Y thien do long ky chuong 33 - 36
Nguồn: http://book.ipvnn.com
Ỷ Thiên đồ long ký
Ỷ Thiên đồ long ký Hồi 33 TIÊU TRƯỜNG CẦM ĐOẢN Y LƯU HOÀNG
Chung Nam núi cũ,
Hậu duệ Dương gia.
Nếu không lặn lội từ xa,
Biết đâu đầu não chính là kẻ gian.
Trương Vô Kỵ đi dắt hai con ngựa lại, cùng Triệu Mẫn chạy vào quan nội. Chàng nghĩ thầm nếu quả thực nghĩa phụ bị Cái Bang bắt giữ thì thể nào họ cũng dùng ông làm con tin để hiếp chế Minh Giáo nên nhất thời chắc chưa dám làm hại ông ta nhưng thể nào cũng bị chúng làm nhục, còn Chu Chỉ Nhược băng thanh ngọc khiết, gặp phải tay Trần Hữu Lượng gian trá hiểm độc, thêm Tống Thanh Thư vô liêm sỉ, nếu bị bức bách chắc chỉ còn đường chết. Chàng nghĩ bụng như thế, hận không có cánh bay nhưng Triệu Mẫn lại đang bị thương nên không thể nào ngày đêm chạy một mạch thẳng đến Lô Long.
Tối hôm đó hai người trú lại một tiểu khách điếm, Trương Vô Kỵ nằm trên giường càng nghĩ càng lo, bèn đi đến bên cửa sổ phòng Triệu Mẫn, thấy nàng thở đều, đang lúc ngủ say. Chàng đến quầy chưởng quĩ lấy bút nghiên, viết một lá thư nói là việc đang khẩn cấp, nhất định phải ngày đêm không nghỉ ra đi, bao giờ xong việc sẽ tìm cách gặp lại nhau, dặn nàng dưỡng thương cho chu đáo, cứ thư thả không việc gì phải vội về nhà. Chàng lấy chiếc nghiên chặn trên lá thư để ngay trên bàn rồi nhảy ra cửa sổ, ra sức chạy về hướng nam.
Sáng hôm sau chàng liền tìm mua ngựa, trên đường đi liên tiếp đổi thay, suốt ngày đêm ở trên đường, chỉ vài ngày đã đến Lô Long. Mặc dầu chàng đuổi nhanh như thế nhưng trên đường lại không gặp Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư, có lẽ vì ban đêm chàng chạy trên đường thì Trần Tống hai người lúc đó đang ngủ trong khách điếm thành thử không gặp họ.
Lô Long là một thành phố lớn của tỉnh Hà Bắc, đời Đường là nơi đóng đô của Tiết Độ Sứ, qua đời Tống đời Kim mấy lần chiến tranh bị phá hủy rất nhiều, dân cư đông đúc nhưng nguyên khí đến nay vẫn chưa hồi phục. Trương Vô Kỵ chạy khắp các đường lớn đường bé ở Lô Long, các trà lâu tửu quán nhưng lạ lùng làm sao chẳng gặp một tên ăn mày nào. Chàng lấy làm mừng nghĩ thầm: ?Cả một thành phố lớn như thế này mà trên đường không có một tên ăn xin nào, quả thực chuyện không phải tầm thường. Trần Hữu Lượng nói Cái Bang tụ họp nơi đây quả đúng không sai, có lẽ bọn ăn mày lớn bé đều đi tham kiến bang chủ cả rồi. Chỉ cần tìm được nơi bọn chúng gặp nhau là có thể thám thính được có thực nghĩa phụ và Chỉ Nhược bị họ bắt giữ hay không??. Chàng tìm kiếm khắp các nơi từ miếu mạo, đền đài, từ đường, quảng trường như không thấy chút đầu mối nào, lại đi khắp các thôn trang gần chúng quanh nhưng cũng không thấy chút tung tích gì.
Đi đến chiều, càng tìm kiếm chàng càng nôn nóng, bỗng chợt nghĩ đến cái thông minh của Triệu Mẫn: ?Giá như có nàng ở bên cạnh thì ta đâu có đến nỗi thúc thủ vô sách như thế này?. Chàng đành đi tìm một khách điếm nghỉ ngơi, ăn cơm chiều xong ngủ một giấc, đến khoảng canh hai thì nhảy lên mái nhà nhìn bốn chung quanh xem tình hình ra sao.
Chàng đưa mắt nhìn bốn bề thấy đâu đâu cũng yên tĩnh, không nơi nào có vẻ như giới giang hồ tụ họp, còn đang lo âu, bỗng thấy một tòa lầu cao nơi góc đông nam còn đèn đuốc sáng trưng, nghĩ thầm: ?Nhà này nếu không phải giới quan quyền thì cũng là kẻ giàu có, ắt không có liên quan gì đến Cái Bang??. Vừa nghĩ tới đây, bỗng chàng trông thấy như có bóng người thoắt một cái, ai đó từ trên lầu đã nhảy xuống nhưng vì khoảng cách quá xa nên không nhìn rõ, nghĩ thầm: ?Không lẽ có lục lâm hào khách nào đến ăn cướp nhà giàu có kia? Mình cũng không có việc gì làm, đi theo xem thử thế nào?.
Chàng bèn thi triển khinh công, chạy đến gần căn nhà lớn đó, phi thân nhảy qua tường, bỗng nghe có tiếng người nói:
- Trần trưởng lão quả thật nhiều chuyện, rõ ràng tất cả đã ước định đến mồng tám tháng giêng sẽ tụ tập ở Lão Hà Khẩu, vậy mà lại cấp tốc báo tin truyền đến bảo bọn mình ở đây chờ. Y đâu phải là bang chủ mà nói gì là ai cũng phải theo, thật vô lý hết sức.
Tiếng nói đó nghe vang vang nhưng giọng điệu có vẻ bực tức chỉ nghe cũng biết là người trong Cái Bang đang bàn chuyện nội bộ. Trương Vô Kỵ vừa nghe xong lấy làm mừng rỡ.
Tiếng nói đó từ đại sảnh truyền ra, chàng mon men đến gần, thấy tiếng bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long nói:
- Trần trưởng lão quả là hết xẩy, cái tên Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn con mẹ kia, hai chục năm qua biết bao nhiêu người trên giang hồ đi kiếm y, đếch có ai thấy được chút lông rụng, ngửi được hơi rắm nào của y vãi ra, vậy mà Trần trưởng lão thò tay là túm được ngay, không nói chi bản bang không ai bằng mà trong võ lâm cũng có đứa nào làm được đâu ?
Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa lo, nghĩ thầm tung tích của nghĩa phụ mình đã biết được rồi, trong Cái Bang không có cao thủ nào thật là ghê gớm, chuyện cứu ông ra không phải là khó khăn nên đến gần ghé mắt nhìn qua khe cửa.
Chỉ thấy Sử Hỏa Long ngồi chễm chệ nơi chính giữa, Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão, Chưởng Bổng long đầu và ba tên trưởng lão tám túi khác ngồi bên dưới, lại thêm một người trung niên mập mạp ăn mặc sang trọng, trông tướng tá quần áo ra vẻ một người giàu có nhưng trên lưng lại đeo sáu cái bị. Trương Vô Kỵ thầm gật đầu: ?Đúng rồi, thì ra có một đại tài chủ ở Lô Long là đệ tử Cái Bang. Bọn ăn mày tụ tập ở nhà một tay cự phú thì làm sao có ai nghĩ đến được?.
Lại nghe Sử Hỏa Long tiếp lời:
- Trần trưởng lão đã đưa tin đến nói bọn ta chờ ở Lô Long, hẳn cũng có lý do. Chúng ta mưu toan đại sự, con mẹ nó, cái đó, cái đó, mình phải hết sức cẩn thận mới được.
Chưởng Bổng long đầu nói:
- Bang chủ minh giám, quần hào trên giang hồ tìm kiếm Tạ Tốn cũng chỉ vì muốn chiếm đoạt thanh đao Đồ Long võ lâm chí tôn mà thôi. Bây giờ thanh đao đó không có trong tay Tạ Tốn, mình đã làm đủ cách uy hiếp có, đánh lừa có, nặng có nhẹ có, y vẫn nhất định không thổ lộ nơi dấu thanh đao. Bọn mình thành ra chỉ bắt được một thằng mù, ngoài việc mời y ăn uống nhậu nhẹt, có ích lợi gì đâu? Cứ theo ý huynh đệ, mình cứ tra khảo y một phen cho thật nặng xem y có nói không nào?
Sử Hỏa Long vội vàng xua tay:
- Không được, không được đâu, dùng biện pháp nặng có khi làm hỏng việc lớn, cứ đợi Trần trưởng lão về, lúc đó bàn bạc cho kỹ hãy hay.
Chưởng Bổng long đầu mặt lộ vẻ bất bình, dường như không vui khi thấy chuyện gì bang chủ cũng phải nghe theo lời Trần Hữu Lượng.
Sử Hỏa Long lấy ra một phong thư, đưa cho Chưởng Bổng long đầu nói:
- Phùng huynh đệ, ngươi lập tức đi Hào Châu, đưa phong thư này cho Hàn Sơn Đồng, nói là con trai y đang ở trong tay mình, bình an vô sự, chỉ cần Hàn Sơn Đồng nghe lệnh của bản bang, chúng ta sẽ đối đãi với con y thật tử tế.
?Chưởng Bổng long đầu nói:
- Chuyện đưa thư nhỏ nhặt này, việc gì mà phải đích thân huynh đệ đi mới xong?
Sử Hỏa Long mặt hơi sầm xuống nói sẵng:
- Nửa năm nay bọn Hàn Sơn Đồng thanh thế lớn lắm, nghe nói dưới tay y, con mẹ nó, có những gì Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân là bọn đánh trận ra trò lắm. Lần này ta nói Phùng huynh đệ tự mình ra đi, trước là thuyết phục Hàn Sơn Đồng qui thuận bản bang, sao cho y tâm phục khẩu phục, lại quan sát xem y và các tướng lãnh có đứa nào ra hồn không, kế đến thám thính xem bọn Minh Giáo lực lượng con mẹ nó có cái gì ghê gớm. Công việc Phùng huynh đệ gánh vác nặng nề như thế sao lại bảo là nhỏ nhặt được?
Chưởng Bổng long đầu không dám phản đối gì thêm liền nói:
- Xin tuân lệnh bang chủ sai bảo.
Y nhận lấy phong thư, quay sang Sử Hỏa Long hành lễ rồi ra khỏi sảnh. Trương Vô Kỵ nán lại nghe thêm chỉ thấy bọn họ bàn về việc sau này Minh Giáo, Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi các phái qui thuận rồi Cái Bang sẽ hưng thịnh uy phong ra sao. Xem ra dã tâm của Sử Hỏa Long không to lớn như của Trần Hữu Lượng, chỉ mong Cái Bang độc bá giang hồ, xưng hùng võ lâm cũng đã thỏa nguyện lắm rồi, chứ không nghĩ tới chuyện chiếm được giang sơn lên ngôi hoàng đế, trong lời ăn tiếng nói dùng những chữ thật là nham nhở thô tục. Chàng nghe một hồi cảm thấy chán ghét, nghĩ thầm: ?Chắc là nghĩa phụ và Chỉ Nhược bị giam nơi đây, ta đến cứu họ ra trước đã, rồi sau đó sẽ trừng trị tên ăn mày khoác lác, vô liêm sỉ này một trận?.
Chàng nhún một cái, nhẹ nhàng nhảy lên một cây cao, nhìn chung quanh bốn phía, thấy dưới một cái lầu cao có mươi tên đệ tử Cái Bang tay cầm binh khí, đi qua đi lại tuần phòng, xem ra đó là chỗ giam giữ Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược.
Chàng tuột xuống khỏi cây, đi đến bên cái lầu, náu mình sau một tòa giả sơn, đợi hai tên đệ tử Cái Bang đi tuần qua rồi liền chạy ngay đến nhảy vọt lên. Trên lầu đèn đuốc sáng trưng, chàng bèn hụp xống bên ngoài cửa sổ, lắng tai nghe động tĩnh bên trong. Nghe một hồi thấy bên trong hoàn toàn yên tĩnh, chàng lấy làm lạ: ?Sao bên trong chẳng có một ai là sao? Không lẽ cao thủ nằm phục bên trong có thể nhịn hơi lâu đến thế??. Lại một lúc nữa, vẫn không nghe thấy tiếng hô hấp, Trương Vô Kỵ dưa mắt theo kẽ hở nhìn vào trong, thấy trên bàn một đôi nến lớn cháy đã hơn nửa nhưng phòng hoàn toàn không có bóng người.
Ở trên lầu có cả thảy ba phòng, xem ra phòng phía đông không có ai, chàng liền đến phòng phía tây thăm dò. Trong phòng cũng đầy đèn đuốc, trên bàn còn bát chén ngổn ngang, phải đến bảy tám người ăn, trong chén rượu cặn, đồ ăn thừa vẫn còn, nhưng không có ai, dường như mới ăn uống xong rồi ra khỏi phòng chưa lâu. Phòng ở giữa tối om không đèn đuốc. Chàng nhè nhẹ đẩy cửa nhưng bên trong có cài then, liền thì thầm gọi:
- Nghĩa phụ ở trong này phải không?
Tuy nhiên không có tiếng trả lời. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Xem chừng nghĩa phụ không có ở đây, nhưng sao người của Cái Bang canh gác nghiêm mật là thế nào? Chẳng lẽ họ cố ý lấy thực làm hư, lấy hư làm thực chăng??.
Chàng bỗng ngửi thấy mùi máu tanh từ trong phòng tỏa ra, trong lòng kinh hãi, tay trái giữ cửa, hơi đẩy nội lực, nghe cách một tiếng nhỏ, chiếc then cửa đã gãy đôi. Chàng lập tức lẻn vào trong phòng, bắt ngay lấy hai miếng then gỗ để khỏi rơi xuống phát xuất ra tiếng động.
Chàng mới bước vào được một bước, chân đã vấp phải vật gì mềm mềm dường như thân người vội cúi xuống mò thử quả nhiên là một cái xác chết. Người đó đã tắt hơi từ lâu nhưng mặt vẫn còn hơi ấm hiển nhiên chết chưa lâu. Chàng mò thử người này thấy đầu nhỏ, mặt thỏn không phải Tạ Tốn nên cũng yên lòng. Chàng tiến thêm một bước nữa lại đụng phải hai cái xác người khác, bèn giơ tay chọc một lỗ nhỏ ở vách phía tây, ánh nến từ bên phòng bên chiếu qua. Chỉ thấy dưới sàn nằm la liệt những xác người toàn là đệ tử Cái Bang, đều bị nội thương rất nặng. Chàng nhắc một cái xác lên xem, cởi áo ra thấy trên ngực vẫn còn dấu quyền đánh vào, gân cốt đứt hết, quyền lực thật là uy mãnh.
Trương Vô Kỵ mừng lắm: ?Thì ra nghĩa phụ đại triển thần uy, đánh chết hết bọn người canh gác rồi bỏ đi?. Chàng xem xét trong phòng, quả nhiên nơi góc ông dùng vật gì nhọn sắc khắc một hình lửa bốc cháy, chính là ký hiệu của Minh Giáo. Chốt cửa sổ cũng gãy lìa, cánh cửa chỉ khép hờ, liền nghĩ ra: ?Đúng rồi, hồi nãy ta có thấy một bóng người chắc là nghĩa phụ thoát thân chạy ra, nhưng không biết vì sao bọn Cái Bang lại bắt được ông? Chắc là bởi vì ông không nhìn thấy nên khó mà đề phòng gian kế của Cái Bang. Nếu chúng không dùng thuốc mê thì cũng dùng những loại dây chăng, câu liêm, lưới cá chi đó để trói ông lại?.
Trương Vô Kỵ mừng không để đâu cho hết, chạy ra ngoài phòng, nép mình vào bên cạnh cánh cửa nhìn xuống phía dưới, thấy bọn đệ tử Cái Bang vẫn qua lại tuần phòng, hoàn toàn không biết tí gì về biến cố ở lầu trên, nghĩ thầm: ?Nghĩa phụ đi khỏi chưa lâu mình phải đuổi theo ông ta rồi hai cha con quay lại đánh chúng một trận long trời lở đất cho bọn ăn mày biết tay Minh Giáo?.
Chàng nghĩ bụng như thế, hào khí nổi lên bừng bừng, nhớ lại hồi nãy thấy bóng đen đó chạy về hướng tây nên nhảy xuống, chân điểm vào một cây cao, vọt ra ngoài tường, đề khí nhắm hướng tây chạy cho nhanh.
Chàng cứ theo đường cái chạy được vài dặm, đến một ngã rẽ, nhìn quanh quất quả thấy đằng sau một tảng đá có vẽ dấu hiệu ngọn lửa chỉ về hướng một đường nhỏ ở phía tây nam. Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm hành tung của nghĩa phụ đã rõ ràng chắc chẳng mấy chốc sẽ gặp lại. Những ám hiệu liên lạc của Minh Giáo chàng đã được Dương Tiêu chỉ dẫn tường tận, lại thấy dấu hiệu hình ngọn lửa này tuy chỉ mấy nét nguệch ngoạc, nhưng nét nào nét nấy kình lực mạnh mẽ, già dặn nếu không phải là người văn võ toàn tài như Tạ Tốn, trong Minh Giáo quả không một ai có thể làm được.
Lúc này chàng không còn hoài nghi gì nữa cứ theo con đường nhỏ mà đuổi theo, tới tận Sa Hà Dịch[1] thì trời đã mờ mờ sáng. Chàng bèn ghé quán mua mấy chiếc bánh bao ăn qua quít cho đỡ đói, rồi lại theo hướng tây đuổi tiếp đến Bổng Tử Trấn. Chàng lại thấy ở góc đường dưới chân tường có vẽ một ngọn lửa khác chỉ về một từ đường đổ nát. Chàng mừng thầm, chắc mẩm nghĩa phụ ẩn thân nơi đây nên chạy đến bên cửa, nghe thấy tiếng lao xao, trong sảnh có một đám vô công rồi nghề đang đánh bạc, thì ra đây là một sòng bài.
Tên đầu nậu đám bạc thấy Trương Vô Kỵ ăn mặc sang trọng, tưởng là một đại hào khách tới chơi, vội vàng cười hề hề chạy ra đón vào, hỏi:
- Mời công tử gia lại đổ vài bàn, ngài đang vận may, thể nào cũng vơ sạch cả làng.
Y quay lại nói với đám con bạc:
- Mau nhường công tử làm cái, các ngươi đem tiền ra đặt cho to để công tử ôm về phủ.
Trương Vô Kỵ hơi nhíu mày, thấy đám con bạc không người nào thuộc giới giang hồ, lớn tiếng gọi:
- Nghĩa phụ! nghĩa phụ! Lão nhân gia có ở đây không?
Đợi một lát không nghe tiếng trả lời, chàng lại kêu thêm lần nữa. Một tên vô lại thấy chàng không phải đến để đánh bạc mà chỉ đến kêu réo om xòm làm náo loạn cả lên, liền đáp lời:
- Này con ơi! Bố mày ở đây, mau mau lại đây đổ vài bàn đi nào.
Bọn du thủ du thực liền cười ầm cả lên. Trương Vô Kỵ hỏi tên chủ sòng:
- Ngươi có thấy một đại gia tóc vàng, thân thể cao to, hai mắt mù tới đây không?
Tên chủ sòng thấy chàng không đến để vui cuộc đỏ đen mà chỉ cốt tìm người, trong bụng thất vọng, cười nói:
- Chuyện khéo ngược đời, có ai mắt mù mà lại đến đây đánh bạc bao giờ? Chắc thằng mù đó cũng khùng khùng nữa phải không?
Trương Vô Kỵ đi kiếm nghĩa phụ chẳng thấy đâu, trong bụng đã bực lại nghe tên chủ sòng và tên vô lại ăn nói hỗn hào, làm nhục cả đến nghĩa phụ mình, liền tiến lên vung hai tay ra, chộp cổ cả tên chủ sòng lẫn tên du côn kia, hẩy một cái ném cả hai đứa lên trên mái nhà. Hai gã đó tuy chưa bị thương nhưng sợ đến kêu oai oái như heo bị chọc tiết. Trương Vô Kỵ đẩy dạt bọn đánh bạc ra, cầm lấy hai đĩnh bạc trên bàn nói:
- Công tử gia thu tiền về phủ đây.
Chàng bỏ vào bọc, hung hăng đi ra khỏi từ đường, bọn vô lại sợ đến mất hết hồn vía, chẳng đứa nào dám đuổi theo.
Chàng tiếp tục đi về hướng tây, không lâu lại gặp một dấu hiệu ngọn lửa nữa. Đến chiều hôm đó chàng đến Phong Nhuận, là một thành phố lớn của Ký Bắc, theo ký hiệu đã chỉ tìm đến một khu nhà tường quét vôi, cửa sơn đen. Căn nhà đó chiếc khoen đồng ngoài cửa sáng loáng, bên trong hoa mai sắp nở, chủ nhân hẳn là người u nhã thanh khiết. Chàng cầm chiếc vòng đồng, lắc nhẹ ba tiếng. Chẳng bao lâu có tiếng chân người sột soạt, nghe kẹt một tiếng, mũi ngửi thấy một mùi thơm nồng, một con a hoàn mặc quần áo màu hồng, bên ngoài khoác áo lông ngắn ra mở cửa. Con bé nhoẻn miệng cười nói:
- Gớm sao công tử gia lâu quá không đến chơi, thư thư nhớ công tử quá, xin mời công tử vào uống trà.
Nói xong con a hoàn lại cười mủm mỉm, nháy mắt một cái. Trương Vô Kỵ bàng hoàng, thật không hiểu ra sao, hỏi lại:
- Ngươi biết ta chăng? Tỉ tỉ ngươi là ai mới được chứ?
Đứa tớ gái lại cười:
- Công tử biết thừa rồi còn giả vờ, thôi vào mau đi, để cho thư thư tôi khỏi thêm khắc khoải.
Nói rồi đưa tay nắm tay Vô Kỵ, dẫn vào trong. Trương Vô Kỵ lấy làm lạ:
- Sao con bé này vừa gặp mình mà làm như quen từ lâu?
Nhưng chàng nghĩ ngay: ?À, đúng rồi, chắc là Chỉ Nhược ở nơi đây, biết mình hôm nay thể nào cũng theo ký hiệu tìm đến nên sai con a hoàn này ngày đêm canh cửa. Ôi, lâu nay không gặp, Chỉ Nhược bụng dạ khắc khoải nhớ mình là phải rồi?.
Chàng trong lòng thấy ấm lại, liền đi theo đứa hầu gái, đi hết một con đường trải đá trứng ngỗng, qua một cái viện tới một sương phòng. Một con anh vũ treo trên hiên quang quác cất tiếng:
- Tình ca ca đến rồi! Tỉ tỉ! Tình ca ca đến rồi!
Trương Vô Kỵ mặt đỏ bừng, nghĩ thầm: ?Đến cả con vẹt cũng còn biết mình nữa?.
Trong phòng ghế ngồi đều bọc gấm, trên bàn để một lư hương, lửa cháy bừng bừng, ấm áp chẳng khác gì mùa xuân. Con tiểu hoàn quay mình đi ra, trong chốc lát bưng một mâm để đầy trái cây cùng các món điểm tâm đủ màu, lại thêm một bình trà xanh. Đứa tớ gái nhẹ nhàng rót một ly trà đưa cho Vô Kỵ nhưng lại tiện thể véo ngay cổ tay chàng một cái. Trương Vô Kỵ hơi nhíu mày, nghĩ thầm: ?Sao con tiểu a đầu này lại sỗ sàng đến thế??. Thế nhưng chàng nể mặt Chu Chỉ Nhược nên không tiện trách cứ nó, liền hỏi:
- Tạ lão gia thế nào? Chu cô nương ở đâu?
Con hầu gái cười đỏng đảnh:
- Công tử hỏi Tạ lão gia làm gì? Chẳng lẽ ghen hay sao? Tỉ tỉ tôi đến ngay bây giờ đây, việc gì công tử phải bồn chồn đến thế. Gớm! Công tử thật là bạc bẽo, đến nhà chúng tôi mà trong lòng vẫn còn khắc khoải Chu cô nương, Vương cô nương nào đâu!
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nói:
- Sao ngươi cứ nói lăng nói nhăng, không đâu vào đâu cả?
Con a hoàn bĩu môi cười lại quay ra. Một lúc sau, nghe thấy tiếng vòng đeo leng keng, rèm vén lên, con tớ gái đỡ một cô gái độ chừng hăm mốt, hăm hai, uyển chuyển đi vào. Cô gái mặt mũi trắng trẻo, lông mày cong vút, cũng khá xinh xắn, bên mép phải có điểm thêm một nốt ruồi duyên, mắt lóng lánh đưa tình, chưa nói mà mắt đã hàm một nụ cười[2]. Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi hương nồng xông lên mũi, trong lòng cảm thấy lâng lâng. Thiếu nữ đó hỏi:
- Tướng công quí tính là gì? Hôm nay có thì giờ rảnh rỗi ghé thăm, tiểu nữ thật là vinh hạnh.
Cô gái vừa nói vừa giơ tay vịn vào vai chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ bừng, vội vàng tránh qua nói:
- Tôi họ Trương. Có một vị Tạ lão gia và một cô nương họ Chu, hiện nay có ở đây không?
Cô gái kia cười:
- Đây là Lê Hương Viện, nếu công tử muốn tìm Chu Tiêm Tiêm[3], xin mời đến Bích Đào Cư. Tướng công bị con bé kia làm cho mê mẩn mất hồn, đến Lê Hương Viện mà lại hỏi Chu Tiêm Tiêm? Hì hì!
Trương Vô Kỵ chợt hiểu ra, thì ra nơi đây chính là một kỹ viện, vội nói:
- Xin lỗi nhé.
Chàng liền quay mình đi ra. Con tiểu hoàn chạy theo, kêu lên:
- Công tử gia, thư thư chúng tôi có gì kém Chu Tiêm Tiêm đâu nào? Sao công tử không nán lại một chút?
Trương Vô Kỵ hấp tấp xua tay, thò tay vào bọc lấy ra một đĩnh bạc mới cướp ở sòng bạc ném xuống đất, phi thân chạy ra khỏi cửa. Qua một lần lôi thôi như thế, tâm thần chàng không bình tĩnh lại được, trời lại sắp tối, ban đêm e sẽ không nhìn ra dấu hiệu ngọn lửa chỉ đường nên Vô Kỵ bèn tìm một khách điếm nghỉ ngơi. Chàng trong bụng hoang mang: ?Nghĩa phụ sao lại đi vào nơi đánh bạc? Rồi lại tới kỹ viện? Hai chuyện đó lão nhân gia có ý muốn nói gì??. Chàng ngủ đến nửa đêm đột nhiên tỉnh đậy: ?Nghĩa phụ hai mắt đã mù sao trên đường lại có thể để nhiều dấu hiệu đến thế? Hay là có Chỉ Nhược ở bên cạnh chỉ dẫn? Hay là kẻ địch cố ý giả mạo ký hiệu của bản giáo để trêu ghẹo mình chăng? Để dẫn mình vào nơi đã mai phục? Hừ, dù cho có đầm rồng hang hổ, tốt xấu thế nào ta cũng xông vào một phen?.
Sáng hôm sau trở dậy, chàng lại tìm ra ký hiệu ngọn lửa ở ngoài thành Phong Nhuận, vẫn chỉ về hướng tây. Quá trưa chàng đến Ngọc Điền, thấy dấu hiệu chỉ vào một nhà giàu có, trước nhà treo đèn kết hoa, trên các đèn lồng có viết ?Chi Tử Vu Qui? bằng mực son, trong nhà trống chiêng rầm rĩ, khách khứa đầy sân, chính là đang lúc làm đám cưới, xem ra con gái nhà ai đi lấy chồng. Trương Vô Kỵ lần này dè dặt hơn, không dám xông vào hỏi Tạ Tốn chỉ lẫn lộn trong đám khách khứa nghe ngóng tình hình, thấy không có gì lạ liền lẻn ra đi tìm ký hiệu, quả nhiên kiếm thấy nơi một gốc cây to.
Dấu hiệu lại dẫn chàng đi từ Ngọc Điền đến Tam Hà, rồi quẹo qua hướng nam đến mãi tận Hương Hà. Đến lúc này chàng đã nghĩ đến việc người của Cái Bang có thể đã biết được tung tích của chàng nên dùng kế Điệu Hổ Ly Sơn dụ cho chàng đi thật xa để ra tay làm trò ma mãnh âm độc. Mặc dù nóng ruột nhưng chàng vẫn không dám bỏ qua không đuổi theo ký hiệu, ngại rằng biết đâu của Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược để lại thật thì sao? ?Nếu quả thực hai người đang bị một kẻ địch thật lợi hại truy kích, trong lúc chạy trốn, cố ý để lại dấu hiệu mong mình đến kịp cứu viện, vậy mà mình tự cho rằng thông minh, quay trở lại Lô Long, nếu như nghĩa phụ và Chỉ Nhược vì thế mà bị nạn, thì biết tính sao? Việc đã đến nước này, chỉ còn việc phải đuổi theo ký hiệu ngọn lửa, đuổi cho tới cùng mới thôi?.
Chàng từ Hương Hà chạy qua Bảo Thành, rồi quay về Đại Bạch Trang thì đã đi về hướng đông nam, đến Ninh Hà thì dấu hiệu ngọn lửa biến mất không còn thấy đâu nữa. Chàng ở Ninh Hà tra xét kỹ càng, không có gì khác lạ, nghĩ thầm: ?Quả nhiên người của Cái Bang cố ý dẫn dụ ta tới đây, khiến cho mình chạy mất mấy ngày công toi?.
Chàng bèn mua một con ngựa cưỡi quay về Lô Long, đến tiệm quần áo mua một chiếc trường bào màu trắng, mượn bút son, vẽ lên một ngọn lửa đang bốc cháy thật lớn, quyết ý đường đường chính chính dùng thân phận giáo chủ Minh Giáo xông vào tổng đàn Cái Bang gây sự.
Chàng thay áo, hùng hùng hổ hổ đi đến trước căn nhà của gã tài chủ, thấy hai cánh cửa sơn đỏ thật lớn đóng kín mít, những chiếc đinh đồng sáng bóng to bằng miệng chén đóng trên cửa. Chàng đẩy tay ra nghe bình một tiếng, hai cánh cửa bay vọt vào trong viện, nghe loảng xoảng loảng xoảng liên tiếp, đã đập vỡ tan hai chiếc bồn nuôi cá vàng.
Mấy hôm nay chàng lo cho nghĩa phụ và Chu Chỉ Nhược, lại bị người ta liên tiếp đùa rỡn, chạy đôn chạy đáo một vòng thật lớn ở Ký Bắc, trong bụng vừa giận dữ, vừa uất ức không có chỗ nào phát tiết, bây giờ trở về tổng đà Cái Bang nhất định phải làm tan hoang một trận. Chàng phá vỡ cái cửa rồi, hung hăng đi vào, sửa giọng quát lớn:
- Người của Cái Bang nghe đây, mau gọi Sử Hỏa Long ra gặp ta.
Trong viện có độ mươi tên đệ tử bốn năm túi, thấy hai chiếc cánh cửa bay tới đã hoảng hồn, lại thấy một thanh niên áo trắng xông vào, lập tức bảy tám đứa liền kêu gào ỏm tỏi, hò hét xông ra chặn lại:
- Ai đó? Muốn gì đây?
Trương Vô Kỵ hai tay vung ra, lập tức có bảy tám tiếng bình bình, những đệ tử Cái Bang đã bị hất văng đi, đụng vào một chiếc cửa vỡ tan tành. Chàng đi qua đại sảnh, đánh ra một chưởng lại vỡ tan cửa chính, thấy trong sảnh bày một bàn tiệc, Sử Hỏa Long ngồi ngay chính giữa. Một bầy thủ lãnh Cái Bang nghe thấy có tiếng huyên náo ở bên ngoài, liền sai người ra xem xét. Thế nhưng Trương Vô Kỵ tiến vào quá nhanh, gã đệ tử bảy túi hấp tấp đi ra, vừa đến giữa đường bị chàng chộp ngay ngực ném ngay về phía Sử Hỏa Long.
Gã chủ nhân hình dáng trông như tài chủ ngồi ở bên dưới, thấy gã đệ tử bảy túi bay tới, liền giơ tay ôm lấy. Y vừa chộp được bỗng thấy một luồng kình lực như bài sơn đảo hải ập vào, vội vàng xuống tấn Thiên Cân Trụy, nào ngờ lịch bịch thoái lui đến bảy tám bước, lưng đụng vào một cái cột lúc ấy mới gượng lại được. Y vội buông tên đệ tử bảy túi rơi phịch xuống đất, thở hồng hộc, người mất hết hơi sức xụm luôn xuống chân cột. Người trong Cái Bang nhìn thấy thế ai nấy đều kinh hãi.
Ngay lúc đó, Trương Vô Kỵ ?Ồ? lên một tiếng, vừa mừng vừa ngạc nhiên, thấy ngồi bên trái chiếc bàn là một thiếu nữ, chẳng ai xa lạ chính là Chu Chỉ Nhược, ngồi bên cạnh nàng là Tống Thanh Thư. Chu Chỉ Nhược mừng rỡ kêu lên một tiếng:
- Vô Kỵ ca ca!
Nàng liền đứng dậy nhưng lảo đảo ngã phịch xuống đất. Trương Vô Kỵ kinh hãi, vội tiến lên cúi xuống đỡ nàng lên. Chàng chưa kịp chưa đứng thẳng người đã nghe bốp một cái, lại bịch một tiếng sau lưng, đã bị Tống Thanh Thư đánh trúng một chưởng, thêm một đệ tử Cái Bang đấm cho một cái.
Lúc này Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ đã vận lên khắp người, một quyền một chưởng đó đánh vào lưng, chưởng lực quyền lực đều bị tiêu tan. Chàng bế Chu Chỉ Nhược lên, nhảy vọt trở lại đằng sau hỏi:
- Nghĩa phụ đâu?
Chu Chỉ Nhược ấp úng:
- Em ... em ...
Trương Vô Kỵ hỏi thêm lần nữa:
- Lão nhân gia có sao không?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Em bị bọn chúng điểm trúng huyệt đạo ...
Trương Vô Kỵ chỉ quan tâm đến Tạ Tốn, vẫn hỏi tiếp:
- Nghĩa phụ ra sao?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Cũng không biết nữa, em bị họ bắt tới đây, từ đó đến nay chẳng biết nghĩa phụ ra sao.
Trương Vô Kỵ giơ tay xoa bóp mấy chỗ khớp xương ở chân nàng, rồi để xuống đất. Nào ngờ thủ pháp điểm huyệt trên người Chu Chỉ Nhược thật là lạ lùng, mấy cái xoa bóp của Trương Vô Kỵ không hiệu quả. Hai chân nàng tuy đã đặt trên mặt đất nhưng không sao đứng lên được, đầu gối khuỵu xuống, ngồi bệt xuống đất.
Người trong Cái Bang lục tục đứng lên, chạy ra ngoài bậc thềm. Sử Hỏa Long vòng tay hỏi:
- Các hạ có phải là Trương giáo chủ của Minh Giáo chăng?
Trương Vô Kỵ nghĩ y là thân phận bang chủ một bang, không thể để mất phép tắc, liền ôm quyền đáp lễ nói:
- Không dám, tại hạ mạo muội xông vào tổng đà của quí bang, xin Sử bang chủ tha cho tội vô lễ.
Sử Hỏa Long nói:
- Trương giáo chủ mấy năm nay danh chấn giang hồ, tại hạ như sấm ... cái gì gì vang bên tai, hôm nay được thấy thân thủ của lão huynh, quả nhiên thật là lợi hại, ha ha, bội phục, bội phục.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tại hạ đến quả lỗ mãng, chỉ làm trò cười cho Sử bang chủ. Nghĩa phụ tại hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn có ở đây không? Xin đưa lão nhân gia ra cho gặp mặt.
Sử Hỏa Long mặt hơi đỏ lên, nhưng lại lên tiếng cười ha hả ngay được nói:
- Trương giáo chủ tuổi tuy còn trẻ mà sao ăn nói đã ngoa ngoắt đến thế. Chúng tôi có lòng tốt, mời Tạ Sư Vương đến ... đến à à ... uống chén rượu, ngờ đâu Tạ Sư Vương ra đi không một lời từ giã, còn ra tay đánh chết tám tên đệ tử bản bang, con bà nó, cái món nợ đó giờ tính sao đây? Xin Trương giáo chủ thanh toán giùm.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nghĩ thầm: ?Tám tên đệ tử Cái Bang quả nhiên bị nghĩa phụ ta dùng trọng thủ đấm chết. Xem ra lão nhân gia quả không có nơi đây nhưng không biết đi đâu??. Chàng bèn nói:
- Thế còn vị Chu cô nương này thì sao? Sao quí bang lại bắt giữ cô ta ở đây là thế nào?
Sử Hỏa Long ấp úng:
- Cái đó ... cái đó ...
Trần Hữu Lượng liền xen vào:
- Người ta bảo Trương Vô Kỵ của Minh Giáo võ công tuy cao siêu nhưng là một tên tiểu ma đầu ngang ngược chỉ giỏi tài vừa đánh trống vừa ăn cướp ... ha ha ...
Trương Vô Kỵ sầm mặt xuống hỏi:
- Cái gì?
Trần Hữu Lượng đáp:
- Hôm nay mới gặp, hà hà, quả thật là cây có bóng, người có danh, đúng thật không sai chút nào.
Trương Vô Kỵ hỏi lại:
- Ta ngang ngược vừa đánh trống vừa ăn cướp ở chỗ nào?
Trần Hữu Lượng nói:
- Vị Chu cô nương này là chưởng môn phái Nga Mi, một nhân vật thủ não của danh môn chính phái, có liên can gì đến bọn bàng môn tả đạo các ngươi đâu? Còn Tống Thanh Thư huynh đệ đây là nhân tài đời sau của phái Võ Đương, cùng Chu cô nương trai tài gái sắc, quả thật môn đương hộ đối, như ngọc có đôi, xứng duyên vừa lứa. Hai người cùng nhau đi qua đây, Cái Bang mời làm khách đến uống chung chén rượu, có gì mà giáo chủ Minh Giáo phải can thiệp vào? Tức cưới ơi là tức cười!
Trương Vô Kỵ đáp:
- Nếu quả Chu cô nương là khách của các ngươi, sao bọn chúng bay lại phải điểm huyệt cô ta?
Trần Hữu Lượng đáp:
- Chu cô nương vốn dĩ đang vui vẻ ngồi đây ăn uống, nói chuyện thoải mái, ai bảo là cô ta bị điểm huyệt? Cái Bang và phái Nga Mi uyên nguyên rất sâu xa, đời đời giao hảo. Quách nữ hiệp tổ sư sáng phái của phái Nga Mi chính là con gái của Hoàng bang chủ tệ bang đời trước, Gia Luật bang chủ lại là là anh rể của Quách nữ hiệp. Trong võ lâm trừ bọn trẻ con miệng còn hôi sữa vô tri có ai mà không biết chuyện đó. Làm sao Cái Bang chúng ta lại dám đắc tội với người chưởng môn phái Nga Mi? Trương giáo chủ bạ đâu nói đó chẳng khiến anh hùng thiên hạ chê cười cho sao?
Trương Vô Kỵ cười khẩy đáp:
- Nói như thế chắc là Chu cô nương tự mình điểm huyệt mình phải không?
Trần Hữu Lượng đáp:
- Cái đó chưa hẳn thế. Ở đây ai ai cũng đều nhìn thấy, Trương giáo chủ nhảy tới, toan giở trò phi lễ ôm luôn Chu cô nương. Chu cô nương dãy dụa không chịu, tôn giá liền thuận tay điểm huyệt cô ta. Trương giáo chủ, vẫn biết là anh hùng khó qua khỏi cửa mỹ nhân, cái tính hiếu sắc ai mà chẳng có, nhưng ngay chốn đại điện đông người, trăm mắt đổ dồn vào, vậy mà Trương giáo chủ có hành vi ghẹo nguyệt trêu hoa như thế, chẳng quá ư mất thân phận hay sao?
Mồm miệng Trương Vô Kỵ vốn không sao bì được với Trần Hữu Lượng, bị y nói ngang nói ngược như thế, tuy tức lắm nhưng không sao giãi bày được, mặt xanh xám, quát lên:
- Nói như thế, chúng bay không chịu cho ta hay nghĩa phụ ta ở đâu, phải không?
Trần Hữu Lượng lớn tiếng đáp:
- Trương giáo chủ, Quang Minh sứ giả Dương Tiêu của quí giáo năm xưa gian sát Kỷ Hiểu Phù nữ hiệp của phái Nga Mi, võ lâm đồng đạo trong thiên hạ không ai là không căn hờn mắng nhiếc. Nếu ngươi tự thị võ công cao cường, lại giở trò đê tiện đó ra thì ắt không thoát khỏi công đạo đâu.
Trương Vô Kỵ quay lại nói với Chu Chỉ Nhược:
- Chỉ Nhược, em nói lên tại sao bọn họ bắt cóc em tới đây xem nào?
Chu Chỉ Nhược nói:
- Em ... em ... em ...
Nàng liên tiếp ấp úng ba tiếng ?em? đột nhiên thân hình lảo đảo, hôn mê bất tỉnh. Bọn ăn mày lập tức kêu la rầm rĩ:
- Minh Giáo ma đầu giết người rồi!
- Trương Vô Kỵ bức gian không được, giết chết chưởng môn phái Nga Mi!
- Giết chết dâm tặc Trương Vô Kỵ để trừ hại cho thiên hạ!
Trương Vô Kỵ giận lắm, lập tức xông tới chỗ Sử Hỏa Long, nghĩ thầm: ?Bắt giặc phải bắt đầu đảng trước, chỉ cần bắt được gã họ Sử là mọi việc sẽ xong, ép bọn chúng phải nói cho ra tung tích nghĩa phụ?.
Chưởng Bổng long đầu và Chấp Pháp trưởng lão lập tức tiến ra chặn lại. Chưởng Bổng long đầu múa cây thiết bổng còn Chấp Pháp trưởng lão thì tay phải cầm cương câu, tay trái cầm thiết quài, hai người ba món binh khí, cùng vây đánh. Trương Vô Kỵ hú lên một tiếng thánh thót, sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, leng keng hai tiếng, cương câu trong tay Chấp Pháp trưởng lão liền gạt ngay gậy sắt của Chưởng Bổng long đầu ra, còn đơn quài của y thì đâm luôn vào sườn đồng bọn.
Truyền Công trưởng lão đứng bên cạnh cũng giơ kiếm đâm tới, kêu lên:
- Tên tiểu tử này võ công quái dị lắm, các anh em phải cẩn thận.
Soẹt soẹt soẹt ba kiếm liền, khí thế vùn vụt như cầu vồng, liên tiếp đâm vào bụng và ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thấy y chiêu số ác hiểm, kêu lên:
- Hảo kiếm pháp!
Chàng nghiêng người né tránh, ngón tay trỏ bên trái điểm vào đùi y. Kiếm của Truyền Công trưởng lão lập tức cuộn về, mũi kiếm chém luôn vào ngón tay Trương Vô Kỵ. Chiêu đó biến đổi thật nhanh, mũi kiếm không sai một ly nào, chỉ một chiêu đó cũng đã ít thấy trong võ lâm. Trương Vô Kỵ trong bụng khen thầm: ?Cái Bang danh dương giang hồ hàng trăm năm qua không suy sụp, trong bang ngọa hổ tàng long thật không thiếu nhân tài?.
Hôm trước nơi miếu Di Lặc chàng đã thấy Huyền Minh nhị lão đấu với các cao thủ trong bang, chỉ vì còn đang ẩn mình trên cây không dám ló đầu ra nên chưa nhìn được kỹ càng, lúc này chính chàng giao đấu với họ mới biết Truyền Công, Chấp Pháp trưởng lão quả là cao thủ bậc nhất trên đời. Chưởng Bổng long đầu hỏa hầu có kém hơn nhưng cũng chỉ sút chút đỉnh mà thôi.
Chỉ trong giây lát, Cái Bang tam lão đã trao đổi với Trương Vô Kỵ hơn hai chục chiêu. Trần Hữu Lượng đột nhiên cao giọng nói:
- Bày Sát Cẩu Trận.
Bọn ăn mày liền lớn tiếng reo hò, ánh đao sáng lòa như tuyết, hai mươi mốt cao thủ trong Cái Bang tay cầm loan đao, vây Trương Vô Kỵ vào giữa. Hai mươi mốt người đó kẻ thì hát khúc Liên Hoa Lạc , đứa rên rỉ kêu than, có người lại giơ tay đấm ngực khóc lóc, hoặc cao giọng van xin:
- Lạy ông lạy bà cho con xin chút cơm thừa canh cặn!
Trương Vô Kỵ lúc đầu ngạc nhiên nhưng hiểu ngay, những hành động kêu la quái lạ kia chẳng qua chỉ để ưu loạn tâm thần kẻ địch. Chỉ thấy quần cái tuy cước bộ lung tung hỗn tạp nhưng tiến thoái tránh né đều có phép tắc chặt chẽ.
Truyền Công trưởng lão quát lên:
- Hãy khoan!
Ông ta lùi lại hai bước, kiếm để ngang trên ngực, Chấp Pháp trưởng lão và Chưởng Bổng long đầu cũng nhảy ra ngoài. Thế nhưng những người ăn mày đang dàn thành Sát Cẩu Trận vẫn tiếp tục chạy qua chạy lại không ngừng lại. Truyền Công trưởng lão kêu lên:
- Trương giáo chủ, bọn ta lấy đông đánh ít, quả thực không phải. Thế nhưng trong Cái Bang không ai có thể là địch thủ của các hạ. Trừ gian sát tặc không thể khăng khăng giữ lấy qui củ một đánh một của võ lâm.
Trương Vô Kỵ nhếch một nụ cười khinh thị:
- Nói hay lắm, nói hay lắm!
Truyền Công trưởng lão lại tiếp:
- Bọn ta trong tay ai cũng có binh khí, nếu như Trương giáo chủ chỉ đánh tay không thì quả là Cái Bang có tiện nghi quá nhiều. Trương giáo chủ muốn dùng loại binh khí gì, cứ việc sai bảo, bọn ta ắt sẽ tuân hành đưa lên.
Hồi 33 TIÊU TRƯỜNG CẦM ĐOẢN Y LƯU HOÀNG
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Vị Truyền Công trưởng lão này võ công đã cao, lại có lòng trượng nghĩa, so với tên gian xảo Trần Hữu Lượng kia quả có khác xa?. Chàng bèn đáp:
- Cùng với các vị đùa rỡn chơi, việc gì phải cầm dao cầm gậy? Tại hạ muốn dùng binh khí, không lẽ không biết cách tự kiếm lấy hay sao?
Chàng nói đến đây, thân hình lắc một cái đã nhảy ra ngoài Sát Cẩu Trận, hai tay đánh vào hai gã Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư, khi rút tay đã đoạt được hai thanh trường kiếm, nghiêng người lộn về, lại quay trở lại giữa trận. Chàng nhảy ra nhảy vào, hai mươi mốt người đệ tử Cái Bang đang múa đao chạy vòng quanh không ai đụng được đến vạt áo. Quần cái còn đang ngạc nhiên thì đã nghe chàng cao giọng nói:
- Cái tên Sát Cẩu Trận của quí bang nghe hay lắm, thế nhưng giết chó thì dễ, còn như định hàng long phục hổ thì trận này không làm được trò gì đâu.
Nói xong chàng rung tay một cái, một luồng kình lực truyền vào thân kiếm, chỉ nghe lách cách hai tiếng, song kiếm đều gãy làm đôi. Chưởng Bổng long đầu hô to:
- Tất cả tiến lên!
Thiết bổng của y điểm vào ngực Trương Vô Kỵ. Một câu một quài của Chấp Pháp trưởng lão cũng múa lên thành hai đốm tuyết hoa, cuồn cuộn tiến tới. Trương Vô Kỵ lạng qua bên trái, thân hình lại nghiêng về bên phải, Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp tung ra, chỉ thấy bạch quang thấp thoáng, cách cách cách liên miên bất tuyệt, bao nhiêu loan đao trong tay bọn ăn mày đang bày Sát Cẩu Trận đều bị chàng đoạt mất ném ra, từng thanh từng thanh cắm vào cái xà cái giữa nhà. Hai mươi mốt thanh đao đều chăn chắn xếp thành một hàng, tất cả ngập vào trong gỗ cả thước.
Chỉ nghe Trần Hữu Lượng kêu lên:
- Trương Vô Kỵ, sao ngươi chưa dừng tay?
Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại, thấy trong tay Trần Hữu Lượng đã cầm một thanh trường kiếm, mũi kiếm chỉ vào sau lưng Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ cười khẩy:
- Một trăm năm qua trên giang hồ đều truyền tụng ?Minh Giáo, Cái Bang, Thiếu Lâm phái?. Trong giáo phái thì Minh Giáo đứng đầu, còn bang hội đưa Cái Bang lên hạng nhất, các vị làm như thế không sợ làm nhục uy danh của Hồng Thất Công lão hiệp hay sao?
Truyền Công trưởng lão giận dữ nói:
- Trần trưởng lão, ngươi mau thả Chu cô nương ra, chúng ta quyết tử chiến với Trương giáo chủ. Cái Bang dùng hết sức toàn bang không lẽ không đánh được một mình giáo chủ Minh Giáo? Nếu như giở trò hạ sách thì mình còn mặt mũi nào mà trông thấy ai?
Trần Hữu Lượng cười đáp:
- Đại trượng phu đấu trí chứ không đấu sức. Trương Vô Kỵ, ngươi chưa chịu xuôi tay chịu trói hay sao?
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
- Cũng được, để hôm nay Minh Giáo Trương Vô Kỵ được biết uy phong của Cái Bang như thế nào.
Đột nhiên chàng lùi lại hai bước, lộn mình nhảy ngược về sau, từ trên không rơi xuống, hai chân đã cưỡi ngay trên vai bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long. Chưởng phải của chàng liền để ngay trên đỉnh đầu Sử Hỏa Long, còn tay trái nắm ngay kinh mạch đằng sau ót. Chiêu trong thánh hỏa lệnh đó quả thực dễ dàng, ngoài dự liệu của Trương Vô Kỵ. Chàng vốn dĩ muốn sử dụng quái chiêu, xuất kỳ bất ý đến gần Sử Hỏa Long, trong bụng đã hờm sẵn ba chiêu kế tiếp thật lợi hại toan bắt giữ Sử Hỏa Long trong nháy mắt, chỉ ngại Trần Hữu Lượng tâm tính ác độc rất có thể ra tay hạ độc thủ với Chu Chỉ Nhược. Nào ngờ ba chiêu sát thủ đó mới chưa đầy một chiêu đã xong, Sử Hỏa Long chưa kịp đỡ gạt đã bị bắt ngay. Chàng cưỡi trên vai Sử Hỏa Long thật chẳng khác gì trẻ con đùa nghịch với người lớn, tuy trông bất nhã thật nhưng đã chế ngự được đỉnh đầu và yếu huyệt của địch nhân nên không muốn nhảy xuống ngại rằng có thể bị lôi thôi.
Bọn ăn mày thấy bang chủ đã bị bắt cùng kinh hãi la ó rầm rĩ. Tay phải Trương Vô Kỵ nhè nhẹ để lên huyệt Bách Hội trên đầu Sử Hỏa Long, huyệt này là giao điểm của Túc Thái Dương Kinh và Đốc Mạch, là đại huyệt quan trong nhất trên cơ thể con người, chỉ cần đẩy ra, Sử Hỏa Long lập tức chấn đoạn kinh mạch chết ngay không thuốc gì cứu được, thành thử quần cái có ai dám động đậy gì đâu. Cả bọn hò hét một hồi, đại sảnh đột nhiên im lặng, mọi người chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ và Sử Hỏa Long không biết phải tính sao.
Ngay lúc đó, từ trên mái nhà văng vẳng truyền xuống mấy tiếng đàn và tiếng tiêu, xem ra có đến mấy chiếc dao cầm[4], mấy chiếc động tiêu cùng tấu một lượt. Tiếng nhạc dìu dặt uyển chuyển, như có như không nhưng ai ai cũng nghe rõ ràng, có điều khi thì bên đông, lúc lại bên tây không biết từ hướng nào trên mái nhà truyền xuống.
Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, không biết tiếng đàn tiếng tiêu kia có ý gì. Trần Hữu Lượng lớn tiếng nói:
- Cao nhân ở phương nào giá lâm Cái Bang? Nếu là quần ma của Minh Giáo sao không hiện thân mà lại cố ý ra tay đùa rỡn?
Tiếng dao cầm tưng tưng tưng luôn ba tiếng, bỗng thấy có bốn thiếu nữ mặc áo trắng từ hai bên đông tay mái hiên nhảy xuống sân, trong tay người nào cũng ôm một cây dao cầm. Những chiếc đàn đó so với thất huyền cầm thông thường chỉ ngắn bằng một nửa, hẹp chỉ bằng một nửa nhưng cũng có đủ bảy dây. Bốn cô gái nhảy xuống rồi liền chia nhau ra đứng ở bốn góc. Ngay sau đó từ cửa đi vào bốn thiếu nữ mặc áo đen, mỗi người trong tay cầm một chiếc trường tiêu màu đen, tiêu này so với tiêu thường dài gấp rưỡi. Bốn thiếu nữ đó cũng chia ra đứng bốn góc, mỗi góc hai người một áo trắng một áo đen xen kẽ nhau.
Tám cô gái đứng ổn định rồi, bốn chiếc dao cầm liền bắt đầu tấu nhạc, kế đó động tiêu cũng hợp tấu, tiếng nhạc cực kỳ nhu hòa u nhã. Trương Vô Kỵ không hiểu âm luật, nhưng thấy tiếng nhạc uyển chuyển dễ nghe, tuy đang trong cục diện cực kỳ khẩn bách nhưng cũng vẫn muốn nghe thêm một chút.
Trong khi tiếng nhạc dặt dìu, một thiếu nữ mặc áo màu vàng nhạt khoan thai bước tới, tay trái dắt một cô bé chừng mười hai mười ba tuổi. Cô gái đó tuổi chừng hăm bảy hăm tám, phong tư tha thướt, dung mạo hết sức xinh đẹp, chỉ có điều mặt trắng bệch không còn chút huyết sắc nào. Còn nữ đồng thì mặt mày xấu xí, hai lỗ mũi huếch lên, cái mồm rộng để lộ hai chiếc răng cửa thô kệch, xem ra có phần hung dữ. Cô bé nắm tay thiếu nữ, tay bên kia cầm một chiếc gậy trúc xanh.
Quần cái thấy thiếu nữ đó tiến vào, cả bọn không hẹn mà cùng chăm chăm nhìn cây gậy trúc. Trương Vô Kỵ thấy có rất đông đàn bà con gái? tự thấy mình cưỡi trên cổ Sử Hỏa Long quả thật quá ư trẻ con, thế nhưng mũi kiếm của Trần Hữu Lượng vẫn còn chỉ vào hậu tâm Chu Chỉ Nhược, chàng không thể nào có thể thả bang chủ Cái Bang một cách dễ dàng. Khi thấy bọn ăn mày hết sức chú ý đến chiếc gậy trúc trong tay cô bé, tưởng như trên đời không gì quan trọng hơn, tất cả những cô áo đen, áo trắng, áo vàng và đứa trẻ xấu xí kia đều coi như không có, chàng trong bụng ngạc nhiên, nhìn kỹ chiếc gậy thấy toàn một màu xanh lục, nhẵn bóng xem ra không biết đã bao nhiêu năm, qua tay bao nhiêu người dùng đến, nhưng ngoài ra không thấy gì khác lạ.
Thiếu nữ áo vàng mắt không chuyển động, khuôn mặt lạnh lùng đi tới giữa đám người, ngừng ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, giọng như băng:
- Trương giáo chủ tuổi cũng đâu còn nhỏ bé gì, chuyện phải làm không làm, lại ở đây đùa nghịch.
Câu nói đó có phần trách móc nhưng từ ngữ xem ra thân thiết, nghe chẳng khác gì chị mắng em. Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên vội vàng phân trần:
- Trần trưởng lão của Cái Bang giở trò vô sỉ, chế ngự ... chế ngự đồng bạn của tôi, tôi đành phải bắt giữ bang chủ của họ.
Cô gái xinh đẹp đó mỉm cười, dịu dàng nói:
- Đem bang chủ người ta ra làm ngựa cưỡi chẳng cũng quá đáng sao? Ta từ Trường An đến đây, nghe nói giáo chủ Minh Giáo là một tiểu ma đầu, hôm nay thấy đây, Ôi thôi! Ôi thôi!
Nàng vừa nói vừa lắc đầu, ra dáng không bằng lòng. Sử Hỏa Long đột nhiên kêu lớn:
- Thằng tiểu dâm tặc Trương Vô Kỵ kia, có mau mau xuống không thì bảo?
Y giơ tay toan hất chân chàng nhưng kinh mạch trên cổ đã bị nắm giữ, không sao sử được chút kình lực nào. Trương Vô Kỵ nghe thấy y trước mặt đàn bà con gái lại chửi mình là ?tiểu dâm tặc?, vừa thẹn vừa tức, một luồng lực đạo từ tay trái ấn vào cổ y. Sử Hỏa Long toàn thân tê tái chịu không nổi, phải kêu lên ?Ối chà! Ối chà!? liên tiếp rồi cất tiếng rên hừ hừ. Bọn ăn mày thấy Trương Vô Kỵ vô lễ mà bang chủ bản bang lại yếu đuối như thế ai nấy đều vừa xấu hổ, vừa bực bội. Sử Hỏa Long bị địch nhân chế ngự lại mở miệng rên rỉ, quả thực mất hết bản sắc anh hùng hảo hán, không nói gì y là bang chủ một bang hội đứng đầu trên giang hồ, ngay cả một đệ tử tầm thường của Cái Bang cũng không ai cúi đầu chịu tiếng hèn trước địch thủ.
Trần Hữu Lượng nói:
- Trương Vô Kỵ, ngươi thả Sử bang chủ ra, ta thu kiếm về, được chăng?
Y không đợi Trương Vô Kỵ đáp ứng, liền cho kiếm vào trong bao. Y liệu chừng? giao hẹn như thế ắt sẽ xong ngay, quả nhiên Trương Vô Kỵ nói:
- Được lắm!
Chàng nhún mình một cái đã đứng ngay bên cạnh Chu Chỉ Nhược, thấy nàng đôi lông mày nhíu lại, thần tình uể oải, trông thật đáng thương, liền đỡ nàng đến ngồi tại một cái đôn đá trong sân.
Trần Hữu Lượng quay sang mỹ nữ áo vàng, chắp tay nói:
- Phương giá đến thăm tệ bang không biết có điều chi dạy bảo? Tôn tính đại danh có thể cho biết được chăng?
Y lại quay qua hỏi cô bé con xấu xí:
- Tiểu cô nương, cái gậy trúc đó ngươi lấy ở đâu vậy?
Cô gái áo vàng lạnh lùng đáp:
- Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn có ở đây không? Mời y ra đây cho gặp.
Trương Vô Kỵ nghe nói đến Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn trong bụng hết sức ngạc nhiên, thấy Trần Hữu Lượng mặt hơi biến sắc. Thế nhưng y lập tức trấn tĩnh ngay, thản nhiên đáp:
- Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn? Có phải là sư phụ của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn chăng? Cái đó phải hỏi Minh Giáo Trương giáo chủ mới biết được.
Mỹ nữ áo vàng hỏi lại:
- Các hạ là ai?
Trần Hữu Lượng đáp:
- Tại hạ họ Trần, thảo tự Hữu Lượng, là trưởng lão tám túi trong Cái Bang.
Cô gái áo vàng nhếch mép hất về phía Sử Hỏa Long hỏi:
- Còn tên kia là ai? Trông tướng tá thì ra vẻ anh hùng hảo hán, mà sao bị thịt làm vậy? Người ta mới hơi ra tay đã kêu chí chóe chẳng ra sao cả.
Bọn ăn mày ai nấy quả tự thẹn trong lòng không còn mặt mũi nào, có người nhìn Sử Hỏa Long ánh mắt có ba phần khinh miệt, hai phần bực tức. Trần Hữu Lượng đáp:
- Vị này là Sử bang chủ của bản bang. Lão nhân gia gần đây bệnh nặng mới bớt, thân thể chưa được khỏe lắm. Cô là khách nên chúng tôi nhường nhịn ba phần, nếu còn nói năng láo lếu, có đắc tội cũng đừng trách.
Y nói tới hai câu cuối, ngữ khí có phần hằn học. Mỹ nữ áo vàng vẫn thản nhiên, quay sang một cô gái áo đen nói:
- Tiểu Thúy, ngươi đem trả lại phong thư cho y.
Cô gái áo đen lập tức đáp lời:
- Vâng!
Từ trong bọc lấy ra một bao thư cầm trong tay. Trương Vô Kỵ vừa nhìn tới thấy ngoài phong bì viết: ?Kính gửi Hàn Sơn Đồng đại gia của Minh Giáo? bên dưới có một hàng chữ nhỏ: ?Cái Bang Sử gởi?. Chưởng Bổng long đầu vừa nhìn thấy lá thư lập tức mặt đỏ gay, chửi mắng:
- Tiểu tặc tì, thì ra kẻ đùa rỡn lão gia ở trên đường, ăn cắp mất phong thư, chính là con a đầu chết tiệt này.
Y vung cây gậy sắt trên tay, toan xông đến làm dữ. Cô gái áo đen kia cười khúc khích nói:
- Ta là a đầu chứ có chết tiệt bao giờ đâu? Người lớn như thế có một phong thư giữ cũng không xong, không biết xấu hổ hay sao.
Nói xong cô gái vung bàn tay thon một cái, lá thư bình ổn bay tới Chưởng Bổng long đầu, y liền tiện tay bắt lấy. Đêm hôm đó Trương Vô Kỵ từng thấy Sử Hỏa Long sai Chưởng Bổng long đầu đưa thư cho Hàn Sơn Đồng, lấy Hàn Lâm Nhi ra uy hiếp bắt phải đầu hàng Cái Bang, bây giờ nghe đối đáp, xem ra những cô gái áo đen áo trắng này đã đùa rỡn Chưởng Bổng long đầu trên đường, ăn cắp mất phong thư khiến y đành phải quay về Lô Long. Thế nhưng Chưởng Bổng long đầu võ công cao cường như thế, vậy mà nghe y nói thì đến bây giờ y mới biết người trêu ghẹo y là ai, xem ra nếu tám cô gái này không phải cơ trí hơn người thì cũng võ công cực cao, bên trong lại có thiếu nữ áo vàng chủ trì, làm cho một cao thủ của Cái Bang phải tối tăm mặt mũi không biết đâu mà mò. Chàng nghĩ đến đó không khỏi cảm kích thầm cô gái áo vàng.
Cô gái áo vàng nói:
- Hàn Sơn Đồng khởi nghĩa ở Hoài Tứ, đánh đuổi Thát tử, trên đường ta nghe y là người nhân hậu nghĩa khí, không quấy rầy bách tính. Một nhân vật anh hùng như thế, không lẽ vì một đứa con mà phản bội Minh Giáo, đầu hàng Cái Bang hay sao? Các ngươi nếu có đem được lá thư đó tới Hàn Sơn Đồng âu cũng chỉ mang thêm cái nhục mà thôi. Ta xem vị long đầu đại ca hồ đồ này thật là nực cười quá, lại nhân Cái Bang có đại sự phải đích thân tới đây, nên mới chặn lá thư này lại.
Trương Vô Kỵ ôm quyền tạ ơn nói:
- Đa tạ đại tỉ ra tay tương trợ, Trương Vô Kỵ xin vái chào.
Cô gái áo vàng đáp lại một lễ nói:
- Khỏi phải khách khí.
Cô gái áo vàng lại quay sang bọn người Cái Bang nói:
- Các ngươi tưởng rằng bắt được Hàn Lâm Nhi là có thể khiến cho Hàn Sơn Đồng phải đầu hàng ư? Chưởng Bổng long đầu đại ca, hôm đó ngươi ở trên đường liên tiếp bị ngăn chặn nên phải chuyển sang đường nhỏ để mong tránh được hay sao? Ha ha, dẫu có tránh được thì phong thư này đưa tới tay Hàn Sơn Đồng cũng chẳng hay ho gì cho Cái Bang các ngươi đâu.
Trần Hữu Lượng trong lòng chợt động, đưa tay cầm lấy phong thư, thấy ngoài phong bì hoàn toàn không có gì khác lạ, vội mở ra xem, vừa đọc tờ giấy sắc mặt quả nhiên biến hẳn. Thì ra phong thư chiêu hàng Hàn Sơn Đồng lại biến thành Cái Bang xin tình nguyện đầu hàng Minh Giáo, trong văn hèn hạ quị lụy, hết sức khiêm tốn, tự chửi mình là những gì đã làm thật đáng xấu hổ, xin nguyện từ nay sẽ thành tâm sám hối, mong sao Minh Giáo khoan hồng đại lượng không xét đến hiềm xưa, nhận cho Cái Bang làm hạ thuộc, tiên phong trong việc đánh đuổi quân Nguyên.
Cô gái áo vàng cười khẩy:
- Đúng thế, phong thư này ta đã đọc qua rồi, nhưng không phải do ta sửa đổi đâu. Ta xem thư xong biết Chưởng Bổng long đầu đã bị người ngoài trêu ghẹo tính cho một mẻ. Ta niệm tình uyên nguyên của Cái Bang đời trước, cũng không muốn một đại bang số một trong thiên hạ, uy danh hiển hách nay lại lộ cái xấu xa, nên mới ra tay cướp lấy. Các ngươi thử nghĩ xem, lá thư này do Chưởng Bổng long đầu tự tay đem đến Minh Giáo, Cái Bang từ nay có còn đất đứng trên chốn giang hồ nữa hay không?
Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão, Chưởng Bát long đầu, Chưởng Bổng long đầu trước sau lần lượt đọc lá thư, vừa thoáng qua ai ai cũng đều giận dữ, kinh hoảng trong bụng nghĩ thầm: ?Xấu hổ quá?. Đúng như cô gái áo vàng đã nói, hàng thư giọng điệu hèn hạ, không một chút khí khái này nếu như vào tay Minh Giáo, tiếng xấu của Cái Bang truyền khắp giang hồ, đệ tử Cái Bang thật không còn dám đứng thẳng trước mặt ai nữa. Nếu nói thế, cô gái áo vàng chặn lá thư lại là ban cho Cái Bang một đại ân, thế nhưng kẻ đã đánh tráo lá thư kia là ai vậy?
Cô gái áo đen tên Tiểu Thúy cười nói:
- Có phải các ông định hỏi: Phong thư này ai đã tráo vào, có phải không nào?
Người trong Cái Bang không lên tiếng trả lời nhưng trên mặt ai nấy lộ vẻ nóng lòng muốn biết. Tiểu Thúy đáp:
- Chưởng Bổng long đầu, ông cởi áo ngoài ra thì sẽ biết ngay.
Chưởng Bổng long đầu vốn dĩ đã mặt đỏ gay, gân xanh trên cổ nhô lên nghe nói thế, lập tức hai tay cầm hai bên vạt áo xé mạnh một cái, nghe xoẹt xoẹt mấy tiếng nhỏ đã rách ngay ra làm đôi. Y vung tay về phía sau đã vứt bỏ được chiếc trường bào, quát lớn:
- Thế thì đã sao?
Chỉ nghe những người đệ tử Cái Bang đứng ở đằng sau ?Ồ? lên một tiếng kinh hãi, dường như nhìn thấy chuyện gì quái lạ. Chưởng Bổng long đầu hỏi:
- Gì thế?
Y quay lại thấy bảy tám người chỉ trỏ nơi lưng y. Chưởng Bổng long đầu lại càng gấp rút, hai tay lại xoẹt xoẹt xé liên tiếp rách luôn vạt áo trước, cởi luôn áo trong ra, để lộ thân thể đầy những bắp thịt cuồn cuộn, giơ chiếc áo ra xem thấy bên trên có một con dơi lớn vẽ bằng chàm màu xanh, hai cánh giương ra nhe răng thật ghê rợn, bên miệng còn điểm mấy chấm máu đỏ tươi.
Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão cả bọn cùng kêu lên:
- Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu.
Vi Nhất Tiếu trước kia ít đến Trung Nguyên nên tên tuổi ít người biết đến nhưng mấy năm gần đây trên giang hồ thần xuất quỉ một, ra tay đã nhiều, uy danh càng lúc càng nổi, không kém gì Bạch Mi Ưng Vương. Trương Vô Kỵ trong bụng mừng thầm: ?Nếu không phải cái tài khinh công lai vô ảnh, khứ vô tung của Vi huynh thì làm sao mà có thể đùa rỡn một người như Chưởng Bổng long đầu hoàn toàn không hay biết gì cả?.
Chưởng Bổng long đầu ngạc nhiên, cầm chiếc áo ném vào Trương Vô Kỵ, chửi:
- Giỏi nhỉ, thì ra bọn ma đầu chúng bay đùa rỡn lão phu.
Trương Vô Kỵ giơ tay phất một cái, một luồng kình phong đẩy tung chiếc áo lên, mắc vào một cây ngân hạnh trong sân, gió thổi tới bay phất phới, con dơi hút máu vẽ trên áo linh động trông như còn sống. Trương Vô Kỵ cười nói:
- Chưởng Bổng long đầu, Vi Bức Vương của tệ giáo ra tay còn nể mặt, không lẽ ông chưa biết hay sao? Nếu như y muốn lấy mạng của ông thì đã ra sao rồi?
Chưởng Bổng long đầu nghĩ lại, không khỏi lạnh mình. Trần Hữu Lượng nghĩ thầm việc này càng nói thêm càng xấu, chỉ còn cách lảng qua chuyện khác là thượng sách nên quay sang hỏi thiếu nữ áo vàng:
- Xin hỏi cao tính của cô nương, không biết có uyên nguyên gì với chúng tôi?
Cô gái cười khẩy đáp:
- Có uyên nguyên gì với các ngươi ư? Ta chỉ có uyên nguyên với chiếc Đả Cẩu Bổng này thôi.
Nói rồi chỉ vào chiếc gậy trúc xanh đang ở trong tay cô gái nhỏ. Quần cái vốn đã nhận ra đây là Đả Cẩu Bổng tín vật của bang chủ, nhưng không hiểu sao lại rơi vào tay người ngoài nên tất cả đều quay qua nhìn Sử Hỏa Long, chỉ thấy y mặt trắng bệch, luống cuống không biết làm sao. Truyền Công trưởng lão hỏi:
- Bang chủ, cây gậy đánh chó trong tay con bé kia là giả phải không?
Sử Hỏa Long đáp:
- Ta ... ta xem ra có lẽ là giả.
Cô gái áo vàng hỏi lại:
- Được, vậy thì ngươi đem cây gậy đánh chó thật ra so sánh xem nào?
Sử Hỏa Long đáp:
- Đả Cẩu Bổng là vật chí bảo của bản bang, đâu có đưa ra cho người ngoài coi được? Ta dại gì mang theo trong người, nếu chẳng may đánh mất có phải khổ không?
Bọn ăn mày nghe thấy nói thế đều thấy chẳng ra đâu vào đâu, ai đời thân là bang chủ Cái Bang mà lại sợ đánh mất Đả Cẩu Bổng. Cô bé con giơ cao cây gậy trúc, lớn tiếng nói:
- Tất cả lại đây coi. Cây gậy đánh chó này là cây gậy bản bang ... bản bang đời đời truyền xuống, làm sao giả được?
Cả bọn nghe cô ta nói ?bản bang?, trong bụng lạ lùng, chạy đến coi kỹ lưỡng, thấy chiếc gậy đó bóng loáng như ngọc, cứng rắn hơn thép, đúng là tín vật Đả Cẩu Bổng của bang chủ Cái Bang. Mọi người ai nấy nhìn nhau thắc mắc, không hiểu sự thể ra thế nào. Cô gái áo vàng nói:
- Ta nghe bang chủ Cái Bang có Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp hai đại thần công nổi danh thiên hạ. Tiểu Hồng, ngươi ra lãnh giáo Hàng Long Thập Bát Chưởng công phu của Sử bang chủ trước. Tiểu Linh, ngươi đợi cho Tiểu Hồng tỉ tỉ thắng rồi, lại đến học hỏi Sử bang chủ môn Đả Cẩu Bổng Pháp công phu.
Hai cô gái cầm trường tiêu nghe tiếng đáp lời bước ra, đứng qua hai bên tả hữu. Trần Hữu Lượng giận dữ nói:
- Cô nương không chịu cho biết tên tuổi đã coi Cái Bang không ra gì rồi, lại sai hai đứa tiểu tì khiêu chiến với bang chủ chúng tôi, trên giang hồ nào có cái lý gì như thế? Sử bang chủ, để đệ tử thanh toán hai con a hoàn này rồi sẽ quay sang lãnh giáo cao chiêu của cô nương kia, để xem đây là cao nhân ở phương nào mà dám đến coi thường Cái Bang như thế.
Sử Hỏa Long đáp:
- Con bà nó chứ, được lắm, xin Trần trưởng lão cứ việc hạ trường.
Trần Hữu Lượng rút phắt trường kiếm ra, chậm rãi đi đến giữa sân. Cô gái tên Tiểu Hồng nói:
- Cô nương sai ta ra lãnh giáo Hàng Long Thập Bát Chưởng, ngươi có biết chưởng pháp này không? Sử Hàng Long Thập Bát Chưởng lại dùng kiếm à?
Trần Hữu Lượng quát lớn:
- Sử bang chủ thân phận như thế, không lẽ lại động thủ quá chiêu với một con tiểu a đầu sao? Thần công Hàng Long Thập Bát Chưởng đâu phải để cho một đứa đầy tớ như ngươi được trông thấy?
Nói xong y liền tiến lên một bước. Cô gái áo vàng quay sang nói với Trương Vô Kỵ:
- Trương giáo chủ, tôi nhờ ông một việc.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Xin cô nương cứ nói ra.
Cô gái áo vàng nói:
- Xin ông đánh đuổi gã họ Trần kia đi, rồi lột mặt nạ tên bịp bợm mạo danh Sử bang chủ kia cho mọi người thấy.
Trương Vô Kỵ mới rồi chỉ một chiêu đã bắt ngay được Sử Hỏa Long, cảm thấy võ công y quả thực hết sức kém cỏi, lại nghĩ đến hôm đó Hàn Lâm Nhi nhổ bãi đờm, Sử Hỏa Long cũng không tránh né, trong bụng đã nghi, rồi mọi việc y đều phải nghe lời Trần Hữu Lượng chỉ điểm, còn chính mình không có chút chủ định nào, cứ như võ công đó, kiến thức đó quyết không thể nào làm chủ một bang, bây giờ nghe cô gái áo vàng nói y là tên ?bịp bợm mạo danh Sử bang chủ?, lấy chuyện trước ra ấn chứng cũng hiểu được bảy tám phần, liền gật đầu, đi đến trước mặt Sử Hỏa Long.
Sử Hỏa Long liền sử chiêu ?Xung Thiên Pháo? đánh ra, nghe bình một quyền đã đánh trúng ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cười ha hả nói:
- Hàng Long Thập Bát Chưởng thần công, không lẽ lại kém cỏi đến thế sao?
Chàng giơ tay ra nắm ngay áo ngực y, đưa lên cao. Trần Hữu Lượng biết mình không phải là địch thủ của Vô Kỵ, không đợi chàng ra tay đã lui ngay về lẫn trong đám người. Cô bé xấu xí kia đột nhiên khóc òa lên, xông ngay tới, nắm lấy Sử Hỏa Long đấm thùm thụp, kêu réo:
- Ngươi giết chết cha ta, ngươi giết chết cha ta, ngươi là tên ác tặc.
Sử Hỏa Long bị Trương Vô Kỵ nắm ngay huyệt đạo sau lưng không sao cử động được. Y thân thể cao to, nắm tay bé nhỏ của cô gái chỉ đấm trúng bụng y mà thôi. Trương Vô Kỵ liền ấn đầu y xuống, cô bé liền nắm tóc y giựt mạnh, tất cả mớ tóc của Sử Hỏa Long liền tuột luôn ra, lộ cái đầu trọc bóng như bôi mỡ. Thì ra y là một người hói đầu, trên đầu đội tóc giả. Cô gái đấm đánh một hồi nắm luôn mũi y giựt ra nhưng không thấy có máu chảy. Mọi người hết sức ngạc nhiên, nhìn kỹ lại hóa ra mũi y tẹt, mũi cao kia chỉ là mũi giả. Quần cái liền bàn tán xôn xao, cùng hỏi:
- Ngươi là ai? Sao dám mạo nhận là Sử bang chủ?
Trương Vô Kỵ nhắc y lên ném mạnh xuống, khiến y bị lăn đi mấy vòng, xụm xuống không nói nên lời. Trương Vô Kỵ mỉm cười, lui sang một bên nghĩ thầm người này giả mạo Sử Hỏa Long, chân tướng nay đã rõ ràng nên để cho người trong Cái Bang tự lo liệu lấy. Chưởng Bổng long đầu tính nóng như lửa liền tiến lên xoạc cẳng giang tay tát bốp bốp bốp bốp bẩy tám cái liền. Tên bang chủ giả kia má sưng vù lên kêu lớn:
- Không phải tôi, không phải tôi, là do Trần ... Trần trưởng lão bảo tôi làm đó.
Chấp Pháp trưởng lão bỗng giật mình hỏi lại:
- Trần Hữu Lượng đâu rồi?
Thế nhưng đã không còn thấy bóng y đâu nữa, có lẽ thấy công việc bại lộ, nên đã cong đuôi chạy mất. Chấp Pháp trưởng lão liền quát:
- Mau đuổi theo y ngay!
Mấy tên đệ tử bảy túi tuân lệnh chạy ra, đuổi theo Trần Hữu Lượng. Chưởng Bổng long đầu chửi:
- Thằng khốn nạn, ngươi là cái thằng nào mà bắt ông phải khấu đầu, gọi ngươi là bang chủ?
Y giơ bàn tay to như cái quạt lên, đang tính đánh vào mặt y. Chấp Pháp trưởng lão vội vàng giơ tay ngăn lại nói:
- Phùng huynh đệ không được lỗ mãng. Ngươi một chưởng đánh chết y thì không còn tra xét được chuyện gì nữa.
Ông quay sang thiếu nữ áo vàng vòng tay hành lễ, cung kính nói:
- Nếu không nhờ có cô nương làm lộ mưu gian thì chúng tôi vẫn còn bị chúng che mắt. Phương danh của cô nương liệu có thể cho chúng tôi biết được không? Tệ bang từ trên xuống dưới cùng cảm tạ cái đại đức này.
Cô gái nhỏ nhẹ cười nói:
- Tiểu nữ sống nơi? thâm sơn cùng cốc, trước nay không giao thiệp với bên ngoài, có nói tên cũng chẳng làm gì. Còn như vị tiểu muội muội này, chẳng lẽ các ông cũng không ai nhận ra sao?
Người trong Cái Bang nhìn chăm chăm cô gái nhỏ nhưng không ai nhận ra được. Truyền Công trưởng lão đột nhiên nghĩ ra một chuyện, tiến lên một bước nói:
- Con bé này ... con bé này ... con bé này mặt mũi có vẻ giống như phu nhân của Sử bang chủ, hay là ... hay là ...
Cô gái áo vàng nói:
- Đúng thế, cô em đây họ Sử tên Hồng Thạch, là con gái duy nhất của Sử bang chủ Sử Hỏa Long. Khi Sử bang chủ lâm nguy đã sai phu nhân ôm con, cầm cây gậy đánh chó đến tìm tiểu nữ nhờ tôi báo thù.
Truyền Công trưởng lão kinh hoảng kêu lên:
- Cô nương nói thế chẳng lẽ Sử bang chủ đã qui thiên rồi ư? Ông ta ... lão nhân gia làm sao mà từ trần?
Các bang chủ đời trước truyền lại Hàng Long Thập Bát Chưởng nhưng đến đời Gia Luật Tề thì học không hết, từ đó về sau các đời bang chủ, tối đa chỉ học được đến mười bốn chưởng là cùng. Sử Hỏa Long học tổng cộng mười hai chưởng nhưng hai mươi năm trước vì khổ luyện môn chưởng pháp này nội lực không đều, nên bị chứng bán thân bất toại, hai cánh tay không cử động được. Ông ta bèn cùng vợ đi vào núi non tìm kiếm linh dược trị bệnh, đem bang vụ giao cho Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão, Chưởng Bát, Chưởng Bổng hai long đầu cùng đảm trách.
Thế nhưng các trưởng lão, các long đầu không ai chịu ai, mỗi người một phe, trong bang hai bên áo sạch, áo bẩn lại không hòa thuận đến nỗi một bang lớn như Cái Bang trở nên suy yếu. Gần tây tên giả bang chủ này đột nhiên xuất hiện, những đệ tử tuổi trẻ thì chưa gặp bang chủ bao giờ, còn bọn Truyền Công trưởng lão thì cách biệt Sử Hỏa Long hai mươi năm, thấy tên bang chủ giả này tướng mạo giống hệt nên có ai lại nghĩ là y giả mạo bao giờ?
Cô gái áo vàng thở dài nói:
- Sử bang chủ táng thân dưới tay Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn.
Trương Vô Kỵ ?Ồ? lên một tiếng, nghĩ thầm khi chàng còn ở Quang Minh Đính từng chính mắt thấy Thành Côn chết nằm trên đất, sao nay lại còn đi giết được Sử Hỏa Long? Chắc có lẽ việc này xảy ra từ trước khi việc trên Quang Minh Đính xảy ra, nên hỏi lại:
- Thỉnh vấn cô nương, Sử bang chủ từ trần đã bao lâu rồi?
Thiếu nữ đáp:
- Mồng sáu tháng mười năm ngoái, đến nay cũng đã hơn hai tháng rồi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Thế thì lạ thật. Không biết vì sao mà cô nương lại biết là do lão tặc Thành Côn hạ độc thủ?
Cô gái áo vàng đáp:
- Sử phu nhân nói rằng: Sử bang chủ đấu với một lão già mười hai chưởng liền, lão già kia hộc máu ra bỏ đi, còn Sử bang chủ cũng bị chưởng lực của lão già đó đánh cho bị thương. Sử bang chủ biết rằng vết thương của mình không sao chữa trị được, liệu tưởng lão già đó ba ngày sau nguyên khí phục hồi sẽ quay lại báo thù, nên dặn dò mọi việc cho Sử phu nhân, nói tên của cừu nhân là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn. Hai cánh tay bị liệt của Sử bang chủ? khi đó đã khỏi đến chín phần, lại được chân truyền mười hai trong Hàng Long Thập Bát Chưởng, võ công phải vào bậc nhất trong giang hồ, thế nhưng đánh hết mười chưởng rồi vẫn không qua khỏi độc thủ của địch.
Cô bé Sử Hồng Thạch nghe nói đến đây liền khóc òa lên. Truyền Công trưởng lão mặt hầm hầm, vừa đau lòng vừa giận dữ, đưa tay áo dơ bẩn của ông ta lên chùi nước mắt cho đứa nhỏ, nói:
- Tiểu thế muội, mối thù của bang chủ tức là mối thù của mấy vạn đệ tử từ trên xuống dưới trong bang, bọn ta nhất quyết bắt cho bằng được Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, băm vằm y ra làm vạn mảnh để rửa hận cho bang chủ. Không biết mẹ em bây giờ đang ở đâu?
Sử Hồng Thạch chỉ vào cô gái áo vàng nói:
- Mẹ cháu đang ở nhà Dương tỉ tỉ dưỡng thương.
Tất cả đến giờ phút này mới biết cô gái áo vàng kia họ Dương, còn như cô ta là hạng người ra sao, vẫn chưa đoán ra được chút đầu mối nào. Cô gái áo vàng thở dài một tiếng nói:
- Sử phu nhân cũng bị Thành Côn đánh trúng một chưởng, thương thế cũng không phải nhẹ, lại thêm đường xa rong ruổi đến được tệ xá, lúc ấy chỉ còn thoi thóp, liệu rồi có thuyên giảm hay không, cái đó ... cái đó cũng chưa nói được.
Chấp Pháp trưởng lão hậm hực nói:
- Gã Thành Côn kia không biết có thù oán gì với bang chủ mà lại hạ độc thủ như vậy?
Cô gái áo vàng nói:
- Cứ như di ngôn của Sử bang chủ mà Sử phu nhân chuyển lại, ông ta và gã Thành Côn kia hai bên không biết nhau, hai chữ thù oán không thể nào có được. Thành ra lão nhân gia đến lúc chết cũng vẫn không hiểu nguyên do vì sao. Cứ như Sử phu nhân suy đoán, có lẽ có người nào đó trong Cái Bang đắc tội với y nên y đi tìm Sử bang chủ để thanh toán.
Chấp Pháp trưởng lão trầm ngâm rồi nói:
- Gã Thành Côn kia vì cố tránh mặt Tạ Tốn, mấy chục năm nay tuyệt tích giang hồ, không ai biết y đi đâu, đệ tử Cái Bang làm gì có chuyện kết thù gây oán với y? Xem ra bên trong có điểm hiểu lầm nào đó ghê gớm lắm.
Chưởng Bát long đầu từ nãy vẫn đứng ngoài nghe không nói một lời, lúc này đột nhiên nhặt một thanh loan đao, nhứ nhứ vào cổ tên? đầu hói giả mạo Sử bang chủ? quát lớn:
- Tên ngươi là gì? Sao dám lớn mật giả mạo Sử bang chủ? Mau mau cung khai, nếu nói láo một câu, hừ, hừ!
Nói đến đo y vung đao chém phập một cái, chặt một cái ghế đứt ra làm đôi, rồi lại để ngay vào cổ tên hói đầu. Tên đó sợ đến hồn bất phụ thể nói:
- Tôi ... tôi ... tiểu nhân tên là Lại Đầu Nguyên Lưu Ngao, vốn là một đầu mục ở sơn trại Loạn Thạch Cương ở Giải Huyện, tỉnh Sơn Tây, hôm đó xuống núi làm nghề không vốn, gặp phải Trần Hữu Lượng Trần trưởng lão, lại có thêm cả sư phụ của y nữa. Trần trưởng lão đá một cái ngã lăn tiểu nhân ra, giơ kiếm định giết, tiểu nhân vội vàng lạy lục xin tha.
Trần trưởng lão ngắm nghía tiểu nhân một hồi, đột nhiên nói: ?Sư phụ, tên tiểu tặc này trông giống người hôm trước mình gặp quá?. Sư phụ y lắc đầu: ?Ha ha, tuổi tác đã khác, mũi lại tẹt, lại thêm hói đầu?. Trần trưởng lão cười nói: ?Đệ tử có cách làm cho y giống được?. Họ bèn bắt tiểu nhân đi theo đến Giải Huyện, ở trong một khách điếm. Trần trưởng lão lấy thạch cao nặn cho mũi tiểu nhân cao lên, lại bắt tôi đeo tóc bạc giả, hóa trang thành như thế này ... các vị lão gia, tiểu nhân dẫu có lớn mật tày trời, cũng chẳng dám đến để đùa rỡn với các vị, chỉ vì Trần trưởng lão bảo làm nên tiểu nhân phải cố mà làm.
Cái mạng chó của tiểu nhân nằm trong tay các vị, thật ... thật chẳng biết nói sao cho phải, trong nhà tiểu nhân còn mẹ già tuổi đã tám mươi, mong các vị đại gia tha cho.
Nói đến đây y quì phục xuống, liên tiếp rập đầu như giã gạo. Chấp Pháp trưởng lão trầm ngâm rồi nói:
- Trần Hữu Lượng xuất thân ở phái Thiếu Lâm, sư phụ y là cao tăng chùa Thiếu Lâm, y ... y còn sư phụ nào nữa?
Câu nói đó khiến Trương Vô Kỵ tỉnh ra, lập tức xen vào:
- Đúng thế, sư phụ của y chính là Thành Côn.
Chàng bèn đem chuyện Thành Côn hóa danh thành Viên Chân, vào chùa Thiếu Lâm bái Không Kiến thần tăng làm sư phụ các chuyện thuật qua một lượt, sau đó lại kể chuyện Viên Chân lén lên Quang Minh Đính làm sao, sau cùng bị Ân Dã Vương đánh chết nhưng thi thể lại đột nhiên biến mất.
Chưởng Bát long đầu và Chấp Pháp trưởng lão cùng nói:
- Như vậy không còn nghi ngờ gì nữa, trên Quang Minh Đính Thành Côn đã giả chết, trong cơn hỗn loạn y len lén chạy mất.
Truyền Công trưởng lão giận dữ nói:
- Thì ra tội khôi họa thủ là do tên gian tặc Trần Hữu Lượng mà ra. Hai thầy trò y mang dã tâm muốn độc bá thiên hạ, cho nên giết chết Sử bang chủ rồi cho tên giặc cỏ này giả mạo để làm bù nhìn cho chúng giựt giây, rồi tiến thêm một bước hiếp chế Minh Giáo, lung lạc Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi ba đại phái. Gian kế của chúng không phải là không độc địa, dã tâm không phải là không to lớn. Còn Tống Thanh Thư đâu? Tống Thanh Thư chạy đâu rồi?
Mọi người lúc nãy chỉ chú ý đến bang chủ Cái Bang, thiếu nữ áo vàng, Sử Hồng Thạch? mấy người, không ai để ý đến Tống Thanh Thư đã chạy theo Trần Hữu Lượng không biết tự bao giờ.
Nói đến đây, đem mọi việc ra ấn chứng, gian kế của Trần Hữu Lượng đều lộ ra cả. Truyền Công trưởng lão quay sang cô gái áo vàng vái một cái thật sâu, nói:
- Cô nương có đại đức với tệ bang, Cái Bang không biết cách nào báo đáp.
Cô gái áo vàng cười nhạt nói:
- Tiên nhân chúng tôi cùng đời trước của quí bang có uyên nguyên thật sâu đậm, chút công lao nhỏ bé này, có gì đáng nói đâu? Còn tiểu muội muội nhà họ Sử này, nhờ các ông chăm sóc cho chu đáo.
Nàng khom mình hành lễ, bóng vàng thấp thoáng, đã nhảy lên trên mái nhà. Truyền Công trưởng lão gọi vói theo:
- Xin cô nương dừng bước.
Bốn cô gái áo đen, bốn cô gái áo trắng cũng nhảy lên, tiếng đàn tình tang, tiếng tiêu réo rắt, chỉ chốc lát tiếng đàn tiếng sáo đã đi thật xa, khúc chưa xong mà người không còn thấy nữa, phơi phới đến rồi lại phơi phới đi. Mọi người trong lòng ai cũng cảm thấy bồi hồi.
Truyền Công trưởng lão cầm tay Sử Hồng Thạch, quay sang nói? với Trương Vô Kỵ:
- Trương giáo chủ, xin mời vào trong sảnh nói chuyện.
Cả bọn ăn mày cung kính đứng qua một bên, mời Trương Vô Kỵ đi trước. Trương Vô Kỵ vào trong sảnh, cùng bọn Truyền Công trưởng lão chia ngôi chủ khách ngồi xuống, Chu Chỉ Nhược ngồi ở bên cạnh chàng. Trương Vô Kỵ hỏi tên tuổi Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão và mọi người xong liền nói:
- Tào trưởng lão, nghĩa phụ tôi Kim Mao Sư Vương nếu có ở tại quí bang, xin được mời ra tương kiến, nếu không xin cho biết lão nhân gia hiện nay ở nơi đâu.
Truyền Công trưởng lão thở dài một tiếng nói:
- Tên gian tặc Trần Hữu Lượng giở thủ đoạn gian manh khiến cho Cái Bang phải hổ thẹn với anh hùng thiên hạ. Không dám dấu Trương giáo chủ, Tạ đại hiệp và Chu cô nương quả có bị chúng tôi mời đến khi ở quan ngoại, lúc đó Tạ đại hiệp thân bị nhiễm bệnh, hôn mê trên giường. Chúng tôi không cần động thủ quá chiêu cũng mời được ông ta đại giá tới đây. Buổi tối trước đây năm hôm, Tạ đại hiệp đột nhiên đánh chết các đệ tử tệ bang canh giữ ông ta, thoát thân đi mất. Những đệ tử Cái Bang táng mệnh, quan tài còn giữ nơi hậu viện chưa kịp chôn. Trương giáo chủ nếu như không tin, xin quá bộ xuống hậu viện xem thử thì biết.
Trương Vô Kỵ nghe ông ta nói năng thành khẩn, huống chi đêm hôm đó đệ tử Cái Bang chết ngổn ngang, chính mắt chàng đã thấy rõ, liền đáp:
- Tào trưởng lão đã nói thế, lẽ nào tại hạ lại không tin?
Chàng hỏi tiếp:
- Thế từ Lô Long một mạch chạy qua hướng tây, có để lại ký hiệu liên lạc của tệ giáo, tại hạ tra xét biết không phải do anh em trong bản giáo thực hiện, không biết việc này có liên hệ gì với quí bang chăng?
Truyền Công trưởng lão đáp:
- Xem chừng chắc là tên khốn kiếp Trần Hữu Lượng đã giở trò, nói ra thật xấu hổ, huynh đệ hoàn toàn không hay biết gì cả.
Trương Vô Kỵ gật đầu, trầm ngâm giây lát lập tức hiểu ngay: ?Tên Thành Côn kia ra vào Quang Minh Đính như chỗ không người, ký hiệu bản giáo thể nào y chẳng biết? Gã này nếu như chưa chết, cái trò bùa phép này thể nào chẳng có liên quan đến y. Nếu như nghĩa phụ ta lọt vào tay Thành Côn ...? Chàng nghĩ đến đây, trên trán đổ mồ hôi, cố gắng định thần hỏi Sử Hồng Thạch:
- Tiểu muội muội, vị Dương tỉ tỉ kia sống ở nơi đâu? Trước kia em có biết cô ta không?
Sử Hồng Thạch lắc đầu:
- Trước kia em chưa hề biết chị ấy, sau khi gia gia chết rồi, má má cùng với em đem theo cây gậy trúc của gia gia lên xe đi mấy ngày liền, rồi lại đi xe đi lên núi. Má má không đi được, nghỉ một hồi, đi bộ một quãng rồi đến ngoài một khu rừng, má má gọi mấy tiếng. Sau đó có một tiểu tỉ tỉ mặc áo đen đi ra, rồi tới Dương tỉ tỉ đi ra, hỏi chuyện má má một lúc rồi cầm cây gậy đem đi một hồi lâu. Sau đó má má bất tỉnh, Dương tỉ tỉ dẫn em cùng với tám chị mặc áo trắng, mặc áo đen đi xe đến đây.
Con bé tuổi nhỏ, nói không ra đầu đuôi, hỏi đến địa danh ngày tháng nó đều chẳng biết gì cả, nên chẳng ai tìm hiểu thêm được chuyện gì. Truyền Công trưởng lão nói:
- Công tử của Hàn Sơn Đồng đại gia bên quí giáo cũng ở tại tệ bang.
Ông ta quay lại nhắn bảo vài lời, một tên đệ tử Cái Bang hấp tấp chạy đi. Chẳng mấy chốc đã nghe tiếng Hàn Lâm Nhi oang oang chửi bới từ hậu đường truyền ra:
- Bọn chết đường chết chợ ăn mày ăn nhặt chúng bay đừng có giở trò lường gạt ông nữa! Trương giáo chủ chúng ta thân phận cao quí là dường nào, ai thèm đến đến cái hang chuột của lũ ăn xin. Chúng bay có giỏi thì mau mau đưa ta về tây thiên đi thôi, đừng có thậm thà thậm thụt giở trò ma mãnh, không ăn thua gì đâu.
Quần cái ai nấy đều nghe, người nào mặt cũng lộ vẻ sượng sùng. Trương Vô Kỵ kính trọng Hàn Lâm Nhi là người khí khái, vội đứng lên đi lên mấy bước, thấy y mặt hầm hầm hung hăng đi từ hậu đường ra, liền nói:
- Hàn đại ca, tôi ở đây này, mấy hôm nay để cho đại ca phải khó chịu.
Hàn Lâm Nhi ngạc nhiên, mừng quá đỗi, vội vàng quì xuống vái lạy nói:
- Trương giáo chủ, quả nhiên lão nhân gia đã đến thật, tiểu nhân thật không thể nào tưởng nổi. Giáo chủ mau mau truyền hiệu lệnh, giết sạch bọn ăn mày thối tha đi thôi.
Trương Vô Kỵ cố nhịn cười đỡ y dậy nói:
- Hàn đại ca, các vị trưởng lão Cái Bang vị trúng phải gian kế của người ngoài nên mới hiểu lầm nhau. Bây giờ hai bên đã phân giải rõ ràng, tất cả nay đều là chỗ bạn bè cả. Hàn đại ca nể mặt huynh đệ một chút, xin bỏ qua cho.
Hàn Lâm Nhi đứng lên, vẫn hậm hực nhìn bọn Truyền Công trưởng lão, toan chửi thêm vài câu cho đỡ tức nhưng giáo chủ đã dặn như thế đành phải lặng thinh.
Chấp Pháp trưởng lão nói:
- Hôm nay Trương giáo chủ quang lâm, thật là vinh dự lớn cho tệ bang. Mau mau chuẩn bị đại tiệc, tất cả anh em ta thứ nhất là để khoản đãi Trương giáo chủ, thứ hai là để xin lỗi chưởng môn phái Nga Mi, thứ ba là để tạ tội cùng Hàn đại ca.
Lập tức các đệ tử Cái Bang cùng lên tiếng đáp ứng. Trương Vô Kỵ trong bụng lo lắng cho an nguy của nghĩa phụ, lại còn nhiều chuyện phải hỏi với Chu Chỉ Nhược không có bụng dạ nào để ăn uống vội vàng vòng tay nói:
- Mỹ ý của chư vị, bản nhân hết sức cảm tạ. Chỉ vì tại hạ vội đi kiếm nghĩa phụ, thể nào ngày sau cũng có lúc quay lại làm phiền chư vị, xin quí vị tha lỗi cho.
Truyền Công trưởng lão chèo kéo thêm mấy lần? nữa, Trương Vô Kỵ thấy nếu mình khăng khăng ra đi không khỏi thất lễ với Cái Bang, đánh phải ở lại dự tiệc. Trên bàn ăn, các cao thủ Cái Bang ai nấy trịnh trọng lên tiếng xin lỗi, đều nói đã sai các đệ tử Cái Bang khắp nơi truy tìm tung tích Tạ Tốn, một khi biết tin, lập tức phi báo cho Minh Giáo ngay. Trương Vô Kỵ cảm ơn, cùng các trưởng lão, long đầu đính ước, sau đó hai bên say sưa túy lúy một phen. Các cao thủ Cái Bang thấy chàng tuổi trẻ, võ công cao cường nhưng tuyệt nhiên không có vẻ gì kiêu ngạo, bụng dạ lại rộng rãi khoáng đạt nên tất cả cùng nắm tay thề chung sức kháng quân Nguyên. Đến khi đưa tiễn ai nấy đều bồi hồi, ra khỏi thành Lô Long đến mười dặm mới chia tay.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Tại tỉnh Trực Lệ, cách Lô Long bốn mươi sáu dặm, là nơi phu đưa thư nghỉ tạm trên đường
[2] dục ngữ tiên tiếu là từ ngữ trong tướng học, để chỉ người phụ nữ có tính lẳng lơ chưa mở miệng mà ánh mắt đã ngầm quyến rũ đàn ông
[3] tiêm tiêm nguyên nghĩa là nhỏ nhắn, xinh xắn
[4] đàn khảm ngọc
Hồi 34 TIÊU TRƯỜNG CẦM ĐOẢN Y LƯU HOÀNG
Hai cô tranh lấy một chàng,
Chữ tình chữ hiếu biết đàng nào hơn?
Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi ba người cưỡi ba con ngựa do đại tài chủ tặng, thẳng đường rong ruổi về phía nam. Hàn Lâm Nhi đối với giáo chủ hết sức cung kính theo sau một quãng xa, không dám đi song song, trên đường đi múc nước, pha trà chẳng khác gì một người đầy tới phục vụ Trương Chu hai người.
Trương Vô Kỵ thấy vậy không đành lòng bèn nói:
- Hàn đại ca, anh tuy là huynh đệ trong bản giáo thật nhưng tiểu đệ rất kính trọng đại ca, ở việc công thì đại ca phải nghe hiệu lệnh của đệ nhưng ngày thường đối xử với nhau thì cứ coi như ngang vai, xem nhau như anh em bằng hữu vậy thôi.
Hàn Lâm Nhi hoảng hốt nói:
- Thuộc hạ đối với giáo chủ hết sức kính ngưỡng, coi nhau ngang hàng sao được? Bình thời không có duyên được gần giáo chủ, hôm nay tiểu nhân được tận tâm phục thị quả là sinh bình đại hạnh của thuộc hạ.
Chu Chỉ Nhược mỉm cười nói:
- Thế tôi có phải là giáo chủ của anh đâu, anh chẳng cần đối với tôi cung kính như thế nữa.
Hàn Lâm Nhi nói:
- Chu cô nương chẳng khác gì tiên trên trời, tiểu nhân được nói chuyện với cô vài câu, cũng là nhờ phúc tu các kiếp trước. Tiểu nhân ngôn ngữ thô lỗ xin cô nương miễn chấp cho.
Chu Chỉ Nhược thấy y ăn nói thành khẩn như thế, trong ánh mắt lộ vẻ sùng kính, coi mình thực chẳng khác gì thiên thần. Nàng tự biết dung mạo xinh đẹp, thanh niên con trai ai gặp nàng cũng đều động lòng nhưng người sùng bái hết cỡ như Hàn Lâm Nhi thì chưa hề có, làm thân con gái ai mà chẳng thích.
Trương Vô Kỵ hỏi lại hôm trước tại sao nàng lại bị Cái Bang bắt giữ thì Chu Chỉ Nhược kể lại hôm đó chàng vừa đi khỏi khách điếm chưa lâu, Tạ Tốn đột nhiên toàn thân run rẩy, nói mê nói sảng. Nàng sợ hãi hết sức khuyên nhủ nhưng Tạ Tốn dường như không nhận ra nàng nữa, ở trong phòng lăn lộn một hồi rồi nằm lăn ra đất, không còn biết gì nữa. Ngay khi đó sáu bảy cao thủ của Cái Bang xông vào phòng, nàng chưa kịp rút kiếm ra chống cự thì đã bị kiềm chế ngay, cả nàng lẫn Tạ Tốn đều bị đưa về Lô Long.
Trương Vô Kỵ khi còn nhỏ đã biết nghĩa phụ mình vì luyện Thất Thương Quyền nên bị thương ở tâm mạch, lại thêm toàn gia bị Thành Côn giết hại nên thỉnh thoảng nổi cơn điên, có điều không ngờ lại phát tác ngay hôm đó, khiến cho không sao đề phòng được bọn Cái Bang đến tập kích không khỏi tiếc thầm. Hai người bàn đến chuyện không biết Tạ Tốn bây giờ ở đâu, cả hai đều không có được chút manh mối nào.
Trương Vô Kỵ nói:
- Kinh sư là nơi các lộ anh hùng hội tụ, mình xuôi nam cũng qua đó vậy đến Đại Đô dò thám tin tức xem sao. Anh nghĩ rằng thể nào Thanh Dực Bức Vương Vi huynh cũng biết phần nào đầu dây mối nhợ.
Chu Chỉ Nhược bĩu môi cười nói:
- Anh đến Đại Đô có thực là đi kiếm Vi Nhất Tiếu không?
Trương Vô Kỵ hiểu ngay nàng muốn bóng gió nói gì, mặt đỏ lên nói:
- Cũng chưa chắc gì kiếm được Vi huynh. Nếu mình gặp được Dương tả sứ, Khổ đầu đà, Bành hòa thượng thì cũng giúp mình được phần nào.
Chu Chỉ Nhược mỉm cười nói:
- Có một vị thần cơ diệu toán, túc trí đa mưu, anh đến Đại Đô đi kiếm cho được thì thể nào cũng giúp được rất nhiều. Dương tả sứ, Khổ đầu đà, Bành hòa thượng làm sao thông minh bằng cô này được?
Trương Vô Kỵ từ đó đến nay đâu dám nói chuyện gặp Triệu Mẫn, lúc này nghe nàng đề cập đến, thần sắc không khỏi sượng sùng, nói:
- Em trong bụng không quên được Triệu cô nương thành ra cao hứng lại châm chọc anh vài câu.
Chu Chỉ Nhược cười:
- Em không quên hay là người khác không quên? Trong bụng anh toan tính gì bộ tưởng em không biết hay sao?
Trương Vô Kỵ nghĩ mình và Chu Chỉ Nhược đã ước định sẽ chung sống đến lúc răng long đầu bạc, từ nay sống chết có nhau, không thể nào lại hai lòng, chuyện gì cũng chẳng nên dấu nàng bèn nói:
- Chỉ Nhược, có một chuyện anh phải nói với em, em đừng giận nhé!
Chu Chỉ Nhược nói:
- Chuyện gì đáng giận thì cứ giận, còn không đáng giận thì không giận.
Trương Vô Kỵ thấy sựng lại, nghĩ thầm mình từng thề độc với nàng, nhất định sẽ giết Triệu Mẫn để báo thù cho biểu muội Ân Ly, nhưng khi gặp lại nàng rồi không những đã không giết nàng, lại còn cùng nàng qua đêm nơi hoang sơn, cùng cưỡi chung một con ngựa, những chuyện đó quả thực khó ăn khó nói làm sao. Chàng không quen giả dối nên tự thấy ngượng ngập, mặt mày không được tự nhiên.
Chàng còn đang trầm ngâm ba con ngựa đã chạy đến gần một thị trấn nhỏ, thấy trời cũng đã xế chiều bèn đi kiếm một khách điếm tá túc qua đêm. Ăn cơm tối xong, chàng lại xoa nắn các huyệt đạo ở lưng Chu Chỉ Nhược, tuy phương pháp giải huyệt không thích hợp nhưng nàng bị điểm cũng đã lâu, thành ra khi máu huyết lưu thông, các huyệt bị đóng cũng tự động mở ra. Chàng nghĩ thầm: ?Các trưởng lão Cái Bang tuy võ công không phải là cực cao nhưng phép điểm huyệt của họ thật thần diệu. Chỉ Nhược tâm tính cao ngạo, trên bàn tiệc không chịu mở miệng nhờ họ giải huyệt, người điểm huyệt cũng làm như không nhớ ra. Ha ha, mấy ông ăn mày đó cũng giữ thể diện thật, đã thua xiểng niểng rồi, vậy mà điểm huyệt trội một tí cũng vẫn còn cố hơn cho bằng được?.
Chu Chỉ Nhược hiềm khách điếm có mùi hôi hám nên nói:
- Thôi mình đi ra ngoài dạo chơi một chốc cho dãn gân dãn cốt.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Hay lắm.
Chàng liền nắm tay nàng cùng đi ra khỏi thị trấn. Lúc đó mặt trời đã xuống trên đầu non, phía tây cả một bầu trời ráng chiều đỏ như máu, hai người đi bộ một hồi đến ngồi dưới một gốc cây nhìn vầng thái dương đang từ từ khuất sau rặng núi xa xa, trời sâm sẩm tối dần. Trương Vô Kỵ thu hết can đảm, đem chuyện làm sao gặp lại Triệu Mẫn nơi miếu Di Lặc, rồi đến việc phát hiện cái xác Mạc Thanh Cốc như thế nào, gặp lại bọn Tống Viễn Kiều ra sao, rồi đi theo các dấu hiệu của Minh Giáo chạy một vòng lớn ở Ký Bắc tất cả thuật lại một lượt, sau cùng chàng đưa hai tay nắm tay Chu Chỉ Nhược nói:
- Chỉ Nhược, em là vợ chưa cưới của anh, phu thê nhất thể, chuyện gì anh cũng không muốn dấu em làm gì. Triệu cô nương nhất định đòi gặp nghĩa phụ anh cho bằng được, có mấy câu rất quan trọng phải hỏi ông cho ra. Anh lúc đó cũng khởi nghi, bây giờ nghĩ lại, càng thấy đáng sợ hơn.
Chàng nói tới mấy câu sau cùng, giọng hơi run run. Chu Chỉ Nhược nói:
- Chàng sợ cái gì?
Trương Vô Kỵ thấy hai bàn tay thon nhỏ của nàng trong tay chàng lạnh như băng, cũng hơi rung động, liền nói:
- Anh nghĩ đến nghĩa phụ có bệnh mất trí nổi cơn điên mỗi khi phát tác thì không còn biết gì nữa. Năm xưa bệnh điên của ông nổi lên, đã định giết chết mẹ anh, chính vì thế mà mẹ anh phải lấy kim châm bắn ông mù mắt. Hôm sinh ra anh, nghĩa phụ cũng toan giết cả cha lẫn mẹ anh, may là nghe thấy tiếng khóc của anh nên thần trí mới tỉnh táo trở lại. Anh sợ ... anh quả thực sợ rằng ...
Chu Chỉ Nhược hỏi:
- Chàng sợ cái gì?
Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng nói:
- Đúng ra anh không nên nói ra nhưng quả thật anh rất ngại rằng biểu muội của anh bị ... bị ... nghĩa phụ giết chết.
Chu Chỉ Nhược nhảy dựng lên, run run nói:
- Tạ đại hiệp nhân hiệp trượng nghĩa, đối với bọn hậu bối chúng ta thương yêu biết bao, sao lại có chuyện giết Ân cô nương được?
Trương Vô Kỵ nói:
- Anh cũng chỉ áng chừng vậy thôi, không có gì làm chuẩn xác. Nếu quả thật biểu muội anh do nghĩa phụ giết chết thì cũng chỉ vì bệnh cũ của ông đột nhiên phát tác, chẳng khác gì người nằm mơ chứ đâu phải bản ý của lão nhân gia. Ôi, nếu quả như thế thì cũng chỉ vì lão tặc Thành Côn mà ra cả.
Chu Chỉ Nhược trầm tư một hồi, lắc đầu nói:
- Không phải, không phải! Không lẽ cả bọn mình đều trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, cũng bởi nghĩa phụ lão nhân gia hay sao? Ông ta lấy đâu ra độc dược? Một người có thể đột nhiên tâm trí mê muội giết người thì cũng không lấy gì làm lạ, nhưng đâu có thể rành rọt xét nét đến nỗi có thể bỏ chất độc và đồ ăn thức uống bao giờ?
Trương Vô Kỵ thấy trước mắt như có mây mù che phủ, không nhìn ra được chút manh mối nào. Lại nghe Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói tiếp:
- Vô Kỵ ca ca, chàng dùng đủ trăm phương ngàn kế, tìm cách chạy tội cho Triệu cô nương.
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu quả thực Triệu cô nương chính là hung thủ thì cô ta chạy trốn nghĩa phụ còn chưa đủ, sao lại khăng khăng đòi gặp có vài câu rất quan trọng muốn hỏi ông ta là sao?
Chu Chỉ Nhược cười khẩy nói:
- Vị cô nương đó cơ biến không ai bằng, nếu nàng ta muốn chối phăng tội lỗi, không lẽ không nghĩ ra được cách nào xảo diệu hay sao?
Giọng nàng đột nhiên trở nên ôn nhu, dựa đầu vào chàng nói:
- Vô Kỵ ca ca, chàng là người trung hậu thực thà nhất trên đời này, nói đến thông minh cơ trí, làm sao có thể là đối thủ của Triệu cô nương cho được?
Trương Vô Kỵ thở dài nghĩ lại thấy quả thực hữu lý, giơ tay ôm thân thể mềm mại của nàng vào lòng, dịu giọng nói:
- Chỉ Nhược, sao anh thấy thế sự phiền nhiễu chẳng cùng, đến thân thiết như nghĩa phụ mà cũng khiến anh phải nghi ngờ. Anh chỉ mong sau khi đuổi được Thát tử rồi, hai đứa mình ẩn cư nơi thâm sơn, chung hưởng thanh nhàn, không lý gì đến việc đời nữa.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Chàng là giáo chủ Minh Giáo, nếu trời cho được như ý nguyện, đuổi được quân Hồ Lỗ thì thiên hạ đại sự lúc đó đều do Minh Giáo lo liệu cả, làm sao chàng có thể hưởng thanh nhàn được?
Trương Vô Kỵ nói:
- Anh chẳng có tài cán gì mà làm giáo chủ, mà cũng chẳng muốn làm giáo chủ nữa. Nếu như Minh Giáo quả phải đảm nhiệm trọng quyền, cái chức vụ làm chủ một giáo phái này phải do một vị anh hùng sáng suốt đảm trách.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Chàng tuổi còn trẻ, bây giờ tài cán chưa đủ nhưng đâu phải là không thể học được? Hơn nữa, em là chưởng môn của phái Nga Mi, gánh vác trên vai cũng rất nặng nề. Khi sư phụ em giao cho em cái Thiết Chỉ Hoàn này dặn em phải làm sao quang đại môn phái, e rằng không có cái diễm phúc được ẩn cư nơi rừng sâu núi thẳm đâu.
Trương Vô Kỵ vuốt ve chiếc nhẫn trên tay nàng nói:
- Hôm đó anh thấy chiếc nhẫn sắt này rơi vào tay Trần Hữu Lượng, trong lòng bồn chồn lo lắng biết bao, chỉ sợ em bị gian nhân làm nhục, hận không có cánh để bay đến bên em. Chỉ Nhược, anh không cứu em thoát hiểm được sớm hơn khiến những ngày đó em phải chịu biết bao nhiêu chèn ép. Thiết Chỉ Hoàn này làm sao em lấy lại được thế?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Đó là thiếu hiệp Tống Thanh Thư của phái Võ Đương đem trả lại cho em đó.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nhắc đến tên Tống Thanh Thư, đột nhiên nghĩ đến nàng cùng Tống Thanh Thư sánh vai ngồi bên nhau nơi bàn tiệc nơi đại sảnh của Cái Bang nên hỏi:
- Tống Thanh Thư đối với em tốt lắm, phải không?
Chu Chỉ Nhược nghe thấy Vô Kỵ hỏi với vẻ khác thường nên hỏi lại:
- Chàng nói ?đối với em tốt lắm? là ý thế nào?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chẳng có ý gì hết. Anh chỉ thuận mồm hỏi đấy thôi. Tống sư ca đối với em một mối thâm tình, chẳng kể gì đến phản bội môn phái, đối nghịch phụ thân, thí diệt sư thúc, mưu hại sư tổ, chỉ có tốt với một mình em thôi.
Chu Chỉ Nhược ngửng đầu nhìn vầng trăng mới nhô lên ở phương đông, buồn bã nói:
- Nếu như chàng đối với em chỉ được bằng một nửa của y thì em cũng đã thỏa nguyện lắm rồi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Anh chẳng thể nào si tình được như Tống sư ca, nếu bảo vì em mà bắt anh làm những chuyện bất hiếu bất nghĩa thì quyết không thể nào được.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Vì em thì chàng không làm được nhưng nếu vì Triệu cô nương thì chàng làm được. Ở trên hòn đảo chàng đã lập trọng thệ nhất quyết sẽ giết con yêu nữ để báo thù cho Ân cô nương. Thế nhưng khi chàng gặp mặt cô ta rồi thì lời thề quên sạch, chẳng còn nhớ một tí gì.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chỉ Nhược, một khi anh đã tra xét rõ ràng quả thực đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên là do Triệu cô nương ăn trộm, biểu muội anh đúng là cô ta giết thì lúc đó anh sẽ không tha cho cô ta đâu. Thế nhưng nếu cô ta vô tội, anh làm sao giết cô ta vô duyên vô cớ được? Có lẽ ở nơi tiểu đảo anh lập lời thề đó là sai lầm.
Chu Chỉ Nhược lặng yên không nói, Trương Vô Kỵ hỏi lại:
- Anh nói có gì sai lầm không?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Không đâu, em đang nghĩ đến khi ở nơi tháp cao chùa Vạn An, em cũng đã từng lập trọng thệ trước mặt sư phụ em. Chỉ tiếc rằng khi em trao thân gửi phận cho chàng, em đã không kể cho chàng nghe.
Trương Vô Kỵ kinh hãi hỏi:
- Em ... em đã lập lời thề gì?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Khi đó em thề với sư phụ rằng nếu như ngày sau lấy anh làm chồng, cha mẹ em ở dưới suối vàng cũng không yên, sư phụ em sẽ thành ma thành quỉ, ngày đêm theo đuổi quấy phá em, nếu em có con cái với chàng, trai thì đời đời làm đầy tớ, gái thì đời đời làm xướng kỹ.
Trương Vô Kỵ nghe thấy những lời thề độc địa ấy, không khỏi lạnh người, một lúc lâu sau mới nói:
- Chỉ Nhược, chuyện đó không tính được, không thể nào tính được. Sư phụ em vẫn tưởng Minh Giáo là một tôn giáo tà ma chuyên làm điều ác độc xấu xa, còn anh là một dâm tặc gian tà vô sỉ nên mới ép em phải lập lời thề đó. Lão nhân gia một khi đã biết rõ sự thực, thì sẽ không còn bắt em phải giữ lời thề đó nữa đâu.
Chu Chỉ Nhược nước mắt đầm đìa, thổn thức nói:
- Thế nhưng ... thế nhưng lão nhân gia đâu có biết được.
Nói xong nàng phục vào lòng chàng khóc rấm rứt. Trương Vô Kỵ vuốt mái tóc mềm mại của nàng, an ủi:
- Sư phụ em ở dưới âm sẽ biết mà không thể nào trách em đã phản bội lời thề. Chẳng lẽ anh lại là kẻ dâm tặc gian tà vô sỉ hay sao?
Chu Chỉ Nhược ôm lấy lưng chàng nói:
- Bây giờ chàng chưa phải nhưng mai sau bị Triệu Mẫn dụ dỗ, không chừng ... không chừng sẽ thành gian tà vô sỉ.
Trương Vô Kỵ giơ ngón tay búng nhẹ vào má nàng cười nói:
- Sao em lại coi thường anh thế, chồng em không lẽ lại là hạng người như thế hay sao?
Chu Chỉ Nhược ngẩng đầu lên, trên má nàng những giọt lệ lóng lánh như những viên ngọc, đôi mắt ánh lên một nụ cười nũng nịu nói:
- Rõ không biết xấu, chàng đâu đã là chồng em? Chàng vẫn lập lờ qua lại với con tiểu yêu nữ Triệu Mẫn, thiếp không cần chàng nữa. Biết đâu một ngày kia chàng cũng như gã Tống Thanh Thư, chỉ vì một người con gái mà làm biết bao việc xấu xa đê tiện.
Trương Vô Kỵ cúi đầu xuống hôn nhẹ lên má nàng cười:
- Ai bảo em đẹp như tiên giáng trần, những người phàm phu tục tử như anh làm sao cầm lòng cho nổi? Cái đó là cha mẹ em có lỗi, sinh ra em quá xinh đẹp, làm đàn ông con trai phải mê mệt đấy thôi.
Đột nhiên từ đằng sau một cái cây to ở cách xa chừng hai trượng có hai tiếng cười khẩy vọng đến. Trương Vô Kỵ vẫn ôm Chu Chỉ Nhược trong tay, còn đang ngạc nhiên, đã thấy một bóng người thấp thoáng vụt đi xa tít. Chu Chỉ Nhược mặt trắng bệch, nhảy phắt lên, run run nói:
- Triệu Mẫn đó, con yêu nữ đó cứ theo đuổi chúng mình hoài.
Trương Vô Kỵ nghe hai tiếng cười khẩy quả đúng là giọng đàn bà, nhưng không dám chắc là Triệu Mẫn, trời tối đen không thể nào nhìn được bóng dáng phía sau, hơi ngần ngừ hỏi lại:
- Có thật là cô ta không? Cô ta theo đuổi mình làm gì?
Chu Chỉ Nhược bực tức nói:
- -??? Thì cô ả đó mê anh, anh còn cứ giả vờ làm như không biết. Hay là hai người hẹn với nhau, làm trò ma mãnh để trêu ghẹo tôi đây.
Trương Vô Kỵ vội luôn mồm kêu oan. Chu Chỉ Nhược đứng ngơ ngẩn trong gió lạnh, nghĩ ngợi trước sau, tự nhiên nước mắt chảy ròng ròng. Trương Vô Kỵ tay trái ôm vai nàng, giơ tay áo lên lau mặt cho Chu Chỉ Nhược, ôn tồn nói:
- Sao tự nhiên em lại khóc? Nếu mà anh có hẹn Triệu cô nương đến đây thì trời tru đất diệt. Em thử nghĩ coi, nếu anh có tình ý gì với nàng ta, vậy mà biết cô ta đang ở đâu đây lẽ nào lại thân mật truyện trò, điên điên khùng khùng âu yếm em là sao? Như thế chẳng phải cố ý ruồng rẫy cô ta, khiến cho cô ta phải đau lòng hay chăng?
Chu Chỉ Nhược thở dài:
- Anh nói cũng đúng. Vô Kỵ ca ca, lòng em không thể nào bình tĩnh được.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sao thế?
Chu Chỉ Nhược nói:
- Sao em vẫn không sao quên được lời thề với sư phụ, lại thêm Triệu Mẫn nhất định không buông tha em, mà về võ công, mưu trí so với yêu nữ đó em thật kém xa.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Anh sẽ tận tâm kiệt lực, bảo hộ cho em chu toàn. Anh lẽ nào lại để cô ta đụng đến một sợi tóc người vợ yêu của anh được?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Nếu như em chết vì tay cô ta thì cũng xong, chẳng qua cái số em không ra gì. Có sợ là sợ anh bị cô ta mê hoặc, dùng lời lẽ ngon ngọt, rơi vào cái bẫy của cô ta rồi ra tay giết em, lúc đó em chết thật không nhắm mắt được.
Trương Vô Kỵ cười nói:
- Em đúng là người nước Kỷ lo trời sập. Trên đời này biết bao nhiêu người toan tính hại anh, bao nhiêu người đắc tội với anh anh còn chưa giết, sao lại giết em là thế nào?
Chàng cởi áo ngoài để lộ vết sẹo trên ngực, cười nói:
- Đây là vết kiếm em đâm, em đâm càng sâu, anh càng yêu em hơn.
Chu Chỉ Nhược giơ bàn tay nhỏ nhắn vuốt ve vết thương trên ngực chàng, trong lòng biết bao hoài cảm, đột nhiên mặt tái đi nói:
- Ác giả ác báo, mai mốt chàng đâm một kiếm giết em, em cũng không có gì hối tiếc cả.
Trương Vô Kỵ giơ tay ôm nàng vào lòng, nhỏ nhẹ nói:
- Để khi mình tìm thấy nghĩa phụ rồi sẽ nhờ lão nhân gia đứng chủ hôn, từ nay về sau hai đứa mình không rời xa nhau một bước, sống với nhau đến lúc bạc đầu. Nếu em thích thì cứ đâm anh thêm vài nhát nữa, anh sẽ không nói lại nửa câu. Như thế em đã bằng lòng chưa?
Chu Chỉ Nhược tựa má vào bộ ngực ấm áp của chàng, nói khẽ:
- Chỉ mong chàng là kẻ đại trượng phu, chẳng quên những gì đã nói với thiếp hôm nay.
Hai người rủ rỉ hồi lâu, mãi đến khuya khi sương lạnh xuống nhiều mới chịu về khách điếm ai về phòng nấy ngủ.
*
*?? *
Sáng hôm sau ba người tiếp tục đi về phương nam, trên đường không thấy tung tích Triệu Mẫn đâu, chẳng mấy chốc đã đến Đại Đô. Khi vào thành trời đã về chiều, chỉ thấy trong thành ai nấy tưới nước quét dọn, các đường phố hẻm lớn hẻm nhỏ đều sạch sẽ, nhà nào đằng trước cũng bầy hương án.
Bọn Trương Vô Kỵ vào khách điếm rồi, hỏi chủ quán trong thành có chuyện gì. Điếm tiểu nhị đáp:
- Khách quan ở xa đến không biết, nhưng cũng thật là may, ngày mai là ngày đại du hoàng thành đó.
Trương Vô Kỵ hỏi lại:
- Đại du hoàng thành là cái gì?
Điếm tiểu nhị đáp:
- Ngày mai là ngày mỗi năm một lần hoàng thượng đại du hoàng thành. Hoàng thượng định đến chùa Khánh Thọ dâng hương, có đến mấy vạn nam thanh nữ tú ăn mặc đẹp đẽ du hành, từ đầu đến cuối phải đến ba bốn chục dặm, thế có thích không cơ chứ? Khách quan đêm nay cố ngủ cho ngon, sáng mai dậy sớm, đến ngoài cửa điện Ngọc Đức chiếm chỗ ngồi cho tốt, nếu mắt tinh thì sẽ được thấy hoàng thượng, hoàng hậu, quí phi, thái tử, công chúa tất cả đủ hết. Ngài thử nghĩ xem, mình là dân đen, nếu không ở tại kinh sư, làm gì có phúc được thấy hoàng thượng bao giờ?
Hàn Lâm Nhi nghe thế giận quá nhịn không nổi quát lên:
- Nhận giặc làm cha, thật là đồ Hán gian vô liêm sỉ. Hoàng đế Thát tử có cái đếch gì mà phải xem?
Điếm tiểu nhị mắt mở trừng trừng, chỉ vào y nói:
- Ngươi ... ngươi ... nói như thế chẳng phải là tạo phản sao? Ngươi không sợ mất đầu ư?
Hàn Lâm Nhi đáp:
- Ngươi là người Hán, Thát tử giết hại biết bao nhiêu người chúng ta, ngươi còn hoàng thượng này, hoàng thượng nọ, thật không còn chút khí khái nào nữa hay sao?
Gã điếm tiểu nhị thấy y hùng hùng hổ hổ, quay mình toan chạy ra ngoài. Chu Chỉ Nhược giơ tay điểm một cái trúng ngay huyệt đạo trên lưng y nói:
- Gã này chạy ra thể nào cũng lắm chuyện, e rằng không bao lâu sẽ có quan binh đến vây bắt chúng mình mất.
Nói xong nàng giơ chân đá y vào trong gậm giường, cười nói:
- Cho y đói vài hôm, bao giờ mình đi hãy thả y ra.
Chẳng bao lâu nghe thấy tiếng chưởng quĩ ở bên ngoài kêu réo:
- A Phúc, A Phúc, mày làm những chuyện tào lao gì ở đâu rồi. Mao đem nước rửa mặt cho vị khách ở phòng số ba.
Hàn Lâm Nhi nghe thấy thế tức cười, vỗ bàn quát:
- Mau đem cơm rượu lên đây, đại gia đói lắm rồi.
Một lát sau có một tên điếm tiểu nhị khác đưa thức ăn lên, lẩm bẩm nói một mình:
- Cái thằng A Phúc chắc lại đi ra hoàng thành xem đốt pháo bông rồi. Việc nhà không lo, chỉ ham chơi.
Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ chưa ra khỏi giường đã nghe bên ngoài có tiếng người huyên náo. Chàng đi ra cửa thấy trên đường vô số nam nữ, ai nấy quần áo sặc sỡ, rảo bước đi về hướng bắc, người nào cũng cười đùa, xem ra còn vui hơn cả ngày Tết. Chung quanh bốn bề tiếng pháo đì đùng không ngớt. Chu Chỉ Nhược cũng đã ra đến cửa nói:
- Mình cũng đi xem coi sao.
Trương Vô Kỵ nói:
- Anh đã từng động thủ với võ sĩ của phủ Nhữ Dương Vương, không thể để cho họ nhận ra được, nếu có đi xem cũng phải ăn mặc cho khác đi mới được.
Ba người liền ăn mặc giả làm nhà quê, lấy đất bùn xoa lên mặt mũi chân tay rồi đi theo đoàn người về hướng hoàng thành.
Lúc đó vào khoảng cuối giờ Mão, đầu giờ Thìn, trong ngoài hoàng thành người chật như nêm không còn chỗ nào có thể chen vào được. Trương Vô Kỵ hai tay đưa ra trước đẩy nhẹ người đứng dạt ra, tiến vào dưới một hàng hiên bậc thềm cao đến mấy thước của một nhà giàu bên ngoài cửa Đình Xuân, đứng xem thật tiện lợi. Ba người đứng chưa bao lâu đã nghe tiếng thanh la loảng xoảng từ đằng xa vọng tới. Mọi người kêu lên:
- Đến rồi! Đến rồi!
Ai nấy đều ngóng cổ ra xem. Tiếng não bạt càng lúc càng vang dội, đến gần hơn thấy một trăm linh tám đại hán lực lưỡng tất cả đều mặc áo xanh, tay trái cầm một chiếc phèng la phải to đến ba thước, tay phải cầm dùi đánh thật đều nhịp. Tiếng một trăm linh tám cái thanh la cùng đánh nghe điếc cả tai. Đội não bạt qua rồi đến đội trống gồm ba trăm sáu mươi người, kế đó là đội người Hán tấu nhạc thổi tiêu, đội đàn tì bà người Tây Vực, đội tù và người Mông Cổ mỗi đội ít cũng trên trăm người, nhiều thì phải đến bốn năm trăm. Nhạc đội xong rồi thì tới hai chiếc cờ bằng gấm màu đỏ giương cao đi tới. Một lá cờ trên thêu ?An Bang Hộ Quốc?, một lá cờ thêu ?Trấn Tà Phục Ma?, bên cạnh đầy những chữ Phạn bằng vàng lấp lánh. Hai lá cờ trước sau đều có hai trăm tinh binh Mông Cổ đi theo hộ vệ, đao dài sáng loáng như tuyết, thương tua tủa như mây, cả bốn trăm người đều cưỡi ngựa một màu trắng. Dân chúng nhìn thấy khí tượng uy võ đó đều lớn tiếng hoan hô.
Trương Vô Kỵ trong lòng than thầm: ?Dân chúng bên ngoài ai nấy đều thù hận người Mông Cổ tận xương tủy, riêng người ở kinh sư thì không biết cái nhục vong quốc, có lẽ vì mấy chục năm qua trông thấy uy phong của triều đình Mông Cổ, nên quên đi mình là kẻ mất nước rồi?.
Hai chiếc cờ lớn đi qua xong, đột nhiên từ phía tây có ánh sáng lấp loáng, hai hàng phi đao phóng ra trúng ngay vào cán hai lá cờ. Mỗi hàng phi đao đều bảy chiếc, cả bảy thanh đao ngay ngắn cắm thẳng vào cán cờ. Cán cờ tuy to nhưng bị cả bảy thanh đao chặt vào, lắc lư mấy cái rồi gãy gục, nghe lụp bụp mấy tiếng từ trên không đổ ập xuống. Chỉ nghe thấy tiếng người thảm thiết kêu la, có đến hơn chục người bị lá cờ đè ngã. Dân chúng kêu la om sòm, vội vàng dạt qua lập tức đoàn người loạn cả lên.
Biến cố đó xảy ra thật nhanh quả thật ra ngoài dự tưởng của bọn Trương Vô Kỵ. Hàn Lâm Nhi vui mừng quá đỗi, đang toan lên tiếng hoan hô, thì một bàn tay mềm mại đã thò qua bịt miệng y lại, chính là Chu Chỉ Nhược kịp thời ngăn chặn y lên tiếng reo hò.
Lập tức bốn trăm tên quân Mông Cổ tay cầm binh khí liền xông vào đám người chung quanh tra xét. Trương Vô Kỵ thấy người ném mười bốn thanh phi đao đó thủ pháp thật là lợi hại, đúng là hảo thủ võ lâm nhưng vì bị người chung quanh che khuất nên không biết ai đã ra tay. Chàng đã không nhìn được thì bọn quan binh Mông Cổ cũng chỉ nhắm mắt làm bừa làm sao xét cho ra. Một lát sau, có bảy tám người trong đám đông bị lôi ra, người nào cũng kêu la: ?Oan uổng ...? nhưng giáo của bọn Mông Cổ đều đâm tới giết ngay tại chỗ.
Hàn Lâm Nhi cực kỳ giận dữ nói:
- Người phóng phi đao đã chạy mất từ đời nào, bọn bị thịt kia làm sao bắt cho nổi? Bọn chúng chỉ giết bừa lương dân cho đỡ tức đấy thôi.
Chu Chỉ Nhược nói nhỏ:
- Hàn đại ca đừng nói nữa, bọn mình đi xem đại du hoàng thành chứ có phải đi đại náo hoàng thành đâu.
Hàn Lâm Nhi đáp:
- Vâng!
Y không dám nói thêm câu nào nữa. Loạn lên một hồi xong, đằng sau tiếng nhạc lại trổi lên một đội làm trò ảo thuật người Tây Vực kẻ nuốt đao, kẻ phun lửa tiến đến khiến quần chúng hoan hô không ngớt, dường như quên hẳn cái thảm kịch máu me vung vãi trên đường mới xảy ra. Rồi một đoàn múa rối biểu diễn những hình nhân trong chậu đủ trò, kế tiếp là những xe hoa do tuấn mã kéo, trên mỗi chiếc xe có những đồng nam đồng nữ xinh đẹp diễn những tích ?Đường Tam Tạng thỉnh kinh?, ?Đường Minh Hoàng du nguyệt điện?, ?Lý Tồn Hiếu đả hổ?, ?Lưu Quan Trương tam chiến Lữ Bố?, ?Trương Sinh nguyệt hạ hội Oanh Oanh? ... diễn xuất khéo léo cực kỳ cuốn hút. Ba người Trương Vô Kỵ vốn sinh sống nơi nước mặn đồng chua, chưa bao giờ được xem những cảnh phồn hoa như thế quả thực một phen mở mắt.
Trên mỗi xe hoa đều có cắm cờ thêu, chỗ thì ?Thần Hồ Quảng hành tỉnh tả thừa tướng mỗ mỗ cống phụng?, chỗ thì ?Thần Giang Chiết hành tỉnh hữu thừa tướng mỗ mỗ cống phụng? các loại. Càng về sau, các quan tước những người tiến cống càng lớn, xe hoa càng thêm rực rỡ, những diễn viên trên xe ăn mặc càng thêm nhiều ngọc ngà châu báu, trên đầu trên cổ vòng vàng trâm ngọc càng thêm quí giá. Các vương công đại thần Mông Cổ trước là muốn đẹp lòng hoàng đế, sau là muốn khoe khoang giàu sang nên ai cũng ra sức tô điểm cho xe hoa của mình thêm hào nhoáng.
Trong tiếng nhạc dặt dìu, một chiếc xe đóng tuồng ?Lưu Trí Viễn bạch thố ký? vừa qua khỏi, bỗng dưng tiếng nhạc đổi thay, âm điệu lạ lùng, trên xe căng một tấm vải trắng trên đề ?Chu Công lưu phóng Quản Sái?. Trong xe một hán tử trung niên tay cầm hốt, đóng vai Chu Công, bên cạnh là một cậu bé con ăn mặc giả làm thiên tử đóng vai Thành Vương. Quản Thúc, Sái Thúc hai người chụm đầu vào nhau chỉ trỏ vào Chu Công. Kế đó là một cỗ xe hoa khác, trên lá cờ đề ?Vương Mãng giả nhân giả nghĩa?, trên xe người đóng vai Vương Mãng mặt bôi phấn trắng, hai tay cầm đầy vàng bạc, đang phân phát cho một bầy học trò nghèo khổ. Ở đằng sau là bốn lá cờ vải trên viết bốn câu thơ như sau:
Chu Công khủng cụ lưu ngôn nhật,
Vương Mãng khiêm cung hạ sĩ thì.
Nhược thử đương thời tiện thân tử,
Thiên cổ trung nịnh hữu thùy tri.
(Chu Công uy hiếp triều đình,
Cầu hiền Vương Mãng hạ mình khiêm cung.
Nếu như đến thế là xong,
Đời sau ai biết nịnh trung thế nào?)
Trương Vô Kỵ trong lòng chợt tự hỏi: ?Trên đời này trắng đen, phải trái không phải dễ biết. Chu Công là bậc đại thánh nhân, khi ông trục xuất Quản Thúc, Sái Thúc ai ai cũng bảo là ông có bụng soán ngôi. Còn Vương Mãng là đại gian thần nhưng lúc đầu mua chuộc lòng người, trên đời ai ai cũng ca tụng công đức. Thế nhưng đường dài mới biết sức ngựa, ở lâu mới biết lòng người, việc đúng sai trên đời này, không phải sớm tối mà biết được?. Hai câu chuyện này, năm xưa trên Băng Hỏa đảo nghĩa phụ chàng đã từng kể cho nghe. Chàng lại nghĩ thầm: ?Hai chiếc xe hoa này khác hẳn những chiếc khác, bên trong hẳn có thâm ý gì đây, người nào bày ra, xem ra cũng có chút học thức?. Chàng liền thuận miệng đọc lại bốn câu thơ đó hai lần.
Bỗng nghe mấy tiếng thanh la vang động, một chiếc xe do bốn con ngựa còm cõi kéo tới. Chiếc xe này không kết hoa, mọi người chăm chú nhìn ai nấy đều bật cười nói:
- Sao cái thứ sập xệ như thế này mà cũng du hoàng thành, chẳng khiến cho người ta cười đến trẹo cả quai hàm hay sao?
Chiếc xe đến gần, Trương Vô Kỵ nhìn thấy rõ ràng, bỗng nhiên giật mình kinh hãi, thấy trên xe là một đại hán tóc vàng phủ đến vai, hai mắt nhắm nghiền, ngồi xếp bằng trên giường, chẳng phải giả làm Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn thì còn ai? Bên cạnh là một cô gái xinh xắn mặc áo xanh, tay bưng chén trà, ân cần phục thị, tuy mặt mũi không thanh tú đẹp đẽ như Chu Chỉ Nhược, nhưng quần áo hình dáng giống y hệt như khi nàng còn ở chùa Vạn An.
Hàn Lâm Nhi kêu lên thất thanh:
- Chu cô nương, người đó ăn mặc giống hệt như cô.
Chu Chỉ Nhược chỉ hừ một tiếng, không trả lời. Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại, thấy nàng mặt tái mét, ngực phập phồng, biết Chu Chỉ Nhược rất là tức tối, nên chàng đưa tay ra nắm lấy tay nàng, nhất thời chẳng biết những cỗ xe kia có ý gì.
Chiếc xe đó đi qua, lại có một chiếc xe khác giống hệt trên cũng một nam một nữ giả làm Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược. Người con gái cười hì hì đi ra sau lưng người đàn ông, giơ hai ngón tay đột nhiên đâm vào lưng người giả làm Tạ Tốn. Người giả Tạ Tốn ?A? lên một tiếng, ngã gục xuống giường, người giả Chu Chỉ Nhược giơ chân chặn lên, giơ kiếm định giết. Những người đứng xem cùng kêu la:
- Giỏi quá, giỏi quá! Giết nó đi.
Chiếc xe thứ ba cũng có hai người giả Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược, nhưng có thêm bảy tám tên bang chúng Cái Bang vây bắt hai người. Trương Vô Kỵ lúc này không còn hoài nghi gì nữa, biết rằng ba chiếc xe này do Triệu Mẫn bày ra cho người diễn kịch, đoán chừng chàng và Chu Chỉ Nhược sẽ đến Đại Đô nên bày trò làm nhục nàng một phen. Chàng cúi xuống nhặt mấy viên sỏi dưới chân, ngón tay búng ra, nghe vèo vèo hai tiếng, bắn mù mắt hai con ngựa gầy còn kéo chiếc xe thứ ba. Hòn sỏi xuyên thẳng vào óc, hai con ngựa chỉ hí lên một tiếng rồi nằm lăn ra chết. Chiếc xe hoa đổ lăn chiêng, những người đóng kịch trên xe ai nấy ngã nhào xuống đất, đường phố lại một phen náo loạn cả lên.
Chu Chỉ Nhược bậm môi nói nhỏ:
- Con yêu nữ đó làm nhục em đến thế, em ... em ...
Nàng nói tới đây, âm thanh trở nên nghẹn ngào. Trương Vô Kỵ thấy bàn tay thon nhỏ của nàng lạnh ngắt, thân hình run rẩy vội vàng an ủi:
- Chỉ Nhược, con nhãi này cái trò láo lếu gì cũng nghĩ ra được, em đừng để ý làm gì. Chỉ cần anh đối với em một lòng một dạ, dù người ngoài có đâm bị thóc chọc bị gạo, anh lẽ nào lại tin?
Chu Chỉ Nhược suy nghĩ một lát bỗng nói:
- A, em nghĩ ra rồi. Hôm đó nghĩa phụ vốn đang khỏe mạnh bình thường, đột nhiên thân hình lảo đảo, ngã lăn ra đất, rồi sau đó nói mê nói sảng điên điên khùng khùng. Không lẽ ... không lẽ con yêu nữ ẩn tại một nơi nào trong khách điếm bắn ám khí vào lưng nghĩa phụ chăng?
Trương Vô Kỵ trầm ngâm đáp:
- Nếu như cô ta có ra tay rồi chạy đến miếu Di Lặc thì cũng có thể kịp đấy nhưng với võ công của nàng e rằng không ám toán nổi nghĩa phụ đâu, không chừng là do Huyền Minh nhị lão tập kích cũng nên.
Trong khi hai người nói chuyện, quan binh Mông Cổ đã dẹp được dân chúng ra một bên, thu dọn hai con ngựa chết, những chiếc xe hoa từ sau vẫn tiếp tục đi tới. Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược chỉ nghĩ ngợi tới tình cảnh vừa rồi chẳng ai còn thiết gì xem xe hoa diễn trò nữa. Xe hoa đi hết rồi thì nghe đọc kinh tiếng Phạn ê a, một đội phiên tăng mặc đại hồng cà sa đi bộ tới. Sau đội phiên tăng là đội thiết giáp, hai nghìn tên lính ngự lâm mặc áo sắt, tay cầm trường mâu xếp hàng đi qua, kế đến là ba nghìn tên lính cung nỏ. Đoàn cung tiễn thủ đi qua xong thì thấy khói hương mù mịt, từng pho thần tượng được những phu kiệu mặc áo gấm rước qua. Nào là thổ địa, thành hoàng, vi đà, tài thần, đông nhạc ... tất cả ba trăm sáu mươi cái kiệu, sau cùng là Quan Thánh Đế Quân. Dân chúng lẩm bẩm tụng kinh, có kẻ nằm phục xuống vái lạy.
Thần tượng đi qua xong thì tới đội nghi trượng tay cầm kim qua, kim chùy, quạt lông lọng vàng từng đôi từng đôi. Dân chúng liền reo lên:
- Hoàng thượng đến rồi! Hoàng thượng đến rồi!
Từ đằng xa ba mươi hai tên cẩm y thị vệ khiêng một chiếc kiệu lớn bọc gấm sơn son thiếp vàng đi tới. Trương Vô Kỵ nheo mắt nhìn gã hoàng đế Mông Cổ, thấy y mặt mày tiều tụy, dáng lờ đờ, chỉ thoáng nhìn đã biết ngay tửu sắc quá độ. Hoàng thái tử cưỡi ngựa đi kèm một bên lưng đeo cung bịt vàng nạm ngọc, trông cũng còn có chút anh khí nhưng cũng vẫn không thoát khỏi bản sắc trai Mông Cổ.
Hàn Lâm Nhi ghé vào tai Trương Vô Kỵ nói thầm:
- Giáo chủ cho phép thuộc hạ xông ra chém tên hoàng đế Mông Cổ một đao, trừ mối hại cho bách tính, được chăng?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không được, ngươi làm không xong đâu, chung quanh hoàng đế Thát tử ắt có cao thủ hộ vệ, phải để ta mới được.
Một người đứng ngay bên trái Trương Vô Kỵ liền nói:
- Không ổn, không ổn. Lấy bạo thay bạo, không phải là hay.
Trương Vô Kỵ, Hàn Lâm Nhi và Chu Chỉ Nhược ba người giật mình, liếc qua nhìn người kia, thấy đó là một thầy lang vườn bán thuốc dạo, trên lưng đeo túi thuốc, tay phải cầm một bàn chân hổ. Người đó dựng hai ngón tay cái để lên ngực, làm như hình thế ngọn lửa bốc cháy của Minh Giáo nói nhỏ:
- Bành Oánh Ngọc tham kiến giáo chủ. Giáo chủ quí thể bình an quả thực vui mừng biết mấy.
Trương Vô Kỵ mừng lắm hỏi:
- Ồ, thì ra đây là Bành ...
Thì ra người đó chính là Bành Oánh Ngọc, y hóa trang thật khéo, đứng ngay bên cạnh đã lâu vậy mà ba người Trương Vô Kỵ không hề hay biết. Bành Oánh Ngọc hạ giọng nói:
- Nơi đây không phải là chỗ truyện trò, hoàng đế Thát tử không nên trừ khử.
Trương Vô Kỵ biết y là người kiến thức rất rộng rãi, bèn gật đầu không nói thêm nữa giơ tay nắm lấy tay y nhè nhẹ lắc mấy cái. Hoàng đế và hoàng thái tử đi qua xong, lại thêm ba nghìn tên thiết giáp ngự lâm quân nữa, sau đó là hàng nghìn hàng vạn dân chúng lũ lượt đi theo xem hội. Người đứng hai bên đường ai cũng nói:
- Đi xem hoàng hậu nương nương, công chúa nương nương.
Mọi người ùn ùn đi về hướng tây. Chu Chỉ Nhược nói:
- Mình cũng đi xem nhé!
Bốn người liền chen vào đám đông đi theo họ đến bên ngoài điện Ngọc Đức thấy bẩy tòa lầu kết hoa sặc sỡ dựng ở đó, bên ngoài có lính ngự lâm tay cầm dây thừng ngăn những người chen tới. Tuy dân chúng đông thật nhưng bọn Trương Vô Kỵ chen được lên trên cũng không khó khăn gì nên chẳng mấy chốc đã đến ngay trước các tòa lầu hoa. Tòa ở giữa cao hơn cả, có hoàng đế ngồi chễm chệ ngay giữa, hai bên là hai hoàng hậu, đều thân hình mập mạp tuổi khoảng trung niên, người đeo đầy vàng bạc ngọc ngà rực rỡ, trên đầu đội một chiếc mũ cao ngất ngưởng trông thật lạ lùng. Hoàng thái tử ngồi phía bên trái bên dưới, còn bên phải thì là một cô gái tuổi chừng đôi mươi, mình mặc cẩm bào, hẳn là công chúa.
Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn qua tòa lầu phía bên trái thấy một thiếu nữ mặc áo điêu cừu, cổ đeo một vòng ngọc trai, cười nói nhí nhảnh, ánh thu ba lóng lánh chính là Triệu Mẫn. Ngay giữa tòa lầu hoa đó là một vương gia râu dài, tướng mạo uy nghiêm, là phụ thân nàng Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ. Anh trai của Triệu Mẫn là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ ở trên lầu đi qua đi lại, dáng đi như hổ, mắt sắc như ưng trông thật là hung tợn.
Đang lúc đó các phiên tăng diễn ?Thiên Ma đại trận? ngay trước các lầu hoa, năm trăm người múa may các loại pháp khí, khi qua trái, lúc qua phải, khi chồm lên, lúc hụp xuống, trận pháp biến đổi cực kỳ huyễn ảo. Dân chúng ai nấy hết sức thán phục hoan hô từng chập như sấm dậy.
Chu Chỉ Nhược nhìn Triệu Mẫn một hồi, thở dài nói:
- Thôi đi về.
Bốn người chen ra khỏi đám đông trở về khách điếm. Bành Oánh Ngọc quay sang làm lễ tham kiến Trương Vô Kỵ, kể lại mọi chuyện. Trương Vô Kỵ hỏi thăm tin tức Tạ Tốn nhưng Bành Oánh Ngọc vừa mới từ miền Hoài Tứ đến Đại Đô, chưa biết việc Kim Mao Sư Vương đã về đến trung nguyên. Y kể lại việc Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân các người đánh thành chiếm đất lập được nhiều chiến công, uy danh Minh Giáo đang lên rất cao.
Hàn Lâm Nhi nói:
- Bành đại sư, hồi nãy nếu như mình xông lên lầu hoa, một đao chém chết tên hoàng đế Thát tử có phải chỉ mất công một chút mà xong việc về lâu về dài hay sao?
Bành Oánh Ngọc lắc đầu:
- Gã hoàng đế đó ngu tối tầm thường, chính là kẻ giúp đỡ chúng ta rất nhiều, sao lại giết y làm gì?
Hàn Lâm Nhi lạ lùng hỏi lại:
- Hoàng đế Thát tử hôn dung vô đạo, làm khổ bách tính sao lại là kẻ giúp đỡ mình rất nhiều là thế nào?
Bành Oánh Ngọc đáp:
- Hàn huynh đệ có điều chưa hiểu. Hoàng đế Thát tử tin dùng phiên tăng, triều chính rối loạn, lại sai Giả Lỗ vét sông Hoàng Hà, hao tốn tiền của làm khổ nhân dân khiến cho người oán trời căm. Mấy năm nay mình đánh cho chúng tan tác đâu phải vì đám quân ô hợp của mình hơn được tinh binh tung hoành thiên hạ của người Mông Cổ mà vì gã hoàng đế hồ đồ kia không biết dùng người có tài. Nhữ Dương Vương giỏi dùng binh nhưng hoàng đế Thát tử lại có bụng nghi ngờ, đưa ra kế sách gì cũng bác bỏ sợ y lập công quá lớn sẽ cướp mất ngôi vua cho nên liên tiếp cắt giảm binh quyền sai bọn giá áo túi cơm chuyên nghề nịnh bợ ra cầm quân, thành ra bao nhiêu quân giỏi đều bị chết hết. Hoàng đế Thát tử chẳng phải giúp ta là gì?
Câu nói đó khiến Trương Vô Kỵ liên tiếp gật đầu khen phải. Bành Oánh Ngọc nói tiếp:
- Nếu như chúng ta giết gã hoàng đế Thát tử đi, hoàng thái tử nối ngôi, cứ xem dáng dấp tên này, có vẻ là tay ghê gớm, mà dẫu có là một hôn quân thì cũng vẫn còn hơn cha y nhiều. Nếu như y lại dùng một tay danh tướng tài ba đưa quân đánh chúng ta thì thật hỏng bét.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cũng may có đại sư kịp thời nhắc cho, nếu không hôm nay chúng tôi lỗ mãng, e rằng đã làm hỏng đại sự rồi.
Hàn Lâm Nhi liên tiếp vả vào mặt mình, mắng chửi:
- Đáng chết lắm, đáng chết lắm. Để xem mày từ rày về sau có còn nói láo nói lếu, đưa ra những ý kiến hồ đồ nữa hay chăng?
Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược, Bành Oánh Ngọc ba người bật cười. Bành Oánh Ngọc lại tiếp:
- Tấm thân giáo chủ đáng nghìn vàng, trên vai gánh vác trọng nhiệm khu trừ Hồ Lỗ, không nên dấn thân vào nguy hiểm để xông ra tấn công y làm gì. Thuộc hạ nhìn thấy chung quanh hộ vệ hoàng đế cao thủ không phải là ít. Tuy giáo chủ thần dũng tuyệt luân thật nhưng cũng phải đề phòng mãnh hổ nan địch quần hồ, một mình không chống được số đông. Nếu như xẩy tay thì biết làm thế nào?
Trương Vô Kỵ vòng tay đáp:
- Kính xin lãnh giáo lời vàng ngọc của đại sư.
Chu Chỉ Nhược thở dài:
- Bành đại sư nói không sai chút nào, chàng sao lại coi nhẹ mà mạo hiểm? Phải biết rằng một khi đại sự của chúng ta thành rồi thì người ngồi trên long ỷ ở lầu hoa kia phải là Trương giáo chủ chứ còn ai.
Hàn Lâm Nhi vỗ tay reo:
- Khi đó giáo chủ thì làm hoàng đế, còn Chu cô nương thì là hoàng hậu nương nương, Dương tả sứ và Bành đại sư thì là tả hữu thừa tướng, thế mới thật là hay.
Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng, thẹn thùng cúi đầu nhưng đôi mắt long lanh không dấu được vẻ sung sướng. Trương Vô Kỵ xua tay liên tiếp nói:
- Hàn huynh đệ, những lời đó không được nói tới nữa. Bản giáo chỉ mong cứu được trăm họ ra khỏi nơi dầu sôi lửa bỏng, công thành rồi thân sẽ thoái, không tham phú quí có thế mới là đại trượng phu quang minh lỗi lạc.
Hồi 34 TIÊU TRƯỜNG CẦM ĐOẢN Y LƯU HOÀNG
Bành Oánh Ngọc nói:
- Bụng dạ giáo chủ dĩ nhiên không phải như người thường, nhưng có điều đến lúc đó, hoàng bào khoác lên người, giáo chủ có muốn từ chối cũng không được. Năm xưa binh biến ở Trần Kiều, Triệu Khuông Dận có bao giờ nghĩ mình sẽ thành hoàng đế đâu?
Trương Vô Kỵ vẫn nói:
- Không được, không được. Nếu như ta có lòng tưởng đến chuyện ấy thì trời tru đất diệt, chết không yên lành.
Chu Chỉ Nhược thấy chàng cương quyết cự tuyệt, mặt hơi biến sắc, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ không nói một lời nào. Bốn người nói chuyện thêm một lúc nữa, ăn uống xong xuôi, Trương Vô Kỵ mới bảo:
- Để tôi và Bành đại sư đi ra ngoài một chút, nghe ngóng tin tức nghĩa phụ xem sao.
Chàng lại nghĩ đến Hàn Lâm Nhi tính tình thẳng thắn, thấy việc bất bình lập tức giơ quyền đánh nhau ngay, có thể gây họa nên nói:
- Hàn huynh đệ, ngươi và Chỉ Nhược hôm nay đừng ra ngoài, ở lại khách điếm nghỉ ngơi.
Hàn Lâm Nhi đáp:
- Vâng, xin giáo chủ cẩn thận giữ gìn.
Sau đó Trương Vô Kỵ và Bành Oánh Ngọc ước định một người đi về hướng đông, một người đi về hướng tây, trước canh hai thì quay về khách điếm gặp lại.
*
*?? *
Trương Vô Kỵ đi ra khỏi quán trọ liền về hướng tây, trên đường nghe thấy dân chúng nói chuyện xôn xao, toàn là về những trò vui của cuộc ?du hoàng thành? hôm nay. Có người nói:
- Phương nam Minh Giáo nổi loạn, hôm nay Quan Đế bồ tát lúc du hành mắt đầy sát khí, phản tặc thể nào cũng bị tiêu diệt.
Người kia đáp:
- Minh Giáo có Di Lặc bồ tát phù hộ, xem ra giữa Quan Thánh đế quân với Phật Di Lặc hai bên thể nào cũng đánh nhau to.
Lại một người khác nói:
- Giả Lỗ đại nhân đưa phu đi khơi Hoàng Hà, đào được một tượng đá người một mắt, sau lưng có khắc hai hàng chữ:
Mạc đạo thạch nhân nhất chích nhãn,
Thiêu động Hoàng Hà thiên hạ phản.
(Tượng đá một mắt đừng chê,
Đào sông thiên hạ tứ bề nổi lên.)
Như thế thì là số trời đã định rồi, không thể nào chống lại được.
Trương Vô Kỵ chẳng muốn nghe thêm những lời của đám dân ngu ấy làm gì nên rảo bước đi cho nhanh, càng lúc càng thêm vắng vẻ, quay đầu nhìn lên, thấy đến đúng ngay cái tiểu điếm hôm nào chàng cùng Triệu Mẫn ngồi uống rượu với nhau. Chàng trong bụng kinh hãi: ?Sao mình vô ý lại đi đến nơi đây? Không lẽ lòng ta đối với Triệu cô nương vẫn còn lưu luyến day không đứt, rứt không ra hay sao??.
Chỉ thấy cửa quán mở he hé, xem ra không có người khách nào. Chàng ngần ngừ một hồi rồi đẩy cửa bước vào, thấy bên cạnh quầy có một tên hầu bàn ngồi ngủ gục. Chàng đi vào phòng trong, chỉ có một chiếc bàn vuông trên để một ngọn nến lúc mờ lúc tỏ, một người ngồi quay mặt vào trong. Chiếc bàn đó chính là nơi chàng và Triệu Mẫn hai người ngồi uống rượu với nhau nhưng ngoài người khách đó ra, không còn một ai khác.
Người kia nghe thấy tiếng bước chân liền nhỏm dậy, ánh nến lung linh chiếu lên mặt, chính là Triệu Mẫn. Cả nàng lẫn Trương Vô Kỵ không ngờ hai người lại gặp nhau nơi đây, không hẹn mà cùng ?A? lên một tiếng. Triệu Mẫn thảng thốt:
- Chàng ... chàng sao lại đến đây?
Âm thanh run run hiển nhiên trong lòng cực kỳ xúc động. Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi đi dạo qua đây, nhân tiện bước vào thử xem, đâu ngờ ...
Chàng đi đến bên chiếc bàn, thấy ở đối diện với nàng có một chén rượu cùng đũa bát liền hỏi:
- Còn có ai sắp đến chăng?
Triệu Mẫn mặt đỏ lên nói:
- Chẳng có ai cả. Hai lần trước thiếp uống rượu với công tử ở đây, chàng ngồi trước mặt, thành thử ... thành thử thiếp cũng bảo tiểu nhị mang thêm một bộ chén đũa.
Trương Vô Kỵ trong lòng cảm kích, thấy trên bàn bày bốn món ăn, đúng những thức mà nàng đã gọi hôm đầu tiên hai người ngồi ở đây. Chàng hiểu ngay cái thâm ý và nhu tình của nàng, không dằn được đưa tay nắm lấy tay Triệu Mẫn, run run nói:
- Triệu cô nương.
Triệu Mẫn buồn rầu nói:
- Chỉ hận rằng ... hận rằng em sinh ra trong một gia đình Mông Cổ quyền quí, phải làm kẻ đối đầu với chàng ...
Ngay lúc đó, từ ngoài song cửa vọng vào hai tiếng cười khẩy, một vật gì đó ném tới, nghe cạch một tiếng, đánh tắt ngọn nến, căn phòng lập tức tối đen như mực. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nghe tiếng cười nhạt đó, biết ngay là Chu Chỉ Nhược, nhất thời bàng hoàng hoảng hốt. Chỉ nghe tiếng chân nhè nhẹ trên mái nhà, Chu Chỉ Nhược như một ngọn gió đã đi mất.
Triệu Mẫn nói nhỏ:
- Chàng và cô ta đã có ước hẹn bạc đầu, phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế, tôi cũng chẳng dấu cô làm gì.
Triệu Mẫn nói:
- Hôm trước ở sau gốc cây, nghe chàng nói với cô ta những lời đường mật, em thật chỉ mong chết cho xong, chỉ mong đừng sinh ra trên cõi đời này. Hôm đó em cười khẩy hai tiếng, nay cô ta cũng trả lại hai tiếng cười. Chỉ có điều ... có điều ... chàng chưa từng nói với em một câu nào để em được vui.
Trương Vô Kỵ trong lòng xót xa:
- Triệu cô nương, đúng ra tôi chẳng nên đến đây, cũng không nên gặp lại cô làm gì. Lòng tôi đã thuộc về người khác, chẳng nên làm cho cô thêm buồn phiền. Cô là thân cành vàng lá ngọc, từ nay quên cái kẻ dân dã sơn thôn này đi cho xong.
Triệu Mẫn cầm tay Trương Vô Kỵ lên, vuốt ve vết sẹo trên lưng bàn tay chàng, nhỏ nhẹ nói:
- Chỗ em cắn chàng đây, dù chàng võ công cao đến đâu, y đạo giỏi đến đâu, cũng không thể nào làm mất được vết sẹo này. Cái sẹo trên tay chàng chàng không trừ được, làm sao xóa được vết thương trong tim em?
Nói tới đây nàng vòng tay lên vít cổ Trương Vô Kỵ xuống, để một nụ hôn thật nồng thắm trên môi chàng. Trương Vô Kỵ chỉ thấy làn môi mềm mại của nàng quyện với hương thơm xông lên mũi, trong lòng đê mê. Đột nhiên Triệu Mẫn cắn mạnh vào môi chàng một cái bật máu ra rồi đưa tay xô mạnh vào vai Trương Vô Kỵ, xoay mình nhảy ra khỏi cửa sổ, kêu lên:
- Chàng là tiểu dâm tặc, em ghét chàng, em hận chàng.
*
*?? *
Sau khi Trương Vô Kỵ và Bành Oánh Ngọc ra khỏi khách điếm rồi, Hàn Lâm Nhi quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:
- Chu cô nương vào nghỉ sớm đi thôi.
Y không dám nói thêm câu nào vội vàng đứng lên ra khỏi phòng. Chu Chỉ Nhược mỉm cười:
- Hàn đại ca, anh sợ tôi lắm hay sao? Đến ở nán lại một tí nữa với tôi cũng không được.
Hàn Lâm Nhi mặt đỏ bừng, vội lắp bắp:
- Không đâu, không đâu!
Tuy y nói thế nhưng chân càng đi nhanh hơn nữa, một mạch về phòng mình, đóng chặt cửa lại, cài then kỹ càng, tim đập thình thình, cố gắng định thần lên giường nằm, nhớ đến khuôn mặt kiều diễm thanh tú cùng giọng nói ôn hòa dịu dàng của Chu Chỉ Nhược nghĩ thầm: ?Chu cô nương mai này thành giáo chủ phu nhân, ta được hầu bên giáo chủ chăm chỉ gắng sức, cố lập chút công lao. Chu cô nương lúc ấy vui lòng sẽ khen: ?Hàn đại ca phen này thực là nhọc nhằn quá?. Đến lúc đó thì Hàn Lâm Nhi này thật không uổng một đời?.
Y tơ tơ tưởng tưởng, mỉm cười rồi mơ màng đi vào giấc ngủ. Đến nửa đêm, bỗng nghe có mấy tiếng gõ cửa, Hàn Lâm Nhi vội vàng chồm dậy hỏi:
- Ai đó?
Có tiếng Chu Chỉ Nhược ở bên ngoài trả lời:
- Tôi đây, anh mở cửa, tôi có chuyện muốn nói với anh.
Hàn Lâm Nhi vội đáp:
- Vâng! Vâng!
Y không kịp xỏ dép đi chân không chạy ra, rút then cửa rồi trở vào thắp nến lên. Chỉ thấy Chu Chỉ Nhược hai mắt sưng đỏ, thần sắc hết sức lạ lùng. Hàn Lâm Nhi kinh hoảng giật nảy mình hỏi:
- Chu cô nương, cô ... cô ...
Y ấp úng không nói nên lời, động nhiên nhớ ra chạy ra khỏi phòng nói:
- Để thuộc hạ chạy đi lấy nước cho cô rửa mặt.
Một lát sau, y lại hai chân không bưng một chậu nước rửa mặt đi vào. Chu Chỉ Nhược cười buồn, tay chống lên cằm, đăm đăm nhìn ngọn lửa. Hàn Lâm Nhi nói:
- Cô ... cô rửa mặt đi.
Chu Chỉ Nhược không nói một lời, nhè nhẹ lắc đầu, đột nhiên sụt sùi rơi lệ. Hàn Lâm Nhi sợ đến ngẩn người, thõng tay đứng hầu, không biết vì sao nàng lại buồn rầu đau khổ, cũng không biết nàng định nói gì với mình.
Cứ như thế một lúc lâu, đột nhiên nghe tách một tiếng, bông lửa từ ngọn nến tóe lên. Chu Chỉ Nhược đang trầm tư giật mình tỉnh lại, kêu lên ?Ôi? một tiếng nhỏ rồi đứng lên. Hàn Lâm Nhi lớn tiếng nói:
- Chu cô nương, ai là kẻ dám hỗn với cô, họ Hàn này sẽ đi kiếm rút dao thí mạng đâm cho nó mấy nhát. Cô cứ nói ra.
Chu Chỉ Nhược buồn bã lắc đầu, đi ra. Nàng vào phòng ngồi một lát, tưởng như muốn trút hết tâm sự nhưng ngờ đâu không thể nói lên được một lời nào, khiến cho anh chàng Hàn Lâm Nhi lộp chộp kia chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, giơ tay vò đầu bứt tai.
Y suy nghĩ mãi không ra chuyện gì, bỗng nghe từ xa vọng về keng keng keng ba tiếng báo hiệu đã đến canh ba, tự hỏi: ?Sao đến giờ này mà giáo chủ và Bành đại sư chưa về??. Y bèn lên giường ngủ lại. Còn đang mơ màng toan chợp mắt bỗng nghe có tiếng lịch bịch, phía đông dường như có tiếng bàn ghế đổ, chính từ phòng Chu Chỉ Nhược đang ở. Hàn Lâm Nhi vội nhảy ra khỏi giường, dưới ánh trăng thấp thoáng, ở phòng phía đông có bóng người treo lơ lửng còn đang dãy dụa.
Y giật mình kinh hãi kêu lên:
- Chu cô nương, Chu cô nương!
Hàn Lâm Nhi đưa tay đẩy cửa, cửa phòng vẫn đóng. Y lấy vai huých mạnh một cái cho gãy then cửa chạy vội vào phòng, đánh lửa lên châm vào ngọn nến, thấy Chu Chỉ Nhược hai chân buông thõng lơ lửng trên không, cổ treo bằng sợi dây thừng buộc vào xà nhà. Y kinh hãi mất cả hồn vía vội nhảy lên dùng sức bứt đứt dây thừng, để Chu Chỉ Nhược nằm trên giường, giơ tay thăm mũi cũng may chưa tắt thở. Y kêu toáng lên:
- Chu cô nương, Chu cô nương! Cô ... cô có chuyện gì mà đến nỗi ... đến nỗi ...
Bỗng nghe từ cửa có tiếng người hỏi:
- Hàn đại ca, cái gì thế?
Một người bước vào, chính là Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thấy tình hình như thế, chẳng khác gì sét đánh ngang tai, vội đưa tay cởi sợi dây nơi cổ Chu Chỉ Nhược, sờ vào ngực nàng, thấy trái tim vẫn còn thoi thóp đập, mừng nói:
- Không sao, cứu được.
Chàng đưa tay nắn bóp sau lưng và bụng dưới nàng mấy cái, một luồng Cửu Dương chân khí từ bàn tay truyền vào, vận chuyển mấy lần, Chu Chỉ Nhược bỗng ?Oa? một tiếng khóc òa lên.
Hàn Lâm Nhi mừng quá kêu lớn:
- Hay lắm, hay lắm, Chu cô nương sống lại rồi.
Chu Chỉ Nhược mở mắt ra thấy Trương Vô Kỵ, khóc nói:
- Anh việc gì phải lo cho tôi? Để tôi chết cho xong.
Bỗng nàng nhìn thấy vết thương trên môi Trương Vô Kỵ còn lấm chấm mấy ngấn răng, cơn giận bùng lên, giơ tay tát chàng luôn mấy cái. Hàn Lâm Nhi kinh hãi, thấy giáo chủ bị đánh làm sao chịu nổi? Có điều người ra tay lại chính là Chu Chỉ Nhược người mà y sùng bái như thiên thần, nên nhất thời ngơ ngơ ngẩn ngẩn không biết làm sao cho phải. Đột nhiên có người giơ tay vỗ lên vai y mấy cái, Hàn Lâm Nhi quay lại thấy chính là Bành Oánh Ngọc vội nói:
- Bành đại sư, ông về rồi đấy ư? Mau mau lại đây khuyên giải Chu cô nương!
Bành Oánh Ngọc cười hỏi:
- Khuyên cái gì?
Y nói với Trương Vô Kỵ:
- Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ không nghe tin tức gì liên quan đến Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn cả.
Trương Vô Kỵ ?Ồ? lên một tiếng, thần sắc thật là sượng sùng. Bành Oánh Ngọc nói với Hàn Lâm Nhi:
- Hàn huynh đệ, hai người mình đi ra ngoài dạo chơi một chút.
Hàn Lâm Nhi hấp tấp nói:
- Không xong, không xong đâu, hai người đang đánh nhau, Chu cô nương làm sao có thể là địch thủ của giáo chủ được.
Bành Oánh Ngọc cười ha hả nói:
- Thật đúng là anh chàng hồ đồ, không lẽ bọn mình lại giúp Chu cô nương để cho cô ấy thắng giáo chủ chăng? Ta bảo cho mà biết, giáo chủ đánh không lại Chu cô nương đâu.
Nói xong đưa mắt nháy y, cầm tay Hàn Lâm Nhi kéo ra khỏi phòng. Hàn Lâm Nhi vẫn không ngớt quay đầu lại, mặt mày đầy vẻ lo lắng. Chu Chỉ Nhược nhịn không nổi cười khúc khích, nhưng lại phục xuống giường rấm rứt khóc tiếp. Trương Vô Kỵ ngồi bên cạnh giường, giơ tay vỗ nhè nhẹ lên vai nàng, ôn tồn nói:
- Chỉ Nhược, anh quả không có hẹn hò gì với cô ta, chẳng qua bất ngờ gặp nhau đấy thôi.
Chỉ Nhược đạp đạp hai chân, khóc nói:
- Tôi không tin, tôi không tin. Dù anh có nói gì chăng nữa, từ nay đừng có bao giờ mong tôi tin được anh.
Trương Vô Kỵ thở dài:
- Chu Công khủng cụ lưu ngôn nhật, Vương Mãng khiêm cung hạ sĩ thì.[1]Việc trên đời này thật dễ làm cho người khác phải hiểu lầm ...
Chu Chỉ Nhược ngồi nhỏm dậy nói:
- Cô quận chúa nương nương đó dùng thơ nhiếc móc tôi, chắc anh vẫn thường ngâm nga hay sao mà nhớ kỹ thế. Anh thử nhìn môi anh xem coi có ra cái giống gì không, sao không biết xấu hổ?
Nàng nói đến đây mặt hầm hầm. Trương Vô Kỵ nghĩ chuyện hôm nay dù có nói cách nào thì cũng khó lòng biện bạch, mà mình với Chu Chỉ Nhược thì đã quyết ý thành vợ thành chồng, sống đến răng long đầu bạc, chỉ còn cách gợi lòng thương để nàng dần dần nguôi ngoai đi thôi. Dưới ánh nến thấy mặt nàng đỏ bừng, trên cổ còn hằn vết dây hai bên sưng tấy lên, nếu như Hàn Lâm Nhi không phát giác kịp, đợi đến khi mình về thì e rằng đã hoa tàn ngọc nát, không thể nào cứu vãn được để thành mối hận muôn đời. Chàng không khỏi hổ thẹn lại thêm thương cảm, bèn giơ tay ôm nàng vào lòng, ghé lên môi hôn một cái. Chu Chỉ Nhược lách đầu qua, giận dỗi nói:
- Anh vừa tằng tịu với người ta rồi lại về đây ỉ ôi, sao coi thường tôi quá vậy?
Trương Vô Kỵ càng ôm chặt hơn, không cho nàng động đậy, sau cùng cũng hôn được một cái thật sâu. Chu Chỉ Nhược vùng vẫy không nổi, nỗi bực dọc cũng dần dần lắng xuống.
Trương Vô Kỵ nghĩ bụng mình với nàng tuy danh phận đã định, hai người là vợ chồng chưa cưới, nhưng canh khuya ở chung một phòng, khác gì xỏ giày nơi vườn dưa, sửa mũ dưới cây mận[2], người ngoài không khỏi hiềm nghi, để Bành Oánh Ngọc, Hàn Lâm Nhi trông vào khó coi nên đành bỏ Chu Chỉ Nhược ra nói:
- Chỉ Nhược, em đi nghỉ đi, có gì ngày mai nói chuyện. Nếu anh còn dối em đi gặp Triệu cô nương thì để cho em lăng trì tùng xẻo, chết không nửa lời oán trách.
Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, ngực phập phồng, hơi thở dồn dập nói:
- Chỉ nói nhăng nói cuội! Anh biết em đời nào lại đâm chém anh bao giờ?
Trương Vô Kỵ cười nói:
- Vậy thì em chặt hai chân của anh nhé?
Chu Chỉ Nhược cúi đầu, những giọt nước mắt như những viên ngọc trai lại ròng ròng nhỏ xuống. Trương Vô Kỵ không đành đi ra lại ngồi xuống bên cạnh, giữ hai vai nàng ôn tồn nói:
- Có gì mà em lại đau lòng rồi?
Chu Chỉ Nhược vẫn nức nở khóc không nói gì. Trương Vô Kỵ gặng hỏi mấy lần, ngờ đâu càng hỏi tới, nàng càng khóc già. Trương Vô Kỵ bèn thề sống thề chết, hứa với nàng sẽ không bao giờ thay lòng đổi dạ. Chu Chỉ Nhược hai tay ôm mặt nói:
- Em chỉ tủi cho cái số em phải khổ chứ đâu có trách gì anh.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chúng mình ai ai mà chẳng khổ. Quân Thát tử tác oai tác quái ở Trung Quốc, ai chẳng lắm khổ nhiều đau, sau này mình thành vợ chồng rồi, đuổi được người Mông Cổ đi, từ đó thì chỉ có vui mừng, không còn đau lòng nữa.
Chu Chỉ Nhược ngửng đầu lên nói:
- Vô Kỵ ca ca, em biết chàng đối vời em một lòng một dạ, chỉ có điều con tiểu yêu nữ Triệu Mẫn kia cứ quyến rũ chàng, không phải vì chàng có bụng nọ ý kia. Có điều ... có điều cô ta thông minh trí tuệ, võ công lại cao cường, dung mạo quyền thế, cái gì cũng hơn em cả chục lần. Em làm sao có thể giành được với cô ta, sống một đời đau khổ làm gì chi bằng chết quách cho xong. Ngờ đâu cái anh chàng ngốc nghếch Hàn Lâm Nhi lại cứu em sống lại. Em đã chết hụt một lần, đâu còn can đảm mà chết lần thứ hai. Em ... em muốn đi theo sư phụ, cắt tóc làm ni cô. Ôi, thế là chưởng môn phái Nga Mi từ xưa đến nay cũng chẳng một ai đi lấy chồng.
Trương Vô Kỵ nói:
- Thế ra em vẫn chưa yên tâm. Thôi thì thế này, ngày mai chúng mình lập tức đi về Hoài Tứ, anh sẽ cùng em thành hôn.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Nghĩa phụ chưa kiếm thấy, hơn nữa, chàng đã từng nói Hung Nô chưa diệt thì chưa thành gia thất cơ mà. Xem ra ... xem ra không xong.
Nói xong nàng lại nước mắt đầm đìa. Trương Vô Kỵ nói:
- Nghĩa phụ thì đương nhiên là phải ráo riết đi tìm rồi. Chúng mình gặp lại các anh em việc kiếm ông chắc dễ hơn nhiều. Còn việc đuổi quân Thát tử bao giờ mới thành, thật chẳng một ai liệu trước được. Không lẽ đợi tới khi hai đứa mình thành ông già bà cả, lúc đó mới lụm cụm bái đường thành thân hay sao? Ông già bà cả lễ trời lễ đất thì đã đành, nhưng lúc đó làm sao sinh con đẻ cái, chẳng lẽ nhà họ Trương đành đoạn tử tuyệt tôn.
Chu Chỉ Nhược mặt đỏ lên cười khúc khích nói:
- Gớm chàng xưa nay vốn là người thực thà nay không biết học được ở đâu cái mồm miệng trơn như mỡ thế?
Bao nhiêu u ám buồn phiền theo tiếng cười của hai người mà tiêu tan ra mây khói.
Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ dặn Bành Oánh Ngọc ở lại Đại Đô thêm ba ngày nữa nghe ngóng tin tức Tạ Tốn, còn mình cùng với Chu Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi xuôi nam đi xuống khu vực Hoài Tứ. Ba người vừa đến Sơn Đông đã thấy binh mã của Mông Cổ thua chạy, mũ giáp tơi tả, chạy như đàn ong. Bọn Trương Vô Kỵ thấy tình thế đo vội tránh qua đường khác mà đi. Về sau chàng bắt gặp một tên quân đi lẻ, liền bắt lại tra vấn, mới hay Chu Nguyên Chương ở Hoài Bắc đánh bại quân Nguyên mấy trận lớn, khiến đại đội binh mã của địch phải tan vỡ. Ba người nghe vậy mừng không để đâu cho xiết, càng cố đi nhanh hơn, đến biên giới Lỗ Hoãn[3] thì đất đai đã hoàn toàn thuộc về nghĩa quân của Minh Giáo rồi. Trong đám quân lính có người nhận ra Hàn Lâm Nhi, vội chạy về báo cho phủ nguyên soái.
Ba người đến gần Hào Châu, Hàn Sơn Đồng đã cùng với các đại tướng Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Đặng Dũ, Thang Hòa ... ra ngoài ba mươi dặm để nghênh tiếp. Mọi người xa cách lâu ngày nay gặp lại, ai nấy đều thật là vui mừng. Hàn Sơn Đồng nghe con trai nói bị Cái Bang bắt giữ toàn do giáo chủ cứu ra lại lên cảm tạ thêm lần nữa. Trong tiếng chiêng trống rầm trời, binh giáp lòa mắt tất cả nghĩa quân đón giáo chủ vào thành Hào Châu.
Chu Chỉ Nhược cưỡi ngựa đi đằng sau Trương Vô Kỵ, nhìn trái liếc phải, thấy khung cảnh uy phong tuy chưa hoa lệ huy hoàng bằng hoàng đế, hoàng hậu ?du hoàng thành? ở Đại Đô nhưng cũng phần nào thỏa nguyện bình sinh.
Trương Vô Kỵ ở lại trong thành nghỉ ngơi ít ngày thì bọn Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc, Chu Điên, các chưởng kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ nghe được tin tức lục tục từ các nơi kéo đến.
Trương Vô Kỵ kể lại việc Tạ Tốn trở về Trung Nguyên, bị Cái Bang bắt rồi lại mất tích lần nữa cho tất cả mọi người nghe. Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính các người bàn qua tính lại đều không ai tìm ra manh mối nào. Phạm Dao nói:
- Không biết cô gái áo vàng kia lai lịch ra sao? Không chừng hành tung của Tạ huynh có thể hỏi ở cô ta mà ra.
Quần hào chưa ai nghe nói đến trong võ lâm có một cô gái áo vàng bao giờ, chỉ đành khuyên Trương Vô Kỵ cứ khoan tâm:
- Cứ như ngôn ngữ hành vi của cô gái áo vàng đó với giáo chủ xem ra không có ác ý. Nếu như Kim Mao Sư Vương vào tay cô ta thì chắc cũng không sao. Nếu cứ như thế có lẽ cô ta cũng chỉ muốn dò hỏi việc bảo đao Đồ Long mà thôi.
Trương Vô Kỵ vẫn lo canh cánh nhưng không biết làm sao hơn, chỉ đành sai các giáo chúng trong Ngũ Hành Kỳ chia nhau ra đi các nơi thám thính. Qua ngày hôm sau, Bành Oánh Ngọc từ Đại Đô trở về cho biết cũng không thăm dò thêm được chút tung tích nào của Tạ Tốn.
Nghĩa quân Minh Giáo đánh mấy trận lớn, tuy đều thắng cả nhưng tổn thất cũng thật nặng nề cho nên trong vòng vài ba tháng sắp tới, tình hình quân lữ cần phải nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại, chiêu mộ thêm tân binh, không thể nào tung ra đánh với quân Nguyên. Bành Oánh Ngọc đêm đó thấy Chu Chỉ Nhược tự tận, tuy không rõ đầu đuôi nhưng cũng đoán ra được rằng giữa hai người nếu chẳng phải ghen tuông thì cũng có chuyện cãi vã. Phạm Dao cũng biết liên hệ giữa Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cũng không phải bình thường, nếu như giáo chủ Minh Giáo lấy quận chúa Mông Cổ làm vợ thì công cuộc kháng Nguyên phục quốc sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, thấy trước mắt không có chuyện gì quan trọng nên cũng khuyên Trương Vô Kỵ mau mau thành hôn với Chu Chỉ Nhược. Còn Trương Vô Kỵ thì đã có hẹn thề đính ước với Chu Chỉ Nhược nên cũng bằng lòng ngay. Dương Tiêu chọn ngày rằm tháng ba là ngày hoàng đạo, toàn thể Minh Giáo từ trên xuống dưới ai cũng vui mừng, lập tức chuẩn bị đám cưới cho giáo chủ.
Lúc này thanh thế Minh Giáo chấn động thiên hạ, quân đông lộ của Hàn Sơn Đồng đã kiểm soát các thành thị lớn cả một vùng Hoài Tứ, còn tây lộ của Từ Thọ Huy thì khắp Ngạc Bắc, Dự Nam cũng liên tiếp đánh bại quân Nguyên. Tin mừng về hôn lễ của giáo chủ truyền ra, đồ mừng của nhân sĩ võ lâm ùn ùn đem tới như sóng bể. Các phái Côn Lôn, Không Động trước nay vốn có thù oán với Minh Giáo nhưng khi ở chùa Vạn An đã được Trương Vô Kỵ ra tay cứu thoát nên đã có ơn với họ, thứ nữa Chu Chỉ Nhược là chưởng môn phái Nga Mi nên các phái ai ai cũng đem lễ vật chúc mừng, riêng Không Động ngũ lão thì thật là hậu hĩ.
Trương Tam Phong viết bốn chữ ?Giai Nhi Giai Phụ[4]? vào một bức trục cùng một bộ Thái Cực Quyền Kinh do chính ông chép tay, sai Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình ba người đệ tử mang đến. Lúc này Dương Bất Hối đã lấy Ân Lê Đình, cũng cùng đi với chồng đến Hào Châu, Trương Vô Kỵ mỉm cười đi ra đón, lớn tiếng chào:
- Lục sư thẩm.
Dương Bất Hối mặt đỏ lên, nắm lấy hai tay chàng nhớ lại chuyện xưa, vừa vui mừng vừa thương cảm. Trương Vô Kỵ e ngại Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư chưa bỏ ý gian, thừa cơ làm hại liền kín đáo kể lại việc Tống Thanh Thư giết chết Mạc Thanh Cốc, lại toan mưu đầu độc Trương Tam Phong kể lại cho Vi Nhất Tiếu nghe, rồi sai y lấy danh sứ giả tạ ơn, lên thẳng núi Võ Đương, sau khi bái kiến Trương Tam Phong hãy cùng với Du Đại Nham, Trương Tùng Khê hợp lực, phòng bị bọn Trần Hữu Lượng đợi đến khi nào anh em Tống Viễn Kiều quay trở về núi thì hãy cáo biệt.
Vi Nhất Tiếu hậm hực nói:
- Từ khi tuân hành huấn dụ của giáo chủ, Vi Nhất Tiếu không dám hút máu người nữa nhưng kỳ này nếu gặp hai tên gian tặc này, thể nào cũng hút cạn máu hai đứa mới xong.
Trương Vô Kỵ vội nói:
- Gã Trần Hữu Lượng kia thì Vi huynh cứ tiện tay trừ đi không sao, còn Tống Thanh Thư là con một của đại sư bá tôi, là người chưởng môn tương lai của phái Võ Đương, nên để phái Võ Đương tự thanh lý môn hộ, khỏi làm sứt mẻ tình cảm với đại sư bá.
Vi Nhất Tiếu vâng lệnh, bái biệt ra đi. Đến ngày mồng mười tháng ba, các nữ hiệp phái Nga Mi mang lễ vật đến Hào Châu, chỉ riêng Đinh Mẫn Quân nhờ người khác thay mặt còn mình không đến.
*
*?? *
Đến ngày rằm tháng ba, người trong Minh Giáo từ trên xuống dưới ai ai cũng thay quần áo mới. Lễ bái thiên địa được sắp xếp ở một sảnh đường của một đại phú gia tại Hào Châu, treo đèn kết hoa, trang trí thật là rực rỡ. Bức thiếp trên có bốn chữ ?Giai Nhi Giai Phụ? của Trương Tam Phong được treo ngay chính giữa. Ân Thiên Chính làm chủ hôn đằng trai, Thường Ngộ Xuân làm chủ hôn đằng gái. Thiết Quan đạo nhân làm tổng tuần hành của Hào Châu, thống lãnh bộ hạ trong Minh Giáo đi vòng quanh để phòng kẻ địch có thể lẻn vào quấy phá. Thang Hòa đốc suất tinh binh nghĩa quân trấn đóng ngoài thành để ngự địch.
Sáng hôm đó các phái Hoa Sơn, Thiếu Lâm đều có cử người đem lễ vật đến mừng. Đến giờ thân là giờ tốt, pháo hiệu nổ đì đùng khắp nơi. Tất cả các quan khách đều đến đại sảnh, theo tiếng xướng của người lễ sinh, Tống Viễn Kiều và Ân Dã Vương đưa Trương Vô Kỵ bước ra. Tiếng đàn tiếng sáo trổi lên, mọi người thấy hoa cả mắt, tám thiếu nữ trẻ tuổi phái Nga Mi theo hầu Chu Chỉ Nhược yểu điệu đi ra ngoài đại sảnh. Chu Chỉ Nhược thân mặc đại hồng cẩm bào, đầu đội phượng quan, áo khoác màu cánh sen, mặt che khăn đỏ. Nam tả nữ hữu, tân lang và tân nương đứng sánh vai. Người lễ sinh cao giọng xướng:
- Bái thiên!
Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược vừa toan quì xuống chiếu để lễ, bỗng từ ngoài cửa có tiếng người thánh thót kêu lên:
- Khoan đã!
Một bóng xanh thấp thoáng, một thiếu nữ cười hì hì đã đứng ngay giữa sân, chính là Triệu Mẫn. Quần hào vừa thấy nàng ta, lập tức có tiếng xì xào la lối nổi lên. Trong Minh Giáo cũng như các môn phái không ít người bị nàng làm khó, không ngờ lại dám một mình vào nơi hiểm địa. Những người nóng tính đã toan tiến lên động thủ.
Dương Tiêu giơ ngang hai tay, cũng quát lên:
- Hãy khoan!
Y quay qua nói với mọi người:
- Hôm nay là ngày vui của giáo chủ tệ giáo và chưởng môn phái Nga Mi, Triệu cô nương quang lâm chúc mừng tức là khách của tệ giáo. Xin các vị nể mặt phái Nga Mi và tệ giáo, để những chuyện đã qua sang một bên, đừng vô lễ với Triệu cô nương.
Nói xong Dương Tiêu đưa mắt cho Bành Oánh Ngọc và Thuyết Bất Đắc, hai người hiểu ý liền quay vào hậu đường, đi ra tra xét xem Triệu Mẫn đem bao nhiêu cao thủ theo. Dương Tiêu nói với Triệu Mẫn:
- Xin Triệu cô nương qua bên này ngồi xem lễ, xong rồi tại hạ sẽ mời cô nương ba chén rượu nhạt.
Triệu Mẫn mỉm cười nói:
- Tôi có vài câu muốn nói với Trương giáo chủ, nói xong là đi ngay, ngày khác hãy xin làm phiền quí vị.
Dương Tiêu nói:
- Triệu cô nương có chuyện gì đợi hành lễ xong nói cũng không muộn.
Triệu Mẫn nói:
- Hành lễ xong rồi thì đã trễ.
Dương Tiêu và Phạm Dao hai người nhìn nhau, biết rằng Triệu Mẫn có ý muốn đến phá đám, bằng cách nào cũng phải ngăn nàng lại, để khỏi làm ngày vui hóa ra bẽ bàng, mọi người phải khó chịu. Dương Tiêu liền tiến lên hai bước nói:
- Chúng tôi hôm nay đã hết sức dùng lễ chủ khách, xin Triệu cô nương nên tự trọng.
Y đã định bụng nếu như Triệu Mẫn cố tình quấy hôi bôi nhọ, sẽ lập tức ra tay điểm huyệt nàng để chế ngự rồi tính sau. Triệu Mẫn quay sang nói với Phạm Dao:
- Khổ đại sư, người ta muốn ra tay với tôi, ông có giúp tôi không?
Phạm Dao nhíu mày nói:
- Quận chúa, trên đời này mười điều có đến tám chín không vừa ý, đã đến nước này, cũng đành phải chịu vậy thôi.
Triệu Mẫn nói:
- Tôi không chịu thì sao?
Nàng quay sang nói với Trương Vô Kỵ:
- Trương Vô Kỵ, anh là giáo chủ Minh Giáo, nam tử hán đại trượng phu, nói ra có giữ lời không?
Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn tới, tim đập thình thình, chỉ mong Dương Tiêu có thể vãn hồi thế cuộc, dịu ngọt khuyên nàng bỏ đi, bỗng nghe nàng hỏi đến mình chỉ đành trả lời:
- Tôi đã nói ra hẳn là sẽ giữ lời.
Triệu Mẫn nói:
- Hôm trước tôi cứu mạng cho Du tam bá và Ân lục thúc của anh, anh bằng lòng làm cho tôi ba chuyện, quyết không bội ước, có đúng không nào?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế. Cô bảo tôi đi mượn thanh đao Đồ Long cho xem, cô không những đã xem, mà còn trộm luôn cả bảo đao nữa.
Mấy chục năm qua, trên giang hồ đều quan tâm đến thanh đao Đồ Long ?võ lâm chí tôn? kia ở đâu, nay nghe nó đã vào tay Triệu Mẫn ai nấy đều rúng động. Triệu Mẫn nói:
- Thanh đao Đồ Long ở trong tay ai thì chỉ có Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp biết thôi, anh đến hỏi thẳng ông ta thì rõ.
Việc Tạ Tốn đã về đến Trung Nguyên trên võ lâm ít ai biết được, nay nghe nàng đề cập đến Kim Mao Sư Vương, tiếng ồn ào trong sảnh đều im bặt. Trương Vô Kỵ nói:
- Nghĩa phụ tôi hiện nay đang ở nơi đâu, Trương mỗ ngày đêm khắc khoải, mong được cô nương chỉ điểm cho.
Triệu Mẫn mỉm cười nói:
- -??? Tôi ước hẹn anh làm ba việc cho tôi, chỉ cần không đi ngược với đạo hiệp nghĩa trong võ lâm thì anh ắt sẽ làm ngay. Việc mượn thanh đao Đồ Long để xem, tuy chưa phải là xong hẳn nhưng con đao đó tôi cũng đã nhìn thấy rồi, về sau bị ăn trộm mất, cũng không thể nào trách anh được. Thôi thì cứ coi như việc thứ nhất đã hoàn tất. Bây giờ tôi có chuyện thứ hai bảo anh làm. Trương Vô Kỵ, trước mặt anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, anh không thể nói rồi nuốt lời.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cô muốn tôi làm chuyện gì?
Dương Tiêu liền xen vào:
- Triệu cô nương, cô có chuyện gì nhờ đến giáo chủ chúng tôi làm cũng phải ước định trước, chỉ cần không đi ngược lại với đạo hiệp nghĩa của võ lâm, chẳng nói gì Trương giáo chủ sẽ bằng lòng mà tệ giáo từ trên xuống dưới, cũng phải tận tâm kiệt lực. Lúc này là ngày lành tháng tốt của Trương giáo chủ và tân phu nhân tham bái trời đất, việc khác xin để qua một bên, xin đừng nhiều lời cản trở nữa.
Hồi 34
Y nói đến mấy lời sau cùng, giọng điệu hơi có vẻ gay gắt. Triệu Mẫn thần sắc vẫn như thường, coi vị Quang Minh tả sứ của Minh Giáo danh chấn giang hồ này không vào đâu nhơn nhơn nói:
- Việc của tôi đây lại còn khẩn cấp hơn, chỉ trì hoãn thêm một khắc cũng không được.
Nàng đột nhiên tiến lên mấy bước, đến ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, kiễng chân lên nói thầm vào tai chàng:
- Việc thứ hai là bảo anh hôm nay không được cùng Chu cô nương bái đường thành thân.
Trương Vô Kỵ sững sờ hỏi lại:
- Cái gì?
Triệu Mẫn nói:
- Đó là việc thứ hai. Còn việc thứ ba bao giờ tôi nghĩ ra tôi sẽ nói cho anh hay.
Những câu nàng nói tuy rất nhỏ nhưng Chu Chỉ Nhược và những người đứng gần như Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình và cả tám thiếu nữ phái Nga Mi đi theo tân nương cũng đều nghe thấy, ai nấy không khỏi biến sắc. Tám thiếu nữ phái Nga Mi quyền trong tay áo đã nắm lại, nếu như Triệu Mẫn còn nói thêm một lời vô lễ làm nhục chưởng môn thì họ sẽ cho nàng biết tay.
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
- Việc này xin thứ lỗi không thể tuân lệnh được.
Triệu Mẫn nói:
- Thế anh nói ra không giữ lời hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chúng ta đã nói với nhau từ trước, không được vi phạm đạo hiệp nghĩa. Tôi và Chu cô nương có ước định thành vợ thành chồng, nếu theo lời cô thì đã vi phạm chữ ?nghĩa? rồi.
Triệu Mẫn cười nhạt:
- Nếu như anh thành hôn với cô ta thì mới là bất hiếu bất nghĩa. Hôm du hoàng thành ở Đại Đô, không lẽ anh không thấy nghĩa phụ bị ai ám toán hay sao?
Trương Vô Kỵ lửa giận bừng bừng, lớn tiếng nói:
- Triệu cô nương, hôm nay tôi trọng cô là khách nên nhịn cô ba phần. Nếu còn nói nhăng nói cuội, có đắc tội cũng đừng trách.
Triệu Mẫn nói:
- Thế việc thứ hai này, anh không chịu nghe lời tôi hay sao?
Trương Vô Kỵ nghĩ tới nàng là thân phận quận chúa cao quí, nhưng phải xuất đầu lộ diện, trước mặt quần hào bảo mình đừng làm lễ thành hôn, chẳng qua cũng vì si mê nên không khỏi chạnh lòng ôn tồn nói:
- Triệu cô nương, việc đã đến nước này, sao cô vẫn còn ... vẫn còn chưa hiểu hay sao? Trương Vô Kỵ này là một kẻ thất phu nơi thôn dã, không xứng ... không xứng ...
Triệu Mẫn nói:
- Được, vậy anh xem đây là cái gì?
Nàng mở bàn tay phải ra, đưa vào trước mặt chàng. Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, kinh hoảng run bần bật, lật đật hỏi:
- Đây là ... đây là ...
Triệu Mẫn lập tức nắm tay lại, bỏ vật đó vào trong túi nói:
- Việc thứ hai của tôi, anh theo hay không theo đều do anh cả.
Nói xong nàng xoay mình chạy ra ngoài cửa chính. Trong tay nàng cầm cái gì khiến cho Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy đã kinh hoàng thất tán thật chẳng một ai trông rõ. Chu Chỉ Nhược hai mắt bị tấm khăn đỏ che, chỉ nghe tiếng Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn đối đáp nhưng hoàn toàn không nhìn thấy gì. Trương Vô Kỵ hấp tấp kêu lên:
- Triệu ... Triệu cô nương, xin đứng lại đã.
Triệu Mẫn đáp:
- Anh muốn theo tôi thì theo, còn không thì ở lại bái đường thành thân với tân nương tử. Là kẻ nam nhi mà hồ nghi bất quyết, há không phải để hận đến mãn đời hay sao?
Nàng miệng thì lớn tiếng nói mấy câu đó nhưng chân vẫn không ngừng lại chút nào, tiếp tục chạy băng băng ra khỏi cửa. Trương Vô Kỵ vội kêu lên:
- Triệu cô nương dừng bước chút đã! Để bàn tính lại xem sao!
Chàng lại chỉ thấy nàng càng chạy nhanh hơn vội vọt lên chặn trước mặt nói lớn:
- Được rồi, tôi theo lời cô, hôm nay không thành hôn nữa.
Triệu Mẫn đứng lại nói:
- Vậy thì anh đi theo tôi.
Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy Chu Chỉ Nhược đứng chết sững thấy hết sức băn khoăn, muốn giải thích cùng nàng mấy câu nhưng Triệu Mẫn vẫn băng băng bỏ chạy, công việc gấp gáp bội phần chỉ đành bắt buộc phải chọn một đường nên nghiến răng đuổi theo Triệu Mẫn.
Trương Vô Kỵ vừa đuổi đến ngoài cửa, đột nhiên một bóng hồng thấp thoáng, một người đã đến sát bên Triệu Mẫn, tay áo đỏ vươn ra một bàn tay thuôn thuôn búp măng, năm ngón tay chộp vào đỉnh đầu. Biến cố đó như chim cắt bắt mồi nhanh không thể tả, người ra tay chính là tân nương Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ giật mình nghĩ thầm: ?Chiêu này lợi hại quá! Chỉ Nhược học ở đâu ra võ công tinh diệu thế này??. Chàng thấy tay nàng sắp sửa nắm được đỉnh đầu Triệu Mẫn, nếu năm ngón tay chộp xuống thể nào sọ cũng vỡ tan, không kịp suy nghĩ thêm, liền vọt lên bắt lấy mạch môn Chu Chỉ Nhược.
Chu Chỉ Nhược thúc cùi chỏ bên trái về sau, nghe bịch một tiếng đã trúng ngay ngực chàng. Cửu Dương chân khí trong cơ thể Trương Vô Kỵ lập tức phát động, hóa giải kình lực của khủy tay nhưng cũng thấy trong bụng khí huyết trộn trạo, chân hơi lảo đảo.
Phạm Dao thấy tình thế nguy cấp động lòng cứu chủ cũ, vội giơ chưởng đẩy vào vai Chu Chỉ Nhược. Chu Chỉ Nhược tay trái hơi vung lên, nhẹ nhàng phất một cái, Phạm Dao cổ tay tê đi, chưởng đó không sao đánh ra nổi.
Tuy nhiên trở ngại đó đã giúp cho Triệu Mẫn vọt lên thêm được nửa bước, tránh được chỗ yếu hại nơi sau gáy nhưng đầu vai đau nhói, năm ngón tay phải của Chu Chỉ Nhược đã chộp trúng ngay vai gần sát cổ. Trương Vô Kỵ ?A? lên một tiếng, giơ tay đẩy Chu Chỉ Nhược ra. Chu Chỉ Nhược trên mặt vẫn còn chiếc khăn che chưa cởi được, nghe hơi gió liền hất tay trái về sau, chém ngay vào cổ tay chàng.
Trương Vô Kỵ nào có ý muốn cùng nàng động thủ, chỉ vì thấy nàng chiêu số thực là tàn độc, chỉ một chiêu đã toan lấy mạng Triệu Mẫn, không còn cách nào hơn nên phải gạt ra. Chu Chỉ Nhược thân trên không động đậy mà cũng không di chuyển ra khỏi chỗ, liên tiếp tung ra tám chiêu hiểm ác liền, Trương Vô Kỵ vội vàng sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp mới đỡ được. Tám chiêu tấn công, tám chiêu thủ vệ chỉ trong nháy mắt đã xong, trong đại sảnh quần hào đều nín thở, ai nấy kinh hãi đến thất thần.
Triệu Mẫn đầu vai bị trọng thương, ngã khuỵu xuống đất, năm cái lỗ trên vai máu phun ra như suối, chỉ giây lát đã nhuộm đỏ cả nửa thên trên. Chu Chỉ Nhược dậm chân không tấn công nữa nói:
- Trương Vô Kỵ, anh bị con yêu nữ đó mê hoặc, tính bỏ tôi mà đi hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chỉ Nhược, xin em thông cảm cho cái khổ tâm của anh. Ước định hôn nhân của hai đứa mình, Trương Vô Kỵ này không bao giờ hối hận, chỉ phải hoãn lại vài hôm thôi ...
Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói:
- Anh đi thì đừng bao giờ quay lại, mong anh sau này đừng hối tiếc.
Triệu Mẫn nghiến răng đứng lên, không nói một lời lảo đảo chạy ra, máu trên vai chảy đầy mặt đất. Quần hào tuy đã từng chứng kiến biết bao nhiêu việc lạ trên giang hồ, nhưng hôm nay mới thấy cái cảnh ?hai nàng tranh một chàng?, máu vãi phòng hoa, cô dâu mặt còn che khăn nhưng đã dùng võ công thần kỳ đả thương tình địch, ai nấy hoảng loạn kinh hoàng, không nói được lời nào.
Trương Vô Kỵ dậm chân một cái nói:
- Nghĩa phụ đối với anh ơn nặng tày non, Chỉ Nhược, Chỉ Nhược, mong em tha thứ cho ta.
Nói xong chàng liền đuổi theo Triệu Mẫn. Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Trương Vô Kỵ, Ân Lê Đình tất cả chẳng một ai biết rõ sự tình ra sao nên chẳng một ai ngăn trở. Chu Chỉ Nhược giơ tay giựt phắt chiếc khăn điều che mặt, lớn tiếng nói:
- Các vị chính mắt thấy đó, chính y phụ tôi chứ không phải tôi phụ y. Từ nay về sau, Chu Chỉ Nhược này với họ Trương kia ân đoạn nghĩa tuyệt.
Nói tới đây nàng giở chiếc phượng quan trên đầu xuống, giơ tay giựt những viên ngọc trai rồi vứt chiếc mũ đi, hai tay bóp lại, tất cả những viên trân châu nát ra như cám rơi lả tả nói:
- Chu Chỉ Nhược này nếu không rửa được cái hận hôm nay thì cũng như những viên ngọc trai này.
Ân Thiên Chính, Tống Viễn Kiều, Dương Tiêu cả bọn muốn lên tiếng khuyên lơn nàng hãy đợi Trương Vô Kỵ quay về, hỏi cho rõ ràng nhưng Chu Chỉ Nhược hai tay xé một cái, nghe soẹt một tiếng, chiếc đại hồng trường bào trên thêu đầy hoa vàng đã rách thành hai mảnh ném xuống đất rồi phi thân nhảy vọt đi, ở trên không xoay người một cái đã lên đến mái nhà.
Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn vội đuổi theo, chỉ thấy nàng phất phới như một cụm mây đỏ bay vụt về hướng đông. Khinh công đẹp như thế xem ra không kém gì Vi Nhất Tiếu. Bọn Dương Tiêu xem chừng đuổi theo không kịp, ngẩn ngơ một hồi rồi quay trở vào đại sảnh.
Đám cưới đang vui vẻ như thế bị Triệu Mẫn đến làm rối loạn, chỉ giây lát gió thổi tuyết tan, người trong Minh Giáo từ trên xuống dưới ai nấy mặt mày ủ rũ, khách khứa đến mừng cũng chẳng một ai vui. Mọi người xôn xao bàn tán nhưng không một ai biết được Triệu Mẫn cầm trong tay cái gì đưa ra cho Trương Vô Kỵ coi để đến nỗi chàng phải hốt hoảng bỏ đi, nghe chàng nói thì dường như việc này có liên quan thật trọng đại đến Tạ Tốn nhưng sự thực thế nào thì không một ai hay biết.
Những cô của phái Nga Mi bàn nhỏ với nhau mấy câu rồi cũng hầm hầm cáo từ. Ân Thiên Chính luôn mồm xin lỗi, hứa thể nào cũng dẫn Trương Vô Kỵ lên trên đỉnh Kim Đính núi Nga Mi tạ tội rồi sẽ sắp xếp việc cưới hỏi sau, đừng vì thế mà làm mất hòa khí hai nhà. Người phái Nga Mi cũng chẳng đáp lời chỉ chia nhau đi tìm Chu Chỉ Nhược, cả bọn hậm hực rủa xả đàn ông con trai vô lương tâm, có mới nới cũ.
*
*?? *
Thì ra trong tay Triệu Mẫn đưa ra cho Trương Vô Kỵ coi là một nắm tóc màu vàng. Trương Vô Kỵ vừa nhìn qua biết ngay là tóc của Tạ Tốn. Nội công của Tạ Tốn luyện đã khác người lại thêm bẩm sinh cũng lạ nên từ trung niên trở đi cả mái tóc dài biến thành vàng nhạt, nhưng không phải giống như đầu tóc của người sắc mục miền Tây Vực. Trương Vô Kỵ tưởng rằng mái tóc của Tạ Tốn đã bị Triệu Mẫn cắt đi một mảng, ắt là đã lọt vào tay nàng, nếu như mình bái đường thành thân cùng Chu Chỉ Nhược, nàng giận dữ quay về sẽ ra tay giết Tạ Tốn, nếu không cũng làm điều bất lợi cho ông ta thành thử không kịp giải thích cho Chu Chỉ Nhược nghe nỗi khổ tâm của mình trước mặt quần hào.
Những khách khứa ngày hôm nay, ngoài người của Minh Giáo và phái Võ Đương hầu như ai ai cũng muốn bắt được Tạ Tốn, trước là báo thù năm xưa ông ta giết người, sau là đoạt lấy bảo đao Đồ Long. Thành thử chàng thấy Triệu Mẫn chạy đi, biết rằng như thế thật không phải chút nào với Chu Chỉ Nhược nhưng suy đi tính lại mạng của nghĩa phụ là trọng nên đành phải đuổi theo.
Chàng ra khỏi đại môn rồi, chỉ thấy Triệu Mẫn đang hết sức chạy, máu tươi trên vai vẫn tiếp tục nhỏ xuống trên đường. Chàng hít một hơi vọt lên mấy trượng, chặn ngay trước mặt nàng nói:
- Triệu cô nương, cô đừng ép tôi phải thành một kẻ bất nghĩa, để cho anh hùng thiên hạ chê cười.
Triệu Mẫn trên vai bị thương khá nặng, lúc đầu chỉ nhờ chân khí mà gắng gượng chạy được một quãng, đến khi nghe chàng nói mấy câu đó liền đáp:
- Chàng ... chàng ...
Chân khí tiết ra, lập tức ngã xuống. Trương Vô Kỵ đỡ nàng lên nói:
- Cô nói cho tôi biết đi, nghĩa phụ của tôi giờ này nơi đâu?
Triệu Mẫn nói:
- Anh mang tôi đi cứu ông ta, tôi sẽ ... tôi sẽ ... chỉ đường cho.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tính mạng lão nhân gia không sao chứ?
Triệu Mẫn tuy khí còn nhưng hơi sức đã hết nói:
- Nghĩa phụ anh ... nghĩa phụ anh bị Thành Côn bắt được rồi.
Trương Vô Kỵ nghe thấy hai chữ ?Thành Côn? thì sợ đến chân tay rụng rời, người này võ công đã cao cường, kế mưu lại ghê gớm, Tạ Tốn và ông ta thù sâu tựa bể, nếu rơi vào tay y thì hung hiểm biết sao mà nói cho hết được. Triệu Mẫn nói:
- Một mình anh không xong đâu, đi gọi ... gọi bọn Dương Tiêu cùng đi mới được...
Nói rồi giơ tay chỉ về hướng tây, đột nhiên đầu lật về sau, mê man bất tỉnh. Trương Vô Kỵ nghĩ đến nghĩa phụ giờ này khổ sơ nguy nan, ruột gan nóng như lửa đốt, lập tức bế nàng lên, vội vàng xé rách quần áo, buộc vết thương cho nàng, giơ tay vẫy một giáo đồ Minh Giáo đứng bên đường dặn dò:
- Ngươi mau báo cho Dương tả sứ bảo ông ta dẫn mọi người, chạy theo hướng tây, nói là ta có chuyện gấp cần sai bảo.
Tên giáo đồ tuân lệnh, vội chạy đi bẩm báo. Trương Vô Kỵ nghĩ mình đến sớm chút nào hay chút nấy, việc không biết thế nào mà lường, không chừng chỉ chậm nửa khắc là đã không cứu được mạng nghĩa phụ nữa rồi bèn ôm Triệu Mẫn lên chạy ra phía cửa thành, sai sĩ tốt thử ngự lấy cho một con tuấn mã, phi thân nhảy lên, chạy vọt về hướng tây.
Chạy được mấy dặm, cảm thấy thân thể Triệu Mẫn trong lòng lạnh dần, giơ tay thăm mạch, chỉ thấy mạch nhảy rất yếu, chàng kinh hoảng vội cởi vết thương ra xem, thấy năm cái lỗ ngón tay sâu đến tận xương, da thịt chung quanh tím ngắt, hiển nhiên đã trúng chất kịch độc. Chàng hết sức nghi ngờ: ?Chỉ Nhược là đệ tử phái Nga Mi, sao lại biết sử dụng loại võ công âm độc thế này? Nàng ra chiêu thật là độc địa xem ra còn hơn Diệt Tuyệt sư thái nhiều là cớ làm sao??.
Trước mắt thấy nếu không cứu chữa ngay, Triệu Mẫn sẽ bị chất độc phát tác chết liền nhưng chàng đang mặc y phục tân lang lấy đâu ra thuốc men trong người? Chàng hơi trầm ngâm rồi lập tức nhảy ra khỏi lưng ngựa, ôm nàng chạy theo phía trái lên trên núi, nhìn quanh bốn bề tìm các loại dược thảo trừ độc nhưng trong nhất thời ngay cả loại thuốc men tầm thường nhất cũng không kiếm đâu ra.
Chàng tim đập thịnh thịch, đi qua mấy triền núi, miệng lẩm bẩm vái van. Bỗng dưng trước mắt thấy sáng lòa, bên cạnh một ngọn thác ở đằng trước bên phải có bốn năm đóa hoa nhỏ màu đỏ, chính là hoa có tên là ?Phật Tòa Tiểu Hồng Liên?, cũng có chút tính khử độc. Tuy lúc này đang là giữa mùa xuân, trăm hoa nở rộ nhưng loại hoa này tìm thấy nơi đây thì kể cũng là trời cho. Chàng mừng lắm, ôm Triệu Mẫn nhảy qua hai khe suối, hái mấy đóa hoa bỏ vào mồm nhai, một nửa mớm vào mồm cho Triệu Mẫn, một nửa đắp lên vai nàng, rồi lại ôm cô ta lên tiếp tục chạy về hướng tây.
Chạy được khoảng ba chục dặm, Triệu Mẫn rên lên một tiếng, tỉnh lại, nói nhỏ:
- Em ... em có còn sống hay chăng?
Trương Vô Kỵ thấy Phật Tòa Tiểu Hồng Liên kiến hiệu, mừng rỡ cười hỏi:
- Cô thấy trong người ra sao?
Triệu Mẫn nói:
Trên vai ngứa lắm. Ôi, công phu của Chu cô nương thật là ghê gớm.
Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng để nàng xuống, xem lại vết thương trên vai thấy vết bầm đen chưa bớt chút nào nhưng mạch lúc này không còn yếu như trước nữa. Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm biết rằng Phật Tòa Tiểu Hồng Liên dược tính quá chậm, không đủ sức trừ độc, nên cúi xuống ghé mồm vào vai nàng, hút máu độc từng ngụm từng ngụm ra nhổ xuống đất, mùi tanh hôi xông lên mũi khiến chàng muốn mửa.
Triệu Mẫn giương mắt nhìn, giơ tay vuốt ve tóc chàng, thở dài nói:
- Vô Kỵ ca ca, cái nguyên ủy bên trong, chàng đã nghĩ ra được chưa?
Trương Vô Kỵ hút hết độc huyết ra rồi, đi tìm suối súc miệng, quay về ngồi bên cạnh Triệu Mẫn hỏi lại:
- Cái nguyên ủy gì?
Triệu Mẫn nói:
- Chu cô nương là đệ tử danh môn chính phái, sao lại biết những võ công tà môn âm độc như thế này?
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi cũng thấy lạ lùng, không biết ai đã dạy cho nàng ta vậy.
Triệu Mẫn lặng lẽ mỉm cười nói:
- Chắc là tiểu tặc của ma giáo tà phái dạy cho cô ta đó.
Trương Vô Kỵ cũng cười:
- Trong ma giao tuy nhiều ma đầu nhưng chẳng ai biết môn võ công này, chỉ có Thanh Dực Bức Vương hút máu cổ người ta và Trương Vô Kỵ hút máu vai người ta là hơi giống nhau thôi.
Chàng lại thuận miệng hỏi thêm:
- Nghĩa phụ tôi rơi vào tay Thành Côn ư? Bây giờ đang ở nơi nào?
Triệu Mẫn nói:
- Để em đưa chàng đi tìm cách cứu ông ta ra. Còn ở nơi nào thì bây giờ em cũng là “Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc” vì em mà nói ra thì chàng sẽ quăng bỏ em nơi đây không còn lo gì cho em nữa.
Trương Vô Kỵ thở dài:
- Lẽ nào tôi lại vô tình vô nghĩa đến thế?
Triệu Mẫn đáp:
- Vì cha nuôi mà anh bỏ rơi cô vợ mới cưới đẹp như hoa như ngọc, huống gì là em?
Nói rồi nàng dựa vào người chàng hỏi:
- Hôm nay em làm lỡ dịp động phòng hoa chúc của chàng, chàng có giận em không?
Không hiểu vì sao, trong lúc này lòng Trương Vô Kỵ thật là vui sướng, ngoài việc lo lắng cho an nguy của Tạ Tốn ra, so với khi đang bái đường thành thân cùng Chu Chỉ Nhược lại thoải mái bội phần, thực ở nguyên do nào chàng cũng không sao nói được. Thế nhưng nếu thừa nhận rằng mình thích bị Triệu Mẫn phá hỏng cái đám cưới thì cũng không dám mở miệng nói ra nên chỉ đành nói:
- Lẽ dĩ nhiên là tôi giận cô. Mai này khi cô đang bái đường thành thân cùng một chàng quận mã gia anh hùng tiêu sái thì tôi cũng sẽ đến đại náo một trận, không để cho cô yên lành làm cô dâu mới đâu.
Nét mặt xanh mét của Triệu Mẫn bỗng hồng lên cười nói:
- Chàng mà đến phá đám, em sẽ một kiếm giết chàng ngay.
Trương Vô Kỵ bỗng dưng thở dài, buồn bã không nói gì. Triệu Mẫn hỏi:
- Sao chàng lại thở dài?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không biết cái vị quận mã gia kia kiếp trước làm điều thiện gì mà may mắn đến thế?
Triệu Mẫn cười:
- Thì bây giờ chàng tu tỉnh cũng còn kịp mà.
Trương Vô Kỵ trong lòng rung động hỏi lại:
- Cái gì?
Triệu Mẫn mặt đỏ lên nhưng không trả lời. Đến đây hai người ai ai cũng biết không thể nói chuyện xa hơn, nên ngồi nghỉ một lát, Trương Vô Kỵ lại đắp thuốc cho nàng rồi ôm Triệu Mẫn chạy về hướng tây. Triệu Mẫn tựa vào vai chàng, má kề má Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi hương xông lên, trong tay thân hình mềm mại khiến không khỏi nghĩ ngợi vẩn vơ, thần hồn phiêu đãng. Giá như không phải lo đi cứu nghĩa phụ gấp, chàng chỉ muốn đi chậm lại, ở nơi hoang sơn dã lãnh này đi lang thang quanh quẩn một hồi.
Hôm đó hai người phải ở lại vùng núi hoang phía tây thành Hào Châu ngủ qua đêm, sáng hôm sau đến một tiểu thị trấn mua hai con ngựa. Chất độc trong người Triệu Mẫn thật khó mà trừ cho hết, thân thể yếu ớt không đủ sức cưỡi ngựa một mình đành phải hai người cưỡi chung một con, nằm gục vào lòng Vô Kỵ. Cứ như thế đi liên tiếp năm ngày thì đến được địa phận Hà Nam.
Hôm đó hai người đang đi bỗng thấy phía trước bụi bay mù mịt, có khoảng hơn trăm người giục ngựa chạy tới, tiếng giáp sắt chạm vào nhau loảng xoảng chính là kỵ binh Mông Cổ. Trương Vô Kỵ đứng tránh qua một bên nhường đường cho bọn chúng.
Đội binh Mông Cổ qua rồi, vài chục trượng ở phía sau lại có một đội cưỡi ngựa khác, nhưng đám người này không hàng lối, kẻ trước người sau, mỗi người một chỗ. Trương Vô Kỵ vừa thoạt nhìn thấy trong đám người có cả “Thần Tiễn Bát Hùng” ở trong đó kêu thầm: “Hỏng bét!” rồi quay đầu ra chỗ khác.
Hơn hai chục người đó thấy chàng ăn mặc sang trọng, trong tay lại ôm một thiếu nữ thanh xuân, cả hai đều quay mặt đi nên cũng chẳng thèm để ý nên trong đám Thần Tiễn Bát Hùng không ai biết cả. Đợi bọn người đó đi qua, Trương Vô Kỵ mới quay đầu ngựa lại đang định chạy tới, bỗng nghe tiếng vó ngựa rộn ràng, ba kỵ sĩ chạy tới như bay. Người ở giữa cưỡi một con bạch mã, thân mặc cẩm bào, đầu đội kim quan, hai bên đi kèm là hai con ngựa màu vàng thóc, trên yên chính là Huyền Minh nhị lão Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông.
Trương Vô Kỵ vừa toan quay đi thì Lộc Trượng Khách đã trông thấy hai người kêu lên:
- Quận chúa nương nương không việc gì phải sợ, có chúng tôi cứu giá tới đây.
Hạc Bút Ông lập tức hú lên một tiếng dài, bọn Thần Tiễn Bát Hùng nghe thấy tiếng gọi liền quay đầu, vây chặt hai người lại. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên đưa mắt nhìn Triệu Mẫn ở trong lòng dường như muốn hỏi: “Phải chăng cô sắp xếp phục binh định tập kích tôi chăng?”. Thế nhưng chàng thấy nàng thần sắc bồn chồn biết ngay là trách nhầm, trong bụng cũng thấy yên tâm. Triệu Mẫn lên tiếng:
- Ca ca, không ngờ lại gặp anh ở đây, gia gia mạnh khỏe chứ?
Trương Vô Kỵ nghe nàng gọi “ca ca” vội nhìn lại thanh niên mặc áo gấm trên lưng con ngựa trắng, nhận ra là anh trai của Triệu Mẫn Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, kẻ có Hán danh là Vương Bảo Bảo. Trương Vô Kỵ đã từng gặp y hai lần ở Đại Đô, nhưng vì đang chăm chú đề phòng Huyền Minh nhị lão nên không để ý đến người khác.
Vương Bảo Bảo vừa thấy đứa em yêu, không khỏi vừa mừng vừa sợ, y lại không nhận ra Trương Vô Kỵ nên nhíu mày nói:
- Muội tử, cô ... cô ...
Triệu Mẫn đáp:
- Ca ca, em bị trúng ám toán của kẻ địch, đang bị trúng độc thật nặng, may sao được vị Trương công tử đây cứu giúp, nếu không chắc hôm nay chẳng còn dịp nhìn lại ca ca nữa đâu.
Lộc Trượng Khách ghé tai Vương Bảo Bảo nói nhỏ:
- Tiểu vương gia, gã này là giáo chủ ma giáo Trương Vô Kỵ.
Vương Bảo Bảo đã từng nghe tiếng Trương Vô Kỵ từ lâu lại tưởng Triệu Mẫn đã bị chàng kiềm chế, uy hiếp bắt nói như vậy nên phất tay một cái, Huyền Minh nhị lão liền nhảy tới chia ra hai bên cách Trương Vô Kỵ chừng năm thước. Bốn người trong Thần Tiễn Bát Hùng cũng lắp tên giương cung nhắm vào lưng chàng.
Vương Bảo Bảo nói:
- Trương giáo chủ, các hạ là chủ của một giáo phái, là một hào kiệt thành danh trong võ lâm vậy mà lại hiếp đáp một cô gái yếu đuối như xá muội, chẳng khỏi để cho người đời chê cười hay sao? Mau mau thả em tôi ra, hôm nay tha cho ngươi khỏi chết.
Triệu Mẫn nói:
- Ca ca, sao anh lại nói thế? Trương công tử quả có ơn với tiểu muội, đừng nói rằng anh ấy “hiếp đáp” em.
Vương Bảo Bảo cho rằng em mình đúng là đang bị kẻ địch dọa dẫm nên đành phải nói thế nên lớn tiếng nói:
- Trương giáo chủ, tuy ngươi võ công cao cường thật nhưng song quyền làm sao địch lại bốn tay, mau mau bỏ em gái tôi xuống, hôm nay hai bên không bên nào phạm bên nào, Vương Bảo Bảo này nói sao là đúng thế đừng có nghi ngại.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Triệu cô nương trúng độc rất nặng, nếu theo mình bôn ba nghìn dặm khó mà thuyên giảm được, nay gặp lại huynh trưởng chi bằng để cô ta đi theo anh nàng để cho danh y trong vương phủ trị liệu có ích cho nàng hơn”. Chàng bèn nói:
- Triệu cô nương, lệnh huynh muốn đón cô về, vậy thì mình từ biệt nhau nơi đây, chỉ mong cô cho biết chỗ của nghĩa phụ tôi, tôi sẽ đến tìm cách cứu ông ta ra. Còn hai đứa mình có ngày gặp lại sau.
Nói đến đây chàng không khỏi đau lòng, biết rằng kẻ Hán người Mông, quan dân cách biệt, hai bên thù oán thực sâu, nhưng khi chia tay cũng không khỏi quyến luyến. Ngờ đâu Triệu Mẫn nói:
- Tôi ngay từ đầu vốn không nói cho công tử hay nơi Tạ đại hiệp đang ở cũng là có thâm ý nên chỉ bằng lòng dẫn anh đi kiếm ông ta nhưng không cho anh biết ông ta đang ở đâu.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên nói:
- Cô đang bị thương nặng chưa khỏi, nếu theo tôi đi đường xá xa xôi thật không có lợi chút nào, thôi nên đi theo lệnh huynh về nhà là hơn.
Triệu Mẫn vẻ mặt đầy quả quyết nói:
- Nếu anh bỏ tôi ra thì sẽ không bao giờ biết nơi chốn của Tạ đại hiệp đâu. Tôi càng ngày càng đỡ, đi lại trên đường càng chóng khỏi, quay về vương phủ buồn muốn chết đi được.
Trương Vô Kỵ quay sang nói với Vương Bảo Bảo:
- Tiểu vương gia, nhờ ông khuyên lệnh muội giùm.
Vương Bảo Bảo lấy làm lạ, nhưng hiểu ngay, cười khẩy nói:
- Ha ha, ngươi đừng có vờ vịt, làm trò ma trò quỉ gì thế? Tay ngươi để vào tử huyệt trên người em gái ta nên nó đành phải nghe lời ngươi, nói năng lăng nhăng cho qua chuyện.
Trương Vô Kỵ nhảy vọt lên rơi trở xuống đứng trên mặt đất. Hai người trong Thần Tiễn Bát Hùng lại tưởng chàng ra tay tập kích Vương Bảo Bảo, tách tách hai mũi tên bắn ngay vào chàng, kình phong thật mạnh. Trương Vô Kỵ tay trái vừa đẩy vừa kéo, sử dụng thần công Càn Khôn Đại Na Di hất hai mũi lang nha tiễn quay đầu lại, kình phong càng ghê gớm hơn, lách cách hai tiếng, bắn gãy luôn hai cái cung của hai người vừa bắn ra. Nếu hai người đó không né tránh thật nhanh thì thân cũng bị trọng thương rồi. Hai mũi tên dư thế còn mạnh, cắm thẳng xuống đất, đuôi tên còn rung động không ngừng. Mọi người ai nấy đều kinh hãi.
Trương Vô Kỵ rời xa Triệu Mẫn rồi nói:
- Triệu cô nương, cô về vương phủ dưỡng thương cho khỏi đã rồi mình tìm cách gặp lại sau.
Triệu Mẫn lắc đầu:
- Trong vương phủ đâu có ai y đạo cao minh như công tử? Chàng làm ơn thì làm ơn cho trót, tiễn Phật thì tiễn tới tận Tây thiên.
Vương Bảo Bảo thấy Trương Vô Kỵ đã rời xa em gái mình rồi nhưng Triệu Mẫn vẫn nằng nặc đòi đi theo khiến y không khỏi kinh ngạc, lại thêm bực tức, quay sang Huyền Minh nhị lão nói:
- Phiền hai vị bảo hộ xá muội, thôi mình đi.
Huyền Minh nhị lão đáp lời nói:
- Tuân lệnh.
Liền đi tới bên ngựa của Triệu Mẫn. Triệu Mẫn lớn tiếng nói:
- Lộc Hạc hai vị tiên sinh, tôi có việc cần phải đi theo Trương giáo chủ để làm cho xong, đang hiềm thế cô sức yếu, hai vị đi theo chúng tôi nhé.
Huyền Minh nhị lão quay sang nhìn Vương Bảo Bảo, Lộc Trượng Khách đáp:
- Đại ma đầu của ma giáo hành sự tà bí, quận chúa không nên cùng y lai vãng thêm làm gì, hãy theo tiểu vương gia quay về phủ là hơn.
Đôi lông mày thanh tú của Triệu Mẫn hơi nhướng lên nói:
- Hai vị bây giờ chỉ nghe lời ca ca ta, không nghe lời ta nữa phải không nào?
Lộc Trượng Khách cười nịnh đáp:
- Tiểu vương gia chỉ vì thương yêu quận chúa đấy thôi.
Triệu Mẫn hừ một tiếng, quay sang Vương Bảo Bảo:
- Ca ca, em hành tẩu giang hồ vốn đã được gia gia đồng ý, anh chẳng cần phải lo, tiểu muội tự mình đảm đương được. Khi nào anh gặp gia gia thay mặt em hỏi thăm cha một câu.
Vương Bảo Bảo biết cha mình xưa nay cưng chiều cô em gái hết mực nên cũng chẳng dám bức bách nhiều hơn nhưng nếu để cho nàng ta một thân một mình đi theo giáo chủ ma giáo thì không sao yên tâm, thấy nàng yếu ớt dường như không còn chút hơi sức nào, nằm gục trên yên nhưng đang toan giục ngựa chạy về hướng tây, lập tức giơ hai tay ra cản lại nói:
- Hảo muội tử, gia gia ở phía sau đến ngay bây giờ, em chịu khó chờ một chút, bẩm rõ cho cha xong rồi đi cũng không muộn.
Triệu Mẫn cười nói:
- Gia gia đến đây thì em còn làm sao đi được nữa. Ca ca, tiểu muội không xen vào việc của ông anh thì ông anh cũng đừng xen vào việc của cô em chứ?
Vương Bảo Bảo quay sang nhìn kỹ Trương Vô Kỵ đánh giá một lần nữa, thấy chàng cao to uy vũ, diện mục anh tuấn, nghe giọng điệu của em gái mình, rõ là thương yêu y tha thiết, nghĩ thầm Minh Giáo nổi lên làm loạn, là quân phản nghịch không thể tha thứ được của triều đình, nay em mình lại phải lòng tên ma đầu này thật là họa không phải nhỏ, bèn phất tay một cái quát lớn:
- Bắt lấy tên ma đầu kia trước đã.
Lộc Trượng Khách múa cây gậy sừng hươu, Hạc Bút Ông vung song bút mỏ hạc thành một vòng hoàng quang, hai vòng hắc khí, cùng tấn công vào Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn biết Huyền Minh nhị lão rất là ghê gớm, Trương Vô Kỵ võ công tuy cao cường nhưng lấy một đánh hai, trong tay lại không có binh khí nên e sợ chàng bị thương kêu lên:
- Huyền Minh nhị lão, nếu các ngươi làm Trương giáo chủ bị thương, ta sẽ nói với gia gia, không tha cho đâu.
Vương Bảo Bảo giận dữ nói:
- Loạn thần tặc tử, ai ai cũng có quyền tru diệt. Huyền Minh nhị lão, các ngươi giết được tiểu ma đầu này, phụ vương và ta ắt đều trọng thưởng.
Y ngừng lại một lát, nói tiếp:
- Lộc tiên sinh, tiểu vương gia tặng bốn mỹ nữ, nhất định sẽ khiến ngươi thật vừa lòng.
Hai anh em, người thì bảo giết, người thì bảo không được làm tổn thương, không khỏi khiến cho Huyền Minh nhị lão khó nghĩ. Lộc Trượng Khách quay sang đưa mắt cho sư đệ, nói nhỏ:
- Bắt sống nó.
Trương Vô Kỵ đột nhiên đem công phu thánh hỏa lệnh ra sử dụng, thân trên hơi nghiêng, tay phải vòng qua, chuyển phương vị một cách hết sức kỳ diệu, nghe bạch một cái, tát cho Lộc Trượng Khách một cái thật đau, quát lên:
- Ngươi thử bắt ta xem nào.
Lộc Trượng Khách đột nhiên bị trúng một đòn nặng, vừa giận vừa sợ nhưng y vốn là cao thủ hạng nhất, tâm thần không loạn, múa thanh trượng sừng hươu khiến cho mưa không lọt, gió không vào. Trương Vô Kỵ định đánh lén thêm một lần nữa, nhưng nhất thời chưa biết cách nào.
Triệu Mẫn liền giục cương cho ngựa chạy vọt lên. Vương Bảo Bảo múa roi quất đánh vút một cái, trúng ngay vào mắt con ngựa nàng đang cưỡi. Con vật đau quá, hí lên một tiếng dài, hai chân trước chồm lên. Triệu Mẫn bị thương người yếu đuối, suýt nữa thì bị hất từ trên yên rơi xuống đất, tức giận nói:
- Ca ca, anh nhất định ngăn tiểu muội phải không?
Vương Bảo Bảo đáp:
- Hảo muội tử nghe anh đi rồi về nhà ông anh này sẽ tạ tội cùng cô em.
Triệu Mẫn đáp:
- Ca ca, nếu như anh nhất định ngăn trở em thì hẳn sẽ có một mạng người chết ngay tại đây. Trương giáo chủ từ nay hận em thấu xương, đứa em anh ... đứa em anh cũng không còn sống nổi nữa.
Vương Bảo Bảo nói:
- Muội tử nói thế là sao? Trong phủ Nhữ Dương Vương cao thủ nhiều vô số kể sẽ bảo vệ em được chu toàn. Tên tiểu ma đầu này đừng nói đến chuyện ra tay làm hại em, dẫu có muốn gặp em một lần cũng chưa chắc đã được.
Triệu Mẫn thở dài:
- Chính vì em sợ không còn gặp lại được y, chính thế mà ... mà em không muốn sống nữa.
Hai anh em xưa nay rất mực thương yêu nhau, chẳng chuyện gì không bàn thảo, Triệu Mẫn trong cơn gấp gáp nên không còn dấu diếm chút nào, nói hết mối tâm tình yêu thương Trương Vô Kỵ cho anh nghe.
Vương Bảo Bảo giận dữ nói:
- Muội tử quả thật hồ đồ, ngươi là vương tộc Mông Cổ, đường đường cành vàng lá ngọc, làm sao lại sánh đôi với giống cẩu man tử kia được? Nếu để gia gia biết đến, cha không khỏi giận đến chết người hay sao?
Y tay trái vẫy một cái, lại có thêm ba tên hảo thủ tiến lên giáp công. Trương Vô Kỵ và Huyền Minh nhị lão lúc này đang vận thần công, nội kình tỏa ra chung quanh mấy trượng thế sắc như dao, ba tên hảo thủ kia nào có cách gì xông vào? Triệu Mẫn kêu lên:
- Trương công tử, nếu chàng muốn cứu nghĩa phụ thì phải cứu em trước.
Vương Bảo Bảo thấy em gái ý không thể lay chuyển, nóng ruột bèn thò tay ra ôm lấy nàng, để lên trên yên ngựa, hai chân kẹp một cái, toan giục ngựa chạy đi. Võ công Triệu Mẫn vốn cao siêu hơn huynh trưởng, nhưng sau khi bị thương rồi khí lực mất hết nên chỉ há miệng kêu lên:
- Trương công tử cứu em, Trương công tử cứu em!
Trương Vô Kỵ vù vù đánh ra hai chưởng, sử dụng hết mười thành công lực, ép cho Huyền Minh nhị lão phải thoái lui ba bước rồi thi triển khinh công, đuổi theo ngựa của Vương Bảo Bảo. Huyền Minh nhị lão và ba tên hảo thủ kia kinh hãi, lập tức đuổi theo. Trương Vô Kỵ đợi năm người kia đến gần liền đánh ngược về sau mấy chưởng, uy lực Cửu Dương thần công thật kinh người, mỗi chưởng đánh ra, Huyền Minh nhị lão đều phải né tránh, không dám đối địch. Cứ như thế ngăn chặn ba lần, Trương Vô Kỵ đã đuổi kịp con ngựa, tung mình nhảy lên, chộp lấy gáy Vương Bảo Bảo. Trảo đó bên trong có ngầm vận điểm huyệt thủ pháp, thân trên Vương Bảo Bảo liền tê đi, hai tay phải buông Triệu Mẫn ra, thân hình cũng bị Trương Vô Kỵ nhấc bổng, ném luôn vào Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách vội vàng giơ hai tay ra đón lấy, Trương Vô Kỵ đã ôm được Triệu Mẫn nhảy ra khỏi lưng ngựa chạy về hướng triền núi phía bên trái.
Hạc Bút Ông và những tên hảo thủ còn lại cùng lớn tiếng kêu la đuổi theo phía sau. Thế nhưng ngọn núi này cao đến mấy trăm trượng, đuổi chạy trên núi là một cách thi tài khinh công, Huyền Minh nhị lão nội lực tuy cao cường, khinh công lại không phải hạng nhất, thành ra bốn năm người kia lại còn chạy trước Hạc Bút Ông. Trương Vô Kỵ nhặt dăm hòn đá liên châu ném xuống, lập tức có người trúng phải, gãy xương lăn lịch bịch xuống sườn núi. Những người khác ai nấy sợ hãi, tuy nhiên vì có tiểu vương gia giám thị nên không dám dừng chân nhưng cũng đã chậm lại.
Trước mắt thấy Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn chạy càng lúc càng cao, không còn cách gì đuổi kịp. Vương Bảo Bảo ngoạc mồm chửi bới, liên tiếp kêu lên:
- Bắn tên, bắn tên!
Chính y cũng giương cung lắp tên, vút một mũi nhắm ngay lưng Trương Vô Kỵ bắn tới. Cung lực của y thật mạnh nhưng vì khoảng cách quá xa, mũi tên còn cách Trương Vô Kỵ cả trượng thì đã cắm xuống đất.
Triệu Mẫn ôm lấy cổ Trương Vô Kỵ, biết bọn kia không sao đuổi kịp cũng thấy yên lòng, thở dài nói:
- Cũng may thiếp có tiên kiến, không nói cho chàng biết nơi chốn của Tạ đại hiệp, bằng không tên tiểu ma đầu vô lương tâm này đời nào hết sức cứu em.
Trương Vô Kỵ đi vòng qua một khúc quanh nhưng chân không chậm lại chút nào nói:
- Cô nghe lời ca ca về phủ dưỡng thương có phải hai bên đều xong việc hay sao? Cớ gì phải đắc tội với huynh trưởng, lại phải đi theo tôi cho khổ sở làm gì?
Triệu Mẫn nói:
- Em đã quyết ý đi theo chàng để chịu khổ, còn anh trai em thì sớm muộn gì rồi cũng phải đắc tội với anh ấy thôi. Em chỉ sợ chàng không cho em đi theo, còn chuyện gì em cũng không màng đến.
Trương Vô Kỵ tuy biết nàng đối với mình rất yêu thương nhưng cũng có lúc nghĩ đến chẳng qua chỉ là tình yêu con gái mới lớn, nhất thời ý động, đâu ngờ nàng bỏ hết vinh hoa phú quí coi như đất bùn, một mối thâm tình như vậy khiến chàng phải cúi đầu nhìn xuống. Chỉ thấy trên khuôn mặt tiều tụy xanh xao tình ý triền miên, ánh mắt long lanh, thật không gì kiều mị hơn, Trương Vô Kỵ nhịn không nổi phải hôn lên đôi môi đang mấp máy của nàng một cái.
Chàng hôn xong, đôi má Triệu Mẫn đỏ lên, trong cơn khích động lại ngất đi. Trương Vô Kỵ hiểu rõ y lý, biết rằng không đến nỗi nào, trong bụng càng thêm cảm kích, đột nhiên nghĩ ra: “Chỉ Nhược đối với ta làm sao tốt được như thế này”.
Triệu Mẫn ngất đi một hồi liền tỉnh lại thấy Trương Vô Kỵ đang suy nghĩ bèn hỏi:
- Chàng nghĩ gì thế? Chắc là nghĩ đến Chu cô nương phải không?
Trương Vô Kỵ không dấu diếm, gật đầu nói:
- Tôi nghĩ đến quả thật tôi có thật nhiều điều không phải với cô ta.
Triệu Mẫn nói:
- Vậy chàng có hối hận không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Khi trước tôi muốn bái đường thành thân với cô ta, nghĩ đến em thì thật đau lòng; lúc này nghĩ đến cô ta thì lại thấy nàng thật tội nghiệp.
Triệu Mẫn mỉm cười nói:
- Như thế có nghĩa là chàng yêu em nhiều hơn phải không nào?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Nói thực với em, tôi với em thì vừa yêu vừa hận, còn với Chỉ Nhược thì vừa kính vừa sợ.
Triệu Mẫn cười nói:
- Ha ha, em chỉ muốn chàng đối với em vừa yêu vừa sợ, còn đối với cô ta thì vừa kính vừa hận thôi.
Trương Vô Kỵ cười đáp:
- Hiện nay thì chưa phải thế, tôi đối với em thì vừa hận vừa sợ, hận vì em phá đám làm hỏng cái nhân duyên tốt đẹp của tôi, sợ vì ngại em không chịu đền bù cho tôi.
Triệu Mẫn hỏi lại:
- Bắt đền cái gì?
Trương Vô Kỵ cười nói:
- Hôm nay em phải đem thân trả nợ, đền cho tôi đêm động phòng hoa chúc.
Triệu Mẫn mặt đỏ bừng, vội nói:
- Không, không được đâu. Phải để nói lại với cha em ... để em nói rõ sự tình cho anh em, rồi hãy ... rồi hãy ...
Trương Vô Kỵ nói:
- Thế như cha em nhất định không chịu thì sao?
Triệu Mẫn thở dài:
- Lúc đó thì đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma ... thì đành theo tên tiểu ma đầu để thành một tiểu ma bà chứ biết sao bây giờ?
Trương Vô Kỵ làm nghiêm quát lớn:
- Yêu nữ thật lớn mật, dám theo tên Trương Vô Kỵ tạo phản tác loạn, cái đó tội gì?
Triệu Mẫn cũng nghiêm nghị nói:
- Phạt hai người khi còn ở trên thế gian này thì làm vợ làm chồng cho sung sướng đến lúc bạc đầu, lúc chết đi rơi vào mười tám tầng địa ngục, vạn kiếp không được siêu sinh.
Hai người nói đến đây cùng phá lên cười ha hả.
Đột nhiên từ phía trước có tiếng người dõng dạc nói:
- Quận chúa nương nương, tiểu tăng cung kính đứng chờ nơi đây đã lâu.
Chỉ thấy từ sau núi bước ra hơn hai chục phiên tăng, ai nấy đều mặc áo bào màu đỏ. Trương Vô Kỵ nhìn quần áo nhận ra những phiên tăng này chính là bọn đã ngăn chặn chàng hôm trước ở dưới chân tháp nơi chùa Vạn An, võ công rất cao cường, may nhờ có Vi Nhất Tiếu đi đến phủ Nhữ Dương Vương phóng hỏa nên mới dụ được họ ra nếu không việc cứu quần hào sáu đại môn phái thực không phải dễ.
Phiên tăng đi đầu chắp hai tay hành lễ, khom lưng nói:
- Tiểu tăng phụng lệnh vương gia đến nghênh tiếp quận chúa về phủ.
Triệu Mẫn hỏi lại:
- Các ngươi ở đây làm gì?
Gã phiên tăng đáp:
- Quận chúa đang bị thương vương gia hết sức lo lắng nên sai tiểu tăng đến nghênh tiếp phương giá của quận chúa.
Nói xong y giơ con chim bồ câu trắng đang cầm trong tay. Triệu Mẫn biết rằng huynh trưởng đã dùng chim truyền tin, thông tri cho phụ thân nên sai bọn phiên tăng này chặn đường liền hỏi:
- Cha ta đang ở đâu?
Gã phiên tăng đáp:
- Vương gia đang ở dưới chân núi đón chờ để xem quận chúa bị thương nặng nhẹ ra sao.
Trương Vô Kỵ biết nói thêm cũng chỉ vô ích, lập tức hùng dũng tiến tới quát lên:
- Muốn sống thì mau mau tránh đường, nếu không đừng trách ta ra tay không nể nang.
Hai tên phiên tăng song song tiến lên, mỗi người đều giơ chưởng phải lên ngực đẩy ra. Trương Vô Kỵ tay trái đánh ra, vừa kéo vừa đẩy, đưa chưởng lực của hai gã phiên tăng quay ngược trở lại. Hai gã đó cùng kêu lên:
- A mễ a mễ hống, a mễ a mễ hống!
Nghe như niệm chú, lại giống như chửi mắng. Triệu Mẫn cũng không chịu kém kêu lên:
- Ngươi mới là a mễ a mễ hống.
Hai tên phiên tăng lịch kịch lùi luôn ba bước, hai tên khác ở đằng sau liền tung chưởng phải, đỡ vào lưng hai gã kia, đẩy họ ngược trở lại. Hai tên phiên tăng vẫn không đổi chiêu, tiếp tục dùng “Bài Sơn Chưởng” đánh ra. Trương Vô Kỵ không muốn dùng ngạnh công chống với họ để phải hao phí chân lực nên dùng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp hóa giải kình lực của nhị tăng, ngờ đâu ngón tay chàng vừa chạm vào thì như sắt gặp phải nam châm, liền dính chặt vào tay của họ. Hai tên phiên tăng lại kêu:
- A mễ a mễ hống, a mễ a mễ hống!
Trương Vô Kỵ giựt tay ra hai lần nhưng không thoát, đành vận Cửu Dương thần công lên phản kích lại. Thế nhưng lần này chàng không đẩy được hai gã phiên tăng ra mà hai mươi hai tên phiên tăng khác đằng sau xếp thành hai nhóm, mỗi người đều giơ chưởng phải, để vào lưng người đằng trước, hai mươi bốn phiên tăng làm thành hai hàng. Trương Vô Kỵ đột nhiên nghĩ ra: “Từng nghe thái sư phụ nói rằng, ở Thiên Trúc có môn võ gọi là phép Tính Thể Liên Công. Hai mươi bốn gã phiên tăng này hợp lực đối chưởng với ta, ta nội lực có mạnh nhưng cũng không thể nào chống lại được hai mươi bốn người hợp lại”.
Chàng lại sợ có truy binh đuổi theo, hú lên một tiếng, tay thêm ba thành kình lực, đột nhiên chuyển lệch sang một bên, thân hình né qua bên trái khiến cho lực đạo của hai mươi bốn phiên tăng không còn làm thành một sợi thẳng, sáu tên đứng đầu không kịp giữ lại liền nhào tới trước. Trương Vô Kỵ hai tay liên tiếp đánh ra, chát chát chát chát chát chát sáu cái liền, cả sáu tên đều ngã xuống đất, mồm hộc máu tươi. Thế nhưng hai tên phiên tăng thứ bảy thứ tám liền xông lên múa chưởng đánh ngay.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Bộ chúng bay muốn chết hay sao?”. Hữu chưởng của chàng liền đánh ra, đỡ luôn cả hai chưởng của nhị tăng, hơi dồn sức một chút, đang định vận kình chuyển lệch sang một bên, bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người nhè nhẹ bước tới, một người đã múa chưởng đánh rồi. Tay trái của chàng liền đánh ngược về sau, đang định hóa giải chưởng lực của địch, thế nhưng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp toàn nhờ có Cửu Dương thần công làm gốc, lúc này bao nhiêu hơi sức đều dồn về trước chống đỡ mười tám tên phiên tăng hợp lực nên chưởng đánh về sau chỉ chừng hai thành lúc bình thường. Chỉ thấy một luồng khí âm hàn truyền theo tay chạy thẳng lên, lập tức toàn thân run rẩy, người lảo đảo, ngã lăn ra. Thì ra chính là Lộc Trượng Khách dùng Huyền Minh thần chưởng đánh lén.
Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên:
- Lộc tiên sinh, ngừng tay!
Nàng xông lên lấy thân mình che cho Trương Vô Kỵ, quát lớn:
- Còn ai dám động thủ nữa chăng?
Lộc Trượng Khách đang định đánh thêm một chưởng để kết thúc tính mạng kẻ kình địch bậc nhất trong đời, nhưng thấy quận chúa đỡ đòn như thế, đành phải lui ra. Y hú lên một tiếng dài, ý muốn cho người khác biết rằng y đã thắng thế để gọi đồng bọn tới rồi nói:
- Quận chúa nương nương, vương gia chỉ mong quận chúa về phủ chứ không có ý gì khác. Gã này là quân phản nghịch cực kỳ ghê gớm, sao quận chúa lại phải khổ như vậy?
Triệu Mẫn lòng đau như cắt, đang định mắng chửi một phen nhưng suy nghĩ lại, không nên làm cho y tức giận khiến y có thể giết Trương Vô Kỵ nên đành cố nhịn đưa tay đỡ ý trung nhân lên. Chẳng mấy chốc tiếng nhạc đã tới gần, ba người cưỡi ngựa từ trong sơn đạo chạy tới, một người là Hạc Bút Ông, một người là Vương Bảo Bảo còn người sau cùng chính là Nhữ Dương Vương đích thân tới xem xét. Ba người nhảy xuống ngựa, Nhữ Dương Vương nhíu mày nói:
- Mẫn Mẫn, con sao thế? Cớ gì không nghe lời anh con, ở nơi đây quấy rối là thế nào?
Triệu Mẫn rưng rưng nước mắt kêu lên:
- Cha, sao cha để người ta hiếp đáp con như thế?
Nhữ Dương Vương tiến lên mấy bước giơ tay ra toan cầm tay nàng. Triệu Mẫn lật tay một cái, loáng một cái đã rút trong người ra một thanh chủy thủ, để vào ngực kêu lên:
- Gia gia, nếu cha không đáp lời con thì hôm nay con đành chết trước mặt cha.
Nhữ Dương Vương kinh hoảng lật đật lùi lại hai bước, run run hỏi:
- Có gì cứ nói chứ đừng làm thế! Con ... con muốn gì?
Triệu Mẫn giở áo kéo băng vải ở trên vai chỉ cho cha xem năm lỗ ngón tay, lúc này chất độc đã hết nhưng vết thương chưa lành, máu me đầm đìa thật là ghê rợn. Nhữ Dương Vương thấy nàng bị thương nặng như thế, xót xa thương con luôn mồm kêu:
- Sao thế? Sao thế? Sao con bị thương vậy?
Triệu Mẫn chỉ vào Lộc Trượng Khách nói:
- Gã đó có bụng bất lương, định gian dâm nữ nhi, con thà chết không chịu, y ... y ... liền chộp vào con đến như thế đó. Xin cha ... xin cha phân xử cho.
Lộc Trượng Khách sợ đến mất cả hồn vía, vội nói:
- Tiểu nhân có gan bằng trời cũng không dám thế, làm ... làm gì có chuyện đó được?
Nhữ Dương Vương trừng mắt nhìn y, hừ một tiếng nói:
- Mi lớn mật nhỉ? Việc Hàn Cơ ta đã rộng lòng không tra cứu, bây giờ lại dám mạo phạm đến cả con ta. Bắt lấy nó!
Lúc này những võ sĩ hộ vệ cho ông ta đã đến đông đủ, nghe vương gia ra lệnh bắt người, tuy biết Lộc Trượng Khách võ công ghê gớm nhưng cũng có bốn tên xông lên. Lộc Trượng Khách vừa hoảng vừa tức, nghĩ thầm người ta cha con cốt nhục tình thâm, quận chúa giận mình đả thương tình lang của cô ta, nên vu vạ cho y. Người ta vẫn thường bảo “người ngoài không thể ly gián được người thân”, quận chúa lại ngụy kế đa đoan, làm sao mình cãi cho được? Y liền tung ra một chưởng đẩy lùi bốn tên võ sĩ, thở dài:
- Sư đệ! Thôi mình đi!
Hạc Bút Ông còn đang chần chừ, Triệu Mẫn kêu lên:
- Hạc tiên sinh, ngươi là người tốt, không hiếu sắc như sư huynh, mau bắt sư huynh ngươi lại, cha ta sẽ thăng ngươi lên làm quan lớn, trọng thưởng thật hậu.
Huyền Minh nhị lão võ công trác tuyệt, chỉ vì tham luyến lợi lộc công danh, đem cái thân cao thủ hạng nhất của mình vào trong vương phủ để người ta sai khiến. Hạc Bút Ông vốn biết sư huynh tham dâm hiếu sắc, nghe Triệu Mẫn nói cũng tin được bảy tám phần, việc thăng thưởng cũng khiến y phải động tâm. Có điều y và Lộc Trượng Khách anh em đồng môn thân thiết, không nỡ ra tay nên nhất thời do dự không quyết định được.
Lộc Trượng Khách mặt buồn rười rượi, thảng thốt nói:
- Sư đệ, nếu ngươi muốn thăng quan phát tài thì cứ đến bắt ta đi.
Hạc Bút Ông thở dài:
- Sư ca, thôi mình đi vậy.
Y liền cùng Lộc Trượng Khách hai người sánh vai ra đi. Huyền Minh nhị lão uy chấn kinh sư, các võ sĩ trong Nhữ Dương Vương phủ kính trọng họ chẳng khác người nhà trời, có ai dám đứng ra ngăn chặn? Nhữ Dương Vương liên tiếp quát tháo nhưng các võ sĩ chỉ hư trương thanh thế, giả vờ hùng hổ đứng trông Huyền Minh nhị lão lững thững đi xuống núi. Nhữ Dương Vương nói:
- Mẫn Mẫn, con đã bị thương, mau theo ta về nhà điều trị.
Triệu Mẫn chỉ vào Trương Vô Kỵ nói:
- Vị công tử này thấy Lộc Trượng Khách hiếp đáp con, nổi dạ bất bình, ra tay tương trợ, ca ca không rõ nguồn cơn, lại bảo y là phản tặc. Gia gia, con có một việc quan trọng phải đi theo Trương công tử để làm, bao giờ xong sẽ cùng y quay về khấu đầu bái kiến gia gia.
Nhữ Dương Vương nghe giọng điệu nàng nói, dường như muốn sánh duyên với gã này, nghe con trai nói thì y là giáo chủ Minh Giáo. Kỳ này ông ta rời kinh đô xuống phương nam cũng chỉ để điều binh khiển tướng đối phó với đám phản tặc Minh Giáo ở một giải Hoài Tứ, Dự Ngạc, lẽ nào lại để con gái cùng đi với người này? Ông liền hỏi:
- Anh con nói rằng, người này là giáo chủ của ma giáo, không lẽ lại sai sao?
Triệu Mẫn đáp:
- Anh con chỉ thích nói đùa. Gia gia, cha xem anh ta được bao nhiêu tuổi mà có thể làm thủ não của bọn phản loạn?
Nhữ Dương Vương đánh giá Trương Vô Kỵ, thấy chàng chỉ độ hăm mốt hăm hai, bị thương rồi diện mạo tiều tụy, đâu còn gì là anh tuấn siêu quần, không giống một người thống lãnh mấy chục vạn quân. Thế nhưng ông biết con gái mình giảo hoạt, túc trí đa mưu, lại thêm Minh Giáo là họa của quốc gia, nếu như y không phải là giáo chủ, thì chắc cũng là một nhân vật quan trọng trong ma giáo, không thể nào thả y cho được, liền nói:
- Cứ đem y vào thành đã rồi sẽ tra xét sau. Nếu như không phải người trong ma giáo, ta sẽ thăng thưởng cho y.
Ông nói như thế cũng là nể mặt con gái lắm rồi cốt để nàng không thể làm reo làm nũng trước mặt đông người. Bốn tên võ sĩ tuân lệnh liền đi tới gần, Triệu Mẫn khóc nói:
- Gia gia, cha định bức tử con hay sao?
Con dao găm trong tay đâm luôn vào ngực nửa tấc, máu liền thấm đỏ cả một mảng áo. Nhữ Dương Vương kinh hoảng nói:
- Mẫn Mẫn, con không được làm càn.
Triệu Mẫn lại khóc nói tiếp:
- Cha ơi, đứa con gái bất hiếu đã lén cùng Trương công tử thành vợ thành chồng. Cha cứ coi như không có đứa con này, tha cho nữ nhi đi. Nếu không con xin chết ngay trước mặt cha cho xong.
Nhữ Dương Vương tay trái không ngớt vò hàm râu, trên trán mồ hôi nhỏ giọt. Ông điều binh khiển tướng, giao phong phá địch chỉ một lời là quyết định, hôm nay gặp phải đứa con gái làm chuyện xấu xa nhưng đành thúc thủ không tìm ra cách nào giải quyết.
Vương Bảo Bảo nói:
- Muội tử, em và Trương công tử cả hai đều bị thương, cứ tạm theo gia gia về phủ, gọi danh y điều trị, sau đó cha sẽ chủ trì hôn phối cho. Cha được một người con rể tài ba, ta cũng có một đứa em rể anh hùng, thật còn gì tốt bằng?
Y nói ra thật dễ nghe, nhưng Triệu Mẫn biết rằng đó chỉ là kế hoãn binh, Trương Vô Kỵ rơi vào tay y rồi còn làm sao mà sống nổi, chỉ trong khoảnh khắc sẽ đem xử tử ngay. Nàng bèn nói:
- Gia gia, việc đã đến nước này, thuyền theo lái, gái theo chồng, dù sống dù chết, con cũng chỉ theo Trương công tử. Cha và anh con có mưu kế gì con cũng biết hết, nói ra cũng uổng phí tâm cơ thôi. Trước mắt chỉ còn hai đường, nếu cha tha mạng cho con thì con được nhờ, còn như cha muốn con chết thì thật dễ, chẳng phải tốn chút hơi sức nào.
Nhữ Dương Vương giận dữ nói:
- Mẫn Mẫn, ngươi suy nghĩ cho kỹ đi. Nếu ngươi theo tên phản tặc này thì từ nay không còn là con ta nữa.
Triệu Mẫn lòng quặn lại, thực không thể nào bỏ anh bỏ cha, nghĩ đến bình thời hai người nuông chiều thương yêu mình biết chừng nào, lòng thật tưởng như dao cắt, thế nhưng nếu mình chỉ chần chừ thì cái mạng Trương Vô Kỵ sẽ không còn, trước mắt đành cứu tình lang trước, sau này xin cha xin anh tha thứ cho mình sau nên nói:
- Gia gia, ca ca, tất cả cũng chỉ vì Mẫn Mẫn chẳng ra gì, cha ... cha tha tội cho con.
Nhữ Dương Vương thấy con gái không đổi ý, hối hận bình nhật nuông chiều quá đỗi, để cho nàng hành tẩu giang hồ nên mới xảy ra cớ sự. Ông cũng biết nàng tính tình bướng bỉnh nếu như uy hiếp, nàng sẽ đâm vào ngực mà chết, chỉ còn nước thở dài, nước mắt lã chã rơi xuống, nghẹn ngào nói:
- Mẫn Mẫn, con cố gắng bảo trọng. Cha đi đây ... con ... con nên giữ gìn.
Triệu Mẫn gật đầu, không dám nhìn cha thêm một lần nữa. Nhữ Dương Vương quay đầu chầm chậm đi xuống núi, tả hữu dắt ngựa tới, ông làm như không nghe không thấy, không lên ngựa, đi đến hơn chục trượng rồi đột nhiên quay lại nói:
- Mẫn Mẫn, vết thương của con không sao chứ? Trên người có mang tiền không?
Triệu Mẫn nuốt lệ gật đầu. Nhữ Dương Vương nói với người chung quanh:
- Đem hai con ngựa của ta cho quận chúa.
Vệ sĩ đáp ứng, dắt ngựa lại bên cạnh Triệu Mẫn rồi theo Nhữ Dương Vương hạ sơn. Sáu tên phiên tăng nằm lăn quay dưới đất, không sao đứng lên được, những phiên tăng còn lại cứ hai người đỡ một người, dìu nhau đi sau.
Một lúc sau mọi người đã đi hết cả, chỉ còn lại Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn mà thôi.
[1] Chu Công uy hiếp triều đình, Cầu hiền Vương Mãng hạ mình khiêm cung.
[2] Qua điền lý hạ trích từ câu qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan (đi ngang ruộng dưa chớ nên xỏ giày, đi dưới cây mận đừng nên sửa lại mũ) e người khác nhìn thấy tưởng mình có ý gian tham.
[3] Tức Sơn Đông -An Huy
[4] vợ chồng tốt đôi
Hồi 35 ĐỒ SƯ HỮU HỘI THỤC VI ƯƠNG
Chẳng qua một chút danh hờ,
Ngoài thì báo oán trong chờ lên ngôi.
Máu đào thấm đất bao người,
Thiếu Lâm trường hận một đời bỏ đi.
Chưởng của Lộc Trượng Khách đánh lén Trương Vô Kỵ đúng ngay lúc chàng phải dùng toàn lực chống đỡ nội kình của mười tám tên phiên tăng liên thủ ở đằng trước, thành thử phía sau không có hộ thể thần công che chở. Huyền Minh hàn độc xâm nhập vào thân bị thương rất nặng, chàng bèn ngồi xếp bằng vận chuyển Cửu Dương chân khí quanh người ba lần rồi thổ ra hai ngụm máu bầm mới thấy đỡ tức ngực, mở mắt ra thấy Triệu Mẫn nhìn mình vẻ mặt hết sức lo lắng.
Trương Vô Kỵ ôn tồn nói:
- Triệu cô nương, phen này khiến cô thật khổ sở.
Triệu Mẫn đáp:
- Đến giờ này chàng vẫn còn gọi em là ?Triệu cô nương? ư? Em chẳng còn là người của triều đình, cũng không còn là quận chúa, trong lòng chàng ... chàng vẫn coi em là một tiểu yêu nữ hay sao?
Trương Vô Kỵ từ từ đứng lên nói:
- Tôi hỏi cô một câu, cô nói thực cho tôi biết, vết kiếm trên mặt biểu muội Ân Ly của tôi, có phải do cô rạch hay không?
Triệu Mẫn đáp:
- Không phải.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Thế thì ai đã hạ thủ?
Triệu Mẫn đáp:
- Em không thể nói cho chàng hay được. Đến khi nào chàng gặp Tạ đại hiệp, ông ta sẽ nói cho chàng nghe môi việc.
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:
- Nghĩa phụ của tôi biết rõ ư?
Triệu Mẫn nói:
- Nội thương của chàng chưa khỏi, càng hỏi nhiều càng thêm rắc rối. Em chỉ nói với chàng một điều, nếu như chàng tra rõ ngọn ngành, Ân cô nương nếu thực là do em hại, chẳng cần chàng ra tay, em lập tức tự vẫn tạ tội ngay trước mặt chàng.
Trương Vô Kỵ thấy nàng nói như chém đinh chặt sắt không thể không tin, trầm ngâm một hồi rồi nói:
- Chắc có lẽ trên chiếc thuyền của Minh Giáo Ba Tư có cao thủ mai phục, nửa đêm thi triển tà pháp xông thuốc cho mình mê đi rồi hại biểu muội của tôi, sau đó ăn trộm đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên. Cứu được nghĩa phụ ra xong, chắc phải đi Ba Tư một chuyến, hỏi Tiểu Siêu cho rõ ràng.
Triệu Mẫn dẩu môi cười nói:
- Chắc chàng nhớ Tiểu Siêu nên tìm cớ để đi gặp chứ gì? Em khuyên chàng dưỡng thương là hơn, không nên nghĩ ngợi vẩn vơ, việc đi lên chùa Thiếu Lâm mới là chuyện chính.
Trương Vô Kỵ lạ lùng:
- Đi lên chùa Thiếu Lâm làm gì?
Triệu Mẫn đáp:
- Thì để cứu Tạ đại hiệp.
Trương Vô Kỵ lại càng ngạc nhiên hỏi thêm:
- Nghĩa phụ của tôi đang ở trên chùa Thiếu Lâm ư? Sao lại ở chùa Thiếu Lâm nhỉ?
Triệu Mẫn đáp:
- Đầu dây mối nhợ bên trong em cũng không biết rõ nhưng Tạ đại hiệp đang ở trong chùa Thiếu Lâm thì nhất định là đúng. Để em nói cho chàng hay, dưới tay em có một thủ hạ xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm, chính y đã hi sinh mạng sống để mang tin đó đến cho em.
Trương Vô Kỵ hỏi lại:
- Tại sao phải hi sinh mạng sống?
Triệu Mẫn đáp:
- Người bộ thuộc đó muốn chứng minh cho em nên tìm cách cắt một nắm tóc của Tạ đại hiệp. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm canh gác Tạ đại hiệp cực kỳ nghiêm mật, người thủ hạ đó lấy được nắm tóc rồi chạy ra khỏi chùa nhưng vẫn bị phát giác, thân trúng hai chưởng, gắng gượng đem được đến cho em chẳng bao lâu thì chết.
Trương Vô Kỵ nói:
- Ôi, ghê gớm thật.
Ba chữ ?ghê gớm thật? không biết là chàng khen thủ đoạn của Triệu Mẫn hay là nói về thế cục nguy hiểm. Chàng trong lòng buồn bực làm xáo trộn nội tức nhịn không nổi lại hộc máu ra. Triệu Mẫn vội nói:
- Nếu biết thương thế của chàng nặng nề, lại dễ khích động như thế, em chẳng nên nói cho chàng nghe làm chi.
Trương Vô Kỵ ngồi xuống đất, tựa lưng vào một tảng đá cố gắng giữ lòng cho bình tĩnh để điều tức nhưng trước sau vẫn rối như mớ bòng bong không sao trấn định được bèn nói:
- Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm bị nghĩa phụ anh dùng Thất Thương Quyền đánh chết. Tăng cũng như tục của chùa Thiếu Lâm hai mươi năm qua thề sẽ báo mối thù này, huống chi Thành Côn lại xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm. Nghĩa phụ anh rơi vào tay họ làm sao còn sống cho nổi?
Triệu Mẫn nói:
- Chàng không phải nóng ruột quá, có một vật có thể cứu được tính mạng Tạ đại hiệp.
Trương Vô Kỵ vội hỏi:
- Vật gì vậy?
Triệu Mẫn đáp:
- Bảo đao Đồ Long.
Trương Vô Kỵ suy nghĩ lại liền rõ ngay. Thanh đao Đồ Long được thiên hạ gọi là ?Võ Lâm Chí Tôn?, phái Thiếu Lâm mấy trăm năm qua đứng đầu võ lâm, nên phải chiếm được thanh đao đó mới cam lòng. Chính vì họ muốn có thanh đao này nên không giết Tạ Tốn ngay nhưng việc hành hạ chiết nhục chắc không tránh khỏi.
Triệu Mẫn nói tiếp:
- Em nghĩ rằng việc cứu Tạ đại hiệp chỉ nên hai đứa mình bí mật ra tay thì hơn. Anh hùng hào kiệt trong Minh Giáo tuy đông thật nhưng nếu tất cả xông lên chùa Thiếu Lâm, hai bên tổn thất chắc sẽ nhiều. Phái Thiếu Lâm nếu thấy không đương cự nổi với Minh Giáo, không giữ nổi Tạ đại hiệp không chừng sẽ giết ông ta cũng nên.
Trương Vô Kỵ thấy nàng tính toán chu đáo, trong lòng cảm kích nói:
- Mẫn muội, em nói đúng lắm.
Triệu Mẫn lần đầu tiên được chàng gọi bằng ?Mẫn muội?, lòng thấy hết sức ếm đềm hoan hỉ nhưng nghĩ lại ơn sinh thành dưỡng dục, tình nghĩa anh em từ nay trôi theo dòng nước không khỏi ngậm ngùi.
Trương Vô Kỵ cũng đoán được tâm sự nàng nhưng không biết khuyên nhủ cách nào chỉ nghĩ: ?Nàng từ nay đem thân phó thác cho mình, biết làm thế nào để báo đáp cái thâm tình hậu ý ấy? Chỉ Nhược có ước định hôn nhân với ta, làm sao ta phụ nàng được? Ôi, chuyện trước mắt là làm sao tìm cách cứu nghĩa phụ là quan trọng, còn tình cảm gái trai kia hãy để qua một bên?.
Chàng cố gượng đứng lên nói:
- Thôi mình đi.
Triệu Mẫn thấy chàng mặt mày nhợt nhạt, biết rằng bị thương rất nặng đôi lông mày nhíu lại trầm ngâm nói:
- Cha em thương em chiều em, không có gì phải ngại chỉ sợ ca ca không bỏ qua đâu. Chỉ trong vòng hai giờ nữa, thể nào anh em cũng tìm cách rời phụ thân, phái người đi bắt chúng mình về.
Trương Vô Kỵ gật đầu, thấy Vương Bảo Bảo hành sự quả quyết, là một nhân vật cực kỳ lợi hại, xem ra không thể dễ dàng xuôi tay, hiện giờ hai người đều bị thương nặng nếu như đi về hướng tây đến chùa Thiếu Lâm, ắt là đường sá gian nan thành ra chưa biết tính toán thế nào. Triệu Mẫn nói:
- Chúng mình mau mau rời khỏi chốn nguy hiểm này, đến chân núi rồi hãy tính đường đi.
Trương Vô Kỵ gật đầu, chệnh choạng dắt con ngựa lại, đang định trèo lên chỉ thấy ngực đau nhói, không sao lên yên được. Triệu Mẫn tay phải dùng sức, nghiến răng đẩy một cái tống được chàng lên lưng ngựa, nhưng vì dùng sức quá nhiều vết thương trên ngực do dao găm đâm vào hồi nãy máu lại chảy ra. Nàng gắng gượng trèo được lên ngựa ngồi phía sau, trước đây vốn là chàng đỡ nàng bây giờ lại hóa ra nàng phải giơ tay đỡ Trương Vô Kỵ. Hai người thở hổn hển một hồi lâu mới dám giục ngựa chạy, còn con kia dẫn theo đằng sau lưng.
Hai người cưỡi chung xuống tới chân núi rồi tính việc đi ra đường lớn, sau đó sẽ ngoặt qua hướng đông để khỏi phải đụng đầu Vương Bảo Bảo. Đi được một lát thì đến một con đường nhỏ, lúc đó hai người mới thấy an tâm nghĩ thầm nếu như Vương Bảo Bảo sai người truy nã, ắt chẳng đời nào lại theo đường nhỏ mà kiếm, chỉ cần đi đến khi trời tối vào trong núi sâu thì có thể coi như thoát nạn.
Hai người đang đi bỗng nghe đằng sau có tiếng vó ngựa vang lên, hai con ngựa ở đâu chạy đến. Triệu Mẫn thất sắc, ôm chặt lấy lưng Trương Vô Kỵ nói:
- Ca ca em đến nhanh thật, thôi mình coi như xong đời, không thể nào thoát độc thủ của anh ta. Vô Kỵ ca ca, thôi cứ để em theo ca ca về phủ, tìm cách cầu xin gia gia mai này mình còn có dịp gặp lại. Trời dài đất rộng, nguyện đôi ta mãi mãi sẽ không bao giờ phụ nhau.
Trương Vô Kỵ cười gượng nói:
- Lệnh huynh chắc gì đã chịu thả cho anh đi.
Mới nói tới đó, hai con ngựa ở phía sau chỉ còn cách vài chục trượng. Triệu Mẫn giục ngựa tránh qua một bên, rút dao găm ra, trong bụng đã quyết, nếu như còn cách nào khác thì sẽ tìm đường thoát thân, còn như anh mình nhất định giết Trương Vô Kỵ cho bằng được thì hai người sẽ chết chung một chỗ. Hai kẻ cưỡi ngựa kia đến gần không ngừng bước, trên lưng ngựa là hai tên lính Mông Cổ, đi ngang hai người, chỉ liếc qua một cái rồi giục ngựa chạy luôn. Triệu Mẫn thở phào nghĩ thầm: ?Tạ trời tạ đất, hóa ra chỉ là tên lính tầm thường, không phải người đi truy nã mình?. Thế nhưng hai tên lính gò cương chậm lại, nói với nhau mấy câu rồi bất thần quay đầu ngựa chạy đến bên cạnh hai người. Một tên quân Nguyên mặt mũi râu ria quát lớn:
- Hai đứa man tử khốn kiếp kia, chúng bay ăn cắp đâu hai con ngựa tốt thế này?
Triệu Mẫn nghe giọng điệu y, biết rằng chúng trông thấy hai con tuấn mã phụ thân tặng cho có ý tham lam. Hai con ngựa của Nhữ Dương Vương là loại ngựa tốt, lại thêm yên vàng cương bạc, quả thật quí giá vô cùng. Người Mông Cổ thích ngựa như tính mạng, trông thấy thế ai chẳng động tâm? Triệu Mẫn nghĩ thầm: ?Hai con ngựa tuy là của gia gia cho thật nhưng nếu như hai tên này cậy mạnh cướp lấy thì cũng đành phải cho chúng chứ làm sao được?. Nàng liền nói bằng tiếng Mông Cổ:
- Các ngươi là thuộc hạ của tướng quân nào thế? Sao dám vô lễ với ta như vậy?
Tên quân Mông Cổ ngạc nhiên hỏi lại:
- Tiểu thư là ai?
Y thấy hai người ăn mặc sang trọng, lại thêm hai con ngựa thật đẹp, nghe nói tiếng Mông Cổ lưu loát nên không còn dám coi thường nữa. Triệu Mẫn đáp:
- Ta là con gái của tướng quân Hoa Nhi Bất Xích, đây là anh trai ta, hai người chúng ta trên đường đi bị cướp nên bị thương.
Hai tên lính đưa mắt nhìn nhau, đột nhiên ngửa miệng cười sằng sặc. Tên râu rậm lớn tiếng nói:
- Đâm lao thì theo lao, giết nốt hai đứa nhãi này rồi tính sau.
Y liền rút yêu đao ra, giục ngựa chạy đến. Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên:
- Các ngươi làm gì thế? Ta cho tướng quân hay hai đứa bay sẽ bị bốn ngựa phanh thây đó.
?Tứ mã phân thi? là trọng hình trong quân đội Mông Cổ, kẻ phạm pháp bốn tay chân bị buộc vào bốn con ngựa, sau một tiếng lệnh người ta sẽ đánh ngựa cho cùng chạy, phạm nhân sẽ bị xé ra thành bốn mảnh là hình phạt khốc liệt nhất trong các hình phạt.
Gã lính Nguyên râu xồm kia vẫn cười đáp:
- Hoa Nhi Bất Xích đánh không lại quân phản tặc Minh Giáo, chém giết bộ thuộc bừa bãi để cho hả tức. Hôm qua đại quân nổi dậy, băm vằm cha ngươi nát nhừ ra rồi. Ở đây lại gặp hai con chó con này thì thật tốt quá.
Nói xong y giơ đao lên chém xuống đầu hai người. Triệu Mẫn vội giật dây cương cho ngựa nhảy qua tránh được. Gã Nguyên binh toan đuổi theo thì tên kia kêu lên:
- Đừng giết con bé xinh đẹp kia, bọn mình hãy phong lưu khoái hoạt một trận trước đã.
Tên râu rậm liền đáp:
- Đúng lắm, đúng lắm.
Triệu Mẫn chợt nghĩ ra một cách liền nhảy xuống ngựa chạy qua một bên đường. Hai tên lính Mông Cổ cùng xuống ngựa đuổi theo. Triệu Mẫn kêu lên ?Ối chao? rồi ngã lăn ra. Gã rậm râu liền nhảy tới ôm lưng nàng, cùi chỏ Triệu Mẫn liền thúc ra sau trúng ngay huyệt đạo trên ngực y, tên râu xồm không kịp hự lên một tiếng đã ngã lăn sang một bên. Tên còn lại đâu biết bạn mình đã bị ám toán, cũng nhảy tới, Triệu Mẫn cũng cùng một cách lại đánh trúng yếu huyệt. Hai lần đả huyệt như thế, lúc bình thời thật chẳng mất chút hơi sức nào nhưng lúc này phải thở hổn hển, mồ hôi lạnh ướt đầm đầu tóc, toàn thân dường như không còn lực khí.
Nàng gắng gượng đứng lên, đỡ Trương Vô Kỵ xuống ngựa, rút chủy thủ ra cầm trên tay quát lớn:
- Hai tên cẩu tặc phạm thượng làm loạn kia, có muốn sống không thì bảo?
Hai tên lính Mông Cổ huyệt đạo bị đánh trúng, nửa thân trên hoàn toàn tê dại, hai tay không cử động được tuy nửa thân dưới vẫn còn tri giác nhưng cũng đau đớn khó chịu. Chúng tưởng Triệu Mẫn thể nào cũng giết cả đôi, nào ngờ nghe nàng nói xem ra còn có chút hi vọng sống sót, vội nói:
- Cô nương tha mạng cho, Hoa Nhi Bất Xích tướng quân không phải chúng tôi giết hại.
Triệu Mẫn nói:
- Được, nếu các ngươi làm theo lời ta thì ta tha cho hai cái mạng chó của chúng bay khỏi chết.
Hai tên lính Mông Cổ chẳng biết nàng bắt chúng làm chuyện khó khăn gì nhưng cũng đáp liều:
- Làm ngay, làm ngay.
Triệu Mẫn chỉ vào hai con ngựa của mình nói:
- Hai chúng bay cưỡi hai con ngựa này chạy về hướng đông, trong vòng một ngày một đêm, phải chạy sao cho đủ ba trăm dặm, càng nhanh càng tốt, không được sai sẩy.
Hai gã mặt ngơ ngác, có nằm mơ cũng không ngờ được nàng lại chỉ bắt chúng làm một việc dễ đến thế, nghĩ chắc nàng muốn nói ngược để đùa chúng chăng. Gã râu xồm nói:
- Cô nương, tiểu nhân dẫu có lớn mật mấy cũng chẳng dám tơ tưởng đến con ngựa của cô nương ...
Triệu Mẫn ngắt lời y nói:
- Việc đang khẩn bách, mau mau lên ngựa. Trên đường đi nếu có ai hỏi đến, ngươi phải nói là hai con ngựa này mua ngoài chợ, tuyệt đối không được đề cập đến hình dáng bọn ta, biết chưa?
Hai tên lính Mông Cổ bán tín bán nghi nhưng Triệu Mẫn luôn mồm giục giã, nghĩ bụng nếu dẫu có gì lừa dối thì cũng còn hơn là bị nàng đâm chết ngay tại chỗ nên vội xin lỗi, từng bước từng bước lết đến trèo lên yên. Người Mông Cổ từ nhỏ lớn lên trên lưng ngựa, cưỡi ngựa còn dễ hơn đi trên đường, tuy tay chân cứng đơ nhưng cũng điều khiển được con ngựa chạy. Hai đứa sợ rằng Triệu Mẫn chỉ vì hồ đồ nhất thời rồi sẽ hối hận nên chạy được vài trượng liền kẹp hai chân, thúc ngựa chạy cho nhanh.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chủ ý của em cao minh thật. Nếu như thủ hạ của ca ca em có thấy hai con tuấn mã này, cũng tưởng hai đứa mình đi về hướng đông. Thế bây giờ chúng mình đi về hướng nào đây?
Triệu Mẫn nói:
- Mình sẽ đi về hướng tây nam.
Hai người trèo lên hai con ngựa của hai tên Mông Cổ để lại, không theo đường mà đi băng qua những vùng hoang dã đi về hướng tây nam.
Đoạn đường này toàn những loạn thạch hiểm trở, gai góc rất nhiều đâm vào chân ngựa khiến máu chảy ròng ròng, đi khập khiễng mỗi giờ chỉ được chừng hai chục dặm. Trời sắp tối bỗng thấy dưới thung lũng một luồng khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trương Vô Kỵ mừng nói:
- Trước mặt có người ở, thôi mình tới đó xin tá túc.
Đi đến gần thấy lấp ló sau những tàn cây một góc tường màu vàng, thì ra là một cái miếu. Triệu Mẫn đỡ Trương Vô Kỵ xuống ngựa, để hai con ngựa quay đầu về hướng tây, nhặt dưới đất một cành gai, quất luôn mấy cái vào mông hai con ngựa. Hai con ngựa hí lên một tiếng dài, chạy vọt đi. Nàng tới đâu cũng bày nghi trận, chỉ mong truy binh của Vương Bảo Bảo bị lạc đường, cả đến không còn ngựa cưỡi đi lại rất gian nan nàng cũng đành chịu, chỉ cốt sao được lúc nào hay lúc ấy.
Hai người dìu lẫn nhau, từng bước từng bước đến trước miếu, thấy trên biển ngay cửa chính đề ?Trung Nhạc Thần Miếu?. Triệu Mẫn cầm chiếc vòng cửa gõ ba cái, đợi một hồi không thấy ai trả lời lại gõ thêm ba cái nữa.
Bỗng nghe bên trong cửa có tiếng người lạnh lùng hỏi:
- Người hay quỉ đó? Muốn chết hay sao?
Nghe lạch cạch mấy tiếng, cánh cửa từ từ mở ra, đằng sau có một bóng người. Khi đó trời đã sâm sẩm tối, người kia lại quay lưng ra ánh sáng nên không nhìn rõ mặt, nhưng thấy y đầu trọc mặc áo nhà tu hóa là một hòa thượng. Trương Vô Kỵ nói:
- Hai anh em chúng tôi đi đường gặp cướp, thân bị trọng thương, xin nhà chùa cho tá túc một đêm. Mong đại sư mở lòng từ bi.
Người kia hừ một tiếng, cười khẩy nói:
- Người xuất gia xưa nay có giúp đỡ ai bao giờ, các ngươi đi chỗ khác.
Y vừa toan đóng cửa, Triệu Mẫn vội nói:
- Giúp người người giúp lại, biết đâu chẳng có chỗ lợi cho mình.
Gã hòa thượng kia liền hỏi:
- Lợi chỗ nào?
Triệu Mẫn giơ tay tháo chiếc vòng đeo tai có đính hạt châu đeo đưa cho y. Gã hòa thượng thấy hạt ngọc trai trên chiếc vòng to bằng ngón tay út bèn nhìn kỹ lại hai người đánh giá thêm một lần nữa rồi nói:
- Được rồi, giúp người người giúp mình.
Y né qua một bên nhường Triệu Mẫn đỡ Trương Vô Kỵ đi vào. Nhà sư đó đưa hai người đi qua một đại điện và một gian phòng, đến bên cái chái phía đông nói:
- Hai người ở đây nhé.
Trong phòng chẳng đèn chẳng nến gì, tối om om, Triệu Mẫn đưa tay sờ thử trên giường chỉ độc một cái chiếu ngoài ra không có gì khác. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng người nói oang oang:
- Hác tứ đệ, ngươi đưa ai vào đó?
Nhà sư kia đáp:
- Hai người khách đến ngủ nhờ.
?Nói xong y liền hấp tấp đi ra cửa. Triệu Mẫn nói:
- Sư phó, xin ông bố thí cho hai bát cơm với một ít rau dưa.
Hòa thượng kia đáp:
- Người xuất gia ăn của bá tánh chứ không bố thí.
Y nói rồi lầm lũi đi thẳng. Triệu Mẫn hậm hực nói:
- Gã hòa thượng này thật khả ố. Vô Kỵ ca ca, chàng đói lắm phải không? Mình phải tìm xem có cách nào kiếm gì ăn mới được.
Đột nhiên trong sân có tiếng chân người, có đến bảy tám người đi vào, ánh lửa lấp loáng, cửa phòng mở ra, hai nhà sư giơ cao ngọn đuốc chiếu vào hai người. Trương Vô Kỵ còn đang kinh hoảng, nhìn ra thấy có cả thảy tám tăng nhân, kẻ cao người thấp kẻ thì mày rậm mắt trố, kẻ thì mặt bành bạnh đầy hoành nhục[1], không một người nào ra vẻ lương thiện. Một nhà sư già mặt mũi nhăn nheo nói:
- Các ngươi trên người còn bao nhiêu vàng bạc châu báu, mau đưa hết ra đây.
Triệu Mẫn hỏi lại:
- Để làm gì?
Nhà sư già cười nói:
- Hai vị thí chủ có duyên đến chốn này, đúng ngay lúc tiểu miếu sắp làm một đàn tràng lớn, lại cần tô tượng đúc chuông, trùng tu sơn môn. Hai vị trong người có vàng bạc châu báu thì đem ra bố thí. Nếu như không khứng đưa cho chúng tôi, đắc tội với bồ tát thì phiền lắm đấy nhé.
Triệu Mẫn giận dữ nói:
- Làm thế có khác gì ăn cướp hay sao?
Nhà sư già đáp:
- Không dám, không dám! Tám anh em chúng tốt giết người đốt nhà, vốn dĩ là cường đạo, gần đây bỏ dao đồ tể xuống là thành Phật ngay, chẳng biết làm gì bèn làm sư sãi. Hai vị thí chủ có duyên làm thân dê béo đến tận miệng chúng tôi, ôi, thật khiến cho người xuất gia chúng tôi lục căn[2] không sao còn thanh tĩnh cho nổi.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn kinh hãi không để đâu cho hết, đâu ngờ tám nhà sư này lại là giặc cướp giả trang, gã hòa thượng già này nói không cần giữ ý ắt là định giết hai người, sau khi thổ lộ thân thế sẽ ra tay không tha.
Một nhà sư khác cười nham hiểm:
- Nữ thí chủ không phải sợ, tám hòa thượng cường đạo chúng tôi đang cần một áp miếu phu nhân, cô xinh đẹp như thế, thật chẳng khác gì Quan Thế Âm bồ tát hạ phàm, Phật Như Lai nhìn thấy cũng còn động tâm. Hay quá, hay quá!
Triệu Mẫn lấy trong bọc ra bảy tám đỉnh vàng, một vòng hạt châu để lên trên bàn nói:
- Tài vật châu báu có tất cả bây nhiêu thôi. Anh em chúng tôi cũng là người trong võ lâm, mong các vị giữ nghĩa khí giang hồ.
Nhà sư già cười hỏi:
- Hai vị là người trong võ lâm, vậy thì quả là tốt lắm, không biết là môn hạ phái nào đó?
Triệu Mẫn đáp:
- Chúng tôi là đệ tử phái Thiếu Lâm.
Phái Thiếu Lâm là môn phái lớn nhất trong võ lâm, nàng đoán chừng nếu tám người này nếu không xuất thân từ một bàng chi của Thiếu Lâm thì thân hữu cũng có người liên hệ với phái này. Nhà sư kia ngạc nhiên nhưng lập tức mắt lộ hung quang nói:
- Là đệ tử của Thiếu Lâm à? Thế thì thật là khéo, hai đứa trẻ ranh chúng bay chỉ nên trách mình đầu nhập lầm môn phái thôi.
Y giơ tay toan chộp vào cổ tay nàng. Triệu Mẫn vội rụt tay lại, gã sư già liền bắt hụt. Trương Vô Kỵ thấy tình thế trước mắt thật là nguy ngập, cả mình lẫn Triệu Mẫn hai người đều bị trọng thương, không cách nào chống cự, mấy năm qua chàng đã giao đấu với không biết bao nhiêu cao thủ thành danh trong võ lâm, chẳng lẽ hôm nay lại chết về tay tám tên cường đạo hạng ba hạng tư trên giang hồ? Dầu sao chăng nữa, không thể nào giương mắt nhìn Triệu Mẫn bị nhục liền nói:
- Mẫn muội, em trốn vào sau lưng anh, để anh thanh toán tám tên giặc cỏ này.
Triệu Mẫn là người bụng đầy mưu mẹo, lúc này cũng đành bó tay liền hỏi:
- Các ngươi là hạng người nào?
Lão già kia liền đáp:
- Bọn ta là bạn đồ của phái Thiếu Lâm bị đuổi ra khỏi chùa, gặp người của môn phái khác còn ra tay nể nang một chút, còn như gặp phải đệ tử Thiếu Lâm thì không thể tha được. Tiểu cô nương, vị huynh đệ này vốn dĩ muốn giữ cô làm áp miếu phu nhân, bây giờ biết cô là đệ tử Thiếu Lâm, bọn ta đành phải tiên gian hậu sát, không để ai sống sót cả.
Trương Vô Kỵ trầm giọng nói:
- Giỏi thật! Các ngươi là môn hạ của Viên Chân, phải không nào?
Nhà sư già kia ?Ồ? lên một tiếng nói:
- Thế thì lạ thật, làm sao ngươi biết?
Triệu Mẫn liền tiếp lời:
- Bọn ta đang lên chùa Thiếu Lâm đây để gặp Trần Hữu Lượng đại ca suy cử Viên Chân đại sư lên làm phương trượng.
Lão tăng kia liền nói:
- Thiện tai, thiện tai! Ngã Phật Như Lai, phổ độ chúng sinh.
Triệu Mẫn đáp:
- Đúng thế! Chúng mình phải đồng tâm hiệp lực để cùng làm cho xong việc thiện này.
Nàng vừa nói câu đó, cả tám nhà sư cùng cười ha hả. Thì ra tám tên hòa thượng đó vốn cùng một đảng với Viên Chân và Trần Hữu Lượng, do Trần Hữu Lượng dẫn nhập, xin làm môn hạ của Viên Chân. Mấy năm nay lòng mong muốn làm phương trượng của Viên Chân càng gấp gáp nên thu nhận nhân tài khắp nơi. Tuy nhiên chùa Thiếu Lâm giới luật nghiêm nhặt, mỗi khi thu nhận một người nào đều phải do người chấp chưởng giới luật giám tự tra xét kỹ càng xuất thân lai lịch chứ không phải Viên Chân muốn thu ai cũng được.
Do đó Trần Hữu Lượng mới hiến kế rằng mời gọi các hào kiệt giang hồ, cướp sông cướp biển bái sư ở bên ngoài chùa, tuy cũng là đệ tử của Viên Chân nhưng không vào ở trong chùa Thiếu Lâm, đợi khi thời cơ đến cùng đứng lên làm đại sự. Võ công của Viên Chân cao siêu biết chừng nào, chỉ cần ra tay đều khiến cho quần hào giang hồ kính phục. Những người đó vốn dĩ ngưỡng mộ uy vọng danh môn chính phái của phái Thiếu Lâm, lại trông thấy thần công tuyệt kỹ của Viên Chân nên ai nấy đều bằng lòng bái sư.
Một số nhỏ không chịu phản bội môn hộ liền bị Viên Chân ra tay trừ ngay, thành ra gian mưu của y tuy tính toán đã lâu nhưng không bị bại lộ. Nhà sư già kia nói ?Ngã Phật Như Lai, Phổ Độ Chúng Sinh? chính là ám hiệu khi gặp để nhận nhau, nếu người cùng trong đảng sẽ đáp là ?Hoa Khai Kiến Phật, Tâm Tức Linh Sơn? là biết liền. Triệu Mẫn vừa nghe nhà sư già kia mở miệng nhận là đệ tử của Viên Chân, liền suy ra Viên Chân chắc có âm mưu lên làm phương trượng thế nhưng cái ám hiệu của họ định với nhau thì làm sao biết được?
Một nhà sư lùn mập liền hỏi:
- Phú đại ca, con nhãi này nói đến chuyện suy cử sư phụ chúng ta lên làm phương trượng chùa Thiếu Lâm, không biết cái tin tức đó từ đâu ra? Sự việc trọng đại như thế không thể không tra hỏi cho rõ ràng.
Tám gã này tuy đã cạo đầu làm sư nhưng vẫn gọi nhau bằng đại ca, nhị ca chưa bỏ thói quen từ thuở còn là lục lâm. Trương Vô Kỵ vừa nghe thấy tiếng cười của bọn chúng biết là không xong, có điều mới bị trong thương chân khí không sao ngưng tụ, chỉ đành cố gắng thu nhiếp tâm thần, thấy hơi nóng bốc lên bừng bừng bên đông một mảng, bên tây một khối nhưng không sao vận chuyển vào kinh mạch được.
Nhà sư già kia giơ năm ngón tay như vuốt chim vồ tới Triệu Mẫn, nàng không có cách nào chống đỡ, chỉ đành co người xuống gầm giường còn Trương Vô Kỵ nóng ruột nhưng không cách nào khác hơn là ngồi xếp bằng vận công, chỉ mong khôi phục được hai, ba thành công lực đủ đế đánh bại tám tên ác tặc này.
Gã sư lùn mập thấy chàng còn ra bộ ra tịch ngồi hành công đả tọa, giận dữ quát lớn:
- Thằng khốn này không biết sống chết là gì, để ông cho mày về chầu tây phương trước đã, đỡ vướng chân vướng tay.
Nói xong tay phải vung lên, xương cốt kêu lốp cốp, nghe vù một tiếng đánh luôn một quyền ngay ngực Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn thấy tình hình nguy cấp, hoảng hốt kêu lên. Chỉ thấy tăng nhân đó đấm ra xong, tay phải mềm nhũn thõng xuống, hai mắt trừng trừng, đứng như trời trồng. Nhà sư già kinh hãi giơ tay đẩy vào y, gã sư lùn mập lập tức ngã xuống, thì ra y đã chết rồi. Tất cả các nhà sư khác vừa sợ, vừa tức, nhao nhao hò hét:
- Thằng nhãi này có yêu pháp, có tà thuật.
Thì ra gã sư mập vận kình vào cánh tay, đấm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ, trúng ngay huyệt Đàn Trung. Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ dùng để đánh người thì chưa đủ nhưng hộ thể thì lại có thừa, không những trả ngược lại quyền kình của đối phương mà còn nhân cú đánh của địch, dẫn động Cửu Dương chân khí trong người, tăng thêm một luồng kình lực nữa nên gã sư mập kia lập tức chết ngay.
Gã sư già đoán rằng trên ngực Trương Vô Kỵ có dấu mũi tên hay món gì nhọn sắc tẩm độc khiến cho gã kia bị trúng phải nên lập tức xuất chưởng đánh vào tay phải lộ ra ngoài áo của chàng, định rằng đánh gãy hai cánh tay trước rồi sẽ từ từ thanh toán sau. Chưởng lực cương mãnh đó trúng tay Trương Vô Kỵ, khích động Cửu Dương chân khí trong người phản kích ra, gã sư già bị bắn văng trở lại, thế mạnh như tên bắn, nghe loảng xoảng một tiếng lớn đã vỡ tung cửa sổ ra ngoài, đụng phải một cây hòe lớn ngoài sân đầu vỡ nát chết tươi.
Bọn sư còn lại kêu réo om sòm, một tên nhắm ngay huyệt Thái Dương đấm một quyền, còn một tên khác dùng thế Song Long Sang Châu giơ hai ngón tay móc mắt, một tên nữa giơ chân đá luôn vào huyệt Đan Điền của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cúi đầu tránh đôi mắt, để cho y đâm vào trán, chỉ nghe bình bình, ối ối, hự hự mấy tiếng lớn, ba nhà sư trước sau bị chấn động chết cả. Gã thứ ba giơ chân đá, lực đạo hết sức mãnh liệt, chân y cũng bị gãy rời. Nơi đan điền Trương Vô Kỵ bị trúng cú đá, chân khí bùng lên, cả một nửa bên phải mạch lạc đều quán thông, trong bụng mừng thầm: ?Tiếc thay tên ác tăng này chết sớm quá, giá như y đá thêm vào bụng mình mấy cái nữa, giúp mình khôi phục công lực mau hơn. Xem ra ta bị thương tuy có nặng thật nhưng việc khôi phục không lấy gì làm khó, chỉ cần nghỉ ngơi mười ngày nửa tháng là sẽ trở lại như xưa?.
Tám nhà sư đã chết năm, ba tên còn lại sợ đến hồn vía lên mây, vội vàng chen nhau chạy ra cửa. Chạy ra đến ngoài không thấy Trương Vô Kỵ đuổi theo chúng mới đứng lại bàn tán. Một gã nói:
- Gã tiểu tử này chắc có tà pháp.
Một gã khác nói:
- Ta xem không phải tà pháp đâu mà là nội công y ghê gớm lắm, phản kích lại giết người.
Tên thứ ba nói:
- Đúng thế, bọn mình phải tìm cách báo thủ cho các anh em kia.
Ba tên bàn bạc một hồi, một tên bỗng nói:
- Thằng nhãi đó chắc là bị thương nặng lắm, chứ sao không đuổi theo tụi mình ra ngoài đây?
Một tên bèn vui mừng nói:
- Đúng lắm, chắc nó không đi lại được, năm anh em kia dùng quyền đánh y, y mới dùng nội lực phản kích được, bọn mình dùng binh khí chém y đâm y, chẳng lẽ nó có mình đồng da sắt hay sao?
Ba tăng nhân tính toán xong, một tên cầm ngọn giáo, một têm cầm đao, tên kia cầm kiếm đi vào trong nhà. Chỉ thấy căn phòng phía đông lặng như tờ không một tiếng động. Ba gã sư tới đập gãy một cánh cửa sổ nhìn vào thấy thanh niên nọ vẫn ngồi xếp bằng tĩnh tọa, trông ra vẻ thật là mỏi mệt, thân hình lắc lư dường như có thể ngã gục xuống bất cứ lúc nào. Thiếu nữ thì cầm một chiếc khăn tay, chấm những giọt mồ hôi trên trán người con trai. Ba người đưa mắt cho nhau nhưng không ai dám xông vào. Một nhà sư quát lên:
- Thằng nhãi thối tha kia, có giỏi thì ra đây đấu với lão gia ba trăm hiệp xem nào.
Một người khác lại chửi:
- Tiểu tử này có tài cán gì đâu, chỉ có tài dùng yêu pháp hại người. Cái trò đó là trò hạ lưu vô sỉ hạng ba hạng tư, thật là đê tiện.
Ba tên sư không thấy Trương Vô Kỵ trả lời, cũng chẳng xuống giường, nên mỗi lúc một thêm can đảm hơn, lời lẽ chửi bới càng lúc càng dơ bẩn, trong đám đệ tử Phật môn chắc chẳng một ai hơn được ba vị đại hòa thượng này.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nghe ba gã kia mồm năm miệng mười nhưng không thấy gì tức giận, vì hai người không sợ họ quay lại báo thù, mà lại sợ họ bỏ đi mất. Nơi này không xa chùa Thiếu Lâm là bao nhiêu, nếu như tam tăng đi báo cho Thành Côn hay thì mọi việc kể như xong. Vết thương của Trương Vô Kỵ phải hơn mười ngày nữa mới khỏi, không cần phải đích thân Thành Côn đến nơi mà chỉ cần một hai cao thủ hạng nhì, chẳng hạn như Trần Hữu Lượng thì cũng đã không cách gì đối phó nổi. Thành thử họ thấy ba gã ác tăng kia quay lại, trong lòng lại mừng thầm. Trương Vô Kỵ bị liên tiếp năm nhà sư tập kích, Cửu Dương chân khí trong cơ thể đã có chỗ bắt đầu ngưng tụ, tuy chưa có thể phát kình đả thương địch thủ, nhưng trong bụng cũng không còn kinh hoảng như trước nữa.
Đột nhiên nghe bình một tiếng, một nhà sư đã giơ chân đá tung cửa phòng, xông vào, ánh sáng xanh lấp loáng, chiếc tua đỏ rung động, trong tay y cầm một cái giáo dài. Triệu Mẫn kêu lên:
- Chao ôi!
Nàng vội vàng đưa chiếc dao găm cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lắc đầu không cầm, trong bụng kêu khổ thầm: ?Tay ta không còn một chút kình lực nào, dẫu có binh khí, làm sao chiến đấu được? Cái thân thể máu thịt của ta, làm sao có thể chịu được với binh khí đây??. Chưa kịp suy nghĩ, địch nhân đã xoáy đầu thương, chiếc ngù tung bay, mũi giáo đâm thẳng vào ngực chàng. Mũi thương đó đến thật nhanh nhưng ý nghĩ của Triệu Mẫn còn nhanh hơn, nàng vội vàng thò tay vào bọc Trương Vô Kỵ lấy ra một chiếc thánh hỏa lệnh, nhắm đúng ngay chỗ mâu đâm tới, chặn ngay trên ngực Trương Vô Kỵ, nghe keng một tiếng, mũi giáo trúng ngay vào lệnh bài. Ỷ Thiên kiếm sắc bén là thế mà cũng còn không chặt đứt được thánh hỏa lệnh nên chiếc giáo đâm thì có ăn thua gì. Cái đâm đó khích động Cửu Dương chân khí trong người Trương Vô Kỵ, bật ngược trở lại, chỉ nghe ?A? một tiếng thảm thiết, cán thương đã đâm vào ngực gã tăng nhân.
Nhà sư đó chưa ngã xuống thì gã thứ hai đã múa đơn đao chém xuống đầu Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn sợ một miếng lệnh bài không đủ sức chặn sự sắc bén của đơn đao, hai tay mỗi tay cầm một chiếc thánh hỏa lệnh, đỡ ngay trên đầu Trương Vô Kỵ. Cái đỡ đó quả thật chỉ trong đường tơ kẽ tóc, lại nghe keng một tiếng nữa, đơn đao bật trở về, sống đao đập vỡ trán nhà sư nhưng ngón tay út bên trái của Triệu Mẫn cũng bị đao cắt mất một mẩu, trong cơn nguy cấp nên chưa cảm thấy đau.
Tăng nhân thứ ba cầm kiếm xông vào đến cửa, thấy hai tên đồng bọn đã chết tươi, y hoảng hốt kêu toáng lên xoay mình chạy ra ngoài. Triệu Mẫn kêu lên:
- Đừng để y chạy thoát.
Nàng cầm một chiếc thánh hỏa lệnh theo cửa sổ ném theo, tuy rất chính xác nhưng không có lực nên chưa đến được gã kia thì đã rơi bịch xuống đất. Trương Vô Kỵ ôm lấy nàng kêu lên:
- Ném nữa đi.
Chàng đem hết chân khí ngưng tụ được trên ngực truyền vào sau lưng nàng, chiếc thánh hỏa lệnh bên tay trái của Triệu Mẫn lại nhắm nhà sư ném theo, gã kia chỉ chạy cần chạy thêm hai bước nữa là có thể ẩn sau bức tường nhưng chiếc lệnh bài bay tới thật nhanh, trúng giữa lưng y, máu mồm phun ra gục xuống chết ngay.
Thánh hỏa lệnh vừa rời khỏi tay, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cũng hôn mê bất tỉnh, ôm nhau ngã gục xuống khỏi giường. Lúc này trong phòng có sáu người chết, ngoài sân lại thêm hai tử thi, Trương Triệu hai người nằm gục trong vũng máu. Hoang sơn tiểu miếu, lãnh nguyệt thanh phong, chỉ giây lát im lìm không một tiếng động.
Qua một lúc lâu, Triệu Mẫn tỉnh dậy trước, mơ mơ màng màng giơ tay sờ mũi Trương Vô Kỵ, thấy chàng hô hấp tuy yếu nhưng dài và bình ổn. Nàng gắng gượng đứng lên nhưng không có sức đỡ chàng lên giường, đành cố nâng đầu tình lang gác lên một cái xác chết. Nàng ngồi trong đám người chết thở hổn hển. Lại thêm một hồi nữa, Trương Vô Kỵ mở mắt ra, gọi khẽ:
- Mẫn muội, em ... em ở đâu?
Triệu Mẫn nở một nụ cười, ánh trăng lạnh chiếu qua khung cửa sổ, hai người nhìn thấy nhau mặt ai cũng đầy vết máu, trông thật ghê rợn, thế nhưng vì chết đi sống lại nên cảm thấy hết sức êm ái ngọt ngào, giang hai tay ôm chặt lấy nhau.
Trong cơn kịch chiến đó, giết được bảy nhà sư đầu tiên Trương Vô Kỵ không tốn chút hơi sức nào, chỉ mượn sức đánh sức, đã không hao hụt mà ngược lại còn có ích, thế nhưng lần cuối cùng dùng sức ném thánh hỏa lệnh giết tên ác tăng, nguyên khí hai người bị mất hết. Lúc này họ không còn sức để cử động, chỉ đành nằm giữa đống người chết chờ cho khí lực phục hồi. Triệu Mẫn băng ngón tay trái bị thương, mơ mơ màng màng cũng ngủ thiếp đi.
Mãi đến giữa trưa hôm sau hai người mới trước sau tỉnh dậy. Trương Vô Kỵ đả tọa vận khí, điều tức đến hơn nửa giờ, tinh thần phần chấn, cố gắng đứng lên thấy bụng đói đến sôi lên lục cục, mò xuống dưới bếp, thấy một nồi cơm đến quá nửa đã thành than, còn một nửa thì khê nồng cháy khét, liền xới lấy một bát lớn đem lên phòng. Triệu Mẫn cười nói:
- Hai đứa mình hôm nay ăn uống càn bậy thế này, chỉ nên trời biết, đất biết, chàng biết thiếp biết, chớ nên để người khác biết nhé.
Hai người nhìn nhau cười, thò tay bốc cơm cháy ăn, thấy mùi vị sao thật ngon lành, xem chừng còn hơn các món sơn hào hải vị. Bát cơm chưa ăn xong, bỗng nghe từ xa có tiếng chân ngựa đạp trên đá núi vọng tới.
Choang một tiếng, chiếc bát cơm cháy rơi xuống đất vỡ tan. Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người bàng hoàng nhìn nhau, tim đập thình thình, nghe tiếng thấy cả thảy hai con ngựa, đến trước miếu liền ngừng lại. Kế đó có bốn tiếng vòng kêu, người nào đó đã gõ cửa, ngừng lại một lát, rồi lại gõ thêm bốn tiếng. Trương Vô Kỵ nói nhỏ:
- Làm sao bây giờ?
Chỉ thấy bên ngoài có tiếng người kêu réo:
- Thượng Quan tam ca, ta là Tần lão ngũ đây!
Triệu Mẫn đáp:
- Bọn họ thể nào cũng phá cửa vào, mình giả vờ chết rồi tùy cơ ứng biến.
Hai người nằm phục trên đám người chết, úp mặt xuống. Vừa mới nằm xong, bỗng nghe bình một tiếng lớn, cửa miếu đã bị phá tung ra, cứ theo thế huých vào cửa thì sức cánh tay của người vừa đến không phải là yếu. Triệu Mẫn bỗng nghĩ ra một kế nói:
- Chàng phục tại bên cửa, chặn đường đi của hai gã này.
Trương Vô Kỵ gật đầu, đến nằm bên ngạch cửa. Bỗng nghe thấy mấy tiếng kêu kinh hoảng, xoẹt xoẹt hai tiếng, hai kẻ tiến vào miếu đã rút binh khí cầm tay, hẳn là họ đã thấy mấy cái xác nơi sân. Một người nói khẽ:
- Cẩn thận, phòng bị địch nhân ám toán.
Lại nghe tiếng một người khác kêu lên:
- Này các bạn, thập thò ẩn náu đâu có phải là kẻ anh hùng. Nếu có giỏi thì ra đây cùng lão tử một trận tử chiến.
Người đó âm thanh oang oang, trung khí sung túc, chắc là đại lực sĩ vừa phá cửa hồi nãy. Y liên tiếp kêu mấy lần, chung quanh không thấy có tiếng trả lời bèn nói:
- Bọn giặc chắc đi xa rồi.
Lại nghe tiếng một người lập cập nói:
- Mình xem xét bốn bề cho kỹ, đừng để trúng ngụy kế của địch nhân.
Gã Tần lão ngũ kia nói:
- Thọ lão đệ, ngươi tra xét bên phía đông, ta tra xét bên phía tây.
Gã họ Thọ kia dường như trong bụng sợ hãi nói:
- Chỉ sợ bên địch đông người, mình nên ở chung một chỗ cho khỏi lẻ loi.
Tần lão ngũ chưa kịp quyết định, gã họ Thọ đột nhiêu ?Ồ? lên một tiếng, chỉ vào căn phòng phía đông nói:
- Trong kia ... trong kia có người chết kìa.
Hai người chạy đến bên cửa, chỉ thấy trong căn phòng nhỏ, bảy tám người nằm chết ngang dọc. Tần lão ngũ nói:
- Tất cả ... tất cả tám anh em trong miếu này sao chết cả. Không biết ai là người hạ độc thủ?
Tên họ Thọ nói:
- Tần ngũ ca, mình nên cấp tốc trở về chùa, bẩm ... bẩm ... lại cho sư phụ hay.
Tần lão ngũ trầm ngâm rồi nói:
- Sư phụ dặn dò chúng ta, phải mau mau đưa thiếp đi mời để kịp mở Đồ Sư Anh Hùng Hội vào dịp Tết Đoan Ngọ, nếu như làm lỡ việc thì tội không phải là nhỏ.
Trương Vô Kỵ nghe thấy mấy tiếng Đồ Sư Anh Hùng Hội, hơi suy nghĩ, không khỏi vừa kinh hoàng, vừa mừng rỡ, lại băn khoăn, giận dữ, trăm mối trong lòng nghĩ thầm: ?Sư phụ y sai gửi thiếp mời, mở cái gì Đồ Sư Anh Hùng Hội là để chiêu tập anh hùng thiên hạ, trước mặt mọi người giết nghĩa phụ ta. Xem ra như thế, trước kỳ Tết Đoan Ngọ này, tính mạng nghĩa phụ không sao cả. Ta không bảo vệ cho nghĩa phụ được chu toàn, để lão nhân gia rơi vào tay kẻ gian để chịu chiết nhục, thật còn gì bất hiếu bất nghĩa cho bằng?.
Chàng càng nghĩ càng tức, hận không thể lập tức giết chết hai kẻ gian này, nhưng lại sợ bọn chúng bỏ chạy, mà mình thì không có sức đuổi theo, đành phải đợi cho chúng tiến vào phòng, chặn lối đi, cứ y như cũ dùng Cửu Dương chân khí phản kích giết kẻ địch. Ngờ đâu hai người nọ thấy trong phòng đầy xác chết, không muốn bước vào, chỉ đứng ngoài xa bàn bạc.
Gã họ Thọ nói:
- Chuyện lớn như thế này phải sớm bẩm lại với sư phụ là hơn.
Tần lão ngũ đáp:
- Thế cũng được, hai đứa mình chia ra làm, ta đi gửi thiếp, ngươi về chùa bẩm lại cho sư phụ.
Gã họ Thọ lại sợ đi đường gặp cường địch, trù trừ chưa trả lời. Tần lão ngũ bực mình nói:
- Thế thì để cho ngươi chọn, nếu ngươi thích đi đưa thiếp thì cứ việc đi.
Gã họ Thọ lại trầm ngâm, sau nghĩ lại thấy về chùa xem chừng an toàn hơn nên nói:
- Thôi cứ như Tần ngũ ca sắp đặt, để đệ về chùa bẩm báo cũng được.
Hai người lập tức quay ra. Triệu Mẫn liền cử động, rên lên mấy tiếng. Tần Thọ hai người kinh hãi, quay đầu lại, thấy Triệu Mẫn đang nhúc nhích, nhìn kỹ lại hóa ra là một cô gái. Tần lão ngũ lạ lùng hỏi:
- Cô gái này là ai thế nhỉ?
Y đi vào phòng. Gã họ Thọ tuy nhát gan nhưng thấy đó chỉ là một cô gái, lại đang bị thương nặng sắp chết nên không sợ hãi, cũng theo sau. Tần lão ngũ giơ tay nắm lấy vai Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ liền ho lên một tiếng, ngồi dậy xếp bằng vận khí, mắt nửa thức nửa ngủ. Tần, Thọ thấy chàng đột nhiên ngồi dậy, trên mặt đầy vết máu, trông thật ghê rợn nên hai đứa cùng kinh hoảng. Gã họ Thọ kêu lên:
- Hỏng rồi, đây là quỉ nhập tràng. Con quỉ ... quỉ ... này âm hồn không tan, Tần ngũ ca nên ... nên cẩn thận.
Nói rồi y vội vàng nhảy lên giường. Tần lão ngũ quát lên:
- Quỉ nhập tràng tác quái à! Họ Tần này đâu có sợ ngươi.
Y vung đao chém thẳng xuống đầu Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong tay đã cầm sẵn hai miếng thánh hỏa lệnh, lập tức giơ lên đỡ trên đầu, nghe keng một tiếng, lưỡi đao đã chém trúng thánh hỏa lệnh, bật ngược trở lại, trúng đầu Tần lão ngũ vỡ nát, chết ngay lập tức.
Tên họ Thọ tay cầm một thanh quỉ đầu đao, run bần bật, cũng muốn chém vào mình Trương Vô Kỵ nhưng nào có dám? Trương Vô Kỵ chỉ chờ y chém xuống là sẽ dùng Cửu Dương chân khí phản kích lại. Triệu Mẫn thấy người này hồi lâu không động đậy, nóng ruột: ?Tên quỉ nhát gan này hồn vía lên mây, không dám động thủ, nếu như y quẳng đao bỏ chạy thì mình đâu có làm gì được y?. Chỉ thấy hai hàm răng y đánh vào nhau lốp cốp, đột nhiên nghe xoảng một tiếng, thanh quỉ đầu đao đã rơi xuống đất. Trương Vô Kỵ nói:
- Ngươi có giỏi thì chém ta một đao, đấm ta một đấm xem nào.
Người kia đáp:
- Tiểu ... tiểu nhân không phải ... không dám cùng lão gia động thủ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Thế thì ngươi đá ta một cái xem nào.
Người kia nói:
- Cái đó ... cái đó tiểu ... tiểu nhân lại càng không dám.
Trương Vô Kỵ giận nói:
- Nếu như ngươi bị thịt như thế thì chết càng thảm thiết hơn, mau chém ta mấy đao đi nào. Nếu ta thấy thủ kình ngươi không đến nỗi tệ, không chừng tha mạng cho ngươi đó.
Người kia vội đáp:
- Dạ, dạ.
Y cúi xuống nhặt thanh đao lên nhưng liếc mắt thấy Tần lão ngũ đầu nát ngướu, nghĩ thầm con quỉ nhập tràng này pháp lực cao cường, chi bằng cố sức van xin may ra y tha mạng cho, vội vàng quì xuống, khấu đầu nói:
- Lão gia tha mạng cho! Người chết oan, không ... không liên quan gì đến tiểu nhân, người đừng bắt ... tiểu nhân ... đòi mạng.
Triệu Mẫn thấy y tưởng Trương Vô Kỵ đã chết rồi, trong bụng tức lắm, hừ một tiếng nói:
- Trong võ lâm sao lại có hạng người chó chết vô tích sự đến như ngươi là sao?
Người kia đáp:
- Vâng, vâng! Tiểu nhân vô tích sự, vô tích sự, quả đúng là đồ chó chết, đồ chó chết.
Y không dám ra tay, Trương Vô Kỵ cũng đành chịu không thể làm gì được, đột nhiên nghĩ ra một cách quát lên:
- Lại đây.
Gã kia vội đáp:
- Vâng.
Y tiến lên mấy bước, rồi lại quì xuống. Trương Vô Kỵ giơ hai tay ra, giơ hai ngón tay cái ấn vào hai mắt y, thét lớn:
- Ta móc hai mắt ngươi trước đã.
Người kia sợ hãi quá, không nghĩ ngợi gì thêm, vội vàng giơ lên gạt tay Trương Vô Kỵ ra. Trương Vô Kỵ chỉ đợi y đẩy tay mình, lập tức mượn ngay sức của y, vòng xuống điểm luôn vào hai huyệt Thần Phong và Bộ Lang dưới vú y.
Người kia toàn thân tê tái, ngã lăn quay ra, lớn tiếng van xin:
- Lão gia tha mạng cho, lão gia tha mạng cho. Thì ra lão gia không phải quỉ nhập tràng, thế thì hay quá, càng ... càng nên tha mạng cho tiểu nhân.
Lúc này y nằm gục ngay trước Trương Vô Kỵ nên nhìn rõ đối phương là người còn sống. Triệu Mẫn biết rằng Trương Vô Kỵ vừa mới mượn sức điểm huyệt, nhưng lực mượn được rất là yếu, chỉ khiến cho y tạm thời bị tê chân tay nhưng vẫn còn hành động được, chưa đến nửa giờ sau, các huyệt đạo bị phong sẽ được giải khai, khi đó sẽ lại càng phiền nhiễu. Nàng còn nhiều điều muốn tra vấn y cho minh bạch nên không muốn giết y ngay nên nói:
- Ngươi đã bị vị gia đài này điểm trúng tử huyệt, ngươi thử hít một hơi xem xương sườn bên trái có ngâm ngẩm đau không?
Người y làm theo hít một cái, quả nhiên thấy mấy rẻ xương sườn bên trái hơi đau, thực ra đó chỉ là hiện tượng khí huyết bị bế tắc mà sinh ra nhưng y đâu có biết nên vội hốt hoảng van xin. Triệu Mẫn nói:
- Muốn tha mạng cho ngươi ư? Thế thì phải dùng kim châm giải các tử huyệt mới được. Quả thật là mất công quá đỗi.
Gã kia lập tức rập đầu nói:
- Dù sao chăng nữa thì cô nương cũng xin ra tay giúp cho một phen. Cô nương cứu mạng cho tiểu nhân, dù có phải làm trâu làm ngựa, cô nương sai bảo gì cũng được.
Triệu Mẫn cười thầm trong bụng nói:
- Nhân vật giang hồ như ngươi, thật ta mới thấy lần đầu. Thôi được rồi, ngươi đi kiếm một cục gạch đem về đây cho ta.
Người kia vội vàng đáp:
- Vâng, vâng.
Y tập tễnh đi ra ngoài kiếm một cục gạch. Trương Vô Kỵ hỏi nhỏ:
- Em lấy cục gạch làm gì thế?
Triệu Mẫn mỉm cười:
- Cứ chờ xem sẽ thấy nàng tiên này làm phép lạ.
Gã kia kiếm được một cục gạch cung kính đem vào phòng. Triệu Mẫn rút trên đầu ra một cành kim thoa, để mũi châm đúng ngay huyệt Khuyết Bồn trên đầu vai y rồi bảo:
- Ta dùng kim châm giải khai kinh mạch nửa người trên cho ngươi trước cho khí của tử huyệt khỏi bốc lên óc thì hết cách chữa. Nhưng không biết vị gia đài kia có bằng lòng tha chết cho ngươi không?
Gã đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ đầy vẻ van lơn cầu khẩn. Trương Vô Kỵ liền gật đầu. Gã kia mừng quá nói:
- Vị đại gia kia bằng lòng rồi, xin cô nương mau mau ra tay giúp cho.
Triệu Mẫn nói:
- Ồ, ngươi có sợ đau không?
Người kia nói:
- Tiểu nhân chỉ sợ chết chứ đâu có sợ đau.
Triệu Mẫn nói:
- Thế thì được! Ngươi cầm hòn gạch đập vào đuôi kim thoa.
Người kia nghĩ kim thoa đâm vào vai cũng chỉ là bị thương ngoài thịt da, nên không nhăn nhó gì, cầm viên gạch lên đập xuống. Viên gạch đập xuống, chiếc trâm liền cắm vào huyệt Khuyết Bồn, y không cảm thấy đau mà lại thấy khoan khoái, đối với Triệu Mẫn càng thêm tin tưởng, luôn mồm cảm ơn rối rít. Triệu Mẫn lại bảo y rút kim ra, để vào các huyện Hồn Môn, Phách Hộ, Thiên Trụ, Khố Phòng ... bảy nơi huyệt đạo châm vào. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
- Được rồi! Được rồi!
Chàng đứng lên, nghĩ thầm người này nếu những huyệt đạo này đã bị châm vào, nếu như đào tẩu khỏi miếu, cố sức chạy cho nhanh, những huyệt bị điểm sẽ lập tức phát tác khiến y lăn ra chết ngay.
Triệu Mẫn nói:
- Ngươi đi kiếm hai chậu nước cho chúng ta rửa mặt rồi đi nấu cơm. Nếu ngươi muốn thì cứ việc bỏ thuốc độc vào cơm canh, thế là cả ba người mình cùng chết.
Người kia vội nói:
- Tiểu nhân đâu dám, tiểu nhân đâu dám.
Thế là tự nhiên Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn có được một người đầy tớ chăm lo săn sóc cho mình. Triệu Mẫn hỏi tên họ mới hay y họ Thọ, tên Nam Sơn, lại có cái ngoại hiệu Vạn Thọ Vô Cương, là cái tên bạn bè giang hồ chế riễu đặt cho chỉ vì y đụng chuyện là rụt đầu rụt cổ nên sẽ không bao giờ bị người ta giết cả. Y theo một đám lục lâm hảo hán xin làm môn hạ Viên Chân, nhưng Viên Chân thấy tư chất y kém cỏi quá, tính tình lại nhút nhát, chỉ sai y làm những việc vặt chưa từng truyền thụ y chút võ công nào. Thọ Nam Sơn bị điểm tám nơi huyệt đạo nhưng sức lực không mất, bị Triệu Mẫn sai hết việc nọ đến việc kia, thực là chăm chỉ ngoan ngoãn. Y đem chín cái xác ra vườn sau đào huyệt chôn cất, xách nước rửa sạch các vết máu trong miếu. Khéo làm sao Thọ Nam Sơn tuy võ công chẳng đâu vào đâu nhưng tài nấu nướng thì thuộc loại hạng nhất, nấu mấy món ăn, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn ăn khen lấy khen để.
Sau khi mọi việc đã đâu vào đấy, Trương Triệu hai người mới tra hỏi tình hình Đồ Sư Anh Hùng Hội ra thế nào. Thọ Nam Sơn không dám dấu diếm, nhưng vì mọi người coi y chẳng vào đâu nên nhiều việc không cho y hay. Y chỉ biết Không Văn đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm ủy thác cho Viên Chân chủ trì đại hội, Không Văn và Không Trí đứng tên gửi thiếp mời anh hùng hảo hán các môn phái, các bang hội đến Tết Đoan Ngọ tới chùa Thiếu Lâm có việc quan trọng cần thương lượng.
Trương Vô Kỵ cầm các anh hùng thiếp lên coi, thấy người được mời là Phù Trần Tử, Cổ Tùng Tử, Qui Tạng Tử ... các kiếm khách phái Điểm Thương thành danh đã lâu nhưng ẩn cư nơi Điền Nam[3], xưa nay không lai vãng với nhân sĩ võ lâm Trung Nguyên. Đến nay ngay cả phái Điểm Thương mà chùa Thiếu Lâm cũng mời đủ biết kỳ đại hội này khách khứa rất đông, cực kỳ qui mô. Phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm, lại chính Không Văn, Không Trí ra mặt đứng tên mời, hẳn người nhận được thiếp dù có việc gì quan trọng đến đâu cũng phải gác qua một bên để đi phó hội.
Trương Vô Kỵ thấy trên tấm thiệp mời chỉ có vài chữ viết là: ?Kính mời đến tiết Đoan Dương tụ hội tại chùa Thiếu Lâm, để cùng anh hùng thiên hạ uống chén rượu mừng? nhưng không thấy hai chữ ?Đồ Sư? liền hỏi:
Hồi 35 ĐỒ SƯ HỮU HỘI THỤC VI ƯƠNG
- Sao Tần lão ngũ lại gọi là Đồ Sư Anh Hùng Hội là sao?
Thọ Nam Sơn mặt dương dương nói:
- Trương gia không biết chứ sư phụ chúng tôi bắt được một nhân vật danh tiếng lừng lẫy, tên là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Phái Thiếu Lâm muốn lần này được nở mày nở mặt với tất cả anh hùng thiên hạ, trước mặt mọi người đem Kim Mao Sư Vương ra giết nên mới mở đại hội này, thành thử mới gọi là Đồ Sư Anh Hùng Hội.
Trương Vô Kỵ cố nén giận hỏi thêm:
- Thế Kim Mao Sư Vương là người thế nào, ngươi đã gặp bao giờ chưa? Sư phụ ngươi là thế nào mà bắt được? Người đó hiện nay nhốt ở đâu?
Thọ Nam Sơn đáp:
- Gã Kim Mao Sư Vương ấy ư, hà hà, quả thật ghê gớm hết chỗ nói, cao phải đến gấp đôi tiểu nhân, bắp tay xem ra còn to hơn đùi tiểu nhân nữa, chẳng nói gì khác, đôi mắt sáng quắc nhìn vào ai là cũng đủ hồn vía lên mây, y chẳng phải ra tay, cũng đã lạy lục xin tha rồi ...
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn đưa mắt nhìn nhau, gã vẫn tiếp tục:
- Sư phụ tôi đấu với y bảy ngày bảy đêm liền, không phân thắng bại, sau cùng thầy tôi giận quá, sử dụng môn võ uy chấn thiên hạ là Cầm Long Phục Hổ Công mới thu phục được y. Hiện nay Kim Mao Sư Vương bị nhốt trong một cái lồng sắt thật lớn tại Đại Hùng Bảo Điện trong chùa, người y bị xích bằng bảy tám sợi dây xích đúc bằng thép ròng...
Trương Vô Kỵ càng nghe càng bực, quát lên:
- Ta hỏi gì cứ thực mà nói, nếu còn nói năng lếu láo thì coi chừng cái mạng chó của ngươi đó. Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hai mắt đã mù rồi, làm gì có chuyện đôi mắt sáng quắc?
Thọ Nam Sơn nói phét bị bắt quả tang vội nói:
- Vâng, vâng! Chắc có lẽ tiểu nhân nhìn lầm người.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Thế ngươi có thực đã trông thấy lão nhân gia hay không? Tướng mạo Tạ đại hiệp thế nào ngươi nói cho ta biết.
Thọ Nam Sơn quả thực chưa từng thấy Tạ Tốn bao giờ, biết rằng nếu nói láo nữa, không khỏi nguy đến tính mạng vội đáp:
- Tiểu nhân không dám dấu, kỳ thực chỉ mới nghe các vị sư huynh nói lại thôi.
Trương Vô Kỵ muốn tra hỏi cho rõ nơi Tạ Tốn bị nhốt, nhưng gặng qua gặng lại, Thọ Nam Sơn quả thực không biết, có lẽ việc này cơ mật đại sự, những kẻ tép riu như y không thể nào được can dự vào nên chàng cũng đành chịu. Cũng may là Tết Đoan Dương còn đến hơn hai tháng nữa, thời giờ còn dài, đợi cho thương thế khỏi hẳn rồi tìm cách cứu sau, không có gì phải vội vã.
Ba người ở tại Trung Nhạc Thần Miếu mấy ngày, không có chuyện gì xảy ra, chùa Thiếu Lâm cũng không phái ai đến liên lạc. Đến ngày thứ tám, vết thương của Triệu Mẫn cũng đã đỡ đến bảy tám phần, còn Trương Vô Kỵ thì chân khí trong người càng lúc càng thông, chân tay dần dần đã có sức, nếu như địch nhân có kéo đến, muốn đào tẩu cũng không phải khó khăn gì.
Thọ Nam Sơn tận tâm kiệt lực phục thị hai người, không dám có ý gì khác. Triệu Mẫn cười nói:
- Vạn Thọ Vô Cương, ngươi học võ thì chẳng bằng ai nhưng làm quản gia thì thật là nhân tài hạng nhất.
Thọ Nam Sơn cười gượng đáp:
- Cô nương nói phải lắm.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn ngày ngày được ăn những món Thọ Nam Sơn hết tâm hết sức nấu cho ăn, Trung Nhạc Thần Miếu lúc nào cũng mùi thơm nức mũi. Lại thêm mươi ngày nữa, hai người thể lực hoàn toàn hồi phục, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn liền bàn tính làm sao cứu được Tạ Tốn.
Triệu Mẫn nói:
- Đúng ra cách hay nhất là điểm vào tử huyệt của Vạn Thọ Vô Cương, sai y quay về chùa Thiếu Lâm thăm dò tình hình. Thế nhưng gã này lại quá ư là vô tích sự, xem ra dễ bị lộ lắm, đâm ra hỏng cả đại sự. Chi bằng chúng mình đi tới chân núi Thiếu Thất rồi tùy cơ mà hành sự. Có điều mình phải giả trang mới được.
Trương Vô Kỵ nói:
- Giả làm gì bây giờ? Cạo trọc đầu làm hòa thượng, ni cô chăng?
Triệu Mẫn mặt hơi đỏ lên, sẵng giọng:
- Gớm, chàng thật khéo tính toán. Một tiểu hòa thượng dẫn một tiểu ni cô, ban ngày ban mặt đi dung dăng dung dẻ thì còn ra trò trống gì?
Trương Vô Kỵ cười:
- Thế thì mình giả làm hai vợ chồng nhà quê, đến chân núi Thiếu Thất cày ruộng, đốn củi.
Triệu Mẫn lại cười:
- Anh em không được hay sao? Giả làm vợ chồng nếu như Chu cô nương trông thấy, vai bên trái của em lại có thêm năm cái lỗ nữa.
Trương Vô Kỵ chỉ cười trừ không dám nói thêm, quay sang hỏi Thọ Nam Sơn kỹ càng các nơi phòng ốc trong chùa Thiếu Lâm rồi nói:
- Trên người ngươi các tử huyệt bị điểm đã giải hết cả rồi, thôi đi đâu thì đi.
Triệu Mẫn nghiêm nét mặt nói:
- Thế nhưng ngươi một đời phải sống ở phương Nam, chứ nếu thấy băng tuyết là lăn ra chết ngay. Ngươi mau mau về hướng nam, sống ở nơi nào càng nóng càng tốt, chứ nếu gặp phải phong hàn, bị trúng gió ho hen là nguy lắm đấy.
Thọ Nam Sơn tưởng thật, bái biệt hai người, ra khỏi miếu là đi về phương nam. Một đời y quả nhiên chỉ sống ở Lĩnh Nam, giữ gìn cẩn thận, không dám để cho gió máy, đến triều vua Vĩnh Lạc nhà Minh mới chết, tuy chẳng phải là Vạn Thọ Vô Cương, nhưng cũng sống dai lắm rồi.
Trương Triệu hai người đợi y đi xa, cố gắng dọn sạch các dấu vết còn lại trong miếu, đi ra khỏi chừng hai chục dặm, kiếm nhà nông mua quần áo nam nữ, vào chỗ hoang sơn thay ra, còn quần áo đang mặc đem chôn dưới đất rồi thủng thẳng đến chân núi Thiếu Thất. Đến cách núi Thiếu Thất chừng bảy tám dặm, trên đường cũng ba lần gặp các nhà sư trong chùa. Triệu Mẫn nói:
- Mình không nên tới gần hơn nữa.
Nàng thấy ở bên đường đi có hai gian nhà tranh, đằng trước có một mảnh vườn, một ông già nhà quê đang tưới rau liền nói:
- Mình xin ông ta cho ở nhờ.
Trương Vô Kỵ tiến đến gần, vái chào rồi nói:
- Xin lỗi lão trượng, anh em chúng tôi đi đường mỏi mệt, xin cho một bát nước uống.
Ông lão nhà quê làm như không nghe, chẳng nói chẳng rằng cứ hùng hục gánh thùng nước phân đi tưới rau. Trương Vô Kỵ nói lại một lần nữa, ông lão vẫn không đáp lời. Bỗng kẹt một tiếng, cửa mở ra, một bà lão tóc trắng như bông bước ra cười nói:
- Nhà tôi vừa điếc vừa câm, khách quan có việc gì thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Em gái cháu đi không nổi, muốn xin một bát nước uống.
Bà lão nói:
- Mời hai người vào trong này.
Hai người theo vào trong nhà, thấy phòng ốc sắp đặt thật gọn ghẽ, tuy bàn ghế chỉ bằng gỗ mộc mạc nhưng lau chùi sạch sẽ, ngay cả quần áo của bà lão tuy bằng vải thô nhưng cũng giặt gỵa tươm tất. Triệu Mẫn trong bụng vui mừng, uống bát nước rồi, lấy ra một đĩnh bạc, cười nói:
- Bà cụ ơi, anh cháu dẫn cháu đi thăm bà ngoại, chẳng may đi đường bị trẹo chân, không đi lại được, hôm nay xin bà bà cho nghỉ nhờ một đêm, đợi sáng mai lại lên đường.
Bà lão nói:
- Nghỉ một đêm thì có gì đâu mà phải đưa tiền đưa bạc. Có điều chúng tôi nhà chỉ một gian, một cái giường, vợ chồng tôi nhường cho cô cậu nhưng anh em làm sao ngủ chung một giường được? Hà hà, tiểu cô nương, cô nói thật cho già này nghe đi, có phải cùng nhân tình trốn cha mẹ bỏ nhà ra đi không nào?
Triệu Mẫn nghe bà lão nói đúng tim đen, mặt đỏ nhừ, nghĩ thầm bà lão này thật tinh đời, nghe giọng điệu xem ra không phải chỉ là một bà nhà quê tầm thường, bèn đưa mắt nhìn kỹ thêm một lượt. Chỉ thấy tuy bà ta lưng còng tóc bạc nhưng hai mắt lấp lánh có thần, xem ra không chừng còn biết võ nghệ. Triệu Mẫn biết Trương Vô Kỵ trông còn ra dáng nhà nông chứ như mình dung mạo cử chỉ, ăn nói điệu bộ, thật không giống gái quê chút nào bèn bẽn lẽn nói:
- Bà bà đã đoán ra, cháu cũng chẳng dám dấu. Tăng ca ca đây là bạn cháu từ tấm bé, bố cháu thấy nhà anh ấy bần hàn nên không chịu gả. Mẹ cháu thấy cháu toan quyên sinh, nên đứng ra giúp cháu cùng với anh ấy ... anh ấy bỏ nhà đi. Mẹ cháu dặn rằng, qua hai ba năm, chúng cháu có ... có con có cái, lúc ấy hãy về, lúc ấy bố cháu có không chịu cũng không xong.
Nàng nói mà mặt đỏ bừng, thỉnh thoảng lại liếc Trương Vô Kỵ một cái, vẻ đầy yêu thương, nói tiếp:
- Nhà cháu ở Đại Đô cũng có chút tiếng tăm, cha cháu lại làm quan. Chúng cháu mà bị bắt lại, A Ngưu ca ca thể nào cũng bị cha cháu đánh chết. Bà bà ơi, cháu nói gì bà bà đừng nói lại với ai nhé.
Bà lão cười ha hả, liên tiếp gật đầu:
- Hồi ta còn trẻ cũng có tính phong lưu. Cháu yên tâm, để ta nhường phòng cho đôi vợ chồng son. Nơi đây vắng vẻ xa xôi, người nhà cháu không thể nào tìm thấy đâu, mà dẫu có ai làm khó cô cậu thì bà bà cũng đâu có tụ thủ bàng quan.
Bà lão thấy Triệu Mẫn ôn nhu mỹ miều, vừa gặp đã đem chuyện hai người tư bôn nói cho bà ta nghe, trong lòng liền có cảm tình nên đã nhất định ra tay tương trợ, tác thành cho hai người nên duyên.
Triệu Mẫn nghe bà ta nói như thế, biết ngay cũng là nhân vật trong võ lâm, nơi đây thật gần chùa Thiếu Lâm, không biết bà ta và Thành Côn là bạn hay thù, thành ra chuyện gì cũng phải dè dặt, không để lộ chút sơ hở nào, bèn sụp xuống lạy nói:
- Bà bà đứng ra lo liệu cho hai đứa cháu, chúng cháu xin đa tạ. A Ngưu ca ca, mau lại tạ ơn bà bà đi.
Trương Vô Kỵ theo lời chắp tay cám ơn. Bà lão cười hì hì gật đầu, lập tức nhường phòng của mình, ra ngoài lấy ván xếp thành một cái giường, trải cỏ lên làm thành một chiếc nệm để nằm. Hai người vào phòng rồi, Trương Vô Kỵ hạ giọng nói:
- Ông cụ tưới rau bản lãnh còn ghê gớm hơn, em có thấy không?
Triệu Mẫn nói:
- Ồ, em không nhìn ra.
Trương Vô Kỵ nói:
- Ông ta gánh nước phân, đi rất chậm vậy mà hai chiếc thùng không sóng sánh chút nào, nội lực phải cao cường lắm.
Triệu Mẫn hỏi lại:
- Thế so với chàng thì sao?
Trương Vô Kỵ cười:
- Để anh thử xem, không biết có được không.
Nói xong liền bồng Triệu Mẫn lên, để ngang trên vai làm như đang gánh nước. Triệu Mẫn cười khúc khích:
- Chao ôi, chàng coi thiếp như gánh phân hay sao?
Bà lão ở bên ngoài nghe tiếng hai người đùa cợt, những gì còn nghi ngại trước đây đều tiêu tan cả. Tối hôm đó hai người ngồi ăn chung với hai ông bà nhà quê, thức ăn cũng có thịt gà thịt heo. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cố tình làm như một cặp tình nhân thắm thiết trốn nhà ra đi, thỉnh thoảng len lén nắm tay nhau, keo sơn không rời được một phút. Lúc đầu hai người chỉ làm bộ, đến sau thì thành như thật, bà lão nhìn thấy chỉ mỉm cười, còn ông già thì dường như không để ý, chỉ cắm cúi ăn.
Ăn cơm xong Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn vào phòng, cài then lại. Hai người trong bữa ăn đùa cợt giả giả thật thật, ngờ đâu cả hai đều động tình. Triệu Mẫn má đỏ hây hây, nói nhỏ:
- Chúng mình chỉ đóng kịch chứ không phải thật đâu nhé.
Trương Vô Kỵ ôm nàng vào lòng hôn hít, hạ giọng:
- Nếu như giả vờ, đôi ba năm nữa lấy gì có con để bồng về khoe với gia gia?
Triệu Mẫn thẹn thùng hứ một tiếng nói:
- Thì ra chàng nấp ở đằng sau, nghe lén thiếp nói chuyện.
Trương Vô Kỵ tuy nói đùa nàng như thế, nhưng nghĩ lại mình với Chu Chỉ Nhược có ước định hôn nhân, tuy rằng mai sau lấy được cả hai thì càng tốt nhưng cũng phải kết hôn với Chu Chỉ Nhược rồi mới tính tới chuyện cùng Triệu Mẫn nên duyên. Thành thử trong lúc này tuy người ngọc đang ở trong tay, tình ý triền miên nhưng cũng cố gắng nén lòng, chỉ hôn lên môi lên má rồi đỡ nàng lên giường, còn mình nằm ở cái chõng đằng trước, điều tức vận công, đưa Cửu Dương chân khí vòng quanh đủ mười hai lần, rồi lăn ra ngủ.
Còn Triệu Mẫn thì mặt nóng bừng, lòng xao động, trăn trở mãi không sao ngủ được, mãi đến thật khuya, đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe tiếng chân từ xa đi lại thật nhanh, có ai đó đã đến ngay trước cửa. Nàng vội lay Trương Vô Kỵ, ngờ đâu chàng cũng đã tỉnh giấc, nắm lấy tay nàng, hai người siết chặt tay nhau.
Chỉ nghe ở bên ngoài có tiếng người vang lên:
- Xin chào hiền kháng lệ nhà họ Đỗ, cố nhân đêm khuya đến thăm, liệu có vô lễ hay không?
Một lúc sau có tiếng bà lão ở trong nhà nói vọng ra:
- Có phải Thanh Hải tam kiếm đó chăng? Vợ chồng ta từ Xuyên Tây đi trốn tận đây cũng vì sợ Ngọc Chân Quan các ông. Bọn ta chỉ vì một chuyện nhỏ mà sinh chuyện với các người, nhưng cũng chẳng có gì thâm cừu đại oán. Việc đã bao nhiêu năm rồi, Ngọc Chân Quan cớ gì vẫn còn nhất định ép cho bằng được là sao? Người đời thường nói: ?Con giun xéo lắm cũng quằn, dồn chó vào chân tường chó cũng cắn lại?.
Người bên ngoài nghe thế cười sằng sặc, nói:
- Nếu quả thực hai vị sợ thì quì lạy bọn ta ba cái, bao nhiêu chuyện cũ Ngọc Chân Quan sẽ bỏ qua cho không truy cứu nữa.
Chỉ nghe kẹt một tiếng cửa đã mở ra, bà già nói:
- Các ngươi tin tức quả thực nhanh nhẹn, quả nhiên đã đuổi đến tận nơi đây.
Khi đó mặt trăng mới hơi khuyết, ánh sáng bạc chiếu trên mặt đất, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người nhìn theo khe cửa ra, thấy bên ngoài có ba đạo sĩ đội mũ màu vàng. Người ở giữa râu xồm đâm tua tủa, vừa mập vừa lùn, nói:
- Hiền kháng lệ muốn khấu đầu tạ tội hay muốn dùng song câu và liên tử thương một phen sống mái?
Bà lão chưa kịp trả lời, ông già câm điếc đã hung hăng bước ra, đứng ngay trước cửa, tay chống nạnh, khinh khỉnh nhìn ba gã đạo nhân. Bà già cũng đi theo đứng ngay bên cạnh chồng.
Đạo nhân râu xồm hỏi:
- Đỗ lão tiên sinh sao không thấy mở lời? Hay là không thèm nói chuyện với Thanh Hải tam kiếm?
Bà già đáp:
- Chuyết phu tai đã điếc rồi, không nghe ba vị nói gì đâu.
Gã đạo nhân râu xồm ?Ồ? lên một tiếng nói:
- Cái tài thính phong biện khí của Đỗ lão tiên sinh vốn là tuyệt nghệ trong võ lâm, làm sao tai lại bị điếc? Tiếc thay, tiếc thay!
Gã đạo sĩ cũng mập đứng bên cạnh rút soẹt kiếm ra nói:
- Đỗ Bách Đương, Dịch Tam Nương hai người sao không dùng binh khí?
Bà già Dịch Tam Nương đáp:
- Mã đạo trưởng, tính tình ông vẫn còn nóng nảy. Còn Thiệu đạo trưởng, mấy năm không gặp, đầu tóc nay cũng đã hoa râm rồi. Ha ha! Chuyện nhỏ như thế mà nhìn cũng không ra, sao mà khổ đến thế?
Hai tay bà ta đột nhiên vung lên, ánh sáng lấp lánh, mỗi tay cầm ba con dao dài chưa đầy nửa thước, tất cả sáu thanh. Ông già câm điếc Đỗ Bách Đương cũng vung tay, trong hai tay cũng đã cầm sẵn sáu thanh đoản đao từ bao giờ. Chỉ thấy ông ta tung dao từ tay phải lăn qua tay trái, tay trái lăn qua tay phải, chẳng khác gì hai bàn tay đan vào nhau, thật là thuần thục.
Ba đạo nhân ngạc nhiên, trong võ lâm chưa từng thấy loại binh khí như thế này bao giờ, là phi đao chăng nhưng phi đao cũng đâu có thủ pháp như vậy. Đỗ Bách Đương vốn nổi tiếng Xuyên Tây về môn song câu, còn vợ ông ta Dịch Tam Nương quen dùng liên tử thương, bây giờ hai vợ chồng lại bỏ môn binh khí đã từng sử dụng mấy chục năm qua, như thế mười hai con dao này hẳn chiêu số phải rất lợi hại, rất quái dị.
Gã đạo sĩ mập Mã Pháp Thông vung trường kiếm một cái, cất tiếng ngâm một câu thơ:
- Tam Tài kiếm trận Thiên Địa Nhân.
Gã đạo sĩ râu ngắn Thiệu Hạc liền đọc tiếp:
- Điện trục tinh trì xuất Ngọc Chân.
Ba đạo sĩ liền bước giãn ra, lập tức vây Đỗ thị nhị lão vào giữa. Trương Vô Kỵ thấy ba đạo nhân lúc qua trái lúc qua phải, chạy ngang chạy dọc, tưởng như tam tài mà không phải tam tài, ba thanh trường kiếm dệt thành một cái lưới hào quang, nhưng chưa ra chiêu tấn công đối phương. Mãi đến khi ba đạo sĩ chạy được bảy tám bước rồi, Trương Vô Kỵ mới nhìn ra đạo lý bên trong, nghĩ thầm: ?Ba tên đạo sĩ này thực là giảo hoạt, mồm thì nói là Tam Tài kiếm trận, kỳ thực ngầm sử dụng chính phản ngũ hành. Nếu như kẻ địch tưởng thật, cứ theo phương vị thiên địa nhân của tam tài mà phá giải thì sẽ bị rơi vào trận ngũ hành, khó mà thoát chết.
Ba người này bày Ngũ Hành kiếm trận, mỗi người đảm trách sinh khắc biến hóa một hoặc hơn một hành, kết hợp cả khinh công lẫm kiếm pháp, quả thực uy lực không phải tầm thường.
Còn vợ chồng họ Đỗ hai người dựa lưng vào nhau, bốn cánh tay lấp loáng, mười hai thanh đoản đao đổi qua đổi lại múa may, hai người không phải chỉ tay nọ đổi cho tay kia, mà đao của Đỗ Bách Đương cũng đổi qua tay của Dịch Tam Nương, đao của Dịch Tam Nương cũng đổi qua tay của Đỗ Bách Đương nhưng không thanh đao nào tuột tay ra ngoài, như hư như thực chạy qua chạy lại.
Triệu Mẫn nhìn xem thấy lạ lùng, hỏi nhỏ:
- Bọn họ đang làm trò gì thế?
Trương Vô Kỵ nhíu mày không trả lời, xem thêm một hồi nữa bỗng nói:
- À, anh nghĩ ra rồi, bọn họ sợ môn Sư Tử Hống của nghĩa phụ anh.
Triệu Mẫn hỏi lại:
- Sư Tử Hống là cái gì?
Trương Vô Kỵ gật gù liên tiếp, bỗng cười nhạt nói:
- Hừ, tài nghệ chỉ có thế này, vậy mà cũng đòi đồ sư phục hổ ư?
Triệu Mẫn không hiểu chàng định nói gì, gặng hỏi thêm:
- Chàng nói cái gì mà như câu đố thế? Cứ lẩm bẩm một mình khiến em nghe chẳng hiểu mô tê gì cả?
Trương Vô Kỵ hạ giọng nói thầm:
- Cả năm người này đều là kẻ thù của nghĩa phụ anh. Ông già kia sợ thần công Sư Tử Hống nên tự mình đâm cho điếc tai ...
Chỉ thấy leng keng leng keng ròn như tiếng liên châu, năm người đã ra tay đấu với nhau. Thanh Hải tam kiếm liên tiếp tấn công năm thức nhưng đều bị vợ chồng họ Đỗ gạt ra cả. Mười hai thanh đoản đao trong tay họ đổi qua đổi lại, dưới ánh trăng tạo thành ba vòng hào quang, quấn chung quanh người, thủ hộ cực kỳ nghiêm mật. Thanh Hải tam kiếm tấn công lâu không ăn thua gì liền đổi qua thủ ngự, Đỗ Bách Đương thấy thế liền tiến lên, đoản đao đâm luôn vào bụng dưới gã đạo sĩ nhỏ bé Thiệu Hạc.
Trong võ học có nguyên tắc là ?Dài một tấc, mạnh một tấc, ngắn một tấc, hiểm một tấc?. Đoản đao dài bất quá năm tấc thành ra nguy hiểm vô cùng, y soẹt soẹt soẹt đâm luôn ba nhát, toàn là đòn sát thủ tấn công, không phòng bị thân mình chút nào. Trường kiếm của Mã Pháp Thông và Thiệu Hạc liền đâm ra nhưng đều bị Dịch Tam Nương dùng đoản đao gạt ra được, mới hay hai vợ chồng ông ta luyện đao pháp này, một công một thủ, phối hợp rất chặt chẽ cẩn mật, người tấn công cứ việc tấn công, người phòng thủ cứ việc phòng thủ, không phải đảm trách cả hai bề. Thiệu Hạc bị đâm luôn ba lần, chân tay luống cuống, phải lùi liên tiếp. Đỗ Bách Đương vẫn tiếp tục tấn công vào người y, mũi đao nào cũng nhắm toàn chỗ yếu hại, càng lúc càng thêm nguy hiểm.
Thiệu Hạc hú lên một tiếng dài, kiếm chiêu liền biến đổi, cùng với kiếm của Mã Pháp Thông hai bên tấn công vào, kết với nhau thành một cái lưới, chặn Đỗ Bách Đương ở ngoài xa ba thước. Ba thanh kiếm phòng bị chặt chẽ, tưởng chừng có tạt nước cũng không vào nổi.
Trương Vô Kỵ lại cười khẩy một tiếng, ghé tai Triệu Mẫn nói nhỏ:
- Cả đao pháp lẫn kiếm pháp này đều tập luyện chỉ để đối phó với nghĩa phụ anh đó. Em coi họ đều thủ nhiều công ít, thủ mạnh hơn công thì có đánh nhau đến một ngày một đêm cũng chẳng ai thắng được ai.
Quả nhiên Đỗ Bách Đương công mấy lần không vào được, lại từ bỏ để quay về thủ ngự. Triệu Mẫn nói:
- Kim Mao Sư Vương võ công trác tuyệt, năm gã này chỉ thủ thì làm sao mà thắng cho được?
Năm người đao qua kiếm lại, biến đổi bảy tám loại chiêu số nhưng vẫn không mèo nào cắn mỉu nào. Mã Pháp Thông đột nhiên quát lớn:
- Ngừng tay!
Y nhún chân nhảy ra khỏi vòng, Đỗ Bách Đương cũng nhảy lùi về sau, chòm râu bạc phất phới, xem ra có uy thế lắm. Mã Pháp Thông nói:
- Pho đao pháp này của hiền kháng lệ, có phải tập luyện cốt để giết sư tử đấy chăng?
Dịch Tam Nương hừ một tiếng nói:
- Nhãn quang nhà ngươi quả là lợi hại.
Mã Pháp Thông nói:
- Hiền kháng lệ với Tạ Tốn có mối thù giết con, đại cừu đó không thể nào không báo. Thế sao đã thám thính được kẻ đối đầu nay đang ở trong chùa Thiếu Lâm, cớ sao không cứu y ra để thanh toán?
Dịch Tam Nương liếc y dò hỏi rồi nói:
- Đó là chuyện riêng của vợ chồng ta, đâu dám để đạo trưởng phải nhọc lòng nghĩ ngợi.
Mã Pháp Thông nói:
- Chuyện qua lại giữa Ngọc Chân Quan và hiền phu phụ, đúng như Dịch Tam Nương mới nói, chẳng qua chỉ là chuyện nhỏ không đáng gì, lẽ nào phải thí mạng với nhau? Chúng mình chi bằng đổi thù thành bạn, sát vai nhau cùng đi kiếm Tạ Tốn có hơn chăng?
Dịch Tam Nương nói:
- Ngọc Chân Quan có dây dưa gì với Tạ Tốn thế?
Mã Pháp Thông nói:
- Dây dưa thì chẳng dây dưa gì cả, hà hà!
Dịch Tam Nương hỏi:
- Nếu như không có thù oán gì với Tạ Tốn, sao lại khổ tâm ra sức luyện môn kiếm pháp đó làm chi? Chúng ta hai bên chiêu số vốn cùng một gốc, đều chỉ dùng để khắc chế Thất Thương Quyền mà thôi.
Mã Pháp Thông đáp:
- Nhãn lực của Dịch Tam Nương thật ghê gớm. Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, Ngọc Chân Quan chỉ muốn mượn thanh đao Đồ Long xem chơi một chút thôi.
Dịch Tam Nương gật đầu, đưa ngón tay viết lên lòng bàn tay Đỗ Bách Đương mấy chữ. Đỗ Bách Đương cũng đưa tay viết lại mấy chữ lên tay bà ta. Hai vợ chồng dùng tay thay lưỡi, đàm thoại một hồi. Dịch Tam Nương nói:
- Vợ chồng tôi chỉ mong báo thù, dẫu có phải bỏ mạng cũng cam lòng, thanh đao Đồ Long không có ý tơ hào.
Mã Pháp Thông mừng nói:
- Thế thì hay lắm. Năm người chúng ta liên thủ tiến vào chùa Thiếu Lâm, hiền phu phụ giết người báo cừu, còn Ngọc Chân Quan lấy thanh đao. Tề tâm hiệp lực thì đại công dễ thành, hai bên bên nào cũng toại ý, không tổn thương hòa khí.
Sau đó năm người đập tay ước định, cùng cất tiếng thề nguyền. Vợ chồng họ Đỗ mời ba đạo sĩ vào nhà để bàn thảo kế sách báo thù đoạt đao. Thanh Hải tam kiếm tiến vào ngồi xuống rồi, thấy phòng bên trong đóng chặt cửa, không thể không đòi vào xem cho kỹ. Dịch Tam Nương cười nói:
- Ba vị không có gì phải nghi ngại, đây là một đôi vợ chồng son từ Đại Đô xuống, trốn nhà ra đi, đứa con gái đẹp như ngọc nữ, còn đứa con trai thì hình dáng thô lỗ, cả hai không ai biết tí võ công nào.
Mã Pháp Thông nói:
- Tam nương đừng trách, chẳng phải chúng tôi không tin ở hai ông bà, có điều chúng ta tính toán một chuyệt thật là trọng đại, có điều xung khắc với hào kiệt võ lâm, nếu như để tin tức lộ ra, e rằng ...
Dịch Tam Nương cười nói:
- Bọn mình đánh nhau cả nửa ngày trời mà hai đứa chúng nó vẫn ngủ như khúc gỗ. Thế nhưng Mã đạo trưởng muốn cẩn thận cho chắc, muốn chính mắt xem lại cũng không sao.
Nói xong tiến lại đẩy cửa nhưng cửa đó có cài then bên trong. Trương Vô Kỵ muốn từ năm ngưới này dò la mối manh để cứu Tạ Tốn nên lúc này không muốn ra tay, lập tức lật đật tháo giày, lấy chăn đắp lên người giả vờ ôm Triệu Mẫn ngủ trên giường. Chỉ nghe cạch một tiếng nhỏ, then cửa đã bị Thiệu Hạc sử kình chấn gãy. Dịch Tam Nương tay cầm chân nến, tiến vào phòng, Thanh Hải tam kiếm liền bước theo sau.
Trương Vô Kỵ thấy có ánh lửa, mắt nhắm mắt mở choàng dậy ngơ ngác nhìn Dịch Tam Nương ra chiều hoảng hốt. Mã Pháp Thông giơ kiếm lên đâm ngay vào yết hầu chàng, ra chiêu vừa nhanh vừa hiểm độc. Trương Vô Kỵ ?A? lên một tiếng kinh hoàng, thân trên nhào về trước, hóa ra đưa cổ vào mũi kiếm. Mã Pháp Thông rụt tay thu kiếm về, nghĩ thầm người này quả không biết chút võ công nào hết, nếu như người biết võ dù mật lớn đến đâu cũng không ai không tránh thế kiếm đó.
Triệu Mẫn ậm ự mấy tiếng, chưa tỉnh giấc hẳn, đôi má hồng hồng, ánh nến chiếu vào xinh đẹp quả khiến xiêu lòng người. Thiệu Hạc nói:
- Dịch Tam Nương nói không sai, thôi mình đi ra.
Năm người liền khép cửa lại đi ra phòng ngoài. Trương Vô Kỵ liền nhảy xuống, xỏ giày vào. Chỉ nghe Mã Pháp Thông nói:
- Không biết hiền kháng lệ biết có chính xác là Tạ Tốn đúng là đang ở trong chùa Thiếu Lâm chăng?
Dịch Tam Nương đáp:
- Cái đó thì chắc chắn là đúng. Chùa Thiếu Lâm đã gửi anh hùng thiếp đi, đến tết Doan Dương này sẽ mở đại hội Đồ Sư, nếu như họ chưa bắt được Tạ Tốn thì còn mặt mũi nào với anh hùng thiên hạ?
Mã Pháp Thông ?Ừ? một tiếng nói:
- Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm chết về tay Tạ Tốn, đệ tử Thiếu Lâm dù tăng dù tục, không thể không báo thù. Hiền kháng lệ chỉ cần đợi đến tết Đoan Dương vào trong chùa, giương mắt lên xem kẻ thù giơ cổ chịu chém, chẳng tốn chút hơi sức nào cũng đã trả được mối huyết thù đó rồi. Đỗ lão tiên sinh việc gì phải hủy đôi tai, lại cam đắc tội với chùa Thiếu Lâm để làm gì?
Dịch Tam Nương cười khẩy đáp:
- Chuyết phu chọc thủng hai tai là từ năm năm trước rồi. Hơn nữa, đứa con duy nhất của vợ chồng tôi có tội tình gì đâu mà bị ác tặc Tạ Tốn giết hại, hai người chúng ta đối với y thù sâu như biển, báo phục mối thù to như thế đâu lẽ nào lại phải mượn tay người khác hay sao? Một khi bọn ta mà gặp được tên ác tặc Tạ Tốn rồi, việc đầu tiên của lão bà này là chọc thủng hai tai mình. Vợ chồng ta chỉ mong được cùng y đồng qui ư tận, ha ha, từ khi đứa con ta chết đi rồi, hai người chúng tôi đâu còn ham gì sống nữa. Đắc tội với Thiếu Lâm cũng thế, đắc tội với Võ Đương cũng vậy, dẫu có băm vằm trăm nghìn vết đao thì cũng đâu có gì đáng nói đâu?
Trương Vô Kỵ ở phòng trong nghe bà ta nói thấy giọng đầy căm thù khiến người ta phải kinh hồn táng đảm, nghĩ thầm: ?Năm xưa nghĩa phụ bị Thành Côn làm hại, bao nhiêu oán hờn trút lên những người vô tội. Hai vợ chồng họ Đỗ này xem ra không phải là người xấu, chỉ vì lòng thương đứa con yêu chết thảm, cho nên rắp tâm giết nghĩa phụ để báo cừu. Mối thù này nếu bảo cố gắng hòa giải thì thật không thể nào được. Ta chỉ còn cách cứu nghĩa phụ ra trốn đi một nơi thật xa để khỏi phải tăng thêm tội nghiệt?.
Lúc này bỗng thấy năm người ở phòng bên không có một chút tiếng động nào, chàng nhìn qua khe vách, thấy vợ chồng họ Đỗ và bọn Mã Pháp Thông ba người chấm tay vào nước trà, viết chữ lên trên bàn, nghĩ thầm: ?Năm người này quả thực cẩn thận, tuy đã tin rằng ta và Mẫn muội không phải người trong giới giang hồ nhưng vẫn sợ tiết lộ cơ mật. Than ôi! Nghĩa phụ ta kẻ thù trên giang hồ thật vô kể, kẻ dòm dỏ thanh đao Đồ Long cũng thật là nhiều, từ nay cho đến tiết Đoan Dương không biết bao nhiêu người muốn ra tay trước. Mấy người này không những khổ tâm tính toán mà tài nghệ cũng cao cường, ra tay ác độc, chùa Thiếu Lâm chỉ cần sơ sẩy một chút là nghĩa phụ ta đã lâm vào đại họa ngay, mình phải tìm cách cứu ông ra mới được?.
Năm người kia vẫn dùng tay viết chữ, bàn thảo một cách kín đáo không ngừng. Trương Vô Kỵ bèn quay trở vào tấm phản nằm ngủ không thèm để ý đến bọn họ nữa.
Sáng hôm sau khi trở dậy thì Thanh Hải tam kiếm không còn ở đây, Trương Vô Kỵ nói với Dịch Tam Nương:
- Bà bà, tối hôm qua ba vị đạo gia tay cầm dao sáng quắc, ở đâu đến vậy? Mới đầu chúng cháu tưởng họ đến tróc nã mình, sợ quá mất thôi, sau mới biết là không phải.
Dịch Tam Nương thấy chàng nhìn trường kiếm thành ra con dao, trong bụng cười thầm, thản nhiên nói:
- Bọn họ lạc đường, chỉ uống xong chén trà là đi mất. Tăng tiểu ca, ăn cơm trưa xong, vợ chồng ta muốn đem ba gánh củi lên chùa bán, cậu gánh giúp chúng tôi một gánh được không? Nếu các hòa thượng hỏi đến tôi sẽ bảo cậu là con tôi. Không phải là tôi muốn lợi dụng cậu đâu nhưng để cho những nhà sư trong chùa khỏi nghi. Vợ cậu xinh đẹp như thế, chớ có nên đi theo ra ngoài.
Tuy bà ta bàn với Trương Vô Kỵ như thế nhưng thật chẳng khác gì ra lệnh nào có để cho chàng từ chối. Trương Vô Kỵ nghe xong hiểu ngay ý tứ: ?Bà ta lại tưởng mình là một anh nhà quê thực, nên bảo mình đi theo vào chùa Thiếu Lâm xem xét động tĩnh, thực là hay quá?. Chàng liền nói:
- Bà bà bảo sao thì tiểu tử làm vậy, miễn sao bà cho hai đứa cháu ở nhờ. Chúng cháu chạy đôn chạy đáo, lúc nào cũng nơm nớp chẳng ngày nào được bình yên.
Đến xế trưa, Trương Vô Kỵ đi theo vợ chồng họ Đỗ, mỗi người gánh một gánh củi, đi về hướng chùa Thiếu Lâm. Chàng đầu đội nón mê, lưng cài búa ngắn, hai chân xỏ dép gai, trong ba người thì gánh củi của chàng to nhất. Triệu Mẫn đứng ở thềm nhà, mỉm cười đưa mắt tiễn chàng đến tận xa.
Vợ chồng họ Đỗ cố đi thật chậm, thở hồng hộc, đến sơn đình ngoài chùa Thiếu Lâm, liền bỏ quang gánh xuống ngồi nghỉ. Trong sơn đình có hai nhà sư đang ngồi tán gẫu, thấy ba người cũng chẳng thèm để ý.
Dịch Tam Nương lấy chiếc khăn thô quấn trên đầu xuống lau mồ hôi, lại đưa qua lau mồ hôi cho Trương Vô Kỵ hỏi:
- Có mệt lắm không con?
Trương Vô Kỵ lúc đầu không thích bà ta, nay nghe lời nói đầy vẻ thân tình, không phải giả vờ nên đưa mắt nhìn thấy bà lão nước mắt long lanh, biết bà ta nhớ đến đứa con bị Tạ Tốn sát hại, lại thấy bà ta nhìn mình đầy vẻ trìu mến, dường như muốn mình lên tiếng trả lời, trong lòng không khỏi bất nhẫn, liền đáp:
- Thưa mẹ, con không mệt, còn mẹ có mệt không?
Chàng lên tiếng gọi mẹ, nghĩ đến mẹ ruột mình, không khỏi thương cảm. Dịch Tam Nương thấy chàng gọi mình là mẹ, nước mắt rơi lã chã, liền giả vờ lấy khăn lau mồ hôi nhưng thực ra là để chùi nước mắt.
Đỗ Bách Đương đứng lên, cất gánh củi lên vai, tay trái vẫy một cái liền đi ra khỏi sơn đình. Tuy ông ta không nghe thấy hai người nói gì, nhưng cũng biết bà vợ già nhân cảnh mà động lòng, nhớ đến con, sợ không chừng lộ chuyện, để cho hai nhà sư kia nhìn ra chân tướng.
Trương Vô Kỵ chạy lại lấy hai bó củi trong gánh của Dịch Tam Nương bỏ lên gánh của mình nói:
- Thôi mình đi mẹ ạ!
Dịch Tam Nương thấy chàng có ý tứ thế nghĩ thầm: ?Nếu con ta có còn sống đến nay thì đã lớn tuổi hơn thanh niên này nhiều, chắc mình cũng đã có mấy đứa cháu nội rồi?. Bà ta tần ngần không muốn bước đi, thấy Trương Vô Kỵ gánh củi chạy ra khỏi sơn đình mới đuổi theo, trong lòng khích động khiến chân bước cũng loạng choạng. Trương Vô Kỵ liền quay lại giơ tay ra đỡ, nghĩ thầm: ?Nếu như mẹ ta ngày nay còn sống mà ta được đưa tay đỡ mẹ thế này ...?
Một nhà sư thấy thế nói:
- Chàng thanh niên này thật là hiếu thuận, quả trên đời hiếm có.
Nhà sư kia nói tiếp:
- Bà lão ơi, gánh củi có phải bà định gánh lên chùa bán đấy chăng? Mấy hôm nay phương trượng hạ pháp chỉ, không cho người ngoài vào trong chùa, thôi bà đừng lên nữa.
Dịch Tam Nương thất vọng, nghĩ thầm: ?Chùa Thiếu Lâm quả nhiên phòng bị thật nghiêm mật, muốn lẻn vào không phải dễ dàng?. Đỗ Bách Đương đã chạy được mấy trượng rồi thấy hai người không đi theo liền ngừng lại đứng đợi.
Một nhà sư nói:
- Gia đình nhà quê này mẹ hiền con thảo, thôi mình cứ đễ dãi cho họ một tí. Sư đệ, chú đưa họ vào cửa sau đến hương tích trù, nếu như giám thủ biết thì cứ nói là những người này vẫn thường đến bán củi, chắc không đến nỗi nào.
Nhà sư kia đáp lời:
- Vâng! Giám thủ không cho người ngoài vào chùa, là để đề phòng những kẻ vô công rồi nghề. Còn những người này là nhà quê trung hậu thật thà, có gì đâu mà phải cấm đoán họ làm ăn?
Nói xong y liền dẫn đường cho vợ chồng họ Đỗ và Trương Vô Kỵ, đi vòng ra sau núi vào chùa, đem ba gánh củi xếp vào trong kho, sau đó nhà sư trông coi hương tích trù tính toán tiền nong ra trả. Dịch Tam Nương nói:
- Chúng tôi có cải bẹ trắng thật ngon, ngày mai sai A Ngưu đem đến vài cân để cho các sư phó nếm thử, chỗ này không tính tiền.
Nhà sư đưa họ đến bèn cười:
- Từ mai trở đi, các người không được đến nữa. Giám thủ mà biết được, trách phạt chúng tôi thì chết.
Nhà sư coi sóc hương tích trù nhìn Trương Vô Kỵ đánh giá, bỗng nói:
- Vào độ trước sau tiết Đoan Dương, nhà chùa có khoảng hơn ngàn vị khách, gánh nước bổ củi xem chừng không xuể. Huynh đệ này tướng tá khỏe mạnh, lại đây giúp việc vài tháng, mỗi tháng trả cho năm tiền có chịu không?
Dịch Tam Nương mừng lắm, vội nói:
- Thế thì tốt quá rồi, A Ngưu ở nhà cũng không có việc gì quan trọng, đến chùa đây cho các sư phó sai phái các chuyện vặt, lại có thêm mấy lượng bạc để dành thì còn gì bằng.
Trương Vô Kỵ nghĩ ra không ổn: ?Chùa Thiếu Lâm có nhiều người biết mặt ta, lỡ bất ngờ đến trù phòng thì hỏng cả, ở trong chùa hai ba tháng thể nào cũng có người nhận ra?. Chàng bèn nói:
- Mẹ ơi, còn nhà con ...
Dịch Tam Nương nghĩ đây đúng là chuyện nghìn năm một thuở, chỉ có thể may mà gặp chứ không thể cầu mà tới vội vàng nói:
- Thì vợ con cứ ở nhà, hay mày sợ mẹ mày hành hạ nó? Con cứ ở đây, nghe lời sai bảo của các sư phó, không được lười biếng, cứ vài ngày mẹ sẽ lại cùng với vợ con đến thăm một lần. Con nhà lớn đầu như thế mà xa mẹ một buổi cũng không xong, hay mày còn mong mẹ mày cho bú, xi đái mới chịu hay sao?
Bà ta vừa nói vừa giơ tay vò đầu Trương Vô Kỵ, hai mắt đầy vẻ thiết tha lưu luyến. Nhà sư trông coi nhà bếp lâu nay lo lắng, nghĩ đến chuyện trước sau đại hội Đoan Dương, thiên hạ anh hùng tụ hội, chuyện cơm ăn nước uống không phải dễ dàng. Giám thủ tuy cũng đã tăng viện thêm nhiều người đến giúp việc nhưng những hòa thượng đó nếu không chăm chỉ tham thiền thanh tu thì cũng nghiên cứu võ nghệ, những chuyện tạp nhạp nhà bếp có ai chịu làm.
Những người bị giám thủ sai đến chẳng qua chuyện chẳng đặng đừng, thành ra xuống đến hương tích trù ai cũng ra vẻ ta đây, đứng coi thì nhiều, thò tay vào làm thì ít, lúc này thì cũng chẳng sao nhưng khi khách khứa kéo đến thể nào cũng rắc rối to. Nay vừa thấy Trương Vô Kỵ có vẻ chất phác chăm chỉ, nhà sư trông coi nhà bếp liền có ý muốn giữ chàng lại nên vội vàng lên tiếng khuyên lơn. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Ban ngày mì chỉ quanh quẩn trong bếp, chắc chẳng gặp cao thủ trong chùa đâu, đến đêm mình sẽ tìm cách thám thính xem nghĩa phụ ở chỗ nào, xem ra cũng tiện?. Thế nhưng chàng vẫn cố ý ra vẻ trù trừ, đợi cho đến khi nhà sư dẫn chàng vào chùa đứng bên cạnh cũng lên tiếng nói đốc vào, chàng mới miễn cưỡng nhận lời, nói:
- Sư phụ, tốt hơn hết là mỗi tháng sư phụ trả cho tôi sáu tiền, năm tiền tôi đưa cho mẹ tôi, còn một tiền tôi cho vợ tôi mua vải hoa ...
Nhà sư trông coi nhà bếp nghe thế liền cười ha hả nói:
- Được rồi, thế là hai bên ba mặt một lời, mỗi tháng sáu tiền cũng được.
Dịch Tam Nương lại dặn dò mấy câu rồi mới cùng Đỗ Bách Đương chậm rãi đi xuống núi. Trương Vô Kỵ đuổi theo gọi vói theo:
- Mẹ ơi, mẹ chăm sóc vợ con nhé!
Dịch Tam Nương đáp:
- Mẹ biết rồi, con cứ yên tâm.
Trương Vô Kỵ ở trong nhà bếp bổ củi xúc tro, nhóm lửa xách nước, toàn những việc không lấy gì làm thích thú. Khi xúc tro chàng cố ý để cho mặt mày lem luốc, đầu tóc bù xù, nhìn vào trong chum nước thấy bóng mình thật không ai còn có thể nhận ra. Đến đêm chàng cùng các hỏa công khác ngủ tại một phòng nhỏ ngay trong hương tích trù. Chàng biết chùa Thiếu Lâm là nơi ngọa hổ tàng long, rất có thể ngay trong đám đầu bếp cũng có người thân mang tuyệt kỹ thành thử việc gì cũng hết sức cẩn thận, cả đến nói chuyện cũng chẳng dám rỉ răng quá một lời.
Cứ như thế được bảy tám ngày, Dịch Tam Nương đưa Triệu Mẫn đến thăm chàng hai lần. Chàng chăm chỉ, từ sáng đến tối, việc gì xốc vác mấy cũng làm thành ra nhà sư trông coi hương tích trù hết sức hài lòng, đối với các đầu bếp khác cũng thật là hòa mục. Chàng không dám dò hỏi, chỉ lắng tai nghe những người khác nói chuyện may ra biết được chút tin tức nào chăng, trong bụng nghĩ thầm thể nào chẳng có người đưa cơm cho nghĩa phụ, nếu như gặp được người đó thì có thể hỏi được nơi giam giữ Tạ Tốn. Thế nhưng chàng cố gắng chờ đợi bao nhiêu ngày nhưng vẫn chẳng nghe được manh mối gì cả.
Đến chiều tối ngày thứ chín, chàng ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe từ xa khoảng nửa dặm văng vẳng vọng tới tiếng người hò hét, bèn len lén trở dậy, bốn bề không ai hay biết liền thi triển khinh công, theo âm thanh mà lần tới, thấy tiếng từ khu rừng phía bên trái chùa nên tung mình nhảy lên một cây to, xem xét kỹ sau cây không có ai mai phục mới từ đó nhảy qua cây khác, dần dần tiến tới.
Khi đó trong rừng tiếng binh khí chạm nhau, dường như có mấy người đánh nhau ở một chỗ. Chàng náu mình sau tàn cây chỉ thấy đao quang tung hoành, kiếm ảnh thấp thoáng, tất cả sáu người chia thành hai bên đang đánh nhau. Ba người sử dụng kiếm chính là Thanh Hải tam kiếm, sắp xếp Chính Phản Ngũ Hành giả làm Tam Tài Trận, thủ thế thật là nghiêm mật. Phe tấn công là ba nhà sư, tất cả đều sử dụng giới đao, xông thẳng vào phá trận. Hai bên đánh được hai ba chục chiêu, nghe soẹt một tiếng, một người trong Thanh Hải tam kiếm bị trúng đao ngã lăn ra. Giả Tam Tài Trận bị vỡ một mặt, hai người kia không còn cách gì chống đỡ, chỉ thêm vài chiêu, một người khác "Ối" lên một tiếng thảm thiết, bị chém chết ngay, nghe giọng thì là gã lùn mập Mã Pháp Thông. Người còn lại tay phải cũng bị thương nhưng vẫn nhất quyết tử chiến. Một nhà sư quát khẽ:
- Ngừng tay!
Ba thanh giới đao vây y lại nhưng không tiếp tục tấn công. Một giọng già nua gay gắt hỏi:
- Các ngươi Thanh Hải Ngọc Chân Quan và chùa Thiếu Lâm chúng ta không thù không oán, sao nửa đêm đến đây xâm phạm là sao?
Người còn lại trong ba người của phái Thanh Hải là Thiệu Hạc, buồn bã nói:
- Ba sư huynh đệ bọn ta đã thua rồi, chỉ oán mình học nghệ chưa tinh, còn hỏi han làm gì?
Người giọng già nua kia cười khẩy:
- Các ngươi vì Tạ Tốn mà đến đây, chắc muốn lấy thanh đao Đồ Long chứ gì? Ha ha, ta chưa từng nghe Tạ Tốn giết ai trong Ngọc Chân Quan, thì hẳn là vì bảo đao mà đến. Với tài nghệ như trẻ con thế mà cũng xông vào chùa Thiếu Lâm ư? Phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm đã hơn nghìn năm nay, không ngờ lại bị người ta coi thường đến thế.
Thiệu Hạc lợi dụng khi y đang cao hứng liền đâm vụt ra một kiếm. Nhà sư kia vội vàng tránh qua nhưng vẫn chậm mất một chút, kiếm đâm ngay vào vai bên trái. Hai tăng nhân ở hai bên liền vung đao chém xuống, Thiệu Hạc liền lập tức đầu một nơi mình một nẻo.
Ba nhà sư không nói nửa lời, nhặt mấy cái xác lên, vội vàng đi về phía chùa. Trương Vô Kỵ toan đuổi theo xem ra thế nào, bỗng nghe trong đám cỏ cao ở phía bên phải đằng trước có tiếng thở nhè nhẹ, nghĩ thầm: ?Nguy hiểm thực, hóa ra có người ẩn núp nơi đây?. Chàng liền nằm yên không động đậy, qua khoảng nửa giờ sau, mới nghe trong bụi cỏ có hai tiếng vỗ tay, đằng xa cũng có người vỗ tay đáp lại, trước sau trên dưới có sáu nhà sư trồi lên, kẻ cầm thiền trượng, người mang đao kiếm, chia ra thành hình nan quạt quay trở về chùa.
Trương Vô Kỵ đợi cho sáu tăng nhân đó đi xa rồi mới quay về nhà bếp, những người ngủ chung vẫn đang ngon giấc chưa ai thức dậy. Chàng trong bụng than thầm: ?Nếu như không phải chính mắt ta trông thấy thì có ai ngờ đâu chỉ trong giây lát, ba hảo hán kia đã bị giết chết không kịp trối trăn?. Từ đó trở đi, chàng biết rằng chùa Thiếu Lâm phòng bị rất là nghiêm nhặt không phải bình thường nên lại càng cẩn thận hơn nữa.
Lại thêm vài ngày nữa đã đến trung tuần tháng tư, thời tiết ấm dần, mỗi ngày lại gần tiết Đoan Dương thêm một chút. Chàng tự nhủ: ?Ta ở trong hương tích trù làm những việc cực nhọc này, vậy mà cũng không sao dò hỏi được nghĩa phụ đang ở nơi đâu, tối nay phải mạo hiểm đi các nơi tra xét mới được?.
Đêm hôm đó chàng ngủ đến canh ba liền len lén trở dậy, tung mình nhảy lên mái nhà, nấp sau nóc chùa, đợi tới khi vừa yên ổn đã thấy hai bóng người nhẹ nhàng lướt từ phía nam chạy về hướng bắc, tăng bào phần phật, giới đao sáng loáng chính là những nhà sư trong chùa đi tuần ngang qua.
Đợi cho hai nhà sư đó qua khỏi rồi, chàng tiến lên vài trượng lại nghe trên mái ngói có tiếng chân người, hai tăng nhân khác nhảy qua, người này vừa qua thì người khác tới, đan chéo vào nhau tuần tra thật là sít sao, e rằng đến hoàng cung nội điện cũng chưa bằng được.
Chàng thấy tình hình như thế, liệu rằng nếu tiếp tục tiến lên thể nào cũng bị phát giác, đành phải bỏ cuộc quay về.
Lại thêm ba ngày nữa, tối hôm đó sấm chớp ầm ầm, trời đổ một trận mưa rào. Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm: ?Thật là trời gúp ta?. Mưa mỗi lúc một to, bốn bề tối đen như mực, chàng liền lẻn ra chạy về phía tiền điện, trong bụng nghĩ: ?La Hán Đường, Đạt Ma Đường, Bát Nhã Viện, Phương Trượng tinh xá bốn nơi là yếu địa của chùa Thiếu Lâm, mình phải đến đó thám thính mới được?. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm phòng ốc san sát, thật không sao biết được đâu là La Hán Đường, đâu là Bát Nhã Viện. Chàng lấp ló từ từ tiến lên, đến một khu rừng tre, thấy đằng trước có một căn nhà nhỏ, song cửa chiếu ra ánh đèn. Khi đó người Trương Vô Kỵ đã ướt đẫm, những hạt mưa to bằng hạt đậu rơi đập lên người lên mặt, từng giọt từng giọt văng trở lại. Chàng rón rén đến gần căn nhà kia, nghe thấy trong nhà có người nói chuyện, chính là tiếng của Không Văn đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm.
Ông ta nói:
- Vì cái gã Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn kia mà trong tháng vừa qua phái Thiếu Lâm đã giết chết hai mươi ba người, tạo nhiều sát nghiệp, thực trái với đức từ bi của nhà Phật. Quang Minh tả sứ của Minh Giáo là Dương Tiêu, hữu sứ là Phạm Dao, Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, trước sau đều sai người đến chùa Thiếu Lâm xin chúng ta thả Tạ Tốn ra ...
Trương Vô Kỵ nghe nói thế, trong dạ vui mừng: ?Thì ra ông ngoại ta cùng bọn Dương tả sứ cũng đã hay được tin tức và cũng đã cử người đến rồi?. Lại nghe Không Văn nói tiếp:
- Bản tự tuy đã thoái thác nhưng Minh Giáo lẽ nào lại chịu bỏ qua? Trương giáo chủ võ công xuất thần nhập hóa, tới nay vẫn chưa thấy ra mặt, e rẳng có tính toán âm mưu gì bên trong. Ta và Không Trí sư đệ được y ra tay cứu cho, còn nợ người ta một món ân tình, nếu như đích thân đến đây xin thì chúng ta biết ăn nói ra làm sao? Chuyện này quả thật là khó. Sư đệ, sư điệt, hai vị có cao kiến gì không?
Một giọng già nua lạnh lùng khẽ đằng hắng một tiếng, Trương Vô Kỵ nghe thấy giật bắn người, biết ngay đó là giọng của Thành Côn, kẻ cải danh Viên Chân. Người đó Trương Vô Kỵ chưa từng đối diện nói chuyện nhưng khi trước trên Quang Minh Đính nằm ở trong cái túi nghe y kể lại chuyện cũ, rồi lại nghe y quát tháo ở sau tảng đá nên khẩu âm nghe đã quen thuộc. Trong chớp mắt chàng chợt nhớ đến khi còn ở chung một chỗ với Tiểu Siêu, trong lòng cảm thấy bùi ngùi, vừa êm đềm, vừa chua xót.
Chàng nghe Viên Chân nói:
- Tạ Tốn có ba vị thái sư thúc canh gác, ắt không thể nào sơ sẩy điều gì được. Cái Anh Hùng đại hội kỳ này có quan hệ đến uy danh, hưng suy vinh nhục của phái Thiếu Lâm chúng ta trong hàng nghìn, hàng trăm năm nay, cái ơn nhỏ của ma giáo kia, phương trượng sư thúc chẳng cần phải khắc khoải làm chi. Huống chi việc xảy ra tại chùa Vạn An chính là do ma giáo ngầm cấu kết với triều đình để gây khó khăn cho sáu đại môn phái, chẳng lẽ phương trượng sư thúc lại không hay biết gì sao?
Không Văn ngạc nhiên hỏi:
- Minh Giáo cấu kết với triều đình là thế nào?
Viên Chân nói:
- Trương giáo chủ của Minh Giáo vốn dĩ kết thân với Chu cô nương chưởng môn phái Nga Mi, ngay ngày làm lễ cưới, quận chúa nương nương của Nhữ Dương Vương bỗng dưng dắt tay tên tiểu tử họ Trương hai người bỏ trốn, chuyện này dấy động giang hồ, phương trượng sư thúc chắc cũng đã nghe tới rồi.
Không Văn đáp:
- Quả đúng thế, ta có nghe chuyện đó rồi.
Viên Chân nói:
- Trong đám thủ hạ của quận chúa nương nương kia có một tên bộ thuộc đắc lực, tên gọi khổ đầu đà, hai vị sư thúc ở chùa Vạn An ắt hẳn cũng đã gặp qua y chứ?
Không Trí tại cao tháp chùa Vạn An bị Triệu Mẫn ép buộc phải biểu lộ võ công, đã từng bị khổ đầu đà hành hạ nhiều lần, nhưng khi đó nội lực mất hết không có cách gì kháng cự, lúc này cũng vẫn còn phẫn nộ chưa thôi liền nói:
- Hừ, chuyện này xong rồi, ta thể nào cũng trở lại Đại Đô gặp tên khổ đầu đà đó một lần mới thỏa dạ.
Viên Chân nói:
- Thế hai vị sư thúc có biết gã khổ đầu đà đó là ai không?
Không Trí nói:
- Gã khổ đầu đà đó kiến thức thật rộng rãi, dường như võ công các nhà các phái nào y cũng thông thạo, nhưng không sao có thể biết được môn phái của y.
Viên Chân nói:
- Khổ đầu đà chính là Phạm Dao, Quang Minh hữu sứ của ma giáo.[4]
Không Văn và Không Trí cùng hỏi dồn:
- Có thực thế không?
Giọng hai người thực vô cùng kinh ngạc. Viên Chân nói:
- Viên Chân lẽ nào dám nói láo hai vị sư thúc? Nếu Tết Đoan Dương này y dám đến bản tự, hai vị sư thúc gặp sẽ biết ngay.
Không Trí trầm ngâm rồi nói:
- Nếu quả là như thế, Trương Vô Kỵ và quận chúa kia quả có ngầm cấu kết với nhau, đưa cô ta ra bắt giữ các thủ lãnh của sáu đại môn phái rồi do Trương Vô Kỵ giả vờ cứu để lấy lòng.
Viên Chân nói:
- Chuyện đó mười phần thì đến tám chín là như thế.
Không Văn nói:
- Ta xem Trương giáo chủ trung hậu hiệp nghĩa, dường như không phải là hạng người làm vậy, mình không nên trách lầm người tốt.
Viên Chân nói:
- Phương trượng sư thúc minh giám, người đời có nói rằng: ?Biết người biết mặt chứ sao biết được lòng?. Gã Tạ Tốn kia là nghĩa phụ của Trương Vô Kỵ, lại là một trong tứ đại hộ giáo pháp vương của ma giáo, ma giáo thể nào cũng hết sức cứu y cho bằng được, đến kỳ đại hội Đồ Sư này mọi chuyện sẽ rõ ràng.
Sau đó ba người bàn tính sẽ tiếp đãi khách khứa thế nào, làm sao chống giữ kẻ địch đến cướp Tạ Tốn, rồi xem các môn phái có những ai là cao thủ. Viên Chân thì muốn khích cho các phái đánh lẫn nhau, đợi đến khi tất cả mọi bên đều bại cả, lúc đó phái Thiếu Lâm sẽ ra mặt thu lợi, trấn áp thu phục các môn phái, chưởng quản thanh đao Đồ Long một cách danh chính ngôn thuận rồi giết Tạ Tốn tế Không Kiến thần tăng.
Không Văn vẫn hết sức e dè, không muốn làm tổn thương thêm nhân mạng để đắc tội với đồng đạo võ lâm, lại dường như có phần không muốn làm mất lòng Minh Giáo.
Còn Không Trí thì nước đôi, nói:
- Nói đi nói lại, chuyện quan trọng hơn hết là làm sao ép cho Tạ Tốn nói ra thanh đao Đồ Long nay đang ở đâu, nếu không chuyến này đại hội Đồ Sư xôi hỏng bỏng không, ngược lại hóa ra làm tổn thương uy vọng của bản phái.
Không Văn nói:
- Sư đệ nói phải lắm. Chúng ta phải làm sao trong đại hội này dương đao lập uy, nói cho mọi người biết thanh đao Đồ Long võ lâm chí tôn kia đã thuộc về bản phái chưởng quản, khi đó bản phái hiệu lệnh thiên hạ thì còn ai là kẻ không tuân theo.
Không Trí nói:
- Hay lắm, cứ thế mà làm. Viên Chân, ngươi tìm cách nào nói chuyện với Tạ Tốn thêm một lần nữa, bảo y giao bảo đao ra, chúng ta sẽ tha mạng cho y.
Viên Chân đáp:
- Vâng! Cẩn tuân lời sai bảo của hai vị sư thúc.
Có tiếng chân người nhẹ nhàng, Viên Chân đã đi ra. Trương Vô Kỵ trong bụng mừng thầm, biết ba nhà sư Thiếu Lâm này võ công cực kỳ cao cường, chỉ cần hơi có tiếng động, lập tức sẽ bị phát giác ngay, nếu như cả ba cùng ra tay một lượt, một mình e rằng khó mà thủ thắng, giỏi lắm thì chỉ thoát thân được thôi, còn việc cứu nghĩa phụ thì quả là khó khăn vô cùng. Nghĩ thế chàng bèn nín thở bất động.
Chỉ thấy thân hình gầy cao của Viên Chân đi về hướng bắc, tay cầm một cái dù phất bằng giấy dầu, mưa nặng hột đập lên chiếc ô kêu lộp bộp. Trương Vô Kỵ đợi y đi ra khoảng chừng hơn chục trượng rồi lúc ấy mới nhẹ nhàng cất bước, đi theo sau.
[1]Sách tướng viết là người nào thịt đâm ngang, mặt bành bạnh là người hung ác (diện nhục hoành sinh tính tất hung)
[2] Chỉ sáu giác quan nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý
[3]tức Vân Nam
[4] Việc này sau khi cứu xong sáu đại môn phái tất cả chạy ra ngoài thành thì ai cũng biết rồi vì lúc đó Phạm Dao cũng đi theo cùng sao ở đây Không Văn, Không Trí lại chưa biết ?
Hồi 36 YÊU KIỀU TAM TÙNG UẤT THANH THƯƠNG
Bao giờ ma chướng lặng,
Tâm thanh tĩnh vô duyên.
Một niệm oan nghiệt trổi,
Vòng Kim Cương triền miên.
Dưới cơn mưa như trút, số người canh gác trên mái nhà và các nơi đều giảm đi nhiều. Trương Vô Kỵ men theo các góc tường, nhờ có các gốc cây che khuất thẳng đường đuổi theo. Chàng thấy Viên Chân nhảy ra khỏi tường vây quanh đằng sau chùa, nghĩ thầm: ?Thì ra nghĩa phụ bị nhốt ở bên ngoài, hèn gì trong chùa không thấy một chút hình tích nào hết?.
Chàng không dám công nhiên nhảy qua tường đuổi theo nên đành phải đứng ở chân tường từ từ trèo lên. Đến trên bờ tường đợi cho các tăng nhân tuần tra đi qua rồi lúc ấy mới dám nhảy xuống.
Trong cơn mưa chàng thấy chiếc dù của Viên Chân ở phía bắc, cách khoảng chừng một trăm trượng quay ngoặt qua bên trái, rồi đi thẳng lên đỉnh một ngọn núi nhỏ. Viên Chân lúc này tuổi tác cũng phải bảy mươi vậy mà thân thủ vẫn nhanh nhẹn dị thường, chiếc dù không rung động một chút nào, chẳng khác gì có người buộc dây kéo y tà tà bay lên.
Trương Vô Kỵ vội vàng đi tới chân núi, đang định trèo lên, bỗng thấy bên cạnh sơn đạo ánh sáng lấp loáng, có người cầm binh khí mai phục nơi đó. Chàng vội vàng dừng bước, chỉ trong giây lát thấy trong đám cây nhảy ra bốn người, ba người đi trước, một người đi sau, cùng chạy lên trên đỉnh núi. Nhìn lên trên chỉ thấy trên tột cùng có vài cây tùng xanh rì, chẳng thấy nhà cửa gì cả, không hiểu Tạ Tốn bị nhốt ở nơi nào nên chàng cũng theo lên trên ngọn núi.
Bốn người kia khinh công hết sức cao siêu, chàng gia tăng cước bộ, đuổi theo chỉ cách họ chừng hai chục trượng. Trong bóng đêm chàng thấy thấp thoáng một người đàn bà, ba người đàn ông ăn mặc theo lối tục gia, nghĩ thầm: ?Bốn người này phần lớn là đến để gây chuyện với nghĩa phụ, vậy cứ để cho họ đấu với Viên Chân đến khi một sống một chết, ta không việc gì phải vội ra tay?.
Đến gần đỉnh núi, bốn người kia càng chạy nhanh hơn. Chàng đột nhiên nhận ra hai người trong đó: ?Ồ, hóa ra là hai vợ chồng Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn của phái Côn Lôn?.
Chỉ nghe Viên Chân hú lên một tiếng dài, đột nhiên quay phắt lại, chạy vụt trở xuống. Trương Vô Kỵ vội vàng ẩn vào trong đám cỏ ở bên đường, nằm mọp xuống mà di hành, vừa qua bên trái mấy trượng, đã nghe binh khí chạm nhau chát chúa, thì ra Viên Chân đã động thủ với những người đi tới.
Cứ như tiếng binh khí đụng chạm nhau thì hai người đang đấu với một mình Viên Chân chàng chợt động tâm: ?Nếu hai người còn lại không tiến lên tấn công ắt là họ đang lên đỉnh núi để tìm nghĩa phụ ta rồi?. Chàng bèn vội theo đám cỏ cao trèo lên.
Đến đỉnh núi rồi thấy đó là một khoảng đất trống phẳng lì, chẳng có nhà cửa phòng ốc gì hết, chỉ có ba cây tùng cao ngất mọc thành hình chữ phẩm, cành lá vươn lên không uốn khúc như ba con rồng, chàng thầm ngạc nhiên: ?Chẳng lẽ nghĩa phụ không phải bị giam nơi đây??.
Bỗng thấy trong bụi cỏ phía bên phải có tiếng loạt soạt, ai đó đang cử động, rồi nghe tiếng Ban Thục Nhàn nói:
- Mau mau động thủ, hai vị sư đệ chưa chắc đã cầm cự được với nhà sư Thiếu Lâm đâu.
Hà Thái Xung nói:
- Đúng thế!
Hai người liền chui ra, xông vào trong giữa ba cây tùng. Trương Vô Kỵ ngại rằng Tạ Tốn cũng ở gần đâu đây, không dám sơ suất chút nào, cũng vội từ trong đám cỏ trườn lên. Đột nhiên nghe thấy Hà Thái Xung kêu hự lên một tiếng, dường như đã bị thương. Chàng thò đầu ra xem, thấy Hà Thái Xung đang ở khoảng giữa ba cây thông, trường kiếm múa lên, dường như đang cùng ai giao đấu, nhưng không thấy đối phương đâu, chỉ thỉnh thoảng vọng tới những tiếng bộp bộp bộp, nghe như trường kiếm đang đụng phải một thứ binh khí gì quái lạ. Chàng trong bụng lạ lùng, vội bò lên thêm vài trượng nữa, chăm chú nhìn xem không khỏi giật mình kinh hãi.
Thì ra hai cái gốc cây đối diện với chàng đều có hõm vào một cái hốc đủ để chứa một người, trong mỗi gốc cây có một lão tăng, tay múa một sợi dây dài màu đen, đánh vào vợ chồng Hà Thái Xung. Một cây tùng thì lưng quay về phía Trương Vô Kỵ, từ phía trước cũng có một sợi dây đánh ra, ắt hẳn cũng có một nhà sư ngồi trong đó. Trong đêm tối, ba sợi đây đen sì, khi múa lên không thấy một chút hình bóng nào. Vợ chồng Hà Thái Xung múa trường kiếm thủ hộ thật nghiêm mật, nhưng vì không nhìn thấy đường đi của binh khí đối phương nên không có cách gì tấn công trả lại được. Ba sợi dây trông thì có vẻ chậm nhưng thực ra rất nhanh, lại không có chút hơi gió nào, dưới cơn mưa như trút nước, nơi đỉnh núi âm u, thật chẳng khác nào ma quỉ, ngụy bí vô cùng.
Hai vợ chồng họ Hà luôn mồm kêu la chỉ điểm lẫn nhau, cố hết sức để thoát khỏi vòng vây hình chữ phẩm này nhưng mỗi lần xông ra đều bị ba sợi dây dồn trở vào. Trương Vô Kỵ kinh ngạc thầm, thấy ba sợi dây múa lên không một tiếng động, nội lực của người sử dụng đã đến mức phản chiếu không minh[1], công lực tinh thuần, không còn lộ ra chút vấp váp nào, chính mình cũng không bì kịp trong bụng sợ hãi: ?Viên Chân có nói rằng nghĩa phụ ta do ba vị thái sư thúc canh gác, chắc là ba vị lão tăng này, công lực quả thực thâm hậu kể sao cho xiết?.
Chỉ nghe một tiếng ?A? thật thảm thiết, lưng Hà Thái Xung đã bị đánh trúng một roi, từ trong vòng văng ra, xem chừng không thể nào sống được nữa. Ban Thục Nhàn vừa đau xót vừa hoảng hốt, sơ ý một chút, ba sợi dây cùng đánh vào lập tức đầu nát tan, chân tay gãy vụn, không còn ra hình dáng gì. Tiếp theo một sợi dây rung mạnh, cuộn cái xác bà ta vứt ra ngoài.
Viên Chân vừa đánh vừa chạy, lùi lên trên đỉnh núi, mồm kêu:
- Gớm nhỉ, có giỏi thì lên đây chịu chết.
Hai người đối địch với y đều là cao thủ phái Côn Lôn, cứ tính võ công thì Viên Chân không kém gì họ nhưng không phải cứ cất tay là giết được ngay, giỏi lắm cũng chỉ giết được một, người kia ắt sẽ nhanh chân chạy mất nên dụ cho họ đến dưới chỗ ba cây tùng.
Hai người còn cách chỗ cây tùng chừng vài trượng thấy xác Hà Thái Xung nằm đó nên cùng dừng lại, không đề phòng hai sợi dây từ đằng sau lẳng lặng bay tới cuốn chặt lưng hai người, cùng rung một cái, ném từ trên đỉnh núi cao hàng trăm trượng xuống dưới vực. Hai người rơi xuống đụng đá chết ngay nhưng tiếng kêu thảm thiết của họ khi còn lơ lửng trên không, vang qua dội lại những vách núi khác vang vang mãi hồi lâu mới dứt.
Trương Vô Kỵ thấy ba vị lão tăng trong giây lát đã thanh toán xong bốn đại cao thủ phái Côn Lôn, ra tay nặng mà xem thật nhẹ nhàng như trò đùa, võ công cao siêu như thế trên đời này thật khó thấy, so với Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông còn có vẻ cao hơn, tuy chưa bì được với thái sư phụ Trương Tam Phong ?thâm bất khả trắc? nhưng cũng đạt tới mức thần kỳ. Phái Thiếu Lâm nếu như còn những bậc nguyên lão thế này, xem ra ngay cả thái sư phụ và Dương Tiêu cũng không biết, tim chàng đập thình thình, nằm mọp trong đám cỏ cao không dám thở mạnh.
Chỉ thấy Viên Chân giơ chân đá luôn hai cái xác Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn bay xuống sơn cốc. Hai tử thi rơi một hồi lâu mới nghe truyền lên mấy tiếc lục cục, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Vợ chồng Hà Thái Xung đối với ta lấy oán báo đức, hôm nay lại toan đến hại nghĩa phụ ta để cướp bảo đao, nhân phẩm tuy thấp kém nhưng võ công cao siêu, quả là bậc tông sư của một môn phái, ngờ đâu lại ra nông nỗi?. Chàng nghe Viên Chân cung kính nói:
- Ba vị thái sư thúc thần công cái thế, vừa cất tay đã tiêu diệt được bốn đại cao thủ của phái Côn Lôn, Viên Chân này khâm phục vô cùng, không biết nói sao cho vừa.
Một lão tăng hừ một tiếng, không trả lời. Viên Chân nói tiếp:
- Viên Chân phụng lệnh phương trượng sư thúc, kính cẩn đến thăm hỏi ba vị thái sư thúc, xin được nói chuyện với tù đồ vài câu.
Tiếng một người khô khan nói:
- Không Kiến sư điệt tài cao đức trọng, ba chúng ta yêu quí vô cùng, vẫn mong y phát huy được võ học phái Thiếu Lâm, lại chẳng may chết về tay kẻ gian. Ba người bọn ta tọa quan đã mấy chục năm, vốn không màng đến việc đời nữa, nay cũng vì Không Kiến sư điệt mà phải đến ngọn núi này. Gian nhân kia có chết cũng đáng, một đao chém y cho xong, việc gì còn phải lằng nhằng cho thêm phiền việc thanh tu của ba chúng ta?
Viên Chân khom lưng đáp:
- Thái sư thúc dạy chí phải. Thế nhưng phương trượng sư thúc có nói rằng: Ân sư của đệ tử tuy bị gian nhân hãm hại nhưng công phu của ân sư cao siêu biết là chừng nào, làm sao một mình kẻ gian kia lại giết chết được? Cho nên đem y giam ở đây, phiền ba vị thái sư thúc công lao tọa thủ, một là để dẫn dụ đồng đảng của kẻ gian tới cứu, thế là có dịp trừ sạch những kẻ năm sư giết hại ân sư đệ tử, không để cho ai thoát, thứ nữa ép y giao lại thanh đao Đồ Long, để thanh đao này khỏi rơi vào tay phái khác, soán đoạt cái tên võ lâm chí tôn, làm tổn đến uy vọng trăm nghìn năm qua của bản phái.
Trương Vô Kỵ nghe y nói thế, không khỏi ngầm nghiến răng, nghĩ thầm: ?Gã ác tặc Viên Chân này dẫu lăng trì tùng xẻo cũng chưa hết tội, y mồm mép bẻo lẻo mời được ba vị cao tăng không lý việc đời mấy chục năm qua ra, mượn tay ba người giết các cao thủ võ lâm?. Chàng nghe một vị lão tăng hừ một tiếng đáp:
- Vậy thì ngươi nói chuyện với y đi.
Khi đó mưa vẫn chưa tạnh, tiếng sấm chớp vẫn ỳ ầm không dứt. Viên Chân đi đến giữa ba cây tùng, quì xuống, nói xuống mặt đất:
- Tạ Tốn, ngươi đã nghĩ kỹ chưa? Chỉ cần ngươi nói ra nơi cất dấu thanh đao Đồ Long, ta lập tức thả cho ngươi đi.
Trương Vô Kỵ thấy thật lạ lùng: ?Y nói vọng xuống mặt đất, không lẽ nơi đây có một địa lao, nghĩa phụ ta bị nhốt trong đó hay sao??.
Chỉ nghe một âm thanh trong trẻo hơn của một lão tăng bực bội nói:
- Viên Chân, người xuất gia không được vọng ngữ, sao ngươi lại đánh lừa y là sao? Nếu y nói ra nơi cất giữ bảo đao, không lẽ ngươi thả y ra thật ư?
Viên Chân đáp:
- Xin thái sư thúc minh giám cho, đệ tử thiển nghĩ, mối thù của ân sư tuy sâu thật nhưng để lên bàn cân thì uy vọng của bản phái còn nặng hơn. Chỉ cần y nói lên nơi cất giữ thanh đao, bản phái có được bảo đao rồi thì sẽ thả cho y đi. Ba năm sau, đệ tử sẽ đi kiếm y để báo thù cho ân sư cũng được.
Lão tăng đó nói:
- Như thế cũng phải. Trong võ lâm tín nghĩa làm đầu, một lời nói ra như tên rời khỏi nỏ, dù là kẻ đại gian đại ác thì đệ tử Thiếu Lâm cũng không thể thất tín được.
Viên Chân nói:
- Xin kính cẩn tuân theo lời giáo huấn của thái sư thúc.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Ba nhà sư Thiếu Lâm này không những võ công trác tuyệt, mà còn là những cao tăng đức độ, có điều rơi vào gian kế của Viên Chân mà không hay biết đấy thôi?. Lại nghe Viên Chân quát xuống dưới đất:
- Tạ Tốn, lời của thái sư thúc ta, ngươi nghe thấy chưa? Ba vị lão nhân gia bằng lòng để ngươi đào tẩu đó.
Bỗng dưới đất truyền lên tiếng người nói:
- Thành Côn, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta nữa?
Trương Vô Kỵ nghe thấy giọng nói vừa hùng hồn vừa lạnh lẽo, chính là tiếng của nghĩa phụ, trong lòng cực kỳ xúc động, hận không thể lập tức xông lên, đánh chết Thành Côn, cứu Tạ Tốn ra. Thế nhưng nếu chàng xuất hiện, ba sợi dây đen của các cao tăng Thiếu Lâm sẽ đánh tới liền, chẳng cần Thành Côn ra tay, riêng ba người liên thủ chàng cũng không thể nào địch được, thành thử cố gắng nén lòng, nghĩ thầm: ?Đợi cho tên ác tăng Viên Chân này đi khỏi rồi, ta sẽ tiến lên bái kiến ba vị cao tăng, nói rõ nguyên ủy đầu dây mối nhợ. Ba vị Phật pháp tinh thâm, không lẽ không biết thế nào là phải thế nào là trái?.
Lại nghe Viên Chân thở dài nói:
- Tạ Tốn, tuổi ngươi nay cũng đã cao rồi, những việc năm xửa năm xưa, việc gì mà cứ phải u uất chất chứa mãi trong tim? Cùng lắm chỉ hai mươi năm nữa thì ta cũng như ngươi đều về lòng đất. Những gì trước đây ta đối với ngươi không phải cũng như những gì tốt đẹp giữa hai chúng ta, thôi thì xóa sạch là xong.
Tạ Tốn nghe y kể lể, không thèm trả lời, đến khi y nói xong mới đáp:
- Thành Côn, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta nữa?
Viên Chân cứ nói qua nói lại một hồi lâu, Tạ Tốn cũng chỉ có một câu: ?Thành Côn, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta nữa?? Viên Chân bèn khinh khỉnh nói:
- Ta để cho ngươi suy nghĩ ba ngày. Ba ngày sau, nếu như vẫn không chịu nói ra thanh đao Đồ Long ở đâu, ngươi chắc cũng đoán biết ta sẽ đối xử với ngươi thế nào rồi.
Nói xong y liền đứng lên chắp tay bái biệt ba nhà sư rồi đi xuống núi.
Trương Vô Kỵ đợi y đi xa, đang định tiến ra tố cáo mọi chuyện cho ba nhà sư rõ, đột nhiên bên người dường như có điều gì khác lạ, bị tập kích mà không thấy có một dấu hiệu gì trước, chàng kinh hoàng, lập tức lăn ra xa, thấy có hai vật dài lướt qua mặt, chỉ cách người chừng nửa thước, thế đi thật nhanh nhưng lại không có chút kình phong nào, chính là hai sợi dây đen.
Chàng vừa lăn ra khỏi một trượng, lại thấy một sợi dây đen khác điểm luôn vào ngực, biến thành một loại binh khí thẳng băng, chẳng khác gì trường mâu, đầu gậy đâm vào, trong khi hai sợi dây kia cũng từ hai bên cuộn lại.
Chàng đã thấy bốn cao thủ của phái Côn Lôn trong chớp mắt đã bị táng mạng dưới ba sợi dây này, biết rằng đây là một loại binh khí cực kỳ lợi hại, lúc này phải đối phó với nó lại càng kinh hãi hơn. Chàng vung tay trái xoay một cái, bắt ngay được sợi dây đang điểm thẳng vào ngực, đang định đẩy sang một bên, bỗng thấy sợi dây rung lên một cái, một luồng kình lực như bài sơn đảo hải tống vào, luồng kình lực đó nếu trúng phải lập tức sẽ gân cốt đứt lìa, ngũ tạng tan nát ngay. Ngay trong một sát na nhanh như ánh chớp ấy, tay phải chàng vung tay ngược về hất dạt hai sợi dây tấn công từ sau lưng ra, tay trái dùng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp phối hợp với Cửu Dương thần công, vừa nâng lên vừa tống ra, thân theo kình mà vọt thẳng lên trời.
Ngay khi đó, trên trời liên tiếp ánh chớp lằng ngoằng mấy cái sáng lòa lên, chỉ thấy hai nhà sư cùng kêu lên ?Ồ? một tiếng, dường như ngạc nhiên về võ công của chàng. Mấy ánh chớp đó chiếu rõ thân hình chàng, ba vị cao tăng cùng ngửng đầu lên xem, thấy kẻ mang thần công tuyệt đỉnh trong người đó chỉ là một thanh niên nhà quê mặt mày lem luốc, lại càng kinh hãi. Ba sợi dây đen liền giống như ba con rồng giơ nanh múa vuốt, chạy đuổi theo lên, chia ra làm ba mặt tiến tới. Trương Vô Kỵ nhờ có ánh chớp cũng nhìn rõ mặt mày của ba nhà sư. Người ngồi ở phía đông bắc mặt mũi đen xám như chì, người phía tây bắc thì mặt vàng như gỗ, còn người ở phía nam thì mặt trắng bệch như tờ giấy. Ba nhà sư mặt mũi đều hóp vào, người gầy tưởng như chỉ còn da với xương, nhà sư mặt vàng lại chột một mắt. Năm con mắt của ba nhà sư phản chiếu ánh chớp đều lấp lánh có thần.
Trương Vô Kỵ thấy ba sợi dây đang cuốn vào thân mình, chàng liền tay trái gạt ra tay phải kéo lại, một tay cuộn một tay xoay, mượn luôn kình lực của ba người, kéo luôn cả ba sợi dây lại một chỗ, chiêu này chính là Thái Cực tâm pháp do Trương Tam Phong truyền thụ, kình thành một vòng tròn, kình lực truyền trên ba sợi dây lập tức bị cuộn lại với nhau. Bỗng nghe ầm ầm mấy tiếng sét vang trời, tiếng vọng uy chấn thật là kinh tâm động phách. Trương Vô Kỵ ở trên không lượn một nửa vòng, chân trái móc luôn vào một cành tùng, thân hình đã đứng vững, trong tiếng sấm ầm ầm dõng dạc nói:
- Hậu học vãn bối, Minh Giáo giáo chủ Trương Vô Kỵ, tham kiến ba vị cao tăng.
Nói xong chân trái đứng trên cành cây, chân phải đưa ra ngoài, khom lưng hành lễ. Cành tùng theo thế chàng vái chào nhô lên hụp xuống như sóng biển nhưng Trương Vô Kỵ vẫn bình ổn đứng yên, thân hình phiêu dật. Chàng tuy khom mình hành lễ, nhưng ở trên cao vái xuống, không bị kém vế chút nào.
Bà nhà sư thấy nội kình trên sợi dây đen bị chàng gom lại một chỗ, rung tay một cái, ba sợi dây liền tách ra.
Trong ba chiêu chín thức vừa rồi của ba nhà sư, mỗi thức đều ẩn tàng mười chiêu biến hóa, trong đó có vài chục sát thủ, nào ngờ đối phương từng chiêu từng thức đều hóa giải hết, mà mỗi lần hóa giải đều nguy hiểm cùng cực, chỉ cần sai một ly là đã gân cốt nát nhừ, chết ngay tại chỗ, vậy mà vẫn nhẹ nhàng tiêu sái, coi hung hiểm như chẳng có gì. Tam tăng trong đời chưa từng gặp một địch thủ nào cao cường đến thế, không thể không ngạc nhiên. Họ có biết đâu khi Trương Vô Kỵ hóa giải ba chiêu chín thức vừa rồi, là đã giở hết sức bình sinh, chính nhờ cành cây trồi lên hụp xuống, ngầm điều vận chân khí đang loạn lên trong đan điền.
Võ công Trương Vô Kỵ vừa sử dụng bao gồm cả Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, Thái Cực Quyền ba môn đại thần công, còn khi lượn một nửa vòng trên không lúc sau cùng thì chính là tâm pháp khắc trên thánh hỏa lệnh. Ba vị cao tăng của phái Thiếu Lâm tuy mang tuyệt kỹ trong người, nhưng tọa quan đã mấy chục năm, không nghe chuyện đời, trong bốn môn thần công kia chưa từng thấy môn nào bao giờ, chỉ mang máng cảm thấy nội kình của chàng có gì tương đồng với Cửu Dương công của phái Thiếu Lâm nhưng so với thần công của bản phái thì hùng hồn tinh vi hơn nhiều. Đến khi nghe chàng thông báo tính danh, tấm lòng cảm phục và ngạc nhiên của ba nhà sư lập tức biến ra phẫn nộ.
Nhà sư mặt trắng bệch hậm hực nói:
- Lão nạp đang tự hỏi cao nhân phương nào giáng lâm, đâu có biết là đại ma đầu của ma giáo đến rồi. Ba anh em lão nạp tọa quan đã mấy chục năm, không lý gì đến tục vụ, ngay chuyện đại sự của bản tự cũng không nghe không hỏi. Đâu ngờ ngày hôm nay lại có dịp gặp giáo chủ của ma giáo, thực đúng là nghìn năm một thuở.
Trương Vô Kỵ nghe ông ta mở miệng nói ra là ?ma đầu?, khép miệng lại là ?ma giáo? biết rằng ác cảm với bản giáo thật sâu, thành thử hơi trù trừ, không biết làm thế nào để mở mồm thuật chuyện. Chỉ nghe nhà sư mặt vàng chột mắt hỏi:
- Ma giáo giáo chủ là Dương Đính Thiên kia mà? Tại sao lại là các hạ?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Dương giáo chủ đã từ trần hơn ba mươi năm rồi.
Nhà sư mặt vàng liền ?A? lên một tiếng, không nói thêm lời nào nhưng trong tiếng kêu dường như ẩn tàng biết bao thương tâm thất vọng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Ông ta nghe tin Dương giáo chủ qua đời xem ra rất lấy làm đau khổ, có lẽ năm xưa giao tình với Dương giáo chủ rất sâu. Nghĩa phụ là bộ thuộc cũ của Dương giáo chủ, ta thử gợi lại cái tình cố nhân, nói rõ việc Dương giáo chủ bị Viên Chân chọc tức mà chết để xem ra thế nào?? Chàng liền nói:
- Có lẽ đại sư cũng biết Dương giáo chủ?
Lão tăng mặt vàng đáp:
- Dĩ nhiên là biết. Lão nạp nếu như không biết đến đại anh hùng Dương Đính Thiên thì đâu đến nỗi thành người một mắt? Ba sư huynh đệ ta việc gì phải ngồi khô thiền[2] hơn ba chục năm qua?
Mấy câu nói đó nghe ra có vẻ bình thường, nhưng bên trong ngầm chứa nỗi đau thương oán hờn vừa sâu xa vừa lớn lao. Trương Vô Kỵ thầm kêu: ?Khổ rồi, khổ rồi!?. Cứ theo như giọng nói của ông ta, một mắt của lão tăng này bị Dương Đính Thiên làm hại, và ba sư huynh đệ tu tập khô thiền hơn ba mươi năm khổ công đau đớn cũng là để báo được mối thù này. Giờ đây họ nghe tin kẻ đại cừu đã chết nên sinh ra lòng thất vọng.
Nhà sư mặt vàng đột nhiên hú lên một tiếng thanh thoát nói:
- Trương giáo chủ, lão nạp pháp danh Độ Ách, còn vị sư đệ mặt trắng đây pháp danh Độ Kiếp, vị sư đệ mặt đen kia pháp danh Độ Nạn. Dương Đính Thiên đã chết rồi, cái thâm cừu đại oán của ba người chúng ta, đành phải đòi nơi giáo chủ đương nhiệm. Sư điệt Không Kiến, Không Tính của anh em ta đều chết vì tay thủ hạ quí giáo, nay giáo chủ đã đến đây, ắt cũng hợm mình nên không có gì sợ hãi cả. Tất cả ân oán mấy chục năm qua, chúng ta dùng võ công mà kết liễu cho xong.
Trương Vô Kỵ nói:
- Vãn bối cùng quí phái vốn không có liên quan gì, đến đây chỉ cốt cứu nghĩa phụ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn mà thôi. Không Kiến thần tăng tuy là do nghĩa phụ tôi lỡ tay đánh chết, nhưng bên trong còn nhiều uẩn khúc. Còn như cái chết của Không Tính thần tăng thì không liên quan gì đến tệ giáo cả. Ba vị xin đừng nghe lời của một bên, xin hãy nói rõ ràng trắng đen phải trái đã.
Nhà sư mặt trắng Độ Kiếp hỏi:
- Cứ như ngươi biết, Không Tính bị ai giết hại?
Trương Vô Kỵ nhíu mày đáp:
- Cứ như vãn bối biết, Không Tính thần tăng chết vì tay võ sĩ của triều đình thuộc Nhữ Dương Vương phủ.
Độ Kiếp hỏi tiếp:
- Thế các võ sĩ của phủ Nhữ Dương Vương thì ai thống lãnh?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Do con gái của Nhữ Dương Vương, Hán danh Triệu Mẫn.
Độ Kiếp nói:
- Ta nghe Viên Chân nói rằng, cô gái đó liên kết với quí giáo cùng chung một đường, nàng ta phản chúa phản cha, đầu nhập Minh Giáo, lời đó có thật hay không?
Y nói năng đanh thép lời lời mỗi lúc một thêm ép chặt, Trương Vô Kỵ chỉ còn nước ấp úng:
- Đúng thế, nàng ... nàng ... hiện nay ... hiện nay đã bỏ chỗ tối tìm đường sáng.
Độ Kiếp lớn tiếng nói:
- Giết Không Kiến là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn của ma giáo; giết Không Tính thì là Triệu Mẫn của ma giáo. Triệu Mẫn lại còn công phá chùa Thiếu Lâm, đem bao nhiêu đệ tử trong chùa bắt cả, nhưng chuyện không thể tha thứ cho được là khắc lời lẽ nhục mạ lên trên mười sáu vị La Hán. Ngoài ra còn một con mắt của sư huynh ta đến nỗi anh em ta phải chịu đựng một trăm năm khô thiền. Trương giáo chủ, món nợ này không tìm giáo chủ để thanh toán thì còn tìm ai?
?Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nghĩ thầm nếu mình đã thừa nhận là thu dung Triệu Mẫn, những chuyện ác cũ nàng đã làm, cũng đành phải gánh vác hết. Chỉ trong chớp mắt chàng hiểu ngay được tâm sự của cha mình vì việc sai quấy ái thê đã làm mà phải vung kiếm tự vẫn, còn oán thù năm xưa Dương giáo chủ và Tạ Tốn đã kết, đến ngày hôm nay, lời Độ Kiếp nói quả không sai; nếu mình không gánh chịu thì ai vào đây?
Chàng đứng thẳng người lên, kình lực chạy thẳng xuống đầu ngón chân, cành cây đang nhô lên hụp xuống lập tức đứng dừng ngay lại không còn động đậy chút nào, lớn tiếng nói:
- Ba vị lão thiền sư nếu đã nói thế, vãn bối không thể nào trốn được món nợ này, bao nhiêu tội nghiệt một mình vãn bối chịu hết. Thế nhưng nghĩa phụ vãn bối đả thương Không Kiến thần tăng, bên trong có rất nhiều điều đau lòng, mong được ba vị lão thiền sư tha thứ? cho.
Độ Ách nói:
- Ngươi cậy vào cái gì mà dám đến đây chạy tội cho Tạ Tốn? Không lẽ ba sư huynh đệ ta không giết nổi ngươi hay sao?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm việc đến nước này, chỉ còn cách hết sức ra tay một phen, bèn nói:
- Vãn bối lấy một địch ba quyết không thể nào là đối thủ của các vị. Vậy không biết vị lão thiền sư nào đứng ra dậy bảo?
Độ Kiếp nói:
- Nếu bọn ta đơn đả độc đấu chắc không thắng được ngươi đâu. Món huyết hải thâm cừu này, không thể theo qui củ giang hồ cho được. Tên ma đầu kia, mau xuống đây chịu chết. A Di Đà Phật!
Ông ta vừa niệm Phật xong, Độ Ách, Độ Nạn hai người liền tiếp theo:
- Ngã Phật Từ Bi!
Ba sợi dây đen liền cùng vung lên, xông vào cuốn người chàng lại. Trương Vô Kỵ hơi hạ mình xuống, theo chỗ trống của ba sợi dây nhảy xuống, hai chân chưa chấm đất, còn trên không trung thân hình đã biến đổi, xông về phía Độ Nạn. Độ Nạn dựng tả chưởng lên đánh mạnh ra, một luồng kình phong tống thẳng vào bụng dưới chàng. Trương Vô Kỵ xoay người chống đỡ, dùng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp hóa giải kình lực. Ngay lúc đó, hai sợi dây đen của Độ Ách và Độ Kiếp cùng cuốn tới. Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng xoay một nửa vòng, tả chưởng của Độ Kiếp tung ra, đánh tới không một tiềng động. Trương Vô Kỵ ở trong giữa ba cây tùng tùy theo chiêu mà chống trả, bất thình lình đánh ra một chưởng, chưởng lực mang theo cả mấy trăm giọt mưa to bằng hạt đậu theo kình phong bắn về phía Độ Ách. Độ Ách nghiêng qua né tránh nhưng mặt cũng bị trúng phải vài mươi hạt, cảm thấy hơi đau, nhà sư liền quát lên một tiếng:
- Tiểu tử giỏi nhỉ!
Chiếc giây đen trong tay vung ra, xoay thành hai vòng tròn, từ trên không chụp xuống đầu Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thân hình chẳng khác gì một mũi tên tránh được cái vòng, tấn công thẳng vào Độ Kiếp. Chàng càng đấu cành kinh hãi, thấy không khí chung quanh thân mình bị rơi vào giữa ba sợi dây đen và ba luồng chưởng lực, mỗi lúc một ngưng đọng thành một khối. Từ khi chàng tập thành võ công đến nay chưa bao giờ gặp phải đối thủ cao cường như thế. Ba nhà sư không những chiêu số tinh xảo, nội kình cũng hùng hồn không ai sánh kịp. Lúc ban đầu, Trương Vô Kỵ dùng bảy thành để thủ ngự, dùng ba thành còn lại tấn công, đấu đến hơn hai trăm chiêu, dần dần cảm thấy chân khí trong người không còn tinh thuần, thành ra chỉ còn thủ mà không có thể công, chỉ mong tự bảo vệ được mình thôi.
Cửu Dương thần công của chàng vốn dĩ dùng không bao giờ hết, càng sử dụng càng mạnh mẽ, nhưng lúc này mỗi chiêu đều hao phí nội lực rất nhiều, cảm thấy như kình lực? ở sau không nối liền được với kình lực đi trước, tình trạng này từ khi luyện thành thần công chàng chưa từng bị bao giờ. Đến khi trao đổi thêm mấy chục chiêu nữa, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Mình có đấu thêm thì chỉ có nước chịu chết, hôm nay tìm cách thoát thân, sau này sẽ cùng với ông ngoại, Dương tả sứ, Phạm hữu sứ, Vi Bức Vương, năm người hợp lực thì ắt có thể thắng được tam tăng, lúc đó hãy tính tới việc cứu nghĩa phụ?.
Chàng nghĩ thế nên liên tiếp tấn công vào Độ Ách ba chiêu liền, đang toan thoát ra, ngờ đâu ba sợi dây kết lại thành một cái vòng vững chãi như thành đồng vách sắt, mấy lần chàng xông lên đều bị dội lại, không có cách nào thoát thân được.
Chàng trong bụng kinh hoảng: ?Thì ra tam tăng liên thủ kết chặt lại thành một, công phu tâm ý tương thông này, không lẽ trên đời này có người luyện được hay sao??. Trương Vô Kỵ có biết đâu Độ Ách, Độ Kiếp, Độ Nạn? đã tọa khô thiền trên ba mươi năm, bao nhiêu công phu đều dùng vào việc luyện môn ?tâm ý tương thông?, một người có ý niệm gì nảy ra, lập tức hai người kia biết liền, tâm linh cảm ứng đó thực là huyền diệu. Thế nhưng ba người ở chung một nơi luyện hơn ba mươi năm chuyên tâm vào việc luyện cảm ứng, tâm ý chỉ còn là một thì cũng không phải là chuyện lạ. Chàng lại nghĩ: ?Cứ điệu này ta dẫu có ước hẹn thêm được những cao thủ như ông ngoại đến chăng nữa, cũng chưa chắc phá vỡ được bức tường kiên cố tâm ý tương thông của ba người này kết thành. Không lẽ nghĩa phụ ta đã cứu không được, lại bỏ mạng nơi đây hay sao??.
Chàng nóng ruột, tinh thần hơi tán loạn, đầu vai liền bị năm ngón tay của Độ Kiếp quét qua, đau thấu xương tủy, nghĩ thầm: ?Ta có chết cũng không đáng gì, thế nhưng nỗi oan của nghĩa phụ không sao rửa được. Nghĩa phụ một đời cao ngạo, dẫu có rơi vào tay người, cũng nhất định không biện giải đến nửa lời đâu?. Nghĩ thế chàng bèn dõng dạc nói:
- Ba vị lão thiền sư, vãn bối hôm nay bị nguy khốn, tính mệnh khó mà bảo tồn, đại trượng phu có chết cũng đành, có gì đáng nói đâu? Thế nhưng có một việc phải nói cho rõ ...
Nghe vù vù hai tiếng, hai sợi dây đen chia ra từ hai bên đánh tới, Trương Vô Kỵ tay trái gạt, tay phải kéo, hóa giải hai luồng kình lực, tiếp tục:
- Gã Viên Chân kia tục danh là Thành Côn, ngoại hiệu Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ, chẳng phải ai xa chính là nghiệp sư của nghĩa phụ vãn bối Tạ Tốn ...
Ba nhà sư chùa Thiếu Lâm thấy chàng tay vẫn ra chiêu hóa kình, miệng vẫn mở lời nói chuyện, nội công đến thế họ chưa thể nào đạt tới được, trong lòng càng thêm e ngại. Tam tăng cho rằng Minh Giáo là một tà giáo không việc ác nào không làm, giáo chủ của họ võ công càng cao, làm hại cho thế gian càng lớn, nay thấy chàng thân hãm trùng vi, không thể nào thoát ra được, đúng là cơ hội tốt để trừ khử, thật không công đức nào tày, thành thử không nói một lời, sợi dây đen và chưởng lực càng thêm mạnh mẽ.
Trương Vô Kỵ tiếp tục nói:
- Ba vị lão thiền sư cũng nên hiểu cho rằng, sư muội của Thành Côn chính là phu nhân của giáo chủ Minh Giáo Dương Đính Thiên. Thành Côn vốn si tình sư muội, vì tình sinh ra ghen tức, thành ra kết thâm cừu đại oán với Minh Giáo ...
Chàng tay thì hóa giải chiêu số của ba nhà sư, miệng thao thao tường thuật Thành Côn mưu tính? phá hủy Minh Giáo như thế nào, rồi tư thông lén lút gặp gỡ Dương phu nhân để đến nỗi Dương Đính Thiên tức quá mà chết ra sao, rồi sau giả say toan cưỡng gian vợ Tạ Tốn, giết sạch toàn gia, rồi khích cho Tạ Tốn loạn sát nhân sĩ võ lâm, bái Không Kiến thần tăng làm thầy, dụ cho Tạ Tốn đánh Không Kiến mười ba quyền, rồi sau thất tín không ra khiến cho Không Kiến phải ngậm hờn mà chết.
Ba người Độ Ách càng nghe càng hoảng hồn, bao nhiêu chuyện đó không sao có thể tưởng nổi, nhưng mọi chuyện hợp tình hợp lý, chi tiết phù hợp với nhau. Ngọn roi đen trên tay Độ Ách chậm lại trước nhất.
Trương Vô Kỵ nói tiếp:
- Vãn bối không biết Dương giáo chủ gây thù chuốc oán với Độ Ách đại sư ra sao, chỉ sợ bên trong có kẻ gian xui nguyên giục bị, người đó hẳn là Viên Chân. Độ Ách đại sư thử nghĩ lại chuyện cũ, xem lời của vãn bối có điều gì sai quấy hay chăng?
Độ Ách hừ một tiếng, ngừng roi không đánh nữa, cúi đầu trầm ngâm rồi nói:
- Chuyện đó xem ra cũng có lý. Lão nạp kết cừu với Dương Đính Thiên, tên Thành Côn đó giốc hết toàn lực ra giúp, sau lại muốn bái lão nạp làm thầy, nhưng từ trước tới nay ta không thu đệ tử, nên mới dẫn tiến cho làm môn hạ Không Kiến sư điệt. Cứ xét như thế, không lẽ y cố ý sắp xếp hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chắc là như thế, hiện nay y đang dòm dỏ chức vị chưởng môn phương trượng phái Thiếu Lâm, gây bè kết đảng, âm mưu mật kế toan? gia hại Không Văn thần tăng ...
Câu nói chưa dứt, đột nhiên có tiếng ầm ầm, từ bên sườn núi bên trái một khối đá tròn lớn lục cục lăn xuống giữa ba cây thông. Độ Ách quát lớn:
- Ai đó?
Sợi giây múa lên, bộp bộp hai tiếng đánh luôn lên tảng đá, mảnh vụn bay tung. Từ sau tảng đá một người xông ra, nhanh nhẹn phi thường xông đến bên Trương Vô Kỵ, ánh sáng lấp lánh, một thanh đoản đao đã đâm ngay cổ họng chàng.
Biến cố đó xảy ra thật nhanh, Trương Vô Kỵ đang hết sức chống đỡ sợi dây và chưởng lực của hai nhà sư Độ Kiếp, Độ Nạn, đâu có ngờ rằng có người tấn công lén, trong đêm tối chỉ thấy tiếng gió thốc tới, đoản đao đã đâm ngay tới yết hầu rồi, trong cơn nguy vội nhảy vụt qua một bên, nghe soạt một tiếng, mũi dao đã rạch một đường ngay trên áo chàng, chỉ chậm một giây là đã bị cái họa mổ ngực phanh thây rồi. Người đó tấn công không trúng, nhờ có tảng đá che chở đã lăn ra khỏi vòng dây của ba nhà sư.
Trương Vô Kỵ kêu thầm: ?Nguy hiểm thật!?. Chàng lập tức quát lên:
- Ác tặc Thành Côn! Có giỏi thì cùng ta đối chất, định giết người bịt miệng hay sao?
Khi đoản đao đâm tới, tuy chàng không nhìn rõ mặt người nhưng đối phương thân pháp nhanh nhẹn, thủ pháp độc địa, nội kình mạnh mẽ, võ công gia số cùng một đường không khác gì Tạ Tốn, ngoài Thành Côn ra còn ai nữa. Ba sợi dây của các nhà sư Thiếu Lâm chẳng khác gì ba cánh tay vươn ra cuốn lấy tảng đá, lẳng một cái, đã xách tảng đá nặng hàng nghìn cân kia lên, quăng ra ngoài, còn Thành Côn chạy thẳng xuống núi. Độ Ách nói:
- Có phải đúng là Viên Chân không?
Độ Nạn đáp:
- Quả đúng là y rồi.
Độ Ách nói:
- Nếu chẳng phải có tật giật mình thì việc gì ...
Ngay lúc đó bốn bề tiếng rú tiếng kêu liên tiếp, nhô ra bảy tám bóng người, người đi đầu quát lớn:
- Hòa thượng Thiếu Lâm thật không đáng gọi là đệ tử nhà Phật, giết hại biết bao nhiêu người, không sợ gây tội nghiệt hay sao? Tất cả cùng xông lên.
Tám người đó ai cũng cầm binh khí, tấn công thẳng vào ba nhà sư ở trong ba cây tùng. Trương Vô Kỵ đang ở giữa vòng của ba nhà sư, thấy trong số tám người thì có ba người cầm trường kiếm, năm người còn lại thì kẻ cầm đao, người cầm tiên, người nào cũng võ học tinh cường đấu luôn với ba sợi dây của Thiếu Lâm tam tăng.
Chàng quan sát một hồi thấy ba người sử dụng kiếm cùng một lộ với Thanh Hải tam kiếm chết dưới tay các nhà sư chùa Thiếu Lâm mấy hôm trước nhưng biến hóa tinh vi hơn, kình lực hùng hồn, cao siêu hơn nhiều, hẳn là trưởng bối của những người đó. Ba người cầm kiếm tấn xông một mình Độ Ách. Lại ba người khác hợp công Độ Nạn, còn hai người liên thủ đối phó Độ Kiếp. Đối thủ của Độ Kiếp tuy chỉ có hai người, nhưng hai người đó so với những người khác lại cao hơn một bậc. Đấu một hồi, Trương Vô Kỵ thấy Độ Kiếp dần dần núng thế, còn Độ Ách thì lại có phần hơn, một địch ba nhưng xem ra vẫn còn thừa sức.
Lao trao đổi thêm độ mươi chiêu nữa, Độ Ách thấy Độ Kiếp có vẻ khó khăn liền rung sợi dây đen một cái, từ trên không đâm bổ xuống hai người đang tấn công Độ Kiếp. Hai người đó đều cao to, râu đen phất phới, thân thủ cực kỳ nhanh nhẹn, một người dùng một đôi phán quan bút, còn người kia thì dùng đả huyệt quyết. Độ Ách và Độ Nạn ở bên ngoài xa mấy trượng mà cũng vẫn cảm thấy kình lực từ binh khí của hai người dồn tới, tưởng như ngay ở bên cạnh mình, sử dụng binh khí ngắn mà trải rộng đến thế ắt hẳn lợi hại ghê gớm lắm. Ba người của phái Thanh Hải thấy áp lực hơi lỏng đi,? nên dần dần lấy lại phong độ tấn công. Thành thử đến lúc này Độ Nạn một mình địch ba, Độ Ách, Độ Kiếp hai người đấu với năm đối thủ, nhất thời không bên nào thắng thế.
Trương Vô Kỵ trong lòng thầm lấy làm lạ: ?Tám người này võ công quả thực đáng kể, không kém vợ chồng Hà Thái Xung chút nào. Ngoài ba người thuộc phái Thanh Hải ra, năm người kia môn phái lai lịch không sao hiểu được. Thế mới biết thiên hạ bao la, trong chốn hoang vu kia có biết bao ngọa hổ tàng long, anh hùng hảo hán vô danh ẩn phục không ai hay biết?.
Mười một người trao đổi đến hơn một trăm chiêu, ba sợi dây của Thiếu Lâm tam tăng dần dần thu nhỏ lại. Sợi dây thu nhỏ rồi, múa may tốn ít hơi sức hơn, nhưng việc tấn công địch thì cũng bớt linh động đi vài phần. Lại thêm vài chục chiêu nữa, ba sợi dây của các nhà sư thu nhỏ nay chỉ còn chừng sáu bảy thước. Hai ông già râu đen càng đấu càng tiến đến gần hơn, binh khí của họ uy lực cũng tăng nhiều, tìm những chỗ sơ hở mà tấn công, từng bước từng bước tiến tới, cố hết sức tới sát người ba lão tăng. Thế nhưng ba sợi dây của họ càng thu nhỏ thì thủ ngự càng nghiêm mật, cái vòng mà ba sợi dây đen kết lại uy lực vô cùng, hai ông già râu đen liên tiếp biến đổi chiêu thế tấn công nhưng đều bị vòng dây đẩy bật ra. Lúc này ba nhà sư đã kết liền một khối, thành thế? ba người chống lại tám địch thủ.
Thiếu Lâm tam tăng hết sức chống đỡ, trong bụng không khỏi liên tiếp kêu khổ thầm, đấu với tám người này dù có lâu cũng không đền nỗi thua, chỉ cần vòng dây thu ngắn tám thước, thì đã kết lại thành Kim Cương Phục Ma Khuyên, không nói gì tám địch thủ mà dẫu có mười sáu người, ba mươi hai người thì cũng không thể tấn công vào được. Thế nhưng bên trong cái vòng đó lại có ẩn phục một cường địch trong gan trong ruột, Trương Vô Kỵ nếu ra tay, nội ngoại giáp công, lập tức ba nhà sư Thiếu Lâm sẽ mất mạng ngay. Tam tăng thấy chàng ngồi yên không cử động, hiển nhiên đang chờ cơ hội, hẳn là chờ cho đến khi mình và các kẻ ngoại địch đều chân chồn gối mỏi, lúc ấy mới làm kẻ ngư ông ở giữa thu lợi. Lúc này nội công của ba nhà sư đã thi triển đến mức tận cùng, dẫu có muốn hú lên một tiếng để cầu cứu với chùa Thiếu Lâm ở dưới kia, thì cũng không thể mở mồm, dẫu chỉ há miệng nói một tiếng thôi, lập tức khí huyết trào lên, nếu không chết ngay lập tức, thì cũng bị nội thương, thành người tàn phế. Tam tăng bấy giờ mới tự trách mình quá ỷ y, ngay khi cường địch vừa mới tới tấn công, không lên tiếng thông tri cho tăng chúng bản tự ở dưới, nếu không chỉ cần vài tay hảo thủ của Đạt Ma Đường hay La Hán Đường lên tiếp viện, là sẽ khắc chế được địch thủ thắng ngay.
Tình thế đó Trương Vô Kỵ đã sớm nhìn thấy rồi, lúc này nếu muốn giết ba nhà sư thì chàng chỉ cất tay là xong, nhưng nghĩ đại trượng phu lẽ nào lại nhân lúc người ta bị nguy ngập mà lợi dụng, huống chi tam tăng chỉ vì bị Viên Chân lừa dối mà ra, không đáng phải chết. Huống chi thanh toán được ba nhà sư rồi một mình ứng phó với tám người kia, cuộc thế cũng gian nan không kém. Trước mắt thấy hai bên thắng bại nhất thời chưa rõ ràng, chàng cúi đầu nhìn xuống, thấy có một khối nham thạch lấp chặt miệng địa lao, chỉ để hở ra một cái khe, chắc là để cho Tạ Tốn có chỗ thở và là nơi đưa đồ ăn xuống. Chàng nghĩ thầm thời cơ này trong chốc lát sẽ không còn nữa, đợi đến khi hai bên thắng bại đã rõ rồi, hoặc người trong chùa Thiếu Lâm chạy lên cứu viện thì sẽ không cứu được nghĩa phụ nữa nên quì ngay xuống, vận dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, kình lực tuôn ra hai tay đẩy tảng đá từ từ di động.
Khối cự thạch di chuyển được chừng một thước, đột nhiên từ sau lưng một luồng kình phong thổi tới, Độ Nạn đã múa chưởng đánh vào hậu tâm chàng. Trương Vô Kỵ vừa chế ngự kình lực, vừa mượn sức, nghe bộp một tiếng, áo sau lưng rách một mảng lớn, trong cơn gió táp mưa sa những mảnh vụn bay tung như bươm bướm. Thế nhưng chưởng lực của Độ Nạn đã được chàng truyền vào tảng đá, nghe ầm một tiếng khối cự thạch đã nhích ra hơn một thước. Chưởng lực tuy đã chế ngự được rồi, không bị nội thương nhưng vì chàng bao nhiêu sức lực đã dồn về phía trước để đẩy tảng đá, sau lưng vẫn bị chạm phải đau đớn khó mà chịu nổi.
Độ Nạn đánh ra một chưởng, vòng dây đen liền lộ sơ hở, một lão già râu đen liền xông ngay vào bên trong, gậy điểm huyệt trong tay liền đâm luôn vào dưới vú trái của nhà sư. Sợi dây mềm của Thiếu Lâm tam tăng chỉ giỏi về tấn công xa, không có lợi cho chiến đấu gần, Độ Nạn liền giơ tay trái, vận kình đánh bật điểm huyệt quyết của đối phương ra. Ông già râu đen nhân cơ hội đó đâm ngón tay trỏ nhắm ngay huyệt Đàn Trung của Độ Nạn mà điểm tới. Độ Nạn kêu thầm: ?Không xong?, có ngờ đâu Nhất Chỉ Thiền của đối phương so với công phu điểm huyệt bằng đả huyệt quyết còn lợi hại hơn, trong cơn nguy cấp đành vứt sợi dây xuống, hai tay giơ lên đỡ, bảo vệ lấy ngực mình, tiếp theo ngón tay cái, ngón tay trỏ, ngón tay giữa vươn ra, phản công trở lại. Ông ta tuy đã chế ngự được địch nhân, nhưng sợi dây đã rời khỏi tay rồi, ông già sử dụng phán quan bút lập tức xông vào ngay. Ba sợi dây của ba nhà sư nay đã mất một, Kim Cương Phục Ma Khuyên đã bị phá vỡ rồi.
Bất thình lình chiếc dây đen đang nằm dưới đất bỗng dựng đầu dậy, chẳng khác gì một con rắn độc giả chết nay vùng dậy cắn người, nghe vút một tiếng nhắm ngay người đang sử dụng phán quan bút điểm tới, đầu dây chưa đến mà kình phong đã ào ạt khiến đối phương phải lạnh người. Ông già đó vội vàng giơ bút lên gạt ra, đụng phải sợi dây, rung động một cái hai vai tê tái, cây bút bên tay trái suýt nữa thì văng đi mất, còn cây bút bên tay phải bị đẩy lạc hướng đâm ngay vào một tảng đá, mảnh vụn tứ tung, lửa xẹt bốn bề. Chiếc dây đen tiếp tục vung lên,? đẩy lùi ba người của phái Thanh Hải ra ngoài xa hơn một trượng, Kim Cương Phục Ma Khuyên lại trở lại như lúc đầu, uy lực xem ra còn mạnh hơn trước.
Thiếu Lâm tam tăng vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, thấy đầu kia chiếc dây đó đang nằm trong tay Trương Vô Kỵ. Chàng tuy chưa từng luyện qua công phu Kim Cương Phục Ma Khuyên, nếu nói về tâm ý tương thông, người khác nghĩ gì mình biết liền thì không thể nào bằng được Độ Nạn, thế nhưng nếu nói về nội lực cương mãnh thì nhà sư Thiếu Lâm lại không thể nào bằng, kình lực trên sợi dây đen chẳng khác gì bài sơn đảo hải, bao trùm cả một khoảng rộng chung quanh. Hai sợi dây của Độ Ách và Độ Kiếp ở hai bên tương trợ, lập tức đẩy cả bảy người kia phải lùi ra.
Lúc này Độ Nạn toàn tâm toàn lực đối phó với ông già râu đen, nói về võ công nội lực đều thắng đối thủ, ông ta ngồi trong cái hốc cây tùng, không cần đứng lên nhưng mười ngón tay vỗ, đâm, búng, móc, điểm, phất, chộp, nắm chỉ trong vài chiêu đã đưa ông già kia vào chỗ nguy hiểm. Người đó thấy bảy đồng bọn đều lâm vào cảnh bất lợi liền giận dữ rống lên một tiếng, từ trong vòng nhảy trở ra.
Trương Vô Kỵ liền đưa sợi dây đen trở lại tay Độ Nạn rồi cúi xuống vận Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, đẩy khối đá đậy địa lao nhích thêm hơn một thước nữa, nói vọng vào trong miệng hầm:
- Nghĩa phụ, hài nhi Vô Kỵ đếu cứu viện chậm trễ, cha có ra được không?
Tạ Tốn đáp:
- Ta không ra đâu. Con yêu quí, mau mau rời khỏi nơi đây.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:
- Nghĩa phụ, cha bị người ta điểm huyệt, hay là bị xích chặt?
Chàng không đợi Tạ Tốn trả lời, tung mình nhảy xuống hầm tối, nghe tõm một tiếng, nước văng tung tóe. Thì ra sau cơn mưa như trút kia, trong địa lao nước đã ngập đến ngang lưng, một nửa người Tạ Tốn ngập trong nước.
Trương Vô Kỵ trong lòng đau khổ, giơ tay ôm Tạ Tốn, mò chung quanh tay chân ông ta, không thấy có xiềng khóa gì cả, lại nắn bóp mấy nơi huyệt đạo chủ yếu, thấy dường như không bị ai kiềm chế gì, lập tức ôm ông ta tung mình nhảy lên, ngồi trên tảng đá nói:
- Lúc này thoát thân là tiện nhất. Nghĩa phụ, thôi cha con mình đi!
Chàng vừa nói vừa cầm tay Tạ Tốn toan cất bước. Tạ Tốn vẫn ngồi yên không động đậy, hai tay ôm gối nói:
- Con ơi, tội nghiệt lớn nhất trong đời ta là đã giết hại Không Kiến đại sư. Nghĩa phụ con nếu như rơi vào tay kẻ khác thì ắt đã hết sức chống cự, nhưng nay lại bị nhốt nơi chủa Thiếu Lâm, ta đành cam tâm chịu chết để đền tội cho Không Kiến đại sư.
Trương Vô Kỵ vội nói:
- Cha lỡ tay đả thương Không Kiến đại sư cũng chỉ vì tên ác tặc Thành Côn sắp đặt mưu gian, huồng chi cái huyết cừu toàn gia của cha chưa báo được, không lẽ chịu chết dưới tay Thành Côn sao?
Tạ Tốn thở dài nói:
- Trong hơn một tháng qua, ta ngày ngày ngồi dưới hầm này nghe ba vị cao tăng tụng kinh niệm Phật, nghe từ dưới chùa vọng lên chuông sớm trống chiều, nghĩ lại chuyện đã qua, thấy tay cha nuôi con nhuộm không biết bao nhiêu máu tươi của người vô tội, dẫu chết trăm lần cũng chưa hết. Than ôi! Bao nhiêu ác nhân tội nghiệt kia, so với Thành Côn xem ra còn nặng hơn nhiều. Hảo hài tử, con đừng nghĩ tới cha làm gì, một mình mau xuống núi đi thôi.
Trương Vô Kỵ càng nghe càng nóng ruột, lớn tiếng nói:
- Nghĩa phụ,? nếu cha không chịu đi, con đành phải ép cha đấy.
Nói xong chàng tiến tới nắm lấy hai tay Tạ Tốn toan cõng lên trên lưng mình. Bỗng nghe dưới sơn đạo tiếng người lao xao, có ai đó lớn tiếng nói:
- Kẻ nào dám tới chùa Thiếu Lâm gây rối thế?
Có tiếng chân bì bõm đạp nước, hơn một chục người từ dưới chạy lên. Trương Vô Kỵ nắm lấy hai đùi Tạ Tốn, đang toan cất bước bỗng thấy huyệt Đại Trùy sau lưng tê tái, thì ra đã bị Tạ Tốn nắm lấy rồi, hai tay không còn chút hơi sức nào, đành phải buông ông ta ra, trong lòng bồn chồn muốn khóc òa lên, kêu lớn:
- Nghĩa phụ, cha ... sao cha phải khổ thế?
Tạ Tốn đáp:
- Con ngoan, nỗi oan khuất của cha con đã nói hết cho ba vị cao tăng nghe cả rồi. Còn tội nghiệt cha làm, cũng phải để một thân cha chịu báo ứng. Nếu con còn không chịu đi thì ai là người thay cha mà báo thù đây?
Trương Vô Kỵ trong bụng run lên, thấy hơn một chục nhà sư chùa Thiếu Lâm, kẻ cầm thiền trượng, người cầm giới đao, xông lên tấn công tám người kia. Leng keng leng keng hai bên giao thủ mấy hợp, ông già râu đen cầm phán quan bút thấy tình thế có đấu thêm nữa cũng không đi đến đâu, không chừng còn lâm vào cảnh nguy khốn, chỉ tức là việc đã sắp thành lại bị một thanh niên phá bĩnh quả thực tức không để đâu cho hết. Y lớn tiếng quát hỏi:
- Xin hỏi cao tính đại danh thanh niên ngồi dưới cây tùng kia, Hác Mật, Bốc Thái của Hà Gian[3] muốn biết xem cao nhân nào đã can thiệp vào thế?
Độ Ách vung sợi dây lên, nói:
- Minh Giáo Trương giáo chủ là đệ nhất cao thủ đời nay, không lẽ Hà Gian Song Sát lại không biết đến?
Ông già cầm phán quan bút ?Ồ? lên một tiếng, giơ hai món binh khí lên, nhảy ra khỏi vòng, bảy người còn lại cũng nhảy ra theo. Tăng chúng chùa Thiếu Lâm muốn đuổi theo ngăn trở nhưng tám người đó võ công thật cao siêu, chỉ nhún vai một cái đều đã xuống núi.
Những gì Trương Vô Kỵ đối đáp với Tạ Tốn ba người Độ Ách đều nghe rõ mồn một, lại nghĩ đến mới rồi chàng không nhân lúc người khác nguy nan mà ra tay, chỉ tụ thủ bàng quan, không giúp bên nào, đến khi Bốc Thái phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên tấn công đến tận nơi, cứ như Hà Gian Song Sát ra tay độc địa như thế thì giờ này tính mệnh tam tăng chắc không còn. Ba nhà sư liền bỏ sợi dây xuống, đứng thẳng dậy, chắp tay hướng về Trương Vô Kỵ, cùng nói:
- Đa tạ đại đức của Trương giáo chủ.
Trương Vô Kỵ vội vàng hoàn lễ nói:
- Chuyện phải làm thì làm, có gì đáng nói đâu.
Độ Ách nói:
- Việc ngày hôm nay, đáng ra lão nạp phải để cho Tạ Tốn đi theo Trương giáo chủ, vừa rồi nếu Trương giáo chủ? quả thực muốn cứu người, lão nạp không cách gì ngăn trở được. Có điều ba sư huynh đệ chúng tôi tuân theo pháp chỉ của phương trượng canh giữ Tạ Tốn, đã từng lập trọng thệ trước chư Phật, nếu ba anh em còn sống quyết không để Tạ Tốn thoát khỏi nơi đây. Chuyện này liên quan đến vinh nhục hàng nghìn, hàng trăm năm nay của bản phái, xin Trương giáo chủ tha thứ cho.
Trương Vô Kỵ chỉ hừ một tiếng, không trả lời. Độ Ách nói tiếp:
- Cái mối thù bị hỏng mắt của lão nạp, hôm nay coi như đã xong. Trương giáo chủ muốn cứu Tạ Tốn, xin muốn đến lúc nào cũng được, chỉ cần phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba anh em chúng tôi, lập tức có thể dắt Sư Vương đi khỏi nơi đây. Trương giáo chủ muốn ước định thêm người tiếp tay, xa luân chiến cũng được, cùng một lượt xông lên cũng được, chúng tôi chỉ có ba sư huynh đệ ứng chiến mà thôi. Trước khi Trương giáo chủ giá lâm, ba anh em chúng tôi nhất định sẽ bảo vệ cho Tạ Tốn được chu toàn, quyết không để cho Viên Chân làm nhục ông ta một câu nửa chữ, đụng đến một sợi lông.
Trương Vô Kỵ nhìn về Tạ Tốn, trong đêm tối chỉ thấy lờ mờ thân hình cao to của ông ta, mái tóc dài phủ xuống vai, đứng cúi đầu, dường như trong lòng hết sức hối hận về những tội khiên đã làm, mất hết cái uy phong lẫm lẫm thuở xưa. Nước mắt Trương Vô Kỵ như muốn trào ra, nghĩ thầm: ?Hôm nay mình không thể nào đánh bại họ nữa rồi, nghĩa phụ lại không chịu đi, chỉ còn nước hẹn với ông ngoại, Dương tả sứ, Phạm hữu sứ cùng lên tái đấu. Bao sợi dây này kết thành một vòng chẳng khác gì tường đồng vách sắt, nếu lúc nãy không vì Độ Nạn đại sư đánh vào lưng ta một chưởng thì Bốc Thái không thể nào có thể xông vào được. Kỳ tới có thêm ông ngoại và tả hữu Quang Minh sứ giả tiếp tay, phá được hay không cũng chưa biết. Ôi, việc trước mắt chỉ đành đến đâu hay đó thôi?.
Nghĩ như thế chàng liền nói:
- Nếu đã như vậy, nhất định sẽ quay trở lại lãnh giáo cao chiêu của ba vị đại sư.
Chàng đi đến ôm lưng Tạ Tốn nói:
- Nghĩa phụ, con đi đây.
Tạ Tốn gật đầu, giơ tay vuốt ve đầu tóc của chàng nói:
- Con chẳng cần phải trở lại cứu cha làm chi, cha nhất định không đi đâu. Con ngoan, mong con mọi việc ở hiền gặp lành, không phụ lòng kỳ vọng của ta và cha mẹ con. Con nên học cha con, đừng học nghĩa phụ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cha con và nghĩa phụ đều là anh hùng hảo hán, là đại trượng phu quang minh lỗi lạc, đều đáng cho con noi theo.
Nói xong chàng khom mình bái biệt, thân hình lắc một cái đã vọt ra ngoài vòng ba cây tùng, hướng về ba nhà sư Thiếu Lâm giơ tay chào, thi triển khinh công thoắt một cái đã không còn thấy đâu nữa nhưng tiếng hú trong trẻo của chàng chỉ nháy mắt đã cách xa hàng dặm.
Những nhà sư Thiếu Lâm ở trên ngọn núi nhìn nhau kinh hãi, từng nghe tiếng Trương giáo chủ của Minh Giáo võ công trác tuyệt nhưng đâu có ngờ thần diệu tới thế.
Trương Vô Kỵ thấy hình tích mình đã bại lộ nên định tâm biểu hiện một môn công phu, cốt để tăng chúng chùa Thiếu Lâm sinh lòng e ngại ngõ hầu đối đãi với Tạ Tốn cho tử tế. Tiếng hú của chàng vận dụng trung khí, miên miên bất tuyệt, theo tiếng gió mưa sấm chớp mà vang vang truyền đi, thật chẳng khác gì nương theo một con rồng đang bay múa. Chân chàng thi triển toàn lực khinh công, mỗi lúc một nhanh, tiếng hú cũng càng lúc càng vang động. Hơn một nghìn nhà sư trong chùa Thiếu Lâm đang ngủ giật mình choàng tỉnh dậy, cho đến khi tiếng hú mỗi lúc một xa mới bàn tán xôn xao. Không Văn, Không Trí thấy Trương Vô Kỵ đã đến, lại càng lo lắng ưu phiền.
Trương Vô Kỵ chạy được mấy dặm đột nhiên bên đường từ sau một cây liễu to có tiếng người gọi:
- Này!
Một người vụt bước ra, chính là Triệu Mẫn. Trương Vô Kỵ ngừng hú đứng lại, giơ tay nắm lấy tay nàng, thấy tình nương ướt đẫm nước mưa, trên đầu trên tóc từng giọt ròng ròng chảy xuống. Triệu Mẫn hỏi:
- Đã cùng với mấy tên trọc chùa Thiếu Lâm động thủ chưa?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Rồi.
Triệu Mẫn hỏi thêm:
- Tạ đại hiệp ra sao? Đã gặp ông ta chưa?
Trương Vô Kỵ bá vai nàng, cùng sóng bước dưới mưa, đem mọi việc kể sơ qua lại một lượt. Triệu Mẫn trầm ngâm rồi hỏi:
- Chàng có hỏi ông ta vì sao lại sểnh tay để đến nỗi bị bắt chưa?
Trương Vô Kỵ nói:
- Anh chỉ chăm chăm lo việc làm sao cứu ông ta thoát hiểm, không có lúc nào rỗi hơi để hỏi những chuyện đó cả.
Triệu Mẫn thở dài một tiếng, không lên tiếng nữa. Trương Vô Kỵ gặng hỏi:
- Em khó chịu hay sao?
Triệu Mẫn đáp:
- Đối với chàng thì là chuyện nhàn rỗi, còn với thiếp thì là chuyện thật quan trọng. Thôi được, đợi cứu Tạ đại hiệp ra rồi hỏi ông ta cũng chưa muộn. Thiếp chỉ sợ ...
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sợ cái gì? Em sợ mình không cứu được nghĩa phụ hay sao?
Triệu Mẫn đáp:
- Minh Giáo so với các phái khác trong võ lâm thì mạnh hơn nhiều, nếu muốn thì thể nào chẳng tìm được cách cứu Tạ đại hiệp ra. Thiếp chỉ sợ Tạ đại hiệp đã nhất tâm lấy cái chết để trả nợ cho Không Kiến thần tăng thôi.
Hồi 36 YÊU KIỀU TAM TÙNG UẤT THANH THƯƠNG
Trương Vô Kỵ cũng lo chuyện đó, hỏi lại:
- Em xem có thể như thế chăng?
Triệu Mẫn đáp:
- Chỉ mong đừng xảy ra như vậy.
Hai người vừa đi vừa truyện trò đã đến trước nhà vợ chồng họ Đỗ. Triệu Mẫn cười nói:
- Hành tích của chàng đã bại lộ rồi, không nên dấu diếm họ nữa làm gì.
Trương Vô Kỵ thấy cánh cửa chiếc nhà tranh chỉ khép hờ, liền giơ tay đẩy ra, lắc người mấy cái cho ráo những giọt nước mưa rồi mạnh mẽ tiến vào, đột nhiên ngửi thấy mùi máu tanh. Chàng trong lòng kinh hãi, tay trái vội thò ra sau lưng đẩy Triệu Mẫn ra ngoài cửa, trong đêm tối có người vươn tay chộp vào chàng. Trảo đó im lìm không một tiếng động, nhanh nhẹn tuyệt luân, đến khi chàng nhận ra được, những ngón tay đã chạm vào mặt. Trương Vô Kỵ lúc này không còn kịp né tránh, chân trái liền phóng ra, đá thẳng vào ngực người kia. Người nọ vội lật ngược tay móc một cái, cùi chỏ đánh xuống huyệt Hoàn Khiêu trên đùi chàng, chiêu số thật là độc địa. Nếu như Trương Vô Kỵ rút chân về để tránh, bàn tay trái của kẻ địch ắt sẽ vươn ra móc đôi mắt chàng, cho nên năm ngón tay chàng liền chộp hờ ra. Quả nhiên không sai, bàn tay Trương Vô Kỵ bắt ngay được chưởng của địch nhân, nhưng ngay lúc đó huyệt Hoàn Khiêu trên đùi cũng tê tái, đứng không vững chân phải liền khuỵu ngay xuống.
Chàng đang định thừa thế bẻ gãy cổ tay kẻ địch, nhưng thấy bàn tay nắm được nhẵn nhụi mềm mại, chính là tay một người đàn bà, trong lòng chợt động nên không nặng tay nữa, nhắc luôn người đó lên ném ra, nghe kịch một cái, vai đã trúng phải một dao đau nhói. Người kia nhảy một cái đã vọt ra khỏi cửa, múa chưởng đánh thẳng vào mặt Triệu Mẫn. Trương Vô Kỵ biết Triệu Mẫn không sao chống đỡ nổi, thể nào cũng chết tươi ngay tại chỗ, cố nhịn đau tung mình nhảy lên tung chưởng ra đỡ, hai chưởng đụng nhau. Người kia thân hình lảo đảo, chân loạng choạng liền mượn ngay chưởng lực của đối phương, nhảy ra ngoài xa mấy trượng, trong đêm tối biến mất không còn thấy đâu nữa.
Triệu Mẫn sợ hãi hỏi:
- Ai thế?
Trương Vô Kỵ ?Hừ? một tiếng, hỏa triệp[4] trong người đã bị nước mưa làm ướt cả, đánh không ra lửa, sợ rằng đoản đao của kẻ địch đâm vào vai? có tẩm độc, không dám rút ra nói:
- Em đốt đèn lên.
Triệu Mẫn mò xuống bếp kiếm hỏa đao hỏa thạch, thắp một ngọn đèn dầu, thấy con dao cắm trên vai chàng giật mình kinh hãi. Trương Vô Kỵ thấy mũi dao không có thuốc độc, cười nói:
- Chỉ là ngoại thương, không sao cả.
Chàng liền rút dao ra, quay dầu lại thấy Đỗ Bách Đương và Dịch Tam Nương nằm chúi tại một góc nhà, không kịp rịt vết thương còn đang chảy máu, chạy lại xem, thấy hai người chết tự bao giờ. Triệu Mẫn kinh hoảng nói:
- Lúc em đi ra, hai người này vẫn còn khỏe mạnh bình thường mà.
Trương Vô Kỵ gật đầu, đợi Triệu Mẫn buộc vết thương cho chàng xong, cầm đoản đao lên xem, chính là binh khí của vợ chồng họ Đỗ vẫn thường dùng, nhìn quanh trên nóc nhà, các cột kèo, trên bàn, dưới đất cắm đầy đao, hiển nhiên kẻ địch giao đấu kịch liệt với hai ông bà, từng chiếc từng chiếc đánh rơi hết, sau cùng mới ra tay giết hại. Triệu Mẫn sợ hãi nói:
- Người này võ công lợi hại thật.
Khi nãy trong đêm tối hai người đấu mò với nhau, nếu như Trương Vô Kỵ không ứng biến thật nhanh, đoán được người kia sẽ ra tay móc hai mắt mình, thì giờ này chàng nếu không thành một kẻ đui mù, thì cũng đã cùng Triệu Mẫn chết nằm sóng soài trên mặt đất. Chàng lại coi hai cái xác vợ chồng họ Đỗ, thấy trên ngực mấy rẻ xương sườn gãy thành từng đoạn, ngay cả gân cốt sau lưng cũng nát bấy, quả đã bị chết vì một loại chưởng lực cực kỳ âm độc, cực kỳ ghê gớm. Chàng mấy lần gặp đại địch, vào ra hung hiểm nhiều lần, thế nhưng nghĩ lại chỉ mấy chiêu qua lại nhanh như cắt bắt mồi trong đêm tối vừa qua, không khỏi càng nghĩ càng ghê rợn. Tối hôm nay hai trận ác đấu, trận đầu một địch ba, tuy có giằng dai nhưng không kinh tâm động phách như trận thứ hai chỉ qua vài chiêu ngắn ngủi.
Triệu Mẫn lại hỏi:
- Ai thế?
Trương Vô Kỵ lắc đầu không trả lời. Triệu Mẫn đột nhiên hiểu ra, trên ánh mắt lộ vẻ kinh hoàng, đứng thừ người một hồi rồi sà vào lòng Vô Kỵ, sợ đến khóc nức nở.
Hai người đều biết rằng, nếu Triệu Mẫn không nghe tiếng hú của Trương Vô Kỵ, trời mưa trời gió cũng lặn lội đi đón thì không sao qua khỏi kiếp nạn, lúc này nơi góc nhà nằm chết không phải hai người mà là ba. Trương Vô Kỵ vỗ nhè nhẹ lên lưng nàng, dịu dàng an ủi. Triệu Mẫn nói:
- Người đó muốn giết em nên ra tay giết vợ chồng họ Đỗ trước, núp ở đây ám toán, nhất định không phải định giết chàng đâu.
Trương Vô Kỵ nói:
- Kể từ giờ, em nhất quyết đừng rời xa anh lấy một bước.
Chàng trầm ngâm rồi tiếp:
- Chưa đầy một năm, sao nội lực võ công lại tiến triển nhanh đến thế nhỉ? Trên đời này ngoài anh ra, e rằng chẳng còn ai có thể bảo vệ chu toàn được cho em.
Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ lấy mai thuổng của Đỗ Bách Đương đào một cái huyệt sâu đem chôn hai vợ chồng họ Đỗ, cùng Triệu Mẫn hai người quì xuống lạy mấy cái, nghĩ đến Dịch Tam Nương đối với hai người hết lòng nhân hậu yêu thương, không khỏi thương cảm. Bỗng nghe từ phía chùa Thiếu Lâm tiếng chuông boong boong không dứt, văng vẳng truyền đến, nghe thật khẩn cấp, sau đó phương đông một chiếc pháo bông màu xanh bắn thẳng lên trời, phương nam màu đỏ, phương tây mà trắng, phương bắc màu đen, còn từ xa xa mấy dặm là một chùm pháo bông màu vàng. Năm đạo pháo bông vây chùa Thiếu Lâm vào giữa. Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Tất cả Ngũ Hành Kỳ của Minh Giáo đã đến, chính thức gây chuyện với chùa Thiếu Lâm rồi đó, mình tới mau.
Chàng lật đật cùng Triệu Mẫn thay đổi y phục, rửa sạch các vết bẩn trên mặt mũi tay chân, rồi hối hả đi về phía chùa Thiếu Lâm. Chỉ mới vài dặm, đã thấy một đoàn giáo chúng Minh Giáo tay cầm cờ nhỏ màu vàng, đang đi lên trên núi. Trương Vô Kỵ kêu lớn:
- Nhan kỳ sứ có ở đó không?
Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ là Nhan Viên nghe tiếng gọi mình, quay lại thấy giáo chủ, mừng quá vội vàng tiến lên hành lễ tham kiến. Các giáo chúng trong kỳ hoan hô vang động, cùng phục xuống vái lạy.
Nhan Viên bẩm báo: Quần hào Minh Giáo? nghe được tin tức về nơi chốn của Tạ Tốn rồi, sau khi bàn bạc, đều thấy rằng nếu đợi đến tiết Đoan Dương cùng tất cả anh hùng tập trung tại chùa Thiếu Lâm để đòi người, thì như thế sẽ đối địch với tất cả các môn phái, trước mắt không cách nào có thể bẩm cho giáo chủ được, đành phải quyền nghi, Dương Tiêu, Phạm Dao tất lãnh các cao thủ trong Minh Giáo trước tiết Đoan Dương mười ngày cùng đến chùa Thiếu Lâm để yêu cầu thả Tạ Tốn ra. Vẫn biết rằng đại động can qua là chuyện khó có thể tránh được nhưng vì tìm khắp nơi không thấy giáo chủ đâu nên thật chẳng khác gì quần long vô thủ.
Các giáo chúng liền thổi tù và, báo cho mọi người biết giáo chủ đã ra mặt. Chẳng bao lâu, Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương, Chu Điên, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc, Thiết Quan đạo nhân các người trước sau lục tục kéo đến. Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hồng Thủy, Liệt Hỏa bốn kỳ kia vẫn tiếp tục từ bốn phía vây chùa Thiếu Lâm. Mọi người gặp nhau ai nấy đều thật vui mừng. Dương Tiêu và Phạm Dao thì tiến lên tạ tội mình đã tự ý chuyên quyền. Trương Vô Kỵ đáp:
- Các vị cũng đừng khiêm tốn quá, tất cả anh em chúng ta đều đồng tâm hiệp lực cứu Tạ Pháp Vương, chính là vì nghĩa khí huynh đệ trong bản giáo. Bản nhân trong lòng thật là cảm kích, lẽ nào lại còn trách cứ?
Sau đó chàng kể lại mình trà trộn vào trong chùa Thiếu Lâm, đêm hôm qua đã cùng bọn ba nhà sư Độ Ách động thủ kể qua lại một lượt. Mọi người nghe thấy tất cả đều do gian mưu của Thành Côn, ai ai cũng đều phẫn nộ. Chu Điên và Thiết Quan đạo nhân thì ngoạc mồm chửi rủa. Trương Vô Kỵ nói:
- Hôm nay bản giáo đường đường xuất quân đến phương trượng chùa Thiếu Lâm đòi người, tốt nhất là làm sao đừng tổn thương hòa khí. Vạn bất đắc dĩ nếu phải ra tay, chúng ta thứ nhất là để cứu Tạ Pháp Vương, thứ hai là để bắt Thành Côn, ngoài ra không được sát hại người vô tội.
Mọi người ai nấy đều lên tiếng đáp lời. Trương Vô Kỵ quay sang nói với Triệu Mẫn:
- Mẫn muội, tốt hơn hết em nên cải trang đi, đừng để cho tăng chúng trong chùa Thiếu Lâm nhìn ra chân tướng, khỏi thêm phiền nhiễu.
Hôm trước nàng đã lùa bắt giữ hết các nhà sư chùa Thiếu Lâm đem về Đại Đô, cùng với phái Thiếu Lâm gây thù chuốc oán thật sâu. Triệu Mẫn cười nói:
- Nhan đại ca, để tôi giả làm một huynh đệ dưới cờ của đại ca nhé?
Nhan Viên liền sai một anh em dưới cờ cởi áo ngoài để cho Triệu Mẫn khoác lên. Triệu Mẫn chạy vào trong rừng phía sau núi, lật đật cải trang, bôi đen mặt mũi, đến khi ra khỏi rừng đã thành một hán tử gầy gò mặt mũi đen đúa.
Tiếng tù và lại nổi lên, quần hào Minh Giáo xếp thành đội đi lên núi. Chùa Thiếu Lâm đã nhận được thiếp bái sơn của Minh Giáo từ trước, Không Trí thiền sư liền tất lãnh tăng chúng ở sơn đình đón chờ. Không Trí nghe lời của Viên Chân, tin chắc những nhà sư chùa Thiếu Lâm bị Triệu Mẫn bắt nhốt ở Đại Đô, chặt đứt ngón tay, ép phải truyền thụ võ công, là gian kế Minh Giáo ngầm cấu kết sắp đặt với phủ Nhữ Dương Vương, về sau Trương Vô Kỵ ra tay cứu trợ, chỉ là giả vờ để lấy lòng toan tính mưu đồ khác. Vì thế khi gặp nhau, mặt mày ông ta hầm hầm, chắp tay hành lễ không nói một câu.
Trương Vô Kỵ vòng tay ôm quyền nói:
- Tệ giáo có việc phải thành khẩn cầu đến quí phái nên lên núi để bái kiến phương trượng thần tăng.
Không Trí gật đầu, nói:
- Xin mời!
Ông ta dẫn quần hào Minh Giáo đi về phía sơn môn. Không Văn phương trượng liền dẫn Đạt Ma Đường, La Hán Đường, Bát Nhã Đường, Giới Luật Viện các thủ tọa cao tăng, ở ngoài sơn môn nghinh tiếp, mời quần hào đến Đại Hùng Bảo Điện chia ra chủ khách hai bên ngồi xuống, các chú tiểu liền đem trà xanh lên.
Không Văn liền cùng Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Ân Thiên Chính các người hàn huyên mấy câu, sau đó lặng yên. Trương Vô Kỵ nói:
- Phương trượng thần tăng, chúng tôi thật không có chuyện gì thì đâu có đến ôm chân Phật, đến đây xin phương trượng nể mặt đồng đạo võ lâm, phóng thích Tạ Pháp Vương của tệ giáo, đại ân đại đức đó sau này thể nào cũng tìm dịp báo đáp.
Không Văn đáp:
- A Di Đà Phật, người xuất gia lấy từ bi làm gốc, giới sân giới sát, thực không muốn làm khó Tạ thí chủ làm gì. Thế nhưng tệ sư huynh Không Kiến lại chết dưới tay Sư Vương, Trương giáo chủ đứng đầu một tông giáo, chắc cũng hiểu qui củ của võ lâm thế nào rồi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chuyện này bên trong cũng có nguyên do, không thể chỉ trách Tạ Pháp Vương được.
Chàng liền đem chuyện Không Kiến cam tâm chịu mười ba quyền để hóa giải một đại oan nghiệt cho võ lâm kể lại. Bọn Không Văn chỉ mới nghe một nửa, tất cả đã cùng niệm Phật hiệu, cung kính đứng lên. Không Văn nước mắt rưng rưng, run run nói:
- Thiện tai, thiện tai! Không Kiến sư huynh lấy đại nguyện lực để hoàn thành việc đại thiện này, công đức thật không phải ít.
Quần tăng cúi đầu đọc kinh, đối với cử chỉ nhân hiệp cao nghĩa của Không Kiến ai ai cũng bội phục. Quần hào Minh Giáo tất cả cũng đứng lên để tỏ lộ lòng kính ngưỡng.
Trương Vô Kỵ kể hết đầu đuôi câu chuyện ngày hôm đó, rồi nói:
- Tạ Pháp Vương lỡ tay đánh chết Không Kiến thần tăng, hối hận vô cùng, thế nhưng nghĩ cho cùng, việc này tội khôi họa thủ[5] chính là Viên Chân đại sư của quí tự.
Chàng thấy không có Viên Chân trong điện nên nói tiếp:
- Xin mời Viên Chân đại sư ra đây, trước mặt đối chất để phân biện cho rõ ai phải ai trái.
Chu Điên chen vào:
- Đúng thế, trên Quang Minh Đính con lừa trọc đó giả vờ chết, vậy mà lại sống nhăn, thập thập thò thò, có tốt lành chó gì đâu? Mau gọi y ra đây coi nào.
Từ hôm bị Viên Chân cho một vố đau trên đỉnh Quang Minh đến nay, trong lòng Chu Điên? lúc nào cũng hậm hực. Trương Vô Kỵ vội nói:
- Chu tiên sinh không được vô lễ trước mặt phương trượng đại sư.
Chu Điên nói:
- Tôi chửi là chửi con lừa trọc Viên Chân, chứ đâu có dám chửi phương trượng là trọc ...
Chữ trọc vừa ra khỏi miệng, y biết ngay là không ổn, vội vàng giơ tay bịt miệng lại.
Không Trí thấy Chu Điên mở lời vô lễ, lại càng tức giận, nói:
- Thế còn cái chết của sư đệ Không Tính, Trương giáo chủ giải thích ra làm sao đây?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không Tính thần tăng hiệp nghĩa hào sảng, tại hạ năm xưa có duyên bái hội trên đỉnh Quang Minh trong lòng hết sức khâm phục. Không Tính đại sư cũng đã từng ước hẹn với tại hạ, ngày sau có dịp sẽ trao đổi để trau giồi thêm với nhau về võ học. Ngờ đâu bất hạnh gặp phải đại nạn, tại hạ thật là thương tiếc. Việc đó do gian nhân ám toán, thực không can hệ gì đến tệ giáo cả.
Không Trí lạnh lùng nói:
- Trương giáo chủ việc gì cũng chối sạch, chắc chuyện bắt tay với quận chúa của phủ Nhữ Dương Vương chắc cũng không có thật hay sao?
Trương Vô Kỵ đỏ mặt nói:
- Quận chúa không hợp ý với cha anh nên đầu nhập tệ giáo. Những gì ngày xưa quận chúa bất kính đối với quí tự, tại hạ sẽ bảo cô ta lên chùa lễ Phật, trịnh trọng tạ tội.
Không Trí quát lên:
- Trương giáo chủ nói trây nói trớ như thế thì liệu có ích gì? Ngươi thân làm chủ một giáo phái, vậy mà lại ăn càn nói bậy, không khỏi để anh hùng thiên hạ cười chê hay sao?
Trương Vô Kỵ nghĩ việc giết Không Tính, bắt giữ quần tăng quả thật là tội tầy trời của Triệu Mẫn, tuy không liên quan gì đến Minh Giáo nhưng lúc này nàng đã trao thân gửi phận cho mình, không thể nào gạt qua một bên không lý tới, trong lúc còn đang khó nghĩ thì Thiết Quan đạo nhân đã gay gắt nói:
- Không Trí đại sư, giáo chủ ta kính trọng ông là tiền bối cao tăng nên nể nang đấy thôi, ông cũng phải biết tự trọng. Giáo chủ ta thủ tín trọng nghĩa, không lẽ lại nói láo hay sao? Ngươi làm nhục giáo chủ ta, khác nào làm nhục hàng trăm vạn giáo chúng. Dẫu giáo chủ ta có khoan hồng đại lượng, chuyện không thèm chấp, nhưng bọn bộ thuộc chúng ta cũng không phải vì thế mà bỏ qua đâu.
Không Trí cười khẩy:
- Bách vạn chi chúng thì đã sao? Không lẽ đạp được chùa Thiếu Lâm thành bình địa ư? Ma giáo làm nhục chùa Thiếu Lâm ta, không phải chỉ mới hôm nay. Bọn ta sểnh tay bị bắt nhốt nơi chùa Vạn An, chỉ trách mình sơ sẩy vô tâm, chứ xưa nay chính tà không thể đứng chung cái đó cũng có gì lạ đâu. Các ngươi đến chùa Thiếu Lâm khắc ở sau lưng tượng La Hán mười sáu chữ, hừ hừ, ?Tiên tru Thiếu Lâm, Tái diệt Võ Đương, Duy ngã Minh Giáo, Võ lâm xưng vương[6]?, uy phong quá, dữ tợn quá!
Hồi trước các võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn sau khi bắt các nhà sư Thiếu Lâm đi rồi, dùng đao khắc mười sáu chữ đó vào sau lưng mười sáu pho tượng La Hán. Phạm Dao đợi cho mọi người đi khỏi, lập tức quay lại La Hán Đường, di chuyển mười sáu? pho tượng đó cho lưng xoay vào trong tường để âm mưu giá họa cho Minh Giáo của Triệu Mẫn không thành. Về sau bọn Dương Tiêu phát giác, coi xong liền xoay các pho tượng La Hán lại cho ngay ngắn, có ngờ đâu các nhà sư chùa Thiếu Lâm vẫn tìm ra. Trương Vô Kỵ mồm miệng không nhanh nhảu, nghĩ đến quả thực chuyện đó do Triệu Mẫn gây rối, trong lòng sượng sùng, không biết nói sao cho phải.
Dương Tiêu liền đáp:
- Lời của Không Trí đại sư khiến chúng tôi thật chẳng hiểu ra sao cả. Giáo chủ tệ giáo Trương giáo chủ chính là công tử của Trương ngũ hiệp phái Võ Đương, trên giang hồ còn ai không biết. Chúng tôi dẫu có cuồng vọng đến thế nào chăng nữa cũng chẳng dám nhục mạ đến thân sinh của giáo chủ. Còn bản thân Trương giáo chủ ư, không lẽ lại khắc ?tái hủy Võ Đương? những chữ ấy hay sao? Phương trượng đại sư và Không Trí đại sư đều là những bậc cao tăng đức độ, chuyện nhỏ nhặt như thế sao lại không nghĩ đến? Tại hạ nhất quyết không thể nào tin được chuyện này.
Mấy câu đó lời lời đanh thép, chặn ngay Không Trí không còn nói gì thêm được nữa. Phương trượng Không Văn tu hành đã lâu, tâm tính từ hòa, dẫu sao cũng coi đại cuộc là trọng, trong bụng cũng biết Minh Giáo thế mạnh, nếu như hai bên quả đi đến chỗ động thủ, chỉ e rằng ngôi chùa Thiếu Lâm cổ kính đã nghìn năm nay đến tay mình sẽ bị hủy mất. Ông liền nói:
- Các vị chỉ tranh luận bằng lời không thôi, cũng bằng vô ích, xin theo lão nạp đến La Hán Đường, chiêm ngưỡng pháp tượng, ai phải ai trái sẽ thấy ngay.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Một khi đến La Hán Đường thì mọi việc đổ bể hết?. Chàng còn trù trừ chưa dám trả lời, Dương Tiêu liền nói:
- Thế thì hay lắm.
Trương Vô Kỵ không hiểu ý ông ta ra sao nhưng thấy Triệu Mẫn trà trộn vào trong Hậu Thổ Kỳ chưa bước chân vào chùa, chắc là tăng chúng trong chùa Thiếu Lâm chưa phát giác được, cho nên cũng không lo lắm.
Kế đó tri khách tăng đi trước dẫn đoàn người đi về hướng La Hán Đường. Không Văn quì xuống lạy các pho tượng La Hán rồi khấn:
- Đệ tử kinh động các pháp tượng, xin chư vị La Hán tha thứ cho.
Sau khi hành lễ xong, nhà sư sai sáu đệ tử cung kính di chuyển các pháp thân. Những đệ tử đó tuân lệnh trèo lên, chắp tay khấn vái mấy câu, sau đó ba người một bên, chia ra hai phía, xoay pho tượng La Hán thứ nhất lại.
Chỉ thấy pho tượng đó sau lưng đẽo phẳng lì, thếp vàng, trước đây vốn có một chữ ?tiên? thật lớn nay không còn chút dấu tích nào nữa. Việc như thế, chẳng những Không Văn, Không Trí cả bọn lạ lùng, ngay cả Trương Vô Kỵ cũng thật ngoài dự liệu.
Quần đệ tử Thiếu Lâm lập tức cùng trèo lên, xoay tất cả các pho tượng La Hán còn lại ra ngoài, nhưng sau lưng có còn nét bút hay một chữ nào đâu? Các nhà sư mặt mày ngơ ngẩn, không ai nói ra được câu nào. Chính bọn họ đã thấy rõ ràng mỗi pho tượng La Hán đằng sau đều có khắc một chữ lớn, xếp lại thành bốn câu: ?Tiên tru Thiếu Lâm, Tái diệt Võ Đương, Duy ngã Minh Giáo, Võ lâm xưng vương? tổng cộng gồm mười sáu chữ, sao bây giờ lại không thấy đâu cả? Sau lưng các pho tượng La Hán vết thếp vàng thật mới, rõ ràng ai đó mới tô lên, thế nhưng chùa Thiếu Lâm mấy tháng nay canh giữ cực kỳ nghiêm mật, muốn xóa hết các vết tích chữ kia rồi sơn lại một lớp sơn mới, thực không phải dễ dàng, sao tăng chúng trong chùa chẳng một ai hay biết?
Trương Vô Kỵ quay lại thấy Phạm Dao và Vi Nhất Tiếu hai người nháy nhau cười, liền hiểu ngay là anh em trong bản giáo đã ra tay, nghĩ thầm: ?Làm được việc này quả là thần thông quảng đại, thật là ghê gớm?.
Dương Tiêu thấy các nhà sư kinh ngạc lạ thường liền nói ngay:
- Quí tự phúc trạch thâm hậu, công đức vô lượng, kim thân của mười sáu pho tượng hoàn hảo không suy suyển chút nào. Chắc có lẽ đúng như Không Trí đại sư đã nói, mười sáu vị La Hán trước đây đã bị kẻ gian hủy hoại nhưng Phật pháp vô biên đã hiển linh tự sửa chữa lại, thực là đáng mừng.
Nói xong y liền hướng về các pho tượng La Hán quì xuống khấu đầu, Trương Vô Kỵ và tất cả những người khác cũng quì theo vái lạy.
Không Văn, Không Trí cả bọn tuy chẳng ai tin rằng những lời nói khéo La Hán hiển linh, Phật pháp vô biên là sự thật, nhưng cũng đoán chừng Minh Giáo ngầm ra tay, dẫu sao chăng nữa cũng đã cố công chuộc tội với bản tự rồi, những bực tức trong lòng tiêu giảm ít nhiều, lại thấy các ma đầu của ma giáo thần xuất quỉ một như vậy cũng đâm ba phần? úy kị, ba phần bội phục. Không Văn nói:
- Các pho tượng La Hán nay đã hoàn hảo như xưa, chuyện này không còn gì phải nói nữa.
Ông vẫy tay cho các đệ tử xoay các vị La Hán lại rồi nói:
- Đêm hôm qua Trương giáo chủ giáng lâm, đã gặp qua ba vị sư thúc của lão nạp rồi. Nghe nói Độ Ách sư thúc và Trương giáo chủ đã từng đính ước, chỉ cần giáo chủ phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba vị sư thúc chúng tôi thì cứ việc đem Tạ thí chủ đi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế, Độ Ách đại sư quả có nói thế. Thế nhưng tại hạ hết sức khâm phục võ công của ba vị cao tăng, tự biết mình không phải là địch thủ, đêm hôm qua đã thua ba vị cao tăng rồi, kẻ bại trận đâu có còn dám huênh hoang gì nữa?
Không Văn nói:
- A Di Đà Phật, Trương giáo chủ nói quá đấy thôi. Đêm hôm qua thắng bại chưa rõ rệt, lại vì giáo chủ bụng dạ nhân hiệp, ra tay tương trợ, ba vị sư thúc thật cảm kích sâu xa cao nghĩa của giáo chủ.
Bọn Dương Tiêu, Phạm Dao nghe Trương Vô Kỵ nói ba vị cao tăng võ công tinh diệu ai cũng muốn được biết qua. Ân Thiên Chính liền nói:
- Nếu quả như các vị cao tăng nhất định lấy việc cao thấp trong võ học để giải quyết, thưa giáo chủ, chúng ta không lượng sức mình, cũng đành lãnh giáo tuyệt học của phái Thiếu Lâm thôi. Chúng ta có đến đây cũng vì việc cứu Tạ huynh đệ, đến nước cùng này thì cũng không còn đường nào khác, chứ nào dám đến gây chuyện với chốn lãnh tụ võ lâm là chùa Thiếu Lâm.
Trương Vô Kỵ xưa nay vốn kính trọng lời nói của ông ngoại mình, lại nghĩ ngoài cách đó ra không còn cách nào hay hơn nữa liền nói:
- Các anh em nghe tại hạ ca tụng cái thế thần công của ba vị cao tăng, đều nói ba vị tọa quan đã mấy chục năm, trong võ lâm không một ai hay biết, nay chúng tôi có dịp bái kiến, thực là đại hạnh bình sinh.
Không Trí giơ tay nói:
- Xin mời!
Ông ta liền dẫn đường cho quần hào đi về phía đỉnh núi sau chùa.
Các giáo chúng thuộc Hồng Thủy Kỳ của Minh Giáo do lệnh của chưởng kỳ sứ Đường Dương bày trận tại chân ngọn núi này, thanh thế thật là hùng hậu. Cả bọn Không Văn nhìn qua mà làm như không thấy, cứ đi thẳng lên núi. Không Văn, Không Trí chắp tay hướng về phía ba cây tùng bẩm báo. Độ Ách nói:
- Cừu oán với Dương Đính Thiên tối hôm qua đã hóa giải rồi, tượng La Hán ngày hôm nay cũng đã xong, thật hay biết mấy, hay biết mấy. Trương giáo chủ, bên quí vị mấy người tiến lên động thủ đây?
Bọn Dương Tiêu thấy ba nhà sư thân hình bé nhỏ, gầy gò, ngồi lọt thỏm vào trong ba hốc cây tùng thật chẳng khác gì ba cái xác khô, thế nhưng mấy câu đó vang vọng sơn cốc, quả thực nội lực thâm hậu, ai nấy đều kinh hoàng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Hôm qua có một mình ta, đấu không lại ba nhà sư này. Hôm nay tuy mình đông thật nhưng nếu tất cả ùa lên, một là bó chân bó cẳng, hai là ỷ đông để thắng làm giảm uy phong của bản giáo. Nhiều cũng không xong, ít cũng không xong, mình cứ ba người chống ba người là công bình hơn cả?. Chàng liền đáp:
- Đêm hôm qua tại hạ đã được biết đến thần công của ba vị cao tăng, trong lòng thật là bội phục, đúng ra chẳng nên lộ cái xấu trước mặt ba vị một lần nữa. Thế nhưng Tạ Pháp Vương đối với tại hạ có cái tình cha con, với các anh em khác có cái nghĩa bằng hữu, cho nên chúng tôi chẳng thể nào không cứu ông ta ra. Tại hạ có ý mời thêm hai anh em khác trong bản giáo ra giúp đỡ một tay, lấy ba địch ba để hai bên ngang tay lãnh giáo.
Độ Ách thản nhiên nói:
- Trương giáo chủ chẳng phải khiêm tốn như thế. Nếu trong quí giáo có được một người nào tài ba ngang ngửa với giáo chủ, thì chỉ cần hai vị liên thủ cũng đã đủ sức giết ba anh em chúng tôi rồi. Thế nhưng nếu lão nạp không lầm, người có thân thủ như giáo chủ trên đời này chắc chẳng có ai đâu, cho nên dẫu bao nhiêu người tất cả xông lên thì cũng thế.
Bọn Chu Điên, Thiết Quan đạo nhân người nọ nhìn người kia, đều nghĩ lão lừa trọc này quả thật huênh hoang quá, chẳng coi anh hùng thiên hạ vào đâu, nhưng trong giọng điệu vẫn thừa nhận không bằng được giáo chủ của mình, nói trên đời không ai ngang tay được với Trương Vô Kỵ, kể cũng là nể nang lắm. Chu Điên vừa toan đáp lời, Thuyết Bất Đắc nhanh tay bịt ngay mồm y lại.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tệ giáo tuy là bàng môn tả đạo, không thể nào sánh được với danh môn như quí phái, nhưng cơ nghiệp đã mấy trăm năm, cũng có đôi chút nhân tài. Tại hạ vì gặp được nhân duyên, tạm thời đảm đương trách nhiệm giáo chủ, thực ra nói về tài đức võ công, những người hơn hẳn tại hạ trong tệ giáo thật đâu có phải là ít? Vi Bức Vương, nhờ ông đem danh thiếp trình lên ba vị cao tăng.
Nói xong chàng lấy ra tờ giấy trên đề từ Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu mọi người trở xuống, ghi chép hết tên quần hào kỳ này cùng đến bái sơn.
Vi Nhất Tiếu biết giáo chủ muốn mình hiển thị khinh công có một không hai trên đời để cho quần tăng chùa Thiếu Lâm không dám coi thường nhân vật của Minh Giáo, liền khom lưng tuân lệnh, cầm lấy danh sách, thân hình chưa đứng thẳng người cũng chẳng xoay lại, búng ngược trở ra, như một làn khói mỏng vụt xa ngoài mươi trượng, lờ lững bay vào giữa ba cây tùng, song chưởng lật một cái đã nâng tờ danh thiếp giao cho Độ Ách.
Ba nhà sư thấy y thấp thoáng đã đến ngay trước mặt mình, khinh công đẹp như thế quả chưa từng thấy bao giờ, huống chi y lại bật ngược về sau, không ai tưởng nổi nên tấm tắc khen:
- Khinh công giỏi thật!
Tăng chúng phái Thiếu Lâm đều là những người hiểu biết, lập tức hoan hô vang dội. Quần hào Minh Giáo tuy ai cũng biết Vi Nhất Tiếu khinh công tuyệt luân, nhưng lối bật ngược về sau như thế này cũng chỉ mới thấy lần đầu, tuy trong lòng cũng bội phục nhưng không tiện ?mèo khen mèo dài đuôi? nên đành yên lặng, chỉ có một mình Chu Điên là vỗ tay tán thưởng thôi.
Độ Ách hơi nghiêng người, thò tay cầm danh thiếp, năm ngón tay phải của ông ta vừa đụng vào, Vi Nhất Tiếu toàn thân tê dại, cổ tay như bị sét đánh trúng, ngực nóng ran, thân mình cảm thấy như muốn quị xuống. Y hết sức kinh hãi, vội vàng vận công chống lại. Độ Ách vừa cầm tờ giấy lên, luồng nội lực hùng hồn truyền qua lập tức biến mất. Vi Nhất Tiếu mặt hơi biến sắc, nghĩ thầm nhà sư chột mắt này nội kình đúng là ?không sao lường nổi?, đâu dám ở lại thêm giây phút nào, nghiêng người một cái là là lướt trên đám cỏ cao trở về đứng bên cạnh Trương Vô Kỵ. Môn khinh công Thảo Thượng Phi đó tuy không lạ lùng gì nhưng luyện tới mức phất phới như bay quả cũng là một thần kỹ.
Không Văn, Không Trí mọi người đều nghĩ: ?Người này công phu khinh công đạt tới mức này, dĩ nhiên phải được cao nhân truyền thụ nhưng cũng còn do trời sinh, xem ra y vốn khác thường, người ngoài dù có khổ luyện tới đâu cũng không sao được như thế?.
Độ Ách nói:
- Trương giáo chủ nói quí giáo sẽ có ba người hạ trường, trừ giáo chủ và vị Vi Bức Vương kia, còn thêm ai đứng ra chỉ giáo?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vi Bức Vương đã lãnh giáo nội kình thần công của đại sư rồi, tại hạ định mời tả hữu Quang Minh sứ giả trong Minh Giáo ra giúp đỡ.
Độ Ách hơi chột dạ: ?Gã thanh niên này mắt tinh thật, ta vừa rồi cách thiếp truyền kình chỉ trong chớp mắt vậy mà y đã thấy rồi. Tả hữu Quang Minh sứ giả là ai, không lẽ võ công còn cao hơn gã họ Vi hay sao??. Ông ta tọa quan đã lâu, tên tuổi Dương Tiêu chưa từng nghe nói tới, còn Phạm Dao thì bao nhiêu năm qua ẩn tính mai danh, người ngoài vốn chẳng ai hay biết.
Dương Phạm hai người nghe tới giáo chủ đề cập đến mình, lập tức hiên ngang tiến ra, khom lưng nói:
- Cẩn tuân mệnh lệnh của giáo chủ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Ba vị cao tăng sử dụng binh khí mềm, mình dùng binh khí gì cho phải?
Trương, Dương, Phạm ba người bình thời khi lâm trận chỉ dùng tay không, hôm nay gặp phải kình địch, không dám cao ngạo không dùng binh khí, ba người nhất pháp thông, vạn pháp thông, binh khí nào dùng cũng có thể sử dụng được, Trương Vô Kỵ nói thế chính là để cho hai người được quyền chọn lựa. Dương Tiêu đáp:
- Xin để tùy giáo chủ sai bảo.
Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm, nghĩ thầm: ?Hôm qua Hà Gian Song Sát dùng đoản chống trường, xem ra có vẻ lợi thế?. Chàng bèn lấy từ trong bọc ra sáu chiếc thánh hỏa lệnh, đem bốn chiếc chia cho Dương Phạm nói:
- Chúng ta lên chùa Thiếu Lâm bái sơn, không dám đem theo binh khí, đây là bảo vật trấn giáo của Minh Giáo, mình cầm sử dụng vậy.
Dương Phạm khom lưng nhận lấy rồi hỏi xem phương lược thế nào. Không Trí đột nhiên lớn tiếng nói:
- Khổ đầu đà, chúng ta nơi chùa Vạn An có chuyện với nhau, sao không nhân dịp này thanh toán cho xong? Lại đây, lại đây, để lão nạp lãnh giáo cao chiêu của ngươi trước đã. Lão nạp hôm nay không uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán để xem ai hơn ai nào.
Y bị tù nơi chùa Vạn An vẫn còn uất ức chưa có dịp nào phát tiết, hôm nay gặp lại Phạm Dao vẫn cố hết sức nén lòng lúc này không còn nhịn thêm được nữa. Phạm Dao cười nhạt nói:
- Tại hạ phụng lệnh giáo chủ, ra lãnh giáo ba vị cao tăng, đại sư nếu muốn báo thù cũ, để việc này xong sẽ phụng bồi sau.
Không Trí cầm lấy trường kiếm từ tay một đệ tử đứng bên quát lớn:
- Ngươi không lượng sức mình, dám động thủ với ba vị sư thúc của ta, không chết thì cũng bị thương nặng. Thù của ta như thế làm sao báo được đây?
Phạm Dao cười nói:
- Ta chết dưới tay lệnh sư thúc thì cũng thế thôi.
Không Trí cười khẩy:
- Trong Minh Giáo ngoài các hạ ra không còn cao thủ nào khác hay sao, thôi thế cũng được.
Câu nói của y là kế khích tướng, quần hào trong Minh Giáo ai mà không biết? Thế nhưng nếu làm ngơ không nói gì, chẳng hóa ra để ông ta coi thường Minh Giáo lắm ư? Cứ theo thứ bậc mà luận, dưới Phạm Dao mới tới Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính. Trương Vô Kỵ thấy ông ngoại tuổi đã cao, không tiện mời ra, nên định gọi cậu là Ân Dã Vương xuất mã. Ân Thiên Chính tiến lên một bước nói:
- Giáo chủ, thuộc hạ Ân Thiên Chính xin ra ứng chiến.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ông ngoại tuổi cao, xin để mời cậu ...
Ân Thiên Chính nói:
- Ta tuổi có cao cũng chưa hơn được ba vị cao tăng. Phái Thiếu Lâm có thạc đức kỳ túc[7] Minh Giáo ta lại không có lão tướng hay sao?
Trương Vô Kỵ biết ông ngoại mình võ công cao cường, không kém gì Dương Tiêu, Phạm Dao, so với cậu còn giỏi hơn nhiều, nếu như để ông xuất chiến, xem ra phần thắng nhiều hơn bèn nói:
- Thôi được, Phạm hữu sứ để dành sức lãnh giáo Không Trí thần tăng, xin ngoại công ra giúp hài nhi vậy.
Ân Thiên Chính đáp:
- Tuân lệnh.
Ông giơ tay nhận lấy hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay Phạm Dao. Không Văn phương trượng dõng dạc nói:
- Ba vị sư thúc, vị Ân lão anh hùng đây người đời gọi là Bạch Mi Ưng Vương, năm xưa tự sáng lập ra Thiên Ưng giáo, một mình chống lại sáu đại môn phái, quả là một anh hùng hảo hán. Còn vị Dương tiên sinh này, nội ngoại công đã đến mức tuyệt luân, là hảo thủ số một của Minh Giáo, rất nhiều cao thủ các phái Côn Lôn, Nga Mi? đã từng bị bại dưới tay y.
Độ Kiếp cười khô khan mấy tiếng nói:
- Thật may mắn quá, may mắn được gặp, để xem hôm nay môn hạ đệ tử Thiếu Lâm tài nghệ đi đến đâu?
Tam tăng vung tay một cái, ba sợi dây chẳng khác gì ba con rồng đen quây thành ba tầng vòng tròn. Trương Vô Kỵ tối hôm qua cùng ba nhà sư động thủ giơ tay không nhìn thấy rõ năm ngón, chỉ do kình khí của sợi dây mà biện nhận phương hướng, lúc này trời mới sắp trưa, ánh nắng ngay trên đỉnh đầu, cả đến những nếp nhăn trên mặt ba nhà sư cũng nhìn rõ từng nét. Chàng xoay ngược thánh hỏa lệnh, ôm quyền cúi mình chào nói:
- Xin lỗi!
Nói rồi liền nghiêng mình xông lên ngay. Dương Tiêu phi thân qua bên trái, còn Ân Thiên Chính quát lên một tiếng, tay phải cầm thánh hỏa lệnh đập vào dây của Độ Nạn. Hai thứ binh khí kỳ lạ này đụng nhau phát ra âm thanh nghe coong cong hết sức quái dị, cả hai tay đều ê ẩm, nghĩ thầm: ?Lợi hại thật? biết rằng mình đã gặp một kình địch khó kiếm trên đời.
Trương Vô Kỵ suy tính: ?Sợi dây của ba nhà sư kết thành một vòng tròn, chiêu số nghiêm mật, tuy bên mình ba người liên thủ, nhưng trong vòng vài ba trăm chiêu không thể nào phá vỡ được, vậy làm sao hao phí nội kình của tam tăng rồi từ từ tìm chỗ sơ hở?. Chàng thấy sợi dây cuốn tới, liền dùng thánh hỏa lệnh lấy cứng chọi cứng đối công.
Hai bên đấu chừng ăn xong một bữa cơm, ba người phe Trương Vô Kỵ đã dồn cho vòng dây thu nhỏ lại chỉ còn chừng hơn một trượng. Thế nhưng vòng càng thu nhỏ, kháng lực của ba nhà sư càng mạnh thêm, ba người mỗi khi tiến lên được thêm một bước, sức lực hao phí so với lúc trước tăng thêm gấp mấy lần. Dương Tiêu và Ân Thiên Chính càng đấu càng kinh hãi, lúc đầu cục diện là ba đánh ba, sau nửa giờ rồi, Dương Ân hai người gần như không còn chịu nổi, thành ra hai người hợp công Độ Nạn, còn Trương Vô Kỵ một mình chống đỡ Độ Ách, Độ Kiếp nhị tăng.
Ân Thiên Chính đánh ra toàn một lối cương mãnh, còn Dương Tiêu thì lúc cứng lúc mềm, biến hóa khôn cùng. Trong sáu người, chỉ có võ công Dương Tiêu trông đẹp mắt nhất, hai thanh thánh hỏa lệnh trong tay y xoay múa tít lên, lúc thì thành kiếm, lúc thì thành đao, lúc thì như đoản thương chọc, đánh, cuốn, đập, lúc lại giống như phán quan bút điểm, đâm, đè, nhử khi thì tay trái như chủy thủ[8], tay phải như thủy thích[9] rồi thoắt một cái tay phải biến thành cương tiên, tay trái biến thành thiết xích[10], thỉnh thoảng lại dùng hai lệnh bài gõ vào nhau, phát xuất âm thanh u u nhiễu loạn tâm thần đối phương. Đấu chưa đầy bốn trăm chiêu, y đã biến đổi luôn hai mươi hai loại binh khí, mỗi loại binh khí chỉ sử dụng hai pho, tổng cộng bốn mươi bốn pho chiêu thức.
Không Trí đã luyện thành mười một trong bảy mươi hai tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, Phạm Dao vẫn tự hào võ công thiên hạ không đâu không biết qua, lúc này nhìn thấy thần kỹ của Dương Tiêu, trong lòng không khỏi ngầm thán phục. Chu Điên với Dương Tiêu vốn có hiềm khích, hai bên đã mấy lần gây sự với nhau, lúc này càng xem càng hổ thẹn: ?Thì ra gã con rùa Dương Tiêu vốn nhường nhịn mình. Lúc trước vẫn tưởng võ công gã chỉ hơn mình chút đỉnh, mỗi lần động thủ có thắng cũng chỉ nhờ may mới hơn mình được nửa chiêu một thức. Có ngờ đâu gã con rùa ấy so với Chu Điên này thật một trời một vực?.
Thế nhưng dù cho Dương Tiêu biến chiêu thế nào chăng nữa, sợi dây đen của Độ Nạn vẫn chia ra chống đỡ cả hai người, không một chút gì núng thế. Mọi người thấy Ân Thiên Chính trên đầu sương trắng bốc lên, biết là nội lực đã phát huy đến tận cùng, chiếc trường bào màu trắng bên trong cũng đầy hơi dần dần căng phồng. Mỗi bước chân của ông ta đều để lại một dấu chân, đấu đến khoảng gần một giờ, trong giữa ba cây tùng vết chân ông ta đã thành một cái vũng.
Đến lúc đó, Ân Thiên Chính đưa thanh lệnh bài từ tay phải sang bên tay trái, đè luôn vào sợi dây của Độ Nạn, tay phải dùng một chiêu Phách Không Chưởng đánh tới. Độ Nạn giơ tay trái lên, năm ngón tay chụp hờ ra, biến thành không quyền cũng trả lại một chưởng.
Không Văn, Không Trí cả bọn cùng ?Ồ? lên một tiếng, thanh âm đầy vẻ kinh ngạc cùng bội phục. Thì ra chưởng Độ Nạn vừa đánh trả, là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm gọi là Tu Di Sơn Chưởng. Môn chưởng lực này hết sức khó luyện là chuyện đương nhiên, nhưng dẫu đã luyện thành, mỗi lần xuất chưởng đều phải xuống tấn vận khí, ngưng thần một lúc lâu, cốt để ngưng tụ nội kình nơi Đan Điền. Ngờ đâu Độ Nạn muốn đánh là đánh ngay, chỉ cần nghĩ tới là đã có thể tung Tu Di Sơn Chưởng ra, tiếp theo sợi dây đen lại rung một cái nhắm đánh vào Dương Tiêu.
Thế nhưng Độ Nạn đã dùng Tu Di Sơn Chưởng đối chưởng? với Ân Thiên Chính, kình lực trên sợi dây đã giảm đi quá nửa. Ông ta liền dùng khéo léo để bù vào chỗ yếu của mình, múa sợi dây vùn vụt chẳng khác gì một con linh xà cuồn cuộn, còn hai thanh thánh hỏa lệnh của Dương Tiêu cũng biến hóa vô cùng khiến người đứng coi phần lớn đổ dồn vào xem hai người đấu với nhau.
Ân Thiên Chính ngưng thần đề khí, từng chưởng từng chưởng đánh ra, lúc thì tiến lên hai bước, lúc thì lùi lại hai bước. Ở bên kia Trương Vô Kỵ một mình đấu với hai, ba người chiêu thức có vẻ bình thường không có gì kỳ lạ, nhưng tất cả đều là thi triển nội kình. Lối đấu đó so với cách đấu lực của Ân Thiên Chính và đấu xảo của Dương Tiêu thì không bằng nhưng thực ra hung hiểm hơn nhiều, chỉ cần nội kình bị đối phương đánh ép trở về, nếu không khí tuyệt thân vong, thì cũng lập tức tẩu hỏa nhập ma, điên cuồng tàn phế. Thế nhưng lối đấu đó chỉ có người trong cuộc là hiểu được thôi, người đứng ngoài dù võ công cao siêu bực nào cũng không thể nào theo chiêu số mà biết được.
Ánh mặt trời từ đông nay đã lên đỉnh đầu, rồi lại từ từ ngả về phương tây. Không Văn, Không Trí, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu lúc này đã nhìn thấy hai bên thắng bại thế nào. Chỉ thấy Ân Thiên Chính trên đầu hơi trắng bốc lên mỗi lúc một? đậm, còn kim châm trên cành cây tùng mà Độ Kiếp ngồi cũng rung động không ngớt, đủ biết Độ Ách và Độ Kiếp hai nhà sư công lực có kẻ thấp người cao. Đến lúc này, Độ Kiếp phải dựa lưng vào, mượn sức cây đang ngồi đỡ cho mới kháng cự nổi với Cửu Dương thần công của Vô Kỵ. Nếu như Ân Thiên Chính chịu không nổi thì Minh Giáo thua, còn nếu Độ Kiếp chống đỡ không nổi thì phái Thiếu Lâm kể như bại trận.
Sáu người đang đấu lại càng hiểu điều đó hơn ai hết. Ân Thiên Chính tỉ đấu chưởng lực với Độ Nạn đến hơn ba mươi chưởng thì biết mình không phải là địch thủ của ông ta, nghĩ thầm: ?Việc của bọn ta hôm nay, cốt sao cứu được Tạ huynh đệ là quan trọng. Vinh nhục thắng bại của một cá nhân ta có đáng gì đâu? Huống chi thua về tay một tiền bối cao nhân trong phái Thiếu Lâm thì cũng chẳng có gì thương tổn uy danh của Bạch Mi Ưng Vương này?.
Thế rồi mỗi lần đánh ra một chưởng, ông ta lại lùi ra nửa bước, đến lúc hơn mười chưởng rồi đã lùi ra xa hơn một trượng. Nào ngờ Tu Di Sơn Chưởng là một trong bảy mươi hai tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, Độ Nạn đã tập luyện pho chưởng này mấy chục năm rồi, uy lực quả thật là ghê gớm. Ân Thiên Chính lùi lại một bước, chưởng lực của Độ Nạn lại đuổi theo một bước, kình lực không vì lộ trình dài ngắn mà suy suyển chút nào.
Dương Tiêu nghĩ thầm: ?Nhà sư Thiếu Lâm này quả thật lợi hại, chiêu số trên thánh hỏa lệnh của ta dẫu có biến hóa thêm nữa, cũng chẳng làm gì được ông ta. Ân Bạch Mi một mình chịu đựng nội kình, e rằng lâu nữa sẽ chịu không nổi?. Y chập hai thanh thánh hỏa lệnh làm một, toan kẹp lấy sợi dây đen, lấy cứng chọi cứng hai bên đấu lực, để giảm bớt gánh nặng cho Ân Thiên Chính. Ngờ đâu thánh hỏa lệnh vừa định kẹp vào sợi dây thì Độ Nạn rung tay một cái, đầu dây liền thẳng băng ra đâm luôn vào mặt Dương Tiêu. Dương Tiêu nhanh như chớp nhằm ngay ngực Độ Nạn ném luôn thánh hỏa lệnh ra, hai tay vung lên, chộp ngay được đầu dây, dùng chiêu Đảo Duệ Cửu Ngưu Vĩ, lập tức kéo chạy ra ngoài.
Độ Nạn thấy binh khí của đối phương rời khỏi tay chẳng khác gì ám khí bắn tới, kình đạo mãnh liệt, cùi chỏ trái liền hạ xuống, chặn thanh thánh hỏa lệnh đang bay tới ngực, nhưng thấy một thanh đang đi giữa đường đột nhiên chuyển hướng, nghe vù một tiếng, nhắm ngay Độ Kiếp phóng tới. Thì ra trong sáu người chỉ có Dương Tiêu là đa mưu hơn cả, hai thanh thánh hỏa lệnh tấn công Độ Nạn chẳng qua chỉ là hư chiêu, kình lực trên lệnh bài đánh vào Độ Kiếp mới sử dụng toàn thể nội kình.
Độ Kiếp đang dùng hết sức kháng cự với Trương Vô Kỵ, thấy Độ Nạn đấu với Dương Ân hai người xem ra vẫn chiếm thượng phong, đâu có ngờ Dương Tiêu đột nhiên sử dụng kỳ chiêu, dùng thủ pháp quái lạ tấn công lén mình, còn đang kinh hoàng, thánh hỏa lệnh đã đến ngay trước mặt. Độ Kiếp tâm thần hơi loạn, nhẹ nhàng giơ hai ngón tay, kẹp lấy thanh thánh hỏa lệnh nọ. Thế nhưng lúc đó ông ta đang toàn tâm toàn lực tỉ đấu với Trương Vô Kỵ, tâm thần vừa phân ra, lập tức cây tùng đang ngồi rung lên bần bật, kim châm trên cành rơi lả tả xuống, chẳng khác gì một trận mưa rào. Trương Vô Kỵ thấy đối phương sơ hở, Càn Khôn Đại Na Di của chàng tối thiện dụng là tìm chỗ thất thố của đối phương tấn công vào, dẫu cho phòng vệ trăm bề chặt chẽ cũng còn chưa ổn, huống chi lại đang yếu thế? Năm luồng kình lực trên năm ngón tay chàng? lập tức tấn công thẳng tới kêu lên sì sì. Chỉ nghe lốp bốp liên tiếp, từng cành từng cành tùng từ trên cây của Độ Kiếp liên tiếp rơi xuống.
Độ Ách thấy thế nguy, vội đứng nhỏm dậy, liệng một cái đã đến bên cạnh Độ Kiếp, giơ tay trái ra, vịn vào vai sư đệ. Độ Kiếp được sư huynh tương trợ mới ổn định trở lại. Phía bên kia Độ Nạn và Ân Thiên Chính, Dương Tiêu cũng đã đến lúc đấu với nhau bằng chân lực, việc sinh tử chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc. Dương Tiêu cầm sợi dây kéo mạnh ra ngoài, còn Ân Thiên Chính cứ tiếp tục sử dụng chưởng lực với sức mạnh vỡ núi tan bia liên tiếp nhắm Độ Nạn đánh tới. Hai đại cao thủ một kéo một đẩy, hai luồng kình lực tương phản, Độ Nạn ở ngay chính giữa, tuy gặp phải khó khăn vạn phần nhưng chưa có vẻ gì kém thế.
Quần hào Minh Giáo và tăng chúng Thiếu Lâm đứng bên ngoài thấy tình hình như thế biết rằng nếu tiếp tục đấu đến khi phân thắng bại, trong sáu cao thủ e rằng ít ra một nửa phải táng mạng tại chỗ. Trên một đỉnh núi rộng như thế, nhất thời không nghe một tiếng động, quần hào mồ hôi lạnh ướt đầm lưng, không ai là không thấp thỏm lo cho phe mình.
Ngay trong lúc tĩnh mịch như thế, bỗng từ dưới hầm sâu giữa ba cây tùng có tiếng trầm trầm vọng lên:
- Dương tả sứ, Ân đại ca, Vô Kỵ hài nhi, Tạ Tốn tôi hai tay dính đầy vết máu, đáng lẽ phải chết từ lâu rồi mới phải. Hôm nay các người vì muốn cứu tôi mà đến đây, đấu với ba vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm, nếu như hai bên có tổn thương, Tạ Tốn này tội lỗi càng thêm chồng chất. Vô Kỵ hài nhi, con mau mau dẫn huynh đệ bản giáo, rời khỏi chùa Thiếu Lâm ngay. Nếu không ta sẽ lập tức tự tuyệt kinh mạch, để khỏi tăng thêm tội nghiệt.
Đó chính là Tạ Tốn dùng thần công Sư Tử Hống từ trong địa lao nói ra. Năm xưa ông ta ở trên đảo Vương Bàn Sơn dùng Sư Tử Hống làm cho bao nhiêu hào sĩ các môn phái hôn mê hoặc chết, lúc này thần công đó không làm hại ai, nhưng mọi người ai cũng tai lùng bùng, mặt mày thất sắc.
Trương Vô Kỵ biết nghĩa phụ mình lời nói ra nặng như núi, nhất định không vì mình được thoát thân mà phải để cho người khác thương tổn, tình thế trước mắt, nếu đánh cho đến lúc tàn cuộc, tuy mình có thể không sao nhưng ông ngoại, Dương Tiêu, Độ Kiếp, Độ Nạn bốn người ắt khó thoát. Chàng còn đang trù trừ, lại nghe Tạ Tốn quát lên:
- Vô Kỵ, con còn chưa đi hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vâng! Kính cẩn tuân lời dạy bảo của nghĩa phụ.
Chàng lùi lại một bước, lớn tiếng nói:
- Ba vị cao tăng võ công quả nhiên thật là thần diệu, hôm nay Minh Giáo không cách nào phá nổi, ngày khác sẽ quay lại lãnh giáo. Ông ngoại, Dương tả sứ, thôi mình thu tay lại!
Nói xong kình khí rút về, bật văng kình lực của Độ Ách, Độ Kiếp trên hai sợi dây ngược trở lại. Dương Tiêu và Ân Thiên Chính nghe chàng ra lệnh như thế nhưng khổ nỗi hai người đang cùng Độ Nạn giở toàn lực ra đấu, không có cách gì rút tay về, nếu như thu hồi nội kình thì sẽ bị kình khí của Độ Nạn làm cho bị thương ngay, còn Độ Nạn lúc này muốn ngừng lại cũng không được. Trương Vô Kỵ chạy đến trước mặt Ân Thiên Chính, song chưởng tung ra, tách Độ Nạn và Ân Thiên Chính thành hai bên, tiếp theo giơ thánh hỏa lệnh đè lên ngay giữa sợi dây của Độ Nạn. Sợi dây vốn đang bị Dương Tiêu và Độ Nạn kéo căng như dây cung, thánh hỏa lệnh của Trương Vô Kỵ vừa ấn xuống, Càn Khôn Đại Na Di thần công liền hóa giải ngay hai luồng lực đạo mãnh liệt từ hai đầu dây truyền vào, sợi dây mềm nhũn rơi ngay xuống đất, Dương Tiêu nhanh tay liền nhặt lên.
Độ Nạn mặt biến sắc, đang định lên tiếng, Dương Tiêu hai tay cầm sợi dây đen, tiến lên mấy bước nói:
- Phụng hoàn binh khí của đại sư.
Độ Kiếp hiểu ngay tâm ý của ông ta, cũng cầm hai thanh thánh hỏa lệnh ở bên cạnh lên, giao trả lại.
Sau trận chiến này, ba vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm không còn dám cuồng ngạo như trước, biết rằng nếu có tiếp tục cũng chỉ đến nước lưỡng bại câu thương, ba người bên mình không thể nào chiếm thượng phong được. Độ Ách nói:
- Lão nạp bế quan mấy chục năm, trở lại được gặp hiền hào đời nay, thật là may mắn. Trương giáo chủ, quí giáo anh tài đầy rẫy, các hạ lại càng trội hẳn mọi người, mong rằng đem cái tài ba đó tạo phúc cho thương sinh, đừng làm những chuyện thương thiên hại lý.
Trương Vô Kỵ khom mình đáp:
- Đa tạ đại sư chỉ giáo, tệ giáo không dám làm chuyện sai quấy đâu.
Độ Ách nói tiếp:
- Ba anh em chúng tôi tại nơi này cung kính chờ đợi đại giá của Trương giáo chủ đến lần thứ ba.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không dám, thể nào chúng tôi cũng đến lãnh giáo lần nữa. Tạ pháp vương là nghĩa phụ của tại hạ, ơn sâu chẳng khác gì cha đẻ.
Độ Ách thở dài một tiếng,nhắm mắt lại không trả lời.
Trương Vô Kỵ cùng tất cả mọi người, chắp tay chào từ biệt Không Văn, Không Trí rồi xuống núi. Bành Oánh Ngọc truyền tín hiệu ra, triệt hồi giáo chúng thuộc Ngũ Hành Kỳ. Giáo chúng Cự Mộc Kỳ và Hậu Thổ Kỳ lùi ra cách chùa năm dặm, dựa vào núi dựng hơn chục chiếc nhà gỗ để cho mọi người nghỉ ngơi.
Trương Vô Kỵ lòng u uất không vui, nghĩ thầm trong bản giáo, không còn ai võ công có thể cao hơn ông ngoại và Dương Tiêu, dẫu có thay bằng Phạm Dao và Vi Nhất Tiếu, thì cũng chỉ đến như cục diện hôm nay thôi, trong đời này kiếm đâu ra hai người hơn được những cao thủ này để cùng chàng phá Kim Cương Phục Ma Khuyên? Bành Oánh Ngọc đoán được tâm sự chàng nói:
- Giáo chủ quên Trương chân nhân rồi sao?
Trương Vô Kỵ chần chừ đáp:
- Nếu như thái sư phụ tôi có hạ sơn giúp đỡ, cùng tôi hai người liên thủ, hẳn sẽ phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên. Thế nhưng sẽ làm sứt mẻ hòa khí hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương, chưa chắc thái sư phụ tôi đã bằng lòng. Hơn nữa thái sư phụ tôi tuổi đã trên trăm, công phu võ học đã đến mức lô hỏa thuần thanh rồi, nhưng dù sao thì tuổi cao suy nhược, nếu có sơ sẩy chuyện gì thì biết làm sao?
Đột nhiên Ân Thiên Chính đứng dậy cười ha hả nói:
- Nếu Trương chân nhân bằng lòng xuống núi, thể nào cũng mã đáo thành công, hay lắm, hay lắm.
Ông cười khan mấy tiếng, mồm há hốc, thanh âm đột nhiên ngừng hẳn. Quần hào thấy ông ta mặt tươi rói, đứng sừng sững giữa trời, đều không khỏi ngạc nhiên. Dương Tiêu nói:
- Ân huynh có nghĩ là Trương chân nhân sẽ hạ sơn xuất mã chăng?
Y hỏi luôn mấy lần, Ân Thiên Chính vẫn đứng yên không trả lời, thân thể tuyệt nhiên không động đậy. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, giơ tay thăm mạch ngờ đâu tâm mạch đã ngừng, hơi đã tắt chết từ bao giờ. Thì ra năm xưa trên Quang Minh Đính ông một mình đối phó sáu đại môn phái, hết sức chống đỡ, chân nguyên đã bị tổn hại rất lớn, bây giờ lại khổ chiến với Độ Nạn, hao kiệt toàn bộ lực khí, hơn nữa tuổi đã cao, chẳng khác gì đèn khô dầu kiệt.
Trương Vô Kỵ ôm lấy xác ông ngoại khóc òa, còn Ân Dã Vương cũng vội chen vào rống lên kêu trời gọi đất. Quần hào nghĩ đến nghĩa khí đồng giáo, ai nấy nước mắt sụt sùi. Tin tức truyền ra, trong Minh Giáo có rất nhiều người nguyên ở dưới cờ Thiên Ưng giáo, lập tức tiếng khóc vang cả sơn cốc.
Mấy ngày hôm sau, quần hào bận bịu việc tang ma cho Ân Thiên Chính. Các môn phái, các bang hội cùng các nhân vật võ lâm cũng lục tục lên núi. Những người đó ngưỡng mộ uy danh Ân Thiên Chính, đều đến trước linh sàng nơi căn nhà gỗ để điếu tang. Không Văn, Không Trí cũng đích thân đến viếng, lại phái ba mươi sáu nhà sư, làm lễ cầu siêu cho Ân Thiên Chính. Thế nhưng ba mươi sáu nhà sư đó chỉ mới tụng được vài câu kinh, thì Ân Dã Vương đã cầm gậy tre chạy ra đánh đuổi. Chu Điên đứng ở một bên cũng chửi toáng lên:
- Bọn lừa trọc Thiếu Lâm chỉ giỏi vờ vịt, giả nhân giả nghĩa.
Trương Vô Kỵ trong bụng buồn bã, cùng Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc, Triệu Mẫn thương nghị mấy lần nhưng không tìm ra thiện sách. Triệu Mẫn đã nghĩ tới việc dùng Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bỏ vào đồ ăn thức uống của ba nhà sư, lại nói tới việc đi gọi Lộc Trượng Khách, Hạc Bút Ông hai người đến liên thủ với Trương Vô Kỵ, thế nhưng Trương Vô Kỵ và Dương Tiêu đều thấy không ổn chút nào.
[1] Cao đến mức không còn thấy gì nữa
[2] tức một môn tu tập chỉ ngồi mà không nằm còn gọi là khô mộc thiền hay khô kháo thiền tọa, chủ trương buông xả hết mọi việc
[3] phủ Hà Gian, nay thuộc Tân Đạo, tỉnh Trực Lệ.
[4] Đồ đánh lửa
[5] kẻ đứng đầu nguyên nhân gây ra tội lỗi
[6]Diệt phái Thiếu Lâm trước, Rồi diệt Võ Đương sau. Chỉ còn mình Minh giáo Trong võ lâm đứng đầu.
[7] Người già cả tiếng tăm
[8] dao ngắn
[9] đòng đâm cá
[10] tay thước, một loại vũ khí giống như một thanh gỗ ngắn
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top