y thien do long ky 16-30

Hồi 16

BÁC CỰC NHI PHỤC THAM CỬU DƯƠNG-

Đau lòng nát cả con tim,

Vào nơi tử địa ta tìm đường sinh.

Trương Vô Kỵ tiếp tục bò vào trong cái hang hẹp đó thêm vài trượng nữa, thấy trước mắt càng lúc càng sáng thêm, bò thêm một đoạn, đột nhiên ánh sáng chói lòa chiếu vào mặt. Y vội nhắm mắt lại, định thần rồi mở mắt ra, thấy đằng trước là một thung lũng xanh tươi, cây cối hoa cỏ chen lẫn với nhau đủ màu.

Y lớn tiếng reo mừng, từ sơn động chui ra. Cái hang đó cách mặt đất không đầy một trượng, nhảy nhẹ một cái đã đến mặt đất. Chân y đạp lên cỏ mượt như nhung, mũi ngửi thấy hoa thơm ngào ngạt, tai nghe chim hót ríu rít, trái cây trĩu cành, ai ngờ rằng đằng sau cái hang tối đen kia, lại có một nơi cảnh giới thần tiên thế này. Lúc dó y không nghĩ tới vết thương đau đớn, ra sức chạy về đằng trước, đến hơn hai dặm mới gặp một ngọn núi cao ngăn lại. Y đưa mắt nhìn bốn bề, thấy cái thung lũng này vây quanh là núi cao chập chùng, xem ra từ đời xa xưa chưa bao giờ có vết chân người. Những ngọn núi tuyết phủ vươn lên tận mây xanh thành những bức thành hết sức hùng vĩ hiểm trở, không cách gì có thể leo ra leo vào được.

Trương Vô Kỵ vô cùng sung sướng, thấy bảy tám con sơn dương đang ăn cỏ, nhưng cũng không sợ hãi chạy đi, trên cây hàng chục con khỉ đùa chơi nhảy nhót, xem ra những loại mãnh thú như hổ báo thân thể nặng nề, không thể nào vượt qua được những ngọn núi mà vào tới đây. Y nghĩ thầm: "Ông trời đãi mình kể cũng không bạc, sắp xếp để mình vào được cảnh trí thần tiên thế này làm nơi yên nghỉ ngàn thu".

Y chậm rãi quay lại nơi cửa hang, nghe thấy tiếng Chu Trường Linh ở bên trong kêu gọi:

- Tiểu huynh đệ, ngươi ra đây, ở trong động không sợ buồn chết đi được ư?

Trương Vô Kỵ lớn tiếng cười:

- Ở trong này vui lắm.

Y đến những cây thấp hái vài trái cây không biết tên là gì, cầm trên tay thấy mùi thơm ngào ngạt, cắn thử một miếng, ngon ngọt lạ thường, dòn hơn đào, thơm hơn táo, lại nhiều nước hơn mận. Y hái một trái vứt vào trong hang, kêu lên:

- Bắt lấy, ăn ngon lắm.

Trái đó đụng vào vách đá đã vỡ nát. Chu Trường Linh ăn cả vỏ lẫn hạt, ăn xong lại càng thấy đói hơn, kêu lên:

- Tiểu huynh đệ, cho ta thêm vào trái nữa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bác tâm địa tồi bại, có chết đói cũng đáng. Nếu muốn ăn sao không tự mình vào mà lấy.

Chu Trường Linh đáp:

- Thân thể tôi to quá, chui không lọt vào hang.

Trương Vô Kỵ cười:

- Bác chẻ ra làm hai, không biết đã lọt chưa?

Chu Trường Linh nghĩ âm mưu mình đã bị bại lộ rồi, Trương Vô Kỵ chắc sẽ để cho mình chết đói từ từ để báo thù, lúc này vết thương trên ngực đau tấy, liền mở mồm chửi:

- Tặc tiểu quỉ, trong động đó có trái cây, không lẽ đủ cho ngươi ăn suốt đời sao? Ta ở ngoài hang chết đói, ngươi có giỏi thì sống thêm được vài ngày, trước sau gì rồi cũng chết thôi.

Trương Vô Kỵ không thèm để ý tới y nữa, ăn bảy tám trái bụng đã thấy no. Một hồi sau, bỗng có một làn khói từ trong hang bốc ra. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, lập tức hiểu ngay, Chu Trường Linh ở bên kia đốt cành thông, định dùng khói hun cho y phải chui ra, đâu có biết bên trong còn một khu trời đất bao la thế này, dù có đốt nghìn cành vạn cành thông, cũng chẳng ăn thua gì.

Y càng nghĩ càng tức cười, giả vờ ho sặc sụa. Chu Trường Linh kêu lên:

- Tiểu huynh đệ, mau chui ra, ta thề rằng không hại ngươi đâu.

Trương Vô Kỵ kêu lên một tiếng "A" làm như ngất xỉu, rồi bỏ đi. Y theo hướng tây đi chừng hai dặm thấy từ trên vách núi cao đổ xuống một dòng thác, chắc là tuyết tan chảy thành, ánh sáng mặt trời chiếu vào trông như một con rồng lớn bằng ngọc, thật là tráng lệ. Dòng thác đó chảy vào một cái đầm nước trong vắt, nhưng nước hồ sao không thấy dâng lên, hiển nhiên có đường chảy đi nơi khác. Y ngắm cảnh một lúc, cúi xuống nhìn thấy chân tay đầy rêu xanh bùn đất, lại vô số vết máu do cỏ sắc gai nhọn cào phải, nên đi đến cạnh hồ, bỏ giày vớ ra, lội xuống dưới hồ rửa.

Tắm rửa một hồi, bỗng dưng nghe soạt một tiếng, từ trong hồ phóng lên một con cá trắng lớn, phải dài đến hơn một thước. Trương Vô Kỵ vội đưa tay chộp, tuy trúng mình cá nhưng trơn trượt vuột khỏi tay. Y cúi xuống bên hồ chăm chú nhìn, thấy dưới dòng nước xanh một bầy cá chừng hơn chục con đang bơi lội.

Tài nghệ bắt cá, y đã học từ bé khi còn ở trên Băng Hỏa đảo nên liền bẻ một cành cây, một đầu nhọn, đứng bên cạnh đầm lặng yên chờ đợi, đến khi một con cá trồi lên mặt nước, liền sử kình lao xuống, trúng ngay thân con cá. Y mừng rỡ hò reo, dùng cành cây mổ cá ra rửa sạch ruột, sau đó kiếm cành khô, đem hỏa đao hỏa thạch gây lửa, nướng con cá. Chẳng bao lâu mỡ cá nhểu ra, thấy đã chín đem ra ăn thật thơm, tưởng như chưa bao giờ được ăn món gì ngon đến thế. Chỉ trong phút chốc, y đã ăn sạch cả con cá to.

Đến trưa hôm sau, y lại ra bắt một con cá nữa, nghĩ thầm: "Mình nhất thời chưa chết, phải giữ lấy lửa kẻo hết mất mồi thì thật phiền". Nghĩ thế y vun tro thành vòng tròn, vùi những cành cây cháy giở trong đó, phòng lửa khỏi tắt. Ở trên Băng Hỏa đảo các dụng cụ toàn tự chế lấy, nay ở nơi hoang dã này một mình, y cũng không bị khó khăn, nặn đất thành bồn, bện cỏ thành nệm.

Đến chiều tối, nghĩ tới Chu Trường Linh đang đói meo nên hái một bọc trái cây ném vào trong động. Y sợ Chu Trường Linh ăn cá sẽ có sức khỏe vượt qua được hang núi thì thật hỡi ôi nên không bắt cho y ăn.

Đến ngày thứ tư, y đang nặn một cái bếp, bỗng nghe có tiếng khỉ kêu chí chóe thảm thiết ra chiều cấp bách. Y theo tiếng lần tới, thấy dưới chân vách núi có một con khỉ bị ngã, chân sau bị một khối đá đè lên, không cử động được, dường như từ trên cao xẩy chân rơi xuống. Y tiến tới bẩy hòn đá lên, kéo con khỉ ra, chân bên phải của nó bị gãy, đau quá kêu khèng khẹc liên hồi.

Trương Vô Kỵ bẻ hai cành cây làm giá buộc chỗ chân gãy cho con khỉ. Lại tìm một số dược thảo, giã nát đắp vết thương cho con vật. Tuy trong u cốc khó tìm đúng các loại thuốc cho thật linh hiệu, nhưng nhờ thủ thuật tiếp cốt khéo léo của y, chỗ chân gãy của con khỉ cũng có thể lành được.

Con khỉ đó cũng biết trả ơn nên hôm sau đi hái rất nhiều trái cây cho Trương Vô Kỵ, chỉ mười ngày sau chỗ gãy đã khỏi. Bên trong thung lũng ngày dài không việc gì làm, y chỉ cùng bầy khỉ nô đùa, nếu không vì hàn độc thỉnh thoảng lên cơn, sống ở đây quả thực thần tiên thích thú. Cũng có khi y thấy những con sơn dương đi qua, toan bắt làm thịt, nhưng thấy đàn dê nhu thuận dễ thương, không đành hạ thủ. Cũng may trái cây và cá trong hồ rất nhiều nên không thiếu cái ăn. Mấy hôm sau, y lại bắt được mấy con gà rừng dưới khe núi, ăn cũng thật ngon.

Cứ như thế hơn một tháng. Một buổi sớm, y còn đang mơ màng chưa tỉnh giấc, bỗng cảm thấy có một bàn tay to lớn đầy lông lá sờ vào mặt. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, vội nhỏm dậy, thấy một con vượn lớn, lông trắng xóa ở ngay bên cạnh, trong tay bế một con khỉ nhỏ hàng ngày vẫn thường cùng y đùa nghịch. Con khỉ nhỏ chút cha chút chít liên hồi, chỉ vào bụng con vượn lớn. Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi thối rữa, trên bụng con vượn máu mủ bê bết, có một cái nhọt lớn, liền cười:

- Được, được. Thì ra ngươi đem bệnh nhân đến gặp thầy lang phải không?

Con vượn trắng giơ tay ra, cầm một trái bàn đào to bằng nắm tay, cung kính dâng lên. Trương Vô Kỵ thấy trái bàn đào đó thật to, chín đỏ, nghĩ thầm: "Mẹ ta có kể chuyện đời xưa, có một bà tiên là Vương Mẫu ở trong núi Côn Lôn, mỗi lần sinh nhật lại thết tiệc bàn đào, mời quần tiên đến dự. Tây Vương Mẫu chẳng biết có thật hay không, còn chuyện ở trong núi Côn Lôn có bàn đào lớn thì chẳng phải là ngoa". Liền cười nhận lấy, nói:

- Ta không lấy tiền chữa, dù không có tiên đào, ta vẫn chữa bệnh cho ngươi.

Y đưa tay nắn nhẹ vào bụng con vật, không khỏi giật mình. Thì ra cái nhọt của con vượn không phải chỉ nhỏ tròn một tấc mà cứng ngắc, to gấp mười lần ung sang thường. Trong y thư chưa bao giờ chép cái nhọt nào lớn đến thế, nếu tất cả chỗ cứng này đều hóa mủ, e rằng không thể nào trị được. Y bắt mạch cho con vượn thấy không có gì nguy hiểm, vạch đám lông dày dưới bụng ra xem, nhìn cái mụn, lại càng kinh hoảng, thấy ở bụng lồi lên một cục vuông vuông, bốn bề khâu lại bằng chỉ, rõ ràng có bàn tay người nhúng vào, khỉ vượn dù thông minh cũng không thể nào biết may vá. Y coi kỹ cái nhọt lần nữa, biết là cái vật gì bên trong làm tắc nghẽn huyết mạch, khiến thịt bụng bị thối lâu mà không khỏi, muốn trị bệnh không thể không lấy cái vật ở bên trong ra.

Nói tới mổ xẻ trị bệnh, y đã học được của Hồ Thanh Ngưu rất tinh thông, không khó khăn gì. Thế nhưng trong tay không có dao kéo, lại không thuốc men, nên thật là khó. Y suy nghĩ rồi cầm một khối nham thạch, hết sức ném vào một tảng đá khác, kiếm trong những mảnh vỡ một mảnh có cạnh sắc, từ từ cắt những mối chỉ quanh bụng của bạch viên. Con vượn đó đã già lắm, có chút linh tính, biết Trương Vô Kỵ trị bệnh cho mình nên tuy bụng rất đau nhưng vẫn chịu đựng không động đậy gì cả.

Trương Vô Kỵ cắt xong phía bên trái và bên trên đường chỉ khâu, vạch góc lớp da bụng lên, trong đó có một cái bao bằng vải dầu. Y thật lạ lùng, nhưng không kịp mở ra xem chỉ bỏ cái bọc đó qua một bên, rồi vội vàng may bụng con bạch viên lại. Trong tay y không có kim chỉ, đành lấy xương cá làm kim, đục trên da những lỗ nhỏ, rồi lấy vỏ cây tước ra làm chỉ, xuyên vào những lỗ đó buộc lại, cố khâu cho xong rồi lấy thuốc bôi lên. Làm công việc đó mấy gần nửa ngày mới hoàn tất, con vượn tuy rất khỏe, nhưng cũng nằm thẳng cẳng dưới đất không động đậy gì nổi.

Trương Vô Kỵ rửa tay và máu me dính trên cái bao rồi mở ra coi, hóa ra trong đó có bốn cuốn kinh thư mong mỏng, vì có vải dầu gói chặt nên ở trong bụng con vượn đã lâu, những cuốn kinh thư đó không bị hư hại. Bìa cuốn kinh viết mấy chữ loằng ngoằng, y không đọc được chữ nào, trên cả bốn cuốn đó đều viết những văn tự quái dị, nhưng giữa những hàng chữ, lại có viết một hàng Trung văn chữ khải nhỏ bằng đầu ruồi.

Y định thần, coi kỹ từ đầu, hình như trong đó viết về yếu quyết luyện khí vận công, chầm chậm đọc xuống dưới, đột nhiên giật mình, thấy có ba hàng kinh văn rất quen thuộc, chính là Võ Đương Cửu Dương Công mà thái sư phụ và Du nhị bá đã dạy cho y, nhưng về sau thì văn tự lại không giống. Y thuận tay xem hết, qua mấy trương, lại thấy có mấy câu trong Võ Đương Cửu Dương Công nhưng những đoạn khác lại hoàn toàn khác hẳn những gì thái sư phụ và Du nhị bá dạy.

Y tim đập bình bình, gập sách lại ngồi suy nghĩ: "Bộ kinh thư này là sách gì đây? Sao lại có Võ Đương Cửu Dương Công ở trong đó? Sao lại không hoàn toàn giống như võ công bản môn là thế nào? Kinh văn sao lại gấp mười của phái Võ Đương là sao?".

Nghĩ đến đó, chợt nhớ ra thái sư phụ khi dẫn y lên chùa Thiếu Lâm đã kể cho nghe một câu chuyện cũ: sư phụ của thái sư phụ là Giác Viễn đại sư học được Cửu Dương Chân Kinh trước khi chết có tụng cuốn kinh này, ba người gồm có thái sư phụ Trương Tam Phong, Quách Tương nữ hiệp, và Vô Sắc đại sư của phái Thiếu Lâm mỗi người nhớ được một phần, vì thế ba phái Võ Đương, Nga Mi, Thiếu Lâm võ công đại tiến, mấy chục năm qua mỗi bên một vẻ, danh chấn võ lâm."Hay là đây là bộ Cửu Dương Chân Kinh bị người ta lấy cắp? Chắc thế, thái sư phụ có nói, bộ Cửu Dương Chân Kinh này viết ở mép lề cuốn kinh Lăng Già, những chữ lăng quăng này, có lẽ là kinh Lăng Già bằng tiếng Phạn. Thế nhưng tại sao lại nằm trong bụng con vượn?".

Bộ kinh thư này đích thật là bộ Cửu Dương Chân Kinh, thế nhưng tại sao nằm trong bụng con vượn thì thế gian này không còn ai biết được nữa. Thì ra hơn chín mươi năm trước đây, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây ăn cắp bộ kinh này trong Tàng Kinh Các của chùa Thiếu Lâm, bị Giác Viễn đại sư đuổi đến tận đỉnh núi Hoa Sơn, thấy không thể nào chạy thoát, may ở bên cạnh có một con vượn xám, hai tên đó bèn nghĩ ra một kế, mổ bụng con vượn ra, đem kinh thư dấu vào trong đó. Đến khi Giác Viễn, Trương Quân Bảo và Dương Quá lục soát trong người hai tên này, không thấy kinh thư, nên thả cho họ và con vượn xuống núi[1]. Việc mất bộ Cửu Dương Chân Kinh trở thành một nghi án lớn của võ lâm trong khoảng một trăm năm nay.

Về sau Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây dẫn con vượn qua Tây Vực, nhưng bụng hai tên vẫn úy kỵ lẫn nhau, sợ đối phương tập thành công võ công trong kinh thư trước sẽ giết hại mình nên đứa nọ canh chừng đứa kia, lần lữa không dám lấy bộ kinh trong bụng con vượn ra. Sau cùng bọn họ đến được Kinh Thần Phong trong dãy Côn Lôn, Tiêu Doãn hai người mới ra tay ám toán, đánh nhau đến nước lưỡng bại câu thương. Thành ra bộ kinh vô thượng tâm pháp tu tập nội công này cứ vẫn nằm trong bụng con vượn.

Võ công Tiêu Tương Tử vốn cao hơn Doãn Khắc Tây một mức, nhưng vì khi trên đỉnh núi Hoa Sơn y đánh Giác Viễn đại sư một quyền, vì sức phản chấn nên bị trọng thương, hóa ra khi đấu với Doãn Khắc Tây lại chết trước. Khi lâm tử, Doãn Khắc Tây gặp được Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Đạo, lương tâm không an, nên nhờ y đến chùa Thiếu Lâm cáo tri Giác Viễn đại sư rằng bộ kinh thư này hiện đang ở trong bụng loài viên hầu. Thế nhưng khi y nói thần trí đã mơ hồ, giọng thều thào, thành ra câu "kinh tại hầu trung", Hà Túc Đạo lại nghe thành "kim tại du trung[2]". Hà Túc Đạo thủ tín, quả nhiên đến Trung Nguyên, chuyển lại câu "kim tại du trung" cho Giác Viễn. Giác Viễn không hiểu ý nghĩa là gì, mà cũng vì câu này nổi lên một trận phong ba, và trong võ lâm có thêm hai phái Võ Đương và Nga Mi.

Còn con vượn xám kia cũng thật may, ở trong núi Côn Lôn ăn tiên đào, được hưởng cái linh khí thiên địa, qua hơn chín mươi năm vẫn còn chạy nhảy như bay, toàn thân lông dài đen thuở nào nay đã thành trắng xóa, thành một con bạch viên. Có điều bộ kinh thư vẫn nằm trong bụng, làm cản trở ruột nên thỉnh thoảng bị đau, cái vết thương đó khi loét khi lành, mãi đến hôm nay mới được Trương Vô Kỵ lấy ra, nếu đứng về mặt con vượn thì quả là bớt được một mối họa trong gan ruột.

Những chuyện đầu dây mối nhợ đó thì dù người nào có thông minh gấp trăm Trương Vô Kỵ cũng nghĩ không ra. Trương Vô Kỵ thừ người một hồi, biết là không thể nào hiểu được, cũng chẳng phí tâm suy nghĩ làm gì, lấy trái bàn đào con vượn tặng cho, cắn một miếng, thấy nước thật là ngon ngọt chảy xuống cổ họng, so với những loại trái cây vô danh mà nó kiếm được ở trong thung lũng ngon hơn nhiều.

Trương Vô Kỵ ăn xong trái bàn đào, nghĩ thầm: "Thái sư phụ năm xưa có nói, nếu như ta tập được Cửu Dương Thần Công của cả ba phái Nga Mi, Thiếu Lâm, Võ Đương thì may ra có thể khu trừ được âm độc trong cơ thể. Thế nhưng Cửu Dương Công của cả ba môn phái đều từ Cửu Dương Chân Kinh mà ra, nếu bộ kinh văn này đúng là Cửu Dương Chân Kinh thì mình theo đó luyện tập, thì còn hơn học thần công của cả ba phái. Ở trong sơn cốc này chẳng có việc gì làm, mình cứ theo sách mà tập. Còn nếu như mình nghĩ sai, bộ kinh thư này không có ích lợi gì, quá lắm lại thêm có hại, thì cũng chỉ đến chết là cùng".

Y lòng không còn e ngại gì nên đem ba quyển kinh thư cất tại một nơi khô ráo, trên phủ cỏ khô, lấy thêm ba tảng đá đè lên để bọn khỉ vượn khỏi nghịch, con này giựt của con kia không chừng có khi xé rách mất bộ sách. Y chỉ giữ trong tay một quyển thứ nhất, trước hết đọc đi đọc lại vài lần, cho thật thuộc lòng, sau đó theo trong sách chỉ, tập từ câu thứ nhất trở đi.

Y nghĩ thầm, dù cho ta có theo sách này mà tập thành thần công, tống được hết âm độc ra ngoài thì bị giam hãm trong thung lũng này, bốn bên vách núi vây quanh, cũng không thể nào ra được. Trong u cốc ngày rộng tháng dài, hôm nay luyện xong cũng thế, ngày mai luyện xong cũng chẳng sao, không có gì khác cả. Mà nếu có luyện không thành thì cũng là một cách tiêu hao thì giờ nhàn rỗi. Y có cái bụng thành cũng vui mà chẳng thành cũng thích nên tiến triển rất nhanh, chỉ bốn tháng ngắn ngủi đã hoàn toàn tham tường lãnh ngộ những gì ghi trong quyển kinh thứ nhất, theo đúng như thế mà luyện thành công.

Xong quyển này, bấm đốt ngón tay, hạn kỳ Hồ Thanh Ngưu cho rằng y sẽ bị hàn độc phát tác mà chết đã qua, lúc này y chỉ thấy thân thể nhẹ nhàng khỏe mạnh, toàn thân chân khí lưu động, không có dấu hiệu gì bệnh tật cả, ngay cả việc trước kia hàn độc luôn luôn phát tác, bây giờ cách một tháng mới bị một lần, mà có cũng thật là nhẹ. Chẳng bao lâu y đọc quyển thứ hai tới câu:

Hô hấp cửu dương, bão nhất hàm nguyên, thử thư khả danh cửu dương chân kinh

(Đóng mở chín mạch dương, ngậm chặt nguyên khí, cuốn sách này được gọi tên là cửu dương chân kinh)

mới biết quả thực đúng là Cửu Dương Chân Kinh, bộ bảo điển mà thái sư phụ ngày đêm khắc khoải không lúc nào quên nên vui mừng vô hạn, tập luyện càng chăm chỉ hơn nữa. Con vượn bạch cảm cái ơn trị bệnh, thường hái bàn đào đem đến cho y, là một loại trái cây bổ nguyên kiện thể. Đến khi y luyện xong một nửa quyển kinh thư thứ hai, âm độc trong người đã bị khu trừ không còn tăm hơi đâu nữa.

Mỗi ngày ngoài thì giờ luyện công, y chơi đùa với bầy khỉ vượn, mỗi khi hái được trái cây lại chia cho Chu Trường Linh một nửa, sống cuộc đời không lo không phiền, tự do tự tại. Còn Chu Trường Linh ở trên cái bình đài nho nhỏ, một ngày dài như moạt năm, mỗi khi mùa đông núi đầy băng tuyết, gió lạnh thấu xương, cái cảnh khổ kể sao cho xiết.

Trương Vô Kỵ luyện xong quyển kinh thư thứ hai không còn sợ nóng sợ lạnh. Có điều càng về sau việc tập luyện càng thêm gian nan áo diệu, tiến triển rất chậm, cuốn thứ ba mất cả một năm mới xong, còn đến cuốn thứ tư mất hơn ba năm mới hoàn toàn thành tựu.

Y ở trong u cốc băng giá này sống đến nay đã hơn năm năm, từ một đứa bé đã biến thành một thanh niên thân thể cao to. Hai năm sau cùng, thỉnh thoảng có hứng, cùng bọn khỉ vượn trèo lên vách núi, trên cao nhìn xuống bốn bề, với công lực của y lúc này, nếu muốn vượt núi mà ra không còn là chuyện khó khăn gì nữa. Thế nhưng nghĩ đến thế nhân bụng dạ âm hiểm gian trá, y không khỏi rùng mình nghĩ thầm việc gì phải ra ngoài cho thêm phiền não, chui đầu vào rọ? Chi bằng ở trong cái u cốc mỹ lệ này cho tới già, tới chết, có phải hay hơn không?

Buổi chiều hôm đó, y đem bốn quyển kinh thư từ đầu đến cuối đọc lại một lần. Đọc xong quyển cuối cùng y thấy trong lòng vui sướng, lại hơi cảm thấy trống vắng mênh mang. Y khoét một cái hang sâu chừng ba thước nơi vách núi bên trái cái hang, đem cả bốn quyển Cửu Dương Chân Kinh, cùng với cuốn Y Kinh của Hồ Thanh Ngưu, cuốn Độc Kinh của Vương Nạn Cô, tất cả gói lại trong tấm vải dầu lấy từ trong bụng con vượn trắng ra, chôn xuống đó, vùi đất lại, nghĩ thầm: "Ta lấy được bộ kinh thư từ trong bụng con vượn ra, thật là một cơ duyên thật lớn, không biết nghìn năm, trăm năm sau, có ai lạc loài đến chốn này, có được ba bộ kinh thư này không?". Y nhặt một hòn đá nhọn vạch lên vách đá sáu chữ: "Nơi Trương Vô Kỵ Chôn Kinh".

Khi y còn luyện công, ngày ngày có việc để chú tâm vào làm nên không cảm thấy tịch mịch, đến nay đại công cáo thành rồi, trong lòng lại thấy trống trải, hơn nữa thần công đã xong, đảm khí gia tăng, nghĩ thầm: "Lúc này Chu bá bá có muốn hại ta, ta cũng không sợ, chi bằng qua nói chuyện với ông ta chơi". Nghĩ thế y bèn uốn mình chui vào hang. Khi y từ hang chui ra mới có mười lăm tuổi, thân hình nhỏ bé, nay trở vào đã hai mươi tuổi, cao to thành người lớn rồi, làm sao chui qua được cái hang hẹp nữa. Y liền hít một hơi, vận công phu co rút xương lại, xương cốt toàn thân rút lại chạm nhau, các đầu xương không còn chổ nào xa rời, nhẹ nhàng luồn vào trong động.

Chu Trường Linh đang dựa lưng vào vách đá ngủ say, mơ thấy đang ở nhà mở tiệc, gia nhân đầy tớ ra vào, người quen tâng bốc, thật là uy phong khoái hoạt, đột nhiên đầu vai có ai vỗ nhẹ, choàng tỉnh dậy, mở mắt ra, thấy một bóng người cao lớn chắn ngay trước mặt. Chu Trường Linh nhảy nhổm lên, đầu óc chưa được tỉnh táo hoàn toàn, kêu lên:

- Ngươi ... ngươi ...

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Chu bá bá, tôi đây, Trương Vô Kỵ đây mà.

Chu Trường Linh vừa mừng vừa sợ, vừa hận vừa tức, nhìn y hồi lâu mới nói:

- Ngươi cao lớn quá rồi. Hừ, sao bấy lâu nay ngươi không ra đây nói chuyện với ta? Ta cầu khẩn thế nào ngươi cũng không lý đến là sao?

Trương Vô Kỵ nhếch mép:

- Tôi sợ bác hành hạ tôi.

Chu Trường Linh tay phải chộp ra, thi triển cầm nã thủ pháp, nắm chặt đầu vai y, sẵng giọng hỏi:

- Thế sao hôm nay lại không sợ nữa?

Đột nhiên lòng bàn tay nóng bỏng, không kìm nổi cánh tay giật một cái, vội buông ra, ngực ngâm ngẩm đau, sợ quá lùi lại ba bước, ngơ ngơ ngẩn ngẩn nhìn y, lắp bắp:

- Ngươi ... ngươi ... công phu này là gì thế?

Từ khi luyện thành Cửu Dương thần công đây là lần đầu Trương Vô Kỵ sử dụng thấy uy lực đến thế, Chu Trường Linh là cao thủ bậc nhất vậy mà bị thần công của y chấn động phải buông tay. Thấy Chu Trường Linh mặt mày hốt hoảng kinh sợ, trong lòng đắc ý, cười nói:

- Bác thấy công phu này ra sao?

Chu Trường Linh chưa hoàn hồn ấp úng:

- Cái này ... cái này là công phu gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đó là Cửu Dương thần công.

Chu Trường Linh kinh hãi, hỏi lại:

- Làm thế nào mà ngươi luyện thành?

Trương Vô Kỵ không dấu diếm việc làm sao trị bệnh cho con bạch viên, lấy được kinh thư từ trong bụng nó thế nào, rồi theo đó mà tu tập kể lại từ đầu chí cuối.

Câu chuyện đó chỉ khiến cho Chu Trường Linh thêm đố kỵ, lại thêm tức tối, nghĩ thầm: "Ta ở trên tuyệt phong này năm năm qua biết bao khổ sở, còn thằng tiểu tử này lại luyện thành tuyệt thế thần công". Y chẳng nghĩ đến chính mình mưu toan hại người nên mới bị rơi vào đây, cũng chẳng nhớ đến cái ơn năm năm qua đối phương hái trái cây cho mình ăn, không sót ngày nào mới nuôi y sống đến hôm nay, chỉ nghĩ là thằng nhỏ này sao may mắn quá, còn mình xui xẻo, thực là chẳng công bằng chút nào, nên cố dằn cơn giận, cười hề hề hỏi lại:

- Thế bộ Cửu Dương chân kinh đó đâu rồi? Cho ta xem một tí được không?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cho ngươi xem một tí thì đã sao, không lẽ chỉ một chốc ngươi nhớ hết được sao?" liền nói:

- Tôi chôn ở trong động, ngày mai tôi đem ra cho bác coi.

Chu Trường Linh nói:

- Ngươi cao lớn như thế, làm sao chui lọt qua cái hang?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cái hang đó cũng không hẹp lắm đâu, chỉ cần co rút mình lại dùng sức ẩy một cái, là qua được ngay.

Chu Trường Linh hỏi lại:

- Thế ngươi xem ta có chui qua được không?

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Để mai mình thử xem sao, bên trong động rộng lớn lắm, chứ ở trên cái bình đài nho nhỏ này quả thật là không vui chút nào.

Y nghĩ thầm nếu mình vận công ép đầu vai, xương sườn, mông và những khớp xương, may ra có thể giúp y chui lọt qua cái hang. Chu Trường Linh cười nói:

- Tiểu huynh đệ, ngươi thật tốt, người quân tử không nhớ chuyện ác cũ, trước đây ta có nhiều điều không phải với cậu, xin cậu lượng thứ cho.

Nói xong vái dài một cái. Trương Vô Kỵ vội vàng hoàn lễ, nói:

- Chu bá bá không phải đa lễ, ngày mai mình cùng nhau nghĩ cách rời khỏi nơi này.

Chu Trường Linh mừng quá, hỏi:

- Ngươi bảo có thể rời khỏi đây ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Khỉ vượn có thể trèo ra trèo vào thì mình cũng làm được.

Chu Trường Linh nói:

- Vậy sao mình không ra sớm hơn?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Trước kia tôi không nghĩ tới chuyện ra khỏi đây, e ngại người ta hà hiếp, bây giờ thì không còn sợ nữa rồi nên nghĩ đến chuyện về thăm thái sư phụ và các sư bá, sư thúc.

Chu Trường Linh cười ha hả, vỗ tay nói:

- Hay quá, hay quá.

Y lùi lại hai bước, đột nhiên trượt chân, chao đi một cái kêu lên:

- Ối chà.

Chân y đạp vào khoảng không, từ trên mỏm đá rơi tõm xuống bên dưới. Y vì vui mừng quá hóa ra sơ sẩy, sự việc xảy ra thật độ ngột, Trương Vô Kỵ kinh hoảng vội cúi xuống nhìn, gọi lớn:

- Chu bá bá, bác có sao không?

Chỉ nghe từ bên dưới vọng lên hai tiếng rên thật yếu ớt. Trương Vô Kỵ mừng quá, nghĩ thầm: "May quá bác ta không rơi hẳn xuống đáy, nhưng chắc cũng bị thương". Nghe tiếng rên không quá mấy trượng, y nhìn kỹ hơn, thì may sao dưới huyền nhai này có một cây tùng mọc nhô ra, Chu Trường Linh rơi nằm vắt ngang thân cây, không động đậy. Trương Vô Kỵ xét hình thế này, với công lực hiện tại, y có thể nhảy xuống bế Chu Trường Linh nhảy trở lên không mấy khó khăn, bèn hít một hơi, nhắm ngay một cành cây to bằng bắp tay nhẹ nhàng nhảy xuống.

Chân y còn cách cành cây khoảng chừng nửa thước, bất ngờ cành cây đó rơi ngay xuống dưới, ở trên không trung làm gì có chỗ nào để mượn sức, dù y luyện thành thần công tuyệt đỉnh, nhưng người chứ đâu phải chim chóc, nên làm thế nào mà bay trở lên được? Trong đầu y xẹt qua như một ánh chớp, lập tức hiểu ngay: "Thì ra Chu Trường Linh lại dùng gian kế hại ta, y đánh gãy cành cây, cầm trên tay, đợi ta vừa nhảy xuống liền buông tay cho cành cây rơi xuống". Y hiểu được như thế thì đã muộn, thân hình tiếp tục rơi thẳng xuống dưới.

Chu Trường Linh ở trên cái bình đài nho nhỏ đó hơn năm năm, diện tích không quá mươi trượng, ở đó dù cành cây ngọn cỏ, một hòn đá, một viên sỏi cũng đều biết rõ. Y trong đêm tối giả vờ trượt chân bị thương, định rằng Trương Vô Kỵ sẽ nhảy xuống cứu, quả nhiên gian kế của y thành công khiến cho Trương Vô Kỵ rơi xuống vực sâu vạn trượng.

Chu Trường Linh cười ha hả, nghĩ thầm: "Hôm nay cho tên tiểu tử đó thành một đống thịt nát mới thỏa cái mối hận năm năm qua của ta". Y níu cái dây leo ở bên cạnh cây tùng, nhảy ngược trở lên huyền nhai tự nhủ: "Kỳ trước ta không chui lọt vào trong hang được, cũng vì quá gấp gáp nên dùng sức quá mạnh nên mới gãy xương sườn. Tên tiểu tử này thân thể còn to cao hơn ta nhiều, nếu y qua được thì mình cũng sẽ qua được. Ta lấy được Cửu Dương Chân Kinh rồi sẽ tìm đường trở về, sau này luyện thành thần công, vô địch thiên hạ, không phải sướng lắm sao? Ha ha, ha ha".

Y càng nghĩ càng đắc ý, liền theo cái hang đó mà chui vào, chẳng mấy chốc đã đến chỗ năm năm trước đây bị gãy xương sườn. Y trong bụng chỉ có một ý nghĩ duy nhất: "Tên tiểu tử đó cao to hơn ta mà chui lọt, thì ta nhất định cũng sẽ lọt". Nghĩ thế cũng đúng nhưng có một điểm y chưa nghĩ tới là Trương Vô Kỵ đã luyện thành phép rút xương trong Cửu Dương thần công.

Y bình tâm tĩnh khí tại chỗ hẹp của cái hang đó từng tấc, từng tấc trườn tới, quả nhiên so với năm năm trước đi thêm được hơn một trượng, thế nhưng đến đây rồi dù dùng lực cách nào để tiến thêm nửa tấc cũng không thể được. Y biết nếu lại làm mạnh cũng chỉ đi vào vết xe đổ năm năm trước, ắt sẽ lại gãy thêm vào cái xương sườn nên định thần, hết sức thở ra cho kỳ hết, quả nhiên người thu nhỏ lại một chút, lại tiến vào thêm được ba thước nữa. Thế nhưng vì y nhịn thở nên người mỗi lúc một ngộp, tim đập như trống hộ đê, dường như muốn xỉu, biết là không ổn, chỉ còn nước trở ra rồi tính sau.

Nào ngờ khi tiến vào chân có thể tựa vào những chỗ lồi lõm trên hang đá mà đạp, lúc trở ra không có gì để tựa cả. Khi tiến vào y giơ hai tay thẳng về trước để cho dễ thu hẹp hai vai, bây giờ hai tay bị bốn bề đá giữ chặt không thể nào mở ra nên không có một chút lực khí nào, trong bụng vẫn nghĩ: "Tại sao tiểu tử đó thân thể to lớn hơn mình nhiều mà lại có thể qua lọt, mình phải qua được. Tại sao mình lại bị kẹt ở đây, sao lại như thế được?".

Y có ngờ đâu có những chuyện không ai ngờ tới, nên một người văn tài võ công đều ở mức thượng thừa, thông minh cơ trí vào bậc nhất, nay bị kẹt trong cái sơn động hun hút này, tiến không được mà lui cũng không xong.

Trương Vô Kỵ bị trúng gian kế của Chu Trường Linh từ trên mỏm núi rơi thẳng xuống, nhất thời hối hận không để đâu cho hết: "Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi là một tên tiểu tử thực vô dụng. Ngươi đã biết Chu Trường Linh gian trá không ai bằng, vậy mà vừa gặp đã bị y lừa, thật đáng chết, đáng chết".

Y tự mắng mình đáng chết nhưng lại hết sức mong được sống, chân khí trong cơ thể lưu động, vận kình cố nhảy lên, cốt để giảm bớt sức rơi xuống, may ra rơi xuống tới đất không tan xương nát thịt. Thế nhưng đang ở trên không rơi vùn vụt, đâu có do mình, không có một chút lực nào có thể dựa vào, chỉ thấy bên tai gió vù vù thổi, trong khoảnh khắc hai mắt nhức nhối, ánh sáng từ tuyết trắng bên dưới phản chiếu vào.

Y biết rằng sống hay chết cũng ở phút này, thấy cách khoảng một trượng có một đống tuyết, lúc này đâu còn phân biệt được là tuyết hay là một khối đá màu trắng, nên đang trên không liền lộn ba vòng, nhắm ngay đống tuyết đó lao vào. Thân hình y xeo xéo một hình vòng cung, chân trái đã điểm vào, nghe ầm một tiếng cả người rơi ngập vào đống tuyết. Y khổ luyện Cửu Dương thần công hơn năm năm, nay mới phát sinh uy lực, mượn sức phản đạn của đống tuyết, búng người lên cao. Thế nhưng y rơi từ trên cao vạn trượng xuống đất sức ghê gớm là dường nào, thấy đùi đau nhói, cả hai xương đùi đều gãy cả.

Y bị thương tuy nặng nhưng đầu óc vẫn tỉnh, thấy củi cỏ bay tung tóe, hóa ra cái khối tuyết đó là nơi nông gia chứa rơm và củi, không khỏi kêu thầm: "Nguy hiểm quá, nguy hiểm quá. Nếu như đống này không phải là củi và rơm, mà là một tảng đá lớn, thì cái mạng của Trương Vô Kỵ đã ô hô rồi". Y dùng hai tay chầm chậm bò ra khỏi đống củi, lăn về phía mặt tuyết, xem lại vết thương, hít một hơi, tiếp lại chỗ gãy của xương đùi, nghĩ thầm: "Ta phải nằm đây không động đậy gì ít nhất một tháng mới có thể đi lại được. Thế nhưng nơi đây không có gì cả, đành phải lấy tay làm chân chứ không lẽ chịu nằm đây chết đói hay sao?".

Y nghĩ tiếp: "Đống củi rơm này do nông gia tích trữ, chung quanh hẳn phải có người ở". Y đã định kêu lên gọi người ta tới cứu, nhưng nghĩ lại: "Trên đời này kẻ ác thật nhiều, ta một mình nằm trên bãi tuyết dưỡng thương cũng được. Nếu kêu lên lại gặp ác nhân tới, hóa chẳng khốn khổ hay sao?". Nghĩ thế y bèn lặng yên nằm trên bãi tuyết chờ cho xương đùi từ từ liền lại.

Y nằm như thế ba ngày, bụng đói sôi lên từng chập. Y biết rằng tiếp cốt những ngày đầu không được cử động, nếu như chỗ gãy lệch đi, cả đời sẽ đi khập khiễng, thành thử bề gì cũng cố nhịn, không dám cử động chút nào, đến khi đói quá không còn chịu nổi thì bốc vài nắm tuyết bỏ vào mồm. Trong ba ngày đó y chỉ nghĩ: "Từ nay trở đi ta ở trên đời chuyện gì cũng phải cẩn thận, không để cho kẻ ác lừa mình nữa. Ngày sau chắc gì còn được may mắn, gặp đại nạn mà lại không chết như thế này".

Đến chiều ngày thứ tư, y nằm yên vận công, thấy trong lòng trống không minh lãng, toàn thân thoải mái, vết thương trên đùi tuy nặng thật, việc luyện thần công dường như vẫn tiến triển đều. Đang trong cảnh tịch mịch, bỗng nghe từ xa truyền tới mấy tiếng chó sủa, rồi càng lúc càng gần, hiển nhiên những con chó này đang đuổi theo một con dã thú. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi: "Không lẽ đâu là những con ác khuyển của Chu Cửu Chân tỉ tỉ nuôi chăng? Ồ, những con chó dữ đó đã bị Chu bá bá đánh chết rồi, nhưng đã lâu năm, chắc nàng ta lại nuôi chó khác".

Y chăm chú nhìn trong bãi tuyết, thấy một người đang chạy như bay, đằng sau có ba con chó vừa đuổi theo vừa sủa vang. Người đó rõ ràng đã hết hơi kiệt sức, bước chân loạng choạng, chạy vài bước lại ngã một cái, nhưng vì sợ nanh nhọn vuốt sắc của bầy chó dữ nên vẫn chạy thục mạng. Trương Vô Kỵ nghĩ đến mấy năm trước mình cũng bị bầy chó vây cắn, nên trong ngực không khỏi sôi lên.

Y có ý ra tay cứu người nọ, chỉ khổ là hai chân bị gãy không thể đi lại bỗng nghe người kia kêu lên thảm thiết, nằm lăn ra đất, hai con chó đã cắn vào y không nhả. Trương Vô Kỵ giận dữ kêu lên:

- Chó dữ, lại đây xem nào.

Ba con chó nghe thấy tiếng người, chạy vọt tới đánh hơi thấy Trương Vô Kỵ không phải người quen, đứng lại sủa lên mấy tiếng rồi xông vào cắn. Trương Vô Kỵ thò tay ra, búng cho mỗi con một cái vào đầu, ba con chó liền lăn ra chết ngay lập tức. Y không ngờ một cái búng nhè nhẹ lại có thể giết được ba con chó, không khỏi thầm kinh hãi uy lực của Cửu Dương thần công.

Y nghe thấy người kia rên rỉ hết sức yếu ớt, liền hỏi:

- Này vị đại ca kia, anh bị ác khuyển cắn có đau lắm không?

Người kia đáp:

- Tôi ... tôi ... chắc không xong ... tôi ... tôi

Trương Vô Kỵ nói:

- Hai chân tôi bị gãy không thể nào đi được. Xin anh cố gắng bò lại đây, tôi xem vết thương anh ra sao.

Người kia đáp:

- Vâng ... vâng ...

Y thở hổn hển cố hết sứt lết đến, lết một đoạn lại nghỉ một lát, nhưng khi đến còn cách Trương Vô Kỵ chừng một trượng thì kêu "A" lên một tiếng, nằm phục xuống bất động. Hai người còn cách nhau quá xa, một người không qua được, người kia cũng lại nằm yên, Trương Vô Kỵ hỏi:

- Đại ca, anh bị thương ở chỗ nào?

Người kia đáp:

- Tôi ... ở ngực, ở bụng ... bị chó cắn ... lòi ruột ra.

Trương Vô Kỵ kinh hoảng, biết rằng nếu vỡ bụng, ruột đã lòi ra thì không sao sống được, hỏi thêm:

- Vì cớ gì mà bầy ác khuyển này đuổi theo anh thế?

Người nọ đáp:

- - Tôi ... ban đêm đi săn heo rừng, để ... để khỏi phá rẫy, gặp đại tiểu thư nhà họ Chu ... nói chuyện với một công tử dưới gốc cây, dại dột đến gần xem ai ... tôi ... ối chao ...

Y kêu lên một tiếng, rồi không còn động tĩnh gì nữa.

Tuy y nói chưa hết câu nhưng Trương Vô Kỵ mười phần cũng đoán ra được tám chín, hẳn là Chu Cửu Chân và Vệ Bích nửa đêm ra ngoài gặp nhau, để làm sao người nhà quê này trông thấy, nên Chu Cửu Chân liền thả chó ra cắn chết y. Vô Kỵ còn đang tức giận, bỗng nghe tiếng vó ngựa từ xa vọng đến, có tiếng người huýt còi liên tiếp, chính là tiếng Chu Cửu Chân gọi bầy ác khuyển.

Tiếng chân đến gần, hai người cưỡi ngựa chạy đến, trên lưng một nam một nữ. Người đàn bà đột nhiên kêu lên:

- Ồ, sao các Bình Tây tướng quân lại chết cả thế này?

Giọng nói chính là Chu Cửu Chân. Những con chó nàng ta nuôi đều được phong danh hiệu tướng quân chẳng khác gì hồi trước. Người cưỡi ngựa đi cùng chính là Vệ Bích. Y tung mình nhảy xuống, lạ lùng nói:

- Có hai người chết ở đây nữa.

Trương Vô Kỵ trong lòng đã định bụng: "Nếu các ngươi định đến hại ta, đối đế lắm ta sẽ ra tay không nể nang gì nữa". Chu Cửu Chân thấy người nhà quê vỡ bụng lòi ruột, chết trông thật ghê rợn, còn Trương Vô Kỵ thì y phục rách bươm không thể nào rách hơn, đầu tóc bù xù, mặt đầy râu ria, nằm trên mặt tuyết không cục cựa, xem ra cũng đã bị chó cắn chết rồi. Nàng lại không muốn dây dưa ở đây lâu, phí thì giờ cùng Vệ Bích đàm tình thuyết ái, nên nói:

- Biểu ca, đi thôi. Hai tên chân lấm tay bùn này trước khi chết còn giết chết mất ba tướng quân của em.

Nàng quay đầu ngựa, chạy vọt về hướng tây. Vệ Bích thấy cả ba con chó đều chết, trong bụng hơi lạ lùng, nhưng thấy Chu Cửu Chân giục ngựa chạy xa rồi, không kịp coi kỹ hơn, cũng vội vàng nhảy lên lưng ngựa chạy theo.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng cười trong trẻo của Chu Cửu Chân từ xa vọng lại, trong bụng hết sức giận dữ, năm năm trước đối với nàng kính trọng chẳng khác gì thần tiên, chỉ cần nàng chỉ ngón tay, bảo y lên núi đao hay nhảy vào chảo dầu, y cũng không do dự. Hôm nay gặp lại, không hiểu vì sao, lòng thấy dửng dưng, cái mị lực của nàng ta hoàn toàn biến mất. Trương Vô Kỵ nghĩ chắc vì mình công phu tu tập Cửu Dương Chân Kinh, hoặc vì tìm ra được chuyện nàng đối với mình lắm điều gian trá nên ra như thế. Y có biết đâu con trai ở trên đời, phần lớn ai cũng qua cái cầu mối tình đầu mê say, yêu một người quên ăn bỏ ngủ, không kể sống chết. Thế nhưng mối tình ấy cũng qua nhanh như bọt nước, về sau nhớ lại cái say mê của mình thuở nào, không khỏi tự cười thầm.

Lúc đó bụng y đói đến kêu lên ục ục, chỉ muốn xé một cái đùi chó ra ăn tươi nuốt sống, nhưng lại sợ Vệ Bích và Chu Cửu Chân quay trở lại, thấy y chưa chết, lại xua đám tướng quân của nàng tới cắn, mình đang gãy chân, chưa chắc đã chống cự nổi.

Tảng sáng hôm sau, một con chim kên kên thấy dưới đất có người chết, chó chết, ở trên không bay vòng vòng mấy lần, rồi đáp xuống rỉa thịt. Con chim này chắc tới số, người chết chó chết không ăn, lại đậu ngay trên mặt Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ tay chộp ngay đầu nó, chỉ bóp nhẹ là con chim chết ngay, vui mừng nói:

- Quả đúng là bữa ăn sáng từ trên trời rơi xuống.

Nhổ sạch lông con chim, xé chiếc đùi ra gặm nhồm nhoàm, tuy là thịt sống nhưng vì đói đã ba ngày nên ăn cũng thấy ngon.

Con chim đầu y chưa ăn hết, một con thứ hai đã bay xuống. Cũng nhờ thế Trương Vô Kỵ có thịt chim kên kên mà ăn để nằm trên mặt tuyết dưỡng thương, đợi cho xương đùi liền lại. Luôn mấy ngày liền, chỗ đồng không mông quạnh này không có một bóng người đi qua, bên cạnh y chỉ có ba con chó chết, một xác người. Cũng may là trời đang mùa đông, khí hậu thật lạnh, các xác chết đó không rữa thối, cảnh tịch mịch sống một mình y cũng đã quen nên không lấy gì làm khổ.

Quá trưa hôm đó, y vận qua một lượt nội công, trên đầu thấy có hai con kên kên bay vòng vòng qua lại, một hồi thật lâu, nhưng không dám đáp xuống. Bỗng thấy một con chim bay sà xuống, thế nhưng đến cách Trương Vô Kỵ chừng ba thước thì lại chuyển hướng bay vọt lên, thân pháp quay mình thật là đẹp mắt. Y tự nhiên nghĩ thầm: "Cái lối bẻ hướng này, nếu có thể dùng vào trong võ công, khi tập kích đối phương khó mà phòng bị, một lần tấn công không trúng, thì mình đã vọt ra xa rồi, kẻ địch khó mà trả đòn".

Cuốn Cửu Dương Chân Kinh mà y tập luyện chỉ hoàn toàn liên hệ đến nội công và yếu chỉ võ học, nhưng công kích phòng bị thì một nửa chiêu cũng không nhắc tới. Chính thế mà năm xưa Giác Viễn đại sư luyện thành thần công, khi bị Tiêu Tương Tử và Hà Túc Đạo tấn công chỉ vụng về, luống cuống, không biết cách nào chống trả. Trương Tam Phong cũng nhờ Dương Quá dạy cho bốn chiêu nên mới đối địch được với Doãn Khắc Tây. Trương Vô Kỵ từ bé đã học võ công, căn bản hơn xa Giác Viễn và Trương Tam Phong khi còn trẻ, thế nhưng Tạ Tốn dạy cho y cũng chỉ toàn là yếu quyết của quyền thuật, không có pháp môn nào thực dụng.

Trương Vô Kỵ bây giờ mới biết được cái khổ tâm của nghĩa phụ, ông ta một thân võ công bác đại tinh thâm, nếu như truyền thụ giải thích theo đúng trình tự từng bước từng bước, thì dạy hai chục năm chưa chắc đã hết, nên thấy thời gian gần nhau không bao nhiêu, nên chỉ dạy cho y nhớ những yếu quyết của võ công thượng thừa, sau này sẽ tự mình lãnh ngộ. Còn quyền thuật mà Trương Vô Kỵ học đúng ra, chỉ có ba mươi hai thế Võ Đương trường quyền mà cha y đã dạy cho khi lênh đênh trên chiếc bè. Y biết rằng từ nay ngoài việc liên tục tham tập Cửu Dương thần công, muốn tinh tiến hơn nữa, y phải làm sao dung hợp được nội công thượng thừa với những võ công mà Tạ Tốn truyền thụ cho. Do đó mỗi khi nhìn thấy hoa trên cành rơi xuống đất, cây kỳ lạ vươn lên trời, cả đến động tác của loài chim loài thú, biến hóa của gió của mây, y đều đối chiếu với võ công chiêu số.

Lúc này y nhìn thấy những con kên kên bay vòng vòng lên xuống, biến đổi nhiều tư thế khác nhau, càng nhìn càng xuất thần, bỗng thấy từ xa có tiếng chân người đi trên mặt tuyết, cước bộ nhẹ nhàng, xem chừng là một nữ nhân.

Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại, thấy một cô gái tay cầm giỏ tre, băng băng đi tới. Cô ta thấy trên mặt tuyết có người chết, chó chết, kêu "Ủa" một tiếng, ngạc nhiên đứng lại xem. Trương Vô Kỵ nhìn kỹ, thấy cô ta tuổi chừng mười bảy, mười tám, áo vải trâm gai, chỉ là một thôn nữ nghèo nàn. Mặt cô ta đen đủi, sưng u từng cục, hình dáng thật là xấu xí, chỉ có đôi mắt có chút linh hoạt, thân hình cũng thon nhỏ thướt tha.

Cô ta tới gần thấy Trương Vô Kỵ giương mắt nhìn, hơi kinh hoảng, hỏi:

- Ngươi ... ngươi chưa chết à?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Xem ra chưa chết.

Người hỏi đã không thông, người đáp lại cũng ngộ nghĩnh, hai người nghĩ ra, cùng nhịn không nổi cười ồ lên. Cô gái hỏi:

- Thế ngươi chưa chết, sao lại nằm ỳ ra đây làm gì vậy? Làm ta sợ hết hồn.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi từ trên núi rơi xuống, hai đùi gãy cả rồi, chỉ có nước nằm ở đây thôi.

Thiếu nữ kia lại hỏi thêm:

- Thế người này là đồng bạn của ngươi ư? Sao lại có thêm ba con chó chết?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ba con chó này ác quá, cắn chết vị đại ca này, nhưng chúng nó cũng chết luôn.

Cô gái kia nói:

- Ngươi nằm đây rồi làm sao mà sống? Bụng có đói không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Dĩ nhiên là đói, nhưng tôi không cử động được, đành nằm đây đến đâu hay đó.

Thiếu nữ mỉm cười, lấy trong giỏ ra hai cái bánh bao đưa cho y. Trương Vô Kỵ nói:

- Đa tạ cô nương.

Y nhận lấy, nhưng chưa ăn. Cô gái hỏi:

- Ngươi sợ bánh của ta có thuốc độc à? Sao chưa ăn?

Trong hơn năm năm qua, Trương Vô Kỵ chỉ đôi lần nói chuyện với Chu Trường Linh vài câu trong hang núi, chẳng có ý vị gì, ngoài ra chưa có cơ duyên nói chuyện với ai nửa lời, bây giờ thấy cô gái này tuy mặt mũi xấu xí, nhưng ăn nói lại có duyên, trong bụng hoan hỉ, liền nói:

- Vì là bánh cô nương cho tôi, nên chưa nỡ ăn.

Câu nói đó có vài phần đùa cợt, y trước nay thực thà, ăn nói chưa bao giờ có giọng lưỡi lém lỉnh, nay trước mặt cô gái này, bỗng thấy cởi mở thoải mái, không hiểu vì đâu buột miệng nói ra. Cô gái kia nghe thế, lập tức nổi giận, hứ một tiếng. Trương Vô Kỵ thấy lòng hối hận, vội vàng cầm bánh ăn, nhưng vì hấp tấp nên nghẹn ở cổ, ho lên sù sụ.

Thiếu nử đổi giận làm vui, nói:

- Đáng kiếp cái đồ ăn tham. Thứ người xấu như ma mà bụng dạ còn không tốt, hèn gì trời chẳng hại. Ai đời người khác không gãy chân, chỉ có nhà ngươi lại gãy cả hai cái đùi chó chết này.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ta năm năm nay không chải đầu cạo râu, quả đúng là xấu như ma, nhưng nhà ngươi cũng có đẹp hơn ai, hai đứa tám lượng nửa cân, thờn bơn méo miệng lại còn chê trai lệch mồm". Thế nhưng câu đó y đâu dám nói ra, vội vàng nghiêm mặt nói:

- Tôi nằm đây đã chín ngày trời, may quá mới có cô nương đi qua, cô lại cho tôi bánh, thật là cảm ơn.

Cô gái bĩu môi:

- Ta hỏi ngươi, sao người khác chẳng ai gãy chân, lại chỉ có mình ngươi gãy đùi? Ngươi không trả lời ta lấy bánh lại đó.

Trương Vô Kỵ thấy cô ta chúm chím cười, ánh mắt lộ ra thần sắc thực là tinh ma, trong bụng không khỏi rung động: "Sao mắt cô ta lại giống mẹ mình đến thế. Khi mẹ mình sắp chết đến nơi còn đánh lừa lão hòa thượng chùa Thiếu Lâm, cũng lộ ra ánh mắt như thế". Nghĩ như vậy, nhịn không nổi nước mắt doanh tròng, lã chã rơi xuống.

Cô gái nọ kêu "Ồ" một tiếng, nói:

- Thôi ta không đòi lại bánh đâu, đừng khóc nữa. Hóa ra ngươi là một thằng ngốc vô tích sự.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không phải tôi sợ mất cái bánh đâu, mà vì tôi nghĩ đến một chuyện trong lòng.

Cô gái kia vốn đã quay mình ra đi được hai bước, nghe câu đó vội ngừng lại, quay đầu hỏi:

- Tâm sự gì? Một tên đầu óc đần độn như ngươi mà cũng có chuyện lòng ư?

Trương Vô Kỵ thở dài nói:

- Tôi nghĩ đến mẹ tôi, người mẹ đã chết rồi.

Thiếu nữ nọ cười rộ lên, nói:

- Trước kia mẹ ngươi hay cho ngươi ăn bánh, có phải không?

Trương Vô Kỵ nói:

- Mẹ tôi thường cho tôi ăn bánh, thế nhưng tôi nghĩ đến bà ấy cũng vì khi cô cười, rất giống mẹ tôi.

Cô gái giận dữ:

- Đồ chết toi, bộ ta già lắm ư? Già giống mẹ ngươi chứ gì?

Nói xong nhặt dưới đất một cây củi, đánh vào người Trương Vô Kỵ hai cái. Trương Vô Kỵ muốn cướp cây củi đó thì thật dễ dàng, nhưng nghĩ thầm: "Cô ta đâu biết mẹ ta trẻ trung xinh đẹp, tưởng mẹ mình cũng xấu xí ghê tởm như con, giận cũng phải". Đợi cô ta đánh xong mới nói:

- Khi mẹ tôi qua đời, tướng mạo thật là dễ coi.

Cô gái sầm mặt lại:

- Ngươi cười ta xấu xí, bộ không muốn sống nữa hay sao? Để ta kéo chân ngươi cho biết.

Nói xong cúi xuống, làm như muốn kéo chân y. Trương Vô Kỵ kinh hoảng, xương đùi y bị gãy mới vừa bắt đầu liền, nếu cô ta kéo một cái thì bao nhiêu công lao bấy lâu nay đổ xuống sông xuống biển, vội cầm một nắm tuyết, chỉ đợi nếu cô ta đụng tới chân mình, lập tức sẽ bắn vào huyệt đạo nơi mi tâm, đánh cho cô ta bất tỉnh.

Cũng may cô ta chỉ dọa y vậy thôi, thấy y biến sắc, nói:

- Thấy ngươi sợ hết hồn hết vía, ai bảo ngươi dám trêu ta?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi mà có ý trêu ghẹo cô nương thì đùi tôi lành rồi, gãy lại ba lần, không bao giờ khỏi nữa, cả đời sẽ là đứa què chân.

Thiếu nữ cười khúc khích nói:

- Thế thì được rồi.

Nàng ngồi xuống cạnh Trương Vô Kỵ, nói:

- Mẹ ngươi là người thật xinh đẹp, sao lại đem ra ví với ta? Không lẽ ta cũng dễ coi ư?

Trương Vô Kỵ thừ người, nói:

- Tôi cũng không biết vì nguyên do gì, chỉ thấy là cô giống mẹ tôi. Tuy cô không dễ coi như mẹ tôi nhưng tôi lại thích nhìn cô.

Cô gái cong ngón tay giữa nhè nhẹ cốc vào trán y hai cái, cười:

- Con ngoan ơi, vậy ngươi gọi ta là mẹ đi nào.

Nói xong hai câu đó, chợt thấy bất nhã, cô ta vội bịt mồm quay đầu đi chỗ khác, nhưng cũng nhịn không nổi cười lên thành tiếng.

Hồi 16

BÁC CỰC NHI PHỤC THAM CỬU DƯƠNG-

Trương Vô Kỵ nhìn cái cử chỉ của cô ta, liền nhớ tới khi còn ở Băng Hỏa đảo mẹ mình nói chuyện đùa với cha, mỗi khi lỡ lời cũng có dáng diệu như thế, bỗng thấy cô gái xấu xí này thanh nhã dễ thương, phong thái tự nhiên, không còn gì khó coi nữa. Y chăm chăm nhìn cô ta đến ngớ cả người.

Cô gái quay đầu lại, thấy Trương Vô Kỵ đang đờ đẫn, cười nói:

- Ngươi vì sao mà lại thích nhìn ta, nói ta nghe thử nào.

Trương Vô Kỵ thừ người, rồi lắc đầu:

- Tôi không sao nói được. Tôi chỉ thấy là mỗi khi nhìn cô, trong lòng tôi thật thoải mái, thật bình an, cô đối với tôi tốt quá, không hà hiếp, cũng chẳng hại tôi.

Cô gái cười:

- Ha ha, ngươi nghĩ sai rồi, ta sinh bình thích hại người khác lắm.

Đột nhiên cô ta giơ cây củi trong tay, gõ ngay vào cái đùi gãy của y hai cái, rồi nhỏm dậy ra đi. Hai cái gõ đó đúng ngay chỗ xương bị gãy, Trương Vô Kỵ xuất kỳ bất ý không đề phòng, kêu lên oai oái:

- Ái chà.

Chỉ thấy cô ta vui vẻ cười khúc khích, quay đầu lại nhăn mặt trêu y. Trương Vô Kỵ nhìn theo bóng cô ta mỗi lúc một xa, chỗ đau trên đùi chịu không nổi, nghĩ thầm: "Thì ra con gái chỉ thích hại người, người đẹp cũng hãm hại mà đến kẻ khó coi cũng làm cho ta đau khổ". Đêm hôm đó trong giấc mộng, y mấy lần nằm mơ thấy người con gái này, lại mấy lần nằm mơ thấy mẹ y, lại mấy lần khác không biết là mẫu thân hay là thiếu nữ. Y không nhìn rõ trong giấc mơ người xấu hay đẹp, chỉ thấy ánh mắt trong vắt, vừa tinh quái, vừa thiết tha trìu mến nhìn y.

Y lại nằm mơ thấy khi còn bé, mẹ y thường hay đùa nghịch với y, cố ý giơ chân cho y vấp ngã, đến khi y đau quá khóc ré lên, mới ôm y hôn hít không ngừng, luôn mồm nói:

- Cục cưng đừng khóc, mẹ làm đau con rồi.

Y bất ngờ tỉnh dậy, trong đầu đột nhiên hiện ra một câu hỏi mà xưa nay y chưa hề nghĩ tới: "Sao mẹ ta lại thích làm cho người khác khổ? Mắt nghĩa phụ cũng mẹ ta bắn mù, Du tam sư bá cũng do mẹ ta làm cho tàn phế, toàn gia của Long Môn tiêu cục ở phủ Lâm An cũng do mẹ ta giết chết, thế mẹ ta là người tốt, hay là người xấu?".

Y ngước mắt nhìn lên những ngôi sao trên trời, một hồi lâu thật lâu, thở dài một tiếng, nói:

- Không cần biết mẹ ta tốt hay xấu, cũng là mẹ ta.

Y lại nghĩ tiếp: "Nếu như mẹ ta vẫn còn sống đến hôm nay, không biết ta yêu mẹ ta chừng nào". Y lại nghĩ đến cô thôn nữ kia, chẳng duyên cớ gì cũng đánh vào cái đùi gãy của mình: "Ta có làm gì cô ta đâu, tại sao cô ta lại phải làm ta đau đớn kêu toáng lên mới hả dạ? Không lẽ cô ta chỉ thích hại người thật sao?". Y mong cô ta quay lại, nhưng cũng lại sợ cô ta sẽ nghĩ ra những trò quái ác khác để hại mình. Y mò thấy bên mình chiếc bánh ăn dở dang, nghĩ đến câu nói của cô gái: "Mẹ ngươi là người thật xinh đẹp, sao lại đem ra ví với ta? Không lẽ ta cũng dễ coi ư?" nhịn không nổi lẩm bẩm nói một mình: "Cô dễ coi, tôi thích nhìn cô lắm".

Y nằm đó nghĩ ngợi vớ vẩn hết hai ngày, nhưng cô gái quê kia không quay trở lại, Trương Vô Kỵ chắc là không bao giờ còn gặp lại cô ta nữa. Nào ngờ đến chiều ngày thứ ba, cô gái lại xách giỏ tre, từ phía sau sườn núi vòng qua, cười nói:

- Thằng quỉ, ngươi chưa chết đói đấy chứ?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Chết đói một nửa già, còn sống một nửa non thôi.

Cô gái đó cười hinh hích ngồi bệt ngay xuống bên cạnh y, bỗng nhiêu giơ chân đá vào chỗ đùi gãy, hỏi:

- Thế nửa này là nửa chết hay nửa sống?

Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Ối chao, sao cô vô lương tâm đến thế?

Thiếu nữ hỏi:

- Cái gì mà vô lương tâm? Ngươi có tử tế gì với ta đâu nào?

Trương Vô Kỵ ngẩn người ra, nói:

- Hôm trước cô đánh tôi thật đau, thế nhưng tôi không giận gì cô, hai hôm nay tôi vẫn thường nghĩ đến cô là khác.

Cô gái mặt đỏ lên, muốn nổi cáu, nhưng cố dằn, hỏi lại:

- Ai cần tên xú bát quái như ngươi nghĩ đến? Ngươi chắc chẳng nghĩ gì tốt cho ta đâu, bụng rủa ta đã xấu lại ác chứ gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô đâu có xấu, nhưng tại sao lại cứ phải làm cho người khác khổ thì cô mới vui?

Thiếu nữ kia cười khanh khách nói:

- Nếu người khác không khổ, làm sao hiện rõ cái vui trong lòng tôi được?

Nàng thấy dường như Trương Vô Kỵ không cảm thấy được cái lý đương nhiên đó, lại thấy y trong tay vẫn còn cầm trong tay cái bánh ăn dở hôm trước, đã ba hôm vẫn còn để đó nên nói:

- Chiếc bánh kia vẫn còn đây, chắc không ngon chứ gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vì là bánh cô cho tôi nên tôi không nỡ ăn.

Ba hôm trước y đã nói câu đó nhưng quá nửa là có ý đùa cợt, nhưng lúc này nói ra thật là thành khẩn. Thiếu nữ biết không phải y nói lời đãi bôi, hơi thẹn thùng, nói:

- Ta có đem bánh mới tới đây.

Nói xong lấy từ trong giỏ ra đủ thứ đồ ăn, ngoài bánh ra còn có một con gà nướng và một đùi dê thui. Trương Vô Kỵ thật mừng, bấy lâu nay chỉ ăn thịt chim ưng sống, máu ròng ròng vừa tanh vừa dai, con gà hầm kia mùi thơm nức, cầm trên tay còn nóng, cho vào miệng ngon lạ thường.

Thiếu nữ thấy y ăn uống ngon lành, ngồi ôm gối cười hì hì, nói:

- Thằng quái, ngươi ăn thật ngon lành, trông mà mát cả ruột. Ta đối với ngươi dường như có điểm khác người, không cần phải hại ngươi mà ta vẫn thấy vui.

Trương Vô Kỵ nói:

- Người khác vui mà làm cho cô cũng vui, cái đó mới thực là vui.

Thiếu nữ cười nhạt nói:

- Hừ, ta phải nói với ngươi ngay từ trước, lúc này lòng ta vui, nên không gia hại ngươi. Một ngày nào đó ta không vui, không chừng ta sẽ cho ngươi sống dở chết đở, lúc đó thì đừng có trách ta.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Tôi từ bé đã bị người ta hãm hại đến tận cùng rồi, càng hành hạ tôi, tôi càng cứng cỏi.

Thiếu nữ cười khẩy:

- Thôi đừng có nói trước, để đến đó rồi sẽ biết.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đợi đến khi chân tôi lành rồi, tôi sẽ cao chạy xa bay, dù cô có muốn hành hạ tôi, hại tôi, cũng không tìm đâu cho thấy.

Cô gái nói:

- Đã vậy để ta đánh gãy đùi ngươi cho ngươi không xa ta được nữa.

Trương Vô Kỵ nghe giọng nói lạnh như băng của cô gái, không khỏi rùng mình, tin rằng cô nàng đã nói là làm, chẳng phải thuận mồm mà nói thôi đâu. Thiếu nữ chăm chăm nhìn y một hồi, thở dài, mặt bỗng dưng biến đổi, gằn giọng hỏi:

- Ngươi chịu không, hả thằng quái. Ngươi có chịu cho ta chặt hai cái đùi chó của ngươi không?

Nàng đứng dậy, giựt con gà nướng y đang ăn dở dang, đùi dê, bánh quăng ra xa, nhổ một bãi nước miếng vào mặt y. Trương Vô Kỵ sững sờ nhìn nàng, chỉ cảm thấy dường như không phải nàng nổi giận, cũng chẳng phải vì khinh khi gì mình, mà trên mặt đầy vẻ thê lương, trong lòng hẳn có điều gì uất ức khó nói. Y định an ủi nàng vài câu, nhưng nhất thời không nghĩ ra được câu nào cho phải.

Thôn nữ kia nhìn thấy vẻ mặt của y như thế đột nhiên ngừng lại, quát lên:

- Thằng quái, ngươi đang nghĩ gì vậy?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô nương, vì cớ gì mà cô lại không vui như thế? Nói cho tôi nghe đi, có được chăng?

Cô gái thấy lời nói của y dịu dàng như thế, không cách nào phách lối được nữa, ngồi bệt xuống bên cạnh, hai tay ôm đầu khóc nức nở. Trương Vô Kỵ nhìn thấy bờ vai cô rung rung, cái eo thon thật là đáng thương, dịu giọng nói nhỏ:

- Cô nương, kẻ nào hà hiếp cô? Đợi khi đùi tôi khỏi rồi, tôi sẽ làm cho cô hả dạ.

Cô gái đó nhất thời không nín được, một lát sau mới nói:

- Chẳng ai hà hiếp tôi cả, chỉ vì số tôi khổ sở đấy thôi. Trong lòng tôi không vui, nghĩ đến một người mà không thể nào quên y được.

Trương Vô Kỵ gật đầu, nói:

- Chắc đó là một chàng trai trẻ tuổi, phải không? Y đối đãi với cô hung ác lắm chứ gì?

Thiếu nữ đáp:

- Đúng thế. Y mặt mũi đẹp trai lắm, nhưng cũng kiêu ngạo vô cùng. Tôi bảo y đi với tôi, để luôn luôn ở bên cạnh tôi, y không chịu, lại còn mắng chửi tôi, đánh tôi, cắn tôi máu chảy dầm dề.

Trương Vô Kỵ giận dữ nói:

- Người đó quả thực là ngang tàng vô lý, cô nương từ nay đừng thèm để ý đến y nữa.

Cô gái chảy nước mắt nói:

- Thế ... thế nhưng lòng tôi không sao quên y được, y bỏ đi đâu mất rồi, tôi kiếm y hoài mà không ra.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Chuyện ái tình nam nữ làm sao ép uổng được. Cô nương này tuy dung mạo không ra gì nhưng quả thực là người chí tình. Tính nết cô ta có điểm khác thường, cũng bởi vì trong lòng đau khổ, không được như ý đấy thôi. Không ngờ người con trai kia lại đối với cô ta tàn nhẫn như thế". Y dịu dàng nói:

- Cô nương, cô cũng đừng quá khổ đau, trên đời này thiếu gì người tử tế, hà tất phải khắc khoải đến gã ác độc vô lương tâm kia làm gì?

Thiếu nữ thở dài, mắt vọng về chỗ xa xăm, lặng người không đáp. Trương Vô Kỵ biết nàng ta không sao quên được tình lang, nói:

- Gã kia bất quá chỉ đánh cô chửi cô, chứ thảm sự tôi phải chịu còn gấp mười như thế.

Thiếu nữ hỏi:

- Như thế nào? Anh bị một cô gái đẹp lừa dối ư?

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng ra không phải cô ta có ý lừa dối tôi, chỉ vì chính tôi ngu dại, thấy cô ta xinh đẹp quá nên ngơ ngẩn si mê. Thực ra làm sao tôi có thể sánh với cô ta được? Tôi chưa bao giờ hoang tưởng chuyện đó. Nhưng cha cô ta và cô ta lén bày độc kế, hại tôi không biết đâu mà kể.

Nói xong y vén tay áo lên, chỉ cho nàng ta những vết sẹo nhằng nhịt, nói:

- Đây là vết răng, đều do đàn chó dữ của nàng ta nuôi đấy.

Cô gái kia nhìn thấy những vết răng, đột nhiên nổi giận, nói:

- Có phải con tiện a đầu Chu Cửu Chân hại anh đấy không?

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi lại:

- Làm sao cô biết?

Thiếu nữ đáp:

- Con tiện a đầu đó thích nuôi chó dữ, vài trăm dặm quanh đây ai mà chẳng biết.

Trương Vô Kỵ gật đầu, thản nhiên nói:

- Đúng là Chu Cửu Chân Chu cô nương. Thế nhưng những vết thương này cũng đã lành rồi, tôi không còn thấy đau đớn gì cả, cũng may là mạng mình vẫn còn, nên cũng không có gì phải hận cô ta.

Thiếu nữ kia quay nhìn y một hồi, thấy mặt y thần sắc hòa hoãn, an nhiên tự tại, trong bụng cũng hơi lạ lùng, hỏi lại:

- Thế tên anh là gì? Vì sao lại đến nơi đây?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Từ khi ta trở về Trung Thổ tới nay, ai ai cũng muốn ta tiết lộ chỗ ở của nghĩa phụ, lúc ra uy, khi ép buộc, kẻ dụ dỗ, người đánh lừa, không cách gì là không dùng tới, khiến cho ta phải chịu biết bao nhiêu là đau khổ. Từ nay trở đi, cái tên "Trương Vô Kỵ" coi như chết rồi, trên đời này không còn ai biết chỗ Kim Mao Sư Vương đang ở. Nếu như mai sau gặp lại một kẻ lợi hại gấp mười Chu Trường Linh gia hại mình, cũng không sợ rơi vào cái bẫy của y nữa để khỏi vô ý làm hại đến nghĩa phụ". Y mới nói:

- Tên tôi là A Ngưu.[3]

Thiếu nữ mỉm cười, hỏi:

- Thế còn họ?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Nếu mình nói họ Trương, họ Ân, hay họ Tạ đều không nên. Trương và Ân hai chữ thiết âm[4] thành Tăng". Y bèn nói:

- Tôi ... tôi họ Tăng, còn quí tính của cô nương?

Cô gái kia thân hình hơi run rẩy:

- Tôi không có họ.

Một lát sau, cô ta chậm rãi nói:

- Cha ruột tôi không thích tôi, gặp tôi là giết ngay, làm sao tôi nhận họ của ông ta được? Còn mẹ tôi thì chính tôi làm hại mà chết, nên tôi cũng không mang họ của mẹ tôi. Tôi trời sinh xấu xí, anh cứ gọi tôi là Xú cô nương được rồi.

Trương Vô Kỵ kinh hãi hỏi:

- Cô ... cô làm mẹ cô chết ư? Vì đâu nên nỗi?

Thiếu nữ kia thở dài một tiếng, nói:

- Chuyện này nói ra thì dài. Mẹ ruột tôi vốn là vợ cả của cha tôi, trước kia không sinh con đẻ cái gì, cha tôi mới lấy thêm bà vợ hai. Bà hai sinh được hai người anh tôi nên cha tôi thương yêu bà ta lắm. Mẹ tôi về sau sinh ra tôi, nhưng lại là con gái. Bà hai ỷ được cha tôi cưng chiều, nên mẹ tôi hay bị bà ta áp chế. Hai người anh tôi cũng ghê gớm lắm, cứ về hùa với mẹ hành hạ mẹ tôi, mẹ tôi chỉ biết nuốt lệ khóc thầm. Anh thử xem, tôi phải làm sao bây giờ?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cha cô phải xen vào đối xử cho công bình thì được.

Thiếu nữ nói tiếp:

- Thế nhưng cha tôi lại bênh bà hai, tôi giận quá chịu không nổi, một đao giết luôn bà dì ghẻ.

Trương Vô Kỵ kinh hoảng kêu "A" lên một tiếng. Y nghĩ người trong võ lâm giao đấu giết nhau thì cũng là chuyện thường, đâu ngờ đến một thôn nữ như cô này mà cũng ra tay giết người, quả thực không thể ngờ nổi.

Cô gái nói:

- Mẹ tôi thấy tôi gây ra đại họa, vội đưa tôi trốn đi. Thế nhưng hai người anh tôi đuổi theo kỳ được, định bắt tôi đem về, mẹ tôi cố ngăn mà không xong, vì muốn cứu tôi nên phải cứa cổ tự sát. Anh thử nghĩ coi, tính mạng của mẹ tôi chẳng phải do tôi hại là gì? Cha tôi mà gặp tôi, không thể nào không giết tôi cho được?

Cô ta kể chuyện mình mà thanh âm bình thản, không bị khích động chút nào. Thế nhưng Trương Vô Kỵ nghe xong tim đập thình thịch, tự nhủ: "Ta tuy rằng bất hạnh, cha mẹ đều mất cả rồi, thế nhưng cha mẹ ta khi sống yêu thương nhau biết bao nhiêu, đối với ta lại nuông chiều, so với những gì cô gái khốn khổ này gặp phải, xem ra ta còn may mắn gấp vạn lần". Nghĩ đến như thế, y cảm thấy giữa mình với cô thôn nữ có một mối đồng tình, bèn ôn tồn nói:

- Cô xa nhà đã lâu chưa? Bây giờ ở nơi đây có một mình?

Cô gái gật đầu. Trương Vô Kỵ lại hỏi:

- Thế cô định đi đâu bây giờ?

Cô gái đáp:

- Tôi cũng chẳng biết nữa, thế gian này lớn biết bao, đi phía đông một hồi, đi phía tây một hồi. Chỉ cần không đụng đầu cha tôi và các anh tôi là được rồi.

Trương Vô Kỵ bỗng nổi cơn cao hứng cái cảnh "đồng bệnh tương lân[5]" nên nói:

- Đợi đùi tôi khỏi đau rồi, tôi sẽ cùng đi với cô kiếm cái ... cái anh chàng kia, hỏi xem y định đối xử với cô thế nào.

Thiếu nữ đáp:

- Thế nhưng nếu y lại chửi tôi, cắn tôi nữa thì sao?

Trương Vô Kỵ hiên ngang đáp:

- Hừ, nếu y vẫn còn tệ bạc với cô như thế, tôi không để cho y yên đâu.

Thiếu nữ nói:

- Thế nhưng nếu y đối với tôi không thèm để ý đến, chẳng nhìn chẳng nói một câu thì làm sao?

Trương Vô Kỵ cứng họng không trả lời được, nghĩ thầm dù mình võ công cao cường đến đâu, cũng không thể nào ép một người con trai phải yêu một người con gái mà y không thích, thừ người hồi lâu, nói:

- Tôi sẽ cố hết sức.

Thiếu nữ đột nhiên cười ha hả, ngửa cổ gập người về sau, tưởng như nghe một câu chuyện gì thú vị lắm. Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Có gì đáng cười?

Cô gái vẫn cười:

- Xú bát quái, anh là cái thá gì mà người khác phải nghe lời anh? Hơn nữa, tôi đã đi tìm khắp nơi, không thấy tung tích gì, không biết bây giờ còn sống hay đã chết nữa? Anh sẽ cố hết sức, nhưng anh có tài cán gì? Ha ha, ha ha.

Trương Vô Kỵ vừa định mở mồm nói một câu, nghe cô ta cười như thế mặt đỏ bừng, không nói nên lời. Thiếu nữ thấy y sượng sùng, không cười nữa, hỏi lại:

- Anh định nói gì?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô cười tôi, tôi không nói nữa.

Cô gái lạnh lùng nói:

- Hừ, có cười thì cũng đã cười rồi, cùng lắm thì cũng để tôi cười thêm một trận nữa, có chết ai đâu nào?

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Tôi đối với cô có lòng tốt, cô không nên cười tôi như thế.

Thiếu nữ nói:

- Tôi hỏi anh, anh định nói với tôi cái gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô lênh đênh một mình, không nhà không cửa. Tôi cũng tình cảnh như thế, cha mẹ tôi đều chết cả rồi, cũng chẳng anh chị em gì hết. Tôi định nói với cô là, nếu tên ác nhân kia không thèm để ý tới cô, thì hai đứa mình làm bạn với nhau, tôi sẽ kể chuyện cho cô giải sầu. Thế nhưng cô cho rằng tôi không xứng, tôi đâu có dám nói ra nữa.

Cô gái bực tức nói:

- Anh đương nhiên không xứng, gã ác nhân kia so với anh đẹp trai gấp trăm lần, thông minh cũng gấp trăm lần. Tôi ở đây dây dưa với anh, nói chuyện tào lao, thật phí cả lời.

Nói xong cô ta đá tung tóe đùi dê, thịt gà, ôm mặt chạy đi mất hút. Tuy bị cô gái mắng mỏ cự tuyệt không lường được như thế, Trương Vô Kỵ vẫn không nổi giận, nghĩ thầm: "Cô gái này quả thực tội nghiệp, trong lòng cô ta biết bao chuyện không vui, cũng chẳng đáng trách".

Bỗng thấy cô gái kia quay trở lại, mặt hầm hầm hỏi:

- Này thằng quỉ, trong lòng ngươi hẳn không bằng lòng, nghĩ ta tướng mạo xấu xí, lại còn coi ngươi chẳng ra gì, có phải không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu đáp:

- Không phải vậy. Tướng mạo cô không đẹp lắm nhưng tôi mới gặp đã thấy hợp bụng, nếu như cô không biến ra xấu xí, trước kia hẳn cũng ...

Cô gái kia đột nhiên kinh hoảng kêu lên:

- Sao ... sao ngươi ... biết ta trước kia không xấu như thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Mặt cô hôm nay, so với hôm trước mới gặp bị sưng hơn nhiều, nước da cũng đen hơn, đủ biết không phải sinh ra đã thế.

Thiếu nữ sợ hãi nói:

- Ta ... ta mấy hôm nay không dám soi gương, ngươi nói ta mỗi ngày một khó coi ư?

Trương Vô Kỵ ôn tồn nói:

- Con người ta chỉ cần tâm địa tốt, mặt mày đẹp xấu đâu thành vấn đề. Mẹ tôi có bảo tôi rằng, đàn bà càng đẹp thì tâm địa càng bại hoại, càng giỏi lừa người, bảo tôi phải cẩn thận đề phòng.

Thiếu nữ kia đâu có lòng dạ nào nghe chuyện mẹ y nói thế nào, vội hỏi:

- Tôi hỏi anh, lần trước anh gặp tôi, mặt tôi chưa đến nỗi xấu xí thế này, có phải không?

Trương Vô Kỵ biết rằng nếu chỉ "Ừ" một tiếng thì nàng sẽ rất đau lòng, thành thử chỉ nhìn cô ta đăm đăm, trong bụng đầy những tâm tình thương xót. Thiếu nữ nhìn thấy dáng điệu của y như vậy, hiểu ngay câu trả lời như thế nào, ôm mặt khóc nức nở nói:

- Thằng quỉ kia, ta hận ngươi, ta hận ngươi.

Rồi chạy đi mất. Lần này nàng ta không quay trở lại nữa.

Trương Vô Kỵ lại nằm thêm hai ngày. Đêm hôm đó có một con chó sói đánh hơi mò đến gần bị y đấm một cái chết ngay. Con chó sói đã không ăn được gì lại biến thành thức ăn vào bụng y. Mấy ngày sau, hai đùi y đã liền đến quá nửa, chắc chỉ độ mươi ngày nữa là đi lại được như thường, nghĩ đến cô gái kia một lần gặp gỡ rồi thôi, đến tên cũng chưa hỏi, nghĩ thầm: "Sao dung mạo cô ta càng ngày càng xấu đi, khiến mình không sao đoán định được". Suy nghĩ một lúc lâu vẫn không hiểu, y gác chuyện đó sang một bên, mơ mơ màng màng nằm ngủ thiếp đi.

Ngủ đến nửa đêm, trong giấc mơ thấy có mấy người đạp tuyết đi đến. Y kinh hoảng tỉnh dậy, ngồi nhỏm dậy nhìn vọng về hướng bước chân người. Đêm hôm đó trăng treo lưỡi liềm, dưới ánh sáng mờ mờ, thấy có bảy người chạy đến, người đi đầu hình dáng thướt tha, dường như chính là cô thôn nữ. Đến khi bảy người đó đến gần, người đó quả nhiên là cô gái xấu xí, nhưng đằng sau còn thêm sáu người nữa trải ra thành hình cánh quạt, có lẽ phòng cô ta bỏ chạy. Trương Vô Kỵ hơi lạ lùng, nghĩ thầm: "Không lẽ cô ta bị cha và anh bắt được rồi chăng?".

Y nghĩ ngợi chưa xong, thiếu nữ kia và sáu người đằng sau đã tới gần, Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, giật mình kinh hãi không để đâu cho xiết. Thì ra cả sáu người đó y đều biết cả, bên trái là Võ Thanh Anh, Võ Liệt, Vệ Bích còn bên phải là hai vợ chồng Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn, ngoài cùng là một phụ nữ trung niên, chẳng ai xa lạ chính là Đinh Mẫn Quân của phái Nga Mi.

Trương Vô Kỵ lạ lùng: "Sao cô ta lại quen với tất cả những người này? Hay là cũng là người trong võ lâm, biết được tông tích ta nên dẫn bọn này đến bắt mình, tra hỏi chỗ ở của nghĩa phụ?" Nghĩ đến việc đó, trong bụng không còn hoài nghi, căm giận lắm: "Ta với cô không thù không oán, tại sao cô lại hãm hại ta? Hiện nay hai chân ta không cử động được, sáu người này chẳng ai kém cỏi, mà cô thôn nữ kia có thể cũng ghê gớm. Ta đành phải khuất phục nhất thời nhận lời đưa họ đi kiếm nghĩa phụ. Đến khi hai chân ta khỏi hẳn rồi, sẽ liệu bề thanh toán từng người một".

Nếu năm năm trước gặp phải cảnh này, y chỉ có nước đem tính mệnh ra thí bỏ, dù đối phương có hành hạ uy hiếp cỡ nào, cũng chỉ cắn răng không nói, nhưng bây giờ tuổi cũng đã lớn, tâm trí cũng khôn ngoan hơn, sau khi luyện xong Cửu Dương Chân Kinh thần trí sáng suốt, trầm tĩnh, gặp nguy nan tìm cách đối phó nên tuy cường địch ở trước mặt, nhưng không thấy sợ hãi chút nào. Có điều không ngờ đến cô gái kia lại đem mình đi bán, trong cái phẫn khái, không khỏi có chút đau lòng, nên nằm trơ trơ dưới đất, khoanh tay gối đầu, không thèm để ý tới bảy người kia.

Thôn nữ kia chạy đến, nhìn y chăm chăm một hồi, sau cùng từ từ quay đầu đi. Trương Vô Kỵ dường như nghe cô thở dài một tiếng, tuy rất nhẹ, nhưng đầy vẻ đau thương. Y thầm cười nhạt: "Chẳng biết bụng ngươi dự định gì ác độc, lại còn giở trò mèo khóc chuột nữa đây?".

Chỉ thấy Vệ Bích trường kiếm trong tay rung một cái, cười khẩy nói:

- - Ngươi nói trước khi chết, muốn được gặp mặt một người, bọn ta tưởng phải là một thanh niên đẹp như Phan An, hóa ra chỉ là một tên xú bát quái, ha ha, tức cười thật là tức cười. Gã này với ngươi thật đúng là duyên trời sắp đặt, nồi nào vung nấy.

Thiếu nữ kia không hề tức giận, chỉ thản nhiên nói:

- Đúng thế, ta trước khi chết chỉ muốn nhìn lại y một lần. Ta chỉ muốn rõ ràng hỏi y một câu, ta nghe xong chết cũng cam lòng.

Trương Vô Kỵ lạ lùng, không biết hai người nói năng ý tứ ra sao. Lại nghe cô gái nói tiếp:

- Tôi có một câu hỏi anh, anh phải thật thà trả lời cho tôi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chuyện của tôi thì tôi sẽ nói cho cô hay. Chuyện người khác thì không dễ gì mà nói được.

Y liệu tưởng cô gái nọ sẽ hỏi về tung tích Tạ Tốn nên đã tính toán việc đối phó với bọn họ, nói nước đôi có thể liệu cách xoay sở sau này. Cô gái nói:

- Chuyện người khác thì tôi để tâm làm gì? Tôi hỏi anh: Hôm nọ anh có nói với tôi, hai đứa mình đều cô khổ lênh đênh, không nhà không cửa, anh bằng lòng làm bạn với tôi. Câu nói đó có thực lòng anh không?

Trương Vô Kỵ nghe rồi ngoài dự tưởng, lập tức nhỏm dậy, thấy ánh mắt cô lộ vẻ bi thương, liền nói:

- Cái đó quả là thực lòng tôi nói ra.

Thiếu nữ kia lại nói:

- Anh quả không hiềm tôi mặt mày xấu xí, bằng lòng ở chung với tôi một chỗ ư?

Trương Vô Kỵ hơi sững sờ, chuyện "ở chung một chỗ với cô ta" y chưa từng nghĩ đến, thế nhưng thấy cô gái buồn rầu tưởng như muốn khóc đến nơi, trong lòng không khỏi bất nhẫn, liền nói:

- Cái gì xấu hay không xấu, đẹp với chẳng không đẹp, tôi không để tâm chút nào cả. Cô muốn tôi nói chuyện vui hay tâm tình, nếu cô không hiềm, tôi rất vui lòng làm việc đó. Còn như cô lừa tôi để nói ...

Cô gái run run giọng hỏi:

- Thế anh có bằng lòng lấy tôi làm vợ không?

Trương Vô Kỵ giật mình, một hồi không nói nên lời, lẩm bẩm nói:

- Tôi ... tôi chưa nghĩ đến ... việc lấy vợ ...

Bọn sáu người Hà Thái Xung cùng cười ha hả. Vệ Bích cười nói:

- Đến ngay một thằng nhà quê xấu như ma cũng còn chẳng muốn lấy ngươi, bọn ta không giết ngươi, ngươi sống trên đời này có gì thú vị? Nếu không thì đập đầu vào đá chết đi cho xong.

Trương Vô Kỵ nghe sáu người cười chế riễu rồi Vệ Bích lại mỉa mai, bấy giờ mới biết cô gái và bọn người kia không cùng một phe, dường như bọn Vệ Bích định giết cô ngay lập tức, cô gái này không phải dẫn họ đến hại mình, trong lòng cảm thấy đầm ấm lại. Y thấy nàng cúi đầu, những giọt lệ rơi lả tả, hiển nhiên trong lòng đau thương cùng cực, không biết vì mình sắp chết, mặt mày xấu xí, hay vì lời lẽ chua cay của Vệ Bích? Trương Vô Kỵ trong lòng xúc động mãnh liệt, nghĩ đến sau khi cha mẹ chết rồi, một mình lênh đênh khốn khổ, chịu bao nhiêu điều nhục nhằn, cô gái này mảnh mai yếu đuối, trẻ tuổi hơn, thân thế còn bất hạnh hơn cả mình, bây giờ đến đây hỏi mấy câu lại càng làm cho cô ta đau lòng rơi lệ, khiến cho người ta thêm khinh khi hà hiếp? Huống chi cô ta hỏi với tấm lòng thành trao thân gửi phận, mình từ khi sinh ra, trừ cha mẹ, nghĩa phụ, cho đến thái sư phụ, các sư bá sư thúc, đã có ai quan tâm đến mình đâu? Từ nay trở đi mình phải đối với cô ta cho tử tế, cô ta cũng tử tế với mình, hai người sống thác có nhau, có gì mà không được?".

Y thấy cô gái run run, dường như muốn bước đi, vội đưa tay trái nắm chặt tay phải cô, khẳng khái nói:

- Cô nương, tôi thành tâm thành ý, mong được lấy cô làm vợ, chỉ mong cô đừng cho rằng tôi không xứng đáng thôi.

Thiếu nữ nghe y nói, ánh mắt bỗng sáng bừng lên, hạ giọng nói nhỏ:

- A Ngưu ca ca, anh không đánh lừa em đấy chứ?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Dĩ nhiên anh không lừa em. Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước.

Cô gái ngồi xuống, dựa vào người y, cầm lấy hai tay Trương Vô Kỵ, nhỏ nhẹ nói:

- Nếu anh có lòng với em như thế, em thật sung sướng xiết bao.

Cô ta nhắm mắt lại, nói:

- Anh nói lại một lần nữa cho em nghe, em muốn nhớ từng câu từng chữ. Anh nói đi, anh sẽ đối đãi với em như thế nào?

Trương Vô Kỵ thấy nàng vô cùng sung sướng, cảm thấy an ủi, cầm bàn tay nhỏ nhắn của cô ta, thấy bàn tay nhẵn nhụi ấm áp, mềm mại như bông, nói:

- Anh muốn em được bình an vui vẻ, quên hết những đau khổ trước kia, dù bao nhiêu người khinh khi dày vò em, anh thà chết cũng sẽ bảo vệ cho em chu toàn.

Cô thôn nữ nở một nụ cười, nằm dựa vào ngực y, dịu dàng nói:

- Trước đây em bảo anh đi theo em, anh lại không chịu, còn đánh em, mắng em, cắn em... bây giờ anh nói thế, lòng em sung sướng biết chừng nào.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói như thế, lòng bỗng thấy nguội lạnh, thì ra cô gái nhắm mắt lại nghe mình nói, để mơ tưởng đến người tình trong mộng của nàng.

Thiếu nữ thấy người y rung lên một cái, mở choàng mắt ra nhìn Vô Kỵ, nét mặt bỗng dưng biến hẳn, rõ ràng nàng vừa thất vọng, vừa bực tức, nhưng lại chuyển ngay qua vẻ hòa hoãn dịu dàng. Nàng định thần trở lại, nói:

- A Ngưu ca ca, anh bằng lòng lấy tôi làm vợ, tôi là một cô gái xấu xí thế này, anh cũng không chê bỏ, tôi thật là cảm kích. Thế nhưng mấy năm trước đây, trái tim tôi đã thuộc về người khác mất rồi. Hồi đó y đã không thèm nhìn nhõi gì đến tôi, bây giờ tôi lại thế này, chắc y không thèm coi tôi bằng nửa con mắt. Thế nhưng cái tên tiểu quỉ lang tâm đoản mệnh kia ...

Tuy nàng chửi gã kia là "tên tiểu quỉ lang tâm đoản mệnh" nhưng trong giọng nói lại đầy vẻ bồi hồi thương mến. Võ Thanh Anh lạnh lùng nói:

- Y chịu lấy ngươi làm vợ rồi, tâm tình cũng đã xong, có đứng dậy không thì bảo?

Thiếu nữ từ từ đứng lên, nói với Trương Vô Kỵ:

- A Ngưu ca ca, tôi sắp chết đến nơi rồi, mà dù có không chết chăng nữa, thì cũng không lấy anh được đâu. Thế nhưng tôi rất thích nghe những lời anh vừa nói, mong anh cũng đừng phiền trách, khi nào ở không hãy nghĩ tới tôi một chút.

Mấy câu đó nàng nói thật dịu dàng, thật ngọt ngào, Trương Vô Kỵ nghe mà lòng không khỏi chua xót. Chỉ nghe thấy Ban Thục Nhàn cất giọng the thé:

- Bọn ta đã cho ngươi được thỏa nguyện rồi, gặp được gã này một lần. Ngươi nói thì phải giữ lời, cho bọn ta biết người kia ở đâu.

Thôn nữ đáp:

- Được, tôi biết người đó trốn ở nhà ông này.

Nói rồi đưa tay chỉ Võ Liệt. Võ Liệt mặt hơi biến sắc, hừ một tiếng, quát lên:

- Đừng nói nhăng nói cuội.

Vệ Bích giận dữ nói:

- Mau thực thà nói ra, ngươi giết biểu muội của ta, là do ai xúi biểu?

Trương Vô Kỵ nghe thế kinh hoảng không sao kể xiết, lắp bắp hỏi:

- Giết Chu ... Chu Cửu Chân cô nương ư?

Vệ Bích trừng mắt nhìn y, mặt hầm hầm nói:

- Ngươi sao cũng biết đến Chu Cửu Chân cô nương?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đại danh vang dội của Tuyết Lĩnh Song Chu, ai mà chẳng biết tới?

Võ Thanh Anh trên mép thoáng hiện ra một vẻ đắc ý, quát hỏi cô thôn nữ:

- Ồ, thế đích thực ai là người xúi biểu ngươi?

Cô thôn nữ đáp:

- Xúi biểu tôi đến giết Chu Cửu Chân chính là vợ chồng Hà Thái Xung của phái Côn Lôn và Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi.

Võ Liệt quát lớn:

- Ngươi đừng hoang tưởng chuyện đâm bị thóc chọc bị gạo, ly gián chúng ta chẳng ích lợi gì đâu.

Nghe vù một tiếng, y đã phóng chưởng đánh tới. Tiếng quát của y uy phong lẫm liệt, tiếng nói vừa ra thì đã đánh theo, chưởng lực khiến cho tuyết trên mặt đất bay lên mù mịt. Cô gái lách mình né tránh, thân pháp thực là linh động.

Trong lòng Trương Vô Kỵ cực kỳ hỗn loạn, nghĩ thầm: "Quả nhiên cô ta ... cô ta là người trong võ lâm. Cô ta đi giết Chu Cửu Chân cũng chỉ là vì ta đấy thôi. Ta kể cho cô ta nghe bị Chu Cửu Chân lừa dối, lại bị chó cô ta nuôi cắn khắp người, nhưng ta đâu có yêu cầu cô ta đi giết người. Những tưởng chỉ vì gương mặt biến thành xấu xí, chuyện gia đình biến đổi tang thương nên tâm tính quái dị, đâu ngờ động một tí đã ra tay giết người".

Vệ Bích và Võ Thanh Anh hai bên tả hữu, dùng kiếm xông vào giáp công, cô gái kia lượn trái lách phải, chỉ cố gắng tránh né chưởng lực hùng hậu của Võ Liệt, đột nhiên uốn chiếc lưng ong một cái, chuyển tới bên cạnh Võ Thanh Anh, nghe bốp một cái, đã giáng cho cô nàng một cái tát, tay trái vươn ra, cướp ngay thanh trường kiếm trong tay địch thủ. Võ Liệt và Vệ Bích kinh hãi, cùng xông lại cứu. Cô gái kia trường kiếm rung động, quát lên:

- Trúng.

Đã vạch ngay trên mặt Võ Thanh Anh một đường. Võ Thanh Anh kinh hoảng kêu toáng lên, ngã ngửa về sau. Thực ra cô ta chỉ bị thương rất nhẹ, nhưng vì yêu quí dung mạo, chỉ thấy mặt đau nhói nên trong lòng đã sợ hết hồn. Võ Liệt giơ chưởng trái lên nhấn vào cô gái, cô gái nghiêng người qua, nghe leng keng một tiếng, trường kiếm trong tay đã chạm với kiếm của Vệ Bích. Ngay lúc đó, ngón tay trỏ bàn tay phải của Võ Liệt rung động, điểm trúng ngay huyệt Phục Thố và huyệt Phong Thị ở bên cạnh đùi. Cô gái hự lên một tiếng nhỏ, chân đứng không vững, quỵ ngay xuống trên mình Trương Vô Kỵ, chỉ thấy cả người nóng hổi, một chút hơi sức cũng không còn, muốn giơ một ngón tay cũng xem bằng nặng cả nghìn cân.

Võ Thanh Anh cầm trường kiếm lên, hậm hực nói:

- Xú a đầu, ta chẳng cho ngươi chết một cách yên lành, mà sẽ chặt hai chân hai tay ngươi bỏ đây cho sài lang đói ra ăn thịt.

Nói xong vung kiếm nhắm cánh tay phải cô thôn nữ chém xuống. Võ Liệt nói:

- Khoan đã.

Giơ tay chặn cổ tay con gái lại, đẩy nhát kiếm ra ngoài, nói với cô gái:

- Ngươi chịu nói ai là người xúi biểu ngươi, ta sẽ cho ngươi chết một cách nhanh chóng. Nếu không thì ha ha, ta nghĩ ngươi đứt cả tứ chi, trên mặt tuyết lăn lộn, không thích thú gì đâu.

Cô thôn nữ mỉm cười nói:

- Nếu các ngươi nhất định bắt ta nói, thì ta cũng không dấu diếm gì được nữa. Chu Cửu Chân cô nương muốn lấy một người kia, nhưng có một cô gái đẹp đẽ khác cũng muốn lấy gã đó, cô gái đẹp đó mới cho ta năm trăm lượng bạc, bảo ta đi giết Chu Cửu Chân. Việc này ta vẫn giữ cực kỳ bí mật ...

Nàng chưa nói hết câu, Võ Thanh Anh đã giận đến mặt tái mét, cổ tay phóng ra, đâm thẳng vào ngực cô gái.

Cô gái trông mặt đặt tên, đã đoán được phần nào cái liên hệ giữa ba người Võ Thanh Anh, Vệ Bích và Chu Cửu Chân. Nàng muốn khích cho Võ Thanh Anh nổi giận, chính vì muốn mượn tay cô ta đâm mình một kiếm chết ngay, chỉ thấy một luồng ánh sáng xanh lóe lên, trường kiếm đã đâm đến ngực rồi.

Ngay lúc đó, một vật vô thanh vô tức bay vụt tới, đụng ngay vào thanh kiếm, chỉ nghe cạch một tiếng nhỏ, trường kiếm đã bay vụt đi, qua đến mươi trượng mới rơi xuống đất. Trong đêm tối không ai nhìn rõ thanh kiếm của Võ Thanh Anh tuột khỏi tay thế nào, nhưng với kình đạo bay như thế, nếu bảo nàng ta tự tay dùng sức ném ra, cũng không thể nào xa đến thế được, hiển nhiên cô thôn nữ đã có cường viện đâu đây.

Sáu người cùng kinh hãi lùi lại mấy bước, quay đầu xem xét chung quanh. Cả bốn phía đều quang đãng, không có đá tảng hay cây cối gì có thể ẩn náu, cũng không thấy một bóng người nào, khiến cả sáu người đều ngơ ngẩn, kinh nghi bất định. Võ Liệt hạ giọng hỏi nhỏ:

- Thanh nhi, con sao vậy?

Võ Thanh Anh đáp:

- Hình như một loại ám khí nào thật lợi hại, bắn văng kiếm của con đi.

Võ Liệt đưa mắt nhìn bốn bề, quả thực không thấy một ai, hừ một tiếng, nói:

- Chắc là con a đầu này làm trò ma quỉ gì đây.

Trong bụng thấy kỳ quái, nghĩ thầm: "Rõ ràng con nhãi này đã bị trúng Nhất Dương Chỉ của ta rồi, làm sao còn hơi sức nào hất văng trường kiếm của Thanh nhi đi? Võ công của con a đầu này quả thật tà môn". Y mạnh bạo tiến tới, giơ chưởng đánh vào đầu vai trái của cô thôn nữ. Chưởng đó vận kình hùng mạnh, định đánh nát xương vai của cô gái, để cho cô ta không còn chút võ công nào, sau đó mới để cho con gái mình làm gì thì làm.

Cô gái thấy thể nào cũng nát vai nên giơ tay trái lên chống đỡ, song chưởng đụng nhau, ngực Võ Liệt thấy nóng ran, chưởng lực của đối phương chẳng khác nào cuồng phong sóng cả ào tới, thế mạnh không sao đương cự nổi, chỉ "A" lên một tiếng kinh hoàng, thân hình bay vọt về sau, nghe bình một tiếng đã rơi phịch xuống. Cũng may vì võ công của y cao cường, lưng vừa chạm phải mặt đất đã nhảy được lên, nhưng trong ngực máu huyết dồn lên, đầu váng mắt hoa, tuy đứng được nhưng vừa toan điều hòa hơi thở thì đã loạng choạng ngã gục xuống.

Vệ Bích và Võ Thanh Anh kinh hãi quá, vội vàng chạy đến đỡ lên. Bỗng nghe Hà Thái Xung nói:

- Để ông ta nằm một lát.

Võ Thanh Anh quay đầu lại, giận dữ nói:

- Ông nói sao?

Nghĩ thầm: "Cha ta bị địch nhân ám toán, ngươi còn hạnh tai lạc họa[6], đứng ngoài mỉa mai". Hà Thái Xung nói:

- Khí huyết đang bốc lên, nên nằm nghỉ tốt hơn.

Vệ Bích bấy giờ mới tỉnh ngộ, nói:

- Vâng.

Nhẹ nhàng để sư phụ nằm xuống đất. Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đưa mắt nhìn nhau, vẻ mặt kinh ngạc. Bọn họ đã từng động thủ với cô gái này, thấy cô ta chiêu số tinh diệu, quả thực có chỗ hơn người, nhưng nội lực cũng chỉ bình thường. Thế nhưng vừa rồi đối chưởng với Võ Liệt, rõ ràng thuộc loại nội lực hiếm có trên đời khiến họ không sao hiểu nổi.

Về phần cô gái trong lòng cũng kinh ngạc lạ lùng. Nàng bị Võ Liệt điểm huyệt rồi, nằm gục trong lòng Trương Vô Kỵ không sao cử động được, thấy Võ Thanh Anh múa kiếm chém xuống, bỗng dưng có vật gì ở đâu bay tới, đánh văng trường kiếm đi, tiếp theo là một luồng lực khí nóng hổi truyền vào hai đùi mình, thúc đẩy hai huyện Phục Thố và Phong Thị, lập tức giải ngay hai huyệt bị đóng. Cả thân hình nàng chấn động, cúi đầu nhìn xuống, thấy Trương Vô Kỵ hay tay nắm chặt hai mắt cá chân nàng, nhiệt khí theo huyệt Huyền Chung cuồn cuộn chảy vào thân thể. Việc đó biến chuyển thật nhanh, không kịp suy nghĩ, chưởng của Võ Liệt đã đánh xuống rồi. Nàng thuận tay giơ lên chống đỡ, nghĩ bụng thà để cổ tay gãy lìa, còn hơn để cho đầu vai nát vụn. Nào ngờ hai chưởng vừa đụng nhau, Võ Liệt bị chưởng của mình đánh văng ra xa hơn một trượng. Cô gái ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Không lẽ tên nhà quê xấu như ma này, lại là một đại cao thủ võ công không biết đâu mà lường ư?".

Hà Thái Xung bụng vẫn dè dặt, không muốn cùng cô ta tỉ thí chưởng lực, rút kiếm ra khỏi vỏ, nói:

- Để ta lãnh giáo kiếm pháp của cô nương.

Cô thôn nữ cười:

- Tôi làm gì có kiếm.

Vệ Bích nói:

- Được, ta cho ngươi mượn.

Y giơ thanh kiếm lên, mũi kiếm nhắm thẳng vào ngực cô ta, vận sức ném tới. Cô gái giơ tay chộp một cái, bắt được trong tay, cười nói:

- Võ công ngươi kém quá, giết chẳng nổi ta đâu.

Hà Thái Xung là chưởng môn của một môn phái, không muốn chiếm tiện nghi hơn người bề dưới, nói:

- Ngươi ra chiêu đi. Ta nhường ngươi ba chiêu rồi mới trả đòn.

Cô gái kia đâm một kiếm ra, nhắm thẳng vào bụng. Hà Thái Xung giận dữ hừ một tiếng, nói nhỏ:

- Tiểu bối vô lễ.

Giơ kiếm gạt ra. Chỉ nghe lách cách một tiếng, cả hai thanh kiếm cùng gãy làm đôi. Hà Thái Xung sắc mặt đại biến, thân hình loạng choạng, tự mình phải lùi lại nửa trượng. Cô thôn nữ kêu thầm: "Tiếc quá, tiếc quá".

Thì ra Trương Vô Kỵ đem Cửu Dương chân khí truyền vào cơ thể cô ta, nhưng cô ta lại không biết cách phát huy uy lực của thần công, kết quả hai thanh kiếm đều gãy cả. Nếu như biết cách công địch, thì chỉ binh khí của đối phương bị gãy, còn kiếm của cô ta trên tay vẫn không sao. Ban Thục Nhàn lạ lùng quá, hỏi nhỏ:

- Sao thế?

Hà Thái Xung cánh tay vẫn còn tê chồn, cười gượng đáp:

- Tà môn.

Ban Thục Nhàn rút xoẹt thanh kiếm, mặt sầm xuống nói:

- Để ta lãnh giáo.

Cô gái xòe hai tay, ý nói mình không có kiếm. Ban Thục Nhàn chỉ thanh kiếm của Võ Thanh Anh cách đó mươi trượng, quát lớn:

- Ra lấy kiếm kia mà dùng.

Cô gái đâu dám rời xa Trương Vô Kỵ, đành giơ thanh kiếm gãy trong tay, cười nói:

- Tôi dùng thanh kiếm gãy này cũng được rồi.

Ban Thục Nhàn cực kỳ giận dữ, nghĩ thầm: "Con a đầu chết tiệt này lớn lối quá, coi thường ta thật". Bà ta không như Hà Thái Xung giữ gìn thân phận tiền bối cao nhân, trường kiếm vung lên, chém ngay xuống cổ cô thôn nữ. Cô gái giơ thanh kiếm gãy lên gạt qua, nhưng kiếm pháp của Ban Thục Nhàn cực kỳ linh hoạt, đã chuyển qua chém vào vai bên trái. Thiếu nữ vội vàng múa kiếm chống đỡ, Ban Thục Nhàn liền chuyển qua đâm vào cạnh sườn, liên tiếp tám đường, thế như gió cuốn, trước sau vẫn không đụng vào kiếm của cô gái, phát huy sở trường của kiếm pháp không để cho đối phương có dịp thi triển nội lực.

Cô gái nghiêng trái né phải, lập tức gặp phải hung hiểm. Kiếm pháp của nàng vốn đã kém xa Ban Thục Nhàn, trên tay chỉ có nửa thanh kiếm gãy, hai chân lại không thể di động, biến thành thế chỉ thủ mà không công. Chiết thêm mấy chiêu nữa, kiếm của Ban Thục Nhàn đâm tới, nghe soẹt một tiếng đã vạch trên vai trái của cô gái một đường. Kiếm pháp của phái Côn Lôn khi thắng được một chiêu rồi, không để cho địch một giây phút nghỉ ngơi, tùy thế đi theo đánh ép tới, cô thôn nữ "A" lên một tiếng, đầu vai lại trúng thêm một kiếm nữa. Cô gái kêu lên:

- - Ủa, ngươi sao không giúp ta, cứ giương mắt đứng nhìn ta bị người ta giết à?

Ban Thục Nhàn lùi lại hai bước, vung kiếm lên che ngực, nhìn quanh bốn bề, không thấy một ai, lập tức trường kiếm rung động, mũi kiếm lấp lánh thành từng đóa hoa mai, lại tiến tới tấn công. Cô gái múa tít thanh kiếm gãy, gạt ra ba lần. Kiếm chiêu của đối phương thật thần tốc, nàng gạt ra cũng lẹ vô cùng, quả thật mắt sắc tay nhanh, chiêu nào cũng chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Ban Thục Nhàn khen ngợi:

- Con nhãi chết tiệt, tay ngươi nhanh lắm.

Cô thôn nữ cũng không chịu kém, chửi lại:

- Mụ già chết toi, tay mụ cũng chẳng chậm.

Thế nhưng Ban Thục Nhàn là kiếm thuật đại danh gia, tập luyện đã mấy mươi năm, miệng nói mà tay không chậm lại chút nào. Cô gái kia chỉ bất quá mười bảy mười tám, tuy đã được danh sư truyền thụ, nhưng làm sao bằng được cung cách của Ban Thục Nhàn? Vì bận nói chuyện nên hơi phân tâm, chỉ thấy cổ tay hơi tê nhức, nửa thanh kiếm gãy đã tuột khỏi tay bay vọt đi. Cô gái chỉ kịp kêu "A" lên một tiếng, thì kiếm của Ban Thục Nhàn đã đâm vào cạnh sườn.

Đinh Mẫn Quân từ trước tới nay vẫn đứng ngoài coi hai người giao đấu, bây giờ không bỏ lỡ dịp may, chưa kịp rút kiếm, vội dùng chiêu Thôi Song Vọng Nguyệt , hai tay cùng đánh vào lưng cô gái. Cũng khi đó, Võ Thanh Anh nhảy vọt tới, giơ chân đá vào bên hông của địch thủ. Cô gái sợ dường như tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bỗng thấy toàn thân nóng bừng như rơi vào lò lửa, thuận tay búng ngay vào thanh trường kiếm của Ban Thục Nhàn. Ngay khi đó, lưng cô ta đã bị chưởng, và hông cũng bị đá trúng. Chỉ nghe "Ối chao" và "Trời ơi" hai tiếng thảm thiết, cả Đinh Mẫn Quân và Võ Thanh Anh cùng bị bắn văng ra ngoài, còn thanh kiếm của Ban Thục Nhàn trên tay chỉ còn một nửa.

Thì ra Trương Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp, lập tức đem toàn thể chân khí trong cơ thể trút vào người cô gái. Cửu Dương thần công của y đã tu luyện đạt đến mức ba bốn thành công lực, uy lực không phải tầm thường, cho nên trường kiếm của Ban Thục Nhàn, hai cổ tay của Đinh Mẫn Quân, và mắt cá chân phải của Võ Thanh Anh đều gãy hết. Hà Thái Xung, Võ Liệt và Vệ Bích ba người kinh hãi đến há hốc mồm, đứng như phỗng đá. Ban Thục Nhàn cầm nửa thanh kiếm ném xuống đất, hậm hực nói:

- Đi thôi, trước mặt người ta thế chưa đủ xấu hay sao?

Y thị hầm hầm nhìn chồng, bao nhiêu bực tức trút cả lên đầu đấng trượng phu. Hà Thái Xung nói:

- Ừ.

Hai người sánh vai chạy thẳng, chỉ trong chốc lát đã đi thật xa, khinh công của phái Côn Lôn quả thực là một tuyệt kỹ trong võ lâm. Hà Thái Xung về nhà bị vợ phạt như thế nào, quả thực người ngoài không sao biết được.

Vệ Bích một tay đỡ sư phụ, một tay đỡ sư muội, chầm chậm bước đi. Ba người chỉ sợ cô gái thừa thắng đuổi theo, nhưng đâu có thể chạy nhanh được như vợ chồng Hà Thái Xung, nên mỗi bước lại lo một bước. Còn Đinh Mẫn Quân tuy hai cổ tay đã gãy nhưng chân không sao, cắn răng một mình bỏ chạy.

Cô thôn nữ cực kỳ đắc ý, cười ha hả, nói:

- Xú bát quái, ngươi ...

Đột nhiên nàng thấy ngộp thở, lăn ra bất tỉnh. Thì ra Trương Vô Kỵ thấy cả sáu kẻ đối đầu đã bỏ đi cả, nên rụt tay lại, bỏ gót chân cô ta ra. Cửu Dương chân khí trong người cô gái lập tức thoát hết, tất cả tứ chi và các khớp xương không còn chút hơi sức nào. Trương Vô Kỵ kinh hoảng nhưng hiểu ngay, hai ngón tay cái ấn nhẹ vào huyệt Ti Trúc Không ở tận cùng đuôi mày, hơi vận thần công, cô gái liền từ từ tỉnh lại.

Cô ta mở mắt ra, thấy mình nằm trong lòng Trương Vô Kỵ, thấy y đang nhìn mình cười hì hì, không khỏi thẹn thùng, vội nhỏm dậy, miệng tủm tỉm, lườm y một cái, đột nhiên giơ tay nắm tai trái của Trương Vô Kỵ véo mạnh, mắng:

- Anh nỡm này, đánh lừa tôi. Anh một thân võ công lợi hại như thế, sao không nói cho tôi biết?

Trương Vô Kỵ đau quá kêu lên:

- Ui cha, cô làm gì thế?

Cô thôn nữ cười khanh khách nói:

- Ai bảo anh lừa tôi?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi có lừa cô bao giờ đâu, cô cũng đâu có cho tôi hay cô biết võ công, tôi cũng không cho cô hay tôi biết võ.

Cô gái nói:

- Được rồi, tôi tha cho anh một lần. Mới rồi anh có ra tay giúp tôi, lấy công chuộc tội, tôi cũng không trách phạt anh nữa. Chân anh đã đi được chưa?

Trương Vô Kỵ nói:

- Còn chưa được.

Cô gái thở dài nói:

- Đúng là lòng tốt được quả báo, nếu tôi không nghĩ tới anh đòi quay lại gặp anh một lần thì anh đâu có cứu tôi được.

Nàng ngừng lại một lát, nói tiếp:

- Nếu biết trước là tài nghệ anh hơn tôi gấp bội như thế, thì việc gì phải thay anh đi giết con quỉ a đầu Chu Cửu Chân làm gì.

Trương Vô Kỵ mặt sầm xuống, nói:

- Tôi có bảo cô đi giết cô ta bao giờ đâu.

Cô gái nói:

- Ối chà, ối chà. Hóa ra trong lòng anh vẫn không quên được cô gái xinh đẹp đó, tôi đâm ra chẳng ra gì, giết mất người trong mộng của anh.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chu cô nương đâu có phải là người trong mộng của tôi, cô ta đẹp hay xấu đâu có liên quan gì.

Cô gái ngạc nhiên:

- - Ỏa, thế thì lạ thật, cô ta làm hại anh thảm khốc như thế, tôi giết cô ta để cho anh hả dạ, hóa ra không phải hay sao?

Trương Vô Kỵ bình thản nói:

- Người hại tôi biết bao nhiêu mà kể, nếu người nào cũng giết đi cho hả tức, làm sao giết hết cho nổi. Huống chi có những người định bụng hại tôi nhưng thực sự chính họ cũng thật đáng thương. Chẳng hạn như Chu cô nương, cô ta ngày đêm phập phồng, chỉ sợ biểu huynh không còn yêu cô ta nữa, đổi ý lấy Võ cô nương làm vợ. Nếu như thế, cô ta có gì là sung sướng đâu?

Thiếu nữ giận dữ nói:

- Có phải anh nhạo báng tôi hả?

Trương Vô Kỵ ngẩn người, đâu ngờ mình nói chuyện Chu Cửu Chân lại làm cho cô gái này chạnh lòng, vội nói:

- Không, không đâu. Tôi chỉ nói mỗi người có cái bất hạnh riêng của mình. Người khác đối xử với cô không tốt, cô liền giết họ đi, như thế không được.

Cô gái cười khẩy:

- Thế anh học võ chẳng để giết người, thì học để làm gì?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm, nói:

- Học võ cho giỏi, để kẻ xấu đến hại mình, mình có thể chống lại.

Cô thôn nữ nói:

- Thế thì phục anh thật, phục thật. Hóa ra anh là người chính nhân quân tử, tốt bụng quá đi mất.

Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn nhìn cô ta, xem thần tình cử chỉ của cô gái này, chàng lại cảm thấy cô ta đối với người có vẻ nhiệt tình, dễ thân thiết. Cô gái bĩu môi, hỏi lại:

- Anh nhìn gì tôi?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Mẹ tôi thường cười cha tôi là người tốt quá mức, một thư sinh cả tin người. Khi mẹ tôi nói chuyện, cung cách mồm miệng, chẳng khác gì cô.

Cô thôn nữ đỏ mặt, trách:

- Hứ, lại định ăn gian, nói tôi giống mẹ anh, còn anh thì giống cha anh phải không?

Tuy cô ta mở miệng trách móc, nhưng mắt lại ẩn một nụ cười. Trương Vô Kỵ vội nói:

- Thề với ông xanh, nếu tôi có bụng lợi dụng cô thì trời tru đất diệt.

Cô gái cười nói:

- Nói hơn nhau một câu, có đáng gì mà phải thề thốt ghê thế?

Vừa nói tới đây, vọng lại một tiếng người hú lên từ phía tây bắc, âm thanh trong trẻo và dài, đúng là tiếng đàn bà. Tiếp theo gần hơn có tiếng hú đáp lại, chính là tiếng của Đinh Mẫn Quân đang chạy chưa xa. Y thị nghe thấy lập tức dừng lại không chạy nữa. Cô gái sắc mặt hơi biến, hạ giọng nói:

- Phái Nga Mi lại có người đến nữa.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Có chép trong Thần Điêu Hiệp Lữ

[2] kinh tại hầu trung (kinh ở trong con khỉ) đọc theo tiếng Bắc Kinh là jing zai hou zhong và kim tại du trung (vàng ở trong dầu) đọc là jin zai you zhong rất gần nhau nhưng khi dịch ra Việt ngữ thì khó có thể hình dung được sự tương cận của hai câu này.

[3] A Ngưu nghĩa là thằng Bò, một cái tên hết sức bình dân, cũng như ta gọi cu Tí, cu Tèo.

[4] Thiết âm hay phiên thiết là lấy hai chữ đã biết rồi, mỗi chữ cắt đôi, lấy đầu chữ nọ nối với phần sau của chữ sau, hơi giống kiểu nói lái của Việt Nam. Thí dụ tương + nhiên (t -ương và nh - iên) thành tiên. Ở đây Trương + Ân đúng ra phải thành Trân nhưng tiếng Tàu, Trương đọc là zhang, còn Ân đọc là yin hay yan, phiên thiết thành zin, zan, đọc na ná giống chữ Tăng (zeng).

[5] Người cùng một cảnh ngộ (bệnh) thì dễ thương hại nhau

[6] thấy người khác bị tai họa thì vui

Hồi 17

THANH DỰC XUẤT MỘT NHẤT TIẾU DƯƠNG-

Cười vang trần thế khinh dời đổi,

Khóc vọng âm cung chuyển đất trời.

Trương Vô Kỵ và cô gái kia cùng nhìn về phía đông bắc, lúc này trời đã hừng sáng, thấy một bóng người màu lục phơi phới trên mặt tuyết chạy tới, đến cách khoảng mươi trượng, nhìn rõ là một cô gái mặc áo màu xanh nhạt. Cô ta nói với Đinh Mẫn Quân vài câu, đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ và cô thôn nữ, rồi chạy lại gần. Áo cô ta phất phới, thân pháp nhẹ nhàng, bước chân ngắn nhỏ nhưng chỉ giây lát đã chỉ còn cách hai người chừng năm trượng. Hình dáng cô gái thanh lệ tú nhã, mặt mày xinh đẹp, chỉ chừng mười bảy mười tám tuổi. Trương Vô Kỵ hơi lấy làm lạ, nghe tiếng hú và nhìn thân pháp tưởng cô ta phải hơn tuổi Đinh Mẫn Quân nhiều, nào ngờ so với mình còn nhỏ hơn mấy tuổi.

Cô gái nọ bên hông đeo một đoản kiếm, nhưng không rút binh khí ra, chỉ hai tay không đến gần hai người. Đinh Mẫn Quân lên tiếng cảnh cáo:

- Chu sư muội, con quỉ a đầu này công phu tà môn lắm đó.

Cô gái kia gật đầu, lên tiếng một cách văn vẻ:

- Xin được hỏi tôn tính đại danh của hai vị? Vì cớ gì lại đả thương sư tỉ của tôi?

Từ khi nàng ta đến gần, Trương Vô Kỵ đã thấy cô gái trông quen quen, nay nghe cô ta nói mới chợt nghĩ ra: "Thì ra nàng ta là cô gái con nhà thuyền chài mình một lần gặp trên sông Hán Thủy, Chu Chỉ Nhược cô nương. Thái sư phụ đưa cô ta lên núi Võ Đương sao bây giờ lại vào làm môn hạ phái Nga Mi?". Chàng trong ngực bỗng nóng ran, muốn hỏi thăm Trương Tam Phong vài câu xem gần đây thế nào, nhưng chợt nghĩ lại: "Trương Vô Kỵ đã chết rồi, ta lúc này là một gã nhà quê, một tên xú bát quái, Tăng A Ngưu. Nếu ta không biết nhịn một chút, họa hoạn sau này không biết đâu mà lường được. Ta không thể nào tiết lộ thân phận của mình, để khỏi liên lụy đến nghĩa phụ, cái chết của cha mẹ ta cũng khỏi uổng phí".

Cô thôn nữ cười khẩy, nói:

- Lệnh sư tỉ dùng chiêu Thôi Song Vọng Nguyệt, song chưởng đánh vào lưng ta, tự mình làm mình gãy cổ tay, sao lại trách người là sao? Cô hỏi lại lệnh sư tỉ xem tôi đã đánh cô ta nửa chiêu một thức nào chưa?

Chu Chỉ Nhược đưa mắt nhìn Đinh Mẫn Quân, ý muốn dò hỏi. Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:

- Ngươi đem hai người này đến gặp sư phụ, để cho lão nhân gia phát lạc là xong.

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Nếu như hai người này không có ý đắc tội với sư thư, theo ý tiểu muội, mình đổi thù thành bạn, bỏ qua là hơn.

Đinh Mẫn Quân giận quá, quát lên:

- Cái gì? Ngươi lại định tương trợ người ngoài ư?

Trương Vô Kỵ thấy bộ dạng của Đinh Mẫn Quân nghĩ đến năm xưa hòa thượng Bành Oánh Ngọc bị vây đánh trong rừng, Kỷ Hiểu Phù chỉ vì gạt kiếm của Đinh Mẫn Quân mà thành chuyện, bây giờ tái diễn chuyện bức bách sư muội, khiến chàng trong bụng không khỏi lo thầm cho Chu Chỉ Nhược.

Nào ngờ Chu Chỉ Nhược đối với Đinh Mẫn Quân hết sức tôn kính, khom lưng nói:

- Mọi việc tiểu muội đều nghe lời dặn bảo của sư thư, không dám cãi lại.

Đinh Mẫn Quân nói:

- Được, ngươi mau đến bắt con tiểu a đầu đó, đánh gãy hai tay nó cho ta.

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Vâng, xin sư thư đứng ngoài trông chừng tiếp ứng.

Nàng quay lại nói với cô thôn nữ:

- Tiểu muội vô lễ, xin được lãnh giáo cao chiêu của thư thư.

Cô thôn nữ cười khẩy đáp:

- Việc gì phải lắm lời quá vậy?

Nàng nghĩ thầm: "Bộ tưởng ta sợ một tiểu cô nương như ngươi sao". Nàng không cần phải Trương Vô Kỵ tương trợ, nhảy vọt ra, nhanh như điện chớp đánh ra liền ba chưởng. Chu Chỉ Nhược né mình tiến tới, tay trái sử dụng cầm nã, lấy công làm thủ, chiêu số cũng khá xảo diệu.

Trương Vô Kỵ nội lực tuy cao cường nhưng chiêu số võ thuật chưa dung hợp quán thông, thấy Chu Chỉ Nhược và cô gái hai người lấy nhanh chống nhanh, Miên Chưởng của phái Nga Mi linh hoạt nhanh nhẹn, còn chưởng pháp của cô gái thì kỳ diệu cổ quái. Chàng coi lấy làm bội phục nhưng lại lo lắng, không biết phải mong ai thắng, chỉ cầu cả hai không ai bị thương.

Hai nàng đấu đến hơn hai chục chiêu thì đã bắt đầu hung hiểm, nghe thấy cô thôn nữ kêu lên một tiếng "Trúng", tả chưởng đã chém trúng đầu vai Chu Chỉ Nhược. Tiếp theo nghe soạt một tiếng, Chu Chỉ Nhược đã xoay tay lại xé rách một nửa cánh tay áo của địch thủ. Hai người cùng nhảy ra ngoài, mặt hơi đỏ lên. Cô thôn nữ kêu lên:

- Hảo cầm nã thủ.

Đang định tiến lên, bỗng thấy Chu Chỉ Nhược nhíu đôi lông mày, ôm ngực, thân hình loạng choạng, lao đao muốn ngã. Trương Vô Kỵ mặt lo lắng, nhịn không nổi kêu lên:

- Cô ... cô ...

Chu Chỉ Nhược thấy thanh niên râu tóc thậm thượt này rất quan tâm đến mình, trong lòng hơi ngạc nhiên. Đinh Mẫn Quân hỏi:

- Sư muội, ngươi sao thế?

Chu Chỉ Nhược tay trái bám lấy vai sư tỉ, lắc đầu. Đinh Mẫn Quân đã có kinh nghiệm với cô gái này, biết cô ta rất ghê gớm, chỉ vì sư phụ vẫn thường khen ngợi tiểu sư muội, nói nàng ngộ tính rất cao, tiến bộ thật nhanh chóng, bản phái mai sau phát dương quang đại, quá nửa là ở nơi cô nàng, Đinh Mẫn Quân trong lòng không phục, nên gọi nàng đến thử xem sao, chỉ mong sao cô ta cũng phải khổ như mình. Bây giờ thấy Chu Chỉ Nhược đấu với cô thôn nữ kia đến hơn hai chục chiêu mới thua, hơn mình xa lắc, trong bụng có phần đố kỵ, thấy tay nàng bám đầu vai mình không chút khí lực nào, mới biết sư muội bị thương không phải nhẹ, sợ cô thôn nữ tiến lên truy kích, vội nói:

- Thôi mình đi.

Hai người vội dìu nhau đi về phía đông bắc.

Cô thôn nữ nhìn thấy thần sắc của Trương Vô Kỵ, cười nhạt nói:

- Người đâu vừa thấy con nhỏ đó xinh đẹp là hồn vía lên mây rồi.

Trương Vô Kỵ toan lên tiếng giải thích, chợt nghĩ ra: "Nếu mình không thổ lộ thân thế, việc này không sao nói cho minh bạch được, chi bằng không nói là hơn" liền nói:

- Cô ta đẹp hay không đẹp, có liên quan gì đến tôi? Tôi lo là lo cho cô, sợ cô bị thương.

Cô thôn nữ nói:

- Anh nói có thật hay không đó?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Mình lo cho cả hai cô" nên nói:

- Tôi nói dối cô làm gì? Không ngờ phái Nga Mi có một cô còn nhỏ tuổi mà võ công lại khá đến thế.

Cô gái đáp:

- Lợi hại thật. Lợi hại thật.

Trương Vô Kỵ nhìn theo Chu Chỉ Nhược, thấy nàng lúc tới nhanh nhẹn, lúc đi chậm chạp từng bước, nghĩ tới năm xưa trên sông Hán Thủy, nàng đút cho mình ăn ở trên thuyền, lại cho mình cái khăn lau nước mắt, trong bụng chỉ mong sao nàng không bị thương nặng. Cô thôn nữ bất ngờ cười khẩy nói:

- Anh không phải quan tâm, cô ta không bị thương đâu mà sợ. Tôi nói cô ta lợi hại, không phải bảo võ công, mà vì nàng tuổi còn nhỏ thế, tâm kế đã lợi hại như vậy.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên:

- Cô ta không bị thương?

Cô thôn nữ đáp:

- Chứ sao. Chưởng của tôi chém trúng vai cô ta, trên đầu vai liền phát sinh nội lực, hất tay tôi ra. Thì ra cô nàng đã luyện Cửu Dương công của phái Nga Mi, khiến chấn động tay tôi hơi ê ẩm. Như thế cô ta bị thương sao được?

Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm: "Thì ra Diệt Tuyệt sư thái đã để mắt xanh vào nàng, đem môn trấn sơn chi bảo của môn phái là Nga Mi Cửu Dương Công truyền cho". Cô thôn nữ bất ngờ lật tay, tát trái cho Vô Kỵ một cái thật mạnh. Cú đánh thật bất ngờ, chàng không phòng bị, một bên má lập tức sưng đỏ lên. Chàng giận dữ nói:

- Cô ... cô làm gì thế?

Cô thôn nữ hậm hực nói:

- Vừa thấy con gái nhà người ta được mắt một chút là hồn vía đã để đâu đâu. Tôi vừa nói cô ta không bị thương, sao mặt anh liền nhơn nhơn như thế là sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi mừng cho cô ta, thế có liên quan gì đến cô?

Cô gái lại giơ tay đánh nữa, nhưng lần này Vô Kỵ hạ đầu xuống, để tay nàng lướt qua. Cô gái nổi cáu, nói:

- Ngươi đã nói là bằng lòng lấy ta làm vợ rồi. Câu đó nói ra chưa được nửa ngày, nay đã tơ tưởng người khác, muốn đi kiếm người khác đẹp hơn rồi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Thì chính cô đã bảo tôi không xứng, lại nói trong lòng đã có tình lang, không thể nào lấy tôi được.

Cô gái nói:

- Đúng thế, nhưng anh cũng đã bằng lòng, từ nay đối đãi với tôi tử tế, lo liệu cho tôi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi đã nói thì tôi sẽ giữ lời.

Cô gái giận dữ:

- Thế sao vừa mới thấy con gái đẹp, anh đã xiêu hồn lạc phách, làm người ta không lộn ruột sao được?

Trương Vô Kỵ cười:

- Tôi làm gì mà xiêu hồn lạc phách?

Cô thôn nữ đáp:

- Tôi không cho anh được thích cô ta, cũng không được nghĩ đến cô ta.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi nào có thích cô ta. Thế nhưng trong bụng cô được nghĩ đến người khác, không lúc nào quên thì sao?

Cô thôn nữ đáp:

- Tôi biết người đó từ trước rồi. Nếu như tôi biết anh trước, thì suốt đời tôi chỉ nghĩ đến một mình anh thôi, tôi không nghĩ tới một ai khác cả, cái đó gọi là "tòng nhất nhi chung". Còn người nào ba lòng bốn dạ, thì trời cũng không dung được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ta biết cô nương họ Chu này trước cô nhiều". Thế nhưng chàng không dám thốt ra câu đó, chỉ nói:

- Nếu cô chỉ biết một mình tôi, thì tôi cũng chỉ biết một mình cô. Còn nếu bụng cô nghĩ đến người khác, thì tôi cũng nghĩ đến người khác.

Cô thôn nữ trầm ngâm một hồi, mấy lần toan nói nhưng lại thôi, đột nhiên mắt rưng rưng, quay đầu sang chỗ khác để cho Trương Vô Kỵ khỏi thấy, giơ tay gạt lệ. Trương Vô Kỵ trong lòng cảm thấy bất nhẫn, nhẹ nhàng cầm tay nàng, dịu dàng nói:

- Thôi mình không nói chuyện đó nữa, đợi thêm vài ngày, vết thương trên đùi tôi khỏi rồi, hai đứa mình sẽ đưa nhau đi chơi, có phải hơn không?

Cô thôn nữ quay đầu lại, mặt buồn rầu, nói:

- A Ngưu ca ca, em xin anh một việc, anh đừng giận nhé.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chuyện gì? Nếu sức tôi làm được, tôi sẽ làm cho cô.

Cô gái nói:

- Anh phải hứa không giận, em mới nói.

Trương Vô Kỵ nói:

- Được rồi, tôi không giận.

Cô thôn nữ chần chừ một hồi, nói:

- Miệng anh nói không giận, nhưng trong lòng cũng phải không giận mới được.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cũng được, trong lòng tôi cũng không giận.

Cô gái giơ tay nắm lấy tay y, nói:

- A Ngưu ca ca, em từ Trung Nguyên đi hàng vạn dặm đến Tây Vực, cũng chỉ để kiếm y. Lúc trước còn nghe vài điểm tung tích, nhưng đến bây giờ, mọi sự như ném hòn sỏi vào trong biển cả, không còn nghe chút gì về y nữa. Bao giờ chân anh lành, anh giúp em đi tìm y, sau đó em sẽ theo anh di du sơn ngoạn thủy, được không?

Trương Vô Kỵ không thể không bực dọc, hừ một tiếng. Cô thôn nữ nói:

- Anh đã bằng lòng không giận em mà, sao bây giờ lại khó chịu?

Trương Vô Kỵ không còn cách nào hơn, nói:

- Được, tôi giúp cô đi tìm y.

Cô gái mừng rỡ, nói:

- A Ngưu ca, anh tốt quá.

Nàng nhìn về phía chân trời, trong lòng xao xuyến, nhỏ nhẹ nói:

- Khi mình tìm thấy anh ấy rồi, anh ấy sẽ nghĩ đến công lao em đi tìm lâu như thế, sẽ không giận em nữa. Anh ấy bảo gì, em sẽ nhất nhất nghe theo.

Trương Vô Kỵ nói:

- Kẻ tình lang của cô có gì hay khiến cô ghi nhớ y mãi không quên vậy?

Cô thôn nữ mỉm cười:

- Y có gì hay, làm sao em nói được? A Ngưu ca, anh liệu mình có tìm thấy anh ấy không? Liệu gặp em anh ấy có đánh mắng em không?

Trương Vô Kỵ thấy nàng si tình như thế không khỏi thương tâm, hạ giọng an ủi:

- Không đâu, anh ta không đánh chửi cô đâu.

Chiếc miệng anh đào của cô gái hé một nụ cười, đôi mắt long lanh, cũng nói nhỏ:

- Đúng đó, anh ấy sẽ yêu em, thương em, không đánh mắng em đâu.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cô nương này đối với tình lang si tâm đến thế, nếu ở trên đời có một người quan hoài mình, nhớ nhung mình thế này, thì dù mình có phải chịu đau khổ đến bao nhiêu cũng vẫn còn sướng".

Chàng nhìn hai hàng vết chân của Chu Chỉ Nhược và Đinh Mẫn Quân để lại trên mặt tuyết, nghĩ thầm: "Nếu như vết chân của Đinh Mẫn Quân kia mà là vết chân mình, mình được cùng Chu cô nương sánh vai mà đi ..."

Cô thôn nữ đột nhiên kêu lên:

- Ôi chao, chạy mau, để lâu thêm e không kịp nữa.

Trương Vô Kỵ đang mơ màng chợt choàng dậy, hỏi:

- Cái gì?

Cô gái đáp:

- Cô gái của phái Nga Mi không chịu hết sức đấu với tôi, giả vờ bị thương đi khỏi. Thế nhưng Đinh Mẫn Quân lúc nào cũng đòi bắt tôi đến cho sư phụ của họ, Diệt Tuyệt sư thái chắc ở đâu đây. Lão tặc ni đó cực kỳ hiếu thắng, lẽ nào không đến?

Trương Vô Kỵ nghĩ đến việc Diệt Tuyệt sư thái một chưởng đánh chết Kỷ Hiểu Phù tàn nhẫn là chừng nào, không khỏi e ngại, sợ hãi nói:

- Lão tặc ni đó ghê gớm lắm, bọn mình không phải là đối thủ của bà ta đâu.

Cô thôn nữ hỏi lại:

- Anh đã gặp bà ta rồi ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chưởng môn phái Nga Mi, đâu phải tầm thường? Tôi đi lại chưa được, cô mau chạy đi.

Cô thôn nữ giận dữ nói:

- Hừ, sao tôi lại không lo cho anh bỏ chạy một mình? Bộ anh tưởng lương tâm tôi tồi tệ thế sao?

Nàng nhíu mày suy nghĩ một chốc, đi nhặt những thanh củi chắc chắn, dùng cành mềm bện thành dây thừng, buộc lại thành một cái xe trượt tuyết, bế Trương Vô Kỵ lên nằm duỗi thẳng hai chân trên cái xe trượt, kéo chạy về hướng tây.

Cô ta chạy không ngừng, phải đến ba bốn chục dặm. Trương Vô Kỵ trong lòng không nỡ, gọi:

- Này, nghỉ một lát đi.

Cô thôn nữ cười:

- Sao lại này với chẳng không này, bộ tôi không có tên hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô chưa nói tên, làm sao tôi biết được? Cô muốn tôi gọi là "Xú cô nương" nhưng tôi thấy cô dễ coi lắm.

Cô thôn nữ cười rộ lên, khí lực tiết hết, nên liền đứng lại, giơ tay vuốt tóc, nói:

- Được rồi, nói cho anh biết cũng chẳng hề gì, tên tôi là Châu Nhi[1].

Trương Vô Kỵ nói:

- Châu Nhi, Châu Nhi, trân châu bảo cụ nhi[2].

Cô thôn nữ đáp:

- Không, không phải chữ châu là trân châu, mà là độc tri châu[3] đó.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Đời nhà ai lại dùng chữ "nhện" làm tên bao giờ". Châu Nhi đáp:

- Tên tôi như thế đó, nếu anh sợ, thì đừng gọi nữa.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Thế cha cô đặt tên đó đấy ư?

Châu Nhi đáp:

- Hừ, nếu cha tôi đặt tên đó, anh tưởng tôi sẽ chịu hay sao? Đó là mẹ tôi đặt đó. Bà dạy tôi luyện môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ[4] nên bảo tôi dùng tên này.

Trương Vô Kỵ nghe nói đến Thiên Châu Vạn Độc Thủ không khỏi lạnh người. Châu Nhi nói tiếp:

- Tôi luyện từ khi còn nhỏ nhưng còn lâu mới thành. Đợi lúc tôi luyện xong rồi thì không còn sợ gì Diệt Tuyệt lão tặc ni nữa. Anh có muốn xem không?

Nói xong nàng lấy từ trong bọc ra một cái hộp bằng vàng sáng choang, mở nắp, trong hộp có hai con nhện to bằng ngón tay cái đang ngọ nguậy. Hai con nhện này trên lưng có hoa văn vàng lấp lánh. Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, nhớ lại trong Độc Kinh của Vương Nạn Cô có chép: "Nhện nào trên lưng có hoa văn lấp lánh là loại cực độc, cắn người rất khó giải cứu" khiến trong bụng không khỏi e dè.

Châu Nhi thấy chàng mặt mày nghiêm trọng, cười nói:

- Thì ra anh cũng biết được giá trị con nhện quí của tôi. Anh đợi một lát.

Nói xong phi thân nhảy lên trên một cây cao, nhìn chung quanh bốn bề xem xét địa thế rồi nhảy xuống nói:

- Mình phải đi thêm một quãng nữa, chuyện con nhện để tính sau.

Nàng lại kéo cái xe trượt tuyết chạy thêm bảy tám dặm nữa, đến bên cạnh một sơn cốc, đỡ Trương Vô Kỵ ra khỏi cái xe, sau đó chất lên mấy khối đá, kéo chiếc xe chạy về phía vực sâu. Nàng chạy đến bên bờ bèn nhảy vọt ra, chiếc xe cùng mấy khối đá lao luôn xuống vực thẳm, tiếng nổi ầm ầm hồi lâu chưa dứt. Trương Vô Kỵ nhìn lại thấy trên mặt tuyết chiếc xe trượt để lại một ngấn dài ngoằn nghèo chạy đến tới bờ vực mới thôi, nghĩ thầm: "Cô gái này tâm tư chu đáo, Diệt Tuyệt sư thái nếu theo vết xe đuổi theo, ắt hẳn cho rằng bọn mình đã rơi xuống vực rồi, mất tăm tích đến xác cũng không thấy".

Châu Nhi khom người xuống nói:

- Anh bám lấy lưng tôi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô định cõng tôi chạy à? Có phiền quá không?

Châu Nhi lườm chàng một cái, nói:

- Tôi phiền hay không phiền, bộ tôi không biết hay sao?

Trương Vô Kỵ không dám hỏi thêm, liền nằm phục trên lưng cô gái, nhè nhẹ ôm cổ cô ta. Châu Nhi cười nói:

- Bộ anh sợ ôm tôi chết hay sao? Làm gì mà rón ra rón rén, làm cho người ta nhột muốn chết.

Trương Vô Kỵ thấy nàng đối với mình không chút tị hiềm, trong lòng sung sướng, hai tay vội ôm chặt. Châu Nhi đột nhiên nhảy lên, cõng luôn cả chàng phi thân lên cây.

Hàng cây đó mọc một dãy về hướng tây, Châu Nhi nhảy từ cây này sang cây khác, nàng thân thể bé nhỏ, còn Trương Vô Kỵ cao to, nhưng bộ pháp vẫn nhanh nhẹn, không tỏ ra mỏi mệt chút nào. Nhảy một lúc bảy tám chục cây thì đến bên cạnh một vách núi, bấy giờ mới nhảy xuống, nhẹ nhàng để chàng nằm dưới đất, cười nói:

- Mình làm cái chuồng bò ở chỗ này được rồi.

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

- Chuồng bò? Làm chuồng bò làm gì?

Châu Nhi cười đáp:

- Để cho con bò mộng ở, anh không phải tên A Ngưu hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cái đó không cần thiết. Độ vài ngày nữa, chỗ gãy chân liền lại hoàn toàn. Đúng ra lúc này nếu gượng mà đi thì cũng được rồi.

Châu Nhi nói:

- Hừ, gượng mà đi. Đã là một tên xú bát quái, cái chân bò lại khập khiễng nữa, tưởng dễ coi lắm hay sao?

Nói xong cô ta bẻ một cành cây, quét sạch tuyết bên cạnh vách núi. Trương Vô Kỵ nghe thấy câu "Cái chân bò lại khập khiễng nữa, tưởng dễ coi lắm hay sao?" đủ biết nàng đầy quan thiết, không khỏi chạnh lòng. Chàng nghe cô gái hát nho nhỏ, bẻ cành cây gác lên hai khối đá làm mái, chẳng mấy chốc có được một cái nhà nho nhỏ đủ để dung thân, mái bằng tranh, tường bằng đá, trông cũng dễ coi. Châu Nhi làm cái nhà xong rồi liền ôm từng khối tuyết chất lên trên mái, hì hục cả nửa ngày đến khi ngoài nhìn vào không thấy chút dấu vết gì mới chịu ngừng tay.

Nàng lấy khăn tay ra lau những giọt mồ hôi trên mặt, nói:

- Anh chờ ở đây, tôi đi kiếm cái gì ăn.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi cũng không đói lắm, cô mệt lắm rồi, ngồi nghỉ một lát rồi hãy đi.

Châu Nhi đáp:

- Nếu anh đối xử tốt với tôi, thực lòng tốt thì nói ngọt đầu môi chót lưỡi có ích gì?

Nói xong lẹ làng chạy vào rừng. Trương Vô Kỵ ngồi trên phiến đá, nghĩ đến Châu Nhi ăn nói nhu mì, cử chỉ nhanh nhẹn, phong phạm không khác gì một mỹ nhân tuyệt sắc, nhưng khuôn mặt sao lại quá ư xấu xí, nghĩ đến mẹ chàng khi lâm chung có nói: "Phải đề phòng đàn bà lừa dối, đàn bà càng đẹp, lừa người càng giỏi". Châu Nhi tướng mạo tuy không đẹp nhưng đối với ta tốt biết bao, ta mong được người như nàng sống với nhau suốt đời, có điều trong lòng nàng đã có tình lang không để ý đến ta nữa.

Y suy nghĩ vẩn vơ, tâm niệm nhấp nhô như sóng biển, chẳng bao lâu thấy Châu Nhi xách hai con gà rừng về, nhóm lửa lên nướng, ăn thật là ngon. Trương Vô Kỵ ăn một con hết sạch, xem chừng chưa đủ. Châu Nhi cười thầm đem hai cái đùi gà là chỗ ngon nhất nàng để dành, cắt ra từ con gà phần của mình thẩy cho chàng. Trương Vô Kỵ định từ chối, Châu Nhi giận nói:

- Anh còn thèm thì cứ ăn, tôi đâu cần anh phải giả vờ đãi bôi, nói một đằng bụng dạ một nẻo. Anh làm thế tôi lấy dao khoét trên người anh ba cái lỗ bây giờ.

Trương Vô Kỵ không dám nói thêm, cầm gà ăn nốt. Hai mép chàng dính đầy mỡ, nhặt một nắm tuyết dưới đất lên chùi mặt rồi lấy tay áo ra lau.

Châu Nhi quay đầu lại thấy chàng dùng tuyết chùi mặt, không khỏi bần thần, trân trân nhìn chàng. Trương Vô Kỵ thấy nàng nhìn mình như thế, hỏi:

- Có gì không?

Châu Nhi nói:

- Anh bao nhiêu tuổi?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hai mươi mốt.

Châu Nhi nói:

- Ồ, thế ra anh chỉ hơn tôi có ba tuổi. Thế sao anh để râu ria dài thế?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Tôi ở một mình nơi hoang sơn thâm cốc, không gặp người nên cũng chẳng nghĩ đến chuyện cạo râu.

Châu Nhi lấy trong người ra một con dao nhỏ, cán bằng vàng, đè mặt chàng xuống từ từ cạo sạch râu ria. Trương Vô Kỵ chỉ thấy lưỡi dao cực kỳ sắc bén, cạo đến đâu râu rơi tới đó, những ngón tay nàng lại mềm mại lạ thường, khi sờ vào mặt chàng không khỏi bỗng dưng động lòng. Con dao nhỏ dần dần cạo xuống tới cổ, Châu Nhi cười nói:

- Tôi chỉ rạch một cái ngay cổ họng là mạng anh ô hô ai tai ngay, có sợ không?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Chết dưới bàn tay ngọc của cô nương, thành quỉ cũng sướng.

Châu Nhi lật lưỡi dao, dùng sống đao nhấn vào cổ chàng một đường, quát lên:

- Để cho ngươi thành một con quỉ khoái hoạt này.

Trương Vô Kỵ sợ giật nảy người, nhưng cô nàng ra tay quá nhanh, dao lại cận kề, đến khi biết được thì dao đã cứa xuống, hoàn toàn không một chút phản kháng nào. Tuy nhiên Cửu Dương thần công trong thân thể lập tức sinh ra một lực đẩy ra, hất con dao đi, bấy giờ mới biết Châu Nhi chỉ dùng sống dao mà cắt.

Châu Nhi tay giật một cái, kêu lên:

- Ái chà.

Lập tức cười khanh khách nói:

- Có sướng không?

Trương Vô Kỵ vừa cười vừa gật đầu. Chàng vốn là người phác thực, không hiểu sao ở gần Châu Nhi chàng cảm thấy thoải mái, tiêu dao tự tại, tưởng chừng như hai người đã sống với nhau từ nhỏ, nên nhịn không nổi phải nói đùa vài câu.

Châu Nhi cạo râu cho chàng xong, tần ngần nhìn một hồi, đột nhiên thở dài một tiếng. Trương Vô Kỵ hỏi:

- Có gì không?

Châu Nhi không trả lời, lại cắt bớt tóc cho chàng, bới thành một búi tóc gọn ghẽ, dùng cành cây gọt một cái trâm cắm lên búi tóc. Chàng chải đầu xong, tuy y phục vẫn lam lũ ghê gớm, vừa nhỏ vừa chật như đồ ăn trộm, nhưng thần thái oai nghi, một tên xú bát quái biến ngay thành một thanh niên anh tuấn. Châu Nhi lại thở dài một tiếng nói:

- Không thể nào tưởng tượng nổi, thì ra anh trông đẹp trai đến thế.

Trương Vô Kỵ biết nàng tủi thân vì mình xấu xí liền nói:

- Tôi cũng có gì đẹp trai đâu. Nói cho cùng, vật cực đẹp trên thế gian này luôn luôn có ẩn một cái cực xấu. Con công lông nó đẹp biết bao, nhưng mật nó lại cực độc, con hạc cái mào đỏ chót, trông thật đẹp, nào ngờ đó là độc dược lợi hại ghê gớm. Các loại rắn rết côn trùng, vật gì càng đẹp thì càng nhiều độc tính. Hai con nhện của cô trông chả đẹp à? Con người ta tướng mạo đẹp xấu có là gì đâu, cần tâm địa thiện lương mới đáng kể.

Châu Nhi cười nhạt nói:

- Tâm địa thiện lương tốt ở chỗ nào, anh nói tôi nghe thử.

Trương Vô Kỵ nhất thời không trả lời được, ngẩn người ra rồi nói:

- Tâm địa thiện lương thì không làm hại người khác.

Châu Nhi hỏi thêm:

- Không làm hại người thì tốt ra làm sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- - Mình không làm hại người thì trong lòng vui vẻ bình an, làm việc gì cũng trong sáng.

Châu Nhi đáp:

- Tôi không hại người thì không thấy sung sướng, làm sao hại người khác càng thảm thiết thì trong lòng mới bình an khoái lạc, mới thấy yên tâm.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Cô nói thế là nói lấy được đó thôi.

Châu Nhi cười khẩy:

- Nếu tôi không để hại người thì luyện môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ này làm gì? Tự mình phải chịu không biết bao nhiêu khổ sở, chẳng lẽ để chơi thôi sao?

Nói xong ngồi xếp bằng vận một lượt nội công, lấy cái hộp vàng trong bọc ra, mở nắp thò hai ngón tay trỏ vào trong hộp.

Hai con nhện hoa từ từ bò lại, chia nhau cắn hai đầu ngón tay. Nàng hít một hơi dài, hai tay hơi run, tiềm vận nội lực chống lại nọc độc của con nhện. Loài nhện hoa này hút máu của nàng để sống nhưng huyết mạch ở đầu ngón tay Châu Nhi cũng vận chuyển mang chất độc của con nhện vào người.

Trương Vô Kỵ thấy mặt nàng hết sức trang nghiêm, đồng thời ở giữa hai lông mày và hai bên mang tai có một làn hắc khí mờ mờ, hai hàm răng cắn chặt, hết sức chịu đựng nỗi đau đớn. Một lúc sau, đầu mũi nàng toát ra từng hạt mồ hôi lấm tấm. Công phu đó nàng luyện chừng nửa giờ, hai con nhện hút máu no, bụng căng tròn như trái cầu, lúc đó mới nhả ra nằm ngay đơ trong hộp.

Châu Nhi lại vận công một hồi, hắc khí trên mặt lui dần, huyết sắc quay trở lại, thở ra một hơi dài. Trương Vô Kỵ ngửi vào chỉ thấy một mùi thơm ngọt, nhưng lập tức thấy chóng mặt, dường như hơi nàng thở ra có chất kịch độc. Châu Nhi mở mắt ra, mỉm cười.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Phải luyện đến chừng nào mới gọi là hoàn toàn thành công?

Châu Nhi nói:

- - Cứ mỗi con nhện hoa thân mình từ hoa biến thành đen, từ đen biến thành trắng thì hết chất độc mà chết, bao nhiêu chất độc trong người con nhện truyền cả vào ngón tay tôi. Ít nhất phải luyện khoảng một trăm con nhện hoa mới là tiểu thành. Còn công phu muốn cho sâu thì phải một nghìn, hai nghìn con cũng chưa phải là nhiều.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói thế, không khỏi nổi gai ốc, hỏi:

- Lấy đâu ra nhiều nhện thế?

Châu Nhi đáp:

- Một mặt phải nuôi, nó cũng sinh ra nhện con, mặt khác phải vào những nơi có nhện để bắt.

Trương Vô Kỵ thở dài:

- Võ công trong thiên hạ nhiều biết bao nhiêu, việc gì phải luyện môn công phu độc địa này làm gì. Chất độc của loài nhện thật là mãnh liệt, hút vào cơ thể rồi, dù cô có phương pháp đề ngự, nhưng về lâu về dài thể nào cũng có chuyện không hay.

Châu Nhi cười nhạt nói:

- Dĩ nhiên là trong thiên hạ có nhiều loại võ công rồi nhưng không có môn công phu nào sánh kịp với môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ cả. Anh đừng tự thị mình nội công cao siêu, môn công phu của tôi mà luyện thành, cũng chịu không nổi một ngón tay của tôi đâm trúng đâu.

Nói xong nàng ngưng khí vào ngón tay, tiện thể đâm luôn vào một gốc cây. Tuy nhiên công lực của nàng còn non nớt chỉ đâm lõm vào chừng nửa tấc. Trương Vô Kỵ hỏi thêm:

- Sao mẹ cô lại dạy cho cô luyện môn công phu này? Bà ấy cũng luyện thành rồi ư?

Ánh mắt Châu Nhi đột nhiên nảy ra những tia sáng hung dữ, hậm hực đáp:

- Luyện môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ này có điều từ hai chục con nhện hoa trở đi thì chất độc trong cơ thể tích tụ đã nhiều, dung mạo bắt đầu biến đổi. Đến khi luyện xong một nghìn con, mặt mũi sẽ xấu xí vô cùng. Mẹ tôi vốn đã luyện đến gần một trăm con thì gặp cha tôi, sợ mặt mũi mình biến thành xấu xí cha tôi không yêu thương nữa, bèn đem hết công phu của mình bao nhiêu hủy đi cả, trở lại một thiếu nữ bình thường trói gà không chặt. Tuy mặt mũi mẹ tôi xinh đẹp trở lại, nhưng khi bị dì hai và hai anh tôi lăng nhục, mẹ tôi không còn một chút tài nghệ gì để chống trả hết, nên đến nỗi phải chết. Ôi, mặt mũi xinh đẹp có ích lợi gì đâu. Mẹ tôi là một người thật xinh đẹp, thật tú nhã, chỉ vì lớn tuổi không con trai, cha tôi liền đi lấy thêm vợ bé ...

Trương Vô Kỵ liền đảo mắt nhìn nàng một cái, khẽ giọng:

- Thì ra ... thì ra vì cô luyện môn công phu đó ...

Châu Nhi nói:

- Đúng thế, chính vì tôi luyện môn công phu này, nên mặt mới bị nhiễm độc thành ra như thế. Ôi, nếu gã tham tâm kia không ngó ngàng đến tôi, đợi tôi luyện xong môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ rồi, sẽ đi tìm y, nếu y không có người đàn bà nào khác thì thôi ...

Trương Vô Kỵ ngắt lời:

- Nhưng cô đã cùng y thành hôn đâu, chưa có ước hẹn răng long đầu bạc, chỉ mới ... chỉ mới ...

Châu Nhi nói:

- Muốn gì thì cứ nói thẳng ra, ấp úng cái gì ? Có phải anh nói chỉ mới có mình tôi nhớ nhung y, phải không nào? Đơn tương tư thì đã sao? Tôi đã yêu anh ta thì không để cho y được yêu một ai khác. Nếu y phụ tâm bạc hãnh tôi sẽ cho y nếm mùi Thiên Châu Vạn Độc Thủ.

Trương Vô Kỵ mỉm cười, không tranh biện với cô ta nữa, nghĩ thầm tâm tình cô này thật lạ lùng, tốt thì thật tốt, mà khi nổi cơn lên thì chẳng kể gì phải trái. Chàng nhớ đến thái sư phụ, cùng đại sư bá, nhị sư bá thường nói về việc phân biệt chính tà trong võ lâm, xem ra cô ta luyện môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ này ắt hẳn là một môn cực kỳ tàn độc của tà môn, mẹ cô ấy cũng phải trong bọn yêu tà. Nghĩ đến chuyện đó, chàng không khỏi dè dặt đề phòng cô ta thêm mấy phần.

Châu Nhi chưa nhìn thấy cái biến đổi trong tâm tình chàng, đi ra đi vào căn nhà nhỏ, hái các loại hoa dại về chưng khắp nơi. Trương Vô Kỵ thấy nàng trang hoàng căn nhà trông cũng nhã thú, hiểu rằng yêu vẻ đẹp là bản tính con người, vậy mà tự hủy dung mạo thành ra như thế nên nói:

- Châu Nhi, khi chân tôi khỏi rồi sẽ đi kiếm thuốc, tìm cách trị cho cô khỏi bị sưng mặt.

Châu Nhi nghe mấy câu đó, trên mặt lộ vẻ sợ hãi, nói:

- Không ... không ... không được. Tôi mất bao nhiêu công lao khổ sở mới được đến mức như ngày nay, bộ anh muốn hủy hết công phu Thiên Châu Vạn Độc Thủ của tôi ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Mình phải tìm được cách nào, không mất công phu mà vẫn tiêu trừ được chất độc ở trên mặt.

Châu Nhi đáp:

- Không xong đâu, nếu có cách nào thì công phu tổ truyền của mẹ tôi lẽ đâu không biết? Trong đời này chỉ có Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu mới có cái tài nghệ kinh người làm được chuyện đó, chỉ hiềm là ... chỉ hiềm là ông ấy chết mấy năm trước rồi.

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Cô cũng biết Hồ Thanh Ngưu à?

Châu Nhi trừng mắt nhìn chàng, nói:

- Thì đã sao? Có gì lạ lùng đâu? Điệp Cốc Y Tiên danh mãn giang hồ, ai mà chẳng biết.

Nói xong lại thở dài một tiếng, nói:

- Thế nhưng dù ông ta có còn sống, người đó có tên Kiến Tử Bất Cứu cũng có ích gì?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cô ta đâu biết tài nghệ một đời của Điệp Cốc Y Tiên đã truyền hết cho ta, bây giờ mình đừng nói vội, sau này tìm được phương pháp trị cho cô ta hết sưng mặt, sẽ khiến cho cô nàng vui sướng một phen".

Hai người nói chuyện thì bên ngoài trời đã tối nên cùng dựa vào mấy tảng đá mà ngủ. Ngủ đến nửa đêm, Trương Vô Kỵ bỗng nghe mơ màng có tiếng nức nở nên tỉnh dậy, định thần mới hay Châu Nhi đang khóc. Chàng ngồi thẳng lại, giơ tay vỗ nhẹ vào vai nàng, an ủi:

- Châu Nhi, đừng đau lòng nữa.

Nào ngờ những lời dịu dàng vỗ về kia khiến cho Châu Nhi không sao nhịn được nữa, liền gục đầu vào vai Vô Kỵ, khóa òa lên. Trương Vô Kỵ hỏi:

- Châu Nhi, chuyện gì thế? Cô nghĩ đến mẹ cô, có phải không?

Châu Nhi gật đầu, nghẹn ngào nói:

- Mẹ em chết rồi, em chỉ một mình cô khổ lênh đênh, chẳng ai thương em, chẳng ai tốt với em.

Trương Vô Kỵ lấy tay áo chùi nước mắt cho nàng, dịu giọng nói:

- Tôi thương cô, tôi sẽ tử tế với cô.

Châu Nhi nói:

- Em không cần anh tử tế với em, trong lòng em chỉ yêu thương một người, y lại chẳng ngó ngàng gì em, còn đánh em, mắng em, đến cả cắn em nữa.

Trương Vô Kỵ run run giọng nói:

- Cô hãy quên cái gã bạc hãnh kia đi. Tôi sẽ lấy cô làm vợ, tôi sẽ một đời tử tế với cô.

Châu Nhi cao giọng nói:

- Không, không đâu. Em không quên anh ta được đâu. Anh mà còn nói em quên y đi, em sẽ không thèm nhìn anh nữa.

Trương Vô Kỵ thật là xấu hổ, cũng may trời tối nên Châu Nhi không nhìn thấy khuôn mặt bẽn lẽn đỏ bừng của chàng. Một hồi thật lâu hai người không ai nói thêm câu nào nữa. Sau cùng, Châu Nhi nói:

- A Ngưu ca, anh có giận em không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi không giận cô đâu. Tôi chỉ giận chính mình, giá đừng nói với cô câu đó thì hay hơn.

Châu Nhi vội nói:

- Không, không. Anh nói anh bằng lòng lấy em làm vợ, một đời đối đãi tử tế với em, em nghe thật là vui lòng. Anh nói lại một lần nữa đi.

Trương Vô Kỵ giận dữ nói:

- Cô không quên được gã kia, tôi còn nói làm gì?

Châu Nhi thò tay ra nắm lấy tay chàng, nhỏ nhẹ nói:

- A Ngưu ca, anh đừng giận, em xin lỗi anh, em không nên không phải chút nào. Nếu anh thực sự lấy em làm vợ, em sẽ đâm mù mắt anh, rồi giết anh luôn.

Trương Vô Kỵ lạnh cả người, kinh hãi hỏi:

- Cô nói gì thế?

Châu Nhi nói:

- Mắt anh mù rồi, anh sẽ không còn nhìn thấy hình dáng xấu xí của em nữa, cũng không có thể nhìn thấy được Chu cô nương của phái Nga Mi kia. Nếu như anh không thể nào quên được cô ta, em sẽ đâm anh một ngón tay cho anh chết, đâm chết luôn cả Chu cô nương của phái Nga Mi, rồi tự mình đâm mình chết.

Nàng nói lên ý định kỳ quái đó nhưng giọng thật tự nhiên, tưởng chừng như đó là đạo lý thiên kinh địa nghĩa không bằng. Trương Vô Kỵ nghe cô nàng nói chuyện tàn ác độc đoán như thế, tim không khỏi thót lên một cái.

Hồi 17

THANH DỰC XUẤT MỘT NHẤT TIẾU DƯƠNG-

Ngay lúc đó, từ xa truyền tới một giọng già nua:

- Chu cô nương của phái Nga Mi có làm gì chúng bay đâu?

Châu Nhi sợ hãi nhảy nhổm lên, hạ giọng nói:

- Diệt Tuyệt sư thái đó.

Nàng nói hết sức nhỏ, nhưng người bên ngoài đã nghe thấy rồi, nghiêm nghị nói:

- Đúng đấy, Diệt Tuyệt sư thái đây.

Câu trước người kia nói thì còn ở thật xa thế nhưng câu thứ hai nghe đã như gần bên căn nhà. Châu Nhi biết rằng sự tình chẳng xong, không còn cách nào ôm Trương Vô Kỵ chạy trốn, chỉ còn nước nín thở lặng thinh. Chỉ thấy bên ngoài có người lạnh lùng nói:

- Ra ngay. Còn mong trốn ở trong ấy hay sao?

Châu Nhi nắm tay Trương Vô Kỵ vén đám cỏ bước ra ngoài. Một lão ni tóc bạc đứng cách căn tiểu ốc chừng hai trượng, chính là chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái. Cách bà ta một quãng xa có ba đội khác khoảng mấy chục người chạy tới. Khi tới gần bọn người chia thành hai nhóm đứng hai bên Diệt Tuyệt sư thái, trong đó khoảng một nửa là ni cô, nửa kia có nam có nữ, trong đó có cả Đinh Mẫn Quân và Chu Chỉ Nhược, nhưng nam đệ tử đứng sau cùng. Thì ra Diệt Tuyệt sư thái không ưa đệ tử con trai, nam đệ tử trong phái Nga Mi không được truyền thụ thượng thừa võ công, địa vị so với nữ đệ tử cũng kém hơn.

Diệt Tuyệt sư thái lặng lẽ nhìn đánh giá Châu Nhi, hồi lâu không nói. Trương Vô Kỵ cố nhịn đứng náu sau lưng cô gái, trong bụng tính thầm, nếu bà ta ra tay giết Châu Nhi, dù không địch nổi chàng cũng hết sức một phen. Chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, quay lại hỏi Đinh Mẫn Quân:

- Có phải con bé này không?

Đinh Mẫn Quân khom lưng đáp:

- Chính nó.

Chỉ nghe lách cách, lách lách hai tiếng, Châu Nhi hự lên một tiếng, thân hình đã bắn văng ra xa hơn ba trượng, hai cổ tay bị gãy lìa, nằm ngất lịm trên mặt đất. Trương Vô Kỵ chỉ thấy trước mắt một bóng màu tro thấp thoáng, Diệt Tuyệt sư thái sử dụng thân pháp nhanh nhẹn tuyệt luân bay tới bên cạnh Châu Nhi, dùng thủ pháp nhanh nhẹn tuyệt luân đánh gãy hai cổ tay của cô gái, ném cô ta ra xa, rồi lại dùng thân pháp nhanh nhẹn tuyệt luân quay trở về chỗ cũ, đứng vững chãi như một cây cổ thụ trong gió đêm, vừa ngụy bí, vừa hùng vĩ.

Trương Vô Kỵ tuy nhìn thấy rõ ràng chiêu nào chiêu nấy đâu ra đấy, nhưng nhanh đến mức không sao tưởng nổi. Chàng bị thủ pháp kinh người đó trấn nhiếp đứng trơ trơ, đâm ra mất hết khả năng phản ứng.

Cặp mắt sắc thấu tâm can người của Diệt Tuyệt sư thái nhìn Trương Vô Kỵ, quát lên:

- Đi ra.

Chu Chỉ Nhược tiến lên một bước, run run thưa:

- Sư phụ, người này gãy cả hai chân, không đi lại được.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Làm hai cái xe trượt, kéo chúng nó đi.

Cả bọn đệ tử cùng lên tiếng tuân lệnh. Mươi tên nam đệ tử chân tay nhanh nhẹn làm ngay hai cái xe trượt. Hai nữ đệ tử bế Châu Nhi, hai nam đệ tử bế Trương Vô Kỵ bỏ lên cáng tuyết, chia ra kéo theo sau Diệt Tuyệt sư thái đi về hướng tây.

Trương Vô Kỵ ngưng thần nghe ngóng động tĩnh, không biết Châu Nhi bị thương nặng nhẹ thế nào. Đi khoảng một dặm mới nghe cô ta rên lên một tiếng nhỏ. Trương Vô Kỵ lớn tiếng hỏi:

- Châu Nhi, bị thương ra sao? Có bị nội thương không?

Châu Nhi đáp:

- Bà ấy đánh gãy hai cổ tay em, nhưng bụng ngực xem ra không bị thương.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu nội tạng không bị gì thì không sao cả. Cô lấy cùi chỏ tay trái thúc chỗ ba tấc năm phân bên dưới khuỷu tay phải, sau đó lại dùng cùi chỏ tay phải thúc vào chỗ ba tấc năm phân dưới khuỷu tay trái, sẽ bớt đau.

Châu Nhi chưa kịp trả lời, Diệt Tuyệt sư thái "Ủa" một tiếng, quay đầu lại trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi:

- Tiểu tử này quả tinh thông y lý, tên ngươi là gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu.

Diệt Tuyệt sư thái hỏi tiếp:

- Sư phụ ngươi là ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Sư phụ tôi chỉ là một thầy lang vườn vô danh ở một tiểu trấn, nói ra sư thái cũng không biết đâu.

Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, không thèm hỏi nữa. Cả đoàn người đi đến khi trời sáng mới dừng lại nghỉ đem lương khô ra ăn. Chu Chỉ Nhược đem hai chiếc bánh bao nguội, cho Trương Vô Kỵ và Châu Nhi mỗi người một cái. Khi nàng đưa bánh cho Trương Vô Kỵ, nhìn chàng một cái, lập tức quay đầu ra chỗ khác. Trương Vô Kỵ trong lòng khích động, nhịn không nổi, nói nhỏ:

- Ơn đức đút cơm cho ăn trên sông Hán Thủy, vĩnh viễn không quên.

Chu Chỉ Nhược cả người chấn động, quay lại nhìn chàng, lúc này Trương Vô Kỵ đã cạo sạch râu ria, nàng nhìn một hồi, đột nhiên "A" lên một tiếng, mặt lộ vẻ vừa mừng vừa sợ, ấp úng:

- Anh ... anh ...

Trương Vô Kỵ biết nàng đã nhận ra mình, chầm chậm gật đầu. Chu Chỉ Nhược hỏi khẽ:

- Hàn độc trong người đã đỡ chưa?

Giọng nàng chỉ vo ve như tiếng muỗi, dường như không nghe thấy. Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Đã đỡ rồi.

Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng vội bước ra chỗ khác. Lúc đó Châu Nhi ở ngay đằng sau Trương Vô Kỵ, thấy Chu Chỉ Nhược vẻ mặt mừng rỡ, rồi mấp máy đôi môi, tiếp theo ra vẻ thẹn thùng, nhưng ánh mắt sáng lên, đợi nàng đi khỏi liền hỏi Trương Vô Kỵ:

- Cô ta nói gì với anh thế?

Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, nói:

- Đâu ... đâu có ... đâu có gì.

Châu Nhi hừ một tiếng:

- Sờ sờ ra thế mà còn chối.

Cả bọn nghỉ ngơi ba tiếng đồng hồ rồi lại tiếp tục đi, thẳng đường về hướng tây, luôn ba ngày liền xem chừng có việc khẩn cấp. Tất cả các nam nữ đệ tử dù đi hay nghỉ, ngoài những việc chẳng đặng đừng ra, không ai nói một lời, chẳng khác gì một bọn người câm.

Lúc này xương đùi của Trương Vô Kỵ đã lành lặn như thường, lúc nào cũng có thể bước đi nhưng chàng giả vờ như chưa khỏi, có khi còn rên rỉ mấy tiếng để cho Diệt Tuyệt sư thái khỏi phòng bị, đợi dịp là cứu Châu Nhi trốn biệt. Có điều đường đi chỗ nào cũng là đồng không mông quạnh, chạy chẳng được xa là sẽ bị đuổi tới nên nhất thời chàng không dám vọng động. Chàng nối lại chỗ gãy xương cho Châu Nhi, Diệt Tuyệt sư thái trông thấy nhưng cũng chỉ lạnh lùng ngó qua không can dự. Mỗi khi nghỉ lại hay ban đêm nằm ngủ, Trương Vô Kỵ không nhịn nổi liếc nhìn Chu Chỉ Nhược mấy lần nhưng nàng không hề đến gần bên chàng.

Đi thêm hai ngày nữa, chiều hôm đó cả bọn đến một bãi sa mạc lớn, dưới đất tuyết đóng đã tan nên hai chiếc xe trượt lôi đi trên cát. Đang lúc đi, bỗng có tiếng vó ngựa từ phía tây vọng đến. Diệt Tuyệt sư thái giơ tay ra hiệu, các đệ tử liền chạy đến nằm phục xuống sau các gò cát. Hai người tay cầm đoản kiếm kề ngay lưng Trương Vô Kỵ và Châu Nhi, ý định rõ ràng là phái Nga Mi đang phục kích địch nhân, nếu Trương Vô Kỵ và Châu Nhi lên tiếng báo động, đoản kiếm sẽ đâm thẳng vào lưng giết họ ngay lập tức.

Tiếng vó ngựa nghe mỗi lúc một gấp nhưng khoảng cách vẫn còn xa, một lúc thật lâu mới tới gần. Những kỵ sĩ đột nhiên thấy dấu chân trên mặt cát liền gò cương, đứng lại quan sát. Đại đệ tử của phái Nga Mi là Tĩnh Huyền liền giơ phất trần ra hiệu, mấy chục đệ tử từ các chỗ mai phục nhảy ra vây quanh đoàn người cưỡi ngựa. Trương Vô Kỵ thò đầu ra nhìn, thấy tổng cộng có bốn người, tất cả đều mặc áo bào trắng, trên áo thêu một ngọn lửa đỏ đang cháy. Bốn người thấy bị bao vây liền kêu la, rút binh khí ra, phá vòng vây chạy về phía đông bắc.

Tĩnh Huyền sư thái lớn tiếng quát:

- Đây là yêu nhân của ma giáo, không để cho tên nào chạy thoát.

Phái Nga Mi tuy đông người nhưng không cậy nhiều để đánh ít. Hai nữ đệ tử, hai nam đệ tử theo hiệu lệnh của Tĩnh Huyền sư thái, chia nhau ra tiến lên chặn họ lại. Bốn người của ma giáo tay cầm đao cong, ra tay thật là độc địa. Thế nhưng phái Nga Mi kỳ này kéo đi Tây Vực đều là những nhân tài bạt tụy trong môn phái, người nào cũng võ nghệ tinh cường, chỉ bảy tám hiệp, ba người của ma giáo đã bị trúng kiếm, từ trên ngựa ngã xuống.

Người còn lại thật là lợi hại, chém trúng vai một nam đệ tử phái Nga Mi, cướp đường chạy trốn, giục ngựa chạy ra ngoài mấy trượng. Người thứ ba trong phái Nga Mi là Tĩnh Hư sư thái liền quát:

- Ngã này.

Thân pháp thật nhanh, vụt đến sau lưng người kia, phất trần tung ra, cuốn ngay chân trái kẻ địch. Người đó vung đao gạt ra, Tĩnh Hư đột nhiên biến chiêu, nghe bộp một tiếng đánh trúng ngay sau đầu đối phương. Chiêu đó trúng chỗ yếu hại, trong phất trần có ẩn tàng nội lực thâm hậu, người kia liền ngã xuống khỏi ngựa. Nào ngờ người đó hết sức hung tợn, tuy đã bị trọng thương nhưng quyết chí cùng kẻ địch đồng qui ư tận nên giang hai tay nhào tới chộp Tĩnh Hư. Tĩnh Hư nghiêng người né qua, phất trần lại đánh trúng ngay ngực y.

Ngay khi đó, tại chiếc lồng buộc trên cổ con ngựa y cưỡi có ba con chim bồ câu trắng vẫy cánh bay ra. Tĩnh Huyền kêu lên:

- Làm trò gì thế này?

Bà ta vẫy tay áo một cái, ba viên đạn sắt chia ra bắn vào ba con chim. Hai con bồ câu trúng đạn rơi xuống, còn một viên đạn bị một người áo trắng đang nằm dưới đất dùng ám khí đánh tạt qua một bên, nên con chim thứ ba bay vụt lên cao vút tận mây. Các ám khí của đệ tử Nga Mi bay ra rào rào, nhưng không sao trúng được, chỉ thấy con chim giang cánh bay thẳng về hướng đông bắc. Tĩnh Huyền tay giơ lên, các nam đệ tử liền dựng bốn người áo trắng dậy đưa đến trước mặt bà ta.

Từ lúc công địch cho đến khi bắn chim, bắt người, Diệt Tuyệt sư thái chỉ lạnh lùng đứng ngoài quan sát. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Bà ta đích thân động thủ với Châu Nhi, đủ biết coi trọng cô nàng lắm, có lẽ vì Đinh Mẫn Quân bị chấn gãy cổ tay mà ra. Lão ni này muốn bắn hạ con chim kia, chỉ giơ tay là xong, có gì là khó? Thế nhưng bà ta để yên không lý đến, chắc cốt để cho đệ tử lo liệu cả". Chàng nghĩ đến năm xưa Tĩnh Huyền dẫn bọn Kỷ Hiểu Phù cùng lên núi Võ Đương chúc thọ thái sư phụ, so ra ngang hàng với chưởng môn các phái Côn Lôn, Không Động, đủ biết đại đệ tử của phái Nga Mi đã có chút danh vọng trên giang hồ, việc gì cũng có thể tự giải quyết được cả, kể cả chuyện lớn. Đối phó với vài tên giáo đồ của ma giáo dĩ nhiên đâu cần phải do Diệt Tuyệt sư thái ra tay, Tĩnh Huyền, Tĩnh Hư chính họ động thủ kể cũng đã coi đối phương cao lắm rồi.

Một nữ đệ tử nhặt hai con chim bồ câu chết lên, lấy từ trong chiếc ống buộc ở đùi chim một tờ giấy cuộn tròn, trình lên cho Tĩnh Huyền. Tĩnh Huyền coi qua, nói:

- Sư phụ, ma giáo đã biết tin chúng ta vi tiễu[5] Quang Minh Đính, lá thư này là để cáo cấp với Thiên Ưng giáo.

Bà ta lại coi ống thư thứ hai, nói:

- Cũng cùng một thứ. Tiếc thay một con lại bay lọt lưới.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:

- Có gì mà tiếc? Quần ma tụ hội, nhất cử nhi tiêm[6], không phải thích lắm sao? Khỏi phải mất công mình chạy đông chạy tây tìm kiếm bọn chúng.

Tĩnh Huyền đáp:

- Quả đúng vậy.

Trương Vô Kỵ nghe thấy "cáo cấp với Thiên Ưng giáo" mấy chữ, trong bụng không khỏi phân vân: "Giáo chủ của Thiên Ưng giáo chính là ông ngoại ta, không biết lão nhân gia có đến không? Ôi, lão ni này thật là ngạo mạn tự đại, nhưng chưa chắc đã là đối thủ của ông ngoại ta". Chàng đã định thừa cơ cứu Châu Nhi đào tẩu nhưng nay thấy sự việc sắp sửa náo nhiệt đến nơi, nên muốn ở lại xem không nghĩ chuyện bỏ đi vội.

Tĩnh Huyền quát hỏi bốn người áo trắng:

- Các ngươi còn gọi thêm những viện thủ nào nữa? Làm sao biết được tin tức sáu môn phái vây đánh ma giáo?

Cả bốn người áo trắng đều ngửa mặt lên cười thảm thiết, đột nhiên ngã lăn ra đất, không động đậy gì nữa. Cả bọn kinh hãi, hai tên nam đệ tử cúi xuống xem, thấy cả bốn tên nét mặt nở một nụ cười ngụy bí, đều đã chết cả, sợ hãi kêu lên:

- Sư thư, cả bốn tên này đều chết cả rồi.

Tĩnh Huyền giận dữ nói:

- Yêu nhân uống thuốc độc tự tận, loại độc dược này quả thực lợi hại, phát tác thật nhanh.

Tĩnh Hư nói:

- Tra xét thân thể chúng xem.

Bốn người sư đệ lên tiếng đáp:

- Vâng.

Chia ra lục soát các túi áo của bốn tử thi. Chu Chỉ Nhược vội nói:

- Chúng vị sư huynh cẩn thận, đề phòng độc vật bên trong các túi áo.

Bốn nam đệ tử giật mình, lấy binh khí ra rạch các túi áo ra, thấy trong túi ngo ngoe cử động, túi nào cũng có hai con rắn độc nhỏ, nếu như thò tay vào lục soát, thể nào cũng bị độc xà cắn phải. Cả bọn mặt mày biến sắc, ai nấy chửi mắng giáo đồ ma giáo hành sự độc ác.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lẽo nói:

- Chúng ta lên đường từ Trung Thổ đi về hướng tây, hôm nay lần đầu gặp giáo đồ ma giáo. Bốn tên này bất quá chỉ là mấy tên vô danh tiểu tốt, mà đã âm độc như vậy, những nhân vật chủ não trong ma giáo, phải biết thế nào?

Bà ta ngừng lại một lát, nói tiếp:

- Tĩnh Hư tuổi tác không phải là nhỏ, xử sự cẩu thả như thế, không bằng Chỉ Nhược nhận xét tinh tường.

Tĩnh Hư mặt đỏ bừng, khom lưng nhận tội. Trương Vô Kỵ trong bụng lại nhẩm tính mấy chữ "sáu môn phái vây đánh ma giáo" của Tĩnh Huyền ... "Sáu phái? Sáu phái? Liệu phái Võ Đương ta có ở trong đó chăng?".

Canh hai đêm đó, bỗng dưng nghe tiếng lục lạc kêu leng leng, leng keng, dường như có một con lạc đà từ xa đi tới. Lúc đó mọi người đã ngủ say, nghe tiếng chuông đều tỉnh dậy cả. Tiếng lục lạc lúc đầu từ phía tây nam vọng tới, nhưng chỉ giây lát lại từ phương nam vọng về phương bắc, vang đến tận phía tây bắc. Vừa khi đó tiếng chuông lại chạy qua phía đông, dường như xuất hiện ở phía đông bắc. Cứ như thế khi thì đông, khi thì tây, nghe rất ma quái. Mọi người ai nấy ngạc nhiên, đều nghĩ thầm dù cho con lạc đà kia chạy nhanh cỡ nào, không sao có thể vừa ở bên đông lại chạy ngay sang bên tây, nhưng nghe âm thanh thì không phải là có nhiều người đứng ở bốn phương, trước sau rung chuông. Một lúc sau, tiếng chuông khi xa khi gần, lúc to lúc nhỏ, rồi bất ngờ kêu vang động cả phía nam tưởng như con lạc đà đó chạy nhanh như ngựa vụt qua. Người của phái Nga Mi chưa từng đi đến sa mạc, nghe tiếng nhạc ngựa quái dị như thế, ai nấy đều ngầm sợ hãi.

Diệt Tuyệt sư thái lớn tiếng nói:

- Cao nhân ở phương nào, xin mời hiện thân gặp gỡ, chứ trang thần lộng quỉ như thế, còn ra thể thống gì nữa?

Tiếng nói truyền vang ra thật xa. Bà ta nói câu đó xong, tiếng nhạc ngựa lập tức im bặt, tưởng chừng chủ nhân của chiếc lục lạc kia sợ hãi sư thái, không dám đùa rỡn nữa. Cả ngày hôm sau bình an vô sự. Đến canh hai đêm hôm đó, tiếng lục lạc lại nổi lên, khi xa khi gần, khi đông khi tây, Diệt Tuyệt sư thái lại lên tiếng trách mắng, nhưng lần này phía bên kia không thèm coi vào đâu, lúc thì nghe nhỏ lúc lại vang to, có khi lại tưởng như đang giận dữ phi tới, nhưng tới gần bỗng dưng biến mất tăm khiến cho ai ai cũng choáng váng nhức đầu.

Trương Vô Kỵ và Châu Nhi nhìn nhau mỉm cười, tuy hai người không rõ tiếng lục lạc kia làm sao vang động quái dị như thế, nhưng biết là đó là do một cao thủ của ma giáo bày ra, khiến cho phái Nga Mi không thể làm gì được, lục thần bất an, kể cũng nực cười.

Diệt Tuyệt sư thái vẫy tay một cái, các đệ tử liền nằm xuống ngủ, không thèm để ý đến tiếng nhạc ngựa nữa. Tiếng lục lạc lại vang lên một hồi, tuy làm đủ trò nhưng người của phái Nga Mi không thèm để ý, có lẽ người kia cũng hết hứng thú, đột nhiên ở phương bắc vang lên một chập rồi yên hẳn. Phương pháp "thấy quái lạ không coi là lạ, tự nó sẽ tiêu đi[7]" của Diệt Tuyệt sư thái xem chừng có vẻ linh hiệu.

Sáng hôm sau mọi người thu dọn chăn áo, đang định khởi hành, hai tên nam đệ tử không hẹn mà cùng kêu hoảng lên. Ngay bên cạnh họ một người nào đó nằm tự bao giờ, đang ngủ say. Người đó từ đầu chí chân đắp một cái mền bẩn thỉu, không lộ một chút thân thể nào, mông đít chổng cao, ngáy khò khò.

Những người còn lại của phái Nga Mi lập tức kinh hoàng, đêm qua họ đã chia phiên canh gác, sao lại không biết có người lẻn vào? Diệt Tuyệt sư thái thần công như thế, dù cho gió thổi cỏ lay, hoa bay lá rụng cũng không qua khỏi tai mắt bà ta, sao trong đám người có thêm một kẻ lạ đến bây giờ mới thấy? Mọi người vừa kinh hoảng, vừa xấu hổ, đã có hai người cầm trường kiếm đến bên người nọ, quát lớn:

- Ai đó, định làm trò ma quỉ gì đây?

Người kia vẫn tiếp tục ngáy ồ ồ, chẳng thèm để ý tới. Một nam đệ tử dùng kiếm hất chiếc chăn ra, thấy bên dưới là một người mặc áo bào trắng có sọc xanh, đang nằm phục trên bãi cát ngủ thật ngon.

Tĩnh Hư biết rằng kẻ này dám lớn mật làm như thế, ắt hẳn phải lai lịch rất lớn nên tiến lên một bước, nói:

- Các hạ là ai? Đến đây có chuyện gì?

Người kia vẫn ngáy khò khò như kéo bễ. Tĩnh Hư thấy kẻ nọ vô lễ, trong lòng bực bội, liền múa phất trần, nghe vút một tiếng đánh ngay vào mông người nọ. Chỉ nghe soạt một tiếng, chiếc phất trần trong tay Tĩnh Hư sư thái không biết cách nào đã bay vụt lên không, cao đến cả chục trượng, mọi người thấy thế liền ngẩng đầu lên nhìn.

Diệt Tuyệt sư thái quát lớn:

- Tĩnh Hư, coi chừng.

Tiếng chưa kịp dứt, đã thấy người mặc áo sọc xanh kia bỏ chạy ở tận ngoài xa mấy trượng, Tĩnh Hư đã bị y ôm ngang trên hai cánh tay. Tĩnh Huyền cùng một niên trưởng nữ đệ tử là Tô Mộng Thanh lập tức cầm kiếm đề khí đuổi theo. Thế nhưng người kia thân pháp nhanh không thể tả, xem chừng không thể nào đuổi kịp y được.

Diệt Tuyệt sư thái hú lên một tiếng thánh thoát, tay cầm bảo kiếm Ỷ Thiên lập tức rượt theo sau. Chưởng môn phái Nga Mi quả nhiên thân thủ không như người khác, chỉ trong nháy mắt đã vượt qua Tĩnh Huyền, Tô Mộng Thanh, ánh sáng lấp lánh giơ kiếm đâm vào lưng người kia.

Thế nhưng người kia chạy nhanh vô cùng, nhát kiếm đó còn cách đến cả thước, không sao trúng được. Tuy y ôm Tĩnh Hư trên tay nhưng vẫn chạy như bay, không chậm hơn Diệt Tuyệt sư thái chút nào. Y dường như có ý khoe khoang công lực nên không chạy chạy xa mà chỉ chạy vòng quanh đám người của phái Nga Mi. Diệt Tuyệt sư thái đâm luôn mấy kiếm nhưng không trúng được nhát nào.

Bỗng nghe cạch một tiếng, chiếc phất trần trong tay Tĩnh Hư rơi xuống đất. Lúc ấy Tĩnh Huyền và Tô Mộng Thanh đã dừng bước, mọi người ngưng thần nín thở xem bên ngoài mấy chục trượng hai đại cao thủ đuổi nhau. Tuy nơi đây là giữa sa mạc nhưng hai người chạy nhanh mà bụi không tung lên chút nào. Đệ tử phái Nga Mi thấy Tĩnh Huyền bị người kia bắt giữ, nằm sóng soài như người chết, không động đậy gì cả, ai ai cũng đều kinh hãi. Có người muốn tiến lên chặn đầu nhưng nghĩ đến uy danh sư phụ, tự mình không cướp lại được hay sao mà phải nhờ đến đệ tử tương trợ? Nếu việc lấy đông lấn ít đó mà truyền ra ngoài, ắt sẽ bị người trên giang hồ cười chê. Thành thử ai nấy đều có ý muốn nhưng không dám tiến lên, chỉ mong sư phụ nhanh hơn một bước, một kiếm đâm quái khách kia suốt từ hậu tâm ra trước ngực.

Chỉ trong giây lát, người nọ và Diệt Tuyệt sư thái đã chạy được ba vòng lớn. Ai nấy đều thấy Diệt Tuyệt sư thái chỉ nhanh thêm chút nữa là mũi kiếm đã có thể đả thương địch thủ, nhưng trước sau vẫn kém một bước. Người nọ tuy cất bước chạy trước, Diệt Tuyệt sư thái đuổi từ phía sau, nhưng tay y lại ôm thêm một người, nặng thêm hơn một trăm cân, vậy mà cuộc chạy đua này xem ra ngang ngửa, dù thế nào cũng là Diệt Tuyệt sư thái thua rồi.

Đến vòng thứ tư, người kia đột nhiên quay lại, hai tay tung ra, ném Tĩnh Hư vào Diệt Tuyệt sư thái. Diệt Tuyệt sư thái thấy cuồng phong tạt vào mặt, cái ném đó không sao đỡ nổi, vội ngưng khí vào hai chân, sử công phu Thiên Cân Trụy, nhẹ nhàng đón lấy Tĩnh Hư.

Người kia cười ha hả một tiếng dài, nói:

- Sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Đính, chỉ sợ không phải dễ dàng đâu.

Nói xong chạy thẳng về hướng bắc. Khi y cùng Diệt Tuyệt sư thái đuổi bắt dưới đất không một vẩn bụi bốc lên, lúc này cát vàng bay lên mù mịt, thành một đường dài cuồn cuộn, thanh thế uy mãnh, chẳng khác gì một con rồng vàng dài cả mấy chục trượng, lập tức che khuất cả người y.

Đệ tử phái Nga Mi vội vàng tiến lên bên cạnh sư phụ, chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái mặt tái đi, không nói tiếng nào. Tô Mộng Thanh đột nhiên thất thanh kêu lên:

- Tĩnh Hư sư tỉ ...

Chỉ thấy mặt Tĩnh Hư vàng khè như nghệ, cổ họng có một vết thương khí tuyệt rồi. Vết thương máu thịt lầy nhầy, nhưng vết răng hãy còn đó, hiển nhiên đã bị quái nhân nọ cắn chết. Tất cả các đệ tử Nga Mi liền òa lên khóc.

Diệt Tuyệt sư thái quát lớn:

- Khóc cái gì? Đem nó chôn đi.

Mọi người lập tức nín bặt, đem thi thể Tĩnh Hư đem chôn, đắp thành mộ phần. Tĩnh Huyền khom lưng hỏi:

- Sư phụ, yêu nhân đó là ai? Chúng con xin ghi nhớ trong lòng, sau này có dịp báo thù cho sư muội.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:

- Tên đó hút máu người, tàn nhẫn độc ác, chắc là một trong tứ vương của ma giáo Thanh Dực Bức Vương[8]. Ta từng nghe y khinh công thiên hạ vô song, quả nhiên đúng là danh bất hư truyền, hơn ta thật xa.

Trương Vô Kỵ đối với Diệt Tuyệt sư thái vốn có chút căm ghét, thế nhưng lúc này thấy bà ta gặp cơn đại biến, nhưng vẫn không xao động, trấn tĩnh như không, bây giờ lại tán dương địch nhân ngay trước mặt mọi người, tự thẹn mình không bằng được, quả thực là phong độ tông tượng của một môn phái, trong lòng không khỏi khâm phục.

Đinh Mẫn Quân hậm hực nói:

- Y không dám cùng sư phụ quá thủ động chiêu, chỉ biết cắm đầu chạy, sao gọi là anh hùng được?

Diệt Tuyệt sư thái hừ lên một tiếng, đột nhiên nghe bốp một tiếng, đã vả cho y thị một cái, giận dữ nói:

- Sư phụ không đuổi kịp y, không cứu nổi tính mệnh của Tĩnh Hư, thế là y thắng rồi. Việc được hay thua cả thiên hạ đều biết, chẳng lẽ anh hùng hảo hán là tự mình phong cho mình được hay sao?

Một bên mặt của Đinh Mẫn Quân lập tức sưng vù, vội khom lưng nói:

- Sư phụ giáo huấn thật đúng, đồ nhi biết mình sai rồi.

Trong bụng nghĩ thầm: "Bà đánh không lại người ta nên mất mặt, giận cá chém thớt đổ lên đầu mình, số ta thật là đen".

Tĩnh Huyền nói:

- Sư phụ, gã Thanh Dực Bức Vương đó lai lịch ra sao, xin sư phụ dạy bảo cho biết.

Diệt Tuyệt sư thái xua tay một cái, không trả lời Tĩnh Huyền, tự mình đi trước cả đoàn. Cả bọn thấy đại sư tỉ bị hắt hủi như thế, còn ai dám mở lời nữa. Đoàn người không nói một lời, lầm lũi đi cho đến khi trời tối mới ngừng lại bên cạnh một đồi cát, gầy một đống lửa nghỉ ngơi.

Diệt Tuyệt sư thái nhìn ngọn lửa không nói một lời, ngồi lặng yên chẳng khác gì một pho tượng đá. Bầy đệ tử thấy sư phụ không ngủ đâu ai dám đi ngủ trước. Tất cả ngồi chơ vơ hơn một tiếng đồng hồ, Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên đẩy song chưởng, một luồng kình phong ùa ra, nghe bùng một tiếng, cả một ngọn lửa lớn bỗng dưng tắt phụp. Mọi người vẫn ngồi yên không động đậy, ánh trăng lạnh lẽo vằng vặc chiếu trên vai mọi người.

Trương Vô Kỵ bỗng thấy một mối thương xót nổi lên trong lòng: "Không lẽ uy danh lừng lẫy của phái Nga Mi nay ở Tây Vực tan ra mây khói, không một ai quay trở lại được hay chăng?" Chàng lại nghĩ tiếp: "Chu cô nương ta không thể không cứu. Thế nhưng người trong ma giáo lợi hại như thế, ta có tài ba gì để mà cứu người bây giờ?".

Chỉ nghe Diệt Tuyệt sư thái quát lên: "Dập tắt yêu hỏa, diệt hết ma hỏa". Bà ta ngừng lại một lát nói tiếp:

- Ma giáo lấy hỏa làm thánh, tôn hỏa làm thần. Từ khi giáo chủ đời thứ ba mươi ba của Ma giáo là Dương Đính Thiên chết đi, họ không có giáo chủ. Tả hữu Quang Minh sứ giả, bốn đại Hộ giáo Pháp vương, Ngũ Tản Nhân[9], lại thêm chưởng kỳ sứ Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, người nào cũng nhòm ngó chức vị giáo chủ, tranh đoạt tàn sát lẫn nhau, nên giữa đường ma giáo trở nên suy yếu. Lúc này lại là lúc sáu chính đại môn phái hưng vượng, âu cũng là cái số của yêu tà phải bị tiêu diệt. Nếu như ma giáo không có tranh chấp bên trong, muốn trừ đám yêu nghiệt này không phải là dễ.

Trương Vô Kỵ từ nhỏ đã nghe đến ma giáo, cũng biết mẹ chàng có liên quan xa gần đến ma giáo, nên mỗi khi hỏi gặng thêm, cha mẹ đều không vui, hỏi nghĩa phụ thì ông ta lặng thinh xuất thần, rồi bỗng dưng nổi giận, thành ra ma giáo thực sự là gì, thủy chung vẫn không biết rõ. Về sau chàng lại thấy thái sư phụ Trương Tam Phong đối với ma giáo ghét bỏ cùng cực, mỗi khi nhắc đến luôn luôn căn dặn, không bao giờ được kết giao với giáo đồ của họ. Thế nhưng khi Trương Vô Kỵ gặp những người như Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô, Thường Ngộ Xuân, Từ Đạt, Chu Nguyên Chương đều là người của ma giáo, nhưng đều khẳng khái trượng nghĩa, chưa hẳn đã chỉ là ác nhân, có điều hành sự ngụy bí, người ngoài khó mà đo lường được. Tới lúc này khi nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tới ma giáo, nên chàng cố hết sức tập trung để nghe cho kỹ.

Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Các đời giáo chủ ma giáo đều lấy "Thánh Hỏa Lệnh" làm tín vật truyền từ đời nọ sang đời kia, thế nhưng đến tay đời giáo chủ thứ ba mươi mốt, trời đoạt hồn phách làm sao, không hiểu thế nào đánh mất thánh hỏa lệnh, nên hai đời ba mươi hai và ba mươi ba có quyền mà không có lệnh, hai chức giáo chủ đó cũng hơi miễn cưỡng. Dương Đính Thiên chết bất ngờ, chẳng biết do trúng độc hay do người nào ám toán, không kịp chỉ định người kế thừa. Trong ma giáo những đại ma đầu có bản sự không phải là ít, những người đủ tư cách để làm giáo chủ ít ra cũng năm, sáu người, ta không phục người, người chẳng phục ta, nội bộ hóa thành đại loạn. Cho đến lúc này, họ cũng chưa suy định được giáo chủ. Kẻ mà chúng ta gặp ngày hôm nay, cũng trong những người muốn làm giáo chủ. Y là một trong bốn hộ giáo pháp vương, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu.

Đám đệ tử chưa ai nghe nói tới cái tên Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, nên đều lặng yên không nói gì.

Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Tên này từ trước chưa bước chân vào Trung Nguyên, hành sự của bọn ma giáo lại kín đáo, nên tuy võ công cao cường mà không mấy ai biết đến tên tuổi. Thế nhưng Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hai tên đó hẳn các ngươi đã nghe qua rồi?

Trương Vô Kỵ thấy rung động trong lòng, Châu Nhi cũng "A" lên một tiếng nhỏ. Ân Thiên Chính và Tạ Tốn danh tiếng vang dội, trong võ lâm không ai không biết. Tĩnh Huyền hỏi:

- Sư phụ, hai người đó cũng ở trong ma giáo ư?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Hừ, đâu phải chỉ "cũng ở trong ma giáo" mà thôi? "Ma Giáo Tứ Vương, Tử Bạch Kim Thanh". Tử Sam Long Vương, Bạch Mi Ưng Vương, Kim Mao Sư Vương, Thanh Dực Bức Vương, đó là tứ vương trong ma giáo. Thanh Dực đứng hàng cuối cùng, thân thủ như thế nào, hôm nay tất cả đều trông thấy rồi. Như thế Tử Sam, Bạch Mi, Kim Mao chỉ tưởng tượng cũng đủ biết ra sao. Kim Mao Sư Vương táng tâm phát điên, hai mươi năm trước hành động rồ dại, đột nhiên giết người vô tội, sau không biết đi đâu mất, thành một đại bí mật trong võ lâm. Ân Thiên Chính không có khả năng lên được chức giáo chủ ma giáo, bực tức bỏ ra sáng lập Thiên Ưng giáo, tự mình làm giáo chủ một phe cho hả dạ. Ta vẫn tưởng Thiên Ưng giáo đã quay lưng với ma giáo rồi, đối với Quang Minh Đính thế thành nước lửa, nào ngờ khi Quang Minh Đính gặp nguy nan, lại chạy đến cầu cứu Thiên Ưng giáo.

Trương Vô Kỵ trong lòng cực kỳ hỗn loạn, chàng vẫn biết nghĩa phụ và ông ngoại hành sự quái lạ, đều không được nhân sĩ chính phái chấp thuận, nhưng không ngờ rằng cả hai đều là Hộ Giáo Pháp Vương của ma giáo. Chàng mải nghĩ ngợi vẩn vơ nên không nghe đám đệ tử phái Nga Mi bàn tán những gì.

Một lúc sau, lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Bọn ta sáu đại môn phái phen này tiêu diệt Quang Minh Đính, nhất định phải thắng, dù bọn yêu tà đồng tâm hiệp lực thì có há gì sợ chúng đâu? Có điều hai bên giao tranh tổn thương phải nhiều, các ngươi trước hết phải mang cái tâm quyết tử, không được ngại ngùng chùn bước, ra chiều úy kỵ, lúc lâm địch làm mất uy phong của phái Nga Mi.

Các đệ tử đều đứng dậy, cung thân vâng lệnh. Diệt Tuyệt sư thái lại nói:

- Võ công mạnh yếu, còn ở tư chất cơ duyên, không thể nào miễn cưỡng được. Chẳng hạn như Tĩnh Hư một chiêu chưa đánh, đã trúng ám toán rồi, chết trong tay con ác ma hút máu kia, nhưng nào ai dám sỉ tiếu cho được? Chúng ta lâu nay học võ cốt để làm gì? Chẳng phải là để chống kẻ mạnh, giúp kẻ yếu, truy diệt yêu tà hay sao? Hôm nay Tĩnh Hư là người đầu tiên chịu chết, biết đâu người thứ hai chả đến lượt sư phụ các ngươi. Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi, Côn Lôn, Không Động, Hoa Sơn sáu môn phái phen này vi tiễu ma giáo, cát hung họa phúc, phái Nga Mi của chúng ta vốn đã bỏ qua một bên ...

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Phái Võ Đương ta quả nhiên có trong đó". Chàng lờ mờ hình dung được chuyến tây du này, hẳn sẽ gặp nhiều chuyện thê thảm mắt không muốn thấy, tai không muốn nghe, đã định dẫn Châu Nhi quay mình bỏ trốn, để không bao giờ gặp phải cái cảnh đấu tranh hung sát trên chốn giang hồ.

Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Tục ngữ có câu rằng:

Thiên quan tòng môn xuất,

Kỳ gia hảo hưng vượng.

Tử tồn phụ tiên tử,

Tôn tại tổ nãi táng.

(Nghìn quan tài qua cửa,

Nhà đó hẳn có thời.

Con còn cha mất trước,

Cháu sống ông đi rồi)

Đời có ai không chết đâu? Chỉ cốt sao để lại con cháu huyết mạch, nhà đó dù có chết trăm người, nghìn người, vẫn là hưng vượng. Nếu như các ngươi chết cả rồi, chỉ một mình lão ni sống cô đơn mới thật là đáng sợ.

Bà ta ngừng lại một lát, tiếp tục:

- Ha ha, nếu có như thế thật thì cũng có gì đáng hối tiếc đâu? Một trăm năm trước làm gì đã có phái Nga Mi? Chỉ cần tất cả chúng ta oanh oanh liệt liệt sống mái một phen, phái Nga Mi dù chỉ một lần rồi bị tiêu diệt, thì cũng đã sao?

Quần đệ tử ai nấy nhiệt huyết bừng bừng, rút binh khí ra lớn tiếng nói:

- Đệ tử thề quyết tử chiến, không sống chung với bọn yêu ma tà đạo.

Diệt Tuyệt sư thái nở một nụ cười buồn, nói:

- Tốt lắm, các con ngồi xuống đi.

Trương Vô Kỵ thấy đại đa số phái Nga Mi là đàn bà con gái yếu đuối, nhưng phen này khẳng khái tỏ lộ anh phong quyết tử, không kém giới tu mi chút nào, nghĩ thầm phái Nga Mi được liệt vào trong lục đại môn phái, không phải chuyện ngẫu nhiên, võ công cao cường đã đành, mà xem tình hình trước mắt, bọn họ có khí khái chẳng khác gì Kinh Kha đi hành thích vua Tần:

Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn,

Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.

(Gió hiu hắt chừ, sông Dịch lạnh buốt,

Tráng sĩ một đi chừ, quyết không quay bước)

Những câu nói này vốn đã nhắc tới khi sắp bước chân ra đi, nhưng lúc đó ai nấy đều nghĩ ma giáo đang có nội loạn, chỉ giơ tay là diệt được, đâu ngờ trong khi phân băng ly chiết như thế, quần ma lại liên thủ để chống ngoại địch. Hôm nay Thanh Dực Bức Vương vừa ra tay, cục diện xem ra khác hẳn khi trước.

Quả nhiên Diệt Tuyệt sư thái lại nói:

- Thanh Dực Bức Vương đã xuất hiện, Bạch Mi Ưng Vương và Kim Mao Sư Vương chắc cũng đến rồi. Tử Sam Long Vương, Ngũ Tản Nhân cùng năm đại chưởng kỳ sứ ắt cũng tới cả. Chúng ta vốn đã tính đem hết lực lượng để tiêu diệt Quang Minh tả sứ Dương Tiêu, sau đó mới quét sạch dư nghiệt yêu ma khác, nào ngờ Thần Cơ tiên sinh Tiên Vu chưởng môn của phái Hoa Sơn kỳ này liệu sự lại không đúng, ha ha, tất cả sai bét rồi.

Tĩnh Huyền hỏi lại:

- Thế Tử Sam Long Vương kia là ma đầu độc ác cỡ nào?

Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu:

- Tiếng tăm độc ác của Tử Sam Long Vương không mấy nổi, ta cũng chỉ nghe qua tên mà thôi. Nghe nói người này tranh ngôi giáo chủ không xong, nên đã trốn lánh nơi hải ngoại, không lai vãng gì với ma giáo nữa. Phen này nếu như y đứng ngoài không lý tới thì thật hay biết bao nhiêu. Ma Giáo tứ vương, Tử Bạch Kim Thanh, người đó đứng đầu trong bốn hộ pháp, không nói ra cũng đủ biết lợi hại là chừng nào. Quang Minh sứ giả trong ma giáo, ngoài Dương Tiêu ra còn một người nữa. Ma giáo đời đời tương truyền, Quang Minh sứ giả phải có một tả một hữu, địa vị còn cao hơn cả tứ đại hộ giáo pháp vương. Dương Tiêu là Quang Minh tả sứ, nhưng tên tuổi của tên Quang Minh hữu sứ kia, trong võ lâm không ai biết cả. Không Văn đại sư của phái Thiếu Lâm, Tống Viễn Kiều Tống đại hiệp của phái Võ Đương đều là những người bác văn quảng kiến, nhưng hai vị đó cũng không biết. Chúng ta cùng Dương Tiêu chính diện đối địch, minh thương giao chiến, thắng bại là do võ công ai mạnh ai yếu, cái đó không sao, thế nhưng nếu như Quang Minh hữu sứ đứng ngầm bên trong ám toán, cái đó mới là đáng ngại.

Các đệ tử ai nấy sợ thầm, không ai bảo ai đều quay về sau lưng nhìn thử, tưởng như gã Quang Minh hữu sứ hay Tử Sam Long Vương đã đến đâu đây, đánh lén một phen không chừng. Chỉ thấy ánh trăng lạnh lùng chiếu trên những khuôn mặt người trắng bệch.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói tiếp:

- Dương Tiêu làm hại sư bá các ngươi là Cô Hồng Tử, lại làm chết Kỷ Hiểu Phù, Vi Nhất Tiếu giết chết Tĩnh Hư, ma giáo và phái Nga Mi thù này không đội trời chung. Bản phái từ khi sáng phái tổ sư là Quách Tương đến giờ, địa vị chưởng môn, đều do đàn bà đảm nhiệm. Không nói gì đàn ông không được truyền ngôi, mà ngay cả đến đàn bà đã có chồng, cũng không thể làm chưởng môn được. Thế nhưng bản phái hôm nay lâm vào thế mất còn, đâu có thể nào khư khư giữ được qui củ? Trong chiến dịch này, chỉ cần ai lập được đại công, không kể nam hay nữ đều được kế truyền y bát của ta.

Đám đệ tử ai nấy yên lặng cúi đầu, biết rằng sư phụ trịnh trọng an bài hậu sự, bàn thảo chuyện truyền nhân của môn hộ, dường như biết sẽ không sống mà về được trung thổ, ai nấy đều cảm thấy có ba phần chẳng lành, cảm thấy tình cảnh thật thê lương.

Diệt Tuyệt sư thái bỗng cao giọng cười, tiếng ha ha ha ha vang vọng trong sa mạc truyền đi thật xa. Quần đệ tử ai nấy ngạc nhiên, lòng kinh hãi thầm. Diệt Tuyệt sư thái tay áo phất một cái, quát lớn:

- Tất cả đi ngủ.

Tĩnh Huyền cũng như mọi ngày, chia phiên canh gác. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Không cần canh gác nữa.

Tĩnh Huyền ngạc nhiên, nhưng lập tức hiểu ngay, nếu những loại cao thủ hạng nhất như Thanh Dực Bức Vương ban đêm đến tấn công, các đệ tử làm sao phát giác được? Canh gác cũng chỉ bằng thừa. Đêm hôm đó phái Nga Mi giới bị trong ngoài thật nghiêm nhặt nhưng không có chuyện gì xảy ra.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Chữ Châu (zhu), còn đọc là Thù là con nhện (tri thù). Việt Nam đọc thành hai âm khác nhau, nhưng người Tàu chỉ có một âm zhu (Châu hay Chu). Chúng ta thường quen đọc là tri thù nhưng theo phiên thiết trong Từ Nguyên thì phải đọc là Chu (Châu) mới đúng. Người Trung Hoa thường có nhiều âm giống nhau nhưng nghĩa khác nhau (đồng âm dị nghĩa) và nếu ai xưng tên thường phải giải thích hay phân tích mặt chữ để người nghe biết rõ tên mình là gì. Ở đây chúng tôi dịch là Châu Nhi cho sát với ý nghĩa trong câu chuyện vì chữ châu có hai nghĩa khác hẳn nhau, một là ngọc trai, một là con nhện. Kim Dung cố tình đặt một cái tên đồng âm dị nghĩa để chỉ một mình Trương Vô Kỵ biết tên cô gái có nghĩa là con nhện, còn người khác nghe thì lại tưởng là trân châu.

[2]đứa con quí như viên ngọc trai.

[3] Nhện độc

[4] dùng nghìn con nhện để luyện chất độc

[5] bao vây để tiêu diệt

[6] quần ma tụ lại ra tay một lần là diệt hết

[7] kiến quái bất quái, kỳ quái tự bại (Trích từ truyện Ngụy Nguyên Trung trong Nghệ Văn Loại, Kiến Dị Lục - xem Từ Hải)

[8] vua của loài dơi cánh xanh

[9] Năm nhân vật nhàn rỗi, độc lập không thuộïc vào nhóm nào

Hồi 18

Ỷ THIÊN TRƯỜNG KIẾM PHI HÀN MANG-

Dù người hung ác tới đâu

Miễn sau chứng khí ta sâu đủ rồi.

Hôm sau đoàn người tiếp tục đi về hướng tây, đến hơn một trăm dặm thì đã chính ngọ, mặt trời chói chang chiếu ngay trên đỉnh đầu, tuy đang vào mùa đông mà cũng thấy nóng nực. Đang khi đi, phía tây bắc bỗng vọng lại đâu đây tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng, mọi người không đợi Tĩnh Huyền ra lệnh, đều rảo bước nhắm phía đó chạy tới.

Chẳng bao lâu trước mắt đã thấy mấy bóng người múa may đang giao đấu, đến gần hơn thì thấy ba đạo nhân mặc áo bào trắng cầm binh khí, vây đánh một hán tử trung niên. Ba đạo nhân đó bên tay áo phía trái đều có thêu một đốm lửa đang cháy màu đỏ, hiển nhiên là người trong ma giáo. Người trung niên kia tay múa trường kiếm, kiếm quang lấp lánh, đấu với ba đạo nhân đến hồi kịch liệt, lấy một đánh ba nhưng không rơi vào thế hạ phong chút nào.

Vết thương trên đùi Trương Vô Kỵ đã lành rồi, nhưng chàng vẫn giả vờ chưa đi được, vẫn ngồi trên cái xe trượt tuyết cốt để người trong phái Nga Mi không lưu tâm đề phòng, tiện việc cùng Châu Nhi thoát thân bỏ chạy. Lúc này chàng bị một gã nam đệ tử của phái Nga Mi chắn ngay trước mặt nên phải nghiêng người thò đầu ra nhìn mới thấy được bốn người kia giao tranh. Trường kiếm của hán tử trung niên càng múa càng nhanh, đột nhiên xoay người quát lên một tiếng nghe soẹt một cái đã đâm vào ngực một tên đạo nhân của ma giáo.

Người của phái Nga Mi lớn tiếng hoan hô, còn Trương Vô Kỵ không khỏi kinh ngạc kêu lên một tiếng nho nhỏ, chiêu Thuận Thủy Thôi Chu[1] đó là một tuyệt chiêu của phái Võ Đương, còn người trung niên ra chiêu đó chính là lục hiệp Ân Lê Đình.

Quần đệ tử của phái Nga Mi đứng xa xa xem giao đấu nhưng không tiến lên tương trợ. Hai tên đạo nhân ma giáo còn lại thấy bên kia đã giết mất một người, lại có thêm nhiều người tới trợ giúp, trong bụng khiếp sợ, đột nhiên hú lên một tiếng, hai người chia ra hai hướng bắc nam bỏ chạy.

Ân Lê Đình liền phóng mình đuổi theo đạo nhân chạy về hướng nam. Chân ông ta nhanh hơn kẻ địch nhiều, chỉ bảy tám bước đã đuổi tới sau lưng người nọ, đạo nhân đó liền quay lại, múa song đao như điên cuồng áng chừng muốn cùng Ân Lê Đình lưỡng bại câu thương.

Phái Nga Mi ai nấy đều thấy một mình Ân Lê Đình không thể nào đuổi được cả hai kẻ địch, đạo nhân chạy về hướng bắc khinh công lại thật cao cường, mỗi lúc một nhanh, cứ tình hình đó, Ân Lê Đình giết được gã ở phương nam đang quấn quít bám lấy rồi, không cách nào có thể quay lại đuổi kịp để giết đạo nhân kia. Đệ tử phái Nga Mi và ma giáo thù sâu như bể, ai nấy đều nhìn Tĩnh Huyền mong bà ta ra lệnh chặn kẻ địch lại. Các nữ đệ tử đa số đều giao hảo với Kỷ Hiểu Phù, ai nấy đều cho rằng nếu chẳng vì ma đầu của ma giáo tác ác, vị lục hiệp của phái Võ Đương này đã thành rể của bản phái rồi, nên ai cũng mong được giúp ông ta một tay.

Tĩnh Huyền trong lòng hơi trù trừ, nghĩ đến Võ Đương lục hiệp trên giang hồ danh vọng lừng lẫy là chừng nào, nếu ông ta không lên tiếng kêu gọi, người ngoài lại nhúng tay vào, là điều quả thật bất kính. Thành thử bà ta trầm ngâm không ra lệnh cho đồng môn ra chặn lại, nghĩ thầm thà để cho yêu nhân chạy thoát, chứ không dám đắc tội với vị Ân lục hiệp này.

Ngay lúc đó, bỗng có một làn ánh sáng xanh lấp lánh, thanh trường kiếm trong tay Ân Lê Đình đã ném ra, bay vọt về hướng bắc, nhanh như gió, xẹt như điện bắn thẳng vào lưng người kia. Đạo nhân đó vừa mới cảnh giác, đang toan né tránh, trường kiếm đã xuyên thẳng qua người, còn đà bay thẳng về phía trước. Đạo nhân đó chân vẫn chưa ngừng bước, còn chạy về trước đến hơn hai trượng, mới ngã sấp mặt xuống chết. Thanh kiếm kia bay ra ngoài cách đạo nhân đến ba trượng mới rơi xuống, ánh sáng xanh lập lòe, cắm thẳng vào trong cát, tuy chỉ là một thanh trường kiếm vô tri, nhưng trông cũng thần uy lẫm lẫm.

Mọi người thấy màn giao đấu kinh tâm động phách đó, không khỏi hoa mắt mất cả hồn vía, không ai nói lên được câu nào. Đến khi quay lại nhìn Ân Lê Đình, chỉ thấy đạo nhân ma giáo thân hình loạng choạng, lảo đảo như người say, ném song đao đi, hai tay khua múa trên trời, còn Ân Lê Đình không thèm để ý tới nữa đi về phía người của phái Nga Mi.

Ông ta đi được vài bước thì đạo nhân kia hự lên một tiếng, ngã lăn ra, không còn động đậy, còn Ân Lê Đình dùng thủ pháp gì đánh chết y thì không một ai thấy cả.

Các đệ tử phái Nga Mi bấy giờ mới lớn tiếng reo hò, đến Diệt Tuyệt sư thái cũng gật đầu, rồi lại thở dài một tiếng. Tiếng thở dài đó có thể nói rằng phái Võ Đương có nhân tài đệ tử như thế, phái Nga Mi lại không có được truyền nhân sánh kịp. Thế nhưng cũng có thể là Kỷ Hiểu Phù bạc phận, không lấy được người như thế này lại bị hại trong tay dâm đồ của ma giáo. Trong lòng Diệt Tuyệt sư thái, Kỷ Hiểu Phù đương nhiên đã bị Dương Tiêu làm hại, chứ không phải chính tay mình giết chết.

Ba tiếng "lục sư thúc" đã lên đến cửa miệng của Trương Vô Kỵ nhưng chàng cố gắng dằn lại. Trong mấy người sư bá sư thúc, Ân Lê Đình và phụ thân chàng thân nhau nhất, ông ta cũng yêu thương chàng hơn cả. Chàng nhìn vị sư thúc xa cách chín năm qua, thấy mặt ông đầy vẻ phong trần, hai bên tóc mai đã lấm tấm hoa râm, ắt hẳn cái chết của Kỷ Hiểu Phù khiến ông bị xúc động mạnh. Trương Vô Kỵ vừa thấy lại người thân, đã toan chạy lên nhận họ, nhưng sau nghĩ đến chung quanh tai mắt thật nhiều, không tiện để người ngoài biết để khỏi gây ra hậu hoạn vô cùng. Chu Chỉ Nhược tuy đã biết chân tướng mình nhưng chắc không nói cho ai hay.

Ân Lê Đình quay về phía Diệt Tuyệt sư thái khom lưng hành lễ, nói:

- Đại sư huynh của tệ phái tất lãnh các sư đệ cùng đệ tử đời thứ ba, cả thảy ba mươi hai người đã đến địa giới Nhất Tuyến Hiệp. Vãn bối phụng mệnh đại sư huynh đi trước nghênh đón quí phái.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Hay lắm, thế ra phái Võ Đương đã đến trước rồi. Quí phái đã giao chiến cùng yêu nhân trận nào chưa?

Ân Lê Đình đáp:

- Chúng tôi đã đụng độ ba lần với hai kỳ Mộc, Hỏa của ma giáo, giết được vài tên yêu nhân, thất sư đệ Mạc Thanh Cốc cũng bị thương nhẹ.

Diệt Tuyệt sư thái gật gù, bà ta biết tuy Ân Lê Đình chỉ miêu tả sơ sài như thế, nhưng thực ra ba trận ác đấu đó ắt hẳn khốc liệt dị thường, với tài năng Võ Đương ngũ hiệp, mà cũng không giết nổi chưởng kỳ sứ của ma giáo, thất hiệp Mạc Thanh Cốc lại bị thương. Diệt Tuyệt sư thái lại hỏi:

- Quí phái đã tìm hiểu thực lực trên Quang Minh Đính ra sao chưa?

Ân Lê Đình đáp:

- Nghe nói Thiên Ưng giáo là chi phái của ma giáo đã đem đại lực lượng lên tăng viện cho Quang Minh Đính, có người còn bảo là Tử Sam Long Vương và Thanh Dực Bức Vương cũng đã tới nơi.

Diệt Tuyệt sư thái ngạc nhiên hỏi:

- Tử Sam Long Vương cũng đã đến rồi ư?

Hai người một mặt nói chuyện nhưng vẫn đi song song, quần đệ tử lẽo đẽo đi theo tận xa xa, không dám đến gần nghe thảo luận. Hai người nói chuyện một hồi, Ân Lê Đình giơ tay từ biệt để còn liên lạc với phái Hoa Sơn. Tĩnh Huyền nói:

- Ân lục hiệp chạy đôn chạy đáo chắc cũng đã đói rồi, xin mời dùng chút điểm tâm rồi hãy đi.

Ân Lê Đình không khách sáo nói:

- Nếu thế thì làm phiền quí vị vậy.

Chúng đệ tử phái Nga Mi lập tức đem lương khô ra, có người đắp đất làm lò, đem chảo ra đun mì. Bọn họ ăn uống vốn thực là giản phác, thế nhưng tiếp đãi Ân Lê Đình thì thật ân cần, cũng là nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù.

Ân Lê Đình hiểu rõ tâm ý của bọn họ, khóe mắt rưng rưng, nghẹn ngào nói:

- Đa tạ các vị sư tỉ sư muội.

Châu Nhi vốn ở ngoài quan sát không nói năng gì, lúc này đột nhiên cất tiếng:

- Ân lục hiệp, tôi muốn hỏi thăm một người liệu có được không?

Ân Lê Đình tay đang cầm một bát mì nóng, quay đầu lại nói:

- Vị tiểu sư muội này tôn tính đại danh là gì? Không biết muốn tra hỏi chuyện chi? Nếu tôi biết được ắt xin phụng cáo.

Thần thái hết sức khiêm hòa. Châu Nhi nói:

- Tôi không phải người trong phái Nga Mi. Tôi bị họ bắt đi đấy.

Ân Lê Đình lúc đầu tưởng cô ta là một tiểu đệ tử của phái Nga Mi, nghe nói không khỏi ngạc nhiên, nhưng nghĩ lại thấy cô gái này thật thẳng thắn liền hỏi:

- Cô là người trong ma giáo ư?

Châu Nhi đáp:

- Không phải đâu, tôi là kẻ đối đầu của ma giáo.

Ân Lê Đình không tiện hỏi kỹ lai lịch cô gái, vì muốn tôn trọng chủ nhân nên đưa mắt nhìn Tĩnh Huyền, xin bà ta cho biết ý kiến. Tĩnh Huyền nói:

- Ngươi định hỏi Ân lục hiệp chuyện gì?

Châu Nhi đáp:

- Tôi định hỏi ông, lệnh sư huynh Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp có đến Nhất Tuyến Hiệp không?

Câu nói vừa xong, cả Ân Lê Đình lẫn Trương Vô Kỵ đều giật mình kinh hãi. Ân Lê Đình nói:

- Cô hỏi thăm ngũ cư ca của tôi có chuyện gì thế?

Châu Nhi hai má đỏ bừng, nói nhỏ:

- Tôi muốn biết công tử của ông ta là Trương Vô Kỵ, có đến hay không?

Trương Vô Kỵ nghe nói lại càng kinh hãi, nghĩ thầm:

- Thì ra nàng đã biết rõ chân tướng ta từ đời nào, lúc này mới nói toạc ra.

Ân Lê Đình nói:

- Cô nói thật đấy chứ?

Châu Nhi nói:

- Tôi thành tâm hỏi thăm Ân lục hiệp, đâu dám dối gian gì?

Ân Lê Đình nói:

- Ngũ sư ca của tôi qua đời đã trên mười năm, cây mọc trên mộ đã xanh rì, không lẽ cô nương không biết hay sao?

Châu Nhi kinh hãi nhỏm dậy "A" lên một tiếng, nói:

- Hóa ra Trương ngũ hiệp đã chết rồi đấy, hóa ra ... anh ta ... anh ta đã mồ côi từ bao giờ rồi.

Ân Lê Đình hỏi:

- Thế cô nương có quen biết cháu Vô Kỵ chúng tôi ư?

Châu Nhi đáp:

- Năm năm trước, tôi từng ở tại nhà Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu gặp anh ấy một lần, không biết bây giờ anh ta ở đâu.

Ân Lê Đình đáp:

- Tôi phụng mệnh gia sư đã từng đến Hồ Điệp Cốc thăm hỏi nhưng vợ chồng Hồ Thanh Ngưu đã bị người ta giết rồi, Vô Kỵ chẳng biết đi đâu. Về sau cố gắng đi tìm, nhưng không có chút âm hao nào cả. Ôi, nào ngờ ... nào ngờ ...

Ông nói đến đây, thần sắc thê thảm, không nói tiếp được nữa. Châu Nhi vội hỏi:

- Sao thế? Lục hiệp nghe tin tức gì vậy?

Ân Lê Đình chăm chăm nhìn nàng, hỏi gặng:

- Cô nương vì sao lại quan thiết như thế? Cháu Vô Kỵ của tôi với cô có ơn hay có oán?

Châu Nhi mắt nhìn về cõi xa xăm, buồn bã nói:

- Tôi muốn anh ấy đi với tôi đến đảo Linh Xà ...

Ân Lê Đình ngắt lời:

- Đảo Linh Xà ư? Kim Hoa bà bà và Ngân Diệp tiên sinh là gì của cô?

Châu Nhi không trả lời, chỉ lẩm bẩm nói một mình:

- ... Anh ta đã không chịu, lại còn đánh tôi, mắng tôi, cắn tay tôi máu chảy dầm dề ...

Cô nàng vừa nói vừa lấy tay trái xoa xoa lưng bàn tay phải.

- Có điều ... có điều ... tôi vẫn không quên được anh ấy. Tôi đâu có ý muốn hại anh ta, tôi muốn anh ấy lên đảo Linh Xà, bà bà sẽ dạy võ công, tìm cách trị cho anh ta khỏi âm độc của Huyền Minh thần chưởng. Nào ngờ anh ta hung dữ quá, đâu biết tôi có lòng tốt, lại tưởng có bụng dạ hại anh ta.

Những điều thắc mắc trong lòng Trương Vô Kỵ bây giờ mới minh bạch: "Thì ra Châu Nhi chính là cô bé A Ly nắm tay ta nơi Hồ Điệp Cốc, kẻ tình lang khắc khoải không quên, chẳng phải ai xa lạ mà chính là ta". Chàng nghiêng đầu nhìn lại, thấy khuôn mặt nàng sưng vù, đâu còn chút vẻ xinh đẹp nào như lần mới gặp? Thế nhưng đôi mắt trong vắt như nước mùa thu, nhìn sâu thăm thẳm, trông vẫn chẳng khác năm xưa chút nào.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

- Sư phụ của nó là Kim Hoa bà bà nghe nói cũng có dây mơ rễ má gì với ma giáo. Mụ ta cũng chẳng phải chính nhân nhưng lúc này bọn ta chưa muốn gây thù chuốc oán nên chỉ tạm giữ nó thôi.

Ân Lê Đình nói:

- Ồ, thì ra như thế. Cô nương, cô đối với cháu Vô Kỵ tôi thật là chí tình, chỉ có điều cháu tôi phúc mỏng, mấy hôm trước tôi gặp Võ trang chủ Võ Liệt của Chu Võ Liên Hoàn Trang mới hay là hơn năm năm trước, Vô Kỵ đã xẩy chân rơi xuống vực sâu, thịt xương cũng chẳng còn. Than ôi, tôi và cha nó tình tựa tay chân, nào ngờ ông trời không thương người có lòng, cả hòn máu rơi kia ...

Ông nói chưa hết câu, nghe bịch một cái, Châu Nhi đã ngã lăn ra bất tỉnh. Chu Chỉ Nhược vội vàng tiến lên đỡ cô ta dậy, xoa bóp trên ngực mấy cái, Châu Nhi mới từ từ tỉnh lại. Trương Vô Kỵ thật là khó xử, trước mắt thấy Ân Lê Đình và Châu Nhi hai người đau lòng như thế, mà mình lại dửng dưng đứng bên ngoài không lý tới, chàng quay đầu lại thấy Chu Chỉ Nhược đang nhìn mình đăm đăm, ánh mắt đầy vẻ ngờ vực, dường như muốn hỏi: "Vì cớ gì anh không đứng ra nhận là mình?" Trương Vô Kỵ biết rằng mấy năm qua mình thân thể tướng mạo biến đổi thật nhiều, nếu chẳng tự mình nói ra kỷ niệm trên sông Hán Thủy, Chu Chỉ Nhược cũng không thể nào nhận ra nổi.

Châu Nhi nghiến răng hậm hực hỏi:

- Ân lục hiệp, Trương Vô Kỵ bị ai giết chết thế?

Ân Lê Đình nói:

- Chẳng phải ai giết y cả. Cứ theo lời của Võ Liệt của Chu Võ Liên Hoàn Trang thì chính mắt y thấy Vô Kỵ bị trượt chân ngã xuống vực, luôn cả người anh em kết nghĩa của Võ Liệt là Kinh Thiên Nhất Bút Chu Trường Linh cũng rơi xuống chết luôn.

Châu Nhi thở dài một tiếng, lặng lẽ ngồi xuống. Ân Lê Đình nói:

- Tôn tính đại danh của cô nương là gì?

Châu Nhi lắc đầu không trả lời, nét mặt ngẩn ngơ lệ rơi lã chã, đột nhiên nằm phục xuống cát khóc òa lên. Ân Lê Đình dỗ dành:

- Cô nương cũng đừng quá đau lòng. Cháu Vô Kỵ nếu như không rơi xuống tuyết cốc, lúc này âm độc cũng phát tác rồi, e cũng không sống được. Ôi, nó rơi xuống tan xương nát thịt chưa hẳn đã không hay, chẳng hơn phải chịu cái âm độc đau đớn vô cùng vô tận kia mà chết hay sao.

Diệt Tuyệt sư thái bỗng nói:

- Tên nghiệt chủng Trương Vô Kỵ kia, chết sớm cũng là may, nếu không cũng trở thành cái mầm họa làm hại nhân gian thôi.

Châu Nhi nổi giận, lớn tiếng chửi:

- Lão tặc ni, bà nói láo nói lếu gì thế?

Quần đệ tử phái Nga Mi thấy nàng dám lên tiếng nhục mạ sư tôn, lập tức bốn năm người rút phăng trường kiếm, chỉ ngay vào ngực vào lưng cô gái. Châu Nhi không sợ hãi chút nào, vẫn tiếp tục:

- Lão tặc ni, phụ thân của Trương Vô Kỵ là sư huynh của Ân lục hiệp, hiệp danh vang động thiên hạ, có gì là không phải?

Diệt Tuyệt sư thái cười khẩy không trả lời. Tĩnh Huyền nói:

- Ngươi nói đã hết chưa? Cha của Trương Vô Kỵ quả thật đệ tử danh môn chính phái, còn mẹ y thì sao? Ma giáo yêu nữ sinh con, không phải nghiệt chủng họa thai thì là gì?

Châu Nhi hỏi lại:

- Mẹ của Trương Vô Kỵ là ai thế? Sao lại là ma giáo yêu nữ?

Các đệ tử phái Nga Mi cười rộ lên, chỉ một mình Chu Chỉ Nhược cúi đầu nhìn xuống đất. Thần sắc Ân Lê Đình hơi thẹn thùng còn Trương Vô Kỵ mặt đỏ tía tai, nước mắt doanh tròng, nếu không phải vì nhất quyết che dấu thân phận mình, chàng đã đứng dậy biện bạch cho mẹ vài câu.

Tĩnh Huyền là người trung hậu, nói với Châu Nhi:

- Vợ của Trương ngũ hiệp là con gái của giáo chủ Thiên Ưng giáo Ân Thiên Chính, tên là Ân Tố Tố ...

Châu Nhi "A" lên một tiếng, thần sắc đại biến. Tĩnh Huyền nói tiếp:

- Trương ngũ hiệp vì lấy phải con yêu nữ này, đến nỗi thân bại danh liệt, phải tự vẫn trên núi Võ Đương. Việc đó cả thiên hạ ai ai cũng biết, không lẽ cô nương không nghe tới hay sao?

Châu Nhi nói:

- Tôi ... tôi ở trên đảo Linh Xà, những việc của võ lâm Trung Nguyên, không nghe thấy gì cả.

Tĩnh Huyền nói:

- Thì ra thế. Cô đắc tội với sư phụ tôi, mau tạ tội đi.

Châu Nhi lại hỏi tiếp:

- Thế Ân Tố Tố thì sao? Bà ta bây giờ ở đâu?

Tĩnh Huyền nói:

- Bà ta cũng tự vẫn cùng một lượt với Trương ngũ hiệp rồi.

Châu Nhi lại giật bắn lên, nói:

- Bà ấy ... bà ấy cũng chết rồi ư?

Tĩnh Huyền lạ lùng hỏi:

- Cô cũng biết Ân Tố Tố ư?

Ngay lúc đó, từ phía đông bắc một ngọn lửa xanh bay vọt lên tận mây. Ân Lê Đình nói:

- Ối chà, cháu Thanh Thư của tôi bị vây đánh rồi.

Ông ta quay mình khom lưng hành lễ với Diệt Tuyệt sư thái, ôm quyền chào tất cả mọi người, rồi chạy về hướng ngọn lửa bốc lên.

Tĩnh Huyền phất tay một cái, các đệ tử phái Nga Mi liền chạy theo. Mọi người chạy đến gần, thấy ba người đang vây đánh một người. Ba người đó đội mũ vải, mặc áo ngắn theo lối đầy tớ, tay cầm đơn đao. Mọi người chỉ coi vài chiêu đã thấy kinh hãi, ba người kia tuy ăn mặc như gia nhân, nhưng ra tay độc địa không kém gì những cao thủ hạng nhất, tài nghệ cao siêu hơn ba đạo nhân Ân Lê Đình mới giết nhiều. Ba người chạy như đèn cù vây quanh một thanh niên thư sinh, xông ra xông vào tấn công, thanh niên nọ tuy kém thế hẳn nhưng thanh trường kiếm trong tay bảo vệ môn hộ kín đáo lạ thường.

Đứng cách bốn người một quãng có sáu người mặc áo bào màu vàng, trên áo ai cũng có thêu một ngọn lửa màu đỏ, rõ ràng là người trong ma giáo. Sáu người đó đứng xa xa, không vào tham chiến, thấy Ân Lê Đình và người của phái Nga Mi chạy đến, một người lùn lùn mập mập trong sáu người liền nói:

- Anh em nhà họ Ân ơi, các ngươi xem ra không xong rồi, hãy cúp đuôi chạy đi thôi, để chúng ông giữ mặt sau cho.

Một người mặc áo đầy tớ tức giận nói:

- Hậu Thổ Kỳ chậm như con rùa, họ Nhan kia bọn mi chạy trước đi.

Tĩnh Huyền lạnh lùng nói:

- Chết đến nơi rồi còn cãi nhau.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Sư tỉ, những người này là ai thế?

Tĩnh Huyền nói:

- Ba người ăn mặc theo lối đầy tớ là nô bộc của Ân Thiên Chính, tên là Ân Vô Phúc, Ân Vô Lộc, Ân Vô Thọ.

Chu Chỉ Nhược kinh hãi kêu lên:

- Ba tên đầy tớ mà đã ... tài nghệ ghê gớm đến thế sao?

Tĩnh Huyền đáp:

- Họ vốn là những tên cướp thành danh trong hắc đạo, không phải bọn tầm thường đâu. Còn bọn mặc áo vàng kia là yêu nhân trong Hậu Thổ Kỳ của ma giáo. Tên mập mập lùn lùn kia không chừng là chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên. Sư phụ nói năm chưởng kỳ sứ của Ngũ Kỳ trong ma giáo tranh chấp địa vị với Thiên Ưng giáo, cho nên bất hòa ...

Lúc đó thanh niên thư sinh đã gặp phải nguy hiểm, nghe soẹt một tiếng, tay áo bên trái bị đơn đao của Ân Vô Thọ cắt mất một mảnh. Ân Lê Đình hú lên một tiếng thanh thoát, trường kiếm tung ra nhắm ngay vào Ân Vô Lộc. Ân Vô Lộc vung đao ra đỡ, đao kiếm chạm nhau. Lúc này nội lực của Ân Lê Đình rất là ghê gớm nghe choang một tiếng, đơn đao của Ân Vô Lộc liền cong lại, biến thành một cái móc. Ân Vô Lộc giật mình kinh hãi vội nhảy ra ngoài ba bước.

Đột nhiên Châu Nhi nhảy vọt lên, ngón trỏ tay phải phóng ra, trúng ngay sau ót Ân Vô Lộc, rồi nhảy vọt trở về chỗ cũ. Ân Vô Lộc võ công không phải tầm thường, nhưng mới bị Ân Lê Đình dùng nội lực hất ra, khí huyết đang trộn trạo, chân đứng chưa vững, nên Châu Nhi đâm một chỉ trúng ngay. Y đau đến cúi gập người lại, chỉ biết há mồm rên rỉ, toàn thân run lên bần bật. Ân Vô Phúc, Ân Vô Lộc kinh hãi, không còn dám tiếp tục đánh thanh niên kia, chạy đến bên cạnh Ân Vô Lộc đỡ y đậy, thấy y quằn quại không ngừng, hiển nhiên bị thương rất nặng. Hai người đưa mắt nhìn Châu Nhi, đột nhiên kêu lên:

- Thì ra là Tam tiểu thư.

Châu Nhi đáp:

- Hừ, còn nhận ra ta ư?

Mọi người ai nấy tin chắc hai người kia sẽ xông lên thí mạng với Châu Nhi, nào ngờ chỉ ôm Ân Vô Lộc lên, không nói một lời, chạy về hướng bắc. Biến cố đó xảy ra thật đột ngột, ai nấy trợn mắt há mồm, không hiểu chuyện gì.

Gã lùn mập mặc áo bào vàng kia tay trái vẫy một cái trong tay đã cầm một đại kỳ màu vàng, năm người kia cũng lấy cờ ra phất, tuy chỉ sáu người nhưng các lá cờ kêu lên phần phật, khí thế thật là uy võ, chầm chậm lui về hướng bắc.

Người của phái Nga Mi thấy kỳ trận cổ quái, đều đứng ngẩn người ra. Hai nam đệ tử liền rống lên một tiếng, phóng mình đuổi theo. Ân Lê Đình lắc một cái, đi sau mà tới trước, chuyển thân chặn ngay hai người kia lại, giang tay đẩy, hai người đó không chịu nổi phải lùi lại ba bước, mặt mày đỏ bừng. Tĩnh Huyền quát lên:

- Hai vị sư đệ trở lại ngay, Ân lục hiệp có hảo ý, bọn Hậu Thổ Kỳ này không đuổi theo được đâu.

Ân Lê Đình nói:

- Mấy hôm trước tôi và Mạc thất đệ đuổi theo Liệt Hỏa kỳ trận, một phen thua to, Mạc sư đệ đầu tóc, lông mày bị cháy xém một nửa.

Nói xong vén tay áo tay trái lên, chỉ cho mọi người xem những vết phỏng. Hai người nam đệ tử của phái Nga Mi không khỏi kinh sợ thầm.

Đôi mắt lạnh lẽo sắc như dao của Diệt Tuyệt sư thái nhìn vào mặt Châu Nhi mấy lần, lạnh lùng hỏi:

- Có phải Thiên Châu Vạn Độc Thủ đó chăng?

Châu Nhi đáp:

- Chưa luyện xong.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Nếu luyện xong rồi thì còn ghê gớm đến đâu? Sao ngươi lại đả thương gã đó?

Châu Nhi nói:

- Tiếc rằng không đâm chết được y.

Diệt Tuyệt sư thái hỏi:

- Sao thế?

Châu Nhi đáp:

- Chuyện riêng của tôi mắc mớ gì đến bà?

Diệt Tuyệt sư thái thân hình hơi nghiêng qua, đã cầm được thanh trường kiếm trong tay Tĩnh Huyền, nghe keng một tiếng, Châu Nhi đã nhảy vọt về sau, mặt trắng bệch. Thì ra Diệt Tuyệt sư thái trong nháy mắt đã dùng kiếm chém vào ngón tay trỏ bàn tay phải Châu Nhi, thủ pháp nhanh lạ thường, không một ai nhìn rõ cả. Nào ngờ Châu Nhi vì gãy cổ tay chưa khỏi hẳn, bàn tay không sức lực, lại thêm Thiên Châu Vạn Độc Thủ luyện chưa thành, kỳ này trước khi ra tay đã bao ngón tay bằng một cái bao thép, mà kiếm của Diệt Tuyệt sư thái dùng lại không phải Ỷ Thiên bảo kiếm, nên nhát kiếm đó chém không đứt ngón tay cô gái.

Diệt Tuyệt sư thái ném trả thanh kiếm cho Tĩnh Huyền, hừ một tiếng:

- Lần này ta tha cho, lần sau mà còn dùng loại tà ác công phu đó nữa thì sẽ biết tay.

Bà ta đánh tiểu bối một chiêu không trúng nhưng tự trọng thân phận, không ra tay lần thứ hai.

Ân Lê Đình thấy Châu Nhi luyện môn võ công âm độc đó, vốn là điều đại kỵ của con nhà võ, thế nhưng nàng lại đâm một chỉ vào Ân Vô Lộc là giúp đỡ phe mình, sau nữa lòng mang một mối tình sâu khắc khoải Trương Vô Kỵ, không khỏi cảm động, chẳng nỡ để Diệt Tuyệt sư thái giết cô nàng, liền lên tiếng khuyên bảo:

- Sư thúc, đứa trẻ này học sai lầm công phu, thôi mình từ từ sẽ nói cô ta tìm minh sư, ôi, hoặc giả ... hoặc giả ...

Ông nghĩ nếu như Diệt Tuyệt sư thái thu cô ta gia nhập phái Nga Mi thì thật hay nhưng chợt nghĩ cô bé này vừa mới chửi bà ta là "lão tặc ni", nên vội ngừng lại không dám nói ra, nắm tay thư sinh kia dẫn lại, nói:

- Thanh Thư, mau bái kiến sư thái cùng các vị sư bá sư thúc.

Thư sinh nọ tiến lên ba bước, quì xuống hướng về Diệt Tuyệt sư thái hành lễ, đến khi quay sang Tĩnh Huyền hành lễ mọi người đều vội nói không dám, ai cũng trả lễ lại. Trương Tam Phong tuổi đã hơn trăm, tính vai vế còn cao hơn Diệt Tuyệt sư thái không phải chỉ một hàng. Ân Lê Đình chỉ vì đã có hôn ước với Kỷ Hiểu Phù nên mới coi như kém Diệt Tuyệt sư thái một vai, chứ nếu tính Trương Tam Phong và tổ sư phái Nga Mi Quách Tương ngang hàng mà luận, thì Diệt Tuyệt sư thái phải gọi Ân Lê Đình là sư thúc. Tuy nhiên hai phái Võ Đương và Nga Mi khác biệt, không tính chuyện vai vế được, ai nấy chỉ so tuổi tác, tùy miệng mà gọi thôi. Thế nhưng thanh niên thư sinh kia gọi các đệ tử phái Nga Mi là sư bá sư thúc thì Tĩnh Huyền không thể nào dám nhận.

Mọi người thấy chàng thanh niên một mình đấu với ba anh em họ Ân, pháp độ nghiêm cẩn, chiêu số tinh kỳ, quả thực là phong phạm của danh môn đệ tử. Trong khi bị ba tên kia vây đánh, mặc dầu ở vào thế hạ phong nhưng chàng vẫn trấn tĩnh cự địch, không thấy hoảng loạn chút nào thật không phải dễ. Lúc này thanh niên đó tới gần hơn, mọi người không khỏi tấm tắc khen thầm: "Anh chàng này đẹp trai thực".

Chàng thanh niên mi mục thanh tú, trong cái tuấn mỹ còn có ba phần khí độ hiên ngang, khiến cho người nào thoạt nhìn cũng đâm nể vì. Ân Lê Đình nói:

- Đây là con trai duy nhất của đại sư ca chúng tôi, tên là Thanh Thư.

Tĩnh Huyền nói:

- Mấy năm qua đã từng nghe hiệp danh của Ngọc Diện Mạnh Thường, trên giang hồ ai cũng nói Tống thiếu hiệp khẳng khái trượng nghĩa, tế nhân giải khốn, hôm nay may gặp nơi đây thật là vinh hạnh.

Các đệ tử của phái Nga Mi ai nấy thầm bàn tán, người nào cũng thấy đúng thật là "danh bất hư truyền". Châu Nhi đứng bên cạnh Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:

- A Ngưu ca, anh chàng này đẹp trai hơn anh nhiều.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đương nhiên, còn gì phải nói.

Châu Nhi hỏi:

- Anh có ghen không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nực cười nhỉ, tôi ghen cái gì?

Châu Nhi đáp:

- Anh chàng ta cứ nhìn Chu cô nương, anh không ghen à?

Trương Vô Kỵ nhìn về hướng Tống Thanh Thư, quả nhiên anh chàng đang nhìn Chu Chỉ Nhược nhưng cũng không để tâm. Chàng từ khi biết được Châu Nhi chính là cô bé A Ly năm xưa gặp tại Hồ Điệp Cốc, trong lòng bồi hồi xao xuyến, khi đó Châu Nhi cưỡng ép chàng lên Linh Xà đảo, chàng vùng vẫy không thoát được, chỉ còn cách cắn một cái ngay lưng bàn tay cô nàng, nào ngờ nàng lại nhớ nhung mãi mãi không quên, khiến lòng chàng càng thêm cảm kích.

Ân Lê Đình nói:

- Thanh Thư, mình đi thôi.

Tống Thanh Thư nói:

- Phái Không Động hẹn trưa nay sẽ ở nơi này hội họp, thế nhưng bây giờ vẫn chưa thấy đâu, e rằng có chuyện gì.

Ân Lê Đình mặt lộ vẻ lo lắng nói:

- Chuyện đó cũng đáng lo thật.

Tống Thanh Thư nói:

- Ân lục thúc, chi bằng mình cùng đi với các vị tiền bối phái Nga Mi về hướng tây có hay hơn không?

Ân Lê Đình gật đầu:

- Phải lắm.

Diệt Tuyệt sư thái và bọn Tĩnh Huyền đều nghĩ thầm: "Những năm gần đây Trương Tam Phong chân nhân không còn coi sóc những tục vụ nữa, vai trò chưởng môn thực tế ra chính là do Tống Viễn Kiều đảm đương. Xem ra chưởng môn đời thứ ba của phái Võ Đương sẽ do vị Tống thiếu hiệp này tiếp nhiệm, Ân Lê Đình tuy là sư thúc nhưng lại phải nghe lời sư điệt". Họ có biết đâu Ân Lê Đình tính tình ôn hòa, không mấy khi tự mình quyết định điều gì, người khác nói sao, ông ta nghe vậy không phản đối.

Đoàn người đi về hướng tây chừng mười bốn mười lăm dặm thì đến một đồi cát lớn. Tĩnh Huyền thấy Tống Thanh Thư rảo bước chạy lên trên đồi, cũng không chịu kém phái Võ Đương, liền vẫy tay một cái, hai tên đệ tử phái Nga Mi cũng chạy lên theo. Ba người lên rồi, không khỏi hoảng hốt kêu la, thấy ở trên sa mạc về phía tây nằm la liệt khoảng chừng ba mươi xác chết.

Đoàn người thấy ba người kinh hoàng đều vội vã chạy lên đồi cát, thấy đám người chết già có trẻ có, không bị vỡ đầu thì cũng lõm ngực, tưởng chừng như bị đánh bằng những cây gậy thật lớn.

Ân Lê Đình kiến thức rộng rãi, nói:

- Phiên Dương bang ở Giang Tây bị chết sạch là bởi Cự Mộc Kỳ của ma giáo đánh đó.

Diệt Tuyệt sư thái nhíu mày nói:

- Phiên Dương bang đến đây là gì? Quí phái gọi họ đến chăng?

Trong lời nói có chiều không vui. Trong võ lâm, các danh môn chính phái đối với các bang hội có chiều rẻ rúng, Diệt Tuyệt sư thái không muốn cùng chung với họ thành một phe. Ân Lê Đình vội nói:

- Không ai mời Phiên Dương bang cả, có điều Lưu bang chủ của Phiên Dương bang là đệ tử ký danh của phái Không Động, chắc là họ nghe thấy lục môn phái vi tiễu Quang Minh Đính, nên tự nguyện đến giúp, vì sư môn góp một tay.

Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, không nói thêm nữa.

Mọi người đem thi thể bang chúng bang Phiên Dương đem chôn dưới cát, chính lúc đang định lên đường, đột nhiên ngôi mộ tận cùng phía tây vỡ ra, trong đám cát bụi mù mịt một người nhảy ra, chộp ngay một nam đệ tử vụt chạy đi. Sự việc xảy ra khiến ai nấy đều sững sờ, bảy tám nữ đệ tử phái Nga Mi kêu lên thất thanh. Diệt Tuyệt sư thái, Ân Lê Đình, Tống Thanh Thư và Tĩnh Huyền bốn người đều vọt lên đuổi theo. Qua một hồi, mọi người mới vỡ lẽ ra, từ trong ngôi mộ nhảy ra chẳng ai xa lạ chính là Thanh Dực Bức Vương của ma giáo. Y mặc giả y phục bang chúng Phiên Dương bang, nằm lẫn trong đám xác người, nín thở giả chết. Phái Nga Mi không để ý đem y chôn luôn trong mộ cát. Y tài cao mật lớn, cứ để yên, biết cát vàng rất mềm, nằm trong mộ nhịn thở một hồi không đến nỗi nào, đợi đến khi mọi người không đề phòng mới phá mộ nhảy ra.

Lúc ban đầu bốn người chạy song song, nhưng chạy độ hơn nửa vòng thì đã phân cao thấp, Ân Lê Đình và Diệt Tuyệt sư thái chạy trước, Tống Thanh Thư và Tĩnh Huyền chạy sau. Thế nhưng gã Thanh Dực Bức Vương khinh công thật cao, đúng là thế thượng vô song, tuy trong tay ôm thêm một người đàn ông, nhưng bọn Ân Lê Đình đuổi sao cho kịp?

Vòng thứ hai gần hết, Tống Thanh Thư liền đứng lại, kêu lên:

- Triệu Linh Châu sư thúc, Bối Cẩm Nghi sư thúc, xin đến tại Ly vị ngăn đường. Đinh Mẫn Quân sư thúc, Lý Minh Hà sư thúc, xin đứng ở Chấn vị chặn lại ...

Chàng thuận mồm kêu lên, ra lệnh cho hơn ba mươi đệ tử phái Nga Mi chia ra chiếm giữa các phương vị bát quái. Phái Nga Mi chẳng khác nào rắn mất đầu, nghe chàng ra lệnh đầy vẻ uy nghiêm, ai nấy lập tức tuân theo. Trong tình thế đó, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu không còn cách nào có thể chạy vòng tròn được nữa, cất tiếng phá lên cười, cầm người đang bồng trong tay tung lên không, rồi bỏ chạy mất.

Diệt Tuyệt sư thái đưa tay đón lấy người đệ tử từ trên không rơi xuống, chỉ nghe tiếng của Vi Nhất Tiếu từ xa vọng lại:

- Phái Nga Mi có được nhân tài như thế, Diệt Tuyện lão ni quả thật không vừa.

Câu đó rõ ràng khen ngợi Tống Thanh Thư. Diệt Tuyệt sư thái mặt sầm xuống, nhìn lại người đệ tử, thấy cổ họng y máu me bầy nhầy, lộ ra hai hàng vết răng, đã chết rồi.

Mọi người vây quanh bà ta, lặng yên không ai nói một lời. Một lúc lâu sau, Ân Lê Đình nói:

- Nghe người ta nói rằng, Thanh Dực Bức Vương này mỗi khi thi triển võ công, thì phải uống máu nóng của một người sống, lời đó quả thật không ngoa. Chỉ tiếc rằng vị sư đệ này ... ôi ...

Diệt Tuyệt sư thái vừa xấu hổ vừa căm giận. Từ khi bà ta tiếp nhiệm chưởng môn đến nay, phái Nga Mi chưa từng bị bẽ bàng như thế bao giờ, hai đệ tử liên tiếp bị địch nhân hút máu chết, thế nhưng mặt mũi kẻ địch ra sao cũng chưa nhìn rõ.

Bà ta đứng thẫn thờ một hồi rồi trừng mắt hỏi Tống Thanh Thư:

- Tên tuổi của bao nhiêu môn hạ đệ tử của ta, sao ngươi biết được?

Tống Thanh Thư nói:

- Lúc nãy Tĩnh Huyền sư thúc có đưa đệ tử đến chào cả rồi.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Ồ, nhập nhĩ bất vong[2]. Phái Nga Mi ta làm sao có được nhân tài như thế?

Tối hôm đó khi mọi người dừng chân để nghỉ, Tống Thanh Thư cung kính đến trước mặt Diệt Tuyệt sư thái, hành lễ rồi nói:

- Tiền bối, vãn bối có một chuyện đáng ra không nên hỏi muốn thỉnh cầu.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:

- Nếu chuyện không nên hỏi, thì đừng mở miệng hỏi làm gì.

Tống Thanh Thư lại cung kính hành kễ, nói:

- Vâng.

Quay trở về ngồi xuống bên cạnh Ân Lê Đình. Mọi người thấy chàng lên tiếng khẩn cầu Diệt Tuyệt sư thái nhưng lại bị cự tuyệt, tuy không ai dám hỏi thêm nhưng bụng người nào cũng thắc mắc, không biết chàng định hỏi chuyện gì. Đinh Mẫn Quân nhịn không nổi, liền đi lại:

- Tống huynh đệ, cậu muốn hỏi sư phụ chúng tôi chuyện gì thế?

Tống Thanh Thư đáp:

- Khi gia phụ truyền thụ kiếm pháp cho vãn bối, có nói rằng hiện nay trên đời kiếm thuật thông thần thì sư tổ bản phái là đệ nhất, kế đến là Diệt Tuyệt tiền bối chưởng môn phái Nga Mi, hai phái Võ Đương và Nga Mi đều có sở trường sở đoản. Chẳng hạn như chiêu Thủ Huy Ngũ Huyền[3] của bản môn với chiêu Khinh La Tiểu Phiến[4] của quí phái đại đồng tiểu dị, thế nhưng bản phái mũi kiếm sử dụng kình lực quá mạnh, không thể nào khinh linh hoạt bát nên khi ra chiêu không được tiêu sái tự nhiên như chiêu Khinh La Tiểu Phiến.

Chàng vừa nói vừa rút trường kiếm ra múa cả hai chiêu, nhưng khi sử chiêu Khinh La Tiểu Phiến trông không thuần thục chút nào. Đinh Mẫn Quân cười nói:

- Chiêu này không đúng rồi.

Y thị tiếp lấy trường kiếm trong tay chàng, biểu diễn cho Tống Thanh Thư coi rồi nói:

- Cổ tay tôi vẫn còn đau, sử không ra lực, nhưng phải như thế mới phải.

Tống Thanh Thư rất lấy làm thán phục, nói:

- Gia phụ vẫn thường nói là tự hận mình phúc mỏng, chưa từng được xem kiếm thuật của tôn sư. Hôm nay vãn bối được thấy Đinh sư thúc ra chiêu Khinh La Tiểu Phiến, quả thực là mở mắt. Vãn bối mới rồi định xin sư thái chỉ điểm cho vài chiêu, để giải quyết những điểm chưa tỏ tường liên quan đến kiếm pháp, nhưng vãn bối không phải là đệ tử của quí phái, nên không dám nói ra.

Diệt Tuyệt sư thái ngồi ở xa xa, những gì chàng nói đều lọt vào tai cả, thấy Tống Thanh Thư đưa mình lên làm thiên hạ kiếm pháp đệ nhị, trong lòng thật là đắc ý. Trương Tam Phong là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ học đời nay, ai ai cũng bội phục, bà ta không dám mơ tưởng tới chuyện hơn cả vị đại tông sư cổ kim ít có này. Thế nhưng đại đệ tử của phái Võ Đương mà phải nhận bà ta là chỉ kém Trương Tam Phong mà thôi thì thật vinh hạnh, lại thấy Đinh Mẫn Quân múa chiêu này, tinh thần kình lực chỉ được độ ba bốn thành hỏa hầu, kiếm pháp danh chấn thiên hạ của phái Nga Mi chẳng lẽ chỉ có thế thôi sao? Bà lập tức đi đến gần, không nói một lời cầm thanh kiếm trong tay Đinh Mẫn Quân, tay giơ lên ngang mũi, nhẹ nhàng rung một cái, mũi kiếm liền kêu lên u u, từ trái sang phải, rồi từ phải sang trái liên tiếp phẩy chín cái, nhanh không thể tả, nhưng mỗi lần chém xuống đều hết sức rõ ràng.

Các đệ tử thấy sư phụ thi triển kiếm pháp tinh diệu như thế, tim ai nấy đập thình thình, lòng bàn tay toát mồ hôi. Ân Lê Đình kêu lên:

- Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp, hay quá.

Tống Thanh Thư ngưng thần nín thở, trong bụng sợ thầm. Chàng vốn chỉ muốn nói lấy lòng Diệt Tuyệt sư thái, ca ngợi kiếm pháp của phái Nga Mi, đâu ngờ đến khi bà ta biểu diễn thực cao diệu không thể tưởng tượng nổi, khiến trong lòng không khỏi bội phục, thành tâm thành ý học hỏi. Tống Thanh Thư hỏi tới đâu, Diệt Tuyệt sư thái liền dạy tới đó, xem ra còn tận lực hơn cả dạy dỗ đệ tử bản môn. Tống Thanh Thư võ học vốn đã cao siêu, lại thông minh, câu nào cũng hỏi toàn những chỗ hiểm hóc. Các đệ tử phái Nga Mi vây quanh hai người, thấy sư phụ thi triển mỗi chiêu mỗi thế, không chiêu nào không cực kỳ tinh áo, cực kỳ cao siêu, có người theo thầy đã trên mười năm, nhưng cũng chưa từng thấy bà ta biểu lộ thần kỹ như thế bao giờ.

Trương Vô Kỵ và Châu Nhi đứng ở bên ngoài vòng người, đều thấy không tiện xem lén tuyệt kỹ kiếm thuật của phái Nga Mi. Châu Nhi bỗng nói với Trương Vô Kỵ:

- A Ngưu ca, nếu em học được khinh công như của Thanh Dực Bức Vương, thì dù có chết cũng cam lòng.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tà môn công phu đó học để làm gì? Ân lục ... Ân lục hiệp có nói, Vi Nhất Tiếu mỗi khi thi triển võ công, phải uống máu người, thế có khác gì ma quỉ đâu?

Châu Nhi đáp:

- Y võ công cao hơn nên giết được đệ tử phái Nga Mi, còn như khinh công của y không bằng, để cho lão ni cô bắt được, thì cũng bị người ta giết có khác gì đâu, chỉ không hút máu y thôi. Đằng nào thì người cũng chết, hút hay không hút máu cũng thế cả. Danh môn chính phái với tà ma ngoại đạo cũng như nhau.

Trương Vô Kỵ nhất thời không sao trả lời được. Bỗng thấy từ trong đám người một thanh trường kiếm ánh sáng lấp lánh, bay vọt thẳng lên trời. Thì ra Tống Thanh Thư sách chiêu cùng Diệt Tuyệt sư thái, bị bà ta đến chiêu thứ năm dùng thế Hắc Chiểu Linh Hồ, hất trường kiếm của Tống Thanh Thư lên trên không. Chiêu này do tổ sư sáng phái của phái Nga Mi là Quách Tương kỷ niệm năm xưa cùng Dương Quá đi đến đầm bùn bắt chồn mà nghĩ ra. Mọi người cùng ngửng đầu lên nhìn theo thanh trường kiếm, đột nhiên từ phía đông bắc cách hàng chục dặm có một ngọn lửa màu vàng bốc lên cao. Ân Lê Đình kêu lên:

- Phái Không Động gặp địch rồi, mau tới tiếp ứng.

Kỳ này sáu đại môn phái đến Tây Vực vi tiễu ma giáo, để hành động cho được kín đáo nên theo phương lược chia nhau mỗi phái tấn công vào một hướng, ước định với nhau dùng hỏa tiễn màu để làm tín hiệu liên lạc, ánh lửa màu vàng chính là màu của phái Không Động.

Mọi người lập tức chạy về phía có hỏa tiễn bắn lên, thấy tiếng người kêu la, càng đến gần càng nghe thảm thiết,, thỉnh thoảng lại nghe tiếng người bị giết truyền tới, ai nấy không khỏi kinh sợ. Trước mặt là một cảnh đại đồ sát, hai bên mỗi bên phải vài trăm người tham chiến, dưới ánh trăng soi, đao quang kiếm ảnh, ai nấy đều xông vào đánh thí mạng với nhau.

Trong đời Trương Vô Kỵ chưa từng chứng kiến một quanh cảnh đánh nhau rùng rợn như thế bao giờ, chỉ thấy đao kiếm lấp loáng, máu đổ thịt rơi, tình cảnh thảm khốc không muốn nhìn. Chàng chẳng mong cho ma giáo đắc thắng, mà cũng chẳng muốn phe của Ân lục thúc đắc thắng, một bên là phe của cha, một bên là phe của mẹ, nhưng hai bên vào thế không đội trời chung, nên mỗi người bị giết chàng đều đau lòng, quặn cả ruột. Ân Lê Đình vừa quan sát cuộc thế liền nói:

- Phe địch bao gồm Nhuệ Kim, Hồng Thủy, Liệt Hỏa tam kỳ. Hừ, phái Không Động, phái Hoa Sơn, cả phái Côn Lôn cũng ở trong này nữa. Bên ta ba phái đấu với ba kỳ của địch. Thanh Thư, mình cũng nhảy vào vòng chiến đi thôi.

Ông giơ trường kiếm trên không đánh dợm một chiêu, lưỡi kiếm kêu lên u u. Tống Thanh Thư vội nói:

- Khoan đã, lục thúc xem kìa. Bên kia còn một đám đông của địch, đang đợi thời cơ hành sự.

Trương Vô Kỵ nhìn theo ngón tay trỏ về hướng đông, quả nhiên tại mấy chục trượng xa xa lẫn trong bóm đêm có ba đội nhân mã, xếp hàng chỉnh tề, mỗi đội phải đến hơn một trăm người. Tại chiến trường ba phái đấu với ba kỳ, cục diện xem ra ngang ngửa, thế nhưng nếu ba đội kia của ma giáo xông vào, Không Động, Hoa Sơn, Côn Lôn tất sẽ đại bại, thế nhưng không hiểu vì sao, những đội nhân mã kia vẫn án binh bất động.

Diệt Tuyệt sư thái và Ân lục hiệp hai người kinh hãi thầm. Ân Lê Đình hỏi Tống Thanh Thư:

- Đám người kia vì cớ gì không động thủ?

Tống Thanh Thư lắc đầu:

- Tiểu điệt không nghĩ ra.

Châu Nhi đột nhiên cười khẩy nói:

- Có gì đâu mà không nghĩ ra? Chuyện rõ như ban ngày vậy mà.

Tống Thanh Thư mặt đỏ lên, lặng yên không nói. Diệt Tuyệt sư thái định lên tiếng tra hỏi, nhưng đành cố nhịn. Ân Lê Đình nói:

- Xin cô nương chỉ điểm cho.

Châu Nhi nói:

- Ba đội người kia thuộc Thiên Ưng giáo. Thiên Ưng giáo tuy là bàng chi của Minh giáo, nhưng trước nay vẫn bất hòa với Ngũ Hành kỳ. Các ông giết sạch Ngũ Hành kỳ, Thiên Ưng giáo ngược lại mừng thầm nữa là khác, Ân Thiên Chính có khi lên ngôi giáo chủ Minh giáo không chừng.

Diệt Tuyệt sư thái bấy giờ mới chợt hiểu ra, Ân Lê Đình đáp:

- Đa tạ cô nương chỉ điểm.

Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt nhìn Châu Nhi, gật gù, nghĩ thầm: "Kim Hoa bà bà võ công như thế, thảo nào một đứa học trò nho nhỏ, cũng đã thật là bản lãnh".

Lúc đó quần đệ tử phái Nga Mi đã lục tục kéo đến, đứng phía sau Diệt Tuyệt sư thái. Tĩnh Huyền nói:

- Tống thiếu hiệp, nói đến bố trận chiến đấu, chúng tôi không ai bằng cậu. Vậy tất cả mọi người theo lệnh cậu để xông lên giết địch, thiếu hiệp đừng khách sáo gì hết".

Tống Thanh Thư nói:

- Lục thúc, cái này ... cái này ... điệt nhi làm sao dám nhận?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Lúc này còn nói chuyện lễ nghĩa gì nữa? Cứ ra lệnh đi.

Tống Thanh Thư thấy chiến trường tình thế cấp bách, phái Côn Lôn đấu với Nhuệ Kim Kỳ có vẻ thắng thế, phái Hoa Sơn đấu với Hồng Thủy Kỳ hai bên ngang ngửa, chỉ riêng phái Không Động càng đánh xem ra càng lép vế, bị Liệt Hỏa Kỳ vây chung quanh đang ra sức tấn công, liền nói:

- Bên mình chia ra làm ba nhóm theo ba hướng xông vào, cùng tấn công Nhuệ Kim Kỳ. Sư thái dẫn người từ mặt đông đánh tới, lục thúc dẫn một đội đánh từ phía tây, còn Tĩnh Huyền sư thúc và vãn bối cùng một nhóm theo mặt nam đánh vào ...

Tĩnh Huyền lạ lùng hỏi lại:

- Phái Côn Lôn không bị nguy hiểm, ta xem ra phái Không Động mười phần nguy ngập.

Tống Thanh Thư nói:

- Phái Côn Lôn đã chiếm thượng phong, mình đánh thốc vào như chẻ tre, chỉ ra tay là tiêu diệt được Nhuệ Kim Kỳ, hai kỳ còn lại thấy vậy thể nào cũng khiếp vía. Còn nếu mình tiếp viện phái Không Động, hai bên sẽ thành thế giằng co cù cưa, ắt sẽ lâm vào thế nguy, chỉ có Thiên Ưng giáo là ngư ông đắc lợi.

Tĩnh Huyền rất lấy làm khâm phục, nói:

- Tống thiếu hiệp nói chí phải.

Lập tức chia đám đệ tử thành ba nhóm. Châu Nhi cầm chiếc xe tuyết của Trương Vô Kỵ nói:

- Thôi mình đi, ở đây chẳng có gì hay cả.

Nói xong quay mình định chạy. Tống Thanh Thư vội đuổi theo, giơ kiếm ngăn lại, kêu lên:

- Cô nương đừng đi vội.

Châu Nhi lạ lùng hỏi:

- Ngươi giữ ta làm gì?

Tống Thanh Thư nói:

- Cô nương lại lịch rất lạ lùng, không thể cho cô đi được.

Châu Nhi cười khẩy:

- Lai lịch tôi lạ thì đã sao? Mà không lạ thì cũng đã sao?

Diệt Tuyệt sư thái lòng nóng như thiêu, đang bực mình chưa được đại khai sát giới để giết sạch người trong ma giáo, nghe thấy Châu Nhi cãi nhau với Tống Thanh Thư, liền chuyển mình một cái phóng tới, giơ tay điểm luôn vào trên lưng, hông và đùi ba nơi huyệt đạo cô gái. Châu Nhi so với bà ta võ công hơn kém quá xa, thành thử không chống chọi gì được, khoeo chân mềm nhũn, ngã lăn ra.

Diệt Tuyệt sư thái trường kiếm múa lên, quát lớn:

- Hôm nay không giữ giới sát sinh nữa, cùng tiến lên giết sạch yêu tà.

Bà ta cùng Ân Lê Đình, Tĩnh Huyền mỗi người dẫn một đội xông lên phía Nhuệ Kim Kỳ. Vợ chồng Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn cùng các môn nhân đệ tử đấu với Nhuệ Kim Kỳ đang chiếm ưu thế, được thêm hai phái Nga Mi, Võ Đương xông vào, thanh thế càng mạnh mẽ. Diệt Tuyệt sư thái kiếm pháp lăng lệ tuyệt luân, không một giáo chúng nào của Minh Giáo có thể chống đỡ bà ta được ba chiêu. Chỉ thấy thân hình cao lớn của vị ni cô qua lại giữa đám người, đâm bên đông, chém bên tây, chỉ nháy mắt đã có bảy giáo chúng chết dưới trường kiếm của bà ta.

Chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim Kỳ là Trang Tranh thấy tình hình không ổn, tay cầm lang nha bổng tiến đến nghênh địch chặn Diệt Tuyệt sư thái lại. Hai người qua lại hơn chục chiêu, Diệt Tuyệt sư thái sử dụng kiếm pháp của phái Nga Mi càng đánh càng nhanh, hết sức tấn công. Thế nhưng Trang Tranh võ công rất cao cường, nhất thời hai bên ngang ngửa. Trong khi đó Ân Lê Đình, Tĩnh Huyền, Tống Thanh Thư, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn và những người khác ra tay tàn sát, tuy dưới trướng Nhuệ Kim Kỳ không phải là ít cao thủ nhưng làm sao địch lại ba phái Võ Đương, Côn Lôn, Nga Mi liên thủ, trong chốc lát đã chết một số đông.

Trang Tranh đánh liên tiếp ba bổng bình bình bình, ép Diệt Tuyệt sư thái phải lùi lại một bước, tiếp theo một bổng hết sức từ trên đánh xuống. Diệt Tuyệt sư thái nghiêng thanh trường kiếm, điểm vào thân lang nha bổng, dùng chiêu Thuận Thủy Thôi Chu định đẩy chiếc bổng ra. Nào ngờ Trang Tranh là một nhân vật không phải tầm thường của Minh giáo, trong võ lâm thuộc loại cao thủ hạng nhất, trời sinh có cánh tay thật khỏe, cả nội lẫn ngoại công đều vào mức thượng thừa. Khi đó y cảm thấy nội lực của đối phương truyền vào đầu kiếm liền quát lên một tiếng, cánh tay vận một luồng sức cương mãnh lên, nghe cách một tiếng, trường kiếm của Diệt Tuyệt sư thái gãy ra làm ba khúc.

Diệt Tuyệt sư thái binh khí đã gãy, cánh tay ê ẩm, nhưng cũng không lùi lại hay tránh né, vói tay về sau rút phắt thanh Ỷ Thiên kiếm đeo trên lưng, một ánh sáng lóe lên nhanh như sao băng dùng chiêu Thiết Tỏa Hoành Giang[5] giơ lên rạch một cái. Trang Tranh chỉ thấy tay mình nhẹ hẫng, chiếc đầu đầy móc của lang nha bổng bị kiếm Ỷ Thiên chẻ ra làm hai, thuận đà một bên đầu của y cũng bị thanh kiếm sắc bén không gì bì kịp kia chém đứt.

Giáo chúng của Nhuệ Kim Kỳ thấy chưởng kỳ sứ táng mệnh đều kêu la vang dậy, mắt đỏ ngầu hết sức đấu thí mạng, phái Côn Lôn và phái Nga Mi có mấy người bị giết chết.

Một người trong Hồng Thủy Kỳ kêu lên:

- Trang kỳ sứ tuẫn giáo qui thiên, Nhuệ Kim, Liệt Hỏa hai kỳ rút lui đi, để Hồng Thủy Kỳ đoạn hậu.

Kỳ hiệu trong Liệt Hỏa Kỳ lập tức biến đổi, theo lệnh lui về hướng tây. Thế nhưng những người trong Nhuệ Kim Kỳ càng đánh càng hăng, không ai chịu lùi bước. Người bên trong Hồng Thủy Kỳ lại lớn tiếng rao lên:

- Đường kỳ sứ của Hồng Thủy Kỳ có lệnh, tình thế bất lợi, những người trong Nhuệ Kim Kỳ mau mau rút lui, sẽ báo thù cho Trang kỳ sứ sau.

Trong Nhuệ Kim Kỳ có mấy người cùng lên tiếng:

- Xin mời Hồng Thủy Kỳ mau lui trước, sau này báo thù rửa hận cho anh em chúng tôi. Tất cả anh em Nhuệ Kim Kỳ xin đồng sinh cộng tử với Trang kỳ sứ.

Trong trận thế của Hồng Thủy Kỳ đột nhiên giương cờ đen lên, một người tiếng như sấm động kêu lên:

- Chư vị huynh đệ của Nhuệ Kim Kỳ, Hồng Thủy Kỳ nhất định sẽ báo thù cho các anh em.

Nhuệ Kim Kỳ lúc này chỉ còn độ bảy chục người, tất cả cùng lên tiếng:

- Đa tạ Đường kỳ sứ.

Chỉ thấy các lá cờ của Hồng Thủy Kỳ phất lên, rút về hướng tây. Hai phái Hoa Sơn, Không Động thấy địch nhân trận thế nghiêm chỉnh, khoảng hai chục người đoạn hậu cầm ống vàng sáng choang, không biết có cái gì cổ quái nên không dám đuổi theo. Họ bèn quay lại giáp công Nhuệ Kim Kỳ.

Ân Lê Đình giết được mấy tên giáo chúng, cảm thấy tuy thắng nhưng không uy võ chút nào, lớn tiếng nói:

- Ma giáo yêu nhân nghe đây: các ngươi trước mắt chỉ có đường chết mà thôi, mau quăng binh khí đầu hàng, sẽ tha cho khỏi chết.

Tên chưởng kỳ phó sứ cười lên ha hả nói:

- Ngươi xem thường giáo chúng Minh giáo quá vậy. Trang đại ca đã chết rồi, chúng ta cũng đâu mong sống làm gì?

Ân Lê Đình nói:

- Côn Lôn, Nga Mi, Hoa Sơn, Không Động các vị bằng hữu các phái, tất cả xin lùi lại mười bước để cho bọn yên nhân này có thể đầu hàng.

Mọi người ai nấy đều lùi lại. Diệt Tuyệt sư thái hận ma giáo cực độ vẫn tiếp tục múa kiếm giết như điên cuồng. Mũi kiếm Ỷ Thiên đến đâu, kiếm đao đều gãy, tay rơi đầu rụng. Phái Nga Mi thấy sư phụ không chịu lùi, những người đã trở ra lại tiến lên tàn sát tiếp, biến thành thế một mình phái Nga Mi đấu với Nhuệ Kim Kỳ.

Nhuệ Kim Kỳ của Minh giáo lúc này cũng còn lại đến hơn sáu chục người, số cao thủ vào hạng khá cũng khoảng hai chục, dưới quyền điều động của Chưởng kỳ phó sứ Ngô Kình Thảo, chống cự với hơn ba chục người của phái Nga Mi, lấy hai đánh một đáng lẽ phải ở vào thế thượng phong. Thế nhưng kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái sắc bén quá, kiếm chiêu của bà ta lại thật là ghê gớm, ánh sáng xanh cuốn đến đâu là nơi đó bị nguy ngập. Chỉ trong chốc lát, đã có bảy tám người chết dưới mũi kiếm của bà ta.

Trương Vô Kỵ đứng xem mà trong lòng không nhịn nổi, nói với Châu Nhi:

- Thôi mình đi.

Chàng thò tay ra giải huyệt cho cô gái, nào ngờ xoa bóp mấy cái sau lưng và ngang hông nàng, Châu Nhi vẫn thấy tê chồn, các huyệt đạo không mở được. Diệt Tuyệt sư thái nội lực thâm hậu, chỉ ra tay nhẹ nhàng, nhưng kình lực đã vào tận trong sâu, tuy phương pháp giải của chàng đúng, nhưng nhất thời không hiệu quả.

Chàng thở dài một tiếng, quay đầu lại, thấy mấy chục người của Nhuệ Kim Kỳ đã bị gãy hết vũ khí, một phần các phái Côn Lôn, Không Động, Hoa Sơn vây chung quanh, phần khác giáo chúng không ai chịu bỏ chạy, nên vẫn tay không chiến đấu với người của phái Nga Mi.

Diệt Tuyệt sư thái tuy thống hận ma giáo nhưng ở địa vị chưởng môn một phái, không muốn dùng binh khí giết người tay không, ngón tay trái liên tiếp phóng ra, chân như hành vân lưu thủy chạy vòng quanh, chỉ giây lát đã điểm huyệt hơn năm chục người còn lại của Nhuệ Kim Kỳ khiến bọn họ đứng như trời trồng không sao cử động được. Những người chung quanh thấy Diệt Tuyệt sư thái thi triển môn công phu cao cường như thế ai nấy đều reo hò vang dội.

Lúc này trời đã tờ mờ sáng, thấy ba đội giáo chúng của Thiên Ưng giáo chia ba hướng đông nam bắc lấp ló từ từ di động lại, đến khoảng mười trượng thì ngừng, rõ ràng định đứng xa xa canh chừng, chưa có ý tiến lên khiêu chiến.

Châu Nhi nói:

- A Ngưu ca, mình phải chạy nhanh, nếu như rơi vào tay Thiên Ưng giáo thì còn khốn khổ hơn nhiều.

Trương Vô Kỵ trong lòng đối với Thiên Ưng giáo vẫn có một nỗi thân cận không thể hình dung vì đây là giáo phái của mẹ mình. Nghĩ đến mẫu thân chàng tự hỏi: "Mình không thấy được mẹ nữa rồi, bao giờ mới gặp được ông ngoại và cậu đây?". Lúc này những người của Thiên Ưng giáo đã ỡ gần bên, chàng muốn xem ông ngoại và cậu mình có trong đám này chăng, nên không muốn đi vội.

Tống Thanh Thư tiến lên nói với Diệt Tuyệt sư thái:

- Tiền bối, mình phải xử quyết bọn Nhuệ Kim Kỳ ngay rồi quay lại đối phó với Thiên Ưng giáo để khỏi lo chuyện bị tấn công từ đằng sau.

Diệt Tuyệt sư thái gật đầu.

Phương đông mặt trời bắt đầu ló dạng, ánh sáng mông lung chiếu lên thân hình cao to của Diệt Tuyệt sư thái thành một cái bóng dài, trong cái uy võ còn có mấy phần ghê rợn. Bà ta có ý làm làm nhụt nhuệ khí của ma giáo, không muốn một kiếm giết họ, nên lạnh lùng cất tiếng:

- Các người của ma giáo nghe này, người nào muốn sống, chỉ cần lên tiếng xin tha, ta sẽ cho đi.

Một hồi lâu chỉ nghe tiếng ha ha, hạp hạp, khà khà không dứt, người của Minh giáo cùng cười vang. Diệt Tuyệt sư thái giận dữ hỏi:

- Có cái gì đáng cười?

Nhuệ Kim Kỳ chưởng kỳ phó sứ Ngô Kình Thảo lớn tiếng đáp:

- Bọn ta thề cùng sống chết với Trang đại ca, mau mau giết tất cả đi.

Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, nói:

- Được rồi, đến nước này còn muốn anh hùng hảo hán. Ngươi tưởng được chết một cách sảng khoái ư, đâu có dễ thế.

Bà ta rung trường kiếm một cái đã chặt đứt cánh tay phải của Ngô Kình Thảo.

Ngô Kình Thảo cười ha hả, thần sắc vẫn như không, nói:

- Minh giáo thay trời hành đạo, tế thế cứu dân, sống chết nào có khác gì. Lão tặc ni muốn bọn ta khuỵu gối đầu hàng, thôi đừng vọng tưởng nữa.

Diệt Tuyệt sư thái càng thêm phẫn nộ, soẹt soẹt soẹt ba tiếng đã chém đứt ba cánh tay của ba giáo chúng khác, hỏi người thứ năm:

- Ngươi xin hay không xin tha?

Người kia chửi lại:

- Mụ vãi già nói thối như rắm chó.

Tĩnh Huyền vọt lên, vung kiếm trong tay chém đứt cánh tay phải người đó, kêu lên:

- Để cho đệ tử chém giết đám yêu nghiệt này.

Bà ta hỏi luôn mấy người, giáo chúng Minh giáo không người nào chịu khuất phục. Tĩnh Huyền chém đến cánh tay mỏi nhừ, quay đầu lại:

- Sư phụ, bọn yêu nhân này ương ngạnh lắm ...

Ý muốn nói sư phụ nương tay. Diệt Tuyệt sư thái không thèm để ý đến, nói:

- Chém mỗi tên tay phải trước, nếu vẫn còn ngoan cố, chém luôn tay trái.

Tĩnh Huyền không còn cách nào hơn, lại chém thêm mấy người nữa. Trương Vô Kỵ lúc này nhịn không nổi nữa, từ cái cáng tuyết nhảy vọt ra, chặn ngay trước mặt Tĩnh Huyền, kêu lên:

- Khoan đã.

Tĩnh Huyền ngạc nhiên, lùi lại một bước. Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Các người tàn nhẫn hung ác như thế không thấy xấu hổ sao?

Mọi người bất ngờ thấy một thanh niên quần áo rách rưới lam lũ bước ra, đều ngạc nhiên, đến khi nghe chàng lời lẽ nghiêm nghị, lý do xác đáng chất vấn Tĩnh Huyền khiến cho các cao thủ của danh môn chính phái không khỏi bị khí thế đó nhiếp phục. Tĩnh Huyền cười một tiếng dài nói:

- Tà ma ngoại đạo, mọi người ai chẳng có thể tru diệt, có gì gọi là tàn nhẫn hay không tàn nhẫn?

Trương Vô Kỵ nói:

- Những người này ai ai cũng trọng nghĩa khí, nhẹ mạng sống, khẳng khái chịu chết, là những anh hùng hảo hán hiên ngang, sao lại gọi là tà ma ngoại đạo được?

Tĩnh Huyền nói:

- Chúng nó là giáo đồ của ma giáo chẳng lẽ còn không phải là tà ma ngoại đạo hay sao? Tên Thanh Dực Bức Vương kia hút máu giết người, giết sư đệ sư muội của ta, chính mắt ngươi trông thấy, không phải yêu tà thì thế nào mới gọi là yêu tà?

Trương Vô Kỵ nói:

- Thanh Dực Bức Vương kia chỉ giết hai người, các người giết đến mười lần hơn thế. Y dùng răng giết người, tôn sư dùng Ỷ Thiên kiếm giết người, cũng là giết cả, có gì để phân biệt thiện hay ác?

Tĩnh Huyền giận quá, quát lên:

- Hảo tiểu tử, ngươi dám sánh sư phụ ta ngang với yêu tà ư?

Nghe vù một chưởng, đánh thẳng vào mặt chàng. Trương Vô Kỵ vội vàng né qua một bên, Tĩnh Huyền là đại đệ tử của phái Nga Mi, võ công đã được chân truyền của sư môn, chưởng đánh vào diện môn chỉ là hư chiêu, đợi Trương Vô Kỵ vừa nghiêng người, lập tức chân trái đá lên, trúng ngay ngực chàng.

Bỗng nghe bình bình, lách cách hai tiếng, chân trái Tĩnh Huyền đã gãy lìa, thân hình bay về phía sau, nằm lăn ra cách đến mấy trượng. Thì ra ngực Trương Vô Kỵ trúng phải chiêu của địch, Cửu Dương thần công trong người tự nhiên phát ra sức đề kháng. Chiêu số của chàng so với Tĩnh Huyền kém xa, nhưng uy lực của Cửu Dương thần công thật là lợi hại, chiêu của địch kình lực càng mạnh, sức phản chấn càng ghê gớm, cú đá của Tĩnh Huyền chẳng khác nào đá vào chính mình. Cũng may là Tĩnh Huyền chưa có ý định giết chàng, chỉ sử dụng năm thành kình lực nên cũng không bị nội thương trầm trọng.

Trương Vô Kỵ khiêm tốn nói:

- Xin lỗi nhé.

Chàng tiến lên đỡ, Tĩnh Huyền giận dữ nói:

- Cút ra, cút ra ngay.

Trương Vô Kỵ đành phải lùi lại đáp:

- Vâng.

Hai đệ tử phái Nga Mi vội vàng chạy lên đỡ đại sư tỉ dậy. Những người đứng bên ngoài ai cũng biết rõ Tĩnh Huyền là hảo thủ số một số hai dưới trướng Diệt Tuyệt sư thái, không hiểu sao lại kém cỏi như thế, chỉ mới một chiêu đã bị thanh niên áo quần rách rưới kia đánh văng ra mấy trượng? Nếu nói chỉ có hư danh thì không đúng, mới rồi bà ta hội đấu Nhuệ Kim Kỳ kiếm pháp lăng lệ, ai ai cũng thấy cả. Không lẽ nhìn người không thể đánh giá bằng bề ngoài, thanh niên này thân mang tuyệt thế võ công chăng?

Diệt Tuyệt sư thái trong bụng cũng kinh hãi thầm: "Thanh niên này quả thực là hạng người gì? Ta bắt giữ y lâu nay, từ trước tới giờ không để ý, thì ra là một nhân vật thật cao siêu nhưng không lộ chân tướng. Ta muốn hất Tĩnh Huyền ra xa như thế, xem ra cũng không làm được, trên đời này ngoài Trương Tam Phong lão đạo có nội công tu tập cả trăm năm ra, không ai có khả năng như thế".

Diệt Tuyệt sư thái là loại gừng càng già càng cay, tuy không dám coi thường, nhưng chẳng úy kỵ chút nào, đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ từ trên xuống dưới để đánh giá.

Bấy giờ Trương Vô Kỵ đang ra tay cầm máu băng bó vết thương cho giáo chúng trong Nhuệ Kim Kỳ, thủ pháp thực là thuần thục, giơ tay điểm mỗi người vài nơi huyệt đạo, máu chảy từ các cánh tay đứt kia lập tức giảm liền. Người đứng chung quanh không ít tay hảo thủ về điểm huyệt liệu thương, nhưng thủ pháp của chàng ai ai cũng tự thẹn không sao bì kịp, ngay cả điểm những huyệt gì họ cũng còn chưa biết. Chưởng kỳ phó sứ Ngô Kình Thảo nói:

- Đa tạ thiếu hiệp trượng nghĩa, xin hỏi cao tính đại danh?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

- Hảo tiểu tử, quay lại đây, tiếp ta ba kiếm xem nào.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Xin lỗi vậy, sư thái đợi một chút, cứu người quan trọng hơn.

Cho đến khi chàng giúp người bị chặt tay cuối cùng băng bó vết thương xong, lúc ấy mới quay lại, ôm quyền nói:

- Diệt Tuyệt sư thái, tôi không phải là đối thủ của sư thái, cũng không muốn cùng lão nhân gia động thủ, chỉ mong hai bên bãi đấu, bỏ qua hết oán cừu quá khứ.

Chàng nói đến "hai bên bãi đấu", giọng điệu thật là thành khẩn. Chàng nghĩ đến hai bên chính là nghĩ đến cha mẹ, một bên là phái Võ Đương danh môn chính phái của cha, một bên là Thiên Ưng giáo tà ma ngoại đạo của mẹ. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Ha ha, chỉ bằng một lời của một thằng nhỏ thối tha như ngươi, mà muốn chúng ta bãi đấu ư? Ngươi là võ lâm chí tôn chắc?

Trương Vô Kỵ tâm niệm chợt động, hỏi lại:

- Xin hỏi nếu võ lâm chí tôn thì đã sao?

Diệt Tuyệt sư thái đáp:

- Nếu ngươi có đao Đồ Long trong tay, thì cũng phải đấu với kiếm Ỷ Thiên của ta xem ai cao thấp. Để đến lúc thành võ lâm chí tôn thực sự rồi lúc đó ra lệnh cũng chưa muộn.

Các đệ tử phái Nga Mi nghe sư phụ nhạo báng Trương Vô Kỵ, đều phá lên cười. Các phái khác cũng có người chế riễu phụ họa theo. Cứ tuổi tác, thân phận của Trương Vô Kỵ mà nói chuyện hai bên "bãi đấu" thì quả thực không xứng chút nào, nghe mọi người cười cợt khiến chàng mặt đỏ tía tai, nhưng cố nhịn nói:

- Sao các vị giết người nhiều quá như thế? Người nào chẳng có cha mẹ vợ con, giết họ rồi, con cái phải lênh đênh cô khổ, bị người ta hà hiếp. Quí lão nhân gia đều là người tu hành, xin mở lòng từ bi.

Chàng vốn không phải là người khéo ăn khéo nói, nhưng nghĩ đến bản thân mình, mở lời ra thật chân thành. Mấy câu nói đó lời lẽ khẩn thiết, ai nấy nghe xong đều không khỏi động tâm.

Diệt Tuyệt sư thái mặt vẫn trơ trơ, giọng lạnh như băng:

- Hảo tiểu tử, ta phải để đến ngươi dạy dỗ hay sao? Ngươi tự phụ nội lực thâm hậu, ở nơi đây khoe khoang lớn lối. Được, ngươi tiếp ta ba chưởng, ta sẽ để cho bọn này đi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đến ngay học trò bà tôi cũng không tránh nổi một chưởng, huống chi là sư thái? Tôi không dám cùng sư thái tỉ võ, chỉ mong bà bụng dạ từ bi, thể niệm đức hiếu sinh của trời đất thôi.

Ngô Kình Thảo lớn tiếng nói:

- Tăng tướng công, đừng nói nhiều với lão tặc ni đó làm gì. Chúng tôi thà tất cả chết dưới tay của bà ta, còn hơn trông chờ bụng dạ khoan dung giả dối của mụ.

Diệt Tuyệt sư thái liếc nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi lại:

- Sư phụ ngươi là ai?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Phụ thân, nghĩa phụ tuy đều có dạy ta võ công, nhưng đâu có phải là sư phụ của mình" liền nói:

- Tôi không có sư phụ.

Lời đó nói ra, ai nấy đều cảm thấy kỳ quái. Mọi người đều nghĩ chàng chỉ một chiêu hất văng Tĩnh Huyền, ắt phải là đồ đệ của cao nhân, ai ai cũng có ba phần e ngại, nào ngờ chàng lại không có sư phụ. Trong võ lâm tôn trọng nhất là sư đạo, không muốn thổ lộ tên tuổi sư phụ cũng là chuyện thường, nhưng không thể nào có mà lại nói không, nên chàng nói mình không có thầy thì quả thực là không có thật.

Diệt Tuyệt sư thái không muốn dài lời với chàng nữa, nói:

- Tiếp chiêu này.

Nói vừa dứt, tay phải tiện thể đánh ngay ra. Trong tình thế đó, Trương Vô Kỵ không thể không tiếp, hai tay cùng tống ra, dùng cả hai chưởng đỡ một chưởng của bà ta. Nào ngờ Diệt Tuyệt sư thái liền hạ tay xuống, chẳng khác gì một con cá vừa trơn vừa nhanh, luồn qua bên dưới hai bàn tay, nghe bịch một tiếng, đánh trúng ngay ngực chàng.

Trương Vô Kỵ kinh hãi, hộ thể Cửu Dương thần công lập tức xuất phát, chống đỡ chưởng lực của đối phương, thế nhưng khi hai luồng nội kình mạnh mẽ vừa sắp tiếp xúc chưa kịp đụng nhau, thì chưởng lực của Diệt Tuyệt sư thái lập tức biến mất không một chút tăm hơi. Trương Vô Kỵ còn đang ngơ ngẩn, ngửng đầu nhìn thì ngực liền bị một luồng lực đạo chẳng khác gì một cái chùy sắt đập vào. Chàng chân không đứng vững, bị hất về phía sau lộn đi hai vòng, ọe lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi, người xụm luôn xuống chẳng khác gì một cục bùn nát.

Chưởng lực của Diệt Tuyệt sư thái khi nhả ra, khi thu vào như thế, nhập nhằng bất định, dẫn dụ địch nhân, sau cùng mới phát xuất nội lực, quả thực là một công phu cực kỳ tinh áo của nội gia. Những người đứng chung quanh một số ít võ công cao thâm thấy được cái xảo diệu của chưởng vừa rồi, không khỏi tấm tắc khen ngợi.

Châu Nhi hốt hoảng chạy đến bên cạnh Trương Vô Kỵ, giơ tay đỡ chàng dậy, không ngờ đầu gối nhũn ra, cũng ngã luôn xuống. Thì ra tuy nàng đã được Trương Vô Kỵ giải huyệt, nhưng huyết mạch chưa lưu thông đều, thấy chàng bị thương, trong cơn gấp gáp liền chạy ra cứu giúp nhưng chỉ được giây lát, chân đứng không vững, kêu lên:

- A Ngưu ca, anh ... anh ...

Trương Vô Kỵ chỉ thấy trên ngực máu nóng trộn trạo, xua xua tay, nói:

- Không chết đâu.

Chàng từ từ đứng đậy. Lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói với ba tên đệ tử:

- Chặt hết cánh tay phải tất cả yêu nhân cho ta.

Ba đệ tử đó đáp lời:

- Vâng lệnh.

Cầm kiếm đi tới bọn người của Nhuệ Kim Kỳ. Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Bà ... bà nói tôi chịu cho bà đánh ba chưởng, sẽ tha cho bọn họ đi. Tôi chịu một chưởng rồi, chỉ còn ... còn hai chưởng nữa.

Diệt Tuyệt sư thái đánh Vô Kỵ một chưởng, thấy nội công của chàng chính đại hồn hậu, hoàn toàn không phải thuộc bọn yêu tà, thậm chí còn có điểm tương tự như sở học của mình, tuy chàng đứng ra bảo vệ cho giáo chúng ma giáo, nhưng không phải là người của bọn họ, nên nói:

- Người tuổi trẻ kia đừng xen vào chuyện ngoài đường, chính tà phải phân biệt, đâu đấy cho rõ ràng. Chưởng lực vừa rồi ta chỉ dùng có ba thành lực đạo, ngươi có biết không?

Trương Vô Kỵ biết bà ta thân phận chưởng môn một phái, ắt không thể nào nói sai, nếu nói chỉ dùng ba thành lực đạo, thì đúng là chỉ dùng ba phần. Thế nhưng hai chưởng nữa dù khó khăn bực nào, có chết chàng cũng cam chứ không thể giương mắt nhìn người của Nhuệ Kim Kỳ bị tàn sát, liền nói:

- Tại hạ không lượng sức mình, xin chịu ... chịu thêm hai chưởng nữa của sư thái.

Ngô Kình Thảo lớn tiếng nói:

- Tăng tướng công, chúng tôi thâm cảm đại đức của ngài. Ngài anh hùng hiệp nghĩa, ai nấy đều cảm phục, hai chưởng còn lại không thể nào chịu tiếp được đâu.

Diệt Tuyệt sư thái thấy Châu Nhi ở bên cạnh Trương Vô Kỵ, sợ nàng ta làm vướng víu chân tay, cánh tay áo bên trái phất một cái, đã cuốn cô ta lên quăng về phía sau. Chu Chỉ Nhược tiến lên đỡ lấy, nhẹ nhàng để nàng ta xuống đất. Châu Nhi vội nói:

- Chu tỉ tỉ, chị mau khuyên anh ta đừng chịu thêm hai chưởng nữa, chị nói chắc anh ta nghe đấy.

Chu Chỉ Nhược lạ lùng hỏi:

- Sao chị biết anh ta sẽ nghe lời tôi?

Châu Nhi đáp:

- Anh ấy thích chị lắm, chẳng lẽ chị không biết hay sao?

Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, ấp úng:

- Chẳng lẽ thế sao?

Diệt Tuyệt sư thái lớn tiếng nói:

- Nếu ngươi muốn tỏ ra anh hùng hảo hán, ấy là tự mình đi tìm cái chết, đừng có trách ta nhé.

Tay phải giơ lên, kình phong ào ào đánh thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ.

Lần này Trương Vô Kỵ không dám giơ tay ra đỡ, thân hình nghiêng qua, định tránh chưởng lực của bà ta. Cánh tay phải của Diệt Tuyệt sư thái bỗng dưng xoay lại, bàn tay không hiểu sao vòng trở về, nghe bịch một tiếng đã đánh trúng ngay lưng chàng. Thân hình Vô Kỵ chẳng khác gì một người bù nhìn làm bằng rơm, bay vụt lên không, rơi phịch xuống đất, nằm phục trên mặt cát không động đậy gì cả, hẳn đã chết rồi.

Chiêu đó của Diệt Tuyệt sư thái tinh diệu không đâu sánh kịp, đúng ra người bên ngoài phải hò reo khen ngợi, nhưng ai nấy không khỏi ngầm kính phục bụng dạ hiệp nghĩa của Trương Vô Kỵ, thấy chàng gặp chuyện chẳng lành, chỉ còn nước hoảng hốt thở dài, không một ai lên tiếng hoan hô.

Châu Nhi nói:

- Chu tỉ tỉ, xin chị chạy tới xem anh ta bị thương nặng nhẹ thế nào.

Trái tim Chu Chỉ Nhược đập thình thình, nghe Châu Nhi khẩn thiết cầu xin như thế, đã định đi ra xem, nhưng hiện nay bao nhiêu cặp mắt đổ dồn vào, một cô gái mười tám mười chín như nàng làm sao dám đi ra xem xét vết thương của một thanh niên? Huống chi người đả thương chàng ta lại chính là sư phụ nàng, làm như thế, tuy chưa công nhiên phản kháng sư môn nhưng đối với sư phụ thật là đại bất kính, thành thử nàng vừa dợm bước, liền lùi ngay lại.

Lúc này trời đã sáng rõ, ánh nắng chiếu tỏa khắp nơi. Một hồi sau, bỗng thấy lưng Trương Vô Kỵ hơi động đậy, cố gắng chầm chậm đứng lên, nhưng cánh tay chỉ mới chống lên được chừng một thước, đột nhiên chịu không nổi, mồm phun ra một ngụm máu tươi, rồi lại nằm gục xuống. Chàng nửa mê nửa tỉnh, xem ra không còn động đậy được chút nào, nhưng vẫn nhớ mình còn phải chịu một chưởng nữa mới cứu được tính mệnh của những người trong Nhuệ Kim Kỳ.

Chàng hít một hơi dài, sau cùng cũng chập choạng đứng lên được. Thế nhưng thân hình run lẩy bẩy, tưởng như lúc nào cũng có thể gục xuống, mọi người ai nấy nín thở đứng trông. Tuy chung quanh có đến mấy trăm người, nhưng tất cả đều im phăng phắc, tưởng như một cái kim rơi xuống đất cũng nghe thấy được.

Ngay trong sát na hoàn toàn yên tĩnh đó, Trương Vô Kỵ bỗng nhớ đến một câu trong Cửu Dương Chân Kinh:

Dẫu cho người có hung hăng,

Chẳng qua gió mát thổi ngang núi này.

Dẫu cho người có ngang tàng,

Khác gì trăng sáng giãi tràn sông sâu.

(Tha cường do tha cường,

Thanh phong phất sơn cương.

Tha hoành nhiệm tha hoành,

Minh nguyệt chiếu đại giang)

Khi chàng ở nơi u cốc tụng đọc những câu kinh văn đó, vẫn không hiểu ý nghĩa của nó ra sao, lúc này chợt nghĩ ngay ra dù cho Diệt Tuyệt sư thái hung hăng tàn ác đến đâu, mình cũng không mang một ý niệm chống cự lại. Nếu theo đúng yếu nghĩa của Cửu Dương Chân Kinh thì dường như dù kẻ địch có mạnh mẽ đến bực nào, hung ác đến bực nào, cũng chỉ coi như gió mát thổi qua núi, trăng sáng chiếu trên sông, dẫu có chạm vào thân thể ta, nhưng không thể nào tổn thương ta được.

Thế nhưng làm sao để không tổn thương thân thể mình? Kinh văn bên dưới có viết tiếp:

Người dù hung ác tới đâu,

Cốt sao chân khí ta sâu đủ rồi.

(Tha tự ngận lai tha tự ác,

Ngã tự nhất khẩu chân khí túc)

Chàng nghĩ đến chỗ đó, trong lòng bỗng hiểu ra ngay, liền ngồi xuống xếp bằng, theo đúng pháp môn trong kinh văn điều hòa hơi thở. Từ đan điền khí nóng ngùn ngụt bốc lên, dồn dập tuôn tràn chỉ trong khoảnh khắc đã chảy đến khắp toàn thân, tới từng đốt xương, từng thớ thịt. Đại uy lực của Cửu Dương thần công bấy giờ mới hiện rõ, ngoại thương của chàng tuy nặng, máu hộc ra hàng đấu nhưng nội lực chân khí không hề tiêu hao chút nào.

Diệt Tuyệt sư thái nhìn chàng vận khí trị thương, trong bụng không khỏi kinh ngạc, thấy chàng thanh niên này quả thực khả năng phi thường.

Chưởng thứ nhất bà ta đánh chàng là dùng một chiêu trong Phiêu Tuyết Xuyên Vân Chưởng, chưởng thứ hai là thức thứ ba của Tiệt Thủ Cửu Thức, đều là tinh hoa của chưởng pháp phái Nga Mi. Chưởng đầu tiên bà ta chỉ dùng ba thành kình lực, còn chưởng thứ hai tăng lực đạo lên đến bảy thành, nghĩ rằng nếu một chưởng không đánh chết chàng ngay tại chỗ, thì ít ra cũng bị gãy xương đứt gân, hoàn toàn tàn phế, có muốn cử động cũng không được. Nào ngờ chàng chỉ nằm phủ phục một lát lại ngồi lên được, quả thực ngoài dự liệu của bà ta.

Cứ theo qui củ tỉ thí trong võ lâm, Diệt Tuyệt sư thái không cần phải đợi cho chàng vận khí liệu thương, nhưng bà ta tự trọng thân phận, không muốn thừa nhân chi nguy, ra tay đánh một kẻ thuộc hàng hậu bối.

Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:

- Này họ Tăng kia, nếu ngươi không dám tiếp thêm chưởng thứ ba của sư phụ ta, sao không sớm cút ngay đi cho xa. Ngươi ở đó dưỡng thương, không lẽ bọn ta cũng phải đứng đây mà chờ ngươi hay sao chứ?

Chu Chỉ Nhược nhỏ nhẹ nói:

- Đinh sư tỉ, để cho y nghỉ thêm một lát, cũng chẳng đáng gì.

Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:

- Ngươi ... ngươi lại định bênh người ngoài, có phải thấy gã tiểu tử này ...

Bản tâm y thị định nói "có phải thấy gã tiểu tử này anh tuấn, nên phải lòng y chăng?" nhưng chợt nghĩ ra ở đây có biết bao nhiêu người thuộc hàng tên tuổi của các môn phái khác, ngôn ngữ thô tục như thế chẳng nên ra khỏi cửa miệng, nên nói lấp lửng không hết câu, vội vàng nín bặt. Thế nhưng ý của mụ ta, mọi người ai mà chẳng hiểu? Nửa sau câu đó có nói ra hay không cũng thế thôi.

Chu Chỉ Nhược vừa thẹn vừa bực, giận đến mặt trắng bệch, nhưng không cãi lại, chỉ thủng thẳng nói:

- Tiểu muội chỉ nghĩ đến bản môn và uy danh của sư tôn, không muốn để cho ai phải nói ra nói vào.

Đinh Mẫn Quân ngạc nhiên hỏi lại:

- Nói ra nói vào cái gì?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Võ công bản môn thiên hạ ai ai cũng biết, sư phụ lại là cao nhân số một số hai đời nay, đâu có coi một kẻ hậu sinh tiểu tử ra cái gì. Có điều vì thấy y lớn mật cuồng vọng, mới ra tay dạy dỗ y một phen, chứ có phải nhất định giết y mới xong đâu? Cái tiếng hiệp nghĩa của bản môn đã một trăm năm nay rồi, sư tôn nhân hiệp khoan hậu, ai mà chẳng ngưỡng phục? Cái ánh sáng của con đom đóm làm sao tranh huy với hai vầng nhật nguyệt được? Dù có cho y luyện thêm một trăm năm, cũng không có thể cùng sư tôn chúng ta động thủ, có dưỡng thương thêm một chút, thì cũng có đáng gì?

Câu nói đó khiến cho mọi người ai ai cũng ngầm gật đầu khen phải, trong bụng Diệt Tuyệt sư thái lại càng hoan hỉ, thấy cô học trò nhỏ này biết được đại thể, trước mặt các môn các phái làm rạng rỡ thêm cho bản môn.

Chân khí trong người Trương Vô Kỵ đã lưu chuyển rồi, tinh thần trở lại minh mẫn. Chàng nghe mấy câu của Chu Chỉ Nhược nói biết ngay có ý muốn giúp đỡ nên lấy lời chặn trước khiến Diệt Tuyệt sư thái không tiện ra tay hạ sát mình, trong lòng thêm cảm kích, liền đứng dậy nói:

Hồi 18

Ỷ THIÊN TRƯỜNG KIẾM PHI HÀN MANG--

- Sư thái, vãn bối xả mệnh bồi quân tử, lại xin chịu một chưởng nữa.

Diệt Tuyệt sư thái thấy chàng chỉ ngồi xếp bằng một lát, lập tức tinh thần rạng rỡ, nghĩ thầm: "Gã tiểu tử này nội lực hồn hậu như thế, quả thật tà môn" liền nói:

- Ngươi sao không ra tay đánh lại ta, ai bảo ngươi chỉ chịu đòn mà không hoàn thủ?

Trương Vô Kỵ nói:

- Một chút công phu thô lậu của vãn bối, có đến chéo áo của sư thái cũng không động tới được, nói gì trả đòn?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Ngươi biết thân biết phận thế sao không sớm tránh ra. Ngươi còn trẻ có cốt khí như vậy, quả thực khó kiếm. Diệt Tuyệt sư thái này chưởng hạ chưa từng tha ai bao giờ, hôm nay phá lệ với ngươi một lần đó.

Trương Vô Kỵ khom lưng đáp:

- Đa tạ tiền bối. Thế những đại ca của Nhuệ Kim Kỳ kia cũng tha luôn chứ?

Đôi lông mày dài của Diệt Tuyệt sư thái xụ xuống, lạnh lùng hỏi:

- Pháp danh của ta là gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôn danh của tiền bối thượng Diệt hạ Tuyệt.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Ngươi biết thế là giỏi lắm. Yêu ma tà đồ, ta muốn diệt cho tuyệt không còn một mống, quyết không lưu tình. Không lẽ hai chữ Diệt Tuyệt chỉ để gọi xuông hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu như thế xin tiền bối đánh chưởng thứ ba đi.

Diệt Tuyệt sư thái liếc mắt nhìn, một thanh niên cứng đầu cứng cổ như thế này, trong đời bà ta chưa hề gặp bao giờ, tuy bụng dạ lạnh lùng nhưng đột nhiên nổi lòng lân tài, nghĩ thầm: "Chưởng thứ ba của ta đánh ra, thể nào y cũng chết. Gã này không phải thuộc bọn yêu tà, tuổi còn trẻ như thế mà đã toi mạng, không khỏi đáng tiếc thay". Bà hơi trầm ngâm, trong bụng đã quyết, chưởng thứ ba sẽ đánh vào trên huyệt đan điền, vận nội lực xoáy vào huyệt để cho y lập tức bế khí bất tỉnh, đợi khi tru diệt hết bọn ma giáo Nhuệ Kim Kỳ rồi sẽ cứu y tỉnh lại.

Tay áo bên trái liền phất một cái, chưởng thứ toan đánh ra, bỗng nghe một người nói lớn:

- Diệt Tuyệt sư thái, chưởng hạ lưu nhân[6].

Tám chữ đó nghe như kim chọc vào tai mọi người, ai nấy nghe đều cảm thấy khó chịu. Từ phía tây bắc một người đàn ông mặc áo bào trắng, tay cầm quạt xếp, từ đoàn người đi ra, đi đến đâu bụi không bay lên chút nào, chẳng khác gì đang lướt trên mặt nước. Trên vạt áo bên trái của người áo trắng có thêu một con hắc ưng nho nhỏ, hai cánh giang rộng. Mọi người vừa nhìn biết ngay y là một nhân vật cao thủ trong Thiên Ưng giáo.

Thì ra Thiên Ưng giáo và Minh giáo quần áo phép tắc đều giống nhau, cũng đều là áo bào trắng cả, chỉ khác là trên giáo bào của Minh giáo thêu một ngọn lửa đỏ, còn Thiên Ưng giáo giáo thì thêu một con chim ưng đen.

Người kia đi đến cách Diệt Tuyệt sư thái chừng ba trượng, chắp tay cười nói:

- Xin phép sư thái, chưởng thứ ba này để cho tại hạ chịu thay, được chăng?

Diệt Tuyệt sư thái hỏi:

- Ngươi là ai?

Người kia đáp:

- Tại hạ họ Ân, thảo tự Dã Vương.

Ba chữ Ân Dã Vương vừa ra khỏi miệng, mọi người ai nấy lập tức bàn tán xôn xao. Tên tuổi của Ân Dã Vương trong hai mươi năm qua trên giang hồ thật là vang dội, trong võ lâm nhiều người nói võ công rất cao cường, so với phụ thân là Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính không kém bao nhiêu. Ông ta là Thiên Vi Đường đường chủ của Thiên Ưng giáo, quyền vị chỉ dưới giáo chủ mà thôi.

Diệt Tuyệt sư thái thấy người này chỉ chừng độ bốn mươi tuổi, nhưng cặp mắt sáng như điện chớp, chiếu sáng bốn phía, khí thế nhiếp nhân, biết là không thể coi thường. Huống chi bình thời bà ta cũng từng nghe đến tên tuổi, nên lạnh lùng đáp:

- Tên tiểu tử này là gì mà ngươi phải thay y tiếp một chưởng của ta?

Trương Vô Kỵ trong lòng kêu lên: "Ông là cậu ta, cậu ta đây rồi. Không lẽ ông ta nhận ra ta sao?"

Ân Dã Vương cười ha hả, nói:

- Tôi vốn chẳng biết y là là ai, chỉ vì thấy y tuổi còn nhỏ, nhưng lại thật cứng đầu, không giống bọn giả nhân giả nghĩa, ham danh chuộng tiếng trong võ lâm, thấy thích, cho nên đứng ra lãnh giáo công lực của sư thái, được chăng?

Câu cuối cùng nói ra chẳng còn vẻ khách khí, tưởng như không coi Diệt Tuyệt sư thái vào đâu. Diệt Tuyệt sư thái không nổi giận, nói với Trương Vô Kỵ:

- Tiểu tử, nếu ngươi còn muốn sống thêm vài năm, lúc này chạy đi cũng còn kịp.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vãn bối không dám tham sống mà quên nghĩa khí.

Diệt Tuyệt sư thái gật đầu, quay về phía Ân Dã Vương nói:

- Tiểu tử này còn nợ ta một chưởng. Để ta thanh toán xong xuôi, sau đó sẽ không để cho các hạ phải thất vọng.

Ân Dã Vương cười hắc hắc, nói:

- Diệt Tuyệt sư thái, bà có giỏi thì cứ giết thanh niên này đi. Nếu y không sống thì bọn ta sẽ cho các ngươi chết không có đất mà chôn.

Y nói xong, lập tức phơi phới trở về, quay trở vào đám người, quát lớn:

- Hiện thân.

Đột nhiên trong bãi cát thò lên vô số đầu người, mỗi người có một cái khiên để ở trước mặt, ai nấy đều cầm cung cứng, giương tên bén nhọn chĩa thẳng vào đoàn người. Thì ra giáo chúng Thiên Ưng giáo đã đào những địa đạo, vây tất cả những người các môn phái lại từ bao giờ.

Mọi người chăm chú nhìn Diệt Tuyệt sư thái và Trương Vô Kỵ đối chưởng, đâu có để ý chuyện bên ngoài, dù có những người khôn ngoan hiểu biết như Tống Thanh Thư, cũng chỉ đề phòng giáo chúng Thiên Ưng giáo đột nhiên xông lên tấn công, đâu ngờ họ lợi dụng cát mềm đào các địa đạo, chiếm tất cả các khu vực địa hình thuận lợi. Chuyện xảy ra như thế khiến ai nấy mặt mày biến sắc, lại thấy các đầu tên dưới ánh mặt trời lấp lánh màu lam, hẳn có tẩm thuốc kịch độc. Chỉ cần Ân Dã Vương ra một hiệu lệnh, ngoài một vài người võ công cao siêu nhất của các phái, số còn lại e rằng chẳng mấy ai sống sót. Trong năm phái có mặt, nói về tên tuổi danh vọng thì Diệt Tuyệt sư thái là hơn hết, mọi người đều nhìn bà ta, để xem định đoạt thế nào.

Diệt Tuyệt sư thái là người tính tình chấp nê hơn ai hết, tuy thấy tình thế ác liệt, nhưng không động tâm một chút nào, nói với Trương Vô Kỵ:

- Tiểu tử, ngươi chỉ còn oán số mạng mình chẳng ra gì thôi.

Đột nhiên toàn thân xương cốt bà ta phát ra những tiếng lốp bốp nho nhỏ như than nổ. Tiếng tí tách chưa dứt, tay phải đã nhắm ngực Trương Vô Kỵ đánh tới.

Chưởng này là tuyệt học của phái Nga Mi tên là Phật Quang Phổ Chiếu. Dù cho kiếm pháp hay chưởng pháp bao giờ chiêu nọ cũng nối với chiêu kia thành bài bản, nhiều thì vài trăm chiêu, ít thì cũng năm ba thức, nhưng dù cho ba thức năm thức, mỗi thức bao giờ cũng ẩn những biến hóa, một thức có thể có dấu một vài hay có khi tới mười chiêu. Thế nhưng chưởng pháp Phật Quang Phổ Chiếu này chỉ có một chiêu, mà chiêu này cũng lại không có biến hóa. Một chiêu đánh ra, đánh trúng ngực kẻ địch cũng được, trúng lưng cũng được, trúng vai cũng được, trúng mặt cũng được, chiêu thức rất là bình thường, không có gì thay đổi, nhưng uy lực trong đó toàn do Cửu Dương Công của phái Nga Mi làm cơ sở.

Chưởng đó đánh ra rồi, địch nhân không thể đỡ được, mà cũng không né tránh được. Trong phái Nga Mi hiện nay, ngoại trừ Diệt Tuyệt sư thái ra, không một người thứ hai nào biết sử dụng.

Bà ta vốn chỉ định đánh vào đan điền của Trương Vô Kỵ, cốt để cho chàng hôn mê, thế nhưng sau khi Ân Dã Vương tỏ lời uy hiếp rồi, nếu còn thủ hạ lưu tình, sẽ không ai nghĩ là có ý khoan dung, lại tưởng là tham sống sợ chết, đối với địch nhân uốn gối đầu hàng. Thành ra chiêu này bà ta sử toàn lực, không nể nang một chút nào.

Trương Vô Kỵ thấy trước khi chưởng của Diệt Tuyệt sư thái đánh tới thì xương cốt đã kêu lách cách, biết rằng chưởng này uy lực thật là ghê gớm, sinh tử tồn vong của bản thân mình chỉ trong khoảnh khắc này mà thôi, nên đâu có dám sơ xẩy. Ngay trong chớp mắt đó, chàng chỉ còn nhớ tới hai câu kinh văn "Người dù hung ác tới đâu,Cốt sao chân khí ta sâu đủ rồi", hoàn toàn không nghĩ tới việc chống đỡ, chỉ vận chân khí tập trung vào bụng và ngực.

Những người chung quanh ai nấy đều kêu lên kinh hoảng, tin chắc toàn thân Trương Vô Kỵ xương thịt sẽ nát nhừ, không chừng còn bị chưởng bài sơn đảo hải này đánh đứt đôi người là khác. Nào ngờ một chưởng đánh ra rồi, Trương Vô Kỵ mặt lộ vẻ thơ thới, đứng thản nhiên như không, còn Diệt Tuyệt sư thái mặt xám như tro, bàn tay run rẩy. Thì ra chiêu Phật Quang Phổ Chiếu của Diệt Tuyệt sư thái hoàn toàn lấy Cửu Dương Công của phái Nga Mi làm cơ sở, đâu ngờ Trương Vô Kỵ luyện lại chính là Cửu Dương thần công. Cửu Dương Công của phái Nga Mi là do năm xưa Quách Tương nghe Giác Viễn tụng Cửu Dương Chân Kinh nên nhớ được đôi phần mà thành, so với nguyên bản Cửu Dương thần công, uy lực không thể nào sánh được. Thế nhưng tuy uy lực hai môn nội công có lớn nhỏ, bản chất vẫn cùng một gốc, Nga Mi Cửu Dương Công gặp phải Cửu Dương thần công, khác nào sông chảy vào biển, lại như nước với sữa trộn vào nhau, lập tức vô ảnh vô tung.

Diệt Tuyệt sư thái đánh chàng chưởng đầu tiên là Phiêu Tuyết Xuyên Vân Chưởng, chưởng thứ hai là Tiệt Thủ Cửu Thức, đều không phải thuộc Cửu Dương Công nên khi đánh vào Trương Vô Kỵ chàng phải thụ thương thổ huyết.

Đạo lý bên trong đó, đương thời không một ai hiểu được, Trương Vô Kỵ cố nhiên hoang mang không biết gì, Diệt Tuyệt sư thái tuy là người kiến thức rộng rãi, cũng chỉ nghĩ là tiểu tử này nội công thâm hậu, mình không thể đả thương y mà thôi. Trong đám người bị bao vây cả mấy trăm người, trừ chính Diệt Tuyệt sư thái ra, ai ai cũng nghĩ bà ta nhẹ tay, một phần vì thương Trương Vô Kỵ là người có cốt khí, phần vì bà ta muốn chu toàn đại thể, không đành để cho Thiên Ưng giáo bắn độc tiễn mà thương vong sẽ rất nặng nề, phần khác cũng có thể bà ta nhát gan sợ hãi nên bị Ân Dã Vương uy hiếp đành phải khuất phục.

Trương Vô Kỵ chắp tay vái một cái nói:

- Đa tạ tiền bối nhẹ tay tha cho.

Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, thật là sượng sùng, nhưng vì đã nói trước chỉ đánh ba chưởng nên không thể nào đánh thêm. Việc này nay phải bỏ qua thật là kỳ sỉ đại nhục tưởng như bà đành chịu khuất phục Thiên Ưng giáo. Trong khi bà ta còn đang lừng chừng, Ân Dã Vương cười lên ha hả, nói:

- Người thức thời là kẻ tuấn kiệt, Diệt Tuyệt sư thái không thẹn là một đương thế cao nhân.

Nói xong quát lớn:

- Triệt cung tên đi.

Các giáo đồ lập tức lục tục lùi ra xa, một hàng cầm thuẫn, một hàng cầm cung tên, đứng thật chỉnh tề, xem ra Ân Dã Vương dùng binh pháp để dạy giáo chúng, tiến thoái công thủ chẳng khác gì trận pháp.

Diệt Tuyệt sư thái mặt mày xám ngắt, nhưng làm sao có thể giãi bày cho mọi người được, chẳng lẽ nói chưởng của mình nào có lưu tình? Ai nấy đều thấy bà ta đánh nhẹ hai chưởng đã khiến Trương Vô Kỵ phải bị trọng thương, thế nhưng Ân Dã Vương vừa mới dọa nạt, chưởng thứ ba làm như ghê gớm lắm nhưng hoàn toàn chẳng sử dụng một chút lực đạo nào. Dù có kiệt lực biện bạch, mọi người chắc cũng chẳng ai tin, huống chi trước nay bà ta vốn người kiêu ngạo, không lẽ phải cầu người ta tin mình? Bà hậm hực căm tức nhìn Trương Vô Kỵ rồi lớn tiếng nói:

- Ân Dã Vương, ngươi muốn tìm hiểu chưởng lực của ta, bây giờ mời qua đây.

Ân Dã Vương chắp tay đáp:

- Hôm nay được sư thái ban cho chút tình, đâu dám đắc tội thêm nữa, chúng ta sau này có ngày gặp lại.

Diệt Tuyệt sư thái phất tay trái một cái, không nói thêm, dẫn các đệ tử chạy về hướng tây. Côn Lôn, Hoa Sơn, Không Động các phái, kể cả Ân Lê Đình, Tống Thanh Thư cũng chạy theo.

Châu Nhi hai chân không đi được, vội kêu:

- A Ngưu ca, mau đem em chạy theo.

Trương Vô Kỵ muốn cùng Ân Dã Vương nói vài câu nói:

- Đợi một chút.

Quay sang chạy về phía Ân Dã Vương, nói:

- Đại đức ra tay trợ giúp của tiền bối, vãn bối không bao giờ dám quên.

Ân Dã Vương cầm tay chàng, nhìn chăm chăm đánh giá một hồi rồi hỏi:

- Ngươi họ Tăng?

Trương Vô Kỵ quả muốn sà vào lòng ông, gọi mấy tiếng: "Cậu ới! Cậu ới!" nhưng cố nén lòng, hai mắt không khỏi rưng rưng. Người đời thường nói "Thấy cậu như thấy mẹ", chàng là một đứa trẻ mồ côi Ân Dã Vương là thân nhân mà mười năm nay chàng mới gặp lần đầu, làm sao không khỏi khích động?

Ân Dã Vương thấy ánh mắt chàng đối với mình đầy vẻ thân thiết, lại tưởng chàng cảm kích việc cứu mạng, nên cũng không để ý, đưa mắt sang nhìn Châu Nhi đang nằm dưới đất, cười nhạt một tiếng, nói:

- A Ly, ngươi khỏe chứ?

Châu Nhi ngẩng đầu lên, đôi mắt đầy vẻ oán hận, nhưng lại cúi xuống, một lát sau mới gọi:

- Cha.

Tiếng "Cha" vừa ra khỏi miệng, Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, trong đầu bao nhiêu ý niệm chạy qua, trong chớp mắt đã hiểu rõ biết bao nhiêu chuyện: "Thì ra Châu Nhi là con của cậu ta, vậy nàng là em họ của mình. Nàng giết bà vợ lẽ, làm liên lụy chết cả mẫu thân, lại nói cha nàng gặp là giết nàng ngay ... ôi, nàng dùng Thiên Châu Vạn Độc Thủ đả thương Ân Vô Lộc, chắc cũng vì những người gia nhân này hùa theo chủ nhân, đối đãi với mẹ con nàng không ra gì. Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ tuy trong lòng thống hận nhưng không dám cùng nàng động thủ, chỉ nói một câu: "Thì ra là Tam tiểu thư", rồi ôm Ân Vô Lộc chạy mất.

Chàng quay lại nhìn Châu Nhi, bỗng dưng nghĩ ra: "Thảo nào mình thấy nàng hành động giống y hệt mẹ ta, thì ra nàng với ta có tình máu mủ, mẹ ta chính là cô ruột của nàng".

Ân Dã Vương cười khẩy nói:

- Mày còn biết gọi ta là cha sao? Hừ, ta lại tưởng ngươi đi theo Kim Hoa bà bà, không còn coi Thiên Ưng giáo vào đâu nữa chứ. Thật chẳng ra đâu với đâu, giống hệt mẹ mày, luyện cái gì Thiên Châu Vạn Độc Thủ. Hừm, ngươi thử soi gương xem ra cái giống gì? Nhà họ Ân lẽ đâu lại có thứ người không ra người, ngợm không ra ngợm như thế?

Châu Nhi vốn dĩ sợ đến toàn thân run rẩy, đột nhiên quay đầu lại, chăm chăm nhìn vào mặt cha, lớn tiếng nói:

- Cha, cha chẳng nói đến thì thôi, con cũng không nói. Thế nhưng đã nói thì con hỏi cha, mẹ con đã lấy cha rồi, vì cớ gì cha lại còn lấy thêm bà hai?

Ân Dã Vương ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ... đồ chết tiệt, đàn ông con trai, có ai không năm thê bảy thiếp? Mày là đồ bất hiếu, hôm nay có cãi thì cũng bằng thừa. Kim Hoa bà bà, Ngân Diệp tiên sinh Thiên Ưng giáo chẳng coi ra cái quái gì đâu.

Ông khoát tay một cái, nói với Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ hai người:

- Xách cổ con nhãi này đi theo.

Trương Vô Kỵ giơ hai tay chặn lại:

- Khoan đã. Ân ... Ân tiền bối, ông định bắt cô ấy làm gì?

Ân Dã Vương đáp:

- Con a đầu này là đứa con mất dạy của mỗ, giết mẹ kế, hại mẹ đẻ, so với cầm thú cũng không bằng, còn để cho sống làm gì?

Trương Vô Kỵ nói:

- Lúc đó Ân cô nương còn nhỏ, thấy mẹ mình bị người ta khinh rẻ, nhất thời không nhịn được nên mới gây ra chuyện không hay, xin tiền bối nghĩ tình cha con, xử phạt nhẹ tay một chút.

Ân Dã Vương ngửng đầu lên cười ha hả, nói:

- Hảo tiểu tử, ngươi là cái hạng người gì mà chuyện thiên hạ đâu đâu cũng xen vào, ngay cả chuyện nhà họ Ân cũng can dự? Hay là ngươi là "võ lâm chí tôn" chăng?

Trương Vô Kỵ trong lòng khích động, đã định nói ra: "Tôi chính là cháu ông, đâu phải người ngoài" nhưng sau cùng cũng cố nén lại được. Ân Dã Vương cười nói tiếp:

- Tiểu tử, từ nay ngươi phải biết giữ thân, nếu cứ tiếp tục lo chuyện thiên hạ thì có đến mười cái mạng cũng không đủ đâu.

Nói xong vẫy tay một cái, Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ hai người liền tiến lên nắm lấy Châu Nhi, kéo về phía sau Ân Dã Vương. Trương Vô Kỵ biết rằng một khi Châu Nhi rơi vào tay cha nàng, tính mạng ắt không toàn vẹn, trong cơn gấp gáp, xông lên toan cướp lại. Ân Dã Vương nhíu mày, tay trái vung ra nắm ngực chàng nhẹ nhàng ném ra ngoài. Trương Vô Kỵ thân hình bay bổng như đằng vân giá vụ, bình một tiếng, rớt ngay trên bãi cát vàng. Chàng có Cửu Dương thần công hộ thể, tuy không bị thương nhưng rơi xuống, tai mắt, mũi mồm đầy cát thật là khó chịu. Thế nhưng chàng không chịu thôi, liền nhỏm dậy xông tới lần nữa.

Ân Dã Vương cười nhạt:

- Tiểu tử, lần đầu ta nhẹ tay, lần sau sẽ không nể nang gì nữa đâu.

Trương Vô Kỵ khẩn cầu:

- Cô ấy ... cô ấy là con ruột ông, khi còn thơ ông đã từng bế bồng, hôn hít, xin ông tha cho.

Ân Dã Vương trong lòng cảm động, quay lại nhìn Châu Nhi, thấy nàng mặt sưng vù, lòng chán ghét càng tăng thêm, quát lớn:

- Cút ngay.

Trương Vô Kỵ trái lại chạy lên một bước, toan cướp lại. Châu Nhi kêu lên:

- A Ngưu ca, anh đừng nghĩ đến em, em sẽ mãi mãi nhớ đến lòng tốt của anh. Mau chạy đi, anh không chống cự lại cha em được đâu.

Ngay lúc đó, từ trong bãi cát một người mặc áo xanh trồi lên, hai tay vươn ra, chộp cổ Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ, dập lại một cái, trán hai người đụng mạnh vào nhau, lập tức bất tỉnh. Người kia ôm luôn Châu Nhi phóng mình bỏ chạy, Ân Dã Vương giận dữ quát lên:

- Vi Bức Vương, ngươi lại định xen vào chuyện người khác ư?

Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu cười phá lên, chạy thẳng về trước. Y có tên là "nhất tiếu" thành thử tiếng cười của y liên miên thành một chuỗi dài, nào phải chỉ "bách tiếu, thiêu tiếu" mà thôi đâu? Ân Dã Vương cùng Trương Vô Kỵ lập tức phóng mình chạy đuổi theo.

Lần này Vi Nhất Tiếu không chạy vòng vòng nữa, thẳng hướng tây nam vùn vụt chạy. Thân pháp người này thật là nhanh không tưởng nổi. Ân Dã Vương nội lực thâm hậu, khinh công cũng khá, Trương Vô Kỵ chân khí trong người lưu chuyển, chạy mỗi lúc một nhanh, nhưng Vi Nhất Tiếu chạy lại còn nhanh hơn. Lúc đầu hai người chỉ cách y vài trượng, về sau thành ra hơn chục trượng, hai chục trượng, ba chục trượng ... sau cùng không còn thấy hình bóng y đâu nữa.

Ân Dã Vương giận dữ cười khẩy, thấy Trương Vô Kỵ trước sau vẫn chạy ngang vai với mình, không chịu sau đến nửa bước, trong bụng không khỏi kinh ngạc, biết rằng không cách nào có thể đuổi kịp được Vi Nhất Tiếu, nhưng lại muốn thử xem cước lực gã thanh niên này bực nào. Ông ta gia tăng kình lực, thân hình như mũi tên rời khỏi cung, bắn vọt về phía trước, nhưng chàng ta không kém, vẫn cùng mình chạy song song. Đột nhiên nghe Trương Vô Kỵ nói:

- Ân tiền bối, gã Thanh Dực Bức Vương này tuy chạy nhanh thật, nhưng chưa chắc đã dài hơi, mình cứ lẽo đẽo theo mãi đến tận cùng.

Ân Dã Vương giật mình kinh hãi, lập tức đứng ngay lại, nhủ thầm: "Ta thi triển khinh công như thế là đã hết sức bình sinh, không nói gì mở miệng ra nói, ngay cả đến thở hụt một hơi cũng đã không xong. Tên tiểu tử này nói năng như thường, vậy mà chân không chậm lại chút nào, là cái công phu gì đây?".

Ông ta vừa dừng bước, Trương Vô Kỵ đã vọt lên đến vài trượng, vội quay đầu chạy trở lại bên cạnh Ân Dã Vương, nghe ông ta bảo gì.

Ân Dã Vương nói:

- Tăng huynh đệ, sư phụ chú là ai?

Trương Vô Kỵ vội nói:

- Không, không, ông đừng gọi tôi là huynh đệ, tôi đáng hàng con cháu, lão nhân gia cứ gọi tôi là " A Ngưu" được rồi. Tôi không có sư phụ.

Ân Dã Vương chợt nghĩ ra một ý định: "Tên tiểu tử này võ công thật là quái dị, để nó sẽ gây ra hậu họa vô cùng, chi bằng xuất kỳ bất ý, một chưởng đánh nó chết đi là hơn".

Ngay lúc đó, bỗng nghe mấy tiếng tù và ốc biển lanh lảnh từ xa xa vọng tới, chính là tiếng báo động của Thiên Ưng giáo. Ân Dã Vương nhíu mày, nghĩ thầm: "Chắc là Hồng Thủ, Liệt Hỏa hai kỳ giận ta không cứu Nhuệ Kim Kỳ, nên đến tấn công chăng?". Nếu như một chưởng đánh không chết gã tiểu tử này, ta làm gì có thì giờ đánh dằng dai với y. Chi bằng mình mượn dao giết người, đẩy y đến cho Vi Nhất Tiếu sát hại".

Ông ta liền nói:

- Thiên Ưng giáo gặp địch rồi, ta phải quay về ứng phó. Ngươi một mình đuổi theo Vi Nhất Tiếu. Người đó âm hiểm độc ác, ngươi nên tiên hạ thủ vi cường.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi bản lãnh thấp kém, làm sao đánh lại ông ta? Các ông có kẻ địch nào đến đánh thế?

Ân Dã Vương nghiêng đầu nghe ngóng tiếng tù và, nói:

- Quả nhiên là Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ ba kỳ của Minh giáo đến rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tất cả đều chung một Minh giáo cả, sao lại tàn sát lẫn nhau?

Ân Dã Vương sầm mặt xuống, nói:

- Trẻ con biết gì? Lại xen vào chuyện người khác rồi.

Ông ta nói xong quay đầu lại chạy về. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Châu Nhi rơi vào tay đại ác ma Vi Nhất Tiếu, nếu như y cắn cổ nàng, hút hết máu thì còn làm sao sống được?". Nghĩ đến đó, chàng càng nóng ruột, vội hít mạnh một hơi, co chân chạy. Cũng may là Vi Nhất Tiếu khinh công tuy giỏi thật nhưng trong tay ôm thêm một người, không thể nào không để lại vết trên mặt cát, trên sa mạc rõ ráng hai đường dấu chân. Trương Vô Kỵ đã có chủ ý: "Y nghỉ ngơi, ta không nghỉ, y nằm ngủ, ta không ngủ, chạy ba ngày ba đêm thể nào ta cũng đuổi kịp y".

Dưới ánh nắng gay gắt, trên bãi sa mạc, chạy ba ngày ba đêm đâu phải chuyện dễ. Chàng chạy đến tối, đã thấy miệng khô lưỡi đắng, toàn thân mồ hôi chảy như mưa. Thế nhưng cũng thật lạ lùng, chân chàng không hề mỏi, chân khí Cửu Dương thần công súc tích trong người mấy năm qua bắt đầu phát huy, càng sử dụng lực, càng thấy tinh thần phấn chấn.

Chàng ghé lại một cái suối uống một bụng no, rồi lại chạy tiếp, cứ theo dấu chân Vi Nhất Tiếu mà đuổi. Chạy đến nửa đêm, thấy trăng đã lên đến đỉnh đầu, Trương Vô Kỵ trong bụng bỗng dưng sợ hãi, chỉ sợ bất ngờ nhìn thấy thi thể Châu Nhi đã bị hút hết máu nằm đâu đây. Ngay lúc đó, nghe dường như đằng sau có tiếng chân người, chàng quay lại nhìn, chẳng thấy ai. Chàng không dám lần chần hơn nữa, lại cố chạy nhưng tiếng chân người vẫn thấy đâu đây.

Trương Vô Kỵ trong bụng lạ kỳ, quay đầu nhìn lần nữa, vẫn không thấy ai, nhìn kỹ hơn, trên sa mạc rõ ràng có ba hàng dấu chân người, một vết là của Vi Nhất Tiếu, một vết của mình, không thể nào sai được, nhưng còn một hàng nữa là của ai? Chàng quay lại lần nữa, đằng trước chỉ có một hàng vết chân của Vi Nhất Tiếu, quả thực mình đang bị ai đó đuổi theo rồi không còn nghi ngờ gì, nhưng sao không thấy ai, chẳng lẽ người này có phép tàng hình hay sao?

Chàng trong bụng đầy nghi hoặc, vừa tiếp tục chạy, lại nghe tiếng chân người theo sau. Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Ai đó?

Đằng sau có tiếng đáp:

- Ai đó?

Trương Vô Kỵ hoảng sợ, quát lên:

- Ngươi là người hay là ma?

Người kia lại trả lời:

- Ngươi là người hay là ma?

Trương Vô Kỵ vội quay phắt đầu lại, lần này thấy đằng sau có bóng thấp thoáng, biết là một người nào đó thân pháp thật nhanh náu ở sau lưng mình, kêu lên:

- Ngươi theo ta làm chi?

Người kia đáp:

- Ta theo ngươi làm chi?

Trương Vô Kỵ cười hỏi lại:

- Làm sao tôi biết được? Có thế mới hỏi ông.

Người kia đáp:

- Làm sao ta biết được? Có thế mới hỏi ngươi.

Trương Vô Kỵ xem chừng người này không có ác ý, y theo sau mình đã lâu, nếu ra tay có thể giết mình ngay, liền hỏi:

- Ông tên gì?

Người kia đáp:

- Thuyết Bất Đắc.[7]

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao lại không nói được là sao?

Người kia đáp:

- Thuyết Bất Đắc là Thuyết Bất Đắc, cần gì phải có lý do tại sao? Còn ngươi tên là gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi... tôi tên là Tăng A Ngưu.

Người kia hỏi:

- Sao nửa đêm canh ba ngươi lại chạy như thằng khùng thế là sao?

Trương Vô Kỵ biết đây là một dị nhân thân mang tuyệt kỹ, liền nói:

- Một người bạn của tôi bị Thanh Dực Bức Vương bắt đi, tôi muốn cứu về.

Người kia nói:

- Ngươi không cứu nổi đâu.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao thế?

Người kia đáp:

- Thanh Dực Bức Vương võ công cao hơn ngươi, ngươi đánh không lại y đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đánh không lại vẫn cứ đánh.

Người kia nói:

- Giỏi lắm, ngươi quả có chí khí. Bạn của ngươi là một cô gái phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng vậy. Làm sao ông biết?

Người kia nói:

- Nếu chẳng phải con gái, một thanh niên đâu có đâu bất kể sống chết đuổi theo như thế. Đẹp lắm phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Xấu lắm.

Người kia hỏi:

- Thế còn chính ngươi thì có xấu không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ông ra đằng trước nhìn thì biết.

Người kia đáp:

- Ta chẳng cần nhìn, thế cô nương đó có biết võ công không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Biết, là con gái của Ân Dã Vương tiền bối của Thiên Ưng giáo, từng theo Kim Hoa bà bà đảo Linh Xà học võ.

Người kia nói:

- Thôi đừng đuổi nữa, Vi Nhất Tiếu bắt được cô ta rồi, không chịu tha đâu.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Sao thế?

Người kia hừ một tiếng, nói:

- Ngươi thật ngốc, không chịu suy nghĩ gì cả. Ân Dã Vương là gì của Ân Thiên Chính?

Trương Vô Kỵ nói:

- Hai người là hai cha con.

Người kia nói:

- Bạch Mi Ưng Vương và Thanh Dực Bức Vương võ công ai cao hơn ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi không biết. Xin tiền bối cho biết ai giỏi hơn?

Người kia đáp:

- Mỗi người có một sở trường. Thế hai người ai thế lực hơn ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ưng Vương là giáo chủ Thiên Ưng giáo, chắc thế lực phải hơn.

Người kia nói:

- Đúng vậy. Thế thì Vi Nhất Tiếu bắt được cháu gái của Ân Thiên Chính, là một món hàng đáng giá, đâu dễ gì trả lại, thể nào chẳng dùng để uy hiếp Ân Thiên Chính.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- E rằng không phải thế, Ân Dã Vương tiền bối chỉ chăm chăm định giết con gái mình.

Người kia lạ lùng hỏi:

- Vì sao vậy?

Trương Vô Kỵ liền đem chuyện Châu Nhi giết ái thiếp của phụ thân, làm liên lụy đến mẹ ruột cũng chết theo thuật sơ qua. Người nọ nghe xong rồi, tặc lưỡi khen:

- Thật tuyệt, thật tuyệt, quả thật đúng là mỹ chất lương tài.

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Cái gì mà mỹ chất lương tài?

Người kia nói:

- Tuổi còn nhỏ như thế mà đã dám giết cả dì hai, hại cả mẹ ruột, lại được Kim Hoa bà bà đảo Linh Xà dạy dỗ, đến ta thấy cũng thích, Vi Nhất Tiếu thể nào chả thu cô ta làm đồ đệ.

Trương Vô Kỵ hoảng hốt, hỏi:

- Sao ông lại biết?

Người kia nói:

- Vi Nhất Tiếu là bạn của ta, tâm tính y thế nào ta chẳng biết.

Trương Vô Kỵ thờ thẫn, bỗng kêu lên:

- Chết rồi.

Chàng lại phóng mình chạy, người kia vẫn lục tục đuổi theo sau. Trương Vô Kỵ một mặt vẫn chạy, hỏi tiếp:

- Sao ông vẫn đuổi theo tôi làm gì?

Người kia nói:

- Ta vì tính hiếu kỳ, muốn xem trò vui. Thế ngươi đuổi theo Vi Nhất Tiếu để làm gì thế?

Trương Vô Kỵ hậm hực nói:

- Châu Nhi vốn đã có tà khí, tôi nhất quyết không để nàng bái Vi Nhất Tiếu làm thầy, học cái môn ma quỉ hút máu người, đâu có gì là tốt lành?

Người kia nói:

- Ngươi thích Châu Nhi lắm phải không? Sao ngươi lại quan tâm đến cô ta như thế?

Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nói:

- Tôi cũng chẳng biết có thích hay không thích cô ta hay không nữa, chẳng qua cô ta ... cô ta có nét giống mẹ tôi.

Người kia nói:

- - Ủa, thế ra mẹ ngươi cũng xấu như ma, chắc ngươi cũng khó coi lắm nhỉ?

Trương Vô Kỵ vội nói:

- Mẹ tôi đẹp lắm, ông đừng có nói nhăng nói cuội.

Người kia nói:

- Tiếc thật, tiếc thật.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Tiếc cái gì?

Người kia nói:

- Ngươi là một thanh niên can đảm, lại có lòng, quả thật đáng quí, có điều chỉ giây lát đã bị người ta hút hết máu thành cái xác khô.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ông ta nói chẳng sai chút nào, dù ta có đuổi kịp Vi Nhất Tiếu, cũng đâu có cứu nổi Châu Nhi, chỉ ngờ ngờ đem mạng nạp cho y thôi". Chàng liền hỏi:

- Tiền bối, ông giúp tôi một tay có được không?

Người kia trả lời:

- Không được. Thứ nhất Vi Nhất Tiếu là bạn của ta, thứ hai ta đánh không lại y.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu Vi Nhất Tiếu là bạn ông thì sao ông không khuyên y?

Người kia thở dài một tiếng, nói:

- Khuyên đâu có được. Vi Nhất Tiếu chính y cũng đâu có muốn hút máu người đâu, chẳng qua chuyện chẳng đặng đừng, không thế không xong, thực là khổ tâm lắm.

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Không thế không xong? Thế là thế nào?

Người kia nói:

- Vi Nhất Tiếu luyện công bị tẩu hỏa, từ đó mỗi khi kích dẫn nội lực, lại phải uống máu người, nếu không toàn thân lạnh run, chết cóng ngay.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm nói:

- Có phải ba mạch âm của ông ta bị tổn thương chăng?

Người kia lạ lùng hỏi:

- Ồ, ngươi cũng biết thế sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi chỉ đoán thế thôi, chẳng biết có đúng hay không nữa.

Người kia nói:

- Ta đã ba lần vào núi Trường Bạch, định bắt cho y một con hỏa thiềm trị bệnh cho y, nhưng cả ba lần đều về tay không. Lần đầu có trông thấy con cóc lửa chỉ cách hai trượng mà không bắt được, còn lần thứ hai thứ ba chẳng thấy tăm hơi con nào. Đợi chuyện khó khăn trước mắt xong rồi, ta sẽ lại đi một chuyến nữa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Để tôi đi cùng với ông, có được không?

Người kia nói:

- Ôi, ngươi nội lực thì nhiều, nhưng khinh công quá kém, nói trắng ra chẳng có chút hỏa hầu nào, đến lúc đó mình tính sau. Ồ, ta hỏi ngươi, tại sao ngươi muốn giúp ta đi kiếm hỏa thiềm?

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu bắt được thì không những trị khỏi bệnh cho Vi Nhất Tiếu mà còn cứu được bao nhiêu người, về sau không còn phải hút máu ai nữa. A, tiền bối này, ông ta chạy lâu như thế, kích dẫn nội lực, không thể nào làm khác hơn, e rằng hút luôn cả máu của Châu Nhi mất.

Người kia trầm ngâm, nói:

- Cái đó không chừng. Dù y có định thu Châu Nhi làm học trò, khi đang lạnh run, máu huyết trong người ngưng kết thành băng, lúc đó đến con ruột y ...

Trương Vô Kỵ càng nghĩ càng sợ, cố hết sức chạy. Người kia bỗng nói:

- Ối, đằng sau ngươi có cái gì thế?

Trương Vô Kỵ quay đầu lại nhìn, đột nhiên trước mắt tối om, toàn thân bị một cái gì thật lớn chùm vào, sau đó thân hình bay bổng, hình như bị người kia bỏ vào một cái túi lớn nhắc lên. Y giơ tay ra xé cái túi, nào hay cái túi này không phải bằng da, cũng chẳng phải bằng tơ, chắc chắn dị thường, sờ mãi không thấy đường chỉ may, hiển nhiên làm bằng một loại vải dày, không cách gì xé rách được.

Người kia cầm cái túi ném xuống đất, cười ha hả, nói:

- Ngươi chui ra khỏi cái túi của ta được, mới thật là giỏi.

Trương Vô Kỵ vận nội lực, hai tay đẩy mạnh ra, nhưng cái túi này mềm xèo không dùng sức vào đâu được. Chàng lại giơ chân lên hết sức đạp ra, nghe bộp một cái, cái túi chỉ phồng lên một chút, dù dùng cách nào nắm đẩy chọc xé, cả đến lăn lộn húc đầu, cái túi vẫn trơ trơ không sao cả. Người kia cười nói:

- Ngươi đã chịu thua chưa?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chịu rồi.

Người kia vỗ một cái, qua lần vải trúng ngay vào mông Trương Vô Kỵ, cười nói:

- Tiểu tử, hãy ngoan ngoãn nằm trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta, đừng có vùng vẫy, ta đưa ngươi đến một nơi. Ngươi mà mở miệng nói một câu để người ngoài biết được, ta cứu ngươi không nổi đâu.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Ông đưa tôi đi đâu thế?

Người kia cười đáp:

- Ngươi đã nằm trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta rồi, nếu ta muốn giết ngươi, ngươi đâu có chạy được? Chỉ cần ngươi đừng động đậy, đừng lên tiếng, sẽ có lợi cho ngươi.

Trương Vô Kỵ nghĩ lời nói đó quả không sai, nên không vùng vẫy nữa. Người kia nói:

- Ngươi được vào trong cái túi của ta, ấy là ngươi có phúc lắm đó.

Nói xong ông ta vác cái túi lên vai, ra sức chạy. Trương Vô Kỵ hỏi:

- Việc của Châu Nhi làm sao bây giờ?

Người kia nói:

- Ta làm sao biết được? Ngươi mà còn lải nhải nữa là ta sẽ tống cổ ngươi ra khỏi cái túi này đó.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ông tống tôi ra khỏi cái túi này thì thật đúng là cầu còn chưa được đó thôi". Thế nhưng chàng không dám nói ra, chỉ thấy người này cước bộ thực là nhanh nhẹn.

Người kia chạy luôn mấy giờ liền, Trương Vô Kỵ ở bên trong túi vải thấy dần dần nóng lên, biết rằng trời đã sáng, ánh nắng chiếu vào. Một lúc sau thấy người nọ càng chạy càng lên cao, hình như đang lên núi. Ông ta chạy lên chừng hai giờ nữa, Trương Vô Kỵ đã thấy hơi lạnh, nghĩ thầm: "Hình như cái núi này thật cao, trên đỉnh vẫn còn đóng tuyết nên mới lạnh như thế này". Đột nhiên thân hình chàng bay vọt lên không, Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nhịn không nổi phải kêu lên.

Tiếng kêu chưa dứt, bỗng thấy thân hình chựng lại, người đó đã tới đất. Trương Vô Kỵ bấy giờ mới rõ, thì ra người kia vác luôn cả cái bao nhảy tới, xem chừng nơi đây là một đỉnh núi thật cao với những vách đứng và đá tảng cheo leo. Người này cõng mình nhảy nhót, sơn nham lại có băng tuyết phủ, thật là trơn trượt, chỉ xẩy chân một cái, hai người chẳng tan xương nát thịt hay sao? Bụng nghĩ đến đó, người kia lại nhảy nữa không ngừng, lúc cao lúc thấp, lúc gần lúc xa, Trương Vô Kỵ tuy ở trong cái bao, không nhìn được ra ngoài chút nào nhưng cũng biết địa thế nơi đây thật là hiểm trở.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Theo dòng nước mà đẩy thuyền

[2] nghe qua một lần không quên

[3] Tay gẩy năm sợi dây đàn

[4] Cái quạt nhỏ nhẹ làm bằng sa (một loại lụa mỏng)

[5] Dây xích sắt treo ngang sông

[6] Tám chữ này có ý châm chọc, nói bà ta tuy tên là Diệt Tuyệt nhưng đánh người lại chẳng chết nổi, danh và thực không đi đôi với nhau.

[7] Thuyết bất đắc theo nghĩa đen là không nói ra được hay không thể nói được, nhưng chính người này lại có tên là Thuyết Bất Đắc. Ở đây Kim Dung cố ý lẫn lộn giữa tên gọi và nghĩa lý của cái tên. Người dịch tôn trọng tên riêng nên không thể dịch là Nói Không Được như bản cũ.

Hồi 19

HỌA KHỞI TIÊU TƯỜNG PHÁ KIM THANG--

Bọ ngựa định bắt ve sầu,

Ngờ đâu chim sẻ ở sau đang rình.

Trương Vô Kỵ lại bị người nọ xách lên nhảy lên cao một lần nữa, bỗng nghe từ xa có người gọi:

- Thuyết Bất Đắc, sao giờ này ngươi mới đến?

Người đang vác Trương Vô Kỵ trả lời:

- Trên đường ta gặp một chuyện nhỏ. Vi Nhất Tiếu đã đến chưa?

Người ở xa xa kia nói:

- Chưa thấy đâu, thật là kỳ quái, cả y mà cũng đến trễ nữa. Thuyết Bất Đắc, ngươi có gặp y chưa?

Hai người vừa hỏi nhau vừa tiến tới gần. Trương Vô Kỵ thầm lạ lùng: "Thì ra người này tên là Thuyết Bất Đắc, thành thử khi ta hỏi y tên gì, y nói là Thuyết Bất Đắc, hỏi thêm tại sao không nói được, y trả lời Thuyết Bất Đắc tức là Thuyết Bất Đắc, còn gì mà phải hỏi. Sao lại có người có cái tên quái lạ đến thế?". Chàng nghĩ tiếp: "Y cũng ước hẹn với Vi Nhất Tiếu gặp nhau, không biết Châu Nhi có sao không? Y là bạn của Vi Nhất Tiếu, không biết y sẽ làm gì mình đây?".

Lại nghe Thuyết Bất Đắc nói:

- Thiết Quan đạo huynh, bọn mình đi kiếm Vi huynh, tôi e hắn ta gặp rắc rối gì rồi.

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Thanh Dực Bức Vương vừa dè dặt, vừa thông minh, võ công trác tuyệt, làm sao gặp rắc rối được?

Thuyết Bất Đắc nói:

- Tôi vẫn nghĩ có chuyện gì chẳng lành.

Bỗng từ dưới sơn cốc có tiếng người vọng lên, kêu lớn:

- Tên hòa thượng thối tha Thuyết Bất Đắc, tên mọi già Thiết Quan, mau xuống giúp ta một tay, nguy lắm rồi, nguy lắm rồi.

Thuyết Bất Đắc cùng Thiết Quan đạo nhân cùng kinh hoảng:

- Chu Điên đó, chẳng biết chuyện gì nguy không biết nữa?

Thuyết Bất Đắc lại nói:

- Chắc là y bị thương, nếu không sao giọng có vẻ yếu thế?

Ông ta không đợi Thiết Quan đạo nhân trả lời, liền vác Trương Vô Kỵ nhảy trở xuống. Thiết Quan đạo nhân chạy theo sau, bỗng nói:

- Ồ, Chu Điên cõng ai thế kia? À, Vi Nhất Tiếu.

Thuyết Bất Đắc kêu lớn:

- Chu Điên đừng quýnh, bọn ta lại giúp ngươi đây.

Chu Điên chửi:

- Có quýnh cái con khỉ mốc, ta quýnh đâu mà quýnh? Con dơi hút máu sắp chết thì có.

Thuyết Bất Đắc hốt hoảng nói:

- Vi huynh sao thế, bị thương chăng?

Nói xong lại càng chạy nhanh hơn. Trương Vô Kỵ nằm trong cái túi, chẳng khác gì đằng vân giá vụ, nhịn không nổi phải kêu khẽ:

- Tiền bối, ông tạm thả tôi xuống, việc cứu người khẩn thiết hơn.

Thuyết Bất Đắc đột nhiên nhắc cái túi lên, tại không trung quay luôn ba vòng, Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nếu như ông ta thả tay quăng cái túi đi, hậu quả không biết đâu mà lường.

Chỉ nghe Thuyết Bất Đắc trầm giọng nói:

- Tiểu tử, để ta cho ngươi hay, ta là Bố Đại Hòa Thượng Thuyết Bất Đắc[1], người đi sau ta kia là Thiết Quan đạo nhân Trương Trung, còn người đang nói ở dưới kia là Chu Điên[2]. Ba người chúng ta, cộng thêm Lãnh Diện tiên sinh Lãnh Khiêm, Bành hòa thượng Bành Oánh Ngọc là Ngũ Tản Nhân[3] của Minh Giáo. Ngươi có biết Minh giáo chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Biết chứ. Thì ra đại sư cũng là người trong Minh giáo.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Ta và Lãnh Khiêm không thích giết người, Thiết Quan đạo nhân, Chu Điên, và Bành hòa thượng trước nay giết người không nháy mắt. Nếu như bọn họ biết được ngươi nằm trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta, thích là có thể ra tay bất cứ lúc nào, ngươi sẽ nát như bùn ngay.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi đâu có đắc tội gì với quí giáo, sao lại ...

Thuyết Bất Đắc nói:

- Bọn Thiết Quan đạo nhân giết người, có cần phải hỏi có tội hay không có tội đâu? Từ rày về sau, nếu ngươi còn muốn sống, nằm ở trong túi thì đừng có nói một câu nào, biết chưa?

Trương Vô Kỵ gật đầu. Thuyết Bất Đắc hỏi:

- Sao ngươi không trả lời?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Thì đại sư bảo tôi không được nói một câu nào mà.

Thuyết Bất Đắc mỉm cười, nói:

- Ngươi biết như thế là tốt lắm ... A, Vi huynh sao thế?

Câu sau cùng là ông ta nói với Chu Điên. Bỗng nghe Chu Điên líu cả lưỡi nói:

- Y ... y ... nguy lắm, nguy lắm rồi.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Ồ, ngực Vi huynh vẫn còn hơi ấm, Chu Điên, có phải ngươi cứu y đến đây không?

Chu Điên đáp:

- Còn đếch gì nữa, chẳng lẽ y cứu ta lại đây à?

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Chu Điên, ngươi cũng bị thương ư?

Chu Điên nói:

- Ta gặp con dơi hút máu nằm ngay đơ bên cạnh đường, đông cứng không còn thở một ly nào nữa. Ta thật đúng là ăn cướp lại mở lòng thương người, vận khí giúp y, biết đâu là âm độc trong người con dơi hút máu thật là lợi hại, nên mới ra nông nỗi này.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Chu Điên, lần này ngươi quả là làm được một điều tốt thật.

Chu Điên nói:

- Điều tốt điều dở cái gì chẳng biết, con dơi hút máu vừa hiểm độc vừa cổ quái, từ trước tới nay gã vốn không vừa mắt ta, nhưng lần này y lại làm một điều thật hợp ý Chu Điên này, thành thử ta mới thò tay ra cứu. Ngờ đâu cứu chưa được con dơi hút máu, hàn độc đã vào người, thế là chính cái mạng mình cũng đi theo y luôn thể.

Thiết Quan đạo nhân kinh hoảng hỏi:

- Ngươi bị thương nặng đến thế sao?

Chu Điên nói:

- Báo ứng, báo ứng. Con dơi hút máu và Chu Điên bình sinh không làm điều tốt bao giờ, có biết đâu vừa làm điều thiện là đại nạn đến ngay.

Thuyết Bất Đắc hỏi:

- Thế Vi huynh làm được điều gì tốt?

Chu Điên nói:

- Y kích dẫn nội lực, âm hàn phát tác, đúng ra chỉ cần uống máu người là chế ngự được. Ngay bên cạnh y có một cô gái nhỏ, vậy mà y cam chịu chết chứ không hút máu cô ta. Chu Điên này thấy thế mới bảo: "Chao ôi không xong, con dơi hút máu làm điều ngược đời, Chu Điên cũng phải phá lệ làm điều trái khoáy, cứu y một lần".

Trương Vô Kỵ nghe nói Vi Nhất Tiếu chưa hút máu Châu Nhi, thật mừng không sao kể xiết. Thuyết Bất Đắc thò tay ra sao vỗ trên bao vải một cái, hỏi thêm:

- Thế cô bé đó là ai?

Chu Điên nói:

- Ta cũng hỏi con dơi hút máu câu đó, y nói đó là cháu nội của lão già Bạch Mi. Y nói việc trước mắt là Minh giáo gặp nạn, tất cả mọi người phải đồng tâm hiệp lực, thành thử không thể nào hút máu cô ta được.

Thuyết Bất Đắc và Thiết Quan đạo nhân cùng vỗ tay nói:

- Chính là như thế. Bạch Mi, Thanh Dực hai vương bắt tay nhau, thanh thế của Minh giáo sẽ lên rất lớn.

Thuyết Bất Đắc tiếp lấy thân hình Vi Nhất Tiếu, kinh hoàng nói:

- Y toàn thân lạnh ngắt, làm sao bây giờ?

Chu Điên nói:

- Thấy chưa, ta đã bảo các ngươi mừng sớm quá, cái mạng của con dơi hút máu mười phần chết chín rồi, một con dơi chết nắm tay với Bạch Mi Ưng Vương thì Minh giáo cũng có ra cái gì đâu?

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Các ngươi chờ ở đây, để ta hạ sơn kiếm một người sống lên cho Vi Nhất Tiếu uống no máu là xong.

Nói xong tung mình chạy xuống núi. Chu Điên kêu lên:

- Khoan đã nào. Thằng mọi Thiết Quan ơi, ở đây là chỗ hoang vắng, đợi ngươi tìm được người, Vi Nhất Tiếu đã thành Vi Bất Tiếu rồi. Cái xác chết mà còn biết cười, thì thật là gớm quá. Thuyết Bất Đắc, đem gã tiểu tử nằm trong bao của ngươi ra cho Vi huynh làm thịt là xong.

Trương Vô Kỵ kinh hãi: "Thì ra bọn họ đã nhìn thấy ta trốn trong cái túi vải này rồi".

Thuyết Bất Đắc nói:

- Không được, người này có ơn với bản giáo, Vi Nhất Tiếu mà giết y, Ngũ Hành Kỳ thể nào cũng sẽ thí mạng với Vi huynh đó.

Ông ta đem chuyện Trương Vô Kỵ đem thân ra chịu ba chưởng của Diệt Tuyệt sư thái, cứu được mấy chục mạng của Nhuệ Kim Kỳ kể sơ qua, rồi nói:

- Chuyện như thế, Ngũ Hành Kỳ lẽ nào không một lòng kính phục gã tiểu tử này hay sao?

Thiết Quan đạo nhân hỏi:

- Thế ngươi bắt y bỏ vào trong bao, một món hàng quí giá như thế, chắc định thu phục Ngũ Hành Kỳ chứ gì?

Thuyết Bất Đắc nói:

- Không nói được, không nói được. Nói tóm lại, bản giáo tứ phân ngũ liệt, bây giờ đại nạn trước mắt, Thiên Ưng giáo từ xa đến tương trợ, vậy mà Ngũ Hành Kỳ lại lôi chuyện thù xưa ra trả, đánh nhau một trận tơi bời hoa lá. Chúng mình phải đồng tâm hiệp lực mới mong khỏi bị tiêu diệt. Người trong túi này có lợi cho việc người của các lộ bản giáo nắm tay nhau, không còn nghi ngờ gì nữa.

Ông ta nói xong, giơ tay phải đè vào huyệt Linh Đài sau lưng Vi Nhất Tiếu, vận khí giúp y đề ngự hàn độc. Chu Điên thở dài:

- Thuyết Bất Đắc, ngươi vì bạn bè mà hết lòng, không cần nói làm gì. Thế nhưng cũng nên cẩn thận coi chừng cái mạng của mình nữa đấy.

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Để ta giúp một tay.

Y giơ tay đè lên tay Thuyết Bất Đắc, hai luồng nội lực đồng thời tuôn vào cơ thể Vi Nhất Tiếu. Qua độ một bữa ăn, Vi Nhất Tiếu rên lên một tiếng nhỏ, tỉnh lại, nhưng răng vẫn đánh vào nhau lập cập, hiển nhiên vẫn còn lạnh lắm, run run nói:

- Chu Điên, Thiết quan đạo huynh, đa tạ hai vị cứu tôi.

Y không nói lời cảm ơn Thuyết Bất Đắc, vì hai người vốn là chỗ thâm giao, miệng nói ra lời đạo tạ e cũng bằng thừa. Thiết Quan đạo nhân công lực thâm hậu, nhưng bị âm độc trong thân thể Vi Nhất Tiếu đẩy trở ra, hết sức chống lại nên không thể mở miệng được, Thuyết Bất Đắc cũng tình trạng y như thế.

Bỗng nghe từ phía ngọn núi phía đông vọng tới tình tang mấy tiếng đàn, xen vào là một tiếng hú thanh thoát. Chu Điên nói:

- Lãnh Diện tiên sinh và Bành hòa thượng tìm đến rồi.

Y lớn tiếng kêu:

- Lãnh Diện tiên sinh, Bành hòa thượng, có người bị thương, các ngươi mau qua đây.

Tiếng đàn bên kia nghe tính tang một tiếng, ý nói đã nghe thấy rồi. Bành hòa thượng liền hỏi:

- Ai ... bị ... thương ... thế ...

Thanh âm truyền ra thật xa, vang động tiếng vọng từ sơn cốc. Y lại hỏi:

- Rốt ráo ai là người bị thương? Thuyết Bất Đắc không sao chứ? Thiết Quan huynh thì sao? Chu Điên, sao giọng ngươi trung khí bất túc?

Y hỏi một câu lại nhảy tới gần thêm vài trượng, đến khi hỏi xong, thì đã tới ngay bên cạnh, kinh hãi kêu lên:

- Chao ôi, thì ra Vi Nhất Tiếu bị thương.

Chu Điên nói:

- Ngươi hoảng hoảng hốt hốt, đúng là người chưa gấp thì mình đã gấp. Lãnh Diện huynh, ngươi lại đây tính thử xem sao nào.

Câu sau cùng là nói với Lãnh Diện tiên sinh Lãnh Khiêm. Lãnh Khiêm hừm một tiếng, không trả lời. Y biết Bành hòa thượng sẽ hỏi kỹ đầu đuôi, mình chỉ việc tập trung tinh thần lắng nghe là đủ. Quả nhiên Bành hòa thượng hỏi rối rít, hết câu này sang câu khác, Chu Điên lại trả lời bát nháo, chẳng đầu đuôi, đến khi y nói xong, Thuyết Bất Đắc và Thiết Quan đạo nhân đã vận khí xong. Bành hòa thượng và Lãnh Khiêm liền vận nội lực, chia ra giúp Vi Nhất Tiếu và Chu Điên giải trừ hàn độc.

Đến khi Vi, Chu hai người nguyên khí hồi phục được một chút, Bành hòa thượng nói:

- Ta từ hướng đông bắc tới, nghe tin chưởng môn phái Thiếu Lâm là Không Văn đích thân cùng các sư đệ Không Trí, Không Tính cùng các đệ tử hơn một trăm người đang tiến về Quang Minh Đính tham dự vào việc vây đánh bản giáo.

Lãnh Khiêm nói:

- Chính đông, Võ Đương ngũ hiệp.

Y nói năng hết sức đơn giản, dù có chặt đầu y cũng không nói thừa một câu, một chữ nào. Chỉ sáu chữ nhưng ý tứ rõ ràng là "Phía chính đông có Võ Đương ngũ hiệp đến đánh". Cho đến cả Võ Đương ngũ hiệp gồm những ai, thì tất cả đều biết là gồm Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc, không cần phải dài dòng.

Bành hòa thượng nói:

- Sáu phái chia nhau ra đến đánh chúng ta, mỗi lúc thắt chặt vòng vây. Ngũ Hành kỳ đã tiếp chiến mấy trận, tình thế thật là bất lợi, kế trước mắt, bọn mình chỉ còn có nước lên Quang Minh Đính thôi.

Chu Điên giận dữ nói:

- Nói gì nghe thối như rắm chó thế. Thằng khốn Dương Tiêu không đến cầu mình, Ngũ Tản Nhân việc quái gì phải lên trên đó?

Bành hòa thượng nói:

- Chu Điên, nếu như sáu môn phái công phá Quang Minh Đính, dập tắt thánh hỏa thì mình có còn đáng mặt làm người nữa không? Dương Tiêu đắc tội với Ngũ Tản Nhân thì có lỗi đã đành, nhưng mình lên tiếp viện Quang Minh Đính là vì Minh giáo, có phải vì Dương Tiêu đâu.

Thuyết Bất Đắc cũng nói:

- Lời của Bành hòa thượng đúng lắm. Dương Tiêu tuy vô lễ, nhưng hộ giáo là việc lớn, thù riêng là chuyện nhỏ.

Chu Điên chửi:

- Thối quá, thối quá. Hai con lừa trọc này ăn nói thối quá, không chịu nổi. Thiết Quan đạo nhân, năm xưa Dương Tiêu đánh vỡ vai trái ngươi, ngươi có còn nhớ không?

Thiết Quan đạo nhân trầm ngâm rồi nói:

- Hộ giáo ngự địch là chuyện lớn. Còn món nợ cũ của Dương Tiêu, đợi khi đuổi được ngoại địch rồi mình sẽ thanh toán sau. Khi đó cả năm người trong Ngũ Tản Nhân liên thủ thì thể nào y cũng phải cúi đầu.

Chu Điên hứ một tiếng nói:

- Lãnh Khiêm, còn ngươi thì sao?

Lãnh Khiêm đáp:

- Cùng đi.

Chu Điên nói:

- Ngươi cũng chịu khuất phục Dương Tiêu ư? Năm xưa bọn ta đã lập trọng thệ là từ nay chuyện của Minh giáo, Ngũ Tản Nhân sẽ thõng tay không nhúng vào. Không lẽ những gì nói trước đây không đếm xỉa gì cả hay sao?

Lãnh Khiêm đáp:

- Bỏ hết.

Chu Điên giận quá, đứng phắt dậy nói:

- Các ngươi ăn nói không giữ lời, chứ ta nhất định không bỏ.

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Sự việc không thể trì hoãn, mình mau lên Quang Minh Đính ngay.

Bành hòa thượng khuyên Chu Điên:

- Điên huynh, năm xưa tất cả vì chuyện tranh lập giáo chủ nên mới giở mặt thành thù hận, Dương Tiêu dĩ nhiên bụng dạ nhỏ nhen, nhưng nghĩ cho kỹ, Ngũ Tản Nhân cũng có chỗ không phải ...

Chu Điên nổi cọc:

- Nói lếu nói láo, bọn Ngũ Tản Nhân mình có người nào muốn làm giáo chủ đâu mà sai trái?

Thuyết Bất Đắc nói:

- Chuyện cũ của bản giáo đúng sai thế nào, nói qua nói lại hàng năm hàng tháng cũng chưa minh bạch được. Chu Điên, ta hỏi ngươi, ngươi có phải là đệ tử của Minh Tôn Hỏa Thánh của Minh giáo không?

Chu Điên đáp:

- Cái đó còn phải hỏi nữa?

Thuyết Bất Đắc nói:

- Bây giờ bản giáo đại nạn đương đầu, bọn ta nếu khoanh tay ngồi nhìn, mai này chết đi, mặt mũi nào gặp lại Dương giáo chủ và bái kiến Minh Tôn[4]. Ngươi nếu sợ lục đại phái thì cứ việc đi khỏi, bọn ta ở trên Quang Minh Đính đánh cho tới chết, tuẫn giáo rồi ngươi đến thu tàn cốt vậy.

Chu Điên nhảy nhổm lên, giơ chưởng đánh thẳng vào mặt Thuyết Bất Đắc:

- Thối lắm.

Chỉ nghe một tiếng bốp ròn tan, Thuyết Bất Đắc đã bị đánh một chưởng thật mạnh. Y lặng lẽ há miệng nhả ra mấy cái răng bị đánh gãy, không nói một tiếng, nhưng một bên má từ trắng sang đỏ, từ đỏ sang tím bầm, sưng vù lên.

Bọn Bành hòa thượng đều kinh hãi, còn Chu Điên cũng đứng chết trân. Nên biết võ công của Thuyết Bất Đắc so với Chu Điên hai bên ngang ngửa, Chu Điên thuận tay đánh ra, chỉ cần y đỡ đòn hay né tránh, thì không cách nào có thể đánh trúng được. Nào ngờ y cứ để mặc kệ nên trúng phải chưởng này bị thương không nhẹ. Chu Điên đâu ngờ ra nông nỗi đó, kêu lên:

- Thuyết Bất Đắc, ngươi đánh lại ta đi, ngươi không đánh ta thì không phải là người.

Thuyết Bất Đắc cười nhạt:

- Ta có khí lực, giữ lại để đánh kẻ địch, đánh bên mình để làm gì?

Chu Điên giận dữ, giơ tay lên, tự đánh vào mặt mình một chưởng thật mạnh, nghe bộp một cái cũng nhả ra mấy cái răng. Bành hòa thượng kinh hãi nói:

- Chu Điên, ngươi làm trò quỉ gì thế?

Chu Điên hậm hực nói:

- Ta lỡ tay đánh Thuyết Bất Đắc, bảo y đánh lại, y không đánh, thì ta phải tự mình đánh mình chứ sao.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Chu Điên, anh với tôi tình như anh em ruột thịt, bốn người chúng tôi lên Quang Minh Đính một phen tử chiến, bây giờ là lúc chúng mình sinh ly tử biệt, một chưởng anh đánh tôi có đáng gì đâu?

Chu Điên trong lòng khích động, khóc òa lên, nói:

- Tôi cũng lên Quang Minh Đính. Món nợ cũ của Dương Tiêu, tạm thời để đó đã.

Bành hòa thượng mừng quá, nói:

- Có thế mới là anh em chứ.

Trương Vô Kỵ nằm trong túi vải, những gì họ nói với nhau chàng đều nghe rõ, nghĩ thầm: "Năm người này võ công cực cao, điều đó không còn phải nói nữa. Cái khó là cả năm người đều nghĩa khí thâm trọng, trong Minh giáo cao nhân không phải là ít, không lẽ ai cũng là tà ma ngoại đạo cả hay sao?".

Chàng còn đang suy nghĩ, bỗng thấy thân thể di động, có lẽ Thuyết Bất Đắc lại vác mình chạy lên Quang Minh Đính. Chàng biết tin Châu Nhi không sao rồi, trong lòng không còn khắc khoải, chuyện chàng quan hoài lúc này chỉ là việc sáu môn phái vây đánh Quang Minh Đính, không biết cục thế ra sao. Chàng lại nghĩ đến khi lên trên Quang Minh Đính rồi, sẽ gặp lại cô bạn nhỏ năm xưa Dương Bất Hối, nay đã khôn lớn không biết có còn nhận ra mình nữa không.

Đoàn người đi thêm một ngày một đêm nữa, cứ vài tiếng một lần, Thuyết Bất Đắc lại mở nút bao trên miệng ra, để Trương Vô Kỵ thở hút không khí, sau đó lại buộc chặt miệng bao lại. Đến chiều hôm sau, Trương Vô Kỵ bỗng thấy cái túi bị kéo lê dưới đất, lúc đầu chưa hiểu tại sao, về sau đầu bị va mạnh vào mấy tảng đá mới rõ là đoàn người đang đi trong một hang núi. Trong cái hang này khí hậu thật lạnh, hơi thở cũng nặng nề khó chịu, đi khoảng nửa tiếng đồng hồ, lúc ấy mới ra khỏi hang, lại tiếp tục trèo lên núi. Thế nhưng lên chẳng bao lâu, lại chui vào một đường hầm khác. Trước sau cả thảy qua năm cái hang, mới nghe Chu Điên kêu lên:

- Bớ Dương Tiêu, con dơi hút máu cùng với Ngũ Tản Nhân đến kiếm ngươi đây.

Qua một hồi, nghe thấy phía trước có người nói:

- Không ngờ Bức Vương cùng Ngũ Tản Nhân đại giá quang lâm, Dương Tiêu không ra xa nghinh đón, mong được thứ tội.

Chu Điên nói:

- Ngươi giả dối làm gì nữa? Trong bụng ngươi đang chửi thầm, Ngũ Tản Nhân ăn nói như rắm chó, đã bảo vĩnh viễn không lên Quang Minh Đính, vĩnh viễn không lý tới chuyện Minh giáo, hôm nay lại dẫn xác tới đây làm gì.

Dương Tiêu nói:

- Sáu đại phái bốn mặt vây công, tiểu đệ một bàn tay không vỗ thành tiếng, đang lo lắng không biết làm sao. Hôm nay được Bức Vương cùng Ngũ Tản Nhân nghĩ đến thể diện Minh Tôn, trượng nghĩa tương trợ, thật là phúc của bản giáo.

Chu Điên nói:

- Ngươi biết thế là hay lắm đó.

Dương Tiêu liền mời Ngũ Tản Nhân vào trong nội đường, tiểu đồng lập tức đem trà nước cơm rượu lên. Đột nhiên, tên tiểu đồng kêu "A" một tiếng thảm thiết. Trương Vô Kỵ nằm trong túi cũng thấy nổi da gà, không hiểu duyên cớ gì. Qua một hồi, bỗng nghe Vi Nhất Tiếu nói:

- Dương tả sứ, giết chết một đồng nhi của ông, Vi Nhất Tiếu sau này thể nào cũng có lúc báo đáp.

Y nói năng tinh thần sung túc, so với khi trước giọng thều thào thật khác nhau xa. Trương Vô Kỵ giật mình: "Y uống máu nóng của tên tiểu đồng rồi, hàn độc trong người đã chế ngự được".

Lại nghe Dương Tiêu thản nhiên nói:

- Chỗ anh em, nói gì chuyện báo đáp hay không báo đáp? Bức Vương lên trên Quang Minh Đính này là đã nể mặt mỗ lắm rồi.

Cả bảy người đều là những cao thủ hạng nhất trong Minh giáo, tuy rằng đại địch trước mắt, nhưng cả bảy người tụ lại đây, tinh thần ai nấy đều phấn chấn. Ăn cơm uống rượu xong, lập tức thương lượng kế sách ngự địch. Thuyết Bất Đắc để cái túi vải xuống dưới chân, Trương Vô Kỵ vừa đói vừa khát nhưng nhớ lời dặn của Thuyết Bất Đắc, không dám động đậy mở lời.

Hồi 19

HỌA KHỞI TIÊU TƯỜNG PHÁ KIM THANG--

Bảy người bàn bạc một hồi, Bành hòa thượng nói:

- Quang Minh hữu sứ và Tử Sam Long Vương không biết nơi đâu, Kim Mao Sư Vương sống chết thế nào cũng khó đoán biết, ba người đó mình không bàn tới nữa. Việc bất hạnh nhất trước mắt đây là Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng giáo thù oán càng ngày càng sâu, mấy hôm trước đánh nhau một trận to, hai bên tử thương đều nặng. Nếu như bọn họ cũng lên cả Quang Minh Đính, nắm tay nhau kháng địch, chẳng nói sáu môn phái vây công, mà có đến mười hai phái, mười tám phái, Minh giáo cũng có đủ người chống đỡ, nước đến thì be bờ, không nao núng chút nào.

Thuyết Bất Đắc đá nhẹ vào cái bao, nói:

- Tiểu tử trong cái bao này, với Thiên Ưng giáo có chút uyên nguyên, mới đây lại có ơn với Ngũ Hành Kỳ, sau này rất có thể để gã hòa giải hiềm khích của hai bên.

Vi Nhất Tiếu lạnh lùng đáp:

- Ngôi vị giáo chủ ngày nào chưa định xong, phân tranh trong bản giáo vẫn chưa giải quyết được. Dù y có tài ba bằng trời, hiềm khích giữa hai bên cũng không sao lấp bằng được. Dương tả sứ, tại hạ muốn hỏi ông một câu, sau khi đẩy lui được địch rồi, tả sứ ủng hộ ai lên làm giáo chủ?

Dương Tiêu thản nhiên đáp:

- Thánh hỏa lệnh về tay người nào, ta ủng hộ người đó lên làm giáo chủ. Đó là qui củ từ xưa của bản giáo, ngươi hỏi ta để làm gì?

Vi Nhất Tiếu đáp:

- Thánh hỏa lệnh thất lạc đã gần một trăm năm nay, không lẽ ngày nào thánh hỏa lệnh chưa tìm thấy, Minh giáo ngày đó không có giáo chủ hay sao? Lục đại phái sở dĩ dám vây đánh Quang Minh Đính, không coi bản giáo vào đâu, chẳng phải vì biết rằng bản giáo không có người thống thuộc, nội bộ chia năm xẻ bảy đấy sao.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Vi huynh nói câu đó đúng lắm. Bố Đại hòa thượng này chẳng ở trong Ân phái, cũng chẳng ở trong Vi phái, ai làm giáo chủ cũng được, nhưng phải có người đứng đầu. Nếu không có giáo chủ thì một người phó giáo chủ cũng được, nếu không hiệu lệnh không đồng đều, làm sao có thể ngự địch được?

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Lời của Thuyết Bất Đắc, chính hợp bụng ta.

Dương Tiêu mặt biến sắc nói:

- Các vị lên Quang Minh Đính là để giúp ta ngự địch, hay là lên gây chuyện với ta?

Chu Điên cười ha hả nói:

- Dương Tiêu, ngươi không bằng lòng suy tuyển giáo chủ, cái dụng tâm đó tưởng Chu Điên này không biết chắc? Minh giáo không có giáo chủ thì Quang Minh tả sứ là cao nhất. Hà hà, nói cho ngay, tuy chức vị ngươi có cao thật, người ta không nghe lệnh của ngươi, thì có làm đếch gì? Ngươi có điều động được Ngũ Hành Kỳ không? Tứ đại hộ giáo pháp vương có để cho ngươi chỉ huy không? Còn Ngũ Tản Nhân năm người bọn ta thì cũng hạc nội mây ngàn, chẳng coi Quang Minh tả sứ giả là cái quái gì.

Dương Tiêu đứng bật dậy, lạnh lùng nói:

- - Hôm nay ngoại địch đến đánh, Dương Tiêu không có rỗi hơi đâu mà tranh cãi với quí vị. Các vị nếu tụ thủ bàng quan, coi chuyện tồn vong của Minh giáo không vào đâu, thì xin mời xuống núi rời Quang Minh Đính. Dương Tiêu nếu không chết, ngày sau thể nào cũng tới gặp từng người một.

Bành hòa thượng khuyên can:

- Dương tả sứ, xin đừng nổi giận. Lục đại phái vi công Minh giáo, phàm đã là đệ tử bản giáo, ai ai cũng có trách nhiệm hộ giáo cả, chứ không phải chỉ là việc của mình ông.

Dương Tiêu cười khẩy:

- Chỉ e bản giáo có những kẻ chỉ mong Dương Tiêu bị lục đại phái phanh thây, để nhổ bớt cái gai trong mắt.

Chu Điên nói:

- Ngươi nói ai thế?

Dương Tiêu đáp:

- Bụng ai người ấy rõ, việc gì phải nói cho phí lời.

Chu Điên nổi khùng nói:

- Ngươi nói ta chăng?

Dương Tiêu mắt nhìn chỗ khác, không thèm để ý tới y. Bành hòa thượng thấy Chu Điên mắt có chiều khác lạ, tưởng như tính đứng lên động thủ cùng Dương Tiêu, vội can:

- Người xưa có nói rằng: Bên trong có ấm thì ngoài mới êm. Chúng mình nên ngồi xuống bàn tính kế ngự địch là hơn.

Dương Tiêu nói:

- Oánh Ngọc đại sư quả biết đại thể, đúng là như thế.

Chu Điên lớn tiếng nói:

- - Hay nhỉ. Thằng giặc trọc họ Bành thì biết đại thể, còn Chu Điên chắc chỉ biết tiểu thể phải không?

Y nổi tính ngang bướng, không còn phải trái gì nữa quát lên:

- Hôm nay nếu nói chuyện ngôi vị giáo chủ, Chu Điên chủ trương để Vi Nhất Tiếu đứng ra làm giáo chủ Minh giáo. Con dơi hút máu võ công cao cường, lắm mưu nhiều kế, trong bản giáo chẳng ai bì kịp với y được.

Thực ra Chu Điên bình thời đâu có giao tình gì với Vi Nhất Tiếu, đúng ra ác cảm nhiều hơn hảo cảm, nhưng y định chọc tức Dương Tiêu, nên mới đứng ra suy cử Vi Nhất Tiếu. Dương Tiêu cười sằng sặc, nói:

- Ta xem nên mời Chu Điên lên làm giáo chủ là hay nhất. Minh giáo hiện đang tứ phân ngũ liệt, lại có được Chu đại giáo chủ vừa điên vừa đảo, đảo xong lại điên, như thế mới thật là dễ bắt mắt.

Chu Điên nổi trận lôi đình, quát lớn:

- Con mẹ ngươi, nói thối đếch chịu được.

Nghe vù một tiếng nhắm ngay đầu Dương Tiêu đánh tới. Mới đây Chu Điên đánh Thuyết Bất Đắc gãy mấy cái răng là vì Thuyết Bất Đắc không tránh né, không đỡ gạt, nhưng đụng phải Dương Tiêu đâu có dễ dàng như thế. Hơn mười năm trước, cũng vì việc lập giáo chủ mà y cùng Ngũ Tản Nhân tranh chấp kịch liệt, khi đó Ngũ Tản Nhân lập trọng thệ là vĩnh viễn không lên Quang Minh Đính nữa, hôm nay phá lời thề quay lại, y trong bụng cũng đã khởi nghi, bỗng thấy Chu Điên đột nhiên ra tay, liền cho rằng Ngũ Tản Nhân ước hẹn với Vi Nhất Tiếu cùng lên tính chuyện gia hại mình, vừa kinh hoảng, vừa tức giận, hữu chưởng liền tung ra, đỡ ngay bàn tay Chu Điên lại.

Vi Nhất Tiếu biết Chu Điên bị thương mới khỏi nguyên khí chưa hồi phục không thể nào chống đỡ nổi chưởng lực của Dương Tiêu, lập tức giơ tay vượt qua đầu, tiếp lấy. Tay hai người đụng nhau không một tiếng động.

Thì ra Dương Tiêu tuy có hiềm khích với Chu Điên nhưng vẫn nghĩ tình đồng giáo, không chủ định một chưởng đánh chết y, nên không sử toàn lực. Còn Vi Nhất Tiếu võ công thâm hậu, một chiêu trong Hàn Băng Miên Chưởng đánh ra, Dương Tiêu thấy tay phải chấn động, một luồng khí âm hàn theo bắp thịt chạy lên, vội vàng vận nội lực chống lại. Hai người công lực ngang ngửa, lập tức dính chặt lấy nhau.

Chu Điên kêu lên:

- Họ Dương kia, nếm thêm một chưởng nữa của ta này.

Chưởng kia chưa đánh xong, chưởng thứ hai lại đánh luôn vào ngực Dương Tiêu. Thuyết Bất Đắc kêu lên:

- Chu Điên, không được quấy phá.

Bành Oánh Ngọc cũng nói:

- Dương tả sứ, Vi Bức Vương, hai vị mau mau ngừng tay, đừng để mất hòa khí.

Y đưa tay định đẩy chưởng của Chu Điên ra, Dương Tiêu hơi nghiêng người, tả chưởng đã dính chặt lấy hữu chưởng của Chu Điên. Thuyết Bất Đắc quát lớn:

- Chu Điên, các ngươi hai người đánh một, còn gì là hảo hán?

Y giơ tay chộp đầu vai Chu Điên toan kéo ra, tay chưa đụng tới đã thấy Chu Điên toàn thân run rẩy, tưởng chừng đã bị nội thương. Thuyết Bất Đắc giật mình kinh hãi, y vốn biết Quang Minh tả sứ võ công thông thần, là cao thủ số một của bản giáo, có lẽ chỉ một chưởng đã đánh Chu Điên bị thương. Y thấy tay phải Chu Điên dính chặt tay trái Dương Tiêu, không chịu rời ra nên kêu lớn:

- Chu Điên, mình anh em trong nhà cả, sao lại đánh thí mạng như thế?

Y đẩy vào đầu vai Chu Điên đồng thời nói:

- Dương tả sứ, ra tay nhẹ đòn cho.

Chỉ sợ Dương Tiêu không chịu thu hồi chưởng lực, thuận thế đánh tiếp theo. Nào ngờ tay y vừa kéo ra, Chu Điên thân hình lảo đảo không sao lôi ra được, đồng thời một luồng khí lạnh thấu xương chạy thẳng từ lòng bàn tay lên đến ngực khiến Thuyết Bất Đắc cũng giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: "Đây là môn công phu độc đáo Hàn Băng Miên Chưởng của Vi huynh, làm sao Dương Tiêu cũng luyện được rồi?". Lập tức vận nội lực chống lại hàn khí, nhưng hơi lạnh càng lúc càng ghê gớm, chỉ trong giây lát, Thuyết Bất Đắc đã răng đánh vào nhau cầm cập, xem ra chịu không nổi nữa rồi.

Thiết Quan đạo nhân và Bành Oánh Ngọc hai người tiến tới, một người đỡ Chu Điên, một người đỡ Thuyết Bất Đắc. Sức của bốn người hợp lại, hàn khí không còn nguy hiểm nữa, nhưng sao lực đạo từ lòng bàn tay Dương Tiêu truyền ra khi mạnh, khi yếu, lúc chậm lúc nhanh, biến hóa vô cùng. Bốn người không dám lấy tay về, chỉ sợ trong một sát na khi vừa buông ra thu sức, Dương Tiêu đột nhiên tấn công, bốn người không chết cũng bị trọng thương. Bành Oánh Ngọc kêu lên:

- Dương tả sứ, chúng mình đại địch trước mặt, sao lại ... sao lại ... sao lại ...

Nói chưa dứt câu, răng đánh vào nhau lập cập, tưởng như toàn thân huyết dịch đang đóng thành băng. Thì ra y vừa mở miệng, chân khí tiết ra, không còn sức chống trả được khí lạnh đang truyền đến.

Cứ như thế độ một chén trà, Lãnh Diện tiên sinh Lãnh Khiêm đứng bên ngoài quan sát, thấy Vi Nhất Tiếu và bốn người đều thần sắc khẩn trương, còn Dương Tiêu vẫn thản nhiên như thường, trong bụng lấy làm nghi hoặc: "Dương Tiêu võ công tuy cao, nhưng so với Vi Nhất Tiếu cũng chỉ một chín một mười, chắc gì đã thắng nổi y. Vậy mà lại thêm bọn Thuyết Bất Đắc bốn người nữa, Dương Tiêu không cách nào có thể đương cự nổi, vậy mà y lấy một địch năm, xem ra lại còn thắng thế, bên trong chắc có gì khác lạ?". Y cúi đầu suy nghĩ, nhất thời không hiểu lý do tại sao.

Bỗng nghe Chu Điên kêu lên:

- - Con quỉ mặt lạnh ... đánh ... đánh vào lưng y ... đánh ...

Lãnh Khiêm chưa hiểu được nguyên nhân bên trong, không muốn ra tay, trong cả bọn Ngũ Tản Nhân nay chỉ còn y đứng ngoài, giải nguy thoát khốn, toàn ở mình cả. Nếu y cũng tiến lên đương cự với Dương Tiêu, thêm một người dĩ nhiên sức sẽ gia tăng rất nhiều, nhưng chưa chắc đã thắng. Y thấy Chu Điên và Bành Oánh Ngọc mặt mày tái mét, dường như không còn chịu nổi, để cho âm độc chạy vào nội tạng sẽ gây ra họa hoạn vô cùng nên thò tay vào trong bọc, lấy ra năm cây bút nhỏ đúc bằng bạc vụn, cầm lăm lăm trong tay, nói:

- Năm cây bút, đánh vào Khúc Trì, Cự Cốt, Dương Khoát, Ngũ Lý, Trung Đô.

Năm huyệt này đều nằm trên chân tay, không phải là những huyệt chí mạng, y lại nói trước, ý muốn cho Dương Tiêu hay, không muốn đối địch với y mà chỉ cốt để hai bên bãi đấu rút tay về.

Dương Tiêu mỉm cười, không thèm để ý tới. Lãnh Khiêm kêu lên:

- Xin lỗi nhé.

Tay trái giơ lên, tay phải vung ra, năm điểm ánh sáng trắng lấp lánh bắn thẳng vào Dương Tiêu. Dương Tiêu đợi năm cây bút bạc tới gần, đột nhiên tay tái tạt ngang, xoay bọn Chu Điên quay ra phía trước, nghe tiếng Chu Điên và Bành Oánh Ngọc hự lên một tiếng, năm cây bút đã trúng hai người, Chu Điên trúng hai cây, ba cây còn lại vào Bành Oánh Ngọc. Cũng may là Lãnh Khiêm không có ý giết người, ra tay thật nhẹ, mặc dầu cũng chảy máu nhưng không trúng vào các huyệt đạo nên không sao.

Bành Oánh Ngọc nói nhỏ:

- Đây là môn Càn Khôn Đại Na Di đó.

Lãnh Khiêm nghe đến năm chữ Càn Khôn Đại Na Di lập tức hiểu ngay. Càn Khôn Đại Na Di là một môn võ công rất là lợi hại đời đời tương truyền của Minh giáo, nguyên lý căn bản tuy không có gì áo diệu, trước hết khích động tiềm lực của chính bản thân, sau đó mới lôi kéo thay đổi (na di) kình lực đối phương. Thế nhưng những biến hóa thần kỳ bên trong thì không ai có thể tưởng tượng nổi. Từ khi giáo chủ tiền nhiệm Dương Đính Thiên qua đời, trong Minh giáo không một ai biết sử dụng công phu đó, thành ra sáu người nhất thời không ai nghĩ ra. Nếu đúng như thế, Dương Tiêu thực ra chưa hề ra sức, chỉ đem chưởng lực của Vi Nhất Tiếu chống với bốn người kia, rồi lấy sức của tứ tản nhân sang tấn công Vi Nhất Tiếu, chính mình đứng giữa ngồi không làm cái cầu bắc cho nội lực hai bên dẫn qua, chẳng qua Cách Sơn Quan Hổ Đấu[5] mà thôi.

Lãnh Khiêm nói:

- Chúc mừng. Không ác ý, xin ngừng tay.

Ông ta nói năng thật giản khiết "Chúc mừng" hai chữ là để khánh hạ Dương Tiêu luyện được môn thần công thất truyền đã lâu của Minh giáo là Càn Khôn Đại Na Di; "không ác ý" là nói sáu người bọn họ lên núi hoàn toàn không có ác ý, quả là muốn đồng tâm chung sức chống địch mà thôi; "xin ngừng tay" là xin hai bên bãi đấu, đừng hiểu lầm nhau.

Dương Tiêu biết y cả đời không bao giờ nói thừa một chữ, một câu, chính vì hà tiện lời nói nên không bao giờ nói láo. Y nói rằng "không ác ý", thì nhất định quả thực không có ác ý, vừa mới rồi ném năm cây bút bạc, rõ ràng để giải vây chứ không phải để đả thương ai, liền lớn tiếng cười ha hả, nói:

- Vi huynh, Tứ Tản Nhân, ta đếm một, hai, ba tất cả cùng rút tay về để khỏi ai bị thương, nghe chưa?

Y thấy Vi Nhất Tiếu và bốn người kia ai nấy gật đầu, liền chậm rãi đếm:

- Một, hai, ba.

Chữ "ba" vừa ra khỏi miệng, Dương Tiêu liền thu Càn Khôn Đại Na Di thần công về, đột nhiên sau lưng lạnh ngắt, một luồng chỉ lực sắc bén chọc thẳng vào huyệt Thần Đạo. Dương Tiêu giật mình kinh hãi nghĩ thầm: "Bức Vương quả thực âm độc, lại thừa thế đánh lén ta". Đang toan quay chưởng lại phản kích thì thấy Vi Nhất Tiếu thân hình loạng choạng, đứng không vững, rõ ràng cũng bị ám toán rồi.

Trong đời Dương Tiêu đã từng trải qua không biết bao nhiêu trận đánh, tuy lần này bị chuyện bất ngờ nhưng không hoảng loạn, liền nhào người về phía trước, để thoát khỏi khống chế của kẻ đứng sau lưng, quay đầu lại, trong một thoáng đã thấy Chu Điên, Bành Oánh Ngọc, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc bốn người đã nằm lăn dưới đất, còn Lãnh Khiêm đang đánh một chưởng vào một người mặc áo bào màu tro. Người đó xoay tay lại đỡ, Lãnh Khiêm hự lên một tiếng, thanh âm có vẻ đau đớn.

Dương Tiêu hít một hơi, tung mình nhảy đến định ra tay giúp Lãnh Khiêm, đột nhiên một luồng hàn khí lạnh như băng từ huyệt Thần Đạo ở sau lưng chạy ngược lên đến các huyệt Thân Trụ, Hung Đạo, Đại Truy, Phong Phủ rồi lan ra khắp Đốc Mạch. Dương Tiêu biết là không ổn, địch nhân võ công quá cao siêu, lòng dạ lại âm độc, đợi đúng giây phút mình và Vi Nhất Tiếu, tứ tản nhân cùng thu công tản lực mới ra tay đột kích nên chỉ còn nước vận nội lực kháng cự mà thôi.

Luồng hàn khí này hoàn toàn khác hẳn khí lạnh Hàn Băng Miên Chưởng của Vi Nhất Tiếu, chỉ nhỏ mỏng mảnh như một sợi tơ, thế nhưng đến chỗ nào, nơi đó lập tức tê đi. Nếu như chính diện đối địch, Dương Tiêu có nội công hộ thể, không để đến nỗi chỉ lực xuyên vào cơ thể, thế nhưng lúc này đã bị ám toán, chỉ còn nước cố chịu đau, giúp Lãnh Khiêm đánh bại kẻ địch rồi sẽ tính sau.

Y hết sức xông tới, giơ tay phải lên đang định đánh ra, đột nhiên toàn thân lạnh ngắt, kình lực biến đâu mất hết. Lúc này Lãnh Khiêm đã cùng người kia qua lại đến hơn hai chục chiêu, xem ra không địch nổi. Dương Tiêu nóng ruột, thấy Lãnh Khiêm giơ chân đá ra, bị người kia tiến lên một bước, đâm một chỉ vào ngay cánh tay. Lãnh Khiêm thân hình loạng choạng, ngã ngửa về phía sau. Dương Tiêu vừa sợ vừa tức, thu hết tàn lực, cùi chỏ bên phải như cái chùy nhắm ngay ngực người áo xám tống một cái. Người áo xám chỉ bên trái đâm ra, trúng ngay huyệt Tiểu Hải dưới khuỷu tay, toàn thân Dương Tiêu lập tức tê chồn, không còn cử động gì được nữa. Người áo xám cười khẩy nói:

- Quang Minh tả sứ danh bất hư truyền, trúng liền hai lần Huyễn Âm Chỉ của ta mà vẫn còn đứng được.

Dương Tiêu đáp:

- Công phu đạn chỉ của ngươi là thủ pháp của phái Thiếu Lâm, thế nhưng nội kình cái gì gọi là Huyễn Âm Chỉ đó, hừ hừ, phái Thiếu Lâm làm gì có loại võ công âm độc như thế. Ngươi là người nào?

Người áo xám cười ha hả, nói:

- Bần tăng Viên Chân, tọa sư pháp danh thượng "Không" hạ "Kiến". Lần này lục đại phái vi tiễu ma giáo, các ngươi chết dưới tay phái Thiếu Lâm cũng không phải là uổng đâu.

Dương Tiêu nói:

- Lục đại môn phái với Minh giáo chúng ta là địch, đao thương trước mặt, một trận tử chiến, thế mới là tư cách của kẻ đại trượng phu. Không Kiến thần tăng nhân hiệp nổi danh, thiên hạ ai ai cũng biết, ngờ đâu tọa hạ lại có một đồ đệ hèn hạ vô liêm sỉ ...

Nói đến đây, không còn chịu nổi, hai đầu gối nhũn ra, ngồi phịch xuống đất. Viên Chân cười ha hả, nói:

- Xuất kỳ chế thắng, binh bất yếm trá[6] là chuyện từ xưa tới nay. Viên Chân này chỉ một thân một mình đánh ngã bảy đại cao thủ của Minh giáo, các ngươi thua mà còn không phục hay sao?

Dương Tiêu lắc đầu thở dài:

- Ngươi làm sao có thể lẻn vào Quang Minh Đính? Con đường bí mật đó ngươi làm sao biết được? Nếu không hiểu được, Dương Tiêu này chết không nhắm mắt.

Y nghĩ đến việc Viên Chân kỳ này đánh lén thành công, dĩ nhiên là vì thân mang tuyệt kỹ võ công, nhưng nguyên nhân chủ yếu, cũng là ở việc biết được con đường bí mật lên Quang Minh Đính, vượt qua được cả chục trạm canh gác của giáo chúng Minh giáo, thần không hay, quỉ không biết ra tay bất ngờ, mới đánh ngã cả bảy cao thủ của Minh giáo cùng một lượt. Tổng đàn của Minh giáo đóng tại Quang Minh Đính đã mấy trăm năm nay, dựa vào thiên nhiên hiểm trở, kiên cố vô cùng, ngờ đâu họa lại ở ngay từ bên trong ra, không kịp phòng bị, một lần tan tành ra mây khói, trong bụng nghĩ đến câu trong Luận Ngữ của Khổng Tử:

Quốc gia chia rẽ sụp đổ không thể giữ được, trong nước có chiến tranh đánh lẫn nhau, ta cho rằng cái lo lắng chẳng phải ở chuyện sơ sót một ngày một buổi mà là cái tai họa từ bên trong vậy.[7]

Viên Chân cười đáp:

- Quang Minh Đính của Minh giáo các ngươi bảy chỏm, mười ba vách, ai ai cũng tưởng là hiểm trở trời cho, nhưng dưới mắt tăng lữ Thiếu Lâm chúng ta thì chẳng khác gì đường lớn khang trang, có đáng gì đâu? Các ngươi đều trúng phải Huyễn Âm Chỉ của ta rồi, trong vòng ba ngày đều về tây thiên cả, không còn gì để nói nữa. Bây giờ bần tăng lên Tọa Vong Phong, chôn vài chục cân thuốc nổ để khi ta dập tắt ma hỏa, cái gì Thiên Ưng giáo, Ngũ Hành Kỳ sẽ lật đật chạy lên cứu viện. Thế là nghe ầm một tiếng lớn, hỏa dược chôn dưới đất sẽ nổ tung, khói bay lửa tắt, tất cả ma giáo đồ sẽ tan xác. Người đời sẽ có câu rằng:

Sư Thiếu Lâm một ngón tay diệt Minh giáo,

Đỉnh Quang Minh bảy ma đầu về Tây phương[8]

Bọn Dương Tiêu nghe y nói thế đều hết sức kinh hãi, biết y nói là làm, chính mình có chết cũng không sao, chỉ sợ Minh giáo đã truyền ba mươi ba đời nay bị diệt dưới tay nhà sư Thiếu Lâm này thôi.

Lại nghe Viên Chân càng nói càng đắc ý:

- - Bên trong Minh giáo, cao thủ thật là nhiều, các ngươi nếu chẳng tự tàn sát lẫn nhau, chia năm xẻ bảy, làm sao có cái họa bị tiêu diệt được? Cứ việc hôm nay mà nói, bảy người các ngươi nếu chẳng phải đang tỉ thí chưởng lực, bần tăng dù có lẻn lên trên Quang Minh Đính được chăng nữa, nhưng đâu có thể ra tay một lần là thành công? Cái đó gọi là "trời làm tội còn có đường sống, tự mình làm tội, không thể sống được"[9]. Ha ha, có ai ngờ Minh giáo uy danh lừng lẫy năm nào, Dương Đính Thiên chết đi lại ra nông nỗi ngày nay.

Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc, Chu Điên cả bọn lâm vào đại họa thân vong, giáo diệt, nghe y nói thế, nghĩ lại chuyện hai mươi năm qua, ai nấy đều hối hận vô cùng, nghĩ thầm: "Gã hòa thượng này nói quả không sai chút nào".

Chu Điên lớn tiếng nói:

- Dương Tiêu, Chu Điên này quả thực đáng chết, trước nay đối với ngươi không phải chút nào. Nhà ngươi tuy cũng không hoàn toàn tốt, nhưng có làm giáo chủ, cũng còn hơn là không có giáo chủ để tất cả đều chết hết.

Dương Tiêu cười chua chát nói:

- Ta nào có tài cán đức độ gì mà làm giáo chủ được? Tất cả chúng ta đều sai lầm, cả bọn làm hỏng việc, xuống dưới cửu tuyền, không còn mặt mũi nào gặp lại các minh tôn giáo chủ đời trước nữa.

Viên Chân cười đáp:

- Các ngươi bây giờ hối hận thì đã muộn rồi. Năm xưa Dương Đính Thiên đứng đầu ma giáo, những tưởng khí thế lừng lẫy nào chỉ một đời thôi đâu. Tiếc rằng y chết sớm quá, không được chính mắt thấy Minh giáo thảm bại như thế này.

Chu Điên giận quá chửi liền:

- Nói thối quá. Nếu Dương giáo chủ còn tại thế, mọi người ai cũng nghe hiệu lệnh của ông ta, thằng giặc trọc như ngươi liệu có đánh lén được không?

Viên Chân cười khẩy:

- Dương Đính Thiên chết cũng thế, mà sống thì cũng vậy thôi, ta đều có cách làm cho y thân bại danh liệt ...

Đột nhiên nghe bộp một tiếng, rồi tiếp theo một tiếng "A", lưng Viên Chân đã bị Vi Nhất Tiếu đánh một chưởng, đồng thời ngay lúc đó, Vi Nhất Tiếu cũng bị Viên Chân đâm lại một chỉ, trúng ngay huyệt Đàn Trung trên ngực. Hai người đều lắc lư, lảo đảo lui lại mấy bước.

Thì ra Vi Nhất Tiếu bị Viên Chân dùng chỉ điểm trúng huyệt rồi, tuy đã bị thương rất nặng, thế nhưng nội lực của y vẫn cao hơn những người khác một bậc, không phải ở vào thế toàn vô phản kích. Tuy nhiên y giả vờ ngất đi, đợi đúng lúc Viên Chân dương dương đắc ý, không phòng bị mới vùng dậy đánh trộm một cái. Chưởng này y dùng hết toàn thân kình lực, cốt mong cứu được cái nạn diệt vong cho Minh giáo, ý muốn cùng kẻ địch cùng chết một lần. Viên Chân tuy lợi hại thật, nhưng Thanh Dực Bức Vương là một trong tứ đại hộ giáo pháp vương, cùng hàng với Ân Thiên Chính, Tạ Tốn, xuất chưởng toàn lực này há phải tầm thường? Hàn Băng Miên Chưởng trúng phải rồi, Viên Chân chỉ thấy trong ngực trộn trạo buồn nôn, mấy lần toan vận nội lực để cho thân thể lắng xuống, chỉ thấy trời đất quay cuồng, lao đao muốn ngã. Y đành ngồi xuống xếp bằng, vận khí chống lại hơi lạnh của Hàn Băng Miên Chưởng.

Vi Nhất Tiếu trúng liền hai lần Huyễn Âm Chỉ, chân đứng không vững, khi ngã xuống rồi không còn cục cựa gì nữa. Trong giây lát, sảnh đường không một tiếng động, cả tám đại cao thủ ai ai cũng bị trọng thương, chẳng ai có thể di động lấy nửa bước. Cả tám người ai cũng vận nội lực, chỉ mong mình sớm khôi phục để có thể hành động trước một bước, bên nào trước là có thể giết chết được bên kia. Mọi người ai cũng bồn chồn vạn phần, biết rằng sự tồn vong của Minh giáo, sống chết của cả tám người, chỉ là chuyện đường tơ kẽ tóc.

Nếu Viên Chân có thể hành động trước, tuy y bị thương nặng, nhưng vẫn có thể cầm kiếm đâm chết từng người, còn trong Minh giáo có một người cử động trước, giết được Viên Chân thì Minh giáo có cơ cứu được.

Bảy người của Minh giáo là số đông có lợi thế hơn, nhưng Ngũ Tản Nhân công lực nông hơn, trúng một Huyễn Âm Chỉ rồi, công lực mất hết, còn Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu công lực thâm hậu hơn thì đều trúng hai chỉ. Kình lực của Hàn Băng Miên Chưởng và Huyễn Âm Chỉ vốn không phân biệt cao thấp, nhưng Vi Nhất Tiếu lúc đánh ra thân đã bị thương, còn Viên Chân trước đó khi điểm y chỉ đầu tiên sức còn nguyên vẹn, thành thử xem ra Viên Chân có nhiều cơ hội cử động được trước.

Dương Tiêu trong bụng cũng kinh hoảng, nhưng việc vận khí dẫn công không thể nào miễn cưỡng được, bụng dạ càng phiền não, càng gấp rút thì lại càng khó khăn, tất cả đều là nội gia cao thủ, cái nguyên tắc đó lẽ nào không biết? Bọn Lãnh Khiêm hô hấp vài lần, biết là không cách nào hồi phục trước Viên Chân, chỉ mong có một hạ thuộc nào của Dương Tiêu bước vào sảnh, dù không biết một chút võ nghệ, miễn là cầm được một cây gậy, đập nhẹ một cái cũng đánh chết được Viên Chân.

Thế nhưng đợi một lúc lâu, bên ngoài sảnh vẫn không nghe một âm thanh nào. Lúc này đã xế trưa, các giáo chúng trên Quang Minh Đính đều phân bố canh gác, hoặc nằm ngủ, không được Dương Tiêu gọi đến, ai dám bước vào nghị sự sảnh đường? Cho đến các tiểu đồng phục thị Dương Tiêu, một đứa bị Vi Nhất Tiếu hút máu chết rồi, những đứa khác hồn phi phách tán, đều đã chạy cho xa, không nói Dương Tiêu chưa cho gọi đến, ngay cả có kêu, lúc này cũng chưa chắc dám bước chân vào sảnh đường, e phải đến gần ma vương hút máu.

Trương Vô Kỵ nằm trong túi vải, tuy mắt không thấy gì, nhưng mọi lời nói, mọi diễn biến đều biết rất rõ ràng. Lúc này tuy bên ngoài yên tĩnh, nhưng biết rằng bên trong cái yên lặng đó ẩn tàng biết bao nhiêu âm mưu giết lẫn nhau. Một lúc sau bỗng nghe Thuyết Bất Đắc nói:

- Ồ, tiểu bằng hữu trong cái túi, ngươi phải ra tay cứu bọn ta một phen mới được.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Cứu bằng cách nào?

Viên Chân vừa thấy chân khí trong đan điền bắt đầu thuận dòng, bỗng nghe trong cái túi có tiếng người, kinh hãi không kể đâu cho xiết, chân khí lập tức chạy ngược lên, toàn thân liền run lẩy bẩy. Từ khi y lẻn vào nghị sự đường, chỉ chăm chăm đối phó với bọn cao thủ như Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, đâu có thì giờ tìm hiểu một cái bao vải đang nằm dưới đất. Đột nhiên trong túi có tiếng người, trong lòng không khỏi sợ hãi, nghĩ thầm: "Mệnh ta hỏng rồi".

Thuyết Bất Đắc nói tiếp:

- Miệng cái túi này dùng nút Thiên Triền Bách Kết buộc lại, ngoài ta ra, người ngoài không ai cởi được đâu, nhưng ngươi đứng lên được chứ?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Được.

Chàng từ trong túi liền đứng lên. Thuyết Bất Đắc nói tiếp:

- Tiểu huynh đệ, ngươi xả thân để cứu mấy chục mạng anh em Nhuệ Kim Kỳ, nghĩa liệt cao phong, ai nấy đều khâm phục. Ngay đây mấy mạng anh em ta, cũng toàn do ngươi cứu mới xong, xin bước lại đây, đánh một quyền hay một chưởng, giết tên ác tăng này đi là xong.

Trương Vô Kỵ trong bụng phân vân, lặng yên một hồi không trả lời. Thuyết Bất Đắc nói:

- Tên ác tăng này nhân lúc người khác sơ hở, bất ngờ đánh lén, phương cách đê hèn như thế, ngươi chính tai nghe thấy rồi. Nếu ngươi không giết y đi, mấy vạn người của Minh giáo từ trên xuống dưới, đều sẽ bị người ta tru diệt cả. Ngươi giết y đi chính là hành vi hào hiệp, đại nhân đại nghĩa.

Trương Vô Kỵ vẫn trù trừ không trả lời. Viên Chân nói:

- Ta lúc này không thể nào cử động được, nếu như ngươi đến đánh chết ta, không sợ anh hùng thiên hạ sỉ tiếu ư?

Chu Điên giận dữ nói:

- Thằng trọc thối tha, phái Thiếu Lâm nhà ngươi tự xưng là danh môn chính phái, vậy mà lén lén lút lút lên đây đánh trộm, chẳng lẽ hảo hán thiên hạ không chê cười hay sao?

Trương Vô Kỵ đi về hướng Viên Chân một bước, rồi ngừng lại, nói:

- Thuyết Bất Đắc đại sư, chuyện giữa quí giáo với sáu đại môn phái, phải trái ra sao, ngay cong thế nào, tiểu khả thực không biết rõ. Tiểu khả hết sức muốn giúp các vị, nhưng cũng không muốn làm hại vị đại hòa thượng chùa Thiếu Lâm này.

Bành Oánh Ngọc nói:

- - Tiểu huynh đệ có chỗ không rõ, lúc này nếu ngươi không giết y, một khi gã hòa thượng này phục hồi công lực rồi, y thể nào cũng giết luôn cả ngươi nữa.

Viên Chân cười nói:

- Ta và vị tiểu thí chủ này không thù không oán, không lẽ tự dưng giết y? Huống chi vị tiểu thí chủ này lại không phải người trong ma giáo, xem ra lại bị Bố Đại hòa thượng có ý đồ chẳng tốt bắt lên đây. Người trong ma giáo chúng bay chuyện gì mà không làm, sao có thể có bụng dạ tốt lành gì với y được?

Hai bên thở chẳng ra hơi, nói năng cực kỳ khó khăn nhưng vẫn tranh nhau nói, mong lấy lòng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong lòng cực kỳ nan giải, tuy tai nghe thấy gã hòa thượng Viên Chân kia ra tay thâu tập, không quanh minh chút nào, nhưng bảo tiến lên đánh chết y, thì cũng không muốn. Một chưởng đánh xuống rồi, từ nay mãi mãi đứng về phe Minh giáo, chống lại lục đại môn phái. Thái sư phụ, Võ Đương lục hiệp, Chu Chỉ Nhược mọi người đều thành kẻ địch của mình cả.

Chàng nghĩ tiếp: "Minh giáo vẫn bị người trong võ lâm coi như tà ma bất chính, chẳng hạn Vi Nhất Tiếu hút máu người, nghĩa phụ giết người vô tội, quả thực có biết bao điều không phải. Thái sư phụ năm xưa từng khẩn khoản dặn dò, tuyệt đối không được kết giao với người trong ma giáo, để khỏi chuốc họa cả đời. Cha ta chỉ vì lấy mẹ ta là người trong ma giáo mà phải tự vẫn trên núi Võ Đương, gương đó rành rành, vết xe đổ còn đó. Huống chi gã Viên Chân này là đệ tử của Không Kiến thần tăng, người đã cam chịu mười ba Thất Thương Quyền cốt để cảm hóa nghĩa phụ ta, để đến phải chết, người lòng dạ từ bi đại nhân đại nghĩa như thế thực là võ lâm nghìn xưa hiếm có, ta làm sao có thể giết đệ tử ông ta được?".

Nghe thấy Thuyết Bất Đắc vẫn thúc giục, Trương Vô Kỵ liền nói:

- Thuyết Bất Đắc đại sư, xin ông chỉ cho tiểu khả làm cách nào không phải giết đại hòa thượng kia, mà ông ta cũng không thể giết hại các ông được.

Thuyết Bất Đắc nghĩ thầm: "Cục diện trước mắt chỉ có nước một sống một chết, làm gì có cách bảo toàn được cả hai bên? Nếu Viên Chân không chết, thì bên mình đều chết cả". Y còn đang trầm ngâm chưa đáp, Bành Oánh Ngọc đã lên tiếng:

- Tiểu huynh đệ bụng dạ nhân từ, thật đáng kính phục. Vậy xin ngươi giơ ngón tay điểm nhẹ vào huyệt Ngọc Đường ở trước ngực Viên Chân. Điểm như thế y sẽ không bị tổn thương, chỉ giữ y không thể vận nội lực trong vài giờ. Bọn ta sẽ cho người đưa y xuống Quang Minh Đính, không làm rụng một sợi lông của y đâu. Ngươi có biết huyệt Ngọc Đường ở đâu không?

Trương Vô Kỵ giỏi y lý, biết rằng điểm nhẹ vào huyệt Ngọc Đường, quả thực tạm thời chặn chân khí từ đan điền chạy lên nhưng không làm tổn thương thân thể, liền nói:

- Biết chứ.

Y nghe Viên Chân nói:

- Tiểu thí chủ đừng có nghe lời bọn chúng. Ngươi điểm huyệt ta rồi, chuyện đó cũng không sao, nhưng một khi nội lực chúng phục hồi, lập tức giết ta ngay, lúc đó ngươi làm sao ngăn lại được?

Chu Điên chửi liền:

- Ngươi nói thối bỏ mẹ, bọn ta đã nói không giết ngươi là sẽ không giết ngươi. Ngũ Tản Nhân của Minh giáo nói có bao giờ không giữ lời chưa?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm Dương Tiêu và Ngũ Tản Nhân đều không phải hạng người ăn nói tráo trở, chỉ ngại một mình Vi Nhất Tiếu, liền hỏi:

- Vi tiền bối, ông nghĩ sao?

Vi Nhất Tiếu run run nói:

- - - Ta tạm thời không giết y cũng được, lần sau gặp lại sẽ nhất định ... nhất định sống mái ... sống mái ... một phen.

Y nói đến bốn chữ "sống mái một phen", giọng nói thật là yếu ớt, thở chẳng ra hơi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Như thế thì được rồi. Quang Minh tả sứ, Thanh Dực Bức Vương, Ngũ Tản Nhân bảy người ai nấy đều là anh hùng hào kiệt thời nay, không lẽ nói không giữ lời? Viên Chân đại sư, vãn bối đành phải đắc tội.

Nói rồi đi đến trước mặt Viên Chân. Y ở trong cái túi vải, mỗi bước chỉ đi được khoảng một thước, đi đến mươi bước mới tới gần được Viên Chân. Cái cảnh người trong túi lật đật di động, trông thực hoạt kê, nhưng lúc này ai nấy trong cảnh sống chết trong đường tơ kẽ tóc, ai dám mở miệng cười.

Trương Vô Kỵ lắng nghe hơi thở của Viên Chân, đến lúc còn cách y khoảng hai thước, lập tức đứng lại, nói:

- Viên Chân đại sư, vãn bối vì muốn hai bên chu toàn, xin ông đừng trách.

Nói xong chầm chậm đưa tay ra. Viên Chân cười gượng:

- Lúc này ta toàn thân không động đậy gì được, đành để tiểu bối làm gì thì làm.

Từ khi Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu chết đi rồi, Trương Vô Kỵ là người biện nhận huyệt đạo có một không hai, tuy chàng còn cách Viên Chân một lần bao vải, nhưng đưa ngón tay ra là đúng ngay huyệt Ngọc Đường, không sai một ly nào. Huyệt Ngọc Đường nằm trên ngực, ở dưới huyệt Tử Cung một tấc sáu phân, ở trên huyệt Đàn Trung một tấc sáu phân, thuộc về Nhâm Mạch. Huyệt đó không phải là đại huyệt có thể gây chí mạng, nhưng nằm trên đường mà chân khí phải đi qua, nếu bị chặn lại, chân khí toàn thân lập tức tắc nghẽn.

Bỗng nghe Dương Tiêu, Lãnh Khiêm, Thuyết Bất Đắc cùng kêu lớn:

- Ối chao, rụt tay lại.

Trương Vô Kỵ thấy đầu ngón tay trỏ bên phải bị giật một cái, một làn hơi lạnh truyền thẳng lên, nhanh như điện, lập tức toàn thân lạnh giá. Chàng nghe thấy Chu Điên, Thiết Quan đạo nhân cả bọn cùng lớn tiếng chửi:

- Thằng trọc khốn kiếp, dám giở trò gian trá như thế.

Trương Vô Kỵ toàn thân run lẩy bẩy, nhưng hiểu ngay, gã Viên Chân kia tuy chân không thể di chuyển được, nhưng có thể gượng giơ ngón tay lên, để ngay tại trước huyệt Ngọc Đường. Khổ nỗi Trương Vô Kỵ bị lần bao vải che khuất, không nhìn thấy y làm như thế, ngón tay chàng điểm vào, hai đầu ngón tay đụng nhau, Huyễn Âm Chỉ lực của Viên Chân quyên qua lớp vải truyền vào cơ thể chàng. Lần này Viên Chân đem hết tất cả nội lực dồn vào đầu ngón tay, song chỉ đụng nhau rồi, người y tê liệt, mặt xanh lè, trông như một xác chết. Sảnh đường vốn chỉ có tám người bị thương không cử động được, bây giờ lại thêm Trương Vô Kỵ.

Chu Điên tính tình nóng nảy nhất, tuy nói năng thều thào không ra hơi, nhưng vẫn lớn tiếng chửi thằng trọc chùa Thiếu Lâm gian trá vô sỉ. Còn bọn Dương Tiêu ai cũng nghĩ thầm, không thể nào trách Viên Chân được, địch nhân định điểm huyệt y, y đưa tay tự vệ, không có gì là không phải.

Ngay lúc đó Viên Chân hết cả hơi sức nhưng trong bụng vẫn mừng thầm, tên tiểu tử này tuổi còn nhỏ, chẳng được bao nhiêu công lực, trúng phải Huyễn Âm Chỉ rồi, chỉ nửa ngày là chết, còn chân khí của mình chỉ một giờ sau sẽ từ từ tụ lại, thành thử vẫn làm chủ tình hình.

Sảnh đường lại lặng yên không một tiếng động, qua nửa giờ nữa, bốn ngọn nến tắt hết, căn phòng tối đen. Bọn Dương Tiêu nghe thấy hơi thở của Viên Chân trước đây đứt quãng nay từ từ đều dần, từ nặng nề dồn dập trở nên dài hơn, biết rằng chân khí trong người y bắt đầu ngưng tụ. Thế nhưng bên mình mỗi lần vận công, hàn khí của Huyễn Âm Chỉ liền chạy vào đan điền, nhịn không nổi phải run lên bần bật. Càng lúc mọi người càng thất vọng, thấy đau đớn không sao chịu nổi, lại thầm mong Viên Chân sớm hồi phục công lực đứng lên cho mỗi người một chưởng thà chết còn hơn là phải chịu dày vò như thế này.

Bọn Lãnh Khiêm và Chu Điên ai ai cũng thản nhiên chờ chết, còn Thuyết Bất Đắc và Bành Oánh Ngọc hai người lại chẳng yên lòng. Trong Ngũ Tản Nhân, Thuyết Bất Đắc và Bành Oánh Ngọc là hai người xuất gia, nhưng lại là người có hùng tâm hơn cả, luôn luôn quan tâm đến nỗi khổ của thế nhân, chí muốn làm một phen sự nghiệp lẫy lừng. Bây giờ chuyện coi như xong, cuối cùng không còn gì hơn là chết dưới tay Viên Chân, bao nhiêu chí nguyện bình sinh đành để trôi theo dòng nước.

Hồi 19

HỌA KHỞI TIÊU TƯỜNG PHÁ KIM THANG--

Thuyết Bất Đắc buồn bã nói:

- Bành hòa thượng, bọn mình suy tính lập tâm mong đuổi được Mông Cổ Thát tử, biết đâu rằng rồi sau cùng cũng chỉ trắng tay. Ôi, nghĩ đến kiếp nạn của thiên vạn bách tính chưa dứt, thật là đau lòng.

Vô Kỵ đang vận luồng nhiệt khí trong đan điền lên đề kháng với hàn khí Huyễn Âm Chỉ nghe câu nói của Thuyết Bất Đắc thật rõ ràng, không khỏi ngạc nhiên: "Ông ta nói chuyện muốn đánh đuổi quân Mông Cổ? Chẳng lẽ cái ma giáo mà ác danh đâu đâu cũng nghe kia lại lo lắng cho bách tính đến thế sao?".

Lại nghe Bành Oánh Ngọc nói:

- Thuyết Bất Đắc, ta đã nói trước rồi, chỉ một mình sức lực của Minh giáo ta thôi, không thể nào đuổi được Mông Cổ Thát tử đâu, mà phải liên lạc với tất cả anh hùng hào kiệt bốn phương, cùng đứng lên mới mong thành công được. Sư huynh ngươi là Bổng Hồ, sư đệ ta là Chu Tử Vượng, năm xưa đứng lên tạo phản, tiếng tăm lừng lẫy, nhưng sau cùng cũng đại bại tan tành, chẳng phải là vì không có ngoại viện hay sao?

Chu Điên lớn tiếng nói:

- Chết đầu nước rồi, hai thằng trọc vẫn còn tranh nhau, kẻ thì bảo phải do Minh giáo làm chủ, kẻ thì rằng cần liên lạc với các danh môn chính phái. Cứ như Chu Điên ta thì cả hai đều láo toét, nói thối bỏ mẹ. Minh giáo mình chia năm xẻ bảy, như rắn mất đầu, làm chủ cái khỉ mốc gì bây giờ. Còn Bành hòa thượng muốn liên lạc với các môn phái, thì cũng thối không chịu được, bọn họ đang vây đánh mình, mình liên lạc thế chó nào được bây giờ?

Thiết Quan đạo nhân chen vào:

- Nếu Dương giáo chủ mà còn sống, bọn mình đánh cho lục đại môn phái một trận tan tành, lo gì họ không nghe hiệu lệnh của bản giáo.

Chu Điên cười sằng sặc, nói:

- Lão mũi bò[10] mọi rợ nói một câu thối còn hơn rắm bò nữa. Nếu Dương giáo chủ còn tại thế, mọi việc dĩ nhiên xuôi xẻ cả, ai mà chẳng biết? Ngươi nói thế ... ối chao ... ối chao ...

Y há miệng cười, hụt hơi thở, hàn khí của Huyễn Âm Chỉ xông lên tim phổi, chịu không nổi phải kêu lên. Lãnh Khiêm nói:

- Câm mồm.

Y vừa nói ra, mọi người đều im lặng cả. Trương Vô Kỵ trong bụng nghĩ ngợi gần xa: "Xem ra Minh giáo là một giáo phái, bên trong có nhiều đầu dây mối nhợ, không phải chỉ chuyên làm điều xấu không đâu". Chàng liền hỏi:

- Thuyết Bất Đắc đại sư, tông chỉ của quí giáo thực ra như thế nào? Có thể cho biết được chăng?

Thuyết Bất Đắc nói:

- Ồ, ngươi chưa chết ư? Tiểu huynh đệ, ngươi chẳng đâu vào đâu mất mạng vì Minh giáo, chúng tôi thật lấy làm tiếc. Ngươi chỉ còn sống được một vài giờ nữa thôi, bí mật của bản giáo có nói cho ngươi biết cũng chẳng sao. Lãnh Diện tiên sinh, ngươi bảo nói được chăng?

Lãnh Khiêm đáp:

- Nói.

Ý y định nói là "Ngươi nói cho y nghe không sao cả". Bấy nhiêu chữ y chỉ dùng một chữ "Nói" là đủ.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Tiểu huynh đệ, Minh giáo chúng tôi nguyên từ nước Ba Tư, truyền tới Trung Thổ từ đời Đường. Đương thời gọi là Tiên giáo. Vua nhà Đường cho xây chùa Đại Vân Quang Minh tại các nơi, chính là tự viện của Minh giáo. Giáo nghĩa của chúng tôi là làm điều thiện, trừ điều ác, mọi người đều bình đẳng, nếu như có vàng bạc tiền tài, thì đem cứu giúp người nghèo khổ, không được ăn thịt, uống rượu, chỉ thờ Minh Tôn. Minh Tôn tức là thần lửa, mà cũng là thiện thần. Chỉ hiềm là đời nào tham quan ô lại cũng áp bức chúng tôi, anh em trong Minh giáo không chịu nổi, thỉnh thoảng lại nổi lên chống lại. Từ đời Phương Lạp, Phương giáo chủ đời Bắc Tống đến giờ, không biết đã bao nhiêu lần.

Trương Vô Kỵ đã nghe qua tên tuổi của Phương Lạp, biết ông ta ở vào đời Tuyên Hòa, một trong Tứ Đại Khấu, cùng với Tống Giang, Vương Khánh, Điền Hổ cùng nổi danh, nên nói:

- Hóa ra Phương Lạp là giáo chủ của quí giáo?

Thuyết Bất Đắc nói:

- Chính thế. Đến đời Nam Tống thời Kiến Viêm, có giáo chủ Vương Tông Thạch tại Tín Châu khởi sự, thời Thiệu Hưng có giáo chủ Dư Ngũ Bà tại Cù Châu khởi sự, đời Lý Tông, năm Thiệu Định có giáo chủ Trương Tam Thương tại một dải Giang Tây, Quảng Đông khởi sự. Chỉ vì bản giáo xưa nay luôn luôn chống lại triều đình, quan phủ nên triều đình gọi chúng tôi là "ma giáo", càng cấm đoán nghiêm nhặt hơn. Chúng tôi muốn sống còn, hành sự không khỏi kín đáo, lạ lùng, để tránh tai mắt quan quân. Chính đại môn phái đối với chúng tôi tích oán thành thù hận, thế hia bên ghét nhau như nước với lửa. Đương nhiên, trong số giáo chúng của bản giáo, cũng đôi khi có những kẻ không tự kiềm chế, làm những trò không phải, ỷ mình có võ công, giết người vô tội cũng có, gian dâm cướp bóc cũng có, đem cái tiếng tăm của bản giáo đổ xuống sông xuống ...

Dương Tiêu đột nhiên lạnh lùng chen vào:

- Thuyết Bất Đắc, ngươi nói ta đấy hả?

Thuyết Bất Đắc nói:

- Tên của ta là Thuyết Bất Đắc, phàm chuyện gì không nói được thì ta không nói. Chuyện của ai thì người đó biết, kẻ nào ăn vụng thì bụng nó no.

Dương Tiêu hừ một tiếng, không nói thêm nữa. Trương Vô Kỵ đột nhiên giật mình: " Ủa, sao mình không thấy lạnh nữa?". Khi mới trúng Huyễn Âm Chỉ của Viên Chân, chàng thấy lạnh dường như không chịu nổi, nhưng tới lúc này hàn khí dường như biến đâu mất. Thì ra Vô Kỵ trúng phải âm độc của Huyền Minh thần chưởng từ năm lên mười, đến năm mười bảy tuổi mới trục được hết, trong bảy năm đó, thân thể ngày đêm lúc nào cũng kháng lại hàn độc, vận khí ngự hàn và hô hấp dường như là một, không còn phải do ý niệm mà thành một phản ứng tự nhiên. Huống chi chàng tu luyện Cửu Dương thần công dẫu chưa viên mãn, cái cửa ải sau cùng chưa qua được, nhưng dương khí trong người thật là sung vượng, nên chẳng bao lâu âm độc của Huyễn Âm Chỉ đã bị khu trừ hết sạch.

Lại nghe Thuyết Bất Đắc nói tiếp:

- Từ khi Đại Tống ta mất vào tay người Mông Cổ Thát tử, Minh giáo trở nên kẻ tử thù của triều đình vì ngã giáo vẫn coi việc khu trừ Hồ Lỗ là nhiệm vụ của mình. Tiếc rằng những năm gần đây Minh giáo quần long vô thủ, những cao thủ bên trong vì tranh đoạt chức vị giáo chủ nên tàn sát lẫn nhau để rồi người thì rửa tay qui ẩn, kẻ lại lập chi phái riêng, tự làm giáo chủ. Giáo qui đã suy sụp rồi, kết oán gây thù với danh môn chính phái mỗi lúc một sâu, đến nỗi ra cớ sự này. Viên Chân hòa thượng, ta nói có điểm nào không đúng chăng?

Viên Chân hừ một tiếng, nói:

- Đúng lắm, đúng lắm. Các ngươi chết đến nơi, còn nói láo làm gì?

Y vừa nói, vừa từ từ đứng lên, bước tới một bước. Dương Tiêu và Ngũ Tản Nhân cùng "A" lên một tiếng kinh sợ. Mọi người ai cũng biết y sẽ có thể hành động trước nhưng không ngờ rằng công lực của y lại thâm hậu đến thế, trúng phải Hàn Băng Miên Chưởng của Vi Nhất Tiếu rồi, lại có thể đề khí vận công nhanh như vậy. Chỉ thấy y thân hình vững chãi, chân trái lại bước tới một bước, thân thể không nghiêng ngả chút nào.

Dương Tiêu cười khẩy nói:

- Cao túc của Không Kiến thần tăng, quả nhiên ghê gớm thật. Thế nhưng ngươi chưa trả lời câu hỏi của ta lúc trước. Hay bên trong có điều gì đen tối, không tiện nói ra chăng?

Viên Chân cười ha hả, lại tiến lên một bước, nói:

- Nếu các ngươi không biết những uẩn khúc bên trong, ắt sẽ chết không nhắm mắt được. Ngươi hỏi ta làm sao biết được bí đạo đi lên Quang Minh Đính, làm sao vượt qua được biết bao hiểm trở thiên nhiên, lên đến đỉnh núi này mà thần không hay, quỉ không biết? Được, để ta nói thực cho các vị hay, đó là chính hai vợ chồng giáo chủ Dương Đính Thiên dẫn ta lên đó.

Dương Tiêu giật mình, nghĩ thầm: "Với thân phận của y, ắt không thể nào nói láo, nhưng chuyện đó làm sao có thể được?".

Chu Điên mở miệng chửi ngay:

- Mười tám đời tổ tông đồ rắm chó, bí đạo đó là đại bí mật của Quang Minh Đính, là thánh cảnh trang nghiêm của bản giáo, Dương tả sứ là Quang Minh sứ giả, Vi Nhất Tiếu là Hộ Giáo Pháp Vương, cũng còn chưa đi qua lần nào, trước nay chỉ một mình giáo chủ mới được đi vào bí đạo này mà thôi. Dương giáo chủ sao lại đưa ngươi là người ngoài qua đó được?

Viên Chân thở dài một tiếng, xuất thần hồi lâu, buồn bã nói:

- Nếu các ngươi nhất định phải hỏi cho biết đầu đuôi ngọn ngành, thì để ta kể lại một ẩn sự hai mươi nhăm năm trước đây. Dù sao các ngươi cũng không còn sống để mà xuống núi tiết lộ chuyện này được. Ôi, Chu Điên, ngươi nói không sai chút nào, bí đạo này là trang nghiêm thánh cảnh của Minh giáo, trước nay chỉ một mình giáo chủ mới có thể bước vào, nếu không ắt là vi phạm nghiêm qui không thể tha thứ của tôn giáo. Thế nhưng phu nhân của Dương Đính Thiên đã vào rồi, chính y vi phạm giáo qui, lén dẫn phu nhân vào trong bí đạo ...

Chu Điên xen vào:

- Thối lắm, thối không ngửi nổi.

Bành Oánh Ngọc quát lên:

- Chu Điên, đừng phá nữa.

Viên Chân nói tiếp:

- Dương phu nhân lại dẫn ta vào trong bí đạo ...

Chu Điên lại chửi:

- Con mẹ nó, láo, láo, nói quấy nói quá.

Viên Chân nói:

- Ta không phải là người trong Minh giáo, đi vào bí đạo tính ra đâu có phạm giáo qui. Ôi, nếu ta có là giáo đồ Minh giáo chăng nữa, dù có phạm trọng tội, ta còn sợ cái gì?

Y đề cập đến chuyện năm xưa, giọng nghe thật thê lương.

Thiết Quan đạo nhân hỏi:

- Dương phu nhân đưa ngươi vào bí đạo làm gì?

Viên Chân nói:

- Chuyện đó là chuyện đã lâu lắm rồi. Lão nạp hôm nay đã là một ông già hơn bảy chục tuổi ... chuyện cũ hồi còn trẻ ... được rồi, để ta kể hết cho các ngươi nghe. Các vị có biết lão nạp là ai không? Dương phu nhân là sư muội của ta, tục danh lão nạp trước khi xuất gia họ Thành tên Côn, ngoại hiệu là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ.

Câu nói đó vừa ra khỏi miệng, bọn Dương Tiêu đều hết sức ngạc nhiên, còn Trương Vô Kỵ nằm trong túi vải kinh hãi đếu kêu lên thành tiếng.

Năm xưa trên Băng Hỏa đảo, chuyện xưa nghĩa phụ kể lại tối hôm đó bây giờ hiện ra thật rõ ràng trong óc: Sư phụ của nghĩa phụ là Thành Côn sát hại toàn gia, cha mẹ vợ con nên Tạ Tốn mới giết nhân sĩ võ lâm để ép ông ta phải xuất đầu lộ diện, rồi đánh chết Không Kiến thần tăng nhưng Thành Côn không giữ lời, chẳng ra mặt. Trương Vô Kỵ bây giờ mới nghĩ ra: "Thì ra lúc đó ác tặc Thành Côn đã bái Không Kiến thần tăng làm thầy, Không Kiến thần tăng vì muốn hóa giải một trường oan nghiệt nên cam tâm chịu cho nghĩa phụ đánh mười ba Thất Thương Quyền. Nào ngờ ngay cả sư phụ Thành Côn cũng đánh lừa, khiến cho Không Kiến thần tăng phải ôm mối hận xuống tuyền đài".

Chàng lại nghĩ tiếp: "Nghĩa phụ sở dĩ thỉnh thoảng phát điên, giết người vô tội, các bang các phái lên núi Võ Đương, bức tử cha mẹ mình, truy nguyên ra tất cả những việc đó đầu giây mối nhợ cũng là do Thành Côn ở bên trong sắp đặt". Chỉ trong giây lát, lòng chàng phẫn nộ không để đâu cho hết, toàn thân nóng bừng chẳng khác gì bị lửa thiêu đốt. Cái túi Càn Khôn Nhất Khí của Thuyết Bất Đắc kín mít không thông hơi, chàng đã ở trong đó mấy giờ rồi, ngộp thở vô cùng, cũng may nội công thâm hậu, dùng phép qui tức[11] mà thở, dùng rất ít khí trời, có thế mới chịu đựng được tới bây giờ. Bây giờ tâm thần bỗng dưng xáo trộn, Cửu Dương chân khí súc tích trong đan điền không có gì chế ngự, bắt đầu chạy lung tung khắp nơi, thân thể không khác gì bị rơi vào trong một lò than, chịu không nổi phải rên lên mấy tiếng.

Chu Điên quát lớn:

- Tiểu huynh đệ, chúng ta sắp chết đến nơi, ai cũng khổ sở chịu không nổi, nhưng đã là hảo hán thì phải cố nhịn đừng kêu than.

Trương Vô Kỵ đáp lời:

- Vâng.

Chàng liền dùng phép vận công trong Cửu Dương Chân Kinh trấn nhiếp tâm thần, điều quân nội tức. Lúc bình thời chàng chỉ theo đúng phép mà thở thì tâm hồn lập tức lắng xuống như nước mặt hồ, thần du vật ngoại, nhưng lúc này càng vận công, tay chân xương cốt càng thêm khó chịu, tưởng như mỗi nơi đại huyệt đều có hàng trăm chiếc kim nướng đỏ đâm vào.

Thì ra chàng tu tập Cửu Dương Chân Kinh mấy năm qua, tuy học một môn công phu thượng thừa trong thiên hạ, nhưng chưa từng được minh sư chỉ điểm, chỉ tự mình học lấy theo mô thức trong sách, Cửu Dương chân khí tích súc mỗi lúc một nhiều, nhưng chưa biết cách đạo dẫn và vận dụng để khai thông cửa ải sau cùng. Đúng ra không biết cách dẫn đi cũng không sao, nhưng Huyễn Âm Chỉ của Viên Chân lại là công phu tối âm độc trong võ lâm, một khi vào trong cơ thể rồi, chẳng khác nào một thùng thuốc súng nay có thêm mồi dẫn hỏa. Chàng lại đang bị nhốt trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí, chân khí bị kích phát không nơi phát tiết, nên chạy ngược vào trong thân thể. Trong thời khắc ngắn ngủi này, chàng đang ở vào giai đoạn tối gian nan của người tu đạo luyện khí, là cửa ải vô cùng hung hiểm, sinh tử thành bại như chỉ mành treo chuông. Bọn Chu Điên nào có biết chàng đang ở vào cửa ải trễ không thể trễ, sớm không thể sớm, đúng lúc thủy hỏa ký tế, long hổ giao hội, lại nghĩ chàng vì trúng phải Huyễn Âm Chỉ sắp chết mà rên rỉ. Chàng hết sức đè nén nhiệt khí chí dương đang chưng đốt, nhưng mỗi câu nói của Viên Chân vẫn từng chữ rõ ràng lọt vào tai.

- Gia đình sư muội và gia đình ta giao kết đã nhiều đời, hai người từ nhỏ đã có ước định hôn nhân. Nào ngờ Dương Đính Thiên lại thầm yêu sư muội ta, đến khi y lên làm giáo chủ Minh giáo, uy chấn thiên hạ, cha mẹ của sư muội ta lại là hạng người tham lợi, sư muội ta cũng tâm chí không vững vàng, nên đã bằng lòng lấy y. Thế nhưng sau khi lấy rồi, nàng lại không thấy hạnh phúc, vẫn muốn gặp lại ta nên cần kiếm một nơi thật kín đáo để hẹn hò. Dương Đính Thiên đối với nàng việc gì cũng chiều theo, không từ chối. Nàng muốn đi xem bí đạo, Dương Đính Thiên tuy không thích tí nào, nhưng không chịu nổi cảnh ỷ ôi, o ép, sau cùng đã đưa nàng vào coi. Từ đó về sau, đường hầm bí mật trên Quang Minh Đính này, nơi thánh địa tối trang nghiêm của Minh giáo mấy trăm năm nay, thành nơi ta cùng giáo chủ phu nhân riêng tư gặp gỡ, ha ha, ha ha ... Ta đi đi về về trong bí đạo này mấy chục lần, hôm nay trở lại Quang Minh Đính nào có tốn hơi sức gì đâu?

Dương Tiêu, Chu Điên cả bọn nghe y nói như thế, ai nấy đều câm như hến không nói được câu nào. Chu Điên chỉ chửi được một tiếng "Thối ..." đã phải ngừng lại, không nói tiếp được chữ "quá". Ai nấy tức giận sôi sục, ngực như muốn vỡ tung, đối với Minh giáo không chuyện gì nhục nhã cho bằng. Ngày hôm nay toàn giáo bị tiêu diệt, cũng từ cái bí đạo đó mà ra. Mọi người nghe xong mắt như muốn tóe lửa, nhưng cũng biết những lời Viên Chân nói ra không phải là giả dối.

Viên Chân nói tiếp:

- Các ngươi giận dữ cái gì? Nhân duyên của ta bị Dương Đính Thiên ngang nhiên phá vỡ, rõ ràng là người vợ yêu của ta, chỉ vì Dương Đính Thiên được đứng đầu ma giáo, mà bị chiếm mất, nên ta với ma giáo mối thù này bất cộng đái thiên. Ngày đám cưới của Dương Đính Thiên với sư muội, ta cũng tới mừng, khi uống chén hỉ tửu, trong bụng ta lập một lời nguyền: "Thành Côn này dù chỉ còn một hơi thở, cũng nhất quyết phải giết cho được Dương Đính Thiên, quyết tâm tiêu diệt ma giáo". Ta mang lời nguyền đó đã hơn bốn mươi năm, hôm nay mới đại công cáo thành, ha ha, Thành Côn này đã vẹn lời thề, chết mới nhắm mắt được.

Dương Tiêu lạnh lùng nói:

- Đa tạ nhà ngươi đã giải cho ta một mối hồ nghi trong lòng. Dương giáo chủ đột nhiên từ trần, chết không rõ vì lý do gì, thì ra cũng tại tay ngươi.

Viên Chân buồn bã nói:

- Năm xưa võ công Dương Đính Thiên cao hơn ta rất nhiều, chẳng nói gì năm xưa, e rằng hiện nay võ công ta cũng chưa bằng được công lực của y thời đó ...

Chu Điên chêm vào:

- Thành ra ngươi lén hại Dương giáo chủ, nếu không bỏ thuốc độc, thì cũng như hôm nay bất ngờ đánh trộm.

Viên Chân thở dài, lắc đầu nói:

- Không phải. Sư muội của ta sợ ta lén hạ độc thủ, luôn luôn nhắn nhủ ta rằng, nếu như Dương Đính Thiên bị ta làm hại, thì nàng nhất định không tha. Nàng nói ta và nàng hai người lén gặp nhau, đối với chồng đã là không nên không phải lắm rồi, nếu ta có bụng dạ độc ác, thì trời sẽ chẳng dung. Dương Đính Thiên, ôi, Dương Đính Thiên, y ... tự y chết đấy thôi.

Cả bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc cùng "A" lên một tiếng. Viên Chân nói tiếp:

- - Nếu như Dương Đính Thiên chết dưới chưởng hay chỉ của ta, ắt là ta đã tha cho bọn Minh giáo các ngươi.

Thanh âm của y chuyển sang khe khẽ, nhớ lại chuyện ngày xưa mấy chục năm, chậm rãi kể tiếp:

- Đêm hôm đó, ta lại cùng sư muội gặp nhau trong bí đạo, đột nhiên nghe thấy từ phía bên trái tiếng thở dồn dập vọng tới. Việc này từ trước chưa bao giờ xảy ra, bí đạo này cực kỳ kín đáo, người ngoài không thể nào tìm được lối vào, còn người trong Minh giáo, thì có ai dám vào đây. Bọn ta nghe thấy tiếng thở đó, giật mình kinh hãi, đi lần theo xem ai, thấy Dương Đính Thiên ngồi trong một căn phòng nhỏ, tay cầm một miếng da dê, mặt đỏ bừng như máu. Y thấy hai đứa ta liền nói: "Hai người các ngươi, giỏi lắm, giỏi lắm, đối với ta thế đấy". Y nói xong câu đó, mặt bỗng đổi thành màu xanh lè, nhưng mặt vừa chuyển màu xanh lại biến đi ngay, trở lại thành màu đỏ máu, xanh rồi lại đỏ, đỏ rồi lại xanh, trong chớp mắt đã đổi màu ba lần. Dương tả sứ, ngươi có biết công phu đó là gì không?

Dương Tiêu nói:

- Đó là thần công Càn Khôn Đại Na Di của bản giáo.

Chu Điên nói:

- Dương Tiêu, ngươi cũng luyện thành rồi, phải không?

Dương Tiêu nói:

- "Luyện thành" hai chữ, làm sao dám nói? Năm xưa Dương giáo chủ có bụng thương ta nên có truyền một chút công phu nhập môn thô thiển. Ta luyện hơn mười năm, chỉ mới luyện đến cấp thứ hai. Nếu luyện thêm nữa thì chân khí như muốn nổ tung óc mà ra, không có cách nào khắc chế cả. Mặt Dương giáo chủ có thể trong chốc lát biến màu ba lần, đó là luyện đến cấp thứ tư rồi. Ông ta có nói rằng, trong các giáo chủ bản giáo từ trước tới nay, chỉ có Chung giáo chủ đời thứ tám võ công cao hơn cả, nghe nói luyện đến cấp thứ năm của thần công Càn Khôn Đại Na Di, nhưng ngay hôm luyện thành, tẩu hỏa nhập ma mà chết. Từ đó về sau, chưa có ai luyện được đến cấp thứ tư cả.

Chu Điên nói:

- Khó đến thế sao?

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Nếu như không khó, sao có thể gọi là hộ giáo thần công của Minh giáo được?

Những cao thủ trong Minh giáo đều đã nghe danh Càn Khôn Đại Na Di thần công từ lâu, lòng vốn ngưỡng mộ, thành ra tuy trong cảnh nguy hiểm nhưng vừa nói đến, ai ai cũng bàn góp mấy câu.

Bành Oánh Ngọc nói:

- Dương tả sứ, Dương giáo chủ luyện thần công đó đến cấp thứ tư, sao lại có thể biến màu khuôn mặt được?

Y lúc này hỏi những chuyện ngoài lề cũng là có thâm ý, biết Viên Chân chỉ cần đi tới thêm vài bước, từng người một sẽ chết dưới tay y ngay, nên dụ cho y đàm luận chuyện xưa, cốt để kéo dài thời gian, chỉ cần một trong bảy cao thủ của Minh giáo một người hồi phục công lực, liền có thể chống trả một phen, dù có không địch nổi, nhưng cục thế cũng có cơ biến chuyển, còn hơn bó tay chịu chết như bây giờ.

Dương Tiêu lẽ nào không hiểu ý tứ của y, liền đáp:

- Nguyên lý chính yếu của Càn Khôn Đại Na Di thần công là cương nhu, âm dương càn khôn nhị khí đổi qua đổi lại. Trên mặt hiện sắc xanh hay sắc đỏ, là vì trong cơ thể huyết dịch lên xuống, chân khí biến đổi mà ra. Cứ nghe nói khi luyện đến cấp thứ sáu, toàn thân có thể lúc xanh lúc đỏ, nhưng khi qua đến cấp thứ bảy, âm dương nhi khí chuyển hoán không hiện ra, nhìn bên ngoài không sao biết được bên trong thế nào.

Bành Oánh Ngọc sợ rằng Viên Chân ở không sẽ khó chịu, nên hỏi y một câu:

- Viên Chân đại sư, Dương giáo chủ của chúng tôi vì lẽ gì mà qui thiên?

Viên Chân cười khẩy nói:

- Các ngươi trúng phải Huyễn Âm Chỉ rồi, ta nghe các ngươi vận khí hô hấp, biết rằng trong vòng hai giờ nữa không sao cử động được. Các ngươi định mua thời gian, mong tự vận khí giải cứu, nói thẳng cho các ngươi biết, cái đó không kịp đâu. Các ngươi đều là võ học cao thủ, bị thương nặng như thế, vận khí từ nãy tới giờ đã thấy biến chuyển tí nào chưa? Hay là mỗi lúc thân thể thêm cứng đờ?

Bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc vốn đã thấy chuyện đó, nhưng còn một hơi thở thì vẫn chưa chịu bó tay. Lại nghe Viên Chân nói tiếp:

- Khi đó ta thấy mặt Dương Đính Thiên biến đổi lạ lùng, trong bụng thật là kinh hoảng. Sư muội ta biết y võ công cực cao siêu, chỉ ra tay là đưa hai người chúng ta vào chỗ chết, liền nói: "Đính Thiên, mọi sự đều do em không nên không phải, chàng tha cho Thành sư ca hạ sơn, dù trách phạt thế nào, em cũng xin chịu hết". Dương Đính Thiên nghe nàng nói thế, lắc đầu, chậm rãi nói: " Ta lấy được người em nhưng không lấy được trái tim em". Chỉ thấy hai mắt y mở trừng trừng, bỗng từ khóe mắt chảy xuống hai dòng máu tươi, thân hình trơ trơ, không động đậy gì nữa. Sư muội ta kinh hãi quá, kêu lên: "Đính Thiên, Đính Thiên, chàng sao thế?".

Viên Chân kể đến đây, thanh âm tuy không lớn, nhưng ai nấy trong đêm khuya nghe thấy, nghĩ đến tình trạng hai mắt chảy máu của Dương Đính Thiên, đều cảm thấy rùng mình.

Viên Chân kể tiếp:

- Nàng gọi mấy lần, Dương Đính Thiên tuyệt nhiên không cử động. Sư muội ta thu hết can đảm tiến lên cầm tay y thì đã cứng ngắc, sờ mũi thì đã tắt thở rồi. Ta biết trong lòng nàng đau khổ vô cùng nên an ủi: "Xem ra y đang luyện một môn công phu thật khó khăn, đột nhiên tẩu hỏa, chân khí chạy ngược lên, khiến cho không thể nào cứu kịp". Sư muội ta đáp: "Đúng thế, y luyện môn võ công không gì sánh kịp Càn Khôn Đại Na Di của Minh giáo, đang vào lúc khó khăn, đột nhiên nhìn thấy hai đứa chúng ta lén gặp nhau nơi đây, tuy không phải chính tay tiểu muội giết y, nhưng cũng vì em mà chết".

Ta đang tính nói vài câu khuyên giải, đột nhiên sư muội chỉ về phía sau lưng ta, quát lên: "Ai thế?". Ta vội quay đầu, không thấy bóng dáng ai, khi nhìn trở lại, thì trên ngực nàng đã cắm một con dao găm, tự sát chết rồi.

Ha ha, Dương Đính Thiên nói rằng: "Ta lấy được người em nhưng không lấy được trái tim em". Còn ta chiếm được trái tim sư muội, nhưng vẫn không lấy được người nàng. Nàng là người mà ta trong đời yêu nhất, kính nhất, nếu như Dương Đính Thiên không nhảy vào phá đám, nhân duyên đẹp đẽ của hai chúng ta đâu có kết cục thê thảm như thế? Nếu Dương Đính Thiên không làm giáo chủ ma giáo, sư muội ta đời nào chịu lấy một người lớn hơn nàng đến trên hai chục tuổi. Dương Đính Thiên chết rồi, ta đâu có làm gì y được, nhưng ma giáo thì vẫn còn hoành hành trong thiên hạ. Ngay khi đó, ta chỉ vào thi thể Dương Đính Thiên và sư muội, nói rằng: "Thành Côn này thề rằng sẽ hết sức mình phúc diệt Minh giáo, bao giờ thành công rồi, sẽ đến trước hai người tự vẫn để báo đáp". Ha ha, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, các ngươi trong chốc lát sẽ chết ngay, cái mạng của Thành Côn này cũng chẳng còn bao lâu nữa, chỉ có điều ta tâm nguyện hoàn thành, vui vẻ mà tự vẫn, sung sướng hơn các ngươi vạn phần. Trong bao nhiêu năm qua, không giờ khắc nào ta không trù tính tìm cách tiêu diệt ma giáo. Ôi, Thành Côn này một đời bất hạnh, ái thê bị người ta cướp mất, chỉ có một đứa học trò yêu, cũng hận ta thấu xương ...

Trương Vô Kỵ thấy y đề cập đến Tạ Tốn, vội ngưng thần chú ý nghe. Thế nhưng lúc này chân khí trong cơ thể càng lúc càng nhiều, tưởng như tay chân xương cốt chỗ nào cũng căng phồng, từng thớ thịt muốn nổ tung, ngay cả những sợi tóc cũng như phình to gấp mấy lần. Viên Chân nói tiếp:

- Sau khi ta xuống Quang Minh Đính, trở về trung nguyên, đến thăm tên học trò yêu lâu năm không gặp Tạ Tốn. Ngờ đâu vừa nói chuyện, ta mới hay y hiện là một trong tứ đại pháp vương của ma giáo. Ta tuy ở trên Quang Minh Đính một thời gian lâu nhưng chỉ toàn tâm để ý tới sư muội, những chuyện trong ma giáo tuyệt không biết tới, sư muội ta cũng không hề đề cập chuyện nội bộ, ngay cả đồ đệ ta giữ chức vị cao trong ma giáo, cũng chính y nói ra ta mới biết. Y còn kiệt lực khuyên ta gia nhập ma giáo, nói gì hết sức đồng tâm, đuổi quân Hồ Lỗ. Ta tức giận không để đâu cho hết, nhưng chợt nghĩ ra: "Ma giáo người nhiều thế mạnh, gốc rễ sâu xa, cao thủ lại đông như kiến, ta chỉ có một mình, không thể nào diệt họ nổi. Không nói gì ta chỉ một thân, mà dẫu có hào kiệt võ lâm trong thiên hạ liên thủ, cũng chưa chắc hủy được họ. Duy chỉ có một cách là từ bên trong xúi giục, để sao họ tự tàn sát lẫn nhau, chính mình tự diệt mình.

Bọn Dương Tiêu nghe thấy y nói thế, ai nấy đều kinh hãi. Bao nhiêu năm nay cả bọn như người bị bịt mắt, đâu có biết đại địch ở ngay bên cạnh, trăm mưu nghìn kế để hủy diệt Minh giáo. Vậy mà mọi người lại lo tranh đoạt chức vị giáo chủ, đánh phá lẫn nhau hỗn loạn một phen, lời nói của Viên Chân khác nào lấy gậy đập lên đầu khiến họ choàng tỉnh lại.

Lại nghe thấy y nói tiếp:

- Khi đó ta thản nhiên như không, chỉ nói đây là việc lớn, phải có thời giờ suy nghĩ. Vài ngày sau, ta đột nhiên giả vờ say rượu, cố ý bức gian vợ của đồ nhi Tạ Tốn, thừa cơ giết luôn cha mẹ vợ con toàn gia y. Ta biết rằng từ đó về sau, y sẽ hận thấu xương, thể nào cũng tìm ta báo thù, nếu kiếm không được, thể nào cũng làm điều sằng bậy. Ha ha, biết trò ai bằng thầy, thằng bé Tạ Tốn chuyện gì cũng giỏi, văn tài võ công đều hơn người, có điều dễ bị khích động, không chịu suy nghĩ cho sâu xa để tìm hiểu tiền nhân hậu quả ...

Trương Vô Kỵ nghe đến đây, trong lòng phẫn nộ không sao kiềm chế nổi, nghĩ thầm: "Thì ra bao nhiêu bất hạnh xảy ra cho nghĩa phụ, toàn do tên lão tặc Thành Côn cố tình sắp đặt cả. Tên giặc già này có phải say rượu rồi nổi thú tính đâu, mà là âm mưu như thế".

Lại nghe Viên Chân đắc ý dương dương nói tiếp:

- Tạ Tốn giết bừa bãi giang hồ hảo hán, đâu đâu cũng để lại tên ta, tưởng thế sẽ ép được ta xuất đầu lộ diện, ha ha, ta đời nào thò mặt ra? Nếu không muốn người khác biết, chỉ có cách đừng làm thôi, Tạ Tốn gây ra biết bao oán thù, những mối huyết cừu đó đều đổ lên đầu Minh giáo cả. Y giết người đôi khi cũng gặp nguy hiểm, ta liền ẩn mặt giải vây cho y, y là con dao ta dùng để giết người, lẽ nào để y bị người ta hủy diệt? Ngoại địch của ma giáo càng nhiều, các cao thủ lại tranh ngôi giáo chủ, xâu xé không dứt, tất cả đều rơi vào kế của ta cả. Tạ Tốn không giết Tống Viễn Kiều, cũng là điều đáng tiếc, nhưng đánh chết Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm, đánh Không Động ngũ lão bị thương, giết vô số các hảo thủ nơi Vương Bàn Sơn đảo, cả đàn chủ Thiên Ưng giáo của người bạn cũ là Ân Thiên Chính cũng không tha ... học trò giỏi ơi là học trò giỏi, không uổng ta năm xưa kiệt tâm tận lực truyền cho y một thân võ công.

Dương Tiêu lạnh lùng nói:

- Nếu như thế, ngay cả sư phụ ngươi là Không Kiến thần tăng cũng bị ngươi dùng độc kế hại tử nữa.

Viên Chân cười đáp:

- Ta bái Không Kiến làm thầy, đâu có phải thực lòng đâu? Y được ta rập đầu lạy mấy cái, rồi chịu mất mạng thì cũng đâu có thiệt thòi gì, ha ha, ha ha.

Trong khi Viên Chân cười ha hả, Trương Vô Kỵ giận muốn phát điên, tai ù đi, đột nhiên ngất xỉu nhưng lại tỉnh dậy ngay. Chàng trong đời từng chịu biết bao nhiêu khinh khi hà hiếp, cũng thản nhiên như không, nhưng nghĩ đến nghĩa phụ là một hảo hán hiên ngang như thế, bị Thành Côn dùng độc kế làm cho gia phá nhân vong, thân bại danh liệt, hai mắt bị mù, sống một thân một mình nơi hoang đảo chờ chết, cái thâm cừu đại hận đó lẽ nào không báo?

Nộ khí trong ngực dâng lên, chân khí Cửu Dương trong cơ thể càng bùng lên mãnh liệt, nhưng không sao thoát được ra ngoài, cái túi Càn Khôn Nhất Khí dần dần phồng lên nhưng bọn Dương Tiêu đều chú tâm nghe Thành Côn nói chuyện, không ai để ý đến cái túi tại sao lại như biến ra như thế. Viên Chân lại nói tiếp:

- Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành hòa thượng, Chu Điên, các ngươi còn gì để nói nữa không?

Dương Tiêu thở dài một tiếng, nói:

- Sự đã như thế, còn gì để nói nữa? Viên Chân đại sư, ông có thể tha mạng cho con gái tôi được chăng? Mẹ nó là Kỷ Hiểu Phù người của phái Nga Mi, xuất thân danh môn chính phái, cũng chưa nhập Minh giáo.

Viên Chân nói:

- Dưỡng hổ di hoạn, nhổ cỏ nhổ cả rễ.

Nói xong bước tới một bước, giơ chưởng ra, chầm chậm đánh xuống đầu Dương Tiêu. Trương Vô Kỵ nằm trong cái túi vải nghe biết việc đến lúc khẩn cấp, không còn nghĩ đến việc toàn thân nóng như thiêu, nghe tiếng phỏng chừng khoảng cách, tung mình lao tới trước Viên Chân, tay trái giơ lên cách lớp vải gạt tay y ra ngoài.

Viên Chân lúc này chỉ mới cố miễn cưỡng hành động, nhưng nguyên khí vẫn chưa phục hồi, bị Trương Vô Kỵ gạt ra, thân hình lao đao, lùi lại một bước, quát lên:

- Thằng nhãi này, ngươi ... ngươi ...

Y vừa định thần liền tiến lên nhắm ngay cái túi đánh một chưởng. Chưởng này không trúng người Trương Vô Kỵ mà lại bị cái túi hất dội ra, khiến y phải lùi lại hai bước, thật ngạc nhiên không hiểu tại sao. Trương Vô Kỵ bấy giờ miệng khô lưỡi đắng, đầu óc bàng hoàng, Cửu Dương chân khí trong người căng phồng như muốn nổ tung cơ thể, nếu như cái túi Càn Khôn Nhất Khí vỡ trước chàng sẽ thoát hiểm, còn như nếu không đề ngự nổi luồng chân khí mãnh liệt vô cùng trong thân thể, da thịt chàng sẽ vỡ tan, cháy xém như bị quay trong lò.

Viên Chân thấy chiếc túi lạ lùng, liền tiến lên hai bước, tung chưởng đánh tới. Lần này y cũng bị dội lại, lùi một bước nữa, nhưng chiếc túi cũng bị chưởng của y đánh bật ra, lăn đi như một trái cầu da thật lớn. Trương Vô Kỵ nằm trong chiếc túi, lăn qua lăn lại, lộn lên lộn xuống, ngực thấy khó thở, cố phình bụng toan tống chân khí ra ngoài. Thế nhưng chiếc túi lúc này đã căng phồng, mỗi hơi thở càng lúc càng khó khăn. Viên Chân liên tiếp đánh ra ba quyền, đá thêm hai cái, đều bị chân khí trong túi đẩy bật ra, Trương Vô Kỵ nằm bên trong không hay biết. Cũng may Viên Chân chỉ đánh trúng ngoài bao, nếu đánh trúng được thân thể Trương Vô Kỵ, lúc này chân khí đang đầy tràn, chân tay Viên Chân thể nào cũng bị trọng thương.

Bọn Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu bảy người thấy chuyện kỳ lạ, đều kinh ngạc đến thừ người ra. Cái túi Càn Khôn Nhất Khí là của Thuyết Bất Đắc, chính ông ta cũng không biết tại sao lại phồng lên thành như trái cầu, cũng không biết Trương Vô Kỵ nằm trong đó còn sống hay đã chết.

Lại thấy Viên Chân rút từ trong lưng ra một con dao găm, hết sức đâm vào chiếc túi, thế nhưng chỗ bị đâm chỉ lõm xuống mà không thủng. Cái túi đó chất liệu thật lạ kỳ, không phải da mà cũng chẳng phải tơ, là một dị vật của trời đất, thanh chủy thủ của Viên Chân lại không phải là bảo đao, đâm luôn mấy cái nhưng không làm gì được. Viên Chân thấy đánh đấm đâm chém đều không công hiệu, nghĩ thầm: "Việc gì ta phải dây dưa với tên tiểu tử này?". Y giơ chân lên, hết sức đạp ra, chiếc túi vải liền lăn ra cửa sảnh.

Lúc này chiếc túi đã căng phồng thành một trái cầu, đụng phải cửa sảnh, liền dội trở lại, lăn thẳng vào người Viên Chân. Viên Chân thấy trái cầu thế lăn mãnh liệt, hai tay cùng tống ra, hết sức đẩy trở lại.

Chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, chẳng khác gì giữa ban ngày nghe một tiếng sét rền vang, mảnh vải bay tứ tung, chiếc túi Càn Khôn Nhất Khí đã bị Cửu Dương chân khí trong người Vô Kỵ phá vỡ, tan như bươm bướm. Viên Chân, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc cả bọn đều thấy một luồng hơi nóng phà vào người, lại thấy một thanh niên áo quần rách rưới đứng trước mặt, mặt mày ngơ ngác. Thì ra trong khoảnh khắc này, Trương Vô Kỵ luyện Cửu Dương thần công đã đại công cáo thành, thủy hỏa tương tế, long hổ giao hội. Chàng nằm trong chiếc túi vải căng phồng kia có khác nào có hàng chục cao thủ cùng ra sức thoa bóp tất cả các đại huyệt trong cơ thể, còn bên trong chân khí cuồn cuộn, mấy chục huyền quan trên kinh mạch đều được khai thông, tưởng như có một dòng thủy ngân chảy tới từng nơi, khoan khoái vô cùng.

Cơ duyên đó từ trước tới nay chưa ai được gặp, chiếc túi quí báu kia vỡ rồi, sau này cũng không thể nào có ai còn gặp được dịp may như thế nữa. Viên Chân thấy chàng trai thần sắc bất định, ngơ ngác hoang mang, còn mình mới bị trọng thương chưa khỏi, nếu không chộp lấy dịp may ngàn năm một thuở này, để đối phương ra tay trước thì thật là nguy hiểm. Nghĩ thế y liền tiến lên một bước, ngón tay trỏ bên phải điểm ra, vận nội kình Huyễn Âm Chỉ điểm vào huyệt Đàn Trung trên ngực Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ giơ tay gạt ra, lúc này thần công của chàng mới thành tựu, nhưng chiêu số võ thuật thật là bình thường, những gì Tạ Tốn và phụ thân dạy cho chưa dung hợp quán thông, làm sao chống nổi với một tuyệt thế cao thủ như Viên Chân? Chỉ mới một chiêu, huyệt Dương Trì trên cổ tay đã bị điểm trúng, lập tức cơ thể run lên bần bật, lùi lại một bước nhưng chân khí sung mãn đang muốn tràn ra trong cơ thể chàng trong chớp mắt đã truyền vào ngón tay của Viên Chân. Hai luồng lực đạo một âm một dương chõi nhau, có điều nội lực của Trương Vô Kỵ do Cửu Dương thần công mà ra, hồn hậu hơn nhiều. Ngón tay Viên Chân nóng hổi, kình lực toàn thân như biến đâu mất, lại vừa mới bị trọng thương xong, công lực so với lúc thường chưa được một thành, biết rằng tình thế không ổn, thoát thân bảo tồn tính mạng là cần, vội vàng quay mình bỏ chạy.

Trương Vô Kỵ giận dữ chửi:

- Tên đại ác tặc Thành Côn kia, mau nạp mạng.

Chàng co giò đuổi ra cửa sảnh, chỉ thấy bóng Viên Chân thoáng một cái, đã chạy vào một cửa hông. Trương Vô Kỵ tức khí đầy ngực, ra sức rượt theo. Chàng vừa sử dụng kình lực, nghe bình một tiếng trán đã đập mạnh vào cánh cửa. Thì ra chàng chưa biết mình đã luyện thành Cửu Dương thần công, mỗi lần giơ tay, co chân đều mạnh mẽ gấp mười lần bình thường, vừa cất bước đã không còn kiểm soát được sức lực nên mới va vào cánh cửa.

Chàng đưa tay xoa đầu, thấy hơi ngâm ngẩm đau, nghĩ thầm: "Sao mình lại có tà môn này, vừa nhắc chân đã chạy xa đến thế?", vội vàng theo cửa hông đi vào, thấy một căn nhà nhỏ. Chàng nhất tâm nhất ý báo thù cho nghĩa phụ, vội vàng đi qua sảnh đường đuổi theo.

Đằng sau căn phòng là một tòa nhà lớn, bên trong trồng đầy hoa cỏ, hương thơm ngào ngạt, thấy phòng phía tây có ánh đèn chiếu ra vội tung mình nhảy tới. Vừa đẩy cửa ra, chỉ thấy một bóng xám vụt một cái, Viên Chân đã vén một tấm màn thêu chạy vào trong đó.

Trương Vô Kỵ cũng chui vào nhưng không còn thấy Viên Chân đâu nữa. Chàng nhìn kỹ lại, không khỏi lạ lùng, thì ra nơi đây là một khuê phòng của một tiểu thư con nhà giàu có. Ngay bên cửa sổ là một bàn trang điểm, trên bàn để nến đỏ chiếu sáng những đồ đạc gấm vóc lụa là, đường hoàng phú lệ, không kém gì phòng của Chu Cửu Chân. Một bên là một cái giường, trướng rủ màn che, đằng trước còn để một đôi giày con gái màu đỏ, hẳn có người nằm ngủ trong đó. Khuê phòng này chỉ có một lối vào, các cửa sổ đều đóng chặt, rõ ràng nhìn thấy Viên Chân lẻn vào, nhưng chỉ một giây sau đã mất tăm mất tích, chẳng lẽ y có phép tàng hình hay sao? Hay y không nề là người xuất gia, dám ngang nhiên chui vào giường phụ nữ?

Trong khi chàng còn chưa biết nên hay không nên vạch màn ra tìm kiếm kẻ địch, bỗng lẹp kẹp có tiếng chân người đi tới. Trương Vô Kỵ nép mình vào ẩn sau một chiếc áo cừu treo ở bên tường phía tây, thấy có hai người từ ngoài đi vào. Chàng thò đầu ra xem thấy hai người con gái, một người mặc áo dài thêu màu vàng nhạt, quần áo sang trọng, còn một người tuổi nhỏ hơn, mặc áo xanh bằng vải, là một a hoàn. Con đầy tớ giọng khàn khàn nói:

- Tiểu thư, đêm đã khuya rồi, mời tiểu thư đi nghỉ.

Tiểu thư nọ tát trái một cái, ra tay thật nặng đánh vào mặt đứa đầy tớ. Đứa tớ gái choáng váng lùi lại một bước. Tiểu thư kia thân hình hơi lảo đảo, quay mặt lại, dưới ánh nến Trương Vô Kỵ nhìn rõ ràng, thấy nàng đôi mắt to đen láy, mặt bầu bĩnh, chính là người chàng vạn dặm đường xa từ Trung Nguyên đưa tới Tây Vực Dương Bất Hối.

Bây giờ xa nhau mấy năm, thân thể nàng đã cao lớn hơn trước nhiều, nhưng thần thái không thay đổi, khóe miệng nhếch lên khi còn nhỏ nay hiện rõ hơn. Chỉ nghe nàng mắng:

- Ngươi nói ta đi ngủ, hừ, lục đại phái vây đánh Quang Minh Đính, cha ta đang bàn tính đối sách với người ta, nói suốt đêm chưa chắc đã xong, lão nhân gia chưa ngủ, làm sao ta ngủ được? Tốt hơn hết là cha ta bị người ta giết chết, còn ta cũng bị ngươi giết luôn, cả thiên hạ này thuộc về ngươi hết.

Con a hoàn đâu dám biện bạch, đỡ nàng ngồi xuống. Dương Bất Hối nói:

- Mau đem kiếm đến đây cho ta.

Con a hoàn đi đến bên vách, lấy một thanh trường kiếm treo trên đó xuống. Hai chân cô ta nối với nhau bằng một sợi xích nhỏ, hai cổ tay cũng có một sợi xích khác, chân trái khập khễnh, lưng gù cong như cánh cung, đến khi cô ta lấy được thanh kiếm quay đầu lại, Trương Vô Kỵ càng thêm kinh hãi, thấy mắt phải nhỏ, mắt trái to, mũi và một bên miệng méo xệch, hình dáng thật là đáng sợ, nghĩ thầm: "Cô gái này còn xấu hơn cả Châu Nhi. Châu Nhi là vì trúng độc nên mặt mày sưng u, cũng còn có cơ hội trị được, còn cô gái này là tàn tật bẩm sinh".

Dương Bất Hối cầm thanh kiếm, nói:

- Địch nhân có thể đến bất cứ lúc nào, ta muốn đi ra ngoài tuần tra.

Con tiểu a hoàn nói:

- Để con đi theo tiểu thư, nếu như gặp địch, cũng có thêm được một người chiếu ứng.

Giọng nói cô gái khàn khàn ú ớ thật khó nghe, tưởng như từ một hán tử trung niên thô lỗ. Dương Bất Hối nói:

- Ai cần ngươi giả vờ tốt đối với ta?

Tay trái nàng lật một cái đã nắm chặt mạch môn con đầy tớ. Đứa a hoàn không còn cử động gì được nữa, run run kêu:

- Tiểu thư, cô ... cô ...

Dương Bất Hối cười nhạt nói:

- Địch nhân ùn ùn kéo tới, cha con ta sống chết chỉ còn sớm tối, ngươi tiểu a đầu có phải là do kẻ thù phái đến Quang Minh Đính để nằm phục sẵn nơi đây chăng? Cha con ta đời nào chịu để cho ngươi dày vò? Hôm nay ta giết ngươi trước.

Nói xong nàng xoay thanh kiếm đâm luôn vào cổ con a đầu. Trương Vô Kỵ từ khi biết cô đầy tớ gái này thân thể tàn tật, trong lòng nẩy tình thương hại, đột nhiên thấy Dương Bất Hối giơ kiếm đâm, trong cơn nguy cấp không kịp suy nghĩ, lập tức phi thân ra, búng ngay vào mũi kiếm một cái. Dương Bất Hối cầm kiếm không vững, nghe keng một tiếng, trường kiếm liền rơi xuống đất. Tay nàng vừa rời khỏi kiếm, hai ngón tay trỏ và giữa liền đâm luôn vào mắt Vô Kỵ. Chiêu này vốn chỉ là chiêu Song Long Sang Châu[12] tầm thường không có gì kỳ lạ, nhưng nàng đã được cha chỉ dạy mấy năm nay nên sử xuất cũng hơi có uy lực. Trương Vô Kỵ nhảy về phía sau, buột miệng nói:

- Bất Hối muội muội, ta đây.

Dương Bất Hối nghe y nói bốn chữ "Bất Hối muội muội", kinh ngạc vô cùng, hỏi lại:

- Có phải Vô Kỵ ca ca đấy không?

Nàng chỉ nhận ra thanh âm ngữ điệu của bốn chữ "Bất Hối muội muội", chứ không nhận ra được diện mạo Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong lòng hơi hối hận, nhưng không còn có thể chối được nữa, đành nói:

- Ta đây. Bất Hối muội muội, mấy năm nay em có khỏe không?

Dương Bất Hối định thần nhìn kỹ, thấy chàng quần áo rách rưới, mặt mày bẩn thỉu, trong lòng nghi ngại không biết có phải không, nói:

- Ngươi ... ngươi ... có thật là Vô Kỵ ca ca không? Sao mà ... sao mà lại tới được chốn này?

Trương Vô Kỵ nói:

- Đó là Thuyết Bất Đắc mang ta lên Quang Minh Đính đó. Gã hòa thượng Viên Chân kia đến phòng này rồi, đột nhiên không thấy đâu nữa, trong này có đường nào ra không?

Dương Bất Hối lạ lùng hỏi:

- Viên Chân hòa thượng nào? Ai vào trong phòng vậy?

Trương Vô Kỵ đang gấp chuyện đuổi theo Viên Chân, nếu nói hết câu chuyện thì quá dài, liền nói:

- Cha của em bị thương ở ngoài sảnh, muội muội mau ra xem thế nào.

Dương Bất Hối giật mình kinh sợ, vội nói:

- Để tiểu muội ra xem gia gia.

Nói xong tiện tay nhắm ngay thiên linh cái con a đầu đánh xuống một chưởng, ra tay thật nặng. Trương Vô Kỵ kinh hãi kêu lên:

- Không được thế.

Giơ tay đẩy vào vai cô ta một cái, chưởng của Dương Bất Hối rơi vào khoảng không. Dương Bất Hối hai lần định giết con a hoàn, đều bị chàng cản lại, gay gắt nói:

- Vô Kỵ ca ca, anh cùng phe với con a đầu này chăng?

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

- Nó là đầy tớ của em, anh mới gặp lần đầu, sao lại cùng phe với cô ta được?

Dương Bất Hối nói:

- Anh không biết nội tình đầu đuôi, sao lại cứ xen vào chuyện của người khác. Con a đầu này là đại đối đầu của gia đình em, cha em dùng xích sắt xích chân tay nó lại, để đề phòng nó khỏi hại em. Giờ phút này địch nhân kéo tới tập kích, con a đầu này thể nào cũng thừa cơ báo thù.

Trương Vô Kỵ thấy cô gái nhỏ tội nghiệp đáng thương, tuy hình dáng lạ lùng, nhưng không có vẻ gì là kẻ hung ác, nên nói:

- Cô nương, cô có ý định thừa cơ báo phục chăng?

Cô tớ gái lắc đầu đáp:

- Không thể nào có.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bất Hối muội muội, em nghe đó, cô ta nói không có đâu, tha cho cô ta đi.

Dương Bất Hối nói:

- Được rồi, nếu như anh vị tình, ối chà ...

Thân hình nàng nghiêng qua, lảo đảo đứng không vững. Trương Vô Kỵ vội vàng tiến tới đỡ, đột nhiên hai huyệt Huyền Khu, Trung Khu ở sau lưng đau nhói lên, ngã lăn ra đất. Thì ra Dương Bất Hối sợ chàng ra tay cản trở, dụ cho chàng đến gần, dùng cái nhẫn đả huyệt ở ngón tay giữa điểm luôn hai đại huyệt. Nàng điểm ngã Trương Vô Kỵ rồi, tay phải xoay lại, nhắm ngay Thái Dương con a hoàn đánh tới.

Thế nhưng bàn tay chưa đụng vào người nó, Dương Bất Hối thấy huyệt đan điền đột nhiên nóng hổi, toàn thân tê dại, đành phải buông tay con a hoàn ra, hai đầu gối nhũn ra, ngồi phịch xuống ghế. Thì ra nàng sử kình đánh vào huyệt đạo của Trương Vô Kỵ, tuy thần công của Trương Vô Kỵ mới luyện thành chưa có năng lực hộ thể nhưng đã có thể phản kích lại, Cửu Dương chân khí liền theo đó chạy khắp các mạch lạc của Dương Bất Hối.

Con a hoàn nhặt thanh trường kiếm dưới đất lên, nói:

- Tiểu thư, cô vẫn thường nghi con muốn hại cô. Bây giờ nếu muốn giết cô, thật dễ dàng như thổi tro trong bếp, thế nhưng con không có ý ấy đâu.

Nói xong đem trường kiếm bỏ lại trong bao, treo trở lại lên vách. Trương Vô Kỵ đứng lên nói:

- Em xem, anh có nói sai đâu.

Chàng bị điểm trúng huyệt đạo rồi, trong giây lát chân khí liền xung giải, lập tức có thể hành động được. Dương Bất Hối mắt trừng trừng nhìn chàng, trong lòng thật lạ lùng, lúc này chân tay đã hết tê dại, nghĩ đến an nguy của phụ thân, vội đứng lên nói:

- Cha em bị thương ra sao? Vô Kỵ ca ca, anh ở đây chờ em, khi quay về mình sẽ gặp lại. Mấy năm nay anh có khỏe không? Em lúc nào cũng nhớ anh ...

Nàng vừa nói vừa chạy ra ngoài. Trương Vô Kỵ hỏi cô tớ gái:

- Cô nương, gã hòa thượng kia chạy vào trong phòng, đột nhiên biến mất, cô có biết ở đây có đường hầm nào không?

Tiểu hoàn hỏi lại:

- Công tử thể nào cũng phải đuổi y cho bằng được ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Gã hòa thượng đó thương thiên hại lý, gây ra biết bao nhiêu tội nghiệt, tôi ... tôi ... dù phải đi đến chân trời góc biển, cũng phải đuổi theo y cho đến cùng.

Đứa tiểu hoàn ngửng đầu lên, nhìn vào mặt chàng. Trương Vô Kỵ nói:

- Cô nương, nếu quả biết được, xin cô chỉ đường cho.

Người tớ gái cắn môi, trầm ngâm giây lát, hạ giọng nói:

- Tính mệnh của tôi do công tử cứu, được rồi, để tôi dẫn công tử đi.

Nàng thổi tắt đèn nến, nắm tay Trương Vô Kỵ kéo đi.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Bố Đại Hòa Thượng là một nhà sư Trung Hoa đời nhà Lương, hình dáng mập mạp, thường mang một cái túi vào chợ xin, rồi bố thí lại cho người khác, có thể coi như một thứ ông già Noel của Phật giáo. Theo truyền thuyết, ông là một bồ tát hóa thân, xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều thời kỳ. Nước ta có ông Ba Bị cũng tương tự. Ở đây chỉ lấy biệt hiệu là Bố Đại hòa thượng chứ không phải vị bồ tát trong Phật giáo thực sự.

[2] Cũng là một nhân vật có thật, tính hoạt kê, được coi như một vị tiên.

[3] Năm nhân vật độc lập không ở dưới quyền ai

[4] tức Thượng đế của Minh giáo

[5] Đứng bên kia núi xem hổ đánh nhau

[6] Ra tay bất ngờ, việc binh không nề hà chuyện lừa dối nhau

[7]Bang phân băng ly chiết, nhi bất năng thủ dã; nhi mưu động can qua ư bang nội. Ngô khủng quí tôn chi ưu, bất tại chuyên du, nhi tại tiêu tường chi nội dã

[8]Thiếu Lâm tăng độc chỉ diệt Minh giáo, Quang Minh Đính thất ma quy Tây thiên.

[9] Thiên tác nghiệt, do khả hoạt. Tự tác nghiệt, bất khả hoạt.

[10] Tiếng lóng chỉ đạo sĩ

[11] phép thở của con rùa, dùng rất ít không khí là một phương pháp thở của đạo gia

[12] Hai con rồng tranh nhau viên ngọc

Hồi 20

DỮ TỬ CỘNG HUYỆT TƯƠNG PHÙ TƯƠNG--

Dù cho dị mộng đồng sàng,

Thác đi hai nắm xương tàn bên nhau.

Trương Vô Kỵ đi theo cô gái chưa được mấy bước, đã đến trước giường. Con a hoàn vén trướng lên, chui vào bên trong, nhưng vẫn cầm tay Trương Vô Kỵ không chịu buông ra. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nghĩ thầm con a hoàn này tuy còn bé, lại xấu xí, nhưng dẫu sao cũng vẫn là đàn bà, làm sao có thể cùng cô ta ngủ chung một giường được? Huống chi lúc này đuổi theo địch là chuyện gấp, thành thử giựt tay về. Con a hoàn nói nhỏ:

- Thông đạo ở trong giường.

Chàng nghe mấy chữ đó, tinh thần phấn chấn, không còn hiềm phân biệt nam nữ, thấy con a hoàn lật chiếc chăn lên, nằm ngang trên giường, chàng cũng nằm xuống bên cạnh. Không biết cô gái hoạt động máy móc gì, chiếc giường bỗng dưng nghiêng qua một bên, hai người rơi tuột ngay xuống.

Tuy rơi tới đất phải đến mấy trượng nhưng may là bên dưới có trải một lớp cỏ dày nên không thấy đau chút nào, chỉ nghe trên đầu một tiếng cạch nhỏ, chiếc giường đã quay lại như cũ. Chàng trong bụng khen thầm: "Cơ quan này bố trí thật tinh vi, ai ngờ được cửa đường hầm bí mật này lại ở ngay trên giường một tiểu thư". Chàng nắm tay cô gái, vội vàng đuổi về phía trước.

Chạy được mấy trượng, nghe thấy tiếng xích của con a hoàn kéo lê dưới đất, chợt nghĩ ra: "Cô gái này chân tập tễnh, lại có xích sắt, sao có thể chạy nhanh đến thế?" liền ngừng lại. Cô gái đoán được tâm sự chàng, cười nói:

- Cháu giả vờ què chân để đánh lừa lão gia và tiểu thư đấy thôi.

Trương Vô Kỵ nghĩ bụng: "Thảo nào mẹ ta đã dặn rằng đàn bà con gái trong thiên hạ thích đánh lừa người khác. Hôm nay ngay cả Bất Hối muội muội cũng đã ám toán ta". Lúc này chàng đang lo đuổi theo kẻ địch thành thử ý niệm đó chỉ thoáng qua, rồi nghĩ qua chuyện khác, trong đường hầm cong cong quẹo quẹo chạy mấy chục trượng thì tắc nghẽn, nhưng gã Viên Chân tuyệt nhiên không thấy đâu.

Con a hoàn nói:

- Đường hầm này cháu cũng chỉ mới tới đây, chắc là còn có đường thông đi nơi khác nhưng cháu không tìm thấy cơ quan mở cửa.

Trương Vô Kỵ đưa tay mò quanh mọi chiều, thấy những vách đáo chỗ lồi chỗ lõm, không thấy có dấu nối, đưa tay đẩy thử những chỗ lồi lõm không thấy chuyển động chút nào. Con a hoàn than:

- Cháu cũng đã thử hàng chục cách nhưng vẫn không tìm ra máy móc ở chỗ nào, thật là lạ lùng. Cháu cũng đã đem đèn lửa vào xem kỹ càng nhưng không thấy chỗ nào có dấu vết gì khả nghi. Thế nhưng hòa thượng kia trốn đi đâu?

Trương Vô Kỵ hít một hơi, vận kình vào hai cánh tay, tại bức vách phía trái dùng sức đẩy thử, không thấy động tĩnh gì, lại qua bên phải đẩy thử. Lần này vách đá hơi chuyển động, chàng mừng quá, lại hít hai khẩu chân khí, sử kình đẩy thêm, tường đá từ từ lui về sau. Thì ra đó là một cái cửa đá thật dày, thật lớn, thật nặng, thật chắc chắn. Cái bí đạo trên Quang Minh Đính cấu trúc thật tinh xảo, có nơi thì dùng cơ quan bí mật, còn cái cửa đá này thì hoàn toàn không có máy móc gì, nếu không phải người có thần lực trời cho hay thân mang võ công thượng thừa thì không thể nào chuyển dịch được. Chẳng hạn như tiểu a hoàn này tuy đã vào được đường hầm nhưng võ công không đủ, nửa đường cũng phải bỏ cuộc.

Trương Vô Kỵ lúc này luyện Cửu Dương thần công đã thành, sức lực thật là mạnh mẽ nên mới có thể đẩy được cửa mở ra. Khi cánh cửa đá đã mở ra được ba thước rồi, chàng liền đánh ra một chưởng, đề phòng Viên Chân náu ở đằng sau cửa đá đánh lén chăng, sau đó mới luồn vào.

Qua khỏi bức tường đá rồi, trước mặt lại là một đường hầm dài khác, hai người liền theo đó mà đi, thấy thông đạo hơi xiên xiên lên trên, càng đi càng hẹp lại, khoảng chừng năm mươi trượng, đột nhiên đường chia thành hai nhánh. Trương Vô Kỵ đi thử một bên thì đường đó lại chia thành bảy nhánh khác, đang phân vân chưa biết theo ngả nào, bỗng nghe thấy từ đường bên trái ở phía trước có tiếng ho khẽ, tuy ngừng ngay nhưng trong đêm thanh vắng nghe vẫn rõ ràng.

Trương Vô Kỵ nói khẽ:

- Đi phía này.

Chàng liền tiến lên đi theo con đường tận cùng phía trái. Nhánh đó chỗ cao chỗ thấp, dưới đất lại gập ghềnh khó đi, chàng xông tới nghe tiếng xích sắt phía sau loảng xoảng không dứt, liền quay lại nói:

- Địch nhân ở phía trước, tình thế hung hiểm, cô cứ đi chầm chậm cũng được.

Con a hoàn trả lời:

- Có nạn cùng chịu, há sợ gì đâu?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ngươi cũng định lừa ta chăng?". Đường hầm cứ theo phía trái lượn hình trôn ốc đi dần xuống dưới, mỗi lúc một hẹp dần, về sau chỉ còn đủ chỗ lọt một người tưởng chừng như một giếng sâu. Đột nhiên chàng cảm thấy từ trên đầu một làn gió ép xuống, liền vung tay áo cuộn ngay ngang lưng con a hoàn, nhảy ngay xuống dưới, chân vừa chấm đất liền nhào người về phía trước, chẳng cần biết là hang sâu vạn trượng hay tường đá vì đâu có thì giờ suy nghĩ? Cũng may phía trước là một khoảng trống đủ chỗ cho hai người dung thân. Chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, đất cát đá vụn, bay mù mịt đầy đầu đầy mặt.

Trương Vô Kỵ định thần, bỗng nghe cô gái nói: "Nguy hiểm quá, tên giặc trọc ẩn thân bên cạnh, đẩy đá đè mình". Trương Vô Kỵ theo sườn đá vòng trở lại, tay phải giơ lên che đầu, đi được mấy bước, tay đã chạm phải mặt xù xì của tảng đá. Có tiếng của Viên Chân truyền từ sau tảng đá đến tai:

- Tặc tiểu tử, hôm nay cho ngươi chết nơi đây, có một cô gái nhỏ làm bạn, cũng may cho ngươi lắm đó. Nếu ngươi có khỏe, xem ngươi có đẩy nổi tảng đá này không nào? Nếu một tảng chưa đủ, cho thêm một tảng nữa.

Lại nghe tiếng sắt nạy vào đá, rồi thêm một tiếng bình nữa, một khối đá khác lại bị y bẩy xuống, đè lên trên tảng đá trước. Đường hầm này chỉ đủ lọt một người, Trương Vô Kỵ đưa tay mò thử, tuy tảng đá không hoàn toàn bịt chặt đường hầm, nhưng cùng lắm chỉ có thể đút lọt một cánh tay, còn người thì không thể nào chui qua được. Chàng hít một hơi chân khí, hai tay lắc thử, hai bên đất cát bay xuống mù mịt nhưng tảng đá không thể nào đẩy nổi. Xem ra hai khối đá nặng đến mấy nghìn cân chồng lên nhau, dù chàng có khỏe như trâu như hổ, cũng không thể nào mở nổi. Tuy chàng đã luyện Cửu Dương thần công nhưng sức người có hạn, hai khối đá to như hai cái gò nhỏ kia, làm sao có thể di chuyển được một gang nửa tấc nào?

Lại nghe Viên Chân ở bên ngoài tảng đá thở hổn hển, có lẽ sau khi y bị thương nặng rồi, lại còn dùng sức bẩy hai tảng đá khiến cho gân cốt không còn hơi sức. Y thở mấy lần rồi hỏi:

- Tiểu tử ... tên ... tên ngươi là..

Nói đến đây y hụt hơi không nói tiếp được nữa. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Lúc này nếu như y có đổi ý, đột nhiên mở lòng từ bi, muốn cứu hai người ra thì cũng không sao làm được. Việc gì mình phải phí lời với y làm gì, đi xem đường hầm có lối khác đi ra không là hơn". Nghĩ thế quay mình lại, theo đường hầm đi tiếp về phía trước. Cô gái nói:

- Bên mình cháu có đồ đánh lửa, tiếc rằng không có đèn nến gì cả, có lửa cũng tắt ngay.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đừng đánh lửa vội.

Chàng đi tiếp về phía trước thêm mấy chục trượng nữa thì đến cuối đường hầm. Hai người mò khắp nơi, Trương Vô Kỵ mò được một cái thùng gỗ, mừng nói:

- Có đây.

Giơ chưởng lên đánh xuống đập vỡ cái thùng, thấy trong thùng đầy bột, không biết là vôi hay là bột mì. Chàng nhặt một mảnh gỗ lên nói:

- Cô đốt lửa lên.

Cô tiểu hoàn lấy ra hỏa đao, hỏa thạch, bùi nhùi đánh lửa lên châm vào thanh gỗ, đột nhiên lửa cháy bùng lên chói cả mắt, mảnh gỗ bén lửa ngay. Hai người sợ đến nhảy dựng lên, mũi ngửi thấy mùi khét của diêm sinh. Cô gái nói:

- Thuốc súng đó.

Cầm mảnh gỗ giơ lên cao, nhìn lại bột trong thùng gỗ quả nhiên là thuốc nổ đen sì. Nàng cười khúc khích:

- Nếu như lúc đốm lửa tóe ra bén vào hỏa dược, e rằng cả tên ác hòa thượng ở bên ngoài kia cũng tan xác.

Lại thấy Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn nhìn mình, trên mặt đầy vẻ kinh ngạc, thần sắc thực là khác lạ, liền mỉm cười hỏi:

- Công tử sao thế?

Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nói:

- Thì ra, thì ra cô ... cô đẹp đến thế.

Cô tiểu hoàn che miệng cười, nói:

- Cháu sợ hết hồn, quên cả giả trang khuôn mặt.

Nói rồi đứng thẳng người lên. Thì ra cô ta chẳng gù lưng, cũng không khập khiễng, hai mắt sâu thẳm có thần, mày dài mũi thẳng, bên má có lúm đồng tiền. Tuy nhiên nàng tuổi còn nhỏ, thân thể chưa trưởng thành, mặt mày xinh đẹp nhưng vẫn còn nét trẻ con. Trương Vô Kỵ nói:

- Vì cớ gì cô phải giả vờ thành quái đản đến thế?

Cô gái cười đáp:

- Tiểu thư ghét cháu lắm, thấy cháu xấu xí thì trong lòng mới vui vẻ. Nếu cháu không giả vờ thành hình dáng quái dị như thế, cô ấy đã giết cháu lâu rồi.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Tại sao cô ấy lại muốn giết cô?

Tiểu hoàn đáp:

- Tiểu thư nghi là cháu muốn ám hại cô ấy và lão gia.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Thật là đa nghi. Khi cô cầm trường kiếm trong tay, cô ta không động đậy gì được, cô vẫn không hại cô ấy. Từ nay về sau, cô ấy sẽ không còn nghi ngờ gì cô nữa.

Cô gái nói:

- Cháu dẫn công tử xuống dưới này, tiểu thư lại càng nghi hơn. Nhưng không biết mình có ra khỏi nơi đây được không, nên dù cô ấy nghi hay không nghi, cháu cũng không để ý tới nữa.

Cô gái vừa nói vừa giơ cao thanh gỗ, xem xét chung quanh. Chỗ hai người đang đứng hình như là một căn phòng, chất đầy cung tên binh khí, đa số đều đã rỉ sét, có lẽ là nơi tàng trữ binh khí của Minh giáo khi xưa để phòng khi phải chống với ngoại địch. Xem xét tường bốn bên chung quanh, không thấy có dấu vết gì xem ra là cuối đường hầm rồi. Viên Chân sở dĩ cố ý ho là để dụ cho hai người đi vào tuyệt lộ.

Tiểu hoàn nói:

- Công tử gia, tên cháu là Tiểu Siêu. Cháu nghe tiểu thư gọi công tử là Vô Kỵ ca ca, vậy đại danh có phải là Vô Kỵ không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế. Tôi họ Trương ...

Đột nhiên chàng chợt nghĩ ra, cúi xuống nhặt một cây trường mâu, nhắc nhắc thử, thấy thật nặng nề, phải đến bốn chục cân, nói:

- Số thuốc nổ này xem ra có thể phá vỡ tảng đá cứu mình thoát hiểm được.

Tiểu Siêu vỗ tay reo lên:

- Hay lắm, hay lắm.

Khi nàng vỗ tay, tiếng xích ở cổ tay chạm nhau kêu leng keng. Trương Vô Kỵ nói:

- Sợi xích này vướng chân vướng tay, giựt đứt nó đi cho rồi.

Tiểu Siêu sợ hãi nói:

- Không, không được đâu. Lão gia sẽ giận lắm đó.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô cứ nói là tôi bẻ gãy, tôi không sợ ông ta bực mình đâu.

Nói xong chàng cầm hai đầu xích, dụng kình giựt ra. Sợi xích đó vốn chỉ nhỏ bằng cây đũa, sức kéo của chàng phải đến ba bốn trăm cân, nhưng chỉ kêu coong một tiếng, dây xích chấn động nhưng vẫn y nguyên không đứt.

Chàng hừ một tiếng, hít một hơi dài, tăng thêm kình lực, nhưng sợi dây xích cũng vẫn không hề hấn gì. Tiểu Siêu nói:

- Sợi dây xích này thật là lạ lùng, không phải bảo đao lợi kiếm thì không làm gì được đâu. Chìa khóa do tiểu thư giữ.

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Nếu mình ra khỏi nơi đây, tôi sẽ bảo cô ta mở khóa cho cô.

Tiểu Siêu nói:

- Chỉ sợ cô ấy không chịu đưa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi với cô ta có giao tình không phải tầm thường, cô ấy thể nào cũng đưa cho tôi.

Nói rồi chàng cầm cây trường mâu, đến bên dưới tảng đá, đứng nghe ngóng một lát, không nghe tiếng hô hấp của Viên Chân, chắc y đã đi xa rồi. Tiểu Siêu giơ cao mồi lửa, đứng bên cạnh soi cho chàng. Trương Vô Kỵ nói:

- Một lần chắc không vỡ được đâu, chắc phải làm vài lần.

Chàng vận sức vào cánh tay đục một cái lỗ cạnh tảng đá và vách hang. Tiểu Siêu đem hỏa dược tới, Trương Vô Kỵ liền nhồi vào trong cái lỗ đó, xoay chiếc giáo lại, dùng cán giáo lèn cho chặt, lại làm một sợi dây dẫn kéo dài tới bên trong căn phòng đá. Chàng cầm lấy cây đuốc trong tay Tiểu Siêu, cô gái liền lấy tay bịt chặt tai lại. Trương Vô Kỵ tiến ra trước che cho cô, cúi xuống châm ngòi đốm lửa liền theo đường dây chạy đi.

Chỉ nghe một tiếng ầm thật lớn, một làn hơi nóng ép thốc vào, đẩy chàng lùi lại hai bước, Tiểu Siêu cũng ngã chúi xuống. Chàng đã đề phòng trước, giơ tay đỡ ngang lưng cô ta. Trong thạch thất khói bụi bay mù mịt, cây đuốc cũng bị thổi tắt ngúm. Trương Vô Kỵ hỏi:

- Tiểu Siêu, cô không sao chứ?

Tiểu Siêu ngập ngừng một hồi, nói:

- Cháu ... cháu không sao cả.

Trương Vô Kỵ nghe cô giọng có vẻ nghẹn ngào, hơi lấy làm lạ, đến khi đốt lửa lên, thấy cô rưng rưng nước mắt, liền hỏi:

- Sao thế? Cô khó chịu trong người ư?

Tiểu Siêu nói:

- Trương công tử, công tử ... công tử không biết cháu là ai, sao đối với cháu tốt thế?

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

- Thế là sao?

Tiểu Siêu nói:

- Sao công tử lại che ở trước mặt cháu? Cháu chỉ là một đứa nô tì hèn hạ, còn công tử ... tấm thân nghìn vàng, sao lại đứng chắn cho cháu?

Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:

- Tôi có quí trọng gì đâu? Cô là một cô gái nhỏ, tôi tự nhiên phải che chở cho cô.

Đến khi khói bụi tan hết, chàng đi trở lại sườn hang, thấy tảng đá kia chẳng hề hấn gì, vẫn sừng sững như cũ, chỉ vạt đi một góc nhỏ. Trương Vô Kỵ hơi thất vọng nói:

- Chỉ sợ phải đến bảy tám lần thì mình mới qua được. Thế nhưng thuốc nổ chỉ còn dùng được nhiều lắm là hai lần nữa thôi.

Chàng lại cầm cây mâu lên, đục lỗ trên tảng đá. Đào được mấy nhát, vô tình đâm cây mâu vào vách đá, đột nhiên một cục đá to bằng cái đấu rơi ra, hở thành một cái lỗ. Chàng vừa mừng vừa sợ, thò tay vào, móc những đá chung quanh lắc mấy cái, thấy hơi nhúc nhích, vội sử kình giựt ra, lại thêm một tảng đá khác tuột xuống. Chàng moi ra được bốn cục đá vuông vức chừng một thước thì cái hang đã đủ để chui vào. Thì ra phía bên kia của đường hầm này có một lối đi, vừa rồi thuốc nổ tảng đá lớn, đã làm cho tường chấn động khiến những tảng đá rời ra. Cái miệng hang bịt bằng đá hoa cương, từng khối lớn bằng cái đấu.

Trương Vô Kỵ cầm bó đuối chui qua trước rồi gọi Tiểu Siêu đi theo. Đường hầm này cũng theo hình trôn ốc đi xuống, nhưng chàng đã khôn ngoan hơn, cầm cây mâu chĩa ra đằng trước, đề phòng Viên Chân ám toán lần nữa. Đi khoảng bốn năm chục trượng, đến một cửa đá. Chàng đưa cây mâu và bó đuốc cho Tiểu Siêu, vận kình đẩy cánh cửa, mở ra một căn phòng nữa.

Gian phòng này rất lớn, trên đỉnh có thạch nhũ rỏ xuống, đúng là một thạch động thiên nhiên. Chàng cầm bó đuối soi qua mấy vòng, bỗng thấy dưới đất hai bộ xương người chết. Y phục trên hai tàn cốt này chưa rã hết, nhìn kỹ là một người đàn ông, một người đàn bà.

Tiểu Siêu sợ hãi, nép vào bên cạnh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ cao ngọn đuốc, tra xét căn phòng thêm một lần nữa, nói:

- Chỗ này xem chừng là tận cùng rồi, không biết có tìm được đường ra không?

Chàng cầm cây mâu, gõ vào các bức vách, chỗ nào cũng thấy bình bịch nặng nề không thấy chỗ nào có vẻ rỗng. Chàng đến gần hai bộ xương người, thấy tay người đàn bà cầm một con dao găm sáng loáng, đâm vào ngực mình. Chàng hơi ngạc nhiên, nghĩ đến câu chuyện Viên Chân kể. Viên Chân và Dương phu nhân lén gặp nhau trong bí đạo, bị Dương Đính Thiên bắt gặp. Dương Đính Thiên phẫn uất, tẩu hỏa chết, Dương phu nhân liền dùng chủy thủ tự vẫn chết theo chồng. "Không lẽ hai người này là vợ chồng Dương Đính Thiên chăng?". Chàng đến gần bộ xương người đàn ông, thấy bên cạnh nơi xương bàn tay có một miếng da dê.

Trương Vô Kỵ nhặt miếng da lên xem, chỉ thấy một bên có lông, một bên nhẵn thín, không có gì đặc biệt. Tiểu Siêu cầm lấy miếng da, vẻ mặt vui mừng, kêu lên:

- Chúc mừng công tử, đây là tâm pháp võ công cao cấp nhất của Minh giáo.

Nói xong thò ngón tay trỏ bàn tay trái quẹt vào con dao chủy thủ trên ngực Dương phu nhân một cái, cắt một đường nhỏ, lấy máu bôi lên trên tấm da, liền từ từ hiện lên, hàng đầu tiên gồm mười một chữ viết: Minh Giáo Thánh Hỏa Tâm Pháp: Càn Khôn Đại Na Di.

Trương Vô Kỵ vô tình tìm được võ công tâm pháp của Minh giáo nhưng không lấy gì vui, nghĩ thầm: "Trong đường hầm này không nước, không gạo, nếu không ra khỏi nơi đây, cùng lắm được bảy tám ngày, ta và Tiểu Siêu cũng chết đói chết khát thôi. Dù có học võ công cao đến mấy thì cũng đành vô dụng".

Chàng nhìn hai bộ xương, nghĩ tiếp: "Gã Viên Chân kia sao không lấy luôn bộ tâm pháp Càn Khôn Đại Na Di này luôn? Có lẽ sau khi y gặp phải chuyện đau đớn kia rồi, không bao giờ còn dám quay lại nhìn xác vợ chồng Dương Đính Thiên nữa. Chắc y cũng không biết mảnh da dê này có chép tâm pháp võ công, nếu không thì chẳng nói gì vợ chồng họ Dương đã chết rồi, mà dù còn sống, y cũng tìm cách lấy cắp". Chàng quay lại hỏi Tiểu Siêu:

- Sao cô lại biết được bí mật của tấm da dê này?

Tiểu Siêu cúi đầu đáp:

- Khi lão gia nói chuyện với tiểu thư cháu có nghe lén được. Hai người là giáo đồ Minh giáo, không dám vi phạm giáo qui, đi xuống dưới bí đạo này tìm kiếm.

Trương Vô Kỵ nhìn hai bộ xương trắng, hơi thấy cảm khái, nói:

- Mình chôn họ đi vậy.

Hai người gom đất đá chung quanh lại vun vào một chỗ rồi đắp lên xác hai vợ chồng Dương Đính Thiên. Tiểu Siêu bỗng cầm một vật bên cạnh tàn cốt Dương Đính Thiên lên nói:

- Trương công tử, ở đây có một phong thư.

Trương Vô Kỵ cầm lấy xem qua, thấy trên bao thư có viết mấy chữ "Phu nhân thân khải"[1] bốn chữ. Vì đã lâu ngày, phong bì đã mục nát nên bốn chữ kia cũng đã bị tàn khuyết, nhưng vẫn còn nhìn thấy nét bút rắn rỏi toát ra một vẻ mạnh mẽ. Phong bì được dán kỹ, dấu xi khằn vẫn còn nguyên. Trương Vô Kỵ nói:

- Dương phu nhân chưa kịp mở thư ra xem đã tự sát chết rồi.

Chàng cung kính đặt bao thư vào trong đống tàn cốt của hai người, đang định lấy đất đá vùi lên, Tiểu Siêu nói:

- Mở ra xem thử nào? Không chừng Dương giáo chủ có dặn dò chuyện gì.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Làm thế e rằng bất kính.

Tiểu Siêu nói:

- Nếu như Dương giáo chủ có tâm nguyện gì chưa thành, công tử chuyển cáo lại cho lão gia và tiểu thư, để họ theo lời Dương giáo chủ thực hiện, chẳng hay hơn ư?

Trương Vô Kỵ thấy vậy cũng phải liền nhẹ nhàng mở phong bì, lấy ra một tờ giấy lụa trắng thật mỏng, trên đó có viết:

Phu nhân yêu quí:

Phu nhân từ khi về nhà họ Dương, ngày đêm u uất. Ta thô lỗ kém đức, không đủ cho phu nhân vui lòng, thật là có lỗi lắm vậy. Nay đã đến lúc vĩnh biệt, mong phu nhân lượng thứ cho.

Y giáo chủ đời thứ ba mươi hai có di mệnh rằng, khi nào ta luyện thành Càn Khôn Đại Na Di thần công, hãy dẫn các anh em đi qua tổng giáo bên Ba Tư, tìm cách nghênh đón thánh hỏa lệnh về. Bản giáo tuy phát nguyên từ Ba Tư, nhưng đã mọc rễ nơi Trung Hoa, thêm cành tỏa lá đã mấy trăm năm nay rồi. Nay Thát tử chiếm trung thổ của ta, bản giáo thề nhất định tới cùng, quyết không tuân lệnh vô lý từ tổng giáo Ba Tư, chịu cúi đầu nhận kẻ Mông Nguyên làm chủ. Thánh hỏa lệnh nếu về lại tay ta rồi, Minh giáo Trung Hoa lập tức có thể đứng ngang hàng với tổng giáo Ba Tư ngay.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Thì ra tổng giáo Minh giáo ở tại nước Ba Tư. Y giáo chủ và Dương giáo chủ không chịu tuân lệnh tổng giáo hàng phục Nguyên triều, thực là những hảo hán tử rất khí khái". Chàng trong lòng đối với Minh giáo thêm vài phần khâm phục, lại đọc tiếp xuống dưới:

Hôm nay ta sơ thành thần công bậc thứ tư, lại biết được chuyện Thành Côn, huyết khí trào lên không sao tự chế được, chân lực tán hết, biết đã đến lúc trở về rồi. Ý trời như thế, mệnh ta như thế, biết làm sao hơn?

Trương Vô Kỵ đọc đến đây, thở dài một tiếng nói:

- Thì ra khi Dương giáo chủ viết lá thư này, đã biết chuyện Dương phu nhân cùng Thành Côn lén gặp nhau nơi bí đạo.

Chàng thấy Tiểu Siêu ngập ngừng dường như muốn hỏi chuyện gì nhưng không dám mở miệng, liền đem chuyện vợ chồng Dương Đính Thiên và Thành Côn thuật sơ qua. Tiểu Siêu nói:

- Cháu thấy chuyện này là do Dương phu nhân không nên không phải. Nếu bà ta trong lòng còn nghĩ đến Thành Côn thì đừng lấy Dương giáo chủ làm gì, còn nếu đã lấy Dương giáo chủ, thì không nên lén gặp lại Thành Côn.

Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm: "Cô này còn bé như thế nhưng đã hiểu biết". Chàng đọc tiếp xuống dưới:

Nay mệnh ta chỉ còn sớm tối, phụ lòng Y giáo chủ trọng thác, thực là kẻ có tội của bản giáo. Vậy phu nhân cầm lá thư do chính ta viết này, chiêu tụ tả hữu Quang Minh sứ giả, bốn đại Hộ Giáo pháp vương, Ngũ Hành Kỳ sứ, Ngũ Tản Nhân truyền di mệnh của ta như sau:

Bất luận ai thu hồi được thánh hỏa lệnh về thì được làm giáo chủ đời thứ ba mươi bốn của bản giáo. Kẻ nào không phục giết đi không tha. Ra lệnh cho Tạ Tốn tạm nhận chức vụ Phó giáo chủ, xử phân các việc trọng đại trong bản giáo.

Trương Vô Kỵ lòng chấn động, nghĩ thầm: "Hóa ra Dương giáo chủ đã chỉ định nghĩa phụ ta tạm nhiếp chức vụ phó giáo chủ. Nghĩa phụ ta văn võ toàn tài, Dương giáo chủ chết rồi, ông ta là nhân vật kiệt hiệt nhất của Minh giáo. Tiếc rằng Dương phu nhân không đọc lá thư này, nếu không Minh giáo không đến nỗi tàn sát lẫn nhau, long trời lở đất như thế". Chàng thấy Dương Đính Thiên coi trọng Tạ Tốn như thế, lòng thật vui mừng, nhưng cũng không khỏi thương cảm, xuất thần một hồi rồi lại đọc tiếp:

Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp tạm do Tạ Tốn tiếp chưởng, sau này sẽ chuyển lại cho tân giáo chủ. Làm rạng rỡ tôn giáo của chúng ta, đuổi quân Hồ Lỗ ra khỏi bờ cõi, làm điều lành, trừ điều ác, giúp chuyện ngay, chống kẻ gian, mong các đấng minh tôn thánh hỏa phổ huệ thiên hạ thế nhân là điều tân giáo chủ phải cố mà làm.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cứ theo di mệnh của Dương giáo chủ mà xem, tông chỉ của Minh giáo thật là chính đại. Các đại môn phái cứ khư khư giữ lấy quan niệm của môn hộ, không ngừng làm khó dễ Minh giáo, quả thực không phải chút nào". Chàng lại đọc tiếp tờ di thư:

Ta đem công lực còn sót lại trong mình, đóng cửa đá lại ở cùng Thành Côn trong đường hầm này, còn phu nhân cứ theo bản đồ bí đạo mà thoát ra. Đương thế không có người thứ hai nào có thần công Càn Khôn Đại Na Di, thì cũng không ai có thể đẩy được cái cửa đá nằm ở vị trí Vô Vọng. Đợi đến khi hào kiệt hậu thế luyện được rồi, tàn cốt của ta và Thành Côn cũng đã mục nát.

Đính Thiên cẩn bạch.

Sau cùng là một hàng chữ nhỏ:

Ta tên là Đính Thiên, ở trên đời không làm được công nghiệp gì, đối với bản giáo không làm tròn nhiệm vụ, làm đau lòng phu nhân, ôm mối hận chết đi, vậy mà dám cuồng ngôn đội trời đạp đất[2], thật đáng chê cười.

Ở phía sau bức thư là một bản đồ bí đạo, ghi rõ các nơi ngõ ngách và cửa nẻo. Trương Vô Kỵ mừng quá, nói:

- Dương giáo chủ vẫn tưởng sẽ tự giam mình chung với Thành Côn trong đường hầm này, hai người cùng chết, nào ngờ ông ta tính không đến nơi đến chốn, chết sớm quá, để cho gã Thành Côn kia thung dung cho tới tận hôm nay. Cũng may mình có bức bản đồ này có thể kiếm được lối ra.

Tại bức địa đồ, chàng kiếm đúng chỗ mình đang đứng, tra xét lại thì có khác nào bị một thùng nước lạnh dội từ đầu trở xuống, thì ra lối thoát duy nhất, chính là lối mà Thành Côn dùng đá lấp mất rồi, thành ra dù có hay không có bức toàn đồ cũng thế thôi. Tiểu Siêu nói:

- Công tử đừng vội nản lòng, có thể có lối khác không chừng.

Cô ta cầm lấy tấm bản đồ, cúi đầu xem kỹ, thấy bản đồ vẽ thật rành rọt, đúng là ngoài lối đó ra không còn đường nào khác. Trương Vô Kỵ thấy nàng lộ vẻ thất vọng, cười gượng:

- Di thư của Dương giáo chủ có nói rõ, nếu ai luyện thành thần công Càn Khôn Đại Na Di, thì có thể đẩy được cánh cửa đá mà ra. Trên đời bây giờ ngoài Dương Tiêu tiên sinh ra, không ai luyện qua môn này cả. Thế nhưng ông ta công lực còn non, dẫu có ở nơi đây cũng chưa chắc đã làm được việc gì. Hơn nữa, mình cũng không biết hướng Vô Vọng là ở chỗ nào, trên bản đồ không ghi rõ, thì làm cách nào mà tìm?

Tiểu Siêu nói:

- Vô Vọng ư? Đó là phương vị của một trong sáu mươi tư quẻ của Phục Hi, Càn chấm dứt ở cung Ngọ, Khôn chấm dứt ở cung Tý, Dương ở phương Nam, Âm tại phương Bắc. Vô Vọng nằm giữa hai vị trí Minh Di và Tùy.

Nàng nói xong liền ở trong thạch thất phân chia phương vị, đi đến góc phía tây bắc, nói:

- Ở tại nơi đây.

Trương Vô Kỵ thấy lên tinh thần, nói:

- Có thật không?

Chàng liền chạy đến đường hầm chứa binh khí, lấy một cây đại phủ về, cạo sạch những đất cát bám trên tường, quả nhiên có dấu của một cánh cửa, nghĩ thầm: "Ta tuy không biết phép tắc trong Càn Khôn Đại Na Di, nhưng luyện Cửu Dương thần công đã thành, uy lực chưa chắc đã kém gì môn này". Nghĩ thế bèn tụ khí vào đan điền, kình lực vận lên hai cánh tay, hai chân xoải ra thành cung tiễn bộ[3], từ từ đẩy ra. Chàng đẩy một hồi lâu, thạch môn trước sau vẫn không nhúc nhích. Bất luận hai tay chàng đổi kiểu nào, vận chân khí cách nào, tới khi hai tay mỏi nhừ, xương cốt cơ thể kêu lục cục, cái cửa đá đó vẫn trơ trơ tưởng như liền với bức tường là một, chẳng di động được một phân.

Tiểu Siêu khuyên:

- Trương công tử, đừng thử thêm nữa, để cháu đem hỏa dược lại xem thế nào.

Trương Vô Kỵ vui mừng nói:

- Hay lắm, tôi quên mất là mình có thuốc súng.

Hai người đem tất cả nửa thùng thuốc súng nhồi vào thạch môn rồi đốt dây dẫn hỏa. Sau tiếng nổ, cánh cửa đá bị vạt vào đến bảy tám thước nhưng vẫn không thấy đường hầm đâu, xem ra tảng đá này bề dày còn hơn cả bề rộng.

Trương Vô Kỵ hơi cảm thấy ân hận, cầm tay Tiểu Siêu, dịu dàng nói:

- Tiểu Siêu, toàn là do tôi cả, làm cho cô cũng bị giam nơi đây không ra được.

Tiểu Siêu đưa đôi mắt trong suốt nhìn thẳng vào mặt chàng nói:

- Trương công tử, công tử phải trách cháu mới phải, nếu như cháu không dẫn công tử vào ... thì đâu đến nỗi ... đến nỗi ...

Nói đến đây, cô gái giơ tay áo gạt lệ, một hồi sau, bỗng dưng cười khanh khách, nói:

- Nếu mình không ra được thì buồn lo cũng có ích gì. Để cháu hát cho công tử nghe một bài, được không?

Trương Vô Kỵ còn lòng dạ nào mà nghe hát, nhưng không nỡ làm nàng cụt hứng, mỉm cười nói:

- Thế thì hay lắm.

Tiểu Siêu ngồi xuống bên cạnh chàng, cất tiếng hát:

Nhân sinh lý lẽ ai ơi,

Làm người cốt được thảnh thơi đủ rồi.

Ai ai cũng có thời thăng giáng,

Chẳng một ai chỉ xuống không lên.

Trong may có rủi kề bên,

Rủi kia cũng sẵn có hên ẩn tàng.

Trương Vô Kỵ nghe đến câu: "Cát tàng hung, hung tàng cát" lại nghĩ đến thân phận mình, quả đúng như thế, thấy giọng nàng trong trẻo dễ nghe, lên cao xuống thấp thật uyển chuyển, bao nhiêu buồn phiền giảm hẳn. Cô gái lại hát tiếp:

Giàu sang đâu hẳn giàu sang mãi,

Trời chói chang có lúc xế chiều.

Trăng kia sáng mãi bao giờ,

Tròn rồi lại khuyết đầy chờ khi vơi.

Đất thoai thoải đông nam một cõi,

Vòi vọi nghiêng tây bắc trời cao.

Dù cho thiên địa nhường bao,

Cũng chưa toàn vẹn làm sao con người.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tiểu Siêu, cô hát nghe hay quá, bài hát này ở đâu vậy?

Tiểu Siêu cười đáp:

- Công tử nói đùa, cháu hát có gì đâu mà hay? Cháu nghe người ta hát, nên nhớ được vài câu, cũng chẳng biết của ai làm nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến câu "Thiên địa thướng vô hoàn thể" nên tấm tắc khen bài hát. Tiểu Siêu hỏi:

- Công tử có thích nghe hát thật không? Hay chỉ nói giả vờ?

Trương Vô Kỵ cười:

- Thích hay không thích nghe lại còn giả hay thật gì nữa? Lẽ dĩ nhiên là thật rồi.

Tiểu Siêu nói:

- Hay lắm. Để cháu hát thêm một bài nữa nhé?

Cô ta lấy tay vỗ lên trên đá làm nhịp, hát thêm:

Chớ nên cau mặt nhíu mày,

Cũng đừng tranh cãi để cầu hơn ai.

Mặt hoa da phấn hôm nay,

Già hơn bữa trước một ngày còn chi?

Xuân qua đông lại tới thì,

Từ xưa vẫn thế có gì khác đâu.

Dù cho khôn khéo sang giàu,

Nghèo hèn ngu độn cũng đều như nhau.

Cõi trần kẻ trước người sau,

Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.

Hôm nay chỉ biết hôm nay,

Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.

Mấy ai thọ được bảy mươi,

Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.

Bài hát ý tứ mênh mang, hiển nhiên người làm ra cũng đã nhiều kinh lịch, biết rõ bụng dạ nhân tình, ở miệng một cô gái đang tuổi hoa niên hát ra xem chừng không xứng, đúng là cô ta nghe người khác hát rồi thuộc lòng. Trương Vô Kỵ tuổi tuy còn trẻ nhưng mười năm qua cũng đã nếm đủ mùi gian khổ rồi, hôm nay bị kẹt trong giữa lòng núi, trước mắt thấy không còn đường sống nhẩm lại hai câu: "Cõi trần kẻ trước người sau, Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay" không khỏi trùng lòng. Cái cầu xuôi tay hẳn là ngày từ giã cõi đời. Chàng đã nhiều lần lâm vào cảnh sinh tử quan đầu, nhưng trước đây chỉ có hai đường, sống hay chết, không liên lụy đến ai, lần này lại kéo thêm cô bé Tiểu Siêu, rồi chuyện tồn vong của Minh giáo, an nguy của Dương Tiêu, Dương Bất Hối và bao nhiêu người khác, cái thâm cừu giữa nghĩa phụ và Viên Chân, đều có ít nhiều liên quan đến chàng, nên không đành lòng mà chịu chết.

Chàng đứng lên đến đẩy cái cửa đá lần nữa, thấy chân khí trong cơ thể lưu chuyển, tưởng như trong người tích súc một luồng lực khí vô cùng vô tận, nhưng tắc tị không thể sử dụng được, khác nào cơn lũ lụt cuồn cuộn trên sông bị hai bờ đê chặn lại, không thể nào vượt qua.

Chàng thử ba lần không xong đành chịu thúc thủ. Bỗng thấy Tiểu Siêu lại cắt đầu ngón tay, lấy máu tươi tô lên miếng da dê, nói:

- Trương công tử, công tử thử luyện Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp xem sao? Biết đâu công tử thông minh hơn người, tập một lần là được.

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Các giáo chủ tiền nhiệm của Minh giáo luyện suốt cả đời nhưng cũng chưa ai thành công. Các vị đó đã làm giáo chủ, tài trí ắt phải trác tuyệt hơn người, tôi chỉ trong sớm tối làm sao có thể hơn họ được?

Tiểu Siêu lại cúi đầu hát:

Hôm nay chỉ biết hôm nay,

Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.

Công tử cứ luyện thêm được lúc nào hay lúc nấy.

Trương Vô Kỵ mỉm cười, đón lấy miếng da dê, miệng nhẩm đọc, thấy viết trên mảnh da này toàn là cách vận hành chân khí, cùng các pháp môn di cung sử kình. Chàng theo đó làm thử, không phí chút hơi sức nào đã làm được ngay. Trên miếng da viết tiếp:

Đây là tâm pháp cấp thứ nhất, người ngộ tính cao thì bảy năm có thể luyện thành, người kém một chút thì phải mất mười bốn năm.

Chàng lấy làm lạ: "Cái này có khó khăn gì đâu? Sao lại phải luyện tới bảy năm mới xong?".

Chàng xem tiếp xuống tâm pháp cấp thứ hai, theo đó mà làm, chỉ một lát là chân khí quán thông, trong mười đầu ngón tay, tưởng chừng như có hơi lạnh vọt ra. Trong đó lại có ghi chú:

Cấp thứ hai, người ngộ tính cao thì bảy năm có thể luyện thành, người kém một chút thì phải mất mười bốn năm. Nếu tới năm thứ hai mươi mốt mà không tiến triển, không được luyện sang cấp thứ ba, để phòng tẩu hỏa nhập ma, không cách nào cứu được.

Chàng vừa mừng vừa sợ, liền coi tiếp xuống cấp thứ ba. Lúc này những hàng chữ đã mờ, chàng đang định lấy chủy thủ cắt ngón tay thì Tiểu Siêu đã lấy máu mình xoa lên mảnh da dê trước. Trương Vô Kỵ vừa đọc vừa luyện theo, tầng thứ ba rồi tầng số bốn, đi đến đâu thông đến đó luyện được ngay chẳng khác gì chẻ tre.

Tiểu Siêu thấy mặt chàng một nửa bên đỏ như máu, nửa bên kia lại xanh lè, trong lòng hơi hãi sợ, nhưng thấy chàng thần định khí túc, hai mắt sáng lấp lánh, nên cũng yên tâm. Đến khi chàng đọc tiếp luyện tâm pháp qua cấp thứ năm, mặt chàng lúc xanh lúc đỏ. Khi mặt màu xanh thì thân thể hơi run như ở trong đá lạnh, còn khi mặt đỏ thì mồ hôi vã ra như mưa.

Tiểu Siêu lấy khăn tay ra, đưa lên định lau mồ hôi trán cho chàng, đột nhiên tay giật mạnh một cái, thân hình ngả qua một bên như muốn ngã ngửa. Trương Vô Kỵ đứng lên, giơ tay áo lau mồ hôi, trong nhất thời chẳng hiểu tại sao, nhưng cũng biết rằng cấp tâm pháp thứ năm chàng đã luyện xong rồi.

Thì ra môn Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp này vốn là một phương thức vận kình sử lực rất là xảo diệu, căn bản đạo lý là làm thế nào phát huy tối đa cái tiềm lực trong cơ thể của mỗi người. Trong bất cứ ai cũng có một tiềm lực thật to lớn, nhưng bình thời không sử dụng được mà thôi. Chỉ khi nào gặp chuyện khẩn cấp, chẳng hạn như cháy nhà mới thấy một người sức trói gà không chặt cũng có thể vác cả nghìn cân. Trương Vô Kỵ luyện xong Cửu Dương thần công rồi, lực đạo súc tích trong người hiện nay không ai bì kịp, có điều chưa được minh sư chỉ điểm nên không sử dụng được. Bây giờ chàng học được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, sức lực trong người như hồng thủy trào lên, không có gì có thể chế ngự nổi.

Môn tâm pháp này sở dĩ khó mà luyện cho thành công, chỉ sơ xẩy một chút là tẩu hỏa nhập ma ngay, toàn là do việc vận kình vừa xảo diệu, vừa phức tạp, mà nội lực người luyện công lại chưa đủ hùng hồn để vượt qua. Việc đó cũng không khác gì đưa cho một đứa trẻ bảy tám tuổi múa một chiếc búa nặng hàng trăm cân, trùy pháp càng tinh vi áo diệu, thì càng dễ đưa đến chỗ tự đánh vào mình vỡ đầu chảy máu. Thế nhưng nếu người sử dụng cái búa là một đại lực sĩ thì lại không sao cả. Những người luyện môn tâm pháp này trước đây, chỉ vì nội lực hữu hạn, miễn cưỡng tu luyện, để lâm vào cảnh bụng dạ có thừa mà sức chẳng đủ.

Các vị giáo chủ Minh giáo ngày xưa có mấy ai không hiểu đạo lý này đâu. Thân đã làm đến giáo chủ hẳn chí khí kiên nghị lấp biển dời non, đâu có người nào chịu thua kém ai, mà cũng có ai thấy khó mà bỏ cuộc? Đại phàm võ học cao thủ đều lấy câu châm ngôn "tinh thành sở chí, kim thạch vi khai[4]" nằm lòng, nên người nào cũng hăm hăm hở hở, hết sức tu tập, biết đâu rằng sức người có hạn, chỉ nhất tâm nghĩ rằng "nhân định thắng thiên" để đến nỗi ẩm hận nhi chung.

Trương Vô Kỵ sở dĩ chỉ mất nửa ngày đã luyện xong trong khi nhiều người thông minh tài trí, võ nghệ cao cường hơn chàng nhiều lần, hết sức hết tâm mấy chục năm vẫn không thành công, cái khác nhau cũng chỉ là một bên nội lực có thừa, còn một bên nội lực chưa đủ mà thôi.

Trương Vô Kỵ luyện đến cấp thứ năm rồi, thấy tinh thần lực khí toàn thân chỗ nào cũng có thể chỉ huy như ý muốn, muốn phát là phát, muốn thu là thu, tất cả đều do tâm ý điều khiển được cả, khắp cơ thể, các đốt tiết cảm thấy thật là thoải mái. Lúc này chàng quên cả việc phải đẩy cánh cửa đá, tiếp tục luyện xuống cấp thứ sáu. Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau, chàng đã bước vào cấp thứ bảy.

Cấp thứ bảy này so với cấp thứ sáu áo diệu gấp bội, không có thể hiểu được một cách dễ dàng. Cũng may là chàng tinh thông y đạo, mạch lý, mỗi khi gặp chỗ khó khăn không hiểu, lại đem y lý ra ấn chứng, nên mọi chỗ chàng đều quán thông. Khi luyện được quá nửa rồi, bỗng thấy khí huyết trào lên, tim đập mạnh. Chàng vội định thần, từ đầu luyện lại, cũng bị y như thế. Từ khi chàng luyện cấp thứ nhất tới chỗ này, chưa bao giờ bị tình trạng như vậy. Chàng bỏ qua mấy câu, luyện tiếp xuống dưới, lại thấy thuận lợi, nhưng được vài câu lại gặp trở ngại. Từ đó về sau, trở ngại mỗi lúc một nhiều, tính ra tổng cộng có tất cả mười chín câu không sao luyện được.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, để tấm da dê lên trên đống đá, cung kính phục xuống, khấu đầu mấy lần, khấn:

- Đệ tử Trương Vô Kỵ, vô tình tìm được thần công tâm pháp của Minh giáo, chỉ vì mong thoát khỏi khốn cảnh tìm đường sống, quả không có bụng ăn cắp bí tịch của quí giáo. Đệ tử sau khi thoát khỏi hiểm cảnh rồi, sẽ nhất quyết đem thần công này tận lực giúp quí giáo, không dám phụ lòng vun đắp và đại ân cứu mạng của liệt đại giáo chủ.

Tiểu Siêu cũng quì xuống lạy mấy lạy, hạ giọng khấn thêm:

- Liệt đại giáo tông ở trên, xin quí ngài phù hộ cho Trương công tử trung hưng Minh giáo, làm sáng tỏ uy danh của liệt tổ.

Trương Vô Kỵ đứng thẳng lên nói:

- Tôi đâu có phải là giáo đồ của Minh giáo, theo lời giáo huấn của thái sư phụ tôi, trong tương lai sẽ không thể nào gia nhập Minh giáo được. Thế nhưng sau khi tôi đọc di thư của Dương giáo chủ rồi, biết được tông chỉ của Minh giáo thật là quang minh chính đại, nên thể nào cũng kiệt tận sở năng, cố giải thích những chỗ hiểu lầm cho các đại môn phái, xin hai bên đừng tranh chấp nữa.

Tiểu Siêu nói:

- Trương công tử, công tử nói còn mười chín câu chưa luyện xong, sao không nghỉ một lát, cho tinh thần sung túc, biết đâu chả luyện được?

Trương Vô Kỵ nói:

- Hôm nay tôi đã luyện thần công Càn Khôn Đại Na Di đến cấp thứ bảy rồi, tuy phải bỏ qua mười chín câu, cũng có chút khuyết điểm thực, nhưng cũng như bài hát của cô mới rồi:

Dù cho thiên địa nhường bao,

Cũng chưa toàn vẹn làm sao con người.

Có lẽ nào tôi không biết đủ, tham lam cốt được thật nhiều? Tôi có phúc trạch công đức gì mà được thần công tâm pháp của Minh giáo? Để lại mười chín câu không luyện, chính là hợp đạo lý đó.

Tiểu Siêu nói:

- Công tử nói phải lắm.

Nàng cầm lấy tấm da dê, hỏi xem Vô Kỵ chỗ nào luyện chưa được, thầm nhẩm lại mấy lần nhớ kỹ mười chín câu đó trong lòng. Trương Vô Kỵ cười hỏi:

- Cô nhớ để làm gì?

Tiểu Siêu má đỏ bừng, nói:

- Chẳng làm gì cả. Cháu thấy công tử mà còn chưa luyện được nên xem thử coi khó đến mức nào.

Có biết đâu Vô Kỵ là người không coi trọng chuyện gì cả, thấy phải dừng là dừng, chính hợp với đạo "tri túc bất nhục" (biết đủ thì không phải chịu nhục) của cổ nhân. Thì ra năm xưa vị cao nhân sáng chế Càn Khôn Đại Na Di này, nội lực tuy mạnh thật, nhưng cũng chưa tới mức mạnh như Cửu Dương thần công nên cũng chỉ tới cấp thứ sáu là hết. Tâm pháp ông ta viết trong cấp thứ bảy, chính ông ta cũng chưa luyện tới, chỉ do thông minh trí tuệ, tưởng tượng và biến hóa ra mà thôi. Mười chín câu Vô Kỵ luyện không thông, toàn là do vị cao nhân tưởng tượng mà thêm vào, tưởng đúng mà thực ra không phải. Nếu Trương Vô Kỵ là người có cái tâm cầu toàn, nhất định phải luyện cho kỳ được mới thôi, ắt sẽ tẩu hỏa nhập ma ở cái cửa ải sau cùng này, chẳng khùng điên si ngốc thì cũng toàn thân bại liệt, có khi còn đứt kinh mạch táng mạng không chừng.

Hai người gom góp đất đá, chôn cất di thể hai vợ chồng Dương Đính Thiên xong mới đi đến trước cánh cửa đá. Lần này Trương Vô Kỵ chỉ cần đưa tay phải, để vào một bên cửa, theo đúng phép vận khí của Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, hơi sử kình, phiến đá đã kêu kèn kẹt từ từ chuyển động. Chàng vận thêm một phần sức lực nữa, cánh cửa chầm chậm mở ra.

Tiểu Siêu mừng quá, nhảy cẫng lên, vỗ tay khen ngợi, xích sắt ở tay chân chạm vào nhau, lại kêu leng keng liên hồi. Trương Vô Kỵ nói:

- Để tôi bứt sợi dây xích lần nữa xem sao.

Tiểu Siêu cười đáp:

- Lần này chắc là phải được.

Trương Vô Kỵ cầm sợi dây xích nối liền hai cánh tay nàng, vận kình kéo ra, dây xích từ từ dài ra, nhưng vẫn không đứt. Tiểu Siêu kêu lên:

- Ối chao, không ổn rồi. Công tử càng kéo dài chừng nào, thì lại càng bất tiện chừng nấy.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Cái dây xích này thật quái lạ, e rằng kéo dài đến mấy chục trượng cũng vẫn chưa đứt.

Thì ra một đời giáo chủ Minh giáo trước đây tìm được một khối vẩn thạch quái dị từ trên trời rơi xuống, trong đó có chứa chất liệu kim khí không như các loại sắt thép khác, các thợ khéo trong Nhuệ Kim Kỳ liền thử đúc binh khí nhưng không xong, nên rèn thành sợi dây xích này. Trương Vô Kỵ thấy Tiểu Siêu ủ rũ nên an ủi cô ta:

- Cô yên tâm, cứ tin rằng tôi thể nào cũng mở được xích này cho cô. Chúng mình bị kẹt trong giữa chừng núi như thế này cũng còn ra được, sá gì một sợi dây xích nhỏ?

Chàng muốn tìm Viên Chân báo cừu, quay trở lại cố đẩy hai tảng đá vạn cân kia, tuy chàng đã luyện thành thần công, hai khối đá bị chàng đẩy có chuyển động, nhưng vẫn không chịu mở ra. Chàng lắc đầu, cùng Tiểu Siêu đi trở lại lối cửa đá.

Khi qua rồi, chàng quay lại đẩy cánh cửa đá lại như cũ, thấy tảng đá này nào có phải là cửa đâu? Thực ra đó chỉ là một khối nham thạch thiên nhiên, dưới dáy có chèn một quả cầu sắt lớn dùng như bản lề. Ngày tháng trôi qua, trái cầu đó hoen rỉ nên khối nham thạch đó khó mà chuyển động. Chàng nghĩ đến năm xưa Minh giáo kiến tạo địa đạo này, sử dụng vô số nhân lực, không biết bao nhiêu năm tháng, bao công phu và tâm huyết.

Chàng tay cầm bản đồ bí đạo theo đúng đường mà đi, tuy ngoắt ngoéo nhiều lối nhưng không phải mất công gì đã thoát ra được.

Vừa ra khỏi đường hầm thấy ánh sáng chói lòa chiếu vào mặt, hai người nhất thời không mở mắt ra được. Qua một lúc sau, mới chầm chậm hé mắt ra, thấy băng tuyết khắp nơi, ánh mặt trời phản lại nên mới càng thêm sáng chói như thế. Tiểu Siêu thổi tắt cây đuốc trên tay, tại bãi tuyết đào một cái lỗ nhỏ chôn cây đuốc xuống, nói:

- Cây đuốc ơi là cây đuốc, đa tạ ngươi chiếu sáng cho Trương công tử và ta ra khỏi đường hầm, nếu không có ngươi thì bọn ta không thể nào làm được cái gì cả.

Trương Vô Kỵ cười ha hả, trong lòng thấy sảng khoái, chợt nghĩ lại: "Thế nhân biết bao nhêu là kẻ vong ân phụ nghĩa, còn tiểu cô nương này đối với một cây củi cũng còn như thế, ắt hẳn là người trung hậu trọng nghĩa".

Chàng quay nhìn cô mỉm cười, ánh sáng từ băng tuyết hắt lên khuôn mặt cô gái, thấy nàng da dẻ trắng trẻo, mịn màng như ngọc, nên buột miệng khen:

- Tiểu Siêu, cô đẹp quá.

Tiểu Siêu vui mừng nói:

- Trương công tử, công tử không nói dối đấy chứ?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô đừng giả vờ què chân, gù lưng làm thành quái dị nữa, cứ như thế này thì đẹp biết bao.

Tiểu Siêu nói:

- Công tử bảo cháu đừng giả vờ, cháu sẽ không giả vờ nữa. Tiểu thư nếu muốn giết cháu, cháu cũng không giả vờ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nói bậy nào. Cô có làm gì đâu mà đòi giết cô?

Chàng lại nhìn cô ta lần nữa, thấy nàng da dẻ trắng hồng, sống mũi hơi cao hơn so với con gái bình thường, tròng mắt ẩn ẩn màu xanh của biển cả, liền nói:

- Cô là con gái bản địa Tây Vực, có phải không? So với con gái Trung Nguyên chúng tôi, xem có phần đẹp hơn.

Tiểu Siêu hai lông mày hơi nhướng lên, nói:

- Cháu chỉ muốn được giống như con gái Trung Nguyên thôi.

Hồi 20

DỮ TỬ CỘNG HUYỆT TƯƠNG PHÙ TƯƠNG--

Trương Vô Kỵ đi đến bên bờ đá, nhìn chung quanh, thì ra đang ở giữa lưng chừng một chỏm núi. Khi trước chàng bị Thuyết Bất Đắc bỏ vào trong túi vải vác chạy lên Quang Minh Đính, thành thử không nhận ra địa thế, chẳng biết mình đang ở nơi đâu.

Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn bốn bề, thấy ở trên triền núi phía tây bắc có mấy hình người nằm yên không cử động, dường như đã chết, liền nói:

- Mình đến đó xem thử coi thế nào.

Chàng cầm tay Tiểu Siêu, theo hướng sườn núi đó chạy tới. Lúc này chân khí Cửu Dương thần công trong người lưu chuyển như ý, Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp lại luyện đến cấp thứ bảy, vừa giơ tay, vừa cất bước, người ngoài nhìn thấy không nghĩ là sức người có thể làm được, tuy đã dắt thêm Tiểu Siêu, nhưng thân thể vẫn nhẹ nhàng như một cánh én.

Khi đến gần, thấy có bốn người nằm chết trên mặt tuyết, máu me vương vãi chung quanh, trên người ai cũng có dấu đao vết kiếm. Trong số đó ba người mặc sắc phục Minh giáo giáo đồ, còn một người là tăng nhân, dường như đệ tử phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ kinh hãi nói:

- Không xong rồi. Mình bị kẹt trong hang núi quá lâu, sáu đại môn phái đã đánh lên trên Quang Minh Đính rồi.

Chàng sờ thử tâm khẩu cả bốn người thấy đều lạnh ngắt, hiển nhiên chết cũng đã lâu. Vội vàng nắm tay Tiểu Siêu, theo dấu chân trên tuyết chạy lên. Chạy được độ mươi trượng, lại thấy có bảy người chết trên mặt đất, trông thật ghê rợn.

Trương Vô Kỵ cực kỳ bồn chồn, nói:

- Chẳng biết bọn Dương Tiêu tiên sinh và Bất Hối muội tử giờ này ra sao rồi?

Chàng càng chạy càng nhanh, tưởng như kéo Tiểu Siêu cùng bay vậy, qua một khúc quẹo, thấy có năm giáo đồ Minh giáo bị treo trên cây, tất cả lộn đầu xuống đất, mặt mũi người nào cũng nhầy nhụa máu me, dường như bị cào nát. Tiểu Siêu nói:

- Đây là bị Hổ Trảo Thủ của phái Hoa Sơn.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ:

- Tiểu Siêu, cô tuổi còn nhỏ, kiến thức sao rộng đến thế, ai dạy cho cô vậy?

Tuy chàng hỏi câu đó nhưng trong lòng khắc khoải chuyện an nguy trên Quang Minh Đính, không đợi Tiểu Siêu trả lời, lại nắm tay cô tiếp tục chạy lên núi. Trên đường thấy người chết nằm la liệt, phần lớn là giáo đồ Minh giáo, nhưng đệ tử của lục đại môn phái cũng không phải là ít. Có lẽ chàng kẹt trong hang núi một ngày một đêm, lục đại môn phái đã phát động mãnh công. Vì những nhân vật trọng yếu như Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu trong Minh giáo đều bị thương nặng, không ai chỉ huy nên lâm vào thế bất lợi, nhưng chúng giáo đồ tuy ở vào thế lép nhưng vẫn kiệt lực chiến đấu không chịu khuất phục, thành thử tổn thất hai bên đều cao.

Trương Vô Kỵ chạy đến đỉnh núi, nghe thấy tiếng binh khí chạm nhau, loảng xoảng loảng xoảng thật là khốc liệt, trong lòng hơi yên tâm, nghĩ thầm: "Đánh nhau vẫn chưa xong, lục đại môn phái chưa đánh được tới đại sảnh". Vội vàng theo hướng đánh nhau chạy tới.

Đột nhiên nghe vụt một tiếng, ở sau lưng có hai mũi cương tiêu ném tới, tiếp theo có tiếng người quát:

- Ai đó? Đứng lại.

Trương Vô Kỵ chân không chậm lại, tay vẫy ngược một cái, hai mũi cương tiêu lập tức quay đầu, chỉ nghe một tiếng "A" thảm thiết, tiếp theo bình một tiếng, có người nào đó đã ngã lăn xuống đất. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, quay đầu nhìn, thấy nằm trên đất là một nhà sư mặc tăng bào màu xám, hai mũi cương tiêu cắm vào đầu vai y. Chàng ngẩn người, không ngờ chỉ vẫy tay một cái, những tưởng chỉ đánh giạt thế bay đến của cương tiêu khỏi trúng người mình, đâu ngờ phẩy tay nhẹ nhàng như thế mà uy lực cũng không phải tầm thường.

Chàng vội vàng chạy đến xuýt xoa nói:

- Tại hạ lỡ tay làm đại sư bị thương, thật là đắc tội.

Giơ tay rút mũi cương tiêu ra. Vai nhà sư Thiếu Lâm máu chảy vọt ra, nhưng không ngờ ông ta thật là dữ tợn, giơ chân đá một cái, nghe bình một tiếng, trúng ngay bụng dưới Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cùng y đứng thật gần nhau, không ngờ ông ta bất ngờ ra tay tấn công, chàng vừa ngẩn người thì tăng nhân kia đã bay vọt trở ra, lưng đụng phải một thân cây, chây trái gãy lìa, miệng hộc máu tươi. Trương Vô Kỵ lúc này trong cơ thể chân khí lưu chuyển, mỗi khi có ngoại lực lập tức sinh phản kích, không khác gì hôm nào chấn gãy đùi của Tĩnh Huyền, nhưng lực đạo bây giờ mạnh hơn nhiều.

Chàng thấy nhà sư đó bị trọng thương, lòng không an, chạy lên đỡ dậy luôn mồm xin lỗi. Tăng nhân đó hậm hực nhìn chàng, vừa căm tức vừa sợ hãi, tuy có ý muốn xuất chiêu tấn công nhưng không còn hơi sức nào nữa. Bỗng nghe từ trong tường vọng ra mấy tiếng ằng ặc, Trương Vô Kỵ không còn thì giờ nào lo cho nhà sư kia, vội cầm tay Tiểu Siêu, theo đại môn chạy vọt vào, xuyên qua hai sảnh đường, trước mắt là một cái sân lớn.

Trong sân người đứng đen kịt nhưng phía tây thì ít hơn, mười người thì đến tám máu me lênh láng, kẻ ngồi kẻ nằm, là phe Minh giáo. Còn phía đông người nhiều gấp bội, chia thành sáu nhóm, thành thế bao vây phe Minh giáo lại. Xem ra cả sáu đại môn phái đã có mặt đầy đủ. Trương Vô Kỵ chỉ mới liếc qua đã thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành hòa thượng, Thuyết Bất Đắc cả bọn đều ngồi trong đám giáo đồ Minh giáo, xem ra đều cử động khó khăn. Dương Bất Hối ngồi bên cạnh phụ thân.

Trong sân có hai người đang giao đấu, mọi người chú tâm vào trận đánh nên Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu tiến vào chẳng một ai lưu tâm. Trương Vô Kỵ dần dần xích lại gần hơn, định thần nhìn kỹ, thấy hai người đều tay không, nhưng chưởng phong kêu vù vù, uy lực bao trùm mấy trượng, hiển nhiên cả hai đều là cao thủ tuyệt đỉnh. Hai người thân hình chuyển động, ra chiêu thật nhanh, đột nhiên bốn chưởng đụng nhau, lập tức hai bên đều bất động, chỉ trong nháy mắt, từ một cảnh vũ động huyền ảo biến thành lặng như tờ. Những người đứng chúng quanh đều cùng kêu lên:

- Hay thật.

Trương Vô Kỵ bấy giờ nhìn rõ diện mạo hai người, trong lòng chấn động. Thì ra người tuổi trạc trung niên, thân hình bé nhỏ, nét mặt cương nghị kia chính là tứ hiệp Trương Tùng Khê của phái Võ Đương. Đối thủ của ông ta là một ông già đầu hói cao to, mi dài trắng như tuyết, rủ xuống một bên khóe mắt, mũi khoằm khoằm trông như mỏ chim diều hâu. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Không ngờ Minh giáo lại có một cao thủ cỡ này, chẳng biết ai đây?".

Bỗng nghe từ trong phía phái Hoa Sơn có người kêu lên:

- Này lão già Bạch Mi kia, mau nhận thua đi thôi, ngươi làm sao có thể đối địch được với Trương tứ hiệp của phái Võ Đương?

Trương Vô Kỵ nghe thấy "lão già Bạch Mi" trong lòng chấn động: "A, thì ra người này ... người này ... người này chính là ông ngoại ta Bạch Mi Ưng Vương". Chàng trong bụng nảy ra một mối trìu mến thiết tha, muốn chạy lên ngay để nhận người thân.

Trên đỉnh đầu Trương Tùng Khê và Ân Thiên Chính đều có hơi nóng bốc lên, hai người trong giây lát đã đem tất cả nội gia chân lực bình sinh khổ luyện ra sử dụng. Một người là giáo chủ Thiên Ưng giáo, một trong tứ đại Hộ Giáo pháp vương, một người là đệ tử đắc ý của Trương Tam Phong, đứng trong Võ Đương thất hiệp uy chấn thiên hạ, xem ra chỉ trong giây lát ai thắng ai bại sẽ biết ngay.

Cả Minh giáo lẫn người trong lục đại môn phái ai ai cũng nín thở đứng xem, lo cho người của phe mình, biết rằng cuộc đấu này, không phải chỉ là uy danh Minh giáo và phái Võ Đương mà là một cuộc thi chân lực, người thua có thể mất mạng như chơi. Hai người bây giờ như hai tượng đá, ngay cả tóc và áo quần cũng không lay động chút nào.

Ân Thiên Chính thần uy lẫm lẫm, hai mắt lấp lánh như điện, còn Trương Tùng Khê thì sử dụng yếu chỉ tâm pháp của phái Võ Đương, lấy nhàn nhã chống nhọc mệt, lấy tĩnh chế động, thủ vệ cực kỳ nghiêm mật. Ông biết Ân Thiên Chính lớn hơn mình đến hai mươi tuổi, nội lục tu luyện cao thâm hơn hai mươi năm, nhưng mình thì đang lúc trai tráng sức lực dồi dào, còn đối phương niên kỷ đã cao thể chất suy yếu, càng giữ được lâu chừng nào, càng có cơ thắng thế.

Nào ngờ Ân Thiên Chính là một kỳ nhân trong võ lâm, tuổi tác tuy lớn nhưng tinh lực không kém gì khi còn trẻ, nội kình vẫn như sóng biển, liên miên bất tuyệt hết đợt này đến đợt khác, theo song chưởng ào ào tấn công Trương Tùng Khê.

Trương Vô Kỵ khi mới thấy Trương Tùng Khê và Ân Thiên Chính trong lòng mừng rỡ, nhưng lập tức vui biến thành lo, một người là ông ngoại mình, có tình máu mủ; một người là sư huynh của phụ thân, đối với chàng cũng chẳng khác gì con ruột, năm xưa khi bị trúng Huyền Minh thần chưởng, chư hiệp phái Võ Đương không ai ngại tiêu hao nội công, tận tâm kiệt lực chữa bệnh cho mình. Nếu một trong hai người có ai bị thương hay chết, trong lòng chàng không khỏi cực kỳ hối tiếc.

Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm, đang định tìm cách tiến lên sách giải, bỗng nghe Trương Tùng Khê và Ân Thiên Chính cùng quát lên một tiếng, bốn chưởng phát lực, hai người cùng lui về sáu bảy bước.

Trương Tùng Khê nói:

- Ân lão tiền bối thần công trác tuyệt, bội phục bội phục.

Ân Thiên Chính cũng cất tiếng vang vang như chuông, nói:

- Công phu tu luyện nội gia của Trương huynh siêu phàm nhập thánh, lão phu tự thẹn không sao bằng được. Các hạ là đồng môn sư huynh của tiểu tế, không lẽ hôm nay phải nhất quyết phân thắng bại mới xong hay sao?

Trương Vô Kỵ nghe thấy ông đề cập đến cha mình, nước mắt lập tức trào ra, trong bụng không ngớt kêu thầm: "Thôi đừng đánh nhau nữa, đừng đánh nữa".

Trương Tùng Khê nói:

- Vừa rồi vãn bối lùi nhiều hơn một bước, đã thua nửa chiêu rồi.

Nói rồi khom mình vái chào, thần định khí nhàn lui xuống. Đột nhiên từ phái Võ Đương một hán tử chạy ra, chỉ vào Ân Thiên Chính giận dữ nói:

- Lão họ Ân, ông không đề cập đến Trương ngũ ca của tôi thì không nói. Hôm nay nhắc đến chỉ càng làm cho chúng tôi thêm tức tối. Du tam ca và Trương ngũ ca hai người của chúng tôi, đều bị hại vì tay Thiên Ưng giáo cả, thù này không báo, thật uổng cho Mạc Thanh Cốc này mang cái tên Võ Đương thất hiệp.

Nghe soẹt một tiếng, trường kiếm đã rút ra khỏi vỏ, ánh mặt trời chiếu vào lấp lánh, theo tư thức Vạn Nhạc Triều Tông[5]. Đây là thế khởi đầu của đệ tử phái Võ Đương mỗi khi động thủ quá chiêu với trưởng bối, Mạc Thanh Cốc tuy lửa giận bừng bừng, nhưng dẫu sao cũng vẫn là một cao thủ võ lâm có danh phận, trước cảnh bao người đổ dồn vào mình, nhất cử nhất động vẫn không để cho khiếm lễ.

Ân Thiên Chính thở dài một tiếng, trên mặt thoáng vẻ u buồn, chậm rãi nói:

- Lão phu từ khi tiểu nữ qua đời rồi, không muốn sử dụng đao kiếm nữa. Thế nhưng nếu tay không động thủ quá chiêu với Võ Đương chư hiệp thì quả thực là đại bất kính.

Ông chỉ vào một giáo đồ Minh giáo tay cầm thiết côn nói:

- Cho ta mượn cây gậy một chút.

Tên giáo đồ cầm ngang cây côn tề mi bằng thép đúc, khom lưng cung kính dâng lên. Ân Thiên Chính tiếp lấy thiết côn, hai tay bẻ một cái, nghe cắc một tiếng, cây gậy sắt đã gãy làm đôi.

Nhừng người chung quanh đứng xem đều "Chà" một tiếng, không ngờ ông già sau khi chiến đấu lâu, vẫn còn thần lực kinh người như thế. Mạc Thanh Cốc biết ông ta không ra chiêu trước, trường kiếm vung lên, sử chiêu Bách Điểu Triều Phượng tấn công. Chỉ thấy mũi kiếm rung động không ngừng, trong giây lát biến thành hàng mấy chục lưỡi kiếm đâm vào trung bàn đối phương, chiêu này tuy lợi hại thật nhưng vẫn là một kiếm pháp đầy lễ nghĩa.

Cây gậy bên trái của Ân Thiên Chính liền chặn ngang, nói:

- Mạc thất hiệp không phải khách khí.

Cây gập phía bên phải liền đánh tiếp tới. Hai bên qua lại mấy chiêu, những người chung quanh ai nấy đều rúng động. Kiếm pháp Mạc Thanh Cốc thì nhẹ nhàng linh hoạt, ánh sáng lấp lánh như cầu vồng, mỗi khi bung ra thu lại, vừa ngưng trọng, vừa tiêu dật quả đúng là phong phạm của bậc danh gia. Còn hai thanh thiết côn của Ân Thiên Chính vốn dĩ nặng nề chậm chạp, chiêu số cũng sơ sài tầm thường, đánh đông một cái, đập tây một cái, chẳng thành bài bản gì, nhưng những nhân sĩ hiểu biết rộng, biết ông sử dụng đường lối đại trí nhược ngu, đại xảo nhược chuyết[6] là một cảnh giới cực cao thâm của võ học.

Bước chân của ông ta di động cũng hết sức chậm chạp, trong khi đó Mạc Thanh Cốc lúc vọt lên cao, khi rùn xuống thấp, lúc chạy bên đông, khi lách bên tây chỉ trong thời gian uống một chén trà đã tung ra liên tiếp sáu mươi chiêu sát thủ thật là ghê gớm.

Hai bên tiếp tục đấu thêm vài chục hiệp nữa, kiếm chiêu của Mạc Thanh Cốc mỗi lúc một nhanh. Các phái Côn Lôn, Nga Mi đều lấy kiếm pháp làm chủ, các đệ tử thấy thanh kiếm trong tay Mạc Thanh Cốc biến hóa như thế, trong bụng ai cũng khâm phục: "Kiếm pháp phái Võ Đương quả nhiên danh bất hư truyền, hôm nay mới được mở tầm mắt". Thế nhưng dù chàng chặt đâm chém kéo cách nào cũng vẫn không sao tấn công qua khỏi hai thanh côn nghiêm thủ của Ân Thiên Chính. Mạc Thanh Cốc nghĩ thầm: "Lão già này liên tiếp đánh bại ba cao thủ của Hoa Sơn, Thiếu Lâm, lại đấu nội lực với tứ ca, ta là người thứ năm đấu với ông ta, thực là được lợi nhiều lắm, nếu không thắng nổi, thể diện sư môn còn tồn tại làm sao được?".

Chàng hú lên một tiếng thanh thoát, kiếm pháp đột nhiên biến đổi, thanh trường kiếm biến thành như một sợi dây lưng, vừa nhẹ vừa mềm lúc cong lúc thẳng phiêu hốt bất định, chính là bảy mươi hai chiêu Nhiễu Chỉ Nhu Kiếm của phái Võ Đương.

Những người chung quanh xem đến chiêu thứ mười hai, mười ba, đều không nhịn nổi cùng lên tiếng khen hay. Lúc này Ân Thiên Chính không còn có thể tiếp tục giữ phương cách vụng về chống lại xảo diệu, mà phải chạy vùn vụt, thi triển khinh công lấy nhanh chống nhanh. Đột nhiên trường kiếm của Mạc Thanh Cốc bay vụt ra đâm thẳng vào ngực Ân Thiên Chính, kiếm đang đi giữa chừng, mũi kiếm hơi rung động, đã cong lại, đâm xéo vào vai bên phải đối phương. Lộ Nhiễu Chỉ Nhu Kiếm này toàn dựa vào nội lực hồn hậu uốn cong mũi kiếm, khiến cho kiếm chiêu biến đổi vô thường, địch nhân khó mà tránh né. Ân Thiên Chính chưa từng thấy kiếm pháp này bao giờ, vội vàng hạ vai xuống tránh né, không ngờ nghe keng một tiếng nhỏ, thanh kiếm bật trở lại, đâm thẳng vào cánh tay bên trái. Ân Thiên Chính vươn tay phải ra, không hiểu làm cách nào, cánh tay dài thêm nửa thước, phất vào cổ tay Mạc Thanh Cốc, đoạt luôn thanh trường kiếm, đồng thời tay trái đã ấn vào huyệt Kiên Trinh.

Ưng Trảo Cầm Nã Thủ của Bạch Mi Ưng Vương là nhất tuyệt của võ lâm trong khoảng một trăm năm nay, đương thế không ai có thể sánh kịp. Đầu vai của Mạc Thanh Cốc đã bị ông ta nắm được, năm ngón tay chỉ cần vận kình, vai của Mạc Thanh Cốc sẽ nát vụn, chung thân tàn phế. Chư hiệp phái Võ Đương giật mình kinh hãi, toan xông ra tương trợ nhưng thế không kịp nữa rồi.

Ân Thiên Chính thở dài một tiếng, nói:

- Nhất chi vi thậm, kỳ khả tái hồ?[7]

Ông buông tay ra, tay phải thu về rút thanh kiếm ra, vết thương trên cánh tay máu chảy ra như suối. Ông ngưng thần nhìn vào thanh kiếm một hồi, nói:

- Lão phu tung hoành nửa đời trong thiên hạ, chưa từng thua ai nửa chiêu một thức. Trương Tam Phong hay thật, Trương chân nhân giỏi thật.

Ông ca ngợi Trương Tam Phong vì khâm phục ông đã sáng chế bảy mươi hai chiêu Nhiễu Chỉ Nhu Kiếm thần diệu khôn lường, chính mình không sao né tránh nổi.

Mạc Thanh Cốc đứng xuất thần tại đương trường, bản thân tuy thắng trước một chiêu, nhưng đối phương rõ ràng cố ý không hạ sát thủ tổn thương đến mình, ngơ ngẩn một lát rồi nói:

- Cảm ơn tiền bối thủ hạ lưu tình.

Ân Thiên Chính không nói một lời, đem trường kiếm giao trả lại chàng. Mạc Thanh Cốc tinh cứu kiếm pháp, vậy mà để đến nỗi binh khí trong tay bị người ta lấy mất, thẹn thùng không để đâu cho hết, không nhận thanh kiếm vội lui về.

Trương Vô Kỵ xé vội một mảnh áo, đang định tiến lên băng bó cho ông ngoại, bỗng thấy từ phái Võ Đương bước ra một người, râu đen dài tới ngực, chính là Tống Viễn Kiều đứng đầu Võ Đương thất hiệp. Tống Viễn Kiều nói:

- Xin để tại hạ băng bó cho lão tiền bối.

Từ trong bọc lấy ra kim sang, đắp lên vết thương cho Ân Thiên Chính, rồi lấy khăn buộc lại. Thiên Ưng giáo và Minh giáo thấy Tống Viễn Kiều mặt đầy chính khí, nghĩ rằng ông ta là người đứng đầu trong Võ Đương thất hiệp, không thể nào công nhiên hạ độc gia hại bên mình. Ân Thiên Chính nói một tiếng:

- Đa tạ.

Mặt vẫn thản nhiên không nghi ngờ gì. Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm: "Tống sư bá băng bó vết thương cho ông ngoại ta, chắc là vì cảm kích ông không giết Mạc thất thúc, hai bên chắc có thể giao hảo với nhau".

Tống Viễn Kiều băng bó vết thương xong, lùi lại một bước, phất tay áo một cái, nói:

- Tống mỗ xin lãnh giáo cao chiêu của lão tiền bối.

Câu nói đó quả thật ngoài sở liệu của Trương Vô Kỵ khiến chàng nhịn không nổi phải kêu lên:

- Tống đại ... Tống đại hiệp, dùng xa luân chiến đánh một người già, không công bình tí nào cả.

Câu đó nói ra ai nấy đều quay lại nhìn thanh niên áo quần lam lũ. Trừ phái Nga Mi, cùng với Tống Thanh Thư, Ân Lê Đình, Dương Tiêu, Thuyết Bất Đắc một số ít người, không ai biết lại lịch của chàng ra sao, không khỏi ngạc nhiên.

Tống Viễn Kiều nói:

- Vị tiểu bằng hữu kia nói vậy đúng lắm. Oán thù riêng giữa Thiên Ưng giáo và phái Võ Đương, hôm nay tạm không đề cập đến. Hiện giờ là lục đại môn phái và Minh giáo một trận sinh tử mất còn, phái Võ Đương đứng ra thách đấu với Minh giáo.

Mắt Ân Thiên Chính từ từ lướt qua một vòng, thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành hòa thượng cả bọn ai nấy đều tê liệt bất động, còn những cao thủ của Thiên Ưng giáo và Ngũ Hành Kỳ ai không chết thì cũng bị thương, chính con trai mình là Ân Dã Vương cũng hôn mê nằm dưới đất, sống chết chưa biết thế nào, trong cả Minh giáo lẫn Thiên Ưng giáo ngoài mình ra, không một ai có thể chống đỡ nổi quyền chiêu kiếm pháp của Tống Viễn Kiều. Thế nhưng mình đã liên tiếp đánh với năm cao thủ, chân khí không còn tinh thuần như trước, lại thêm vết thương trên tay cũng không phải là nhẹ.

Ân Thiên Chính còn đang suy tính, bỗng nghe một lão già thấp bé trong phái Không Động lớn tiếng nói:

- Ma giáo dĩ nhiên thua sạch sành sanh rồi, không đầu hàng còn đợi gì nữa? Không Trí đại sư, bọn mình lên phá hủy bài vị của ba mươi ba đời giáo chủ là vừa.

Phương trượng chùa Thiếu Lâm Không Văn đại sư ở lại trấn thủ bản viện Tung Sơn, lần này vây đánh Quang Minh Đính, đệ tử phái Thiếu Lâm do Không Trí đại sư cầm đầu. Các phái kính trọng địa vị và tên tuổi của phái Thiếu Lâm, nên cử ông ta làm người chỉ huy ra lệnh trong chuyến tấn công Quang Minh Đính này.

Không Trí chưa kịp trả lời, từ phái Hoa Sơn một người nói:

- Cái gì mà đầu hàng với chả không đầu hàng? Tất cả bọn ma giáo hôm nay không để một tên nào sống sót. Nhổ cỏ phải nhổ sạch cả rễ, nếu không mai này chúng nó lại nổi lên làm hại giang hồ. Bọn chó má kia, khôn hồn thì mau mau tự vẫn để khỏi mất công chúng ông ra tay.

Ân Thiên Chính ngầm vận khí, thấy vết thương trên vai đâm sâu tới xương, đau ngâm ngẩm từng chập, biết rằng Tống Viễn Kiều theo học Trương Tam Phong lâu hơn cả, thâm đắc chân truyền của vị võ học đại tông sư, mình khi còn khí lực tinh thần đầy đủ đấu với ông ta, cũng chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, huống chi lúc này?

Thế nhưng các cao thủ Minh giáo kẻ chết người bị thương, chỉ còn một mình mình chủ trì đại cuộc, thôi đành hi sinh cái mạng già, mình chết không có gì buồn, hận là một đời anh danh hôm nay đành dứt.

Tống Viễn Kiều nói:

- Ân lão tiền bối, phái Võ Đương và Thiên Ưng giáo cừu thâm tự hải, nhưng chúng tôi không muốn nhân lúc người ta lâm nguy, chuyện này thôi để ngày sau thanh toán. Sáu môn phái hôm nay đến đây là vì Minh giáo, Thiên Ưng giáo đã tách ra khỏi Minh giáo rồi, tự lập môn hộ, trên chốn giang hồ ai ai cũng biết cả. Ân lão tiền bối hà tất phải trộn chung vào trong vụ này làm gì? Xin cùng tất cả người trong quí giáo hạ sơn đi.

Phái Võ Đương vì vụ Du Đại Nham kết một mối oán thù thật sâu cùng Thiên Ưng giáo, việc này các phái đều biết, bây giờ nghe thấy Tống Viễn Kiều mở đường cho Thiên Ưng giáo có lối thoát, ai nấy hết sức lạ lùng, nhưng hiểu ngay Tống Viễn Kiều quang minh lỗi lạc, không muốn chiếm lợi thế trong lúc này.

Ân Thiên Chính cười ha hả, nói:

- Hảo ý của Tống đại hiệp, lão phu xin tâm lãnh. Lão phu là một trong tứ đại hộ giáo pháp vương, tuy đã lập thành môn hộ riêng, nhưng Minh giáo gặp nạn, đâu có thể nào đứng ngoài? Hôm nay chỉ còn cái chết mà thôi, xin Tống đại hiệp tiến chiêu đi.

Nói xong tiến tới một bước, hai bàn tay thủ thế trước ngực, đôi lông mày trắng hơi rung động, trông thật uy võ. Tống Viễn Kiều nói:

- Nếu đã thế, xin đắc tội.

Nói xong tay trái đưa ra, chưởng phải áp vào lòng bàn tay, dùng chiêu Thỉnh Thủ Thức đánh ra, là chiêu số của hậu bối đánh với tiền bối trong quyền pháp của phái Võ Đương.

Ân Thiên Chính thấy ông ta hơi khom lưng cúi mình, có dáng vái chào liền nói:

- Không phải khách khí.

Nói xong hai tay vòng lại, thủ tại tâm khẩu. Cứ theo quyền lý, Tống Viễn Kiều ắt sẽ tiến lên, vươn tay đánh ra, nào ngờ ông ta quả có đánh ra, nhưng lại không tiến về trước. Quyền đó đánh ra, còn cách Ân Thiên Chính đến hơn một trượng. Ân Thiên Chính kinh hãi: "Không lẽ quyền thuật phái Võ Đương lợi hại đến thế sao, đã luyện được Cách Sơn Đả Ngưu thần công chăng?". Ông không dám chậm trễ, vận nội kình lên, tay phải vung ra để gạt quyền lực của Tống Viễn Kiều.

Không ngờ chưởng gạt ra, trước mặt chỉ thấy trống không, không hề đụng phải kình lực nào, trong lòng không khỏi lạ lùng. Lại nghe Tống Viễn Kiều nói:

- Đã ngưỡng mộ võ học cao thâm của tiền bối từ lâu, gia sư vẫn thường ca ngợi. Thế nhưng lúc này tiền bối đã đấu với mấy người liền, vãn bối vẫn còn nguyên sức lực, giao đấu với nhau thì không công bình chút nào. Thôi mình chỉ so sánh chiêu số, không tỉ sức lực.

Ông vừa nói vừa giơ chân đá ra. Cú đá đó cũng chỉ là hư chiêu, còn cách đối phương hơn một trượng nhưng cước pháp tinh diệu, phương vị lạ lùng, quả thực không ai ngờ nổi, nếu như công kích gần bên, quả thực cực kỳ khó chống đỡ. Ân Thiên Chính khen ngợi:

- Hảo cước pháp.

Lấy công làm thủ, múa chưởng tấn công. Tống Viễn Kiều nghiêng người né tránh, trả lại một chưởng. Trong giây lát hai người đánh qua đá lại, đấu cực kỳ hăng hái, nhưng lúc nào cũng vẫn cách nhau hơn một trượng. Tuy chiêu không đụng tới người, toàn là đánh hờ cả, nhưng hai người đều có danh phận, một chiêu nào thất lợi, chiêu nào trội hơn đều tự mình biết cả. Hai người cùng hết tâm hết sức, không dám sơ sẩy chút nào, chẳng khác gì giao đấu đụng chạm thực sự.

Người đứng chung quanh không ít những võ học cao thủ, thấy Tống Viễn Kiều dùng phương pháp nhu khắc cương, quyền cước tung ra thực là nhanh, còn Ân Thiên Chính lúc mở lúc đóng, chiêu số lấy cương làm chủ, nhưng cũng không chậm hơn chút nào. Hai người theo chiêu mà đỡ gạt, khi thủ khi công, tưởng như đang luyện quyền, đánh hờ với nhau nhưng thực ra là đang đấu rất kịch liệt.

Trương Vô Kỵ khi trước thấy Ân Thiên Chính đấu với Trương Tùng Khê và Mạc Thanh Cốc, vì quan hoài an nguy của cả hai bên thân thuộc, nên không chăm chú quan sát chiêu số, lúc này thấy Tống Viễn Kiều và Ân Thiên Chính hai người đứng xa xa đấu với nhau, biết rằng chỉ có chuyện phân thắng bại, chứ không có hiểm nguy sống chết nên hết sức quan sát chiêu số của hai người. Xem một lúc thấy hai người ra chiêu mỗi lúc một nhanh, nhưng càng coi lại càng không hiểu tại sao: "Ông ngoại ta và Tống đại sư bá đều là cao thủ hạng nhất trong võ lâm, nhưng chiêu số đánh ra sao vẫn còn có nhiều sơ hở như thế? Quyền này của ông ngoại đánh xéo về bên trái nửa thước, không phải là trúng ngay ngực Tống đại bá hay sao? Còn trảo kia của Tống đại bá nếu chậm lại một chút, có phải chộp được cánh tay ông ngoại ta rồi ư? Không lẽ hai người cố ý nhường nhau? Thế nhưng xem tình hình thì dường như không phải vậy".

Thực ra Ân Thiên Chính và Tống Viễn Kiều tuy đấu với nhau không đụng chạm, chiêu số không nhường nhau chút nào. Trương Vô Kỵ học được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp rồi, công phu võ học so với hai người cao hơn một bậc. Thành thử chàng nhìn thấy chiêu số của Ân, Tống hai người có những sơ hở cũng không có gì lạ.

Trương Vô Kỵ có biết đâu rằng chàng vì có Cửu Dương thần công thành thử mới nhìn ra được những chiêu số để có thể khắc chiêu thắng địch nhưng Tống, Ân hai người vì tài nghệ chưa đến mức đó nên không thể nào nghĩ đến chỗ tinh diệu như thế được. Việc đó cũng chẳng khác gì một con chim bay trên cao nhìn thấy con sư tử đánh nhau với con hổ, không thể không nghĩ rằng: "Sao không bay từ trên cao chụp xuống có phải thắng được rồi ư?" Có biết đâu tuy sư tử và hổ báo dẫu là những con vật hung tợn mạnh bạo đứng đầu trong các loài thú nhưng cũng không thể nào bay từ cao nhào xuống được. Trương Vô Kỵ kiến thức chưa đủ nên không nghĩ ra nguyên nhân này.

Bỗng thấy Tống Viễn Kiều chiêu số biến đổi, song chưởng phi vũ tưởng như những bông tuyết bay phất phới mềm mại không một chút lực khí chính là Miên Chưởng của phái Võ Đương. Ân Thiên Chính quát lên một tiếng, đánh ra một quyền. Hai người một bên chí nhu, một bên chí cương đều thi triển tuyệt kỹ của mình. Hai bên sắp gặp nhau, Tống Viễn Kiều chưởng trái đánh ra, còn chưởng phải đánh sau mà tới trước, kế đến chưởng trái xéo xuống, lại từ sau tiến lên. Ân Thiên Chính thấy cả nửa người trên của mình bị chưởng thế của Tống Viễn Kiều bao phủ, rống lên một tiếng, song chưởng đánh ra một chiêu Đinh Giáp Khai Sơn. Hai bên song chưởng song quyền, đều giơ ra trên không, cùng đứng như trời trồng. Hai người sách đến chiêu này, trừ việc tỉ đấu nội lực không còn cách nào khác. Thế nhưng hai người còn cách nhau đến hơn một trượng, bốn cánh tay chỉ hư đấu mà thôi, trông thì có vẻ quái lạ, nhưng nếu đứng gần nhau thì đây là lúc hung hiểm hơn cả.

Tống Viễn Kiều mỉm cười, thu chưởng nhảy về sau nói:

- Quyền pháp của lão tiền bối thực là tinh diệu, bội phục bội phục.

Ân Thiên Chính cũng thu quyền lại, nói:

- Quyền pháp của phái Võ Đương quả nhiên quán tuyệt cổ kim.

Hai người không tỉ đấu nội lực, đấu đến lúc này không còn cách gì có thể tiếp tục, coi như hai bên hòa nhau. Phái Võ Đương tuy còn Du Liên Châu và Ân Lê Đình chưa ra đấu, nhưng thấy mặt Ân Thiên Chính đỏ bừng, trên đầu nhiệt khí bốc lên, biết cuộc đấu vừa qua tuy không hao tổn nội lực, nhưng đối thủ quá cao cường nên cũng phải kiệt tận tâm trí, thấy tình cảnh ông ta như chiếc cung đã giương quá đà, Ân Du dù ai tiến ra thách đấu cũng đều có thể đánh ngã được, được cái tiếng "đánh bại Bạch Mi Ưng Vương". Du Liên Châu và Ân Lê Đình hai người nhìn nhau, đều lắc đầu, nghĩ thầm: "Nhân lúc người ta đang nguy mà tấn công, có thắng cũng không phải là thượng võ".

Thế nhưng Võ Đương nhị hiệp không "thừa nhân chi nguy" nhưng người khác đâu phải ai cũng có phong phạm quân tử như thế. Từ phái Không Động một lão già bé nhỏ nhảy vọt ra, chính là kẻ mới rồi hô hoán lên đốt bài vị giáo chủ Minh giáo, nhẹ nhàng rớt ngay trước mặt Ân Thiên Chính, nói:

- Ta họ Đường muốn đấu chơi với lão Ân.

Giọng nói của y cực kỳ hỗn láo. Ân Thiên Chính liếc một cái, hừ một tiếng, nghĩ thầm: "Lúc bình thường, Ân mỗ có coi Không Động ngũ lão ra gì đâu? Hôm nay hổ xuống đồng bằng đến con chó cũng lờn mặt, một đời anh danh của ta, nếu có chết dưới tay Võ Đương thất hiệp cũng còn được nhưng quyết không thể để cho tên khốn nạn Đường Văn Lượng này được cái danh đó". Tuy toàn thân xương cốt đã nhão nhừ, chỉ muốn nằm lăn ra ngủ một giấc, nhưng hào khí trong người bùng lên, đôi lông mày trắng xóa dựng lên, quát lớn:

- Thằng nhãi kia, tiến chiêu đi.

Đường Văn Lượng biết ông ta nội lực mười phần tiêu hao đến tám chín, chỉ cần đấu một hồi, không cần ra tay đối phương cũng tự ngã xuống, xoa tay một cái, chui tọt ra sau lưng Ân Thiên Chính, phát quyền đánh vào sau lưng. Ân Thiên Chính nghiêng người đánh ngược lại, Đường Văn Lượng lập tức nhảy lùi ra, chân y thật là nhanh nhẹn chẳng khác gì một con khỉ, nhảy nhót không ngừng. Đấu được vài hiệp, Ân Thiên Chính thấy mắt tối sầm, cổ họng mằn mặn, một ngụm máu tươi vọt ra, đứng không vững, ngã chúi xuống.

Đường Văn Lượng mừng rỡ, quát lên:

- Ân Thiên Chính, hôm nay cho ngươi chết dưới quyền của Đường Văn Lượng này.

Trương Vô Kỵ thấy Đường Văn Lượng nhảy lên, từ trên cao đánh xuống, đang toan nhảy ra cứu ông ngoại mình, thấy Ân Thiên Chính tay phải đánh chéo lên, tư thế thực đẹp, chính là sát thủ đối phó với kẻ địch tấn công từ trên xuống, hai người gần nhau như thế, xem ra Đường Văn Lượng không còn cách nào tự cứu. Quả nhiên chỉ nghe lách cách hai tiếng, hai cánh tay Đường Văn Lượng đã bị Ân Thiên Chính thi triển Ưng Trảo Cầm Nã Thủ bẻ gẫy, lại lách cách hai tiếng nữa, hai xương đùi cũng gãy luôn, nghe bình một tiếng, văng ra ngoài mấy thước. Bốn tay chân y bị gãy rồi không sao cử động được nữa. Những người chung quanh thấy Ân Thiên Chính bị thương nặng mà còn thần uy như thế, không ai là không kinh ngạc.

Lão thứ ba trong ngũ lão bị thảm bại như thế, phái Không Động người nào người nấy mặt mày xám ngắt, thấy Đường Văn Lượng nằm bên Ân Thiên Chính nhưng vì khoảng cách quá gần, không một ai dám chạy lên đỡ y về.

Một lúc sau, một gã cao to lưng còng trong phái Không Động hung hăng tiến lên một bước, chân phải hất một hòn đá về phía Ân Thiên Chính, mồm nói:

- Lão Bạch Mi, họ Tông này lên thanh toán món nợ cũ.

Tên này là người thứ hai trong Không Động ngũ lão, tên là Tông Duy Hiệp[8]. Y nói "thanh toán nợ cũ", hẳn là đã từng bị thất thế trong tay Ân Thiên Chính.

Hòn đá bay tới, nghe bốp một tiếng, trúng ngay góc trán Ân Thiên Chính, lập tức máu chảy ròng ròng. Biến cố đó khiến ai nấy giật mình kinh hãi, Tông Duy Hiệp đá viên sỏi nọ đâu có nghĩ rằng sẽ trúng được Ân Thiên Chính, nào ngờ lúc này ông ta đã nửa tỉnh nửa mê, không sao tránh được. Cứ tình thế này, Tông Duy Hiệp chỉ cần đi lên nhấn một ngón tay, cũng đã giết được ông ta rồi.

Tông Duy Hiệp vung tay phải lên, hiên ngang bước tới thì phái Võ Đương một người bước ra, trên người trường bào vải thô, thần tình quê mùa, chính là nhị hiệp Du Liên Châu. Ông hơi lắc mình đã chặn ngay trước mặt Tông Duy Hiệp, nói:

- Tông huynh, Ân giáo chủ đã bị trọng thương, có thắng cũng không mã thượng chút nào, không cần Tông huynh phải nhọc lòng ra tay. Ân giáo chủ với tệ phái có liên hệ thật sâu xa, chuyện này để cho tiểu đệ lo vậy.

Tông Duy Hiệp đáp:

- Cái gì mà trọng thương? Gã này giỏi giả chết lắm, nếu không phải vì y giở trò ma mãnh, Đường tam đệ đâu có bị lọt vào bẫy của y. Du nhị hiệp, quí phái có dây mơ rễ má với y, anh em ta cũng có chuyện qua chuyện lại, để ta đánh y ba quyền cho bõ tức đã.

Du Liên Châu không muốn một đời anh hùng của Ân Thiên Chính lại chết thảm như thế, nghĩ đến Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nên nói:

- Thất Thương Quyền của Tông huynh thiên hạ ai ai cũng biết, Ân giáo chủ hiện như thế này, làm sao chịu nổi ba quyền của Tông huynh?

Tông Duy Hiệp đáp:

- Được rồi, y đánh gãy tứ chi của Đường tam đệ, để ta bẻ gãy bốn tay chân của y lại là xong. Cái đó gọi là báo ứng nhãn tiền nhanh thế đấy.

Y thấy Du Liên Châu hơi chần chừ, liền cao giọng nói:

- Du nhị hiệp, sáu đại môn phái trước khi qua Tây Vực đã thề với nhau, sao hôm nay ngươi lại quay qua bảo vệ thủ lãnh của ma giáo là thế nào?

Du Liên Châu thở dài một tiếng, nói:

- Lúc này để ngươi làm gì thì làm. Về Trung Nguyên rồi, Du mỗ thể nào cũng xin lãnh giáo Thất Thương Quyền thần công của Tông nhị tiên sinh.

Tông Duy Hiệp trong lòng hãi sợ: "Gã họ Du này lại cứ bênh lão họ Ân cho bằng được là sao?". Y đối với phái Võ Đương quả có điều úy kỵ, nhưng trước mắt bao nhiêu người đổ dồn vào, không dám lộ vẻ yếu thế, liền cười nhạt:

- Việc thiên hạ không qua khỏi chữ lý. Phái Võ Đương các ngươi đừng cậy mạnh, cũng đừng ỷ thế hoành hành.

Câu nói đó rõ ràng nói chạm đến Trương Tam Phong. Tống Viễn Kiều liền nói:

- Nhị đệ, mặc kệ y.

Du Liên Châu lớn tiếng nói:

- Thật là anh hùng , thật là hảo hán.

Nói xong lui xuống. Mấy chữ "Thật là anh hùng , thật là hảo hán" dùng để khen ngợi Ân Thiên Chính, mà cũng để mỉa mai Tông Duy Hiệp. Tông Duy Hiệp không muốn gây thù chuốc oán với phái Võ Đương, làm như không nghe, thấy Du Liên Châu vừa bước ra, y liền đi thẳng tới chỗ Ân Thiên Chính. Không Trí đại sư của phái Thiếu Lâm lớn tiếng ra lệnh:

- Các vị phái Hoa Sơn và phái Không Động, xin tru diệt tất cả các dư nghiệt của ma giáo tại đương trường. Phái Võ Đương đi từ tây sang đông lục soát, phái Nga Mi đi từ đông sang tây lục soát, không để ma giáo lọt lưới một người nào. Phái Côn Lôn dự bị củi lửa, thiêu hủy sào huyệt của ma giáo.

Ông ta ra lệnh cho năm phái xong, chắp hai tay nói:

- Đệ tử phái Thiếu Lâm lấy pháp khí ra, tụng niệm kinh văn vãng sinh, để siêu độ cho anh hùng các môn phái cùng giáo chúng ma giáo tuẫn nạn để hóa trừ oan nghiệt.

Mọi người chỉ chờ Tông Duy Hiệp một quyền đánh chết Ân Thiên Chính là công cuộc vi tiễu ma giáo của lục đại môn phái đại công cáo thành. Ngay giờ phút đó, các giáo chúng Minh giáo và Thiên Ưng giáo biết hôm nay là ngày tận số, các giáo đồ ai nấy đều cố gắng ngồi dậy, trừ những người bị trọng thương không thể nào cử động thôi, ai nấy đều ngồi xếp bằng, mười đầu ngón tay xòe ra, chắp tay trên ngực, làm thế lửa cháy bừng bừng, theo Dương Tiêu niệm kinh văn của Minh giáo:

Thiêu đốt thân tàn ta,

Hỏa thánh bốc bừng bừng.

Khi sống có gì vui,

Thì chết có gì khổ?

Nguyện hành thiện trừ ác,

Cốt sao cho quang minh.

Bao hỉ lạc bi sầu,

Cũng đều thành cát bụi.

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Minh giáo từ Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc trở xuống, Thiên Ưng giáo từ Lý Thiên Viên trở xuống, cho tới cả đầu bếp, giúp việc, ai nấy thần thái trang nghiêm, không một ai vì việc thân tử, giáo diệt mà tỏ vẻ sợ hãi. Không Trí đại sư chắp tay niệm:

- Thiện tai, thiện tai.

Du Liên Châu nghĩ thầm: "Mấy câu kinh văn này, có lẽ giáo chúng ma giáo trước khi chết tụng niệm. Bọn họ không niệm cái chết của chính mình, lại thương người đời đa ưu đa hoạn, thực là lòng dạ rộng rãi đại nhân đại nghĩa. Năm xưa người sáng lập ra Minh giáo, quả thực siêu việt hơn người. Chỉ tiếc rằng truyền đến đời sau, lại thành một bọn chuyên làm chuyện tàn ác sai trái mà thôi".

Trương Vô Kỵ trước các cao thủ của lục đại môn phái vốn dĩ e ngại, nên lừng chừng không dám bước ra, tới lúc Không Trí hạ lệnh giết sạch người trong ma giáo, còn Tông Duy Hiệp thì hung hăng đi tới phía ông ngoại mình, chàng không còn suy nghĩ thiệt hơn gì nữa, lập tức tiến ra, chặn trước mặt Tông Duy Hiệp, nói:

- Hãy khoan động thủ. Ông ra tay đánh một người đang bị thương nặng, không sợ thiên hạ anh hùng chê cười hay sao?

Mấy câu nói đó thanh âm vang động toàn trường. Người các môn phái nhận lệnh của Không Trí đại sư, đang định việc ai nấy làm, đột nhiên nghe thấy mấy câu nói đó, tất cả đều dừng bước, quay đầu lại nhìn chàng. Tông Duy Hiệp thấy người nói câu này là một thanh niên lam lũ, chẳng coi vào đâu, giơ tay đẩy ra, định gạt chàng sang một bên cho dễ bề đánh chết Ân Thiên Chính.

Trương Vô Kỵ thấy y giơ tay đẩy tới, thuận tay gạt ra một chưởng, nghe bình một tiếng, Tông Duy Hiệp lùi lại ba bước. Y cố gượng lại, chỉ thấy chưởng lực của đối phương hùng hồn vô cùng, chân lảo đảo không vững. Cũng may công phu hạ bàn của y khá cứng cỏi, tuy nửa người trên ngã ngửa, nhưng vội vàng nhấn chân phải một cái, nhảy vọt về sau, mượn sức tung mình xa hơn một trượng. Khi rơi xuống đất rồi, chưởng lực đó cũng chưa tiêu giải, khiến y lại phải lật đật lùi thêm bảy tám bước nữa mới đứng lại được. Sự việc xảy ra khiến y và Trương Vô Kỵ cách nhau đến hơn ba trượng. Trong bụng y vừa sợ vừa tức, còn người bên ngoài không ai hiểu nổi, đều nghĩ thầm: "Lão Tông Duy Hiệp làm trò ma quỉ gì đây, sao lại vừa lùi vừa nhảy, nhảy rồi lại lùi, thế là cái quái gì?". Chính bản thân Trương Vô Kỵ cũng không ngờ rằng mình chỉ nhẹ nhàng phẩy ra một chưởng, lại có uy lực dường ấy.

Tông Duy Hiệp ngơ ngẩn xuất thần, lập tức hiểu ra, nhìn Du Liên Châu trừng trừng giận dữ, quát lớn:

- Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, sao lại đánh lén người khác?

Y cho rằng Du Liên Châu ám trung tương trợ, xem chừng toàn thể Võ Đương chư hiệp cùng ra tay, nếu không sức một người, không thể nào có kình đạo mãnh liệt như thế được. Du Liên Châu không ngờ y nói một câu như thế, cũng trừng mắt nhìn lại y, mắng thầm: "Ngươi bày đặt làm trò, tính chuyện gì đây?".

Tông Duy Hiệp lại hung hăng tiến lên, chỉ vào Trương Vô Kỵ quát hỏi:

- Tiểu tử, ngươi là ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi tên Tăng A Ngưu.

Chàng vừa nói vừa đưa tay để lên Linh Đài huyệt trên lưng Ân Thiên Chính, đem nội lực cuồn cuộn đổ vào. Cửu Dương Chân Khí của chàng cực kỳ hồn hậu, Ân Thiên Chính chỉ rùng mình mấy cái, lập tức mở mắt ra, nhìn thấy thanh niên nọ lòng thật lạ lùng. Trương Vô Kỵ nhìn ông mỉm cười, càng tống thêm nội lực.

Chỉ trong giây lát, Ân Thiên Chính thấy những nơi bị tắc nghẽn trên ngực và đan điền đều thông suốt không còn gì ngăn trở, hạ giọng nói:

- Đa tạ tiểu hữu.

Ông đứng thẳng dậy, ngạo nghễ nói:

- Họ Tông kia, Thất Thương Quyền của phái Không Động có gì ghê gớm, để ta tiếp ngươi ba quyền.

Tông Duy Hiệp đâu ngờ được lão già này bây giờ thần hoàn khí túc đứng lên, thấy chuyện không còn dễ dàng như khi trước, e ngại Ưng Trảo Cầm Nã Công của ông ta, liền nói:

- Lẽ dĩ nhiên Thất Thương Quyền của phái Không Động không có gì ghê gớm, ngươi thử tiếp ta ba chiêu Thất Thương Quyền thôi.

Y tính rằng Ân Thiên Chính nếu không sử dụng cầm nã thủ, chỉ đấu quyền chưởng, nội lực, mình dĩ dật đãi lao, có thể dùng nội kình Thất Thương Quyền để thủ thắng. Trương Vô Kỵ thấy y lại đề cập đến ba chữ Thất Thương Quyền , nghĩ đến năm xưa trên Băng Hỏa đảo, buổi tối hôm đó nghĩa phụ lay y tỉnh dậy, kể chuyện dùng Thất Thương Quyền đánh chết Không Kiến thần tăng, về sau ông ta lại bắt mình học thuộc quyền quyết của Thất Thương Quyền, vì nhất thời không nhớ được nên đã đánh mình mấy cái bạt tai. Bấy giờ quyền quyết đó lưu chuyển trong đầu, lập tức minh bạch đạo lý ở bên trong.

Nên biết tất cả các loại nội công trong thiên hạ đều không vượt qua được Cửu Dương thần công, còn Càn Khôn Đại Na Di là phương pháp vận kình sử lực, là tập đại thành của mọi môn võ công. Nhất pháp thông, vạn pháp thông, thành thử mọi môn công phu trước mắt chàng giờ này không còn gì bí áo.

Lại nghe Ân Thiên Chính nói:

- Cứ gì ba quyền, để ta tiếp ngươi ba chục quyền đã làm sao nào?

Ông quay đầu lớn tiếng nói với Không Trí:

- Không Trí đại sư, họ Ân này chưa chết, cũng chưa chịu thua, ông nói ra mà không giữ lời, định lấy đông người để thắng hay sao?

Không Trí xua tay nói:

- Được rồi, tất cả xin chờ giây lát, có đáng gì đâu?

Thì ra khi Ân Thiên Chính lên trên Quang Minh Đính, thấy bọn Dương Tiêu ai nấy đều bị thương nặng, bên mình thế lực đơn bạc, nên đã dùng lời chặn trước Không Trí, không để thành thế hỗn chiến. Không Trí cũng theo qui củ võ lâm, nên bằng lòng theo lối đánh từng trận một. Kết quả các đường, các đàn của Thiên Ưng giáo, Ngũ Hành Kỳ của Minh giáo, cả đến các thuộc hạ của Dương Tiêu trên Quang Minh Đính bao gồm các hảo thủ trong Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, ai không chết thì bị thương, sau cùng chỉ còn một mình Ân Thiên Chính. Thế nhưng ông ta vẫn chưa chịu thua, nên bên kia vẫn chưa thể tiến lên tàn sát.

Trương Vô Kỵ biết ông ngoại mình so với trước có khá hơn, nhưng không có thể vận kình sử lực, sở dĩ muốn tiếp quyền chiêu của Tông Duy Hiệp, chỉ vì hết sức hộ giáo, đến chết mới thôi, nên hạ giọng nói:

- Ân lão tiền bối, để cho tại hạ đấu trước, nếu vãn bối không xong, lão tiền bối hãy ra tay.

Ân Thiên Chính đã thấy chàng nội lực hùng hậu vô cùng, chính mình khi chưa bị thương, cũng còn kém xa, nghĩ đến mình vì Minh giáo mà chết, là chuyện đương nhiên, còn thanh niên này không hiểu liên can thế nào, dù bản lãnh cao cường đến mấy cũng không thể từng người từng người đánh bại, hết cao thủ này đến cao thủ khác, sau cùng rồi cũng đến trọng thương kiệt lực để cho người ta giết như mình thôi. Một kẻ thiếu niên anh tài, việc gì phải chết trên Quang Minh Đính làm chi? Nghĩ thế bèn hỏi:

- Tiểu hữu là môn hạ của vị nào thế, xem ra không phải giáo đồ bản giáo, phải không?

Trương Vô Kỵ cung kính cúi mình nói:

- Vãn bối không thuộc Minh giáo, cũng không thuộc Thiên Ưng giáo, nhưng đối với lão tiền bối có lòng kính mến đã lâu, hôm nay cùng tiền bối sánh vai cự địch, là điều nên làm.

Ân Thiên Chính lạ lùng, đang định hỏi thêm, Tông Duy Hiệp đã hung hăng tiến lên, quát lớn:

- Họ Ân kia, quyền thứ nhất của ta đây.

Trương Vô Kỵ nói:

- Ân lão tiến bối bảo ngươi không xứng đáng tỉ quyền với ông ta, ngươi phải thắng ta đã, rồi sau động thủ với lão nhân gia cũng chưa muộn.

Tông Duy Hiệp giận quá, quát lớn:

- Thằng nhãi kia ngươi là hạng người gì? Để ta cho ngươi biết Thất Thương Quyền của phái Không Động lợi hại dường nào.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Hôm nay phải làm sao nói toạc âm mưu gian trá của tên ác tặc Viên Chân, mới có thể có cách để cho hai bên bãi chiến, chứ chỉ một cách động thủ ra chiêu, một mình ta sao đánh lại bao nhiêu anh hùng của sáu môn phái? Huống chi các sư bá sư thúc trong phái Võ Đương có mặt ở đây, làm sao ta có thể coi những vị đó là địch được?". Chàng nghĩ vậy bèn lớn tiếng trả lời:

- Thất Thương Quyền của phái Không Động thật là lợi hại, tại hạ đã nghe tiếng từ lâu. Không Kiến đại sư, thần tăng của phái Thiếu Lâm chẳng phải táng mạng vì Thất Thương Quyền của quí phái hay sao?

Câu đó của chàng nói ra, cả phái Thiếu Lâm ai nấy đều rúng động. Ngày hôm đó Không Kiến đại sư chết ở Lạc Dương, trên người xương cốt đều bị gãy nát, bên ngoài không có thương tích gì, thật giống bị độc thủ Thất Thương Quyền của phái Không Động. Khi đó Không Văn, Không Trí, Không Tính tam tăng mật nghị mấy ngày liền, xem ra phái Không Động hiện giờ không có cao thủ tuyệt đỉnh để có thể đánh chết được người đã luyện được Kim Cương Bất Hoại Thể thần công như Không Kiến sư huynh. Tuy thương thế của Không Kiến có làm cho người ta nghi ngờ, nhưng phái Không Động không thể làm nổi. Về sau Không Trí lại cùng các đệ tử kín đáo điều tra, biết được khi Không Kiến đại sư viên tịch ở Lạc Dương, Không Động ngũ lão đều ở vùng tây nam cả. Còn nếu không phải do Không Động ngũ lão làm, phái Không Động không còn cao thủ nào khác có thể giết nổi Không Kiến, nên mối hồ nghi đối với phái Không Động cũng bỏ qua. Huống chi khi đó ngoài tường của khách điếm ở Lạc Dương có viết mười hai chữ lớn "Thành Côn giết Không Kiến thần tăng ở dưới chân tường này", phái Thiếu Lâm về sau biết được Tạ Tốn đã mạo danh Thành Côn gây ra bao nhiêu huyết án, nên hoàn toàn không còn nghi ngờ gì nữa. Đến lúc này các cao tăng nghe Trương Vô Kỵ nói như thế đều giật mình.

Tông Duy Hiệp giận dữ nói:

- Không Kiến đại sư bị ác tặc Tạ Tốn sát hại, trên giang hồ ai ai cũng biết, có liên can gì đến phái Không Động đâu?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tạ tiền bối đánh chết Không Kiến thần tăng, ông có chính mắt nhìn thấy không? Ông đứng một bên quan sát hay sao? Hay là đứng bên cạnh để yểm trợ?

Tông Duy Hiệp nghĩ thầm: "Thằng này ăn mày không ra ăn mày, chăn trâu không ra chăn trâu, sao lại đến quấy rầy mình? Chắc là do phái Võ Đương sai khiến, cố khuấy động cho hai phái Không Động và phái Thiếu Lâm bất hòa với nhau. Ta phải đối phó cẩn thận, đừng để lọt vào cái bẫy của họ". Nghĩ thế nên dẫu y không coi Trương Vô Kỵ ra gì, nhưng cũng nghiêm mặt đáp:

- Không Kiến thần tăng táng mệnh tại Lạc Dương, khi đó Không Động ngũ lão là khách ở phủ của Liễu đại hiệp phái Điểm Thương tại Vân Nam. Làm sao bọn ta lại có thể chính mắt trông thấy chuyện đó được?

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Hay nhỉ, khi đó ông đang ở Vân Nam, sao lại thấy được Tạ tiền bối giết chết Không Kiến đại sư? Vị thần tăng này chết vì Thất Thương Quyền của phái Không Động ai ai cũng đều biết. Tạ tiền bối không phải là người của phái Không Động, tại sao ông lại giá họa cho người ta?

Tông Duy Hiệp nói:

- Hừ, nơi Không Kiến thần tăng viên tịch có viết "Thành Côn giết Không Kiến thần tăng ở dưới chân tường này" mười hai chữ bằng máu. Tạ Tốn mạo tên sư phụ y, đến đâu cũng gây ra huyết án, thì còn gì mà phải nghi nữa?

Trương Vô Kỵ giật mình: "Nghĩa phụ ta đâu có nói là đã viết tại bức tường những chữ này. Sau mười ba quyền đánh chết Không Kiến thần tăng rồi, trong lòng buồn bã hối hận vô cùng, đâu còn lòng dạ nào mà viết những chữ giá họa đó nữa". Chàng bèn ngửa cổ lên cười ha hả, nói:

- Những chữ đó ai viết mà chẳng được? Trên tường có hàng chữ đó, ai là người chính mắt nhìn thấy Tạ tiền bối viết đâu? Tại hạ bảo là những chữ đó phái Không Động viết cũng được chứ sao? Viết chữ thì dễ, luyện Thất Thương Quyền mới khó.

Chàng quay lại nói với Không Trí:

- Không Trí đại sư, lệnh sư huynh đúng là bị hại về quyền lực Thất Thương Quyền của phái Không Động, có phải không? Kim Mao Sư Vương Tạ tiền bối không phải là người phái Không Động, có phải không?

Không Trí chưa kịp trả lời, đột nhiên một nhà sư cao lớn mặc đại hồng cà sa lướt ra, tay cầm một cây thiền trượng màu vàng sáng lấp lánh dộng xuống đất một cái, lớn tiếng quát:

- Tiểu tử, ngươi là người của môn phái nào? Ngươi làm gì mà dám nói chuyện tay đôi với sư phụ ta?

Tăng nhân đó vai gồ lên, ăn nói giọng như đang lên cơn suyễn, chính là Viên Âm của phái Thiếu Lâm. Năm xưa phái Thiếu Lâm dẫn nhau lên trên núi Võ Đương vấn tội, chính y là người nằng nặc nói là chính mắt thấy Trương Thúy Sơn giết đệ tử Thiếu Lâm. Khi đó Trương Vô Kỵ lòng đầy bi phẫn, ghi nhớ tất cả những người có mặt, lúc này vừa thấy y, trong người nhiệt huyết trào lên, mặt đỏ bừng, thân mình hơi hơi run rẩy, bụng thầm nói: "Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ, đại sự hôm nay là làm sao điều giải oán cừu giữa lục đại môn phái và Minh giáo, không thể nào vì một chút tư hiềm, làm cho tình hình trở nên khó giải quyết hơn, những chuyện cũ của phái Thiếu Lâm, để ngày sau thanh toán cũng chưa muộn". Tuy trong lòng chàng suy tính rõ ràng như thế, nhưng từ khi Viên Âm chường mặt ra tình trạng chết thảm của cha mẹ, bỗng hiện rõ ngay trước mắt, khiến nước mắt trào lên, tưởng chừng không thể nào tự chế nổi.

Viên Âm cầm thiền trượng dộng xuống đất một cái nữa, quát lớn:

- Tiểu tử kia, ngươi là yêu nghiệt của ma giáo thì mau mau vươn cổ chịu chém, còn nếu không phải thì xuống núi đi, đừng để những người xuất gia lòng dạ từ bi chúng ta phải ra tay.

Y thấy Trương Vô Kỵ mặc quần áo không giống người trong Minh giáo, lại tưởng lầm việc chàng cố gắng nín nhịn là thái độ sợ hãi, nên mới nói mấy câu đó. Trương Vô Kỵ nói:

- Quí phái có một vị Viên Chân đại sư, phải không? Mời ông ta ra đây, tại hạ có vài câu muốn hỏi.

Viên Âm đáp:

- Viên Chân sư huynh? Lào sao ông ta nói chuyện với ngươi được? Ngươi mau mau ra đằng khác, bọn ta đâu có thì giờ để nói chuyện tào lao với một đứa nhà quê như ngươi. Ngươi thực ra là môn hạ của người nào?

Y thấy Trương Vô Kỵ chỉ một chưởng đánh Tông Duy Hiệp, người trong Không Động ngũ lão phải thoái lui liền mấy bước, liệu rằng sư phụ của y không phải tầm thường, nên lại hỏi thêm lần nữa, nếu không giờ phút đồ diệt Minh giáo sắp sửa thành công việc gì phải phí thì giờ đôi co với gã thiếu niên lai lịch mù mờ này làm gì.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ không phải người trong Minh giáo, cũng không phải là môn hạ của một môn phái nào ở Trung Nguyên. Lần này lục đại môn phái vây công Minh giáo chính là vì bị kẻ gian xúi bẩy, bên trong có một hiểu lầm rất lớn, tại hạ tuy tuổi còn nhỏ, nhưng lại hiểu được đầu dây mối nhợ, nên mạo muội đứng ra xin hai bên bãi chiến, tra xét rõ nội tình, bên nào phải, bên nào trái, lúc đó phán đoán một cách công minh.

Lời chàng vừa dứt, trong sáu môn phái nổi lên tiếng cười vang động, ha ha, hô hô, hi hi, khà khà ... đủ mọi loại. Có mấy chục người còn lên tiếng chế nhạo:

- Thằng nhãi này bị mất trí điên khùng, nói năng lếu láo, bậy bạ quá.

- Nó tưởng nó là hạng người gì? Là Trương chân nhân của phái Võ Đương hay sao? Hay là Không Văn thần tăng của phái Thiếu Lâm? Ha ha, ha ha.

- Chắc nó nằm mơ lấy được bảo đao Đồ Long nên trở thành võ lâm chí tôn rồi.

- Nó tưởng bọn mình là trẻ con lên ba, ha ha, cười đến đau cả bụng.

- Sáu đại môn phái chết bao nhiêu người, nợ máu của ma giáo rộng như biển, hì hì, nó tưởng chỉ nói vài câu là tất cả bọn mình rút lui hết ...

Chỉ có Chu Chỉ Nhược của phái Nga Mi lông mày nhíu lại, lặng thinh không nói. Hôm đó nàng cùng Trương Vô Kỵ hai bên nhận ra nhau, biết được chàng là người đã từng gặp gỡ trên sông Hán Thủy, trong lòng nhớ lại chuyện xưa, sau lại thấy chàng vì nghĩa đứng ra cứu người của Nhuệ Kim Kỳ, chịu cho sư phụ của nàng đánh ba chưởng, càng thêm khâm phục, bây giờ nghe chàng không lượng sức mình nói mấy câu, lại nghe mọi người ùa lên châm chọc, không khỏi đau lòng.

Trương Vô Kỵ đứng ngay đương trường, ngang nhiên nhìn chung quanh bốn bề, lớn tiếng nói:

- Chỉ cần Viên Chân đại sư của phái Thiếu Lâm ra đây, cùng tại hạ đối chất mấy câu, gian mưu y an bài sẽ rõ cả.

Ba câu đó từng chữ từng chữ nói ra, tuy mấy trăm người đang cười nói, nhưng ai ai cũng nghe thật rõ ràng. Các cao thủ của lục đại phái người nào cũng giật mình, sự khinh thị trong lòng giảm đi mấy phần, nghĩ thầm: "Tiểu tử này tuổi tuy còn nhỏ, sao nội lực lại thâm hậu đến thế?".

Viên Âm đợi tiếng cười của mọi người lắng xuống, hổn ha hổn hển nói:

- Thằng nhãi thối tha kia sao xảo trá thế, biết rõ Viên Chân sư huynh không thể nào cùng ngươi đối chất được, nên đòi gọi ra nói chuyện? Sao ngươi không gọi Trương Thúy Sơn của phái Võ Đương ra đối chất có được không?

Câu cuối cùng của y vừa khỏi miệng, Không Trí lập tức quát lên:

- Viên Âm, ăn nói phải giữ mồm giữ miệng.

Thế nhưng các phái Hoa Sơn, Côn Lôn, Không Động đã có nhiều người cười hô hố. Chỉ có phái Võ Đương ai nấy mặt sầm hẳn xuống, không nói một lời. Thì ra con mắt bên phải của Viên Âm bị Ân Tố Tố dùng ám khí bắn mù bên bờ hồ năm xưa, y vẫn nghĩ là do Trương Thúy Sơn hạ độc thủ, lúc nào cũng hậm hực trong lòng. Trương Vô Kỵ thấy y làm nhục đến cha mình, giận không để đâu cho hết, lớn tiếng quát:

- Tên húy của Trương ngũ hiệp sao ngươi được đem ra nói năng láo lếu? Ngươi ... ngươi ...

Viên Âm cười khẩy đáp:

- Trương Thúy Sơn tự mình sa đọa, bị yêu nữ của ma giáo mê hoặc, hiếu sắc mới bị quả báo ...

Trương Vô Kỵ trong bụng vẫn tự răn mình: "Hôm nay mình cốt để làm sao hai bên bãi đấu, ta nhất quyết không thể nào ra tay giết người được". Thế nhưng khi nghe đến mấy câu này, làm sao có thể nhịn nổi? Chàng nhảy vọt tới, tay trái vươn ra, chộp cổ Viên Âm xách lên, tay phải cướp luôn thiền trượng trong tay nhà sư, vung lên toan đánh xuống đầu y. Viên Âm bị chàng nắm chặt, chẳng khác gì con gà con bị diều hâu bắt được, không có một chút sức nào chống trả.

Trong đám người của phái Thiếu Lâm lập tức có hai người xông ra, hai thanh thiền trượng chia ra đánh vào hai bên tả hữu Trương Vô Kỵ, chính là phương pháp cao minh trong võ học dùng trong trường hợp phải cứu người, gọi là Vi Ngụy Cứu Triệu, người bị tấn công không thể không quay về tự cứu mình, giải vây cho người đồng bọn bị nguy khốn. Hai người xông ra cứu đó chính là Viên Tâm, Viên Nghiệp. Trương Vô Kỵ tay trái vẫn nắm Viên Âm, tay phải cầm thiền trượng, nhảy vọt lên, hai chân chia ra đá luôn vào thiền trượng của nhị tăng cầm trong tay, chỉ nghe bốp bốp, cả hai người đều ngã ngửa. Cững may võ công cả Viên Tâm, Viên Nghiệp đều vào loại khá, lâm nguy bất loạn, hai tay vận lực đẩy ra, thành thử hai chiếc thiền trượng đúc bằng thép pha vàng nặng mấy chục cân kia không bật trở lại đập ngược vào người mình.

Mọi người kinh hoảng kêu lên, chỉ thấy Trương Vô Kỵ tay nắm thân hình cao to của Viên Âm lượn một cái nhẹ nhàng đáp xuống đất. Trong lục đại phái có bảy tám người buột miệng kêu lên:

- Thê Vân Túng của phái Võ Đương.

Trương Vô Kỵ từ bé theo cha cùng thái sư phụ, các sư bá sư thúc, tuy võ công của phái Võ Đương chỉ học có ba mươi hai thức nhập môn Võ Đương Trường Quyền, nhưng những gì trông thấy nghe thấy không phải là ít, bây giờ luyện thành Càn Khôn Đại Na Di thần công rồi, dù võ công môn phái nào cũng có thể đem ra dùng được. Công phu của phái Võ Đương chàng đã thấm nhập trong lòng nhiều hơn cả, nên lúc này không nghĩ ngợi gì liền đem ra ứng dụng ngay môn khinh công trứ danh Thê Vân Túng. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê nếu muốn nhảy lên như thế, ở trên không lượn thêm mấy vòng, rồi hạ xuống quả thực không khó khăn gì, tư thức còn tiêu dật hơn là khác. Thế nhưng một bên tay nắm một hòa thượng to béo, một bên tay cầm một thanh thiền trượng nặng nề, mà thân hình vẫn nhẹ nhàng như cánh én, thì không thể nào làm nổi.

Các nhà sư Thiếu Lâm lúc này đã cách xa chàng đến bảy tám trượng, thấy Viên Âm bị chàng nắm ngay yếu huyệt, không còn động đậy gì được, chàng chỉ giơ thiền trượng lên là đánh đầu Viên Âm nát như tương, trong một chớp mắt đó chạy lên cứu thì không kịp nữa. Chỉ còn một cách duy nhất là bắn ám khí, nhưng Trương Vô Kỵ chỉ cần giơ Viên Âm ra đỡ, mượn dao giết người, lại hại ngược đến tính mạng y. Tuy có những cao thủ tuyệt đính như Không Trí, Không Tính ở bên, nhưng biến cố đó xảy ra nhanh quá, không thể ngờ rằng thanh niên này lại có thân thủ như thế, nên ai nấy trở tay không kịp. Chỉ thấy chàng nghiến răng, mặt đầy thù hận, giơ thiền trượng lên, người trong phái Thiếu Lâm có kẻ nhắm mắt lại không dám nhìn, người thì toan xông ra phục thù cho Viên Âm.

Nào ngờ thiền trượng trong tay Trương Vô Kỵ không đánh xuống, tưởng như trong lòng có điều gì chưa quyết định được, gương mặt chàng từ từ dịu lại, chầm chậm buông Viên Âm ra.

Thì ra trong một giây phút ngắn ngủi, chàng đã nén được nộ khí trong lòng, nghĩ thầm: "Nếu như ta đánh chết một người nào trong lục môn phái, ta liền trở thành kẻ thù của họ, không còn cách nào đứng làm trung gian để giảng hòa được nữa. Vụ thảm sát trong võ lâm không còn cách nào hóa giải, có phải là rơi vào gian kế của ác tặc Thành Côn hay sao? Dù cho họ có chửi ta, mắng ta, đánh ta giết ta cách nào, ta cũng phải nhẫn nại gắng chịu, mới thực là đi đúng con đường trả thù cho cha mẹ và nghĩa phụ".

Chàng nghĩ được như thế rồi, nên buông Viên Âm, thủng thẳng nói:

- Viên Âm đại sư, mắt ông không phải do Trương ngũ hiệp bắn mù đâu, chẳng nên ghi nhớ mối hận trong lòng. Huống chi Trương ngũ hiệp đã tự vẫn chết đi rồi, bao nhiêu oán cừu cũng đều hóa giải cả. Đại sư là người xuất gia, tứ đại giai không, sao lại để chuyện cũ khắc khoải không quên là sao?

Viên Âm chết đi sống lại, thẫn thờ nhìn Trương Vô Kỵ, không nói nên lời, thấy chàng đem thiền trượng giao trả lại, tự nhiên giơ tay nhận lấy, cúi đầu lui về, cảm thấy bao nhiêu oán hận tích chứa lâu nay, dường như có điều không phải.

Các cao tăng chùa Thiếu Lâm, chư hiệp phái Võ Đương nghe Trương Vô Kỵ nói mấy câu đó, đều thầm gật đầu.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Đích thân phu nhân mở ra

[2] Đính Thiên có nghĩa là đội trời

[3] còn gọi là đinh tấn, một chân cong tượng cho cây cung, một chân thẳng tượng cho mũi tên

[4] nếu ý chí kiên định cố gắng thì dù vàng đá cũng phải mở

[5] Muôn ngọn núi chầu về nguồn

[6] người thật là khôn ngoan thì làm như ngu xuẩn, kẻ thật là khéo léo thì xem như vụng về

[7] Câu trích trong Tả Truyện nghĩa là Một việc đã sai lầm thì không nên tái phạm (nguyên văn là vị thậm, Kim Dung lại viết là vi thậm)

[8] Bản cũ dịch là Tôn Duy Hiệp, nhưng đúng ra phải đọc là Tông. Triều Nguyễn vì kiêng tên húy của vua Thiệu Trị (Miên Tông) nên đọc trại thành Tôn (tông thất thành tôn thất, tông chỉ thành tôn chỉ ...)

Hồi 21

BÀI NẠN GIẢI PHÂN ĐƯƠNG LỤC CƯỜNG--

Thù hận hai đàng sao hóa giải,

Bên cha bên mẹ biết theo ai?

Một thân cam chịu sáu môn phái,

Vô Kỵ tên chàng quả chẳng sai.

Tông Duy Hiệp thấy Trương Vô Kỵ bắt rồi lại thả Viên Âm, công việc nặng nề như thế mà xem thật nhẹ nhàng, không khỏi cực kỳ kinh dị, nhưng thân đã bước ra sân đấu, lẽ nào tỏ ra hèn kém thoái lui? Y liền lớn tiếng nói:

- Họ Tăng kia, ngươi hung hăng ra đây, quả thực do ai sai khiến?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi chỉ mong lục phái cùng Minh giáo ngưng chiến làm hòa với nhau, chứ chẳng có ai sai khiến cả.

Tông Duy Hiệp nói:

- Hừ, nếu ngươi muốn bọn ta bỏ qua giảng hòa với Minh giáo thật khó càng khó hơn. Lão tặc họ Ân thiếu ta ba ngọn Thất Thương Quyền, để ta đánh xong rồi hãy tính.

Nói rồi y liền xắn tay áo lên. Trương Vô Kỵ nói:

- Tông tiền bối mở miệng ra là nói đến Thất Thương Quyền, khép miệng lại cũng Thất Thương Quyền, theo vãn bối biết, Thất Thương Quyền của Tông tiền bối chưa luyện đến đầu đến đũa. Ngũ hành trong cơ thể con người, tâm thuộc hỏa, phế thuộc kim, thận thuộc thủy, tì thuộc thổ, can thuộc mộc, lại thêm âm dương nhị khí, một khi luyện Thất Thương Quyền thì bảy cơ quan đó đều bị thương tổn. Công phu luyện Thất Thương Quyền cao hơn một mức, chính cơ thể nội tạng mình lại bị tổn hại thêm một mức, quả thật đúng là tổn thương mình trước, đả thương địch sau. Cũng may là Tông tiền bối luyện lộ quyền pháp này chưa lâu lắm, cũng còn có cách chữa được.

Tông Duy Hiệp nghe chàng nói mấy câu đó, quả thật đúng như tổng cương của Thất Thương Quyền Phổ. Trong quyền phổ đã căn dặn kỹ càng, nếu nội công chưa đạt đến mức khí dẫn được tới mọi huyệt đạo, muốn thu muốn phát tùy ý, thì nhất quyết chớ nên luyện môn quyền thuật này. Thế nhưng đây là tuyệt kỹ trấn sơn của phái Không Động, Tông Duy Hiệp vừa thấy nội công có chút thành tựu, là bắt đầu thử luyện ngay. Đến khi luyện rồi cảm thấy uy lực vô cùng, khi sa vào vòng không còn có thể rút lui được nữa, những lời khuyến cáo trong tổng cương quyền phổ đều bỏ ngoài tai. Hơn nữa các lão trong phái Không Động đều luyện, mình là người đứng hàng thứ hai không lẽ lại chịu kém người? Bây giờ nghe Trương Vô Kỵ nói thế, y trong bụng chột dạ, hỏi lại:

- Làm sao ngươi lại biết thế?

Trương Vô Kỵ không trả lời câu hỏi của y, nói tiếp:

- Tông tiền bối thử lấy tay ấn vào huyệt Vân Môn trên đầu vai xem có hơi ngâm ngẩm đau không? Huyệt Vân Môn thuộc phế, nghĩa là phế mạch đã bị thương rồi. Huyệt Thanh Linh trên cánh tay ông có phải thỉnh thoảng ngứa chịu không nổi? Huyệt Thanh Linh thuộc tâm, đó là tâm mạch đã bị thương rồi. Huyệt Ngũ Lý trên đùi mỗi khi trời âm u, lại thấy tê buốt, huyệt Ngũ Lý thuộc can, đó là can mạch đã bị thương. Ông càng luyện thêm nữa, các triệu chứng ngày càng thêm nặng nề, đến lúc luyện được tám chín năm, thể nào toàn thân cũng bại liệt.

Tông Duy Hiệp chăm chú nghe chàng nói, mồ hôi trên trán nhỏ ra từng giọt rơi xuống. Thì ra Trương Vô Kỵ được Tạ Tốn truyền thụ nên thông hiểu quyền lý của Thất Thương Quyền, chàng lại thâm cứu y thuật, biết rõ các triệu chứng mỗi khi kinh mạch bị tổn thương, nên nói ra không sai chút nào. Mấy năm nay Tông Duy Hiệp quả nhiên có những chứng bệnh đó, có điều bệnh không đến nỗi nặng, trong bụng tuy lo, nhưng lại muốn dấu không chịu đi chữa thuốc, bây giờ nghe Trương Vô Kỵ nói ra, mặt liền biến sắc, một lúc lâu sau mới ấp úng:

- Ngươi... sao ngươi lại biết?

Trương Vô Kỵ cười ruồi, nói:

- Vãn bối hơi biết qua thuốc men, nếu như tiền bối tin tưởng, đợi mọi việc xong xuôi, vãn bối sẽ liệu đường tìm cách giúp tiền bối trừ khử các chứng bệnh đó. Có điều Thất Thương Quyền chỉ có hại mà không có ích gì, không nên luyện nữa.

Tông Duy Hiệp cãi gượng:

- Thất Thương Quyền là tuyệt kỹ của phái Không Động ta, sao lại chỉ hại mà không ích lợi gì? Năm xưa chưởng môn sư tổ ta là Mộc Linh Tử uy chấn thiên hạ với môn Thất Thương Quyền, tên tuổi vang lừng bốn bể, thọ đến chín mươi mốt tuổi, sao lại nói là làm tổn thương thân thể cho được? Ngươi nói thế có khác gì nói quàng nói xiên.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chắc là Mộc Linh Tử tiền bối nội công thâm hậu, thành ra luyện được, không những vô hại, trái lại còn làm cho tạng phủ thêm cường tráng. Theo vãn bối, Tông tiền bối chưa đạt đến cảnh giới như thế, nếu như cưỡng luyện, e rằng rồi cũng chẳng đi đến đâu.

Tông Duy Hiệp là danh túc của phái Không Động, tuy biết rằng những lời chàng nói ra không phải là không có lý, nhưng trước mặt các cao thủ của những môn phái khác bị thanh niên này chỉ trích là trấn sơn tuyệt kỹ của mình vô dụng, làm sao không nổi giận? Y liền lớn tiếng nói:

- Cỡ như ngươi mà dám nói tuyệt kỹ của phái Không Động ta hữu dụng vô dụng hay sao? Nếu bảo vô dụng thì ra đây thử cho biết.

Trương Vô Kỵ cười nhạt, nói:

- Thất Thương Quyền là một tuyệt kỹ thần diệu tinh áo, quyền lực trong cương có nhu, trong nhu có cương, bảy loại kình lực mỗi loại một khác không loại nào giống loại nào, thu vào nhả ra, lúc mạnh lúc yếu, huyễn ảo trăm chiều, địch thủ quả thật khó mà đề phòng chống đỡ...

Tông Duy Hiệp nghe chàng tán dương Thất Thương Quyền thần diệu, nói ra câu nào trúng câu nấy, không khỏi nở một nụ cười, liên tiếp gật gù. Lại nghe chàng nói tiếp:

- ... vãn bối chỉ nói là nội công tu luyện chưa đến nơi đến chốn mà cố luyện thì chỉ hại hơn là lợi.

Chu Chỉ Nhược đứng nấp phía sau các sư tỉ, nghiêng người nhìn Trương Vô Kỵ, thấy mặt vẫn còn nét trẻ con, lại cố làm ra vẻ sành sỏi, hiểu biết hơn người, đàm luận thao thao lên mặt dạy đời cho lão nhị của Không Động ngũ lão, không khỏi tức cười, nhưng cũng lo thầm cho chàng. Những đệ tử còn trẻ tuổi của phái Không Động tính tình nóng nảy thấy Trương Vô Kỵ càng lúc ăn nói càng có vẻ vô lễ, nhịn không nổi toan lên tiếng mắng át đi, nhưng thấy Tông Duy Hiệp thần sắc nghiêm túc, lắng tai nghe thanh niên này biện luận, nên những lời chửi vừa ra đến cửa miệng vội kìm ngay lại.

Tông Duy Hiệp nói:

- Cứ như ngươi nói, nội công của ta chưa đến đâu phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nội công của tiền bối đến đâu thì vãn bối không dám vọng ngôn. Thế nhưng nếu tiền bối luyện Thất Thương Quyền mà chính mình đã bị thương rồi, thì đừng luyện nữa là hơn...

Chàng mới nói đến đây, bỗng sau lưng có người quát lớn:

- Nhị ca nói năng qua lại với tên tiểu tử này làm gì? Y không coi Thất Thương Quyền của mình vào đâu, vậy để tiểu đệ cho y một đấm, nếm mùi xem sao nào.

Người kia nói xong là quyền đã ra, xuất thủ vừa độc địa, vừa lanh lẹ, nghe vù một tiếng, nhắm ngay huyệt Linh Đài sau lưng Trương Vô Kỵ đánh tới.

Trương Vô Kỵ thừa biết có người đánh lén nhưng không thèm để ý tới, nói với Tông Duy Hiệp:

- Tông tiền bối...

Bỗng thấy có tiếng xích kêu loảng xoảng, một người xông ra, giọng thanh thoát kêu lên:

- Sao ngươi dám đánh trộm.

Vung xích lên quật vào đầu người nọ, chính là Tiểu Siêu. Người kia vung tay trái lên gạt dây xích ra, nghe bình một tiếng, đã thẳng cánh đấm một quyền vào lưng Trương Vô Kỵ. Quyền đó trúng ngay huyệt Linh Đài, Trương Vô Kỵ làm như không hay biết, mỉm cười nói với Tiểu Siêu:

- Tiểu Siêu, không phải lo, thứ Thất Thương Quyền như thế này chưa dùng được bao nhiêu đâu.

Tiểu Siêu thở phào, khuôn mặt trắng muốt ửng đỏ, nói nhỏ:

- Cháu quên mất công tử đã luyện...

Nói đến đó vội vàng nín bặt, kéo lê xích sắt trở về chỗ. Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy người vừa đánh mình là một lão già đầu to gầy gò. Người đó đứng hàng thứ tư trong Không Động ngũ lão tên là Thường Kính Chi. Quyền của y đánh ngay vào yếu huyệt của đối phương, vậy mà Trương Vô Kỵ dường như không hay biết, hết sức lạ lùng, lắp bắp nói:

- Ngươi... ngươi đã luyện thành Kim Cương Bất Hoại Thể thần công rồi chăng, có phải là người của phái Thiếu Lâm không?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ không phải đệ tử của phái Thiếu Lâm...

Thường Kính Chi biết rằng phàm hộ thân thần công, toàn nhờ ngưng tụ chân khí, một khi mở miệng nói, chân khí lập tức tản mạn nên không đợi chàng dứt lời, lại vung quyền đấm tới, nghe bình một tiếng, lần này trúng ngay ngực Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Tôi đã nói Thất Thương Quyền nếu không có căn cơ nội công thì không thể dùng được. Nếu ông không tin, cứ đánh thêm một quyền nữa xem nào.

Quyền của Thường Kính Chi nhanh như gió, bình bình liên tiếp hai cú đấm nữa. Trước sau cả thảy bốn quyền, rõ ràng đánh trúng người đối phương, nhưng Trương Vô Kỵ vẫn khì khì chịu đựng, xem ra không đau đớn gì cả. Bốn cú đấm có sức vỡ bia tan đá, đụng phải chàng chẳng khác gì gió thổi mơn man, lụa mềm phe phẩy.

Thường Kính Chi có ngoại hiệu là Nhất Quyền Đoạn Nhạc[1], tuy có phóng đại, nhưng quyền lực hùng mạnh, ai ai trong võ lâm cũng đã từng nghe. Mọi người thấy y liên tiếp đánh bốn quyền đều chẳng đến đâu, không khỏi kinh hãi. Phái Côn Lôn và phái Không Động xưa nay vẫn không ưa nhau, lần này tuy liên thủ vi công Minh giáo, nhưng hai bên vẫn ghét ngầm, phái Côn Lôn liền có người lạnh lùng nói mỉa:

- Nhất Quyền Đoạn Nhạc ghê gớm thật.

Lại có người tiếp theo:

- Thế tứ quyền thì đoạn cái gì?

Cũng may Thường Kính Chi mặt vốn đen thui, tuy đỏ mặt tía tai, nhưng cũng không lộ liễu lắm. Tông Duy Hiệp chắp tay nói:

- Thần công của Tăng thiếu hiệp thật là đáng phục, đáng phục. Có thể để lão hủ đánh ba quyền chăng?

Y biết công lực Thất Thương Quyền của mình so với Thường Kính Chi cao siêu hơn nhiều, lão tứ không xong, đâu đã hẳn mình cũng không tổn thương được đối phương. Trương Vô Kỵ nói:

- Thất Thương Quyền tuyệt kỹ của phái Không Động, nếu như quả đã luyện thành thì không có gì chịu nổi. Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm đã luyện được Kim Cương Bất Hoại Thể thần công, vậy mà còn táng mệnh vì Thất Thương Quyền của quí phái, tại hạ võ công không sao bì được với Không Kiến thần tăng, làm sao dám chống trả? Thế nhưng hiện giờ thì miễn cưỡng tiếp tiền bối ba quyền, có lẽ cũng không đến nỗi nào.

Trong câu nói đó chàng ngụ ý rằng, Thất Thương Quyền vốn dĩ cao siêu nhưng ngươi tài nghệ còn kém lắm. Tông Duy Hiệp không hơi đâu mà nghĩ xa nghĩ gần, ám vận vài lần chân khí, xương cánh tay kêu lên răng rắc, nghe vù một tiếng, một quyền đánh vào ngực Trương Vô Kỵ. Đầu quyền vừa chạm vào ngực chàng bỗng thấy dường như có một nguồn hấp lực hút dính tay y lại, nhất thời không rút ra được. Y giật mình kinh hãi, bỗng thấy có có một luồng hơi nóng nhu hòa theo bàn tay truyền vào đan điền, ngực và bụng thấy vô cùng khoan khoái. Y ngơ ngẩn, vội rút tay về phát quyền đánh tiếp, lần này đánh trúng bụng dưới đối phương, thấy lực trả lại thực là mạnh, y phải lùi một bước, bấy giờ mới đứng lại được. Y vận khí mấy lần, xông tới lần nữa đánh thêm một quyền nữa.

Thường Kính Chi đứng gần bên Trương Vô Kỵ, thấy Tông Duy Hiệp mặt lúc đỏ, lúc trắng, dường như đã bị nội thương, đợi quyền thứ ba đánh ra, cũng đấm luôn một cái. Tông Duy Hiệp đánh vào trước ngực, Thường Kính Chi đánh vào sau lưng, song quyền tiền hậu giáp công, cả hai kình lực thật là ghê gớm. Nào ngờ quyền của hai người đánh tới chẳng khác gì đánh vào chỗ hư không, hai luồng lực đạo lập tức bị hóa giải không tăm hơi đâu nữa.

Thường Kính Chi biết rằng với địa vị thân phận của mình, lần đầu đánh lén đã không ổn tí nào, nhưng cũng còn miễn cưỡng nói là vì đối phương nói ra lời lẽ nhục mạ tuyệt kỹ của phái Không Động, trong cơn giận dữ không chế ngự nổi, còn thâu tập lần thứ hai thì đúng là tư cách hạ lưu vô sỉ không cãi vào đâu được nữa. Y vốn nghĩ nếu hai người hợp lực Thất Thương Quyền, chỉ một thoi đánh chết được đối phương tại chỗ, sau đó dẫu người ngoài có nói ra nói vào, thì mình dù sao cũng đã trừ khử được một kẻ vướng chân bận tay, lập được chút công lao. Nào ngờ quyền phong đánh vào người chàng, kình lực lập tức tiêu tan, y giơ tay gãi đầu mấy cái ngơ ngẩn không hiểu tại sao.

Trương Vô Kỵ mỉm cười hỏi Tông Duy Hiệp:

- Tiền bối thấy thế nào?

Tông Duy Hiệp ngạc nhiên, khom lưng chắp tay, cung kính nói:

- Đa tạ Tăng thiếu hiệp dùng nội lực chữa thương cho tại hạ. Thần công kinh người của thiếu hiệp bất tất nói làm gì, nhưng bụng dạ đại nhân đại nghĩa lấy đức báo oán, tại hạ cảm kích không cùng.

Y vừa nói ra, mọi người chung quanh không ai là không kinh ngạc. Không ai biết là trong khi Tông Duy Hiệp đánh ba quyền vừa rồi, Trương Vô Kỵ đã vận Cửu Dương chân khí, truyền vào cơ thể cho y, tuy chỉ trong chớp mắt nhưng vì chàng chân khí hùng hồn nên Tông Duy Hiệp được hưởng cũng không phải là ít. Y biết rằng nếu Thường Kính Chi không đánh lén phía sau lưng, quyền thứ ba này còn được lợi nhiều hơn thế nữa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bốn chữ đại nhân đại nghĩa tại hạ đâu dám nhận. Trong lúc này kỳ kinh bát mạch của Tông tiền bối bị chấn động mạnh, tốt hơn hết nên vận khí điều tức, những độc hại trong khi luyện Thất Thương Quyền, có thể trong vòng hai ba năm trục ra hết được.

Tông Duy Hiệp tự biết những bệnh tật của mình, chắp tay nói:

- Đa tạ, đa tạ.

Nói xong lui qua một bên, ngồi xuống vận công, tuy biết làm thế hơi bất nhã, người ngoài coi không đẹp mắt, nhưng vì sinh tử an nguy của mình, nên đành chịu. Trương Vô Kỵ cúi xuống nối những xương gãy cho Đường Văn Lượng, nói với Thường Kính Chi:

- Đem Hồi Dương Ngũ Long Cao ra đây.

Thường Kính Chi lấy trong người ra thuốc cao đưa cho chàng, Trương Vô Kỵ lại nói tiếp:

- Hãy qua bên phái Võ Đương xin một viên Tam Hoàng Bảo Lạp Hoàn, qua phái Hoa Sơn xin Ngọc Chân Tán đem về đây.

Thường Kính Chi y theo lời dặn đem về đưa cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nói:

- Trong Hồi Dương Ngũ Long Cao của quí phái có vị Thảo Ô rất tốt, còn Tam Hoàng Bảo Lạp Hoàn của phái Võ Đương có các vị Ma Hoàng, Hùng Hoàng, Đằng Hoàng cũng có chỗ dùng, thêm vào Ngọc Chân Tán, Đường tiền bối chỉ cần tĩnh dưỡng hai tháng, chân tay sẽ lành lặn trở lại như cũ.

Nói xong tiếp xương, bôi cao, chỉ giây lát đã làm xong. Các môn phái trong võ lâm đều có những phương thuốc bí truyền trị thương, mỗi nhà đều có công hiệu riêng, những phương thuốc đó Hồ Thanh Ngưu đều viết rất rõ ràng. Trương Vô Kỵ đoán rằng lục môn phái vây đánh Quang Minh Đính thể nào cũng mang theo bên mình. Thế nhưng người đứng xem càng coi càng thấy lạ, thủ pháp tiếp cốt của chàng tinh diệu không danh y nào sánh kịp, không cần nói làm gì, thế nhưng phái nào có các loại thuốc gì, sao chàng cũng lại biết rõ như thế? Thường Kính Chi ôm Đường Văn Lượng lên, dáng điệu ngượng ngùng đi xuống. Đường Văn Lượng đột nhiên kêu lên:

- Họ Tăng kia, ngươi trị xương gãy cho ta, Đường Văn Lượng này mười phần cảm kích, ngày sau thể nào cũng báo đáp. Thế nhưng phái Không Động và ma giáo thù sâu như biển, không lẽ chỉ vì một chút tiểu ân tiểu huệ của ngươi mà đành xóa bỏ? Ngươi muốn giảng hòa, bọn ta không nghe đâu. Nếu như ngươi bảo ta vong ân phụ nghĩa, thì cứ bẻ gãy lại tứ chi của ta đi.

Mọi người nghe y nói đều nghĩ thầm: "Cùng là kỳ túc của phái Không Động, nhưng Đường Văn Lượng xem ra khí khái hơn Thường Kính Chi nhiều".

Trương Vô Kỵ nói:

- Cứ như Đường tiền bối nói, làm thế nào mới chịu nghe tại hạ khuyên giải?

Đường Văn Lượng nói:

- Ngươi hiển lộ một môn võ công, nếu như phái Không Động làm không nổi, lúc ấy có gì hãy hay.

Trương Vô Kỵ nói:

- Phái Không Động cao thủ thật đông như kiến, vãn bối làm sao sánh kịp? Chẳng qua vãn bối không lượng sức mình, muốn giảng hòa hai bên, thôi cũng đành hết sức làm thử vậy.

Chàng đưa mắt nhìn chung quanh, thấy phía đông khu đất có một cây tùng cao đến hơn ba trượng, cành lá xum xuê xòe ra như cái lọng, liền chậm rãi đi đến, lớn tiếng nói:

- Vãn bối có học qua môn Thất Thương Quyền của quí phái, nếu như luyện không đúng, xin các vị tiền bối phái Không Động đừng cười nhé.

Các môn phái nghe thấy chàng nói thế, đều hết sức kinh ngạc: "Tiểu tử này biết cả Thất Thương Quyền của phái Không Động, không biết y học ở đâu?".

Chỉ nghe chàng lớn tiếng đọc:

Khí chất ngũ hành,

Âm dương điều hợp,

Hỏng phế, tổn tâm,

Ruột gan tan nát.

Tạng phủ rời xa,

Tinh thần vuột mất.

Ý chí bàng hoàng,

Lòng dạ hoảng hốt,

Lộn ngược tam tiêu,

Hồn phách bay vụt.[2]

Những người phái khác nghe thấy, chẳng nói làm gì, thế nhưng Không Động ngũ lão nghe chàng lớn giọng ngâm mấy câu quyền quyết hát chẳng ra hát, vè chẳng ra vè, người nào người nấy đều kinh hoảng. Đây chính là tổng quyết của Thất Thương Quyền, là một bí mật không truyền ra ngoài của phái Không Động, thanh niên này tại sao lại biết? Bọn họ nhất thời không nghĩ ra rằng chính Tạ Tốn đã cướp được Thất Thương Quyền Phổ rồi truyền lại cho chàng.

Trương Vô Kỵ cao giọng ngâm xong, đi đến trước thân cây đấm ra nghe bình một tiếng, chỉ thấy tàn cây rung động, một nửa thân cây đại tùng đã đứt ngang bay vụt đi, nghe ầm một tiếng đổ xuống cách xa chừng hai trượng, chỉ còn lại gốc cây cao khoảng bốn thước, chỗ gãy phẳng lì. Thường Kính Chi lẩm bẩm nói:

- Cái... cái này đâu phải Thất Thương Quyền.

Căn bản của Thất Thương Quyền là trong cương có nhu, trong nhu có cương, quyền pháp đánh gãy cây này tuy uy lực kinh người, nhưng rõ ràng dùng lực thuần cương. Y đến gần xem xét, há hốc mồm không ngậm lại được, thấy chỗ cây gãy các thớ gỗ đều nát vụn, chính là công phu Thất Thương Quyền luyện đến mức cực kỳ cao thâm.

Thì ra Trương Vô Kỵ định bụng sẽ làm cho cả đương trường phải kinh hãi, nếu chỉ dùng Thất Thương Quyền không thôi để chấn nát lõi cây, phải mười ngày nửa tháng, cành khô lá héo mới thấy được công lực của nó nên sau kình lực của Thất Thương Quyền lại dùng kình lực dương cương đánh gãy luôn thân cây. Đó là chàng phỏng theo nghĩa phụ Tạ Tốn năm xưa trên Băng Hỏa đảo đánh gãy cây rồi sau đó mới dùng đao Đồ Long chặt đứt cây.

Tiếng hoan hô khen ngợi, các phái kẻ đứng lên người ngồi xuống, một lúc lâu mới lắng xuống. Thường Kính Chi nói:

- Hay thật, quả nhiên là Thất Thương Quyền Pháp đã đến mức tuyệt cao, Thường mỗ xin bái phục. Thế nhưng mỗ muốn hỏi một câu, lộ quyền pháp này Tăng thiếu hiệp học của ai thế?

Trương Vô Kỵ mỉm cười không đáp. Đường Văn Lượng sẵng giọng hỏi:

- Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hiện nay ở đâu? Xin Tăng thiếu hiệp cho biết?

Tâm tư y khá bén nhậy, đoán ngay rằng Tạ Tốn và thanh niên này ắt có gì liên quan. Trương Vô Kỵ giật mình: "Chao ôi không xong, ta biểu diễn Thất Thương Quyền thần công, để lộ việc của nghĩa phụ mất rồi. Nếu nói trắng nghĩa phụ có uyên nguyên với mình ra, thì ta tự đứng vào thế đối địch với sáu đại môn phái, việc giải hòa không thể nào xong được". Nghĩ vậy chàng bèn nói:

- Tiền bối nghĩ rằng việc mất Thất Thương Quyền phổ là do Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đầu dây mối nhợ hay sao? Sai rồi, sai rồi. Đêm hôm đó ở Thanh Dương Quan trên núi Không Động, trong trận kịch đấu chiếm đoạt quyền phổ, quí phái có người bị thương vì Hỗn Nguyên Công, toàn thân hiện những điểm đo đỏ, kẻ hạ thủ chính là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn đó.

Năm xưa khi Tạ Tốn đến núi Không Động cướp quyền phổ, Thành Côn muốn cho Minh giáo thêm kẻ địch nên đã ngấm ngầm tương trợ, dùng Hỗn Nguyên Công đánh Đường Văn Lượng, Thường Kính Chi hai người bị thương. Khi đó Tạ Tốn không hề biết, về sau do Không Kiến nói cho hay, lúc ấy mới rõ. Lúc này Trương Vô Kỵ nghĩ đến Thành Côn một đời gian trá, chuyên giá họa cho người, nên dùng kế "gậy ông đập lưng ông", vả lại những điều chàng nói ra cũng không có điều gì không đúng sự thật.

Đường Văn Lượng và Thường Kính Chi nghi tâm hơn hai mươi năm qua, bây giờ nghe Trương Vô Kỵ đề cập đến, mới biết thì ra là thế, hai người nhìn nhau, nhất thời không nói được lời nào. Tông Duy Hiệp nói:

- Như thế thỉnh vấn Tăng thiếu hiệp, Thành Côn hiện nay đang ở đâu?

Trương Vô Kỵ nói:

- Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn chủ tâm khiêu khích cho các đại môn phái và Minh giáo đánh lẫn nhau, về sau xin làm môn hạ Thiếu Lâm, pháp danh Viên Chân. Tối hôm trước y đã lẻn vào nội đường của Minh giáo, chính miệng y nói cho các thủ não của Minh giáo mọi sự. Dương Tiêu tiên sinh, Vi Bức Vương, Ngũ Tản Nhân đều nghe cả. Việc này hoàn toàn xác thực, nếu là hư ngôn, tại hạ không bằng con heo con chó, chết rồi vạn kiếp chẳng được siêu sinh.

Mấy câu đó chàng khẳng khái nói, ai nghe thấy cũng đều động lòng, chỉ có tăng chúng chùa Thiếu Lâm lập tức xì xào.

Từ đám đông một người cả tiếng niệm Phật, từ từ bước ra, trên người mặc tăng bào màu tro, tướng mạo uy nghiêm, tay trái cầm một chuỗi tràng hạt, chính là một trong ba đại thần tăng của phái Thiếu Lâm Không Tính. Ông ta đi vào giữa sân nói:

- Tăng thí chủ, sao ngươi lại nói năng loạn xạ, nhất định vu cáo cho môn hạ của chùa Thiếu Lâm ta? Trước mặt anh hùng thiên hạ, thanh danh phái Thiếu Lâm đâu có thể để cho ngươi tùy tiện nói xấu.

Trương Vô Kỵ khom lưng nói:

- Đại sư xin đừng nổi nóng, xin Viên Chân tăng ra đây đối chất với vãn bối, liền biết chân tướng ngay.

Không Tính đại sư mặt sầm hẳn xuống nói:

- Tăng thí chủ lại đề cập đến tệ sư điệt Viên Chân, ngươi tuổi còn trẻ sao lại có tâm địa hiểm ác đến thế?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ chỉ muốn mời Viên Chân hòa thượng ra đây, trước mặt anh hùng thiên hạ nói rõ trái phải trắng đen, có gì đâu mà tồn tâm hiểm ác?

Không Tính nói:

- Viên Chân sư điệt là nhập thất đệ tử của tệ sư huynh Không Kiến, Phật học uyên thâm, trừ kỳ này theo anh em viễn chinh Minh giáo ra, nhiều năm qua chưa hề rời chùa một bước, làm sao có thể là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn được? Huống chi Viên Chân sư điệt vì lục đại môn phái khổ chiến yêu nghiệt nên đã kiệt lực viên tịch rồi, y chết đi thanh danh đâu có để cho ngươi...

Trương Vô Kỵ nghe thấy "kiệt lực viên tịch", tai liền ù đi, mặt trắng bệch, những gì Không Tính nói sau đó chàng nghe nhưng không để vào tai, chỉ lẩm bẩm:

- Y... y chết thật rồi ư? Không... không thể được.

Không Tính chỉ một thi thể tăng nhân ở phía tây, lớn tiếng nói:

- Tự ngươi đến xem thì biết.

Trương Vô Kỵ đi đến cái xác chết đó, thấy khuôn mặt má hõm, hai mắt trợn trừng, chính là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn sau đầu nhập Thiếu Lâm pháp danh Viên Chân. Chàng cúi xuống thăm hơi thở, thấy thịt da lạnh ngắt, xem ra chết đã lâu rồi. Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa buồn, không ngờ kẻ đại cừu hại một đời nghĩa phụ, ác quán mãn doanh hậu quả lại như thế. Máu nóng trong ngực chàng xông lên, nhịn không nổi ngửa cổ lên cười ha hả, kêu lên:

- Gian tặc ơi là gian tặc, ngươi một đời làm biết bao nhiêu điều ác, đâu ngờ cũng có ngày nay.

Mấy tiếng cười của chàng chấn động sơn cốc, truyền ra xa xa, ai nấy không khỏi giật mình. Trương Vô Kỵ quay đầu lại, hỏi:

- Gã Viên Chân này ai đánh y chết thế?

Không Tính liếc xéo một cái, mặt sa sầm như có phủ một làn sương mỏng, không trả lời. Ân Thiên Chính vốn đã đứng qua một bên, bấy giờ mới nói:

- Y cùng với tiểu nhi Dã Vương tỉ thí chưởng lực, kết quả một chết, một bị thương.

Trương Vô Kỵ khom lưng nói:

- Thì ra thế.

Chàng nghĩ thầm: "Chắc là Viên Chân trúng phải Hàn Băng Miên Chưởng của Vi Bức Vương rồi, thụ thương không phải nhẹ, chưởng lực của cậu ta thật kinh hồn, vì thế đánh y chết ngay tại đương trường. Cậu ta thay ta báo mối thù này, cũng là phải lắm".

Chàng đi đến bên cạnh Ân Dã Vương, thò tay thăm mạch, biết là tính mạng không có gì nguy hiểm, nên cũng không lo, nói:

- Đa tạ tiền bối.

Không Tính đứng một bên thấy vậy, càng lúc càng tức, lớn tiếng rống lên:

- Tiểu tử, lại đây nạp mạng đi.

Mấy tiếng đó ầm ầm lọt vào tai, chẳng khác gì sấm sét. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên quay đầu, hỏi:

- Cái gì?

Không Tính lớn tiếng nói:

- Ngươi biết rõ Viên Chân sư điệt chết rồi, bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu y hết, ác độc đến thế, làm sao ta tha cho ngươi được? Lão hòa thượng hôm nay đành phải khai sát giới. Ngươi tự sát đi hay để lão nạp phải ra tay?

Trương Vô Kỵ trong lòng phân vân: "Viên Chân đã chết rồi, kẻ làm nên tội đã bị báo ứng, thực là một việc rất đáng mừng. Có điều từ nay không còn ai đối chất, chân tướng không dễ dàng gì vạch ra cho mọi người biết, phải làm thế nào cho phải đây?".

Chàng còn đang trầm ngâm, Không Tính đã tiến lên mấy bước, tay phải vươn ra chộp vào đầu chàng, cái trảo đó từ cổ tay cho đến ngón tay, thẳng băng như cây bút, kình đạo cực kỳ ghê gớm.

Ân Thiên Chính quát lên:

- Long Trảo Thủ đó, không nên coi thường.

Trương Vô Kỵ thân hình hơi nghiêng qua, nhẹ nhàng tránh được. Không Tính một trảo chưa trúng, trảo thứ hai đã tiếp theo, thế này xem ra lại càng nhanh nhẹn, cương mãnh hơn lần trước. Trương Vô Kỵ lại né qua bên trái tránh được. Không Tính liền liên tiếp tung ra trảo thứ ba, thứ tư, thứ năm nghe vù vù, chỉ nháy mắt, nhà sư mặc áo màu tro đã biến thành một con rồng xám, uốn lượn múa may, long trảo vươn ra, áp chế Trương Vô Kỵ không còn đường nào né tránh. Chỉ nghe xoẹt một tiếng, Trương Vô Kỵ bay vụt qua một bên, tay áo bên phải đã bị Không Tính chộp được, cánh tay trơ ra, hiện rõ năm vết xước, máu nhỏ ròng ròng. Tăng chúng Thiếu Lâm hoan hô vang dậy, nhưng đâu đó có tiếng một thiếu nữ kinh hoảng kêu lên.

Trương Vô Kỵ liếc nhìn về phía người kinh hãi kia, thấy Tiểu Siêu thần sắc sợ hãi, kêu lên:

- Trương công tử, công tử... cẩn thận nhé.

Trương Vô Kỵ trong lòng cảm động: "Tiểu cô nương này đối với ta thật là tốt bụng".

Không Tính một chiêu thắng thế, nhảy vọt tới, xông vào chộp nữa, uy thế thật là phi phàm. Lộ trảo pháp nay vừa thật nhanh lại vừa độc địa, Trương Vô Kỵ chưa từng thấy bao giờ, nhất thời không biết cách nào đề ngự, chỉ có nước thoái lui liên tiếp. Hai người diện đối diện, một người xông tới, một người nhảy lùi về sau, Không Tính liên tiếp chộp liền chín cái đều vào chỗ không. Hai người trước sau vẫn cách nhau đến hơn hai thước, tuy Không Tính liên tục tấn công, Trương Vô Kỵ không có cách gì trả đòn, nhưng cứ so khinh công của hai người thì đã phân hơn kém rõ ràng. Không Tính phi bộ tới trước, còn Trương Vô Kỵ nhảy lùi về sau, khó dễ hai bên ai cũng biết cả, vậy mà Không Tính vẫn không nắm được đối thủ, bước chân như thế đã thua hẳn rồi. Trương Vô Kỵ chỉ cần xoay người chạy mấy bước, lập tức sẽ bỏ cách ông ta thật xa.

Kỳ thực Trương Vô Kỵ không cần phải quay người, chỉ cần nhảy lùi cũng đủ thoát khỏi được thế công của nhà sư, thế nhưng trước sau vẫn không đỡ, cũng không chạy, lúc nào cũng cách khoảng hai ba thước, chính vì muốn quan sát những bí áo trong Long Trảo Thủ của Không Tính. Chàng coi đến chiêu thứ ba mươi bảy, thấy tay trái của ông ta vươn thẳng ra đằng trước, sử trở lại chiêu thứ tám là Nã Vân Thức. Chiêu thứ ba mươi tám hai tay từ trên cùng chụp xuống, phương vị tuy biến, tư thức cũng giống hệt như chiêu thứ mười hai Sang Châu Thức. Tên những chiêu thức đó dĩ nhiên Vô Kỵ không sao biết được, nhưng cách ra chiêu, chiêu nào chàng cũng nhìn rõ, nhớ vào trong bụng.

Thì ra Long Trảo Thủ chỉ có ba mươi sáu thức, yếu chỉ của nó là nhanh nhẹn độc địa, không phải biến hóa nhiều. Không Tính khi còn trung niên đã mấy lần gặp đại địch, nhưng chỉ cần sử dụng Long Trảo Thủ, lập tức được thượng phong ngay, trong mười hai chiêu là đã thắng rồi, còn từ chiêu thứ mười ba chỉ để một mình luyện tập, chưa bao giờ phải sử dụng khi lâm địch. Lần này sử đến hết cả ba mươi sáu chiêu rồi vẫn chưa chế thắng được là chuyện bình sinh chưa hề có. Đến chiêu thứ ba mươi bảy phải quay về chiêu cũ, ông nghĩ thầm: "Tên tiểu tử này chỉ dựa vào khinh công cao siêu, bộ pháp nhanh nhẹn, từ đầu đến cuối né đông tránh tây, nếu quả thực hai bên sách chiêu, chắc gì chống đỡ nổi mình được mười hai chiêu Long Trảo Thủ".

Trương Vô Kỵ lúc này đã biết hết ba mươi sáu thức Long Trảo Thủ pháp, tuy không tìm thấy một sơ hở nào nhưng dù bất cứ quyền chiêu nào của dối phương, Càn Khôn Đại Na Di cũng có thể tạo thành sai sót để phá vỡ. Thế nhưng chàng còn trù trừ: "Nếu lúc này ta lấy mạng ông ta thì không có gì là khó, nhưng phái Thiếu Lâm uy danh lừng lẫy, vị Không Tính đại sư này lại là một trong ba kỳ túc của họ, nếu ta đánh bại ông ta trước mặt anh hùng thiên hạ, phái Thiếu Lâm còn mặt mũi nào? Còn như làm sao để ông ta tự nhiên biết khó mà chịu thua thì người này võ công cao hơn phái Không Động nhiều, ta đâu có cách gì làm được". Chàng còn đang trong cảnh khó xử, bỗng nghe Không Tính quát lớn:

- Tiểu tử, ngươi chỉ chạy trốn chứ đâu có phải là tỉ võ.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Muốn tỉ võ...

Không Tính nhân cơ hội chàng đang há miệng, chân khí không tập trung được liền xuất công hai chiêu liền. Trương Vô Kỵ tung mình nhảy ra, miệng vẫn tiếp tục nói:

- ... cũng được, nếu như tại hạ thắng được đại sư thì tính sao?

Mấy câu đó âm thanh vẫn liền lạc không ngừng lại chút nào, nếu như nhắm mắt mà nghe, tưởng như chàng đang ngồi nói chuyện một cách bình thường, chẳng biết được rằng trong ba câu đó, chàng đã phải liên tục né tránh năm chiêu tấn công vũ bão của Không Tính.

Không Tính đáp:

- Khinh công của ngươi giỏi thật, nhưng nến muốn thắng được ta bằng đường quyền ngọn cước thì đừng hòng.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tỉ võ ra chiêu, ai biết thế nào được thắng hay bại? Vãn bối so với đại sư tuổi kém xa, võ nghệ tuy kém cỏi, nhưng nói về khí lực lại được lợi hơn.

Không Tính hung hăng đáp:

- Nếu như tại quyền cước mà ta thua ngươi, ngươi muốn giết thì giết, muốn xẻo thịt thì xẻo thịt.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chuyện đó thì không dám. Nếu vãn bối thua, đương nhiên phải tùy theo đại sư sai bảo, không dám nửa lời nói khác. Thế nhưng nếu may mắn tại hạ thắng được đại sư nửa chiêu một thức, chỉ xin phái Thiếu Lâm rời khỏi Quang Minh Đính.

Không Tính đáp:

- Việc của phái Thiếu Lâm, do sư huynh ta định đoạt, ta chỉ lo việc của ta được thôi. Ta không tin rằng Long Trảo Thủ này lại không thắng được ngươi đâu.

Trương Vô Kỵ trong lòng bỗng chợt nghĩ ra một cách, nói:

- Ba mươi sáu chiêu Long Trảo Thủ của phái Thiếu Lâm không có một chút sơ hở nào, là vô thượng tuyệt nghệ của cầm nã pháp trong thiên hạ, chỉ có điều đại sư luyện vẫn còn có một chỗ chưa đúng hẳn.

Không Tính giận dữ đáp:

- Giỏi nhỉ, nếu ngươi phá giải được Long Trảo Thủ của ta, ta lập tức quay về chùa Thiếu Lâm, suốt đời thề không ra khỏi cửa chùa một bước.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không cần phải như thế.

Hai người đối đáp mọi người đứng chung quanh reo hò như tiếng sấm, mỗi lúc một thêm vang dậy. Thì ra tuy hai người miệng vẫn nói, tay chân thân pháp không vì thế mà ngừng lại, tuy càng đấu càng nhanh, nhưng ngữ điệu so với bình thời chẳng có gì khác, không ngập ngừng chút nào. Khi Không Tính nói câu "Khinh công của ngươi giỏi thật" thì đã liên tiếp đánh ra hai chiêu vù vù, khi nói tới "nhưng nếu muốn thắng được ta bằng đường quyền ngọn cước" thì năm ngón tay trái đã chụp xuống, còn nói tới đoạn "thì đừng hòng" giọng nói uy mãnh, hai tay cùng phát ra liên tiếp ba chiêu.

Hai người vừa nói vừa đánh, tiếng reo hò của người chung quanh vẫn không át được tiếng của họ. Khi Trương Vô Kỵ nói tới câu sau cùng: " Không cần phải như thế", tự nhiên thân hình vọt lên, ở trên không lượn liên tiếp bốn vòng, càng lượn càng cao, rồi đổi hướng một cái, nhẹ nhàng đáp xuống ngoài xa mấy trượng. Mọi người nhìn thấy như thế ai nấy mắt trợn trừng, không ai tin nổi trên đời này lại có loại khinh công như thế. Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu vẫn tự hào khinh công của mình trên đời không ai sánh kịp, lúc này cũng không khỏi tắc lưỡi thán phục.

Trương Vô Kỵ rơi xuống đất rồi, Không Tính lại xông tới trước mặt, nhưng không thừa cơ truy kích, lớn tiếng nói:

- Thế bây giờ mình tỉ đấu chưa?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Được rồi, mời đại sư phát chiêu.

Không Tính nói:

- Ngươi có còn nhảy lùi về sau nữa thôi?

Trương Vô Kỵ mỉm cười trả lời:

- Vãn bối nếu còn lùi nửa bước thì xem như thua.

Những người trong Minh giáo như Dương Tiêu, Lãnh Khiêm, Chu Điên, Thuyết Bất Đắc, trong Thiên Ưng giáo như Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Lý Thiên Viên tuy thân thể cử động khó khăn, mắt tai vẫn bình thường, nghe thấy chàng nói như thế đều kinh hoảng thầm. Bọn họ ai cũng hiểu rộng biết nhiều, thấy Long Trảo Thủ của nhà sư thật là ghê gớm, muốn tiếp ông ta một chiêu, cũng không phải dễ dàng, võ công Trương Vô Kỵ tuy giỏi thật, nhưng muốn thắng được cũng phải trăm hiệp trở lên, công thủ tránh né, làm sao có cách nào không lùi lại nửa bước? Ai nấy đều thấy câu nói đó quá ư là khoa trương.

Lại nghe Không Tính nói:

- Không cần phải thế. Thắng cũng phải cho công bình, thua cũng phải cho tâm phục.

Nói vừa xong, quát lên:

- Tiếp chiêu.

Tay trái chộp hờ ra, tay phải kẹp lại thành một luồng kình phong, đánh thẳng vào huyệt Khuyết Bồn ở vai trái của Trương Vô Kỵ, chính là chiêu Nã Vân Thức.

Trương Vô Kỵ thấy tay trái ông ta vừa hơi động, biết ngay nhà sư định sử chiêu này, lập tức tay trái cũng chộp hờ ra, tay phải chộp luôn vào huyệt Khuyết Bồn của đối phương. Hai người sử dụng cùng một chiêu thức, cũng không có gì phân biệt, nhưng Trương Vô Kỵ ra sau mà tới trước, tuy chỉ là một sát na thôi nhưng đã chiếm được tiên cơ. Ngón tay của Không Tính còn cách chàng khoảng hai tấc thì năm ngón tay của Vô Kỵ đã chộp trúng huyệt Khuyết Bồn trên vai ông ta. Không Tính chỉ thấy huyệt đạo tê chồn, kình lực trên bàn tay phải hoàn toàn mất hết. Thế nhưng Trương Vô Kỵ không sử kình vào ngón tay, lập tức rút lại ngay.

Không Tính ngạc nhiên, hai tay lại cùng đưa ra, sử chiêu Sang Châu Thức chộp vào hai huyệt Thái Dương hai bên mang tai của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lại hậu phát tiên chí, hai tay cũng đưa ra, lại đi trước một bước, chộp đúng vào hai huyệt Thái Dương hai bên của Không Tính. Thái Dương huyệt là nơi trọng yếu, đối với nội gia cao thủ khi tỉ võ, đánh trúng là chết ngay, không có cách gì cứu được. Thế nhưng Trương Vô Kỵ chỉ lấy đầu ngón tay vuốt nhẹ, rồi cuốn vòng trở ra, biến thành thức thứ mười bảy trong Long Trảo Thủ là Lao Nguyệt Thức, đánh nhứ vào huyệt Phong Phủ ở sau đầu.

Không Tính bị chàng phất trúng huyệt Thái Dương đã đứng chết trân, đến lúc chàng sử dụng Lao Nguyệt Thức, lại càng kinh hãi hơn, lập tức nhảy lui về sau nửa trượng, quát lên:

- Ngươi... ngươi tại sao lại học lén Long Trảo Thủ của phái Thiếu Lâm ta?

Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

- Võ công trong thiên hạ tất cả đâu đâu cũng đều qui về một nguồn gốc, lẽ nào còn cưỡng phân các phái khác nhau, cái này của mình, cái này của người, công phu Long Trảo Thủ chắc gì đã chỉ có quí phái mới có được mà thôi?

Thế nhưng trong lòng chàng không khỏi bội phục: "Long Trảo Thủ này quả thực lợi hại, hẳn là phái Thiếu Lâm phải thiên trùy bách luyện hàng mấy trăm năm qua, có thể nói là một thứ võ công "bất bại", nếu ta không dùng chính môn Long Trảo Thủ này đối địch với ông ta, nếu dùng quyền pháp khác để thủ thắng, quả thực là mười phần gian nan. Huống chi những quyền pháp, chưởng pháp ta học được, còn chưa bằng nhân vật hạng hai hạng ba của phái Thiếu Lâm, làm sao so sánh được với một trong ba đại thần tăng là Không Tính đại sư này?".

Không Tính cúi đầu suy nghĩ, nhất thời không hiểu rõ đạo lý của việc này, nói đến công phu tu luyện Long Trảo Thủ, thì dù cho sư huynh Không Văn, Không Trí mà ngay cả đương niên Không Kiến cũng đều không bằng được mình, vậy mà sao thanh niên này tiếp mình hai chiêu, đều hậu phát tiên chí, lối xuất chiêu từ thủ pháp đến kình lực, phương hướng bộ vị đều vừa ổn định, vừa nhanh nhẹn, chẳng khá gì đã khổ luyện mấy chục năm?

Ông ta ngơ ngẩn không nói, cả mấy nghìn đôi mắt trên quảng trường đều chăm chăm nhìn vào mặt nhà sư. Vừa rồi hai người động thủ ra chiêu, chỉ trong chớp nhoáng lại phân ra, ngoài những cao thủ hạng nhất ra, không ai nhìn thấy ai người nào thắng người nào bại, nhưng trước mắt thấy Trương Vô Kỵ thì dường như vô sự, Không Tính lại nhăn tít đôi lông mày trầm tư suy nghĩ, hiển nhiên hơn kém đã rõ rồi.

Không Tính đột nhiên hét lớn một tiếng, tung mình nhảy tới, hai bàn tay như gió táp mưa sa, Bổ Phong Thức, Tróc Ảnh Thức, Phủ Cầm Thức, Cổ Sắt Thức, Phê Kháng Thức, Đảo Hư Thức, Bão Tàn Thức, Thủ Khuyết Thức tám thế liên hoàn ào ào đánh tới. Trương Vô Kỵ thản nhiên như không, cứ theo đúng như thế từng thức một mà trả lại. Bổ Phong Tróc Ảnh, Phủ Cầm Cổ Sắt, Phê Kháng Đảo Hư, Bão Tàn Thủ Khuyết liên tiếp tám chiêu, chiêu nào cũng ra sau mà tới trước.

Tám thức Long Trảo Thủ này của Không Tính thần tăng liên hoàn bất tuyệt, chẳng khác gì một chiêu biến ra tám cách khác nhau, nhanh nhẹn vô cùng, nào ngờ ông ta càng nhanh thì Trương Vô Kỵ lại nhanh hơn, chiêu nào cũng chiếm được trước. Mỗi khi Không Tính xuất một chiêu, lại bị ép lùi một bước, lùi đến bước thứ bảy rồi, Bão Tàn Thức và Thủ Khuyết Thức ổn trọng như núi bấy giờ mới tung ra. Hai chiêu này là hai chiêu sau cùng thứ ba mươi nhăm và ba mươi sáu của Long Trảo Thủ, trong nháy mắt tưởng như bên trong có hàng trăm sơ hở, người ra chiêu tay chân luống cuống, hết sức chống đỡ, kỳ thực hai chiêu này tưởng là thủ mà chính là công, cực kỳ khéo mà làm như vụng, trong mỗi chỗ sơ hở đều ẩn phục những bẫy rất là lợi hại.

Long Trảo Thủ vốn dĩ là một môn võ công cương mãnh, nhưng đến hai thức sau cùng này, trong cương mãnh có ẩn âm nhu, đã đạt đến mức phản phác hoàn chân, lô hỏa thuần thanh.[3]

Trương Vô Kỵ hú lên một tiếng trong trẻo, mạnh dạn tiến lên một bước, hai chiêu Bão Tàn, Thủ Khuyết đánh nhứ ra, đột nhiên biến ngay thành chiêu Nã Vân Thức, đi thẳng vào ngay chính giữa. Không Tính cả mừng, nghĩ thầm: "Sau cùng ngươi đã lọt vào bẫy của ta rồi". Ông ta thấy tay phải của Vô Kỵ rơi vào vòng vây, không còn cách nào có thể lui về được nữa, song chưởng liền quay trở về đánh vào, nghe bụp một tiếng đánh trúng ngay khuỷu tay Trương Vô Kỵ. Không Tính là một cao tăng hữu đạo, thấy thanh niên này tinh thông tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, ngại rằng chàng có uyên nguyên gì với môn phái chăng, huống chi mấy chiêu trước rõ ràng đã đánh vào trọng huyệt của mình, đều cố ý nhường nhịn rút tay về, nên chiêu này ông ta cũng không hạ sát thủ, chỉ cần đánh gãy cánh tay Trương Vô Kỵ mà thôi. Ngờ đâu song chưởng vừa chạm vào cánh tay chàng, bỗng thấy một nguồn kình lực nhu hòa hậu trọng đẩy ra, giữ chặt song chưởng không cho đánh tới. Ngay lúc đó, năm ngón tay của Trương Vô Kỵ đã ấn nhẹ vào huyệt Đãn Trung trên ngực Không Tính rồi.

Chỉ trong một chớp mắt, bao nhiêu ý niệm trong lòng Không Tính đều nước lã đổ ra sông, mấy chục năm khổ luyện võ công, xưng hùng giang hồ đều chỉ là một trường huyễn mộng. Ông gật đầu, chậm rãi nói:

- Tăng chí chủ cao siêu hơn lão nạp nhiều lắm.

Tay trái nắm lấy năm ngón tay phải, vừa vận sức lên toan bẻ gãy, đột nhiên cổ tay trái thấy tê đi, kình đạo hoàn toàn không sử ra được, chính là Trương Vô Kỵ phất vào huyệt đạo trên cổ tay. Chỉ thấy chàng lớn tiếng nói:

- Vãn bối dùng Long Trảo Thủ của phái Thiếu Lâm để thắng đại sư, có làm tổn thương gì đến uy danh của phái Thiếu Lâm đâu? Nếu vãn bối không dùng tuyệt nghệ của Thiếu Lâm để đối công với đại sư, thiên hạ không có võ công thứ hai nào có thể chiếm thượng phong được với đại sư nửa thức.

Không Tính nhất thời phẫn khích, định tự mình bẻ gãy năm ngón tay mình, suốt đời không nói tới võ công nữa, nghe chàng nói như thế, thấy đối phương ngôn ngữ hành sự đều hết sức bao che cho bản môn, nếu không uy danh của phái Thiếu Lâm hàng nghìn năm qua, có thể nói là tự tay mình làm hỏng mất cả, mình chẳng hóa ra là kẻ đại tội của môn phái hay sao?

Trong bụng nghĩ như thế, không khỏi mười phần cảm kích, nước mắt ứa ra, chắp hai tay nói:

- Tăng thí chủ nhân hiệp hơn người, lão nạp vừa cảm ơn, vừa bội phục.

Trương Vô Kỵ vái lại một vái thật sâu, nói:

- Vãn bối phạm thượng bất kính, mong được đại sư thứ tội cho.

Không Tính mỉm cười, nói:

- Long Trảo Thủ này vào tay Tăng thí chủ, thành ra uy lực đến thế, trước đây lão nạp có nằm mơ cũng không nghĩ ra được, sau này có khi nào rảnh rỗi, mong được giá lâm tệ tự, lão nạp thể nào cũng hết lòng chủ nhà xin được một phen chỉ dạy cho thật nhiều.

Trong võ lâm mỗi khi nói đến "thỉnh giáo" đều có hàm ý khiêu chiến trong đó, thế nhưng Không Tính quả thực lòng khẩn khoản, rõ ràng bội phục võ nghệ của đối phương, tự thẹn không bằng được, có ý xin học hỏi thực sự.

Trương Vô Kỵ vội vàng nói:

- Không dám, không dám. Chùa Thiếu Lâm võ công bác đại tinh thâm, vãn bối ít học tuổi trẻ, chỉ mong mai này có cơ duyên được đại sư chỉ điểm thêm cho.

Câu nói đó chàng thực từ ruột gan nên giọng thật là thiết tha khẩn khoản. Không Tính tại chùa Thiếu Lâm địa vị cực cao, chỉ vì tính tình mộc mạc, không có tài trị sự nên không giữ một địa vị trọng yếu nào, nhưng nhân phẩm võ công, tăng chúng ai ai cũng kính phục. Phái Thiếu Lâm từ Không Trí đại sư đổ xuống thấy chàng nói thế đều thấy hả dạ, ai nấy đều thầm cảm kích Trương Vô Kỵ giữ cho bản phái không bị mất mặt, đều biết việc ngày hôm nay, mình không còn có thể ra khiêu chiến với chàng được nữa.

Không Trí đại sư là thủ lãnh của kỳ vi công Minh giáo này, thấy tình thế như thế, trong lòng thật là hổ thẹn, ma giáo sắp bị tiêu diệt đến nơi lại bị gã thanh niên vô danh này ra tay ngăn trở, nếu như bây giờ rút về, anh hùng hào kiệt trong thiên hạ chẳng cười đến rụng cả răng ư? Thành ra nhất thời không biết tính sao bèn đưa mắt cho chưởng môn phái Hoa Sơn là Thần Cơ Tử Tiên Vu Thông nháy một cái.

Tiên Vu Thông túc trí đa mưu, là quân sư của cả sáu môn phái trong kỳ vây đánh Quang Minh Đính này, thấy Không Trí đại sư đưa mắt cầu cứu, lập tức xòe quạt đưa lên phe phẩy, từ từ bước ra.

Trương Vô Kỵ thấy người đi ra là một văn sĩ trung niên chừng ngoài bốn mươi, mi mục thanh tú, tuấn nhã tiêu dật, tự nhiên có vài phần cảm tình, chắp tay nói:

- Xin chào, không biết vị tiền bối này có điều chi chỉ bảo?

Tiên Vu Thông chưa kịp trả lời, Ân Thiên Chính nói:

- Đây là chưởng môn phái Hoa Sơn Tiên Vu Thông, võ công chỉ bình thường nhưng rất nhiều quỉ kế.

Trương Vô Kỵ vừa nghe tên Tiên Vu Thông nghĩ thầm: "Cái tên này quen quá, không biết mình nghe nói tới khi nào?". Chỉ thấy Tiên Vu Thông đi tới trước mặt cách xa chừng hơn một trượng, liền đứng lại, ổn định rồi mới chắp tay nói:

- Xin chào Tăng thiếu hiệp.

Trương Vô Kỵ hoàn lễ nói:

- Xin chào Tiên Vu chưởng môn.

Tiên Vu Thông nói:

- Tăng thiếu hiệp thần công cái thế, liên tiếp đánh bại chư lão của phái Không Động, ngay cả thần tăng của phái Thiếu Lâm cũng phải chịu hạ phong, tại hạ thật là bội phục. Không biết thiếu hiệp là môn hạ của vị tiền bối cao nhân nào, điều giáo được một thiếu niên anh hiệp, trên đời khó thấy như thế?

Trương Vô Kỵ đang suy nghĩ xem mình đã nghe đến tên người này vào lúc nào, câu hỏi của y chàng chưa kịp trả lời. Tiên Vu Thông ngửng mặt lên trời cười ha hả, lớn tiếng nói:

- Không hiểu Tăng thiếu hiệp đối với sư thừa lai lịch có gì khó ăn khó nói cần phải dấu diếm chăng? Cổ nhân nói rằng: "Kiến hiền tư tề, kiến bất hiền..."[4]

Trương Vô Kỵ nghe tới "kiến hiền tư tề", lập tức nghĩ ngay đến "kiến tử bất cứu", liền nhớ ngay năm năm trước nơi Hồ Điệp Cốc, Hồ Thanh Ngưu từng nói với chàng: "Tiên Vu Thông của phái Hoa Sơn giết hại em gái ông ta". Khi đó Trương Vô Kỵ tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã định bụng: "Gã Tiên Vu Thông này thật là đáng ghét, nếu sau này không bị báo ứng thì quả là trời không có mắt". Chàng ngưng thần nhớ lại mọi chuyện Hồ Thanh Ngưu đã kể cho nghe:

Một thanh niên bị trúng Kim Tàm trùng độc ở xứ Miêu Cương, lẽ ra thể nào cũng chết. Ta ba ngày ba đêm không ngủ, hao tận tâm huyết cứu sống được y, lại cùng y kết nghĩa kim lan, tình như chân tay, không ngờ sau này y lại làm chết chính đứa em ruột của ta... Ôi, đứa em đáng thương của ta ơi... hai anh em ta từ bé cha mẹ mất sớm, đùm bọc lẫn nhau.

Hồ Thanh Ngưu nói đến đó, mặt nhăn nhúm, mắt nhòa lệ khiến cho Trương Vô Kỵ cực kỳ đau xót. Hồ Thanh Ngưu lại kể tiếp, về sau từng mấy lần đi kiếm y báo cừu, nhưng vì phái Hoa Sơn người nhiều thế mạnh, Tiên Vu Thông lại giảo hoạt, lắm mưu nhiều kế khiến Hồ Thanh Ngưu suýt chết về tay y.

Chàng nghĩ đến đó, đôi lông mày dựng ngược, đôi mắt như tóe lửa, nhìn thẳng vào Tiên Vu Thông, lại nghĩ đến y có một tên đệ tử là Tiết Công Viễn, bị Kim Hoa bà bà đả thương nhờ mình cứu y thoát chết, vậy mà về sau toan bắt mình làm thịt ăn, hai thầy trò y lấy oán báo ân, đều là một bọn gian ác, đê tiện vô sỉ. Tiết Công Viễn nay chết rồi, còn tên Tiên Vu Thông này không thể không trừng trị một phen cho bõ ghét, chàng liền mỉm cười nói:

- Tôi có bị trúng độc ở Miêu Cương đâu, cũng không giết chết em gái của người kết nghĩa kim lan, có gì mà khó ăn khó nói?

Tiên Vu Thông nghe chàng nói thế, liền toàn thân run rẩy, toát mồ hôi lạnh sau lưng. Năm xưa y được Hồ Thanh Ngưu cứu chữa khỏi chết rồi, cùng em gái của Hồ Thanh Ngưu là Hồ Thanh Dương yêu thương nhau. Hồ Thanh Dương trao thân cho y để rồi mang thai, nào ngờ Tiên Vu Thông tham cái địa vị chưởng môn phái Hoa Sơn, bỏ rơi Hồ Thanh Dương để kết hôn với người con gái độc nhất của chưởng môn. Hồ Thanh Dương xấu hổ tự tận, gây ra cái thảm cảnh một xác hai mạng người, trước nay Tiên Vu Thông vẫn cố gắng che đậy không cho ai hay biết, không ngờ chuyện đã trên mười năm, đột nhiên bị gã thanh niên này trước mặt mọi người kể ra, y không kinh hồn thất đảm sao được? Y liền nghĩ ngay một ý tưởng độc ác: "Gã thanh niên này không hiểu vì sao lại biết được chuyện riêng tư của ta, không thể không lập tức ra tay trừ ngay, không để cho y sống thêm một giờ một buổi nào nữa, nếu không để nó rêu rao chuyện của mình ra thì làm sao?".

Chỉ giây lát y trấn tĩnh ngay được, nói:

- Tăng thiếu hiệp nếu không chịu nói ra sư thừa, tại hạ xin lãnh giáo cao chiêu của các hạ. Chúng mình chỉ vừa tới chỗ là ngừng lại, ra tay lưu lại chút tình, được chăng?

Nói xong y nghiêng tay phải, tay trái chém xuống đầu vai của Trương Vô Kỵ, lớn tiếng nói:

- Xin mời Tăng thiếu hiệp.

Cốt để Trương Vô Kỵ không còn cơ hội nói tiếp nữa. Trương Vô Kỵ hiểu tâm ý của y, tiện tay đưa chưởng lên gạt nhẹ, nói:

- Phái Hoa Sơn võ nghệ thật là cao minh, lãnh giáo hay không thì cũng vậy. Thế nhưng cái tài lấy oán báo ơn, vong ân phụ nghĩa, cái đó người ngoài mới theo không kịp...

Tiên Vu Thông không để cho chàng nói tiếp, lập tức xông lên tấn công, sử một tuyệt kỹ của phái Hoa Sơn là bảy mươi hai lộ Ưng Xà Sinh Tử Bác. Y gập cái quạt lại cầm nơi tay phải, để lộ cái cán bằng thép đúc thành hình đầu rắn, dùng xà đầu điểm, đánh, đâm, chọc, tay trái sử dụng Ưng Trảo Công để nắm, bắt, vặn, móc, hai tay chiêu số hoàn toàn khác nhau. Lộ Ưng Xà Sinh Tử Bác này là tuyệt kỹ của phái Hoa Sơn truyền đã trên trăm năm, ưng xà thi triển, trong một thức cùng xuất hiện thế hùng mạnh của chim, thế linh động của rắn, bao gồm vừa nhanh vừa độc.

Thế nhưng lực phân ắt yếu đi, lộ võ công này nếu dùng đối phó với người thường sẽ khiến cho người ta phải luống cuống, tránh được bên đông thì bị đòn bên tây. Trương Vô Kỵ chỉ tiếp qua vài chiêu, biết ngay đối phương chiêu số tuy tinh, kình lực lại không đủ, so với Không Tính thần tăng thật kém xa, nên tay vẫn chống đỡ, miệng vẫn nói tiếp:

- Tiên Vu chưởng môn, tại hạ có một điểm chưa rõ ràng muốn thỉnh giáo. Năm xưa ông thân trúng kịch độc, đến mức chín chết một sống, người ta phải ba ngày ba đêm không ngủ, kiệt lực tận tâm cứu ông khỏi, lại cùng ông kết nghĩa kim lan, đối với ông tình như anh em. Vậy mà tại sao ông đang tâm làm chết em gái người ta là thế nào?

Tiên Vu Thông không sao trả lời được, há miệng chửi:

- Hồ...

Y định chửi một câu "Hồ thuyết bát đạo[5]" toan cãi chầy cãi cối. Tiên Vu Thông vốn dĩ ăn nói khéo léo, mồm miệng lanh lợi nổi tiếng trong võ lâm, nghe đến Trương Vô Kỵ nói toạc chuyện bí mật của mình, liền toan đặt điều dùng tài biện bác vu hãm, vừa che dấu chuyện thất đức, vừa chờ dịp Trương Vô Kỵ phẫn nộ chia trí hầu thừa cơ hạ độc thủ. Tài nghệ như Không Tính đại sư còn không thắng nổi địch thủ, y không mong gì dùng võ nghệ áp đảo được đối phương.

Nào ngờ vừa mới nói được một chữ "Hồ", bỗng thấy một chưởng lực nặng nề ập tới đè vào ngực, Tiên Vu Thông thấy hơi thở hụt hẫng, ba chữ "... thuyết bất đạo" nghẹn tại cổ nói không ra, trong giây lát thấy hơi trong ngực dường như đã bị đối phương đẩy ra ngoài rồi, vội vàng tiềm vận nội lực, hết sức chống đỡ, tai vẫn nghe rõ ràng từng câu từng chữ Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng thế, đúng thế. Ngươi vẫn còn nhớ được họ Hồ, thế nhưng sao chỉ nói ra họ Hồ mà không nói cho hết? Hồ gia tiểu thư bị ngươi hãm hại chết thảm như thế, bao nhiêu năm qua ngươi không thấy áy náy sao?

Tiên Vu Thông ngộp chịu không nổi, hơi thở dường như đứt quãng, vội vàng liên tiếp đánh ra ba chiêu. Trương Vô Kỵ chưởng lực liền nhả ra, y thấy vừa thấy nhẹ nhàng, vội hít một hơi dài, quát lên:

- Ngươi...

Thế nhưng chỉ mới nói được một chữ "ngươi", chưởng lực của đối phương lại ép tới trước ngực, tiếng lại đứt quãng. Trương Vô Kỵ nói tiếp:

- Đại trượng phu dám làm dám chịu, đúng ra đúng, sai ra sai, việc gì cứ phải ấp a ấp úng, che đầu che đuôi? Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu năm xưa cứu mạng cho ngươi, có phải không? Em gái của ông ta chính ngươi làm hại đến chết, có phải không?

Chàng không biết em gái Hồ Thanh Ngưu bị hại như thế nào nên không thể nào nói cho rõ ràng, thế nhưng Tiên Vu Thông lại tưởng bao nhiêu chuyện y làm, Trương Vô Kỵ đều biết hết, thế nhưng khổ một nỗi không sao mở miệng được, thành ra mặt cứ tái đi.

Những người chung quanh ai nấy đều biết Tiên Vu Thông miệng lưỡi trơn như mỡ, có tài hùng biện, vậy mà bị đối phương trách mắng nặng nề như thế không đối đáp được một lời nào, khiến không thể không tin lời của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ dùng thần công tuyệt đỉnh ép vào ngực y không cho y thở, khiến cho Tiên Vu Thông chẳng khác gì người câm ăn phải ớt, muốn nói cũng không được, người ngoài chỉ thấy Trương Vô Kỵ hay tay múa may, sách giải thế công của Tiên Vu Thông, thỉnh thoảng phản kích một chưởng, cho nên dù là cao thủ của các phái cũng không ai nhìn ra cái ngoắt ngoéo ở bên trong. Các danh túc của phái Hoa Sơn, các môn nhân thấy chưởng môn bị bôi tro trát trấu trước mặt mọi người, bị mắng chửi không còn mặt mũi nào như thế, mà không có được một lời biện giải, ai nấy đều hết sức bẽ bàng. Thế nhưng một số người biết Tiên Vu Thông quỉ kế đa đoan, nghĩ rằng y tạm thời ẩn nhẫn, để chờ cơ hội báo phục cực kỳ lợi hại.

Lại nghe Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói tiếp:

- Người trong võ lâm chúng ta, quan trọng nhất là ơn phải đền, oán phải trả. Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu là người trong Minh giáo, ngươi chịu đại ân của Minh giáo, vậy mà hôm nay tất lãnh môn nhân đến đánh Minh giáo. Người ta cứu mạng cho ngươi, y lại giết chết thân nhân người ta, quả thật không bằng loài cầm thú, còn mặt mũi nào mà làm chưởng môn một phái?

Chàng mắng y một trận thật là hả lòng hả dạ, nghĩ thầm nếu như Hồ tiên sinh hôm nay giá như có ở đây, được chính tai nghe chàng mắng y rửa hận cho ông ta, chắc cũng bớt đi được phần nào nỗi phẫn uất trong lòng bao lâu nay. Thế nhưng chàng cũng biết rằng chỉ nên mắng chửi nhưng không thể nào lấy mạng của y, ngày sau sẽ tìm cách trả thù sau, nên thu chưởng lực lại, nói:

- Nếu ngươi đã biết hổ thẹn rồi, ta tạm để cái đầu ngươi trên cổ.

Tiên Vu Thông đột nhiên hô hấp thoải mái, quát lên:

- Tiểu tặc, chỉ nói láo thôi.

Y vung cán quạt chỉ ngay vào mặt Trương Vô Kỵ điểm một cái, lập tức nhảy vọt ra một bên. Trương Vô Kỵ đột nhiên ngửi thấy một mùi thơm, lập tức đầu óc choáng váng, chân đứng không vững, chỉ thấy trời đất quay cuồng, mắt nổ đom đóm...

Hồi 21

BÀI NẠN GIẢI PHÂN ĐƯƠNG LỤC CƯỜNG--

Tiên Vu Thông quát lên:

- Tiểu tặc, để cho ngươi biết tuyệt nghệ của phái Hoa Sơn Ưng Xà Sinh Tử Bác lợi hại như thế nào.

Nói xong y nhảy tới trước, năm ngón tay trái vung ra chộp vào huyệt Uyên Dịch nơi nách Trương Vô Kỵ. Y thấy ngũ trảo chộp xuống, Trương Vô Kỵ hoàn toàn không phản kháng được, nhưng nơi đụng vào trơn tuột chẳng khác gì một con cá, không sao sử được một chút kình đạo nào. Lại nghe môn hạ phái Hoa Sơn hò reo vang động:

- Ưng Xà Sinh Tử Bác hôm nay dương danh thiên hạ.

- Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn thần kỹ kinh người.

- Có thế mới dạy cho tên tiểu tặc võ công chân thực ra sao.

Trương Vô Kỵ mỉm cười, thổi một hơi ngay mũi Tiên Vu Thông. Tiên Vu Thông bỗng ngửi thấy một mùi thơm, đầu óc choáng váng, sợ không để đâu cho hết, vội há mồm toan kêu cứu. Trương Vô Kỵ tay trái phất luôn vào hai khoeo chân của y, Tiên Vu Thông đứng không vững, khuỵu luôn xuống, quì ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, chẳng khác gì đang lạy lục xin tha.

Biến cố đó thật ngoài sự tưởng tượng của mọi người, trước mắt thấy Trương Vô Kỵ bị trọng thương, lảo đảo muốn ngã, nào ngờ chỉ trong khoảnh khắc, biến thành Tiên Vu Thông quì ngay trước mặt, chẳng lẽ chàng có yêu pháp hay sao?

Trương Vô Kỵ cúi xuống, cầm cái quạt trong tay Tiên Vu Thông lên, lớn tiếng nói:

- Phái Hoa Sơn tự cho là danh môn chính phái, ai ngờ lại có tuyệt nghệ phóng trùng hạ độc, xin các vị coi thử.

Nói xong chàng phẩy tay một cái, mở chiếc quạt ra, một bên vẽ ngọn núi Hoa Sơn cao vút từng từng lớp lớp, lật qua bên kia viết sáu câu thơ trong bài Thái Hoa Tán (ca tụng ngọn núi Hoa Sơn) của Quách Phác:

Hoa sơn tuấn nhã uy linh,

Bốn bề cao tỏa chập chùng chen mây.

Xem chừng tiên nữ đâu đây,

Rót quỳnh tương để chuốc nơi thiên đình.

Ai kia du ngoạn vân hương,

Xe rồng thấp thoáng lẫn cùng xiêm y.

(Hoa nhạc linh tuấn,

Tước thành tứ phương.

Viên hữu thần nữ,

Thị ấp ngọc tương.

Kỳ thùy du chi?

Long giá vân thường.)

Trương Vô Kỵ xếp cái quạt lại, nói:

- Ai ngờ đâu chiếc quạt phong nhã này bên trong lại có dấu một cơ quan đê hèn âm độc.

Nói xong chàng đi đến trước một bụi hoa, chỉ ngay cái cán vào một bông hoa vẫy mấy cái, chỉ giây lát, cánh hoa lả tả rơi xuống, lá cây cũng héo úa biến thành màu vàng.

Mọi người ai nấy kinh hãi, nghĩ thầm: "Tiên Vu Thông dấu trong cái quạt này chất độc gì ghê gớm thế?". Chỉ thấy Tiên Vu Thông nằm phục xuống đất, kêu la thảm thiết như heo bị chọc tiết, âm thanh rùng rợn khiến ai ai cũng sờn lòng:

- A... a...

Tiếng kêu của y kéo dài, tưởng như có ai dùng dao bén cắt từng miếng thịt. Đúng ra một người võ học cao cường như y, dù có bị dao cắt thực chăng nữa, cũng phải cố chịu đau, không nên kêu la mất tư cách trước mặt mọi người, thành thử mỗi tiếng kêu của y, lại như lột một lớp da mặt của người trong phái Hoa Sơn. Y kêu la mấy tiếng rồi lớn tiếng nói:

- Mau... mau giết ta đi... mau đánh chết ta đi...

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Ta có cách chữa được cho ngươi, không biết rằng trong cái quạt này ngươi dấu loại độc vật gì? Không biết chất độc thì không cách gì giải cứu.

Tiên Vu Thông nói:

- Đó... đó là Kim Tàm... Kim Tàm trùng độc... mau... mau đánh chết ta... a... a...

Mọi người nghe đến Kim Tàm trùng độc, người còn trẻ không biết là ghê gớm chẳng nói gì, nhưng những người có tuổi của các môn phái mặt đều biến sắc, nhân sĩ chính trực liền lên tiếng trách cứ ngay. Thì ra Kim Tàm trùng độc là độc vật đứng đầu trong thiên hạ, vô hình vô sắc, người bị trúng phải tưởng như có muôn ngàn con tằm cùng cắn xé khắp người, đau đớn khó chịu, không sao hình dung cho nổi. Người trong võ lâm khi nghe nói đến ai cũng nghiến răng hậm hực, loại tàm độc này không có dấu vết gì, dù cho thần công vô địch vẫn có thể bị một người đàn bà, một đứa trẻ con không biết võ công hạ độc. Cũng may loại này rất khó tìm, trước đây người ta chỉ nghe tiếng, đến nay mới chính mắt thấy trạng huống của Tiên Vu Thông bị trúng phải.

Trương Vô Kỵ lại hỏi:

- Ngươi dấu Kim Tàm trùng độc trong cán quạt, sao lại tự mình mắc phải?

Tiên Vu Thông đáp:

- Mau... giết ta đi... ta không biết, ta không biết...

Nói đến đây tay y cào lung tung trên chính người mình, lăn lộn dưới đất. Trương Vô Kỵ nói:

- Ngươi phóng trùng độc trong cái quạt định hại ta, lại bị ta dùng nội lực tống trở ra, ngươi có muốn nói gì thêm không?

Tiên Vu Thông kêu rú lên:

- Chính ta gây nên tội nghiệt... tự ta gây tội...

Y đưa hay tay cấu vào yết hầu toan tự tận, nhưng người trúng phải Kim Tàm trùng độc rồi, muốn sống không được mà muốn chết cũng không xong, thần trí hoàn toàn tỉnh táo, mỗi chỗ trên thân mình đau đớn càng thêm đau đớn, so với người bị trúng độc chết ngay còn đáng sợ hơn nhiều.

Năm xưa Tiên Vu Thông ở tại Miêu Cương có tư tình vơi một cô gái bản địa, sau lại ruồng bỏ, cô gái đó liền hạ Kim Tàm trùng độc trên người y. Thế nhưng vì mong y hồi tâm chuyển ý nên liều lượng thuốc rất nhẹ để dễ bề giải cứu. Tiên Vu Thông trúng độc rồi liền đào tẩu ngay, nhưng y cũng rất quỉ quyệt, khi trốn đi có ăn trộm của cô gái Miêu gia đó hai đôi kim tàm, nhưng bỏ chạy chưa được bao lâu thì bị tê liệt ngã quị. May thay Hồ Thanh Ngưu chính đang hái thuốc ở Miêu Cương, nên cứu sống y. Tiên Vu Thông về sau theo đúng phương pháp nuôi kim tàm, chế thành độc phấn, dấu ở trong cán quạt. Ở cán quạt có cơ quan, chỉ cần ấn nút rồi dùng nội lực tống ra, giết người một cách vô hình vô ảnh. Nào ngờ y vừa ra tay đấu với Vô Kỵ lập tức bị chế ngự, nội lực không phát ra được, đến khi chàng triệt thủ nhường đòn, y lập tức sử chiêu Ưng Dương Xà Thoán, cán quạt giả vờ điểm để bắn trùng độc.

Cũng may Trương Vô Kỵ nội lực thâm hậu không ai sánh kịp, khi gặp lâm nguy liền nín thở, ngưng khí, phun ngược độc khí ra, nếu như nội lực kém một chút thì người nằm lăn lộn rên la dưới đất kia không phải là Tiên Vu Thông mà chính là chàng vậy. Chàng đọc kỹ Độc Kinh của Vương Nạn Cô, biết rõ sự lợi hại của kim tàm như thế nào, vội ngầm vận chân khí chạy khắp thân thể, không thấy gì khác lạ, lúc ấy mới yên lòng, thấy Tiên Vu Thông đau đớn như thế, nổi lòng trắc ẩn, nghĩ thầm: "Cứu thì mình có thể cứu được nhưng phải bắt y chính miệng khai ra những điều tàn ác đã làm năm xưa mới được".

Chàng liền lớn tiếng nói:

- Phương pháp cứu trị Kim Tàm trùng độc này, ta cũng có biết, nhưng có điều ta hỏi gì, ngươi phải trả lời cho thành thực, nếu chỉ nói dối nửa câu, ta sẽ thõng tay không lý đến, để cho ngươi chịu đựng bảy ngày bảy đêm, đến khi thịt thối tới tận xương, không lấy gì làm thích thú đâu.

Tiên Vu Thông tuy đau đớn, thần trí vẫn hết sức tỉnh táo, nghĩ thầm: "Năm xưa cô gái Miêu Cương khi hạ độc trên ta rồi, cũng có nói là ta sẽ phải chịu khốn khổ đày đọa bảy ngày bảy đêm, khi thịt thối đến xương mới chết được, sao tiên tiểu tử này nói đúng thế không sai chút nào?".

Tuy nhiên y không tin chàng có tài nghệ như Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu để có thể giải độc được nên nói:

- Ngươi... ngươi không cứu nổi ta đâu...

Trương Vô Kỵ mỉm cười, xoay ngược cán quạt, điểm vào ngang hông y, nói:

- Đục một cái lỗ ở chỗ này, đổ thuốc vào rồi khâu lại, có thể khu trừ được chất độc.

Tiên Vu Thông vội vàng nắm ngay lấy:

- Đúng đó, đúng đó. Hoàn toàn... hoàn toàn... không sai chút nào.

Trương Vô Kỵ nói:

- Vậy ngươi nói ra đi, trong đời ngươi làm những chuyện gì không phải.

Tiên Vu Thông nói:

- Không... không có...

Trương Vô Kỵ chắp tay:

- Vậy thì thôi, xin cứ ở đây chịu bảy ngày bảy đêm đi.

Tiên Vu Thông vội nói:

- Để... để tôi nói...

Thế nhưng trước mặt mọi người nói ra những điều không nên không phải của mình, quả thực hết sức khó khăn, y ấp úng hồi lâu, mãi vẫn không nói ra. Đột nhiên từ phái Hoa Sơn có hai tiếng hú rền vang, hai người cùng nhảy ra, một người cao, một người lùn, tuổi tác đều chừng ngoài năm mươi, trong tay cầm trường đao sáng choang đến ngay trước mặt Trương Vô Kỵ. Ông già lùn cất tiếng the thé:

- Họ Tăng kia, phái Hoa Sơn ta có thể giết chứ không có thể làm nhục, ngươi đối phó với Tiên Vu chưởng môn của chúng ta như thế, đâu phải là hành động của kẻ anh hùng hảo hán.

Trương Vô Kỵ ôm quyền hỏi lại:

- Tôn tính đại danh của hai vị là gì?

Ông già lùn giận dữ đáp:

- Cái mặt ngươi đâu đã xứng đáng hỏi danh hiệu của anh em ta.

Ông ta cúi xuống tay trái định ôm Tiên Vu Thông. Trương Vô Kỵ đánh ra một chưởng, đẩy ông ta lùi lại một bước, lạnh lùng nói:

- Y toàn thân đầy chất độc, chỉ cần đụng vào thì cũng giống như y không khác chút nào, các hạ nên cẩn thận.

Ông già lùn sững sờ, sợ đến toàn thân run rẩy, lại nghe Tiên Vu Thông kêu la:

- Cứu tôi... mau cứu tôi... Bạch Viên Bạch sư ca, chính tôi dùng Kim Tàm trùng độc sát hại đó, ngoài ra không còn ai nữa, cũng không làm gì không nên không phải.

Y nói câu đó ra, cả hai lão cao lùn lẫn người trong phái Hoa Sơn đều kinh hãi. Ông già lùn hỏi lại:

- Bạch Viên bị ngươi giết đấy ư? Có đúng thế không? Thế sao ngươi lại bảo y chết về tay Minh giáo?

Tiên Vu Thông rền rĩ:

- Bạch... Bạch sư ca... xin sư ca tha cho tôi...

Y một mặt thảm thiết kêu la, một mặt rập đầu van lạy:

- Bạch sư ca...anh chết thật thảm thiết, bởi vì anh khăng khăng hăm dọa... sẽ khai ra chuyện Hồ tiểu thư, sư phụ sẽ không tha tôi đâu, cho nên tôi phải giết anh để bịt miệng. Bạch sư ca... tha cho tôi... tha cho tôi...

Hai tay y nắm chặt cổ họng, nói tiếp:

- Tôi hại anh để giá họa cho Minh giáo, thế nhưng... thế nhưng... tôi đã đốt bao nhiêu là vàng mã, làm bao nhiêu là tuần chay, sao anh vẫn còn đòi mạng tôi? Gia đình anh trẻ già lớn bé, tôi cũng chu cấp đầy đủ... có thiếu thốn gì đâu.

Khi ấy đang giữa ban ngày, trên sân rộng đâu đâu cũng đầy người nhưng mấy câu kêu than của Tiên Vu Thông đầy âm phong u uất, khiến ai nấy lạnh cả gáy, tưởng như hồn ma của Bạch Viên đang đến đây đòi mạng. Người của phái Hoa Sơn ai quen biết Bạch Viên lại càng sợ hãi.

Trương Vô Kỵ nghe y nói như thế quả thực không ngờ nổi, những tưởng chỉ ép y cung khai thừa nhận chuyện lấy oán báo đức, giết hại em gái Hồ Thanh Ngưu nào ngờ y lại nói ra chuyện giết hại chính sư huynh của mình. Hồ Thanh Dương tuy vì y mà chết nhưng do bà ta tự tận, Tiên Vu Thông vốn là kẻ trăng hoa, trong bụng đâu có hổ thẹn chút nào, còn Bạch Viên mới là người chính tay y làm hại. Năm xưa Bạch Viên bị trúng Kim Tàm trùng độc lăn lộn kêu la, nay chính y cũng bị như thế, trong đầu chỉ nhơ tới hai chữ Bạch Viên, vừa kinh hoàng, vừa đau đớn nên tưởng như hồn ma Bạch Viên đến đòi mạng.

Trương Vô Kỵ thật ra chẳng biết Bạch Viên là ai nhưng nghe giọng lưỡi Tiên Vu Thông thì liệu chừng y đem chuyện ám hại Bạch Viên đổ lên đầu Minh giáo, phái Hoa Sơn sở dĩ tham gia chiến dịch vây đánh Quang Minh Đính, phần lớn cũng vì đó mà ra nên lớn tiếng nói:

- Các vị trong phái Hoa Sơn thấy chưa? Bạch Viên Bạch sư phụ nào phải do Minh giáo làm hại đâu, các vị trách sai người rồi.

Ông già cao đột nhiên vung đao lên, nhắm ngay đầu Tiên Vu Thông chém xuống. Trương Vô Kỵ vội vàng đưa chiếc quạt ra, điểm vào đao của ông ta một cái, cương đao liền dạt ra ngoài, nghe cạch một tiếng phập ngay xuống đất sâu đến hơn một thước. Ông già cao giận dữ hỏi:

- Tên này là bạn đồ của bản phái, bọn ta thanh lý môn hộ, sao ngươi lại xen vào làm gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vãn bối đã bằng lòng chữa Kim Tàm trùng độc cho y, nói rồi lẽ nào không giữ lời. Chuyện phân tranh trong môn hộ của quí phái, xin đợi về lại núi Hoa Sơn, từ từ thanh lý cũng chưa muộn.

Ông già lùn nói:

- Sư đệ, gã này nói đúng đấy.

Ông ta giơ chân lên đá ngay vào huyệt Đại Truy trên lưng Tiên Vu Thông khiến y văng đi, nghe bịch một tiếng rớt trúng ngay trước mặt người của phái Hoa Sơn. Tiên Vu Thông bị đá vào huyệt đạo rồi, tuy đau đớn toàn thân không giảm nhưng không còn kêu lên thành tiếng được nữa, chỉ còn quằn quại dưới đất mà thôi. Các môn nhân đệ tử thân tín của y ai cũng sợ trúng phải chất kịch độc, chẳng người nào đám chạy ra đỡ y dậy.

Ông già lùn quay sang Trương Vô Kỵ nói:

- Anh em ta là sư thúc của tên Tiên Vu Thông kia, ngươi giúp phái Hoa Sơn làm sáng tỏ một đại sự, khiến cho cái chết oan của Bạch Viên sư điệt được phanh phui, xin đa tạ.

Nói xong vái một vái thật sâu. Ông già cao cũng cúi xuống vái một cái. Trương Vô Kỵ vội vàng hoàn lễ nói:

- Không dám, không dám.

Ông già lùn lại vung đao lên chém nhứ một cái, gay gắt nói:

- Thế nhưng danh thanh phái Hoa Sơn cũng lại bị tên tiểu tử này trước mặt mọi người làm cho không còn thể thống gì nữa, sư huynh đệ chúng ta nhất định phải thí mạng với ngươi mới xong.

Ông già cao cũng nói:

- Sư huynh đệ chúng ta nhất định phải thí mạng với ngươi mới xong.

Ông ta tuy cao to hơn nhưng chuyện gì cũng phải bắt chước sư huynh, ông già cao nói gì ông ta lập lại y như thế. Trương Vô Kỵ nói:

- Phái Hoa Sơn kẻ nào trong thì vẫn trong, kẻ nào đục thì vẫn đục, chẳng may quí phái có một kẻ bại hoại uy danh đâu có vì thế mà giảm đi chút nào. Trong võ lâm những kẻ chẳng ra gì, các đại môn phái có phái nào không có, hai vị việc gì mà phải bận tâm?

Ông già cao nói:

- Nếu ngươi nói thế thì không sao cả, phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chẳng sao cả.

Ông già cao nói:

- Sư ca, tiểu tử này nói là không sao cả, vậy mình nên bỏ qua đi.

Ông ta vốn cũng hơi ngại Trương Vô Kỵ nên không muốn cùng chàng động thủ.

Ông già lùn vẫn gay gắt nói:

- Tiên trừ ngoại vũ, tái thanh môn hộ[6]. Phái Hoa Sơn hôm nay không thắng được tên tiểu tử này thì còn làm sao đứng trong võ lâm được nữa?

Ông già cao nói:

- Tốt lắm, úy, này thằng nhỏ, bọn ta phải hai người đánh với một mình ngươi. Nếu như ngươi thấy thế là không công bình, biết điều nhận thua trước đi thì hơn.

Ông già lùn nhíu mày, quát:

- Sư đệ, ngươi...

Trương Vô Kỵ vội tiếp lời:

- Hai vị đánh một mình vãn bối, thế cũng được không sao. Thế nhưng nếu hai vị thua thì không được làm khó Minh giáo nữa.

Ông già cao mừng quá, lớn tiếng nói:

- Nếu hai anh em ta đánh một mình ngươi chắc chắn ngươi không thể nào thắng được. Sư huynh đệ ta có một pho Lưỡng Nghi đao pháp, biến hóa không sao tưởng nổi, liên đao công địch, dù cả vạn người cũng không chống nổi. Ta chỉ sợ ngươi đòi đơn đả độc đấu, một người đánh một người. Thế nhưng ngươi chịu một mình đánh với hai người chúng ta, thì thua là cái chắc. Ngươi nói rồi không được hối hận đấy nhé.

Trương Vô Kỵ nói:

- Vãn bối nhất quyết không hối hận đâu, xin lão tiền bối nhẹ tay cho.

Ông già cao nói:

- Ta sử đao không thể nào nhẹ tay được, lộ đao pháp Lưỡng Nghi này thi triển rồi, càng lúc càng ghê gớm, không có nể nang chút nào. Ta xem tiểu tử ngươi nhân phẩm không đến nỗi kém cỏi, chém chết ngươi thì thật đáng thương...

Ông già lùn giận dữ quát:

- Sư đệ, nói bớt đi một câu có được không nào?

Ông già cao nói:

- Bớt đi một câu cũng được chứ sao. Chẳng qua tiểu đệ cho y biết trước để y cẩn thận. Pho Lưỡng Nghi đao pháp này của sư huynh đệ ta là phản lưỡng nghi, thức nào cũng không giống như qui tắc bình thường...

Ông già lùn gay gắt quát lớn:

- Câm mồm.

Rồi quay qua Trương Vô Kỵ nói:

- Xin tiếp chiêu.

Lập tức múa đao chém tới. Trương Vô Kỵ cầm cây quạt của Tiên Vu Thông đè xuống sống đao của ông già. Ông già cao vội vàng kêu lên:

- Ấy, ấy, không được, không được. Cứ cái điệu này bọn ta không đánh nữa.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao thế?

Ông già cao nói:

- Trong cái quạt này có chất độc, không cẩn thận một tí là phóng ra, đâu phải chuyện đùa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng vậy, cái vật kịch độc này, để trên đời chỉ tổ hại người.

Chàng lấy ngón tay trỏ và giữa kẹp cái quạt ném xuống một cái, nghe soẹt một tiếng, chiếc quạt chui ngập vào trong đất chỉ để lại một cái lỗ nhỏ. Thần công đó trên cả quảng trường không một người thứ hai nào làm nổi, mọi người không nhịn nổi liền lớn tiếng hoan hô.

Ông già cao cắp đao vào nách, vỗ tay nói:

- Ngươi đi lấy binh khí vào đây.

Trương Vô Kỵ bản tính không muốn phô trương trước mặt mọi người, thế nhưng hôm nay cục thế không phải tầm thường, nếu không hiển thị thần công, chứng tỏ tài nghệ hơn hẳn những người đang có mặt để cho lục đại môn phái ngừng tay, trở về Trung Nguyên, thật là thiên nan vạn nan, liền nói:

- Tiền bối thử xem tôi dùng binh khí nào thì tốt hơn cả?

Ông già cao giơ tay vỗ lên vai y mấy cái, cười nói:

- Thằng bé này cũng thú vị thật, ngươi thích dùng binh khí gì sao lại hỏi ta là sao?

Trương Vô Kỵ biết ông ta vỗ vai mình chẳng qua là người già yêu mến người trẻ đấy thôi, không có ác ý. Thế nhưng người ở bên ngoài thấy thế đều giật mình kinh hãi, hai bên đang sắp tỉ đấu, một người lại giơ tay vỗ vai người kia, đối phương lại không né tránh, nếu như ông già cao lại sử kình, hay thừa cơ vỗ vào huyệt đạo, có phải là không đấu mà đã thắng rồi ư? Có ngờ đâu Trương Vô Kỵ thần công hộ thân, ông già cao dù có bất ngờ ám toán cũng không thể nào làm hại chàng được.

Ông già cao cười nói:

- Thế ta bảo ngươi dùng binh khí gì ngươi cũng nghe lời hay sao?

Trương Vô Kỵ mỉm cười đáp:

- Có thể lắm.

Ông già cao cười:

- Thằng bé con võ nghệ thật giỏi, mười tám món binh khí chắc môn gì cũng biết dùng. Vậy ngươi tay không đấu với anh em chúng ta, thế có được chăng?

Trương Vô Kỵ cười:

- Tay không cũng được.

Ông già cao đưa mắt nhìn chung quanh, định tìm một món binh khí thật không vừa tay cho chàng dùng, bất ngờ thấy ở bên góc sân có mấy hòn đá lớn, liền nói:

- Để ta cho ngươi được lợi thế, dùng một loại binh khí thật nặng nề.

Nói xong chỉ tay vào mấy hòn đá, cười lên ha hả. Mấy khối đá đó phải nặng đến hai ba trăm cân, người yếu đến lay một viên cũng không chuyển động, huống chi người dùng làm chỗ ngồi lâu ngày, chung quanh nhẵn nhụi không có chỗ nào có thể bám tay, làm thế nào mà dùng như binh khí được? Ông già cao bản tâm muốn làm khó để đùa Trương Vô Kỵ mà thôi, nếu như đối phương thấy khó bỏ cuộc không làm nổi, cuộc đấu coi như không thành. Nào ngờ Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

- Món binh khí này cũng có thể dùng được, lão tiền bối định thử công phu của vãn bối đấy chăng?

Nói xong đi đến trước khối đá, giơ tay trái ra móc một tảng đá lên trên tay nói:

- Xin mời hai vị.

Nói chưa dứt cả người lẫn đá đã nhảy lên, vọt tới trước mặt hai ông già.

Mọi người trông thấy ai nấy đều há hốc mồm, quên cả hò reo. Ông già cao giơ tay vặt một nắm râu, kêu lên:

- Cái... cái này thật là kỳ quái.

Ông già lùn biết mình hôm nay gặp phải một địch thủ trên đời chưa từng gặp, lập tức ổn bộ ngưng khí, chăm chăm nhìn đối thủ, nói:

- Xin vô phép.

Một luồng ánh sáng lóe lên, thân hình đã theo đao đâm luôn vào mạng sườn bên phải Trương Vô Kỵ. Ông già cao hỏi:

- Sư ca, đánh thật hay sao?

Ông già lùn nói:

- Chẳng lẽ lại giả?

Cương đao xoay một nửa vòng đột nhiên biến hướng, chém xéo vào đầu vai Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ né qua một bên thấy, lại thấy một luồng ánh sáng lấp lóe, chính là ông già cao vung đao chém tới. Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Càng tốt.

Chàng xoay tảng đá đưa ra đỡ, nghe choang một tiếng, nhát đao đó đã chém phải tảng đá, đốm lửa lóe ra, đá vụn bay ra tung tóe. Trương Vô Kỵ giơ tảng đá thuận chiều đẩy tới. Ông già cao kêu lên:

- Ối chà, đây là Thuận Thủy Thôi Chu, ngươi dùng tảng đá mà cũng có chiêu số đấy à?

Ông già lùn quát lớn:

- Sư đệ, Hỗn Độn Nhất Phá.

Ông ta vung đao từ sau lưng vạch tới một hình vòng cung, cong cong chém vào Trương Vô Kỵ. Ông già cao tiếp lời:

- Thái Ất Sinh Manh, Lưỡng Nghi Hợp Đức...

Ông già lùn tiếp theo:

- Nhật Nguyệt Hối Minh.

Hai người miệng đọc, chiêu thức liên miên bất tuyệt đánh ra, Trương Vô Kỵ thi triển Cửu Dương thần công, nhẹ nhàng xoay chuyển tảng đá qua lại chống đỡ. Hai ông già lùn cao sử dụng Phản Lưỡng Nghi đao pháp, thế đao nào cũng độc địa, chiêu số trầm mãnh nhưng hòn đá trong tay Trương Vô Kỵ quá lớn, chỉ cần xoay qua xoay lại một chút là chặn ngay được chiêu số của hai ông già. Ông già cao kêu lớn:

- Binh khí của ngươi dùng có lợi nhiều quá, đánh như thế này chẳng công bình chút nào.

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Thế thì không dùng binh khí cục mịch này nữa xem sao.

Đột nhiên chàng tung viên đá lên cao, hai ông già không nhịn nổi ngửng đầu lên nhìn, nào ngờ chỉ vừa sơ ý, huyệt đạo sau gáy đã bị đối phương nắm được, không còn cử động gì nữa. Trương Vô Kỵ búng mình về sau, tảng đá lớn từ trên cao rơi xuống đầu hai ông già.

Mọi người ai nấy kinh hoảng kêu la, Trương Vô Kỵ lại nhảy vọt tới trước, tả chưởng đánh ra, đẩy viên đá ra xa hơn một trượng, nghe bình một tiếng rơi ngay xuống, lõm vào mặt đất đến hơn một thước. Chàng giơ tay vỗ nhẹ vào đầu vai hai ông già mấy cái, mỉm cười nói:

- Xin lỗi nhé, vãn bối chỉ đùa một tí với hai vị đấy thôi.

Cái vỗ của chàng giải khai huyệt đạo bị điểm cho hai ông già. Ông già lùn mặt xám ngắt, thở dài:

- Thôi rồi, thôi rồi.

Ông già cao lắc đầu:

- Cái này không tính.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Sao lại không tính?

Ông già cao nói:

- Chẳng qua ngươi cậy khỏe, mang nổi tảng đá lớn chứ có phải chiêu số thắng được anh em ta đâu.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Thế thì mình tái đấu.

Ông già cao nói:

- Tái đấu cũng được, nhưng phải tìm cách nào mới để cho ngươi khỏi được lợi thế, chúng ta thua mới tâm phục, ngươi nghĩ có phải không?

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Phải lắm.

Tiểu Siêu từ nãy đến giờ chăm chú nhìn cuộc đấu, lúc này giơ tay lên má lêu lêu ghẹo ông già:

- Xấu hổ quá, xấu hổ quá!

Ỷ có râu dài nên lợi thế,

Vậy mà vẫn bị đánh tanh banh.[7]

Tay cô ta chuyển động, giây xích nơi cổ tay kêu leng keng lại càng dễ nghe. Ông già cao cười ha hả:

- Người đời thường nói: Có học mới nên khôn. Này cô bé con, muối bọn ta ăn còn nhiều hơn cơm ngươi ăn, cầu bọn ta đi qua, còn dài hơn đường ngươi đi, xí xa xí xố cái gì thế?

Ông ta quay lại nói với Trương Vô Kỵ:

- Nếu như ngươi không phục, thì cũng chẳng cần tỉ đấu nữa. Có điều trận đấu vừa rồi ngươi không thua mà bọn ta cũng không thắng, hai bên coi như huề. Để ba mươi năm nữa, hai bên lại đấu một trận cũng chưa muộn...

Ông già lùn nghe ông già cao càng lúc càng tỏ ra cù nhầy, hai sư huynh đệ dù gì cũng là kỳ túc phái Hoa Sơn đâu có thể chây chả như thế được, liền quát lên:

- Họ Tăng kia, bọn ta nhận không bằng, ngươi muốn xử trí thế nào chúng ta cũng đều nghe theo cả.

Trương Vô Kỵ nói:

- Xin hai vị cứ tùy tiện, tại hạ chỉ muốn điều giải những chuyện hiểu lầm trước đây giữa quí phái với Minh giáo thôi, thực không có ý gì khác.

Ông già cao lớn tiếng nói:

- Cái đó không được, chưa bàn xong cách tỉ võ mới, sao ngươi đã toan tháo lui là sao? Thế chẳng phải là lâm trận rụt cổ, mới nghe hơi đã chạy ư?

Ông già lùn nhíu mày không nói gì, biết vị sư đệ này ăn nói rồ rồ dại dại, nhưng có điều mặt trơ trán bóng nên vẫn thường khiến cho đối phương phải bí lối nhức đầu, chuyển bại thành thắng. Hôm nay ông ta trước mặt anh hùng thiên hạ lại giở trò đó, tuy không lấy gì làm quang minh lỗi lạc, nhưng nếu may mà thắng được Trương Vô Kỵ, ít ra cũng lấy công chuộc tội được.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Thế theo ý tiền bối thì mình phải làm sao?

Ông già cao đáp:

- Phái Hoa Sơn chúng ta có Phản Lưỡng Nghi đao pháp là tuyệt nghệ thần công, ngươi đã nếm qua rồi. Ta nghĩ ngươi chưa biết rằng phái Côn Lôn có một pho Chính Lưỡng Nghi kiếm pháp, biến hóa tinh kỳ áo diệu, so với đao pháp của phái Hoa Sơn cũng ngang ngửa, bên nào cũng có điểm hay riêng. Thế nhưng đao kiếm hợp bích, lưỡng nghi hóa tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, âm dương đắp đổi lẫn nhau, thủy hỏa hỗ tế, ôi...

Nói đến đây lắc đầu không ngớt, thủng thẳng thở dài:

- Uy lực ghê gớm quá, uy lực ghê gớm quá, ngươi không dám chống đỡ đâu.

Trương Vô Kỵ quay lại nói với phái Côn Lôn:

- Chẳng hay vị cao nhân nào trong phái Côn Lôn có thể ra dạy bảo?

Ông già cao cướp lời:

- Phái Côn Lôn trừ vợ chồng Thiết Cầm tiên sinh, người khác không đủ trình độ để phối hợp liên thủ với anh em ta, nhưng chẳng biết Hà tiên sinh có gan ra tay hay không?

Mọi người đều vui mừng: "Ai bảo ông già này đần độn, nhưng thực ra đâu có đần độn chút nào, y đang khích cho hai đại cao thủ phái Côn Lôn hạ trường tương trợ". Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đưa mắt nhìn nhau, không biết hai ông già cao lùn này là cỡ nào, nhưng họ là sư thúc của chưởng môn Tiên Vu Thông, vai vế rất cao, chắc là bình thời ít hành tẩu giang hồ, còn mình ẩn cư nơi Tây Vực thành ra không biết đến. Hai vợ chồng đều nghĩ thầm: "Hai lão già này đánh không lại thanh niên họ Tăng, nên xúi mình cùng xông vào, nếu có thắng hai người cũng đỡ ê mặt". Lại nghe ông già cao nói tiếp:

- Vợ chồng họ Hà phái Côn Lôn không dám động thủ với y, cũng không trách được. Chính Lưỡng Nghi kiếm pháp của họ tuy không phải là dở, nhưng có điều không linh hoạt cho lắm, nếu so với Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn thì về phần tiêu dật có kém hơn một chút.

Ban Thục Nhàn giận dữ, nhảy vọt vào trong sân, chỉ vào ông già cao nói:

- Tôn tính đại danh các hạ là gì?

Ông già cao đáp:

- Tôi họ Hà, xin chào Hà phu nhân.

Câu nói đó xem ra chiếm được lợi thế, khiến trong sân nhiều người cười ồ lên. Ban Thục Nhàn là "Thái Thượng chưởng môn" của phái Hoa Sơn, ngay cả Hà Thái Xung cũng phải nể mụ ba phần, mấy chục năm nay ở núi Côn Lôn quen thói hống hách, chung quanh mấy trăm dặm coi bà ta chẳng khác gì một nữ vương, lẽ nào lại để cho người ta chế nhạo? Chỉ nghe soẹt một tiếng, đã rút kiếm đâm luôn vào vai trái ông già cao. Thủ pháp rút kiếm đâm đó cực kỳ nhanh nhẹn, chỉ một chớp mắt trước còn tay không, liễu mi nhướng lên, một chớp mắt sau trường kiếm đã ở trong tay, đầu kiếm cách ông già cao không đầy nửa thước.

Ông già cao hoảng hốt, thu đao về gạt, nghe keng một tiếng, đao kiếm chạm nhau, chỉ trong tơ tóc lại dãn ra. Ban Thục Nhàn sử chiêu Kim Châm Độ Kiếp, còn ông già cao sử chiêu Vạn Kiếp Bất Phục, một chính một phản đều là tối cao của lưỡng nghi thuật số. Ông già cao đấu với Trương Vô Kỵ tay chân quờ quạng, tưởng như tài nghệ cũng chỉ bình bình, bây giờ mới thấy công phu đao pháp của ông ta quả thật không phải tầm thường.

Hai người đao kiếm tương giao, mỗi người đều lùi lại một bước, không khỏi ngạc nhiên nhưng trong bụng mười phần kính phục đối phương đánh ra một chiêu tinh diệu. Hai người hai phái, võ công khác hẳn, trong đời chưa từng gặp bao giờ, nhưng chỉ qua một chiêu đã thấy được võ công của mình với bên kia rất ăn khớp, nếu phối hợp sẽ không có một chút sơ hở nào, nên vui sướng chẳng khác nào kẻ suốt đời sống cô đơn nay bỗng gặp người tri kỷ.

Ban Thục Nhàn không nhịn nổi tính ngay: "Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn quả nhiên ghê gớm, nếu cùng bọn họ liên thủ công địch thì có thể phát huy cực độ chiêu số của hai loại binh khí". Rồi lại nghĩ: "Hai gã này của phái Hoa Sơn không phải là địch thủ của anh chàng nọ, phái Côn Lôn mình nếu có đánh với y cũng không thể thắng được. Nếu bọn mình ra đấu thì là tứ đại cao thủ hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn hợp chiến một thanh niên vô danh, không khỏi quá mất thân phận, nhưng có gì thì đây là chủ ý của phái Hoa Sơn". Bà ta bèn quay lại gọi Hà Thái Xung:

- Này, anh qua đây.

Hà Thái Xung tuy không dám cãi lệnh vợ, nhưng trước mắt bao nhiêu người, không thể để mất cung cách của một chưởng môn, hừ một tiếng, từ từ đứng lên. Bốn tên tiểu đồng đi trước, một đứa bưng trường kiếm, một đứa bưng thiết cầm, còn hai đứa kia cầm phất trần. Năm người đi đến giữa sân, đứa bưng kiếm nâng lên quá đỉnh đầu, khom lưng dâng lên. Hà Thái Xung tiếp lấy thanh kiếm, bốn tên tiểu đồng cúi mình lui về.

Ban Thục Nhàn nói:

- Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn, chiêu số cũng không tệ lắm.

Ông già cao nhếch mép nói:

- Cám ơn đã tán thưởng.

Ban Thục Nhàn lườm ông ta nói:

- Bốn người bọn ta dợt ít chiêu với cậu nhỏ này, để thử cho biết võ công hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn.

Mụ nói xong quay đầu nhìn lại bỗng dưng "A" lên một tiếng, trừng trừng nhìn Trương Vô Kỵ nói:

- Ngươi... ngươi...

Bà ta cùng Trương Vô Kỵ chia tay chỉ mới năm năm, tuy trong thời gian đó chàng từ một đứa bé đã thành một thanh niên, thân thể cao lớn hơn nhiều, nhưng vẫn còn nhận ra. Trương Vô Kỵ nói:

- Những chuyện cũ của chúng ta, bà có cần phải nói ra không? Tôi là Tăng A Ngưu.

Ban Thục Nhàn lập tức hiểu ngay dụng ý của chàng không muốn nói thực tên tuổi mình, nếu như mình nói toạc chân tướng đối phương, bao nhiêu chuyện lấy oán báo đức sẽ bị chàng nói ra cho mọi người biết. Mụ bèn giơ thanh kiếm lên, nói:

- Tăng thiếu hiệp võ công đại tiến, thật đáng mừng, xin được xuất thủ chỉ giáo.

Lời nói rõ ràng ám chỉ mình chỉ tỉ thí võ nghệ không đề cập chuyện cũ. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

- Đã từ lâu ngưỡng một kiếm pháp thông thần của hiền phu phụ, cũng mong hạ thủ lưu tình.

Hà Thái Xung hỏi:

- Tăng thiếu hiệp dùng binh khí gì thế?

Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy y lại nhớ đến đôi Kim Ngân huyết xà. Khi chàng bị rơi vào tuyệt cốc, đôi rắn này không có độc vật gì để ăn nên dần dần chết đói. Chàng lại nghĩ đến y lên núi Võ Đương bức tử cha mẹ mình, ép mình và Dương Bất Hối uống rượu độc, đánh mình đến sưng mắt sưng mũi, rồi cầm mình ném vào đá, nếu không gặp được Dương Tiêu đứng ngay bên cạnh cứu cho, lúc này xác mình cũng đã mục nát, nói gì chuyện khác? Mình có lòng cứu mạng cho ái thiếp của y, vậy mà y lấy oán báo ân còn tính chuyện giết mình.

Chàng nghĩ đến đó, khí giận bốc lên, nghĩ thầm: "Hà Thái Xung ơi, năm xưa ngươi đánh ta chết lên chết xuống, hôm nay tuy ta không thể giết ngươi, nhưng ít ra cũng phải đánh ngươi một trận để cho hả cơn tức".

Vợ chồng Hà Thái Xung và hai ông già lùn cao của phái Hoa Sơn liền đứng ra bốn góc, hai thanh đao, hai thanh kiếm dưới ánh mặt tròi lấp lánh bất định. Đột nhiên hai cánh tay Trương Vô Kỵ rung nhẹ một cái, thân hình bay vụt lên, trên không trung nhẹ nhàng chuyển hướng lượn qua một cây mai ở phía tây, tay giơ ra, bẻ ngay một cành rồi lại nhẹ nhàng quay về chỗ cũ.

Chàng tay cầm cành cây, chầm chậm đi vào giữa bốn người, giơ lên cao nói:

- Tại hạ dùng cành mai này làm binh khí, lãnh giáo cao chiêu của hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn.

Cành mai đó lấm tấm mấy đóa hoa, quá nửa còn là nụ chưa nở. Mọi người nghe chàng nói thế, đều kinh ngạc: "Cành mai này đụng phải là gãy ngay, làm sao có thể giao đấu với bảo kiếm lợi đao của đối phương?".

Ban Thục Nhàn cười nhạt nói:

- Tốt lắm, ngươi không coi công phu hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn vào đâu nhỉ?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ từng nghe tiên phụ nói rằng, đương niên Hà Túc Đạo tiền bối của phái Côn Lôn, cầm kiếm kỳ tam tuyệt, người đời gọi là Côn Lôn Tam Thánh. Chỉ tiếc rằng chúng ta sinh sau đẻ muộn, không được có duyên chiêm ngưỡng phong phạm của tiền bối, thật đáng tiếc thay.

Câu nói đó mọi người nghe đều hiểu rằng chàng tán dương tiền bối của phái Côn Lôn, nhưng người đương thời của môn phái này chàng không coi vào đâu cả. Bỗng nghe từ phái Côn Lôn tiếng một người oang oang như chuông rè:

- Thằng giặc con, ngươi tài cán được bao nhiêu mà dám vô lễ với sư phụ, sư thúc ta?

Tiếng quát chưa dứt, một đạo nhân mặt đầy râu ria từ trong phái Côn Lôn nhảy vọt ra, giơ kiếm đâm thẳng vào lưng Trương Vô Kỵ. Đạo nhân đó thân pháp cực nhanh, nhát kiếm đó dường như cảnh cáo từ trước, nhưng kiếm chiêu quá nhậm lẹ, nên cũng chẳng khác gì đánh trộm.

Trương Vô Kỵ không quay mình lại, đợi khi mũi kiếm chạm vào y phục, chân trái mới đá ngược về sau, đè luôn lưỡi kiếm, thuận thế đạp xuống dưới đất. Đạo nhân đó cố sức kéo về nhưng không lay chuyển gì cả. Trương Vô Kỵ từ từ quay lại, nhìn lại đạo nhân kia thì ra là Tây Hoa Tử, người chàng đã gặp khi còn đang ở trên thuyền lúc mới về tới Trung Nguyên. Người này tính tình nóng nảy, đã có lần nói năng vô lễ với mẹ chàng là Ân Tố Tố. Trương Vô Kỵ trong lòng chua xót, hỏi lại:

- Phải ông là Tây Hoa Tử đạo trưởng không?

Tây Hoa Tử mặt đỏ gay, không trả lời, vẫn hết sức giựt kiếm về. Chân trái Trương Vô Kỵ đột nhiên lỏng ra, gót chân điểm vào thanh kiếm một cái. Tây Hoa Tử đâu ngờ chàng bỏ chân ra, cố sức kéo, bị mất đà ngã ngửa về sau. Cứ như võ công tập luyện của y, việc xảy ra tuy xuất kỳ bất ý, nhưng cũng có thể gượng đứng ngay được, nào ngờ vừa sử dụng Thiên Cân Trụy thì từ thanh kiếm truyền vào một luồng lực đạo cực kỳ mạnh mẽ đẩy y một cái, lập tức ngồi phịch ngay xuống, không có một chút kháng lực nào, tiếp theo là keng keng keng mấy tiếng, trường kiếm trong tay gãy ra từng tấc một, chỉ còn cầm cán kiếm mà thôi.

Tây Hoa Tử sợ hãi không cùng, y là đệ tử thân truyền của Ban Thục Nhàn, thành thử gọi Ban Thục Nhàn là sư phụ, còn gọi Hà Thái Xung là chưởng môn sư thúc, nhìn thấy sư phụ mặt hầm hầm, biết rằng kỳ này mình làm sư môn cực kỳ mất mặt, thể nào cũng bị phạt nặng, trong lòng kinh hoảng, nhảy nhổm lên, quát lớn:

- Thằng giặc con...

Trương Vô Kỵ vốn đã định cho y về, nhưng nghe y chửi "thằng giặc con" làm nhục cả đến cha mẹ mình, cành hoa trong tay phất lên người y một cái, vận kình điểm ngay ba nơi huyệt đạo trên ngực y, quay sang nói với hai ông già lùn cao và vợ chồng Hà Thái Xung:

- Xin tiến chiêu đi.

Ban Thục Nhàn hạ giọng quát Tây Hoa Tử:

- Cút đi, làm người lớn mất mặt thế chưa đủ sao?

Tây Hoa Tử đáp:

- Vâng.

Thế nhưng vẫn đứng yên không di chuyển. Ban Thục Nhàn giận dữ nói:

- Ta bảo ngươi tránh ra, có nghe không hả?

Tây Hoa Tử đáp:

- Vâng, vâng, thưa sư phụ, vâng.

Miệng cực kỳ cung kính nhưng vẫn bất động. Ban Thục Nhàn giận dữ tột cùng, không hiểu tên này bỗng dưng sao không nghe lời mình? Thì ra thủ pháp phất huyệt của Trương Vô Kỵ nhanh quá, nhãn quang Ban Thục Nhàn tuy mẫn nhuệ, nhưng đâu có ngờ chàng có thể mượn một vật mềm mại để truyền kình lực, nhẹ nhàng phất một cành hoa mai cũng chẳng khác gì dùng phán quan bút điểm huyệt đạo, liền giơ tay đẩy mạnh vào đầu vai Tây Hoa Tử, hét lên:

- Còn đứng đây làm bẩn mắt người ta ư?

Tây Hoa Tử đáp:

- Vâng, thưa sư phụ, vâng.

Thân hình lệch kệch văng ra bên cạnh mấy thước, tay chân tư thế không khác mảy may, chẳng khác gì một tượng đá bị người ta đẩy. Ban Thục Nhàn và Hà Thái Xung bấy giờ mới biết y đã bị Trương Vô Kỵ điểm huyệt từ bao giờ, trong bụng không khỏi kinh hãi. Hà Thái Xung giơ tay bóp mấy cái vào hông Tây Hoa Tử định giải huyệt cho y, nào ngờ kình lực thấu vào quá sâu, Tây Hoa Tử vẫn không động đậy gì được.

Trương Vô Kỵ chỉ vào Dương Bất Hối đang tựa vào Dương Tiêu nói:

- Cô bé kia năm năm trước bị các hạ điểm huyệt ép uống độc tửu, tại hạ không cách nào giải huyệt được, hôm nay lệnh đồ cũng thế thôi. Phép điểm huyệt của quí phái và tệ phái không giống nhau, chuyện đó cũng không lấy gì làm lạ.

Mọi người nghe chàng nói thế, ai nấy liền nhìn về phía Dương Bất Hối, thấy nàng chỉ là một cô gái tuổi còn thơ, năm năm trước ắt còn bé hơn nhiều, vợ chồng Hà Thái Xung là địa vị chưởng môn một phái, vậy mà lại hiếp đáp một đứa trẻ con, thực mất hết thân phận. Ban Thục Nhàn thấy mọi người nhìn mình bằng cặp mắt khác lạ, bụng nghĩ nói thêm chuyện cũ chẳng hay ho gì, vung kiếm đâm vào mi tâm Trương Vô Kỵ. Ngay lúc đó, trường kiếm của Hà Thái Xung đâm vào sau lưng, hai ông già phái Hoa Sơn cũng xông ra tấn công.

Trương Vô Kỵ thân hình chuyển động, theo đường hở giữa các thanh đao kiếm mà lách ra, cành mai gạt vào trường kiếm của Hà Thái Xung. Hà Thái Xung vội vàng đâm xéo vào cạnh sườn. Trương Vô Kỵ giơ ngón tay trái búng vào thanh đao của ông già lùn, cành mai lại quét vào thanh kiếm của Hà Thái Xung. Kiếm của Hà Thái Xung hơi chuyển qua, lưỡi kiếm nhắm ngay cành mai chém tới, bụng nghĩ dù ngươi võ công cao cường, gỗ không thể nào chống đỡ một nhát kiếm chém phải. Nào ngờ cành mai của Trương Vô Kỵ xoay lại gạt bình bình vào lưỡi kiếm của Hà Thái Xung, một luồng kình lực nhu hòa tống ra, trường kiếm của Hà Thái Xung bị dạt ra ngoài, nghe keng một tiếng gạt luôn thanh đao ông già cao vừa chém tới.

Ông già cao kêu lên:

- À há, Hà Thái Xung, ngươi lại giúp cho địch à?

Hà Thái Xung mặt hơi đỏ lên, không dám nhận là kiếm mình bị kình lực của địch đẩy ra, chỉ nói:

- Chỉ láo lếu nào.

Y hậm hực đâm một kiếm thẳng vào Trương Vô Kỵ. Trong khi Hà Thái Xung ra chiêu công địch, Ban Thục Nhàn chờ khi Trương Vô Kỵ lùi lại thì tấn công ở đằng sau, còn hai ông già phái Hoa Sơn thì thi triển Phản Lưỡng Nghi đao pháp. Lưỡng Nghi kiếm pháp và Lưỡng Nghi đao pháp tuy hai bên chính phản khác nhau, nhưng cũng đều biến hóa ở bát quái mà ra, rồi lại quay về bát quái có thể nói hai đường khác nhau nhưng cùng qui về một hướng. Qua lại vài chiêu, bốn người càng lúc càng nhuần nhuyễn, lưỡng đao song kiếm phối hợp với nhau thật là chặt chẽ.

Trương Vô Kỵ đã liệu rằng bốn người liên thủ ắt sẽ cực kỳ khó khăn, quả nhiên chính phản hai pho võ công hợp lại thành một, âm dương hỗ trợ lẫn nhau, không có một chút sơ hở nào. Chàng mấy lần lâm vào hiểm cảnh, nhưng vì quá ỷ y chỉ cầm một cành mai nên không thể vận kình đánh gãy đao kiếm đối phương như trong tay cầm một món binh khí. Vừa lúc đó cương đao trong tay ông già lùn vòng tới, Trương Vô Kỵ nghiêng người né qua, kiếm của Ban Thục Nhàn đâm vèo tới, quát lên một tiếng:

- Trúng.

Đâm luôn vào đùi rạch xoạc một đường trên quần Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ tay điểm vào thì kiếm của Hà Thái Xung đã đâm tới, song đao hai ông già lùn cao lại chia ra tấn công thượng hạ bàn. Trương Vô Kỵ nhất thời không chống cự nổi, nghĩ ra một mẹo, liền lách ra đằng sau Tây Hoa Tử.

Ban Thục Nhàn liền đuổi theo đâm một kiếm, chiêu số độc địa, kình lực mãnh liệt, nhất quyết đưa Trương Vô Kỵ vào tử địa, chẳng còn là tỉ võ thử tài chi nữa. Trương Vô Kỵ ở sau lưng Tây Hoa Tử thu mình lại, kiếm của Ban Thục Nhàn đâm thẳng vào học trò mình vội vàng lách qua, Tây Hoa Tử kêu lên: "Ối chà" một tiếng. Đến khi Hà Thái Xung từ bên trái công tới, Trương Vô Kỵ cũng tránh qua một bên Tây Hoa Tử.

Chàng nhất thời chưa tìm ra yếu chỉ của hai pho võ công chính phản lưỡng nghi, không sao nghĩ ra cách phá giải, chỉ còn cách né đông tránh tây chung quanh Tây Hoa Tử, tạm dùng y làm cái lá chắn đao kiếm, trong bụng nghĩ thầm: "Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi coi anh hùng thiên hạ chẳng vào đâu. "Kiêu giả tất bại" bốn chữ đó, từ nay về sau phải nhớ kỹ trong lòng. Vẫn biết rằng trên đời này không võ công nào lợi hại bằng Càn Khôn Đại Na Di, cũng chẳng nội kình nào hồn hậu bằng Cửu Dương thần công, nhưng cũng phải nhớ mình giỏi người cũng giỏi, ra đường còn lắm kẻ dòn hơn ta".

Chỉ thấy chung quanh tiếng cười rộ lên, Tây Hoa Tử đứng sững như tượng đá giữa sân, Trương Vô Kỵ ở bên cạnh chui qua lách lại, mỗi khi đao kiếm của bốn người kia đâm chém chỉ cách y chừng một tấc, Tây Hoa Tử lại kêu lên "Ối", "A", "Chao ôi", nhưng không sao cử động được, khiến cho cảnh tượng vừa kinh hoàng, vừa hoạt kê.

Ban Thục Nhàn nộ khí xung lên, mấy lần tưởng đã giết được Trương Vô Kỵ, nhưng vì có Tây Hoa Tử chắn giữa đường, vướng chân vướng tay, hận không thể một kiếm chém y đứt đôi, chỉ vì tình sư đồ không nỡ ra tay. Ông già cao của phái Hoa Sơn kêu lên:

- Hà phu nhân, mụ không ra tay, để ta ra tay vậy.

Ban Thục Nhàn hậm hực đáp:

- Ta có ngăn cản gì ngươi đâu?

Ông già cao vung đao chém ngang, nhắm ngay ngang lưng Tây Hoa Tử. Trương Vô Kỵ thấy không ổn, nếu như đao đó chém thực, không những mình mất cái mộc che binh khí, Tây Hoa Tử chết đi cũng lại thêm phiền, lập tức tay áo bên trái phất ra một luồng kình phong, đẩy dạt đao của ông già cao ra ngoài.

Ông già lùn không nói tiếng nào, đơn đao nhắm ngay cổ Trương Vô Kỵ chém xéo tới. Trương Vô Kỵ né qua bên phải nhưng đao của ông già lùn không đổi hướng, vẫn tiếp tục chém thẳng vào vai Tây Hoa Tử, làm như thu về không kịp, không thể nào không trúng y, miệng nói:

- Tây Hoa đạo huynh, coi chừng.

Ông ta biết nếu giết chết Tây Hoa Tử, sẽ gây oán chuốc cừu với phái Côn Lôn, nhưng làm như không còn cách nào khác, không phải tự mình, về sau có gì còn đổ qua đổ lại. Trương Vô Kỵ quay lại đánh một chưởng, đánh thẳng vào ngực ông già lùn. Ông già lùn vừa thấy khó thở, tả chưởng giơ ra, đơn đao trong tay vẫn chém vào Tây Hoa Tử. Hai chưởng đụng nhau, ông già lùn lùi về sau một bước, lao đao muốn ngã.

Tây Hoa Tử thấy Trương Vô Kỵ hai lần ra tay bảo vệ cho mình, lòng ngầm cảm kích, nghĩ thầm: "Hôm nay nếu ta không chết, quyết không bỏ qua cho hai lão tặc của phái Hoa Sơn".

Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn thấy Trương Vô Kỵ che chở cho Tây Hoa Tử, cả hai cùng thầm nghĩ: "Tiểu tử này lại phải lo thêm một người nữa, càng thêm bó chân bó tay". Hai người đã không cảm ơn cứu học trò mình, kiếm chiêu càng thêm độc địa hung bạo. Hai ông già cao lùn cũng múa đao nhanh hơn, biết rằng giết được Trương Vô Kỵ không phải dễ, nhưng nếu tấn công Tây Hoa Tử để chàng phải cứu thì có thể theo những sơ hở trong thân pháp, biến khách thành chủ, thành thử hai thanh đao mỗi lúc tấn công Tây Hoa Tử một nhiều.

Các cao thủ của Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi thấy tình cảnh đó đều ngán ngẩm lắc đầu, trong lòng thấy hơi hổ thẹn, nghĩ rằng bốn người dù có giết được Trương Vô Kỵ, thì mình cũng không khỏi có chiều bất an.

Trương Vô Kỵ càng đấu càng thấy bất lợi, nghĩ thầm: "Ta đánh không lại bọn họ, có chết cũng đành, nhưng việc vì phải kéo theo cả gã đạo nhân này?". Chàng liền đánh một chưởng đẩy lui ông già cao, cành mai bên tay phải hơi rung động, giải khai huyệt đạo cho Tây Hoa Tử.

Ngay lúc đó, ông già lùn lại chém một đao vào hạ bàn Tây Hoa Tử, Trương Vô Kỵ phi cước đá ngay vào cổ tay ông ta, ông già lùn vội rụt tay về, không ngờ Tây Hoa Tử huyệt đạo đã giải rồi, đột nhiên nghe bình một tiếng, đấm một cái đích đáng ngay sống mũi ông già lùn, lập tức máu tuôn ra ồng ộc. Võ công ông già lùn so với Tây Hoa Tử cao hơn nhiều, nhưng đâu ngờ y đang đứng trơ trơ bỗng dưng có thể hoạt động, sự việc quá bất ngờ nên né không kịp. Mọi người thấy thế ai nấy đều cười sằng sặc.

Ban Thục Nhàn cố nhịn cười nói:

- Tây Hoa, mau lui xuống.

Tây Hoa Tử nói:

- Vâng, nhưng tên giặc cao kia còn thiếu đệ tử một quyền.

Y giơ tay toan đánh ông già cao, ông già lùn đã đấm ra một quả, chém nhứ một đao, nghe bịch một cái, cùi chỏ trái đã huých vào ngực y. Ba chiêu liên hoàn này là một tuyệt kỹ của phái Hoa Sơn, Tây Hoa Tử thân hình loạng choạng, thấy mặn trong cổ họng, ọe ra một ngụm máu tươi.

Hà Thái Xung giơ tay đỡ vào hông y, chưởng lực đẩy ra, tống thân thể mập mạp của y ra ngoài mấy trượng, quay lại nói với ông già lùn:

- Chiêu Hoa Nhạc Tam Thần Phong đẹp nhỉ.

Trường kiếm trong tay lại đâm tới Trương Vô Kỵ. Y một tay đẩy đứa học trò, miệng ra lời mỉa mai, kiếm vẫn công địch, phân biệt đối phó ba người, nhưng vẫn tiêu sái như thường.

Hai ông già không trả lời, chăm chú tấn công Trương Vô Kỵ. Tuy lúc này bốn người mỗi người đều có đố kỵ riêng, nhưng Tây Hoa Tử đi khỏi rồi không còn chướng ngại nữa, đao kiếm phối hợp chẳng khác nào thiên y vô phùng[8], người này công thì người kia giúp đỡ, kẻ nọ thoái thì kẻ kia tiến lên, bốn người hợp thành một đại cao thủ tám chân tám tay, chiêu số qua lại biến hóa, liên miên không cùng.

Thuật lưỡng nghi chính phản đao kiếm của hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn là từ Hà Đồ, Lạc Thư của cổ nhân mà thành, suy diễn theo phương vị bát quái của Phục Hi, Văn Vương, nếu như thâm cứu đến nơi đến chốn, tinh vi áo diệu chỉ có hơn chứ không kém Càn Khôn Đại Na Di của Tây Vực. Tuy nhiên Dịch lý sâu xa, hai vợ chồng Hà Thái Xung và hai ông già Hoa Sơn chỉ mới hiểu được độ hai ba thành, nếu không thì hợp lực đã giết được đối phương rồi. Hai bên sở dĩ giằng dai đến bây giờ, chính vì Trương Vô Kỵ thân mang nội lực hồn hậu tuyệt thế, nếu không khó mà thoát được khốn cảnh.

Trận kịch đấu này ai nấy coi mà tim đập bình bình, tinh thần rúng động. Chỉ thấy trường kiếm của vợ chồng họ Hà kêu lên vù vù, kiếm khí tung hoành, hai ông già lùn cao múa đao cũng ra gió, đao quang lấp lánh, bốn người mỗi lúc một ép sát thêm.

Trương Vô Kỵ biết rằng nếu muốn ra khỏi vòng vây thì không có gì khó khăn, chỉ cần thi triển khinh công bốn người kia không thể nào đuổi kịp. Thế nhưng mình chạy thì đã đành nhưng còn giảng hòa chuyện vây công Minh giáo, thì không còn có thể đề cập được nữa. Trước mắt chỉ còn cách thủ hộ nghiêm mật, chờ chơ đối phương mệt rồi tìm cách tấn công. Thế nhưng cả bốn người đều nội công tinh thâm, song đao song kiếm đan thành một màn ánh sáng, bốn phương tám hướng bao vây chặt chẽ, không biết bao giờ mới tỏ ra mỏi mệt. Trương Vô Kỵ không còn cách nào khác hơn, chỉ đành cố gắng chống đỡ.

Bọn Hà Thái Xung tuy chiếm thượng phong, nhưng cả bốn người đều không thấy gì là thú vị. Bằng vào thân phận của họ không nói chi bốn người liên thủ, dẫu có một đánh một, để một thanh niên hậu bối cầm cự được hơn ba trăm hiệp mà chưa thắng được, cũng đã bẽ bàng lắm rồi. Cũng may là Trương Vô Kỵ trước đã từng đánh bại Không Trí thần tăng, không ai dám coi thường chàng, nếu không chắc không còn mặt mũi nào nữa. Bốn người thấy Trương Vô Kỵ phản kích càng lúc càng thưa, nhưng vẫn không sao đả thương chàng được. Cả bốn người đều dày kinh nghiệm lâm địch, từng trải qua hàng trăm trận đấu, càng lâu càng không dám khinh suất nên không người nào tỏ ra bồn chồn nóng nảy, luôn luôn dè dặt, không ai tham công, mạo hiểm tấn kích.

Các trưởng lão, danh túc trong đám bàng quan, nhân tiện chỉ chỉ trỏ trỏ, giáo huấn đệ tử.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Một quyền đánh ra có thể gãy ngọn núi

[2] Nguyên văn: Ngũ hành chi khí điều âm dương, Tổn tâm thương phế tồi can trường. Tạng ly tinh thất ý hoảng hốt, Tam tiêu tề nghịch hề, hồn phách phi dương.

[3] Ngọc trở lại như khi còn nguyên vẹn chưa mài giũa, lửa trong lò đốt đến mức hoàn toàn xanh biếc là những từ của Đạo gia nói về công phu tu luyện tới mức tuyệt cao.

[4] Thấy người hiền thì xét tới chỗ mình không bằng họ

[5] Nói năng láo lếu vô căn cứ

[6][6] Trừ kẻ làm nhục mình trước, làm sạch môn hộ sau.

[7] Hồ tử nhất đại bả, tự kỷ lão chiếm tiện nghi, phản thuyết ngật khuy (một loại câu châm chọc của trẻ con)

[8]áo trời không đường chỉ may ý nói hoàn toàn chặt chẽ không sơ hở

Hồi 22

QUẦN HÙNG QUI TÂM ƯỚC TAM CHƯƠNG--

Oán thù càng kết càng chồng,

Lửa mê muốn dập từ lòng đi ra.

Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn của phái Nga Mi nói với các đệ tử:

- Thanh niên này võ công cực kỳ quái dị nhưng hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn đã kiềm chế được y, khiến y bị bó chân bó tay. Võ công Trung Nguyên bác đại tinh thâm, bàng môn tả đạo của Tây Vực đời nào sánh kịp. Lưỡng nghi hóa tứ tượng, tứ tượng hóa bát quái, chính biến tám tám sáu mươi tư chiêu, kỳ biến tám tám sáu mươi tư chiêu, chính kỳ tương hợp, sáu mươi bốn lần sáu mươi bốn thành ra bốn nghìn chín mươi sáu cách biến hóa. Võ công thiên hạ biến hóa tuy có phức tạp, nhưng cũng không đâu bằng được.

Từ khi Trương Vô Kỵ hạ trường tới giờ, Chu Chỉ Nhược trong lòng khắc khoải. Trong đám môn hạ phái Nga Mi, nàng vốn được Diệt Tuyệt sư thái cưng chiều nên đã tâm truyền Dịch kinh nguyên lý, bây giờ liền lớn tiếng nói:

- Sư phụ, chính phản lưỡng nghi này, chiêu số tuy nhiều thật, nhưng cũng không ra khỏi thái cực hóa từ đạo lý âm dương lưỡng nghi. Đệ tử xem bốn vị tiền bối này chiêu số quả thật tinh diệu, nhưng lợi hại nhất chính là bộ pháp phương vị ở chân.

Tiếng nàng trong trẻo, mỗi tiếng đều dùng khí từ đan điền chậm rãi nói ra, Trương Vô Kỵ tuy đang ra sức chiến đấu nhưng nghe vẫn rõ ràng, liếc mắt thấy người nói chính là Chu Chỉ Nhược, không khỏi xao xuyến: "Tại sao nàng lại nói lớn thế, chẳng lẽ cố ý chỉ điểm cho mình chăng?".

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Mắt con nhìn quả không sai, đã thấy được chỗ tinh yếu trong võ công các vị tiền bối.

Chu Chỉ Nhược tự nói một mình:

- Dương chia ra Thái Dương, Thiếu Âm, âm chia ra Thiếu Dương, Thái Âm, đó là tứ tượng. Thái Dương gồm Càn Đoài, Thiếu Âm gồm Ly Chấn, Thiếu Dương gồm Tốn Khảm, Thái Dương gồm Cấn Khôn. Càn ở phương Nam, Khôn ở phương Bắc, Ly ở phương Đông, Khảm ở phương Tây, Chấn là Đông Bắc, Đoài là Đông Nam, Tốn là Tây Nam, Cấn là Tây Bắc. Từ Chấn đến Càn là thuận, tự Tốn đến Khôn là nghịch.

Nàng bỗng lớn tiếng hỏi:

- Sư phụ, đúng như thầy đã dạy: Thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, lôi phong tương bạc, thủy hỏa bất tương xạ, bát quái tương thác. Sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch[1]. Chính Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn đi từ Chấn vị đến Càn vị là thuận, còn Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn, đi từ Tốn vị đến Khôn vị là nghịch, sư phụ, có phải thế không?

Diệt Tuyệt sư thái thấy học trò vạch ra được như thế thật hả dạ, gật đầu nói:

- Học trò như con không uổng công ta dạy dỗ.

Bà ta trước nay rất ít khi khen ai trước mặt người ngoài, hai câu như thế là đã tưởng lệ tột cùng rồi.

Diệt Tuyệt sư thái vì quá vui mừng nên không để ý tại sao học trò mình lại lớn tiếng, hai người đối diện nói chuyện việc gì phải dùng trung khí để truyền âm thanh ra xa? Thế nhưng chung quanh người lưu tâm đến chuyện hơi khác thường đó không phải ít. Chu Chỉ Nhược thấy nhiều cặp mắt đổ dồn vào mình, giả vờ làm như ngây thơ vô tình, vỗ tay reo lên:

- Sư phụ, đúng rồi, đúng rồi. Tứ Tượng Chưởng của phái Nga Mi ta trong tròn có vuông, âm dương tương thành. Bên ngoài tròn là dương, bên trong vuông là âm, tròn mà động là trời, vuông mà tĩnh là đất, thiên địa âm dương, vuông tròn động tĩnh, so với chính phản lưỡng nghi xem ra còn hơn một mức.

Diệt Tuyệt sư thái trước nay vẫn tự cao tự đại cho rằng Tứ Tượng Chưởng của phái Nga Mi là tuyệt học trong thiên hạ, nghe Chu Chỉ Nhược nói thế, chính là gãi đúng chỗ ngứa, mỉm cười nói:

- Đạo lý thì thế đấy, nhưng cũng còn phải xem công lực tu tập sử dụng thế nào.

Về phương vị bát quái, Trương Vô Kỵ lúc còn nhỏ đã từng nghe phụ thân giảng qua nhưng sở học thật là nông cạn, chỉ từ khi trong đường hầm đọc di thư của Dương Đính Thiên, được Tiểu Siêu chỉ điểm, mới biết được vị trí của hướng Vô Vọng. Tới lúc này chàng nghe Chu Chỉ Nhược nói về lẽ thuận nghịch trong tứ tượng, trong lòng chấn động, để ý đến bộ pháp chiêu số của vợ chồng họ Hà và hai ông già cao lùn, quả nhiên biến hóa từ tứ tượng bát quái mà ra, thảo nào Càn Khôn Đại Na Di của mình không sao thi triển được.

Thì ra võ học cao thâm nhất của Tây Vực gặp phải sở học tinh diệu nhất của Trung Thổ, cứ hình thức mà nói thì nghĩa lý của Trung Thổ sâu xa hơn. Trương Vô Kỵ sở dĩ đến bây giờ chưa bị thua, chỉ vì chàng đã luyện võ công Tây Vực đến mức tối cao rồi, còn vợ chồng họ Hà và hai ông già lùn cao sở học Trung Thổ còn nông cạn.

Chỉ trong nháy mắt, trong đầu chàng nổi lên bảy tám ý niệm, tìm ra bảy tám phương pháp, cách nào cũng chỉ ra tay là đánh bại bốn người này ngay.

Thế nhưng chàng lại nghĩ thầm: "Nếu như ngay bây giờ mình thi triển, chỉ e Diệt Tuyệt sư thái lại đổ tội cho Chu Chỉ Nhược, bà ni cô này lòng dạ độc ác, việc gì mà chẳng dám làm? Ta không nên làm liên lụy đến Chu cô nương".

Thành ra chiêu thức trên tay không đổi thay chút nào, chàng chỉ chăm chú quan sát chiêu số của bốn địch thủ, để học thêm tổng cương về võ học của họ, thấy chỗ nào cũng có đường đi nước bước, không như lúc đầu chỉ thấy rối như tơ vò, không biết đâu mà mò.

Chu Chỉ Nhược thấy chàng không thay đổi chút nào, trong bụng hơi băn khoăn, nghĩ thầm: "Chàng đang hết sức chống đỡ kẻ địch, không thể nào trong chốc lát mà hiểu được chỗ tinh vi đó". Lại thấy vợ chồng họ Hà mỗi lúc một ép tới gần hơn, Trương Vô Kỵ xem chừng càng lúc càng khó chống đỡ nên lớn tiếng nói:

- Sư phụ, đệ tử xem ra bước sắp tới của Thiết Cầm tiên sinh sẽ là cung Qui Muội, không biết có phải hay không?

Diệt Tuyệt sư thái chưa kịp trả lời, Ban Thục Nhàn đã dựng ngược mày tằm, quát lớn:

- Này tiểu cô nương của phái Nga Mi, tiểu tử này là gì của cô mà cô lại nối giáo cho giặc vậy? Đừng có ở ngoài xía vào, phái Côn Lôn ta không vừa đâu nhé?

Chu Chỉ Nhược bị bà ta nói trúng tim đen, mặt đỏ bừng. Diệt Tuyệt sư thái cũng lớn tiếng mắng:

- Chỉ Nhược, không được lắm lời, phái Côn Lôn người ta không phải vừa, con không nghe sao?

Hai câu đó giọng điệu rõ ràng là bênh học trò. Trương Vô Kỵ trong lòng thật là cảm kích, nghĩ thầm nếu còn cố gắng dây dưa, Chu Chỉ Nhược lại nghĩ cách giúp mình nữa, thể nào Diệt Tuyệt sư thái cũng nhìn ra, nàng sẽ thật là nguy hiểm. Chàng cất tiếng cười ha hả, nói:

- Ta là bại tướng dưới phái Nga Mi, đã từng bị Diệt Tuyệt sư thái bắt giữ, phái Nga Mi hiển nhiên cao thâm hơn phái Côn Lôn nhiều.

Chàng đi qua bên trái hai bước, tay phải cầm cành mai phất ra, một luồng kình lực đánh ngay vào sau lưng ông già lùn. Chiêu này cả phương vị lẫn thời khắc đều hết sức nhịp nhàng khít khao, ông già lùn không điều khiển được thân mình, cương đao nhắm ngay vai Ban Thục Nhàn chém xuống. Thì ra Trương Vô Kỵ đã sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, cũng theo đúng phương vị bát quái, đẩy luôn thế đao của ông già lùn ra chỗ khác. Ban Thục Nhàn vội thu kiếm về đỡ, nghe phụp một tiếng, đao của ông già cao cũng chém tới luôn.

Hà Thái Xung vội tiến lên bảo vệ cho vợ, giơ kiếm gạt luôn đao ông già cao ra ngoài, Trương Vô Kỵ liền rút tay về đánh tới, dẫn đao của ông già lùn đâm vào bụng dưới y. Ban Thục Nhàn giận lắm, soẹt soẹt soẹt ba kiếm, áp đảo ông già lùn đến cuống cả chân tay. Ông già lùn kêu lên:

- Đừng mắc kế của tiểu tử này.

Hà Thái Xung lập tức tỉnh ngộ, quay kiếm lại đâm vào Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ xoay chuyển càn khôn, thế kiếm đi đến giữa đường liền đổi hướng, nghe bụp một tiếng đâm luôn vào cánh tay bên trái ông già cao. Ông già cao đau quá kêu lên oai oái, giơ đao nhắm ngay đầu Hà Thái Xung bổ xuống, ông già lùn vội vung đao gạt ra, quát lên:

- Sư đệ đừng có lộn xộn, đó là tên tiểu tử này tác quái, ối trời...

Thì ra ngay lúc đó. Trương Vô Kỵ đã chuyển hướng kiếm của Ban Thục Nhàn, đâm vào sau vai ông già lùn.

Chỉ trong khoảnh khắc, Hoa Sơn nhị lão đều trúng kiếm thụ thương, người đứng xem chung quanh đều náo loạn cả lên. Chỉ thấy Trương Vô Kỵ phất nhẹ cành mai, tay đi xéo theo, dẫn đao của ông già cao chém vào mạng sườn Ban Thục Nhàn, còn kiếm Hà Thái Xung thì đâm vào lưng ông già lùn. Đấu thêm vài hiệp nữa, chẳng hiểu sao kiếm của vợ chồng Hà Thái Xung gạt lẫn nhau, song đao của hai ông già cũng người nọ chém người kia.

Tới lúc này thì mọi người đã thấy rõ là Trương Vô Kỵ đã dẫn dắt khiến binh khí của bốn người mất hết phương hướng, thế nhưng chàng sử dụng phương cách nào thì không ai có thể giải thích được. Chỉ có Dương Tiêu đã từng học chút công phu sơ bộ Càn Khôn Đại Na Di nên nhìn ra được chút manh mối, nhưng cũng không tin nổi là chàng thanh niên này lại học được thần công.

Trên đấu trường vợ chồng đánh lẫn nhau, đồng môn chém loạn xạ, càng lúc càng ác liệt. Ban Thục Nhàn không ngớt hô hoán:

- Chuyển qua Vô Vọng, tiến qua vị trí Mông, cướp lấy chỗ Minh Di...

Thế nhưng Càn Khôn Đại Na Di bốn phương tám hướng chỗ nào cũng bao trùm cả, dù họ có chuyển biến thay đổi phương vị cách nào, dù cố gắng cách mấy thì mỗi khi sử dụng đao kiếm, đều không cách nào có thể điều khiển được mà vẫn chém vào bên mình. Ông già cao kêu lên:

- Sư ca ra tay nhẹ một chút được không?

Ông già lùn đáp:

- Ta chém tên tiểu tặc chứ có chém ngươi đâu.

Ông già cao lại lớn tiếng:

- Sư ca cẩn thận nhé, đao này đệ chém e rằng chuyển hướng...

Quả nhiên không ngoài dự liệu, nói chưa dứt câu, thanh đao trên tay y đã chém xiên xiên vào ngang lưng ông già lùn. Hà Thái Xung nói:

- Nương tử, tên tiểu tặc này...

Ban Thục Nhàn vứt kiếm xuống đất, nghe keng một tiếng. Ông già lùn thấy vậy hiểu ngay, nếu như dùng quyền cước bắt nắm, tên tiểu tử này chắc không thể nào sử dụng tà pháp, bèn ném đơn đao xuống, giơ tay đấm vào ngực Trương Vô Kỵ. Nào ngờ nghe vù một tiếng, trường kiếm của Hà Thái Xung đâm luôn vào mặt. Ông già lùn trong tay không có binh khí vội vàng hụp xuống né tránh. Ban Thục Nhàn kêu lên:

- Vứt hết binh khí.

Hà Thái Xung vung tay một cái, ném trường kiếm ra tận xa. Ông già cao cũng bắt chước vứt đao đi, dùng cầm nã thủ chộp vào sau ót Trương Vô Kỵ. Năm ngón tay bóp chặt, trong tay đã bắt được một vật cứng ngắc, nhìn lại hóa ra cương đao của chính mình. Thì ra Trương Vô Kỵ đã bắt lấy nhét lại vào tay ông ta. Ông già cao kêu lên:

- Ta không dùng binh khí.

Rồi cố sức vứt xuống đất. Trương Vô Kỵ nghiêng người bắt lấy, lại nhét vào tay ông ta. Qua mấy lần như thế, ông già cao không sao có thể vứt bỏ binh khí được, sợ hết hồn, càng nghĩ càng thấy lạ lùng, cười lên sằng sặc nói:

- Con mẹ nó, tiểu tử thối tha này đúng là tà môn.

Khi đó ông già lùn và vợ chồng Hà Thái Xung cùng thi triển quyền cước, chia ra tấn công Trương Vô Kỵ. Quyền chưởng của hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn đâu có kém gì binh khí, một cú đấm, một ngọn đá đều uy lực rất lớn. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lại trơn như cá đang bơi, luồn lách chỉ trong tơ tóc, thỉnh thoảng phản kích lại một chiêu nửa thức, lại làm cho ba người phải tránh né thật khó khăn.

Đến khi đó, bốn người biết rằng chẳng hi vọng gì thắng được Trương Vô Kỵ, ai cũng chỉ mong rút lui êm thắm mà thôi. Ông già cao đột nhiên hét lên:

- Xú tiểu tử, coi ám khí đây.

Ông ta khạc một cái, một bãi đờm nhắm ngay Trương Vô Kỵ phun tới. Trương Vô Kỵ nghiêng mình tránh qua, ông già cao nhân cơ hội đó ném cương đao về phía sau, cười nói:

- Để xem ngươi... ối trời... xin lỗi nhé.

Thì ra Trương Vô Kỵ tay trái kéo luôn, lôi luôn Ban Thục Nhàn tới, nghe bẹt một tiếng, cục đờm của ông già cao trúng ngay giữa mặt bà ta. Ban Thục Nhàn giận quá, mười ngón tay chồm tới vồ Trương Vô Kỵ. Ông già lùn cũng một tay chộp tới, chặn đường không cho Trương Vô Kỵ tháo lui. Ông già cao và Hà Thái Xung thấy có cơ hội tốt, cùng xông lên, chắc ăn lần này bao vây được rồi, thể nào cũng bắt được địch thủ, nên cả bọn tay nắm, bóp, bẻ, vặn, tuy xem ra có chiều bất nhã, nhưng để chàng không cách nào chạy thoát được.

Hai tay Trương Vô Kỵ đồng thời thi triển Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, hú lên một tiếng, thân hình bay vọt lên cao, trên không trung lượn một vòng, nhẹ nhàng đáp xuống bên ngoài cả trượng.

Chỉ thấy Hà Thái Xung ôm lưng vợ, Ban Thục Nhàn túm vai chồng, còn hai ông già lùn cao ôm chặt lấy nhau, bốn người đang lăn lộn dưới đất. Vợ chồng họ Hà thấy không ổn, vội buông tay nhỏm dậy. Ông già cao kêu lên:

- Bắt được rồi, xem lần này ngươi chạy được đi đâu? Ối ối không phải...

Ông già lùn giận dữ quát:

- Bỏ ra mau.

Ông già cao đáp:

- Sư ca không bỏ tay ra, làm sao đệ bỏ ra được?

Ông già lùn nói:

- Nói bớt đi một câu có được không?

Ông già cao đáp:

- Bớt đi một câu, dĩ nhiên là được, có điều...

Ông già lùn buông tay ra, hậm hực nói:

- Đứng lên.

Ông già cao đối với sư ca vốn e ngại, vội vàng rụt tay lại, cả hai cùng nhỏm dậy. Ông già cao nói:

- Này, xú tiểu tử, cái này không phải là tỉ võ, chỉ là tà pháp, đâu có gì là anh hùng?

Ông già lùn biết rằng nếu đấu thêm nữa chỉ càng thêm bẽ mặt, ôm quyền hướng về Trương Vô Kỵ nói:

- Các hạ thần công cái thế, lão hủ từ khi cha sinh mẹ để đến giờ chưa từng gặp, phái Hoa Sơn xin chịu thua.

Trương Vô Kỵ hoàn lễ đáp:

- Xin lỗi, vãn bối may mắn, nếu chẳng được bốn vị tiền bối thủ hạ dung tình thì đã chết vì chính phản lưỡng nghi đao kiếm rồi.

Câu nói đó chẳng phải nói khiêm tốn lấy lòng, nếu Chu Chỉ Nhược không chỉ điểm, chàng hẳn khó mà sống sót. Dẫu rằng sau cùng đã thắng, đối với võ công của bốn người này quả không dám coi thường chút nào, nhưng cũng biết cả bốn đều xuất toàn lực, thành thử "thủ hạ dung tình" cốt để cho dễ nghe thôi.

Ông già cao đắc ý, mặt mày hớn hở nói:

- Thế sao? Ngươi cũng biết thắng chẳng qua là may mắn thôi ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Xin hỏi tôn tính đại danh của hai vị? Ngày sau nếu gặp lại cho tiện đường xưng hô.

Ông già cao đáp:

- Sư ca của ta là Uy Chấn...

Ông già lùn quát lớn:

- Câm mồm.

Rồi quay sang Trương Vô Kỵ nói:

- Tướng của đội quân đánh thua, xấu hổ không có đất mà dung, tiện danh đâu có đáng nhắc tới?

Nói xong quay trở lại đám người của phái Hoa Sơn. Ông già cao phủi tay cười đáp:

- Thắng bại là chuyện thường của binh gia, lão đây chẳng coi vào đâu cả.

Nhặt hai thanh đao dưới đất, lững thững đi về.

Trương Vô Kỵ đi đến bên cạnh Tiên Vu Thông, cúi xuống điểm hai nơi huyệt đạo của y, nói:

- Đại sự ở đây xong rồi, ta sẽ chữa độc cho các hạ, bây giờ tạm cho độc khí khỏi đi vào tâm khẩu đã.

Ngay lúc đó, bỗng thấy gió lạnh thổi vào sau lưng, hơi thấy đau, Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, không kịp tránh né, đầu ngón chân nhún một cái thân hình xeo xéo phóng vụt lên. Chỉ nghe hai tiếng soẹt soẹt nho nhỏ, tiếp theo là một tiếng "A" rú lên thảm thiết, chàng ở trên không quay đầu nhìn xuống, thấy hai thanh kiếm của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đã cắm vào ngực Tiên Vu Thông.

Thì ra vợ chồng Hà Thái Xung tung hoành nửa đời người, nay trước đám đông thua về tay một thanh niên hậu bối, dù cách nào cũng không thể nuốt mối căm hờn. Khi hai người nhặt trường kiếm lên, thấy Trương Vô Kỵ đang cúi xuống điểm huyệt Tiên Vu Thông, đưa mắt nhìn nhau, tâm ý tương thông, cùng gật đầu, đột nhiên ra chiêu "Vô Thanh Vô Sắc", cùng phóng vào lưng Trương Vô Kỵ.

Chiêu Vô Thanh vô sắc này là một tuyệt chiêu trong kiếm học của phái Côn Lôn, sử dụng phải có hai người, công lực tương đương, nội kình tương đồng. Khi kiếm chiêu tung ra, kình lực hai bên trái ngược, nên những phản lực của hai thanh kiếm, tiếng rít trong không gian, đều làm triệt tiêu lẫn nhau.

Lộ kiếm chiêu này vốn dùng trong khi chiến đấu trong đêm tối không cho đối phương có thể nghe tiếng gió mà biện vị, trước khi ra tay hoàn toàn không có hình tích gì nên kiếm đụng vào người mới biết, vào ban ngày nếu dùng để đánh trộm từ sau lưng sẽ khiến người ta không sao phòng bị được.

Nào ngờ Trương Vô Kỵ tuy tâm ý bất động, Cửu Dương thần công tự nhiên hộ thân, biến chiêu cực nhanh, tuy vậy áo sau lưng vẫn bị rách một đường dài, thực là nguy hiểm. Vợ chồng họ Hà không thu kiếm về kịp, khiến song kiếm đâm chết tươi chưởng môn phái Hoa Sơn.

Trương Vô Kỵ rơi xuống đất rồi, nghe tiếng xôn xao, la lối. Hà thị phu phụ đâm lao phải theo lao, song kiếm cùng hướng về tấn công Trương Vô Kỵ, nghĩ thầm: "Cái trò đê tiện đâm sau lưng thì mọi người ai cũng đã nhìn thấy rồi, từ nay về sau còn mặt mũi nào? Không đâm chết được y thì vợ chồng mình cũng sống làm gì?".

Thành thử chiêu nào cũng đều là đánh thí mạng. Trương Vô Kỵ tránh được mấy nhát rồi, thấy đường kiếm nào cũng muốn hai bên cùng chết, quả thực khó có thể yên ổn mà ngừng tay, nghĩ ra một mẹo, bèn ngồi thụp xuống, tay trái nhặt ngay một cục đất, một mặt né tránh kiếm chiêu, một mặt dùng mồ hôi tay vo thành hai viên thuốc nho nhỏ. Khi Hà Thái Xung từ phía bên trái, Ban Thục Nhàn từ phía phải tấn công tới, chàng liền nhảy vọt tới chỗ thi thể Tiên Vu Thông, giả vờ mò trong bọc của y mấy cái, quay đầu lại, song chưởng chia ra đánh vào hai người. Kỳ này chàng sử dụng đến sáu, bảy thành công lực, vợ chồng họ Hà thấy tức ngực, khó thở dường như muốn ngộp, vội vàng há mồm để hút khí trời. Trương Vô Kỵ vung tay một cái, hai viên đất chui tọt vào mồm hai người, thuận theo luồng kình lực mãnh liệt tuột luôn vào cổ họng.

Vợ chồng Hà Thái Xung thấy vật đó lấy từ trong người Tiên Vu Thông, nghĩ thầm người này thích dùng độc dược độc trùng, thì trong người đâu có thứ gì tốt lành, trong bụng kinh hoảng, liên tiếp ho khạc, nhưng không sao có thể nhả được viên đất ra. Hai người mặt tái mét, nghĩ lại thảm trạng Kim Tàm trùng độc mà Tiên Vu Thông vừa phải chịu, Ban Thục Nhàn gần như muốn ngất đi.

Trương Vô Kỵ lạnh lùng nói:

- Vị Tiên Vu chưởng môn này nuôi Kim Tàm, dấu trong bao sáp, hai vị mỗi người uống một viên. Nếu như thổ được ra ngay, nhân khi bao sáp chưa tan, may ra cứu được.

Nghe nói như thế vợ chồng họ Hà cố trấn tĩnh, vội vận nội lực, hết sức rặn để nôn viên thuốc. Hai người nội công cao siêu, ọe hai ba lần quả nhiên nhả được "lạp hoàn" ra, nhưng lúc này đã tan vào dịch vị, đâu có còn gì?

Ông già cao của phái Hoa Sơn chạy đến coi, chỉ chỉ trỏ trỏ cười nói:

- Ối chao, đây là cứt con Kim Tàm, Kim Tàm vừa mới vào trong bụng đã ỉa ngay rồi.

Ban Thục Nhàn vừa sợ vừa tức, chưa có chỗ phát tiết, lập tức giơ tay đánh ngay một chưởng. Ông già cao hụp xuống tránh khỏi, nhảy trở ra lớn tiếng nói:

- Con mụ ngang ngược phái Côn Lôn kia, ngươi giết chết chưởng môn bản phái, phái Hoa Sơn không thể bỏ qua cho ngươi đâu.

Vợ chồng Hà Thái Xung nghe y nói thế, trong bụng càng lo thêm, nghĩ thầm Tiên Vu Thông tuy nhân phẩm gian ác, nhưng dẫu sao cũng là chưởng môn phái Hoa Sơn, vợ chồng mình lỡ tay giết chết y, tạo nên một vụ án lớn trong võ lâm. Thế nhưng Kim Tàm trùng độc đã vào bụng rồi, chẳng còn sống được bao lâu, chuyện gì thôi cũng đành chịu. Xem ra chỉ có tên tiểu tử Trương Vô Kỵ này là giải được thuốc độc, nhưng trước đây mình đã tệ bạc với y, y lẽ nào ra tay cứu mạng?

Trương Vô Kỵ cười nhạt nói:

- Hai vị không phải hoảng sợ, Kim Tàm tuy đã vào bụng rồi, độc tính phải sáu giờ sau mới phát tác, chuyện lớn ở đây xong rồi, vãn bối sẽ tìm cách cứu chữa cho. Chỉ mong Hà phu nhân không ép tại hạ uống rượu độc nữa là được rồi.

Vợ chồng Hà Thái Xung mừng quá, tuy bị chàng mắng xéo một câu, nhưng cũng không dám để bụng, nhưng lời cám ơn cũng không dám nói ra, chỉ bẽn lẽn đi về chỗ. Trương Vô Kỵ nói:

- Hai vị đến phái Không Động xin bốn viên Ngọc Động Hắc Thạch Đơn uống đi, để cho độc tính tạm thời không chạy vào tim.

Hà Thái Xung cúi mặt nói:

- Xin đa tạ đã chỉ giáo.

Lập tức sai đại đệ tử đến phái Không Động xin thuốc uống ngay. Trương Vô Kỵ cười thầm, thứ Ngọc Động Hắc Thạch Đơn này tuy là thuốc giải dược thật, nhưng uống vào thì hai tiếng đồng hồ liền bụng đau như thắt ruột lại, thành thử chẳng bao lâu vợ chồng họ Hà thấy quặn bụng, chỉ nghĩ là Kim Tàm trùng độc phát tác, biết đâu chuyện đó. Chẳng qua Trương Vô Kỵ chỉ răn đe sơ sơ cho họ hoảng sợ một phen, nếu như để báo thù lúc trước, đâu lẽ nào chỉ nhẹ nhàng như thế? Thế nhưng từ nay trở về sau, chỉ cần không cho họ giải dược, nếu như có cùng các phái phân tranh, phái Côn Lôn thể nào chẳng phải đứng về phe mình. Nhớ năm xưa chàng dùng Tang Bối Hoàn gọi là Cưu Tì Hoàn để cho cô Năm uống, nhưng vì nói thật quá sớm, suýt nữa chết dưới tay Hà Thái Xung, lần này nhất định không đi lại vết xe đổ nữa.

Ở bên kia Diệt Tuyệt sư thái nói với Tống Viễn Kiều:

- Tống đại hiệp, trong sáu đại phái chỉ còn lại quí phái và chúng tôi, lão ni cô là phận nữ lưu, toàn do Tống đại hiệp chủ trì toàn cục.

Tống Viễn Kiều nói:

- Tại hạ đã cùng Ân giáo chủ tỉ thí quyền cước nhưng không thắng nổi. Sư thái kiếm pháp thông thần, hẳn sẽ chế phục được gã tiểu bối này.

Diệt Tuyệt sư thái cười nhạt một tiếng, rút phắt Ỷ Thiên kiếm đeo trên lưng, từ từ đi ra. Du Liên Châu Du nhị hiệp của phái Võ Đương từ nãy vẫn chăm chú xem xét động tĩnh của Vô Kỵ, rất là lo lắng, lúc này nghĩ thầm: "Diệt Tuyệt sư thái kiếm pháp tuy tinh, chưa chắc đã hơn được bốn người của Hoa Sơn, Côn Lôn liên thủ, nếu như bà ta không xong, phái Võ Đương cũng chế phục không được, thì cả sáu phái đều thua hết, ta phải xem hư thực thế nào". Ông liền rảo bước tiến vào trong sân nói:

- Sư thái, để cho năm sư huynh đệ chúng tôi vào thử xem công lực thanh niên này đến đâu, sư thái sau cùng chỉ ra tay một lần là thắng ngay.

Mấy câu đó ý thật rõ ràng, phái Võ Đương trước nay vẫn nổi tiếng về nội lực bền bỉ, từ Tống Viễn Kiều đến Mạc Thanh Cốc năm người nếu luân phiên tỉ đấu với Trương Vô Kỵ, dẫu cho không thắng được, nhưng dù cho cao thủ bậc nào trên đời mà liên tiếp đấu với Võ Đương ngũ hiệp cũng phải mỏi mệt kiệt sức, thành thế cung cứng giương quá đà đấu với Diệt Tuyệt sư thái kiếm thuật vô song, phái Nga Mi thể nào cũng phải thắng.

Diệt Tuyệt sư thái hiểu ngay dụng ý của Du Liên Châu, nghĩ thầm: "Phái Nga Mi lẽ nào lại phải chịu ơn phái Võ Đương? Nếu thế thì dù có thắng chăng nữa cũng chẳng vinh hạnh gì. Chưởng môn phái Nga Mi lại phải lợi dụng như thế để đối phó với một tiểu bối hậu sinh hay sao?". Bà ta xưa nay vốn tâm cao khí ngạo, mục hạ vô nhân, tuy thấy Trương Vô Kỵ võ công kinh người, nhưng cho rằng người các phái ra đấu toàn là đồ bị thịt, tiểu tử này hôm trước mình vừa ra tay là bắt được ngay. Về sau khi mình ra tay đồ sát giáo đồ Ma giáo của Nhuệ Kim Kỳ, tiểu tử này chen vào can thiệp, nội lực tuy lạ lùng, nhưng cũng có gì là ghê gớm đâu?

Nghĩ thế bèn phất tay áo một cái, nói:

- Xin mời Du nhị hiệp trở về. Ỷ Thiên kiếm của lão ni đã ở trong tay, không thể vô cớ cho trở vào bao được.

Du Liên Châu nghe bà ta nói thế, chỉ còn nước ôm quyền chào nói:

- Vâng.

Rồi quay trở về phái Võ Đương. Diệt Tuyệt sư thái giơ kiếm ngang ngực, mũi kiếm chênh chếch hướng lên trời, đi tới trước mặt Trương Vô Kỵ. Giáo chúng Minh giáo chết dưới thanh kiếm Ỷ Thiên không biết bao nhiêu, lúc này thấy bà ta ra đấu trường, người nào người nấy đều căm phẫn, lớn tiếng xôn xao. Diệt Tuyệt sư thái cười khẩy nói:

- Nhốn nháo cái gì? Để ta lo liệu xong tiểu tử này, sẽ thanh toán các ngươi từng người một, bộ sợ chết chưa được sớm sủa hay sao?

Ân Thiên Chính biết thanh Ỷ Thiên kiếm của bà ta thật là khó đối phó, nhiều hảo thủ của bản giáo chịu chưa nổi một hiệp, binh khí đã bị chặt đứt, bị chém chết ngay, nên hỏi:

- Tăng thiếu hiệp dùng binh khí gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vãn bối không có binh khí. Lão gia tử, tiền bối thử xem đối phó với bảo kiếm đó cách nào mới xong?

Thanh kiếm Ỷ Thiên cứng rắn dị thường, chính mắt chàng đã thấy, nghĩ đến không lạnh mà run, trong bụng không biết phải tính toán ra sao. Ân Thiên Chính từ cái bọc bên mình lấy ra một thanh trường kiếm, nói:

- Thanh Bạch Hồng kiếm này ta tặng cho thiếu hiệp. Thanh kiếm này tuy không nổi danh như thanh kiếm Ỷ Thiên của lão tặc ni, nhưng cũng là một món binh khí hãn hữu trên giang hồ.

Nói xong giơ tay búng vào lưỡi kiếm một cái, lưỡi kiếm bèn cong lại, rồi bật ngược trở ra, kêu lên u u, âm thanh trong vắt. Trương Vô Kỵ cung kính nhận lấy, nói:

- Đa tạ lão gia tử.

Ân Thiên Chính nói:

- Thanh kiếm này theo ta đã lâu, hơn mười năm nay không còn dùng tới. Ỷ vào binh khí sắc bén để mà thắng, ha ha, thế có gì là anh hùng hảo hán đâu? Hôm nay mong được thấy nó uống máu cổ họng của lão tặc ni, lão phu có chết cũng không còn ân hận gì nữa.

Trương Vô Kỵ không trả lời, nghĩ thầm: "Ta quyết không thể giết sư thái này được".

Chàng cầm thanh Bạch Hồng kiếm, quay đầu lại, tiến lên mấy bước, mũi kiếm chỉ xuống đất, hai tay ôm lấy cán kiếm, nói với Diệt Tuyệt sư thái:

- Kiếm pháp của vãn bối thật là tầm thường, không thể nào là địch thủ của sư thái được, quả thực không dám cùng tiền bối tỉ đấu. Tiền bối đã từng tha cho không giết giáo chúng Minh giáo trong Nhuệ Kim Kỳ, lẽ nào không nương tay thêm một lần nữa?

Hai hàng lông mày dài của Diệt Tuyệt sư thái xụ hẳn xuống, lạnh lùng đáp:

- Chúng tặc của Nhuệ Kim Kỳ là do ngươi cứu, dưới tay Diệt Tuyệt sư thái quyết chẳng tha ai. Ngươi thắng được trường kiếm trong tay ta, lúc đó muốn gì cũng chưa muộn.

Những giáo chúng Minh giáo trong Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ Ngũ Hành Kỳ liền xôn xao mắng chửi, kêu lên:

- Lão tặc ni, ngươi có giỏi thì tay không đánh với Tăng thiếu hiệp xem nào.

- Kiếm pháp của nhà ngươi có gì là ghê gớm đâu, chỉ ỷ vào thanh kiếm sắc thôi.

- Tăng thiếu hiệp kiếm pháp giỏi hơn ngươi nhiều, ngươi có giỏi thì thay một thanh kiếm thường, nếu đỡ được ba chiêu thì phái Nga Mi mới gọi là cao minh.

- Cái gì mà ba chiêu? Sợ một chiêu nửa thức cũng chưa xong nữa là.

Diệt Tuyệt sư thái thần sắc trơ trơ, không để ý gì đến những lời khích bác đó, lớn tiếng nói:

- Tiến chiêu đi.

Trương Vô Kỵ chưa từng luyện qua kiếm pháp, lúc này phải ra chiêu tấn công, chân tay quờ quạng, nghĩ đến Lưỡng Nghi kiếm pháp của bọn Hà Thái Xung mới rồi quả là tinh diệu, nên xeo xéo đâm ra một kiếm. Diệt Tuyệt sư thái hơi lạ lùng, nói:

- Tiêu Bích Đoạn Vân của phái Hoa Sơn.

Thanh kiếm Ỷ Thiên hơi lắc một cái, không thèm đỡ nhát kiếm của đối phương, chiêu đầu tiên đã tấn công liền, mũi kiếm đâm ngay vào huyệt Đan Điền của Trương Vô Kỵ, ra tay vừa độc địa, vừa cực kỳ nhanh nhẹn không ai ngờ nổi.

Trương Vô Kỵ kinh hoảng, lách qua tránh né, chỉ thấy kiếm của Diệt Tuyệt sư thái lóe lên một cái, mũi kiếm đã ngóc lên phóng vào yết hầu chàng. Trương Vô Kỵ hoảng hốt vội lăn xuống đất, vừa nhỏm dậy cảm thấy sau cổ khí lạnh ùa tới, biết là không ổn, đầu ngón chân phải vội đạp một cái, thân hình bay vọt lên không.

Cảnh tượng đó quả thực là thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, mọi người chung quanh ai nấy hò reo, chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái không đợi chàng rơi xuống, nhẹ nhàng phi thân lên, giữa lưng chừng trời giơ kiếm múa tới, kiếm quang bao phủ một vòng mấy thước chung quanh.

Trương Vô Kỵ còn đang trên không, không cách nào có thể tránh né, trong vòng bao vây của Diệt Tuyệt sư thái, nếu như thân hình rơi xuống một thước thì hai chân ắt sẽ đứt ngay, còn nếu xuống đến ba thước thì sẽ bị chặt đứt ngang hông.

Tình cảnh đó thực kinh hiểm vạn phần, chàng không còn kịp suy nghĩ gì nữa, vội đâm ra, mũi kiếm thanh Bạch Hồng điểm luôn vào đầu kiếm Ỷ Thiên, thanh kiếm lập tức cong lại, nghe coong một tiếng, lưỡi kiếm bật lại, chàng đã mượn sức vọt lên trên cao.

Diệt Tuyệt sư thái lập tức xông tới tấn công, soẹt soẹt soẹt đâm luôn ba nhát, đến chiêu thứ ba thân hình Trương Vô Kỵ đã rơi xuống thấp, chỉ còn nước vung kiếm ra gạt, nghe keng một tiếng, thanh Bạch Hồng kiếm trong tay đã gãy làm hai. Tay phải chàng thuận thế nhắm ngay đỉnh đầu Diệt Tuyệt sư thái đánh xuống, lão ni cô liền vung kiếm lên toan chặt đứt cổ tay Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ nhắm thật chính xác, búng luôn một cái vào sống kiếm, thân hình lại bay vọt ra ngoài. Diệt Tuyệt sư thái tay tê dại, hổ khẩu đau nhói, trường kiếm bị Trương Vô Kỵ búng phải tưởng như muốn tuột ra, trong lòng chấn động. Trương Vô Kỵ rơi xuống cách xa hơn hai trượng, tay cầm thanh kiếm gãy, ngơ ngẩn như kẻ mất hồn.

Mấy chiêu đó thật nhanh như chim cắt bắt mồi, chỉ nháy mắt, Diệt Tuyệt sư thái đã công liên tiếp tám chiêu, chiêu nào cũng chí mạng độc địa. Trương Vô Kỵ nhất nhất phá giải trong đường tơ kẽ tóc, tám lần tử lý đào sinh, trong cái chết tìm đường sống. Người tấn công đã tinh xảo không đâu sánh bằng, người né tránh cũng lại lạ lùng kỳ quái. Không ai tin con người có thể làm nổi, người tấn công tựa hồ thiên tướng ra oai, kẻ né tránh thật như quỉ mị biến hình, khác gì sấm vang chớp dậy, tuy qua đã lâu rồi nhưng người người vẫn còn kinh hãi, ai ai cũng nín thở, tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài.

Qua một lúc lâu, tiếng hoan hô vang cả trời đất bấy giờ mới nổi lên. Qua tám chiêu tấn công, tám chiêu trốn tránh, Trương Vô Kỵ hoàn toàn chỉ chống đỡ, trường kiếm trong tay lại bị chém gẫy, rõ ràng ở vào thế hạ phong, nhưng Ỷ Thiên kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái bị chàng búng một cái, lập tức nửa người tê bại, Trương Vô Kỵ vì ít kinh nghiệm đối địch, nếu không thừa thế phản kích lúc đó thì đã thắng rồi. Diệt Tuyệt sư thái trong bụng thấy thật may, không khỏi kinh hãi thầm, nói:

- Ngươi thay binh khí khác, ra đây tái đấu.

Trương Vô Kỵ nhìn thanh kiếm gãy trong tay, nghĩ thầm: "Ông ngoại tặng cho ta thanh bảo kiếm này, ta vừa ra tay đã bị hủy, đối với lão nhân gia thực không phải tí nào. Đâu còn bảo đao lợi kiếm nào có thể chống đỡ được với Ỷ Thiên kiếm?".

Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng thấy Chu Điên kêu lên:

- Ta có một thanh bảo đao, thiếu hiệp dùng nó đấu với kiếm của lão tặc ni một phen. Lại đây cầm lấy.

Trương Vô Kỵ nói:

- Kiếm Ỷ Thiên quá ư sắc bén, chỉ sợ làm hỏng mất bảo đao của tiền bối.

Chu Điên nói:

- Hỏng thỉ hỏng cũng chẳng sao. Ngươi đấu không lại mụ ta, bọn ta ai ai cũng tống mệnh qui thiên, còn giữ gì được bảo đao?

Trương Vô Kỵ nghị lại thấy quả không sai, đi đến tiếp lấy thanh đao. Dương Tiêu hạ giọng nói:

- Trương công tử, công tử nên tấn công bà ta, đừng chống đỡ nữa.

Trương Vô Kỵ thấy ông ta gọi mình là "Trương công tử", hơi ngạc nhiên, nhưng hiểu ngay, Dương Bất Hối đã nhận ra mình, thể nào chẳng nói cho cha hay, liền nói:

- Cám ơn tiền bối đã chỉ giáo.

Vi Nhất Tiếu cũng nói nhỏ:

- Hãy thi triển khinh công đừng ngừng lại nửa bước.

Trương Vô Kỵ thật mừng, nói:

- Đa tạ tiền bối chỉ điểm.

Quang Minh sứ giả Dương Tiêu, Vi Bức Vương Vi Nhất Tiếu võ công cao thâm, đấu với Diệt Tuyệt sư thái chưa chắc đã thua, chỉ vì bị Viên Chân ám toán trọng thương nên một thân võ công không còn thi thố gì được. Thế nhưng đôi mắt vẫn còn tinh, những điều hai người chỉ cho Vô Kỵ, chính là yếu quyết đối phó với bảo kiếm khoái chiêu của Diệt Tuyệt sư thái.

Trương Vô Kỵ cầm đao trên tay, thấy thanh đao này nặng độ hơn bốn mươi cân, ánh xanh lấp lánh, sống dày lưỡi mỏng, trên lưỡi đao có khắc hoa văn cổ kính, quả là một trân phẩm lâu đời. Chàng nghĩ đến làm hủy thanh kiếm Bạch Hồng tuy đáng tiếc thật, nhưng dẫu sao cũng là binh khí ông ngoại đã tặng cho mình, còn bảo đao này là vật sở hữu của Chu Điên, không thể làm hư trong tay mình nữa nên quay lại nói:

- Sư thái, vãn bối tiến chiêu đây.

Chàng triển khai khinh công, như một làn khói bay vụt ra sau lưng Diệt Tuyệt sư thái, không đợi bà ta quay lại, né bên phải, lách qua trái, chạy xuôi một vòng, chạy ngược một vòng, soẹt soẹt chém ra hai nhát.

Diệt Tuyệt sư thái vung kiếm chặn lại, đang toan biến thế ra chiêu, Trương Vô Kỵ đã biến mất đi đâu không biết. Ngay từ trước khi luyện Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, khinh công chàng đã cao hơn Diệt Tuyệt sư thái rồi, lúc này càng chạy càng nhanh, chẳng khác gì gió bay lửa bốc, chớp giật sấm ran, ngay cả Vi Nhất Tiếu khinh công vốn dĩ hơn hẳn quần hùng cũng phải ngầm kinh hãi. Chỉ thấy Trương Vô Kỵ bốn bề tám hướng chuyển động, thỉnh thoảng sấn vào chém một đao, chiêu số chưa xong đã lùi ra ngoài. Kỳ này công thủ đổi khác, Diệt Tuyệt sư thái không còn cơ hội nào phản kích một kiếm, chỉ vì Trương Vô Kỵ ngại rằng kiếm Ỷ Thiên quá sắc bén nên không dám tới thật gần. Chàng chạy qua mấy chục vòng rồi, Cửu Dương chân khí trong người càng lúc càng sung vượng thêm, chân không bén đất chẳng khác gì lăng không phi hành.

Quần đệ tử phái Nga Mi thấy tình hình không ổn, nếu đấu dây dưa, thể nào sư phụ cũng thua. Tĩnh Huyền kêu lên:

- Hôm nay chúng ta vây diệt ma giáo, không phải là tỉ võ tranh thắng. Các vị sư muội sư đệ cùng tiến lên chặn tiểu tử này lại, không để cho y ma mãnh, bắt phải đem bản lãnh chân thực đấu với sư phụ.

Nói xong cầm kiếm nhảy tới. Nam nữ đệ tử phái Nga Mi liền cùng xông lên, tay cầm binh khí, chặn hết bốn phương tám hướng, Chu Chỉ Nhược đứng ở góc phía tây nam. Đinh Mẫn Quân cười nhạt nói:

- Chu sư muội, chặn hay không là ở ngươi, mà nhường hay không cũng là ở ngươi đó.

Chu Chỉ Nhược vừa giận vừa thẹn, nói:

- Sao sư tỉ lại chỉ nói mình tôi là sao?

Ngay lúc đó, Trương Vô Kỵ đã vọt tới trước mặt, Đinh Mẫn Quân liền vung kiếm đâm ra. Trương Vô Kỵ tay trái vươn ra, khoắng một cái đoạt luôn thanh trường kiếm, tiện tay ném luôn vào Diệt Tuyệt sư thái. Diệt Tuyệt sư thái vung kiếm lên chém đứt thanh kiếm bay tới. Thế nhưng sức của Trương Vô Kỵ ném thanh kiếm đó thật là mạnh, kiếm đã bị chém gãy rồi, kình lực vẫn làm cho cổ tay bà ta ngâm ngẩm tê. Trương Vô Kỵ vẫn không dừng bước, tay trái vung ra liên tiếp đoạt kiếm, liên tiếp ném vào. Phái Nga Mi kỳ này đi đánh Tây Vực toàn là cao thủ, nhưng mỗi khi chàng vung tay đoạt kiếm, không ai né được mảy may, khiến cứ thò tay là được, mấy chục thanh trường kiếm bay lượn trên không, bạch quang lấp loáng, không ngừng phóng vào Diệt Tuyệt sư thái.

Diệt Tuyệt sư thái mặt lạnh như phủ một làn sương, thấy kiếm bay tới là chém gãy, đến lúc tay phải tê dại, vội chuyển kiếm sang tay trái. Công phu sử dụng kiếm bằng tay trái của bà ta không kém tay phải bao nhiêu, nên chỉ thấy kiếm bay tung tóe trên trời, có mảnh bay văng ra ngoài, kình lực vẫn còn mạnh mẽ khiến người đứng chung quanh phải lật đật tháo lui. Chỉ trong giây lát, quần đệ tử phái Nga Mi ai nấy tay không, chỉ còn một mình Chu Chỉ Nhược trường kiếm vẫn còn trong tay chưa bị cướp mất.

Trương Vô Kỵ muốn báo ơn nàng mới rồi chỉ điểm, ngờ đâu như thế bỗng dưng nàng trở nên khác hẳn mọi người. Nàng biết rằng chẳng ổn, tiến lên định công kích vài chiêu, nhưng Trương Vô Kỵ thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, huống chi lại cố ý tránh nàng ra, không đến gần nàng trong vòng năm thước. Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng, nhất thời chân tay luống cuống. Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:

- Chu sư muội, quả nhiên y đối với ngươi không như người khác.

Lúc này Trương Vô Kỵ tuy bị đám đệ tử phái Nga Mi ngăn trở nhưng chàng chạy qua chạy lại, coi như không có ai, ánh đao nhằm những nơi yếu hại của Diệt Tuyệt sư thái mà tấn công. Diệt Tuyệt sư thái ở vào thế chỉ còn chống đỡ, không còn cách nào phản kích được, trong bụng gấp gáp, lời ăn tiếng nói của Đinh Mẫn Quân từng tiếng lọt vào tai:

- Ngươi thấy sư phụ đang bị tiểu tử này công kích, sao không tiến lên tương trợ? Ngươi trong tay có kiếm, sao đứng như trời trồng, chắc trong bụng ngươi mong cho tiểu tử này đánh bại sư phụ chăng?

Diệt Tuyệt sư thái chợt hiểu ra: "Sao tiểu tử này lại không đoạt binh khí của Chỉ Nhược, không lẽ hai đứa ngầm cấu kết với nhau? Ta thử xem thì biết ngay". Liền lớn tiếng quát:

- Chỉ Nhược, ngươi dám khi sư diệt tổ sao?

Giơ kiếm lên nhắm ngay ngực Chu Chỉ Nhược đâm tới. Chu Chỉ Nhược cực kỳ kinh hãi, không dám giơ kiếm lên đỡ, chỉ kêu:

- Sư phụ, con... con...

Tiếng "con" mới ra khỏi miệng, kiếm của Diệt Tuyệt sư thái đã đâm tới ngực rồi. Trương Vô Kỵ đâu biết nhát kiếm đó chỉ là để dò xét xem hai người có tình ý gì với nhau không, mũi kiếm tới ngực sẽ rút ngay về. Chàng chính mắt thấy bà ta cực kỳ ác độc giết chết Kỷ Hiểu Phù, biết rằng bà tru sát đồ đệ không dung tình chút nào, không kịp suy nghĩ, nhảy vọt tới, ôm ngay Chu Chỉ Nhược nhảy ra ngoài xa cả trượng.

Diệt Tuyệt sư thái liền chuyển khách thành chủ, trường kiếm rung động, đâm ngay vào sau lưng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nội lực tuy mạnh, nhưng chưa từng luyện qua khinh công nên không được như Vi Nhất Tiếu tay ôm một người mà chân không chậm lại, nghe thấy hơi gió từ sau lưng, chỉ còn nước quay đao lại gạt, nghe cách một tiếng, bảo đao trong tay đã cụt mất một nửa. Thanh kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái liền tiện đà đâm tới, Trương Vô Kỵ vận kình, sử đến chín thành công lực ném ngược nửa thanh đao lại. Diệt Tuyệt sư thái liền cảm thấy ngộp thở, không dám giơ kiếm lên chặt, vội vàng phục xuống né tránh. Nửa thanh đao bay xẹt qua đỉnh đầu, kình phong khiến bà ta rát cả mặt. Trương Vô Kỵ không bỏ lỡ dịp may, chưa kịp bỏ Chu Chỉ Nhược xuống, lập tức lướt tới, tay phải vươn ra, múa chưởng đánh tới. Diệt Tuyệt sư thái chân phải khuỵu xuống, giơ kiếm lên toan chém cổ tay chàng, Trương Vô Kỵ lập tức biến chưởng thành cầm nã, uốn tay giựt về, nhẹ nhàng đoạt luôn thanh Ỷ Thiên kiếm.

Công phu biến chuyển chỉ trong một sát na từ cương thành nhu, chính là thần công Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ bảy, Diệt Tuyệt sư thái võ công tuy cao, nhưng trong lúc đang đối phó với chưởng lực cương mãnh ép vào người, làm sao có thể sách giải được thế chuyển sang cầm nã nhu hòa của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ tuy đắc thắng, nhưng đối với một đại địch như Diệt Tuyệt sư thái vẫn phải hết sức cẩn thận, không dám khinh thị chút nào, liền cầm kiếm Ỷ Thiên chỉ thẳng vào yết hầu bà ta, sợ bà ta có kỳ chiêu thi triển, sau đó mới từ từ lùi trở lại hai bước.

Chu Chỉ Nhược đãy dụa kêu lên:

- Buông ta ra.

Trương Vô Kỵ kinh hoảng kêu lên:

- Ối, vâng.

Mặt chàng đỏ bừng, vội để nàng xuống đất, mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, chỉ thấy làn tóc mềm mại của nàng quệt qua má, không khỏi liếc nàng một cái, thấy nàng dường như muốn ngất đi, vừa thẹn thùng vừa bối rối, tuy thần sắc sợ hãi nhưng ánh mắt đầu mày không khỏi có phần hoan hỉ.

Diệt Tuyệt sư thái từ từ đứng dậy, không nói nửa lời nhìn Chu Chỉ Nhược, lại nhìn Trương Vô Kỵ, mặt mỗi lúc một tái đi. Trương Vô Kỵ quay ngược thanh kiếm nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương, bảo kiếm của quí phái, xin cô nương chuyển lại cho tôn sư.

Chu Chỉ Nhược đưa mắt nhìn sư phụ, thấy bà thần sắc trơ trơ, chẳng biết là nên nhận hay không nên nhận, trong một giây trong lòng chuyển qua bao nhiêu ý niệm: "Cục diện hôm nay tuy thật là đáng xấu hổ, Trương công tử đãi ta như thế, sư phụ thể nào chẳng cho là ta có tình ý với chàng, từ nay ta sẽ là khí đồ của phái Nga Mi, thành một kẻ phản bội vô sỉ trong võ lâm. Trời đất mang mang, ta biết đi đâu dung thân bây giờ? Trương công tử đối với ta như thế nhưng quyết không thể vì chàng mà phản bội sư môn". Bỗng nghe Diệt Tuyệt sư thái hậm hực rít lên:

- Chỉ Nhược, đâm một kiếm giết nó đi.

Năm xưa Chu Chỉ Nhược theo Trương Tam Phong lên núi Võ Đương, Trương Tam Phong thấy núi Võ Đương không có đàn bà, thật là bất tiện nên đưa thư giới thiệu nàng sang đầu nhập làm môn hạ Diệt Tuyệt sư thái. Nàng thiên tư thật là thông tuệ, lại gặp đại biến cha mẹ đều qua đời từ nhỏ, cố gắng học nghệ, tiến bộ thần tốc, được sư phụ hết sức thương yêu. Trong bảy năm qua, mỗi lời nói, mỗi cử động của sư phụ đối với nàng quả như thiên kinh địa nghĩa, trong đầu chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện trái lời, bây giờ nghe sư phụ quát lên, không kịp suy nghĩ, thuận tay cầm luôn thanh kiếm Ỷ Thiên đâm ra, nhắm ngay ngực Trương Vô Kỵ phóng tới.

Trương Vô Kỵ đâu ngờ rằng nàng lại hạ thủ với mình nên không tránh né, chỉ nháy mắt kiếm đã chạm vào ngực. Chàng giật mình kinh hãi, định tránh qua thì không còn kịp nữa. Chu Chỉ Nhược cổ tay run rẩy, nghĩ thầm: "Chẳng lẽ mình đâm chết chàng thực sao?". Trong cơn hoảng loạn, tay hơi chếch qua, trường kiếm lệch sang một bên, nghe soẹt một tiếng nhỏ, kiếm Ỷ Thiên đã đâm vào ngực bên phải Trương Vô Kỵ.

Chu Chỉ Nhược kinh hoảng kêu lên, vội rút kiếm ra, thấy mũi kiếm đỏ loang, máu từ trên ngực Trương Vô Kỵ vọt ra như suối, bốn bên tiếng xôn xao vang lên. Trương Vô Kỵ giơ tay chặn vết thương, thân hình lảo đảo, thần sắc thật là cổ quái tựa hồ muốn hỏi: "Cô quả thực muốn giết tôi ư?". Chu Chỉ Nhược lắp bắp:

- Tôi... tôi...

Định bước tới xem vết thương cho chàng, nhưng ngần ngừ không dám, sau cùng ôm mặt chạy về. Nàng chỉ một kiếm đã thành công, thật ngoài dự liệu của mọi người. Tiểu Siêu mặt tái nhợt, chen lên đỡ Trương Vô Kỵ luôn mồm gọi:

- Công tử... công tử...

Trương Vô Kỵ nhìn Tiểu Siêu hỏi:

- Cô... cô... cô sao lại muốn giết tôi...

Nhát kiếm đó cũng may lệch qua, không trúng tim, nhưng cũng làm lá phổi bên phải bị thương nặng. Chàng nói mấy tiếng, phổi không hút được hơi vào, khom lưng ho sù sụ. Chàng bị thương nặng rồi, nhìn không phân biệt được Tiểu Siêu và Chu Chỉ Nhược, máu tươi vẫn tiếp tục vọt ra, ướt đẫm cả một nửa áo trên Tiểu Siêu. Người chung quanh không kể là lục đại môn phái, Minh giáo hay Thiên Ưng giáo nhất thời lặng yên không một tiếng động. Trương Vô Kỵ mới rồi liên tiếp đánh bại cao thủ các phái, võ công cao cường, lòng dạ quảng đại, không kể là bạn hay thù, ai nấy đều ngầm kính phục, bây giờ thấy chàng vô cớ bị Chu Chỉ Nhược đâm một kiếm, không khỏi phẫn nộ, thấy Ỷ Thiên kiếm đâm thẳng vào ngực, thương thế cực kỳ nghiêm trọng, đều tự hỏi không biết nhát kiếm có chí mạng không.

Tiểu Siêu đở chàng từ từ ngồi xuống, lớn tiếng hỏi:

- Vị nào có thuốc kim sang tốt không?

Không Tính thần tăng của phái Thiếu Lâm vội vàng bước ra, lấy trong bọc ra một bao thuốc bột, nói:

- Ngọc Linh Tán của tệ phái là thánh dược trị thương.

Ông đưa tay xé luôn áo trước ngực Trương Vô Kỵ, thấy vết thương sâu đến mấy tấc, vội đắp Ngọc Linh Tán vào, nhưng máu vẫn túa ra, trôi hết cả thuốc. Không Tính không biết làm sao, vội hỏi:

- Làm thế nào đây? Làm thế nào đây?

Vợ chồng Hà Thái Xung cực kỳ bồn chồn, hai người nghĩ mình đã uống phải Kim Tàm trùng độc, nếu như người này trọng thương chết đi, hai vợ chồng không còn ai cho thuốc giải, cũng không thể nào sống được. Hà Thái Xung chen đến trước mặt Trương Vô Kỵ, hỏi gấp:

- Kim Tàm trùng độc làm sao giải cứu? Nói mau, nói mau.

Tiểu Siêu khóc nói:

- Cút ra. Ông hối cái gì? Trương công tử nếu không sống được, mọi người đều chết hết.

Nếu như bình thời, thân phận cao quí như Hà Thái Xung, đâu có để cho một tiểu tì áo xanh la lối như thế. Thế nhưng lúc này tình hình gấp gáp, y vẫn liên tiếp hỏi gặng:

- Kim Tàm trùng độc làm sao giải cứu?

Không Tính cáu quá quát lên:

- Thiết Cầm tiên sinh, nếu ông không đứng tránh ra, lão nạp sẽ chẳng nể nang gì đâu nhé.

Ngay lúc đó, Trương Vô Kỵ mở mắt ra, hơi suy nghĩ, giơ ngón trỏ tay trái điểm luôn bảy nơi huyệt đạo chung quanh vết thương, máu liền chảy chậm lại. Không Tính mừng quá, lập tức đắp luôn Ngọc Linh Tán lên. Tiểu Siêu xé vạt áo, giúp chàng buộc chặt vết thương, thấy Trương Vô Kỵ mặt trắng bệch, không còn chút huyết sắc nào, trong lòng vừa bồn chồn, vừa lo sợ.

Trương Vô Kỵ lúc này thần trí đã hơi tỉnh táo, ám vận nội tức lưu chuyển, thấy chân khí đi đến ngực bên phải thì bị chặn lại, nghĩ thầm: "Ta còn một hơi thở, quyết không để cho lục đại phái giết một người của Minh giáo". Chàng liền đem chân khí vận chuyển qua bên trái ngực và bụng vài lần, từ từ đứng lên, nói:

- Phái Nga Mi, phái Võ Đương nếu còn vị nào không phục tại hạ dàn xếp, xin mời bước ra tỉ thí.

Chàng nói câu đó, mọi người ai nấy đều kinh hãi, thấy Chu Chỉ Nhược đâm một kiếm lợi hại như thế, vậy mà vẫn dám mở mồm khiêu chiến. Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

- Phái Nga Mi hôm nay thì đã thua rồi, nếu ngươi không chết, ngày sau thể nào cũng có dịp thanh toán. Chúng ta nay chỉ còn trông vào phái Võ Đương. Công việc này thành hay bại, đều do phái Võ Đương lo liệu cả.

Sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Đính, năm phái Không Động, Thiếu Lâm, Hoa Sơn, Côn Lôn, Nga Mi đều đã thua Trương Vô Kỵ rồi, chỉ còn một phái Võ Đương chưa từng giao thủ với chàng. Lúc này chàng đã bị kiếm thương, mười phần chết, một phần sống, không nói gì một cao thủ hạng nhất mà chỉ cần vài người thường đến gây rối, chàng cũng chịu không nổi, thậm chí không cần phải ai ra tay, đợi một lát có thể cũng lăn ra chết rồi. Võ Đương ngũ hiệp bất cứ người nào tiến lên, không phải phí sức cũng có thể giết được chàng, sau đó cứ theo kế sách đã vạch ra mà tru diệt Minh giáo.

Mọi người đều nghĩ thầm, phái Võ Đương từ trước đến nay vốn rất trọng hai chữ "hiệp nghĩa", nếu muốn họ ra tay đối phó với một thanh niên đang bị thương nặng ắt thanh danh sẽ bị tổn hại rất lớn, e rằng Võ Đương ngũ hiệp không ai đứng ra đâu. Thế nhưng nếu như phái Võ Đương không chịu ra tay, không lẽ việc "lục đại phái vi công Quang Minh Đính" vang rền võ lâm kia lại cụp đuôi ra về? Như thế thì từ nay trở về sau, sáu đại môn phái còn mặt mũi nào trong giang hồ nữa? Sự chọn lựa quả thực là khó khăn biết bao. Câu nói đó của Diệt Tuyệt sư thái, ý nói hôm nay vinh nhục của sáu đại môn phái, toàn do phái Võ Đương quyết định cả, xem phái Võ Đương có ai dám vì bảo toàn đại cục mà hi sinh thanh danh cá nhân không?

Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình, Mạc Thanh Cốc năm người nhìn nhau, mặt mày đăm chiêu, không ai dám có chủ ý. Tống Thanh Thư đột nhiên nói:

- Thưa cha, thưa bốn vị sư thúc, để hài nhi ra lo liệu y cho.

Võ Đương ngũ hiệp hiểu ngay ý của Tống Thanh Thư, y là hậu bối của phái Võ Đương, nếu có ra tay cũng không làm tổn thương anh danh của ngũ hiệp. Du Liên Châu nói:

- Không được. Chúng ta để cháu ra tay, có khác gì chính chúng ta ra tay đâu.

Trương Tùng Khê nói:

- Nhị ca, cứ ý kiến của đệ, đại cục là nặng mà tên tuổi năm anh em mình là nhẹ.

Mạc Thanh Cốc nói:

- Tên tuổi chỉ là vật ngoại thân, có điều đối phó với một thanh niên trọng thương như thế, lương tâm mình không an.

Nhất thời bàn cãi không quyết định được, mọi người đưa mắt nhìn Tống Viễn Kiều, chờ ý kiến của ông ta. Tống Viễn Kiều thấy Ân Lê Đình trước sau không nói nột lời, nhưng trên mặt đầy vẻ phẫn nộ, biết rằng người vợ chưa cưới là Kỷ Hiểu Phù bị thất thân vì Dương Tiêu của Minh giáo, khiến cho phải chết, là một đại hận, đại sỉ trong đời, nếu không giết tận Minh giáo, quét sạch gian ác dâm đồ thì làm sao tiêu tan được nỗi niềm đó, nên chậm rãi nói:

- Ma giáo tác ác biết bao nhiêu, trừ ác phải trừ cho hết, chính là đại tiết của đạo hiệp nghĩa. Thanh danh dĩ nhiên quan trọng rồi, nhưng trước mắt không thể vẹn được cả hai, thành thử chỉ giữ được cái lớn. Thanh Thư, con cẩn thận.

Tống Thanh Thư khom lưng đáp: "Vâng" đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ, lớn tiếng nói:

- Tăng thiếu hiệp, nếu thiếu hiệp không phải là người trong Minh giáo, vậy thì cứ tự tiện đi khỏi, xuống núi tìm cách dưỡng thương. Lục đại phái chỉ tru diệt tà đồ ma giáo, không liên can gì đến người khác.

Trương Vô Kỵ tay trái giữ vết thương trên ngực, nói:

- Đại trượng phu đứng ra lo chuyện khó cho người, đến chết mới thôi. Đa tạ... đa tạ hảo ý của Tống huynh, có điều tại hạ... tại hạ quyết cùng với Minh giáo sống cùng sống chết cùng chết.

Người trong Minh giáo và Thiên Ưng giáo xôn xao lớn tiếng kêu lên:

- Tăng thiếu hiệp, thiếu hiệp đối với chúng tôi như thế là hết lòng hết dạ rồi, anh em chúng tôi cảm kích vô cùng. Đến nước này, không cần phải tái đấu nữa.

Ân Thiên Chính loạng choạng bước đến gần, nói:

- Họ Tống kia, để lão phu tiếp cao chiêu của ngươi.

Nào ngờ hơi thở đứt quãng, đầu gối nhũn xuống, ngã phịch trên mặt đất. Tống Thanh Thư nhìn Trương Vô Kỵ nói:

- Tăng huynh, nếu đã như thế, tiểu đệ chỉ vì đại cục, đành phải đắc tội.

Tiểu Siêu chặn ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, kêu lên:

- Vậy ngươi giết ta trước đi rồi hãy tính.

Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Tiểu Siêu, sao cô đối với tôi tốt quá như thế?

Tiểu Siêu nghẹn ngào đáp:

- Chỉ vì... chỉ vì công tử đối với tôi thật tốt.

Trương Vô Kỵ chăm chăm nhìn nàng giây lát, nghĩ thầm: "Nếu như mình có chết ngay bây giờ, cũng có một người tri kỷ đối với mình thật hết lòng hết dạ".

Tống Thanh Thư quay sang quát Tiểu Siêu:

- Ngươi mau cút ra chỗ khác.

Trương Vô Kỵ nói:

- Sao ngươi đối với vị tiểu cô nương này hung hăng hò hét, thật là vô lễ.

Tống Thanh Thư giơ tay xô vào vai Tiểu Siêu một cái, đẩy nàng ra mấy bước, nói:

- Yêu nữ, tà nam, có ra quái gì đâu. Mau đứng dậy, đỡ chiêu của ta.

Trương Vô Kỵ nói:

- Lệnh tôn Tống đại hiệp là người khiêm khiêm quân tử, thiên hạ không ai không phục. Các hạ lại thô bạo như thế, cùng ngươi động thủ, chắc chẳng cần... chắc chẳng cần đứng lên đâu.

Kỳ thực chàng không vận nổi kình lực, biết mình không sao đứng lên được. Trương Vô Kỵ sau khi bị thương, mất hết hơi sức, ai ai cũng đều biết cả. Du Liên Châu lớn tiếng nói:

- Thanh Thư, điểm huyệt để y không cử động được là đủ, không cần phải giết hắn ta làm gì.

Tống Thanh Thư đáp:

- Vâng.

Tay trái khoát lên lấy đà, tay phải tung ra nhắm ngay đầu vai Trương Vô Kỵ điểm tới. Trương Vô Kỵ ngồi yên, đợi ngón tay y điểm tới huyệt Kiên Trinh, mới dẫn nội lực đi lên, đẩy chỉ lực của y bật ra ngoài. Một chỉ đó của Tống Thanh Thư tưởng như đâm vào nước, không thấy một chút lực khí nào, vì bất ngờ không dự liệu, nên thân hình bổ nhào tới trước, suýt nữa ngã đè lên Trương Vô Kỵ, vội vàng gượng lại, nhưng cũng không khỏi luống cuống.

Y định thần, đá chân phải lên, nhằm ngay ngực Trương Vô Kỵ đạp tới, ngọn cước đó sử dụng đến sáu, bảy thành công lực. Tuy Du Liên Châu bảo y không nên giết Trương Vô Kỵ, nhưng không hiểu vì sao, trong lòng y đối với thanh niên này đầy thù hận, chẳng phải vì đã mắng y là thô bạo, mà chính vì Chu Chỉ Nhược nhìn chàng bằng cặp mắt đầy trìu mến, thiết tha, tuy sau vâng lệnh thầy đâm chàng một kiếm nhưng sắc mặt thật đau khổ, rõ ràng trong lòng hết sức xót xa.

Tống Thanh Thư từ khi gặp Chu Chỉ Nhược, mắt như dán vào người nàng, tuy đã hết sức tự chế, không dám nhìn lâu, để người khác khỏi coi y là người khinh bạc, nhưng nhất cử nhất động của nàng, dù khi nhíu mày, khi cười nụ, đều không qua khỏi mắt y, trong lòng chua chát nghĩ thầm: "Sau khi nàng đâm y một kiếm rồi, dù y chết hay y sống, kể từ nay trong lòng nàng sẽ không thể nào quên y được nữa". Y biết rằng nếu như y đánh chết Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược sẽ cực kỳ oán hận, thế nhưng lửa ghen bốc lên, y không thể nào bỏ qua cơ hội hiếm có này để giết kẻ thù. Tống Thanh Thư văn võ song toàn, lại là nhân vật xuất quần bạt tụy trong đám đệ tử đời thứ ba của phái Võ Đương, vốn xưa nay chính trực trọng nghĩa, thế nhưng khi vướng vào cái cửa "tình" này, bụng dạ không còn an bình được nữa.

Mọi người thấy Tống Thanh Thư đá cú ấy, nếu Trương Vô Kỵ không nhảy ra ngoài tránh thì cũng phải giơ tay lên đỡ, thế nhưng chàng gượng ngồi cũng đã cực kỳ khó khăn, xem ra cú đá này thể nào cũng khiến chàng táng mạng. Vừa thấy năm ngón chân chạm vào ngực, năm ngón tay của Trương Vô Kỵ liền phẩy nhẹ, chân Tống Thanh Thư lập tức chuyển hướng, đâm xéo xuống bên cạnh người, chỉ cách Vô Kỵ chừng ba tấc, cú đá đó hóa ra đá vào chỗ không.

Tống Thanh Thư không cách nào có thể thu chân về, liền tiện đà bước tới một bước, gót chân trái nhắm ngay lưng Trương Vô Kỵ đạp trở lại, chiêu đó vừa nhanh lại vừa ác liệt, là một chiêu số cực kỳ cao minh khó ai liệu nổi. Thế nhưng mấy ngón tay của Trương Vô Kỵ lại phất nhẹ, lập tức đẩy ngay gót chân y ra ngoài.

Ba chiêu qua, những người chung quanh ai nấy đều lạ lùng. Tống Viễn Kiều kêu lên:

- Thanh Thư, bản thân y không còn một chút hơi sức nào cả, đây là phép bốn lượng gạt nghìn cân đấy thôi.

Ông nhãn quang già dặn, nhìn thấy Trương Vô Kỵ hoàn toàn mất hết kình lực, công phu sử dụng có vẻ quái dị, nhưng căn bản cũng không ngoài phương pháp mượn sức đánh sức trong võ học.

Tống Thanh Thư được cha lên tiếng chỉ bảo, chiêu số liền biến đổi, hai tay nhẹ nhàng phiêu phiêu, khi có khi không đánh ra, chính là Miên Chưởng, một trong những tuyệt học của phái Võ Đương. Tá lực đả lực chính là căn bản võ công của phái Võ Đương nên Miên Chưởng y sử dụng lúc có lúc không chính là để đối phương không có cách nào mượn sức. Thế nhưng Trương Vô Kỵ đã luyện đến Càn Khôn Đại Na Di thần công cấp thứ bảy, Miên Chưởng tuy nhẹ nhàng nhưng vẫn hữu hình hữu kình, tay trái chàng chặn vết thương trên ngực, năm ngón tay phải tưởng như gảy đàn, lúc khẩy lúc xoay, khi búng khi gạt, nửa thân trên hoàn toàn bất động, trong giây lát đã hoàn toàn hóa giải ba mươi sáu chiêu Miên Chưởng của Tống Thanh Thư.

Tống Thanh Thư hết sức kinh hãi, ngẫu nhiên quay đầu, chạm phải ánh mắt Chu Chỉ Nhược, thấy nàng mặt đầy vẻ lo âu, cảm thấy vừa cay cú vừa tức bực, biết nàng quan thiết không phải cho mình, lập tức hít một hơi dài, tay trái giơ ra tát mạnh mào má Trương Vô Kỵ, tay phải giơ chỉ điểm vào huyệt Khuyết Bồn trên đầu vai trái. Chiêu đó có tên là Hoa Khai Tịnh Đế, tên dễ nghe như vậy nhưng chiêu số cực kỳ lợi hại, hai tay đánh xong rồi, lập tức tay phải biến thành tát, tay trái biến thành chỉ điểm vào huyệt Khuyết Bồn của vai bên phải. Cả hai chiêu Hoa Khai Tịnh Đế liền lạc thành một, liên tiếp bốn thức đánh ra, tưởng như gió táp mưa sa, thế đạo cực kỳ mãnh liệt, thủ pháp nhanh nhẹn cấp kỳ, quả thật ghê gớm không thể tả. Mọi người trông thấy tình hình như thế ai nấy hoảng hốt kêu lên, không hẹn mà cùng tiến lên một bước.

Chỉ nghe bốp bốp hai tiếng thật dòn, chưởng trái của Tống Thanh Thư đánh luôn vào má trái của mình, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn vào huyệt Khuyết Bồn trên đầu vai trái, tiếp theo chưởng phải đánh luôn vào má bên phải, tay trái lại điểm luôn vào huyệt Khuyết Bồn bên phải. Bốn thức của chiêu Hoa Khai Tịnh Đế Tống Thanh Thư đánh ra đều trúng cả, nhưng bị Trương Vô Kỵ dùng Càn Khôn Đại Na Di công phu đẩy ngược lại chính mình. Nếu y đánh ra chậm đi một tí, thì khi huyệt Khuyết Bồn trên vai phải của mình bị điểm rồi, hai chiêu sau không có lực đánh ra, nhưng vì bốn thức liên hoàn, cực kỳ nhanh nhẹn, huyệt bên vai trái tuy đã bị điểm rồi, cánh tay vẫn chưa kịp tê, đến khi sử xong nửa sau của chiêu Hoa Khai Tịnh Đế rồi, bấy giờ chân tay mới nhũn ra, bình một tiếng ngã ngửa, vùng vẫy một hồi mới đứng lên được.

Tống Viễn Kiều lập tức lao vụt ra, tay trái nắn mấy cái, giải khai huyệt đạo cho con. Chỉ thấy hai bên má y sưng vù, mỗi bên hằn vết năm ngón tay tím bầm, biết y bị thương tuy nhẹ nhưng Tống Thanh Thư tâm cao khí ngạo, hôm nay bị nhục trước mặt mọi người, so với giết y đi còn dễ chịu hơn, thành thử không nói một lời, dắt tay con trở về bản phái.

Bấy giờ bốn bên tiếng hoan hô nổi lên, kẻ đứng lên, người ngồi xuống, bàn tán khen ngợi xôn xao, nghe ù cả tai. Đột nhiên Trương Vô Kỵ há hốc mồm, ọc ra một ngụm máu tươi, tay chặn ngực ho lên sù sụ. Mọi người chăm chăm nhìn chàng, hết sức lo lắng, nghĩ thầm: "Y sau khi bị thương nặng rồi còn phải cố gắng chống đỡ thế tấn công như bão táp của Tống Thanh Thư, tuy đắc thắng, nhưng nội lực tiêu hao rất nhiều". Có người nhìn chàng, rồi lại nhìn phái Võ Đương, không biết đã chịu thua chưa, hay vẫn cử người khác ra đấu tiếp.

Tống Viễn Kiều nói:

- Việc ngày hôm nay, phái Võ Đương cũng đã tận lực rồi, chắc rằng ma giáo khí số chưa dứt, nên trời mới sai một thanh niên kỳ quái xuống đây. Nếu còn tiếp tục đấu dây dưa mãi, danh môn chính phái và ma giáo có khác gì nhau?

Du Liên Châu nói:

- Đại ca nói đúng lắm. Bọn ta hôm nay lập tức quay về núi, xin sư phụ chỉ điểm thêm. Ngày sau phái Võ Đương có dịp quay lại, đợi thanh niên này thương thế khỏi rồi, tái quyết thắng phụ.

Mấy câu đó ông nói thật quang minh lỗi lạc, hào khí ngùn ngụt, hôm nay tuy thua, nhưng không tin là phái Võ Đương tài nghệ lại chịu kém người. Trương Tùng Khê và Mạc Thanh Cốc cũng nói:

- Quả đúng như thế.

Bỗng nghe soạt một tiếng, Ân Lê Đình đã rút trường kiếm ra khỏi vỏ, đôi mắt rưng rưng, hung hăng tiến tới, mũi kiếm chỉ vào Trương Vô Kỵ, nói:

- Họ Tăng kia, ta và ngươi vô oán vô cừu, nếu bây giờ ra tay giết ngươi, Ân Lê Đình này không đáng xưng là "hiệp nghĩa". Thế nhưng Dương Tiêu và ta thù sâu như bể, ta không giết y không xong, ngươi đứng tránh ra.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Vãn bối còn một hơi thở, quyết không để ai giết một người nào của Minh giáo.

Ân Lê Đình nói:

- Nếu thế ta phải giết ngươi trước.

Trương Vô Kỵ lại hộc ra một ngụm máu, thần trí hôn mê, tâm tình khích động, thều thào nói:

- Ân lục thúc, lục thúc giết cháu đi.

Ân Lê Đình nghe thấy ba tiếng "Ân lục thúc" giọng điệu cực kỳ quen thuộc, trong đầu chợt lóe lên: "Vô Kỵ khi còn bé vẫn thường gọi ta như thế, thanh niên này...". Ông chăm chăm nhìn chàng, càng nhìn càng thấy giống, tuy xa cách đã chín năm, Trương Vô Kỵ từ một đứa bé nay thành một thanh niên tráng kiện, tướng mạo đã thay đổi rất nhiều, nhưng trong lòng Ân Lê Đình đã nghĩ rằng "không lẽ đây là cháu Vô Kỵ", nên khi nhìn kỹ, từng điểm từng điểm khuôn mặt xưa kia của Vô Kỵ hiện ra, giật mình run run kêu lên:

- Ngươi... ngươi là Vô Kỵ đấy ư?

Trương Vô Kỵ toàn thân không còn một chút khí lực, biết mình sắp chết đến nơi, không còn gì để phải dấu diếm, kêu lên:

- Ân lục thúc, cháu... cháu lúc nào cũng... nhớ tới chú.

Ân Lê Đình nước mắt ròng ròng, nghe keng một tiếng ném luôn thanh kiếm, cúi xuống bế ngay chàng lên, kêu lớn:

- Ngươi là Vô Kỵ, ngươi là cháu Vô Kỵ, ngươi là thằng cháu con của ngũ ca Trương Vô Kỵ.

Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc bốn người lập tức vây quanh, vừa mừng vừa sợ. Trong giây lát ai nấy đều hết sức hoan hỉ, bao nhiêu thù hận tranh chấp của sáu đại môn phái và Minh giáo đều biến mất. Tiếng kêu của Ân Lê Đình, trừ vợ chồng Hà Thái Xung, Chu Chỉ Nhược, Dương Tiêu vài người, những người khác ai nấy đều kinh ngạc, ai dám ngờ kẻ xả mệnh cứu Minh giáo kia lại chính là con trai của Trương Thúy Sơn phái Võ Đương.

Ân Lê Đình thấy Trương Vô Kỵ đã ngất đi, vội vàng lấy ra một viên Thiên Vương Hộ Tâm Đơn nhét vào miệng chàng, đưa cho Du Liên Châu bế, nhặt trường kiếm lên, xông đến trước mặt Dương Tiêu, chỉ vào mặt mắng:

- Họ Dương kia, ngươi là một dâm đồ không bằng loài cầm thú, ta... ta...

Chàng nghẹn lời, không chửi thêm được nữa, trường kiếm vung ra, định đâm vào ngực Dương Tiêu. Dương Tiêu không thể cử động được, mỉm cười, nhắm mắt chờ chết. Đột nhiên bên cạnh một thiếu nữ chạy vụt ra, chắn ngay trước mặt Dương Tiêu, kêu lên:

- Đừng giết cha tôi.

Ân Lê Đình ngừng kiếm lại không đâm tới, nhìn kỹ, đột nhiên "A" lên một tiếng, toàn thân run rẩy, thấy cô gái nọ thân hình mảnh mai, mắt to mày dài, chính là Kỷ Hiểu Phù chứ ai đâu.

Hồi 22

QUẦN HÙNG QUI TÂM ƯỚC TAM CHƯƠNG--

Từ khi chàng dự tính kết thân với Kỷ Hiểu Phù, mỗi khi luyện võ có chút thì giờ thong thả, trong đầu lại êm đềm tơ tưởng đến hình ảnh yêu kiều của người vị hôn thê. Về sau khi nghe tin nàng bị Dương Tiêu bắt cóc, thất thân cùng y, lại vì đó mà táng mạng, trong lòng phẫn uất không nói cùng ai được; bây giờ đột nhiên gặp lại nàng, thân hình loạng choạng, kêu lên thất thanh:

- Hiểu Phù muội tử, em... em...

Người con gái đó chính là Dương Bất Hối, nói:

- Tôi họ Dương, Kỷ Hiểu Phù là mẹ tôi, bà ấy chết lâu rồi.

Ân Lê Đình sững sờ, bấy giờ mới hiểu, lẩm bẩm:

- Ừ, đúng rồi, tôi thật hồ đồ. Cô tránh ra, hôm nay tôi vì mẹ cô mà báo thù rửa hận.

Dương Bất Hối chỉ Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Hay lắm! Ân thúc thúc, chú lại giết lão tặc ni kia đi.

Ân Lê Đình lắp bắp:

- Sao... sao lại thế?

Dương Bất Hối đáp:

- Mẹ tôi bị lão tặc ni đánh một chưởng chết đó.

Ân Lê Đình nói:

- Nói nhăng nói cuội nào. Cô là trẻ con biết gì đâu?

Dương Bất Hối lạnh lùng đáp:

- Hôm xưa ở Hồ Điệp Cốc, lão tặc ni sai mẹ tôi đi giết cha tôi, mẹ tôi không chịu, lão tặc ni liền đánh chết mẹ tôi. Chính mắt tôi trông thấy, Vô Kỵ ca ca cũng trông thấy. Nếu chú không tin, sao không tự mình lại hỏi lão tặc ni thử xem.

Khi Kỷ Hiểu Phù chết, Dương Bất Hối còn nhỏ không hiểu chuyện gì, nhưng về sau lớn lên, nghĩ lại tự nhiên hiểu được chuyện năm xưa. Ân Lê Đình quay đầu lại, nhìn Diệt Tuyệt sư thái, nét mặt ngờ vực, ấp úng hỏi:

- Sư thái... cô ta nói... Kỷ cô nương bị...

Diệt Tuyệt sư thái giọng khàn khàn đáp:

- Đúng vậy, thứ nghiệt đồ vô liêm sỉ đó, để sống trên đời này làm gì? Nó với Dương Tiêu hai người tình ý với nhau, phản bội sư môn, không nghe lệnh thầy đi giết tên dâm đồ ác tặc. Ân lục hiệp, vì muốn giữ thể diện cho lục hiệp, ta trước sau cố nhịn không nói ra. Hừ, thứ con gái vô sỉ đó, sao lục hiệp vẫn canh cánh không quên là sao?

Ân Lê Đình mặt tái đi, lớn tiếng kêu:

- Ta không tin, ta không tin.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Ông hỏi con bé kia xem, tên nó là gì?

Mắt Ân Lê Đình chuyển qua nhìn Dương Bất Hối, nước mắt chan hòa, mông lung chỉ thấy Kỷ Hiểu Phù, tai nghe rõ ràng tiếng nàng nói:

- Tôi tên Dương Bất Hối. Mẹ tôi bảo rằng, chuyện này mẹ tôi không bao giờ hối hận cả.

Keng một tiếng, Ân Lê Đình ném trường kiếm xuống đất, quay người lại, hai tay ôm mặt chạy xuống núi. Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu cùng gọi:

- Lục đệ, lục đệ.

Thế nhưng Ân Lê Đình không trả lời, cũng chẳng quay đầu, đề khí chạy thật nhanh, bỗng nhiên xẩy chân vấp một cái, lại đứng dậy, chỉ giây lát không còn thấy bóng dáng đâu nữa.

Chuyện của chàng và Kỷ Hiểu Phù mọi người ai cũng nghe qua, biết đến, thấy việc đã hơn mười năm mà vẫn còn thương tâm như vậy, không khỏi đau lòng dùm, võ công như Ân lục hiệp của phái Võ Đương, lẽ nào lại chạy có thể vấp được? Chẳng qua chỉ vì ý loạn tình mê, mất hồn mất vía mà ra cớ sự.

Bấy giờ Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc bốn người ngồi bốn phía, mỗi người giơ một chưởng ra, đè lên bụng ngực, lưng eo bốn nơi đại huyệt của Trương Vô Kỵ vận nội công giúp chàng trị thương. Bốn người vừa nhả nội lực, thấy trong thân thể chàng có một sức hút rất mạnh, cuồn cuộn tuôn ra. Bốn người kinh hãi, nghĩ thầm nếu cứ tiếp tục bị hút như thế, chỉ trong một hai giờ, không ai còn chút nội lực nào nữa. Thế nhưng chưa biết chàng sống chết ra sao, biết làm thế nào cho phải? Còn đang phân vân, Trương Vô Kỵ từ từ mở mắt ra, kêu "A" lên một tiếng. Cả bọn Tống Viễn Kiều thấy giật một cái, lòng bàn tay có một luồng hơi ấm, chính là Cửu Dương thần công của chàng đang truyền ngược lại cho bốn người.

Tống Viễn Kiều kêu lên:

- Không được đâu, cháu tĩnh dưỡng cho mình cần hơn.

Bốn người vội rụt tay về đứng lên, thấy như có một dòng suối chạy quanh cơ thể, khoan khoái vô cùng, hiển nhiên không những chàng đã trả lại nội lực đã mượn, mà chân khí Cửu Dương còn tuôn vào, tăng cường nội lực cho họ nữa. Cả bọn ngơ ngác đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc thầm, thấy chàng bị thương tưởng chết, không ngờ nội lực vẫn còn hồn hậu mạnh mẽ đến thế.

Đến lúc này, Trương Vô Kỵ ngoại thương tuy nặng, nội tức đã lưu chuyển như thường, từ từ đứng lên, nói:

- Tống đại bá, Du nhị bá, Trương tứ bá, Mạc thất thúc, xin tha cho điệt nhi tội vô lễ. Chẳng hay thái sư phụ lão nhân gia phúc thể có an khang chăng?

Du Liên Châu đáp:

- Sư phụ lão nhân gia vẫn mạnh khỏe. Vô Kỵ, cháu... cháu... lớn quá rồi...

Nói đến đây, trong đầu tuy có trăm nghìn điều muốn nói, nhưng nghẹn ngào không nên lời, chỉ nở một nụ cười, nước mắt long lanh chạy quanh.

Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính thấy đại ân nhân cứu mạng cho mình lại chính là đứa cháu ngoại, cao hứng quá cười lên ha hả, nhưng vẫn không cách nào đứng lên được. Diệt Tuyệt sư thái mặt tím ngắt, phất tay một cái, lập tức dẫn quần đệ tử phái Nga Mi xuống núi.

Chu Chỉ Nhược cúi đầu đi mấy bước, sau cùng không nhịn nổi phải liếc Trương Vô Kỵ một cái. Trương Vô Kỵ lúc ấy cũng nhìn theo tiễn nàng, ánh mắt hai người gặp nhau, đôi má trắng bệch của Chu Chỉ Nhược liền đỏ bừng lên, nhãn quang dường như muốn nói: "Em đâm chàng một kiếm bị thương nặng như thế, thật đáng tội biết bao nhiêu, chàng cố gắng bảo trọng thân thể". Trương Vô Kỵ dường như cũng hiểu ý nàng, nhè nhẹ gật đầu. Chu Chỉ Nhược lập tức mặt mày sáng rỡ, thần thái phi dương, vội quay lại rảo bước ra đi.

Phái Võ Đương và Trương Vô Kỵ nhận ra nhau rồi, kế đến phái Nga Mi bỏ đi, công việc vi tiễu Minh giáo của lục đại môn phái không nói mà tan. Phái Không Động, phái Hoa Sơn kẻ khiêng người chết, dìu người bị thương cũng lục tục xuống núi.

Hà Thái Xung tiến lên mấy bước, ấp úng nói:

- Tiểu huynh đệ, chúc mừng huynh đệ và người thân gặp lại a...

Trương Vô Kỵ không đợi ông ta nói hết câu, móc trong túi ra hai viên thuốc trừ lam sơn, chướng khí, khứ uế tầm thường, đưa cho ông ta, dặn:

- Xin hiền phu phụ mỗi người uống một viên, Kim Tàm trùng độc sẽ tiêu giải.

Hà Thái Xung nhận hai viên thuốc, chỉ thấy màu đen xì chẳng đẹp chút nào, không tin rằng có thể tiêu trừ được thiên hạ chí độc Kim Tàm trùng. Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ đã nói tiêu giải được, thì tiêu giải được.

Tiếng nói của chàng tuy còn yếu ớt, nhưng trận chiến trên đỉnh Quang Minh trấn nhiếp cả sáu môn phái, trong khí độ đó tự nhiên giọng nói có một vẻ uy nghiêm, khiến Hà Thái Xung không thể không tin. Y nghĩ thầm: "Nếu y nói láo, thuốc này không tiêu giải được trùng độc thì có Võ Đương tứ hiệp ở đây, cũng không thể nào ép y cho mình thuốc thật được. Huống chi thêm lão trọc Không Tính của phái Thiếu Lâm lại có vẻ như bênh gã này, hôm nay chỉ đành chịu vậy biết sao hơn". Nghĩ thế đành cười gượng nói:

- Cám ơn.

Chia cho Ban Thục Nhàn mỗi người uống một viên, chỉ huy môn nhân đệ tử thu thập người chết, cáo từ hạ sơn.

Du Liên Châu nói:

- Vô Kỵ, cháu bị thương nặng không thể xuống núi, tốt hơn hết là ở đây điều dưỡng, bọn ta không thể ở lại với cháu được. Bao giờ khỏi rồi thì đi về núi Võ Đương một chuyến, để sư phụ gặp lại cháu cho người được vui.

Trương Vô Kỵ nuốt nước mắt gật đầu. Mỗi người có biết bao nhiêu chuyện cần hỏi, bao nhiêu điều cần nói, nhưng thấy chàng thần tình ủ rũ, biết rằng nói thêm một câu chỉ làm thương thế chàng nặng thêm một chút, nên đành nhịn không ai mở lời.

Bỗng nghe từ phái Thiếu Lâm có người lớn tiếng kêu lên:

- Thi thể Viên Chân sư huynh đâu mất rồi?

Lại có người tiếp theo:

- Lạ nhỉ, sao không thấy pháp thể Viên Chân sư bá đâu?

Mạc Thanh Cốc cảm thấy lạ lùng, bước qua xem thử, thấy bảy tám xác nhà sư chết trong khi giao chiến thu thập tại đó, quả nhiên không thấy Viên Chân đâu. Viên Âm chỉ vào giáo chúng Minh giáo, lớn tiếng quát:

- - Mau đem pháp thể Viên Chân sư huynh giao ra ngay, nếu không hòa thượng này nổi khùng lên, cho một mồi lửa thì chúng bay thành tro hết.

Chu Điên cười:

- Ha ha, ha ha! Thật là tức cười quá đỗi. Đến thằng trọc sống là ngươi bọn ta chẳng cần, thì lấy hòa thượng chết để làm gì? Chẳng lẽ làm như con lợn con dê, mổ ra lấy xương gặm hay sao?

Người của phái Thiếu Lâm nghĩ cũng phải, hơn một chục nhà sư liền tản ra tìm kiếm nhưng không ai thấy thi thể Viên Chân đâu. Mọi người tuy lạ lùng, nhưng chắc có lẽ phái Hoa Sơn, Không Động khi thu thập đệ tử bản môn đã lấy nhầm xác Viên Chân, nên cũng không kiếm thêm nữa.

Sau đó hai phái Võ Đương, Thiếu Lâm lần lượt xuống núi. Trương Vô Kỵ tiến lên mấy bước, khom lưng tiễn đưa. Tống Viễn Kiều nói:

- Vô Kỵ hài nhi, cuộc chiến hôm nay, tên tuổi con đã vang khắp thiên hạ, đối với Minh giáo ân trọng như sơn. Cháu từ nay nên khuyên răn dẫn dắt, làm sao cho Minh giáo cải tà qui chính, bớt làm điều xằng bậy.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hài tử xin ghi nhớ lời giáo huấn của sư bá, sẽ hết sức để làm chuyện ấy.

Trương Tùng Khê nói:

- Con phải hết sức cẩn thận, mọi việc đề phòng tiểu nhân gian ác.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Xin vâng.

Chàng và Võ Đương tứ hiệp xa cách lâu ngày, nay mới gặp lại chia tay ngay, năm người ai nấy lưu luyến không muốn rời.

Dương Tiêu và Ân Thiên Chính đợi cho mọi người của sáu môn phái đi rồi, đưa mắt nhìn nhau, cùng nói:

- Toàn thể giáo chúng Minh giáo và Thiên Ưng giáo, rập đầu tạ ơn Trương đại hiệp hộ giáo cứu mạng.

Chỉ trong khoảnh khắc, toàn thể mọi người cùng quì xuống đầy cả mặt đất. Trương Vô Kỵ thấy thế chân tay quýnh quáng, huống chi trong đó lại có cả ông ngoại và cậu mình, vội vàng quì xuống hoàn lễ. Chàng hành động gấp gáp, vết thương trên ngực lại bung ra, miệng phun ra mấy ngụm máu, lập tức ngất đi.

Tiểu Siêu vội tiến lên đỡ dậy. Hai đầu mục không bị thương trong số giáo chúng liền mang lên một cái giường vải, để chàng nằm lên. Dương Tiêu nói:

- Mau đưa Trương đại hiệp vào phòng ta tĩnh dưỡng.

Hai tên đầu mục khom lưng vâng lệnh, đưa Trương Vô Kỵ vào phòng của Dương Tiêu. Tiểu Siêu lẽo đẽo theo sau, khi qua trước mặt Dương Bất Hối, Dương Bất Hối lạnh lùng nói:

- Tiểu Siêu, ngươi giả vờ thật khéo. Ta đã biết ngươi có điều gì khác lạ, chỉ không ngờ một người xấu như ma hóa ra lại là một tiểu mỹ nhân thiên kiều bách mị.

Tiểu Siêu cúi đầu không trả lời. Trong mấy ngày liền, giáo chúng Minh giáo lo chuyện ma chay chữa trị, bận rộn đủ mọi chuyện. Qua một trận đại chiến tưởng chừng cả bọn phải bỏ mình, ai nấy đều thấy chuyện tranh giành chém giết nhau trước đây để cho người ngoài khai thác quả là không phải. Ai ai cũng lo cho thương thế của Trương Vô Kỵ, không người nào dám nhắc lại thù xưa, chỉ yên ổn nằm dưỡng thương trên Quang Minh Đính.

Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ đã thành, tuy vết thương có nặng thật, nhưng khi Chu Chỉ Nhược đâm vào lệch qua mấy tấc, chỉ trúng lá phổi mà không trúng tim, thành ra chỉ tĩnh dưỡng bảy tám ngày thì miệng vết kiếm đã dần dần khép lại. Bọn Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc cũng phải nằm trên cáng vải, ngày nào cũng cho người khiêng vào thăm nom, thấy chàng càng ngày càng khá thêm ai nấy đều mừng rỡ.

Đến ngày thứ tám, Trương Vô Kỵ đã ngồi dậy được. Buổi chiều hôm đó, Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu lại đến hỏi thăm, Trương Vô Kỵ hỏi:

- Hai vị từ khi trúng phải Huyễn Âm Chỉ đến giờ, mấy hôm nay thấy sao?

Dương Vi hai người ngày nào cũng bị hàn độc thấu xương dày vò khổ sở, thương thế xem ra mỗi lúc một nặng nhưng sợ chàng lo lắng nên cùng đáp:

- Xem ra đỡ nhiều.

Trương Vô Kỵ thấy hai người mặt xám ngoét, nói năng thều thào yếu ớt nói:

- Nội lực của cháu đã hồi phục được sáu, bảy phần, để cháu thử trị cho hai vị xem sao.

Dương Tiêu vội nói:

- - Chớ, chớ nên! Trương đại hiệp làm gì mà gấp gáp thế? Đợi khi nào quí thể hoàn toàn khỏi hẳn, lúc đó hãy chữa cho chúng tôi cũng không muộn. Bây giờ sử lực quá sớm, vết thương quay trở lại, chúng tôi sao an lòng?

Vi Nhất Tiếu nói:

- Chữa sớm hay muộn đâu phải chỉ vài ngày. Trương đại hiệp tĩnh dưỡng mới là quan trọng.

Trương Vô Kỵ nói:

- Oâng ngoại cháu Ưng Vương, nghĩa phụ cháu Sư Vương đều ngang vai với hai vị, hai vị là bề trên của cháu, nếu còn gọi "đại hiệp" gì gì đó, điệt nhi đâu có dám nhận.

Dương Tiêu mỉm cười nói:

- Sau này chúng tôi đều là thuộc hạ của đại hiệp, ở trước mặt ngài đến ngồi cũng không được ngồi, đâu dám nói chuyện vai trên, vai dưới.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, hỏi lại:

- Dương bá bá nói thế là sao?

Vi Nhất Tiếu đáp:

- Trương đại hiệp, trọng nhiệm giáo chủ Minh giáo, nếu không do ngài đảm trách, thì còn ai vào đây nữa?

Trương Vô Kỵ hoảng hốt xua tay, nói ngay:

- - Ấy chết, chuyện đó không thể được, nhất quyết không thể được.

Ngay lúc đó, từ hướng đông có tiếng còi lanh lảnh chói tai xa xa truyền đến, chính là tín hiệu dưới chân Quang Minh Đính có việc phải báo động. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Không lẽ lục đại môn phái thua nhưng chưa phục, quay lại đánh nữa hay sao?". Thế nhưng mặt hai người vẫn trấn tĩnh như thường, Dương Tiêu hỏi:

- Hôm qua nhân sâm ăn có vừa miệng không? Tiểu Siêu, ngươi trở lại dược thất lấy thêm, sắc cho Trương đại hiệp dùng.

Lại nghe phía tây và phía nam tiếng còi cùng nổi lên, Trương Vô Kỵ hỏi:

- Có ngoại địch đến tấn công ư?

Vi Nhất Tiếu nói:

- Bản giáo và Thiên Ưng giáo không thiếu hảo thủ, Trương đại hiệp không phải quan tâm, vài tên giặc cỏ có đáng gì đâu?

Thế nhưng chỉ trong giây lát, tiếng còi nổi lên càng gần, địch nhân tiến vào thật nhanh, hiển nhiên chẳng phải chỉ là giặc cỏ. Dương Tiêu nói:

- Để tôi ra sắp xếp, Vi huynh ở trong này bồi tiếp Trương đại hiệp. Ha ha, Minh giáo không lẽ tệ hại đến nỗi ai ai cũng có thể khinh khi được hay sao?

Ông ta tuy bị thương nặng không cử động nổi, nhưng trong giọng vẫn đầy hào khí. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Thiếu Lâm, Nga Mi là danh môn chính phái, nhất quyết không thể bất kể tín nghĩa, quay lại báo thù. Kẻ đến đây ắt là bọn gian ác, tàn nhẫn, trên Quang Minh Đính cao thủ đều bị trọng thương, trong bảy tám ngày qua đâu đã ai khỏi, không thể nào chống lại ngoại địch cho nổi, nếu như miễn cưỡng xuất chiến, chỉ uổng mạng mà thôi".

Đột nhiên bên ngoài có bước chân rầm rập, một người chạy vào, mặt đầy máu, trên ngực còn cắm một con dao găm, kêu lên:

- Địch nhân từ ba mặt... đánh lên trên núi... anh em không... không chống nổi...

Vi Nhất Tiếu hỏi lại:

- Địch nhân nào thế?

Người kia chỉ tay ra ngoài, đang định nói gì, bỗng ngã sấp mặt xuống, chết rồi. Lại nghe tiếng còi kêu gọi cứu viện, chỗ này ngừng thì chỗ kia nổi lên, rõ ràng tình hình thật là cấp bách.

Lại có thêm hai người chạy đến, Dương Tiêu nhận ra người đi trước là chưởng kỳ phó sứ Hồng Thủy Kỳ, trên mình đầy máu, mặt mày gớm ghiếc như ma quỉ nhưng vẫn có vẻ trấn tĩnh, hơi cúi mình, bẩm:

- Trương đại hiệp, Dương tả sứ, Vi pháp vương, bên dưới chân núi đến tấn công là nhân vật trong Cự Kình Bang, phái Hải Sa, Thần Quyền Môn các lộ.

Dương Tiêu lông mày nhướng lên, hừ một tiếng nói:

- Mấy tên nhãi nhép đó mà cũng dám coi thường mình sao?

Chưởng kỳ phó sứ đáp:

- Địch nhân vốn không có gì lợi hại, có điều anh em hầu hết đều mang thương tích...

Y nói đến đây, Lãnh Khiêm, Thiết Quan đạo nhân Trương Trung, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc, Chu Điên năm người lục tục do người khiêng đến. Chu Điên hổn hển quát lớn:

- Bọn Cái Bang giỏi thật, dám cấu kết với Tam Môn Bang, Vu Sơn Bang đến đây cháy nhà hôi của, Chu Điên này còn một hơi thở, cùng chúng nó suốt đời không...

Y nói đến đây, hai cha con Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương cũng chống gậy, tiến vào phòng. Ân Thiên Chính nói:

- Vô Kỵ hài nhi, cháu cứ ngủ đi đừng lo gì cả. Con mẹ nó chứ hai cái môn phái bé tí teo là Ngũ Phụng Đao và Đoạn Hồn Thương mà cũng dám coi chúng ta không ra gì ư?

Trong đám ở đây, trong Minh giáo thì Dương Tiêu có địa vị cao nhất, còn Ân Thiên Chính là giáo chủ của Thiên Ưng giáo, Bành Oánh Ngọc là người mưu trí hơn cả, ba người bình sinh gặp không biết bao nhiêu phong ba bão táp, lần nào cũng tùy cơ mà ứng xử, chuyển nguy thành an, thế nhưng trước mặt hãm vào tuyệt cảnh, mọi người ai nấy trọng thương, kẻ địch lại đến đánh, không nói gì những bang hội môn phái khác, riêng Cái Bang vốn là đệ nhất đại bang trên giang hồ, trong bang rất nhiều nhân tài, thanh thế thật không phải nhỏ, xem ra chỉ còn nước bó tay chịu chết. Lúc này ai ai đều coi Trương Vô Kỵ như giáo chủ, không hẹn mà cùng nhìn chàng mong đưa ra kế lạ giải quyết cảnh ngộ khó khăn.

Trương Vô Kỵ trong giờ phút ấy, trong đầu xoay chuyển bao nhiêu ý niệm. Chàng biết rằng tuy võ công so với Dương Tiêu, ông ngoại, Vi Nhất Tiếu mình có giỏi hơn, nhưng kiến thức mưu kế, những cao thủ kia đương nhiên hơn chàng rất nhiều, nếu họ không có kế hay, thì mình làm sao có thể có được biện pháp lạ cho được. Còn đang suy nghĩ, đột nhiên nghĩ ra một chuyện, vội buột miệng nói ngay:

- Bọn mình tạm thời chui xuống bí đạo trốn tránh, địch nhân chưa chắc đã phát giác được, nếu có tìm ra, nhất thời chưa chắc đã đánh vào được.

Chàng nghĩ ra kế đó, tự cảm thấy đây là cách tốt nhất trong lúc này, giọng đầy hào hứng, nào ngờ mọi người ai nấy ngơ ngẩn nhìn nhau, không ai lên tiếng phụ họa, dường như đều cho rằng phương pháp đó không thể nào thi hành được. Trương Vô Kỵ nói:

- Đại trượng phu khi co khi duỗi, bọn mình chỉ tạm thời trốn tránh, đợi khi thương thế khỏi rồi sẽ cùng địch nhân một phen sống mái, cái đó cũng không có gì gọi là mất uy danh.

Dương Tiêu nói:

- Kế của Trương đại hiệp hay lắm.

Oâng ta quay lại nói với Tiểu Siêu:

- Tiểu Siêu, ngươi đỡ Trương đại hiệp vào đường hầm đi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tất cả mình cùng vào.

Dương Tiêu đáp:

- Mời Trương đại hiệp vào trước, chúng tôi sẽ đi sau.

Trương Vô Kỵ nghe giọng điệu của ông ta, biết họ sẽ không đi cùng, chẳng qua nói thế để mình đi đấy thôi, lớn tiếng nói:

- Các vị tiền bối, cháu tuy không phải người trong quí giáo, nhưng đã cùng quí giáo qua chung một phen hoạn nạn, có thể nói l à sinh tử chi giao. Không lẽ cháu lại là người tham sống sợ chết, bỏ các vị lại, một mình mình đi lánh nạn hay sao?

Dương Tiêu đáp:

- Trương đại hiệp có điều chưa hiểu rõ, Minh giáo trước nay truyền lại nghiêm qui, cái bí đạo trên Quang Minh Đính này, ngoại trừ giáo chủ ra, các giáo chúng bản giáo không một ai được vào cả, ai vào thì mang tội chết. Đại hiệp và Tiểu Siêu không thuộc Minh giáo, nên không phải giữ cái qui củ này.

Bấy giờ nghe văng vẳng tiếng kêu la chém giết từ bốn phương tám hướng truyền đến. Cũng may là đường đi trên Quang Minh Đính đều khó khăn, địa thế hiểm trở, chỗ nào cũng có cửa đá, khóa sắt, tuy Minh giáo không chống cự kịch liệt, kẻ đến tấn công cũng không dễ dàng vượt qua được. Lại thêm danh tiếng Minh giáo rất lớn, địch nhân vẫn còn e dè, không dám khinh suất tiến vào. Thế nhưng tiếng kêu la hò hét, xem chừng mỗi lúc một gần thêm. Đột nhiên nghe thấy từ xa vọng về mấy tiếng kêu rống lên khi sắp chết, hiển nhiên giáo chúng Minh giáo đã kiệt lực ngự địch, đến lúc này đang bị chém giết.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Nếu không trốn tránh, chỉ e trong một giờ nữa thôi, Minh giáo trên dưới không còn ai sống sót". Nghĩ thế bèn nói:

- Cái qui củ không được đi vào bí đạo này, không lẽ không thay đổi được hay sao?

Dương Tiêu mặt mày sầu thảm, buồn bã lắc đầu. Bành Oánh Ngọc đột nhiên nói:

- Các vị nghe tôi một lời: Trương đại hiệp võ công cái thế, nghĩa khí ngất trời, có đại ân mất còn sống chết với bản giáo. Chúng ta ủng hộ Trương đại hiệp lên làm giáo chủ đời thứ ba mươi tư của bản giáo. Nếu như giáo chủ ra lệnh, cho phép mọi người tiến nhập bí đạo, lúc đó tất cả chúng ta tuân lệnh giáo chủ, như thế không ai vi phạm giáo qui nữa.

Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu ai ai cũng đã có ý tôn Trương Vô Kỵ lên làm giáo chủ, nay nghe Bành hòa thượng nói thế, đều gật đầu khen hay. Trương Vô Kỵ vội vàng xua tay, nói:

- Tiểu tử tuổi còn nhỏ, kiến thức nông cạn, không tài không đức, đâu có dám đảm đương trách nhiệm lớn lao như thế? Lại thêm thái sư phụ cháu là Trương chân nhân năm xưa đã từng căn dặn, bảo cháu không được gia nhập Minh giáo, tiểu tử đã vâng dạ rồi. Lời của Bành đại sư thật vạn lần không dám.

Ân Thiên Chính nói:

- Ta là ông ngoại của cháu, bảo cháu gia nhập Minh giáo. Dẫu rằng ông ngoại sao thân bằng thái sư phụ được, chung qui thì cũng kẻ tám lạng, người nửa cân, lời của Trương chân nhân và của ta coi như ngang nhau đều không còn gì nữa, cứ xem như chưa ai từng nói gì. Gia nhập hay không gia nhập Minh giáo, toàn do cháu tự quyết định cả.

Ân Dã Vương cũng nói:

- Lại thêm một người cậu nữa không lẽ chẳng thêm một phần phân lượng nào ư? Người đời nói rằng, thấy cậu khác gì thấy mẹ. Mẹ cháu nay không còn nữa, ta có khác gì mẹ cháu đâu.

Trương Vô Kỵ nghe ông ngoại và cậu nói thế, trong lòng khó nghĩ, nói:

- Năm xưa Dương giáo chủ có một di thư, cháu lấy trong đường hầm ra, vốn định khi mọi người bị thương khỏi rồi sẽ đưa cho xem. Dương giáo chủ di mệnh cho nghĩa phụ cháu Kim Mao Sư Vương tạm nhiếp quyền giáo chủ.

Nói xong chàng lấy trong túi ra tờ thư của Dương Đính Thiên, giao lại cho Dương Tiêu. Bành Oánh Ngọc nói:

- Trương đại hiệp, đại trượng phu gặp lúc đại biến, không nề tiểu tiết. Tạ Sư Vương là nghĩa phụ của ngài, cũng có khác gì cha ruột, xưa nay con kế nghiệp cha, Tạ Sư Vương không có ở đây, vậy xin đại hiệp cứ theo di ngôn của Dương giáo chủ, tạm nhiếp chức giáo chủ.

Mọi người cùng nói:

- Nói thế đúng lắm.

Trương Vô Kỵ nghe thấy tiếng chém giết càng gần thêm, trong bụng càng thêm gấp rút, nhất thời không biết tính sao, nghĩ thầm: "Hiện tại chuyện cứu người là quan trọng, chuyện khác tính sau". Chàng bèn lớn tiếng nói:

- Các vị nếu như đã có lòng thương như thế, tiểu tử nếu không vâng lời ắt sẽ thành đại tội nhân của Minh giáo. Tiểu tử Trương Vô Kỵ, tạm nhiếp chức vị giáo chủ Minh giáo, qua khỏi khó khăn hôm nay rồi, lúc ấy xin các vị sẽ tuyển người hiền năng khác.

Mọi người cùng lớn tiếng hoan hô, tuy đại địch đã đến gần, họa như lửa cháy lông mày, nhưng ai nấy đều vui sướng hiện ra nét mặt. Ai nấy nghĩ rằng từ khi tiền giáo chủ Dương Đính Thiên bất ngờ mất đi, không ai thống suất, một đại giáo phái trên giang hồ trở nên tàn sát lẫn nhau, chia năm xẻ bảy. Kẻ gác đi mọi chuyện đứng ngoài cũng có, kẻ tự mình lập thành môn hộ cũng có, kẻ lại làm điều sằng bậy cũng có, khiến cho Minh giáo dần dần suy bại, mọi nguy cơ từ đó mà ra. Hôm nay trùng lập giáo chủ, có hi vọng trung hưng, làm sao mọi người không phấn chấn? Kẻ có thể hành động lập tức quì xuống vái lạy. Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương tuy là người thân thuộc trưởng bối cũng không ngoại lệ.

Trương Vô Kỵ vội vàng quì xuống hoàn lễ, nói:

- Xin các vị đứng lên. Nhờ Dương tả sứ truyền hiệu lệnh xuống: bản giáo từ trên xuống dưới, tất cả thoái nhập bí đạo.

Dương Tiêu đáp:

- Vâng! Cẩn tôn lệnh dụ giáo chủ. Khải bẩm giáo chủ, chúng ta cho Liệt Hỏa Kỳ phóng hỏa ngăn chặn địch, đốt hết phòng xá trên Quang Minh Đính. Địch nhân sẽ tưởng chúng ta bỏ chạy cả rồi, không biết có nên không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Kế này hay lắm, xin Dương tả sứ truyền lệnh cho.

Bụng nghĩ thầm: "Phép này Chu Trường Linh đã từng sử dụng, kế sách vốn dĩ hay, nhưng có điều y dùng để lường gạt ta mà thôi". Dương Tiêu lập tức tuyền hiệu lệnh xuống, triệt hồi giáo chúng đang chống giữ, yêu cầu Hồng Thủy, Liệt Hỏa hai kỳ đoạn hậu, mọi người còn lại, rút lui vào đường hầm. Minh giáo là chủ, Thiên Ưng giáo là khách, nên truyền cho giáo chúng Thiên Ưng giáo rút xuống trước, kế đến là Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, các chức sự nhân viên trên Quang Minh Đính, Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hậu Thổ ba kỳ, Ngũ Tản Nhân và Vi Nhất Tiếu trước sau đi xuống. Sau khi Dương Tiêu và Trương Vô Kỵ rút xuống rồi, Hồng Thủy kỳ mới đi xuống, hai mặt đông tây lửa bốc lên ngất trời.

Lửa càng lúc càng cao, người trong Liệt Hỏa Kỳ tay cầm ống phun, liên tiếp phun thạch du[2] là đặc sản của vùng Tây Vực vào, thạch du gặp lửa bén ngay, bốc lên cực kỳ lợi hại, các môn các phái đến tấn công tuy đông, nhưng đều sợ lửa không dám tiến đến gần, chỉ xa xa vây bốn mặt, không cho người của Minh giáo chạy lọt mà thôi. Người của Liệt Hỏa Kỳ rút vào hầm rồi đóng cửa lại. Chẳng mấy chốc phòng xá đều sụp đổ, bịt chặt luôn cả miệng hầm

Lửa cháy liên tiếp hai ngày hai đêm vẫn chưa tắt hẳn. Quang Minh Đính là tổng đàn của Minh giáo, đã xây đắp hơn một trăm năm qua, mấy trăm căn sảnh đường, nhà cửa cực kỳ tráng lệ nay thành tro cả. Địch nhân đợi lửa tắt rồi, đi đến vùng lửa cháy xem xét, thấy một số lớn giáo đồ Minh giáo chết cháy đã thành than, không còn nhận ra ai với ai, chỉ nghĩ rằng giáo chúng Minh giáo thà chết không hàng, tự đốt mà chết, bọn Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu chắc cũng trong số đó.

Giáo chúng Thiên Ưng giáo và Minh giáo theo bản đồ đường hầm, chia nhau vào từng phòng để ở. Dĩ nhiên họ đã ở sâu trong lòng đất, bên trên tuy lửa cháy bừng bừng nhưng trong bí đạo không nghe tiếng gì cả, cũng không thấy nóng chút nào. Mọi người mang theo đủ lương thực nước uống, dù cho một hai tháng cũng không sợ đói khát. Minh giáo và Thiên Ưng giáo, kỳ nào về kỳ nấy, đàn nào về đàn nấy không nói một lời. Mọi người biết rằng bí đạo này vốn là thánh địa không được bén mảng tới, nhờ ân điển giáo chủ mới được vào để tị nạn, thành ra không ai dám tự ý đi lại.

Dương Tiêu và các nhân vật thủ lãnh đều xúm quanh thi thể vợ chồng Dương Đính Thiên, nghe Trương Vô Kỵ thuật lại làm sao nhặt được di thư của Dương giáo chủ, làm sao luyện thành Càn Khôn Đại Na Di thần công tâm pháp. Chàng nói xong, đem tấm da dê ghi tâm pháp giao lại cho Dương Tiêu. Dương Tiêu không nhận, khom lưng đáp:

- Dương tiền giáo chủ trong thư đã viết rõ ràng: Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp tạm do Tạ Tốn tiếp chưởng, về sau sẽ giao lại cho tân giáo chủ. Vậy thì tâm pháp này phải do chính giáo chủ chưởng quản.

Sau đó mọi người chuyền tay nhau đọc di thư của Dương Đính Thiên, ai nấy đền phẫn khái thở dài:

- Có ai ngờ một người thần dũng trí mưu như Dương giáo chủ, chỉ vì tình nghĩa vợ chồng đến nỗi tẩu hỏa nhập ma mà qui thiên. Nếu như chúng ta sớm được đọc lá thư này, thì đâu đến nỗi hôm nay thua một trận không còn manh giáp thế này.

Mọi người nghĩ đến đồng bọn bị chết thảm, chính mình phải bỏ chạy nhục nhã, ai nấy nghiến răng chửi bới Thành Côn. Dương Tiêu nói:

- Gã Thành Côn kia tuy là sư huynh của Dương giáo chủ phu nhân, là sư phụ của Kim Mao Sư Vương nhưng trước kia chúng ta chưa ai gặp y lần nào, thấy người này quả thực là tâm kế. Thì ra mấy chục năm trước, y đã chăm chăm tìm cách phá hủy bản giáo rồi.

Chu Điên nói:

- Dương tả sứ, Vi Bức Vương, hai người đều rơi vào kế của y mà không hề hay biết, có thể nói là bất tài đó.

Y vốn định nói cả Ân Thiên Chính luôn, nhưng vì nể mặt giáo chủ nên không nhắc đến bốn chữ "lão già Bạch Mi" mà thôi. Dương Tiêu mặt đỏ lên, nói:

- Thế nhưng "lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt", tên ác tặc Thành Côn kia sau cùng cũng bị táng mạng dưới chưởng của Dã Vương huynh.

Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa Kỳ là Tân Nhiên hậm hực nói:

- Tên ác tặc Thành Côn kia làm biết bao điều ác nghiệt, vậy mà chết như thế thì quả thật là sướng cho y.

Mọi người bàn tán một hồi, rồi chia ra tĩnh tọa dụng công để dưỡng lành thương thế. Ở trong bí đạo bảy tám ngày, vết thương của Trương Vô Kỵ đã khỏi đến chín phần, thành một cái sẹo dài hơn tấc, liền ra tay trị cho các anh em bị ngoại thương. Tuy nơi đây dược vật thiếu thốn, nhưng với tài xoa nắn, châm cứu của chàng, vẫn chẳng kém gì một đại danh y. Trước kia mọi người chi biết rằng vị giáo chủ trẻ tuổi này võ công cao thâm không ai lường được, có biết đâu y đạo chàng cũng tinh thông đến thế, chẳng kém gì Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu năm xưa.

Lại thêm vài ngày nữa, kiếm thương của Trương Vô Kỵ hoàn toàn khỏi hẳn, lập tức vận Cửu Dương thần công giúp cho Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ngũ Tản Nhân khu trục hàn độc Huyễn Âm Chỉ trong người ra. Chỉ trong ba ngày, nội thương của các đại cao thủ đều hết, người nào người nấy ý khí phấn chấn, muốn ra khỏi đường hầm, tiến lên tấn công kẻ địch. Trương Vô Kỵ nói:

- Các vị thương thế mới khỏi, nội lực chưa đầy đủ, mình đã nhẫn nại lâu nay, vậy xin cố đợi thêm ít hôm nữa.

Mấy ngày đó mọi người càng ra công rèn luyện, kẻ võ công thấp thì mài đao dũa kiếm, kẻ võ công cao thì luyện khí vận kình, từ khi lục đại phái vi công Quang Minh Đính đến giờ, Minh giáo chỉ toàn là bị đánh thật là nhục nhã, bao nhêu oán khí đều tích tụ vào đây.

Buổi chiều hôm đó, Dương Tiêu đem giáo nghĩa tông chỉ của Minh giáo, các qui củ tương truyền từ đời trước đến nay, thế lực chi đàn các nơi thế nào, tính cách tài năng các nhân vật thủ lãnh, bẩm báo Trương Vô Kỵ hết cả.

Bỗng nghe tiếng dây xích leng keng, Tiểu Siêu bưng trà đem vào, đưa lên hai chén trà nóng. Trương Vô Kỵ nói:

- Dương tả sứ, cô gái này gần đây không làm điều gì sai trái, xin ông mở khóa thả cô ta ra đi.

Dương Tiêu đáp:

- Giáo chủ đã có lệnh, đâu không dám không theo.

Lập tức gọi Dương Bất Hối vào, nói:

- Bất Hối, giáo chủ dặn rằng con mở khóa cho Tiểu Siêu đi.

Dương Bất Hối đáp:

- Chìa khóa con để trong ngăn kéo trong phòng, không đem xuống đây.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cái đó cũng không sao, chìa khóa chắc đốt không cháy đâu.

Dương Tiêu đợi con gái và Tiểu Siêu ra khỏi rồi, nói:

- Giáo chủ, con tiểu a đầu Tiểu Siêu tuy tuổi nhỏ, nhưng lại thực là quái lạ, với nó không thể không lưu tâm giữ gìn.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Lai lịch tiểu cô nương đó ra sao?

Dương Tiêu trả lời:

- Nửa năm trước đây, thuộc hạ và Bất Hối xuống núi du ngoạn, gặp nó một thân một mình trong sa mạc, đang ngồi ôm hai cái xác chết khóc lóc. Chúng tôi liền đến gần tra hỏi, nó nói người chết chính là cha mẹ nó. Cha nó ở Trung Nguyên đắc tội với quan quân, cả nhà ba người bị xung quân đưa đi Tây Vực, mấy hôm trước vì không chịu nổi cảnh lăng nhục của quân Mông Cổ nên bỏ trốn. Cha mẹ nó bị thương nên kiệt lực hai người cùng chết cả. Tôi thấy đứa bé này còn nhỏ mà đã cô khổ lênh đênh, tuy mặt mày cực kỳ xấu xí, nhưng nói năng không đến nỗi ngu đần nên giúp nó chôn cha mẹ, nhận nó đem về hầu hạ Bất Hối.

Trương Vô Kỵ gật đầu nghĩ thầm: 'Thì ra cha mẹ Tiểu Siêu cùng chết cả rồi, thân thế thật là đáng thương, chẳng khác gì ta cả". Dương Tiêu nói tiếp:

- - Chúng tôi đưa Tiểu Siêu về Quang Minh Đính rồi, một hôm tôi dạy võ nghệ cho Bất Hối, Tiểu Siêu đứng bên cạnh nghe, nào ngờ khi tôi giải thích phương vị của sáu mươi tư quẻ, Bất Hối còn chưa hiểu, mắt của Tiểu Siêu đã nhìn đúng ngay vị trí rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Có lẽ cô ta thiên tư thông tuệ, ngộ tính so với Bất Hối muội tử nhanh hơn chăng?

Dương Tiêu nói:

- Lúc đầu thuộc hạ cũng nghĩ như thế cho nên rất cao hứng, nhưng chỉ suy nghĩ lại, bỗng khởi nghi, cố ý nói sai mấy câu khẩu quyết thật khó mà tôi chưa dạy Bất Hối bao giờ. Lúc đó mặt trời đã ngả về phương tây, địa hỏa Minh Di, thủy hỏa Vị Tế[3], tôi cố tình nói sai phương vị, con bé đó liền cau mày, dĩ nhiên đã nhìn ra chỗ sai của tôi. Từ đó thuộc hạ lưu tâm, biết là tiểu cô nương này đã được cao nhân truyền thụ, thân mang thượng thừa võ công, lên Quang Minh Đính này không phải là chuyện bình thường, mà có một mục đích nào đó.

Trương Vô Kỵ nói:

- Hoặc giả cha cô ta tinh thông Dịch lý, đây là sở học gia truyền, nên biết được như thế.

Dương Tiêu đáp:

- Xin giáo chủ minh giám: cái học về Dịch lý của văn sĩ so với dịch lý trong võ học có chút khác nhau. Nếu như sở học của Tiểu Siêu là do cha mẹ truyền cho thì cha mẹ nó phải là nhất lưu cao thủ trong võ lâm, thế thì lẽ nào lại bị quan quân Mông Cổ lăng nhục mà chết? Khi đó tôi giả tảng như không biết, vài hôm sau mới hỏi qua tên tuổi, thân thế cha mẹ nó. Nó chối sạch nhưng cũng không để lộ một chút dấu vết nào. Khi đó tôi cũng chưa hành động chỉ dặn Bất Hối để ý thôi.

Một buổi kia tôi kể chuyện vui, Bất Hối cười khanh khách, Tiểu Siêu đứng bên nghe, nhịn không nổi cũng cười theo. Khi đó nó đứng đằng sau tôi và Bất Hối, nghĩ rằng cha con tôi không nhìn thấy nó, nào ngờ trong tay Bất Hối đang cầm chơi một con dao găm, con dao đó sáng loáng như gương, phản chiếu rõ ràng nụ cười của con bé đó. Nó đâu có phải là một con bé xấu như ma lem mà so với Bất Hối còn đẹp hơn nhiều. Đến khi tôi quay đầu nhìn lại, nó lập tức biến thành một đứa bé quái tướng mồm méo mắt lệch.

Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

- Suốt ngày giả cách thành quái dị như thế, quả thực không phải dễ dàng.

Bụng lại nghĩ: "Dương tả sứ là một nhân vật lợi hại thế này, Tiểu Siêu chỉ là một cô bé con mà lại muốn bẻ trộm hoa trước mặt ông ta thì làm sao dấu nổi".

Dương Tiêu nói tiếp:

- Thế nhưng khi đó tôi vẫn để yên không nói, tối hôm đó, canh khuya khi mọi người đã ngủ yên, tôi len lén đến phòng con gái để xem Tiểu Siêu làm gì. Ngay lúc đó Tiểu Siêu từ phòng Bất Hối đi ra, đi qua bên các phòng phía đông, không biết đi tìm cái gì, mỗi gian, mỗi chỗ kín đáo đều lục lọi cả. Tôi không còn nhịn nổi nữa, bước ra hỏi nó tìm cái gì, do ai phái đến Quang Minh Đính dò xét nằm vùng.

Nó vẫn trấn tĩnh, không một chút hoảng hốt, nói không ai phái đến cả, chỉ vì hiếu kỳ thích đi nơi này nơi khác chơi cho vui thôi. Tôi dọa nạt khuyên bảo dụ dỗ cách nào, nó chung qui vẫn không lộ nửa câu. Tôi nhốt nó bảy ngày bảy đêm không cho ăn, đói đến nỗi chỉ còn thoi thóp, nó cũng không chịu nói. Thành thử tôi mới đem chiếc xích lưu truyền trong bản giáo đã lâu nay khóa nó lại, để khi nào đi lại vang tiếng leng keng, không thể lén gia hại Bất Hối. Tôi sở dĩ chưa giết nó ngay, cốt để tra xét lai lịch của nó. Giáo chủ, con tiểu a đầu này do địch nhân sai đến đây nằm vùng, không còn nghi ngờ gì nữa, cứ xét việc nó tinh thông phương vị bát quái ra, e rằng nếu không phải Côn Lôn, cũng là Nga Mi gửi đến. Thế nhưng một đứa bé con thì làm được gì? Vì tình nó chăm lo hầu hạ giáo chủ, giáo chủ từ bi tha cho nó, cũng là may cho nó lắm rồi.

Trương Vô Kỵ đứng dậy, cười nói:

- Bọn mình ở trong địa lao này tù túng đã lâu ngày, bây giờ đi ra ngoài cho thư thái một chút nên chăng?

Dương Tiêu mừng rỡ, hỏi lại:

- Mình định đi ra ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Những người bị thương chưa khỏi, dù thế nào chăng nữa cũng không được động thủ, muốn lập công không phải chỉ ngày hôm nay. Còn bao nhiêu đều ra cả, có được không?

Dương Tiêu liền đi ra truyền lệnh, trong bí đạo tiếng hoan hô ầm ỹ. Mọi người khi vào đường hầm là theo cửa ngõ trong phòng Dương Bất Hối, bây giờ đi ra là theo cửa hông, đi thông qua phía hậu sơn. Trương Vô Kỵ đẩy tảng đá chắn lối, tự mình ra trước, đợi mọi người ra hết rồi mới đẩy tảng đá trở lại. Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên là người có thần lực mạnh nhất trong Minh giáo, liền đẩy thử tảng đá trông như hòn núi nhỏ kia xem sao, thấy chẳng khác nào chuồn chuồn lay cột nhà, không nhúc nhích chút nào, kinh hãi le lưỡi không rụt lại được, càng nghĩ càng phục vị giáo chủ trẻ tuổi này.

Mọi người ra khỏi bí đạo, sợ rằng địch nhân phát giác, đến tiếng đằng hắng cũng không ai dám mở miệng. Trương Vô Kỵ đứng trên một tảng đá lớn, dưới ánh trăng, thấy giáo chúng Thiên Ưng giáo dàn thành vị trí khách ở hướng tây, Thiên Vi, Tử Vi, Thiên Thị tam đường, Thần Xà, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Võ ngũ đàn, đâu đâu cũng có hàng ngũ, sắp đặt nhịp nhàng trật tự. Ở phía đông là ngũ kỳ của Minh giáo: Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ các kỳ do chính, phó chưởng kỳ sứ tất lãnh anh em trong kỳ chia theo phương vị ngũ hành mà đứng. Ở giữa là thuộc hạ của Dương Tiêu gồm Thiên, Địa, Phong, Lôi tứ môn do các môn chủ thống lãnh giáo chúng trên Quang Minh Đính. Thiên Tự Môn là nam giáo chúng Trung Nguyên, Địa Tự Môn là nữ giáo chúng, Phong Tự Môn là người tu hành Thích gia, Đạo gia, còn Lôi Tự Môn là người thuộc phiên bang, Tây Vực. Tuy liên tiếp chiến đấu nhiều ngày qua, Ngũ Hành, Tứ Môn số người thương vong rất lớn nhưng lúc này ai ai cũng đều phấn chấn. Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu và Ngũ Tản Nhân đứng sau lưng hộ vệ giáo chủ. Ai nấy đều yên lặng chờ Trương Vô Kỵ ra lệnh.

Trương Vô Kỵ chậm rãi nói:

- Địch nhân đến tấn công trọng địa của bản giáo, chúng ta tuy muốn chấm dứt một cách an lành nhưng cũng không xong. Thế nhưng bản nhân vốn không muốn tàn sát, cũng mong các vị thể niệm ý nguyện đó cho. Thiên Ưng giáo do Ân giáo chủ tất lãnh, từ phía tây tấn công tới, Ngũ Hành Kỳ do Cự Mộc Kỳ chưởng kỳ sứ Văn Thương Tùng thống lãnh, từ phía đông đánh qua. Dương tả sứ tất lãnh Thiên, Địa Tự Môn từ phía bắc đánh xuống. Ngũ Tản Nhân tất lãnh Phong, Lôi Tự Môn từ phía nam đánh lên còn Vi Bức Vương cùng bản nhân ở giữa điều động.

Mọi người cùng khom lưng nhận lệnh. Trương Vô Kỵ phất tay một cái, hạ giọng nói:

- Tiến lên.

Bốn đội giáo chúng liền chia ra bốn mặt đông tây nam bắc bao vây Quang Minh Đính. Trương Vô Kỵ quay sang nói với Vi Nhất Tiếu:

- Bức Vương, bọn mình từ đường hầm chui lên, đánh cho chúng trở tay không kịp.

Vi Nhất Tiếu mừng quá, nói:

- Hay lắm.

Hai người quay trở lại đường hầm, theo khuê phòng của Dương Bất Hối đi ra. Lúc đó bên trên đã đầy gạch ngói, gỗ cháy sụp xuống, mất rất nhiều công lao mới chui ra được, mùi khói khét lẹt. Khi đó giáo chúng Minh giáo còn ở xa nhưng địch nhân trú đóng trên Quang Minh Đính đã phát giác rồi, kêu la om xòm, báo động lẫn cho nhau. Trương Vô Kỵ và Vi Nhất Tiếu hai người nhìn nhau, nghĩ thầm: "Bọn này hoảng hoảng hốt hốt, chưa cần đánh đã biết thắng bại ra sao rồi".

Qua một lúc lâu, Thuyết Bất Đắc và Chu Điên cùng tiến vào, từ phía nam đến, xông vào trong đám người chém giết chẳng khác gì cắt dưa, thái rau. Kế đến Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Ngũ Hành Kỳ cũng đến, hung hăng hò hét chẳng khác gì hổ vào đàn dê.

Bọn đến chiếm đóng Quang Minh Đính là Cái Bang, Vu Sơn Bang, Hải Sa phái bao gồm hơn một chục tiểu bang hội, thấy Quang Minh Đính cháy thành một khu đất trống, giáo chúng Minh giáo không thoát một ai, những tưởng mình đã toàn thắng. Cái Bang, Cự Kình Bang và những phái khác hơn một nửa mấy ngày qua đã từ từ xuống núi, trên núi chỉ còn Thần Quyền Môn, Tam Giang Bang, Vu Sơn Bang, Ngũ Phượng Đao bốn môn phái bang hội. Giáo chúng Minh giáo đột nhiên tấn công vào chém giết, bốn môn phái đó tuy cũng có một số hảo thủ, nhưng làm sao có thể chống với Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, thành thử thời gian chưa đến một bữa ăn, tử thương đã quá nửa.

Trương Vô Kỵ liền ra mặt, lớn tiếng nói:

- Các cao thủ Minh giáo đã tụ hội trên Quang Minh Đính rồi, các môn phái, bang hội hãy vứt binh khí đầu hàng, đừng tiếp tục đánh nữa vô ích. Ta sẽ tha mạng cho các ngươi, đưa xuống núi.

Các hảo thủ trong Thần Quyền Môn, Tam Giang Bang, Vu Sơn Bang, Ngũ Phượng Đao đã chết gần hết, những người còn lại thấy địch tụ tập quá đông, không ai còn ý chí nào mà chiến đấu lần lượt ném binh khí đầu hàng. Chỉ có hơn hai chục hán tử ngoan cố kháng cự, trong giây lát đã bị giết sạch.

Trong mấy chục ngày qua, bọn Vu Sơn Bang đã cắt tranh, lá dựng trên núi tạm mấy chục cái lều để trú thân, giáo chúng trong Cự Mộc Kỳ liền cắt gỗ, xẻ cây, dựng thêm nhà cửa, còn đàn bà con gái trong Địa Tự Môn thì đun nước, đắp lò nấu ăn.

Trên đỉnh Quang Minh đốt lên một ngọn lửa lớn để cảm tạ Minh Tôn, Hỏa Thánh đã gia hộ phù trì.

Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính đứng lên, dõng dạc nói:

- Các người trong Thiên Ưng giáo nghe đây: Bản giáo và Minh giáo đồng khí liên chi, vốn là một phái cả. Hơn hai mươi năm trước, bản nhân cùng với một số anh em trong Minh giáo bất hòa, vì thế đi xuống tận miền đông nam, tự lập môn hộ. Hiện nay Minh giáo do Trương đại hiệp đứng ra đảm trách nhiệm vụ giáo chủ, ai ai cũng bỏ qua hết hiềm thù cũ, cùng nhau chung lo chung sức. Thiên Ưng giáo mấy chữ đó trên đời này kể từ hôm nay không còn nữa, tất cả chúng ta đều là giáo đồ Minh giáo cả, ai ai cũng dưới quyền Trương giáo chủ phân phái hiệu lệnh. Nếu có ai không bằng lòng, thì mau ra khỏi đây, hạ sơn đi.

Giáo chúng trong Thiên Ưng giáo hoan hô ầm ỹ, cùng nói:

- Thiên Ưng giáo vốn từ Minh giáo mà ra, chuyện này chẳng qua chỉ là phản bản qui tông mà thôi. Anh em chúng ta ai ai cũng gia nhập Minh giáo, còn gì tốt đẹp hơn. Ân giáo chủ với Trương giáo chủ là người nhà chí thân, nghe hiệu lệnh vị giáo chủ nào thì cũng vậy.

Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:

- Kể từ hôm nay thì chỉ còn Trương giáo chủ mà thôi, nếu ai còn gọi ta một tiếng Ân giáo chủ tức là phạm thượng phản nghịch đó.

Trương Vô Kỵ chắp tay nói:

- Thiên Ưng giáo và Minh giáo chia rồi lại hợp, quả thực không còn điều gì vui mừng hơn. Chỉ vì tại hạ tình thế cấp bách, tạm nhiếp chức vụ giáo chủ. Hiện nay đại địch đã trừ xong rồi, chính là lúc chúng ta suy cử một vị giáo chủ khác. Trong bản giáo có biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, tiểu tử tuổi trẻ, tài nông, đâu dám đứng đầu quí vị.

Chu Điên lớn tiếng nói:

- Giáo chủ, xin ngài nghĩ hộ cho chúng tôi, chúng tôi vì chức vụ giáo chủ mà trở thành chia năm xẻ bảy, bây giờ anh em ai ai cũng cảm phục ông. Nếu ông lại từ chối nữa, thì cứ đưa ra một người khác làm giáo chủ mà xem. Hứ hừ, dù ai chăng nữa, Chu Điên này là người đầu tiên không phục. Còn nếu bảo Chu Điên này làm ư, người khác cũng chẳng phục.

Bành Oánh Ngọc nói:

- Nếu ông không chịu đảm trách việc lớn, Minh giáo trở lại tàn sát lẫn nhau, đi lại vết xe cũ, không lẽ lúc đó lại mời ông ra cứu nữa hay sao?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Mấy người này quả thực bụng mà nói, trong tình huống như thế ta không thể nào tụ thủ không lý đến. Thế nhưng cái chức giáo chủ này, ta thực tình không muốn làm, mà cũng chẳng nghĩ đến chuyện làm". Chàng bèn lớn tiếng nói:

- Nếu quả thực các vị có bụng thương yêu, tiểu tử không dám suy từ, chỉ đành tạm trọng nhiệm chức vụ giáo chủ, nhưng có ba điều mong các vị bằng lòng cho, nếu không tiểu tử dù chết cũng không dám nhận

Mọi người nhao nhao nói:

- Giáo chủ đã ra lệnh, đừng nói ba điều, mà có đến ba mươi điều cũng đều tôn phụng, không dám trái. Khộng hiểu ba điều đó là điều gì, xin giáo chủ chỉ thị cho.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bản giáo vốn bị người ngoài coi là tà ma ngoại đạo, tuy người ta quả có không hiểu rõ chân tướng chúng ta, nhưng nhân số của bản giáo thật đông, không khỏi xấu tốt chen nhau, có kẻ không ra gì làm điều càn rỡ, tàn hại người lương thiện. Thành ra điều thứ nhất là hôm nay trở đi, từ bản nhân trở xuống, ai ai cũng phải nghiêm thủ giáo qui, làm điều thiện, trừ kẻ ác, hành hiệp trượng nghĩa. Anh trong bản giáo, phải thân ái giúp đỡ, tình như chân tay, cố gắng không được chống chỏi lẫn nhau.

Chàng quay sang liếc mắt nhìn Chu Điên, nói:

- Mồm chửi thì không sao, động thủ nhất quyết là không được. Bản nhân mời Lãnh Khiêm Lãnh tiên sinh đảm nhiệm giới đường chấp pháp, nếu ai vi phạm giáo qui, giết hại anh em trong nhà, nhất luật dùng trọng hình xử tội, dù cho có là tôn trưởng như ông ngoại, cậu của bản nhân cũng không đứng ngoài.

Mọi người khom lưng đồng thanh đáp:

- Chính là như thế.

Lãnh Khiêm tiến lên một bước, nói:

- Phụng lệnh.

Oâng ta không thích nói nhiều, nhưng hai tiếng đó đã nói lên sẽ kiệt tận sở năng, tuân hành mệnh lệnh giáo chủ. Trương Vô Kỵ nói:

- Việc thứ hai xem ra còn khó hơn nhiều. Bản giáo và các đại môn phái ở Trung Nguyên kết oán đã sâu, hai bên môn nhân đệ tử, gia nhân bằng hữu, bên nào cũng có người chết. Từ nay chúng ta chuyện cũ bỏ qua, không nhớ oán thù xưa nữa, không được đi tìm các môn phái khác trả thù.

Mọi người nghe xong, trong bụng ai nấy không cảm thấy hài lòng, một hồi lâu không ai nói tiếng nào. Chu Điên nói:

- Nếu như người các môn phái khác đến gây chuyện với mình thì sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Lúc đó tùy cơ ứng biến, nếu như đối phương nhất định làm khó mình, mình đâu có thể bó tay chịu chết.

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Thôi được, tính mạng chúng ta dó giáo chủ cứu, giáo chủ bảo sao chúng ta nghe vậy.

Bành Oánh Ngọc lớn tiếng nói:

- Các vị huynh đệ, những môn phái Trung Nguyên giết anh em chúng ta không phải là ít, anh em chúng ta giết họ cũng nhiều, thành ra hai bên thù oán dây dưa, qua qua lại lại, người chết mỗi lúc một nhiều. Giáo chủ bảo chúng ta không được tầm cừu, chính là điều tốt lành cho mình đó.

Mọi người nghe thấy điều đó quả không sai nên đều chấp nhận. Trương Vô Kỵ trong lòng vui lắm, vòng tay nói:

- Các vị khoan hồng đại lượng, là phúc cho võ lâm, thật may mắn cho tất cả mọi người.

Bèn ra lệnh cho các kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ thả hết những người của Thần Quyền Môn, Vu Sơn Bang bị bắt giữ, nói với họ Minh giáo sẽ không còn là kẻ địch của các môn phái Trung Nguyên, rồi thả họ xuống núi. Trương Vô Kỵ nói tiếp:

- Chuyện thứ ba là cứ theo di mệnh của Dương tiền giáo chủ mà theo. Dương tiền giáo chủ trong thư có viết là người nào đem được thánh hỏa lệnh về sẽ tiếp nhiệm chức vụ đời thứ ba mươi tư, khi ông chết đi thì do Kim Mao Sư Vương tạm thời đảm trách. Chúng ta lập tức phải đi ra hải ngoại, nghênh đón Tạ pháp vương trở về, để ông ta nhiếp hành giáo chủ, sau đó sẽ tìm cách đi tìm thánh hỏa lệnh. Lúc đó tiểu tử sẽ thoái vị nhượng hiền, các vị không thể dị nghị được nữa.

Mọi người nghe xong, ai nấy bần thần, nghĩ thầm: "Bọn mình như rắn mất đầu mấy chục năm qua, nay may mắn được một người trí dũng song toàn, nhân nghĩa hào hiệp làm giáo chủ. Sau này nếu như bản giáo có một kẻ tầm thường vô năng vô ý cướp được thánh hỏa lệnh, không lẽ cũng đưa y lên làm giáo chủ?".

Dương Tiêu nói:

- Di ngôn của Dương tiền giáo chủ viết hơn hai chục năm trước, lúc đó thế cục so với hôm nay không giống nhau chút nào. Kim Mao Sư Vương lẽ dĩ nhiên phải đi đón rồi, thánh hỏa lệnh cũng phải đi tìm rồi, thế nhưng để người khác làm giáo chủ thì thật khó mà làm cho mọi người tâm phục.

Trương Vô Kỵ cương quyết cho rằng lệnh của Dương tiền giáo chủ không thể nào vi phạm, mọi người không biết tính sao, chỉ đành y theo, nghĩ thầm: "Kim Mao Sư Vương có khi chết rồi không chừng, còn thánh hỏa lệnh thất lạc đã gần trăm năm nay, biết đâu mà kiếm? Cứ theo lời ông ta đã, sau này nếu có gì thay đổi, lúc đó sẽ xét lại".

Ba điều này, Trương Vô Kỵ mấy chục ngày qua đã suy đi tính lại, lúc này nghe thấy mọi người đồng ý tuân theo, rất lấy làm hoan hỉ, liền ra lệnh giết dê mổ bò, cùng mọi người trích máu ăn thề, không vi phạm ba điều ước ngôn.

Trương Vô Kỵ nói:

- Việc to lớn trước mắt của bản giáo là đi ra hải ngoại nghênh đón Kim Mao Sư Vương Tạ pháp vương trở về, không chính bản nhân đi thì không xong, vậy có ai nguyện ý đi với bản nhân không?

Mọi người ai nấy đều đứng lên, nói:

- Nguyện đi theo giáo chủ cùng ra hải ngoại.

Trương Vô Kỵ mới đảm nhiệm trọng trách, biết mình tài năng, hiểu biết đều không có, xử phân đại sự khó mà chu đáo, nên hạ giọng thương nghị với Dương Tiêu một hồi rồi mới lớn tiếng nói:

- Đi ra hải ngoại không cần đông, huống chi ngoài ra còn rất nhiều việc phải làm gấp. Thành thử ra, mời Dương tả sứ tất lãnh Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, ở lại trấn giữ Quang Minh Đính, xây dựng lại tổng đàn. Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ ngũ kỳ chia nhau đi các nơi, chiêu tập những anh em trong bản giáo bị tứ tán, truyền dụ ba điều anh em chúng ta đã ước định. Xin ông ngoại và cậu tất lãnh Thiên Ưng Kỳ, nghe ngóng xem có còn ai định làm khó bản giáo nữa không, luôn thể đi tìm Quang Minh hữu sứ và Tử Sam Long Vương xem ở đâu. Còn Vi Bức Vương đi đến các chưởng môn lục đại môn phái nói rõ ý định tốt đẹp muốn ngừng chiến của Minh giáo, nếu như không thể hóa địch thành bạn, thì cũng chấm dứt can qua. Việc này thật không phải dễ, nhưng với đại tài của Vi Bức Vương, mong rằng sẽ thành công. Còn việc đi ra hải ngoại nghênh đón Tạ pháp vương, thì do bản nhân và Ngũ Tản Nhân cùng đi.

Lúc này chàng là giáo chủ, tuy ngôn ngữ khiêm tốn lễ độ, nhưng câu nào câu nấy đều là mệnh lệnh không thể vi phạm, ai ai cũng tuân theo không dám phản kháng câu nào. Dương Bất Hối nói:

- Cha ơi, con muốn đi ra hải ngoại xem cảnh băng sơn thế nào.

Dương Tiêu mỉm cười nói:

- Con xin với giáo chủ, cha không thể quyết định được.

Dương Bất Hối dẩu môi, không nói lời nào. Trương Vô Kỵ mỉm cười, nghĩ đến mấy năm trước đưa cô nàng qua Tây Vực, trên đường đi đòi chàng kể chuyện xưa, mình đã từng nói về cảnh vật kỳ lạ trên Băng Hỏa đảo, đến cả gấu trắng, hải cẩu, quái ngư các loại động vật lạ lùng cho cô ta nghe, thành thử giờ phút này cô nàng muốn đến tận nơi xem, bèn nói:

- Bất Hối muội tử, hải hành rất nhiều nguy hiểm, em không sợ nhưng Dương tả sứ không yên tâm. Thôi thế thì cả Dương tả sứ lẫn cô em cùng đi với tôi ra hải ngoại vậy.

Dương Bất Hối vỗ tay reo lên:

- Có gì đâu mà sợ? Cha ơi, mình cùng đi với Vô Kỵ ca ca... không, đi với giáo chủ nhé.

Dương Tiêu không trả lời, nhìn Trương Vô Kỵ đợi lệnh. Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu đã như thế, phiền Lãnh tiên sinh ở lại trấn giữ Quang Minh Đính, Thiên Địa Phong Lôi tứ môn tạm do Lãnh tiên sinh thống suất.

Lãnh Khiêm đáp:

- Vâng.

Chu Điên vỗ tay dậm chân, kêu lên:

- Hay lắm, hay lắm.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Chu huynh, hay cái gì thế?

Chu Điên nói:

- Giáo chủ coi trọng Lãnh Khiêm như thế, cũng nở mày nở mặt cho Ngũ Tản Nhân chúng ta. Hơn nữa, biển cả mênh mông, không biết phải đi bao nhiêu ngày giờ trên thuyền. Có thêm cha con Dương tả sứ, nói chuyện nọ chuyện kia, có phải thích không? Ta muốn kiếm người cãi qua cãi lại, chỉ có Dương tả sứ là đối thủ thôi. Nếu như đi cùng với Lãnh Khiêm, có khác gì đi với cái khúc gỗ không mở mồm.

Mọi người cười ồ cả lên. Lãnh Khiêm cũng không giận, cũng chẳng cười, làm như không nghe thấy. Hôm đó mọi người ăn uống xong chia ra nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ bảo Dương Bất Hối mở khóa cho Tiểu Siêu nhưng chìa khóa bị lạc mất trong đám gạch ngói, than gỗ cháy đen tìm không thấy. Tiểu Siêu thản nhiên nói:

- Cháu đeo sợi dây xích này kêu leng keng, đi lại nghe càng hay, có nó cũng tốt.

Trương Vô Kỵ an ủi cô:

- Tiểu Siêu, cô cứ an tâm ở lại trên Quang Minh Đính, tôi đi đón nghĩa phụ về rồi, mượn thanh đao Đồ Long của ông ấy chặt đứt dây xích này cho cô.

Tiểu Siêu buồn bã lắc đầu, không trả lời. Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ tất lãnh mọi người, chia tay cùng Lãnh Khiêm. Lãnh Khiêm nói:

- Giáo chủ, bảo trọng.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Lãnh tiên sinh tọa trấn tổng đàn, thật là khó nhọc quá.

Lãnh Khiêm lại quay sang nói với Chu Điên:

- Cẩn thận, quái ngư, ăn ngươi.

Chu Điên nắm chặt tay y, trong lòng thật cảm kích. Ngũ Tản Nhân tình như anh em, Lãnh Khiêm hôm nay phá lệ nói thêm sáu chữ, quả thật hết sức lo lắng quái ngư trên biển cả ăn thịt anh em. Lãnh Khiêm và các thủ lãnh Thiên, Địa, Phong, Lôi tứ môn tiễn chân mọi người xuống khỏi Quang Minh Đính rồi mới chịu chia tay.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Đây là những câu để nhớ phương vị theo Tiên Thiên bát quái (Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn) trong đó Càn Khôn (Thiên Địa) đối xứng, Cấn Đoài (Trạch Sơn) đối xứng, Chấn Tốn (Lôi Phong) đối xứng, Khảm Ly (Thủy Hỏa) đối xứng. Càn Đoài Ly Chấn đi ngược chiều kim đồng hồ là thuận, Tốn Khảm Cấn Khôn đi xuôi chiều kim đồng hồ là nghịch.

[2] Dầu thô (tức dầu hỏa chưa chế biến, còn trong dạng thiên nhiên là dạng mà người Trung Hoa biết dùng từ thời cổ).

[3] Hai quẻ trong sáu mươi tư quẻ Dịch

Hồi 23

LINH PHÙ TÚY KHÁCH LỤC LIỄU TRANG

Hương thắm thơm nồng nơi thủy các,

Sóng tình Mông-Hán đã xiêu xiêu.

Dẫu cho hai ngả khôn đường gặp,

Một lần rung động cũng nên yêu.

Đoàn người đi được độ hơn một trăm dặm, giữa sa mạc liền dừng lại nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ ngủ đến giữa đêm, bỗng nghe từ phía tây mơ hồ vọng về tiếng leng keng, leng keng kim loại chạm nhau, trong bụng thảng thốt, lập tức len lén trở dậy, đi về phía thanh âm truyền tới. Được hơn một dặm, chàng thấy một bóng người mảnh khảnh di động dưới ánh trăng, vội tiến tới, kêu lên:

- Tiểu Siêu, sao cô lại tới đây?

Bóng người đó chính là Tiểu Siêu. Nàng đột nhiên gặp lại Trương Vô Kỵ, òa lên khóc, sà vào lòng chàng, nức nở không nói gì. Trương Vô Kỵ vỗ nhẹ lên đôi vai, nói:

- Thôi em ngoan, đừng khóc nữa, đừng khóc nữa.

Tiểu Siêu dường như bao nhiêu nỗi niềm bây giờ mới có dịp phát tiết, lại càng khóc lớn thêm, thổn thức:

- Công tử đi đâu, em... em sẽ đi theo đó.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cô bé này cha mẹ mất cả rồi, lại bị cha con Dương tả sứ nghi ngờ, mười phần đáng thương. Có lẽ vì mình đối với cô ta ôn hòa trìu mến, nên cô ta mới quyến luyến không muốn rời". Chàng bèn nói:

- Được rồi, đừng khóc nữa, vậy tôi mang cô cùng đi hải ngoại nhé.

Tiểu Siêu mừng quá, ngẩng đầu lên, dưới ánh trăng mờ ảo, khuôn mặt xinh đẹp nhỏ nhắn của nàng như phủ một lớp lụa mỏng, những giọt lệ chưa khô lấp lánh, đôi mắt xanh như màu nước biển dường như tỏa ra một nỗi bồi hồi. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

- Tiểu Siêu, mai này lớn lên cô thể nào cũng cực kỳ xinh đẹp.

Tiểu Siêu hỏi lại:

- Sao công tử biết?

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, bỗng nghe phía đông bắc có tiếng vó ngựa lộp bộp, một đại đội nhân mã từ tây sang đông, chạy vụt qua, ít ra cũng phải hơn trăm con. Qua một lúc sau, Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu trước sau chạy đến, nói:

- Giáo chủ, trong đêm hôm khuya khoắt có đại đội nhân mã chạy như thế, không chừng có địch ý với bản giáo.

Trương Vô Kỵ bảo Tiểu Siêu đi đến gặp bọn Bành Oánh Ngọc, còn mình cùng Dương Vi hai người chạy về phía có tiếng vó ngựa để tra xét. Đi đến gần, quả nhiên trên sa mạc còn một dãy vết chân ngựa. Vi Nhất Tiếu cúi xuống xem, bốc một nắm cát lên, nói:

- Có vết máu.

Trương Vô Kỵ cũng bốc một nắm cát đưa lên mũi, quả nhiên ngửi thấy mùi máu tanh. Ba người theo vết chân ngựa đến ba bốn dặm, Dương Tiêu bỗng thấy phía bên trái trong bãi cát có một mảnh đao gãy, vội cầm lên xem, thấy cán đao có khắc ba chữ "Phùng Viễn Thanh", hơi trầm ngâm, nói:

- Đây là người của phái Không Động. Thưa giáo chủ, có lẽ phái Không Động dự bị ngựa xe tại chỗ này để về Trung Nguyên.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Từ Quang Minh Đính xuống đã hơn nửa tháng, nếu như họ còn lẩn quẩn ở đây chẳng biết làm trò quỉ quái gì?

Ba người thấy là phái Không Động rồi, không thèm để ý nữa, quay về chỗ cũ nằm ngủ.

Đi được năm ngày, từ thảo nguyên trước mặt có một đoàn người đi đến, phần lớn mặc áo đen kiểu ni cô, nhưng cũng có bảy tám nam nhân. Hai bên đến gần, một ni cô the thé kêu lên:

- Đây là ác tặc của ma giáo.

Cả bọn lập tức rút binh khí, tản ra nghinh địch. Trương Vô Kỵ thấy đây là người của phái Nga Mi, không hiểu sao đã đi rồi còn quay trở lại, mà những người này chàng chưa gặp bao giờ nên cao giọng nói:

- Các vị sư thái có phải là môn hạ phái Nga Mi chăng?

Một ni cô người nhỏ bé vượt đám đông tiến ra, gay gắt hỏi:

- Ác tặc ma giáo kia, hỏi cái gì? Mau ra đây chịu chết.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sư thái thượng hạ xưng hô ra sao? Cớ sao lại nổi giận như thế?

Ni cô đó quát lớn:

- Ác tặc, thứ như ngươi mà dám hỏi danh hiệu ta ư? Ngươi là ai?

Vi Nhất Tiếu phóng vụt ra, vào thẳng đám đông, điểm huyệt hai nam đệ tử, nắm cổ cả hai người, chạy thẳng ra ngoài xa, ném xuống đất, rồi lại chạy về chỗ cũ. Hành động đó chẳng khác gì chim cắt bắt mồi, nhanh không thể tả. Y cười khẩy mấy tiếng, nói:

- Vị này là Trương giáo chủ của Minh giáo, người võ công đệ nhất đời nay, một kỳ nam tử can đảm vô song, thống suất Tả Hữu Quang Minh Sứ Giả, Tứ Đại Hộ Giáo Pháp Vương, Ngũ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ, Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, đã từng đuổi phái Nga Mi xuống núi, đoạt thanh bảo kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái, với một nhân vật như thế có đủ để hỏi pháp danh của sư thái hay chăng?

Y nói một thôi một hồi, quần đệ tử phái Nga Mi ai nấy đều kinh hãi, lại vừa mới thấy Vi Nhất Tiếu trổ chút công phu ngoài sức tưởng tượng như thế, còn ai dám hoài nghi lời nói của y. Ni cô trung niên kia lấy lại bình tĩnh rồi nói:

- Các hạ là ai?

Vi Nhất Tiếu đáp:

- Tại hạ họ Vi, ngoại hiệu là Thanh Dực Bức Vương.

Trong phái Nga Mi có mấy tiếng kêu lên hoảng hốt, bốn người vội chạy đến xem hai gã đồng môn vừa bị Vi Nhất Tiếu điểm huyệt vứt ngoài xa. Vi Nhất Tiếu nói:

- Phụng Trương giáo chủ hiệu lệnh, Minh giáo và lục đại môn phái chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ giao hảo với nhau. Quí đồng môn cũng may lắm đó nên Vi Bức Vương lần này tha không hút máu họ đâu.

Từ khi y được Trương Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công chữa thương, không những trừ hết âm độc Huyễn Âm Chỉ mà những độc khí từ trước tích tụ cũng hết đi quá nửa, nên không cần phải hút máu kháng hàn mỗi khi hành công vận kình.

Bốn người đó dìu hai đồng môn bị điểm huyệt kia về, đang định tìm cách giải huyệt chữa trị, bỗng nghe tách tách hai tiếng, tiếp theo nghe tiếng bay vút trong không khí, hai viên sỏi nhỏ đã bắn tới, trúng ngay huyệt đạo hai người kia, lập tức giải khai ngay các nơi bị điểm. Đó là Dương Tiêu dùng Đạn Chỉ Thần Thông[1] ngược lại với công phu Trịch Thạch Điểm Huyệt[2].

Ni cô trung niên kia thấy đối phương người cũng không ít, mà chỉ mới hai người lộ chút tài năng, võ công đã cao siêu ghê gớm, nếu như động thủ, không thể nào không bị đánh tan tành. Thành thử dù tám chữ "chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ" không biết thật hay giả cũng nói:

- Bần ni pháp danh Tĩnh Không. Các vị có thấy sư phụ chúng tôi đâu không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôn sư từ Quang Minh Đính xuống núi đã hơn nửa tháng, chắc lúc này đã vào Ngọc Môn Quan rồi đó. Các vị từ phía đông lại, không lẽ trên đường không gặp nhau hay sao?

Một người đàn bà chừng khoảng ba mươi ở đằng sau Tĩnh Không liền nói:

- Sư tỉ đừng nghe y nói láo, chúng ta chia ba ngả tiếp ứng, có hỏa tiễn làm tín hiệu liên lạc, lẽ nào trên đường lại hụt không bắt gặp nhau?

Chu Điên thấy người kia ăn nói vô lễ, muốn dạy cho mấy câu bèn nói:

- Cái đó cũng lạ thật...

Trương Vô Kỵ hạ giọng nói:

- Chu tiên sinh đừng chấp nhất bà ta làm chi. Bọn họ không kiếm thấy sư phụ, dĩ nhiên nóng ruột.

Tĩnh Không mặt đầy vẻ hoài nghi, nói:

- Gia sư và anh em đồng môn có phải đã vào tay Minh giáo rồi chăng? Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, việc gì phải dấu diếm?

Chu Điên cười nói:

- Thôi nói thực cho các người nghe, phái Nga Mi không lượng sức mình, đến đánh Quang Minh Đính, từ Diệt Tuyệt sư thái trở xuống đều bị bắt cả rồi, hiện nay đang nhốt dưới thủy lao, để cho họ ăn năn sám hối mười năm tám năm, đến lúc đó có thả hay không còn tùy.

Bành Oánh Ngọc vội nói:

- Các vị đừng nghe vị Chu huynh này nói giỡn. Diệt Tuyệt sư thái thần công cái thế, môn hạ đệ tử ai ai võ công cũng cao cường, làm sao lại lạc vào tay Minh giáo cho được? Lúc này hai bên quí phái và bản giáo đã ngừng chiến giảng hòa với nhau, các vị trở về núi Nga Mi đi, tự nhiên sẽ gặp.

Tĩnh Không nửa tin nửa ngờ, chần chừ không thể quyết định được. Vi Nhất Tiếu nói:

- Vị Chu huynh này thích nói đùa, không lẽ đường đường địa vị giáo chủ tôn quí của bản giáo cũng lại đánh lừa tiểu bối hay sao?

Người đàn bà trung niên kia lại nói:

- Trước nay ma giáo quỉ kế đa đoan, gian trá giảo hoạt, lời nói làm sao tin cho được?

Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy Kỳ là Đường Dương liền phất tay một cái, lập tức Ngũ Hành Kỳ giãn ra xa xa, sau đó lại bao vây trở lại. Cự Mộc ở phía đông, Liệt Hỏa tại phía nam, Nhuệ Kim tại phía tây, Hồng Thủy tại phía bắc, còn Hậu Thổ thì ở bên ngoài di động tiếp ứng, vây chặt tất cả người của phái Nga Mi.

Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:

- Lão phu là Bạch Mi Ưng Vương, chỉ cần một mình ta ra tay, là đã có thể bắt được tất cả bọn tiểu bối chúng bay rồi. Minh giáo hôm nay thủ hạ lưu tình, những người ít tuổi các ngươi sau này ăn nói cho có ý tứ.

Mấy câu đó oang oang vang động, chấn động đến nỗi những người của phái Nga Mi ù cả tai, tâm thần hoảng hốt, không tự chế nổi. Chỉ thấy ông ta mày râu trắng xóa, thần uy lẫm lẫm, ai nấy đều kinh hãi.

Trương Vô Kỵ chắp tay nói:

- Khi nào gặp lại tôn sư, xin cho Trương Vô Kỵ của Minh giáo gửi lời hỏi thăm sức khỏe lão nhân gia.

Nói xong quay về hướng đông đi thẳng. Đường Dương đợi Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính cả bọn đi rồi lúc ấy mới vẫy tay triệu hồi Ngũ Hành Kỳ. Quần đệ tử phái Nga Mi thấy thế, trong bụng hãi thầm, đứng nhìn Trương Vô Kỵ và đồng bọn đi xa xa, miệng há hốc, không nói nên lời. Bành Oánh Ngọc nói:

- Giáo chủ, tôi xem chuyện này bên trong có điều bất thường. Diệt Tuyệt sư thái cùng đệ tử trở về theo hướng đông, không lẽ lại lạc không gặp môn nhân. Các môn các phái đi đường thể nào chẳng có tín hiệu, lẽ nào biến mất không để lại tăm hơi gì?

Mọi người vừa đi vừa bàn thảo, cảm thấy phái Nga Mi bao nhiêu người bỗng dưng mất tích trên sa mạc, quả thật khó hiểu, Trương Vô Kỵ lại lo lắng cho an nguy của Chu Chỉ Nhược, nhưng không tiện nói với người ngoài.

Hôm đó đi đến tối, chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ là Nhan Viên bỗng nói:

- Ở đây có điều gì khác lạ.

Y chạy đến một hàng cây thấp ở phía trước quan sát, giật một chiếc thuổng từ tay một giáo chúng bản kỳ rồi hì hục đào dưới đất. Một lát sau, quả nhiên lộ ra một xác người. Cái xác đó đã thối rữa, mặt mũi không còn nhận ra, nhưng cứ theo quần áo trên người, rõ ràng là đệ tử phái Côn Lôn. Các giáo chúng Hậu Thổ Kỳ liền nhất tề đào bới, trong chốc lát đã thành một cái hố lớn, trong hố để chất đống mười sáu tử thi, tất cả đều là người của phái Côn Lôn. Nếu như người của môn phái họ chôn cất, ắt không thể nào đơn sơ như thế, hiển nhiên là do kẻ địch mai táng. Xem xét những xác này, ai ai cũng có vết thương trên người. Trương Vô Kỵ ra lệnh cho Hậu Thổ Kỳ chia ra từng người chôn cất riêng rẽ cho tử tế.

Cả bọn người nọ nhìn người kia, bụng ai cũng hỏi thầm: "Ai giết bọn này?". Ngơ ngẩn một hồi, Bành Oánh Ngọc nói:

- Nếu không truy cứu cho đến đầu đến đũa, cái món nợ này thể nào cũng đổ lên đầu Minh giáo chúng ta.

Thuyết Bất Đắc lớn tiếng nói:

- Các anh em nghe đây, nếu như đánh nhau ban ngày ban mặt, mình có giáo chủ tất lãnh, tuy không dám nói là vô địch thiên hạ, nhưng cũng không thể thua ai. Thế nhưng tên bắn trộm thì khó mà đề phòng, từ rày trở đi, ăn uống gì, nghỉ ngơi ở đâu, chỗ nào cũng phải đề phòng địch nhân ám toán, hạ độc.

Tất cả đồng thanh đáp ứng. Đi một quãng nữa, thấy mặt trời đỏ như máu, trời từ từ tối dần, mọi người đang tính chuyện tìm chỗ nghỉ ngơi, bỗng thấy trên trời phía đông bắc có bốn con kên kên ở trên không bay lượn vòng vòng. Đột nhiên một con bay lao xuống, rồi lại bay vọt lên, lông rơi tơi tả, kêu kéc kéc mấy tiếng, hiển nhiên bị vật gì đánh trúng.

Từ khi chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Trang Tranh bị chết vì kiếm Ỷ Thiên, Trương Vô Kỵ đưa phó kỳ sứ Ngô Kình Thảo lên làm chính kỳ sứ, lúc này thấy chim kên kên có vẻ lạ lùng, liền nói:

- Để tôi đi xem.

Y dẫn theo hai người đồng bọn, vội chạy về phía đó. Một lúc sau, một giáo chúng chạy trở lại, bẩm với Trương Vô Kỵ:

- Bẩm cáo giáo chủ, Ân lục hiệp của phái Võ Đương bị rơi xuống dưới vực cát.

Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nói:

- Ân lục hiệp ư? Có bị thương không?

Người kia đáp:

- Dường như bị thương nặng, Ngô kỳ sứ thấy là Ân lục hiệp, sai thuộc hạ cấp tốc báo cho giáo chủ. Ngô kỳ sứ hiện đang xuống dưới sa cốc cứu giúp...

Trương Vô Kỵ lòng nóng như lửa đốt, không đợi y nói hết, vội vàng chạy đi. Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn lục tục chạy theo. Đi đến gần, thấy đó là một cái vực cát thật lớn, sâu đến hơn chục trượng, Ngô Kình Thảo tay trái ôm Ân Lê Đình, đi một bước lại sụp một cái, đang cố gắng hết sức để trèo lên. Trương Vô Kỵ liền theo vách cát trượt xuống, đưa tay nắm cánh tay phải của Ngô Kình Thảo, tay kia đưa vào thăm hơi thở, thấy vẫn còn thoi thóp, cũng hơi yên lòng, vội đón lấy Ân Lê Đình. Chàng nhảy mấy cái đã ra khỏi sa cốc, để ông ta nằm trên mặt đất, chăm chú xem kỹ, không khỏi vừa kinh hãi, vừa tức giận, không biết tính sao.

Chỉ thấy Ân Lê Đình hơi thở yếu ớt đầu gối, khuỷu tay, cổ chân, cổ tay, ngón chân, ngón tay tất cả các khớp xương đều bị đánh gãy không cử động được, đối phương hạ độc đến thế thực khiến người ta phải ghê rợn. Tuy nhiên thần trí vẫn chưa đến nỗi hôn mê, thấy Trương Vô Kỵ, mặt lộ vẻ vui mừng, nhả ra hai viên đá. Thì ra sau khi bị thương, chàng bị người ta vứt xuống vực cát, nhờ có nội lực tinh thuần, không đến nỗi chết ngay, kên kên sà xuống toan ăn thịt, bị chàng nghiêng đầu ngoạm mấy viên đá, phun ra chặn chúng lại, cứ khổ sở chống đỡ như thế đã mấy hôm nay.

Dương Tiêu thấy bốn con kên kên kia vẫn vòng vòng chưa chịu bỏ đi, chắc chúng đợi khi nào bỏ xác Ân Lê Đình rồi sẽ đáp xuống ăn thịt, liền nhặt bốn viên sỏi dưới đất, tách tách bắn liền mấy phát, cả bốn con kên kên đều rơi xuống, con nào đầu cũng bị viên sỏi bắn trúng vỡ tan.

Trương Vô Kỵ trước hết cho Ân Lê Đình uống thuốc an thần giảm đau, sau đó mói coi kỹ lại một lần nữa, thấy chân tay đến hơn hai mươi chỗ gãy, mỗi nơi gãy đều bị địch dùng trọng thủ, lấy ngón tay bóp nát nhừ, không cách nào nối lại được. Ân Lê Đình nói nhỏ:

- Chẳng khác gì tam ca, bị phái Thiếu Lâm dùng... Kim Cương chỉ lực... đánh đó...

Trương Vô Kỵ nhớ tới năm xưa nghe cha kể chuyện Du tam sư bá Du Đại Nham bị phái Thiếu Lâm dùng Kim Cương chỉ lực bóp nát các khớp xương, phải nằm liệt trên giường hơn hai mươi năm nay. Lúc đó cha chàng chưa gặp mẹ chàng, không ngờ việc đã bao nhiêu năm, lại thêm một vị sư thúc bị thương vì Kim Cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm lần nữa. Chàng suy nghĩ một lát rồi nói:

- Lục thúc không phải lo lắng, chuyện này cứ giao cho điệt nhi, kẻ gian nhất định chạy trời không khỏi nắng. Kẻ nào trong phái Thiếu Lâm, lục thúc có nhận ra không?

Ân Lê Đình lắc đầu, mấy hôm nay chàng kiệt lực ráng sống, hơi sức không còn chút nào, lúc này trong lòng vừa hết lo, chịu không nổi lập tức ngất đi. Trương Vô Kỵ nghĩ đến thân thế mình, cha mẹ tự vẫn mà chết, cũng chỉ vì không nên không phải với Tam sư bá, bây giờ Lục sư thúc lại gặp nạn, nếu không ép được phái Thiếu Lâm giao ra kẻ gây nên tội lỗi, thì còn ra gì với hai vị Du Ân? Thì còn ra gì đối với song thân đã quá cố? Chàng thấy Ân Lê Đình tuy bất tỉnh nhưng tính mệnh không có gì đáng ngại, chỉ có điều tay chân gãy khó mà nối lại được, xem ra sẽ chẳng khác gì Du Đại Nham.

Chàng kinh lịch chưa nhiều, thấy việc không quyết định được, phải kiếm chỗ nào thanh tĩnh suy nghĩ cho chín, bèn chắp tay sau lưng, đi ra đằng xa, trèo lên trên một cái gò nhỏ ngồi xuống, trong đầu hai ý nghĩ không ngừng xung đột: "Nên hay không nên lên chùa Thiếu Lâm đi tìm kẻ tội khôi họa thủ kia, để báo thù cho cha mẹ, tam sư bá, lục sư thúc? Nếu phái Thiếu Lâm thừa nhận giao hung thủ ra thì mọi việc đều tốt đẹp, nếu không Minh giáo sẽ phải liên kết với phái Võ Đương, cùng đối phó với phái Thiếu Lâm? Mình đã cùng tất cả anh em cắt máu ăn thề, nhất quyết không đi sinh sự, tầm thù các môn phái bang hội khác, nhưng nay việc lại đến ngay với mình, chính mình lại vứt bỏ lời thề không lý gì nữa thì làm sao cho mọi người tuân phục được? Một khi đầu họa đã mở ra rồi, từ nay oán oán tương báo, e rằng không biết bao nhiêu đời máu chảy, bao nhiêu anh hùng hảo hán bỏ mạng vì chuyện này?".

Lúc này trời đã tối hẳn, người của Minh giáo liền đốt lửa lên, làm lò nấu ăn. Trương Vô Kỵ vẫn ngồi trên ngọn đồi, nhìn trăng lên dần, vẫn không định được chủ ý, mãi đến nửa đêm, mới quyết định: "Phải lên núi Thiếu Lâm gặp chưởng môn Không Văn thần tăng, nói rõ đầu đuôi, yêu cầu ông ta đưa ra một biện pháp". Nghĩ thế xong lại tưởng: "Nếu như mình nói xong rồi không đến đâu, phải động thủ thì làm sao đây?".

Chàng thở dài một tiếng, đứng lên, nghĩ thầm: "Ta tuổi còn trẻ, mới giữ nhiệm vụ lớn, gặp ngay một chuyện thật khó nghĩ, chỉ một lòng muốn bãi chiến, không tranh giành, thế nhưng những món nợ máu này lại ép mình phải tiến tới. Ta đảm đương trọng nhiệm giáo chủ Minh giáo, từ chối cũng không xong, bỏ đi cũng không được, từ nay còn bao nhiêu là lo buồn, khốn khổ thực không kể đâu cho xiết. Giá như không làm giáo chủ có phải sướng biết bao?".

Chàng trở về bên đống lửa, mọi người tuy bụng đói, nhưng chưa ai dám cầm đũa ăn trước, vội vàng cung kính đứng lên. Trương Vô Kỵ thấy vậy áy náy, vội nói:

- Các vị từ rày về sau cứ dùng bữa tự nhiên, không phải đợi tôi làm gì.

Chàng đến thăm Ân Lê Đình, thấy Dương Bất Hối đang dùng nước nóng lau những vết thương, đang cho chàng ăn cháo. Ân Lê Đình thần trí mơ hồ, đột nhiên mắt mở to, trừng trừng nhìn Dương Bất Hối, kêu lên:

- Hiểu Phù muội tử, anh nhớ em biết là chừng nào, em có biết không?

Dương Bất Hối mặt đỏ bừng, thần sắc thật là bẽn lẽn, tay phải cầm muỗng nói nhỏ:

- Lục hiệp uống thêm vài thìa nữa.

Ân Lê Đình nói:

- Em hứa đừng bao giờ xa anh nữa nhé.

Dương Bất Hối nói:

- Được rồi, được rồi. Lục hiệp ăn thêm vài thìa rồi sẽ nói sau.

Ân Lê Đình dường như trong lòng hết sức vui sướng, vội há mồm ăn ngay. Hôm sau Trương Vô Kỵ truyền lệnh xuống, mọi người tạm thời đừng phân tán vội, tất cả cùng đi lên chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn, hỏi cho ra nguyên ủy việc Ân Lê Đình bị thương rồi sẽ tính sau. Cả bọn Vi Nhất Tiếu, Chu Điên thấy Ân Lê Đình bị thương nặng như thế, trong bụng ai cũng bất bình, nghe giáo chủ bảo đi lên Thiếu Lâm vấn tội, đều lớn tiếng hoan hô. Dương Tiêu vì việc Kỷ Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình hết sức thương cảm, tuy không nói ra nhưng trong bụng đã có chủ ý, quyết tâm hết sức vì chàng mà báo thù, lại bảo con gái cố gắng chăm lo săn sóc, bù lại phần nào lỗi lầm khi xưa.

Từ đó trên đường không gặp chuyện gì khác lạ. Ân Lê Đình lúc mê lúc tỉnh, Trương Vô Kỵ hỏi chàng bị thương thế nào, Ân Lê Đình ngơ ngẩn không kể rõ được, chỉ nói:

- Năm hòa thượng phái Thiếu Lâm vây đánh một mình ta. Đúng là võ công phái Thiếu Lâm không thể nào lầm được.

Chẳng bao lâu cả đoàn tiến vào Ngọc Môn Quan, liền bán hết lạc đà chuyển sang cưỡi ngựa, lại sợ người ngoài dòm ngó nên mua quần áo cải trang làm khách thương. Có người thì đánh xe lừa, giả vờ như chở theo hàng hóa, thuốc men.

Hôm đó sáng sớm mọi người đã ra đi, theo đường lớn Cam Lương mà đi, ánh mặt trời chói lọi, trời đã bắt đầu nóng. Đi được chừng hai giờ, thấy trước mặt một hàng dương liễu khoảng hai chục cây, ai nấy đều mừng rỡ, vội vàng thúc ngựa đi tới dưới bóng cây nghỉ ngơi.

Đến gần hơn, đã thấy dưới tàn cây có chín người ngồi đó, tám người đàn ông mặc quần áo kiểu thợ săn, bên hông đeo đao, lưng đeo cung tên, còn thêm năm sáu con chim ưng dùng để đi săn, lông đen móng sắc, hình dáng trông rất hiên ngang. Một người nữa là thanh niên công tử, mặc áo dài lam, phe phẩy quạt lông không dấu vẻ ung dung sang trọng.

Trương Vô Kỵ nhảy xuống ngựa, liếc nhìn thanh niên công tử kia một cái, thấy chàng ta tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, đôi mắt trắng đen rõ ràng, lấp loáng hữu thần, cái quạt trong tay cán làm bằng bạch ngọc, bàn tay cầm quạt cũng trắng không khác gì cán quạt. Bỗng mọi người không hẹn mà cùng nhìn xuống ngang hông công tử đó, thấy thắt lưng có khóa bằng vàng, đeo một thanh trường kiếm, trên cán kiếm có khắc hai chữ Ỷ Thiên theo kiểu triện. Nhìn kiếm đó, hình dáng dài ngắn, chính là thanh kiếm Ỷ Thiên mà Diệt Tuyệt sư thái đã dùng để đồ sát giáo chúng Minh giáo và Chu Chỉ Nhược đã dùng để đâm Trương Vô Kỵ một nhát suýt chết. Người trong Minh giáo ai nấy ngạc nhiên, Chu Điên nhịn không nổi toan lên tiếng hỏi. Ngay lúc đó, thấy trên đường cái từ phía đông có tiếng vó ngựa lộp cộp, một đoàn người cưỡi ngựa chạy ào tới.

Đoàn người đó là một đội quân Nguyên, khoảng chừng năm sáu chục người, lại có thêm khoảng trên trăm phụ nữ, bị quân Mông Cổ dùng thừng trói lôi theo. Những người đàn bà đó phần lớn chân yếu tay mềm, làm sao chạy kịp với ngựa, có người ngã lăn, liền bị kéo lê trên đất. Họ đều là người Hán, hiển nhiên là dân chúng bị đoàn quân Nguyên này bắt cóc, hơn nửa y phục rách bươm, có người lộ cả thân trên, khóc khóc mếu mếu, cực kỳ thảm thiết. Quân Nguyên có đứa tay cầm bình rượu, uống đã nửa tỉnh nửa say, có kẻ vung roi đánh túi bụi vào đám phụ nữ. Những tên quân Mông Cổ này lớn lên trên lưng ngựa, thuật đánh roi cực kỳ xảo diệu, roi vung ra lúc rút về đều cuốn một mảng quần áo của những người đàn bà. Những kẻ khác liền lớn tiếng reo hò, cười nói xí xố.

Người Mông Cổ xâm nhập Trung Quốc đã gần một trăm năm, trước nay vẫn coi người Hán chẳng bằng súc vật, nhưng ngay giữa ban ngày ban mặt làm trò dâm ô hối nhục thế này thì là điều ít thấy. Người trong Minh giáo ai nấy mắt như đổ lửa, chỉ chờ Trương Vô Kỵ ra lệnh một tiếng, là lập tức xông ra giết bọn quân binh cứu người.

Thanh niên công tử kia bỗng nói:

- Ngô Lục Phá, ngươi ra bảo bọn chúng thả những người đàn bà ra, quấy rối như thế, còn ra cái giống gì nữa.

Thanh âm trong trẻo, vừa yểu điệu vừa nũng nịu, tưởng như giọng con gái. Một đại hán đáp lời: "Vâng", cởi giây buộc một con ngựa vàng dưới gốc cây, nhảy lên lưng ra roi chạy lên, lớn tiếng quát:

- Này, ban ngày mà làm loạn như thế, các ngươi không có quan trưởng ước thúc hay sao? Mau thả đàn bà con gái ra ngay lập tức.

Một tên quan quân trong đám Nguyên binh giục ngựa chạy ra, mắt lờ đờ say, tay vẫn còn cắp một thiếu nữ, cười ha hả nói:

- Thằng chó chết kia không muốn sống hả, sao dám xen vào chuyện của các ông?

Đại hán nọ cười nhạt nói:

- Thiên hạ loạn lạc khắp nơi, cũng vì chúng mày không biết thương xót trăm họ mà ra cả, để ta dạy các ngươi một trận cho biết phép tắc.

Tên quân nọ đánh giá đám người dưới bóng cây, trong lòng hơi lấy làm lạ, nghĩ thầm dân chúng mỗi khi thấy quan binh, chạy cho nhanh còn không kịp, còn bọn này không biết uống mật báo, ăn gan hổ hay sao mà lại dám can thiệp vào việc của quan quân? Y liếc qua thấy trên khăn đầu của công tử nọ có đính hai hạt châu to bằng quả long nhãn, lấp lánh phát quang, liền nổi lòng tham, cười lớn:

- Này chú thỏ con kia, đi theo ông, ta cho mày hưởng phúc.

Nói xong hai đùi thúc một cái, giục ngựa xông đến chàng thanh niên công tử. Chàng kia vốn dĩ mặt mày hòa hoãn, thấy bọn Nguyên binh bạo hành không nổi giận, bấy giờ nghe tên quân này vô lễ như thế, đôi lông mày hơi nhướng lên nói:

- Không để tên nào sống sót.

Tiếng "sót" vừa ra khỏi miệng, nghe vụt một tiếng, một mũi tên đã xuyên thủng ngực tên quân kia, chính là do một người thợ săn đứng bên cạnh chàng thanh niên bắn ra. Người đó phát tiễn thủ pháp thật nhanh nhẹn, kình lực lại mạnh, dường như là một cao thủ bậc nhất võ lâm, thợ săn tầm thường làm sao có tài như thế?

Chỉ nghe tách tách tách liên tiếp, cả tám người cùng bắn, quả thực có tài bách bộ xuyên dương, không mũi tên nào hụt, một mũi tên bắn chết một tên Nguyên binh. Bọn quân Nguyên thấy tình thế đột biến, giật mình kinh hoảng, nhưng vốn cung tên thuần thục nên lớn tiếng kêu la lập tức bắn trả. Bảy người thợ săn cũng đều nhảy lên lưng ngựa xông ra, cứ một mũi tên là một đứa, chỉ trong khoảnh khắc đã bắn chết trên ba chục tên. Những đứa còn lại thấy tình hình không ổn, luôn mồm kêu la, vội bỏ đám phụ nữ giục ngựa chạy ngay. Thế nhưng ngựa của tám người thợ săn đều là tuấn mã, chạy nhanh như gió đuổi theo, cứ tám mũi tên buông ra là có tám tên ngã xuống, đuổi chưa đầy một dặm, tất cả quân Mông Cổ không còn ai sống sót.

Thanh niên công tử kia cũng nhảy lên ngựa, giục ngựa chạy đi, không quay đầu nhìn lại lấy một lần. Y ra lệnh cho bộ thuộc trong nháy mắt giết hơn năm chục tên quân Mông Cổ, tưởng như ăn cơm uống nước thường ngày, không coi vào đâu cả. Chu Điên kêu lên:

- Này, này, hượm đã, cho tôi hỏi một câu.

Công tử kia không thèm để ý đến, do tám người thợ săn hộ vệ theo sau, chạy về hướng xa xa.

Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu nếu như thi triển khinh công đuổi theo, cũng có thể kịp ngựa đang chạy, hỏi chàng công tử này cho minh bạch, thế nhưng thấy tám người thợ săn kia thần tiễn sát địch như thế, vẻ đầy hiệp nghĩa, trong bụng ai cũng ngầm kính phục, không tiện mạo phạm đến họ. Mọi người bàn tán xôn xao nhưng không ai đoán ra được lai lịch của chín người này. Dương Tiêu nói:

- Thanh niên công tử kia rõ ràng là gái giả trai, còn những cao thủ ăn mặc như thợ săn kia đối với chàng ta cực kỳ cung kính. Tiễn pháp của tám người đó thật là thần diệu, không giống nhân vật của môn phái nào ở Trung Nguyên.

Lúc đó Dương Bất Hối và những giáo chúng trong Hậu Thổ Kỳ đã chạy ra an ủi những người đàn bà bị bắt cóc, hỏi thăm tình hình mới biết đều là người ở các thôn trấn chung quanh, bèn lục các xác quân Nguyên lấy kim ngân tài bảo chia cho họ bảo họ tìm đường nhỏ tự kiếm đường về nhà.

Mấy ngày liền, quần hào vẫn tiếp tục bàn về chín người dừng cung tên giết quân Nguyên kia, trong bụng ai ai cũng có chiều ái mộ, ân hận không có dịp làm quen. Chu Điên nói với Dương Tiêu:

- Dương huynh, lệnh ái vốn dĩ là một mỹ nữ, thế nhưng so với tiểu thư mặc giả trai kia, cứ bề ngoài mà nói, xem ra còn kém một chút.

Dương Tiêu nói:

- Đúng vậy, đúng vậy. Bọn họ nếu như gia nhập bản giáo, cứ tám người thợ săn kia phải xếp hạng trên cả Ngũ Tản Nhân.

Chu Điên giận dữ nói:

- Nói thối bỏ mẹ, bọn ta cưỡi ngựa có kém gì ai đâu? Ngươi thử bảo bọn họ thi tài với Chu Điên xem nào.

Dương Tiêu trầm ngâm rồi nói:

- Cứ so với Chu huynh thì quả có kém thực, nhưng nếu chỉ tính võ công thôi, xem ra họ có vẻ hơn Lãnh Khiêm huynh một chút.

Trong năm người Ngũ Tản Nhân của Minh giáo thì Lãnh Khiêm võ công đứng đầu, chuyện đó ai ai cũng biết. Dương Tiêu và Chu Điên trước nay vẫn không hợp tính, tuy không còn công khai kèn cựa với nhau nhưng Chu Điên hễ có cơ hội là cãi với Dương Tiêu vài câu ngay, bây giờ nghe y nói võ công tám người thợ săn kia cao hơn Lãnh Khiêm, rõ ràng là trên tất cả Ngũ Tản Nhân, trong bụng tức lắm, đang tính châm chọc mấy câu trả miếng, Bành Oánh Ngọc cười nói:

- - Chu huynh lại bị Dương tả sứ cho vào tròng rồi, y định chọc cho Chu huynh tức đấy mà.

Chu Điên cười sằng sặc nói:

- Vậy ta không thèm tức xem làm gì được nào?

Thế nhưng chẳng mấy chốc, Chu Điên lại chỉ trích Dương Tiêu cưỡi ngựa không được tinh thông, quần hào chỉ mặc kệ không ai trả lời.

Ân Lê Đình được Trương Vô Kỵ ngày ngày chữa trị, thần trí đã tỉnh táo nhiều, kể lại hôm đó từ Quang Minh Đính chạy xuống, tâm thần khích động, nên lạc lối, càng chạy càng xa, lang thang trong sa mạc mênh mông tám chín ngày. Đến khi kiếm được đường cũ quay về thì không còn liên lạc được với huynh đệ đồng môn phái Võ Đương nữa.

Hôm đó chàng bất ngờ gặp phải năm nhà sư Thiếu Lâm, những hòa thượng đó không nói một lời, lập tức tiến lên gây sự. Năm nhà sư đó võ công rất cao, tuy Ân Lê Đình đánh bại hai người nhưng quả bất địch chúng, cuối cùng bị đánh trọng thương. Chàng thấy võ công họ đều thuộc phái Thiếu Lâm không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng chưa từng lên Quang Minh Đính nên không gặp mặt bao giờ, xem ra có thể là người đi sau tiếp viện, nhưng vì cớ gì lại hạ độc thủ thì không nghĩ ra. Chàng cũng đã thông báo tên tuổi, như thế không thể nói là lầm người được.

Trên đường đi, Dương Bất Hối săn sóc Ân Lê Đình cực kỳ chu đáo, nàng biết cha mẹ mình đã không phải với chàng thật nhiều, lại thấy bị nạn thê thảm như thế, không khỏi chạnh lòng thương hại.

Đế sẩm tối hôm đó, quần hào qua khỏi Vĩnh Đăng, cố giục ngựa chạy nhanh hơn mong đến được Giang Thành Tử nghỉ ngơi. Đang đi bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, trên đường cái có hai kỵ sĩ song song chạy đến, cách chừng mươi trượng liền nhảy xuống ngựa, đứng tránh qua một bên đường, cử chỉ thật là cung kính. Hai người đó mặc theo lối đi săn, chính là người trong bát hùng bắn tên giết quân Nguyên hôm trước. Quần hào vui mừng, vội vàng nhảy xuống ngựa đến chào hỏi.

Hai người đó đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng hành lễ. Một người cao giọng nói:

- Tệ thượng[3] ngưỡng mộ hành vi nhân hiệp cao nghĩa của Trương giáo chủ Minh giáo, cùng cung cách anh hùng của quí liệt vị, nên sai tiểu nhân mời các vị dừng ngựa nơi tệ trang để tỏ lòng hâm mộ.

Trương Vô Kỵ hoàn lễ hỏi lại:

- Không dám, không dám. Không hiểu quí thượng tên họ xưng hô thế nào?

Người kia đáp:

- Tệ thượng họ Triệu, khuê danh không dám gọi tới.

Mọi người thấy y nhận ngay thanh niên công tử kia là con gái giả trang, quả thực có thành ý, trong bụng mừng thầm. Trương Vô Kỵ nói:

- Từ khi được chứng kiến thần kỹ bắn tên của quí vị, chúng tôi ai ai cũng khen ngợi hết lời, quí vị không hiềm hạ mình kết giao thì thật vinh dự xiết bao, chỉ e như thế không tiện.

Người kia đáp:

- Các vị là anh hùng đời nay, tệ thượng đã ngưỡng mộ từ lâu, hôm nay có dịp đi qua đất nhà, nếu chẳng được dâng lên ba chén rượu nhạt thì e không hết được lễ nghi của địa chủ.

Trương Vô Kỵ đang muốn được quen biết thêm với những nhân vật anh hùng này, lại muốn hỏi xem thanh kiếm Ỷ Thiên vì đâu qua tay đổi chủ như thế nên nói:

- Nếu đã như thế, từ chối quả là không cung kính, vậy xin được đến viếng quí trang.

Hai người kia mừng lắm, lên ngựa đi trước dẫn đường. Qua khoảng chưa tới một dặm, trước mặt lại có hai người cưỡi ngựa chạy đến, ở xa xa xuống ngựa đứng đợi, cũng là người trong thần tiễn bát hùng. Đi thêm một dặm nữa, bốn người còn lại trong bát hùng lại phi ngựa đến đón tiếp. Quần hào Minh giáo thấy bên kia lễ số chu đáo như thế, ai nấy cực kỳ cảm động.

Cả bọn đi theo một con đường lát đá xanh dẫn đến một đại trang viện, có sông nhỏ uốn khúc vây quanh, bờ sông trồng đầy dương liễu xanh rờn, suốt một dải Cam Lương bây giờ bỗng thấy phong cảnh chẳng khác gì ở Giang Nam, quần hào ai cũng thấy tinh thần sảng khoái hẳn lên. Trước mặt trang môn mở lớn, cầu treo đã hạ xuống từ bao giờ, vị cô nương họ Triệu kia vẫn mặc nam trang, đứng ngay tại cửa nghênh tiếp.

Triệu tiểu thư tiến lên hành lễ, dõng dạc nói:

- Quí vị hào hiệp của Minh giáo hôm nay giá lâm Lục Liễu Sơn Trang, quả thực là rạng rỡ cho nhà tranh vách đất của chúng tôi. Xin mời Trương giáo chủ, mời Dương tả sứ, mời Ân lão tiền bối, mời Vi Bức Vương...

Nàng biết hết từng người trong quần hào Minh giáo, không cần phải giới thiệu, thuận miệng nói ra danh hiệu, kẻ cao người thấp không sai một ai. Cả bọn kinh ngạc, Chu Điên nhịn không nổi liền hỏi:

- Đại tiểu thư, sao cô biết hết tên tuổi chúng tôi? Chẳng lẽ cô có bản lãnh tiên tri hay sao?

Triệu tiểu thư mỉm cười nói:

- Quần hiệp Minh giáo danh mãn giang hồ, ai chẳng hay biết? Trận đánh trên Quang Minh Đính mới rồi, Trương giáo chủ dùng tuyệt thế thần công uy nhiếp lục đại môn phái, việc đó đã vang động cả võ lâm. Các vị đến Trung Nguyên, trên đường biết bao bằng hữu võ lâm mong được tiếp đãi, có phải chỉ mình tiểu nữ đâu?

Mọi người nghe thấy quả không sai, trong bụng mừng thầm nhưng miệng ai cũng khiêm tốn, hỏi ngay đến sư thừa tên tuổi thần tiễn bát hùng. Một người thân thể cao to đáp:

- Tại hạ là Triệu Nhất Thương, đây là Tiền Nhị Bại, đây là Tôn Tam Hủy, đây là Lý Tứ Tồi.

Y chỉ tiếp qua mấy người kia nói:

- Đây là Chu Ngũ Thâu, đây là Ngô Lục Phá, đây là Trịnh Thất Diệt, còn đây là Vương Bát Suy.

Quần hào Minh giáo nghe xong, ai cũng ngẩn người, nghĩ thầm tám người này họ sắp xếp theo Bách Gia Tính[4] là Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương, đã là hết sức lạ lùng rồi nhưng tên lại toàn những chữ không gì tốt lành như Vương Bát Suy chẳng hạn, thật ngoài dự liệu. Thế nhưng người trên giang hồ vì lánh nạn, tránh thù, tùy nghi lấy tên giả là chuyện rất thường, thành ra không dám hỏi thêm.

Triệu tiểu thư tự mình dẫn đường, nhường cho mọi người tiến vào đại sảnh trước. Quần hào thấy đại sảnh trên cao có treo một tấm biển viết bốn chữ đại tự Lục Liễu Sơn Trang. Ngay tại chính giữa treo một bức tranh Bát Tuấn Đồ[5] do Triệu Mạnh Phủ[6] vẽ, tám con ngựa mỗi con một kiểu không con nào giống con nào, con nào cũng ra vẻ thần mã. Bên phía trái treo một bức bút thiếp, văn viết:

Bạch hồng tòa thượng phi,

Thanh xà hạp trung hống.

Sát sát sương tại phong,

Đoàn đoàn nguyệt lâm nữu.

Kiếm quyết thiên ngoại vân,

Kiếm xung nhật trung đẩu.

Kiếm phá yêu nhân phục,

Kiếm phất nịnh thần thủ.

Tiềm tương tịch lị mị,

Hốt đãn kinh thiếp phụ.

Lưu trảm hoằng hạ giao,

Mạc thí nhai trung cẩu.

Mống trắng bay vụt lên,

Rắn xanh kêu lồng lộn.

Sương đọng trên đỉnh núi,

Mây quấn quanh vầng trăng.

Kiếm quyết tỏa tận mây,

Kiếm khí xung tinh đẩu.

Kiếm phá phục yêu ma,

Kiếm cắt đầu gian nịnh.

Nằm yên ma quỉ kinh,

Vung lên thiếp rùng mình.

Xuống vực chém giao long,

Ai giết chó chạy rông.

Dưới bài thơ đề một hàng chữ nhỏ: "Dạ thí Ỷ Thiên bảo kiếm, tuân thần vật dã, tạp lục Thuyết Kiếm thi dĩ tán chi. Biện Lương Triệu Mẫn" (Ban đêm lấy bảo kiếm Ỷ Thiên ra thử, thấy quả là thần vật nên tạm chép Thuyết Kiếm ra để ca ngợi. Triệu Mẫn ở Biện Lương đề thơ)

Trương Vô Kỵ thư pháp tuy không giỏi nhưng đã theo Chu Cửu Chân học tập phép viết chữ, người khác viết xấu đẹp chàng cũng tạm nhận ra, thấy bức thiếp đó nét bút tung hoành, nhưng vẫn có nét ủy mị, rõ ràng là chữ con gái, biết là vị Triệu tiểu thư này viết. Chàng ngoài y thư ra chẳng đọc sách bao nhiêu, nhưng ý thơ không mấy khúc mắc, đọc là hiểu ngay, nghĩ thầm: "Thì ra nàng vốn là người Biện Lương[7], tên chỉ có một chữ Mẫn, liền nói:

- Triệu cô nương văn võ toàn tài, thật là bội phục. Thì ra cô nương vốn là thế gia ở cựu kinh đô.

Triệu tiểu thư Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Tôn đại nhân của Trương giáo chủ có ngoại hiệu Ngân Câu Thiết Hoạch, hẳn là danh gia thư pháp. Trương giáo chủ gia học uyên nguyên, tiểu nữ mong được giáo chủ ban cho một bức thiếp.

Trương Vô Kỵ nghe câu đó, mặt đỏ bừng. Cha chàng mất khi mới lên mười, chưa từng được theo cha tập viết chữ, về sau học thuốc học võ, chữ nghĩa quả thật ít ỏi, liền nói:

- Cô nương bảo tôi viết chữ, có khác gì giết tôi. Tại hạ bất hạnh, tiên phụ qui tiên từ khi còn nhỏ, chưa được kế thừa sở học của cha, thật là xấu hổ.

Còn đang nói chuyện, trang đinh đã đem trà lên, thấy trong những chén sứ vũ quá thiên thanh (màu xanh như trời sau cơn mưa), nổi mấy lá trà Long Tỉnh xanh rờn, mùi thơm ngào ngạt. Quần hào ai nấy đều lạ lùng, nơi này cách đất Giang Nam cả mấy nghìn dặm, làm sao có được trà Long Tỉnh còn tươi như thế này? Cô nương này cái gì cũng đều cực kỳ lạ lùng. Triệu Mẫn cầm chén lên uống trước một ngụm, dường như muốn cho mọi người biết trà không có gì độc, đợi mọi người uống xong mới nói:

- Các vị đường xa chiếu cố đến, tệ trang thật là giản mạn, xin thứ tội cho. Các vị đi đường chắc cũng đã mệt, xin qua bên này ăn chút cơm dùng chút rượu.

Nói xong, nàng đứng dậy, đưa quần hào qua một hành lang đến một vườn hoa lớn. Trong vườn có giả sơn đá xù xì, suối hồ nước trong vắt, hoa tuy không nhiều nhưng thật là thanh nhã. Trương Vô Kỵ chưa lãnh hội được vẻ đẹp của thú chơi vườn cảnh nhưng Dương Tiêu đã ngầm gật gù, biết rằng chủ nhân của vườn hoa này là kẻ lòng mang chí lớn không phải người thô tục tầm thường.

Trong thủy các đã bày hai mâm tiệc, Triệu Mẫn liền mời mọi người vào bàn, còn bọn thần tiễn bát hùng Triệu Nhất Thương, Tiền Nhị Bại thì ở sảnh đường bên cạnh bồi tiếp các giáo chúng Minh giáo khác. Ân Lê Đình không sao dậy được, nên Dương Bất Hối phải ở trong phòng đút cơm cho ăn.

Triệu Mẫn rót đầy một chén rượu lớn, một hơi cạn sạch, nói:

- Đây là Nữ Trinh Thiệu Hưng trần tửu, đã được một trăm mười tám năm, các vị thử nếm xem tửu vị thế nào?

Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính tuy đã tin rằng Triệu tiểu thư là người hiệp nghĩa, nhưng vẫn mười phần cẩn thận, xem kỹ hồ rượu, chén rượu không có gì khác lạ, Triệu tiểu thư lại uống một chén trước rồi, mới hết nghi kỵ ăn uống tự nhiên. Giáo qui Minh giáo trước nay vẫn là "ăn chay thờ ma" cấm uống rượu, kỵ ăn mặn nhưng từ khi tổng đàn dọn vào trong dãy Côn Lôn mới bỏ đi các lề luật cấm kỵ này. Tây Vực khó kiếm rau dưa, chỉ toàn là thịt, hơn nữa khí hậu lạnh buốt, nếu như không ăn mỡ bò mỡ cừu, chỉ thuần nội lực thì không đề kháng nổi.

Trong hồ bao quanh nơi thủy các có trồng bảy tám cây hoa trông giống như thủy tiên nhưng lớn hơn, hoa màu trắng hương thơm thoang thoảng. Quần hào được ngửi hoa thơm, uống rượu ngon, gió hiu hiu mát rượi thật không còn gì thoải mái bằng.

Triệu tiểu thư ăn nói rất tự nhiên, bàn luận về các nhân vật võ lâm Trung Nguyên thật sành sỏi, nhiều điều đến cha con Ân Thiên Chính cũng không biết. Đối với võ công các phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Lôn nàng không khen ngợi lắm nhưng khi nhắc tới Trương Tam Phong và Võ Đương thất hiệp thì hết lời tán tụng, cũng ca ngợi võ công môn phái các thủ lãnh Minh giáo, thoạt nghe tưởng như không có gì đặc sắc nhưng mỗi câu khen ngợi đều đúng vào chỗ trọng yếu. Quần hào vừa hoan hỉ, vừa bội phục, thế nhưng khi hỏi đến võ công môn phái của chính nàng, Triệu Mẫn chỉ mỉm cười không đáp, lảng qua chuyện khác.

Rượu được mấy tuần, rót đến đâu nàng cạn ly đến đó, thật là hào sảng. Mỗi món ăn đưa lên, nàng cũng đưa đũa gắp một miếng ăn trước, đôi má hồng lên, dường như đã hơi say, trông càng thêm diễm lệ. Người đẹp xưa nay, nếu không dịu dàng ẻo lả thì cũng kiều diễm tươi tắn, nhưng cô gái họ Triệu này không những mười phần xinh đẹp, lại thêm ba phần anh khí, ba phần hào hùng, mà vẫn ung dung cao quí, toát ra một vẻ đoan nghiêm khiến người ta phải nổi lòng kính trọng, không dám coi thường.

Trương Vô Kỵ nói:

- Triệu cô nương, được cô nương hậu đãi như thế này, tệ giáo từ trên xuống dưới ai nấy đều cảm kích. Tại hạ có một câu muốn hỏi, có điều ngại nên không dám mở miệng mà thôi.

Triệu Mẫn đáp:

- Trương giáo chủ sao phải dè dặt thế? Chúng ta hành tẩu giang hồ, bốn bể đều là anh em, các vị nếu không hiềm thì cho tiểu muội được kết bạn. Có chuyện gì sai bảo hỏi han, ắt sẽ hết sức trình bày.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu đã như thế, tại hạ mong được thỉnh vấn, thanh bảo kiếm Ỷ Thiên của cô nương vì sao mà có được?

Triệu Mẫn mỉm cười, cởi thanh kiếm Ỷ Thiên ở hông ra, đặt lên trên bàn, nói:

- Tiểu muội từ khi gặp các vị đến giờ, ai nấy chăm chăm mắt không rời thanh kiếm này, không hiểu vì duyên cớ gì, mong cho biết được chăng?

Trương Vô Kỵ nói:

- Quả không dám dấu, thanh kiếm này nguyên là sở hữu của Diệt Tuyệt sư thái chưởng môn phái Nga Mi, anh em trong tệ giáo táng thân dưới thanh kiếm này không phải ít. Chính tại hạ đây cũng đã từng bị kiếm này đâm vào ngực, suýt nữa bỏ mạng, vì thế mà ai nấy đều để ý.

Triệu Mẫn nói:

- Trương giáo chủ thần công vô địch, từng nghe dùng Càn Khôn Đại Na Di đoạt thanh kiếm này trên tay Diệt Tuyệt sư thái, sao lại có thể bị thương vì nó được? Lại nghe nói kẻ dùng kiếm đâm Trương giáo chủ chỉ là một nữ đệ tử trẻ tuổi của phái Nga Mi, võ công cũng chỉ bình bình, tiểu muội quả không sao hiểu được.

Nàng nói câu đó không chớp mắt, chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ, trên môi dường như điểm một nụ cười. Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, nghĩ thầm: "Sao cô ta biết rõ như thế nhỉ?" liền đáp:

- Đối phương đâm đột ngột quá, tại hạ chưa kịp để ý cho nên sẩy tay.

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Chắc Chu Chỉ Nhược Chu tỉ tỉ xinh đẹp lắm, phải không nhỉ?

Trương Vô Kỵ mặt đỏ như gấc, ngượng nghịu nói:

- Cô nương lại nói đùa rồi.

Chàng cầm chén lên định uống một ngụm để chữa thẹn, nào hay tay trái hơi run, làm sánh mấy giọt rượu ra ngoài, văng cả lên tà áo. Triệu Mẫn cười nụ nói:

- Tiểu muội tửu lực không bao nhiêu, ăn nói đã không biết nặng nhẹ nữa rồi, sợ uống thêm đâm ra thất thố. Để xin phép vào trong thay quần áo, sẽ trở ra ngay, xin các vị cứ tự nhiên, đừng khách sáo gì cả.

Nói xong đứng dậy, làm như kiểu cách nam nhi, cung kính vái một vái rồi đi ra khỏi thủy các, lần theo những luống hoa cành liễu vào bên trong. Thanh Ỷ Thiên kiếm kia vẫn để trên bàn, không đem theo.

Các gia đinh phục thị tiếp tục đem các món ăn lên. Quần hào không dám ăn tiếp nữa, đợi một lúc lâu, không thấy Triệu Mẫn quay trở lại. Chu Điên nói:

- Nàng ta để bảo kiếm lại đây, quả là tin bọn mình quá.

Nói xong cầm thanh kiếm lên để trong tay, đột nhiên "Ối" một tiếng, nói:

- Sao nhẹ thế này?

Y cầm cán kiếm rút ra, kiếm vừa khỏi vỏ, quần hào đều đứng bật cả lên, ai nấy cực kỳ kinh ngạc. Kiếm này đâu phải Ỷ Thiên bảo kiếm, chém vàng chặt sắt sắc bén phi thường đâu? Chẳng qua chỉ là một thanh kiếm gỗ màu vàng. Mọi người lập tức ngửi thấy một mùi hương thơm nhè nhẹ, chính là bằng gỗ đàn hương.

Chu Điên nhất thời không hiểu tại sao, đút kiếm trở lại vỏ, lắp bắp:

- Dương... Dương tả sứ, cái này... cái này là cái trò gì đây?

Y tuy ngày ngày cãi cọ với Dương Tiêu, nhưng trong bụng thực sự bội phục Dương Tiêu kiến thức siêu việt, bây giờ gặp chuyện nghi nan, tự nhiên mở mồm hỏi ngay như thế. Dương Tiêu mặt mày trịnh trọng, hạ giọng nói:

- Giáo chủ, Triệu tiểu thư này mười phần đến chín không có ý tốt đâu. Bây giờ bọn mình ở trong cảnh nguy khốn, nên đi ngay là hơn.

Chu Điên nói:

- Việc gì mà sợ? Nếu nàng ta có giở trò gì, với bây nhiêu người chúng ta, chẳng lẽ không đánh cho một trận tan tành hay sao?

Dương Tiêu nói:

- Từ khi vào trong Lục Liễu Sơn Trang này, cái gì cũng thấy thần bí, chính chẳng ra chính, tà chẳng ra tà, không biết đường đâu mà mò. Bọn mình việc gì phải ở nơi đây, để cho mọi việc người ta khắc chế?

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Dương tả sứ nói phải lắm. Bọn mình ăn uống xong rồi, cáo từ là vừa.

Nói xong lập tức đứng lên. Thiết Quan đạo nhân hỏi:

- Thế thanh Ỷ Thiên kiếm thực nay ở đâu, giáo chủ không muốn dò hỏi hay sao?

Bành Oánh Ngọc nói:

- Theo thuộc hạ, Triệu tiểu thư này dàn nghi binh, đã toan tính chuyện gì rồi. Mình nếu không đi kiếm cô ta, cô ta sẽ đi kiếm mình.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng thế, chúng mình bây giờ đang có việc phải làm, không nên thêm việc làm chi. Mai sau mình cứ chờ họ đến, bao giờ rõ ràng mọi việc hãy hay.

Mọi người ra khỏi thủy các, trở về đại sảnh, bảo gia đinh thông báo tiểu thư, gửi lời cảm ơn bữa thịnh yến rồi lập tức cáo từ. Triệu Mẫn lật đật đi ra, nàng đã thay một bộ áo thêu màu vàng nhạt, hình dung thật là tiêu sái phiêu dật, mặt mày sáng rỡ nói:

- Vừa mới gặp nhau sao đã vội đi? Hay là chê tiểu nữ tiếp đãi đơn sơ quá chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đa tạ cô nương tiếp đãi hậu hĩ như thế, đâu thể gọi là "đơn sơ" được. Chúng tôi có những việc cần kíp, không dám ở nán lại lâu. Ngày sau có dịp gặp lại, sẽ xin học hỏi thêm.

Khóe miệng Triệu Mẫn tưởng như cười mà không phải cười, đưa mọi người ra khỏi sơn trang. Thần tiễn bát hùng cung kính đứng hai bên đường, khom lưng tiễn khách. Quần hào ôm quyền từ biệt, không nói một lời giục ngựa chạy ngay, chẳng mấy chốc thấy đã cách xa Lục Liễu Sơn Trang, bốn bề chung quanh là đồng trống, nhưng không thấy ai khác. Chu Điên lớn tiếng nói:

- Cái cô Triệu tiểu thư này chưa chắc đã sắp đặt chuyện gì không tốt đâu, chẳng qua tính đàn bà trẻ con hay dỡn hớt, nên đem một thanh kiếm gỗ để đùa giáo chủ, có gì mà lo? Dương tả sứ, kỳ này ngươi đi quá xa rồi.

Dương Tiêu trầm ngâm nói:

- Là cái trò gì, thực tình tôi không biết rõ, chỉ thấy có gì không ổn thôi.

Chu Điên cười nói:

- Dương tả sứ đại danh vang dậy của chúng ta sau trận chiến Quang Minh Đính đã biến thành kinh cung chi... ối chà...

Y nói tới đây bỗng lảo đảo ngã xuống ngựa. Thuyết Bất Đắc ở gần y nhất, vội vàng nhảy ra, đỡ y lên, hỏi:

- Chu huynh, sao thế?

Chu Điên cười nói:

- Chẳng... chẳng sao cả. Có lẽ uống quá chén, đầu hơi váng vất thôi.

Y nói tới "váng vất", quần hào ai nấy đều thất sắc. Thì ra từ khi rời Lục Liễu Sơn Trang, trên đường chạy, ai ai cũng thấy hơi váng vất, nhưng cũng chỉ cho rằng vì uống mấy chén rượu, không ai để ý, thế nhưng Chu Điên võ công cao cường, tửu lượng lại mạnh, uống có vài chén đâu đến nỗi phải ngã ngựa? Bên trong hẳn có gì bất thường.

Trương Vô Kỵ ngửng đầu lên, duyệt lại một lượt Độc Kinh của Vương Nạn Cô trong đầu, xem có loại độc dược nào không vị, không sắc, không mùi, làm cho người ta choáng váng. Khắp cuốn Độc Kinh xem ra không thấy chỗ nào phù hợp, mà chính mình cùng với quần hào uống chung ăn chung, sao không thấy gì khác lạ? Đột nhiên, trong óc như một ánh chớp lóe lên, giật mình nghĩ tới một chuyện, khiến chàng kinh hoảng kêu to:

- Tất cả các vị uống rượu ở trong thủy các xuống ngựa hết, ngồi xếp bằng trên đất, nhất định không được vận khí điều tức, cứ để tự nhiên.

Chàng lại hạ lệnh:

- Các đệ tử Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ chia ra bố phòng bốn mặt, nghiêm mật bảo vệ các thủ lãnh, bất luận ai đến gần đều giết hết không tha.

Mọi người nghe thấy giáo chủ hạ nghiêm lệnh, đáp ứng vang dậy, lập tức rút binh khí chia ra tứ phương. Trương Vô Kỵ lại nói:

- Phải đợi đến khi ta về, không được ly tán.

Quần hào không hiểu lý do tại sao, chỉ thấy hơi hơi váng vất, không thấy gì khác, sao giáo chủ lại có vẻ kinh hoảng như thế? Trương Vô Kỵ lại dặn thêm:

- Dù cho có nhức đầu khó chịu đến đâu, tuyệt đối không được điều vận nội tức, nếu không chất độc phát ra không sao chữa được.

Quần hào ai nấy hoảng sợ tự hỏi: "Mình trúng độc như thế nào?".

Trương Vô Kỵ thân hình hơi lắc một cái, đã vọt ra ngoài hơn chục trượng. Chàng sợ cưỡi ngựa chậm quá, lập tức thi triển khinh công chạy về phía Lục Liễu Sơn Trang. Chàng gấp gáp dị thường biết rằng kỳ này bọn Dương Tiêu, Ân Thiên Chính đều trúng chất kịch độc, nếu phát tác thì tính mạng chỉ còn được một giờ ba khắc, không phải như trúng Huyễn Âm Chỉ xong còn có thể diên trì ngày này sang ngày khác, nếu không cướp được giải dược, tất cả mọi người đều chết cả. Đoạn đường hơn hai mươi dặm kia chốc lát đã tới ngay, đến trước sơn trang, chàng lao một cái, thân hình như một mũi tên bắn tới. Những trang đinh canh nơi cửa chỉ thấy hoa mắt, dường như có một cái bóng vụt qua nhưng không nhìn rõ là người nào đã vào trang môn.

Hồi 23

LINH PHÙ TÚY KHÁCH LỤC LIỄU TRANG

Trương Vô Kỵ liền vọt vào ngay vườn sau, chạy đến thủy các, thấy một thiếu nữ mặc áo màu xanh nhạt, tay trái cầm chén, tay phải cầm sách, đang ngồi uống trà đọc sách, chính là Triệu Mẫn. Lúc này cô ta đã đổi sang y phục đàn bà.

Nàng nghe thấy tiếng chân Trương Vô Kỵ, quay đầu nhìn lại, mỉm cười. Trương Vô Kỵ nói:

- Triệu cô nương, tại hạ xin cô vài cây hoa.

Không đợi nàng trả lời, chân trái điểm một cái, nhảy từ bờ hồ sang thủy các, thân hình tà tà bay qua, chẳng khác gì chuồn chuồn điểm nước, hai tay đã nhổ sạch mấy cây hoa trông như thủy tiên trồng trong hồ. Chàng đang toan đạp lên thủy các, bỗng nghe soẹt soẹt, mấy ngọn ám khí nhỏ li ti đã bắn vào mặt. Tay áo phải Trương Vô Kỵ liền phất một cái, cuộn hết ám khí vào trong, tay áo bên trái hất ra, đánh vào Triệu Mẫn.

Triệu Mẫn nghiêng người né tránh, chỉ thấy gió nổi vù vù, bao nhiêu bình trà, chén trà, đĩa trái cây trên bàn bị tụ phong thổi bay qua hồ rơi vào trong đám cây cỏ, vỡ tan tành. Trương Vô Kỵ thân hình đứng vững rồi, nhìn lại mấy cây hoa trong tay, thấy mỗi cây đều có một chùm rễ dài màu tím, trên mỗi cái rễ dính đầy những củ lớn bằng hạt hạt ngọc trai, xanh biếc như phỉ thúy, mừng lắm biết là đã có được thuốc giải, lập tức bỏ vào trong túi nói:

- Đa tạ giải dược, cáo từ.

Triệu Mẫn nói:

- Đến thời dễ nhưng đi thì khó.

Nàng ném quyển sách đi, thuận tay rút từ trong quyển sách hai lưỡi kiếm mỏng như giấy, sáng loáng như gương, đâm tới. Trương Vô Kỵ lo cho thương thế của bọn Ân Thiên Chính, không dám đánh lâu, tay áo phải phất ra, hơn chục mũi kim châm dính trong tay áo cùng bắn tới. Triệu Mẫn nghiêng người nhảy ra khỏi thủy các, chân trái điểm vào bậc thềm một cái nhảy trở lại, trong khi nhảy ra nhảy vào như thế, những mũi kim châm đều rơi cả xuống ao. Trương Vô Kỵ khen ngợi:

- Hảo thân pháp.

Chàng lại thấy nàng tay trái ra trước, tay phải ra sau đâm hai thanh đoản kiếm tới, nghĩ thầm: "Con a đầu này lòng dạ độc ác đến thế, nếu ta không luyện được Cửu Dương thần công, đọc được Độc Kinh của Vương Nạn Cô, hôm nay Minh giáo đều bị chết vì tay nó một cách bất minh bất bạch". Chàng hai tay vươn ra, khi chập lại toan cướp hai thanh đoản kiếm. Triệu Mẫn liền xoay cổ tay dùng kiếm chặt ngón tay Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ không cướp được binh khí của đối phương, cũng hơi lấy làm lạ nhưng thần công của chàng biến ảo khôn lường, khéo léo biết bao, mấy ngón tay liền phất một cái trúng ngay những huyệt đạo trên cổ tay. Kiếm trong tay Triệu Mẫn cầm không vững, thừa thế ném tới, Trương Vô Kỵ nghiêng đầu, nghe băng băng hai tiếng, hai thanh kiếm cắm luôn vào cột thủy các, kình lực vẫn còn rung rung không ngớt. Trương Vô Kỵ trong bụng hơi sợ, nếu nói về võ công, nàng kém xa Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, nhưng nói về cơ cảnh linh mẫn, biến chiêu vừa nhanh vừa độc, song kiếm không còn giữ được vẫn còn toan đả thương người, nếu như né tránh chậm một chút có phải chết dưới kiếm của nàng rồi không?

Triệu Mẫn mất hai thanh kiếm rồi, liền lật tay lại cầm luôn thanh kiếm gỗ Ỷ Thiên nhưng không rút ra, múa lên đâm vào hông Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ liền giơ ngón tay trỏ và ngón tay giữa bên trái điểm vào huyệt Kiên Trinh trên vai nàng, đợi Triệu Mẫn vừa né qua, liền thò tay phải dùng Càn Khôn Đại Na Di đoạt luôn thanh kiếm gỗ.

Triệu Mẫn vừa đứng vững liền cười hì hì nói:

- Trương công tử, công phu đó là công phu gì thế? Có phải Càn Khôn Đại Na Di đấy không? Tôi xem cũng bình bình không có gì lạ.

Trương Vô Kỵ liền xòe tay trái ra, trong lòng bàn tay có một đóa hoa kết bằng ngọc trai đang rung động, chính là bông hoa nàng cắm ở trên mái tóc. Triệu Mẫn sắc mặt hơi đổi khác, Trương Vô Kỵ lấy bông hoa trên tóc nàng không hay biết gì cả, nếu như thay vì thò tay lấy bông hoa lại đánh vào huyệt thái dương một cái thì mạng nàng đâu còn nữa. Thế nhưng Triệu Mẫn trấn tĩnh ngay, cười nhạt một tiếng nói:

- Nếu công tử thích bông châu hoa đó thì tôi tặng cho công tử cần gì phải ra tay cướp đoạt.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói dường như cho mình có ý không tốt, tay trái liền vung lên một cái ném trả bông hoa, nói:

- Trả lại cho cô.

Quay mình ra khỏi thủy các. Triệu Mẫn giơ tay đón lấy bông hoa, kêu lên:

- Khoan đã.

Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy nàng cười nói:

- Sao công tử lại lấy mất hai viên ngọc trai lớn nhất trên đóa hoa này là sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ nói quấy quá, tôi không hơi đâu mà đùa với cô.

Triệu Mẫn giơ cao đóa hoa, nghiêm mặt nói:

- Xem này, chẳng phải mất hai viên ngọc trai đấy ư?

Trương Vô Kỵ nhìn đến quả nhiên có hai sợi chỉ vàng thiếu mất hạt châu, biết là nàng cố tình giựt đứt để dụ cho mình đến gần hầu thi hành ngụy kế nên chỉ hừ một tiếng không thèm để ý đến nữa. Triệu Mẫn tay vịn vào thành bàn, thống thiết kêu lên:

- Trương Vô Kỵ, ngươi có giỏi thì đến cách ta ba bước xem nào.

Trương Vô Kỵ không mắc vào kế nói khích của nàng, nói:

- Cô bảo tôi nhát gan sợ chết cũng chẳng sao.

Nói xong nhảy xuống hai bậc thềm. Triệu Mẫn thấy mình khích tướng không đi đến đâu mặt liền biến sắc, buồn bã nói:

- Thôi rồi, thôi rồi. Hôm nay ta đã đến nước này, còn mặt mũi nào gặp lại sư phụ?

Nàng vói tay rút ngay một thanh đoản kiếm cắm trên cột, kêu lên:

- Trương giáo chủ, đa ta ngươi đã thành toàn cho ta.

Trương Vô Kỵ quay đầy nhìn lại, chỉ thấy một ánh sáng trắng lóe lên, nàng đã đâm thẳng mũi kiếm vào ngực. Trương Vô Kỵ cười nhạt:

- Ta đâu có để cho...

Chưa nói tới chữ "cô lừa" thì thấy mũi kiếm quả thật đã đâm vào ngực, Triệu Mẫn thảm thiết kêu lên một tiếng, gục ngay xuống bàn. Trương Vô Kỵ kinh hoảng không để đâu cho hết, không ngờ cô gái lại ngang ngạnh đến vậy, vài chiêu chưa thắng đã vung kiếm tự sát ngay, nghĩ thầm nếu như nhát kiếm không trúng tim thì may ra còn cứu được. Chàng liền quay trở lại chạy tới coi thương thế của nàng thế nào.

Chàng vừa tới cách bàn chừng ba bước, đang toan thò tay nắm lấy vai cô ta, bỗng nhiên dưới chân hỗng xuống, đạp vào chỗ không, thân hình rơi tụt ngay xuống. Chàng biết là không ổn, hai tay áo vận khí phất xuống, thân hình đang trên không lập tức ngừng lại, liền giơ tay đánh một chưởng vào cạnh bàn. Chưởng đó nếu đánh trúng, chàng có thể mượn sức vọt lên, không để rơi vào chiếc hầm dưới chân. Nào ngờ Triệu Mẫn tự sát là giả nên đã liệu trước chuyện này, chưởng phải vận kình đánh ra không để cho tay chàng đụng vào bàn.

Chuyện đó nhanh như chim cắt bắt mồi, chỉ trong nháy mắt, song chưởng đụng nhau, Trương Vô Kỵ đã rơi tụt xuống lưng chừng, vội vàng lật tay một cái, chộp luôn mấy ngón tay phải của Triệu Mẫn. Bàn tay nàng trơn tuột, dường như muốn thoát ra, nhưng Vô Kỵ chỉ cần một chút lực có thể mượn được, là có thể bay vụt lên, chàng liền vươn tay nắm cánh tay cô gái. Thế nhưng đang sức rơi rất mạnh, chàng vừa nắm được Triệu Mẫn, hai người cùng lộn xuống hầm.

Chỉ thấy tối đen như mực, thân hình tiếp tục rơi xuống, nghe một tiếng cách ở trên đầu, cửa hầm bên trên đã đóng chặt lại. Hai người rơi đến bốn năm trượng mới tới đáy. Trương Vô Kỵ vừa chạm đất, lập tức nhảy lên, thi triển Bích Hổ Du Tường Công[8] bò lên đến tận trên, giơ tay đẩy nắp đậy. Tấm bửng đó vừa chắc vừa lạnh, là một thiết bản thật lớn, đẩy vào chỉ trơ trơ. Chàng tuy có Càn Khôn Đại Na Di thần công nhưng thân hình lơ lửng trên không đâu có được như đứng trên mặt đất mà lực đạo chuyển qua chuyển lại, đẩy tới đẩy lui một hồi, tấm sắt không hề lay chuyển, thân hình lại tụt trở xuống.

Triệu Mẫn cười khanh khách:

- Bên trên có tám thanh sắt to chặn lại, công tử ở bên dưới, dù có mạnh đến đâu cũng không sao mở được.

Trương Vô Kỵ giận nàng giảo hoạt gian trá, không thèm để ý đến, lần mò chung quanh cái hố để tìm cách thoát thân nhưng cả bốn bề đều lạnh ngắt, trơn tuột, cứng rắn dị thường. Triệu Mẫn cười nói:

- Trương công tử, công phu Bích Hổ Du Tường cửa công tử thật là tài tình. Cái hầm này làm bằng thép đúc, rèn trơn như thế, ngay cả đường nối cũng không, thế mà công tử vẫn trèo lên được, hi hi, ha ha.

Trương Vô Kỵ giận dữ nói:

- Chính cô cũng bị nhốt chung với tôi ở dưới đây, có gì đáng cười đâu?

Đột nhiên nghĩ ra: "Con a đầu này gian xảo lắm, cái hố này hẳn phải có đường ra, không thể để nó trốn ra một mình". Chàng bèn tiến lên nắm chặt tay cô gái. Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên:

- Ngươi làm gì thế?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô đừng nghĩ chuyện thoát ra một mình. Nếu muốn sống thì mau mau mở tấm nắp đậy ra.

Triệu Mẫn cười đáp:

- Công tử làm gì mà lo thế? Mình đâu có chết đói ở dưới này đâu mà sợ. Để họ tìm không thấy tôi, ắt sẽ mở cho mình ra. Có lo là thủ hạ của tôi lại tưởng tôi đi ra ngoài, cái đó mới là phiền.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Thế cái hố này không có cơ quan để mở đường ra hay sao?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Trông mặt công tử có vẻ thông minh mà sao hỏi một câu ngớ ngẩn thế? Cái hố này có phải làm ra để chơi cho vui đâu. Làm ra để bắt kẻ địch mà lại cố ý thiết lập cơ quan đóng mở thì địch nhân ra mất còn gì?

Trương Vô Kỵ nghĩ nàng ta nói không sai nói:

- Có người rơi xuống hố, không lẽ bên ngoài không hay biết gì? Cô mau bảo người ta mở nắp hầm ra.

Triệu Mẫn nói:

- Thủ hạ của tôi sai đi ra ngoài cả rồi, công tử có thấy ai khác ở trong thủy các đâu? Ngày mai giờ này họ mới trở về. Công tử không phải nóng ruột, cứ nghỉ một lát, mình cũng mới ăn xong chưa đến nỗi đói.

Trương Vô Kỵ nổi khùng, nghĩ thầm: "Ta có đợi thêm cũng đâu có sao nhưng làm sao cứu được ông ngoại với những người khác?". Năm ngón tay bóp chặt, sử đến hai thành kình lực, quát lên:

- Cô không thả tôi ra ngay, tôi sẽ giết cô trước.

Triệu Mẫn cười nói:

- Nếu công tử giết tôi thì vĩnh viễn không thể nào ra khỏi cương lao này được. Mà này, nam nữ thụ thụ bất thân, sao công tử cứ nắm tay tôi mãi thế?

Trương Vô Kỵ bị cô ta trách cứ, vội vàng bỏ tay nàng ra, lùi lại hai bước, ngồi dựa vào tường. Cái hầm này vuông vức bất quá vài thước, dù có xa nhất hai người cũng chỉ cách nhau một bước, càng bồn chồn, càng bực bội, ngửi thấy hơi thở của cô gái, cộng thêm hương thơm của những cây hoa trong túi, lòng chàng không khỏi lâng lâng liền đứng lên giận dữ nói:

- Minh giáo chúng tôi vốn không quen biết, không thù oán gì với cô, sao cô lại mưu tính ác độc đưa tất cả chúng tôi vào chỗ chết?

Triệu Mẫn nói:

- Công tử còn nhiều chuyện chưa biết, nếu đã hỏi đến, để tôi nói cho nghe từ đầu. Công tử có biết tôi là ai không?

Trương Vô Kỵ nghĩ lại quả không sai, tuy cũng muốn biết dụng ý và lai lịch của cô gái này nhưng nếu chờ được cô ta từ đầu kể lại đầy đủ, bọn Ân Thiên Chính chắc đã bị chất độc phát tác chết cả rồi, huống chi biết được cô ta nói thật hay giả, nếu như bịa chuyện nói lăng nhăng thì mất biết bao nhiêu thì giờ. Trước mắt thấy không còn biện pháp gì khác chỉ còn cách ép cho nàng phải mở cửa hầm cho mình ra, liền nói:

- Tôi không biết cô là ai, cũng không có hơi đâu mà nghe cô nói. Cô có gọi người mở cho tôi ra không thì bảo?

Triệu Mẫn nói:

- Có ai đâu mà gọi? Hơn nữa, ở dưới này có kêu gào bên trên cũng không nghe thấy. Nếu công tử không tin thì kêu mấy tiếng thử xem.

Trương Vô Kỵ giận dữ giơ tay nắm đầu vai cô gái, Triệu Mẫn hoảng sợ kêu lên một tiếng, giơ tay ra gạt nhưng đã bị điểm trúng huyệt đạo nơi hông không cử động được. Trương Vô Kỵ tay trái giơ ra nắm ngay yết hầu nàng nói:

- Tôi chỉ bóp nhẹ một cái thì cô sẽ táng mạng ngay.

Lúc đó hai người đứng sát bên nhau, thấy nàng thở hổn hển, hơi thơm như lan, Trương Vô Kỵ vội ngửng đầu về sau cho mặt mình xa mặt cô ta một tí. Triệu Mẫn đột nhiên khóc rấm rứt:

- Ngươi hà hiếp ta, ngươi hà hiếp ta.

Việc đó quả ngoài dự liệu nên chàng ngạc nhiên, vội vàng bỏ tay ra nói:

- Tôi đâu có ý định hà hiếp cô, chỉ muốn cô thả tôi ra thôi.

Triệu Mẫn khóc nói:

- Có phải tôi không bằng lòng đâu. Được rồi, để tôi gọi.

Nàng cao giọng gọi lớn:

- Này, này, có ai không? Mở nắp hầm ra, ta bị rơi xuống cương lao đây này.

Nàng liên tiếp kêu réo, bên ngoài vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Triệu Mẫn cười nói:

- Thấy chưa, có ích gì đâu?

Trương Vô Kỵ cực kỳ giận dữ nói:

- Không biết xấu, vừa khóc xong lại cười, còn ra cái trò gì nữa?

Triệu Mẫn nói:

- Chính ngươi mới là không biết xấu. Thân con trai mà sao lại ăn hiếp con gái chân yếu tay mềm?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô mà chân yếu tay mềm ư? Cô ngụy kế đa đoan, còn ghê gớm gấp mười người đàn ông.

Triệu Mẫn cười:

- Cám ơn Trương giáo chủ đã khen ngợi, tiểu nữ không dám nhận.

Trương Vô Kỵ thấy tình thế khẩn cấp, nếu không ra tay độc ác thì toàn thể người trong Minh giáo sẽ chết sạch, liền nghiến răng, thò tay ra, soẹt một tiếng đã xé ngay một mảnh vải quần của cô ta. Triệu Mẫn tưởng chàng đột nhiên có tà ý, lúc này cực kỳ hoảng sợ kêu lên:

- Ngươi... ngươi làm gì thế?

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu cô bằng lòng thả tôi ra thì gật đầu.

Triệu Mẫn nói:

- Để làm gì?

Trương Vô Kỵ không thèm để ý, nhổ nước miếng cho ướt mảnh vải nói:

- Xin lỗi nhé, tôi cũng đành vậy biết sao hơn.

Chàng lấy mảnh vải bịt chặt mồm mũi cô gái lại, Triệu Mẫn không thở được nữa chỉ giây lát đã thấy tức ngực chịu không nổi. Thế nhưng nàng ta thật ương ngạnh, nhất định không gật đầu, sau cùng dãy dụa mấy cái rồi ngất đi.

Trương Vô Kỵ giơ tay thăm mạch thấy nhảy rất yếu ớt nên bỏ miếng vải ướt bịt miệng mũi cô ta ra. Một lát sau, Triệu Mẫn từ từ tỉnh lại, rên lên mấy tiếng. Trương Vô Kỵ nói:

- Như thế đâu có thích thú gì phải không? Cô thả tôi ra hay không nào?

Triệu Mẫn hậm hực nói:

- Dù ta có ngất đi một trăm lần, ta cũng không thả, để xem ngươi có dám giết ta chăng?

Nàng đưa tay chùi miệng mũi, hứ mấy tiếng nói:

- Nước miếng ngươi, hừ, thối muốn chết được.

Trương Vô Kỵ thấy nàng ta cứng đầu như thế, không biết phải làm sao, thêm một lúc nữa càng thêm nóng ruột nói:

- Tôi vì cứu mạng cho mọi người đành phải làm ẩu một phen, đừng trách vô lễ nhé.

Chàng nắm lấy bàn chân trái nàng, lột luôn giày vớ ra. Triệu Mẫn vừa giận vừa sợ, kêu lên:

- Xú tiểu tử, ngươi làm gì thế?

Trương Vô Kỵ không trả lời, lại lột luôn giày vớ chân phải, giơ ngón tay trỏ điểm vào huyệt Dũng Tuyền dưới gan bàn chân, vận Cửu Dương thần công lên, một luồng khí ấm liền theo ngón tay truyền vào.

Huyệt Dũng Tuyền ở chỗ lõm dưới lòng bàn chân khởi đầu của Túc Thiếu Âm Thận Kinh, là nơi nhạy cảm hơn cả. Trương Vô Kỵ tinh thông y lý biết rõ như thế. Trẻ con chơi đùa thường lấy tay cù vào gan bàn chân sẽ làm cho đối phương tê cả người, lúc này chàng dùng khí nóng của Cửu Dương thần công mơn man huyệt Dũng Tuyền, so với lấy lông chim hay tóc cọ xát vào còn khó chịu gấp bội. Chỉ mới cù mấy cái, Triệu Mẫn nhịn không nổi phải cười lên khanh khách, toan rút chân về để tránh nhưng khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm làm sao cử động gì được? Nỗi khổ đó còn khó chịu hơn dùng dao cắt, dùng roi đánh, chẳng khác gì muôn ngàn con rận cùng thi nhau cắn ngũ tạng lục phủ, cốt tủy huyết quản một lượt, khiến nàng chỉ cười được mấy tiếng rồi chịu không nổi khóc òa lên.

Trương Vô Kỵ mặc kệ tiếp tục tra tấn. Trái tim Triệu Mẫn dường như muốn nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài, các chân lông chân tóc toàn thân ngứa không chịu nổi như muốn rụng hết, mở miệng mắng chửi:

- Tên thối tha... tên giặc con... sẽ có ngày ta đem ngươi ra... lăng trì tùng xẻo... thôi... thôi... tha... tha cho tôi... Trương... Trương giáo chủ... Trương công tử... Trương giáo... giáo chủ... hu hu... hu hu...

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Cô đã chịu thả tôi ra chưa?

Triệu Mẫn khóc nói:

- Để tôi... thả... mau ngừng... ngừng tay...

Trương Vô Kỵ bấy giờ mới ngưng lại nói:

- Xin lỗi nhé.

Chàng nắn mấy cái vào lưng giải khai huyệt đạo cho nàng. Triệu Mẫn thở phào một hơi, mắng:

- Tặc tiểu tử, đi vớ xỏ giày vào cho ta.

Trương Vô Kỵ cầm chiếc vớ lụa, một tay cầm chân nàng. Khi trước chàng chỉ chăm chăm lo thoát thân, không có ý gì khác, lúc này cầm bàn chân nhỏ nhắn mềm mại của cô gái, trong lòng không khỏi lâng lâng. Triệu Mẫn thẹn thùng rụt chân về, mặt đỏ bừng, cũng may là trong hầm tối đen nên Trương Vô Kỵ không nhìn thấy, nàng chẳng nói chẳng rằng tự mình đi vớ xỏ giày, trong chỉ một giây bỗng thấy lòng nổi lên một cảm giác lạ kỳ, tưởng như lại mong được chàng cầm chân mình lần nữa. Bỗng nghe Trương Vô Kỵ hậm hực quát lên:

- Mau lên, mau lên, thả tôi ra.

Triệu Mẫn không nói một lời, giơ tay mò lên tường kiếm chỗ có khắc một cái vòng tròn, xoay ngược cán kiếm, tại cái vòng đó gõ khi chậm khi nhanh, lúc dài lúc ngắn đâu bảy tám tiếng. Gõ vừa xong, nghe xạch một tiếng, một luồng ánh sáng từ trên đầu chiếu xuống, cái nắp hầm đã mở ra. Cái vòng đó có cơ quan liên lạc với bên ngoài, nàng đã ước định tín hiệu nên khi nghe thấy, người canh cửa liền mở nắp hầm ra.

Trương Vô Kỵ đâu ngờ bảo mở là mở nhanh đến thế, không khỏi ngạc nhiên nói:

- Thôi mình đi ra.

Triệu Mẫn cúi đầu đứng qua một bên, không nói lời nào. Vô Kỵ nghĩ nàng là một cô gái nhỏ, nếu mình còn chì chiết thêm nữa không khỏi thất thố, vái một vái nói:

- Triệu cô nương, vừa rồi chuyện chẳng đặng đừng mới làm như thế, bây giờ xin tạ tội.

Triệu Mẫn hất đầu quay sang nhìn vào tường, đôi vai rung rung hình như đang khóc. Khi nàng ta gian trá độc ác, Trương Vô Kỵ cùng nàng đấu trí đấu lực không có một chút tạp niệm nào, bây giờ thấy lòng hổ thẹn, thấy tấm lưng thon của nàng, nước da nơi cổ trắng như ngọc, làn tóc xõa ra, không khỏi nhủ lòng thương cảm nói:

- Triệu cô nương, tôi đi nhé. Trương mỗ thật là không phải.

Chàng thấy bóng lưng Triệu Mẫn rung rung nhưng nàng không quay lại. Trương Vô Kỵ không dám nấn ná thêm, lập tức thi triển công phu Bích Hổ Du Tường trèo lên, đến khoảng còn chừng hơn một trượng, chân phải điểm vào tường một cái, bay vọt lên cao, tay áo phất một cái bảo vệ trên đỉnh đầu sợ có kẻ nào ở trên đánh lén. Chân chàng chưa rơi chạm đất nhìn chung quanh, thấy thủy các không một bóng người. Chàng không muốn gây thêm chuyện, vượt qua tường theo đường nhỏ chạy về nơi quần hào Minh giáo đang đợi. Trước mắt thấy trời đã ngả bóng, hóa ra chàng bị hãm dưới hầm hơn nửa giờ, không biết tính mệnh bọn Ân Thiên Chính giờ này ra sao, trong bụng lo lắng lại càng chạy nhanh hơn, chẳng bao lâu đã về gần tới nơi quần hào dừng chân, không khỏi giật mình kinh hãi.

Trước mặt đại đội kỵ binh Mông Cổ chạy qua chạy lại, vây chặt người của Minh giáo, quân Nguyên ai nấy giương cung, nhắm vào người trong vòng bắn tới. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Những nhân vật thủ lãnh của bản giáo ai ai cũng trúng độc cả, không ai ra lệnh chỉ huy, làm sao chống trả được với đại đội quân địch vây đánh?". Chàng gia tăng cước lực, chạy vọt lên.

Chạy đến gần hơn, thấy trong đám người một giọng con gái trong trẻo cất lên:

- Nhuệ Kim Kỳ tấn công mặt đông bắc, Hồng Thủy Kỳ bao vây phương tây nam.

Đó chính là giọng của Tiểu Siêu. Nàng vừa ra lệnh xong, một đội giáo chúng mang cờ trắng liền xung sát mặt đông bắc, còn một đội giáo chúng mang cờ đen bao vòng qua mặt tây nam. Quân Nguyên chia ra chống đỡ, đột nhiên đội cờ vàng Hậu Thổ Kỳ, cờ xanh Cự Mộc Kỳ song song từ trong đánh ra, chẳng khác gì một con rồng xanh, một con rồng vàng chộp tới. Quân Nguyên bị đánh tập hậu, trận thế liền đại loạn, phải lùi về sau.

Trương Vô Kỵ nhảy mấy cái, đã tới trước mặt các giáo chúng. Mọi người thấy giáo chủ quay về đều reo hò ầm ỹ, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Trương Vô Kỵ thấy Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Chu Điên và các chính phó kỳ sứ của Ngũ Hành Kỳ vẫn ngồi dưới đất, còn Tiểu Siêu tay cầm cờ lệnh, đứng trên gò đất chỉ huy giáo chúng ngự địch. Những người trong Ngũ Hành Kỳ, Thiên Ưng Kỳ đều võ nghệ cao cường, chỉ vì thủ lãnh trúng độc nên loạn cả lên, đến khi Tiểu Siêu dùng thuật số bát quái bố trí chống đỡ, quân Nguyên không thể tấn công lên được nữa.

Tiểu Siêu mừng rỡ kêu lên:

- Trương công tử, mời công tử lên chỉ huy.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi đang bận, cô cứ chỉ huy tốt hơn, để tôi xung sát một trận, giết vài tên quân quan.

Chỉ thấy vèo vèo mấy tiếng, mấy mũi tên nhắm chàng bắn tới. Trương Vô Kỵ giật ngay một thanh trường mâu của một giáo chúng, gạt hết những mũi tên đó ra, vung tay một cái ném chiếc thương đó bay vụt ra ngoài, xuyên qua ngực một tên bách phu trưởng, đóng chặt y xuống đất. Quân Nguyên liền kêu la ầm ỹ, lui ra ngoài mấy chục bước.

Đột nhiên nghe tiếng tù và u u vang lên, độ mươi tên kỵ binh từ xa chạy tới. Trương Vô Kỵ thấy đi trước chính là bọn thần tiễn bát hùng, thủ hạ của Triệu Mẫn, không khỏi nhíu mày nghĩ thầm: "Tám người này tiễn pháp quá ư ghê gớm, nếu để bọn chúng bắn tên e rằng anh em sẽ bị thương không phải ít, ta nên tiên hạ thủ vi cường".

Người thủ lãnh của thần tiễn bát hùng là Triệu Nhất Thương tay cầm một cây đoản trượng khắc đầu rồng màu vàng kêu lớn:

- Chủ nhân có lệnh, lập tức thu binh.

Người thiên phu trưởng chỉ huy đội quân Nguyên liền nói xí xố mấy tiếng Mông Cổ, bọn quân quan liền quay đầu ngựa chạy đi. Tiền Nhị Bại tay cầm một cái khay, xuống ngựa tiến đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng nói:

- Chủ nhân chúng tôi xin giáo chủ nhận món quà lưu niệm.

Trương Vô Kỵ nhìn đến thấy khay lót một tấm nhiễu màu vàng, trên để một chiếc hộp hoàng kim, trạm trổ cực kỳ tinh xảo. Trương Vô Kỵ không ngại y làm trò quỉ gì, giơ tay cầm lấy. Tiền Nhị Bại cung thân hành lễ, lùi lại ba bước, quay mình lên ngựa đi thẳng.

Trương Vô Kỵ thuận tay giao luôn cái hộp cho Tiểu Siêu, chàng lo lắng cho bệnh tình của mọi người, không thì giờ đâu mà xem trong hộp có gì, lập tức lấy trong bọc ra những cây hoa, sai người đem nước lạnh tới nghiền nát những rễ màu đỏ và những củ màu xanh, hòa vào trong nước, chia cho Ân Thiên Chính, Dương Tiêu và các chính phó kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ uống. Chuyến đi này, tất cả những ai yến ẩm nơi thủy các, trừ Trương Vô Kỵ có Cửu Dương thần công hộ thể ra nên chư độc bất xâm, các thủ lãnh Minh giáo ai ai cũng đều bị trúng độc cả. Chỉ có Dương Bất Hối vì phải đút cơm cho Ân Lê Đình ở bên ngoài, Tiểu Siêu và các giáo chúng ăn cơm ngoài đại sảnh, ai ai theo lệnh giáo chủ, phàm vật gì trước khi cho vào mồm đều dùng ngân châm thử trước nên không ai bị trúng độc.

Thuốc giải độc thật công hiệu, chưa đến nửa giờ sau, độc tính trong cơ thể quần hào đều tiêu giải không còn thấy đầu váng mắt hoa nhưng toàn thân dường như hơi sức mất hết, lập tức hỏi xem đã bị trúng độc như thế nào.

Trương Vô Kỵ thở dài:

- Bọn ta mọi việc đều đã đề phòng, những món ăn uống rượu thịt không hề có chất độc bản nhân đã xem xét kỹ. Nào ngờ cách hạ độc của Triệu cô nương thật không sao ngờ nổi. Cây hoa trông như thủy tiên kia gọi là Túy Tiên Linh Phù, tuy rất khó kiếm nhưng vốn không có độc tính. Còn thanh kiếm Ỷ Thiên giả kia làm bằng một loại gỗ dưới đáy biển tên là Kỳ Lăng Hương Mộc, vốn cũng không độc. Thế nhưng hai mùi kia trộn lại với nhau thì biến thành kịch độc.

Chu Điên vỗ đùi kêu lên:

- Cũng tại ta cả, ai bảo ta ngứa tay rút thanh kiếm Ỷ Thiên kia ra làm cái mẹ gì cơ chứ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô ta nếu đã tính toán chuyện hại chúng ta, nếu Chu huynh không động thủ thì cũng sai người đến rút ra để hạ độc không thể nào phòng bị nổi.

Chu Điên nói:

- Đi, mình đến cho một mồi lửa đốt rụi cái Lục Liễu Sơn Trang đó cho rồi.

Y vừa nói tới câu đó, thấy đằng xa khói đen đã bốc lên, bên trong ánh lửa thấp thoáng chính là Lục Liễu Sơn Trang đang cháy.

Quần hào ai nấy nhìn nhau không nói được một lời nào, trong bụng ai cũng nghĩ thầm: "Triệu cô nương này chuyện gì cũng tính trước được cả, biết rằng mình giải độc xong thể nào cũng tới đốt trang viện thành ra phóng hỏa trước cho chắc ăn. Cô ta tuổi còn nhỏ, lại phận đàn bà nhưng quả là một kình địch".

Chu Điên lại vỗ đùi kêu lên:

- Cô nàng đốt trang viện thì ăn thua gì? Mình cũng cứ tới đuổi đánh cho một trận tan tành mới thôi.

Dương Tiêu nói:

- Đến như trang viện cô ta cũng đã đốt rồi đủ biết chuyện gì cũng tính toán trước, xem ra mình có đuổi cũng không kịp đâu.

Chu Điên nói:

- Dương huynh, võ công ngươi không nói làm gì, ngay cả mưu kế xem ra cũng còn hơn Chu Điên này một bực.

Dương Tiêu cười:

- Không dám, không dám. Chu huynh thần cơ diệu toán, tiểu đệ làm sao bì kịp?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Hai vị bất tất quá khiêm nhường. Bọn mình kỳ này không bị tổn thất lớn, chỉ có mười ba mười bốn anh em bị trúng tên, cũng là may lắm rồi, thôi lên đường là vừa.

Trên đường đi quần hào hỏi Vô Kỵ xem làm sao tìm ra được nguyên ủy bị trúng độc, Trương Vô Kỵ nói:

- Ta nhớ trong Độc Kinh có một đoạn chép:

Kỳ Lăng Hương Mộc nếu như gặp phải hương thơm của một loại giống như thủy tiên, có thể làm cho người ta say sưa mê mẩn mấy ngày, nếu dùng cái củ tròn của cây hoa pha với nước thì giải được. Nếu không giải kịp, độc tính sẽ ăn vào tim phổi.

Túy Tiên Linh Phù so với loại phù dung thường còn lợi hại hơn nhiều. Vì thế tôi dặn các vị chớ nên vận tức dụng công, nếu không hương hoa sẽ đi vào các kinh mạch có thể nguy hiểm đến tính mạng.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Không ngờ con a hoàn Tiểu Siêu lại lập được kỳ công, nhân khi nguy cấp nếu không có cô ta đứng ra, bọn mình bị chết chắc nhiều lắm.

Dương Tiêu vốn cho rằng Tiểu Siêu là của kẻ địch sai đến nằm vùng nhưng sau chuyện hôm nay, cô nàng đã thành một công thần của Minh giáo, khiến y không sao ngờ nồi, nhất thời không hiểu nguyên do ra sao.

Mọi người trên đường đi đàm luận lai lịch Triệu Mẫn nhưng chẳng ai có được đầu mối nào. Trương Vô Kỵ không nói chuyện chàng bị rơi xuống hố cùng với Triệu Mẫn, việc mình cù gan bàn chân nàng để thoát thân, tuy trong lòng không có điều gì phải hổ thẹn nhưng trước mặt mọi người thì chuyện này thì cũng khó ăn khó nói. Tối hôm đó mọi người vào quán trọ nghỉ ngơi, còn đại đội nhân mã chia ra tìm đền đài miếu mạo ngủ tạm. Tiểu Siêu lấy một thau nước bưng vào phòng, Trương Vô Kỵ nói:

- Tiểu Siêu, hôm nay em lập được kỳ công, từ rày không phải làm những tiện dịch của tôi đòi như trước nữa.

Tiểu Siêu cười nói:

- Em rất thích được hầu hạ công tử, có gì đâu mà tiện dịch hay không tiện dịch?

Đợi chàng rửa mặt xong, Tiểu Siêu lấy chiếc hộp vàng ra nói:

- Không biết bên trong hộp có độc trùng độc dược, độc tiễn ám khí gì không?

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng vậy, cứ cẩn thận là hơn.

Chàng để chiếc hộp trên bàn, cầm tay nàng kéo ra xa, lấy trong túi ra một đồng tiền vung tay ném tới, nghe keng một tiếng trúng ngay mép cái hộp, nắp hộp liền mở tung ra, không có gì khác lạ. Chàng đến gần xem thấy trong hộp là một chiếc hoa kết bằng trân châu, vẫn còn đang rung rinh, chính là đóa hoa Triệu Mẫn cài trên đầu. Hai viên ngọc trai Triệu Mẫn ngắt đi nay đã đính lại trên sợi chỉ bằng vàng. Chàng không khỏi ngẩn người, không hiểu có dụng ý ra sao.

Tiểu Siêu cười nói:

- Công tử, vị Triệu cô nương này đối với công tử tốt quá, trịnh trọng sai người đến biếu công tử một đóa hoa kết bằng ngọc trai.

Trương Vô Kỵ nói:

- Ta là đàn ông, có được món trang sức của đàn bà này làm gì? Tiểu Siêu, cô cầm lấy mà đeo vậy.

Tiểu Siêu xua tay, cười nói:

- Thế sao được? Người ta có tình ý với công tử, sao em dám lấy?

Trương Vô Kỵ dùng ba ngón tay cầm lấy bông hoa, cười nói:

- Trúng.

Vung tay ném ra, không nặng không nhẹ cắm luôn vào tóc Tiểu Siêu, chiếc kim dưới bông hoa không hề chạm vào da thịt. Tiểu Siêu toan dứt xuống, Trương Vô Kỵ xua tay nói:

- Chẳng lẽ tôi tặng em một món quà nhỏ cũng không được hay sao?

Tiểu Siêu hai má hồng lên, nói nhỏ:

- Vậy thì đa tạ công tử. Chỉ sợ tiểu thư thấy lại bực mình.

Trương Vô Kỵ nói:

- Hôm nay cô đã làm được một việc lớn, cha con Dương tả sứ lẽ nào còn nghi ngờ cô?

Tiểu Siêu lòng đầy vui sướng, nói:

- Em thấy công tử đi lâu quá không về, trong bụng thật nôn nóng. Thế rồi bọn Thát tử đến tấn công, không biết vì sao dám lớn mật đứng lên hô hoán, bây giờ nghĩ lại thật là sợ hãi. Công tử, nhờ công tử nói lại với quí vị trong Ngũ Hành Kỳ, Thiên Ưng Kỳ là Tiểu Siêu to gan làm càn, xin các vị đó đừng trách.

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Bọn họ cám ơn cô còn chưa đủ, sao lại trách cứ?

Chẳng bao lâu đã đến cảnh giới tỉnh Hà Nam. Lúc ấy thiên hạ đại loạn, quần hùng bốn phương nổi lên, quan quân Mông Cổ tra xét càng thêm nghiêm nhặt. Đại đội Minh giáo đi thành đoàn không tiện, chia ra nhiều nhóm hẹn đến chân núi Tung Sơn sẽ gặp lại nhau, rồi sẽ cùng lên ngọn Thiếu Thất, lúc ấy Chưởng kỳ sứ Cự Mộc Kỳ là Văn Thương Tùng sẽ đem danh thiếp mọi người đưa lên chùa Thiếu Lâm.

Trương Vô Kỵ biết rằng kỳ này mình lên Thiếu Lâm vấn tội, tuy không muốn tái động can qua nhưng kết quả ra sao thực khó mà biết. Nếu tăng chúng chùa Thiếu Lâm ngang ngược không nói phải quấy ra tay động võ, Minh giáo không thể không tiếp chiến, thành thử truyền lệnh xuống, các thủ lãnh tiến vào chùa trước, còn các giáo chúng trong Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ sẽ chia ra vây bốn mặt chờ ở bên ngoài, nếu nghe ba tiếng hú, thì lập tức tấn công vào tiếp ứng. Các giáo chúng nhận lệnh chia nhau mà đi.

Chẳng bao lâu, một tri khách tăng đã già đi theo Văn Thương Tùng xuống núi nói:

- Phương trượng và các trưởng lão bản tự đều bế quan tịnh tu, xin lỗi không tiếp khách được.

Quần hào nghe thấy nói thế ai nấy đều biến sắc. Chu Điên giận dữ nói:

- Vị này là giáo chủ Minh giáo đích thân đến chùa Thiếu Lâm bái sơn, lão hòa thượng cũng không cho gặp chẳng lẽ coi thường lắm ư?

Vị tri khách tăng kia cúi đầu ủ rũ, mặt đầy vẻ sầu khổ chỉ nói:

- Không tiếp.

Chu Điên nổi cọc, giơ tay nắm ngay ngực áo nhà sư, Thuyết Bất Đắc vội giơ tay ngăn lại nói:

- Chu huynh không được lỗ mãng.

Bành Oánh Ngọc nói:

- Phương trượng nếu đã tọa quan, chúng tôi xin gặp hai vị Không Trí, Không Tính thần tăng cũng được.

Nhà sư kia chắp hai tay, nói cụt ngủn:

- Không tiếp.

Bành Oánh Ngọc hỏi tiếp:

- Thế còn thủ tọa Đạt Ma Đường thì sao? Thủ tọa La Hán Đường thì sao?

Vị tri khách tăng kia cũng chỉ đáp:

- Không tiếp.

Ân Thiên Chính quát lên một tiếng như sấm rền:

- Nhất định không tiếp hay sao?

Song chưởng đẩy ra như bài sơn đảo hải, nghe bùng một tiếng đánh gãy đôi một cây đại tùng ở bên đường, nửa thân trên cả cành cả lá, thêm ba tổ quạ đều lách cách ngã xuống. Nhà sư lúc này mặt mới có vẻ sợ, nói:

- Các vị đường xa đến đây, đúng ra phải lấy lễ tiếp đãi, có điều tất cả các trưởng lão đều tọa quan cả rồi, xin để dịp sau vậy.

Nói xong chắp tay khom mình, quay lưng đi thẳng. Vi Nhất Tiếu thân hình hơi rung động đã chặn ngay trước mặt ông ta nói:

- Đại sư thượng hạ xưng hô thế nào?

Vị tri khách tăng đáp:

- Pháp danh của tiểu tăng, không nói tới là hơn.

Vi Nhất Tiếu vỗ nhẹ hai cái vào đầu vai ông ta, cười nói:

- Tốt lắm, tốt lắm. Oâng chỉ nói hai chữ "bất kiến", chắc hẳn là Bất Kiến đại sư, là sư huynh của Không Kiến thần tăng. Thế nhưng không biết nếu Diêm Vương mời đi, không biết Bất Kiến thần tăng có chịu gặp hay không?

Nhà sư kia bị y vỗ hai cái, một luồng khí lạnh chạy thẳng từ vai vào tim, toàn thân lập tức run lẩy bẩy, răng đánh vào nhau lập cập. Y cố nhịn, xoay người lách qua bên hông Vi Nhất Tiếu chạy đi, vừa đi vừa run, thất thểu lên núi. Vi Nhất Tiếu nói:

- Gã này đái nghệ đầu sư [9], võ công của y không phải thuộc phái Thiếu Lâm.

Trương Vô Kỵ nghĩ ngay đến Viên Chân, biết rằng chuyện đi học nơi khác rồi sau học võ Thiếu Lâm là chuyện bình thường, nói:

- Vi Bức Vương đánh y hai đòn Hàn Băng Miên Chưởng, sư tổ, sư phụ y lẽ nào bỏ qua? Thôi cả bọn mình lên, xem các đại hòa thượng có thật tiếp hay không tiếp?

Mọi người biết rằng khó có thể tránh khỏi một trường ác đấu, phái Thiếu Lâm trước nay vẫn là Thái Sơn, Bắc Đẩu của võ lâm, hơn một nghìn năm qua giang hồ vẫn gọi là "môn phái chỉ thắng mà không thua", hôm nay đại chiến một trận, xem thử Minh giáo và Thiếu Lâm bên nào mạnh, bên nào yếu.

Mọi người ai nấy hăng tiết, rảo bước lên núi, nghĩ đến phái Thiếu Lâm cao thủ nhiều vô kể, trận đại chiến trước mắt nhất định ác liệt không để đâu cho hết. Chưa tới thời gian uống một chén trà đã đến thạch đình trước cửa chùa. Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm xưa theo thái sư phụ lên núi, gặp tam đại thần tăng chính ở tại nơi đây, hôm nay trở lại, tuy trước sau chỉ mới vài năm, nhưng năm xưa là một đứa bé bệnh hoạn gầy gò, cô khổ lênh đênh, hôm nay là giáo chủ Minh giáo tôn quí, nghĩ lại chuyện xưa tưởng như chuyện từ tiền kiếp.

Căn thạch đình đó hai chiếc cột đá bị gãy, chiếc bàn đá cũng đổ lăn lóc. Thuyết Bất Đắc cười nói:

- Các nhà sư chùa Thiếu Lâm thích đánh nhau thật, mấy cái cột này mới gãy đây thôi, xem ra mấy hôm trước có một trận chiến khủng khiếp nên mới không kịp tu sửa.

Chu Điên nói:

- Để khi mình đắc thắng rồi, mình sẽ phá hết cái đình này.

Quần hào ở nơi thạch đình chờ đợi, liệu rằng trong chùa sẽ có một đám cao thủ ào ra nên đã định tiên lễ hậu binh, trách hỏi tại sao hạ độc thủ đối với Ân Lê Đình, nếu chúng tăng vẫn ngang ngược không nghe, lúc ấy mới động võ. Nào ngờ chờ cả nửa ngày, trong chùa hoàn toan không thấy chút gì động tĩnh. Thêm một lúc nữa, thấy một đoàn người từ sau chùa chạy xuống hậu sơn, nhìn từ xa phải đến bốn năm chục người. Bành Oánh Ngọc nói:

- Hừ, chắc họ điều binh khiển tướng, mai phục bốn bên chăng?

Trương Vô Kỵ nói:

- Thôi vào chùa.

Lập tức Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu ở phía bên trái, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương bên phải, Thuyết Bất Đắc, Bành Oánh Ngọc, Thiết Quan đạo nhân và Chu Điên tứ tản nhân tại đằng sau, cùng hộ vệ Trương Vô Kỵ tiến vào chùa. Đến Đại Hùng Bảo Điện, thấy chiếc bàn thờ trước tượng Phật ngã chỏng chơ một bên, lư hương còn lăn lóc dưới đất, mặt đất đầy tàn nhang nhưng không thấy một ai. Thuyết Bất Đắc cười nhạt nói:

- Phái Thiếu Lâm thấy bọn mình đến đây, tâm hoảng thần loạn, chân tay quờ quạng, đến bình hương mà cũng đánh rơi, nực cười ơi là nực cười.

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Minh giáo Trương Vô Kỵ, cùng với các người trong tệ giáo Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu tiền lai bái sơn, cầu kiến phương trượng đại sư.

Tiếng của chàng tuy không lớn lắm nhưng nội lực hồn hậu, các chuông trống treo bên ngoài đại điện bị âm thanh khích đãng, cùng u u vang lên. Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu cùng đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: "Giáo chủ nội lực thật thâm hậu thực ai nghe thấy cũng phải sợ, đương niên Dương giáo chủ còn tại thế, xem ra cũng còn kém xa. Trận chiến hôm nay, bản giáo thể nào cũng thắng".

Mấy câu đó của Trương Vô Kỵ, tiền viện hậu viện chùa Thiếu Lâm chỗ nào cũng nghe thấy cả. Thế nhưng đợi thêm một hồi, trong chùa vẫn không thấy ai bước ra. Chu Điên quát lớn:

- Này, tất cả bọn sư sãi lớn bé chùa Thiếu Lâm đâu, rụt đầu rụt cổ trốn cả thì còn ra giống gì nữa? Bộ còn hú hí với vợ hay sao?

Tiếng của y so với Trương Vô Kỵ lớn hơn nhiều, nhưng chuông trống trong điện không thấy vang lại. Quần hào lại đợi thêm một lát, vẫn không thấy ai ra. Bành Oánh Ngọc nói:

- Tôi trong lòng bỗng thấy khác lạ, thấy chùa này âm khí u uất, thật là điều không hay.

Chu Điên cười nói:

- Hòa thượng quay về chùa là đúng chỗ rồi, còn gì mà khác lạ nữa?

Thiết Quan đạo nhân bỗng nói:

- Ồ, nơi đây có một thiền trượng gãy đầu.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Ồ, nơi đây lại có một vũng máu lớn.

Chu Điên cười nói:

- Chắc là sau trận chiến Quang Minh Đính, uy danh giáo chủ truyền ra xa nên phái Thiếu Lâm mới treo cao "miễn chiến bài". Xem chừng họ chạy bán sống bán chết, đến binh khí cũng quẳng bỏ luôn.

Thiết Quan đạo nhân lắc đầu:

- Không phải thế đâu.

Chu Điên hỏi:

- Có gì mà không phải?

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Thế còn vũng máu này thì sao?

Chu Điên nói:

- Chắc là họ sợ quá nên cắt phải tay...

Nói tới đây y khựng lại, tự biết như thế không đúng nên không hết câu. Ngay lúc đó, một trận gió thổi qua, khiến quần áo mọi người tung bay. Chu Điên vui vẻ nói:

- Gió mát quá.

Bỗng nghe có tiếng lách cách, một cây tùng lớn ngả xuống cách vài mươi trượng ở phía tây. Quần hào ai nấy kinh ngạc, cùng nhảy lên chạy ngay đến chỗ cây đổ, thấy cây tùng đó ở bên góc đông nam của một tòa đại viện, trong viện cũng không có ai, không hiểu vì sao cây tùng lớn thế mà lại bị gió thổi gãy được, làm sập cả một mảng tường. Mọi người tới gần quan sát, thấy các sớ gỗ nát vụn, hiển nhiên bị người nào dùng trọng thủ đánh nát, chỗ gãy cũng đã khô, không phải mới gãy.

Quần hào coi kỹ một hồi, bàn tán xôn xao:

- Ồ, không phải.

- A, nơi đây có động thủ.

- Ghê gớm thật, chết nhiều người quá.

Trong tòa đại viện chỗ nào cũng có dấu vết một cuộc kịch chiến, trên nền đá xanh, những cành cây khô, tường đá vây quanh để lại biết bao nhiêu vết binh khí chém xuống, quyền cước đấm đá. Nơi nào cũng đầy vết máu, đủ biết nơi đây giao chiến kịch liệt dị thường. Trên nền đất cũng còn nhiều vết chân nông sâu, là của cao thủ tỉ đấu nội lực còn lưu lại.

Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Mau bắt gã tri khách tăng kia hỏi cho ra lẽ.

Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc mọi người liền chia ra tìm kiếm, nhưng không biết nhà sư kia trốn nơi đâu. Ngũ Hành Kỳ cũng chia ra các nơi tra xét, qua đến nửa giờ, các chưởng kỳ sứ quay về bẩm báo, nói là trong chùa không có ai nhưng chỗ nào cũng có dấu vết kịch đấu. Nhiều điện đường còn cả vết máu, binh khí gãy nhưng không thấy xác người. Trương Vô Kỵ hỏi:

- Dương tả sứ, ông nghĩ sao?

Dương Tiêu đáp:

- Trận chiến ghê gớm này chỉ mới hai ba ngày trước, không lẽ toàn thể phái Thiếu Lâm bị tiêu diệt, hoặc bị giết, hoặc bị bắt không còn một ai hay sao?

Thuyết Bất Đắc nói:

- Hồi nãy chẳng có mấy chục người chạy về phía hậu sơn đấy ư?

Dương Tiêu đáp:

- Rất có thể đó là bọn đối đầu của phái Thiếu Lâm lựu lại thủ ngự nơi đây, thấy đại đội nhân mã của mình nên bỏ chạy trước.

Bành Oánh Ngọc nói:

- Cứ theo sự thế mà suy đoán thì hẳn là như thế. Gã tri khách tăng kia cũng chỉ là mạo xưng thôi, tiếc là không giữ hắn lại. Thế nhưng đối đầu với phái Thiếu Lâm có môn phái bang hội nào ghê gớm đến thế? Không lẽ là Cái Bang?

Chu Điên nói:

- Cái Bang thế lực tuy có lớn thật, cao thủ tuy nhiều thật nhưng đâu có thể chỉ đánh một trận mà giết sạch bọn đầu trọc chùa Thiếu Lâm đâu. Chỉ có Minh giáo chúng ta mới làm nổi, nhưng rõ ràng bọn mình đâu có làm?

Thiết Quan đạo nhân nói:

- Chu Điên, ngươi nói bớt một câu tầm ruồng đi có được không? Bản giáo có làm chuyện đó hay không, không lẽ chính bọn ta không biết?

Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên quay về báo:

- Khải bẩm giáo chủ, mười tám pho tượng Phật La Hán trong La Hán Đường không biết ai đã di động, không hiểu có chuyện gì không?

Quần hào biết Nhan Viên giỏi ngành nề mộc xây cất, nếu y đã khởi nghi, ắt có chuyện gì liền nói:

- Bọn mình đến xem thử.

Đến La Hán Đường thấy trên tường đầy vết máu, giới đao thiền trượng còn đầy mặt đất. Chu Điên nói:

- Nhan huynh, mười tám vị La Hán này có gì khác lạ?

Nhan Viên đáp:

- Tòa La Hán nào cũng bị người ta xô đẩy, lúc đầu huynh đệ nghi đằng sau có thể có lối đi, nhưng xem xét tường vách không thấy có cửa bí mật hay đường bí mật.

Dương Tiêu trầm ngâm một hồi, nói:

- - Mình thử đẩy tượng La Hán ra lần nữa xem sao?

Nhan Viên nhảy lên bệ thờ, đẩy tượng trường mi La Hán sang một bên, lộ tường ra quả nhiên không có gì khác lạ. Dương Tiêu cũng nhảy lên bệ, xem kỹ pho tượng La Hán, đột nhiên "Ồ" một tiếng nói:

- Sau lưng La Hán có viết chữ.

Liền xoay ngược pho tượng lại. Quần hào ngạc nhiên thấy có khắc một chữ "Diệt" lớn bằng cái đấu. Pho tượng này vốn dĩ sơn son thếp vàng, lúc này lớp sơn bên ngoài bị người nào dùng lợi khí khắc một chữ Diệt lớn, sâu vào cả tấc, lộ cả đất ra. Vết xem ra còn mới hiển nhiên khắc chưa bao lâu. Chu Điên nói:

- Chữ Diệt này là cái quái gì? A, đúng rồi, chắc là phái Nga Mi đến quấy phá chùa Thiếu Lâm, Diệt Tuyệt sư thái để chữ lại thị uy đấy mà.

Ai nấy thấy chuyện đó ngoài sức tưởng tượng, đều lắc đầu. Trong khi đang nói chuyện, những người khác đã xoay cả mười tám pho tượng lại, trừ pho Hàng Long La Hán ở tận cùng bên phải, và Phục Hổ La Hán ở tận cùng bên trái, mười sáu pho tượng La Hán còn lại sau lưng đều có khắc mỗi pho một chữ, từ phải sang trái thành như sau:

Tiên tru Thiếu Lâm,

Tái diệt Võ Đương.

Duy ngã Minh giáo,

Võ lâm xưng vương.

(Diệt phái Thiếu Lâm trước,

Rồi diệt Võ Đương sau.

Chỉ còn mình Minh giáo,

Trong võ lâm đứng đầu.)

Ân Thiên Chính, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc mọi người không hẹn mà cùng kêu lên:

- Đây là kế Di Họa Giang Đông.

Quần hào thấy mười sáu chữ đó giương nanh khoe vuốt, hình dáng thật ghê rợn, nghĩ đến quần tăng chùa Thiếu Lâm bị thảm họa, bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu Minh giáo, không khỏi lo âu. Chu Điên kêu lên:

- Mình mau mau cạo sạch mấy chữ này đi, để khỏi bị tiếng oan.

Dương Tiêu nói:

- Địch nhân dụng tâm ác độc, chỉ cạo mấy chữ đi đâu đã đủ.

Lần này Chu Điên thấy y ăn nói có lý, không cãi lại chỉ hỏi:

- Thế thì làm thế nào?

Thuyết Bất Đắc nói:

- Cứ để sau làm chứng cớ. Mình đi kiếm kẻ lập tâm di họa, bắt đối chất với mười sáu chữ này.

Dương Tiêu gật đầu khen phải. Bành Oánh Ngọc nói:

- Tiểu tăng vẫn còn một chuyện chưa rõ, muốn được Dương tả sứ chỉ giáo. Kẻ khắc mười sáu chữ này là đã lập tâm giá họa cho bản giáo, để chúng ta phải chịu cái đại tội tiêu diệt Thiếu Lâm, khiến cho anh hùng võ lâm cùng nổi lên tấn công, thế nhưng sao lại xoay lưng các pho tượng này quay vào tường? Sao không để mười sáu chữ đó hướng ra ngoài? Nếu Nhan kỳ sứ không xét nét, thì có ai biết được sau lưng tượng La Hán lại có khắc chữ?

Dương Tiêu mặt mày ngưng trọng nói:

- Cứ mỗ suy xét, các pho tượng La Hán này có ai đó xoay ngược lại, hẳn là bí mật giúp cho bản giáo, mình chịu một ân tình lớn của người đó.

Quần hào cùng hỏi:

- Người đó là ai? Sao Dương tả sứ lại biết?

Dương Tiêu thở dài:

- Nguyên ủy khúc chiết trong chuyện này, chính mỗ cũng chưa nghĩ ra...

Câu nói của ông ta chưa xong, Trương Vô Kỵ bỗng nhiên "A" lên một tiếng, kêu hoảng lên:

- Tiên tru Thiếu Lâm, tái diệt Võ Đương, chỉ sợ... chỉ sợ phái Võ Đương cũng đang gặp nạn rồi.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Chúng ta nghĩa chẳng dung từ, lập tức đến cứu viện ngay, để xem bọn chó má nào tính làm gì.

Ân Thiên Chính cũng nói:

- Việc không thể chậm trễ, mình phải lập tức đi ngay. Bọn gian tặc này đã đi trước một hai ngày rồi.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Thần công búng ngón tay

[2] Ném đá điểm huyệt

[3] tiếng khiêm tốn để nói tới cấp trên của mình

[4] Một trăm họ phổ biến nhất ở bên Tàu làm thành một bài thơ có vần điệu cho dễ nhớ, tương truyền là từ đời Tống nên lấy họ Triệu (hoàng tộc) đứng đầu trăm họ.

[5] Tám con ngựa

[6] Một danh họa gia đời Nguyên (xin xem thêm Thư Họa, bài viết của Nguyễn Duy Chính)

[7] kinh đô đời Bắc Tống, còn gọi là Biện Kinh, nay thuộc Hà Nam.

[8] Công phu bò trên tường như con thạch sùng

[9] đã học võ trước rồi sau mới xin học chùa Thiếu Lâm

Hồi 24

THÁI CỰC SƠ TRUYỀN NHU KHẮC CƯƠNG-

Âm dương đắp đổi,

Thái cực xoay vòng.

Đỉnh đầu lơ lửng như bông,

Tọa thiền kia với hành công khác gì[1].

*

* *

Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá và các người không biết đã từ Tây Vực về đến núi chưa, trên đường đi tuyệt nhiên không nghe tin tức gì của họ cả, nếu như gặp phải biến cố, ở lại núi chỉ có thái sư phụ và một số đệ tử đời thứ ba, tam sư bá Du Đại Nham tàn phế nằm đó, nếu như cường địch đến lấy gì chống trả? Chàng nghĩ vậy, trong bụng không khỏi bồn chồn như lửa đốt liền lớn tiếng nói:

- Các vị tiền bối, huynh trưởng, phái Võ Đương là nơi tiên phụ xuất thân, thái sư phụ đối với tại hạ ơn nặng như núi. Hiện nay đang gặp đại nạn, cứu binh như cứu hỏa, sớm khắc nào hay khắc đó. Vậy xin Vi Bức Vương đi theo bản nhân, đến cứu viện trước, các vị kế tiếp chia ra đến sau, mọi việc nhờ Dương tả sứ và ông ngoại an bài.

Nói xong vòng hai tay lên chào, lách mình vọt ra khỏi cửa. Vi Nhất Tiếu thi triển khinh công, đi song song với chàng. Tiếng đáp ứng của quần hào chưa dứt, hai người đã đến cửa chùa Thiếu Lâm rồi, khinh công đẹp như thế, nhanh như thế thật trên đời không có được một người thứ ba sánh kịp.

Hai người không dám hao phí một giây một khắc, chân không ngừng bước, chạy một mạch mấy chục dặm. Thoạt đầu Vi Nhất Tiếu không kém chút nào nhưng càng lâu, nội lực dần dần sút giảm. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Đường lên núi Võ Đương thật xa, không thể chạy một mạch không nghỉ như thế này. Huống chi cường địch ngay trước mặt, mình phải giữ sức để còn chiến đấu". Chàng liền nói với Vi Nhất Tiếu:

- Đến thị trấn đằng trước mình tìm mua hai con ngựa cưỡi để dưỡng sức.

Vi Nhất Tiếu vốn có ý ấy nhưng không tiện nói ra, liền đáp:

- Giáo chủ, mua bán ngựa mất nhiều thì giờ lắm.

Chẳng mấy chốc, thấy từ xa có năm sáu người cưỡi ngựa chạy lại, Vi Nhất Tiếu liền tung mình nhảy tới, nắm cổ hai người, nhẹ nhàng vứt ngay xuống đất, kêu lên:

- Giáo chủ, lên ngay.

Trương Vô Kỵ chần chừ đứng lại, nghĩ thầm mình chặn đường cướp ngựa như thế có khác gì cường đạo đâu? Vi Nhất Tiếu kêu lên:

- Làm chuyện lớn đừng câu nệ tiểu tiết, họ còn nhiều mà.

Trong khi la lối, y lại vứt thêm hai người khác xuống đất. Mấy người đó cũng biết chút ít võ nghệ, quát mắng chửi bới, rút binh khí ra toan động thủ. Vi Nhất Tiếu hai tay cầm bốn con ngựa, giơ chân đá tung hết võ khí trong tay bốn người đó. Lại nghe một người quát lên:

- Kẻ cậy mạnh cướp đường kia, có giỏi thì để lại tên tuổi.

Trương Vô Kỵ nghĩ nếu còn dây dưa, ắt sẽ thêm nhiều phiền phức, tung mình nhảy lên lưng ngựa, cùng Vi Nhất Tiếu mỗi người dắt thêm một con, quất ngựa chạy thẳng. Những người kia luôn mồm chửi rủa nhưng không dám đuổi theo.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chúng ta ở vào chỗ không còn cách nào khác, nhưng biết đâu người ta cũng có việc gấp phải làm, làm thế này trong bụng không an.

Vi Nhất Tiếu cười đáp:

- Giáo chủ, chuyện nhỏ nhặt này có đáng gì đâu? Năm xưa Minh giáo hành sự, có thể nói là "không còn e dè, ngang ngược vô pháp".

Nói xong cười lên ha hả. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Minh giáo bị người ta coi là tà giáo dị đoan cũng có lý của nó. Thế nhưng thế nào là ngay, thế nào là cong thì cũng thật khó mà luận". Nghĩ đến mình mang trọng nhiệm giáo chủ trên vai nhưng kiến thức ít ỏi, nhiều chuyện không quyết định được, ngay như chuyện nhỏ nhặt đoạt ngựa đây, cũng do dự không biết sao cho phải, dù có võ công cao cường, nhưng việc trên đời đâu phải chỉ dựa vào võ lực? Chàng nghĩ đến đó, trong lòng cảm thán, chỉ mong sớm đón được Tạ Tốn về để trút được gánh nặng trên vai không còn phải lo gì nữa.

Ngay lúc đó, bỗng thấy thấp thoáng, hai người nhảy ra chặn ngay lối đi, trong tay đều cầm cương trượng. Vi Nhất Tiếu quát lên:

- Tránh ra.

Y lấy roi cuốn bên lưng vung ra, giục ngựa phóng tới. Một người giơ trượng đỡ roi, còn người kia huýt một tiếng còi, giơ gậy ra chặn. Con ngựa Vi Nhất Tiếu đang cỡi hoảng sợ, dựng hai vó trước. Ngay lúc đó, từ trong lùm cây bốn hán tử mặc áo đen chạy ra, xem thân pháp đều là những tay luyện ngạnh công. Vi Nhất Tiếu kêu lên:

- Giáo chủ cứ việc đi trước, để bọn chuột nhắt này thuộc hạ tính cho.

Trương Vô Kỵ thấy họ có ý ngăn chặn cứu binh cho phái Võ Đương, dụng tâm ác độc thoáng nhìn là biết, tình hình rất là hung hiểm, biết Vi Nhất Tiếu khinh công võ kỹ đều xuất chúng, có thể lo liệu được bọn này, nếu không thắng thì cũng tự bảo vệ được thân. Chàng bèn kẹp hai đùi, giục ngựa xông tới. Hai tên hắc y giơ cương trượng ra chặn ngay đầu ngựa, Trương Vô Kỵ cúi xuống, vung hai tay đoạt luôn hai cây gậy, thuận thế ném ra. Chỉ nghe "a" "a" hai tiếng thảm khốc, hai tên áo đen đã bị hai cây gậy chia ra đánh gãy xương đùi, ngã lăn quay trên mặt đất. Chàng thấy bốn tên quấy rối Vi Nhất Tiếu võ công không phải là kém, e rằng mình đi rồi, Vi Nhất Tiếu sẽ khó mà xoay trở nên giúp y thanh toán trước hai tên.

Tung Sơn và Võ Đương sơn mặc dù ở hai tỉnh Dự Ngạc khác nhau, nhưng một đằng ở Dự Tây, một đằng ở Ngạc Bắc, cách nhau không xa lắm. Đi qua Mã Sơn Khẩu rồi, về phía nam đường toàn đồng trống, ngựa chạy thật nhanh, mới chính ngọ đã đến Nội Hương. Trương Vô Kỵ trong bụng đói meo, liền ghé một cái chợ mua mì, bánh bao ăn đỡ, bỗng nghe phía sau một con ngựa của mình hí lên thảm thiết, quay đầu nhìn lại, đã thấy một con dao sáng loáng đâm dưới bụng ngựa, một bóng người thoáng qua rồi biến mất.

Trương Vô Kỵ phi thân đuổi theo chộp được người nọ, thấy y mặc áo đen, vạt trước áo dính đầy máu ngựa. Chàng quát hỏi:

- Ngươi là thủ hạ của ai? Bang hội môn phái nào? Đại đội nhân mã chúng bay đã đến núi Võ Đương chưa?

Chàng hỏi liền mấy câu nhưng người kia chỉ nhắm mắt không trả lời. Trương Vô Kỵ không muốn mất thì giờ thêm, nghĩ thầm cứ lên đến núi Võ Đương sẽ biết, lập tức giơ tay đóng huyệt Đại Truy để cho y đau đớn khổ sở ba ngày ba đêm cho biết. Chàng giục ngựa chạy tiếp một mạch đến Tam Quan Điện, qua sông Hán Thủy đi về hướng nam. Thuyền đến giữa dòng, nhìn thấy nước sông cuồn cuộn nghĩ đến năm nào thái sư phụ dẫn mình đi lên núi Thiếu Lâm cầu chữa bệnh không xong phải quay về, trên sông Hán Thủy gặp Thường Ngộ Xuân, lại cứu được Chu Chỉ Nhược. Trong đầu chàng hiện ra hình bóng kiều diễm của nàng, nhớ đến đôi mắt chăm chăm nhìn mình trên Quang Minh Đính khiến chàng không khỏi xuất thần.

Qua Hán Thủy rồi chàng tiếp tục phóng ngựa xuôi nam. Bấy giờ trời đã nhá nhem, chỉ nhìn thấy lờ mờ, chạy thêm một giờ nữa không có ánh trăng sao, con ngựa cực kỳ mỏi mệt, không còn sức nữa, khụy xuống đường. Chàng vỗ vỗ lưng nó nói:

- Ngựa ơi, ngựa ơi, ngươi ở đây nghỉ ngơi, rồi muốn đi đâu thì đi.

Nói xong chàng thi triển khinh công chạy tiếp. Chạy đến canh tư, bỗng nghe văng vẳng tiếng vó ngựa phía trước, xem ra một đoàn người đang đi. Chàng càng gia tăng kình lực, đi lẻn qua đoàn người này. Thân pháp chàng vừa nhanh vừa nhẹ, lại trong đêm khuya cho nên không một ai hay biết. Cứ xem hướng đi của bọn này chính là đang lên núi, hơn hai chục người không nói một tiếng thành thử không thể biết được lai lịch thế nào, nhưng ai ai cũng mang binh khí hẳn là đối địch với phái Võ Đương, không còn ngờ gì nữa. Chàng trong lòng thấy an tâm: "Thế là mình cũng đuổi kịp bọn chúng rồi, phái Võ Đương như vậy chưa bị tấn công".

Lại chạy thêm nửa giờ nữa, trước mặt lại có một đoàn người cũng đi lên núi Võ Đương. Trước sau chàng gặp năm nhóm, mỗi nhóm nhiều thì ba chục người, ít cũng khoảng mươi người. Khi gặp đoàn thứ năm, chàng bỗng thấy lo lắng: "Không biết đã có bao nhiêu nhóm lên trên núi rồi? Đã có nhóm nào động thủ cùng người trong bản phái chưa?".

Chàng tuy không phải đệ tử Võ Đương, nhưng vì gốc tích của cha nên từ trước tới nay vẫn coi phái Võ Đương là môn phái của mình. Nghĩ như thế chàng càng cố chạy nhanh hơn.

Chẳng mấy chốc chàng đã lên núi, cũng may không gặp nhóm địch nào. Đến lưng chừng bỗng thấy đằng trước có một người đang cố sức chạy, áo rộng đầu trọc chính là một nhà sư, khinh công cực giỏi. Trương Vô Kỵ chạy theo xa xa để xem động tĩnh của y.

Nhà sư đó chạy một mạch lên núi, tới trên đỉnh rồi bỗng nghe một người quát hỏi:

- Bằng hữu ở lộ nào đó mà đang đêm lại đến viếng núi Võ Đương?

Tiếng quát chưa dút, đằng sao khe đá chạy ra bốn người, hai đạo sĩ, hai tục gia chính là đệ tử đời thứ ba, thứ tư của phái Võ Đương. Tăng nhân đó chắp tay làm lễ nói:

- Thiếu Lâm tăng nhân Không Tướng, cớ chuyện gấp cầu kiến Võ Đương Trương chân nhân.

Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên: "Thì ra y là một tiền bối hàng chữ Không của phái Thiếu Lâm, cùng Không Văn phương trượng, các vị Không Trí, Không Tính thần tăng là sư huynh đệ. Y không nề gian khổ chạy lên núi Võ Đương, hẳn là đi đến báo tin.

Một đạo nhân của phái Võ Đương nói:

- Đại sư đường xa mệt nhọc, xin mời quá bước vào tệ quan dùng trà.

Nói xong đi trước dẫn đường. Không Tướng bỏ giới đao đeo ở hông xuống, giao cho một đạo nhân, để tỏ ý không dám đeo binh khí bước vào quan. Trương Vô Kỵ thấy đạo nhân đó dẫn Không Tướng vào điện Tam Thanh trong Tử Tiêu Cung, liền náu ở bên ngoài cửa sổ. Lại nghe Không Tướng lớn tiếng nói:

- Xin đạo trưởng lập tức bẩm báo Trương chân nhân, sự việc khẩn cấp không thể diên trì một phút nào cả.

Đạo nhân kia đáp:

- Đại sư đến thật không phải lúc, tệ sư tổ tọa quan từ năm ngoái, đến nay đã hơn một năm, đệ tử bản phái đã lâu chẳng một ai được thấy tư phạm của lão nhân gia.

Không Trí nói:

- Như vậy phiền thông báo Tống đại hiệp.

Đạo nhân trả lời:

- Đại sư bá cùng gia sư và các chư vị sư thúc, liên minh với quí phái, viễn chinh Minh giáo chưa trở về.

Trương Vô Kỵ nghe đến mấy tiếng "viễn chinh Minh giáo chưa trở về", trong bụng kinh hoảng, quả nhiên nhóm Tống Viễn Kiều đã gặp chuyện gì không hay trên đường trở về. Lại nghe Không Tướng thở dài một tiếng nói:

- Nếu quả như thế phái Võ Đương cũng không khác gì phái Thiếu Lâm chúng tôi, hôm nay khó mà qua khỏi được kiếp nạn này.

Đạo nhân kia không hiểu ý tứ nói:

- Sự vụ trong tệ phái, hiện nay do Cốc Hư Tử sư huynh chủ trì, tiểu đạo sẽ thông báo ngay, mời ra tham kiến đại sư.

Không Tướng hỏi:

- Cốc Hư đạo trưởng là đệ tử của vị nào thế?

Đạo nhân kia đáp:

- Là môn hạ Du tam sư thúc.

Không Tướng nhướng đôi lông mày dài nói:

- Du tam hiệp tay chân bị thương, nhưng đầu óc vẫn minh mẫn, mấy câu này lão tăng nói lại với Du tam hiệp vậy.

Đạo nhân kia nói:

- Vâng, xin theo lời đại sư chỉ bảo.

Nói xong quay mình đi vào. Nhà sư Không Tướng ở trong sảnh đi đi lại lại, xem ra cực kỳ nóng ruột, thỉnh thoảng lại nghiêng tai nghe ngóng, hiển nhiên lo lắng địch nhân tấn công lên núi. Chẳng bao lâu, đạo nhân kia rảo bước đi ra, khom mình nói:

- Du tam sư thúc có lệnh mời, nói là xin đại sư tha thứ cho tội không đi ra ngoài nghênh tiếp được.

Lúc này thần thái cử chỉ của đạo nhân kia so với khi trước cung kính hơn nhiều, chắc là Du Đại Nham nghe thấy nhà sư thuộc hàng chữ Không của phái Thiếu Lâm giá lâm nên dặn y lễ mạo phải mười phần chu đáo. Không Tướng gật đầu, đi theo y vào ngọa phòng của Du Đại Nham. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Tam sư bá tàn phế tứ chi, tai mắt hẳn là linh mẫn hơn nhiều, nếu ta đến bên ngoài phòng ông ta nghe ngóng, chỉ e sẽ bị phát giác". Chàng đi đến cách phòng Du Đại Nham chứng vài trượng liền dừng lại.

Qua chừng thời gian uống một chén trà, đạo nhân kia lật đật đi ra khỏi phòng Du Đại Nham, hạ giọng gọi:

- Thanh Phong, Minh Nguyệt, qua bên này.

Liền có hai đạo đồng chạy đến trước mặt ông ta, kêu lên một tiếng:

- Sư thúc.

Đạo nhân kia nói:

- Chuẩn bị cáng, tam sư thúc muốn ra ngoài.

Hai đạo đồng bèn vâng dạ đi ngay. Trương Vô Kỵ ở trên núi Võ Đương mấy năm, tri khách đạo nhân kia là đệ tử của Du Liên Châu mới thu về sau nên chàng không biết, nhưng lại biết hai đạo đồng Thanh Phong, Minh Nguyệt. Mỗi khi Du Đại Nham muốn ra ngoài phải nằm trên cáng do hai đạo đồng đó khiêng đi. Chàng thấy hai đạo đồng đó đi về hướng phòng để cáng liền rón rén đi theo sau, đợi cho hai người vào phòng đột nhiên gọi:

- Thanh Phong, Minh Nguyệt, nhận ra ta không?

Hai tiểu đồng sợ hãi nhảy dựng lên, chăm chú nhìn Trương Vô Kỵ, xem thấy quen quen, nhưng chưa biết là ai. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Ta là Vô Kỵ tiểu sư thúc đây, các ngươi quên rồi sao?

Hai đưa tiểu đồng liền nhớ lại, mừng rỡ kêu lên:

- Ồ, tiểu sư thúc về rồi. Sư thúc khỏi bệnh chưa?

Ba người tuổi tác cùng lứa, trước kia thường chơi đùa với nhau. Trương Vô Kỵ nói:

- Thanh Phong, để ta giả làm ngươi, đến khiêng tam sư bá, xem ông ấy có nhận ra ta không?

Thanh Phong trù trừ nói:

- Cái đó. .. không được đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tam sư bá thấy ta khỏi bệnh trở về, vui không để đâu cho hết, vui sướng còn chưa đủ, lẽ nào còn trách mắng ngươi?

Hai đạo đồng biết là từ tổ sư Trương Tam Phong trở xuống, Võ Đương lục hiệp đối với vị tiểu sư thúc này cực kỳ sủng ái, y khỏi bệnh về núi, thật là một chuyện vui rất lớn, muốn nghịch ngợm một tí, Du Đại Nham đang bệnh sẽ vui không có gì là không được. Minh Nguyệt nói:

- Tiểu sư thúc bảo sao thì làm vậy.

Thanh Phong nghe thế liền cười hì hì cởi đạo bào, giày vớ để cho chàng thay. Minh Nguyệt thì giúp Trương Vô Kỵ tết một cái búi tóc. Chỉ trong giây lát, chàng đã biến thành một tiểu đạo đồng. Minh Nguyệt nói:

- Nếu sư thúc mạo xưng Thanh Phong, tướng mạo không giống, vậy nói là đệ tử mới thu trong đạo quan. Thanh Phong bị ngã què chân nên sư thúc vào thay.

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Hay lắm. ..

Đạo nhân kia ở ngoài quát mắng:

- Hai thằng nhãi kia, còn hi hi ha ha cái gì trong đó, sao lâu thế không chui ra.

Trương Vô Kỵ và Minh Nguyệt le lưỡi, vác cáng lên vai đi về phía phòng Du Đại Nham. Hai người đỡ Du Đại Nham ngồi vào cáng, Du Đại Nham mặt thật là trịnh trọng không để ý đến đạo đồng là ai nói:

- Đến tiểu viện sau núi để gặp tổ sư gia gia.

Minh Nguyệt đáp:

- Vâng

Quay mình lại tiến bước còn Trương Vô Kỵ khiêng đằng sau. Du Đại Nham chỉ thấy sau lưng Minh Nguyệt nhưng không thấy Trương Vô Kỵ. Không Tướng đi theo ngang bên cáng cùng đến hậu sơn. Viên tri khách đạo nhân kia không được Du Đại Nham gọi đến nên không dám đi theo.

Nơi Trương Tam Phong bế quan tĩnh tu là một tiểu viện nằm sâu trong rừng trúc tại sau núi, cây cối um tùm, bóng râm che phủ mặt đất, ngoài tiếng chim kêu không nghe một tiếng nào khác. Minh Nguyệt và Trương Vô Kỵ khiêng Du Đại Nham đến trước tiểu viện, hạ võng xuống. Du Đại Nham đang toan mở miệng cầu kiến, bỗng nghe từ sau cửa truyền ra tiếng nói già cả của Trương Tam Phong:

- Vị cao tăng nào của phái Thiếu Lâm quang lâm hàn cư, lão đạo không kịp ra xa nghênh tiếp, mong thứ lỗi.

Nghe kẹt một tiếng, cửa tre mở rộng, Trương Tam Phong từ từ bước ra. Không Tướng ngạc nhiên, thấy Trương Tam Phong nhận ra người đến thăm thuộc phái Thiếu Lâm thật là kỳ quái nhưng nghĩ ngay có lẽ tri khách đạo nhân đã đến bẩm trước rồi. Du Đại Nham biết là sư phụ càng ngày càng tinh thâm, chỉ nghe tiếng bước chân Không Tướng đã nhận ra ngay môn phái võ công, trình độ nông sâu. Nội công của Trương Vô Kỵ cao thâm hơn Không Tướng nhiều, từ thực quay trở lại hư, quá tinh thuần nên lại thành giản phác, cử chỉ, ánh mắt, bước chân, giọng nói mọi thứ đều không lộ ra chút nào khiến Trương Tam Phong không nhận ra. Chàng thấy thái sư phụ tuy mặt mày hồng hào nhưng râu tóc đã bạc phơ, so với lúc chia tay năm xưa đã già hơn một chút, trong lòng vừa hoan hỉ, vừa bi thương, nhịn không nổi nước mắt chảy ròng ròng, vội quay đầu ra chỗ khác.

Không Tướng chắp tay vái chào nói:

- Tiểu tăng Thiếu Lâm Không Tướng, tham kiến Võ Đương tiền bối Trương chân nhân.

Trương Tam Phong cũng chắp tay đáp lễ nói:

- Không dám, đại sư bất tất đa lễ, xin mời vào nói chuyện.

Cả năm người bước vào tiểu viện. Chỉ thấy trên bàn có một bình trà, một chén uống trà, dưới đất là một tấm bồ đoàn, trên tường treo một thanh kiếm gỗ, ngoài ra không còn gì khác. Trên bàn dưới đất đầy những bụi bặm.

Không Tướng nói:

- Trương chân nhân, phái Thiếu Lâm gặp phải kiếp nạn nghìn năm qua chưa hề có, ma giáo đột nhiên bất ngờ tấn công, bản phái từ phương trượng Không Văn sư huynh đổ xuống, hoặc chiến đấu đến chết vì chùa, hoặc sức yếu bị bắt, chỉ một mình tiểu tăng liều chết chạy thoát. Đại đội ma giáo đang tiến về núi Võ Đương, vinh nhục mất còn của võ lâm Trung Nguyên hôm nay toàn nằm trong tay một mình Trương chân nhân đấy thôi.

Nói xong khóc òa lên. Trương Vô Kỵ bị chấn động mạnh, chàng biết rõ phái Thiếu Lâm đã bị tai kiếp ra sao nhưng không ngờ toàn phái đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Ngay cả Trương Tam Phong đã một trăm năm tu tập, nghe tin đó cũng giật mình kinh hoảng, một hồi lâu không nói được tiếng nào, định thần rồi mới hỏi:

- Ma giáo tuy ngang ngược như thế nhưng phái Thiếu Lâm cao thủ biết bao nhiêu, làm sao đến nổi phải rơi vào độc thủ của chúng được?

Không Tướng nói:

- Không Trí, Không Tính hai vị sư huynh đem môn hạ đệ tử, cùng năm đại môn phái Trung Nguyên thề ước tây chinh, vây đánh Quang Minh Đính. Tăng chúng còn ở lại chùa ngày ngày mong ngóng tin vui. Hôm đó dưới chân núi báo tin lên, những người viễn chinh đại thắng trở về. Phương trượng Không Văn sư huynh nghe tin mừng lắm, cùng mọi người trong chùa ra nghênh đón, quả nhiên thấy Không Trí, Không Tính hai vị sư huynh cùng các đệ tử trở về đến chùa rồi, ngoài ra còn bắt được đến mấy trăm người dẫn theo.

Mọi người vào đến đại viện, phương trượng hỏi han tình hình đắc thắng, Không Trí sư huynh ấp úng nói không ra. Không Tính sư huynh đột nhiên kêu lên: "Sư huynh cẩn thận, chúng tôi đã lọt vào tay người ta rồi, những kẻ bị bắt toàn là địch nhân. ..". Phương trượng còn đang kinh ngạc, bọn tù binh liền rút binh khí dấu trong người ra tay tấn công. Đệ tử bản phái một là trở tay không kịp, hai là các hảo thủ tây chinh bị địch bắt rồi, những người còn lại trong chùa chẳng bao nhiêu, mọi hướng ra trong đại viện đều bị địch chặn lại hết, kịch đấu một trận, đều bị chúng đánh cho tan tành cả, Không Tính sư huynh tuẫn nạn ngay tại đương trường. ..

Nói tới đây Không Tướng khóc lên thành tiếng. Trương Tam Phong trong bụng xót xa, nói:

- Bọn ma giáo tàn độc như thế, thi hành ác kế làm sao ai mà đề phòng cho nổi?

Không Tướng cởi cái bọc vải màu vàng đeo trên lưng, mở bao ra, bên trong là một lớp vải dầu, mở lớp vải dầu, quả nhiên lộ ra một cái thủ cấp, mắt tròn xoe trợn ngược, mặt đầy vẻ phẫn nộ, chính là một trong ba đại thần tăng của phái Thiếu Lâm Không Tính đại sư. Trương Tam Phong và Trương Vô Kỵ đều biết mặt Không Tính, vừa thoạt nhìn không nhịn nổi cùng kêu "A" lên một tiếng.

Không Tướng khóc nói:

- Tiểu tăng liều chết cướp được pháp thể của Không Tính sư huynh, Trương chân nhân, ngài xem đại cừu này làm sao trả được?

Nói xong cung kính đặt chiếc đầu của Không Tính lên bàn rồi phục xuống lạy. Trương Tam Phong buồn bã khom lưng chắp tay đáp lễ. Trương Vô Kỵ nhớ đến khi tỉ võ trên Quang Minh Đính, Không Tính thần tăng khẳng khái lỗi lạc, hào khí hơn người, không thên là đường đường một đại tông sư của phái Thiếu Lâm, đâu ngờ bị gian nhân làm hại đến nỗi đầu một nơi, mình một nẻo, trong lòng thật là đau xót.

Trương Tam Phong thấy Không Tướng nằm phục xuống hồi lâu không dậy, khóc lóc thật thảm thiết, liền đưa tay ra đỡ lên nói;

- Không Tướng sư huynh, Thiếu Lâm Võ Đương vốn cũng một nhà, thù này không thể không báo. ..

Oâng vừa nói tới chữ "báo" thì không ngờ nghe bình một tiếng, song chưởng của Không Tướng cùng đánh thẳng vào bụng dưới.

Biến cố đó thật là đột ngột, Trương Tam Phong võ công tuy đã đến mức tòng tâm sở dục, cảnh giới tối cao muốn gì được nấy, nhưng đâu ngờ nhà sư Thiếu Lâm đang mang mối huyết cừu, từ xa đến báo tin cho mình tự nhiên lại bất ngờ đánh lén. Ngay lúc đầu, ông tưởng đâu Không Tướng vì bi thương quá độ nên tâm trí mê man, trong cơn hôn loạn tưởng mình là địch nhân, nhưng lập tức biết rằng không phải, nơi bụng dưới trúng phải chưởng lực, chính là ngoại môn thần công Kim Cương Bát Nhã Chưởng, cảm thấy Không Tướng đang dồn hết sức đẩy kình lực ra, mặt mày trắng bệch nhưng khóe miệng lộ một nụ cười hiểm ác.

Trương Vô Kỵ, Du Đại Nham, Minh Nguyệt ba người đâu ngờ biến cố đó xảy ra, ai nấy kinh sợ đến chết trân. Du Đại Nham khổ nỗi thân thể tàn phế, không cách nào tiến lên giúp sư phụ một tay, còn Trương Vô Kỵ tuổi trẻ hiểu biết ít, trong một sát na, đâu đã hiểu được rằng Không Tướng đang toan giết chết thái sư phụ mình. Hai người vừa kêu lên một tiếng thì Trương Tam Phong đã đẩy chưởng trái ra, nghe bộp một tiếng nhỏ, đánh trúng ngay đỉnh đầu Không Tướng. Chưởng đó thật mềm như bông mà cứng còn hơn sắt, sọ Không Tướng nát bấy, người sụm xuống như một đống bùn nát chết ngay, chẳng kịp kêu lên một tiếng.

Du Đại Nham vội kêu:

- Sư phụ, lão nhân gia. ..

Nói tới đó ông liền ngừng lại thấy Trương Tam Phong nhắm mắt ngồi xuống, chỉ trong chốc lát, trên đầu tỏa ra những làn hơi trắng li ti, bỗng dưng há mồm hộc ra một ngụm máu tươi.

Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, biết rằng thái sư phụ bị thương thực không phải nhẹ, nếu như ông nôn ra máu bầm đen, thì với nội công thâm hậu vô tỉ của ông chỉ ba bốn ngày sẽ hoàn toàn bình phục, thế nhưng lại hộc máu tươi, phun ra ồng ộc ắt là tạng phủ đã bị trọng thương. Trong giây phút đó, lòng chàng trù trừ không biết tính sao: "Mình có nên lập tức bước ra thố lộ thân phận để cứu thái sư phụ? Hay làm cách nào?".

Ngay khi đó bỗng nghe tiếng chân, có người đã đến trước cửa, nghe có vẻ gấp rút, xem ra mười phần hoảng hốt nhưng không dám tiến vào. Du Đại Nham hỏi:

- Linh Hư đấy ư? Chuyện gì thế?

Tri khách đạo nhân Linh Hư đáp:

- Bẩm báo tam sư thúc, đại đội ma giáo đã đến bên ngoài cung, xin gặp tổ sư gia gia, nói ra những lời thô bỉ, nói muốn san phẳng phái Võ Đương. ..

Du Đại Nham quát lên:

- Câm mồm. ..

Oâng sợ Trương Tam Phong bị phân tâm sẽ khích động đến thương thế. Trương Tam Phong từ từ mở mắt, nói:

- Kim Cương Bát Nhã chưởng của phái Thiếu Lâm quả thực là ghê gớm, nếu không tĩnh dưỡng ba tháng thì không khỏi được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Hóa ra thái sư phụ bị thương còn nặng hơn ta tưởng nhiều".

Lại nghe Trương Tam Phong nói:

- Minh giáo kéo đại đội binh mã lên núi, ôi, không biết Viễn Kiều, Liên Châu bọn nó có được bình an không? Đại Nham, con nghĩ mình phải làm sao?

Du Đại Nham lặng yên không đáp, biết rằng trên núi ngoài sư phụ và mình ra, còn lại đệ tử đời thứ ba thứ tư chẳng có gì đáng kể, đưa ra ngự địch, chẳng qua chỉ đẩy vào chỗ chết. Việc hôm nay, chỉ có nước mình liều mạng ra cho địch làm gì thì làm, để sư phụ tìm nơi dưỡng thương, sau này sẽ tìm cách báo thù. Nghĩ thế ông bèn cao giọng nói:

- Linh Hư, ngươi đi ra bảo họ chờ tại điện Tam Thanh ta sẽ ra gặp.

Linh Hư vâng lời đi ngay. Trương Tam Phong và Du Đại Nham tình thầy trò với nhau đã lâu, tâm ý tương thông, nghe ông nói như thế biết ngay ý định nói:

- Đại Nham, sống chết ăn thua, chẳng có gì đáng phải để bụng cả nhưng tuyệt học phái Võ Đương không thể vì chuyện này mà đứt gánh. Ta tọa quan mười tám tháng, đắc ngộ tinh yếu võ học, một pho Thái Cực Quyền và một pho Thái Cực Kiếm bây giờ ta truyền cho con.

Du Đại Nham ngẩn ngơ, nghĩ thầm bản thân mình tàn phế đã lâu làm sao còn học được quyền pháp kiếm thuật? Huống chi lúc này cường địch đã nhập quan, còn đâu ở không mà tập luyện võ công, nên chỉ kêu lên:

- Sư phụ.

Rồi không nói thêm gì được nữa. Trương Tam Phong cười buồn nói:

- Từ khi ta khai sáng phái Võ Đương đến nay, hành hiệp giang hồ, làm nhiều điều nhân nghĩa, cứ đại số mà nói, quyết không thể nào bị đứt đoạn như thế này. Hai pho Thái Cực Quyền và Thái Cực Kiếm của ta so với đạo lý võ học từ trước đến nay hoàn toàn khác hẳn, chuyên về lấy tĩnh chế động, hậu phát chế nhân. Sư phụ con đã hơn trăm tuổi, nếu như chẳng gặp cường địch, thì cũng còn sống được bao năm? Điều vui là đến cuối cuộc đời lại sáng chế được pho võ công này.

Viễn Kiều, Liên Châu, Tùng Khê, Lê Đình, Thanh Cốc chẳng có ai ở bên ta, còn đệ tử đời thứ ba, thứ tư thì trừ Thanh Thư ra không có nhân tài nào kiệt xuất, mà y lại cũng không có ở trên núi. Đại Nham, con phải mang trọng trách truyền lại bình sinh tuyệt nghệ của ta, vinh nhục một ngày của phái Võ Đương có gì đáng kể? Nếu như pho Thái Cực Quyền này truyền lại được cho người sau, thanh danh của phái Võ Đương sẽ lưu đến muôn đời.

Ông nói đến đây, thần thái phấn khởi, hào khí bốc lên ngùn ngụt, tưởng như coi cường địch đang uy hiếp kia chẳng để vào đâu.

Du Đại Nham vâng vâng dạ dạ, hiểu ý sư phụ muốn mình nhẫn nại để đảm trách việc lớn, làm sao tiếp truyền tuyệt kỹ của bản phái mới là quan trọng. Trương Tam Phong từ từ đứng dậy, hay tay buông thõng, lưng bàn tay hướng ra ngoài, ngón tay để tự nhiên, hai chân dang ra ngang nhau. Kế đến hai cánh tay từ từ đưa lên đến ngang ngực thì tay trái ôm thành hình bán nguyệt, lòng bàn tay úp thành âm chưởng, tay phải lật lên thành dương chưởng, nói:

- Đây là thế khởi đầu của Thái Cực Quyền.

Rồi tiếp tục từng chiêu, từng thức diễn ra một lượt, miệng đọc các tên thế: Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên, Đề Thủ Thượng Thế, Bạch Hạc Lượng Xí, Lâu Tất Câu Bộ, Thủ Huy Tì Bà, Tiến Bộ Ban Lan Truy, Như Phong Tự Bế, Thập Tự Thủ, Bão Hổ Qui Sơn ...

Trương Vô Kỵ ngưng thần nhìn không nháy mắt, lúc đầu tưởng là thái sư phụ cố ý đem từng thức diễn thật chậm, cốt để cho Du Đại Nham nhìn cho rõ ràng, nhưng đến chiêu thứ bảy "Thủ Huy Tì Bà", chỉ thấy ông tay trái dương chưởng, tay phải âm chưởng, mắt chăm chú nhìn cánh tay bên trái, hay tay từ từ hợp lại, xem tưởng ngưng trọng như núi, lại tựa nhẹ nhàng như lông. Trương Vô Kỵ đột nhiên tỉnh ngộ:

- Đây là một loại võ công thượng thừa lấy chậm chống với nhanh, lấy tĩnh chế động, không ngờ là trên thế gian này lại có một loại công phu cao minh đến thế.

Chàng vốn dĩ võ công cực cao, một khi đã lãnh hội, càng xem càng thêm nhập thần. Chỉ thấy Trương Tam Phong hai tay ôm thành hình vòng tròn, chiêu nào cũng hàm ý âm dương biến hóa, tinh vi ảo diệu, quả thực mở ra một khung trời mới cho võ học.

Ước chừng ăn xong một bữa cơm, Trương Tam Phong sử đến thượng bộ Cao Thám Mã, thượng bộ Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên rồi hợp trở lại thái cực. Ông đứng yên thần định khí nhàn, tuy mới bị trọng thương mà luyện xong quyền pháp, tinh thần xem ra lại sung vượng hơn. Trương Tam Phong hai tay ôm vòng thành thức thái cực, nói:

- Quyết khiếu của môn quyền pháp này là mười sáu chữ "hư linh đính kình, hàm hung bạt bối, túng yêu thùy đồn, trầm kiên trụy trửu[2]". Thuần lấy ý mà đi quyền, tối kỵ dùng sức, hình thần hợp nhất, đó chính là yếu chỉ của quyền pháp.

Nói xong ông giải thích kỹ lưỡng một lần. Du Đại Nham không nói một lời chỉ chăm chú lắng nghe, biết rằng thời thế khẩn bách, không có thì giờ để hỏi, tuy có rất nhiều điều chưa hiểu rõ nhưng chỉ cốt chăm chăm ghi nhớ, nếu như sư phụ có chuyện gì chẳng lành, những khẩu quyết chiêu thức mình còn truyền lại được, sau này có kẻ nào tài trí thông minh suy nghĩ được chỗ tinh áo trong đó. Còn Trương Vô Kỵ lãnh hội được nhiều hơn, mỗi câu mỗi thế Trương Tam Phong diễn ra đều khiến chàng như được mở ra một con đường mới, lòng vui sướng không sao tả nổi.

Trương Tam Phong thấy mặt Du Đại Nham có vẻ như hoang mang chưa rõ, hỏi lại:

- Con hiểu được mấy phần?

Du Đại Nham đáp:

- Đệ tử ngu độn, chỉ hiểu độ ba bốn phần nhưng chiêu thức và khẩu quyết thì nhớ hết.

Trương Tam Phong nói:

- Cũng thật khó cho con. Nếu như Liên Châu ở đây thì có thể hiểu được năm thành. Ôi, ngũ sư đệ của con ngộ tính cao hơn cả, tiếc thay không may chết sớm, nếu ta có được ba năm ra tay điểm bát, thì có thể truyền môn tuyệt kỹ này cho y.

Trương Vô Kỵ nghe ông đề cập đến cha mình, trong lòng không khỏi chua xót. Trương Tam Phong lại nói tiếp:

- Quyền kình của môn này chủ yếu là tưởng lỏng nhưng không phải lỏng, sắp bung ra nhưng chưa bung ra, kình dứt rồi mà ý chưa dứt. ..

Ông đang định giải thích tiếp, bỗng nghe từ phía điện Tam Thanh xa xa truyền đến một giọng già nua:

- Nếu Trương Tam Phong lão đạo cứ rụt đầu không ra, bọn ta đem đồ tử đồ tôn của y giết sạch đã.

Lại có một giọng đàn ông ồm ồm nói:

- Hay lắm, cứ cho một mồi lửa đốt tiêu cái đạo quan này rồi tính sau.

Tiếp đến có một giọng the thé:

- Để lão chết thui thì lão sướng quá. Mình phải tóm cổ lão, trói lại dẫn đi các môn các phái cho họ nể mặt, để mọi người xem cái lão già sống dai vẫn được gọi là Thái Sơn, Bắc Đẩu mặt mũi ra thế nào.

Tiểu viện nơi hậu sơn cách tiền điện đến hơn hai dặm, nhưng thanh âm mấy người này truyền đến rõ ràng, hiển nhiên địch nhân cố ý khoe khoang công lực, mà công lực cũng quả không tầm thường.

Du Đại Nham nghe những lời hối nhục sư tôn, trong bụng giận lắm, mắt như muốn tóe lửa. Trương Tam Phong nói:

- Đại Nham, những lời ta dặn dò con, mới đây sao đã quên rồi? Không nhẫn nại được, làm sao đảm trách chuyện lớn?

Du Đại Nham nói:

- Vâng, con xin theo lời giáo huấn của sư phụ.

Trương Tam Phong nói:

- Con đã hoàn toàn tàn phế, địch nhân sẽ không đề phòng, tuyệt đối không được gấp gáp nóng nảy. Nếu như tuyệt nghệ ta khổ tâm sáng chế không truyền được cho hậu thế, thì con sẽ là tội nhân của phái Võ Đương ta đó.

Du Đại Nham nghe mà lưng toát mồ hôi, biết dụng ý tại sao sư phụ nói thế thế, dù địch nhân lăng nhục thầy trò thế nào chăng nữa, thì cũng phải giả như hèn nhát để sống, cốt sao truyền được tuyệt nghệ. Trương Tam Phong lấy bên mình ra một đôi La Hán bằng thép đúc, giao cho Du Đại Nham nói:

- Tên Không Tướng này nói phái Thiếu Lâm đã bị diệt sạch, không biết có thật hay không. Người này là cao thủ của phái Thiếu Lâm, đến như y mà còn đầu hàng kẻ địch, đến trước ám toán ta thì phái Thiếu Lâm ắt đã bị đại nạn không còn nghi ngờ gì nữa. Đôi La Hán này là do Quách Tương Quách nữ hiệp tặng cho ta một trăm năm trước, con sau này gửi lại truyền nhân của phái Thiếu Lâm, may ra từ đôi La Hán này mà còn lưu truyền được một tuyệt nghệ của môn phái.

Nói xong ông phất tay áo một cái, đi ra khỏi cửa. Du Đại Nham nói:

- Khiêng ta đi theo sư phụ.

Minh Nguyệt và Trương Vô Kỵ hai người liền ghé vai khiêng chiếc cáng đi theo Trương Tam Phong.

Bốn người đến điện Tam Thanh, thấy trong điện đầy kẻ đứng người ngồi, phải đến ba bốn trăm chứ không ít. Trương Tam Phong đứng giữa điện, ra hiệu chào khách nhưng không nói lời nào. Du Đại Nham lớn tiếng nói:

- Vị này là sư tôn chúng tôi Trương chân nhân. Các vị đến núi Võ Đương, không hiểu muốn dạy bảo điều gì?

Đại danh Trương Tam Phong uy chấn võ lâm, lập tức bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào ông, chỉ thấy ông mặc một chiếc đạo bào cũ kỹ dơ bẩn màu tro, râu mày bạc trắng, thân thể cực kỳ cao to, ngoài ra không có gì khác thường.

Trương Vô Kỵ nhìn thấy những người kia thấy một nửa ăn mặc theo lối giáo chúng Minh giáo, còn hơn chục người đứng đầu mặc quần áo bản phái, có lẽ vì thân phận cao cấp, không muốn mạo xưng người khác. Cao lùn tăng tục, mấy trăm người đều dồn vào trong điện, nhất thời không thể nhìn rõ mặt từng người.

Ngay lúc đó, nghe thấy bên ngoài có người truyền vào:

- Giáo chủ đến.

Người trong điện nghe thế, lập tức im phăng phắc, hơn chục thủ lãnh liền tiến ra ngoài nghênh tiếp, những người khác cũng rảo bước theo sau. Chỉ trong giây lát, mấy trăm người đều đi hết sạch không còn một ai.

Lại nghe tiếng chân hơn chục người kia từ xa đến gần, đến trước điện thì dừng lại. Trương Vô Kỵ từ trong ngó ra, không khỏi giật mình, thấy tám người khiêng một chiếc kiệu bọc gấm vàng, có thêm bảy tám người đi trước sau ủng vệ, dừng ngay trước cửa. Tám người kiệu phu kia chính là thần tiễn bát hùng ở Lục Liễu Sơn Trang.

Trương Vô Kỵ trong lòng chợt nảy ra một ý, hai tay liền bốc đất dưới chân xoa đầy lên mặt. Minh Nguyệt nghĩ rằng chàng thấy đại địch đến đánh, hãi sợ vô cùng nên mới giả làm như thế, nhất thời cũng bấn loạn theo, bắt chước cũng bốc đất trét lên mặt. Hai đứa đạo đồng lập tức biến thành hai ông vua bếp, không còn nhìn ra mặt mũi thật ra sao.

Cửa kiệu mở ra, từ trong bước ra một thanh niên công tử, mặc áo bào trắng, trên áo thêu một ngọn lửa đỏ đang cháy, tay cầm quạt lông phe phẩy, chính là Triệu Mẫn cải nam trang.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Thì ra mọi việc đều do cô này sắp xếp, thảo nào phái Thiếu Lâm một trận tan tành". Triệu Mẫn đi vào trong điện, có độ hơn chục người đi theo. Một gã thân thể cao lớn bước tới một bước, khom lưng nói:

- Khải bẩm giáo chủ, người này là lão đạo Trương Tam Phong của phái Võ Đương, còn gã tàn phế kia ắt là đệ tử thứ ba của y là Du Đại Nham.

Triệu Mẫn gật đầu, đi lên vài bước, cụp quạt lại, vái Trương Tam Phong một vái thật sâu nói:

- Vãn sinh Trương Vô Kỵ chấp chưởng Minh giáo, hôm nay được dịp gặp bậc Thái Đẩu của võ lâm, thực là may mắn biết chừng nào.

Trương Vô Kỵ giận lắm, trong bụng chửi thầm: "Con tặc a đầu này mạo xưng giáo chủ Minh giáo, cái đó cũng chẳng sao, lại cả gan mạo luôn cả tên ta đến lừa dối thái sư phụ". Trương Tam Phong nghe ba chữ "Trương Vô Kỵ" thật lạ lùng: "Sao giáo chủ Minh giáo lại là một cô gái tuổi trẻ xinh đẹp thế này, tên lại giống thằng cháu Vô Kỵ của ta". Oâng liền chắp tay hoàn lễ nói:

- Không biết giáo chủ đại giá quang lâm, chẳng kịp ra xa nghênh đón, xin tha lỗi cho".

Triệu Mẫn nói:

- Không dám, không dám.

Tri khách đạo nhân Linh Hư đưa các đạo đồng nhà bếp đem trà lên. Triệu Mẫn một mình ngồi trên ghế, các thủ hạ của nàng đứng thõng tay xa xa ở đằng sau, không dám đến gần nàng quá năm thước, tựa hồ sợ là bất kính mạo phạm đến nàng. Trương Tam Phong đã tu luyện một trăm năm, khiêm xung tĩnh lãng, đến mức vạn sự không còn gì phải để trong lòng nữa nhưng tình thầy trò thâm trọng, nghĩ đến an nguy sống chết của bọn Tống Viễn Kiều, mười phần khắc khoải nên hỏi ngay:

- Mấy đứa học trò của lão đạo không biết lượng sức mình, từng đến quí giáo học hỏi cao chiêu, đến nay chưa về, không biết bọn chúng bây giờ ra sao, xin được Trương giáo chủ minh thị.

Triệu Mẫn cười hì hì nói:

- Tống đại hiệp, Du nhị hiệp, Trương tứ hiệp, Mạc thất hiệp bốn vị, hiện nay nằm trong tay bản giáo. Mỗi người bị thương chút đỉnh nhưng tính mệnh không có gì đáng ngại.

Trương Tam Phong nói:

- Bị thương chút đỉnh ư? Có lẽ trúng chút đỉnh chất độc thì đúng hơn.

Triệu Mẫn cười nói:

- Trương chân nhân quả thật tự hào về Võ Đương tuyệt học. Nếu chân nhân bảo họ trúng độc, thì cứ coi như là trúng độc đi.

Trương Tam Phong biết rằng các học trò mình đều là cao thủ bậc nhất đời nay, nếu vì ít người không chống lại được với số đông, thì dẫu sao cũng có một hai người thoát thân quay về báo, còn nếu cả bọn bị bắt, chắc là trúng phải độc dược vô ảnh vô tung khó mà phòng bị. Triệu Mẫn thấy ông đoán trúng ngay như thế nên thản nhiên thừa nhận.

Trương Tam Phong lại hỏi:

- Thế còn tiểu đồ họ Ân thì sao?

Triệu Mẫn thở dài:

- Ân lục hiệp bị phái Thiếu Lâm mai phục, cũng bị y hệt chẳng khác gì vị Du tam hiệp kia, bốn chân tay bị đại lực Kim Cương Chỉ bẻ gãy, chết thì không chết nhưng cử động thì không được.

Trương Tam Phong nhìn mặt mà xét, thấy những lời của nàng ta không phải nói láo, trong lòng đau đớn, òa một tiếng, lại phun ra một ngụm máu tươi.

Những người đứng sau Triệu Mẫn lộ vẻ mừng rỡ, biết là Không Tướng đã đánh lén được rồi, vị cao nhân của phái Võ Đương đã bị thương nặng, bọn họ vốn chỉ sợ một mình Trương Tam Phong, lúc này không còn gì phải úy kỵ nữa. Triệu Mẫn nói:

- Vãn sinh có một lời khuyên bảo, không hiểu Trương chân nhân có muốn nghe không?

Trương Tam Phong đáp:

- Xin nói ra.

Triệu Mẫn nói:

- Dưới khắp gầm trời này, không chỗ nào không phải là đất của hoàng đế. Tất cả mọi thứ trên bờ cõi của nhà vua, không gì không phải là phận bầy tôi[3]. Hoàng đế Mông Cổ chúng ta uy trùm bốn bể, nếu như Trương chân nhân tòng thuận thì hoàng thượng lập tức tấn phong, cả phái Võ Đương đều được vinh sủng, cả bọn Tống đại hiệp ai nấy đều an toàn không còn gì phải nói nữa.

Trương Tam Phong ngửng đầu nhìn xà nhà, lạnh lùng đáp:

- Minh giáo tuy làm nhiều điều bất nghĩa, càn rỡ không đâu vào đâu, nhưng xưa nay vẫn chống lại người Mông Cổ, không biết qui thuận triều đình từ bao giờ? Lão đạo thật là quê mùa kém hiểu biết quá.

Triệu Mẫn đáp:

- Bỏ chỗ tối vào chỗ sáng, xưa nay kẻ am hiểu thời vụ mới là người tuấn kiệt. Phái Thiếu Lâm từ Không Văn, Không Trí thần tăng đổ xuống, ai ai cũng qui thuận, tận trung với triều đình. Bản giáo chẳng qua nhìn thấy được đại thế nên đi theo các bậc hiền hào, chứ có gì đâu?

Trương Tam Phong hai mắt sáng quắc, nhìn thẳng vào Triệu Mẫn nói:

- Người Nguyên tàn bạo, tàn hại bách tính, khiến cho hôm nay thiên hạ quần hùng đều nổi lên, chính là lúc đuổi quân Hồ Lỗ, lấy lại giang sơn. Chúng ta phàm đã là con cháu Hoàng Đế [4] ai ai mà chẳng có chí đuổi quân Thát Đát, đó mới chính là đại thế phải theo. Lão đạo tuy là người xuất gia không lý chuyện đời, nhưng cũng biết được đâu là đại nghĩa. Không Văn, Không Trí là bậc đương thế thần tăng, lẽ nào khuất phục trước thế lực? Sao cô nương lại nói năng lăng nhăng, lộn xộn như thế?

Đằng sau Triệu Mẫn vọt ra một đại hán, lớn tiếng quát lên:

- Lão đạo đần độn kia, nói năng không biết nặng nhẹ gì cả. Phái Võ Đương chỉ trong chớp mắt là bị tiêu diệt rồi, lão không sợ chết, không lẽ hơn trăm đạo nhân đệ tử trên núi này, đứa nào cũng không sợ chết?

Kẻ đó nói năng trung khí sung túc, thân thể cao to, bắp tay gân guốc, hình tướng thật là uy võ. Trương Tam Phong liền cất tiếng ngâm:

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

(Có ai sống mãi đâu nào,

Lòng son sao được ghi vào sử xanh)

Đây là hai câu thơ của Văn Thiên Tường[5]. Khi Văn Thiên Tường khẳng khái chết vì nghĩa thì Trương Tam Phong tuổi còn nhỏ, rất kính ngưỡng vị thừa tướng anh hùng này. Về sau ông hay than thở khi đó võ công chưa thành nếu không thể nào cũng xả thân cứu ông ta thoát nạn, nay đến lúc vào cảnh sinh tử quan đầu, tự nhiên ngâm ra hai câu thơ trên. Ông ngừng lại một chút nói tiếp:

- Xem ra Văn thừa tướng cũng còn có chỗ chấp nê, chỉ cần giữ mình một tấm lòng son còn sử sách sau này chép sao thì chép.

Hồi 24

THÁI CỰC SƠ TRUYỀN NHU KHẮC CƯƠNG-

Ông liếc Du Đại Nham một cái, nghĩ thầm: "Ta mong sao pho Thái Cực Quyền được lưu truyền hậu thế, có khác gì Văn thừa tướng muốn để tiếng thơm cho đời sau? Thực ra nếu đã hành sự không hổ cùng trời đất rồi, thì còn lo gì Thái Cực Quyền Kiếm có truyền hay không truyền, phái Võ Đương tồn tại hay không tồn tại".

Bàn tay trắng như ngọc của Triệu Mẫn vẫy nhẹ một cái, đại hán kia liền lui lại phía sau. Nàng mỉm cười nói:

- Nếu Trương chân nhân đã cố chấp như thế, tạm thời mình không nói đến nữa. Vậy thì mời các vị đi theo ta.

Nói xong nàng đứng lên, bốn người đứng đằng sau lập tức tiến lên vây Trương Tam Phong lại. Bốn người đó gồm một đại hán cao to, một người áo vải đầy mụn vá, một hòa thượng gầy gò, và một người Hồ Tây Vực râu xồm mắt biếc. Xem ra nếu Trương Tam Phong nếu không đi theo họ, bốn người này sẽ ra tay.

Trương Vô Kỵ thấy mấy người đó thân pháp kẻ ngưng trọng, kẻ phiêu dật ai nấy đều thật là phi thường, trong bụng hơi hoảng: "Sao dưới tay cô ả họ Triệu này lại nhiều cao thủ đến thế?" Chàng lại nghĩ thầm: "Phe địch cao thủ thật nhiều, bọn này ai nấy đều gian trá vô sỉ, không kể tín nghĩa, không phải như sáu môn phái vây công Quang Minh Đính. Ta muốn bảo hộ thái sư phụ và tam sư bá được bình an không phải dễ. Nếu có đánh bại được vài người, bọn họ nhất định không chịu thua, thể nào cũng ùa lên một lượt. Thế nhưng việc đến nước này, chỉ còn một phen hết sức, tốt nhất là làm sao bắt giữ được Triệu cô nương để uy hiếp đối phương".

Chàng đang toan tiến ra ngăn trở bọn kia, bỗng nghe bên ngoài cửa một tiếng cười dài ghê rợn, một người áo xanh bay vụt vào trong điện, thân pháp chẳng khác gì quỉ mị, thoáng một cái như gió bay, như chớp lòe đã tới sau lưng gã cao to, múa chưởng đánh ra. Đại hán đó liền xoay người, múa ngược tay lại đỡ, ý muốn dùng ngạnh công đấu với người kia. Thế nhưng người áo xanh không để chiêu đó đánh xong, tay trái đã đánh luôn vào vai người Hồ Tây Vực. Người Hồ nghiêng qua né tránh, giơ chân lên đá vào bụng dưới y. Người kia khi đó đã đánh tiếp qua nhà sư gầy gò, vội vàng nghiêng người lùi lại, tả chưởng đánh luôn vào người ăn mặc rách rưới. Chỉ trong nháy mắt, y liên tiếp đánh ra bốn chưởng, công kích bốn cao thủ, tuy không chưởng nào trúng nhưng thủ pháp nhanh như thế không ai ngờ nổi. Bốn người kia biết mình đã gặp kình địch nên đều nhảy lùi mấy bước, ngưng thần tiếp chiến.

Người áo xanh không thèm để ý đến phía địch, khom lưng xuống vái Trương Tam Phong nói:

- Vãn bối Vi Nhất Tiếu, tọa hạ của Trương giáo chủ Minh giáo, tham kiến Trương chân nhân.

Người đó chính là Vi Nhất Tiếu. Y thoát khỏi những kẻ chặn đường rồi lập tức chạy đến đây. Trương Tam Phong thấy y xưng là "Minh giáo Trương giáo chủ tọa hạ", cho rằng y cũng cùng bọn với Triệu Mẫn, giơ tay đánh bốn người kia chắc có âm mưu gì nên lạnh lùng đáp:

- Vi tiên sinh không phải đa lễ. Đã từ lâu nghe danh Thanh Dực Bức Vương khinh công tuyệt đính, trên đời ít có, hôm nay được thấy quả thực danh bất hư truyền.

Vi Nhất Tiếu mừng lắm, y ít đến Trung Nguyên, trước nay tên tuổi không mấy nổi, nào ngờ Trương Tam Phong cũng nghe tiếng khinh công cao siêu của mình, khom mình đáp:

- Trương chân nhân là Bắc Đẩu của võ lâm, vãn bối được chân nhân khen một câu, quả thực vinh hạnh không để đâu cho xiết.

Y quay lại, chỉ vào Triệu Mẫn nói:

- Triệu cô nương, sao cô lén lút mạo danh Minh giáo làm bại hoại tên tuổi bản giáo là để làm gì? Nam tử hán, đại trượng phu sao lại độc ác, âm hiểm như thế?

Triệu Mẫn cười khanh khách nói:

- Ta vốn có phải nam tử hán đại trượng phu đâu, độc ác âm hiểm thì ngươi làm gì được nào?

Vi Nhất Tiếu mới nói một câu đã bị bắt bẻ khiến không biết đối đáp ra sao, y ngẩn ngơ rồi nói:

- Các vị tấn công Thiếu Lâm rồi lại tới làm phiền phái Võ Đương, rốt ráo lai lịch thế nào? Nếu như các vị có oán cừu với hai phái này, Minh giáo trước nay không hay xen vào việc người khác, thế nhưng nếu mạo xưng tên tuổi chúng tôi, ăn mặc giả làm giáo chúng thì Vi Nhất Tiếu này không thể không can thiệp.

Trương Tam Phong vốn biết Minh giáo là tử địch với triều đình đã hơm trăm năm nên không tin nay lại đầu hàng Mông Cổ, nghe Vi Nhất Tiếu nói mấy câu đó bấy giờ mới minh bạch, nghĩ thầm: "Thì ra cô gái này mạo xưng. Ma giáo tuy thanh danh không tốt nhưng những chuyện lớn thế này họ không thể hồ đồ được". Triệu Mẫn quay sang người to cao kia nói:

- Nghe y to mồm huyên hoang nhỉ, ngươi ra thử xem y có tài thật hay chỉ nói phét?

Đại hán kia khom lưng đáp :

- Vâng.

Y đưa tay sửa lại dây thắt lưng, khệnh khạng đi ra giữa điện nói:

- Vi Bức Vương, tại hạ muốn lãnh giáo công phu Hàn Băng Miên Chưởng.

Vi Nhất Tiếu không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: "Gã này làm sao lại biết ta có môn Hàn Băng Miên Chưởng? Y biết thế mà vẫn tiến lên khiêu chiến, ta hẳn không thể coi thường được". Y hai tay vỗ một cái nói:

- Xin thỉnh giáo tính danh của các hạ?

Người kia đáp:

- Bọn ta đã mạo xưng Minh giáo đến đây, không lẽ lại dùng tên thật? Câu hỏi đó của Bức Vương quả thật ngốc quá.

Hơn một chục tên đứng sau lưng Triệu Mẫn bật lên tiếng cười ha hả. Vi Nhất Tiếu lạnh lùng nói:

- Đúng thế, câu hỏi của ta ngu thật. Các hạ cam chịu làm ưng khuyển cho triều đình, làm nô tài cho dị tộc, không nói tên ra tốt hơn, nếu không thì làm nhục cả tổ tiên.

Đại hán kia đỏ mặt, lửa giận bốc lên, nghe vù một tiếng đã đánh ra một chưởng vào thẳng ngực Vi Nhất Tiếu, kình lực thật là lợi hại. Vi Nhất Tiếu xoay chuyển cước bộ né qua ngay, thân hình chỉ nhấp nháy đã lòn ra sau lưng giơ tay điểm vào lưng địch. Y chưa giở Hàn Băng Miên Chưởng ra vì còn muốn thăm dò xem đối phương kia hư thực nông sâu thế nào. Đại hán kia liền giơ tay trái đỡ ngược lại, trong thủ có ẩn thế công. Chỉ qua mấy chiêu, chưởng thế của gã kia nhanh dần, chưởng lực mỗi lúc một thêm mạnh mẽ. Tuy nội thương Vi Nhất Tiếu đã được Trương Vô Kỵ chữa, mỗi lần vận công không còn phải uống máu nóng để chế ngự âm độc trong cơ thể như trước, nhưng mới khỏi chưa bao lâu, nay gặp cường địch lại ra tay trước mặt một đại tông sư như Trương Tam Phong, thành thử không dám khinh suất, lập tức vận dụng Hàn Băng Miên Chưởng công phu ra chống đỡ. Hai người chưởng thế chậm dần, dần dần đi vào chỗ đấu nội lực.

Đột nhiên nghe vù một tiếng, từ cửa chính một vật đen xì ném thẳng vào gã đại hán. Vật đó xem ra còn to hơn một bao gạo, quả thật lạ kỳ thiên hạ làm gì có loại ám khí nào lớn đến thế. Đại hán chẳng biết vật gì liền vận kình đánh bật vật đó ra văng xa hơn một trượng. Chỉ nghe một tiếng "A" thảm khốc, thì ra đó là một cái bao trong đó có người, kẻ đó bị một chưởng mãnh liệt vô luân của đại hán kia làm sao không đứt gân gãy xương cho được?

Đại hán kia còn đang ngạc nhiên, chưa hiểu ra sao, Vi Nhất Tiếu lập tức lẻn ra sau, lẳng lặng đánh ngay một Hàn Băng Miên Chưởng vào huyệt Đại Truy chính giữa hậu tâm y. Đại hán đó vừa giận vừa sợ, vội quay lại, hết sức đánh một chưởng lên đầu Vi Nhất Tiếu.

Vi Nhất Tiếu cười ha hả, không tránh né cũng không đỡ gạt. Chưởng của đại hán đó đến giữa chừng, cánh tay đột nhiên mềm nhũn không hơi sức, chưởng đó tuy đánh trúng thiên linh cái đối phương nhưng hoàn toàn không có một chút kình lực, chẳng khác gì để tay lên đầu. Vi Nhất Tiếu biết rằng một khi trúng phải Hàn Băng Miên Chưởng, kình lực đối phương lập tức mất hết thế nhưng cao thủ đối chiến, ai dám cho địch đánh vào đầu mình, liều lĩnh như thế xưa nay chưa ai thấy, người đứng ngoài không khỏi toát mồ hôi.

Nếu đại hán kia có thuật chế ngự Hàn Băng Miên Chưởng, kình lực nhất thời chưa mất, chưởng đó đánh lên đỉnh đầu, làm sao khỏi nát sọ? Vi Nhất Tiếu suốt đời hành sự quá đản lạ lùng, những chuyện không ai dám làm, không chịu làm, chưa từng làm y càng khoái chí. Y thừa cơ đối phương phân tâm ra tay đánh lén, xem ra cũng không được quang minh chính đại, thế nhưng lại đám để cho địch thẳng cánh đánh vào đầu, thì tuy không quang minh chính đại thì cũng phải là lớn mật làm càn, đem sống chết ra đùa cợt.

Gã áo quần rách rưới liền xé chiếc bao, lôi ra một người, thấy y mặt đầy máu, đã bị đại hán nọ đánh một chưởng chết rồi. Kẻ đó mặc áo đen, chính là đồng bọn của họ, không hiểu vì sao lại bị bỏ trong bao vứt vào đây. Gã giận quá, quát lên:

- Đứa nào thập thò. ..

Nói chưa hết câu, một chiếc bao trắng đã chụp xuống đầu y. Y đề khí nhảy lùi lại, tránh được, thấy ngay một nhà sư mập mạp đứng ngay trước mặt đang cười hì hì, chính là Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc.

Chiếc túi Càn Khôn Nhất Khí của Thuyết Bất Đắc bị Trương Vô Kỵ làm vỡ trên Quang Minh Đính rồi, không có binh khí cầm tay, đành phải lấy mấy cái túi vải dùng tạm, dĩ nhiên không thể nào lợi hại như cái túi Càn Khôn đao kiếm chém không đứt kia được. Khinh công của y tuy không bằng Vi Nhất Tiếu, nhưng cũng ghê gớm lắm, trên đường lại không bị ngăn trở, chân trước chân sau đã đến ngay.

Thuyết Bất Đắc khom mình chào Trương Tam Phong nói:

- Tọa hạ Trương giáo chủ Minh giáo, nhà sư túi vải rày đây mai đó Thuyết Bất Đắc xin tham kiến chưởng giáo tổ sư Trương chân nhân của phái Võ Đương.

Trương Tam Phong hoàn lễ đáp:

- Đại sư đi đường xá xa xôi vất vả quá.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Các anh em tọa hạ của tệ giáo chủ gồm Quang Minh sứ giả, Bạch Mi Ưng Vương , Tứ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ cùng nhân mã các lộ đều đã kéo đến núi Võ Đương. Xin Trương chân nhân xuôi tay đứng ngoài, để xem Minh giáo chúng tôi cùng bọn vô liêm sỉ mạo danh người khác quấy hôi bôi nhọ này so tài cao thấp.

Câu này của y chỉ là hư trương thanh thế, đại đội nhân mã của Minh giáo làm gì đến nhanh thế được. Thế nhưng Triệu Mẫn nghe rồi, đôi lông mày nhíu lại, nghĩ thầm: "Bọn chúng đến nhanh như thế là do kẻ nào tiết lộ cơ mật?". Nàng nhịn không nổi buột miệng hỏi:

- Trương giáo chủ các ngươi đâu? Bảo y ra gặp ta.

Nói xong trừng mắt nhìn Vi Nhất Tiếu, ánh mắt dường như có ý nghi ngờ, hỏi xem giáo chủ bây giờ ở đâu? Vi Nhất Tiếu cười ha hả nói:

- Thế bây giờ cô không mạo xưng nữa ư?

Y trong bụng cũng hỏi thầm :"Giáo chủ hẳn đã đến rồi, nhưng bây giờ đang ở đâu?". Trương Vô Kỵ từ nãy đến giờ đứng nấp đằng sau Minh Nguyệt, biết rằng Vi Nhất Tiếu và Thuyết Bất Đắc chưa nhận ra mình, thấy có hai tay thuộc hạ đắc lực, bụng thật mừng rỡ.

Triệu Mẫn cười nhạt nói:

- Một con dơi độc, một nhà sư thối thì làm được trò trống gì?

Nói chưa dứt, bỗng từ góc mái nhà phía đông một chuỗi cười dài rồi có tiếng hỏi:

- Thuyết Bất Đắc đại sư, Dương tả sứ đã tới hay chưa?

Người đó tiếng nói vang dội, già dặn hào hùng, chính là Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính. Thuyết Bất Đắc chưa kịp trả lời, tiếng cười của Dương Tiêu ở trên mái nhà phía tây đã vọng xuống vui vẻ nói:

- Ưng Vương, lão huynh đúng là càng già càng dẻo càng dai, đã đến trước đệ một bước.

Ân Thiên Chính cười đáp:

- Dương tả sứ không phải khách sáo làm gì, hai người mình cùng đến một lượt, chẳng ai hơn ai. Hẳn là tả sứ nể mặt Trương giáo chủ nên nhường mỗ đấy thôi.

Dương Tiêu nói:

- Đương nhân bất nhượng[6]. Tại hạ đã dùng hết sức mình, nhưng vẫn không thể nào nhanh được như Ưng Vương.

Hai người trên đường thi đua kình lực xem ai chạy nhanh hơn, nội lực Ân Thiên Chính cao thâm, còn bộ pháp của Dương Tiêu thì nhanh nhẹn nên khởi hành cùng một lượt, cùng đến một lần. Hai người cười ha hả, nhảy từ trên mái nhà xuống.

Trương Tam Phong đã nghe danh Ân Thiên Chính từ lâu, hơn nữa ông ta lại là nhạc phụ của Trương Thúy Sơn, còn Dương Tiêu thì là nhân vật nổi danh trên giang hồ, cho nên tiến lên ba bước, chắp tay nói:

- Trương Tam Phong cung nghinh Ân huynh, Dương huynh đại giá.

Trong bụng có điều không hiểu: "Ân Thiên Chính rõ ràng là giáo chủ Thiên Ưng Giáo, sao lại nói cái gì "nể mặt Trương giáo chủ" là sao?".

Ân Dương hai người khom mình đáp lễ, Ân Thiên Chính nói:

- Đã từ lâu nghe tiếng của Trương chân nhân, nhưng chưa có duyên bái kiến, hôm nay được thấy tôn nhan, đúng là tam sinh hữu hạnh.

Trương Tam Phong nói:

- Hai vị đều là nhất đại tông sư, lại cùng đại giá quang lâm, quả thực là hiếm có.

Trong bụng Triệu Mẫn mỗi lúc thêm bực bội, thấy các cao thủ của Minh giáo càng lúc càng đông, tuy chưa thấy Trương Vô Kỵ xuất hiện nhưng e rằng lời của Thuyết Bất Đắc không phải dọa xuông, y quả đang đứng sau sắp xếp, bố trí một trận thế ghê gớm hơn. Kế hoạch của mình đã an bài đâu đấy, xem ra khó mà thành công, nhưng việc ám toán được Trương Tam Phong trọng thương là chuyện ngàn năm một thuở, không thể nào có lần thứ hai, hôm nay không đánh tan phái Võ Đương để sau này ông ta chữa khỏi rồi thì không còn cơ hội nào nữa.

Nàng liếc qua liếc lại đôi mắt đen nhánh, cười khẩy nói:

- Giang hồ vẫn truyền ngôn Võ Đương là danh môn chính phái nhưng tai nghe đâu bằng mắt thấy? Thì ra phái Võ Đương lén lút bắt tay với ma giáo, được ma giáo đỡ đầu, còn võ công bản môn chẳng đáng vào đâu.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Triệu cô nương, nói như cô đúng là giọng điệu đàn bà, kiến thức con nít. Thời Trương chân nhân uy chấn võ lâm, chỉ sợ đến ông nội cô cũng chưa ra đời, thứ trẻ con như cô biết làm sao được?

Đằng sau Triệu Mẫn lập tức có mươi người hung hăng tiến ra, hầm hầm nhìn y. Thuyết Bất Đắc mặt nhơn nhơn, cười nói:

- Các ngươi bảo ta không được nói như thế phải không? Thì tên ta đã là "Thuyết Bất Đắc" mà. Cái gì nói được là ta nói, các ngươi làm gì ta đây?

Nhà sư gầy gò thủ hạ Triệu Mẫn giận dữ nói:

- Chủ nhân, để thuộc hạ giải quyết tên to mồm lắm miệng này.

Thuyết Bất Đắc kêu lên:

- Hay lắm, hay lắm. Ngươi là sư đi hoang, mà ta cũng lang thang không chùa, hai đứa mình làm một keo xem nào. Mời Võ Đương tông sư Trương chân nhân chỉ điểm những chỗ sai sót, còn hơn tự mình khổ luyện mười năm.

Nói xong hai tay vung ra, từ trong bọc lấy thêm một cái túi vải nữa. Người ngoài thấy y hết túi này đến túi khác, lấy mãi không hết, không biết dưới áo bào y còn dấu bao nhiêu cái túi nữa.

Triệu Mẫn khe khẽ lắc đầu:

- Hôm nay chúng ta lên đây học hỏi tuyệt nghệ của phái Võ Đương, phái Võ Đương vị nào hạ trường, chúng ta đều vui vẻ phụng bồi. Phái Võ Đương có chân tài thực học không, hay chỉ được cái tiếng hão, một trận hôm nay cả thiên hạ sẽ biết hết. Còn Minh giáo với chúng ta dây mơ rễ má thế nào, ngày sau tính sổ cũng chưa muộn. Tên tiểu quỉ Trương Vô Kỵ gian trá giảo quyệt, ta chưa rút được gân, lột được da y thì chưa tiêu được mối hận lòng, nhưng không gấp gì một hôm nay.

Trương Tam Phong nghe nói "tên tiểu quỉ Trương Vô Kỵ", trong bụng lạ lùng: "Không lẽ giáo chủ Minh giáo tên là Trương Vô Kỵ thật? Thế nhưng sao lại "tiểu quỉ" là sao?". Thuyết Bất Đắc cười khì khì nói:

- Trương giáo chủ bản giáo tuổi trẻ tài cao, Triệu cô nương e rằng còn kém bản giáo chủ vài tuổi, chi bằng lấy quách giáo chủ chúng tôi, hòa thượng này xem ra xứng đôi. ..

Y nói chưa hết câu, bọn người sau lưng Triệu Mẫn cùng gầm lên:

- Đừng nói láo.

- Câm mồm.

- Sư hoang nói thối lắm.

Triệu Mẫn hai má đỏ bừng, dung nhan càng thêm kiều diễm, thần sắc chỉ có ba phần tức giận nhưng đến bảy phần e ấp, một thủ lãnh quần hào oai nghi trong giây lát thành ngay một thiếu nữ thẹn thùng. Thế nhưng thần thái đó chỉ chớp mắt đã qua ngay, nàng lập tức trấn tĩnh, mặt trở lại lạnh như tiền, quay sang nói với Trương Tam Phong:

- Trương chân nhân, nếu ông không muốn ra tay, chỉ cần nói một câu thôi cũng đủ. Cứ nhận rằng phái Võ Đương trước nay chỉ bịp bợm tiếm danh, bọn ta sẽ vỗ tay đi ngay, bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu cũng được thả về chẳng suy suyển một mảy.

Ngay lúc đó, Thiết Quan đạo nhân và Ân Dã Vương trước sau cùng đến, chẳng bao lâu thêm Chu Điên và Bành Oánh Ngọc cũng tới nơi, Minh giáo thế là có thêm bốn tay hảo thủ.

Triệu Mẫn đoán định tình hình, nếu hai bên quyết chiến, chưa chắc đã thắng ngay được, sợ nhất là Trương Vô Kỵ còn trong bóng tối ra tay gì chưa biết. Nàng đưa mắt nhìn khắp lượt mọi người trong Minh giáo, nghĩ thầm: "Trương Tam Phong trở thành mối lo gan ruột của triều đình, chẳng qua chỉ vì có cái uy danh quá lớn, trong võ lâm ai ai cũng coi như Bắc Đẩu, Thái Sơn, nếu đối địch với triều đình thì võ lâm cũng không ai qui phục. Thế nhưng y già cả heo hắt như ngọn đèn trước gió, sống thêm được bao lâu? Hôm nay không cần phải giết lão, chỉ cần làm nhục một phen, cho tiếng tăm phái Võ Đương tiêu ma hết, thế cũng coi như thành công lớn rồi". Nàng bèn lạnh lùng nói:

- Bọn ta đến thăm núi Võ Đương, chỉ muốn lãnh giáo võ công Trương chân nhân xem thật hay giả, nếu như muốn tiễu diệt Minh giáo, chẳng lẽ không biết tìm đường lên Quang Minh Đính? Việc gì phải tỉ võ trên núi Võ Đương, không lẽ trên đời này chỉ có một mình Trương chân nhân là có thể phẩm bình cao thấp, thắng bại hay sao? Thôi chuyện đó gác qua một bên. Trong nhà tôi có ba người giúp việc, một người luyện được vài ngày chút kiếm pháp giết heo, mổ chó, một người biết sơ qua chút ít nội công, còn một người thì học được vài miếng quyền mèo quào. A Đại, A Nhị, A Tam[7], ba người đứng ra đây! Trương chân nhân chỉ cần đánh bại được ba gia nhân vô tích sự của ta, thì mọi người sẽ bội phục võ công phái Võ Đương là thật chứ không phải giả. Còn không thì giang hồ sẽ có công luận, ta chẳng phải nói nhiều làm gì.

Nói xong nàng ta vỗ tay một cái. Chỉ thấy "A Đại" là một ông già mình hạc xác ve, hai tay bưng một thanh trường kiếm, chính là bảo kiếm Ỷ Thiên. Người đó vừa gầy vừa cao, mặt đầy nếp nhăn, dúm dó khổ sở, tưởng như mới bị ai chửi mắng, đánh đập một hồi, nếu không thì hẳn là vợ con mới chết, ai nhìn mặt y cũng thấy chạnh lòng muốn rơi nước mắt. "A Nhị" thì cũng gầy gò như thế, người hơi thấp hơn, đầu nhẵn thín, hói đến nỗi không còn một sợi tóc nào, hai bên huyệt thái dương tụt lõm xuống, sâu đến nửa tấc. Còn "A Tam" thì thân hình rắn rỏi chắc nịch, dềnh dàng có uy, trên mặt, cánh tay, cần cổ chỗ nào có bắp thịt cũng thấy cuồn cuộn săn chắc, tưởng như toàn thân đầy tinh lực muốn bật tung ra ngoài. Trên má trái y có một nốt ruồi đen, trên nốt ruồi có một sợi lông dài. Trương Tam Phong, Ân Thiên Chính, Dương Tiêu nhìn thấy hình dáng ba người này, trong bụng ai cũng kinh thầm.

Chu Điên nói:

- Triệu cô nương, ba người này đều là cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm, Chu Điên này một tên đánh còn chưa lại, sao không biết thẹn đóng vai kẻ ăn người làm, đến đùa cợt với Trương chân nhân?

Triệu Mẫn nói:

- Có thực họ là cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm không? Sao ta lại không biết? Thế tên bọn họ là gì?

Chu Điên tắc tị ú ớ, nhưng lập tức giả vờ cười ha hả, nói:

- Vị này là Nhất Kiếm Chấn Thiên Hạ Xu Mi Thần Quân, vị này là Đơn Khí Bá Bát Phương Ngốc Đầu Thiên Vương. Còn vị này ư, thiên hạ ai mà chẳng biết, ai mà không hay, hì hì, chính là. .. chính là. . Thần Quyền Cái Thế Đại Lực Tôn Giả.

Triệu Mẫn nghe y nói quấy nói quá, không khỏi cười khúc khích nói:

- Ba người ở nhà tôi nấu cơm pha trà, lau bàn quét rác, làm gì có thần quân, thiên vương, tôn giả nào ở đây? Trương chân nhân, xin ông tỉ quyền cước với A Tam trước.

"A Tam" tiến lên một bước, vòng tay nói:

- Xin mời Trương chân nhân.

Chân trái y dậm một cái, nghe lách cách một tiếng, ba miếng gạch vuông dưới chân đã nát vụn. Y dậm nát miếng gạch dưới chân không có gì lạ, nhưng lạ là hai miếng gạch hai bên cũng bị y dậm vỡ luôn. Dương Tiêu đưa mắt nhìn Vi Nhất Tiếu, hai người cùng nghĩ: "Tay này ghê thật".

Hai tên còn lại "A Đại, A Nhị" từ từ lui về sau, vẫn cúi gầm mặt xuống, chẳng nhìn một ai. Ba người này từ khi vào trong điện, chỉ đứng sau lưng Triệu Mẫn, lúc nào cũng lặng lẽ cúi đầu, dáng điệu hèn mọn, không một ai thèm để ý, không ngờ vừa mới bước ra chẳng khác nào ngọn núi vươn ra khỏi vực sâu, có ngay khí phái của một đại tông sư, nhưng khi lui về, lại rụt rè co ro, trở lại dáng điệu một người đầy tớ.

Tri khách đạo nhân của phái Võ Đương Linh Hư từ nãy vẫn lo lắng cho thương thế của thái sư phụ, lúc này không còn nhịn nổi quát lên:

- Thái sư phụ ta vừa mới bị thương thổ huyết, các ngươi không thấy hay sao? Các ngươi sao lại. .. sao lại. ..

Nói đến đây, âm thanh nghẹn ngào muốn khóc. Ân Thiên Chính nghĩ thầm: "Thì ra Trương chân nhân đã bị thương thổ huyết, nhưng không biết bị ai đả thương. Dù cho ông ta còn khỏe mạnh thì tuổi tác đã cao, làm sao có thể tỉ quyền cước với gã kia cho được? Xem võ công người này, toàn là một đường cương mãnh, để ta ra thử xem nào". Nghĩ thế ông cao giọng nói:

- Trương chân nhân thân phận thế nào mà lại động thủ với một kẻ ăn người ở? Nghe thế có tức cười không? Không nói gì đến Trương chân nhân, ngay cả họ Ân này, hừ hừ, thứ đầy tớ như ngươi không chịu nổi một quyền một cước.

Oâng biết rõ "A Đại, A Nhị, A Tam" đâu phải loại tầm thường, nhưng chê họ không đáng vào đâu cốt để buộc y đấu với mình. Triệu Mẫn nói:

- "A Tam", việc mới nhất của ngươi là việc gì? Nói cho họ nghe đi, xem có xứng để đấu với cao nhân phái Võ Đương không?

Nàng mỗi câu mỗi chữ đều nhấn mạnh hai tiếng "Võ Đương". "A Tam" đáp:

- Tiểu nhân gần đây chẳng làm được chuyện gì, chỉ tại đường đi nơi mạn tây bắc quá chiêu với một hòa thượng chùa Thiếu Lâm tên là Không Tính, chỉ lực đấu với chỉ lực, phá được Long Trảo Thủ của y, tiện tay cắt luôn thủ cấp.

Câu đó nói xong, cả đại sảnh ai nấy đều rúng động. Không Tính thần tăng từng dùng Long Trảo Thủ đấu với Trương Vô Kỵ trên Quang Minh Đính, có hồi đã chiếm thượng phong, người trong Minh giáo ai ai cũng chứng kiến, không ngờ táng mạng trong tay gã này. Với thân phận giết được Thiếu Lâm thần tăng đã có thể đấu tay đôi với Trương Tam Phong được rồi.

Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:

- Được lắm, đến cả Không Tính thần tăng của phái Thiếu Lâm cũng bị ngươi giết chết, vậy để cho họ Ân này đấu với ngươi một phen, cũng là một việc thật thú vị.

Nói xong tiến lên hai bước, xoải chân xuống tấn, lông mày trắng dựng ngược thần uy lẫm lẫm.

"A Tam" nói:

- Bạch Mi Ưng Vương, nhà ngươi là tà ma ngoại đạo, còn "A Tam" này thì cũng ngoại đạo tà ma. Hai chúng ta cũng cùng một "lò", phe mình lẽ nào đánh phe ta. Nếu ngươi thích đánh thì cứ định ngày trước rồi sẽ đấu một phen. Hôm nay chủ nhân chỉ ra lệnh cho ta thử xem phái Võ Đương võ công hư thực thế nào.

Y quay sang nói với Trương Tam Phong:

- Trương chân nhân, nếu như ông không muốn hạ trường, chỉ cần nói một câu là xong, bọn ta không ngang ngược ép uổng gì đâu. Phái Võ Đương chỉ cần nhận thua là được, không lẽ bọn ta nhất định phải lấy mạng ông hay sao?

Trương Tam Phong mỉm cười, nghĩ thầm tuy mình đang bị thương nặng nhưng nếu thi triển thượng thừa pháp môn "dĩ hư ngự thực" trong pho Thái Cực Quyền mới sáng chế, chưa chắc y đã thắng được. Cái khó là sau khi đánh bại "A Tam" rồi, tên "A Nhị" thể nào cũng lên đấu nội công, cái đó không thể nào khôn khéo gì được, cửa ải đó khớ mà có thể vượt qua. Thế nhưng sự việc như lửa cháy lông mày, tình thế trước mắt, chỉ có cách đánh bại tên "A Tam" đã rồi tính sau.

Nghĩ thế ông từ từ đi ra giữa điện, quay sang nói với Ân Thiên Chính:

- Mỹ ý của Ân huynh, bần đạo xin tâm lãnh. Bần đạo mấy năm gần đây có sáng tạo được một môn quyền thuật, gọi là Thái Cực Quyền, tự biết không giống như những ngành võ học khác. Vị thí chủ này nếu muốn ấn chứng công phu phái Võ Đương, nếu như Ân huynh đánh bại y, y sẽ không cam lòng. Vậy bần đạo đem vài chiêu số trong pho Thái Cực Quyền ra đấu xem sao, cũng là dịp tốt để bần đạo được trình cho các vị xem pho quyền nhiều năm tâm huyết này.

Ân Thiên Chính nghe thế, vừa vui mừng, vừa lo lắng, nghe giọng ông nói đến Thái Cực Quyền đầy vẻ tự tin. Trương Tam Phong là hạng người thế nào, đã nói như thế, hẳn đã có chủ định, đâu lẽ làm mất cả thanh danh một đời? Thế nhưng ông vừa bị thương thổ huyết, chỉ e quyền kỹ tuy tinh, nội lực lại không chịu nổi. Ông không tiện nói thêm, chỉ còn nước vòng tay nói:

- Vãn bối cung kính đứng ngoài chiêm ngưỡng thần kỹ của Trương chân nhân.

"A Tam" thấy Trương Tam Phong vẫn thản nhiên hạ trường, trong bụng nẩy sinh ba phần khiếp sợ nhưng chuyển niệm nghĩ ngay: "Hôm nay ta chỉ hết sức cùng lão đạo sĩ già này lưỡng bại câu thương", cũng đã rúng động võ lâm rồi. Nghĩ thế y nín thở ngưng thần, hai mắt chăm chăm nhìn vào mặt Trương Tam Phong, lẳng lặng vận nội tức, xương cốt toàn thân chuyển động nghe răng rắc, phát ra tiếng lốp bốp không ngừng. Mọi người thấy thế ai nấy đều kinh ngạc, biết đây là võ công tối thượng thừa của Phật môn chính tông, trông tưởng ngoại hình mà thực sự là nội công, không nhuốm chút tà khí nào, chính là Kim Cương Phục Ma thần thông.

Trương Tam Phong thấy y như thế, cũng phải kinh hãi: "Người này lai lịch không phải nhỏ. Không biết pho Thái Cực Quyền của ta có đối phó nổi chăng?". Nghĩ rồi ông từ từ giơ hai cánh tay lên, ý muốn nhường "A Tam" tiến chiêu.

Đột nhiên một tiểu đạo đồng đầu bù tóc rối, mặt mày nhem nhuốc từ đằng sau Du Đại Nham chạy ra, nói:

- Thái sư phụ, vị thí chủ này nếu muốn biết quyền kỹ của phái Võ Đương ta thì việc gì phải mất công thái sư phụ đại giá? Để đệ tử diễn vài chiêu cho y xem, cũng đã đủ rồi.

Đạo đồng mặt mũi dơ dáy kia chính là Trương Vô Kỵ. Cả bọn Ân Thiên Chính, Dương Tiêu cùng chàng chia tay chưa bao lâu, tuy lúc này hình dáng, quần áo hoàn toàn thay đổi, nhưng chỉ nghe giọng nói, lập tức nhận ra ngay. Quần hào Minh giáo thấy giáo chủ đã ở đây tự bao giờ, ai ai cũng mừng rỡ.

Thế nhưng Trương Tam Phong và Du Đại Nham làm sao nghĩ ra được? Trương Tam Phong nhìn không rõ diện mạo của chàng, nhưng theo áo quần trên người chỉ đoán là Thanh Phong, liền nói:

- Vị thí chủ này chuyên về Kim Cương Phục Ma ngoại công của phái Thiếu Lâm, hẳn là một cao thủ của Thiếu Lâm Tây Vực. Còn trẻ như con chỉ một chiêu là đã nát xương đứt gân, đâu phải chuyện đùa.

Trương Vô Kỵ tay trái nắm chéo áo Trương Tam Phong, tay phải cầm bàn tay ông lắc nhè nhẹ, nói:

- Thái Cực Quyền thái sư phụ dạy cho con, con chưa hề dùng đến, cũng chẳng biết có được hay không. May quá có vị thí chủ đây là ngoại gia cao thủ, xin để con ra đấu xem nhu có khắc nổi cương không, hư có chế ngự được thực không, chẳng hay lắm ư?

Trong khi nói, chàng vận dụng Cửu Dương thần công đưa một luồng khí cực kỳ hồn hậu, cực kỳ nhu hòa theo bàn tay truyền vào cơ thể Trương Tam Phong. Trong một sát na, Trương Tam Phong thấy một luồng lực đạo vô cùng mạnh mẽ theo lòng bàn tay đi vào mình, tuy còn kém xa nội lực của ông về mặt tinh thuần chuyên nhất, nhưng hàng hàng lớp lớp, liên miên bất tuyệt dường như không bao giờ dứt, không bao giờ cùng. Ông kinh hoảng, định thần nhìn kỹ mặt Trương Vô Kỵ, thấy mắt chàng không lộ quang hoa, chỉ ẩn dấu một nét trong sáng, ôn hòa, hiển nhiên đã đạt tới cảnh giới tuyệt đỉnh, bình sinh ông gặp chỉ có vài người như bản sư Giác Viễn đại sư, đại hiệp Quách Tĩnh là đạt đến cảnh giới này thôi. Còn đương thời, ngoại trừ chính ông ra, không tìm ra một người thứ hai có mức độ tương đương. Trong nháy mắt, lòng ông rộn lên bao nỗi hồ nghi, nhưng nội lực của thanh niên này truyền vào rõ ràng để giúp ông trị thương, quyết không phải vì ác ý, vì nhất thời chưa nghĩ ra, ông mỉm cười đáp:

- Ta tầm thường lẩm cẩm, có được công phu gì dạy cho con đâu? Con muốn lãnh giáo công phu ngoại môn tuyệt đính của vị thí chủ này thì cũng được, nhưng phải cẩn thận.

Oâng chỉ đoán rằng tiểu đạo đồng là một thanh niên cao thủ của một môn phái nào đến tiếp viện, cho nên trong ngôn ngữ có phần khiêm tốn nể nang. Trương Vô Kỵ đáp:

- Thái sư phụ đối với hài nhi ơn nặng như non, dù hài nhi có tan xương nát thịt cũng chưa trả nổi đại ân của thái sư phụ và các sư bá sư thúc. Phái Võ Đương ta tuy võ công không dám nói là thiên hạ vô địch nhưng quyết không thua môn hạ của Tây Vực Thiếu Lâm, thái sư phụ cứ yên tâm.

Mấy câu đó chàng nói hết sức thành khẩn, những chữ "thái sư phụ" ra khỏi cửa miệng thật là tự nhiên, không một chút ngập ngừng khiến Trương Tam Phong cũng ngạc nhiên: "Hay là y đúng là đệ tử bản môn thật, bí mật cố công tập luyện, chẳng khác gì bản sư Giác Viễn năm xưa?". Oâng nhẹ nhàng thả tay Trương Vô Kỵ ra, lùi lại chỗ cũ, ngồi xuống ghế, đưa mắt nhìn Du Đại Nham, thấy người học trò cũng ngơ ngẩn không hiểu ra sao.

"A Tam" thấy Trương Tam Phong để một tiểu đạo đồng xuất chiến, có thể nói là khinh miệt coi thường mình đến cực điểm, định bụng sẽ đánh một quyền chết tươi đối phương, khích cho lão đạo thảng thốt bồn chồn, rồi sẽ cùng ông ta động thủ, lúc đó sẽ dễ dàng chế thắng hơn. Nghĩ thế y không nói gì, chỉ nói:

- Thằng nhãi kia, ra chiêu đi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Pho quyền thuật này là do thái sư phụ Trương chân nhân nhiều năm tâm huyết mới sáng tạo ra, tên gọi Thái Cực Quyền. Vãn bối mới học, chưa kịp tập luyện, không chắc đã lãnh ngộ được tinh yếu của quyền pháp, trong ba mươi chiêu e rằng không đánh ngã được các hạ. Nếu thế bởi vì tôi học nghệ chưa tinh, chứ không phải là vì pho quyền thuật này không hiệu quả, chuyện đó phải nói để các hạ biết trước.

"A Tam" không giận nổi mà phá ra cười, quay đầu lại nói với "A Đại", "A Nhị":

- Đại ca, nhị ca, trên đời này sao lại có một tiểu tử cuồng vọng đến thế nhỉ?

"A Nhị" cũng cười ha hả theo. Còn "A Đại" nhìn ra tiểu đạo đồng này không phải là kẻ đối phó dễ dàng nói:

- Tam đệ, chớ có khinh địch.

"A Tam" tiến lên một bước, nghe vù một tiếng, tay phải đánh thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ. Chiêu đó thần tốc như điện, quyền đến nửa chừng, quyền bên trái lại thành nhanh hơn, phát chiêu sau mà tới trước, đánh luôn vào mặt Trương Vô Kỵ, chiêu số kỹ thuật thật là kỳ quái, trên đời ít thấy.

Trương Vô Kỵ từ khi nghe Trương Tam Phong diễn giảng về nguyên lý Thái Cực Quyền, hơn một giờ liền, chàng chỉ suy nghĩ về quyền lý của pho quyền này, thấy quyền tay trái của "A Tam" đánh ra, lập tức sử chiêu Lãm Tước Vĩ [8] trong Thái Cực Quyền, chân phải thực, chân trái hư, vận dụng yếu quyết chữ "tễ", nương theo đối phương, chưởng phải đã nắm được cổ tay trái của địch, vận kình đẩy ngang ra. "A Tam" thân hình lập tức bổ nhào về trước, loạng choạng liền hai bước mới đứng lại được. Người chung quanh thấy thế ai nấy đều kinh hãi kêu lên.

Chiêu Lãm Tước Vĩ này là chiêu đầu tiên từ khi pho Thái Cực Quyền được sáng tác ra đến nay mới có dịp dùng, Trương Vô Kỵ thân mang đầy Cửu Dương thần công, lại thiện dụng phép chuyển đổi trong Càn Khôn Đại Na Di, đột nhiên sử dụng yếu quyết chữ "niêm" trong Thái Cực Quyền, tuy học chưa đầy hai giờ nhưng cũng không kém gì người cả đời khổ luyện.

"A Tam" bị chàng "vuốt" một cái, kình lực nghìn cân của ngọn quyền như rơi vào biển cả, không còn thấy tăm hơi, chính mình cũng bị quyền kình lôi tới trước hai bước. Y trong cơn kinh hãi, trở thành tức giận liên tiếp đánh ra, tưởng như có hàng chục cánh tay, hàng chục nắm đấm cùng tung ra một lượt. Mọi người thấy y tấn công chẳng khác gì gió táp mưa sa, ai nấy nghĩ thầm: "Thảo nào một người cao cường như Không Tính đại sư mà cũng bỏ mạng dưới tay y". Ngoại trừ đám đồng đảng đi theo Triệu Mẫn, ai ai cũng lo thầm cho Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ cố ý hiển dương uy danh phái Võ Đương nên chàng không sử dụng đến võ công của mình, mọi chiêu thức đều dùng pho Thái Cực Quyền do Trương Tam Phong sáng tạo như Đơn Tiên, Đề Thủ Thượng Thế, Bạch Hạc Lượng Sí, Lâu Tất Câu Bộ. Đến khi chàng ra chiêu Thủ Huy Tì Bà, tay phải lỏng ra, tay trái thu vào, trong nhất thời hiểu ngay được chỗ tinh vi áo diệu trong pho quyền nên chiêu này chàng sử dụng chẳng khác gì nước chảy mây trôi, cực kỳ nhàn nhã.

"A Tam" thấy thượng bàn bị song chưởng của chàng nhốt chặt như trong một cái lồng, không thể nào tránh né được, cũng không chống đỡ gì được, chỉ còn nước vận kình ra lưng, chịu cho chàng đánh một chưởng, đồng thời quyền bên phải đấm ra, cốt sao mỗi người chịu một chiêu, thành thế cả hai cùng chết, lấy đòn đổi đòn. Nào ngờ Trương Vô Kỵ hai tay vòng lại như ôm thái cực trong người, một luồng kình đạo vô cùng hồn hậu hợp thành một cơn gió lốc, lôi "A Tam" xoay luôn tại chỗ bảy tám vòng như con quay, khiến y phải vội vàng xuống tấn Thiên Cân Trụy mới đứng lại được nhưng cũng thẹn đến mặt đỏ gay, cực kỳ bẽ bàng.

Quần hào Minh giáo lớn tiếng reo hò. Dương Tiêu kêu lên:

- Công phu Thái Cực Quyền của phái Võ Đương thật là thần diệu quả thực khiến người ta được mở mắt.

Chu Điên cười nói:

- "A Tam" lão huynh, ta khuyên ngươi nên đổi tên đi, gọi là "A Chuyển".

Ân Dã Vương nói:

- - Có quay thêm vài vòng cũng chẳng có gì xấu mặt, cổ nhân chẳng từng nói "Ba mươi sáu kế, kế xoay là hơn cả" đấy ư?

Thuyết Bất Đắc bồi thêm:

- Năm xưa hảo hán Lương Sơn Bạc có một người tên Hắc Toàn Phong, đã có gió lốc thì đương nhiên là xoay tít.

"A Tam" nghe xong tức giận đến mặt đang đỏ biến thành tím ngắt, rống lên một tiếng, nhảy chồm tới, tay trái lúc thì quyền lúc thì chưởng, biến ảo khôn lường, trong khi tay phải lại dùng thuần chỉ lực công phu, chộp cào đâm chọc, vồ cào cấu phất, năm ngón tay khi thì như phán quan bút, lúc lại như điểm huyệt quyết, như đao như kiếm, như thương như kích, thế công cực kỳ ác liệt.

Thái Cực Quyền của Trương Vô Kỵ chưa thuần thục, cho nên tay chân luống cuống, không ứng phó nổi, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, tay áo đã bị rách một đường, chỉ còn nước thi triển khinh công, vừa chạy vừa né tránh mới tạm thoát được công phu chỉ lực ghê gớm chưa từng thấy kia. "A Tam" hò hét đuổi theo, nhưng làm sao theo kịp khinh công phiêu dật của đối phương, chộp luôn mười trảo đều hụt cả.

Trương Vô Kỵ một mặt né tránh, trong bụng nghĩ thầm: "Nếu ta chỉ chạy mà không đấu, chẳng hóa ra thua hay sao? Pho Thái Cực Quyền này ta chưa nhuần nhuyễn lắm, chi bằng sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công, đấu với y xem sao". Chàng liền quay lại, hai tay ra chiêu Dã Mã Phân Tông[9] trong Thái Cực Quyền nhưng tay trái lại sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp. Một ngón tay phải của "A Tam" đâm vào đầu vai đối phương, nhưng không hiểu sao bị lôi kéo thế nào, nghe cạch một tiếng lại đâm ngay vào bên trái của chính mình, đau đến mắt nổ đom đóm, cánh tay dường như không nhắc lên nổi.

Dương Tiêu biết đó không phải là Thái Cực Quyền nhưng lập tức nói khỏa lấp đi:

- Thái Cực Quyền quả hay thực là hay.

"A Tam" vừa đau vừa tức, quát lên:

- Cái này là yêu pháp tà thuật, Thái Cực Quyền cái gì?

Vụt vụt vụt y đâm luôn ba chỉ. Trương Vô Kỵ tung mình tránh được, thấy "A Tam" lại vươn tay, hai ngón tay đâm tới chàng liền sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, vừa kéo vừa dẫn, nghe cộp một tiếng, hai ngón tay của "A Tam" đâm luôn vào một cái cột gỗ lớn trong đại điện, lút tới tận gốc. Mọi người vừa tức cười, vừa kinh hãi.

Trong khi ai nấy đang cười ồ, bỗng có tiếng của Du Đại Nham cất lên:

- Khoan đã! Ngươi đang sử dụng Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm, phải không?

Trương Vô Kỵ tung mình nhảy qua, nghe thấy "Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm" lập tức nghĩ ra, Du Đại Nham bị thương vì Kim Cương chỉ lực, trong hơn hai mươi năm qua, phái Võ Đương vẫn vì việc này mà thâm thù phái Thiếu Lâm, xem ra hung thủ ngay tại trước mắt. Chỉ nghe "A Tam" cười khẩy nói:

- Kim Cương Chỉ Lực thì đã sao? Ai bảo ngươi cứng đầu, không chịu nói nơi dấu đao Đồ Long? Nếm mùi tàn phế hai mươi năm qua có thích không?

Du Đại Nham hậm hực nói:

- Cám ơn ngươi hôm nay nói ra chân tướng, thì ra thân ta tàn phế là do phái Tây Vực Thiếu Lâm hạ độc thủ. Chỉ đáng buồn. .. đáng buồn thay ngũ sư đệ ta.

Ông nói đến câu cuối, giọng nghẹn ngào. Năm xưa Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết chỉ vì Du Đại Nham bị Ân Tố Tố dùng ngân châm đả thương, không còn mặt mũi nào nhìn sư huynh. Thực ra Du Đại Nham trúng phải ngân châm rồi, Ân Tố Tố đã nhờ Long Môn tiêu cục đưa lên núi Võ Đương, chữa thuốc chừng một tháng là sẽ khỏi. Chân tay ông bị người bẻ gãy, chính là do độc thủ của Đại Lực Kim Cương Chỉ, nếu khi đó tìm được ra kẻ gây nên tội lỗi, vợ chồng Trương Thúy Sơn đâu đến nỗi chết thảm như thế?

Du Đại Nham thương cho sư đệ chẳng tội tình gì chết oan, lại hận cho mình thành người tàn phế, mắt như muốn tóe lửa ra ngoài. Trương Vô Kỵ chỉ nghe hai người đối đáp, lập tức minh bạch tiền nhân hậu quả. Khi còn nhỏ chàng đã từng nghe cha nói qua, nhà sư nấu bếp ở chùa Thiếu Lâm học lén võ nghệ, đánh chết thủ tọa Đạt Ma Đường là Khổ Trí thiền sư, các cao thủ trong phái Thiếu Lâm tranh chấp đến nỗi Khổ Tuệ thiền sư phải chạy sang Tây Vực, khai sáng phái Thiếu Lâm Tây Vực, xem ra gã này là truyền nhân của Khổ Tuệ thiền sư năm xưa.

Quả nhiên nghe Trương Tam Phong nói:

- Thí chủ bụng dạ thật là tàn ác, ta không ngờ trong những truyền nhân của Khổ Tuệ thiền sư, lại có một người như thí chủ.

"A Tam" cười gằn:

- Khổ Tuệ là cái quái gì thế?

Trương Tam Phong vừa nghe, lập tức hiểu ngay. Năm xưa khi Du Đại Nham bị Đại Lực Kim Cương Chỉ đả thương, phái Võ Đương đã cho người sang chất vấn phái Thiếu Lâm, chưởng môn phái Thiếu Lâm kiên quyết không nhận, nên cũng nghi là phái Thiếu Lâm Tây Vực. Thế nhưng nghe ngóng lâu năm biết phái này rất ít ỏi, đệ tử chuyên về nghiên cứu Phật học, không thông võ công, lúc này nghe "A Tam" nói một câu "Khổ Tuệ là cái quái gì thế?", lập tức biết ngay nếu y là người của phái Thiếu Lâm Tây Vực, quyết không thể nào dám mở miệng nhục mạ tổ sư khai sáng, ông liền cao giọng nói:

- Thảo nào! Thảo nào! Thì ra thí chủ là truyền nhân của hỏa công đầu đà, không những học được võ công của ông ta, lại học luôn được cả tính tình độc ác âm hiểm. Thế gã gọi là Không Tướng gì gì đó, có phải là sư huynh đệ của thí chủ không?

"A Tam" đáp:

- Đúng đó. Y là sư đệ của ta, nhưng không phải tên là Không Tướng mà pháp danh Cương Tướng. Trương chân nhân, Bát Nhã Kim Cương chưởng của Kim Cương môn, so với chưởng pháp của phái Võ Đương thì thế nào?

Du Đại Nham hậm hực đáp:

- Kém xa thật là xa. Đầu y bị sư phụ ta đánh một chưởng, phọt óc chết ngay. Đánh trống qua cửa nhà sấm, thật đáng kiếp.

"A Tam" rống lên một tiếng, tung mình xông tới. Trương Vô Kỵ liền dùng chiêu Như Phong Tự Bế trong Thái Cực Quyền chặn y lại, nói:

- "A Tam", mau đưa Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao ra đây.

Vừa nói chàng vừa đưa tay ra. "A Tam" giật mình kinh hãi: "Tục cốt diệu dược của bản môn cực kỳ bí mật, ngay cả đệ tử tầm thường cũng chưa biết tên, tên tiểu đạo đồng này nghe ở đâu thế?".

Y đâu biết trong Y Kinh của Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu có chép là "Tây Vực có một lộ ngoại gia võ công, nghi là bàng chi của phái Thiếu Lâm, thủ pháp thật là quái dị, bẻ gẫy xương chân ta người ta, không có thuốc gì trị được chỉ có bí dược của chính họ là Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao mới có thể cứu thôi, nhưng cao đó phương thuốc phối chế thế nào thì không truyền ra ngoài". Trương Vô Kỵ nghĩ đến chi tiết đó, thuận mồm nói ra, vốn chỉ thử xem có đúng không, nhưng thấy y biếc sắc liệu là mình đoán không sai, nên lớn tiếng nói:

- Đưa đây.

Chàng nghĩ đến cha mẹ chết thảm, lại thêm hai vị Ân Dư sư bá sư thúc bị tàn phế, hận không thể lập tức giết chết y, nhưng cũng không muốn nói thêm với y lời nào. Còn "A Tam" vừa rồi giao thủ với Trương Vô Kỵ tuy có lúc bị nguy hiểm đôi chút, nhưng khi sử dụng Đại Lực Kim Cương Chỉ thì đối phương chỉ có nước trốn tránh, không cách gì hoàn thủ. Y nghĩ thầm chỉ cần để ý đừng để bị thủ pháp cổ quái lôi kéo, đấu thêm nữa thể nào cũng thắng, nên tiến lên một bước, quát lớn:

- Thằng nhãi kia, ngươi quì xuống rập đầu cho kêu lạy ta ba lạy thì ta tha cho, nếu không thì cũng như tên họ Du kia thôi.

Trương Vô Kỵ nhất định lấy cho bằng được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, nhưng đối phó với Kim Cương Chỉ thế nào, nhất thời chàng chưa nghĩ ra, Càn Khôn Đại Na Di tuy có thể làm y bị thương nhưng làm sao ép y đưa thuốc ra mới là khó. Còn đang trầm ngâm, Trương Tam Phong bỗng nói:

- Này con, con lại đây.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Thưa thái sư phụ, vâng.

Trương Tam Phong nói:

- Dùng ý chứ không dùng sức, cốt sao thái cực xoay vòng, không được để cho đứt đoạn. Nếu được như thế rồi, cái gốc của đối phương tự nhiên sẽ đứt. Mỗi chiêu mỗi thức, cần phải liền lạc với nhau, như sông dài biển rộng, chảy hoài không hết.

Oâng thấy Trương Vô Kỵ đối địch ra chiêu cũng đã phần nào thấu được cái tinh hoa của pho quyền, nhưng chỉ vì còn quá rạch ròi, quyền pháp minh bạch chiêu nào ra chiêu nấy nên không thể hiện được ý tứ bốn chữ "viên chuyển bất đoạn" (xoay vòng không đứt).

Trương Vô Kỵ võ công đã cao rồi, biết được nguyên lý của nó, nghe Trương Tam Phong nói mấy câu đó, lập tức lãnh ngộ ngay, liền nhẩm thử cái ý xoay vòng không đứt, âm dương biến hóa của pho quyền.

"A Tam" cười khẩy nói:

- Lâm trận học võ không trễ lắm sao?

Trương Vô Kỵ lông mày dựng lên, nói:

- Có kịp hay không, các hạ cứ thử thì biết.

Nói xong quay lại, tay phải vòng ra phía trước, nhắm ngay mặt "A Tam" đánh tới, chính là chiêu Cao Thám Mã trong Thái Cực Quyền. Năm ngón tay phải của "A Tam" lập tức chụm lại thành hình cương đao chém xuống, Trương Vô Kỵ biến thành chiêu Song Phong Quán Nhĩ, vẫn tiếp tục đánh cả hai tay. Biến chiêu đó đúng là lãnh hội được tinh nghĩa "viên chuyển bất đoạn" trong Thái Cực Quyền mà thái sư phụ vừa chỉ điểm, rồi khi thì vòng tay trái, khi thì vòng tay phải, hết vòng này tới vòng khác, vòng to, vòng nhỏ, vòng ngang, vòng dọc, vòng thẳng, vòng xéo, hết vòng nọ lại tới vòng kia liên tiếp, khiến cho "A Tam" phải lật đật lắc lư, chân đứng không vững chẳng khác nào người say rượu.

Đột nhiên năm ngón tay "A Tam" hết sức đâm tới, Trương Vô Kỵ liền sử chiêu Vân Thủ, tay trái cao, tay phải thấp thành một vòng tròn chặn ngay tay y lại, kình lực Cửu Dương thần công vận ra, chỉ nghe cắc một tiếng, cánh tay phải của "A Tam" cả trên lẫn dưới đều gãy rời. Cương kình của Cửu Dương thần công thật là ghê gớm, xương bả vai của "A Tam" gãy thành năm sáu mảnh, các đầu xương nát vụn, không còn thành hình thù gì nữa. Cứ riêng kình lực đó không thôi, pho Thái Cực Quyền lấy nhu kình làm chủ không thể nào bì kịp.

Trương Vô Kỵ hận y tàn ác, Vân Thủ chàng sử ra liên miên bất tuyệt, như một áng mây trắng bay ngang bầu trời, vòng tròn này chưa xong, vòng kế tiếp đã bắt đầu, lại nghe cắc thêm một tiếng nữa, cánh tay trái "A Tam" cũng gãy luôn, tiếp theo cắc cắc hai tiếng, cả hai bên đùi trái phải của y cũng gãy vụn. Trương Vô Kỵ trong đời động thủ cùng người, chưa bao giờ hạ độc thủ như thế, nhưng người này giết hại cha mẹ mình, là hung thủ làm khổ tam sư bá, lục sư thúc, nếu không phải vì còn cần Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì chàng đã hạ thủ đánh chết y rồi.

"A Tam" chỉ hự được một tiếng, đã nằm gục xuống, trong đám thủ hạ Triệu Mẫn một người liền vọt ra, ôm y lên quay về chỗ. Những người chung quanh thấy thần công của Trương Vô Kỵ như thế, ai nấy kinh hãi, ngay đến các cao thủ Minh giáo cũng ngơ ngẩn không kịp mở miệng hò reo.

Tên đầu hói "A Nhị" lập tức nhào ra, chưởng phải nhắm ngay ngực Trương Vô Kỵ tấn công. Chưởng của y chưa tới, Trương Vô Kỵ đã thấy tức ngực, vội vàng sử dụng chiêu Tà Phi Thế, dẫn lực đạo của y lệch qua một bên. Gã hói đầu đó chẳng nói chẳng rằng, hạ bàn vững chãi như đóng đinh xuống đất, chăm chăm hết chưởng này đến chưởng khác đánh ra, nội lực hùng hồn không ai sánh kịp.

Trương Vô Kỵ thấy chưởng pháp của y với "A Tam" cũng cùng một loại, nhìn tuổi tác hẳn là sư huynh của "A Tam", tuy không nhanh nhẹn bằng nhưng trầm ổn hơn nhiều, chàng liền sử dụng các chiêu thức niêm, dẫn, tễ, án trong Thái Cực Quyền định đẩy cho y nghiêng qua, nào ngờ người này nội lực quá mạnh, lại kéo chàng nhủi tới một bước.

Hùng tâm của Trương Vô Kỵ nổi lên, nghĩ thầm: "Để ta tỉ đấu với y một phen xem nội lực Tây Vực Thiếu Lâm kia mạnh, hay Cửu Dương thần công của ta ghê gớm hơn". Chàng thấy chưởng của y đánh ra liền múa chưởng ra đỡ, đó là thuần lấy cứng chọi cứng, không có chút nào khéo léo gì ở bên trong. Hai chưởng đụng nhau, nghe bình một tiếng lớn, cả hai người đều lắc lư.

Trương Tam Phong "Ý" một tiếng, trong bụng kêu thầm: "Không xong, đánh kiểu thô lỗ này, ai mạnh người ấy thắng, hoàn toàn tương phản với quyền lý của Thái Cực. Gã hói đầu này nội lực hồn hậu, trong võ lâm quả ít thấy, chỉ e đấu thêm chưởng nữa, tiểu hài nhi sẽ bị trọng thương".

Ngay lúc đó, chưởng thứ hai của đôi bên lại đụng nhau, nghe bình một tiếng, "A Nhị" thân hình lảo đảo, lùi lại một bước, còn Trương Vô Kỵ thản nhiên nhàn nhã vẫn đứng tại chỗ.

Cửu Dương thần công và nội công của phái Thiếu Lâm nếu luyện đến cảnh giới tối cao, có thể nói không bên nào kém bên nào. Thế nhưng sáng phái tổ sư hỏa công đầu đà của Kim Cương Môn bên Tây Vực là người học lén võ công của chùa Thiếu Lâm. Quyền cước binh khí thì học trộm được, còn nội công là cách vận chuyển khí tức trong cơ thể, dù có trông thấy người ta đả tọa tĩnh tu mười năm, tám năm, cũng không sao hiểu được phương pháp điều quân thế nào, dẫn các đường chân khí đi ra sao? Thành ra ngoại công y cớ thể bắt chước, còn nội công thì không sao học lóm được. Kim Cương Môn ngoại công rất mạnh không kém gì Thiếu Lâm chính tông, còn nội công thì thua xa không thể nào bằng.

"A Nhị" là một dị nhân trong môn phái Kim Cương, vốn có thần lực trời sinh, từ ngoại công biến ngược trở lại thành nội công, đi theo một đường riêng luyện thành một người nội công cực kỳ thâm hậu, tài năng còn hơn xa cả tổ sư hỏa công đầu đà năm xưa, có thể coi là trời cho. Dưới song chưởng của y, rất ít ai đỡ nổi ba chiêu, lúc này đánh theo kiểu tay ngang, nhưng lại bị chưởng lực của Trương Vô Kỵ đẩy lùi một bước.

Y vừa giận vừa sợ, hít một hơi dài, hai chưởng cùng đánh ra, nhắm thẳng vào Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Ân lục thúc, chú xem cháu rửa hận cho chú đây.

Thì ra khi đó Ân Lê Đình đang được Dương Bất Hối, Tiểu Siêu hộ tống, do hai tên giáo chúng Minh giáo dùng cáng khiêng, vừa tới núi Võ Đương. Trương Vô Kỵ vừa quát lên, chưởng phải đánh ra, nghe bình một tiếng lớn, gã hói đầu phải lùi liên tiếp ba bước, hai mắt lồi ra, khí huyết trong ngực trộn trạo. Trương Vô Kỵ quát lớn:

- Ân lục thúc, trong đám vây đánh chú có tên đầu hói hay không?

Ân Lê Đình đáp:

- Chính hắn, tên này chính là đầu sỏ.

Chỉ thấy tên đầu hói "A Nhị" toàn thân xương cốt kêu lách cách mấy tiếng, chính đang vận kình. Du Đại Nham biết tên này nội lực cương mãnh, y vận nội công, chưởng lực sẽ không biết đâu mà lường, cực kỳ khó chống đỡ, kêu lên:

- Qua sông chưa xong, đánh vào giữa dòng.

Ý xúi Trương Vô Kỵ đừng đợi "A Nhị" vận kình hoàn thành, hãy tiến lên đánh cho y trở tay không kịp. Trương Vô Kỵ đáp:

- Vâng.

Chàng tiến lên một bước nhưng không ra tay. "A Nhị" hay tay đẩy ra, một luồng lực đạo bài sơn đảo hải đánh tới. Trương Vô Kỵ hít một hơi, chân khí trong cơ thể lưu chuyển, hữu chưởng đánh ra, một tay đỡ một tay đón, đem toàn bộ chưởng lực đối phương hất trả lại. Hai luồng chưởng lực dồn lại làm một, "A Nhị" chỉ kêu lên được một tiếng, chẳng khác nào viên đá nằm trên nỏ bắn ra, nghe lách cách lách cách, thân hình y đụng vỡ tung bức tường, bay thẳng ra ngoài.

Ai nấy còn đang kinh hãi thất sắc, bỗng thấy một người theo lỗ hổng trên tường chui vào, xách "A Nhị" đặt ngay dưới đất. Người đó béo tròn lùn xủn như cái trống đá, hình dáng thật là tức cười nhưng thân pháp hết sức nhanh nhẹn, chính là chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ của Minh giáo Nhan Viên. Hai xương cánh tay, xương lồng ngực, xương đòn gánh, tất cả đều bị chưởng lực cương mãnh hồn hậu chấn động gãy nát. Nhan Viên bỏ "A Nhị" xuống đất rồi, khom lưng chào Trương Vô Kỵ, rồi lại theo lỗ hổng trên tường chui ra, luồn ra luồn vào, chẳng khác gì một con chuột chũi mập mạp.

Triệu Mẫn thấy tiểu đạo đồng liên tiếp đánh bại hai cao thủ hạng nhất của mình, vốn đã sinh nghi, lại thấy Nhan Viên hành lễ, nàng liền nhìn kỹ lập tức nhận ra ngay, tự trách mình: "Đáng chết thực, đáng chết thực. Ta vào trước là chủ, vẫn tưởng tên tiểu quỉ này ở ngoài bố trí, đâu ngờ y giả trang đạo đồng, ở đây phá bĩnh, làm hỏng hết việc của ta".

Nghĩ thế nàng liền khinh khỉnh nói:

- Trương giáo chủ, sao giáo chủ không nghĩ đến thanh danh mà lại đi giả làm đứa tiểu đồng? Luôn mồm thái sư phụ nọ, thái sư phụ kia không biết thẹn hay sao?

Trương Vô Kỵ thấy nàng đã nhận ra mình, liền cao giọng đáp:

- Tiên phụ Thúy Sơn công chính là đệ tử thứ năm của thái sư phụ, tôi không gọi "thái sư phụ" thì gọi bằng gì bây giờ? Có gì mà thẹn hay không thẹn?

Nói xong chàng quay lại quì xuống khấu đầu trước Trương Tam Phong, nói:

- Hài nhi Trương Vô Kỵ, khấu đầu bái kiến thái sư phụ và tam sư bá. Sự việc cấp bách, không kịp bẩm rõ mọi điều, mong tha tội khinh mạn cho hài nhi.

Trương Tam Phong và Du Đại Nham vừa mừng vừa lo, không thể nào ngờ thanh niên đánh bại hai cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực, lại chính là đứa bé ốm o, chết đi sống lại ngày nào. Trương Tam Phong cười ha hả, đưa tay đỡ dậy, nói:

- Hảo hài tử, con chưa chết, Thúy Sơn đã có người nối dòng.

Trương Vô Kỵ võ công trác tuyệt, cũng chỉ là thứ yếu, việc Trương Tam Phong mừng hơn cả chính là vì vẫn tưởng chàng chết rồi, không ngờ vẫn còn sống, thành thử đúng là trời cho, lòng như mở cờ trong bụng, quay đầu sang nói với Ân Thiên Chính:

- Ân huynh, chúc mừng Ân huynh có được đứa cháu ngoại thế này.

Ân Thiên Chính cười đáp:

- Trương chân nhân, chúc mừng Trương chân nhân dạy được một đồ tôn giỏi là dường ấy.

Triệu Mẫn trả miếng liền:

- Cái gì mà hảo ngoại tôn, hảo đồ tôn. Hai lão già sống dai, dạy được một tên tiểu quỉ gian trá giảo hoạt. "A Đại", ngươi ra thử kiếm với y xem nào!

Kẻ mặt mày sầu khổ "A Đại" kia liền lớn tiếng đáp: "Vâng", nghe soẹt một tiếng rút phắt thanh Ỷ Thiên kiếm, mọi người chỉ thấy ánh sáng xanh lè, dường như có một làn khí lạnh tỏa ra, đúng là một thanh kiếm tốt. Trương Vô Kỵ nói:

- Kiếm này là sở hữu của phái Nga Mi, sao lại ở trong tay cô được?

Triệu Mẫn hứ một tiếng nói:

- Tiểu quỉ, ngươi biết gì mà nói? Diệt Tuyệt lão ni ăn cắp thanh kiếm này của nhà ta, bây giờ vật về chủ cũ, kiếm Ỷ Thiên có liên quan gì đến phái Nga Mi đâu?

Trương Vô Kỵ đâu có biết lai lịch của thanh kiếm Ỷ Thiên ra thế nào, bị nàng hỏi vặn ngược lại, không biết trả lời ra sao, bèn đánh trống lảng qua chuyện khác, nói:

- Triệu cô nương, xin cô cho tôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, để tôi trị dứt xương gãy cho tam sư bá và lục sư thúc, mọi sự đã qua chúng ta bỏ đi không nói đến nữa.

Triệu Mẫn nói:

- Hừ, bỏ qua chuyện cũ? Nói dễ nghe nhỉ? Thế ngươi có biết Không Văn, Không Trí của phái Thiếu Lâm, cùng bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu của phái Võ Đương, hiện nay đang ở đâu không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Tôi không biết. Mong cô nương chỉ rõ.

Triệu Mẫn cười khẩy nói:

- Việc gì ta phải nói cho ngươi nghe? Ta chưa chém ngươi thành muôn mảnh thì chưa trả được cái tội khinh bạc làm nhục hôm trước ở trong cương lao tại Lục Liễu Sơn Trang.

Nàng nói tới mấy tiếng "khinh bạc làm nhục", nghĩ đến tình cảnh ở trong hầm tối, không khỏi mặt đỏ lên, vừa tức vừa thẹn.

Trương Vô Kỵ nghe tới chuyện "khinh bạc làm nhục" cũng bẽn lẽn, nghĩ đến việc hôm đó vì phải cứu quần hào Minh giáo bị trúng độc, việc đang khẩn cấp thành ra phải giở hạ sách, dùng tay cù gan bàn chân nàng, tuy không có ý trăng hoa, nhưng nam nữ thụ thụ bất thân, dẫu phải tòng quyền, cũng chưa nói với ai, nhưng nếu có người biết được chàng đùa dỡn với đàn bà con gái, thì thật than ôi. Thấy không cách gì biện bạch lúc này, chàng chỉ còn nước lảng qua:

- Triệu cô nương, Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao cô có cho tôi hay không nào?

Triệu Mẫn liếc một cái, cười hì hì nói:

- Ngươi muốn có Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, cũng chẳng có gì khó cả. Ngươi chỉ bằng lòng nhận làm ba điều, ta sẽ hai tay dâng lên ngay.

Trương Vô Kỵ hỏi dồn:

- Ba chuyện gì thế?

Triệu Mẫn đáp:

- Ba điều đó bây giờ ta chưa nghĩ ra. Sau này khi nào nghĩ ra được, nói điều nào thì ngươi làm điều đó.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cái đó sao được? Chẳng lẽ cô bảo tôi tự sát, hay bảo tôi làm heo làm chó, tôi cũng phải theo hay sao?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Ta không bảo công tử tự sát, cũng không bảo công tử làm heo làm chó, nhưng đã nhận lời thì sau đừng có chối.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô nói cho tôi nghe trước đi, nếu như không vi phạm đạo hiệp nghĩa, mà tôi có thể làm được, thì tôi sẽ làm cho cô nương.

Triệu Mẫn đang toan trả lời, nhìn qua bỗng thấy trên mái tóc của Tiểu Siêu có đính một bông hoa kết bằng ngọc trai, chính là đóa hoa nàng tặng cho Trương Vô Kỵ, lập tức nổi giận, lại thấy Tiểu Siêu mắt sáng miệng tươi, mặt mày rạng rỡ, tuổi tuy còn nhỏ nhưng đã mơn mởn như một đóa phù dung, thật là dễ thương, trong bụng càng bực bội, liền nghiến răng nói với "A Đại":

- Ra chém đứt hai cánh tay tiểu tử họ Trương cho ta.

"A Đại" đáp lời: "Vâng", tay cầm kiếm Ỷ Thiên tiến lên một bước, nói:

- Trương giáo chủ, chủ nhân ra lệnh, sai tại hạ chém hai cánh tay của giáo chủ đó.

Chu Điên trong bụng ấm ức đã lâu, lúc này không nhịn nổi, ngoạc mồm chửi ngay:

- Con mẹ mày nói nghe thối quá, sao ngươi không chém chính tay mình đi có được không?

"A Đại" mặt mày sầu khổ, nhăn nhăn nhó nhó nói:

- Nói thế cũng hợp lý lắm.

Chu Điên nghe thế như mở cờ trong bụng, lớn tiếng nói:

- Thế thì mau chặt tay đi.

"A Đại" đáp:

- Chẳng đi đâu mà vội.

Trương Vô Kỵ thấy hơi lo, thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén dị thường, binh khí nào đụng phải cũng gãy ngay, chỉ còn một nước dùng Càn Khôn Đại Na Di tay không đoạt binh khí của y, thế nhưng khi đưa tay vào gân thanh kiếm nếu như kiếm chiêu của y kỳ lạ, biến hóa không lường được, tay chàng dù chỗ nào đụng phải cũng sẽ đứt ngay. Chàng chưa biết phải đối địch cách nào, còn đang trù trừ, bỗng nghe Trương Tam Phong nói:

- Vô Kỵ, ta sáng tạo ra Thái Cực Quyền con đã học rồi, còn một pho Thái Cực Kiếm, để ta truyền cho con luôn, để dùng quá chiêu với vị thí chủ này.

Trương Vô Kỵ mừng rỡ đáp:

- Đa tạ thái sư phụ.

Chàng quay sang nói với "A Đại":

- Vị tiến bối kia, tôi kiếm thuật không tinh xảo, cần được thái sư phụ chỉ điểm thêm, sau đó sẽ đấu với ông.

"A Đại" vốn có lòng e ngại Trương Vô Kỵ, tuy có bảo kiếm trong tay chiếm được ưu thế, nhưng thắng được không cũng chưa biết, nghe chàng muốn học chiêu thức mới, thật mừng hết cỡ, nghĩ thầm kiếm chiêu mới học dù có tinh diệu đến đâu, không khỏi ngượng nghịu. Trong đạo kiếm, cốt nhất là nhẹ nhàng linh động, ít nhất cũng phải luyện một hai chục năm, khi lâm địch mới lòng muốn sao tay ra chiêu như thế, thuần thục tự nhiên. Y liền gật đầu, nói:

- Ngươi đi học chiêu, ta ở đây chờ. Học hai giờ liệu có đủ chưa?

Trương Tam Phong nói:

- Chẳng cần phải đi đâu xa, ta dạy ngay tại đây, Vô Kỵ học ngay ở đây, "hàng mới ra lò nóng hổi[10]". Chẳng đến nửa giờ là dạy xong pho Thái Cực Kiếm.

Ông nói câu đó, ngoại trừ Trương Vô Kỵ ra, ai nấy kinh hãi, tưởng như không tin vào tai mình, nghĩ thầm: "Dù cho Thái Cực Kiếm pháp của phái Võ Đương áo diệu thần kỳ đến đâu, nhưng ở đây công nhiên dạy kiếm thuật, địch nhân nhìn thấy rõ ràng, thì còn gì gọi là bí áo nữa?".

"A Đại" đáp:

- Thế cũng được, vậy ta ra ngoài điện đứng chờ.

Y chứng tỏ mình không muốn được lợi thế, dẫu là phận đầy tớ, nhưng hành vi chẳng khác gì một bậc tông sư trong võ lâm. Trương Tam Phong nói:

- Không cần phải vậy, pho kiếm pháp này ta mới sáng tạo ra, chẳng biết có dùng được không? Các hạ là danh gia kiếm thuật, chính mong được các hạ nhìn xem, chỉ cho những chỗ sơ hở, khiếm khuyết.

Lúc ấy Dương Tiêu bỗng chợt nghĩ ra, lớn tiếng hỏi:

- Thì ra các hạ chính là Bát Tí Thần Kiếm[11] Phương trưởng lão. Các hạ đường đường đứng đầu trong các trưởng lão Cái Bang, sao lại cam chịu làm đầy tớ cho người khác?

Quần hào Minh giáo nghe nói thế, ai nấy đều kinh hãi. Chu Điên hỏi:

- Ngươi chẳng phải đã chết rồi sao? Sao lại sống đây. .. cái đó. .. cái đó sao lại thế được?

"A Đại" thở dài một tiếng, cúi đầu nói:

- Lão hủ trăm lần chết cũng chưa đủ, chuyện đã qua chẳng nói làm gì nữa. Tại hạ không còn là trưởng lão Cái Bang từ lâu rồi.

Những người lớn tuổi một chút ai cũng biết Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch là người đứng đầu trong tứ đại trưởng lão của Cái Bang, kiếm thuật tinh kỳ, danh vang thiên hạ, nổi tiếng là xuất kiếm cực nhanh chẳng khác nào có bảy tám cánh tay nên được cái danh hiệu đó. Hơn mười năm trước, người ta nghe y bị bệnh nặng chết đi, khi đó ai cũng lấy làm tiếc, đâu ngờ vẫn còn sống đến ngày nay.

Trương Tam Phong nói:

- Pho Thái Cực Kiếm của lão đạo nếu được Bát Tí Thần Kiếm chỉ điểm cho vài chiêu thì thật là vinh hạnh. Vô Kỵ, con có mang kiếm không?

Tiểu Siêu liền tiến lên mấy bước, đưa cho ông thanh kiếm Ỷ Thiên giả bằng gỗ Trương Vô Kỵ lấy được của Triệu Mẫn. Trương Tam Phong cầm lên cười nói:

- Kiếm gỗ à? Lão đạo có vẽ bùa bắt quyết, trừ tà tróc quỉ đâu?

Ông đứng lên, tay trái cầm kiếm, tay phải thành hình kiếm quyết, hai tay ôm thành vòng tròn, từ từ đưa lên, đó là Khởi Thủ Thức, tiếp theo là Tam Hoàn Sáo Nguyệt, Đại Khôi Tinh, Yến Tử Sao Thủy, Tả Lan Tảo, Hữu Lan Tảo. .. từng chiêu một diễn ra, đến thế thứ năm mươi ba Chỉ Nam Châm, hai tay cùng vẽ thành hình tròn, vòng trở lại thành thức thứ năm mươi bốn Trì Kiếm Qui Nguyên.

Trương Vô Kỵ không ghi nhớ chiêu thức, chỉ nhìn kỹ những yếu chỉ "thần tại kiếm tiên, miên miên bất tuyệt[12]" trong kiếm chiêu mà thôi. Trương Tam Phong sử xong pho kiếm pháp, chẳng thấy một ai reo hò, người nào cũng đều thất vọng: "Thứ kiếm pháp chậm như rùa, mềm như bún thế này làm thế nào có thể dùng để ra chiêu đối địch?". Nhưng lại nghĩ ngay "Chắc là Trương chân nhân cố ý múa kiếm thật chậm, cốt để cho giáo chủ có thể nhìn cho rõ".

Trương Tam Phong hỏi:

- Hài nhi, con có nhìn ra không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Con nhìn ra rồi.

Trương Tam Phong hỏi tiếp:

- Có nhớ được chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đã quên gần một nửa rồi.

Trương Tam Phong nói:

- Hay lắm, cũng thật khó cho con. Con tự mình suy nghĩ thêm đi.

Trương Vô Kỵ cúi đầu trầm tư, một lúc sau, Trương Tam Phong hỏi lại:

- Bây giờ ra sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đã quên mất quá nửa rồi.

Chu Điên thất thanh kêu lên:

- Ôi chao, càng lúc càng quên nhiều hơn. Trương chân nhân, lộ kiếm pháp này thâm áo quá, xem một lần làm sao nhớ được? Xin ngài diễn thêm một lần nữa cho giáo chủ chúng tôi xem lại.

Trương Tam Phong mỉm cười:

- Được, để ta biểu diễn lại một lần nữa.

Ông cầm kiếm ra chiêu, diễn lại lần thứ hai. Mọi người mới coi vài chiêu, trong bụng ai cũng lạ lùng, lần này không chiêu nào giống lần trước. Chu Điên kêu lên:

- Ôi chao, ôi chao, thế này thì càng làm cho người ta thêm rối trí.

Trương Tam Phong vạch kiếm thành vòng tròn, hỏi:

- Hài nhi, thấy thế nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Còn ba chiêu chưa quên được.

Trương Tam Phong gật đầu, quay về chỗ ngồi. Trương Vô Kỵ đi chầm chậm vòng quanh trong điện, trầm tư hồi lâu, lại đi thêm nửa vòng nữa, ngửng đầu lên, mặt rạng rỡ, kêu lên:

- Con đã quên hết rồi, quên không còn chút nào nữa rồi.

Trương Tam Phong nói:

- Khá lắm, khá lắm. Quên nhanh như thế, con có thể mời Bát Tí Thần Kiếm chỉ giáo được rồi.

Nói xong đưa thanh kiếm gỗ trong tay cho chàng. Trương Vô Kỵ khom mình tiếp lấy, quay lại nói với Phương Đông Bạch:

- Xin mời Phương tiền bối.

Chu Điên vò đầu bứt tai, cực kỳ lo lắng. Phương Đông Bạch vươn mình đâm ra nói:

- Xin mạo muội.

Chỉ thấy ánh sáng xanh lấp lánh, nghe vù một tiếng, nội lực mạnh chẳng kém gã "A Nhị" chút nào. Ai nấy rùng mình kinh hãi, nghĩ thầm dẫu y chỉ cầm một thanh đồng nát sắt rỉ, với nội lực như thế uy lực cũng không gì đương cự nổi, huống chi lại cầm bảo kiếm Ỷ Thiên sắc bén cắt vàng chặt ngọc. Hai chữ Thần Kiếm quả nhiên danh bất hư truyền.

Trương Vô Kỵ tay trái để xéo kiếm quyết, mộc kiếm đưa ngang qua, vạch thành nửa vòng tròn, đè luôn lên trên sống kiếm Ỷ Thiên, kình lực truyền vào, thanh bảo kiếm lập tức bị dìm xuống. Phương Đông Bạch khen:

- Hảo kiếm pháp.

Y lật cổ tay hất thanh kiếm, mũi kiếm liền ngóc lên đâm thẳng vào sườn bên trái của đối phương. Trương Vô Kỵ liền quay kiếm vòng về, nghe cách một tiếng, hai thanh kiếm đụng nhau, cả hai đều phi thân lùi ra ngoài. Thanh kiếm Ỷ Thiên trong tay Phương Đông Bạch rung động không ngừng, nghe tiếng u u hồi lâu chưa hết.

Hai thứ binh khí, một đằng là bảo kiếm, một đằng là kiếm gỗ, thế nhưng khi chạm vào nhau, hai bên không bên nào hơn bên nào. Chiêu đó của Trương Vô Kỵ đã "dùng cái cùn nhụt của mình, đụng vào chỗ không sắc bén của địch" chính là tinh áo của Thái Cực Quyền. Nên biết Trương Tam Phong truyền cho chàng là truyền "Kiếm Ý", không phải "Kiếm Chiêu", cho nên bao nhiêu kiếm chiêu chàng quên hết, chính là đã đạt được cốt tủy của kiếm pháp, đến khi lâm địch dùng ý mà ra chiêu, thiên biến vạn hóa, vô cùng vô tận.

Nếu như còn một hai chiêu không quên được, trong lòng sẽ vướng mắc, kiếm pháp sẽ không thể nào tinh thuần. Nguyên lý đó những cao thủ như Dương Tiêu, Ân Thiên Chính lờ mờ hiểu được, còn Chu Điên dẫu sao cũng kém một mức, khiến y phải lo lắng một hồi lâu.

Khi đó tiếng vi vút trong điện càng lúc càng mạnh, kiếm chiêu của Phương Đông Bạch lợi hại ghê gớm, lại thêm nội lực vô cùng hồn hậu, thanh kiếm cực kỳ sắc bén, ra chiêu thật là tinh diệu, ánh sáng xanh lập lòe, kiếm khí bao phủ, người trong điện tưởng như một khối tuyết đang di động trước mắt, tỏa ra một làn hơi lạnh thấu xương. Thanh kiếm gỗ của Vô Kỵ trong vòng hàn khí đó vạch thành vòng tròn, chiêu nào cũng thành vòng cung đâm ra, lại theo hình vòng cung thu về, trong lòng chàng không mảy may vương vấn, chỉ lấy ý mà vận dụng thanh kiếm, thanh kiếm gỗ tung ra chẳng khác nào một sợi tơ mỏng manh, quấn lấy thanh Ỷ Thiên kiếm. Thế nhưng sợi tơ ấy mỗi lúc một dày, tưởng chừng biến thành một khối bông, bao chặt lấy thanh bảo kiếm. Hai người đấu đến quá hai trăm chiêu, Phương Đông Bạch kiếm chiêu mỗi lúc một thêm trì trệ, thanh kiếm trong tay càng lúc càng nặng, từ năm cân, thành sáu cân, bảy cân. .. mười cân, hai chục cân. .. thỉnh thoảng vận kiếm tung ra không đủ kình lực, lại bị kiếm gỗ lôi đi mấy vòng.

Phương Đông Bạch càng đấu càng hoảng sợ, đến ba trăm chiêu mà hai lưỡi kiếm không đụng vào nhau, trong đời y chưa từng gặp phải bao giờ. Đối phương tưởng như tung ra một cái lưới lớn, thắt mình vào giữa. Phương Đông Bạch liên tiếp thay đổi đến sáu, bảy kiếm thuật khác nhau, tung hoành biến hóa, huyễn ảo vô cùng người chung quanh ai cũng phải hoa cả mắt. Còn Trương Vô Kỵ trước sau cũng chỉ vạch kiếm thành vòng tròn, người ngoài trừ Trương Tam Phong ra, không biết chàng ra chiêu đó là công hay thủ. Lộ Thái Cực Kiếm pháp này chỉ có đủ các loại vòng, cái to cái nhỏ, cái ngược, cái xuôi, cái thẳng, cái xéo, nếu nói là chiêu số, có thể nói chỉ có một chiêu, nhưng chiêu đó biến hóa khôn cùng.

Chỉ nghe Phương Đông Bạch hú lên một tiếng dài, râu tóc dựng đứng, kiệt tận toàn lực bình sinh nhằm thẳng trung cung đâm tới. Trương Vô Kỵ thấy thế đâm tới ác liệt thu kiếm về gạt, Phương Đông Bạch cổ tay hơi lắc, thanh kiếm Ỷ Thiên liền ngóc lên, nghe cạch một tiếng nhỏ, mũi kiếm gỗ đã gãy một khúc chừng sáu tấc. Thanh kiếm Ỷ Thiên không còn gì ngăn chặn đâm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ kinh hãi, kiếm quyết tay trái vung ra, hai ngón tay trỏ và giữa kẹp ngay vào thân thanh Ỷ Thiên kiếm, nửa thanh kiếm gỗ bên tay phải chém luôn xuống tay phải Phương Đông Bạch. Tuy chỉ là thanh kiếm gỗ, nhưng với Cửu Dương thần công vận vào cũng chẳng khác gì cương đao. Phương Đông Bạch vận lực vào cánh tay giật về, nhưng kiếm Ỷ Thiên đã bị đối phương kẹp chặt, như trong một chiếc kìm sắt không lay chuyển gì được. Trong tình cảnh đó, ngoại trừ buông kiếm nhảy vọt về sau, không còn cách nào khác.

Chỉ thấy Trương Vô Kỵ quát lên:

- Rút tay mau.

Phương Đông Bạch nghiến răng, không chịu buông, chỉ như một ánh chớp lóe lên, nghe chát một tiếng, một cánh tay của y đã bị thanh kiếm gỗ chặt đứt, không khác gì một thanh kiếm sắc bén. Phương Đông Bạch không chịu buông ra là đã có ý hi sinh cánh tay để bảo vệ binh khí, tay trái liền vươn ra chộp ngay không để thanh kiếm rơi xuống. Cánh tay đứt kia đã rời ra rồi, năm ngón tay vẫn khư khư giữ chặt thanh kiếm Ỷ Thiên. Trương Vô Kỵ thấy y dũng cảm như thế, bụng hơi ái ngại, lòng thấy ăn năn, không còn muốn tranh đoạt thanh kiếm của y nữa.

Phương Đông Bạch đi đến trước mặt Triệu Mẫn, khom lưng nói:

- Chủ nhân, tiểu nhân vô năng, cam chịu trách phạt.

Triệu Mẫn không nhìn đến y, lạnh lùng nói:

- Hôm nay ta nể mặt Trương giáo chủ của Minh giáo, tha cho phái Võ Đương.

Nàng phất tay một cái, ra lệnh:

- Thôi đi!

Các thủ hạ của nàng ẵm Phương Đông Bạch, gã hói đầu "A Nhị", "A Tam" đi ra khỏi điện. Trương Vô Kỵ kêu vói theo:

- Khoan đã, không để lại Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì đừng tính chuyện rời khỏi núi Võ Đương.

Chàng phóng mình tới, giơ tay ra chộp vào đầu vai Triệu Mẫn. Tay Trương Vô Kỵ còn cách người Triệu Mẫn chừng một thước, bỗng thấy có hai luồng chưởng phong vô thanh vô tức từ hai bên đánh tới, trước đó không có dấu hiệu gì, chàng giật mình kinh hãi, hai chưởng đẩy ra, tay phải đỡ chưởng đánh từ bên phải, tay trái đỡ chưởng đánh từ bên trái, bốn chưởng đụng nhau, chỉ thấy kình lực mạnh lạ thường, bên trong chưởng lực có một luồng hàn khí âm độc vô tỉ. Luồng hàn khí đó chàng thật là quen thuộc, chính là hơi lạnh làm chàng chết đi sống lại khi còn nhỏ, Huyền Minh thần chưởng.

Trương Vô Kỵ kinh hoảng, Cửu Dương thần công trong người lập tức nảy sinh, nhưng tiếp theo hai bên mạng sườn đã bị địch nhân đánh trúng mỗi bên một chưởng. Chàng chỉ kêu hự lên một tiếng, ngã ngửa về sau, thấy hai người tấn công mình là hai ông già cao gầy. Hai người ra hai chưởng bị Trương Vô Kỵ đỡ được, còn lại hai tay vô hình vô ảnh đánh luôn vào người chàng. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng giận dữ quát lên, tung mình xông tới. Hai lão kia lại múa chưởng đánh ra, bình bình hai tiếng, Dương Vi hai người lịch kịch lùi lại mấy bước, máu trong ngực trộn trạo, khí lạnh thấu xương. Hai lão già cũng lảo đảo. Người bên phải cười khẩy nói:

- Minh giáo tên tuổi là thế, hóa ra cũng chỉ có vậy.

Cả hai quay lại, hộ tống Triệu Mẫn ra đi.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Lấy ý của Hư Vân hòa thượng

[2] Lòng trống không, đỉnh đầu treo. Ngực thu vào, lưng ưỡn ra. Eo thả lỏng, mông trĩu xuống. Vai để chìm, khuỷu tay buông.

[3] Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ. Suất thổ chi tân, mạc phi vương thần.

[4] Một trong những vị vua khai sáng nước Tàu, cũng như Hùng Vương nước ta.

[5] Người đời Tống, tự Tống Thụy, hiệu Văn Sơn, đỗ tiến sĩ đời Lý Tông, làm quan tới chức An Vũ Sứ Giang Tây. Khi quân Nguyên đánh nước Tàu, ông vâng chiếu cần vương đem quân chống lại quân Mông Cổ. Sau được cử đi sứ nhà Nguyên, ông bị giặc bắt. Đời Đoan Tông ông được phong Tín Quốc Công, lại đem quân đánh với Nguyên binh nhưng thế yếu bị cầm tù rồi bị giết, trong ngục có làm bài Chính Khí Ca rất nổi danh.

[6] Đương nhân bất nhượng ư sư (Gặp việc nhân thì không nhường thầy mà mình phải làm trước)

[7]A Đại, A Nhị, A Tam là những cái tên này rất thông dụng giống như ta gọi anh Hai, anh Ba ở miền Nam nhưng không nhất thiết chỉ có một nghĩa mà tùy tuổi tác có thể tương đương với thằng, chú, bác, ông. .. Tuy nhiên phần lớn dùng để chỉ một người vai vế thấp kém hay kẻ ăn người ở trong nhà. Người dịch lúc đầu toan dịch là chú Hai, chú Ba, chú Tư cho có vẻ Việt Nam vì những người này tuổi đã lớn, dịch là thằng nghe không ổn. Tuy nhiên về sau giữ nguyên tiếng Hán để khỏi thêm khó khăn. Độc giả có ý kiến hay đề nghị gì xin cho biết. Đa tạ.

[8] nắm đuôi con chim sẻ

[9] ngựa hoang dựng bờm

[10] Trương Tam Phong là người thích hoạt kê, hay đùa rỡn

[11] Thần Kiếm có tám cánh tay

[12] thần đi trước kiếm, liên miên không dứt

Hồi 25

CỬ HỎA LIỆU THIÊN HÀ HOÀNG HOÀNG-

Bừng bừng lửa thánh cháy lên,

Làm trai quyết chí báo đền núi sông.

Muôn người trên dưới một lòng,

Xua quân Hồ Lỗ đại công cáo thành.

*

* *

Mọi người lo lắng Trương Vô Kỵ bị thương nên không đuổi theo, vội vàng xúm lại. Trương Vô Kỵ mỉm cười, xua tay, ý nói không sao cả, trong thân thể phát động Cửu Dương thần công, đẩy khí âm hàn của Huyền Minh thần chưởng ra ngoài. Trên đầu chàng như cái lồng hấp, những làn hơi trắng từng tia bay lên. Chàng cởi áo ngoài, hai bên mạng sườn có dấu hai bàn tay màu đen sậm. Cửu Dương thần công vận chuyển một hồi, hai bàn tay từ màu đen biến thành màu tía, từ màu tía biến thành màu tro, sau cùng biến mất không còn dấu vết gì nữa. Trước sau chỉ mất nửa giờ đồng hồ, khác hẳn trước kia mấy năm không khu trừ được âm độc của Huyền Minh thần chưởng, bây giờ khoảnh khắc là mất hẳn. Chàng đứng lên, nói:

- Lần này tuy hung hiểm thật, nhưng sau cùng chúng ta cũng biết được mặt mũi của kẻ đối đầu.

Khi Huyền Minh nhị lão đối chưởng với Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thì trước đó đã bị Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ xung kích rồi, âm độc trong chưởng lực chưa được hai thành lúc bình thường, thế mà Dương Vi hai người phải ngồi đả tọa vận khí, một hồi thật lâu mới đẩy được hết âm độc ra. Trương Vô Kỵ quan tâm đến thương thế của thái sư phụ nhưng Trương Tam Phong nói:

- Hỏa công đầu đà nội công chẳng đáng gì, ngoại công tuy cương mãnh thật nhưng so với Huyền Minh thần chưởng thì còn kém xa, thương thế của ta không có gì đáng ngại.

Vừa lúc đó chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ là Ngô Kình Thảo bước vào bẩm báo, tất cả địch nhân đến xâm phạm đã xuống núi rồi. Du Đại Nham liền sai tri khách đạo nhận dọn cỗ chay để mời quần hào Minh giáo. Trong bữa tiệc, Trương Vô Kỵ liền kể lại cho Trương Tam Phong và Du Đại Nham tất cả sự tình từ khi từ biệt tới bây giờ, ai nấy đều kinh hãi thở dài. Trương Tam Phong nói:

- Năm xưa cũng tại nơi điện Tam Thanh này, ta đã từng cùng một ông già trao đổi một chưởng, có điều là hồi đó y mặc giả làm quân Mông Cổ nên không biết là người nào trong hai người đó. Nói ra thật đáng hổ thẹn, cho đến hôm nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ kẻ đối đầu gốc gác thế nào.

Dương Tiêu nói:

- Không biết cô gái họ Triệu kia lai lịch thế nào mà sao cao thủ như loại Huyền Minh nhị lão cũng phải cam tâm để cho cô ta sai khiến.

Mọi người suy đoán đủ loại nhưng không biết rõ thế nào. Trương Vô Kỵ nói:

- Trước mắt có hai chuyện lớn phải làm. Việc thứ nhất là đi cướp Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để trị cho khỏi thương thế của Du tam sư bá và Ân lục sư thúc. Việc thứ hai là nghe ngóng tin tức nhóm Tống đại sư bá hiện nay ở đâu. Cả hai việc đó đều ở trong tay cô gái họ Triệu kia.

Du Đại Nham cười gượng nói:

- Ta tàn phế đã hai mươi năm, dù quả có tiên đan thần dược cũng trị không khỏi được đâu, lo việc cứu đại ca, lục đệ các anh em mới là cần.

Trương Vô Kỵ nói:

- Việc không thể trì hoãn, xin Dương tả sứ, Vi Bức Vương và Thuyết Bất Đắc đại sư ba vị đi cùng tôi xuống núi truy tìm tung tích địch nhân. Các chưởng kỳ phó sứ của Ngũ Hành Kỳ chia nhau ra đến các phái Nga Mi, Côn Lôn, Không Động và Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến liên lạc với các phái, nghe ngóng tin tức. Xin ông ngoại và cậu đi xuống Giang Nam chỉnh đốn lại giáo chúng Thiên Ưng Kỳ. Thiết Quan đạo trưởng, Chu tiên sinh, Bành đại sư cùng các chưởng kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ tạm thời ở lại núi Võ Đương, nghe lệnh thái sư phụ của tôi Trương chân nhân, ở giữa điều động hoạch định.

Chàng thuận miệng sắp đặt ngay trong bàn tiệc. Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu mọi người đều đứng dậy, khom lưng nhận lệnh. Trương Tam Phong lúc đầu còn ngờ rằng chàng trẻ quá, làm sao thống suất được quần hào, bây giờ thấy chàng phát hiệu ra lệnh, các đại hào kiệt trong võ lâm như Ân Thiên Chính, Dương Tiêu... đều nhất nhất tuân theo, trong lòng cực kỳ vui sướng nghĩ thầm: "Y học được Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm của ta chẳng qua chỉ do nội công có căn bản, ngộ tính cao, tuy cũng khó thật nhưng chưa phải thật là quí. Còn như y có thể quản thúc các đại ma đầu của Minh giáo, Thiên Ưng giáo đưa bọn họ đi lại con đường ngay thẳng, cái đó mới thực là một đại sự. Ôi, Thúy Sơn có người nối dõi rồi, Thúy Sơn có người nối dõi rồi". Nghĩ đến đây, ông không nhịn nổi vuốt râu mỉm cười.

Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu cả bọn ăn no rồi, lập tức từ biệt Trương Tam Phong xuống núi thám thính hành tung của Triệu Mẫn. Bọn Ân Thiên Chính tiễn đến ngoài núi mới quay lại. Dương Bất Hối lưu luyến không muốn rời xa phụ thân, đưa chân đến hơn một dặm. Dương Tiêu nói:

- Bất Hối, con về đi, cố gắng chăm sóc cho Ân lục thúc.

Dương Bất Hối đáp:

- Vâng.

Nàng đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, đột nhiên má đỏ bừng, nói nhỏ:

- Vô Kỵ ca ca, em muốn nói với anh đôi câu.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cả bọn ba người trong bụng cười thầm: "Hai người có tình thanh mai trúc mã[1], thể nào chẳng có vài lời muốn nói". Lập tức gia tăng cước bộ, chạy xa một đoạn.

Dương Bất Hối nói:

- Vô Kỵ ca ca, anh đến đây.

Nàng nắm tay Vô Kỵ, đến ngồi xuống một tảng đá lớn bên sườn núi. Trương Vô Kỵ trong lòng nghi hoặc tự hỏi: "Ta và cô nàng biết nhau từ nhỏ, giao tình không phải tầm thường. Vậy mà lần này xa nhau lâu ngày không gặp, sao cô ta lại đối với mình thật là lạnh nhạt chẳng thân mật tí nào, bây giờ lại muốn nói chuyện?".

Chỉ thấy Dương Bất Hối chưa mở miệng mặt đã đỏ bừng, cúi đầu lặng thinh. Một lúc lâu sau mới nói:

- Vô Kỵ ca ca, khi mẹ em mất có ủy thác cho anh lo lắng cho em, phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế!

Dương Bất Hối nói:

- Anh vạn dặm đường xa vời vợi, từ bờ sông Hoài đưa em đến Tây Vực giao tận tay cha em, đường đi bao nhiêu lần vào sinh ra tử, trăm cay nghìn đắng. Đại ân không thể đền đáp bằng lời, cái ơn nghĩa đó em chỉ để trong đáy lòng thôi, trước nay chưa nói với anh một lời nào.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cái đó có gì đáng nói đâu? Nếu như anh không đưa em đến Tây Vực, bản thân anh cũng không có những cơ duyên gặp gỡ, e rằng chất độc phát ra nay đã chết rồi.

Dương Bất Hối nói:

- Không, không đâu. Đại ca nhân hiệp rộng rãi, gặp việc gì rồi cũng phùng hung hóa cát. Vô Kỵ ca ca, em từ nhỏ không có mẹ, cha em tuy thân nhưng có nhiều điều em không thể nói với cha được. Đại ca là giáo chủ của bản giáo thật nhưng trong lòng em, em chỉ nghĩ anh như một người anh ruột thôi. Hôm đó trên Quang Minh Đính thấy anh lành lặn trở về, lòng em mừng không sao nói ra được, chỉ có điều em không tiện nói với anh, anh có giận em không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không đâu, đương nhiên là không giận.

Dương Bất Hối nói tiếp:

- Em đối với Tiểu Siêu thực hung ác, thực tàn nhẫn, chắc anh không vừa ý. Chỉ vì mẹ em chết thật thê thảm, đối với ác nhân, từ đó em lòng dạ thật cứng rắn. Về sau thấy Tiểu Siêu đối với anh thật tốt, em không còn ghét nó nữa.

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Con tiểu a đầu Tiểu Siêu quả thực có nhiều điều kỳ lạ, có điều anh thấy nó không phải là người xấu đâu.

Lúc này mặt trời đã ngả về phương Tây, gió thu mơn man thật mát mẻ. Dương Bất Hối vẻ mặt nhu tình vô hạn, sóng mắt long lanh, nói nhỏ:

- Vô Kỵ ca ca, anh nghĩ cha em và mẹ em có không nên không phải với Ân... lục thúc không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chuyện cũ rồi, mình không nên nhắc tới nữa.

Dương Bất Hối nói:

- Không đâu, đối với người ngoài thì chuyện đó đã quá lâu rồi, đến em nay cũng đã mười bảy tuổi rồi (?)[2]. Thế nhưng dù thế nào Ân lục thúc vẫn không quên được mẹ em. Bây giờ ông ta lại bị thương nặng, ngày đêm hôn mê, vẫn thường cầm tay em, không ngớt gọi: "Hiểu Phù, Hiểu Phù". Ông ấy còn nói: "Hiểu Phù, em đừng bỏ anh. Chân tay anh gãy cả rồi, đã thành phế nhân, anh van em, đừng bỏ anh nhé, đừng làm ngơ không ngó ngàng gì đến anh".

Nàng nói đến đây, nước mắt rưng rưng thật là khích động. Trương Vô Kỵ nói:

- Đó chẳng qua là lục thúc nói ra khi thần trí nửa mê nửa tỉnh, không có gì làm chắc chắn đâu.

Dương Bất Hối nói:

- Chẳng phải đâu. Anh không rõ nhưng em biết rõ. Khi ông ấy tỉnh táo rồi, mỗi lần nhìn em, ánh mắt và thần khí cũng vẫn như thế, có ý cầu khẩn em đừng bỏ ông ta, nhưng không dám nói ra lời đấy thôi.

Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, chàng biết rằng vị sư thúc này võ công tuy cao, tính tình lại thật yếu đuối. Hồi nhỏ chàng vẫn thường thấy chỉ một chuyện hết sức nhỏ nhặt cũng làm ông ta khóc một hồi, cái chết của Kỷ Hiểu Phù đối với ông thật là một biến cố lớn, bây giờ tứ chi lại gãy nát, dĩ nhiên ông ta tâm thần kinh hoảng bất an. Chàng bèn nói:

- Ngu huynh sẽ kiệt tận toàn lực tìm cách đoạt cho bằng được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để trị cho Tam sư bá và Lục sư thúc.

Dương Bất Hối nói:

- Mỗi lần Ân lục thúc nhìn em như thế, nghĩ lại em càng thấy cha em và mẹ em không phải, càng thấy ông ta đáng thương hơn. Vô Kỵ ca ca, em đã chính miệng bằng lòng với Ân... Ân lục thúc, chân tay ông ấy khỏi cũng thế, cả đời tàn phế cũng thế, em nguyện sẽ ở bên cạnh ông ấy mãi mãi, vĩnh viễn không rời xa ông ta.

Nàng nói đến đây, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, thế nhưng thần thái vừa phấn khởi hớn hở, lại vừa thẹn thùng. Trương Vô Kỵ kinh hãi, không ngờ rằng nàng lại cả gan cùng Ân Lê Đình phó thác cuộc đời, nhất thời không biết phải phản ứng ra sao, chỉ ấp úng:

- Em... em...

Dương Bất Hối nói:

- Em đã nói chắc chắn như chém đinh chặt sắt là đã nhất định theo ông ta. Dù cho cả đời ông không cử động được thì em cũng sẽ hầu hạ bên giường, lo liệu việc ăn uống, nói chuyện vui cho ông ấy giải sầu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế nhưng cô...

Dương Bất Hối cướp lời:

- Chẳng phải vì em nhất thời khích động mà hứa thế với ông ấy đâu. Trên đường đi em đã suy nghĩ thật nhiều thật kỹ. Không những ông ấy không bỏ em được mà em cũng không bỏ ông ấy được. Nếu như ông ấy bị thương nặng không chữa nổi thì em cũng không sống được đâu. Mỗi khi em ở gần ông ấy, ông ấy say đắm nhìn em, em thấy sung sướng vô cùng. Vô Kỵ ca ca, khi còn bé chuyện gì em cũng kể cho anh nghe, em muốn ăn bánh nướng, cũng nói cho anh hay, trên đường đi muốn ăn kẹo cũng nói với anh. Khi đó mình làm gì có tiền để mua, nửa đêm anh vào lấy cắp của họ ra cho em, anh có còn nhớ không?

Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm xưa khi chàng cầm tay cô ta dẫn đi tìm cha, hai anh em sống chết có nhau không khỏi chạnh lòng, hạ giọng nói:

- Anh nhớ chứ.

Dương Bất Hối cầm bàn tay chàng nói:

- Anh đưa cho em cái kẹo, em không nỡ ăn, cầm trong tay đi đường, ánh nắng chiếu vào kẹo chảy ra, em tiếc quá khóc mãi không thôi. Anh bảo để anh tìm cho em cái khác nhưng tiếc thay về sau đâu có tìm thấy loại kẹo đó nữa. Về sau anh mua cho em những cái kẹo vừa to vừa ngon, em không thích lại khóc nữa khiến anh bực mình quá mắng em là không biết nghe lời, có đúng không?

Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

- Anh mắng em anh đâu có nhớ.

Dương Bất Hối nói:

- Tính tình em cố chấp lắm, Ân lục thúc là chiếc kẹo đầu tiên em thích, em sẽ không thích cái kẹo nào thứ hai. Vô Kỵ ca ca, có khi em nghĩ thật là trẻ con, anh tốt với em như thế, mấy lần cứu em thoát chết, đúng ra em... em phải suốt đời hầu hạ anh mới phải. Thế nhưng em coi anh chẳng khác gì anh ruột, trong lòng em thương anh kính anh, thế nhưng đối với ông ta em thấy thương hại không để đâu cho xiết, mến ông ta không nói ra được. Ông ấy tuổi còn hơn gấp đôi em, lại là trưởng bối của em, người ta thể nào cũng cười em, cha em lại là kẻ thù không đội trời chung, em... em biết là không ổn... nhưng dù thế nào chăng nữa, em cũng sẽ nói với anh.

Nàng nói đến đây, không dám nhìn vào mặt Trương Vô Kỵ nữa, lập tức đứng dậy, chạy mất.

Trương Vô Kỵ nhìn lưng nàng khuất sau một sườn núi, trong lòng hoang mang, không biết tính sao, đứng ngơ ngẩn hồi lâu, rồi chạy đuổi theo ba người Vi Nhất Tiếu. Thuyết Bất Đắc và Vi Nhất Tiếu thấy khóe mắt chàng dường như có ngấn lệ, liếc Dương Tiêu mủm mỉm cười, ý như muốn nói: "Chúc mừng ngươi nhé, chẳng bao lâu nữa Dương tả sứ sẽ thành bố vợ của giáo chủ".

Bốn người xuống khỏi núi Võ Đương. Dương Tiêu nói:

- Cô nương họ Triệu đó tiền hô hậu ủng, không phải chỉ đi một mình, muốn tìm tung tích nàng ta không có gì là khó. Chúng ta chia nhau ra bốn hướng đông tây nam bắc tra tìm, hẹn ngày mai đúng ngọ gặp nhau tại Cốc Thành. Tôn ý của giáo chủ ra sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hay lắm, cứ như thế, để tôi đi về phương tây.

Cốc Thành nằm ở phía đông núi Võ Đương, chàng đi về hướng tây tra xét, có nghĩa là phải đi xa hơn những người kia một khúc đường. Chàng dặn tiếp:

- Võ công của Huyền Minh nhị lão rất là ghê gớm, ba vị nếu có gặp họ, nếu tránh được thì tránh, đừng một mình động thủ với họ làm gì.

Ba người vâng lệnh, lập tức hành lễ từ biệt, chia ra ba hướng đông nam bắc mà đi.

Về phía tây toàn là đường núi, Trương Vô Kỵ thi triển khinh công chạy thật nhanh, chỉ hơn một giờ đã đến Thập Yển Trấn. Chàng ghé vào thị trấn kiếm một quán ăn gọi một tô mì, hỏi tiểu nhị hỏi xem có thấy một chiếc kiệu bọc gấm đoạn vàng đi qua không. Gã tiểu nhị đáp:

- Có chứ. Còn thêm ba người bệnh nặng, nằm trong võng khiêng theo nữa, đi về hướng Hoàng Long Trấn, mới chưa đến một giờ.

Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm bọn người này không thể đi nhanh, để khỏi tiết lộ hành tung của mình đến trời tối đuổi theo cũng không muộn. Chàng bèn tìm một nơi vắng lặng, nằm ngủ một giấc, đợi đến canh một mới thẳng hướng Hoàng Long Trấn mà đi.

Lúc đến trấn trời chưa tới canh hai, chàng náu mình dưới góc tường, thấy đường xa hoàn toàn yên tĩnh không một bóng người, nhưng ở một khách điếm lớn vẫn còn đèn đuốc sáng chưng. Chàng tung mình nhảy lên mái nhà, nhẩy vài cái, đã đến mái nhà bên cạnh khách điếm, nhìn quanh thấy ở bên ngoài đồng trống nơi bờ sông có một cái lều vải lớn, đằng trước đằng sau có người qua lại, canh gác thật nghiêm mật, nghĩ thầm: "Không lẽ Triệu cô nương lại ở nơi cái lều kia? Hình dáng nói năng cô ta chẳng khác gì người Hán, nhưng hành sự ngang tàng sảng khoái, có vài phần phong thái người Mông Cổ". Khi đó người Nguyên cai trị Trung Hoa đã lâu, không hiếm những người Hán khá giả cố học cách của người Mông Cổ cho là vinh dự nên cũng không có gì là lạ.

Vô Kỵ đang tính toán làm sao đến gần cái lều đó được, bỗng nghe từ một cửa sổ nơi khách điếm vọng ra mấy tiếng rên. Chàng chợt động tâm vội nhảy xuống rón rén men đến cửa sổ, nhìn vào trong. Trong nhà có ba người nằm trên ba chiếc giường, trong đó hai người nhìn không rõ mặt. Người nằm gần cửa sổ hai tay hai chân đều quấn vải trắng chính là "A Tam", y xuýt xoa nho nhỏ xem chừng vết thương cực kỳ đau đớn. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Chân tay y bị ta đánh gãy, thể nào cũng dùng linh dược bản môn là Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để chữa trị. Lúc này nếu không cướp lấy thì còn lúc nào?". Chàng lên đẩy tung cửa sổ, tung mình nhảy vào, một người đứng trong phòng kinh hãi kêu lên, vung chưởng đánh ra. Trương Vô Kỵ giơ tay chộp đầu quyền của y, tay phải điểm luôn vào huyện tê, quay lại nhìn thấy hai người nằm kia chính là gã đầu hói "A Nhị" và Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch. Còn người bị chàng điểm huyệt mặc trường bào vải xanh, tay còn cầm hai cái kim chắc là đang châm cứu cho ba người đỡ đau. Trên bàn để một cái bình màu đen, cạnh bình có mấy khối ngải cứu.

Trương Vô Kỵ cầm cái bình lên, mở nút ra ngửi, thấy một mùi cay nồng, cực kỳ hăng xông vào mũi. "A Tam" kêu lên:

- Có người đến cướp thuốc...

Trương Vô Kỵ ngón tay nhanh như gió điểm luôn á huyệt của cả ba người, mở băng của "A Tam" ra coi, quả nhiên tay chân y đều một màu đen, phủ một lớp cao mỏng. Chàng e ngại Triệu Mẫn ngụy kế đa đoan, cố ý để thuốc giả trong bình, để dụ cho mình tới nên vét tất cả thuốc cao trên người "A Tam" lẫn gã đầu hói "A Nhị" vào băng vải, thì dù thuốc trong bình có thể giả nhưng thuốc từ ngay vết thương của họ hẳn không thể nào giả được. Người canh gác bên ngoài nghe tiếng, đạp cửa xông vào. Trương Vô Kỵ không thèm nhìn đến họ, giơ chân đá mỗi người một cái văng cả ra ngoài. Chỉ trong giây lát, người trong khách điếm kêu la om xòm, náo loạn cả lên.

Trương Vô Kỵ liên tiếp đá sáu người mới vét được một nửa số thuốc cao trét trên người "A Tam" và lão hói đầu "A Nhị", nghĩ thầm nếu mình dây dưa thêm, để cho Huyền Minh nhị lão xông ra thì thật là khó khăn, nên bỏ ngay cái bình thuốc và cuốn băng vào túi, nhắc gã thầy thuốc lên ném luôn ra ngoài cửa sổ.

Không ngoài dự liệu của chàng, chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, gã thầy thuốc kia đã bị đánh trúng một chưởng lăn quay ra đất, ngoài cửa sổ quả có cao thủ mai phục tập kích. Trương Vô Kỵ lợi dụng ngay giây phút đó, phi thân ra ngoài, trong bóng đêm ánh sáng lấp loáng, hai món binh khí đã đâm tới. Chàng tay trái kéo, tay phải đẩy, thi triển Càn Khôn Đại Na Di, kiếm bên trái liền đâm trúng người bên phải còn ngọn giáo bên phải đâm ngay vào người bên trái, đang lộn xộn thì chàng đã chạy xa rồi.

Chàng trên đường về cảm thấy vui vẻ, tuy chuyến đi chưa tìm ra được chân tướng Triệu Mẫn nhưng lấy được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì dù gì vẫn hơn. Chàng lập tức chạy về núi Võ Đương, nhờ Hồng Thủy Kỳ cho người đến Cốc Thành, báo cho bọn Dương Tiêu quay trở lại. Trương Tam Phong và những người khác nghe tin đã lấy được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao đều hết sức vui mừng.

Trương Vô Kỵ xem xét kỹ thuốc cao bôi trên người "A Tam" rồi so sánh với thuốc cao trong bình, quả đúng là cùng một thứ. Cái bình đó là một khối ngọc lớn tạc thành, đen nhánh như sơn, cầm trên tay thấy âm ấm trông có vẻ cổ kính. Riêng cái bình đó không thôi cũng là một bảo vật quí giá rồi. Chàng không còn hoài nghi gì nữa, sai người khiêng Ân Lê Đình và Du Đại Nham vào phòng riêng, để hai chiếc giường song song.

Dương Bất Hối đi theo vào, nàng không dám nhìn thẳng vào mặt Vô Kỵ nhưng trên mặt đầy vẻ rạng rỡ, trong lòng cực kỳ cảm kích, đủ thấy Trương Vô Kỵ đưa nàng sang Tây Vực, uống thay nàng ly rượu độc ở nhà Hà Thái Xung, bao nhiêu ân tình đó cũng không bằng được việc chàng trị bệnh cho Ân Lê Đình.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tam sư bá, các vết thương cũ của sư bá nay đã lành rồi, muốn chữa bệnh thì điệt nhi phải đánh gãy các khớp xương rồi nối lại, chỉ mong sư bá cố chịu cái đau nhất thời này.

Du Đại Nham chẳng tin là mình đã tàn phế hai mươi năm nay lại có thể chữa lành, nhưng cùng lắm có không khỏi thì cũng đến như bây giờ thôi, trong hai mươi năm qua ông chẳng còn coi chuyện gì vào đâu nữa nên nghĩ thầm: "Vô Kỵ tận tâm kiệt lực, muốn đền đáp cái lỗi lầm của cha mẹ, không làm thì suốt đời không yên tâm. Cái đau nhất thời của ta, nào có đáng gì?".

Ông không nói thêm, chỉ mỉm cười đáp:

- Cháu cứ tùy ý mà làm, không sao.

Trương Vô Kỵ bảo Dương Bất Hối ra ngoài, cởi hết y phục Du Đại Nham ra, lấy tay mò các chỗ xương gãy cho thật kỹ càng, sau đó điểm huyệt cho ông mê đi, vận kình lên mười ngón tay, nghe cắc cắc cắc liên thanh bất tuyệt, đánh gãy lại các chỗ xương cũ nay đã liền. Du Đại Nham tuy huyệt đạo bị điểm nhưng đau đến nỗi tỉnh lại. Trương Vô Kỵ thủ pháp nhanh như gió, xương lớn xương nhỏ gì cũng đánh gãy hết, sau đó nối lại tất cả các bộ vị, bôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao lên rồi bó lại, ghép thêm giá gỗ bên ngoài, sau đó mới châm kim cho bớt đau.

Chữa cho Ân Lê Đình thì dễ dàng hơn nhiều, các xương gãy khi còn ở Tây Vực chàng đã nắn lại cho thẳng cả, lúc này chỉ cần bôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao là đủ. Xong xuôi, chàng sai chính phó kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ luân phiên canh gác, đề phòng địch nhân kéo đến quấy nhiễu.

Quá trưa hôm đó, ăn cơm xong, Trương Vô Kỵ nằm trong vân phòng ngủ một lát lấy lại sức cho đêm qua chạy đôn chạy đáo, đang mơ màng nghe tiếng người đi tới trước cửa, liền tỉnh ngay dậy. Tiểu Siêu ở bên ngoài canh hỏi nhỏ:

- Chuyện gì thế? Giáo chủ đang ngủ.

Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên nói nhỏ:

- Ân lục hiệp đau đến bất tỉnh ba lần, không biết giáo chủ...

Trương Vô Kỵ không đợi y nói hết câu, nhỏm dậy chạy ra, rảo bước đến phòng Du Đại Nham, thấy Ân Lê Đình hai mắt trợn ngược, đã bất tỉnh rồi. Dương Bất Hối hoảng đến hai mắt đẫm lệ, không biết phải làm sao. Nằm bên cạnh Du Đại Nham nghiến răng kêu ken két, hiển nhiên đang cố nhịn đau, chỉ vì tính ông kiên cường, không để lọt ra tiếng rên rỉ nào.

Trương Vô Kỵ thấy tình hình đó, cực kỳ lạ lùng, tại các huyệt Thừa Khấp, Thái Dương, Đàn Trung... của Ân Lê Đình nắn bóp mấy cái, cứu ông ta tỉnh lại, quay sang hỏi Du Đại Nham:

- Tam sư bá, các chỗ xương gãy đau lắm sao?

Du Đại Nham đáp:

- Chỗ xương gãy đau thì đã đành, có điều lục phủ ngũ tạng ngứa ngáy chịu không nổi... tưởng như, tưởng như có muôn ngàn con côn trùng đang đục khoét.

Trương Vô Kỵ kinh hãi không đâu cho hết, nghe Du Đại Nham nói, rõ ràng là trúng chất kịch độc, vội hỏi Ân Lê Đình:

- Lục thúc, chú thấy sao?

Ân Lê Đình nửa mê nửa tỉnh đáp:

- Đỏ có, tím có, xanh có, lục có, vàng có, trắng có, lam có... đẹp ơi là đẹp, biết bao nhiêu là bong bóng bay vòng vòng, chạy qua chạy lại... thật là dễ ưa... ngươi xem... ngươi xem...

Trương Vô Kỵ "Ối chà" một tiếng, tưởng như muốn ngất ngay tại chỗ. Chàng nghĩ ngay đến trong Độc Kinh của Vương Nạn Cô có chép:

Thất trùng thất hoa cao, dùng bảy loại độc trùng, bảy loại độc hoa, đem trộn lẫn nấu với nhau mà làm thành, người trùng độc trước thấy nội tạng ngứa ngáy như bảy loại trùng đang cắn xé, sau đó trước mắt thấy hiện lên bảy màu, đẹp đẽ huyễn ảo, như bảy loại hoa bay chập chờn. Thất trùng thất hoa cao dùng bảy loại trùng, bảy loại hoa tùy theo mỗi người một khác, nam bắc cũng chẳng giống nhau. Tối linh nghiệm thần hiệu có bốn mươi chín cách phối chế khác nhau, biến hóa ra sáu mươi ba phương thuốc. Chỉ có người chế thuốc giải được thôi.

Mồ hôi trán Trương Vô Kỵ vã ra như tắm, không ngờ lại trúng kế Triệu Mẫn. Nàng ta cố ý để thất trùng thất hoa cao trong bình ngọc đen, lại bôi thứ thuốc kịch độc đó lên người "A Tam" và "A Nhị", không coi tính mệnh của hai cao thủ đó vào đâu cốt sao dụ được mình vào tròng, tâm địa độc ác đến thế, không ai có thể tưởng tượng nổi.

Chàng hối hận quá, vội vàng hành động thật nhanh, cởi hết các giá gỗ buộc trên hai người, dùng rượu trắng rửa sạch chất cao độc. Dương Bất Hối thấy chàng mặt mày nghiêm trọng, biết rằng việc chẳng lành, nên cũng không còn hiềm kỵ gì nữa, giúp chàng dùng rượu rửa sạch tứ chi Ân Lê Đình. Thế nhưng màu đen đã thấm vào da thịt, rửa không ra, chẳng khác nào thợ sơn dính sơn vào tay, không dễ gì một ngày một buổi mà sạch được.

Trương Vô Kỵ không dám dùng thuốc một cách khinh suất, chỉ lấy các loại trấn thống an thần cho hai người uống. Chàng đi ra phòng ngoài, vừa hốt hoảng, vừa xấu hổ, không còn bụng dạ nào nữa hai đầu gối mềm nhũn ra, nằm phục xuống đất khóc òa lên. Dương Bất Hối kinh hãi, chỉ biết kêu lên:

- Vô Kỵ ca ca, Vô Kỵ ca ca.

Trương Vô Kỵ nức nở:

- Chính tay ta giết Tam sư bá và Lục sư thúc rồi.

Chàng trong bụng thầm tính toán: " Loại thất trùng thất hoa cao này có hàng trăm cách phối chế khác nhau, ai biết cô ta dùng bảy loại hoa nào, bảy loại trùng nào? Muốn hóa giải chất kịch độc toàn do phương pháp dĩ độc công độc, chỉ cần sai một loại độc trùng độc hoa, dùng thuốc lỡ tay, lập tức tam sư bá và lục sư thúc chết ngay".

Trong giây phút đó, chàng hiểu ngay vì sao cha mình lại tự vẫn, cái sai lầm to lớn không cứu vãn được, ngoài việc lấy cái chết để tạ tội ra, thật chẳng còn cách nào khác. Chàng uể oải đứng lên, Dương Bất Hối liền hỏi:

- Quả không có thứ thuốc nào chữa được ư? Ngay cả miễn cưỡng làm thử cũng không được à?

Trương Vô Kỵ chỉ biết lắc đầu. Dương Bất Hối thở dài:

- Thôi được.

Thần sắc nàng thản nhiên, không còn vẻ gì kinh hoảng nữa. Trương Vô Kỵ trong lòng nhói lên, nhớ đến hôm trước nàng có nói: "Nếu như ông ấy không sống được, thì em cũng chẳng thiết sống nữa" nghĩ thầm: "Lần này ta đâu phải chỉ làm chết hai người, hai mà thành ba". Trong lòng chàng còn đang nặng như chì, bỗng thấy Ngô Kình Thảo đến trước cửa bẩm:

- Giáo chủ, cô nương họ Triệu kia đang ở ngoài đạo quan xin được gặp.

Trương Vô Kỵ vừa nghe thế, bi phẫn không sao kìm được, kêu lên:

- Ta đang muốn đi kiếm cô nàng đây.

Chàng rút nganh thanh trường kiếm Dương Bất Hối đeo ở ngang hông rảo bước đi ra. Tiểu Siêu lấy chiếc hoa ngọc trai trên đầu đưa cho Trương Vô Kỵ:

- Công tử, công tử đem trả lại cho Triệu cô nương.

Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn nàng, nghĩ thầm: "Cô này thật là có ý tứ. Ta và cô nương họ Triệu kia thù sâu như bể, ta chẳng nên giữ của nàng ta cái gì". Chàng một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa, đi ra ngoài cửa đạo quan.

Chỉ thấy Triệu Mẫn một mình đứng đó, vẻ mặt tươi cười. Khi đó mặt trời buổi chiều đỏ rực như máu, chiếu xiên xiên lên mặt nàng, trông xinh đẹp không gì sánh kịp. Huyền Minh nhị lão đứng ở sau lưng nàng cách chừng hơn mười trượng. Hai người cầm ba con ngựa, mắt nhìn đi đâu đâu.

Trương Vô Kỵ chuyển mình một cái đã đến ngay trước mặt Triệu Mẫn, tay trái thò ra nắm được ngay hai cổ tay nàng, tay phải để mũi kiếm vào ngực, quát lên:

- Mau đem giải dược ra cho ta.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Anh đã hiếp đáp tôi một lần, lần này lại định bức bách nữa hay sao? Tôi lên đây là để hỏi thăm anh, vậy mà mặt mày hầm hầm, sao gọi là đạo đãi khách được?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi cần giải dược, nếu cô không đưa ra, tôi... tôi không muốn sống nữa, cô cũng chết theo.

Triệu Mẫn mặt hơi đỏ lên, xì một tiếng nói nhỏ:

- Hứ, nói chẳng đâu vào đâu. Anh chết kệ anh, có liên quan gì đến tôi, tại sao lại phải bắt tôi chết theo là sao?

Trương Vô Kỵ sẵng giọng:

- Ai hơi đâu mà nói đùa với cô? Cô không cho giải dược thì hôm nay là ngày cả tôi lẫn cô đều chết hết.

Hai tay Triệu Mẫn bị chàng nắm chặt, chỉ thấy người Trương Vô Kỵ run bần bật, khích động không để đâu cho hết, lại thấy trong lòng bàn tay chàng có vật gì cưng cứng, bèn hỏi:

- Trong tay anh cầm cái gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đó là châu hoa của cô, trả lại cô đó.

Chàng buông tay, cầm đóa hoa cắm lại trên đầu nàng, rồi lại vòng xuống chộp ngay lấy hai cổ tay, vừa buông vừa nắm, thủ pháp nhanh như ánh chớp. Triệu Mẫn nói:

- Cái đó tôi tặng cho anh, sao anh lại không lấy?

Trương Vô Kỵ hậm hực đáp:

- Cô làm tôi khổ đến thế, tôi không lấy gì của cô nữa đâu.

Triệu Mẫn nói:

- Có thật anh không lấy gì của tôi không? Nói thật hay đùa đấy? Thế sao vừa mở miệng anh đã đòi tôi đưa anh thuốc giải là sao?

Trương Vô Kỵ mỗi lần tranh cãi với nàng đều bị lép vế, lúc này cũng ngắc ngứ, nghĩ đến Du Đại Nham, Ân Lê Đình không còn sống được bao lâu, lòng đau như cắt, hai hàng nước mắt rưng rưng tưởng như muốn trào ra. Chàng đã toan mở miệng khẩn cầu, nhưng nghĩ lại Triệu Mẫn ác độc như thế nên chẳng muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt nàng.

Lúc này bọn Dương Tiêu đã nghe tin, kéo nhau ra cửa, thấy Triệu Mẫn đã bị Trương Vô Kỵ bắt giữ, Huyền Minh nhị lão lại đứng tận đằng xa, tưởng như không quan tâm đến, hoặc giả ỷ y chẳng sợ hãi gì. Mọi người liền đứng sang một bên, bình tĩnh đứng xem.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Anh là giáo chủ Minh giáo, võ công chấn động thiên hạ, vậy mà mới gặp khó khăn một chút, đã khóc hu hu như trẻ con. Anh vừa mới khóc, có phải không nào? Rõ thật không biết xấu hổ. Để tôi nói đây, anh bị trúng hai chưởng của Huyền Minh nhị lão, tôi đến thăm anh thương thế ra sao. Ngờ đâu vừa mới gặp mặt anh đã xí xa xí xô gì sống sống, chết chết là sao? Anh có bỏ tay ra không thì bảo?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, dù nàng có muốn chạy trốn cũng không thể nào kịp, chỉ cần chân cô ta vừa động mình sẽ bắt lại ngay nên buông tay Triệu Mẫn ra. Triệu Mẫn giơ tay nắn lại bông hoa trên mái tóc, mỉm cười:

- Sao xem như anh không bị thương chút nào cả?

Trương Vô Kỵ lạnh lùng đáp:

- Chỉ bằng Huyền Minh thần chưởng dễ gì đả thương được người ta.

Triệu Mẫn nói:

- Thế còn Đại Lực Kim Cương Chỉ? Thất trùng thất hoa cao?

Hai câu đó chẳng khác nào hai cái búa giáng vào ngực Trương Vô Kỵ, chàng hậm hực đáp:

- Quả nhiên đúng là thất trùng thất hoa cao.

Triệu Mẫn nghiêm mặt nói:

- Trương giáo chủ, công tử muốn lấy Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao tôi cũng đưa. Giáo chủ muốn lấy giải dược của thất trùng thất hoa cao tôi cũng tặng. Chỉ cần công tử bằng lòng làm cho tôi ba chuyện, tôi sẽ lập tức bưng hai tay dâng lên. Còn nếu anh lấy sức uy hiếp tôi, giết tôi thì dễ, còn muốn thuốc giải đã khó càng khó thêm. Anh lại giở ác hình tra khảo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh thuốc giả, thuốc độc.

Trương Vô Kỵ mừng quá, nước mắt đang chực trào ra, mặt lập tức tươi rói, vội vàng nói:

- Ba chuyện gì? Nói ngay, nói ngay.

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Mới khóc lại cười, thật không biết xấu. Tôi đã nói với anh rồi, tôi chưa nghĩ ra, bao giờ tôi nghĩ ra được lúc đó sẽ nói với anh, chỉ cần anh kim khẩu một lời, quyết không vi ước là xong. Tôi không bắt anh đi hái mặt trăng trên trời, cũng chẳng đòi anh làm chuyện ác vi phạm đạo hiệp nghĩa, cũng chẳng bảo anh tự tử, dĩ nhiên cũng chẳng bảo anh làm heo làm chó.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Chỉ cần không vi phạm đạo hiệp nghĩa, thì dù có khó khăn đến mực nào, ta cũng kiệt lực mà làm cho được". Chàng bèn khẳng khái đáp:

- - Triệu cô nương, nếu được cô nương huệ tứ linh dược để tại hạ trị khỏi cho tam sư bá và lục sư thúc, dù cho cô nương sai bảo điều gì, dẫu phải dầu sôi lửa bỏng Trương Vô Kỵ này cũng nguyện mặc tình sai khiến quyết không từ nan.

Triệu Mẫn giơ bàn tay ra nói:

- Hay lắm, vậy mình đập tay ăn thề. Tôi sẽ đưa giải dược cho công tử để trị cho tam sư bá và lục sư thúc, sau này tôi đòi công tử làm cho ta ba chuyện, chỉ cần không vi phạm đạo hiệp nghĩa, công tử phải hết sức làm, không được từ chối đấy nhé.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Xin quyết tuân theo lời vàng ngọc của cô nương.

Hai người nhè nhẹ đập tay ba lần. Triệu Mẫn lấy chiếc hoa trên mái tóc nói:

- Thế bây giờ anh đã chịu lấy đồ của tôi tặng cho chưa?

Trương Vô Kỵ sợ nàng không đưa giải dược, không dám trái ý, vội cầm lấy bông châu hoa. Triệu Mẫn nói:

- Nhưng tôi không muốn anh đem cho con a hoàn đâu nhé.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vâng.

Triệu Mẫn mỉm cười lui lại ba bước, nói:

- Giải dược sẽ đem đến ngay, xin từ biệt Trương giáo chủ.

Nàng phất tay áo, quay mình đi. Huyền Minh nhị lão liền dắt ngựa lại, đỡ nàng lên yên đi trước. Tiếng chân ba con ngựa lộp cộp lộp cộp, thủng thẳng xuống núi.

Bọn Triệu Mẫn ba người vừa khuất sau một triền núi, bên tàn cây lớn phía trái liền nhô ra một người, chính là Tiền Nhị Bại trong thần tiễn bát hùng. Y tay cầm thiết cung, giương tên lớn tiếng nói:

- Chủ nhân chúng tôi trình lên Trương giáo chủ một phong thư, kính xin nhận lấy.

Nói xong nghe soẹt một tiếng đã bắn mũi tên ra. Trương Vô Kỵ khua tay một cái, chộp ngay được mũi tên, thấy mũi không có đầu sắt, đuôi buộc một phong thư. Trương Vô Kỵ cởi ra xem thấy trên phong bì đề: "Trương giáo chủ thân khải". Chàng mở thư thấy có một bức hoa tiên, trên viết mấy dòng theo lối tiểu khải như sau:

Hộp vàng ấy hai tầng vốn sẵn,

Linh cao kia nằm ẩn bên trong.

Châu hoa ở giữa trống không,

Dược phương dấu đó để phòng cần đưa.

Hai món sớm tặng người quân tử,

Sao lại còn đôn đáo làm chi?

Vật hèn tuy chẳng đáng gì,

Đem lòng rẻ rúng coi như đất bùn.

Dẫu sao cũng từ tay tiện thiếp,

Nỡ lòng nào chàng lại coi khinh?

Tặng cho người ở kẻ ăn,

Hóa ra phụ tấm chân tình này sao?[3]

Trương Vô Kỵ đọc kỹ ba lần tờ thư, vừa mừng vừa sợ, lại thêm sượng sùng, vội lấy đóa châu hoa ra coi, vặn thử quả nhiên một viên ngọc trai có thể chuyển động, chàng liền tháo ra thấy cán hoa rỗng không trong có chứa một vật gì trăng trắng. Trương Vô Kỵ lấy trong bọc ra một chiếc kim vẫn dùng để châm huyệt đạo, khều vật đó ra, quả nhiên là một tờ giấy mỏng dính, trên đó ghi rõ bảy loại độc trùng nào và bảy loại hoa nào, người trúng độc giải cứu ra sao, từng loại từng loại thật minh bạch.

Thực ra chàng chỉ cần biết được các tên của bảy loại hoa, bảy loại trùng kia là biết cách chữa, không cần phải ai chỉ điểm. Chàng xem giải pháp hoàn toàn không có gì sai sẩy, biết Triệu Mẫn không có ý phá mình nữa, thực là mừng rỡ, chạy ngay vào nội viện, theo đúng đó mà phối chế thuốc men cứu chữa. Quả nhiên chỉ hơn một giờ sau, độc thế của Du Ân hai người nhẹ hẳn, trong người không còn ngứa ngáy nữa, mắt cũng không còn bị hoa.

Chàng lại lấy cái hộp vàng dùng để đựng bông hoa hạt châu của Triệu Mẫn tặng ra xem kỹ, sau cùng mở được hai tầng giáp nhau ra, bên trong quả đựng đầy thuốc cao đen nhánh, mùi thật thơm tho, mát dịu.

Lần này chàng không dám bộp chộp, bắt một con chó, bẻ gãy một bên chân sau, bôi thử cao lên vết thương, đợi đến sáng hôm sau, con chó vẫn tỉnh táo nhanh nhẹn, không có vẻ gì là trúng độc, chỗ vết thương đã thấy khá hơn nhiều.

Hồi 25

CỬ HỎA LIỆU THIÊN HÀ HOÀNG HOÀNG-

Qua ngày thứ ba, chất độc trong người hai vị Du Ân đã hoàn toàn trừ hết, Trương Vô Kỵ liền đem Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thật bôi lên tứ chi hai người. Lần này không chuyện gì xảy ra, Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao quả nhiên công hiệu như thần, chỉ hai tháng sau, hai tay của Ân Lê Đình đã hoạt động lại, xem ra sau này không những tay chân cử động bình thường mà võ công cũng không mất mát lắm. Chỉ có Du Đại Nham tàn phế lâu năm, muốn được như xưa thì thật khó, nhưng xem tình hình hồi phục của ông ta, chỉ sáu tháng thôi, có thể dùng nạng cặp vào nách thay chân bước đi chầm chậm được rồi, tuy vẫn còn tàn phế nhưng không còn là một người nằm ỳ một chỗ không động đậy được gì như trước.

Trương Vô Kỵ ở lại trên núi Võ Đương lâu như thế, những người của Ngũ Hành Kỳ cử đi các phái trước sau đã quay trở về, đem toàn những tin tức khiến ai nấy đều kinh ngạc. Toàn bộ nhân chúng các phái Nga Mi, Hoa Sơn, Không Động, Côn Lôn viễn chinh Quang Minh Đính, không một người nào trở về cả. Trên giang hồ thì thầm đồn đãi, ai cũng bảo rằng Minh giáo người nhiều thế mạnh, đã tiêu diệt toàn bộ các cao thủ đi Tây Vực rồi, nay đang chia ra đi đánh các phái. Các tăng nhân phái Thiếu Lâm đột nhiên thất tung đã đem tới một trận phong ba không tiền khoáng hậu trong võ lâm. Cũng may các phó sứ Ngũ Hành Kỳ lần này đi ai cũng mang theo tín phù của Trương Tam Phong, lại không tiết lộ thân phận mình, nếu không chắc cũng đã bị đánh cho một trận tơi bời. Cũng theo các chưởng kỳ phó sứ, hiện nay các môn phái, bang hội, đến cả các tiêu hãng, sơn trại, thuyền bang, bến đò bãi nước đều đâu đâu cũng nghiêm mật canh phòng sợ Minh giáo bất ngờ đến đánh.

Thêm vài ngày nữa, cha con Ân Thiên Chính và Ân Dã Vương cũng quay về núi Võ Đương, cho hay Thiên Ưng Kỳ đã hoàn toàn chỉnh đốn, tất cả đều qui thuộc Minh giáo. Hai người cũng cho hay phía đông nam quần hùng đang nổi lên, những người phản Nguyên chỗ này xuống thì chỗ khác lại lên, thiên hạ đã thành đại loạn. Thời đó quân Nguyên còn rất mạnh, nơi nào cũng chỉ một mình chiến đấu, không ai liên lạc hô ứng với ai thành thử chưa được dân chúng hưởng ứng đã bị tiêu diệt.

Buổi chiều hôm đó, Trương Tam Phong cho dọn cỗ chay ở hậu điện ca ngợi tin tức của cha con Ân Thiên Chính. Trên bàn, Ân Thiên Chính phân tích nguyên nhân thất bại của các nơi, nơi nào cũng có người của Minh giáo và Thiên Ưng giáo tham gia, bị quân Nguyên hoặc bắt bớ, hoặc tàn sát số người tuẫn nạn thật là đông. Quần hào nghe thế không ai là không ngậm ngùi.

Dương Tiêu nói:

- Trăm họ khổ sở đã nhiều, ai ai cũng trong đợi có sự thay đổi, chính là lúc thuận tiện để đuổi quân Thát tử, lấy lại giang sơn. Năm xưa Dương giáo chủ còn tại thế, ngày đêm nghĩ chuyện hưng phục, có điều bản giáo xưa nay hành sự lệch lạc, hơn trăm năm qua gây oán chuốc thù vớ võ lâm Trung Nguyên, thành ra khó mà cùng nhau nắm tay giết giặc. Thế nhưng trời thương đưa Trương giáo chủ lên coi sóc giáo vụ, oán thù với các phái tạm cởi phần nào, chính là thời cơ đồng tâm hiệp lực, cùng nhau chống lại Hồ Lỗ.

Chu Điên nói:

- Dương tả sứ, lời của ông nghe ra thì không sai. Có điều chỉ là nói chơi cho vui, cũng thật tào lao cán cuốc.

Dương Tiêu nghe rồi không nổi giận, chỉ nói:

- Vậy xin được Chu huynh chỉ giáo.

Chu Điên nói:

- Trên giang hồ ai cũng đồn là Minh giáo chúng ta giết sạch cao thủ các môn phái, chỉ nghe hai chữ "Minh giáo" là người ta đã giận thấu xương, lấy gì mà "đồng tâm hiệp lực, khu trừ Hồ Lỗ" cho được? Nói ra thì nghe hay lắm, nhưng làm sao mà thực hành?

Dương Tiêu nói:

- Chúng mình tuy bị mang tiếng xấu, nhưng thực ra mình sáng như ban ngày, huống chi lại có Trương chân nhân minh chứng điều đó.

Chu Điên cười nói:

- Nếu quả như mình có giết bọn Tống Viễn Kiều, Diệt Tuyệt lão ni, Hà Thái Xung thì Trương chân nhân cũng bị đánh lừa luôn, lấy gì mà làm chứng cho được?

Thiết Quan đạo nhân quát lên:

- Chu Điên, trước mặt Trương chân nhân và giáo chủ, không được nói lếu nói láo.

Chu Điên le lưỡi nhưng không nói gì thêm. Bành Oánh Ngọc nói:

- Lời của Chu huynh cũng không phải là hoàn toàn vô lý. Cứ như ý của bần tăng, chúng ta nên triệu tập một đại hội Minh giáo các thủ lãnh khắp nơi, nói rõ ý của Trương giáo chủ muốn thân thiện với các môn phái. Ngoài ra nhiều người sự việc cũng rõ ràng hơn, để xem Tống đại hiệp, Diệt Tuyệt sư thái các người ở đâu, trong đại hội cũng có thể tra cứu được.

Chu Điên nói:

- Muốn biết tung tích Tống đại hiệp thật là quá dễ, có thể nói là như thổi tro trong bếp.

Mọi người nhao nhao hỏi:

- Sao thế? Sao không nói sớm?

Chu Điên dương dương đắc ý, uống một chén rượu nói:

- Chỉ cần giáo chủ lại hỏi Triệu cô nương một câu, ít ra mười phần cũng biết được đến chín. Tôi dám nói là những người đó không bị cô ta giết thì cũng bị cô ta bắt rồi.

Hơn hai tháng qua, Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc cả bọn chia nhau ra xuống núi dò tìm tông tích, lai lịch Triệu Mẫn, nhưng từ sau hôm nàng đến cửa quan cùng Trương Vô Kỵ đập tay thề thốt đến nay, không biết cả bọn họ đi đâu mất tăm, ngay những thủ hạ đông đảo thế mà cũng không tìm đâu ra một chút dấu vết nào. Quần hào ai nấy suy tính, tin chắc bọn họ thể nào cũng có liên quan đến triều đình, nhưng ngoài điều đó ra vẫn không thấy thêm đầu dây mối nhợ khác. Bây giờ lại nghe Chu Điên nói, ai nấy liền cự ngay:

- Ngươi nói mới thật là tào lao. Nếu như tìm ra được cô gái họ Triệu kia, chẳng lẽ bọn ta không biết dò hỏi chắc?

Chu Điên cười:

- Các ngươi tìm không ra là phải, ai mà chẳng biết. Thế nhưng giáo chủ còn nợ cô ta ba chuyện chưa làm, không lẽ một người ghê gớm như cô ta lại bỏ qua không hỏi đến? Ha ha, cô gái đó thật là nguyệt thẹn hoa nhường, thế mà mỗi lần nghĩ đến cô ta là Chu mỗ lại dựng tóc gáy, sợ muốn chết.

Mọi người nghe y pha trò đều cười ồ lên, nhưng nghĩ lại thì quả là đúng thế. Trương Vô Kỵ thở dài:

- Ta cũng chỉ mong cô ta ra ba nạn đề để hết sức làm cho xong món nợ, khỏi phải ngày đêm khắc khoải, không biết cô ta còn giở trò gì quái đản nữa không. Bành đại sư vừa đưa ý kiến bản giáo triệu tập thủ lãnh các nơi, việc này xem ra nên lắm, các vị có ý gì không?

Quần hào đều đáp:

- Nên lắm. Mình ở trên núi Võ Đương ngồi không cũng chẳng làm được việc gì.

Dương Tiêu nói:

- Giáo chủ nghĩ xem mình nên tập họp ở đâu cho phải?

Trương Vô Kỵ suy nghĩ một hồi, nói:

- Bản nhân hôm nay đảm nhiệm chức vị giáo chủ, vẫn thường nghĩ đến ân tình của hai vị trong bản giáo. Người thứ nhất là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu tiên sinh, lão nhân gia nay đã chết vì tay Kim Hoa bà bà. Người kia là Thường Ngộ Xuân đại ca, không biết lúc này đang ở nơi đâu. Tôi nghĩ đại hội kỳ này nên cử hành tại Hồ Điệp Cốc ở Hoài Bắc.

Chu Điên vỗ tay nói:

- Hay lắm, hay lắm. Cái lão Kiến Tử Bất Cứu năm xưa tôi vẫn hay cãi nhau với hắn, cũng không đến nỗi tệ hại, chỉ phải cái tính khí thất thường, so với Dương tả sứ thì cũng cá mè một lứa. Y thấy chết không cứu, thành ra lúc y chết cũng chẳng ai cứu cho, đúng là báo ứng. Chu Điên này cũng muốn đến trước mộ y rập đầu vài cái.

Quần hào không ai còn ý gì khác, qui định hơn ba tháng nữa nhằm tháng tám Trung Thu, tất cả các thủ lãnh của Minh giáo cùng đến nơi nhà cũ của Hồ Thanh Ngưu ở Hồ Điệp Cốc tại Hoài Bắc tụ hội.

Sáng sớm hôm sau, các cấp của Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ chia nhau ra đi từ núi Võ Đương truyền hiệu lệnh của giáo chủ:

Các lộ giáo chúng, từ hương chủ trở lên hãy giao lại giáo vụ cho người phụ tá đảm trách, đến Hồ Điệp Cốc tại Hoài Bắc trước ngày Trung Thu tháng tám để tham kiến tân giáo chủ.

Từ nay đến ngày Trung Thu còn xa, Trương Vô Kỵ thấy Du Đại Nham và Ân Lê Đình bệnh tình chưa khỏi hẳn, sợ thương thế nếu như trở lại thì thật phí bao công phu, nên tạm ở lại núi Võ Đương lo lắng cho hai vị Du Ân, khi rảnh rỗi thì học hỏi Trương Tam Phong thêm về Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm. Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc thì đi du hành các nơi, thám thính tung tích của Triệu Mẫn.

Dương Tiêu theo lệnh giáo chủ ở lại núi Võ Đương, thế nhưng vì chuyện Kỷ Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình có phần bẽ mặt, bình thời chỉ đóng cửa đọc sách, chẳng mấy khi rời khỏi phòng một bước. Cứ thế đến hơn hai tháng, một buổi chiều, Trương Vô Kỵ đến gặp Dương Tiêu bàn về những việc cần phải truyền xuống các giáo chúng trong đại hội sắp tới tại Hồ Điệp Cốc. Chàng tuổi trẻ, kiến thức nông cạn, bỗng dưng phải đảm trách trọng nhiệm, thường vẫn lo ngay ngáy, chỉ sợ thất thố làm hư đại sự. Dương Tiêu thông hiểu giáo vụ nên Trương Vô Kỵ giữ lại bên cạnh, có việc gì thì hỏi.

Hai người nói chuyện một lát, Trương Vô Kỵ thuận tay cầm một cuốn sách trên bàn của Dương Tiêu lên, thấy trên bìa có viết bảy chữ tựa đề "Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký", bên dưới có một hàng chữ nhỏ "Đệ Tử Quang Minh Tả Sứ Dương Tiêu cung soạn". Trương Vô Kỵ nói:

- Dương tả sứ, ông văn võ toàn tài, thật là rường cột của bản giáo.

Dương Tiêu chắp tay:

- Đa tạ giáo chủ khen ngợi.

Trương Vô Kỵ mở sách ra, thấy viết bằng chữ nhỏ theo lối khải, mọi việc đều dẫn chứng sách vở rõ ràng. Trong sách kể lại minh bạch, Minh giáo nguyên từ nước Ba Tư, tên thật là Ma Ni giáo, truyền vào Trung thổ từ Diên Tải nguyên niên, đời Đường Võ Hậu. Thời đó người Ba Tư tên là Phí Đa Diên mang bộ Tam Tông Kinh của Minh giáo đến triều, là lần đầu tiên người Trung Quốc biết đến bộ kinh này. Ngày hai mươi chín tháng sáu năm thứ ba đời Đại Lịch nhà Đường, chùa Minh giáo Đại Vân Quang Minh được xây cất tại Lạc Dương, Trường An. Sau đó tại các thị trấn lớn như Thái Nguyên, Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu, Việt Châu cũng đều có Đại Vân Quang Minh tự. Tới năm Hội Xương thứ ba, triều đình ra lệnh giết giáo đồ, thế lực Minh giáo đại suy. Từ đó về sau, Minh giáo trở thành một tôn giáo bí mật, phạm cấm, đời nào cũng bị quan phủ truy lùng giết chóc. Để có thể sinh tồn, người trong Minh giáo không thể không hành sự ngụy bí, để rồi chữ Ma trong Ma Ni bị đổi thành Ma, đồng nghĩa với tà ma, người ngoài gọi là ma giáo.[4]

Trương Vô Kỵ đọc đến đoạn này, không khỏi thở dài, nói:

- Dương tả sứ, giáo chỉ của bản giáo nguyên là làm điều thiện, trừ điều ác, cùng với đạo Phật chẳng khác bao nhiêu, vậy mà từ đời Đường đến giờ, đời nào sao cũng bị giết hại thảm họa?

Dương Tiêu nói:

- Người trong Thích đạo tuy nói phổ độ chúng sinh, nhưng tăng chúng xuất gia đều cố giữ thanh tu, không để ý đến chuyện đời. Đạo gia cũng thế. Còn bản giáo tụ tập lương dân, bất luận ai gặp nguy nan khốn khổ thì mọi giáo chúng đều ra tay giúp đỡ. Quan phủ áp bức dân lành, có đời nào ít đâu? Có vùng nào ít đâu? Nếu có người nào bị quan phủ ức hiếp, oan khuất, bản giáo liền đứng ra chống lại.

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Chỉ khi nào triều đình, quan lại không còn áp bức dân lành, thổ hào ác bá không còn hoành hành vô phép tắc, đến lúc ấy bản giáo mới có thể hưng vượng được.

Dương Tiêu vỗ bàn đứng dậy, lớn tiếng nói:

- Lời của giáo chủ quả thật nói lên được tôn chỉ gốc rễ của bản giáo.

Trương Vô Kỵ nói:

- Dương tả sứ, ông xem có một ngày nào được như thế chăng?

Dương Tiêu trầm ngâm một hồi lâu rồi nói:

- Cũng chỉ mong được một ngày như thế. Phương Lạp, Phương giáo chủ của bản giáo đời Tống khởi sự cũng chỉ vì muốn quan lại không áp bức dân lành mà thôi.

Y lật quyển sách chỉ vào đoạn chép về giáo chủ Minh giáo Phương Lạp tại Chiết Đông nổi lên, chấn động thiên hạ. Trương Vô Kỵ đọc xong trầm ngâm, gập sách lại nói:

- Đại trượng phu cố nhiên phải như thế. Tuy Phương giáo chủ tuẫn nạn, thân vong nhưng cũng làm nên một sự nghiệp thật là oanh liệt.

Hai người cùng một lòng, không nói mà nhiệt huyết nổi lên bừng bừng.

Dương Tiêu lại nói:

- Bản giáo đời nào cũng bị nghiêm cấm, thế nhưng thủy chung vẫn đứng được mà không sụp đổ. Năm Thiệu Hưng thứ tư đời Nam Tống có một viên quan tên là Vương Cư Chính gửi lên hoàng đế một đạo tấu chương, nói về việc của bản giáo, giáo chủ có thể xem qua.

Nói rồi lật cuốn sách đến đoạn sao lục tấu chương của Vương Cư Chính. Trương Vô Kỵ đọc thấy trong đó viết như sau:

"Thần thấy hai huyện Chiết Châu có tập tục ăn rau phụng thờ ma vương. Trước đời Phương Lạp, pháp cấm còn lỏng, mà việc tôn thờ ma quỉ chưa đến nỗi mạnh. Phương Lạp chết rồi, pháp cấm càng nghiêm, nhưng việc thờ ma lại càng mạnh không trừ nổi... Thần nghe nói rằng kẻ thờ ma, mỗi làng mỗi xóm có một hai tên kiệt hiệt, gọi là ma đầu, xem hết các tên họ trong thôn, đều có thề thốt gia nhập ma đảng. Kẻ thờ ma không ăn thịt. Một nhà có chuyện gì, tất cả đồng đảng đều đến giúp đỡ. Vì chưng chúng không ăn thịt nên giảm chi tiêu, mà giảm chi tiêu nên dễ đầy đủ. Cùng một đảng nên thân lẫn nhau, thân lẫn nhau nên có chuyện gì dễ giúp nhau ..."

Trương Vô Kỵ đọc đến đây nói:

- Gã Vương Cư Chính này tuy là cừu địch nhưng quả biết rằng giáo chúng trong bản giáo sống tiết kiệm, giản phác, tương thân tương ái.

Chàng lại đọc tiếp đoạn sau của tấu chương:

"... vì thế thần cố theo đạo của tiên vương để làm cho dân tương thân, tương hữu, tương trợ. Cốt sống đạm bạc, dạy dân tiết kiệm, khuyến khích lối sống giản dị. Nay làm kẻ dẫn dắt nhân dân, nên không thể không lấy đó làm cách trị dân. Thế nhưng những ma đầu đã trộm cái cách của triều đình để khuyến dụ dân chúng rồi, nên người người đều ca tụng đạo ma, đi trợ giúp tà thuyết. Dân ngu không biết gì cả, nghe lời ma, thờ đạo ma, dễ đủ ăn, dễ trợ giúp, thành ra những gì ma đầu nói ra đều tin, tất cả đều theo về với chúng. Thành ra pháp cấm càng nghiêm, thì lại càng không thắng được những điều cấm."

Chàng đọc đến đây, quay sang nói với Dương Tiêu:

- Dương tả sứ, cái câu "pháp cấm dũ nghiêm, nhi dũ bất khả thắng cấm" chính là rõ ràng nói lên việc bản giáo được lòng dân chúng. Tả sứ cho tôi mượn bộ sách này để tôi đọc, hiểu thêm công đức, các việc còn dở dang, cùng di huấn của các vị vãng thánh tiên hiền trong bản giáo, được chăng?

Dương Tiêu nói:

- Chính đang mong được giáo chủ chỉ giáo.

Trương Vô Kỵ cầm quyển sách cất đi, nói:

- Du tam bá và Ân lục thúc thương thế đã đỡ nhiều, ngày mai mình lên đường đi Hồ Điệp Cốc. Tôi còn một việc muốn bàn với Dương tả sứ, có liên quan đến em Bất Hối.

Dương Tiêu tưởng chàng mở miệng cầu hôn, trong lòng mừng lắm, nói:

- Tính mạng của Bất Hối toàn do giáo chủ ban cho, cha con thuộc hạ cảm ân đâu phải chỉ mong báo đáp một ngày mà xong. Giáo chủ có điều gì sai bảo cũng xin vui vẻ tuân theo.

Trương Vô Kỵ bèn đem chuyện Dương Bất Hối hôm trước thổ lộ với mình ra kể lại từ đầu chí cuối. Dương Tiêu nghe xong, ngạc nhiên quá đỗi đến thừ người ra, hồi lâu mới nói:

- Tiểu nữ được Ân lục hiệp ghé mắt đến, quả thực là may mắn cho nhà họ Dương biết chừng nào. Có điều hai người tuổi tác chênh lệch, vai vế kẻ thấp người cao, cái đó... cái đó...

Y ấp úng hai câu "cái đó" rồi không nói thêm được nữa. Trương Vô Kỵ nói:

- Ân lục thúc cũng chưa đến bốn mươi, đang tuổi khỏe mạnh. Bất Hối muội tử có gọi ông ta một câu "Ân thúc thúc", nhưng thực ra nào có máu mủ liên quan gì đâu, sư môn hai bên cũng khác. Hai người nếu tình đầu ý hợp, nếu như thành được nhân duyên, cái hiềm khích cũ của đời trước nay hoàn toàn xóa sạch, chính là một mỹ sự rất lớn.

Dương Tiêu vốn dĩ là người khoáng đạt, chỉ vì chuyện của Kỷ Hiểu Phù, mỗi khi gặp Ân Lê Đình không khỏi sượng sùng, nghĩ thầm nếu như Bất Hối lại thương ông ta, kết thành tình thân, thì cũng giải quyết được cái khó xử của mình, từ nay Minh giáo và Võ Đương không còn khúc mắc gì nữa, bèn vái một cái thật sâu nói:

- Giáo chủ ngọc thành chuyện này đủ biết lo lắng cho cha con tôi biết dường nào. Thuộc hạ xin cảm ơn trước.

Tối hôm đó, Trương Vô Kỵ truyền tin đó ra, quần hào lục tục chúc mừng Ân Lê Đình. Dương Bất Hối cả thẹn, ẩn ở trong phòng không ló đầu ra. Trương Tam Phong và Du Đại Nham nghe chuyện đó, lúc đầu cũng hơi kinh ngạc, nhưng lập tức mừng cho Ân Lê Đình. Nói đến hôn kỳ, Ân Lê Đình nói:

- Đợi đại sư ca và anh em về núi rồi, tất cả đoàn tụ, lúc đó hãy tính đến chuyện vui cũng không muộn.

Hôm sau Trương Vô Kỵ cùng Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Thiết Quan đạo nhân, Chu Điên, Tiểu Siêu tất cả bọn từ biệt thầy trò Trương Tam Phong, cùng lên đường đi Hoài Bắc.

Dương Bất Hối ở lại núi Võ Đương phục thị Ân Lê Đình. Thời đó chuyện giao tiếp nam nữ tuy nghiêm nhặt nhưng họ đều là người trong võ lâm nên cũng không mấy để ý đến chuyện nhỏ nhặt.

Đoàn người Minh giáo ngày đi đêm nghỉ, theo hướng đông bắc mà đi. Trên đường đâu đâu cũng thấy đất đai hoang phế, dân chúng đói khổ. Miền duyên hải vốn là nơi trù phú màu mỡ, nhưng nay người chết đói đầy đường, dân chúng khốn khó đến cùng cực. Quần hào thương cho nhân dân bị tai kiếp như thế, biết rằng người Mông Cổ tàn ác khốc liệt ắt không còn có thể ở tại trung thổ bao lâu nữa, chính là cơ hội tốt để anh hùng hào kiệt đứng lên chống lại.

Hôm đó đi đến Giới Bài Tập, còn cách Hồ Điệp Cốc không bao xa, đang đi trên đường bỗng nghe tiếng la hét chém giết từ phía trước vọng tới, hai phe nhân mã đang lúc giao tranh. Quần hào giục ngựa chạy lên, qua khỏi một khu rừng rậm, thấy khoảng hơn một nghìn lính Mông Cổ chia thành hai bên đang tấn công một tòa sơn trại. Trên sơn trại phất phới một lá cờ lớn có vẽ hình một ngọn lửa đỏ đang cháy, chính là cờ của Minh giáo. Trong trại nhân số không đông, xem chừng đánh không lại nhưng vẫn cố thủ không chịu thua. Quân Mông Cổ bắn tên như mưa, kêu lớn:

- Bọn phản tặc ma giáo kia, mau mau đầu hàng.

Chu Điên nói:

- Giáo chủ, mình tiến lên chứ?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Phải, mình trước hết tiêu diệt bọn quân quan chỉ huy.

Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Chu Điên, Thiết Quan đạo nhân nghe lệnh xông ra, xông thẳng vào quân địch, trường kiếm tung hoành, hai tên bách phu trưởng bị chém ngã trước, kế đến tên thiên phu trưởng chỉ huy đội quân bị Ân Dã Vương một đao giết luôn. Quân Nguyên như rắn mất đầu, lập tức loạn cả lên.

Người trong sơn trại thấy có tiếp viện ở bên ngoài, lớn tiếng reo hò. Cổng trại mở ra, một người đàn ông mặt áo đen cầm trường mâu, xông ra trước tiên, quân Nguyên đều dạt cả ra không ai dám chống đỡ. Chỉ thấy đại hán đó trường mâu lấp loáng một cái là một tên lính Mông Cổ bị đâm chết, rơi ngay xuống ngựa. Quân Nguyên kinh hoảng hô hoán luôn mồm, chạy tứ tán.

Bọn Dương Tiêu thấy thanh niên đó uy phong lẫm lẫm, chẳng khác gì tướng nhà trời, ai nấy đều tấm tắc khen ngợi:

- Quả thực là một tướng quân anh hùng.

Lúc này Trương Vô Kỵ đã nhìn rõ diện mạo viên tướng đó, chính là đại ca Thường Ngộ Xuân, người mà chàng hằng mong nhớ. Chỉ hiềm đang lúc giao tranh, không tiện tiến lên gặp nhau. Người của Minh giáo trước sau giáp công, quân Nguyên chết đến năm sáu trăm người, còn lại không dám ham đánh tiếp, chia nhau ra tìm đường chạy.

Thường Ngộ Xuân cầm ngang ngọn giáo cười lớn, hỏi:

- Anh em ở lộ nào đến tương trợ đó? Thường mỗ thật là cảm kích.

Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Thường đại ca, có nhớ tiểu đệ chăng?

Chàng tung mình chạy lên, nắm chặt lấy tay y. Thường Ngộ Xuân khom lưng phục xuống lạy, nói:

- Giáo chủ huynh đệ, ta tuy là đại ca thực nhưng lại là thuộc hạ của người, quả thực sung sướng không để đâu cho hết.

Thì ra Thường Ngộ Xuân thuộc về Ngũ Hành Kỳ, do Cự Mộc Kỳ cai quản. Việc Trương Vô Kỵ tiếp nhiệm giáo chủ ra sao đã được chưởng kỳ sứ Văn Thương Tùng cho biết rồi. Từ đó đến nay, y cùng anh em dưới quyền ngày ngày trông ngóng Trương Vô Kỵ, không ngờ quân Nguyên lại tiến đến vây đánh. Thường Ngộ Xuân thấy mình thế ít không đánh lại số đông, cố ý làm như khiếp sợ, dụ quân Nguyên vào trại sau đó sẽ xông ra tiêu diệt. Thế nhưng Trương Vô Kỵ và đồng bọn đến tiếp ứng, y liền thừa thế mở cổng xông ra. Y ở trong Minh giáo chức vị không cao, cho nên liền quay sang chào Dương Tiêu, Ân Thiên Chính tất cả mọi người. Quần hào thấy y là anh em kết nghĩa của giáo chủ, không ai dám tỏ vẻ bề trên, chắp tay hỏi thăm, đãi y cực kỳ lễ mạo.

Thường Ngộ Xuân mời tất cả vào trong, giết dê mổ bò, mở một tiệc rượu kể lại hết mọi sự tình. Mấy năm qua Hoài Nam, Hoài Bắc bị hạn hán liên tiếp, dân chúng khổ sở không sao kể xiết. Thường Ngộ Xuân không cách gì sinh nhai, liền tụ tập một số anh em, làm trò lục lâm thảo khấu sống cũng thoải mái. Trong sơn trại lương thực tiền bạc kha khá liền đem ra cứu tế chẩn bần. Quân Nguyên mấy lần tiến đánh đều không làm được gì.

Cả bọn nghỉ lại sơn trại một đêm, hôm sau cùng Thường Ngộ Xuân tất cả đi Hoài Bắc, liệu rằng quân Nguyên mới thua xong, trong vòng một vài tháng chưa thể nào lại tấn công lần nữa.

Vài ngày sau họ đến bên ngoài Hồ Điệp Cốc. Những giáo chúng đến trước nghe tin giáo chủ giá lâm, xếp thành hàng ra khỏi sơn cốc nghênh tiếp. Lúc đó Cự Mộc Kỳ đã ra lệnh cho anh em dưới trướng xây dựng một số nhà lá nhà gỗ trong Hồ Điệp Cốc để cho các lộ giáo chúng có chỗ nghỉ ngơi. Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc đã tới đây từ trước, bẩm rằng chưa tìm ra được tin tức gì về Triệu cô nương cả.

Trương Vô Kỵ tiếp các lộ giáo chúng xong, chuẩn bị tế phẩm, đến mộ vợ chồng Hồ Thanh Ngưu và Kỷ Hiểu Phù thắp hương, nghĩ đến năm xưa lúc ra đi khỏi Hồ Điệp Cốc thê thảm bực nào, còn nay quay trở lại vinh hiển xiết bao, phong quang vô hạn, chẳng khác nào ở một kiếp khác.

Ba ngày sau là đúng ngày rằm tháng tám, trong Hồ Điệp Cốc xây một đài cao, bên trên đốt một ngọn lửa bừng bừng. Trương Vô Kỵ lên đài tuyên bố từ nay xóa bỏ hết các tị hiềm từ trước với các môn phái trung nguyên, cùng ý muốn phản Nguyên kháng Hồ, lại ban bố trở lại giáo qui tôn chỉ hành thiện khử ác, trừ bạo an dân. Các giáo chúng cùng đứng lên, người nào cũng đốt hương cầm trên tay, thề tuân hành lệnh chỉ của giáo chủ quyết không vi phạm.

Hôm đó trên đài lửa bốc ngất trời, khói hương mù mịt, từ xưa tới nay chưa có thời nào Minh giáo thịnh vượng như hôm nay. Các giáo chúng có tuổi thấy khí thế đó, nghĩ đến mấy chục năm nay chia năm xẻ bảy, mấy lần tưởng như sụp đổ đến nơi, mừng quá nhịn không nổi khóc òa lên.

Quá trưa giáo chúng thuộc hạ đến bẩm báo:

- Hạ thuộc Hồng Thủy Kỳ là bọn Chu Nguyên Chương, Từ Đạt xin cầu kiến.

Trương Vô Kỵ mừng lắm, đích thân đi ra cửa đón chào. Chu Nguyên Chương, Từ Đạt cùng bọn Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, Ngô Lương, Ngô Trinh cung kính đứng ở ngoài cổng, trông thấy Trương Vô Kỵ đi ra, tất cả đều khom lưng hành lễ, nói:

- Tham kiến giáo chủ.

Trương Vô Kỵ vẫn thường nhớ đến ơn cứu mạng năm xưa của Từ Đạt, thấy cả bọn mừng không để đâu cho xiết. Lập tức hoàn lễ, tay trái dắt Chu Nguyên Chương, tay phải nắm Từ Đạt cùng tiến vào trong nhà cùng tất cả ngồi xuống. Mọi người ai nấy xin lỗi rồi mới dám ngồi.

Khi đó Chu Nguyên Chương đã hoàn tục, không còn ăn mặc theo lối nhà sư, nói:

- Bọn thuộc hạ phụng lệnh chỉ của giáo chủ, đi đến Hồ Điệp Cốc, vốn định tới sớm để nghe sai bảo, ngờ đâu giữa đường gặp một chuyện cực kỳ quái lạ, bọn thuộc hạ vội vàng đi theo tra cứu khiến cho lỡ mất hội kỳ, xin được giáo chủ tha tội cho.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Không biết anh em gặp chuyện gì thế?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Thượng tuần tháng sáu, chúng tôi nhận được lệnh chỉ của giáo chủ, cả bọn cực kỳ hoan hỉ, anh em đều bàn tính phải đi kiếm món lễ vật gì để mừng giáo chủ. Đất Hoài Bắc đang khổ cực, chẳng có món gì đáng giá, cũng may kỳ hội còn xa, anh em liền lên đường đi Sơn Đông một chuyến. Anh em chúng tôi ngoại rằng quan quân nhận ra được nên giả làm bọn đánh xe lừa, thuộc hạ đóng vai đầu sỏ. Đến phủ Qui Đức, tỉnh Hà Nam chúng tôi gặp một bọn khách thuê xe đi Hà Trạch, Sơn Đông, đi giữa đường, đột nhiên có một bọn người chặn lại, vung đao giơ thương cực kỳ dữ dằn, đuổi hết những người khách trong xe xuống, bảo bọn tôi đi chở khách khác. Lúc đó Hoa huynh đệ đã toan cự lại, Từ huynh đệ liền đưa mắt cho y, bảo y xem rõ tình hình rồi có động thủ cũng chưa muộn. Bọn đó dẫn cả chín cái xe chúng tôi tới một hẻm núi, nơi đó cũng đã có sẵn hơn chục cái xe lớn chờ rồi, thế nhưng ngồi dưới đất lại toàn là sư sãi.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Toàn là sư sãi?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Đúng thế. Những hòa thượng đó ai nấy ủ rũ, dáng điệu uể oải, nhưng trong đó có vài người hình dáng không phải tầm thường, người thì thái dương huyệt nổi cao, người thì cao lớn vạm vỡ. Từ huynh đệ liền nói nhỏ cho tôi biết những nhà sư này ai nấy đều võ nghệ cao cường. Bọn người hung ác kia bảo các hòa thượng ngồi lên xe, rồi bắt chúng tôi đi về hướng bắc. Thuộc hạ nghĩ rằng bên trong ắt có gì khác lạ, nên lén dặn các anh em phải đề phòng, tuyệt đối không được làm lộ hình tích. Trên đường đi anh em chúng tôi cố lắng nghe bọn người hung ác kia nói những gì, nhưng bọn đó giữ thật là kín đáo, trước mặt chúng tôi không nói nửa câu. Về sau Ngô Lương huynh đệ thu hết can đảm, nửa đêm mò đến gần cửa sổ nghe trộm, liên tiếp bốn năm đêm, mới dò ra được chút đầu mối, thì ra các nhà sư đó đều ở chùa Thiếu Lâm tại Tung Sơn tỉnh Hà Nam.

Trương Vô Kỵ vốn đã đoán được đôi phần, nhưng cũng "A" lên một tiếng.

Chu Nguyên Chương kể tiếp:

- Ngô Lương huynh đệ lại nghe một trong những gã hung ác kia nói: "Chủ nhân quả thực thần cơ diệu toán, khiến cho ai cũng bái phục. Các cao thủ Thiếu Lâm, Võ Đương sáu môn phái đều lọt vào tay ta hết, từ xưa tới nay đã ai làm được thế bao giờ đâu?". Lại một người khác nói: "Cái đó cũng chưa lấy làm lạ. Nhất tiễn song điêu, cái hay là làm cho các ma đầu của ma giáo cũng bị quàng vào trong". Anh em bảy người chúng tôi giả vờ xuất cung[5], ở bên ngoài nhà xí nho nhỏ bàn tính, nếu như việc này có dính cả bản giáo vào trong may sao anh em mình lại biết, thì phải tra xét cho ra ngành ra ngọn, để trình lên cho giáo chủ biết.

Trương Vô Kỵ nói:

- Các vị tính vậy phải lắm.

Chu Nguyên Chương nói:

- Bọn chúng tôi tiếp tục đi lên miền bắc, càng làm ra vẻ ngu ngốc khờ khạo. Thanh Hòa huynh đệ và Đặng Dũ huynh đệ giả vờ tranh nhau năm tiền, tay chân quờ quạng đánh lẫn nhau, rõ ràng chẳng biết tí võ công nào. Bọn hung ác kia vỗ tay cười ha hả, không còn để ý gì đến chúng tôi. Chúng tôi lại luôn mồm lão gia, cung kính hầu hạ chúng, nịnh bợ đủ điều. Ngô Trinh huynh đệ đã tính đi kiếm một loại thuốc mê nào đó giữa đường cho chúng uống ngã lăn ra, cứu các hòa thượng Thiếu Lâm. Thế nhưng tôi suy nghĩ rồi, việc này đầu dây mối nhợ mình hoàn toàn chưa biết, xem ra bọn hung nhân này đều tinh minh, kỹ lưỡng, võ công cao cường, lỡ như đánh rắn không xong, động ổ động hang, lại làm hỏng hết đại sự cho nên không dám hạ thủ. Đến phủ Hà Gian, lại gặp sáu cái xe lớn, cũng có người áp giải, nhưng trong xe toàn là tục gia nhân. Trong khi ăn cơm, tôi nghe một nhà sư chùa Thiếu Lâm chào một người mới đến là: "Tống đại hiệp cũng ở đây ư?".

Trương Vô Kỵ đứng bật dậy, hỏi dồn:

- Y nói là Tống đại hiệp ư? Người đó hình dáng thế nào?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Người đó thân hình cao gầy, độ năm sáu chục tuổi, ba chòm râu dài, tướng mạo thật là thanh nhã.

Trương Vô Kỵ nghe thấy đúng là hình dáng Tống Viễn Kiều, vừa mừng vừa lo, hỏi thêm hình mạo những người khác, quả nhiên Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc cũng trong số đó nên hỏi tiếp:

- Những người đó đều bị thương hay sao? Hay là chân tay bị xiềng bằng xích sắt?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Không bị xiềng xích gì cả, cũng không thấy có thương tích, ăn uống nói năng không khác gì người bình thường, chỉ có tinh thần uể oải, đi đứng thì lảo đảo. Vị Tống đại hiệp kia nghe nhà sư Thiếu Lâm hỏi thế, chỉ đành cười gượng, không trả lời. Nhà sư toan hỏi thêm gì nữa, kẻ hung ác áp giải liền đến tách hai người ra. Sau đó hai bên cách xa nhau đến hơn chục dặm, không cùng ăn cùng ngủ, thành ra bọn thuộc hạ cũng không còn gặp lại nhóm Tống đại hiệp kia nữa. Ngày mồng ba tháng bảy, chúng tôi đưa quần tăng phái Thiếu Lâm đến Đại Đô[6].

Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Ồ, đến Đại Đô, quả nhiên là triều đình hạ độc thủ, về sau thế nào?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Bọn người hung ác dẫn chúng tôi đưa những nhà sư Thiếu Lâm đến một ngôi chùa lớn ở phía tây, bảo chúng tôi ngủ lại trong đó.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cái miếu đó tên là gì?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Khi thuộc hạ vào chùa có ngửng đầu lên nhìn biển ngạch, thấy tên là Vạn An Tự, nhưng cũng vì nhìn mà bị ngay một tên hung ác quất cho một roi. Đêm đó anh em chúng tôi lén bàn nhau, bọn người hung ác kia thể nào cũng phải sát nhân diệt khẩu, không tha mình đâu nên trời tối lập tức chúng tôi trốn đi ngay.

Trương Vô Kỵ nói:

- Sự tình quả là hung hiểm, cũng may bọn hung ác kia không đuổi theo.

Thang Hòa mỉm cười:

- - Chu đại ca cũng đã tính đến nước đó, nên đã sắp đặt sẵn mọi việc. Chúng tôi đi đến các hãng xe lừa ở gần đó bắt bảy tên phu xe, đổi y phục cho bọn họ, sau đó giết luôn cả bảy người trong miếu, mặt mũi đâm chém bầy nhầy, không để cho bọn người hung ác kia nhìn ra được. Sau đó lại giết hết tất cả các phu xe đi cùng, tiền bạc rắc khắp nơi làm như hai bọn tranh nhau tiền bạc giết nhau vậy. Có thế bọn hung nhân quay lại mới khỏi nghi.

Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, chỉ thấy Từ Đạt mặt tỏ vẻ bất nhẫn, Đặng Dũ hơi có vẻ xấu hổ, Thanh Hòa nói vẻ mặt đắc ý dương dương, chỉ một Chu Nguyên Chương bình thản làm như không có gì xảy ra cả. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Bọn này ra tay độc ác thật, thật là những tay ghê gớm". Chàng bèn nói:

- Kế đó của Chu đại ca tuy hay thật, nhưng từ nay về sau, chúng ta không nên lạm sát người vô tội.

Đây là huấn dụ của giáo chủ, bọn Chu Nguyên Chương nhất tề đứng lên, khom lưng nói:

- Cẩn tôn giáo chủ lệnh chỉ.

Về sau Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Đặng Dũ, Thang Hòa hành quân giao chiến, quả nhiên tuân theo lệnh của Trương Vô Kỵ, không dám giết người bừa bãi, khiến cho dân tâm qui thuận, làm nên đại nghiệp một đời.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bảy vị của Chu đại ca thám thính được tin tức cao thủ các phái Thiếu Lâm, Võ Đương, công này thật không nhỏ. Đợi sắp đặt xong việc kháng Nguyên khởi nghĩa rồi, chúng ta sẽ đi Đại Đô một chuyến để cứu các người đó ra.

Chàng bàn công việc chung xong, lại cùng bọn Từ Đạt nói chuyện riêng, đến việc năm xưa ăn trộm bò của Trương viên ngoại, cả bọn cùng cười ha hả.

Đêm hôm đó, Trương Vô Kỵ tập họp tất cả giáo chúng, đốt lửa thắp hương, tuyên cáo các nơi đều cùng nổi dậy, chung sức kháng lại Nguyên triều, các lộ giáo chúng phải đỡ đần nhau, khiến cho quân Nguyên phải đôn đáo bôn ba việc lớn ắt sẽ thành.

Sau đó định ra phương sách, giáo chủ Trương Vô Kỵ cùng Quang Minh tả sứ Dương Tiêu, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu chấp chưởng tổng đàn làm tổng soái cho toàn giáo.

Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính chỉ huy giáo chúng trong Thiên Ưng Kỳ khởi sự tại Giang Nam.

Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, Ngô Lương, Ngô Trinh cùng với nhân mã của Thường Ngộ Xuân cùng Tôn Đức Nhai tại Hào Châu, Hoài Bắc khởi binh.

Bố đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc tất lãnh Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông, Đỗ Tôn Đạo, La Văn Tố, Thịnh Văn Úc, Vương Hiển Trung, Hàn Hiệu Nhi khởi binh tại Dĩnh Châu, Hà Nam.

Bành Oánh Ngọc tất lãnh Từ Thọ Huy, Trâu Phổ Vượng, Minh Ngũ khởi sự tại các châu Cám, Nhiêu, Viên, Tín vùng Giang Tây.

Thiết Quan đạo nhân tất lãnh Bố Tam Vương, Mạnh Hải Mã tại các vùng Tương, Sở, Kinh Tương khởi binh.

Chu Điên tất lãnh Chi Ma Lý, Triệu Quân Dụng tại Từ, Tú, Phong, Bái khởi sự.

Lãnh Thiêm cùng các giáo chúng miền Tây Vực, ngăn chặn và chia cắt các đội quân tiếp viện của Mông Cổ từ Tây Vực đến Trung Nguyên.

Ngũ Hành Kỳ thuộc về quyền điều khiển của tổng đàn, nơi nào gặp nguy thì tới đó cứu viện.

Phương sách xếp đặt đó, mười phần đến chín là do Dương Tiêu và Bành Oánh Ngọc đưa ra. Trương Vô Kỵ công bố ra rồi, giáo chúng reo hò vang động. Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ dựa vào sức của một mình bản giáo mà thôi, khó mà có thể lay chuyển được cơ nghiệp đã có hàng trăm năm của Nguyên triều. Do đó cần phải liên lạc với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, chung sức lo toan mới mong thành công được. Hiện nay các nhân vật đầu não của võ lâm Trung Nguyên đều bị triều đình bắt giữ cả, tổng đàn phải tìm cách cứu ra trước. Ngày mai các anh em rẽ đi ra khắp nơi, gặp cơ hội thì cứ việc giết quân Thát tử, tổng đàn lập tức đi Đại Đô cứu người trước. Hôm nay tất cả anh em vui say một chuyến, sau này không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau. Các anh em cần lấy nghĩa khí làm trọng, đại sự trước hết, quyết không nên tranh quyền đoạt lợi, tàn sát lẫn nhau, nếu như có ai giở trò bất nghĩa, tổng đàn quyết không tha thứ.

Mọi người đều lên tiếng đáp ứng:

- Lệnh chỉ của giáo chủ quyết không dám vi phạm.

Tiếng la ó vang cả sơn cốc. Mọi người lập tức trích huyết ăn thề, đốt hương làm chứng, thà chết không phụ đại nghĩa. Đêm hôm đó trăng sáng vằng vặc, các lộ giáo chúng ngồi cả dưới đất, các giáo chúng chấp sự tổng đàn đem bánh nhân chay ra chia cho mọi người. Ai nấy thấy bánh tròn như mặt trăng nên gọi là bánh Trung Thu. Về sau người ta truyền tụng người Trung Hoa ăn bánh Trung Thu để thề giết quân Mông Cổ chính là từ đại hội của Minh giáo mà ra.

Trương Vô Kỵ lại tuyên bố tiếp:

- Bản giáo từ đời trước truyền đến nay, không ăn thịt, không uống rượu. Thế nhưng hiện nay đâu đâu cũng tai ương thành thử gặp gì ăn nấy. Huống chi công việc lớn hàng đầu của anh em ta là khu trừ Thát tử, nếu không ăn thịt cá tinh thần không đủ mạnh, khó có đủ sức chiến đấu. Từ nay trở đi, bãi bỏ qui luật không ăn thịt, không uống rượu trong bản giáo. Chúng ta lập thân xử thế lấy đại tiết làm trọng, ẩm thực cấm kỵ chỉ là thứ yếu.

Cũng từ đó bánh Trung Thu giáo chúng Minh giáo có làm nhân thịt.

Sáng sớm hôm sau, các lộ giáo chúng cáo biệt Trương Vô Kỵ. Ai nấy tuy đều là hào kiệt khẳng khái, nhưng nghĩ đến mai này chiến đấu nơi nơi, biết ai còn ai mất, đại sự nếu như thành, người có mặt hôm nay tại đại hội Hồ Điệp Cốc e rằng còn sống chưa đầy một nửa, nên không khỏi quyến luyến khi chia tay. Lúc đó trước Hồ Điệp Cốc thánh hỏa bốc lên cao, đột nhiên ai đó lớn tiếng hát:

Thiêu đốt thân tàn ta,

Hỏa thánh bốc bừng bừng.

Khi sống có gì vui,

Thì chết có gì khổ?

Lập tức tất cả đều hát theo phụ họa:

Thiêu đốt thân tàn ta,

Hỏa thánh bốc bừng bừng.

Khi sống có gì vui,

Thì chết có gì khổ?

Nguyện hành thiện trừ ác,

Cốt sao cho quang minh.

Bao hỉ lạc bi sầu,

Cũng đều thành cát bụi.

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Những câu: "Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy. Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy." vang động cả Hồ Điệp Cốc. Quần hào ai nấy áo mặc trắng tinh, đi tới trước mặt Trương Vô Kỵ khom lưng hành lễ, ngửng đầu hùng dũng mà đi, không quay đầu nhìn lại. Trương Vô Kỵ nghĩ đến bao nhiêu dũng sĩ thế này, trong vòng một hai chục năm máu sẽ thấm đầy một giải Trung Nguyên, nhịn không nổi nước mắt rưng rưng.

Tiếng hát xa dần, tráng sĩ ly tán, Hồ Điệp Cốc mấy hôm qua ồn ào náo nhiệt nay trở lại vắng lặng như xưa, chỉ còn lại Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Chu Nguyên Chương và vài người khác. Trương Vô Kỵ hỏi kỹ chùa Vạn An tọa lạc chỗ nào, hình dáng bọn người hung dữ kia ra sao rồi nói:

- Chu đại ca, ở một giải Hào Tứ này đang đại loạn, không nên đễ lỡ cơ hội khởi sự. Các vị không cần phải đi theo tôi lên Đại Đô làm gì, thôi mình từ biệt nơi đây.

Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân cả bọn cùng nói:

- Xin chúc giáo chủ mã đáo thành công, bọn thuộc hạ chờ đón tin mừng.

Lập tức bái biệt Trương Vô Kỵ, ra khỏi thung lũng lo việc khởi nghĩa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn mình cũng đi thôi. Tiểu Siêu, cô có mang xích, đi lại không tiện, ở lại đây đợi tôi nhé.

Tiểu Siêu rầu rĩ vâng lời, nhưng khi đưa tiễn, đưa đến ba dặm rồi lại thêm ba dặm nữa, vẫn không chịu chia tay. Trương Vô Kỵ nói:

- Tiểu Siêu, cô càng đưa càng xa, coi chừng lúc về lạc đường đó.

Tiểu Siêu hỏi lại:

- Trương công tử lên Đại Đô liệu có gặp Triệu cô nương chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không chừng sẽ gặp đó.

Tiểu Siêu nói:

- Nếu công tử gặp cô ấy, có thể nhờ cô ấy giúp em một việc được không?

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Cô có chuyện gì muốn nhờ?

Tiểu Siêu nhún vai một cái, đáp:

- Công tử mượn Ỷ Thiên kiếm chặt cái dây xích này, chứ không cả đời em sẽ không được tự do nữa.

Trương Vô Kỵ thấy cô gái thần sắc ủ rũ thật đáng thương, trong lòng không nỡ, liền nói:

- Chỉ sợ cô ta không cho mượn đâu, nhất là lại mượn kiếm đem về tận đây.

Tiểu Siêu nói:

- Thế thì... thế thì, công tử đưa em đến trước mặt cô ấy, nhờ cô ta dùng kiếm chặt một nhát, có phải hơn không?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nói qua nói lại, chẳng qua cô muốn theo tôi lên Đại Đô chứ gì? Dương tả sứ, ông xem có đem cô ta theo được không?

Dương Tiêu biết Trương Vô Kỵ đã nói thế là đã có ý cho cô ta theo nên nói:

- Cái đó cũng không sao, việc cơm nước áo quần đã có cô này lo, chỉ có điều dây xích leng keng sợ người ta chú ý. Đã thế cô ta giả vờ bị bệnh, chỉ ngồi trên xe, bình thời đừng ra ngoài làm gì.

Tiểu Siêu mừng lắm vội nói:

- Đa tạ công tử, đa tạ Dương tả sứ.

Cô quay qua nhìn Vi Nhất Tiếu nói thêm:

- Đa tạ Vi pháp vương.

Vi Nhất Tiếu cười:

- Sao cô lại cảm ơn tôi là sao? Cô coi chừng tôi mà bệnh trở lại là hút máu cô đó.

Nói xong nhe hai hàm răng trắng nhởn, giả vờ làm dữ. Tiểu Siêu biết y chỉ đùa, nhưng cũng không khỏi sợ hãi nói:

- Ông... ông đừng dọa tôi.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Tình quen biết từ khi còn bé chơi đùa với nhau

[2] Kim Dung bị lúng túng cố tình sửa lại để câu chuyện hợp lý. Trong bản mới, Kim Dung cố tình sửa lại hai đoạn, trên núi Võ Đương, Kỷ Hiểu Phù đã có ý cho Ân Lê Đình biết là mình không còn con gái nữa, rồi khi dẫn Dương Bất Hối vào Hồ Điệp Cốc, lại nói cô bé chừng tám chín tuổi. Thế nhưng cử chỉ ngôn ngữ Bất Hối lúc đó vẫn chỉ chừng bốn năm tuổi thôi. (lời người dịch)

[3] Nguyên văn: Kim hạp giáp tầng, Linh cao cữu tàng. Châu hoa trung không, Nội hữu dược phương. Nhị vật tảo trình quân tử tả hữu, hà lao ưu chi thâm dã? Duy dĩ vi vật bất túc nhất cố, tứ chi tì bộc, ủy chư trần thổ, khởi tiện thiếp chi sở vọng da?

[4] Ma trong Ma Ni viết với chữ thủ, Ma trong ma giáo viết với chữ quỉ là con ma.

[5] Đi cầu, tiếng văn hoa

[6] tức Bắc Kinh, tên gọi đời Nguyên

Hồi 26

TUẤN MẠO NGỌC DIỆN CAM HỦY THƯƠNG-

Miệng không nói nhưng lòng ta vẫn nói,

Mặt không còn nhưng chí chẳng hề suy.

Cái danh Hữu Sứ bỏ đi,

Vào trong hang hổ ở khi chờ thời.

*

* *

Xế trưa hôm đó, ba con ngựa, một chiếc xe cùng lên đường hướng bắc, chẳng bao lâu đã đến kinh đô nhà Nguyên là Đại Đô. Thời đó người Mông Cổ dùng ngựa mà chinh phục nước Tàu, đất đai của họ rộng đến mấy vạn dặm, xưa nay các đế quốc tính theo diện tích không có nước nào lớn bằng. Đại Đô về sau gọi là Bắc Kinh, là nơi nhà vua ở, các tiểu quốc, các sứ thần đến triều cống không biết bao nhiêu mà kể. Bọn Trương Vô Kỵ vừa vào cửa thành đã thấy trên đường rất nhiều người qua lại, một số đông tóc vàng mắt xanh.

Bốn người đi đến phía tây, kiếm một khách điếm nghỉ ngơi. Dương Tiêu chi tiêu rộng rãi, làm như một khách thương buôn bán lớn, gọi ba phòng hạng nhất. Điếm tiểu nhị thấy thế xun xoe đon đả, phục thị rất ân cần.

Dương Tiêu hỏi thăm xem Đại Đô trong thành có cổ tích danh thắng nào, nói chuyện một hồi, làm như vô tình hỏi đến các chùa chiền miếu mạo. Chùa đầu tiên điếm tiểu nhị nói đến là chùa Vạn An:

- Chùa Vạn An có một cái rừng thật lớn, bên trong chùa lại có ba tượng Phật bằng đồng, dù có đi khắp thiên hạ cũng không tìm đâu ra pho tượng thứ tư lớn như thế, ai cũng nên đến xem cho biết. Có điều khách quan thật không may, độ nửa năm nay, trong chùa có các Phật gia tây phiên ở, dân thường không ai dám vào nữa.

Dương Tiêu hỏi:

- Có phiên tăng ở ư? Đến xem cũng không được à?

Tên tiểu nhị le lưỡi, nhìn quanh bốn bề nói khẽ:

- Không phải là tiểu nhân lắm chuyện nhưng khách quan mới đến kinh đô lần đầu, nói năng nên cẩn thận. Những Phật gia tây phiên kia gặp ai thích đánh là đánh, muốn giết là giết, thấy đàn bà con gái xinh đẹp là bắt vào chùa. Đó là do hoàng thượng kim khẩu hạ thánh chỉ cho họ làm. Đâu có ai dám vuốt râu hùm mà lại gần các tây phiên Phật gia đó làm chi?

Các phiên tăng Tây Vực dựa thế người Mông Cổ, hoành hành vô pháp, khinh khi người Hán, Dương Tiêu đã biết từ lâu, có điều không ngờ ngay giữa kinh thành mà không e ngại gì, nên không nói gì thêm với gã tiểu nhị nữa.

Ăn cơm chiều xong, mọi người nhắm mắt nghỉ ngơi một lát, đợi đến canh hai, ba người mới nhảy cửa sổ ra, chạy về hướng tây tìm kiếm. Chùa Vạn An có lầu cao bốn tầng, sau chùa có một tòa bảo tháp mười ba gác nên từ xa đã thấy ngay. Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu ba người thi triển khinh công, chỉ giây lát đã đến trước cửa chùa. Ba người ra hiệu cho nhau, cùng lẻn qua phía bên trái chùa, toan trèo lên bảo tháp, để từ trên cao nhìn xuống quan sát toàn cảnh. Ngờ đâu khi tới cách tháp chừng hai chục trượng, thấy trên tháp có bóng người thấp thoáng, trên mỗi tầng đều có người qua lại tuần tra, dưới chân tháp cũng có đến hai ba chục người canh gác.

Ba người thấy thế, vừa mừng vừa lo, tháp này thủ vệ nghiêm nhặt, các người của phái Thiếu Lâm, Võ Đương hẳn là bị nhốt nơi đây, cũng bõ công đi dò thám. Có điều kẻ địch canh gác cẩn mật như thế, muốn cứu người quả không phải dễ dàng. Huống chi Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê các người ai ai cũng võ công trác tuyệt, vậy mà đều bị bắt cả, hẳn là đối phương có nhiều cao thủ, thủ đoạn lại cũng hơn người, chẳng cần nói thì cũng biết. Trước khi đi, ba người đã bàn tính không thể hành sự cẩu thả, thành thử thấy vậy bèn toan tháo lui.

Ngay lúc đó, trên từng thứ sáu của bảo tháp có ánh lửa lấp loáng, tám chín người cầm đuốc đi chầm chậm đi xuống tầng thứ năm, rồi tầng thứ tư, đến tầng cuối cùng theo cửa chính của bảo tháp đi ra phía chùa. Dương Tiêu vẫy tay, từ bên hông men ra. Trong chùa Vạn An cây nào cây nấy đều là cổ thụ, ba người nấp sau gốc cây, cứ mỗi khi nghe gió thổi lại chạy lên vài trượng. Ba người khinh công tuy cao thật, nhưng cũng sợ bị người ta phát giác, nên cũng phải nhờ đến gió lay, lá rụng mới dám di động.

Cứ như thế khi lên được độ hơn hai chục trượng rồi mới thấy rõ hơn chục người đàn ông mặc áo vàng, trong tay ai cũng có binh khí, áp giải một ông già mặc trường bào, tay áo thụng. Người đó ngẫu nhiên quay đầu lại, Trương Vô Kỵ nhìn rõ mặt chính là chưởng môn phái Côn Lôn Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung, trong lòng không khỏi xốn xang: "Quả nhiên cả Hà Thái Xung cũng ở đây".

Bọn người đó đi vào chùa Vạn An bằng cửa sau, ba người chờ một lát, thấy bốn bề quả không có ai mới theo cửa đó lẻn vào. Ngôi chùa này thật nhiều phòng ốc, qui mô rất lớn, tương tự như chùa Thiếu Lâm, thấy bên trong song cửa một tòa đại điện đèn đuốc sáng trưng, xem chừng Hà Thái Xung bị bắt đem vào đây. Ba người len lén tiến tới, đến bên ngoài điện. Trương Vô Kỵ nằm phục dưới đất, nhìn vào khe hở của cửa sổ. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu đứng hai bên canh gác, đề phòng bị tập kích. Ba người tuy võ nghệ cao cường, đảm lược lớn, nhưng lúc này đi vào đầm rồng hang hổ, trong bụng không khỏi phập phồng.

Khe cửa rất hẹp, Trương Vô Kỵ chỉ nhìn được nửa thân dưới của Hà Thái Xung, còn bên trong có những ai thì không sao biết được. Chỉ nghe Hà Thái Xung hậm hực nói:

- Ta trúng phải gian kế, lọt vào tay các ngươi, muốn giết thì giết, muốn xẻo thì xẻo, một lời là xong. Còn bắt ép ta làm ưng khuyển cho triều đình thì nhất định là không được, dù có nói ba năm năm năm cũng chỉ phí lời thôi.

Trương Vô Kỵ ngầm gật đầu, nghĩ thầm: "Vị Hà tiên sinh này tuy không phải chính nhân quân tử, nhưng ở lúc nguy nan mà vẫn vững lòng, không mất khí khái của chưởng môn một phái".

Lại nghe tiếng một người đàn ông giọng lạnh như tiền:

- Ngươi nếu cố chấp không đổi, chủ nhân cũng không ép. Thế qui củ ở đây ngươi đã biết chưa?

Hà Thái Xung nói:

- Dù có cả mười ngón tay ta đều bị chặt đứt, cũng không chịu đầu hàng.

Người kia nói:

- Được, để ta nói lại một lượt, nếu ngươi thắng được ba người trong chúng ta thì lập tức thả ngươi ra. Còn như nếu thua, thì sẽ bị chặt đứt một ngón tay, giam thêm một tháng, sẽ hỏi lại xem hàng hay không hàng.

Hà Thái Xung đáp:

- Ta đã đứt mất hai ngón tay rồi, có đứt thêm ngón nữa, thì cũng đã sao? Đưa kiếm cho ta.

Người kia cười khẩy:

- Đợi đến khi ngươi cả mười ngón tay đều đứt hết, lúc ấy mới đầu hàng thì bọn ta cũng chẳng cần cái con người bỏ đi ấy làm gì. Đưa kiếm cho y. Ma Ha Ba Tư, ngươi đấu với y xem nào.

Một người giọng ồm ồm đáp:

- Vâng.

Trương Vô Kỵ ám vận thần công lên ngón tay, nhẹ nhàng moi cái khe hở ra một mảng, thấy Hà Thái Xung tay cầm một thanh kiếm gỗ, mũi kiếm có bọc vải, vừa mềm vừa lụt, không cách nào có thể đả thương người khác được. Còn trước mặt y là một phiên tăng cao to, tay cầm một thanh giới đao sáng loáng. Hai bên binh khí kẻ sắc người cùn khác nhau như thế đâu cần phải tỉ thí, ai mạnh ai yếu đã thấy ngay. Thế nhưng Hà Thái Xung không sợ hãi chút nào, vung thanh kiếm gỗ một cái, nói:

- Xin mời.

Nghe soẹt một cái y đã đâm ra một kiếm khí thế thật là độc địa. Kiếm pháp của phái Côn Lôn, quả nhiên có chỗ độc đáo. Gã phiên tăng Ma Ha Ba Tư kia tuy thân thể to lớn nhưng hành động lại nhanh nhẹn, thanh giới đao liền vung ra, nhát nào cũng nhắm chỗ yếu hại của Hà Thái Xung chém tới. Trương Vô Kỵ chỉ coi mấy chiêu đã ngầm kinh hãi: "Sao Hà tiên sinh bước chân bông bênh, hơi thở dồn dập, dường như nội lực mất hết không còn gì cả?".

Kiếm pháp của Hà Thái Xung tuy tinh diệu, nội lực so với người thường cũng chẳng khác gì, những lợi hại trong kiếm chiêu không sao thi thố được. Được cái là gã phiên tăng võ công kém y hai bực, mấy lần tấn công mãnh liệt đều bị Hà Thái Xung dùng kiếm thuật tinh kỳ chiếm lại tiên cơ. Hai bên đánh tới ngoài năm mươi chiêu, Hà Thái Xung quát lên một tiếng: "Trúng" thanh kiếm từ đông vòng ngược lại phía tây, đâm xéo về trước, nghe cạch một tiếng nhỏ, đã đâm trúng dưới nách gã phiên tăng. Nếu như trong tay y chỉ là một thanh kiếm thông thường, hoặc nội lực không mất, mũi kiếm cũng đã xuyên qua da thịt rồi.

Lại nghe tiếng lạnh lẽo của gã kia nói:

- Ma Ha Ba Tư lui, Ôn Ngọa Nhi lên.

Trương Vô Kỵ nhìn theo tiếng nói, thấy kẻ đó mặt như phủ một lớp khói đen, cằm mọc một chùm râu hoa râm lưa thưa, chính là một trong Huyền Minh nhị lão. Y khoanh tay đứng nhìn, mắt nửa thức nửa ngủ, làm như không quan tâm gì đến chuyện trước mắt.

Chàng nhìn lên trên, thấy trên một cái đôn thấp bọc gấm có một đôi bàn chân mang giày đoạn màu vàng nhạt, đầu giày có đính một hạt minh châu. Trương Vô Kỵ chợt rung động trong lòng, thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn, mắt cá chân tròn trịa, dường như quen quen, chính là đôi bàn chân mà chàng đã nắm được lúc ở Lục Liễu Trang của Triệu Mẫn. Khi chàng gặp lại cô ta trên núi Võ Đương, hai bên là kẻ thù nhưng lúc này nhìn thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn đó, không hiểu vì sao, tự nhiên đỏ mặt tía tai, tim đập thình thịch.

Chỉ thấy Triệu Mẫn đong đưa bàn chân, xem ra nàng đang để hết tâm hết ý vào trận đấu giữa Hà Thái Xung và Ôn Ngọa Nhi. Độ thời gian uống một tuần trà, Hà Thái Xung lại kêu lên: "Trúng", bàn chân Triệu Mẫn liền dậm trên cẩm đôn một cái, Ôn Ngọa Nhi lại thua trận đó rồi. Lão già mặt đen trong Huyền Minh nhị lão lại nói:

- Ôn Ngọa Nhi xuống, Hắc Lâm Bát Phu lên.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng Hà Thái Xung thở hổn hển, nghĩ chắc y liên tiếp đánh bại hai người, tốn rất nhiều hơi sức. Chỉ giây lát lại có tiếng kịch đấu nổi lên, gã Hắc Lâm Bát Phu sử dụng một cây thiền trượng vừa to vừa nặng, múa lên gió nổi vù vù, đèn nến trong điện lúc mờ lúc tỏ, bóng người chẳng khác gì mây bay thấp thoáng qua lại nơi chân Triệu Mẫn. Bỗng thấy trong điện tối sầm, mấy ngọn nến đỏ phía bên phải bị gió từ cây thiền trượng làm tắt ngúm, nghe cách một tiếng, thanh kiếm gỗ gẫy làm đôi. Hà Thái Xung thở dài một tiếng, ném kiếm xuống đất, trận này thế là y thua.

Huyền Minh lão nhân hỏi:

- Thiết Cầm tiên sinh, ông đã chịu hàng chưa?

Hà Thái Xung ngang nhiên đáp:

- Ta không chịu hàng, cũng không phục. Nếu như nội lực ta còn, tên phiên tăng kia đâu có phải là đối thủ của ta?

Huyền Minh lão nhân lạnh lùng nói:

- Chặt ngón tay vô danh bên trái của y, tống trở lại tháp.

Trương Vô Kỵ quay đầu lại, Dương Tiêu xua xua tay, ý muốn nói: "Lúc này xông vào điện cứu người, có thể làm lỡ việc lớn". Chỉ nghe tiếng chặt tay trong điện, rịt thuốc, băng bó cầm máu nhưng Hà Thái Xung cũng rất cứng đầu, đến tiếng suýt xoa cũng không hé răng. Bọn người áo vàng lại cầm đuốc giải y trở lại giam trong tháp. Bọn Trương Vô Kỵ nép mình ở góc tường, dưới ánh lửa thấy Hà Thái Xung mặt xanh nhợt, nghiến răng bậm môi, thần sắc cực kỳ tức giận.

Cả đoàn người đó đi xa rồi, bỗng nghe một giọng thanh thoát yểu điệu từ trong điện vọng ra:

- Lộc Trượng tiên sinh, kiếm pháp phái Côn Lôn quả là cao siêu, y đâm trúng Ma Ha Ba Tư một chiêu, trước đó y chém phía bên trái, rồi vòng qua bên phải...

Trương Vô Kỵ hé mắt dòm vào, thấy người đang nói chính là Triệu Mẫn. Nàng vừa nói vừa đi vào giữa điện, tay cầm một thanh kiếm gỗ, bắt chước theo Hà Thái Xung vung kiếm ra. Phiên tăng Ma Ha Ba Tư tay múa song đao, cùng nàng tập luyện.

Huyền Minh lão nhân mặt đen mà Triệu Mẫn gọi là Lộc Trượng tiên sinh kia tên là Lộc Trượng Khách, lên tiếng khen ngợi:

- Chủ nhân quả thật thông minh, chiêu đó sử không sai một li nào.

Triệu Mẫn luyện một lần rồi lại luyện lần nữa, chiêu nào cũng đâm trúng nách Ma Ha Ba Tư, tuy chỉ là kiếm gỗ nhưng đâm mạnh như thế, lần nào cũng trúng cùng một chỗ, xem chừng cũng khá đau. Ma Ha Ba Tư tập trung hết tinh thần ra chiêu cho nàng tập, không dám suýt xoa, cũng chẳng dám né tránh.

Nàng luyện thành thục mấy chiêu đó rồi, lại gọi Ôn Ngọa Nhi ra, tập lại chiêu mà Hà Thái Xung đã sử dụng đánh bại y. Trương Vô Kỵ bây giờ đã rõ, thì ra Triệu Mẫn bắt giam các cao thủ tại đây, cho họ uống thuốc mất hết nội lực, bức bách họ đầu hàng triều đình. Bọn họ dĩ nhiên không hàng, nàng liền sai người ra đấu với họ, nàng ngồi bên quan sát, học trộm các chiêu số tinh diệu của các môn phái. Dụng tâm vừa ác độc, bày kế lại tàn ác khiến người ta phải dựng tóc gáy.

Sau đó Triệu Mẫn lại cùng Hắc Lâm Bát Phu đối luyện, đến lúc sau cùng nàng hơi chần chừ, hỏi lại:

- Lộc Trượng tiên sinh, có phải thế này không?

Lộc Trượng Khách trầm ngâm không đáp, quay đầu lại hỏi:

- Hạc huynh đệ, ngươi nhìn có rõ không?

Từ phía góc trái có tiếng người vọng ra:

- Khổ đại sư thể nào cũng nhớ rõ.

Triệu Mẫn cười:

- Khổ đại sư, làm phiền ông một chút đi ra chỉ cho tôi nào.

Chỉ thấy bên phải đi ra một đầu đà tóc dài đến vai, thân thể cao lớn, mặt có đến bảy tám vết sẹo dài vắt ngang, khiến cho bộ mặt thật của y không còn làm sao nhận nổi. Tóc của y màu đỏ hung hung, xem ra không phải người Trung Thổ. Y không nói một lời, cầm lấy thanh kiếm gỗ trong tay Triệu Mẫn, soẹt soẹt soẹt soẹt đâm luôn mấy nhát vào Hắc Lâm Bát Phu, sử dụng chính là kiếm pháp của phái Côn Lôn.

Người đầu đà được gọi là 'Khổ đại sư" kia bắt chước kiếm chiêu của Hà Thái Xung nhưng cũng không dùng chút nội lực nào, còn gã Hắc Lâm Bát Phu kia thì giở toàn lực ra đấu, đến lúc sau cùng y vung thanh trượng tạt ngang, những ngọn nến lúc trước bị tắt nay đã châm lại cùng tắt phụp. Hà Thái Xung ở chiêu này không né tránh được, đành phải để kiếm gỗ đụng phải thiết trượng, nên bị gãy kiếm chịu thua. Thế nhưng khổ đầu đà liền đổi phương vị, nhẹ nhàng lách qua, chẳng khác gì con nhạn sà xuống chạm mặt nước, điểm vào thiết trượng rồi bay vụt lên.

Bàn tay Hắc Lâm Bát Phu cầm trượng bị kiếm lóc trúng, các huyệt đạo nơi hổ khẩu tê chồn, không cầm vững nữa, bỏ rơi thiết trượng nghe keng một tiếng, những miểng gạch dưới đất văng lên tung tóe.

Hắc Lâm Bát Phu mặt đỏ bừng, biết rằng nếu như kiếm gỗ mà là kiếm thật, tám ngón tay của mình đã đứt lìa, khom lưng nói:

- Bái phục, bái phục.

Y cúi xuống nhặt thiết trượng lên. Khổ đầu đà hai tay cầm thanh kiếm, trả lại cho Triệu Mẫn. Triệu Mẫn cười hỏi:

- Khổ đại sư, chiêu sau cùng đó tinh diệu tuyệt luân, có phải là kiếm pháp phái Côn Lôn không?

Khổ đầu đà lắc đầu. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Thảo nào Hà Thái Xung không biết, khổ đại sư, ông dạy cho tôi nhé?

Khổ đầu đà tay không đấu với kiếm, Triệu Mẫn liền dùng kiếm ra chiêu. Luyện đến lần thứ ba, khổ đầu đà hành động nhanh như chớp, không sao tưởng nồi, Triệu Mẫn không sao tấn công được. Tuy kiếm chiêu của nàng có chậm nhưng cứ theo đúng như thế không sai chút nào. Khổ đầu đà xoay người qua, hai tay tống về phía trước, giữ như thế không cử động. Trương Vô Kỵ tấm tắc khen thầm: "Hay thật, quả là cao minh".

Triệu Mẫn lúc ấy vẫn chưa hiểu rõ, nghiêng đầu nhìn tư thế của khổ đầu đà, suy nghĩ một hồi lúc ấy mới rõ, nói:

- Khổ đại sư, nến trong tay ông có binh khí, trượng đó đã đánh trúng vai tôi phải không? Chiêu này hóa giải cách nào?

Khổ đầu đà giơ tay làm hiệu nắm lấy cây gậy, chân trái đá lên, đầu ngẩng cao, ra vẻ đã đoạt được trượng của địch rồi đá y bay đi. Chiêu đó trông như vụng về nhưng lại thật là khéo léo, là một thức ngoại môn công phu cực kỳ cương mãnh. Triệu Mẫn cười nói:

- Hảo sư phụ, dạy ngay cho tôi đi nào.

Thần tình thật là nhõng nhẽo. Trương Vô Kỵ tim đập bình một cái nghĩ thầm: "Cô nội lực chưa đủ, làm sao học chiêu này được? Thế nhưng cô dáng điệu nũng nịu thế, thực khó mà từ chối". Khổ đầu đà giơ tay ra hiệu hai lần, ý muốn nói là: "Cô nội lực không đủ không thể học được". Y xoay mình đi luôn không ngó ngàng gì tới nàng nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Khổ đầu đà võ công cao cường như thế, so ra cũng chẳng kém gì Huyền Minh nhị lão, không biết nội lực y đến đâu nhưng chiêu số thần diệu, quả là một kình địch. Y chỉ ra hiệu mà không nói năng gì, không lẽ y câm chăng? Thế nhưng tai y không điếc. Triệu cô nương đối với y có vẻ kính trọng, có lẽ y là một người lai lịch rất lớn".

Triệu Mẫn thấy khổ đầu đà không chịu dạy mình nữa, nhoẻn miệng cười không tỏ ra tức giận, nói:

- Gọi Đường Văn Lượng của phái Không Động lên đây nào.

Một lát sau, Đường Văn Lượng bị áp giải tới điện. Lộc Trượng Khách lại sai ba người ra đấu với y. Đường Văn Lượng không vì địch nhân dùng binh khí mà thua sút, y tay không đấu chưởng, thắng được hai trận, đến trận thứ ba, đối thủ thúc đẩy nội lực ra, Đường Văn Lượng không cách nào chống cự nổi, nên cũng bị chặt một ngón tay.

Lần này Triệu Mẫn luyện chiêu do Lộc Trượng Khách đứng bên cạnh chỉ điểm. Trương Vô Kỵ lúc này đã nhìn ra ngọn nguồn, Triệu Mẫn vì nội lực không đủ, biết rằng khó lòng mà tốc thành, nên muốn học tất cả các sở trường của các môn phái để thành một cao thủ. Cách đó cũng có thể làm được vì chiêu số luyện đến mức thật tinh vi, có thể bổ túc cho nội công chưa đủ.

Triệu Mẫn luyện xong chưởng pháp rồi nói:

- Gọi Diệt Tuyệt lão ni lên đây.

Một tên trong đội áo vàng liền bẩm:

- Diệt Tuyệt lão ni đã tuyệt thực năm ngày rồi, hôm nay mụ ta lại cứng đầu lạ thường, không chịu tuân lệnh.

Triệu Mẫn cười nói:

- Cứ mặc cho mụ ta chết đói. Hừ, gọi tiểu cô nương Chu Chỉ Nhược của phái Nga Mi lên.

Bọn thủ hạ liền đáp ứng, quay mình đi ra khỏi điện.

Trương Vô Kỵ vẫn mang một nỗi cảm kích cái ơn Chu Chỉ Nhược năm xưa trên sông Hán Thủy ân cần lo lắng cho mình. Lú ở trên Quang Minh Đính, cô ta lại chỉ điểm cho chàng phương vị Dịch kinh, nhờ thế mới phá được đao kiếm liên thủ của hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn. Về sau tuy nàng đâm chàng một kiếm, chẳng qua chỉ vì phải tuân nghiêm lệnh sư môn nên chàng không đem lòng oán trách, lúc này nghe Triệu Mẫn cho gọi nàng lên, trong lòng không khỏi thảng thốt.

Một lát sau, một bọn hoàng y áp giải Chu Chỉ Nhược vào trong điện. Trương Vô Kỵ thấy nàng vẫn xinh đẹp như xưa, chỉ hơi tiều tụy so với khi ở trên Quang Minh Đính, tuy bị địch nhân bắt giữ, nhưng vẫn bình thản, tưởng như không còn coi chuyện sống chết vào đâu. Lộc Trượng Khách theo lệ hỏi nàng có chịu hàng không, Chu Chỉ Nhược lắc đầu, không trả lời.

Lộc Trượng Khách đang định cử người ra đấu kiếm với nàng, Triệu Mẫn bỗng nói:

- Chu cô nương, cô tuổi trẻ như thế mà đã là cao đệ trong phái Nga Mi, thực đáng khen ngợi. Nghe nói cô là một đệ tử đắc ý của Diệt Tuyệt sư thái, đã kế thừa được kiếm chiêu tuyệt học của lão nhân gia, có phải vậy không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Gia sư võ công bác đại tinh thâm, nói đến học kiếm chiêu tuyệt học của lão nhân gia, tiểu nữ tuổi trẻ học vấn nông cạn thực còn xa mới tới được.

Triệu Mẫn cười nói:

- Qui củ ở đây, ai thắng được ba người trong bọn tôi, thì sẽ bình an đưa ra khỏi cửa, không làm khó gì. Tôn sư sao lại quá tự cao thân phận, không chịu hạ mình chỉ dạy cho bọn chúng tôi là sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Gia sư thà chết chứ không chịu nhục. Đường đường là chưởng môn phái Nga Mi, đời nào lại chịu cầu xin sống còn dưới tay các người sao? Cô nương nói quả không sai, gia sư coi bọn tiểu nhân âm độc hèn hạ không ra gì, không thể cùng chúng động thủ quá chiêu.

Triệu Mẫn không nổi giận, mỉm cười:

- Thế còn Chu cô nương thì sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Tôi tuổi còn nhỏ, có gì dám tự mình quyết định đâu? Sư phụ bảo thế nào thì tôi cứ làm đúng thế.

Triệu Mẫn hỏi:

- Tôn sư bảo cô không động thủ với chúng tôi, có phải thế không? Thế là vì duyên cớ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Kiếm pháp của phái Nga Mi, tuy không dám nói là tuyệt học gì cả, nhưng cũng là võ công của một danh môn chính phái Trung Nguyên, không thể để cho bọn phiên bang Hồ Lỗ vô liêm sỉ học trộm được.

Nàng nói câu đó thần thái thật là nhu mì, nhưng ngôn từ sắc bén, chẳng nể mặt chút nào.

Triệu Mẫn ngạc nhiên, không ngờ dụng tâm của mình lại để Diệt Tuyệt sư thái đoán ra được, nghe Chu Chỉ Nhược nói đến "tiểu nhân âm độc", rồi "vô sỉ chi đồ", không thể không nổi cáu, nghe soẹt một tiếng, thanh kiếm Ỷ Thiên đã cầm trong tay nói:

- Sư phụ ngươi chửi chúng ta là bọn vô sỉ ư? Được, để ta hỏi ngươi, thanh kiếm Ỷ Thiên này rõ ràng là bảo vật gia truyền nhà ta, sao phái Nga Mi lại ăn trộm là sao?

Chu Chỉ Nhược thản nhiên đáp:

- Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao, trước nay là hai món lợi khí của võ lâm Trung Nguyên, không nghe nói có liên can gì đến bọn phiên bang cả.

Triệu Mẫn mặt đỏ lên, giận dữ nói:

- Hừ, xem ra miệng lưỡi ngươi đáo để lắm. Ngươi nhất định không ra tay phải không?

Chu Chỉ Nhược lại lắc đầu. Triệu Mẫn nói:

- Người khác tỉ thí mà thua, hoặc không chịu động thủ thì ta chặt một ngón tay. Còn con nhãi này chắc nó cho là hoa dung nguyệt mạo cho nên mới kiêu ngạo đến thế, ta cũng chẳng thèm chặt tay nó làm gì.

Nói xong nàng giơ tay chỉ khổ đầu đà nói:

- Để ta làm cho ngươi giống vị đại sư phụ kia, trên mặt rạch hai ba chục nhát kiếm, xem ngươi có còn kiêu ngạo nữa không nào?

Nàng phất tay một cái, hai tên áo vàng liền xông lên, mỗi đứa nắm một bên tay Chu Chỉ Nhược. Triệu Mẫn cười khẩy:

- Muốn rạch mặt ngươi nát như tổ ong, chẳng cần phải sử dụng kiếm pháp tinh diệu của phái Nga Mi làm gì. Chỉ cần mấy miếng mèo quào của ta thôi, để xem có biến ngươi thành xấu như ma được không?

Chu Chỉ Nhược nước mắt doanh tròng, thân hình run rẩy, thấy mũi thanh kiếm Ỷ Thiên chỉ còn cách mặt mình vài tấc, con ác ma này chỉ nhấn một cái, trong nháy mắt mình sẽ chẳng khác gì gã đầu đà quái đản kia ngay. Triệu Mẫn cười hỏi:

- Ngươi có sợ không hả?

Chu Chỉ Nhược không còn dám ương ngạnh, gật đầu. Triệu Mẫn nói:

- Hay lắm, thế là ngươi chịu hàng phải không?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Ta không hàng, ngươi cứ giết ta đi.

Triệu Mẫn cười:

- Ta trước nay chưa từng giết người. Ta chỉ rạch nát mặt ngươi ra thôi.

Ánh sáng lóe lên, trường kiếm trong tay Triệu Mẫn đã đâm vào mặt Chu Chỉ Nhược. Đột nhiên nghe keng một tiếng, một vật từ bên ngoài điện ném vào, đẩy Ỷ Thiên kiếm trệch qua một bên. Ngay lúc đó, cửa sổ vỡ tung, một người phi thân nhảy vào, hai tên đang nắm Chu Chỉ Nhược không hiểu sao bay văng lên. Người đó giơ tay đỡ ngang người Chu Chỉ Nhược, tay phải đánh ra, cùng Lộc Trượng Khách hai bên trao đổi một chưởng nghe bùng một tiếng, mỗi người đều lùi lại hai bước.

Mọi người nhìn kỹ hóa ra chính là giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ. Chàng ra mặt chẳng khác gì tướng nhà trời bay xuống, ai nấy đều kinh hãi giật mình, ngay cả loại cao thủ bậc nhất như Huyền Minh nhị lão cũng không biết trước tí nào. Lộc Trượng Khách nghe thấy trường song bị vỡ, lập tức nhảy lên trước mặt Triệu Mẫn hộ vệ, đánh với Trương Vô Kỵ một chưởng, thế nhưng chân không đứng vững, phải lùi hai bước, toan đề khí tiến lên thì thấy trong ngực nóng ran chẳng khác nào rơi vào trong một lò lửa.

Chu Chỉ Nhược thấy đại họa lâm đầu, đâu ngờ lại có người ra tay cứu. Nàng được Trương Vô Kỵ ôm vào người, ép vào bộ ngực bề thế rắn chắc, mũi ngửi thấy một mùi đàn ông đậm đà, vừa mừng vừa sợ, trong một sát na thấy nhẹ nhàng thơ thới tưởng như muốn ngất đi. Trương Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công đối địch với Huyền Minh thần chưởng của Lộc Trượng Khách, chân khí toàn thân trào lên, Chu Chỉ Nhược trước nay chưa từng đụng chạm với da thịt đàn ông, huống chi người con trai đó lại chính là người nàng ngày đêm mơ tưởng, rày ước mai ao? Trong lòng nàng cảm thấy một niềm vui sướng không đâu kể hết, dù cho kẻ địch bốn bề có xông tới chém xuống nghìn vạn nhát dao, nàng cũng không hề sợ hãi.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ xông vào cứu người, lập tức cũng nhảy vào theo, chia ra đứng giữ hai bên. Thủ hạ của Triệu Mẫn thấy biến cố bất ngờ, lúc đầu cũng hơi rối loạn, nhưng thấy bên địch chỉ có ba người, các võ sĩ canh gác trong ngoài nghe tiếng đáp ứng, biết rằng ngoài ra không còn ai khác nữa, lập tức chia nhau chặn giữ các cửa nẻo, chờ lệnh Triệu Mẫn.

Triệu Mẫn không tỏ ra kinh hãi, cũng không giận dữ, chỉ ngẩn ngơ nhìn Trương Vô Kỵ một cái, rồi đưa mắt xuống khối vàng lấp lánh ở góc phòng. Thì ra khi nàng dùng Ỷ Thiên kiếm rạch mặt Chu Chỉ Nhược, Trương Vô Kỵ ném một vật vào, đẩy mũi kiếm ra, vật đó chính là cái hộp vàng nàng đã tặng cho chàng.

Thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén lạ thường, vừa đụng phải, lập tức chặt đứt đôi cái hộp. Nàng nhìn hai mảnh vỡ một hồi, nói:

- Anh ghét cái hộp đó đến thế, không làm hỏng nó thì chưa vừa lòng hay sao?

Trương Vô Kỵ thấy ánh mắt nàng đầy vẻ u oán, tuyệt nhiên không có vẻ gì trách cứ tức tối, dường như thê thảm không đâu kể xiết, hơi ngẩn ngơ, cảm thấy hối hận, nhỏ nhẹ đáp:

- Tôi không mang ám khí, trong cơn hốt hoảng thò tay vào túi, chỉ có cái hộp đó thôi, thực không có ý gì, mong cô nương tha lỗi.

Ánh mắt Triệu Mẫn sáng lên, hỏi lại:

- Cái hộp này công tử luôn luôn mang theo ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế.

Chàng thấy Triệu Mẫn chăm chăm nhìn mình, còn mình trong tay vẫn ôm Chu Chỉ Nhược, mặt hơi đỏ lên, vội buông tay ra. Triệu Mẫn thở dài nói:

- Tôi không biết Chu cô nương là... là bạn của anh, nếu không đâu có đối xử với cô ta như thế. Thì ra hai người...

Nói đến đây nàng quay đầu nhìn sang chỗ khác. Trương Vô Kỵ nói:

- Chu cô nương và tôi... chưa có gì hết... chỉ là... chỉ là...

Chàng nói hai tiếng "chỉ là", không nói tiếp được nữa. Triệu Mẫn lại đưa mắt nhìn hai mảnh hộp vàng dưới đất, không nói gì nhưng trong ánh mắt, thần sắc cũng chẳng khác gì nói lên nghìn lời. Chu Chỉ Nhược trong bụng hơi hoảng: "Con nữ ma đầu này đối với chàng thật là lưu luyến, không lẽ..."

Trương Vô Kỵ bụng dạ đâu có được sâu sắc như hai cô gái, thần sắc của Triệu Mẫn tuy chàng cũng lờ mờ đôi phần nhưng đâu có hiểu thâm ý bên trong. Chàng chỉ thấy rằng Triệu Mẫn tặng cho mình hộp vàng, hoa ngọc để trị cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình khỏi tàn phế, nay làm hỏng nó đi, xem ra có điều không phải, nên rảo bước tới góc điện cúi xuống nhặt hai mảnh hộp lên nói:

- Để tôi đi kiếm thợ hàn nó lại.

Triệu Mẫn mừng rỡ nói:

- Có thật không?

Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm cả cô lẫn tôi đều thống suất vô số anh hùng hào kiệt, lại quá coi trọng cái hộp chẳng quan trọng chút nào là sao? Cái hộp vàng này mặc dầu tinh vi nhưng đâu có phải quí giá lạ lùng gì, còn cao bên trong thì đã dùng hết, cái hộp không còn dùng vào việc gì nữa, có hỏng cũng chẳng đáng hối tiếc, có hàn lại thì cũng chỉ là chuyện nhỏ nhoi. Chàng thấy trước mắt còn biết bao nhiêu việc lớn phải làm, vậy mà cô gái này cứ hỏi đi hỏi lại chuyện cái hộp, đúng là bụng dạ đàn bà quan tâm đến những vật nho nhỏ nên bỏ luôn hai mảnh đó vào túi.

Triệu Mẫn nói:

- Thế thì đi đi.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá và những người khác chưa cứu được ra, đâu có thể đi được, nhưng bên địch cao thủ đông như kiến, bên mình lại chỉ có ba người, nói đến cứu người thật không phải dễ bèn nói:

- Triệu cô nương, cô bắt giữ cả bọn đại sư bá tôi là vì cớ gì?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Tôi vốn chỉ có lòng tốt muốn bọn họ ra sức cho triều đình cùng hưởng vinh hoa phú quí. Nào ngờ bọn họ cố chấp không nghe, ép họ không xong đành để từ từ khuyên giải.

Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, quay sang tiến đến bên cạnh Chu Chỉ Nhược. Chàng ở trong chốn đầy cao thủ mà đi đến nhặt cái hộp rồi đi về tự nhiên tưởng chừng như chỗ không người. Trương Vô Kỵ lạnh lùng nhìn quét qua một lượt, nói:

- Nếu đã như thế, bọn chúng tôi xin cáo từ.

Nói xong cầm tay Chu Chỉ Nhược, xoay người định ra đi. Triệu Mẫn hậm hực nói:

- Các người muốn đi, tôi cũng không giữ lại làm gì. Thế nhưng nếu công tử muốn dẫn Chu cô nương theo, cũng chẳng thèm nói với tôi một tiếng thì công tử coi tôi là hạng người gì?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cái này quả thực tại hạ khiếm lễ. Triệu cô nương, xin cô thả Chu cô nương để cô ta đi cùng với chúng tôi.

Triệu Mẫn không trả lời, đưa mắt ra hiệu cho Huyền Minh nhị lão. Hạc Bút Ông tiến lên một bước nói:

- Trương giáo chủ đến là đến, đi là đi, muốn cứu ai là cứu, thế thì còn mặt mũi nào bọn già chúng tôi nữa? Nếu ông không lưu lại một tuyệt kỹ, anh em chúng tôi không thể tâm phục được.

Trương Vô Kỵ nhận ngay ra tiếng của Hạc Bút Ông, lửa giận bừng bừng, quát:

- Năm xưa khi ta còn bé, bị ngươi bắt được, tính mệnh tưởng như không còn. Hôm nay ngươi còn mặt dày mày dạn đến nói chuyện với ta nữa sao? Tiếp chiêu.

Nghe vù một tiếng, chàng đã đánh ngay một chưởng vào Hạc Bút Ông. Lộc Trượng Khách mới rồi bị chàng cho nếm mùi đau khổ, biết rằng nếu chỉ một mình Hạc Bút Ông thì không phải là địch thủ của chàng, liền tiến lên đánh ra một chưởng. Trương Vô Kỵ tay phải đánh Hạc Bút Ông, tay trái đánh lòn dưới tay phải, trả lại Lộc Trượng Khách một đòn. Đây là chân lực đấu với chân lực, không ai có thể khéo léo ma mãnh gì được cả. Ba người bốn chưởng đụng nhau, ai nấy đều lảo đảo.

Hôm trước trên núi Võ Đương, Huyền Minh nhị lão song chưởng đánh với Trương Vô Kỵ, hai tay kia liền đánh ngay vào người Trương Vô Kỵ, lần này cũng giở đòn cũ, lại đánh thêm hai chưởng ra. Trương Vô Kỵ đã bị đòn một lần, lẽ nào lại còn đi theo vết xe cũ? Cùi chỏ chàng hơi chìm xuống, thi triển Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, nghe bụp một tiếng lớn, tả chưởng của Hạc Bút Ông liền đánh ngay vào hữu chưởng của Lộc Trượng Khách.

Hai người cùng học một thầy, chưởng pháp giống nhau, công lực ngang ngửa, cả hai liền bị chấn động đến cánh tay rã rời, còn làm cách nào mà hai sư huynh đệ lại đánh lẫn nhau, hai người võ công tuy cao, nhưng cũng không sao hiểu được cái áo diệu bên trong. Hai người còn đang kinh hãi tức tối, song chưởng của Trương Vô Kỵ đã đánh đến nơi. Huyền Minh nhị lão lại hai tay đánh ra, một bên thủ, một bên công, chưởng pháp hai người hoàn toàn khác hẳn hồi nãy. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lại vừa dẫn vừa kéo, tả chưởng của Lộc Trượng Khách lại đánh trúng ngay hữu chưởng của Hạc Bút Ông. Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp thật là khéo léo, tính toán lại thật là vừa vặn, không ai có thể ngờ nổi.

Huyền Minh nhị lão đều kinh hãi thất sắc, thấy Trương Vô Kỵ đánh ra lần thứ ba, không hẹn mà cùng đưa đơn chưởng ra chống đỡ. Ba người chân lực đụng nhau, Huyền Minh nhị lão thấy chưởng lực đối phương có một luồng thuần dương chân khí cuồn cuộn tuôn ra, khó mà đương cự nổi. Trương Vô Kỵ phát chưởng nhanh như gió, nghĩ đến năm xưa bị Hạc Bút Ông đánh một chưởng, trong mấy năm liền chịu biết bao thống khổ, cho nên chưởng đánh vào Lộc Trượng Khách còn nhẹ tay, còn đối với Hạc Bút Ông thật không nể nang chút nào.

Hơn hai mươi chưởng đánh ra, khuôn mặt xanh của Hạc Bút Ông biết thành đỏ rực. Y lại thấy đối phương đánh tới liền nhứ tay trái định hóa giải, tay phải tiếp theo hết sức đánh ra. Chỉ nghe hai tiếng bộp bộp, chưởng của Hạc Bút Ông trúng ngay vai Lộc Trượng Khách, còn chưởng của Trương Vô Kỵ trúng ngay ngực y. Trương Vô Kỵ chưa muốn lấy mạng đối phương, chưởng đó chỉ mới dùng ba thành chân lực, Hạc Bút Ông thân hình loạng choạng ọe một cái, hộc ra một ngụm máu tươi, khuôn mặt từ đỏ thành tím bầm. Nếu Trương Vô Kỵ thừa thế đánh thêm một chưởng thì y sẽ chết ngay tại đương trường, còn Lộc Trượng Khách vai bị trúng đòn, đau đến mặt mày biến sắc, môi cắn chặt bật cả máu ra.

Huyền Minh nhị lão là hai thủ hạ cao cường nhất của Triệu Mẫn, nào ngờ chưa đầy ba mươi chiêu đã bị thương cả. Các thủ hạ võ sĩ khác ai nấy thất sắc, ngay cả Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cũng kinh ngạc không ngờ. Hai người đã từng chính mắt trông thấy Huyền Minh nhị lão ra tay trên núi Võ Đương, Trương Vô Kỵ trúng chưởng bị thương, ngờ đâu chỉ qua vài tháng lại có thể tiến triển nhanh đến thế. Thế nhưng hai người cũng nghĩ ra ngay, Trương Vô Kỵ ở lại núi Võ Đương vài tháng, một mặt chữa trị cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình, một mặt học thêm của Trương Tam Phong những võ công tinh vi áo diệu, thành ra Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, với tuyệt học của phái Võ Đương là Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm cả ba dần dần dung hợp thành một. Hai người càng nghĩ càng thấy Trương Tam Phong võ học kỳ tài, quả xứng đáng với bốn chữ "không sao lường nổi".

Huyền Minh nhị lão đấu chưởng bại rồi, cả hai cùng hú lên một tiếng, đồng thới lấy binh khí ra. Lộc Trượng Khách trong tay cầm một thanh đoản trượng đen nhánh, đầu gậy chia ra hai nhánh như chiếc sừng hươu, không biết đúc bằng chất gì. Còn Hạc Bút Ông tay cầm song bút, đầu bút nhọn như mỏ chim hạc, sáng loáng như gương. Hai người đi theo Triệu Mẫn đã lâu, thế nhưng ngay nàng cũng chưa từng thấy họ sử dụng binh khí bao giờ. Ba món binh khí đó đánh ra, chỉ thấy một làn hắc khí, hai làn bạch khí quấn Trương Vô Kỵ vào giữa. Trương Vô Kỵ không mang binh khí, tay chân không quả có bất lợi, nhưng chàng chẳng sợ hãi gì, muốn thử xem võ công mình đến đâu, có thể tay không đánh với hai cao thủ được không.

Huyền Minh nhị lão tự cho mình nội lực thâm hậu, Huyền Minh thần chưởng là tuyệt học trong thiên hạ nên vừa bước ra liền cùng chàng đối chưởng, ngờ đâu Cửu Dương thần công không gì sánh kịp, chỉ vài chục chưởng đã thua. Binh khí của họ chỉ dùng chiêu số kỳ lạ để thắng, tên của hai người chính là do binh khí mà thành, đoản trượng sừng hươu và song bút mỏ hạc, chiêu nào chiêu nấy vô cùng lợi hại, trên đời ít thấy. Trương Vô Kỵ tập trung tinh thần, giữa ba món binh khí lượn qua lượn lại, công thủ dễ dàng nhưng nhất thời chưa nhìn ra đường đi nước bước của đối phương, muốn thắng cũng không phải dễ. Cũng may là Hạc Bút Ông mới bị thương nên ra chiêu chậm đi một chút.

Triệu Mẫn vỗ tay ba tiếng, trong điện ánh sáng lấp loáng, ba người tấn công Dương Tiêu, bốn người tấn công Vi Nhất Tiếu, còn hai người giơ binh khí chế ngự Chu Chỉ Nhược. Dương Tiêu lập tức cướp ngay được một thanh kiếm múa lên như ánh chớp, thoáng một cái đã khiến một người bị thương. Vi Nhất Tiếu cậy mình có khinh công tuyệt thế, dùng Hàn Băng Miên Chưởng đánh ngã hai người. Thế nhưng bên địch người quá đông, đánh ngã một người thì lập tức có hai người tiến lên.

Trương Vô Kỵ bị Huyền Minh nhị lão ngăn chặn, không cách gì có thể phân thân cứu viện. Chàng và Dương Vi ba người muốn chạy thoát, thật không có gì là khó, nhưng muốn cứu Chu Chỉ Nhược thì thật không sao làm được. Đang trong cơn gấp rút, bỗng nghe Triệu Mẫn nói:

- Tất cả ngừng tay.

Tuy tiếng nàng không lấy gì làm lớn nhưng các thủ hạ đều tuân lệnh, vội vàng lùi ra. Dương Tiêu vứt thanh kiếm xuống đất, Vi Nhất Tiếu cũng đoạt được một thanh đơn đao, thuận tay ném trả nguyên chủ, cười lên ha hả. Trương Vô Kỵ thấy một gã cầm đoản đao dí vào lưng Chu Chỉ Nhược, không khỏi lo lắng. Chu Chỉ Nhược buồn bã nói:

- Trương công tử, xin ba vị cứ tự nhiên. Tâm ý của ba vị, tiểu nữ cực kỳ cảm kích.

Triệu Mẫn cười nói:

- Trương công tử, cô gái hoa nhường nguyệt thẹn này, đến tôi cũng thích. Có phải cô ta là ý trung nhân của công tử không?

Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên nói:

- Chu cô nương và tôi biết nhau từ nhỏ. Tại hạ khi còn bé trúng phải Huyền Minh thần chưởng của vị này...

Nói tới đây chỉ vào Hạc Bút Ông:

- ...âm độc vào trong cơ thể, toàn thân khó mà cử động, may nhờ Chu cô nương chăm sóc cho ăn cho uống, cái ân đức đó, không bao giờ quên.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu như thế, hai người có cái tình thanh mai trúc mã[1]đấy nhỉ? Anh định lấy nàng làm giáo chủ phu nhân, phải không?

Trương Vô Kỵ mặt lại đỏ lên nói:

- Hung nô chưa diệt, nói gì đến chuyện gia thất.

Triệu Mẫn mặt sầm xuống nói:

- Anh nhất định chống tôi đến cùng, không diệt được tôi thì không được, có phải vậy chăng?

Trương Vô Kỵ lắc đầu nói:

- Cho đến giờ này tôi nào đã biết gì về lai lịch của cô, tuy trước đây có vài lần tranh chấp, nhưng lần nào cũng là do cô tìm đến gây chuyện với Trương Vô Kỵ, đâu có phải Trương mỗ tìm cô nương kiếm chuyện. Chỉ cần cô nương thả sư bá sư thúc cùng các môn phái võ lâm ra, tại hạ cực kỳ cảm kích, không dám có địch ý với cô nương. Huống chi cô còn sai tôi làm ba chuyện, tại hạ nhất định tận tâm kiệt lực, không dám dối dá cho xong.

Triệu Mẫn thấy chàng nói thật thành khẩn, trên mặt liền hiện vẻ vui mừng, chẳng khác gì bông hoa vừa hé nhụy, cười nói:

- Ha, thì ra anh vẫn chưa quên.

Nàng quay sang liếc Chu Chỉ Nhược một cái, nói với Trương Vô Kỵ:

- Nếu cô nương này không phải là ý trung nhân của anh, cũng không phải sư huynh sư muội, vợ chồng chưa cưới, thì nếu tôi có hủy dung mạo cô ta cũng có liên quan gì đến anh...

Nàng đưa mắt một cái, Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông lập tức cầm binh khí đứng chắn ngay trước mặt Chu Chỉ Nhược, còn một hán tử cầm dao sắc, để luôn vào mặt Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ nếu như muốn xông lên cứu người, cái ải Huyền Minh nhị lão chưa dễ qua được. Triệu Mẫn cười nhạt nói:

- Trương công tử, anh có nói thực cho tôi không nào?

Vi Nhất Tiếu đột nhiên ngửa tay ra, nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, giơ ra xoa xoa mấy cái vào gót giày, cười lên ha hả, mọi người chưa biết y định làm trò quỉ gì, bỗng hấy một ánh xanh thấp thoáng. Triệu Mẫn cảm thấy má mình như có ai sờ phải, nhìn lại Vi Nhất Tiếu thì y đã đứng lại chỗ cũ nhưng tay cầm thêm hai thanh đoản đao, không biết lấy được của ai. Triệu Mẫn chợt động tâm, biết rằng không ổn, chẳng dám đưa tay chùi mặt, vội lấy khăn tay ra lau quả nhiên khăn đen sì bùn đất, đúng là nước bọt trộn chất bẩn nơi gót giày của Vi Nhất Tiếu, càng nghĩ càng thêm lợm giọng.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Triệu cô nương, cô muốn hủy dung mạo Chu cô nương, cái đó cũng tùy cô. Thế nhưng nếu như cô tâm địa độc ác thế, họ Vi này cũng chẳng bỏ qua đâu. Hôm nay cô rạch một đường trên mặt Chu cô nương, họ Vi này sẽ trả lại gấp đôi, rạch cô hai nhát. Cô rạch hai đường, ta rạch lại bốn đường, cô chặt một ngón tay, ta chặt cô hai ngón.

Y nói đến đây, lấy hai thanh đoản đao trong tay gõ vào nhau nghe keng một tiếng, tiếp:

- Họ Vi này nói được là làm được, Thanh Dực Bức Vương nói ra giữ lời, trước nay chưa bao giờ nói ngoa. Cô đề phòng được sáu tháng, một năm chứ làm sao đề phòng được tám năm, mười năm. Còn cô muốn sai người giết tôi ư, chưa chắc đuổi kịp. Cáo từ nhé!

Chữ "nhé" vừa dứt, y đã biến đâu mất, chỉ nghe hai tiếng phập phập, hai thanh đoản đao đã cắm vào trên cột, tiếp theo "Ối chà" "Ối" hai tiếng, hai tên phiên tăng ngồi phịch xuống, trường kiếm trong tay đã bị Vi Nhất Tiếu đoạt mất từ hồi nào, huyệt đạo trên người cũng bị điểm trúng.

Mấy câu đó Vi Nhất Tiếu nói ra nghe chẳng có ghê gớm, nhưng ai cũng biết y không chỉ dọa xuông, thấy khuôn mặt trắng trẻo của Triệu Mẫn có ẩn nét hồng, trên làn da mịn màng như mỡ đông kia bị Vi Nhất Tiếu quẹt mấy đường đất bẩn. Nếu như trong tay y là một con dao, khuôn mặt nàng ắt đã bị hủy rồi. Thân pháp y nhanh như chớp, không khác gì quỉ mị thì dù có cao thủ như Trương Vô Kỵ cũng phải chịu thua. Nếu chạy đường dài, Trương Vô Kỵ còn có thể dựa vào nội lực mà thắng, nhưng nếu chỉ ở bên trong một gian phòng thì tiến thoái nhanh như thế, thiên hạ không ai có thể hơn y được.

Trương Vô Kỵ cúi mình vái chào, nói:

- Triệu cô nương, hôm nay đắc tội vậy xin cáo từ.

Nói xong dắt tay Dương Tiêu, quay mình đi ra khỏi điện, trong bụng biết rằng Triệu Mẫn bị Vi Nhất Tiếu dọa như thế, ắt không dám giở trò gì với Chu Chỉ Nhược đâu.

Triệu Mẫn nhìn bóng hai người đi khỏi, vừa thẹn vừa tức nhưng không dám ra lệnh cho người giữ lại.

Trương Vô Kỵ và Dương Tiêu về đến khách điếm, Vi Nhất Tiếu đã ngồi chờ sẵn. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Vi Bức Vương, hôm nay ông làm cho họ tởn mặt, để biết rằng Minh giáo không phải dễ đối phó.

Vi Nhất Tiếu cười:

- Dọa một tiểu cô nương thì có gì là khó đâu. Nàng ta làm ra vẻ hung thần ác sát nhưng nghe tôi dọa hủy dung mạo, bảo đảm là ba ngày ba đêm sẽ không ngủ được cho mà xem.

Dương Tiêu cũng cười:

- Nàng ta ngủ không được thì thật không hay chút nào, bọn mình đến cứu người lại càng khó khăn thêm.

Trương Vô Kỵ nói:

- Dương tả sứ, nói đến cứu người, ông có diệu kế gì không?

Dương Tiêu ngần ngừ nói:

- Bên mình ở đây chỉ có ba người, huống chi hình tích lại đã bại lộ rồi, chuyện này quả là bó tay thôi.

Trương Vô Kỵ sượng sùng nói:

- Tôi thấy Chu cô nương bị nguy nhịn không nổi nên ra tay thành ra làm hỏng đại sự.

Dương Tiêu nói:

- Đã đến nước đó, ai thì cũng không nhịn nổi thôi. Giáo chủ một mình đánh bại Huyền Minh nhị lão làm cho bọn địch mất hết uy phong, cũng là hay lắm. Huống chi bọn chúng biết được là mình đã đến đây rồi, đối với nhóm Tống đại hiệp ắt không dám vô lễ quá đáng.

Triệu Mẫn đối với Hà Thái Xung, Đường Văn Lượng dày vò nhục nhã như thế, Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá, Du nhị sư bá các người đang nằm trong tay kẻ địch, không khỏi lo lắng rất mực. Ba người bàn thảo một hồi nhưng chưa tìm ra phương cách nào, đành phải chia tay đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau, trong giấc ngủ Trương Vô Kỵ nghe dường như ngoài cửa sổ có tiếng động, lập tức tỉnh dậy, vừa mở mắt ra, thấy cánh cửa từ từ mở ra, có người thò đầu vào nhìn chàng. Chàng kinh hãi vén màn lên coi, thấy khuôn mặt đó nhằng nhịt đầy vết sẹo, xấu xí đến ghê người, chính là gã khổ đầu đà. Chàng định thần nhảy từ trên giường xuống, thấy y ngơ ngẩn nhìn mình, nhưng xem ra không có ý ra tay làm hại. Trương Vô Kỵ gọi lớn:

- Dương tả sứ, Vi Bức Vương.

Dương Vi hai người ở phòng bên lên tiếng đáp lại. Chàng cảm thấy yên tâm, thấy khuôn mặt khổ đầu đà đã biến mất sau cửa sổ, vội vàng theo đó nhảy ra, thấy khổ đầu đà đang hấp tấp đi ra khỏi cửa chính. Lúc đó Dương Vi đã đến nơi, thấy bên ngoài không còn kẻ địch nào khác, ba người liền đuổi theo khổ đầu đà. Khổ đầu đà đợi ngay góc đường, thấy ba người ra đến lập tức quay mình chạy về hướng bắc, tuy rảo bước nhưng không chạy. Ba người ra hiệu cho nhau, lập tức theo sau.

Khi đó trời mờ mờ sáng, trên đường còn vắng vẻ nên chẳng mấy chốc đã ra khỏi cửa bắc. Khổ đầu đà tiếp tục đi, rẽ vào một con đường nhỏ, rồi lại đi thêm đến bảy tám dặm, đến một cái gò đầy đá tảng, lúc ấy mới ngừng. Y quay lại vẫy tay ra hiệu cho Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu hai người đứng tránh ra, sau đó ôm quyền chào Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ hoàn lễ, trong bụng nghĩ thầm: "Gã đầu đà này đưa bọn ta đến đây không biết có dụng ý gì? Ở đây chung quanh không có ai, nếu như động võ, y một mình địch với ba người, quả thực vô cùng bất lợi. Xem cách thức của y dường như không có địch ý".

Chàng còn đang tính toán, khổ đầu đà đã gầm gừ, song trảo vồ tới. Y tay trái dùng hổ trảo, tay phải long trảo, mười ngón tay như mười cái móc, thế công cực kỳ mãnh liệt.

Trương Vô Kỵ tay phải vung lên hóa giải chiêu đó hỏi lại:

- Thượng nhân muốn gì? Xin nói rõ tôn ý trước, sau hãy hành động cũng chưa muộn.

Khổ đầu đà không để ý tới, làm như không nghe chàng nói gì, tay trái từ hổ trảo biến thành ưng trảo, tay phải từ long trảo biến thành hổ trảo, một bên đánh vào vai, một bên đánh vào bụng ra tay thật ác độc. Trương Vô Kỵ nói:

- Không lẽ không đánh nhau không được hay sao?

Khổ đầu đà chiêu lại biến ngay, ưng trảo liền thành sư chưởng, hổ trảo đổi ra hạc chủy, một bên đánh ra, một bên mổ tới. Chỉ mới ba chiêu, hai tay y đã biến sáu tư thức liền.

Trương Vô Kỵ không dám coi thường vội vàng thi triển Thái Cực Quyền, thân hình chẳng khác gì nước chảy mây trôi, đấu với y trên đống đá ngổn ngang. Khổ đầu đà chiêu số thật là phức tạp, có khi thì sử dụng võ công hoàn toàn quang minh chính đại, có lúc lại quái dị lạ lùng, toàn là võ công tà phái, rõ là tà chính kiêm tu, uyên bác vô cùng. Trương Vô Kỵ chỉ dùng Thái Cực Quyền để chiến đấu, đến bảy tám mươi chiêu, khổ đầu đà vù một tiếng, đánh một quyền thẳng vào trung cung. Trương Vô Kỵ dùng chiêu Như Phong Tự Bế, vây chặt lấy quyền lực của y, tiếp theo là chiêu Đơn Tiên, tay trái đánh vào lưng, nhưng chưởng đó không dùng nội lực, chỉ đụng tới rồi thu về.

Khổ đầu đà biết chàng hạ thủ lưu tình, nhảy về phía sau, nghiêng đầu nhìn Trương Vô Kỵ một hồi, đột nhiên giơ tay ra hiệu cho Dương Tiêu, muốn mượn thanh trường kiếm đang đeo. Dương Tiêu cởi giây buộc, cả kiếm lẫn bao hay tay thẩy tới trước mặt khổ đầu đà. Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên thầm hỏi: "Tại sao Dương tả sứ lại đưa binh khí cho kẻ địch mượn là sao?".

Khổ đầu đà rút kiếm ra khỏi bao, ra hiệu cho Trương Vô Kỵ mượn kiếm của Vi Nhất Tiếu. Trương Vô Kỵ lắc đầu, cầm lấy cái vỏ trên tay y, sử chiêu "Thỉnh Thủ", dùng bao kiếm làm kiếm, tay trái thành kiếm quyết, múa vòng qua trước mặt, khổ đầu đà liền xeo xéo đâm lại một nhát. Trương Vô Kỵ đã thấy y dạy kiếm cho Triệu Mẫn, biết y kiếm thuật cực kỳ cao minh, nên sử dụng môn võ chàng nghiền ngẫm tập luyện mấy tháng qua trên núi Võ Đương là Thái Cực Kiếm, tập trung tinh thần tiếp chiến. Chỉ thấy đối phương kiếm chiêu khi nhanh khi chậm, chỗ nào cũng dấu những thế lợi hại, nhưng Trương Vô Kỵ vừa ra chiêu sách giải là y thu kiếm lại ngay, sử qua chiêu khác, làm như chẳng chiêu nào sử dụng đến đầu đến đũa.

Trương Vô Kỵ trong bụng khen thầm: "Nếu sáu tháng trước mình gặp phải y, kiếm pháp mình không phải là địch thủ. So với Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch, khổ đầu đà còn cao hơn một mức".

Chàng nổi lòng yêu tài, không muốn thắng y bằng chiêu số. Khổ đầu đà trường kiếm múa tít lên, sử thế Loạn Phi Phong, lưỡi kiếm dưới ánh mặt trời chẳng khác gì hàng nghìn hàng vạn con rắn vàng đang lồng lộn. Chàng liền nhắm kỹ, đảo ngược cái bao kiếm lại, nghe soẹt một tiếng, bao kiếm đã chụp luôn vào lưỡi kiếm, hai tay khua một vòng nhẹ nhàng nắm ngay hai cổ tay khổ đầu đà, mỉm cười tung mình nhảy vọt về phía sau. Khi đó nếu tay chàng chỉ hơi sử kình thì đã đoạt ngay được thanh trường kiếm. Chiêu này dùng đoạt kiếm thật là hung hiểm, lại cũng thật là khéo léo.

Chàng nhảy về sau, chân chưa chấm đất, khổ đầu đà đã vứt trường kiếm xuống, nghe vù một tiếng đánh ngay một chưởng. Trương Vô Kỵ nghe tiếng gió, biết ngay chưởng này chân lực sung mãn, mạnh mẽ vô cùng, có ý muốn xem y nội công bực nào, chưởng phải xoay lại, đón ngay lấy chưởng của y, chân trái lúc ấy mới đụng đất. Chỉ trong giây lát, nội lực của khổ đầu đà cuồn cuộn tuôn ra, Trương Vô Kỵ liền vận Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ bảy, đem nội lực của y dần dần tụ lại, đột nhiên quát lên một tiếng, đánh ngược trở về, không khác nào chiếc hồ tích đầy nước bất ngờ đổ ào đánh vỡ bờ đê, nước cuồn cuộn tuôn ra, bao nhiêu chưởng lực khổ đầu đà đánh tới nay trả lại.

Chiêu đó đem tất cả hơn một chục chưởng của đối phương tụ thành một chưởng đánh ra, trên đời không ai có thể có nội lực mạnh đến thế. Nếu như khổ đầu đà bị trúng chưởng này, ắt sẽ cổ tay, cánh tay, đầu vai, xương sườn tất cả đều gãy nát, đến máu cũng không ọc ra nổi, thành ra một khối thịt bầy nhầy, chết thảm khốc không sao kể xiết.

Khi đó song chưởng hai bên dính chặt vào nhau, khổ đầu đà không cách gì có thể né tránh, Trương Vô Kỵ tay trái liền thò ra nắm ngực y tung lên, thân thể cao to của khổ đầu đà bay vụt lên trời, nghe bình một tiếng lớn, loạn thạch bay tung tóe, chưởng lực ghê gớm đó đã đánh trúng ngay những tảng đá.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu đứng bên thấy tình hình như vậy, cả hai cùng kinh hãi kêu lên. Hai người nghĩ khổ đầu đà cùng giáo chủ tỉ đấu nội lực, ít ra cũng phải thời gian uống một chén trà mới phân cao thấp, đâu ngờ chỉ trong giây lát, đã đến lúc sinh tử quan đầu. Hai người trong bụng tuy có điều muốn nói, nhưng chưa kịp nói ra, đến khi khổ đầu đà bình an rớt xuống, lòng bàn tay hai người đều toát mồ hôi.

Khổ đầu đà hai chân vừa chạm đất, lập tức hai tay để theo hình ngọn lửa đang bốc cháy, đặt lên ngực, cúi mình chào Trương Vô Kỵ, nói:

- Tiểu nhân Quang Minh hữu sứ Phạm Dao, tham kiến giáo chủ. Kính tạ cái ơn tha chết, tiểu nhân vô lễ mạo phạm, mong được tha tội cho.

Y hơn chục năm qua không mở mồm nói, thanh âm không mấy tự nhiên. Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa sợ, gã khổ đầu đà câm này mở miệng nói ra, hóa ra lại là Quang Minh hữu sứ của bản giáo, chuyện đó không sao ngờ được. Chàng vội đưa tay đỡ y lên nói:

- Thì ra là Phạm hữu sứ của bản giáo, thật là mừng không sao kể xiết, người nhà với nhau không cần đa lễ làm gì.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu khi đi theo đến gò loạn thạch đã đoán được ba phần, chỉ hiềm diện mạo Phạm Dao biến đổi quá nhiều, không tiện lên tiếng hỏi. Đến khi y thi triển võ công, hai người đoán ra đến tám chín phần, bây giờ nghe y tự báo tính danh, hai người liền tiến lên, nắm chặt lấy tay y. Dương Tiêu chăm chăm nhìn mặt y một hồi, nước mắt lã chã nói:

- Phạm hiền đệ, ca ca đâu ngờ em lại ra nông nỗi này.

Phạm Dao cũng nắm tay Dương Tiêu nói:

- Đại ca, đa tạ Minh Tôn phù trì, cho mình một vị giáo chủ tài ba đến thế, cho nên anh em mới có dịp gặp gỡ hôm nay.

Dương Tiêu hỏi:

- Huynh đệ sao lại biến thành thế này là sao?

Phạm Dao đáp:

- Nếu như tiểu đệ không tự hủy dung mạo thì làm sao đánh lừa được tên gian tặc Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn?

Ba người nghe rồi mới biết y cố ý hủy khuôn mặt, lẻn vào nằm phục trong phe địch. Dương Tiêu càng thêm thương cảm, nói:

- Huynh đệ, cái đó thật là khổ cho ngươi.

Dương Tiêu, Phạm Dao hai người năm xưa được giới giang hồ gọi tên là "Tiêu Dao nhị tiên", là hai chàng trai tiêu sái đẹp đẽ, Phạm Dao lại tự mình hủy hoại nhan diện đến như thế, phải biết đau lòng đến chừng nào, người thường khó mà làm nổi. Vi Nhất Tiếu trước nay không mấy hòa thuận với Phạm Dao, bây giờ trong lòng cực kỳ cảm kích, phục xuống lạy nói:

- Phạm hữu sứ, Vi Nhất Tiếu này đến hôm nay mới thực sự phục ngươi.

Phạm Dao quì xuống trả lễ, cười nói:

- Vi Bức Vương khinh công độc bộ thiên hạ, còn hơn năm xưa nhiều, khổ đầu đà đêm qua quả thật mở mắt.

Dương Tiêu nhìn quanh bốn bề nói:

- Nơi này cách kinh thành không xa, tai mắt của kẻ địch rất nhiều, bọn mình đến thung lũng phía trước nói chuyện.

Bốn người chạy thêm mươi dặm nữa, đến sau một cái đồi. Ở đây nhìn chung quanh quan sát được cả dặm, không ngại có người nằm ẩn đâu đó nghe trộm, ở xa lại không nhìn thấy tình cảnh đẳng sau gò. Bốn người ngồi xuống, kể lại đầu đuôi khúc nhôi.

Năm xưa khi Dương Đính Thiên đột nhiên mất tích, các cao thủ Minh giáo tranh chấp địa vị giáo chủ, chẳng ai chịu nhường ai, đến thành chia năm xẻ bảy. Phạm Dao thì cho rằng giáo chủ chưa chết, một mình lê bước giang hồ, đi tìm tung tích của Dương Đính Thiên. Qua mấy năm liền không thấy chút dấu vết nào, về sau lại nghĩ hay là Cái Bang làm hại, lén bắt cóc mấy nhân vật trọng yếu của Cái Bang khảo đả bắt phải khai ra, nhưng không tìm được chút đầu mối nào, lại giết chết không ít bang chúng Cái Bang vô tội. Về sau nghe thấy người trong Minh giáo phân tranh, càng lúc càng thêm khốc liệt, lại có người đi tìm y, muốn y đứng lên làm đầu não. Phạm Dao tuyệt nhiên không có ý muốn tranh ngôi giáo chủ, cũng không muốn vướng vào vòng tranh chấp, nên ẩn trốn thật xa, lại e anh em trong Minh giáo gặp được nên để râu dài, giả làm một thư sinh già cả ngao du đó đây, tiêu dao tự tại.

Một hôm y ở Đại Đô gặp phải một người, nhận ra y là sư huynh của giáo chủ phu nhân Thành Côn, không khỏi ngầm kinh hãi. Lúc đó trong võ lâm đang loan truyền tin tức không ít cao thủ bị người giết chết, trên tường để lại hàng chữ: "Kẻ giết người là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn". Y muốn tra xét xem sự thực như thế nào, lại cũng muốn do thám xem tung tích Dương giáo chủ ở Thành Côn, nên đi theo ở xa xa. Y thấy Thành Côn đi vào một tòa tửu lâu, nơi đó đã có hai lão già đợi sẵn, chính là Huyền Minh nhị lão.

Phạm Dao biết Thành Côn võ công cao cường, nên ngồi xa xa giả vờ uống rượu, chỉ nghe loáng thoáng ba người nói chuyện nhưng nghe rõ ràng họ nói câu "cần phải phá hủy Quang Minh Đính". Phạm Dao nghe thấy bản giáo gặp nạn, không thể thõng tay không ngó ngàng gì, nên len lén đi theo, thấy cả ba người vào phủ Nhữ Dương Vương. Về sau lại tra ra là Huyền Minh nhị lão chính là hai cao thủ đứng đầu trong các võ sĩ của vương phủ.

Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ[2] làm quan Thái Úy, chấp chưởng binh mã đại quyền, trí dũng song toàn, là người tài ba nhất trong triều đình. Nghĩa quân vùng Giang Hoài khởi sự bị y đem quân tiễu trừ, mấy lần nổi lên đều thất bại cũng vì Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ điều binh có phương lược. Bọn Trương Vô Kỵ đã nghe tên y từ lâu, nay mới biết bọn Lộc Trượng Khách là thủ hạ của y, tuy không kinh hãi nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên.

Hồi 26

TUẤN MẠO NGỌC DIỆN CAM HỦY THƯƠNG-

Dương Tiêu hỏi:

- Thế Triệu cô nương đó là ai?

Phạm Dao hỏi lại:

- Đại ca thử đoán xem nào?

Dương Tiêu đáp:

- Chẳng lẽ cô ta là con gái của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ?

Phạm Dao vỗ tay cười:

- Đúng đó, đoán một lần là đúng ngay. Nhữ Dương Vương sinh được một trai một gái, con trai là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, con gái là cô nương đó, tên Mông Cổ của cô ta là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ là thế tử của Nhữ Dương Vương, sau này sẽ tập vương tước, còn cô gái được phong làm Thiệu Mẫn quận chúa. Cả hai người con đều hiếu võ, ai cũng giỏi võ công. Hai người lại thích ăn mặc như người Hán, nói tiếng Hán, lại lấy một cái tên Hán, con trai là Vương Bảo Bảo, con gái là Triệu Mẫn. Triệu Mẫn chính là từ tước hiệu Thiệu Mẫn quận chúa mà ra.

Vi Nhất Tiếu cười:

- Hai anh em nhà này kể cũng lạ, một người họ Vương, một người họ Triệu, nếu như là người Hán mình thì tức cười đến chết được.

Phạm Dao nói:

- Thật ra họ đều thuộc họ Đặc Mục Nhĩ, nhưng tên lại để trước, phong tục của phiên bang là như thế. Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ cũng có tên Hán, ông ta họ Lý.

Nói đến đây cả bốn người cùng cười ồ[3].

Dương Tiêu nói:

- Triệu cô nương dung mạo hình dáng, có thể nói là một mỹ nữ người Hán. Thế nhưng khi nhìn nàng hành sự, tính tình man dã của con gái phiên bang lập tức hiện ra ngay.

Trương Vô Kỵ đến bây giờ mới biết lai lịch của Triệu Mẫn, tuy vẫn biết nàng hẳn là quí nhân trong triều đình nhưng không ngờ lại là quận chúa con gái của vị đại nguyên soái thống lãnh thiên hạ binh mã. Mấy lần chàng đụng độ với cô ta, lần nào cũng bị lép vế không nhiều thì ít, tuy võ công nàng không bằng mình, nhưng mưu lược tâm cơ, biến hóa vô cùng, chàng quyết không phải là địch thủ.

Phạm Dao lại kể tiếp:

- Thuộc hạ vẫn ngầm thám thính, biết Nhữ Dương Vương quyết tâm tiêu diệt hết các môn phái bang hội. Y nghe theo kế của Thành Côn, việc đầu tiên là làm sao tiêu diệt bản giáo. Tôi suy nghĩ rất kỹ, nội bộ của mình đang phân tranh khốc liệt, ngoại địch lại mạnh mẽ như thế, cái họa diệt vong thật ngay trước mắt, muốn tìm cách cứu thì phải làm sao trà trộn vào trong vương phủ, tìm cho ra âm mưu của Nhữ Dương Vương, rồi tùy cơ giải cứu, ngoài cách đó ra, không còn cách nào khác.

Có điều tôi vẫn ngạc nhiên không hiểu được là Thành Côn vốn là sư huynh của Dương giáo chủ phu nhân, lại là sư phụ của Tạ Pháp Vương, vì sao lại đối đầu với bản giáo một cách quyết liệt tàn độc đến thế. Nguyên do bên trong, không thể nào nghĩ ra được, chỉ nghĩ y tham đồ phú quí diệt bản giáo để lập công với triều đình. Tuy những anh em trong bản giáo biết Thành Côn không nhiều nhưng tôi đã gặp y rồi sợ y sẽ nhận ra và mưu tính của tôi sẽ bị bại lộ nên phải nghĩ cách giết y cho được.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Đúng là như thế.

Phạm Dao nói tiếp:

- Thế nhưng tên này quả thực giảo hoạt, võ công lại cao siêu, tôi liên tiếp ám toán y ba lần đều không thành công. Lần thứ ba tuy có đâm được y một kiếm, nhưng tôi cũng bị y đánh trúng một chưởng, cũng may mà chạy thoát được không đến nỗi lộ hình tích, nhưng cũng bị trọng thương phải dưỡng bệnh hơn một năm mới khỏi.

Khi đó Nhữ Dương Vương phủ đang toan tính việc tiêu diệt giới giang hồ, tôi nghĩ nếu mình có cải trang thì cũng chỉ được một thời gian. Năm xưa tôi cùng Dương huynh cùng nổi tiếng, trên giang hồ không phải là ít người biết mặt biết tên Tiêu Dao nhị tiên, nếu để lâu thể nào cũng lộ hình tích, đành nghiến răng hủy dung mạo mình, giả làm một đầu đà để tóc, dùng thuốc nhuộm đầu rồi đi sang nước Hoa Thích Tử Mô[4] bên Tây Vực.

Vi Nhất Tiếu lạ lùng hỏi:

- Sang bên Hoa Thích Tử Mô? Đường xa hàng vạn dặm, có liên can gì đến vụ này đâu?

Phạm Dao mỉm cười, đang định trả lời Dương Tiêu đã vỗ tay nói:

- Kế đó hay lắm. Vi huynh, Phạm huynh đệ sang nước Hoa Thích Tử Mô, tìm cách biểu diễn tài năng, các vương công Mông Cổ nhất định thu dụng. Nhữ Dương Vương đang lúc chiêu mộ võ sĩ bốn phương, vua chúa nước Hoa Thích Tử Mô muốn lấy lòng Nhữ Dương Vương thể nào chẳng đưa y sang vương phủ để lập công. Như thế, Phạm huynh đệ thành võ sĩ sắc mục từ bên Hoa Thích Tử Mô cống hiến, dung mạo lại biến đổi rồi, không mở miệng nói năng, Thành Côn dù có tài thánh cũng không nhận ra được.

Vi Nhất Tiếu thở dài một tiếng, nói:

- Dương giáo chủ để Tiêu Dao nhị tiên đứng trên Tứ Đại Pháp Vương, quả thực có mắt. Kế mưu đó Ưng Vương, Bức Vương không thể nào nghĩ ra được.

Phạm Dao đáp:

- Vi huynh khen quá lời. Quả đúng như Dương tả sứ đã liệu, tôi ở Hoa Thích Tử Mô giết sư tử đánh hổ, cũng có chút uy danh, vương công nơi đó liền đưa tôi vào Nhữ Dương Vương phủ. Thế nhưng lúc đó Thành Côn không còn ở trong vương phủ nữa không biết đi đâu.

Dương Tiêu liền thuật sơ qua cho Phạm Dao nghe Thành Côn kết oán với Minh giáo ra sao, lén lên Quang Minh Đính đánh trộm thế nào, rồi gian mưu bị Trương Vô Kỵ nói toạc ra sao, sau đấu nội lực với Ân Dã Vương chết như thế nào.

Phạm Dao nghe xong, ngơ ngẩn xuất thần, mới biết bên trong có nhiều điều uẩn khúc, đứng lên, cung kính nói với Trương Vô Kỵ:

- Giáo chủ, có một chuyện thuộc hạ phải thú tội với giáo chủ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Phạm hữu sứ hà tất quá khiêm tốn như thế.

Phạm Dao nói:

- Thuộc hạ đến Nhữ Dương Vương phủ rồi, để làm cho vương gia tin tưởng, tại nơi phố chợ kinh thành Đại Đô này, chính tay đánh chết ba tên hương chủ của bản giáo để cho mọi người biết bản nhân và Minh giáo đã có thù từ trước.

Trương Vô Kỵ không nói gì, nghĩ thầm: "Tàn sát anh em trong bản giáo là một trong năm điều đại cấm kỵ. Dương tả sứ, tứ pháp vương, ngũ hành kỳ các người tranh đoạt chức vị giáo chủ, tuy đánh nhau dữ dội nhưng không ai dám giết anh em trong Minh giáo. Tội này của Phạm hữu sứ thực không nhỏ, nhưng y bản tâm chỉ muốn hộ giáo, chẳng phải vì tư thù, theo lý thì không thể trách phạt y được". Chàng bèn nói:

- Phạm hữu sứ vì tấm lòng muốn hộ giáo, bản nhân không thể trách cứ được.

Phạm Dao khom mình nói:

- Tạ ơn giáo chủ tha tội.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Vị Phạm hữu sứ này hành sự tàn nhẫn cũng ít ai dám làm. Y dám rạch lên mặt mình bảy tám nhát dao, nếu có giết vài tên hương chủ trong bản giáo chắc y cũng chẳng coi vào đâu. Minh giáo bị người ta gọi là tà ma ngoại đạo, cũng có nguyên do, không biết làm sao mai này y có thể thay đổi cái tà khí đó được?".

Phạm Dao thấy Trương Vô Kỵ bề ngoài nói là "không thể trách cứ", nhưng mặt lại lộ vẻ bất bình, liền giơ tay rút phắt ngay kiếm Dương Tiêu đeo ngang lưng, tay trái vung lên, chặt đứt ngay hai ngón tay phải. Trương Vô Kỵ giật mình hoảng hốt, giơ tay giựt lại thanh kiếm, hỏi:

- Phạm hữu sứ, ông ... ông ...sao thế?

Phạm Dao đáp:

- Tàn sát anh em vô tội trong bản giáo là một trọng tội. Phạm Dao đại sự chưa thành, không thể tự tận, chặt hai ngón tay trước, ngày sau sẽ chặt cái đầu trên cổ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bản nhân đã tha có cái lỗi cũ của Phạm hữu sứ rồi, sao lại còn phải khổ như thế? Thân đang phải lo nhiệm vụ quan trọng ắt phải tòng quyền. Phạm hữu sứ, chuyện này về sau không đề cập nữa.

Chàng vội lấy kim sang ra rịt vào vết thương cho y, tự xé vạt áo mình băng lại, biết người này tính quật cường, nói năng không thể xúc phạm đến y mà đến vẻ mặt cũng không thể khó chịu. Chàng nghĩ đến đó, sợ y sau này tự vẫn tạ tội thật, y đã vì bản giáo mà phải chịu biết bao nhiêu đắng cay, trong lòng hết sức cảm động, đột nhiên quì xuống, nói:

- Phạm hữu sứ, ông lập đại công cho bản giáo, xin nhận một lạy này. Nếu ông còn tự tàn hại thân thể, ấy là bảo tôi vô đức vô năng, không xứng đáng với nhiệm vụ giáo chủ. Ông còn tự mình đâm một kiếm, tôi sẽ đâm tôi hai kiếm. Tôi tuổi trẻ kiến thức nông cạn, không rõ sự tình thành ra không phân biệt được thế nào là tốt thế nào là xấu.

Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ quì xuống cũng lật đật lạy phục dưới đất. Dương Tiêu gạt lệ nói:

- Phạm huynh đệ, ngươi không nên làm như thế. Bản giáo hưng suy toàn ở một mình giáo chủ, giáo chủ đã ra lệnh, ngươi nhất quyết không được vi phạm.

Phạm Dao lạy tạ nói:

- Thuộc hạ hôm nay tỷ kiếm thí chưởng, đối với giáo chủ dĩ nhiên kính phục lắm rồi. Khổ đầu đà tính tính ngang ngạnh, xin giáo chủ tha tội cho.

Trương Vô Kỵ hai tay đỡ y dậy. Chuyện này qua rồi, hai người trong lòng càng hiểu nhau hơn, không còn gì ngăn cách nữa. Phạm Dao lại kể tiếp những chuyện đã thấy đã nghe trong Nhữ Dương Vương phủ.

Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ thực sự là người có tài dùng binh, tuy nắm binh quyền nhưng triều chính bị kẻ gian chèn ép, lại thêm đương kim hoàng đế hôn ám vô đạo, khiến cho thiên hạ đại loạn, dân tâm công phẫn, toàn nhờ vào công Nhữ Dương Vương đông chinh tây thảo, đánh dẹp nghĩa quân. Thế nhưng diệt xong nơi này thì nơi khác lại nổi lên, không lúc nào yên, Nhữ Dương Vương vì bận chuyện điều binh khiển tướng nên chuyện tiêu diệt các môn phái bang hội phải dẹp qua một bên.

Mấy năm sau, con trai con gái của y khôn lớn, thế tử Khố Khố Đặc Mục Nhĩ theo cha chỉ huy quân, con gái Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ thì thống suất võ sĩ Mông Hán, phiên tăng Tây Vực tấn công các môn phái. Thành Côn đứng bên trong ngầm giúp nàng đưa ra sách lược, nhân dịp lục môn phái vây đánh Quang Minh Đính, Triệu Mẫn liền dẫn các đại cao thủ, mưu toan thừa cơ ngư ông đắc lợi, diệt luôn cả Minh giáo lẫn sáu đại môn phái. Việc hạ độc ở Lục Liễu Sơn Trang chính là vì thế mà ra. Có điều khi đó Phạm Dao phụng mệnh bảo vệ Nhữ Dương Vương nên không tham dự chuyến du hành Tây Vực, cho nên mãi về sau mới biết. Phạm Dao cho biết thêm, y ở phủ Nhữ Dương Vương tuy không lộ hình tích nhưng vì từ Tây Vực đến, Triệu Mẫn cũng không cho y tham gia chiến dịch, có lẽ đó cũng là chủ ý của Thành Côn không chừng.

Triệu Mẫn dùng độc dược các phiên tăng hiến cho nàng là Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, bỏ vào đồ ăn thức uống của sáu đại môn phái từ Quang Minh Đính trở xuống. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán này không sắc, không mùi, bỏ vào nước trà thì ai mà nhận ra cho được? Chất độc dược này một khi phát tác, lập tức toàn thân gân cốt mềm nhũn, một vài ngày sau, tuy có thể hành động như thường nhưng nội lực hoàn toàn không thể phát huy, cho nên các cao thủ của lục đại môn phái viễn chinh Quang Minh Đính chỉ trong vòng một tháng đều bị sa lưới.

Riêng phái Thiếu Lâm thì đoàn người thứ ba do Không Tính chỉ huy kẻ hạ độc sơ xuất bị lộ, hai bên liền giao tranh. Không Tính bị "A Tam" giết chết, những người còn lại không địch nổi Huyền Minh nhị lão, thần tiễn bát hùng cùng bọn "A Đại", "A Nhị", "A Tam" nên chết mất hơn chục người, số còn lại thì bị bắt cả.

Sau đó là tiến đánh ngay các cơ sở căn bản của các môn phái, đầu tiên là phái Thiếu Lâm. Chùa Thiếu Lâm phòng vệ nghiêm mật, muốn lẻn vào hạ độc thật không phải dễ, nếu tại các khách điếm nơi thị trấn trên đường đi bỏ thuốc độc thì dễ dàng hơn. Còn không hạ độc thì chỉ có cách lấy thịt đè người, ỷ đông tấn công vào.

Phạm Dao nói tiếp:

- Quận chúa muốn hạ thủ chùa Thiếu Lâm lại e không đủ người nên mới điều từ Đại Đô tới một nhóm tiếp viện, chính là do tôi dẫn đầu, cũng may là đi bắt bọn sư chùa Thiếu Lâm. Phái Thiếu Lâm trước nay vẫn vô lễ với bản giáo, cho chúng nó nếm mùi đau khổ thật không gì sướng bằng. Nếu có đem bọn sư sãi thối tha của chùa Thiếu Lâm giết sạch, khổ đầu đà này cũng chẳng thèm nhíu mày. Giáo chủ, chắc giáo chủ cũng muốn thế phải không? Ha ha.

Dương Tiêu vội cướp lời:

- Huynh đệ, vậy những pho tượng La Hán bị xoay lại cũng là do tay ngươi phải không?

Phạm Dao cười đáp:

- Tôi thấy quận chúa sai người đục mười sáu chữ sau lưng tượng, ý muốn giá họa cho bản giáo, nên lẻn quay trở lại, xoay các tượng La Hán. Đại ca, các người quả thực tinh tế, vậy mà vẫn nhìn thấy được. Khi đó đại ca có nghĩ là tiểu đệ chăng?

Dương Tiêu đáp:

- Bọn ta suy nghĩ rằng bên trong bọn đối đầu, hình như có một vị cao thủ ẩn bên trong duy hộ bản giáo, nhưng đâu có ngờ được rằng đó là hảo huynh đệ cùng hàng với ta hồi xưa.

Cả bốn người cùng cười ha hả. Dương Tiêu liền nói sơ qua cho Phạm Dao nghe, Minh giáo từ nay quyết định làm hòa với các môn phái khác, bỏ hết hiềm khích để cùng chung sức kháng quân Mông Cổ, do đó muốn cứu các cao thủ ra. Phạm Dao nói:

- Địch đông ta ít, chỉ có bốn người mình thật khó mà làm được việc này. Chi bằng đi tìm giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán cho bọn sư sãi thối tha, ni cô khắm khú, cùng bọn mũi bò uống, đợi chúng nó phục hồi công lực rồi cùng xông ra, đánh cho bọn Thát tử trở tay không kịp, sau đó tất cả chạy ra khỏi Đại Đô.

Minh giáo trước nay vẫn thù nghịch với các phái Thiếu Lâm, Võ Đương và danh môn chính phái nên lời ăn tiếng nói của y với lục môn phái chẳng nể nang tí nào. Dương Tiêu cứ nháy mắt với y luôn nhưng Phạm Dao chẳng hề để ý. Trương Vô Kỵ cũng không coi những tiểu tiết đó ra gì, vỗ tay nói:

- Lời của Phạm hữu sứ đúng lắm, nhưng làm sao có được giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bây giờ?

Phạm Dao nói:

- Tôi trước nay không mở lời, thành thử quận chúa đối với tôi tuy có chút kính nể, nhưng không bao giờ bàn những chuyện quan trọng cả. Chỉ một mình nàng nói, người kia không trả lời nửa câu chẳng mất hứng sao? Huống chi tôi lại từ một tiểu quốc bên Tây Vực sang, nàng ta không coi là kẻ tâm phúc, thành ra giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán ra thế nào tôi không hề hay biết. Tôi chỉ biết là chuyện này trọng đại nên cũng cố gắng để ý. Nếu tôi không nhầm, độc dược và giải được do Huyền Minh nhị lão chia nhau cầm giữ, một kẻ cầm độc dược, một kẻ cầm giải dược, nhưng luôn luôn đổi qua đổi lại.

Dương Tiêu thở dài:

- Cái nàng quận chúa nương nương đó quả thật lắm mưu mẹo, đàn ông con trai bình thường không sao theo kịp. Chẳng lẽ đến cả Huyền Minh nhị lão cô ta cũng chưa tin hẳn hay sao?

Phạm Dao đáp:

- Thứ nhất cô ta không yên tâm, thứ nhì làm như thế càng thêm kỹ càng. Chẳng hạn như mình lúc này định ăn trộm thuốc giải, đâu có biết được đang do Lộc Trượng Khách giữ hay là do Hạc Bút Ông giữ. Hơn nữa, nghe nói thuốc độc và thuốc giải hương vị màu sắc hoàn toàn giống nhau, ngoài người giữ thuốc ra không ai biết được. Người ngoài ăn trộm thuốc giải, không chừng lại lấy nhằm thuốc độc. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán lại có một chỗ rất ghê gớm là người trúng phải thuốc độc rồi, gân cốt mềm nhũn không cử động được, thế nhưng nếu uống thêm thuốc độc lần thứ hai, dù chỉ một tí xíu, lập tức máu chạy ngược lên, ngừng thở chết liền không thuốc gì cứu được.

Vi Nhất Tiếu le lưỡi nói:

- Nếu thế thuốc giải không thể nào lấy nhầm được.

Phạm Dao nói:

- Nói thế nhưng cũng không có gì quan trọng. Bọn mình cứ lấy thuốc của cả Huyền Minh nhị lão, kiếm một tên đệ tử tép riu nào của phái Hoa Sơn, Không Động gì đó cho uống thử, nếu y chết thì là thuốc độc, thế có phải tiện không?

Trương Vô Kỵ biết tà tính của y rất nặng, không coi tính mạng người khác ra gì, chỉ mỉm cười nói:

- Cái đó không được. Thế lỡ mình tốn bao nhiêu công sức lại chỉ ăn cắp được toàn là thuốc độc cả thì sao?

Dương Tiêu vỗ đùi nói:

- Giáo chủ nói vậy phải lắm. Đêm hôm qua mình đến quấy rối như thế, chắc làm cho quận chúa sợ lắm rồi, có thể giữ luôn giải dược ngay bên mình. Theo ý tôi, mình phải tra xét rõ ràng xem ai giữ thuốc giải trước đã, sau đó mới tính kế mà làm.

Y trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Huynh đệ, Huyền Minh nhị lão kia thích cái gì hơn cả?

Phạm Dao cười đáp:

- Lộc hiếu sắc, Hạc hiếu tửu thế thôi chứ chẳng còn thích gì nữa.

Dương Tiêu bèn hỏi Trương Vô Kỵ:

- Giáo chủ, có loại thuốc gì làm cho người ta gân cốt mềm nhũn, giống như là uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chăng?

Trương Vô Kỵ suy nghĩ một chốc, cười nói:

- Nếu muốn cho toàn thân không còn chút hơi sức nào, mơ mơ màng màng buồn ngủ thì không khó, nhưng dùng cho cao thủ thì chỉ được nửa giờ dược lực sẽ hết, còn để được lâu dài như Thập Hương Nhuyễn Cân Tán thì không có cách nào cả.

Dương Tiêu cười đáp:

- Được nửa giờ cũng đủ rồi. Thuộc hạ có một kế này, không biết có dùng được hay không, nhờ giáo chủ xem thế nào. Nói là kế thực không bõ cười. Phạm huynh đệ làm sao dụ được Hạc Bút Ông đi uống rượu, trong rượu bỏ thuốc giáo chủ chế ra. Sau đó Phạm huynh đệ sẽ giải vờ làm dữ nói là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán của Hạc Bút Ông, lúc đó giải dược ở trong tay ai là mình biết liền, thừa cơ đoạt lấy đem ra cứu người.

Trương Vô Kỵ nói:

- Kế đó có dùng được hay không, cũng còn tùy tính tình Hạc Bút Ông ra sao mới biết được, Phạm hữu sứ ông thấy sao?

Phạm Dao duyệt lại trong óc từ đầu chí cuối một lần, thấy kế đó tuy giản dị nhưng không có gì sơ hở liền nói:

- Tôi xem kế của Dương đại ca có thể làm. Hạc Bút Ông tính tình độc ác, nhưng mưu mẹo khôn ngoan không bằng Lộc Trượng Khách, nếu giải dược mà ở trong người Hạc Bút Ông, tôi võ công tuy không bằng y nhưng có thể đối phó được.

Dương Tiêu nói:

- Thế nếu giải dược ở trong người Lộc Trượng Khách thì sao?

Phạm Dao nhíu mày nói:

- Nếu thì thì khó thật.

Y đứng thẳng lên, tại bên cạnh ngọn đồi đi qua đi lại, một hồi lâu, bỗng vỗ tay một cái nói:

- Nếu như thế, Lộc Trượng Khách khôn ngoan hơn người, đánh lừa y thể nào y cũng nhìn ra được, chỉ có cách nắm đúng chỗ nhược của y. Nếu mình lấy ra để uy hiếp, y tính nặng nhẹ hơn thiệt, có chịu khuất phục hay không mình chưa biết. Đương nhiên chuyện ngang tàng thế này là chuyện mạo hiểm rất lớn, nhưng ngoài cách này ra không còn cách nào hay hơn.

Dương Tiêu hỏi:

- Lão ta có tâm sự gì vậy? Y già người trẻ bụng, có cái thóp nào huynh đệ nắm được chăng?

Phạm Dao đáp:

- Mùa xuân năm nay, Nhữ Dương Vương nạp thiếp, có mời mấy người chúng tôi đến hoa sảnh ăn tiệc. Nhữ Dương Vương muốn khoe người thiếp của mình xinh đẹp nên sai tân nương ra chuốc rượu. Tôi thấy đôi mắt cú vọ của Lộc Trượng Khách nhìn hau háu, mồm chảy nước dãi, dường như thèm muốn lắm.

Vi Nhất Tiếu hỏi:

- Rồi sau ra sao?

Phạm Dao đáp:

- Sau chẳng sao cả, đây là ái thiếp của vương gia, dù y lớn mật đến mấy, cũng chẳng dám giở trò gì.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Chỉ nhìn hau háu thì đâu đã tội vạ gì?

Phạm Dao nói:

- Chẳng tội vạ gì thì mình làm cho thành tội vạ. Chuyện này phải nhờ đến Vi huynh thi triển khinh công, đến cướp ái cơ của Nhữ Dương Vương đem về, vứt vào giường của Lộc Trượng Khách. Cha già dê đó mười phần đến tám chín sẽ nhịn không nổi, thể nào cũng làm láo làm lếu một phen. Nếu y có cố gắng gò cương bờ vực, tôi cũng cứ xông vào phòng, khiến cho y có mồm cũng không cãi được, có rửa cũng không sạch tội, chỉ có nước hai tay dâng giải dược lên thôi.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng vỗ tay cười nói:

- Cái kế chặn họng này quả là cao minh. Gã Lộc Trượng Khách kia gian ngoan cách mấy cũng sẽ bị ê mặt.

Trương Vô Kỵ vừa tức cười vừa ngại ngùng nghĩ thầm những người thuộc hạ mình hành sự gian trá âm độc, so với các thủ hạ của Triệu Mẫn cũng chẳng khác gì, chỉ điều một bên thiện, một bên ác, hai bên cách biệt rất xa, lấy gậy ông đập lưng ông, có thể nói là dĩ độc công độc. Chàng nghĩ đến đó cũng thấy yên tâm, mỉm cười nói:

- Chỉ có điều làm lụy đến người ái cơ của Nhữ Dương Vương.

Phạm Dao cười đáp:

- Tôi sẽ xông ngay vào phòng, không để cho Lộc Trượng Khách sơ múi gì, thế là xong.

Sau đó bốn người bàn tính cẩn thận, lấy được giải dược rồi sẽ do Phạm Dao đem vào trong tháp, chia cho cao thủ các phái Thiếu Lâm, Võ Đương uống. Trương Vô Kỵ và Vi Nhất Tiếu ở bên ngoài tiếp ứng, một khi thấy Phạm Dao nổi lửa tại chùa Vạn An, thì cũng đốt nhà dân chúng chung quanh, quần hiệp sẽ thừa cơ náo loạn chạy được ra ngoài. Dương Tiêu sẽ mua ngựa trước, dự bị xe cộ chờ sẵn nơi cửa tây, những người chạy ra sẽ chia nhau lên chạy tới Xương Bình gặp lại. Trương Vô Kỵ nghĩ đến chuyện đốt nhà dân chúng, không khỏi làm liên lụy người vô tội, Dương Tiêu nói:

- Giáo chủ, mọi việc không phải lúc nào cũng hai mặt đều chu toàn. Bọn mình cứu được quần hiệp sáu môn phái ra, mai sau nếu đuổi được Thát tử đó là tạo phúc cho muôn vạn dân lành, hôm nay nếu có phải hại vài trăm gia đình, cái đó cũng không đáng gì.

Bốn người kế sách đã định rồi, chia nhau vào thành lo liệu. Dương Tiêu thì đi lo mua ngựa mua xe, Trương Vô Kỵ điều chế một liều thuốc mê. Để cho bớt mùi thuốc, chàng phải thêm ba loại hương liệu để khi trộn vào rượu rồi, uống vào vẫn thấy thơm ngon. Vi Nhất Tiếu đi ra chợ mua một cái túi vải lớn, chờ trời tối sẽ lẻn vào Nhữ Dương Vương phủ cướp người ái cơ của vương gia.

*

* *

Phạm Dao và Huyền Minh nhị lão vì có nhiệm vụ canh chừng các cao thủ của lục đại môn phái nên đều ở luôn trong chùa Vạn An, còn Triệu Mẫn thì ở trong vương phủ, đến tối mới đánh xe tới chùa học võ. Phạm Dao mang thuốc mê về chùa Vạn An, nghĩ đến hơn hai mươi năm qua Minh giáo chia năm xẻ bảy, bây giờ mới có cơ trung hưng, không uổng công lao mình phải chịu muôn vàn khổ sở, trong lòng cảm thấy bồi hồi. Trương giáo chủ võ công cao cường, lại là người thật là nhân nghĩa khiến ai ai cũng tâm phục nhưng vì thiếu cái tính quyết liệt độc địa, không khỏi có tính mềm yếu đàn bà quả là mỹ trung bất túc.

Y ở bênh cánh tây, còn Huyền Minh nhị lão thì ở tại Bảo Tương tinh xá nơi hậu viện. Bình thời y cũng ngại hai gã này, sợ có khi lộ tẩy nên rất ít giao du, thành thử hai bên ở xa xa nhau, lúc này nghĩ đến việc mời Hạc Bút Ông đi uống rượu mà sao không lộ hình tích quả không phải dễ.

Y nhìn về phía sau chùa thấy mặt trời đang ngả về tây, hơn một nửa của mười ba tầng bảo tháp đã khuất nắng, mái ngói lưu ly trên đỉnh cũng nhạt dần. Y chưa biết phải tính sao, chắp hai tay sau lưng đi lững thững về phía hậu viện, đột nhiên ngửi thấy mùi thịt thật thơm từ hàng hiên đối diện với Bảo Tương tinh xá tỏa ra, chính là nơi ở của Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi, hai người trong thần tiễn bát hùng.

Phạm Dao chợt động tâm, đi đến trước sương phòng giơ tay đẩy cửa, mùi thịt liền bay thốc vào mũi. Lý Tứ Tồi đang ngồi xổm dưới đất đang quạt lấy quạt để một cái lò lửa đỏ hồng, trên lò để một cái nồi đất lớn, hương thơm từ đó bay ra. Tôn Tam Hủy thì đang xếp bát dọn đũa, rõ ràng hai tên đang sắp sửa đánh chén.

Hai người thấy khổ đầu đà đẩy cửa bước vào, giật mình kinh hãi, nhìn y mặt mày đăm đăm không khỏi chột dạ. Chúng mới rồi đánh chết một con chó vàng ngoài đường, chặt bốn chân len lén đem về phòng nấu ăn. Chùa Vạn An là chỗ sư sãi thanh tu, ở trong chùa đun thịt chó quả thực không phải. Chuyện này giá như người ngoài nhìn thấy thì cũng không đến nỗi nào nhưng khổ đầu đà này lại là đệ tử nhà Phật, y mà nổi nóng, đánh cho một trận, hai đứa không sao địch lại. Võ công khổ đầu đà đã cao cường, huống chi lại lỗi về phần họ, nếu như bị đòn cũng đáng.

Hai đứa đang phập phồng lo sợ, thấy khổ đầu đà đi đến bên bếp lửa, mở vung ra, nhìn vào rồi hít một hơi dài dường như muốn nói: "Thơm quá, thơm quá!". Y đột nhiên thò tay vào trong nồi, không kể nước đang sôi sùng sục, nhón lấy một miếng thịt, bỏ vào mồm nhai nhồm nhoàm, chỉ giây lát ăn hết sạch. Y liếm môi xem chừng có vẻ ngon lắm khiến Tôn Lý hai người mừng không để đâu cho hết, vội nói:

- Mời khổ đại sư ngồi xuống đây, ngồi xuống đây. Chúng tôi có biết đâu lão nhân gia cũng thích món thịt cầy.

Khổ đầu đà không ngồi, lại thò tay vào nồi bốc thêm một miếng thịt khác, ngồi chồm hổm ngay bên bếp lửa mà ăn. Tôn Tam Hủy muốn lấy lòng y, rót ngay một bát rượu đem đến. Khổ đầu đà cầm bát rượu lên ực một hơi, đột nhiên nhổ toẹt xuống đất, tay trái đưa lên xua xua nơi mũi, ý nói rượu cay quá, uống không vừa miệng, đứng lên tất tả bước ra khỏi phòng.

Tôn Lý hai người thấy y hầm hầm bỏ đi, lại đâm lo, nhưng chẳng mấy chốc lại thấy y tay cầm một bầu rượu lớn quay lại, lúc ấy mới hoàn hồn, vui mừng nói:

- Đúng vậy, đúng vậy. Rượu của chúng tôi không phải loại ngon, khổ đại sư có mỹ tửu đem tới thì thật còn gì bằng.

Hai người vội vàng dọn bàn xếp bát cung kính mời khổ đầu đà ngồi chỗ thượng thủ, đem thịt chó bày đầy một mâm để ngay trước mặt. Khổ đầu đà võ công thật cao cường, là loại đệ nhất trong đám thủ hạ của Triệu Mẫn, bình thời thần tiễn bát hùng đâu có dám vói cao, hôm nay may sao lại mời được y ăn thịt chó, biết đâu lão nhân gia lại vui lòng truyền cho một hai tuyệt chiêu, thật cả đời dùng không hết.

Khổ đầu đà mở chiếc nút gỗ trên đầu hồ lô, rót ra ba bát. Rượu này màu vàng ánh, đặc sánh như mật ong, vừa rót ra đã bốc lên thơm ngát. Tôn Lý hai người cùng reo lên:

- Rượu ngon quá, ngon quá!

Phạm Dao nghĩ thầm: "Không biết Huyền Minh nhị lão có nhà không, nếu như y đi khỏi chưa về thì phen này mình thật phí công". Y cầm bát rượu bở vào nồi nước đang sôi, lúc đó thịt chó nấu đã nhừ, hơi bốc lên càng làm mùi rượu thêm nồng. Tôn Lý thèm nhỏ dãi, đang định cầm rượu lên, khổ đầu đà liền giơ tay ra hiệu đừng vội, bảo hai người bỏ rượu vào hâm trước rồi hãy uống. Ba người thay phiên nhau hâm rượu, mùi bốc ra thơm lừng, Hạc Bút Ông chẳng ở trong chùa thì thôi, nếu không thì dù có cách mấy dãy nhà cũng phải ngửi thấy.

Quả nhiên từ bên phía Bảo Tương tinh xá nghe tiếng mở cửa kẹt một cái rồi nghe tiếng Hạc Bút Ông:

- Rượu ngon quá, ngon quá, hà hà.

Y chẳng khách khí gì liền đi qua sân đẩy cửa bước vào, thấy khổ đầu đà và Tôn Lý ba người ngồi bên bếp lửa uống rượu ăn thịt, đang lúc thích chí. Hạc Bút Ông ngạc nhiên cười nói:

- Khổ đại sư, hóa ra ngài cũng thích món này, đâu có ngờ mình lại là chỗ đồng đạo với nhau.

Tôn Lý hai người vội đứng dậy mời:

- Hạc công công, mời ngài ngồi uống vài chén, đây là mỹ tửu của khổ đại sư, chẳng mấy khi có được.

Hạc Bút Ông liền ngồi ngay trước mặt khổ đầu đà, hai người là khách mà làm như chủ ăn uống thật tận tình, còn Tôn Lý thành ra kẻ hầu bưng thịt rót rượu. Bốn người cao hứng ngồi uống một hồi, người nào cũng ngà ngà say. Phạm Dao nghĩ thầm: "Ta hạ thủ là vừa". Y liền tự rót cho mình một bát đầy, tiện tay để cái bầu rượu nằm xuống. Thì ra y đã khoét rỗng cái nút đậy hồ lô, để bột thuốc Trương Vô Kỵ chế ra vào trong đó, bên ngoài bọc hai lần vải. Bầu rượu nếu để đứng thì bột thuốc không xuống được, bốn người chỉ uống rượu bình thường nhưng một khi để nằm xuống, rượu ngấm qua lần vải làm tan thuốc, rượu trong bình nay biến thành rượu độc. Đáy bầu vốn tròn, để đứng để nằm chẳng ai để ý, huống chi bốn người uống đã một lúc lâu, đang lúc mềm môi hơi men bừng bừng.

Phạm Dao thấy Hạc Bút Ông cầm bát rượu lên uống một hơi cạn sạch liền mở nắp rót thêm rượu cho y. Hạc Bút Ông thấy bát của mình đã đầy, tiện tay cũng châm thêm cho Tôn Lý, thấy bát của khổ đầu đà vẫn còn nguyên nên không rót. Bốn người liền bưng bát lên uống ừng ực.

Chỉ trừ Phạm Dao ra, ba người kia đều uống phải rượu độc. Tôn Lý hai người nội lực kém, độc tửu vừa vào bụng, chỉ giây lát đã thấy chân tay bải hoải, toàn thân rã rời không còn chút hơi sức nào. Tôn Tam Hủy liền nói:

- Tứ đệ, bụng ta sao có gì trục trặc.

Lý Tứ Tồi cũng nói:

- Ta ... ta ... cũng dường như trúng độc.

Lúc này Hạc Bút Ông cũng đã thấy khác, vội vận khí, nội tức sao không đưa lên được, mặt liền biến sắc. Phạm Dao liền đứng ngay lên, mặt hầm hầm, chộp ngực Hạc Bút Ông, miệng ú ớ gầm gừ nhưng không nói ra được. Tôn Tam Hủy sợ hãi nói:

- Khổ đại sư, chuyện gì thế?

Phạm Dao giơ ngón tay chấm vào rượu, viết lên trên bàn năm chữ "Thập Hương Nhuyễn Cân Tán". Tôn Lý hai người đều biết Thập Hương Nhuyễn Cân Tán do Huyền Minh nhị lão cất giữ, thấy tình hình trước mắt xem ra khổ đầu đà và mình đều bị trúng phải thuốc độc này. Hai người đưa mắt nhìn nhau, khom lưng nói với Hạc Bút Ông:

- Hạc công công, anh em chúng tôi đâu có dám mạo phạm với lão nhân gia, xin ngài nương tay cho.

Tôn Lý cho rằng Hạc Bút Ông chắc chỉ muốn ra tay đối phó với khổ đầu đà, hai người chẳng may vướng vào tròng, cùng mắc phải cái vạ giữa đàng chứ đối phó với họ thì cần gì phải dùng đến độc dược.

Hạc Bút Ông cũng kinh ngạc vạn phần, Thập Hương Nhuyễn Cân Tán tháng này do y giữ, rõ ràng cất bên trong cây bút mỏ hạc phía bên trái, hai món binh khí đó là vật bất ly thân, dẫu có kẻ nào muốn trộm thuốc từ trong mình ra thật không sao làm được. Thế nhưng y vừa vận khí thấy không cách gì có thể dụng lực, thì đúng là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán không sai vào đâu. Thực ra thuốc mê do Trương Vô Kỵ điều chế tuy có mạnh thật nhưng khác xa Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, tình trạng lúc uống vào cũng không giống tí nào. Thế nhưng Hạc Bút Ông chỉ nghe là uống Thập Hương Nhuyễn Cân Tán vào thì gân cốt mềm nhũn, chân tay bải hoải nhưng chính mình chưa hề thử bao giờ, thành ra tuy hai loại thuốc khác nhau xa nhưng y làm sao phân biệt được? Chỉ thấy khổ đầu đà vừa hoảng hốt, vừa giận dữ, còn Tôn Lý hai người đứng bên van xin không ngớt nên không nghi ngờ liền nói:

- Khổ đại sư đừng có nóng, mình là chỗ anh em, tại hạ làm gì có ý gia hại? Chính tôi cũng trúng phải thuốc độc, thân thể rã rời, không biết đứa nào làm trò ma mãnh, thật là lạ.

Phạm Dao lại chấm tay vào rượu viết lên mấy chữ: "Lấy thuốc giải mau". Hạc Bút Ông gật đầu nói:

- Đúng thế, mình uống thuốc giải trước đã, sau đó sẽ tìm tên gian tặc nào giở trò ra tính sổ với nó sau. Giải dược ở bên mình Lộc sư ca, xin khổ đại sư cùng đi với tôi.

Phạm Dao trong bụng mừng thầm, không ngờ kế của Dương Tiêu lại dễ dàng đến thế, biết ngay giải dược đang ở trong tay ai. Y giơ tay nắm cổ tay Hạc Bút Ông, cố ý làm ra vẻ lảo đảo đi về phía Bảo Tương tinh xá. Hạc Bút Ông thấy y dường như đi không nổi, trong bụng mừng thầm: "Gã khổ đầu đà này võ công vốn dĩ cực cao, nhưng chưa bao giờ anh em mình có dịp cùng y so tài cao thấp, xem y trúng độc rồi chân đi không vững, chắc nội lực kém mình xa lắc".

Hai người đi đến trước cửa tinh xá, căn phòng phía nam là của Hạc Bút Ông, còn phòng phía bắc là của Lộc Trượng Khách, thấy phòng phía bắc cửa đóng kín mít. Hạc Bút Ông gọi lớn:

- Sư ca có nhà không?

Lập tức có tiếng Lộc Trượng Khách từ bên trong đáp lời. Hạc Bút Ông giơ tay đẩy cửa, nào ngờ cửa cài then từ bên trong. Y kêu lên:

- Sư ca mở cửa mau, có việc gấp.

Lộc Trượng Khách nói:

- Chuyện gấp cái gì? Ta đang luyện công, ngươi đừng đến quấy rầy có được không?

Hạc Bút Ông và Lộc Trượng Khách cùng học một thầy, không ai kém ai nhưng một là Lộc Trượng Khách vai sư huynh, hai nữa y trí mưu hơn nhiều nên Hạc Bút Ông đối với y có phần tôn kính, nghe giọng y có vẻ không vui không dám réo nữa.

Phạm Dao nghĩ chuyện này không nên dây dưa, một khi thuốc mê tan rồi thì mình sẽ bị lộ tẩy nên chẳng nói chẳng rằng, ghé vai ẩy một cái, then cửa gãy ra, cánh cửa mở toang, nghe tiếng đàn bà kêu rú lên.

Lộc Trượng Khách đang đứng bên cạnh giường, nghe thấy tiếng cửa mở, quay đầu nhìn ra, vẻ mặt cực kỳ sượng sùng. Phạm Dao thấy trên giường có một người đàn bà, toàn thân quấn trong một chiếc chăn mỏng, chỉ hở cái đầu, bên ngoài tấm vải có buộc dây, trông như một cuộn mành mành. Người đàn bà tóc xõa ra ngoài, da dẻ trắng muốt, dung nhan cực kỳ diễm lệ, nhìn ra chính là Hàn thị, người ái cơ Nhữ Dương Vương mới nạp, bụng nghĩ thầm: "Vi Bức Vương quả nhiên giỏi thật, một mình vào ra vương phủ, bắt được Hàn cơ rồi".

Thực ra tuy Nhữ Dương Vương phủ canh gác cẩn mật nhưng tựu trung các võ sĩ chỉ hộ vệ vương gia, thế tử và quận chúa, còn cơ thiếp của Nhữ Dương Vương rất đông nên chẳng ai nghĩ đến việc có người đến cướp đem đi nên phải canh phòng. Hơn nữa Vi Nhất Tiếu đến nhanh như chớp, lại biến hóa thật gọn gàng, vừa vào phủ là vác ngay Hàn cơ đi, thật là thần không hay quỉ không biết. Còn như làm sao bỏ được vào trong phòng Lộc Trượng Khách thật khó hơn nhiều, y phải đợi cả nửa ngày mới gặp được lúc Lộc Trượng Khách ra đi cầu, lẻn vào đặt Hàn cơ lên trên giường, rồi lặng lẽ bỏ đi.

Lộc Trượng Khách trở về thấy có một người đàn bà nằm trên giường, vội vàng nhảy lên mái nhà, nhìn chung quanh bốn bề thì lúc đó Vi Nhất Tiếu đã chạy xa rồi, ngoài phòng Tôn Lý vọng ra tiếng ăn nhậu rức lác, không còn gì khác. Lộc Trượng Khách thấy việc này quả thật quái lạ, nhưng lặng thinh thản nhiên quay về phòng, nhìn lại cô gái kia, không khỏi trố mắt há hốc mồm. Ngày hôm đó vương gia nạp cơ có làm tiệc đãi luôn một số cao thủ hữu danh, nàng Hàn cơ kia lúc kính tửu mủm mỉm cười, Lộc Trượng Khách tuy tuổi đã cao nhưng cũng không khỏi mê mẩn. Y tham dâm hiếu sắc, một đời làm hại không biết bao nhiêu đời đàn bà con gái lương gia, nay thấy Hàn cơ xinh đẹp, trong bụng không khỏi tiếc rẻ, sao không sớm gặp được mỹ nhân. Nếu như trước khi vương gia lấy về mà trông thấy thì làm sao thoát được tay y. Về sau y có nghĩ đến mấy lần nhưng lại kiếm được người mới nên cũng quên đi. Bây giờ không hiểu đâu từ trời rơi xuống nàng Hàn cơ lại nằm ngay trên giường.

Y vừa sợ vừa mừng, suy nghĩ qua lập tức đoán ngay chắc là đại đệ tử Ô Vượng A Phổ biết được tâm ý sư phụ, nên lén đến cướp Hàn cơ đem về. Y thấy nàng thò đầu ra khỏi tấn chăn cuốn, mặt cổ nước da trắng ngần, thấp thoáng bờ vai trần, dường như trên người không mặt quần áo, y bụng phập phồng hỏi nhỏ vì sao nàng lại tới đây. Hỏi luôn mấy câu, Hàn cơ không trả lời, Lộc Trượng Khách bấy giờ mới biết nàng đã bị điểm trúng huyệt đạo, đang toan giơ tay giải huyệt, đột nhiên Hạc Bút Ông đến trước cửa, rồi nghe cửa bị khổ đầu đà phá vỡ.

Biến cố đó thật là bất ngờ, Lộc Trượng Khách tuy rất ư là quỉ quyệt nhưng muốn che đấu cũng không kịp nữa rồi. Y chợt nghĩ ra, e chừng vương gia phát giác ái cơ bị cướp, sai khổ đầu đà đến tróc nã mình, việc đến nước này chỉ còn nước chạy là hơn cả. Chỉ nghe soẹt một tiếng, trượng đầu hươu đã nằm trong tay y, tay trái ôm luôn Hàn cơ lên, toan bề phá cổ sổ nhảy ra.

Hạc Bút Ông kinh hãi kêu lên:

- Sư ca, mau đưa giải dược đây.

Lộc Trượng Khách hỏi lại:

- Cái gì?

Hạc Bút Ông nói:

- Tiểu đệ và khổ đại sư chẳng hiểu vì sao trúng phải chất độc Thập Hương Nhuyễn Cân Tán.

Lộc Trượng Khách ú ớ:

- Ngươi nói sao?

Hạc Bút Ông lại nhắc lại lần nữa, Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:

- Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chẳng phải do ngươi giữ hay sao?

Hạc Bút Ông đáp:

- Tiểu đệ chẳng biết táy máy thế nào cả bốn người đang ngồi uống rượu nhậu nhẹt, đột nhiên cả bọn đều bị trúng độc. Lộc sư ca, mau đem thuốc giải cho bọn tôi uống đi nào.

Lộc Trượng Khách nghe nói thế hồn phách bình tĩnh lại, để Hàn cơ lại trên giường, xoay mặt nàng về bên trong. Hạc Bút Ông vốn biết vị sư ca này tính tình phong lưu, trong phòng y có đàn bà con gái, cũng không lấy gì làm lạ nên chẳng để ý, huống chi Hạc Bút Ông trúng độc rồi, hồn vía lên mây còn hơi đâu mà để ý xem người đó là ai. Dẫu có bình thời y cũng không nhận ra vì hôm đó trong bữa tiệc nơi vương phủ, Hàn cơ bước ra mời rượu chỉ chào một cái rồi đi, Hạc Bút Ông chăm chăm vào việc uống rượu đâu có để ý xem người đàn bà đeo vòng ngọc, mặc áo gấm kia đẹp hay xấu?

Lộc Trượng Khách nói:

- Mời khổ đại sư về phòng Hạc huynh đệ nghỉ ngơi, tại hạ đem thuốc giải tới ngay.

Y vừa nói vừa giơ tay đẩy hai người ra khỏi phòng. Cái đẩy đó khiến cho Hạc Bút Ông lảo đảo, suýt nữa ngã. Phạm Dao cũng loạng choạng bước theo, giả vờ như nội lực cũng mất hết, tuy nhiên y nội lực thâm hậu, gặp ngoại lực tự nhiên sinh ra sức phản kích. Lộc Trượng Khách chỉ giơ tay ra lập tức phát giác sư đệ quả nhiên mất hết nội lực, khổ đầu đà thì giả vờ. Y sợ mình đoán nhầm, lại dụng lực đẩy thêm lần nữa, cả Hạc Bút Ông lẫn khổ đầu đà cùng ngã bổ chửng ra ngoài. Tuy cùng ngã, một người thân thể bông bênh, người kia rơi cái bịch.

Lộc Trượng Khách giả vờ như không cười nói:

- Khổ đại sư, quả thực đắc tội.

Nói rồi y đưa tay ra đỡ, vừa giơ tay đã nắm ngay hai huyệt Hội Tông và Ngoại Quan nơi cổ tay khổ đầu đà. Phạm Dao thấy y ra tay như thế, biết ngay mình đã bị bại lộ, tay trái vung lên, dùng trọng thủ đánh ngay vào huyệt Hồn Môn trên lưng Hạc Bút Ông, để cho y trong một thời gian thân thể uể oải không cử động được. Trong hai đại cao thủ trừ đi một người, còn một đánh một không sợ gì Lộc Trượng Khách. Y cất tiếng cười khẩy mấy tiếng nói:

- Ngươi không muốn sống hay sao mà dám đi trộm ái cơ của vương gia về đây?

Y vừa mở mồm nói, Huyền Minh nhị lão ngạc nhiên đến ngơ ngẩn cả người. Hai người biết khổ đầu đà đã mười lăm, mười sáu năm qua, chưa từng nghe y mở miệng nói một câu nào, vẫn tưởng trời sinh y câm. Lộc Trượng Khách tuy biết y chẳng phải tốt lành gì nhưng không ngờ y lại nói được, nên nghĩ ngay nếu như y cố tình đóng vai câm như thế thì tình cảnh như mình bây giờ ắt phải nguy nan, liền nói:

- Thì ra khổ đại sư không phải câm thật, hơn mười năm nay khổ tâm đóng kịch như thế là do cớ gì?

Phạm Dao đáp:

- Vương gia biết ngươi có bụng không ngay, sai ta giả làm thằng câm để tiện gần ngươi giám sát.

Câu đó đúng ra có rất nhiều sơ hở nhưng lúc này Hàn cơ đang nằm trên giường, Lộc Trượng Khách trong bụng có tà ý, không thể không tin, huống chi y vốn biết rõ Nhữ Dương Vương thích bày chuyện ràng buộc tròng tréo đối với thuộc cấp. Câu đó của Phạm Dao nói ra, Lộc Trượng Khách thấy thót cả ruột liền hỏi:

- Vương gia sai ngươi đến bắt ta ư? Ha ha, khổ đại sư võ nghệ tuy cao nhưng chưa chắc đã bắt Lộc Trượng Khách này giơ tay chịu trói được đâu?

Nói rồi y liền vung lộc trượng lên toan động thủ. Phạm Dao cười nói:

- Lộc tiên sinh, khổ đầu đà tuy võ công không bằng được ông, nhưng chắc hai bên cũng không hơn kém bao nhiêu. Nếu ông muốn đánh bại tôi, e rằng trong một hai trăm chiêu chưa chắc đã thắng. Ông thắng tôi một vài chiêu thì dễ nhưng nếu tính chuyện vừa ôm Hàn cơ đi, lại cứu cả sư đệ, Lộc Trượng Khách chắc gì đã có đủ tài làm chuyện đó.

Lộc Trượng Khách đưa mắt nhìn sư đệ, biết lời của khổ đầu đà chẳng phải ngoa. Y hai sư huynh đệ từ nhỏ học nghệ với nhau, lớn lên cho tới lúc già, mấy chục năm qua chưa rời xa nhau lấy một ngày. Hai người đều không vợ không con, có thể nói coi người kia như chính sinh mạng mình, bảo y bỏ sư đệ chạy lấy một mình, ắt không nỡ nào làm như thế.

Phạm Dao thấy y có vẻ động tâm liền quát gọi Tôn Lý hai người vào phòng, đóng chặt cửa lại nói:

- Lộc tiên sinh, việc này chưa bị bại lộ, cứ tin vào khổ đầu đà này nhất định sẽ che đậy cho ông đến nơi đến chốn.

Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:

- Làm thế nào mà che đậy được?

Phạm Dao không quay đầu lại, thò tay ngược về sau điểm luôn huyệt câm và huyệt tê của hai gã Tôn Lý, thủ pháp nhanh nhẹn, nhận huyệt chuẩn xác, Lộc Trượng Khách cũng phải ngầm thán phục. Chỉ nghe khổ đầu đà nói tiếp:

- Chính ông không nói ra, lệnh sư đệ chắc chẳng thể nào làm khó sư huynh được, khổ đầu đà là người câm, từ nay vẫn là người câm không nói. Còn hai vị huynh đệ này, khổ đầu đà sẽ giúp ông bằng cách điểm vào tử huyệt để diệt khẩu, cái đó cũng chẳng đáng gì.

Tôn Lý hai người kinh hoàng thất sắc, nghĩ thầm chuyện này vốn dĩ chẳng liên quan gì đến mình, có ngờ đâu chỉ vì vài miếng thịt chó mà tội vạ ở đâu giáng xuống đầu, tuy muốn ngỏ lời van xin nhưng lại mở miệng không được. Phạm Dao lại chỉ vào Hàn cơ nói:

- Còn như cô hầu này, lão nạp đã sẵn hai phương sách. Một là phủi tay phủi chân, đem cô ta và Tôn Lý hai người xách đến chỗ nào vắng vẻ cho mỗi người một đao, báo cho vương gia hay cô nàng và tên đĩ đực Lý Tứ Tồi tằng tịu với nhau, hai đứa bỏ trốn bị khổ đầu đà bắt được, nổi giận giết cả gian phu dâm phụ, giết lây cả tên Tôn Tam Hủy. Cách thứ hai là do chính ông đem cô nàng đi dấu một nơi, về sau nếu có tiết lộ cơ mật cái đó là toàn ở ông cả.

Lộc Trượng Khách không khỏi quay đầu lại nhìn Hàn cơ một cái, thấy ánh mắt nàng đầy vẻ khẩn cầu, rõ là muốn y nhận giải pháp thứ hai. Lộc Trượng Khách nhìn khuôn mặt xinh đẹp trời cho kia, nếu như một đao giết chết quả thật là đáng tiếc, trong lòng rung động liền nói:

- Đa tạ ngươi đã sắp xếp cho ta chu đáo như thế. Vậy ngươi muốn ta làm gì nào?

Y biết rằng khổ đầu đà ắt có chuyện nhờ mình, nếu không chắc chẳn thể nào bỏ qua. Phạm Dao đáp:

- Việc này cũng thật là dễ. Chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái và tôi giao tình rất thâm, cô gái trẻ tuổi họ Chu kia là con tư sinh của tôi với lão ni cô. Cầu ông cho chút giải dược, rồi thả hai người đó ra. Trước mặt quận chúa, một mình lão nạp nhận hết cả, nếu mà có làm liên lụy đến ông thì gia đình khổ đầu đà và Diệt Tuyệt lão ni, trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương, chết không toàn thây, đời đời không được siêu sinh.

Y nghĩ Lộc Trượng Khách tính tình phong lưu, nếu dùng ngay truyện gái trai ra làm cớ thì dễ khiến y tin hơn. Y nghe Dương Tiêu nói anh em Minh giáo rất đông người chết dưới kiếm của Diệt Tuyệt sư thái, nên đặt ra ngay câu chuyện hoang đường hòa thượng ni cô kia. Y cả đời tà tính thành thói, ăn nói hành động không thể nào như một chính nhân quân tử bình thường. Còn như thề thốt "trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương" gì gì nữa, y cũng chẳng để tâm.

Lộc Trượng Khách nghe xong ngẩn người, nhưng lập tức mỉm cười, nghĩ thầm gã đầu đà này mọi chuyện đem ra bức bách mình thì ra là để cứu mụ tình nhân già cùng với đứa con gái, âu cũng là chỗ thường tình, việc này tuy rất nhiều nguy hiểm, nhưng đổi lại được một tuyệt sắc giai nhân, âu cũng đáng. Y thấy khổ đầu đà có chuyện cầu mình, trong bụng cởi được mối lo cười đáp:

- Vậy thì cướp ái cơ của vương gia đem tới đây, chắc cũng là do tay khổ đại sư phải không?

Phạm Dao đáp:

- Chuyện lớn như thế, lẽ nào chỉ tay không đến xin? Cũng phải có gì đền đáp chứ.

Lộc Trượng Khách mừng lắm, nhưng còn e bên ngoài có người nên không dám cười thành tiếng. Đột nhiên y nghĩ lại hỏi thêm:

- Thế thì sư đệ của ta tại sao lại trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán? Độc dược này ngươi ở đâu mà có được?

Phạm Dao đáp:

- Cái đó có khó gì đâu? Lệnh sư đệ hiện đang giữ độc dược, y là người tham ăm thích uống, uống đến lúc ngà ngà, khổ đầu đà ăn cắp gì mà không được?

Lộc Trượng Khách không còn nghi ngại gì nữa liền nói:

- Hay lắm! Khổ đại sư, huynh đệ kết giao bằng hữu với ngươi, ta quyết không bán ngươi mà ngươi cũng đừng đẩy ta vào chỗ khó như thế này nữa.

Phạm Dao chỉ vào Hàn cơ nói:

- Lần tới nếu còn một việc khó mà xinh đẹp như thế này, xin Lộc tiên sinh cứ sắp đặt để đưa khổ đầu đà vào tròng, lão nạp vui vẻ mà nhận ngay.

Hai người nhìn nhau cười, nhưng trong bụng mỗi người một chủ ý. Lộc Trượng Khách ngầm tính toán, chuyện khó khăn trước mắt một khi qua rồi, làm sao xuất kỳ bất ý giết chết gã ác đầu đà này. Phạm Dao biết rằng Lộc Trượng Khách tuy nhất thời bị mình bức bách, nhưng Huyền Minh nhị lão là loại người cỡ nào, bị một vố đau như thế đâu lẽ chịu bỏ qua, chỉ đợi khi an trí Hàn cơ xong xuôi, giải được huyệt cho Hạc Bút Ông rồi, lập tức sẽ kiếm mình động thủ, nhưng khi đó các cao thủ sáu đại môn phái đã cứu xong, mình đã cúp đuôi chạy mất rồi.

Phạm Dao thấy Lộc Trượng Khách chần chừ không chịu đưa thuốc giải ra, nghĩ bụng nếu mình thúc giục, y sẽ càng làm khó thêm, nên ngồi xuống cười nói:

- Lộc huynh sao không giải khai huyệt đạo cho Hàn cơ, cả bọn cùng uống vài chén cho vui? Dưới đèn ngắm mỹ nhân, cái diễm phúc đó mấy kiếp tu dễ gì có được.

Lộc Trượng Khách biết rằng chùa Vạn An người qua kẻ lại, Hàn cơ ở đây thêm khắc nào thì thêm một phần nguy hiểm liền lấy trượng sừng hươu ra, mở một nhánh, lấy một cái chén đổ vào chén một ít bột phấn nói:

- Khổ đại sư, ngươi quả là thần cơ diệu toán, huynh đệ cam chịu lép vế, giải dược đây mau cầm lấy.

Phạm Dao lắc đầu:

- Có chút xíu bột như thế thì làm được trò gì?

Lộc Trượng Khách nói:

- Đừng nói chi cứu hai người, đến sáu bảy người cũng đủ.

Phạm Dao nói:

- Sao ngươi nhỏ mọn thế, cho thêm chút nữa thì đã sao? Nói thực, các hạ túc trí đa mưu, khổ đầu đà này sợ lại bị mắc hỡm nữa.

Lộc Trượng Khách thấy y đòi thêm thuốc giải, đột nhiên khởi nghi nói:

- Khổ đại sư, ngươi định cứu chẳng phải chỉ Diệt Tuyệt sư thái và lệnh ái mà thôi, phải không?

Phạm Dao đang định nói khéo để giải thích cho qua, bỗng nghe bên trong chùa có tiếng chân rầm rập, bảy tám người chạy tới, nghe một người nói:

- Dấu chân đến tận đây, không lẽ Hàn cơ lại ở trong chùa Vạn An chăng?

Lộc Trượng Khách mặt liền biến sắc, chộp ngay cái ly chứa thuốc giải, bỏ ngay vào bọc, cho rằng Khổ đầu đà phục sẵn người ở bên ngoài đợi vừa có giải dược liền phản mình ngay.

Phạm Dao xua tay, bảo y đừng kinh hoảng, lấy một chiếc chăn mỏng chùm lên người Hàn cơ từ đầu đến chân rồi bỏ màn che xuống. Lại nghe một người hỏi:

- Lộc trượng tiên sinh có nhà không?

Phạm Dao chỉ chỉ vào miệng mình, ý muốn nói mình câm, nên bảo Lộc Trượng Khách lên tiếng trả lời. Lộc Trượng Khách lớn tiếng quát:

- Cái gì thế?

Người kia đáp:

- Vương phủ có một cơ nhân bị gian đồ cướp đi, theo dấu kẻ gian thì tới chùa Vạn An.

Lộc Trượng Khách hầm hầm nhìn Phạm Dao, ý muốn nói: "Nếu không phải ngươi cố ý giá họa, với tài nghệ của ngươi làm sao lại có dấu chân được?". Phạm Dao liền nhếch mép cười, giơ tay ra hiệu bảo y đuổi gã này đi, trong bụng nghĩ thầm: "Vi Bức Vương vu vạ tài thật, để dấu chân từ vương phủ tới tận đây".

Lộc Trượng Khách liền cười khẩy đáp:

- Các ngươi không biết chia nhau đi lùng kiếm, tới đây léo nhéo cái gì?

Với địa vị và võ công như y, ai nấy đều hết sức kiêng nể, người kia vội vâng vâng dạ dạ, không dám nói thêm gì nữa, lập tức phân phái anh em tra tìm những vùng chung quanh. Lộc Trượng Khách biết lúc này chung quanh chùa Vạn An có rất đông người tra xét, tuy bọn họ không dám vào phòng mình mà tìm, nhưng ôm được Hàn cơ đi nơi khác để dấu thật không phải dễ, không khỏi nhíu mày hậm hực nhìn khổ đầu đà.

Phạm Dao bỗng nghĩ ngay một kế hạ giọng nói:

- Lộc huynh, chùa Vạn An có một nơi rất tốt, mình tạm dấu cục cưng này, qua một ngày một buổi bên ngoài tra xét dãn ra, lúc đó đem đi cũng chưa muộn.

Lộc Trượng Khách giận dữ nói:

- Trừ phi dấu ngay trong phòng ngươi thì được.

Phạm Dao cười:

- Người đẹp thế dấu ở phòng tôi, lão đầu đà chắc đâu đã không động lòng, Lộc huynh không ghen đấy chứ?

Lộc Trượng Khách hỏi lại:

- Thế ngươi bảo dấu ở đâu?

Phạm Dao mỉm cười giơ tay chỉ ngọn tháp ngoài cửa sổ. Lộc Trượng Khách thông minh cơ cảnh, thoáng cái biết ngay, giơ ngón tay cái lên khen:

- Hay lắm!

Bảo tháp đó là nơi giam giữ các cao thủ lục đại môn phái, tổng quản trông nom chính là đại đệ tử của Lộc Trượng Khách Ô Vượng A Phổ, người khác có nghi là nghi chỗ khác, chứ không ai lại ngờ rằng ái cơ của vương gia lại bị bắt dấu nơi nhà giam canh phòng giới bị cẩn mật này. Phạm Dao hạ giọng nói:

- Lúc này trong viện không có ai, chẳng nên chậm trễ, động thủ ngay đi.

Y cuốn bốn bề cái chăn trên giường lại, dấu kỹ Hàn cơ ở bên trong thành một cái bọc lớn, nhắc lên giao cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách nghĩ thầm ngươi không làm lại đẩy cho mình, ta vừa vác Hàn cơ ra khỏi cửa ngươi liền kêu toáng lên, lúc đó tang chứng rành rành, còn chối cãi vào đâu được nữa, mặt không khỏi biến sắc, không dám đưa tay nhận. Phạm Dao biết bụng dạ y liền nói:

- Đã giúp thì giúp cho trót, tiễn Phật tiễn tận Tây phương, khổ đầu đà hôm nay làm thêm vụ đưa dâu nữa thì đã sao nào? Ai bảo mình có việc phải cầu người làm chi?

Nói xong nhắc cái bọc lên, đẩy cửa bước ra, nói nhỏ:

- Ngươi đi trước dẹp đường, nếu có kẻ nào ngăn trở tra vấn, giết quách nó đi.

Lộc Trượng Khách nghiêng người lách qua, nhưng không dám đưa lưng ngay mặt Phạm Dao, sợ y từ sau đánh lén. Phạm Dao đưa tay khép cửa lại, cõng Hàn cơ đi lên bảo tháp.

Lúc đó đã cuối giờ tuất, ngoại trừ võ sĩ canh gác bảo tháp ra, không còn ai khác. Các võ sĩ thấy Lộc Trượng Khách và Phạm Dao, lập tức khom mình hành lễ, cung kính đứng tránh qua một bên. Hai người chưa đến chân tháp, Ô Vượng A Phổ được thủ hạ báo tin, đã chạy ra nghinh tiếp nói:

- Sư phụ, lão nhân gia hôm nay có hứng hay sao mà lên bảo tháp ngồi chơi?

Lộc Trượng Khách gật đầu, cùng Phạm Dao đang toan tiến lên bỗng nhiên từ chiếc cửa tròn ở phía tây một người bước ra, chính là Triệu Mẫn.

Lộc Trượng Khách có tật giật mình, kinh hoảng không để đâu cho hết, lại tưởng Triệu Mẫn đích thân đem thủ hạ đến bắt y, không biết tính sao chỉ đành thu hết cam đảm cùng Phạm Dao và Ô Vượng A Phổ tiến lên vái chào. Đêm hôm qua bọn Trương Vô Kỵ đến quấy rối, Triệu Mẫn có biết đâu tất cả Minh giáo chỉ có ba người, e ngại họ đem đại đội nhân mã đến tấn công nên muốn đích thân đến tháp xem xét, thấy Phạm Dao ở đây liền mỉm cười nói:

- Khổ đại sư, tôi đang định đi tìm ông đây.

Phạm Dao gật đầu, bình thản như không. Triệu Mẫn nói:

- Tôi muốn ông đi cùng với tôi đến một nơi.

Phạm Dao trong bụng kêu khổ thầm: "Mãi mới dụ được Lộc Trượng Khách vào trong bảo tháp mình sẽ ra tay rồi đoạt lấy giải dược của y thế là thành công, ngờ đâu con nhãi này lại đến đây tìm mình". Đã toan tìm cớ thoái thác không đi, nhưng nhất thời không tìm ra được cách nào, huống chi y lại giả câm, nếu muốn từ chối cũng không nói nên lời được. Tình cấp trí sinh, nghĩ thầm: "Để mặc cho Lộc Trượng Khách tìm cách nào vậy". Y liền chỉ cái bọc trên tay mình, quay sang Lộc Trượng Khách lắc lắc mấy cái. Lộc Trượng Khách hoảng hốt, trong bụng chửi thầm khổ đầu đà hại mình không ít. Triệu Mẫn hỏi:

- Lộc tiên sinh, cái bọc của khổ đầu đà đựng gì thế?

Lộc Trượng Khách đáp:

- À, à, đó là chăn gối của khổ đại sư đấy mà.

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Chăn gối? Khổ đại sư mang chăn gối đi đâu?

Nàng mủm mỉm cười nói tiếp:

- Khổ đại sư thấy tôi tối dạ quá, không chịu thu làm đệ tử, tức mình ôm chăn gối đi không ở nữa đấy ư?

Phạm Dao lắc đầu, tay phải chỉ trỏ lung tung, nghĩ thầm: "Cứ để cho Lộc Trượng Khách nghĩ ra nói láo, mình câm cũng có cái lợi của người câm". Triệu Mẫn trông không hiểu y làm thế nghĩa là sao, chỉ đành nhìn Lộc Trượng Khách chờ y giải thích. Lộc Trượng Khách động linh cơ có ngay một cớ liền nói:

- Chuyện như thế này, tối hôm qua mấy ma đầu của Ma giáo đến phá rối, thuộc hạ e ngại bọn hạ có âm mưu lớn ... biết đâu ... biết đâu ... chúng lại không đến tháp cứu người. Thành thử sư huynh đệ thuộc hạ cùng khổ đại sư quyết định ở ngay trên tháp, tự mình canh phòng để khỏi làm hỏng việc lớn của quận chúa. Cái bọc chăn gối này là đồ ngủ của khổ đại sư.

Triệu Mẫn mừng lắm, cười nói:

- Tôi vẫn định nhờ Lộc tiên sinh và Hạc tiên sinh đích thân trông coi, có điều như thế làm nhọc các ông quá nên không dám mở miệng. Ngờ đâu ba vị lại chia xẻ mối lo với tôi, thật còn gì bằng. Có Lộc Hạc hai vị ở nơi đây trấn giữ, bọn ma đầu đâu có dám héo lánh đến, tôi khỏi phải lên tháp trông coi làm gì. Khổ đại sư theo tôi đi đằng này một chút.

Nói xong nàng nắm tay Phạm Dao. Phạm Dao không còn cách nào khác, nghĩ thầm như lúc này có nói toạc âm mưu của Lộc Trượng Khách thì cũng chẳng đi đến đâu, thứ nữa Hàn cơ đang ở trong tay mình, chưa chắc đã làm cho Triệu Mẫn tin được, đành giao cái bọc lại cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách giơ tay đỡ lấy nói:

- Khổ đại sư, tôi đợi ông ở trên tháp nhé.

Ô Vượng A Phổ nói:

- Sư phụ, để đệ tử mang bọc chăn gối cho.

Lộc Trượng Khách cười đáp:

- Không sao, đây là đồ của khổ đại sư, thầy đang muốn lấy lòng ông ấy tự mình mang lên cũng được.

Phạm Dao nhếch mép cười, giơ tay vỗ vào cái bọc một cái, chính trúng ngay mông của Hàn cơ. Cũng may nàng ta đã bị điểm huyệt nên không thể kêu lên được, nhưng Lộc Trượng Khách cũng sợ đến mặt tái mét, không dám dây dưa thêm nữa, quay sang chào Triệu Mẫn rồi vác Hàn cơ đi lên tháp. Y trong bụng đã tính sẵn, một khi vào trong tháp rồi lập tức lấy chăn mền thật ra đổi ngay, nếu như khổ đầu đà có cáo giác với Triệu Mẫn thì y cũng nhất định chối phắt đi.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Tình bạn từ lúc còn thơ (nguyên điển lấy từ thơ Lý Bạch)

[2] tức Chaghan Temur. Đặc Mục Nhĩ như vậy là một danh tướng gốc Tân Cương (Uighur), vốn là một địa chủ có công dẹp được cuộc nổi dậy của Bạch Liên Giáo ở đất Hoài trở thành một người có thế lực chính trị và quân sự. Đời Nguyên, địa chủ có quyền tuyển mộ, huấn luyện và chỉ huy dân quân riêng để chống nhau với những thế lực tôn giáo và các cuộc nổi dậy (xem thêm Cuộc Khởi Nghĩa của nhà Minh của dịch giả)

[3] Chú thích của Kim Dung: Theo Tân Nguyên Sử, quyển thứ hai trăm hai mươi "Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi truyện" chép: Ông tổ bốn đời Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi là Khoát Khoát Đài, ông nội là Nãi Man Đài, cha là A Lỗ Ôn, sống ở Hà Nam, đất Tần Châu, Trẩm Khâu, sau đổi qua họ Lý. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ (Koko Temur) tuy là thế tử nhưng thực ra là cháu gọi bằng cậu của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ, kế vị ông khi Sát Hãn bị ám sát năm 1362. Tiểu tiết này tác giả Kim Dung cố tình bỏ qua.

[4] Tức Khwraozm (hay Khuwraizm, Khwraezm, Khwraizm) là một nước Hồi giáo ở gần Ba Tư bị Thành Cát Tư Hãn chinh phục hồi thế kỷ thứ 13.

Hồi 27

BÁCH XÍCH CAO THÁP NHIỆM HỒI TƯỜNG-

Tháp cao trăm thước ai người đỡ,

Thù oán bao đời một phút tan.

Tưởng nguy nhưng lại hóa an,

Lục đại môn phái chịu ơn muôn đời.

Phạm Dao bị Triệu Mẫn nắm tay dẫn đi thẳng ra khỏi chùa Vạn An, trong bụng vừa bồn chồn, vừa ngạc nhiên, không biết nàng ta đưa mình đi đâu. Triệu Mẫn đội thêm một cái nón lá để che mái tóc dài, thản nhiên nói:

- Khổ đại sư, mình đi gặp tên tiểu tử Trương Vô Kỵ.

Phạm Dao kinh hoảng, liếc mắt nhìn cô ta thấy mắt nàng long lanh, má ửng hồng bảy phần thẹn thùng, ba phần hoan hỉ xem ra không phải đã khám phá ra chân tướng của y. Khổ đầu đà thấy an tâm, nhớ lại tình cảnh đêm trước ở chùa Vạn An Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai kẻ oan gia đối đầu gặp nhau. Y vừa nghĩ đến hai chữ "oan gia", đột nhiên trong lòng nảy sinh một câu hỏi: "Oan gia ư? Hay là quận chúa có tình ý gì với Trương giáo chủ chăng?". Y nghĩ tiếp: "Nàng ta sao không gọi Huyền Minh nhị lão là kẻ thân tín hơn mà lại bảo mình đi theo? Đúng rồi, chỉ vì mình câm không nói được nên sẽ không tiết lộ bí mật của cô ta". Y bèn gật gù, nở một nụ cười kỳ bí.

Triệu Mẫn làm mặt giận nói:

- Ông cười gì thế?

Phạm Dao biết rằng chớ nên đùa với nàng, bèn hoa chân múa tay ra hiệu, ý nói khổ đầu đà sẽ hết sức bảo vệ cho quận chúa chu toàn, dù phải vào đầm rồng hang hổ cũng nhất quyết đi theo.

Triệu Mẫn không nói gì thêm, đi trước dẫn đường, không bao lâu đã đến trước cửa khách điếm nơi Trương Vô Kỵ đang trú ngụ. Phạm Dao ngầm kinh hãi: "Quận chúa quả thật thần thông quảng đại, mới đây đã tìm ra ngay chỗ giáo chủ đang ở". Y liền đi theo Triệu Mẫn vào trong khách điếm.

Triệu Mẫn hỏi chưởng quĩ:

- Chúng tôi muốn tìm khách quan họ Tăng.

Thì ra Trương Vô Kỵ khi đến ở trọ lại dùng cái tên giả "Tăng A Ngưu", điếm tiểu nhị liền đi vào thông báo.

Trương Vô Kỵ đang đả tọa dưỡng thần, chỉ chờ chùa Vạn An lửa bốc lên là chạy đến tiếp ứng, bỗng nghe có người đến thăm không khỏi ngạc nhiên, ra đến khách đường thấy Triệu Mẫn và Phạm Dao, kêu thầm: "Hỏng rồi, chắc là Triệu cô nương khám phá ra chân tướng của Phạm hữu sứ nên đem y tới đây nói phải quấy với mình chăng?". Chàng đành tiến lên vái chào, hỏi:

- Không biết có Triệu cô nương giá lâm nên thất lễ nghinh tiếp.

Triệu Mẫn nói:

- Nơi đây nói chuyện không tiện, mình đi tìm một quán rượu nhỏ uống với nhau ba chén, có được chăng?

Trương Vô Kỵ đành trả lời:

- Hay lắm.

Triệu Mẫn lại đi trước dẫn đường đi đến một quán rượu nhỏ cách khách điếm chừng năm dãy phố. Trong quán bày biện sơ sài vài cái bàn, trên mỗi bàn để một ống đũa gỗ. Lúc ấy trời đã khuya, trong quán chẳng còn người khách nào. Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người ngồi đối diện nhau, Phạm Dao ra hiệu mình ra ngoài ngồi uống rượu. Triệu Mẫn gật đầu, sai điếm tiểu nhị đem lên một cái bếp than và ba cân thịt dê sống, thêm hai cân rượu trắng.

Trương Vô Kỵ trong bụng đầy ngờ vực, nghĩ thầm nàng là một quận chúa cao quí như thế, sao lại mời mình đến một cái nhỏ bé tồi tàn dơ dáy như thế này ngồi uống rượu là sao, không biết sắp xếp kế mưu gì. Triệu Mẫn rót ra hai chén rượu, cầm chén của Trương Vô Kỵ lên, nhấp một ngụm, cười nói:

- Trong rượu này không có bỏ thuốc độc đâu, công tử cứ yên tâm uống đừng ngại.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Cô nương gọi tôi đến đây, không biết có chuyện gì dạy bảo?

Triệu Mẫn nói:

- Uống xong ba chén đã rồi mình hãy nói vào chuyện chính. Tôi cạn chén trước mời công tử.

Nói xong nàng nâng ly một hơi cạn sạch. Trương Vô Kỵ cầm chén lên, dưới ánh lửa bập bùng thấy miệng chén còn lưu lại mờ mờ một vết son môi, mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, không biết hương thơm đó từ vết son trên chén hay từ người nàng tỏa ra, lòng không khỏi lâng lâng, vội uống cạn. Triệu Mẫn nói:

- Mình uống thêm hai chén nữa. Tôi biết anh chưa hết nghi ngại nên mỗi chén tôi uống trước một ngụm.

Trương Vô Kỵ biết nàng ngụy kế đa đoan, việc gì cũng nên đề phòng, may là nàng nhắp trước như thế, mình đỡ phải mạo hiểm nên liên tiếp uống cạn ba ly rượu nàng uống dở dang, trong bụng không thấy có gì khác lạ, ngửng lên thấy nàng tủm tỉm cười, hơi rượu khiến nàng hồng hồng đôi má, thật kiều diễm không sao tả xiết. Trương Vô Kỵ không dám nhìn lâu, vội quay đầu sang chỗ khác.

Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Trương công tử, anh có biết tôi là ai không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu. Triệu Mẫn nói:

- Hôm nay tôi nói cho anh biết, cha tôi là Nhữ Dương Vương hiện đang chấp chưởng binh mã đại quyền đương triều. Tôi là gái Mông Cổ, tên thực là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Hoàng thượng phong cho tôi làm Thiệu Mẫn quận chúa. Hai chữ Triệu Mẫn là tên Hán tôi tự đặt cho tôi đó.

Nếu như Phạm Dao không nói qua rồi, Trương Vô Kỵ lúc này ắt không khỏi hết sức lạ lùng, nhưng thấy nàng không dấu diếm gì đem thân phận nói cho mình hay cũng thật ngoài dự liệu, có điều chàng không khéo giả vờ nên không làm ra vẻ ngạc nhiên.

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Sao? Anh biết trước rồi ư?

Trương Vô Kỵ nói:

- Không, làm sao tôi biết được? Thế nhưng tôi thấy một cô gái trẻ tuổi như thế vậy mà có thể sai khiến bao nhiêu là cao thủ võ lâm, thân phận ắt không phải là tầm thường.

Triệu Mẫn xoay xoay nghịch cái chén, một hồi lâu không nói gì, lại cầm bầu rượu lên rót thêm hai chén nữa, chậm rãi nói tiếp:

- Trương công tử, tôi hỏi anh một câu nhé, anh cứ thực lòng mà trả lời tôi. Nếu như tôi đem Chu cô nương giết đi, anh sẽ đối với tôi thế nào?

Trương Vô Kỵ trong bụng kinh hãi, hỏi lại:

- Chu cô nương có đắc tội gì với cô đâu, sao bỗng dưng lại giết cô ta là sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Người nào tôi không thích là tôi muốn giết, chứ đâu phải cứ đắc tội với tôi tôi mới giết đâu? Có người thì đắc tội với tôi nhiều lần, tôi lại để yên không giết, chẳng hạn như anh, đắc tội với tôi mấy lần rồi thì sao?

Nàng nói tới đây, ánh mắt long lanh ẩn một nụ cười. Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

- Triệu cô nương, tôi đắc tội với cô âu cũng là chuyện bất đắc dĩ. Thế nhưng cô đã tặng cho tôi thuốc để chữa bệnh cho tam sư bá, lục sư thúc tôi, lòng tôi thật là cảm kích.

Triệu Mẫn cười nói:

- Anh nói câu đó có phần dở hơi. Du Đại Nham và Ân Lê Đình bị thương đều do thuộc hạ của tôi gây ra, anh chẳng trách thì thôi, sao lại cảm ơn là sao?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Tam sư bá của tôi bị thương đã ngoài hai mươi năm, khi đó cô chưa ra đời.

Triệu Mẫn nói:

- Thì do bộ thuộc của cha tôi cũng có khác gì là bộ thuộc của tôi? Anh đừng nói lảng qua chuyện khác: tôi hỏi anh, nếu như tôi giết Chu cô nương, anh sẽ đối với tôi như thế nào? Anh có định giết tôi báo thù cho cô ta không?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Tôi cũng không biết nữa.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Sao lại không biết? Anh không chịu nói, có phải không nào?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cha mẹ tôi bị người ta bức tử. Bức tử cha mẹ tôi là phái Thiếu Lâm, phái Hoa Sơn, phái Không Động. Sau này khi tôi lớn lên, thấy mọi việc rõ ràng hơn nhiều, nhưng càng suy nghĩ lại càng chẳng hiểu, thực sự ai là người hại cha mẹ tôi? Không thể nói là Không Trí đại sư, Thiết Cầm tiên sinh những người đó được; cũng không thể bảo là ông ngoại tôi hay cậu tôi; thậm chí cũng không thể nói là những thủ hạ của cô như "A Nhị", "A Tam" hay Huyền Minh nhị lão. Cái lý do nào trời xui đất khiến ra thế, biết bao nhiêu điều tôi không hiểu được. Dẫu như có những người là hung thủ thực chăng nữa, dù tôi có giết hết tất cả thì cũng để làm gì? Cha mẹ tôi có sống lại được đâu. Triệu cô nương, mấy hôm nay tôi chỉ nghĩ rằng nếu tất cả mọi người không giết lẫn nhau, sống hòa bình thân ái làm bạn của nhau chẳng hay hơn ư? Tôi không nghĩ đến chuyện báo thù giết người, cũng mong người khác cũng đừng hại ai giết ai.

Chàng nói một mạch những gì đã nghĩ trong lòng rất lâu, nhưng chưa hề nói cho Dương Tiêu hay, cũng chẳng nói cho Trương Tam Phong biết, cũng không nói cho Ân Lê Đình hay, bỗng nhiên nơi quán rượu nhỏ bé này lại nói cho Triệu Mẫn nghe, những lời đó nói ra rồi chính chàng cũng lấy làm lạ.

Triệu Mẫn thấy chàng nói thật thành khẩn, suy nghĩ một lát nói:

- Đó là tại anh tâm địa nhân hậu, nếu phải tay tôi ư tôi sẽ làm tới nơi tới chốn. Nếu như ai làm hại cha tôi, anh tôi, tôi sẽ giết sạch cả nhà người đó, ngay cả thân thích bằng hữu, phàm người nào y quen biết, tôi sẽ giết sạch không còn một mống.

Trương Vô Kỵ nói:

- Như thế tôi sẽ ngăn không cho cô làm.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Vì sao vậy? Anh về phe kẻ thù của tôi ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô giết một người, bản thân cô sẽ thêm một phần tội nghiệt. Người bị cô giết, chết đi ra sao thì không biết, cái đó cũng đã xong, thế nhưng còn cha mẹ con cái, vợ chồng anh em người ta đau lòng biết mấy? Về sau mỗi khi cô nghĩ lại, lương tâm cô sẽ không an. Nghĩa phụ tôi giết nhiều người lắm, tôi biết tuy ông không nói ra, nhưng trong lòng thật là hối hận.

Triệu Mẫn không nói, chỉ suy nghĩ về những điều Trương Vô Kỵ vừa nói ra. Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Cô đã giết người bao giờ chưa?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Hiện tại thì chưa, tương lai khi tôi lớn rồi, muốn giết thật nhiều người. Tổ tiên tôi là Thành Cát Tư Hãn đại đế, là Đà Lôi, là Bạt Đô, là Húc Liệt Ngột, là Hốt Tất Liệt đều anh hùng. Tôi chỉ hận mình là con gái, nếu tôi là con trai ư, ha ha, thể nào cũng phải làm một đại sự nghiệp thật là oanh liệt.

Nàng rót thêm một chén rượu, tự mình uống cạn nói:

- Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu như cô giết Chu cô nương, hoặc giả giết bất cứ một người thủ hạ thân cận nào của tôi, tôi sẽ không coi cô là bạn tôi nữa. Tôi sẽ vĩnh viễn không gặp lại cô, nếu có gặp cũng không nói chuyện.

Triệu Mẫn cười:

- Thế ra hiện tại anh coi tôi là bạn của anh ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu như trong lòng tôi thù ghét cô, tôi đâu có ngồi uống rượu với cô như thế này. Ôi, tôi chỉ thấy thù ghét một người quả là khó. Tôi bình sinh chỉ ghét một mình Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, thế nhưng nay y cũng chết rồi, tôi lại thấy thương y, dường như muốn y đừng chết.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu như ngày mai tôi chết đi, trong lòng anh sẽ nghĩ sao? Trong bụng anh thể nào chẳng nói: tạ trời tạ đất, con bé điêu ngoa hung ác đại đối đầu kia chết rồi, từ nay ta bớt đi được bao nhiêu là phiền muộn.

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Không, không đâu. Tôi không mong cô chết đâu, hoàn toàn không bao giờ. Vi Bức Vương dọa cô, đòi sẽ rạch mặt cô mấy vết dao, từ đó đến nay tôi nghĩ đi nghĩ lại thật là lo cho cô.

Triệu Mẫn nở một nụ cười, đôi má đỏ lên liền cúi đầu xuống. Trương Vô Kỵ nói:

- Triệu cô nương, cô đừng làm khó chúng tôi nữa, thả hết các cao thủ của lục đại môn phái ra đi, tất cả vui vẻ làm bạn với nhau, chẳng hay lắm sao?

Triệu Mẫn vui mừng nói:

- Hay lắm, chính tôi cũng chỉ muốn như thế. Anh là giáo chủ Minh giáo, một lời nặng như chín cái đỉnh, anh đến nói tất cả qui hàng triều đình. Cha tôi sẽ tâu lên hoàng thượng phong thưởng cho mọi người.

Trương Vô Kỵ chầm chậm lắc đầu nói:

- Người Hán chúng tôi ai ai cũng có một tâm nguyện, muốn người Mông Cổ rút ra khỏi đất của người Hán.

Triệu Mẫn đứng phắt dậy, nói:

- Cái gì? Sao anh dám nói những lời phạm thượng tác loạn như thế, chẳng phải là công nhiên phản loạn hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi vốn dĩ là kẻ phản loạn, không lẽ đến bây giờ cô mới biết hay sao?

Triệu Mẫn nhìn chàng hồi lâu, nét phẫn nộ và kinh ngạc trên mặt dầu dần dịu xuống, trở lại thật ôn nhu, nhưng cũng thật thất vọng, sau cùng ngồi lại xuống ghế nói:

- Tôi cũng sớm biết thế rồi, nhưng bây giờ chính miệng anh nói ra, tôi mới thật là tin hẳn, không còn làm sao hơn được nữa.

Mấy câu đó nàng nói ra nghe thật là đau đớn. Trương Vô Kỵ lòng chùng hẳn đi, dường như không còn chịu nổi cảnh thấy nàng đau lòng như muốn buột miệng nói ra: "Thôi tôi bằng lòng nghe lời cô vậy". Thế nhưng ý nghĩ đó vừa lóe lên là tắt ngay, cố hết sức nhưng không biết nói thế nào để an ủi nàng.

Hai người lặng yên ngồi đối diện nhau một lúc. Trương Vô Kỵ nói:

- Triệu cô nương, đêm đã khuya rồi, để tôi đưa cô về nhé!

Triệu Mẫn nói:

- Đến ngồi thêm với tôi một chút anh cũng không muốn hay sao?

Trương Vô Kỵ vội vàng đáp:

- Không đâu, nếu cô thích ngồi đây uống rượu nói chuyện, tôi sẽ ngồi với cô.

Triệu Mẫn mỉm cười, chậm rãi nói:

- Có lúc tôi nghĩ rằng giá như tôi không phải là gái Mông Cổ, cũng chẳng phải là quận chúa, chỉ là một người như Chu cô nương, là một cô gái người Hán con nhà bình thường, chắc anh sẽ tử tế với tôi hơn. Trương công tử, anh bảo tôi và Chu cô nương ai đẹp hơn?

Trương Vô Kỵ đâu ngờ nàng lại hỏi câu đó, nghĩ thầm con gái phiên bang tính tình sảng trực, không biết môi miếng, dưới ánh đèn thấp thoáng, thấy nàng kiều diễm bội phần, buột miệng nói luôn:

- Dĩ nhiên là cô đẹp.

Triệu Mẫn giơ tay ra đặt lên tay chàng, ánh mắt đầy vẻ vui mừng nói:

- Trương công tử, anh thích hay không thích gặp tôi? Nếu tôi thỉnh thoảng rủ anh ra đây uống rượu, anh có đi không?

Bàn tay Trương Vô Kỵ bị lòng bàn tay mềm mại của nàng đè vào, tim đập thình thình, cố gắng định thần rồi nói:

- Tôi ở lại đây không lâu, chỉ độ vài ngày sẽ xuôi nam.

Triệu Mẫn hỏi:

- Anh về phương nam làm gì?

Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

- Tôi chẳng nói thì cô cũng đoán ra được, nhưng nói ra thì cô sẽ nổi giận...

Triệu Mẫn nhìn ra vầng trăng ngoài song cửa, bỗng nói:

- Anh bằng lòng làm cho tôi ba việc, chưa quên chứ?

Trương Vô Kỵ nói:

- Dĩ nhiên là không quên. Xin cô nương cứ việc sai bảo, tôi sẽ tận lực mà làm.

Triệu Mẫn quay đầu lại nhìn thẳng vào mặt chàng nói:

- Bây giờ tôi chỉ mới nghĩ ra một việc thứ nhất. Tôi muốn anh đi với tôi để lấy thanh đao Đồ Long.

Trương Vô Kỵ vốn đã đoán trước, ba việc nàng ta bảo mình làm thể nào cũng rất khó nhưng không ngờ việc đầu tiên là một nạn đề tày trời đến thế. Triệu Mẫn thấy chàng đầy vẻ nghi ngại, nói:

- Làm sao? Anh không chịu à? Chuyện này đâu có đi ngược lại đạo hiệp nghĩa, cũng không phải không thể làm được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Đao Đồ Long nằm trong tay nghĩa phụ ta, trên giang hồ ai cũng biết rồi, không thể nào nói dối nàng". Chàng bèn nói:

- Đao Đồ Long là của nghĩa phụ tôi, Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp. Tôi làm sao có thể phản bội cha nuôi, lấy đao đó cho cô được?

Triệu Mẫn nói:

- Tôi đâu có bảo anh đến ăn trộm ăn cướp, đánh lừa hay sang đoạt, tôi không phải thực sự muốn có thanh đao này. Tôi chỉ muốn anh đến mượn nghĩa phụ anh, cho tôi nghịch chơi một giờ thôi, sau đó sẽ trả lại ngay. Hai người là cha nuôi, con nuôi, chẳng lẽ mượn một giờ mà không được hay sao? Chỉ mượn xem đâu có phải là lấy luôn, cũng chẳng phải dùng nó đi cướp của giết người, không lẽ cũng đi ngược lại đạo hiệp nghĩa ư?

Trương Vô Kỵ nói:

- Thanh đao đó tuy danh tiếng vang động võ lâm, thực ra có đẹp đẽ gì đâu, chỉ thật là nặng nề, và rất sắc bén thôi.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy sao người ta nói "Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?" Ỷ Thiên kiếm nay ở trong tay tôi rồi, tôi muốn xem thử thanh đao Đồ Long như thế nào. Nếu anh không yên tâm, khi tôi xem thanh đao, anh đứng ngay bên cạnh. Với bản lãnh của anh, tôi đâu có thể cưỡng chiếm không trả lại được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cứu được sáu đại môn phái ra rồi, ta vốn định bụng sẽ đi đón nghĩa phụ ngay để mời lão nhân gia giữ chức vụ giáo chủ. Triệu cô nương đã nói là chỉ mượn xem một giờ, tuy không biết chắc nàng ta có ngụy kế gì hay không, nhưng mình hết sức đề phòng, không để cho nàng ta đoạt thanh đao. Có điều nghĩa phụ nói rằng trong thanh đao Đồ Long có bí mật dấu một pho võ công tuyệt học. Khi nghĩa phụ chưa mù đã lấy được thanh bảo đao, thông minh tài nhứ như ông mà vẫn không nghĩ ra được, Triệu cô nương chỉ một giờ đồng hồ thì làm được gì? Huống chi ta và nghĩa phụ xa nhau đã mười năm, ông ta một mình trên hoang đảo đã tìm ra được bí mật trong thanh đao không chừng".

Triệu Mẫn thấy chàng trầm ngâm không trả lời, cười nói:

- Nếu anh không chịu, cũng tùy anh thôi. Tôi sẽ nhờ anh làm một việc khác còn khó hơn thế nhiều.

Trương Vô Kỵ biết cô gái này cực kỳ điêu ngoa giảo hoạt, nếu quả đưa ra một nạn đề e rằng mình sẽ không làm nổi, vội nói:

- Được rồi, tôi bằng lòng đi mượn thanh đao Đồ Long cho cô. Thế nhưng mình nói trước với nhau, cô chỉ được mượn xem một giờ thôi, nếu như có ý chiếm đoạt, tôi không để yên đâu đấy nhé.

Triệu Mẫn cười nói:

- Đúng thế. Tôi không biết sử đao, nặng chình chịch thế tôi lấy làm gì? Dù anh có cung kính hai tay đưa lên cho tôi, tôi cũng chẳng thèm. Vậy bao giờ thì anh khởi hành?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Độ vài ngày nữa.

Triệu Mẫn nói:

- Thế thì càng tốt. Để tôi đi thu xếp, chừng nào anh đi thì đến hẹn trước với tôi.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc nói:

- Cô cũng đi nữa ư?

Triệu Mẫn nói:

- Đương nhiên là thế. Nghe nói nghĩa phụ anh ở trên một hòn đảo hoang ở ngoài biển, lỡ như ông ta không chịu về, không lẽ anh đường xa vạn dặm tít mù mượn thanh đao về đây cho tôi xem một giờ rồi lại quay lại trả? Trên đời này có ai lại làm thế bao giờ.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến sóng to gió cả nơi biển bắc, biển cả mênh mông, tìm cho ra được Băng Hỏa đảo quả thật khó khăn vô cùng, nếu như đi đi về về ba lần chẳng đâu vào đâu, thật không cách gì làm nổi. Cô ta nói quả không sai, nghĩa phụ ở nơi hoang đảo đã hai chục năm, chưa chắc đã muốn sống những ngày tàn của cuộc đời nơi Trung Thổ. Chàng bèn nói:

- Trên biển cả sóng gió vô tình, cô phải mạo hiểm như thế làm gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Anh mạo hiểm được, sao tôi lại không được?

Trương Vô Kỵ chần chừ nói:

- Liệu cha cô có chịu cho cô đi không?

Triệu Mẫn nói:

- Gia gia bảo tôi thống suất quần hào giang hồ, mấy năm nay tôi chạy đông chạy tây, cha tôi không ngó ngàng gì đến cả.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói "Cha tôi bảo tôi thống suất quần hào giang hồ", trong bụng chột dạ: "Ta đi Băng Hỏa đảo nghênh tiếp nghĩa phụ, không biết năm nào tháng nào mới quay về. Nếu như đây là kế điệu hổ ly sơn của cô ta, nhân dịp mình không có nơi đây đem đại binh đối phó với bản giáo thì sao. Mình không thể không đề phòng, nếu như nàng ta đi chung, thủ hạ của cô ta có điều cấm kỵ, cũng đỡ lo phần nào". Nghĩ vậy bèn gật đầu:

- Thế thì được, khi nào tôi ra đi sẽ đến hẹn với cô.

Câu nói chưa dứt, đột nhiên bên ngoài cửa sổ đỏ rực, tiếng người reo hò từ nơi xa xa truyền đến. Triệu Mẫn chạy lại cửa sổ nhìn ra, kinh hoảng kêu lên:

- Ối chao, bảo tháp của chùa Vạn An bị cháy rồi. Khổ đại sư, khổ đại sư, lại đây mau.

Nàng gọi luôn mấy tiếng, không thấy khổ đầu đà đâu vội chạy ra ngoài cũng chẳng thấy tăm hơi Phạm Dao đâu cả, hỏi chưởng quĩ thì y nói rằng vị đầu đà vừa đến là đi ngay, xem ra cũng đã lâu rồi. Triệu Mẫn cực kỳ lạ lùng, nghĩ đến hồi tối y nở một nụ cười bí hiểm, đôi má không khỏi đỏ bừng, cúi đầu quay lại liếc Trương Vô Kỵ một cái.

Trương Vô Kỵ thấy lửa bốc mỗi lúc một cao, sợ rằng đại sư bá các người công lực chưa khôi phục, bị chết cháy ở trên tháp nên nói:

- Triệu cô nương, xin lỗi tôi phải đi đây.

Nói chưa dứt câu, chàng đã vội vàng chạy ra. Triệu Mẫn gọi:

- Chờ chút nào, để tôi đi với anh.

Thế nhưng khi nàng ra đến cửa thì Trương Vô Kỵ đã chạy đâu mất rồi.

*

* *

Lộc Trượng Khách thấy khổ đầu đà bị quận chúa gọi đi, cảm thấy yên tâm lập tức cõng Hàn cơ đi đến phòng của đệ tử Ô Vượng A Phổ. Bảo tháp chùa Vạn An cả thảy mười ba tầng, cao mười ba trượng. Ba tầng trên cùng để thờ Phật, chứa kinh và xá lợi không ai được ở. Ô Vượng A Phổ là tổng quản trông coi bảo tháp, y ở tầng thứ mười cho tiện việc nhòm ngó chung quanh, khống chế toàn cục.

Lộc Trượng Khách vào trong phòng rồi nói với Ô Vượng A Phổ:

- Ngươi đứng canh ở bên ngoài, không cho ai vào.

Ô Vượng A Phổ vừa ra khỏi cửa, y lập tức đóng chặt cửa phòng, cởi cái bọc cho Hàn cơ ra. Chỉ thấy nàng sợ hãi đến mặt hoa tái mét, ánh mắt đầy vẻ cầu khẩn. Lộc Trượng Khách ôn tồn nói:

- Cô đã đến nơi đây, không có gì phải sợ cả, tôi sẽ đối đãi tử tế.

Y chưa tiện giải huyệt cho nàng ta, sợ cô ta kêu lên thì hỏng việc, nên đặt nàng nằm trên giường Ô Vượng A Phổ, lấy chăn đắp lên, lại lấy thêm một cái mền chèn ở bên cạnh. Nơi Hàn cơ đang ở đây không phải là nơi có thể sàm sỡ được nên y không dám ở lâu, vội vàng ra khỏi phòng dặn Ô Vượng A Phổ không được vào, cũng không được cho ai vào. Y biết tên đại đệ tử này vừa kính vừa sợ mình, quyết không dám trái lời.

Y tính thầm trong bụng: "Việc này nếu muốn cho khổ đầu đà giữ bí mật cho mình, không thể không mua lòng y, chi bằng mình đi thả mụ tình nhân và con gái y ra trước. Cũng may đêm qua giáo chủ ma giáo đến quấy phá, mọi việc lại chính ngay từ Chu cô nương mà ra, mình cứ đổ cho giáo chủ ma giáo cứu Diệt Tuyệt lão ni và Chu cô nương đi, thế là ổn thỏa, quận chúa chắc sẽ không nghi ngờ gì. Tên tiểu ma đầu võ công cao cường như thế, quận chúa sẽ không thể trách mình phòng bị không kỹ càng được".

Các nữ đệ tử phái Nga Mi bị giam ở tầng thứ bảy, riêng Diệt Tuyệt sư thái là địa vị chưởng môn, bị giam một mình tại một căn phòng nhỏ. Lộc Trượng Khách bảo người cai ngục mở cửa cho y vào, thấy Diệt Tuyệt sư thái ngồi xếp bằng trên nền, nhắm mắt tĩnh tu. Bà ta đã tuyệt thực mấy ngày nay, dung nhan tuy có đôi chút tiều tụy nhưng lại đầy vẻ ngạo nghễ ngang tàng.

Lộc Trượng Khách nói:

- Diệt Tuyệt sư thái, khỏe chứ?

Diệt Tuyệt sư thái từ từ mở mắt ra nói:

- Ở nơi đây là đã không khỏe, còn gì phải hỏi?

Lộc Trượng Khách nói:

- Bà ương ngạnh như thế, chủ nhân nói là có để thêm cũng vô dụng nên sai ta đến đưa bà về Tây phương đây.

Diệt Tuyệt sư thái đã quyết chí chọn cái chết bèn nói:

- Hay lắm, không cần phải mất công các hạ động thủ, cho ta mượn một thanh đoản kiếm, để ta lo lấy cũng xong. Xin các hạ gọi đứa học trò Chu Chỉ Nhược của ta lại đây, ta có vài lời trối trăn với nó.

Lộc Trượng Khách quay mình đi ra, sai người dẫn Chu Chỉ Nhược đến, nghĩ thầm: "Hai người mẹ con quả nhiên cũng khác, sao không gọi đại đệ tử đến mà lại chỉ gọi cô ta". Chẳng mấy chốc Chu Chỉ Nhược đã đến phòng sư phụ, Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Lộc tiên sinh, xin ông ra ngoài chờ, ta chỉ nói vài câu là xong.

Chu Chỉ Nhược đợi Lộc Trượng Khách ra khỏi, khép cửa lại, sà vào lòng sư phụ khóc tấm tức. Diệt Tuyệt sư thái vốn tính tình cứng rắn nhưng lúc sinh ly tử biệt này không khỏi thương cảm, nhẹ nhàng đưa tay vuốt tóc nàng.

Chu Chỉ Nhược biết rằng không có thì giờ nói chuyện lâu với sư phụ, liền đem chuyện đêm hôm qua Trương Vô Kỵ đến cứu nàng như thế nào kể lại cho sư phụ nghe. Diệt Tuyệt sư thái nhíu mày, trầm ngâm một hồi nói:

- Tại sao y lại chỉ cứu mình con mà không cứu những người khác? Hôm đó con đâm y một kiếm trên Quang Minh Đính, sao y lại trở ngược cứu con là sao?

Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng nhỏ nhẹ nói:

- Con cũng không biết nữa.

Diệt Tuyệt sư thái giận dữ nói:

- Hừ, tên tiểu tử đó cực kỳ âm hiểm ác độc, y là đại ma đầu của ma giáo, làm gì có lòng tốt bao giờ. Y chính là sắp xếp một cái bẫy để cho con chui đầu vào đó.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Y... y sắp xếp để đưa con vào bẫy ư?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Chúng ta là tử đối đầu của ma giáo, dưới kiếm Ỷ Thiên của ta không biết bao nhiêu tà ác gian đồ của ma giáo bị bỏ mạng. Lẽ dĩ nhiên ma giáo hận phái Nga Mi thấu xương, sao lại quay ra cứu mình là sao? Tên ma đầu họ Trương kia hẳn là thích con, muốn con bị sa vào vòng tay y nên y sai người giả vờ bắt bọn mình, sau đó cố ý lấy lòng, giả vờ cứu con ra, để con từ nay hết lòng hết dạ nhớ ơn y.

Chu Chỉ Nhược nhỏ nhẹ nói:

- Sư phụ, con xem ra y... y không phải giả đâu.

Diệt Tuyệt sư thái giận quá, quát lên:

- Ngươi lại định đi theo vết của đứa không ra gì Kỷ Hiểu Phù kia hay sao mà lại phải lòng một dâm đồ của ma giáo? Nếu ta công lực không mất, một chưởng đánh chết ngươi là xong.

Chu Chỉ Nhược sợ đến toàn thân run rẩy, nói:

- Đồ nhi không dám thế.

Diệt Tuyệt sư thái gay gắt nói:

- Ngươi quả thực không dám hay lại chỉ mồm mép xuông, đánh lừa sư phụ?

Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp:

- Đồ nhi quyết không dám trái lời dạy dỗ của ân sư.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Vậy con quì xuống lập một trọng thệ xem nào.

Chu Chỉ Nhược y lời, quì xuống không biết nói sao cho phải. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Con nói như thế này: tiểu nữ là Chu Chỉ Nhược xin thề cùng trời đất, nếu như sau này có lòng ái mộ tên dâm đồ Trương Vô Kỵ giáo chủ của ma giáo, kết thành vợ chồng cùng y, cha mẹ con chết nằm dưới đất xương cốt không yên, sư phụ con Diệt Tuyệt sư thái sẽ thành ma quỉ khiến cho con một đời ngày đêm không ổn, nếu như con sau này sinh con đẻ cái với y, con trai thì đời đời làm đầy tớ, con gái thì đời đời làm gái lầu xanh.

Chu Chỉ Nhược giật mình hoảng sợ, nàng bản tính nhu hòa ôn thuận, chưa bao giờ nghĩ đến chuyện thề một câu độc địa đến thế, không những rủa xả cả đến cha mẹ đã chết rồi, lại rủa xả đến cả sư phụ, luôn cả lời nguyền lây đến con cái mình nhưng thấy sư phụ mắt trừng trừng, hầm hầm nhìn thẳng vào mặt nàng, không khỏi mắt hoa đầu váng, liền y theo lời thầy nói đọc lại một lần.

Diệt Tuyệt sư thái thấy nàng thề độc như thế gương mặt liền dịu lại, ôn tồn nói:

- Ngoan lắm, thôi con đứng lên đi.

Chu Chỉ Nhược nước mắt lã chã tuôn rơi, uể oải đứng lên. Diệt Tuyệt sư thái mặt trầm xuống nói:

- Chỉ Nhược, ta không phải cố ý ép buộc con đâu, chỉ vì muốn tốt lành cho con đấy thôi. Con chỉ là một cô gái còn nhỏ tuổi, từ rày sư phụ đâu có còn để lo cho con nữa, nếu như con lại sa vào bước chân của Kỷ sư tỉ, sư phụ ở dưới cửu tuyền cũng không được an tâm. Huống chi sư phụ muốn con đảm trách trọng nhiệm hưng phục bản phái, không thể lầm lỡ chút nào được.

Nói đến đây bà tháo chiếc nhẫn sắt ở ngón tay vô danh nơi bàn tay trái ra, đứng thẳng dậy nói:

- Nữ đệ tử của phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược quì xuống nghe dụ.

Chu Chỉ Nhược ngạc nhiên, lập tức quì xuống. Diệt Tuyệt sư thái giơ chiếc nhẫn lên cao khỏi đỉnh đầu, nói tiếp:

- Chưởng môn đời thứ ba của phái Nga Mi nữ ni Diệt Tuyệt, kính cẩn truyền chức chưởng môn bản phái cho chưởng môn đời thứ tư Chu Chỉ Nhược.

Chu Chỉ Nhược bị sư phụ ép phải thề độc, đầu óc hỗn loạn bỗng nghe sư phụ truyền chức chưởng môn bản phái cho mình, lại càng hoang mang ngơ ngẩn, kinh hãi đến thừ người ra. Diệt Tuyệt sư thái lại từng tiếng một nói thật rõ ràng:

- Chu Chỉ Nhược, đưa tay trái ra phụng tiếp thiết chỉ hoàn chưởng môn của bản phái.

Chu Chỉ Nhược hoảng hốt giơ tay ra, Diệt Tuyệt sư thái liền đeo chiếc nhẫn vào ngón tay áp út cho nàng. Chu Chỉ Nhược run rẩy nói:

- Sư phụ, đệ tử tuổi trẻ, nhập môn cũng chưa lâu làm sao có thể đảm đương việc lớn được? Lão nhân gia thể nào cũng thoát khỏi cảnh khốn cùng, mà nếu có không ra được thì đệ tử cũng không thể...

Nói đến đây, nàng ôm hai đầu gối sư phụ, khóc òa lên.

Lộc Trượng Khách ở bên ngoài đợi lâu đã thấy khó chịu, nghe tiếng khóc liền đẩy cửa nhìn vào nói:

- Này, hai người nói chuyện xong chưa? Ngày sau còn dài nói lúc nào chẳng được?

Diệt Tuyệt sư thái quát:

- Ngươi léo nhéo cái gì?

Nói xong quay lại Chu Chỉ Nhược:

- Mệnh lệnh sư tôn, con dám trái lời sao?

Nói xong đem giới luật của chưởng môn bản phái nói hết một lượt bắt nàng phải nhớ nằm lòng. Chu Chỉ Nhược thấy trong cách nói của sư phụ như có vẻ trối trăn lời sau cùng, lại càng kinh sợ nói:

- Đệ tử không muốn, đệ tử không đủ tài...

Diệt Tuyệt sư thái gằn giọng nói:

- Ngươi không nghe lời ta, vậy là kẻ khi sư diệt tổ rồi.

Bà thấy Chu Chỉ Nhược nem nép thật tội nghiệp, nghĩ đến chính mình còn thấy là quá to lớn, nay đem gánh nặng trút lên vai đưa học trò nhu thuận yếu đuối này, e rằng nàng không sao làm nổi. Thế nhưng trong các đệ tử của phái Nga Mi chỉ có nàng ngộ tính cao hơn cả, muốn tu tập võ công tối cao, làm rạng rỡ cho môn phái, ngoại trừ nàng ra không một người thứ hai nào thích hợp. Bà nghĩ đến rồi đây con đường đằng đẵng, biết bao gian lao khổ sở đang đón chờ đứa học trò nhỏ bé này, trong lòng không khỏi se lại, giơ tay đỡ nàng lên, ôm vào trong lòng ôn tồn vỗ về:

- Chỉ Nhược, ta sở dĩ đem chức vụ chưởng môn truyền cho con mà không truyền cho các sư tỉ, không phải vì sư phụ thiên vị, chỉ vì phái Nga Mi nữ lưu làm chủ, chưởng môn ắt phải võ công trác tuyệt để có thể đứng vững trước quần hùng trong võ lâm.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Võ công của đệ tử làm sao sánh được với các vị sư tỉ?

Diệt Tuyệt sư thái mỉm cười nói:

- Bọn nó thành công chỉ có hạn, đến mức như hiện nay, không còn tiến thêm bao nhiêu, đó là do thiên tư mà có chứ chẳng phải ý muốn con người. Con hiện nay tuy không bằng các sư tỉ của con, nhưng sau này không biết đâu mà kể. Ôi, không biết đâu mà kể, không biết đâu mà kể, cũng vì ở những chữ ấy.

Chu Chỉ Nhược thần sắc hoang mang, nhìn sư phụ không hiểu ý bà muốn nói gì. Diệt Tuyệt sư thái ghé miệng vào tai nàng nói nhỏ:

- Con đã là chưởng môn của bản phái rồi, ta đem một đại bí mật của môn phái kể cho con nghe.

Tổ sư khai sáng ra môn phái Quách nữ hiệp, vốn là con gái út của đại hiệp Quách Tĩnh. Năm xưa Quách đại hiệp danh chấn thiên hạ, trong đời có hai môn tuyệt nghệ, một là binh pháp hành quân chiến đấu, hai là võ công. Quách phu nhân Hoàng Dung nữ hiệp cực kỳ thông minh cơ trí, bà thấy thế của quân Nguyên quá lớn, thành Tương Dương rồi cũng sẽ không giữ được, hai vợ chồng quyết tâm lấy cái chết để đền nợ nước, ấy là biết không làm được đành giữ tấm lòng son tận trung, nhưng nếu vì thế mà tuyệt nghệ của Quách đại hiệp bị thất truyền, không đáng tiếc lắm hay sao? Huống chi bà nghĩ người Mông Cổ dù nhất thời có chiếm được Trung Quốc, người Hán cũng không cam chịu làm nô lệ mãi mãi. Sau này huyết chiến đất trung nguyên, hai môn binh pháp và võ công kia thể nào chẳng có chỗ đại dụng. Vì thế bà gọi các thợ đúc lành nghề, lấy thanh huyền thiết trọng kiếm của Dương Quá Dương đại hiệp tặng cho Quách tổ sư của bản phái nấu chảy ra, lại thêm thép ròng của người Tây phương đúc thành một thanh đao Đồ Long, một thanh Ỷ Thiên kiếm.

Chu Chỉ Nhược nghe tiếng hai thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đã lâu, bây giờ mới biết hai thanh đao kiếm này là do mẫu thân của tổ sư bản phái Quách Tương nữ hiệp đúc thành. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Trước khi đúc đao rèn kiếm, Hoàng nữ hiệp cùng Quách đại hiệp hai người để ra một tháng, chép hết võ công và binh pháp tinh yếu, chia ra dấu trong hai thanh đao và kiếm. Trong đao Đồ Long cất giữ binh pháp, cái tên Đồ Long ý muốn người sau học được binh thư trong đao có thể đuổi được Thát tử, giết được hoàng đế Mông Cổ. Còn trong kiếm Ỷ Thiên thì cất giữ võ học bí cấp, trong đó hai môn quí giá nhất gồm có một bộ Cửu Âm Chân Kinh và một bộ Hàng Long Thập Bát Chưởng chưởng pháp tinh nghĩa, hi vọng hậu nhân tập được võ công trong thanh kiếm, thế thiên hành đạo, vì dân trừ hại.

Chu Chỉ Nhược mở to đôi mắt, càng nghe càng thấy lạ lùng, lại nghe sư phụ kể:

- Vợ chồng Quách đại hiệp đúc đao kiếm xong, đem bảo đao giao cho con trai là Quách công Phá Lỗ, bảo kiếm giao cho Quách tổ sư bản phái. Lẽ dĩ nhiên Quách tổ sư đã từng được cha mẹ dạy võ công rồi, còn Quách công Phá Lỗ thì được truyền thụ binh pháp. Thế nhưng khi thành Tương Dương thất thủ, cả vợ chồng Quách đại hiệp lẫn Quách công Phá Lỗ đều tuẫn nạn. Quách tổ sư tính tình không hợp với võ công của cha, thành thử võ học bản phái không cùng đường với võ công của Quách đại hiệp khi trước.

Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Một trăm năm sau, trong võ lâm biết bao nhiêu sóng gió, đôi đao kiếm đó qua tay đổi chủ nhiều lần. Người sau chỉ biết đao Đồ Long là võ lâm chí tôn, chỉ có kiếm Ỷ Thiên mới đương cự nổi, thế nhưng vì sao mà tôn quí hơn hết thì không ai biết cả. Quách công Phá Lỗ tuẫn quốc từ khi còn thanh niên, không có truyền nhân, thành ra bí mật trong hai thanh đao kiếm chỉ một mình Quách tổ sư bản phái biết mà thôi. Lão nhân gia lúc sinh tiền từng hết tâm hết sức đi tìm thanh đao Đồ Long nhưng không thành công. Đến khi lìa trần mới đem bí mật đó truyền lại cho ân sư ta là Phong Lăng sư thái. Ân sư ta nhận di mệnh của tổ sư đi tìm thanh đao Đồ Long cũng không có kết quả. Lão nhân gia lúc viên tịch lại đem thanh kiếm và di mệnh của tổ sư truyền lại cho ta. Ta tiếp nhiệm chức vụ chưởng môn bản phái chưa lâu thì sư bá ngươi Cô Hồng Tử gây sự với một thanh niên cao thủ của ma giáo, hai bên ước định tỉ võ, một đánh một, không ai có người giúp đỡ. Sư bá ngươi biết đối thủ tuy tuổi còn trẻ, võ công lại rất ghê gớm, nên mới đến mượn thanh Ỷ Thiên kiếm của ta.

Chu Chỉ Nhược nghe tới "thanh niên cao thủ trong ma giáo", trong bụng chột dạ, tự nhiên mặt đỏ lên, nhưng lại nghĩ ngay: "Không phải chàng đâu, e rằng khi đó chàng chưa ra đời nữa".

Lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Khi đó ta muốn đi theo để trợ giúp nhưng sư bá ngươi là người hết sức tín nghĩa, nói rằng đã nói trước với ma đầu kia rằng không để cho người thứ ba nào tham dự thành thử kiên quyết không cho ta đi. Trận tỉ thí đó, sư bá ngươi võ công tuy không kém gì đối thủ nhưng gã ma đầu liên tiếp thi hành ngụy kế, sau cùng bị trúng một chưởng vào ngực, kiếm Ỷ Thiên chưa ra khỏi vỏ thì đã bị ma đầu kia đoạt mất.

Chu Chỉ Nhược "A" lên một tiếng, nghĩ đến khi Trương Vô Kỵ đoạt kiếm từ tay Diệt Tuyệt sư thái lúc ở Quang Minh Đính, thì nghe sư phụ kể thêm:

- Gã ma đầu kia liên tiếp cười khẩy nói: "Kiếm Ỷ Thiên nghe danh ghê gớm thế nhưng dưới mắt ta có khác gì đồng nát sắt rỉ đâu". Nói xong y vứt toẹt thanh kiếm xuống đất rồi đi thẳng. Sư bá ngươi nhặt thanh kiếm lên, muốn quay lại núi trả cho ta. Ngờ đâu ông tâm cao khí ngạo, càng nghĩ càng tức không chịu nổi, chỉ mới đi được ba ngày thì ở trên đường ngã bệnh không dậy được, thanh kiếm Ỷ Thiên bị quan phủ lấy mất đem hiến cho triều đình. Con có biết tên ma đầu đã chọc tức sư bá Cô Hồng Tử đó là ai không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không...con không biết. Ai thế?

Diệt Tuyệt sư thái đáp:

- Chính là kẻ sau này đã hại đời làm chết Kỷ Hiểu Phù sư tỉ con đại ma đầu Dương Tiêu đó.

Bỗng nghe Lộc Trượng Khách giơ tay gõ cửa nói:

- Xong chưa nào? Ta không đợi thêm được nữa đâu.

Diệt Tuyệt sư thái đáp:

- Không việc gì phải gấp, chỉ một lúc nữa là xong thôi.

Bà điềm nhiên nói với Chu Chỉ Nhược:

- Thời khắc không còn nhiều, ta không nói với con được bao nhiêu nữa. Thanh kiếm Ỷ Thiên sau đó hoàng đế Thát tử ban cho Nhữ Dương Vương, ta đến phủ Nhữ Dương Vương đoạt lại. Lần này bất hạnh thay trúng phải gian kế, thanh kiếm đó vào tay bọn ma giáo.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Không phải đâu, đó là bị cô nương họ Triệu kia đoạt mất đó.

Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt nhìn nàng, nói:

- Con bé họ Triệu rõ ràng cùng bọn với ma đầu của ma giáo, không lẽ giờ phút này, con vẫn chưa tin lời sư phụ hay sao?

Chu Chỉ Nhược quả thực khó mà tin như thế nhưng không dám cãi lại lời sư phụ.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Sư phụ muốn con tiếp nhiệm chưởng môn cũng là có thâm ý. Ta kỳ này rơi vào tay bọn gian đồ, anh danh một đời trôi theo giòng nước, thực không còn muốn sống mà ra khỏi cái tháp này. Tên dâm đồ họ Trương kia có tà ý, ắt sẽ không hại tính mạng con, thành thử con có thể giả vờ khứng chịu, thừa cơ đoạt lại thanh Ỷ Thiên kiếm. Còn thanh đao Đồ Long ở trong tay nghĩa phụ y là ác tặc Tạ Tốn. Tên tiểu tử đó dù cách nào cũng không thổ lộ chỗ ở của Tạ Tốn nhưng trên đời này chỉ một người có thể bảo y đi lấy thanh đao đó được thôi.

Chu Chỉ Nhược biết sư phụ nàng nói đây là nói về mình, vừa thẹn thùng vừa e ngại, vừa sợ hãi vừa vui mừng. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Người đó chính là con đó. Ta muốn con dùng sắc đẹp dụ y lấy được bảo đao bảo kiếm, việc đó quả không phải là đường lối của người hiệp nghĩa. Thế nhưng để thành được đại sự không thể nề tiểu tiết. Con thử nghĩ xem, thanh kiếm Ỷ Thiên nay ở trong tay con bé họ Triệu, còn đao Đồ Long ở trong tay ác tặc Tạ Tốn, chúng nó cùng một phường tồi bại với nhau, nếu như một ngày nào đó đao kiếm tương phùng, lấy được binh pháp võ công của Quách đại hiệp, dùng đó tàn hại dân lành, thiên hạ biết bao nhiêu kẻ vô tội bị bỏ mạng, vợ chồng chia lìa, cha con ly tán, việc đuổi quân Thát tử đã khó lại càng khó hơn.

Chỉ Nhược, ta biết việc này khó tày trời, thực không nỡ để con phải gánh vác, thế nhưng chúng ta một đời học võ cốt để làm gì? Chỉ Nhược, ta vì trăm họ mà cầu khẩn con.

Bà nói tới đây, đột nhiên đứng lên quì hai gối, hướng về Chu Chỉ Nhược phục xuống lạy. Chu Chỉ Nhược kinh hãi không để đâu cho hết, vội vàng quì theo, kêu lên:

- Sư phụ, sư phụ, thầy...

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Bình tĩnh nào, đừng để cho ác tặc bên ngoài kia nghe thấy, con có bằng lòng không? Nếu con không nhận lời, ta sẽ không đứng lên đâu.

Chu Chỉ Nhược lòng rối như tơ vò, trong một thời gian ngắn ngủi như thế, sư phụ bảo nàng làm ba chuyện thật to lớn, trước là lập một lời thề thật độc không được phải lòng Trương Vô Kỵ, kế đến bắt nàng tiếp nhiệm chưởng môn bản phái, sau cùng lại bắt nàng dùng mỹ sắc để dụ dỗ Trương Vô Kỵ hầu lấy được kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long. Ba chuyện ấy trong vòng mười năm mà bảo nàng làm, dẫu nàng tính hạnh ôn nhu cũng đã thấy không làm nổi, huống chi chỉ trong một giây một phút? Nàng thần trí bấn loạn, lúc này người mê đi không còn biết gì nữa.

Đột nhiên nàng thấy môi trên đau nhói, mở mắt ra thấy sư phụ vẫn quì sừng sững ở trước mặt. Chu Chỉ Nhược khóc nói:

- Sư phụ, xin lão nhân gia đứng lên đi.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Vậy con đã bằng lòng làm việc sư phụ cầu ở con chưa?

Chu Chỉ Nhược nước mắt chảy dài lặng lẽ gật đầu nhưng dường như lại muốn ngất đi lần nữa. Diệt Tuyệt sư thái nắm lấy cổ tay nàng, hạ giọng nói:

- Con lấy được kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long rồi, tìm một nơi thật kín đáo, một tay cầm đao, một tay giữ kiếm vận nội lực lên lấy đao kiếm chém vào nhau, cả bảo đao lẫn bảo kiếm sẽ cùng gãy cả, là cách duy nhất lấy được bí cấp dấu bên trong thân đao và lưỡi kiếm, từ nay về sau đao kiếm đã bị hủy rồi. Con có nhớ không?

Bà ta tuy nói rất nhỏ nhưng âm thanh cực kỳ gay gắt. Chu Chỉ Nhược gật đầu.

Diệt Tuyệt sư thái lại tiếp:

- Đây là bí mật tối quan trọng của bản phái, từ thuở Quách đại hiệp truyền lại cho Quách tổ sư tới nay chỉ một mình người chưởng môn được biết. Ai cũng biết đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đều sắc bén tuyệt luân, dẫu người nào có được cả hai món binh khí này, ai dám mạo hiểm đem bảo đao bảo kiếm chém vào nhau? Con lấy được binh pháp rồi, chọn người nào tâm địa nhân hậu, hết lòng hết dạ với đất nước, đem truyền thụ cho y, bắt y thề phải dùng để đuổi quân Hồ Lỗ. Còn võ công bí cấp thì con tự mình luyện lấy. Hàng Long Thập Bát Chưởng là môn thuần cương mãnh, con không luyện được, chỉ nên luyện công phu Cửu Âm chân kinh.

Cứ như ân sư ta thuật lại di ngôn của Quách tổ sư thì pho Cửu Âm chân kinh này bác đại tinh thâm, vốn không thể mong tốc thành được nhưng vì Hoàng nữ hiệp nghĩ đến việc tru diệt bọn Thát tử hung ác là chuyện thật gấp gáp, sớm ngày nào thiên hạ đỡ khổ ngày nấy cho nên trong bí cấp dấu nơi kiếm Ỷ Thiên có viết mấy chương cốt luyện cho nhanh. Thế nhưng sau khi đã làm xong đại sự, phải đi lại từ đầu cho có căn cơ, công phu gấp gáp kia chỉ dùng được một thời, là do trí tuyệt đính thông minh của Hoàng nữ hiệp sáng tạo ra dùng lúc quyền nghi mà thôi, không phải là võ học chân chính vô địch thiên hạ. Chỗ đó con phải ghi nhớ kỹ trong lòng.

Hồi 27

BÁCH XÍCH CAO THÁP NHIỆM HỒI TƯỜNG-

Chu Chỉ Nhược ngơ ngẩn bần thần lặng lẽ gật đầu. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Cả cuộc đời thầy chỉ có hai tâm nguyện lớn, một là làm sao đuổi được bọn Thát tử lấy lại giang sơn cho người Hán; hai là làm sao cho phái Nga Mi võ công đứng đầu thiên hạ, vượt cả Thiếu Lâm, Võ Đương trở thành môn phái số một của trung nguyên. Hai chuyện đó thật là khó khăn nhưng đến bây giờ thấy có chút hi vọng, chỉ cần con theo đúng lời dặn dò của sư phụ thì chuyện gì rồi cũng xong, ta dù ở nơi cửu tuyền cũng còn cảm kích chịu ơn con.

Bà ta nói tới đây, bỗng nghe bên ngoài có tiếng Lộc Trượng Khách gõ cửa. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Vào đi.

Cửa mở toang ra, người bước vào không phải là Lộc Trượng Khách mà là khổ đầu đà. Diệt Tuyệt sư thái cũng không ngạc nhiên, nghĩ bọn này đều cá mè một lứa, người nào thì cũng thế thôi liền nói:

- Ngươi đem đứa bé này ra đi.

Bà không muốn tự vẫn trước mặt Chu Chỉ Nhược để nàng khỏi thêm đau lòng. Khổ đầu đà đến gần hạ giọng nói khẽ:

- Đây là thuốc giải, mau uống đi. Đợi đến khi nào bên ngoài có tiếng la hét tất cả cùng xông ra chém giết một lượt.

Diệt Tuyệt sư thái lạ lùng hỏi:

- Các hạ là ai? Sao lại đưa thuốc giải cho ta.

Khổ đầu đà đáp:

- Tại hạ là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo Phạm Dao, trộm được thuốc giải, đặc biệt đến đây cứu sư thái.

Diệt Tuyệt sư thái giận dữ đáp:

- Gian tặc Ma giáo kia, đến giờ này còn đùa cợt với ta nữa sao?

Phạm Dao cười nói:

- Hay nhỉ, nếu như ta đùa cợt với mụ thì thuốc độc uống rồi, thêm thuốc độc nữa, mụ có gan thì uống đi? Thuốc này uống vào bụng một giờ sau ruột đứt ra từng tấc, chết thảm không đâu kể xiết.

Diệt Tuyệt sư thái không thèm nói thêm một tiếng nào, cầm ngay lấy thuốc bột trên tay y há mồm uống ngay vào bụng. Chu Chỉ Nhược kinh hoảng kêu lên:

- Sư phụ... sư phụ...

Phạm Dao giơ một bàn tay ra, quát lên:

- Không được lên tiếng, ngươi cũng uống thuốc độc ngay đi.

Chu Chỉ Nhược sợ quá nhưng đã bị Phạm Dao bóp mồm, đổ thuốc vào miệng, tiếp theo lấy một bình nước tưới vào, thuốc liền trôi ngay xuống họng. Diệt Tuyệt sư thái hoảng hốt nghĩ nếu như Chu Chỉ Nhược chết đi, tất cả những gì mình mưu tính trôi theo giòng nước, nên cố hết sức xông lên, múa chưởng đánh thẳng vào Phạm Dao. Thế nhưng bà ta công lực hoàn toàn mất hết, chưởng đó chiêu số tinh diệu nhưng không có chút hơi sức nào, bị Phạm Dao đẩy nhẹ một cái đã văng vào tường.

Phạm Dao cười nói:

- Tăng chúng Thiếu Lâm, chư hiệp Võ Đương cũng đều uống thuốc độc của ta rồi. Minh giáo hay hay dở, xấu hay tốt một lát nữa thì biết ngay.

Y nói xong cười sằng sặc, quay ra đóng trái cửa phòng lại.

*

* *

Thì ra Phạm Dao hộ tống Triệu Mẫn đến gặp Trương Vô Kỵ, trong lòng khắc khoải làm sao có được thuốc giải nên khi Triệu Mẫn ra lệnh cho y ở ngoài quán rượu chờ nàng, y lập tức đi ngay, chạy thẳng về chùa Vạn An đi lên trên tháp đến tầng thứ mười nơi ngoài phòng của Ô Vượng A Phổ.

Ô Vượng A Phổ lúc đó đang đứng ngoài cửa, vừa thấy y liền cung kính chào một tiếng:

- Khổ đại sư.

Phạm Dao gật đầu, trong bụng cười thầm: "Giỏi thật, tên già họ Lộc làm thầy mà chẳng ra thể thống gì, chui ở trong phòng hú hí với ái cơ của vương gia, lại bắt học trò đứng ngoài canh cửa. Lợi dụng lúc tên này còn đang không biết trời trăng, ta phải xông vào cướp lấy giải dược mới được". Y bèn khom người lại, đi ngang qua người Ô Vượng A Phổ, bất ngờ giơ ngón tay điểm luôn vào huyệt đạo nơi bụng dưới y. Chẳng nói Ô Vượng A Phổ tuyệt nhiên không đề phòng, dẫu y có chăm chăm phòng bị cũng không sao tránh được một chỉ đó. Yếu huyệt của y bị điểm trúng rồi, lập tức đứng trơ trơ không cử động gì được, trong bụng cực kỳ ngạc nhiên, không biết làm gì nên nỗi, gây tội với lão đầu đà câm này. Không lẽ câu "Khổ đại sư" kia chào chưa đủ cung kính hay sao?

Phạm Dao vừa bước vào phòng, nhanh như điện xông luôn tới bên giường, hai chân chưa chấm đất, một chưởng đã đánh luôn vào người nằm ở trên. Y biết Lộc Trượng Khách võ công rất ghê gớm, nếu chưởng này không đánh y trọng thương hai bên sẽ phải đánh nhau một trận chưa biết bên nào sống bên nào chết, bên nào được bên nào thua. Thành thử chưởng đó y sử dụng đủ mười phần kình lực. Chỉ nghe một tiếp bộp, chiếc chăn bị đánh nát, bông bay tứ tán. Y lật mền lên coi, chỉ thấy Hàn cơ mũi mồm ứa máu, người đẹp kia ngọc nát vàng phai còn Lộc Trượng Khách không thấy đâu cả.

Phạm Dao chợt nghĩ ra một kế, vội vàng đi ra ngoài ôm Ô Vượng A Phổ vào, nhét xuống gầm giường, vừa khép cửa lại đã nghe tiếng Lộc Trượng Khách ở bên ngoài gắt lên:

- A Phổ, A Phổ, sao ngươi dám chạy đi đâu?

Thì ra Lộc Trượng Khách đứng bên ngoài phòng giam Diệt Tuyệt sư thái đợi một hồi, nghĩ thầm hai mẹ con mụ kể lể dông dài biết chừng nào mới xong, nhưng vì không dám đắc tội với khổ đầu đà, nên đành để yên, y ngong ngóng nhớ đến Hàn cơ, không còn chịu nổi nữa bèn quay trở lại phòng Ô Vượng A Phổ. Y đến nơi không thấy tên đệ tử ngoan ngoãn kia đâu, trong bụng bực dọc, đẩy cửa bước vào may quá chưa thấy gì khác, Hàn cơ nằm xoay mặt vào trong, trên mình phủ chiếc chăn bông.

Lộc Trượng Khách cầm then cài cửa phòng lại, quay mình cười nói:

- Người đẹp ơi, để ta giải huyệt cho nàng, nhưng nàng không được lên tiếng đấy nhé.

Y vừa nói vừa thò tay xuống dưới chăn, toan mò vào lưng Hàn cơ, đột nhiên cổ tay bị nắm chặt, năm ngón tay ai như gọng kìm bấm ngay vào mạch môn. Y kình lực toàn thân mất hết, không còn chút hơi sức nào nữa. Đột nhiên chăn tung qua, một nhà sư để tóc dài nhảy ra chính là khổ đầu đà.

Phạm Dao tay phải nắm được mạch môn, tay trái nhanh như gió liên tiếp điểm mười chín đại huyệt trên người Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách liền nhũn ra xụm người xuống không còn cử động chút nào nhưng mắt dường như nổ lửa.

Phạm Dao chỉ vào y nói:

- Lão phu đi không đổi họ, ngồi chẳng thay tên, chính là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo, họ Phạm tên Dao đây. Hôm nay ngươi bị ta ám toán, uổng cho ngươi tự cho mình là cơ trí tuyệt luân, thực ra tầm thường ngu độn quá lắm. Nếu lúc này ta giết ngươi, không phải là kẻ anh hùng hảo hán nên tạm cho ngươi sống, nếu ngươi có giỏi thì ngày sau đi kiếm Phạm Dao này báo thù.

Y cao hứng chưa hết, lột luôn quần áo Lộc Trượng Khách không còn một mảnh vải, để y nằm chung với cái xác Hàn cơ, lấy chăn bao ra bên ngoài chùm cả hai người một sống một chết lại.

Sau đó y mới lấy trượng sừng hươu, mở cái nhánh đổ hết thuốc giải đi từng phòng giam, chia cho Không Văn đại sư, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu mọi người uống. Đợi cho mọi người uống xong thời giờ cũng khá lâu, lại còn mất công giải thích mỗi người ít câu. Sau cùng đi đến phòng của Diệt Tuyệt sư thái, Phạm Dao thấy bà ta không tin đây là thuốc giải đành phải dọa một trận nói là độc dược. Y hận bà giết hại rất nhiều anh em trong Minh giáo nên hù được mấy câu cũng khoái trong lòng.

Y chia thuốc giải xong rồi, cảm thấy đắc ý bỗng nghe thấy dưới chân tháp có tiếng người lao xao, trong đó tiếng của Hạc Bút Ông nghe rõ ràng hơn cả:

- Tên khổ đầu đà là gian tế, mau bắt y xuống đây.

Phạm Dao kêu khổ thầm: "Bỏ mẹ, hỏng rồi, không biết ai cứu tên đó ra vậy?". Vừa thò đầu ra ngoài nhìn xuống dưới chân tháp, thấy Hạc Bút Ông tất lãnh một bầy võ sĩ vây chặt tháp lại, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi thấy y liền liền bắn hai mũi tên, chửi lớn:

- Ác tặc đầu đà, ngươi hại bọn ta quá đỗi.

Ba người Hạc Bút Ông bị điểm huyệt, vốn dĩ không thể thoát thân, lại nằm trong phòng Lộc Trượng Khách nên đâu có ai dám tự tiện tiến vào. Nào ngờ bọn võ sĩ do Nhữ Dương Vương phủ sai đến chùa Vạn An tra xét, không thấy tung tích ái cơ của vương gia đâu, liền có người nghĩ ngay đến tính tình hiếu sắc tham hoa của Lộc Trượng Khách. Thế nhưng các võ sĩ xưa nay vẫn e ngại y, tuy nghi ngờ việc mất tích của ái cơ vương gia có dính líu đến y nhưng có ai dám vuốt râu hùm? Mãi một lúc sau, người chỉ huy đội võ sĩ là Cáp tổng quản nghĩ ra một kế, sai một tên lính hầu đến gõ cửa phòng Lộc Trượng Khách, Lộc Trượng Khách thân phận cực cao dù có nổi nóng, không lẽ lại trừng phạt một tên tiểu binh như thế. Tên lính gõ cửa mấy lần trong phòng không nghe tiếng đáp lại.

Cáp tổng quản bậm môi, ra lệnh cho tên lính đẩy cửa vào xem có gì khác lạ không. Vừa nhìn vào, y liền thấy Hạc Bút Ông, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi ba người nằm lăn dưới đất. Lúc đó Hạc Bút Ông vận khí xung huyệt cũng đã giải được ba bốn phần, Cáp tổng quản liền giúp y giải huyệt nên chẳng mấy chốc lại hành động được như thường.

Hạc Bút Ông nộ khí xung thiên, liền tra hỏi xem Lộc Trượng Khách và khổ đầu đà đi đâu, biết được hai người lên trên tháp liền dẫn đám võ sĩ bao vây, lớn tiếng reo hò, gọi khổ đầu đà xuống một phen tử chiến.

Phạm Dao chửi thầm trong bụng: "Muốn tử chiến thì tử chiến, không lẽ họ Phạm này sợ ngươi chắc? Có điều bọn hòa thượng ni cô thối tha uống thuốc chưa bao lâu, nhất thời công lực chưa khôi phục. Tên Hạc Bút Ông đã nghe ta và Lộc Trượng Khách nói chuyện rồi, dù ta có đem lão Lộc này giết đi, cũng không thể diệt khẩu, phải làm sao bây giờ đây?". Y còn bàng hoàng chưa nghĩ ra kế gì, lại nghe Hạc Bút Ông kêu lên:

- Đầu đà chết tiệt kia, ngươi không xuống thì ta lên.

Phạm Dao liền trở vào đem chiếc chăn gói Lộc Trượng Khách và Hàn cơ ra bao lơn, giơ cao lên nói:

- Con hạc già kia, ngươi mà tiến lên tháp một bước, ta sẽ ném con hươu dâm này xuống đó.

Bọn võ sĩ tay giơ cao đuốc, chiếu sáng như ban ngày mặc dù ngọn tháp quá cao, ánh lửa không chiếu tới, nhưng trong ánh sáng bập bùng, vẫn thấp thoáng nhìn thấy mặt Lộc Trượng Khách và Hàn cơ. Hạc Bút Ông kinh hãi, kêu lên:

- Sư ca, sư ca, anh không sao chứ?

Y gọi liên tiếp mấy câu không nghe Lộc Trượng Khách đáp lại tưởng đã bị khổ đầu đà giết chết rồi, trong lòng đau khổ kêu lên:

- Tặc đầu đà, ngươi giết sư ca ta, ta quyết một mất một còn với ngươi.

Phạm Dao liền giải huyệt câm cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách liền lên tiếng chửi:

- Tặc đầu đà, ngươi là gian tế nội ứng ngoại hợp, ta sẽ lăng trì tùng xẻo giết ngươi mới hả...

Phạm Dao chỉ để cho y nói vài câu, lại điểm huyệt câm của y. Hạc Bút Ông thấy sư huynh chưa chết, trong bụng cũng yên chỉ sợ khổ đầu đà ném xuống thật nên không dám tiến đến cửa tháp nữa. Hai bên cứ dây dưa như thế một hồi lâu, Hạc Bút Ông không dám lên cứu sư huynh, còn Phạm Dao thì chỉ mong kéo dài thời khắc, thêm được chút nào hay chút nấy. Y đứng ở lan can cười ha hả nói:

- Hạc lão nhi, sư huynh ngươi thật là mật lớn tày trời, dám đi bắt trộm ái cơ của vương gia về đây. Ta bắt kẻ gian bắt luôn cả đôi, quả tang cả hai người. Ngươi vẫn còn mong che đậy cho sư huynh ngươi hay sao? Tổng quản đại nhân, mau mau bắt lấy gã đó. Hai sư huynh đệ của y phản loạn, tội đó không thể tha được. Ông bắt được y rồi, vương gia thể nào cũng trọng thưởng.

Cáp tổng quản liếc nhìn Hạc Bút Ông, đã toan ra tay nhưng lại không dám. Y thấy khổ đầu đà đột nhiên biết nói, tuy quái lạ thực nhưng rõ ràng nhìn thấy Lộc Trượng Khách và Hàn cơ nằm chung trong một cái chăn, huống chi trước đây vốn đã nghi ngờ nên nay tin cũng phải chín phần mười. Y liền lớn tiếng nói:

- Khổ đại sư, xin mời ông xuống đây, tất cả cùng đến gặp vương gia trình bày ai trái ai phải. Cả ba vị đều là tiền bối cao nhân, tiểu nhân không dám mạo phạm người nào cả.

Phạm Dao vốn là kẻ lớn mật, nghĩ thầm nếu tất cả cùng đến gặp vương gia, để khi phân biện trắng đen trái phải rồi, chư hiệp trên tháp uống thuốc giải cũng đã ngấm, liền kêu lên:

- Hay lắm, hay lắm! Ta đang muốn đi gặp vương gia lãnh thưởng. Tổng quản đại nhân, ông canh chừng tên hạc già này, quyết chớ để y có dịp đào tẩu.

Ngay lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa rộn rịp, một người cưỡi ngựa chạy vào tiến đến ngay dưới chân tháp. Các võ sĩ trông thấy liền khom lưng hành lễ:

- Tiểu vương gia.

Phạm Dao từ trên tháp nhìn xuống, thấy người đó mặc cẩm bào đội mũ vàng sáng loáng, cưỡi trên một con ngựa trắng cao to, chính là thế tử của Nhữ Dương Vương Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, có tên Hán là Vương Bảo Bảo.

Vương Bảo Bảo gay gắt quát hỏi:

- Hàn cơ đâu? Phụ vương đang nổi cơn lôi đình, sai ta đích thân tới tra xét.

Cáp tổng quản liền tiến lên bẩm báo, nói là Lộc Trượng Khách bắt cóc Hàn cơ, hiện đã bị khổ đầu đà bắt được. Hạc Bút Ông vội nói:

- Tiểu vương gia, đừng nghe y nói năng láo lếu. Tên đầu đà đó là gian tế, y hãm hại sư ca tôi...

Vương Bảo Bảo nhướng mày lên, quát:

- Tất cả xuống đây nói chuyện.

Phạm Dao ở vương phủ đã lâu, biết rằng Vương Bảo Bảo sáng suốt tinh minh không kém gì cha, ngụy kế của mình chỉ lừa được người khác nhưng không lừa nổi y. Một khi xuống chân tháp rồi, chỉ một hai câu là tiểu vương gia biết ngay, hạ lệnh cho võ sĩ vây đánh, riêng Hạc Bút Ông không thôi cũng đã gay go, một mình thoát thân không khó nhưng chư hiệp trên tháp không thể nào cứu ra được. Y liền lớn tiếng nói:

- Tiểu vương gia, tôi bắt được Lộc Trượng Khách rồi, sư đệ y căm hận thấu xương, tôi chỉ xuống tới nơi là y giết tôi ngay.

Vương Bảo Bảo nói:

- Ngươi mau xuống đây, Hạc tiên sinh không dám giết ngươi đâu.

Phạm Dao lắc đầu, cao giọng nói:

- Tôi ở trên tháp thấy yên tâm hơn. Tiểu vương gia, khổ đầu đà này một đời không nói năng, hôm nay việc chẳng đặng đừng phải mở miệng cũng toàn là do tấm lòng son trung nghĩa đối với vương gia. Nếu tiểu vương gia không tin, khổ đầu đà này sẽ nhảy xuống, vỡ đầu chết trước mặt ngài là xong.

Vương Bảo Bảo nghe y nói, mười phần đến bảy tám là láo lếu, rõ ràng có ý diên trì, hạ giọng hỏi nhỏ Cáp tổng quản:

- Y có mưu toan gì mà cố tình lần khân, chẳng lẽ còn chờ ai chăng?

Cáp tổng quản nói:

- Tiểu nhân không biết...

Hạc Bút Ông liền xen vào:

- Tiểu vương gia, tên tặc đầu đà này cướp thuốc giải của sư huynh tôi, muốn cứu bọn phản nghịch đang giam ở trong tháp.

Vương Bảo Bảo nghe liền hiểu ngay, gọi lớn:

- Khổ đại sư, ta biết công lao của ông rồi, mau xuống đây ta sẽ trọng thưởng.

Phạm Dao đáp:

- Tôi bị Lộc Trượng Khách đá hai cái, xương đùi gãy cả, bây giờ không sao cử động được. Tiểu vương gia, xin ngài đợi cho một chút, tôi vận khí chữa thương sẽ xuống ngay.

Vương Bảo Bảo quát lên:

- Cáp tổng quản, ngươi sai người lên cõng khổ đại sư xuống dưới này.

Phạm Dao vội kêu:

- Không được đâu, không được đâu, người nào đụng đến tôi là hai chân sẽ bị phế đó.

Vương Bảo Bảo lúc này không còn hoài nghi gì nữa, thấy Hàn cơ và Lộc Trượng Khách hai người nằm chung trong một cái chăn, dẫu như chưa có chuyện gì, phụ vương cũng không còn có thể giữ nàng hầu đó nữa, liền nói nhỏ:

- Cáp tổng quản, nổi lửa đốt cái tháp đi. Cho người nạp sẵn cung tên, dù ai nhảy ra cũng bắn chết hết.

Cáp tổng quản tuân lệnh truyền xuống, các võ sĩ cung tên sẵn sàng vây quanh ngọn tháp, còn những người khác chạy đi kiếm củi cỏ để đốt lửa. Hạc Bút Ông hoảng quá, kêu lên:

- Tiểu vương gia, sư ca tôi cũng ở trên đó.

Vương Bảo Bảo lạnh lùng đáp:

- Tên đầu đà đó không dám ở trên đó lâu đâu, một khi đốt lửa lên là y phải chạy xuống.

Hạc Bút Ông lập cập nói:

- Lỡ như y vứt sư ca tôi xuống thì làm thế nào? Tiểu vương gia, không thể đốt lửa được.

Vương Bảo Bảo hừ một tiếng không thèm để ý gì đến y. Chỉ trong giây lát, các võ sĩ đã mang củi cỏ và các đồ bén lửa, đốt dưới chân tháp. Hạc Bút Ông là người rất có thân phận trong võ lâm, được Nhữ Dương Vương dùng lễ mời vào phủ, trước nay đối đãi cực kỳ kính trọng, nào ngờ hôm nay vì trúng kế của khổ đầu đà, đến tiểu vương gia cũng chẳng coi y vào đâu. Y thấy tính mạng sư huynh nguy ngập đến nơi, không còn coi tiểu vương gia, đại vương gia ra gì nữa, cầm đôi bút mỏ hạc, nhảy vọt lên gạt hai tên võ sĩ đang châm lửa, huỵch huỵch hai tiếng, hai đứa đó liền văng ra xa.

Vương Bảo Bảo giận lắm, quát lên:

- Hạc tiên sinh, ngươi muốn phạm thượng tác loạn hay sao?

Hạc Bút Ông đáp:

- Tiểu vương gia đừng sai đốt lửa, tôi đâu có dám làm gì.

Vương Bảo Bảo quát lên:

- Châm lửa.

Y phất tay một cái, năm tên phiên tăng áo đỏ từ đằng sau nhảy lên, cầm lấy mấy bó đuốc trong tay các võ sĩ, ném luôn vào đống củi dưới chân tháp. Cỏ củi bén lửa, lập tức cháy lên bùng bùng.

Hạc Bút Ông quýnh quít, cướp một cây giáo của một tên võ sĩ, gạt những củi đang cháy ra. Vương Bảo Bảo quát lên:

- Bắt y.

Năm tên hồng y phiên tăng tay cầm giới đao liền vây Hạc Bút Ông lại. Hạc Bút Ông giận lắm, vứt trường mâu xuống, giơ tay toan cướp giới đao trong tay một phiên tăng. Tên đó không phải tầm thường, giới đao vòng lại chém luôn lên đầu vai y. Hạc Bút Ông đang toan né tránh, đằng sau đã nghe tiếng gió, lại có thêm hai thanh đao chém tới.

Thủ hạ Vương Bảo Bảo có mười tám phiên tăng võ công cao cường, gọi là Thập Bát Kim Cương, chia thành ngũ đao, ngũ kiếm, tứ trượng, tứ bạt. Năm phiên tăng này là Ngũ Đao Kim Cương, nếu một chọi một thì họ kém Hạc Bút Ông xa nhưng cả năm người cùng ra tay, kẻ công người thủ tương trợ lẫn nhau thì uy lực rất lớn. Hạc Bút Ông võ công tuy cao cường nhưng hôm trước bị Trương Vô Kỵ đánh cho bị thương hộc máu, nội lực giảm đi nhiều, lại thêm lửa cháy bừng bừng, tính mạng sư huynh đang nguy cấp, nên trong bụng phập phồng hốt hoảng không thể nào thắng ngay được.

Thủ hạ của Vương Bảo Bảo liên tục thêm củi thêm lửa, càng lúc cháy càng mạnh. Bảo tháp này xây vừa gạch vừa gỗ, chẳng mấy chốc những tầng dưới cùng đã bén lửa cháy lốp bốp rồi. Phạm Dao vội để Lộc Trượng Khách xuống, đến phòng giam chư hiệp phái Võ Đương, kêu lên:

- Thát tử đang đốt tháp, các vị nội lực đã hồi phục chưa?

Chỉ thấy Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu cả bọn đang ngồi xếp bằng vận công, hết sức tập trung tinh thần, không người nào lên tiếng trả lời hiển nhiên đang ở vào lúc sinh tử quan đầu của việc luyện công. Có mấy tên võ sĩ canh giữ tiến lên ngăn trở đều bị Phạm Dao chộp từng tên vứt xuống dưới chân tháp chết tươi. Số còn lại cố xông qua khói lửa chạy xuống dưới.

Một lúc sau, lửa đã bén đến từng thứ tư, những người bị giam nơi đây là phái Hoa Sơn không đợi công lực hồi phục, hốt hoảng chạy lên tầng thứ năm. Lửa vẫn tiếp tục cháy lên cao, khiến cho những người bị giam ở tầng thứ năm là phái Không Động cũng phải chạy lên. Có người chậm chân, quần áo râu tóc bị cháy xém.

Phạm Dao không biết làm cách nào, bỗng nghe có tiếng người gọi:

- Phạm hữu sứ, đón lấy.

Chính là tiếng của Vi Nhất Tiếu. Phạm Dao mừng quá, nhìn theo hướng thanh âm thấy Vi Nhất Tiếu đứng trên nóc hậu viện chùa Vạn An vung tay một cái ném một sợi dây dài qua, Phạm Dao vội vàng giơ tay bắt lấy. Vi Nhất Tiếu nói:

- Ngươi buộc vào lan can để làm một cái cầu dây.

Phạm Dao còn đang loay hoay buộc, Triệu Nhất Thương trong thần tiễn bát hùng liền bắn ra một mũi tên, trúng ngay giữa sợi dây thừng đứt đôi. Cả Phạm Dao lẫn Vi Nhất Tiếu cùng cất tiếng chửi, biết rằng muốn làm cái cầu dây không thể không trừ bọn thần tiễn bát hùng trước. Vi Nhất Tiếu mắng:

- Bắn cái con mẹ ngươi. Đứa nào không ném cung tên đi thì ông giết trước.

Y vừa chửi vừa rút kiếm ra nhảy ngay xuống đất. Chân y chưa chấm đất, năm tên phiên tăng áo xanh lập tức cầm kiếm tiến lên vây lại, chính là Ngũ Kiếm Kim Cương trong thập bát phiên tăng của Vương Bảo Bảo. Năm người đó kiếm vung lên loang loáng, kiếm chiêu quái lạ đấu với Vi Nhất Tiếu.

Hạc Bút Ông vẫn múa đôi song bút mỏ hạc chiến đấu, lớn tiếng kêu:

- Nếu tiểu vương gia không ra lệnh cứu hỏa, ta sẽ không còn nể nang gì nữa đâu.

Vương Bảo Bảo không thèm để ý, bốn tên phiên tăng cầm trượng liền chia nhau ra đứng bốn bên tiểu vương gia, e sợ có người đánh lén. Hạc Bút Ông nóng ruột, song bút đột nhiên sử chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, đẩy dạt ba phiên tăng trước mặt, đề khí chạy đến bên chân tháp, năm tên phiên tăng lập tức đuổi theo. Hạc Bút Ông nhún mình một cái đã nắm ngay được mái hiên tầng thứ nhất, năm phiên tăng thấy lửa đang cháy to liền ngừng lại không đuổi theo nữa.

Hạc Bút Ông từng tầng một tiếp tục nhảy lên, đến khi y tới từng thứ tư, Phạm Dao ở trên tầng thứ bảy thò đầu ra trông thấy liền giơ cao Lộc Trượng Khách lớn tiếng nói:

- Hạc lão nhi, mau đứng lại. Ngươi còn đi thêm một bước là ta cho Lộc lão nhi nát bấy ra ngay.

Quả nhiên Hạc Bút Ông không dám tiến thêm kêu lên:

- Khổ đại sư, anh em tôi trước đây không thù oán gì với ông, sao lại làm khó chúng tôi thế? Nếu ông muốn cứu người tình cũ Diệt Tuyệt sư thái và con gái bà ta là Chu Chỉ Nhược thì cứ việc cứu, tôi nhất định không ngăn cản gì.

Diệt Tuyệt sư thái uống thuốc giải của khổ đầu đà rồi, tưởng rằng đó là thuốc độc và mình thể nào cũng chết, lại thấy Chu Chỉ Nhược cũng bị ép đổ thuốc vào mồm, bao nhiêu kỳ vọng tan ra mây khói, trong lòng cực kỳ đau đớn. Đang lúc thương tâm, bỗng nghe dưới tháp tiếng người lao xao, sau đó là Hạc Bút Ông và khổ đầu đà tranh cãi, Vương Bảo Bảo ra lệnh đốt tháp... mọi việc bà ta đều nghe rõ ràng. Diệt Tuyệt sư thái trong bụng lạ lùng: "Không lẽ tên đầu đà trông như quỉ này quả thực muốn cứu mình chăng?". Bà ta liền thử vận khí, lập tức thấy ở đan điền có một luồng hơi ấm xông lên, so với tình hình từ khi trúng độc đến giờ hoàn toàn khác hẳn.

Bà ta không khứng chịu việc Triệu Mẫn gọi ra điện tỉ võ nên nhịn ăn đã sáu bảy ngày, trong dạ dày không còn một chút gì, giải dược vào ruột liền chạy thẳng vào máu cho nên thuốc ngấm nhanh hơn những người khác nhiều. Huống chi bà ta nội lực thâm hậu, còn cao hơn cả Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Hà Thái Xung có lẽ chỉ kém Không Văn thần tăng của phái Thiếu Lâm một chút thôi, thành thử độc tính của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bị thuốc giải làm tiêu tan rất mau, Diệt Tuyệt sư thái chỉ vận khí một hồi, nội lực lập tức tái sinh chưa đến nửa giờ đã khôi phục được năm sáu thành.

Bà ta thấy vậy đang tính vận công gấp rút hơn bỗng nghe Hạc Bút Ông ở bên ngoài la lối: "... Nếu ông muốn cứu người tình cũ Diệt Tuyệt sư thái và con gái bà ta là Chu Chỉ Nhược thì cứ việc cứu, tôi nhất định không ngăn cản gì". Mấy chữ "lão tình nhân" vân vân từng tiếng như tên nhọn đâm vào tai, bà ta nghe không nổi giận sao được, liền bước ra lan can, bực tức quát lên:

- Ngươi nói nhăng nói càn, không biết trước biết sau gì cả là sao?

Hạc Bút Ông liền năn nỉ:

- Lão sư thái, xin bà làm ơn khuyên ông... ông bạn già thả sư huynh tôi ra. Tôi đảm bảo một nhà ba mạng bình an ra khỏi đây. Huyền Minh nhị lão nói một là một, nói hai là hai, không phải là loại nói rồi lại nuốt lời.

Diệt Tuyệt sư thái càng giận thêm, hỏi dồn:

- Cái gì mà một nhà ba mạng?

Phạm Dao tuy đang trong cảnh nguy nan, vẫn cười sằng sặc, thật là đắc ý nói:

- Lão sư thái, tên già đó nói tôi với bà là cựu tình nhân, còn Chu cô nương kia, thì là con tư sinh của hai đứa mình.

Diệt Tuyệt sư thái giận không để đâu cho hết, trong ánh lửa khi mờ khi tỏ, khuôn mặt trông thật đáng sợ, nghiến răng nói:

- Hạc lão nhi, ngươi lên đây, ta với ngươi trao đổi một trăm chưởng rồi hãy tính.

Nếu phải lúc bình thời, nói Hạc Bút Ông lên là y lên ngay, há sợ gì người chưởng môn phái Nga Mi, nhưng phút này sư huynh y rơi vào tay người khác nên không dám ngang tàng, kêu lên:

- Khổ đầu đà, cái đó là chính ngươi nói ra, chứ đâu phải ta bịa đặt đâu.

Diệt Tuyệt sư thái hầm hầm nhìn Phạm Dao, gay gắt hỏi lại:

- Có phải ngươi nói đó không?

Phạm Dao lại cười ha hả, đang định nói châm chọc bà ta mấy câu, bỗng nghe dưới chân tháp có tiếng người lao xao, ghé mắt nhìn xuống, thấy trong ánh lửa có một người thân hình chẳng khác gì bướm vờn hoa chạy qua chạy lại nhanh nhẹn dị thường, giữa đám đông lạng qua lạng lại, tiếng loảng xoảng, loảng xoảng liên tiếp không dứt, binh khí trong tay các phiên tăng, võ sĩ đều rơi xuống đất, chính là giáo chủ Trương Vô Kỵ đã đến nơi.

Trương Vô Kỵ vừa ra tay, năm thanh kiếm trong tay những người vây đánh Vi Nhất Tiếu đều bay đi cả. Vi Nhất Tiếu mừng quá, lạng người đến gần chàng, nói nhỏ:

- Để thuộc hạ đến đốt phủ Nhữ Dương Vương.

Trương Vô Kỵ gật đầu hiểu ngay ý của y, bên mình nơi đây chỉ có vài người, nếu như không cứu kịp quần hào lục đại môn phái ra, đối phương viện binh sẽ đến mỗi lúc một đông. Thanh Dực Bức Vương đến phủ Nhữ Dương Vương phóng hỏa, các võ sĩ sẽ thấy việc bảo vệ vương gia cần hơn, chính là kế điệu hổ ly sơn, phủ để trừu tân[1] thật tuyệt diệu. Chỉ thấy một bóng xanh vụt qua, Vi Nhất Tiếu đã nhảy qua tường chạy mất.

Trương Vô Kỵ thấy tình hình như thế, lớn tiếng hỏi:

- Phạm hữu sứ, ra sao rồi?

Phạm Dao đáp:

- Nguy ngập lắm, đường xuống bị cháy mất rồi, không một ai có thể chạy thoát được cả.

Lúc đó trong số mười tám phiên tăng thủ hạ của Vương Bảo Bảo, đã có mười bốn người tiến đến vây đánh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nghĩ phá giặc phải bắt thủ lãnh trước, có bắt được gã vương công Thát tử đầu đội kim quan kia thì mới có thể ép bọn thuộc hạ dập lửa thả người ra, thành thử chẳng khác gì con cá quẫy mình, lắc người một cái đã vọt ra khỏi bọn phiên tăng, tới ngay trước mặt Vương Bảo Bảo.

Nào ngờ từ phía trái một thanh kiếm đâm tới, hàn quang lạnh người, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực. Trương Vô Kỵ vội vàng lùi lại, chỉ nghe một giọng đàn bà nói:

- Trương công tử, đây là gia huynh, xin đừng đụng đến.

Chỉ thấy người đứng đó thân hình yểu điệu, thanh kiếm trong tay rung động, lưỡi kiếm sáng loáng như nước chính là thanh kiếm Ỷ Thiên, còn người thì mặt đẹp như hoa chính là Triệu Mẫn. Nàng đuổi theo Trương Vô Kỵ đến đây cũng chỉ chậm hơn một bước.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô nương mau hạ lệnh dập lửa cứu người, nếu không tại hạ sẽ phải vô lễ với hai vị đó.

Triệu Mẫn quát lên:

- Thập bát Kim Cương, người này võ công ghê gớm lắm, mau lập thành Kim Cương trận chặn y lại.

Mười tám phiên tăng mới rồi đã nếm mùi đau khổ của Trương Vô Kỵ, chẳng cần quận chúa chỉ điểm cũng đã biết chàng tới bực nào. Chỉ nghe choang một tiếng lớn, tám chiếc thanh la bằng đồng trong tay Tứ Bạt Kim Cương cùng gõ vào nhau, mười tám người chạy qua chạy lại, làm thành một bức tường người chặn ngay trước mặt Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn, đẩy lùi Trương Vô Kỵ ra.

Trương Vô Kỵ thấy mười tám phiên tăng chạy vòng quanh, bộ pháp kỳ lạ, xem ra bên trong còn chất chứa nhiều biến hóa. Chàng đang toan nhảy vào phá trận Kim Cương này xem sao, thì ngay lúc ấy nghe một tiếng bình thật lớn, một chiếc cột từ trên tháp đổ xuống.

Chàng quay đầu lại thấy lửa đã bén đến tầng thứ bảy, trong ánh lửa đỏ rực lem lém có bóng hai người đang đấu với nhau cực kỳ khốc liệt. Đó chính là Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông, còn trên lan can tầng thứ mười đầy những người của các phái Thiếu Lâm, Võ Đương, những người đó võ công chưa hoàn toàn hồi phục, huống chi tháp cao đến hơn chục trượng, dù có khinh công tuyệt đính mà nội lực không mất chút nào, nhảy xuống cũng chết tươi ngay.

Một ý nghĩ liền nảy vụt ra trong đầu Trương Vô Kỵ: "Trận Kim Cương này không phải trong chốc lát mà phá được, huống chi đánh bại được bọn phiên tăng thì lại có những hảo thủ khác xông lên, muốn bắt người anh của Triệu cô nương thật không phải dễ. Diệt Tuyệt sư thái đấu với Hạc Bút Ông từ nãy giờ không thấy sút kém chút nào, xem chừng võ công đã khôi phục, như thế nhóm đại sư bá nội lực cũng đã có rồi, chỉ điều bảo tháp này quá cao không thể nào nhảy xuống được".

Chàng nghĩ như thế lập tức chạy khắp nơi, hay tay lúc đánh lúc bắt, lúc đập lúc đoạt đánh ngã toàn bộ bọn thần tiễn bát hùng, ngoài ra bọn võ sĩ ai cầm cung tên đều bị chàng hoặc bẻ gãy, hoặc điểm huyệt, đến khi tất cả chung quanh không còn một hảo thủ cung tiễn nào, lúc ấy mới cao giọng nói:

- Các vị tiền bối trên tháp, xin nhảy xuống đây, tại hạ ở dưới này sẽ đỡ cho.

Những người ở trên tháp nghe thế đều ngạc nhiên, nghĩ thầm nơi đây cao đến hơn mười trượng, nhảy xuống thế sẽ mạnh lắm, dù chàng có sức nghìn cân cũng không thể nào đón được. Phái Không Động, phái Côn Lôn liền có người nhao nhao lên:

- Không thể nào được, chớ nên mắc hỡm tiểu tử đó. Y định lừa cho mình nhảy xuống chết nát xương đấy mà.

Trương Vô Kỵ thấy lửa đã bốc lên gần đến các cao thủ rồi, nếu như mọi người không nhảy xuống, thế tất đều chết cháy cả nên lớn tiếng nói:

- Du nhị bá, bác đối với cháu ơn nặng như núi, không lẽ tiểu điệt lại có bụng dạ hại bác hay sao? Bác nhảy xuống trước đi.

Du Liên Châu xưa nay vẫn tin tưởng Trương Vô Kỵ, biết võ công chàng cao cường nhưng không chắc có thể đỡ nổi mình. Tuy nhiên ở lại để bị bị chết thui và ngã xuống chết có khác gì nhau, nên kêu lên:

- Được, để ta nhảy xuống.

Ông liền tung mình, từ cao tháp nhảy vọt ra. Trương Vô Kỵ nhắm kỹ càng, đợi đến khi người ông còn cách mặt đất chừng năm thước, một chưởng nhẹ nhàng đánh ra, trúng ngay vào hông. Trong chưởng đó chàng đã vận dụng môn võ công tuyệt đính Càn Khôn Đại Na Di, cực kỳ khéo léo biến sức từ trên đi xuống trở thành từ trái sang phải.

Thân hình Du Liên Châu văng ngang qua, xa đến mấy trượng. Lúc này công lực ông đã khôi phục được bảy tám thành, vừa xoay mình một cái đã trầm ổn đứng được trên mặt đất, thuận tay một chưởng đánh ra hộc máu một võ sĩ Mông Cổ. Ông lớn tiếng gọi:

- Đại sư ca, tứ sư đệ, mau nhảy xuống đi thôi.

Người trên tháp thấy Du Liên Châu bình an rơi xuống, lớn tiếng reo hò. Tống Viễn Kiều thương con, muốn y thoát hiểm trước, nói:

- Thanh Thư, con nhảy xuống đi.

Tống Thanh Thư từ khi ra khỏi tù thất, lúc nào cũng đứng bên cạnh Chu Chỉ Nhược liền nói:

- Chu cô nương, cô nhảy đi.

Chu Chỉ Nhược công lực chưa hồi phục không thể giúp gì cho sư phụ được, nhưng cũng không muốn một mình chạy thoát, nghe Tống Thanh Thư nói liền lắc đầu:

- Tôi đợi sư phụ tôi.

Lúc đó Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đã trước sau nhảy xuống, đều được Trương Vô Kỵ thi triển Càn Khôn Đại Na Di thần công xuất chưởng đánh ra, sức rơi thẳng biến thành văng ngang nên ai nấy đều thoát hiểm. Những người đó công lực tuy chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng chỉ cần năm sáu thành, cũng đã khiến cho bọn phiên tăng, võ sĩ không sao đương cự nổi.

Bọn Du Liên Châu trong giây lát đã đoạt được binh khí, bao vây hộ vệ cho Trương Vô Kỵ. Thủ hạ của Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn toan xông lên ngăn chặn, đều bị Du Liên Châu, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đẩy lui. Trên tháp một người nhảy xuống, bên Trương Vô Kỵ lại có thêm một người tiếp tay. Những người này từ khi bị Triệu Mẫn bắt giam nơi tháp đến nay, ai nấy chịu biết bao nhiêu nhục nhã, biết bao nhiêu người bị chặt ngón tay, bây giờ thoát khỏi lao lung, căm phẫn phát tiết chỉ trong giây lát đã có hơn hai chục võ sĩ bị đánh chết lăn trên mặt đất.

Vương Bảo Bảo thấy tình hình không ổn, truyền lệnh:

- Mau điều đội thân binh cung nỏ của ta lại đây.

Cáp tổng quản đang toan đi ra truyền lệnh của tiểu vương gia, bỗng thấy góc đông nam lửa cháy ngút trời, y hoảng hốt kêu lên:

- Tiểu vương gia, vương phủ đang cháy. Chúng ta quay về bảo vệ vương gia là hơn.

Vương Bảo Bảo cũng lo cho an nguy của phụ thân, không còn lòng dạ nào tính chuyện bắt bọn phản tặc, vội nói:

- Muội tử, ta về phủ trước, em ở lại phải cẩn thận.

Y không đợi Triệu Mẫn trả lời, quay đầu giục ngựa chạy thẳng ra ngoài. Vương Bảo Bảo đi rồi, mười tám kim cương cũng chạy theo, bọn võ sĩ cũng đi đến quá nửa. Những người còn lại thấy vương phủ bị cháy, đâu ngờ chỉ một mình Vi Nhất Tiếu gây ra, lại tưởng bọn phản tặc đã kéo đại đội binh mã đến tấn công nên ai nấy đều kinh hoàng.

Đến lúc này, Tống Viễn Kiều, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc cũng đã nhảy xuống khỏi tháp, hai bên yếu mạnh nay đổi chiều, đến khi Không Văn phương trượng, Không Trí đại sư cùng các cao tăng trong Đạt Ma Đường, La Hán Đường xuống cả rồi, các võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn không cách gì kháng cự nổi.

Triệu Mẫn nghĩ lúc này mình không chạy cho nhanh, lại bị bên kia bắt được không chừng, lập tức hạ lệnh:

- Tất cả lui ra khỏi chùa Vạn An.

Nàng quay lại nói với Trương Vô Kỵ:

- Chiều ngày mai, tôi lại mời công tử đi uống rượu, nhớ đến nhé.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, chưa kịp trả lời, Triệu Mẫn đã cười đi vào hậu điện của chùa Vạn An. Chỉ nghe Phạm Dao trên tháp cao hô to:

- Chu cô nương, mau nhảy xuống, lửa cháy đến nơi rồi, không nhảy ngay là thành mỹ nhân nướng trui đó.

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Tôi phải theo sư phụ.

Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông hai bên đánh nhau một trận kịch liệt, mỗi khi khói lửa bén lên thì lại nhảy lên một tầng sau cùng đến tận tầng thứ mười. Bà ta công lực chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng lúc này không còn coi sống chết vào đâu, chưởng pháp chỉ công mà không thủ. Hạc Bút Ông một mặt lo cho sư huynh nên phân tâm, hơn nữa bị thương chưa khỏi hẳn, lại mới uống phải thuốc mê, huyệt đạo bị đóng khá lâu nên chân tay không được linh hoạt thành thử hai bên không phân cao thấp. Diệt Tuyệt sư thái nghe tiếng học trò trả lời, kêu lên:

- Chỉ Nhược, con mau nhảy xuống đi, đừng lo cho ta làm gì. Tên giặc già này làm nhục ta quá lắm, không thể để cho y sống được.

Hạc Bút Ông lòng kêu khổ thầm: "Con mụ ni cô này đánh kiểu thí mạng, ta cứu sư huynh mới là cần, không lẽ chết chùm với mụ trong đống lửa này hay sao?". Y liền lớn tiếng nói:

- Diệt Tuyệt sư thái, câu đó là của khổ đầu đà nói chứ có liên quan gì đến ta đâu.

Diệt Tuyệt sư thái liền thu chưởng về, hỏi Phạm Dao:

- Tên đầu đà chết tiệt kia, câu nói điên khùng kia có phải do ngươi nói không?

Phạm Dao cười rung cả mặt nói:

- Câu nói điên khùng nào?

Câu nói đó rõ ràng y muốn cho Diệt Tuyệt sư thái tự miệng mình nói ra một lần: "Y bảo ta và ngươi là người tình cũ, Chu Chỉ Nhược là con tư sinh của ta". Thế nhưng hai câu đó làm sao bà ta có thể nói ra? Tuy nhiên khi nghe Phạm Dao nói thế, bà ta biết là lời Hạc Bút Ông quả không sai, tức đến run lên được.

Hạc Bút Ông thấy Diệt Tuyệt sư thái lưng quay về phía mình, vừa lúc có một đám khói đen ùa tới, đúng là cơ hội bằng vàng nên y liền đánh luôn một chưởng. Chu Chỉ Nhược và Phạm Dao đều nhìn rõ, cùng kêu lên:

- Sư phụ coi chừng.

- Lão ni cô cẩn thận.

Thế nhưng không kịp nữa, Hạc Bút Ông đã đánh trúng ngay lưng bà ta. Huyền Minh thần chưởng lợi hại biết là chừng nào, năm xưa trên núi Võ Đương chỉ có mình Trương Tam Phong có thể đỡ được một chưởng, Diệt Tuyệt sư thái trúng rồi, thân hình lảo đảo, ngã quị xuống. Chu Chỉ Nhược kinh sợ, chạy đến đỡ sư phụ lên.

Phạm Dao giận quá, quát lên:

- Quân tiểu nhân âm độc đê tiện, còn để ngươi làm gì?

Y xách chiếc chăn gói Lộc Trượng Khách và Hàn cơ lên, ném ngay xuống. Hạc Bút Ông tình đồng môn thắm thiết, trong cơn nguy cấp không kịp suy xét, liền nhảy theo để chộp lấy Lộc Trượng Khách. Thế nhưng cái bọc đó văng ra quá xa, Hạc Bút Ông chỉ nắm được một góc, chính y cũng rơi theo.

Trương Vô Kỵ đứng bên dưới, trong khói lửa không nhìn rõ mọi việc bên trên, chỉ thấy một vật lớn từ cao rơi xuống, đâu còn kịp nhìn xem là vật gì, thấp thoáng dường như có người trong đó, còn ở bên ngoài chính là Hạc Bút Ông. Chàng biết y là kẻ gây ra cho mình bao nhiêu khổ sở, ngay cả cái chết của cha mẹ mình cũng có liên quan rất nhiều, nhưng không nỡ thõng tay để cho y bị rơi xuống nát thây, lập tức nhảy tới, hai tay chia ra đánh vào Hạc Bút Ông và cái chăn, mỗi bên văng ra xa hơn ba trượng.

Hạc Bút Ông xoay người một cái đã đứng được, trong bụng kêu thầm: "Nguy hiểm thực". Y không ngờ Vô Kỵ lấy đức báo oán, cứu mạng cho mình, quay qua nhìn đến sư huynh, không khỏi giật mình kinh hãi. Thì ra Trương Vô Kỵ đánh trúng, chiếc chăn tung ra hai người trần truồng như nhộng, rơi ngay vào đống lửa. Lộc Trượng Khách huyệt đạo chưa giải, không cử động được, đầu tóc liền bắt lửa cháy ngay. Hạc Bút Ông kêu lên:

- Sư ca.

Y liền xông vào trong đám lửa bồng Lộc Trượng Khách lên, vừa nhảy ra ngoài, chân chưa vững đã nghe Du Liên Châu quát:

- Nếm một chưởng của ta nào.

Chưởng trái liền đánh luôn vào vai y. Hạc Bút Ông không dám chống đỡ, hạ vai xuống tránh, nhưng Du Liên Châu chưởng đó chưa ra hết tay, vai đã hạ xuống, đánh luôn xuống dưới, nghe bịch một tiếng, khiến y đau đến trán toát mồ hôi. Lúc này việc cứu sư huynh quan trọng hơn, Hạc Bút Ông vội ôm Lộc Trượng Khách phi thân nhảy qua tường.

Ngay khi đó, từ trên tháp một cái cột đang cháy bừng bừng đổ xuống, đè luôn lên xác Hàn cơ, chỉ trong giây lát lửa bao phủ toàn thân. Người đứng dưới tất cả đều kêu lên:

- Mau nhảy xuống, mau nhảy xuống.

Phạm Dao chạy qua né lại cố tránh lửa tạt vào. Cái cột cái của bảo tháp đã bị hủy, gạch ngói tung tóe rơi xuống, đỉnh tháp bắt đầu lung lay, không biết lúc nào đổ ụp xuống. Diệt Tuyệt sư thái gắt lên:

- Chỉ Nhược, con nhảy xuống đi.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Sư phụ nhảy trước đi, con sẽ nhảy theo.

Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên vọt tới, đánh thẳng vào vai trái Phạm Dao, quát lên:

- Ác tặc của ma giáo kia, không thể nào tha cho ngươi được.

Phạm Dao cười một tràng dài, tung mình nhảy xuống. Trương Vô Kỵ một chưởng đánh ra, nhẹ nhàng đẩy y vọt sang một bên, khen ngợi:

- Phạm hữu sứ, việc lớn đã xong, công của ông quả thực khó ai bì kịp.

Phạm Dao vừa đứng vững đã nói:

- Nếu không có thần công cái thế của giáo chủ, tất cả mọi người đã thành heo quay trên tháp rồi. Phạm Dao hành sự chẳng đâu vào đâu, có công cán gì?

Diệt Tuyệt sư thái giơ tay ôm Chu Chỉ Nhược, nhảy vọt xuống, đợi còn cách mặt đất chừng một trượng, hai tay vận kình tung lên, ném Chu Chỉ Nhược lên vài thước. Hành động đó khiến cho Chu Chỉ Nhược giống như chỉ từ hơn một trượng rơi xuống, không bị nguy hiểm chút nào trong khi Diệt Tuyệt sư thái rơi xuống càng mạnh thêm.

Trương Vô Kỵ tiến lên, vận Càn Khôn Đại Na Di đẩy vào ngang hông bà ta. Nào ngờ Diệt Tuyệt sư thái không còn muốn sống nữa, cũng không để phải chịu ơn của Minh giáo, thấy chàng tung chưởng đánh ra, thu hết tàn lực toàn thân, đánh ngược lại một chưởng. Hai chưởng đụng nhau, nghe bình một tiếng lớn, chưởng lực của Trương Vô Kỵ bị bà ta làm sai phương hướng, nghe lách cách mấy tiếng, Diệt Tuyệt sư thái đã rơi phịch xuống đất, xương sống gãy thành mấy đoạn. Trương Vô Kỵ cũng bị chưởng của lão ni cô cộng thêm sức rơi từ trên xuống khiến ngực bị chấn động, khí huyết nhộn nhạo phải lùi về sau mấy bước, trong lòng không hiểu tại sao Diệt Tuyệt sư thái lại muốn tự sát.

Chu Chỉ Nhược nhào tới ôm sư phụ khóc lóc:

- Sư phụ, sư phụ.

Các môn đệ phái Nga Mi cũng chạy tới vây quanh Diệt Tuyệt sư thái, náo loạn cả lên. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Chỉ Nhược, từ nay trở đi, con là chưởng môn bản phái. Điều ta bảo con làm, con chớ... chớ có sai lời, nghe chưa?

Chu Chỉ Nhược khóc đáp:

- Thưa sư phụ vâng, đệ tử quyết không dám quên.

Diệt Tuyệt sư thái nở một nụ cười nhợt nhạt:

- Có thế, ta chết mới nhắm mắt...

Lúc đó Trương Vô Kỵ đã chạy tới, định thăm mạch bà ta, Diệt Tuyệt sư thái liền lật tay, nắm chặt cổ tay chàng, rít lên:

- Dâm đồ của ma giáo kia, nếu ngươi làm ô uế tấm thân thanh bạch của ái đồ ta, dù thành quỉ ta cũng không tha...

Chữ "ngươi" sau cùng chưa ra khỏi miệng, hơi thở đã tuyệt nhưng Diệt Tuyệt sư thái vẫn còn nắm chặt tay Trương Vô Kỵ không buông, năm móng tay bấm vào cổ tay chàng bật cả máu ra.

Phạm Dao kêu lên:

- Tất cả mọi người chạy theo tôi qua đến cửa thành phía tây gặp nhau. Nếu như còn chần chừ, đại đội nhân mã của gian vương kéo đến bây giờ.

Trương Vô Kỵ ôm xác Diệt Tuyệt sư thái lên, nói nhỏ:

- Thôi mình đi.

Chu Chỉ Nhược nhẹ nhàng gỡ mấy ngón tay ân sư ra khỏi cổ tay chàng, đỡ lấy thi thể lão ni cô, không nhìn Trương Vô Kỵ đến một lần, chạy thẳng ra ngoài cửa chùa.

Khi đó cao thủ các môn phái Côn Lôn, Hoa Sơn, Không Động cũng đã chạy khỏi rồi, chỉ còn Không Văn, Không Trí hai vị cao tăng không mất phong phạm tiền bối, bước tới chắp tay vái chào cảm tạ Trương Vô Kỵ, cùng Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu các người nói mấy câu thăm hỏi, sau đó mới đi ra. Trương Vô Kỵ sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công giúp cho sáu đại môn phái xuống đất an toàn, nội lực hao phí rất nhiều, sau cùng lại đối chưởng với Diệt Tuyệt sư thái, nguyên khí bị thương tổn trầm trọng, lúc này bước đi không nổi nữa. Mạc Thanh Cốc liền cõng trên lưng, Trương Vô Kỵ vận Cửu Dương thần công, nội lực mới dần dần trở lại.

Khi ấy trời đã hưng hửng sáng, quần hùng đi ra đến cửa tây, đánh đuổi bọn quan binh giữ cửa rồi chạy ra khỏi thành. Chạy được mấy dặm, cả bọn gặp Dương Tiêu đem xe ngựa đến đón, chúc mừng mọi người thoát cơn hoạn nạn.

Không Văn đại sư nói:

- Hôm nay nếu như không được Trương giáo chủ của Minh giáo và các vị cứu giúp thì không biết sáu đại môn phái của Trung Nguyên khí vận sẽ đi về đâu. Đại ân không thể chỉ dùng lời cảm tạ là đủ, kế hoạch lúc này phải làm sao xin Trương giáo chủ đứng ra sắp đặt.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ kiến thức nông cạn, chẳng dám có chủ ý gì, xin phương trượng chùa Thiếu Lâm phát hiệu thi lệnh cho.

Không Văn đại sư cương quyết từ chối không nhận. Trương Tùng Khê nói:

- Nơi đây cách thành không xa, đêm qua mình quấy phá long trời lở đất ngay trong kinh đô của Thát tử, gian vương đời nào chịu bỏ qua? Đến khi vương phủ dập được lửa rồi, thể nào cũng đem binh mã đuổi theo. Chúng ta nên đi khỏi nơi đây rồi sau đó hãy bàn tính cũng được.

Hà Thái Xung nói:

- Gian vương nếu đem binh đuổi theo thì còn gì bằng, mình sẽ đánh cho chúng một trận tơi bời hoa lá cho hả cơn giận bấy lâu nay.

Trương Tùng Khê nói:

- Hầu hết chúng ta công lực chưa hoàn toàn hồi phục, việc giết Thát tử không phải chỉ một ngày hôm nay, mình nên tránh trước là hơn.

Không Văn đại sư nói:

- Trương tứ hiệp nói phải lắm, nếu hôm nay mình chém giết Thát tử, bên mình thương vong cũng không phải là ít, nên tạm thời tránh đi cũng phải.

Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm nói ra so với người khác hơn hẳn thành thử không còn ai bàn thêm gì nữa. Không Văn đại sư lại hỏi:

- Trương tứ hiệp, theo như cao kiến của ông, chúng ta nên đi về hướng nào?

Trương Tùng Khê đáp:

- Thát tử sẽ nghĩ mình nếu không đi về hướng nam thì cũng đi về hướng đông nam. Thành ra mình đi ngược lại, đi hướng tây bắc, các vị nghĩ sao?

Mọi người ai nấy ngạc nhiên, Dương Tiêu liền vỗ tay nói:

- Ý kiến của Trương tứ hiệp thật là cao. Phía tây bắc đất rộng người thưa, chỗ nào cũng có núi hoang, muốn tìm chỗ trú ẩn cũng dễ, bọn Thát tử không thể nào ngờ tới được.

Mọi người càng nghĩ càng thấy kế của Trương Tùng Khê rất hay, cùng quay đầu ngựa đi về hướng tây bắc.

Đi được chừng hơn năm chục dặm, quần hiệp ghé lại một thung lũng nghỉ ngơi. Dương Tiêu vốn đã dự bị mọi thứ, lương khô rượu thịt không thiếu món gì. Mọi người kể lại chuyện thoát khỏi nguy khốn vừa qua, đều nói toàn là do Trương Vô Kỵ và Phạm Dao hai người cứu mạng.

Tới đây Chu Chỉ Nhược và các đồng môn phái Nga Mi mới đem xác Diệt Tuyệt sư thái ra hỏa táng. Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Trương Vô Kỵ tất cả đều đến hành lễ chia buồn. Diệt Tuyệt sư thái là một đại hiệp danh vọng, tuy tính tình hơi khác thường nhưng bình sinh hành hiệp trượng nghĩa, chính khí lẫm lẫm trong võ lâm ai ai cũng kính trọng. Quần đệ tử phái Nga Mi khóc lóc thảm thiết khiến ai nấy đều phải mủi lòng.

Không Văn đại sư lớn tiếng nói:

- Người chết rồi không thể sống lại được, chư hiệp phái Nga Mi nếu cố kế thừa di chí của sư thái, thì người đã chết rồi cũng như còn sống vậy. Lần này chúng ta bị gian nhân hạ độc, ai ai cũng gặp phải cảnh đau lòng, Không Tính sư đệ của bản phái cũng bị Thát tử giết chết, mối thù này không thể không báo, thế nhưng làm thế nào thì mình phải từ từ mà tính.

Không Trí đại sư tiếp lời:

- Sáu đại môn phái của Trung Nguyên vốn coi Minh giáo là thù nghịch, nhưng Trương giáo chủ lấy đức báo oán, ra tay cứu chúng ta, bao nhiều hiềm thù cũ của đôi bên từ nay xóa hết. Từ giờ trở đi tất cả chúng ta đồng tâm hiệp lực, quyết đuổi quân Hồ Lỗ ra khỏi cõi bờ.

Tất cả mọi người đều một lòng như thế. Thế nhưng nói tới chuyện làm sao báo thù, các môn phái bàn ra tán vào mãi không có định kiến nào cả. Sau cùng Không Văn đại sư nói:

- Chuyện này không phải một ngày một buổi có thể quyết định được, chúng ta nên nghỉ ngơi ít ngày, chia tay nhau quay trở về bản sơn. Việc báo thù sẽ cùng thương lượng sau để tìm ra thiện sách.

Mọi người gật đầu khen phải. Trương Vô Kỵ nói:

- Hiện nay đại sự coi như đã xong, tôi có một số việc riêng, phải quay lại Đại Đô một chuyến, xin từ biệt các vị. Từ nay về sau mong rằng mọi người chúng ta cùng nắm tay nhau, một phen sống mái với quân Thát tử.

Quần hào đều hô to:

- Mọi người chúng ta cùng nắm tay nhau, một phen sống mái với quân Thát tử.

Tiếng reo vang trời dậy đất vang mãi trong sơn cốc. Mọi người tiễn chàng ra tận ngoài thung lũng. Trương Vô Kỵ hành lễ cáo từ, Dương Tiêu nói:

- Bao nhiêu anh hùng thiên hạ đều kỳ vọng vào giáo chủ, xin cố gắng bảo trọng tấm thân.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Huynh đệ đã hiểu được điều đó.

Nói xong chàng giục ngựa chạy về hướng nam.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Rút củi dưới nồi ý nói làm cho nước mau nguội. Đây là một trong ba mươi sáu kế (tam thập lục kế) cổ của Trung Hoa.

Hồi 28

ÂN ĐOẠN NGHĨA TUYỆT TỬ SAM VƯƠNG-

Đứng đầu Tứ Đại Pháp Vương,

Chúa rồng kia lại thiên hương một cành.

Ra tay dứt nghĩa đoạn tình,

Hôm nao huynh muội nay thành người dưng.

*

* *

Khi đến gần Đại Đô, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm đêm qua trận chiến nơi chùa Vạn An rất nhiều thủ hạ, võ sĩ của Nhữ Dương Vương đã biết mặt mình nên đi lại rất là bất tiện. Chàng bèn kiếm một nhà nông mua một bộ quần áo cũ thay vào, đầu đội thêm một chiếc nón, lấy tro than bôi lên cho đầu cổ tay chân đen đúa rồi mới vào thành.

Chàng về đến khách điếm nơi thành phía tây, nhìn quanh bốn bề, trước sau trái phải không thấy có gì khác mới lẻn vào trong, tiến đến phòng của mình. Tiểu Siêu lúc đó đang ngồi bên song cửa, tay cầm một chiếc kim đan, thấy chàng đi vào đang ngạc nhiên nhưng nhận ra ngay, vẻ mặt vui mừng như bông hoa mới nở, cười nói:

- Công tử gia, em lại tưởng anh nhà quê nào vào nhầm phòng, đâu có ngờ là công tử.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Cô làm gì đó? Ở một mình có buồn không?

Tiểu Siêu mặt đỏ lên, dấu chiếc áo đang đan ra sau lưng, thẹn thùng đáp:

- Em đang tập đan áo, chưa cho ai xem được.

Nàng dấu chiếc áo xuống dưới gối, rót trà cho Trương Vô Kỵ uống, thấy chàng mặt đầy bùn than cười nói:

- Công tử có rửa mặt không?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Tôi cố ý xoa lên mặt nên không cần rửa.

Chàng cầm chén trà lên, trong bụng suy tính: "Triệu cô nương muốn ta đưa nàng đi mượn thanh đao Đồ Long. Đại trượng phu một lời nặng như núi, không thể thất tín cùng người, huống chi chính ta cũng muốn đi mời nghĩa phụ quay về trung thổ. Nghĩa phụ vốn ngại kẻ thù quá nhiều, sau khi mắt bị mù rồi không đối phó nổi. Lúc này quần hào võ lâm đồng tâm kháng Hồ, mọi thù oán riêng tư tất cả đều hòa giải hết. Chỉ cần ta ở bên cạnh lão nhân gia, người ngoài không ai dám động đến một cái lông của cha nuôi ta. Biển cả sóng to gió lớn, cô bé Tiểu Siêu không nên đi cùng. Thôi, được rồi, để ta nhờ Triệu cô nương đem Tiểu Siêu vào gửi trong vương phủ, so với nơi khác còn bình an hơn nhiều".

Tiểu Siêu thấy chàng bỗng nhiên mỉm cười, hỏi:

- Công tử nghĩ gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi phải đi đến một nơi xa thật là xa, đem cô theo thật là bất tiện. Tôi vừa nghĩ ra một nơi có thể gửi cô ở nhờ được.

Tiểu Siêu nghe thế mặt liền biến sắc nói:

- Công tử gia, em nhất định đi theo, Tiểu Siêu muốn được ngày ngày hầu hạ công tử.

Trương Vô Kỵ vội khuyên:

- Chuyện đó cũng là để cho cô thôi. Tôi phải đi một nơi thật xa, thật nguy hiểm, không biết đến bao giờ mới quay về.

Tiểu Siêu nói:

- Từ khi ở trong đường hầm nơi Quang Minh Đính, em đã quyết định trong lòng, công tử đi đâu em đi theo tới đó, trừ khi công tử giết em đi thì mới ngăn được em thôi. Hay là công tử chán ghét em, không muốn em ở bên cạnh?

Trương Vô Kỵ nói:

- Không, không đâu. Cô biết tôi rất thích cô, tôi chỉ không muốn cô phải mạo hiểm một cách vô lý thôi. Tôi trở về là sẽ đi kiếm cô ngay.

Tiểu Siêu lắc đầu:

- Chỉ cần ở bên cạnh công tử, dù có nguy hiểm tới đâu em cũng không sờn. Công tử gia dẫn em đi theo nhé?

Trương Vô Kỵ cầm tay Tiểu Siêu nói:

- Tiểu Siêu, tôi cũng không dấu cô nữa làm gì. Tôi nhận lời Triệu cô nương đưa cô ta đi hải ngoại. Biển cả mênh mông, sóng gió ngày này sang ngày khác, phần tôi không đi không được, còn cô mạo hiểm như thế thật chẳng ích lợi gì.

Tiểu Siêu mặt đỏ lên nói:

- Nếu đi chung với Triệu cô nương thì em lại càng cần phải ở bên cạnh công tử.

Nói xong câu đó, trong mắt nàng dường như đã long lanh ngấn lệ. Trương Vô Kỵ nói:

- Cô lại phải đi với tôi là sao?

Tiểu Siêu đáp:

- Cái cô họ Triệu đó tâm địa ác độc, ai biết cô ta sẽ đối với công tử ra sao. Có em đi cùng, ít ra cũng còn có người trông nom công tử.

Trương Vô Kỵ chợt động tâm, tự hỏi: "Không lẽ cô bé này cũng có tình ý với mình chăng?" Chàng thấy lời của cô thật thành khẩn, không khỏi cảm kích, cười nói:

- Được rồi, cô đi theo cũng không sao, trên thuyền sóng to gió cả lúc ấy đừng than khổ.

Tiểu Siêu mừng quá, luôn mồm vâng dạ, nói:

- Nếu như em làm công tử bực mình thì công tử cứ vứt em xuống biển cho cá ăn.

Trương Vô Kỵ cười:

- Làm sao tôi bỏ cô cho đành.

Hai người tuy ở cùng với nhau lâu ngày, có khi trên đường khách xá không tiện, ngủ chung một phòng nhưng Tiểu Siêu biết mình thân phận tôi tớ, còn Trương Vô Kỵ trước nay chưa bao giờ bông đùa chớt nhả, lúc này chàng buột miệng nói ra: "Làm sao tôi bỏ cô cho đành" biết mình lỡ lời không khỏi đỏ mặt, vội quay đầu giả vờ nhìn ra song cửa. Tiểu Siêu cũng nhè nhẹ thở dài, đến ngồi bên cạnh chàng.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao cô em lại thở dài thế?

Tiểu Siêu nói:

- Công tử thực sự không bỏ được đâu phải chỉ một người. Chu cô nương của phái Nga Mi, Quận Chúa nương nương của Nhữ Dương Vương phủ, rồi mai này không biết bao nhiêu người nữa, lúc đó trong lòng công tử liệu có còn nhớ đến đứa tớ gái này nữa chăng?

Trương Vô Kỵ đi vòng lại trước mặt nàng chậm rãi nói:

- Tiểu Siêu, em từ trước đến nay đối với tôi tốt biết mấy, chẳng lẽ tôi không biết đến hay sao? Chẳng lẽ tôi lại vong ân phụ nghĩa, không biết người tốt kẻ xấu hay sao?

Chàng nói hai câu đó vẻ mặt đầy trịnh trọng, lời nói thật chân thành. Tiểu Siêu vừa thẹn thùng, lại vừa vui sướng, cúi đầu nói nhỏ:

- Em chẳng mong được công tử đối với em khác gì hơn, chỉ mong được làm một đứa a hoàn suốt đời hầu hạ công tử, cũng đã thỏa nguyện lắm rồi. Đêm qua công tử không ngủ, chắc là mệt lắm, thôi lên giường nghỉ một lát đi.

Nói rồi nàng liền trải chăn, hầu hạ chàng đi nằm, còn mình thì lại ngồi bên cửa sổ, chăm chú đan áo. Trương Vô Kỵ nghe tiếng sợi dây xích nơi cổ tay Tiểu Siêu leng keng như tiếng khánh, cảm thấy trong lòng bình an phẳng lặng, chẳng bao lâu đã thiu thiu ngủ.

Chàng ngủ một mạch đến xế chiều mới dậy, ăn một bát mì rồi nói:

- Tiểu Siêu, tôi đưa cô đến gặp Triệu cô nương, mượn thanh kiếm Ỷ Thiên chặt dây xích ở chân tay cho cô.

Hai người đi ra đường, thấy binh lính Mông Cổ cưỡi ngựa đi qua đi lại, canh phòng thật nghiêm, chắc là vì chuyện đêm qua phủ Nhữ Dương Vương bị đốt, chùa Vạn An đại loạn mà ra. Hai người mỗi khi nghe tiếng chân ngựa lại nép mình vào dưới mái hiên hay góc nhà, không cho lính tuần trông thấy, chẳng mấy chốc đã đến cái quán rượu nhỏ.

Trương Vô Kỵ dẫn Tiểu Siêu tiến vào quán, đã thấy Triệu Mẫn ngồi ở chỗ hai người ngồi hôm qua, cười mủm mỉm đứng lên nói:

- Trương công tử quả là người thủ tín.

Trương Vô Kỵ thấy nàng thần sắc như thường, không có vẻ gì là khó chịu về chuyện đêm qua, nghĩ thầm: "Cô gái này quả là người có bản lãnh, cứ lý mà nói ta sai người giết mất ái cơ của cha cô ta, lại cứu thoát tất cả người của lục đại môn phái cô ta mất bao tâm huyết mới bắt được, đáng lẽ phải giận ta lắm, ngờ đâu vẫn bình tĩnh như không, chẳng biết nàng ta sẽ làm gì đây".

Chàng thấy trên bàn đã bày hai chiếc bát, hai đôi đũa liền cúi chào một cái rồi ngồi xuống còn Tiểu Siêu đứng hầu ở xa xa.

Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Triệu cô nương, chuyện xảy ra đêm qua, tại hạ quả là đắc tội, mong cô tha lỗi cho.

Triệu Mẫn cười đáp:

- Cái nàng Hàn cơ của gia gia õng a õng ẹo, tôi gặp là chán ngấy. Cảm ơn anh sai người giết đi, mẹ tôi cũng khen anh có tài.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên không ngờ lại ra thế, quả thực ngoài dự liệu. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Bọn kia anh cứu ra cũng tốt, còn không họ chẳng qui hàng, tôi có giữ thêm cũng vô dụng. Anh cứu họ ra, mọi người hẳn là cảm kích lắm, từ nay thanh vọng trong võ lâm Trung Nguyên không ai bằng anh được. Trương công tử, để tôi kính mừng anh một chén.

Nói xong cười khúc khích nâng chén rượu lên.

Ngay khi đó, từ ngoài cửa một người bước vào, chính là Phạm Dao. Y tiến đến hành lễ với Trương Vô Kỵ, sau đó cung kính vái Triệu Mẫn, nói:

- Quận chúa, khổ đầu đà xin cáo từ â.

Triệu Mẫn không thèm đáp lễ, lạnh lùng đáp:

- Khổ đại sư, ông đánh lừa tôi thật quá lắm. Quận chúa của ông phen này thật hố to.

Phạm Dao đứng thẳng người lên, ngang nhiên nói:

- Khổ đầu đà họ Phạm tên Dao, là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo. Bản nhân trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương, cũng có lý do mà đến, may được quận chúa dùng lễ kính đãi, hôm nay đến để từ biệt.

Triệu Mẫn vẫn lạnh lùng:

- Ông muốn đi thì đi, việc gì phải đa lễ thế?

Phạm Dao đáp:

- Đại trượng phu hành sự quang minh lỗi lạc, từ nay trở đi, tại hạ là kẻ địch của quận chúa, nếu không cáo từ minh bạch chẳng hóa ra phụ tấm lòng đối đãi lâu nay của quận chúa hay sao?

Triệu Mẫn nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi lại:

- Anh có tài gì mà thủ hạ đối với anh kiệt tâm tận lực đến thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chúng tôi chỉ vì nước, vì dân, vì nhân hiệp, vì nghĩa khí. Phạm hữu sứ với tôi vốn không biết nhau, nhưng mới gặp đã như quen lâu, lấy ruột gan lo liệu cho nhau, cũng chẳng qua cũng chỉ là một chữ "nghĩa" của tình huynh đệ mà ra.

Phạm Dao cười ha hả nói:

- Mấy câu nói đó của giáo chủ chính đã nói lên tâm sự của thuộc hạ. Giáo chủ xin cố bảo trọng tấm thân. Vị quận chúa nương nương này tuy tuổi còn trẻ nhưng lòng dạ tàn độc không phải tầm thường. Giáo chủ tâm địa quá tốt không thể nào sánh được đâu.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vâng, bản thân tôi không dám khinh suất.

Triệu Mẫn cười:

- Đa tạ khổ đại sư đã ca ngợi.

Phạm Dao quay người đi ra khỏi quán rượu, đi ngang qua Tiểu Siêu, đột nhiên giật mình, trên mặt lộ vẻ kinh ngạc dị thường, chẳng khác gì trông thấy ma quỉ gớm ghiếc, thất thanh kêu lên:

- Ngươi ... ngươi ....

Tiểu Siêu lạ lùng:

- Cái gì thế?

Phạm Dao ngây người nhìn cô ta một hồi, lắc đầu đáp:

- Không phải... không phải ..., tôi nhìn lầm.

Y thở dài một tiếng, thần sắc trở lại bình thường đẩy cửa đi ra, miệng vẫn lẩm bẩm: "Giống quá, giống quá".

Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, không biết y nói giống đây là giống cái gì.

Bỗng nghe từ xa truyền tới mấy hồi còi, ba tiếng dài, hai tiếng ngắn, âm thanh sắc nhọn chói tai. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nhớ lại đây là tiếng còi triệu tập đồng môn của phái Nga Mi, trước đây tại Tây Vực ở cùng đoàn người của phái Nga Mi đã thấy mấy lần họ dùng tiếng còi như thế này để liên lạc, nghĩ thầm: "Tại sao phái Nga Mi lại quay trở lại Đại Đô? Không lẽ họ gặp địch chăng?". Triệu Mẫn nói:

- Đây là phái Nga Mi, dường như họ có chuyện gì gấp, mình đi xem coi thế nào, anh nghĩ sao?

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Cô cũng biết thế à?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Tôi ở Tây Vực dẫn người đuổi theo họ luôn bốn ngày bốn đêm, sau cùng bắt được Diệt Tuyệt sư thái, không lẽ không biết?

Trương Vô Kỵ nói:

- Được, vậy mình đi xem sao. Triệu cô nương, tôi nhờ cô một việc trước, cô cho tôi mượn thanh kiếm Ỷ Thiên một chút.

Triệu Mẫn cười đáp:

- Anh chưa đi mượn đao Đồ Long cho tôi đã mượn thanh kiếm Ỷ Thiên rồi, tính thế quả thực tinh minh.

Nàng cởi thanh kiếm buộc bên hông đưa cho Vô Kỵ. Vô Kỵ cầm lấy, rút kiếm ra khỏi vỏ nói:

- Tiểu Siêu, cô lại đây.

Tiểu Siêu đi đến trước mặt chàng, Trương Vô Kỵ múa kiếm chém xuống, loảng xoảng mấy tiếng nho nhỏ, các khóa xích trên tay chân Tiểu Siêu đứt rời, rơi xuống đất. Tiểu Siêu phục xuống lạy nói:

- Đa tạ công tử, đa tạ quận chúa.

Triệu Mẫn cười nói:

- Cô bé này xinh thật. Giáo chủ hẳn là thích ngươi lắm.

Tiểu Siêu mặt đỏ bừng, mắt sáng lên một niềm vui vô bờ bến. Trương Vô Kỵ tra kiếm vào vỏ, trả lại cho Triệu Mẫn, thấy tiếng còi hiệu của phái Nga Mi chạy thẳng về hướng đông bắc, liền nói:

- Thôi mình đi.

Triệu Mẫn lấy ra một đĩnh bạc nhỏ vứt lên bàn, quay mình ra khỏi tiểu điếm. Trương Vô Kỵ sợ Tiểu Siêu không theo kịp, tay phải nắm lấy tay cô gái, tay trái đỡ ngang lưng, chạy theo sát ngay sau Triệu Mẫn. Chỉ chạy độ hơn chục trượng, chàng thấy thân hình Tiểu Siêu nhẹ lâng lâng, bước chân di động thật là nhanh nhẹn, chàng hơi lạ lùng, tay không đỡ nữa, thấy Tiểu Siêu vẫn đi ngang với mình, trước sau không bị sút kém chút nào. Tuy lúc này chàng chưa thi triển khinh công thượng thừa nhưng chân đã chạy rất nhanh, vậy mà Tiểu Siêu vẫn theo kịp.

Chẳng mấy chốc, Triệu Mẫn đã đi qua mấy đường hẻm vắng vẻ, đến bên ngoài một cái nhà nhỏ có tường vây quanh. Trương Vô Kỵ nghe loáng thoáng bên trong có tiếng đàn bà cãi cọ, biết ngay người của phái Nga Mi đang ở trong đó, liền nắm tay Tiểu Siêu nhảy qua tường, trong đêm tối rơi xuống không một tiếng động. Dưới chân tường cỏ mọc cao, thì ra là một khu vườn hoang. Triệu Mẫn cũng nhảy vào theo, cả ba người nằm phục trong đám cỏ dày.

Ở phía bắc khu vườn có một tòa lương đình đổ nát, bên trong thấp thoáng tụ tập phải đến hai chục người. Có tiếng đàn bà nói:

- Ngươi là đệ tử trẻ nhất của bản môn, nói đến dáng dấp bề ngoài cho chí võ công, chẳng chỗ nào thấy xứng đáng làm chưởng môn ...

Trương Vô Kỵ nhận ra ngay đó là tiếng nói của Đinh Mẫn Quân, liền bò lần trong đám cỏ cao tới gần hơn, đến cách đám người chừng vài trượng mới ngừng lại. Khi đó ánh sao mờ mờ, chỉ thấy một số đông người nhưng khi chàng định thần nhìn kỹ thấy dường như có cả nam lẫn nữ, toàn là đệ tử của phái Nga Mi, ngoài Đinh Mẫn Quân, các đệ tử lớn của Diệt Tuyệt sư thái cũng đều có mặt. Phía bên trái có một người thân hình dong dỏng, quần xanh dài chấm đất, chính là Chu Chỉ Nhược. Giọng của Đinh Mẫn Quân hết sức gay gắt, tiếp tục nói:

- Ngươi nói, ngươi nói ...

Chu Chỉ Nhược chậm rãi nói:

- Đinh sư tỉ nói phải lắm, tiểu muội là một đệ tử trẻ tuổi của bản môn, nói về kinh nghiệm, võ công, tài cán, phẩm hạnh không có mặt nào xứng đáng gọi là chưởng môn bản phái cả. Sư phụ ra lệnh cho tiểu muội đảm đương trọng nhiệm, tiểu muội đã hết sức chối từ, nhưng tiên sư nặng lời trách mắng, bắt tiểu muội phải thề độc không được phụ lời dặn bảo của sư phụ.

Đại đệ tử của phái Nga Mi là Tĩnh Huyền nói:

- Sư phụ anh minh, đã ra lệnh cho Chu sư muội nhận chức vụ chưởng môn, ắt có thâm ý. Chúng ta ai ai cũng chịu ơn của sư phụ tài bồi, phải tôn trọng di chí của lão nhân gia, đồng tâm phò tá Chu sư muội, làm rạng rỡ võ đức của bản môn.

Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:

- Tĩnh Huyền sư tỉ nói sư phụ ắt có thâm ý, bốn chữ "ắt có thâm ý" quả thực đúng rồi. Chúng ta khi ở chùa, người trên tháp, kẻ dưới đất, có ai không chính tai nghe khổ đầu đà và Hạc Bút Ông nói với nhau đâu? Cha mẹ của Chu sư muội là ai, tại sao sư phụ lại đặc biệt hơn hết đối với Chu sư muội, chuyện rành rành ra đó còn gì?

Khổ đầu đà nói với Lộc Trượng Khách Diệt Tuyệt sư thái là người tình cũ của y, Chu Chỉ Nhược là con riêng của hai người, chẳng qua là cái tính tình tà ma ngoại đạo của y, thuận mồm nói đùa cho vui, nhưng Hạc Bút Ông lại công khai nói ra, người ngoài nghe thấy, tuy chẳng ai hoàn toàn tin nhưng cũng không khỏi nghi ngờ vài phần. Chuyện tư tình nam nữ, người đời thường nặng phần tin cái có, mấy ai tin cái không, mà Diệt Tuyệt sư thái thương yêu đặc biệt đối với Chu Chỉ Nhược, các đệ tử đều chẳng hiểu vì đâu, thành thử mấy chữ "con gái riêng" giải thích ổn thỏa hơn cả. Mọi người nghe Đinh Mẫn Quân đề cập đến chuyện đó, ai nấy lặng yên không trả lời.

Chu Chỉ Nhược run run đáp:

- Đinh sư tỉ, nếu như chị không bằng lòng việc tiểu muội tiếp nhiệm chưởng môn, thì cứ nói thẳng ra. Còn chuyện chị nói năng bậy bạ, làm bại hoại thanh dự một đời của sư phụ, cái đó tội gì? Tiên phụ của tiểu muội họ Chu, là một người chèo thuyền trên sông Hán Thủy, không biết chút võ công nào. Tiên mẫu họ Tiết, tổ tiên cũng là thế gia, gốc người ở Tương Dương, khi thành Tương Dương bị vỡ chạy về phía nam, luân lạc không nơi nương tựa, kết duyên với cha tiểu muội. Tiểu muội may được Trương chân nhân của phái Võ Đương tiến dẫn nên được vào làm môn hạ phái Nga Mi, còn trước đó chưa bao giờ gặp sư phụ bao giờ. Sư tỉ chịu đại ân của sư phụ, hôm nay lão nhân gia vừa về Tây phương, đã mở miệng ăn nói những lời như thế, còn ... còn ...

Nàng nói tới đây, âm thanh nghẹn ngào, nước mắt lã chã rơi xuống, không nói thêm được nữa. Đinh Mẫn Quân cười khẩy:

- Ngươi tiếp nhiệm chưởng môn bản phái nhưng chưa được đồng môn công nhận, thân phận mình còn mù mờ đã toan tác oai tác phúc, nói ta không phải, làm bại hoại thanh dự sư phụ, tội này tội nọ. Ngươi định trị tội ta chăng? Vậy ta hỏi ngươi: ngươi đã chịu lời dặn dò của sư phụ kế thừa chưởng môn, sao không lập tức quay về núi Nga Mi? Sư phụ tạ thế, công việc bản phái biết bao nhiêu, chuyện gì cũng cần có người chưởng môn để giải quyết. Tại sao ngươi lại một thân một mình quay lại Đại Đô, thế là cớ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Sư phụ giao cho tiểu muội một việc hết sức quan trọng, tiểu muội không về Đại Đô không được.

Đinh Mẫn Quân hỏi lại:

- Chuyện đó là chuyện gì? Ở đây chỉ toàn là đồng môn bản phái, không người ngoài nào, sao ngươi không nói rõ ra đi?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Đó là một chuyện tối bí mật của bản phái, trừ người chưởng môn ra, không thể nói cho ai khác.

Đinh Mẫn Quân lại cười khẩy:

- Gớm nhỉ, gớm nhỉ? Chuyện gì ngươi cũng đổ lên đầu ba chữ "chưởng môn nhân", tưởng đánh lừa được ai chăng? Này ta hỏi ngươi: bản phái và ma giáo thù sâu như bể, đồng môn chúng ta biết bao nhiêu người táng mạng ở tay ma giáo, còn giáo chúng ma giáo chết dưới kiếm Ỷ Thiên của sư phụ cũng không phải là ít. Sư phụ sở dĩ qua đời, cũng chỉ vì không muốn chịu giáo chủ ma giáo ra tay đỡ cho. Vậy mà tro tàn của sư phụ chưa lạnh, ngươi đã đi tìm tên tiểu dâm tặc họ Trương, hiện là đại ma đầu giáo chủ của ma giáo là sao?

Mấy câu sau cùng Trương Vô Kỵ nghe vào tai mà choáng váng. Ngay lúc đó, chàng thấy một ngón tay mềm mại của ai quẹt quẹt vào má mấy cái, chính là Triệu Mẫn ở bên cạnh trêu chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ ửng lên, nghĩ thầm: "Không lẽ Chu cô nương đi tìm ta thật chăng?".

Chỉ nghe Chu Chỉ Nhược bẽn lẽn nói:

- Sư tỉ ... lại nói quấy nói quá ...

Đinh Mẫn Quân lớn tiếng đáp:

- Ngươi còn chối nữa ư? Ngươi bảo mọi người về núi Nga Mi trước, chúng ta hỏi ngươi quay lại Đại Đô có chuyện gì, ngươi ấp úng không chịu nói ra. Các đồng môn biết có chuyện không phải mới lén theo ngươi, ngươi hỏi cha ngươi là khổ đầu đà chỗ ở của tiểu dâm tặc, tưởng bọn ta không biết hay sao? Ngươi đến khách điếm kiếm tên tiểu dâm tặc, tưởng bọn ta không biết hay sao?

Mụ ta hết "tiểu dâm tặc" này đến "tiểu dâm tặc" khác, Trương Vô Kỵ vốn tốt nhịn nhưng cũng bực mình, đột nhiên thấy trên cổ có ai phà một hơi, biết ngay là Triệu Mẫn lại trêu mình nữa. Đinh Mẫn Quân nói tiếp:

- Ngươi muốn kiếm ai nói chuyện, muốn tằng tịu với ai, người ngoài ai rỗi hơi để ý tới làm gì. Thế nhưng tên tiểu dâm tặc họ Trương này là kẻ sinh tử đối đầu của bản phái, vậy mà đêm hôm qua tất cả chạy ra khỏi Đại Đô, trên đường đi, sao ngươi vẫn còn nhìn y đắm đuối? Y đi đâu, mắt ngươi liếc theo đó, cái đó chẳng phải là ta đặt điều mà đồng môn ai ai cũng chính mắt trông thấy cả. Hôm trước trên Quang Minh Đính, tiên sư bảo ngươi đâm y một kiếm, y chẳng tránh né thì thôi, còn cười tít mắt lên với ngươi. Còn ngươi thì cũng liếc mắt đưa tình, chỉ rạch một đường như gãi ngứa. Kiếm Ỷ Thiên sắc bén là thế, sao đâm y không chết? Nếu hai đứa chẳng chuyện nọ chuyện kia, có ai mà tin cho được?

Chu Chỉ Nhược khóc òa lên, nói:

- Ai liếc mắt đưa tình bao giờ? Chị đừng có đem mấy tiếng khó nghe đó ra để vu hãm người khác.

Đinh Mẫn Quân cười khan một tiếng nói:

- Ta nói khó nghe, thế sao những gì ngươi làm không bảo khó coi? Thế ngươi nói năng dễ nghe lắm đấy? Hứ, thế lúc đó ngươi hỏi người chưởng quĩ thế nào? "Xin lỗi ngài, ở đây có vị khách họ Trương nào không? Ồ, chừng hai mươi tuổi, thân hình cao cao, hoặc giả ông ta không dùng họ Trương, dùng họ khác cũng nên".

Mụ ta eo éo, bắt chước giọng ngập ngừng của Chu Chỉ Nhược, giơ chân múa tay, cố làm cho ra vẻ yểu điệu, khiến người khác nghe phải nổi da gà. Trương Vô Kỵ trong lòng giận dữ, nghĩ thầm con mụ Đinh Mẫn Quân này là đứa điêu ngoa tai ác nhất trong phái Nga Mi, Chu Chỉ Nhược hiền lành yếu đuối, không thể nào là địch thủ của mụ được, nhưng nếu mình đứng ra che chở cho Chu Chỉ Nhược, trước là việc riêng của phái Nga Mi, người ngoài không tiện xen vào, thứ nữa như thế càng đẩy Chu Chỉ Nhược vào thêm bất lợi, nên thấy nàng bị dồn ép tới tận chân tường mà mình đành chịu bó tay.

Phái Nga Mi đại đa số đệ tử tuân theo di mệnh của sư phụ, nhận Chu Chỉ Nhược là chưởng môn, nhưng nay nghe Đinh Mẫn Quân lời nói sắc bén, nói ra hợp với thế thái nhân tình đều nghĩ thầm: "Sư phụ và ma giáo kết oán quá sau xa, nhưng Chu sư muội và giáo chủ ma giáo có liên hệ quả không tầm thường, ví như nàng đem bản phái bán đứt cho ma giáo thì biết làm sao đây?".

Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói tiếp:

- - Chu sư muội, ngươi do Trương chân nhân của phái Võ Đương dẫn nhập làm môn hạ của sư phụ, còn tên tiểu dâm tặc Minh giáo kia lại chính là con trai của Trương ngũ hiệp. Bên trong có âm mưu gì quái lạ, nào ai biết đâu?

Mụ ta cao giọng nói:

- Chúng vị sư huynh, sư tỉ, sư đệ, sư muội, sư phụ tuy có di ngôn ra lệnh cho Chu sư muội tiếp nhiệm chưởng môn, thế nhưng lão nhân gia không thể nào ngờ được người vừa viên tịch, tro tàn chưa lạnh thì người chưởng môn bản phái đã lẻn đi kiếm ngay giáo chủ ma giáo để tư tình. Việc đó có liên hệ trọn đại đến sự hưng suy tồn vong của bản phái, nếu như tiên sư có mặt hôm nay, lão nhân gia ắt sẽ chọn người chưởng môn khác. Di chí của sư phụ là làm sao bản phái phát dương quang đại, quyết chẳng thể nào mong muốn phái Nga Mi bị tiêu diệt bởi tay ma giáo. Cứ theo ý kiến tiểu muội, chúng ta nên kế thừa di chí của tiên sư, xin Chu sư muội giao lại thiết chỉ hoàn chưởng môn, chúng ta sẽ chọn một vị sư tỉ tài đức vẹn toàn, tiếng tăm võ công đều trội hơn tất cả đồng môn đứng ra giữ chức chưởng môn.

Mụ nói xong, trong đám đồng môn có đến sáu bảy người phụ họa. Chu Chỉ Nhược nói:

- Tiểu muội nhận mệnh lệnh của sư phụ, tiếp nhiệm chưởng môn bản phái, chiếc nhẫn sắt này quyết không giao lại. Tiểu muội quả thực không ham chức chưởng môn, nhưng đã từng lập trọng thệ trước sư phụ, quyết sẽ không ... quyết sẽ không phụ lòng lão nhân gia ủy thác.

Mấy câu đó dường như không có chút uy lực nào cả, có những đồng môn trước kia chẳng ở phe nào, nghe nàng nói thế không khỏi thầm lắc đầu. Đinh Mẫn Quân gay gắt nói:

- Cái nhẫn sắt chưởng môn kia, ngươi có chịu giao ra hay không? Hai giới luật nghiêm trọng nhất của môn qui bản phái là khi sư diệt tổ và dâm tà vô sỉ ngươi đều đã phạm thì có còn đủ tư cách để chưởng lý môn hộ của phái Nga Mi nữa chăng?

Triệu Mẫn ghé môi để sát tai Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:

- Chu cô nương của anh nguy mất rồi! Anh gọi tôi một tiếng "hảo tỉ tỉ", tôi sẽ ra mặt giải vây cô ta cho.

Trương Vô Kỵ trong lòng rung động, biết cô gái này túc trí đa mưu, ắt có diệu kế giúp cho Chu Chỉ Nhược thoát cảnh khó khăn, nhưng nàng ta còn nhỏ hơn mình mấy tuổi, phải hạ mình gọi nàng bằng chị không nhục nhã lắm ư. Chàng còn đang do dự, Triệu Mẫn nói tiếp:

- Anh không gọi cũng không sao, tôi đi đây.

Trương Vô Kỵ chẳng cách nào hơn, đành ghé tai nàng gọi một tiếng:

- Hảo tỉ tỉ.

Triệu Mẫn cười khúc khích, đang toan nhảy ra, trong đình đã có người phát giác. Đinh Mẫn Quân quát lên:

- Ai đó? Sao dám lén lút ở đó nghe lén?

Đột nhiên bên ngoài tường vọng vào mấy tiếng ho khan, tiếng một thiếu nữ trong trẻo hỏi:

- Đêm khuya thanh vắng, phái Nga Mi các ngươi ở đó lén lút làm cái gì?

Một làn gió theo mấy cái bóng lướt vào, bên ngoài lương đình đã có thêm hai người. Hai người đó dưới bóng trăng, Trương Vô Kỵ nhìn rõ ràng, một lão bà già cả, tay cầm quài trượng, chính là Kim Hoa bà bà, còn một cô gái thân hình yểu điệu, mặt mày xấu xí, chính là cô em họ của Trương Vô Kỵ Châu Nhi A Ly, con gái của Ân Dã Vương.

Hôm đó Vi Nhất Tiếu bắt được Châu Nhi, chưa kịp lên Quang Minh Đính thì hàn độc phát tác, cố nhịn không hút máu nàng, chịu không nổi ngã ra đất, về sau được Chu Điên cứu tỉnh, đi tìm Châu Nhi thì không còn thấy bóng dáng đâu. Trương Vô Kỵ từ khi chia tay với nàng vẫn thường tưởng đến, không ngờ giờ phút này nàng lại xuất hiện, chàng mừng quá suýt nữa thì lên tiếng gọi.

Đinh Mẫn Quân lạnh lùng nói:

- Kim Hoa bà bà, bà đến đây làm gì?

Kim Hoa bà bà hỏi lại:

- Sư phụ ngươi có ở đây không?

Đinh Mẫn Quân đáp:

- Tiên sư mới viên tịch tối hôm qua, bà ở ngoài tướng nghe trộm đã lâu, sao biết rồi mà còn hỏi?

Kim Hoa bà bà thất thanh kêu lên:

- A, Diệt Tuyệt sư thái đã viên tịch rồi đấy. Làm sao mà chết? Sao không đợi gặp ta một lần? Ôi chao, thật tiếc quá, tiếc quá ...

Bà ta chưa nói dứt câu đã gập người xuống ho sù sụ. Châu Nhi nhè nhẹ đấm lưng bà lão, nhìn Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:

- Ai thèm đến nghe lén chuyện của chúng bay? Ta và bà đi đi ngang qua đây, nghe thấy léo nhéo xí xố liên tu bất tận, nhận ra tiếng ngươi nên vào xem ra thế nào. Bà bà hỏi ngươi, ngươi không nghe à? Sư phụ ngươi vì sao mà chết?

Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:

- Cái đó có liên can gì đến ngươi? Tại sao ta lại phải nói cho ngươi nghe?

Kim Hoa bà bà thở một hơi dài, chậm rãi nói:

- Ta bình sinh động thủ với người, chỉ thua sư phụ ngươi một lần. Cái đó chẳng phải vì võ công chiêu số không bằng, mà chỉ vì thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén quá. Ta mấy năm nay nguyện sẽ tìm ra một thanh bảo đao, để cùng với sư phụ ngươi phân cao thấp một lần nữa. Lão bà đi khắp chân trời góc bể, nhưng cũng không đến nỗi uổng công, đã được một người bạn cũ cho mượn đao để sử dụng. Ta nghe thấy phái Nga Mi bị triều đình bắt giam tại chùa Vạn An, định bụng đến cứu thầy ngươi ra, để hai bên tỉ đấu bằng bản lãnh chân thực, nà ngờ hôm nay đến đây, chùa Vạn An đã thành một đống gạch vụn. Ôi! Mệnh đã định rồi, Kim Hoa bà bà đời này không rửa được cái nhục bị thua. Diệt Tuyệt sư thái ôi là Diệt Tuyệt sư thái, sao mụ không chết trễ hơn một bữa nửa ngày?

Đinh Mẫn Quân nói:

- Nếu sư phụ ta lúc này nếu có còn tại nhân thế thì ngươi bất quá lại thua thêm một lần nữa thôi, để cho ngươi không còn bụng dạ nào ...

Đột nhiên nghe bốp bốp bốp bốp bốn tiếng thật ròn, Đinh Mẫn Quân mắt hoa đầu váng, lảo đảo muốn ngã, bị Kim Hoa bà bà xoạc cẳng xuống tấn đánh cho bốn cái liền. Mọi người thấy bà ta ốm yếu ho hen, luôn mồm húng hắng nào ngờ ra tay lại nhanh đến thế, thủ pháp lại hết sức quái dị, bốn cái tát đó khiến cho Đinh Mẫn Quân không có cách nào kháng cự hay tránh né. Bà ta đứng cách Đinh Mẫn Quân vốn đến cả hai trượng, trong nháy mắt vụt đến bên cạnh, đánh bốn cái xong lại quay về, hành động không khác gì ma quỉ.

Đinh Mẫn Quân vừa sợ vừa tức, rút phắt kiếm ra, xông lên chỉ vào Kim Hoa bà bà nói:

- Con mụ ăn mày kia, bộ ngươi không muốn sống hay sao?

Kim Hoa bà bà dường như không nghe mụ ta chửi mắng, còn thanh kiếm trong tay coi như không thấy, chỉ chậm rãi hỏi:

- Sư phụ ngươi vì cớ gì mà chết?

Giọng nói buồn thiu, dường như trong lòng chán chường hết sức. Mũi kiếm trong tay Đinh Mẫn Quân bất quá chỉ cách yết hầu bà ta chừng ba thước, nhưng vẫn không dám đâm vào, chỉ chửi:

- Mụ ăn mày, việc gì ta phải nói cho ngươi nghe?

Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình: "Diệt Tuyệt sư thái, bà một đời anh hùng, đáng là một nhân vật xuất quần bạt tụy trong võ lâm. Vậy mà khi thác đi, trong đám đệ tử chẳng có đứa nào đứng ra tiếp nhiệm chưởng môn hay sao?".

Tĩnh Huyền sư thái tiến lên một bước, chắp tay hành lễ nói:

- Bần ni Tĩnh Huyền, tham kiến bà bà. Tiên sư lúc viên tịch có di mệnh cho Chu Chỉ Nhược Chu sư muội tiếp nhiệm chưởng môn. Thế nhưng trong bản phái vẫn có một số đồng môn chưa phục. Tiên sư nay đã viên tịch rồi khiến cho bà bà không được thỏa lòng, âu cũng là cái số như thế còn biết nói sao bây giờ? Chưởng môn bản phái chưa định xong thành thử không thể cùng bà bà ước hội được. Thế nhưng phái Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm, không thể nào làm mất uy danh của tiên sư. Bà bà có điều gì dạy bảo, xin cứ cho biết, sau này người chưởng môn bản phái ắt sẽ theo qui củ võ lâm giải quyết cho xong. Còn như bà bà tự thị mình là bậc tiền bối, cưỡng bức khinh khi chúng tôi, phái Nga Mi tuy hôm nay gặp phải đại nạn nhưng cũng sẽ theo bà bà đến cùng, dù phải máu chảy khu vườn hoang này, cùng lắm đến chết thì thôi.

Những câu đó rạch ròi có lý, không ngang tàng mà cũng không luồn cúi, cả Trương Vô Kỵ lẫn Triệu Mẫn đều ngầm tấm tắc khen là đanh thép. Kim Hoa bà bà ánh mắt sáng lên nói:

- Thì ra lúc tiên sư viên tịch cũng đã truyền lại di mệnh, định người kế nhiệm chức chưởng môn, thế thì hay lắm. Vậy là vị nào đó? Xin cho gặp mặt.

Lời nói của bà ta lúc này so với khi nói chuyện với Đinh Mẫn Quân có vẻ khách sáo hơn nhiều. Chu Chỉ Nhược tiến lên thi lễ nói:

- Bà bà vạn phúc. Chưởng môn đời thứ tư của phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược, xin chào bà bà.

Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:

- Sao không biết xấu, tự phong cho mình làm chưởng môn đời thứ tư của bản phái.

Châu Nhi cười khẩy:

- Vị Chu tỉ tỉ này tốt lắm, hồi ta ở Tây Vực vẫn thường được Chu tỉ tỉ thăm nom. Chị ta không đáng làm chưởng môn, không lẽ ngươi mới đáng hay sao? Ngươi mà còn nói quấy quá trước mặt bà bà, ta sẽ thưởng cho ngươi thêm vài cái tát.

Đinh Mẫn Quân giận quá, rút phắt trường kiếm đâm luôn vào ngực Châu Nhi. Châu Nhi nghiêng người qua, giơ chưởng đánh luôn vào mặt Đinh Mẫn Quân. Thân pháp của nàng y hệt của Kim Hoa bà bà, nhưng ra tay thì chậm hơn nhiều. Đinh Mẫn Quân lập tức hụp đầu xuống tránh nên kiếm của mụ ta không trúng Châu Nhi. Kim Hoa bà bà cười nói:

- Con bé này, ta dạy ngươi bao nhiêu lần, cái chiêu dễ thế vẫn học chưa xong. Xem cho kỹ đây này.

Bà ta vung tay phải ra, thuận thế tát luôn vào mặt Đinh Mẫn Quân một cái, tiếp theo tát trái vào má bên kia, thuận chiều tát qua má phải, lại qua bên trái, bốn cái cái nào cũng rõ ràng, ai cũng nhìn thấy thật rõ ràng nhưng Đinh Mẫn Quân tưởng như có ai dùng sức giữ chặt, chân tay không cử động được. Mụ ta bị bốn chưởng hoàn toàn không né tránh gì được cả, cũng may là Kim Hoa bà bà không vận nội kình lên tay nên mụ chưa bị trọng thương. Châu Nhi cười nói:

- Bà bà, thủ pháp đó con học được rồi, nhưng không có đủ nội kình như bà bà thôi. Để con thử lại.

Đinh Mẫn Quân bị nội lực của Kim Hoa bà bà giữ chặt, thấy Châu Nhi lại vả vào mặt mình, tức tối dường như muốn ngất đi. Đột nhiên Chu Chỉ Nhược lạng người tiến lên, tay trái đưa ra, đỡ chưởng của Châu Nhi lại, nói:

- Xin chị ngừng tay.

Nàng quay lại nói với Kim Hoa bà bà:

- Bà bà, Tĩnh Huyền sư tỉ chúng tôi mới đây đã nói rõ, đồng môn bản phái lúc này tuy võ học chưa tinh thâm được bằng bà bà, nhưng không chịu để cho bà bà muốn lăng nhục thế nào cũng được.

Kim Hoa bà bà cười nói:

- Con mụ họ Đinh kia mồm năm miệng mười, hở môi ra là không phục ngươi làm chưởng môn, ngươi lại còn ra đỡ cho y thị hay sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Việc bên trong môn phái chúng tôi, không liên can gì đến người ngoài. Tiểu nữ được tiên sư trối trăn, tuy bản lãnh thấp kém, nhưng quyết không để ai làm nhục đến môn nhân trong bản phái.

Kim Hoa bà bà cười:

- Giỏi lắm, giỏi lắm, giỏi lắm.

Bà ta mới nói ba tiếng "giỏi lắm" đã nổi cơn ho sù sụ. Châu Nhi liền lấy ra một viên thuốc đưa ra, Kim Hoa bà bà liền cầm lấy nuốt luôn, thở dốc một hồi, đột nhiên hai chưởng cùng tung ra, một tay để ngay ngực Chu Chỉ Nhược, một tay đè luôn lên lưng, ép chặt thân hình nàng giữa hai bàn tay, những nơi ấn vào đều là đại huyệt chí mạng.

Chiêu đó tung ra thật là quái dị, Chu Chỉ Nhược lúc này võ công tuy chưa nhiều nhưng cũng học được ba phần chân truyền của Diệt Tuyệt sư thái, không ngờ bị đối phương khống chế ngay các đại huyệt nơi ngực và lưng, khiến nàng sợ đến mặt tái mét, không nói ra được lời nào. Kim Hoa bà bà thản nhiên nói:

- Chu cô nương, cô là chưởng môn mà võ công sao quá tầm thường. Không lẽ sư tôn mang trọng nhiệm gánh vác phái Nga Mi giao cho một cô gái liễu yếu dào tơ như cô hay sao? Ta xem ra quá nửa là cô thổi phồng lên thôi.

Chu Chỉ Nhược định thần nghĩ thầm: "Lúc này bà ta chỉ cần nhả nội kình là tâm mạch ta bị chấn đoạn, chết ngay tại chỗ. Ta làm cách nào để khỏi làm mất uy phong của sư phụ đây?". Nàng nghĩ đến thầy, dũng khí lập tức tăng gia gấp trăm lần, giơ tay ra nói:

- Đây là thiết chỉ hoàn của chưởng môn phái Nga Mi, do chính tiên sư đeo vào tay tiểu nữ, không lẽ còn giả hay sao?

Kim Hoa bà bà cười rộ nói:

- Lúc nãy sư tỉ ngươi có nói, Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm. Lời đó xem ra cũng đúng, thế nhưng chỉ bằng chút bản lãnh như nhà ngươi mà có thể làm chưởng môn một phái lớn trong võ lâm hay sao? Xem ra các ngươi nên nghe lời ta dạy bảo là hơn.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Kim Hoa bà bà, tiên sư tuy đã viên tịch nhưng phái Nga Mi không phải vì thế mà bị tiêu diệt. Tiểu nữ rơi vào tay bà bà rồi, muốn giết thì giết, chứ đừng tưởng đến chuyện ép tôi làm điều không nên không phải. Bản phái bị hãm vào gian kế của triều đình, bị giam trong tháp nhưng có ai chịu đầu hàng đâu? Chu Chỉ Nhược này tuy chỉ là một đứa con gái tuổi thì trẻ, sức thì yếu nhưng đã gánh vác trọng nhiệm trên vai vốn đã chẳng coi sống chết vào đâu rồi.

Trương Vô Kỵ thấy nàng lưng và ngực đã bị Kim Hoa bà bà đè tay lên, sống chết chỉ còn là một hơi thở nhưng vẫn hiên ngang, chỉ e Kim Hoa bà bà nổi giận lên sẽ lấy mạng nàng không chừng. Trong cơn nguy cấp, chàng toan nhảy ra cứu nhưng Triệu Mẫn đã đoán được bụng dạ chàng, nắm cánh tay lay lay mấy cái ý nói đừng nóng.

Lại nghe Kim Hoa bà bà cười ha hả nói:

- Diệt Tuyệt sư thái quả nhiên có mắt thật. Cô tiểu chưởng môn này võ công tuy kém nhưng tính hạnh lại cứng cỏi. Ôi, quả là thế võ công kém còn luyện được cho giỏi chứ núi sông dễ đổi, bản tính khó thay.

Thực ra lúc này Chu Chỉ Nhược sợ đã đến mất hồn vía, chỉ vì nghĩ đến sư phụ khi lâm chung mang trọng nhiệm ủy thác cho mình nên cố gắng ngang tàng, không chịu khuất phục đấy thôi.

Các đồng môn phái Nga Mi vốn không coi Chu Chỉ Nhược ra gì, nhưng lúc này thấy nàng không kể tư hiềm, dám đứng ra bảo vệ Đinh Mẫn Quân, đến lúc bị địch uy hiếp vẫn không làm mất thanh danh bản phái, ai nấy đều mang lòng kính phục. Thanh trường kiếm trong tay Tĩnh Huyền rung một cái, huýt mấy tiếng còi, người của phái Nga Mi lập tức dãn ra, rút binh khí, bao vây tòa lương đình lại. Kim Hoa bà bà cười nói:

- Làm gì đấy?

Tĩnh Huyền đáp:

- Bà bà bắt giữ chưởng môn phái Nga Mi là có ý gì?

Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng, nói:

- Các ngươi tưởng cậy đông mà thắng được hay sao? Ha ha, dưới mắt Kim Hoa bà bà này, dù có đông gấp mười cũng có khác gì bao nhiêu?

Đột nhiên bà ta bỏ Chu Chỉ Nhược ra, thân hình rung động vọt đến ngay trước mặt Tĩnh Huyền, ngón tay trỏ và ngón tay giữa đâm vào hai mắt. Tĩnh Huyền vội múa kiếm lên chém vào hai cánh tay, chỉ nghe "hự" một tiếng, một đồng môn sư muội đứng kế bên đã ngã gục. Kim Hoa bà bà giả vờ tấn công Tĩnh Huyền nhưng chân trái đã đá trúng huyệt đạo nơi hông của một nữ đệ tử phái Nga Mi. Chỉ thấy thân hình bà ta bay qua bay lại thoăn thoắt trong lương đình, cánh tay áo phất phới, thỉnh thoảng lại khúc khắc ho mấy tiếng, trường kiếm của phái Nga Mi đâm ra nhưng không ai trúng nổi vạt áo bà ta, trong nam nữ đệ tử đã có đến bảy tám người bị đánh trúng huyệt đạo ngã xuống. Thủ pháp đả huyệt của bà ta cũng thật lạ lùng, người trúng đòn ai nấy đều kêu rống lên. Trong giây lát, trong khu vườn hoang tiếng kêu la hết người nọ tới người kia thật ghê rợn, ai nghe thấy cũng phải rùng mình.

Kim Hoa bà bà vỗ tay một cái quay trở vào lương đình nói:

- Chu cô nương, võ công của phái Nga Mi so với Kim Hoa bà bà thì thế nào?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Võ công bản phái lẽ dĩ nhiên phải cao hơn bà bà rồi. Năm xưa bà bà bị đánh bại dưới kiếm của tiên sư, không lẽ bà quên rồi sao?

Kim Hoa bà bà giận dữ đáp:

- Diệt tuyệt lão ni ỷ vào thanh kiếm sắc bén, đâu có tính được?

Chu Chỉ Nhược hỏi lại:

- Bà bà cứ theo lương tâm nói một câu, nếu như tiên sư và bà bà hai người tay không đấu với nhau thì ai thua ai được?

Kim Hoa bà bà trầm ngâm một hồi nói:

- Không biết nữa. Ta đã định để xem tôn sư và ta ai mạnh ai yếu, chính thế mà hôm nay mới tới Đại Đô. Ôi, Diệt Tuyệt sư thái đã viên tịch rồi, trong võ lâm lại mất đi một cao nhân. Tre già đã tàn rồi, măng mới lại chưa mọc, phái Nga Mi từ nay sẽ suy đồi.

Bảy đệ tử phái Nga Mi nằm ngoài kia kêu la không ngớt càng làm chứng cho lời của Kim Hoa bà bà. Tĩnh Huyền và những đệ tử lớn tuổi cố sức xoa bóp cho bọn họ được máu huyết lưu thông nhưng không thấy công hiệu chút nào, xem ra chỉ một mình Kim Hoa bà bà mới có thể giải được.

Trương Vô Kỵ năm xưa đã từng chữa cho biết bao nhiêu người bị Kim Hoa bà bà đả thương, biết rằng bà lão này ra tay rất ác độc, trên giang hồ ít thấy ai như thế. Chàng định nhảy ra cứu chữa nhưng nghĩ lại: "Nếu mình ra giúp Chu cô nương thì lại đắc tội với Châu Nhi. Biểu muội đối với ta rất tốt, lại là chỗ cốt nhục chí thân, ta đâu có thể bên dày bên mỏng cho được?".

Chỉ nghe Kim Hoa bà bà nói:

- Chu cô nương, ngươi đã phục chưa?

Chu Chỉ Nhược cứng đầu cứng cổ đáp:

- Võ công bản phái sâu như biển cả, không thể chỉ một sớm một chiều mà thành tựu được. Chúng tôi tuổi còn trẻ, biết rằng không bằng bà bà nhưng ngày sau tiến triển, đâu có biết đến đâu cho cùng.

Kim Hoa bà bà cười đáp:

- Giỏi nhỉ! Giỏi nhỉ! Vậy thì Kim Hoa bà bà này xin cáo từ. Đợi đến khi các ngươi võ công tiến triển không biết thế nào cho cùng sẽ quay lại giải huyệt cho bọn kia cũng được.

Nói xong dắt tay Châu Nhi, quay mình đi ra. Chu Chỉ Nhược nghĩ đến nỗi khổ của đồng môn, một giờ một phút còn chịu không nổi, Kim Hoa bà bà một khi đi mất rồi, chỉ e họ đau đến chết mất, vội nói:

- Bà bà hãy khoan đã. Xin giải huyệt cho những vị sư tỉ sư huynh đồng môn này đi.

Kim Hoa bà bà nói:

- Muốn ta giải cứu cũng chẳng khó khăn gì. Từ nay trở đi, Kim Hoa bà bà và đứa học trò này đi đến đâu, người của phái Nga Mi phải tránh ra tìm đường khác mà đi.

Chu Chỉ Nhược nghĩ thầm: "Ta vừa mới làm chưởng môn đã gặp ngay đại địch thế này. Nếu như bằng lòng chịu khuất phục như thế, phái Nga Mi còn đứng trong võ lâm làm sao được? Không lẽ phái Nga Mi này lại bị hủy diệt trong tay ta ư?".

Kim Hoa bà bà thấy nàng còn đang lưỡng lự không trả lời, cười nói tiếp:

- Ngươi không muốn thanh danh phái Nga Mi bị đắm chìm thì cũng chẳng sao, ngươi đưa thanh kiếm Ỷ Thiên cho ta dùng, ta sẽ giải cứu đồng môn cho.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Thầy trò chúng tôi trúng phải gian kế của triều đình bị giam nơi cao tháp, thanh Ỷ Thiên kiếm còn ở trong tay chúng tôi sao được?

Kim Hoa bà bà vốn không nghĩ ra chuyện đó, chuyện đòi mượn kiếm xem ra chắc như cua gạch, nay nghe Chu Chỉ Nhược nói vậy, mặt đầy vẻ thất vọng, đột nhiên hậm hực nói:

- Nếu ngươi muốn bảo toàn thanh danh phái Nga Mi, thì không bảo vệ được tính mạng của mình ...

Nói xong lấy trong bọc ra một viên thuốc, nói:

- Đây là thuốc độc Đoạn Trường Liệt Tâm, ngươi uống đi thì ta cứu bọn kia cho.

Chu Chỉ Nhược nghĩ đến lời trối trăn của sư phụ mà đứt từng tấc ruột, nghĩ thầm: "Thầy ta bảo ta đánh lừa Trương công tử, chuyện đó ta vốn không thể nào làm được, có sống cũng chịu biết bao dày vò, chi bằng chết đi là hơn, một việc xong thì mọi việc cũng xong không còn gì phải lo lắng nữa". Nàng nghĩ thế tay run run cầm viên thuốc độc. Tĩnh Huyền kêu lên:

- Chu sư muội, không được uống.

Trương Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp, toan nhảy ra ngăn cản, Triệu Mẫn liền ghé tai chàng nói thầm:

- Ngốc ơi là ngốc! Thuốc giả đấy, có phải thuốc độc đâu.

Trương Vô Kỵ còn đang ngạc nhiên thì Chu Chỉ Nhược đã bỏ viên thuốc vào mồm nuốt luôn. Bọn Tĩnh Huyền liền nhao nhao lên, tất cả xông vào Kim Hoa bà bà toan động thủ. Kim Hoa bà bà nói:

- Giỏi lắm, quả là có cốt khí, viên thuốc độc này không phát tác ngay đâu. Chu cô nương, ngươi đi theo ta, ngoan ngoãn nghe lời, nếu như lão bà vui lòng, không chừng sẽ cho ngươi thuốc giải.

Nói xong đi đến chỗ những đồng môn phái Nga Mi bị điểm huyệt, vỗ vào mỗi người mấy cái. Những người đó liền hết đau ngay, ai nấy vô cùng cảm kích, có người nói:

- Đa tạ chưởng môn.

Kim Hoa bà bà cầm tay Chu Chỉ Nhược, dịu dàng nói:

- Con ngoan lắm, đi theo ta, bà bà không ngược đãi con đâu.

Chu Chỉ Nhược chưa kịp trả lời, thấy một luồng kình lực cực mạnh nhấc lên, thân hình lập tức bay bổng. Tĩnh Huyền kêu lên:

- Chu sư muội ...

Người ni cô xông ra toan ngăn trở, bỗng thấy có một luồng chỉ phong đâm tới, chính là Châu Nhi ở bên cạnh dùng ngón tay tấn công. Tĩnh Huyền tay trái vung lên chặn lại, không ngờ chỉ đó chỉ là hư chiêu, nghe bộp một cái, tát trúng ngay mặt Đinh Mẫn Quân, môn "Chỉ Đông Đả Tây" ấy chính là võ học của Kim Hoa bà bà.

Chỉ nghe Châu Nhi cười khanh khách, đã nhảy vọt qua tường mà đi. Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Mau đuổi theo!

Một tay chàng nắm Triệu Mẫn, một tay chàng dắt Tiểu Siêu, ba người cùng vượt tường ra ngoài. Bọn Tĩnh Huyền thấy trong đám cỏ có ẩn ba người ai nấy đều kinh ngạc. Khinh công của Kim Hoa bà bà và Trương Vô Kỵ cao siêu biết bao, đến khi người của phái Nga Mi nhảy được lên trên tường, cả sáu người đã chìm vào trong bóng đêm không biết đi về hướng nào.

Trương Vô Kỵ đuổi theo được chừng mươi trượng, Kim Hoa bà bà chân không chậm lại quát lên:

- Đệ tử của phái Nga Mi vẫn còn có kẻ dám đuổi theo Kim Hoa bà bà, ha ha, quả cũng gớm thật.

Triệu Mẫn quát:

- Mau thả chưởng môn bản phái ra.

Nàng thân hình lạng một cái, vọt lên mấy trượng, thanh kiếm Ỷ Thiên đã đâm luôn vào sau lưng Kim Hoa bà bà. Chiêu "Kim Đính Phật Quang"[1] chính là một chiêu đích truyền của phái Nga Mi, nàng học được từ các nữ đệ tử phái Nga Mi nơi chùa Vạn An, nhưng vì không được xem Diệt Tuyệt sư thái thi triển, thành thử không mấy tinh diệu.

Kim Hoa bà bà thấy tiếng binh khí xé gió ở sau lưng, liền buông Chu Chỉ Nhược ra, vội xoay người lại. Triệu Mẫn cổ tay lách một cái, dùng ngay chiêu "Thiên Phong Cạnh Tú"[2]. Kim Hoa bà bà biết món binh khí trong tay nàng chính là bảo kiếm Ỷ Thiên, trong lòng vừa mừng vừa sợ, liền tiến lên vươn tay toan cướp lấy. Hai bên trao đổi mấy chiêu, Kim Hoa bà bà đã tiến đến sát bên mình Triệu Mẫn, mấy ngón tay đang định chộp vào cổ tay cầm kiếm của nàng, nào ngờ Triệu Mẫn liền vòng kiếm lại, sử một chiêu "Thần Đà Tuấn Túc"[3] của phái Côn Lôn.

Kim Hoa bà bà thấy nàng là một cô gái trẻ tuổi, tay lại cầm kiếm Ỷ Thiên, sử dụng đích truyền kiếm pháp của phái Nga Mi nên vẫn tưởng nàng là người của phái Nga Mi. Để đối phó với Diệt Tuyệt sư thái, bà ta đã nghiên cứu kiếm pháp phái Nga Mi mấy năm qua, thấy Triệu Mẫn sử qua mấy chiêu, nghĩ nàng công lực chắc chẳng đến đâu nên đã tính toán rõ ràng, một khi tiến được đến gần nàng thì ắt sẽ đoạt được thanh kiếm. Nào ngờ cô gái này đột nhiên đổi qua Côn Lôn kiếm pháp, Kim Hoa bà bà nếu như không định tâm trước thì kiếm pháp phái Côn Lôn bà ta có coi vào đâu, chỉ vì chiêu này quá ư bất ngờ, nên dù võ công cao cường nhưng cũng sợ đến toát mồ hôi, vội lăn xuống đất mới tránh thoát được. Tuy thế tay áo bên trái cũng đã bị mũi kiếm rạch một đường mất một miếng lớn.

Kim Hoa bà bà vừa sợ vừa tức, lại xông lên. Triệu Mẫn biết võ công mình kém bà ta quá xa, không dám sách chiêu, chỉ múa thanh Ỷ Thiên kiếm, đâm trái chém phải, lách qua đông lượn qua tây, lúc thì kiếm pháp của phái Không Động, lúc thì của phái Hoa Sơn, vừa sử xong chiêu "Đại Mạc Phi Sa"[4] của phái Côn Lôn, lại ra ngay chiêu "Kim Châm Độ Kiếp" trong Đạt Ma kiếm pháp của phái Thiếu Lâm. Chiêu nào cũng là tinh hoa của các môn phái, chiêu nào cũng đầy uy lực, lại thêm thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén khiến Kim Hoa bà bà bụng kinh ngạc vô cùng, nhất thời chưa có cách nào tới gần được.

Châu Nhi xem lại càng gấp gáp, vội cởi thanh kiếm đeo bên hông ra ném cho Kim Hoa bà bà. Triệu Mẫn tấn công bảy tám thế liền, đến chiêu thứ chín, Kim Hoa bà bà không còn cách nào khác phải vung kiếm gạt ra, nghe soẹt một tiếng, trường kiếm đã gãy làm hai.

Kim Hoa bà bà mặt liền biến sắc, nhảy vọt ra ngoài, quát hỏi:

- Con nhãi kia, ngươi là ai?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Sao mụ không rút đao Đồ Long ra?

Kim Hoa bà bà giận dữ đáp:

- Nếu ta có đao Đồ Long trong tay, ngươi làm sao đỡ được tám chiêu, mười chiêu? Ngươi có giỏi thì đi theo ta thử một phen xem nào?

Triệu Mẫn cười nói:

- Nếu như mụ có được đao Đồ Long thì hay lắm. Ta sẽ ở Đại Đô chờ mụ, để mụ đi lấy đao Đồ Long về đấu nữa.

Kim Hoa bà bà nói:

- Ngươi quay đầu lại cho ta nhìn rõ mặt nào.

Triệu Mẫn liền nghiêng người, le lưỡi, mắt trái nhắm, mắt phải mở, nhăn mặt méo mồm thành một người thật quái dị để trêu Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà giận quá, nhổ toẹt một bãi xuống đất, ném thanh kiếm gãy đi, hai tay dắt Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược đi mất.

Trương Vô Kỵ nói:

- Mình mau đuổi theo.

Triệu Mẫn đáp:

- Cái đó cũng không gấp gì, anh cứ để tôi. Tôi bảo đảm là Chu cô nương không sao đâu.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao cô lại nhắc tới đao Đồ Long?

Triệu Mẫn đáp:

- Tôi nghe bà ta nói nơi khu vườn hoang là đã đi khắp chân trời góc biển, sau cùng đã mượn được của người quen cũ một thanh bảo đao, muốn đấu với kiếm Ỷ Thiên của Diệt Tuyệt sư thái. "Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?". Muốn tranh phong với kiếm Ỷ Thiên chỉ có đao Đồ Long thôi, không lẽ bà ta đã mượn được của Tạ tiền bối nghĩa phụ anh thanh đao này? Khi tôi múa kiếm đấu với bà ta chỉ cốt ép cho bà ta rút đao ra. Thế nhưng bà ta không có đao bên người, lại bảo tôi đi theo bà ta để thử, xem chừng đã biết được đao Đồ Long ở nơi đâu nhưng không lấy được đấy thôi.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm rồi đáp:

- Kể cũng lạ thật.

Triệu Mẫn nói:

- Tôi chắc là bà ta ra bờ bể, giương buồm đi tìm thanh đao. Mình phải làm sao chặn trước đừng để một người hai mắt đã mù, tâm địa lại nhân hậu như Tạ lão tiền bối bị bà ta lừa dối.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói đến câu sau cùng, nhiệt huyết trào lên, vội nói:

- Đúng lắm, đúng lắm.

Chàng lúc trước nhận lời Triệu Mẫn đi mượn thanh đao Đồ Long, chỉ vì lời nói của kẻ đại trượng phu đáng giá nghìn vàng, không thể nuốt lời, lúc này nghĩ đến Kim Hoa bà bà gây khó khăn cho nghĩa phụ mình lại hận không có cánh để bay ra cứu giúp.

Sau đó Triệu Mẫn dẫn hai người đến trước vương phủ, dặn dò người canh cửa một hồi. Tên vệ sĩ đó luôn mồm vâng dạ, quay mình đi vào, chẳng bao lâu dắt ra chín con tuấn mã, xách theo một bọc vàng bạc đưa cho nàng. Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu ba người cưỡi ba con ngựa, còn sáu con kia dẫn theo thay đổi, chạy về hướng đông.

Sáng sớm hôm sau, chín con ngựa đều đã mỏi mệt chịu không nổi. Triệu Mẫn liền đưa kim bài điều động binh mã của Nhữ Dương Vương cho quan địa phương, đổi lấy chín con ngựa khác nên tới khuya hôm đó đã đến bờ biển.

Triệu Mẫn cưỡi ngựa chạy thẳng vào huyện thành, ra lệnh cho quan huyện cấp tốc chuẩn bị một chiếc thuyền đi biển kiên cố nhất, trên thuyền chuẩn bị đà công, thủy thủ, lương thực, nước ngọt, binh khí, áo lạnh cho thật đầy đủ. Ngoài ra, các thuyền bè lập tức đuổi cả về phía nam, chung quanh bờ biển năm mươi dặm không cho một chiếc thuyền nào được đậu cả. Kim bài của Nhữ Dương Vương đưa đến, một tên quan huyện nho nhỏ lẽ nào dám trái lệnh? Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn và Tiểu Siêu ở lại vệ môn uống rượu chờ tin. Chưa tới một ngày, quan huyện đến báo cho hay mọi thứ đã sắp đặt hoàn bị.

Ba người đến bờ biển nhìn chiếc thuyền, Triệu Mẫn không khỏi dậm chân kêu lên:

- Hỏng rồi.

Thì ra chiếc thuyền đang đậu nơi đó là một chiếc hải thuyền thật lớn, cao hai tầng, đầu thuyền và hai bên mạn có gắn súng, chính là một chiếc pháo thuyền của quân Mông Cổ. Năm xưa người Mông Cổ đem đại quân viễn chinh Nhật Bản nên tập họp rất nhiều thuyền bè, không ngờ bị một cơn bão, bao nhiêu tàu bè bị đắm hết, việc đông chinh tan ra bọt nước. Thế nhưng qui củ của thuyền bè từ đó đã thành hình. Triệu Mẫn tính toán trăm sự đều hay, chỉ có một điều sơ sót, không ngờ gã huyện quan nhận lệnh xong muốn tâng công, chạy ngay đi gặp thủy sư mượn một chiếc pháo thuyền. Lúc này trên thuyền lương thực, nước uống đã dự bị đầy đủ cả, chung quanh mấy chục dặm thuyền bè theo lệnh Nhữ Dương Vương truyền xuống đã xuôi nam cả không còn một chiếc nào. Triệu Mẫn chỉ đành cười gượng, ra lệnh cho các thủy thủ lấy lưới cá treo đầy lên các khẩu thần công, trên thuyền để thêm vài chục sọt cá tươi, làm như chiến thuyền cũ không còn dùng nữa nên đã sửa lại thành thuyền đánh cá.

Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu thay quần áo mặc thành thủy thủ, dùng dầu màu bôi lên mặt cho vàng vọt, dán thêm mấy chiếc ria mép, trông không ai còn nhận biết được. Ba người lên thuyền ngồi chờ Kim Hoa bà bà đến nơi.

Nàng Thiệu Mẫn quận chúa kia liệu sự như thần, quả nhiên đến tối, một chiếc xe lớn đã chạy đến bến, Kim Hoa bà bà dắt Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược xuống hỏi thuê thuyền. Thủy thủ trên thuyền đã được Triệu Mẫn dặn trước nên đều từ chối, nói đây là pháo thuyền cũ nay sửa thành thuyền đánh cá, chỉ đi chài lưới chứ không chở khách, đến lúc Kim Hoa bà bà đưa ra hai đĩnh vàng trả công, gã đầu nậu mới miễn cưỡng nhận lời. Kim Hoa bà bà dẫn Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược lên thuyền rồi lập tức truyền lệnh giương buồm ra khơi.

Trên biển cả mênh mang không bờ bến, một chiếc thuyền lênh đênh theo hướng đông nam mà đi. Thuyền đi được hai ngày, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người ở dưới khoang nhìn ra cửa sổ, chỉ thấy mặt trời mọc lên buổi sáng, mặt trăng lặn xuống ban đêm ở phía tay trái, hiển nhiên thuyền đang đi về phương nam. Khi đó trời đã vào đầu mùa đông, gió bấc thổi mạnh, buồm căng gió trôi băng băng.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người bàn với nhau mấy lần: "Nghĩa phụ tôi ở tại Băng Hỏa đảo miền cực bắc, mình muốn kiếm ông ta phải đi về hướng bắc mới phải, sao lại đi ngược về hướng nam?". Lần nào Triệu Mẫn cũng trả lời: "Kim Hoa bà bà ắt có điều gì quái lạ, huống chi lúc này gió nam không thổi, có muốn lên phương bắc cũng không sao được".

Đến chiều ngày thứ ba, đà công đi xuống khoang bẩm lại cho Triệu Mẫn, nói là Kim Hoa bà bà rất thuần thục với hải trình này, vùng nào có cồn cát, vùng nào có đảo san hô, so với đà công còn biết rõ hơn nhiều. Trương Vô Kỵ đột nhiên chợt nghĩ ra, nói:

- Hay là bà ta quay về Linh Xà đảo?

Triệu Mẫn hỏi:

- Linh Xà đảo nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ông chồng của Kim Hoa bà bà ở tại đảo Linh Xà tên là Ngân Diệp tiên sinh, nay đã qua đời. Kim Hoa, Ngân Diệp của đảo Linh Xà, không lẽ cô chưa nghe tới hay sao?

Triệu Mẫn cười khúc khích, nói:

- Anh lớn hơn tôi mấy tuổi, chuyện trên chốn giang hồ có vẻ rành quá nhỉ?

Trương Vô Kỵ cũng cười đáp:

- Tà ma ngoại đạo Minh giáo chắc chắn là phải biết những chuyện rỗi của chốn giang hồ hơn quận chúa nương nương chứ.

Hai người vốn là tử địch, mỗi bên chỉ huy một nhóm hào kiệt, đánh nhau mấy trận kịch liệt nhưng nay ở dưới khoang thuyền với nhau mấy ngày, nói năng không cần giữ ý, lại có chung một kẻ địch là Kim Hoa bà bà nên xa cách giữa hai người mỗi lúc một giảm thiểu. Đà công xuống bẩm báo rồi chỉ sợ Kim Hoa bà bà biết được nên lại vội quay về buồng lái. Triệu Mẫn cười nói:

- Đại giáo chủ, vậy phiền ngài kể lại chuyện Kim Hoa, Ngân Diệp của đảo Linh Xà uy chấn thiên hạ như thế nào kể lại cho con bé quê mùa kém cỏi này nghe có được không?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nói ra thật xấu hổ, Ngân Diệp tiên sinh là người như thế nào, thực tình tôi cũng không biết. Còn Kim Hoa bà bà thì tôi đã phải đối phó với mụ ta một lần.

Chàng bèn kể lại ở Hồ Điệp Cốc học nghề thuốc với Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ra sao, các người của những môn phái bị Kim Hoa bà bà hạ độc sống dở chết dở thế nào phải đến Hồ Điệp Cốc nhờ chữa bệnh, chàng được Hồ Thanh Ngưu chỉ điểm mới chữa khỏi cho họ, rồi Kim Hoa bà bà đấu võ với Diệt Tuyệt sư thái bị thua ra sao, về sau hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô bị Kim Hoa bà bà hạ thủ kể hết mọi chuyện cho nàng nghe.

Chàng nghĩ đến Hồ Thanh Ngưu tuy tính khí có điều quái đản, nhưng đối với mình chẳng có điều gì không phải, nhớ lại xác hai vợ chồng bị giết treo trên cây, không khỏi rưng rưng nước mắt. Chàng lại kể sơ qua việc Châu Nhi muốn bắt mình lên đảo Linh Xà làm bạn, chàng cắn vào tay cô ta một cái ra sao. Chàng cũng không hiểu tại sao mình lại chỉ thuật sơ lược vụ này, hay là chuyện đó có vẻ gì bất nhã chăng.

Triệu Mẫn chăm chú nghe không nói một lời, mặt đầy vẻ trịnh trọng nói:

- Lúc đầu tôi chỉ nghĩ là bà bà này là một người võ công cực kỳ cao siêu thôi, không ngờ bên trong lại còn rất nhiều chuyện ân oán qua lại. Nghe anh nói chuyện, lão bà bà này không phải là kẻ dễ đối phó, chúng mình phải hết sức cẩn thận mới được.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Quận chúa nương nương văn võ kiêm toàn, dưới tay lại biết bao nhiêu kỳ tài dị sĩ, đối phó với một mình Kim Hoa bà bà, có gì mà không được?

Triệu Mẫn cười:

- Có điều là trên biển cả mênh mông, không làm sao mà gọi các võ sĩ, phiên tăng thủ hạ của tôi tới được.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế mấy người nấu bếp, thủy thủ giương buồm chẳng phải là cao thủ hạng nhất trên chốn giang hồ hay mới chỉ là hạng nhì?

Triệu Mẫn ngạc nhiên, cười khanh khách nói:

- Bội phục, bội phục. Đại giáo chủ quả thật tinh đời, không thể nào dấu nổi chuyện gì.

Thì ra khi nàng quay về vương phủ lấy tiền và ngựa, đã ngầm dặn vệ sĩ điều động một số hạ thuộc chạy gấp ra bờ biển chờ lệnh, đến nơi chỉ chậm hơn bọn Trương Vô Kỵ nửa ngày. Những người này không tham dự cuộc chiến nơi chùa Vạn An, cũng chưa gặp Trương Vô Kỵ bao giờ, chia ra kẻ giả làm nhà bếp, thủy thủ. Thế nhưng người đã học võ, thần tình cử chỉ đều sẽ lộ ra, dù cho hết sức che dấu, nhưng Trương Vô Kỵ nhìn vào là đã biết ngay.

Triệu Mẫn nghe chàng nói thế, nghĩ thầm nếu như Trương Vô Kỵ đã nhìn ra, Kim Hoa bà bà hiểu biết rộng rãi, mèo già hóa cáo, chắc đã sớm biết rồi. Cũng may bên mình người nhiều thế mạnh, Trương Vô Kỵ võ công cao cường, dù có biết hay không biết cũng thế thôi, nếu như phải động thủ, cả bà ta lẫn Châu Nhi cũng chỉ hai người không có gì phải ngại. Còn nếu như bà ta chưa nhìn ra thì mình cứ tiếp tục giả trang cũng không sao.

Trong mấy ngày qua, mối lo nhất của Trương Vô Kỵ là việc Chu Chỉ Nhược uống viên thuốc của Kim Hoa bà bà rồi chất độc đã phát tác chưa. Triệu Mẫn biết rõ bụng dạ chàng, thấy chàng nhíu mày liền sai người lên sàn thuyền giả vờ bưng trà rót nước, xem xét động tĩnh, mỗi lần quay về đều nói Chu cô nương hành động, ngôn ngữ chẳng có gì khác lạ, xem ra không có triệu chứng gì trúng độc cả. Sau mấy lần như thế, Trương Vô Kỵ cũng an tâm phần nào.

Chàng ngồi tĩnh tọa ở một góc khoang, nghĩ đến tình cảnh lúc trước nơi tuyết địa, Châu Nhi bầu bạn với mình thế nào, đến khi bị Hà Thái Xung, Võ Liệt, Đinh Mẫn Quân vây đánh cố đòi về gặp mình một lần, chính chàng trước mặt bọn Hà Thái Xung cũng từng lớn tiếng nói: "Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước". Chàng nghĩ đến những câu đó không khỏi mặt đỏ bừng.

Triệu Mẫn nói:

- Hứ, anh lại nghĩ đến Chu cô nương rồi phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đâu có.

Triệu Mẫn nói:

- Gớm, anh muốn nghĩ thì nghĩ, muốn không nghĩ thì không nghĩ, không lẽ tôi kiểm soát được sao? Đàn ông con trai việc gì phải dấu diếm.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi dấu cô làm chi? Nói cho cô hay, tôi không nghĩ đến Chu cô nương đâu.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu như anh nghĩ đến khổ đầu đà, Vi Nhất Tiếu thì bộ mặt anh đâu có thế. Những người đó mặt mày quái đản, không lẽ khi anh nghĩ đến lại ra vẻ vừa ôn nhu, vừa bẽn lẽn hay sao?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Cô quả thật là lợi hại, người khác nghĩ đến ai xấu hay đẹp cô cũng biết nữa. Nói thực cho cô hay, người mà tôi nghĩ đến đây lại chẳng xinh đẹp chút nào cả.

Triệu Mẫn thấy chàng nói rất thành khẩn, mỉm cười không lý đến nữa. Dù nàng thông minh thế nào cũng không thể tưởng tượng nổi người chàng đang nghĩ đến lại chính là cô gái xấu xí Châu Nhi đang ở trên sàn thuyền kia.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến Châu Nhi đang luyện môn công phu âm độc Thiên Châu Vạn Độc Thủ nên diện mạo sưng vù, nổi u từng cục, đêm qua ở nơi vườn hoang chàng xem ra còn tệ hơn trước. Nghĩ đến đây chàng không khỏi buông tiếng thở dài, môn tà môn công phu đó càng luyện thêm e rằng cơ thể tâm tính đều hỏng cả. Chàng lại nghĩ đến lúc Ân Lê Đình nói chàng rơi xuống vực chết rồi, Châu Nhi phục xuống đất khóc lóc thật thảm thiết, trong lòng không khỏi cảm kích. Chàng từ khi lên Quang Minh Đính, ngày cũng như đêm, nếu không phải luyện công thì cũng bôn ba với Minh giáo, có mấy khi được yên tĩnh để nghĩ xem trong lòng mình như thế nào? Tuy cũng có khi nhớ đến Châu Nhi, cũng từng hỏi Vi Nhất Tiếu, cũng bảo Dương Tiêu sai người tìm kiếm chung quanh Quang Minh Đính, nhưng đều không thấy cô nàng đâu cả, bây giờ mới tự trách thầm: "Châu Nhi đối với ta tốt như thế, sao mình lại lạnh nhạt bạc bẽo với nàng như vậy? Sao trong bao lâu nay, dường như ta chẳng hề nghĩ tới nàng chút nào?". Từ khi làm giáo chủ Minh giáo, mọi việc riêng tư chàng đều bỏ qua một bên không hề tính đến.

Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Anh lại hối hận chuyện gì chăng?

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, đột nhiên trên sàn thuyền truyền xuống tiếng la hét, một hồi sau có thủy thủ chạy xuống bẩm báo:

- Trước mặt có đất liền, lão bà bà bảo chúng tôi dong thuyền đến.

Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ nhìn qua cửa sổ, thấy cách vài dặm có một hòn đảo lớn cây cối xanh tươi, có mấy ngọn núi cao vươn thẳng lên trời. Chiếc thuyền no gió, chạy băng băng về phía trước. Chỉ chừng một bữa ăn, thuyền đã đến đảo. Phía đông hòn đảo núi đá chạy thẳng xuống biển, không có bãi cạn thành thử chiến thuyền tuy chìm dưới nước sâu nhưng vẫn đậu được ngay cạnh bờ.

Chiến thuyền đậu nơi bến chưa xong, bỗng nghe từ phía trên núi vọng xuống một tiếng rống thật lớn, trung khí sung túc, cực kỳ uy mãnh. Nghe thấy thế Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa lo, tiếng đó thật là quen thuộc, chính là do nghĩa phụ chàng là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hú lên.

Hai người cách biệt mười năm, xem ra hùng phong của ông vẫn như xưa chàng không vui mừng sao được? Chàng không kịp suy nghĩ tại sao Tạ Tốn đang ở Băng Hỏa đảo nơi cực bắc lại đến được nơi đây, cũng chẳng nghĩ đến việc Kim Hoa bà bà có thể nhìn ra được chân tướng mình, liền vội vàng theo cầu thang đi lên sau thuyền, nhìn về phía sơn cương nơi phát ra tiếng hú.

Chỉ thấy bốn người đàn ông tay cầm binh khí, đang vây đánh một người thân thể cao to. Người đó tay không nghinh địch, chính là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Chỉ thoáng nhìn, Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ hai mắt đã mù, lại một chọi bốn, tay không chống với bốn món binh khí nhưng không kém sút chút nào. Chàng chưa bao giờ được thấy nghĩa phụ động thủ với ai, lúc này chỉ coi vài chiêu, trong bụng mừng thầm: "Năm xưa Kim Mao Sư Vương uy chấn thiên hạ, quả thật danh bất hư truyền. Nghĩa phụ ta quả võ công còn cao hơn Thanh Dực Bức Vương, có thể ngang với ông ngoại ta chứ không kém". Bốn người kia võ công cũng khá cao cường, từ trên thuyền nhìn về mỏm núi không rõ mặt mũi, nhưng thấy áo quần lam lũ, lưng đeo túi vải, hẳn là người của Cái Bang. Bên cạnh còn có thêm ba người đứng tiếp ứng.

Chỉ nghe một người lên tiếng nói:

- Giao thanh đao Đồ Long ra ... tha cho ngươi khỏi chết ... bảo đao thế mạng ...

Gió núi thổi ra truyền tiếng của y lúc được lúc mất, vì khoảng cách khá xa nên nghe không rõ ràng nhưng cũng hiểu được bọn này đang muốn đoạt thanh đao Đồ Long. Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Đao Đồ Long ở ngay bên cạnh ta đây, bọn giặc thối tha của Cái Bang kia, có giỏi thì cứ đến mà lấy.

Tuy miệng nói mà chân tay ông ta ra chiêu vẫn không chậm lại chút nào. Kim Hoa bà bà thân hình nhún một cái đã nhảy lên trên bờ, ho khúc khắc mấy tiếng, nói:

- Quần hiệp Cái Bang giáng lâm đảo Linh Xà, sao không đến nói chuyện với lão bà, lại đến làm phiền quí khách của đảo, ý muốn gì đây?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Đảo này quả nhiên là Linh Xà đảo, nghe giọng của Kim Hoa bà bà, xem ra nghĩa phụ ta là khách bà ta mời đến? Năm xưa nghĩa phụ nhất định không chịu rời Băng Hỏa đảo để về Trung Nguyên, sao Kim Hoa bà bà lại mời ông ta đến đây được? Làm sao Kim Hoa bà bà biết được chỗ ở của nghĩa phụ ta?". Trong chốc lát trong đầu chàng nổi lên không biết bao nhiêu là nghi hoặc.

Bốn người trên đỉnh núi thấy chủ nhân hòn đảo đã đến, chỉ mong thanh toán Tạ Tốn cho xong nên thế công càng thêm gấp gáp. Họ có ngờ đâu đó chính là đại kỵ trong võ học, Tạ Tốn hai mắt đã mù, toàn do tiếng gió từ binh khí của địch mà biện vị để đối phó. Bốn người ra tay càng nhanh, phong thanh càng nhiều, Tạ Tốn cười ha hả một hồi dài, bình một quyền đã đánh trúng ngực một tên, người đó rú lên một tiếng, từ sơn cương lăn xuống, đầu vỡ tan, óc văng tung tóe.

Một người lược trận đứng bên ngoài liền quát:

- Lui ra.

Y nhẹ nhàng đấm ra một quyền, quyền lực dường như có như không, khiến Tạ Tốn không thể nào nhận được đường đi. Quả nhiên quyền đầu đến cách thân hình Tạ Tốn mấy tấc ông mới hay biết, vội vàng ra chiêu, chân tay luống cuống, cực kỳ hốt hoảng. Ba người đánh khi nãy vừa tránh ra, một lão già đứng ngoài liền gia nhập cuộc chiến. Người đó cũng dùng phương pháp đánh như người kia, xuất chưởng khinh nhu, chỉ trong mấy chiêu, Tạ Tốn đã lạng quạng suýt nữa thì trúng hiểm chiêu.

Kim Hoa bà bà quát lên:

- Quí trưởng lão, Trịnh trưởng lão, Kim Mao Sư Vương mắt không được sáng, các ngươi giở thủ đoạn đê hèn như thế, uổng cho hai tiếng anh hùng trong chốn giang hồ.

Bà ta một mặt nói, tay vẫn cầm gậy chạy lên núi. Trông người bà ta run rẩy già cả như thế, tưởng như bị gió núi thổi rơi xuống vực đến nơi nhưng thân hình di động cực kỳ nhanh nhẹn. Chỉ thấy bà ta điểm đầu gậy xuống đất một cái, thân hình đã phất phới vọt lên, chỉ nhún nhẩy mấy lần đã đến lưng chừng núi. Châu Nhi lẽo đẽo chạy theo, nhưng bị cách một quãng xa.

Trương Vô Kỵ lo cho an nguy của nghĩa phụ cũng đã chạy vọt lên núi. Triệu Mẫn chạy lên ghé tai nói nhỏ:

- Có lão bà đó rồi, Sư Vương không bị nguy hiểm gì đâu, anh không cần phải ra tay, ẩn tàng hình tích là hơn.

Trương Vô Kỵ gật đầu, chạy đằng sau Châu Nhi. Lúc này chàng chỉ thấy đằng sau Châu Nhi, thân hình yểu điệu, nếu không nhìn mặt nàng ai chẳng bảo là một tuyệt sắc giai nhân, đâu có kém Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, hay Tiểu Siêu chút nào? Chàng nghĩ như thế lại tự trách mình: "Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, nghĩa phụ ngươi đang gặp nguy nan, ngươi lại đi lo nhìn đàn bà con gái, trong bụng khen chê tướng mạo thân hình đẹp hay không đẹp là sao?".

Hồi 28

ÂN ĐOẠN NGHĨA TUYỆT TỬ SAM VƯƠNG-

Bốn người chỉ chốc lát đã đến đỉnh sơn cương, thấy Tạ Tốn ra chiêu thật ngắn, chỉ thủ mà không công, đợi khi quyền cước địch nhân đến gần mới dùng tiểu cầm nã thủ sách giải. Lối đánh đó tuy có thể tự bảo vệ được nhưng muốn thắng địch thì lại thật khó. Trương Vô Kỵ đứng dưới một cây tùng lớn, thấy cha nuôi mặt đầy vết nhăn, đầu tóc đã bạc khá nhiều, so với khi chia tay thì già hẳn đi, chắc là hơn chục năm qua một mình nơi hoang đảo, sống qua ngày thật là gian nan, trong lòng chàng không khỏi chua xót, ngực nóng ran lên, muốn chạy ra thay ông đánh bại kẻ địch, cha con nhận nhau. Triệu Mẫn biết tâm ý chàng, lấy tay cào vào lòng bàn tay, lắc đầu.

Bỗng nghe Kim Hoa bà bà nói:

- Quí trưởng lão, Âm Sơn Chưởng Đại Cửu Thức của nhà ngươi nổi tiếng trên giang hồ, sao lại ma mãnh lén lút làm như miên chưởng là sao? Còn Trịnh trưởng lão sao cũng chẳng ra gì, đem Hồi Phong Phất Liễu Quyền dấu ở bên trong Bát Quái Quyền, Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp đâu có biết được ... khụ khụ ..

Tạ Tốn không nhìn thấy chiêu thức của địch nhân, đối địch mười phần khó khăn, hai gã Quí Trịnh lại cực kỳ giảo hoạt, lúc ra chiêu cố ý biến thức để ông không thể nhận ra. Kim Hoa bà bà nói câu đó ra, Tạ Tốn lập tức có chủ định, đợi quyền pháp của Trịnh trưởng lão vừa tới chỗ sắp biến đổi, liền đánh vù ra một quyền, trúng ngay quyền vừa đánh tới, Trịnh trưởng lão phải lùi hai bước mới gượng lại được. Quí trưởng lão ở bên cạnh vội vàng múa quyền bảo vệ khiến cho Tạ Tốn không thể truy kích.

Trương Vô Kỵ nhìn lại hai trưởng lão của Cái Bang, thấy Quí trưởng lão lùn lùn mập mập, mặt mày hồng hào trông chẳng khác gì gã đồ tể, còn Trịnh trưởng lão thì ốm yếu khô gầy, mặt xanh như tàu lá, trông đúng là kẻ ăn mày không sai vào đâu được. Hai người trên lưng đều đeo tám cái túi vải. Đứng xa xa là một thanh niên tuổi chừng ba mươi, cũng ăn mặc theo lối Cái Bang, nhưng quần áo sạch sẽ, trên lưng cũng đeo tám cái túi. Tuổi y còn trẻ như thế mà đã lên đến trưởng lão tám túi trong Cái Bang, quả thực là hiếm có. Đột nhiên nghe gã nói:

- Kim Hoa bà bà, bà đã nói trước là không giúp Tạ Tốn, câu nói đó chẳng lẽ không tính hay sao?

Kim Hoa bà bà lạnh lùng nói:

- Các hạ cũng là trưởng lão trong Cái Bang hay sao? Tha lỗi cho lão bà mắt kém, chưa từng biết đến.

Người kia đáp:

- Tại hạ mới nhập Cái Bang chưa lâu, bà bà dĩ nhiên không biết. Tại hạ họ Trần, thảo tự Hữu Lượng.

Kim Hoa bà bà lẩm bẩm nói một mình:

- Trần Hữu Lượng? Trần Hữu Lượng? Chưa từng nghe đến.

Chỉ nghe tiếng kêu la vang động, cánh tay trái Trịnh trưởng lão đã bị Tạ Tốn đánh trúng một quyền, ba tên đệ tử Cái Bang đứng ngoài liền cầm binh khí xông vào vây đánh. Ba tên này võ công không bằng được Trịnh Quí hai trưởng lão, đúng ra thì chỉ thêm vướng chân vướng tay nhưng Tạ Tốn từ khi mắt mù đến giờ chưa từng động thủ quá chiêu với ai, thành ra kinh nghiệm lâm địch không có, hôm nay lần đầu gặp phải cường địch, địch nhân ngoài quyền cước còn thêm binh khí, âm thanh hỗn tạp, khó mà phân biệt phương vị nên chỉ trong phút chốc đầu vai đã trúng ngay một quyền.

Trương Vô Kỵ thấy tình hình nguy cấp đang toan ra tay, Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Không lẽ Kim Hoa bà bà không ra tay cứu?

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, chỉ thấy Kim Hoa bà bà chống gậy đứng xem, miệng cười khẩy, không có vẻ gì muốn ra tay cứu viện. Ngay lúc đó, đùi bên trái của Tạ Tốn lại bị Trịnh trưởng lão đá trúng một cái thật mạnh khiến ông loạng choạng tưởng như muốn ngã.

Trong tay Trương Vô Kỵ đã hờm sẵn bảy viên đá sỏi, lúc này không còn nhẫn nại thêm được nữa, tay phải vung ra, bảy viên sỏi chia ra bắn vào năm người. Đá chưa tới nơi, bỗng thấy một làn hắc quang lóe lên, nghe soẹt một tiếng, ba món binh khí lập tức gãy đôi, trong năm người có bốn kẻ bị chém ngang lưng đứt thành tám khúc, văng ra tứ phía rơi xuống triền núi, riêng Trịnh trưởng lão chỉ bị đứt một cánh tay phải nằm lăn ra đất, trên lưng lại bị hai viên sỏi của Trương Vô Kỵ bắn trúng. Bốn gã bị chém chết kia cũng mỗi người bị trúng một viên nhưng vì bị đao chém trước, trúng đá sau thành thử Trương Vô Kỵ xuất thủ quả là thừa.

Biến cố đó xảy ra quá nhanh, ai nấy trong lòng kinh hãi. Chỉ thấy trong tay Tạ Tốn đã cầm một thanh đại đao đen sì, chính là thanh đao Đồ Long được người đời xưng là "võ lâm chí tôn". Ông ta thu đao về đứng ở trên đỉnh núi, uy phong lẫm lẫm, chẳng khác gì tướng nhà trời. Trương Vô Kỵ từ bé đã thấy thanh đao này rồi, nhưng không ngờ nó sắc bén uy mãnh đến thế. Kim Hoa bà bà lẩm bẩm:

- Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long! Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long!

Trịnh trưởng lão một cánh tay bị đứt, kêu rống lên như lợn bị chọc tiết. Trần Hữu Lượng mặt trắng bệch, lớn tiếng nói:

- Tạ đại hiệp võ công cái thế, thật là bội phục. Vị Trịnh trưởng lão kia xin cho xuống núi, tại hạ nguyện đền mạng cho y vậy xin Tạ đại hiệp cứ việc ra tay.

Lời nói ra ai nấy đều cảm động, không ngờ người này nghĩa khí thâm trọng đến thế, Trương Vô Kỵ trong lòng không khỏi thầm ngưỡng phục. Tạ Tốn nói:

- Trần Hữu Lượng, Ôi, ngươi quả thực là hảo hán, cứ ôm gã họ Trịnh này đi đi, ta không làm khó gì ngươi đâu.

Trần Hữu Lượng nói:

- Tại hạ xin cảm tạ đại ân tha cho không giết, thế nhưng Cái Bang có năm người chết dưới tay Tạ đại hiệp, nếu như trong vòng mười năm tại hạ học võ thành công, sẽ quay lại để báo ân trả oán mối thù này.

Tạ Tốn nghĩ thầm mình chỉ cần tiến lên một bước, bảo đao vung lên người này ắt khó mà thoát chết, trong lúc cực kỳ nguy hiểm như thế này mà vẫn còn dám nói đến chuyện sau này tầm cừu, quả là người hết sức can đảm, nên ông liền nói:

- Lão phu nếu như sống thêm được mười năm, xin được lãnh giáo.

Trần Hữu Lượng lại vòng tay hướng về Kim Hoa bà bà hành lễ nói:

- Cái Bang xâm nhập quí đảo, xin tạ tội.

Y cúi xuống ôm Trịnh trưởng lão lên, hiên ngang đi xuống chân núi.

Kim Hoa bà bà trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ, lạnh lùng hỏi:

- Lão già kia, thủ pháp đả huyệt của ngươi giỏi nhỉ? Sao ngươi lại ném ra tới bảy viên đá là sao? Có phải một viên định bắn vào Trần Hữu Lượng, còn một viên dành cho ta phải không?

Trương Vô Kỵ thấy bà ta nhìn ra ý định của mình bắn tới bảy viên sỏi, nhưng chưa nhìn ra bộ mặt thật, thành thử không trả lời, chỉ mỉm cười. Kim Hoa bà bà gay gắt nói tiếp:

- Lão già kia, tôn tính đại danh là gì? Sao lại giả làm thủy thủ đi theo lão bà, là cớ làm sao? Ngươi giở trò trước mặt lão bà bộ không muốn sống nữa ư?

Trương Vô Kỵ không quen nói láo, ngẩn người ra không biết trả lời sao cho phải.

Triệu Mẫn giả vờ khàn khàn đáp:

- Bọn ta Cự Kình bang vốn kiếm cơm ăn trên mặt biển, lâu nay không có tiền tiêu. Lão bà bà chịu trả giá cao, nên đành chở khách một chuyến. Vị huynh đệ này thấy bọn Cái Bang cậy đông hà hiếp người nên ra tay tương trợ, cũng là hảo ý thôi. Đâu ngờ Tạ đại hiệp võ công cao cường đến thế, bọn ta hóa ra thành người đa sự.

Nàng sửa giọng đàn ông nhưng vẫn the thé chói tai, cũng may là hóa trang kỹ lưỡng, mặt mày vàng vọt già cả, Kim Hoa bà bà chưa nhìn ra sơ hở nào. Tạ Tốn xua tay trái một cái nói:

- Đa tạ! Ôi, Kim Mao Sư Vương thật là hổ xuống đồng bằng[5] nay lại để đến cả Cự Kình bang giúp đỡ. Xa cách chốn giang hồ hai chục năm, trong võ lâm có bao người tài giỏi xuất hiện, ta còn quay về làm gì?

Ông nói mấy câu cuối cùng, giọng dường như tiêu tan ý chí, thật là cảm khái thê lương. Vừa rồi Trương Vô Kỵ bắn bảy viên sỏi ra, kình lực mạnh mẽ, trên đời hiếm có, Tạ Tốn nghe thật rõ ràng, kinh hãi không ngờ trong võ lâm nay lại có người ghê gớm đến thế, còn mình toàn nhờ thanh bảo đao Đồ Long mới thoát được bọn chuột nhắt kia vây đánh. Nhớ lại hơn hai mươi năm trước kia, ông một mình hùng phong trấn nhiếp quần hào nơi Vương Bàn Sơn đảo mà tưởng như ở kiếp nào.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, tiểu muội biết ông không muốn người ngoài giúp đỡ thành thử chẳng ra tay, tam ca không trách chứ?

Trương Vô Kỵ thấy bà ta gọi nghĩa phụ mình là "tam ca", cảm thấy ngạc nhiên, không biết ông đứng hàng thứ ba, nhưng xem tuổi tác, Kim Hoa bà bà xem ra còn già hơn. Lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Có gì mà trách hay không trách? Lần này bà về Trung Nguyên, có nghe ngóng được tin tức gì của thằng bé Vô Kỵ của tôi không?

Trương Vô Kỵ trong lòng chấn động, cảm thấy bàn tay mềm mại bóp chặt tay mình, biết Triệu Mẫn không muốn mình đứng ra nhận. Vừa rồi chàng không nghe lời nàng bắn sỏi cứu viện, tuy cũng mạo muội nhưng vì quan thiết quá đáng không muốn nghĩa phụ bị người ta hiếp đáp, còn bây giờ có kiên nhẫn thêm một chút, cũng không có gì đáng lo cả.

Kim Hoa bà bà nói:

- Không có.

Tạ Tốn thở dài một tiếng, một lúc sau mới nói:

- Hàn phu nhân, chúng ta vốn là chỗ anh em, xin bà đừng lừa dối kẻ mù lòa này. Thằng con Vô Kỵ của tôi, có thực còn sống trên đời hay không?

Kim Hoa bà bà còn đang lưỡng lự chưa biết trả lời sao, Châu Nhi đột nhiên nói:

- Tạ đại hiệp ...

Kim Hoa bà bà vội giơ tay trái ra nắm chặt cổ tay nàng, trừng mắt nhìn khiến Châu Nhi không dám nói tiếp. Tạ Tốn hỏi:

- Ân cô nương, cô nói đi, nói đi! Có phải bà bà muốn lừa tôi, phải không?

Châu Nhi hai hàng nước mắt ròng ròng chảy xuống, Kim Hoa bà bà giơ tay phải lên để lên trên đỉnh đầu nàng, Châu Nhi chỉ nói một câu không hợp ý bà ta sẽ nhả nội lực ra là nàng chết ngay. Châu Nhi nói:

- Tạ đại hiệp, bà bà không lừa đại hiệp đâu, lần này chúng tôi về Trung Nguyên không nghe tin tức gì của Trương Vô Kỵ cả.

Kim Hoa bà bà nghe nàng nói thế mới bỏ tay ra khỏi đầu nàng nhưng vẫn nắm chặt cổ tay. Tạ Tốn nói:

- Như thế các ngươi nghe được tin tức gì? Minh giáo ra sao? Những anh em cũ bây giờ thế nào rồi?

Kim Hoa bà bà đáp:

- Không biết nữa. Chuyện trên giang hồ tôi không hỏi tới làm gì. Tiểu muội chỉ đi tìm gã đầu đà giết hại chồng tôi để thanh toán thôi, rồi đi tìm Diệt tuyệt lão ni của phái Nga Mi báo thù một kiếm lúc trước, còn những chuyện khác, lão bà này đều để ngoài tai.

Tạ Tốn giận dữ nói:

- Giỏi nhỉ, Hàn phu nhân, hôm trước nơi Băng Hỏa đảo bà nói với tôi những gì? Bà bảo vợ chồng Trương ngũ đệ vì không chịu thổ lộ nơi tôi đang ẩn mình, bị người ta ép phải tự vẫn trên núi Võ Đương, còn thằng bé Vô Kỵ thành kẻ mồ côi không ai trông nom, lưu lạc giang hồ, đến đâu cũng bị người ta lăng nhục, thê thảm không để đâu cho hết, có phải thế không?

Kim Hoa bà bà nói:

- Đúng thế.

Tạ Tốn nói tiếp:

- Bà lại bảo y bị người ta đánh một Huyền Minh thần chưởng, ngày đêm khổ sở dày vò, chính bà gặp y tại Hồ Điệp Cốc, bảo y đi đảo Linh Xà nhưng nó không chịu, có phải thế không?

Kim Hoa bà bà đáp:

- Đúng thế, nếu tôi nói sai thì trời tru đất diệt, Kim Hoa bà bà không bằng những kẻ vô lại trên chốn giang hồ, chồng tôi chết rồi cũng không yên ổn.

Tạ Tốn gật đầu nói:

- Ân cô nương, còn cô thì nói sao?

Châu Nhi đáp:

- Cháu nói là lúc đó hết sức khuyên y lên đảo Linh Xà, y đã không nghe, ngược lại còn cắn cháu một cái. Trên lưng bàn tay cháu vẫn còn vết răng đây, lời đó không thể nào sai được. Cháu ... cháu vẫn nhớ y lắm.

Bàn tay Triệu Mẫn đang nắm Vô Kỵ bỗng bóp một cái, đưa mắt lườm y, ánh mắt vừa có vẻ chế riễu, vừa có vẻ giận dỗi, dường như muốn nói: "Anh dấu tôi giỏi ghê! Thì ra cô nương này biết anh từ bao giờ, hai người lại còn bao nhiêu là chuyện khác nữa". Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, nghĩ đến mối tình lạ lùng của Châu Nhi đối với mình, vừa cảm thấy êm đềm, vừa cảm thấy chua xót.

Đột nhiên Triệu Mẫn cầm tay Trương Vô Kỵ đưa lên mồm cắn lên lưng bàn tay chàng một cái rõ đau. Bàn tay Trương Vô Kỵ máu ứa ra nhưng lực đề ngự của Cửu Dương thần công trong cơ thể lập tức bật ra khiến miệng nàng cũng máu chảy ròng ròng. Tuy thế hai người đền cố nhịn không kêu.

Trương Vô Kỵ quay qua nhìn Triệu Mẫn, không hiểu sao nàng tự nhiên lại cắn mình, thấy ánh mắt nàng đầy vẻ vui sướng, đôi má ửng hồng như hoa mùa xuân, tuy trên miệng có gắn bộ râu giả nhưng vẫn không dấu được vẻ xinh tươi khiến chàng lòng đầy ngờ vực, không hiểu vì sao.

Tạ Tốn nói tiếp:

- Giỏi nhỉ! Hàn phu nhân, tôi chỉ vì lo lắng cho thằng bé Vô Kỵ cô đơn khổ sở nên mới vạn dặm xa xôi từ Băng Hỏa đảo về lại Trung Nguyên. Bà đã bằng lòng đi nghe ngóng tin tức thằng bé cho tôi, sao không giữ lời?

Trương Vô Kỵ hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi, bây giờ mới hay nghĩa phụ tuy biết đâu đâu cũng có kẻ thù, nhưng lại không nề nguy hiểm quay lại Trung Nguyên hóa ra cũng chỉ vì mình. Kim Hoa bà bà nói:

- Hôm đó chúng ta đã nói rõ rồi, tôi đi tìm Trương Vô Kỵ cho ông, ông cho tôi mượn thanh đao Đồ Long. Tạ tam ca, nếu ông cho tôi mượn đao, lão bà này một lời nặng như núi, ắt sẽ đi dò hỏi tin tức thiếu niên đó cho ông.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Bà cứ tìm Vô Kỵ lại đây, lập tức tôi đưa đao cho bà mượn.

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Ông không tin tôi ư?

Tạ Tốn nói:

- Chuyện ở trên đời này khó nói lắm. Thân thiết như cha con, anh em cũng có khi còn không tin được nhau nữa là.

Trương Vô Kỵ biết ông nhớ lại chuyện Thành Côn, trong lòng không khỏi chua xót. Kim Hoa bà bà nói:

- Thế sao ông lại không cho tôi mượn đao trước đi?

Tạ Tốn nói:

- Tôi thả cho Trần Hữu Lượng của Cái Bang hạ sơn, từ nay đảo Linh Xà này không một ngày nào yên, không biết bao nhiêu kẻ thù trong võ lâm tới đây kiếm tôi gây sự. Kim Mao Sư Vương nay đâu còn như ngày xưa, ngoài thanh đao Đồ Long này ra, không còn biết nương tựa vào đâu, ha ha ...

Ông ta đột nhiên cười khan mấy tiếng, quay sang hỏi:

- Hàn phu nhân, vừa rồi năm người vây đánh tôi, ngay cả vị hảo hán của Cự Kình bang cũng cầm sẵn trong tay bảy viên sỏi, không lẽ bà không có ý hại tôi hay sao? Bà chỉ mong tôi táng mạng dưới tay bọn Cái Bang, thế là tiến lên thu lợi. Tạ Tốn mắt tuy mù nhưng lòng đâu đã mù. Hàn phu nhân, tôi hỏi lại bà một câu: Tạ Tốn đến đảo Linh Xà vốn thật là kín đáo, làm sao người của Cái Bang lại biết được?

Kim Hoa bà bà nói:

- Tôi cũng đang muốn tìm hiểu cho rõ ràng tại sao.

Tạ Tốn giơ tay búng lên thanh đao Đồ Long một cái, đút trở lại vào trong trường bào, nói:

- Bà không chịu đi tìm Vô Kỵ cho tôi, cái đó cũng tùy bà thôi. Tạ Tốn này sẽ trở lại giang hồ, làm cho một trận nghiêng trời lệch đất.

Nói xong ông ngửng mặt lên trời hú lên một tiếng dài, nhảy vọt lên theo phía triền núi phía tây chạy xuống. Chỉ thấy bước chân ông ta nhanh nhẹn, chạy thẳng về một ngọn núi ở phía bắc. Trên núi đó có một cái lều tranh trơ trọi, hẳn là nơi ở của ông ta.

*

* *

Kim Hoa bà bà đợi Tạ Tốn đi rồi, quay lại trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn quát:

- Cút đi.

Triệu Mẫn dắt tay Trương Vô Kỵ, lập tức xuống núi, trở lên thuyền. Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi muốn đi thăm nghĩa phụ.

Triệu Mẫn đáp:

- Khi nghĩa phụ anh ra đi, mắt Kim Hoa bà bà lộ hung quang, anh không thấy sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi không sợ bà ta.

Triệu Mẫn nói:

- Tôi xem trên đảo này có rất nhiều điều ngụy bí. Người của Cái Bang sao lại tụ tập nơi đây là sao? Kim Hoa bà bà làm sao biết được nơi ở của nghĩa phụ anh? Làm sao kiếm ra được Băng Hỏa đảo? Bên trong quả có nhiều chỗ chưa hiểu được. Anh tới một chưởng đánh chết Kim Hoa bà bà không có gì khó nhưng những điều đó sẽ không bao giờ có câu trả lời minh bạch.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi đâu có định giết Kim Hoa bà bà, chì vì nghĩa phụ nhớ tôi quá, tôi phải đi gặp ông ta ngay.

Triệu Mẫn lắc đầu:

- Hai người xa cách nhau mười năm, đợi thêm một hai ngày thì đã sao. Trương công tử, để tôi nói cho anh nghe, bọn mình phải đề phòng Kim Hoa bà bà là chuyện dĩ nhiên rồi, nhưng cũng còn phải đề phòng luôn cả Trần Hữu Lượng.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Gã Trần Hữu Lượng ư? Người này thật là nghĩa khí, quả là một trang hán tử.

Triệu Mẫn nói:

- Trong bụng anh có thật sự nghĩ thế không? Anh không đánh lừa tôi đấy chứ?

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Đánh lừa cô ư? Gã Trần Hữu Lượng cam chịu chết thay cho Trịnh trưởng lão, cái đó quả thật là hiếm có.

Triệu Mẫn chăm chăm nhìn chàng, thở dài một tiếng nói:

- Trương công tử ơi là Trương công tử, anh là giáo chủ Minh giáo, muốn thống suất bao nhiêu là anh hùng hào kiệt, mưu toan việc lớn, lại dễ bị người ta đánh lừa đến vậy, thì làm sao được?

Trương Vô Kỵ càng ngạc nhiên hỏi lại:

- Người ta đánh lừa?

Triệu Mẫn nói:

- Gã Trần Hữu Lượng kia rõ ràng đánh lừa Tạ đại hiệp, mắt anh nhìn từ đầu chí cuối vậy mà không thấy hay sao?

Trương Vô Kỵ nhảy nhổm lên:

- Y lừa nghĩa phụ tôi?

Triệu Mẫn nói:

- Khi đó Tạ đại hiệp vung đao lên một cái, cao thủ Cái Bang bốn chết một bị thương, gã Trần Hữu Lượng kia võ công có cao cách mấy cũng chưa chắc tránh nổi một nhát chém của đao Đồ Long. Ở vào hoàn cảnh đó, nếu không tiến lên đánh thí mạng thì chỉ còn cách quì xuống van xin. Thế nhưng anh thử nghĩ, Tạ đại hiệp không muốn cho hành tung của mình bị người ta biết được, Trần Hữu Lượng dù có rập đầu ba trăm cái cũng chưa chắc đã khiến cho ông ta mềm lòng, trừ việc giả vờ nhân hiệp trọng nghĩa, còn có cách nào khác đâu?

Nàng vừa nói vừa thoa lên vết thương trên lưng bàn tay Vô Kỵ một chút thuốc cao, lấy khăn tay của mình buộc lại. Trương Vô Kỵ nghe nàng giải thích cảnh ngộ của Trần Hữu Lượng, xem ra không sai chút nào, nhưng nghĩ lại lúc đó Trần Hữu Lượng hiên ngang trình bày, trong lối nói không có chút gì là giả dối, chàng không khỏi bán tín bán nghi.

Triệu Mẫn nói tiếp:

- Thôi được, tôi hỏi anh thêm câu này: Khi Trần Hữu Lượng nói với Tạ đại hiệp mấy câu đó, hai tay y làm gì, hai chân y làm gì?

Khi Trương Vô Kỵ nghe Trần Hữu Lượng nói, lúc thì chàng nhìn vào mặt y, lúc thì quay qua nhìn nghĩa phụ, đâu có để ý tay chân y ra sao nhưng toàn thân y vẫn nhìn thấy hết, người ngoài không nhắc đến thì chàng cũng chẳng nhớ ra nhưng Triệu Mẫn bây giờ hỏi đến, hình ảnh đó lại quay trở lại nên nói:

- Ồ, gã Trần Hữu Lượng đó tay phải hơi giơ lên, tay trái giơ ngang, chính là chiêu "Sư Tử Bác Thố"[6], còn hai chân y ư? Ồ, đúng rồi, đó là "Hàng Ma Thích Đẩu Thức". Hai chiêu đó đều là quyền pháp của phái Thiếu Lâm, cũng không phải là chiêu gì tệ hại đâu. Chẳng lẽ y giả vờ cầu tình với nghĩa phụ tôi nhưng lại định bụng đánh lén hay sao? Chuyện đó xem ra không đúng, hai chiêu đó đâu có thể dùng được.

Triệu Mẫn cười khẩy nói:

- Trương công tử, lòng dạ con người trên đời này hiểm ác anh chẳng biết gì cả. Dẫu cho Trần Hữu Lượng võ công cao cường đến mấy, đánh lén Tạ đại hiệp đâu có thể thành công? Người đó thông minh cơ trí, quả là một nhân tài hạng nhất, sao lại không biết như thế? Nếu việc y giả vờ nghĩa khí thâm trọng kia bị Tạ đại hiệp khám phá ra, không tha mạng cho y, ở vào chỗ y đang đứng lúc đó thì chiêu "Hàng Ma Thích Đẩu Thức" đá vào ai? Còn chiêu "Sư Tử Bác Thố" kia chộp người nào?

Trương Vô Kỵ chỉ nghĩ đến chuyện tốt cho người khác chưa bao giờ tìm hiểu gian kế của Trần Hữu Lượng ra sao, nay Triệu Mẫn đề cập đến, trong óc chợt bừng lên, lưng toát mồ hôi, run run nói:

- Y ... y định đá vào Trịnh trưởng lão, còn giơ tay định chộp Ân cô nương.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Đúng rồi. Y định là đá Trịnh trưởng lão vào Tạ đại hiệp, tiếp theo chộp luôn người có tình thanh mai trúc mã, cắn tay ước định với anh là Ân cô nương đẩy về phía Tạ đại hiệp, như thế sẽ hoãn lại được một chút để y có cơ hội chạy thoát thân. Tuy nhiên Tạ đại hiệp thần công cái thế, tay cầm bảo đao, kế đó chưa chắc đã thành công nhưng trừ cách đó ra không còn biện pháp nào khác. Nếu như là tôi, cũng chỉ làm như y thôi, cho đến lúc này tôi cũng chưa nghĩ ra được cách nào khác cả. Người này chỉ trong khoảnh khắc mà đã mưu mẹo như thế, quả là một nhân vật ghê gớm.

Nói xong nàng tấm tắc khen mãi. Trương Vô Kỵ càng nghĩ càng thấy e ngại, trên đời này lòng người hiểm độc, chàng từ bé đã chứng kiến nhiều, nhưng người ghê gớm như Trần Hữu Lượng, quả là ít thấy, một lát sau mới nói:

- Triệu cô nương, cô chỉ nhìn qua đã thấy ngay mưu kế của y, xem ra cô cũng chẳng kém gì đâu.

Mặt Triệu Mẫn sầm xuống, hỏi:

- Anh định mỉa mai tôi đấy chăng? Nói cho anh hay, nếu anh ngại tôi tâm địa hiểm ác thì tránh xa tôi ra là hơn.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Chẳng cần phải thế. Cô đã sử dụng ngụy kế nhiều lần với tôi rồi, việc gì tôi cũng phải đề phòng cho chắc.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Anh bảo anh đề phòng? Thế sao tôi bôi thuốc độc lên lưng bàn tay anh, anh không biết?

Trương Vô Kỵ kinh hãi, quả nhiên vết thương thấy hơi ngứa xem ra có gì khác lạ, vội vàng cởi khăn ra, giơ tay đưa lên mũi ngửi, kêu lên:

- Ối chao!

Chàng biết là Triệu Mẫn đã bôi Khứ Hủ Tiêu Cơ Cao lên tay mình, là loại thuốc cao để tiêu trừ thịt bị thối, tuy không phải là thuốc độc nhưng bôi lên sẽ làm cho vết thương càng loét ra sâu thêm. Loại thuốc này vốn dĩ có mùi hăng hăng, Triệu Mẫn trộn với son môi, lại dùng khăn tay bao lại, mùi thơm át cả mùi thuốc khiến chàng không nhận ra. Trương Vô Kỵ vội chạy ra sau thuyền lấy nước rửa sạch, Triệu Mẫn đi theo, cười khúc khích giúp chàng vẩy nước lên. Trương Vô Kỵ đẩy cô gái ra, hậm hực nói:

- Tránh xa tôi ra, nghịch ác thế chưa đủ hay sao? Cô tưởng tôi không biết đau ư?

Triệu Mẫn cười khanh khách nói:

- Thật đúng là lấy oán báo ơn, tôi sợ anh đau nhiều nên mới làm ra thế.

Trương Vô Kỵ không thèm để ý đến nàng, mặt hầm hầm quay về trong khoang thuyền, nhắm mắt lại. Triệu Mẫn cũng đi theo sau, gọi khẽ:

- Trương công tử.

Trương Vô Kỵ giả vờ ngủ, Triệu Mẫn lại gọi thêm hai tiếng nữa, chàng vẫn làm thinh. Cô gái thở dài:

- Nếu biết thế tôi bôi thuốc độc thật cho anh chết luôn còn hơn là để anh không ngó ngàng gì tới tôi.

Trương Vô Kỵ mở mắt ra nói:

- Cái gì mà "lấy oán báo ơn", cô nói thử xem nào?

Triệu Mẫn cười nói:

- Nếu tôi giải thích cho anh chịu phục thì làm sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô mồm năm miệng mười, tôi làm sao nói lại cô được.

Triệu Mẫn lại cười:

- Anh chưa nghe tôi nói gì mà đã không tin rồi, có biết đâu tôi chỉ vì tốt bụng với anh đấy thôi.

Trương Vô Kỵ hứ một tiếng nói:

- Trên đời này ai có ai lại tốt bụng như cô? Chẳng duyên cớ gì cắn chảy máu tay tôi ra thì cũng còn được, lại còn bôi thuốc độc lên, quả thật tôi không chịu nổi lòng tốt của cô nữa.

Triệu Mẫn nói:

- Ừ, thế tôi hỏi anh: tôi cắn anh đau hơn hay anh cắn Ân cô nương đau hơn?

Trương Vô Kỵ mặt mày bẽn lẽn nói:

- Cái ... cái đó lâu lắm rồi, nhắc tới làm gì?

Triệu Mẫn nói:

- Tôi cứ nhắc đến. Tôi hỏi anh anh đừng có lảng qua chuyện khác.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thì cứ coi như tôi cắn Ân cô nương đau hơn đi. Thế nhưng cô ta nắm tay tôi, lúc đó võ công tôi không bằng, không thể nào thoát thân được, trẻ con gấp rút hoảng hốt chỉ đành cắn một cái. Còn cô đâu có phải trẻ con, tôi cũng đâu có nắm tay cô bắt cô đi lên đảo Linh Xà?

Triệu Mẫn cười:

- Lạ nhỉ, lúc đó cô ta nắm tay anh muốn anh đi lên đảo Linh Xà, anh nhất định không đi. Thế sao lúc này người ta không mời anh, anh lại lót tót đi theo là sao? Hay là người lớn rồi lòng cũng lớn theo, cái gì cũng biến đổi cả.

Trương Vô Kỵ mặt lại đỏ lên, cười nói:

- Cái này là cô bảo tôi đi đấy chứ.

Triệu Mẫn nghe chàng nói thế cũng thấy thẹn thùng, lòng dâng lên một nỗi êm đềm, tưởng như Trương Vô Kỵ muốn nói: "Cô ta bắt tôi đi, tôi thà chết cũng không đi, còn cô bảo tôi đi thì tôi đi ngay".

Hai người lặng yên không ai nói thêm câu nào, ánh mắt vừa chạm nhau, vội vàng quay đầu ra chỗ khác. Triệu Mẫn cúi đầu nói nhỏ:

- Thôi được, để em nói cho nghe, năm xưa anh cắn Ân cô nương một cái, thế mà bao lâu nay cô ấy vẫn khắc khoải nhớ thương anh, em nghe cô ta nói thế cũng sợ người khác quên mình. Thành ra em cắn anh một cái, cũng chỉ cốt để anh đừng bao giờ quên em cả.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói thế, hiểu ngay thâm ý của Triệu Mẫn, trong lòng cảm động nhưng không dám nói ra lời. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Em nhìn vết sẹo trên lưng bàn tay cô ta, thấy anh cắn sâu lắm. Em nghĩ vết cắn càng sâu, thì nhớ càng lâu nên cũng định cắn anh thật đau nhưng lòng không nỡ, còn cắn nhè nhẹ thì lại sợ anh rồi sẽ quên em thôi. Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ còn nước cắn anh một cái, sau đó bôi "Khứ Hủ Tiêu Cơ Tán" để cho vết thương loét ra to hơn.

Trương Vô Kỵ nghe thấy thật tức cười, nghĩ lại nàng làm ra như thế cũng chỉ vì cảm tình sâu xa đối với mình, thở dài một tiếng, ôn tồn nói:

- Tôi cũng không trách cô đâu. Thế ra chính tôi mới là kẻ "lấy oán báo ơn". Cô đối với tôi như thế, dù có thế nào chăng nữa, tôi cũng không bao giờ quên cô cả.

Triệu Mẫn đang ôn nhu bẽn lẽn, nghe chàng nói vậy, ánh mắt liền lộ vẻ tinh quái, cười hỏi:

- Anh nói "em đối với tôi như thế" là nói em tốt với anh hay là em không tốt với anh? Trương công tử, em đối với anh nhiều điều không ra gì, còn đã có gì tốt với anh đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Từ nay về sau cô đối với tôi tốt là được rồi.

Chàng cầm tay nàng đưa lên môi, cười nói:

- Để tôi cắn một cái cho cô suốt đời không quên tôi.

Triệu Mẫn đột nhiên hổ thẹn, vội giựt tay chạy ra khỏi khoang thuyền. Nàng vừa mở cửa đụng ngay phải Tiểu Siêu đứng đó, giật mình nghĩ thầm: "Ôi chao, những gì ta nói với chàng con tiểu a đầu này nghe thấy hết, xấu hổ muốn chết được". Mặt nàng đỏ bừng vội vàng chạy lên trên sàn.

Tiểu Siêu đến trước mặt Trương Vô Kỵ nói:

- - Công tử gia, em thấy Kim Hoa bà bà và cô gái xấu xí kia mới đi ra, hai người trên lưng ai cũng vác một cái bọc to, không biết họ làm trò quỉ gì.

Trương Vô Kỵ ồ một tiếng, từ nãy giờ chàng cùng Triệu Mẫn nói chuyện đùa với nhau toàn chuyện riêng tư, nay thấy Tiểu Siêu không khỏi xấu hổ, mặt ngẩn ra một lát mới nói:

- Có phải họ đi về căn nhà nhỏ ở hòn núi phía bắc chăng?

Tiểu Siêu đáp:

- Không phải, hai người đi về hướng bắc thật nhưng không trèo lên núi, dường như đang tranh cãi điều gì. Kim Hoa bà bà xem chừng có vẻ bực tức lắm.

Trương Vô Kỵ chạy xuống đằng sau, thấy Triệu Mẫn ở xa xa nơi đầu thuyền đứng thẫn thờ nhìn ra biển. Chàng nghe tiếng sóng bập bềnh vỗ vào mạn thuyền, cũng thấy trong lòng dạt dào, trồi lên hụp xuống không sao bình tĩnh được. Một hồi thật lâu, khi vầng thái dương đã chìm hẳn xuống những đợt sóng ở phía tây, cây cối trên đảo dần dần thẫm lại, bấy giờ chàng mới quay vào trong khoang thuyền.

Trương Vô Kỵ ăn cơm tối xong, quay sang nói với Triệu Mẫn và Tiểu Siêu:

- Tôi đi thăm dò nghĩa phụ, hai cô ở lại thuyền để khỏi đông người khiến Kim Hoa bà bà có thể phát giác được.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy anh chờ thêm một canh nữa cho thật tối rồi hãy đi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Được.

Chàng mong nhớ nghĩa phụ, trong lòng nóng như lửa đốt, một canh đó thật là khó chịu. Đợi đến khi chung quanh tối đen cả, chàng liền đứng dậy, mỉm cười nhìn Tiểu Siêu và Triệu Mẫn, dợm bước ra khỏi khoang thuyền. Triệu Mẫn cởi thanh Ỷ Thiên kiếm đeo ở lưng ra nói:

- Trương công tử hãy đeo thanh kiếm này phòng thân.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên nói:

- Cô cứ giữ lấy đi.

Triệu Mẫn nói:

- Không, anh đi chuyến này em không an tâm.

Trương Vô Kỵ cười:

- Có gì mà không an tâm?

Triệu Mẫn nói:

- Em cũng không nói ra được. Kim Hoa bà bà kỳ quái không biết thế nào, Trần Hữu Lượng cũng nhiều ngụy kế, chẳng biết nghĩa phụ anh có tin anh là "thằng bé Vô Kỵ" hay không nữa ... Ôi, hòn đảo này tên là Linh Xà, không chừng lại còn những độc vật ghê gớm, huống chi thêm ...

Nàng nói tới đây, nín bặt không thêm gì nữa. Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Huống chi cái gì?

Triệu Mẫn đưa tay mình lên, giả vờ như cắn một cái, cười hì hì, mặt đỏ lên. Trương Vô Kỵ biết nàng nói tới biểu muội Ân Ly, xua xua tay, đi ra cửa khoang. Triệu Mẫn gọi to:

- Đón lấy.

Nói rồi nàng thẩy thanh kiếm Ỷ Thiên lại cho Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ đón lấy thanh kiếm, trong lòng bồi hồi: "Nàng thật chẳng tiếc gì với ta, đến thanh kiếm Ỷ Thiên cũng đưa cho mượn". Chàng bèn gài thanh kiếm ra sau lưng, đề khí chạy tới mỏm núi ở phía bắc. Nhớ tới lời Triệu Mẫn, Vô Kỵ sợ trong cỏ có độc trùng rắn rít nên chỉ bước vào những nơi trống trải. Chỉ chừng uống xong một chén trà chàng đã đến chân núi, ngửng đầu nhìn lên thấy căn lều tối thui không đèn đóm gì cả, nghĩ thầm: "Nghĩa phụ chắc đi ngủ rồi". Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: "Lão nhân gia hai mắt đã mù, có cần gì đến đèn đuốc?". Ngay lúc đó, từ bên lưng chừng núi phía trái vọng qua tiếng người nói chuyện rì rầm. Chàng nép mình xuống, theo hướng âm thanh lần tới nhưng lại không nghe thấy gì nữa.

Vừa lúc đó một trận gió bấc thổi tới khiến có cây cỏ xào xạc. Trương Vô Kỵ nhân tiếng gió vội vàng chạy vọt lên, thấy cách trước mặt chừng bốn, năm trượng tiếng Kim Hoa bà bà hạ giọng nói thật nhỏ:

- Sao chưa ra tay? Ngươi còn chần chừ gì nữa?

Ân Ly đáp:

- Bà bà làm thế này, xem chừng ... xem chừng không phải với bạn bè xưa. Tạ đại hiệp giao tình với bà mấy chục năm mới tin ở bà mà từ Băng Hỏa đảo về Trung Nguyên.

Kim Hoa bà bà cười khẩy:

- Hắn tin ta ư? Ngươi nói lạ nhỉ? Nếu quả thực y tin ở ta, sao không cho ta mượn thanh đao? Y về Trung Nguyên cốt để đi tìm nghĩa tử, có liên quan gì đến ta đâu nào!

Trong bóng đêm chỉ thấy mờ mờ bóng Kim Hoa bà bà khom lưng xuống, đột nhiên nghe keng một tiếng nho nhỏ như tiếng kim châm chạm vào đá núi, một lúc sau, lại có một tiếng như thế nữa. Trương Vô Kỵ lạ lùng nhưng sợ bị hai người phát giác nên không dám tiến lên nhìn cho rõ ràng. Lại nghe Ân Ly nói:

- Bà bà muốn đoạt thanh bảo đao sao không ra mặt giao chiến để khỏi mất đi thân phận anh hùng. Việc đang làm đây nếu như truyền ra chốn giang hồ, chẳng bị người ta sỉ tiếu hay sao? Diệt Tuyệt sư thái nay đã chết rồi, bà bà còn muốn lấy thanh đao làm gì nữa?

Kim Hoa bà bà giận quá, đứng thẳng người lên, gay gắt nói:

- Con nhãi kia, năm xưa ai cứu ngươi thoát khỏi bàn tay cha ngươi? Bây giờ ngươi khôn lớn, không còn nghe lời bà bà dặn dò nữa phải không? Gã Tạ Tốn kia không bà con thân thích gì với ngươi hết, sao ngươi cứ nhất định phải bênh y chầm chập là sao? Ngươi thử nói duyên cớ cho bà bà nghe xem nào?

Tuy giọng điệu chì chiết thế nhưng âm thanh vẫn rất nhỏ dường như sợ rằng trên đỉnh núi Tạ Tốn có thể nghe thấy được. Thực ra từ đó đến đây khoảng cách rất xa, nếu không dùng nội lực đẩy tiếng nói đi, dù có lớn tiếng kêu gào chưa chắc đã nghe thấy.

Ân Ly cầm cái bao trong tay ném phịch xuống đất, nghe leng keng leng keng một hồi, rồi lùi lại ba bước. Kim Hoa bà bà gắt lên:

- Gì thế? Ngươi đủ lông đủ cánh muốn bay đi phải không?

Tuy trời tối mịt, Trương Vô Kỵ vẫn nhìn thấy đôi mắt bà ta sáng quắc như điện đầy vẻ uy hiếp. Ân Ly nói:

- Bà bà, con quyết không quên ơn cứu mạng, ơn dạy dỗ võ công của bà bà. Thế nhưng Tạ đại hiệp là ... là nghĩa phụ của y.

Kim Hoa bà bà cười khan mấy tiếng, nói:

- Sao trên đời này lại có đứa ngu si đến như ngươi. Tên tiểu tử họ Trương kia đã rơi xuống vực sâu vạn trượng ở Tây Vực rồi, chính tai ngươi nghe thấy Võ Liệt, Võ Thanh Anh kể lại. Thế nhưng ngươi vẫn còn chưa tin hẳn, lại bắt cóc chúng tới đây khảo vấn thêm nữa, họ đã nói hết cả rồi, không lẽ còn giả hay sao? Đến bây giờ đến xương cốt của tiểu tử họ Trương cũng đã thành tro bụi, sao vẫn còn canh cánh không quên y là sao?

Ân Ly đáp:

- Bà bà, sao trong lòng con không sao quên y được. Hẳn là, như bà bà đã nói là ... là oan nghiệt kiếp trước đấy chăng?

Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng, nói:

- Chẳng nói gì năm xưa thằng bé đó không chịu theo ngươi lên đảo Linh Xà, dẫu có cùng ngươi thành vợ thành chồng thì nó cũng chết rồi, còn chờ gì nữa? Cũng may nó chết sớm, chứ như hôm nay còn sống thấy ngươi hình dạng như thế này, làm sao còn yêu ngươi được? Lúc đó ngươi thấy y yêu thương người khác, trong bụng sẽ nghĩ sao?

Mấy câu đó giọng bà ta trở lại ôn hòa. Ân Ly lặng thinh không nói, hẳn là không biết phải trả lời sao. Kim Hoa bà bà lại nói tiếp:

- Chẳng nói chi người khác, riêng Chu cô nương của phái Nga Mi ta bắt giữ kia, xinh đẹp như thế, gã họ Trương nhìn thấy lẽ nào không động tâm? Ngươi giết Chu cô nương hay là giết tên tiểu tử ấy? Hừ hừ, nếu như ngươi không luyện cái môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ thì cũng là một tuyệt sắc giai nhân, nhưng bây giờ thì cái gì cũng đã xong cả rồi.

Ân Ly nói:

- Người đó chết rồi, tướng mạo con cũng đã hủy, còn gì để nói nữa đâu? Thế nhưng Tạ đại hiệp là nghĩa phụ của anh ta, bà bà ơi, mình không nên đụng chạm tới ông ta. Bà bà, con chỉ xin bà bà một chuyện thôi, còn việc gì con nghe bà bà cả.

Nói tới đây nàng quì xuống. Trương Vô Kỵ trong lòng lạ lùng: "Ta lên làm giáo chủ Minh giáo, việc đó đã chấn động võ lâm, sao hai người lại không biết gì cả là sao? Ôi, đúng rồi, chắc là họ đi lên Băng Hỏa đảo đón nghĩa phụ ta, đi về mất một thời gian dài, lần này lên Đại Đô rồi quay lại ngay, chẳng lai vãng với ai cả cho nên tên ta không hề nghe đến".

Kim Hoa bà bà trầm ngâm một hồi nói:

- Thôi được, ngươi đứng lên đi.

Ân Ly mừng rỡ nói:

- Đa tạ bà bà.

Kim Hoa bà bà nói:

- Ta nhận lời ngươi không giết y, nhưng thanh đao Đồ Long không lấy không được ...

Ân Ly nói:

- Thế thì ...

Kim Hoa bà bà liền cắt ngang, quát lên:

- Không được lôi thôi gì nữa, đừng để cho ta phải bực mình.

Nói xong giơ tay một cái, nghe keng một tiếng. Chỉ thấy bà ta hai tay giơ lên liên tiếp, mỗi lúc một xa, tiếng leng keng liên miên bất tuyệt còn Ân Ly ngồi trên một tảng đá, ôm mặt khóc rấm rứt.

Trương Vô Kỵ thấy nàng đối với mình sâu đậm như thế, trong lòng cực kỳ cảm kích. Một lúc sau, Kim Hoa bà bà ở cách xa khoảng mươi trượng quát lên:

- Đem lại đây.

Ân Ly không còn cách nào khác hơn, đành xách hai cái túi lên chạy lại phía Kim Hoa bà bà. Trương Vô Kỵ tiến lên mấy bước, cúi đầu xem, kinh hãi không để đâu cho hết, thấy cứ cách hai ba thước lại có một cái kim dài chừng bảy tám tấc cắm trên mặt đá, đầu nhô lên sáng lấp lánh bén nhọn lạ thường. Chàng càng nghĩ càng ghê người, hẳn là Kim Hoa bà bà sẽ đến khiêu chiến với Kim Mao Sư Vương nhưng sợ không địch lại, bắn ám khí thì sợ Tạ Tốn sẽ nghe tiếng gió mà tránh được, nên cắm kim châm dưới đất, vô thanh vô tức, chỉ cần dụ được ông ta tiến vào vùng đã dàn sẵn, người mù cả hai mắt làm sao đề phòng? Chàng lửa giận bốc lên nhịn không nổi, giơ tay toan nhổ các kim ra để cho âm mưu của bà ta xôi hỏng bỏng không nhưng chợt nghĩ lại: "Mụ ác bà này gọi nghĩa phụ ta là Tạ tam ca, ngày xưa giao tình của hai người hẳn không phải tầm thường. Để đến khi mụ đoạn tình với nghĩa phụ ta rồi, ta sẽ bước ra phá quỉ kế của bà ta. Hôm nay trời cho Trương Vô Kỵ này ở đây quyết không để cho nghĩa phụ bị thương tổn".

Nghĩ thế chàng bèn ngồi bó gối đằng sau tảng đá, đợi xem biến chuyển ra sao. Bỗng nghe trong tiếng gió núi dường như có lá rơi, một kẻ khinh công cao cường đang lặng lẽ tiến tới. Chàng quay đầu nhìn lại, thấy gã kia lấp ló đi tới, chính là tên trưởng lão Cái Bang Trần Hữu Lượng, tay cầm loan đao nhưng lấy vải bao lại cho khỏi sáng. Chàng nghĩ thầm Triệu Mẫn liệu không sai, gã này quả không phải là người tốt.

Chỉ nghe Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng nói:

- Tạ tam ca, có tên cẩu tặc không sợ chết đi kiếm ông đó.

Trương Vô Kỵ giật mình không ngờ Kim Hoa bà bà lợi hại đến thế, chẳng lẽ tung tích của mình bà ta đã biết rồi chăng, cứ theo lý thì không thể nào biết được. Chỉ thấy Trần Hữu Lượng nằm phục trong đám cỏ không động đậy chút nào. Trương Vô Kỵ lại nhún mình mấy cái đã tiến lên thêm vài trượng nữa. Chàng muốn càng gần bên nghĩa phụ càng tốt để phòng Kim Hoa bà bà đột nhiên giở ngụy kế cứu viện không kịp.

Qua một lúc nữa, một bóng người cao lớn từ căn nhà nhỏ trên đỉnh núi bước ra, chính là Tạ Tốn. Ông từ từ đi xuống, còn cách Kim Hoa bà bà chừng vài trượng liền đứng lại, không nói một lời. Kim Hoa bà bà nói:

- Ha ha, Tạ tam ca, ông đối với cố nhân thì nhất mực đề phòng, còn đối với người ngoài thì lại quá cả tin. Hôm nay ông thả Trần Hữu Lượng ra, bây giờ gã lại đến kiếm ông đó.

Tạ Tốn lạnh lùng cười nói:

- Minh thương dị đóa, ám tiễn nan phòng[7]. Tạ Tốn này một đời lúc nào chả bị người ta lợi dụng. Tên Trần Hữu Lượng kia đến kiếm tôi để làm gì thế?

Kim Hoa bà bà nói:

- Cái bọn tiểu nhân gian xảo đó, nói tới làm gì? Sáng hôm nay khi ông tha mạng cho y, có biết tay chân y chuẩn bị chiêu thức gì không? Hai tay y thành thế Sư Tử Bác Thố, còn chân tập trung sức lực toan ra chiêu Hàng Ma Thích Đẩu Thức, ha ha, ha ha.

Bà ta nói nghe thanh tao dễ nghe nhưng tiếng cười lại như tiếng cú rúc, trong đêm vắng thật là thê lương. Tạ Tốn ngạc nhiên, biết lời Kim Hoa bà bà không phải là giả, chỉ vì mắt mù nên ông không nhìn thấy những gì Trần Hữu Lượng làm. Ông thản nhiên nói:

- Tạ Tốn này bị người ta lừa dối đâu phải chỉ mới lần đầu. Cái bọn tiểu nhân đó trên giang hồ bao nhiêu mà chẳng có, giết thêm một đứa hay ít đi một đứa có gì khác đâu? Hàn phu nhân, nếu như bà còn coi là bạn của tôi, lúc đó thấy lại để mặc, lúc này lại nói cho tôi nghe, có ý chọc tức tôi hay sao?

Nói tới đây, đột nhiên tung mình nhảy lên nhanh như chớp tới ngay trước mặt Trần Hữu Lượng. Trần Hữu Lượng kinh hãi vung đao lên chém, Tạ Tốn tay trái giơ ra đoạt luôn thanh đao, bốp bốp bốp tát cho y ba cái liền, tay phải nắm cổ giơ lên nói:

- Nếu lúc này ta giết ngươi, có khác gì giết con gà, nhưng Tạ Tốn đã nói trước, hẹn với ngươi mười năm nữa quay lại kiếm ta. Nếu còn để ta gặp lần nữa trên hòn đảo này ta sẽ lấy cái mạng chó của ngươi ngay.

Ông giơ tay vứt y ra ngoài. Nơi Trần Hữu Lượng sắp rơi xuống chính là nơi cắm đầy kim, một khi đụng đất thể nào cũng bị kim đâm phải, gian kế của Kim Hoa bà bà bố trí suốt đêm qua sẽ bị lộ mất. Bà ta liền phi thân tới trước, giơ quài trượng điểm vào hông y một cái, đẩy vọt y ra ngoài mấy trượng, quát lên:

- Ngươi mà còn đặt chân lên đảo Linh Xà này một bước, ta sẽ giết một trăm tên ăn mày của Cái Bang. Kim Hoa bà bà này nói là giữ lời, hôm nay thưởng cho ngươi một bông kim hoa trước.

Mụ giơ tay lên, một điểm vàng lấp lánh, nghe cạch một tiếng một bông kim hoa đã trúng ngay huyệt Giáp Xa trên má Trần Hữu Lượng khiến y không nói năng gì được để khỏi tiết lộ chuyện cơ mật. Trần Hữu Lượng giơ tay ôm má, vội chạy xuống núi.

Khi đó Tạ Tốn chỉ còn cách vùng cắm kim chừng vài trượng, thành ra Trương Vô Kỵ lại ở đằng sau lưng ông ta. Nội công Trương Vô Kỵ cao hơn Trần Hữu Lượng nhiều, chàng nín hơi khiến Kim Hoa bà bà và Tạ Tốn không hề hay biết chàng nằm ngay bên cạnh.

Kim Hoa bà bà quay lại khen:

- Tạ tam ca, ông dùng tai thay mắt không kém chút nào, từ nay trùng chấn hùng phong tung hoành trên giang hồ thêm hai chục năm nữa.

Tạ Tốn nói:

- Ta đâu có nghe được Sư Tử Bác Thố và Hàng Ma Thích Đẩu Thức? Chỉ cần biết tin của thằng con Vô Kỵ thôi ta có chết cũng nhắm mắt. Tạ Tốn này nợ máu ngập đầu, chết hẳn phải thảm khốc lắm nói gì chuyện tung hoành trên chốn giang hồ?

Kim Hoa bà bà cười nói:

- Hộ giáo pháp vương của Minh giáo, giết vài mạng người có kể vào đâu? Tạ tam ca, ông đưa thanh đao Đồ Long cho tôi mượn đi.

Tạ Tốn lắc đầu không trả lời. Kim Hoa bà bà lại nói:

- Nơi đây hình tích đã lộ rồi, ông không còn ở lại được nữa. Để tôi đi tìm một nơi kín đáo, đưa ông đến ở vài tháng, tôi mang thanh đao Đồ Long đi đánh thắng đại địch phái Nga Mi rồi, sẽ hết sức đi tìm Trương công tử. Với bản lãnh của tôi, đem Trương công tử đến gặp ông không phải là chuyện khó.

Tạ Tốn lại lắc đầu. Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, ông có còn nhớ đến tám chữ Tứ Đại Pháp Vương, Tử Bạch Kim Thanh chăng? Nghĩ lại năm xưa chúng ta cùng ở dưới quyền Dương giáo chủ, Ưng Vương Ân nhị ca, Bức Vương Vi tứ ca, thêm ông và tôi, hoành hành thiên hạ, có ai dám chống trả đâu? Đến nay con hổ tuy có già nhưng hùng tâm đâu đã mất, sao ông lại để cho người ta khinh khi đứa em gái Tử Sam này mà không ra tay giúp là sao?

Trương Vô Kỵ giật mình: "Nghe bà ta nói, chẳng lẽ bà ta là Tử Sam Long Vương, đứng đầu trong tứ đại pháp vương của bản giáo? Sao trên đời này lại có chuyện lạ thế bao giờ? Tại sao bà ta lại gọi Vi Bức Vương là tứ ca?".

Chỉ nghe Tạ Tốn bùi ngùi nói:

- Chuyện cũ nay còn nhắc lại làm gì? Già cả rồi, ai cũng già cả rồi.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, tôi già nhưng mắt đâu đã hoa, chẳng lẽ không thấy hai mươi năm qua võ công ông tiến triển rất nhiều hay sao? Ông việc gì phải khiêm tốn? Mình còn sống được bao lâu nữa trên cõi đời này? Cứ theo tiểu muội, nhân khi tứ đại pháp vương của Minh giáo chưa ai chết, lại liên thủ giang hồ làm một sự nghiệp thật là oanh liệt.

Tạ Tốn thở dài:

- Ân nhị ca và Vi tứ đệ lúc này chắc gì còn sống. Nói riêng Vi tứ đệ, hàn độc trong cơ thể y khó mà trừ, chỉ sợ không còn trên đời này nữa.

Kim Hoa bà bà cười nói:

- Cái đó ông nói sai rồi. Tôi nói thực ông nghe, Bạch Mi Ưng Vương và Thanh Dực Bức Vương cả hai đều đang ở trên Quang Minh Đính.

Tạ Tốn lạ lùng:

- Hai người về Quang Minh Đính rồi ư? Làm gì thế?

Kim Hoa bà bà nói:

- Cái đó chính mắt A Ly trông thấy. A Ly là cháu ngoại của Ân nhị ca, vì đắc tội với phụ thân nên cha nó định giết nó. Lần thứ nhất chính tôi cứu thoát, lần thứ hai thì Vi tứ ca cứu thoát. Vi tứ ca đem nó lên Quang Minh Đính, giữa đường bị tôi lẻn bắt đi. A Ly, ngươi kể lại chuyện sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Đính cho Tạ công công nghe nào!

Ân Ly bèn đem chuyện nàng thấy ở Tây Vực kể sơ qua cho Tạ Tốn nghe, nhưng vì chưa lên đến Quang Minh Đính đã bị Kim Hoa bà bà mang đi rồi nên những gì xảy ra trên Quang Minh Đính không hề hay biết. Tạ Tốn càng nghe càng nóng ruột, hỏi dồn:

- Rồi sau ra sao? Rồi sau ra sao?

Cuối cùng ông giận dữ nói:

- Hàn phu nhân, tuy bà vì chuyện hôn nhân mà bất hòa với anh em, nhưng khi bản giáo bị nạn sao đành tụ thủ bàng quan? Dương giáo chủ là nghĩa phụ của bà, năm xưa đãi bà ra sao bà không còn nghĩ gì tới nữa hay sao? Bà xem Ân nhị ca và Vi tứ đệ, Ngũ Tản Nhân và Ngũ Hành Kỳ ai ai cũng lên Quang Minh Đính cả đấy thôi?

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Tôi không có được thanh đao Đồ Long, thì vẫn chỉ là bại tướng dưới tay Diệt Tuyệt lão ni của phái Nga Mi thôi, dẫu lên Quang Minh Đính cũng còn mặt mũi nào mà động thủ với mụ ta đâu, chẳng lẽ lên để xin tha mạng?

Hai người lặng yên, một lát sau Tạ Tốn mới hỏi:

- Làm cách nào bà lại biết chỗ ở của tôi, sao trước nay vẫn không chịu nói thật? Người của phái Võ Đương cho bà hay ư?

Kim Hoa bà bà đáp:

- Người của phái Võ Đương làm sao mà biết được? Vợ chồng Trương Thúy Sơn bị cưỡng ép, thà tự vẫn chứ không chịu nói nơi ở của ông, người phái Võ Đương dĩ nhiên không thể nào biết. Được, hôm nay tôi cũng chẳng dấu ông làm gì nữa. Tôi ở Tây Vực gặp một gã tên là Võ Liệt, y vốn là con cháu của Võ Tam Thông, truyền nhân của Đoàn gia nước Đại Lý năm xưa. Trời xui đất khiến làm sao, tôi nghe y nói với con gái bị tôi bắt nọn, dùng cực hình khiến y phải cung khai ra chỗ ở của ông.

Tạ Tốn trầm ngâm một hồi mới nói:

- Tên họ Võ đó gặp được thằng Vô Kỵ con tôi phải không? Chắc là y đánh lừa trẻ con mới tìm ra được cái bí mật đó.

Trương Vô Kỵ nghe đến đây, trong lòng hết sức hổ thẹn, nghĩ đến năm xưa mình ở Chu gia trang bị hai cha con Chu Trường Linh, Chu Cửu Chân lừa dối, dùng ngụy kế khiến mình phải thổ lộ chân tình, nếu như vì thế mà nghĩa phụ rơi vào tay gian nhân, thật mình dù có chết vạn lần cũng không chuộc được. Nghĩa phụ tuy mắt đã mù nhưng suy tính mọi chuyện cũng chẳng khác gì chính mắt trông thấy.

Lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Lục đại môn phái vây đánh Minh giáo không phải chuyện nhỏ, bản giáo rồi sau ra sao?

Kim Hoa bà bà nói:

- Minh giáo hưng suy tồn vong không còn liên quan gì đến lão bà cả. Năm xưa trên Quang Minh Đính, ai ai cũng làm khó tôi, ông có quên chứ tôi lúc nào cũng nhớ rất rõ. Lúc đó chỉ có Dương giáo chủ và Tạ tam ca là tốt với tôi thôi, tôi không quên đâu.

Tạ Tốn nói:

- Ôi, tư oán là chuyện nhỏ, hộ giáo là chuyện lớn. Hàn phu nhân, lòng dạ bà như thế hẹp hòi quá.

Kim Hoa bà bà giận dữ nói:

- Ông là nam tử hán đại trượng phu, còn tôi là đàn bà tính khí hẹp hòi. Năm xưa tôi phá môn xuất giáo đã thề không liên quan gì đến Minh giáo nữa. Nếu không vì thế thì gã Hồ Thanh Ngưu đâu có coi tôi là người ngoài? Sao y lại muốn tôi phải quay về Minh giáo mới chịu chữa độc cho Ngân Diệp tiên sinh? Hồ Thanh Ngưu bị tôi giết đó, Tử Sam Long Vương đã phạm đại giới của Minh giáo rồi, tôi còn liên hệ gì đến Minh giáo đâu?

Tạ Tốn lắc đầu nói:

- Hàn phu nhân, tôi hiểu lòng dạ bà lắm. Bà định mượn đao Đồ Long của tôi, miệng nói là để đối phó với phái Nga Mi, nhưng thực ra là để đối phó với Dương Tiêu, Phạm Dao. Bà lúc nào cũng chăm chăm lẻn vào bí đạo trên Quang Minh Đính, vì thế nên tôi không thể nào cho bà mượn thanh đao Đồ Long được.

Kim Hoa bà bà ho khúc khắc mấy tiếng rồi nói:

- Tạ tam ca, năm xưa tôi với ông võ công ai cao hơn ai?

Tạ Tốn đáp:

- Tứ đại pháp vương mỗi người có sở trường riêng.

Kim Hoa bà bà nói:

- Hiện nay đôi mắt ông hỏng rồi, so với lão bà thì thế nào?

Tạ Tốn ngang nhiên đáp:

- Bà định cậy mạnh đoạt đao, có phải thế chăng? Tạ Tốn có thanh đao Đồ Long trong tay cũng thay thế được đôi mắt.

Ông thở một hơi dài, tiến lên một bước, đôi mắt mù hướng về phía Kim Hoa bà bà, thần uy lẫm lẫm. Ân Ly thấy vậy hãi sợ vội lùi về sau mấy bước. Kim Hoa bà bà vẫn khom lưng đứng đó, tay chống quài trượng, thỉnh thoảng lại ho mấy tiếng, xem ra Tạ Tốn chỉ cần vung đao lên chém xuống là bà ta đứt làm đôi ngay. Tuy nhiên bà ta vẫn lặng thinh không cử động, tưởng như không coi Tạ Tốn vào đâu. Trương Vô Kỵ đã thấy bà ta ra tay mấy lần, nhanh nhẹn tuyệt luân, lại còn có phần ngụy bí quái dị hơn cả Vi Nhất Tiếu chẳng khác gì quỉ mị, yêu ma. Lúc này bà ta đứng đối diện với Tạ Tốn, một người đang sắp sửa bung ra tấn công thế như giương cung tuốt kiếm hết sức căng thẳng, còn người kia vẫn nhàn nhã đứng đợi, thản nhiên như không.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm bà ta còn được xếp hạng trên cả ông ngoại, nghĩa phụ và Vi Bức Vương, võ công ắt phải cực kỳ lợi hại, khiến chàng không khỏi lo thầm cho Tạ Tốn.

Chỉ nghe bốn bề gió rít vù vù, xen lẫn tiếng sóng biển truyền tới, trong tình thế hung hiểm như thế này càng thêm vẻ thê lương. Hai người đứng đó cách nhau chỉ chừng hơn một trượng nhưng không ai dám ra tay trước.

Qua một lúc lâu, Tạ Tốn bỗng nói:

- Hàn phu nhân, hôm nay bà ép tôi phải động thủ, vi phạm lời thế kết nghĩa năm xưa của tứ đại pháp vương, Tạ Tốn này quả thật là khó xử.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, ông xưa nay vẫn là người bụng dạ từ bi, quả thật trước đây tôi không ngờ nổi bao nhiêu nhân vật thành danh, anh hùng hào kiệt lại do tay ông giết chết.

Tạ Tốn thở dài:

- Tôi vì quá thương cha mẹ vợ con chết thảm muốn báo thù nên việc gì cũng làm. Trong đời tôi việc đau lòng nhất là đã đánh liên tiếp mười ba quyền, giết chết Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm.

Kim Hoa bà bà kinh hoảng nói:

- Không Kiến thần tăng quả thực bị ông đánh chết đấy ư? Ông luyện thành võ công ghê gớm đến thế từ bao giờ?

Bà ta vốn tự tin mình sẽ có thể đối phó được với Tạ Tốn nhưng lúc này xem chừng e sợ. Tạ Tốn nói:

- Bà đừng sợ. Không Kiến thần tăng chỉ chịu đòn mà không đánh trả lại, ông ta muốn đem Phật pháp quảng đại vô biên để hóa giải tà ma ngoại đạo.

Kim Hoa bà bà hừ một tiếng nói:

- Có thế chứ, lão bà không bằng được Không Kiến thần tăng, ông chỉ mười ba quyền đánh chết ông ta thì chỉ cần chín, mười quyền là đánh chết được tôi rồi.

Tạ Tốn lùi lại một bước, giọng nói đột nhiên biến thành ôn hòa:

- Hàn phu nhân, ngày trước nơi Quang Minh Đính bà đối với tôi thật là chí tình. Hồi đó người ca ca này bị bệnh, nội tử lại mới sinh người còn yếu, không dậy được. Bà hết lòng hết sức lo cho tôi hơn một tháng trời, tôi lúc nào cũng ghi nhớ trong tim.

Ông giơ tay phủi trên bộ trường bào nói tiếp:

- Tôi ở hải ngoại mặc bằng da thú, bà may cho tôi áo quần, bên ngoài bên trong chỗ nào cũng vừa vặn, đủ biết tình nghĩa với nhau ở trên Quang Minh Đính vẫn còn. Thôi bà đi đi, từ nay trở đi, mình đừng gặp lại nhau nữa là xong. Tôi chỉ cần bà loan truyền tin tức ra ngoài bảo thằng Vô Kỵ con tôi đến đảo này gặp tôi một chuyến, người anh này thật là cảm ơn đại đức.

Kim Hoa bà bà cười buồn nói:

- Ông vẫn còn nhớ đến tình nghĩa ngày xưa. Không dấu gì ông, từ khi Ngân Diệp đại ca chết đi, tôi đã coi nhân tình thế thái nhẹ lắm rồi, chỉ vì còn mấy món oán thù phải trả cho xong nên tôi không đành lòng mà chết để theo Ngân Diệp đại ca về dưới suối vàng. Tạ tam ca, trên Quang Minh Đính biết bao nhiêu người, dù võ công cao siêu, cơ mưu hơn người nhưng đứa em này chẳng coi vào đâu, chỉ nể trọng riêng một mình Tạ tam ca, ông có biết tại sao không?

Tạ Tốn ngẩng lên nhìn trời, trầm tư một lúc lắc đầu nói:

- Tạ Tốn này tầm thường kém cỏi, chẳng hiểu sao hiền muội lại có bụng nể nang.

Kim Hoa bà bà tiến lên mấy bước, giơ tay phủi một tảng đá lớn chậm rãi ngồi xuống nói:

- Năm xưa trên Quang Minh Đính, chỉ có Dương giáo chủ và Tạ tam ca là tiểu muội coi hợp mắt thôi. Khi cô em này gá nghĩa với Ngân Diệp tiên sinh chỉ có hai người không trách là tôi lấy lầm người.

Tạ Tốn cũng ngồi xuống nói:

- Hàn đại ca tuy không phải là người trong bản giáo nhưng rất anh hùng. Các anh em điều nọ tiếng kia, lòng dạ quả có hẹp hòi. Ôi, lục đại phái vây đánh Quang Minh Đính, không biết chúng huynh đệ có sao không?

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, ông ở hải ngoại nhưng lòng vẫn hướng về trung thổ, lòng khắc khoải không quên được anh em cũ. Cuộc đời này mấy chục năm chỉ trong chớp mắt đã trôi qua, việc gì mà phải quá lo cho người khác làm gì?

Hai người lúc này chỉ cách nhau vài ba thước, hơi thở của người kia cũng nghe được. Tạ Tốn thấy Kim Hoa bà bà mỗi lần nói lại húng hắng ho liền nói:

- Năm xưa bà ở Bích Thủy Hàn Đàm bị lạnh phổi, dây dưa mãi đến bây giờ cũng chưa khỏi hẳn hay sao?

Kim Hoa bà bà nói:

- Mỗi khi trời lạnh thì lại ho nhiều. Ôi, ho mấy chục năm nay cũng quen đi. Tạ tam ca, tôi nghe ông hơi thở không đều, có phải vì luyện Thất Thương Quyền mà bị thương nội tang chăng? Ông phải cố gắng giữ gìn sức khỏe.

Tạ Tốn nói:

- Đa tạ hiền muội quan hoài.

Đột nhiên ông ngẩng đầu lên nói với Ân Ly:

- A Ly, cháu lại đây.

Ân Ly đi đến trước mặt Tạ Tốn gọi:

- Tạ công công!

Tạ Tốn nói:

- Cháu dùng toàn lực đâm ta một chỉ xem nào.

Ân Ly ngạc nhiên đáp:

- Cháu không dám.

Tạ Tốn cười nói:

- Thiên Châu Vạn Độc Thủ của cháu đâu có làm ta bị thương được, cứ việc sử kình đâm ta đi. Ta chỉ muốn thử xem công lực cháu đến đâu thôi.

Ân Ly vẫn khăng khăng:

- Hài nhi không dám.

Nàng nói tiếp:

- Tạ công công, ông và bà bà năm xưa kết nghĩa tri giao, chuyện gì mà chẳng nói phải quấy với nhau được? Hai bên tranh với nhau thanh đao để làm gì?

Tạ Tốn buồn bã cười nói:

- Cháu cứ đâm ta một chỉ xem nào.

Ân Ly không còn cách nào khác, lấy khăn tay ra bao đầu ngón tay trỏ lại, đâm vào đầu vai Tạ Tốn. Chỉ nghe "Ối chao" một tiếng, nàng đã ngã ngửa về sau, văng xa đến hơn một trượng, rơi phịch xuống đất, toàn thân xương cốt như muốn gãy rời.

Kim Hoa bà bà thản nhiên như thường, chậm rãi nói:

- Tạ tam ca, sao bụng dạ ông độc ác thế, sợ tôi có thêm một người giúp đỡ nên ra tay trừ trước phải không?

Tạ Tốn không trả lời, trầm ngâm một hồi nói:

- Đứa bé này bụng dạ thật tốt, nó đâm tôi chỉ dùng hai ba thành lực, ngón tay lại bọc khăn không dùng Thiên Châu Vạn Độc Thủ để làm tôi bị thương. Tốt lắm, tốt lắm, nếu không phải thế, Thiên Châu Vạn Độc Thủ trở ngược về tim, giờ phút này ắt không toàn mạng nữa rồi.

Trương Vô Kỵ nhe mấy câu đó, trên lưng chảy mồ hôi lạnh, thấy nghĩa phụ nói rằng muốn thử công lực của Ân Ly, nếu như nàng dùng toàn lực đâm vào thì đã chết rồi. Người trong Minh giáo lòng dạ độc ác, nghĩa phụ là người hiền như thế cũng không tránh khỏi. Chàng có biết đâu Tạ Tốn và Kim Hoa bà bà giao thiệp với nhau đã bao nhiêu năm, hai bên đều biết rõ bụng dạ của người kia, nói mấy câu thăm hỏi xong là sẽ ra tay ác đấu quyết chẳng dung tình, Kim Hoa bà bà có thêm Ân Ly trợ giúp cực kỳ bất lợi nên ông dùng kế trừ trước đi cho xong.

Tạ Tốn nói:

- A Ly, sao ngươi lại tốt với ta như thế?

Ân Ly đáp:

- Ông ... ông là nghĩa phụ của anh ta, cũng là ... cũng là vì anh ta mà đến đây. Trên đời này, chỉ còn ông và cháu hai người là còn nhớ đến anh ta mà thôi.

Tạ Tốn "A" lên một tiếng nói:

- Không ngờ cháu lại tốt với thằng Vô Kỵ của ta đến như thế, vậy mà ta lại định giết cháu. Cháu lại đây.

Ân Ly gượng đứng lên, cố gắng mon men tới chỗ Tạ Tốn. Tạ Tốn ghé miệng sát vào tai nàng nói:

- Để ta truyền cho cháu một pho Nội Công tâm pháp do ta tham ngộ trên Băng Hỏa đảo, có thể nói là tập đại thành võ công của cả đời ta.

Ông không đợi Ân Ly nhận lời, liền đem tâm pháp từ đầu đến cuối đọc cho nàng nghe một lượt. Ân Ly nhất thời chưa hiểu rõ, chỉ cố gắng ghi nhớ trong lòng. Tạ Tốn sợ nàng không nhớ hết, lại đọc lại hai lần nữa, hỏi thêm:

- Nhớ được chưa?

Ân Ly đáp:

- Cháu nhớ rồi.

Tạ Tốn nói:

- Cháu tu tập năm năm thì có thể tiểu thành. Nhưng cháu có biết dụng ý của ta truyền cho cháu là sao không?

Ân Ly đột nhiên khóc òa lên nói:

- Cháu ... cháu biết rồi. Có điều ... có điều cháu không làm được.

Tạ Tốn gay gắt hỏi lại:

- Cháu biết cái gì? Sao lại không làm được?

Nói xong ông giơ tay trái lên, nêu như Ân Ly nói sai một câu lập tức sẽ đập xuống giết nàng ngay. Ân Ly hai tay ôm mặt nói:

- Cháu biết ông muốn cháu đi tìm Vô Kỵ, đem công phu này truyền lại cho anh ấy. Cháu biết ông muốn cháu luyện thành võ công thượng thừa rồi sẽ che chở cho anh ta, để khỏi ai hiếp đáp, có điều ... có điều ...

Nàng nói hai câu "có điều" rồi lại sụt sùi khóc. Tạ Tốn đứng lên quát hỏi:

- Có điều làm sao? Có phải thằng con Vô Kỵ của ta đã gặp chuyện không hay rồi ư?

Ân Ly sà vào lòng ông, khóc nức nở:

- Anh ấy ... anh ấy sáu năm trước, tại Tây Vực ... tại Tây Vực đã ngã xuống vực sâu chết rồi.

Tạ Tốn bàng hoàng, run rẩy nói:

- Có ... có thật không?

Ân Ly khóc nói:

- Đúng như thế. Hai cha con Võ Liệt chính mắt trông thấy anh ta táng mạng. Cháu đã dùng Thiên Châu Vạn Độc Thủ điểm lên người họ bảy lần, bảy lần cứu họ tỉnh lại, lần nào cũng nói y như thế, chắc là không nói láo đâu.

Khi Ân Ly thuật lại cái chết của Trương Vô Kỵ, đáng lẽ Kim Hoa bà bà ra tay ngăn lại nhưng chợt nghĩ ra, Tạ Tốn một khi nghe thấy nghĩa tử chết rồi, tâm thần ắt sẽ hỗn loạn, giao đấu sẽ thêm ba phần hung dữ nhưng sẽ kém đi ba phần cẩn thận, càng dễ dụ vào trận địa cương châm hơn, thành thử chỉ đứng bên cạnh mỉm cười, không nói gì hết.

Tạ Tốn ngửng đầu lên trời rú lên một tiếng dài, hai hàng nước mắt ròng ròng chảy xuống hai bên má. Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ và biểu muội hai người vì mình mà đau lòng như thế, nhịn không nổi toan nhảy ra giải thích bỗng nghe Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, cậu con nuôi Trương công tử của tam ca nay đã tạ thế, ông giữ thanh đao Đồ Long ấy có ích gì? Chi bằng cho tôi mượn có hơn không?

Tạ Tốn nghẹn ngào nói:

- Bà đánh lừa tôi quá lắm. Muốn lấy bảo đao, hãy lấy mạng tôi trước.

Ông nhẹ nhàng đẩy Ân Ly qua một bên, soẹt một tiếng đã xé rách vạt áo trước vứt về phía Kim Hoa bà bà, cái đó gọi là "Cát Bào Đoạn Nghĩa". Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ta phải tiến ra ngay nói rõ mọi chuyện để cho hai người khỏi tổn thương nghĩa khí một cách chẳng đâu vào đâu". Vừa ngay lúc đó bỗng nghe từ trong đám cỏ cao nơi phía trái vọng lại tiếng thở của ai đó, khoảng cách đã xa, hơi lại nhẹ, nếu không phải tai Trương Vô Kỵ thật thính thì không thể nào phát giác nổi. Chàng nghĩ ngay: "Thì ra Kim Hoa bà bà lại còn ngầm mai phục người giúp đỡ. Ta chưa có thể ra mặt lúc này được". Chỉ nghe tiếng đao vù vù, Tạ Tốn đã đấu với Kim Hoa bà bà.

Tạ Tốn múa thanh đao chẳng khác gì một con rồng đen quấn quít chung quanh thân mình, biến hóa như thần. Kim Hoa bà bà e ngại thanh đao quá sắc bén, chỉ chạy vòng quanh xa xa, mỗi khi Tạ Tốn có chỗ sơ hở, bà ta không hãi sợ gì liền xông vào tấn công, đến khi ông ta thu đao về chém, lại cực kỳ khéo léo tránh vụt ra ngoài. Hai người rất quen thuộc võ công của đối phương, thành thử trong một hai trăm hiệp chưa thể nào phân cao thấp được. Tạ Tốn dựa vào thanh đao Đồ Long sắc bén, còn Kim Hoa bà bà coi thường ông ta mắt mù không thấy, hai người đều khai thác cái sở trường của mình để mong thủ thắng, tuyệt nhiên không lý gì đến chiêu số hay nội lực.

Đột nhiên vụt vụt hai điểm vàng lấp lánh, Kim Hoa bà bà đã ném ra hai đóa kim hoa. Tạ Tốn vung thanh đao Đồ Long lên, hai bông hoa đều dính vào lưỡi đao. Thì ra bông hoa vàng đúc bằng thép, bên ngoài mạ vàng, còn thanh đao Đồ Long đúc bằng huyền thiết có từ tính rất mạnh, gặp sắt là hút ngay. Bông kim hoa đó chính là ám khí thành danh của Kim Hoa bà bà, khi phóng ra biến hóa trăm chiều, dẫu cho Tạ Tốn mắt có còn tinh cũng phải xuất toàn lực mới tránh né được. Nào ngờ thanh đao Đồ Long này lại là khắc tinh của ám khí, Kim Hoa bà bà bên trái bên phải ném luôn tám bông hoa vàng, đều bị thanh đao hút hết. Khi đó ánh trăng suông mờ mờ, bóng đêm thảm đạm, tám bông hoa dính trên thanh đao đen sì, khi múa lên chẳng khác nào một đàn đom đóm đang lập lòe bay lượn trên không.

Đột nhiên Kim Hoa bà bà ho một tiếng, ném ra một nắm ám khí, phải đến mười sáu mười bảy đóa kim hoa, cốt để cho đao của Tạ Tốn hút được hoa bên đông thì không hút được bông hoa bên tây. Tạ Tốn vung tay áo lên, cuốn được bảy tám bông, còn tám bông khác dính trên đao Đồ Long, quát lớn:

- Hàn phu nhân, bà xưng là Tử Sam Long Vương, tên đó kỵ với thanh đao này, nếu con ham đánh tiếp e rằng không có lợi đâu.

Kim Hoa bà bà thấy lạnh người, phàm người học võ, tính mạng cầm bằng treo trên đầu đao mũi kiếm nên rất kiêng những gì kỵ với mình, bà ta tự xưng "Long Vương" mà thanh đao nào lại tên là "Đồ Long" quả thực chẳng hay chút nào. Nghĩ thế bà ta trầm giọng cười khẩy:

- Biết đâu Sát Sư Trượng của tôi lại giết được con sư tử mù trước thì sao?

Nghe vù một tiếng vung trượng đánh ra. Tạ Tốn hạ vai né tránh, đột nhiên chân bước hụt, "A" lên một tiếng, trượng đó đã đánh trúng đầu vai, tuy lực đạo đã giảm quá nửa nhưng cũng không phải nhẹ.

Trương Vô Kỵ mừng thầm suýt nữa reo lên. Chàng thấy Tạ Tốn cố ý giả vờ né tránh không kịp để bị trúng một gậy trong bụng tính thầm: "Nghĩa phụ chỉ cần bắn những bông hoa trong tay áo ra, tiếp theo đao Đồ Long sử chiêu "Thiên Sơn Vạn Thủy" chém liên tiếp, Kim Hoa bà bà không dám đỡ thế đao sắc bén, ắt phải né qua bên trái, liên tiếp hai lần sẽ không còn lùi được nữa, khi đó nghĩa phụ dùng nội lực hất những bông hoa trên thanh đao Đồ Long ra bắn thẳng vào, Kim Hoa bà bà không còn đường tránh né ắt sẽ trọng thương".

Chàng vừa nghĩ thế, quả nhiên thấy ánh sáng vàng thấp thoáng, Tạ Tốn đã đem tất cả các bông kim hoa trong tay áo ném ra, Kim Hoa bà bà phải nghiêng qua bên trái. Trương Vô Kỵ đột nhiên nghĩ ra một chuyện kêu thầm: "Chao ôi, không xong rồi, Kim Hoa bà bà tương kế tựu kế".

Lú này trong người chàng võ học bao la, hai đại cao thủ kia công thủ tiến thoái, đều nằm trong tính toán của chàng cả, chỉ thấy Tạ Tốn ra chiêu "Thiên Sơn Vạn Thủy" múa tít thanh đao chém xuống, Kim Hoa bà bà lại lùi qua bên trái. Tạ Tốn quát lên một tiếng, bắn vụt tất cả những bông kim hoa đang dính trên bảo đao ra. Kim Hoa bà bà kêu lên "Ối chà" một tiếng, chân không vững, phải lùi về sau mấy bước.

Tạ Tốn là người rất quyết liệt, đã cát bào đoạn nghĩa rồi ra tay không còn nể nang chút nào, liền tung mình nhảy lên, múa đao chém xuống, đột nhiên nghe Ân Ly thảng thốt kêu lên:

- Coi chừng, có kim nhọn dưới chân.

Tạ Tốn nghe tiếng kêu, giật mình kinh hãi nhưng thu về không còn kịp nữa, chỉ nghe mấy tiếng vụt vụt, hơn chục bông hoa vàng đã bị Kim Hoa bà bà bắn tới. Bà ta liệu chừng Tạ Tốn đang ở trên lưng chừng trời, không có cách gì né tránh, khi rơi xuống hai chân thể nào cũng đạp trúng kim châm. Tạ Tốn không biết tính sao, chỉ còn nước múa đao gạt những bông hoa ra, bỗng nghe dưới chân hai tiếng tách tách, chân ông ta đã đạp tới đất rồi nhưng an nhiên không sao cả.

Ông cúi xuống giơ tay mò thử thấy bốn phía trên đá chỗ nào cũng có cắm kim nhọn dài chừng bảy tám tấc, sắc bén lạ thường. Chỉ riêng nơi ông ta hạ chân xuống thì bốn chiếc kim đã bị ai dùng đá bắn văng đi, nghe kình lực của kẻ trịch thạch trừ kim kia, chính là thanh niên của Cự Kình bang ném bảy viên sỏi lúc ban ngày. Người này ở bên cạnh coi hai bên giao đấu mà mình không hề hay biết chút nào, nếu không được y ra tay cứu thì chân mình ắt đã bị thương nặng, chỉ còn nằm đó cho Kim Hoa bà bà chém giết thôi. Ý niệm đó nổi lên trong đầu, Tạ Tốn không khỏi lưng toát mồ hôi lạnh.

Hai người cùng thi hành khổ nhục kế, Tạ Tốn đầu vai bị đánh một trượng, còn Kim Hoa bà bà cũng bị trúng hai đóa kim hoa, tuy vết thương đều không phải là yếu hại, nhưng chịu đựng kình lực đối phương cũng không phải dễ. Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng, quay qua chỗ Trương Vô Kỵ đang ẩn núp nói:

- Tiểu tử của Cự Kình bang kia, ngươi lại can thiệp vào chuyện của lão bà, mau để tên cho ta biết.

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, đột nhiên một ánh vàng lấp lánh, Ân Ly hự lên một tiếng đã bị ba đóa kim hoa bắn trúng ngay nơi yếu hại trên ngực. Thì ra Kim Hoa bà bà thấy Trương Vô Kỵ võ công ghê gớm, nếu mình trừng trị Ân Ly, y thể nào cũng ngăn trở, nên một mặt nói chuyện với chàng, thưa dịp không phòng bị ném kim hoa ra.

Trương Vô Kỵ kinh hãi, phi thân nhảy tới, đang ở trên không bắt luôn hai bông hoa khác của Kim Hoa bà bà, khi rơi xuống đất ôm luôn Ân Ly vào lòng. Ân Ly thần trí vẫn còn tỉnh táo, thấy một người đàn ông râu ria ôm mình, vội vàng đẩy ra, nhưng vừa mới dùng sức đã hộc ra mấy ngụm máu. Trương Vô Kỵ hiểu ý, vội vàng giơ tay xoa mặt mình mấy cái, gạt hết những râu ria và hóa trang, để lộ bộ mặt thật ra. Ân Ly ngạc nhiên kêu lên sững sờ:

- A Ngưu ca ca, anh đấy ư?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Chính ta đây.

Ân Ly bấy giờ mới cảm thấy yên tâm, lập tức bất tỉnh. Trương Vô Kỵ thấy nàng bị thương nặng, không dám nhổ những bông kim hoa cắm trên người ra, lập tức điểm các huyệt Thần Phong, Linh Khư, Bộ Lang, Thông Cốc để bảo vệ tâm mạch. Chỉ nghe Tạ Tốn lớn tiếng nói:

- Các hạ hai lần ra tay giúp đỡ, Tạ Tốn thật muôn vàn cảm ơn đại đức.

Trương Vô Kỵ nghẹn ngào:

- Nghĩa ... nghĩa ... hà tất ...

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Vòng hào quang của Phật chói lòa

[2] Nghìn ngọn núi đua tranh vẻ đẹp

[3] Con lạc đà thần có chân khỏe

[4] Cát bay trong sa mạc

[5] nguyên từ câu ca dao Long phùng thiển thủy tao hà hí, Hổ lạc bình nguyên bị khuyển khi (Rồng gặp ao tù tôm bỡn cợt, Hổ xuống đồng bằng bị cho khinh) ý nói kẻ anh hùng gặp lúc sa cơ thất thế

[6] sư tử vồ con thỏ

[7] Cây thương trước mặt dễ đỡ, mũi tên bắn lén sau lưng khó phòng.

Hồi 29

TỨ NỮ ĐỒNG CHU HÀ SỞ VỌNG-

Tình này ví xẻ làm tư,

Bốn người bốn vẻ biết chừa cho ai.

Riêng em anh để trên vai,

Lưng anh cõng một, hai tay hai nàng.

*

* *

Ngay lúc đó, bỗng nghe từ phía sau hai tiếng leng keng lạ lùng, ba người từ đâu chạy vụt tới. Thoạt nhìn Trương Vô Kỵ thấy ba người đó mặc áo bào trắng rộng thùng thình, hai người thân hình thật cao còn bên trái là một người đàn bà. Ba người quay lưng về phía mặt trăng thành thử không nhìn rõ diện mạo của họ nhưng người nào trên chéo áo đều có thêu hình một ngọn lửa, hẳn là người trong Minh giáo. Mỗi người cầm trong tay hai hắc bài dài chừng hai thước giơ lên, người cao nhất trong bọn lớn tiếng nói:

- Thánh hỏa lệnh của Minh giáo đã đến, hộ giáo Long Vương, Sư Vương sao chưa quì xuống nghinh tiếp còn đợi tới bao giờ?

Giọng nói cứng ngắc cực kỳ khó nghe. Trương Vô Kỵ giật mình nghĩ thầm: "Trong di ngôn của Dương giáo chủ có nói, thánh hỏa lệnh của bản giáo bị thất lạc từ đời Thạch giáo chủ thứ ba mươi mốt, sao nay lại ở trong tay ba người này? Không biết có phải là thánh hỏa lệnh thực không? Ba người này phải chăng cũng là đệ tử bản giáo?".

Kim Hoa bà bà nói:

- Bản nhân vốn đã phá môn xuất giáo, bốn chữ Hộ Giáo Long Vương đừng nói đến nữa. Các hạ tôn tính đại đanh là gì? Thánh hỏa lệnh đó thực hay giả đó? Ở đâu mà có được?

Người kia quát lớn:

- Nếu mụ đã phá môn xuất giáo thì còn lôi thôi gì nữa.

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Kim Hoa bà bà từ trước tới nay chưa ai dám nói nặng một câu, năm xưa Dương giáo chủ còn tại thế cũng kính nể ba phần. Ngươi là cái thá gì ở trong Minh giáo mà dám phách lối đối với ta?

Đột nhiên ba người kia cùng lao vụt tới gần, ba cánh tay trái cùng chộp vào Kim Hoa bà bà. Quài trượng của Kim Hoa bà bà vung lên, quét luôn vào ba người kia, không ngờ những người đó di chuyển thế nào không biết, thân hình đã biến đổi sang vị trí khác. Gậy của Kim Hoa bà bà đánh vào chỗ không, lại bị ba người đó vươn tay phải ra nắm luôn vào sau ót, vung tay một cái ném luôn bà ta ra ngoài xa.

Võ công của Kim Hoa bà bà cao cường như thế, dẫu có ba cao thủ lợi hại nhất trong thiên hạ vây đánh cũng không thể nào chỉ một chiêu đã chộp được ném ra ngoài. Thế nhưng ba người áo trắng này bộ pháp thật quái dị, ra tay lại nhịp nhàng ăn khớp, chẳng khác gì một người có ba đầu sáu tay khiến Trương Vô Kỵ không khỏi "Ối" lên một tiếng. Ba người đó vừa di chuyển qua chàng đã nhìn rõ, người cao nhất mặt đầy râu mắt biếc, một người nữa râu vàng mũi khoằm, còn người đàn bà tóc đen không khác gì người Trung Hoa nhưng tròng mắt rất nhạt dường như không có màu, mặt trái soan, chừng ngoài ba mươi tuổi, tuy trông lạ lùng nhưng tướng mạo thật là xinh đẹp. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Thì ra ba người này đều là người Hồ, thảo nào giọng cứng ngắc, nói câu nào cũng đều đều nghe như đọc thuộc trong sách".

Lại nghe gã râu xồm lớn tiếng nói:

- Thấy thánh hỏa lệnh cũng như thấy giáo chủ, Tạ Tốn sao không quì xuống nghinh tiếp?

Tạ Tốn đáp:

- Ba vị là ai? Nếu là đệ tử bản giáo, Tạ Tốn này phải biết chứ, còn nếu không phải người trong Minh giáo, thánh hỏa lệnh có liên quan gì đến các vị đâu?

Gã râu xồm nói:

- Minh giáo từ đâu mà ra?

Tạ Tốn đáp:

- Khởi nguyên từ Ba Tư.

Người râu xồm nói:

- Đúng thế, đúng thế! Ta là Lưu Vân Sứ của tổng giáo Ba Tư, còn hai người này là Diệu Phong Sứ và Huy Nguyệt Sứ. Bọn ta phụng mệnh của tổng giáo giáo chủ, từ Ba Tư đến trung thổ.

Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ đều ngạc nhiên. Trương Vô Kỵ đã đọc cuốn Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký của Dương Tiêu viết, biết rằng quả thực Minh giáo từ Ba Tư truyền sang, xem ra ba người này đúng là người Hồ ở Ba Tư, võ công thân pháp như thế hẳn không phải giả. Gã râu vàng Diệu Phong Sứ nói:

- Giáo chủ chúng ta nghe tin giáo chủ chi phái bên Trung Thổ mất tích, các đệ tử tàn sát lẫn nhau, bản giáo ngày càng suy vi nên sai Vân Phong Nguyệt ba sứ giả đến để chỉnh đốn lại giáo vụ. Tất cả các giáo chúng từ trên xuống dưới đều phải nghe lệnh, không được sai xẩy.

Trương Vô Kỵ mừng thầm: "Tổng giáo chủ đã có lệnh truyền đến, quả thật đáng mừng. Mình hiểu biết nông cạn nay phải đảm trách trọng nhiệm, có thể làm lỡ đại sự".

Tạ Tốn nói:

- Minh giáo Trung Thổ tuy xuất phát từ Ba Tư thật nhưng đứng một mình thành riêng một cõi đã mấy trăm năm qua, trước nay không hề chịu sự quản thúc của tổng giáo Ba Tư. Ba vị đến Trung Thổ, Tạ Tốn này rất lấy làm mừng nhưng quì nghinh gì gì đó không biết do đâu mà ra?

Gã râu xồm Lưu Vân Sứ liền lấy hai miếng hắc bài gõ vào nhau, nghe keng một tiếng, thanh âm không phải tiếng kim khí mà cũng không phải ngọc khí, cực kỳ lạ lùng, nói:

- Đây là thánh hỏa lệnh của Minh giáo Trung Thổ. Giáo chủ họ Thạch đời trước không cẩn thận làm mất ra ngoài, nay bọn tay lấy lại được. Trước nay thấy thánh hỏa lệnh cũng như thấy giáo chủ, Tạ Tốn còn chưa chịu nghe lệnh ư?

Khi Tạ Tốn gia nhập Minh giáo thì thánh hỏa lệnh đã thất lạc từ lâu cha từng thấy bao giờ nhưng thánh hỏa lệnh đó lạ lùng thần kỳ ra sao đã từng nghe tiếng, trong kinh thư điển tịch của Minh giáo cũng có nhắc đến, nay nghe âm thanh lạ lùng kia, biết rằng những người này quả thực đang cầm thánh hỏa lệnh của bản giáo, huống chi ba người này vừa ra tay đã chộp được Kim Hoa bà bà ném ra ngoài người thường quyết không sao làm được nên không còn hoài nghi gì nữa, nói:

- Tại lạ tin lời tôn giá nhưng không biết có điều chi sai khiến?

Lưu Vân Sứ tay trái phất một cái, Diệu Phong Sứ, Huy Nguyệt Sứ cùng y ba người lập tức nhảy tới, chỉ nhô lên hụp xuống hai lần đã nhảy tới ngay bên cạnh Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà liền ném hoa vàng ra, chia ra bắn vào ba sứ giả. Ba người đó liền né qua đông lạng qua tây tránh được, còn Huy Nguyệt Sứ nhảy ngay tới trước giơ ngón tay đâm vào yết hầu Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà vung quài trượng lên chặn lại, rồi đánh trả luôn, đột nhiên thân hình bay bổng, thì ra lưng bà ta đã bị Lưu Vân Sứ và Diệu Phong Sứ nắm được, nhắc lên cao. Huy Nguyệt Sứ tiến lên ba bước, vỗ luôn vào ngực và bụng bà ta ba chưởng, tuy không nặng nhưng Kim Hoa bà bà không còn cử động gì được nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ba người này nhô lên hụp xuống, thân pháp đó không có gì là ghê gớm chỉ có điều ba người phối hợp thật là nhịp nhàng. Huy Nguyệt Sứ dụ địch ở phía trước, hai người còn lại thần xuất quỉ một bắt giữ Kim Hoa bà bà. Nếu tính võ công từng người xem ra còn kém Kim Hoa bà bà. Người kia vỗ ba chưởng tuy không phải là đả huyệt nhưng công hiệu cũng không khác gì phép điểm huyệt của Trung Thổ".

Lưu Vân Sứ giơ Kim Hoa bà bà lên, rung tay một cái đã ném bà ta ngay trước mặt Tạ Tốn nói:

- Sư Vương, giáo qui của bản giáo là đã nhập giáo rồi thì suốt đời không được từ bỏ. Người này khai là đã phá môn xuất giáo là phản đồ của Minh giáo, ngươi hãy chém đầu y thị trước đi.

Tạ Tốn ngạc nhiên nói:

- - Minh giáo Trung Thổ trước nay không có luật lệ đó.

Lưu Vân Sứ lạnh lùng nói:

- Từ nay trở đi Minh giáo Trung Thổ phải nghe hiệu lệnh của tổng giáo Ba Tư. Xuất giáo bạn đồ có để cũng chỉ gây thêm mầm họa, mau mau trừ khử đi.

Tạ Tốn ngang nhiên đáp:

- Tứ vương của Minh giáo tình nghĩa chẳng khác gì anh em. Hôm nay bà ta tuy đối với Tạ mỗ vô tình nhưng Tạ mỗ quyết không vô nghĩa, không thể ra tay làm hại bà ta được.

Diệu Phong Sứ cười ha hả nói:

- Người Trung Thổ dây dưa nhùng nhằng thật là lắm chuyện. Kẻ đã xuất giáo không giết đi là sao? Thế là nghĩa lý gì? Thật là kỳ quái không sao hiểu được.

Tạ Tốn dáp:

- Tạ mỗ giết người không chớp mắt nhưng không giết bạn bè đồng giáo.

Huy Nguyệt Sứ nói:

- Ngươi không thể không giết y thị. Nếu như ngươi không tuân lệnh, bọn ta sẽ giết ngươi trước.

Tạ Tốn đáp:

- Ba vị vừa đến Trung Thổ, trước hết đã bức bách Kim Mao Sư Vương giết Tử Sam Long Vương, có phải định ra oai dọa người đấy chăng?

Huy Nguyệt Sứ nhoẻn một nụ cười nói:

- Ngươi hai mắt đã mù nhưng lòng lại sáng nhỉ. Mau động thủ đi.

Tạ Tốn ngẩng đầu lên trời cười một hồi dài, âm thanh vang dội trong sơn cốc rồi lớn tiếng nói:

- Kim Mao Sư Vương quang minh lỗi lạc, không nói gì đến việc chẳng sát hại bằng hữu, dẫu cho người này có là kẻ thâm thù đại oán nhưng đã bị các ngươi bắt giữ rồi, không còn sức kháng cự, Tạ mỗ cũng chẳng nỡ nào chém thêm một đao đâu!

Trương Vô Kỵ nghe lời nói đầy hào khí của Tạ Tốn không khỏi kính phục nghĩa phụ đồng thời nẩy sinh ác cảm với ba sứ giả của Minh giáo Ba Tư. Lại nghe Diệu Phong Sứ nói:

- Giáo đồ của Minh giáo, thấy thánh hỏa lệnh cũng như thấy giáo chủ, ngươi dám phản giáo chăng?

Tạ Tốn ngang nhiên đáp:

- Tạ mỗ hai mắt đã mù hơn hai chục năm nay, dẫu các ngươi để thánh hỏa lệnh ngay trước mắt mỗ cũng không trông thấy, "kiến thánh hỏa lệnh như kiến giáo chủ" có ý nghĩa gì đâu?

Diệu Phong Sứ giận dữ nói:

- Được, vậy là ngươi quyết tâm phản giáo phải không?

Tạ Tốn dáp:

- Tạ Tốn này không dám phản giáo, thế nhưng giáo chỉ của Minh giáo là hành thiện khử ác, lấy nghĩa khí làm trọng. Tạ Tốn thà đầu rơi xuống đất nhưng nhất định không làm chuyện chẳng ra gì.

Kim Hoa bà bà tuy không cử động được nhưng mỗi câu mỗi chữ Tạ Tốn nói ra đều lọt vào tai. Trương Vô Kỵ biết nghĩa phụ mình sống chết chỉ còn trong nháy mắt nên len lén bỏ Ân Ly xuống. Lưu Vân Sứ nói:

- Người trong Minh giáo không tuân theo thánh hỏa lệnh đều phải giết không chừa một ai.

Tạ Tốn quát lên:

- Bản nhân là hộ giáo pháp vương, dẫu cho giáo chủ muốn giết ta cũng phải khai đàn bẩm rõ với trời đất cùng các vị minh tôn, nói rõ tội trạng.

Diệu Phong Sứ cười hì hì đáp:

- Minh giáo ở Ba Tư tốt đẹp biết bao, qua đến Trung Thổ sao lại đẻ ra lắm luật lệ thối tha đến thế.

Ba sứ giả liền cùng hú lên xông đến. Tạ Tốn múa thanh đao Đồ Long hộ vệ trước mặt, ba sứ giả tấn công liên tiếp ba lần đều không sao đến gần được. Huy Nguyệt Sứ lạng người tiến lên, tay trái cầm lệnh bài đập lên đỉnh đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn vung đao lên gạt, nghe keng một tiếng thật là quái lạ, thanh đao Đồ Long dẫu vật gì cứng rắn mấy cũng chém gãy nhưng không chặt đứt được thánh hỏa lệnh. Ngay trong một chớp mắt, Lưu Vân Sứ lách qua bên trái, dùng lệnh bài đánh ngay vào đùi Tạ Tốn. Tạ Tốn vừa loạng choạng, Diệu Phong Sứ liền xoay thánh hỏa lệnh đánh vào sau lưng. Đột nhiên cổ tay y bị ai nắm chặt, lệnh bài trên tay đã bị ai cướp mất. Y kinh hãi quay đầu lại thấy một thanh niên đã cầm trong tay thánh hỏa lệnh bài.

Trương Vô Kỵ nhảy tới cướp thánh hỏa lệnh bài nhanh nhẹn vô tỉ, xảo diệu tuyệt luân. Lưu Vân Sứ và Diệu Phong Sứ vừa sợ vừa tức, liền chia ra hai bên xông tới. Trương Vô Kỵ thân hình nghiêng qua bên trái tránh né, không ngờ nghe bịch một cái đã bị Huy Nguyệt Sứ đánh một lệnh bài vào sau lưng.

Thánh hỏa lệnh đó làm bằng một kim loại quái dị, cứng rắn vô cùng, chàng bị đánh trúng thấy mắt tối sầm tưởng chừng muốn ngất đi. Cũng may thần công hộ thể lập tức phát sinh uy lực, chàng lập tức cố trấn nhiếp tâm thần, nhảy luôn tới trước ba bước. Ba sứ giả Ba Tư cũng đuổi theo vây lại, Trương Vô Kỵ tay phải cầm lệnh bài đánh nhứ vào Lưu Vân Sứ một cái, tay trái vươn ra đã cướp được thánh hỏa lệnh trong tay Huy Nguyệt Sứ. Ngờ đâu Huy Nguyệt Sứ vừa buông ra liền nhấn xuống một cái, đầu bên kia của thánh hỏa lệnh bật lên nghe bạch một cái trúng ngay cổ tay Trương Vô Kỵ. Năm ngón tay chàng liền tê dại, phải buông chiếc lệnh bài đã cướp được trong tay, Huy Nguyệt Sứ vươn tay ra chộp ngay lấy.

Từ khi Trương Vô Kỵ luyện thành Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, sau lại được Trương Tam Phong chỉ điểm thêm những tinh diệu trong Thái Cực Quyền đến giờ chàng chưa gặp địch thủ nào ngờ nay lại bị một người đàn bà đánh trúng liên tiếp, lần sau nếu không nhờ có hộ thể thần công thì cổ tay e đã gãy rồi. Chàng kinh hãi không dám cùng địch nhân đối công, chỉ đứng yên chăm chú quan sát cho rõ ràng chiêu số của họ như thế nào.

Ba sứ giả của Ba Tư thấy chàng hai lần trúng đòn nhưng dường như không hề bị thương cũng ngạc nhiên khôn cùng. Diệu Phong Sứ đột nhiên cúi đầu, dùng đầu làm chùy lao vào người Trương Vô Kỵ. Lối đánh này vốn là đại kỵ trong võ học, dùng bộ phận quan trọng nhất của mình xông vào địch thủ. Trương Vô Kỵ đứng yên không cử động biết chiêu này của y trông thì có vẻ vụng về nhưng thực ra rất tinh diệu, ắt phải có hờm sẵn một chiêu khác rất lợi hại, đợi đầu y đến còn cách thân hình chừng một thước mới lùi lại một bước. Ngay lúc dó Lưu Vân Sứ nhảy vọt lên trên không, nhắm ngay đầu chàng hạ xuống. Chiêu này thực là quái dị, dùng mông đít tấn công đối phương, võ học thiên hạ tuy đa dạng thật nhưng chưa có đường lối nào lại dùng một chiêu số vừa vô dụng, vừa vụng về như thế. Trương Vô Kỵ vẫn bình tĩnh như thường, lách qua một bên, đột nhiên thấy đau nhói trên ngực, hóa ra đã bị Diệu Phong Sứ dùng cùi chỏ thúc vào, nhưng y cũng bị Cửu Dương thần công dội ngược ra, phải lùi lại ba bước, rồi lại thêm ba bước nữa, những tưởng đã đứng vững nhưng lại phải lùi thêm ba bước nữa.

Ba sứ giả Ba Tư ngạc nhiên biến sắc, hai thanh thánh hỏa lệnh trong tay Huy Nguyệt Sứ liền quét ngang, còn Lưu Vân Sứ bỗng nhiên nhảy lộn ba vòng. Trương Vô Kỵ không hiểu họ định làm gì, trong bụng nghĩ mình nên tránh đi là hơn, liền lách qua bên trái một bước, thấy trước mắt một luồng bạch quang lấp loáng, vai bên phải đã bị Lưu Vân Sứ dùng thánh hỏa lệnh đánh trúng một đòn thật nặng. Chiêu đó chàng không thể nào ngờ được, trước khi ra tay không hề có một triệu chứng nào, mà Lưu Vân Sứ rõ ràng đang lộn mèo trên không tại sao đột nhiên lại tung lệnh bài đánh trúng vai chàng được? Trương Vô Kỵ còn đang kinh hãi, không dám ham đánh, huống chi vai trúng đòn kỳ này khá đau, dẫu đã có Cửu Dương thần công đẩy bật ra rồi nhưng cũng buốt nhói tới tận xương. Tuy nhiên chàng biết nếu mình lùi ra, tính mạng nghĩa phụ ắt sẽ nguy nên vội vàng hít một hơi dài, nghiến răng phi thân nhảy tới, giơ chưởng đánh vào ngực Lưu Vân Sứ.

Lưu Vân Sứ cũng đồng thời nhảy tới trước, hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay gõ vào nhau nghe keng một tiếng, Trương Vô Kỵ cảm thấy choáng váng, thân hình đang ở trên không lập tức rơi tụt xuống, thấy ngang hông đau nhói lên, thì ra đã bị Diệu Phong Sứ đá trúng rồi. Chỉ nghe bình một tiếng, Diệu Phong Sứ ngã ngửa về sau nhưng thánh hỏa lệnh trong tay Huy Nguyệt Sứ cũng đã đánh trúng cánh tay phải Trương Vô Kỵ.

Tạ Tốn ở bên cạnh nghe thấy hết, biết rằng thanh niên của Cự Kình bang kia liên tiếp gặp nguy nan, chỉ cố hết sức chống đỡ, tiếc rằng mình mắt lại mù không có cách gì tiến lên tiếp viện được, trong lòng cực kỳ sốt ruột, nếu như một mình mình đối địch thì còn nghe tiếng gió phân biện đường đi nước bước của binh khí, quyền cước đối phương, nhưng nếu tiến lên hiệp lực thì làm sao biết được đường quyền nào là của bạn, binh khí nào của địch? Nếu ông vung đao Đồ Long lên chẳng may chém chết bên bạn chẳng hóa ra hối hận lắm sao? Tạ Tốn bèn lớn tiếng nói:

- Thiếu hiệp mau mau chạy thoát thân, đây là chuyện của Minh giáo không có liên can gì đến các hạ. Hôm nay thiếu hiệp đến giúp, Tạ Tốn này cảm kích khôn cùng.

Trương Vô Kỵ ấp úng đáp:

- Tôi ... tôi ... Sư Vương mau chạy đi thôi, cứ nghe tôi, mau chạy đi ...

Chàng thấy Lưu Vân Sứ vung lệnh bài đập tới, chàng liền lấy thánh hỏa lệnh trong tay gạt ra, hai thanh thánh hỏa lệnh đụng nhau, nghe cạch một tiếng chẳng khác gì mặt trống vỡ, cây gỗ mục thanh âm cực kỳ khó nghe. Lưu Vân Sứ tay cầm không vững, thánh hỏa lệnh bay vọt lên không, Trương Vô Kỵ nhảy lên vừa toan cướp lấy, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, lưng áo đã bị Huy Nguyệt Sứ xé toạc một mảng lớn. Móng tay nàng ta cào trúng lưng Vô Kỵ rách mấy đường dài, cảm thấy hơi rát, chỉ chậm một chút thì thánh hỏa lệnh đã bị Lưu Vân Sứ chộp lại được rồi.

Sau mấy chiêu, Trương Vô Kỵ đã biết công lực ba người này so với mình người nào cũng kém xa, chỉ vì võ công cực kỳ quái dị, lại thêm binh khí thần kỳ, nguy hiểm nhất là ba người liên thủ, trận pháp không ra trận pháp, bài bản không ra bài bản, vừa ngụy bí vừa âm độc không sao lường được phải đánh ngã được một người trong bọn họ thì trận chiến hôm nay mới có cơ thủ thắng. Thế nhưng nếu chàng đánh một người thì hai người kia ắt đầu đuôi tiếp ứng, quyền pháp biến đổi, khiến cho không cách nào phá được ba người liền tay nhau, ngược lại còn bị thánh hỏa lệnh đánh trúng hai lần. Cũng may là ba sứ giả Ba Tư mỗi lần đánh trúng người chàng đều bị phản kích mạnh mẽ, khiến cho họ cũng chùn bước không dám dùng quyền cước đụng vào đối phương.

Tạ Tốn quát lên một tiếng, ôm thanh Đồ Long đao vào ngực nhảy vào trận chiến, đến bên cạnh Trương Vô Kỵ nói:

- Thiếu hiệp, dùng đao.

Ông cầm thanh đao thẩy lại cho chàng, Trương Vô Kỵ nghĩ đến thần uy của thanh đao có thể đẩy lui đại địch liền nhận lấy. Tạ Tốn chân trái điểm một cái nhảy vọt về phía sau, ngay lúc đó lưng đã bị Diệu Phong Sứ đấm một quyền mạnh đến nỗi ông tưởng như lục phủ ngũ tạng của mình đều đảo lộn. Quyền đó không một chút hình tích nào khiến Tạ Tốn không sao biện nhận được tiếng gió.

Trương Vô Kỵ múa đao chém vào Lưu Vân Sứ, Lưu Vân Sứ liền giơ hai thanh thánh hỏa lệnh ra đỡ, hai tay kẹp một cái, lệnh bài dính chặt vào thanh đao Đồ Long. Trương Vô Kỵ thấy lòng bàn tay rung động mạnh, đao Đồ Long suýt nữa thì tuột khỏi tay, hết sức kinh hãi vội vàng vận kình giữ lại. Lưu Vân Sứ dùng thánh hỏa lệnh để cướp binh khí địch thủ, ra tay là trúng, chưa bao giờ hụt lần này không cướp nổi thanh đao Đồ Long cũng hết sức ngạc nhiên. Huy Nguyệt Sứ rú lên một tiếng thanh thoát, hai thanh thánh hỏa lệnh trong tay y thị cũng kẹp luôn vào đao Đồ Long, tứ lệnh đoạt đao khiến uy lực càng thêm mạnh mẽ.

Trương Vô Kỵ trên người đã bảy tám chỗ trúng đòn, tuy chỉ toàn là vết thương nhẹ nhưng cũng làm cho nội lực giảm đi nhiều, lúc này thấy một nửa người nóng bừng, tay phải cầm đao rung rung. Chàng biết thanh đao này quan hệ mật thiết với tính mạng nghĩa phụ, tuy Tạ Tốn không biết chân tướng chàng là ai nhưng đã đưa cho chàng mượn, thật là một cử chỉ hào khí can vân, nếu như mình để mất thì còn mặt mũi nào mà nhìn người cha nuôi nữa? Chàng liến quát lên một tiếng, Cửu Dương thần công trong người cuồn cuộn tuôn ra. Lưu Vân Sứ, Huy Nguyệt Sứ hai người mặt đều biến sắc, Diệu Phong Sứ thấy tình hình không xong, thanh thánh hỏa lệnh còn lại trong tay cũng đè luôn lên thanh đao Đồ Long.

Trương Vô Kỵ một mình địch ba nhưng thấy không suy yếu chút nào, trong bụng mừng thầm, nếu như mình không cướp được một thanh thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ thì cả sáu thanh lệnh bài cùng kẹp vào ắt sẽ khó khăn hơn nhiều. Lúc này bốn người đã đến lúc đấu nội lực, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm nếu các ngươi dùng nội lực đấu với mình là lấy đoản chống trường, chàng nào có sợ gì đâu? Trong giây lát cả bốn người đứng yên không ai động đậy cố vận nội công. Đột nhiên Trương Vô Kỵ thấy ngực đau nhói, tưởng như bị một vật gì thật nhọn đâm vào.

Mũi nhọn đó đâm vào ngực đi thẳng vào trong tim phổi, tay Trương Vô Kỵ liền lỏng ra, thanh đao Đồ Long bị năm chiếc thánh hỏa lệnh hút mất. Chàng gặp đại biến nhưng không hoảng hốt chút nào, thuận tay rút luôn thanh Ỷ Thiên kiếm đeo trên hông dùng ngay chiêu Viên Chuyển Như Ý trong Thái Cực Kiếm pháp, vạch xéo một vòng tròn, cùng đâm vào bụng ba sứ giả Ba Tư. Ba người kia vừa toan nhảy về sau tránh né, Trương Vô Kỵ đã gài thanh kiếm vào trong bao, vươn tay ra đoạt lại thanh đao Đồ Long. Bốn giai đoạn, mất đao, rút kiếm, trả kiếm, đoạt đao thủ pháp cực kỳ nhanh nhẹn chẳng khác gì một ánh chớp, chính là công phu của cấp thứ bảy trong Càn Khôn Đại Na Di.

Ba sứ giả Ba Tư cùng "Ồ" lên một tiếng, hết sức lạ lùng. Họ nội lực kém xa Trương Vô Kỵ nên vừa mở miệng, ba thanh thánh hỏa lệnh liền bị thanh đao Đồ Long hút chặt. Ba người vội vận nội kình giữ lại, thành thế kéo co không bên nào hơn bên nào. Đột nhiên trên ngực Trương Vô Kỵ lại bị đâm nhói một cái nhưng lần này chàng đã đề phòng, bảo đao không tuột khỏi tay. Hai lần bị đâm đó tưởng như hữu hình nhưng lại không phải, một luồng hàn khí luồn qua Cửu Dương thần công hộ thể, xuyên thẳng vào nội tạng. Chàng biết ba sứ giả Ba Tư này nội lực cực kỳ âm hàn, tập trung vào một điểm theo thánh hỏa lệnh truyền đi, vượt qua luồng nội lực cứng rắn của chàng mà vào. Vốn dĩ chí âm công chí dương chưa chắc thắng nổi Cửu Dương thần công, có điều thần công của chàng tỏa ra toàn thân, còn âm kình kia tụ lại nhỏ như sợi tóc mà luồn vào nên chống đỡ hết sức khó khăn. Cái đó cũng chẳng khác gì một đứa trẻ con, một người đàn bà vẫn có thể dùng một kim thêu đâm lủng da của một con voi to lớn. Âm kình vào trong người chàng lập tức biến mất nhưng cũng khiến chàng đau buốt đến xương.

Huy Nguyệt Sứ liên tiếp sử dụng hai lần nội kình "Thấu Cốt Châm", thấy đối phương chống đỡ không cần phải phí một chúc khí lực nào rất lấy làm ngạc nhiên. Diệu Phong Sứ tuy tay trái để không nhưng kình lực toàn thân đã dồn qua bên tay phải, tay trái cũng không khác gì tê liệt. Trương Vô Kỵ biết rằng nếu cứ để dây dưa, địch nhân cứ dùng âm kình chọc tới hết lần này qua lần khác chàng sẽ chịu không nổi, thực không có cách nào đối phó. Chàng nghe tiếng thở của Tạ Tốn mỗi lúc một thêm dồn dập, ông ta đang tới gần, biết ông đang muốn đánh ngã địch để giúp mình. Lúc này bốn người nội kình đã trải rộng ra khắp toàn thân nên Tạ Tốn đánh vào kẻ địch cũng không khác gì đánh vào Trương Vô Kỵ cho nên chần chừ không dám ra tay.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Tình thế nguy hiểm thế này, chi bằng bảo nghĩa phụ chạy thoát trước là hơn". Chàng bèn lớn tiếng nói:

- Tạ đại hiệp, võ công của ba sứ giả Ba Tư tuy kỳ lạ thật nhưng tại hạ thoát thân không lấy gì làm khó. Xin đại hiệp tránh đi trước, tại hạ chạy theo, sẽ phụng hoàn bảo đao sau.

Ba sứ giả Ba Tư thấy chàng đang hết sức chống đỡ mà vẫn có thể mở miệng nói thản nhiên như thường, trong bụng hết sức kinh hãi. Tạ Tốn nói:

- Cao tính đại danh của thiếu hiệp là gì?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm giờ phút này không thể nào hai người nhận nhau, nếu không nghĩa phụ vì quá yêu thương mình sẽ nhất định cùng sống chết với ba sứ giả Ba Tư để bảo vệ cho mình nên đáp:

- Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu. Tạ đại hiệp sao chưa chạy đi chẳng lẽ không tin nổi tại hạ, sợ lấy mất bảo đao hay sao?

Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Tăng thiếu hiệp chẳng cần phải dùng lời để khích Tạ mỗ làm gì. Ta với các hạ lấy bụng dạ đo lường nhau, Tạ Tốn này ở vào tuổi gần đất xa trời còn được kết giao với một bằng hữu như thiếu hiệp, quả là một việc cực kỳ sung sướng. Tăng thiếu hiệp, Tạ mỗ định dùng Thất Thương Quyền để đánh người đàn bà này, ta vừa phát kình thì các hạ lập tức bỏ đao rút tay về ngay.

Trương Vô Kỵ biết Thất Thương Quyền của nghĩa phụ rất lợi hại, chàng chỉ cần buông đao cho địch nhân là Tạ Tốn sẽ một quyền đánh chết Huy Nguyệt Sứ ngay. Thế nhưng nếu xảy ra như thế, bản giáo sẽ có mối thâm thù với tổng giáo Ba Tư, chính mình vẫn khăng khăng khuyên nhủ anh em đồng giáo là phải lấy hòa mục làm trọng, nay lại không hỏi đầu đuôi đánh chết sứ giả Ba Tư thì còn làm giáo chủ Minh giáo thế nào được? Chàng vội đáp:

- Hãy khoan.

Quay sang nói với Lưu Vân Sứ:

- Tất cả tạm thời ngừng tay, tại hạ có mấy lời muốn nói cho rõ cùng quí vị.

Lưu Vân Sứ gật đầu, Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ có liên hệ với Minh giáo hết sức mật thiết, ba vị lại mang thánh hỏa lệnh đến đây, vậy là khách quí của tại hạ, mới đây vô lễ quả thật đắc tội. Tất cả chúng mình cùng thu nội lực về, ngừng tay không đấu nữa được không?

Lưu Vân Sứ liên tiếp gật đầu. Trương Vô Kỵ mừng lắm, lập tức thu kình lực về, ôm thanh đao Đồ Long vào ngực, thấy ba sứ giả Ba Tư cũng đồng thời thu lực về, bất ngờ một luồng âm hàn nhọn như dao, sắc như kiếm, bén như tên, mạnh như dùi đâm thẳng vào huyệt Ngọc Đường trên ngực chàng.

Luồng âm hàn đó tuy vô hình vô chất nhưng khi đâm vào cơ thể cũng chẳng khác gì đao kiếm, Trương Vô Kỵ lập tức ngừng thở bế khí, toàn thân không thể cử động gì được, trong đầu xoay chuyển bao nhiêu ý niệm: "Sau khi ta chết rồi, nghĩa phụ chắc khó thoát khỏi độc thủ, không ngờ sứ giả của Ba Tư lại không đếm xỉa gì đến tín nghĩa. Biểu muội Ân Ly liệu có sống được không? Triệu cô nương và Chu cô nương sẽ ra sao? Tiểu Siêu, ôi, cô bé thật đáng thương! Sự nghiệp kháng Nguyên cứu dân của bản giáo sẽ đi về đâu?". Chỉ thấy Lưu Vân Sứ giơ thanh thánh hỏa lệnh lên đập lên đầu chàng. Trương Vô Kỵ vội vận nội lực xung kích huyệt Ngọc Đường trên ngực đang bị điểm nhưng vẫn chậm mất một bước.

Đột nhiên có tiếng đàn bà kêu lên:

- Đại đội nhân mã Minh giáo Trung Thổ đã kéo đến rồi.

Lưu Vân Sứ ngạc nhiên, cánh tay cầm thánh hỏa lệnh giơ lên ngừng lại trên không chưa đánh xuống. Chỉ thấy một bóng màu xám nhanh như điện xẹt tới, rút phắt thanh kiếm Ỷ Thiên bên hông Trương Vô Kỵ, cả người lẫn kiếm lao vào Lưu Vân Sứ. Trương Vô Kỵ tuy không cử động được nhưng vẫn nhìn thấy rõ ràng, người đó chính là Triệu Mẫn, mừng quá nhưng lại kinh hãi không sao kể xiết. Thì ra nàng sử dụng là một sát chiêu của phái Côn Lôn tên là Ngọc Toái Côn Cương cốt để mình và kẻ địch cùng chết một lượt. Trương Vô Kỵ tuy không biết tên chiêu này nhưng biết rằng nàng dùng kiếm ra chiêu, kiếm Ỷ Thiên sắc bén như thế Lưu Vân Sứ ắt sẽ bị nàng đâm chết nhưng chính nàng cũng khó thoát khỏi độc thủ của địch.

Lưu Vân Sứ thấy kiếm thế ghê gớm quá, không nói gì ba sứ giả liên thủ mà tự mình bảo vệ cũng không xong, trong cơn nguy cấp liền giơ thánh hỏa lệnh dùng sức gạt ra, tiếp theo không kể sống chết lăn ngay xuống đất. Chỉ nghe thấy một tiếng keng, thánh hỏa lệnh đã gạt được Ỷ Thiên kiếm ra nhưng má bên trái cũng thấy mát rượi, chẳng biết mình thế nào đến khi đứng lên được giơ tay sờ má mới thấy dấp dính đau đớn lạ lùng, một mảng râu lẫn thịt trên mặt đã bị kiếm hớt đi, nếu thánh hỏa lệnh không phải là kỳ vật gạt được thanh kiếm ra thì một nửa cái đầu đã bị chém đứt.

Trương Vô Kỵ đi đến gặp Tạ Tốn, Triệu Mẫn nghĩ đến Kim Hoa bà bà gian trá ngụy bí, Trần Hữu Lượng lại có vẻ đáng nghi không yên tâm nên cũng len lén đi theo. Nàng biết mình khinh công không phải là loại thượng thừa, chỉ đi gần một chút là sẽ bị phát giác ngay, nên chỉ theo ở xa xa. Đến khi Trương Vô Kỵ ra tay đấu với ba sứ giả Ba Tư nàng mới đám đến gần, tới lúc Trương Vô Kỵ tỉ đấu nội công với ba người, nàng trong lòng mừng thầm, nghĩ thầm ba người Hồ này võ công tuy quái lạ nhưng làm sao hồn hậu bằng Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ. Đột nhiên Trương Vô Kỵ mở miệng kêu gọi hai bên ngừng tay, Triệu Mẫn đang định lên tiếng bảo chàng cẩn thận thì đối phương đã sử dụng Âm Phong Đao khiến Vô Kỵ ngã lăn ra đất. Trong cơn nguy cấp, Triệu Mẫn không kể sống chết xông ra rút được thanh kiếm Ỷ Thiên ra liền sử dụng ngay một chiêu của phái Côn Lôn nàng học được ở chùa Vạn An xả mệnh tấn công.

Triệu Mẫn chỉ một chiêu đã đánh bật được Lưu Vân Sứ ra, nhưng kiếm Ỷ Thiên cũng bật lại một vòng, cắt đứt một nửa chiếc mũ đội trên đầu để lộ mái tóc dài đen nhánh. Trường kiếm của nàng vòng xéo qua, cả người lao luôn vào Diệu Phong Sứ, thành ra Ỷ Thiên kiếm lại còn ở đằng sau. Chiêu này tên là Nhân Quỉ Đồng Đồ là một tuyệt chiêu của phái Không Động, cùng một kiểu như chiêu Ngọc Toái Côn Cương của phái Côn Lôn, đều là những chiêu khi biết mình thua nên cùng địch nhân ngọc đá đều vỡ cả. Lối đánh đó cực kỳ thảm khốc, các phái Thiếu Lâm, Nga Mi là võ công Phật môn không có những loại như vậy. Ngọc Toái Côn Cương và Nhân Quỉ Đồng Đồ không phải là những chiêu chuyển bại thành thắng, trong cái chết tìm cái sống mà chỉ cốt sao lưỡng bại câu thương, cùng về địa phủ. Hôm trước cao thủ hai phái Côn Lôn, Không Động bị bắt giam bị làm nhục, khi tỉ võ công lực mất cả rồi không cách nào có thể thắng nên một số người tính tình cứng cỏi liều sử hai chiêu này nhưng vì nội kình mất hết, muốn thí mạng cũng không sao làm được nên Triệu Mẫn đã ghi nhớ trong lòng.

Diệu Phong Sứ thấy nàng ra những thế ghê gớm như vậy, hết sức kinh hãi toàn thân lạnh ngắt đứng sững như trời trồng. Người này võ công tuy cao nhưng lại nhát gan, thấy chiêu này không có cách gì chống đỡ kinh sợ cực điểm nên đành đứng yên chịu chết.

Hồi 29

TỨ NỮ ĐỒNG CHU HÀ SỞ VỌNG-

Thân hình Triệu Mẫn lao vào thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ rồi, cổ tay rung một cái trường kiếm nhắm ngay ngực y đâm tới. Chiêu này trước lấy lấy thân mình xông vào binh khí của địch nhân, dù đao hay kiếm, dù thương hay phủ khi đụng phải thân mình rồi cũng phải chựng lại một chút, mình liền múa kiếm đâm tới, dù địch võ công cao cường cũng khó mà thoát được. Diệu Phong Sứ thấy chiêu này lợi hại quá, sợ đến đứng chết trân. Cũng may trong tay y chỉ là một khối sắt dài chừng một thước không có mũi nhọn nên Triệu Mẫn lao vào rồi cũng không bị thương, trường kiếm vừa đâm ra thì sau lưng đã bị Huy Nguyệt Sứ ôm chặt.

Ba sứ giả Ba Tư liên thủ nghinh địch, phối hợp rất là chặt chẽ không có thể chê vào đâu được. Triệu Mẫn vừa xông ra đã dùng hai chiêu thí mạng để đánh, khiến cho trận pháp của tam đại cao thủ hỗn loạn nên đến bây giờ Huy Nguyệt Sứ mới từ đằng sau ôm được nàng. Thế ôm đó tưởng như không có gì kỳ lạ thực ra rất chính xác, không sai một li, ứng biến thật nhanh chẳng khác gì sao băng. Kiếm đó của Triệu Mẫn tuy lợi hại thật nhưng đâm chưa tới Diệu Phong Sứ thì đằng sau đã bị níu lại. Nàng biết là không xong, thuận theo thế Huy Nguyệt Sứ kéo mình về sau liền quay kiếm đâm ngược vào bụng của mình.

Chiêu kiếm đó rất là mạnh mẽ chính là một chiêu của phái Võ Đương tên là Thiên Địa Đồng Thọ, không phải do Trương Tam Phong sáng tạo mà do Ân Lê Đình khổ tâm nghĩ ra, cốt là để được cùng Dương Tiêu chết chung một lượt. Từ khi Kỷ Hiểu Phù chết đi, trong lòng chỉ còn một ý niệm duy nhất là làm sao giết được Dương Tiêu nhưng tự biết mình không thể nào địch lại, sư phụ tuy là thiên hạ đệ nhất cao thủ nhưng tư chất ngộ tính của ông ta không thể nào học được ba bốn thành của thầy, chỉ mong sao giết được Dương Tiêu rồi mình cũng chẳng muốn sống nữa nên ở trên núi Võ Đương tự nghĩ ra mấy thế đánh thí mạng.

Khi Ân Lê Đình lén tập luyện những thế kiếm đó bị sư phụ bắt gặp, Trương Tam Phong chỉ đành thở dài, biết khó mà có thể khuyên giải nên đặt cho chiêu kiếm này cái tên Thiên Địa Đồng Thọ, ý nói người dẫu chết đi tinh thần không hủ nát thì cũng để lại mãi mãi đến muôn đời, là một chiêu kiếm tự giết mình để giữ được điều nhân, bỏ mạng sống để thu được điều nghĩa, thật là vừa bi thương vừa hùng tráng. Đại đệ tử của Ân Lê Đình tại chùa Vạn An dùng chiêu này được Phạm Dao xông ra cứu kịp. Triệu Mẫn bây giờ lại đem ra sử dụng, chính là chiêu dùng để giết chết kẻ đang ở đằng sau ôm chặt lấy mình, kiếm sắc sẽ đâm qua bụng mình vào bụng kẻ địch, Huy Nguyệt Sứ làm sao tránh được?

Ví như Diệu Phong Sứ chưa sợ đến chết đứng hay Lưu Vân Sứ đứng gần ngay bên, với lối đánh ba người liền thành một khối như thế may ra còn có thể cứu được hai người đàn bà. Chỉ thấy thanh Ỷ Thiên đang sắp sửa đâm lút vào bụng của cả Triệu Mẫn lẫn Huy Nguyệt Sứ thì ngay trong đường tơ kẽ tóc đó, Trương Vô Kỵ vận nội lực xung huyệt đã thành công, vươn tay ra cướp luôn thanh kiếm.

Triệu Mẫn cố vùng ra một cái thoát khỏi vòng tay Huy Nguyệt Sứ đang ôm, phản ứng cực kỳ thần tốc, cầm luôn thánh hỏa lệnh trong tay Trương Vô Kỵ ném ra xa, nghe keng một tiếng rơi vào ngay trận địa cắm đầy kim của Kim Hoa bà bà.

Thánh hỏa lệnh đó ba người Ba Tư coi chẳng khác gì tính mệnh, Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ không còn dám tiếp tục đối địch với Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn, cũng chẳng thèm để ý đến Diệu Phong Sứ sống chết ra sao, vội vàng nhảy đi tìm. Hai người chạy được hơn một trượng đã đạp vào trong bãi kim nhọn. Huy Nguyệt Sứ thét lên một tiếng, cô nàng đã đạp phải một mũi chông. Ánh trăng mờ, gió thổi mạnh, cỏ cao đến gối thật khó mà nhìn cho ra thánh hỏa lệnh và kim cắm bên dưới, hai người vừa nhổ kim ra vừa mò tay tìm lệnh bài. Diệu Phong Sứ như từ một giấc mơ tỉnh dậy, kêu lên kinh hoàng cũng vội chạy đến.

Triệu Mẫn vì muốn cứu tính mạng Trương Vô Kỵ, ba chiêu kiếm tung ra nhanh như cắt không còn kịp suy nghĩ gì nữa, lúc này bình tâm lại một chút, càng nghĩ càng thấy rùng mình, kêu "Ôi" lên một tiếng sà luôn vào lòng Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ giơ tay ôm lấy nàng trong lòng hết sức cảm động, biết rằng ba sứ giả Ba Tư một khi kiếm được thánh hỏa lệnh rồi thể nào cũng quay lại ngay nên vội nói:

- Thôi mình chạy đi.

Chàng quay lại trả thanh đao cho Tạ Tốn, ôm Ân Ly đang bị thương nặng lên nói với Tạ Tốn:

- Tạ đại hiệp, trước mắt mình nên tránh đi một chút.

Tạ Tốn nói:

- Đúng thế.

Ông cúi xuống giải khai huyệt đạo cho Kim Hoa bà bà. Trương Vô Kỵ nghĩ bụng Kim Hoa bà bà qua cơn chết hụt này, ắt phải xóa hết hiềm thù cùng Tạ Tốn.

Bốn người chạy được mấy trượng, Trương Vô Kỵ nghĩ tuy Ân Ly là biểu muội của mình nhưng dẫu sao nam nữ thụ thụ bất thân, nên giao lại Ân Ly cho Kim Hoa bà bà bồng. Triệu Mẫn đi trước dẫn đường, kế đến là Kim Hoa bà bà và Tạ Tốn, Trương Vô Kỵ đi cuối phòng địch nhân truy kích. Chàng quay đầu lại thấy ba sứ giả Ba Tư vẫn đang lom khom trong đám cỏ cao tìm kiếm. Chàng phen này bị thua to, nghĩ lại những chuyện hung hiểm vừa rồi, cũng thấy hổ thẹn, lại không biết Ân Ly bị thương nặng như thế có thể cứu sống được không.

Ngay khi đang chạy, bỗng nghe Tạ Tốn gầm lên một tiếng dữ dội, giơ quyền đánh thẳng vào lưng Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà xoay tay lại đỡ, đồng thời ném Ân Ly xuống đất. Trương Vô Kỵ kinh hãi, phi thân nhảy tới. Tạ Tốn quát lên:

- Hàn phu nhân, sao bà lại ra tay định giết Ân cô nương?

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Ông giết hay không giết tôi là chuyện của ông. Tôi giết hay không giết nó là chuyện của tôi, ông có quyền gì can thiệp vào?

Trương Vô Kỵ nói:

- Có tôi ở đây thì không để cho ai tùy tiện giết người đâu.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tôn giá hôm nay rỗi hơi xen vào chuyện người khác chưa đủ hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chuyện này chưa chắc đã là chuyện rỗi hơi đâu. Ba sứ giả Ba Tư chỉ chốc lát là quay lại ngay, sao bà còn không mau chạy đi?

Kim Hoa bà bà hứ một tiếng, chạy về hướng tây, đột nhiên vung tay ném ngược lại ba đóa kim hoa nhắm sau cổ Ân Ly phóng tới. Trương Vô Kỵ giơ tay búng ra, nghe keng keng keng ba tiếng, ba bông hoa bay trở lại Kim Hoa bà bà, tiếng đi rít trên không, xem ra còn mạnh hơn cả dùng cung nõ mà bắn. Lần trước khi chàng ôm Ân Ly đã xóa bỏ hết những râu ria trên mặt, Kim Hoa bà bà đã nhìn rõ diện mạo của chàng, nay thấy thanh niên này nội công thâm hậu đến thế, không dám đưa tay ra bắt, vội vàng nằm mọp xuống đất để tránh. Ba đóa hoa bay xẹt ngang lưng bà ta, xé rách lưng áo ba đường dài, bà ta sợ đến tim đập thình thịch không dám quay đầu lại nữa.

Trương Vô Kỵ bồng Ân Ly lên, bỗng nghe Triệu Mẫn rên một tiếng, cúi gập người xuống, hai tay ôm bụng. Chàng vội vàng chạy đến hỏi:

- Em sao thế?

Chỉ thấy bàn tay nàng đầy những máu, rỉ cả ra những kẽ tay. Thì ra nàng sử chiêu Thiên Địa Đồng Thọ, đã rạch phải bụng rồi. Trương Vô Kỵ kinh hãi thất sắc, vội hỏi:

- Bị thương có nặng không?

Bỗng nghe Diệu Phong Sứ đang ở trong bãi kim reo lên:

- Tìm thấy rồi, tìm thấy rồi.

Triệu Mẫn nói:

- Mặc kệ em, mau chạy đi, chạy đi.

Trương Vô Kỵ giơ tay ôm nàng lên, theo hướng chân núi chạy xuống. Triệu Mẫn nói:

- Xuống dưới thuyền, nhổ neo đào tẩu.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế.

Chàng một bên ôm Ân Ly, một bên ôm Triệu Mẫn chạy xuống. Tạ Tốn chạy theo sau trong lòng lạ lùng: "Thanh niên này quả thực ghê gớm, hai tay ôm hai người mà còn chạy nhanh đến thế".

Trương Vô Kỵ lòng rối như tơ vò, nếu một trong hai thiếu nữ trên tay bị thương không cứu được thì đều là mối hận cả đời. Cũng may chàng vẫn thấy hai người còn ấm, không có dấu hiệu gì đang lạnh dần.

Ba sứ giả Ba Tư tìm được thánh hỏa lệnh rồi, lại đuổi theo nhưng ba người đó khinh công không bằng được Trương Vô Kỵ, so với Tạ Tốn cũng kém xa. Trương Vô Kỵ chạy gần đến thuyền, lớn tiếng nói:

- Thiệu Mẫn quận chúa có lệnh: Các thủy thủ giương buồm nhổ neo, lập tức khai thuyền.

Khi chàng và Tạ Tốn lên được thuyền thì buồm đã kéo lên. Tuy nhiên người lái thuyền phải đợi chính miệng Triệu Mẫn ra lệnh nên chạy lên hỏi ý kiến. Triệu Mẫn mất máu quá nhiều, chỉ thều thào nói:

- Nghe ... nghe lệnh Trương công tử ... là được ...

Người tiêu công liền lái thuyền ra, khi ba sứ giả Ba Tư chạy đến bên bờ thì thuyền đã cách bờ đến mấy chục trượng.

Trương Vô Kỵ đem Ân Ly và Triệu Mẫn đặt nằm trong khoang thuyền, có Tiểu Siêu ở bên giúp đỡ, cởi áo hai người để lộ vết thương ra. Trương Vô Kỵ xem xét thương thế, thấy trên bụng Triệu Mẫn bị một vết thương sâu đến nửa tấc, máu chảy tuy nhiều nhưng không đến nỗi nguy đến tính mạng. Ân Ly thì bị ba đóa kim hoa toàn chỗ yếu hại, Kim Hoa bà bà ra tay rất nặng cứu được hay không cũng thật khó mà biết. Chàng liền rắc thuốc buộc vết thương cho cả hai người. Ân Ly vốn dĩ đã hôn mê bất tỉnh từ lâu không còn biết gì nữa, còn Triệu Mẫn nước mắt rưng rưng, Trương Vô Kỵ hỏi trong người ra sao, nàng chỉ bặm môi không trả lời.

Tạ Tốn nói:

- Tăng thiếu hiệp, Tạ mỗ xa rời nhân thế nay vô tình trở về Trung Thổ, lại quen biết được một người bạn nghĩa khí thâm trọng như các hạ, quả thật vui mừng ngoài dự liệu.

Trương Vô Kỵ đỡ ông ngồi trên ghế trong khoang thuyền, quì phục xuống lạy, khóc nói:

- Nghĩa phụ, hài nhi Vô Kỵ bất hiếu, không đến đón cha sớm hơn được khiến cho cha phải chịu biết bao nhiêu khổ sở.

Tạ Tốn giật mình hoảng hốt, lắp bắp:

- Cậu ... cậu nói gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hài nhi chính là Trương Vô Kỵ đây.

Tạ Tốn làm sao tin cho nổi, vẫn ấp úng:

- Cậu ... cậu nói sao?

Trương Vô Kỵ liền đọc:

- Quyền học chi đạo tại ngưng thần, ý tại lực tiên năng chế thắng[1] ...

Chàng cứ thao thao bất tuyệt đọc thuộc lòng, toàn là võ học yếu quyết Tạ Tốn đã từng dạy chàng trên Băng Hỏa đảo. Đọc được chừng hai chục câu, Tạ Tốn vừa mừng vừa sợ nắm chặt hai tay chàng, run run nói:

- Con ... con có thực là thằng bé Vô Kỵ của ta không?

Trương Vô Kỵ đứng lên, ôm chặt lấy ông, đem mọi chuyện quan trọng kể lại, nhưng việc lên làm giáo chủ Minh giáo thì chàng tạm thời không đề cập đến để nghĩa phụ khỏi phải theo tôn ti mà hành lễ với mình. Tạ Tốn tưởng như đang trong một giấc mơ, lúc này không còn không tin nữa chỉ nhắc đi nhắc lại:

- Thật ông trời có mắt, thật ông trời có mắt.

Bỗng nghe từ phía đuôi thuyền các thủy thủ kêu lên:

- Thuyền địch đang đuổi theo.

Trương Vô Kỵ chạy lên sau thuyền nhìn ra, thấy thuyền địch nhiều buồm thân nhẹ càng lúc càng gần, trong lòng hoang mang không biết phải làm sao cho phải, nghĩ thầm chỉ còn cách để cho ba sứ giả Ba Tư lên thuyền rồi dụ họ vào khoang đấu một trận nữa, đưa mắt tìm chỗ chật hẹp cốt ba người kia không thể liên thủ. Chàng bèn dời Triệu Mẫn và Ân Ly sang một bên, lên khoang trên xách hai cái neo sắt lớn đem xuống để làm vật cản để cho các sứ giả Ba Tư phải từng người một đấu với mình.

Chàng sắp đặt xong, đột nhiên nghe ùm một tiếng lớn, thuyền chao qua một bên, nước biển bốc vọt lên cao, tạt cả vào sàn thuyền. Thủy thủ đằng sau kêu lên:

- Thuyền địch khai pháo, thuyền địch khai pháo.

Phát đạn đó bắn vào bên hông cũng may chưa trúng. Triệu Mẫn quay về phía Trương Vô Kỵ vẫy tay, nói nhỏ:

- Thuyền mình cũng có súng đó.

Câu đó khiến Trương Vô Kỵ nhớ ra, lập tức chạy lên trên sàn chỉ huy các thủy thủ gỡ các vật che đậy các cỗ súng, nhồi thuốc lắp đạn, châm mồi bắn trả. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, một phát đạn đã bắn ra. Thế nhưng những thủy thủ đó đều là võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn cải trang, võ công tuy cao, hải chiến lại không biết gì, thành thử viên đạn bắn ra rơi ngay giữa hai chiếc thuyền, nước văng lên cao cả mấy trượng nhưng thuyền địch không lay động chút nào. Thế như thuyền địch thấy đối phương cũng có đại pháo không còn dám tiến tới gần nữa. Một lát sau, thuyền địch lại bắn thêm một quả đạn nữa, trúng ngay đầu thuyền, thuyền liền bốc hỏa.

Trương Vô Kỵ liền chỉ huy các thủy thủ dội nước dập lửa, bỗng thấy tầng trên một ngọn lửa bốc ra. Chàng hai tay bưng một thùng nước, đạp tung cửa khoang hắt luôn vào, ngọn lửa liền tắt ngúm. Trong đám khói mù mịt chàng nhìn thấy một thiếu nữ ướt mèm nằm sóng soài trên giường, chính là Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ vứt thùng xuống, chạy vào trong phòng hỏi gấp:

- Chu cô nương, có sao không?

Chu Chỉ Nhược đầu tóc đầy những nước, hình dáng thật là thảm hại, trong cơn nguy cấp bỗng thấy chàng xuất hiện, kinh ngạc không đâu kể xiết. Nàng vừa cử động hai tay, lập tức có tiếng loảng xoảng. Thì ra chân tay nàng đều bị Kim Hoa bà bà dùng xích sắt khóa chặt, Trương Vô Kỵ vội chạy xuống tầng dưới lấy thanh Ỷ Thiên kiếm lên chặt đứt xích. Chu Chỉ Nhược nói:

- Trương giáo chủ, sao ... sao giáo chủ lại đến được nơi đây?

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, thân thuyền lại dao động đữ đội khiến nàng loạng choạng sà luôn vào lòng chàng. Trương Vô Kỵ vội giơ tay ra đỡ, ánh lửa từ ngoài cửa sổ chiếu vào, thấy khuôn mặt tái nhợt của nàng ửng hồng, lại thêm mấy giọt nước trông thật xinh đẹp thanh nhã, tưởng như một nàng tiên vừa dưới nước hiện lên. Trương Vô Kỵ định thần, nói:

- Thôi mình đi xuống khoang dưới.

Hai người ra khỏi cửa khoang thấy thuyền chòng chành dữ dội, thì ra khi địch bắn vào đã làm gãy nát bánh lái, ngay cả người tài công cũng bị văng xuống biển chết rồi. Người thuyền trưởng hoảng hốt, vội đích thân đến nhồi thuốc bắn trả, chỉ mong trúng thuyền địch cho chìm nên đổ thật đầy, dùng thiết côn nén thật chặt. Y chỉnh khẩu súng ngóc lên cao, đốt dây mồi. Chỉ thấy một ánh lửa lóe lên, một tiếng nổ vang trời, cỗ đại pháo vỡ tan, mảnh sắt văng tung tóe, cả viên thuyền trưởng lẫn các thủy thủ đứng chung quanh đều tan xác, máu thịt bay tứ phía. Chỉ vì viên thuyền trưởng muốn cho sức nổ thật mạnh nên nhồi quá nhiều thuốc súng thành thử vỡ luôn khẩu thần công.

Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược chạy lên trên sàn thuyền thấy chung quanh chỗ nào cũng có lửa cháy, chỉ chốc lát là chìm, thấy ở bên hông có buộc một chiếc thuyền con vội kêu lên:

- Chu cô nương, mau nhảy xuống thuyền nhỏ đi ...

Lúc này Tiểu Siêu đã ôm được Ân Ly, Tạ Tốn bồng Triệu Mẫn từ khoang dưới chạy lên. Tiếng nổ vừa rồi khiến cho đáy thuyển thủng một lỗ lớn, nước biển liền ùa vào như thác. Trương Vô Kỵ đợi Tạ Tốn, Tiểu Siêu đã xuống thuyền nhỏ rồi, vung kiếm chặt đứt dây buộc, nghe bạch một tiếng chiếc thuyền rơi luôn xuống biển. Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nhảy xuống, đúng ngay giữa thuyền, cầm luôn hai mái giầm ra sức bơi ra.

Khi đó chiếc chiến thuyền lửa đã bốc cao chiếu đỏ cả một vùng biển. Trương Vô Kỵ toàn lực chèo thuyền, nghĩ thầm chỉ cần bơi ra được vùng lửa không soi tới, ba sứ giả Ba Tư không nhìn thấy thuyền tưởng rằng mọi người đã chết hết trong biển cả rồi sẽ không đuổi theo nữa. Tạ Tốn cũng cầm một mảnh ván chèo phụ.

Chiếc thuyền nhỏ lướt đi trên mặt biển, chỉ trong chốc lát đã ra khỏi vùng lửa chiếu tới. Chỉ thấy chiếc đại chiến thuyền kia từng tiếng nổ vang, thuốc nổ trên thuyền không ngừng bùng lên, chiếc thuyền Ba Tư không dám đến gần chỉ neo lại xa xa quan sát. Một số võ sĩ của Triệu Mẫn thông thạo thủy tính, cố bơi lại gần thuyền địch cầu cứu đều bị người Ba Tư dùng cung tên bắn chết.

Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn không dám ngừng tay, nếu như trên đất liền gặp ba sứ giả Ba Tư đuổi tới còn liều tử chiến một phen, bây giờ nơi biển cả mênh mông này, địch nhân chỉ cần bắn một phát đại bác, dẫu chỉ cách chiếc thuyền vài trượng thôi, sóng ụp vào thể nào cũng lật. Cũng may hai người nội lực thâm hậu, chèo đến nửa đêm cũng chưa tỏ vẻ gì mỏi mệt.

Đến khi trời sáng lại thấy mây đen kéo đầy trời, bốn bề sương mù xám xịt. Trương Vô Kỵ mừng rỡ nói:

- - Sương mù này thật tốt, chỉ thêm nửa ngày nữa, kẻ địch không thể nào kiếm thấy chúng ta được.

Nào ngờ đến quá trưa hôm đó, gió bỗng thổi mạnh, rồi mưa như trút. Chiếc thuyền nhỏ bị gió thổi trôi giạt về hướng nam. Lúc này trời đang vào mùa đông, quần áo ai nấy ướt đẫm, Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn nội lực thâm hậu không đến nỗi nào, còn Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu mỗi lần gió bấc thổi đến, lại run lập cập hàm răng đánh vào nhau lách cách. Thế nhưng trên thuyền chẳng có gì khác không ai có thể nghĩ được cách nào cho bớt lạnh. Khi đó mấy chiếc giầm không ai chèo nữa, bốn người cởi giày làm gàu tát nước mưa trong thuyền ra.

Tạ Tốn nay gặp được Trương Vô Kỵ trong lòng hết sức vui mừng, tuy trước mắt đầy hiểm nguy nhưng chẳng coi vào đâu, trong mưa gió vẫn nói cười như không. Tiểu Siêu tính tình ngây thơ, cũng cười đùa vui vẻ, chỉ riêng Chu Chỉ Nhược vẫn lặng yên không nói lời nào, thỉnh thoảng ánh mắt chạm phải Trương Vô Kỵ, lập tức quay đầu sang chỗ khác. Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, năm xưa ta cùng cha mẹ con dong thuyền ra biển xuất dương, giữa đường bị một trận bão, so với trận bão hôm nay ghê gớm hơn nhiều. Bọn ta về sau lên được băng sơn, bắt hải cẩu ăn thịt. Có điều hồi đó là gió nam, thổi chúng ta đến miền cực bắc băng sơn tuyết địa, còn hôm nay lại là gió bắc, không lẽ ông trời thấy Tạ Tốn này không hợp nhãn, nên đày ta đến chỗ Nam cực tiên ông, sống ở đó thêm hai chục năm nữa hay sao? Ha ha, ha ha!

Ông ta cười một tràng rồi nói tiếp:

- Năm xưa cha mẹ con một nam một nữ, trai tài gái sắc, đúng là duyên trời se, còn nay con lại mang theo tới bốn cô gái, thế là thế nào đây? Ha ha, ha ha!

Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, cúi đầu xuống, còn Tiểu Siêu vẫn bình thản nói:

- Tạ lão gia tử, cháu chỉ là con tiểu a đầu hầu hạ công tử thôi, không tính vào trong đó được.

Triệu Mẫn tuy bị thương nặng nhưng cũng đã tỉnh, đột nhiên nói:

- Tạ lão gia tử, ông mà còn nói nhăng nói cuội nữa, đợi tôi khỏi rồi, tôi sẽ nắm tai ông đánh cho một trận.

Tạ Tốn le lưỡi, cười nói:

- Gớm cô này ghê thật.

Ông ta bỗng ngừng lại không cười nữa, trầm ngâm rồi nói:

- Ồ, đêm qua cô đánh thí mạng ra ba chiêu, chiêu thứ nhất là chiêu Ngọc Toái Côn Cương của phái Côn Lôn, chiêu thứ hai là chiêu Nhân Quỉ Đồng Đồ của phái Không Động, còn chiêu thứ ba, hừ, lão già này quê mùa dốt nát, không nghĩ ra là chiêu nào.

Triệu Mẫn trong bụng kinh hãi thầm: "Thảo nào Kim Mao Sư Vương năm xưa danh chấn thiên hạ, đại náo một phen khiến chốn giang hồ nghiêng trời lệch đất. Hai mắt ông ta không nhìn thấy, thế mà cũng đoán ra được hai chiêu ta sử dụng, quả đúng là danh bất hư truyền".

Nàng liền nói:

- Chiêu thứ ba có tên là Thiên Địa Đồng Thọ của phái Võ Đương, hình như là chiêu số mới sáng tác lão gia tử không biết là phải.

Giọng nàng lúc này thật là cung kính. Tạ Tốn thở dài:

- Cô hết sức cứu Vô Kỵ, quả thực tốt lắm, nhưng việc gì phải thí mạng như thế? Hử, việc gì phải thí mạng như thế?

Triệu Mẫn ấp úng:

- Anh ấy ... anh ấy ...

Nói đến đây nàng dừng lại, ngập ngừng không muốn nói tiếp, nhưng sau cùng nhịn không nổi nghẹn ngào:

- Anh ấy ... ai bảo anh ấy ... ôm Ân cô nương tình tứ ... tình tứ đến thế, tiểu nữ cũng chẳng còn muốn sống làm gì!

Nàng nói hết câu, nước mắt ròng ròng chảy xuống. Bốn người nghe thấy cô gái trẻ tuổi này thổ lộ tâm sự không khỏi ngạc nhiên, đâu ai biết rằng Triệu Mẫn là gái Mông Cổ, yêu ai thì nói là yêu, ghét ai thì nói là ghét, không vờ vĩnh che đậy, khác hẳn gái Trung Thổ vốn thấm nhuần lễ giáo khuôn sáo. Hơn nữa đang lúc trên thuyền, chung quanh biển cả mênh mông, mưa như trút, bất cứ lúc nào thuyền cũng có thể bị đắm, sống chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc, nên không còn gì để phải kiêng dè.

Trương Vô Kỵ nghe Triệu Mẫn nói mấy câu đó trong lòng cực kỳ xúc động: "Triệu cô nương vốn là đại địch của ta, lần này ta theo nàng ra hải ngoại, chủ ý vốn để nghinh tiếp nghĩa phụ về, đâu ngờ nàng lại mang một mối thâm tình với ta đến thế". Chàng không cầm lòng nổi giơ tay ra nắm tay nàng, ghé miệng vào tai nói nhỏ:

- Từ nay dù thế nào cũng không được làm vậy nữa, nghe chưa?

Triệu Mẫn vừa nói ra, chợt thấy ăn năn nghĩ thầm mình là con gái không biết giữ gìn lời ăn tiếng nói, những chuyện như thế lẽ nào lại chính miệng thốt ra để cho chàng coi thường mình? Bây giờ nàng nghe lời ân cần trách cứ của Trương Vô Kỵ, vừa mừng vừa sợ, vừa thẹn vừa yêu, trong lòng biết bao ngọt ngào êm ấm, cảm thấy tối qua ba lần vào sinh ra tử, hôm nay trên biển cả phiêu bạt lênh đênh cũng không phải là uổng phí.

Mưa một trận to rồi cũng tạnh dần nhưng mây đen thì mỗi lúc một nhiều. Bỗng nghe một tiếng quẫy mạnh, một con cá ước chừng ba mươi cân từ dưới nước nhảy lên, Tạ Tốn giơ tay trái ra chộp luôn vào bụng cá, bắt ngay vào trong thuyền. Ai nấy đều lên tiếng reo hò, Tiểu Siêu rút trường kiếm đem cá ra mổ bụng đánh vảy, cắt thành từng miếng. Mọi người ai nấy đói lòng, nhưng cá sống thật tanh, cố gắng mãi mới ăn được. Riêng Tạ Tốn ăn thật ngon lành, ông ở trên hoang đảo hơn hai mươi năm, món gì cũng đã ăn qua nói gì đến cá sống? Huống chi cá sống nếu nhai lâu một chút, sau cái mùi vị tanh tanh sẽ thấy ngon ngọt lạ thường.

Sóng gió trên biển lặng dần, mọi người ăn cá xong nhắm mắt dưỡng thần, hôm qua một ngày một đêm kịch đấu, ai nấy đều cực kỳ mỏi mệt. Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu tuy không giao đấu nhưng bị kinh hãi cũng không phải là ít. Biển cả lay động con thuyền chẳng khác gì nằm võng đu đưa, trên thuyền cả sáu người trước sau đều thiếp đi.

Mọi người ngủ một giấc dài, phải đếm ba giờ sau mới dậy. Tạ Tốn tuổi già tỉnh trước, nghe tiếng thở của năm người trai gái nhịp nhàng cùng với tiếng gió biển. Triệu Mẫn và Ân Ly bị thương rồi, hơi thở xem ra dồn dập, Chu Chỉ Nhược thì nhẹ và dài, còn Trương Vô Kỵ giữa mỗi lần hô hấp, lúc đứt quãng lúc liên tục, không rõ ràng khiến Tạ Tốn ngầm kinh dị: "Thằng bé này nội lực thật là thâm hậu, ta bình sinh chưa gặp bao giờ". Riêng Tiểu Siêu hơi thở lúc nhanh, lúc chậm, rõ ràng nàng luyện một môn võ công hết sức lạ lùng, Tạ Tốn nhíu mày, nghĩ thầm: "Quả thật là lạ lùng, không lẽ con bé này là ...".

Đột nhiên Ân Ly quát lên:

- Tên tiểu tử Trương Vô Kỵ kia, sao không lên đảo Linh Xà với ta?

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu nghe tiếng hét đó đều choàng tỉnh. Lại nghe nàng ta nói tiếp:

- Ta ở một mình trên đảo, tịch mịch cô đơn ... sao ngươi không đến chơi với ta? Ta ngày đêm khổ sở nhớ thương ngươi, ngươi ... ngươi ở dưới âm có biết cho chăng?

Trương Vô Kỵ giơ tay sờ đầu nàng, thấy hầm hập như một lò than, biết là nàng bị thương nặng lên cơn sốt, nói mê nói sảng. Tuy chàng y thuật tinh thâm, nhưng trong chiếc thuyền nhỏ không thuốc men cũng đành chịu bó tay, đành xé một mảnh áo, thấm nước đắp lên trán cho bớt nóng.

Ân Ly vẫn nói tiếp tục nói lảm nhảm, đột nhiên kinh hoảng kêu lên:

- Cha ơi, cha ... cha đừng giết mẹ con, đừng giết mẹ con ... Dì hai là do con giết đó, cha giết con đi, không liên quan gì đến mẹ con cả ... Mẹ ơi, mẹ chết rồi! Con làm hại mẹ rồi! Hu hu ... hu hu ...

Nàng cất tiếng khóc thật là thương tâm. Trương Vô Kỵ nhỏ nhẹ nói:

- Châu Nhi, Châu Nhi, em tỉnh lại đi. Cha em đâu có ở đây, đừng sợ.

Ân Ly giận dữ nói:

- Cha em không ra gì, em có sợ cha em đâu. Tại sao ông ấy lại lấy vợ hai, vợ ba? Một người đàn ông lấy một vợ chưa đủ hay sao? Cha ơi, cha thay lòng đổi dạ, có mới nới cũ, lấy hết người này đến người khác, làm khổ mẹ con quá, làm khổ lây cả con nữa! Ông không phải là cha tôi, ông là kẻ bạc tình, là đại ác nhân!

Trương Vô Kỵ bỗng giật mình kinh hoảng, sợ đến mặt mày tái mét. Thì ra mới rồi chàng mơ một giấc mơ thật đẹp, thấy mình lấy được Triệu Mẫn, lại lấy cả Chu Chỉ Nhược. Khuôn mặt sưng phù của Ân Ly cũng biến thành đẹp, luôn cả Tiểu Siêu cũng lấy mình luôn. Ban ngày ban mặt chàng đâu có dám nghĩ tới, nhưng trong giấc ngủ lại thành sự thực, thấy cả bốn cô nào nào cũng tốt, mình không thể bỏ người nào. Khi chàng an ủi Ân Ly, trong đầu vẫn mơ màng nghĩ tới những phút giây vui sướng ấy.

Bây giờ chàng nghe Ân Ly trách mắng phụ thân, nghĩ lại chuyện kể hồi trước, nàng không chịu để cho mẹ bị khinh khi nên giết chết ái thiếp của cha, mẹ nàng vì thế mà phải tự vẫn, chính cậu chàng là Ân Dã Vương đã toan một đao giết chết con ruột mình. Câu chuyện luân thường đại biến, thảm khốc kia cũng chỉ vì Ân Dã Vương không chung tình với một người lại năm thê bảy thiếp mà ra. Chàng quay qua nhìn Triệu Mẫn, lại liếc Chu Chỉ Nhược một cái, nghĩ đến giấc mộng không khỏi thẹn thùng.

Ân Ly lại nằm mơ nói lảm nhảm một hồi, đột nhiên đổi giọng van xin:

- Vô Kỵ, anh đi với em đi, đi với em đi. Anh cắn lưng bàn tay em một cái nhưng em chẳng giận anh chút nào. Em nguyện một đời hầu hạ anh, chiều chuộng anh, coi anh như chủ của em vậy. Nếu anh thấy em xấu xí, em sẽ hủy hết võ công để cho anh vui lòng, bỏ hết chất nhện độc để anh thấy em vẫn như hồi mới gặp nhau ...

Câu đó nàng nói thật dịu dàng, uyển chuyển, Trương Vô Kỵ nghĩ đến cô em họ tính khí thất thường, vui buồn thay đổi, tuy bề ngoài lạ lùng như trong lòng đầy vẻ ôn nhu. Lại nghe nàng nói tiếp:

- Vô Kỵ, em đi khắp nơi tìm anh, đủ mọi chân trời góc biển, nghe được tin mới biết anh ở Tây Vực rơi xuống hang núi chết rồi, em đau lòng không còn muốn sống nữa. Ở Tây Vực em gặp một thanh niên tên là Tăng A Ngưu, y võ công cao cường, tính hạnh cũng tốt, anh ta bảo sẽ lấy em làm vợ.

Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu đều biết Tăng A Ngưu chính là tên giả của Trương Vô Kỵ, không hẹn mà cùng quay lại nhìn chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ như gấc chín, hết sức bối rối thấy ba cô gái nhìn mình bằng cặp mắt lạ lùng, chỉ hận không nhảy xuống biển ngay được chờ cho Ân Ly tỉnh lại mới quay trở lên.

Lại nghe Ân Ly lẩm bẩm nói tiếp:

- Cái anh A Ngưu đó nói với em rằng: "Cô nương, tôi thành tâm thành ý, mong được lấy cô làm vợ, chỉ mong cô đừng cho rằng tôi không xứng đáng thôi". Y lại nói: "Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước". Vô Kỵ, cái anh A Ngưu đó nhân phẩm còn tốt hơn anh nhiều, võ công giỏi hơn cả Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi. Thế nhưng trong lòng em đã có một tên tiểu quỉ lang tâm đoản mệnh rồi, nên em không nhận lời anh ta. Anh chết sớm, em sẽ ở vậy thủ tiết cùng anh. Vô Kỵ, anh thử xem, A Ly đối với anh tốt hay không tốt? Năm xưa anh coi thường em, bây giờ trong lòng anh có hối hận hay không?

Lúc đầu Trương Vô Kỵ nghe nàng kể lể những gì mình nói với cô ta thấy thật là xấu hổ nhưng càng nghe càng thêm cảm động, tự nhiên nước mắt ròng ròng. Lúc này sương mù cũng đã tan đi, một vầng trăng non chiếu xuống Ân Ly nằm nghiêng nghiêng, chỉ thấy thân hình thon thả của nàng. Lại nghe nàng nói nho nhỏ:

- Vô Kỵ, anh ở chốn u minh có tịch mịch lắm không? Có cô đơn không? Em theo bà bà đi đến Băng Hỏa đảo ở bắc hải tìm đón nghĩa phụ anh về, sau đó sẽ lên núi Võ Đương quét dọn cúng tế mộ phần cha mẹ anh, rồi sẽ đến Tây Vực nơi đỉnh núi tuyết anh táng mệnh nhảy xuống, để bầu bạn với anh. Có điều em phải đợi cho bà bà trăm tuổi rồi chứ không thể theo anh sớm hơn để bà bà ở lại một mình lênh đênh khổ sở. Bà bà đối với em tốt lắm, nếu không có bà bà cứu cho thì cha em đã giết em rồi. Em vì cha nuôi của anh mà phải phản lại bà bà, chắc là bà bà hận em lắm. Em chỉ muốn thật tốt với bà bà thôi, Vô Kỵ, anh nghĩ có phải không?

Câu nói đó dường như nàng muốn trần tình với Trương Vô Kỵ. Trong lòng nàng, Trương Vô Kỵ đã là quỉ ở dưới âm, những câu nói hết sức ôn nhu dịu dàng với một hồn ma, nơi một chiếc thuyền lênh đênh trong đêm vắng, dưới ánh trăng suông, quả thật thê lương.

Nàng nói tiếp câu nọ xọ câu kia, chỗ này một câu chỗ kia một câu, lúc thì hoảng hốt kêu la, lúc thì giận dữ chửi bới, câu nào cũng nói lên tâm trạng vô cùng bi thương, thống khổ. Những câu nói mê lảm nhảm ấy nhỏ dần rồi nàng lại ngủ thiếp đi. Năm người không ai nói một câu, mỗi người một tâm sự, nghe tiếng sóng bập bềnh nơi mạn thuyền, thấy rằng chỉ có gió mát trăng trong là mãi mãi thôi, còn mối âu lo của con người không bao giờ dứt.

Đột nhiên một giọng ca thật nhẹ nhàng, thật phiếu diểu vang lên trên mặt biển:

Cõi trần kẻ trước người sau,

Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.

Hôm nay chỉ biết hôm nay,

Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.

Mấy ai thọ được bảy mươi,

Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.

Chính là tiếng hát của Ân Ly trong giấc mơ cất lên. Trương Vô Kỵ nghe xong giật mình, nhớ lại trên con đường hầm nơi Quang Minh Đính khi bị Thành Côn đóng mất lối ra, không còn cách nào thoát thân, Tiểu Siêu cũng đã hát lên khúc hát này. Chàng đưa mắt nhìn Tiểu Siêu, dưới ánh trăng cũng thấy cô gái đang say đắm ngẩn ngơ nhìn mình.

------------------------------------------------

[1] Phép luyện quyền cốt ở tập trung tinh thần, ý đi trước sức đi sau mới mong thắng được ...

Hồi 30

ĐÔNG TÂY VĨNH CÁCH NHƯ SÂM THƯƠNG-

Dẫu cho xa cách muôn trùng,

Thân tuy hai ngả nhưng lòng không chia.

*

* *

Ân Ly hát khúc hát đó rồi, sau đó lại thêm một bài khác, lần này tiếng ca hết sức ngụy bí, không giống điệu hát Trung Thổ chút nào, nghe cho kỹ thấy từ ý cũng giống như khúc hát của Tiểu Siêu:

Đến như nước chảy xuôi khe,

Đi như gió cuốn biết về nơi nao.

Cuộc đời như thể chiêm bao,

Về đâu rồi sẽ ra sao bây chừ?

(Lai như lưu thủy hề, thệ như phong.

Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung)

Nàng cứ hát đi hát lại hai câu ấy mãi, càng lúc càng nhỏ dần, đến khi tiếng hát lẫn vào tiếng sóng, tiếng gió không còn nghe thấy gì nữa. Mọi người nghĩ đến sinh tử vô thường, cõi nhân sinh như nước sông chảy mãi không hiểu từ đâu mà đến, dẫu cho anh hùng hào kiệt cũng không ai qua khỏi được cái chết, có khác gì gió mát kia chẳng biết thổi về nơi nào. Trương Vô Kỵ thấy bàn tay nhỏ nhắn của Triệu Mẫn lạnh như băng nằm trong tay mình hơi run rẩy.

Tạ Tốn bỗng nói:

- Khúc hát Ba Tư này là do Hàn phu nhân dạy cho cô ta đó, một buổi chiều hơn hai mươi năm trước, ta ở trên Quang Minh Đính đã từng nghe rồi. Ôi, đâu có ngờ Hàn phu nhân lại tuyệt tình đến thế, ra tay hạ độc thủ với con bé đến thế này.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Lão gia tử, Hàn phu nhân làm sao biết hát khúc hát Ba Tư, hay vốn là bài ca của Minh giáo chăng?

Tạ Tốn đáp:

- Minh giáo truyền từ Ba Tư, khúc hát Ba Tư này có uyên nguyên với Minh giáo nhưng không phải là bài ca của Minh giáo. Bài hát này là do một vị thi nhân rất nổi tiếng của Ba Tư hơn hai trăm năm trước đây tên là Nga Mặc làm, nghe nói người Ba Tư ai ai cũng biết cả. Năm xưa khi ta nghe khúc hát này thấy hay quá nên có hỏi Hàn phu nhân về lai lịch của bài ca, bà ta có kể rõ ràng đầu đuôi cho ta nghe.

Ngày đó đại triết gia của Ba Tư là Dã Mang mở trường dạy học, môn hạ có ba đệ tử kiệt xuất: Nga Mặc giỏi về văn học, Ni Nhược Mâu giỏi về chính trị còn Thôi Sơn giỏi về võ công. Ba người hợp tính nhau nên cùng thề ước nếu giàu sang sẽ không quên nhau. Về sau Ni Nhược Mâu đường mây rong ruổi được làm Thủ tướng của Giáo Vương. Hai người bạn cũ cũng tới, Ni Nhược Mâu xin với Giáo Vương phong quan chức cho Thôi Sơn. Nga Mặc không muốn làm quan, chỉ xin một món tiền bổng hàng năm để có thì giờ nghiên cứu thiên văn lịch số, uống rượu ngâm thơ. Ni Nhược Mâu mọi việc đều ưng thuận, đối xử thật hậu hĩ.

Ngờ đâu Thôi Sơn vẫn mang hùng tâm không chịu ở dưới người khác, âm mưu phản loạn. Việc y làm thất bại bèn kết tụ đồng đảng vào trong núi thành một thủ lãnh tông phái uy chấn thiên hạ, gọi là phái Y Tư Mỹ Lương chuyên ám sát giết người. Thời Thập Tự Quân, người Tây Vực khi nói đến tên Sơn Trung lão nhân Thôi Sơn, không ai là không kinh sợ. Thời đó vua các nước Tây Vực bị chết về tay các thủ hạ của Thôi Sơn không biết bao nhiêu mà kể.

Hàn phu nhân nói rằng, bên phía cực tây ngoài biển khơi có một đại quốc, tên là Anh Cách Lan, vua nước đó là Ái Đức Hoa có lỗi với Sơn Trung lão nhân bị y sai người hành thích. Quốc vương bị trúng dao tẩm thuốc độc, may nhờ vương hậu xả thân cứu chồng, hút chất độc ở vết thương ra, nhờ thế nhà vua mới thoát chết. Thôi Sơn chẳng kể gì đến ân nghĩa ngày xưa, lại sai người giết chết Thủ tướng Ba Tư là Ni Nhược Mâu. Khi sắp chết, Thủ tướng ngâm bài thơ của Nga Mặc, chính là hai câu "Đến như nước chảy hề, đi như gió, Ai biết về đâu hề, rồi ra sao?". Hàn phu nhân cũng có nói rằng về sau võ công của Sơn Trung Lão Nhân do Minh giáo học được. Ba sứ giả Ba Tư võ công quái dị lạ lùng, có lẽ học từ Sơn Trung lão nhân.[1]

Triệu Mẫn hỏi:

- Tạ lão gia, tính tình của Hàn phu nhân cũng chẳng khác gì Sơn Trung lão nhân. Ông đối xử với bà ta hết tình hết nghĩa vậy mà bà ta lại âm mưu hại ông.

Tạ Tốn thở dài:

- Ở trên đời này con người lấy oán báo đức là chuyện thật là bình thường, có gì lạ đâu?

Triệu Mẫn cúi đầu suy nghĩ một lát nói:

- Hàn phu nhân được đứng đầu tứ vương của Minh giáo, sao võ công không có gì là cao cường hơn lão gia cả. Đêm hôm qua bà ta động thủ với ba sứ giả Ba Tư, sao không thấy sử dụng Thiên Châu Vạn Độc Thủ là sao?

Tạ Tốn ngạc nhiên:

- Thiên Châu Vạn Độc Thủ? Hàn phu nhân đâu có biết sử dụng. Bà ta là một tuyệt sắc mỹ nhân, quí dung nhan còn hơn tính mạng của mình đời nào lại luyện công phu đó.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược đều ngạc nhiên, nghĩ thầm tướng mạo Kim Hoa bà bà xấu xí, cứ như hiện nay mà nói, dù có trẻ lại ba bốn chục tuổi, cũng không thể nào gọi là "tuyệt sắc mỹ nhân". Bà ta mũi thì thấp, môi thì dày, mặt vuông bành bành, tai xòe ra đón gió, khuôn mặt đó có cách nào mà thay đổi được. Triệu Mẫn cười nói:

- Lão gia tử, tiểu nữ chẳng thấy Kim Hoa bà bà đẹp ở chỗ nào cả.

Tạ Tốn nói:

- Sao thế? Tử Sam Long Vương đẹp như tiên trên trời, hơn hai mươi năm trước là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, bây giờ dù tuổi có cao, nhưng dáng dấp năm xưa hẳn cũng vẫn còn ... ôi, tiếc thay ta lại không còn nhìn được nữa.

Triệu Mẫn thấy ông ta nói hết sức trịnh trọng, xem ra bên trong có điều gì bí ẩn, bà lão lưng còng bệnh hoạn xấu xí kia, không lẽ đã có thời là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, nói gì cũng không thể nào tin được liền hỏi lại:

- Tạ lão gia danh chấn giang hồ, võ công cao cường, chẳng cần phải nói đến. Bạch Mi Ưng Vương tự mình sáng lập một ngành, cùng lục đại môn phái chống trả, tranh hùng võ lâm hơn hai chục năm, Thanh Dực Bức Vương thần xuất quỉ một, hôm trước nơi chùa Vạn An dọa sẽ hủy dung mạo tiểu nữ, bây giờ nghĩ lại vẫn còn kinh hãi. Kim Hoa bà bà võ công tuy cao, mưu trí tuy sâu nhưng được đứng trên ba vị xem ra có điều bất xứng, không hiểu vì duyên cớ gì?

Tạ Tốn nói:

- Đó là Ân nhị ca, Vi tứ đệ và ta ba người tình nguyện nhường bà ta đấy chứ.

Triệu Mẫn nói:

- Vì sao thế?

Đột nhiên nàng cười lên khanh khách nói:

- Hay là vì bà ta là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, người anh hùng không qua nổi cửa ải người đẹp, ba vị đại hào kiệt cam tâm đứng sau bóng quần hồng?

Nàng là gái phiên bang, không chấp nê lễ mạo tôn ti, trong lòng nghĩ sao liền chẳng ngại ngùng gì mở miệng nói đùa Tạ Tốn. Tạ Tốn không nổi giận, thở dài:

- Cam tâm bái phục dưới bóng quần hồng, đâu phải chỉ có ba người thôi đâu? Khi đó dù trong hay ngoài Minh giáo, mong được lọt vào mắt xanh của nàng Đại Ỷ Ti nói là hàng trăm người cũng còn là ít.

Triệu Mẫn nói:

- Đại Ỷ Ti? Có phải đó là Hàn phu nhân không? Cái tên sao kỳ lạ vậy?

Tạ Tốn nói:

- Bà ta từ Ba Tư đến, đó là tên Ba Tư.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược đều giật mình cùng kêu lên:

- Bà ta là người Ba Tư ư?

Tạ Tốn lạ lùng:

- Không lẽ các ngươi không nhìn ra sao? Bà ta là con lai Trung Quốc - Ba Tư, tuy con ngươi và tóc đen nhưng mắt sâu, mũi cao, da trắng như tuyết khác xa gái Trung Nguyên, thoạt nhìn là nhận ra ngay.

Triệu Mẫn nói:

- Không đâu, không đâu! Mũi bà ta thì tẹt, mắt thì hí, khác xa với gì ông mô tả. Trương công tử, chàng nghĩ có phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế! Không lẽ bà ta cũng như khổ đầu đà, cố ý hủy dung mạo mình chăng?

Tạ Tốn hỏi lại:

- Khổ đầu đà là ai thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đó là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo Phạm Dao.

Chàng liền đem chuyện Phạm Dao tự hủy dung mạo để trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương thuật sơ qua cho Tạ Tốn nghe. Tạ Tốn thở dài:

- Việc đó Phạm huynh làm thật là đau lòng nhưng cũng thật đơn côi, có công to với bản giáo, người thường làm sao có được. Ôi, có lẽ phần lớn cũng vì Hàn phu nhân mà ra chăng?

Triệu Mẫn nói:

- Thôi Tạ lão gia đừng nói vòng vo nữa, kể cho chúng tôi nghe từ đầu chí cuối nào.

Tạ Tốn hừ một tiếng, ngửng đầu lên trời, xuất thần hồi lâu mới chậm rãi nói:

- Hơn hai mươi năm trước đây, lúc đó Minh giáo dưới quyền thống lãnh của Dương giáo chủ, thật là hưng vượng. Hôm đó đột nhiên có ba sứ giả người Hồ từ Ba Tư đến đỉnh Quang Minh, mang theo một lá thư từ giáo chủ tổng giáo bên Ba Tư yết kiến Dương giáo chủ. Trong thư có viết là tổng giáo Ba Tư có một vị Tịnh Thiện sứ giả vốn là người gốc Trung Hoa, đã đến ở bên Ba Tư từ lâu, gia nhập Minh giáo, lập được nhiều công lao, lấy một người đàn bà Ba Tư làm vợ, sinh được một đứa con gái. Vị Tịnh Thiện sứ giả kia mới chết cách đây một năm, khi lâm chung lòng nhớ về cố quốc nên để lại di ngôn muốn con gái được trở về Trung Thổ. Giáo chủ tổng giáo tôn trọng di chí ấy nên sai người đưa con gái ông ta về Quang Minh Đính, nhờ Minh giáo Trung Thổ chăm lo chiếu cố cho. Dương giáo chủ liền bằng lòng ngay, mời cô gái đó vào.

Thiếu nữ kia vừa bước chân vào sảnh đường, lập tức căn phòng bừng sáng, thấy nàng xinh đẹp tuyệt trần không ai sánh kịp. Khi nàng uyển chuyển phục xuống vái chào Dương giáo chủ, trong sảnh đường tả hữu Quang Minh sứ giả, ba pháp vương, Ngũ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ sứ không ai là không chấn động. Ba sứ giả Ba Tư hộ tống nàng ở lại Quang Minh Đính một đêm, qua hôm sau liền bái biệt, còn người con gái xinh đẹp Ba Tư Đại Ỷ Ti kia ở lại trên Quang Minh Đính.

Triệu Mẫn cười nói:

- Tạ lão gia, lúc ấy lão gia cũng mê cô gái xinh đẹp người Ba Tư kia, phải không? Đừng có xấu hổ, cứ thực thà nói cho chúng tôi nghe đi.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Không đâu! Khi đó ta mới vừa lấy vợ, đang trong thời kỳ mặn nồng, vợ ta lại mới mang thai, ta làm gì có tình ý khác được?

Triệu Mẫn "A" lên một tiếng, cảm thấy mình hơi lỡ lời. Nàng biết vợ con Tạ Tốn đều bị Thành Côn giết hại, lúc này vô ý đề cập đến, không khỏi chạm đến vết thương lòng của ông ta, vội nói:

- Đúng thế, đúng thế! Thảo nào Hàn phu nhân có nói, năm xưa bà ta lấy Ngân Diệp tiên sinh, trên Quang Minh Đính ai ai cũng phản đối, chỉ có Dương giáo chủ và lão gia là tốt với bà ấy thôi. Chắc là phu nhân của Dương giáo chủ không những đã xinh đẹp mà cũng lại ghê gớm lắm nên đấng trượng phu mới nem nép một bề.

Tạ Tốn nói:

- Dương giáo chủ khẳng khái hào hiệp, Đại Ỷ Ti tuổi tác chỉ đáng con gái ông ta. Huống chi tổng giáo giáo chủ Ba Tư đã gửi gấm ông ta chiếu cố, Dương giáo chủ đối với cô ta hết lòng hết dạ, quyết không thể nào có ý khác được. Dương giáo chủ phu nhân là sư muội của sư phụ ta Thành Côn, là sư cô của ta. Dương giáo chủ đối với phu nhân cực kỳ yêu thương kính trọng.

Thành Côn giết toàn thể gia đình Tạ Tốn, tuy trong tâm khảm thù hận càng lúc càng sâu nhưng khi đề cập đến tên Thành Côn, ông chỉ nhắc qua đến thôi không khác gì nhắc tới một người bình thường. Triệu Mẫn nói:

- Khổ đầu đà Phạm Dao nghe nói khi còn trẻ là một thanh niên thật đẹp trai, chắc là mê nàng Đại Ỷ Ti lắm nhỉ?

Tạ Tốn gật đầu:

- - Quả đúng là yêu một khắc mà tình đà muôn kiếp, gặp một lần mà suốt đời khắc sâu trong tâm khảm. Thực ra đâu phải chỉ một mình Phạm huynh, kẻ nhìn thấy nàng Đại Ỷ Ti xinh đẹp mà không động lòng chắc chẳng bao nhiêu. Thế nhưng giáo qui Minh giáo rất nghiêm nhặt, ai ai cũng lấy lễ mà đãi, những người muốn cầu thân với Đại Ỷ Ti đều là những thanh niên chưa vợ. Ngờ đâu Đại Ỷ Ti đối với ai cũng lạnh như tiền, hoàn toàn không giả vờ chút nào, dẫu là ai nếu lộ tình ý đều bị nàng ta mắng cho một trận, khiến cho người đó thẹn không còn đất đứng không còn dám tơ tưởng gì nữa. Sư cô ta Dương phu nhân có ý tác hợp, muốn ghép nàng với Phạm Dao thành vợ chồng. Đại Ỷ Ti nhất mực cự tuyệt, nói mãi nàng liền vung kiếm thề trước mặt mọi người quyết ý không lấy chồng, nếu bị ép uổng thà chết còn hơn. Từ đó trở đi ai ai cũng nản lòng chẳng còn dám nghĩ chuyện làm quen với nàng nữa.

Qua được nửa năm, một ngày kia có một người từ đảo Linh Xà ở ngoài khơi đến, tự xưng họ Hàn, tên là Thiên Diệp, là con trai của kẻ thù Dương giáo chủ khi trước, lên Quang Minh Đính để báo cừu cho cha. Mọi người thấy gã họ Hàn kia là một thanh niên tướng mạo không có gì đặc biệt khác thường, vậy mà dáng ngang nhiên một thân một mình lên Quang Minh Đính thách đấu với Dương giáo chủ không khỏi cười ồ lên. Tuy nhiên Dương giáo chủ lại rất trịnh trọng, tiếp như khách quí, mở đại tiệc thết đãi. Sau khi ăn uống rồi ông mới nói cho tất cả các anh em nguyên do vì đâu. Thì ra năm xưa Dương giáo chủ cùng cha y hai người nói năng không hợp sinh ra động thủ, đánh một chưởng Đại Cửu Thiên Thủ khiến đối phương bị trọng thương, ngã gục xuống không đứng lên nổi. Khi đó cha y có nói là ngày sau ắt sẽ báo mối thù đó, nhưng biết võ công mình không thể nào bì kịp, nếu không sai con trai ắt sẽ sai con gái đến tầm cừu. Dương giáo chủ nói: "Bất kể dù là con trai con gái gì chăng nữa, ta cũng nhường trước ba chiêu". Người kia nói: "Không cần phải nhường chiêu, nhưng tỉ võ thế nào thì phải do con ta định đoạt". Dương giáo chủ khi đó liền bằng lòng. Việc qua đã hơn mười năm, Dương giáo chủ không còn nghĩ gì đến nữa, nào ngờ người con trai của họ Hàn hôm nay lại đến đây.

Mọi người ai cũng nghĩ rằng, kẻ hiền lành chẳng ai đến, đã đến chắc chẳng ra gì, người này dám một thân một mình lên Quang Minh Đính, ắt phải có tài nghệ kinh người. Thế nhưng võ công của Dương giáo chủ cực kỳ cao cường, có thể nói là vô địch trong thiên hạ, chỉ trừ Trương chân nhân của phái Võ Đương ra, khó mà có ai thắng được ông ta một chiêu nửa thức. Gã họ Hàn kia được bao nhiêu tuổi, dù ba người, năm người như y cùng xông lên, Dương giáo chủ cũng chẳng coi vào đâu. Chỉ đáng lo là không biết y ra đề mục khó khăn gì.

Ngày hôm sau, gã Hàn Thiên Diệp trước mặt mọi người nói rõ ước ngôn khi xưa, cốt chặn trước Dương giáo chủ, để ông không thể nuốt lời, sau đó mới đưa đề mục tỉ đấu ra. Y muốn cùng Dương giáo chủ cùng nhảy vào trong Bích Thủy Hàn Đàm trên Quang Minh Đính để so tài cao thấp.

Lời y vừa nói ra, mọi người ai nấy kinh hãi đến thất thần. Bích Thủy Hàn Đàm nước lạnh thấu xương, dẫu ngay nắng hạ cũng chẳng một ai dám xuống, huống chi lúc này lại chính giữa mùa đông? Dương giáo chủ võ công tuy cao nhưng lại không biết bơi, chỉ nhảy vào trong Bích Thủy Hàn Đàm, chẳng cần tỉ võ cũng đủ đông cóng, chết đuối ngay. Khi đó ở trong Thánh Hỏa Sảnh, quần hào ai cũng lên tiếng chửi rủa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chuyện đó thật là khó xử, đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Dương giáo chủ năm xưa đã bằng lòng chấp thuận cho họ Hàn kia là phương cách tỉ võ do con y lựa chọn, vị Hàn Thiên Diệp tiền bối chọn thủy chiến, cứ theo lý thì Dương giáo chủ không thể nào từ chối được.

Triệu Mẫn đưa tay nắm lấy tay chàng, véo nhẹ một cái, mỉm cười nói:

- Đúng thế, đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Giáo chủ Minh giáo thân phận cao quí dường nào, không lẽ nói rồi lại nuốt lời, thất tín với thiên hạ? Đã nhận lời rồi là phải làm cho xong.

Nàng nói đây là nói về Trương Vô Kỵ, nhắc lại lời thề ước giữa hai người. Tạ Tốn làm sao biết được chuyện đó, nói:

- Chính là như thế. Hôm đó Hàn Thiên Diệp lớn tiếng nói: "Tại hạ một mình lên trên đỉnh Quang Minh này, nguyên không mong sống sót mà xuống núi. Các vị anh hùng hào kiệt có thể đem tại hạ loạn đao phân thây, ngoại trừ người trong Minh giáo ra, trên giang hồ có ai biết đấy là đâu. Tại hạ chỉ là một gã vô danh tiểu tốt, có giết đi cũng chỉ một người, có gì đáng nói? Các vị muốn giết thì cứ tiến lên động thủ.

Mọi người nghe y nói thế, không ai còn dám nói thêm câu nào. Dương giáo chủ trầm ngâm một hồi rồi nói: "Hàn huynh đệ, tại hạ năm xưa quả có ước hẹn cùng lệnh tôn. Hảo hán tử phải cho quang minh lỗi lạc, vụ đấu võ này tại hạ nhận thua. Huynh đệ muốn xử trí thế nào, cũng nguyện tuân theo". Hàn Thiên Diệp lật cổ tay một cái, trong tay y đã cầm một thanh chủy thủ sáng loáng, để ngay vào tim mình nói: "Con dao găm này là di vật của tiên phụ, tại hạ chỉ xin Dương giáo chủ cúi lạy con dao này ba lạy".

Quần hùng nghe thế, không ai là không phẫn nộ, đường đường là giáo chủ Minh giáo sao lại chịu để cho người ta làm nhục đến thế? Thế nhưng Dương giáo chủ đã nhận thua rồi, cứ theo qui củ giang hồ, không thể không để cho đối phương xử trí. Tình thế trước mắt ai cũng rõ, Hàn Thiên Diệp phen này lên đây thí mạng, nhận ba lạy của Dương giáo chủ rồi, y sẽ lập tức đâm con dao vào tim để khỏi chết dưới tay quần hào Minh giáo.

Khi đó trong đại sảnh im phăng phắc không ai nói một lời. Quang Minh tả hữu sứ Tiêu Dao nhị tiên, Bạch Mi Ưng Vương Ân nhị ca, Bành Oánh Ngọc hòa thượng mọi người bình thời vốn là những kẻ túc trí đa mưu, nhưng trước nạn đề này, không có cách nào khác. Hành động đó của Hàn Thiên Diệp rõ ràng muốn bức tử Dương giáo chủ để trả mối thù năm xưa cha y bị trọng thương phải quì xuống, rồi sau sẽ tự sát.

Ngay trong lúc khẩn bách vạn phần đó, Đại Ỷ Ti đột nhiên lách khỏi đám đông tiến ra, nói với Dương giáo chủ: "Gia gia, người ta có được đứa con trai có hiếu, không lẽ cha lại không đứa con gái có lòng? Vị Hàn gia này vì cha mà báo thù, để con thay cha tiếp y vài chiêu. Chuyện đời trước để đời trước lo, chuyện đời sau để đời sau lo, không thể nào làm loạn vai vế được".

Mọi người ai nấy ngạc nhiên: "Sao nàng ta lại gọi Dương giáo chủ là gia gia?". Thế nhưng hiểu ngay nàng ta mạo xưng là con gái của giáo chủ cốt để giải tỏa cho ông khỏi cảnh nguy khốn, ai nấy nghĩ thầm: "Xem hình dáng cô ta yểu điệu thướt tha gió thổi cũng ngã thế kia, không hiểu có biết võ nghệ gì không? Nếu như có biết thì cũng không cao cường, nói gì đến chuyện nhảy vào Bích Thủy Hàn Đàm thủy chiến".

Dương giáo chủ chưa kịp trả lời, Hàn Thiên Diệp đã cười khẩy nói: "Cô nương nếu như thay cha tiếp chiêu, không có gì là không được. Thế nhưng nếu cô nương thua, tại hạ vẫn yêu cầu Dương giáo chủ cúi lạy thanh chủy thủ của tiên phụ ba cái". Y thấy nàng Đại Ỷ Ti xinh đẹp yếu đuối nên nào có coi ra gì? Đại Ỷ Ti đáp: "Nếu như tôn giá thua thì sao?". Hàn Thiên Diệp nói: "Lúc đó muốn đâm chém, muốn lăng trì gì cũng xin chịu cả". Đại Ỷ Ti nói: "Được, vậy thì mình đi ra Bích Thủy Hàn Đàm". Nói xong nàng đi trước dẫn đầu. Dương giáo chủ vội vàng xua tay nói: "Không được, việc này không liên quan gì đến con". Đại Ỷ Ti nói: "Thưa cha, cha đừng lo". Nói xong nàng nhẹ nhàng quì xuống vái lạy. Cái lễ đó hẳn là nàng nhận Dương giáo chủ làm cha nuôi.

Dương giáo chủ biết nàng đã có chủ định, ngoài việc đó ra ông không còn cách nào khác, nên đành phải để nàng lo liệu. Tất cả mọi người cùng đi ra Bích Thủy Hàn Đàm nơi phía dưới chân núi. Lúc đó gió bấc đang thổi mạnh, mới đến bên hồ đã thấy lạnh buốt, những người nội lực hơi kém đều chịu không nổi. Nước trong hồ đã kết thành một lớp băng dầy, nhìn vào chỉ thấy xanh biếc, sâu không thấy đáy.

Dương giáo chủ nghĩ không nên để cho Đại Ỷ Ti vì mình mà phải bỏ mạng, ngang nhiên nói: "Con gái ngoan! Lòng tốt của con cha ghi nhớ trong lòng, để cha ra tiếp cao chiêu của Hàn huynh". Nói xong ông cởi áo khoác ngoài, cầm một thanh đơn đao, quyết ý nhảy vào trong đầm nước, rồi sẽ không bao giờ ra nữa. Đại Ỷ Ti nở một nụ cười đáp: "Cha ơi! Con sinh trưởng lớn lên nơi bờ biển, bơi lội nào có kém ai". Nói xong rút trường kiếm ra phi thân nhảy vào trong hồ đứng trên mặt băng, giơ mũi kiếm vẽ trên mặt hồ một vòng tròn ước chừng hai thước, chân trái đạp xuống, nghe soẹt một tiếng nhỏ, đã đạp mặt băng tụt xuống, cả người chìm luôn vào trong hồ.

Khi đó trên mặt biển gió bấc lạnh ngắt thổi tới lay động quần áo mọi người, Tạ Tốn nói tiếp:

- Đứng bên bờ Bích Thủy Hàn Đàm nhìn vào, hôm nay nghĩ lại tưởng chừng như việc chỉ mới hôm qua. Đại Ỷ Ti hôm đó mặc một chiếc áo màu tím nhạt, nàng đứng trên mặt băng quả thật chẳng khác gì lăng ba tiên nữ[2], đột nhiên không một tiếng động chui tuột xuống nước, quần hào đứng ngoài không ai là không kinh ngạc. Hàn Thiên Diệp thấy thân thủ của nàng nhảy vào trong hồ, nét cuồng ngạo trên mặt lập tức biến mất, tay cầm chủy thủ cũng nhảy luôn vào.

Bích Thủy Hàn Đàm nước màu xanh lục, đứng bên trên không ai nhìn thấy tình hình hai người giao đấu ra sao, chỉ thấy mặt nước dao động không ngớt, một lúc sau, mặt nước lặng dần nhưng chỉ một lát nước lại quấy lên lần nữa. Quần hào Minh giáo ai nấy âu lo, thấy hai người xuống nước đã lâu, dưới hồ làm sao chịu nổi lâu như thế? Lại một hồi nữa, đột nhiên một luồng máu đỏ từ dưới nước nổi lên, ai nấy càng thêm lo sợ, chẳng hiểu có phải Đại Ỷ Ti bị thương chăng?

Bỗng nghe cách một tiếng, Hàn Thiên Diệp từ dưới lỗ băng nhảy vọt lên, thở hổn hển. Mọi người thấy y ra trước, ai nấy kinh hãi, cùng hỏi dồn: "Đại Ỷ Ti đâu? Đại Ỷ Ti đâu?". Chỉ thấy y hai tay không, thanh chủy thủ cắm trên ngực, hai bên má có hai đường cắt dài.

Mọi người còn đang kinh dị, Đại Ỷ Ti chẳng khác gì một con cá bay vọt lên khỏi nước, trường kiếm hộ thân, ở trên không nhẹ nhàng lượn một vòng rồi mới rơi xuống mặt băng. Quần hùng lớn tiếng reo hò, Dương giáo chủ tiến lên cầm tay nàng, cao hứng không để đâu cho hết. Có ai ngờ đâu, người con gái thiên kiều bách mị kia công phu dưới nước lại cao siêu đến thế. Đại Ỷ Ti liếc nhìn Hàn Thiên Diệp nói: "Gia gia, người này bơi lội giỏi lắm, thương cho lòng hiếu thảo vì cha báo thù của y, tội vô lễ với giáo chủ, gia gia tha cho y nhé?". Dương giáo chủ dĩ nhiên nhận lời, ra lệnh cho thần y Hồ Thanh Ngưu chữa bệnh cho Hàn Thiên Diệp.

Tối hôm đó trên Quang Minh Đính mở đại tiệc ăn mừng, ai ai cũng bảo Đại Ỷ Ti là đại công thần của Minh giáo, nếu không có nàng đứng ra giải vây, tên tuổi một đời của Dương giáo chủ đành trôi theo dòng nước. Sau đó sắp xếp chức vụ, Dương phu nhân tặng cho nàng mỹ hiệu "Tử Sam Long Vương", đứng ngang hàng cùng Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương. Ba người bọn ta tình nguyện nhường nàng đứng đầu tứ vương, vì quả thật công lao của Đại Ỷ Ti hôm đó, so với tam vương từ trước đến nay hơn hẳn. Từ đó ba người hộ giáo pháp vương chúng ta cùng nàng huynh muội kết nghĩa, nàng gọi ta là Tạ tam ca.

Ngờ đâu sau trận chiến ở Bích Thủy Hàn Đàm, kết cục lại không ai ngờ tới được. Hàn Thiên Diệp tuy thua nhưng không hiểu vì sao lại chiếm được trái tim của Đại Ỷ Ti. Có lẽ vì ngày ngày nàng đến xem tình hình y ra sao, nơi giường bệnh, từ thương hại mà thành thương yêu, thù hận biến sang cảm tình, đến khi Hàn Thiên Diệp khỏi hẳn, Đại Ỷ Ti đột nhiên thưa với giáo chủ cho nàng kết hôn với y.

Mọi người nghe được tin ấy, kẻ thì đau lòng thất vọng, người thì phẫn nộ bừng bừng. Gã Hàn Thiên Diệp kia trước đây bức bách giáo chủ khiến người trong Minh giáo hận y không để đâu cho hết, hộ giáo pháp vương của bản giáo sao lại lấy y được? Có người tính tình nóng nảy liền chỉ ngay mặt y mắng chửi. Đại Ỷ Ti tính tình cứng cỏi, cầm kiếm đứng ngay cửa sảnh, lớn tiếng nói: "Từ nay trở đi, Hàn Thiên Diệp là phu quân của ta. Người nào làm nhục Hàn lang thì hãy ra thử với trường kiếm của Tử Sam Long Vương". Mọi người thấy việc ra như thế, chỉ đành hậm hực bỏ đi.

Khi Đại Ỷ Ti thành hôn với Hàn Thiên Diệp, có đến quá nửa anh em không đến uống rượu mừng. Chỉ có Dương giáo chủ và ta cảm kích việc nàng đứng ra giải vây nên ra sức giúp nàng sắp đặt và giải hòa để việc cưới xin xuông xẻ, không xảy ra chuyện gì rắc rối.

Thế nhưng khi Hàn Thiên Diệp muốn gia nhập Minh giáo, vì số người chống đối quá nhiều, Dương giáo chủ không tiện làm ngược với ý của số đông. Chẳng bao lâu sau, vợ chồng Dương giáo chủ đột nhiên mất tích, người trên Quang Minh Đính ai cũng hoang mang. Mọi người đổ ra tứ phía tìm kiếm, một đêm kia Quang Minh hữu sứ Phạm Dao bắt gặp Hàn phu nhân Đại Ỷ Ti từ trong đường hầm đi ra.

Trương Vô Kỵ giật mình hỏi lại:

- Bà ta từ trong bí đạo đi ra ư?

Tạ Tốn đáp:

- Đúng thế. Giáo qui của Minh giáo cực kỳ nghiêm nhặt, đường hầm này chỉ một mình giáo chủ được phép ra vào mà thôi. Phạm Dao vừa tức giận vừa kinh hãi liền tiến lên tra vấn. Hàn phu nhân nói: "Tôi đã phạm phải trọng tội của bản giáo, muốn đâm muốn chém gì cũng đành cam chịu". Tối hôm đó đại hội quần hào, Hàn phu nhân cũng chỉ một câu đó nói ra mà thôi. Hỏi nàng đi vào trong bí đạo làm gì, nàng bảo không muốn nói láo nhưng cũng không muốn nói ra sự thực; hỏi đến Dương giáo chủ đi đâu, nàng bảo nàng không biết, còn chuyện lẻn vào đường hầm thì một mình làm, một mình chịu nói nhiều vô ích. Nếu theo lý, nếu nàng không tự vẫn thi cũng phải tự chặt một cánh tay, nhưng một là Phạm Dao tình cũ chưa quên, hết sức che chở cho nàng, hai là ta đứng bên cạnh trần tình nên quần hào nghị tội chỉ giam cấm mười năm để ăn năn sám hối. Ngờ đâu Đại Ỷ Ti cãi lại: "Dương giáo chủ không có ở đây, không ai quản thúc gì tôi được".

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Nghĩa phụ, Hàn phu nhân lẻn vào bí đạo làm gì thế?

Tạ Tốn nói:

- Chuyện này nói ra thật là dài, trong Minh giáo chỉ một mình ta biết mà thôi. Khi đó ai cũng nghi nàng có dính líu với việc vợ chồng Dương giáo chủ thất tung nhưng ta cực lực chống chế hai việc không có gì liên hệ. Nơi Thánh Hỏa Sảnh trên Quang Minh Đính quần hào nói mãi cũng không đến đâu, sau cùng Hàn phu nhân đành phải phá môn xuất giáo, nói là từ nay về sau, không còn liên quan gì đến Minh giáo Trung Thổ nữa. Nàng ta là người đầu tiên ra khỏi Minh giáo, ngay hôm đó cùng Hàn Thiên Diệp lặng lẽ xuống núi không biết đi đâu.

Về sau trong Minh giáo các anh em tìm Dương giáo chủ không ra, qua vài năm sau tranh nhau ngôi giáo chủ, sự việc mỗi lúc một thêm bi đát. Bạch Mi Ân nhị ca cũng rời Quang Minh Đính tự sáng lập ra Thiên Ưng giáo. Ta hết sức khuyên giải, ông ta khăng khăng không nghe hai bên lại còn hục hặc. Hai mươi năm trước nơi Vương Bàn Sơn đảo, Thiên Ưng giáo dương đao lập uy, Kim Mao Sư Vương đến đây phá cho tan nát, trước là cướp lấy thanh đao Đồ Long, sau là để cho hả mối hận năm trước, cốt để cho Ân nhị ca mất mặt, cho ông ta hiểu rằng ra khỏi Minh giáo rồi chưa chắc đã đi đến đâu. Ôi, hôm nay nghĩ lại, ta không khỏi thấy mình nhỏ nhen quá!

Ông ta thở dài một tiếng, trong tiếng thở dài bao hàm không biết bao nhiêu điều đau lòng của ký vãng, bao nhiêu chuyện sóng gió trên giang hồ. Mọi người lặng yên hồi lâu không ai nói gì. Triệu Mẫn nói:

- Lão gia tử, sau này Kim Hoa, Ngân Diệp hai người uy chấn giang hồ, sao người trong Minh giáo lại không nhận ra? Ngân Diệp tiên sinh hẳn là Hàn Thiên Diệp, về sau tại sao trúng độc mà chết?

Tạ Tốn nói:

- Những chuyện bên trong đó ta hoàn toàn không biết gì cả. Có lẽ vợ chồng đó hành tẩu giang hồ hết sức tránh mặt người trong Minh giáo.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng vậy. Kim Hoa bà bà sau này không muốn gặp người trong Minh giáo. Khi lục đại môn phái vây đánh Minh giáo, bà ta tuy có đến Quang Minh Đính nhưng không lên núi tiếp tay.

Triệu Mẫn ngẫm nghĩ rồi tiếp:

- Lạ là Tử Sam Long Vương dung nhan xinh đẹp tuyệt trần sao lại biến đổi trở thành xấu xí như thế? Xem ra khuôn mặt không bị hủy hoại chút nào cả.

Tạ Tốn đáp:

- Ta đoán là bà ta dùng một phương pháp gì rất khéo léo thay đổi khuôn mặt. Hàn phu nhân trước nay hành sự rất kỳ quái, thực ra cũng vì có chuyện khổ tâm không nói cho ai được. Bà ta cứ phải trốn tránh tổng giáo Ba Tư truy tầm, nào ngờ rồi sau cũng không sao thoát được.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cùng hỏi:

- Sao tổng giáo Ba Tư lại đi lùng kiếm bà ta làm gì?

Tạ Tốn nói:

- Đây là chuyện đại bí mật của Hàn phu nhân, đáng lẽ không nên nói ra. Nhưng ta mong các ngươi quay lại đảo Linh Xà cứu bà ta nên không thể không nói.

Triệu Mẫn kinh hãi kêu lên:

- Mình quay lại đảo Linh Xà ư? Làm sao đánh lại ba sứ giả Ba Tư?

Tạ Tốn không trả lời chỉ bắt đầu kể lại:

- - Mấy trăm năm nay, giáo chủ Minh giáo Trung Thổ đều do đàn ông đảm nhiệm, nhưng giáo chủ tổng giáo Ba Tư lại là đàn bà, mà phải là con gái chưa chồng còn là xử nữ. Trong kinh điển của tổng giáo có qui định một cách trịnh trọng rằng phải do thánh xử nữ đảm nhiệm giáo chủ thì mới duy trì được sự trinh khiết thần thánh của Minh giáo. Mỗi một giáo chủ khi tiếp nhiệm xong đều tuyển trong số con cái của các viên chức cao cấp trong tổng giáo ba người con gái, gọi là "thánh nữ". Khi các thánh nữ này nhận chức có thề rằng sẽ du hành tứ phương, vì Minh giáo lập công tích đức. Sau khi giáo chủ từ trần các trưởng lão trong tổng giáo sẽ tập họp, suy xét công lao trong ba người thánh nữ ai cao ai thấp, rồi sẽ chọn người công đức cao nhất lên tiếp nhiệm giáo chủ. Nếu trong ba thánh nữ kia ai bị mất trinh thì sẽ bị tội thiêu sống, dẫu cho trốn đến chân trời góc bể họ cũng sai người đuổi theo bắt cho kỳ được để bảo tồn trinh thiện của thánh giáo ...

Ông vừa kể tới đây, Triệu Mẫn thất thanh kêu lên:

- Không lẽ Hàn phu nhân là một trong ba thánh nữ của tổng giáo chăng?

Tạ Tốn gật đầu:

- Chính thế! Trước khi Phạm Dao phát hiện bà ta lén vào bí đạo, thì ta đã bắt gặp rồi. Hàn phu nhân coi ta là tri kỷ nên đem tất cả mọi chuyện nói cho ta nghe. Khi nàng đấu với Hàn Thiên Diệp trong Bích Thủy Hàn Đàm, hai người thịt da đụng chạm, sau lại an ủi nhau trên giường bệnh để thành mối tình oan nghiệt. Nàng biết là sẽ có ngày tổng giáo sai người sang kiếm nên chỉ mong lập được đại công chuộc tội. Bà ta lén vào bí đạo, cốt là tìm kiếm "Càn Khôn Đại Na Di" võ công tâm pháp, tâm pháp này tổng giáo thất lạc đã lâu, nhưng Minh giáo bên Trung Thổ vẫn còn giữ được. Tổng giáo sai nàng lên Quang Minh Đính chính là vì lẽ đó.

Trương Vô Kỵ "A" lên một tiếng, dường như chàng thấy có điều gì mù mờ không ổn, nhưng là chuyện gì, ngay lúc này chưa nghĩ ra. Chỉ nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Hàn phu nhân mấy lần lẻn vào bí đạo, nhưng vẫn không tìm thấy võ công tâm pháp đó. Khi ta biết chuyện rồi liền nghiêm nghị răn đe là việc đó phạm phải đại qui của Minh giáo, khó có thể khoan dung ...

Triệu Mẫn xen vào:

- A, tôi hiểu rồi. Hàn phu nhân phá môn xuất giáo cốt để có thể tiếp tục lẻn vào đường hầm vì bà ta không còn là người trong Minh giáo Trung Thổ nữa, không bị ước thúc bởi qui luật vào ra bí đạo.

Tạ Tốn nói:

- Triệu cô nương thông minh thật. Thế nhưng Quang Minh Đính là cơ sở trọng địa của bản giáo, đâu thể để người ngoài ra vào tùy ý? Lúc đó ta đã đoán được dụng ý của bà ta rồi nên sau khi Hàn phu nhân hạ sơn, ta đích thân canh giữ cửa đường hầm, ba lần nàng lén lên núi lần nào cũng gặp ta nên không dám tiếp tục nữa.

Tạ Tốn suy nghĩ một hồi rồi hỏi:

- Phục sắc của ba sứ giả Ba Tư có khác gì với Minh giáo Trung Thổ chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Bọn họ đều mặc áo bào trắng, bên góc áo có thêu một ngọn lửa đang cháy ... Ồ, áo bào có riềm màu đen, cái đó là điểm khác biệt duy nhất.

Tạ Tốn vỗ vào mạn thuyền nói:

- Đúng rồi, tổng giáo giáo chủ qua đời. Người Tây Vực dùng màu đen là màu tang, áo bào trắng thêu viền đen là để tang đó. Bọn họ đang tuyển lập tân giáo chủ nên mới đường xa vạn dặm tới Trung Thổ, truy tìm Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

- Hàn phu nhân nếu từ Ba Tư đến ắt phải biết võ công quái dị của ba sứ giả, sao lại chỉ mới một chiêu đã bị bọn họ bắt rồi?

Triệu Mẫn cười nói:

- Sao anh ngốc thế. Hàn phu nhân giả vờ đó, bà ta muốn che dấu thân phận mình nên không để lộ ra là mình biết võ công Ba Tư, theo như em nghĩ, nếu như Tạ lão gia tử nghe lệnh ba sứ giả giết bà ta, Hàn phu nhân thể nào cũng có cách thoát thân.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Bà ta không chịu để lộ thân phận thì đúng rồi. Thế nhưng sau khi bị ba sứ giả Ba Tư đánh trúng huyệt đạo vẫn còn có thể thoát thân thì chưa chắc. Hàn phu nhân thà để ta một đao chém chết còn hơn chịu cái khổ hỏa thiêu.

Triệu Mẫn nói:

- Tiểu nữ tưởng Minh giáo Trung Thổ đã là tà giáo, ai ngờ Minh giáo Ba Tư lại còn tà hơn. Sao lại cứ phải gái còn trinh mới làm giáo chủ được? Sao lại đem thánh nữ thất trinh ra thiêu sống là sao?

Tạ Tốn gắt lên:

- Tiểu cô nương chỉ nói lăng nhăng. Giáo phái nào cũng có qui luật nghi điển truyền từ đời này sang đời khác. Hòa thượng ni cô không được lấy vợ lấy chồng, không được ăn mặn thì chẳng phải qui luật là gì? Thế cái đó tà hay không tà?

Đột nhiên nghe tiếng răng Ân Ly lách cách đập vào nhau, người run cầm cập. Trương Vô Kỵ vội vàng sờ đầu cô ta thấy nóng hầm hập, rõ ràng là đang bị hàn nhiệt giao công, bệnh tình cực kỳ nguy ngập. Chàng liền nói:

- Nghĩa phụ, hài nhi nghĩ mình chắc phải quay trở lại đảo Linh Xà. Ân cô nương thương thế không phải nhẹ, phải tìm thuốc cứu chữa ngay. Thôi mình cứ hết sức mà làm, nếu không cứu được Hàn phu nhân thì cũng cứu được Ân cô nương.

Tạ Tốn nói:

- Đúng vậy. Cô gái này đối với con tình sâu ý nặng lẽ nào lại không cứu? Chu cô nương, Triệu cô nương, hai cô ý ra sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Thương thế của Ân cô nương quan trọng hơn, còn vết thương của tôi không lấy gì làm nặng. Nhưng nếu không trở lại Linh Xà đảo thì làm cách nào khác được?

Chu Chỉ Nhược chỉ thản nhiên nói:

- Lão gia tử bảo quay lại thì tất cả cùng quay lại.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chờ cho sương mù tan hết, nhìn thấy trăng sao mới có thể biết phương hướng được. Nghĩa phụ, gã Lưu Vân Sứ kia lộn hai vòng trên không là có thể dùng thánh hỏa lệnh đả thương con, thế là duyên cớ vì đâu?

Sau đó hai người cùng nghiên cứu võ công gia số của ba sứ giả Ba Tư, sở học của Triệu Mẫn rất rộng rãi, thỉnh thoảng cũng góp ý vào nhưng bàn luận một hồi lâu vẫn không tìm ra được yếu chỉ của công phu ba người kia liên thủ ra sao.

Sương mù trên biển mãi đến khi mặt trời mọc mới tan dần. Trương Vô Kỵ nói:

- Mình từ phương bắc trôi xuống phương đông nam, bây giờ đi ngược lên tây bắc mà tìm.

Chàng cùng Tạ Tốn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu bốn người luân lưu chèo thuyền. Điều khiển chiếc thuyền nhỏ xông pha các đợt sóng trên biển cả thực không phải dễ dàng, may nhờ Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn nội lực thâm hâu, còn Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu cũng ngang ngửa nhau, chèo thuyền cũng chẳng khác gì đang luyện võ công.

Chèo như thế mấy ngày liền, chiếc thuyền nhỏ cứ theo hướng tây bắc mà tiến. Cũng trong mấy ngày đó, Tạ Tốn nhíu mày suy nghĩ võ công quái dị của ba sứ giả Ba Tư, ngoài việc hỏi lại Trương Vô Kỵ vài câu, không nói thêm một lời nào. Đến chiều ngày thứ sáu, bỗng nhiên Tạ Tốn tra hỏi thật kỹ công phu phái Nga Mi mà Chu Chỉ Nhược học được, Chu Chỉ Nhược cứ sự thực trình bày. Hai người một hỏi một đáp, nói chuyện đến tận khuya. Tạ Tốn xem ra thất vọng nói:

- Võ công của cả ba phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi đều có quan hệ với Cửu Dương Chân Kinh, cùng một đường với Trương Vô Kỵ thuộc lộ dương cương. Nếu như có Trương Tam Phong chân nhân ở đây, với sở học vừa dương cương vừa âm nhu bao gồm của ông ta liên thủ với Trương Vô Kỵ, thì mới có thể âm dương phối hợp, đánh bại được Ba Tư tam sứ. Thế nhưng nước xa không cứu được lửa gần, Hàn phu nhân nếu như lọt vào tay của ba sứ giả Ba Tư thì thật không biết sao đây?

Chu Chỉ Nhược đột nhiên hỏi:

- Lão gia tử, nghe nói một trăm năm trước trong võ lâm có vị cao nhân tinh thông Cửu Âm Chân Kinh, có thực như thế chăng?

Khi còn ở trên núi Võ Đương, Trương Vô Kỵ đã từng nghe thái sư phụ nói tới tên Cửu Âm Chân Kinh, biết rằng cha của sáng phái tổ sư phái Nga Mi Quách Tương là đại hiệp Quách Tĩnh, Thần Điêu đại hiệp Dương Quá đều học được võ công trong Cửu Âm Chân Kinh nhưng công phu tập luyện quá ư gian nan, Quách Tương dẫu là con ruột của Quách Tĩnh mà cũng không học được. Nay nghe Chu Chỉ Nhược hỏi đến, chàng nghĩ thầm: "Không lẽ sáng phái tổ sư của phái Nga Mi có truyền lại công phu trong Cửu Âm Chân Kinh chăng?".

Tạ Tốn nói:

- Các bậc cố lão có truyền lại như thế nhưng không một ai biết thật giả ra sao. Nếu như hiện nay có ai học được những tài nghệ thần kỳ của môn võ công đó, liên thủ với Trương Vô Kỵ đối phó với địch thì chỉ ra tay là trừ được Ba Tư tam sứ giả ngay.

Chu Chỉ Nhược "Ồ" lên một tiếng nhưng không hỏi thêm nữa. Triệu Mẫn hỏi:

- Chu cô nương, phái Nga Mi có ai biết những võ công ấy chăng?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Nếu phái Nga Mi có được thần công đó, tiên sư đã không táng mạng tại chùa Vạn An.

Diệt Tuyệt sư thái sở dĩ lìa trần, đầu dây mối nhợ cũng do Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược hết sức căm ghét nàng, bao nhiêu ngày mưa gió ngồi chung trên một con thuyền nhưng không hề trao đổi với nhau một câu nào. Lúc này Triệu Mẫn hỏi ngay Chu Chỉ Nhược nên nàng liền nói móc lại một câu. Chu Chỉ Nhược tính tình dịu dàng, trước nay chưa từng nói với ai một câu đốp chát như thế bao giờ, Triệu Mẫn nghe nhưng không nổi giận, chỉ mỉm cười.

Trương Vô Kỵ vẫn không ngừng chèo thuyền đột nhiên nhìn về phía xa xa kêu lên:

- Xem kìa, xem kìa. Đằng kia có ánh lửa.

Mọi người nhìn theo hướng mắt chàng, quả nhiên tại hướng tây bắc nơi chân trời giáp biển có ánh lửa lấp lánh. Tạ Tốn tuy không nhìn thấy gì, nhưng tâm trạng cũng vừa mừng vừa lo như những người khác, vội cầm chiếc mái chèo cố sức bơi.

Ánh lửa kia trông thì không xa, thực ra trên biển khơi, phải cách đến mấy chục dặm. Hai người chèo một hồi lâu mới tới gần được một chút. Trương Vô Kỵ thấy nơi ánh lửa có những ngọn núi mờ mờ, chính là đảo Linh Xà liền nói:

- Mình về đến nơi rồi.

Tạ Tốn bỗng thảng thốt kêu lên "Ối chà" một tiếng, hỏi:

- Có phải ở đảo Linh Xà lửa bốc lên cao chăng? Không lẽ bọn họ đang định thiêu sống Hàn phu nhân?

Chỉ nghe lịch bịch mấy tiếng, Tiểu Siêu đã ngã lăn ra sàn thuyền. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội nhảy tới đỡ nàng dậy, thấy cô gái hai mắt nhắm nghiền bất tỉnh, vội xoa bóp huyệt đạo nơi nhân trung để cứu nàng dậy, hỏi:

- Tiểu Siêu, cô sao thế?

Tiểu Siêu hai mắt rưng rưng, nói:

- Em nghe nói thiêu sống người, nên em ... em ... sợ quá.

Trương Vô Kỵ an ủi cô ta:

- Cái đó chỉ là Tạ lão gia đoán thế thôi, chưa chắc đã là sự thật. Nếu ví phỏng như Hàn phu nhân lạc vào tay bọn chúng, chúng mình bây giờ đến nơi, chắc cũng còn có thể cứu kịp.

Tiểu Siêu nắm lấy tay chàng, cầu khẩn:

- Công tử, em cầu xin công tử ra tay cứu mạng cho Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tất cả chúng mình sẽ hết sức để làm chuyện đó.

Nói rồi chàng quay lại đuôi thuyền, cầm mái giầm lên ra sức chèo, so với lúc trước nhanh hơn nhiều. Tiểu Siêu cũng cầm mái chèo tuy tay run run nhưng cũng cố gắng chèo tiếp. Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Trương công tử, có hai việc em nghĩ đã lâu nhưng vẫn chưa hiểu rõ, mong chàng chỉ giáo.

Trương Vô Kỵ tự nhiên thấy nàng ăn nói có vẻ khách sáo như thế, lạ lùng hỏi:

- Chuyện gì thế?

Triệu Mẫn nói:

- Hôm trước bên ngoài Lục Liễu Trang, tiểu muội sai người tấn công lệnh ngoại công, Dương tả sứ các vị, chính Tiểu Siêu cô nương này đã điều động nhân mã chống trả. Quả thật đúng là tướng đã mạnh ắt quân chẳng yếu, một tiểu a đầu của giáo chủ Minh giáo mà cũng đã tài ba đến thế, quả thật lạ kỳ ...

Tạ Tốn vội vàng xen vào:

- Cái gì mà giáo chủ Minh giáo?

Triệu Mẫn cười nói:

- Lão gia tử, bây giờ nói ra cho ông biết cũng vừa, công tử con nuôi của lão gia chính là đường đường giáo chủ Minh giáo, ông ngược lại là thuộc hạ của anh ta đó.

Tạ Tốn bán tín bán nghi, không biết nói sao cho phải. Triệu Mẫn liền đem việc Trương Vô Kỵ làm sao đảm nhận chức vụ giáo chủ Minh giáo thuật sơ qua, nhưng nhiều chi tiết nàng không biết. Trương Vô Kỵ bị Tạ Tốn hỏi gặng, không cách gì dấu diếm được nữa, đành phải kể lại lục đại phái vây đánh Quang Minh Đính ra sao, mình làm sao ở trong bí đạo học được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp thế nào. Tạ Tốn mừng quá, đứng phắt dậy, phục xuống lạy ngay trên thuyền nói:

- Thuộc hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, tham kiến giáo chủ.

Trương Vô Kỵ vội vàng quì xuống hoàn lễ nói:

- Nghĩa phụ bất tất đa lễ. Dương giáo chủ có di mệnh để nghĩa phụ tạm nhiếp chức vụ giáo chủ, hài nhi đang lo không đảm trách nổi việc lớn, may sao nghĩa phụ yên lành trở về, đúng là phúc của bản giáo. Sau khi mình về đến Trung Thổ rồi, chức vị giáo chủ xin nghĩa phụ tiếp nhiệm cho.

Tạ Tốn thản nhiên nói:

- Cha nuôi con tuy đã trở về nhưng hai mắt đã mù, hai chữ "yên lành" không còn đúng nữa. Thủ lãnh của Minh giáo làm sao có thể do người mắt kém đảm nhiệm? Triệu cô nương, trong lòng cô có hai chuyện gì chưa rõ ràng?

Triệu Mẫn nói:

- Tiểu nữ định hỏi Tiểu Siêu cô nương, kỳ môn bát quái, âm dương ngũ hành do ai dạy cô đó? Cô còn nhỏ như thế làm sao lại học được những công phu lạ lùng vậy?

Tiểu Siêu đáp:

- Đó là võ công gia truyền của tôi, không bõ quận chúa nương nương cười cho.

Triệu Mẫn lại hỏi:

- Lệnh tôn là ai? Con gái đã thế, cha mẹ ắt phải là cao thủ tiếng tăm vang dậy thiên hạ.

Tiểu Siêu đáp:

- Gia phụ mai danh ẩn tính, đâu đáng để quận chúa phải hỏi? Không lẽ quận chúa lại định chặt hai ngón tay tôi để ép cho tôi phải lộ võ công ra hay sao?

Nàng tuổi còn nhỏ thế nhưng đối với Triệu Mẫn không chịu kém câu nào, nói đến chuyện chặt ngón tay, ý muốn khơi dậy mối thù của Chu Chỉ Nhược. Triệu Mẫn mỉm cười, quay sang hỏi với Trương Vô Kỵ:

- Trương công tử, tối hôm đó tại quán rượu nơi Đại Đô lần thứ hai mình gặp nhau, khổ đầu đà Phạm Dao đến chào từ biệt tiểu muội, khi y gặp Tiểu Siêu cô nương, có nói hai câu gì?

Trương Vô Kỵ vốn đã quên chuyện đó rồi, nghe nàng hỏi tới, nghĩ lại bèn nói:

- Khổ đại sư hình như nói là tướng mạo Tiểu Siêu giống một người nào mà ông ta quen.

Triệu Mẫn nói:

- Đúng thế. Anh thử đoán xem khổ đại sư nói Tiểu Siêu giống ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi làm sao đoán được?

Hai người còn đang nói chuyện, chiếc thuyền đã đến gần đảo Linh Xà, thấy bên phía tây hòn đảo một dãy thuyền lớn, trên mỗi chiếc buồm trắng đều có thêu một ngọn lửa đỏ lớn, trên các cột buồm treo những giải vải màu đen. Trương Vô Kỵ nhíu mày nói:

- Tổng giáo Ba Tư quả thực mất công, đưa người sang đây không phải là ít.

Triệu Mẫn nói:

- Mình chèo thuyền ra phía sau đảo, kiếm một nơi kín đáo nào lên đảo để khỏi bị bọn họ phát giác.

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Đúng thế.

Thế nhưng chỉ mới bơi được ba bốn trượng, đột nhiên trên đại thuyền có tiếng tù và u u, tiếp theo là bình bình hai tiếng, hai quả đạn đại bác bắn ra, một viên rơi ở bên trái chiếc thuyền con, còn viên kia rơi ở bên phải làm tung lên hai cột nước khiến cho chiếc thuyền chòng chành dường như muốn lật. Trên thuyền lớn có người kêu to:

- Thuyền kia mau chèo lại đây, nếu không nghe lệnh sẽ bị bắn chìm ngay.

Trương Vô Kỵ trong bụng kêu khổ thầm, biết rằng hai phát đạn kia địch chỉ mới thị uy, cố ý bắn sang hai bên, bây giờ hai bên gần nhau như thế, địch nhân điều chỉnh thật dễ dàng, chỉ cần một viên đạn trúng thuyền thì cả sáu người không ai có thể sống sót. Thành thử chàng đành chầm chậm bơi thuyền tới. Ba khẩu đại pháo trên thuyền lớn cũng chầm chậm quay đầu nhắm đúng vào thuyền nhỏ. Đợi đến khi thuyền nhỏ đã tới sát, người trên thuyền lớn liền thả thang dây. Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn mình lên trên tùy cơ đoạt thuyền.

Tạ Tốn mò thấy thang dây leo lên trước nhất. Chu Chỉ Nhược không nói lời nào, cúi xuống ôm Ân Ly, leo lên, kế đó là Tiểu Siêu. Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn, leo lên sau cùng. Chỉ thấy trên thuyền rất đông người người nào cũng tóc vàng mắt biếc, thân thể cao lớn đều là người Hồ xứ Ba Tư nhưng bọn sứ giả Vân Phong Nguyệt ba người không có trong số đó.

Một người Ba Tư biết nói tiếng Trung Quốc liền hỏi:

- Các người là ai? Đến đây làm gì?

Triệu Mẫn nói:

- Chúng tôi đi thuyền bị bão, thuyền chìm nhờ các vị cứu cho.

Gã Ba Tư nửa tin nửa ngờ, quay lại nói với một người thủ lãnh ngồi trên ghế ngay chính giữa sàn thuyền vài câu tiếng Ba Tư. Người thũ lãnh đó liền nói xí xố mấy câu với đám thủ hạ.

Tiểu Siêu đột nhiên nhảy tới, giơ chưởng đánh luôn vào tên thủ lãnh. Người đó kinh hãi vội vàng tránh qua, chộp luôn cái ghế đang ngồi đập luôn vào Tiểu Siêu. Trương Vô Kỵ không ngờ Tiểu Siêu chẳng nói chẳng rằng ra tay động thủ ngay, lạng người một cái đã vọt lên ba trượng giơ tay điểm luôn huyệt đạo gã thủ lãnh, mấy chục người Ba Tư trên thuyền liền loạn cả lên, hò hét rút binh khí ra vây cả bọn lại. Những người này ai cũng biết võ công nhưng so với ba sứ giả Phong Vân Nguyệt thì kém xa. Trương Vô Kỵ tay trái đỡ Ân Ly, tay phải đông điểm một cái tây đánh một chưởng. Tạ Tốn cũng múa thanh đao Đồ Long, Chu Chỉ Nhược huy động trường kiếm, thêm vào Tiểu Siêu thân hình linh động, chỉ trong giây lát, đã thanh toán hết mấy chục người Ba Tư trên thuyền. Hơn một chục người bị chém nằm lăn trên sàn thuyền, bảy tám người rớt xuống biển, còn lại bao nhiêu đều bị điểm huyệt cả.

Ngay lúc đó trên biển có tiếng kêu la rầm rĩ, tiếng tù và vang động khắp nơi, các thuyền còn lại của người Ba Tư đều tiến tới, những người trên thuyền toan nhảy qua đấu với bọn Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ xách gã thủ lãnh Ba Tư nhảy lên đà treo buồm, lớn tiếng nói:

- Kẻ nào lên thuyền là ta đánh chết gã này ngay.

Chỉ thấy thuyền chung quanh tiếng người bàn tán xôn xao, tuy câu nói của Trương Vô Kỵ họ nghe không hiểu gì cả nhưng không một ai dám nhảy lên thuyền, hẳn là người bị bắt kia hẳn có địa vị khá cao, đối phương e ngại nên chưa dám tấn công sang.

Trương Vô Kỵ nhảy trở xuống, đang định thả gã thủ lãnh ra bỗng nghe đằng sau keng một tiếng, vội vàng tránh qua, đá ngược trở lại, thấy trước mặt một thanh thánh hỏa lệnh đánh tới, bên trái lại một thanh khác quét ngang. Trương Vô Kỵ kêu khổ thầm, không ngờ Phong Vân tam sứ lại nhanh như thế, kêu lên:

- Tất cả lui vào trong khoang thuyền.

Chàng liền giơ gã thủ lãnh lên đỡ một thanh lệnh bài, Huy Nguyệt Sứ vội vàng rút về nhưng vì quá vội vã nên hạ bàn để hở, Trương Vô Kỵ chân liền quét qua, đá trúng ngay đùi cô ta. Lưu Vân, Diệu Phong hai sứ giả ở hai bên liền xông vào khiến cho cú đá của Trương Vô Kỵ chưa hết chân đã phải thu lại. Hai bên đánh được tám chín chiêu, thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ đánh xéo từ dưới lên, chiêu số hết sức quái dị, suýt nữa đánh trúng bụng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ vội hạ gã thủ lãnh Ba Tư xuống, chiêu của Diệu Phong Sứ thật là cổ quái, nhưng bàn tay Trương Vô Kỵ hạ xuống thật khéo léo, nghe bạch một tiếng, thánh hỏa lệnh liền đập ngay mặt viên thủ lãnh Ba Tư. Phong Vân tam sứ kinh hoàng kêu lên, mặt mày biến sắc, cùng nhảy vọt về sau, trao đổi mấy câu tiếng Ba Tư, đột nhiên cúi chào viên thủ lãnh trong tay Trương Vô Kỵ, thần sắc hết sức cung kính rồi quay trở về thuyền.

Chỉ thấy tiếng loa chỗ này kêu lên u u, chỗ kia kêu lên u u, một chiếc thuyền lớn từ từ tiến đến, trên mũi thuyền cắm mười hai lá cờ lớn thêu bằng chỉ vàng. Đầu thuyền có để mười hai chiếc ghế bành lót da hổ, trong đó một chiếc để trống, còn mười một chiếc kia có người ngồi. Chiếc thuyền đó đến gần lập tức ngừng lại. Triệu Mẫn thấy chiếc ghế bành da hổ bỏ trống kia đứng hàng thứ sáu, trong bụng nghĩ ngay ra liền nói:

- Người mà mình bắt được ăn mặc giống như những người đang ngồi trên thuyền kia, xem ra là một trong mười hai đại thủ lãnh của họ, vị trí đứng hàng thứ sáu.

Tạ Tốn nói:

- Mười hai đại thủ lãnh? Ồ, thì ra mười hai Bảo Thụ Vương của tổng giáo đều đến Trung Thổ quả thật vô cùng quan trọng.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Mười hai Bảo Thụ Vương là gì thế?

Tạ Tốn đáp:

- Trong tổng giáo Ba Tư, dưới giáo chủ có mười hai đại kinh sư [3] gọi là Thập Nhị Bảo Thụ Vương, thân phận địa vị tương đương với tứ đại pháp vương của Minh giáo Trung Thổ. Mười hai Bảo Thụ Vương này thứ nhất Đại Thánh, thứ hai Trí Tuệ, thứ ba Thường Thắng, thứ tư Chưởng Hỏa, thứ năm Cần Tu, thứ sáu Bình Đẳng, thứ bảy Tín Tâm, thứ tám Trấn Ác, thứ chín Chính Trực, thứ mười Công Đức, mười một Tề Tâm, mười hai Câu Minh. Mười hai Bảo Thụ Vương này lấy việc tinh thông giáo nghĩa, kinh điển làm chính nhưng không hẳn võ công đã cao cường. Người này đứng hàng thứ sáu vậy là Bình Đẳng Bảo Thụ Vương.

Trương Vô Kỵ ngồi xuống bên cột buồm, để Bình Đẳng Vương nằm ngang trên đầu gối, người này vị trí trong tổng giáo Ba Tư cực cao, cả bọn sống chết thoát hiểm hay không đều do ở ông ta. Chàng cúi xuống thấy má bên trái ông ta sưng vù, cũng may vết thương không phải là chí mệnh. Có lẽ Diệu Phong Sứ một lệnh bài đánh ra, thấy không xong nên vội thu lực về, hoặc giả nội công người này cũng tương đương nên có kình lực đề ngự.

Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu gom những người Ba Tư trên sàn lại, những người nào chết rồi thì kéo vào khoang sau, còn ai chưa chết thì để thành một hàng. Chỉ thấy khoảng hơn một chục thuyền Ba Tư vây chung quanh, các khẩu đại pháo đều chĩa vào thuyền Trương Vô Kỵ đang ngồi, trên các mạn thuyền đều đầy người Ba Tư, dưới ánh lửa đao kiếm lấp loáng, đông nghẹt không biết là bao nhiêu. Trương Vô Kỵ kinh hãi thầm, không nói gì các khẩu đại pháo bắn tới, chỉ cần những người này cùng xông vào, dẫu chàng có ba đầu sáu tay cũng không cách gì chống trả, dù có tuyệt đính võ công thoát thân được thì cũng không thể nào bảo vệ chu toàn những người còn lại. Ân Ly và Triệu Mẫn hai người bị thương nguy hiểm hơn hết.

Chỉ nghe một người Ba Tư cao giọng nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Kim Mao Sư Vương nghe đây: Tất cả mười hai Bảo Thụ Vương của tổng giáo đều có mặt ở đây cả. Ngươi đắc tội với tổng giáo, các Bảo Thụ Vương đều đồng ý tha cho, mau mau thả các giáo hữu tổng giáo về rồi dong thuyền đi ngay.

Tạ Tốn cười đáp:

- Tạ mỗ đâu phải là đứa trẻ lên ba, bọn ta vừa thả những tù binh này về, đại pháo trên thuyền các ngươi liền bắn vào thì sao?

Người kia giận dữ nói:

- Nếu các ngươi không thả liệu đại pháo chúng ta không bắn được ư?

Tạ Tốn trầm ngâm một hồi nói:

- Ta có ba điều kiện, nếu bên quí vị bằng lòng, chúng ta sẽ cung kính giao trả các giáo hữu tổng giáo lên bờ.

Người kia hỏi:

- Điều kiện gì?

Tạ Tốn đáp:

- Từ nay tổng giáo và Minh giáo Trung Thổ phải tương thân tương kính, không bên nào xâm phạm bên nào.

Hồi 30

ĐÔNG TÂY VĨNH CÁCH NHƯ SÂM THƯƠNG-

Người kia nói:

- Hừ, còn điều thứ hai?

Tạ Tốn nói tiếp:

- Các ngươi giao Đại Ỷ Ti qua đây, tha cho tội bà ta thất trinh, từ nay không được truy cứu nữa.

Người kia giận dữ nói:

- Việc này không thể được. Đại Ỷ Ti phạm vào đại qui của tổng giáo, phải chịu tội thiêu sống, có liên quan gì đến Minh giáo Trung Thổ các ngươi đâu? Còn điều kiện thứ ba?

Tạ Tốn nói:

- Điều kiện thứ hai nếu không bằng lòng, việc gì phải hỏi đến điều thứ ba?

Người kia nói:

- Được rồi, ví thử như bằng lòng điều kiện thứ hai, điều kiện thứ ba nói ta nghe thử nào.

Tạ Tốn nói:

- Điều kiện thứ ba ư? Chuyện này rất dễ dàng. Các ngươi đem một chiếc thuyền nhỏ đi theo thuyền của chúng ta. Đi khoảng năm mươi dặm, nếu như bọn ta không thấy thuyền lớn các ngươi đuổi theo, sẽ đem những người bị bắt thả xuống thuyền nhỏ, muốn đi đâu thì đi.

Người kia giận dữ nói:

- Nói quấy nói quả, nói quấy nói quả.

Bọn Tạ Tốn nghe rồi ai nấy ngạc nhiên, không hiểu y định nói gì. Triệu Mẫn cười nói:

- Gã này học nói tiếng Trung Quốc nhưng học chưa đi đến đâu. Y định bảo mình "nói quấy nói quá" lại nói thành "nói quấy nói quả".

Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ nghĩ nàng nói không sai, tuy cục thế đang lúc gay go nhưng cũng nhịn không nổi cười sằng sặc. Người nói câu "nói quấy nói quả" kia là người đứng cuối cùng trong mười hai Bảo Thụ Vương là Câu Minh Vương, thấy bọn Tạ Tốn cười càng giận thêm, huýt một tiếng còi, cùng người thứ mười một là Tề Tâm Vương nhảy qua bên thuyền.

Trương Vô Kỵ liền tiến lên, tả chưởng đánh vào ngực Tề Tâm Vương nhưng Tề Tâm Vương không né tránh, giơ tay trái chộp lên đầu chàng. Trương Vô Kỵ thấy chưởng của mình sẽ đánh tới ngực y trước, nào ngờ Câu Minh Vương ở bên cạnh song chưởng cùng đánh ra đỡ ngay chưởng của chàng, còn năm ngón tay của Tề Tâm Vương vẫn vồ lên đầu Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, tránh được, nào ngờ hai người công thủ liền lạc, chẳng khác gì một người bốn tay bốn chân. Ba người nhanh như chớp đã trao đổi liền bảy tám chiêu.

Trương Vô Kỵ trong bụng kinh hãi thầm, hai người này tuy so với Phong Vân tam sứ không bằng nhưng võ công mười phần quái dị, rất giống Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, nhưng khi sử dụng lại biến đổi khác hẳn, không thể mò ra được chút đầu mối nào, mặc dầu chiêu số ác liệt khéo léo không bằng được Càn Khôn Đại Na Di. Hai người đánh chẳng khác gì người điên ngẫu nhiên học được Càn Khôn Đại Na Di nhưng học chưa đến đâu, thần trí hỗn loạn, đánh đấm lung tung thành ra không biết cách nào mà chống đỡ.

Thế nhưng hai người liên thủ hết sức khít khao, cũng không khác gì Phong Vân tam sứ. Trương Vô Kỵ hết sức đề ngự nhưng chỉ ngang tay, hi vọng đánh thêm hai ba chục chiêu nữa sẽ chiếm được thượng phong. Ngay khi đó, Phong Vân tam sứ cùng hú lên, nhảy vọt lên thuyền, xông cả vào định cướp lại Bình Đẳng Vương để chuộc cái tội lỡ tay đánh trúng y.

Tạ Tốn liền cầm Bình Đẳng Vương lên quay ngang, làm thành một vòng tròn thật lớn. Phong Vân tam sứ lần này làm sao dám tấn công một cách khinh suất, chỉ né qua né lại tìm sơ hở để xông vào.

Bỗng nghe Câu Minh Vương hự lên một tiếng, trúng một ngọn cước ngã lăn xuống. Trương Vô Kỵ cúi xuống định bắt sống y, Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ hai người cầm lệnh bài nhảy tới, còn Diệu Phong Sứ ôm được Câu Minh Vương nhảy trở về thuyền. Lần này Tề Tâm Vương và Vân Nguyệt hai sứ liên thủ, phối hợp không được chặt chẽ như ba người Phong Vân Nguyệt, chỉ đánh vài hiệp, xem chừng khó mà thủ thắng nên cùng hú lên một tiếng nhảy ngược trở về thuyền.

Trương Vô Kỵ định thần rồi nói:

- Những người này giống như từng học Càn Khôn Đại Na Di nhưng lại học không đúng, quả thực rất khó đối phó.

Tạ Tốn nói:

- Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của bản giáo vốn gốc ở Ba Tư. Mấy trăm năm trước truyền vào Trung Thổ rồi, ngay tại bản quốc Ba Tư lại bị thất truyền, cứ như Đại Ỷ Ti nói thì chỉ còn sót lại những phần thô thiển chẳng đâu vào đâu, nên họ sai nàng trở lại Quang Minh Đính để lén lấy lại tâm pháp.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn họ căn cơ võ công thật là nông cạn, quả đúng là chỉ mới học được chút ít bên ngoài, nhưng vận dụng lại hết sức khéo léo. Hiển nhiên bên trong có điều gì hết sức quan trọng mà mình chưa tìm ra. Ôi, trong Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp cấp thứ bảy có một số con chưa luyện tới, không lẽ lại là ở trong chỗ này?

Nói xong chàng ngồi xuống sàn thuyền, ôm đầu suy nghĩ. Bọn Tạ Tốn không ai dám nói năng gì sợ chàng không tập trung được tinh thần. Đột nhiên Tiểu Siêu hoảng hốt kêu lên "Ối chà" một tiếng, Trương Vô Kỵ ngẩng đầu lên nhìn thấy Phong Vân tam sứ áp giải một người ra trước mặt mười một Bảo Thụ Vương. Người đó lưng còng, tay chống gậy chính là Kim Hoa bà bà. Người ngồi ở ghế thứ hai là Trí Tuệ Bảo Thụ Vương lên tiếng hỏi mấy câu, Kim Hoa bà bà nghiêng đầu la lớn:

- Ngươi nói gì ta không hiểu?

Trí Tuệ Vương cười khẩy một tiếng, đứng phắt dậy, giơ tay trái ra, đã lột ngay nắm tóc bạc trên đầu Kim Hoa bà bà xuống, lộ ra mái tóc đen nhánh. Kim Hoa bà bà vừa nghiêng qua bên phải tránh, tay phải của Trí Tuệ Vương đã thò ra lột một lớp da trên mặt bà ta. Bọn Trương Vô Kỵ ai nấy đều nhìn rõ, lớp da Trí Tuệ Vương lột kia chỉ là một mặt nạ, trong nháy mắt Kim Hoa bà bà đã biến thành một người đàn bà da trắng như mỡ đông, mắt to má hồng, xinh đẹp không đâu kể xiết.

Đại Ỷ Ti bị y vạch lộ bộ mặt thật, đành vứt quài trượng xuống, chỉ cười nhạt không nói gì. Trí Tuệ Vương nói mấy câu, bà ta liền dùng tiếng Ba Tư đáp lại. Hai người một hỏi một trả lời, nhưng xem thần sắc những Bảo Thụ Vương mỗi lúc một thêm trịnh trọng. Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Tiểu Siêu cô nương, họ nói gì thế?

Tiểu Siêu khóc nói:

- Quận chúa thật thông minh, chuyện gì cũng biết hết nhưng sao không ngăn đừng để Tạ lão gia nói ra?

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Ngăn đừng nói cái gì?

Tiểu Siêu nói:

- Bọn họ vốn không biết Kim Hoa bà bà là ai cả, về sau biết được bà ta là Tử Sam Long Vương nhưng đâu có biết Tử Sam Long Vương lại là thánh nữ Đại Ỷ Ti. Bà bà khổ tâm cũng chỉ mong đánh lừa được bọn họ. Tạ lão gia đề cập đến điều kiện thứ hai là yêu cầu họ thả thánh nữ Đại Ỷ Ti ra, tuy có lòng tốt nhưng không lừa được Trí Tuệ Bảo Thụ Vương. Tạ lão gia mắt không nhìn thấy nên không biết Kim Hoa bà bà hóa trang thật hay, che dấu được mọi người. Triệu cô nương, cô nhìn thấy rõ như thế không lẽ không nghĩ ra sao?

Kỳ thực khi Triệu Mẫn nghe Tạ Tốn kể chuyện biết được Kim Hoa bà bà chính là thánh nữ Đại Ỷ Ti của tổng giáo Ba Tư nhưng lại không nghĩ ra là dưới mắt người Ba Tư thì chưa biết chân diện mục của bà ta thế nào. Nàng định lên tiếng cãi lại nhưng thấy giọng nói của Tiểu Siêu thật là bi thương, xem ra giữa nàng và Kim Hoa bà bà có một liên quan thật mật thiết nên chỉ nói:

- Tiểu Siêu muội tử, tôi quả thực không nghĩ đến. Nếu như có ý gia hại Kim Hoa bà bà thì trời không cho tôi được chết yên chết lành.

Tạ Tốn lại càng ăn năn, không nói lên một lời nào nhưng trong bụng đã định thầm dù cho tính mạng mình không còn cũng nhất quyết cứu cho được Đại Ỷ Ti thoát hiểm. Tiểu Siêu khóc nói:

- Bọn họ trách cứ Kim Hoa bà bà nói sao dám lấy chồng, lại phản giáo, muốn ... muốn đem ra thiêu sống.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tiểu Siêu, cô đừng quá hốt hoảng, một khi có cơ hội, tôi sẽ nhảy qua cứu bà bà ngay.

Chàng gọi là "bà bà" kỳ thực lúc này đã nhìn thấy bản lai diện mục của Tử Sam Long Vương rồi, tuy đã trung niên, nhưng phong tư yểu điệu chẳng khác gì Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược xem chỉ đáng chị của Tiểu Siêu thôi. Tiểu Siêu nói:

- Không được, không được đâu. Mười một Bảo Thụ Vương lại thêm Phong Vân tam sứ giả, công tử đấu không lại, có qua chỉ thêm uổng mạng, lúc này họ đang bàn tính làm sao cướp lại Bình Đẳng Vương đó.

Triệu Mẫn hậm hực nói:

- Hừ, dẫu Bình Đẳng Vương có sống sót mà về trên mặt có in mấy hàng chữ cũng xấu hổ đến chết được.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Trên mặt có in hàng chữ ư?

Triệu Mẫn nói:

- Gã sứ giả râu vàng kia dùng thánh hỏa lệnh đánh trúng má y ... A! Tiểu Siêu!

Đột nhiên nàng nghĩ ra một chuyện vội hỏi:

- Tiểu Siêu muội tử, cô có biết chữ Ba Tư không?

Tiểu Siêu đáp:

- Có biết.

Triệu Mẫn nói:

- Cô xem đây, trên mặt Bình Đẳng Vương có in những chữ gì?

Tiểu Siêu nâng đầu Bình Đẳng Vương lên nhìn trên má y, thấy má y sưng vù, trên có in ba hàng chữ Ba Tư. Thì ra trên những thánh hỏa lệnh đều có khắc chữ, Diệu Phong Sứ đánh nhầm Bình Đẳng Vương nên chữ trên thánh hỏa lệnh in lên mặt y. Có điều chỗ thánh hỏa lệnh chạm vào mặt chỉ chừng ngang hai tấc, dài ba tấc nên những hàng đó chữ có chữ không.

Khi Tiểu Siêu đi cùng với Trương Vô Kỵ vào trong bí đạo nơi Quang Minh Đính, nàng đã từng đọc Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp mấy lần, tuy chưa được Trương Vô Kỵ chỉ bảo, tự mình cũng chưa tập luyện nhưng môn võ công tâm pháp đó nàng nhớ rất kỹ. Khi Trương Vô Kỵ trong đường hầm học tới cấp thứ bảy gặp chỗ nghi nan bỏ qua không luyện, Tiểu Siêu từng ghi nhớ hết, bây giờ đọc những hàng chữ trên mặt Bình Đẳng Vương nàng chợt kêu lên:

- Cái này là Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp.

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

- Cô bảo đây là Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp ư?

Tiểu Siêu nói:

- Không, không phải. Em vừa thoạt nhìn tưởng là thế nhưng hóa ra không phải. Dịch thành tiếng Trung Quốc ý tứ như sau: "muốn phải thì trước, muốn trái thì sau, ba giả bảy thật, trong không sinh có" ... rồi cái gì "trời vuông đất tròn ..." bên dưới không đọc rõ nữa.

Mấy hàng chữ đó chẳng qua chỉ độ mươi chữ nhưng Trương Vô Kỵ nghe rồi chẳng khác nào đầy trời mây đen, nay có một làn chớp lóe lên, tuy rằng ánh sáng qua rồi bốn bề lại tối đen như mục, nhưng mấy ánh chớp đó cũng khiến chàng nhìn được phương hướng mà đi nên lẩm bẩm đọc:

- Ứng tả tắc hậu, tu hữu nãi tiền...

Cố hết sức nghĩ cho ra mấy câu khẩu quyết đó làm sao phối hợp được với võ công Càn Khôn Đại Na Di, có lúc tưởng như đã nghĩ ra, nhưng rồi lại không phải, xem ra hai bên không ăn khớp với nhau. Đột nhiên Tiểu Siêu kêu lên:

- Công tử, để ý! Bọn họ truyền lệnh, Phong Vân tam sứ tới tấn công công tử, còn Cần Tu Vương, Trấn Ác Vương, Công Đức Vương qua đoạt lại Bình Đẳng Vương.

Tạ Tốn liền cầm Bình Đẳng Vương giơ lên ngang ngực, vứt thanh đao Đồ Long cho Vô Kỵ nói:

- Con dùng đao chém thật hăng.

Triệu Mẫn cũng giao thanh Ỷ Thiên kiếm cho Chu Chỉ Nhược. Hai nàng bây giờ cùng hội cùng thuyền, sát cánh nghinh địch là trên hết. Trương Vô Kỵ nhận lấy thanh đao Đồ Long, đầu óc đâu đâu cắm luôn vào lưng, miệng vẫn lẩm bẩm:

- Tam hư thất thực, vô trung sinh hữu ...

Triệu Mẫn nóng ruột kêu lên:

- Chàng ngốc ơi, bây giờ đâu còn là lúc nghiền ngẫm võ công, mau mau chuẩn bị nghinh địch đi thôi.

Nói chưa dứt lời, Cần Tu, Trấn Ác, Công Đức tam vương đã tung mình nhảy qua, giơ chưởng tấn công Tạ Tốn. Ba người đó sợ làm Bình Đẳng Vương bị thương cho nên không dùng binh khí, chỉ sử dụng quyền chưởng, nếu một người nào nắm được Bình Đẳng Vương là ra sức kéo về. Chu Chỉ Nhược thủ tại bên cạnh Tạ Tốn, mỗi khi nguy cấp thì lại giơ kiếm đâm vào Bình Đẳng Vương. Như thế Cần Tu Vương, Trấn Ác Vương không thể không xuất chưởng tấn công Chu Chỉ Nhược để kiếm của nàng khỏi đâm vào người đồng bọn.

Ở mé bên kia, Trương Vô Kỵ cùng ba sứ giả tụ lại một chỗ. Bốn người mấy lần đụng tay, ai nấy đều nếm mùi kình lực của Trương Vô Kỵ nên không còn ai dám thờ ơ nữa. Chỉ qua mấy hiệp, Huy Nguyệt Sứ đánh ra một lệnh bài, cứ theo đúng đạo lý võ học, chiêu đó phải đánh vào vai trái Trương Vô Kỵ, nào ngờ thánh hỏa lệnh ở trên không lại quay vòng lại một cách kỳ lạ, nghe bạch một tiếng trúng ngay sau cổ chàng.

Trương Vô Kỵ bị đau nhói nhưng trong đầu lập tức hiểu ra, kêu lên:

- Muốn trái thì sau, muốn trái thì sau! Đúng rồi! Đúng rồi!

Chỉ trong khoảnh khắc chàng vỡ lẽ ngay, những gì Phong Vân tam sứ sử dụng đây chẳng qua chỉ là công phu nhập môn của Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ nhất, nhưng trên thánh hỏa lệnh có khắc những biến hóa lạ lùng, khiến cho càng thêm rắc rối. Chàng vừa nghĩ ra, bốn câu khẩu quyết Tiểu Siêu đọc lên lập tức minh bạch, nhưng cái gì "thiên phương địa viên" thì chàng chưa hiểu được định bụng phải tìm cách đọc được những chữ khắc trên thánh hỏa lệnh để thông hiểu tinh yếu võ công của Ba Tư.

Chàng liền rú lên một tiếng dài, hai tay thi triển cầm nã, "tam hư thất thực" đoạt luôn hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay Huy Nguyệt Sứ, rồi tiếp theo "vô trung sinh hữu" lại cướp được hai thánh hỏa lệnh của Lưu Vân Sứ. Hai người còn đang ngơ ngẩn, Trương Vô Kỵ đã bỏ luôn bốn chiếc thánh hỏa lệnh vào trong túi, hai tay nắm cổ hai người, ném ra ngoài.

Tất cả những người Ba Tư liền xí xố ầm cả lên, Diệu Phong Sứ cũng vội vàng nhảy trở về thuyền. Lúc này Trương Vô Kỵ đã rõ được yếu quyết của họ, tuy rất hữu hạn, nhưng võ công của Diệu Phong Sứ đối với chàng không còn gì là kỳ bí nữa, tay phải thò ra đã nắm ngay được chân trái y, lôi y từ trên không về, giơ tay cướp luôn hai thanh thánh hỏa lệnh còn lại, cầm luôn người y đập xuống đầu Trấn Ác Vương. Tam vương kinh hãi, vung tay một cái nhảy luôn trở về. Trương Vô Kỵ điểm huyệt Diệu Phong Sứ, ném xuống dưới chân.

Chàng đắc thắng phen này thật là đột ngột nên chỉ khoảnh khắc đang từ thế yếu chuyển sang thế mạnh, cả bọn vô cùng mừng rỡ, hỏi nguyên do. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nếu không vì trời xui đất khiến trên má Bình Đẳng Vương bị trúng một đòn thì mình thật là khốn khổ. Tiểu Siêu, cô hãy dịch những chữ trên thánh hỏa lệnh này cho tôi nghe, mau đi, mau đi.

Mọi người nhìn vào những thánh hỏa lệnh, thấy không phải kim loại mà cũng không phải ngọc đá, cứng rắn vô cùng, sáu lệnh bài cái dài cái ngắn không đều nhau, trông như trong mà không trong, ở giữa mờ mờ hình ngọn lửa bốc lên, sắc lấp lánh thật là đẹp đẽ. Trên mỗi thanh lệnh bài khắc rất nhiều chữ Ba Tư, không nói đến tìm hiểu cho kỹ, chỉ dịch qua một lần cũng đã mất rất nhiều thời giờ.

Thế nhưng Trương Vô Kỵ biết rằng muốn thoát ra khỏi được cái khốn cảnh hiện thời, không thể nào không tìm hiểu cho ra nguyên ủy của võ công Ba Tư nên quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương, nhờ cô cầm Ỷ Thiên kiếm ghìm vào cổ Bình Đẳng Vương. Nghĩa phụ, nhờ cha nhứ đao Đồ Long vào cổ Diệu Phong Sứ để kéo dài thời giờ.

Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược gật đầu đáp ứng. Tiểu Siêu cầm sáu thanh thánh hỏa lệnh lên, thấy thanh lệnh bài ngắn nhất trên khắc ít chữ nhất, lại đen sì trông không đẹp mắt chút nào, dịch từng câu cho Vô Kỵ nghe. Trương Vô Kỵ nghe xong không hiểu gì cả, cố gắng suy nghĩ nhưng không rõ nghĩa càng thêm hoảng hốt. Triệu Mẫn nói:

- Tiểu Siêu muội tử, cô giải thích thanh thánh hỏa lệnh đánh vào Bình Đẳng Vương trước.

Câu nói đó khiến Tiểu Siêu bừng tỉnh, vội vàng coi các chữ khắc thấy thanh dài thứ hai hợp nghĩa vội vàng giải thích cho Vô Kỵ nghe, lần này chàng mười phần hiểu đến bảy tám. Đợi đến khi giải nghĩa xong, giải thích tiếp thanh dài nhất, Trương Vô Kỵ nghe qua vài câu mừng rỡ nói:

- Tiểu Siêu, văn tự trong sáu thanh thánh hỏa lệnh này, càng dài thì càng dễ. Những thanh này đều là công phu nhập môn cả.

Thì ra những thánh hỏa lệnh này là do Sơn Trung Lão Nhân Thôi Sơn ngày xưa đúc thành, trên khắc võ công tinh yếu một đời của y. Cả sáu thánh hỏa lệnh lẫn Minh giáo cùng truyền vào Trung Thổ một lúc, trước đây vẫn dùng làm lệnh phù của giáo chủ nhưng về sau, Minh giáo Trung Thổ không còn ai biết tiếng Ba Tư nữa. Mấy chục năm trước, thánh hỏa lệnh bị người của Cái Bang đoạt mất, lại do thương nhân Ba Tư mua được, nên quay trở về Minh giáo Ba Tư. Tổng giáo Ba Tư nghiên cứu văn tự trên đó mấy chục năm qua nên những người có võ công kha khá trong tổng giáo tiến bộ rất nhiều. Thế nhưng võ công khắc trên đó bác đại tinh thâm nên ngay cả người giỏi nhất là Đại Thánh Bảo Thụ Vương cũng chỉ học được ba bốn thành.

Còn như Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, trước đây vốn là hộ giáo thần công của Minh giáo Ba Tư nhưng môn đó người thường không thể tu tập được. Giáo chủ Minh giáo Ba Tư lại qui định chỉ do xử nữ đảm nhiệm, trước nay vốn chỉ là những cô gái võ công tầm thường nên tâm pháp truyền xuống rất là hữu hạn, ngược lại Minh giáo bên Trung Quốc lại còn giữ được toàn phần. Minh giáo Ba Tư kết hợp chưa tới một thành còn lại của Càn Khôn Đại Na Di với hai ba thành của võ công thánh hỏa lệnh thành một môn võ công kỳ dị cổ quái.

Trương Vô Kỵ ngồi xếp bằng nơi đầu thuyền, còn Tiểu Siêu đem thánh hỏa lệnh từng câu từng chữ dịch lại cho chàng nghe. Võ học trong thánh hỏa lệnh này vốn dĩ thật là kỳ diệu, thế nhưng nhất pháp thông, vạn pháp thông, những học vấn thâm áo đến chỗ cùng cực thì cũng đều qui về một mối. Trương Vô Kỵ thông hiểu Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, lại thêm đạo lý Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm của phái Võ Đương. Võ công thánh hỏa lệnh tuy có kỳ lạ thật, nhưng cũng chỉ là đỉnh cao của sở học bàng môn tả đạo, nói đến tinh thâm rộng rãi so ra kém xa ba môn võ học kia. Trương Vô Kỵ nghe Tiểu Siêu dịch xong cả sáu thanh thánh hỏa lệnh trong nhất thời chỉ nhớ được sáu bảy phần, biết rõ ràng thì lại chỉ được năm sáu phần, nhưng như thế thôi võ công của các Bảo Thụ Vương và Phong Vân tam sứ, dưới mắt chàng nay đã rõ như ban ngày không còn gì mù mờ nữa.

Chàng hết tâm hết ý để vào việc nghiên cứu võ học hết giờ này sang khắc khác, không còn biết đến chuyện gì chung quanh nhưng Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược thì nóng ruột vô cùng. Bọn họ thấy Đại Ỷ Ti chân tay đã bị xích chặt, mười một Bảo Thụ Vương cùng họp bàn, Bảo Thụ Vương thứ mười một cởi trường bào ra, thay bằng nhuyễn giáp, những người chung quanh đưa ra mười một món binh khí hình dáng quái dị. Kế đến những người Ba Tư dàn ra trước sau trái phải đầy tay cầm cung tên, nhắm thẳng vào mình, lại đến mười tên Ba Tư tay cầm búa dùi nhảy xuống nước, chỉ cần thủ lãnh hạ lệnh là bơi đến đục chìm thuyền.

Bỗng Đại Thánh Bảo Thụ Vương ngồi chính giữa quát lớn một tiếng, chung quanh bốn bên trống đánh liên hồi, tù và thổi lên rầm rĩ. Trương Vô Kỵ kinh hoảng ngửng đầu nhìn lên thấy mười một Bảo Thụ Vương đều mặc áo giáp vàng sáng chói, tay cầm binh khí, nhảy lên trên thuyền. Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược tay cầm đao kiếm để vào cổ Bình Đẳng Vương và Diệu Phong Sứ. Mười một vương kia nhìn thấy thế, tuy đã nhảy lên đầu thuyền rồi nhưng không dám đến gần mà tản ra thành hình bán nguyệt, mắt lăm lăm tìm cơ hội xông vào. Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn thấy mười một người đó hình dáng hung hăng, thân thể to lớn đều không khỏi khiếp sợ.

Trí Tuệ Vương nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Chúng mày mau mau thả giáo hữu chúng tao ra thì ta tha cho chúng mày khỏi chết. Những giáo hữu này bọn tao có khác gì con heo con chó, chúng bay kề đao vào cổ họ đâu có ích gì? Chúng bay có giỏi thì đem bọn họ giết đi. Trong thánh giáo Ba Tư những người như thế có cả nghìn cả vạn, giết một hai người đâu có sao.

Triệu Mẫn nói:

- Chúng mày đừng có lớn lối, định đánh lừa chúng tao. Chúng tao biết rồi, hai người này một người là Bình Đẳng Bảo Thụ Vương, một người là Diệu Phong Sứ trong Minh giáo địa vị rất cao. Mày bảo y là heo là chó là nói sai rồi, sai thật là sai.

Gã Trí Tuệ Vương học tiếng Trung Hoa toàn ở trong sách vở nên những tiếng "chúng mày" "bọn tao" đều là dùng những tiếng của bọn hạ lưu. Triệu Mẫn bắt chước giọng điệu của y khiến cho Tạ Tốn các người nghe thấy, dẫu đang trong cảnh nguy hiểm nhưng cũng nhịn không nổi phải mỉm cười.

Trí Tuệ Vương nhíu mày rồi nói:

- Trong thánh giáo có cả thảy ba trăm sáu mươi Bảo Thụ Vương, Bình Đẳng Vương đứng thứ ba trăm năm mươi chín. Bọn tao có một nghìn hai trăm sứ giả, gã Diệu Phong Sứ này võ công tầm thường, chẳng ra quái gì, chúng bay mau mau đem nó giết đi.

Triệu Mẫn đáp:

- Hay lắm, hay lắm. Các bạn cầm đao kiếm, mau đem hai gã vô dụng này giết đi.

Tạ Tốn đáp:

- Tuân lệnh.

Ông giơ thanh đao Đồ Long lên, nghe vù một tiếng chém hớt ngang đầu Bình Đẳng Vương, chỉ cách không quá nửa tấc, một mảng lớn tóc bị cắt đứt gió biển thổi vào bay tứ tán. Tạ Tốn lại giơ đao lên chém bên trái một nhát, bên phải một nhát xuống hai bên vai Bình Đẳng Vương.

Hai nhát dao đó ai cũng tưởng sẽ chặt đứt hai cánh tay y nhưng khi đao vừa chạm vào người thì cổ tay hơi nghiêng đi, cắt đứt mỗi bên tay áo một mảnh. Ba nhát dao đó bộ vị chuẩn xác, chẳng nói gì người mù, đến như người mắt sáng cũng thật là khó mà làm được.

Bình Đẳng Vương chết đi sống lại, sợ tưởng như muốn ngất xỉu. Mười một Bảo Thụ Vương lẫn Phong vân tam sứ giả ai ai cũng há hốc mồm le lưỡi. Triệu Mẫn lại nói:

- Chúng bay đã thấy võ công Minh giáo Trung Thổ rồi. Đây là Kim Mao Sư Vương, ở Minh giáo đứng hàng thứ ba nghìn năm trăm lẻ chín, chúng bay nếu ỷ đông, sau này Minh giáo Trung Thổ sẽ đến Ba Tư trả thù, đánh cho tan tành tổng đàn chúng bay, chúng bay không đánh lại đâu, mau mau chịu thua đi là vừa.

Trí Tuệ Vương biết là Triệu Mẫn không nói thực nhưng nhất thời không biết làm sao. Gã Đại Thánh Bảo Thụ Vương bỗng nói vài câu, Tiểu Siêu kêu lên:

- Trương công tử, bọn họ định đục thuyền.

Trương Vô Kỵ hơi kinh hoảng, nếu như thuyền chìm, mọi người không ai biết bơi ắt sẽ bị bắt cả, vội nhún một cái đã vọt tới trước mặt Đại Thánh Vương. Trí Tuệ Vương quát lên:

- Mày làm gì đó?

Hai bên Công Đức Vương và Chưởng Hỏa Vương một người cầm roi, một người cầm chùy cùng xông lại. Lúc này Trương Vô Kỵ đã hiểu được võ công của Ba Tư rồi, không tránh né cũng không lách qua, chỉ vươn hai tay ra, nắm đúng ngay yết hầu của hai vương. Chỉ nghe keng một tiếng, thiết tiên của Công Đức Vương đã đụng phải bát giác chùy của Chưởng Hỏa Vương, lửa bắn tung tóe còn hai người thì bị chàng nắm trúng yếu huyệt, lôi sềnh sệch về. Trong lúc nhốn nháo, Trương Vô Kỵ lại liên tiếp đá ra bốn cái, hai ngọn cước đá văng hai thanh đao trong tay Tề Tâm Vương và Trấn Ác Vương, còn hai cú đá văng Cần Tu Vương và Câu Minh Vương xuống biển.

Một Bảo Thụ Vương thân hình cao gầy liền xông tới, hai tay cầm hai đoản kiếm, đâm vào ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lại tung chân lên, đá vào cổ tay y. Người đó đột nhiên chập tay lại đâm vào bụng Trương Vô Kỵ. Chiêu đó biến hóa thật là linh động, Trương Vô Kỵ vội nhảy về sau mới tránh được. Thì ra y là Thường Thắng Bảo Thụ Vương, là người võ công cao cường nhất trong mười hai người của tổng giáo Ba Tư. Trương Vô Kỵ liền khóa huyệt đạo của Công Đức và Chưởng Hỏa ném hai người vào khoang thuyền rồi lại tiến lên đấu tiếp với song kiếm của Thường Thắng Vương. Người này tuy cũng là một trong mười hai vương nhưng võ công cao siêu những người khác không sao bì kịp. Trương Vô Kỵ công ba chiêu, thủ ba chiêu, ba lần tiến, ba lần thoái, trong bụng khen thầm: "Gã Ba Tư Hồ nhân này giỏi thật".

Chàng hiểu được võ công trên thánh hỏa lệnh nhưng chưa từng luyện tập lại gặp ngay cường địch, một mặt nhớ lại những gì mới biết, một mặt giao đấu với Thường Thắng Vương. Trong khoảng mười chiêu đầu, chàng chỉ nhờ vào nội lực thâm hậu, chiêu số xảo diệu để giữ sao cho được ngang tay không thắng không bại, đến hai mươi chiêu sau, bí quyết trên thánh hỏa lệnh phối hợp với Càn Khôn Đại Na Di càng lúc càng thuần thục, Thường Thắng Vương được tiếng là 'thường thắng" xưa nay chưa gặp đối thủ, lúc này bị đối phương ép cho bó chân bó tay, y chưa từng bị như thế bao giờ khiến cho vừa kinh dị, vừa sợ hãi. Đấu đến hơn ba chục chiêu, Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, đột nhiên ngồi phịch xuống sàn, ôm chặt lấy đùi Thường Thắng Vương. Chiêu quái dị này vốn ghi trong thánh hỏa lệnh là công phu hết sức cao thâm, Thường Thắng Vương tuy biết nhưng chưa dám sử dụng bao giờ. Trương Vô Kỵ vừa ôm được mười ngón tay liền bấm ngay hai huyệt Trung Đô, Trúc Tân là phương pháp điểm huyệt của Trung Thổ. Nửa người bên dưới của Thường Thắng Vương liền tê dại, đành thở dài để cho bị bắt.

Trương Vô Kỵ bỗng nổi lòng yêu tài của y bèn nói:

- Ngươi võ công giỏi lắm. Ta không muốn ngươi bị mất tiếng, mau mau đi về.

Nói xong chàng buông tay ra, Thường Thắng Vương vừa cảm kích vừa xấu hổ, nhảy trở về thuyền. Đại Thánh Vương thấy Thường Thắng Vương hết sức chiến đấu mà vẫn thua, Công Đức Vương và Chưởng Hỏa Vương lại rơi vào tay địch, dẫu có đục chìm thuyền thì ném chuột cũng vỡ đồ, bốn người bọn Bình Đẳng Vương cũng chết hết, liền ra lệnh gọi tất cả trở về thuyền mình.

Triệu Mẫn lớn tiếng nói:

- Chúng bay mau mau chấp thuận ba điều kiện của Kim Mao Sư Vương đem Đại Ỷ Ti đưa qua bên này.

Chín người Bảo Thụ Vương còn lại liền chụm đầu thương nghị một hồi, Trí Tuệ Vương nói:

- Ba điều kiện đó bọn ta có thể chấp thuận được, thế nhưng thanh niên kia võ công đúng là cùng phái với Ba Tư chúng ta, y học ở đâu thế bọn ta không hiểu rõ.

Triệu Mẫn cố nhịn cười, giả vờ nghiêm trang đáp:

- Chúng bay không hiểu rõ, không thông suốt, không biết tí gì, không đâu vào đâu. Vị công tử thanh niên này là đệ tử thứ tám của Quang Minh sứ giả bản giáo. Y còn bảy sư huynh, bảy sư đệ sắp đến rồi, khi đó thì tan tành loạn xạ, chúng bay chẳng sướng lắm sao, ô hô ai tai.

Trí Tuệ Vương vốn rất thông minh nhưng Hoa ngữ chưa được giỏi, Triệu Mẫn nói y chỉ hiểu bảy tám phần, cũng đoán được nàng khoác lác, suy nghĩ một chút rồi nói:

- Được, để cho đem Đại Ỷ Ti qua thuyền.

Hai tên giáo đồ Ba Tư liền dẫn Đại Ỷ Ti đưa qua bên thuyền Trương Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược rung trường kiếm một cái, leng keng hai tiếng chặt đứt ngay các khóa ở chân tay bà ta. Hai tên giáo đồ Ba Tư thấy kiếm sắc bén đến thế, sợ đến mất mật, vội vàng nhảy trở về thuyền.

Trí Tuệ Vương nói:

- Chúng mày mau mau khai thuyền, đi về Trung Thổ. Bọn tao sẽ cho thuyền nhỏ đi theo chúng mày.

Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Minh giáo Trung Thổ vốn xuất phát từ Ba Tư, quí vị và chúng tôi tình như anh em, hôm nay hiểu lầm nhau, mong các vị đừng để bụng. Mai này có dịp mời lên Quang Minh Đính, hai bên uống chén rượu chung vui. Những điều sai sót, xin tạ lỗi cùng quí vị.

Trí Tuệ Vương cười ha hả nói:

- Mày võ giỏi lắm, bọn tao thật là kính phục. Học mà được luyện tập, chẳng sướng lắm sao? Có bạn từ xa đến chơi, chẳng sướng lắm sao? Tan tành loạn xạ, chẳng sướng lắm sao?[4]

Trương Vô Kỵ khi mới nghe y dẫn chứng hai câu trong sách, nghĩ thầm người này đã biết được lời Khổng Tử, quả không phải dễ không ngờ y liền nối theo hai câu học của Triệu Mẫn, nhịn không nổi phải phì cười. Triệu Mẫn nói:

- Câu mày nói hay lắm. Kẻ man di như Ba Tư mà biết thế thật là hiếm có. Chúc chúng mày đa phúc đa thọ, sống lâu thêm nhục, họa đến tổ tiên, không bệnh cũng chết.

Trí Tuệ Vương chỉ hiểu được "đa phúc đa thọ", nghĩ chắc những chữ sau cũng đều là những câu chúc tụng, cười hì hì, luôn mồm "đa tạ, đa tạ".

Trương Vô Kỵ sợ Triệu Mẫn cao hứng quá không biết sẽ giở thêm những trò điêu ngoa cổ quái gì khác, mình đang ở nơi giữa bầy lang hổ, đêm dài lắm mộng, chạy thoát sớm lúc nào hay lúc nấy nên vội vàng kéo neo, chuyển bánh lái, giương buồm cho thuyền từ từ dong ra. Những người Ba Tư ở chung quanh thấy chàng kéo neo dương buồm, một mình làm bằng cả chục người khác, thần lực kinh người đều lớn tiếng reo hò. Chỉ thấy dây buộc theo một chiếc thuyền nhỏ ném qua, Trương Vô Kỵ liền bắt lấy buộc nơi đuôi tàu kéo theo từ từ đi ra mỗi lúc một xa. Trong chiếc thuyền nhỏ chỉ có hai người, một nam một nữ, chính là Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ.

Trương Vô Kỵ cầm tay lái, cho thuyền đi về hướng tây, thấy các thuyền lớn của Ba Tư không đuổi theo, đi được mấy dặm, nhìn lại hướng Linh Xà đảo thấy thuyền địch chỉ còn nhỏ tí vẫn ở yên đó nên cũng an tâm.

Chàng bèn nhờ Tiểu Siêu giữ tay lái, vào trong khoang xem xét bệnh tình Ân Ly, thấy nàng nửa tỉnh nửa mê nằm thiêm thiếp, tuy không thấy bớt chút nào nhưng cũng không nặng thêm, nghĩ thầm trong chiếc thuyền lớn của Ba Tư có khi kiếm được thuốc men không chừng.

Đại Ỷ Ti đứng nơi đầu thuyền nhìn ra biển, nghe tiếng bước chân Trương Vô Kỵ đi lên trên sàn nhưng cũng không quay lại. Trương Vô Kỵ nhìn từ sau lưng thấy bà ta thật xinh đẹp, mái tóc dài bay phất phơ để lộ chiếc cổ trắng như ngọc, Tạ Tốn bảo là năm xưa được xưng đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm quả thật không sai, nghĩ đến khi ở trên Quang Minh Đính nơi Bích Thủy Hàn Đàm, tà áo tím phất phới như hoa, cầm thanh kiếm sáng loáng như tuyết thật quả điên đảo bao nhiêu anh hùng hào kiệt.

Thuyền đi đến chiều, tính ra phải cách đảo Linh Xà đến một trăm dặm, nhìn về phương đông, trên biển không thấy một cánh buồm nào, quả thực tổng giáo Ba Tư bị ép buộc không dám đuổi theo. Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ, mình đã tha bọn họ ra được chưa?

Tạ Tốn đáp:

- Được rồi, bọn họ dẫu muốn đuổi theo cũng đuổi không kịp nữa.

Trương Vô Kỵ liền giải huyệt cho Bình Đẳng, Công Đức, Chưởng Hỏa tam vương luôn cả Diệu Phong Sứ, luôn mồm xin lỗi, thả cho họ về chiếc thuyền nhỏ kéo theo sau đuôi. Diệu Phong Sứ nói:

- Những thánh hỏa lệnh đó do bọn ta trông coi, đánh mất tội nặng lắm, xin giao lại cho.

Tạ Tốn nói:

- Thánh hỏa lệnh là lệnh phù của giáo chủ Minh giáo Trung Thổ, hôm nay vật về chủ cũ, làm sao lại có thể giao cho ngươi được.

Diệu Phong Sứ cứ nằng nặc đòi lại nhất định không chịu thôi. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm hôm nay mình phải làm cho y tâm phục, khỏi dây dưa rắc rối về sau liền nói:

- Nếu bọn ta giao lại cho ngươi, các ngươi bản lãnh thấp kém làm sao giữ được. Nếu như bị người ta cướp mất với ở trong tay Minh giáo thì cái nào hơn?

Diệu Phong Sứ nói:

- Người ngoài làm sao có thể cướp được?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu ngươi không tin, để thử thì biết.

Chàng giao lại sáu thanh thánh hỏa lệnh cho Diệu Phong Sứ. Y mừng quá chỉ nói được một câu: "Đa tạ". Trương Vô Kỵ tay trái móc nhẹ một cái, tay phải kéo về, lại lấy lại cả sáu chiếc lệnh bài.

Diệu Phong Sứ kinh hãi, giận dữ nói:

- Ta cầm chưa chặt, cái đó không tính.

Trương Vô Kỵ cười:

- Thế thử thêm lần nữa cũng có sao.

Chàng lại giao thánh hỏa lệnh lại cho y. Diệu Phong Sứ để bốn chiếc lệnh bài vào túi, trong tay cầm hai chiếc, thấy Trương Vô Kỵ giơ tay ra cướp, thánh hỏa lệnh bên trái liều đánh vào cổ tay chàng. Trương Vô Kỵ lật tay một cái, đã bắt được cánh tay y, cầm luôn hất lên, hai chiếc lệnh bài đụng nhau, nghe keng một tiếng chấn động cả người. Nội lực hùng hậu của Trương Vô Kỵ theo tay y mà truyền ra, Diệu Phong Sứ hai tay tê chồn, toàn thân mất hết hơi sức chẳng khác gì bị bại liệt vội rụt tay về để thánh hỏa lệnh rơi xuống sàn.

Trương Vô Kỵ bèn thò tay vào bọc y lấy bốn chiếc thánh hỏa lệnh trước sau đó mới nhặt hai lệnh bài trên sàn thuyền nói:

- Thế nào? Ngươi có muốn thử thêm lần nữa hay không?

Diệu Phong Sứ mặt tái ngắt, chỉ lẩm bẩm:

- Ngươi không phải là người, ngươi là ma quỉ, ngươi là ma quỉ.

Y định nhảy trở về thuyền nhỏ, nhưng trượt chân lảo đảo muốn ngã. Lưu Vân Sứ liều nhảy tới bồng y trở về. Chiếc thuyền nhỏ liền dựng buồm lên, Công Đức Vương cầm dây buộc, hai tay kéo một cái, nghe soẹt một tiếng đứt ngay, hai chiếc thuyền liền tách ra. Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Đắc tội thật nhiều xin các vị lượng thứ cho.

Bọn Công Đức Vương mắt người nào cũng hầm hầm đầy thù hận không ai đáp lại lời nào. Chiếc thuyền lớn thuận gió trôi về hướng tây, hai chiếc thuyền xa nhau dần. Đột nhiên Đại Ỷ Ti kêu lên:

- Bọn giặc này giỏi thật.

Bà ta nhảy vụt xuống biển, Trương Vô Kỵ kinh hoảng vội vàng chuyển tay lái. Chỉ thấy một dòng máu từ dưới biển nổi lên, rồi ở cách một quãng lại có một dòng máu khác, trong giây lát tất cả đếm được sáu đốm máu. Nghe sạch một tiếng, Đại Ỷ Ti từ dưới biển vọt lên, trên miệng ngậm một thanh đoản đao, tay phải cầm tóc một người Ba Tư. Trương Vô Kỵ vội vàng quay thuyền lại đón nhưng vì chiếc thuyền quá lớn, muốn quay đầu lại mà không phải hạ buồm đành phải đánh một vòng thật lớn mới từ từ đến gần. Tử Sam Long Vương bơi lội ở dưới biển không khác gì cá, chẳng mấy chốc đã đến bên thuyền, tay nắm vào dây neo nhún một cái, thân hình bay vọt lên, luôn cả gã Ba Tư kia cũng cùng vọt lên trên sàn thuyền.

Cả bọn ai nấy lạnh người biết người Ba Tư có bụng chơi ác, đợi bọn Công Đức Vương qua được thuyền nhỏ rồi liền lấy chiếc buồm che đi cho người bơi lội giỏi lặn xuống bên cạnh thuyền, định đục cho chìm thuyền của Trương Vô Kỵ. May là Tử Sam Long Vương nhìn thấy những bọt hơi của bọn người lặn dưới nước nhảy xuống biển giết được sáu tên, lại còn bắt sống một đứa.

Bà ta đang định tra hỏi gã Ba Tư bỗng nghe một tiếng nổ lớn nơi đuôi thuyền, khói đen bốc lên. Chiếc thuyền chòng chành như trúng phải đạn đại bác, đuôi thuyền gỗ bay tứ tán. Bọn Trương Vô Kỵ thấy một làn hơi nóng phả vào mặt, vội vàng nằm phục xuống.

Đại Ỷ Ti kêu lên:

- Bọn này gian ác thật.

Bà ta chạy ra khoang sau thấy đuôi thuyền bị thủng một lỗ lớn, chiếc bánh lái đã bay mất không biết nơi đâu, nước biển theo lỗ thủng đổ vào ào ào. Đại Ỷ Ti dùng tiếng Ba Tư hỏi gã bị bắt mấy câu rồi giơ tay lên đập xuống, đầu gã nát bấy, giơ chân đá luôn xuống biển nói:

- Tôi chỉ tưởng họ toan đục thuyền, đâu có ngờ họ lại buộc thuốc nổ vào bánh lái.

Bấy giờ chiếc thuyền của bọn Công Đức Vương đi đã xa, Đại Ỷ Ti dù bơi có giỏi thế nào chăng nữa cũng không thể nào đuổi kịp. Cả bọn yên lặng nhìn nhau, đành bó tay không làm gì khác được. Triệu Mẫn buồn bã đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, nghĩ thầm: "Thuyền địch chẳng mấy chốc sẽ đuổi đến nơi, mình thật chết không có đất mà chôn".

Chiếc thuyền đó thân thật lớn, trong một giờ một khắc chưa thể nào chìm hết được. Ngay lúc đó, Đại Ỷ Ti bỗng quay sang xí xố nói với Tiểu Siêu mấy câu tiếng Ba Tư, Tiểu Siêu cũng dùng tiếng Ba Tư đáp lại, hai người một hỏi một trả lời, thần sắc biến đổi bất định. Chỉ thấy Tiểu Siêu đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, đôi má ửng hồng cực kỳ e thẹn. Đại Ỷ Ti lại gay gắt hỏi dồn. Hai người nói chuyện thật lâu, dường như tranh biện chuyện gì, về sau Đại Ỷ Ti lại như khuyên nhủ Tiểu Siêu nhận lời làm việc gì đó, nhưng nàng chỉ nhất quyết lắc đầu không chịu. Sau cùng nàng đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, thở dài một tiếng, nói vài ba câu. Đại Ỷ Ti giang tay ôm nàng vào lòng không ngừng hôn hít cô gái, hai người nước mắt cùng chảy xuống như mưa. Tiểu Siêu thút thít khóc mãi không thôi, còn Đại Ỷ Ti thì ngọt ngào an ủi nàng.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược ba người ngơ ngác, không hiểu chuyện gì. Triệu Mẫn ghé tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Anh xem, hai người trông giống nhau quá.

Trương Vô Kỵ bàng hoàng, thấy Đại Ỷ Ti và Tiểu Siêu cùng có bộ mặt trái soan cực kỳ thanh tú, mũi cao da trắng, ánh mắt long lanh, khuôn mặt phải giống nhau đến sáu bảy phần. Có điều khuôn mặt Tiểu Siêu, nét người Hồ Ba Tư chỉ còn còn loáng thoáng, còn Đại Ỷ Ti thoạt nhìn là biết ngay không phải người Trung Thổ. Chàng nhớ lại khổ đầu đà Phạm Dao khi ở tiểu điếm nơi Đại Đô khi thấy Tiểu Siêu đã nói mấy câu: "Giống quá, giống quá", thì ra giống đây là nói Tiểu Siêu giống Tử Sam Long Vương. Vậy Tiểu Siêu là em gái bà ta chăng? Hay là con ruột?

Trương Vô Kỵ lại nghĩ ngay đến cha con Dương Tiêu, Dương Bất Hối lúc nào cũng đề phòng Tiểu Siêu, mỗi khi chàng hỏi tại sao lại đối với một cô bé con mà có phần ngại ngùng như đối phó với đại địch, Dương Tiêu chỉ trả lời rất mù mờ. Bây giờ chàng mới rõ ràng, Dương Tiêu cũng nhìn thấy dung mạo Tiểu Siêu giống Tử Sam Long Vương, có điều không có chứng cớ, lại thấy Trương Vô Kỵ có ý bênh vực cô ta thành thử không tiện nói thẳng. Đến như Tiểu Siêu cố ý méo mồm, nhăn mũi cố ý giả làm một cô gái xấu xí, cũng là cốt để che đậy đấy thôi.

Đột nhiên chàng nghĩ ra một việc: "Tiểu Siêu trà trộn lên Quang Minh Đính để làm gì? Sao nàng lại biết được cửa ra vào bí đạo, hẳn là do Tử Sam Long Vương sai nàng đến, cốt để đánh cắp Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp. Nàng chịu làm một tì nữ hầu hạ ta, chung sống với nhau đến cả hai năm qua, ta có bao giờ đề phòng đâu, pho tâm pháp này chính nàng đã đọc qua rồi, sau này nếu như có sao lại, thật dễ dàng như lấy đồ trong túi. Chao ôi! Ta vẫn tưởng nàng là một cô bé ngây thơ, ngờ đâu nàng cũng đầu những mưu mô tâm kế. Hai năm qua ta khác gì người trong mộng, sa vào bẫy của nàng mà có biết gì đâu! Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi vốn cả tin người, đâu đâu cũng bị người ta lừa dối, đến ngay một con tiểu a đầu cũng đem ngươi ra đùa trên tay được". Chàng nghĩ đến đây, không khỏi trào lên một nỗi căm ghét.

Ngay lúc đó, Tiểu Siêu lại đưa mắt nhìn chàng. Trương Vô Kỵ thấy trong ánh mắt nàng nhu tình vô hạn, không thể nào bảo là giả dối được, trong lòng bỗng nổi lên một nỗi dạt dào, nghĩ đến khi chiến đấu với lục đại môn phái trên Quang Minh Đính, nàng đã xả thân bảo vệ cho mình, hai năm qua chăm chút hầu hạ, mình nghi ngờ nàng như thế không oan uổng lắm sao? Chàng còn đang ngần ngừ, chiếc thuyền lắc mạnh một cái, chìm xuống thêm một khoảng lớn.

Đại Ỷ Ti nói:

- Trương giáo chủ, các vị không việc gì phải kinh hoàng. Đợi thuyền của người Ba Tư tới đây, tôi và Tiểu Siêu ắt có biện pháp đối phó. Tử Sam Long Vương tuy là phận nữ nhi nhưng cũng biết ai làm người ấy chịu, không dám để cho quí vị bị liên lụy đâu. Trương giáo chủ và Tạ tam ca đãi tôi ơn nặng tày non, Đại Ỷ Ti lúc này xin được cảm tạ.

Nói xong bà ta phục xuống lạy, Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn vội vàng hoàn lễ, nghĩ thầm: "Bọn người Ba Tư hành sự độc ác, thể nào cũng đem bà ta ra thiêu sống, chắc cũng không tha gì bọn mình".

Chiếc thuyền vẫn từ từ chìm xuống, nước đã vào đến trong khoang. Trương Vô Kỵ ôm Ân Ly, Chu Chỉ Nhược ôm Triệu Mẫn, cùng trèo lên đà cột buồm. Tiểu Siêu bỗng chỉ tay về hướng đông, khóc òa lên. Mọi người nhìn theo hướng tay nàng, thấy tận tít mù khơi những cánh buồm lấm chấm. Một hồi lâu sau, bóng những chiếc buồm đó lớn dần, chính là hơn một chục chiếc thuyền lớn của Ba Tư đã đuổi tới.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Nếu như ta là Đại Ỷ Ti, thà rằng nhảy xuống biển chết còn hơn là chịu bị bắt đem hỏa thiêu". Tuy nhiên thần sắc bà ta vẫn bình tĩnh thản nhiên, không có vẻ gì kinh hãi chàng không khỏi bội phục: "Bà ta đứng đầu trong tứ đại pháp vương, quả không phải tầm thường. Nghĩ lại năm xưa Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương là những hào kiệt lớn tuổi đã thành danh, còn bà ta chỉ là một cô gái trẻ măng, vậy mà lại đứng trên cả ba người, đâu phải chỉ vì công lao một ngày mà được, cũng phải có chỗ hơn người".

Khi thấy đoàn thuyền Ba Tư mỗi lúc một gần, chàng nghĩ thầm: "Ta đắc tội với các Bảo Thụ Vương không phải nhỏ, nếu rơi vào tay họ thì khó mà mong sống được. Chỉ có điều phải nghĩ cách làm sao để nghĩa phụ, Triệu cô nương, Chu Chỉ Nhược, biểu muội được an toàn. Tiểu Siêu hỡi Tiểu Siêu, ôi! Thà rằng để em đối với ta bất nghĩa chứ không thể nào ta đối với em bất nhân".

Đoàn thuyền Ba Tư tới gần, các khẩu đại pháo trên thuyền đều chĩa thẳng vào cột buồm chiếc thuyền đang chìm, khi còn cách chừng hai chục trượng thì lập tức hạ buồm thả neo. Trí Tuệ Vương cười ha hả cực kỳ đắc ý, kêu lên:

- Chúng mày có chịu hàng chưa?

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Nghĩa sĩ Trung Thổ, thà chết không khuất phục, sao lại đầu hàng? Ngươi có giỏi thì dùng võ công xem ai hơn ai thua nào.

Trí Tuệ Vương cười nói:

- Đại trượng phu đấu trí không đấu sức, mau mau đưa tay chịu trói đi.

Đại Ỷ Ti bỗng nhiên lớn tiếng nói mấy câu tiếng Ba Tư, giọng nói hết sức nghiêm chính. Trí Tuệ Vương ngạc nhiên, cũng đáp lại bằng tiếng Ba Tư. Hai người nói qua nói lại đến hơn chục câu, rồi gã Đại Thánh Vương cũng chen vào hỏi thêm. Nói thêm mấy câu nữa, thuyền lớn liền thả xuống một chiếc thuyền nhỏ, có tám tên thủy thủy chèo thuyền, bơi qua. Đại Ỷ Ti nói:

- Trương giáo chủ, tôi và Tiểu Siêu qua bên kia trước, xin quí vị chờ đây giây lát.

Tạ Tốn gằn giọng nói:

- Hàn phu nhân, Minh giáo Trung Thổ đãi bà không bạc. Hưng suy an nguy của bản giáo đều ở một mình Vô Kỵ mà thôi, nếu bà bán rẻ chúng tôi, cái mạng Tạ Tốn này không đáng nói, thế nhưng nếu như hại đến một cái lông, sợi tóc của Vô Kỵ, Tạ Tốn dẫu thành ma cũng không tha cho bà đâu.

Đại Ỷ Ti cười khẩy nói:

- Con nuôi ông là vàng là ngọc, còn con gái tôi thì là đất là bùn hay sao?

Nói xong cầm tay Tiểu Siêu, nhẹ nhàng nhẩy một cái rơi ngay xuống chiếc thuyền con. Tám tên thủy thủ chèo nhanh như bay, quay về thuyền của người Ba Tư. Mọi người nghe bà ta nói câu đó, đều ngạc nhiên. Triệu Mẫn nói:

- Tiểu Siêu quả đúng là con gái bà ta.

Nhìn theo xa xa thấy Đại Ỷ Ti và Tiểu Siêu lên chiếc thuyền lớn, đứng ở đầu thuyền, cùng các Bảo Thụ Vương nói chuyện, còn chiếc thuyền của mình vẫn chìm dần, chiếc cột buồm từng tấc, từng tấc từ từ hạ xuống.

Tạ Tốn thở dài:

- Không phải người cùng chủng tộc với mình, tâm hồn cũng khác xa. Vô Kỵ con ơi, ta quen nhầm Hàn phu nhân, còn con thì quen nhầm Tiểu Siêu. Vô Kỵ, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, mình cố gắng chịu đựng cái nhục nhất thời, để tìm cách chạy trốn. Trên vai con đảm đương gánh nặng, nghìn vạn dân trăm họ Trung Nguyên, ai ai cũng mong Minh giáo phất ngọn nghĩa kỳ, khu trừ Thát tử. Khi nào thời cơ đến, con cứ một mình thoát thân, đừng phải lo gì cho ai cả. Con đứng đầu của một giáo phái, nặng nhẹ lớn bé phải biết phân biện cho rõ ràng.

Trương Vô Kỵ còn trầm ngâm chưa trả lời, Triệu Mẫn đã hứ một tiếng nói:

- Cái mạng mình còn lo chưa xong, nói gì Thát tử với không Thát tử. Ông bảo người Mông Cổ tốt hay người Ba Tư tốt?

Chu Chỉ Nhược từ nãy vẫn không nói năng gì đột nhiên chen vào:

- Tiểu Siêu đối với Trương công tử tình ý thâm trọng, quyết không thể nào phản bội mình đâu.

Triệu Mẫn nói:

- Thế cô không thấy Tử Sam Long Vương nằng nặc bức bách cô ta hay sao? Tiểu Siêu lúc đầu không chịu, nhưng sau bị ép quá, rồi cũng phải chịu, còn giả vờ khóc lóc một hồi nữa.

Lúc này cột buồm chỉ còn cách mặt biển chừng hơn một trượng, mỗi lần sóng biển tạt vào, nước bắn lên khiến ai nấy mặt mày ướt đẫm. Triệu Mẫn đột nhiên cười nói:

- Trương công tử, cả bọn cùng chàng chết chung một chỗ càng tốt. Tiểu Siêu gian trá âm hiểm nên không được chết chung với chúng mình.

Câu nói đó vốn là một câu nói đùa, nhưng bên trong tình nghĩa thật triền miên. Trương Vô Kỵ nghe thật cảm động, nghĩ thầm: "Ta không lấy được tất cả một lượt, nhưng cùng ba cô chết chung một chỗ, cũng không uổng chút nào". Chàng quay lại nhìn Triệu Mẫn, rồi lại nhìn Chu Chỉ Nhược, rồi nhìn xuống Ân Ly trong lòng mình. Ân Ly lúc này vẫn hôn mê chưa tỉnh, còn Triệu Chu hai nàng má đỏ hồng, thêm những giọt nước lấm tấm trên mặt chẳng khác gì những giọt sương trên bông hoa buổi sớm, nàng họ Triệu tươi tắn như nụ hồng, còn nàng họ Chu tú lệ như chi lan, khiến đột nhiên chàng thấy trong lòng thật bình an vui sướng.

Bỗng thấy trên hơn một chục chiếc thuyền Ba Tư tiếng hoan hô vang dậy. Cả bọn Trương Vô Kỵ giật mình, cùng chăm chú nhìn qua thấy trên tất cả mọi chiếc thuyền người Ba Tư đều quì phục xuống sàn, hướng về chiếc thuyền lớn hành lễ. Trên chiếc thuyền lớn các Bảo Thụ Vương cũng quì xuống tại đầu thuyền, chính giữa một người ngồi trên ghế, trông hình như là Tiểu Siêu nhưng vì quá xa nên nhìn không rõ. Cả bọn kinh nghi bất định, không biết bọn người Ba Tư đang làm trò quái quỉ gì. Bọn người Hồ hoan hô một chặp rồi đứng cả lên nhưng vẫn không ngừng xí xố, giọng điệu cực kỳ sung sướng, dường như có chuyện gì thật vui mừng.

Một lúc sau, chiếc thuyền nhỏ lại quay lại, trong thuyền ngồi chính là Tiểu Siêu. Nàng vẫy tay nói:

- Trương công tử, xin tất cả các vị cùng lên chiếc thuyền lớn. Minh giáo Ba Tư quyết không làm hại các vị đâu.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Sao vậy?

Tiểu Siêu đáp:

- Các vị qua rồi sẽ biết. Nếu như có ý làm hại thì Tiểu Siêu ăn nói làm sao với Trương công tử?

Tạ Tốn đột nhiên hỏi:

- Tiểu Siêu, cô lên làm giáo chủ của Minh giáo Ba Tư, phải không?

Tiểu Siêu cúi đầu không trả lời. Một lúc sau, đôi mắt to ứa ra hai hàng lệ trong như ngọc. Ngay khi đó, tai Vô Kỵ bỗng ù đi, mọi việc tiền nhân hậu quả chàng cũng đoán được bảy tám phần, trong lòng cực kỳ đau đớn, lại vô cùng cảm kích, nói:

- Tiểu Siêu, mọi sự em gánh chịu chẳng qua cũng chỉ vì tôi.

Tiểu Siêu nghiêng đầu qua, không dám nhìn thẳng vào mặt chàng. Tạ Tốn thở dài:

- Đại Ỷ Ti có đứa con như thế, không hổ cho anh danh một đời của Tử Sam Long Vương. Vô Kỵ, thôi mình qua đi.

Nói xong ông nhảy xuống thuyền trước. Kế đến Chu Chỉ Nhược bồng Ân Ly nhảy xuống theo, Trương Vô Kỵ cũng ôm Triệu Mẫn xuống thuyền.

Tám tên thủy thủ quay thuyền lại, bơi về hướng chiếc thuyền lớn. Khi còn cách chiếc thuyền chừng mươi trượng, các Bảo Thụ Vương đã cùng khom mình nghinh tiếp giáo chủ. Tất cả lên trên đại hạm rồi, Tiểu Siêu dặn dò mấy câu, lập tức có người cung kính dâng lên khăn lau mặt, đồ ăn rồi dẫn mọi người vào phòng thay quần áo ướt.

Trương Vô Kỵ thấy căn phòng chàng vào cực kỳ rộng rãi, trong phòng đầy ngọc ngà châu báu, bày biện thật nhiều đồ quí giá, còn đang lau người nghe kẹt một tiếng cửa phòng mở ra, một người tiến vào chính là Tiểu Siêu. Nàng cầm trên tay một chiếc quần lót, một trường bào nói:

- Công tử, để em hầu chàng thay quần áo.

Trương Vô Kỵ trong lòng chua xót, nói:

- Tiểu Siêu, em bây giờ giáo chủ của tổng giáo rồi, nói đúng ra tôi còn ở dưới quyền em nữa, việc gì phải làm những việc này?

Tiểu Siêu năn nỉ:

- Công tử, đây là lần cuối cùng. Từ nay hai đứa mình đông tây xa xôi vạn dặm, không biết có còn bao giờ gặp lại nhau không, dẫu em có muốn hầu hạ chàng một lần nữa, cũng không còn được.

Trương Vô Kỵ đau lòng không nói nên lời, chỉ đành để nàng như vẫn thường làm, thay áo, cài khuy, thắt dây lưng, rồi lấy chiếc lược ra chải đầu cho chàng.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nước mắt rưng rưng, đột nhiên trong lòng khích động, giơ tay ôm tấm thân thon nhỏ của cô gái vào lòng. Tiểu Siêu "A" lên một tiếng, thân thể run rẩy, Trương Vô Kỵ hôn lên trên đôi môi nàng một cái, nói:

- Tiểu Siêu, lúc đầu tôi lại tưởng em lừa dối tôi, đâu có ngờ em đối với tôi sâu đậm đến thế.

Tiểu Siêu nép đầu vào bộ ngực nở nang của Vô Kỵ, nói nhỏ:

- Công tử, lúc đầu em quả có lừa dối chàng thật. Mẹ em vốn là một trong ba thánh nữ của tổng giáo, được phái sang Trung Thổ tích lập công đức để rồi trở về Ba Tư, tiếp nhiệm chức vụ giáo chủ. Ngờ đâu mẹ em gặp cha em rồi, tình ý không dứt ra được nữa, đành phải phản giáo để cùng cha em thành hôn. Mẹ em biết tội mình rất nặng, nên đem chiếc nhẫn thánh xử nữ bằng bảo thạch bảy màu truyền lại cho em, sai em trà trộn lên Quang Minh Đính ăn trộm Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp. Công tử, chuyện đó em đã dấu chàng nhưng trong lòng em, em chưa bao giờ làm điều gì không phải với anh. Em đã nguyện rằng em chẳng màng chức vụ giáo chủ Minh giáo Ba Tư, chỉ mong được làm một đứa tôi đòi, cả đời hầu hạ anh, vĩnh viễn không bao giờ xa anh thôi. Em cũng đã từng nói cho chàng hay rồi, có phải không? Chàng cũng đã bằng lòng như thế, có phải không?

Trương Vô Kỵ gật đầu, ôm tấm thân nhỏ nhắn của Tiểu Siêu để lên lòng, lại cúi xuống hôn nàng lần nữa. Đôi môi mềm mại của cô gái ướt đẫm nước mắt, vừa ngọt ngào, vừa cay đắng. Tiểu Siêu lại nói:

- Em đã nhớ hết Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp nhưng quyết không vì có lòng phản bội anh. Nếu không phải vì ngày hôm nay ở vào đường cùng, em chẳng bao giờ nói ra cả ...

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nói:

- Bây giờ thì anh biết rồi.

Tiểu Siêu ngậm ngùi nói tiếp:

- Khi em còn bé, thấy mẹ em ngày đêm không an, lúc nào cũng sợ hãi, cố gắng che dấu dung nhan của mình, hóa tang thành một bà già xấu xí. Mẹ em lại không cho em được ở gần, đem gửi một người khác nuôi, hai ba năm mới đến gặp em một lần. Lúc đó em cũng đã hiểu rồi, mẹ em cực kỳ mạo hiểm để cùng cha em thành hôn. Công tử, nếu như hôm nay không gặp chuyện thế này, chẳng nói chức vụ giáo chủ, ngay cả làm nữ hoàng toàn thế giới em cũng chẳng màng.

Nói đến đây hai má nàng đỏ hồng lên như bốc lửa. Trương Vô Kỵ thấy người con gái chàng đang ôm trong tay người nóng rực lên, trong lòng xúc động, bỗng nghe tiếng của Đại Ỷ Ti từ ngoài vọng vào:

- Tiểu Siêu, nếu con không khắc chế được tình dục, ấy là làm hại tính mệnh của Trương công tử đó.

Thân hình Tiểu Siêu run lên, nàng vội trườn ra ngoài nói:

- Công tử, từ nay trở đi chàng đừng nhớ tới em làm gì. Ân cô nương theo mẹ em lâu ngày, đối với chàng tình thật sâu đậm, quả xứng đôi vừa lứa với anh.

Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Bọn mình tấn công ra, bắt giữ một hai Bảo Thụ Vương, ép họ phải thả mình về đảo Linh Xà.

Tiểu Siêu buồn bã lắc đầu nói:

- Lần này họ có kinh nghiệm rồi, Tạ đại hiệp, Ân cô nương tất cả mọi người đều có người Ba Tư kề dao vào cổ, mình chỉ động đậy, là họ lập tức giết ngay.

Nói xong nàng mở cửa khoang ra, thấy Đại Ỷ Ti đứng tại bên ngoài, hai người Ba Tư cầm trường kiếm đứng ngay sau lưng. Hai người đó khom lưng chào Tiểu Siêu, nhưng mũi kiếm vẫn để ngay lưng Đại Ỷ Ti không rời.

Tiểu Siêu ngang nhiên đi tới trên sàn, Trương Vô Kỵ đi theo phía sau, quả nhiên thấy Tạ Tốn cả bọn đều có võ sĩ Ba Tư đứng sau lưng cầm kiếm uy hiếp. Tiểu Siêu nói:

- Công tử, ở đây có linh dược trị thương của Ba Tư, chàng lấy mà chữa cho Ân cô nương.

Nói xong dùng tiếng Ba Tư dặn dò mấy câu, Công Đức Vương liền lấy ra một bình thuốc cao đưa cho Trương Vô Kỵ. Tiểu Siêu lại nói:

- Em ra lệnh cho người đưa các vị về Trung Thổ, thôi mình từ biệt nhau nơi đây. Tiểu Siêu thân ở Ba Tư nhưng ngày ngày cầu cho công tử được phúc thể khang ninh, mọi việc như ý.

Nàng nói nhưng giọng nghẹn ngào, Trương Vô Kỵ nói:

- Em ở nơi hang hùm miệng sói, mọi việc nên cẩn thận.

Tiểu Siêu gật đầu ra lệnh cho thuộc hạ chuẩn bị thuyền bè. Tạ Tốn, Ân Ly, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược từng người đi qua. Tiểu Siêu đem đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên giao lại cho Trương Vô Kỵ, nở một nụ cười tê tái, giơ tay vẫy chào.

Trương Vô Kỵ không biết phải nói sao, chỉ đứng xuất thần giây lát rồi nhảy lên thuyền. Chiếc thuyền lớn của Tiểu Siêu đang đứng có tiếng tù và u u vang động, hai bên cùng giương buồm lên, mỗi lúc một xa dần. Thế nhưng vẫn thấy Tiểu Siêu đứng ở đầu thuyền, đăm đăm nhìn về hướng Trương Vô Kỵ. Khoảng biển giữa hai người càng lúc càng xa, chiếc thuyền của nàng chỉ còn là một cái chấm nhỏ, sau cùng biển cả mênh mông, tiếng gió thổi vào buồm tưởng như mang theo cả tiếng ai nức nở, nghẹn ngào.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Nga Mặc đây là Omar Khayyam, một thi sĩ, toán học gia, thiên văn gia, triết gia rất nổi tiếng của Ba Tư (1048-1131 - trong Encyclopeadia Britannica viết là 1122). Có thể nói ông là một nhà bác học lỗi lạc và nhiều công trình thiên văn chính xác đến mức chúng ta ngày nay phải kinh ngạc. Ông được Ni Nhược Mâu (Nizam al-Mulk) là quốc sư của vua Malik-Shah, mời về triều, được nhà vua đặt trông coi và thiết lập một đài thiên văn để tính toán lịch số. Sau khi Nizam al-Mulk bị ám sát chết trên đường đi từ kinh đô Esfahan đến Baghdad năm 1092, Omar Khayyam bị thất sủng. Tác phẩm của Omar Khayyam được dịch ra nhiều thứ tiếng và bản tiếng Anh do Edward FitzGerald (1859) rất nổi tiếng. Thơ của ông làm theo thể tứ tuyệt (bốn câu hay quatrain) nay còn lưu truyền khoảng 250 bài.

Về cái chết của Nizam al-Mulk, sách vở chép là do nhóm khủng bố Ismailiyah (Y Tư Mỹ Lương) nhưng cũng có nơi cho là do âm mưu của vợ ông vì con trai bà không được chỉ định làm người thừa kế. Nhóm khủng bố Ismailiyah này có nhiều chi phái, trong đó một nhóm Hồi giáo ly khai cực đoan từ Ai Cập truyền tới Ba Tư do Hasan-e Sabbah (Thôi Sơn 1034-1124) lãnh đạo đã có thời đã kiểm soát một khu vực rộng lớn trong dãy núi Elburz giữa Iran và Syria, có ảnh hưởng mạnh trong tầng lớp thợ thuyền và dân lao động. Hasan có biệt danh là Old Man of the Mountains mà Kim Dung dịch là Sơn Trung Lão Nhân được sử sách kể là dùng môt loại cây có chất ma túy tên là hashish khiến người dùng nó có ảo giác để mê hoặc những đồng đảng. Người được lệnh đi thi hành việc ám sát được gọi là Hashshashin (người hút hashish) và chữ này đã biến thành chữ assassin trong tiếng Anh. Nhóm này đóng một vai trò quan trọng cho tới tận thế kỷ thứ 13 thì bị người Mông Cổ tiêu diệt. Hiện nay vẫn còn một số ít người thuộc nhóm khủng bố này sống ở Trung Á.

Về việc nhóm này ám sát vua Edward nước Anh, người dịch chưa tìm ra tài liệu vì trong suốt lịch sử Anh quốc có rất nhiều vua tên Edward và không có vua nào cùng thời với Hasan cả.

[2] Lăng ba tiên tử mô tả một nàng tiên trên mặt sóng nhưng nghĩa bóng cũng ám chỉ môt đóa sen lay động trên mặt nước

[3] học giả chuyên nghiên cứu kinh điển

[4] Đoạn này tác giả cố ý để Trí Tuệ Vương dẫn một số câu trong Luận Ngữ lại bắt chước Triệu Mẫn nhầm chữ nọ qua chữ kia. Nguyên câu của Khổng Tử là: Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ. Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ có nghĩa là: Có bạn từ xa đến chơi, chẳng sướng lắm sao. Học mà được làm những điều mình đã học, chẳng sướng lắm sao. Tác giả viết rất hoạt kê để cho một người ngoại quốc nói tiếng Hán có nhiều điều nhầm lẫn, lời lẽ thô lỗ.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #hiep#kiem