y thien2
quá chạy cả lên trần, Diêm vương phán quan thượng thổ hạ tả, không phải tội nghiệt sao?
Nói xong cười lên ba tiếng, ném trường kiếm, ôm thi thể Bạch Qui Thọ, lại khóc ba tiếng rồi bỏ đi.
Trận đấu trong rừng kinh tâm động phách đêm hôm đó, Thường Ngộ Xuân và Trương Vô Kỵ hai người chứng kiến từ đầu đến cuối, nghe rõ từng lời, đến khi Đinh Mẫn Quân đi rồi, hai người mới thở ra. Trương Vô Kỵ nói:
- Thường đại ca, Kỷ cô nương là vợ chưa cưới của Ân lục thúc tôi, cái bà họ Đinh kia lại nói ... nói cô ấy có con với người khác, đại ca nghĩ cái đó thật hay giả?
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Con mụ đó nói năng quấy quá, đừng tin làm gì.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế, sau này tiểu đệ sẽ nói với Ân lục thúc dạy cho mụ một trận, để cho Kỷ cô nương khỏi bực mình.
Thường Ngộ Xuân vội đáp:
- Đừng, đừng, nhất định không nên nói cho Ân lục thúc của ngươi biết chuyện này, hiểu chưa? Ngươi nói ra là hỏng việc hết đấy.
Trương Vô Kỵ lạ lùng:
- Sao thế?
Thường Ngộ Xuân nói:
- Thì những ngôn ngữ khó nghe như thế, ngươi chẳng nên nói cho ai cả.
Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, một hồi sau mới hỏi lại:
- Thường đại ca, có phải đại ca sợ rằng việc này có thật, đúng không?
Thường Ngộ Xuân thở dài:
- Quả thật ta cũng không biết nữa.
Đến khi trời sáng, Thường Ngộ Xuân đứng lên, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng, hăng hái đi tiếp. Y nghỉ ngơi đã nửa đêm, tinh thần khôi phục, bước đi nhanh nhẹn hơn nhiều. Đi được vài dặm, chuyển qua một con đường lớn. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: "Hồ sư bá ẩn cư Hồ Điệp Cốc là nơi thật hoang tịch, sao lại có đường lớn đi tới là sao? Hay mình đi nhầm đường rồi?"
Y đang định tìm người dân vùng này hỏi thăm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, bốn tên lính Mông Cổ tay múa trường đao phi ngựa đến, kêu lớn:
- Mau lên, mau lên!
Đi đến sau lưng Thường Ngộ Xuân, giơ đao nhứ nhứ xua y đi về phía trước. Thường Ngộ Xuân kêu khổ thầm" Không ngờ hôm nay thân vào miệng cọp, lại còn chết thêm cái mạng của Trương huynh đệ nữa".
Lúc này y võ công mất hết, dù một tên lính tầm thường cũng không đánh nổi, đành lết từng bước đi tới. Chỉ thấy trên đường bách tính lục tục kéo ra, tất cả đều bị quân Nguyên dồn như súc vật. Thường Ngộ Xuân bụng nghĩ thầm "Thì ra Thát tử đang lùa dân chứ không phải định bắt ta may ra mình còn có đường sống". Y bèn đi theo đoàn người, đến một ngã ba, thấy một tên quân quan Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa, chỉ huy sáu bảy chục tên lính, người nào cũng cầm đại đao. Người dân đi ngang qua đầu ngựa, ai ai cũng quì xuống khấu đầu. Một tên người Hán thông dịch hỏi:
- Họ gì?
Người đó đáp xong, tên Nguyên binh bên cạnh thuận chân liền đá vào mông một cái, có khi thì một cái bạt tai, người dân liền vội vàng chạy đi. Gặp một người dân nói họ Trương, tên lính Mông Cổ liền giữ lại, bắt y đứng qua một bên. Có người dân khám trong giỏ thấy có một chiếc dao cắt rau mới mua ở chợ, tên Nguyên binh cũng bắt đứng qua một bên.
Trương Vô Kỵ xem thấy tình thế không ổn, ghé vào tai Thường Ngộ Xuân nói nhỏ:
- Thường đại ca, đại ca giả vờ vấp ngã lăn qua một bên chui vào đám cỏ cởi bỏ chiếc đao đi.
Thường Ngộ Xuân vỡ lẽ, lập tức hai chân khụy xuống, lăn luôn vào trong đám cỏ dày, cởi bội đao ra, giả đò suýt soa, khập khiễng đi đến trước tên quan quân. Tên Hán nhân thông dịch chửi:
- Đồ mọi, không biết qui củ gì hết, thấy quan lớn sao không khấu đầu?
Thường Ngộ Xuân nghĩ tới toàn gia của cố chủ Chu Tử Vượng bị quân Mông Cổ giết, lúc này thà chết chứ không chịu lạy tên Thát tử. Một tên Nguyên binh thấy chàng cứng đầu, liền quét vào khoeo chân, Thường Ngộ Xuân đứng không vững liền phải quị xuống. Tên thông dịch người Hán quát hỏi:
- Họ gì?
Thường Ngộ Xuân chưa kịp hồi đáp, Trương Vô Kỵ nói thay:
- Họ Tạ, đây là anh tôi.
Tên lính Nguyên giơ chân đá đít Thường Ngộ Xuân một cái, nói:
- Cút mau.
Thường Ngộ Xuân tức giận vô cùng, đứng dậy, ngấm ngầm lập một trọng thệ: " Trong đời ta nếu không đuổi được bọn Thát tử ra ngoài sa mạc, Thường Ngộ Xuân này không kể là người". Chàng cõng Trương Vô Kỵ lên, hối hả đi về hướng bắc, chỉ mới được vài chục bước nghe tiếng người kêu la thảm thiết, hai người quay đầu lại, thấy hơn chục người dân bị bắt đứng qua một bên đã đầu một nơi, thân một nẻo nằm chết trên mặt đất.
Thì ra thời đó chính sách bạo ngược, dân chúng nổi lên thật nhiều, đại thần Mông Cổ có ý giết sạch người Hán, nhưng giết sao cho xuể. Thái sư Ba Diên[6] lại ra một pháp lệnh rất tàn ác, giết tất cả những người Hán nào mang các họ Trương, Vương, Lưu, Lý, Triệu. Người Trung Hoa bốn họ Trương, Vương, Lưu, Lý là đông nhất, còn họ Triệu là hoàng tộc Tống triều. Nếu bốn họ đó giết hết rồi, nguyên khí người Hán ắt tổn thất nặng nề.
Về sau những người trong các họ đó hàng Nguyên làm quan cũng rất đông, có đại thần Mông Cổ khuyến cáo hoàng đế, mới bãi bỏ cái lệnh đồ sát quái gở đó, nhưng dân đen chết vì lệnh dụ này cũng không biết bao nhiêu mà kể.
Thường Ngộ Xuân đi nhanh hơn, đến những vùng hoang vắng, biết rằng Hồ Thanh Ngưu ẩn cư chắc ở đâu đó, chỉ cần kiên nhẫn tìm kiếm. Trên đường đi hoa cỏ rực rỡ đủ màu, khắp núi rừng chỗ nào cũng toàn là hoa, nắng xuân nhấp nhô nhưng nghĩ đến thảm trạng vừa qua còn lòng dạ nào mà thưởng ngoạn. Đi qua mấy chỗ quẹo, thấy trước mặt là một vách núi, đường đã hết rồi.
Chính khi còn đang ngơ ngác chưa biết đâu, bỗng thấy mấy con bướm từ trong những khóm hoa bay ra. Trương Vô Kỵ nói:
- Nơi đó nếu gọi là Hồ Điệp Cốc thì mình cứ đi theo những con bướm này xem sao.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Tốt lắm.
Y liền đi vào trong khu rừng hoa. Đi khỏi rừng hoa, trước mặt là một con đường mòn. Thường Ngộ Xuân đi thêm một quãng thấy mỗi lúc bướm một nhiều, có con trắng có con vàng, con đen con tím dập dìu. Bướm cũng không sợ, đến gần đậu cả lên đầu, trên vai, trên tay hai người. Hai người biết đã đến Hồ Điệp Cốc nên đều thấy phấn khởi. Trương Vô Kỵ nói:
- Để tiểu đệ đi chầm chậm được rồi.
Thường Ngộ Xuân bèn bỏ y xuống đất. Đi đến quá ngọ, thấy có một giòng suối chảy lượn quanh sáu, bảy gian nhà tranh, trước sau mỗi gian nhà đều có vườn, trồng đủ loại hoa cỏ. Thường Ngộ Xuân nói:
- Đến rồi, đây hẳn là vườn thuốc của Hồ sư bá.
Y đến trước những căn nhà tranh, cung kính lớn tiếng gọi:
- Đệ tử Thường Ngộ Xuân khấu kiến Hồ sư bá.
Một lúc sau, trong nhà đi ra một tiểu đồng, nói:
- Mời vào.
Thường Ngộ Xuân liền dắt tay Trương Vô Kỵ đi vào trong nhà, thấy một người tuổi trạc trung niên, thần thanh cốt tú, chăm chú xem một đồng nhi khác quạt lò đun thuốc, trong nhà đầy mùi dược thảo. Thường Ngộ Xuân quì xuống khấu đầu, nói:
- Hồ sư bá mạnh khỏe chứ.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, người này chắc hẳn phải là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu nên cũng hành lễ chào một câu:
- Hồ tiên sinh.
Hồ Thanh Ngưu nhìn Thường Ngộ Xuân gật đầu, nói:
- Việc của Chu Tử Vượng ta cũng đã có biết. Âu cũng là cái số, bọn Thát tử khí vận chưa tuyệt, bản giáo chưa đến thời kỳ quang đại.
Ông ta đưa tay cầm mạch trên cổ tay Thường Ngộ Xuân, cởi áo ra nhìn vết thương trên ngực, nói:
- Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng của phiên tăng, đúng ra thì cũng không sao cả, nhưng vì sau khi trúng chưởng rồi sử lực quá nhiều, hàn độc công tâm, trị cho khỏi cũng mất khá nhiều công phu.
Chỉ vào Trương Vô Kỵ hỏi:
- Còn thằng bé này là ai?
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Sư bá, y tên là Trương Vô Kỵ, là con trai của Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương.
Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, mặt có vẻ giận dữ, nói;
- Người của phái Võ Đương ư? Ngươi đem y đến đây làm gì?
Thường Ngộ Xuân liền đem chuyện y bảo vệ con của Chu Tử Vượng đào tẩu ra sao, bị quan binh Mông Cổ vây bắt, Trương Tam Phong giải cứu thế nào nói cho Hồ Thanh Ngưu nghe, sau cùng kết luận:
- Đệ tử được thái sư phụ của y cứu mạng, cầu khẩn sư bá phá lệ, cứu y một lần.
Hồ Thanh Ngưu cười nhạt đáp:
- Ngươi khẳng khái nhỉ, biết báo đáp ân tình. Hừ, thế nhưng Trương Tam Phong cứu ngươi chứ có phải cứu ta đâu. Ngươi đã thấy ta phá lệ bao giờ chưa?
Thường Ngộ Xuân quì xuống đất, liên tiếp rập đầu, nói:
- Sư bá, cha của tiểu huynh đệ này vì không chịu bán rẻ bạn bè, cam nguyện tự vẫn, là một hảo hán tử tiếng tăm lừng lẫy.
Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:
- Hảo hán tử? Trong thiên hạ biết bao nhiêu là hảo hán tử, ta trị được bao nhiêu người? Y chẳng phải là người của phái Võ Đương ư? Là người danh môn chính phái sao còn kẻ tà giáo ngoại đạo như ta chữa trị?
Thường Ngộ Xuân nói:
- Mẫu thân của Trương huynh đệ là con gái của Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, y có một nửa là người của bản giáo.
Hồ Thanh Ngưu nghe đến đây, lòng thấy dịu lại, gật đầu:
- Thôi, ngươi đứng dậy. Nếu y là cháu ngoại của Ân Bạch Mi Thiên Ưng giáo thì lại khác.
Y đến trước mặt Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nói:
- Này cháu, ta từ trước đến nay có qui củ, quyết không chữa trị cho người xưng là hiệp nghĩa, danh môn chính phái. Nếu mẹ cháu là người trong bản giáo, trị thương cho cháu không phải là phá lệ. Ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương vốn là một trong tứ đại pháp vương của Minh giáo, sau này y sáng lập Thiên Ưng giáo vì bất hòa với anh em, chứ không phải vỉ phản lại Minh giáo, có thể coi như một chi phái của Minh giáo. Cháu phải đáp ứng một điều, sau khi ta chữa cháu khỏi rồi, cháu phải quay về với ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, từ nay không còn là đệ tử của phái Võ Đương nữa.
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, Thường Ngộ Xuân đã nói:
- Sư bá, chuyện đó không được. Trương Tam Phong Trương chân nhân đã nói từ trước với đệ tử rằng: "Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, dù có chữa nó khỏi bệnh, phái Võ Đương chúng tôi cũng không chịu ơn quí giáo đâu".
Hồ Thanh Ngưu lông mày dựng ngược, nổi giận, gay gắt nói:
- Hừ, Trương Tam Phong là cái gì? Y coi thường chúng ta như thế, tại sao ta phải vì y mà xuất lực? Này cháu, trong lòng cháu quyết định thế nào?
Trương Vô Kỵ biết rằng âm độc đã lan ra khắp lục phủ ngũ tạng trong cơ thể rồi, dù nội lực thâm hậu như thái sư phụ, cũng đành bó tay, mình có sống được hay không, toàn do vị thần y này chịu hay không chịu chữa. Thế nhưng thái sư phụ lúc chia tay dã từng thiết tha nhắn nhủ, quyết chớ nên hãm thân ma giáo, để rơi vào cảnh vạn kiếp không thoát ra được. Tuy chưa biết ma giáo xấu xa đến chừng nào, vì sao mỗi lần nhắc đến thái sư phụ và các sư bá sư thúc đều ghét cay ghét đắng, nhưng y đối với thái sư phụ sùng kính vô tỉ, tin tưởng chắc chắn là ông nói gì quyết không sai, nghĩ thầm: "Thà rằng để ông ta không chịu chữa, hàn độc phát tác chết đi còn hơn vi bội lời giáo huấn của thái sư phụ". Y lớn tiếng nói:
- Hồ tiên sinh, mẹ cháu là đường chủ của Thiên Ưng giáo, cháu tin rằng Thiên Ưng giáo chắc phải tốt đẹp. Thế nhưng thái sư phụ đã từng dặn cháu rằng quyết không thể gia nhập ma giáo, cháu đã bằng lòng, không lẽ nói mà không giữ lời? Nếu tiên sinh không trị thương cho cháu, thì cũng đành vậy. Nếu cháu tham sống sợ chết, miễn cưỡng theo lời của tiên sinh, thì dù có trị lành cho cháu, thì trên đời này cũng chỉ thêm một kẻ bất tín bất nghĩa, có ích lợi gì?
Hồ Thanh Ngưu trong bụng cười khẩy: "Thằng nhãi này to mồm khoác lác, làm ra vẻ anh hùng hảo hán, để ta không trị cho ngươi, xem ngươi có quì xuống cầu khẩn hay không?". Quay qua Thường Ngộ Xuân nói:
- Y đã quyết ý không gia nhập bản giáo, Ngộ Xuân, ngươi bảo y đi ra, trong nhà Hồ Thanh Ngưu đời nào có người chết vì bệnh bao giờ?
Thường Ngộ Xuân vốn biết vị sư bá này tính tình chấp nê dị thường, nói một là một, ông ta đã không chịu chữa rồi, có cầu cũng vô ích bèn quay qua Trương Vô Kỵ nói:
- Tiểu huynh đệ, Minh giáo tuy không chung đường lối với các nhân vật hiệp nghĩa trong danh môn chính phái, nhưng từ thời Đại Đường đến nay, đời nào cũng có anh hùng hảo hán. Huống chi ông ngoại ngươi là giáo chủ Thiên Ưng giáo, mẹ ngươi là đường chủ Thiên Ưng giáo, ngươi chịu nghe lời Hồ sư bá, sau này Trương chân nhân có hỏi thì ta chịu hết cho.
Trương Vô Kỵ đứng thẳng dậy, nói:
- Thường đại ca, đại ca như vậy là đã hết lòng hết dạ, thái sư phụ của tiểu đệ không trách gì đại ca đâu.
Nói xong ngang nhiên đi ra cửa. Thường Ngộ Xuân kinh hoảng, vội hỏi:
- Ngươi đi đâu đó?
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu tôi chết ở Hồ Điệp Cốc, e rằng sẽ làm hỏng mất cái tên "Điệp Cốc Y Tiên".
Y nói xong xăm xăm đi ra khỏi căn nhà tranh. Hồ Thanh Ngưu cười nhạt nói:
- Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu đã nổi tiếng trong thiên hạ, chết ở bên ngoài cái "Chuồng Bò[7]" trong Hồ Điệp Cốc, đâu phải chỉ một mình thằng bé này.
Thường Ngộ Xuân chẳng nghe ông ta nói thêm, vội chạy ra đuổi theo Trương Vô Kỵ, bế xốc thằng bé vào, thở hổn hển nói:
- Hồ sư bá, sư bá nhất định không cứu y, phải không?
Hồ Thanh Ngưu cười đáp:
- Ngoại hiệu của ta là Kiến Tử Bất Cứu, bộ ngươi chưa biết hay sao mà còn hỏi.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Thế còn vết thương trên người đệ tử, sư bá sẽ chữa phải không?
Hồ Thanh Ngưu đáp:
- Đúng vậy.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Được, đệ tử đã nhận lời với Trương chân nhân là sẽ chữa cho chú em này, không thể nào để cho người trong chính phái nói là đệ tử Minh giáo nói không giữ lời. Đệ tử không cầu sư bá trị bệnh, sư bá trị cho vị huynh đệ này đi. Một mạng đổi một mạng, sư bá cũng không phải thiệt thòi.
Hồ Thanh Ngưu nghiêm mặt đáp:
- Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng, thương thế không phải nhẹ. Nếu như ta lập tức trị cho ngươi thì có thể khỏi hẳn. Qua bảy ngày thì chỉ mong sống được nhưng võ công từ rày sẽ không bảo toàn. Mười bốn ngày sau nếu không có lương y trị cho, thương thế phát ra thì hết cứu.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Đó là công lao thấy chết không cứu của sư bá, đệ tử chết cũng không oán giận.
Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Ta không cần ông cứu, không cần ông cứu.
Y quay đầu qua Thường Ngộ Xuân nói:
- Thường đại ca, bộ đại ca nghĩ Trương Vô Kỵ này là phường tiểu nhân đê hèn hay sao? Đại ca đem tính mạng của mình đánh đổi tính mạng của tiểu đệ, dù tiểu đệ có sống thì đời cũng có gì thú vị nữa đâu.
Thường Ngộ Xuân không muốn tranh cãi nên cởi thắt lưng, trói chặt thằng nhỏ vào trên ghế. Trương Vô Kỵ vội nói:
- Đại ca không thả ta ra, ta sẽ chửi cho mà xem.
Thấy Thường Ngộ Xuân không thèm lý tới, y liền chửi lớn:
- Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu, thật đúng là ngu như bò, không bằng con vật.
Hồ Thanh Ngưu thấy y chửi bậy bạ cũng không nổi giận, chỉ lạnh lùng nhìn y. Thường Ngộ Xuân nói:
- Hồ sư bá, Trương huynh đệ, xin cáo từ. Ta đi tìm thầy chữa thuốc.
Hồ Thanh Ngưu cười nhạt:
- Trong tỉnh An Huy này không có thầy lang nào cho ra hồn cả, trong bảy ngày ngươi chưa ra khỏi cảnh giới của tỉnh An Huy.
Thường Ngộ Xuân ha hả cười:
- Có sư bá thấy chết không cứu, thì cũng có sư điệt đáng sống không chết.
Nói xong hùng dũng đi ra cửa. Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:
- Ngươi bảo một mạng đổi một mạng, nhưng ta đã nhận lời đâu? Cả hai ta đều không cứu.
Tiện tay y nhặt trên bàn một khúc sừng hươu, nghe vù một tiếng, ném ra, trúng ngay huyệt đạo ở khoeo chân Thường Ngộ Xuân. Thường Ngộ Xuân kêu ối một tiếng, ngã lăn ra đất, không đứng dậy được.
Hồ Thanh Ngưu đến gần cởi dây trói cho Trương Vô Kỵ, nắm hai cổ tay thằng nhỏ, định vứt nó ra ngoài để cho hai người sống chết mặc bay. Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Ngươi làm gì thế?
Hàn độc xông lên đầu não, lập tức bất tỉnh nhân sự.
[1] Lên tiếng ủng hộ
[2] Xem thêm Minh giáo, khảo luận của người dịch
[3] Thung lũng có nhiều bướm
[4] Hoàn là tên đất ngày xưa, nay thuộc tỉnh An Huy, có con sông Dương Tử (Trường giang) chảy qua chia thành mạn bắc (Hoàn Bắc) và mạn nam (Hoàn Nam)
[5] ám khí hình đuôi con rết
[6] Bayan, thái sư trong khoảng 1328-1340
[7] Thanh Ngưu là con bò đen nên ông ta ví nhà của mình là cái chuồng bò
Hồi 12 - CHÂM KỲ CAO HỀ DƯỢC KỲ HOANG
đây nhưng nghiệp chưa tròn,
Hoa Đà, Biển Thước cũng còn bó tay.
Hồ Thanh Ngưu vừa cầm cổ tay Trương Vô Kỵ, thấy mạch của thằng nhỏ đập rất lạ lùng, không khỏi kinh hãi, vội ngưng thần xem xét, nghĩ thầm: "Hàn độc thằng bé này bị trúng thật là cổ quái, không lẽ Huyền Minh thần chưởng chăng? Chưởng pháp này thất truyền đã lâu, trên đời này đâu còn ai biết sử dụng". Lại nghĩ tiếp: "Nếu không phải là Huyền Minh thần chưởng, thì là cái gì? Âm hàn độc địa thế này, không có môn chưởng lực nào khác cả. Y trúng phải chưởng lực cũng đã lâu, sao vẫn chưa chết, cũng thật lạ kỳ. Đúng rồi, lão đạo Trương Tam Phong dùng nội lực thâm hậu của mình giúp nó sống lây lất, đến bây giờ âm độc đã lan vào khắp lục phủ ngũ tạng, bám sâu ở trong đó, chỉ có thần tiên mới cứu nó sống được thôi".
Nghĩ vậy y bỏ Trương Vô Kỵ trở lại trên ghế. Qua một lúc sau, Trương Vô Kỵ từ từ tỉnh lại, thấy Hồ Thanh Ngưu ngồi trước mặt, đăm đăm nhìn ngọn lửa trong lò nấu thuốc, xuất thần suy nghĩ, còn Thường Ngộ Xuân vẫn còn nằm ở bãi cỏ trước nhà. Ba người ba tâm sự khác nhau, chẳng ai nói một câu nào.
Hồ Thanh Ngưu cả đời mê say nghề thuốc, những chứng bệnh khó khăn tưởng như bó tay đến y đều chữa khỏi, nên mới được cái danh hiệu Y Tiên. Chữa bệnh mà được chữ tiên có nghĩa là kỹ thuật thần kỳ lắm, không phải người thường. Thế nhưng hàn độc của Huyền Minh thần chưởng, y trong đời chưa từng gặp qua, mà trúng rồi lại dây dưa mấy năm không chết đến khi hàn độc lan vào lục phủ ngũ tạng thì lại càng không thể có được. Y đã định không chữa cho Trương Vô Kỵ, nhưng khi gặp được cái chứng quái lạ, cả đời chưa chắc gặp này, có khác gì tửu đồ gặp rượu ngon, kẻ háu ăn ngửi mùi thịt, làm sao bỏ cho nổi?
Nghĩ ngợi một hồi lâu, sau cùng y nghĩ ra một cách: "Ta cứ chữa cho nó khỏi đã, sau đó sẽ giết nó đi". Thế nhưng muốn đuổi được hết âm độc trong ngũ tạng lục phủ ra, đâu phải dễ dàng. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ mấy tiếng đồng hồ, lấy ra mười hai miếng đồng nhỏ, vận nội lực cắm vào các huyệt Trung Cực ở dưới đan điền, Thiên Đột ở dưới cổ, Kiên Tỉnh ở trên vai ... tổng cộng mười hai chỗ. Huyệt Trung Cực là điểm tụ hội của Túc Tam Âm và Nhâm Mạch. Thiên Đột thì là chổ gặp nhau của Âm Duy và Nhâm Mạch, còn Kiên Tỉnh thì là điểm hội tụ của Thủ Túc Thiếu Dương, Túc Dương Minh, Dương Duy. Mười hai miếng đồng đó cắm xuống rồi, mười hai kinh thường mạch và kỳ kinh bát mạch liền bị phân cách ra.
Trong cơ thể con người tâm, phế, tì, can, thận là ngũ tạng, thêm tâm bao sáu bộ phận đó thuộc âm; vị, đại trường, tiểu trường, đảm, bàng quang, tam tiêu là lục phủ, sáu bộ phận đó thuộc dương[1]. Ngũ tạng lục phủ cộng thêm tâm bao gọi là thập nhị kinh thường mạch. Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Âm Duy, Dương Duy, Âm Kiều, Dương Kiều tám mạch không thuộc các mạch chính kinh âm dương, không phối hợp biểu lý, đi theo những đường riêng, gọi là kỳ kinh bát mạch.
Sau khi các thường mạch và kỳ kinh trên thân thể Vô Kỵ cách biệt ra rồi, âm độc trong ngũ tạng lục phủ không còn thông được với nhau, Hồ Thanh Ngưu mới dùng ngải hơ[2] hai huyệt Vân Môn, Trung Phủ trên đầu vai, sau đó lại hơ các huyệt Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế, Thiếu Thương từ cánh tay xuống đến ngón tay cái, mười một huyệt đó thuộc Thủ Thái Âm Phế Kinh cốt để tiêu giảm âm độc trong phổi của Vô Kỵ. Cách đó lấy nhiệt công hàn, khổ sở mà Trương Vô Kỵ phải chịu cũng chẳng kém gì lúc âm độc phát tác. Cứu xong Thủ Thái Âm Phế Kinh, tiếp đến Túc Dương Minh Vị Kinh, Thủ Quyết Âm Tâm Bao Kinh ...
Khi ra tay, Hồ Thanh Ngưu chẳng cần để ý đến Trương Vô Kỵ có đau hay không, ông ta dùng ngải hơ đến nỗi toàn thân thằng bé chỗ nào cũng đen xì. Trương Vô Kỵ không tỏ ra yếu hèn, nghĩ thầm: "Chắc ngươi tưởng ta sẽ rên rỉ kêu la, ta nhất định không thèm xuýt xoa lấy một tiếng". Y tiếp tục nói chuyện với Hồ Thanh Ngưu về phương vị các huyệt đạo. Tuy y không thông y lý, nhưng nghĩa phụ Tạ Tốn đã từng truyền dạy phép điểm huyệt, giải huyệt, và thuật chuyển dịch huyệt đạo. Thành thử, các vị trí huyệt đạo y cũng rất tỏ tường. So với vị đương thế thần y này, kiến thức của Vô Kỵ về kinh mạch thật là thô thiển, nhưng có liên quan tới y lý chính là ngành mà Hồ Thanh Ngưu rất tâm đắc. Hồ Thanh Ngưu một mặt cứu ngải để rút chất độc trong cơ thể y ra, một mặt giảng giải thao thao bất tuyệt.
Trương Vô Kỵ nghe vào tai, mười phần thì chín phần chẳng hiểu chi cả, nhưng không dám để lộ là "Phái Võ Đương chúng tôi chẳng biết gì cả", thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, cùng ông ta biện luận một hồi. Hồ Thanh Ngưu lại càng xiển thuật, đến khi biết ra "thằng nhãi này thực ra có biết gì đâu, chỉ nói năng lăng nhăng" thì cũng đã mất bao nhiêu là nước bọt. Thế nhưng ở chỗ thâm sơn cùng cốc như thế này, trừ vài đứa tiểu đồng nấu cơm, đun thuốc có ai bạn bè đâu, hôm nay có thằng bé này, cùng y nói nọ nói kia về huyệt đạo, kể cũng thích thú.
Đến khi hơ hết mấy trăm huyệt trên mười hai thường mạch thì trời đã xế chiều. Tiểu đồng dọn cơm lên để trên bàn, lại đem một mâm cơm và rau đưa ra bên ngoài cho Thường Ngộ Xuân ăn. Đêm đó Thường Ngộ Xuân phải ngủ ở bên ngoài. Trương Vô Kỵ cũng không ngỏ lời cầu khẩn Hồ Thanh Ngưu, đến khi đi ngủ y đi ra nằm cạnh Thường Ngộ Xuân, hai người cùng ngủ trên bãi cỏ, để tỏ cái lòng có nạn cùng chịu. Hồ Thanh Ngưu giả như nhìn mà không thấy, chẳng thèm nói đến nhưng trong bụng cũng lấy làm lạ: "Thằng bé này quả thực không giống những trẻ con khác".
Sáng sớm hôm sau, Hồ Thanh Ngưu lại dùng hết nửa ngày để hơ các huyệt đạo trên kỳ kinh bát mạch của Vô Kỵ. Mười hai kinh thường mạch cũng tựa như sông cái sông con, luôn luôn chảy không ngừng, kỳ kinh bát mạch cũng tựa như hồ biển, súc tích tàng trữ, thành ra muốn trừ khử âm độc trong kỳ kinh bát mạch, xem ra lại còn khó hơn. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ viết một toa thuốc, khước tà phù chính, bổ hư tả thực, dùng phương pháp gậy ông đập lưng ông "dĩ hàn trị hàn". Trương Vô Kỵ uống thang thuốc đó rồi, bị lạnh run hết nửa ngày nhưng sau đó tinh thần thêm thư thái hơn trước.
Sau buổi trưa, Hồ Thanh Ngưu lại châm cứu cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cố nói khích ông ta để ông ta chữa cho Thường Ngộ Xuân nhưng Hồ Thanh Ngưu không thèm lý đến, chỉ lạnh lùng đáp:
- Cái ngoại hiệu Điệp Cốc Y Tiên của ta có điểm danh quá kỳ thực. Chữ tiên đâu có thể vọng xưng được đâu? Thế nhưng người ta gọi là Kiến Tử Bất Cứu ta lại thích hơn.
Khi đó ông ta đang châm tại huyệt Ngũ Khu giữa hông và đùi của Trương Vô Kỵ, huyệt đó là nơi hội tụ của Túc Thiếu Dương và Đới Mạch, bên cạnh thủy đạo một tấc năm phân. Trương Vô Kỵ nói:
- Trên cơ thể con người thì đới mạch kỳ lạ nhất. Hồ tiên sinh, ông có biết không, có người không có đới mạch đó.
Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, nói:
- Chỉ nói bậy. Làm sao lại không có đới mạch được?
Trương Vô Kỵ vốn chỉ thuận miệng nói lăng nhăng, liền tiếp:
- Thiên hạ rộng lớn như thế, chuyện lạ đến đâu cũng có, huống chi đới mạch theo cháu chẳng có lợi ích gì cả.
Hồ Thanh Ngưu nói:
- Đới mạch kỳ lạ thì đúng, nhưng bảo là vô dụng thì sai. Những y sư tầm thường không biết cái tinh áo bên trong, châm kim cắt thuốc không khỏi sai lầm. Ta có viết một cuốn Đới Mạch Luận, ngươi đọc thì biết.
Ông ta liền đi vào phòng, lấy ra một bộ sách mỏng, giấy đã vàng đem ra đưa cho Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giở trang đầu, thấy viết:
Mười hai kinh và kỳ kinh thất mạch, đều lưu chuyển đi lên đi xuống. Riêng đới mạch bắt đầu từ bụng, bên dưới mạng sườn, đi quanh thân mình một vòng ở eo, như cái đai thắt ngang. Xung, nhâm, đốc ba mạch cùng bắt đầu nhưng đi ba hướng khác nhau, một gốc mà ba ngọn, cùng quấn chung quanh đới mạch.
Sau đó ông bình luận những sai lầm trong y thư xưa nay, Thập Tứ Kinh Phát Huy nói đới mạch có bốn huyệt, Châm Cứu Đại Thành nói đới mạch có sáu huyệt, thực ra có đến mười huyệt, trong đó hai huyệt ẩn hiện vô chừng, khi có khi không, rất khó biện. Trương Vô Kỵ đọc tiếp xuống dưới, tuy không rõ những áo diệu bên trong, nhưng cũng biết cuốn sách này kiến thức không phải tầm thường nên đem những chỗ ông phê bình cổ nhân ra thỉnh giáo.
Hồ Thanh Ngưu rất vui vẻ, một mặt tiếp tục châm, một mặt giải thích, đến khi mười huyệt của đới mạch đã châm xong, ông ta mới ngồi nghỉ một chút, nói tiếp:
- Ta còn một bộ Tí Ngọ Châm Cứu Kinh ghi tất cả những điều tâm huyết trong đó.
Ông ta vào trong phòng đem ra một bộ tất cả mười hai quyển y kinh chép tay. Hồ Thanh Ngưu biết thằng bé này không biết gì về y lý, nhưng y ẩn cư nơi hoang cốc đã lâu, cũng cảm thấy tịch mịch. Những người trước đây đến xin chữa bệnh tuy rất đông, nhưng ai ai cũng chỉ khen ông ta y thuật như thần, những lời đó hai mươi năm nay nghe đã chán. Thực ra chuyện ông ta hãnh diện nhất trong đời không phải "y thuật" tinh tường, mà ở tại "y học", trong đó nhiều điều phát minh sáng kiến mà những người đi trước chưa ai tìm ra. Ông ta biết những thành tựu đó vô cùng to lớn, nhưng chỉ có thể cô phương tự thưởng[3], khiến không khỏi bẽ bàng. Bây giờ thấy thiếu niên này ham thích đọc sách trước tác của mình, ngầm cảm thấy có cái tình tri kỷ, nên đem bộ sách đắc ý cho xem.
Trương Vô Kỵ giở ra xem, thấy mỗi trang viết kín mít những chữ nhỏ bằng con ruồi theo lối chữ tiểu khải, huyệt đạo bộ vị, thuốc men phân lượng, thời khắc và cách châm nông sâu, không gì không chú thích minh bạch. Y bỗng tâm niệm một điều: "Mình duyệt xem có đoạn nào nói về cách chữa thương cho Thường đại ca hay không?" Giở đến quyển số chín Võ Học Thiên trong đó có phần Chưởng Thương Trị Pháp thấy có Hồng Sa Chưởng, Thiết Sa Chưởng, Độc Sa Chưởng, Miên Chưởng, Khai Sơn Chưởng, Phá Bi Chưởng ... các loại chưởng lực, các chứng thương, cách cấp cứu, cách trị liệu, đều có ghi đầy đủ. Đọc hết hơn một trăm tám mươi loại, quả nhiên có Tiệt Tâm Chưởng.
Trương Vô Kỵ mừng lắm, lập tức chăm chú đọc kỹ một lần, trong đó mô tả kỹ càng, nhưng trị pháp lại thật giản lược, chỉ nói "chữa bằng cách châm bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì, theo biến chuyển của âm dương, ngũ hành, xét hàn, thử, táo, thấp, phong[4] năm loại thời tiết, tùy tình trạng hỉ, nộ, ưu, tư, khủng[5] ngũ tình của bệnh nhân mà bốc thuốc".
Y đạo Trung quốc biến hóa đa đoan, cùng một chứng bệnh, người thầy thuốc phải quan sát trời nóng hay lạnh, đêm hay ngày, bên ngoài hay bên trong, đầy hay vơi, đầu hay cuối, động hay tĩnh, đàn ông hay đàn bà, người lớn hay trẻ em ... tùy từng trường hợp mà đưa ra phương thức chữa, mọi thay đổi đều do y sinh chứ không có qui tắc nhất định. Chính vì thế mà thầy thuốc giỏi với thầy thuốc xoàng cách nhau một trời một vực. Cái áo diệu đó Trương Vô Kỵ không biết, nên đọc phương pháp vài lần cốt chăm chăm nhớ trong đầu. Cuối cùng trong Chưởng Thương Trị Pháp chính là Huyền Minh thần chưởng, có viết các triệu chứng khi bị thương, nhưng tại trị pháp chỉ có ghi một chữ "Không".
Trương Vô Kỵ gập bộ sách lại, cung kính đặt trên bàn, nói:
- Bộ Tí Ngọ Châm Cứu Kinh này của Hồ tiên sinh bác đại tinh thâm, vãn bối đọc mười phần thì chín phần không hiểu gì cả, xin mong được chỉ điểm. "Ngự âm dương ngũ hành chi biến" là thế nào?
Hồ Thanh Ngưu giải thích mấy câu, chợt tỉnh ngộ, nói:
- Ngươi định hỏi làm thế nào để trị thương cho Thường Ngộ Xuân, phải không? Ha ha, chuyện khác thì ta nói, chuyện đó ta không nói.
Vô Kỵ không còn cách nào khác hơn, đành phải tra khảo trong các y thư, Hồ Thanh Ngưu để y muốn đọc gì thì đọc, không cấm đoán. Trương Vô Kỵ chăm chú nghiên cứu suốt ngày đêm, quên ăn quên ngủ, không chỉ đọc hết hơn một chục bộ sách Hồ Thanh Ngưu soạn ra, mà cả Hoàng Đế Nội Kinh, Hoa Đà Nội Chiêu Đồ, Mạch Kinh của Vương Thúc Hòa, Thiên Kim Phương, Thiên Kim Dực của Tôn Tư Mạc, Ngoại Đài Bí Yếu của Vương Đảo ... các loại kinh điển trong nghề thuốc, cũng đều đọc cả cốt tìm hiểu ý nghĩa các câu đề cập đến trong phương pháp trị Tiệt Tâm Chưởng, chỗ nào có liên quan là đọc kỹ suy nghĩ. Mỗi ngày Hồ Thanh Ngưu châm cứu cho y hai lần, một lần giờ thìn, một lần giờ thân để trừ âm độc.
Cứ như thế mấy ngày liền, Trương Vô Kỵ cắm cúi đọc đủ các loại sách, tuy nhớ được một mớ y lý, thang thuốc, nhưng cái tinh diệu trong y học, y tuổi nhỏ học vấn nông cạn, làm sao trong vài ngày mà hiểu được? Bấm ngón tay tính toán, y đến Hồ Điệp Cốc đã sáu ngày. Hồ Thanh Ngưu đã nói thương thế của Thường Ngộ Xuân nếu do ông ta chữa trong vòng bảy ngày có thể khỏi hẳn, ngoài bảy ngày thì dù có trị được võ công cũng mất hết. Thường Ngộ Xuân đã nằm ngoài cỏ sáu ngày sáu đêm, đến hôm nay trời lại đổ mưa. Hồ Thanh Ngưu thấy chỗ y nằm trũng đầy bùn nước, nhưng tuyệt nhiên không lý tới. Trương Vô Kỵ hết sức giận dữ, nghĩ thầm: "Ta đọc trong các sách thuốc, trừ sách do ngươi soạn ra, sách nào cũng viết là phàm người trong y đạo phải có lòng tế thế huệ dân, còn ngươi thân đầy một bụng y thuật, nhưng lại thấy chết không cứu, vậy thì còn gọi là lương y sao được?".
Đến chiều, trời mưa lại càng thêm nặng hạt, sấm chớp ầm ầm, hết tiếng rền nọ lại đến tiếng sét kia. Trương Vô Kỵ nghiến răng, nghĩ thầm: "Ngoài việc ta đánh liều chữa cho Thường đại ca, không còn cách nào khác". Nghĩ vậy y lấy trong tủ thuốc của Hồ Thanh Ngưu ra tám mũi kim vàng, chạy ra ngồi cạnh Thường Ngộ Xuân, nói:
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top