng và một đùi dê thui. Trương Vô Kỵ thật mừng, bấy lâu nay chỉ ăn thịt chim ưng sống, máu ròng ròng vừa tanh vừa dai, con gà hầm kia mùi thơm nức, cầm trên tay còn nóng, cho vào miệng ngon lạ thường.
Thiếu nữ thấy y ăn uống ngon lành, ngồi ôm gối cười hì hì, nói:
- Thằng quái, ngươi ăn thật ngon lành, trông mà mát cả ruột. Ta đối với ngươi dường như có điểm khác người, không cần phải hại ngươi mà ta vẫn thấy vui.
Trương Vô Kỵ nói:
- Người khác vui mà làm cho cô cũng vui, cái đó mới thực là vui.
Thiếu nữ cười nhạt nói:
- Hừ, ta phải nói với ngươi ngay từ trước, lúc này lòng ta vui, nên không gia hại ngươi. Một ngày nào đó ta không vui, không chừng ta sẽ cho ngươi sống dở chết đở, lúc đó thì đừng có trách ta.
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
- Tôi từ bé đã bị người ta hãm hại đến tận cùng rồi, càng hành hạ tôi, tôi càng cứng cỏi.
Thiếu nữ cười khẩy:
- Thôi đừng có nói trước, để đến đó rồi sẽ biết.
Trương Vô Kỵ nói:
- Đợi đến khi chân tôi lành rồi, tôi sẽ cao chạy xa bay, dù cô có muốn hành hạ tôi, hại tôi, cũng không tìm đâu cho thấy.
Cô gái nói:
- Đã vậy để ta đánh gãy đùi ngươi cho ngươi không xa ta được nữa.
Trương Vô Kỵ nghe giọng nói lạnh như băng của cô gái, không khỏi rùng mình, tin rằng cô nàng đã nói là làm, chẳng phải thuận mồm mà nói thôi đâu. Thiếu nữ chăm chăm nhìn y một hồi, thở dài, mặt bỗng dưng biến đổi, gằn giọng hỏi:
- Ngươi chịu không, hả thằng quái. Ngươi có chịu cho ta chặt hai cái đùi chó của ngươi không?
Nàng đứng dậy, giựt con gà nướng y đang ăn dở dang, đùi dê, bánh quăng ra xa, nhổ một bãi nước miếng vào mặt y. Trương Vô Kỵ sững sờ nhìn nàng, chỉ cảm thấy dường như không phải nàng nổi giận, cũng chẳng phải vì khinh khi gì mình, mà trên mặt đầy vẻ thê lương, trong lòng hẳn có điều gì uất ức khó nói. Y định an ủi nàng vài câu, nhưng nhất thời không nghĩ ra được câu nào cho phải.
Thôn nữ kia nhìn thấy vẻ mặt của y như thế đột nhiên ngừng lại, quát lên:
- Thằng quái, ngươi đang nghĩ gì vậy?
Trương Vô Kỵ nói:
- Cô nương, vì cớ gì mà cô lại không vui như thế? Nói cho tôi nghe đi, có được chăng?
Cô gái thấy lời nói của y dịu dàng như thế, không cách nào phách lối được nữa, ngồi bệt xuống bên cạnh, hai tay ôm đầu khóc nức nở. Trương Vô Kỵ nhìn thấy bờ vai cô rung rung, cái eo thon thật là đáng thương, dịu giọng nói nhỏ:
- Cô nương, kẻ nào hà hiếp cô? Đợi khi đùi tôi khỏi rồi, tôi sẽ làm cho cô hả dạ.
Cô gái đó nhất thời không nín được, một lát sau mới nói:
- Chẳng ai hà hiếp tôi cả, chỉ vì số tôi khổ sở đấy thôi. Trong lòng tôi không vui, nghĩ đến một người mà không thể nào quên y được.
Trương Vô Kỵ gật đầu, nói:
- Chắc đó là một chàng trai trẻ tuổi, phải không? Y đối đãi với cô hung ác lắm chứ gì?
Thiếu nữ đáp:
- Đúng thế. Y mặt mũi đẹp trai lắm, nhưng cũng kiêu ngạo vô cùng. Tôi bảo y đi với tôi, để luôn luôn ở bên cạnh tôi, y không chịu, lại còn mắng chửi tôi, đánh tôi, cắn tôi máu chảy dầm dề.
Trương Vô Kỵ giận dữ nói:
- Người đó quả thực là ngang tàng vô lý, cô nương từ nay đừng thèm để ý đến y nữa.
Cô gái chảy nước mắt nói:
- Thế ... thế nhưng lòng tôi không sao quên y được, y bỏ đi đâu mất rồi, tôi kiếm y hoài mà không ra.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Chuyện ái tình nam nữ làm sao ép uổng được. Cô nương này tuy dung mạo không ra gì nhưng quả thực là người chí tình. Tính nết cô ta có điểm khác thường, cũng bởi vì trong lòng đau khổ, không được như ý đấy thôi. Không ngờ người con trai kia lại đối với cô ta tàn nhẫn như thế". Y dịu dàng nói:
- Cô nương, cô cũng đừng quá khổ đau, trên đời này thiếu gì người tử tế, hà tất phải khắc khoải đến gã ác độc vô lương tâm kia làm gì?
Thiếu nữ thở dài, mắt vọng về chỗ xa xăm, lặng người không đáp. Trương Vô Kỵ biết nàng ta không sao quên được tình lang, nói:
- Gã kia bất quá chỉ đánh cô chửi cô, chứ thảm sự tôi phải chịu còn gấp mười như thế.
Thiếu nữ hỏi:
- Như thế nào? Anh bị một cô gái đẹp lừa dối ư?
Trương Vô Kỵ nói:
- Đúng ra không phải cô ta có ý lừa dối tôi, chỉ vì chính tôi ngu dại, thấy cô ta xinh đẹp quá nên ngơ ngẩn si mê. Thực ra làm sao tôi có thể sánh với cô ta được? Tôi chưa bao giờ hoang tưởng chuyện đó. Nhưng cha cô ta và cô ta lén bày độc kế, hại tôi không biết đâu mà kể.
Nói xong y vén tay áo lên, chỉ cho nàng ta những vết sẹo nhằng nhịt, nói:
- Đây là vết răng, đều do đàn chó dữ của nàng ta nuôi đấy.
Cô gái kia nhìn thấy những vết răng, đột nhiên nổi giận, nói:
- Có phải con tiện a đầu Chu Cửu Chân hại anh đấy không?
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi lại:
- Làm sao cô biết?
Thiếu nữ đáp:
- Con tiện a đầu đó thích nuôi chó dữ, vài trăm dặm quanh đây ai mà chẳng biết.
Trương Vô Kỵ gật đầu, thản nhiên nói:
- Đúng là Chu Cửu Chân Chu cô nương. Thế nhưng những vết thương này cũng đã lành rồi, tôi không còn thấy đau đớn gì cả, cũng may là mạng mình vẫn còn, nên cũng không có gì phải hận cô ta.
Thiếu nữ kia quay nhìn y một hồi, thấy mặt y thần sắc hòa hoãn, an nhiên tự tại, trong bụng cũng hơi lạ lùng, hỏi lại:
- Thế tên anh là gì? Vì sao lại đến nơi đây?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Từ khi ta trở về Trung Thổ tới nay, ai ai cũng muốn ta tiết lộ chỗ ở của nghĩa phụ, lúc ra uy, khi ép buộc, kẻ dụ dỗ, người đánh lừa, không cách gì là không dùng tới, khiến cho ta phải chịu biết bao nhiêu là đau khổ. Từ nay trở đi, cái tên "Trương Vô Kỵ" coi như chết rồi, trên đời này không còn ai biết chỗ Kim Mao Sư Vương đang ở. Nếu như mai sau gặp lại một kẻ lợi hại gấp mười Chu Trường Linh gia hại mình, cũng không sợ rơi vào cái bẫy của y nữa để khỏi vô ý làm hại đến nghĩa phụ". Y mới nói:
- Tên tôi là A Ngưu.[3]
Thiếu nữ mỉm cười, hỏi:
- Thế còn họ?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Nếu mình nói họ Trương, họ Ân, hay họ Tạ đều không nên. Trương và Ân hai chữ thiết âm[4] thành Tăng". Y bèn nói:
- Tôi ... tôi họ Tăng, còn quí tính của cô nương?
Cô gái kia thân hình hơi run rẩy:
- Tôi không có họ.
Một lát sau, cô ta chậm rãi nói:
- Cha ruột tôi không thích tôi, gặp tôi là giết ngay, làm sao tôi nhận họ của ông ta được? Còn mẹ tôi thì chính tôi làm hại mà chết, nên tôi cũng không mang họ của mẹ tôi. Tôi trời sinh xấu xí, anh cứ gọi tôi là Xú cô nương được rồi.
Trương Vô Kỵ kinh hãi hỏi:
- Cô ... cô làm mẹ cô chết ư? Vì đâu nên nỗi?
Thiếu nữ kia thở dài một tiếng, nói:
- Chuyện này nói ra thì dài. Mẹ ruột tôi vốn là vợ cả của cha tôi, trước kia không sinh con đẻ cái gì, cha tôi mới lấy thêm bà vợ hai. Bà hai sinh được hai người anh tôi nên cha tôi thương yêu bà ta lắm. Mẹ tôi về sau sinh ra tôi, nhưng lại là con gái. Bà hai ỷ được cha tôi cưng chiều, nên mẹ tôi hay bị bà ta áp chế. Hai người anh tôi cũng ghê gớm lắm, cứ về hùa với mẹ hành hạ mẹ tôi, mẹ tôi chỉ biết nuốt lệ khóc thầm. Anh thử xem, tôi phải làm sao bây giờ?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cha cô phải xen vào đối xử cho công bình thì được.
Thiếu nữ nói tiếp:
- Thế nhưng cha tôi lại bênh bà hai, tôi giận quá chịu không nổi, một đao giết luôn bà dì ghẻ.
Trương Vô Kỵ kinh hoảng kêu "A" lên một tiếng. Y nghĩ người trong võ lâm giao đấu giết nhau thì cũng là chuyện thường, đâu ngờ đến một thôn nữ như cô này mà cũng ra tay giết người, quả thực không thể ngờ nổi.
Cô gái nói:
- Mẹ tôi thấy tôi gây ra đại họa, vội đưa tôi trốn đi. Thế nhưng hai người anh tôi đuổi theo kỳ được, định bắt tôi đem về, mẹ tôi cố ngăn mà không xong, vì muốn cứu tôi nên phải cứa cổ tự sát. Anh thử nghĩ coi, tính mạng của mẹ tôi chẳng phải do tôi hại là gì? Cha tôi mà gặp tôi, không thể nào không giết tôi cho được?
Cô ta kể chuyện mình mà thanh âm bình thản, không bị khích động chút nào. Thế nhưng Trương Vô Kỵ nghe xong tim đập thình thịch, tự nhủ: "Ta tuy rằng bất hạnh, cha mẹ đều mất cả rồi, thế nhưng cha mẹ ta khi sống yêu thương nhau biết bao nhiêu, đối với ta lại nuông chiều, so với những gì cô gái khốn khổ này gặp phải, xem ra ta còn may mắn gấp vạn lần". Nghĩ đến như thế, y cảm thấy giữa mình với cô thôn nữ có một mối đồng tình, bèn ôn tồn nói:
- Cô xa nhà đã lâu chưa? Bây giờ ở nơi đây có một mình?
Cô gái gật đầu. Trương Vô Kỵ lại hỏi:
- Thế cô định đi đâu bây giờ?
Cô gái đáp:
- Tôi cũng chẳng biết nữa, thế gian này lớn biết bao, đi phía đông một hồi, đi phía tây một hồi. Chỉ cần không đụng đầu cha tôi và các anh tôi là được rồi.
Trương Vô Kỵ bỗng nổi cơn cao hứng cái cảnh "đồng bệnh tương lân[5]" nên nói:
- Đợi đùi tôi khỏi đau rồi, tôi sẽ cùng đi với cô kiếm cái ... cái anh chàng kia, hỏi xem y định đối xử với cô thế nào.
Thiếu nữ đáp:
- Thế nhưng nếu y lại chửi tôi, cắn tôi nữa thì sao?
Trương Vô Kỵ hiên ngang đáp:
- Hừ, nếu y vẫn còn tệ bạc với cô như thế, tôi không để cho y yên đâu.
Thiếu nữ nói:
- Thế nhưng nếu y đối với tôi không thèm để ý đến, chẳng nhìn chẳng nói một câu thì làm sao?
Trương Vô Kỵ cứng họng không trả lời được, nghĩ thầm dù mình võ công cao cường đến đâu, cũng không thể nào ép một người con trai phải yêu một người con gái mà y không thích, thừ người hồi lâu, nói:
- Tôi sẽ cố hết sức.
Thiếu nữ đột nhiên cười ha hả, ngửa cổ gập người về sau, tưởng như nghe một câu chuyện gì thú vị lắm. Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:
- Có gì đáng cười?
Cô gái vẫn cười:
- Xú bát quái, anh là cái thá gì mà người khác phải nghe lời anh? Hơn nữa, tôi đã đi tìm khắp nơi, không thấy tung tích gì, không biết bây giờ còn sống hay đã chết nữa? Anh sẽ cố hết sức, nhưng anh có tài cán gì? Ha ha, ha ha.
Trương Vô Kỵ vừa định mở mồm nói một câu, nghe cô ta cười như thế mặt đỏ bừng, không nói nên lời. Thiếu nữ thấy y sượng sùng, không cười nữa, hỏi lại:
- Anh định nói gì?
Trương Vô Kỵ nói:
- Cô cười tôi, tôi không nói nữa.
Cô gái lạnh lùng nói:
- Hừ, có cười thì cũng đã cười rồi, cùng lắm thì cũng để tôi cười thêm một trận nữa, có chết ai đâu nào?
Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:
- Tôi đối với cô có lòng tốt, cô không nên cười tôi như thế.
Thiếu nữ nói:
- Tôi hỏi anh, anh định nói với tôi cái gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cô lênh đênh một mình, không nhà không cửa. Tôi cũng tình cảnh như thế, cha mẹ tôi đều chết cả rồi, cũng chẳng anh chị em gì hết. Tôi định nói với cô là, nếu tên ác nhân kia không thèm để ý tới cô, thì hai đứa mình làm bạn với nhau, tôi sẽ kể chuyện cho cô giải sầu. Thế nhưng cô cho rằng tôi không xứng, tôi đâu có dám nói ra nữa.
Cô gái bực tức nói:
- Anh đương nhiên không xứng, gã ác nhân kia so với anh đẹp trai gấp trăm lần, thông minh cũng gấp trăm lần. Tôi ở đây dây dưa với anh, nói chuyện tào lao, thật phí cả lời.
Nói xong cô ta đá tung tóe đùi dê, thịt gà, ôm mặt chạy đi mất hút. Tuy bị cô gái mắng mỏ cự tuyệt không lường được như thế, Trương Vô Kỵ vẫn không nổi giận, nghĩ thầm: "Cô gái này quả thực tội nghiệp, trong lòng cô ta biết bao chuyện không vui, cũng chẳng đáng trách".
Bỗng thấy cô gái kia quay trở lại, mặt hầm hầm hỏi:
- Này thằng quỉ, trong lòng ngươi hẳn không bằng lòng, nghĩ ta tướng mạo xấu xí, lại còn coi ngươi chẳng ra gì, có phải không?
Trương Vô Kỵ lắc đầu đáp:
- Không phải vậy. Tướng mạo cô không đẹp lắm nhưng tôi mới gặp đã thấy hợp bụng, nếu như cô không biến ra xấu xí, trước kia hẳn cũng ...
Cô gái kia đột nhiên kinh hoảng kêu lên:
- Sao ... sao ngươi ... biết ta trước kia không xấu như thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Mặt cô hôm nay, so với hôm trước mới gặp bị sưng hơn nhiều, nước da cũng đen hơn, đủ biết không phải sinh ra đã thế.
Thiếu nữ sợ hãi nói:
- Ta ... ta mấy hôm nay không dám soi gương, ngươi nói ta mỗi ngày một khó coi ư?
Trương Vô Kỵ ôn tồn nói:
- Con người ta chỉ cần tâm địa tốt, mặt mày đẹp xấu đâu thành vấn đề. Mẹ tôi có bảo tôi rằng, đàn bà càng đẹp thì tâm địa càng bại hoại, càng giỏi lừa người, bảo tôi phải cẩn thận đề phòng.
Thiếu nữ kia đâu có lòng dạ nào nghe chuyện mẹ y nói thế nào, vội hỏi:
- Tôi hỏi anh, lần trước anh gặp tôi, mặt tôi chưa đến nỗi xấu xí thế này, có phải không?
Trương Vô Kỵ biết rằng nếu chỉ "Ừ" một tiếng thì nàng sẽ rất đau lòng, thành thử chỉ nhìn cô ta đăm đăm, trong bụng đầy những tâm tình thương xót. Thiếu nữ nhìn thấy dáng điệu của y như vậy, hiểu ngay câu trả lời như thế nào, ôm mặt khóc nức nở nói:
- Thằng quỉ kia, ta hận ngươi, ta hận ngươi.
Rồi chạy đi mất. Lần này nàng ta không quay trở lại nữa.
Trương Vô Kỵ lại nằm thêm hai ngày. Đêm hôm đó có một con chó sói đánh hơi mò đến gần bị y đấm một cái chết ngay. Con chó sói đã không ăn được gì lại biến thành thức ăn vào bụng y. Mấy ngày sau, hai đùi y đã liền đến quá nửa, chắc chỉ độ mươi ngày nữa là đi lại được như thường, nghĩ đến cô gái kia một lần gặp gỡ rồi thôi, đến tên cũng chưa hỏi, nghĩ thầm: "Sao dung mạo cô ta càng ngày càng xấu đi, khiến mình không sao đoán định được". Suy nghĩ một lúc lâu vẫn không hiểu, y gác chuyện đó sang một bên, mơ mơ màng màng nằm ngủ thiếp đi.
Ngủ đến nửa đêm, trong giấc mơ thấy có mấy người đạp tuyết đi đến. Y kinh hoảng tỉnh dậy, ngồi nhỏm dậy nhìn vọng về hướng bước chân người. Đêm hôm đó trăng treo lưỡi liềm, dưới ánh sáng mờ mờ, thấy có bảy người chạy đến, người đi đầu hình dáng thướt tha, dường như chính là cô thôn nữ. Đến khi bảy người đó đến gần, người đó quả nhiên là cô gái xấu xí, nhưng đằng sau còn thêm sáu người nữa trải ra thành hình cánh quạt, có lẽ phòng cô ta bỏ chạy. Trương Vô Kỵ hơi lạ lùng, nghĩ thầm: "Không lẽ cô ta bị cha và anh bắt được rồi chăng?".
Y nghĩ ngợi chưa xong, thiếu nữ kia và sáu người đằng sau đã tới gần, Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, giật mình kinh hãi không để đâu cho xiết. Thì ra cả sáu người đó y đều biết cả, bên trái là Võ Thanh Anh, Võ Liệt, Vệ Bích còn bên phải là hai vợ chồng Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn, ngoài cùng là một phụ nữ trung niên, chẳng ai xa lạ chính là Đinh Mẫn Quân của phái Nga Mi.
Trương Vô Kỵ lạ lùng: "Sao cô ta lại quen với tất cả những người này? Hay là cũng là người trong võ lâm, biết được tông tích ta nên dẫn bọn này đến bắt mình, tra hỏi chỗ ở của nghĩa phụ?" Nghĩ đến việc đó, trong bụng không còn hoài nghi, căm giận lắm: "Ta với cô không thù không oán, tại sao cô lại hãm hại ta? Hiện nay hai chân ta không cử động được, sáu người này chẳng ai kém cỏi, mà cô thôn nữ kia có thể cũng ghê gớm. Ta đành phải khuất phục nhất thời nhận lời đưa họ đi kiếm nghĩa phụ. Đến khi hai chân ta khỏi hẳn rồi, sẽ liệu bề thanh toán từng người một".
Nếu năm năm trước gặp phải cảnh này, y chỉ có nước đem tính mệnh ra thí bỏ, dù đối phương có hành hạ uy hiếp cỡ nào, cũng chỉ cắn răng không nói, nhưng bây giờ tuổi cũng đã lớn, tâm trí cũng khôn ngoan hơn, sau khi luyện xong Cửu Dương Chân Kinh thần trí sáng suốt, trầm tĩnh, gặp nguy nan tìm cách đối phó nên tuy cường địch ở trước mặt, nhưng không thấy sợ hãi chút nào. Có điều không ngờ đến cô gái kia lại đem mình đi bán, trong cái phẫn khái, không khỏi có chút đau lòng, nên nằm trơ trơ dưới đất, khoanh tay gối đầu, không thèm để ý tới bảy người kia.
Thôn nữ kia chạy đến, nhìn y chăm chăm một hồi, sau cùng từ từ quay đầu đi. Trương Vô Kỵ dường như nghe cô thở dài một tiếng, tuy rất nhẹ, nhưng đầy vẻ đau thương. Y thầm cười nhạt: "Chẳng biết bụng ngươi dự định gì ác độc, lại còn giở trò mèo khóc chuột nữa đây?".
Chỉ thấy Vệ Bích trường kiếm trong tay rung một cái, cười khẩy nói:
- - Ngươi nói trước khi chết, muốn được gặp mặt một người, bọn ta tưởng phải là một thanh niên đẹp như Phan An, hóa ra chỉ là một tên xú bát quái, ha ha, tức cười thật là tức cười. Gã này với ngươi thật đúng là duyên trời sắp đặt, nồi nào vung nấy.
Thiếu nữ kia không hề tức giận, chỉ thản nhiên nói:
- Đúng thế, ta trước khi chết chỉ muốn nhìn lại y một lần. Ta chỉ muốn rõ ràng hỏi y một câu, ta nghe xong chết cũng cam lòng.
Trương Vô Kỵ lạ lùng, không biết hai người nói năng ý tứ ra sao. Lại nghe cô gái nói tiếp:
- Tôi có một câu hỏi anh, anh phải thật thà trả lời cho tôi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chuyện của tôi thì tôi sẽ nói cho cô hay. Chuyện người khác thì không dễ gì mà nói được.
Y liệu tưởng cô gái nọ sẽ hỏi về tung tích Tạ Tốn nên đã tính toán việc đối phó với bọn họ, nói nước đôi có thể liệu cách xoay sở sau này. Cô gái nói:
- Chuyện người khác thì tôi để tâm làm gì? Tôi hỏi anh: Hôm nọ anh có nói với tôi, hai đứa mình đều cô khổ lênh đênh, không nhà không cửa, anh bằng lòng làm bạn với tôi. Câu nói đó có thực lòng anh không?
Trương Vô Kỵ nghe rồi ngoài dự tưởng, lập tức nhỏm dậy, thấy ánh mắt cô lộ vẻ bi thương, liền nói:
- Cái đó quả là thực lòng tôi nói ra.
Thiếu nữ kia lại nói:
- Anh quả không hiềm tôi mặt mày xấu xí, bằng lòng ở chung với tôi một chỗ ư?
Trương Vô Kỵ hơi sững sờ, chuyện "ở chung một chỗ với cô ta" y chưa từng nghĩ đến, thế nhưng thấy cô gái buồn rầu tưởng như muốn khóc đến nơi, trong lòng không khỏi bất nhẫn, liền nói:
- Cái gì xấu hay không xấu, đẹp với chẳng không đẹp, tôi không để tâm chút nào cả. Cô muốn tôi nói chuyện vui hay tâm tình, nếu cô không hiềm, tôi rất vui lòng làm việc đó. Còn như cô lừa tôi để nói ...
Cô gái run run giọng hỏi:
- Thế anh có bằng lòng lấy tôi làm vợ không?
Trương Vô Kỵ giật mình, một hồi không nói nên lời, lẩm bẩm nói:
- Tôi ... tôi chưa nghĩ đến ... việc lấy vợ ...
Bọn sáu người Hà Thái Xung cùng cười ha hả. Vệ Bích cười nói:
- Đến ngay một thằng nhà quê xấu như ma cũng còn chẳng muốn lấy ngươi, bọn ta không giết ngươi, ngươi sống trên đời này có gì thú vị? Nếu không thì đập đầu vào đá chết đi cho xong.
Trương Vô Kỵ nghe sáu người cười chế riễu rồi Vệ Bích lại mỉa mai, bấy giờ mới biết cô gái và bọn người kia không cùng một phe, dường như bọn Vệ Bích định giết cô ngay lập tức, cô gái này không phải dẫn họ đến hại mình, trong lòng cảm thấy đầm ấm lại. Y thấy nàng cúi đầu, những giọt lệ rơi lả tả, hiển nhiên trong lòng đau thương cùng cực, không biết vì mình sắp chết, mặt mày xấu xí, hay vì lời lẽ chua cay của Vệ Bích? Trương Vô Kỵ trong lòng xúc động mãnh liệt, nghĩ đến sau khi cha mẹ chết rồi, một mình lênh đênh khốn khổ, chịu bao nhiêu điều nhục nhằn, cô gái này mảnh mai yếu đuối, trẻ tuổi hơn, thân thế còn bất hạnh hơn cả mình, bây giờ đến đây hỏi mấy câu lại càng làm cho cô ta đau lòng rơi lệ, khiến cho người ta thêm khinh khi hà hiếp? Huống chi cô ta hỏi với tấm lòng thành trao thân gửi phận, mình từ khi sinh ra, trừ cha mẹ, nghĩa phụ, cho đến thái sư phụ, các sư bá sư thúc, đã có ai quan tâm đến mình đâu? Từ nay trở đi mình phải đối với cô ta cho tử tế, cô ta cũng tử tế với mình, hai người sống thác có nhau, có gì mà không được?".
Y thấy cô gái run run, dường như muốn bước đi, vội đưa tay trái nắm chặt tay phải cô, khẳng khái nói:
- Cô nương, tôi thành tâm thành ý, mong được lấy cô làm vợ, chỉ mong cô đừng cho rằng tôi không xứng đáng thôi.
Thiếu nữ nghe y nói, ánh mắt bỗng sáng bừng lên, hạ giọng nói nhỏ:
- A Ngưu ca ca, anh không đánh lừa em đấy chứ?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Dĩ nhiên anh không lừa em. Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước.
Cô gái ngồi xuống, dựa vào người y, cầm lấy hai tay Trương Vô Kỵ, nhỏ nhẹ nói:
- Nếu anh có lòng với em như thế, em thật sung sướng xiết bao.
Cô ta nhắm mắt lại, nói:
- Anh nói lại một lần nữa cho em nghe, em muốn nhớ từng câu từng chữ. Anh nói đi, anh sẽ đối đãi với em như thế nào?
Trương Vô Kỵ thấy nàng vô cùng sung sướng, cảm thấy an ủi, cầm bàn tay nhỏ nhắn của cô ta, thấy bàn tay nhẵn nhụi ấm áp, mềm mại như bông, nói:
- Anh muốn em được bình an vui vẻ, quên hết những đau khổ trước kia, dù bao nhiêu người khinh khi dày vò em, anh thà chết cũng sẽ bảo vệ cho em chu toàn.
Cô thôn nữ nở một nụ cười, nằm dựa vào ngực y, dịu dàng nói:
- Trước đây em bảo anh đi theo em, anh lại không chịu, còn đánh em, mắng em, cắn em... bây giờ anh nói thế, lòng em sung sướng biết chừng nào.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nói như thế, lòng bỗng thấy nguội lạnh, thì ra cô gái nhắm mắt lại nghe mình nói, để mơ tưởng đến người tình trong mộng của nàng.
Thiếu nữ thấy người y rung lên một cái, mở choàng mắt ra nhìn Vô Kỵ, nét mặt bỗng dưng biến hẳn, rõ ràng nàng vừa thất vọng, vừa bực tức, nhưng lại chuyển ngay qua vẻ hòa hoãn dịu dàng. Nàng định thần trở lại, nói:
- A Ngưu ca ca, anh bằng lòng lấy tôi làm vợ, tôi là một cô gái xấu xí thế này, anh cũng không chê bỏ, tôi thật là cảm kích. Thế nhưng mấy năm trước đây, trái tim tôi đã thuộc về người khác mất rồi. Hồi đó y đã không thèm nhìn nhõi gì đến tôi, bây giờ tôi lại thế này, chắc y không thèm coi tôi bằng nửa con mắt. Thế nhưng cái tên tiểu quỉ lang tâm đoản mệnh kia ...
Tuy nàng chửi gã kia là "tên tiểu quỉ lang tâm đoản mệnh" nhưng trong giọng nói lại đầy vẻ bồi hồi thương mến. Võ Thanh Anh lạnh lùng nói:
- Y chịu lấy ngươi làm vợ rồi, tâm tình cũng đã xong, có đứng dậy không thì bảo?
Thiếu nữ từ từ đứng lên, nói với Trương Vô Kỵ:
- A Ngưu ca ca, tôi sắp chết đến nơi rồi, mà dù có không chết chăng nữa, thì cũng không lấy anh được đâu. Thế nhưng tôi rất thích nghe những lời anh vừa nói, mong anh cũng đừng phiền trách, khi nào ở không hãy nghĩ tới tôi một chút.
Mấy câu đó nàng nói thật dịu dàng, thật ngọt ngào, Trương Vô Kỵ nghe mà lòng không khỏi chua xót. Chỉ nghe thấy Ban Thục Nhàn cất giọng the thé:
- Bọn ta đã cho ngươi được thỏa nguyện rồi, gặp được gã này một lần. Ngươi nói thì phải giữ lời, cho bọn ta biết người kia ở đâu.
Thôn nữ đáp:
- Được, tôi biết người đó trốn ở nhà ông này.
Nói rồi đưa tay chỉ Võ Liệt. Võ Liệt mặt hơi biến sắc, hừ một tiếng, quát lên:
- Đừng nói nhăng nói cuội.
Vệ Bích giận dữ nói:
- Mau thực thà nói ra, ngươi giết biểu muội của ta, là do ai xúi biểu?
Trương Vô Kỵ nghe thế kinh hoảng không sao kể xiết, lắp bắp hỏi:
- Giết Chu ... Chu Cửu Chân cô nương ư?
Vệ Bích trừng mắt nhìn y, mặt hầm hầm nói:
- Ngươi sao cũng biết đến Chu Cửu Chân cô nương?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đại danh vang dội của Tuyết Lĩnh Song Chu, ai mà chẳng biết tới?
Võ Thanh Anh trên mép thoáng hiện ra một vẻ đắc ý, quát hỏi cô thôn nữ:
- Ồ, thế đích thực ai là người xúi biểu ngươi?
Cô thôn nữ đáp:
- Xúi biểu tôi đến giết Chu Cửu Chân chính là vợ chồng Hà Thái Xung của phái Côn Lôn và Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi.
Võ Liệt quát lớn:
- Ngươi đừng hoang tưởng chuyện đâm bị thóc chọc bị gạo, ly gián chúng ta chẳng ích lợi gì đâu.
Nghe vù một tiếng, y đã phóng chưởng đánh tới. Tiếng quát của y uy phong lẫm liệt, tiếng nói vừa ra thì đã đánh theo, chưởng lực khiến cho tuyết trên mặt đất bay lên mù mịt. Cô gái lách mình né tránh, thân pháp thực là linh động.
Trong lòng Trương Vô Kỵ cực kỳ hỗn loạn, nghĩ thầm: "Quả nhiên cô ta ... cô ta là người trong võ lâm. Cô ta đi giết Chu Cửu Chân cũng chỉ là vì ta đấy thôi. Ta kể cho cô ta nghe bị Chu Cửu Chân lừa dối, lại bị chó cô ta nuôi cắn khắp người, nhưng ta đâu có yêu cầu cô ta đi giết người. Những tưởng chỉ vì gương mặt biến thành xấu xí, chuyện gia đình biến đổi tang thương nên tâm tính quái dị, đâu ngờ động một tí đã ra tay giết người".
Vệ Bích và Võ Thanh Anh hai bên tả hữu, dùng kiếm xông vào giáp công, cô gái kia lượn trái lách phải, chỉ cố gắng tránh né chưởng lực hùng hậu của Võ Liệt, đột nhiên uốn chiếc lưng ong một cái, chuyển tới bên cạnh Võ Thanh Anh, nghe bốp một cái, đã giáng cho cô nàng một cái tát, tay trái vươn ra, cướp ngay thanh trường kiếm trong tay địch thủ. Võ Liệt và Vệ Bích kinh hãi, cùng xông lại cứu. Cô gái kia trường kiếm rung động, quát lên:
- Trúng.
Đã vạch ngay trên mặt Võ Thanh Anh một đường. Võ Thanh Anh kinh hoảng kêu toáng lên, ngã ngửa về sau. Thực ra cô ta chỉ bị thương rất nhẹ, nhưng vì yêu quí dung mạo, chỉ thấy mặt đau nhói nên trong lòng đã sợ hết hồn. Võ Liệt giơ chưởng trái lên nhấn vào cô gái, cô gái nghiêng người qua, nghe leng keng một tiếng, trường kiếm trong tay đã chạm với kiếm của Vệ Bích. Ngay lúc đó, ngón tay trỏ bàn tay phải của Võ Liệt rung động, điểm trúng ngay huyệt Phục Thố và huyệt Phong Thị ở bên cạnh đùi. Cô gái hự lên một tiếng nhỏ, chân đứng không vững, quỵ ngay xuống trên mình Trương Vô Kỵ, chỉ thấy cả người nóng hổi, một chút hơi sức cũng không còn, muốn giơ một ngón tay cũng xem bằng nặng cả nghìn cân.
Võ Thanh Anh cầm trường kiếm lên, hậm hực nói:
- Xú a đầu, ta chẳng cho ngươi chết một cách yên lành, mà sẽ chặt hai chân hai tay ngươi bỏ đây cho sài lang đói ra ăn thịt.
Nói xong vung kiếm nhắm cánh tay phải cô thôn nữ chém xuống. Võ Liệt nói:
- Khoan đã.
Giơ tay chặn cổ tay con gái lại, đẩy nhát kiếm ra ngoài, nói với cô gái:
- Ngươi chịu nói ai là người xúi biểu ngươi, ta sẽ cho ngươi chết một cách nhanh chóng. Nếu không thì ha ha, ta nghĩ ngươi đứt cả tứ chi, trên mặt tuyết lăn lộn, không thích thú gì đâu.
Cô thôn nữ mỉm cười nói:
- Nếu các ngươi nhất định bắt ta nói, thì ta cũng không dấu diếm gì được nữa. Chu Cửu Chân cô nương muốn lấy một người kia, nhưng có một cô gái đẹp đẽ khác cũng muốn lấy gã đó, cô gái đẹp đó mới cho ta năm trăm lượng bạc, bảo ta đi giết Chu Cửu Chân. Việc này ta vẫn giữ cực kỳ bí mật ...
Nàng chưa nói hết câu, Võ Thanh Anh đã giận đến mặt tái mét, cổ tay phóng ra, đâm thẳng vào ngực cô gái.
Cô gái trông mặt đặt tên, đã đoán được phần nào cái liên hệ giữa ba người Võ Thanh Anh, Vệ Bích và Chu Cửu Chân. Nàng muốn khích cho Võ Thanh Anh nổi giận, chính vì muốn mượn tay cô ta đâm mình một kiếm chết ngay, chỉ thấy một luồng ánh sáng xanh lóe lên, trường kiếm đã đâm đến ngực rồi.
Ngay lúc đó, một vật vô thanh vô tức bay vụt tới, đụng ngay vào thanh kiếm, chỉ nghe cạch một tiếng nhỏ, trường kiếm đã bay vụt đi, qua đến mươi trượng mới rơi xuống đất. Trong đêm tối không ai nhìn rõ thanh kiếm của Võ Thanh Anh tuột khỏi tay thế nào, nhưng với kình đạo bay như thế, nếu bảo nàng ta tự tay dùng sức ném ra, cũng không thể nào xa đến thế được, hiển nhiên cô thôn nữ đã có cường viện đâu đây.
Sáu người cùng kinh hãi lùi lại mấy bước, quay đầu xem xét chung quanh. Cả bốn phía đều quang đãng, không có đá tảng hay cây cối gì có thể ẩn náu, cũng không thấy một bóng người nào, khiến cả sáu người đều ngơ ngẩn, kinh nghi bất định. Võ Liệt hạ giọng hỏi nhỏ:
- Thanh nhi, con sao vậy?
Võ Thanh Anh đáp:
- Hình như một loại ám khí nào thật lợi hại, bắn văng kiếm của con đi.
Võ Liệt đưa mắt nhìn bốn bề, quả thực không thấy một ai, hừ một tiếng, nói:
- Chắc là con a đầu này làm trò ma quỉ gì đây.
Trong bụng thấy kỳ quái, nghĩ thầm: "Rõ ràng con nhãi này đã bị trúng Nhất Dương Chỉ của ta rồi, làm sao còn hơi sức nào hất văng trường kiếm của Thanh nhi đi? Võ công của con a đầu này quả thật tà môn". Y mạnh bạo tiến tới, giơ chưởng đánh vào đầu vai trái của cô thôn nữ. Chưởng đó vận kình hùng mạnh, định đánh nát xương vai của cô gái, để cho cô ta không còn chút võ công nào, sau đó mới để cho con gái mình làm gì thì làm.
Cô gái thấy thể nào cũng nát vai nên giơ tay trái lên chống đỡ, song chưởng đụng nhau, ngực Võ Liệt thấy nóng ran, chưởng lực của đối phương chẳng khác nào cuồng phong sóng cả ào tới, thế mạnh không sao đương cự nổi, chỉ "A" lên một tiếng kinh hoàng, thân hình bay vọt về sau, nghe bình một tiếng đã rơi phịch xuống. Cũng may vì võ công của y cao cường, lưng vừa chạm phải mặt đất đã nhảy được lên, nhưng trong ngực máu huyết dồn lên, đầu váng mắt hoa, tuy đứng được nhưng vừa toan điều hòa hơi thở thì đã loạng choạng ngã gục xuống.
Vệ Bích và Võ Thanh Anh kinh hãi quá, vội vàng chạy đến đỡ lên. Bỗng nghe Hà Thái Xung nói:
- Để ông ta nằm một lát.
Võ Thanh Anh quay đầu lại, giận dữ nói:
- Ông nói sao?
Nghĩ thầm: "Cha ta bị địch nhân ám toán, ngươi còn hạnh tai lạc họa[6], đứng ngoài mỉa mai". Hà Thái Xung nói:
- Khí huyết đang bốc lên, nên nằm nghỉ tốt hơn.
Vệ Bích bấy giờ mới tỉnh ngộ, nói:
- Vâng.
Nhẹ nhàng để sư phụ nằm xuống đất. Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đưa mắt nhìn nhau, vẻ mặt kinh ngạc. Bọn họ đã từng động thủ với cô gái này, thấy cô ta chiêu số tinh diệu, quả thực có chỗ hơn người, nhưng nội lực cũng chỉ bình thường. Thế nhưng vừa rồi đối chưởng với Võ Liệt, rõ ràng thuộc loại nội lực hiếm có trên đời khiến họ không sao hiểu nổi.
Về phần cô gái trong lòng cũng kinh ngạc lạ lùng. Nàng bị Võ Liệt điểm huyệt rồi, nằm gục trong lòng Trương Vô Kỵ không sao cử động được, thấy Võ Thanh Anh múa kiếm chém xuống, bỗng dưng có vật gì ở đâu bay tới, đánh văng trường kiếm đi, tiếp theo là một luồng lực khí nóng hổi truyền vào hai đùi mình, thúc đẩy hai huyện Phục Thố và Phong Thị, lập tức giải ngay hai huyệt bị đóng. Cả thân hình nàng chấn động, cúi đầu nhìn xuống, thấy Trương Vô Kỵ hay tay nắm chặt hai mắt cá chân nàng, nhiệt khí theo huyệt Huyền Chung cuồn cuộn chảy vào thân thể. Việc đó biến chuyển thật nhanh, không kịp suy nghĩ, chưởng của Võ Liệt đã đánh xuống rồi. Nàng thuận tay giơ lên chống đỡ, nghĩ bụng thà để cổ tay gãy lìa, còn hơn để cho đầu vai nát vụn. Nào ngờ hai chưởng vừa đụng nhau, Võ Liệt bị chưởng của mình đánh văng ra xa hơn một trượng. Cô gái ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Không lẽ tên nhà quê xấu như ma này, lại là một đại cao thủ võ công không biết đâu mà lường ư?".
Hà Thái Xung bụng vẫn dè dặt, không muốn cùng cô ta tỉ thí chưởng lực, rút kiếm ra khỏi vỏ, nói:
- Để ta lãnh giáo kiếm pháp của cô nương.
Cô thôn nữ cười:
- Tôi làm gì có kiếm.
Vệ Bích nói:
- Được, ta cho ngươi mượn.
Y giơ thanh kiếm lên, mũi kiếm nhắm thẳng vào ngực cô ta, vận sức ném tới. Cô gái giơ tay chộp một cái, bắt được trong tay, cười nói:
- Võ công ngươi kém quá, giết chẳng nổi ta đâu.
Hà Thái Xung là chưởng môn của một môn phái, không muốn chiếm tiện nghi hơn người bề dưới, nói:
- Ngươi ra chiêu đi. Ta nhường ngươi ba chiêu rồi mới trả đòn.
Cô gái kia đâm một kiếm ra, nhắm thẳng vào bụng. Hà Thái Xung giận dữ hừ một tiếng, nói nhỏ:
- Tiểu bối vô lễ.
Giơ kiếm gạt ra. Chỉ nghe lách cách một tiếng, cả hai thanh kiếm cùng gãy làm đôi. Hà Thái Xung sắc mặt đại biến, thân hình loạng choạng, tự mình phải lùi lại nửa trượng. Cô thôn nữ kêu thầm: "Tiếc quá, tiếc quá".
Thì ra Trương Vô Kỵ đem Cửu Dương chân khí truyền vào cơ thể cô ta, nhưng cô ta lại không biết cách phát huy uy lực của thần công, kết quả hai thanh kiếm đều gãy cả. Nếu như biết cách công địch, thì chỉ binh khí của đối phương bị gãy, còn kiếm của cô ta trên tay vẫn không sao. Ban Thục Nhàn lạ lùng quá, hỏi nhỏ:
- Sao thế?
Hà Thái Xung cánh tay vẫn còn tê chồn, cười gượng đáp:
- Tà môn.
Ban Thục Nhàn rút xoẹt thanh kiếm, mặt sầm xuống nói:
- Để ta lãnh giáo.
Cô gái xòe hai tay, ý nói mình không có kiếm. Ban Thục Nhàn chỉ thanh kiếm của Võ Thanh Anh cách đó mươi trượng, quát lớn:
- Ra lấy kiếm kia mà dùng.
Cô gái đâu dám rời xa Trương Vô Kỵ, đành giơ thanh kiếm gãy trong tay, cười nói:
- Tôi dùng thanh kiếm gãy này cũng được rồi.
Ban Thục Nhàn cực kỳ giận dữ, nghĩ thầm: "Con a đầu chết tiệt này lớn lối quá, coi thường ta thật". Bà ta không như Hà Thái Xung giữ gìn thân phận tiền bối cao nhân, trường kiếm vung lên, chém ngay xuống cổ cô thôn nữ. Cô gái giơ thanh kiếm gãy lên gạt qua, nhưng kiếm pháp của Ban Thục Nhàn cực kỳ linh hoạt, đã chuyển qua chém vào vai bên trái. Thiếu nữ vội vàng múa kiếm chống đỡ, Ban Thục Nhàn liền chuyển qua đâm vào cạnh sườn, liên tiếp tám đường, thế như gió cuốn, trước sau vẫn không đụng vào kiếm của cô gái, phát huy sở trường của kiếm pháp không để cho đối phương có dịp thi triển nội lực.
Cô gái nghiêng trái né phải, lập tức gặp phải hung hiểm. Kiếm pháp của nàng vốn đã kém xa Ban Thục Nhàn, trên tay chỉ có nửa thanh kiếm gãy, hai chân lại không thể di động, biến thành thế chỉ thủ mà không công. Chiết thêm mấy chiêu nữa, kiếm của Ban Thục Nhàn đâm tới, nghe soẹt một tiếng đã vạch trên vai trái của cô gái một đường. Kiếm pháp của phái Côn Lôn khi thắng được một chiêu rồi, không để cho địch một giây phút nghỉ ngơi, tùy thế đi theo đánh ép tới, cô thôn nữ "A" lên một tiếng, đầu vai lại trúng thêm một kiếm nữa. Cô gái kêu lên:
- - Ủa, ngươi sao không giúp ta, cứ giương mắt đứng nhìn ta bị người ta giết à?
Ban Thục Nhàn lùi lại hai bước, vung kiếm lên che ngực, nhìn quanh bốn bề, không thấy một ai, lập tức trường kiếm rung động, mũi kiếm lấp lánh thành từng đóa hoa mai, lại tiến tới tấn công. Cô gái múa tít thanh kiếm gãy, gạt ra ba lần. Kiếm chiêu của đối phương thật thần tốc, nàng gạt ra cũng lẹ vô cùng, quả thật mắt sắc tay nhanh, chiêu nào cũng chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Ban Thục Nhàn khen ngợi:
- Con nhãi chết tiệt, tay ngươi nhanh lắm.
Cô thôn nữ cũng không chịu kém, chửi lại:
- Mụ già chết toi, tay mụ cũng chẳng chậm.
Thế nhưng Ban Thục Nhàn là kiếm thuật đại danh gia, tập luyện đã mấy mươi năm, miệng nói mà tay không chậm lại chút nào. Cô gái kia chỉ bất quá mười bảy mười tám, tuy đã được danh sư truyền thụ, nhưng làm sao bằng được cung cách của Ban Thục Nhàn? Vì bận nói chuyện nên hơi phân tâm, chỉ thấy cổ tay hơi tê nhức, nửa thanh kiếm gãy đã tuột khỏi tay bay vọt đi. Cô gái chỉ kịp kêu "A" lên một tiếng, thì kiếm của Ban Thục Nhàn đã đâm vào cạnh sườn.
Đinh Mẫn Quân từ trước tới nay vẫn đứng ngoài coi hai người giao đấu, bây giờ không bỏ lỡ dịp may, chưa kịp rút kiếm, vội dùng chiêu Thôi Song Vọng Nguyệt , hai tay cùng đánh vào lưng cô gái. Cũng khi đó, Võ Thanh Anh nhảy vọt tới, giơ chân đá vào bên hông của địch thủ. Cô gái sợ dường như tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bỗng thấy toàn thân nóng bừng như rơi vào lò lửa, thuận tay búng ngay vào thanh trường kiếm của Ban Thục Nhàn. Ngay khi đó, lưng cô ta đã bị chưởng, và hông cũng bị đá trúng. Chỉ nghe "Ối chao" và "Trời ơi" hai tiếng thảm thiết, cả Đinh Mẫn Quân và Võ Thanh Anh cùng bị bắn văng ra ngoài, còn thanh kiếm của Ban Thục Nhàn trên tay chỉ còn một nửa.
Thì ra Trương Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp, lập tức đem toàn thể chân khí trong cơ thể trút vào người cô gái. Cửu Dương thần công của y đã tu luyện đạt đến mức ba bốn thành công lực, uy lực không phải tầm thường, cho nên trường kiếm của Ban Thục Nhàn, hai cổ tay của Đinh Mẫn Quân, và mắt cá chân phải của Võ Thanh Anh đều gãy hết. Hà Thái Xung, Võ Liệt và Vệ Bích ba người kinh hãi đến há hốc mồm, đứng như phỗng đá. Ban Thục Nhàn cầm nửa thanh kiếm ném xuống đất, hậm hực nói:
- Đi thôi, trước mặt người ta thế chưa đủ xấu hay sao?
Y thị hầm hầm nhìn chồng, bao nhiêu bực tức trút cả lên đầu đấng trượng phu. Hà Thái Xung nói:
- Ừ.
Hai người sánh vai chạy thẳng, chỉ trong chốc lát đã đi thật xa, khinh công của phái Côn Lôn quả thực là một tuyệt kỹ trong võ lâm. Hà Thái Xung về nhà bị vợ phạt như thế nào, quả thực người ngoài không sao biết được.
Vệ Bích một tay đỡ sư phụ, một tay đỡ sư muội, chầm chậm bước đi. Ba người chỉ sợ cô gái thừa thắng đuổi theo, nhưng đâu có thể chạy nhanh được như vợ chồng Hà Thái Xung, nên mỗi bước lại lo một bước. Còn Đinh Mẫn Quân tuy hai cổ tay đã gãy nhưng chân không sao, cắn răng một mình bỏ chạy.
Cô thôn nữ cực kỳ đắc ý, cười ha hả, nói:
- Xú bát quái, ngươi ...
Đột nhiên nàng thấy ngộp thở, lăn ra bất tỉnh. Thì ra Trương Vô Kỵ thấy cả sáu kẻ đối đầu đã bỏ đi cả, nên rụt tay lại, bỏ gót chân cô ta ra. Cửu Dương chân khí trong người cô gái lập tức thoát hết, tất cả tứ chi và các khớp xương không còn chút hơi sức nào. Trương Vô Kỵ kinh hoảng nhưng hiểu ngay, hai ngón tay cái ấn nhẹ vào huyệt Ti Trúc Không ở tận cùng đuôi mày, hơi vận thần công, cô gái liền từ từ tỉnh lại.
Cô ta mở mắt ra, thấy mình nằm trong lòng Trương Vô Kỵ, thấy y đang nhìn mình cười hì hì, không khỏi thẹn thùng, vội nhỏm dậy, miệng tủm tỉm, lườm y một cái, đột nhiên giơ tay nắm tai trái của Trương Vô Kỵ véo mạnh, mắng:
- Anh nỡm này, đánh lừa tôi. Anh một thân võ công lợi hại như thế, sao không nói cho tôi biết?
Trương Vô Kỵ đau quá kêu lên:
- Ui cha, cô làm gì thế?
Cô thôn nữ cười khanh khách nói:
- Ai bảo anh lừa tôi?
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi có lừa cô bao giờ đâu, cô cũng đâu có cho tôi hay cô biết võ công, tôi cũng không cho cô hay tôi biết võ.
Cô gái nói:
- Được rồi, tôi tha cho anh một lần. Mới rồi anh có ra tay giúp tôi, lấy công chuộc tội, tôi cũng không trách phạt anh nữa. Chân anh đã đi được chưa?
Trương Vô Kỵ nói:
- Còn chưa được.
Cô gái thở dài nói:
- Đúng là lòng tốt được quả báo, nếu tôi không nghĩ tới anh đòi quay lại gặp anh một lần thì anh đâu có cứu tôi được.
Nàng ngừng lại một lát, nói tiếp:
- Nếu biết trước là tài nghệ anh hơn tôi gấp bội như thế, thì việc gì phải thay anh đi giết con quỉ a đầu Chu Cửu Chân làm gì.
Trương Vô Kỵ mặt sầm xuống, nói:
- Tôi có bảo cô đi giết cô ta bao giờ đâu.
Cô gái nói:
- Ối chà, ối chà. Hóa ra trong lòng anh vẫn không quên được cô gái xinh đẹp đó, tôi đâm ra chẳng ra gì, giết mất người trong mộng của anh.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chu cô nương đâu có phải là người trong mộng của tôi, cô ta đẹp hay xấu đâu có liên quan gì.
Cô gái ngạc nhiên:
- - Ỏa, thế thì lạ thật, cô ta làm hại anh thảm khốc như thế, tôi giết cô ta để cho anh hả dạ, hóa ra không phải hay sao?
Trương Vô Kỵ bình thản nói:
- Người hại tôi biết bao nhiêu mà kể, nếu người nào cũng giết đi cho hả tức, làm sao giết hết cho nổi. Huống chi có những người định bụng hại tôi nhưng thực sự chính họ cũng thật đáng thương. Chẳng hạn như Chu cô nương, cô ta ngày đêm phập phồng, chỉ sợ biểu huynh không còn yêu cô ta nữa, đổi ý lấy Võ cô nương làm vợ. Nếu như thế, cô ta có gì là sung sướng đâu?
Thiếu nữ giận dữ nói:
- Có phải anh nhạo báng tôi hả?
Trương Vô Kỵ ngẩn người, đâu ngờ mình nói chuyện Chu Cửu Chân lại làm cho cô gái này chạnh lòng, vội nói:
- Không, không đâu. Tôi chỉ nói mỗi người có cái bất hạnh riêng của mình. Người khác đối xử với cô không tốt, cô liền giết họ đi, như thế không được.
Cô gái cười khẩy:
- Thế anh học võ chẳng để giết người, thì học để làm gì?
Trương Vô Kỵ trầm ngâm, nói:
- Học võ cho giỏi, để kẻ xấu đến hại mình, mình có thể chống lại.
Cô thôn nữ nói:
- Thế thì phục anh thật, phục thật. Hóa ra anh là người chính nhân quân tử, tốt bụng quá đi mất.
Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn nhìn cô ta, xem thần tình cử chỉ của cô gái này, chàng lại cảm thấy cô ta đối với người có vẻ nhiệt tình, dễ thân thiết. Cô gái bĩu môi, hỏi lại:
- Anh nhìn gì tôi?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Mẹ tôi thường cười cha tôi là người tốt quá mức, một thư sinh cả tin người. Khi mẹ tôi nói chuyện, cung cách mồm miệng, chẳng khác gì cô.
Cô thôn nữ đỏ mặt, trách:
- Hứ, lại định ăn gian, nói tôi giống mẹ anh, còn anh thì giống cha anh phải không?
Tuy cô ta mở miệng trách móc, nhưng mắt lại ẩn một nụ cười. Trương Vô Kỵ vội nói:
- Thề với ông xanh, nếu tôi có bụng lợi dụng cô thì trời tru đất diệt.
Cô gái cười nói:
- Nói hơn nhau một câu, có đáng gì mà phải thề thốt ghê thế?
Vừa nói tới đây, vọng lại một tiếng người hú lên từ phía tây bắc, âm thanh trong trẻo và dài, đúng là tiếng đàn bà. Tiếp theo gần hơn có tiếng hú đáp lại, chính là tiếng của Đinh Mẫn Quân đang chạy chưa xa. Y thị nghe thấy lập tức dừng lại không chạy nữa. Cô gái sắc mặt hơi biến, hạ giọng nói:
- Phái Nga Mi lại có người đến nữa.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Có chép trong Thần Điêu Hiệp Lữ
[2] kinh tại hầu trung (kinh ở trong con khỉ) đọc theo tiếng Bắc Kinh là jing zai hou zhong và kim tại du trung (vàng ở trong dầu) đọc là jin zai you zhong rất gần nhau nhưng khi dịch ra Việt ngữ thì khó có thể hình dung được sự tương cận của hai câu này.
[3] A Ngưu nghĩa là thằng Bò, một cái tên hết sức bình dân, cũng như ta gọi cu Tí, cu Tèo.
[4] Thiết âm hay phiên thiết là lấy hai chữ đã biết rồi, mỗi chữ cắt đôi, lấy đầu chữ nọ nối với phần sau của chữ sau, hơi giống kiểu nói lái của Việt Nam. Thí dụ tương + nhiên (t -ương và nh - iên) thành tiên. Ở đây Trương + Ân đúng ra phải thành Trân nhưng tiếng Tàu, Trương đọc là zhang, còn Ân đọc là yin hay yan, phiên thiết thành zin, zan, đọc na ná giống chữ Tăng (zeng).
[5] Người cùng một cảnh ngộ (bệnh) thì dễ thương hại nhau
[6] thấy người khác bị tai họa thì vui
Kim Dung
Ỷ Thiên đồ long ký
Hồi 17
THANH DỰC XUẤT MỘT NHẤT TIẾU DƯƠNG
Cười vang trần thế khinh dời đổi,
Khóc vọng âm cung chuyển đất trời.
Trương Vô Kỵ và cô gái kia cùng nhìn về phía đông bắc, lúc này trời đã hừng sáng, thấy một bóng người màu lục phơi phới trên mặt tuyết chạy tới, đến cách khoảng mươi trượng, nhìn rõ là một cô gái mặc áo màu xanh nhạt. Cô ta nói với Đinh Mẫn Quân vài câu, đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ và cô thôn nữ, rồi chạy lại gần. Áo cô ta phất phới, thân pháp nhẹ nhàng, bước chân ngắn nhỏ nhưng chỉ giây lát đã chỉ còn cách hai người chừng năm trượng. Hình dáng cô gái thanh lệ tú nhã, mặt mày xinh đẹp, chỉ chừng mười bảy mười tám tuổi. Trương Vô Kỵ hơi lấy làm lạ, nghe tiếng hú và nhìn thân pháp tưởng cô ta phải hơn tuổi Đinh Mẫn Quân nhiều, nào ngờ so với mình còn nhỏ hơn mấy tuổi.
Cô gái nọ bên hông đeo một đoản kiếm, nhưng không rút binh khí ra, chỉ hai tay không đến gần hai người. Đinh Mẫn Quân lên tiếng cảnh cáo:
- Chu sư muội, con quỉ a đầu này công phu tà môn lắm đó.
Cô gái kia gật đầu, lên tiếng một cách văn vẻ:
- Xin được hỏi tôn tính đại danh của hai vị? Vì cớ gì lại đả thương sư tỉ của tôi?
Từ khi nàng ta đến gần, Trương Vô Kỵ đã thấy cô gái trông quen quen, nay nghe cô ta nói mới chợt nghĩ ra: "Thì ra nàng ta là cô gái con nhà thuyền chài mình một lần gặp trên sông Hán Thủy, Chu Chỉ Nhược cô nương. Thái sư phụ đưa cô ta lên núi Võ Đương sao bây giờ lại vào làm môn hạ phái Nga Mi?". Chàng trong ngực bỗng nóng ran, muốn hỏi thăm Trương Tam Phong vài câu xem gần đây thế nào, nhưng chợt nghĩ lại: "Trương Vô Kỵ đã chết rồi, ta lúc này là một gã nhà quê, một tên xú bát quái, Tăng A Ngưu. Nếu ta không biết nhịn một chút, họa hoạn sau này không biết đâu mà lường được. Ta không thể nào tiết lộ thân phận của mình, để khỏi liên lụy đến nghĩa phụ, cái chết của cha mẹ ta cũng khỏi uổng phí".
Cô thôn nữ cười khẩy, nói:
- Lệnh sư tỉ dùng chiêu Thôi Song Vọng Nguyệt, song chưởng đánh vào lưng ta, tự mình làm mình gãy cổ tay, sao lại trách người là sao? Cô hỏi lại lệnh sư tỉ xem tôi đã đánh cô ta nửa chiêu một thức nào chưa?
Chu Chỉ Nhược đưa mắt nhìn Đinh Mẫn Quân, ý muốn dò hỏi. Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:
- Ngươi đem hai người này đến gặp sư phụ, để cho lão nhân gia phát lạc là xong.
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Nếu như hai người này không có ý đắc tội với sư thư, theo ý tiểu muội, mình đổi thù thành bạn, bỏ qua là hơn.
Đinh Mẫn Quân giận quá, quát lên:
- Cái gì? Ngươi lại định tương trợ người ngoài ư?
Trương Vô Kỵ thấy bộ dạng của Đinh Mẫn Quân nghĩ đến năm xưa hòa thượng Bành Oánh Ngọc bị vây đánh trong rừng, Kỷ Hiểu Phù chỉ vì gạt kiếm của Đinh Mẫn Quân mà thành chuyện, bây giờ tái diễn chuyện bức bách sư muội, khiến chàng trong bụng không khỏi lo thầm cho Chu Chỉ Nhược.
Nào ngờ Chu Chỉ Nhược đối với Đinh Mẫn Quân hết sức tôn kính, khom lưng nói:
- Mọi việc tiểu muội đều nghe lời dặn bảo của sư thư, không dám cãi lại.
Đinh Mẫn Quân nói:
- Được, ngươi mau đến bắt con tiểu a đầu đó, đánh gãy hai tay nó cho ta.
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Vâng, xin sư thư đứng ngoài trông chừng tiếp ứng.
Nàng quay lại nói với cô thôn nữ:
- Tiểu muội vô lễ, xin được lãnh giáo cao chiêu của thư thư.
Cô thôn nữ cười khẩy đáp:
- Việc gì phải lắm lời quá vậy?
Nàng nghĩ thầm: "Bộ tưởng ta sợ một tiểu cô nương như ngươi sao". Nàng không cần phải Trương Vô Kỵ tương trợ, nhảy vọt ra, nhanh như điện chớp đánh ra liền ba chưởng. Chu Chỉ Nhược né mình tiến tới, tay trái sử dụng cầm nã, lấy công làm thủ, chiêu số cũng khá xảo diệu.
Trương Vô Kỵ nội lực tuy cao cường nhưng chiêu số võ thuật chưa dung hợp quán thông, thấy Chu Chỉ Nhược và cô gái hai người lấy nhanh chống nhanh, Miên Chưởng của phái Nga Mi linh hoạt nhanh nhẹn, còn chưởng pháp của cô gái thì kỳ diệu cổ quái. Chàng coi lấy làm bội phục nhưng lại lo lắng, không biết phải mong ai thắng, chỉ cầu cả hai không ai bị thương.
Hai nàng đấu đến hơn hai chục chiêu thì đã bắt đầu hung hiểm, nghe thấy cô thôn nữ kêu lên một tiếng "Trúng", tả chưởng đã chém trúng đầu vai Chu Chỉ Nhược. Tiếp theo nghe soạt một tiếng, Chu Chỉ Nhược đã xoay tay lại xé rách một nửa cánh tay áo của địch thủ. Hai người cùng nhảy ra ngoài, mặt hơi đỏ lên. Cô thôn nữ kêu lên:
- Hảo cầm nã thủ.
Đang định tiến lên, bỗng thấy Chu Chỉ Nhược nhíu đôi lông mày, ôm ngực, thân hình loạng choạng, lao đao muốn ngã. Trương Vô Kỵ mặt lo lắng, nhịn không nổi kêu lên:
- Cô ... cô ...
Chu Chỉ Nhược thấy thanh niên râu tóc thậm thượt này rất quan tâm đến mình, trong lòng hơi ngạc nhiên. Đinh Mẫn Quân hỏi:
- Sư muội, ngươi sao thế?
Chu Chỉ Nhược tay trái bám lấy vai sư tỉ, lắc đầu. Đinh Mẫn Quân đã có kinh nghiệm với cô gái này, biết cô ta rất ghê gớm, chỉ vì sư phụ vẫn thường khen ngợi tiểu sư muội, nói nàng ngộ tính rất cao, tiến bộ thật nhanh chóng, bản phái mai sau phát dương quang đại, quá nửa là ở nơi cô nàng, Đinh Mẫn Quân trong lòng không phục, nên gọi nàng đến thử xem sao, chỉ mong sao cô ta cũng phải khổ như mình. Bây giờ thấy Chu Chỉ Nhược đấu với cô thôn nữ kia đến hơn hai chục chiêu mới thua, hơn mình xa lắc, trong bụng có phần đố kỵ, thấy tay nàng bám đầu vai mình không chút khí lực nào, mới biết sư muội bị thương không phải nhẹ, sợ cô thôn nữ tiến lên truy kích, vội nói:
- Thôi mình đi.
Hai người vội dìu nhau đi về phía đông bắc.
Cô thôn nữ nhìn thấy thần sắc của Trương Vô Kỵ, cười nhạt nói:
- Người đâu vừa thấy con nhỏ đó xinh đẹp là hồn vía lên mây rồi.
Trương Vô Kỵ toan lên tiếng giải thích, chợt nghĩ ra: "Nếu mình không thổ lộ thân thế, việc này không sao nói cho minh bạch được, chi bằng không nói là hơn" liền nói:
- Cô ta đẹp hay không đẹp, có liên quan gì đến tôi? Tôi lo là lo cho cô, sợ cô bị thương.
Cô thôn nữ nói:
- Anh nói có thật hay không đó?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Mình lo cho cả hai cô" nên nói:
- Tôi nói dối cô làm gì? Không ngờ phái Nga Mi có một cô còn nhỏ tuổi mà võ công lại khá đến thế.
Cô gái đáp:
- Lợi hại thật. Lợi hại thật.
Trương Vô Kỵ nhìn theo Chu Chỉ Nhược, thấy nàng lúc tới nhanh nhẹn, lúc đi chậm chạp từng bước, nghĩ tới năm xưa trên sông Hán Thủy, nàng đút cho mình ăn ở trên thuyền, lại cho mình cái khăn lau nước mắt, trong bụng chỉ mong sao nàng không bị thương nặng. Cô thôn nữ bất ngờ cười khẩy nói:
- Anh không phải quan tâm, cô ta không bị thương đâu mà sợ. Tôi nói cô ta lợi hại, không phải bảo võ công, mà vì nàng tuổi còn nhỏ thế, tâm kế đã lợi hại như vậy.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên:
- Cô ta không bị thương?
Cô thôn nữ đáp:
- Chứ sao. Chưởng của tôi chém trúng vai cô ta, trên đầu vai liền phát sinh nội lực, hất tay tôi ra. Thì ra cô nàng đã luyện Cửu Dương công của phái Nga Mi, khiến chấn động tay tôi hơi ê ẩm. Như thế cô ta bị thương sao được?
Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm: "Thì ra Diệt Tuyệt sư thái đã để mắt xanh vào nàng, đem môn trấn sơn chi bảo của môn phái là Nga Mi Cửu Dương Công truyền cho". Cô thôn nữ bất ngờ lật tay, tát trái cho Vô Kỵ một cái thật mạnh. Cú đánh thật bất ngờ, chàng không phòng bị, một bên má lập tức sưng đỏ lên. Chàng giận dữ nói:
- Cô ... cô làm gì thế?
Cô thôn nữ hậm hực nói:
- Vừa thấy con gái nhà người ta được mắt một chút là hồn vía đã để đâu đâu. Tôi vừa nói cô ta không bị thương, sao mặt anh liền nhơn nhơn như thế là sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi mừng cho cô ta, thế có liên quan gì đến cô?
Cô gái lại giơ tay đánh nữa, nhưng lần này Vô Kỵ hạ đầu xuống, để tay nàng lướt qua. Cô gái nổi cáu, nói:
- Ngươi đã nói là bằng lòng lấy ta làm vợ rồi. Câu đó nói ra chưa được nửa ngày, nay đã tơ tưởng người khác, muốn đi kiếm người khác đẹp hơn rồi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Thì chính cô đã bảo tôi không xứng, lại nói trong lòng đã có tình lang, không thể nào lấy tôi được.
Cô gái nói:
- Đúng thế, nhưng anh cũng đã bằng lòng, từ nay đối đãi với tôi tử tế, lo liệu cho tôi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi đã nói thì tôi sẽ giữ lời.
Cô gái giận dữ:
- Thế sao vừa mới thấy con gái đẹp, anh đã xiêu hồn lạc phách, làm người ta không lộn ruột sao được?
Trương Vô Kỵ cười:
- Tôi làm gì mà xiêu hồn lạc phách?
Cô thôn nữ đáp:
- Tôi không cho anh được thích cô ta, cũng không được nghĩ đến cô ta.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi nào có thích cô ta. Thế nhưng trong bụng cô được nghĩ đến người khác, không lúc nào quên thì sao?
Cô thôn nữ đáp:
- Tôi biết người đó từ trước rồi. Nếu như tôi biết anh trước, thì suốt đời tôi chỉ nghĩ đến một mình anh thôi, tôi không nghĩ tới một ai khác cả, cái đó gọi là "tòng nhất nhi chung". Còn người nào ba lòng bốn dạ, thì trời cũng không dung được.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ta biết cô nương họ Chu này trước cô nhiều". Thế nhưng chàng không dám thốt ra câu đó, chỉ nói:
- Nếu cô chỉ biết một mình tôi, thì tôi cũng chỉ biết một mình cô. Còn nếu bụng cô nghĩ đến người khác, thì tôi cũng nghĩ đến người khác.
Cô thôn nữ trầm ngâm một hồi, mấy lần toan nói nhưng lại thôi, đột nhiên mắt rưng rưng, quay đầu sang chỗ khác để cho Trương Vô Kỵ khỏi thấy, giơ tay gạt lệ. Trương Vô Kỵ trong lòng cảm thấy bất nhẫn, nhẹ nhàng cầm tay nàng, dịu dàng nói:
- Thôi mình không nói chuyện đó nữa, đợi thêm vài ngày, vết thương trên đùi tôi khỏi rồi, hai đứa mình sẽ đưa nhau đi chơi, có phải hơn không?
Cô thôn nữ quay đầu lại, mặt buồn rầu, nói:
- A Ngưu ca ca, em xin anh một việc, anh đừng giận nhé.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chuyện gì? Nếu sức tôi làm được, tôi sẽ làm cho cô.
Cô gái nói:
- Anh phải hứa không giận, em mới nói.
Trương Vô Kỵ nói:
- Được rồi, tôi không giận.
Cô thôn nữ chần chừ một hồi, nói:
- Miệng anh nói không giận, nhưng trong lòng cũng phải không giận mới được.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cũng được, trong lòng tôi cũng không giận.
Cô gái giơ tay nắm lấy tay y, nói:
- A Ngưu ca ca, em từ Trung Nguyên đi hàng vạn dặm đến Tây Vực, cũng chỉ để kiếm y. Lúc trước còn nghe vài điểm tung tích, nhưng đến bây giờ, mọi sự như ném hòn sỏi vào trong biển cả, không còn nghe chút gì về y nữa. Bao giờ chân anh lành, anh giúp em đi tìm y, sau đó em sẽ theo anh di du sơn ngoạn thủy, được không?
Trương Vô Kỵ không thể không bực dọc, hừ một tiếng. Cô thôn nữ nói:
- Anh đã bằng lòng không giận em mà, sao bây giờ lại khó chịu?
Trương Vô Kỵ không còn cách nào hơn, nói:
- Được, tôi giúp cô đi tìm y.
Cô gái mừng rỡ, nói:
- A Ngưu ca, anh tốt quá.
Nàng nhìn về phía chân trời, trong lòng xao xuyến, nhỏ nhẹ nói:
- Khi mình tìm thấy anh ấy rồi, anh ấy sẽ nghĩ đến công lao em đi tìm lâu như thế, sẽ không giận em nữa. Anh ấy bảo gì, em sẽ nhất nhất nghe theo.
Trương Vô Kỵ nói:
- Kẻ tình lang của cô có gì hay khiến cô ghi nhớ y mãi không quên vậy?
Cô thôn nữ mỉm cười:
- Y có gì hay, làm sao em nói được? A Ngưu ca, anh liệu mình có tìm thấy anh ấy không? Liệu gặp em anh ấy có đánh mắng em không?
Trương Vô Kỵ thấy nàng si tình như thế không khỏi thương tâm, hạ giọng an ủi:
- Không đâu, anh ta không đánh chửi cô đâu.
Chiếc miệng anh đào của cô gái hé một nụ cười, đôi mắt long lanh, cũng nói nhỏ:
- Đúng đó, anh ấy sẽ yêu em, thương em, không đánh mắng em đâu.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cô nương này đối với tình lang si tâm đến thế, nếu ở trên đời có một người quan hoài mình, nhớ nhung mình thế này, thì dù mình có phải chịu đau khổ đến bao nhiêu cũng vẫn còn sướng".
Chàng nhìn hai hàng vết chân của Chu Chỉ Nhược và Đinh Mẫn Quân để lại trên mặt tuyết, nghĩ thầm: "Nếu như vết chân của Đinh Mẫn Quân kia mà là vết chân mình, mình được cùng Chu cô nương sánh vai mà đi ..."
Cô thôn nữ đột nhiên kêu lên:
- Ôi chao, chạy mau, để lâu thêm e không kịp nữa.
Trương Vô Kỵ đang mơ màng chợt choàng dậy, hỏi:
- Cái gì?
Cô gái đáp:
- Cô gái của phái Nga Mi không chịu hết sức đấu với tôi, giả vờ bị thương đi khỏi. Thế nhưng Đinh Mẫn Quân lúc nào cũng đòi bắt tôi đến cho sư phụ của họ, Diệt Tuyệt sư thái chắc ở đâu đây. Lão tặc ni đó cực kỳ hiếu thắng, lẽ nào không đến?
Trương Vô Kỵ nghĩ đến việc Diệt Tuyệt sư thái một chưởng đánh chết Kỷ Hiểu Phù tàn nhẫn là chừng nào, không khỏi e ngại, sợ hãi nói:
- Lão tặc ni đó ghê gớm lắm, bọn mình không phải là đối thủ của bà ta đâu.
Cô thôn nữ hỏi lại:
- Anh đã gặp bà ta rồi ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chưởng môn phái Nga Mi, đâu phải tầm thường? Tôi đi lại chưa được, cô mau chạy đi.
Cô thôn nữ giận dữ nói:
- Hừ, sao tôi lại không lo cho anh bỏ chạy một mình? Bộ anh tưởng lương tâm tôi tồi tệ thế sao?
Nàng nhíu mày suy nghĩ một chốc, đi nhặt những thanh củi chắc chắn, dùng cành mềm bện thành dây thừng, buộc lại thành một cái xe trượt tuyết, bế Trương Vô Kỵ lên nằm duỗi thẳng hai chân trên cái xe trượt, kéo chạy về hướng tây.
Cô ta chạy không ngừng, phải đến ba bốn chục dặm. Trương Vô Kỵ trong lòng không nỡ, gọi:
- Này, nghỉ một lát đi.
Cô thôn nữ cười:
- Sao lại này với chẳng không này, bộ tôi không có tên hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cô chưa nói tên, làm sao tôi biết được? Cô muốn tôi gọi là "Xú cô nương" nhưng tôi thấy cô dễ coi lắm.
Cô thôn nữ cười rộ lên, khí lực tiết hết, nên liền đứng lại, giơ tay vuốt tóc, nói:
- Được rồi, nói cho anh biết cũng chẳng hề gì, tên tôi là Châu Nhi[1].
Trương Vô Kỵ nói:
- Châu Nhi, Châu Nhi, trân châu bảo cụ nhi[2].
Cô thôn nữ đáp:
- Không, không phải chữ châu là trân châu, mà là độc tri châu[3] đó.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Đời nhà ai lại dùng chữ "nhện" làm tên bao giờ". Châu Nhi đáp:
- Tên tôi như thế đó, nếu anh sợ, thì đừng gọi nữa.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Thế cha cô đặt tên đó đấy ư?
Châu Nhi đáp:
- Hừ, nếu cha tôi đặt tên đó, anh tưởng tôi sẽ chịu hay sao? Đó là mẹ tôi đặt đó. Bà dạy tôi luyện môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ[4] nên bảo tôi dùng tên này.
Trương Vô Kỵ nghe nói đến Thiên Châu Vạn Độc Thủ không khỏi lạnh người. Châu Nhi nói tiếp:
- Tôi luyện từ khi còn nhỏ nhưng còn lâu mới thành. Đợi lúc tôi luyện xong rồi thì không còn sợ gì Diệt Tuyệt lão tặc ni nữa. Anh có muốn xem không?
Nói xong nàng lấy từ trong bọc ra một cái hộp bằng vàng sáng choang, mở nắp, trong hộp có hai con nhện to bằng ngón tay cái đang ngọ nguậy. Hai con nhện này trên lưng có hoa văn vàng lấp lánh. Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, nhớ lại trong Độc Kinh của Vương Nạn Cô có chép: "Nhện nào trên lưng có hoa văn lấp lánh là loại cực độc, cắn người rất khó giải cứu" khiến trong bụng không khỏi e dè.
Châu Nhi thấy chàng mặt mày nghiêm trọng, cười nói:
- Thì ra anh cũng biết được giá trị con nhện quí của tôi. Anh đợi một lát.
Nói xong phi thân nhảy lên trên một cây cao, nhìn chung quanh bốn bề xem xét địa thế rồi nhảy xuống nói:
- Mình phải đi thêm một quãng nữa, chuyện con nhện để tính sau.
Nàng lại kéo cái xe trượt tuyết chạy thêm bảy tám dặm nữa, đến bên cạnh một sơn cốc, đỡ Trương Vô Kỵ ra khỏi cái xe, sau đó chất lên mấy khối đá, kéo chiếc xe chạy về phía vực sâu. Nàng chạy đến bên bờ bèn nhảy vọt ra, chiếc xe cùng mấy khối đá lao luôn xuống vực thẳm, tiếng nổi ầm ầm hồi lâu chưa dứt. Trương Vô Kỵ nhìn lại thấy trên mặt tuyết chiếc xe trượt để lại một ngấn dài ngoằn nghèo chạy đến tới bờ vực mới thôi, nghĩ thầm: "Cô gái này tâm tư chu đáo, Diệt Tuyệt sư thái nếu theo vết xe đuổi theo, ắt hẳn cho rằng bọn mình đã rơi xuống vực rồi, mất tăm tích đến xác cũng không thấy".
Châu Nhi khom người xuống nói:
- Anh bám lấy lưng tôi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cô định cõng tôi chạy à? Có phiền quá không?
Châu Nhi lườm chàng một cái, nói:
- Tôi phiền hay không phiền, bộ tôi không biết hay sao?
Trương Vô Kỵ không dám hỏi thêm, liền nằm phục trên lưng cô gái, nhè nhẹ ôm cổ cô ta. Châu Nhi cười nói:
- Bộ anh sợ ôm tôi chết hay sao? Làm gì mà rón ra rón rén, làm cho người ta nhột muốn chết.
Trương Vô Kỵ thấy nàng đối với mình không chút tị hiềm, trong lòng sung sướng, hai tay vội ôm chặt. Châu Nhi đột nhiên nhảy lên, cõng luôn cả chàng phi thân lên cây.
Hàng cây đó mọc một dãy về hướng tây, Châu Nhi nhảy từ cây này sang cây khác, nàng thân thể bé nhỏ, còn Trương Vô Kỵ cao to, nhưng bộ pháp vẫn nhanh nhẹn, không tỏ ra mỏi mệt chút nào. Nhảy một lúc bảy tám chục cây thì đến bên cạnh một vách núi, bấy giờ mới nhảy xuống, nhẹ nhàng để chàng nằm dưới đất, cười nói:
- Mình làm cái chuồng bò ở chỗ này được rồi.
Trương Vô Kỵ lạ lùng:
- Chuồng bò? Làm chuồng bò làm gì?
Châu Nhi cười đáp:
- Để cho con bò mộng ở, anh không phải tên A Ngưu hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cái đó không cần thiết. Độ vài ngày nữa, chỗ gãy chân liền lại hoàn toàn. Đúng ra lúc này nếu gượng mà đi thì cũng được rồi.
Châu Nhi nói:
- Hừ, gượng mà đi. Đã là một tên xú bát quái, cái chân bò lại khập khiễng nữa, tưởng dễ coi lắm hay sao?
Nói xong cô ta bẻ một cành cây, quét sạch tuyết bên cạnh vách núi. Trương Vô Kỵ nghe thấy câu "Cái chân bò lại khập khiễng nữa, tưởng dễ coi lắm hay sao?" đủ biết nàng đầy quan thiết, không khỏi chạnh lòng. Chàng nghe cô gái hát nho nhỏ, bẻ cành cây gác lên hai khối đá làm mái, chẳng mấy chốc có được một cái nhà nho nhỏ đủ để dung thân, mái bằng tranh, tường bằng đá, trông cũng dễ coi. Châu Nhi làm cái nhà xong rồi liền ôm từng khối tuyết chất lên trên mái, hì hục cả nửa ngày đến khi ngoài nhìn vào không thấy chút dấu vết gì mới chịu ngừng tay.
Nàng lấy khăn tay ra lau những giọt mồ hôi trên mặt, nói:
- Anh chờ ở đây, tôi đi kiếm cái gì ăn.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi cũng không đói lắm, cô mệt lắm rồi, ngồi nghỉ một lát rồi hãy đi.
Châu Nhi đáp:
- Nếu anh đối xử tốt với tôi, thực lòng tốt thì nói ngọt đầu môi chót lưỡi có ích gì?
Nói xong lẹ làng chạy vào rừng. Trương Vô Kỵ ngồi trên phiến đá, nghĩ đến Châu Nhi ăn nói nhu mì, cử chỉ nhanh nhẹn, phong phạm không khác gì một mỹ nhân tuyệt sắc, nhưng khuôn mặt sao lại quá ư xấu xí, nghĩ đến mẹ chàng khi lâm chung có nói: "Phải đề phòng đàn bà lừa dối, đàn bà càng đẹp, lừa người càng giỏi". Châu Nhi tướng mạo tuy không đẹp nhưng đối với ta tốt biết bao, ta mong được người như nàng sống với nhau suốt đời, có điều trong lòng nàng đã có tình lang không để ý đến ta nữa.
Y suy nghĩ vẩn vơ, tâm niệm nhấp nhô như sóng biển, chẳng bao lâu thấy Châu Nhi xách hai con gà rừng về, nhóm lửa lên nướng, ăn thật là ngon. Trương Vô Kỵ ăn một con hết sạch, xem chừng chưa đủ. Châu Nhi cười thầm đem hai cái đùi gà là chỗ ngon nhất nàng để dành, cắt ra từ con gà phần của mình thẩy cho chàng. Trương Vô Kỵ định từ chối, Châu Nhi giận nói:
- Anh còn thèm thì cứ ăn, tôi đâu cần anh phải giả vờ đãi bôi, nói một đằng bụng dạ một nẻo. Anh làm thế tôi lấy dao khoét trên người anh ba cái lỗ bây giờ.
Trương Vô Kỵ không dám nói thêm, cầm gà ăn nốt. Hai mép chàng dính đầy mỡ, nhặt một nắm tuyết dưới đất lên chùi mặt rồi lấy tay áo ra lau.
Châu Nhi quay đầu lại thấy chàng dùng tuyết chùi mặt, không khỏi bần thần, trân trân nhìn chàng. Trương Vô Kỵ thấy nàng nhìn mình như thế, hỏi:
- Có gì không?
Châu Nhi nói:
- Anh bao nhiêu tuổi?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Hai mươi mốt.
Châu Nhi nói:
- Ồ, thế ra anh chỉ hơn tôi có ba tuổi. Thế sao anh để râu ria dài thế?
Trương Vô Kỵ cười đáp:
- Tôi ở một mình nơi hoang sơn thâm cốc, không gặp người nên cũng chẳng nghĩ đến chuyện cạo râu.
Châu Nhi lấy trong người ra một con dao nhỏ, cán bằng vàng, đè mặt chàng xuống từ từ cạo sạch râu ria. Trương Vô Kỵ chỉ thấy lưỡi dao cực kỳ sắc bén, cạo đến đâu râu rơi tới đó, những ngón tay nàng lại mềm mại lạ thường, khi sờ vào mặt chàng không khỏi bỗng dưng động lòng. Con dao nhỏ dần dần cạo xuống tới cổ, Châu Nhi cười nói:
- Tôi chỉ rạch một cái ngay cổ họng là mạng anh ô hô ai tai ngay, có sợ không?
Trương Vô Kỵ cười đáp:
- Chết dưới bàn tay ngọc của cô nương, thành quỉ cũng sướng.
Châu Nhi lật lưỡi dao, dùng sống đao nhấn vào cổ chàng một đường, quát lên:
- Để cho ngươi thành một con quỉ khoái hoạt này.
Trương Vô Kỵ sợ giật nảy người, nhưng cô nàng ra tay quá nhanh, dao lại cận kề, đến khi biết được thì dao đã cứa xuống, hoàn toàn không một chút phản kháng nào. Tuy nhiên Cửu Dương thần công trong thân thể lập tức sinh ra một lực đẩy ra, hất con dao đi, bấy giờ mới biết Châu Nhi chỉ dùng sống dao mà cắt.
Châu Nhi tay giật một cái, kêu lên:
- Ái chà.
Lập tức cười khanh khách nói:
- Có sướng không?
Trương Vô Kỵ vừa cười vừa gật đầu. Chàng vốn là người phác thực, không hiểu sao ở gần Châu Nhi chàng cảm thấy thoải mái, tiêu dao tự tại, tưởng chừng như hai người đã sống với nhau từ nhỏ, nên nhịn không nổi phải nói đùa vài câu.
Châu Nhi cạo râu cho chàng xong, tần ngần nhìn một hồi, đột nhiên thở dài một tiếng. Trương Vô Kỵ hỏi:
- Có gì không?
Châu Nhi không trả lời, lại cắt bớt tóc cho chàng, bới thành một búi tóc gọn ghẽ, dùng cành cây gọt một cái trâm cắm lên búi tóc. Chàng chải đầu xong, tuy y phục vẫn lam lũ ghê gớm, vừa nhỏ vừa chật như đồ ăn trộm, nhưng thần thái oai nghi, một tên xú bát quái biến ngay thành một thanh niên anh tuấn. Châu Nhi lại thở dài một tiếng nói:
- Không thể nào tưởng tượng nổi, thì ra anh trông đẹp trai đến thế.
Trương Vô Kỵ biết nàng tủi thân vì mình xấu xí liền nói:
- Tôi cũng có gì đẹp trai đâu. Nói cho cùng, vật cực đẹp trên thế gian này luôn luôn có ẩn một cái cực xấu. Con công lông nó đẹp biết bao, nhưng mật nó lại cực độc, con hạc cái mào đỏ chót, trông thật đẹp, nào ngờ đó là độc dược lợi hại ghê gớm. Các loại rắn rết côn trùng, vật gì càng đẹp thì càng nhiều độc tính. Hai con nhện của cô trông chả đẹp à? Con người ta tướng mạo đẹp xấu có là gì đâu, cần tâm địa thiện lương mới đáng kể.
Châu Nhi cười nhạt nói:
- Tâm địa thiện lương tốt ở chỗ nào, anh nói tôi nghe thử.
Trương Vô Kỵ nhất thời không trả lời được, ngẩn người ra rồi nói:
- Tâm địa thiện lương thì không làm hại người khác.
Châu Nhi hỏi thêm:
- Không làm hại người thì tốt ra làm sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- - Mình không làm hại người thì trong lòng vui vẻ bình an, làm việc gì cũng trong sáng.
Châu Nhi đáp:
- Tôi không hại người thì không thấy sung sướng, làm sao hại người khác càng thảm thiết thì trong lòng mới bình an khoái lạc, mới thấy yên tâm.
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
- Cô nói thế là nói lấy được đó thôi.
Châu Nhi cười khẩy:
- Nếu tôi không để hại người thì luyện môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ này làm gì? Tự mình phải chịu không biết bao nhiêu khổ sở, chẳng lẽ để chơi thôi sao?
Nói xong ngồi xếp bằng vận một lượt nội công, lấy cái hộp vàng trong bọc ra, mở nắp thò hai ngón tay trỏ vào trong hộp.
Hai con nhện hoa từ từ bò lại, chia nhau cắn hai đầu ngón tay. Nàng hít một hơi dài, hai tay hơi run, tiềm vận nội lực chống lại nọc độc của con nhện. Loài nhện hoa này hút máu của nàng để sống nhưng huyết mạch ở đầu ngón tay Châu Nhi cũng vận chuyển mang chất độc của con nhện vào người.
Trương Vô Kỵ thấy mặt nàng hết sức trang nghiêm, đồng thời ở giữa hai lông mày và hai bên mang tai có một làn hắc khí mờ mờ, hai hàm răng cắn chặt, hết sức chịu đựng nỗi đau đớn. Một lúc sau, đầu mũi nàng toát ra từng hạt mồ hôi lấm tấm. Công phu đó nàng luyện chừng nửa giờ, hai con nhện hút máu no, bụng căng tròn như trái cầu, lúc đó mới nhả ra nằm ngay đơ trong hộp.
Châu Nhi lại vận công một hồi, hắc khí trên mặt lui dần, huyết sắc quay trở lại, thở ra một hơi dài. Trương Vô Kỵ ngửi vào chỉ thấy một mùi thơm ngọt, nhưng lập tức thấy chóng mặt, dường như hơi nàng thở ra có chất kịch độc. Châu Nhi mở mắt ra, mỉm cười.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Phải luyện đến chừng nào mới gọi là hoàn toàn thành công?
Châu Nhi nói:
- - Cứ mỗi con nhện hoa thân mình từ hoa biến thành đen, từ đen biến thành trắng thì hết chất độc mà chết, bao nhiêu chất độc trong người con nhện truyền cả vào ngón tay tôi. Ít nhất phải luyện khoảng một trăm con nhện hoa mới là tiểu thành. Còn công phu muốn cho sâu thì phải một nghìn, hai nghìn con cũng chưa phải là nhiều.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nói thế, không khỏi nổi gai ốc, hỏi:
- Lấy đâu ra nhiều nhện thế?
Châu Nhi đáp:
- Một mặt phải nuôi, nó cũng sinh ra nhện con, mặt khác phải vào những nơi có nhện để bắt.
Trương Vô Kỵ thở dài:
- Võ công trong thiên hạ nhiều biết bao nhiêu, việc gì phải luyện môn công phu độc địa này làm gì. Chất độc của loài nhện thật là mãnh liệt, hút vào cơ thể rồi, dù cô có phương pháp đề ngự, nhưng về lâu về dài thể nào cũng có chuyện không hay.
Châu Nhi cười nhạt nói:
- Dĩ nhiên là trong thiên hạ có nhiều loại võ công rồi nhưng không có môn công phu nào sánh kịp với môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ cả. Anh đừng tự thị mình nội công cao siêu, môn công phu của tôi mà luyện thành, cũng chịu không nổi một ngón tay của tôi đâm trúng đâu.
Nói xong nàng ngưng khí vào ngón tay, tiện thể đâm luôn vào một gốc cây. Tuy nhiên công lực của nàng còn non nớt chỉ đâm lõm vào chừng nửa tấc. Trương Vô Kỵ hỏi thêm:
- Sao mẹ cô lại dạy cho cô luyện môn công phu này? Bà ấy cũng luyện thành rồi ư?
Ánh mắt Châu Nhi đột nhiên nảy ra những tia sáng hung dữ, hậm hực đáp:
- Luyện môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ này có điều từ hai chục con nhện hoa trở đi thì chất độc trong cơ thể tích tụ đã nhiều, dung mạo bắt đầu biến đổi. Đến khi luyện xong một nghìn con, mặt mũi sẽ xấu xí vô cùng. Mẹ tôi vốn đã luyện đến gần một trăm con thì gặp cha tôi, sợ mặt mũi mình biến thành xấu xí cha tôi không yêu thương nữa, bèn đem hết công phu của mình bao nhiêu hủy đi cả, trở lại một thiếu nữ bình thường trói gà không chặt. Tuy mặt mũi mẹ tôi xinh đẹp trở lại, nhưng khi bị dì hai và hai anh tôi lăng nhục, mẹ tôi không còn một chút tài nghệ gì để chống trả hết, nên đến nỗi phải chết. Ôi, mặt mũi xinh đẹp có ích lợi gì đâu. Mẹ tôi là một người thật xinh đẹp, thật tú nhã, chỉ vì lớn tuổi không con trai, cha tôi liền đi lấy thêm vợ bé ...
Trương Vô Kỵ liền đảo mắt nhìn nàng một cái, khẽ giọng:
- Thì ra ... thì ra vì cô luyện môn công phu đó ...
Châu Nhi nói:
- Đúng thế, chính vì tôi luyện môn công phu này, nên mặt mới bị nhiễm độc thành ra như thế. Ôi, nếu gã tham tâm kia không ngó ngàng đến tôi, đợi tôi luyện xong môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ rồi, sẽ đi tìm y, nếu y không có người đàn bà nào khác thì thôi ...
Trương Vô Kỵ ngắt lời:
- Nhưng cô đã cùng y thành hôn đâu, chưa có ước hẹn răng long đầu bạc, chỉ mới ... chỉ mới ...
Châu Nhi nói:
- Muốn gì thì cứ nói thẳng ra, ấp úng cái gì ? Có phải anh nói chỉ mới có mình tôi nhớ nhung y, phải không nào? Đơn tương tư thì đã sao? Tôi đã yêu anh ta thì không để cho y được yêu một ai khác. Nếu y phụ tâm bạc hãnh tôi sẽ cho y nếm mùi Thiên Châu Vạn Độc Thủ.
Trương Vô Kỵ mỉm cười, không tranh biện với cô ta nữa, nghĩ thầm tâm tình cô này thật lạ lùng, tốt thì thật tốt, mà khi nổi cơn lên thì chẳng kể gì phải trái. Chàng nhớ đến thái sư phụ, cùng đại sư bá, nhị sư bá thường nói về việc phân biệt chính tà trong võ lâm, xem ra cô ta luyện môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ này ắt hẳn là một môn cực kỳ tàn độc của tà môn, mẹ cô ấy cũng phải trong bọn yêu tà. Nghĩ đến chuyện đó, chàng không khỏi dè dặt đề phòng cô ta thêm mấy phần.
Châu Nhi chưa nhìn thấy cái biến đổi trong tâm tình chàng, đi ra đi vào căn nhà nhỏ, hái các loại hoa dại về chưng khắp nơi. Trương Vô Kỵ thấy nàng trang hoàng căn nhà trông cũng nhã thú, hiểu rằng yêu vẻ đẹp là bản tính con người, vậy mà tự hủy dung mạo thành ra như thế nên nói:
- Châu Nhi, khi chân tôi khỏi rồi sẽ đi kiếm thuốc, tìm cách trị cho cô khỏi bị sưng mặt.
Châu Nhi nghe mấy câu đó, trên mặt lộ vẻ sợ hãi, nói:
- Không ... không ... không được. Tôi mất bao nhiêu công lao khổ sở mới được đến mức như ngày nay, bộ anh muốn hủy hết công phu Thiên Châu Vạn Độc Thủ của tôi ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Mình phải tìm được cách nào, không mất công phu mà vẫn tiêu trừ được chất độc ở trên mặt.
Châu Nhi đáp:
- Không xong đâu, nếu có cách nào thì công phu tổ truyền của mẹ tôi lẽ đâu không biết? Trong đời này chỉ có Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu mới có cái tài nghệ kinh người làm được chuyện đó, chỉ hiềm là ... chỉ hiềm là ông ấy chết mấy năm trước rồi.
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:
- Cô cũng biết Hồ Thanh Ngưu à?
Châu Nhi trừng mắt nhìn chàng, nói:
- Thì đã sao? Có gì lạ lùng đâu? Điệp Cốc Y Tiên danh mãn giang hồ, ai mà chẳng biết.
Nói xong lại thở dài một tiếng, nói:
- Thế nhưng dù ông ta có còn sống, người đó có tên Kiến Tử Bất Cứu cũng có ích gì?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cô ta đâu biết tài nghệ một đời của Điệp Cốc Y Tiên đã truyền hết cho ta, bây giờ mình đừng nói vội, sau này tìm được phương pháp trị cho cô ta hết sưng mặt, sẽ khiến cho cô nàng vui sướng một phen".
Hai người nói chuyện thì bên ngoài trời đã tối nên cùng dựa vào mấy tảng đá mà ngủ. Ngủ đến nửa đêm, Trương Vô Kỵ bỗng nghe mơ màng có tiếng nức nở nên tỉnh dậy, định thần mới hay Châu Nhi đang khóc. Chàng ngồi thẳng lại, giơ tay vỗ nhẹ vào vai nàng, an ủi:
- Châu Nhi, đừng đau lòng nữa.
Nào ngờ những lời dịu dàng vỗ về kia khiến cho Châu Nhi không sao nhịn được nữa, liền gục đầu vào vai Vô Kỵ, khóa òa lên. Trương Vô Kỵ hỏi:
- Châu Nhi, chuyện gì thế? Cô nghĩ đến mẹ cô, có phải không?
Châu Nhi gật đầu, nghẹn ngào nói:
- Mẹ em chết rồi, em chỉ một mình cô khổ lênh đênh, chẳng ai thương em, chẳng ai tốt với em.
Trương Vô Kỵ lấy tay áo chùi nước mắt cho nàng, dịu giọng nói:
- Tôi thương cô, tôi sẽ tử tế với cô.
Châu Nhi nói:
- Em không cần anh tử tế với em, trong lòng em chỉ yêu thương một người, y lại chẳng ngó ngàng gì em, còn đánh em, mắng em, đến cả cắn em nữa.
Trương Vô Kỵ run run giọng nói:
- Cô hãy quên cái gã bạc hãnh kia đi. Tôi sẽ lấy cô làm vợ, tôi sẽ một đời tử tế với cô.
Châu Nhi cao giọng nói:
- Không, không đâu. Em không quên anh ta được đâu. Anh mà còn nói em quên y đi, em sẽ không thèm nhìn anh nữa.
Trương Vô Kỵ thật là xấu hổ, cũng may trời tối nên Châu Nhi không nhìn thấy khuôn mặt bẽn lẽn đỏ bừng của chàng. Một hồi thật lâu hai người không ai nói thêm câu nào nữa. Sau cùng, Châu Nhi nói:
- A Ngưu ca, anh có giận em không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi không giận cô đâu. Tôi chỉ giận chính mình, giá đừng nói với cô câu đó thì hay hơn.
Châu Nhi vội nói:
- Không, không. Anh nói anh bằng lòng lấy em làm vợ, một đời đối đãi tử tế với em, em nghe thật là vui lòng. Anh nói lại một lần nữa đi.
Trương Vô Kỵ giận dữ nói:
- Cô không quên được gã kia, tôi còn nói làm gì?
Châu Nhi thò tay ra nắm lấy tay chàng, nhỏ nhẹ nói:
- A Ngưu ca, anh đừng giận, em xin lỗi anh, em không nên không phải chút nào. Nếu anh thực sự lấy em làm vợ, em sẽ đâm mù mắt anh, rồi giết anh luôn.
Trương Vô Kỵ lạnh cả người, kinh hãi hỏi:
- Cô nói gì thế?
Châu Nhi nói:
- Mắt anh mù rồi, anh sẽ không còn nhìn thấy hình dáng xấu xí của em nữa, cũng không có thể nhìn thấy được Chu cô nương của phái Nga Mi kia. Nếu như anh không thể nào quên được cô ta, em sẽ đâm anh một ngón tay cho anh chết, đâm chết luôn cả Chu cô nương của phái Nga Mi, rồi tự mình đâm mình chết.
Nàng nói lên ý định kỳ quái đó nhưng giọng thật tự nhiên, tưởng chừng như đó là đạo lý thiên kinh địa nghĩa không bằng. Trương Vô Kỵ nghe cô nàng nói chuyện tàn ác độc đoán như thế, tim không khỏi thót lên một cái.
Ngay lúc đó, từ xa truyền tới một giọng già nua:
- Chu cô nương của phái Nga Mi có làm gì chúng bay đâu?
Châu Nhi sợ hãi nhảy nhổm lên, hạ giọng nói:
- Diệt Tuyệt sư thái đó.
Nàng nói hết sức nhỏ, nhưng người bên ngoài đã nghe thấy rồi, nghiêm nghị nói:
- Đúng đấy, Diệt Tuyệt sư thái đây.
Câu trước người kia nói thì còn ở thật xa thế nhưng câu thứ hai nghe đã như gần bên căn nhà. Châu Nhi biết rằng sự tình chẳng xong, không còn cách nào ôm Trương Vô Kỵ chạy trốn, chỉ còn nước nín thở lặng thinh. Chỉ thấy bên ngoài có người lạnh lùng nói:
- Ra ngay. Còn mong trốn ở trong ấy hay sao?
Châu Nhi nắm tay Trương Vô Kỵ vén đám cỏ bước ra ngoài. Một lão ni tóc bạc đứng cách căn tiểu ốc chừng hai trượng, chính là chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái. Cách bà ta một quãng xa có ba đội khác khoảng mấy chục người chạy tới. Khi tới gần bọn người chia thành hai nhóm đứng hai bên Diệt Tuyệt sư thái, trong đó khoảng một nửa là ni cô, nửa kia có nam có nữ, trong đó có cả Đinh Mẫn Quân và Chu Chỉ Nhược, nhưng nam đệ tử đứng sau cùng. Thì ra Diệt Tuyệt sư thái không ưa đệ tử con trai, nam đệ tử trong phái Nga Mi không được truyền thụ thượng thừa võ công, địa vị so với nữ đệ tử cũng kém hơn.
Diệt Tuyệt sư thái lặng lẽ nhìn đánh giá Châu Nhi, hồi lâu không nói. Trương Vô Kỵ cố nhịn đứng náu sau lưng cô gái, trong bụng tính thầm, nếu bà ta ra tay giết Châu Nhi, dù không địch nổi chàng cũng hết sức một phen. Chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, quay lại hỏi Đinh Mẫn Quân:
- Có phải con bé này không?
Đinh Mẫn Quân khom lưng đáp:
- Chính nó.
Chỉ nghe lách cách, lách lách hai tiếng, Châu Nhi hự lên một tiếng, thân hình đã bắn văng ra xa hơn ba trượng, hai cổ tay bị gãy lìa, nằm ngất lịm trên mặt đất. Trương Vô Kỵ chỉ thấy trước mắt một bóng màu tro thấp thoáng, Diệt Tuyệt sư thái sử dụng thân pháp nhanh nhẹn tuyệt luân bay tới bên cạnh Châu Nhi, dùng thủ pháp nhanh nhẹn tuyệt luân đánh gãy hai cổ tay của cô gái, ném cô ta ra xa, rồi lại dùng thân pháp nhanh nhẹn tuyệt luân quay trở về chỗ cũ, đứng vững chãi như một cây cổ thụ trong gió đêm, vừa ngụy bí, vừa hùng vĩ.
Trương Vô Kỵ tuy nhìn thấy rõ ràng chiêu nào chiêu nấy đâu ra đấy, nhưng nhanh đến mức không sao tưởng nổi. Chàng bị thủ pháp kinh người đó trấn nhiếp đứng trơ trơ, đâm ra mất hết khả năng phản ứng.
Cặp mắt sắc thấu tâm can người của Diệt Tuyệt sư thái nhìn Trương Vô Kỵ, quát lên:
- Đi ra.
Chu Chỉ Nhược tiến lên một bước, run run thưa:
- Sư phụ, người này gãy cả hai chân, không đi lại được.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Làm hai cái xe trượt, kéo chúng nó đi.
Cả bọn đệ tử cùng lên tiếng tuân lệnh. Mươi tên nam đệ tử chân tay nhanh nhẹn làm ngay hai cái xe trượt. Hai nữ đệ tử bế Châu Nhi, hai nam đệ tử bế Trương Vô Kỵ bỏ lên cáng tuyết, chia ra kéo theo sau Diệt Tuyệt sư thái đi về hướng tây.
Trương Vô Kỵ ngưng thần nghe ngóng động tĩnh, không biết Châu Nhi bị thương nặng nhẹ thế nào. Đi khoảng một dặm mới nghe cô ta rên lên một tiếng nhỏ. Trương Vô Kỵ lớn tiếng hỏi:
- Châu Nhi, bị thương ra sao? Có bị nội thương không?
Châu Nhi đáp:
- Bà ấy đánh gãy hai cổ tay em, nhưng bụng ngực xem ra không bị thương.
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu nội tạng không bị gì thì không sao cả. Cô lấy cùi chỏ tay trái thúc chỗ ba tấc năm phân bên dưới khuỷu tay phải, sau đó lại dùng cùi chỏ tay phải thúc vào chỗ ba tấc năm phân dưới khuỷu tay trái, sẽ bớt đau.
Châu Nhi chưa kịp trả lời, Diệt Tuyệt sư thái "Ủa" một tiếng, quay đầu lại trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi:
- Tiểu tử này quả tinh thông y lý, tên ngươi là gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu.
Diệt Tuyệt sư thái hỏi tiếp:
- Sư phụ ngươi là ai?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Sư phụ tôi chỉ là một thầy lang vườn vô danh ở một tiểu trấn, nói ra sư thái cũng không biết đâu.
Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, không thèm hỏi nữa. Cả đoàn người đi đến khi trời sáng mới dừng lại nghỉ đem lương khô ra ăn. Chu Chỉ Nhược đem hai chiếc bánh bao nguội, cho Trương Vô Kỵ và Châu Nhi mỗi người một cái. Khi nàng đưa bánh cho Trương Vô Kỵ, nhìn chàng một cái, lập tức quay đầu ra chỗ khác. Trương Vô Kỵ trong lòng khích động, nhịn không nổi, nói nhỏ:
- Ơn đức đút cơm cho ăn trên sông Hán Thủy, vĩnh viễn không quên.
Chu Chỉ Nhược cả người chấn động, quay lại nhìn chàng, lúc này Trương Vô Kỵ đã cạo sạch râu ria, nàng nhìn một hồi, đột nhiên "A" lên một tiếng, mặt lộ vẻ vừa mừng vừa sợ, ấp úng:
- Anh ... anh ...
Trương Vô Kỵ biết nàng đã nhận ra mình, chầm chậm gật đầu. Chu Chỉ Nhược hỏi khẽ:
- Hàn độc trong người đã đỡ chưa?
Giọng nàng chỉ vo ve như tiếng muỗi, dường như không nghe thấy. Trương Vô Kỵ nói nhỏ:
- Đã đỡ rồi.
Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng vội bước ra chỗ khác. Lúc đó Châu Nhi ở ngay đằng sau Trương Vô Kỵ, thấy Chu Chỉ Nhược vẻ mặt mừng rỡ, rồi mấp máy đôi môi, tiếp theo ra vẻ thẹn thùng, nhưng ánh mắt sáng lên, đợi nàng đi khỏi liền hỏi Trương Vô Kỵ:
- Cô ta nói gì với anh thế?
Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, nói:
- Đâu ... đâu có ... đâu có gì.
Châu Nhi hừ một tiếng:
- Sờ sờ ra thế mà còn chối.
Cả bọn nghỉ ngơi ba tiếng đồng hồ rồi lại tiếp tục đi, thẳng đường về hướng tây, luôn ba ngày liền xem chừng có việc khẩn cấp. Tất cả các nam nữ đệ tử dù đi hay nghỉ, ngoài những việc chẳng đặng đừng ra, không ai nói một lời, chẳng khác gì một bọn người câm.
Lúc này xương đùi của Trương Vô Kỵ đã lành lặn như thường, lúc nào cũng có thể bước đi nhưng chàng giả vờ như chưa khỏi, có khi còn rên rỉ mấy tiếng để cho Diệt Tuyệt sư thái khỏi phòng bị, đợi dịp là cứu Châu Nhi trốn biệt. Có điều đường đi chỗ nào cũng là đồng không mông quạnh, chạy chẳng được xa là sẽ bị đuổi tới nên nhất thời chàng không dám vọng động. Chàng nối lại chỗ gãy xương cho Châu Nhi, Diệt Tuyệt sư thái trông thấy nhưng cũng chỉ lạnh lùng ngó qua không can dự. Mỗi khi nghỉ lại hay ban đêm nằm ngủ, Trương Vô Kỵ không nhịn nổi liếc nhìn Chu Chỉ Nhược mấy lần nhưng nàng không hề đến gần bên chàng.
Đi thêm hai ngày nữa, chiều hôm đó cả bọn đến một bãi sa mạc lớn, dưới đất tuyết đóng đã tan nên hai chiếc xe trượt lôi đi trên cát. Đang lúc đi, bỗng có tiếng vó ngựa từ phía tây vọng đến. Diệt Tuyệt sư thái giơ tay ra hiệu, các đệ tử liền chạy đến nằm phục xuống sau các gò cát. Hai người tay cầm đoản kiếm kề ngay lưng Trương Vô Kỵ và Châu Nhi, ý định rõ ràng là phái Nga Mi đang phục kích địch nhân, nếu Trương Vô Kỵ và Châu Nhi lên tiếng báo động, đoản kiếm sẽ đâm thẳng vào lưng giết họ ngay lập tức.
Tiếng vó ngựa nghe mỗi lúc một gấp nhưng khoảng cách vẫn còn xa, một lúc thật lâu mới tới gần. Những kỵ sĩ đột nhiên thấy dấu chân trên mặt cát liền gò cương, đứng lại quan sát. Đại đệ tử của phái Nga Mi là Tĩnh Huyền liền giơ phất trần ra hiệu, mấy chục đệ tử từ các chỗ mai phục nhảy ra vây quanh đoàn người cưỡi ngựa. Trương Vô Kỵ thò đầu ra nhìn, thấy tổng cộng có bốn người, tất cả đều mặc áo bào trắng, trên áo thêu một ngọn lửa đỏ đang cháy. Bốn người thấy bị bao vây liền kêu la, rút binh khí ra, phá vòng vây chạy về phía đông bắc.
Tĩnh Huyền sư thái lớn tiếng quát:
- Đây là yêu nhân của ma giáo, không để cho tên nào chạy thoát.
Phái Nga Mi tuy đông người nhưng không cậy nhiều để đánh ít. Hai nữ đệ tử, hai nam đệ tử theo hiệu lệnh của Tĩnh Huyền sư thái, chia nhau ra tiến lên chặn họ lại. Bốn người của ma giáo tay cầm đao cong, ra tay thật là độc địa. Thế nhưng phái Nga Mi kỳ này kéo đi Tây Vực đều là những nhân tài bạt tụy trong môn phái, người nào cũng võ nghệ tinh cường, chỉ bảy tám hiệp, ba người của ma giáo đã bị trúng kiếm, từ trên ngựa ngã xuống.
Người còn lại thật là lợi hại, chém trúng vai một nam đệ tử phái Nga Mi, cướp đường chạy trốn, giục ngựa chạy ra ngoài mấy trượng. Người thứ ba trong phái Nga Mi là Tĩnh Hư sư thái liền quát:
- Ngã này.
Thân pháp thật nhanh, vụt đến sau lưng người kia, phất trần tung ra, cuốn ngay chân trái kẻ địch. Người đó vung đao gạt ra, Tĩnh Hư đột nhiên biến chiêu, nghe bộp một tiếng đánh trúng ngay sau đầu đối phương. Chiêu đó trúng chỗ yếu hại, trong phất trần có ẩn tàng nội lực thâm hậu, người kia liền ngã xuống khỏi ngựa. Nào ngờ người đó hết sức hung tợn, tuy đã bị trọng thương nhưng quyết chí cùng kẻ địch đồng qui ư tận nên giang hai tay nhào tới chộp Tĩnh Hư. Tĩnh Hư nghiêng người né qua, phất trần lại đánh trúng ngay ngực y.
Ngay khi đó, tại chiếc lồng buộc trên cổ con ngựa y cưỡi có ba con chim bồ câu trắng vẫy cánh bay ra. Tĩnh Huyền kêu lên:
- Làm trò gì thế này?
Bà ta vẫy tay áo một cái, ba viên đạn sắt chia ra bắn vào ba con chim. Hai con bồ câu trúng đạn rơi xuống, còn một viên đạn bị một người áo trắng đang nằm dưới đất dùng ám khí đánh tạt qua một bên, nên con chim thứ ba bay vụt lên cao vút tận mây. Các ám khí của đệ tử Nga Mi bay ra rào rào, nhưng không sao trúng được, chỉ thấy con chim giang cánh bay thẳng về hướng đông bắc. Tĩnh Huyền tay giơ lên, các nam đệ tử liền dựng bốn người áo trắng dậy đưa đến trước mặt bà ta.
Từ lúc công địch cho đến khi bắn chim, bắt người, Diệt Tuyệt sư thái chỉ lạnh lùng đứng ngoài quan sát. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Bà ta đích thân động thủ với Châu Nhi, đủ biết coi trọng cô nàng lắm, có lẽ vì Đinh Mẫn Quân bị chấn gãy cổ tay mà ra. Lão ni này muốn bắn hạ con chim kia, chỉ giơ tay là xong, có gì là khó? Thế nhưng bà ta để yên không lý đến, chắc cốt để cho đệ tử lo liệu cả". Chàng nghĩ đến năm xưa Tĩnh Huyền dẫn bọn Kỷ Hiểu Phù cùng lên núi Võ Đương chúc thọ thái sư phụ, so ra ngang hàng với chưởng môn các phái Côn Lôn, Không Động, đủ biết đại đệ tử của phái Nga Mi đã có chút danh vọng trên giang hồ, việc gì cũng có thể tự giải quyết được cả, kể cả chuyện lớn. Đối phó với vài tên giáo đồ của ma giáo dĩ nhiên đâu cần phải do Diệt Tuyệt sư thái ra tay, Tĩnh Huyền, Tĩnh Hư chính họ động thủ kể cũng đã coi đối phương cao lắm rồi.
Một nữ đệ tử nhặt hai con chim bồ câu chết lên, lấy từ trong chiếc ống buộc ở đùi chim một tờ giấy cuộn tròn, trình lên cho Tĩnh Huyền. Tĩnh Huyền coi qua, nói:
- Sư phụ, ma giáo đã biết tin chúng ta vi tiễu[5] Quang Minh Đính, lá thư này là để cáo cấp với Thiên Ưng giáo.
Bà ta lại coi ống thư thứ hai, nói:
- Cũng cùng một thứ. Tiếc thay một con lại bay lọt lưới.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:
- Có gì mà tiếc? Quần ma tụ hội, nhất cử nhi tiêm[6], không phải thích lắm sao? Khỏi phải mất công mình chạy đông chạy tây tìm kiếm bọn chúng.
Tĩnh Huyền đáp:
- Quả đúng vậy.
Trương Vô Kỵ nghe thấy "cáo cấp với Thiên Ưng giáo" mấy chữ, trong bụng không khỏi phân vân: "Giáo chủ của Thiên Ưng giáo chính là ông ngoại ta, không biết lão nhân gia có đến không? Ôi, lão ni này thật là ngạo mạn tự đại, nhưng chưa chắc đã là đối thủ của ông ngoại ta". Chàng đã định thừa cơ cứu Châu Nhi đào tẩu nhưng nay thấy sự việc sắp sửa náo nhiệt đến nơi, nên muốn ở lại xem không nghĩ chuyện bỏ đi vội.
Tĩnh Huyền quát hỏi bốn người áo trắng:
- Các ngươi còn gọi thêm những viện thủ nào nữa? Làm sao biết được tin tức sáu môn phái vây đánh ma giáo?
Cả bốn người áo trắng đều ngửa mặt lên cười thảm thiết, đột nhiên ngã lăn ra đất, không động đậy gì nữa. Cả bọn kinh hãi, hai tên nam đệ tử cúi xuống xem, thấy cả bốn tên nét mặt nở một nụ cười ngụy bí, đều đã chết cả, sợ hãi kêu lên:
- Sư thư, cả bốn tên này đều chết cả rồi.
Tĩnh Huyền giận dữ nói:
- Yêu nhân uống thuốc độc tự tận, loại độc dược này quả thực lợi hại, phát tác thật nhanh.
Tĩnh Hư nói:
- Tra xét thân thể chúng xem.
Bốn người sư đệ lên tiếng đáp:
- Vâng.
Chia ra lục soát các túi áo của bốn tử thi. Chu Chỉ Nhược vội nói:
- Chúng vị sư huynh cẩn thận, đề phòng độc vật bên trong các túi áo.
Bốn nam đệ tử giật mình, lấy binh khí ra rạch các túi áo ra, thấy trong túi ngo ngoe cử động, túi nào cũng có hai con rắn độc nhỏ, nếu như thò tay vào lục soát, thể nào cũng bị độc xà cắn phải. Cả bọn mặt mày biến sắc, ai nấy chửi mắng giáo đồ ma giáo hành sự độc ác.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lẽo nói:
- Chúng ta lên đường từ Trung Thổ đi về hướng tây, hôm nay lần đầu gặp giáo đồ ma giáo. Bốn tên này bất quá chỉ là mấy tên vô danh tiểu tốt, mà đã âm độc như vậy, những nhân vật chủ não trong ma giáo, phải biết thế nào?
Bà ta ngừng lại một lát, nói tiếp:
- Tĩnh Hư tuổi tác không phải là nhỏ, xử sự cẩu thả như thế, không bằng Chỉ Nhược nhận xét tinh tường.
Tĩnh Hư mặt đỏ bừng, khom lưng nhận tội. Trương Vô Kỵ trong bụng lại nhẩm tính mấy chữ "sáu môn phái vây đánh ma giáo" của Tĩnh Huyền ... "Sáu phái? Sáu phái? Liệu phái Võ Đương ta có ở trong đó chăng?".
Canh hai đêm đó, bỗng dưng nghe tiếng lục lạc kêu leng leng, leng keng, dường như có một con lạc đà từ xa đi tới. Lúc đó mọi người đã ngủ say, nghe tiếng chuông đều tỉnh dậy cả. Tiếng lục lạc lúc đầu từ phía tây nam vọng tới, nhưng chỉ giây lát lại từ phương nam vọng về phương bắc, vang đến tận phía tây bắc. Vừa khi đó tiếng chuông lại chạy qua phía đông, dường như xuất hiện ở phía đông bắc. Cứ như thế khi thì đông, khi thì tây, nghe rất ma quái. Mọi người ai nấy ngạc nhiên, đều nghĩ thầm dù cho con lạc đà kia chạy nhanh cỡ nào, không sao có thể vừa ở bên đông lại chạy ngay sang bên tây, nhưng nghe âm thanh thì không phải là có nhiều người đứng ở bốn phương, trước sau rung chuông. Một lúc sau, tiếng chuông khi xa khi gần, lúc to lúc nhỏ, rồi bất ngờ kêu vang động cả phía nam tưởng như con lạc đà đó chạy nhanh như ngựa vụt qua. Người của phái Nga Mi chưa từng đi đến sa mạc, nghe tiếng nhạc ngựa quái dị như thế, ai nấy đều ngầm sợ hãi.
Diệt Tuyệt sư thái lớn tiếng nói:
- Cao nhân ở phương nào, xin mời hiện thân gặp gỡ, chứ trang thần lộng quỉ như thế, còn ra thể thống gì nữa?
Tiếng nói truyền vang ra thật xa. Bà ta nói câu đó xong, tiếng nhạc ngựa lập tức im bặt, tưởng chừng chủ nhân của chiếc lục lạc kia sợ hãi sư thái, không dám đùa rỡn nữa. Cả ngày hôm sau bình an vô sự. Đến canh hai đêm hôm đó, tiếng lục lạc lại nổi lên, khi xa khi gần, khi đông khi tây, Diệt Tuyệt sư thái lại lên tiếng trách mắng, nhưng lần này phía bên kia không thèm coi vào đâu, lúc thì nghe nhỏ lúc lại vang to, có khi lại tưởng như đang giận dữ phi tới, nhưng tới gần bỗng dưng biến mất tăm khiến cho ai ai cũng choáng váng nhức đầu.
Trương Vô Kỵ và Châu Nhi nhìn nhau mỉm cười, tuy hai người không rõ tiếng lục lạc kia làm sao vang động quái dị như thế, nhưng biết là đó là do một cao thủ của ma giáo bày ra, khiến cho phái Nga Mi không thể làm gì được, lục thần bất an, kể cũng nực cười.
Diệt Tuyệt sư thái vẫy tay một cái, các đệ tử liền nằm xuống ngủ, không thèm để ý đến tiếng nhạc ngựa nữa. Tiếng lục lạc lại vang lên một hồi, tuy làm đủ trò nhưng người của phái Nga Mi không thèm để ý, có lẽ người kia cũng hết hứng thú, đột nhiên ở phương bắc vang lên một chập rồi yên hẳn. Phương pháp "thấy quái lạ không coi là lạ, tự nó sẽ tiêu đi[7]" của Diệt Tuyệt sư thái xem chừng có vẻ linh hiệu.
Sáng hôm sau mọi người thu dọn chăn áo, đang định khởi hành, hai tên nam đệ tử không hẹn mà cùng kêu hoảng lên. Ngay bên cạnh họ một người nào đó nằm tự bao giờ, đang ngủ say. Người đó từ đầu chí chân đắp một cái mền bẩn thỉu, không lộ một chút thân thể nào, mông đít chổng cao, ngáy khò khò.
Những người còn lại của phái Nga Mi lập tức kinh hoàng, đêm qua họ đã chia phiên canh gác, sao lại không biết có người lẻn vào? Diệt Tuyệt sư thái thần công như thế, dù cho gió thổi cỏ lay, hoa bay lá rụng cũng không qua khỏi tai mắt bà ta, sao trong đám người có thêm một kẻ lạ đến bây giờ mới thấy? Mọi người vừa kinh hoảng, vừa xấu hổ, đã có hai người cầm trường kiếm đến bên người nọ, quát lớn:
- Ai đó, định làm trò ma quỉ gì đây?
Người kia vẫn tiếp tục ngáy ồ ồ, chẳng thèm để ý tới. Một nam đệ tử dùng kiếm hất chiếc chăn ra, thấy bên dưới là một người mặc áo bào trắng có sọc xanh, đang nằm phục trên bãi cát ngủ thật ngon.
Tĩnh Hư biết rằng kẻ này dám lớn mật làm như thế, ắt hẳn phải lai lịch rất lớn nên tiến lên một bước, nói:
- Các hạ là ai? Đến đây có chuyện gì?
Người kia vẫn ngáy khò khò như kéo bễ. Tĩnh Hư thấy kẻ nọ vô lễ, trong lòng bực bội, liền múa phất trần, nghe vút một tiếng đánh ngay vào mông người nọ. Chỉ nghe soạt một tiếng, chiếc phất trần trong tay Tĩnh Hư sư thái không biết cách nào đã bay vụt lên không, cao đến cả chục trượng, mọi người thấy thế liền ngẩng đầu lên nhìn.
Diệt Tuyệt sư thái quát lớn:
- Tĩnh Hư, coi chừng.
Tiếng chưa kịp dứt, đã thấy người mặc áo sọc xanh kia bỏ chạy ở tận ngoài xa mấy trượng, Tĩnh Hư đã bị y ôm ngang trên hai cánh tay. Tĩnh Huyền cùng một niên trưởng nữ đệ tử là Tô Mộng Thanh lập tức cầm kiếm đề khí đuổi theo. Thế nhưng người kia thân pháp nhanh không thể tả, xem chừng không thể nào đuổi kịp y được.
Diệt Tuyệt sư thái hú lên một tiếng thánh thoát, tay cầm bảo kiếm Ỷ Thiên lập tức rượt theo sau. Chưởng môn phái Nga Mi quả nhiên thân thủ không như người khác, chỉ trong nháy mắt đã vượt qua Tĩnh Huyền, Tô Mộng Thanh, ánh sáng lấp lánh giơ kiếm đâm vào lưng người kia.
Thế nhưng người kia chạy nhanh vô cùng, nhát kiếm đó còn cách đến cả thước, không sao trúng được. Tuy y ôm Tĩnh Hư trên tay nhưng vẫn chạy như bay, không chậm hơn Diệt Tuyệt sư thái chút nào. Y dường như có ý khoe khoang công lực nên không chạy chạy xa mà chỉ chạy vòng quanh đám người của phái Nga Mi. Diệt Tuyệt sư thái đâm luôn mấy kiếm nhưng không trúng được nhát nào.
Bỗng nghe cạch một tiếng, chiếc phất trần trong tay Tĩnh Hư rơi xuống đất. Lúc ấy Tĩnh Huyền và Tô Mộng Thanh đã dừng bước, mọi người ngưng thần nín thở xem bên ngoài mấy chục trượng hai đại cao thủ đuổi nhau. Tuy nơi đây là giữa sa mạc nhưng hai người chạy nhanh mà bụi không tung lên chút nào. Đệ tử phái Nga Mi thấy Tĩnh Huyền bị người kia bắt giữ, nằm sóng soài như người chết, không động đậy gì cả, ai ai cũng đều kinh hãi. Có người muốn tiến lên chặn đầu nhưng nghĩ đến uy danh sư phụ, tự mình không cướp lại được hay sao mà phải nhờ đến đệ tử tương trợ? Nếu việc lấy đông lấn ít đó mà truyền ra ngoài, ắt sẽ bị người trên giang hồ cười chê. Thành thử ai nấy đều có ý muốn nhưng không dám tiến lên, chỉ mong sư phụ nhanh hơn một bước, một kiếm đâm quái khách kia suốt từ hậu tâm ra trước ngực.
Chỉ trong giây lát, người nọ và Diệt Tuyệt sư thái đã chạy được ba vòng lớn. Ai nấy đều thấy Diệt Tuyệt sư thái chỉ nhanh thêm chút nữa là mũi kiếm đã có thể đả thương địch thủ, nhưng trước sau vẫn kém một bước. Người nọ tuy cất bước chạy trước, Diệt Tuyệt sư thái đuổi từ phía sau, nhưng tay y lại ôm thêm một người, nặng thêm hơn một trăm cân, vậy mà cuộc chạy đua này xem ra ngang ngửa, dù thế nào cũng là Diệt Tuyệt sư thái thua rồi.
Đến vòng thứ tư, người kia đột nhiên quay lại, hai tay tung ra, ném Tĩnh Hư vào Diệt Tuyệt sư thái. Diệt Tuyệt sư thái thấy cuồng phong tạt vào mặt, cái ném đó không sao đỡ nổi, vội ngưng khí vào hai chân, sử công phu Thiên Cân Trụy, nhẹ nhàng đón lấy Tĩnh Hư.
Người kia cười ha hả một tiếng dài, nói:
- Sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Đính, chỉ sợ không phải dễ dàng đâu.
Nói xong chạy thẳng về hướng bắc. Khi y cùng Diệt Tuyệt sư thái đuổi bắt dưới đất không một vẩn bụi bốc lên, lúc này cát vàng bay lên mù mịt, thành một đường dài cuồn cuộn, thanh thế uy mãnh, chẳng khác gì một con rồng vàng dài cả mấy chục trượng, lập tức che khuất cả người y.
Đệ tử phái Nga Mi vội vàng tiến lên bên cạnh sư phụ, chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái mặt tái đi, không nói tiếng nào. Tô Mộng Thanh đột nhiên thất thanh kêu lên:
- Tĩnh Hư sư tỉ ...
Chỉ thấy mặt Tĩnh Hư vàng khè như nghệ, cổ họng có một vết thương khí tuyệt rồi. Vết thương máu thịt lầy nhầy, nhưng vết răng hãy còn đó, hiển nhiên đã bị quái nhân nọ cắn chết. Tất cả các đệ tử Nga Mi liền òa lên khóc.
Diệt Tuyệt sư thái quát lớn:
- Khóc cái gì? Đem nó chôn đi.
Mọi người lập tức nín bặt, đem thi thể Tĩnh Hư đem chôn, đắp thành mộ phần. Tĩnh Huyền khom lưng hỏi:
- Sư phụ, yêu nhân đó là ai? Chúng con xin ghi nhớ trong lòng, sau này có dịp báo thù cho sư muội.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:
- Tên đó hút máu người, tàn nhẫn độc ác, chắc là một trong tứ vương của ma giáo Thanh Dực Bức Vương[8]. Ta từng nghe y khinh công thiên hạ vô song, quả nhiên đúng là danh bất hư truyền, hơn ta thật xa.
Trương Vô Kỵ đối với Diệt Tuyệt sư thái vốn có chút căm ghét, thế nhưng lúc này thấy bà ta gặp cơn đại biến, nhưng vẫn không xao động, trấn tĩnh như không, bây giờ lại tán dương địch nhân ngay trước mặt mọi người, tự thẹn mình không bằng được, quả thực là phong độ tông tượng của một môn phái, trong lòng không khỏi khâm phục.
Đinh Mẫn Quân hậm hực nói:
- Y không dám cùng sư phụ quá thủ động chiêu, chỉ biết cắm đầu chạy, sao gọi là anh hùng được?
Diệt Tuyệt sư thái hừ lên một tiếng, đột nhiên nghe bốp một tiếng, đã vả cho y thị một cái, giận dữ nói:
- Sư phụ không đuổi kịp y, không cứu nổi tính mệnh của Tĩnh Hư, thế là y thắng rồi. Việc được hay thua cả thiên hạ đều biết, chẳng lẽ anh hùng hảo hán là tự mình phong cho mình được hay sao?
Một bên mặt của Đinh Mẫn Quân lập tức sưng vù, vội khom lưng nói:
- Sư phụ giáo huấn thật đúng, đồ nhi biết mình sai rồi.
Trong bụng nghĩ thầm: "Bà đánh không lại người ta nên mất mặt, giận cá chém thớt đổ lên đầu mình, số ta thật là đen".
Tĩnh Huyền nói:
- Sư phụ, gã Thanh Dực Bức Vương đó lai lịch ra sao, xin sư phụ dạy bảo cho biết.
Diệt Tuyệt sư thái xua tay một cái, không trả lời Tĩnh Huyền, tự mình đi trước cả đoàn. Cả bọn thấy đại sư tỉ bị hắt hủi như thế, còn ai dám mở lời nữa. Đoàn người không nói một lời, lầm lũi đi cho đến khi trời tối mới ngừng lại bên cạnh một đồi cát, gầy một đống lửa nghỉ ngơi.
Diệt Tuyệt sư thái nhìn ngọn lửa không nói một lời, ngồi lặng yên chẳng khác gì một pho tượng đá. Bầy đệ tử thấy sư phụ không ngủ đâu ai dám đi ngủ trước. Tất cả ngồi chơ vơ hơn một tiếng đồng hồ, Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên đẩy song chưởng, một luồng kình phong ùa ra, nghe bùng một tiếng, cả một ngọn lửa lớn bỗng dưng tắt phụp. Mọi người vẫn ngồi yên không động đậy, ánh trăng lạnh lẽo vằng vặc chiếu trên vai mọi người.
Trương Vô Kỵ bỗng thấy một mối thương xót nổi lên trong lòng: "Không lẽ uy danh lừng lẫy của phái Nga Mi nay ở Tây Vực tan ra mây khói, không một ai quay trở lại được hay chăng?" Chàng lại nghĩ tiếp: "Chu cô nương ta không thể không cứu. Thế nhưng người trong ma giáo lợi hại như thế, ta có tài ba gì để mà cứu người bây giờ?".
Chỉ nghe Diệt Tuyệt sư thái quát lên: "Dập tắt yêu hỏa, diệt hết ma hỏa". Bà ta ngừng lại một lát nói tiếp:
- Ma giáo lấy hỏa làm thánh, tôn hỏa làm thần. Từ khi giáo chủ đời thứ ba mươi ba của Ma giáo là Dương Đính Thiên chết đi, họ không có giáo chủ. Tả hữu Quang Minh sứ giả, bốn đại Hộ giáo Pháp vương, Ngũ Tản Nhân[9], lại thêm chưởng kỳ sứ Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, người nào cũng nhòm ngó chức vị giáo chủ, tranh đoạt tàn sát lẫn nhau, nên giữa đường ma giáo trở nên suy yếu. Lúc này lại là lúc sáu chính đại môn phái hưng vượng, âu cũng là cái số của yêu tà phải bị tiêu diệt. Nếu như ma giáo không có tranh chấp bên trong, muốn trừ đám yêu nghiệt này không phải là dễ.
Trương Vô Kỵ từ nhỏ đã nghe đến ma giáo, cũng biết mẹ chàng có liên quan xa gần đến ma giáo, nên mỗi khi hỏi gặng thêm, cha mẹ đều không vui, hỏi nghĩa phụ thì ông ta lặng thinh xuất thần, rồi bỗng dưng nổi giận, thành ra ma giáo thực sự là gì, thủy chung vẫn không biết rõ. Về sau chàng lại thấy thái sư phụ Trương Tam Phong đối với ma giáo ghét bỏ cùng cực, mỗi khi nhắc đến luôn luôn căn dặn, không bao giờ được kết giao với giáo đồ của họ. Thế nhưng khi Trương Vô Kỵ gặp những người như Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô, Thường Ngộ Xuân, Từ Đạt, Chu Nguyên Chương đều là người của ma giáo, nhưng đều khẳng khái trượng nghĩa, chưa hẳn đã chỉ là ác nhân, có điều hành sự ngụy bí, người ngoài khó mà đo lường được. Tới lúc này khi nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tới ma giáo, nên chàng cố hết sức tập trung để nghe cho kỹ.
Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
- Các đời giáo chủ ma giáo đều lấy "Thánh Hỏa Lệnh" làm tín vật truyền từ đời nọ sang đời kia, thế nhưng đến tay đời giáo chủ thứ ba mươi mốt, trời đoạt hồn phách làm sao, không hiểu thế nào đánh mất thánh hỏa lệnh, nên hai đời ba mươi hai và ba mươi ba có quyền mà không có lệnh, hai chức giáo chủ đó cũng hơi miễn cưỡng. Dương Đính Thiên chết bất ngờ, chẳng biết do trúng độc hay do người nào ám toán, không kịp chỉ định người kế thừa. Trong ma giáo những đại ma đầu có bản sự không phải là ít, những người đủ tư cách để làm giáo chủ ít ra cũng năm, sáu người, ta không phục người, người chẳng phục ta, nội bộ hóa thành đại loạn. Cho đến lúc này, họ cũng chưa suy định được giáo chủ. Kẻ mà chúng ta gặp ngày hôm nay, cũng trong những người muốn làm giáo chủ. Y là một trong bốn hộ giáo pháp vương, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu.
Đám đệ tử chưa ai nghe nói tới cái tên Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, nên đều lặng yên không nói gì.
Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
- Tên này từ trước chưa bước chân vào Trung Nguyên, hành sự của bọn ma giáo lại kín đáo, nên tuy võ công cao cường mà không mấy ai biết đến tên tuổi. Thế nhưng Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hai tên đó hẳn các ngươi đã nghe qua rồi?
Trương Vô Kỵ thấy rung động trong lòng, Châu Nhi cũng "A" lên một tiếng nhỏ. Ân Thiên Chính và Tạ Tốn danh tiếng vang dội, trong võ lâm không ai không biết. Tĩnh Huyền hỏi:
- Sư phụ, hai người đó cũng ở trong ma giáo ư?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Hừ, đâu phải chỉ "cũng ở trong ma giáo" mà thôi? "Ma Giáo Tứ Vương, Tử Bạch Kim Thanh". Tử Sam Long Vương, Bạch Mi Ưng Vương, Kim Mao Sư Vương, Thanh Dực Bức Vương, đó là tứ vương trong ma giáo. Thanh Dực đứng hàng cuối cùng, thân thủ như thế nào, hôm nay tất cả đều trông thấy rồi. Như thế Tử Sam, Bạch Mi, Kim Mao chỉ tưởng tượng cũng đủ biết ra sao. Kim Mao Sư Vương táng tâm phát điên, hai mươi năm trước hành động rồ dại, đột nhiên giết người vô tội, sau không biết đi đâu mất, thành một đại bí mật trong võ lâm. Ân Thiên Chính không có khả năng lên được chức giáo chủ ma giáo, bực tức bỏ ra sáng lập Thiên Ưng giáo, tự mình làm giáo chủ một phe cho hả dạ. Ta vẫn tưởng Thiên Ưng giáo đã quay lưng với ma giáo rồi, đối với Quang Minh Đính thế thành nước lửa, nào ngờ khi Quang Minh Đính gặp nguy nan, lại chạy đến cầu cứu Thiên Ưng giáo.
Trương Vô Kỵ trong lòng cực kỳ hỗn loạn, chàng vẫn biết nghĩa phụ và ông ngoại hành sự quái lạ, đều không được nhân sĩ chính phái chấp thuận, nhưng không ngờ rằng cả hai đều là Hộ Giáo Pháp Vương của ma giáo. Chàng mải nghĩ ngợi vẩn vơ nên không nghe đám đệ tử phái Nga Mi bàn tán những gì.
Một lúc sau, lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
- Bọn ta sáu đại môn phái phen này tiêu diệt Quang Minh Đính, nhất định phải thắng, dù bọn yêu tà đồng tâm hiệp lực thì có há gì sợ chúng đâu? Có điều hai bên giao tranh tổn thương phải nhiều, các ngươi trước hết phải mang cái tâm quyết tử, không được ngại ngùng chùn bước, ra chiều úy kỵ, lúc lâm địch làm mất uy phong của phái Nga Mi.
Các đệ tử đều đứng dậy, cung thân vâng lệnh. Diệt Tuyệt sư thái lại nói:
- Võ công mạnh yếu, còn ở tư chất cơ duyên, không thể nào miễn cưỡng được. Chẳng hạn như Tĩnh Hư một chiêu chưa đánh, đã trúng ám toán rồi, chết trong tay con ác ma hút máu kia, nhưng nào ai dám sỉ tiếu cho được? Chúng ta lâu nay học võ cốt để làm gì? Chẳng phải là để chống kẻ mạnh, giúp kẻ yếu, truy diệt yêu tà hay sao? Hôm nay Tĩnh Hư là người đầu tiên chịu chết, biết đâu người thứ hai chả đến lượt sư phụ các ngươi. Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi, Côn Lôn, Không Động, Hoa Sơn sáu môn phái phen này vi tiễu ma giáo, cát hung họa phúc, phái Nga Mi của chúng ta vốn đã bỏ qua một bên ...
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Phái Võ Đương ta quả nhiên có trong đó". Chàng lờ mờ hình dung được chuyến tây du này, hẳn sẽ gặp nhiều chuyện thê thảm mắt không muốn thấy, tai không muốn nghe, đã định dẫn Châu Nhi quay mình bỏ trốn, để không bao giờ gặp phải cái cảnh đấu tranh hung sát trên chốn giang hồ.
Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
- Tục ngữ có câu rằng:
Thiên quan tòng môn xuất,
Kỳ gia hảo hưng vượng.
Tử tồn phụ tiên tử,
Tôn tại tổ nãi táng.
(Nghìn quan tài qua cửa,
Nhà đó hẳn có thời.
Con còn cha mất trước,
Cháu sống ông đi rồi)
Đời có ai không chết đâu? Chỉ cốt sao để lại con cháu huyết mạch, nhà đó dù có chết trăm người, nghìn người, vẫn là hưng vượng. Nếu như các ngươi chết cả rồi, chỉ một mình lão ni sống cô đơn mới thật là đáng sợ.
Bà ta ngừng lại một lát, tiếp tục:
- Ha ha, nếu có như thế thật thì cũng có gì đáng hối tiếc đâu? Một trăm năm trước làm gì đã có phái Nga Mi? Chỉ cần tất cả chúng ta oanh oanh liệt liệt sống mái một phen, phái Nga Mi dù chỉ một lần rồi bị tiêu diệt, thì cũng đã sao?
Quần đệ tử ai nấy nhiệt huyết bừng bừng, rút binh khí ra lớn tiếng nói:
- Đệ tử thề quyết tử chiến, không sống chung với bọn yêu ma tà đạo.
Diệt Tuyệt sư thái nở một nụ cười buồn, nói:
- Tốt lắm, các con ngồi xuống đi.
Trương Vô Kỵ thấy đại đa số phái Nga Mi là đàn bà con gái yếu đuối, nhưng phen này khẳng khái tỏ lộ anh phong quyết tử, không kém giới tu mi chút nào, nghĩ thầm phái Nga Mi được liệt vào trong lục đại môn phái, không phải chuyện ngẫu nhiên, võ công cao cường đã đành, mà xem tình hình trước mắt, bọn họ có khí khái chẳng khác gì Kinh Kha đi hành thích vua Tần:
Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn,
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.
(Gió hiu hắt chừ, sông Dịch lạnh buốt,
Tráng sĩ một đi chừ, quyết không quay bước)
Những câu nói này vốn đã nhắc tới khi sắp bước chân ra đi, nhưng lúc đó ai nấy đều nghĩ ma giáo đang có nội loạn, chỉ giơ tay là diệt được, đâu ngờ trong khi phân băng ly chiết như thế, quần ma lại liên thủ để chống ngoại địch. Hôm nay Thanh Dực Bức Vương vừa ra tay, cục diện xem ra khác hẳn khi trước.
Quả nhiên Diệt Tuyệt sư thái lại nói:
- Thanh Dực Bức Vương đã xuất hiện, Bạch Mi Ưng Vương và Kim Mao Sư Vương chắc cũng đến rồi. Tử Sam Long Vương, Ngũ Tản Nhân cùng năm đại chưởng kỳ sứ ắt cũng tới cả. Chúng ta vốn đã tính đem hết lực lượng để tiêu diệt Quang Minh tả sứ Dương Tiêu, sau đó mới quét sạch dư nghiệt yêu ma khác, nào ngờ Thần Cơ tiên sinh Tiên Vu chưởng môn của phái Hoa Sơn kỳ này liệu sự lại không đúng, ha ha, tất cả sai bét rồi.
Tĩnh Huyền hỏi lại:
- Thế Tử Sam Long Vương kia là ma đầu độc ác cỡ nào?
Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu:
- Tiếng tăm độc ác của Tử Sam Long Vương không mấy nổi, ta cũng chỉ nghe qua tên mà thôi. Nghe nói người này tranh ngôi giáo chủ không xong, nên đã trốn lánh nơi hải ngoại, không lai vãng gì với ma giáo nữa. Phen này nếu như y đứng ngoài không lý tới thì thật hay biết bao nhiêu. Ma Giáo tứ vương, Tử Bạch Kim Thanh, người đó đứng đầu trong bốn hộ pháp, không nói ra cũng đủ biết lợi hại là chừng nào. Quang Minh sứ giả trong ma giáo, ngoài Dương Tiêu ra còn một người nữa. Ma giáo đời đời tương truyền, Quang Minh sứ giả phải có một tả một hữu, địa vị còn cao hơn cả tứ đại hộ giáo pháp vương. Dương Tiêu là Quang Minh tả sứ, nhưng tên tuổi của tên Quang Minh hữu sứ kia, trong võ lâm không ai biết cả. Không Văn đại sư của phái Thiếu Lâm, Tống Viễn Kiều Tống đại hiệp của phái Võ Đương đều là những người bác văn quảng kiến, nhưng hai vị đó cũng không biết. Chúng ta cùng Dương Tiêu chính diện đối địch, minh thương giao chiến, thắng bại là do võ công ai mạnh ai yếu, cái đó không sao, thế nhưng nếu như Quang Minh hữu sứ đứng ngầm bên trong ám toán, cái đó mới là đáng ngại.
Các đệ tử ai nấy sợ thầm, không ai bảo ai đều quay về sau lưng nhìn thử, tưởng như gã Quang Minh hữu sứ hay Tử Sam Long Vương đã đến đâu đây, đánh lén một phen không chừng. Chỉ thấy ánh trăng lạnh lùng chiếu trên những khuôn mặt người trắng bệch.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói tiếp:
- Dương Tiêu làm hại sư bá các ngươi là Cô Hồng Tử, lại làm chết Kỷ Hiểu Phù, Vi Nhất Tiếu giết chết Tĩnh Hư, ma giáo và phái Nga Mi thù này không đội trời chung. Bản phái từ khi sáng phái tổ sư là Quách Tương đến giờ, địa vị chưởng môn, đều do đàn bà đảm nhiệm. Không nói gì đàn ông không được truyền ngôi, mà ngay cả đến đàn bà đã có chồng, cũng không thể làm chưởng môn được. Thế nhưng bản phái hôm nay lâm vào thế mất còn, đâu có thể nào khư khư giữ được qui củ? Trong chiến dịch này, chỉ cần ai lập được đại công, không kể nam hay nữ đều được kế truyền y bát của ta.
Đám đệ tử ai nấy yên lặng cúi đầu, biết rằng sư phụ trịnh trọng an bài hậu sự, bàn thảo chuyện truyền nhân của môn hộ, dường như biết sẽ không sống mà về được trung thổ, ai nấy đều cảm thấy có ba phần chẳng lành, cảm thấy tình cảnh thật thê lương.
Diệt Tuyệt sư thái bỗng cao giọng cười, tiếng ha ha ha ha vang vọng trong sa mạc truyền đi thật xa. Quần đệ tử ai nấy ngạc nhiên, lòng kinh hãi thầm. Diệt Tuyệt sư thái tay áo phất một cái, quát lớn:
- Tất cả đi ngủ.
Tĩnh Huyền cũng như mọi ngày, chia phiên canh gác. Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Không cần canh gác nữa.
Tĩnh Huyền ngạc nhiên, nhưng lập tức hiểu ngay, nếu những loại cao thủ hạng nhất như Thanh Dực Bức Vương ban đêm đến tấn công, các đệ tử làm sao phát giác được? Canh gác cũng chỉ bằng thừa. Đêm hôm đó phái Nga Mi giới bị trong ngoài thật nghiêm nhặt nhưng không có chuyện gì xảy ra.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Chữ Châu (zhu), còn đọc là Thù là con nhện (tri thù). Việt Nam đọc thành hai âm khác nhau, nhưng người Tàu chỉ có một âm zhu (Châu hay Chu). Chúng ta thường quen đọc là tri thù nhưng theo phiên thiết trong Từ Nguyên thì phải đọc là Chu (Châu) mới đúng. Người Trung Hoa thường có nhiều âm giống nhau nhưng nghĩa khác nhau (đồng âm dị nghĩa) và nếu ai xưng tên thường phải giải thích hay phân tích mặt chữ để người nghe biết rõ tên mình là gì. Ở đây chúng tôi dịch là Châu Nhi cho sát với ý nghĩa trong câu chuyện vì chữ châu có hai nghĩa khác hẳn nhau, một là ngọc trai, một là con nhện. Kim Dung cố tình đặt một cái tên đồng âm dị nghĩa để chỉ một mình Trương Vô Kỵ biết tên cô gái có nghĩa là con nhện, còn người khác nghe thì lại tưởng là trân châu.
[2]đứa con quí như viên ngọc trai.
[3] Nhện độc
[4] dùng nghìn con nhện để luyện chất độc
[5] bao vây để tiêu diệt
[6] quần ma tụ lại ra tay một lần là diệt hết
[7] kiến quái bất quái, kỳ quái tự bại (Trích từ truyện Ngụy Nguyên Trung trong Nghệ Văn Loại, Kiến Dị Lục - xem Từ Hải)
[8] vua của loài dơi cánh xanh
[9] Năm nhân vật nhàn rỗi, độc lập không thuộïc vào nhóm nào
Hồi 18
Ỷ THIÊN TRƯỜNG KIẾM PHI HÀN MANG
Dù người hung ác tới đâu
Miễn sau chứng khí ta sâu đủ rồi.
Hôm sau đoàn người tiếp tục đi về hướng tây, đến hơn một trăm dặm thì đã chính ngọ, mặt trời chói chang chiếu ngay trên đỉnh đầu, tuy đang vào mùa đông mà cũng thấy nóng nực. Đang khi đi, phía tây bắc bỗng vọng lại đâu đây tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng, mọi người không đợi Tĩnh Huyền ra lệnh, đều rảo bước nhắm phía đó chạy tới.
Chẳng bao lâu trước mắt đã thấy mấy bóng người múa may đang giao đấu, đến gần hơn thì thấy ba đạo nhân mặc áo bào trắng cầm binh khí, vây đánh một hán tử trung niên. Ba đạo nhân đó bên tay áo phía trái đều có thêu một đốm lửa đang cháy màu đỏ, hiển nhiên là người trong ma giáo. Người trung niên kia tay múa trường kiếm, kiếm quang lấp lánh, đấu với ba đạo nhân đến hồi kịch liệt, lấy một đánh ba nhưng không rơi vào thế hạ phong chút nào.
Vết thương trên đùi Trương Vô Kỵ đã lành rồi, nhưng chàng vẫn giả vờ chưa đi được, vẫn ngồi trên cái xe trượt tuyết cốt để người trong phái Nga Mi không lưu tâm đề phòng, tiện việc cùng Châu Nhi thoát thân bỏ chạy. Lúc này chàng bị một gã nam đệ tử của phái Nga Mi chắn ngay trước mặt nên phải nghiêng người thò đầu ra nhìn mới thấy được bốn người kia giao tranh. Trường kiếm của hán tử trung niên càng múa càng nhanh, đột nhiên xoay người quát lên một tiếng nghe soẹt một cái đã đâm vào ngực một tên đạo nhân của ma giáo.
Người của phái Nga Mi lớn tiếng hoan hô, còn Trương Vô Kỵ không khỏi kinh ngạc kêu lên một tiếng nho nhỏ, chiêu Thuận Thủy Thôi Chu[1] đó là một tuyệt chiêu của phái Võ Đương, còn người trung niên ra chiêu đó chính là lục hiệp Ân Lê Đình.
Quần đệ tử của phái Nga Mi đứng xa xa xem giao đấu nhưng không tiến lên tương trợ. Hai tên đạo nhân ma giáo còn lại thấy bên kia đã giết mất một người, lại có thêm nhiều người tới trợ giúp, trong bụng khiếp sợ, đột nhiên hú lên một tiếng, hai người chia ra hai hướng bắc nam bỏ chạy.
Ân Lê Đình liền phóng mình đuổi theo đạo nhân chạy về hướng nam. Chân ông ta nhanh hơn kẻ địch nhiều, chỉ bảy tám bước đã đuổi tới sau lưng người nọ, đạo nhân đó liền quay lại, múa song đao như điên cuồng áng chừng muốn cùng Ân Lê Đình lưỡng bại câu thương.
Phái Nga Mi ai nấy đều thấy một mình Ân Lê Đình không thể nào đuổi được cả hai kẻ địch, đạo nhân chạy về hướng bắc khinh công lại thật cao cường, mỗi lúc một nhanh, cứ tình hình đó, Ân Lê Đình giết được gã ở phương nam đang quấn quít bám lấy rồi, không cách nào có thể quay lại đuổi kịp để giết đạo nhân kia. Đệ tử phái Nga Mi và ma giáo thù sâu như bể, ai nấy đều nhìn Tĩnh Huyền mong bà ta ra lệnh chặn kẻ địch lại. Các nữ đệ tử đa số đều giao hảo với Kỷ Hiểu Phù, ai nấy đều cho rằng nếu chẳng vì ma đầu của ma giáo tác ác, vị lục hiệp của phái Võ Đương này đã thành rể của bản phái rồi, nên ai cũng mong được giúp ông ta một tay.
Tĩnh Huyền trong lòng hơi trù trừ, nghĩ đến Võ Đương lục hiệp trên giang hồ danh vọng lừng lẫy là chừng nào, nếu ông ta không lên tiếng kêu gọi, người ngoài lại nhúng tay vào, là điều quả thật bất kính. Thành thử bà ta trầm ngâm không ra lệnh cho đồng môn ra chặn lại, nghĩ thầm thà để cho yêu nhân chạy thoát, chứ không dám đắc tội với vị Ân lục hiệp này.
Ngay lúc đó, bỗng có một làn ánh sáng xanh lấp lánh, thanh trường kiếm trong tay Ân Lê Đình đã ném ra, bay vọt về hướng bắc, nhanh như gió, xẹt như điện bắn thẳng vào lưng người kia. Đạo nhân đó vừa mới cảnh giác, đang toan né tránh, trường kiếm đã xuyên thẳng qua người, còn đà bay thẳng về phía trước. Đạo nhân đó chân vẫn chưa ngừng bước, còn chạy về trước đến hơn hai trượng, mới ngã sấp mặt xuống chết. Thanh kiếm kia bay ra ngoài cách đạo nhân đến ba trượng mới rơi xuống, ánh sáng xanh lập lòe, cắm thẳng vào trong cát, tuy chỉ là một thanh trường kiếm vô tri, nhưng trông cũng thần uy lẫm lẫm.
Mọi người thấy màn giao đấu kinh tâm động phách đó, không khỏi hoa mắt mất cả hồn vía, không ai nói lên được câu nào. Đến khi quay lại nhìn Ân Lê Đình, chỉ thấy đạo nhân ma giáo thân hình loạng choạng, lảo đảo như người say, ném song đao đi, hai tay khua múa trên trời, còn Ân Lê Đình không thèm để ý tới nữa đi về phía người của phái Nga Mi.
Ông ta đi được vài bước thì đạo nhân kia hự lên một tiếng, ngã lăn ra, không còn động đậy, còn Ân Lê Đình dùng thủ pháp gì đánh chết y thì không một ai thấy cả.
Các đệ tử phái Nga Mi bấy giờ mới lớn tiếng reo hò, đến Diệt Tuyệt sư thái cũng gật đầu, rồi lại thở dài một tiếng. Tiếng thở dài đó có thể nói rằng phái Võ Đương có nhân tài đệ tử như thế, phái Nga Mi lại không có được truyền nhân sánh kịp. Thế nhưng cũng có thể là Kỷ Hiểu Phù bạc phận, không lấy được người như thế này lại bị hại trong tay dâm đồ của ma giáo. Trong lòng Diệt Tuyệt sư thái, Kỷ Hiểu Phù đương nhiên đã bị Dương Tiêu làm hại, chứ không phải chính tay mình giết chết.
Ba tiếng "lục sư thúc" đã lên đến cửa miệng của Trương Vô Kỵ nhưng chàng cố gắng dằn lại. Trong mấy người sư bá sư thúc, Ân Lê Đình và phụ thân chàng thân nhau nhất, ông ta cũng yêu thương chàng hơn cả. Chàng nhìn vị sư thúc xa cách chín năm qua, thấy mặt ông đầy vẻ phong trần, hai bên tóc mai đã lấm tấm hoa râm, ắt hẳn cái chết của Kỷ Hiểu Phù khiến ông bị xúc động mạnh. Trương Vô Kỵ vừa thấy lại người thân, đã toan chạy lên nhận họ, nhưng sau nghĩ đến chung quanh tai mắt thật nhiều, không tiện để người ngoài biết để khỏi gây ra hậu hoạn vô cùng. Chu Chỉ Nhược tuy đã biết chân tướng mình nhưng chắc không nói cho ai hay.
Ân Lê Đình quay về phía Diệt Tuyệt sư thái khom lưng hành lễ, nói:
- Đại sư huynh của tệ phái tất lãnh các sư đệ cùng đệ tử đời thứ ba, cả thảy ba mươi hai người đã đến địa giới Nhất Tuyến Hiệp. Vãn bối phụng mệnh đại sư huynh đi trước nghênh đón quí phái.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Hay lắm, thế ra phái Võ Đương đã đến trước rồi. Quí phái đã giao chiến cùng yêu nhân trận nào chưa?
Ân Lê Đình đáp:
- Chúng tôi đã đụng độ ba lần với hai kỳ Mộc, Hỏa của ma giáo, giết được vài tên yêu nhân, thất sư đệ Mạc Thanh Cốc cũng bị thương nhẹ.
Diệt Tuyệt sư thái gật gù, bà ta biết tuy Ân Lê Đình chỉ miêu tả sơ sài như thế, nhưng thực ra ba trận ác đấu đó ắt hẳn khốc liệt dị thường, với tài năng Võ Đương ngũ hiệp, mà cũng không giết nổi chưởng kỳ sứ của ma giáo, thất hiệp Mạc Thanh Cốc lại bị thương. Diệt Tuyệt sư thái lại hỏi:
- Quí phái đã tìm hiểu thực lực trên Quang Minh Đính ra sao chưa?
Ân Lê Đình đáp:
- Nghe nói Thiên Ưng giáo là chi phái của ma giáo đã đem đại lực lượng lên tăng viện cho Quang Minh Đính, có người còn bảo là Tử Sam Long Vương và Thanh Dực Bức Vương cũng đã tới nơi.
Diệt Tuyệt sư thái ngạc nhiên hỏi:
- Tử Sam Long Vương cũng đã đến rồi ư?
Hai người một mặt nói chuyện nhưng vẫn đi song song, quần đệ tử lẽo đẽo đi theo tận xa xa, không dám đến gần nghe thảo luận. Hai người nói chuyện một hồi, Ân Lê Đình giơ tay từ biệt để còn liên lạc với phái Hoa Sơn. Tĩnh Huyền nói:
- Ân lục hiệp chạy đôn chạy đáo chắc cũng đã đói rồi, xin mời dùng chút điểm tâm rồi hãy đi.
Ân Lê Đình không khách sáo nói:
- Nếu thế thì làm phiền quí vị vậy.
Chúng đệ tử phái Nga Mi lập tức đem lương khô ra, có người đắp đất làm lò, đem chảo ra đun mì. Bọn họ ăn uống vốn thực là giản phác, thế nhưng tiếp đãi Ân Lê Đình thì thật ân cần, cũng là nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù.
Ân Lê Đình hiểu rõ tâm ý của bọn họ, khóe mắt rưng rưng, nghẹn ngào nói:
- Đa tạ các vị sư tỉ sư muội.
Châu Nhi vốn ở ngoài quan sát không nói năng gì, lúc này đột nhiên cất tiếng:
- Ân lục hiệp, tôi muốn hỏi thăm một người liệu có được không?
Ân Lê Đình tay đang cầm một bát mì nóng, quay đầu lại nói:
- Vị tiểu sư muội này tôn tính đại danh là gì? Không biết muốn tra hỏi chuyện chi? Nếu tôi biết được ắt xin phụng cáo.
Thần thái hết sức khiêm hòa. Châu Nhi nói:
- Tôi không phải người trong phái Nga Mi. Tôi bị họ bắt đi đấy.
Ân Lê Đình lúc đầu tưởng cô ta là một tiểu đệ tử của phái Nga Mi, nghe nói không khỏi ngạc nhiên, nhưng nghĩ lại thấy cô gái này thật thẳng thắn liền hỏi:
- Cô là người trong ma giáo ư?
Châu Nhi đáp:
- Không phải đâu, tôi là kẻ đối đầu của ma giáo.
Ân Lê Đình không tiện hỏi kỹ lai lịch cô gái, vì muốn tôn trọng chủ nhân nên đưa mắt nhìn Tĩnh Huyền, xin bà ta cho biết ý kiến. Tĩnh Huyền nói:
- Ngươi định hỏi Ân lục hiệp chuyện gì?
Châu Nhi đáp:
- Tôi định hỏi ông, lệnh sư huynh Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp có đến Nhất Tuyến Hiệp không?
Câu nói vừa xong, cả Ân Lê Đình lẫn Trương Vô Kỵ đều giật mình kinh hãi. Ân Lê Đình nói:
- Cô hỏi thăm ngũ cư ca của tôi có chuyện gì thế?
Châu Nhi hai má đỏ bừng, nói nhỏ:
- Tôi muốn biết công tử của ông ta là Trương Vô Kỵ, có đến hay không?
Trương Vô Kỵ nghe nói lại càng kinh hãi, nghĩ thầm:
- Thì ra nàng đã biết rõ chân tướng ta từ đời nào, lúc này mới nói toạc ra.
Ân Lê Đình nói:
- Cô nói thật đấy chứ?
Châu Nhi nói:
- Tôi thành tâm hỏi thăm Ân lục hiệp, đâu dám dối gian gì?
Ân Lê Đình nói:
- Ngũ sư ca của tôi qua đời đã trên mười năm, cây mọc trên mộ đã xanh rì, không lẽ cô nương không biết hay sao?
Châu Nhi kinh hãi nhỏm dậy "A" lên một tiếng, nói:
- Hóa ra Trương ngũ hiệp đã chết rồi đấy, hóa ra ... anh ta ... anh ta đã mồ côi từ bao giờ rồi.
Ân Lê Đình hỏi:
- Thế cô nương có quen biết cháu Vô Kỵ chúng tôi ư?
Châu Nhi đáp:
- Năm năm trước, tôi từng ở tại nhà Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu gặp anh ấy một lần, không biết bây giờ anh ta ở đâu.
Ân Lê Đình đáp:
- Tôi phụng mệnh gia sư đã từng đến Hồ Điệp Cốc thăm hỏi nhưng vợ chồng Hồ Thanh Ngưu đã bị người ta giết rồi, Vô Kỵ chẳng biết đi đâu. Về sau cố gắng đi tìm, nhưng không có chút âm hao nào cả. Ôi, nào ngờ ... nào ngờ ...
Ông nói đến đây, thần sắc thê thảm, không nói tiếp được nữa. Châu Nhi vội hỏi:
- Sao thế? Lục hiệp nghe tin tức gì vậy?
Ân Lê Đình chăm chăm nhìn nàng, hỏi gặng:
- Cô nương vì sao lại quan thiết như thế? Cháu Vô Kỵ của tôi với cô có ơn hay có oán?
Châu Nhi mắt nhìn về cõi xa xăm, buồn bã nói:
- Tôi muốn anh ấy đi với tôi đến đảo Linh Xà ...
Ân Lê Đình ngắt lời:
- Đảo Linh Xà ư? Kim Hoa bà bà và Ngân Diệp tiên sinh là gì của cô?
Châu Nhi không trả lời, chỉ lẩm bẩm nói một mình:
- ... Anh ta đã không chịu, lại còn đánh tôi, mắng tôi, cắn tay tôi máu chảy dầm dề ...
Cô nàng vừa nói vừa lấy tay trái xoa xoa lưng bàn tay phải.
- Có điều ... có điều ... tôi vẫn không quên được anh ấy. Tôi đâu có ý muốn hại anh ta, tôi muốn anh ấy lên đảo Linh Xà, bà bà sẽ dạy võ công, tìm cách trị cho anh ta khỏi âm độc của Huyền Minh thần chưởng. Nào ngờ anh ta hung dữ quá, đâu biết tôi có lòng tốt, lại tưởng có bụng dạ hại anh ta.
Những điều thắc mắc trong lòng Trương Vô Kỵ bây giờ mới minh bạch: "Thì ra Châu Nhi chính là cô bé A Ly nắm tay ta nơi Hồ Điệp Cốc, kẻ tình lang khắc khoải không quên, chẳng phải ai xa lạ mà chính là ta". Chàng nghiêng đầu nhìn lại, thấy khuôn mặt nàng sưng vù, đâu còn chút vẻ xinh đẹp nào như lần mới gặp? Thế nhưng đôi mắt trong vắt như nước mùa thu, nhìn sâu thăm thẳm, trông vẫn chẳng khác năm xưa chút nào.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:
- Sư phụ của nó là Kim Hoa bà bà nghe nói cũng có dây mơ rễ má gì với ma giáo. Mụ ta cũng chẳng phải chính nhân nhưng lúc này bọn ta chưa muốn gây thù chuốc oán nên chỉ tạm giữ nó thôi.
Ân Lê Đình nói:
- Ồ, thì ra như thế. Cô nương, cô đối với cháu Vô Kỵ tôi thật là chí tình, chỉ có điều cháu tôi phúc mỏng, mấy hôm trước tôi gặp Võ trang chủ Võ Liệt của Chu Võ Liên Hoàn Trang mới hay là hơn năm năm trước, Vô Kỵ đã xẩy chân rơi xuống vực sâu, thịt xương cũng chẳng còn. Than ôi, tôi và cha nó tình tựa tay chân, nào ngờ ông trời không thương người có lòng, cả hòn máu rơi kia ...
Ông nói chưa hết câu, nghe bịch một cái, Châu Nhi đã ngã lăn ra bất tỉnh. Chu Chỉ Nhược vội vàng tiến lên đỡ cô ta dậy, xoa bóp trên ngực mấy cái, Châu Nhi mới từ từ tỉnh lại. Trương Vô Kỵ thật là khó xử, trước mắt thấy Ân Lê Đình và Châu Nhi hai người đau lòng như thế, mà mình lại dửng dưng đứng bên ngoài không lý tới, chàng quay đầu lại thấy Chu Chỉ Nhược đang nhìn mình đăm đăm, ánh mắt đầy vẻ ngờ vực, dường như muốn hỏi: "Vì cớ gì anh không đứng ra nhận là mình?" Trương Vô Kỵ biết rằng mấy năm qua mình thân thể tướng mạo biến đổi thật nhiều, nếu chẳng tự mình nói ra kỷ niệm trên sông Hán Thủy, Chu Chỉ Nhược cũng không thể nào nhận ra nổi.
Châu Nhi nghiến răng hậm hực hỏi:
- Ân lục hiệp, Trương Vô Kỵ bị ai giết chết thế?
Ân Lê Đình nói:
- Chẳng phải ai giết y cả. Cứ theo lời của Võ Liệt của Chu Võ Liên Hoàn Trang thì chính mắt y thấy Vô Kỵ bị trượt chân ngã xuống vực, luôn cả người anh em kết nghĩa của Võ Liệt là Kinh Thiên Nhất Bút Chu Trường Linh cũng rơi xuống chết luôn.
Châu Nhi thở dài một tiếng, lặng lẽ ngồi xuống. Ân Lê Đình nói:
- Tôn tính đại danh của cô nương là gì?
Châu Nhi lắc đầu không trả lời, nét mặt ngẩn ngơ lệ rơi lã chã, đột nhiên nằm phục xuống cát khóc òa lên. Ân Lê Đình dỗ dành:
- Cô nương cũng đừng quá đau lòng. Cháu Vô Kỵ nếu như không rơi xuống tuyết cốc, lúc này âm độc cũng phát tác rồi, e cũng không sống được. Ôi, nó rơi xuống tan xương nát thịt chưa hẳn đã không hay, chẳng hơn phải chịu cái âm độc đau đớn vô cùng vô tận kia mà chết hay sao.
Diệt Tuyệt sư thái bỗng nói:
- Tên nghiệt chủng Trương Vô Kỵ kia, chết sớm cũng là may, nếu không cũng trở thành cái mầm họa làm hại nhân gian thôi.
Châu Nhi nổi giận, lớn tiếng chửi:
- Lão tặc ni, bà nói láo nói lếu gì thế?
Quần đệ tử phái Nga Mi thấy nàng dám lên tiếng nhục mạ sư tôn, lập tức bốn năm người rút phăng trường kiếm, chỉ ngay vào ngực vào lưng cô gái. Châu Nhi không sợ hãi chút nào, vẫn tiếp tục:
- Lão tặc ni, phụ thân của Trương Vô Kỵ là sư huynh của Ân lục hiệp, hiệp danh vang động thiên hạ, có gì là không phải?
Diệt Tuyệt sư thái cười khẩy không trả lời. Tĩnh Huyền nói:
- Ngươi nói đã hết chưa? Cha của Trương Vô Kỵ quả thật đệ tử danh môn chính phái, còn mẹ y thì sao? Ma giáo yêu nữ sinh con, không phải nghiệt chủng họa thai thì là gì?
Châu Nhi hỏi lại:
- Mẹ của Trương Vô Kỵ là ai thế? Sao lại là ma giáo yêu nữ?
Các đệ tử phái Nga Mi cười rộ lên, chỉ một mình Chu Chỉ Nhược cúi đầu nhìn xuống đất. Thần sắc Ân Lê Đình hơi thẹn thùng còn Trương Vô Kỵ mặt đỏ tía tai, nước mắt doanh tròng, nếu không phải vì nhất quyết che dấu thân phận mình, chàng đã đứng dậy biện bạch cho mẹ vài câu.
Tĩnh Huyền là người trung hậu, nói với Châu Nhi:
- Vợ của Trương ngũ hiệp là con gái của giáo chủ Thiên Ưng giáo Ân Thiên Chính, tên là Ân Tố Tố ...
Châu Nhi "A" lên một tiếng, thần sắc đại biến. Tĩnh Huyền nói tiếp:
- Trương ngũ hiệp vì lấy phải con yêu nữ này, đến nỗi thân bại danh liệt, phải tự vẫn trên núi Võ Đương. Việc đó cả thiên hạ ai ai cũng biết, không lẽ cô nương không nghe tới hay sao?
Châu Nhi nói:
- Tôi ... tôi ở trên đảo Linh Xà, những việc của võ lâm Trung Nguyên, không nghe thấy gì cả.
Tĩnh Huyền nói:
- Thì ra thế. Cô đắc tội với sư phụ tôi, mau tạ tội đi.
Châu Nhi lại hỏi tiếp:
- Thế Ân Tố Tố thì sao? Bà ta bây giờ ở đâu?
Tĩnh Huyền nói:
- Bà ta cũng tự vẫn cùng một lượt với Trương ngũ hiệp rồi.
Châu Nhi lại giật bắn lên, nói:
- Bà ấy ... bà ấy cũng chết rồi ư?
Tĩnh Huyền lạ lùng hỏi:
- Cô cũng biết Ân Tố Tố ư?
Ngay lúc đó, từ phía đông bắc một ngọn lửa xanh bay vọt lên tận mây. Ân Lê Đình nói:
- Ối chà, cháu Thanh Thư của tôi bị vây đánh rồi.
Ông ta quay mình khom lưng hành lễ với Diệt Tuyệt sư thái, ôm quyền chào tất cả mọi người, rồi chạy về hướng ngọn lửa bốc lên.
Tĩnh Huyền phất tay một cái, các đệ tử phái Nga Mi liền chạy theo. Mọi người chạy đến gần, thấy ba người đang vây đánh một người. Ba người đó đội mũ vải, mặc áo ngắn theo lối đầy tớ, tay cầm đơn đao. Mọi người chỉ coi vài chiêu đã thấy kinh hãi, ba người kia tuy ăn mặc như gia nhân, nhưng ra tay độc địa không kém gì những cao thủ hạng nhất, tài nghệ cao siêu hơn ba đạo nhân Ân Lê Đình mới giết nhiều. Ba người chạy như đèn cù vây quanh một thanh niên thư sinh, xông ra xông vào tấn công, thanh niên nọ tuy kém thế hẳn nhưng thanh trường kiếm trong tay bảo vệ môn hộ kín đáo lạ thường.
Đứng cách bốn người một quãng có sáu người mặc áo bào màu vàng, trên áo ai cũng có thêu một ngọn lửa màu đỏ, rõ ràng là người trong ma giáo. Sáu người đó đứng xa xa, không vào tham chiến, thấy Ân Lê Đình và người của phái Nga Mi chạy đến, một người lùn lùn mập mập trong sáu người liền nói:
- Anh em nhà họ Ân ơi, các ngươi xem ra không xong rồi, hãy cúp đuôi chạy đi thôi, để chúng ông giữ mặt sau cho.
Một người mặc áo đầy tớ tức giận nói:
- Hậu Thổ Kỳ chậm như con rùa, họ Nhan kia bọn mi chạy trước đi.
Tĩnh Huyền lạnh lùng nói:
- Chết đến nơi rồi còn cãi nhau.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Sư tỉ, những người này là ai thế?
Tĩnh Huyền nói:
- Ba người ăn mặc theo lối đầy tớ là nô bộc của Ân Thiên Chính, tên là Ân Vô Phúc, Ân Vô Lộc, Ân Vô Thọ.
Chu Chỉ Nhược kinh hãi kêu lên:
- Ba tên đầy tớ mà đã ... tài nghệ ghê gớm đến thế sao?
Tĩnh Huyền đáp:
- Họ vốn là những tên cướp thành danh trong hắc đạo, không phải bọn tầm thường đâu. Còn bọn mặc áo vàng kia là yêu nhân trong Hậu Thổ Kỳ của ma giáo. Tên mập mập lùn lùn kia không chừng là chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên. Sư phụ nói năm chưởng kỳ sứ của Ngũ Kỳ trong ma giáo tranh chấp địa vị với Thiên Ưng giáo, cho nên bất hòa ...
Lúc đó thanh niên thư sinh đã gặp phải nguy hiểm, nghe soẹt một tiếng, tay áo bên trái bị đơn đao của Ân Vô Thọ cắt mất một mảnh. Ân Lê Đình hú lên một tiếng thanh thoát, trường kiếm tung ra nhắm ngay vào Ân Vô Lộc. Ân Vô Lộc vung đao ra đỡ, đao kiếm chạm nhau. Lúc này nội lực của Ân Lê Đình rất là ghê gớm nghe choang một tiếng, đơn đao của Ân Vô Lộc liền cong lại, biến thành một cái móc. Ân Vô Lộc giật mình kinh hãi vội nhảy ra ngoài ba bước.
Đột nhiên Châu Nhi nhảy vọt lên, ngón trỏ tay phải phóng ra, trúng ngay sau ót Ân Vô Lộc, rồi nhảy vọt trở về chỗ cũ. Ân Vô Lộc võ công không phải tầm thường, nhưng mới bị Ân Lê Đình dùng nội lực hất ra, khí huyết đang trộn trạo, chân đứng chưa vững, nên Châu Nhi đâm một chỉ trúng ngay. Y đau đến cúi gập người lại, chỉ biết há mồm rên rỉ, toàn thân run lên bần bật. Ân Vô Phúc, Ân Vô Lộc kinh hãi, không còn dám tiếp tục đánh thanh niên kia, chạy đến bên cạnh Ân Vô Lộc đỡ y đậy, thấy y quằn quại không ngừng, hiển nhiên bị thương rất nặng. Hai người đưa mắt nhìn Châu Nhi, đột nhiên kêu lên:
- Thì ra là Tam tiểu thư.
Châu Nhi đáp:
- Hừ, còn nhận ra ta ư?
Mọi người ai nấy tin chắc hai người kia sẽ xông lên thí mạng với Châu Nhi, nào ngờ chỉ ôm Ân Vô Lộc lên, không nói một lời, chạy về hướng bắc. Biến cố đó xảy ra thật đột ngột, ai nấy trợn mắt há mồm, không hiểu chuyện gì.
Gã lùn mập mặc áo bào vàng kia tay trái vẫy một cái trong tay đã cầm một đại kỳ màu vàng, năm người kia cũng lấy cờ ra phất, tuy chỉ sáu người nhưng các lá cờ kêu lên phần phật, khí thế thật là uy võ, chầm chậm lui về hướng bắc.
Người của phái Nga Mi thấy kỳ trận cổ quái, đều đứng ngẩn người ra. Hai nam đệ tử liền rống lên một tiếng, phóng mình đuổi theo. Ân Lê Đình lắc một cái, đi sau mà tới trước, chuyển thân chặn ngay hai người kia lại, giang tay đẩy, hai người đó không chịu nổi phải lùi lại ba bước, mặt mày đỏ bừng. Tĩnh Huyền quát lên:
- Hai vị sư đệ trở lại ngay, Ân lục hiệp có hảo ý, bọn Hậu Thổ Kỳ này không đuổi theo được đâu.
Ân Lê Đình nói:
- Mấy hôm trước tôi và Mạc thất đệ đuổi theo Liệt Hỏa kỳ trận, một phen thua to, Mạc sư đệ đầu tóc, lông mày bị cháy xém một nửa.
Nói xong vén tay áo tay trái lên, chỉ cho mọi người xem những vết phỏng. Hai người nam đệ tử của phái Nga Mi không khỏi kinh sợ thầm.
Đôi mắt lạnh lẽo sắc như dao của Diệt Tuyệt sư thái nhìn vào mặt Châu Nhi mấy lần, lạnh lùng hỏi:
- Có phải Thiên Châu Vạn Độc Thủ đó chăng?
Châu Nhi đáp:
- Chưa luyện xong.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Nếu luyện xong rồi thì còn ghê gớm đến đâu? Sao ngươi lại đả thương gã đó?
Châu Nhi nói:
- Tiếc rằng không đâm chết được y.
Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
- Sao thế?
Châu Nhi đáp:
- Chuyện riêng của tôi mắc mớ gì đến bà?
Diệt Tuyệt sư thái thân hình hơi nghiêng qua, đã cầm được thanh trường kiếm trong tay Tĩnh Huyền, nghe keng một tiếng, Châu Nhi đã nhảy vọt về sau, mặt trắng bệch. Thì ra Diệt Tuyệt sư thái trong nháy mắt đã dùng kiếm chém vào ngón tay trỏ bàn tay phải Châu Nhi, thủ pháp nhanh lạ thường, không một ai nhìn rõ cả. Nào ngờ Châu Nhi vì gãy cổ tay chưa khỏi hẳn, bàn tay không sức lực, lại thêm Thiên Châu Vạn Độc Thủ luyện chưa thành, kỳ này trước khi ra tay đã bao ngón tay bằng một cái bao thép, mà kiếm của Diệt Tuyệt sư thái dùng lại không phải Ỷ Thiên bảo kiếm, nên nhát kiếm đó chém không đứt ngón tay cô gái.
Diệt Tuyệt sư thái ném trả thanh kiếm cho Tĩnh Huyền, hừ một tiếng:
- Lần này ta tha cho, lần sau mà còn dùng loại tà ác công phu đó nữa thì sẽ biết tay.
Bà ta đánh tiểu bối một chiêu không trúng nhưng tự trọng thân phận, không ra tay lần thứ hai.
Ân Lê Đình thấy Châu Nhi luyện môn võ công âm độc đó, vốn là điều đại kỵ của con nhà võ, thế nhưng nàng lại đâm một chỉ vào Ân Vô Lộc là giúp đỡ phe mình, sau nữa lòng mang một mối tình sâu khắc khoải Trương Vô Kỵ, không khỏi cảm động, chẳng nỡ để Diệt Tuyệt sư thái giết cô nàng, liền lên tiếng khuyên bảo:
- Sư thúc, đứa trẻ này học sai lầm công phu, thôi mình từ từ sẽ nói cô ta tìm minh sư, ôi, hoặc giả ... hoặc giả ...
Ông nghĩ nếu như Diệt Tuyệt sư thái thu cô ta gia nhập phái Nga Mi thì thật hay nhưng chợt nghĩ cô bé này vừa mới chửi bà ta là "lão tặc ni", nên vội ngừng lại không dám nói ra, nắm tay thư sinh kia dẫn lại, nói:
- Thanh Thư, mau bái kiến sư thái cùng các vị sư bá sư thúc.
Thư sinh nọ tiến lên ba bước, quì xuống hướng về Diệt Tuyệt sư thái hành lễ, đến khi quay sang Tĩnh Huyền hành lễ mọi người đều vội nói không dám, ai cũng trả lễ lại. Trương Tam Phong tuổi đã hơn trăm, tính vai vế còn cao hơn Diệt Tuyệt sư thái không phải chỉ một hàng. Ân Lê Đình chỉ vì đã có hôn ước với Kỷ Hiểu Phù nên mới coi như kém Diệt Tuyệt sư thái một vai, chứ nếu tính Trương Tam Phong và tổ sư phái Nga Mi Quách Tương ngang hàng mà luận, thì Diệt Tuyệt sư thái phải gọi Ân Lê Đình là sư thúc. Tuy nhiên hai phái Võ Đương và Nga Mi khác biệt, không tính chuyện vai vế được, ai nấy chỉ so tuổi tác, tùy miệng mà gọi thôi. Thế nhưng thanh niên thư sinh kia gọi các đệ tử phái Nga Mi là sư bá sư thúc thì Tĩnh Huyền không thể nào dám nhận.
Mọi người thấy chàng thanh niên một mình đấu với ba anh em họ Ân, pháp độ nghiêm cẩn, chiêu số tinh kỳ, quả thực là phong phạm của danh môn đệ tử. Trong khi bị ba tên kia vây đánh, mặc dầu ở vào thế hạ phong nhưng chàng vẫn trấn tĩnh cự địch, không thấy hoảng loạn chút nào thật không phải dễ. Lúc này thanh niên đó tới gần hơn, mọi người không khỏi tấm tắc khen thầm: "Anh chàng này đẹp trai thực".
Chàng thanh niên mi mục thanh tú, trong cái tuấn mỹ còn có ba phần khí độ hiên ngang, khiến cho người nào thoạt nhìn cũng đâm nể vì. Ân Lê Đình nói:
- Đây là con trai duy nhất của đại sư ca chúng tôi, tên là Thanh Thư.
Tĩnh Huyền nói:
- Mấy năm qua đã từng nghe hiệp danh của Ngọc Diện Mạnh Thường, trên giang hồ ai cũng nói Tống thiếu hiệp khẳng khái trượng nghĩa, tế nhân giải khốn, hôm nay may gặp nơi đây thật là vinh hạnh.
Các đệ tử của phái Nga Mi ai nấy thầm bàn tán, người nào cũng thấy đúng thật là "danh bất hư truyền". Châu Nhi đứng bên cạnh Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:
- A Ngưu ca, anh chàng này đẹp trai hơn anh nhiều.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đương nhiên, còn gì phải nói.
Châu Nhi hỏi:
- Anh có ghen không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Nực cười nhỉ, tôi ghen cái gì?
Châu Nhi đáp:
- Anh chàng ta cứ nhìn Chu cô nương, anh không ghen à?
Trương Vô Kỵ nhìn về hướng Tống Thanh Thư, quả nhiên anh chàng đang nhìn Chu Chỉ Nhược nhưng cũng không để tâm. Chàng từ khi biết được Châu Nhi chính là cô bé A Ly năm xưa gặp tại Hồ Điệp Cốc, trong lòng bồi hồi xao xuyến, khi đó Châu Nhi cưỡng ép chàng lên Linh Xà đảo, chàng vùng vẫy không thoát được, chỉ còn cách cắn một cái ngay lưng bàn tay cô nàng, nào ngờ nàng lại nhớ nhung mãi mãi không quên, khiến lòng chàng càng thêm cảm kích.
Ân Lê Đình nói:
- Thanh Thư, mình đi thôi.
Tống Thanh Thư nói:
- Phái Không Động hẹn trưa nay sẽ ở nơi này hội họp, thế nhưng bây giờ vẫn chưa thấy đâu, e rằng có chuyện gì.
Ân Lê Đình mặt lộ vẻ lo lắng nói:
- Chuyện đó cũng đáng lo thật.
Tống Thanh Thư nói:
- Ân lục thúc, chi bằng mình cùng đi với các vị tiền bối phái Nga Mi về hướng tây có hay hơn không?
Ân Lê Đình gật đầu:
- Phải lắm.
Diệt Tuyệt sư thái và bọn Tĩnh Huyền đều nghĩ thầm: "Những năm gần đây Trương Tam Phong chân nhân không còn coi sóc những tục vụ nữa, vai trò chưởng môn thực tế ra chính là do Tống Viễn Kiều đảm đương. Xem ra chưởng môn đời thứ ba của phái Võ Đương sẽ do vị Tống thiếu hiệp này tiếp nhiệm, Ân Lê Đình tuy là sư thúc nhưng lại phải nghe lời sư điệt". Họ có biết đâu Ân Lê Đình tính tình ôn hòa, không mấy khi tự mình quyết định điều gì, người khác nói sao, ông ta nghe vậy không phản đối.
Đoàn người đi về hướng tây chừng mười bốn mười lăm dặm thì đến một đồi cát lớn. Tĩnh Huyền thấy Tống Thanh Thư rảo bước chạy lên trên đồi, cũng không chịu kém phái Võ Đương, liền vẫy tay một cái, hai tên đệ tử phái Nga Mi cũng chạy lên theo. Ba người lên rồi, không khỏi hoảng hốt kêu la, thấy ở trên sa mạc về phía tây nằm la liệt khoảng chừng ba mươi xác chết.
Đoàn người thấy ba người kinh hoàng đều vội vã chạy lên đồi cát, thấy đám người chết già có trẻ có, không bị vỡ đầu thì cũng lõm ngực, tưởng chừng như bị đánh bằng những cây gậy thật lớn.
Ân Lê Đình kiến thức rộng rãi, nói:
- Phiên Dương bang ở Giang Tây bị chết sạch là bởi Cự Mộc Kỳ của ma giáo đánh đó.
Diệt Tuyệt sư thái nhíu mày nói:
- Phiên Dương bang đến đây là gì? Quí phái gọi họ đến chăng?
Trong lời nói có chiều không vui. Trong võ lâm, các danh môn chính phái đối với các bang hội có chiều rẻ rúng, Diệt Tuyệt sư thái không muốn cùng chung với họ thành một phe. Ân Lê Đình vội nói:
- Không ai mời Phiên Dương bang cả, có điều Lưu bang chủ của Phiên Dương bang là đệ tử ký danh của phái Không Động, chắc là họ nghe thấy lục môn phái vi tiễu Quang Minh Đính, nên tự nguyện đến giúp, vì sư môn góp một tay.
Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, không nói thêm nữa.
Mọi người đem thi thể bang chúng bang Phiên Dương đem chôn dưới cát, chính lúc đang định lên đường, đột nhiên ngôi mộ tận cùng phía tây vỡ ra, trong đám cát bụi mù mịt một người nhảy ra, chộp ngay một nam đệ tử vụt chạy đi. Sự việc xảy ra khiến ai nấy đều sững sờ, bảy tám nữ đệ tử phái Nga Mi kêu lên thất thanh. Diệt Tuyệt sư thái, Ân Lê Đình, Tống Thanh Thư và Tĩnh Huyền bốn người đều vọt lên đuổi theo. Qua một hồi, mọi người mới vỡ lẽ ra, từ trong ngôi mộ nhảy ra chẳng ai xa lạ chính là Thanh Dực Bức Vương của ma giáo. Y mặc giả y phục bang chúng Phiên Dương bang, nằm lẫn trong đám xác người, nín thở giả chết. Phái Nga Mi không để ý đem y chôn luôn trong mộ cát. Y tài cao mật lớn, cứ để yên, biết cát vàng rất mềm, nằm trong mộ nhịn thở một hồi không đến nỗi nào, đợi đến khi mọi người không đề phòng mới phá mộ nhảy ra.
Lúc ban đầu bốn người chạy song song, nhưng chạy độ hơn nửa vòng thì đã phân cao thấp, Ân Lê Đình và Diệt Tuyệt sư thái chạy trước, Tống Thanh Thư và Tĩnh Huyền chạy sau. Thế nhưng gã Thanh Dực Bức Vương khinh công thật cao, đúng là thế thượng vô song, tuy trong tay ôm thêm một người đàn ông, nhưng bọn Ân Lê Đình đuổi sao cho kịp?
Vòng thứ hai gần hết, Tống Thanh Thư liền đứng lại, kêu lên:
- Triệu Linh Châu sư thúc, Bối Cẩm Nghi sư thúc, xin đến tại Ly vị ngăn đường. Đinh Mẫn Quân sư thúc, Lý Minh Hà sư thúc, xin đứng ở Chấn vị chặn lại ...
Chàng thuận mồm kêu lên, ra lệnh cho hơn ba mươi đệ tử phái Nga Mi chia ra chiếm giữa các phương vị bát quái. Phái Nga Mi chẳng khác nào rắn mất đầu, nghe chàng ra lệnh đầy vẻ uy nghiêm, ai nấy lập tức tuân theo. Trong tình thế đó, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu không còn cách nào có thể chạy vòng tròn được nữa, cất tiếng phá lên cười, cầm người đang bồng trong tay tung lên không, rồi bỏ chạy mất.
Diệt Tuyệt sư thái đưa tay đón lấy người đệ tử từ trên không rơi xuống, chỉ nghe tiếng của Vi Nhất Tiếu từ xa vọng lại:
- Phái Nga Mi có được nhân tài như thế, Diệt Tuyện lão ni quả thật không vừa.
Câu đó rõ ràng khen ngợi Tống Thanh Thư. Diệt Tuyệt sư thái mặt sầm xuống, nhìn lại người đệ tử, thấy cổ họng y máu me bầy nhầy, lộ ra hai hàng vết răng, đã chết rồi.
Mọi người vây quanh bà ta, lặng yên không ai nói một lời. Một lúc lâu sau, Ân Lê Đình nói:
- Nghe người ta nói rằng, Thanh Dực Bức Vương này mỗi khi thi triển võ công, thì phải uống máu nóng của một người sống, lời đó quả thật không ngoa. Chỉ tiếc rằng vị sư đệ này ... ôi ...
Diệt Tuyệt sư thái vừa xấu hổ vừa căm giận. Từ khi bà ta tiếp nhiệm chưởng môn đến nay, phái Nga Mi chưa từng bị bẽ bàng như thế bao giờ, hai đệ tử liên tiếp bị địch nhân hút máu chết, thế nhưng mặt mũi kẻ địch ra sao cũng chưa nhìn rõ.
Bà ta đứng thẫn thờ một hồi rồi trừng mắt hỏi Tống Thanh Thư:
- Tên tuổi của bao nhiêu môn hạ đệ tử của ta, sao ngươi biết được?
Tống Thanh Thư nói:
- Lúc nãy Tĩnh Huyền sư thúc có đưa đệ tử đến chào cả rồi.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Ồ, nhập nhĩ bất vong[2]. Phái Nga Mi ta làm sao có được nhân tài như thế?
Tối hôm đó khi mọi người dừng chân để nghỉ, Tống Thanh Thư cung kính đến trước mặt Diệt Tuyệt sư thái, hành lễ rồi nói:
- Tiền bối, vãn bối có một chuyện đáng ra không nên hỏi muốn thỉnh cầu.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:
- Nếu chuyện không nên hỏi, thì đừng mở miệng hỏi làm gì.
Tống Thanh Thư lại cung kính hành kễ, nói:
- Vâng.
Quay trở về ngồi xuống bên cạnh Ân Lê Đình. Mọi người thấy chàng lên tiếng khẩn cầu Diệt Tuyệt sư thái nhưng lại bị cự tuyệt, tuy không ai dám hỏi thêm nhưng bụng người nào cũng thắc mắc, không biết chàng định hỏi chuyện gì. Đinh Mẫn Quân nhịn không nổi, liền đi lại:
- Tống huynh đệ, cậu muốn hỏi sư phụ chúng tôi chuyện gì thế?
Tống Thanh Thư đáp:
- Khi gia phụ truyền thụ kiếm pháp cho vãn bối, có nói rằng hiện nay trên đời kiếm thuật thông thần thì sư tổ bản phái là đệ nhất, kế đến là Diệt Tuyệt tiền bối chưởng môn phái Nga Mi, hai phái Võ Đương và Nga Mi đều có sở trường sở đoản. Chẳng hạn như chiêu Thủ Huy Ngũ Huyền[3] của bản môn với chiêu Khinh La Tiểu Phiến[4] của quí phái đại đồng tiểu dị, thế nhưng bản phái mũi kiếm sử dụng kình lực quá mạnh, không thể nào khinh linh hoạt bát nên khi ra chiêu không được tiêu sái tự nhiên như chiêu Khinh La Tiểu Phiến.
Chàng vừa nói vừa rút trường kiếm ra múa cả hai chiêu, nhưng khi sử chiêu Khinh La Tiểu Phiến trông không thuần thục chút nào. Đinh Mẫn Quân cười nói:
- Chiêu này không đúng rồi.
Y thị tiếp lấy trường kiếm trong tay chàng, biểu diễn cho Tống Thanh Thư coi rồi nói:
- Cổ tay tôi vẫn còn đau, sử không ra lực, nhưng phải như thế mới phải.
Tống Thanh Thư rất lấy làm thán phục, nói:
- Gia phụ vẫn thường nói là tự hận mình phúc mỏng, chưa từng được xem kiếm thuật của tôn sư. Hôm nay vãn bối được thấy Đinh sư thúc ra chiêu Khinh La Tiểu Phiến, quả thực là mở mắt. Vãn bối mới rồi định xin sư thái chỉ điểm cho vài chiêu, để giải quyết những điểm chưa tỏ tường liên quan đến kiếm pháp, nhưng vãn bối không phải là đệ tử của quí phái, nên không dám nói ra.
Diệt Tuyệt sư thái ngồi ở xa xa, những gì chàng nói đều lọt vào tai cả, thấy Tống Thanh Thư đưa mình lên làm thiên hạ kiếm pháp đệ nhị, trong lòng thật là đắc ý. Trương Tam Phong là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ học đời nay, ai ai cũng bội phục, bà ta không dám mơ tưởng tới chuyện hơn cả vị đại tông sư cổ kim ít có này. Thế nhưng đại đệ tử của phái Võ Đương mà phải nhận bà ta là chỉ kém Trương Tam Phong mà thôi thì thật vinh hạnh, lại thấy Đinh Mẫn Quân múa chiêu này, tinh thần kình lực chỉ được độ ba bốn thành hỏa hầu, kiếm pháp danh chấn thiên hạ của phái Nga Mi chẳng lẽ chỉ có thế thôi sao? Bà lập tức đi đến gần, không nói một lời cầm thanh kiếm trong tay Đinh Mẫn Quân, tay giơ lên ngang mũi, nhẹ nhàng rung một cái, mũi kiếm liền kêu lên u u, từ trái sang phải, rồi từ phải sang trái liên tiếp phẩy chín cái, nhanh không thể tả, nhưng mỗi lần chém xuống đều hết sức rõ ràng.
Các đệ tử thấy sư phụ thi triển kiếm pháp tinh diệu như thế, tim ai nấy đập thình thình, lòng bàn tay toát mồ hôi. Ân Lê Đình kêu lên:
- Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp, hay quá.
Tống Thanh Thư ngưng thần nín thở, trong bụng sợ thầm. Chàng vốn chỉ muốn nói lấy lòng Diệt Tuyệt sư thái, ca ngợi kiếm pháp của phái Nga Mi, đâu ngờ đến khi bà ta biểu diễn thực cao diệu không thể tưởng tượng nổi, khiến trong lòng không khỏi bội phục, thành tâm thành ý học hỏi. Tống Thanh Thư hỏi tới đâu, Diệt Tuyệt sư thái liền dạy tới đó, xem ra còn tận lực hơn cả dạy dỗ đệ tử bản môn. Tống Thanh Thư võ học vốn đã cao siêu, lại thông minh, câu nào cũng hỏi toàn những chỗ hiểm hóc. Các đệ tử phái Nga Mi vây quanh hai người, thấy sư phụ thi triển mỗi chiêu mỗi thế, không chiêu nào không cực kỳ tinh áo, cực kỳ cao siêu, có người theo thầy đã trên mười năm, nhưng cũng chưa từng thấy bà ta biểu lộ thần kỹ như thế bao giờ.
Trương Vô Kỵ và Châu Nhi đứng ở bên ngoài vòng người, đều thấy không tiện xem lén tuyệt kỹ kiếm thuật của phái Nga Mi. Châu Nhi bỗng nói với Trương Vô Kỵ:
- A Ngưu ca, nếu em học được khinh công như của Thanh Dực Bức Vương, thì dù có chết cũng cam lòng.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tà môn công phu đó học để làm gì? Ân lục ... Ân lục hiệp có nói, Vi Nhất Tiếu mỗi khi thi triển võ công, phải uống máu người, thế có khác gì ma quỉ đâu?
Châu Nhi đáp:
- Y võ công cao hơn nên giết được đệ tử phái Nga Mi, còn như khinh công của y không bằng, để cho lão ni cô bắt được, thì cũng bị người ta giết có khác gì đâu, chỉ không hút máu y thôi. Đằng nào thì người cũng chết, hút hay không hút máu cũng thế cả. Danh môn chính phái với tà ma ngoại đạo cũng như nhau.
Trương Vô Kỵ nhất thời không sao trả lời được. Bỗng thấy từ trong đám người một thanh trường kiếm ánh sáng lấp lánh, bay vọt thẳng lên trời. Thì ra Tống Thanh Thư sách chiêu cùng Diệt Tuyệt sư thái, bị bà ta đến chiêu thứ năm dùng thế Hắc Chiểu Linh Hồ, hất trường kiếm của Tống Thanh Thư lên trên không. Chiêu này do tổ sư sáng phái của phái Nga Mi là Quách Tương kỷ niệm năm xưa cùng Dương Quá đi đến đầm bùn bắt chồn mà nghĩ ra. Mọi người cùng ngửng đầu lên nhìn theo thanh trường kiếm, đột nhiên từ phía đông bắc cách hàng chục dặm có một ngọn lửa màu vàng bốc lên cao. Ân Lê Đình kêu lên:
- Phái Không Động gặp địch rồi, mau tới tiếp ứng.
Kỳ này sáu đại môn phái đến Tây Vực vi tiễu ma giáo, để hành động cho được kín đáo nên theo phương lược chia nhau mỗi phái tấn công vào một hướng, ước định với nhau dùng hỏa tiễn màu để làm tín hiệu liên lạc, ánh lửa màu vàng chính là màu của phái Không Động.
Mọi người lập tức chạy về phía có hỏa tiễn bắn lên, thấy tiếng người kêu la, càng đến gần càng nghe thảm thiết,, thỉnh thoảng lại nghe tiếng người bị giết truyền tới, ai nấy không khỏi kinh sợ. Trước mặt là một cảnh đại đồ sát, hai bên mỗi bên phải vài trăm người tham chiến, dưới ánh trăng soi, đao quang kiếm ảnh, ai nấy đều xông vào đánh thí mạng với nhau.
Trong đời Trương Vô Kỵ chưa từng chứng kiến một quanh cảnh đánh nhau rùng rợn như thế bao giờ, chỉ thấy đao kiếm lấp loáng, máu đổ thịt rơi, tình cảnh thảm khốc không muốn nhìn. Chàng chẳng mong cho ma giáo đắc thắng, mà cũng chẳng muốn phe của Ân lục thúc đắc thắng, một bên là phe của cha, một bên là phe của mẹ, nhưng hai bên vào thế không đội trời chung, nên mỗi người bị giết chàng đều đau lòng, quặn cả ruột. Ân Lê Đình vừa quan sát cuộc thế liền nói:
- Phe địch bao gồm Nhuệ Kim, Hồng Thủy, Liệt Hỏa tam kỳ. Hừ, phái Không Động, phái Hoa Sơn, cả phái Côn Lôn cũng ở trong này nữa. Bên ta ba phái đấu với ba kỳ của địch. Thanh Thư, mình cũng nhảy vào vòng chiến đi thôi.
Ông giơ trường kiếm trên không đánh dợm một chiêu, lưỡi kiếm kêu lên u u. Tống Thanh Thư vội nói:
- Khoan đã, lục thúc xem kìa. Bên kia còn một đám đông của địch, đang đợi thời cơ hành sự.
Trương Vô Kỵ nhìn theo ngón tay trỏ về hướng đông, quả nhiên tại mấy chục trượng xa xa lẫn trong bóm đêm có ba đội nhân mã, xếp hàng chỉnh tề, mỗi đội phải đến hơn một trăm người. Tại chiến trường ba phái đấu với ba kỳ, cục diện xem ra ngang ngửa, thế nhưng nếu ba đội kia của ma giáo xông vào, Không Động, Hoa Sơn, Côn Lôn tất sẽ đại bại, thế nhưng không hiểu vì sao, những đội nhân mã kia vẫn án binh bất động.
Diệt Tuyệt sư thái và Ân lục hiệp hai người kinh hãi thầm. Ân Lê Đình hỏi Tống Thanh Thư:
- Đám người kia vì cớ gì không động thủ?
Tống Thanh Thư lắc đầu:
- Tiểu điệt không nghĩ ra.
Châu Nhi đột nhiên cười khẩy nói:
- Có gì đâu mà không nghĩ ra? Chuyện rõ như ban ngày vậy mà.
Tống Thanh Thư mặt đỏ lên, lặng yên không nói. Diệt Tuyệt sư thái định lên tiếng tra hỏi, nhưng đành cố nhịn. Ân Lê Đình nói:
- Xin cô nương chỉ điểm cho.
Châu Nhi nói:
- Ba đội người kia thuộc Thiên Ưng giáo. Thiên Ưng giáo tuy là bàng chi của Minh giáo, nhưng trước nay vẫn bất hòa với Ngũ Hành kỳ. Các ông giết sạch Ngũ Hành kỳ, Thiên Ưng giáo ngược lại mừng thầm nữa là khác, Ân Thiên Chính có khi lên ngôi giáo chủ Minh giáo không chừng.
Diệt Tuyệt sư thái bấy giờ mới chợt hiểu ra, Ân Lê Đình đáp:
- Đa tạ cô nương chỉ điểm.
Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt nhìn Châu Nhi, gật gù, nghĩ thầm: "Kim Hoa bà bà võ công như thế, thảo nào một đứa học trò nho nhỏ, cũng đã thật là bản lãnh".
Lúc đó quần đệ tử phái Nga Mi đã lục tục kéo đến, đứng phía sau Diệt Tuyệt sư thái. Tĩnh Huyền nói:
- Tống thiếu hiệp, nói đến bố trận chiến đấu, chúng tôi không ai bằng cậu. Vậy tất cả mọi người theo lệnh cậu để xông lên giết địch, thiếu hiệp đừng khách sáo gì hết".
Tống Thanh Thư nói:
- Lục thúc, cái này ... cái này ... điệt nhi làm sao dám nhận?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Lúc này còn nói chuyện lễ nghĩa gì nữa? Cứ ra lệnh đi.
Tống Thanh Thư thấy chiến trường tình thế cấp bách, phái Côn Lôn đấu với Nhuệ Kim Kỳ có vẻ thắng thế, phái Hoa Sơn đấu với Hồng Thủy Kỳ hai bên ngang ngửa, chỉ riêng phái Không Động càng đánh xem ra càng lép vế, bị Liệt Hỏa Kỳ vây chung quanh đang ra sức tấn công, liền nói:
- Bên mình chia ra làm ba nhóm theo ba hướng xông vào, cùng tấn công Nhuệ Kim Kỳ. Sư thái dẫn người từ mặt đông đánh tới, lục thúc dẫn một đội đánh từ phía tây, còn Tĩnh Huyền sư thúc và vãn bối cùng một nhóm theo mặt nam đánh vào ...
Tĩnh Huyền lạ lùng hỏi lại:
- Phái Côn Lôn không bị nguy hiểm, ta xem ra phái Không Động mười phần nguy ngập.
Tống Thanh Thư nói:
- Phái Côn Lôn đã chiếm thượng phong, mình đánh thốc vào như chẻ tre, chỉ ra tay là tiêu diệt được Nhuệ Kim Kỳ, hai kỳ còn lại thấy vậy thể nào cũng khiếp vía. Còn nếu mình tiếp viện phái Không Động, hai bên sẽ thành thế giằng co cù cưa, ắt sẽ lâm vào thế nguy, chỉ có Thiên Ưng giáo là ngư ông đắc lợi.
Tĩnh Huyền rất lấy làm khâm phục, nói:
- Tống thiếu hiệp nói chí phải.
Lập tức chia đám đệ tử thành ba nhóm. Châu Nhi cầm chiếc xe tuyết của Trương Vô Kỵ nói:
- Thôi mình đi, ở đây chẳng có gì hay cả.
Nói xong quay mình định chạy. Tống Thanh Thư vội đuổi theo, giơ kiếm ngăn lại, kêu lên:
- Cô nương đừng đi vội.
Châu Nhi lạ lùng hỏi:
- Ngươi giữ ta làm gì?
Tống Thanh Thư nói:
- Cô nương lại lịch rất lạ lùng, không thể cho cô đi được.
Châu Nhi cười khẩy:
- Lai lịch tôi lạ thì đã sao? Mà không lạ thì cũng đã sao?
Diệt Tuyệt sư thái lòng nóng như thiêu, đang bực mình chưa được đại khai sát giới để giết sạch người trong ma giáo, nghe thấy Châu Nhi cãi nhau với Tống Thanh Thư, liền chuyển mình một cái phóng tới, giơ tay điểm luôn vào trên lưng, hông và đùi ba nơi huyệt đạo cô gái. Châu Nhi so với bà ta võ công hơn kém quá xa, thành thử không chống chọi gì được, khoeo chân mềm nhũn, ngã lăn ra.
Diệt Tuyệt sư thái trường kiếm múa lên, quát lớn:
- Hôm nay không giữ giới sát sinh nữa, cùng tiến lên giết sạch yêu tà.
Bà ta cùng Ân Lê Đình, Tĩnh Huyền mỗi người dẫn một đội xông lên phía Nhuệ Kim Kỳ. Vợ chồng Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn cùng các môn nhân đệ tử đấu với Nhuệ Kim Kỳ đang chiếm ưu thế, được thêm hai phái Nga Mi, Võ Đương xông vào, thanh thế càng mạnh mẽ. Diệt Tuyệt sư thái kiếm pháp lăng lệ tuyệt luân, không một giáo chúng nào của Minh Giáo có thể chống đỡ bà ta được ba chiêu. Chỉ thấy thân hình cao lớn của vị ni cô qua lại giữa đám người, đâm bên đông, chém bên tây, chỉ nháy mắt đã có bảy giáo chúng chết dưới trường kiếm của bà ta.
Chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim Kỳ là Trang Tranh thấy tình hình không ổn, tay cầm lang nha bổng tiến đến nghênh địch chặn Diệt Tuyệt sư thái lại. Hai người qua lại hơn chục chiêu, Diệt Tuyệt sư thái sử dụng kiếm pháp của phái Nga Mi càng đánh càng nhanh, hết sức tấn công. Thế nhưng Trang Tranh võ công rất cao cường, nhất thời hai bên ngang ngửa. Trong khi đó Ân Lê Đình, Tĩnh Huyền, Tống Thanh Thư, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn và những người khác ra tay tàn sát, tuy dưới trướng Nhuệ Kim Kỳ không phải là ít cao thủ nhưng làm sao địch lại ba phái Võ Đương, Côn Lôn, Nga Mi liên thủ, trong chốc lát đã chết một số đông.
Trang Tranh đánh liên tiếp ba bổng bình bình bình, ép Diệt Tuyệt sư thái phải lùi lại một bước, tiếp theo một bổng hết sức từ trên đánh xuống. Diệt Tuyệt sư thái nghiêng thanh trường kiếm, điểm vào thân lang nha bổng, dùng chiêu Thuận Thủy Thôi Chu định đẩy chiếc bổng ra. Nào ngờ Trang Tranh là một nhân vật không phải tầm thường của Minh giáo, trong võ lâm thuộc loại cao thủ hạng nhất, trời sinh có cánh tay thật khỏe, cả nội lẫn ngoại công đều vào mức thượng thừa. Khi đó y cảm thấy nội lực của đối phương truyền vào đầu kiếm liền quát lên một tiếng, cánh tay vận một luồng sức cương mãnh lên, nghe cách một tiếng, trường kiếm của Diệt Tuyệt sư thái gãy ra làm ba khúc.
Diệt Tuyệt sư thái binh khí đã gãy, cánh tay ê ẩm, nhưng cũng không lùi lại hay tránh né, vói tay về sau rút phắt thanh Ỷ Thiên kiếm đeo trên lưng, một ánh sáng lóe lên nhanh như sao băng dùng chiêu Thiết Tỏa Hoành Giang[5] giơ lên rạch một cái. Trang Tranh chỉ thấy tay mình nhẹ hẫng, chiếc đầu đầy móc của lang nha bổng bị kiếm Ỷ Thiên chẻ ra làm hai, thuận đà một bên đầu của y cũng bị thanh kiếm sắc bén không gì bì kịp kia chém đứt.
Giáo chúng của Nhuệ Kim Kỳ thấy chưởng kỳ sứ táng mệnh đều kêu la vang dậy, mắt đỏ ngầu hết sức đấu thí mạng, phái Côn Lôn và phái Nga Mi có mấy người bị giết chết.
Một người trong Hồng Thủy Kỳ kêu lên:
- Trang kỳ sứ tuẫn giáo qui thiên, Nhuệ Kim, Liệt Hỏa hai kỳ rút lui đi, để Hồng Thủy Kỳ đoạn hậu.
Kỳ hiệu trong Liệt Hỏa Kỳ lập tức biến đổi, theo lệnh lui về hướng tây. Thế nhưng những người trong Nhuệ Kim Kỳ càng đánh càng hăng, không ai chịu lùi bước. Người bên trong Hồng Thủy Kỳ lại lớn tiếng rao lên:
- Đường kỳ sứ của Hồng Thủy Kỳ có lệnh, tình thế bất lợi, những người trong Nhuệ Kim Kỳ mau mau rút lui, sẽ báo thù cho Trang kỳ sứ sau.
Trong Nhuệ Kim Kỳ có mấy người cùng lên tiếng:
- Xin mời Hồng Thủy Kỳ mau lui trước, sau này báo thù rửa hận cho anh em chúng tôi. Tất cả anh em Nhuệ Kim Kỳ xin đồng sinh cộng tử với Trang kỳ sứ.
Trong trận thế của Hồng Thủy Kỳ đột nhiên giương cờ đen lên, một người tiếng như sấm động kêu lên:
- Chư vị huynh đệ của Nhuệ Kim Kỳ, Hồng Thủy Kỳ nhất định sẽ báo thù cho các anh em.
Nhuệ Kim Kỳ lúc này chỉ còn độ bảy chục người, tất cả cùng lên tiếng:
- Đa tạ Đường kỳ sứ.
Chỉ thấy các lá cờ của Hồng Thủy Kỳ phất lên, rút về hướng tây. Hai phái Hoa Sơn, Không Động thấy địch nhân trận thế nghiêm chỉnh, khoảng hai chục người đoạn hậu cầm ống vàng sáng choang, không biết có cái gì cổ quái nên không dám đuổi theo. Họ bèn quay lại giáp công Nhuệ Kim Kỳ.
Ân Lê Đình giết được mấy tên giáo chúng, cảm thấy tuy thắng nhưng không uy võ chút nào, lớn tiếng nói:
- Ma giáo yêu nhân nghe đây: các ngươi trước mắt chỉ có đường chết mà thôi, mau quăng binh khí đầu hàng, sẽ tha cho khỏi chết.
Tên chưởng kỳ phó sứ cười lên ha hả nói:
- Ngươi xem thường giáo chúng Minh giáo quá vậy. Trang đại ca đã chết rồi, chúng ta cũng đâu mong sống làm gì?
Ân Lê Đình nói:
- Côn Lôn, Nga Mi, Hoa Sơn, Không Động các vị bằng hữu các phái, tất cả xin lùi lại mười bước để cho bọn yên nhân này có thể đầu hàng.
Mọi người ai nấy đều lùi lại. Diệt Tuyệt sư thái hận ma giáo cực độ vẫn tiếp tục múa kiếm giết như điên cuồng. Mũi kiếm Ỷ Thiên đến đâu, kiếm đao đều gãy, tay rơi đầu rụng. Phái Nga Mi thấy sư phụ không chịu lùi, những người đã trở ra lại tiến lên tàn sát tiếp, biến thành thế một mình phái Nga Mi đấu với Nhuệ Kim Kỳ.
Nhuệ Kim Kỳ của Minh giáo lúc này cũng còn lại đến hơn sáu chục người, số cao thủ vào hạng khá cũng khoảng hai chục, dưới quyền điều động của Chưởng kỳ phó sứ Ngô Kình Thảo, chống cự với hơn ba chục người của phái Nga Mi, lấy hai đánh một đáng lẽ phải ở vào thế thượng phong. Thế nhưng kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái sắc bén quá, kiếm chiêu của bà ta lại thật là ghê gớm, ánh sáng xanh cuốn đến đâu là nơi đó bị nguy ngập. Chỉ trong chốc lát, đã có bảy tám người chết dưới mũi kiếm của bà ta.
Trương Vô Kỵ đứng xem mà trong lòng không nhịn nổi, nói với Châu Nhi:
- Thôi mình đi.
Chàng thò tay ra giải huyệt cho cô gái, nào ngờ xoa bóp mấy cái sau lưng và ngang hông nàng, Châu Nhi vẫn thấy tê chồn, các huyệt đạo không mở được. Diệt Tuyệt sư thái nội lực thâm hậu, chỉ ra tay nhẹ nhàng, nhưng kình lực đã vào tận trong sâu, tuy phương pháp giải của chàng đúng, nhưng nhất thời không hiệu quả.
Chàng thở dài một tiếng, quay đầu lại, thấy mấy chục người của Nhuệ Kim Kỳ đã bị gãy hết vũ khí, một phần các phái Côn Lôn, Không Động, Hoa Sơn vây chung quanh, phần khác giáo chúng không ai chịu bỏ chạy, nên vẫn tay không chiến đấu với người của phái Nga Mi.
Diệt Tuyệt sư thái tuy thống hận ma giáo nhưng ở địa vị chưởng môn một phái, không muốn dùng binh khí giết người tay không, ngón tay trái liên tiếp phóng ra, chân như hành vân lưu thủy chạy vòng quanh, chỉ giây lát đã điểm huyệt hơn năm chục người còn lại của Nhuệ Kim Kỳ khiến bọn họ đứng như trời trồng không sao cử động được. Những người chung quanh thấy Diệt Tuyệt sư thái thi triển môn công phu cao cường như thế ai nấy đều reo hò vang dội.
Lúc này trời đã tờ mờ sáng, thấy ba đội giáo chúng của Thiên Ưng giáo chia ba hướng đông nam bắc lấp ló từ từ di động lại, đến khoảng mười trượng thì ngừng, rõ ràng định đứng xa xa canh chừng, chưa có ý tiến lên khiêu chiến.
Châu Nhi nói:
- A Ngưu ca, mình phải chạy nhanh, nếu như rơi vào tay Thiên Ưng giáo thì còn khốn khổ hơn nhiều.
Trương Vô Kỵ trong lòng đối với Thiên Ưng giáo vẫn có một nỗi thân cận không thể hình dung vì đây là giáo phái của mẹ mình. Nghĩ đến mẫu thân chàng tự hỏi: "Mình không thấy được mẹ nữa rồi, bao giờ mới gặp được ông ngoại và cậu đây?". Lúc này những người của Thiên Ưng giáo đã ỡ gần bên, chàng muốn xem ông ngoại và cậu mình có trong đám này chăng, nên không muốn đi vội.
Tống Thanh Thư tiến lên nói với Diệt Tuyệt sư thái:
- Tiền bối, mình phải xử quyết bọn Nhuệ Kim Kỳ ngay rồi quay lại đối phó với Thiên Ưng giáo để khỏi lo chuyện bị tấn công từ đằng sau.
Diệt Tuyệt sư thái gật đầu.
Phương đông mặt trời bắt đầu ló dạng, ánh sáng mông lung chiếu lên thân hình cao to của Diệt Tuyệt sư thái thành một cái bóng dài, trong cái uy võ còn có mấy phần ghê rợn. Bà ta có ý làm làm nhụt nhuệ khí của ma giáo, không muốn một kiếm giết họ, nên lạnh lùng cất tiếng:
- Các người của ma giáo nghe này, người nào muốn sống, chỉ cần lên tiếng xin tha, ta sẽ cho đi.
Một hồi lâu chỉ nghe tiếng ha ha, hạp hạp, khà khà không dứt, người của Minh giáo cùng cười vang. Diệt Tuyệt sư thái giận dữ hỏi:
- Có cái gì đáng cười?
Nhuệ Kim Kỳ chưởng kỳ phó sứ Ngô Kình Thảo lớn tiếng đáp:
- Bọn ta thề cùng sống chết với Trang đại ca, mau mau giết tất cả đi.
Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, nói:
- Được rồi, đến nước này còn muốn anh hùng hảo hán. Ngươi tưởng được chết một cách sảng khoái ư, đâu có dễ thế.
Bà ta rung trường kiếm một cái đã chặt đứt cánh tay phải của Ngô Kình Thảo.
Ngô Kình Thảo cười ha hả, thần sắc vẫn như không, nói:
- Minh giáo thay trời hành đạo, tế thế cứu dân, sống chết nào có khác gì. Lão tặc ni muốn bọn ta khuỵu gối đầu hàng, thôi đừng vọng tưởng nữa.
Diệt Tuyệt sư thái càng thêm phẫn nộ, soẹt soẹt soẹt ba tiếng đã chém đứt ba cánh tay của ba giáo chúng khác, hỏi người thứ năm:
- Ngươi xin hay không xin tha?
Người kia chửi lại:
- Mụ vãi già nói thối như rắm chó.
Tĩnh Huyền vọt lên, vung kiếm trong tay chém đứt cánh tay phải người đó, kêu lên:
- Để cho đệ tử chém giết đám yêu nghiệt này.
Bà ta hỏi luôn mấy người, giáo chúng Minh giáo không người nào chịu khuất phục. Tĩnh Huyền chém đến cánh tay mỏi nhừ, quay đầu lại:
- Sư phụ, bọn yêu nhân này ương ngạnh lắm ...
Ý muốn nói sư phụ nương tay. Diệt Tuyệt sư thái không thèm để ý đến, nói:
- Chém mỗi tên tay phải trước, nếu vẫn còn ngoan cố, chém luôn tay trái.
Tĩnh Huyền không còn cách nào hơn, lại chém thêm mấy người nữa. Trương Vô Kỵ lúc này nhịn không nổi nữa, từ cái cáng tuyết nhảy vọt ra, chặn ngay trước mặt Tĩnh Huyền, kêu lên:
- Khoan đã.
Tĩnh Huyền ngạc nhiên, lùi lại một bước. Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:
- Các người tàn nhẫn hung ác như thế không thấy xấu hổ sao?
Mọi người bất ngờ thấy một thanh niên quần áo rách rưới lam lũ bước ra, đều ngạc nhiên, đến khi nghe chàng lời lẽ nghiêm nghị, lý do xác đáng chất vấn Tĩnh Huyền khiến cho các cao thủ của danh môn chính phái không khỏi bị khí thế đó nhiếp phục. Tĩnh Huyền cười một tiếng dài nói:
- Tà ma ngoại đạo, mọi người ai chẳng có thể tru diệt, có gì gọi là tàn nhẫn hay không tàn nhẫn?
Trương Vô Kỵ nói:
- Những người này ai ai cũng trọng nghĩa khí, nhẹ mạng sống, khẳng khái chịu chết, là những anh hùng hảo hán hiên ngang, sao lại gọi là tà ma ngoại đạo được?
Tĩnh Huyền nói:
- Chúng nó là giáo đồ của ma giáo chẳng lẽ còn không phải là tà ma ngoại đạo hay sao? Tên Thanh Dực Bức Vương kia hút máu giết người, giết sư đệ sư muội của ta, chính mắt ngươi trông thấy, không phải yêu tà thì thế nào mới gọi là yêu tà?
Trương Vô Kỵ nói:
- Thanh Dực Bức Vương kia chỉ giết hai người, các người giết đến mười lần hơn thế. Y dùng răng giết người, tôn sư dùng Ỷ Thiên kiếm giết người, cũng là giết cả, có gì để phân biệt thiện hay ác?
Tĩnh Huyền giận quá, quát lên:
- Hảo tiểu tử, ngươi dám sánh sư phụ ta ngang với yêu tà ư?
Nghe vù một chưởng, đánh thẳng vào mặt chàng. Trương Vô Kỵ vội vàng né qua một bên, Tĩnh Huyền là đại đệ tử của phái Nga Mi, võ công đã được chân truyền của sư môn, chưởng đánh vào diện môn chỉ là hư chiêu, đợi Trương Vô Kỵ vừa nghiêng người, lập tức chân trái đá lên, trúng ngay ngực chàng.
Bỗng nghe bình bình, lách cách hai tiếng, chân trái Tĩnh Huyền đã gãy lìa, thân hình bay về phía sau, nằm lăn ra cách đến mấy trượng. Thì ra ngực Trương Vô Kỵ trúng phải chiêu của địch, Cửu Dương thần công trong người tự nhiên phát ra sức đề kháng. Chiêu số của chàng so với Tĩnh Huyền kém xa, nhưng uy lực của Cửu Dương thần công thật là lợi hại, chiêu của địch kình lực càng mạnh, sức phản chấn càng ghê gớm, cú đá của Tĩnh Huyền chẳng khác nào đá vào chính mình. Cũng may là Tĩnh Huyền chưa có ý định giết chàng, chỉ sử dụng năm thành kình lực nên cũng không bị nội thương trầm trọng.
Trương Vô Kỵ khiêm tốn nói:
- Xin lỗi nhé.
Chàng tiến lên đỡ, Tĩnh Huyền giận dữ nói:
- Cút ra, cút ra ngay.
Trương Vô Kỵ đành phải lùi lại đáp:
- Vâng.
Hai đệ tử phái Nga Mi vội vàng chạy lên đỡ đại sư tỉ dậy. Những người đứng bên ngoài ai cũng biết rõ Tĩnh Huyền là hảo thủ số một số hai dưới trướng Diệt Tuyệt sư thái, không hiểu sao lại kém cỏi như thế, chỉ mới một chiêu đã bị thanh niên áo quần rách rưới kia đánh văng ra mấy trượng? Nếu nói chỉ có hư danh thì không đúng, mới rồi bà ta hội đấu Nhuệ Kim Kỳ kiếm pháp lăng lệ, ai ai cũng thấy cả. Không lẽ nhìn người không thể đánh giá bằng bề ngoài, thanh niên này thân mang tuyệt thế võ công chăng?
Diệt Tuyệt sư thái trong bụng cũng kinh hãi thầm: "Thanh niên này quả thực là hạng người gì? Ta bắt giữ y lâu nay, từ trước tới giờ không để ý, thì ra là một nhân vật thật cao siêu nhưng không lộ chân tướng. Ta muốn hất Tĩnh Huyền ra xa như thế, xem ra cũng không làm được, trên đời này ngoài Trương Tam Phong lão đạo có nội công tu tập cả trăm năm ra, không ai có khả năng như thế".
Diệt Tuyệt sư thái là loại gừng càng già càng cay, tuy không dám coi thường, nhưng chẳng úy kỵ chút nào, đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ từ trên xuống dưới để đánh giá.
Bấy giờ Trương Vô Kỵ đang ra tay cầm máu băng bó vết thương cho giáo chúng trong Nhuệ Kim Kỳ, thủ pháp thực là thuần thục, giơ tay điểm mỗi người vài nơi huyệt đạo, máu chảy từ các cánh tay đứt kia lập tức giảm liền. Người đứng chung quanh không ít tay hảo thủ về điểm huyệt liệu thương, nhưng thủ pháp của chàng ai ai cũng tự thẹn không sao bì kịp, ngay cả điểm những huyệt gì họ cũng còn chưa biết. Chưởng kỳ phó sứ Ngô Kình Thảo nói:
- Đa tạ thiếu hiệp trượng nghĩa, xin hỏi cao tính đại danh?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:
- Hảo tiểu tử, quay lại đây, tiếp ta ba kiếm xem nào.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Xin lỗi vậy, sư thái đợi một chút, cứu người quan trọng hơn.
Cho đến khi chàng giúp người bị chặt tay cuối cùng băng bó vết thương xong, lúc ấy mới quay lại, ôm quyền nói:
- Diệt Tuyệt sư thái, tôi không phải là đối thủ của sư thái, cũng không muốn cùng lão nhân gia động thủ, chỉ mong hai bên bãi đấu, bỏ qua hết oán cừu quá khứ.
Chàng nói đến "hai bên bãi đấu", giọng điệu thật là thành khẩn. Chàng nghĩ đến hai bên chính là nghĩ đến cha mẹ, một bên là phái Võ Đương danh môn chính phái của cha, một bên là Thiên Ưng giáo tà ma ngoại đạo của mẹ. Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Ha ha, chỉ bằng một lời của một thằng nhỏ thối tha như ngươi, mà muốn chúng ta bãi đấu ư? Ngươi là võ lâm chí tôn chắc?
Trương Vô Kỵ tâm niệm chợt động, hỏi lại:
- Xin hỏi nếu võ lâm chí tôn thì đã sao?
Diệt Tuyệt sư thái đáp:
- Nếu ngươi có đao Đồ Long trong tay, thì cũng phải đấu với kiếm Ỷ Thiên của ta xem ai cao thấp. Để đến lúc thành võ lâm chí tôn thực sự rồi lúc đó ra lệnh cũng chưa muộn.
Các đệ tử phái Nga Mi nghe sư phụ nhạo báng Trương Vô Kỵ, đều phá lên cười. Các phái khác cũng có người chế riễu phụ họa theo. Cứ tuổi tác, thân phận của Trương Vô Kỵ mà nói chuyện hai bên "bãi đấu" thì quả thực không xứng chút nào, nghe mọi người cười cợt khiến chàng mặt đỏ tía tai, nhưng cố nhịn nói:
- Sao các vị giết người nhiều quá như thế? Người nào chẳng có cha mẹ vợ con, giết họ rồi, con cái phải lênh đênh cô khổ, bị người ta hà hiếp. Quí lão nhân gia đều là người tu hành, xin mở lòng từ bi.
Chàng vốn không phải là người khéo ăn khéo nói, nhưng nghĩ đến bản thân mình, mở lời ra thật chân thành. Mấy câu nói đó lời lẽ khẩn thiết, ai nấy nghe xong đều không khỏi động tâm.
Diệt Tuyệt sư thái mặt vẫn trơ trơ, giọng lạnh như băng:
- Hảo tiểu tử, ta phải để đến ngươi dạy dỗ hay sao? Ngươi tự phụ nội lực thâm hậu, ở nơi đây khoe khoang lớn lối. Được, ngươi tiếp ta ba chưởng, ta sẽ để cho bọn này đi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đến ngay học trò bà tôi cũng không tránh nổi một chưởng, huống chi là sư thái? Tôi không dám cùng sư thái tỉ võ, chỉ mong bà bụng dạ từ bi, thể niệm đức hiếu sinh của trời đất thôi.
Ngô Kình Thảo lớn tiếng nói:
- Tăng tướng công, đừng nói nhiều với lão tặc ni đó làm gì. Chúng tôi thà tất cả chết dưới tay của bà ta, còn hơn trông chờ bụng dạ khoan dung giả dối của mụ.
Diệt Tuyệt sư thái liếc nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi lại:
- Sư phụ ngươi là ai?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Phụ thân, nghĩa phụ tuy đều có dạy ta võ công, nhưng đâu có phải là sư phụ của mình" liền nói:
- Tôi không có sư phụ.
Lời đó nói ra, ai nấy đều cảm thấy kỳ quái. Mọi người đều nghĩ chàng chỉ một chiêu hất văng Tĩnh Huyền, ắt phải là đồ đệ của cao nhân, ai ai cũng có ba phần e ngại, nào ngờ chàng lại không có sư phụ. Trong võ lâm tôn trọng nhất là sư đạo, không muốn thổ lộ tên tuổi sư phụ cũng là chuyện thường, nhưng không thể nào có mà lại nói không, nên chàng nói mình không có thầy thì quả thực là không có thật.
Diệt Tuyệt sư thái không muốn dài lời với chàng nữa, nói:
- Tiếp chiêu này.
Nói vừa dứt, tay phải tiện thể đánh ngay ra. Trong tình thế đó, Trương Vô Kỵ không thể không tiếp, hai tay cùng tống ra, dùng cả hai chưởng đỡ một chưởng của bà ta. Nào ngờ Diệt Tuyệt sư thái liền hạ tay xuống, chẳng khác gì một con cá vừa trơn vừa nhanh, luồn qua bên dưới hai bàn tay, nghe bịch một tiếng, đánh trúng ngay ngực chàng.
Trương Vô Kỵ kinh hãi, hộ thể Cửu Dương thần công lập tức xuất phát, chống đỡ chưởng lực của đối phương, thế nhưng khi hai luồng nội kình mạnh mẽ vừa sắp tiếp xúc chưa kịp đụng nhau, thì chưởng lực của Diệt Tuyệt sư thái lập tức biến mất không một chút tăm hơi. Trương Vô Kỵ còn đang ngơ ngẩn, ngửng đầu nhìn thì ngực liền bị một luồng lực đạo chẳng khác gì một cái chùy sắt đập vào. Chàng chân không đứng vững, bị hất về phía sau lộn đi hai vòng, ọe lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi, người xụm luôn xuống chẳng khác gì một cục bùn nát.
Chưởng lực của Diệt Tuyệt sư thái khi nhả ra, khi thu vào như thế, nhập nhằng bất định, dẫn dụ địch nhân, sau cùng mới phát xuất nội lực, quả thực là một công phu cực kỳ tinh áo của nội gia. Những người đứng chung quanh một số ít võ công cao thâm thấy được cái xảo diệu của chưởng vừa rồi, không khỏi tấm tắc khen ngợi.
Châu Nhi hốt hoảng chạy đến bên cạnh Trương Vô Kỵ, giơ tay đỡ chàng dậy, không ngờ đầu gối nhũn ra, cũng ngã luôn xuống. Thì ra tuy nàng đã được Trương Vô Kỵ giải huyệt, nhưng huyết mạch chưa lưu thông đều, thấy chàng bị thương, trong cơn gấp gáp liền chạy ra cứu giúp nhưng chỉ được giây lát, chân đứng không vững, kêu lên:
- A Ngưu ca, anh ... anh ...
Trương Vô Kỵ chỉ thấy trên ngực máu nóng trộn trạo, xua xua tay, nói:
- Không chết đâu.
Chàng từ từ đứng đậy. Lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói với ba tên đệ tử:
- Chặt hết cánh tay phải tất cả yêu nhân cho ta.
Ba đệ tử đó đáp lời:
- Vâng lệnh.
Cầm kiếm đi tới bọn người của Nhuệ Kim Kỳ. Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Bà ... bà nói tôi chịu cho bà đánh ba chưởng, sẽ tha cho bọn họ đi. Tôi chịu một chưởng rồi, chỉ còn ... còn hai chưởng nữa.
Diệt Tuyệt sư thái đánh Vô Kỵ một chưởng, thấy nội công của chàng chính đại hồn hậu, hoàn toàn không phải thuộc bọn yêu tà, thậm chí còn có điểm tương tự như sở học của mình, tuy chàng đứng ra bảo vệ cho giáo chúng ma giáo, nhưng không phải là người của bọn họ, nên nói:
- Người tuổi trẻ kia đừng xen vào chuyện ngoài đường, chính tà phải phân biệt, đâu đấy cho rõ ràng. Chưởng lực vừa rồi ta chỉ dùng có ba thành lực đạo, ngươi có biết không?
Trương Vô Kỵ biết bà ta thân phận chưởng môn một phái, ắt không thể nào nói sai, nếu nói chỉ dùng ba thành lực đạo, thì đúng là chỉ dùng ba phần. Thế nhưng hai chưởng nữa dù khó khăn bực nào, có chết chàng cũng cam chứ không thể giương mắt nhìn người của Nhuệ Kim Kỳ bị tàn sát, liền nói:
- Tại hạ không lượng sức mình, xin chịu ... chịu thêm hai chưởng nữa của sư thái.
Ngô Kình Thảo lớn tiếng nói:
- Tăng tướng công, chúng tôi thâm cảm đại đức của ngài. Ngài anh hùng hiệp nghĩa, ai nấy đều cảm phục, hai chưởng còn lại không thể nào chịu tiếp được đâu.
Diệt Tuyệt sư thái thấy Châu Nhi ở bên cạnh Trương Vô Kỵ, sợ nàng ta làm vướng víu chân tay, cánh tay áo bên trái phất một cái, đã cuốn cô ta lên quăng về phía sau. Chu Chỉ Nhược tiến lên đỡ lấy, nhẹ nhàng để nàng ta xuống đất. Châu Nhi vội nói:
- Chu tỉ tỉ, chị mau khuyên anh ta đừng chịu thêm hai chưởng nữa, chị nói chắc anh ta nghe đấy.
Chu Chỉ Nhược lạ lùng hỏi:
- Sao chị biết anh ta sẽ nghe lời tôi?
Châu Nhi đáp:
- Anh ấy thích chị lắm, chẳng lẽ chị không biết hay sao?
Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, ấp úng:
- Chẳng lẽ thế sao?
Diệt Tuyệt sư thái lớn tiếng nói:
- Nếu ngươi muốn tỏ ra anh hùng hảo hán, ấy là tự mình đi tìm cái chết, đừng có trách ta nhé.
Tay phải giơ lên, kình phong ào ào đánh thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ.
Lần này Trương Vô Kỵ không dám giơ tay ra đỡ, thân hình nghiêng qua, định tránh chưởng lực của bà ta. Cánh tay phải của Diệt Tuyệt sư thái bỗng dưng xoay lại, bàn tay không hiểu sao vòng trở về, nghe bịch một tiếng đã đánh trúng ngay lưng chàng. Thân hình Vô Kỵ chẳng khác gì một người bù nhìn làm bằng rơm, bay vụt lên không, rơi phịch xuống đất, nằm phục trên mặt cát không động đậy gì cả, hẳn đã chết rồi.
Chiêu đó của Diệt Tuyệt sư thái tinh diệu không đâu sánh kịp, đúng ra người bên ngoài phải hò reo khen ngợi, nhưng ai nấy không khỏi ngầm kính phục bụng dạ hiệp nghĩa của Trương Vô Kỵ, thấy chàng gặp chuyện chẳng lành, chỉ còn nước hoảng hốt thở dài, không một ai lên tiếng hoan hô.
Châu Nhi nói:
- Chu tỉ tỉ, xin chị chạy tới xem anh ta bị thương nặng nhẹ thế nào.
Trái tim Chu Chỉ Nhược đập thình thình, nghe Châu Nhi khẩn thiết cầu xin như thế, đã định đi ra xem, nhưng hiện nay bao nhiêu cặp mắt đổ dồn vào, một cô gái mười tám mười chín như nàng làm sao dám đi ra xem xét vết thương của một thanh niên? Huống chi người đả thương chàng ta lại chính là sư phụ nàng, làm như thế, tuy chưa công nhiên phản kháng sư môn nhưng đối với sư phụ thật là đại bất kính, thành thử nàng vừa dợm bước, liền lùi ngay lại.
Lúc này trời đã sáng rõ, ánh nắng chiếu tỏa khắp nơi. Một hồi sau, bỗng thấy lưng Trương Vô Kỵ hơi động đậy, cố gắng chầm chậm đứng lên, nhưng cánh tay chỉ mới chống lên được chừng một thước, đột nhiên chịu không nổi, mồm phun ra một ngụm máu tươi, rồi lại nằm gục xuống. Chàng nửa mê nửa tỉnh, xem ra không còn động đậy được chút nào, nhưng vẫn nhớ mình còn phải chịu một chưởng nữa mới cứu được tính mệnh của những người trong Nhuệ Kim Kỳ.
Chàng hít một hơi dài, sau cùng cũng chập choạng đứng lên được. Thế nhưng thân hình run lẩy bẩy, tưởng như lúc nào cũng có thể gục xuống, mọi người ai nấy nín thở đứng trông. Tuy chung quanh có đến mấy trăm người, nhưng tất cả đều im phăng phắc, tưởng như một cái kim rơi xuống đất cũng nghe thấy được.
Ngay trong sát na hoàn toàn yên tĩnh đó, Trương Vô Kỵ bỗng nhớ đến một câu trong Cửu Dương Chân Kinh:
Dẫu cho người có hung hăng,
Chẳng qua gió mát thổi ngang núi này.
Dẫu cho người có ngang tàng,
Khác gì trăng sáng giãi tràn sông sâu.
(Tha cường do tha cường,
Thanh phong phất sơn cương.
Tha hoành nhiệm tha hoành,
Minh nguyệt chiếu đại giang)
Khi chàng ở nơi u cốc tụng đọc những câu kinh văn đó, vẫn không hiểu ý nghĩa của nó ra sao, lúc này chợt nghĩ ngay ra dù cho Diệt Tuyệt sư thái hung hăng tàn ác đến đâu, mình cũng không mang một ý niệm chống cự lại. Nếu theo đúng yếu nghĩa của Cửu Dương Chân Kinh thì dường như dù kẻ địch có mạnh mẽ đến bực nào, hung ác đến bực nào, cũng chỉ coi như gió mát thổi qua núi, trăng sáng chiếu trên sông, dẫu có chạm vào thân thể ta, nhưng không thể nào tổn thương ta được.
Thế nhưng làm sao để không tổn thương thân thể mình? Kinh văn bên dưới có viết tiếp:
Người dù hung ác tới đâu,
Cốt sao chân khí ta sâu đủ rồi.
(Tha tự ngận lai tha tự ác,
Ngã tự nhất khẩu chân khí túc)
Chàng nghĩ đến chỗ đó, trong lòng bỗng hiểu ra ngay, liền ngồi xuống xếp bằng, theo đúng pháp môn trong kinh văn điều hòa hơi thở. Từ đan điền khí nóng ngùn ngụt bốc lên, dồn dập tuôn tràn chỉ trong khoảnh khắc đã chảy đến khắp toàn thân, tới từng đốt xương, từng thớ thịt. Đại uy lực của Cửu Dương thần công bấy giờ mới hiện rõ, ngoại thương của chàng tuy nặng, máu hộc ra hàng đấu nhưng nội lực chân khí không hề tiêu hao chút nào.
Diệt Tuyệt sư thái nhìn chàng vận khí trị thương, trong bụng không khỏi kinh ngạc, thấy chàng thanh niên này quả thực khả năng phi thường.
Chưởng thứ nhất bà ta đánh chàng là dùng một chiêu trong Phiêu Tuyết Xuyên Vân Chưởng, chưởng thứ hai là thức thứ ba của Tiệt Thủ Cửu Thức, đều là tinh hoa của chưởng pháp phái Nga Mi. Chưởng đầu tiên bà ta chỉ dùng ba thành kình lực, còn chưởng thứ hai tăng lực đạo lên đến bảy thành, nghĩ rằng nếu một chưởng không đánh chết chàng ngay tại chỗ, thì ít ra cũng bị gãy xương đứt gân, hoàn toàn tàn phế, có muốn cử động cũng không được. Nào ngờ chàng chỉ nằm phủ phục một lát lại ngồi lên được, quả thực ngoài dự liệu của bà ta.
Cứ theo qui củ tỉ thí trong võ lâm, Diệt Tuyệt sư thái không cần phải đợi cho chàng vận khí liệu thương, nhưng bà ta tự trọng thân phận, không muốn thừa nhân chi nguy, ra tay đánh một kẻ thuộc hàng hậu bối.
Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:
- Này họ Tăng kia, nếu ngươi không dám tiếp thêm chưởng thứ ba của sư phụ ta, sao không sớm cút ngay đi cho xa. Ngươi ở đó dưỡng thương, không lẽ bọn ta cũng phải đứng đây mà chờ ngươi hay sao chứ?
Chu Chỉ Nhược nhỏ nhẹ nói:
- Đinh sư tỉ, để cho y nghỉ thêm một lát, cũng chẳng đáng gì.
Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:
- Ngươi ... ngươi lại định bênh người ngoài, có phải thấy gã tiểu tử này ...
Bản tâm y thị định nói "có phải thấy gã tiểu tử này anh tuấn, nên phải lòng y chăng?" nhưng chợt nghĩ ra ở đây có biết bao nhiêu người thuộc hàng tên tuổi của các môn phái khác, ngôn ngữ thô tục như thế chẳng nên ra khỏi cửa miệng, nên nói lấp lửng không hết câu, vội vàng nín bặt. Thế nhưng ý của mụ ta, mọi người ai mà chẳng hiểu? Nửa sau câu đó có nói ra hay không cũng thế thôi.
Chu Chỉ Nhược vừa thẹn vừa bực, giận đến mặt trắng bệch, nhưng không cãi lại, chỉ thủng thẳng nói:
- Tiểu muội chỉ nghĩ đến bản môn và uy danh của sư tôn, không muốn để cho ai phải nói ra nói vào.
Đinh Mẫn Quân ngạc nhiên hỏi lại:
- Nói ra nói vào cái gì?
Chu Chỉ Nhược nói:
- Võ công bản môn thiên hạ ai ai cũng biết, sư phụ lại là cao nhân số một số hai đời nay, đâu có coi một kẻ hậu sinh tiểu tử ra cái gì. Có điều vì thấy y lớn mật cuồng vọng, mới ra tay dạy dỗ y một phen, chứ có phải nhất định giết y mới xong đâu? Cái tiếng hiệp nghĩa của bản môn đã một trăm năm nay rồi, sư tôn nhân hiệp khoan hậu, ai mà chẳng ngưỡng phục? Cái ánh sáng của con đom đóm làm sao tranh huy với hai vầng nhật nguyệt được? Dù có cho y luyện thêm một trăm năm, cũng không có thể cùng sư tôn chúng ta động thủ, có dưỡng thương thêm một chút, thì cũng có đáng gì?
Câu nói đó khiến cho mọi người ai ai cũng ngầm gật đầu khen phải, trong bụng Diệt Tuyệt sư thái lại càng hoan hỉ, thấy cô học trò nhỏ này biết được đại thể, trước mặt các môn các phái làm rạng rỡ thêm cho bản môn.
Chân khí trong người Trương Vô Kỵ đã lưu chuyển rồi, tinh thần trở lại minh mẫn. Chàng nghe mấy câu của Chu Chỉ Nhược nói biết ngay có ý muốn giúp đỡ nên lấy lời chặn trước khiến Diệt Tuyệt sư thái không tiện ra tay hạ sát mình, trong lòng thêm cảm kích, liền đứng dậy nói:
- Sư thái, vãn bối xả mệnh bồi quân tử, lại xin chịu một chưởng nữa.
Diệt Tuyệt sư thái thấy chàng chỉ ngồi xếp bằng một lát, lập tức tinh thần rạng rỡ, nghĩ thầm: "Gã tiểu tử này nội lực hồn hậu như thế, quả thật tà môn" liền nói:
- Ngươi sao không ra tay đánh lại ta, ai bảo ngươi chỉ chịu đòn mà không hoàn thủ?
Trương Vô Kỵ nói:
- Một chút công phu thô lậu của vãn bối, có đến chéo áo của sư thái cũng không động tới được, nói gì trả đòn?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Ngươi biết thân biết phận thế sao không sớm tránh ra. Ngươi còn trẻ có cốt khí như vậy, quả thực khó kiếm. Diệt Tuyệt sư thái này chưởng hạ chưa từng tha ai bao giờ, hôm nay phá lệ với ngươi một lần đó.
Trương Vô Kỵ khom lưng đáp:
- Đa tạ tiền bối. Thế những đại ca của Nhuệ Kim Kỳ kia cũng tha luôn chứ?
Đôi lông mày dài của Diệt Tuyệt sư thái xụ xuống, lạnh lùng hỏi:
- Pháp danh của ta là gì thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôn danh của tiền bối thượng Diệt hạ Tuyệt.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Ngươi biết thế là giỏi lắm. Yêu ma tà đồ, ta muốn diệt cho tuyệt không còn một mống, quyết không lưu tình. Không lẽ hai chữ Diệt Tuyệt chỉ để gọi xuông hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Nếu như thế xin tiền bối đánh chưởng thứ ba đi.
Diệt Tuyệt sư thái liếc mắt nhìn, một thanh niên cứng đầu cứng cổ như thế này, trong đời bà ta chưa hề gặp bao giờ, tuy bụng dạ lạnh lùng nhưng đột nhiên nổi lòng lân tài, nghĩ thầm: "Chưởng thứ ba của ta đánh ra, thể nào y cũng chết. Gã này không phải thuộc bọn yêu tà, tuổi còn trẻ như thế mà đã toi mạng, không khỏi đáng tiếc thay". Bà hơi trầm ngâm, trong bụng đã quyết, chưởng thứ ba sẽ đánh vào trên huyệt đan điền, vận nội lực xoáy vào huyệt để cho y lập tức bế khí bất tỉnh, đợi khi tru diệt hết bọn ma giáo Nhuệ Kim Kỳ rồi sẽ cứu y tỉnh lại.
Tay áo bên trái liền phất một cái, chưởng thứ toan đánh ra, bỗng nghe một người nói lớn:
- Diệt Tuyệt sư thái, chưởng hạ lưu nhân[6].
Tám chữ đó nghe như kim chọc vào tai mọi người, ai nấy nghe đều cảm thấy khó chịu. Từ phía tây bắc một người đàn ông mặc áo bào trắng, tay cầm quạt xếp, từ đoàn người đi ra, đi đến đâu bụi không bay lên chút nào, chẳng khác gì đang lướt trên mặt nước. Trên vạt áo bên trái của người áo trắng có thêu một con hắc ưng nho nhỏ, hai cánh giang rộng. Mọi người vừa nhìn biết ngay y là một nhân vật cao thủ trong Thiên Ưng giáo.
Thì ra Thiên Ưng giáo và Minh giáo quần áo phép tắc đều giống nhau, cũng đều là áo bào trắng cả, chỉ khác là trên giáo bào của Minh giáo thêu một ngọn lửa đỏ, còn Thiên Ưng giáo giáo thì thêu một con chim ưng đen.
Người kia đi đến cách Diệt Tuyệt sư thái chừng ba trượng, chắp tay cười nói:
- Xin phép sư thái, chưởng thứ ba này để cho tại hạ chịu thay, được chăng?
Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
- Ngươi là ai?
Người kia đáp:
- Tại hạ họ Ân, thảo tự Dã Vương.
Ba chữ Ân Dã Vương vừa ra khỏi miệng, mọi người ai nấy lập tức bàn tán xôn xao. Tên tuổi của Ân Dã Vương trong hai mươi năm qua trên giang hồ thật là vang dội, trong võ lâm nhiều người nói võ công rất cao cường, so với phụ thân là Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính không kém bao nhiêu. Ông ta là Thiên Vi Đường đường chủ của Thiên Ưng giáo, quyền vị chỉ dưới giáo chủ mà thôi.
Diệt Tuyệt sư thái thấy người này chỉ chừng độ bốn mươi tuổi, nhưng cặp mắt sáng như điện chớp, chiếu sáng bốn phía, khí thế nhiếp nhân, biết là không thể coi thường. Huống chi bình thời bà ta cũng từng nghe đến tên tuổi, nên lạnh lùng đáp:
- Tên tiểu tử này là gì mà ngươi phải thay y tiếp một chưởng của ta?
Trương Vô Kỵ trong lòng kêu lên: "Ông là cậu ta, cậu ta đây rồi. Không lẽ ông ta nhận ra ta sao?"
Ân Dã Vương cười ha hả, nói:
- Tôi vốn chẳng biết y là là ai, chỉ vì thấy y tuổi còn nhỏ, nhưng lại thật cứng đầu, không giống bọn giả nhân giả nghĩa, ham danh chuộng tiếng trong võ lâm, thấy thích, cho nên đứng ra lãnh giáo công lực của sư thái, được chăng?
Câu cuối cùng nói ra chẳng còn vẻ khách khí, tưởng như không coi Diệt Tuyệt sư thái vào đâu. Diệt Tuyệt sư thái không nổi giận, nói với Trương Vô Kỵ:
- Tiểu tử, nếu ngươi còn muốn sống thêm vài năm, lúc này chạy đi cũng còn kịp.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vãn bối không dám tham sống mà quên nghĩa khí.
Diệt Tuyệt sư thái gật đầu, quay về phía Ân Dã Vương nói:
- Tiểu tử này còn nợ ta một chưởng. Để ta thanh toán xong xuôi, sau đó sẽ không để cho các hạ phải thất vọng.
Ân Dã Vương cười hắc hắc, nói:
- Diệt Tuyệt sư thái, bà có giỏi thì cứ giết thanh niên này đi. Nếu y không sống thì bọn ta sẽ cho các ngươi chết không có đất mà chôn.
Y nói xong, lập tức phơi phới trở về, quay trở vào đám người, quát lớn:
- Hiện thân.
Đột nhiên trong bãi cát thò lên vô số đầu người, mỗi người có một cái khiên để ở trước mặt, ai nấy đều cầm cung cứng, giương tên bén nhọn chĩa thẳng vào đoàn người. Thì ra giáo chúng Thiên Ưng giáo đã đào những địa đạo, vây tất cả những người các môn phái lại từ bao giờ.
Mọi người chăm chú nhìn Diệt Tuyệt sư thái và Trương Vô Kỵ đối chưởng, đâu có để ý chuyện bên ngoài, dù có những người khôn ngoan hiểu biết như Tống Thanh Thư, cũng chỉ đề phòng giáo chúng Thiên Ưng giáo đột nhiên xông lên tấn công, đâu ngờ họ lợi dụng cát mềm đào các địa đạo, chiếm tất cả các khu vực địa hình thuận lợi. Chuyện xảy ra như thế khiến ai nấy mặt mày biến sắc, lại thấy các đầu tên dưới ánh mặt trời lấp lánh màu lam, hẳn có tẩm thuốc kịch độc. Chỉ cần Ân Dã Vương ra một hiệu lệnh, ngoài một vài người võ công cao siêu nhất của các phái, số còn lại e rằng chẳng mấy ai sống sót. Trong năm phái có mặt, nói về tên tuổi danh vọng thì Diệt Tuyệt sư thái là hơn hết, mọi người đều nhìn bà ta, để xem định đoạt thế nào.
Diệt Tuyệt sư thái là người tính tình chấp nê hơn ai hết, tuy thấy tình thế ác liệt, nhưng không động tâm một chút nào, nói với Trương Vô Kỵ:
- Tiểu tử, ngươi chỉ còn oán số mạng mình chẳng ra gì thôi.
Đột nhiên toàn thân xương cốt bà ta phát ra những tiếng lốp bốp nho nhỏ như than nổ. Tiếng tí tách chưa dứt, tay phải đã nhắm ngực Trương Vô Kỵ đánh tới.
Chưởng này là tuyệt học của phái Nga Mi tên là Phật Quang Phổ Chiếu. Dù cho kiếm pháp hay chưởng pháp bao giờ chiêu nọ cũng nối với chiêu kia thành bài bản, nhiều thì vài trăm chiêu, ít thì cũng năm ba thức, nhưng dù cho ba thức năm thức, mỗi thức bao giờ cũng ẩn những biến hóa, một thức có thể có dấu một vài hay có khi tới mười chiêu. Thế nhưng chưởng pháp Phật Quang Phổ Chiếu này chỉ có một chiêu, mà chiêu này cũng lại không có biến hóa. Một chiêu đánh ra, đánh trúng ngực kẻ địch cũng được, trúng lưng cũng được, trúng vai cũng được, trúng mặt cũng được, chiêu thức rất là bình thường, không có gì thay đổi, nhưng uy lực trong đó toàn do Cửu Dương Công của phái Nga Mi làm cơ sở.
Chưởng đó đánh ra rồi, địch nhân không thể đỡ được, mà cũng không né tránh được. Trong phái Nga Mi hiện nay, ngoại trừ Diệt Tuyệt sư thái ra, không một người thứ hai nào biết sử dụng.
Bà ta vốn chỉ định đánh vào đan điền của Trương Vô Kỵ, cốt để cho chàng hôn mê, thế nhưng sau khi Ân Dã Vương tỏ lời uy hiếp rồi, nếu còn thủ hạ lưu tình, sẽ không ai nghĩ là có ý khoan dung, lại tưởng là tham sống sợ chết, đối với địch nhân uốn gối đầu hàng. Thành ra chiêu này bà ta sử toàn lực, không nể nang một chút nào.
Trương Vô Kỵ thấy trước khi chưởng của Diệt Tuyệt sư thái đánh tới thì xương cốt đã kêu lách cách, biết rằng chưởng này uy lực thật là ghê gớm, sinh tử tồn vong của bản thân mình chỉ trong khoảnh khắc này mà thôi, nên đâu có dám sơ xẩy. Ngay trong chớp mắt đó, chàng chỉ còn nhớ tới hai câu kinh văn "Người dù hung ác tới đâu,Cốt sao chân khí ta sâu đủ rồi", hoàn toàn không nghĩ tới việc chống đỡ, chỉ vận chân khí tập trung vào bụng và ngực.
Những người chung quanh ai nấy đều kêu lên kinh hoảng, tin chắc toàn thân Trương Vô Kỵ xương thịt sẽ nát nhừ, không chừng còn bị chưởng bài sơn đảo hải này đánh đứt đôi người là khác. Nào ngờ một chưởng đánh ra rồi, Trương Vô Kỵ mặt lộ vẻ thơ thới, đứng thản nhiên như không, còn Diệt Tuyệt sư thái mặt xám như tro, bàn tay run rẩy. Thì ra chiêu Phật Quang Phổ Chiếu của Diệt Tuyệt sư thái hoàn toàn lấy Cửu Dương Công của phái Nga Mi làm cơ sở, đâu ngờ Trương Vô Kỵ luyện lại chính là Cửu Dương thần công. Cửu Dương Công của phái Nga Mi là do năm xưa Quách Tương nghe Giác Viễn tụng Cửu Dương Chân Kinh nên nhớ được đôi phần mà thành, so với nguyên bản Cửu Dương thần công, uy lực không thể nào sánh được. Thế nhưng tuy uy lực hai môn nội công có lớn nhỏ, bản chất vẫn cùng một gốc, Nga Mi Cửu Dương Công gặp phải Cửu Dương thần công, khác nào sông chảy vào biển, lại như nước với sữa trộn vào nhau, lập tức vô ảnh vô tung.
Diệt Tuyệt sư thái đánh chàng chưởng đầu tiên là Phiêu Tuyết Xuyên Vân Chưởng, chưởng thứ hai là Tiệt Thủ Cửu Thức, đều không phải thuộc Cửu Dương Công nên khi đánh vào Trương Vô Kỵ chàng phải thụ thương thổ huyết.
Đạo lý bên trong đó, đương thời không một ai hiểu được, Trương Vô Kỵ cố nhiên hoang mang không biết gì, Diệt Tuyệt sư thái tuy là người kiến thức rộng rãi, cũng chỉ nghĩ là tiểu tử này nội công thâm hậu, mình không thể đả thương y mà thôi. Trong đám người bị bao vây cả mấy trăm người, trừ chính Diệt Tuyệt sư thái ra, ai ai cũng nghĩ bà ta nhẹ tay, một phần vì thương Trương Vô Kỵ là người có cốt khí, phần vì bà ta muốn chu toàn đại thể, không đành để cho Thiên Ưng giáo bắn độc tiễn mà thương vong sẽ rất nặng nề, phần khác cũng có thể bà ta nhát gan sợ hãi nên bị Ân Dã Vương uy hiếp đành phải khuất phục.
Trương Vô Kỵ chắp tay vái một cái nói:
- Đa tạ tiền bối nhẹ tay tha cho.
Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, thật là sượng sùng, nhưng vì đã nói trước chỉ đánh ba chưởng nên không thể nào đánh thêm. Việc này nay phải bỏ qua thật là kỳ sỉ đại nhục tưởng như bà đành chịu khuất phục Thiên Ưng giáo. Trong khi bà ta còn đang lừng chừng, Ân Dã Vương cười lên ha hả, nói:
- Người thức thời là kẻ tuấn kiệt, Diệt Tuyệt sư thái không thẹn là một đương thế cao nhân.
Nói xong quát lớn:
- Triệt cung tên đi.
Các giáo đồ lập tức lục tục lùi ra xa, một hàng cầm thuẫn, một hàng cầm cung tên, đứng thật chỉnh tề, xem ra Ân Dã Vương dùng binh pháp để dạy giáo chúng, tiến thoái công thủ chẳng khác gì trận pháp.
Diệt Tuyệt sư thái mặt mày xám ngắt, nhưng làm sao có thể giãi bày cho mọi người được, chẳng lẽ nói chưởng của mình nào có lưu tình? Ai nấy đều thấy bà ta đánh nhẹ hai chưởng đã khiến Trương Vô Kỵ phải bị trọng thương, thế nhưng Ân Dã Vương vừa mới dọa nạt, chưởng thứ ba làm như ghê gớm lắm nhưng hoàn toàn chẳng sử dụng một chút lực đạo nào. Dù có kiệt lực biện bạch, mọi người chắc cũng chẳng ai tin, huống chi trước nay bà ta vốn người kiêu ngạo, không lẽ phải cầu người ta tin mình? Bà hậm hực căm tức nhìn Trương Vô Kỵ rồi lớn tiếng nói:
- Ân Dã Vương, ngươi muốn tìm hiểu chưởng lực của ta, bây giờ mời qua đây.
Ân Dã Vương chắp tay đáp:
- Hôm nay được sư thái ban cho chút tình, đâu dám đắc tội thêm nữa, chúng ta sau này có ngày gặp lại.
Diệt Tuyệt sư thái phất tay trái một cái, không nói thêm, dẫn các đệ tử chạy về hướng tây. Côn Lôn, Hoa Sơn, Không Động các phái, kể cả Ân Lê Đình, Tống Thanh Thư cũng chạy theo.
Châu Nhi hai chân không đi được, vội kêu:
- A Ngưu ca, mau đem em chạy theo.
Trương Vô Kỵ muốn cùng Ân Dã Vương nói vài câu nói:
- Đợi một chút.
Quay sang chạy về phía Ân Dã Vương, nói:
- Đại đức ra tay trợ giúp của tiền bối, vãn bối không bao giờ dám quên.
Ân Dã Vương cầm tay chàng, nhìn chăm chăm đánh giá một hồi rồi hỏi:
- Ngươi họ Tăng?
Trương Vô Kỵ quả muốn sà vào lòng ông, gọi mấy tiếng: "Cậu ới! Cậu ới!" nhưng cố nén lòng, hai mắt không khỏi rưng rưng. Người đời thường nói "Thấy cậu như thấy mẹ", chàng là một đứa trẻ mồ côi Ân Dã Vương là thân nhân mà mười năm nay chàng mới gặp lần đầu, làm sao không khỏi khích động?
Ân Dã Vương thấy ánh mắt chàng đối với mình đầy vẻ thân thiết, lại tưởng chàng cảm kích việc cứu mạng, nên cũng không để ý, đưa mắt sang nhìn Châu Nhi đang nằm dưới đất, cười nhạt một tiếng, nói:
- A Ly, ngươi khỏe chứ?
Châu Nhi ngẩng đầu lên, đôi mắt đầy vẻ oán hận, nhưng lại cúi xuống, một lát sau mới gọi:
- Cha.
Tiếng "Cha" vừa ra khỏi miệng, Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, trong đầu bao nhiêu ý niệm chạy qua, trong chớp mắt đã hiểu rõ biết bao nhiêu chuyện: "Thì ra Châu Nhi là con của cậu ta, vậy nàng là em họ của mình. Nàng giết bà vợ lẽ, làm liên lụy chết cả mẫu thân, lại nói cha nàng gặp là giết nàng ngay ... ôi, nàng dùng Thiên Châu Vạn Độc Thủ đả thương Ân Vô Lộc, chắc cũng vì những người gia nhân này hùa theo chủ nhân, đối đãi với mẹ con nàng không ra gì. Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ tuy trong lòng thống hận nhưng không dám cùng nàng động thủ, chỉ nói một câu: "Thì ra là Tam tiểu thư", rồi ôm Ân Vô Lộc chạy mất.
Chàng quay lại nhìn Châu Nhi, bỗng dưng nghĩ ra: "Thảo nào mình thấy nàng hành động giống y hệt mẹ ta, thì ra nàng với ta có tình máu mủ, mẹ ta chính là cô ruột của nàng".
Ân Dã Vương cười khẩy nói:
- Mày còn biết gọi ta là cha sao? Hừ, ta lại tưởng ngươi đi theo Kim Hoa bà bà, không còn coi Thiên Ưng giáo vào đâu nữa chứ. Thật chẳng ra đâu với đâu, giống hệt mẹ mày, luyện cái gì Thiên Châu Vạn Độc Thủ. Hừm, ngươi thử soi gương xem ra cái giống gì? Nhà họ Ân lẽ đâu lại có thứ người không ra người, ngợm không ra ngợm như thế?
Châu Nhi vốn dĩ sợ đến toàn thân run rẩy, đột nhiên quay đầu lại, chăm chăm nhìn vào mặt cha, lớn tiếng nói:
- Cha, cha chẳng nói đến thì thôi, con cũng không nói. Thế nhưng đã nói thì con hỏi cha, mẹ con đã lấy cha rồi, vì cớ gì cha lại còn lấy thêm bà hai?
Ân Dã Vương ấp úng:
- Cái đó ... cái đó ... đồ chết tiệt, đàn ông con trai, có ai không năm thê bảy thiếp? Mày là đồ bất hiếu, hôm nay có cãi thì cũng bằng thừa. Kim Hoa bà bà, Ngân Diệp tiên sinh Thiên Ưng giáo chẳng coi ra cái quái gì đâu.
Ông khoát tay một cái, nói với Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ hai người:
- Xách cổ con nhãi này đi theo.
Trương Vô Kỵ giơ hai tay chặn lại:
- Khoan đã. Ân ... Ân tiền bối, ông định bắt cô ấy làm gì?
Ân Dã Vương đáp:
- Con a đầu này là đứa con mất dạy của mỗ, giết mẹ kế, hại mẹ đẻ, so với cầm thú cũng không bằng, còn để cho sống làm gì?
Trương Vô Kỵ nói:
- Lúc đó Ân cô nương còn nhỏ, thấy mẹ mình bị người ta khinh rẻ, nhất thời không nhịn được nên mới gây ra chuyện không hay, xin tiền bối nghĩ tình cha con, xử phạt nhẹ tay một chút.
Ân Dã Vương ngửng đầu lên cười ha hả, nói:
- Hảo tiểu tử, ngươi là cái hạng người gì mà chuyện thiên hạ đâu đâu cũng xen vào, ngay cả chuyện nhà họ Ân cũng can dự? Hay là ngươi là "võ lâm chí tôn" chăng?
Trương Vô Kỵ trong lòng khích động, đã định nói ra: "Tôi chính là cháu ông, đâu phải người ngoài" nhưng sau cùng cũng cố nén lại được. Ân Dã Vương cười nói tiếp:
- Tiểu tử, từ nay ngươi phải biết giữ thân, nếu cứ tiếp tục lo chuyện thiên hạ thì có đến mười cái mạng cũng không đủ đâu.
Nói xong vẫy tay một cái, Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ hai người liền tiến lên nắm lấy Châu Nhi, kéo về phía sau Ân Dã Vương. Trương Vô Kỵ biết rằng một khi Châu Nhi rơi vào tay cha nàng, tính mạng ắt không toàn vẹn, trong cơn gấp gáp, xông lên toan cướp lại. Ân Dã Vương nhíu mày, tay trái vung ra nắm ngực chàng nhẹ nhàng ném ra ngoài. Trương Vô Kỵ thân hình bay bổng như đằng vân giá vụ, bình một tiếng, rớt ngay trên bãi cát vàng. Chàng có Cửu Dương thần công hộ thể, tuy không bị thương nhưng rơi xuống, tai mắt, mũi mồm đầy cát thật là khó chịu. Thế nhưng chàng không chịu thôi, liền nhỏm dậy xông tới lần nữa.
Ân Dã Vương cười nhạt:
- Tiểu tử, lần đầu ta nhẹ tay, lần sau sẽ không nể nang gì nữa đâu.
Trương Vô Kỵ khẩn cầu:
- Cô ấy ... cô ấy là con ruột ông, khi còn thơ ông đã từng bế bồng, hôn hít, xin ông tha cho.
Ân Dã Vương trong lòng cảm động, quay lại nhìn Châu Nhi, thấy nàng mặt sưng vù, lòng chán ghét càng tăng thêm, quát lớn:
- Cút ngay.
Trương Vô Kỵ trái lại chạy lên một bước, toan cướp lại. Châu Nhi kêu lên:
- A Ngưu ca, anh đừng nghĩ đến em, em sẽ mãi mãi nhớ đến lòng tốt của anh. Mau chạy đi, anh không chống cự lại cha em được đâu.
Ngay lúc đó, từ trong bãi cát một người mặc áo xanh trồi lên, hai tay vươn ra, chộp cổ Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ, dập lại một cái, trán hai người đụng mạnh vào nhau, lập tức bất tỉnh. Người kia ôm luôn Châu Nhi phóng mình bỏ chạy, Ân Dã Vương giận dữ quát lên:
- Vi Bức Vương, ngươi lại định xen vào chuyện người khác ư?
Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu cười phá lên, chạy thẳng về trước. Y có tên là "nhất tiếu" thành thử tiếng cười của y liên miên thành một chuỗi dài, nào phải chỉ "bách tiếu, thiêu tiếu" mà thôi đâu? Ân Dã Vương cùng Trương Vô Kỵ lập tức phóng mình chạy đuổi theo.
Lần này Vi Nhất Tiếu không chạy vòng vòng nữa, thẳng hướng tây nam vùn vụt chạy. Thân pháp người này thật là nhanh không tưởng nổi. Ân Dã Vương nội lực thâm hậu, khinh công cũng khá, Trương Vô Kỵ chân khí trong người lưu chuyển, chạy mỗi lúc một nhanh, nhưng Vi Nhất Tiếu chạy lại còn nhanh hơn. Lúc đầu hai người chỉ cách y vài trượng, về sau thành ra hơn chục trượng, hai chục trượng, ba chục trượng ... sau cùng không còn thấy hình bóng y đâu nữa.
Ân Dã Vương giận dữ cười khẩy, thấy Trương Vô Kỵ trước sau vẫn chạy ngang vai với mình, không chịu sau đến nửa bước, trong bụng không khỏi kinh ngạc, biết rằng không cách nào có thể đuổi kịp được Vi Nhất Tiếu, nhưng lại muốn thử xem cước lực gã thanh niên này bực nào. Ông ta gia tăng kình lực, thân hình như mũi tên rời khỏi cung, bắn vọt về phía trước, nhưng chàng ta không kém, vẫn cùng mình chạy song song. Đột nhiên nghe Trương Vô Kỵ nói:
- Ân tiền bối, gã Thanh Dực Bức Vương này tuy chạy nhanh thật, nhưng chưa chắc đã dài hơi, mình cứ lẽo đẽo theo mãi đến tận cùng.
Ân Dã Vương giật mình kinh hãi, lập tức đứng ngay lại, nhủ thầm: "Ta thi triển khinh công như thế là đã hết sức bình sinh, không nói gì mở miệng ra nói, ngay cả đến thở hụt một hơi cũng đã không xong. Tên tiểu tử này nói năng như thường, vậy mà chân không chậm lại chút nào, là cái công phu gì đây?".
Ông ta vừa dừng bước, Trương Vô Kỵ đã vọt lên đến vài trượng, vội quay đầu chạy trở lại bên cạnh Ân Dã Vương, nghe ông ta bảo gì.
Ân Dã Vương nói:
- Tăng huynh đệ, sư phụ chú là ai?
Trương Vô Kỵ vội nói:
- Không, không, ông đừng gọi tôi là huynh đệ, tôi đáng hàng con cháu, lão nhân gia cứ gọi tôi là " A Ngưu" được rồi. Tôi không có sư phụ.
Ân Dã Vương chợt nghĩ ra một ý định: "Tên tiểu tử này võ công thật là quái dị, để nó sẽ gây ra hậu họa vô cùng, chi bằng xuất kỳ bất ý, một chưởng đánh nó chết đi là hơn".
Ngay lúc đó, bỗng nghe mấy tiếng tù và ốc biển lanh lảnh từ xa xa vọng tới, chính là tiếng báo động của Thiên Ưng giáo. Ân Dã Vương nhíu mày, nghĩ thầm: "Chắc là Hồng Thủ, Liệt Hỏa hai kỳ giận ta không cứu Nhuệ Kim Kỳ, nên đến tấn công chăng?". Nếu như một chưởng đánh không chết gã tiểu tử này, ta làm gì có thì giờ đánh dằng dai với y. Chi bằng mình mượn dao giết người, đẩy y đến cho Vi Nhất Tiếu sát hại".
Ông ta liền nói:
- Thiên Ưng giáo gặp địch rồi, ta phải quay về ứng phó. Ngươi một mình đuổi theo Vi Nhất Tiếu. Người đó âm hiểm độc ác, ngươi nên tiên hạ thủ vi cường.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi bản lãnh thấp kém, làm sao đánh lại ông ta? Các ông có kẻ địch nào đến đánh thế?
Ân Dã Vương nghiêng đầu nghe ngóng tiếng tù và, nói:
- Quả nhiên là Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ ba kỳ của Minh giáo đến rồi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tất cả đều chung một Minh giáo cả, sao lại tàn sát lẫn nhau?
Ân Dã Vương sầm mặt xuống, nói:
- Trẻ con biết gì? Lại xen vào chuyện người khác rồi.
Ông ta nói xong quay đầu lại chạy về. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Châu Nhi rơi vào tay đại ác ma Vi Nhất Tiếu, nếu như y cắn cổ nàng, hút hết máu thì còn làm sao sống được?". Nghĩ đến đó, chàng càng nóng ruột, vội hít mạnh một hơi, co chân chạy. Cũng may là Vi Nhất Tiếu khinh công tuy giỏi thật nhưng trong tay ôm thêm một người, không thể nào không để lại vết trên mặt cát, trên sa mạc rõ ráng hai đường dấu chân. Trương Vô Kỵ đã có chủ ý: "Y nghỉ ngơi, ta không nghỉ, y nằm ngủ, ta không ngủ, chạy ba ngày ba đêm thể nào ta cũng đuổi kịp y".
Dưới ánh nắng gay gắt, trên bãi sa mạc, chạy ba ngày ba đêm đâu phải chuyện dễ. Chàng chạy đến tối, đã thấy miệng khô lưỡi đắng, toàn thân mồ hôi chảy như mưa. Thế nhưng cũng thật lạ lùng, chân chàng không hề mỏi, chân khí Cửu Dương thần công súc tích trong người mấy năm qua bắt đầu phát huy, càng sử dụng lực, càng thấy tinh thần phấn chấn.
Chàng ghé lại một cái suối uống một bụng no, rồi lại chạy tiếp, cứ theo dấu chân Vi Nhất Tiếu mà đuổi. Chạy đến nửa đêm, thấy trăng đã lên đến đỉnh đầu, Trương Vô Kỵ trong bụng bỗng dưng sợ hãi, chỉ sợ bất ngờ nhìn thấy thi thể Châu Nhi đã bị hút hết máu nằm đâu đây. Ngay lúc đó, nghe dường như đằng sau có tiếng chân người, chàng quay lại nhìn, chẳng thấy ai. Chàng không dám lần chần hơn nữa, lại cố chạy nhưng tiếng chân người vẫn thấy đâu đây.
Trương Vô Kỵ trong bụng lạ kỳ, quay đầu nhìn lần nữa, vẫn không thấy ai, nhìn kỹ hơn, trên sa mạc rõ ràng có ba hàng dấu chân người, một vết là của Vi Nhất Tiếu, một vết của mình, không thể nào sai được, nhưng còn một hàng nữa là của ai? Chàng quay lại lần nữa, đằng trước chỉ có một hàng vết chân của Vi Nhất Tiếu, quả thực mình đang bị ai đó đuổi theo rồi không còn nghi ngờ gì, nhưng sao không thấy ai, chẳng lẽ người này có phép tàng hình hay sao?
Chàng trong bụng đầy nghi hoặc, vừa tiếp tục chạy, lại nghe tiếng chân người theo sau. Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Ai đó?
Đằng sau có tiếng đáp:
- Ai đó?
Trương Vô Kỵ hoảng sợ, quát lên:
- Ngươi là người hay là ma?
Người kia lại trả lời:
- Ngươi là người hay là ma?
Trương Vô Kỵ vội quay phắt đầu lại, lần này thấy đằng sau có bóng thấp thoáng, biết là một người nào đó thân pháp thật nhanh náu ở sau lưng mình, kêu lên:
- Ngươi theo ta làm chi?
Người kia đáp:
- Ta theo ngươi làm chi?
Trương Vô Kỵ cười hỏi lại:
- Làm sao tôi biết được? Có thế mới hỏi ông.
Người kia đáp:
- Làm sao ta biết được? Có thế mới hỏi ngươi.
Trương Vô Kỵ xem chừng người này không có ác ý, y theo sau mình đã lâu, nếu ra tay có thể giết mình ngay, liền hỏi:
- Ông tên gì?
Người kia đáp:
- Thuyết Bất Đắc.[7]
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sao lại không nói được là sao?
Người kia đáp:
- Thuyết Bất Đắc là Thuyết Bất Đắc, cần gì phải có lý do tại sao? Còn ngươi tên là gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi... tôi tên là Tăng A Ngưu.
Người kia hỏi:
- Sao nửa đêm canh ba ngươi lại chạy như thằng khùng thế là sao?
Trương Vô Kỵ biết đây là một dị nhân thân mang tuyệt kỹ, liền nói:
- Một người bạn của tôi bị Thanh Dực Bức Vương bắt đi, tôi muốn cứu về.
Người kia nói:
- Ngươi không cứu nổi đâu.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sao thế?
Người kia đáp:
- Thanh Dực Bức Vương võ công cao hơn ngươi, ngươi đánh không lại y đâu.
Trương Vô Kỵ nói:
- Đánh không lại vẫn cứ đánh.
Người kia nói:
- Giỏi lắm, ngươi quả có chí khí. Bạn của ngươi là một cô gái phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng vậy. Làm sao ông biết?
Người kia nói:
- Nếu chẳng phải con gái, một thanh niên đâu có đâu bất kể sống chết đuổi theo như thế. Đẹp lắm phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Xấu lắm.
Người kia hỏi:
- Thế còn chính ngươi thì có xấu không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ông ra đằng trước nhìn thì biết.
Người kia đáp:
- Ta chẳng cần nhìn, thế cô nương đó có biết võ công không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Biết, là con gái của Ân Dã Vương tiền bối của Thiên Ưng giáo, từng theo Kim Hoa bà bà đảo Linh Xà học võ.
Người kia nói:
- Thôi đừng đuổi nữa, Vi Nhất Tiếu bắt được cô ta rồi, không chịu tha đâu.
Trương Vô Kỵ hỏi lại:
- Sao thế?
Người kia hừ một tiếng, nói:
- Ngươi thật ngốc, không chịu suy nghĩ gì cả. Ân Dã Vương là gì của Ân Thiên Chính?
Trương Vô Kỵ nói:
- Hai người là hai cha con.
Người kia nói:
- Bạch Mi Ưng Vương và Thanh Dực Bức Vương võ công ai cao hơn ai?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi không biết. Xin tiền bối cho biết ai giỏi hơn?
Người kia đáp:
- Mỗi người có một sở trường. Thế hai người ai thế lực hơn ai?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ưng Vương là giáo chủ Thiên Ưng giáo, chắc thế lực phải hơn.
Người kia nói:
- Đúng vậy. Thế thì Vi Nhất Tiếu bắt được cháu gái của Ân Thiên Chính, là một món hàng đáng giá, đâu dễ gì trả lại, thể nào chẳng dùng để uy hiếp Ân Thiên Chính.
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
- E rằng không phải thế, Ân Dã Vương tiền bối chỉ chăm chăm định giết con gái mình.
Người kia lạ lùng hỏi:
- Vì sao vậy?
Trương Vô Kỵ liền đem chuyện Châu Nhi giết ái thiếp của phụ thân, làm liên lụy đến mẹ ruột cũng chết theo thuật sơ qua. Người nọ nghe xong rồi, tặc lưỡi khen:
- Thật tuyệt, thật tuyệt, quả thật đúng là mỹ chất lương tài.
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:
- Cái gì mà mỹ chất lương tài?
Người kia nói:
- Tuổi còn nhỏ như thế mà đã dám giết cả dì hai, hại cả mẹ ruột, lại được Kim Hoa bà bà đảo Linh Xà dạy dỗ, đến ta thấy cũng thích, Vi Nhất Tiếu thể nào chả thu cô ta làm đồ đệ.
Trương Vô Kỵ hoảng hốt, hỏi:
- Sao ông lại biết?
Người kia nói:
- Vi Nhất Tiếu là bạn của ta, tâm tính y thế nào ta chẳng biết.
Trương Vô Kỵ thờ thẫn, bỗng kêu lên:
- Chết rồi.
Chàng lại phóng mình chạy, người kia vẫn lục tục đuổi theo sau. Trương Vô Kỵ một mặt vẫn chạy, hỏi tiếp:
- Sao ông vẫn đuổi theo tôi làm gì?
Người kia nói:
- Ta vì tính hiếu kỳ, muốn xem trò vui. Thế ngươi đuổi theo Vi Nhất Tiếu để làm gì thế?
Trương Vô Kỵ hậm hực nói:
- Châu Nhi vốn đã có tà khí, tôi nhất quyết không để nàng bái Vi Nhất Tiếu làm thầy, học cái môn ma quỉ hút máu người, đâu có gì là tốt lành?
Người kia nói:
- Ngươi thích Châu Nhi lắm phải không? Sao ngươi lại quan tâm đến cô ta như thế?
Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nói:
- Tôi cũng chẳng biết có thích hay không thích cô ta hay không nữa, chẳng qua cô ta ... cô ta có nét giống mẹ tôi.
Người kia nói:
- - Ủa, thế ra mẹ ngươi cũng xấu như ma, chắc ngươi cũng khó coi lắm nhỉ?
Trương Vô Kỵ vội nói:
- Mẹ tôi đẹp lắm, ông đừng có nói nhăng nói cuội.
Người kia nói:
- Tiếc thật, tiếc thật.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Tiếc cái gì?
Người kia nói:
- Ngươi là một thanh niên can đảm, lại có lòng, quả thật đáng quí, có điều chỉ giây lát đã bị người ta hút hết máu thành cái xác khô.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ông ta nói chẳng sai chút nào, dù ta có đuổi kịp Vi Nhất Tiếu, cũng đâu có cứu nổi Châu Nhi, chỉ ngờ ngờ đem mạng nạp cho y thôi". Chàng liền hỏi:
- Tiền bối, ông giúp tôi một tay có được không?
Người kia trả lời:
- Không được. Thứ nhất Vi Nhất Tiếu là bạn của ta, thứ hai ta đánh không lại y.
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu Vi Nhất Tiếu là bạn ông thì sao ông không khuyên y?
Người kia thở dài một tiếng, nói:
- Khuyên đâu có được. Vi Nhất Tiếu chính y cũng đâu có muốn hút máu người đâu, chẳng qua chuyện chẳng đặng đừng, không thế không xong, thực là khổ tâm lắm.
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:
- Không thế không xong? Thế là thế nào?
Người kia nói:
- Vi Nhất Tiếu luyện công bị tẩu hỏa, từ đó mỗi khi kích dẫn nội lực, lại phải uống máu người, nếu không toàn thân lạnh run, chết cóng ngay.
Trương Vô Kỵ trầm ngâm nói:
- Có phải ba mạch âm của ông ta bị tổn thương chăng?
Người kia lạ lùng hỏi:
- Ồ, ngươi cũng biết thế sao?
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi chỉ đoán thế thôi, chẳng biết có đúng hay không nữa.
Người kia nói:
- Ta đã ba lần vào núi Trường Bạch, định bắt cho y một con hỏa thiềm trị bệnh cho y, nhưng cả ba lần đều về tay không. Lần đầu có trông thấy con cóc lửa chỉ cách hai trượng mà không bắt được, còn lần thứ hai thứ ba chẳng thấy tăm hơi con nào. Đợi chuyện khó khăn trước mắt xong rồi, ta sẽ lại đi một chuyến nữa.
Trương Vô Kỵ nói:
- Để tôi đi cùng với ông, có được không?
Người kia nói:
- Ôi, ngươi nội lực thì nhiều, nhưng khinh công quá kém, nói trắng ra chẳng có chút hỏa hầu nào, đến lúc đó mình tính sau. Ồ, ta hỏi ngươi, tại sao ngươi muốn giúp ta đi kiếm hỏa thiềm?
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu bắt được thì không những trị khỏi bệnh cho Vi Nhất Tiếu mà còn cứu được bao nhiêu người, về sau không còn phải hút máu ai nữa. A, tiền bối này, ông ta chạy lâu như thế, kích dẫn nội lực, không thể nào làm khác hơn, e rằng hút luôn cả máu của Châu Nhi mất.
Người kia trầm ngâm, nói:
- Cái đó không chừng. Dù y có định thu Châu Nhi làm học trò, khi đang lạnh run, máu huyết trong người ngưng kết thành băng, lúc đó đến con ruột y ...
Trương Vô Kỵ càng nghĩ càng sợ, cố hết sức chạy. Người kia bỗng nói:
- Ối, đằng sau ngươi có cái gì thế?
Trương Vô Kỵ quay đầu lại nhìn, đột nhiên trước mắt tối om, toàn thân bị một cái gì thật lớn chùm vào, sau đó thân hình bay bổng, hình như bị người kia bỏ vào một cái túi lớn nhắc lên. Y giơ tay ra xé cái túi, nào hay cái túi này không phải bằng da, cũng chẳng phải bằng tơ, chắc chắn dị thường, sờ mãi không thấy đường chỉ may, hiển nhiên làm bằng một loại vải dày, không cách gì xé rách được.
Người kia cầm cái túi ném xuống đất, cười ha hả, nói:
- Ngươi chui ra khỏi cái túi của ta được, mới thật là giỏi.
Trương Vô Kỵ vận nội lực, hai tay đẩy mạnh ra, nhưng cái túi này mềm xèo không dùng sức vào đâu được. Chàng lại giơ chân lên hết sức đạp ra, nghe bộp một cái, cái túi chỉ phồng lên một chút, dù dùng cách nào nắm đẩy chọc xé, cả đến lăn lộn húc đầu, cái túi vẫn trơ trơ không sao cả. Người kia cười nói:
- Ngươi đã chịu thua chưa?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chịu rồi.
Người kia vỗ một cái, qua lần vải trúng ngay vào mông Trương Vô Kỵ, cười nói:
- Tiểu tử, hãy ngoan ngoãn nằm trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta, đừng có vùng vẫy, ta đưa ngươi đến một nơi. Ngươi mà mở miệng nói một câu để người ngoài biết được, ta cứu ngươi không nổi đâu.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Ông đưa tôi đi đâu thế?
Người kia cười đáp:
- Ngươi đã nằm trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta rồi, nếu ta muốn giết ngươi, ngươi đâu có chạy được? Chỉ cần ngươi đừng động đậy, đừng lên tiếng, sẽ có lợi cho ngươi.
Trương Vô Kỵ nghĩ lời nói đó quả không sai, nên không vùng vẫy nữa. Người kia nói:
- Ngươi được vào trong cái túi của ta, ấy là ngươi có phúc lắm đó.
Nói xong ông ta vác cái túi lên vai, ra sức chạy. Trương Vô Kỵ hỏi:
- Việc của Châu Nhi làm sao bây giờ?
Người kia nói:
- Ta làm sao biết được? Ngươi mà còn lải nhải nữa là ta sẽ tống cổ ngươi ra khỏi cái túi này đó.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ông tống tôi ra khỏi cái túi này thì thật đúng là cầu còn chưa được đó thôi". Thế nhưng chàng không dám nói ra, chỉ thấy người này cước bộ thực là nhanh nhẹn.
Người kia chạy luôn mấy giờ liền, Trương Vô Kỵ ở bên trong túi vải thấy dần dần nóng lên, biết rằng trời đã sáng, ánh nắng chiếu vào. Một lúc sau thấy người nọ càng chạy càng lên cao, hình như đang lên núi. Ông ta chạy lên chừng hai giờ nữa, Trương Vô Kỵ đã thấy hơi lạnh, nghĩ thầm: "Hình như cái núi này thật cao, trên đỉnh vẫn còn đóng tuyết nên mới lạnh như thế này". Đột nhiên thân hình chàng bay vọt lên không, Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nhịn không nổi phải kêu lên.
Tiếng kêu chưa dứt, bỗng thấy thân hình chựng lại, người đó đã tới đất. Trương Vô Kỵ bấy giờ mới rõ, thì ra người kia vác luôn cả cái bao nhảy tới, xem chừng nơi đây là một đỉnh núi thật cao với những vách đứng và đá tảng cheo leo. Người này cõng mình nhảy nhót, sơn nham lại có băng tuyết phủ, thật là trơn trượt, chỉ xẩy chân một cái, hai người chẳng tan xương nát thịt hay sao? Bụng nghĩ đến đó, người kia lại nhảy nữa không ngừng, lúc cao lúc thấp, lúc gần lúc xa, Trương Vô Kỵ tuy ở trong cái bao, không nhìn được ra ngoài chút nào nhưng cũng biết địa thế nơi đây thật là hiểm trở.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Theo dòng nước mà đẩy thuyền
[2] nghe qua một lần không quên
[3] Tay gẩy năm sợi dây đàn
[4] Cái quạt nhỏ nhẹ làm bằng sa (một loại lụa mỏng)
[5] Dây xích sắt treo ngang sông
[6] Tám chữ này có ý châm chọc, nói bà ta tuy tên là Diệt Tuyệt nhưng đánh người lại chẳng chết nổi, danh và thực không đi đôi với nhau.
[7] Thuyết bất đắc theo nghĩa đen là không nói ra được hay không thể nói được, nhưng chính người này lại có tên là Thuyết Bất Đắc. Ở đây Kim Dung cố ý lẫn lộn giữa tên gọi và nghĩa lý của cái tên. Người dịch tôn trọng tên riêng nên không thể dịch là Nói Không Được như bản cũ.
Hồi 19
HỌA KHỞI TIÊU TƯỜNG PHÁ KIM THANG
Bọ ngựa định bắt ve sầu,
Ngờ đâu chim sẻ ở sau đang rình.
Trương Vô Kỵ lại bị người nọ xách lên nhảy lên cao một lần nữa, bỗng nghe từ xa có người gọi:
- Thuyết Bất Đắc, sao giờ này ngươi mới đến?
Người đang vác Trương Vô Kỵ trả lời:
- Trên đường ta gặp một chuyện nhỏ. Vi Nhất Tiếu đã đến chưa?
Người ở xa xa kia nói:
- Chưa thấy đâu, thật là kỳ quái, cả y mà cũng đến trễ nữa. Thuyết Bất Đắc, ngươi có gặp y chưa?
Hai người vừa hỏi nhau vừa tiến tới gần. Trương Vô Kỵ thầm lạ lùng: "Thì ra người này tên là Thuyết Bất Đắc, thành thử khi ta hỏi y tên gì, y nói là Thuyết Bất Đắc, hỏi thêm tại sao không nói được, y trả lời Thuyết Bất Đắc tức là Thuyết Bất Đắc, còn gì mà phải hỏi. Sao lại có người có cái tên quái lạ đến thế?". Chàng nghĩ tiếp: "Y cũng ước hẹn với Vi Nhất Tiếu gặp nhau, không biết Châu Nhi có sao không? Y là bạn của Vi Nhất Tiếu, không biết y sẽ làm gì mình đây?".
Lại nghe Thuyết Bất Đắc nói:
- Thiết Quan đạo huynh, bọn mình đi kiếm Vi huynh, tôi e hắn ta gặp rắc rối gì rồi.
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Thanh Dực Bức Vương vừa dè dặt, vừa thông minh, võ công trác tuyệt, làm sao gặp rắc rối được?
Thuyết Bất Đắc nói:
- Tôi vẫn nghĩ có chuyện gì chẳng lành.
Bỗng từ dưới sơn cốc có tiếng người vọng lên, kêu lớn:
- Tên hòa thượng thối tha Thuyết Bất Đắc, tên mọi già Thiết Quan, mau xuống giúp ta một tay, nguy lắm rồi, nguy lắm rồi.
Thuyết Bất Đắc cùng Thiết Quan đạo nhân cùng kinh hoảng:
- Chu Điên đó, chẳng biết chuyện gì nguy không biết nữa?
Thuyết Bất Đắc lại nói:
- Chắc là y bị thương, nếu không sao giọng có vẻ yếu thế?
Ông ta không đợi Thiết Quan đạo nhân trả lời, liền vác Trương Vô Kỵ nhảy trở xuống. Thiết Quan đạo nhân chạy theo sau, bỗng nói:
- Ồ, Chu Điên cõng ai thế kia? À, Vi Nhất Tiếu.
Thuyết Bất Đắc kêu lớn:
- Chu Điên đừng quýnh, bọn ta lại giúp ngươi đây.
Chu Điên chửi:
- Có quýnh cái con khỉ mốc, ta quýnh đâu mà quýnh? Con dơi hút máu sắp chết thì có.
Thuyết Bất Đắc hốt hoảng nói:
- Vi huynh sao thế, bị thương chăng?
Nói xong lại càng chạy nhanh hơn. Trương Vô Kỵ nằm trong cái túi, chẳng khác gì đằng vân giá vụ, nhịn không nổi phải kêu khẽ:
- Tiền bối, ông tạm thả tôi xuống, việc cứu người khẩn thiết hơn.
Thuyết Bất Đắc đột nhiên nhắc cái túi lên, tại không trung quay luôn ba vòng, Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nếu như ông ta thả tay quăng cái túi đi, hậu quả không biết đâu mà lường.
Chỉ nghe Thuyết Bất Đắc trầm giọng nói:
- Tiểu tử, để ta cho ngươi hay, ta là Bố Đại Hòa Thượng Thuyết Bất Đắc[1], người đi sau ta kia là Thiết Quan đạo nhân Trương Trung, còn người đang nói ở dưới kia là Chu Điên[2]. Ba người chúng ta, cộng thêm Lãnh Diện tiên sinh Lãnh Khiêm, Bành hòa thượng Bành Oánh Ngọc là Ngũ Tản Nhân[3] của Minh Giáo. Ngươi có biết Minh giáo chăng?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Biết chứ. Thì ra đại sư cũng là người trong Minh giáo.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Ta và Lãnh Khiêm không thích giết người, Thiết Quan đạo nhân, Chu Điên, và Bành hòa thượng trước nay giết người không nháy mắt. Nếu như bọn họ biết được ngươi nằm trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta, thích là có thể ra tay bất cứ lúc nào, ngươi sẽ nát như bùn ngay.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi đâu có đắc tội gì với quí giáo, sao lại ...
Thuyết Bất Đắc nói:
- Bọn Thiết Quan đạo nhân giết người, có cần phải hỏi có tội hay không có tội đâu? Từ rày về sau, nếu ngươi còn muốn sống, nằm ở trong túi thì đừng có nói một câu nào, biết chưa?
Trương Vô Kỵ gật đầu. Thuyết Bất Đắc hỏi:
- Sao ngươi không trả lời?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Thì đại sư bảo tôi không được nói một câu nào mà.
Thuyết Bất Đắc mỉm cười, nói:
- Ngươi biết như thế là tốt lắm ... A, Vi huynh sao thế?
Câu sau cùng là ông ta nói với Chu Điên. Bỗng nghe Chu Điên líu cả lưỡi nói:
- Y ... y ... nguy lắm, nguy lắm rồi.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Ồ, ngực Vi huynh vẫn còn hơi ấm, Chu Điên, có phải ngươi cứu y đến đây không?
Chu Điên đáp:
- Còn đếch gì nữa, chẳng lẽ y cứu ta lại đây à?
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Chu Điên, ngươi cũng bị thương ư?
Chu Điên nói:
- Ta gặp con dơi hút máu nằm ngay đơ bên cạnh đường, đông cứng không còn thở một ly nào nữa. Ta thật đúng là ăn cướp lại mở lòng thương người, vận khí giúp y, biết đâu là âm độc trong người con dơi hút máu thật là lợi hại, nên mới ra nông nỗi này.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Chu Điên, lần này ngươi quả là làm được một điều tốt thật.
Chu Điên nói:
- Điều tốt điều dở cái gì chẳng biết, con dơi hút máu vừa hiểm độc vừa cổ quái, từ trước tới nay gã vốn không vừa mắt ta, nhưng lần này y lại làm một điều thật hợp ý Chu Điên này, thành thử ta mới thò tay ra cứu. Ngờ đâu cứu chưa được con dơi hút máu, hàn độc đã vào người, thế là chính cái mạng mình cũng đi theo y luôn thể.
Thiết Quan đạo nhân kinh hoảng hỏi:
- Ngươi bị thương nặng đến thế sao?
Chu Điên nói:
- Báo ứng, báo ứng. Con dơi hút máu và Chu Điên bình sinh không làm điều tốt bao giờ, có biết đâu vừa làm điều thiện là đại nạn đến ngay.
Thuyết Bất Đắc hỏi:
- Thế Vi huynh làm được điều gì tốt?
Chu Điên nói:
- Y kích dẫn nội lực, âm hàn phát tác, đúng ra chỉ cần uống máu người là chế ngự được. Ngay bên cạnh y có một cô gái nhỏ, vậy mà y cam chịu chết chứ không hút máu cô ta. Chu Điên này thấy thế mới bảo: "Chao ôi không xong, con dơi hút máu làm điều ngược đời, Chu Điên cũng phải phá lệ làm điều trái khoáy, cứu y một lần".
Trương Vô Kỵ nghe nói Vi Nhất Tiếu chưa hút máu Châu Nhi, thật mừng không sao kể xiết. Thuyết Bất Đắc thò tay ra sao vỗ trên bao vải một cái, hỏi thêm:
- Thế cô bé đó là ai?
Chu Điên nói:
- Ta cũng hỏi con dơi hút máu câu đó, y nói đó là cháu nội của lão già Bạch Mi. Y nói việc trước mắt là Minh giáo gặp nạn, tất cả mọi người phải đồng tâm hiệp lực, thành thử không thể nào hút máu cô ta được.
Thuyết Bất Đắc và Thiết Quan đạo nhân cùng vỗ tay nói:
- Chính là như thế. Bạch Mi, Thanh Dực hai vương bắt tay nhau, thanh thế của Minh giáo sẽ lên rất lớn.
Thuyết Bất Đắc tiếp lấy thân hình Vi Nhất Tiếu, kinh hoàng nói:
- Y toàn thân lạnh ngắt, làm sao bây giờ?
Chu Điên nói:
- Thấy chưa, ta đã bảo các ngươi mừng sớm quá, cái mạng của con dơi hút máu mười phần chết chín rồi, một con dơi chết nắm tay với Bạch Mi Ưng Vương thì Minh giáo cũng có ra cái gì đâu?
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Các ngươi chờ ở đây, để ta hạ sơn kiếm một người sống lên cho Vi Nhất Tiếu uống no máu là xong.
Nói xong tung mình chạy xuống núi. Chu Điên kêu lên:
- Khoan đã nào. Thằng mọi Thiết Quan ơi, ở đây là chỗ hoang vắng, đợi ngươi tìm được người, Vi Nhất Tiếu đã thành Vi Bất Tiếu rồi. Cái xác chết mà còn biết cười, thì thật là gớm quá. Thuyết Bất Đắc, đem gã tiểu tử nằm trong bao của ngươi ra cho Vi huynh làm thịt là xong.
Trương Vô Kỵ kinh hãi: "Thì ra bọn họ đã nhìn thấy ta trốn trong cái túi vải này rồi".
Thuyết Bất Đắc nói:
- Không được, người này có ơn với bản giáo, Vi Nhất Tiếu mà giết y, Ngũ Hành Kỳ thể nào cũng sẽ thí mạng với Vi huynh đó.
Ông ta đem chuyện Trương Vô Kỵ đem thân ra chịu ba chưởng của Diệt Tuyệt sư thái, cứu được mấy chục mạng của Nhuệ Kim Kỳ kể sơ qua, rồi nói:
- Chuyện như thế, Ngũ Hành Kỳ lẽ nào không một lòng kính phục gã tiểu tử này hay sao?
Thiết Quan đạo nhân hỏi:
- Thế ngươi bắt y bỏ vào trong bao, một món hàng quí giá như thế, chắc định thu phục Ngũ Hành Kỳ chứ gì?
Thuyết Bất Đắc nói:
- Không nói được, không nói được. Nói tóm lại, bản giáo tứ phân ngũ liệt, bây giờ đại nạn trước mắt, Thiên Ưng giáo từ xa đến tương trợ, vậy mà Ngũ Hành Kỳ lại lôi chuyện thù xưa ra trả, đánh nhau một trận tơi bời hoa lá. Chúng mình phải đồng tâm hiệp lực mới mong khỏi bị tiêu diệt. Người trong túi này có lợi cho việc người của các lộ bản giáo nắm tay nhau, không còn nghi ngờ gì nữa.
Ông ta nói xong, giơ tay phải đè vào huyệt Linh Đài sau lưng Vi Nhất Tiếu, vận khí giúp y đề ngự hàn độc. Chu Điên thở dài:
- Thuyết Bất Đắc, ngươi vì bạn bè mà hết lòng, không cần nói làm gì. Thế nhưng cũng nên cẩn thận coi chừng cái mạng của mình nữa đấy.
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Để ta giúp một tay.
Y giơ tay đè lên tay Thuyết Bất Đắc, hai luồng nội lực đồng thời tuôn vào cơ thể Vi Nhất Tiếu. Qua độ một bữa ăn, Vi Nhất Tiếu rên lên một tiếng nhỏ, tỉnh lại, nhưng răng vẫn đánh vào nhau lập cập, hiển nhiên vẫn còn lạnh lắm, run run nói:
- Chu Điên, Thiết quan đạo huynh, đa tạ hai vị cứu tôi.
Y không nói lời cảm ơn Thuyết Bất Đắc, vì hai người vốn là chỗ thâm giao, miệng nói ra lời đạo tạ e cũng bằng thừa. Thiết Quan đạo nhân công lực thâm hậu, nhưng bị âm độc trong thân thể Vi Nhất Tiếu đẩy trở ra, hết sức chống lại nên không thể mở miệng được, Thuyết Bất Đắc cũng tình trạng y như thế.
Bỗng nghe từ phía ngọn núi phía đông vọng tới tình tang mấy tiếng đàn, xen vào là một tiếng hú thanh thoát. Chu Điên nói:
- Lãnh Diện tiên sinh và Bành hòa thượng tìm đến rồi.
Y lớn tiếng kêu:
- Lãnh Diện tiên sinh, Bành hòa thượng, có người bị thương, các ngươi mau qua đây.
Tiếng đàn bên kia nghe tính tang một tiếng, ý nói đã nghe thấy rồi. Bành hòa thượng liền hỏi:
- Ai ... bị ... thương ... thế ...
Thanh âm truyền ra thật xa, vang động tiếng vọng từ sơn cốc. Y lại hỏi:
- Rốt ráo ai là người bị thương? Thuyết Bất Đắc không sao chứ? Thiết Quan huynh thì sao? Chu Điên, sao giọng ngươi trung khí bất túc?
Y hỏi một câu lại nhảy tới gần thêm vài trượng, đến khi hỏi xong, thì đã tới ngay bên cạnh, kinh hãi kêu lên:
- Chao ôi, thì ra Vi Nhất Tiếu bị thương.
Chu Điên nói:
- Ngươi hoảng hoảng hốt hốt, đúng là người chưa gấp thì mình đã gấp. Lãnh Diện huynh, ngươi lại đây tính thử xem sao nào.
Câu sau cùng là nói với Lãnh Diện tiên sinh Lãnh Khiêm. Lãnh Khiêm hừm một tiếng, không trả lời. Y biết Bành hòa thượng sẽ hỏi kỹ đầu đuôi, mình chỉ việc tập trung tinh thần lắng nghe là đủ. Quả nhiên Bành hòa thượng hỏi rối rít, hết câu này sang câu khác, Chu Điên lại trả lời bát nháo, chẳng đầu đuôi, đến khi y nói xong, Thuyết Bất Đắc và Thiết Quan đạo nhân đã vận khí xong. Bành hòa thượng và Lãnh Khiêm liền vận nội lực, chia ra giúp Vi Nhất Tiếu và Chu Điên giải trừ hàn độc.
Đến khi Vi, Chu hai người nguyên khí hồi phục được một chút, Bành hòa thượng nói:
- Ta từ hướng đông bắc tới, nghe tin chưởng môn phái Thiếu Lâm là Không Văn đích thân cùng các sư đệ Không Trí, Không Tính cùng các đệ tử hơn một trăm người đang tiến về Quang Minh Đính tham dự vào việc vây đánh bản giáo.
Lãnh Khiêm nói:
- Chính đông, Võ Đương ngũ hiệp.
Y nói năng hết sức đơn giản, dù có chặt đầu y cũng không nói thừa một câu, một chữ nào. Chỉ sáu chữ nhưng ý tứ rõ ràng là "Phía chính đông có Võ Đương ngũ hiệp đến đánh". Cho đến cả Võ Đương ngũ hiệp gồm những ai, thì tất cả đều biết là gồm Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc, không cần phải dài dòng.
Bành hòa thượng nói:
- Sáu phái chia nhau ra đến đánh chúng ta, mỗi lúc thắt chặt vòng vây. Ngũ Hành kỳ đã tiếp chiến mấy trận, tình thế thật là bất lợi, kế trước mắt, bọn mình chỉ còn có nước lên Quang Minh Đính thôi.
Chu Điên giận dữ nói:
- Nói gì nghe thối như rắm chó thế. Thằng khốn Dương Tiêu không đến cầu mình, Ngũ Tản Nhân việc quái gì phải lên trên đó?
Bành hòa thượng nói:
- Chu Điên, nếu như sáu môn phái công phá Quang Minh Đính, dập tắt thánh hỏa thì mình có còn đáng mặt làm người nữa không? Dương Tiêu đắc tội với Ngũ Tản Nhân thì có lỗi đã đành, nhưng mình lên tiếp viện Quang Minh Đính là vì Minh giáo, có phải vì Dương Tiêu đâu.
Thuyết Bất Đắc cũng nói:
- Lời của Bành hòa thượng đúng lắm. Dương Tiêu tuy vô lễ, nhưng hộ giáo là việc lớn, thù riêng là chuyện nhỏ.
Chu Điên chửi:
- Thối quá, thối quá. Hai con lừa trọc này ăn nói thối quá, không chịu nổi. Thiết Quan đạo nhân, năm xưa Dương Tiêu đánh vỡ vai trái ngươi, ngươi có còn nhớ không?
Thiết Quan đạo nhân trầm ngâm rồi nói:
- Hộ giáo ngự địch là chuyện lớn. Còn món nợ cũ của Dương Tiêu, đợi khi đuổi được ngoại địch rồi mình sẽ thanh toán sau. Khi đó cả năm người trong Ngũ Tản Nhân liên thủ thì thể nào y cũng phải cúi đầu.
Chu Điên hứ một tiếng nói:
- Lãnh Khiêm, còn ngươi thì sao?
Lãnh Khiêm đáp:
- Cùng đi.
Chu Điên nói:
- Ngươi cũng chịu khuất phục Dương Tiêu ư? Năm xưa bọn ta đã lập trọng thệ là từ nay chuyện của Minh giáo, Ngũ Tản Nhân sẽ thõng tay không nhúng vào. Không lẽ những gì nói trước đây không đếm xỉa gì cả hay sao?
Lãnh Khiêm đáp:
- Bỏ hết.
Chu Điên giận quá, đứng phắt dậy nói:
- Các ngươi ăn nói không giữ lời, chứ ta nhất định không bỏ.
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Sự việc không thể trì hoãn, mình mau lên Quang Minh Đính ngay.
Bành hòa thượng khuyên Chu Điên:
- Điên huynh, năm xưa tất cả vì chuyện tranh lập giáo chủ nên mới giở mặt thành thù hận, Dương Tiêu dĩ nhiên bụng dạ nhỏ nhen, nhưng nghĩ cho kỹ, Ngũ Tản Nhân cũng có chỗ không phải ...
Chu Điên nổi cọc:
- Nói lếu nói láo, bọn Ngũ Tản Nhân mình có người nào muốn làm giáo chủ đâu mà sai trái?
Thuyết Bất Đắc nói:
- Chuyện cũ của bản giáo đúng sai thế nào, nói qua nói lại hàng năm hàng tháng cũng chưa minh bạch được. Chu Điên, ta hỏi ngươi, ngươi có phải là đệ tử của Minh Tôn Hỏa Thánh của Minh giáo không?
Chu Điên đáp:
- Cái đó còn phải hỏi nữa?
Thuyết Bất Đắc nói:
- Bây giờ bản giáo đại nạn đương đầu, bọn ta nếu khoanh tay ngồi nhìn, mai này chết đi, mặt mũi nào gặp lại Dương giáo chủ và bái kiến Minh Tôn[4]. Ngươi nếu sợ lục đại phái thì cứ việc đi khỏi, bọn ta ở trên Quang Minh Đính đánh cho tới chết, tuẫn giáo rồi ngươi đến thu tàn cốt vậy.
Chu Điên nhảy nhổm lên, giơ chưởng đánh thẳng vào mặt Thuyết Bất Đắc:
- Thối lắm.
Chỉ nghe một tiếng bốp ròn tan, Thuyết Bất Đắc đã bị đánh một chưởng thật mạnh. Y lặng lẽ há miệng nhả ra mấy cái răng bị đánh gãy, không nói một tiếng, nhưng một bên má từ trắng sang đỏ, từ đỏ sang tím bầm, sưng vù lên.
Bọn Bành hòa thượng đều kinh hãi, còn Chu Điên cũng đứng chết trân. Nên biết võ công của Thuyết Bất Đắc so với Chu Điên hai bên ngang ngửa, Chu Điên thuận tay đánh ra, chỉ cần y đỡ đòn hay né tránh, thì không cách nào có thể đánh trúng được. Nào ngờ y cứ để mặc kệ nên trúng phải chưởng này bị thương không nhẹ. Chu Điên đâu ngờ ra nông nỗi đó, kêu lên:
- Thuyết Bất Đắc, ngươi đánh lại ta đi, ngươi không đánh ta thì không phải là người.
Thuyết Bất Đắc cười nhạt:
- Ta có khí lực, giữ lại để đánh kẻ địch, đánh bên mình để làm gì?
Chu Điên giận dữ, giơ tay lên, tự đánh vào mặt mình một chưởng thật mạnh, nghe bộp một cái cũng nhả ra mấy cái răng. Bành hòa thượng kinh hãi nói:
- Chu Điên, ngươi làm trò quỉ gì thế?
Chu Điên hậm hực nói:
- Ta lỡ tay đánh Thuyết Bất Đắc, bảo y đánh lại, y không đánh, thì ta phải tự mình đánh mình chứ sao.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Chu Điên, anh với tôi tình như anh em ruột thịt, bốn người chúng tôi lên Quang Minh Đính một phen tử chiến, bây giờ là lúc chúng mình sinh ly tử biệt, một chưởng anh đánh tôi có đáng gì đâu?
Chu Điên trong lòng khích động, khóc òa lên, nói:
- Tôi cũng lên Quang Minh Đính. Món nợ cũ của Dương Tiêu, tạm thời để đó đã.
Bành hòa thượng mừng quá, nói:
- Có thế mới là anh em chứ.
Trương Vô Kỵ nằm trong túi vải, những gì họ nói với nhau chàng đều nghe rõ, nghĩ thầm: "Năm người này võ công cực cao, điều đó không còn phải nói nữa. Cái khó là cả năm người đều nghĩa khí thâm trọng, trong Minh giáo cao nhân không phải là ít, không lẽ ai cũng là tà ma ngoại đạo cả hay sao?".
Chàng còn đang suy nghĩ, bỗng thấy thân thể di động, có lẽ Thuyết Bất Đắc lại vác mình chạy lên Quang Minh Đính. Chàng biết tin Châu Nhi không sao rồi, trong lòng không còn khắc khoải, chuyện chàng quan hoài lúc này chỉ là việc sáu môn phái vây đánh Quang Minh Đính, không biết cục thế ra sao. Chàng lại nghĩ đến khi lên trên Quang Minh Đính rồi, sẽ gặp lại cô bạn nhỏ năm xưa Dương Bất Hối, nay đã khôn lớn không biết có còn nhận ra mình nữa không.
Đoàn người đi thêm một ngày một đêm nữa, cứ vài tiếng một lần, Thuyết Bất Đắc lại mở nút bao trên miệng ra, để Trương Vô Kỵ thở hút không khí, sau đó lại buộc chặt miệng bao lại. Đến chiều hôm sau, Trương Vô Kỵ bỗng thấy cái túi bị kéo lê dưới đất, lúc đầu chưa hiểu tại sao, về sau đầu bị va mạnh vào mấy tảng đá mới rõ là đoàn người đang đi trong một hang núi. Trong cái hang này khí hậu thật lạnh, hơi thở cũng nặng nề khó chịu, đi khoảng nửa tiếng đồng hồ, lúc ấy mới ra khỏi hang, lại tiếp tục trèo lên núi. Thế nhưng lên chẳng bao lâu, lại chui vào một đường hầm khác. Trước sau cả thảy qua năm cái hang, mới nghe Chu Điên kêu lên:
- Bớ Dương Tiêu, con dơi hút máu cùng với Ngũ Tản Nhân đến kiếm ngươi đây.
Qua một hồi, nghe thấy phía trước có người nói:
- Không ngờ Bức Vương cùng Ngũ Tản Nhân đại giá quang lâm, Dương Tiêu không ra xa nghinh đón, mong được thứ tội.
Chu Điên nói:
- Ngươi giả dối làm gì nữa? Trong bụng ngươi đang chửi thầm, Ngũ Tản Nhân ăn nói như rắm chó, đã bảo vĩnh viễn không lên Quang Minh Đính, vĩnh viễn không lý tới chuyện Minh giáo, hôm nay lại dẫn xác tới đây làm gì.
Dương Tiêu nói:
- Sáu đại phái bốn mặt vây công, tiểu đệ một bàn tay không vỗ thành tiếng, đang lo lắng không biết làm sao. Hôm nay được Bức Vương cùng Ngũ Tản Nhân nghĩ đến thể diện Minh Tôn, trượng nghĩa tương trợ, thật là phúc của bản giáo.
Chu Điên nói:
- Ngươi biết thế là hay lắm đó.
Dương Tiêu liền mời Ngũ Tản Nhân vào trong nội đường, tiểu đồng lập tức đem trà nước cơm rượu lên. Đột nhiên, tên tiểu đồng kêu "A" một tiếng thảm thiết. Trương Vô Kỵ nằm trong túi cũng thấy nổi da gà, không hiểu duyên cớ gì. Qua một hồi, bỗng nghe Vi Nhất Tiếu nói:
- Dương tả sứ, giết chết một đồng nhi của ông, Vi Nhất Tiếu sau này thể nào cũng có lúc báo đáp.
Y nói năng tinh thần sung túc, so với khi trước giọng thều thào thật khác nhau xa. Trương Vô Kỵ giật mình: "Y uống máu nóng của tên tiểu đồng rồi, hàn độc trong người đã chế ngự được".
Lại nghe Dương Tiêu thản nhiên nói:
- Chỗ anh em, nói gì chuyện báo đáp hay không báo đáp? Bức Vương lên trên Quang Minh Đính này là đã nể mặt mỗ lắm rồi.
Cả bảy người đều là những cao thủ hạng nhất trong Minh giáo, tuy rằng đại địch trước mắt, nhưng cả bảy người tụ lại đây, tinh thần ai nấy đều phấn chấn. Ăn cơm uống rượu xong, lập tức thương lượng kế sách ngự địch. Thuyết Bất Đắc để cái túi vải xuống dưới chân, Trương Vô Kỵ vừa đói vừa khát nhưng nhớ lời dặn của Thuyết Bất Đắc, không dám động đậy mở lời.
Bảy người bàn bạc một hồi, Bành hòa thượng nói:
- Quang Minh hữu sứ và Tử Sam Long Vương không biết nơi đâu, Kim Mao Sư Vương sống chết thế nào cũng khó đoán biết, ba người đó mình không bàn tới nữa. Việc bất hạnh nhất trước mắt đây là Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng giáo thù oán càng ngày càng sâu, mấy hôm trước đánh nhau một trận to, hai bên tử thương đều nặng. Nếu như bọn họ cũng lên cả Quang Minh Đính, nắm tay nhau kháng địch, chẳng nói sáu môn phái vây công, mà có đến mười hai phái, mười tám phái, Minh giáo cũng có đủ người chống đỡ, nước đến thì be bờ, không nao núng chút nào.
Thuyết Bất Đắc đá nhẹ vào cái bao, nói:
- Tiểu tử trong cái bao này, với Thiên Ưng giáo có chút uyên nguyên, mới đây lại có ơn với Ngũ Hành Kỳ, sau này rất có thể để gã hòa giải hiềm khích của hai bên.
Vi Nhất Tiếu lạnh lùng đáp:
- Ngôi vị giáo chủ ngày nào chưa định xong, phân tranh trong bản giáo vẫn chưa giải quyết được. Dù y có tài ba bằng trời, hiềm khích giữa hai bên cũng không sao lấp bằng được. Dương tả sứ, tại hạ muốn hỏi ông một câu, sau khi đẩy lui được địch rồi, tả sứ ủng hộ ai lên làm giáo chủ?
Dương Tiêu thản nhiên đáp:
- Thánh hỏa lệnh về tay người nào, ta ủng hộ người đó lên làm giáo chủ. Đó là qui củ từ xưa của bản giáo, ngươi hỏi ta để làm gì?
Vi Nhất Tiếu đáp:
- Thánh hỏa lệnh thất lạc đã gần một trăm năm nay, không lẽ ngày nào thánh hỏa lệnh chưa tìm thấy, Minh giáo ngày đó không có giáo chủ hay sao? Lục đại phái sở dĩ dám vây đánh Quang Minh Đính, không coi bản giáo vào đâu, chẳng phải vì biết rằng bản giáo không có người thống thuộc, nội bộ chia năm xẻ bảy đấy sao.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Vi huynh nói câu đó đúng lắm. Bố Đại hòa thượng này chẳng ở trong Ân phái, cũng chẳng ở trong Vi phái, ai làm giáo chủ cũng được, nhưng phải có người đứng đầu. Nếu không có giáo chủ thì một người phó giáo chủ cũng được, nếu không hiệu lệnh không đồng đều, làm sao có thể ngự địch được?
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Lời của Thuyết Bất Đắc, chính hợp bụng ta.
Dương Tiêu mặt biến sắc nói:
- Các vị lên Quang Minh Đính là để giúp ta ngự địch, hay là lên gây chuyện với ta?
Chu Điên cười ha hả nói:
- Dương Tiêu, ngươi không bằng lòng suy tuyển giáo chủ, cái dụng tâm đó tưởng Chu Điên này không biết chắc? Minh giáo không có giáo chủ thì Quang Minh tả sứ là cao nhất. Hà hà, nói cho ngay, tuy chức vị ngươi có cao thật, người ta không nghe lệnh của ngươi, thì có làm đếch gì? Ngươi có điều động được Ngũ Hành Kỳ không? Tứ đại hộ giáo pháp vương có để cho ngươi chỉ huy không? Còn Ngũ Tản Nhân năm người bọn ta thì cũng hạc nội mây ngàn, chẳng coi Quang Minh tả sứ giả là cái quái gì.
Dương Tiêu đứng bật dậy, lạnh lùng nói:
- - Hôm nay ngoại địch đến đánh, Dương Tiêu không có rỗi hơi đâu mà tranh cãi với quí vị. Các vị nếu tụ thủ bàng quan, coi chuyện tồn vong của Minh giáo không vào đâu, thì xin mời xuống núi rời Quang Minh Đính. Dương Tiêu nếu không chết, ngày sau thể nào cũng tới gặp từng người một.
Bành hòa thượng khuyên can:
- Dương tả sứ, xin đừng nổi giận. Lục đại phái vi công Minh giáo, phàm đã là đệ tử bản giáo, ai ai cũng có trách nhiệm hộ giáo cả, chứ không phải chỉ là việc của mình ông.
Dương Tiêu cười khẩy:
- Chỉ e bản giáo có những kẻ chỉ mong Dương Tiêu bị lục đại phái phanh thây, để nhổ bớt cái gai trong mắt.
Chu Điên nói:
- Ngươi nói ai thế?
Dương Tiêu đáp:
- Bụng ai người ấy rõ, việc gì phải nói cho phí lời.
Chu Điên nổi khùng nói:
- Ngươi nói ta chăng?
Dương Tiêu mắt nhìn chỗ khác, không thèm để ý tới y. Bành hòa thượng thấy Chu Điên mắt có chiều khác lạ, tưởng như tính đứng lên động thủ cùng Dương Tiêu, vội can:
- Người xưa có nói rằng: Bên trong có ấm thì ngoài mới êm. Chúng mình nên ngồi xuống bàn tính kế ngự địch là hơn.
Dương Tiêu nói:
- Oánh Ngọc đại sư quả biết đại thể, đúng là như thế.
Chu Điên lớn tiếng nói:
- - Hay nhỉ. Thằng giặc trọc họ Bành thì biết đại thể, còn Chu Điên chắc chỉ biết tiểu thể phải không?
Y nổi tính ngang bướng, không còn phải trái gì nữa quát lên:
- Hôm nay nếu nói chuyện ngôi vị giáo chủ, Chu Điên chủ trương để Vi Nhất Tiếu đứng ra làm giáo chủ Minh giáo. Con dơi hút máu võ công cao cường, lắm mưu nhiều kế, trong bản giáo chẳng ai bì kịp với y được.
Thực ra Chu Điên bình thời đâu có giao tình gì với Vi Nhất Tiếu, đúng ra ác cảm nhiều hơn hảo cảm, nhưng y định chọc tức Dương Tiêu, nên mới đứng ra suy cử Vi Nhất Tiếu. Dương Tiêu cười sằng sặc, nói:
- Ta xem nên mời Chu Điên lên làm giáo chủ là hay nhất. Minh giáo hiện đang tứ phân ngũ liệt, lại có được Chu đại giáo chủ vừa điên vừa đảo, đảo xong lại điên, như thế mới thật là dễ bắt mắt.
Chu Điên nổi trận lôi đình, quát lớn:
- Con mẹ ngươi, nói thối đếch chịu được.
Nghe vù một tiếng nhắm ngay đầu Dương Tiêu đánh tới. Mới đây Chu Điên đánh Thuyết Bất Đắc gãy mấy cái răng là vì Thuyết Bất Đắc không tránh né, không đỡ gạt, nhưng đụng phải Dương Tiêu đâu có dễ dàng như thế. Hơn mười năm trước, cũng vì việc lập giáo chủ mà y cùng Ngũ Tản Nhân tranh chấp kịch liệt, khi đó Ngũ Tản Nhân lập trọng thệ là vĩnh viễn không lên Quang Minh Đính nữa, hôm nay phá lời thề quay lại, y trong bụng cũng đã khởi nghi, bỗng thấy Chu Điên đột nhiên ra tay, liền cho rằng Ngũ Tản Nhân ước hẹn với Vi Nhất Tiếu cùng lên tính chuyện gia hại mình, vừa kinh hoảng, vừa tức giận, hữu chưởng liền tung ra, đỡ ngay bàn tay Chu Điên lại.
Vi Nhất Tiếu biết Chu Điên bị thương mới khỏi nguyên khí chưa hồi phục không thể nào chống đỡ nổi chưởng lực của Dương Tiêu, lập tức giơ tay vượt qua đầu, tiếp lấy. Tay hai người đụng nhau không một tiếng động.
Thì ra Dương Tiêu tuy có hiềm khích với Chu Điên nhưng vẫn nghĩ tình đồng giáo, không chủ định một chưởng đánh chết y, nên không sử toàn lực. Còn Vi Nhất Tiếu võ công thâm hậu, một chiêu trong Hàn Băng Miên Chưởng đánh ra, Dương Tiêu thấy tay phải chấn động, một luồng khí âm hàn theo bắp thịt chạy lên, vội vàng vận nội lực chống lại. Hai người công lực ngang ngửa, lập tức dính chặt lấy nhau.
Chu Điên kêu lên:
- Họ Dương kia, nếm thêm một chưởng nữa của ta này.
Chưởng kia chưa đánh xong, chưởng thứ hai lại đánh luôn vào ngực Dương Tiêu. Thuyết Bất Đắc kêu lên:
- Chu Điên, không được quấy phá.
Bành Oánh Ngọc cũng nói:
- Dương tả sứ, Vi Bức Vương, hai vị mau mau ngừng tay, đừng để mất hòa khí.
Y đưa tay định đẩy chưởng của Chu Điên ra, Dương Tiêu hơi nghiêng người, tả chưởng đã dính chặt lấy hữu chưởng của Chu Điên. Thuyết Bất Đắc quát lớn:
- Chu Điên, các ngươi hai người đánh một, còn gì là hảo hán?
Y giơ tay chộp đầu vai Chu Điên toan kéo ra, tay chưa đụng tới đã thấy Chu Điên toàn thân run rẩy, tưởng chừng đã bị nội thương. Thuyết Bất Đắc giật mình kinh hãi, y vốn biết Quang Minh tả sứ võ công thông thần, là cao thủ số một của bản giáo, có lẽ chỉ một chưởng đã đánh Chu Điên bị thương. Y thấy tay phải Chu Điên dính chặt tay trái Dương Tiêu, không chịu rời ra nên kêu lớn:
- Chu Điên, mình anh em trong nhà cả, sao lại đánh thí mạng như thế?
Y đẩy vào đầu vai Chu Điên đồng thời nói:
- Dương tả sứ, ra tay nhẹ đòn cho.
Chỉ sợ Dương Tiêu không chịu thu hồi chưởng lực, thuận thế đánh tiếp theo. Nào ngờ tay y vừa kéo ra, Chu Điên thân hình lảo đảo không sao lôi ra được, đồng thời một luồng khí lạnh thấu xương chạy thẳng từ lòng bàn tay lên đến ngực khiến Thuyết Bất Đắc cũng giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: "Đây là môn công phu độc đáo Hàn Băng Miên Chưởng của Vi huynh, làm sao Dương Tiêu cũng luyện được rồi?". Lập tức vận nội lực chống lại hàn khí, nhưng hơi lạnh càng lúc càng ghê gớm, chỉ trong giây lát, Thuyết Bất Đắc đã răng đánh vào nhau cầm cập, xem ra chịu không nổi nữa rồi.
Thiết Quan đạo nhân và Bành Oánh Ngọc hai người tiến tới, một người đỡ Chu Điên, một người đỡ Thuyết Bất Đắc. Sức của bốn người hợp lại, hàn khí không còn nguy hiểm nữa, nhưng sao lực đạo từ lòng bàn tay Dương Tiêu truyền ra khi mạnh, khi yếu, lúc chậm lúc nhanh, biến hóa vô cùng. Bốn người không dám lấy tay về, chỉ sợ trong một sát na khi vừa buông ra thu sức, Dương Tiêu đột nhiên tấn công, bốn người không chết cũng bị trọng thương. Bành Oánh Ngọc kêu lên:
- Dương tả sứ, chúng mình đại địch trước mặt, sao lại ... sao lại ... sao lại ...
Nói chưa dứt câu, răng đánh vào nhau lập cập, tưởng như toàn thân huyết dịch đang đóng thành băng. Thì ra y vừa mở miệng, chân khí tiết ra, không còn sức chống trả được khí lạnh đang truyền đến.
Cứ như thế độ một chén trà, Lãnh Diện tiên sinh Lãnh Khiêm đứng bên ngoài quan sát, thấy Vi Nhất Tiếu và bốn người đều thần sắc khẩn trương, còn Dương Tiêu vẫn thản nhiên như thường, trong bụng lấy làm nghi hoặc: "Dương Tiêu võ công tuy cao, nhưng so với Vi Nhất Tiếu cũng chỉ một chín một mười, chắc gì đã thắng nổi y. Vậy mà lại thêm bọn Thuyết Bất Đắc bốn người nữa, Dương Tiêu không cách nào có thể đương cự nổi, vậy mà y lấy một địch năm, xem ra lại còn thắng thế, bên trong chắc có gì khác lạ?". Y cúi đầu suy nghĩ, nhất thời không hiểu lý do tại sao.
Bỗng nghe Chu Điên kêu lên:
- - Con quỉ mặt lạnh ... đánh ... đánh vào lưng y ... đánh ...
Lãnh Khiêm chưa hiểu được nguyên nhân bên trong, không muốn ra tay, trong cả bọn Ngũ Tản Nhân nay chỉ còn y đứng ngoài, giải nguy thoát khốn, toàn ở mình cả. Nếu y cũng tiến lên đương cự với Dương Tiêu, thêm một người dĩ nhiên sức sẽ gia tăng rất nhiều, nhưng chưa chắc đã thắng. Y thấy Chu Điên và Bành Oánh Ngọc mặt mày tái mét, dường như không còn chịu nổi, để cho âm độc chạy vào nội tạng sẽ gây ra họa hoạn vô cùng nên thò tay vào trong bọc, lấy ra năm cây bút nhỏ đúc bằng bạc vụn, cầm lăm lăm trong tay, nói:
- Năm cây bút, đánh vào Khúc Trì, Cự Cốt, Dương Khoát, Ngũ Lý, Trung Đô.
Năm huyệt này đều nằm trên chân tay, không phải là những huyệt chí mạng, y lại nói trước, ý muốn cho Dương Tiêu hay, không muốn đối địch với y mà chỉ cốt để hai bên bãi đấu rút tay về.
Dương Tiêu mỉm cười, không thèm để ý tới. Lãnh Khiêm kêu lên:
- Xin lỗi nhé.
Tay trái giơ lên, tay phải vung ra, năm điểm ánh sáng trắng lấp lánh bắn thẳng vào Dương Tiêu. Dương Tiêu đợi năm cây bút bạc tới gần, đột nhiên tay tái tạt ngang, xoay bọn Chu Điên quay ra phía trước, nghe tiếng Chu Điên và Bành Oánh Ngọc hự lên một tiếng, năm cây bút đã trúng hai người, Chu Điên trúng hai cây, ba cây còn lại vào Bành Oánh Ngọc. Cũng may là Lãnh Khiêm không có ý giết người, ra tay thật nhẹ, mặc dầu cũng chảy máu nhưng không trúng vào các huyệt đạo nên không sao.
Bành Oánh Ngọc nói nhỏ:
- Đây là môn Càn Khôn Đại Na Di đó.
Lãnh Khiêm nghe đến năm chữ Càn Khôn Đại Na Di lập tức hiểu ngay. Càn Khôn Đại Na Di là một môn võ công rất là lợi hại đời đời tương truyền của Minh giáo, nguyên lý căn bản tuy không có gì áo diệu, trước hết khích động tiềm lực của chính bản thân, sau đó mới lôi kéo thay đổi (na di) kình lực đối phương. Thế nhưng những biến hóa thần kỳ bên trong thì không ai có thể tưởng tượng nổi. Từ khi giáo chủ tiền nhiệm Dương Đính Thiên qua đời, trong Minh giáo không một ai biết sử dụng công phu đó, thành ra sáu người nhất thời không ai nghĩ ra. Nếu đúng như thế, Dương Tiêu thực ra chưa hề ra sức, chỉ đem chưởng lực của Vi Nhất Tiếu chống với bốn người kia, rồi lấy sức của tứ tản nhân sang tấn công Vi Nhất Tiếu, chính mình đứng giữa ngồi không làm cái cầu bắc cho nội lực hai bên dẫn qua, chẳng qua Cách Sơn Quan Hổ Đấu[5] mà thôi.
Lãnh Khiêm nói:
- Chúc mừng. Không ác ý, xin ngừng tay.
Ông ta nói năng thật giản khiết "Chúc mừng" hai chữ là để khánh hạ Dương Tiêu luyện được môn thần công thất truyền đã lâu của Minh giáo là Càn Khôn Đại Na Di; "không ác ý" là nói sáu người bọn họ lên núi hoàn toàn không có ác ý, quả là muốn đồng tâm chung sức chống địch mà thôi; "xin ngừng tay" là xin hai bên bãi đấu, đừng hiểu lầm nhau.
Dương Tiêu biết y cả đời không bao giờ nói thừa một chữ, một câu, chính vì hà tiện lời nói nên không bao giờ nói láo. Y nói rằng "không ác ý", thì nhất định quả thực không có ác ý, vừa mới rồi ném năm cây bút bạc, rõ ràng để giải vây chứ không phải để đả thương ai, liền lớn tiếng cười ha hả, nói:
- Vi huynh, Tứ Tản Nhân, ta đếm một, hai, ba tất cả cùng rút tay về để khỏi ai bị thương, nghe chưa?
Y thấy Vi Nhất Tiếu và bốn người kia ai nấy gật đầu, liền chậm rãi đếm:
- Một, hai, ba.
Chữ "ba" vừa ra khỏi miệng, Dương Tiêu liền thu Càn Khôn Đại Na Di thần công về, đột nhiên sau lưng lạnh ngắt, một luồng chỉ lực sắc bén chọc thẳng vào huyệt Thần Đạo. Dương Tiêu giật mình kinh hãi nghĩ thầm: "Bức Vương quả thực âm độc, lại thừa thế đánh lén ta". Đang toan quay chưởng lại phản kích thì thấy Vi Nhất Tiếu thân hình loạng choạng, đứng không vững, rõ ràng cũng bị ám toán rồi.
Trong đời Dương Tiêu đã từng trải qua không biết bao nhiêu trận đánh, tuy lần này bị chuyện bất ngờ nhưng không hoảng loạn, liền nhào người về phía trước, để thoát khỏi khống chế của kẻ đứng sau lưng, quay đầu lại, trong một thoáng đã thấy Chu Điên, Bành Oánh Ngọc, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc bốn người đã nằm lăn dưới đất, còn Lãnh Khiêm đang đánh một chưởng vào một người mặc áo bào màu tro. Người đó xoay tay lại đỡ, Lãnh Khiêm hự lên một tiếng, thanh âm có vẻ đau đớn.
Dương Tiêu hít một hơi, tung mình nhảy đến định ra tay giúp Lãnh Khiêm, đột nhiên một luồng hàn khí lạnh như băng từ huyệt Thần Đạo ở sau lưng chạy ngược lên đến các huyệt Thân Trụ, Hung Đạo, Đại Truy, Phong Phủ rồi lan ra khắp Đốc Mạch. Dương Tiêu biết là không ổn, địch nhân võ công quá cao siêu, lòng dạ lại âm độc, đợi đúng giây phút mình và Vi Nhất Tiếu, tứ tản nhân cùng thu công tản lực mới ra tay đột kích nên chỉ còn nước vận nội lực kháng cự mà thôi.
Luồng hàn khí này hoàn toàn khác hẳn khí lạnh Hàn Băng Miên Chưởng của Vi Nhất Tiếu, chỉ nhỏ mỏng mảnh như một sợi tơ, thế nhưng đến chỗ nào, nơi đó lập tức tê đi. Nếu như chính diện đối địch, Dương Tiêu có nội công hộ thể, không để đến nỗi chỉ lực xuyên vào cơ thể, thế nhưng lúc này đã bị ám toán, chỉ còn nước cố chịu đau, giúp Lãnh Khiêm đánh bại kẻ địch rồi sẽ tính sau.
Y hết sức xông tới, giơ tay phải lên đang định đánh ra, đột nhiên toàn thân lạnh ngắt, kình lực biến đâu mất hết. Lúc này Lãnh Khiêm đã cùng người kia qua lại đến hơn hai chục chiêu, xem ra không địch nổi. Dương Tiêu nóng ruột, thấy Lãnh Khiêm giơ chân đá ra, bị người kia tiến lên một bước, đâm một chỉ vào ngay cánh tay. Lãnh Khiêm thân hình loạng choạng, ngã ngửa về phía sau. Dương Tiêu vừa sợ vừa tức, thu hết tàn lực, cùi chỏ bên phải như cái chùy nhắm ngay ngực người áo xám tống một cái. Người áo xám chỉ bên trái đâm ra, trúng ngay huyệt Tiểu Hải dưới khuỷu tay, toàn thân Dương Tiêu lập tức tê chồn, không còn cử động gì được nữa. Người áo xám cười khẩy nói:
- Quang Minh tả sứ danh bất hư truyền, trúng liền hai lần Huyễn Âm Chỉ của ta mà vẫn còn đứng được.
Dương Tiêu đáp:
- Công phu đạn chỉ của ngươi là thủ pháp của phái Thiếu Lâm, thế nhưng nội kình cái gì gọi là Huyễn Âm Chỉ đó, hừ hừ, phái Thiếu Lâm làm gì có loại võ công âm độc như thế. Ngươi là người nào?
Người áo xám cười ha hả, nói:
- Bần tăng Viên Chân, tọa sư pháp danh thượng "Không" hạ "Kiến". Lần này lục đại phái vi tiễu ma giáo, các ngươi chết dưới tay phái Thiếu Lâm cũng không phải là uổng đâu.
Dương Tiêu nói:
- Lục đại môn phái với Minh giáo chúng ta là địch, đao thương trước mặt, một trận tử chiến, thế mới là tư cách của kẻ đại trượng phu. Không Kiến thần tăng nhân hiệp nổi danh, thiên hạ ai ai cũng biết, ngờ đâu tọa hạ lại có một đồ đệ hèn hạ vô liêm sỉ ...
Nói đến đây, không còn chịu nổi, hai đầu gối nhũn ra, ngồi phịch xuống đất. Viên Chân cười ha hả, nói:
- Xuất kỳ chế thắng, binh bất yếm trá[6] là chuyện từ xưa tới nay. Viên Chân này chỉ một thân một mình đánh ngã bảy đại cao thủ của Minh giáo, các ngươi thua mà còn không phục hay sao?
Dương Tiêu lắc đầu thở dài:
- Ngươi làm sao có thể lẻn vào Quang Minh Đính? Con đường bí mật đó ngươi làm sao biết được? Nếu không hiểu được, Dương Tiêu này chết không nhắm mắt.
Y nghĩ đến việc Viên Chân kỳ này đánh lén thành công, dĩ nhiên là vì thân mang tuyệt kỹ võ công, nhưng nguyên nhân chủ yếu, cũng là ở việc biết được con đường bí mật lên Quang Minh Đính, vượt qua được cả chục trạm canh gác của giáo chúng Minh giáo, thần không hay, quỉ không biết ra tay bất ngờ, mới đánh ngã cả bảy cao thủ của Minh giáo cùng một lượt. Tổng đàn của Minh giáo đóng tại Quang Minh Đính đã mấy trăm năm nay, dựa vào thiên nhiên hiểm trở, kiên cố vô cùng, ngờ đâu họa lại ở ngay từ bên trong ra, không kịp phòng bị, một lần tan tành ra mây khói, trong bụng nghĩ đến câu trong Luận Ngữ của Khổng Tử:
Quốc gia chia rẽ sụp đổ không thể giữ được, trong nước có chiến tranh đánh lẫn nhau, ta cho rằng cái lo lắng chẳng phải ở chuyện sơ sót một ngày một buổi mà là cái tai họa từ bên trong vậy.[7]
Viên Chân cười đáp:
- Quang Minh Đính của Minh giáo các ngươi bảy chỏm, mười ba vách, ai ai cũng tưởng là hiểm trở trời cho, nhưng dưới mắt tăng lữ Thiếu Lâm chúng ta thì chẳng khác gì đường lớn khang trang, có đáng gì đâu? Các ngươi đều trúng phải Huyễn Âm Chỉ của ta rồi, trong vòng ba ngày đều về tây thiên cả, không còn gì để nói nữa. Bây giờ bần tăng lên Tọa Vong Phong, chôn vài chục cân thuốc nổ để khi ta dập tắt ma hỏa, cái gì Thiên Ưng giáo, Ngũ Hành Kỳ sẽ lật đật chạy lên cứu viện. Thế là nghe ầm một tiếng lớn, hỏa dược chôn dưới đất sẽ nổ tung, khói bay lửa tắt, tất cả ma giáo đồ sẽ tan xác. Người đời sẽ có câu rằng:
Sư Thiếu Lâm một ngón tay diệt Minh giáo,
Đỉnh Quang Minh bảy ma đầu về Tây phương[8]
Bọn Dương Tiêu nghe y nói thế đều hết sức kinh hãi, biết y nói là làm, chính mình có chết cũng không sao, chỉ sợ Minh giáo đã truyền ba mươi ba đời nay bị diệt dưới tay nhà sư Thiếu Lâm này thôi.
Lại nghe Viên Chân càng nói càng đắc ý:
- - Bên trong Minh giáo, cao thủ thật là nhiều, các ngươi nếu chẳng tự tàn sát lẫn nhau, chia năm xẻ bảy, làm sao có cái họa bị tiêu diệt được? Cứ việc hôm nay mà nói, bảy người các ngươi nếu chẳng phải đang tỉ thí chưởng lực, bần tăng dù có lẻn lên trên Quang Minh Đính được chăng nữa, nhưng đâu có thể ra tay một lần là thành công? Cái đó gọi là "trời làm tội còn có đường sống, tự mình làm tội, không thể sống được"[9]. Ha ha, có ai ngờ Minh giáo uy danh lừng lẫy năm nào, Dương Đính Thiên chết đi lại ra nông nỗi ngày nay.
Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc, Chu Điên cả bọn lâm vào đại họa thân vong, giáo diệt, nghe y nói thế, nghĩ lại chuyện hai mươi năm qua, ai nấy đều hối hận vô cùng, nghĩ thầm: "Gã hòa thượng này nói quả không sai chút nào".
Chu Điên lớn tiếng nói:
- Dương Tiêu, Chu Điên này quả thực đáng chết, trước nay đối với ngươi không phải chút nào. Nhà ngươi tuy cũng không hoàn toàn tốt, nhưng có làm giáo chủ, cũng còn hơn là không có giáo chủ để tất cả đều chết hết.
Dương Tiêu cười chua chát nói:
- Ta nào có tài cán đức độ gì mà làm giáo chủ được? Tất cả chúng ta đều sai lầm, cả bọn làm hỏng việc, xuống dưới cửu tuyền, không còn mặt mũi nào gặp lại các minh tôn giáo chủ đời trước nữa.
Viên Chân cười đáp:
- Các ngươi bây giờ hối hận thì đã muộn rồi. Năm xưa Dương Đính Thiên đứng đầu ma giáo, những tưởng khí thế lừng lẫy nào chỉ một đời thôi đâu. Tiếc rằng y chết sớm quá, không được chính mắt thấy Minh giáo thảm bại như thế này.
Chu Điên giận quá chửi liền:
- Nói thối quá. Nếu Dương giáo chủ còn tại thế, mọi người ai cũng nghe hiệu lệnh của ông ta, thằng giặc trọc như ngươi liệu có đánh lén được không?
Viên Chân cười khẩy:
- Dương Đính Thiên chết cũng thế, mà sống thì cũng vậy thôi, ta đều có cách làm cho y thân bại danh liệt ...
Đột nhiên nghe bộp một tiếng, rồi tiếp theo một tiếng "A", lưng Viên Chân đã bị Vi Nhất Tiếu đánh một chưởng, đồng thời ngay lúc đó, Vi Nhất Tiếu cũng bị Viên Chân đâm lại một chỉ, trúng ngay huyệt Đàn Trung trên ngực. Hai người đều lắc lư, lảo đảo lui lại mấy bước.
Thì ra Vi Nhất Tiếu bị Viên Chân dùng chỉ điểm trúng huyệt rồi, tuy đã bị thương rất nặng, thế nhưng nội lực của y vẫn cao hơn những người khác một bậc, không phải ở vào thế toàn vô phản kích. Tuy nhiên y giả vờ ngất đi, đợi đúng lúc Viên Chân dương dương đắc ý, không phòng bị mới vùng dậy đánh trộm một cái. Chưởng này y dùng hết toàn thân kình lực, cốt mong cứu được cái nạn diệt vong cho Minh giáo, ý muốn cùng kẻ địch cùng chết một lần. Viên Chân tuy lợi hại thật, nhưng Thanh Dực Bức Vương là một trong tứ đại hộ giáo pháp vương, cùng hàng với Ân Thiên Chính, Tạ Tốn, xuất chưởng toàn lực này há phải tầm thường? Hàn Băng Miên Chưởng trúng phải rồi, Viên Chân chỉ thấy trong ngực trộn trạo buồn nôn, mấy lần toan vận nội lực để cho thân thể lắng xuống, chỉ thấy trời đất quay cuồng, lao đao muốn ngã. Y đành ngồi xuống xếp bằng, vận khí chống lại hơi lạnh của Hàn Băng Miên Chưởng.
Vi Nhất Tiếu trúng liền hai lần Huyễn Âm Chỉ, chân đứng không vững, khi ngã xuống rồi không còn cục cựa gì nữa. Trong giây lát, sảnh đường không một tiếng động, cả tám đại cao thủ ai ai cũng bị trọng thương, chẳng ai có thể di động lấy nửa bước. Cả tám người ai cũng vận nội lực, chỉ mong mình sớm khôi phục để có thể hành động trước một bước, bên nào trước là có thể giết chết được bên kia. Mọi người ai cũng bồn chồn vạn phần, biết rằng sự tồn vong của Minh giáo, sống chết của cả tám người, chỉ là chuyện đường tơ kẽ tóc.
Nếu Viên Chân có thể hành động trước, tuy y bị thương nặng, nhưng vẫn có thể cầm kiếm đâm chết từng người, còn trong Minh giáo có một người cử động trước, giết được Viên Chân thì Minh giáo có cơ cứu được.
Bảy người của Minh giáo là số đông có lợi thế hơn, nhưng Ngũ Tản Nhân công lực nông hơn, trúng một Huyễn Âm Chỉ rồi, công lực mất hết, còn Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu công lực thâm hậu hơn thì đều trúng hai chỉ. Kình lực của Hàn Băng Miên Chưởng và Huyễn Âm Chỉ vốn không phân biệt cao thấp, nhưng Vi Nhất Tiếu lúc đánh ra thân đã bị thương, còn Viên Chân trước đó khi điểm y chỉ đầu tiên sức còn nguyên vẹn, thành thử xem ra Viên Chân có nhiều cơ hội cử động được trước.
Dương Tiêu trong bụng cũng kinh hoảng, nhưng việc vận khí dẫn công không thể nào miễn cưỡng được, bụng dạ càng phiền não, càng gấp rút thì lại càng khó khăn, tất cả đều là nội gia cao thủ, cái nguyên tắc đó lẽ nào không biết? Bọn Lãnh Khiêm hô hấp vài lần, biết là không cách nào hồi phục trước Viên Chân, chỉ mong có một hạ thuộc nào của Dương Tiêu bước vào sảnh, dù không biết một chút võ nghệ, miễn là cầm được một cây gậy, đập nhẹ một cái cũng đánh chết được Viên Chân.
Thế nhưng đợi một lúc lâu, bên ngoài sảnh vẫn không nghe một âm thanh nào. Lúc này đã xế trưa, các giáo chúng trên Quang Minh Đính đều phân bố canh gác, hoặc nằm ngủ, không được Dương Tiêu gọi đến, ai dám bước vào nghị sự sảnh đường? Cho đến các tiểu đồng phục thị Dương Tiêu, một đứa bị Vi Nhất Tiếu hút máu chết rồi, những đứa khác hồn phi phách tán, đều đã chạy cho xa, không nói Dương Tiêu chưa cho gọi đến, ngay cả có kêu, lúc này cũng chưa chắc dám bước chân vào sảnh đường, e phải đến gần ma vương hút máu.
Trương Vô Kỵ nằm trong túi vải, tuy mắt không thấy gì, nhưng mọi lời nói, mọi diễn biến đều biết rất rõ ràng. Lúc này tuy bên ngoài yên tĩnh, nhưng biết rằng bên trong cái yên lặng đó ẩn tàng biết bao nhiêu âm mưu giết lẫn nhau. Một lúc sau bỗng nghe Thuyết Bất Đắc nói:
- Ồ, tiểu bằng hữu trong cái túi, ngươi phải ra tay cứu bọn ta một phen mới được.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Cứu bằng cách nào?
Viên Chân vừa thấy chân khí trong đan điền bắt đầu thuận dòng, bỗng nghe trong cái túi có tiếng người, kinh hãi không kể đâu cho xiết, chân khí lập tức chạy ngược lên, toàn thân liền run lẩy bẩy. Từ khi y lẻn vào nghị sự đường, chỉ chăm chăm đối phó với bọn cao thủ như Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, đâu có thì giờ tìm hiểu một cái bao vải đang nằm dưới đất. Đột nhiên trong túi có tiếng người, trong lòng không khỏi sợ hãi, nghĩ thầm: "Mệnh ta hỏng rồi".
Thuyết Bất Đắc nói tiếp:
- Miệng cái túi này dùng nút Thiên Triền Bách Kết buộc lại, ngoài ta ra, người ngoài không ai cởi được đâu, nhưng ngươi đứng lên được chứ?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Được.
Chàng từ trong túi liền đứng lên. Thuyết Bất Đắc nói tiếp:
- Tiểu huynh đệ, ngươi xả thân để cứu mấy chục mạng anh em Nhuệ Kim Kỳ, nghĩa liệt cao phong, ai nấy đều khâm phục. Ngay đây mấy mạng anh em ta, cũng toàn do ngươi cứu mới xong, xin bước lại đây, đánh một quyền hay một chưởng, giết tên ác tăng này đi là xong.
Trương Vô Kỵ trong bụng phân vân, lặng yên một hồi không trả lời. Thuyết Bất Đắc nói:
- Tên ác tăng này nhân lúc người khác sơ hở, bất ngờ đánh lén, phương cách đê hèn như thế, ngươi chính tai nghe thấy rồi. Nếu ngươi không giết y đi, mấy vạn người của Minh giáo từ trên xuống dưới, đều sẽ bị người ta tru diệt cả. Ngươi giết y đi chính là hành vi hào hiệp, đại nhân đại nghĩa.
Trương Vô Kỵ vẫn trù trừ không trả lời. Viên Chân nói:
- Ta lúc này không thể nào cử động được, nếu như ngươi đến đánh chết ta, không sợ anh hùng thiên hạ sỉ tiếu ư?
Chu Điên giận dữ nói:
- Thằng trọc thối tha, phái Thiếu Lâm nhà ngươi tự xưng là danh môn chính phái, vậy mà lén lén lút lút lên đây đánh trộm, chẳng lẽ hảo hán thiên hạ không chê cười hay sao?
Trương Vô Kỵ đi về hướng Viên Chân một bước, rồi ngừng lại, nói:
- Thuyết Bất Đắc đại sư, chuyện giữa quí giáo với sáu đại môn phái, phải trái ra sao, ngay cong thế nào, tiểu khả thực không biết rõ. Tiểu khả hết sức muốn giúp các vị, nhưng cũng không muốn làm hại vị đại hòa thượng chùa Thiếu Lâm này.
Bành Oánh Ngọc nói:
- - Tiểu huynh đệ có chỗ không rõ, lúc này nếu ngươi không giết y, một khi gã hòa thượng này phục hồi công lực rồi, y thể nào cũng giết luôn cả ngươi nữa.
Viên Chân cười nói:
- Ta và vị tiểu thí chủ này không thù không oán, không lẽ tự dưng giết y? Huống chi vị tiểu thí chủ này lại không phải người trong ma giáo, xem ra lại bị Bố Đại hòa thượng có ý đồ chẳng tốt bắt lên đây. Người trong ma giáo chúng bay chuyện gì mà không làm, sao có thể có bụng dạ tốt lành gì với y được?
Hai bên thở chẳng ra hơi, nói năng cực kỳ khó khăn nhưng vẫn tranh nhau nói, mong lấy lòng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong lòng cực kỳ nan giải, tuy tai nghe thấy gã hòa thượng Viên Chân kia ra tay thâu tập, không quanh minh chút nào, nhưng bảo tiến lên đánh chết y, thì cũng không muốn. Một chưởng đánh xuống rồi, từ nay mãi mãi đứng về phe Minh giáo, chống lại lục đại môn phái. Thái sư phụ, Võ Đương lục hiệp, Chu Chỉ Nhược mọi người đều thành kẻ địch của mình cả.
Chàng nghĩ tiếp: "Minh giáo vẫn bị người trong võ lâm coi như tà ma bất chính, chẳng hạn Vi Nhất Tiếu hút máu người, nghĩa phụ giết người vô tội, quả thực có biết bao điều không phải. Thái sư phụ năm xưa từng khẩn khoản dặn dò, tuyệt đối không được kết giao với người trong ma giáo, để khỏi chuốc họa cả đời. Cha ta chỉ vì lấy mẹ ta là người trong ma giáo mà phải tự vẫn trên núi Võ Đương, gương đó rành rành, vết xe đổ còn đó. Huống chi gã Viên Chân này là đệ tử của Không Kiến thần tăng, người đã cam chịu mười ba Thất Thương Quyền cốt để cảm hóa nghĩa phụ ta, để đến phải chết, người lòng dạ từ bi đại nhân đại nghĩa như thế thực là võ lâm nghìn xưa hiếm có, ta làm sao có thể giết đệ tử ông ta được?".
Nghe thấy Thuyết Bất Đắc vẫn thúc giục, Trương Vô Kỵ liền nói:
- Thuyết Bất Đắc đại sư, xin ông chỉ cho tiểu khả làm cách nào không phải giết đại hòa thượng kia, mà ông ta cũng không thể giết hại các ông được.
Thuyết Bất Đắc nghĩ thầm: "Cục diện trước mắt chỉ có nước một sống một chết, làm gì có cách bảo toàn được cả hai bên? Nếu Viên Chân không chết, thì bên mình đều chết cả". Y còn đang trầm ngâm chưa đáp, Bành Oánh Ngọc đã lên tiếng:
- Tiểu huynh đệ bụng dạ nhân từ, thật đáng kính phục. Vậy xin ngươi giơ ngón tay điểm nhẹ vào huyệt Ngọc Đường ở trước ngực Viên Chân. Điểm như thế y sẽ không bị tổn thương, chỉ giữ y không thể vận nội lực trong vài giờ. Bọn ta sẽ cho người đưa y xuống Quang Minh Đính, không làm rụng một sợi lông của y đâu. Ngươi có biết huyệt Ngọc Đường ở đâu không?
Trương Vô Kỵ giỏi y lý, biết rằng điểm nhẹ vào huyệt Ngọc Đường, quả thực tạm thời chặn chân khí từ đan điền chạy lên nhưng không làm tổn thương thân thể, liền nói:
- Biết chứ.
Y nghe Viên Chân nói:
- Tiểu thí chủ đừng có nghe lời bọn chúng. Ngươi điểm huyệt ta rồi, chuyện đó cũng không sao, nhưng một khi nội lực chúng phục hồi, lập tức giết ta ngay, lúc đó ngươi làm sao ngăn lại được?
Chu Điên chửi liền:
- Ngươi nói thối bỏ mẹ, bọn ta đã nói không giết ngươi là sẽ không giết ngươi. Ngũ Tản Nhân của Minh giáo nói có bao giờ không giữ lời chưa?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm Dương Tiêu và Ngũ Tản Nhân đều không phải hạng người ăn nói tráo trở, chỉ ngại một mình Vi Nhất Tiếu, liền hỏi:
- Vi tiền bối, ông nghĩ sao?
Vi Nhất Tiếu run run nói:
- - - Ta tạm thời không giết y cũng được, lần sau gặp lại sẽ nhất định ... nhất định sống mái ... sống mái ... một phen.
Y nói đến bốn chữ "sống mái một phen", giọng nói thật là yếu ớt, thở chẳng ra hơi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Như thế thì được rồi. Quang Minh tả sứ, Thanh Dực Bức Vương, Ngũ Tản Nhân bảy người ai nấy đều là anh hùng hào kiệt thời nay, không lẽ nói không giữ lời? Viên Chân đại sư, vãn bối đành phải đắc tội.
Nói rồi đi đến trước mặt Viên Chân. Y ở trong cái túi vải, mỗi bước chỉ đi được khoảng một thước, đi đến mươi bước mới tới gần được Viên Chân. Cái cảnh người trong túi lật đật di động, trông thực hoạt kê, nhưng lúc này ai nấy trong cảnh sống chết trong đường tơ kẽ tóc, ai dám mở miệng cười.
Trương Vô Kỵ lắng nghe hơi thở của Viên Chân, đến lúc còn cách y khoảng hai thước, lập tức đứng lại, nói:
- Viên Chân đại sư, vãn bối vì muốn hai bên chu toàn, xin ông đừng trách.
Nói xong chầm chậm đưa tay ra. Viên Chân cười gượng:
- Lúc này ta toàn thân không động đậy gì được, đành để tiểu bối làm gì thì làm.
Từ khi Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu chết đi rồi, Trương Vô Kỵ là người biện nhận huyệt đạo có một không hai, tuy chàng còn cách Viên Chân một lần bao vải, nhưng đưa ngón tay ra là đúng ngay huyệt Ngọc Đường, không sai một ly nào. Huyệt Ngọc Đường nằm trên ngực, ở dưới huyệt Tử Cung một tấc sáu phân, ở trên huyệt Đàn Trung một tấc sáu phân, thuộc về Nhâm Mạch. Huyệt đó không phải là đại huyệt có thể gây chí mạng, nhưng nằm trên đường mà chân khí phải đi qua, nếu bị chặn lại, chân khí toàn thân lập tức tắc nghẽn.
Bỗng nghe Dương Tiêu, Lãnh Khiêm, Thuyết Bất Đắc cùng kêu lớn:
- Ối chao, rụt tay lại.
Trương Vô Kỵ thấy đầu ngón tay trỏ bên phải bị giật một cái, một làn hơi lạnh truyền thẳng lên, nhanh như điện, lập tức toàn thân lạnh giá. Chàng nghe thấy Chu Điên, Thiết Quan đạo nhân cả bọn cùng lớn tiếng chửi:
- Thằng trọc khốn kiếp, dám giở trò gian trá như thế.
Trương Vô Kỵ toàn thân run lẩy bẩy, nhưng hiểu ngay, gã Viên Chân kia tuy chân không thể di chuyển được, nhưng có thể gượng giơ ngón tay lên, để ngay tại trước huyệt Ngọc Đường. Khổ nỗi Trương Vô Kỵ bị lần bao vải che khuất, không nhìn thấy y làm như thế, ngón tay chàng điểm vào, hai đầu ngón tay đụng nhau, Huyễn Âm Chỉ lực của Viên Chân quyên qua lớp vải truyền vào cơ thể chàng. Lần này Viên Chân đem hết tất cả nội lực dồn vào đầu ngón tay, song chỉ đụng nhau rồi, người y tê liệt, mặt xanh lè, trông như một xác chết. Sảnh đường vốn chỉ có tám người bị thương không cử động được, bây giờ lại thêm Trương Vô Kỵ.
Chu Điên tính tình nóng nảy nhất, tuy nói năng thều thào không ra hơi, nhưng vẫn lớn tiếng chửi thằng trọc chùa Thiếu Lâm gian trá vô sỉ. Còn bọn Dương Tiêu ai cũng nghĩ thầm, không thể nào trách Viên Chân được, địch nhân định điểm huyệt y, y đưa tay tự vệ, không có gì là không phải.
Ngay lúc đó Viên Chân hết cả hơi sức nhưng trong bụng vẫn mừng thầm, tên tiểu tử này tuổi còn nhỏ, chẳng được bao nhiêu công lực, trúng phải Huyễn Âm Chỉ rồi, chỉ nửa ngày là chết, còn chân khí của mình chỉ một giờ sau sẽ từ từ tụ lại, thành thử vẫn làm chủ tình hình.
Sảnh đường lại lặng yên không một tiếng động, qua nửa giờ nữa, bốn ngọn nến tắt hết, căn phòng tối đen. Bọn Dương Tiêu nghe thấy hơi thở của Viên Chân trước đây đứt quãng nay từ từ đều dần, từ nặng nề dồn dập trở nên dài hơn, biết rằng chân khí trong người y bắt đầu ngưng tụ. Thế nhưng bên mình mỗi lần vận công, hàn khí của Huyễn Âm Chỉ liền chạy vào đan điền, nhịn không nổi phải run lên bần bật. Càng lúc mọi người càng thất vọng, thấy đau đớn không sao chịu nổi, lại thầm mong Viên Chân sớm hồi phục công lực đứng lên cho mỗi người một chưởng thà chết còn hơn là phải chịu dày vò như thế này.
Bọn Lãnh Khiêm và Chu Điên ai ai cũng thản nhiên chờ chết, còn Thuyết Bất Đắc và Bành Oánh Ngọc hai người lại chẳng yên lòng. Trong Ngũ Tản Nhân, Thuyết Bất Đắc và Bành Oánh Ngọc là hai người xuất gia, nhưng lại là người có hùng tâm hơn cả, luôn luôn quan tâm đến nỗi khổ của thế nhân, chí muốn làm một phen sự nghiệp lẫy lừng. Bây giờ chuyện coi như xong, cuối cùng không còn gì hơn là chết dưới tay Viên Chân, bao nhiêu chí nguyện bình sinh đành để trôi theo dòng nước.
Thuyết Bất Đắc buồn bã nói:
- Bành hòa thượng, bọn mình suy tính lập tâm mong đuổi được Mông Cổ Thát tử, biết đâu rằng rồi sau cùng cũng chỉ trắng tay. Ôi, nghĩ đến kiếp nạn của thiên vạn bách tính chưa dứt, thật là đau lòng.
Vô Kỵ đang vận luồng nhiệt khí trong đan điền lên đề kháng với hàn khí Huyễn Âm Chỉ nghe câu nói của Thuyết Bất Đắc thật rõ ràng, không khỏi ngạc nhiên: "Ông ta nói chuyện muốn đánh đuổi quân Mông Cổ? Chẳng lẽ cái ma giáo mà ác danh đâu đâu cũng nghe kia lại lo lắng cho bách tính đến thế sao?".
Lại nghe Bành Oánh Ngọc nói:
- Thuyết Bất Đắc, ta đã nói trước rồi, chỉ một mình sức lực của Minh giáo ta thôi, không thể nào đuổi được Mông Cổ Thát tử đâu, mà phải liên lạc với tất cả anh hùng hào kiệt bốn phương, cùng đứng lên mới mong thành công được. Sư huynh ngươi là Bổng Hồ, sư đệ ta là Chu Tử Vượng, năm xưa đứng lên tạo phản, tiếng tăm lừng lẫy, nhưng sau cùng cũng đại bại tan tành, chẳng phải là vì không có ngoại viện hay sao?
Chu Điên lớn tiếng nói:
- Chết đầu nước rồi, hai thằng trọc vẫn còn tranh nhau, kẻ thì bảo phải do Minh giáo làm chủ, kẻ thì rằng cần liên lạc với các danh môn chính phái. Cứ như Chu Điên ta thì cả hai đều láo toét, nói thối bỏ mẹ. Minh giáo mình chia năm xẻ bảy, như rắn mất đầu, làm chủ cái khỉ mốc gì bây giờ. Còn Bành hòa thượng muốn liên lạc với các môn phái, thì cũng thối không chịu được, bọn họ đang vây đánh mình, mình liên lạc thế chó nào được bây giờ?
Thiết Quan đạo nhân chen vào:
- Nếu Dương giáo chủ mà còn sống, bọn mình đánh cho lục đại môn phái một trận tan tành, lo gì họ không nghe hiệu lệnh của bản giáo.
Chu Điên cười sằng sặc, nói:
- Lão mũi bò[10] mọi rợ nói một câu thối còn hơn rắm bò nữa. Nếu Dương giáo chủ còn tại thế, mọi việc dĩ nhiên xuôi xẻ cả, ai mà chẳng biết? Ngươi nói thế ... ối chao ... ối chao ...
Y há miệng cười, hụt hơi thở, hàn khí của Huyễn Âm Chỉ xông lên tim phổi, chịu không nổi phải kêu lên. Lãnh Khiêm nói:
- Câm mồm.
Y vừa nói ra, mọi người đều im lặng cả. Trương Vô Kỵ trong bụng nghĩ ngợi gần xa: "Xem ra Minh giáo là một giáo phái, bên trong có nhiều đầu dây mối nhợ, không phải chỉ chuyên làm điều xấu không đâu". Chàng liền hỏi:
- Thuyết Bất Đắc đại sư, tông chỉ của quí giáo thực ra như thế nào? Có thể cho biết được chăng?
Thuyết Bất Đắc nói:
- Ồ, ngươi chưa chết ư? Tiểu huynh đệ, ngươi chẳng đâu vào đâu mất mạng vì Minh giáo, chúng tôi thật lấy làm tiếc. Ngươi chỉ còn sống được một vài giờ nữa thôi, bí mật của bản giáo có nói cho ngươi biết cũng chẳng sao. Lãnh Diện tiên sinh, ngươi bảo nói được chăng?
Lãnh Khiêm đáp:
- Nói.
Ý y định nói là "Ngươi nói cho y nghe không sao cả". Bấy nhiêu chữ y chỉ dùng một chữ "Nói" là đủ.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Tiểu huynh đệ, Minh giáo chúng tôi nguyên từ nước Ba Tư, truyền tới Trung Thổ từ đời Đường. Đương thời gọi là Tiên giáo. Vua nhà Đường cho xây chùa Đại Vân Quang Minh tại các nơi, chính là tự viện của Minh giáo. Giáo nghĩa của chúng tôi là làm điều thiện, trừ điều ác, mọi người đều bình đẳng, nếu như có vàng bạc tiền tài, thì đem cứu giúp người nghèo khổ, không được ăn thịt, uống rượu, chỉ thờ Minh Tôn. Minh Tôn tức là thần lửa, mà cũng là thiện thần. Chỉ hiềm là đời nào tham quan ô lại cũng áp bức chúng tôi, anh em trong Minh giáo không chịu nổi, thỉnh thoảng lại nổi lên chống lại. Từ đời Phương Lạp, Phương giáo chủ đời Bắc Tống đến giờ, không biết đã bao nhiêu lần.
Trương Vô Kỵ đã nghe qua tên tuổi của Phương Lạp, biết ông ta ở vào đời Tuyên Hòa, một trong Tứ Đại Khấu, cùng với Tống Giang, Vương Khánh, Điền Hổ cùng nổi danh, nên nói:
- Hóa ra Phương Lạp là giáo chủ của quí giáo?
Thuyết Bất Đắc nói:
- Chính thế. Đến đời Nam Tống thời Kiến Viêm, có giáo chủ Vương Tông Thạch tại Tín Châu khởi sự, thời Thiệu Hưng có giáo chủ Dư Ngũ Bà tại Cù Châu khởi sự, đời Lý Tông, năm Thiệu Định có giáo chủ Trương Tam Thương tại một dải Giang Tây, Quảng Đông khởi sự. Chỉ vì bản giáo xưa nay luôn luôn chống lại triều đình, quan phủ nên triều đình gọi chúng tôi là "ma giáo", càng cấm đoán nghiêm nhặt hơn. Chúng tôi muốn sống còn, hành sự không khỏi kín đáo, lạ lùng, để tránh tai mắt quan quân. Chính đại môn phái đối với chúng tôi tích oán thành thù hận, thế hia bên ghét nhau như nước với lửa. Đương nhiên, trong số giáo chúng của bản giáo, cũng đôi khi có những kẻ không tự kiềm chế, làm những trò không phải, ỷ mình có võ công, giết người vô tội cũng có, gian dâm cướp bóc cũng có, đem cái tiếng tăm của bản giáo đổ xuống sông xuống ...
Dương Tiêu đột nhiên lạnh lùng chen vào:
- Thuyết Bất Đắc, ngươi nói ta đấy hả?
Thuyết Bất Đắc nói:
- Tên của ta là Thuyết Bất Đắc, phàm chuyện gì không nói được thì ta không nói. Chuyện của ai thì người đó biết, kẻ nào ăn vụng thì bụng nó no.
Dương Tiêu hừ một tiếng, không nói thêm nữa. Trương Vô Kỵ đột nhiên giật mình: " Ủa, sao mình không thấy lạnh nữa?". Khi mới trúng Huyễn Âm Chỉ của Viên Chân, chàng thấy lạnh dường như không chịu nổi, nhưng tới lúc này hàn khí dường như biến đâu mất. Thì ra Vô Kỵ trúng phải âm độc của Huyền Minh thần chưởng từ năm lên mười, đến năm mười bảy tuổi mới trục được hết, trong bảy năm đó, thân thể ngày đêm lúc nào cũng kháng lại hàn độc, vận khí ngự hàn và hô hấp dường như là một, không còn phải do ý niệm mà thành một phản ứng tự nhiên. Huống chi chàng tu luyện Cửu Dương thần công dẫu chưa viên mãn, cái cửa ải sau cùng chưa qua được, nhưng dương khí trong người thật là sung vượng, nên chẳng bao lâu âm độc của Huyễn Âm Chỉ đã bị khu trừ hết sạch.
Lại nghe Thuyết Bất Đắc nói tiếp:
- Từ khi Đại Tống ta mất vào tay người Mông Cổ Thát tử, Minh giáo trở nên kẻ tử thù của triều đình vì ngã giáo vẫn coi việc khu trừ Hồ Lỗ là nhiệm vụ của mình. Tiếc rằng những năm gần đây Minh giáo quần long vô thủ, những cao thủ bên trong vì tranh đoạt chức vị giáo chủ nên tàn sát lẫn nhau để rồi người thì rửa tay qui ẩn, kẻ lại lập chi phái riêng, tự làm giáo chủ. Giáo qui đã suy sụp rồi, kết oán gây thù với danh môn chính phái mỗi lúc một sâu, đến nỗi ra cớ sự này. Viên Chân hòa thượng, ta nói có điểm nào không đúng chăng?
Viên Chân hừ một tiếng, nói:
- Đúng lắm, đúng lắm. Các ngươi chết đến nơi, còn nói láo làm gì?
Y vừa nói, vừa từ từ đứng lên, bước tới một bước. Dương Tiêu và Ngũ Tản Nhân cùng "A" lên một tiếng kinh sợ. Mọi người ai cũng biết y sẽ có thể hành động trước nhưng không ngờ rằng công lực của y lại thâm hậu đến thế, trúng phải Hàn Băng Miên Chưởng của Vi Nhất Tiếu rồi, lại có thể đề khí vận công nhanh như vậy. Chỉ thấy y thân hình vững chãi, chân trái lại bước tới một bước, thân thể không nghiêng ngả chút nào.
Dương Tiêu cười khẩy nói:
- Cao túc của Không Kiến thần tăng, quả nhiên ghê gớm thật. Thế nhưng ngươi chưa trả lời câu hỏi của ta lúc trước. Hay bên trong có điều gì đen tối, không tiện nói ra chăng?
Viên Chân cười ha hả, lại tiến lên một bước, nói:
- Nếu các ngươi không biết những uẩn khúc bên trong, ắt sẽ chết không nhắm mắt được. Ngươi hỏi ta làm sao biết được bí đạo đi lên Quang Minh Đính, làm sao vượt qua được biết bao hiểm trở thiên nhiên, lên đến đỉnh núi này mà thần không hay, quỉ không biết? Được, để ta nói thực cho các vị hay, đó là chính hai vợ chồng giáo chủ Dương Đính Thiên dẫn ta lên đó.
Dương Tiêu giật mình, nghĩ thầm: "Với thân phận của y, ắt không thể nào nói láo, nhưng chuyện đó làm sao có thể được?".
Chu Điên mở miệng chửi ngay:
- Mười tám đời tổ tông đồ rắm chó, bí đạo đó là đại bí mật của Quang Minh Đính, là thánh cảnh trang nghiêm của bản giáo, Dương tả sứ là Quang Minh sứ giả, Vi Nhất Tiếu là Hộ Giáo Pháp Vương, cũng còn chưa đi qua lần nào, trước nay chỉ một mình giáo chủ mới được đi vào bí đạo này mà thôi. Dương giáo chủ sao lại đưa ngươi là người ngoài qua đó được?
Viên Chân thở dài một tiếng, xuất thần hồi lâu, buồn bã nói:
- Nếu các ngươi nhất định phải hỏi cho biết đầu đuôi ngọn ngành, thì để ta kể lại một ẩn sự hai mươi nhăm năm trước đây. Dù sao các ngươi cũng không còn sống để mà xuống núi tiết lộ chuyện này được. Ôi, Chu Điên, ngươi nói không sai chút nào, bí đạo này là trang nghiêm thánh cảnh của Minh giáo, trước nay chỉ một mình giáo chủ mới có thể bước vào, nếu không ắt là vi phạm nghiêm qui không thể tha thứ của tôn giáo. Thế nhưng phu nhân của Dương Đính Thiên đã vào rồi, chính y vi phạm giáo qui, lén dẫn phu nhân vào trong bí đạo ...
Chu Điên xen vào:
- Thối lắm, thối không ngửi nổi.
Bành Oánh Ngọc quát lên:
- Chu Điên, đừng phá nữa.
Viên Chân nói tiếp:
- Dương phu nhân lại dẫn ta vào trong bí đạo ...
Chu Điên lại chửi:
- Con mẹ nó, láo, láo, nói quấy nói quá.
Viên Chân nói:
- Ta không phải là người trong Minh giáo, đi vào bí đạo tính ra đâu có phạm giáo qui. Ôi, nếu ta có là giáo đồ Minh giáo chăng nữa, dù có phạm trọng tội, ta còn sợ cái gì?
Y đề cập đến chuyện năm xưa, giọng nghe thật thê lương.
Thiết Quan đạo nhân hỏi:
- Dương phu nhân đưa ngươi vào bí đạo làm gì?
Viên Chân nói:
- Chuyện đó là chuyện đã lâu lắm rồi. Lão nạp hôm nay đã là một ông già hơn bảy chục tuổi ... chuyện cũ hồi còn trẻ ... được rồi, để ta kể hết cho các ngươi nghe. Các vị có biết lão nạp là ai không? Dương phu nhân là sư muội của ta, tục danh lão nạp trước khi xuất gia họ Thành tên Côn, ngoại hiệu là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ.
Câu nói đó vừa ra khỏi miệng, bọn Dương Tiêu đều hết sức ngạc nhiên, còn Trương Vô Kỵ nằm trong túi vải kinh hãi đếu kêu lên thành tiếng.
Năm xưa trên Băng Hỏa đảo, chuyện xưa nghĩa phụ kể lại tối hôm đó bây giờ hiện ra thật rõ ràng trong óc: Sư phụ của nghĩa phụ là Thành Côn sát hại toàn gia, cha mẹ vợ con nên Tạ Tốn mới giết nhân sĩ võ lâm để ép ông ta phải xuất đầu lộ diện, rồi đánh chết Không Kiến thần tăng nhưng Thành Côn không giữ lời, chẳng ra mặt. Trương Vô Kỵ bây giờ mới nghĩ ra: "Thì ra lúc đó ác tặc Thành Côn đã bái Không Kiến thần tăng làm thầy, Không Kiến thần tăng vì muốn hóa giải một trường oan nghiệt nên cam tâm chịu cho nghĩa phụ đánh mười ba Thất Thương Quyền. Nào ngờ ngay cả sư phụ Thành Côn cũng đánh lừa, khiến cho Không Kiến thần tăng phải ôm mối hận xuống tuyền đài".
Chàng lại nghĩ tiếp: "Nghĩa phụ sở dĩ thỉnh thoảng phát điên, giết người vô tội, các bang các phái lên núi Võ Đương, bức tử cha mẹ mình, truy nguyên ra tất cả những việc đó đầu giây mối nhợ cũng là do Thành Côn ở bên trong sắp đặt". Chỉ trong giây lát, lòng chàng phẫn nộ không để đâu cho hết, toàn thân nóng bừng chẳng khác gì bị lửa thiêu đốt. Cái túi Càn Khôn Nhất Khí của Thuyết Bất Đắc kín mít không thông hơi, chàng đã ở trong đó mấy giờ rồi, ngộp thở vô cùng, cũng may nội công thâm hậu, dùng phép qui tức[11] mà thở, dùng rất ít khí trời, có thế mới chịu đựng được tới bây giờ. Bây giờ tâm thần bỗng dưng xáo trộn, Cửu Dương chân khí súc tích trong đan điền không có gì chế ngự, bắt đầu chạy lung tung khắp nơi, thân thể không khác gì bị rơi vào trong một lò than, chịu không nổi phải rên lên mấy tiếng.
Chu Điên quát lớn:
- Tiểu huynh đệ, chúng ta sắp chết đến nơi, ai cũng khổ sở chịu không nổi, nhưng đã là hảo hán thì phải cố nhịn đừng kêu than.
Trương Vô Kỵ đáp lời:
- Vâng.
Chàng liền dùng phép vận công trong Cửu Dương Chân Kinh trấn nhiếp tâm thần, điều quân nội tức. Lúc bình thời chàng chỉ theo đúng phép mà thở thì tâm hồn lập tức lắng xuống như nước mặt hồ, thần du vật ngoại, nhưng lúc này càng vận công, tay chân xương cốt càng thêm khó chịu, tưởng như mỗi nơi đại huyệt đều có hàng trăm chiếc kim nướng đỏ đâm vào.
Thì ra chàng tu tập Cửu Dương Chân Kinh mấy năm qua, tuy học một môn công phu thượng thừa trong thiên hạ, nhưng chưa từng được minh sư chỉ điểm, chỉ tự mình học lấy theo mô thức trong sách, Cửu Dương chân khí tích súc mỗi lúc một nhiều, nhưng chưa biết cách đạo dẫn và vận dụng để khai thông cửa ải sau cùng. Đúng ra không biết cách dẫn đi cũng không sao, nhưng Huyễn Âm Chỉ của Viên Chân lại là công phu tối âm độc trong võ lâm, một khi vào trong cơ thể rồi, chẳng khác nào một thùng thuốc súng nay có thêm mồi dẫn hỏa. Chàng lại đang bị nhốt trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí, chân khí bị kích phát không nơi phát tiết, nên chạy ngược vào trong thân thể. Trong thời khắc ngắn ngủi này, chàng đang ở vào giai đoạn tối gian nan của người tu đạo luyện khí, là cửa ải vô cùng hung hiểm, sinh tử thành bại như chỉ mành treo chuông. Bọn Chu Điên nào có biết chàng đang ở vào cửa ải trễ không thể trễ, sớm không thể sớm, đúng lúc thủy hỏa ký tế, long hổ giao hội, lại nghĩ chàng vì trúng phải Huyễn Âm Chỉ sắp chết mà rên rỉ. Chàng hết sức đè nén nhiệt khí chí dương đang chưng đốt, nhưng mỗi câu nói của Viên Chân vẫn từng chữ rõ ràng lọt vào tai.
- Gia đình sư muội và gia đình ta giao kết đã nhiều đời, hai người từ nhỏ đã có ước định hôn nhân. Nào ngờ Dương Đính Thiên lại thầm yêu sư muội ta, đến khi y lên làm giáo chủ Minh giáo, uy chấn thiên hạ, cha mẹ của sư muội ta lại là hạng người tham lợi, sư muội ta cũng tâm chí không vững vàng, nên đã bằng lòng lấy y. Thế nhưng sau khi lấy rồi, nàng lại không thấy hạnh phúc, vẫn muốn gặp lại ta nên cần kiếm một nơi thật kín đáo để hẹn hò. Dương Đính Thiên đối với nàng việc gì cũng chiều theo, không từ chối. Nàng muốn đi xem bí đạo, Dương Đính Thiên tuy không thích tí nào, nhưng không chịu nổi cảnh ỷ ôi, o ép, sau cùng đã đưa nàng vào coi. Từ đó về sau, đường hầm bí mật trên Quang Minh Đính này, nơi thánh địa tối trang nghiêm của Minh giáo mấy trăm năm nay, thành nơi ta cùng giáo chủ phu nhân riêng tư gặp gỡ, ha ha, ha ha ... Ta đi đi về về trong bí đạo này mấy chục lần, hôm nay trở lại Quang Minh Đính nào có tốn hơi sức gì đâu?
Dương Tiêu, Chu Điên cả bọn nghe y nói như thế, ai nấy đều câm như hến không nói được câu nào. Chu Điên chỉ chửi được một tiếng "Thối ..." đã phải ngừng lại, không nói tiếp được chữ "quá". Ai nấy tức giận sôi sục, ngực như muốn vỡ tung, đối với Minh giáo không chuyện gì nhục nhã cho bằng. Ngày hôm nay toàn giáo bị tiêu diệt, cũng từ cái bí đạo đó mà ra. Mọi người nghe xong mắt như muốn tóe lửa, nhưng cũng biết những lời Viên Chân nói ra không phải là giả dối.
Viên Chân nói tiếp:
- Các ngươi giận dữ cái gì? Nhân duyên của ta bị Dương Đính Thiên ngang nhiên phá vỡ, rõ ràng là người vợ yêu của ta, chỉ vì Dương Đính Thiên được đứng đầu ma giáo, mà bị chiếm mất, nên ta với ma giáo mối thù này bất cộng đái thiên. Ngày đám cưới của Dương Đính Thiên với sư muội, ta cũng tới mừng, khi uống chén hỉ tửu, trong bụng ta lập một lời nguyền: "Thành Côn này dù chỉ còn một hơi thở, cũng nhất quyết phải giết cho được Dương Đính Thiên, quyết tâm tiêu diệt ma giáo". Ta mang lời nguyền đó đã hơn bốn mươi năm, hôm nay mới đại công cáo thành, ha ha, Thành Côn này đã vẹn lời thề, chết mới nhắm mắt được.
Dương Tiêu lạnh lùng nói:
- Đa tạ nhà ngươi đã giải cho ta một mối hồ nghi trong lòng. Dương giáo chủ đột nhiên từ trần, chết không rõ vì lý do gì, thì ra cũng tại tay ngươi.
Viên Chân buồn bã nói:
- Năm xưa võ công Dương Đính Thiên cao hơn ta rất nhiều, chẳng nói gì năm xưa, e rằng hiện nay võ công ta cũng chưa bằng được công lực của y thời đó ...
Chu Điên chêm vào:
- Thành ra ngươi lén hại Dương giáo chủ, nếu không bỏ thuốc độc, thì cũng như hôm nay bất ngờ đánh trộm.
Viên Chân thở dài, lắc đầu nói:
- Không phải. Sư muội của ta sợ ta lén hạ độc thủ, luôn luôn nhắn nhủ ta rằng, nếu như Dương Đính Thiên bị ta làm hại, thì nàng nhất định không tha. Nàng nói ta và nàng hai người lén gặp nhau, đối với chồng đã là không nên không phải lắm rồi, nếu ta có bụng dạ độc ác, thì trời sẽ chẳng dung. Dương Đính Thiên, ôi, Dương Đính Thiên, y ... tự y chết đấy thôi.
Cả bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc cùng "A" lên một tiếng. Viên Chân nói tiếp:
- - Nếu như Dương Đính Thiên chết dưới chưởng hay chỉ của ta, ắt là ta đã tha cho bọn Minh giáo các ngươi.
Thanh âm của y chuyển sang khe khẽ, nhớ lại chuyện ngày xưa mấy chục năm, chậm rãi kể tiếp:
- Đêm hôm đó, ta lại cùng sư muội gặp nhau trong bí đạo, đột nhiên nghe thấy từ phía bên trái tiếng thở dồn dập vọng tới. Việc này từ trước chưa bao giờ xảy ra, bí đạo này cực kỳ kín đáo, người ngoài không thể nào tìm được lối vào, còn người trong Minh giáo, thì có ai dám vào đây. Bọn ta nghe thấy tiếng thở đó, giật mình kinh hãi, đi lần theo xem ai, thấy Dương Đính Thiên ngồi trong một căn phòng nhỏ, tay cầm một miếng da dê, mặt đỏ bừng như máu. Y thấy hai đứa ta liền nói: "Hai người các ngươi, giỏi lắm, giỏi lắm, đối với ta thế đấy". Y nói xong câu đó, mặt bỗng đổi thành màu xanh lè, nhưng mặt vừa chuyển màu xanh lại biến đi ngay, trở lại thành màu đỏ máu, xanh rồi lại đỏ, đỏ rồi lại xanh, trong chớp mắt đã đổi màu ba lần. Dương tả sứ, ngươi có biết công phu đó là gì không?
Dương Tiêu nói:
- Đó là thần công Càn Khôn Đại Na Di của bản giáo.
Chu Điên nói:
- Dương Tiêu, ngươi cũng luyện thành rồi, phải không?
Dương Tiêu nói:
- "Luyện thành" hai chữ, làm sao dám nói? Năm xưa Dương giáo chủ có bụng thương ta nên có truyền một chút công phu nhập môn thô thiển. Ta luyện hơn mười năm, chỉ mới luyện đến cấp thứ hai. Nếu luyện thêm nữa thì chân khí như muốn nổ tung óc mà ra, không có cách nào khắc chế cả. Mặt Dương giáo chủ có thể trong chốc lát biến màu ba lần, đó là luyện đến cấp thứ tư rồi. Ông ta có nói rằng, trong các giáo chủ bản giáo từ trước tới nay, chỉ có Chung giáo chủ đời thứ tám võ công cao hơn cả, nghe nói luyện đến cấp thứ năm của thần công Càn Khôn Đại Na Di, nhưng ngay hôm luyện thành, tẩu hỏa nhập ma mà chết. Từ đó về sau, chưa có ai luyện được đến cấp thứ tư cả.
Chu Điên nói:
- Khó đến thế sao?
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Nếu như không khó, sao có thể gọi là hộ giáo thần công của Minh giáo được?
Những cao thủ trong Minh giáo đều đã nghe danh Càn Khôn Đại Na Di thần công từ lâu, lòng vốn ngưỡng mộ, thành ra tuy trong cảnh nguy hiểm nhưng vừa nói đến, ai ai cũng bàn góp mấy câu.
Bành Oánh Ngọc nói:
- Dương tả sứ, Dương giáo chủ luyện thần công đó đến cấp thứ tư, sao lại có thể biến màu khuôn mặt được?
Y lúc này hỏi những chuyện ngoài lề cũng là có thâm ý, biết Viên Chân chỉ cần đi tới thêm vài bước, từng người một sẽ chết dưới tay y ngay, nên dụ cho y đàm luận chuyện xưa, cốt để kéo dài thời gian, chỉ cần một trong bảy cao thủ của Minh giáo một người hồi phục công lực, liền có thể chống trả một phen, dù có không địch nổi, nhưng cục thế cũng có cơ biến chuyển, còn hơn bó tay chịu chết như bây giờ.
Dương Tiêu lẽ nào không hiểu ý tứ của y, liền đáp:
- Nguyên lý chính yếu của Càn Khôn Đại Na Di thần công là cương nhu, âm dương càn khôn nhị khí đổi qua đổi lại. Trên mặt hiện sắc xanh hay sắc đỏ, là vì trong cơ thể huyết dịch lên xuống, chân khí biến đổi mà ra. Cứ nghe nói khi luyện đến cấp thứ sáu, toàn thân có thể lúc xanh lúc đỏ, nhưng khi qua đến cấp thứ bảy, âm dương nhi khí chuyển hoán không hiện ra, nhìn bên ngoài không sao biết được bên trong thế nào.
Bành Oánh Ngọc sợ rằng Viên Chân ở không sẽ khó chịu, nên hỏi y một câu:
- Viên Chân đại sư, Dương giáo chủ của chúng tôi vì lẽ gì mà qui thiên?
Viên Chân cười khẩy nói:
- Các ngươi trúng phải Huyễn Âm Chỉ rồi, ta nghe các ngươi vận khí hô hấp, biết rằng trong vòng hai giờ nữa không sao cử động được. Các ngươi định mua thời gian, mong tự vận khí giải cứu, nói thẳng cho các ngươi biết, cái đó không kịp đâu. Các ngươi đều là võ học cao thủ, bị thương nặng như thế, vận khí từ nãy tới giờ đã thấy biến chuyển tí nào chưa? Hay là mỗi lúc thân thể thêm cứng đờ?
Bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc vốn đã thấy chuyện đó, nhưng còn một hơi thở thì vẫn chưa chịu bó tay. Lại nghe Viên Chân nói tiếp:
- Khi đó ta thấy mặt Dương Đính Thiên biến đổi lạ lùng, trong bụng thật là kinh hoảng. Sư muội ta biết y võ công cực cao siêu, chỉ ra tay là đưa hai người chúng ta vào chỗ chết, liền nói: "Đính Thiên, mọi sự đều do em không nên không phải, chàng tha cho Thành sư ca hạ sơn, dù trách phạt thế nào, em cũng xin chịu hết". Dương Đính Thiên nghe nàng nói thế, lắc đầu, chậm rãi nói: " Ta lấy được người em nhưng không lấy được trái tim em". Chỉ thấy hai mắt y mở trừng trừng, bỗng từ khóe mắt chảy xuống hai dòng máu tươi, thân hình trơ trơ, không động đậy gì nữa. Sư muội ta kinh hãi quá, kêu lên: "Đính Thiên, Đính Thiên, chàng sao thế?".
Viên Chân kể đến đây, thanh âm tuy không lớn, nhưng ai nấy trong đêm khuya nghe thấy, nghĩ đến tình trạng hai mắt chảy máu của Dương Đính Thiên, đều cảm thấy rùng mình.
Viên Chân kể tiếp:
- Nàng gọi mấy lần, Dương Đính Thiên tuyệt nhiên không cử động. Sư muội ta thu hết can đảm tiến lên cầm tay y thì đã cứng ngắc, sờ mũi thì đã tắt thở rồi. Ta biết trong lòng nàng đau khổ vô cùng nên an ủi: "Xem ra y đang luyện một môn công phu thật khó khăn, đột nhiên tẩu hỏa, chân khí chạy ngược lên, khiến cho không thể nào cứu kịp". Sư muội ta đáp: "Đúng thế, y luyện môn võ công không gì sánh kịp Càn Khôn Đại Na Di của Minh giáo, đang vào lúc khó khăn, đột nhiên nhìn thấy hai đứa chúng ta lén gặp nhau nơi đây, tuy không phải chính tay tiểu muội giết y, nhưng cũng vì em mà chết".
Ta đang tính nói vài câu khuyên giải, đột nhiên sư muội chỉ về phía sau lưng ta, quát lên: "Ai thế?". Ta vội quay đầu, không thấy bóng dáng ai, khi nhìn trở lại, thì trên ngực nàng đã cắm một con dao găm, tự sát chết rồi.
Ha ha, Dương Đính Thiên nói rằng: "Ta lấy được người em nhưng không lấy được trái tim em". Còn ta chiếm được trái tim sư muội, nhưng vẫn không lấy được người nàng. Nàng là người mà ta trong đời yêu nhất, kính nhất, nếu như Dương Đính Thiên không nhảy vào phá đám, nhân duyên đẹp đẽ của hai chúng ta đâu có kết cục thê thảm như thế? Nếu Dương Đính Thiên không làm giáo chủ ma giáo, sư muội ta đời nào chịu lấy một người lớn hơn nàng đến trên hai chục tuổi. Dương Đính Thiên chết rồi, ta đâu có làm gì y được, nhưng ma giáo thì vẫn còn hoành hành trong thiên hạ. Ngay khi đó, ta chỉ vào thi thể Dương Đính Thiên và sư muội, nói rằng: "Thành Côn này thề rằng sẽ hết sức mình phúc diệt Minh giáo, bao giờ thành công rồi, sẽ đến trước hai người tự vẫn để báo đáp". Ha ha, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, các ngươi trong chốc lát sẽ chết ngay, cái mạng của Thành Côn này cũng chẳng còn bao lâu nữa, chỉ có điều ta tâm nguyện hoàn thành, vui vẻ mà tự vẫn, sung sướng hơn các ngươi vạn phần. Trong bao nhiêu năm qua, không giờ khắc nào ta không trù tính tìm cách tiêu diệt ma giáo. Ôi, Thành Côn này một đời bất hạnh, ái thê bị người ta cướp mất, chỉ có một đứa học trò yêu, cũng hận ta thấu xương ...
Trương Vô Kỵ thấy y đề cập đến Tạ Tốn, vội ngưng thần chú ý nghe. Thế nhưng lúc này chân khí trong cơ thể càng lúc càng nhiều, tưởng như tay chân xương cốt chỗ nào cũng căng phồng, từng thớ thịt muốn nổ tung, ngay cả những sợi tóc cũng như phình to gấp mấy lần. Viên Chân nói tiếp:
- Sau khi ta xuống Quang Minh Đính, trở về trung nguyên, đến thăm tên học trò yêu lâu năm không gặp Tạ Tốn. Ngờ đâu vừa nói chuyện, ta mới hay y hiện là một trong tứ đại pháp vương của ma giáo. Ta tuy ở trên Quang Minh Đính một thời gian lâu nhưng chỉ toàn tâm để ý tới sư muội, những chuyện trong ma giáo tuyệt không biết tới, sư muội ta cũng không hề đề cập chuyện nội bộ, ngay cả đồ đệ ta giữ chức vị cao trong ma giáo, cũng chính y nói ra ta mới biết. Y còn kiệt lực khuyên ta gia nhập ma giáo, nói gì hết sức đồng tâm, đuổi quân Hồ Lỗ. Ta tức giận không để đâu cho hết, nhưng chợt nghĩ ra: "Ma giáo người nhiều thế mạnh, gốc rễ sâu xa, cao thủ lại đông như kiến, ta chỉ có một mình, không thể nào diệt họ nổi. Không nói gì ta chỉ một thân, mà dẫu có hào kiệt võ lâm trong thiên hạ liên thủ, cũng chưa chắc hủy được họ. Duy chỉ có một cách là từ bên trong xúi giục, để sao họ tự tàn sát lẫn nhau, chính mình tự diệt mình.
Bọn Dương Tiêu nghe thấy y nói thế, ai nấy đều kinh hãi. Bao nhiêu năm nay cả bọn như người bị bịt mắt, đâu có biết đại địch ở ngay bên cạnh, trăm mưu nghìn kế để hủy diệt Minh giáo. Vậy mà mọi người lại lo tranh đoạt chức vị giáo chủ, đánh phá lẫn nhau hỗn loạn một phen, lời nói của Viên Chân khác nào lấy gậy đập lên đầu khiến họ choàng tỉnh lại.
Lại nghe thấy y nói tiếp:
- Khi đó ta thản nhiên như không, chỉ nói đây là việc lớn, phải có thời giờ suy nghĩ. Vài ngày sau, ta đột nhiên giả vờ say rượu, cố ý bức gian vợ của đồ nhi Tạ Tốn, thừa cơ giết luôn cha mẹ vợ con toàn gia y. Ta biết rằng từ đó về sau, y sẽ hận thấu xương, thể nào cũng tìm ta báo thù, nếu kiếm không được, thể nào cũng làm điều sằng bậy. Ha ha, biết trò ai bằng thầy, thằng bé Tạ Tốn chuyện gì cũng giỏi, văn tài võ công đều hơn người, có điều dễ bị khích động, không chịu suy nghĩ cho sâu xa để tìm hiểu tiền nhân hậu quả ...
Trương Vô Kỵ nghe đến đây, trong lòng phẫn nộ không sao kiềm chế nổi, nghĩ thầm: "Thì ra bao nhiêu bất hạnh xảy ra cho nghĩa phụ, toàn do tên lão tặc Thành Côn cố tình sắp đặt cả. Tên giặc già này có phải say rượu rồi nổi thú tính đâu, mà là âm mưu như thế".
Lại nghe Viên Chân đắc ý dương dương nói tiếp:
- Tạ Tốn giết bừa bãi giang hồ hảo hán, đâu đâu cũng để lại tên ta, tưởng thế sẽ ép được ta xuất đầu lộ diện, ha ha, ta đời nào thò mặt ra? Nếu không muốn người khác biết, chỉ có cách đừng làm thôi, Tạ Tốn gây ra biết bao oán thù, những mối huyết cừu đó đều đổ lên đầu Minh giáo cả. Y giết người đôi khi cũng gặp nguy hiểm, ta liền ẩn mặt giải vây cho y, y là con dao ta dùng để giết người, lẽ nào để y bị người ta hủy diệt? Ngoại địch của ma giáo càng nhiều, các cao thủ lại tranh ngôi giáo chủ, xâu xé không dứt, tất cả đều rơi vào kế của ta cả. Tạ Tốn không giết Tống Viễn Kiều, cũng là điều đáng tiếc, nhưng đánh chết Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm, đánh Không Động ngũ lão bị thương, giết vô số các hảo thủ nơi Vương Bàn Sơn đảo, cả đàn chủ Thiên Ưng giáo của người bạn cũ là Ân Thiên Chính cũng không tha ... học trò giỏi ơi là học trò giỏi, không uổng ta năm xưa kiệt tâm tận lực truyền cho y một thân võ công.
Dương Tiêu lạnh lùng nói:
- Nếu như thế, ngay cả sư phụ ngươi là Không Kiến thần tăng cũng bị ngươi dùng độc kế hại tử nữa.
Viên Chân cười đáp:
- Ta bái Không Kiến làm thầy, đâu có phải thực lòng đâu? Y được ta rập đầu lạy mấy cái, rồi chịu mất mạng thì cũng đâu có thiệt thòi gì, ha ha, ha ha.
Trong khi Viên Chân cười ha hả, Trương Vô Kỵ giận muốn phát điên, tai ù đi, đột nhiên ngất xỉu nhưng lại tỉnh dậy ngay. Chàng trong đời từng chịu biết bao nhiêu khinh khi hà hiếp, cũng thản nhiên như không, nhưng nghĩ đến nghĩa phụ là một hảo hán hiên ngang như thế, bị Thành Côn dùng độc kế làm cho gia phá nhân vong, thân bại danh liệt, hai mắt bị mù, sống một thân một mình nơi hoang đảo chờ chết, cái thâm cừu đại hận đó lẽ nào không báo?
Nộ khí trong ngực dâng lên, chân khí Cửu Dương trong cơ thể càng bùng lên mãnh liệt, nhưng không sao thoát được ra ngoài, cái túi Càn Khôn Nhất Khí dần dần phồng lên nhưng bọn Dương Tiêu đều chú tâm nghe Thành Côn nói chuyện, không ai để ý đến cái túi tại sao lại như biến ra như thế. Viên Chân lại nói tiếp:
- Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành hòa thượng, Chu Điên, các ngươi còn gì để nói nữa không?
Dương Tiêu thở dài một tiếng, nói:
- Sự đã như thế, còn gì để nói nữa? Viên Chân đại sư, ông có thể tha mạng cho con gái tôi được chăng? Mẹ nó là Kỷ Hiểu Phù người của phái Nga Mi, xuất thân danh môn chính phái, cũng chưa nhập Minh giáo.
Viên Chân nói:
- Dưỡng hổ di hoạn, nhổ cỏ nhổ cả rễ.
Nói xong bước tới một bước, giơ chưởng ra, chầm chậm đánh xuống đầu Dương Tiêu. Trương Vô Kỵ nằm trong cái túi vải nghe biết việc đến lúc khẩn cấp, không còn nghĩ đến việc toàn thân nóng như thiêu, nghe tiếng phỏng chừng khoảng cách, tung mình lao tới trước Viên Chân, tay trái giơ lên cách lớp vải gạt tay y ra ngoài.
Viên Chân lúc này chỉ mới cố miễn cưỡng hành động, nhưng nguyên khí vẫn chưa phục hồi, bị Trương Vô Kỵ gạt ra, thân hình lao đao, lùi lại một bước, quát lên:
- Thằng nhãi này, ngươi ... ngươi ...
Y vừa định thần liền tiến lên nhắm ngay cái túi đánh một chưởng. Chưởng này không trúng người Trương Vô Kỵ mà lại bị cái túi hất dội ra, khiến y phải lùi lại hai bước, thật ngạc nhiên không hiểu tại sao. Trương Vô Kỵ bấy giờ miệng khô lưỡi đắng, đầu óc bàng hoàng, Cửu Dương chân khí trong người căng phồng như muốn nổ tung cơ thể, nếu như cái túi Càn Khôn Nhất Khí vỡ trước chàng sẽ thoát hiểm, còn như nếu không đề ngự nổi luồng chân khí mãnh liệt vô cùng trong thân thể, da thịt chàng sẽ vỡ tan, cháy xém như bị quay trong lò.
Viên Chân thấy chiếc túi lạ lùng, liền tiến lên hai bước, tung chưởng đánh tới. Lần này y cũng bị dội lại, lùi một bước nữa, nhưng chiếc túi cũng bị chưởng của y đánh bật ra, lăn đi như một trái cầu da thật lớn. Trương Vô Kỵ nằm trong chiếc túi, lăn qua lăn lại, lộn lên lộn xuống, ngực thấy khó thở, cố phình bụng toan tống chân khí ra ngoài. Thế nhưng chiếc túi lúc này đã căng phồng, mỗi hơi thở càng lúc càng khó khăn. Viên Chân liên tiếp đánh ra ba quyền, đá thêm hai cái, đều bị chân khí trong túi đẩy bật ra, Trương Vô Kỵ nằm bên trong không hay biết. Cũng may Viên Chân chỉ đánh trúng ngoài bao, nếu đánh trúng được thân thể Trương Vô Kỵ, lúc này chân khí đang đầy tràn, chân tay Viên Chân thể nào cũng bị trọng thương.
Bọn Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu bảy người thấy chuyện kỳ lạ, đều kinh ngạc đến thừ người ra. Cái túi Càn Khôn Nhất Khí là của Thuyết Bất Đắc, chính ông ta cũng không biết tại sao lại phồng lên thành như trái cầu, cũng không biết Trương Vô Kỵ nằm trong đó còn sống hay đã chết.
Lại thấy Viên Chân rút từ trong lưng ra một con dao găm, hết sức đâm vào chiếc túi, thế nhưng chỗ bị đâm chỉ lõm xuống mà không thủng. Cái túi đó chất liệu thật lạ kỳ, không phải da mà cũng chẳng phải tơ, là một dị vật của trời đất, thanh chủy thủ của Viên Chân lại không phải là bảo đao, đâm luôn mấy cái nhưng không làm gì được. Viên Chân thấy đánh đấm đâm chém đều không công hiệu, nghĩ thầm: "Việc gì ta phải dây dưa với tên tiểu tử này?". Y giơ chân lên, hết sức đạp ra, chiếc túi vải liền lăn ra cửa sảnh.
Lúc này chiếc túi đã căng phồng thành một trái cầu, đụng phải cửa sảnh, liền dội trở lại, lăn thẳng vào người Viên Chân. Viên Chân thấy trái cầu thế lăn mãnh liệt, hai tay cùng tống ra, hết sức đẩy trở lại.
Chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, chẳng khác gì giữa ban ngày nghe một tiếng sét rền vang, mảnh vải bay tứ tung, chiếc túi Càn Khôn Nhất Khí đã bị Cửu Dương chân khí trong người Vô Kỵ phá vỡ, tan như bươm bướm. Viên Chân, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc cả bọn đều thấy một luồng hơi nóng phà vào người, lại thấy một thanh niên áo quần rách rưới đứng trước mặt, mặt mày ngơ ngác. Thì ra trong khoảnh khắc này, Trương Vô Kỵ luyện Cửu Dương thần công đã đại công cáo thành, thủy hỏa tương tế, long hổ giao hội. Chàng nằm trong chiếc túi vải căng phồng kia có khác nào có hàng chục cao thủ cùng ra sức thoa bóp tất cả các đại huyệt trong cơ thể, còn bên trong chân khí cuồn cuộn, mấy chục huyền quan trên kinh mạch đều được khai thông, tưởng như có một dòng thủy ngân chảy tới từng nơi, khoan khoái vô cùng.
Cơ duyên đó từ trước tới nay chưa ai được gặp, chiếc túi quí báu kia vỡ rồi, sau này cũng không thể nào có ai còn gặp được dịp may như thế nữa. Viên Chân thấy chàng trai thần sắc bất định, ngơ ngác hoang mang, còn mình mới bị trọng thương chưa khỏi, nếu không chộp lấy dịp may ngàn năm một thuở này, để đối phương ra tay trước thì thật là nguy hiểm. Nghĩ thế y liền tiến lên một bước, ngón tay trỏ bên phải điểm ra, vận nội kình Huyễn Âm Chỉ điểm vào huyệt Đàn Trung trên ngực Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ giơ tay gạt ra, lúc này thần công của chàng mới thành tựu, nhưng chiêu số võ thuật thật là bình thường, những gì Tạ Tốn và phụ thân dạy cho chưa dung hợp quán thông, làm sao chống nổi với một tuyệt thế cao thủ như Viên Chân? Chỉ mới một chiêu, huyệt Dương Trì trên cổ tay đã bị điểm trúng, lập tức cơ thể run lên bần bật, lùi lại một bước nhưng chân khí sung mãn đang muốn tràn ra trong cơ thể chàng trong chớp mắt đã truyền vào ngón tay của Viên Chân. Hai luồng lực đạo một âm một dương chõi nhau, có điều nội lực của Trương Vô Kỵ do Cửu Dương thần công mà ra, hồn hậu hơn nhiều. Ngón tay Viên Chân nóng hổi, kình lực toàn thân như biến đâu mất, lại vừa mới bị trọng thương xong, công lực so với lúc thường chưa được một thành, biết rằng tình thế không ổn, thoát thân bảo tồn tính mạng là cần, vội vàng quay mình bỏ chạy.
Trương Vô Kỵ giận dữ chửi:
- Tên đại ác tặc Thành Côn kia, mau nạp mạng.
Chàng co giò đuổi ra cửa sảnh, chỉ thấy bóng Viên Chân thoáng một cái, đã chạy vào một cửa hông. Trương Vô Kỵ tức khí đầy ngực, ra sức rượt theo. Chàng vừa sử dụng kình lực, nghe bình một tiếng trán đã đập mạnh vào cánh cửa. Thì ra chàng chưa biết mình đã luyện thành Cửu Dương thần công, mỗi lần giơ tay, co chân đều mạnh mẽ gấp mười lần bình thường, vừa cất bước đã không còn kiểm soát được sức lực nên mới va vào cánh cửa.
Chàng đưa tay xoa đầu, thấy hơi ngâm ngẩm đau, nghĩ thầm: "Sao mình lại có tà môn này, vừa nhắc chân đã chạy xa đến thế?", vội vàng theo cửa hông đi vào, thấy một căn nhà nhỏ. Chàng nhất tâm nhất ý báo thù cho nghĩa phụ, vội vàng đi qua sảnh đường đuổi theo.
Đằng sau căn phòng là một tòa nhà lớn, bên trong trồng đầy hoa cỏ, hương thơm ngào ngạt, thấy phòng phía tây có ánh đèn chiếu ra vội tung mình nhảy tới. Vừa đẩy cửa ra, chỉ thấy một bóng xám vụt một cái, Viên Chân đã vén một tấm màn thêu chạy vào trong đó.
Trương Vô Kỵ cũng chui vào nhưng không còn thấy Viên Chân đâu nữa. Chàng nhìn kỹ lại, không khỏi lạ lùng, thì ra nơi đây là một khuê phòng của một tiểu thư con nhà giàu có. Ngay bên cửa sổ là một bàn trang điểm, trên bàn để nến đỏ chiếu sáng những đồ đạc gấm vóc lụa là, đường hoàng phú lệ, không kém gì phòng của Chu Cửu Chân. Một bên là một cái giường, trướng rủ màn che, đằng trước còn để một đôi giày con gái màu đỏ, hẳn có người nằm ngủ trong đó. Khuê phòng này chỉ có một lối vào, các cửa sổ đều đóng chặt, rõ ràng nhìn thấy Viên Chân lẻn vào, nhưng chỉ một giây sau đã mất tăm mất tích, chẳng lẽ y có phép tàng hình hay sao? Hay y không nề là người xuất gia, dám ngang nhiên chui vào giường phụ nữ?
Trong khi chàng còn chưa biết nên hay không nên vạch màn ra tìm kiếm kẻ địch, bỗng lẹp kẹp có tiếng chân người đi tới. Trương Vô Kỵ nép mình vào ẩn sau một chiếc áo cừu treo ở bên tường phía tây, thấy có hai người từ ngoài đi vào. Chàng thò đầu ra xem thấy hai người con gái, một người mặc áo dài thêu màu vàng nhạt, quần áo sang trọng, còn một người tuổi nhỏ hơn, mặc áo xanh bằng vải, là một a hoàn. Con đầy tớ giọng khàn khàn nói:
- Tiểu thư, đêm đã khuya rồi, mời tiểu thư đi nghỉ.
Tiểu thư nọ tát trái một cái, ra tay thật nặng đánh vào mặt đứa đầy tớ. Đứa tớ gái choáng váng lùi lại một bước. Tiểu thư kia thân hình hơi lảo đảo, quay mặt lại, dưới ánh nến Trương Vô Kỵ nhìn rõ ràng, thấy nàng đôi mắt to đen láy, mặt bầu bĩnh, chính là người chàng vạn dặm đường xa từ Trung Nguyên đưa tới Tây Vực Dương Bất Hối.
Bây giờ xa nhau mấy năm, thân thể nàng đã cao lớn hơn trước nhiều, nhưng thần thái không thay đổi, khóe miệng nhếch lên khi còn nhỏ nay hiện rõ hơn. Chỉ nghe nàng mắng:
- Ngươi nói ta đi ngủ, hừ, lục đại phái vây đánh Quang Minh Đính, cha ta đang bàn tính đối sách với người ta, nói suốt đêm chưa chắc đã xong, lão nhân gia chưa ngủ, làm sao ta ngủ được? Tốt hơn hết là cha ta bị người ta giết chết, còn ta cũng bị ngươi giết luôn, cả thiên hạ này thuộc về ngươi hết.
Con a hoàn đâu dám biện bạch, đỡ nàng ngồi xuống. Dương Bất Hối nói:
- Mau đem kiếm đến đây cho ta.
Con a hoàn đi đến bên vách, lấy một thanh trường kiếm treo trên đó xuống. Hai chân cô ta nối với nhau bằng một sợi xích nhỏ, hai cổ tay cũng có một sợi xích khác, chân trái khập khễnh, lưng gù cong như cánh cung, đến khi cô ta lấy được thanh kiếm quay đầu lại, Trương Vô Kỵ càng thêm kinh hãi, thấy mắt phải nhỏ, mắt trái to, mũi và một bên miệng méo xệch, hình dáng thật là đáng sợ, nghĩ thầm: "Cô gái này còn xấu hơn cả Châu Nhi. Châu Nhi là vì trúng độc nên mặt mày sưng u, cũng còn có cơ hội trị được, còn cô gái này là tàn tật bẩm sinh".
Dương Bất Hối cầm thanh kiếm, nói:
- Địch nhân có thể đến bất cứ lúc nào, ta muốn đi ra ngoài tuần tra.
Con tiểu a hoàn nói:
- Để con đi theo tiểu thư, nếu như gặp địch, cũng có thêm được một người chiếu ứng.
Giọng nói cô gái khàn khàn ú ớ thật khó nghe, tưởng như từ một hán tử trung niên thô lỗ. Dương Bất Hối nói:
- Ai cần ngươi giả vờ tốt đối với ta?
Tay trái nàng lật một cái đã nắm chặt mạch môn con đầy tớ. Đứa a hoàn không còn cử động gì được nữa, run run kêu:
- Tiểu thư, cô ... cô ...
Dương Bất Hối cười nhạt nói:
- Địch nhân ùn ùn kéo tới, cha con ta sống chết chỉ còn sớm tối, ngươi tiểu a đầu có phải là do kẻ thù phái đến Quang Minh Đính để nằm phục sẵn nơi đây chăng? Cha con ta đời nào chịu để cho ngươi dày vò? Hôm nay ta giết ngươi trước.
Nói xong nàng xoay thanh kiếm đâm luôn vào cổ con a đầu. Trương Vô Kỵ từ khi biết cô đầy tớ gái này thân thể tàn tật, trong lòng nẩy tình thương hại, đột nhiên thấy Dương Bất Hối giơ kiếm đâm, trong cơn nguy cấp không kịp suy nghĩ, lập tức phi thân ra, búng ngay vào mũi kiếm một cái. Dương Bất Hối cầm kiếm không vững, nghe keng một tiếng, trường kiếm liền rơi xuống đất. Tay nàng vừa rời khỏi kiếm, hai ngón tay trỏ và giữa liền đâm luôn vào mắt Vô Kỵ. Chiêu này vốn chỉ là chiêu Song Long Sang Châu[12] tầm thường không có gì kỳ lạ, nhưng nàng đã được cha chỉ dạy mấy năm nay nên sử xuất cũng hơi có uy lực. Trương Vô Kỵ nhảy về phía sau, buột miệng nói:
- Bất Hối muội muội, ta đây.
Dương Bất Hối nghe y nói bốn chữ "Bất Hối muội muội", kinh ngạc vô cùng, hỏi lại:
- Có phải Vô Kỵ ca ca đấy không?
Nàng chỉ nhận ra thanh âm ngữ điệu của bốn chữ "Bất Hối muội muội", chứ không nhận ra được diện mạo Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong lòng hơi hối hận, nhưng không còn có thể chối được nữa, đành nói:
- Ta đây. Bất Hối muội muội, mấy năm nay em có khỏe không?
Dương Bất Hối định thần nhìn kỹ, thấy chàng quần áo rách rưới, mặt mày bẩn thỉu, trong lòng nghi ngại không biết có phải không, nói:
- Ngươi ... ngươi ... có thật là Vô Kỵ ca ca không? Sao mà ... sao mà lại tới được chốn này?
Trương Vô Kỵ nói:
- Đó là Thuyết Bất Đắc mang ta lên Quang Minh Đính đó. Gã hòa thượng Viên Chân kia đến phòng này rồi, đột nhiên không thấy đâu nữa, trong này có đường nào ra không?
Dương Bất Hối lạ lùng hỏi:
- Viên Chân hòa thượng nào? Ai vào trong phòng vậy?
Trương Vô Kỵ đang gấp chuyện đuổi theo Viên Chân, nếu nói hết câu chuyện thì quá dài, liền nói:
- Cha của em bị thương ở ngoài sảnh, muội muội mau ra xem thế nào.
Dương Bất Hối giật mình kinh sợ, vội nói:
- Để tiểu muội ra xem gia gia.
Nói xong tiện tay nhắm ngay thiên linh cái con a đầu đánh xuống một chưởng, ra tay thật nặng. Trương Vô Kỵ kinh hãi kêu lên:
- Không được thế.
Giơ tay đẩy vào vai cô ta một cái, chưởng của Dương Bất Hối rơi vào khoảng không. Dương Bất Hối hai lần định giết con a hoàn, đều bị chàng cản lại, gay gắt nói:
- Vô Kỵ ca ca, anh cùng phe với con a đầu này chăng?
Trương Vô Kỵ lạ lùng:
- Nó là đầy tớ của em, anh mới gặp lần đầu, sao lại cùng phe với cô ta được?
Dương Bất Hối nói:
- Anh không biết nội tình đầu đuôi, sao lại cứ xen vào chuyện của người khác. Con a đầu này là đại đối đầu của gia đình em, cha em dùng xích sắt xích chân tay nó lại, để đề phòng nó khỏi hại em. Giờ phút này địch nhân kéo tới tập kích, con a đầu này thể nào cũng thừa cơ báo thù.
Trương Vô Kỵ thấy cô gái nhỏ tội nghiệp đáng thương, tuy hình dáng lạ lùng, nhưng không có vẻ gì là kẻ hung ác, nên nói:
- Cô nương, cô có ý định thừa cơ báo phục chăng?
Cô tớ gái lắc đầu đáp:
- Không thể nào có.
Trương Vô Kỵ nói:
- Bất Hối muội muội, em nghe đó, cô ta nói không có đâu, tha cho cô ta đi.
Dương Bất Hối nói:
- Được rồi, nếu như anh vị tình, ối chà ...
Thân hình nàng nghiêng qua, lảo đảo đứng không vững. Trương Vô Kỵ vội vàng tiến tới đỡ, đột nhiên hai huyệt Huyền Khu, Trung Khu ở sau lưng đau nhói lên, ngã lăn ra đất. Thì ra Dương Bất Hối sợ chàng ra tay cản trở, dụ cho chàng đến gần, dùng cái nhẫn đả huyệt ở ngón tay giữa điểm luôn hai đại huyệt. Nàng điểm ngã Trương Vô Kỵ rồi, tay phải xoay lại, nhắm ngay Thái Dương con a hoàn đánh tới.
Thế nhưng bàn tay chưa đụng vào người nó, Dương Bất Hối thấy huyệt đan điền đột nhiên nóng hổi, toàn thân tê dại, đành phải buông tay con a hoàn ra, hai đầu gối nhũn ra, ngồi phịch xuống ghế. Thì ra nàng sử kình đánh vào huyệt đạo của Trương Vô Kỵ, tuy thần công của Trương Vô Kỵ mới luyện thành chưa có năng lực hộ thể nhưng đã có thể phản kích lại, Cửu Dương chân khí liền theo đó chạy khắp các mạch lạc của Dương Bất Hối.
Con a hoàn nhặt thanh trường kiếm dưới đất lên, nói:
- Tiểu thư, cô vẫn thường nghi con muốn hại cô. Bây giờ nếu muốn giết cô, thật dễ dàng như thổi tro trong bếp, thế nhưng con không có ý ấy đâu.
Nói xong đem trường kiếm bỏ lại trong bao, treo trở lại lên vách. Trương Vô Kỵ đứng lên nói:
- Em xem, anh có nói sai đâu.
Chàng bị điểm trúng huyệt đạo rồi, trong giây lát chân khí liền xung giải, lập tức có thể hành động được. Dương Bất Hối mắt trừng trừng nhìn chàng, trong lòng thật lạ lùng, lúc này chân tay đã hết tê dại, nghĩ đến an nguy của phụ thân, vội đứng lên nói:
- Cha em bị thương ra sao? Vô Kỵ ca ca, anh ở đây chờ em, khi quay về mình sẽ gặp lại. Mấy năm nay anh có khỏe không? Em lúc nào cũng nhớ anh ...
Nàng vừa nói vừa chạy ra ngoài. Trương Vô Kỵ hỏi cô tớ gái:
- Cô nương, gã hòa thượng kia chạy vào trong phòng, đột nhiên biến mất, cô có biết ở đây có đường hầm nào không?
Tiểu hoàn hỏi lại:
- Công tử thể nào cũng phải đuổi y cho bằng được ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Gã hòa thượng đó thương thiên hại lý, gây ra biết bao nhiêu tội nghiệt, tôi ... tôi ... dù phải đi đến chân trời góc biển, cũng phải đuổi theo y cho đến cùng.
Đứa tiểu hoàn ngửng đầu lên, nhìn vào mặt chàng. Trương Vô Kỵ nói:
- Cô nương, nếu quả biết được, xin cô chỉ đường cho.
Người tớ gái cắn môi, trầm ngâm giây lát, hạ giọng nói:
- Tính mệnh của tôi do công tử cứu, được rồi, để tôi dẫn công tử đi.
Nàng thổi tắt đèn nến, nắm tay Trương Vô Kỵ kéo đi.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Bố Đại Hòa Thượng là một nhà sư Trung Hoa đời nhà Lương, hình dáng mập mạp, thường mang một cái túi vào chợ xin, rồi bố thí lại cho người khác, có thể coi như một thứ ông già Noel của Phật giáo. Theo truyền thuyết, ông là một bồ tát hóa thân, xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều thời kỳ. Nước ta có ông Ba Bị cũng tương tự. Ở đây chỉ lấy biệt hiệu là Bố Đại hòa thượng chứ không phải vị bồ tát trong Phật giáo thực sự.
[2] Cũng là một nhân vật có thật, tính hoạt kê, được coi như một vị tiên.
[3] Năm nhân vật độc lập không ở dưới quyền ai
[4] tức Thượng đế của Minh giáo
[5] Đứng bên kia núi xem hổ đánh nhau
[6] Ra tay bất ngờ, việc binh không nề hà chuyện lừa dối nhau
[7]Bang phân băng ly chiết, nhi bất năng thủ dã; nhi mưu động can qua ư bang nội. Ngô khủng quí tôn chi ưu, bất tại chuyên du, nhi tại tiêu tường chi nội dã
[8]Thiếu Lâm tăng độc chỉ diệt Minh giáo, Quang Minh Đính thất ma quy Tây thiên.
[9] Thiên tác nghiệt, do khả hoạt. Tự tác nghiệt, bất khả hoạt.
[10] Tiếng lóng chỉ đạo sĩ
[11] phép thở của con rùa, dùng rất ít không khí là một phương pháp thở của đạo gia
[12] Hai con rồng tranh nhau viên ngọc
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top