Xi la xi lo-Lenghiabk05

Vợ chồng đậu phụ

Thế là người ta tống cổ tôi ra khỏi ký túc xá. Ông bảo vệ vừa hỉ hả khép cửa vừa vút đuôi: “Đi nhé, lúc nào rỗi rãi quay lại đây thăm anh em bạn bè sau”. Tôi bảo: “Vâng. Lúc ấy chắc bác đã già lắm”. Rồi tôi đi, không ngoảnh lại. Tôi chưa biết cảnh người ta phải đi tìm hỏi từng khu nhà trọ để thuê được một gian phòng. Suốt thời sinh viên tôi sống trong ký túc xá, tiền kiếm được dành để đóng học phí và tiêu phung phí vào rất nhiều sở thích quái gở. Cái thời ấy sao mà lạc quan. Tôi đi lang thang cả ngày trời, cũng không biết mình sẽ đi đâu. Ngày mai cơ quan sẽ phỏng vấn lần cuối, nếu xong thì sẽ được vào làm cộng tác viên. Thôi thì cũng là may hơn nhiều đứa giờ vẫn nháo nhác không nơi nào thèm nhận.

Bà chủ nhà nhào ra cổng: “Hỏi thuê nhà hử?” - cái giọng nằng nặng của người miền biển vẫn còn lưu lại nguyên vẹn. Tôi khấp khởi hỏi lại: “Bác còn nhà?”. “Ừ, nhưng mờ phải ba trăm, chưa điện nước”. Tôi nhẩm tính rồi tặc lưỡi. Đã rất nhiều lần tôi tặc lưỡi, đã mất một số thứ trong cuộc sống nhưng lòng cũng nhẹ bớt đôi phần. Gian phòng chừng mười mét vuông, rất nhiều mạng nhện và mùi ẩm mốc xộc đến. Bà chủ bảo: “Tôi cho mượn cái phản, mua đệm về trải mà nằm, bây giờ không ai dùng giường nữa đâu. Mai mốt có chuyển đi cũng tiện. Tôi là không có hợp đồng hợp nhôm gì sất. Ăn ở không tử tế là tôi cho lượn luôn”. Tôi vừa quét mạng nhện vừa bảo: “Bác tốt với cháu quá” mà trong lòng chỉ muốn đập cho vỡ cánh cửa sứt sẹo và xộc xệch này đi. Hừ, cuộc đời dạy cho tôi nhiều thứ ,nhưng chưa có khi nào tôi nghĩ mình vào hoàn cảnh này.

Vợ chồng nhà kế bên tôi làm nghề đậu phụ. Nghe đâu họ từ Bắc Ninh ra thuê nhà, lấy nhau rồi sinh con đẻ cái. Hai đứa con đen đủi và lấm láp như mới vớt lên từ ao bùn. Bà chủ nhà thò cổ vào: “Cậu cẩn thận nhé, con vợ thằng Tuyển là có tật ăn cắp vặt”. Rồi bà lại cầm cái bát tô lớn sang gian bên: “Cho xin bát óc đậu, Tuyển”. Tuyển thấp đậm, người như một súc thịt màu than củi cháy dở. Mắt của anh ta mới thật buồn cười, nó không thành lé mà lại là một chiếc cầu lồi màu nước gạo. Tuyển bảo: “Hôm nay bà lại thích ăn óc của con à?” Bà chủ rút cái bát lại: “Mày nói thế là ý móc máy tao thế nào? Tưởng báu lắm đấy. Vợ chồng mày ăn ở thế nào cả cái khu này ai chẳng biết. Bà là bà thương tình hai cái cục bùn kia kìa, không thì bà đuổi thẳng cổ”. Nói rồi bà chủ ngoảy đít đi thẳng. Buổi chiều, cả khu nhà thuê biết chuyện thằng Tuyển kiệt xỉ, vắt cổ chày ra nước, bán từ cái bã đậu thối bán đi. Nhiều cô thợ may suốt ngày nghe toa roa tiếng máy và cuồng chân may được nghe chuyện khôi hài không mất tiền nên lấy làm thú vị lắm, cả cái bể nước rung động bởi những trận cười với đủ kiểu cách. Cô San thì ha hả cười, lăn lộn trên cái phản cũ làm ụp cả rổ rau muống đang nhặt dở. Cô Tâm thì ý tứ hơn, hỏi nhỏ: “Thế bác đã nhìn thấy hai anh chị ấy tình tứ với nhau bao giờ chưa?”. Được thể, bà chủ he hé cười: “Ui giời ơi, cái phường chèo ấy nó âu yếm nhau mới là chuyện tiếu lâm Chí Phèo yêu Thị Nở. Thế này này, con San ra đây tao làm mẫu cho xem... Thế, nó mới ôm một vòng tay đẫy vào hông con vợ. Con vợ nhột quá, cười sằng sặc lên như lợn bị tụ huyết trùng. Nó bảo, hôm nay mặc cái áo hồng đẹp phết. Vợ nó quay đi, có vẻ ngượng, lỡm ạ, đẹp gì, áo này mua sida ở Kim Niên, có mười năm ngàn bạc. Nó lại nịnh, người đẹp thì mặc gì mà chẳng xinh. Vợ bảo, con ơi, con nghe thấy bố khen mẹ xinh không?... Đêm nào mà thằng chồng hăng tiết vịt, hôm sau con vợ cứ là rạc như vạc ăn đêm”... Cô San bảo: “Ừ, nhà ấy buồn cười lắm, lúc vui thì nịnh nhau như diễn chèo, tức nhau thì lôi từ ông bành tổ nhà nhau ra mà chửi. Con vợ đanh đá cá cầy, cái mồm vạc ống dầu ăn hết phần chồng phần con cho mà xem”. Vợ Tuyển vừa đi chợ về tính ra giếng rửa chân. Thế nhưng những tràng cười ám ảnh thị như ma quái. Thị tức lắm. Thị biết lũ người buôn dưa lê kia đang chĩa mũi dùi vào cái hạnh phúc mong manh của thị mà thôi. Thị là người yêu chồng, thương con. Mấy con ranh “ê sắc” lại ra vẻ chính chuyên, đêm nào cũng rập rình hết anh hàng tôm đến thằng thợ điện mà lại đi chê một người no vợ đủ chồng như thị. Thị vóng vót qua cửa sổ ra ngoài: “Tài giỏi thì đi đánh đĩ mà kiếm chồng, cứ thử làm vợ một ngày cho nó biết mùi sung sướng. Ngồi nê đôi mách chuyện nhà người, cứ động đến nhà tao thì tao nấy cái đũa cả tao gang mồm ra. Chồng tao đấy, con tao đấy, tao chẳng chửa hoang chửa nứt với thằng nào. Tao cũng không suốt ngày rình rập đêm hôm xem váy người khác mặc đằng trái hay đằng phải để kiếm câu chuyện nàm quà. Tưởng công phượng mỹ miều nắm đấy, cũng toàn mèo mả gà đồng thôi chứ báu gì”. Thị tuôn một tràng liên chi hồ điệp và chờ đợi loạt đạn phản công. Máu nóng trong người thị dồn lên rồi. Nhà thị làm đậu thì đã sao, làm gì mà chẳng được miễn là không đi vay đi xin của đứa nào, miễn là kiếm được bát cơm đổ vào mồm mà không đâm thuê chém mướn. Con thị đen bẩn thì đã sao, nhà thị ở quê đã quen rồi. Mấy đứa con hàng xóm dưới quê nhà thị còn bẩn cả trăm lần, chúng hàng ngày ngồi phía sau tường và cậy từng miếng vách bỏ vào miệng. Chúng đi bắt đỉa bỏ vào bình vôi để nhìn cảnh những con đỉa giẫy giụa trong vũng máu và nồng độ vôi đậm đặc. Chồng thị cũng có cục súc với vợ, nhưng đấy là chuyện của riêng nhà thị chứ, mắc mớ gì chuyện của họ. Thị ngồi im trong phòng lắng nghe. Nhưng ngoài bể nước bỗng im bặt. Bà chủ nhà và mấy cô thợ may đang chụm đầu lại. Bà chủ giơ tay lên, thế này, thế này....

 Và “sư đoàn tóc dài” nối đuôi nhau từng bước hùng dũng đi vào gian phía bên cạnh nhà tôi. Tôi nín thở nhìn theo, chắc chắn sẽ có trận hỗn chiến. Bà chủ nhà giật tung cánh cửa nhà Tuyển, mắt long lên, hai tay chống nạnh nhìn vào trong. Giữa cái không gian ẩm mốc và tù đọng của vợ chồng hàng đậu, hai đứa bé ôm lấy chân bố, mắt trân trối nhìn ra ngoài. Có lẽ chúng đã quá sợ hãi những cuộc tung hoành thế này. Bà chủ vóng vót: “Này con kia, mày vừa chửi ai đấy. Mày có biết bà là bà nào không?”. Và tất cả mấy cô thợ máy quần áo xắn ngược lên, đằng đằng sát khí. Các cô đồng thanh hét lên: “Đồ con đĩ”. Rồi mớ tóc râu ngô của thị Tuyển bị buộc ngoéo vào thành giường. Rồi tát, rồi gào thét. Tát cho chừa cái thói đành hanh đỏ mỏ đi. Cho chừa cái tật ăn cắp vặt như lời bà chủ nói với mọi người đi. Tuyển lao vào đuổi cổ mấy cô thợ may ra. Nhưng như hổ cái mất con, càng đuổi ra các cô càng lăn xả vào mà cấu mà xé. Hai đứa trẻ thét lên. Chúng gào váng tai váng óc bà chủ nhà. Bà quát: “Thôi, buông nó ra”. Vợ Tuyển đang chửi bới giẫy dụa bỗng phủ phục dưới chân bà. Thị biết có thể phải bế con lang thang ngoài phố ngay trong đêm nay nếu còn giữ thói già mồm. Thị đổi ngay thái độ: “Ôi, bà ơi, thề có bức tường đây, con mà lại dám nói động đến lông chân bà sao. Bà như mẹ con ở quê, bà bảo sao con nghe vậy, trước giờ con chưa dám trái nời chứ sao dám chửi bà. Con nà con chửi cái quân mất dạy đi phá hoại hạnh phúc nhà người khác cơ. Mà bà thì chẳng bao giờ làm việc ấy. Bà đừng làm khó cho con, bà phải yêu thương cho công bằng chứ, huhu...”. Tự dưng bà chủ nhà mặt chùng xuống. Bà có vẻ nghĩ ngợi. Có lẽ thị Tuyển đã nói đúng chăng? Tôi ngồi trong nhìn qua khe cửa thấy khuôn mặt bà thay đổi trong từng giây, thoắt cáu giận thoắt yêu thương, thoắt đanh đá thoắt u uẩn buồn bã. Bà chủ nhìn mấy đứa trẻ, lúc đó khuôn mặt bà như tái đi. Rồi bà khoát tay: “Thôi, các cô đi về, chuyện nhà nó kệ bố nó, đếm xỉa đến chi cho nhọc công. Về mà nằm khểnh, xem cái phim gì ấy nhỉ, ờ, xem phim ông Xác - li”. Bà quay vào nhà, nhìn Tuyển: “Con vợ anh ý, nó ngoa ngoắt như một con mụ bán mắm thối. Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về, ở đây đã vậy, còn chỗ khác thì nó vạc mồm đi”. Nói xong, bà từ từ buông tay áo xuống, quày quả ra bể nước. Lúc sau thì mọi ấm ức của các cô thợ may tràn cả sang bà. Mặt bà thuỗn ra, rồi bà đứng dậy, phủi đít đánh toẹt: “Tôi là tôi thương mấy cái cục bùn kia quá cơ”. Bà về nhà, lát sau đã thấy tiếng Trung Quốc xí xéo trong ti vi. Bà đang dán mắt vào câu chuyện ông Xác - li với những pha cứu nạn ngoạn mục.

Tôi vốn ngại thay đổi. Có đến hơn chục lần định chuyển nhà để tìm một nơi tĩnh lặng, nhưng nghĩ đến những thói quen, những lối đi về của khu nhà đã tạo nếp trong mình thì tôi lại im lặng, lại bị bạn bè chê là “dân cư xóm liều”. Tôi đi làm giờ giấc thất thường, vợ Tuyển bảo: “Cậu đi săn chim ở chợ Giời đấy à?”. Tôi nhìn thị: “Chị nói thế là thế nào?”. Tuyển gắt vợ: “Con dở hơi kia, mày hỏi ngu thế mà cũng hỏi à?”. Thị Tuyển vẫn nhìn tôi: “Tôi nghe con San “ê sắc” nó nói cậu đi nàm môi giới cho mấy cái nhà hàng mại dâm. Tôi thì tôi chả tin đâu. Bà chủ cũng bảo, cậu nà người tốt vì cậu nà nhà báo”. Tuyển lôi vợ vào, nhìn tôi hối lỗi: “Chú đừng chấp, vợ anh hay thẳng tính nhưng mà không để trong bụng bao giờ. Đi làm tối về nhắm rượu với tớ, tối nay mùng Một giết con gà cúng rồi nhậu chơi”. Hôm sau vợ Tuyển gặp tôi trên đường đi mua rau. Thi thoảng tôi tự nấu ăn bữa tối, như một cách giải trí. Vợ Tuyển bảo: “Khu này phức tạp nắm, cậu phải cẩn thận. Mấy hôm rồi, thằng em Chã nhà bà ấy mới ghé nhà đấy. Vẫn béo như dạo trước nhưng mà núc nào cũng ngáp. Nó nấy của bà ấy cả cây vàng, hôm qua bà ấy xuống khóc với tôi. Hừ, thế mà nghiện hút đấy. Mụ này thế mới được, bòn rút từ đồng nẻ của chị em mình để cúng thằng con đem đi hút hít. Rồi nghe đâu, hôm trước còn xuống thòng thẽo với con San. Hôm qua con San vác bụng ra bắt đền rồi. Thằng em Chã này cũng không vừa, nó bảo: muốn nó cưới thì đi thử gen đi, đúng gen thì nó nhận con. Còn không thì cái ngữ ấy thằng nào đến chả được. Ui chà, nghĩ công phượng chứ ai biết nại thích cả cái quân béo ú na ú nần, mông cong bụng ỏng kia”. Người đàn bà này quả có cái tài chê bai và dẫn chuyện. Tôi bảo: “Thế sao lại nói bà chủ nhà không con”. Thị Tuyển lại tớn môi lên, hai bên mép giật giật: “Thì không con chứ sao. Cái em Chã này nà con của thần của thánh, nhặt được ở bệnh viện nào ấy. Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa để nó thành thằng nghiện hút nang bạt kỳ hồ. Trời có mắt nắm chứ không phải không đâu”. Thị nhìn tôi: “Cậu cứ phải cẩn thận, nó về nhà nà nó cuỗm hết mọi thứ đấy. Tôi chẳng có gì, mí nại nhà tôi ở nhà cả ngày. Chắc cậu nghe mấy chuyện không hay về vợ chồng tôi. Nhưng tôi nói thật, anh ý nhà tôi tốt nắm đấy. Anh ý thương vợ đỡ con mà nại biết điều. Nếu không tôi bỏ từ tám đời rồi. Ngày xưa, hồi mới nên đây, chưa có con đâu, nhìn son rỗi nên cũng nượt nà, thằng em Chã chả mê tít tôi. Tôi bảo, muốn yêu thì đi uống thuốc giảm cân đi, nặng thế này ngồi bẹp nốp ô tô mất. Thế mà nó đi tập tạ thật đấy. Tập được một tuần, người nó rũ ra. Nó bảo, Thân ơi, em yêu anh thì yêu chứ bố anh có sống dậy bắt anh cũng không tập nữa. Tôi bảo, không tập thì mai mốt ai vần được cái bao tải thịt này nên giường ngủ. Thế nà nó tức quá, nó chửi: “Đ. mẹ, tưởng ái ố mỹ miều lắm mà yêu sách. Tao cóc cần. Hà Nội con gái nhiều như nước hồ Tây”. Bà ấy bảo tôi, cô kênh kiệu lắm đấy, mai mốt lấy anh Tuyển nàm đậu kia kìa, ngày có đậu ăn tối có đậu gối đầu. Thế mà thấy hay hay, cưới thật. Chết cười”.

Thực lòng tôi không thích thị Tuyển. Không thích cái thói thô thiển đàn bà của thị. Nhưng thị không coi chuyện yêu ghét làm trọng. Thị cứ phởn phơ với con cá mè xanh rớt và những miếng mỡ bụng kềnh càng. Thị về nhà, ngồi dãi thẻ ra bể nước làm cá, mùi tanh xộc lên làm cô San nôn oẹ mấy lần. Đi ra thị nguýt cô San, đi vào lại nguýt cái nữa. Thị bảo: “Đem thang mà hỏi ông trời. Đem thời con gái cho người mà chi”. Rồi thị hấm hé cười. Tuyển trong nhà đi ra, chửi: “Câm mồm đi”. Vợ Tuyển im được một chặp thì bà chủ nhà xuống. Bà nhìn quanh rồi vào phòng cô San: “Tôi hỏi thật, cô có chửa với thằng Nghiêm nhà tôi đấy à?” Cô San co người trong chăn mỏng: “Con lại dám lừa bác à? Bác hỏi buồn cười thế. Con yêu anh ý nên mới ra nông nỗi này. Hôm ấy trời mưa anh ý say rượu nên con phải dìu về. Rồi anh ý nói... yêu con nên con mới cho chứ. Anh ý còn bảo, cưới nhau xong mẹ sẽ cho hai vợ chồng khu nhà này để mở xưởng làm ăn. Huhu, bây giờ con chẳng biết làm thế nào, mọi người ở quê mà biết thì thà con chết còn hơn, huhu...”. Bà chủ bịt miệng cô San lại: “Này, không phải khóc, ngày mai theo tôi vào bệnh viện khám thai, đẻ đi tôi khắc nuôi cháu tôi. Thằng Nghiêm nó nói thế chứ nó không làm được gì đâu. Nó... nó nghiện hút rồi, San ơi”. Hai người đàn bà ôm nhau khóc. Cái mặt thị Tuyển ghé sát bên cánh cửa nghe trộm đang thấp dần xuống. Một cái gì như là tia lửa nhỏ đang dậy lên trong mắt thị, quái lạ và nanh nọc, lại lẫn cả sự hả hê...

Sớm hôm sau, bà chủ đi với cô San. Tôi cũng đi đến chiều chập choạng mới về. Khi tôi về đến cổng có tiếng khóc la thảm thiết, tiếng chửi bới và hàng xóm đông đỏ kéo đến nhà bà chủ. Bà bị mất túi vàng. Bà bảo là có hai cái vòng Tầu với một cái dây chuyền nặng một cây. Bà đã cất dưới viên gạch thứ ba ở trong nhà tắm mà nó vẫn biết để cậy lên. Mất sạch vốn liếng mà bà có ý định dành cho con dâu rồi. Thị Tuyển nhổ nước bọt phì phì: “Ai mà nại rõ trong nhà bà thế cơ chứ”. Bà chủ gào lên: “Còn ai nữa, hồi trước tao nhờ thằng chồng nó sửa lại cái bồn chứ ai. Quân ăn cháo đá bát. Đi ngay cho khuất mắt tao”. Tuyển như võ sĩ bị đánh knock out, hai mắt hóa dại gầm lên: “Chó, khốn nạn thật. Thằng này đậu phụ nhưng đ. thèm cắc thừa của đứa nào đâu. Đi, về dọn nhanh rồi biến. Không thiếu gì chỗ ở. Con đ. này, còn đứng đấy nữa à. Hai ranh con kia, đêm nay cho chúng mày nằm nhà chờ xe buýt”. Bà chủ đuổi mọi người về hết. Rồi bảo: “Con ở lại bác nói chuyện này”. Tôi ngồi lại bên thềm, nhìn mọi người nhốn nháo ra về. Bà chủ nhai thêm một miếng trầu, mắt đã khô trở lại. “Con là người có học, bác nói thật. Không có gì mất mát đâu, bác dựng lên để đuổi nhà Tuyển đi thôi. Nó ở đây, suốt ngày nó riếc móc con San đến sảy thai mất. Thôi thì, nghĩ đến đứa bé trong bụng. Không tốt đẹp thì cũng hơi hướng dòng giống nhà mình. Làm thế con bảo bác sai hay đúng?”. Tôi ngồi im không nói được gì. Thị Tuyển ơi thị Tuyển, cái miệng làm hại cái thân thị rồi. Tôi đứng dậy, bảo bà chủ: “Con thương hai đứa trẻ”. Rồi về. Thị Tuyển nức nở dọn nhà, hai đứa bé lấm lét nhìn bố mẹ. Đồ đạc lỉnh kỉnh cùng gia đình đậu phụ đi trong bóng sáng mờ tối. Tôi vét nốt số tiền còn lại trong túi nhét vào tay thị: “Chị cầm lấy, mua cái gì cho hai đứa bé ăn. Em biết chuyện gì đã xảy ra. Tiếc là em nghèo quá”. Thị hậm hụi đẩy xe, nước mắt rớt ướt vạt áo: “Thôi, cố mà thành ông nhà báo cậu ạ. Tôi đi đây, nghèo đến chết cũng không thèm ăn cắp đâu. Tất cả nà do con San thôi

Xã công an trưởng

Vừa bước vào buồng, Thảng sững người vì thấy vợ nằm khóc thút thít. Hỏi không nói, không thưa. Sốt ruột! Thảng ghé tai vợ ngọt giọng: “Anh đói lắm rồi. Dậy nấu cơm cho anh ăn”. “Anh ăn cơm gà cá gỡ trên huyện chưa đủ no say hay sao mà phải về nhà ăn cơm rau muống!”, lời chì chiết nức nưởi như tưới nước sôi vào mặt Thảng. Ô kìa, lạ chưa! Thảng lên huyện từ trưa, lu bù công việc, nào đã được miếng gì.

Thảng lẳng lặng bóc gói mì tôm. Nước phích nguội, mì nổi phềnh, nhạt tệch, không thể nào nuốt nổi. Đã thế, tiếng khóc của vợ từ trong buồng vọng ra cứ dấm dứt như muốn vặt đầu vặt tai Thảng.

Đoán là có chuyện, Thảng bỏ bữa lững thững đi bộ ra khu chợ đầu cầu. Nhập nhoạng đèn xanh đèn đỏ. Tiếng hát xé tai cộng tiếng nhạc ùm ùm dội ra từ một hàng karaoke như tra tấn màng nhĩ. Thảng bước vào quán. Mấy trai làng đầu nhuộm xanh vàng kiểu vẹt, mấy thôn nữ áo hai dây hở rốn, quần Jeans trễ mông đang khoác vai nhau gào một tình khúc xót xa. Thảng đi thẳng tới quầy, nhắc chủ quán khép cửa và nhớ nghỉ đúng giờ. Bà chủ tuổi tứ tuần liếc Thảng một phát sém mặt rồi theo Thảng ra tận cửa buông một câu đò đưa: “Bất cứ khi nào rảnh anh Thảng cứ đến em, nhá!”. Thảng phẩy tay rồi bước sang hàng thịt chó. Mùi rượu thịt húng hành mắm tôm quện nhau thơm nức nở. Gã chủ quán vừa thấy Thảng đã giật thót, nhưng vội cười: “Em chào sếp!”. Hắn tíu tít kéo ghế, quát người mang rượu thịt ra thết khách quý lần đầu ghé quán. Thảng nghiêm mặt nhìn xoáy vào mắt gã nói nhỏ: “Tôi biết ông mua chó của bọn câu trộm”. Gã chủ quán mặt tái mét, lắp bắp thanh minh. Nhưng Thảng đã gạt đi: “Ông yên tâm, tôi chưa sờ đến ông đâu. Ông biết điều thì giúp tôi một việc”.

Gã chủ quán nghe xong chuyện, toét miệng tâng công: “Ôi sếp ơi! Đám xóc đĩa bị bắt mới được tha hôm qua tập trung nhậu tại quán em. Chúng nó bảo, không có tay Thảng phím thì làm sao công an huyện vồ được chúng nó. Chúng nó thù anh nên tung tin là Xã công an trưởng được chia 50 phần trăm tiền trong vụ bắt bạc này, tính ra được gần 8 triệu, lại thêm một trận nhậu tơi bời và một chầu karaoke ôm trên thị xã Xuân Mai…”.

Thảng nghe xong giận run người, nhưng phải vội vã ra về. Nhà không bật đèn, tối hù. Vợ vẫn khóc bệt trong buồng. Thảng rút điện thoại áp vào tai vợ. Chiếc máy Tàu cũ hai sim Thảng mua lại giá 300.000 phát đoạn ghi âm sắc nét. Vợ Thảng nằm im nghe. Nghe lần một rồi lần hai… Bất ngờ nàng nhảy bật dậy đấm anh thùm thụp. “Chết đi này, chết đi này! Làm người ta cứ nghĩ suốt từ trưa đến giờ”. Thảng sung sướng ôm vợ quay một vòng tít mù. Sáng hôm sau tỉnh giấc hai vợ chồng cứ mủm mỉm nhìn nhau: “Hôm qua hai đứa chả ăn uống gì mà sao… bão táp thế nhỉ?!”.

Ăn sáng xong, Thảng đèo vợ ra đồng. Đang mùa cấy chiêm, Thảng tranh thủ nhổ mạ giúp vợ. Vừa bước xuống ruộng, một lời chào như gió bấc táp vào mặt Thảng: “Úi dào, Xã công an trưởng tiền để đâu cho hết mà phải đi làm ruộng?!”. Thảng ghìm lòng: “Bác ơi, lương con chỉ đủ tiền xăng xe máy, không làm ruộng lấy gì ăn ạ”. Chỉ đợi có thế, những lời cạnh khoé, ạt ào thốc tới: “Ôi dào! Thời buổi này ai người ta sống bằng lương. Cái khoản lậu nó mới to các ông các bà ạ. Này nhé, tiền thì có chủ chứa bạc, chủ quán “ô kê” ăn chia. Thịt thì có quán chó đầu cầu cung tiến…”

Thảng cứng họng, đứng ngẩn giữa ruộng. Đã biết trước cái nghề mình làm sẽ phải gánh chịu thị phi, nhưng không ngờ nó lại tàn nhẫn đến mức này.

Những tiếng móc máy vẫn oang oang trên đồng: “Các ông các bà cũng phải thông cảm cho người ta. Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ, làm công an thì phải ăn cái… “đồ” thiên hạ!”. “Nhà tôi hôm qua lại bị câu mất con mèo chửa. Mới nghe nhoé một cái, hai thằng đi xe máy đã phóng vụt đi mất. Tôi đã ra xã báo, nhưng các ông công an còn bận đi xử lý vụ đánh bạc”. “Ôi dào, vải thưa che mắt thánh. Chẳng qua là lâu lâu làm một vụ kiếm tiền chia nhau thôi!” . “Nhà tôi cũng mới bị nó câu mất con chó đấy thôi. Câu giữa ban ngày ban mặt nhá. Tôi nhìn thấy rõ mặt thằng ăn trộm. Tôi cũng ra xã báo, nhưng ông Xã công an trưởng bảo để tìm cách giải quyết dứt điểm. Có mà dứt! Chả qua là nó làm luật rồi”…

Thảng nghiến răng đến bạnh quai hàm, giật mạ phằng phặc. Vợ Thảng nhìn những nhánh mạ đứt nổi lều phều mặt nước đục ngầu, nhìn chồng thương xót: “Thôi anh để mình em làm. Anh về nghỉ đi. Kệ họ nói chán thì thôi. Miễn mình ngay thẳng thì chả sợ gì…”.

Thảng phi xe lồng lộn trên đường, mặt ngửa lên trời ngăn những giọt nước mắt oan ức cứ muốn trào ra. Bao nhiêu gió lạnh như thổi dồn vào mình Thảng.

Thảng về nhà. Mảnh đất hương hoả khá rộng mà bố mẹ để lại thiếu tay người chăm chút cứ tềnh toàng như nhà chưa cửa. Lần này Thảng quyết định sẽ viết đơn xin nghỉ, về nhà trồng rau trồng hoa thả cá nuôi heo. Lo gì không giàu mà lại đỡ đau đầu nhức óc. Mới viết được dòng Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì điện thoại đã choang choang. Thảng vội nhảy lên xe phóng ngay ra xã.

Người phụ nữ làm nghề đồng nát vồ lấy Thảng ngay khi anh bước chân vào phòng làm việc. Chị kể, sáng sớm nay trên đường ra phố, một nhóm bịt mặt đã chặn chị ở đoạn đường vắng giữa cánh đồng, lấy đi tất cả số tiền 500 ngàn vốn liếng. Trong lúc giằng co chị đã giật được tấm vải trùm mặt của một thằng. Thằng đó chính là…

Khi cái tên từ miệng người đàn bà thốt ra, Thảng tái mặt ngồi thừ, chiếc bút trong tay run lẩy bẩy.

Thảng chưa kịp bình tĩnh trở lại thì bốn, năm người dân xóm Hữu, toàn những ông già trong họ, xông vào phòng quát mắng: “Này tao bảo cho thằng Thảng biết nhé! Mày không làm được công an thì về nhà đuổi gà cho vợ. Đừng ngồi đấy ăn lương mồ hôi nước mắt của dân nhé!”

Thảng giơ tay mỉm cười cầu hoà: “Có gì các bác cứ từ từ kể cho con biết”. Mấy ông già thấy “thằng cháu công an xã” nhã nhặn thì cũng hạ hoả ngồi vào bàn. Lề lối làm việc ở xã luôn bị cái thói gia đình tính lấn át như thế. Thảng thấy vui vì bà con vẫn còn tin vào mình. Có tin có yêu thì bà con mới tìm tới công an mà trách mắng. Những lời trách mắng kia chính là những thông tin an ninh quý giá mà quần chúng cung cấp cho anh. Lọc trong những lời gay gắt, phẫn nộ, bất bình của họ, Thảng đã có đủ hồ sơ về một nhóm tội phạm gồm những người nghiện trong xã. Chúng không chê bất cứ món gì, từ xe máy, ti vi, mèo, chó, lợn, gà… cho đến cả cái kiềng đun bếp. Táng tận hơn, tối hôm qua, chúng còn đánh cắp chiếc đầu lâu của một ngôi mộ mới quật chờ cải táng để đòi tiền chuộc.

Sự hoành hành của chúng đã khiến xóm làng luôn bao trùm một bầu không khí bất an. Nhà nhà kín cổng cao tường, tiếng chó tiếng gà cũng bị cầm tù trong sự nghi ngờ cảnh giác đến ngột ngạt. Là Trưởng công an xã, Thảng biết trách nhiệm chính thuộc về mình. Nhưng, điều đau đớn và khó khăn đối với Thảng là, kẻ cầm đầu nhóm trộm cắp và sử dụng ma tuý kia lại chính là La.

La, bạn anh. Đợt nhập ngũ năm ấy chỉ có Thảng được chọn sang đơn vị đặc công, thời hạn phục vụ 5 năm. Còn đa phần trai làng Thanh Điền ở đơn vị bộ binh, hết nghĩa vụ hai năm, họ ra quân. Một số thấy đất Tây Nguyên màu mỡ nên quyết chí ở lại lập nghiệp. Một số trở về quê làm ruộng và tìm cơ hội đổi đời. Nhưng đồng làng nhỏ như manh chiếu không bõ sức trai. La cùng một số người bỏ ra Hà Nội kiếm tiền. Tiền đâu chả thấy, chỉ thấy mang tấm thân tàn tạ về làng. Thảng đã điều tra và biết, một ngày La xài 4 tép, tính tiền tới mấy trăm ngàn. Để nuôi nghiện, La chỉ còn cách trộm cắp. Ban đầu thì lén lút về đêm. Nhưng khi đói thuốc, La bất chấp, ngang nhiên trộm cướp giữa ban ngày.

Thảng hoang mang, đắn đo, suy tính suốt mấy ngày liền. Anh cũng đã tính đến phương án cho phục bắt La rồi đưa đi trại cải tạo cai nghiện. Nhưng rồi Thảng đã không thể. La và anh có quá nhiều kỷ niệm vui buồn thời quân ngũ.

Ngày mới vào Tây Nguyên Thảng bị một trận sốt rét ác tính lay lắt tưởng chừng không qua khỏi. Bao nhiêu loại thuốc quân y đều vô hiệu. La, chính La đã vận động anh em đồng hương dồn hết phụ cấp và một nửa số quân trang mới được phát, bán đi để mua lại của dân tìm trầm một liều thuốc đặc trị với giá một chỉ vàng, rồi bắt xe đò vượt mấy chục cây số đường rừng đem đến bệnh xá đơn vị Thảng. Với Thảng, La không chỉ là bạn lính từng mặc chung quần lót thời tân binh, mà còn là cái ơn cứu tử…

Từ khi về xã, Thảng và La chưa hề gặp nhau. La mặc cảm đã đành, nhưng chính Thảng cũng ngại ngần. Nhưng sự thể đến nước này thì không thể làm ngơ được nữa rồi. La đã dám ngang nhiên trấn lột giữa ban ngày thì việc cướp của giết người sẽ tới trong nay mai.

*

Một buổi chiều nhập nhoạng, Thảng đã quyết định.

Thoáng thấy bóng Thảng vừa bước vào sân, một bóng người đang vật vờ trước hiên bật dậy lao vụt ra vườn…

Lũ trẻ chăn trâu Thanh Điền mấy ngày sau đó phồng phạo kể cho nhau nghe vụ bắt tội phạm ngoạn mục như trong phim Cảnh sát hình sự. Chú Thảng công an xã đúng là anh hùng, đột kích vào nhà tên La giống y Võ Tòng trong phim Thuỷ Hử một mình vượt núi Cảnh Dương đánh cọp. Khi thấy chú Thảng bước vào sân, tên La ra đòn ngay. Đầu tiên là hắn phi dao. Rồi hắn vung mã tấu… Nhưng chú Thảng là lính đặc công, võ thuật đệ nhất đẳng huyền đai Karatedo, bắn súng hai tay như một, biết lái ô tô và cả trực thăng nữa nhé. Đối với chú Thảng, tên La là con tép! Chú Thảng chỉ cần nghiêng người một cái là phập, con dao găm tay La phóng cắm vào cánh cửa. Chú Thảng bay người tung một cú song phi, chiếc mã tấu văng khỏi tay tên La rơi xoảng xuống sân. Pắc, pắc, chú Thảng vung tay điểm huyệt, tên La bất ngờ mềm nhũn chi chi. Lúc ấy chú Thảng mới gọi xe tù đến chở tên La đi…

Chuyện lan truyền, “lộng giả thành chân” khiến nhiều người tin là thật. Nhưng sự thật thì không phải thế. Hôm ấy, dù đã lao ra vườn, nhưng khi thấy chỉ có mình Thảng, La lại lưỡng lự quay vào. “Mày đến bắt tao à?”. La hỏi ngập ngừng. Thảng nhìn thằng bạn xót xa: “Nếu muốn bắt mày thì tao không đến đây”. La cười gằn, bảo: “Chắc đến thuyết phục tao đi cai nghiện chứ gì? Tao đi ba lần rồi, nhưng nghiện vẫn hoàn nghiện”. La ôm đầu gục xuống hai gối, nước mắt nhỏ thánh thót xuống gạch: “Thảng ơi, tao biết đời tao khốn nạn lắm rồi!”. Thảng cầm lấy tay La. Cánh tay khô khẳng chi chít những vết kim tiêm đã hoá sừng. Toàn thân La bám đen một lớp ghét, cáu bẩn và hôi hám. La đã không ăn được cơm, hằng ngày chỉ uống nước hồ và hít thuốc. Còn đâu một thằng La vâm váp thuở tân binh mỗi bữa đánh căng một bụng sắn rồi phăm phăm vào rừng chặt cây về làm doanh trại. Còn đâu một thằng La những tối sinh hoạt đại đội ôm ghi ta hát tưng bừng Cuộc đời vẫn đẹp sao tình yêu vẫn đẹp sao…

Cứ thế này, chẳng bao lâu nữa La sẽ chết. Thảng vụt nhớ tới ngày Thảng nằm ở bệnh xá trung đoàn. Thảng đã nhờ y tá viết thư tuyệt mệnh gửi gia đình sau khi thấy một người lính cùng phòng bệnh tắt thở vì sốt  xuất huyết cầu tố… Đúng lúc ấy thì La mồ hôi ướt đầm quần áo, mặt mày nhễ nhại âu lo cầm liều thuốc đặc trị nhảy bổ tới chiếc giường có Thảng đang nằm bẹp như một chiếc lá héo chờ rơi…

“Mày không bắt tao chứ?”, La ngước đôi mắt ngầu ngụa lên hỏi. Thảng nhìn lên những con thạch sùng bám vắt vẻo trên cột, lưỡi thè lè, mắt thao láo nhìn La chờ hơi thuốc, thở dài: “Tao không bắt mày thì công an huyện, công an tỉnh sẽ bắt mày. Mày sẽ phải ra toà, phải vào tù. Sức mày thế này… không qua được lao lý đâu…”. “Không còn cách nào khác sao, Thảng ơi!?”. La nhìn thẳng vào mắt Thảng. Ánh mắt La chất chứa cả nỗi tuyệt vọng, nỗi cầu cứu và cả sự bất cần.

Thảng cắn môi cúi đầu một hồi rồi hỏi nhỏ: “Mày còn nhớ thằng Cờ không?”. La vùng vằng: “Làm sao tao quên!”. “Nó hiện là chủ một trang trại trồng cà phê, cao su ở Kon Tum. Tao đã đến thăm trang trại của nó rồi. Ở đó không khí trong lành, có rừng có suối, cách ly phố xá. Tao sẽ bấm máy để mày nói chuyện với nó”.

Cuộc nói chuyện dài tới hết cả pin. Cờ đã bảo với La: “Tao sẽ cho  mày mượn đất trồng trọt chăn nuôi và nuôi ăn cho tới khi cai nghiện xong. Đất Tây Nguyên bát ngát, chỉ sợ suy nghĩ của chúng mày cạn hẹp thôi…”

*

Bây giờ thì dân làng Thanh Điền không ai gọi xách mé Thảng là Xã công an trưởng theo kiểu Tàu nữa. Họ gọi bằng cái tên mộc mạc: “Chú Thảng công an”. Ai cũng bảo, từ trước tới giờ Thảng là Trưởng công an xã tốt nhất, không thay thế được. Vậy mà một hôm, ông Chủ tịch mời Thảng lên bảo: “Cháu ạ, thời buổi này người ta trọng bằng cấp… Với lại, đã có dự án mở khu du lịch và sân gôn ở đồng Gạo. Xã ta sẽ được đổi thành phường. Cháu không đi học thì thật khó để giữ chức Trưởng công an phường Thanh Điền tương lai…”

Sau cuộc chuyện trò, tự dưng Thảng thấy buồn. Từ nhỏ, Thảng chưa bao giờ nghĩ mình sẽ là công an. Nhiệm vụ giao thì phải làm thôi. Thảng cũng muốn đi học lắm chứ... Đêm ấy Thảng vừa mở lời thì vợ đã gạt đi: “Cho em xin! Ở nhà có vợ có chồng. Ai có bằng cấp thì để họ thay”. Thảng thở dài nằm im.

Đợi vợ ngủ say, Thảng khe khẽ vén màn trở dậy bước ra đường. Đêm trăng cuối năm sáng lạnh. Đường làng vắng lặng, không còn bóng dáng những kẻ ăn sương khiến  Thảng nhớ tới một người. Thảng bấm máy. Một giọng hồ hởi vọng về từ miền rừng xa tít: “Tao đã khỏe lên nhiều mày ạ… Cái gì? Xã định cho mày đi học trung cấp an ninh á? Thôi thôi thôi, tao khuyên. Mày cứ làm cho tốt cái chức Xã công an trưởng đi, rồi tranh thủ ôn thi đại học kinh tế hay thương nghiệp gì đó. Mày mới ba mươi tuổi, lo gì. Tao lệnh cho mày vài năm nữa phải lên Chủ tịch. Có lên Chủ tịch thì mới nghĩ được cách tạo công ăn việc làm cho thanh niên làng. Hư hỏng như bọn tao là do thất nghiệp mà ra. Phải giải quyết vấn đề từ gốc mày ạ! Thế nhé, chào thân ái và quyết thắng!”.

Thảng phì cười với lối nói điều lệnh của La. Cách nói bỗ bã nhưng chân tình.

Đã 3 giờ sáng. Một đàn vạc bay ngang qua làng. Tiếng vạc trong trăng nghe ấm và bâng khuâng lạ…

Chửi

C ách đây không lâu, một anh bạn từ bên Mỹ, chẳng biết sưu tầm được ở đâu, đã gửi cho gã một mẩu chuyện, đọc xong gã chẳng biết nên cười hay nên khóc. Mẩu chuyện ấy như thế này :

Lần đầu tiên mới tới Hà Nội, tôi không khỏi bỡ ngỡ khi tìm nhà của một người bạn, hiện làm trưởng một khu phố văn hóa.  

Thấy có mấy đứa trẻ đang nô đùa ngoài đầu ngõ, tôi hỏi :  

- Này các cháu, các cháu có biết nhà ông trưởng khu phố văn hóa này ở đâu hay không ?  

Một đứa bé trai, khoảng trên dưới mười tuổi, ngước nhìn tôi bằng ánh mắt xấc láo và ranh mãnh, rồi đáp gọn lỏn :  

- Biết nhưng…đéo chỉ.  

Tôi lắc đầu, tiếp tục đi sâu vào con hẻm văn hóa. Gặp một thanh niên, tôi liền hỏi :  

- Anh ơi, anh có biết nhà ông trưởng khu phố văn hóa này ở chỗ nào hay không ?  

Gã trẻ tuổi chẳng thèm nhòm ngó gì đến tôi và trả lời cộc lốc :  

- Đéo biết.  

Miết rồi cũng tìm thấy nhà ông trưởng khu phố văn hóa. Khi gặp ông, tôi kể lại chuyện này cho ông ta nghe với lời than thở :  

- Anh ạ, các bậc cha mẹ ở đây không dạy dỗ con em hay sao mà để chúng nó ăn nói với những người khách lạ một cách thô bỉ và tục tĩu đến thế hả anh ?  

Chẳng cần suy nghĩ, ông trưởng khu phố văn hóa đã thuận miệng trả lời tôi ngay :  

- Có dạy đấy chứ, nhưng chúng nó…đéo nghe.  

Lúc ấy người con gái của ông bạn tôi, hiện là một cô giáo dạy môn văn, vừa từ nhà trường trở về và tôi liền đem câu chuyện ấy ra mà kể.  

Thay vì trả lời trực tiếp cho tôi, cô giáo xin phép thuật lại một sự việc như sau :  

Hôm ấy, cháu giảng bài văn, có đoạn trình bày thành tích anh hùng và dũng cảm của nhân dân ta đã đánh gục giặc Tây, đã đánh nhào giặc Mỹ…Cuối cùng, cháu kêu một em trai lớn nhất lớp và bảo :  

- Em hãy định nghĩa xem hai chữ “dũng cảm là gì ?”  

Nó đứng lên, suy nghĩ một lúc rồi đáp gọn lỏn :  

- Thưa cô, nghĩa là…đéo sợ ạ.  

Sau đó, trong cuộc tiếp xúc với ông bộ trưởng giáo dục và đào tạo, cháu liền đem câu chuyện thằng bé học trò đã cắt nghĩa hai chữ “dũng cảm” là…”đéo sợ” cho ông ta nghe.  

Nghe xong, ông bộ trưởng tỏ vẻ đăm chiêu, ra điều suy nghĩ lung lắm. Cuối cùng, ông nghiêm nghị nhìn tôi, rồi gật gù như một triết gia uyên bác vừa mới khám phá ra một chân lý cao siêu, ông ta chậm rãi đáp :  

- Ừ, nó cắt nghĩa như thế thì cũng…đéo sai.  

Nghe vậy, tôi chua chát nghĩ thầm trong bụng rằng :  

- Giáo dục và đào tạo theo kiểu này thì đất nước mình…đéo khá lên được.  

Gã nghĩ rằng mẩu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại được “phệu ra” với một chủ đích…châm chích chọc nào đó mà thôi. Nhưng câu chuyện dưới đây lại là một câu chuyện có thật một chăm phần chăm, do một cha già khả kính đã kể cho gã nghe.

Vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh, cha già đạp xe từ nhà thờ xứ tới nhà thờ họ lẻ để ban lễ vào lúc tám giờ. Cũng trong khoảng thời gian ấy, có hai vợ chồng nhà kia chẳng hiểu lục đục với nhau vì lý do gì, đã chửi bới nhau một cách thậm tệ.

Thế nhưng, đang lúc hăng say dọn cho nhau xơi những thứ cao lương mỹ vị, chị vợ nhác thấy bóng cha già sắp đi qua bèn đề nghị…đình chiến. Chị nói :  

- Thôi, không cãi nhau nữa, cha đấy.  

Anh chồng còn đang hậm hực và tức tối, từ trong nhà chõ mõm ra ngoài ngõ và quát lớn :  

- Cha thì ông cũng…đéo sợ.  

Ngay lúc đó, vị cha già khả kính của gã đạp xe ngang qua và đã nghe thấy “nguyên văn” câu nói ấy.  

Như vậy, chẳng phải chỉ có người Hà Nội mới chửi, mà người Saigon cũng chửi. Chẳng phải chỉ có người miền Bắc mới chửi, mà người miền Nam cũng chửi. Chẳng phải chỉ có đờn ông mới chửi, mà đờn bà cũng chửi. Ngôn ngữ chửi là ngôn ngữ chung của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, từ đông sang tây cũng như từ cổ chí kim.  

Và gần đây, gã thấy hiện tượng này xem ra đã bùng nổ mãnh liệt và liên tục phát triển nơi giới…nữ sinh. Cứ nhìn những cặp môi ngây thơ và xinh đẹp ấy phát ngôn một cách bừa bãi, tuôn ra rông rổng những lời chửi bới cộc cằn. Chẳng khác gì các bà hàng cá, hàng tôm, hàng thịt… Dường như đối với các em mới nhớn này phải biết chửi mới là dân chơi thứ thiệc, chính hiệu con nai vàng ngơ ngác.

Tình cờ đi qua một đám nữ sinh đang chu mỏ lại bình loạn về lão nọ, lão kia. Nhưng những lão ấy là ai thế ? Gã xin thưa những lão ấy có khi là cha mẹ của họ, có khi là thầy dạy của họ và cũng có khi là…bồ bịch của họ nữa.

Nghe được những lời bình loạn này, hẳn nhiều người sẽ phải sởn gai ốc, nổi da gà và phát sốt phát rét lên ấy chứ. Nếu có sống lại, Đức Khổng Tử cũng phải thở dài thườn thượt, rồi sau đó lăn đùng ra mà chết, miệng vẫn còn nói những lời sau cùng như muốn cảnh báo :  

- Hỉ ôi! Hỉ ôi! Hậu sinh khả…ố. Tứ đức công dung ngôn hạnh của ta biến sạch đằng nào cả rồi ?  

Như trên gã đã xác quyết bằng cả hai tay lẫn hai chân rằng :  

- Ngôn ngữ chửi là ngôn ngữ chung của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.  

Thực vậy, đã là người thì ai cũng có tình cảm. Và theo sự phân tích của người xưa, thì có bảy thứ tình cảm chi phối toàn bộ đời sống con người và được gọi là thất tình.

Vì vậy, gã xin cả tiếng lại dài hơi thanh minh thanh nga rằng : thất tình ở đây chẳng phải là mất đi tình yêu để rồi phát buồn phát sầu mà đi lang thang như người cõi trên. Trái lại, thất tình là bảy thứ tình cảm chất chứa trong lòng con người, đại khái như sau :  

Thứ nhất hỉ là mừng.

Thứ hai nộ là giận.

Thứ ba ai là buồn.

Thứ tư cụ là sợ.

Thứ năm ái là yêu.

Thứ sáu ố là ghét.

Thứ bảy dục là muốn.

Kinh nghiệm cho thấy khi cái sự “nộ” tức là cái sự giận nổi lên đùng đùng, nó sẽ ám vào lục phủ ngũ tạng khiến cho đương sự như bị tẩu hỏa nhập ma, mặt đỏ tía tai và thế nào miệng cũng phát ra những lời chửi bới độc địa.  

Vậy thế nào là chửi ?  

Theo gã nghĩ chửi là biểu lộ sự nóng giận của mình bằng những lời lẽ thô lỗ, xúc phạm tới ông bà cha mẹ người ta, gán cho người ta những tên xấu xa của súc vật, hay cho người ta ăn những của lạ…Như vậy, sự chửi bới thường đi đôi với những lời nói tục tĩu.  

Gã không phải là một nhà ngôn ngữ học, nhưng xem ra cách chửi của dân An-nam-ta vừa trầm lại vừa bổng, vừa đậm đà lại vừa ý vị, ăn đứt những dân tộc khác trên trái đất này.  

Nếu coi việc chửi bới là như một chứng bệnh, thì gã có thể phân chia thành hai loại.  

Loại thứ nhất là chửi mãn tính.  

Chửi mãn tính là thứ chửi thường xuyên. Người mắc phải chứng bệnh này, hễ mở mồm ra là phải chửi. Họ chửi một cách tự nhiên. Họ chửi một cách vô tư, không tội vạ chi sốt. Nếu không chửi thì xem ra họ sẽ bị nhạt miệng hay bị ngứa ngáy khó chịu.

Bất cứ câu nói nào của họ cũng phải được đệm theo một thứ tiếng lạ, như tiếng Đức hoặc tiếng Congo... Tất cả tạo thành một thứ hợp âm cho ngôn từ của họ được tròn trịa, được hài hòa và cân đối.

Hồi còn bé sống trong nội trú, tên nào chửi tục mà bị thầy giám thị vớ được, sẽ bị trừ điểm kỷ luật và chiều thứ năm, thay vì được đi “bát phố”, thì sẽ phải ở nhà để làm công tác. Vì thế, những tên “ghiền” chửi tục, đã bịa ra những từ nhẹ nhàng và thanh tao hơn để mà chửi, cho dù bản chất vẫn là thô tục.  

Chẳng hạn như từ “điếu” :  

- Ông điếu sợ…  

Chẳng hạn như từ “bè mẹ” :  

- Bè mẹ nó chứ, ông đánh cho vỡ mỏ ra bây giờ.  

Thanh thử, đám trẻ cứ thoải mái qua mặt thầy giám thị cái vù, mà chẳng hề hấn chi.  

Gã có một anh bạn mắc phải chứng bệnh này một cách “thâm niên quân vụ”. Là miền người Bắc, nhưng vì sống lâu năm với đám học trò nhỏ người miền Nam, nên tiếng đệm của anh ta cũng bị pha trộn.

Hầu như lúc nào trên môi miệng anh ta cũng vang lên điệp khúc “đủ mẻ”. Vì thế, gã đã phong cho anh ta cái hỗn danh là “ông thầy Đủ Mẻ”.

Ngày kia, anh ta đang lái xe phom phom đi trên đường phố, nhưng có lẽ vì lơ đãng hay sao ấy, anh ta đã va quẹt vào chiếc xe của một cô gái. Thế là nhanh như chớp, anh ta xuống xe, khoa chân múa tay mà chửi :  

- Đủ mẻ, lái thế mà coi được à. Bộ đui bộ mù hay sao ?  

Tội nghiệp cho cô gái, hai mắt rưng rưng như muốn khóc, lên tiếng năn nỉ ỉ ôi với anh ta :

- Thôi mà chú. Tội nghiệp cháu. Chú đừng chửi nữa. Cháu sợ lắm. Hết bao nhiêu cháu xin đền ạ.  

Về tới nhà, gã bèn hỏi anh ta :  

- Sao lúc đó ông hung hăng con bọ xít đến thế ?  

Anh ta điềm nhiên trả lời :  

- Đủ mẻ nó chứ, hễ đụng xe là phải chửi liền tù tì. Bắn chậm thì chết thế nào, thì chửi chậm cũng chết như vậy. Đó là quy luật của muôn đời, mày phải nhớ cho kỹ, rồi đem ra mà áp dụng mỗi khi…hữu sự nghe con.  

Đặc biệt nhất là khi tâm hồn anh ta sảng khoái và ngồi vào bàn nhậu. Anh ta đã từng phát biểu thật hách xì xằng :  

- Đã không “dzô”thì thôi, “dzô” thì là một chăm phầm chăm. Đủ mẻ thế mới đã!  

Thậm chí anh ta còn cao hứng nghêu ngao hát :  

- Đâu có tình yêu thương, ở đó uống rượu thật nhiều.

 Đâu có tình bác ái, ở đó uống rượu không say.

 Đâu ý hiệp tâm đầu, ở đó uống chăm phần chăm.  

Còn rất nhiều những sự việc hay ho hấp dẫn về “ông thầy Đủ Mẻ” này, nhưng gã xin khép lại ở đây để tiếp tục bàn về chứng bệnh chửi.  

Loại thứ hai là chửi cấp tính.  

Chửi cấp tính là thứ chửi đột xuất, khi tự ái bị chạm mạch và sự nóng giận bốc lên đầu, khiến người ta chửi thành từng câu hay thành từng bài với ý đồ thâm hiểm nhằm hạ nhục đối phương, làm cho đối phương phải te tua nát nước.

Tùy theo tính tình của từng người mà cơn bệnh cấp tính này mang những âm độ khác nhau.

Trước hết, đối với với những kẻ nhát gan, không đủ can đảm biểu lộ sự bực tức ra bên ngoài, bèn nuốt giận mà chửi lén hay chửi thầm.  

Chửi lén là chửi sau lưng, là chửi lúc người ta vắng mặt. Họ giống như hội đồng nhà chuột. Căm thù trước sự dã man của mấy lão mèo, dòng họ nhà chuột đã họp hội đồng và trong cuộc đại hội này, từ tên chuột cống đến tên chuột nhắt, tất cả đều to mồm chửi bới mấy lão mèo. Thế nhưng khi mấy lão mèo xuất hiện, thì họ hàng nhà chuột đều mạnh ai nấy trốn, bỏ của chạy lấy người. Giá như có một tí trí khôn để suy nghĩ, thì không thiếu những tên chuột khom lưng quì gối mà nịnh bợ mấy lão mèo.

Còn chửi thầm là chửi âm ỉ trong cõi lòng của mình mà không phát thành tiếng thành lời, bản lãnh lắm thì cũng chỉ lẩm bẩm nơi cửa miệng mà thôi. Nhiều khi cơn giận làm cho thâm gan tím ruột, mà bản mặt thì vẫn cứ phải tươi cười, cho dù cái cười có quay quắt và héo hắt.  

Tiếp đến, đối với những kẻ bạo phổi thì sự bực tức được phát tiết ra bên ngoài, nhất là nơi miệng lưỡi bằng những lời lẽ cộc cằn và thô lỗ. Đồng thời, tùy theo đối tượng được nhắm tới, gã có thể chia loại chửi này thành hai kiểu.

Kiểu thứ nhất là chửi trực diện, hay nói theo ngôn ngữ tin học, thì đó là chửi trực tuyến, nghĩa là chửi thẳng vào mặt đối phương, chẳng cần phải nể nang, chẳng cần phải rào trước đón sau. Những “lời hay và ý đẹp” cũng như những món “cao lương mỹ vị” cứ tuôn ra ào ào, khiến cho đối phương bị tối tăm mặt mũi chẳng biết đâu mà đỡ. Nếu không có nội lực thâm sâu, thì chắc chắn sẽ bị…sụm bà chè mất thôi. Kiểu chửi này được bàn dân thiên hạ gọi chửi tưới hột sen, chửi như tát nước.  

Kiểu thứ hai là chửi gián tiếp. Ta cứ gào to giữa làng và giữa xóm, giữa đường và giữa phố, để cho ai có tật thì phải giật mình. Ta cứ rút dây cho rừng phải động. Ta cứ nổ sấm bên đông cho động tới bên tây. Ta cứ nói đấy để cho đây phải chạnh lòng. Vì thế, kiểu chửi này được bàn dân thiên hạ gọi là chửi đổng, chửi khống, chửi lông bông, chửi xiên chửi xéo…  

Một đứa bé học trò nghịch ngợm trong lớp, bị ông thầy đánh cho ba roi. Trong khi ông thầy quất cái roi xuống, đứa bé theo phản xạ tự nhiên bèn đưa tay ra đỡ. Chẳng may cái roi dụng phải cái móng tay đứa bé và làm cho nó chảy máu.

Đứa bé nước mắt lưng tròng chạy về nhà kể lể và tả oán với bố nó. Ông bố cáu tiết bèn làm một màn chửi đổng. Ông ta vừa chạy dọc theo con đường duy nhất trong làng, vừa quát tháo ầm ĩ :  

- Tiên sư bố nó. Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con người ta như thế kia à. Tiên sư bố nó…Tiên sư bố nó…  

Gã có thể quả quyết được rằng việc chửi đổng hay chửi xiên chửi xéo nơi một số quí bà quí cô đã đạt tới trình độ nghệ thuật với chất lượng cao, nếu không muốn nói là tuyệt vời và trên cả tuyệt vời nữa.  

Họ chửi có cung có điệu và có trầm có bổng. Họ chửi thành câu thành cú và thành bài thành bổn. Lời họ chửi chẳng khác chi một bài thơ, có bằng có trắc và có vần có vế. Tiếng họ chửi khi thì dồn dập như thác lũ, khi thì nỉ non ai oán như tiếng người vợ nức nở tiễn đưa người chồng vào nơi chín suối.  

Trời bắt đầu nhá nhem. Bà hàng xóm ném một nắm thóc xuống khoảng sân đất và lên tiếng gọi :  

- Chắt, chắt, chắt…  

Bầy gà lục tục kéo nhau về, mổ những hạt thóc cuối cùng trong ngày trước khi lên chuồng.  

Bà hàng xóm đếm đi đếm lại mà sao vẫn thiếu một anh gà trống choai. Rồi bà đếm lại đếm đi mà sao vẫn cứ thiếu. Và thế là bà ra đứng trước ngõ, mắt long lên còng cọc, cất cao giọng the thé mà chửi một bài cả thể.  

Nhân vật được bà ưu ái nhắm tới thuộc vào hàng vô ngã, “impersonnel”, nên lời chửi của bà cũng vu vơ và bâng quơ. Tuy vu vơ và bâng quơ, nhưng lại nhằm trực tiếp tới một thằng cha nào đó đã cả gan dám ăn cắp gà của bà.  

Tiếng chửi của bà nhờ gió chuyển tới các gia đình trong khu xóm :  

- Cha tiên sư ông cụ,

 ông kỵ bảy đời nhà nó.

 Nó chẳng bỏ công nuôi,

 mà lại muốn ăn không của bà.

 Thì đây bà cho nó ăn….  

Tới chỗ này thì xin cho gã tự đục bỏ và cắt xén, không dám viết thêm nữa vì sợ sẽ làm cho kẻ thanh sạch mất lòng khiết tịnh. Chỉ biết rằng anh gà trống choai của bà hàng xóm sáng hôm sau đã xuất hiện thật sớm trên khoảng sân đất. Anh ta vỗ cánh đùm đụp, rồi cất giọng ồ ề mà gáy. Có lẽ đêm hôm qua anh ta đã đi tán tỉnh, hay đi mừng sinh nhật của một chị gà mái tơ nào đó chăng ?

Về việc chửi bới cũng như về nhiều việc khác nữa, đôi khi đã xảy ra một nghịch lý đáng buồn trong phạm vi gia đình.  

Thực vậy, cha mẹ nào cũng muốn dạy bảo con cái mình phải nghiêm túc trong lời nói, tránh đi những lời nói nóng nảy, cộc cằn và tục tĩu. Thế nhưng, chính những bậc làm cha làm mẹ ấy lại luôn có những lời nói nóng nảy, cộc cằn và tục tĩu ấy trên môi trên miệng của mình.  

Một ông bố đã căn dặn con mình như sau :  

- Mày nhớ nhé, không được nói tục nghe con. Mày mà nói tục, ông cha sở nghe thấy, thì ông ấy sẽ xẻo lưỡi mày đấy. Đủ mẻ mày đã nghe rõ chưa ?  

Cũng thế, một bà mẹ luôn nhắc nhở đứa con gái cưng của mình phải thành thật. Thế nhưng, khi có người đến đòi nợ, bà đã trốn kỹ dưới bếp và sai đứa con gái ra nói người khách bất đắc dĩ ấy rằng bà đi vắng.  

Đứa con gái mở cổng và rất ngây thơ nói với người khách :  

- Thưa bác, má cháu bảo cháu ra nói với bác rằng má cháu không có nhà.  

Cũng thế, buổi sáng nghe chuông nhà thờ vang lên, ông bố cuộn mình trong chăn, vội lên tiếng giục giã con cái :  

- Nào, thức dậy, đi đái, lấy nước, súc miệng, đánh răng, rửa mặt, đi lễ.  

Trong khi con cái uể oải thực thi những mệnh lệnh kể trên, thì ông bố vẫn cứ nằm ngủ nướng…nướng đến độ cháy khê cháy khét.  

Thảo nào, khi người ta hỏi một cậu bé rằng :  

- Em muốn gì ?  

Cậu bé không ngần ngại trả lời :  

- Em muốn làm người lớn.  

Người ta hỏi tiếp :  

- Tại sao lại thế ?  

Cậu bé nhoẻn một nụ cười đầy bí mật và nói :  

- Để được chửi tục, nói dối và nằm ngủ nướng mà không bị la mắng!  

Cha mẹ nói một đàng nhưng lại làm quàng một nẻo, thành thử trống đánh xuôi kèn thổi ngược, những lời dạy bảo của họ không đủ sức thuyết phục con cái.  

Phương thế giáo dục đạt hậu quả cao nhất, đó chính là gương sáng của cha mẹ, bởi vì chỉ gương sáng của cha mẹ mới là một bài giảng hùng hồn hấp dẫn được con cái mà thôi, chả thế mà người xưa đã bảo :  

- Lời nói như gió lung lay,  

 Việc làm như tay lôi kéo.  

Để kết luận, gã nhớ lại lời người xưa đã khuyên :  

- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.  

Có nghĩa là phải thận trọng đắn đo trước khi nói, để tránh đi những lời chửi bới và tục tĩu, trái lại hãy có những lời ôn tồn và thành thực để tạo được một bàu khí hòa thuận cũng như bắc được một nhịp cầu cảm thông, vì :  

- Lời nói chẳng mất tiền mua,

 Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.  

Hơn thế nữa, kinh nghiệm cũng cho thấy :  

- Ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình.  

Hay như người Pháp cũng đã bảo :  

- Khi chửi bới thì chính chúng ta lại là người đầu tiên phải nghe những lời tục tĩu ấy.  

Hơn thế nữa, lòng đầy thì mới tràn ra ngoài. Căn cứ vào lời nói mà thiên hạ có thể đánh giá được con người chúng ta. Nếu lời nói của chúng ta cộc cằn và thô lỗ, thì con người chúng ta cũng cộc cằn và thô lỗ như vậy.

 Trái lại :  

- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,

 Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe.

Gã Xa Đọa

Tác giả: Vân Anh

-

Danh mục : Truyện ngắn

Gã ngồi trên vườn hoa, dáng điệu của gã thật đàng hòang. Giống như một vị trí thức vừa có công trình khoa học được các cấp trên phê duyệt hoặc một nhà văn đang được hâm mộ . Một con người thành đạt tự thỏa mãn với mình, nhàn rỗi rồi ra vườn hoa ngồi ngắm cảnh . Tay gã cầm một tờ tạp chí bằng tiếng Anh, đầu đội mũ phớt lọai sang, bộ comlê màu xanh nhạt hợp thời, áo sơ mi cổ trắng tóat, thắt cà-vạt đỏ, chân dận giày đen lọai mắc tiền và trên đầu gối gã một chiếc cặp nhỏ xíu xinh xinh màu đen, gã vắt chân, dựa lưng vào thành ghế đá, khoanh hai tay trước ngực ngửa mặt ngắm cảnh trời trong veo có in mấy cành phượng vĩ đang thời xanh tốt, vài ba chú chim sâu đang ríu rít đùa rỡn nhau và chum môi bắt chước chúng “ viu ..viu…viu…viu” . Vị khách nào mà đi vào vườn hoa mà không ao ước được như gã , nhàn nhã, đàng hòang , phong thái cao sang? Còn những ai đang tất bật làm ăn, mua bán, sửa xe các lọai, hầu bàn bưng bê trong các quán xá gần đấy thì có bao giờ mơ dược làm một con người như thế? phải nói là gã đẹp trai , không còn trẻ nhưng điểm đắn cao thanh tú, rõ rang một vị có danh vọng, học hàm học vị khá cao và giàu có . Nhưng thực sự thì gã đang đói đến cồn cào, bụng rỗng mà túi cũng rỗng không

Gã mới chuyển đến vùng này, ở đây chẳng mấy ai biết mặt gã. Tình cờ trong một lần ngồi ở quán, gã nghe lỏm được rằng cái bà chủ ngôi biệt thự này là một người đàn bà rất mực phong lưu, giao thiệp rộng, giàu sang , đã từng là chiêu đãi viên hàng không, chẳng hiểu vì quá đủ sự thừa thãi rồi, hay vì ông chồng ngăm đóan gì đây mà về làm giám đốc một công ty mỹ phẩm, sẽ tổ chức sinh nhật, có rất nhiều vị khách đến chúc tụng . Thế là gã thấy có vẻ đóng vai nào đó trong nhóm ấy, nhưng vốn đã nhiều lần bị lỡm, gã thật trọng thăm dò trước, ngang nhiên bước vào biệt thự người ra kẻ vào còn lác đác, lại không biểu hiện gì về cỗ bàn cả, gã gật đầu chào vài ba người vào đấy , đợi bao giờ có dịp . Cái dịp đó không ai nghi ngờ gì và phải đúng lúc gã không bị tẽn tò mắc lỡm . Còn hiện nay, gã đang là vị khách hào hoa rất mực, ngồi dựa ghế đá ngắm lũ chim trên cành phượng vĩ “ viu …viu..viu…” một cách thư thái

Gã vốn là người có học thức hẳn hoi. Hồi còn là sinh viên khoa sử trường tổng hợp, gã có tiếng là thông minh . Nói là được “tiếng”, vì gã cực kỳ bẻm mép và lém lỉnh . Chỉ cần nắm bắt một chút kiến thức nào đó là gã tán rộng ra, phân tích so sánh và chê bai vung lên khiến bạn bè cùng lớp phục sát đất khen gã thông minh, hứa hẹn một tài năng xuất chúng. Và gã tự huyền hoặc mình sẽ là một tài năng xuất chúng trong tương lai . Gã đọc như ngốn sách, Đọc đủ mọi mặt, góp nhặt kiến thức . Rồi đem những kiến thức gì đã đọc ấy khoa trương lên mà không bao giờ quên thêm bốn chứ “ theo ý tôi thì …” trước những lời phê phán, khiến bạn bè lại càng tròn mắt lên khâm phục gã . Gia dĩ, gã có duyên, đôi mắt sang trong veo thông tuệ, vóc người cao nho nhã khiến gã được đám sinh viên hâm mộ và không ít cô nữ sinh xinh đẹp chiều chuộng, thỉnh thỏang một vị giáo sư, một nhà nghiên cứu nào đó , hoặc vì nể để động viên hoặc vì vui miệng vỗ vai khen” tương lai lắm” . Mặt gã vênh lên, tính tự cao tự đại của gã bùng lên không có giới hạn nào nữa . Gã khinh tất cả lũ bạn bè, và gã chơi trèo . Thường tới lui tới chỗ văn chương chơi, chỗ viện nọ, viện kia, bắt quen với những người nổi tiếng rồi cóp nhặt ít kiến thức gã đem đi lòe đời . Được cái gã có trí nhớ tốt, ăn nói lưu lóat, gã nhận bừa những kiến kiến thức góp nhặt ấy một thành mười, thành trăm … Lại thêm không ít sinh viên khâm phục và vài ba cô nữ sinh theo vỗ tay tán thưởng … Gã luôn sống trong vầng hào quang giả tạo do gã tự giăng lấy suốt mấy năm đại học . Rồi gã tốt nghiệp . Tốt nghiệp lọai … , xòang . Gã liền chê giáo sư dốt, kêu ca về cách đánh giá của khoa . Và gã dọa kiện . Cuối cùng gã ngoan ngõan xin được phân công ở lại phố thị để “ phát huy tài năng” . Gã được cho về một viện V, lại thế , vẫn một tấc lên đến trời, gã khinh tuốt . Gã xông thẳng vào bất cứ lãnh vực nào và gã dọa … viết : Lịch sử, địa lý, phong tục, dân tộc, âm nhạc, hội họa…… Gã nói rất hay về những công trình tưởng tượng đó . Và cả sáng tác, làm thơ, viết kịch, tiểu thuyết, thậm chí là dịch thuật chẳng là gã có chút ít vốn kiến thức cơ bản về ngọai ngữ mà . Nhưng những thành viên nghiên cứu ở viện không như cánh sinh viên . Thọat tiên, họ không chấp cái lọai “dê con” như gã, bởi họ biết gã hơn gã biết gã, mà gã lại tưởng họ không biết gì về mình . Gã vẫn tiếp tục “chộ đời” . Nhưng về sau, họ chơi cho gã mấy đòn đau hơn trời giáng ví như nhờ gã dịch hộ bức thư của một nhà khảo cổ học người Pháp gửi cho họ, mà họ nói họ không đọc được ; hoặc đưa một sử gia gã khoe vừa đến nhà ông ta ăn cơm đến cho gã nhận mặt . Chỉ có mỗi ông viện trưởng là còn nhẫn nại qúy mến gã, giao cho gã viết một số bài . Gã hăng lắm, dọa sẽ viết cho “mấy anh già” biết tay . Nhưng thời gian sau, mãi mới thấy gã nộp bài . Ông viện trưởng vốn tính điềm đạm thật thà chất phác và tốt bụng nhưng ông rất nghiêm khắc và thẳng như mực tàu đọc ngay, rồi ông nói :

- Anh viết cái gì thế này? Đem về nhà mà viết lại

Đọan ông tỉ mỉ hướng dẫn gã viết, hẹn gã thời gian sau phải nộp bài . Lần thứ hai ông cũng đọc ngay, mặt ông xạm dần, ông tức quá và gắt lên

- Sao lại râu ông nọ cắm cằm bà kia ? kiến thức sai hết, viết lại cẩu thả, đầy rẫy những lập luận chủ quan

Gã gân cổ lên cãi, ông viện trưởng đành nhẫn nại chỉ ra từng chỗ. Gã vẫn không chịu . Ông nói gã một, gã nói hai nói ba nói bốn khiến ông viện trưởng giận lắm . Nhưng vì ông là người điềm đạm nên ông chỉ thờ dài trả lại bài viết và nhẹ nhàng nói

- Anh thiếu khiêm tốn quá ! Thiếu khiêm tốn bất kỳ về chuyện gì đã là dở rồi, trong lĩnh vực của chúng ta mà thiếu khiêm khiêm tốn nữa thì không thể tha thứ được . Nếu anh muốn trở thành một thành viên nghiên cứu nghiêm túc thì phải học lại từ đầu

- Đột nhiên, gã vùng dậy , chộp lấy bản thảo vò lại và ném xuống bàn hét lên:

- - Báo cho ông biết, ngày mai tôi không đến đây làm việc nữa . Các ông cũ quá rồi, không thể nào hiểu được thế nào là một tài năng của một con người nghiên cứu có tư duy hiện đại

Truyện ngắn Về chịu tang

Người thanh niên trẻ măng cao lớn hiện ra ở đầu con đường nhỏ là em trai gã. Gã đang ngồi đợi trên bậc thềm của quán cơm đã đóng cửa liền đứng nhổm dậy gọi tên người em út của mình.

Người em liền thôi dáo dác, quẹo đầu xe đạp băng vội sang đường quốc lộ hăm hở đạp đến chỗ người anh. Hai anh em nhận nhau trong bóng tối giữa nền sân bêtông trống trải của quán cơm chuyên bán cho cánh tài xế trên quốc lộ 10. Thế rồi người trước kẻ sau giong bộ đi ngang qua khối sắt lù lù của chiếc xe tải, đến chỗ đầu con đường nhỏ mọc đầy cỏ xuyến chi um tùm hoang dại mới bắt đầu chở nhau đi.

Hành lý của gã chỉ có mỗi chiếc túi xách nhẹ xọp, đựng ít bộ quần áo mà trong lúc vội vã gã gấp xếp nháo nhào. Gã ôm chiếc túi vào giữa, đã lâu không ngồi xe đạp nên gã cứ loay hoay lúng túng, thỉnh thoảng lại làm rớt chân xuống đường. Người em nhận thấy điều đó, cả hai liền bật cười thành tiếng. Gã vịn chặt người em, nhìn vào tấm lưng vạm vỡ trong bóng tối lờ mờ, trong lòng trỗi lên muôn vàn những ý nghĩ mông lung, xáo trộn. Gã nửa mừng vui cảm động thả mình vào khung cảnh quê hương sau ba năm xa cách, nửa rối bời nghẹn ngào trước đám tang bà nội mà gã không về kịp nhìn bà lần cuối.

Lễ khâm liệm lúc ba giờ chiều mà giờ này tám giờ tối gã mới về đến. Ấy thế mà gã lại là cháu đích tôn. Đứa em đang chở gã tuy cũng là cháu trai nhưng không thể thay thế vị trí của gã được. Gã mường tượng lúc còn sống bà nội gã thường hay nhắc nhở một cách âu yếm về tư cách cháu đích tôn của gã mà chỉ chực trào nước mắt. Gã hỏi người em có phải tiếng kèn đám ma bà đấy không? Em gã đáp vâng. Gã im lìm lắng nghe tiếng kèn vang lên giữa vùng không gian mênh mông thoáng đãng. Niềm ai oán từ tiếng kèn xa xa thấm chậm rãi vào lòng gã, buồn buồn chứ không phải là đau đớn. Cùng lúc ấy, gã ngửi thấy mùi lúa đang trổ bông trên cánh đồng trải rộng về hai phía của con đường nhỏ hẹp và không khí trong lành se lạnh của tiết trời mùa thu. Mưa lất phất khiến trời đêm có vẻ u tối hơn. Xem dự báo thời tiết gã biết quê nhà vừa qua một cơn bão nhỏ.

Dự tính là tuần tới gã mới về, vé máy bay cũng đã đặt trước khá lâu, nhưng không ngờ bà lại mất đột ngột nên trưa nay ở sân bay Tân Sơn Nhất gã phải trả lại vé cũ và mua vé mới bay gấp với giá tiền cao hơn. Ngay lúc trả cái vé đã đặt trước với tâm thế bình tĩnh gã đã suýt khóc vì hối hận, bởi vì gã cứ yên trí là bà sẽ đợi gã về kịp và còn kịp chăm sóc cho bà ít ngày. Gã cứ yên trí như thế, trong khi đó thì bà gã trở bệnh nặng và hấp hối. Gã nhận điện thoại bà hấp hối lúc sáng, vậy mà vài tiếng đồng hồ sau bà đã nằm trong quan tài. Không đợi con về nhìn bà lần cuối được sao, gã cố vớt vát với mẹ của gã. Mẹ gã bảo rằng ngày giờ đã được xem xét quyết định cả rồi. Gã biết là quê gã có tục lệ ấy nên đành xuôi chịu.

Người em trai bỗng sực nhớ ra điều gì, hơi ngoảnh ra sau nói với gã: Lúc phát tang, em nhận luôn tang hộ anh đây này. Gần về đến nhà em đưa cho anh đội vào nhé. Gã nghe giọng nói thân yêu của đứa em trai út cảm thấy dâng lên trong lòng mối tâm tình trìu mến, ấm áp. Gã lần lần hỏi em trai bà trở bệnh ra sao, trước đó có phải tiêm moocphin giảm đau nữa không và bà có uống sữa hay ăn được chút gì không. Người em trả lời nhiệt tình, ân cần, chứ không như mẹ hay bố gã khi gã hỏi qua điện thoại chỉ trả lời chóng vánh. Người em này hồi gã mới rời quê hãy còn học tiểu học, vậy mà bây giờ đã lớn hệt một chàng thanh niên chững chạc đàng hoàng, tuy nghe cách cu cậu nói chuyện gã vẫn nhận thấy vẻ trẻ con hồn hậu khiến gã bất giác mỉm cười thỏa nguyện trong bóng tối. Cái nỗi cơ cực khổ sở khi hay tin bà mất ở giữa thành phố đông đúc nhưng thiếu vắng tình thân bây giờ như được bù đắp, được chia sẻ với đứa em trai trên đoạn đường băng đồng về nhà. Đến khi nghe người em hỏi anh có đói bụng không, chắc giờ về anh phải vào chịu tang bà đã nên sẽ ăn muộn, anh không mệt quá đấy chứ, thì gã không cầm được nước mắt nữa, bèn sụt sịt một cách mềm yếu sau lưng em.

Ấy nhưng, khi gã vừa đưa tay lau mắt thì chợt rộ lên khắp cả cánh đồng tiếng ếch nhái kêu vang và dòng sông thầm lặng trôi song song với con đường không biết phản chiếu từ nguồn sáng nào mà ánh lên một vệt dài kỳ lạ khiến gã ngây người trong một chốc. Nỗi tang thương theo kiếng kèn vang vọng ra khắp màn đêm, hòa vào sương lạnh trôi trong không khí tưởng chừng như quan sát được.

Gã nuốt vào một hơi nhẹ nhõm cả người. Gã sửa soạn hỏi em trai, thế khăn tang của anh đâu, em đưa anh, sắp về đến đầu làng mình rồi. Ở chỗ đầu làng quen thuộc mà gã nóng lòng vươn cổ ra nhìn phất phơ một ngọn phướn lớn dẫn vào đám tang. Người em trai bỗng đạp dấn lên, chiếc xe lăn bánh rào rạo trên mặt đường bêtông có cảm tưởng nhanh vùn vụt. Đi qua cây cầu, qua trạm bơm nước từ thời hợp tác, qua chiếc vó bè của ông cụ người làng, và rồi ở phía bên phải là quán tạp hóa mà xưa kia chỉ là một cái quán nghèo nằm dưới gốc xà cừ to, hình ảnh làng quê trong ký ức của gã lần lượt hiện ra, hoàn toàn khác xa với thực tại, như thể gã đang ôn lại những ngày tháng xưa khi mà gã còn là một đứa trẻ trong làng và bà của gã còn khỏe mạnh tưởng như bà sẽ mãi sống trên đời.

Gã buôn cá mòi ở Tsukiji

Tháp đồng hồ ở tòa Ginza Wako cổ kính đổ chuông vang cả khu phố. Khu Ginza náo nhiệt về giữa đêm đã bắt đầu thưa thớt người. Những quầy bar sạch bong khách. Tiếng côm cốp của những chiếc tách đang được thu doạn làm cho quán bar buồn bã. L. mặc lại áo khoác rồi bước ra phố Chuo Dori để tản bộ về khách sạn dù còn cả một quãng khá dài. Một ít vang Nhật hiệu Chateau Merican còn vướng mùi ở đầu lưỡi. L. bắt đầu cảm thấy cô đơn giữa Tokyo xa lạ…

Khách sạn Mitsui Garden nằm nghiêng nghiêng như một khối hình bình hành trên đoạn gấp khúc của con phố Showa Dori. Trời về đêm lành lạnh. Máy điều hòa trong khách sạn được chỉnh tầm trên 300C.  Dù vậy nhiều người vẫn  túa ra ban công khách sạn nhìn xuống phố. Họ muốn ngắm một Tokyo yên bình về đêm. Bên trái L., một cặp người Trung Quốc đang ôm nhau hạnh phúc. Một cái ôm từ phía sau lưng của chàng trai, cô gái ngiêng nhẹ đầu sang phía bên bắp tay trái chàng trai. L. phỏng đoán được vì họ nói với nhau bằng tiếng Bắc Kinh, dù rất khẽ. Vài tiếng cười kiểu cách vang đọng trên ban công dài. L. hít một hơi dài, hơi lành lạnh len vào cuống họng khá dễ chịu. L. tắt nguồn điện thoại, định thay sim của mạng di động Nhật Bản mà L. mua được ở một cửa hàng bán điện thoại cũ ven đường để gọi cho một vài người bạn, có thể bù khú cà phê sáng mai, chẳng hạn. Khi vỏ sau điện thoại sắp được trượt  ra, L. lại đẩy nó về chổ cũ. L. chẳng còn hứng thú cho một cuộc gọi gọn lỏn vào giữa đêm dù  L. vẫn chắc rằng những người bạn của mình vẫn còn thức và khá tỉnh táo bên những màn hình vi tính. L. nắm hờ điện thoại trong lòng bàn tay trái. Không có một cột sóng nào của Vinaphone ở Tokyo. Một chuyến công tác nhàm chán. Công việc “kĩ sư cầu nối” bắt đầu làm cho L. thấy nản. Những đoạn dịch khô ráp và khuôn mẫu.  Bỗng nhiên, trong cơn gió đêm se sắt lạnh, L. muốn làm thơ như hồi đại học. Những bài thơ về đồng quê nhưng ngôn từ hiện đại và khá mộng mơ. Tốt nghiệp, việc làm thơ trở nên xa xỉ đối với L.. Đã khá lâu rồi, chẳng một bài thơ nào được viết. L. kí ức cảm giác ngồi gọt từng chữ trên chiếc máy tính để bàn cũ ở kí túc xá vào mỗi tối cuối tuần. Những ngôn từ bắt đầu nhảy loạn trong đầu L., khiến L. càng lạnh lẽo. Trời Tokyo trống vắng đến não người. Những dòng người cô lẻ, bước chầm chậm dưới phố, rờn rợn trong đầu khiến L. không đủ can đảm nhìn xuống. L. nhắm nghiền mắt như đợi chờ cơn váng vất đi qua. Đối diện L., đèn ở phố Shin- Ohashi Dori bật sáng. L. lại muốn đi, sang Shin- Ohashi Dori chẳng hạn…

Đoạn Tsukiji bắt đầu huyên náo. L. vội quay vào phòng, khoác lên chiếc áo khoác da cổ cao, thủng thẳng ra khỏi khách sạn. Đã nhiều lần đến Tokyo nhưng L. chưa lần nào có dịp đến Tsukiji. Tsukiji là một ngôi chợ cá lâu đời ở Tokyo. Ngôi chợ cá lớn nhất thế giới này nằm bề thế khúc phía nam phố Shin- Ohashi Dori như một bức tranh đầy hương vị về khuya. L. bước thật chậm trên phố, cũng khá đông người ồ ạt tới Tsukiji. Bối cảnh trước mắt làm L. hơi cuống  quít. Bước chân L. có vẻ nhanh lên và dài ra trên nền đường lạnh toát. Tầm hai mươi phút, L. đã đến cổng chính của Tsukiji. Mùi cá xộc lên nhưng không có dấu hiệu của sự tanh tưởi vốn mặc định. Những xe tải chở cá rồ rồ ra vào cổng chợ tạo nên một không gian huyên náo. Tưởng chừng Tsukiji như một cảng cá đang vào mùa biển êm. Thi thoảng, những chiếc  phi cơ Cargo Jet  vận chuyển cá  từ phía ngoài biên giới hạ cánh rì rầm trước khu trung chuyển của chợ. Những sạp cá nằm san sát nhau, trở nên vô tận trong mắt L. Những mắt cá trong lao láo tựa như đang nhìn với phía L. L. dừng hồi lâu ở sạp cá bã trầu sẫm hồng, thứ cá mà L. rất thích ăn, vuốt vào sóng lưng chúng một cách thích thú. Khu đấu giá cá bắt đầu huyên náo bởi các nhà thầu đã tập trung đông đúc, trả giá sát rạt từng con cá. Khu xẻ cá ngừ, những gã thợ xẻ bắt đầu những nhát dao đầu tiên. Mùi cá ngừ xộc vào mũi L.  thứ mùi tươi rói thơm dịu. L. bắt đầu cảm thấy ổn hơn. Cả khu chợ nhộn nhạo những tiếng cảm thán của những buôn cá và hành khách. Không khí tấp nập dần lên trong các ngách chợ, nhiều thứ âm thanh pha tạp vào nhau khiến L. lắng nghe một cách mệt nhọc. L nghĩ, Tsukiji đã đến lúc không hợp với mình. L. quay người, trở ngược lại cổng chợ để lội bộ về khách sạn. L. hơi cúi vì sợ sự ồn ả của khu chợ tia thẳng vào tai. L. bước vội. Phía sau L., Tsukiji vẫn huyên náo và nhộn nhịp. Trời Tokyo dần sáng…

0o0

Tokyosáng lạnh và thoáng sạch. Hơi lạnh bíu ríu dưới lớp đế giày dày xụ. khiến L. nhấc chân thật vội trên những bậc thang dẫn xuống khu nhà hàng của khách sạn. L. ăn sáng qua loa với một miếng bánh mì tươi và ca cao nóng. L. thích một lon coca hơn nhưng tiết trời không cho phép L. gọi. Những lon coca loại không đường xếp ninh ních trong tủ lạnh vì chẳng ai màng tới. Cuối cùng, L vẫn gọi một lon bỏ vào cặp táp trước khi rời khỏi nhà hàng. L. nhoẻn cười với cô bồi bàn: “Chờ nắng lên!” – L. nói tiếng Nhật như người Tokyo, nhẹ nhàng và đầy cảm thán.

Đoàn kỹ sư phần mềm của công ty đã chờ sẵn ở sảnh khánh sạn. L. đứng rời rạc ở một góc, nhìn xa xăm ra khúc phố vắng lặng tựa như một khu phố cổ mấp mé trước mặt. L. lại thấy mình lẻ loi. Những ngôn từ sáo rỗng và không khí giả tạo vây lấy đoàn công tác làm L. thấy ơn ớn ở cuống họng.  Tất cả bắt đầu mơ hồ dần trong mắt. Cú huých vai nhẹ của H. làm L. giật mình khi taxi vừa phanh chậm rãi trong sân khách sạn.

- Chị có chuyện gì à? – H. nhẹ giọng sang trái, nơi L. đang ngồi lặng yên trong taxi nhìn ra phố. H. buông thỏng giọng hơn – Hay chị đổ bệnh rồi?

L. cười nhẹ, sâu kín:

- Tối nay, đến Tsukiji với chị không? – Bỗng dưng Tsukiji níu giữ L., hiện lên trong đầu L. một cách vội vàng.

- Tsukiji? – H. tu từ - Chị đến đó làm gì, nó chỉ toàn cá….

- Em có đi không? – L. bắt đầu “đanh đá” – Không đi thì chị đi một mình…

- Đi! Đi! Đi chứ! – H. gật đầu liên tục như thể sợ tuột đi một cơ hội. Thi thoảng, H. muốn mời L. một tối cà phê tại quán mang phong cách Nhật chính thống mà H. biết được trong những ngày lưu học ở Tokyo nhưng ngại ngần. H. cũng có những tối cô đơn, như L.

Đến lượt H. nhìn xa xăm ra đường đang ngồn ngộn xe cộ qua tấm kính mờ đục của taxi. L. đầy dần trong cái nhìn xa xăm của H….

0o0

Việc phiên dịch của L. đã tạo ra sự đồng thuận cao cho hai công ty trong quá trình đám phán. Chuyến công tác hoàn thành sớm hơn dự kiến, L. được  thêm một ngày tự do ở Tokyo, không bị ràng buộc bởi một đoạn phiên dịch nào nữa. Trong khi mọi người túa đi khắp nơi thăm thú, L. bước nhẹ vào khách sạn, hớp một chút cocacola không đường mua từ ban sáng, nằm vật ra giường một cách ngột ngạt. Điện thoại L., sóng tắt ngúm, màn hình trơ ra theme là một con đường đầy tử đinh hương. Gió từ cửa sổ thổi vào ràn rạt. L. không có thói quen đóng cửa sổ dù máy lạnh trong phòng vẫn đang bơm gió rì rì. L. mở xem vài ba bức ảnh chụp được ở Tokyo vài ngày qua. Một vài bức, L. thấy H. đang nhìn sâu về phía sau lưng mình. L. đột nhiên tắt máy, cảm tưởng một điều lạ lùng, giữa mình và H.. L. bắt đầu tri giác về H.: Những cốc nước vào giữa lúc L. đang làm việc khi  mà cốc nước trên bàn L. đã cạn khô, những lúc H. đợi L. ở cổng công ty dù chẳng bao giờ cùng chạy xe trên một hướng đường… Một cảm giác sợ hãi bắt đầu chập chờn trong đầu L.

Tiếng gõ cửa lốp cốp một cách rời rạc, chần chừ. L. oải người bước dậy. Là H., H. hơi cúi, động tác giả cảm tưởng như H. đang khó khăn trong tư duy ngôn từ. L. cũng hơi cuống:

- Sao em không đi đâu chơi cả à, thời giờ còn dài mà!

- Chị hẹn em đi Tsukiji mà!

L. lấy điện thoại, chỉnh múi giờ GMT + 9:00 Tokyo, nhìn xuống phố:

- Còn sớm mà em…

- Vậy em đợi chị…- H. quay lưng nhanh, bước về dãy phòng bên dưới, những bước đi buồn bã…

Cơn váng vất đi nhanh. H.  đã bắt đầu nhạt dần trong đầu L…

0o0

H. đứng sẵn đợi L. ở ngoài cửa thang máy. Khu hành lang khách sạn luôn lành lạnh bởi sự thoáng sạch của những tấm đá hoa cương sẫm màu. L. búi tóc cao, mang ủng và một cái Jacket nâu khá dày. Cả hai đi chậm rãi trên phố Shin- Ohashi Dori. Cả con phố tấp nập dần lên khi cả khu chợ Tsukiji bắt đầu sáng đèn. H. thi thoảng xuýt xoa vì hơi lạnh ngập ngụa ở những con phố đêm. L. vẫn thản nhiên bước đi, chốc chốc lại nói với H. một vài câu gọn lỏn khi thấy một pano thú vị treo ở các cửa tiệm. Cả hai đều thấy cô lẻ giữa đêm Tokyo…

Khung cảnh Tsukiji có vẻ khang khác lần đến trước của L. Biển đã vô mùa cá mòi, L. nghe được từ những âm thanh xộc xệch trong chợ. Những giỏ cá mòi được thương cá đẩy liên tục vào các sạp chợ. Mùi cá mòi tươi làm L. thấy dễ chịu. L. kí ức những ngày tuổi thơ ở xóm vạn chài đông đúc và nồng vị biển. Những ngày đợi ghe của ba từ khơi về, L. hay ngồi xếp những hoa thùy dương trước biển thành một vòng tròn màu vàng. Những vòng hoa vàng trên cát to dần, to dần cho đến lúc L. rời biển…

- Cô gái, tôi đi qua một tí! – Một gã buôn cá đang hì hục đẩy một ki cá mòi vào sạp. Gã nói thứ tiếng Nhật trong vắt và nặng mùi địa phương. L. nép người vào sạp cá bên cạnh. Gã cũng buông tay xe đẩy, xếp nhẹ nhàng những con cá lên chính sạp cá L. đang đứng. L. vội lách người để khỏi…chướng. L. mê mẩn nhìn gã xếp cá mòi lên sạp. Tạp dề nilong màu xanh dương của gã ướt sũng vì nước đá. Thi thoảng, gã gạt nhẹ mồ hôi bên trán trái dù không khí ở Tsukiji luôn lạnh lẽo.

Gã trợn xoe mắt khi thấy L. đang nhìn chầm về phía mình. L. vội lách mắt sang trái, cố che dấu sự bối rối đang rõ dần lên trên mặt. L. chẳng biết làm gì cả, hơi cúi và đứng yên một chổ. Gã phì cười, tiếng cười rít nhẹ. Khi những con cá mòi cuối cùng trong ki đã nằm gọn lỏn trên sạp, gã tháo vội găng tay, chùi tay vào chiếc khăn đặt ở cuối sạp.

- Cô thích cá mòi à? – Gã húng hắng hỏi.

- Sao? Gì ạ? À, ừ, tôi thích chúng. – L. ấp úng như người lần đầu thực hành tiếng Nhật.

Gã buôn cá lại buông giọng cười. Gã bắt đầu lạ lẫm trong mắt L.

- Cô không phải người Nhật! Tôi đoán chắc là như vậy?

- Sao anh biết? – L. thoáng run nhẹ.

- Cô nói tiếng Nhật còn ọ ẹ, với lại gương mặt cô giống những cô gái Trung Quốc hay vùng Đông Nam Á hơn!

- Hình như anh đã buôn cá mòi ở những nơi đó? – L. nhớn mắt, bắt đầu thấy tỉnh hơn.

- Không, tôi chỉ buôn cá mòi ở Tsukiji, mà cô là người Trung Quốc à?

- Không, Đông Nam Á, ở một đất nước rất thích cá mòi…

Đoạn L. vừa dứt câu, những người mua cá bắt đầu đông đúc. Gã buôn cá không nói thêm được câu nào, vung nhẹ tay chào L. Nhìn dáng bộ dường như gã cũng thấy hơi tiếc. Trong làn người ngược xuôi len giữa những gian hàng bảy mét hai, gã thấy L. đi chậm về phía cổng chợ. Gã gọi với theo:

- Cô gái Đông Nam Á!

L. nghe như một thanh âm hạnh phúc đang rì rì chạy trong huyết quản. L. dừng lại, ngoảnh mặt về phía gian hàng của gã. Gã nói vài câu với những người mua cá rồi lách vội đến chỗ L. Gã chìa ra một túi cá mòi, một con búp bê bằng giấy và cây cào tre dán, gã ngắc ngứ, tới lượt gã nói tiếng Nhật rất ọ ẹ:

- Cá mòi Tsukiji, chúc cô ngon miệng. Búp bê Daruma, cây cào tre, chúc cô may mắn. Chúng là biểu tượng may mắn của người Nhật. Hẹn gặp lại cô ở Tsukiji.

- Cảm ơn anh nhiều!

Đoạn L. cúi đầu cảm ơn, gã đã lách nhanh về phía gian hàng. Đôi ba lần gã quay lại nhìn L., cười ngọt lịm. L. thấy râm ran vui. Nỗi cô đơn vơi dần theo mỗi bước chân nhẹ nhõm của L. Tsukiji xa dần phía lưng L. L.  cũng dường như quên mình đến đây cùng H…

0o0

- Em biết không H., một gã buôn cá mòi ở Tsukiji đã hỏi chị thế này, thế này… Gã còn tặng chị thứ này, thứ này... Gã còn hẹn chị thế này, thế này… Chắc hôm nay chị phải làm thơ quá, H. ạ…

Tokyođã sang ngày. Cuối cùng L. cũng tìm thấy H. uống trà đợi mình ở một quán trà nhỏ trước cổng chợ. L. say mê kể về gã buôn cá, có khúc, L. cười vang một cách nhẹ nhõm.

H. im lặng, nhìn xa xăm ra khúc phố đầu ngày vắng teo…

Điên !

Tác giả : thangdiennhat

Nhếch nhác quanh người một vài bì ni lông đựng giấy vụn và sách vở gã vừa đi vừa lẩm bẩm, đên chỗ thường nhật gã ngồi xuống và bắt đầu viết vẽ linh tinh lên mặt đất. Xong gã lê la khắp trong công viên tìm nhặt những mẩu giây lót chỗ của những cặp nam nữ bỏ lại, hoặc chìa cái mặt ngờ nghệch để xin giấy của nhừng người còn còn đang ngồi có cặp sách bên cạnh. Ở công Viên họ đã quá quen với cảnh này. Ai cũng thương gã vì gã không bao giờ quậy hay phá một ai. Người ta bảo gã học nhiều quá hóa điên.

4 giờ sáng.

Hắn tỉnh dậy như mọi ngày, Chợ đầu mối bắt đầu ồn ào. Sáng nay hắn không phải làm việc, mà hắn phải đi chào tất cả mọi người. Hắn chuẩn bị hành trang để đi. Hắn ghé bà Tám Sề:

- Chào bà cháu đi đây, từ nay bà sẽ phải kiếm người thế chỗ cháu, cháu sẽ học thật giỏi rồi về cùng moị người.

Bà Tám Sề thường ngày nóng nảy quát tháo vậy mà giờ rơm rớm nước mắt, bà dúi vội vao tay hắn tờ 200 ngàn bảo:

- Cầm mà uống nước.

Hắn ghé qua bà Sáu Chanh:

- ...

Cứ vậy mọi người như đã biết sẵn ai cũng chuẩn bị cho hắn một ít tiền làm lộ phí. Tin hắn được học bổng du học toàn phần khiến cả chợ xôn xao. Nhưng mọi người không phải ngạc nhiên mà họ hiểu rằng từ nay họ sẽ vắng hắn. Một người làm thuê thật thà, tốt bụng và chăm học.

Gã quay lại công viê khi mà mọi người dường như đã quên đi hình bóng của gã. Gã ghé vào thăm người bảo vệ già của tờ giấy nháp khổng lồ của gã. Người đã giúp gã không bị làm phiền khi giả điên vào công viên để học.

Gã đi qua chị hàng nước thường ngày vẫn cho gã uống không lấy tiền vì thương gã bị điên vì học quá nhiều.

Gã chào chỗ ngồi thường nhật của gã. Rồi gã cứ lần lượt đi vòng quanh hồ nơi mà gã thường xin giấy. Gã chào bất cứ một ai gã gặp dù lạ hay quen. Nhiều người vẫn lầm bầm:

- Điên !

Gã bật cười ha hả bước ra khỏi cổng, đã hơn 1h chiều, gã đi nhanh về phía Ủy Ban Thành Phố nơi mà gã sẽ hoàn tất mọi thủ tục từ đó ra đi xây dựng tương lai của mình . Gã tạm biệt chính gã, tạm biệt Thằng Điên.

Gã xe ôm

Thứ năm , 20 / 9 / 2007, 14: 3 (GMT+7)

Chị Hằng thấy tai mình ù đi, mắt hoa mờ khi tận mắt thấy anh Tùng đi với thằng Đức – con nghiện lâu năm của xóm lều, là tay buôn bán ma túy có hạng. Thảo nào lâu rồi không thấy anh đến thăm mẹ con chị, nghe mọi người nói anh nghiện mà chị không tin. Chị không dám tin và không muốn tin rằng anh giống như cái tên mà mọi người đặt cho anh: Tùng “nghiện”.

Ở cái xóm lều nhỏ bé này mỗi ngày không biết có bao nhiêu người từ nơi khác đến và đi. Đủ cả! Nào là bọn dặt dẹo nghiện ngập, cave, người từ nông thôn lên làm cửu vạn, lượm ve chai, ngày đi làm tối về nghỉ trọ. Tất cả tạo cho xóm lều thành cái mớ hỗn độn, ồn ào, ngột ngạt.

Từ mười bảy giờ đến hai mốt giờ là thời điểm hội tụ đầy đủ nhất các loại âm thanh: Từ tiếng trẻ con khóc, tiếng con nghiện lên cơn đói thuốc, đến tiếng cave mồi chài khách, mấy con bạc sát phạt nhau…

Chỉ khổ cho mấy anh cảnh sát khu vực, đúng cái giờ gần gia đình, vợ con thì lại phải đi tuần tra. Thấy bóng các anh là bọn cờ bạc, mại dâm dạt hết, các anh chưa đi khỏi thì đâu lại vào đấy. Hôm trước có anh Hùng – Cảnh sát khu vực mới về nhận công tác đi bắt mấy thằng nghiện đưa chúng đi cai, không may có thằng dính “ết” nó cắn vào tay, phải điều trị uống thuốc phơi nhiễm HIV trên bệnh xá công an thành phố. Sau sự việc đó, lãnh đạo công an phường đã có báo cáo chi tiết về tình hình an ninh trật tự ở xóm lều và đề xuất tăng cường lực lượng để xóa tụ điểm ma túy, cờ bạc nhưng chưa thấy ý kiến phản hồi của cấp trên. Nghe nói là do lực lượng còn mỏng, phải chờ thêm.

*

*     *

“Tùng” - một cái tên lạ hoắc hôm nay mới xuất hiện ở xóm lều. Hắn làm nghề xe ôm. Một gã bình thường nhưng lại là tâm điểm chú ý của mấy chị bán hàng nước có chồng đi tù vì mua ma túy, trộm cắp. Cái ngày chưa có ma túy về đây, họ cũng có cuộc sống hạnh phúc. Thế rồi ma túy đã cướp đi của họ tất cả. Giờ đây thật khó mà kiếm được một người đàn ông tử tế ở cái xóm lều này. Không biết tay xe ôm này đến đây để kiếm sống hay là tự đưa mình vào ngõ cụt và kết thúc là khói thuốc trắng chết người. Mới thoạt nhìn chẳng ai dám gần hắn bắt chuyện lấy một câu. Người hắn dong dỏng cao, nước da hơi đen, nhưng khuôn mặt thì lầm lì, khó gần, đã vậy tóc còn húi cua, mới nhìn cứ tưởng là tay anh chị nào dạt về. Vì thế mà “ma cũ” ở xóm lều chẳng dám động đến, để hắn tự do hành nghề. Hắn không trọ ở xóm lều nên hẳn phải dậy rất sớm bởi mới năm giờ sáng đã thấy hắn đứng bắt khách ở đầu xóm rồi.

Chị Hằng bán hàng nước ở đầu xóm, sau vài lần tiếp xúc thấy thinh thích hắn. Ngày trước chị cũng có cuộc sống hạnh phúc bên chồng và đứa con trai khỏe mạnh, rồi ma túy về cái xóm này, rồi chồng chị dính vào do chích quá liều. Đã ba năm rồi chị ở vậy nuôi con. Nay thấy tay Tùng tuy hơi khó gần nhưng cũng hiền, lại chịu khó, chắc cũng có thời gian tội lỗi song đã tìm về nẻo thiện – chị Hằng nghĩ vậy.

Cuộc đời chị Hằng tưởng đã dần tránh xa được cái nghèo, cái khổ, vậy mà không biết thế nào có chút vốn dành dụm được bị kẻ trộm mò vào cuỗm sạch. Giờ lại tay trắng. Thằng Tuấn con chị lại bị sốt cao, lên cơn co giật. Chị phải nhờ anh Tùng chở hai mẹ con đến bệnh viện. Bác sĩ kết luận cháu bị viêm màng não, hiện đang hôn mê phải điều trị dài ngày. Đúng là khốn khổ, họa vô đơn chí!

Thế là từ hôm đó Tùng là xe ôm chuyên nghiệp cho chị, ngày hai lần vào bệnh viện. Việc buôn bán của chị phải dừng lại để chăm sóc con. Tiền hết, chẳng biết làm sao thì anh Tùng lại đưa cho chị vay hai triệu và chở xe ôm miễn phí. Đúng là ông trời không quá phũ phàng với chị, trong lúc khốn cùng của sự nghèo khó chị đã gặp anh. Anh là ân nhân của hai mẹ con. Hôm anh đèo chị vào thăm con, ngồi trên giường bệnh chị buột miệng hỏi:

Anh Tùng có vợ chưa?

- Nhìn tôi thế này ai thèm lấy chứ?

- Anh cứ nói vậy chứ. Nếu có người kết anh thì sao? – Chị hỏi mà mắt không rời anh.

- Vậy thì phúc cho tôi quá! – Anh thản nhiên.

Chẳng biết tiếp tục câu chuyện thế nào. Lặng một lúc chị mới nói:

- Anh cho em hỏi câu này nhé?

- Ừ! Em cứ nói đi.

- Sao chưa bao giờ em thấy khách đi xe của anh là những cô gái? Anh có định kiến với những cô gái như vậy à?

- Không phải vậy đâu, vì anh không thích thôi.

- Anh lạ thật đấy, chở ai mà chẳng được. Chở mấy cô gái đó công còn cao hơn mà không nguy hiểm như mấy ông nghiện.

Anh không nói gì mà chỉ cười làm chị nghĩ ngợi lung tung…

Sáng nay chị dậy sớm để chuẩn bị vào viện đưa cu Tuấn về, ơn anh mà cháu đã khỏe lại. Vừa mới ra đầu ngõ đã thấy mấy chị bán hàng bàn tán:

- Cái thằng Tùng “xe ôm” nhìn vậy mà tốt bụng thật. Chiều hôm qua ông Sơn bị máy làm gạch nó nghiền nát chân phải, tay Tùng đưa đi cấp cứu, bị mất nhiều máu mà nhóm máu của ông Sơn nghe nói là loại hiếm nhưng lại trùng với nhóm máu của tay Tùng “xe ôm”. Vậy là ông Sơn thoát chết trong gang tấc nhờ tay Tùng kịp thời cho máu đấy.

- Thấy mọi người bảo hôm trước hắn còn cõng một thằng “ết” vô gia cư giai đoạn cuối lên trạm xá của phường - Một chị góp chuyện.

- Nghe nói…

- Thấy bảo…

Người dân xóm lều nói nhiều về anh, về những việc mà anh làm cho mọi người mà không đòi hỏi điều gì. Người ta nhắc đến anh như là một ân nhân, một người tốt bụng mà ông trời đã ban tặng cho cái xóm lều nghèo khó này. Vậy mà…

Chị Hằng thấy tai mình ù đi, mắt hoa mờ khi tận mắt thấy anh Tùng đi với thằng Đức – con nghiện lâu năm của xóm lều, là tay buôn bán ma túy có hạng. Thảo nào lâu rồi không thấy anh đến thăm mẹ con chị, nghe mọi người nói anh nghiện mà chị không tin. Chị không dám tin và không muốn tin rằng anh giống như cái tên mà mọi người đặt cho anh: Tùng “nghiện”. Nhưng trong tận đáy lòng mình, chị vẫn tin rằng anh không phải là người như thế, một ngày nào đó mọi người sẽ có cái nhìn khác về anh.

Mấy chị hàng nước lại có dịp buôn chuyện:

 - Người tốt muốn hoàn lương mà chẳng được. Cái thứ hàng trắng đó nào có tha cho ai, đến lão Tùng cứng rắn thế mà còn dính vào.

- Tại anh ấy cũng chủ quan, suốt ngày thấy chở cái thằng trùm ma túy ấy, chắc bị nó dụ dỗ rồi – Có chị trách móc.

Một chị hoài nghi:

 - Liệu có bị nghiện không hay chỉ đi theo chở thuê cho thằng Đức thôi.

 - Ối dào! Thế có thấy thằng nào đi theo thằng Đức mà không dính đến ma túy không? Rồi tất sẽ bị quả báo thôi.

Chị Hằng thấy thương cho anh và thương cho chính bản thân mình, một lần nữa hạnh phúc lại khước từ chị mất rồi. Đã một tháng nay không thấy bóng anh, anh ở đâu? Sao không về thăm mẹ con em dù chỉ một lần...?

*

*    *

Đoàng... Đoàng...

Hai tiếng nổ chát chúa vang lên đánh thức màn đêm ở xóm lều, mọi người đổ xô ra ngoài: “Bà con ơi có đánh nhau”; “Có nhiều công an lắm, có cả xe cứu thương nữa”; “Thằng Đức ma túy bị công an bắt rồi”... Mọi người xúm đông lại nhà tên Đức, lực lượng công an đã thắt chặt vòng vây, lần lượt các tên buôn bán ma túy bị áp giải lên chiếc xe chuyên dụng. Chiếc xe cứu thương hú còi inh ỏi vút đi xé toạc màn đêm. Chị Hằng chen mãi mới vào được vòng trong, cố đưa ánh mắt nhìn mấy tên bị áp giải: “May quá! Không có anh Tùng”.

Sau trận vây bắt của lực lượng công an, không chỉ bọn ma túy mà cả bọn cờ bạc, mại dâm cũng dạt đi đâu hết, xóm lều trở lại sự bình yên vốn có của nó.

Hôm nay, ông Tuân – trưởng xóm – tổ chức họp xóm và bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến lực lượng công an đã mang lại sự bình yên cho nhân dân xóm lều và đề nghị cuộc họp cử người đi dự lễ mai táng đồng chí Thượng úy Nguyễn Phúc Sơn đã hy sinh khi vây bắt tên Đức và đồng bọn.

7 giờ sáng, người dân xóm lều đã có mặt tại nhà tang lễ. Lễ viếng đồng chí Sơn có cả các vị lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo Công an thành phố và hàng trăm cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân trong không khí trang nghiêm với lòng tôn kính và sự xót thương vô hạn. Thắp cho anh nén hương, ngước nhìn lên di ảnh, người dân xóm lều không khỏi bàng hoàng: “Trời ơi! Đó là... là... thằng… “Tùng” nghiện”(?!)

Ngày đẹp trời

Truyện ngắn Thái Bá Tân

Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mặt trời đầu xuân ấm áp vừa nhô lên khỏi hàng cây trước nhà. Ông lão mù và con chó ngồi sưởi nắng ngoài sân.

Ông lão đã gần tám mươi. Con chó nằm cạnh sắp bước sang tuổi mười lăm. Nghĩa là qui ra tuổi người, nó cũng già như chủ, đến mức đi đứng không vững, nhìn không rõ, có thể nói gần như mù. Nó là con chó ta lai bẹc-giê, to cao, màu vàng nhạt, ở cái tuổi đáng kính ấy vẫn giữ được dáng vẻ của thời hoàng kim cách đây cả chục năm. Chỉ gầy đi đôi chút. Tất nhiên chậm chạp hơn và hiền chứ không hung dữ như xưa. Suốt ngày nó ở ngoài sân, thích thú tận hưởng cái ấm của mặt trời, lười biếng nằm bẹp xuống nền xi măng, có khi duỗi cả tứ chi ở cái thế chẳng lấy gì làm đẹp mắt. Từ lâu nó đã thôi không thèm sủa. Họa hoằn lắm, có kẻ gian, nếu đôi mắt mờ nhìn thấy, nó chỉ  gầm gừ hăm dọa. Hăm dọa thôi chứ chẳng gì hơn. Qua rồi cái thời nó phải làm cái công việc trông coi nhà cửa như lũ con cháu. Con cháu nó chắc cũng nhiều, dù bây giờ không biết ở đâu. Như ông chủ, nó xứng đáng được hưởng những ngày còn lại của cuộc đời trong thanh thản và hạnh phúc. Dường như nó đang hạnh phúc, cái hạnh phúc đơn sơ theo kiểu chó...

Còn ông lão? Thì ông cũng hạnh phúc. Cũng theo cách của riêng ông, tất nhiên. Ông vốn nông dân, suốt đời chân lấm tay bùn, đến năm bảy mươi tuổi bị mù vì bệnh thiên đầu thống, được con trai đưa ra thành phố, cơm bê nước rót, đi đâu có con chó này dắt, bây giờ nó mù thì nhu cầu đi lại của ông cũng chẳng còn. Cách đây mấy năm, do vợ khó dễ, anh con mua cho ông ngôi nhà nhỏ này ở ngoại thành, thuê bà hàng xóm lo cơm nước, giặt dũ, còn mình thì mỗi tháng một lần đến thăm, trừ những tháng quên. Thế thì hỏi ông còn cần gì thêm? Đúng là chẳng cần gì. Ông vốn dễ tính. Tuy nhiên, nếu có được sự ấm áp gia đình thay cho ánh nắng vốn không phải ngày nào cũng có, và tiếng líu lo của những đứa cháu bụ bẫm chứ không phải tiếng gầm gừ của con chó, thì vẫn hơn.

Vậy là cả hai, con người và con chó, đang hài lòng, cùng sưởi nắng bên nhau, không bị ai quấy rầy. Lại vào một ngày nắng đẹp. Nhà bên, cách mảnh vườn nhỏ trồng mấy cây khế còn thấp nhưng um tùm lá, là ông hàng xóm đang lúi húi chữa xe máy. Ông ta, một người tóc húi cua, da đen, thấp mập, khoảng năm mươi, nghe nói về hưu non, không hiểu do giảm biên chế hay bị kỷ luật, hình như cũng vui vì luôn miệng huýt sáo, cả những lúc bất ngờ dấn ga rồ máy nghe đến sợ.

- Cái giống chó nhà mày ấy mà, Vện ạ, đúng là chẳng có chút tình nghĩa nào. - Ông lão lên tiếng, đập đập tay lên đầu con chó, sợ nó ngủ quên không nghe. Ông luôn gọi nó là Vện mặc dù hồi còn ở chung, vợ chồng con  ông đặt cho cái tên tây là Micky. - Nghĩ mà xem, mày con đàn cháu đống như thế mà đến lúc già lại chẳng có đứa nào bên cạnh. May còn được tao thương cho ăn, không thì chết, chết đói thật đấy!

Con Vện khẽ gừ một tiếng rồi đưa chiếc lưỡi màu đỏ nhạt liếm tay chủ.

- Còn tao thì mày biết, tao đã kể bao nhiêu lần rồi. Tao chỉ có hai đứa con trai. Một nuôi mẹ, một nuôi bố. Mày không thấy thằng Khánh ăn ở với tao có hiếu à? Mấy năm trước, khi còn ở chung, tao được nó cho ở riêng một mình một tầng nhé. Tầng bốn, tầng cao nhất, mày hiểu chưa? Nó chẳng bắt làm gì, chẳng bao giờ quấy rầy. Chỉ đến giờ ăn thì gọi xuống. Hôm nào có khách còn bê lên cho ăn một mình. Nó dặn mấy đứa con gặp ông phải chào. Chỉ tội chúng hay quên. Con nít mà. Lại còn nhắc vợ phải ăn nói nhẹ nhàng với tao nữa. Mày thấy tao sướng chưa? ở quê ấy mà, khối người về già bị con bỏ rơi đấy. Tao thì không. Tiếc là hai thằng con không thỏa thuận được với nhau để tao và bà lão nhà tao sống chung một thời gian. Mấy ngày thôi cũng được. Bà lão nhà tao ấy mà, ngu thì ngu thật, nhưng hiền lành và biết điều. Chỉ tội mau nước mắt. Nói mày đừng cười, bà ấy bảo nhớ tao đấy. Cứ như còn trẻ. Cứ như người thành phố không bằng. Tao thì tao chẳng nhớ, nhưng thương. Tội nghiệp bà ấy, chừng ấy tuổi mà còn phải thui thủi một mình. Chả là thằng kia không chịu cho lên thành phố vì chê hay nhổ nước trầu bậy bạ. Mụ nhà quê nào chả mắc cái thói xấu ấy. Nó chỉ gửi tiền về. Nghe nói cũng khá. Nhưng bà ấy ngu lắm cơ. ăn uống chẳng dám, được đồng nào cứ tích góp cho vào cạp quần, khi thành món kha khá thì vợ chồng nó về hỏi vay. Tức là lại cho chúng. Thế mà đã năm năm nay vợ chồng tao chưa gặp nhau đấy. Chả đứa nào chịu đưa đi. Chúng bận làm ăn. Đúng thôi. Già chết đến nơi rồi còn gặp gỡ làm gì. Nhưng kể thỉnh thoảng được thấy nhau, nói với nhau đôi lời cũng hay. Mày nghĩ sao, Vện? Giống người khác giống chó ở chỗ sống có đôi. Chứ như chúng mày thì chỉ bầy đàn, để đến lúc già trơ khấc một mình. Khổ chưa? May mà mày còn có tao. Rồi chết chắc chỉ mình tao đi chôn mày. ấy là nói nếu mày chết trước. Còn nếu tao chết trước, mày có theo người ta ra mộ tao không? Công bằng mà nói, mày là con chó tốt, và có mày tao cũng đỡ buồn hơn nhiều... ờ mà sao mày chẳng nói gì cả? Vện, Vện, mày đâu rồi?

Con chó già không đáp vì nó đang bận. Ông lão đưa tay quờ quạng tìm  nó.

- Đi ị hả? Nhớ ra tận góc vườn đấy nhá!

Không, lúc ấy con Vện đứng cạnh chủ, chỉ ngoài tầm với một tí. Nó đang chăm chú nhìn miếng mồi trước mặt. Đó là một miếng thịt khá to, nướng sém, dù đã nguội nhưng cái mũi thính của nó vẫn ngửi thấy mùi thơm. Vốn khôn ngoan, lại dày dạn kinh nghiệm của một con chó già, nó cảm thấy có gì đấy bất thường trong miếng mồi này. Nó đang lưỡng lự. Tuy nhiên sự hấp dẫn của miếng thịt, lại khi đang đói, cuối cùng đã thắng. Nó cúi xuống, thè lưỡi liếm liếm, dè dặt liếc nhìn ông lão rồi ngoạm vào miệng, nuốt chửng. Giống chó có thói xấu là ăn không nhai, chỉ nuốt.

Bỗng con Vện khựng lại. Có cái gì đấy vương vướng trong miệng. Một sợi dây. Sợi dây cước màu trắng mãi đến lúc này nó mới thấy. Không phải một đoạn mà cả sợi dài. Đúng lúc nó định tìm cách nhả ra thì sợi dây bị kéo căng, và nó thấy đau buốt trong cuống họng. Đau lắm. Như có cái gì sắc nhọn móc bên trong. Nó há to mồm, cố khạc ra. Không được. Sợi dây bị kéo căng, làm nó càng đau hơn. Vì đau, vì miếng thịt mắc ngay ở cuống họng, nó không sủa được. Chỉ rên ư ử, và đi theo hướng sợi dây đang kéo, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tiếng ư ử của chó, cho dù vì vui hay buồn, đều giống nhau.

- Mày làm sao thế, Vện? - Ông lão mù hỏi. - Sướng quá hóa rồ lại hát à? Nhưng mày hát gì mà nghe như khóc ấy. Không sao, thích thì cứ hát. Đời đẹp mà. Hôm nay ngày cũng đẹp. Gớm, tháng trước rét thế. May đêm ngủ  có mày, chứ không tao cũng chết rét... Mà thôi, đừng rên thế nữa. Lại đây, lại đây ngồi với tao nào! Vện! Vện!.. Mày đâu rồi?

Lúc này con chó già đã bị kéo ra tới đường làng. ở đó, khuất sau bụi dâm bụt là một thằng đàn ông còn trẻ đội mũ cối, mặc quần áo màu rêu bộ đội, chân đi dép nhựa, mặt quắt và đầy trứng cá. Hắn nhanh nhẹn túm lấy cổ con Vện, úp vào mõm nó chiếc rọ đã chuẩn bị sẵn, trói cả bốn chân lại rồi vứt vào chiếc giỏ sắt lớn sau yên chiếc xe đạp dựng cạnh.

Bình thường, dẫu già con Vện vẫn có thể quật ngã hai tên như hắn. Nhưng lúc này nó đang đau, không sủa, không cắn được, dẫy đạp mạnh cũng không. Thằng kia biết, nên hắn mới có thể làm mọi việc bình tĩnh và trót lọt như vậy. Chưa nói đến kinh nghiệm, mà kinh nghiêm trong việc này thì hắn có thừa, vì hắn là một thằng câu chó chuyên nghiệp. Vâng, câu chứ không phải bắt trộm. Như người ta câu cá. Nhử cho chó ăn mồi, chờ chiếc lưỡi câu lớn ba cạnh móc vào họng rồi kéo dây. Sợi dây cũng bằng cước, mảnh thôi, chỉ nhỉnh hơn dây câu cá một chút, nhưng thử hỏi khi đã mắc mồi thì có con chó nào, dù to khỏe đến đâu, còn dám chống cự mà sợ đứt?

- Vện ơi, Vện! Mày đâu rồi? Có chuyện gì xẩy ra thế? - Ông lão lại gọi, lần này to hơn và đầy lo lắng. – Vện! Vện! Mày đi đâu đấy?

- Đi Nhật Tân rồi. - ông hàng xóm ngừng sửa xe, nói vọng sang.

- Nhật Tân là gì? Đi Nhật Tân là đi đâu?

- Là tới các quán thịt chó ở trên ấy chứ đi đâu nữa. Cụ lạc hậu quá.

- Nhưng sao con Vện lại đến đấy và đến thế nào được? - ông lão vẫn chưa hiểu.

- Không phải nó tự đến, mà bị bọn trộm bắt...

- Bắt trộm? Con Vện này mà chịu để người khác bắt trộm?

Ông hàng xóm kể rõ thủ đoạn của bọn câu chó. Ông lão nghe xong chỉ khẽ kêu một tiếng “trời” rồi ngồi im. Mãi lúc sau ông mới lên tiếng, giọng run run;

- Sao bác biết, không ra giữ nó lại?

Ông kia suy nghĩ một chốc, đáp:

- Tôi bận chữa xe.

Rồi vô cớ, cho rú máy inh oi.

Trên đời có những người làm điều ác, những điều ác kinh khủng mà chính họ nhận thức rất lờ mờ, thậm chí không coi là điều ác. Do vậy sự kinh khủng càng tăng thêm gấp bội. Thằng câu chó này là một thí dụ. Hắn vốn xuất thân từ một gia đình nông dân bình thường. Nhà nghèo, chỉ học hết lớp ba. Hắn chẳng có thói xấu nào. Không rượu chè, cờ bạc. Gây gỗ cũng không, và chưa từng một lần có vấn đề với pháp luật. Hắn chăm chỉ làm ruộng nuôi vợ con, không mẫu mực nhưng cũng chẳng đáng trách. Quan hệ với bố mẹ, xóm giềng cũng bình thường. Tóm lại, hắn là người không đến nỗi nào, trừ việc lúc rỗi đạp xe đi khắp vùng ăn trộm chó để bán cho các cửa hàng ở Nhật Tân.

Hắn có biết việc này là xấu không? Có lẽ có. ăn trộm là xấu rồi. Nhưng hắn không nghĩ đó là tội ác. Trộm vặt thôi mà. Nhất là trộm chó, cái giống gây bệnh dại mà cách đây không lâu ở quê hắn còn bị cấm nuôi, dân quân thi nhau đi từng nhà đánh chết bằng hết! Hắn chỉ có thể nghĩ đến thế, nên cứ tiếp tục “hành nghề”, hết con này đến con khác, hết năm này đến năm khác. Còn về sự man rợ của việc hắn ăn trộm chó bằng cách móc lưỡi câu ba mũi vào họng chúng mà kéo thì quả chưa một lần hắn nghĩ tới. Đầu óc ngu dốt, tăm tối và thơ ngây một cách đáng sợ của hắn đơn giản không cho rằng đó là điều man rợ. Hệt những kẻ ăn thịt người ở các bộ tộc mông muội ngày xưa không chút lương tâm cắn rứt khi xơi thịt đồng loại.

 Câu chó và câu cá thì có khác gì nhau? - Có thể hắn nghĩ vậy. Nhưng con cá bị câu, thả xuống nước có thể sống. Còn con chó thì không thể gỡ lưỡi câu ra được, trừ phi sau khi thui bị mố họng. Đấy là chưa nói tới việc không thể ví chó với cá. Gần đây báo đưa tin ở Thụy Điển có anh hàng cá bị phạt tiền vì tội bán cá còn sống, tức là tội hành hạ loài vật. ở các nước phương tây ăn thịt chó là vi phạm luật bảo vệ động vật. Còn đây, hắn thản nhiên hàng ngày móc lưỡi câu vào họng những con chó tội nghiệp rồi kéo đi. Chưa có luật nào trừng trị hắn tội ấy. Mọi người xung quanh dường như cũng không lên án hắn. Vợ con hắn thản nhiên sống bằng đồng tiền moi họng chó ấy. Dân làng thản nhiên nhìn hắn “đi làm”. Các chủ quán Nhật Tân thản nhiên mặc cả giá những con chó với lưỡi câu ba ngạnh trong họng như mọi món hàng bình thường. Thực khách thản nhiên ăn chúng một cách ngon lành. Ông hàng xóm thản nhiên nhìn hắn bắt con Vện với lý do “bận chữa xe máy”. Anh con trai ông lão mù thản nhiên nói: “Mất con này thì mua con khác, thiếu gì mà bố phải khổ sở đến thế!” Còn chú công an khu vực trẻ măng khi được thông báo vụ việc còn có ý ngạc nhiên sao người ta có thể làm phiền nhà chức trách bằng những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Chuyện một con chó bị câu trộm!

               *

Bạn đọc thân mến, nhưng tôi thì không sao thản nhiên nổi khi viết câu chuyện này. Hy vọng các bạn cũng không thản nhiên đọc nó. Một câu chuyện có thật, vừa xẩy ra ở cái huyện ngoại thành, là nơi, theo cách riêng của mình, vợ chồng tôi đang sống thanh thản và hạnh phúc như ông lão mù cùng con chó gần mù của ông. Hôm ấy đúng là ngày đẹp trời, nhưng với tôi lại là một trong những ngày u ám nhất.

Cho đến tận lúc này tôi vẫn có cảm giác như cổ họng mình đang vướng lưỡi câu ba ngạnh kia. Một sự công phẫn thôi thúc muốn thét to mà không biết thét vào ai, thét rằng trên đời vẫn tồn tại một sự dã man đến thế và người ta vẫn có thể thản nhiên với nó đến thế. Cái ác đang tồn tại khắp nơi dưới nhiều dạng, cả những dạng nhỏ nhặt và “hồn nhiên” nhất. Chúng ta, kể cả tôi, chúng ta vin đủ cớ để không nhìn thẳng vào chúng, và quan trọng hơn cả là không làm gì để chống lại chúng. Bản thân thái độ thụ động này cũng là một cái ác. Sự ngu dốt không nhận ra cái ác cũng là cái ác. Tôi không bao giờ trộm chó, cả ăn thịt chúng cũng không, vì hàng ngày tôi vuốt ve chúng, mỗi lần đi làm về chúng vẫy đuôi mừng tôi. Nhưng không vì thế mà tôi thấy mình không phần nào có lỗi trong việc con Vện bị giết một cách dã man và ông lão mù bị tước đi người bạn thân thiết duy nhất...

Vậy là tôi đã làm hỏng truyện ngắn này của tôi, bằng cách vô tình biến nó thành một bài tùy bút với những lời ủy mị không hợp mốt. Là nhà văn, lại đang trong cơn hứng “truyện ma”, tôi có thể hư cấu những chi tiết ly kỳ làm phần kết cho nó. Nhưng đây là chuyện có thật về một vấn đề nghiêm túc và khẩn thiết, tôi không thể cho phép mình được viết gì khác ngoài sự thật trần trụi và những ý nghĩ thật trong đầu tôi. Khi đọc truyện này, mong các bạn hiểu theo hướng đó.

PS.

Ông lão mù mới chết tuần trước. Tôi hỏi ông con thì được báo là cụ bỗng nhiên cảm thấy khó thở, không nói, không ăn mấy ngày rồi chết. Cũng đúng vào hôm đẹp trời. Vợ chồng tôi và cả ông hàng xóm “bận chữa xe” tiễn cụ tới tận nghĩa trang.

Chỉ tiếc không có con Vện.

KHÔNG BIẾT ĂN THỊT GÀ

NGUYỄN ANH TUẤN

    Đã 6 giờ chiều, hắn vẫn còn ngồi ở quán bia “cóc” tại một thị xã đông đúc. Chả là, anh bạn thân ở hội văn nghệ địa phương sau khi viết xong cái truyện ngắn, biết hắn đang có việc ở thị xã bèn truy tìm bằng được để khoe. Đọc xong dòng cuối bản thảo, ông bạn kéo hắn bằng được đi chiêu đãi. Biết văn nghệ sĩ tỉnh là nghèo nên hắn đã chủ động “tiến cử” một quán bia bình dân mà hắn từng đến, để ông bạn đỡ thâm thủng “màng túi” khi tỏ lòng hiếu khách và cũng không làm tổn thương đến sĩ diện của bạn… Nhưng thật oái oăm, ở ngay cạnh quán bia này vừa mới khai trương một cửa hàng đặc sản “Gà quê”. Bạn hắn định chạy sang kiếm nửa con gà sang nhậu với bia vi sinh (mà hắn phải bấm bụng nói là bia địa phương có hương vị rất đặc biệt!) Hắn giữ tay bạn lại: “Thôi, uống không cho mát. Uống nhanh, tôi phải về. Ông quên đêm nay là Trung thu, còn tôi có con nhỏ à?” Ông bạn nhăn mặt: “Ông buồn cười nhỉ. Lâu ngày mới gặp nhau. Xe ông về chỉ hơn tiếng đồng hồ! Mà uống thì phải có đồ nhậu. Gà quê đây ngon lắm, lại an toàn!” Hắn lắc đầu quầy quậy: “Nhưng tôi không biết ăn thịt gà!” Không hiểu sao hắn bịa ứng phó nhanh thế! Ông bạn tròn xoe mắt sau cặp kính cận dày cộp: “Thế à? Nhưng hình như, lần trước trong cuộc chiêu đãi của tỉnh…Vậy thịt chó nhé? Hôm nay không phải đầu tháng, cũng chưa phải cuối tháng. Trẻ con không được ăn thịt chó (*), nhưng chúng ta thì ăn được”. Đúng là lý luận cù nhầy cốt là để cuối cùng được bày tỏ lòng quý bạn. Hắn nhún vai. “Tôi càng không biết ăn. Ông biết đấy, tôi tiêu hoá kém, mà thịt chó quá nhiều đạm.” Điều này thì hắn nói đúng trăm phần trăm, và bạn hắn thì “tâm phục khẩu phục” hoàn toàn.

Lẽ ra những câu chuỵên văn chương lẫn đời thường của hai “vĩ nhân tỉnh lẻ” sẽ rất trọn vẹn, lý thú, nếu như không có cái mùi cánh gà nướng, chân gà nướng bay sang ngào ngạt, cái mùi “hoa tiêu” đặc trưng của dân nhậu chuyên nghiệp. Xin mở ngoặc, hắn chỉ là dân nhậu nghiệp dư, nhưng quả là cái mùi “đưa đẩy” bia rượu kia quả là hấp dẫn! Nếu ông bạn hắn là dân doanh nghiệp “máu mê” văn nghệ, hắn chẳng nề hà gì để xơi gọn cả hai đùi gà quê bạn chiêu đãi, và thêm vài cái cẳng gà nướng cũng chẳng sao - mặc dù hắn không phải là kẻ có “tâm hồn ăn uống” gì! Hắn bỗng nhớ lại một lần cũng lâu rồi, ở một ngôi nhà sàn miền núi, vào bữa cơm rượu đãi khách, hắn đã gắp ngay hai cái đùi gà cho hai đứa trẻ con, trước những ánh mắt thán phục và lời trầm trồ khe khẽ: “Cán bộ hiểu phong tục đồng bào quá!” Và rồi hắn chỉ chọn toàn xương xẩu để gặm. Lúc đó, hắn chỉ hành động theo thói quen hình thành ở gia đình; và mới ra trường, hắn đâu đã biết gì về phong tục đồng bào! Hắn chỉ biết một điều: vì quý khách mà gia chủ chọn con gà béo nhất trong đàn gà thường chỉ để đem ra chợ bán chứ ít khi được thịt trong bữa ăn hàng ngày…

Câu chuyện giữa hắn và ông bạn bên cốc bia địa phương, đĩa lạc luộc chẳng mấy chốc lại xoay sang chủ đề “cái ăn” trong nghệ thuật chữ nghĩa. Bạn hắn bảo: “Ông thấy không, văn chương nước mình viết về miếng ăn, cái đói sao mà thấm thía! Chắc nhà văn thế giới không ai vượt qua được ông Nam Cao trong “lãnh địa” này!” Hắn gật đầu đồng tình, lặng lẽ uống, và mặc dầu bia rất khó uống hắn cũng làm ra vẻ “bia rất lạ” như hắn tuyên bố lúc đầu, lại còn đòi thêm cốc nữa!

Lúc chia tay, bạn hắn về trước, còn hắn chạy vào toilette (toalet) nồng nặc của quán để nôn ra bằng hết thứ bia cỏ rẻ tiền. Khi ra, đang lục túi quần tìm chìa khoá xe máy chẩn bị cho cuộc hành trình 60 cây số về Thủ đô thì có một người đàn bà quang gánh toòng teng đến gần hắn năn nỉ: “Anh ơi, mua nốt giúp em đi...” Hắn nhìn người đàn bà. Gọi là chị cũng được mà gọi là bà cũng không quá. Người ấy thuộc type không thể đoán được tuổi vì sự lam lũ, khổ sở, nhẫn nhịn và có lẽ cả sự tự tôn nữa. Hắn nhìn vào đôi sọt. Vài quả na thâm xì, mấy quả hồng rụng cuống lấm tấm đen, đôi ba quả xoài nẫu. Hắn bật cười vô thức, vẻ giễu cợt: “Mấy thứ này còn ăn làm sao được nữa hở bà trẻ! Với lại, tôi phải đi xa, không mua hoa quả làm gì!” Hắn tra chìa khoá vào cổ xe, rồi bất giác ngước nhìn lên. Đôi mắt người đàn bà ẫng nước. “Bác mua hộ cho các con em đi…” Lời người đàn bà nhẹ như hơi thở, nhưng hình như có một sức mạnh kỳ lạ nào ẩn phía sau, và chị ta nói thật nhanh, thật khẽ khàng dường bằng cách đó mới có thể duy trì được lòng dũng cảm “…Em bán rẻ cho bác… Em chỉ cần đủ tiền mua một chiếc đèn ông sao…và mấy cái chân gà bị loại cho các cháu đêm nay…” Một lời lẽ thông thường sắp bật khỏi cổ họng hắn, như phản ứng của hầu hết mọi người lúc đó: “Việc ấy thì liên quan gì đến tôi! Để tôi đi, cái bà này lôi thôi quá!” Nhưng lời lẽ đó bỗng tắc lại giữa chừng. Hắn chợt “ngộ” ra cái hoàn cảnh của người đàn bà xa lạ… Người ấy đang cầu xin hắn, với tất cả tính chất cấp bách và cả lòng tự trọng cần phải có… Hắn có thể gạt đi, phóng vù xe, và con đường đêm đầy gió lộng trong lành sẽ giúp hắn quên đi tất cả sự trớ trêu của nhân thế lẫn cảnh ngộ đau lòng này… Nhưng đó có phải là một giải pháp tối ưu? Còn nếu không, hắn sẽ phải làm gì với cái đống hoa quả nát này? Liệu vợ hắn, mẹ hắn, các em, các cháu hắn có cười vào mũi hắn là kẻ dở hơi?... Hắn cứ nghĩ ngợi bao đồng trong lúc lục túi để trả tiền và nhét các thứ quả vào túi nylon, rồi lại phải làm ra vẻ hí hửng vì đã mua rẻ được của hời! Hắn biết trước là mẹ hắn sẽ lôi đống hoa quả đó ra từ tủ lạnh rồi kêu trời kêu đất đến hàng xóm cũng phải nghe thấy và phì cười!

Nhưng đó là chuyện của ngày hôm sau. Còn đêm đó, hắn về đến Hà Nội lúc hơn 8 giờ rưỡi. Bụng đói mềm, hắn mở lồng bàn đậy mâm cơm để phần (hắn đã gọi điện về là sẽ ăn cơm ở nhà). Mẹ hắn vì đợi lâu quá nên đã ăn trước rồi lên phòng riêng xem tivi. Sáng nay, vợ hắn thuê taxi đưa đứa con gái đầy tháng tuổi về quê ngoại. Theo tục lệ ở quê vợ hắn, bà mẹ vợ sẽ ra chăm sóc con gái một tháng sau khi sinh nở tại nhà chồng, rồi sau đó lại đón hai mẹ con để chăm sóc một tháng nữa ngay tại quê. Trước khi vợ con hắn đi, mẹ hắn đã thịt một con gà to để làm cơm thắp hương, và ở nhà chỉ còn hai mẹ con hắn ăn cơm cúng tối nay. Lúc chiều tối, hắn ngăn bạn không mua gà để nhậu, phần lớn vì ái ngại cho túi tiền của bạn, nhưng cũng một phần vì hắn biết chắc lát nữa về cũng được ăn gà quê (bố vợ hắn đã gửi ra cho gia đình nhỏ của hắn một đôi gà bự nhân dịp đầy tháng con bé)

Nhưng mở lồng bàn, món quan trọng nhất trong một mâm cơm cúng thì hắn chẳng thấy! Hắn mở chạn. Rồi mở tủ lạnh. Đều không thấy. Hắn chạy lên gác. Mẹ hắn không rời mắt khỏi tivi. “Mẹ ăn cơm chưa?”- “Rồi! tao đợi mãi…”- “Thế…sáng mẹ không mổ gà à?”- “Sao lại không! Gà hơn cân, béo lắm!”- “Thế có còn không, mẹ?” Lúc ấy mẹ hắn mới rời màn hình tivi, cười hể hả: “Cả nhà Nhíp đến ăn mà chỉ hết có nửa con! À, Nhíp nó vừa đem cho con mày cái đèn ông sao đấy!” (Mẹ hắn hay gọi gia đình cô em thứ tư của hắn bằng biệt danh đứa cháu gái mà bà yêu quý và nuôi dạy từ bé). Hắn sốt ruột: “Thế bà để chỗ còn thừa ở đâu?”- “Cái gì còn thừa?” - “Thịt gà ấy!” Mẹ hắn ngẩn ra một giây rồi gật gù nhẹ: "Thế mày có bạn đến ăn à?” - “Không ạ, chỉ mình con ăn thôi!” Mẹ hắn ngạc nhiên thực sự: “Ơ kìa, tao nghĩ là mày không biết ăn thịt gà, nên tao đã cho mẹ con nó mang về hết rồi! Để mai thì chẳng ai ăn, tao đã chán thịt gà...”

Nói xong, mẹ hắn quay lại với tivi… Còn hắn thì sững người. Một nỗi xót xa xộc lên mũi hắn. Thì ra, bao nhiêu năm nay, mẹ hắn vẫn giữ nguyên cái ấn tượng: thằng con trai trưởng không biết ăn thịt gà!...Suốt những năm dài chiến tranh, sơ tán, rồi đận Giá-Lương-Tiền, mẹ hắn- một cô giáo dạy nhạc phải tần tảo nuôi dạy 5 đứa con, trông vào đồng lương còm giáo chức và số tiền khiêm tốn của bố hắn nhờ vẽ tranh truyền thần, tranh quảng cáo, cổ động, minh họa sách báo…Ở tuổi niên thiếu, rồi đến khi đi học chuyên nghiệp, hễ cứ ở nhà là hắn lặp lại thói quen nhường cho các em từ bát cơm độn mỳ độn ngô đến miếng thịt, gắp cá! Đôi lần bố hắn đi thực tế sáng tác kết hợp vẽ truyền thần ở tỉnh xa về, hý hửng đưa tiền cho mẹ hắn mua con gà nhép cải thiện, tới bữa ăn, lần nào hắn cũng phải giả bộ: “Con không thích ăn thịt gà đâu!” Có thế, bố mẹ hắn mới yên tâm rằng: không phải thằng lớn nhường nhịn cho cả nhà… Những ngày tháng ấy đã in đậm trong tâm trí anh em hắn. Và trong ký ức của của mẹ hắn, khổ thay, đã hằn vết một điều: “Thằng lớn không biết ăn thịt gà!”... Ngồi trước mâm cơm, hắn đã chảy nước mắt, vì thương thân thì ít mà thương bố mẹ hắn thì nhiều… Mẹ hắn lúc này đã tắt tivi, đi lại trong phòng, chắc là đang nhớ đứa cháu gái bé bỏng… Bao ngày tháng qua, dường như bà đã động viên con cháu chịu đựng thử thách bằng cái vẻ ngoài hồn nhiên vô tư lự của bà - kể cả khi chạy vạy lo toan từng cân gạo, từng chai nước mắm, từng lít dầu hoả, từng lạng thịt đậu tem phiếu, rồi lo chạy chương trình ở nhà trường, rồi lọ mọ đạp xe đêm hôm đi thăm các con nơi sơ tán; lúc rảnh rỗi lại ngồi son-phia những bài hát mới hoặc vùi đầu vào một cuốn truyện dày cộp giấy đen xì do thằng con trưởng vác về…Giờ đây, đã qua tuổi “cổ lai hy”, bà lại vất vả và vui đùa với đứa cháu nội muộn mằn…Còn bố hắn, một họa sĩ bất đắc chí thì đã nằm yên nghỉ dưới mộ sâu gần 10 năm nay, người chưa kịp được hưởng chút sung sướng gì của thời kinh tế mở cửa, người mà lúc sinh thời “chỉ bát mì tôm cũng ngon lành tựa bữa ăn đặc sản”- như hắn đã viết trong một bài văn tế bố.

Đêm ấy, nhớ con gái, hắn đã nhớ thương cho cả một thời đói khổ của gia đình hắn. Hắn chợt nghĩ đến người đàn bà với cái đèn ông sao chị ta phải mua bằng được cho con trước lúc Trung thu. Chị ta chắc cũng đông con, và chắc cũng phải có một đứa con lớn hay nhường nhịn những đứa bé mấy chiếc chân gà loại rẻ tiền, với lý do đầy sức thuyết phục: “Con không thích ăn thịt gà…”

Mật chó

Người đàn bà chỉ vào cái bị màu xanh cột kín đang bùng nhùng, nhung nhúc sát lề đường: “Chú ngó coi, nó có thể cắn thủng để chạy không?”. Cậu thanh niên phà hơi thuốc lên khoảng trời mù xám trước mặt, không trả lời mà hỏi lại: “Nó mấy tuổi?”. “Mới ba tháng”. “Vậy chắc không đủ sức cắn thủng cái bao này được đâu. Nhưng cái bao cột chặt thế kia có thể làm cho nó ngộp thở chết”.

Xe vẫn chưa đến. Con đường mù sương sớm mùa thu.

Họ bàn bạc một lúc rồi một người đè giữ phần cổ nó, một người tháo dây ở miệng bao. “Nó ngoan thật, không kêu tiếng nào. Ngoan nhé, ngoan nhé...”. Loay hoay một lúc, cậu thanh niên đã tráo con chó từ cái bị xanh sang giỏ nhựa đỏ.

“Chưa bao giờ tôi thấy một con chó đen tuyền thế này. Hà hà hà, đến cái lưỡi của nó cũng có bớt đen. Kỳ lạ thật!”. Bà già nói: “Tôi phải lân la tìm khắp vùng mới được nó”. “Bà mua nó về nuôi?” - cậu thanh niên vừa nói vừa siết những cọng dây chằng kín miệng giỏ.

Con chó đã nằm lọt thỏm, khùm người, rồi xếp hai chân lại, hơi rướn lưng thẳng lên, ở thế ổn định trong giỏ, như một thiền sư đang ngồi kiết già. Nó sẽ ngồi ở tư thế đó cho đến khi tới thành phố. Điều gì phía trước cuộc sống của nó? Linh cảm không phải là khả năng mà giống loài chó được sở hữu, nó thè lưỡi thở và vẫn không buồn kêu cứu hay rên la.

“Ừ. Nuôi cho đến ba tuổi. Chẳng biết có còn kịp hay không” - bà già chùng giọng. “Kịp gì? Kịp ăn thịt nó trước khi chết à? - cậu thanh niên nói rồi xổ toẹt một bãi nước bọt ra vỉa hè, bồi thêm - Mẹ kiếp, nó đái! Nhưng mà ý bà già vừa nói kịp là kịp cái gì?”. “Kịp cho đứa con gái tui nuốt sống túi mật của nó” - bà già nói chậm rãi.

Cậu trai thấy gây lạnh trong người. Cậu siết chặt miệng giỏ, mắt vẫn nhìn cái miệng nhai trầu của bà già. Con chó vẫn nằm ở tư thế khòng khoèo không được thoải mái. Mắt nó nhìn qua những khe hở và thi thoảng khậc khậc mũi. Nó là con chó dễ chấp nhận hoàn cảnh. Có lẽ nó nghĩ rằng nằm ở tư thế khoành khoèo này thì cũng đỡ hơn nhiều so với nằm trong cái bao phân bón tù mù, bịt kín không có lỗ thở.

Chàng trai ràng rịt mớ dây còn lại lên hai bờ miệng giỏ rồi phủi tay: “Xong! Nhưng con bé làm sao mà phải nuốt mật chó?”. “Kinh phong. Giật rất dữ. Nó mới mười sáu tuổi. Trăng lên là lên cơn giật méo xệch miệng mồm, quýu tay quýu chân! - bà già nói, giọng vẫn chậm rãi - Tôi đã chạy chữa hết nơi rồi. Chỉ còn hi vọng vào nó. Nhưng không biết con bé có đủ sức đợi được ba năm nữa cho đến khi có thể lấy được mật con chó hay không. Người ta nói mật chó mực ba năm tuổi thì mới già để lành bệnh. Mà thôi, cứ nuôi rồi tính”.

Cậu thanh niên ném tàn thuốc xuống đường mương cống, tư lự một lúc rồi ngồi xuống cạnh cái giỏ chó: “Nhưng nếu trong ba năm đó nó bị trộm bắt thì sao?”. “Thì tôi lại đi tìm con khác. Tôi không để hết hi vọng đâu” - bà già quả quyết. “Vậy sao bà già không gửi nó lại ở đây thuê người ta nuôi rồi ba năm sau chỉ về lấy mật nó mang đi?” - cậu thanh niên lại hỏi. “Tôi không an tâm. Tôi muốn tự tay nuôi nấng nó lớn lên, ba năm sau nếu còn đủ sức thì tôi mang về đây nhờ người ta giết thịt để lấy mật! Vả lại, nếu gửi lại đây thì biết bao giờ tôi quay lại được. Tôi tuổi già, sống chết đếm từng ngày. Rủi...”.

Cậu thanh niên lại đốt thuốc. Hai bờ vai vạm vỡ bỗng chùng xuống. Cậu thò ngón tay vào trong khe giỏ. Con chó thè lưỡi có bớt đen liếm liếm lên tay cậu, tỏ vẻ thân thiện. Nó không biết nó đang tham gia vào một kế hoạch khá chặt chẽ của bà già. Nó khịt khịt mũi. Ngón trỏ của cậu thanh niên ẩm ướt nước miếng chó.

“Bà có chắc là nuốt mật nó thì khỏi kinh phong không?”.

“Chắc. Nhiều người trị khỏi. Nên nó rất quý. Tôi mất cả vài tháng lặn lội mới kiếm được nó, một con mực thứ thiệt. Cũng may nhà người ta đông chó quá nên biếu không, chẳng tính đồng nào. Mình chỉ mất là mất cái công kiếm tìm và nuôi nó lớn lên đủ ba tuổi!”.

Trời vẫn mù xám.

Từ trong vùng mây đục trước mặt có tiếng rền rền động cơ. Chiếc xe khách lù lù trờ tới như một con quái vật thép. Cánh cửa thùng xe mở ra. “Bà già có gì để dưới thùng không?” - cậu lơ xe hỏi giật. “Có. Một con chó!”. “Trời ơi, đường sá xa xôi đem theo chó mèo chi?” - cậu lơ xe giằng co.

“Đây, gửi chú ít tiền uống cà phê rồi giúp tôi tìm cái chỗ tử tế cho con chó nằm, đừng để nó ngộp thở chết trên đường về thành phố...” - bà già đút vào túi áo bẩn của cậu lơ xe một tờ tiền màu xanh. Cậu lơ xe giả lả: “Cám ơn má. Con chưa thấy ai thương chó hơn má. Đây” - cậu vừa nói vừa xách bổng chiếc giỏ và đẩy qua mớ ngổn ngang vali, giỏ xách, kiện hàng... cho vào một khoang sâu, tối.

Đôi mắt con chó kịp chớp sáng qua khoảng hở giữa mấy cọng dây ràng chặt miệng giỏ. Cái nhìn của nó mạnh mẽ ném ra bên ngoài như một viên đá xuyên không gian, bay thấu vào bên trong con người cậu thanh niên.

Bất giác cậu giật thót, cảm thấy đau quặn thốn như triệu chứng tắc mật. Cậu ngồi bệt xuống, mặt mũi tái xanh. Mồ hôi lạnh toát, rợn rợn hai thái dương. Bà già quay lại: “Chú bị làm sao vậy? Trúng gió phải không?”. Cậu lắc đầu ra hiệu không có gì nhưng cổ cậu cứng nghẹn không nói đáp ngay được.

Cậu lơ xe kéo nắp thùng hàng. Khoảng tối sầm kia khép lại. Ánh mắt con chó cũng tắt. “Chú không sao chứ?”. “Dạ, không sao. Bà già đi mạnh giỏi” - cậu chùng giọng, mắt không nhìn bà già mà dán chặt nơi nắp khoang hành lý đã đóng kín. Bà già nhả miếng bã trầu nát đỏ như tiết xuống dòng nước đen ngòm chảy trễ nải dưới miệng cống rồi vội vàng bước lên xe.

Hôm nay ngày rằm.

Khuôn mặt của chó" - Truyện ngắn của Thiên Bình

26/09/2009 15:10

Lần thứ ba con chó lấp ló xuất hiện thì hắn vội vàng lấy chén cơm đã chuẩn bị sẵn, đem ra đặt trước mặt, nhử nhử nó. Hắn biết chắc chắn con chó sẽ không thể cầm lòng. Nó sẽ mon men tới gần, sục miệng vô chén cơm. Chỉ cần bấy nhiêu thời gian thôi, đủ để hắn lôi gã ra khỏi quyển sách, khẳng định điều hắn đã nói từ mấy ngày nay. Con chó có khuôn mặt giống người!

Hắn đặt chén cơm và chờ đợi. Con chó mon men lại gần, bốn chân của nó dò từng bước nhỏ, ướm thử thái độ của kẻ vừa đặt chén cơm xuống. Nó liếc mắt, dè chừng, mỗi bước chân dấn tới là mắt lại lấc láo nhìn quanh quất. Nó đang kiếm đường, phòng trường hợp bất trắc thì có thể chạy, hay nó sĩ diện, không thèm ăn cơm kẻ lạ cho? Chẳng biết được nó đang nghĩ gì. Chỉ cần biết, bước chân của nó càng tiến lại gần thì cầm chắc thắng lợi trong trò chơi một chọi một đã thuộc về hắn.

Hắn không rời mắt khỏi con chó giây nào, nhưng cũng không muốn làm nó sợ hãi ánh mắt hắn. Hắn đứng dạng chân, che kín cái cửa bé xíu, không cho con Đen đang gầm ghè có thể thoát ra ngoài. Độ vài phút, con chó đã tiến sát tới chén cơm, nhè nhẹ đưa lưỡi liếm láp chỗ thịt, xương cá trong chén.

Hắn vội vàng quay mặt vô trong, thì thào, chỉ sợ to giọng, con chó sẽ giật mình bỏ chạy.

- Mày ra đây coi nè! Mặt nó giống mặt người lắm.

Nghe giọng giục giã của hắn, gã uể oải nhấc mình, bước ba bước tới chỗ hắn đứng. Hắn hất ánh mắt về phía con chó, ý muốn nói, giống ghê chưa. Gã đứng thu lu, nhìn con chó đang vục mặt ăn cơm, thi thoảng lại ngước lên nhìn ba kẻ - hắn, gã và con chó tên Đen đang nhe nanh, chực nhảy phụt ra cắn ngay vào cổ con vật đang cướp mất phần cơm của nó.

Gã nhìn con chó bằng cái nhìn uể oải, lớt phớt. Một con chó ốm nhách, bốn chân cao lỏng khỏng, trơ xương, hình như là giống lai giữa chó Nhật và chó Cỏ - một sản phẩm đáng buồn cười, với khuôn mặt già nua trước tuổi. Lông lá phủ kín mặt, chỉ chừa hai con mắt. Mỗi lần gió thổi là lông trên mặt, dưới mép lưa thưa theo gió quật qua quật lại, dính vô cái miệng đang nhồm nhoàm táp cơm của nó. Bẩn và xấu. Đó là kết luận chính xác nhất sau khi gã đã quan sát nó mấy chục giây.

- Ờ!

Gã ừ hử vô nghĩa. Lẽ ra gã định nói, chó mà giống mặt người. Thằng này so sánh kỳ thiệt. Bộ mày thấy người nào mặt phủ đầy lông lá rồi hả? Nhưng gã lười, lời đó chỉ nhủ thầm trong miệng. Gã không muốn phát ra tiếng nhận xét đó. Mất công lại nghe hắn gạn hỏi, rồi lý giải cho cái sự “giống người” của con chó.

Gã chỉ muốn chui về cái ổ của mình càng nhanh càng tốt. Phần cuối của cuốn Sự va chạm của các nền văn minh đang chờ gã. Đọc một quyển sách hấp dẫn tốt hơn là quan sát một con chó nhếch nhác, xấu xí. Tại sao hắn lại không nghiệm ra điều đó nhỉ? Gã nhủ thầm. Tại sao lại tốn thời giờ vào con vật kia?

Gã lếch thếch kéo chân ba bước về ổ, nằm ệch xuống, dán mắt vào cuốn sách.

- Mày không tin à? Nó giống người lắm. Rất giống mặt của một đứa trẻ nghèo nhếch nhác, già nua vì đói rách nhưng có tâm hồn ngây thơ. Mày nhìn ánh mắt nó kìa. Thật là trong trẻo, thơ ngây, đúng không? Hai lần trước, tao đã thấy nó mon men tới gần con Đen. Có lẽ nó không có bạn. Nó ngoắc ngoắc cái đuôi, nhìn con Đen với vẻ thèm thuồng, muốn kết bạn. Lúc đó, trong đầu tao đã bật ra ngay sự liên tưởng về một đứa trẻ nghèo ngày ngày đứng lấp ló trước cánh cổng đóng kín, đợi mấy đứa nhà giàu có nhiều đồ chơi rủ vô chơi chung. Giống lắm mày ơi!

Giọng hắn lạc đi, tựa như đang khóc.

- Ờ!

Gã chậm chạp kết nối âm thanh của hắn lại thành chuỗi câu có nghĩa. Sau khi mớ âm thanh có nghĩa chui tọt vô đầu gã, gã muốn bật ra câu nói thật mai mỉa rằng, mày nghĩ con Đen là một con chó nhà giàu à? Nó giống một đứa trẻ giàu có sao?  Rồi sau đó, gã sẽ phá lên cười, nhắc lại hoàn cảnh thực tế lúc này của hắn và gã. Cần phải lôi hắn ra khỏi mớ ảo tưởng kinh khủng đó. Song gã lại thôi.

Cứ để cho hắn ảo tưởng về cuộc sống của hắn, của con chó. Chẳng nên dội nước lã vào gáy kẻ đang say cơn mơ mộng. À, chí ít ra, trên phương diện nào đó, con Đen cũng có thể được so sánh với một đứa trẻ nhà giàu. Nó có bộ lông đen nhánh, sạch sẽ, bóng mượt như một con hải cẩu đẫm nước, trơn nhẫy. Hắn tắm cho nó mỗi ngày một lần bằng bánh xà phòng của hắn, thủ thỉ bắt rận cho nó, cho nó ăn chung phần thức ăn ít ỏi trong hộp cơm của hắn. Ngoài ra, con Đen cũng có một khúc xương bằng cao su dậy mùi, thỉnh thoảng buổi trưa nóng hừng hực, chẳng ngủ được, nó lại thè cái lưỡi nhễu nhão nước ra phết đều lên khúc xương đã đổi màu đó.

Con Đen vẫn mang theo cái tính cáu bẳn, khinh khỉnh, kén ăn từ thời còn ở trong một căn hộ sang trọng với chủ là ả gái bao quen sống đời phù hoa, giàu có, nuôi chó theo kiểu cách bà mệnh phụ phu nhân hiếm con. Nó quên mất nó đã bị bắt trộm đến đây bởi một kẻ đa tình nghèo kiết xác, chưa bao giờ đủ tiền mua nổi bó hoa tươi thắm tặng người mình thầm yêu, song luôn muốn được ôm ấp mãi làn hương của kẻ mình yêu, nên hắn đã chọn cách bắt trộm con chó, để ngày ngày được ôm ấp làn hương của người đàn bà đó.

Con vật đã quên rằng mình đang bị nhét vào cuộc sống ngày hai chén cơm, ngủ trên tấm giẻ rách nát. Không còn thức ăn đóng hộp. Không còn chiếc đệm ấm êm, trắng muốt. Không còn bàn tay nõn nà, móng lấp lánh kim tuyến ve vuốt mỗi ngày.

Có lẽ, hắn đã đúng khi so sánh con Đen như vậy? Hoặc có thể hắn đã quên rằng hắn và gã đang chui rúc trong một cái container sơn màu đỏ choét nằm giữa đám container han gỉ xếp chồng lên nhau khác?

- Mày không tin nó có khuôn mặt giống người à? Mày đã thấy người mang khuôn mặt chó chưa? Tao đã thấy rồi. Một kẻ chuyên làm nghề bắt trộm chó, giết chó, khi hắn bị bệnh, nằm chờ chết, khuôn mặt hắn ta giống hệt khuôn mặt một con chó. Hắn tru lên từng hồi dài, thê lương như mấy con chó từng nhìn hắn van lơn. Mặt người còn giống chó được thì sao mặt chó lại không giống người chứ? Đúng không?

- Ờ!

Gã lại ờ trước mớ âm thanh tràng giang đại hải của bạn. Ờ là thói quen của gã. Một ngày, nếu chuyên tâm (và không bị bất cứ tiếng động nào lấn át đi), sẽ đếm được khoảng năm tiếng ờ của gã. Ngoài ra không có thêm bất cứ lời nào nữa.

Từ ngày chuyển đến chỗ này thì gã đâm ra lười nói. Tiếng nói đã bị gã tháo nút, xả ra ngoài cho kỳ sạch. Ờ, ờ và ờ!  Ờ xong và quên ngay tức khắc.

Như lúc này, gã đã tuyệt nhiên quên đi lời hắn vừa nói, quên luôn câu chuyện về con chó. Sự va chạm giữa các nền văn minh đang cuốn hút gã, choán hết suy nghĩ của gã. Từ ngày đến đây, gã say sưa với thói quen mới. Đọc sách. Số sách góp nhặt trong rương gã đã đọc đi đọc lại đến lần thứ 6, thứ 7.

Gã giống một con dế trũi, đang gắng đào cái hang sâu trong lớp chữ, chui xuống đó, ẩn náu hòng quên đi thực tế khắc nghiệt của mình. Những ngày mưa không có việc làm, những buổi chiều mùa hè nóng nực, mặt trời hắt từng xẻng lửa cuối cùng xuống đất, nằm trong cái ổ của mình, gã đọc từng cuốn sách này đến sách khác, rúc sâu im lìm trong tấm chăn dệt bằng chữ.

Gã biết, nếu không có những quyển sách, gã sẽ phát điên. Những thành phố rộng lớn, xa xôi, những cánh đồng, bình nguyên bao la, vùng khí hậu mát mẻ, mùi rượu ám trong câu chữ sẽ giúp gã nhanh chóng quên đi cuộc sống chui rúc như loài chuột trong một chiếc container hình chữ nhật sơn màu đỏ choét, nồng nực, lộp độp, ồn ã tiếng mưa, tiếng gió, mùi của thức ăn vừa để đã bốc thiu, mùi của những cơ thể nhầy nhụa mồ hôi, dơ bẩn, lâu ngày thiếu nước tắm. Và mùi của giấc mơ bị đè bẹp, bóp kiệt nước, trở nên chua loét.

***

Gã có một giấc mơ. Nó đã bốc mùi chua loét từ cách đây mấy năm, từ khi gã thôi học giữa chừng, cắm mặt cắm mũi xách từng xô hồ, leo giàn giáo, cuối ngày vác tấm thân nhoe nhoét, loang lổ màu vôi, màu sơn về nhà, vì tay chủ thầu sợ tốn xăng, chỉ phát cho mỗi người một ly xăng bé xíu, không đủ rửa sạch một bàn tay chứ nói gì tới cả hai tay, hai chân, mặt mũi, cổ đầy sơn.

Gã cũng chưa từng nghĩ gã sẽ sống ngày này qua tháng khác trong một cái container, gọi nó là nhà. Mấy năm sống ở thành phố này, gã từng chui rúc trong những căn phòng cho thuê nóng nực, hôi hám mùi nước cống, mùi phân chuột, chen chúc mười mấy gã đàn ông nằm xếp lớp như cá mòi, song ở trong một cái container thì gã chưa bao giờ nghĩ đến. Nhưng đó là sự thực gã đang trải nghiệm.

Gã cần phải lao đầu vào làm việc, phải tiết kiệm mọi thứ chi tiêu, chỗ ở, tiền điện, nước, tiền di chuyển. Bãi container người ta tạm thời bỏ hoang này là lựa chọn đáng được gọi là của hời mà đám công nhân làm chung công trình với gã đã tìm thấy.

Đôi khi trong những giấc mơ mệt nhoài, gã đã mơ thấy cơn bão ùa qua, những chiếc hộp đỏ choét hóa thành những bao diêm tí hon, lăn lóc, va đập, đè bẹp dí mớ người nằm trong đó, có cả hắn và gã.

***

Gã đã quên con chó rồi.

Nhưng hắn, hắn không quên.

Ấn tượng ban đầu về một con chó có khuôn mặt giống người vẫn nằm sâu trong hắn, nhói lên mỗi ngày. Thi thoảng trong đầu hắn mọc lên một sự liên tưởng rất kỳ dị, rằng con chó mang khuôn mặt giống hắn. Thật giống hắn. Giống hắn thuở năm, sáu tuổi hoặc giống hắn thuở bảy, tám, chín tuổi gì đó. Hắn thấy lại bầu trời tuổi thơ mình trong đôi mắt tròn vo, thơ ngây của con chó. Hắn thấy lại khuôn mặt đen đúa, già nua với ánh mắt thèm thuồng của mình khi nhìn khuôn mặt con chó.

Hắn đã sống những năm tháng ấu thơ với nỗi thèm thuồng bất tận. Thèm một cái ôm của ai đó, thèm chiếc lồng đèn mùa trung thu, chiếc áo mới ngày khai trường, thèm ai đó đến bên cạnh hắn, vỗ vai nói câu gì đó, thèm có những đứa trẻ gọi là bạn... Đến tận bây giờ, hắn vẫn thấy mình đang trôi trên dòng sông được hợp thành bởi những thèm thuồng nhỏ nhoi.

Hắn đặt phần cơm cho nó vào mỗi tối, sẵn sàng đánh con Đen nếu nó tỏ ý gầm ghè, đe dọa con chó mới đến. (Hắn không ngờ mình lại có thể đánh con chó mang theo trên mình hương thơm của người hắn yêu, dù ít nhiều mùi hương ấy đã phai nhạt đi từng ngày, bị thứ mùi hỗn độn nơi đây lấn át đi từng giờ).

Đều đặn, mỗi chạng vạng, con chó ghé đến, ăn phần cơm hắn dành cho nó và lân la đến bên cạnh con Đen, khịt khịt mũi tỏ ý thân thiện, nhè lúc con Đen không để ý sẽ đưa lưỡi liếm bộ lông bóng mượt của nó, cho đến khi bị con Đen nhe răng đuổi đánh thì nó sẽ bỏ chạy, mất hút vào trong bóng đêm, giữa đám cỏ úa vàng cao ngút.

***

Một lần, hắn đi theo sau nó. Hắn muốn biết nó từ đâu tới. Hắn quyết phải tìm ra câu trả lời, dù phải theo bước chân lắt léo của con chó trong bóng đêm.

Con chó cứ chạy, càng lúc càng chạy nhanh hơn, làm hắn phải đuổi theo một quãng dài. Cuối cùng nó dừng lại, chui tọt vào một chiếc hộp - một cái container cũ, han gỉ nằm trơ trọi trong bãi cỏ phía xa, khuất giữa đám cây cao. Ngày mới đến đây, hắn đã nhìn thấy chiếc container lấp lánh đủ thứ giấy ni-lông, áo mưa trên nóc. Nhưng khi đó, hắn đã không liên tưởng đến sự hiện diện của con người trong cái container này. Vì vậy, hắn thấy ngạc nhiên khi lúc này, từ bên trong container hắt ra luồng sáng vàng vọt, nhỏ xíu chập chờn lay động.

Hắn nán lại, cố gắng chờ một khuôn mặt nào đó từ bên trong bước ra. Quả nhiên, chừng nửa giờ đồng hồ sau khi hắn ngồi đồng chịu muỗi cắn thì một bóng người chậm chạp đi giữa luồng sáng ấy. Một ông già lọm khọm dần dần bước từng bước ra ngoài. Ông già ngồi trên đụn đất cao trước “nhà”, hút thuốc. Con chó túc tắc, mừng rỡ quẩn quanh bên chân. Ông già vuốt bộ lông của nó, áp mặt vào mặt nó, tháo một chiếc dép nơi chân, vứt ra xa.

- Lu! Lượm chiếc dép lại đây cho ba, Lu!

Con chó bắng nhắng chạy theo chiếc dép, ngoạm vào miệng mang về cho ông già. Vứt. Ngoạm lấy. Mang về. Vứt. Ngoạm lấy. Mang về. Trò chơi giữa chó và người lặp đi lặp lại trong nhàm chán như vậy.

Hắn nhìn con chó và ông già trong trò chơi với chiếc dép đến lần thứ 9 thì đứng dậy, bước theo hướng quay về chỗ của mình. Hắn chưa bước được hai bước chân đã giật mình vì giọng nói ồm ồm của ông già đang hướng về phía hắn.

- Ai đó?

Ông già hỏi. Giọng nói khiến hắn không thể chối từ câu trả lời. Hắn chậm chạp tiến về phía ông già và con chó, giọng run run vô cớ.

- Tôi ở bên kia! Con chó của ông hay qua bên tôi ăn cơm. Tôi muốn coi thử ai là chủ nó.

Hắn vừa nói vừa chỉ tay về phía bãi container, hy vọng động tác này sẽ minh chứng với ông già rằng hắn không nói dối, không có ý đồ xấu. Tuy nhiên, hình như ông già không nhìn theo hướng tay hắn chỉ, không quan tâm hắn là ai, từ đâu tới. Ông nói trống không.

- Nó tên Lu. Chó của tui.

Ông già lại nhặt chiếc dép, ném về phía trước.

Bỗng nhiên, hắn bước tới, ngồi trên đụn đất, cạnh chỗ ông già. Hắn tháo chiếc dép trong chân mình, ném về phía trước. Hắn và ông già cùng im lặng tuyệt đối với trò ném dép đó. Chỉ có bóng con Lu chuyển động, thoăn thoắt chạy, thở hồng hộc giữa hai chiếc dép được ném ra.

Đêm ấy, dưới ánh sáng bàng bạc im lặng của ánh trăng, giữa làn khói thuốc ken dày trắng xóa, hắn đã len lén nhìn khuôn mặt ông già lạ lùng. 

***

- Con chó có khuôn mặt giống chủ nó. Mày tin không?

Rất giống.

Hắn đưa ra nhận xét đó sau khi đã quan sát khá kỹ ông già. Không phải quan sát trong đêm trăng đầu tiên gặp gỡ mà trong những đêm sau, dưới ánh đèn chập chờn.

Sau đêm hội ngộ đầu tiên ấy, con chó bỗng dưng trở thành sợi dây liên kết hắn và ông già. Đêm nào hắn cũng đến, mang theo chai rượu, đĩa xoài, con mực khô, đến ngồi bên ông già. Hai cái bóng im lặng ngồi bên nhau, hết nâng ly, lại đặt ly xuống. Thi thoảng con chó nhìn ra màn đêm ủng oẳng sủa mấy tiếng khuấy loãng chút ít bầu không gian cô đặc. Khi đó, ông già chìa cho con chó cái râu mực, con cá rô, vỗ vỗ đầu nó, ngụ ý muốn nó im lặng.

Những đêm ngồi bên ông già, chờ mưa mùa hè tan, hắn len lén nhìn ông già. Ông già tựa một lão phù thủy đầy quyền năng đang ẩn nấp trong thế giới của riêng mình. Thế giới với bức tranh không tên treo xộc xệch, mẩu kính lúp, sừng hươu, lốp xe, lon sữa bò làm nồi nấu cơm, lỉnh kỉnh vỏ lon sáng loáng treo trên trần, leng keng mỗi khi gió gõ vào. Hắn đoán ông già sống bằng nghề nhặt rác, hoặc có sở thích đặc biệt về mấy thứ vặt vãnh trong đống rác, nhưng hắn không hỏi.

Thỉnh thoảng, ông già đi liền mấy ngày trời không thấy về nhà. Con chó lăng quăng chạy tới chạy lui, bụng lép kẹp. Cái đói làm nó trở nên dạn dĩ hơn. Nó quấn lấy hắn, lon ton chạy theo hắn khi hắn bưng chén cơm cho nó. Ăn no, nó chơi cùng

với con Đen, mặc dù thường xuyên bị con chó cáu bẳn kia gầm ghè, cắn tróc lở cả lông, chảy cả máu mặt. Hắn đứng từ một góc, quan sát hai con vật, vẫn bắt gặp ánh mắt thèm thuồng đậu trên khuôn mặt rất giống người của con chó.

- Bây giờ, tao biết con chó mang ánh mắt thèm thuồng của chủ nó. Tao không biết ổng thèm gì, nhưng tao có cảm giác ổng đang thèm khát điều gì đó mà chưa bao giờ được lấp đầy, chưa bao giờ được thỏa mãn dù một chút.

Hắn vừa nói, vừa vung mấy nhát cọ. Thường, mỗi buổi tối khi gã đọc sách thì hắn vẽ. Một ít sơn còn thừa trong lọ hắn lấy từ chỗ làm về, một tấm áo bảo hộ lao động màu xanh da trời, hay bất cứ mảnh vải nào đó hắn tìm được đủ để duy trì niềm đam mê vẽ vời của hắn, đủ để phết ánh sáng le lói lên ước mơ trở thành sinh viên trường mỹ thuật đã bị bóng tối cuộc đời vùi sâu.

Đêm nay, hắn đưa những nét cọ vẽ chồng từng nét rối rắm, chùm nhịt lên nhau. Mùi sơn, mùi xăng pha ám nồng nặc. Đến khuya, bức vẽ hoàn thành. Hắn vẽ ngôi nhà của ông già lạ kỳ. Bức tranh của hắn không có sự hiện diện của ông già, chỉ có con chó ngồi trên đụn đất, mắt nhìn đi xa xăm. Hắn nghĩ, chỉ cần như vậy đã là đủ đầy. Còn đủ cho cái gì thì hắn không rõ.

***

Hơn một tuần liền, container của ông già không sáng đèn lần nào. Đứng từ chỗ hắn, nhìn ra chỉ thấy bầu trời đen hun hút, tiếng con Lu sủa từ bên phía đó ăng ẳng đầy thê lương.

- Ông già vẫn chưa về! Đi đâu vậy ta?

Hắn nằm xuống đất lạnh, đếm sao trên trời.

Đôi khi, sự lãng mạn ít ỏi còn lại trong hắn khiến hắn muốn làm một bài thơ, hoặc vẽ một bức tranh. Như đêm nay, hắn muốn vẽ một bức tranh mà không dùng đến cọ, đến sơn, đến vải. Hắn nhúng từng nét cọ ý nghĩ lên bầu trời đen thẳm, vẽ từng cái container một. Hắn xuyên qua từng chiếc hộp, vẽ đầy đủ những mặt người, từ đen đủi, già nua đến vằn vện hình xăm, những khuôn mặt mười sáu, mười bảy tuổi trẻ măng... Rồi đến cái container nằm trơ trụi một góc của ông già. Nó không mang màu đỏ. Nó trong suốt, không có màu gì, nên hắn dễ dàng xuyên thấu bên trong.

Hắn thấy ông già nằm trên miếng đệm của ông, bất động. Mặt mũi nhợt nhạt, mắt khép kín, tựa như chết. Hắn dùng nét cọ, gắng tô màu da người hồng hào lên khuôn mặt ông già nhưng vừa tô xong nó đã lại sáp xám, tái mét.

Hắn dùng nét cọ, lay lay ông già, xóa đi đôi mắt khép kín, vẽ đôi mắt đang mở tròn to, mỉm cười. Song cũng như trước đó, vừa vẽ xong đôi mắt mở nó đã vội khép lại. Xa xa, tiếng con chó vọng đến làm hắn giật mình, chuồi ra khỏi bức tranh dang dở.

- Ông già!

Hắn chỉ thốt được đúng hai tiếng đó rồi nháo nhào bật dậy, chạy nhanh về phía tiếng chó sủa. Gã giật mình theo phản xạ, vội vàng chạy theo. Tiếng con chó sủa trong hoảng loạn mỗi lúc một gần.

***

Buổi sáng đó, trong bệnh viện, khi tỉnh khỏi cơn mê, ông già nắm lấy tay hắn, nói nhiều như chưa bao giờ được nói, gọi hắn là bạn hiền theo kiểu cách của mấy bộ phim kiếm hiệp, kể tràng dài về cuộc đời lênh đênh phiêu bạt của ông, kể ông đã thèm nói, thèm bạn tới mức nào. Ông già cứ nói, nói trong mê man, rối rắm, nói những câu không mang bất cứ lớp nghĩa nào. Hắn và gã ngồi bên ông già, lắng nghe nắm âm thanh rời rạc, nắm lấy bàn tay đang lạnh dần, lạnh dần.

***

- Mày tin không, con chó có cái mặt giống người lắm.

Gã và hắn ngồi trên đụn đất. Mưa bụi lất phất trên đầu. Giọng gã ngắc ngứ, khô khốc. Lâu rồi gã mới nói, mà lại nói một câu chẳng có nghĩa gì.

- Tao đã nói với mày rồi mà, sao mày không tin?

Hắn tháo cả hai chiếc dép trong chân, vứt về phía trước theo thói quen.

- Bây giờ thì tao tin rồi. Khi dắt hai con chó tới trước cái cũi của tay mua chó, tao đã thấy con Lu khóc. Lần đầu tiên tao nhìn vào mắt con Lu. Ánh mắt nó chứa đầy nỗi thèm thuồng mày à! Mày đã nói đúng.

- Chắc lúc đó, nó biết nó sắp chết. Nó thèm được ông già ôm nó lần cuối đó.

- Ờ! Chắc vậy. Làm sao nó biết ông già đang nằm trong bệnh viện chờ chết, rồi làm sao nó biết, tụi mình bán nó và con Đen hòng có thêm chút tiền thang thuốc cứu ổng, đúng không mày. Nếu biết vậy, nó có trách mình không?

Không nghe thấy tiếng trả lời. Sau đó là quãng im lặng kéo dài tới sáng.

Bốn chiếc dép nằm chỏng chơ im lìm trên cỏ. Tiếng chó sủa từ đâu đó rất xa vang lại.

Cũng có thể chỉ là ảo giác...

Truyện ngắn : "Lão Đàm"

Lão Đàm

 Lão ngồi đăm chiêu trên tấm phản đầu hè. Những ngày cuối tháng thật tệ, bởi lẽ trong cuộc sống hai điều đáng sợ nhất là nghèo đói và bệnh tật thì lão có cả hai.

- Lại thêm một ngày nữa rồi… - Lão lắc đầu cứ như thể thời gian là một thứ gì đó đáng ghét lắm. Cũng phải! Lão đã bảy mươi hai tuổi rồi còn gì, cái tuổi mà đáng lý ra người ta được các con phụng dưỡng ngày ngày. Nhưng không, lão phải tự bươn chải kiếm miếng cơm, manh áo chật vật giữa cuộc sống đời thường tủn mủn. Sự cô đơn, lầm lũi trong căn nhà lụp xụp cuối phố khiến lão thu mình hơn với nhịp sống bên ngoài. Với lão, cái cảm giác bình yên của căn nhà chỉ cần hé cánh cửa ra là tan biến, ngoài đường phố, người ta như lao mình vào cái hối hả của đồng tiền.

 Lão lúi húi lấy cái hộp “đồ nghề” của mình để chuẩn bị dong duổi mọi ngóc ngách của phố phường. Thành phố của lão nhỏ lắm, nhưng mỗi lần đi làm, lão cảm giác rộng và xa thấy lạ. Có lẽ bởi một ngày lão phải đi đến mòn đôi chân, bảy tám lần quanh thành phố, cũng có lẽ bởi chặng đường đời lão sẽ đi qua là xa xăm, vô tận.

- Haiz…z..z… Lão thở dài ngao ngán. Cái nghề mài dao kéo kể cũng bạc, mà có khi nói đến nghề này, nhiều người còn thấy lạ, hỏi : “Đó cũng gọi là một nghề sao?”. Lão lại lắc đầu. Lão như kẻ lạc lõng trong xã hội vậy, cứ dừng lại với những gì của quá khứ trong khi ngoài kia, xã hội đang lao vào cuộc chiến không có hồi kết, để rồi “chiến lợi phẩm” họ thu được là những xa hoa, xa xỉ của cuộc sống hiện đại.

 Lão khóa cửa lại rồi đeo cái hộp gỗ đựng đồ mài dao kéo lên vai, cái hộp mà lão đóng y chang hộp của mấy thằng bé đánh giày ở công viên. Lão quay lại và ngắm nghía căn nhà của mình. Nó có được gọi là nhà không nhỉ? Hay chỉ là túp lều giữa góc khuất của thành phố. Không sao! Với lão, nó đẹp. Trước cửa lão còn trồng một cây cau và giàn trầu nhỏ, thứ mà có đi cả thành phố này cũng chẳng nhà ai trồng. Lão thích cái gì đó của quá khứ…

 Nắng lên cao lắm. Đường phố cũng tấp nập dần. Dãy phố lão đi trồng toàn những cây trứng cá. Mùa này trứng cá nở hoa trắng đẹp lắm. Lão cúi xuống nhặt một bông hoa rơi trên hè phố, vừa đi vừa ngắm nhìn. Cánh hoa trắng nhỏ xíu nhưng lại đẹp đến lạ. Mỗi lần đi làm về lão đều hái một cành nho nhỏ, có thể lão thích nó, cũng có thể nó gắn với một kỷ niệm thời trai trẻ,  một thuở yêu đương với những mơ mộng thời xa xưa. Bây giờ có ngồi nói với lũ trẻ về ngày ấy, cái ngày mà lần đầu tiên lão biết cầm tay người con gái lão thương, chắc chúng nó sẽ cười và nói : “Lão già sến quá!”.

 Nghĩ vẩn vơ có một lát mà lão như lạc ra khỏi dòng người trên phố. Lão chép miệng một cái rồi đi tiếp. Cái nghề của lão như bị xã hội bỏ quên. Cuộc sống khấm khá hơn thời bao cấp, không còn cái cảnh chen chúc nhau đợi đổi tem, phiếu để lấy từng nhúm gạo. So với ngày ấy, lão đỡ khổ hơn, nhưng so với bây giờ, lão tự nhận thấy mình chỉ còn thua đám người bơ vơ, không nơi nương tựa. Lão có nhà, nhưng là một căn nhà nhỏ xíu, không vợ, không con. Tất cả những thứ đó khiến đêm về, lão thành kẻ cô đơn nhất. Cái nghề của lão, dăm chục năm trước còn thấy người ta thuê, bây giờ cuộc sống khá hơn, dao kéo mòn một tẹo, người ta vứt đi chứ ai còn gọi lão vào mà mài mài, giũa giũa. Nhưng với cái tuổi này, lão còn làm được gì nữa?

 - Lão Đàm! – Tiếng gọi lớn từ một con ngách nhỏ. Một người đàn bà chạc bốn mươi, trông có vẻ giàu có đang vẫy tay ra hiệu cho lão đi về phía mình. – Lão vào mài giúp tôi cái kéo.

 Lão đi theo hướng người đàn bà đó. Quả thực căn nhà lộng lẫy. Thườngthì những người gọi lão vào thuộc những nhà làm ăn, buôn bán bình thường. Có ainghĩ rằng một nhà giàu có như thế lại đi mài để dùng tiếp một chiếc kéo. Vừa bước vào cửa, cái gì đó mát lạnh khác hẳn so với thời tiết bên ngoài. Ồ, thì ra vợ chồng nhà này lắp điều hòa cả phòng khách chứ không riêng gì phòng ngủ. Căn nhà rộng thênh thang,có một bức tượng cổ lớn đặt bên trái lối vào, chắc là đắt tiền lắm, bên phải là một hồ cá nhỏ xíu với những phiến đá màu mè rực rỡ. “Hồ cá trong nhà uh?”, lão cười và thích cái kiến trúc của căn nhà này. Lão ngắm vòng quanh căn nhà,mọi thứ đầy đủgiống như một khách sạn mà lão đã thấy trên ti vi. Có lẽ họ làm ăn gì ghê gớm lắm. Độc mỗi hai vợ chồng trong một căn nhà lớn ấy.

Mày không biết đường lau nhà đi mà còn ngó ngó cái gì? – Người đànbà ban nãyghê gớm hệt như những gì chị ta thể hiện qua nét mặt.

Con vừa lau hồi sáng rồi mà cô. –Đứa con gái giúp việc độ mười tám, đôi mươi khép nép thưa.

Gì thế em? Sao lúc nào em cũng làm cho căn nhà này ồn ào lên vậy? – Người chồng giọng ấm áp hơn vừa nói vừa mặc áo bước xuống từ trên tầng hai. – Em gọi lão Đàm chưa?

Kia kìa. – Người đàn bà đá mắt ra hiệu cho chồng về phía lão. Lão ngồi gọn lỏn một góccạnhlối vào mà không dám ngồi lên bộ ghế sa lông đắt tiền.

Lão ngồi lên ghế đi, đừng ngại. – Người chồng rót nước mời lão.

Thôi, anh chị đưa kéo tôi mài cho, rồi tôi xin phép tôi lui. Tôi còn phải vòng qua mấy phố nữa, không thể ngồi đây được.

Thế lão đi cả ngày được bao tiền?

Haiz... – Lão thở dài. – Hôm nào kiếm được thì hai mươi ngàn, hôm nào không thì lại về.

Vậy lão ở đây. Tôi trả lão năm mươi ngàn. – Người chồng đáp rồi rút năm mươi ngàn mới cứng đặt vào tay lão. – Lão đừng ngại, cầm đi.

 Lão tròn mắt. Lão chưa làm gì mà được người ta đưa nhiều tiền như thế, lão thấy lạ.

Anh đưa tôi nhiều thế này, làm sao tôi dám nhận?

Lão cứ nhận đi, lão sẽ phải mài nhiều đấy. Tôi chưa biết cho tiền ai mà không xứng với công người ta bỏ ra đâu.

 Nghe câu đó xong, lão yên lòng, lão cầm lấy tiền và cầm lấy cái kéo người đàn ông kia đưa. Không có gì khác những cái kéo bình thường, thậm chí nó còn cũ kĩ đến mức có thể vứt đi được.

Lão thấy lạ hả? – Người chồng không ngần ngại ngồi ngay dưới đất  cùnglão. – Lão có tin tôi đã từng cắt tóc dạo ngoài hè phố không? – (Có vẻ như anh ta muốn tâm sự), giọng người đàn ông trũng xuống.

Lúc nào cũng thế, kỉ niệm, kỉ nèo. Anh vứt nó đi được rồi đấy. – Chị vợ  ngắt lời chồng, vừa nói vừa mở cánh cửa, bước tới chiếc xe hơi đắt tiền, nơi mà anh lái xe riêng đã đợi sẵn.

Thế đấy! – Người chồng thở dài. – Tính cách của cô ấy vốn dĩ không như thế. Là do tôi, tôi chẳng làm tròn được trách nhiệm của người chồng, tôi không thể cho cô ấy một đứa con. – Giọng anh ta nghẹn lại, lão thôi mài kéo, hướng mắt nhìn. Chẳng hiểu sao anh ta lại tâm sự hết những điều đó cho lão nghe. Anh nói tiếp. – Ngày xưa tôi chỉ là một thằng cắt tóc dạo, kiếm miếng cơm, manh áo cũng chật vật như lão bây giờ. Có được như ngày hôm nay, tôi không bao giờ quên quá khứ. Giữa lòng thành phố, tôi không tìm được ai ngoài lão để tâm sự. Bởi với cái nhịp sống hối hả này, ngoài tiền, họ chẳng còn nhớ đến tình nghĩa hay một thứ gì khác đại loại như thế. Tôi gọi cái kéo là “cố nhân”.

 Lão bỗng lặng đi. Cả ngày hôm ấy lão ngồi tâm sự với người đàn ông đó. Không phải chiến hữu cùng thời, nhưng họ tìm được ở nhau điều gì đó với những chén rượu trắng bình dị để ngồi đến chiều tà. Thỉnh thoảng khoái trí họ lại vỗ đùi cười khanh khách.

...........

 Trời về khuya, đèn trên phố mờ dần. Lão tỉnh tự bao giờ, ánh mắt xa xăm qua khung cửa sổ. Mấy chén rượu này chưa ăn thua gì với lão. Bỗng, lão trở dậy, mở cửa ngồi hút thuốc lào. Lão rít thật sâu để làn khói thuốc vừa nồng vừa đắng luồn sâu từng cuống họng. Lão thích vị đắng và cũng quen với vị đắng. Rồi lão đẩy khói thuốc ra cảm giác trong người sảng khoái hẳn. Lão mơ màng nghĩ về quá khứ, cái thời mà lão theo đuổi cô giáo dạy văn với những bức thư tình còn sai lỗi chính tả, những buổi chiều tà cùng dạo mát dưới hàng cây trứng cá. Và rồi...đó là người con gái đầu tiên, cũng là cuối cùng trong cuộc đời lão. Lão hướng mắt lên bàn thờ, nhìn đăm đăm vào bức ảnh người con gái trẻ. Cái thuở ấy vụng dại mà nên thơ. Lão từng đau đớn muốn chết đi khi nghe tin người mình yêu thương nhất ra đi vĩnh viễn trên chuyến xe xấu số ấy. Từ đó lão thu mình lại, lầm lũi.

 - Gần năm mươi năm rồi còn gì. – Lão tự nói với mình như thế. Hôm nay lão vui lắm. Vui không phải vì lão kiếm được nhiều tiền, mà vui vì lão biết, giữa bộn bề cuộc sống, lão không cô đơn...

Lão Đần (truyện ngắn)

Chẳng biết từ bao giờ người ta gọi lão là lão Đần, đến nỗi từ già trẻ, lớn bé trong làng chẳng ai còn nhớ tên thật của lão nữa. Nhà lão nghèo lắm. Nghèo nhất làng. Một mái nhà tranh lụp xụp, thấp lè tè, mái lợp bằng rạ, lâu rồi đã mục nát cả, thủng lỗ chỗ. Vách đất nứt toang hoác như miếng da phải bỏng.

Ngôi nhà nhỏ nằm lọt thỏm giữa cái xóm Trại ngoằn ngoèo, khuất góc cuối làng, bên cạnh một cái ao tù nước đọng. Chết nỗi, chiếc ao tù không thoát được nước nên những ngày mưa, nước dâng lên rất nhanh, ngập cả nền nhà. Vợ chồng lão lại phải sang ở nhờ nhà tôi. Phải mất cả tuần, nước rút đi, nền đất cứng lại mới có thể ở được. Mà có lẽ lão đần thật. Bao nhiêu đất ngoài ruộng, người ta đua nhau chở về vượt nền cao lên. Bùn ao xung quanh rất nhiều, tha hồ mà xúc. Nhưng lão cứ như người sống trên mây, bảo đó là những thứ của làng. Lão đến nhà ông trưởng thôn xin nhưng trưởng thôn không đồng ý. Thế là lão không làm. Nền nhà lão lâu dần rồi cũng thành cái ao so với những nền nhà xung quanh.

Lão sống bằng nghề cửu vạn, nay đây mai đó, chủ yếu là vác đất, xúc bùn thuê để kiêm sống. Hơn sáu mươi tuổi đời nhưng lão đã có thâm niên trong nghề vác đất đến gần năm mươi năm. Vai vác hòn đất nặng khoảng năm, sáu mươi cân mà chân lão cứ đi phăm phăm, làm cả ngày không biết mệt. Các ông chủ rất thích lão vì lão làm khoẻ nhưng ít nói. Hơn nữa, lúc tính tiền công, có trừ đầu trừ đuôi với những khoản linh tinh không có thực, thậm chí có cố tình tính nhầm, tính ít đi, lão có biết cũng chỉ phản ứng bằng cách hỏi lại cho rõ rồi thôi chứ chẳng bao giờ thấy lão đòi lại. Có lẽ vì thế mà lão làm quần quật cả đời cũng chỉ đủ gạo để đổ vào miệng và mua được mấy manh áo mặc cho ấm thân. Lão cũng chỉ mong có việc để được đi làm, đỡ phải ăn cơm ở nhà, mấy sào ruộng cấy ở quê còn dành dụm mà tích luỹ. Cũng may, lão chẳng ốm đau bao giờ nên chẳng phải vay mượn ai.

Lão đi bộ giỏi nhất thiên hạ. Đi đâu lão cũng chỉ đi bộ vì không biết đi xe đạp. Ai chở trên xe máy thì phải đi thật chậm, chứ đi nhanh là lão chóng mặt đòi xuống. Lão sợ. Cả đời có mấy khi được ngồi xe máy bao giờ! Ô tô khách thì có lẽ lão cũng đi nhiều nhất làng vì lão cứ phải đi làm xa suốt. Nhưng giá vé đắt đỏ quá làm lão sốt ruột. Có lần từ Thanh Hoá bắt xe về, gần hai trăm cây số, lão nài nỉ xin một nửa nhưng phụ xe dứt khoát không cho. Thế là lão xuống đi bộ về nhà. Mất bốn ngày ròng rã, ban ngày đi, buổi tối xin ngủ trọ nhờ, đói xin ăn, khát xin uống, lão đã tiết kiệm được những gần một trăm nghìn.

Lão Đần ăn rất khoẻ. Mỗi bữa, chỉ cần ít muối vừng là lão có thể xơi gọn cả một cân gạo nấu thành cơm chỉ trong khoảng mười phút. Có thức ăn ngon, lão còn ăn được nhiều hơn. Lão không thích uống rượu nhưng ai đã mời nhiệt tình là lão uống. Chỉ uống chừng hai, ba chén hạt mít là lão bắt đầu bốc đồng. Xong bữa cơm, lão đứng trước mọi người vừa múa vừa hát. Dạo này, không hiểu sao sức khoẻ của lão sa sút tệ hại. Mấy hôm trước đi làm, lão đã không thể tự cất nổi hòn đất lên vai của mình được. Có người cất lên hộ mà lão đứng cũng không vững, lảo đảo như người say rượu. Rồi lão ngã khuỵu xuống. Lão buồn đến ứa nước mắt khi mấy người cùng tổ bốc vác đã phải dìu lão về lán nghỉ ngơi để hôm sau về quê.

Bây giờ thì lão đã trở thành một kẻ vô dụng, chỉ biết ăn thôi chứ có làm được gì đâu. Điều đó làm lão chán. Lão mặc cảm. Cả đời lão tung hoành khắp chốn, giờ lại phải nằm nhà ăn bám vợ con. Lão thương con. Có mỗi thằng con trai mà lão cũng không thể lo cho nó ăn học đến nơi đến chốn được, phải bỏ học từ năm lớp Sáu. Được cái, chú Tuân to khoẻ, chả ốm đau bao giờ. Mười lăm tuổi, chú xin được một chân phụ xe chở khách Bắc – Nam. Mười bảy tuổi kiêm thêm công việc buôn bán. Hai mươi tuổi chuyển sang học lái xe và từ đó cứ đi biền biệt, lúc ra Bắc, khi vào Nam. Có mấy khi chú ở nhà. Biết con vất vả, lão thương lắm nhưng cũng chẳng biết làm thế nào giúp con được.

Ở nhà, chỉ còn cô con gái thì người chẳng ra người. Cô Quyên cũng chỉ được học hết lớp Hai. Cô gầy gò nhưng cũng chẳng ốm đau bao giờ. Càng lớn, cô càng đẹp rực rỡ. Lão rất hãnh diện về cô. Nhà lão không đủ ăn, quần áo đẹp cũng không có để cô chưng diện. Vậy mà da dẻ cô cứ hồng hào, trắng trẻo, đẹp rờ rỡ, làm cho nhiều gã trai quê tối nào cũng rình rập ngoài đầu ngõ để chó sủa loạn cả lên. Con gái nhà giàu có dùng mỹ phẩm hảo hạng, có đi thẩm mỹ viện thường xuyên cũng còn lâu mới theo cô được. Thế mà năm mười tám tuổi, cô đã bị một trận ốm thập tử nhất sinh. Một lần đi làm đồng về, cô bị cảm nặng. Bị cấm khẩu, sùi cả bọt mép. Mãi mới có một trận ốm nên cô suy sụp ghê gớm. Chữa chạy đủ đường, cầu cứu khắp nơi. Chú Tuân phải nhờ người mời về một bà già dân tộc vùng núi phía Bắc. Bà cho cô uống và tắm thuốc lá. Hai tháng sau, cô khỏi bệnh nhưng lại bị vô sinh. Nghe tin đó, anh Tính, người yêu của cô vội bỏ cô đi lấy vợ. Cô buồn đến nhão người, tưởng như cơ thể mình có thể chảy tan ra thành nước. Hai người đã yêu nhau bao nhiêu năm, hai gia đình đã qua lại như cùng một nhà. Một đám cưới chuẩn bị được tổ chức thì cô bị ốm.

Lão Đần thương cô một thì lại trách thân phận mình mười. Chẳng biết tổ tiên nhà lão ăn ở thất đức thế nào mà bây giờ lại báo ứng vào con gái lão. Từ đấy, dù cô vẫn đẹp nhưng chẳng còn ai ngó ngàng đến làm cho cô mắc bệnh u uất và sống vật vờ như một kẻ vô hồn.

Một buổi sáng, lão Đần đã thất kinh khi tỉnh dậy mà chẳng thấy cô Quyên đâu. Cả nhà nháo nhào đi tìm. Mãi mới có người báo cho lão biết là cô Quyên đang ngồi một mình trên cây cầu đầu làng. Người ta đã hỏi sao lại ngồi đây, thì cô trả lời là: “Đợi anh Tính”! Họ hỏi: “Anh Tính đâu”? Cô chỉ xuống chiếc bóng của mình dưới sông: “Anh ấy đang ở dưới kia kìa”. Họ sợ cô nhảy xuống sông theo cái bóng nên phải ngồi trông chừng cô vì cô không chịu về. Mãi đến khi có người khác đi qua, họ mới nhờ người đi báo cho lão Đần biết được. Lão năn nỉ mãi nhưng cô không chịu về vì anh Tính không về cùng. Cô khóc sướt mướt và kêu gào thảm thiết tên người yêu. Mãi đến trưa, khi đã mệt phờ phạc, tóc tai rũ rượi, cô Quyên mới chịu để lão cõng về nhà. Nhưng từ đấy, cô trở nên ngơ ngác, lúc cười lúc khóc.

Mọi người bảo cô bị ma làm. Lão nghe lời, mời thầy phù thuỷ về làm lễ bắt ma suốt hai ngày liền nhưng cô vẫn cứ điên điên dại dại như thế. Thầy phù thuỷ cũng chỉ biết lắc đầu. Dân làng bắt đầu gọi cô là cô Ngẩn và quên dần tên thật cuả cô. Lão Đần cũng đau đớn mất mấy tháng trời mới bắt đầu đi làm lại được.

Giờ thì lão yếu quá, phải ở nhà thật rồi. Không đi làm được, ngồi nhà đã buồn bực chân tay mà cô Ngẩn thì cứ suốt ngày cười nói, làm cho lão không thể nào chịu nổi. Ngày giỗ mẹ lão, chú Tuân không về được. Khách khứa được mời cũng chẳng có ai ngoài bác Đôn là anh ruột của lão và tôi là hàng xóm cạnh nhà. Vợ lão đi chợ. Ở nhà, lão cùng cô Ngẩn thịt gà, nấu nướng khá tươm tất. Lão lau dọn bàn thờ xong, sai cô Ngẩn lên đèn hương. Không hiểu, cô lóng ngóng thế nào, gạt tay hất cả bát hương rơi xuống đất, vỡ tan tành. Lão từ dưới bếp chạy lên, lồng lộn, tức tối như vừa bị ai tát vào mặt rất mạnh, giọng gầm gừ, quát tháo om sòm. Cô Ngẩn vẫn cười hềnh hệch đầy vẻ hối lỗi. Điều đó làm cho lão càng điên hơn. Lão vung tay tát mạnh làm cho mặt cô tối sầm lại, mắt nổ đom đóm, chảy cả máu ở mép. Cô đau quá, ôm mặt khóc hu hu. Lão vẫn như con thú bị điên, đạp mạnh cô ngã dúi xuống chân bàn thờ, rồi cứ thế giơ chân đạp tới tấp vào người cô. Cô Ngẩn chỉ biết nằm co quắp, tay ôm đầu, mồm kêu cứu thất thanh. Vợ lão không về kịp thì có lẽ cô Ngẩn sẽ bị lão đánh chết mất. Bà vừa khóc, vừa ôm chặt lấy chân lão, vừa nài nỉ van xin lão tha cho cô. Cô Ngẩn len lén bỏ xuống bếp ngồi run cầm cập. Lão gầm lên: “Cút! Cút đi! Cút ngay cho khuất mắt tao!”.

Đêm. Cô lên cơn điên. Cô gào thét, đập phá tất cả mọi thứ mà cô vớ được làm cho cả xóm thức dậy hết, kéo cả sang nhà lão. Lão phải phải dùng dây thừng trói chặt để cô không thể đập phá được nữa. Mắt cô long lên sòng sọc, bọt mép sùi cả ra ngoài. Mọi người tìm mọi cách để xoa dịu tinh thần cho cô. Vợ lão thì xì xụp thắp hương, lầm rầm cầu khấn trời đất, tổ tiên thương lấy con gái bà. Lúc sau, cô Ngẩn mệt, nằm thượt ra nền nhà, nét mặt cũng dịu đi. Rồi cô cười, cười sặc sụa. Cô cười nói lảm nhảm một mình. Mãi đến gần sáng, cô mới thôi không lên cơn nữa, nằm co quắp ngủ. Lúc này, lão mới cởi dây trói cho cô, bế cô đặt lên giường.

Mãi đến khi mặt trời lên cao bằng con sào, vợ chồng lão mới tỉnh dậy. Không thấy cô Ngẩn đâu. Chạy xuống bếp, ra sau nhà vẫn không tìm thấy cô. Hai vợ chồng tìm khắp nơi trong làng cũng không thấy. Vợ lão nằm bẹp góc giường, khóc ti tỉ. Lão ngồi ngoài hè cũng khóc. Lão khóc tức tưởi. Khóc như chưa bao giờ được khóc. Thấy tôi sang, lão chỉ nghẹn ngào nói được mấy câu: “Nó đi! Đi thật rồi! Nó bỏ đi thật rồi!”. Rồi cứ thế lão nức nở khóc. Khóc tu tu. Nước mắt nước mũi giàn giụa trên mặt. Người lão rung lên. Lão khóc rống lên như bị ai bóp cổ, tắc nghẹn. Cô Ngẩn đã bỏ nhà đi từ khi trời chưa sáng, khi vợ chồng lão vừa chợp mắt sau cơn điên loạn của cô.

Anh em, con cháu trong họ nhà lão và cả tôi bổ nhào đi tìm cô khắp nơi. Những người có xe đạp đi gần, có xe máy thì đi rất xa. Cả một khu vực với chu vi gần một trăm cây số đều được mọi người tìm kiếm cả. Hơn nửa tháng liền nhưng vẫn không ai tìm thấy tung tích của cô. Thậm chí cũng chưa có ai nhìn thấy cô cứ như cô biến mất vậy. Thế mà lão vẫn tin là cô chỉ ở quanh quẩn đâu đó gần đây, chứ nhất định không thể đi xa được. Có thể cô vì quá sợ lão mà đã trốn chui trốn lủi ở một xó xỉnh nào đó không ai nhìn thấy. Có người bảo, biết đâu cô đã bị lũ buôn người bán sang Trung Quốc. Cô xinh thế cơ mà! Những người lạc quan nhất, cũng như lão, nghĩ là cô vẫn quanh quẩn ở một làng nào đó gần đây. Điều đó càng củng cố thêm lòng tin cho lão. Lão một mình lang thang đi tìm cô. Đi bộ. Hết làng này sang làng khác. Hết ngày nọ đến tháng kia. Có những nơi lão tim đi tìm lại đến mấy lần vì lão sợ cô sẽ đến ngay sau khi lão đi. Đói lão xin ăn, tối xin ngủ trọ hoặc ngủ vật ngủ vạ ở miếu, ở chợ. Chú Tuân khuyên giải thế nào, lão cũng không nghe. Vừa đi, lão vừa hỏi thăm về cô, nhưng chỉ được câu thứ nhất, đến câu thứ hai là lão khóc. Cuối cùng, người ta đã phải đưa lão về khi lão đổ vật xuống bên giếng làng An Nhân.

Ngoài trời bắt đầu mưa. Những giọt mưa to tròn rơi lộp bộp xuống nền sân đất, lẹt đẹt trên những tấm phên nứa chắn đầu hồi. Trời nổi gió. Gió vần vũ lật tung những tàu lá chuối trước sân, xé tơi tả. Gió luồn qua khe cửa, chui vào trong nhà, bốc tung những chiếc quần áo đang vắt trên dây, treo trên mắc, ném xuống đất. Vợ lão lật đật chạy ra che chắn chuồng gà, chuồng lợn. Những lằn chớp nhì nhằng xé toạc bầu trời thành những mảnh nhỏ, rách nham nhở. Tiếng sấm ì ùng, gầm gừ như tiếng một con thú vừa bị sa bẫy. Hình như có tiếng ai đang gào thét gọi lão phía ngoài đường. Tiếng gọi đứt quãng như bị hụt hơi cứ chập chờn trong tiếng gió. Đúng rồi, tiếng cô Ngẩn, con gái lão. Cô không có chỗ để ở, đang đứng giữa trời mưa gào khóc, sợ hãi. Quần áo cô ướt sũng nước, dính chặt vào tấm thân gầy gò đang run lên vì lạnh. Cô đang gọi lão đến đón cô về. Lão phải đi thôi. Phải đi ngay không thì cô sẽ bị cảm lạnh mất. Lão rướn người gọi to rồi lao ra ngoài trời đang mưa xối xả như trút nước. Khi tay lão gần chạm tới tay cô Ngẩn, tự dưng lão bị hụt chân, chới với. Có ai đó kéo cô đi mất. Có ai đó lôi tay lão lại. Lão đổ ụp xuống như một cây chuối bị đốn ngang thân. Khi tôi và mọi người chạy sang đến nơi thì lão ướt sũng, tay chân trầy xước, người nóng hầm hập như hòn than. Tôi vội giục vợ lão thay quần áo khô cho lão rồi tất tả đưa lão đi bệnh viện.

Từ ngày chú Tuân về xây ngôi nhà ngói năm gian, khang trang, đẹp đẽ với đầy đủ tiện nghi sinh hoạt, lão Đần đâm ra lẩn thẩn, cứ ở lì suốt trong nhà. Khuyên giải thế nào lão cũng không nghe. Nhất là sau khi tổ chức cưới vợ cho chú Tuân xong, lão càng ít nói. Trước lúc vào Nam, chú Tuân có nhờ tôi. Có lẽ chỉ mình tôi có thể hiểu được tâm sự của lão. Đợi lão nguôi ngoai, tôi an ủi:

- Như cô Ngẩn có khi lại hay! Biết đâu, đó lại là sự giải thoát. Vô lo vô nghĩ, có lẽ cô sẽ sống thanh thản hơn.

Lời của tôi đã đánh trúng tâm trạng lão. Mặt lão dãn dần ra. Có lẽ, chỉ có điều ấy mới làm cho lão đỡ dằn vặt và tạm yên lòng…

Đám cưới tổ chức xong được một lúc, mọi người đang sắp xếp ngồi vào mâm thì lão đến. Lâu nay, đám cưới ở vùng này rặt đàn bà con gái. Chỉ có vài người đàn ông trong họ và bạn bè của chú rể, cô dâu, xếp không đủ năm mâm. Hầu hết đàn ông trong làng phải vào rừng đốn củi, làm nương. Họ dựng chòi ở luôn trong đấy, lâu lâu mới về làng để lấy lương thực, thực phẩm, cũng chỉ trong chốc lát rồi lại đi ngay. Làng vắng hoe vắng hoắt. Sự xuất hiện của lão khiến mọi người để ý.

Tôi mời lão vào mâm với mấy cụ cao niên trong làng nhưng lão không nghe, cứ đòi ngồi cùng với mấy bà trung tuổi, ăn nói sồn sồn. Tục lệ ở đây, đàn ông bao giờ cũng được xếp ngồi riêng với nhau để uống rượu cho đủ đồ nhắm. Còn đàn bà, kể cả già, trẻ được xếp riêng với nhau vì họ ăn ít, còn lại để dành chia phần mang về nhà. Mâm cỗ vì thế, ngoài thịt gà, giò, chả, nem, trứng vịt lộn… là hai bát bí nấu, một đĩa cá kho, một đĩa giá đỗ sào, một đĩa nộm và rau sống lấy thoải mái để ăn cơm. Cách bày biện vì thế cũng khá đơn giản khi những món ăn ngon để chia nhau bao giờ cũng được xếp dồn hai hoặc ba món trong một chiếc đĩa. Trong túi đựng trứng vịt lộn, bao giờ cũng được kèm theo một gói túi giấy ni lông để chia cho mỗi người một chiếc đựng phần. Trước kia, người ta thường xé lá mướp, lá chuối tươi ngoài vườn để đùm phần.

Lão hầu như chẳng ăn gì, mọi người mời nhiều thì lão động đũa vào mấy đĩa sào rồi thôi. Suốt bữa ăn, lão ngồi lặng lẽ ngắm nhìn mọi người. Khi mọi người trong mâm vừa buông đũa, buông bát thì lão vội xăng xái chia phần. Lão đưa cho mỗi người một túi. Túi đựng phần của lão, lão buộc lại, ngửa chiếc mũ lưỡi trai trên đầu xuống, bỏ vào trong mũ, cầm trên tay. Mọi người đứng dậy, ra đưa tiền mừng tuổi cho chủ nhà thì lão lại lủi thủi kiếm một chiếc ghế, ngồi gọn vào một góc. Thường khi trong làng có đình đám, nhà nào lão cũng đến chơi. Không bao giờ lão có tiền mừng nên chỉ ngồi chơi trong chốc lát rồi về. Nếu có gặp bữa, gia chủ kì kèo giữ, lão cũng chỉ uống một, hai chén rượu mừng cho chủ nhà chứ không ăn uống gì, ngoại trừ những nhà có họ hàng thân thích và hàng xóm gần gũi với lão như nhà tôi thì lão mới chịu ngồi ăn cỗ. Nhưng cũng chẳng bao giờ lão ngồi lì một chỗ lâu như thế bao giờ.

Đám cưới ở đây, bất kể gia chủ làm gì thì dân làng đều đưa tiền mừng trực tiếp chứ không cho vào phong bì như những nơi khác. Gia chủ cho đặt một chiếc bàn ngay lối cổng ra vào và nhờ một người làm thư ký, ghi chép giúp số tiền mừng đám của từng người vào sổ. Người nào không có tiền lẻ, thư ký sẽ trả lại. Mọi người ở đây coi đình đám là một dịp để giúp đỡ nhau nên muốn công khai. Hơn nữa, người sau thường theo người trước nên sự giúp đỡ ấy khá nhiều, khá đồng đều và mọi người trong làng đều biết.

Lão ngồi chăm chú quan sát công việc của bà thư ký. Tôi mời lão ra ngồi uống nước, nhất định lão không chịu ra. Đến lúc khách khứa về hết, chỉ còn vài người đang dọn dẹp, bà thư ký bắt đầu công việc cộng trừ tính toán, lão mới đứng dậy, gọi tôi vào trong nhà. Ngồi xuống chiếc ghế đối diện, lão chậm rãi:

- Tôi phải đi thôi! Vào với thằng con trai. Có vợ, có con, có cháu vẫn vui hơn. Với lại, tôi cũng muốn vợ chồng nó yên tâm làm ăn, không phải thắc thỏm lo cho tôi nữa.

- Bao giờ bác đi?

- Khoảng hai tiếng nữa. Vé tàu mua rồi. Xe ôm cũng đã hẹn đến để chở đi rồi.

Tôi ngạc nhiên:

- Sao bác đi gấp thế?

- Tôi đã định đi từ tháng trước cơ nhưng biết chú tổ chức xây dựng gia đình cho cháu nên ở lại. Chắc là tôi cũng chỉ đi mấy năm thôi!

Lão rút trong túi ra một gói nhỏ được bọc cẩn thận trong chiếc khăn bằng vải nhiễu đỏ, đẩy lại phía tôi:

- Mấy năm vừa rồi, số tiền nó gửi cho tôi cũng được hơn chục triệu, tôi vẫn để cả ở đây. Vào trong ấy, chắc cũng chẳng cần dùng đến. Vì vậy, tôi nhờ chú giữ giùm và giúp tôi làm những công việc từ thiện như thưởng cho học sinh giỏi, tặng học bổng cho mấy cháu nhiễm chất độc màu da cam… Thôi thì cứ tuỳ chú xử lí giúp tôi. Đó coi như là chút tình cảm của tôi với làng quê lúc đi xa.

Tôi ngạc nhiên nhìn lão. Cả đời quen sống vất vả, kham khổ, đến lúc về già được sung sướng để dưỡng già, lão cũng không chịu. Lão vẫn nghĩ cho người khác, vẫn coi vật chất như một thứ phù du.

Tôi chẳng biết an ủi lão thế nào, đành nói:

- Bác cứ yên tâm mà đi. Nếu cháu Ngẩn có về đây hay nghe ngóng được tin tức gì của cháu, tôi sẽ báo cho bác.

Chẳng ngờ điều đó đã làm cho mắt lão sáng lên. Lão chộp mạnh lấy tay tôi, lắc lắc:

- Thật nhá. Chú nhất định phải giúp tôi đấy nhá. Nếu nó về hay nghe ngóng được tin tức gì của nó, chú phải báo cho tôi ngay!

Lão run run tay lần tìm trong túi áo ngực, lấy ra một mảnh giấy đưa cho tôi. Đó là mảnh giấy ghi địa chỉ nơi ở và số điện thoại của con trai lão. Có lẽ, lão ghi đã lâu và thỉnh thoảng lại lôi ra xem nên mảnh giấy đã nhàu nhĩ, một số chỗ đã sờn rách.

- Còn một việc nữa, nhất định là chú không được từ chối vì nó là tấm lòng của tôi – Lão vừa nói, vừa rút trong túi quần ra chiếc phong bì, đặt vào tay tôi. – Tôi chưa mừng tiền ai bao giờ nên không dám ra ghi tên ở ngoài kia. Chút tiền dành dụm này, tôi cho các cháu làm vốn.

Tôi nhận chiếc phong bì chưa dán mép và chợt giật mình khi nhìn thấy bên trong có cả một tập pôlime loại một trăm nghìn. Sao lão cho nhiều quá vậy? Tôi vội nhìn sang lão nhưng lão đã băm bổ đi ra cổng. Chưa kịp đuổi theo để nói lời cảm ơn thì bóng của lão đã khuất sau rặng tre.

Con bò của lão Ngang

Thằng này độc địa cắc cớ, nhưng quả thật nó có con gà kì tài! - Lão Ngang thức giấc nghĩ vậy - Thành lệ, lão chỉ ngủ đến tầm này, nhưng cũng còn một lí do nữa là tiếng gà gáy đánh thức lão. Thì đã đành là cúc..cù...cu...cu! Nhưng liền sau đó nó còn hừng hực mấy tiếng từ trong cổ họng, dường như để tỏ ra ta đây mới đáng bậc tài cao trí dũng đánh thức cả làng, cả xóm. Bởi từ tít cuối đường có bờ ao Giáp Đông kia, tới đầu ngõ Cổng Hột này, gà nhà ai mà chả gáy. Cứ như một dàn đồng ca! Nhưng chỉ gà nhà anh cu Tèo này là có tiếng gáy oai linh và vang xa như vậy. Lại còn những tiếng đệm về sau nghe ròn và vui như tiếng cộc cộc, cộc, mổ thóc. Thằng Tèo cao hứng bốc phét thêm rằng gà nhà hắn đáng giá bạc triệu, rằng lão Phó bên Kim Trang sang chơi trả triệu mốt, hắn chẳng những không bán mà còn định đuổi khỏi nhà. Mẹ quân lếu láo! Mới hơn ba chục tuổi đầu. Gà quí nhà mày cũng không bằng cái lông đuôi bò nhà tao, con bò cả vùng bán kính mười mấy cây số có một không hai. Chẳng tin mày cứ đi kiểm tra, ông đặt cược, mày cứ đến tận  Trạm Bóng, xuống tới cả Dốc Bùng, Cầu Râm, rồi vòng về Thọ Chương, phố Phủ, sang tận Bến Trại, Đò Neo xem có con bò giống nào đáng nể như con bò giống nhà ông - ấy là lão Ngang nghĩ thế chứ anh Tèo hơi đâu mà đi xem con bò nào với con bò nào.

Lão Ngang hạ đôi bàn chân khá khẳng khiu xuống. Bao giờ đôi bàn chân ấy cũng đặt đúng vào đôi dép lê to bè, bản quai khá rộng, nằm ngay ngắn chĩa mũi ra phía ngoài. Thói quen từ ngày nhập ngũ những năm đầu thập kỉ sáu mươi thế kỉ trước người ta dạy lão như vậy. Lão đứng lên đúng lúc con bò giống quí giá nhà lão ò lên rõ to, rõ dài. Nhà Tèo cho rằng nhờ có tiếng gà gáy mà bò tỉnh giấc. Láo!- Nói chó cũng không nghe được! - Lão Ngang chửi thầm - Bò nghe được tiếng gà thì cả lò nhà mày đi lộn đầu xuống đất con ạ! Bò của ông tốt giống, tốt má, lại được bồi dưỡng, luyện rèn, trở nên quí giá, chẳng thế mà cả vùng biết tiếng, nhà nào nuôi bò cái muốn có những chú bê đẹp đẽ, khoẻ mạnh, đều đến xin đực ở nhà ông. Mày bảo ông lấy đắt? Không đắt mà được à? Bò giống của ông đâu chỉ ăn cỏ, rau muống, rau khoai, mà còn cám bã, cháo gạo, bột mì, bột cá...Những thứ đó không mua bằng tiền, nhẽ thường lấy đất sét úm ba la biến thành chắc?

Bố quân láo lếu, mất dạy! - lão Ngang chửi đổng thầm trong bụng rồi cắm nước, rửa chén, rửa xuyến, chuẩn bị pha trà. Sáng dậy bao giờ lão cũng phải làm một ấm trà. Lão pha đặc, chè cho đến lưng cái xuyến da lươn nhỏ xíu, đổ nước tráng qua, rồi mới rót nước khác vào. Cái chén hạt mít của lão vàng khè do màu nước chè bám lâu ngày giống như lớp sơn mới phết bằng chổi lông. Lão xếp bằng tròn trên chõng, uống nước như người ta uống rượu. Thằng Tèo hay nói, chè tam tửu tứ. Tam tam cái mả mẹ mày, lão Ngang lẩm bẩm. Hắn lại còn nói, trà ngon không có bạn hiền...Bạn hiền của ta là con bò chứ cái thá nhà mày đâu đáng mặt. Đừng tưởng cứ có tí chữ nghĩa, hay mở được máy vi tính với những internet... nhắng nhắng cuội cuội là bạn hiền của ta được sao.

Lão Ngang uống trà! Cũng không màng gì tới xôi gạo  mới vợ lão vừa đem lên. Bà lẳng lặng đặt đĩa xôi trước mặt lão, chẳng nói chẳng rằng, rồi quay ra với công việc của mình, mặc cho ông chồng hơi hâm hâm nhưng tốt tính, tốt nết, tận hưởng đến tận cùng sự sung sướng với ấm trà chí lư đại cốt. Trời sáng dần. Lão Ngang chẳng việc gì phải vội. Thời gian trong ngày là của lão, và đôi khi cho rằng mình làm ra thời gian, và cái sự này không thể đảo ngược. Lão bảo trời tối, ấy là trời tối! Lão bảo trời sáng, ấy là trời sáng! Cho nên chén trà của lão là thượng thặng mà bà vợ chung sống bao nhiêu năm chưa một lần cắt ngang hay ngăn chặn. ấy vậy mà có tiếng gọi cổng.

- Ông ơi!...

Lão không thèm cất lời.

Tiếng gọi lại chõ vào:

- Ông Ngang ơi!...

Lão tớp xong  một ngụm trà rồi mới đứng lên. Lão ra hè, xuống sân bước về phía cổng, cứ bước một như đang đếm giờ, đếm phút. Con bò vẫn trong chuồng nhìn ra thấy lão ò lên vang cả trời đất.

- Đưa bò cái đến lấy giống hả?

Anh con trai không vâng một tiếng cho gọn mà kể lể dài dòng làm thân:

- Bố cháu bảo rằng...

Lão Ngang không thèm để ý đến cái thói tình nghĩa nhất thời ấy mà cứ tắp lự đi vào nội dung công việc.

- Ba trăm ngàn đồng!

- Nhưng bố cháu bảo...

Lão Ngang không thèm nghe mà lượn quanh con bò cái đang đứng phía sau chàng thanh niên. Đúng lúc ấy gã gà trống nhà Tèo được mở cửa chuồng, vỗ cánh, chớp thời cơ người ta chưa kịp trói buộc gì cả, bay vụt một phát lên nóc chuồng bò nhà lão, cong cần cổ, xếch mé cất tiếng gáy rất chi là trịch thượng. Mẹ mày! Nếu mà bới vào mái rạ nhà ông!- Lão Ngang cảnh cáo và nhặt hòn gạch củ đậu lăm lăm trong tay. Nhưng con gà biết ý nhảy vù xuống mảnh sân con nhà hắn bên bức tường. Lão Ngang ném gạch đi rồi quay về phía chàng trai trẻ:

- Bao nhiêu tuổi?

- Cháu hơn mười chín ạ.

- Học lớp mấy?

- Năm thứ hai ạ!

Ông già trợn mắt nhìn ngắm! - Hơn mười chín gì mà bé tí tẹo - Mà đi học thì chỉ có lớp hai hay lớp  mười hai, chứ năm thứ hai là cái đ... gì? - Lão chằm chằm nhìn và hỏi gằn:

- Quê ở đâu?

- Thanh Giang - Thanh Miện ạ!...Bố cháu bảo...

Chàng thanh niên định nói hết câu nhưng lại bị lão Ngang cắt lời:

- Nó động đực lâu chưa?

- Từ lúc nửa đêm ạ!...Anh nói nhanh - Bố cháu bảo hỏi ông xem nếu không trúng thì ... Sao ạ?

Câu này đã xúc phạm vào lòng cao ngạo của lão, hay nói đúng ra là xúc phạm vào sự oai linh con bò quí giá của lão. Bò giống của lão mà đã nhảy là trúng phóc như đinh đóng cột, cấm quả nào sai quả nào. Mọi việc xơ xểnh có thể xảy ra đều do phía bò cái. Chớm qua thì động đực hay chưa tới thì động đực cũng hỏng. Hoặc là bò cái yếu kém. Hoặc là gia chủ không chịu bảo dưỡng chăm sóc sau khi bò cái đã được nhảy. Hoặc là ăn phải thứ gì đó... Nghĩa là, đặt nghi vấn mọi tong tẹo xảy ra cho bò nhà lão  đều là láo lếu. Thằng cha này, nghĩa là bố cái anh chàng học năm thứ hai mà người bé tí tẹo này, đưa ra câu hỏi như vậy quả chưa biết người, biết của, vàng thau lẫn lộn, chẳng chịu coi ai ra gì. Ta mà lại như thế à? - Đáng ra lão phải nói- Bò của ta mà lại như thế à? Nhưng từ phút nào lão đã phù phép biến hoá bản thân với con bò là một. Thì xúc phạm bò cũng có nghĩa là xúc phạm chính lão. Và không thể tha thứ được! Lão chăm chút con bò tới mức đam  mê như nhà khoa học đam  mê đề tài theo đuổi. Buổi sáng đánh thức bò dậy, ăn uống tề chỉnh, rồi mới cho đi đực. Trưa cho ăn uống và nghỉ ngơi. Chiều thả ra Miễu trên hay Miễu dưới ăn cỏ, nhưng vừa rồi những chỗ đó làng mới chia cho dân làm nhà, thành thử lão phải dắt bò bám theo các bờ vùng, bờ thửa. Mà ngay bờ vùng, bờ thửa giờ đây cũng chẳng còn được lại bao nhiêu. Cả vùng triều trũng bát ngát ven sông từ Bờ Vô, Bờ Hồng, qua Ba Toà, đổ về Cửa Đình, đấu thành liên hoàn vùng hồ ao thả cá, trên bờ trồng nhãn Linh Chi, vải thiều, chuối, và bờ nhà ai là của riêng nhà ấy, làm gì có cỏ. Lão dắt bò theo đường vùng trồng lúa, trồng rau tới tận Quán Dòng, bò no căng lão mới lôi về vùng Cây Thị cho tắm nước sông. Cái giống bò mĩ  miều không thèm nhảy xuống nước như trâu nên lão  mượn cái bình tưới có vòi phun,  múc nước lên, dội mưa từ lưng bò trở xuống, rồi kì cọ. Thế mà bố cái thằng ranh học năm thứ hai này lại dám xấc xược, hỏi những câu cấc lấc về con bò quí giá của lão.

Lão lượn quanh con bò cái từ Thanh Giang sang một lần nữa rồi hằm hừ chẳng nói chẳng rằng đi về phía chuồng bò nhà mình. Chàng thanh niên dắt bò của mình theo liền bị lão ngăn lại, bằng động tác vung tay và bằng lời nói: Không biết gì à? Cho ra ngoài kia! Chàng trai dường như chưa hiểu, hoặc giả chưa yên tâm, định hỏi, thì lão gầm như quát lên: Ngoài kia! Đợi! Thấy mệnh lệnh của mình được thi hành nghiêm chỉnh lão mới quay vào  mở cửa chuồng, tháo gióng cửa, cởi thừng buộc, dong con bò quí như vàng, như bạc ra. Lão lấy bình tưới vòi hoa sen tắm cho bò, rồi cho  ăn cám, ăn cỏ để dành từ chiều hôm trước... Lão vuốt ve, ngắm nghía con bò như nhà điêu khắc ngắm nghía tác phẩm của mình rồi mới từng bước dắt bò ra khỏi cổng. Lúc này, chén trà đặc uống dở không còn làm lão nuối tiếc nữa, sự bực tức cũng bay biến rồi. Phong độ ung dung,  mãn nguyện, bước đi của lão cứ như vị tướng chỉ huy tiến vào vị trí quan sát. Chàng trai học năm thứ hai nhăn mặt một cái bởi vì chưa nhận được câu trả lời do bố ủy thác. Thấy sự việc sắp đến lúc xảy ra, anh ta hỏi:

- Ông ơi!... Bố cháu bảo hỏi ông nếu không trúng thì sao ạ?

Lão Ngang ngẩn người. May đang hí hửng nên lão bỏ qua câu hỏi hỗn láo  mà toe miệng ra cười:

Dắt bò tới đây ta cho lấy giống lại, không phải mất tiền.

Thanh niên lại nói nhanh:

- Nhưng giả dụ lần thứ hai vẫn không trúng ạ... Cháu đã nghe nói có trường hợp xảy ra như thế!

Tức thì lão Ngang đứng khựng,  mặt đỏ bừng. Con bò đúng là ngu dốt, chẳng hiểu biết ý chủ gì cả, ngửa cổ, hếch mõm lên trời ò lên một tiếng vang lừng trời đất. Con bò cái từ Thanh Giang, Thanh Miện sang, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao, chắc do nhìn thấy anh bò đực xứng tầm, xứng mã cũng nhe răng ra mà ò lên một thôi, một hồi như phụ hoạ theo. Rồi chúng nhảy bổ vào nhau làm cái việc nòi giống phải làm. Cơn bực bội của lão Ngang tan biến. Thanh niên học năm thứ hai rốt cuộc vẫn chưa nhận được câu trả lời bố dặn, dứt khoát phải lĩnh hội. Anh ta dường như đã đoán được tính khí kì cục của lão Ngang, vuốt ve thật phẳng ba tờ tiền giấy mệnh giá một trăm ngàn đồng, xếp nếp cẩn thận, dùng hai tay đưa cho lão. Rồi anh cất giọng rành rẽ, rằng những người nuôi bò giống thời nay hiếm lắm, cả vùng chỉ một hai vị. Lại nghe nói bò của ông to khoẻ, phối giống rất tốt, có ngày nó nhảy cho tới năm hay sáu con bò cái mà con nào cũng đẻ ra những chú bê to tướng. Tiến đến, anh cất giọng trịnh trọng:

- Thưa ông! cháu được bố sai dắt bò tới đây, nghe đồn bò nhà ông giống cực tốt, cháu mới phải rong ruổi từ Thanh Giang...

Nỗi bực tức của ông già được khơi lại, giọng ông trờn trợn:

- Thanh Giang cái mả mẹ nhà anh! Ai cho phép anh xấc xược. Bò của ta đã phối giống là trúng phóc một trăm phần trăm, chưa có con nào phải phối lần thứ hai, mà anh dám nói đến lần thứ ba. Láo! Anh nhạo báng ta đấy à? Không có lần thứ hai cho nên không bao giờ có lần thứ ba nghe chưa!

Chàng trai học năm thứ hai đã nhận được một nửa câu trả lời, nhưng vẫn còn một nửa nữa, anh van lạy ông già: Con xin... Con xin ông bớt giận... Có sao con lại dắt bò tới. Đúng! Lão Ngang nói như ra lệnh - Phải cho nhảy lần hai ta không lấy tiền. Còn lần thứ ba thì ta các lại gấp đôi tiền, nghe rõ chưa! Rồi lão kết thúc buổi làm việc bằng tối hậu thư chỉ có một từ: Cút! Lão dắt bò của mình vào trong sân, bồi dưỡng cho nó ít cám ngô, chẳng còn hứng thú gì với chén trà đặc và đĩa xôi để nguội. Lão đi quanh con bò tuyệt hảo và ngắm nghía, lẩm nhẩm một mình: Nhà nước chẳng chịu tổ chức thi hoa hậu bò, nghe nói đâu đó có thi hoa hậu chó, hoa hậu mèo... Nhưng hoa hậu chỉ dùng cho giống cái thì phải, bò nhà lão lại là giống đực, thì đã sao nào? Tèo sang! - Mình biết thế nào hắn cũng sang mà - Lão Ngang nghĩ. Thằng này cũng chỉ hay sang nhà lão chơi vì nhà liền tường, liền giậu, và thích nghe những câu chuyện nghênh ngang, ngật ngưỡng của lão. Tèo lại khéo tán tụng lão bằng cách ca ngợi con bò và không tự ái khi lão đem chuyện con gà trống ra bỡn cợt. Kiểu như : Anh tưởng bò nhà tôi tỉnh giấc là nhờ tiếng gáy của gà nhà anh chắc? Hão huyền! Bò làm sao nghe được tiếng gà. Nhà Tèo vặn lại: Nhưng bố lại bảo gà nhà con gáy được là nhờ tiếng bò nhà bố đánh thức. Con hỏi bố: Gà làm sao nghe được tiếng bò? Lão Ngang trừng mắt, lão không nói vội, cứ để cho nhà Tèo nhâm nhi với câu chất vấn tưởng như dồn được người già bảy mươi năm kinh nghiệm trên đời vào thế bí. Lão đã kịp đổ thêm nước sôi vào xuyến, rót ra hai chén, đếch cần mời, cứ nâng một chén đưa lên môi. Sau hớp trà chí lự lão nhón một miếng xôi, vê vê tròn như quả táo nhỏ, ném nhẹ vào trong mồm, tóp tép nhai. Lúc này lão  mới vừa nhai vừa giảng giải về sự hiểu biết cho chàng hàng xóm trẻ tuổi:

- Thế anh đánh giá tiếng bò với tiếng gà thế nào? Anh đã đi rừng bao giờ chưa hả? Là tôi nói rừng ngày xưa ấy, chứ rừng bây giờ còn quái gì đâu mà bàn. Các loài vật không hiểu tiếng nhau, đúng vậy, nhưng khi hổ gầm thì những hoãng, những nai, những chồn, những cáo... liệu thần hồn. Con bò ở làng chẳng như thế hay sao!

Lão Ngang tự thưởng cho học thuyết cao siêu của mình bằng cách vê vê một hòn xôi nữa đáp đánh lủm vào trong mồm. Nhìn dáng vẻ sung sướng mãn nguyện của lão, anh chàng hàng xóm láng giềng nghĩ: Mình cũng mong về già được như lão. Hai đứa con, một trai, một gái làm ăn phát đạt trên tỉnh và đều có gia đình. Lão ở nhà có lương hưu kha khá, đủ hai vợ chồng sống ung dung. Lão làm việc này việc khác, tỉ như nuôi bò giống, trồng vườn, thả cá, chẳng qua để cho vui và tăng thêm thu nhập. Một dạo, hai đứa con trên tỉnh mang ôtô về đòi rước lão lên, lão tống khứ tất cả và bảo rằng: Tao sinh ra ở đây, sống ở đây, chết cũng ở đây, không đi đâu cả. Khi đứa con gái nước mắt ngắn, nước mắt dài, thì lão quát: Mày tưởng trên thành phố sướng lắm đấy hả. Trên ấy có điện thì ông ở đây cũng có điện. Trên ấy có nước sạch thì ông ở đây cũng có nước sạch. Trên đó chật chội thì ông ở đây rộng rãi. Lại mát mẻ, gió trời rất nhiều, đôi khi ông phải tắt quạt... Suy cho cùng lão phải! Chờ cho lão nhai nốt hòn xôi, chiêu thêm ngụm trà nữa, Tèo mới đưa ý kiến của mình ra bàn:

- Ông này, chúng ta có cuộc sống độc lập của chúng ta. Ông có lương hưu đàng hoàng, con không được như vậy nhưng có tiêu chuẩn thương binh. Làng vẫn là làng, quê thì vẫn mãi mãi là quê. ấy vậy mà mấy thằng bạn ở đơn vị cũ đang rủ con về vùng Chí Linh - Sao Đỏ lập trang trại, ông bảo có nên không?

Lão Ngang gầm gừ:

- Trang trại? Bao nhiêu mét đất mà là trang trại?...

Tèo láu táu:

- Hàng chục héc ta... Nghĩa là mênh mông ông ạ!

Lão Ngang nhăn trán suy nghĩ: Chủ bò giống tỏ ra một mớ trí tuệ đầy ắp trong đầu:

- Một héc ta... gần ba mươi sào bắc bộ... Anh muốn trở thành địa chủ chắc? Tôi đã sống qua những ngày tháng cải cách ruộng đất. Tôi sợ!

Nói xếch mé vẫn là thói quen của nhà Tèo. Mũi anh ta dài ra và vắt vẻo nhô trên cái mồm cũng đang vắt vẻo:

- Sợ đếch gì! Sự đời đổi thay rồi mà. Nghe nói ngày xưa ai nghèo khổ, thành phần bần cố nông chẳng hạn, có giá lắm. Người ta chỉ thích mình là vô sản. Giờ đây như vậy lại là khốn nạn!

Lão già nổi cáu hay nhân đà làm bộ nổi cáu cũng chẳng biết nữa:

- A! Mày bảo ai khốn nạn? Chính mày mới là thằng khốn nạn! Vừa rồi tao có hai con gà mái vừa chớm nhảy ổ đẻ, mày đem nhốt gà trống gọi là vàng, là bạc của mày lại. Khi nào thả ra thì bịt luôn gáo dừa vào đít nó, để nó không thể nào đạp  mái được cho khỏi hao tổn thể lực. Hàng xóm láng giềng mà như thế à?

Tèo lấc cấc, nhưng trong những trường hợp thế này, lại rất biết nhún nhường và lễ độ. Anh ta rạp người xuống như vái lạy ông già, mong ông lượng thứ coi đây là việc đã qua, rồi quay sang tán tỉnh con bò mà khắp vùng trong phạm vi bán kính tới hàng chục cây số không ai có được. Thực ra hai con người này, tuy đối đầu trợn mắt với nhau, nhưng ngoài tình xóm giềng, còn rất phù hợp trong những câu chuyện phiếm. Tưởng Tèo chỉ nói chơi, ai dè hắn đi thật. Hắn ta biền biệt vài ba tháng mới về, lần về nào cũng sang thăm ông già và con bò giống. Gần hai năm trôi qua, một hôm lão Ngang dắt bò ra ngõ định cho nó tới Quán Dòng ăn cỏ thì Tèo nhao từ trong nhà ra cất giọng vồ vập: “Ông! Ông đưa bò đi đâu thế này? Con đang định sang nhà ông và có việc hệ trọng muốn bàn với ông”. Lão Ngang trợn mắt: “Chuyện gì? Để trở thành địa chủ à?” Tèo nhăn nhở: “Ông không ham nhưng chúng con ham! Chúng con muốn kéo ông vào cuộc chơi. Ngày xưa, nói như ông và những người đi trước giàu có, thành phần lớp trên là khốn nạn, nhưng hôm nay người ta đua nhau làm giàu. Nhà nước còn khuyến khích chúng ta làm giàu. Con muốn sang bàn với ông...”. Cái thằng này!... Chỉ đi làm ăn xa một thời gian, gần với chúng bạn, và giao tiếp với nhiều đối tượng giỏi mà hắn nói ra được những câu nghe cũng êm tai. Lần đầu tiên lão già bị Tèo thuyết phục. Lão gọi vợ dắt bò ra Quán Dòng chăn thả và quay vào trong nhà cùng với gã hàng xóm hay ăn nói đâm ba chày củ.

Tèo toe toét:

- Bố ơi! Nói thật với bố, gã gà trống oai hùng của nhà con già nua rồi, hết thời oanh liệt rồi, con giữ sức cho nó vài hôm để rồi thịt, ninh nhừ vẫn ngon đáo để. Con bò nhà bố cũng hết thời rồi, chẳng còn nhảy phốc ngày năm, sáu quả, quả nào cũng đậu được trăm phần trăm, để bố cứ việc đút hủm tiền vào trong túi. Bố có thừa nhận với con không nào? Vả lại quanh vùng bây giờ cũng chẳng còn nhà nào nuôi bò cái nữa. Mấy năm trước bố bảo bán kính những bao nhiêu cây số, nhà nào  muốn bò cái nhà mình đẻ ra những con bê phổng phao đều phải đến với bố, thì giờ đây có ai còn bò cái đâu mà đến? Cái thời bố ngạo nghễ với con bò giống đực đã qua rồi, giờ phải khác đi kia!

Đôi mắt lão Ngang long lên sòng sọc. Mấy lần lão định ngắt lời anh cu Tèo, nhưng rồi loáng thoáng lão thấy thằng này nói khá đúng. Quả là gần đây chỉ hoạ hoằn mới có người dắt bò cái tìm đến lão. Sự ấy làm lão buồn. Mình già rồi thật, nhưng chẳng lẽ thời của mình đã qua. “Thế mày bắt ông phải chết à? Mẹ bố thằng này”. Lão Ngang gầm gừ như doạ nạt. Nhưng cái anh hàng xóm bố lếu bố láo này lại toe cả hai bên mép lên như trêu ngươi lão:

- Con chẳng dám, nhưng đời bắt bố phải chết thật đấy. Cho nên bố phải chia tay con bò giống quí giá thôi. Cũng như con phải chia tay chú gà trống oai linh mà cả vùng bán kính mấy chục cây số...

Ông già cướp lời:

- Anh chửi bới và nhạo báng tôi đấy à? Mẹ bố anh!

- Cả bố lẫn mẹ con đều chết rồi, bố đừng hơi tí lại réo. Con chỉ muốn tốt cho bố. Làng xóm bảo con và bố hâm, nhưng hâm được như bố thì ăn mày có “váy lĩnh”. Còn con thì mặc mẹ cho những lời đàm tếu.

Lão Ngang im lặng. Tèo tấn công tiếp:

- Bố đi với chúng con, chúng con trả công cho bố. Bố vẫn làm nghề này, chăm chút lũ bò sinh nở, sao cho tốt giống, tốt má. Chúng con còn tìm  một kĩ sư chăn nuôi giúp việc. Hắn học đông, học tây, và trí tuệ đầy đầu nhưng vẫn cần người có kinh nghiệm thực tế như bố. Mấy thằng lính rời ngũ chúng con toan tính thành lập một hợp tác xã, gọi là hợp tác xã bò. Chúng nó nghe tin đồn về bố, bắt con phải về làng tìm.

- Thế còn con bò giống của tôi?

- Mang theo! Coi như bố góp cổ phần.

- Rong ruổi từ đây tới Chí Linh- Bến Tắm để nó chết trên đường à?

- Bố ơi! Quả là bố lạc hậu thật rồi. Chúng con sẽ rước bò lên xe hơi, ôtô ấy mà, và có chuyên gia đi kèm.

Gã hàng xóm lơ lửng câu chuyện rồi về. Hôm sau hắn đi mang theo cả con gà một thời oai linh sấm sét. Tuần sau, lão Ngang đang lúc ngồi nhâm nhi thưởng ngoạn chén trà và ngắm con bò giống đã hết thời hùng dũng trên sân, thì có tiếng gọi ngoài cổng: “Ông ơi!” Tiếng gọi lại vọng vào: “Ông ơi!”... Hình như giọng quen quen... Mẹ thằng nào! - Chẳng hiểu sao từ lâu lão có thói quen hay chửi đổng, chửi thầm như vậy, chẳng nhằm vào ai, và cũng chẳng phải tỏ ra tức giận hay vui mừng, mà như câu nói cửa miệng vậy. Lão e hèm đi ra... Không! Chẳng có con bò cái nào cả mà chỉ độc một thanh niên tuấn tú, khuôn mặt lạ lạ quen quen. Thanh niên lễ phép: “Cháu chào ông ạ!” “ừ!” “Anh Tèo bảo cháu tới gặp ông, bàn cho ngã ngũ, và nếu ông chấp nhận thì...”. “Nhưng ... Anh là ai?” “Chẳng lẽ  ông không nhận ra cháu? Cháu người Thanh Giang- Thanh Miện từng dắt bò cái tới xin phối giống...”

- à nhưng mà anh?...

- Cháu là kĩ sư nông nghiệp vừa ra trường, cháu học ngành chăn nuôi, cháu làm cho hợp tác xã bò ở Chí Linh - Bến Tắm. Người ta phái cháu tới... Con bò của ông, cháu nhìn kĩ rồi, chẳng dũng sĩ ngang tàng lẫm liệt như mấy năm về trước, nhưng vẫn còn tốt. Ông làm cố vấn cho hợp tác xã về bò giống, còn cháu là chuyên gia giúp việc cho ông. Phải có thêm một đội ngũ bò đực chứ không chỉ riêng con bò đực này của ông. Cháu sẽ tháp tùng ông tới các xới bò tuyển chọn.

Lão Ngang chớp mắt lia lịa. Chưa bao giờ lão chớp mắt nhiều trong cùng một thời gian như vậy. Lão thấy hay hay. Quả là đời đang có đổi khác, mình lên chức cố vấn kể cũng ghê thật đấy! - Lòng dạ lão khấp khởi - Lại còn anh chàng kĩ sư trẻ này là chuyên gia giúp việc. Lão tỏ ra thích thú đón đợi việc được tới các xới bò tuyển chọn những con đực xứng đáng. Nghề gia truyền nhà lão mà!

- Nhưng... lấy gì để tin anh?

Thanh niên nhanh nhảu:

- Cháu có chứng minh thư.

Lão trợn mắt:

- Minh thư tôi cũng đ... tin. Lỡ giấy tờ giả thì sao? Anh không thấy bọn mất dạy còn làm giả giấy tờ và chữ kí của bao nhiêu ông to  mà báo chí nêu ra đó sao?

Thanh niên cụt hứng, nhăn trán, đang tính kế, thì vợ Tèo hớt hải chạy tới:

- Ông ơi! Ông sang nghe điện thoại.

Lão Ngang ngơ ngác:

- Cái gì?

- Điện thoại. Nhà con mới mắc hôm anh ấy về chơi. Anh ấy đang chờ nói chuyện với ông.

Trên cõi đời này đây là lần đầu tiên lão Ngang nghe điện thoại thì phải. Con cái lão về có máy cầm tay í ới suốt ngày, nhưng đấy là việc của chúng. Rồi chúng đòi đặt điện thoại bàn nhưng lão gạt đi vì lão chẳng biết bấm số và nghe ra làm sao. Lão theo vợ Tèo biến khỏi cổng, quên cả cảnh giác với anh chàng đang đứng trên sân. Một lát lão quay trở lại với vẻ mặt hồ hởi và đầy kiêu hãnh, làm cho chàng trai trẻ ngơ ngác. Giọng lão vui vui như con bò đực nhà lão bỗng nhiên đẻ ra con bê vàng: Thì ra thằng Tèo hàng xóm kia điện về. Anh ở chỗ nó chứ gì? Hắn hỏi ta là anh đã đến chưa? Ta hỏi lại hắn: Ai đến? Hắn bảo: Chàng kĩ sư trẻ người Thanh Giang- Thanh Miện ấy mà. Ta lại căn vặn hắn: Thế tên là gì? Hắn trả lời: Hoàng! Rồi còn gào lên như rót vào tai ta: Kĩ sư Hoàng đấy bố ạ!... Lão cứ thế cà kê một hồi chẳng thèm nghĩ chàng kĩ sư có sốt ruột hay không, rồi nói để cùng nghe chứ không phải là chất vấn ai: Thì ra anh là kĩ sư Hoàng! Mà tôi nhận ra rồi. Đúng là tôi nhận ra rồi!

Kĩ sư đã một lần chạm trán lão khi dắt bò nhà mình tới phối giống nên không lạ gì tính cách của lão. Anh kiên nhẫn và từ tốn hạ thấp giọng: Sao ạ? Ông cho ý kiến thế nào đi chứ ạ? Tự nhiên mồm lão đầy lưỡi làm âm thanh phát ra cứ lập cà lập cập: Thì...ờ...hờ...cũng phải để cho ta bàn chuyện với bà lão nhà ta đã chứ? Rồi như sợ chàng kĩ sư trẻ tức bực bỏ đi, giọng lão trở nên dứt khoát và oai hùng: Mà sao cứ đứng trên sân nói chuyện thế này nhỉ? Phải vào trong nhà chứ, xin mời, đoạn quay đầu gọi vợ: Bà nhà tôi đâu rồi?...Nhà có...kha...khách....a...a... khách! Âm thanh của lão kéo rõ dài. Con bò vẫn đứng trên sân chẳng hiểu ngẫu hứng nỗi gì, ngửa cổ, nhe răng, ò lên một thôi rõ dài. Ngu như bò mà lại!

Đau đáu Hòang Sa

Kính tặng các chiến sĩ Hoàng Sa, Trường Sa…

Lệ thường, ngày nào cũng vậy, lão Ban lại ra biển. Không nhìn thấy biển là lão cảm thấy sao sao ấy. Lão dễ nổi cáu với vợ. Chỉ cần nhìn thấy biển, nhìn ra ngoài khơi xa là lão mới dịu đi những cáu ghét của cuộc đời. Lão đi biển không phải để nhìn thiên hạ tắm, không phải tập thể dục dưỡng sinh, cũng không phải bông lơn chọc ghẹo những mụ hồi xuân. Lão nhìn biển như thể cho vơi bớt nỗi lòng của mình, khi chẳng biết tỏ cùng ai. Thường là lão đi một mình. Nhưng lần này lại khác. Lão cùng thằng cháu nội ra biển chơi.

Nhìn thằng cháu đang lượm những vỏ ốc, vỏ sò, những con sao biển, lão thấy hồn mình như nhập vào sóng biển. Vẫn tiếng sóng vỗ bờ, vẫn tiếng rì rào của đại dương, của hồn biển Đông muôn thuở. Vẫn đâu đây từ cõi sơ khai nước mặn, trời nồng. Bỗng thằng Phong - thằng cháu nội của lão - lên tiếng :

- Nội ơi ! Nội coi nè ! Vỏ ốc này đẹp quá, nội ơi ! - Vừa nói, nó vừa chạy tới khoe lão.

- Ừ ! Đẹp quá !- Lão khẽ nói.

Nhìn vỏ ốc trên tay thằng Phong, lão lại nhớ cái vỏ ốc mà lão đã tặng cho Vũ - ba của thằng Phong. Quá khứ ấy như hiện ra trước mắt …

Lão làm sao quên được cái ngày lão được nghỉ phép về thăm gia đình ở Đà Nẵng. Được trở về đất liền, được thăm vợ, thăm con - thăm cái thằng con trai, cái thằng con mà lão chưa biết mặt, lão cảm thấy sao quá tuyệt vời. Nằm thao thức, nghe sóng, gió mang vị mặn trong đêm, lão không ngủ được. Ngày mai là có tàu vào đất liền. Mừng thật ! Vui thật ! Nghĩ đến vợ con, lão lục tìm trong đầu nên tặng vợ, tặng con những gì ? Ở trên quần đảo này có gì ngoài phân chim, cát vàng, san hô, ốc biển…Tặng gì đây cho vợ, cho con ?

Vừa về đến nhà, lão chào mọi người. Vợ lão ôm chặt lão, khóc : “Sao anh không ở ngoài đó ? Anh về làm gì ?”. Lão biết vợ quá thương mình nên nói vậy thôi. Chính vợ lão đã khuyên lão ra đảo nhận công tác khí tượng kia mà.

Nhìn thằng Vũ nằm trên nôi, lão giơ hai tay ra, vừa vỗ vỗ vừa kêu lên : “Ba đây con ! Cho ba bồng tí !”. Thằng Vũ nằm trong nôi khóc ré lên. Thương con, lão muốn bồng con, ôm con. Nhưng mỗi lần lão bồng nó thì nó không chịu. Một bữa, vợ lão lo sắm sửa một ít đồ dùng để lão ra lại đảo, bèn giao con cho lão. Thằng Vũ cứ khóc, không chịu cho lão bồng. Lão lấy những thứ đồ chơi bằng nhựa cho nó chơi, nhưng nó vẫn không chịu nín. Cực chẳng đã, lão bồng con và dỗ. Lão kêu kêu, cười cừời ; lão làm đủ trò ; nhưng thằng bé vẫn cứ khóc. Khóc miết rồi cũng mệt. Mệt nên nó nín. Rồi nó đưa mắt nhìn lão, nhìn khắp phòng. Lão thấy mắt thằng bé nhìn các thứ để ở trong tủ gương như muốn khám phá điều gì đấy. Nhìn con, lão lấy làm lạ. Những thứ trong tủ có gì lạ đâu. Toàn san hô, ốc biển…, những thứ lão mang từ đảo về. Lão bồng con đứng trước tủ. Thằng bé cười - lần đầu nó nhoẽn miệng cười. Lão lấy mấy thứ nhỏ xinh cho thằng bé chơi, nhưng nghĩ lại, lão sợ thằng bé chơi, rồi nuốt bậy, nên lão cất. Thằng bé lại khóc. Cuối cùng, lão chọn cho con một con ốc to bằng nắm tay. Đây là con ốc lão lượm trên đảo đúng vào lúc nghe tin vợ ở nhà sinh thằng Vũ. Thằng bé cầm con ốc, ngậm vào miệng ra chiều thích thú.

Kể cũng lạ ! Từ khi chơi với con ốc, thằng bé lại muốn lão bồng, lão bế. Chỉ trừ lúc nó thèm sữa, còn thì nó đòi lão bồng chơi cùng con ốc cho bằng được. Nó cũng thích lão hát cho nó nghe, nó cũng thèm lão hôn nó…

…Lão vẫn nặng nợ với đảo. Đảo là nhà, là phần cuộc sống của lão. Những lúc thương con, nhớ vợ, lão chỉ biết ngồi trên bãi san hô nhìn vào đất liền. Làm sao lão quên được những hoàng hôn. Màu sắc kỳ ảo vàng đỏ tím xanh cả biển. Mặt trời lặn dần xuống biển như thể thiên nhiên đang cất giấu viên ngọc hồng vào trong rương vũ trụ. Chỉ còn thứ ánh sáng diệu kỳ trên biển. Và trong lão sáng lên thứ ánh sáng của đêm, thứ ánh sáng gia đình, quê hương…Lão thèm được nhìn vợ, nhìn con, nhìn những gì thân thương của mình. Lão quên sao được những lần đem thư của con ra đọc. Ngó thế mà thằng Vũ cũng đã lớn rồi. Học lớp 11.Thư gửi cho lão, lúc nào nó cũng nhắc đến con ốc mà lão cho nó. Cũng từng ấy câu chữ, nó cứ viết vào những lá thư gửi cho lão : “Ba biết không ? Bạn bè con, đứa nào cũng trầm trồ vì con có con ốc đẹp. Con đã từng khoe với bọn chúng là con ốc mang cả hình hài của quần đảo Hoàng Sa. Bọn chúng không tin. Nhưng con tin là thế !”.

Lão cũng tin là thế ! Lão tin quần đảo Hoàng Sa là máu thịt của quê hương. Làm sao lão quên được có lần lão đã dắt thằng Vũ về quê ở tận Quảng Ngãi. Trong lần giỗ chạp, ông tộc trưởng họ Đặng của lão đã từng nhắc rằng lão là kẻ hậu sinh đang kế nghiệp tiền nhân. Mở gia phả, lão rưng rưng đọc những dòng chữ ghi công tích của họ Đặng. Vua triều Nguyễn đã từng phái dòng tộc lão vượt đại dương trấn giữ Hoàng Sa. Lão cảm thấy như máu tiền nhân đang chảy trong cơ thể, tăng thêm nghị lực, tăng thêm tình yêu cho lão trên đảo Cát Vàng. Làm sao lão quên được lúc cúng tế, bà con tộc họ đã bỏ thức ăn, sau khi xong lễ, vào một chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối, thả xuống biển. Mũi thuyền hướng về Hoàng Sa như thể rằng Hoàng Sa không thể quên trong hồn người đã khuất. Trong tâm tưởng lão, lúc nào chiếc thuyền bẹ chuối ấy cũng lớn như những chiếc thuyền của dòng tộc họ Đặng, họ Trần, họ Lê…ở quê lão vâng lệnh triều đình, tiến thẳng Hoàng Sa…Trong lão như trỗi dậy những bài văn tế các thủy binh thời ấy. Nhận lệnh vua, nặng nợ nước nhà, buổi ra đi đâu dễ dàng. Sóng gió trùng khơi, thủy quái dẫy đầy, đến Hoàng Sa đâu dễ. Các thủy binh được tế sống lúc lên đường như thể rằng quê hương vẫn nặng nợ với những người con. Lão bùi ngùi, run rẩy như có ai đang bóp nghẹt trái tim. Lão khóc…

Và lão đã khóc rất nhiều khi nghe tin thằng Vũ hy sinh trên Trường Sa năm 1988. Lão không ngờ như vậy. Kỷ vật cuối cùng của con lão là quyển nhật ký. Lão đã đọc đi, đọc lại hoài. Những dòng cuối cùng lão như thuộc lòng : “Ba ơi ! Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu. Dẫu có hy sinh, con vẫn không hối tiếc điều gì vì đã thực hiện theo lời ba dạy.”. Đến giờ, lão vẫn không biết mình dạy con điều gì. Lão chỉ nhớ những việc làm, những tình cảm gắn bó với Hoàng Sa. Không biết có phải những điều ấy là lời lão dạy với con ? Có lần thằng Vũ cầm con ốc đố lão - lúc nó vừa thi xong tú tài : “Đố ba, trên mình con ốc này có gì ?”. Lão ngạc nhiên sao con lão đố như vậy. Nhìn con ốc, lão cười đáp : “Thì chỉ những chấm, những chấm màu vàng nâu”. Thằng Vũ cũng cười, nói : “Rứa con đố làm gì !”. Rồi nó chỉ từng cái chấm, hỏi lão có giống những đảo mà lão đã từng ở không, nhiều chấm có phải là quần đảo không…Và rồi nó kết luận : “Trên mình ốc có in hình quần đảo Hoàng Sa”. Kể cũng hay hay. Từ đó, nó để con ốc vào chỗ trang trọng nhất. Khi nhập ngũ, đi bộ đội hải quân, nó xung phong đi Trường Sa. Lão không gàn con. Nó cũng có tình yêu đảo như lão kia mà !

Kể từ ngày thằng Vũ mất, lão như mất hồn. Cứ những đêm rằm, mồng một, lão lại ra biển. Dù nắng, dù mưa, lão vẫn ra biển thắp ba cây nhang hướng về Hoàng Sa, Trường Sa mà vái. Ngoài kia, những con thuyền thả lưới, những chiếc tàu đánh bắt cá sáng rực những ánh đèn như thành phố nổi trên biển. Trước mắt lão hiển hiện những ngư dân cần mẫn, chăm chỉ, chịu khó chịu thương. Trước mắt lão hiện lên những chàng trai giữ đảo, có cả hồn của những người như con trai lão cùng tiền nhân giong thuyền xuôi ngược biển Đông. Nhiều lúc lão lẩm bẩm một mình như đọc thơ về Hoàng Sa…

Và rồi thành phố Đà Nẵng bổ nhiệm Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Lòng lão trỗi dậy thứ tình yêu biển đảo mà bấy lâu nay ẩn trong tiềm thức. Người họ Đặng hôm nay lại nối tiếp họ Đặng, họ Trần, họ Lê… ở quê lão, như cái thuở cha ông vâng lệnh triều đình ra đảo, gánh trách nhiệm với Hoàng Sa. Lão thấy mình như trẻ lại, khỏe lại và vui hơn. Không vui sao được khi đất đảo quê hương được nhắc đến ? Không vui sao được khi có người dám nhận trách nhiệm nặng mang ? Lời thằng Vũ trong nhật ký sáng rực trong tâm trí lão : “Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu…”.

Tiếng thằng Phong như đánh thức lão :

- Nội ơi ! Mai con phải vào thành phố Hồ Chí Minh.

- Ở thêm ít ngày, được không ? - Lão hỏi như trách .

- Con phải vào để thầy hướng dẫn làm luận văn .

- Thế thì phải vào thôi ! Mà này, con làm đề tài gì ?

- Dạ ! Con làm đề tài về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong mối quan hệ với biển Đông.

Trầm ngâm một lúc, lão lên tiếng :

- Gay đó con ! Nhưng phải gắng thôi.

- Dạ ! Con nghe lời nội.

Hai ông cháu cùng dắt tay xuống tắm. Nước biển tắm mát cơ thể lão, cơ thể cháu lão. Nước biển Mỹ Khê giống như nước biển Hoàng Sa. Lão nghe mằn mặn bờ môi. Lão đứng lên. Mặc từng cơn sóng đổ trên người, lão nhìn ra xa khơi. Đau đáu là Hoàng Sa trong nỗi nhớ…

Con heo gàn dở

Thế là mọi sự bắt đầu từ chuyện con heo mà vợ tôi mua cách đây sáu tháng.

Những ngày đầu, chuyện con heo đối với vợ chồng tôi thật là hạnh phúc. Góp nhặt, bòn chắt, cả hai đứa tôi đều mơ ước sẽ nuôi heo để đến Tết giết thịt. Từ ngày hai đứa lấy nhau đến giờ, chưa có năm nào chúng tôi phải lo chuyện thịt bánh. Nhưng năm này trở đi phải khác chứ ! Không lẽ cứ bám riết ông bà già hai bên. Một lần thì được. Hai lần cũng cho là tàm tạm…Không lẽ đến lần thứ chín, thứ mười ! Nhất quyết phen này phải nuôi heo cho bằng được. Có heo, chúng tôi tính như thế này : giết thịt nó trong những ngày giáp Tết, chia bớt ba đùi, mình cũng còn lại một đùi, cái đầu, bộ lòng cúng tất niên. Thật là tuyệt !

Con heo lúc vợ tôi mới mua về nặng khoảng năm ký. Mới nhìn, bạn không chắc nó là heo đâu. Giống con chó con có lông thưa trắng thì đúng hơn. Nhiều anh bạn đến xem tôi khoe heo đã nói đùa : “Vợ chồng mày mua heo về để giữ nhà chắc ?”. Chuyện đùa của các anh bạn ấy, tôi ngẫm đi ngẫm lại thấy đúng thật. Không phải heo giữ nhà mà là tôi. Cứ ngày này qua ngày khác, bữa nọ qua bữa kia, những ngày lên lớp dạy thì khác, còn thời gian rảnh là tôi bám riết lấy con heo để mà tắm rửa, kỳ cọ, cho ăn. Lúc nào con mắt tôi cũng quan sát kỹ nó như thể mỗi lần tôi hướng dẫn học sinh lĩnh hội bài giảng khi tôi sử dụng đồ dùng dạy học. Tôi siêng nhìn ngắm nó vì các cụ bà khuyên tôi phải như vậy để heo mau lớn. Tôi ao ước có phép thần đun ống đu đủ thổi nó phồng to lên. Chứ cái kiểu nuôi heo như tôi chắc có ngày phải giải nghệ.

- Sao ? Suốt ngày tôi nghe anh lằm bằm chuyện heo. Bộ mình anh mệt chắc ? Ăn rồi suốt ngày cứ bám riết lấy mấy quyển sách thì được. Cho heo ăn ngày có bữa cũng cho thế này thế nọ. Nuôi nó cho mình tôi ăn chắc ! Sách, sách, ngày nào cũng sách !

Nghe vợ cằn nhằn, tôi cảm thấy sợ chuyện heo chi lạ ! Tôi mê sách thật đấy, nhưng cũng vừa thôi. Cũng phải mê vợ, mê con chứ, phải không các bạn ? Mà sách tôi đọc những ngày này đâu phải là những cuốn tiểu thuyết dày cộm, đồ sộ, nổi tiếng, cũng chẳng phải là những triết thuyết mới mẻ, hay ho, mà là tôi đọc phương pháp nuôi heo mau lớn. Và kể từ đó, tôi chạy lăng xăng, lưới xưới tìm thức ăn thức uống giàu dinh dưỡng cho heo. Nào là cám, rau xanh, đường, dầu, cá, vị tinh… đều tẩm bổ cho heo. Thế mà con heo ôn dịch vẫn trơ trơ không chịu lên cân.

- Không đọc sách một bữa ăn không ngon à ? Anh nhìn xem, khối người có thèm rờ tới sách đâu mà người ta vẫn sướng ! Sách đọc nhiều có no được bữa nào không ? Suốt ngày, sách với vở !

Thế là bùng nổ chiến tranh trong gia đình tôi. Bộ mặt hai vợ chồng tôi kéo những đám mây tích điện về trang điểm. Không khí nặng trình trịch. Từ miếng cơm nhai chẳng thấy ngon, tới lời nói chẳng thèm muốn nói. Cũng tại con heo ôn dịch. Tôi bắt đầu nghĩ miên man về chuyện heo quéo. Nếu không nuôi nó thì vợ chồng tôi đâu có cãi vả nhau. Nếu không nuôi nó thì chắc trong nhà tôi luôn vang lên điệu nhạc “anh anh em em” ?

Tôi lấy sách ra đọc, còn vợ tôi lên giường nằm. Chúng tôi chẳng tha thiết gì đến chuyện cho heo ăn thêm bữa như lệ thường.

Đến 9 giờ tối, tiếng heo bắt đầu kêu. Vợ tôi vẫn nằm, và tôi vẫn cứ đọc sách. Tiếng heo kêu mỗi lúc một to. Không còn réo gọi mà là tru tréo. Tiếng heo kêu như mũi kim nhọn chích vào màng nhĩ người ta, như cào xước mặt người ta. Tôi giả đò đọc sách, bỗng giật mình.

- Kêu này ! Kêu này !... Mỗi tiếng “kêu này, kêu này” vang lên là tôi nghe tiếng cây nện trên lưng con heo khốn kiếp.

Tôi vẫn cứ giả đò đọc sách. Những ngày đông chí lạnh. Và lạnh nhất là cuộc chiến tranh vì con heo.

Sáng dậy, vẫn còn giận, tôi đi dạy thật sớm, bỏ mặc con heo cho vợ…

Tiếng pháo giao thừa rộn nổ. Tôi châm lửa đốt dây pháo Nam Ô chính hiệu dài 2 mét. Đợi tan khói pháo, đợi dứt lễ Hành Khiển, vợ chồng tôi ngồi bên bàn trà cắn hạt dưa, ăn mứt… Tất cả các thứ sắm mừng Tết đều nhờ vào con heo.

- Anh thấy không ? Mình nuôi heo cũng lợi anh nhỉ ? - Vợ tôi nhìn tôi với đôi mắt sáng rực như cả mùa xuân đang tràn vào mắt cô - Năm mới, mình tiếp tục nuôi heo chứ anh ?

- Ờ.

Tôi ậm ờ trả lời.

Pháo mừng xuân mới vẫn còn rộn nổ.

THIẾN SÓT (*)

Truyện Ngắn

(Tưởng Nhớ Hoàng Xuân H…10 năm  về cõi vĩnh hằng)

Vài lời phi lộ của tác giả:

Thấm thoát đã 10 năm bạn tôi Hoàng Xuân H – ra đi về cõi vĩnh hằng (23 tháng chạp năm Nhâm Ngọ – 23 tháng chạp năm Nhâm Thìn). Cái chết tức tưởi của bạn làm tôi phân vân trước lí thuyết Tướng số , Nhân quả, Tái sinh khi những hiện tượng kì lạ vẫn thường xuất hiện đây đó trong cuộc sống hàng ngày mà không thể giải thích được…Tôi đã’’chép’’ hầu như nguyên vẹn sự kiện xẩy ra với H… (nhân vật Hoàng) – ở cái tết mưòi năm trước. Từ không gian, thời gian sự việc, hành động trong truyện đúng như những gì tôi được nghe H… kể lại trước khi đột ngột về với cát bụi trong một tai nạn thảm khốc…

Truyện Thiến Sót phản ánh chân thực sự việc đã xẩy ra đối với H (nhân vật Hoàng), tôi chỉ xắp xếp về văn phong cho khỏi’’thô, ráp’’ nhằm đạt được tiêu chí của một Truyện Ngắn!

Đã nhiều lần tự hỏi lòng :  Có’’Ma Gà’’ , không ? Liệu trong đám… Gà kia có những’’linh hồn Người’’ –  nhập vào, đi đầu thai chuyển kiếp, bạn tôi đã ngăn trở niềm hi vọng của họ ? Kết quả oan hồn tích tụ –  biến thành Ma – trả báo người bạn tội nghiệp kia – chăng?…

xxx

Tết đến, hầu như mọi gia đình người Việt, mọi bếp Việt đều làm mâm cỗ có thịt gà, bày lên bàn thờ cúng gia tiên. Con gà đối với đời sống dân ta thật gần gũi, thân thiết.. Chính vì vậy , khi bị dịch cúm H5N1, khi thị trường – vì lí do này hay khác – không cung cấp đủ thịt gà cho nhu cầu tiêu thụ, khiến cái tết của dân gian giảm đi sự kính cẩn, thoả mãn. Xung quanh chuyện ’’con gà’’ đã xẩy ra khá nhiều điều đáng suy nghĩ…

Xin kể một trong vô số chuyện đó !    

Đồng nghiệp Hợp tác lao động của tôi – vốn sinh ra, lớn lên ở một huyện trọng điểm lúa của tỉnh Nam Định. 20 năm đầu của cuộc đời, anh  ở quê với bố mẹ. 15 tuổi đã phải cùng cha, anh kéo cầy, kéo bừa thay trâu vì sau Cải Cách Ruộng Đất (1957), làng anh trâu chết khá nhiều khiến thiếu sức kéo, dân nghèo phải thay trâu làm cái việc cần thiết để cắm cây lúa xuống ruộng, đến mùa có thóc, có gạo mà chống đói.

Năm 1962, tròn 20 tuổi, anh Hoàng – tên ông – xung phong đi nghĩa vụ quân sự . 14 năm coi kho ở trong rừng Trường Sơn, anh trở thành ”người rừng” đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bù lại – vì để giải trí cho đỡ buồn trong những ngày cùng 2 đồng đội sống trong rừng – anh lấy săn băn làm thú vui, giải trí. Và thế là chim, gà, lợn, hoẵng ở một góc rừng Trường sơn đã là nạn nhân của Hoàng. Chúng mang thân mình để giúp anh trở thành nhà thiện xạ môn bắn nỏ. Nỏ tự chế -chứ không phải súng. Bởi vì giữ bí mật tuyệt đối cho kho quân trang quân dụng, cấp trên nghiêm cấm nổ súng nếu không phải bị kẻ địch tập kích.

Cuộc chiến tranh gian khổ kết thúc (1975), năm sau ông Hoàngđược chuyển ngành.

Đi lính chỉ biết tìm kế giết muông thú, văn hóa mới hết cấp 2, bây giờ thì ngại học, căn cứ nguyện vọng, chế độ ưu tiên, cơ quan Quân lực cho ông chuyển về ngành Lâm Nghiệp vì biết ông đã từng nhiều năm ở rừng (Chắc là anh này hiểu rõ về rừng – họ nghĩ thế). Nhưng cơ quan chủ quản không thể bô trí ông vào đâu, ngoài phòng bảo vệ văn phòng Tổng công ty. Nói cho có vẻ oai, thực ra đó là anh lính gác cổng không quân hiệu. Tuy vậy, ông vẫn vui, hào hứng chẳng khác nào hai lần trước: Cầm quyết định đi Nghĩa vụ quân sự và lên đường vào rừng sâu coi kho. ”Ngồi trong rừng ngắm cây chán rồi, bây giờ được ngồi giữa phố phường ngắm… Người – cũng thú ” – ông tự an ủi mình.

Tưởng cứ thế trôi tuột 20 năm thứ 2 của cuộcđời. Nhưng giữa năm 1981, nhà nước có chủ trương cho công nhân viên đi Hợp Tác Lao Động ở 4 nước XHCN Đông Âu. Biết tin, tự dưng trong đầu ông Hoàng xưất hiện ý nghĩ : ”Sao minh không đi một chuyến cho biết đó biết đây. Ở mãi cái chòi gác này – (ông gọi phòng thường trựcở cổng cơ quan như vậy) – cứ mụ mẫm cả đầu. Đi, vừa được biết xứ Tây làm ăn ra sao… lương bổng chắc khá hơn.. lại không sợ người ta đuổi về quê tiếp tục ”theo đít trâu” (đi cầy) – khi mà cơ quan văn phòng đang gióng lên hồi chuông giảm biên chế!

Chưa kịp lên gặp lãnh đạo bầy tỏ nguyện vọng, trưởng phòng Lao Động – Tiền lương đã đến tận ”chòi gác” gợi ý cho đi. Thế là đầu năm 1982, ông vác ba lô lên đường đến đông Đưc (DDR) Hợp Tác Lao Động.

Hai mươi năm thứ 3 của đời ông bắt đầu như thế.

Trong môi trường mới, ngoài giờ lao động ở xưởng, cánh thợ trẻ đua nhau tập tễnh ”buôn thúng bán bưng”. Ông Hoàng thấy ”hay hay” cũng bắt chước. Thay vì may quần áo bò đóng Mác giả, đổi ngoại tê USD, D. Mark ăn chênh lệch – cho dân bản xứ… Ông quyết định”thi triển” ngón nghề tuyền thống của mình: Đến lò mổ của thành phố‘’khai thông nguồn hàng’’ bằng chai rượu Vodka Nga. Người quản đốc niềm nở đón tiếp ’’đối tác’’ vì đã giúp mình xử lí đám vật dụng phế thải. Họ vui vẻ thoả mãn yêu cầu của Hoàng : Sáng sớm thứ 5 hàng tuần cấp cho ông dăm cỗ lòng lợn, tiết , dạ con – đã được ông hướng dẫn thợ mổ ’’hãm’’ đúng kỹ thuật, đựng trong can nhựa đủ dánh tiết canh, tiết luộc và nấu cháo lòng phục vụ đồng hưong của mấy khu tập thể người Việt. Món ăn khoái khẩu chế biến từ lòng lợn đã nhanh chóng ”thu phục” tất cả gìa trẻ lớn bé người Việt trong vùng.

Lúc đầu chỉ là đáp ứng sự khoái khẩu, ít lâu sau họ đâm nghiện, trở thành nhu cầu hàng tuần của những người vốn đã ngán các loại thịt . Ông Hoàng trở thành ”Thợ” và biệt danh Hoàng Tiết Canh xuất hiện từ đây. Điều thú vị hấp dẫn ông ngày một mạnh từ lòng lợn – thứ dân Đức cho là phế thải – chính là khoản tiền chế biến ’’Phế thải’’, tiền thu được trong 2 ngày cuối tuần bằng lương đi làm cả tháng.

Năm 1990 nước Đức thống nhất. Không như nhiều người khác nhận tiền bồi thường tự nguyện trở về Việt Nam, ông Hoàng vẫn trụ lại tạo dựng cơ nghiệp . 1992 đưa vợ và 4 con – hai trai hai gái – sang sống cùng. Có an cư mới lạc nghiệp, ông luôn tâm niệm đạo lý này. Nghĩ thì như thế, nhưng từ suy nghĩ đến thực hiện còn một khoảng cách. Hai vợ chồng 4 đứa con, có hai đứa gái đã lớn, không thể không có buồng riêng cho chúng. Thế mà tìm được căn nhà 4 buồng tiền thuê không dưới 1500 Mác một tháng. Tính nhẩm, so sánh : Mỗi tháng tiền thuê nhà quy ra xấp xỉ 1000 USD, hơn 2 lượng vàng. Một năm… mười năm… ôi chao số tiền, số vàng đâu ít. Nếu để ra, tích luỹ hay biết bao ! Lại nữa, được sống trong căn nhà của mình… ở đâu thì đầu tư vào bất động sản cũng lãi nhất. Ông quyết định mua nhà !

Một người bạn, mách, có mảnh đất hơn 1000 mét vuông cùng ngôi nhà cổ muốn bán. Hơn 10 năm lao động, tháo vát, tằn tiện, đã để ra ít tiền. Hợp ý nghĩ đang nung nấu trong đầu – ông tức tốc đến xem mảnh đất kia.

Khu đất vuông vắn, nằm sát cạnh bến xe Bus.

Nhà tuy cũ nhưng tường mái còn khá tôt, ngoài tầng ngầm và tầng áp mái, tầng 1 có một phòng chính có thể làm cửa hàng. Tầng hai – 6 phòng, đủ chỗ ở cho vợ chồng con cái . Ông đã vừa ý, đi ra vườn xem: Khi đứng giữa vườn, thọc bàn tay cứng như lưỡi mai xuống đất rồi nâng lên, nắm nắm lai như nắm cơm. Vốc đât nhiều như thế mà sau 3 lân chim chim – chỉ còn một cục to bằng qủa trứng vịt. ”Chà… chà…” – ông tấm tắc ca ngợi chất xốp của đất này.

Đưa mắt lia nhìn qua hàng rào – ngay bên cạnh cổng vào – người đến chờ xe Bus đông nghịt. ”Nhất cận thị, Nhị cận giang” – Ông Hoàng nghĩ vội tức tốc kí kết ngay hợp đồng mua với chủ. Chỉ sau 4 tuần chạy đôn chạy đáo, vay mượn thêm… vợ chồng cùng đàn con đã chuyển về nhà mới.  Tuy gía mua đắt hơn so với chỗ khác làm vài bạn chê , ông Hoàng gạt phắt :’’Tiền nào của nấy – Đắt xắt ra miếng’’ – rồi các ông xem !…

Có đất, có nhà, việc đầu tiên – tiếp tục thực hiện kế hoạch : Vay thêm đám bạn ít tiền, sửa chữa tầng trệt thành cửa hàng dạng Bách hóa tổng hợp: Phần bên trái bày bán quần áo đồ chơi trẻ em, đồ  lưu niệm. Phía bên kia đối diện – bán nước uống, rau hoa qủa, đồ hộp, khô. Khoảng trống ngay cửa ra vào được trang hoàng đẹp để bán cà phê, đồ ăn điểm tâm phục vụ dân buổi sáng đứng chờ xe Bus đi làm. Địa điểm này nằm ở rìa thành phố, quán hàng là loại ”bách hoá”, cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho cư dân nên khách mua ngày một đông. Chỉ sau 2 năm chăm chỉ, tằn tiện, chẳng những mọi khoản vay đã trả hết mà còn dư thừa tích lũy.

Vào thời điểm những năm giữa thập niên 90 của thế kỷ 20, nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng quần áo may sẵn gía rẻ của người Đức gốc nước ngoài tăng lên. Một số người Việt có tiền vốn, nhậy bén trước thời cuộc, quyết định hùn nhau mở một trung tâm buôn bán để thoả mãn các loại khách hàng không khó tính, túi tiền chưa được rủng rỉnh. Ở Trung tâm này không thể thiếu cửa hàng thực phẩm châu Á. Dạo đó một ký mồng tơi, rau đay, các loại rau mùi… phải nhập từ Thái Lan, đắt ngang 1 kg thit lợn thăn, thit bê (1). Ông Hoàng nhận ra ngay vấn đề… lặng lẽ bay về thăm nhà rồi thực hiện ý đồ. Chỉ trong vòng 2 tuần vừa ăn tết vừa chuẩn bị, khi trở lại Đức đã có trong tay tất cả những hạt rau – thứ mà dân ta bên châu Âu rất ưa thích.

Lúc đầu gieo trồng cũng không suôn sẻ vì thời tiết, thung thổ… Sau vài vụ thất bát, ông chuyển sang ”thâm canh” và thành công, trở thành người cung cấp rau tươi châu Á cho các cửa hàng bán lẻ trong vùng. Rau muống, mồng tơi, rau đay và những thứ rau thơm – dễ héo hỏng trên đường vận chuyển từ châu Á sang, giờ không còn là món ăn cao cấp đối với người Việt. Điều thú vị hơn: Rau ông trồng do lấy giống từ bên nhà sang nên mùi vị thơm, đậm đà hơn hẳn rau nhập từ Thái Lan, Hà Lan. Quan trong nhất: Gía bán ha xuống chỉ còn một phần ba. Các chủ hàng thấy lợi bèn bỏ hợp đồng cũ, ký ngay hợp đồng ”Cung cấp rau tươi” với ông. Mảnh đất trồng rau được trang bị hiện đại, chăm bón đúng quy trình kỹ thuật của ngành trồng trọt Hà Lan… cộng với bí quyết trồng rau – mà từ bé ông đã học được kinh nghiệm của bố mẹ hồi ở quê nhà… Kết qủa chất lượng, sản lượng rau trong mảnh vườn gần 3 sào kia được thực hiện luân canh khiến sản lượng – tăng vọt. Ông chủ giầu lên nhanh chóng.

Để cung ứng kịp thời và thoả mãn nhu cầu cho bạn hàng, cứ vài ngày ông lại đảo qua Trung tâm – Siêu thị – vừa thăm bạn vừa nghe ngóng, thu thập ý kiến của họ nhằm phục vụ tốt hơn.

20 tết Nhâm ngọ 2002, ông đến mua sắm tết. Trước cửa ra vào có đông người tụ tập, mỗi người cầm một túi nặng. Thấy hơi lạ, ông hỏi một người đàn bà trên tay xách 3 túi hàng, chị kia đáp hối hả: Gà trống có đầu, mào to… 2 kí lô… bác vào nhanh…

- Tưởng gì – ông vỡ lẽ, tiến đến sát quầy hàng, nhin vào: Trong chiếc thùng lớn chỉ còn lại mươi con gà đã làm sạch. Con nào con nấy nguyên vẹn cả đầu, chân, mào to. Cậu bán hàng – là chỗ quen biết – thấy ông vội đon đả: Bác mua đi kẻo hết, trên 2 kí lô cả đấy.

- Có gì mà quan trọng thế. Trong Metro đầy (cửa hàng bán buôn) – ông nói đại.

- Ô, bác nói thế nào ấy chứ. Trên nước Đức làm gì có bán gà trống, cả đầu, chân, trong bụng có nguyên cả cỗ lòng…(2)

- Ờ…đúng… – ông vờ… vỡ lẽ, chữa thẹn – bao nhiêu tiền môt con?

- 20 Đê (D.Mark).

- Đắt thế? Gấp 4.

- Nếu bác có, cửa hàng sẵn sàng nhập với gía 18 D.M/con, nhưng phải từ 2 kí lô trở lên. ”Một gợi ý hay”. Trong đầu ông vụt loé sáng… Vừa lúc tốp gần chục người nữa tiến vào, ông nhặt vội một con, tốp người kia nhặt nốt những con cuối cùng.

Đúng là lần đầu tiên mua được con gà trống nguyên vẹn to như vậy. Bà vợ nhìn thấy còn vui hơn, nhưng trách – Sao không mua mấy con.

- Ôi. Đắt qúa. Gà nào mà chả cúng được. Tuy nói cho qua nhưng khi bà vợ luộc con gà kính cẩn đặt lên bàn thờ, ông mới thấy tiếc. Cạnh mâm ngũ qủa, con gà trống da vàng rượm, đầu ngênh ngênh trên mỏ cắm thêm bông hoa hồng bằng nhựa đỏ tươi.. Hai chân đệm dưới bụng, nằm bệ vệ trên chiếc đĩa đường kính 35 phân, Hai bên hông gà đặt 2 đĩa xôi gấc đỏ, cặp bánh chưng, cây giò lụa, hai khoanh chả quê cùng chồng mứt tết, mấy chai rượu vang đỏ, trắng. Đèn nhang nghi ngút. Gà vàng, xôi gâc, chả quế đỏ, bánh chưng xanh… khi đứng thắp hương, nhìn – ông mới cảm nhận được tâm trạng của những người sẵn sàng bỏ số tiền hơn 4 lần để mua con gà về đặt lên bàn thờ trong ngày trọng đại cuối năm.

Chợt như nhớ ra, ông kính cẩn vái 3 vái, miệng nhẩm khấn đoạn đi sang buồng khách bấm số điện thoại. Đầu bên kia có người nhâc máy. Ông Hoàng noí oang oang bằng tiếng Đức không mấy sõi: Tôi cần mua ngay vài trăm gà trống, loại từ 2,5 Kg trở lên. Có không?

- Không. Cả gà mái thì có thể. Nếu 10 ngày sau thì được – người kia từ chối.

Ông Hoàng tư lự dây phút: Còn ba ngày nữa là Táo quân chầu trời. Mùa này ở Đức lung mua cá chép tươi hơi khó, dân ta đành dùng gà thay thế. Tuy còn phân vân về gà mái gà trống. cuối cùng ông chép miệng – ”Trống, mái đều được, miễn là tươi, gà có đầu, có lòng” – ông vội tiêp: Gíađổ sô bao nhiêu ?

- 4,5 D.M. Nếu mua từ 100 con trở lên. Mang đến tận nơi, thêm 0, 5 D.M/ con.

- Phải đảm bảo không dưới 2,5 Kg/ con – đấy nhé.

Bạn cam đoan.

Ông Hoàng cúp máy, quay số khác gọi tiếp cho những cửa hàng bán buôn bán lẻ thông báo, ướm hỏi… bạn hàng đều đồng ý nhập. 30 phút sau mọi việc ổn thoả, quay ra thu dọn, che chắn, chuẩn bị cho nơi tập kết hàng. Một ý nghĩ thoáng qua… ông chậc lưỡi gạt phắt trước món lợi một vốn bốn lời – ”Chỉ trong vòng 1 đêm chắc không sao” !

Khi công việc chuẩn bị vừa xong thì chiếc xe chuyên dụng của ông chủ trại gà cũng táp vào trước cổng. Gà lần lượt thả vào góc chuồng, góc kia có mấy chục con do ông đang nuôi. Tất cả mọi nhân lực hiện diện trong nhà đều sẵn sàng đợi lệnh của ông chủ.

Trời bắt đầu tối.

Mùa đông ở châu Âu tối rất nhanh. Căn phòng này rộng, được cấu trúc đặc biệt, khi cần có thể thay đổi chức năng. Ông cho bật đèn sáng trưng, hối thúc các con trai gái, dâu, rể tương lai – tổng cộng 8 người – bắt tay vào việc. Đầu tiên là cắt tiết làm lông. Giống gà nếu chết rồi mà tiết vẫn còn trong cơ thể, khi luộc chín, thịt sẽ thâm không đẹp, ăn tanh, không ngon. Mỗi con vẫn phải hấng lấy tiết để luộc, kẹp vào cỗ lòng cho đủ bộ, thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật giết mổ, đáp ứng sở thích của khách hàng.

Thế nhưng mọi tính toán chi tiết khoa học đến mấy, trước những biến động ngoại lai có khi cũng làm người ta bị động. Trong số 40 con gà đang nuôi, có 10 con trống do đích tay ông mới thiến với mục đích để giữa năm sau làm cỗ cươi cho con gái. Còn 10 con trống nguyên nuôi để cho 20 con mái lấy giống gà con. Tai hại là trong này có mấy con thiến sót. Cái giống thiến sót rất kỳ la. Lúc ”tính mái” thuần thục thì chú thiến sót nhà ta hiền lành, chẳng quan tâm đến xung quanh. Có khi đang ăn, mấy con mái ”đành hanh” đến tranh ăn, mổ… chàng thiến sot cũng quay người bỏchạy.

Lúc ”tính trống” trỗi lên chàng ta cố gắng chưng tỏ ”Namnhi đại trượng… Trống”, do vậy các biểu hiện bên ngoài thể hiện rất rõ: Lừ lừ, gườm gườm đi đên cạnh con mái, duỗi chân gạ… đạp. Nhưng chỉ có đến thê chứ không hơn. Có luc chú ta lại dạng chân vươn cổ, gật gù… gáy. Khốn khổ,tiếng gáy có ra tiếng gà trống đâu, nghe khè khè… ẹt… ẹt… vì chỉ còn sót lại tí chút… Trống – nên gịong đã biên dạng .

Như đã nói ở trên, gian chuồng gà đã che kín bưng, ông Hoàng cho bật 2 ngọn đèn cao áp thủy ngân 1000 wat sáng như ban ngày. Chú thiến sót thấy đông, ồn ào xung quanh, tưởng đã sáng, dạng chân vuơn cổ gáy. Những con Trống thuần chủng dường như nhận biết ra. Thoạt tiên vài con loại ít cân nhất – ”Trống choai” – trong đám, ngẩng đầu, mắt chớp chớp rồi như tưc mình – ”Thằng nào gáy vậy mà cũng học đòi. Nghe đây – Ò óo… oooo…”.

Chà, gáy thế mới là gáy chứ!

Khi tiêng gáy thư thiệt cât lên, làm náo động cả đàn . Ngạn ngữ noi chẳng sai ”Gà tưc nhau tiếng gáy”. Thế là những con khác ngểnh cổ, dạng chân, đầu gật gù tranh nhau, thi nhau, nối tiếp nhau đáp lại. Âm thanh của những tiếng gáy thứ thiệt, của những chú trống choai, trống vừa, trống gìa ”Originan” cất lên làm náo động cả một đoạn phố…

Lúc này đã 12 giờ đêm, dân cư trong vùng bắt đầu yên giấc. Ông Hoàng tái mặt, lo sợ… lo sợ hơn cả những lúc trong đời đã từng gặp nỗi lo sợ. Luật của nước Đức rất nghiêm. Người ta quy định rõ những nơi được, không được phép nuôi, giết mổ gia súc trên quy mô lớn. Trong tuần chỉ từ thứ 2 đến thứ 6 được ”ồn ào vừa phải” từ 9 giờ sáng đến 8 giờ tối. Bây giờ, chủ nhà đã phạm cả hai lỗi: Mất vệ sinh, làm ô nhiễm môi trường và ồn ào. Hốt hoảng, ông hô vợ con:

- Bỏ mọi việc, ngăn cản không cho chúng gáy.

Bà Hoàng và đám con cái không biết làm sao để chỉ huy cho gà không gáy… đâm lúng túng chưa biết phải làm gì … ông Hoàng chợt nghĩ ra, hô tiêp:  Cắt tiết… không kịp… đập chết những con gáy đi!

Hai ông anh vợ cùng hai chú em rể tương lai thi hành lệnh răm rắp.

Gía lũ gà biết sợ như người thì đã đi một nhẽ. Đằng này chúng tỉnh bơ, cứ… gáy… gáy! Ông Hoàng sốt tiết quơ thanh gỗ dựng trong góc phòng, nhẩy tót vào giữa đàn gà – (suýt dẫm chết mấy con mái đang lớ ngớ dương mắt chớp chớp với vẻ ngạc nhiên – nhìn…) – vung thanh gỗ nhằm những con trống đang vươn cổ, xoè cánh sắp gáy – phang vào đầu. Nhiều con vỡ sọ tắt lịm. Có con rất ”quái”, khi thanh gỗ vừa tới gần, nó đã thụt đầu xuống, chúi vào cánh, vào háng con mái đứng bên cạnh. Con mái dường như chưa biết chuyện gì xẩy ra cứ đứng nguyên, loạng choạng – kẹp đầu chàng trống kia dưới đùi, dương mắt chớp chớp nhìn. Nhát phang thât có nghệ – đầy ”chưởng lực âm nhu” – nhìn chỉ như phẩy ruồi, ấy thế mà (con trống đã tránh) – nhát phang trúng đầu con mái, kêu đánh rộp… óc tứa ra …

Vẫn không thể ngăn kịp những con khác. vả lại không cắt tiết xuể. kịp – ông Hoàng quát: Lấy sợi chun thít cổ những con gáy lại, tiếp tục cắt tiết. Nhanh! Nhanh lên!

4 chàng trai hùng hục lao đến chỗ để dụng cụ đồ nghề, chộp nhanh nắm dây chun – được nền công nghiệp hiện đại Đức chế tạo, tuy nhỏ nhưng dai, bền một cách đặc biệt – thi hành lệnh, gọn, chuẩn xác.

Những con gà tội nghiệp chẳng những không thể kêu, gáy mà chỉ còn dẫy dụa, nghẹt thở, chưa chết nhưng lịm dần. Đống gà chợt chộn rộn… có con ngắc ngoải nên phát ra tiếng kêu….  

Phải đến mệnh lệnh này ông Hoàng mới dẹp được cuộc đua nhau gáy của lũ gà. Cũng may bọn chúng mới chỉ gáy được ít phút lại bị ngăn cản. Chuồng được quây kín, dân xung quanh chưa kịp thức giấc, chưa kịp nổi xung vì có anh hàng xóm phá rối giấc ngủ mà gọi điện cho cảnh sát. Sự náo động chưa đủ đánh thức xung quanh…

Đột nhiên trong đống gà có lẽ có con sức sống qúa mãnh liệt, nên vẫn có tiếng chộn rộn…Cũng có thể chiếc dây chun nào đó bị đứt lỏng khiến một số con dẫy đành đạch, kêu ẹt ẹt… Có hai con đang nằm bật đứng dậy , chiếc dây chun quấn quanh cổ lòng thòng , há mỏ từ trong phát ra tiếng khò.. khè, the thé, rớt rãi chảy ra… Sợ chúng lại làm ồn, một’’đồ tể’’ vôi ban cho bọn nó’’nhát phang …ân huệ’’ !

Những người còn lại túm cổ từng con cắt tiết rồi vất vào chiếc bồn tắm cũ, cô gái mở van nước nóng. Vài phút sau quy trình : Vặt lông, mổ moi, làm lòng – diễn ra…

Khung cảnh tĩnh mịch của đêm trường trở lại.

Bây giờ ông Hoàng mới hết sợ.

Tuy nhiên ông thở hồng hộc như vừa qua cuộc kéo cầy trong miếng ruộng khô, hồi hơn 40 năm trước ở quê nhà. Ông gieo mình xuống chiếc ghế để ở góc chuồng gà, thởrốc…

6 gìờ sáng, gần 200 con gà làm xong, đưa vào bao nilon, chất trong kho lạnh để 8 giờ các cửa hàng đến lấy phục vụ bà con ta trong ngày cúng ông Táo lên chầu trời – 23 tháng chạp.

Cánh trẻ tắm rửa rồi tranh thủ lên giường ngủ bù lấy lại sức sau một đêm làm việc cật lực.

Ông Hoàng vẫn gật gù bên chai rượu ngũ xà.

Chỉ còn bà Hoàng ngồi bên tiếp rượu, gắp thưc nhắm cho chồng. Khi nâng chén rươu thư 5 uống một ngụm, ông hướng vào vợ dè dặt: Bà có mệt không?

Bà Hoàng lắc đầu.

Ông nâng ly rượu tợp hết, giọng như đứt hơi:

- ”Một vốn… bốn lời”… hừ… hừ…mệt.! Lũ gà chết tiệt… làm tôi sốt vó, đến bở hơi tai…

Chuyện Mèo Vằn

Một lần đuổi chuột Mèo Vằn cướp được miếng thịt gà do chuột chạy bỏ lại. Ôi, vị thịt gà rán béo ngậy và ngon đến lạ thường! Bấy lây nay sống ngoài đồng Mèo Vằn chỉ biết ăn sống nuốt tươi thịt cá, thịt chuột… bắt được, chứ bao giờ được thưởng thức những món ăn chín, ngon lành như thế này! Ngồi trên bệ tường gạch ngôi miếu hoang, Mèo Vằn liếm lắp như còn vẫn thòm thèm, nó ngẫm nghĩ: Bọn chuột quả là tinh ranh! Chẳng thế mà có lần nó đã thấy bọn chuột tha được cả quả trứng gà, bằng cách một đứa nằm ngửa ôm trứng, một đứa cắn đuôi con kia cùng cả quả trứng kéo đi, như ta cũng chịu! Lại nữa, chúng nhỏ mình dễ len lỏi vào các góc gách, xó chạn, góc bếp của loài người nên kiếm được khá nhiều món ăn ngon, chẳng bù cho ta mới đến sân đã bị bọn chó đánh hơi thấy sủa ủng oảng đuổi ráo riết… Làm cách nào để ta luôn có được những món ăn ngon như thế nhỉ? Chẳng lẽ ta lại kém mưu bọn chuột?!

Chiều hôm ấy, Mèo Vằn đến gõ cửa nhà chuột. Thấy hơi Mèo là bọn chuột sợ vội lẩn sâu ngay trong hang nằm co rúm lại, im thin thít. Mèo Vằn khe kkẽ gõ gõ vào cửa hang, giọng ôn tồn khác với mọi khi:

- Này chuột, từ nay ta muốn làm bạn với tụi bay… Thôi thì… các việc trước đây của ta... bọn bay bỏ quá đi…

Không gian vẫn im lặng, Mèo Vằn tiếp:

- Các ngươi không tin ta ư?... Ừ, cũng phải thôi… Thế này nhé, ngay bây giờ nếu các bạn đồng ý ta sẽ cắt móng vuốt của ta đi để các bạn thấy… Thế nào?

Lúc này Cống Mập- thủ lĩnh của bầy chuột- mới lên tiếng, giọng còn run run:

- Vâng, thế thì còn gì bằng! Nhưng chúng tôi làm sao tin được bác?

- Được thôi, ta sẽ mài cụt móng vuốt và đưa tay vào cho các bạn xem… Nhưng ta thoả thuận với nhau thế này… kể từ ngày hôm nay, ta nhờ các bạn kiếm thức ăn cho ta, mỗi ngày ba bữa, như vậy ta chẳng phải bắt bớ giết hại gây thù gây oán với các bạn nữa, mà loài chuột các bạn lại được bình yên- được chứ?

- Được! Được! Bọn chuột cùng reo lên mừng rỡ.

Mèo Vằn đắc ý mừng rơn tìm ngay đến bờ gạch gần đấy rồi ra sức mài cả hai bàn tay đầy những chiếc móng sắc nhọn của mình lên. Bọn Chuột chen nhau ló đầu ra cửa hang nghiêng ngó nghe ngóng quan sát. Ngẫm nghĩ gì đó, Cống Mập quay lại nó rỉ tai cho bọn đàn em; lát sau thấy thằng Chuột Xám thập thò ra cửa hang nó đặt lên một miếng thịt lợn luộc còn tươi rói mà chúng mới vừa kiếm được: “Nào bác Mèo, ăn đã, rồi hãy mài tiếp”. Mèo Vằn dừng tay, vớ luôn miếng thịt đưa lên mồm nhai ngấu nghiến, nó tự đắc thầm khen sự khôn ngoan của mình. Thế là từ nay mình chẳng phải nhọc công vất vả để tìm kiếm mồi lại được ăn những miếng ăn chín, lạ miệng thật ngon lành! Khà... Khà! Đáng mặt chúa đồng Mèo Vằn ta! Để thể hiện thiện chí, khi đã mài cụt hết phần nhọn sắc những chiếc vuốt đến nỗi để lộ cả phần thịt đỏ hoẻn, Mèo Vằn mới giơ hai bàn tay cho đàn chuột chứng giám.

Cả xóm chuột lúc này mới bò ra cửa hang, chúng ôm lấy nhau cùng nhảy nhót vui vẻ.

- Hoà bình rồi! Hòa bình rồi!

Kể từ hôm đó ngoài việc kiếm tìm thức ăn cho bầy, bọn chuột còn phải kiếm thêm cả phần cho Mèo Vằn, tuy vất vả, nhưng chúng mừng lắm vì bây giờ chúng tha hồ được vùng vẫy, chẳng phải nơm nớp lo lắng gì đến mèo nữa! Đổi lại Mèo Vằn được ăn ngon ngủ kỹ chẳng phải làm gì nên chỉ sau có gần tháng trời mà Mèo Vằn đã phổng phao, béo lên trông thấy, bụng nó phình ra, suốt ngày mắt lúc nào cũng lim dim, lim dim như buồn ngủ. Mang thức ăn đến cho Mèo Vằn có thằng chuột còn nghịch ngợm nhảy cả lên trần nhà mèo làm rơi vỡ cả viên gạch che mái, hoặc vờ cắn cả vào đùi làm Mèo đau điếng mà Mèo chỉ “hừ” se sẽ vẻ xê xoa qua quýt, chẳng bù cho cái dáng vẻ uy nghi dữ tợn, đường bệ, đáng sợ ngày nào.

Được hơn tháng sau, lấy cớ vì thời buổi khó khăn nên việc biếu thức ăn cho mèo của bọn chuột cũng chểnh mảng dần, có bữa Mèo Vằn bị đói meo, thương cho bọn trẻ nhỏ nhà Mèo Vằn mới sinh được mấy hôm nay cũng nhao nhao kêu khóc thảm thiết vì mèo mẹ thiếu sữa. Có bữa nọ Mèo Vằn đói không chịu nổi định đi kiếm mồi nhưng chợt nhớ đến bàn tay đã cụt móng, Mèo nổi đoá, gào: “Ngao Ngao” như thường lệ… Nghe tiếng Mèo Vằn vẫn còn sang sảng, bầy chuột nghe thấy còn khiếp vía. Ngẫm ngợi một lát Cống Mập gọi cả bầy lại, lên giọng: “Mèo Vằn tuy đã mài mất móng, nhưng vẫn còn rất đáng sợ… vì nó vẫn có khả năng gây nguy hiểm cho nhà chuột chúng ta vì bộ ria mép của Mèo rất lợi hại- đó là bộ phận định hướng để bắt mồi của nhà Mèo… Hừ, ta phải làm sao để cho Mèo bỏ bộ ria kia đi mới được- Nó vẫy tay gọi Chuột Xám đến rồi ghé sát vào tai thì thầm gì đó rồi dặn với theo: “Phải làm ngay, nghe không?”

Khác với thường ngày, mới sáng ra đã có tiếng gõ cửa nhà mèo:

- Bác Mèo ơi, có đứa trong chúng tôi vẫn chưa tin bác lắm, nên nó không dám mang thức ăn đến nhà bác, hôm nay tôi mang thức ăn cho bác cũng là đề nghị bác cắt luôn cả bộ ria mép kia đi, được không ạ?

Mấy bữa bị đói, lại vì mùi thơm nức từ con cá nướng từ tay chuột mang đến bốc ra làm mèo thèm ứa nước bọt, không đắn đo do dự Mèo Vằn sốt sắng: “Được! Được thôi, ta sẽ vứt nó đi cho các ngươi tin! Nhưng phải nhớ mang thức ăn cho ta cẩn thận, nghe không?” rồi mèo vớ luôn lấy con cá nướng từ tay Chuột Xám nhai luôn ngấu nghiến.

Nhưng… Trưa hôm ấy. Lạ! Mèo Vằn chờ mãi mà vẫn không thấy bọn chuột mang thức ăn đến.

Một tiếng đồng hồ trôi qua.

Hai tiếng đồng hồ trôi qua…

Rồi ba tiếng trôi qua… Khi mặt trời đã sắp lặn, bụng đã đói meo, Mèo Vằn vẫn không thấy chuột đâu, nó nghĩ: “Chắc là bọn chuột chưa tin ta?”. Sốt ruột, Mèo Vằn đủng đỉnh tìm đến nhà chuột với bộ ria mép đã trụi húi do đã được hơ vào đống lửa đốt rạ trên đồng vừa gặt ngay từ lúc ban sáng.

Nhè nhẹ gõ cửa nhà chuột, Mèo Vằn vẫn thấy im ắng. Gõ tiếp… nhà chuột vẫn lặng im. Ghé sát tai vào cửa hang nhà chuột, Mèo thấy là lạ khi vẫn nghe thấy tiếng rúc rích của bầy chuột đang cười đùa với nhau bên trong như không có chuyện gì. Tức quá, Mèo gào lên: “Ngao, Ngao” Không gian vẫn lặng im. Mèo Vằn ghé sát mồm vào cửa nhà nhà chuột, lấy sức gào thật to: “Ngáo! Ngáo! Ngáo… n...g...á…o… ” Tiếng mèo gào như thét, vang vọng làm đàn cò đang mò cua cách xa đấy giật mình cũng vội bay lên...

Nhưng trước hang chuột Mèo Vằn phải đợi đến một hồi lâu mới thấy ló ra một thằng chuột, nó thung thăng từ cửa sau nhảy ra, đung đưa cái đôi cong vắt vẻo, nó ngồi cuộn tròn ngạo nghễ trên mặt bệ tường gạch trước mặt Mèo Vằn, giơ con cá rán thơm phức lên mồm, vừa ăn nó vừa nhếch mép cười giọng giễu cợt:

- Nào, gào to lên nữa đi cho vui- lão Mèo!

Khà khà... Không còn móng, không còn ria thì còn gì là Mèo nữa! Giờ có gào to hơn lên nữa thì phỏng có ích gì, hả Mèo Vằn kia ?!

TIẾT CANH GÀ

          Cạnh nhà tôi có lão Dậu. Dậu là tên do cha mẹ đặt, vì lão sinh vào năm con gà. Ở nông thôn quê tôi, khi người đàn ông lập gia đình và có con thì người ta thường gọi tên cha mẹ theo tên đứa con đầu lòng. Nhưng đối với lão Dậu, họ cứ gọi cái tên cúng cơm của lão là ông Dậu, hoặc lão Dậu.

          Cũng lạ, cả xã chỉ có mình lão có tay nuôi gà, nuôi rất giỏi, nuôi đâu được đó. Lão phất lên nhờ gà. Ba đứa con lão ăn học đến nơi đến chốn ban đầu cũng nhờ vào cái trại gà ấy. Thằng con đầu là kĩ sư cơ khí, chuyên về máy nổ. Đứa gái giữa tốt nghiệp đại học tổng hợp khoa Lịch sử, đang làm việc ở ban nghiên cứu lịch sử. Thằng út vừa mới tốt nghiệp y khoa. Phải thừa nhận là con lão đứa nào cũng thông minh, chăm chỉ. Người ta khen lão không chỉ giỏi nuôi gà mà còn giỏi dạy con. Gia đình lão được xem như một điểm sáng trong huyện cho mọi người noi theo.

          Cũng cần nói thêm là từ việc làm của lão Dậu mà địa phương có thêm câu thành ngữ “con gà ra nhà máy”. Nghĩa là cái thời kinh tế bao cấp nông thôn chỉ biết làm công tính điểm để chia lúa ở hợp tác xã, lão Dậu vẫn làm công, nhưng chỉ làm đủ gạo để ăn thôi. Thời gian còn lại lão chuyên tâm vào nuôi gà. Nhưng chỉ nuôi độc một loại đó là giống gà ta, không nuôi gà Tây (lão gọi gà công nghiệp là gà Tây). Lão bán hết lứa này đến lứa khác, tiền không chỉ đủ tiêu xài mà còn cung cấp cho con ăn học. Trong xã thấy vậy, nhiều người cũng đổ ra nuôi gà. Nhưng nhiều người thất bại, gà ấp nhiều khi trứng nở, trứng ung, mỗi lứa được dăm ba con, khi nở ra rồi thì bị gió, lông xù, rủ chết. Lúc đó chưa nghe nói đến cái dịch H5N1. Người ta đến hỏi bí quyết của lão, lão bảo chẳng có bí quyết gì. Thật giả thế nào không rõ, nhưng họ bảo lão giấu nghề. Không chỉ đủ tiền nuôi con ăn học, mà lão còn tích góp một thời gian và lão xây một cái nhà máy xay lúa. Không kể sau này vào cái thời khoán 10 lão còn mua cả máy cày, rồi mở trang trại nữa. Câu “con gà ra nhà máy” thật chính xác với cuộc đời lão Dậu.

          Không biết tự bao giờ, lão tuyên bố, trong các loại thit, chỉ có thịt gà là ngon nhất trần đời. Lão chỉ thích ăn độc có món thịt gà. Lão kiêng nhất là thịt vịt. Lão bảo thịt vịt làm sạch bao nhiêu đi nữa cũng bị hôi lông, nghe mùi là muốn ói. Nhưng môt món khói khẩu với lão nữa là tiết canh, có thể nói, lão nghiện tiết canh thì đúng hơn. Khổ một điều, tiết canh vịt thuộc loại ngon nhất, dễ làm nhất, lão lại không ăn được. Lão kiêng thịt vịt, kiêng cả tiết canh vịt. Bởi vậy, thỉnh thoảng lão bảo người nhà xuống chợ đặt tiết canh heo đem về cho lão. Ở nông thôn, muốn mua tiết canh heo đâu có dễ, phải dặn lò mổ từ hôm trước, hôm sau mới có được tiết canh. Nhiều lúc có bạn đến chơi đột xuất, lão chỉ bắt gà làm thịt, nhưng thiếu món tiết canh, lão thấy buồn.

          Một hôm, có người bạn xa quê lâu ngày gặp lại, lão đãi thịt gà, nhưng thiếu tiết canh, lão thấy bứt rứt trong lòng, thấy thiếu cái gì đó sang trọng nhất để đãi bạn. Lúc ấy trời đã về chiều, chợ tan, tìm cả vùng này đâu ra được quán nhậu bán tiết canh heo ! Bỗng lão nghĩ ra một sáng kiến: “Sao không làm tiết canh gà !?”. Và lão đã làm tiết canh gà. Khi ăn xong, lão mới hỏi bạn:

          - Ăn tiết canh anh thấy thế nào ?

          - Ngon ! Anh làm rất ngon !

          - Tiết canh gà đấy.

          Ông bạn trợn mắt:

          - Trời đất ! Đời thuở nào lại ăn tiết canh gà ?!

          - Sao lại không ? Anh mới vừa ăn rất ngon đấy thôi.

          Ông bạn ngập ngừng:

          - Nhưng ông bà từ xưa đến nay có ai nói chuyện ăn tiết canh gà !

          - Ấy, anh cổ quá đấy anh bạn ạ. Họ không ăn vì họ không biết cách làm. Với lại gà thì ít tiết, chứ như ở nhà tôi, chọn hai con trống cồ thì khối tiết để làm mà ăn. Ở xứ này, tôi là người phát minh đấy nhé.

          Ông bạn ngồi im. Bởi từ xưa đến giờ chỉ nghe ông bà khuyên, tiết gà thì phải luộc chín, chứ không làm tiết canh ăn sống như tiết canh vịt, thế thôi. Nay ăn thấy ngon, nghe bạn nói vậy, không biết trả lời làm sao. Đành nói nước đôi:

          - À, … Chỉ biết các cụ xưa bảo cữ thì mình cữ, chẳng rõ vì sao ! Nay ăn thấy ngon lắm. Cũng hay.

          Từ đó về sau, lão Dậu thường làm tiết canh gà lai rai với bình rượu thuốc tự ngâm. Đôi khi có người bạn nào đó đến chơi, nếm tiết canh gà của lão, gật gù khen ngon, lão khoái chí:

          - Không hiểu sao xưa nay nguời ta vô tình và kém đến thế. Của ngon trong nhà thế mà vứt đi, không biết cách dùng. Thật phí của trời !

          Lão ăn tiết canh gà như thế đâu được ba tháng thì đến Tết năm Dậu. Lão tuyên bố với lối xóm:

          - Tôi sinh năm Dậu, lại có tay nuôi gà. Năm nay đến Tết năm Dậu – năm con gà – tôi phải làm liền mấy hôm để lấy hên.

          Thế là từ chiều ba mươi Tết, con cháu ăn gì tuỳ ý, còn lão thì đánh tiết canh gà rồi ngồi lai rai thưởng thức với thẩu rượu thuốc thơm lừng. Tính đến trưa mồng hai Tết, lão nhậu tất cả ba cữ tiết canh, bỗng dưng lão ôm đầu lăn đùng ra kêu đau nhức. Sẵn lúc thằng Lý bác sĩ, con út của lão, được nghỉ trực, ở bệnh viện bây giờ mới về được thăm nhà, nó “ém” cho lão mấy viên thuốc, cơn đau dịu ngay. Nhưng khoảng vài giờ sau, cơn đau lại tái phát, đau dữ dội hơn lần trước. Làm bác sĩ, hiểu ngay tình trạng nguy kịch, nhưng ở nhà không có máy móc, dụng cụ, nên cấp tốc chuyển cha vào bệnh viện để kiểm tra. Chỗ láng giềng thân thiết với nhau, hay tin, tôi giúp thằng Lý trực tiếp chuyển lão đi.

          Sau khi xét nghiệm, phát hiện lão bị viên màng não, do vi khuẩn menigococeus đột nhập gây bệnh, thằng Lý nói với tôi:

          - Loại vi kuẩn này chỉ có trong nước giải của gà, không hiểu vì sao cha cháu bị như thế !

          Suy nghĩ một lúc, tôi mơ hồ nói:

          - Cha anh gần đây hay ăn tiết canh gà.

          Nó nhăn mặt:

          - Thật khốn khổ. Đúng rồi !

          Tôi hỏi:

          - Đúng cái gì ?

          Nó lắc đầu ngao ngán:

          - Khi cắt tiết, nước giải trong cổ họng của gà có thể trào ra chảy theo tiết, mà lại ăn sống nữa. Thật khủng khiếp ! Sao chú không can ngăn cha cháu ?

          Tôi bàng hoàng:

          - Thì tôi có biết quái gì đâu mà ngăn ! Gần đây tôi cũng có ăn với cha anh vài ba lần, mà có thấy sao đâu !

          Nói xong, tôi lạnh toát cả người. Không biết lúc nào sẽ đến phiên tôi viêm màng não !

          Khuôn mặt thằng Lý thẫn thờ nhìn tôi:

          - Ông bà đã dạy, không được ăn tiết canh gà. Chú cũng không để ý sao ?

          May lão Dậu còn có con làm bác sĩ, mà lại kịp thời, nên chưa cho lão cắt hộ khẩu sớm ở trần gian. Từ đó về sau, lão khiếp đảm khi nhắc đến cái chuyện lão “phát minh” ra tiết canh gà. Lão bỏ tất, bỏ cả tiết canh heo. Vì thằng Lý cảnh báo:

         - Máu một khi đã ra khỏi cơ thể là địa chỉ cho vi trùng xâm nhập nhanh nhất và nhiều nhất.

          Chuyện thế mà đã mười hai năm trôi qua, lại sắp đến Tết con gà - Tết năm Dậu. Tôi trêu lão:

          - Này, bác Dậu, năm nay ta lại làm tiết canh gà nữa chứ ?

          Lão nhe hàm răng rụng hơn một nửa ra nhìn tôi, giả bộ chửi:

          - Chú bị động mồ đấy à ? Tôi làm cho chú ăn nhé. Đồ mắc dịch !

          Nói xong, lão cười. Lão cười khoe một mảng lợi trống trơn, trông mới hóm và thật dễ chịu làm sao.

Đêm Nghe Gà Gáy

Võ Xuân Phương

Ai đã từng sống ở khu tập thể, trong thời bao cấp, đã từng chắt chiu từng đồng để sống, để cải thiện cuộc sống, để mua gà, chia xẻ từng miếng ăn để nuôi gà dành ăn tết, thì khi mất gà mới thấm thía cái đau của nó, cái đau vừa tức, vừa tiếc. Thế mà thấy giáo Võ Xuân Hoàng đã mất con gà cồ vào giữa tháng 11 âm lịch.

Con gà cồ này được nuôi bất đắc dĩ. Số là cô giáo Nguyễn Thị Hồng vợ thầy, chưa có việc gì làm thêm, bèn rủ một cô bạn cũng giáo viên đi mua bán gà.

Hôm ấy phiên chợ Cây Da đúng vào ngày chủ nhật, hai cô hùn tiền, đi thật sớm, đón các ngả đường quê vào thị trấn để mua gà, bốn con gà giò, một cồ ba mái với giá một ngàn năm chục đồng, suốt cả buổi chợ thay nhau ngồi bán, chưa có người nào trả đến ngàn đồng. Hai cô bèn đem gà về chia nhau nuôi, khó quá, cô bạn đang ở chung với gia đình chồng, sợ bà mẹ chồng chửi, nên cô Hồng đành lấy cả.

-   Bốn con gà này có một ngàn năm mươi đồng, rẻ chứ anh.

-   Ừ, rẻ!

-   Vậy mà cả buổi chợ chẳng có người nào trả đến một ngàn mới tức chứ.

-   Thì thôi, mình nuôi vậy

Chiều hôm đó một con gà mái cù rụ, thầy Hoàng với sự gợi ý của thằng con lớn là thằng Quí: làm thịt, thế là cả nhà được “liên hoan” một bữa thịt gà. Gần năm nay thầy Hoàng mới được ăn lại bữa thịt gà, thầy thấy cũng thích, gia đình thầy thường chỉ thưởng thức món thịt gà vào dịp tết, thế mà hôm nay bỗng dưng thầy được ăn thịt gà, hỏi thầy không thích sao được! mà thực tế thầy chỉ gặm xương gà là chính, thấy hai thằng con nhìn dĩa thịt gà mà se lòng, cô Hồng vợ thầy tinh ý có gắp bỏ cho thầy một miếng thịt, đang ăn thằng Quí bỗng phát hiện la lớn – con gà sao chỉ có một cái cánh hả má? Cô Hồng đỏ mặt nói lảng nó lộn đâu đó. Tối hôm đó sau khi hai đứa đã ngủ, cô Hồng gọi thầy Hoàng đưa cái cánh mà khi chiều cô đã giấu.

Còn lại ba con, tối đó cô Hồng quyết định đem bán cho một phụ huynh làm nghề bán cháo gà, nhưng thằng Quí và thằng Vinh nằng nặc giữ lại con gà cồ để nuôi, cả hai rất thích đá gà, vợ chồng thầy vốn chiều con nên giữ lại con gà cồ để nuôi, hơn nữa thằng Quí xung phong sẽ bớt mỗi bữa một ít cơm cho gà, thằng Vinh nghe anh nói cũng chia xẻ với anh phần cơm của mình để muôi gà. Thế là chú gà cồ được giữ lại, riêng thầy Hoàng còn nghĩ, nếu con gà cồ có mệnh hệ nào thì cả nhà lại được bữa thịt gà!

Cúc cu mấy tháng, con gà cồ lớn nhanh, phát mã, tiếng gáy vang xa cả xóm. Đến lúc anh chàng theo mái chạy rông khắp nơi, vợ chồng thầy lo sợ mất gà, nên cứ xẩm tối là tìm về nhốt.

- Thế mà gà nhà thầy lại mất.

Đùng một cái! Chiều hôm đấy con gà cồ nhà thầy không về. Cả nhà túa ra đi tìm khắp – đến hơn tám giờ - không thấy; đành chịu mất thôi, vừa tiếc vừa tức. Cơm chiều chưa nấu, thằng Quí, thằng Vinh vừa đói vừa tiếc gà nhì nhằng với nhau.

Tối hôm đó vợ chồng thầy khó ngủ, tháng gần tết năm nay lạnh, cái lạnh se da mặt, nổi da gà khắp người, cứ trằn trọc chờ gà gáy, tiếng gáy gà nhà thầy nghe lâu quen, nó kéo dài âm cuối nghe ồ ồ dễ nhận. Vợ chồng thầy quyết định thức chờ nghe tiếng gà gáy để tìm gà.

Khu tập thể im ắng lạ thường, trong phòng hai đứa con đã ngủ, thầy mặc thêm chiếc áo phi-la-két cũ ngoài chiếc áo len không tay mà vẫn thấy lạnh, bên ngoài chắc lạnh lắm, chỉ nghe tiếng gió lùa qua các tàu dừa.

Ngồi chờ lâu mỏi mệt, vợ chồng thầy tựa vào tường thiu thiểu ngủ.

- Có tiếng gà gáy!

Vợ chồng thầy tỉnh ngủ, lắng nghe, xung quanh vẫn im lặng, mơ chăng? Thầy xem đồng hồ 1 giờ kém 15 phút, cô Hồng chắc lưỡi

- Chắc gà gáy đầu!

Thầy Hoàng mỉm cười, - Em có biết chuyện gà gáy đầu không? Ngày xưa có chàng rể mới, cha vợ dặn khi thấy gà gáy đầu thì sang phụ lợp dùm nhà cho mát. Anh chàng cẩn thận, về nhà bắt con gà cồ nhốt, tối đó thắp đèn ngồi chờ, chờ mãi, gà gáy hết đợt này đến đợt khác, hết con này đến con khác, đến sáng bạch ra, mặt trời cao hơn sào, chạy sang nhà vợ, thấy nhà lợp nơn nửa, hỗn hễn nói

- Con thức suốt đêm, nhìn, mà không thấy gà gáy đầu, chỉ thấy nó gáy mỏ thôi!

Bên ngoài tiếng gió thổi lùa qua hàng dừa nghe ào ào.

- Tiếng gà gáy, thật xa - Hai vợ chồng lắng nghe . . .

-  Tiếng gà lại gáy - Hồng chép miệng – hình như không phải! chung quanh im lặng – thằng Vinh mớ ngủ ú ớ, ngồi dậy khóc, Hồng chạy lại dỗ con.

- Tiếng gà gáy! - Hồng bật dậy, mừng rỡ - Đấy, hình như nó gáy . . .

Thằng Vinh thút thít, ngủ tiếp. Hồng kéo mền đắp hai con, lại ngồi gần cửa lắng nghe. Tiếng gà đã gáy nhiều nơi, rải rác.      Hai người lắng nghe, phân tích, xác định hướng gà gáy.

- Hình như trước cổng trường.

- Đúng đấy, anh cũng nghe hướng đó, Hồng xem lại hai con, lấy thêm chiếc áo khoác bằng tít-kê nhuộm đen cũ kỹ mặc ngoài, Hoàng kéo cao cổ áo phi-la-két rách hai cùi tay, nhẹ nhàng mở cửa ra ngoài, Hồng đi theo.

Đêm tối như bịt mặt, cái lạnh ùa vào đột ngột làm Hoàng nhảy mũi, thầy lấy chai dầu gió con sóc xoa mũi, thái dương rồi đưa vợ, bảo xoa để chống cảm lạnh. Lúc sau, quen dần bóng tối, với lối đi quen thuộc, vợ chồng thầy ra cổng phụ khu tập thể, lần theo đường luồng ra đường nhựa, con đường nhựa rộng lớn, đen hơn đêm, vạch một đường dài sẫm suốt từ cầu Trường Úc lên ngã tư, rộng vắng, gió thênh thang thổi thốc theo mặt đường, đã lạnh giờ thêm buốt da mặt. Hồng nép vào chồng để tìm cái ấm! tìm điểm tựa cho cuộc sống khó khăn này.

Tiếng gáy im bặt, chỉ có gió rít, hai vợ chồng thầy ngồi lên tảng đá trước cổng trường, chờ. Hoàng vấn thuốc hút

- Hồng này! Hồ sơ xin đất của mình hình như đã lên tới huyện rồi.

- Còn lô đất ở khu Trường Úc thì sao?

- Nghĩ mà tức cười, gần 40 tuổi mà còn khờ. Hồ sơ xin đất của mình nơi Trường Úc thuộc loại sớm nhất, hình như là thứ tự nộp số 3,  chờ mãi, chờ mãi, khi thấy chú Quảng làm ở lương thực nộp đơn sau mình xa - chính anh nói chú ấy làm hồ sơ xin chớ ai! Làm nhà, anh lên phòng nhà đất hỏi, em biết anh chàng cán bộ nhà đất trả lời sao không.

- Trả lời sao?

- Sao thầy không thường xuyên đến nhắc! bây giờ thì hết đất rồi. Anh nói lại – Sao khi tôi đến nộp đơn, anh nói thầy về chờ, huyện sẽ họp xét theo thứ tự nộp, diện của thầy là phải được quá đi chớ, thầy yên chí, khi nào có em gởi giấy báo. Em biết anh cán bộ trả lời sao không?

- Không!

- Nói thì vậy, nhưng ở đây nhiều việc quá, ai thường xuyên đến nhắc thì mới xét.

- Em biết không! Nó đang học bổ túc anh đấy, cứ tưởng nó nghĩ đến mình nhớ cho, té ra là vậy,

- Anh lúc nào cũng nguyên tắc, tình nghĩa.

- Vậy, mới nói mình khờ

Tiếng gà lại gáy, rất gần, Hồng mừng rỡ - nó đấy anh, tiếng gáy nó kéo dài, âm cuối ồ ồ đấy. Hai vợ chồng đi nhẹ, lần tới sát hàng rào nhà bác Huề, đối diện cổng trường.

- Tiếng gà lại gáy

Nhất định nó ngủ trên cây xa-bô-chê này, Hồng cả quyết đưa tay chỉ, Hoàng căng mắt nhìn, chỉ một màu đen kịt, một lùm cây đen kịt. Tiếng động cơ của một chiếc xe chạy sớm vang đến, rồi luồng ánh sáng mờ, sáng dần, rồi òa sáng, lợi dụng ánh sáng đèn xe, Hoàng nhìn rách lùm cây, thấy một khối đen nằm thỏm trong các chùm lá đen chen chúc.

- Chắc nó đấy em ạ, chỉ có gà của mình ngủ lang mới ngủ trên cây.

- Làm sao vào vườn! trời còn sớm quá.

- Đành ngồi chờ, canh vậy,

- Hay là anh ngồi canh, em về nhà trông chừng con một chút, rồi chạy ra,

- Cũng được!

Càng về sáng trời càng lạnh, vài chiếc xe đi sớm chạy vụt qua, gà đã gáy ran khắp nơi. Phía đông bắt đầu ửng, ánh sáng mờ mờ, bác Huề dậy sớm ra vườn, thầy Hoàng gọi khẽ

- Bác ơi!

- Ai đấy?

- Cháu, thầy Hoàng đây

- Có chuyện gì vậy

- Cháu có con gà cồ theo mái, ngủ lang, hình như nó ngủ trên cây xa-bô-chê của bác.

- Có con gà cồ của ông Hoạch máy gạo cũng thường ngủ trên cây đó.

- Cháu nghe tiếng gáy, đúng là gà của cháu đấy. Hồng ra lúc nào, đứng bên cạnh, mượn cái đèn soi lên, đúng là con gà của mình, Hoàng rón rén rướn người lên chụp mạnh, hụt, con gà bay ào ra ngoài đường, trời mờ mờ, vợ chồng thầy vây bắt, con gà chạy xuống hướng Trường Úc. Trời sáng dần, đúng là con gà cồ của thầy, con gà tía với dáng chạy chắc nịch, nó lại chạy vào nhà anh Hoạch, vòng ra sau vườn. Vợ chồng thầy chui rào đuổi theo, tiếng chó sủa vang, chị Hoạch nấu cơm sớm, bước ra vây dùm, nó lách mình qua mấy bụi mía, chạy vào bụi bí, chui rào qua nhà bên, rồi vào vườn nhà chị Vân y tá, Hồng quay lại đường nhựa để chận đầu, Hoàng chui rào đuổi theo, vài con chó chạy theo sủa inh ỏi.

Gần 6giờ 30phút sáng, chưa bắt được, chú gà quen đường chạy vào nhà ông Hoạch, té ra là gà của ông Hoạch.

Thế là con gà cồ của vợ chồng thầy Hoàng mất thật. Sau này nghe chuyện, một anh bạn nói – Có một con gà mà hai vợ chồng ông, thức tìm tới 3 đêm liền, thì làm sao xin đất cất nhà ở cái huyện này được!

CÁI ĐÙI GÀ CỦA MẸ TÔI 

                                                                                 *Tiểu Nhã          

      Khi lên chín tuổi tôi là con trong một gia đình khá giả tại một vùng quê biển.Khỏi nói ai cũng biết, sáu muơi năm trước một gia đình khá giả vùng quê thì cuộc sống sung sướng như thế nào.Nhưng đấy không phải là điều ghi dấu ấn trong tôi suốt cho đến nay.Làng tôi thuần nhã, tất nhiên là có tên hành chính do triều đình đặt cho, nhưng sau đó tên làng , những khu xóm còn lại người dân tự gọi lâu thành chết luôn cái tên từ bao đời chẳng biết.Rời làng năm mười tuổi lên thành phố sống cho đến nay, những nơi tôi cư ngụ là những con đường có tên không mộc mạc như làng tôi, căn nhà tôi như mọi nhà khác đều được đánh số, người xa đến khỏi hỏi thăm, chỉ việc lần theo con số là ra. Ở bên này và bên kia bức tường bê tông khác với hai bên một hàng giậu, nó là vách ngăn hai thế giới- không màu xanh, tất nhiên- gần như cách biệt, ngoại trừ trường hợp,nói đổ xuống sông xuống biển, khi một đám cháy xảy ra thì người ta mới có dịp chung tay để…cứu mình!

     Từ làng xóm tôi thành cư dân của một con đường và đương nhiên tôi cũng có nhìeu hàng xóm mà số lượng đếm theo thời gian chuyển dịch.Nhưng câu “tình làng nghĩa xóm” vậy mà khó thay thế bằng một câu nào khác cho ổn.Và câu “tắt lửa tối đèn” mềm ấm hơn là câu “cả chung cư cúp điện” nghe cứng như bê tông cốt thép chẳng thấy gợi cảm chút gì. Sáu mươi năm chung vách với biết bao người, chẳng biết gì hơn về họ ngòai cái tên gọi và họ lần lượt đến rồi lần lượt đi không để lại trong tôi những thứ gọi là đáng để.

      Chuyện xảy ra lúc lên chín mà nay vẫn nhớ là chuyện cái đùi gà béo ngậy vàng rụm. 

       Thuở ấy nhà tôi nuôi vô số gà , chúng tự bươi mà sống thỉnh thỏang mới được vãi cho nhúm thóc,không có cảnh “cơm bưng nước rót” như với lũ gà là những cái máy sản xuất thịt, trứng ngày nay.Chúng tự tìm ra bạn tình mà giao lưu và sinh sôi nảy nở, những con gà con ra đời hòan tòan bằng hơi ấm cơ thể của mẹ.Nhà tôi chỉ cần có dịp là thịt một con trong chúng.Và một hôm con gà trống to đùng bỗng nhiên ủ rũ, bỏ ăn và không thiết cả chuyện la cà khoe mẽ với đám gà mái, mẹ tôi làm thịt nó. Bà sai tôi lấy cái đĩa cổ có hoa xanh thẫm bưng cái đùi gà ngon nhất sang biếu bác Giáp, một ông đồ nho bạn từ thời để chỏm của cha tôi, nhà chỉ cách nhà tôi có một hàng bông bụp.Biết tôi là thằng “trâu lấm” - tên thường gọi trong nhà - mẹ dặn đi dặn lại rằng phải nói với bác Giáp cho thật lễ phép. Học thuộc lời mẹ dặn và nói cho trơn tru là chuyện không dễ dàng đối với tôi, nhưng rồi mọi chuyện cũng như ý mẹ tôi.

Trở về nhà chưa lâu tôi thấy thằng bạn con bác Sáu ở vườn phía sau cũng lệ khệ bưng sang biếu mẹ tôi một cái đùi gà thật bắt mắt, ngày thường nó cũng ba toác đầu bò đầu bướu chẳng kém gì tôi nhưng hôm ấy sao nó “văn hoa” đến thế.Đứa con hàng xóm ra về, gia đình tôi quây quần quanh chiếc chiếu hoa ăn cơm.Cả cha lẫn mẹ tôi hôm ấy đều có vẻ khác lạ, họ thỉnh thoảng lại nhìn nhau nhưng ai cũng trầm ngâm ăn mà không nói gì, phần tôi thì thịt gà là trên hết, thấy cha mẹ như vậy nhưng còn bụng dạ nào để quan tâm. Cơm nước xong, anh cả tôi- tuy còn nhỏ nhưng tính tình thùy mỵ, nói năng từ tốn rất có uy tín trong nhà - được mẹ tôi sai mang trả nhà bác Sáu cái đĩa kiểu. Anh về được một lát thì người con gái út nhà bác Giáp sang và cũng trả mẹ tôi một cái đĩa y như vậy.Cô ta còn không quên cám ơn và khen thịt gà béo rất ngon.Con gái quê tuổi chưa bao nhiêu mà đã khéo như thế. Lúc này sự thông minh đột xuất mới chợt đến và tôi mới hiểu vòng quay của cái đùi gà và vì sao cha mẹ tôi không nói năng gì trong bữa cơm khi nãy 

      Từng ấy năm dâu bể, tôi thay đổi nhiều nơi ở, dĩ nhiên là tôi không nhớ những người chung vách, họ như những người khách qua đường đến rồi đi, không thiếu người tử tế nhưng tôi vẫn bâng khuâng thấy giữa chúng tôi còn thiếu một thứ gì đấy. Cũng bây giờ, mỗi khi nhìn thấy thịt gà, tôi vẫn thấy nó rất ngon (không ngon sao được) nhưng thường vẫn mất một vài giây trầm ngâm như cha mẹ tôi ngày trước.Trầm ngâm là vì ,cha mẹ tôi và các bạn hàng xóm của họ giờ không còn, nhưng có là may cho các cụ không khi mà bây giờ chỉ có cảnh cúp điện cả khu phố mà không còn cảnh “tối lửa tắt đèn” như thời xa xưa ấy ?

Từng hạt nước nhỏ xuống (truyện ngắn)

11:48 AM Chủ nhật, ngày 01 tháng mười một năm 2009- Chuyên mụcĐời sống|

Hai ông bà vui lắm, ngồi ngắm cái bình nước rất lâu, chất nhựa cứng ánh màu tim tím trông thật đẹp mắt. Từng hạt nước trong suốt nhỏ xuống… Mười một hạt… mười hai hạt… một chén…

Nhà hôm nay có việc, sửa soạn cho đám ăn hỏi của thằng út.

Ông bà có ba đứa con. Hai cô chị đã lấy chồng, giờ đến lượt thằng em sắp lấy vợ. Nhớ ngày nào nó còn nhỏ tí xíu, đầu đội nón trông như cái nấm di động dắt con bò lững thững theo đường tìm cỏ.

Ăn hỏi thì lo gì. Gà, trà, gạo, rượu… Những thứ đó nhà không có sẵn nhưng gắng liệu cũng được. Oái oăm thay, cái đám ăn hỏi của thằng con vừa lạ vừa tốn kém. Nổi tiếng là một thằng chơi bời lêu lổng nhất khu vực này, nó tán đổ cô giáo trẻ ở ngoài thị xã vào đây dạy học. Cô giáo chê nhà nó nghèo nhưng khen nó đẹp trai. Hai cô cậu mê nhau như điếu đổ, được ít thời gian dắt nhau về đòi cưới. Vì cô dâu là con gái ngoài thị xã nên đám ăn hỏi cũng phải tổ chức theo kiểu ngoài thị xã. Ông bà chia nhau đi vay lãi khắp nơi từ mấy tuần trước. Biết ông bà chẳng có gì đáng giá nên mỗi nơi chỉ cho vay một ít, gom vào cũng kha khá, vậy mà thằng con vẫn chê ít, mặt sưng sỉa, nói câu nào gắt câu đó.

Nhà có mỗi con chó đen nuôi từ năm ngoái, càng lớn lông nó càng xù ra, bên trên hai mắt có hai đốm trắng tinh. Ông đặt tên nó là Gấu. Cả đời ông chưa bao giờ nghĩ đến chuyện bán hay thịt chó. Lần này, ông cắn răng bảo thằng con bán nốt con chó lấy tiền bù vào cho đám ăn hỏi. Nó suy nghĩ một hồi rồi dắt xe máy ra ngoài.

Ngày trước, ông bán một cặp trâu mua được cái xe máy đẹp cho con. Mấy tháng sau, một đêm, nó mang về một con xe bẩn cáu, cũ rích. Ông bà hỏi “Xe kia đâu?”, nó thản nhiên trả lời “Thua bạc, gỡ lại được mỗi con dem Tàu!”. Nó mang xe ra ỳì cọ rồi xuống huyện sơn lại, dán nham nhở rồng phượng, hoa hoét vào, trông không mới nhưng diêm dúa, đẹp lạ. Nó gọi cái xe Dream này là con Đai-lừn Tàu.

Giờ nó phân vân không biết nên bán con Gấu hay bán con Đai-lừn Tàu. Cuối cùng, nó nổ máy phóng ra ngõ. Chiều về, nó dắt theo chiếc xe đạp mới tinh. Ai hỏi, nó cũng cười: “Mua xe đạp, chở vợ đi ngắm núi…”.

*** 

Nhà nằm chênh vênh trên quả đồi thấp trong ngôi làng chỉ còn mười tám nóc nhà. Chất đá vôi ngấm vào máu thịt con người. Từ trẻ con đến người già, ai cũng gầy xanh. Làng trước kia đông đúc lắm! Khi chưa có điện về, tối tối chi chít đốm sáng của đèn dầu, bếp lửa. Tiếng nói cười của đám thanh niên chen lấn tiếng nô đùa của lũ trẻ, át đi sự lạnh lẽo của những núi đá vôi sừng sững phía sau làng. 

Người ta sợ đá vôi nên hễ có điều kiện là chuyển đi nơi khác. Những nơi khác gọi khu này là “Xóm núi nghèo”. Mười tám nhà dùng chung một cái lần (máng) nước chảy từ đỉnh núi xuống, phải lọc qua nhiều lớp đá to, đá sỏi đến một lớp cát. Nhưng cũng chẳng ăn thua, đá vôi vẫn bám những lớp trắng đục, dầy cộp trong nồi, người làng vẫn phải uống miếng nước đầy sạn bụi đá, mắc bứ ở cổ. Nhà nào cũng cố gắng mua một cái bình lọc.

Ông bà ao ước có một cái bình lọc nước như của hàng xóm từ lâu lắm nhưng mãi chưa mua được.

                                                                                ***

Chuẩn bị cho đám ăn hỏi, ngoài việc lo vay tiền, ông bà chẳng phải làm gì nữa, nghĩ cũng tủi. Có mỗi thằng con trai, nuôi nó lớn lên, ông bà mong được một lần bưng trầu cau đi hỏi cưới con gái nhà người ta. Nhưng nó chẳng cho ông bà đi cùng đám ăn hỏi vì đã sắp xếp đại diện đầy đủ rồi. Toàn người lạ hoắc mà ông bà chưa gặp lần nào, với năm đứa bạn vận đồng phục sơ mi trắng thắt cà vạt đỏ, quần đen, giầy đánh xi bóng nhoáng. Chúng nó mang về mấy cái thùng to gần bằng cái thúng, bên ngoài phủ chéo một mảnh vải đỏ viền tua rua. Bà gõ thử nghe vang “côm côm”, thấy hay quá nên gõ lại lần nữa, bị thằng con mắng: “Ba triệu của con đấy, mẹ ạ!”.

Có một việc mà ông nghĩ mãi mới dám bàn với bà là chuyện mua bình lọc nước. Trước đây không có cũng được, nhưng cô giáo là người thị xã, làm sao uống được nước đá vôi. Bàn đi bàn lại, cuối cùng ông rầu rầu quyết định vay bốn trăm nghìn, đợi con Gấu đủ mười hai cân sẽ gán nợ.

Khi thằng con trai cùng đám đại diện của nó ùn ùn xe máy rẽ phía con đường ra ngoài thị xã, ông bà lẫm lũi dắt nhau đi mua cái bình lọc nước.

Ông tỉ mỉ bóc từng lớp giấy bọc, dỡ từng chi tiết của cái bình lọc đặt ra ngoài rồi lắp ghép chúng lại, hì hục một tiếng đồng hồ mới xong. Bà bưng nồi nước đun từ đêm hôm qua ra, khẽ gạn lấy phần nước trong vào bình, còn phần cặn đục mang đi đổ. Hai ông bà vui lắm, ngồi ngắm cái bình nước rất lâu, chất nhựa cứng ánh màu tim tím trông thật đẹp mắt. Từng hạt nước trong suốt nhỏ xuống… Mười một hạt… mười hai hạt… một chén…

Bà nghiêng cái bình, kéo vòi rót đầy bát nước trong vắt không một gợn bụi đưa cho ông, hai bàn tay vô tình chạm vào nhau, sao gầy quá. Ông đưa bát nước lên, hít hà rồi nhấp một ngụm, ngậm trong miệng cho chảy từng giọt xuống cổ họng, một lúc sau mới “khà” lên một tiếng. Bà đón bát nước từ tay ông uống cạn một hơi, xuýt xoa khen “Ngọt quá!”. Hai người nhìn nhau cười, những nếp nhăn trên mặt xô vào nhau cũng cười. Mải ngắm cái bình nước, ông bà quên cả ăn, quên khuấy luôn việc hôm nay là ngày thằng con trai đi hỏi vợ.

                                                                              ***

Đến chiều, đám đại diện nhà trai mới kéo nhau về, mặt ai cũng phừng phừng men rượu, nói cười bả lả. Cô con dâu xinh đẹp trong bộ đồ mới, chiếc quần thô trắng tinh bó sát đôi chân dài thon thon, trên eo thắt hờ một chiếc đai trắng làm sáng bật cánh áo đỏ tươi rộng thùng thình từ trên ngực xuống cánh tay, nhưng lại bó chặt ở cái eo bé tẹo. Bà mừng tủi đứng thẫn thờ trước cô con dâu, mãi lâu sau mới rụt rè:

- Cô giáo đẹp quá!

Cô dâu nhăn mặt, thằng con lườm mẹ một cái có vẻ không hài lòng. Bà ngầm hiểu ý con nên ngượng ngập tự trách mình quê mùa quá. Sực nhớ ra điều gì, bà vui vẻ cầm tay cô dâu vào xem cái bình lọc nước mới.

Bên ngoài có tiếng ồn ào, tiếng thằng con trai hét lớn:

 - Bắt! Bắt! Sao bố lại thả nó ra? Nhử mãi nó mới chui vào đấy.

 Tiếng ông run run lo lắng:

 - Sao lại nhốt nó vào trong đấy?

 - Thịt chứ còn sao nữa, bố.

 - Nhưng…

 - Hôm trước con đã tính rồi! Bán con Đai-lừn Tàu, con Gấu thì để lại hôm nay liên hoan.

Ngoài kia, người cầm gậy, người cầm đá, người lăm lăm con dao dồn đuổi con Gấu. Trong này, riềng, mẻ, mắm tôm đã chuẩn bị đầy đủ. Đi thăm cái lần nước về, thấy con Gấu ở trong sọt, tưởng nó tự chui vào nên ông đuổi ra. Nghe thằng con nói thịt chó liên hoan, mặt ông tái đi. Con Gấu đã bán lấy tiền mua cái bình lọc nước rồi, chỉ là chờ đủ mười hai cân người ta mới đến bắt. Thằng con nghe thế mặt ỉu xìu, nếu không thịt chó thì lấy gì liên hoan? Hai bố con chợt nhớ tới đôi gà hôm trước chị cả mang về cho em cậu đi hỏi vợ, nhưng chưa dùng tới. Con Gấu tạm thời thoát nạn.

Ngoài này, con chó bị sổng vẫn chưa bắt được. Thấy người ta lăm lăm hung khí hướng về phía mình, nó cụp đuôi đứng ép vào một góc vườn.

Ông với thằng con đi ra chưa kịp nói gì thì viên đá trên tay đứa bạn ném “bụp” trúng lưng con chó. Nó kêu “ẳng” một tiếng, chồm lên, lao vút qua chân ông. 

Con chó lao như mũi tên. Họ chưa kịp trở tay thì ở trong nhà có tiếng nổ, tiếng chó kêu, tiếng người hét vang cùng một lúc nghe giòn lắm.

Ông bà ngồi thụp xuống, mặt ngẩn tò te không còn hạt máu. Cái bình đổ kềnh, nước lênh láng, những mảnh nhựa vỡ tung, vụn thủy tinh vương vãi…

Thằng con cũng ngồi xuống bên cạnh. Nó chợt nhìn thấy điều gì đó và thốt lên:

- Sao bố mẹ gầy thế?

Hương thị

Truyện ngắn của Trọng Bảo

           Truyện ngắn Hương thị tôi viết từ khi đang còn là học sinh lớp 10. Tính đến nay vừa đúng bốn mươi năm. Bản thảo chả còn giữ được. Truyện ngắn này chỉ được đăng một lần duy nhất trên tờ báo tường lớp 10B của tôi ngày ấy. Tôi chỉ nhớ đại ý của truyện. Ấy vậy mà lại có một người nói vẫn còn nhớ được gần như nguyên văn truyện ngắn. Thật thú vị, đó lại chính là nhân vật nữ mà tôi viết trong truyện ngắn. Và cũng đúng bốn mươi năm tôi cũng mới gặp lại nguyên mẫu một nhân vật của mình.

           Hôm đó là ngày nghỉ các con không về vì đều bận việc của cơ quan, tôi tự lo việc ăn uống. Tôi ra chợ mua vài lạng thịt, mớ rau muống. Mấy lạng thịt lợn và mớ rau đủ cho tôi chén trong hai ngày nghỉ. Thịt rang mặn, mỗi bữa luộc vài ngọn rau lấy nước luộc dầm sấu chan cơm là ổn. Mấy ngày nghỉ tôi sẽ cắm mặt vào màn hình máy vi tính quyết tâm sửa chữa cho bằng xong tập tiểu thuyết “Chuyện đời hắn” kịp nộp nhà xuất bản như đã hứa với họ.

          Vừa đến chợ qua dãy hàng thịt nhìn thấy tôi, chị bán hàng đã đon đả:

          - Anh vẫn đúng hai mươi nghìn chứ ạ?

          - Vâng… - Tôi đáp. Chị bán thịt đã quen với định mức thịt mà tôi vẫn mua cho bốn bữa trong hai ngày nghỉ. Cầm mẩu thịt lợn bé tý, tôi sang dãy hàng rong mua rau. Những người bán rau này thường ở ngoại thành. Họ trồng rau rồi đem vào nội thành bán. Tôi hỏi mua một mớ rau muống. Người phụ nữ bán hàng nói: “Xin anh năm nghìn!”, rồi cho mớ rau vào cái túi ni-lông. Khi ngẩng lên đưa rau cho tôi người đàn bà bỗng đứng bật dậy ngập ngừng hỏi:

          - Có phải… có phải anh là… là…

          Tôi cũng ngỡ ngàng nhận ra một nét mặt quen quen. Tôi cố nhớ xem đã gặp ở đâu thì người đàn bà bán rau đã nói:

          - Em là Linh… hồi năm bảy hai sơ tán về quê anh…

          Tôi giật mình. Trong trí nhớ của tôi vùn vụt trở lại những hình ảnh của bốn mươi năm trước. Cô Linh xinh đẹp hoa khôi của lớp 10B chúng tôi ngày ấy đây ư! Nhìn người đàn bà lam lũ bên gánh rau muống tôi như chưa tin ở mặt mình. Nhưng rồi tôi bừng tỉnh. Đã bốn mươi năm rồi cơ mà. Linh như hiểu cái nhìn của tôi. Hai bàn tay đen đúa của cô vặn vặn vào nhau rồi nói:

          - Hôm nào anh rỗi đến nhà em chơi. Nhà em ở số… Cầu Giấy. Em và anh Phú vẫn nhắc đến anh và những ngày sơ tán lên Lập Thạch đấy…

          - Thế Linh và Phú…

          - Vâng anh Phú là chồng em! Anh ấy ốm đau luôn, bây giờ yếu lắm rồi…

          Tôi hứa sẽ đến thăm nhà Linh. Khi tôi cầm mớ rau muống định quay đi thì Linh lại bảo:

          - Em vẫn nhớ như in câu chuyện Hương thị của anh viết ngày ấy đấy.

          - Thế à! - Tôi ngạc nhiên nhưng chợt nghĩ: “Linh là nhân vật chính của truyện ngắn nên cô ấy nhớ là phải thôi!”. Truyện ngắn ấy khi đăng trên tờ báo tường ai chả biết là tôi viết về Linh và những người bạn trong lớp mặc dù tên các nhân vật trong truyện tôi đã viết khác đi. Đó chính là truyện ngắn đầu tay của tôi.

           Khi về đến nhà tôi tạm dẹp tập bản thảo cuốn tiểu thuyết dày cộp đầy những gạch xoá, sửa chữa chi chít sang một bên để cố nhớ lại những gì đã viết trong truyện ngắn Hương thị của bốn mươi năm trước.

*

           Bước vào năm học cuối cấp 3, lớp 10B có thêm mấy học sinh mới. Đó là đám học sinh Hà Nội sơ tán về vùng quê trung du này. Trong số học sinh mới tôi chú ý đến một cô bé rất xinh xắn có mái tóc cắt ngắn ngang vai. Tên cô bé là Linh. Đó đúng là một người con gái đẹp - Tôi nghĩ. Lũ học sinh nông thôn, nhất là lũ con gái thấy ghen tỵ với đám học sinh mới đến. Bọn chúng sao mà thơm tho sạch sẽ, tươi tắn thế. Người thủ đô có khác. Ngược lại, cánh học sinh nông thôn chúng tôi có đứa suốt ngày lội ruộng cấy lúa, chăn trâu trên đồi. Buổi sáng đi học thì buổi chiều gánh phân ra đồng. Quần áo, sách vở thì luôn lấm lem bùn đất. Đứa nào có cái xe đạp cũ kỹ để đi học là may mắn lắm rồi.

           Chúng tôi nhìn đám học sinh Hà Nội với con mắt luôn có một khoảng cách. Vậy mà chỉ sau một thời gian Linh lại kết thân với tôi và thằng Thân. Tôi và thằng Thân cùng tuổi, nhà ở gần nhau, cùng học với nhau từ lớp vỡ lòng cho đến cấp 3. Hai thằng chúng tôi như hình với bóng. Dù hai đứa khác nhau về tính cách lẫn hình dáng. Tôi vốn tính hấp tấp, nóng nảy, thấy việc gì chướng tai, gai mắt là nói luôn. Thằng Thân thì tính tình trầm tĩnh, ít nói. Trông nó lúc nào cũng lù đù như chuột chù phải khói. Có người còn bảo nó đần. Ấy vậy mà khi Linh làm bạn với hai thằng chúng tôi lại rất thích trò chuyện trao đổi với nó. Hai chúng tôi đều học giỏi. Tôi là học sinh giỏi văn, thằng Thân giỏi toán, còn Linh thì giỏi cả văn lẫn toán. Chúng tôi hình thành một bộ ba gắn bó rất khăng khít. Giữa tôi và Linh chỉ là tình bạn. Con giữa thằng Thân và Linh thì đã vượt lên trên tình bạn một chút. Ngày ấy, học sinh cấp hai đã đi bộ đội. Cánh học sinh cấp ba chúng tôi lớn lộc ngộc. Năm nào chúng tôi cũng tiễn các bạn lên đường nhập ngũ ra trận.

           Linh và Thân yêu nhau rất bí mật, cả lớp không ai biết. Ngày ấy đang là học sinh phổ thông mà yêu nhau thường bị nhắc nhở, kiểm điểm vì sợ ảnh hưởng đến học tập. Việc tôi và thằng Phú phát hiện ra họ yêu nhau hoàn toàn tình cờ.

           Ngày ấy quê tôi rừng núi còn nhiều cây cối rậm rạp. Ở sườn đồi ven cánh đồng có những cây thị cổ thụ. Mùa thị chín màu vàng sáng cành cây, hương thơm ngào ngạt. Khi còn nhỏ cánh học trò chúng tôi hay rủ nhau leo cây hái thị ăn. Bọn con gái rất thích có những quả thị bé tý teo bằng ngón chân cái để trong cặp sách, bỏ trong túi áo cho hương thơm toả ra hít căng cánh mũi. Thằng Phú là đứa trong đoàn học sinh Hà Nội sơ tán về quê tôi. Nó cận thị nặng, lúc nào cũng đeo cặp kính dày cộp trên mắt.

            Một hôm tự dưng nó gạ tôi:

            - Mày kiếm cho tao một quả thị chín thật nhỏ nhé?

           - Định tặng em nào trong lớp hả?

           Nó ấp úng không trả lời. Tôi bảo:

           - Thôi được! Mày theo tao lên rừng. Tao sẽ trèo lên cây kiếm cho mày một quả thị thật bé nhưng thật thơm.

           Thằng Phú rất thích, nó liền đi theo tôi. Tôi cũng muốn giúp nó cũng còn vì một lý do khác. Bố mẹ nó là nhân viên của Thư viện quốc gia, họ cùng cơ quan đem theo rất nhiều sách quý sơ tán về quê tôi để cất giữ. Nhờ nó mà tôi mượn được nhiều sách hay. Tôi là một người mà bọn cùng lớp vẫn nói là một thằng “nghiện sách”. Tôi có thể đọc sách bất cứ lúc nào. Chỉ cần nghe nói ai có sách là tôi lân la tìm cách mượn cho bằng được. Có cuốn sách chỉ được mượn qua đêm, tôi thức suốt đêm để đọc. Từ ngày Thư viện quốc gia đem sách sơ tán về quê tôi, nhờ thằng Phú mà tôi có được những cuốn sách rất hiếm để đọc.

           Tôi và thằng Phú chui vào khu rừng rậm rạp, nơi có mấy gốc thị cổ thụ trên cành đầy quả chín. Giống thị là thế, cây càng già, quả càng sai và hương lại càng thơm. Hương thị khiến người ta có cảnh giác thư giãn, sảng khoái, hứng khởi trong lòng.

           Tôi dắt thằng Phú chui vào chỗ gốc cây thị già. Vừa đến một cây cọ thì nghe có tiếng động, tiếng người thì thào phía gốc cây thị. Tôi giữ thằng Phúc đứng lại. Vạch lá cây ra nhìn, tôi chợt nhận ra đó là thằng Thân và Linh. Thân và Linh đang đứng sát bên nhau cạnh gốc cây thị. Linh đang cầm trên tay một quả thị chín vàng. Còn thằng Thân thì đang ôm ngang lưng cô gái. Đôi má của Linh đỏ ửng. Hình như họ vừa hôn nhau. Tôi thấy phục thằng Thân quá. Lù đù như nó mà lại yêu được một đứa con gái đẹp nhất trong số con gái ở Hà Nội sơ tán về làng tôi. Đúng là tẩm ngẩm tầm ngầm mà dẫm chết voi, như các cụ vẫn nói.

            Giữa lúc tôi đang cố ngó nghiêng để xem thằng Thân và Linh có “hành động” gì thêm không thì thấy vạt áo mình bị giật mạnh. Thằng Phú túm tay lôi tôi lùi lại chui ra khỏi đám cây rừng rậm rạp, tránh xa gốc cây thị. Nó lôi tôi đi như bị ma đuổi phía sau lưng. Tôi bị vấp vào một gốc cây cụt bên lối đi đau điếng. Tôi làu bàu:

           - Mày làm gì thế! Không lấy thị nữa à?

           - Không… về thôi!

           - Sao thế?

           - Đã bảo về là về cơ mà…

           Tôi nghĩ bụng: “Không biết thằng này mắt cận lòi như thế liệu nó có nhìn thấy cảnh thằng Thân và Linh ôm nhau không nhỉ! Chắc là nó chả nhìn thấy gì đâu!”. Nhưng rồi tôi lại tự hỏi: “Nếu không nhìn thấy thì việc gì nó lại bực bội thế. A… hoá ra nó cũng rất thích cái Linh. Nó gạ tôi trèo hái thị chín là để đem cho cái Linh…”.

            Sau bận ấy tôi thấy tự dưng thằng Phú buồn bã và học kém hẳn đi. Nó cũng là một thằng học giỏi của lớp. Mấy tuần sau thì lớp tôi xảy ra một chuyện. Sau giờ ra chơi thằng Phú kêu mất cái bút máy Kim tinh và năm đồng là tiền học phí nó đem đến lớp chưa kịp nộp cho thầy giáo chủ nhiệm. Ngày ấy cánh học sinh nông thôn chúng tôi có một chiếc bút máy Trường Sơn là đã sang lắm rồi. Chỉ có đám học sinh Hà Nội sơ tán về là có bút máy Kim tinh. Việc thằng Phú kêu mất bút và tiền khiến lớp tôi nhốn nháo hẳn lên. Thầy chủ nhiệm lập tức xin phép tạm dừng tiết học tiếp theo để tổ chức điều tra. Đội cờ đỏ của lớp được giao nhiệm vụ kiểm tra các ngăn bàn. Họ tìm thấy trong hộc bàn chỗ thằng Thân ngồi cái bút Kim tinh và tờ giấy bạc năm đồng cuộn nhỏ, nhét tít ở phía trong hộc bàn. Thằng Thân tái mét mặt đi vì sợ hãi và xấu hổ. Nó cúi gằm mặt xuống mặt bàn. Tôi là bạn thân của nó. Tôi biết nhà thằng Thân rất nghèo. Buổi sáng đến trường nó chỉ có một khúc sắn ăn lót dạ, không có bát cơm rang như tôi. Ngày giáp hạt nhiều bữa buổi trưa đi học về nó cũng chỉ có sắn luộc ăn thay cơm. Có lần năm lớp 8 đi cắm trại cả bọn góp cơm nắm, muối vừng, trứng luộc để ăn chung thì nó bảo bận tý nữa mới ăn. Đoạn nó len lén lẩn ra phía bờ suối. Tôi cầm nắm cơm lặng lẽ đi theo. Đến bờ suối, nó nấp sau một gộp đá lôi cái bọc giấu trong người mở ra. Nó chỉ có hai củ sắn cho bữa trưa. Thì ra vì vậy mà nó ngại ăn chung cùng các bạn trong lớp. Đang nhai củ sắn, nó chợt há hốc mồm khi thấy tôi đứng sững ngay trước mặt. Tay nó cầm củ sắn run run. Tôi ngồi xuống cạnh nó. Tôi bẻ đôi nắm cơm đưa cho nó một nửa và cầm luôn củ sắn còn lại của nó. Tôi biết, nhà thằng Thân nghèo, nó vẫn mơ ước có một cây bút máy nhưng nhất định nó không phải là một thằng ăn cắp. Làm bạn với nó từ nhỏ đến bây giờ nên tôi hiểu. Nhưng, tôi cũng không làm sao mà thanh minh cho nó được.

           Thằng Thân không nhận mình đã lấy cây bút máy Kim tinh và tiền của thằng Phú. Nhưng nó cũng không thể giải thích tại sao cái bút và năm đồng lại ở trong ngăn bàn của nó. Thằng Thân buồn lắm. Đợt 26-3 năm ấy lẽ ra nó được kết nạp vào đoàn cùng tôi nhưng lại bị huỷ quyết định.

            Cuối năm lớp 10 có đợt gọi nhập ngũ. Tôi và một số bạn trong lớp có danh sách trúng tuyển nghĩa vụ quân sự. Thằng Thân cũng đã khám sức khoẻ và đăng ký nghĩa vụ quân sự. Nhưng nó không đủ điều kiện nhập ngũ vì chưa phải là đoàn viên thanh niên lao động. Nó buồn lắm. Từ ngày nó “dính” vào cái án ăn cắp thì quan hệ giữa nó và Linh cũng không còn thân thiết nữa. Bộ ba của chúng tôi cũng tan luôn. Tuy vậy tình bạn giữa tôi và Thân không thay đổi. Tôi mãi mãi coi nó là một người bạn thân nhất mặc nhiều lúc nó cố ý tránh xa tôi. Hôm tôi lên đường nhập ngũ, nó đèo tôi lên tận huyện tập trung. Lúc chia tay, nó dúi vào tay tôi tờ bạc một đồng. Không nhận thì sợ nó giận. Tôi biết để có được một đồng bạc cho tôi nó đã phải gánh mấy gánh củi sang tận chợ Tam Dương ở huyện bên cạnh để bán cho được giá. Nó định nói với tôi một câu gì đó thì thôi vì nhác trông thấy Linh và thằng Phú đi đến. Nó xiết chặt tay tôi rồi lảng ra khỏi đám đông của những người đi, người ở ồn ào.

           Phú và Linh đến để tiễn tôi lên đường nhập ngũ. Phú tặng tôi một cuốn sổ bìa cứng để ghi nhật ký. Linh thì tặng tôi một cái khăn mùi-xoa có thêu hai chữ “kỷ niệm”. Chiếc khăn tay thơm ngát mùi hương thị chín…

Tôi được biên chế về trung đoàn 246B. Thời chống Mỹ, quân đội ta đều có các đơn vị A và đơn vị B. Đơn vị có chữ A thường là khung huấn luyện, đơn vị có chữ B là đơn vị chiến đấu. Mặt trận cũng đặt là theo chữ cái A, B, C sau này thêm mặt trận K nữa. A là mặt trận miền Bắc. Miền Bắc cũng phải đánh nhau với máy bay của bọn Mỹ. Mặt trận B là chiến trường miền Nam, C là chiến trường Lào, K là Campuchia. Ngày ấy cứ nói đi B tức là sẽ vào miền Nam chiến đấu. Ở chiến trường A (miền Bắc) còn có hy vọng sống, còn đi B thì phần sống trở về rất thấp. Làng tôi ngày ấy mười người đi B thì chỉ có ba, bốn người trở về. Cũng vì thế mới có chuyện nhiều người mang danh hiệu “bê quay”. Đó là những người không chịu nổi bom đạn, hy sinh bỏ mặt trận hoặc đào ngũ khi được biên chế vào đơn vị B, trên đường đi chiến trường thì trốn quay trở về hậu phương.

          Đơn vị tôi khẩn trương huấn luyện để chi viện cho miền Nam. Hồi ấy chỉ là bọn “lính quèn” nên tôi không biết chuyện có kế hoạch chuẩn bị tổng tiến công giải phóng miền Nam năm 1975, chỉ biết sẽ ra đi không biết ngày nào trở về. Chúng tôi được cấp phát các loại vũ khí, trang bị, quân trang để sẵn sàng lên đường. Khẩu súng AK nhãn hiệu “made in CCCP”, bộ quần áo, tăng võng, cái bình tông “made in China” va cái ca tráng men sắt tây có in dòng chữ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

          Một buổi trưa ăn cơm xong tôi vừa chợp mắt thì tiểu đội trưởng kéo chân gọi nhỏ:

          - Ra ngay chiêu đãi sở có khách đến thăm!

          - Khách nào thế hả anh?

          Tôi hỏi. Tiểu đội trưởng lắc đầu:

          - Chả biết! Cũng là lính tráng. Nghe nói cùng quê với ông. Nhớ là chuyện trò tâm sự gì thì đến trước giờ báo thức buổi chiều phải về để đi tập chiến thuật nhé!

          - Vâng… nhưng cùng là lính tráng sao trực ban không cho vào luôn trong doanh trại hả anh?

          - Quy định là như thế! Vào đây để các ông trò chuyện ầm ầm, đơn vị mất ngủ, chiều đi tập thế nào được hả!

          Tôi vội mặc quần áo ra nhà chiêu đãi sở. Một người mặc quân phục vải Tô Châu mới tinh đang ngồi chờ sẵn. Tôi vô cùng ngạc nhiên nhận ra đó là thằng Thân. Thằng Thân rất vui mừng vì gặp được tôi. Hai thằng ngồi nói chuyện với nhau suốt buổi trưa.

           Qua lời kể của thằng Thân tôi lờ mờ hiểu được mọi chuyện.

          Ngay sau khi tôi lên đường nhập ngũ thì chi đoàn lớp 10B cũng tổ chức kết nạp đoàn cho thằng Thân. Trong một buổi sinh hoạt lớp Thằng Phú đã nhận việc nó đến mượn cuốn sách hoá học của thằng Thân đã sơ ý để quên cái bút Kim tinh và tờ năm đồng vào hộc bàn chỗ ngồi của thằng Thân. Khi mọi việc vỡ lở nó đã định nhận lỗi của mình ngay nhưng lại sợ khuyết điểm nên không dám nói. Bây giờ nó thấy hối hận nên xin chịu kỷ luật trước lớp và chi đoàn.

           Việc thằng Phú nhận là vô tình bỏ quên cái bút máy và tiền vào hộc bàn đã xoá được cái tội ăn cắp cho thằng Thân. Trong lớp có người nghi ngờ việc “vô tình bỏ quên” của thằng Phú nhưng không ai muốn truy cứu. Việc xong xuôi, êm đẹp thì thôi. Ngày ấy ai cũng sợ khuyết điểm, mất thành tích chung của tập thể. Lớp không có người ăn cắp thì càng tốt. Cô bé Thu, lớp trưởng kiêm bí thư chi đoàn lớp tôi ngày ấy là một người con gái rất xinh, tính tình hìền dịu, nhu mỳ, lúc nào cũng chỉ sợ thành tích lớp mình kém lớp khác. Hôm lớp xảy ra chuyện “ăn cắp” của thằng Thân, tôi để ý thấy Thu rất buồn. Cả năm xây dựng phong trào thanh niên, tổ chức phong trào thi đua của lớp thế là công lao đổ hết xuống sông, xuống bể. Thu đã khóc sưng cả mắt và buồn hơn chính cả thằng Thân - tên tội phạm số 1 của lớp 10B chúng tôi ngày ấy.

          Thân thoát tội ăn cắp và được xem xét kết nạp vào đoàn thanh niên lao động. Đơn xin nhập ngũ của nó lập tức được chấp nhận, và nó trở thành một người lính, một đồng đội của tôi. Nó cũng ở một đơn vị B đóng quân gần đơn vị. Đơn vị nó cũng đang khẩn trương huấn luyện để chuẩn bị hành quân ra mặt trận chiến đấu.

          Lại nói về chuyện ở lớp 10B ngày ấy. Thằng Phú bị kiểm điểm vì đã gây ra chuyện nghi ngờ trong lớp có kẻ ăn cắp, làm cho lớp tôi mất điểm thi đua trong học kỳ 1. Cuối năm học, thằng Phú không đạt tiêu chuẩn “Đoàn viên 4 tốt”. Thế mà nó có vẻ chẳng lo lắng, buồn phiền gì. Sau này chúng tôi mới biết việc nó đứng lên nhận khuyết điểm trước lớp đã gây họa, làm oan cho thằng Thân là có một sự hy sinh, đánh đổi của một người khác. Người đó chính là Linh. Linh đã đoán biết ngay là thằng Thân là nạn nhân, bị ném đá giấu tay, vu oan giáo họa. Linh cũng biết cả người đã ném đá giấu tay và lý do vì sao hắn làm như thế. Linh đã gặp Phú. Rồi sau đó Linh đã nhận yêu nó. Sau khi thằng Phú nhận lỗi trước lớp, chịu hình thức kỷ luật hình như Linh còn hiến dâng cho nó tất cả. Linh đã cứu danh dự cho thằng Thân như thế đấy. Chẳng biết Linh làm như vậy là khôn hay dại.

           Đám học sinh cùng lớp, cùng trường, nhất là bọn học sinh thủ đô sơ tán về nông thôn có nhiều đứa bảo là thằng Phú ngu, tự dưng lại giơ đầu chịu báng, nhận hết khuyết điểm về mình một cách hoàn toàn tự giác như thế. Khi thằng Phú không đạt tiêu chuẩn “Đoàn viên 4 tốt”, có người đẫ gặp để chia sẻ, an ủi nó. Họ không biết thằng Phú làm như thế là nó đã “bắn một mũi tên trúng hai đích”. Nó đã có được một người con gái đẹp. Điều quan trọng hơn là nó còn đạt được một mục đích khác nữa mà bọn chúng tôi ngày ấy không một ai nghĩ tới.

           Thằng Phú có một ông chú làm ở Bộ Tổng tham mưu quân đội. Ông này là cán bộ cấp cao, biết được nhiều thông tin bí mật. Ông biết chuyện sẽ tổng động viên chuẩn bị cho những chiến dịch lớn giải phóng hoàn toàn miền Nam. Là một người lính chiến, ông càng hiểu rõ sự khốc liệt, chết chóc của chiến tranh. Thằng Phú là đứa con của anh ruột ông, cũng là cháu đích tôn của dòng họ. Ông ấy tính đến chuyện an toàn cho thằng cháu. Khi đi công tác qua Vĩnh Phú, ghé thăm anh trai và cháu ở nơi sơ tán, ông đã bày cách để thằng Phú khỏi phải đi bộ đội. Việc thằng Phú nhận khuyết điểm gây nên sự hàm oan cho bạn nên cuối năm học không đạt tiêu chuẩn “Đoàn viên 4 tốt” lại là một cơ hội tốt. Thế là nó cũng không đủ tiêu chuẩn đi bộ đội. Đi bộ đội đánh Mỹ ngày ấy chỉ ưu tiên cho những thanh niên ưu tú mà thôi. Sau đó một thời gian ngắn nó chuyển trở về Hà Nội, làm lại học bạ và đi học đại học, trong khi thằng Thân và tôi cũng chuẩn bị ra chiến trường.

 *

           Buổi trưa hôm ấy tôi và thằng Thân đã nói với nhau rất nhiều chuyện. Chúng tôi nhớ về ngày ấu thơ cùng nhau cắp sách tời trường, nhớ về kỷ niệm những đêm lửa trại thanh niên, cả chuyện hai thằng trốn học đi bộ lên huyện xem phi công Mỹ bị bắt sống tại núi Sáng. Bao nhiêu chuyện được nhắc lại nhưng tiệt nhiên không thấy thằng Thân nói về chuyện của nó với Linh. Nó chỉ tặc lưỡi nói mấy cậy thị trên đồi Ma mùa này ra quả xanh sai lắm, ánh mắt thì lại có vẻ xa xăm, thoáng buồn. Lúc chia tay tôi thằng Thân bảo:

          - Đơn vị tao sắp đi rồi… Hẹn gặp mày ở quê sau ngày chiến thắng nhé!

          - Ừ! Mày cũng phải cố gắng mà rèn luyện. Trông mày nhỏ con, gầy yếu thế liệu có đủ sức mà leo qua đỉnh Trường Sơn không đấy?

           - Mày yên tâm! Nhất định tao sẽ không bao giờ chịu lùi bước đâu.

           Chúng tôi chia tay nhau.

           Sau ngày miền Nam giải phóng tôi có gặp lại thằng Thân nhưng không phải tại quê hương trung du của chúng tôi như lời hẹn ước ngày còn ở thao trường huấn luyện Thái Nguyên. Thằng Thân đã không trở về quê sau ngày chiến thắng trong một mùa thị chín như là lời nó đã hẹn với tôi…

Mùa săn cá nục

Cá nục làng Nục, con nào con nấy mập tròn. Con mắt tươi trong, lao láo, nhìn là muốn thịt. Mình mẩy bóng lưỡng, cứng ngắc, gân xanh rõ mồn một. Mấy ngày khơi ròng mà vẫn nằm giãy đành đa đành đạch... Một mùa khơi xa, là làng Nục tưng bừng tiệc cá nục. Cá nục hấp cuốn bánh tráng, rau xà lách, chấm nước mắm tỏi ớt là ngon bá cháy. Thịt cá ngọt sớt như là ăn đồ sống. Cá nục kho nước dừa, cơm dừa cứng cậy. Cá nục nướng ăn với cơm cháy thơm phức. Mắm cá nục chiên, lấy cà tím chấm. Một miếng cà ăn đậm đà đến ba chén cơm. Nước mắm nhĩ cá nục cũng đâu thua gì nước mắm nhĩ cá cơm, cũng ngọt lự, cũng thắm tình mùi biển quá trời. Chó mèo làng Nục cũng có phước, ăn xương cá, đầu cá nục thay cơm thừa chán chê.

Gió thổi mạnh, tính lưng lửng năm là đến mùa săn cá...

Đêm trước ngày khơi, làng Nục đỏ đèn. Một người một công một chuyện, chu đáo cho buổi sớm mai. Cụ già thì vá lưới. Mấy miếng lưới đợt khơi vừa rồi, cá dữ cắn nát bét, không vá kỹ, cứng cáp là cá nục chui đi hết trơn. Đàn bà thì đi mua thịt thà, rau gạo, đường muối, than cộ, rượu đế, thuốc lá, thuốc nhức đầu, sổ mũi... Con gái thì đi mua đá bào ủ cá nục, bánh ngọt, kẹo, sữa, cà phê... Con nít don don thì cầm can đi xách nước ngọt... Nói chung là đủ để sống đầy đủ trong những ngày lênh đênh nước biển. Đàn ông, con trai thì không rượu chè trai gái, ngủ sớm để sức cho chuyến ghe đi lâu lắm mới về...

Vô mùa cá nục là dân làng Nục “hành quân” qua mấy cái làng xã lân cận lùng tàu dừa tươi. Tàu dừa xanh ngắt, lá tươi là hút bọn cá nục ghê lắm. Cá nục mê lá dừa như trai mê gái đẹp, gái mê trai giỏi giắng, đa tài. Nhác thấy tàu dừa lửng lửng giữa đường bơi, cá nục rủ chui vô cả đàn làm ổ, ăn chơi quẫy nước, đâu biết phận mình long đong. Cái mùi tàu dừa như mùi nước hoa hàng hiệu, ngửi một lần là muốn ngửi lần thứ hai, thứ ba, cả đàn cá nục cùng mụ mị. Thả tàu dừa, đợi dăm ba cữ rượu đế, cà phê là phắng lưới kéo cá mệt nghỉ. Quăng cá vô hầm đá lạnh, nhổ neo về đất liền... Chiều chiều, xe Đa-su chở tàu dừa xanh lè đường vô làng. Biển xanh lá dừa cũng xanh, cả làng Nục xanh tươi. Mấy cây dừa tới mùa săn cá nục là cụt lủn, chẳng còn xum xuê dưới bóng trăng. Chẳng nghe lá dừa xào xạc trong gió đêm, cũng buồn... Hồi nhỏ, Giang hay đu xe Đa-su theo ba má đi mua tàu dừa. Tới lúc don don, Giang đi xách nước ngọt cho ba đi khơi. Bây giờ, tối nay, Giang phải đi ngủ sớm, lấy sức cho mùa săn cá nục đầu tiên của đời nghiệp ngư. Hơn ai hết, Giang hạnh phúc, hồi hộp cho cái ngày được ra biển lớn, quẫy đạp sóng biển và lặn ngụp trong dòng hải lưu mát lạnh. Giang không biết ở dưới đấy, biển có còn xanh?

Là dân biển, lại là dân làng Nục nên Giang ra dáng nhà nòi kinh khủng. Nhìn cái dáng nó đặc mùi biển: Da rám đến xám quắt lại. Bắp tay, bắp dế to tê, cứng ngắc. Nó cởi trần, phô bộ ngực nở vòng cung, chắc như cạp thúng chai. Bụng thon gọn những múi cơ, đầy đủ sáu múi. Nhìn người nó chắc nịch, chẳng sợ sóng lớn, bão giông. Tóc nó vàng khè, xoăn cứng. Nó cao hơn hết những đứa cùng tuổi trong làng Nục. Nó trở thành “người trong mộng” của cả chục (có đầu đuôi) đứa con gái trong làng. Nó ở phố, chắc nó làm người mẫu sẽ kiếm cả ghe tiền cát-sê, chẳng cần đi khơi. Có hôm, xem diễn thời trang trên ti vi, nó bảo, tướng tá nó còn đô hơn cả tướng tá thằng người mẫu nam kia nhưng làm cái nghề đi qua đi lại đó sao vui bằng đi săn cá? Nó cũng là một tay bơi lặn không có đối thủ nào cứng cơ để so đo. Nó bơi một sải tay bằng thằng con trai bình thường bơi một sải rưỡi, còn con gái thì độ cỡ hai sải. Nhìn cái mặt nó hay nhìn người ta bằng cặp mắt lăm lăm đủ biết nó là một thằng ngang bướng, tính thẳng như ruột ngựa.

Nó nghỉ học vào giữa năm lớp chín. Lúc ấy, trường cấp hai bị triều cường lên đánh sập. Nó không chịu đi học ở trường khác vì trường đó quá xa làng Nục. Còn nó, không thể xa làng Nục quá nửa ngày. Nó xếp sách vở vô thùng mì tôm, đẩy vào góc nhà và chạy ra với biển. Ba má nó còn bồi thêm, khỏi đi học thì khỏi tốn tiền sách vở cho mày. Cuộc đời bút nghiên của nó chấm dứt đột ngột và đấy tình yêu với biển như vậy. Đi làm chứng minh nhân dân nó khai, trình độ văn hóa: tốt nghiệp lớp tám...

Giang yêu con Ngân, cũng là con của một nhà trong làng Nục. Mấy đêm, hai đứa rủ ra bờ kè xếp bằng mấy bao tải cát biển nói chuyện khuya lơ khuya lắc. Đám trẻ con đi rình về mách lại là hai ổng bả còn nắm tay nữa kìa, ghê lắm. Hai ổng bả có ôm không? Một đứa cao hứng hỏi. Không biết, mà không cần biết, mà hỏi chi dậy, bà ghen, bà yêu ông Giang hả. Đám trẻ nói té tát, cong bụng cười làm một đứa con gái nhà đầu làng Nục đỏ mặt, lặn biến mất. Giang quá rành sáu câu vọng cổ cái trò ma lanh, rình rình của tụi con nít. Ngày xưa, cỡ đó nó cũng là trùm đi rình người ta nắm tay nhau. Bây giờ, nó phải nắm tay con Ngân để mấy đứa nhỏ ma lanh còn có cái để rình...

Đêm trước ngày đi biển một ngày, Giang rủ Ngân đi quán cà phê. Mấy cái quán cà phê dạo này mọc như nấm mèo, nấm mối. Mấy bà chủ, cái mặt ai cũng non choẹt. Đi bưng bê cà phê trên phố về rồi về nhà xin tiền mở quán với mấy năm kinh nghiệm thương trường và những ngọt bùi - đắng cay trong nghề. Chẳng có một mống ông chủ nào vì đi khơi hết trọi, thì giờ đâu đi phố kiếm tiền như bọn con gái. Tới chiều chiều, các quán mở nhạc lình xình, loại nhạc của mấy cái ông đang làm mưa làm gió gì đấy: Anh yêu em muôn kiếp, trời sinh chúng ta là một đôi, không một cản ngăn, chia lìa, trái tim anh đau như xát muối... Vậy mà thành “hit” làng Nục. Con nít thuộc còn hơn mấy bài thơ phải học thuộc lòng trong sách ngữ văn.

- Ngày mốt Giang đi biển rồi hả?

- Ừ, tui đi, tui đi hơi lâu đó Ngân!

- Tui gửi chai dầu, có nhức đầu thì thoa vô liền. À, coi chừng trúng sóng biển, mửa ra ghe thì khổ...

- Có nhớ tui không?

- Chút ít...

- ...

- Chỗ đông người, hỏi kỳ quá ta ơi.

- Hì, hì...

Sáng ngày khơi. Bờ biển đông nghịt người, toàn là người làng Nục. Bãi cát bị giẫm nát bởi dấu chân ngang dọc. Biển vỗ ầm ầm. Đàn bà, con gái, con nít phẩy nón tiễn ghe đi vừa vui vừa man mác buồn. Ghe làng Nục xa dần, người ở lại đứng khấn vái một mùa đi săn thuận buồm xuôi gió, bão giông đừng nổi, cá về đầy ắp ghe...

Một cái thường lệ, mùa săn cá nục vô vụ là làng Nục trống hoác đàn ông đàn ang, chỉ còn mấy đứa con trai don don, bé nhỏ, tung tăng sóng cát. Cũng phải, cánh đàn ông theo ghe đi săn hết ráo, đâu còn mống nào lờn vờn ở làng. Cánh đàn bà, con gái ở nhà cũng vô công rỗi nghề. Đi dọc một lượt làng Nục, mấy bà ngồi trước hàng ba ngóng ngóng xa xăm thấy ớn. Dựa cột nghe cải lương, ca nhạc hết buổi đi chợ nấu cơm. Chiều, quét sân sướng, nhà trong nhà ngoài, cho con bú. Tối, rủ nhau ra đầu đường ăn ổi chấm mắm ruốc. Có bữa, thêm cữ giựt mình khi nghe tin bão xa, cơn bão số n... Lúc này đây, làng Nục thê lương, nẫu ruột. Gió biển ngoài kia rít lên nặng trịch. Ngân nhìn cái cảnh làng Nục mà ớn lạnh, u buồn. Một, hai năm nữa Ngân cũng ngồi dựa cột, nghe cải lương, ca nhạc, ngóng tin chồng trở về từ khơi xa lắc. Lòng Ngân như nổi sóng...

Ngày khơi đầu tiên, Giang mải mê nhìn trời cao, biển rộng thênh thang. Sóng biển lăn tăn yên ả như làng Nục trở chiều. Giang ngồi bệt trên mũi ghe, gió thổi tốc, luồn vào trong mấy sợi tóc cong cứng của Ngân, tràn vô lồng ngực, man mác da thịt, bồi hồi. Giang thấy ở biển một tình yêu mê muội, linh thiêng như một tín đồ ngoan đạo. Giang yêu biển như Giang yêu Ngân. Giang tin rằng, sẽ không có một sự lựa chọn giữa biển và Ngân. Vì Ngân và biển là một...

“Được rồi!”, một người trong ghe hô to. Động cơ ghe rền rền dần rồi im bặt. Ghe dừng hẳn, xung quanh là một màu xanh bát ngát của biển, trời. Giang nhảy xuống biển, lặn sâu theo lời cha kêu. Giang lanh như một con cá nục. Một cảm giác chạy xoẹt trong người. Cái tố chất đi săn cá nục hình như đã có trong người Giang lâu lắm rồi giờ mới lộ ra. Chốc lát, nó đã ngoi lên, mặt tỉnh queo, cười tươi rói: “Chỗ này thả được đó cha!”. Nó vừa chui lên ghe, người trong ghe đã thả tàu dừa xuống dưới, gọi cá nục về làm ổ.

- Con lặn xuống coi cá về nha cha?

- Dại nè, nước động cá đi hết ráo, còn cá đâu mà kéo hả!

Ngày mai là thả lưới rồi. Mẻ lưới đầu tiên. Giang không biết mình có nặng vía không? Mùa săn này mà thất, le que mấy con là coi chừng Giang phải đi cúng để cho vía nhẹ đi... Tối, trong ghe ai cũng cụng rượu đế mồi khô mực. Giang lại ra nằm ngửa trên mui ghe. Đêm nay, trăng lại sáng choang. Gió biển tấp vào ghe liên miên, lạnh cóng nhưng Giang thích cái cảm giác hứng gió như thế này. Giang nhớ đến Ngân. Đêm trăng, mà không đi săn cá thì có lẽ Giang và Ngân đã đi dạo biển, ngắm trăng hoặc ra quán cà phê nghe nhạc lè nhè, uống cà phê đen nhỏ giọt... Mấy ông nhậu say, còn lấy đũa khua vào chén đất lốc cốc, hát nhạc ì èo những ca khúc một thời vang bóng, tình ca của dân nhậu... Ngày mai kéo cá lên rồi, sắp đưa ghe vô bờ, Giang lại được thấy Ngân.

Chuyến đầu tiên của mùa săn cá nục trúng lớn. Cá nục kéo lên, đổ oằn cả một đầu ghe. Giang cười rạng rỡ, tương lai mình sẽ trở thành “thợ” săn cá số một làng Nục. Tiếng ghe nổ bạch bạch, ngược về đất liền, ngược về làng Nục nơi có những người đàn bà đang mòn mỏi chờ chồng con từng ngày mà hao gầy. Không một cơn bão...

Ngày ghe về, bờ biển lại đông nghịt như hồi tiễn ghe đi. Người trong làng gồng gánh từng hàng ra bờ đón ghe, gánh cá. Ngày này, thương cá đâu đâu kéo về đông đen, ngã giá sát rạt. Buôn cá nục làng Nục lời to là cái chắc. Làng Nục lại rộn rịp, mở tiệc cá nục mừng được mùa khơi. Nhậu nhẹt tưng bừng. Cá nục mùa này nhìn ngon mắt quá. Ghe nhà này so ghe nhà kia sát từng con cá. Nhà nào được được là nổ banh trời. Giang nhảy phóc từng mũi ghe xuống bến đậu, liếc liếc tìm Ngân, xa cách ngót nghét chục bữa trời chớ đâu có ít. Có thương mới nhớ dữ...

Mấy mùa săn cá nục nối tiếp nhau...

Giang đã rành sáu câu vọng cổ việc đi khơi. Lứa của Giang đang là lứa “thợ săn” chủ chốt của làng Nục. Nó luôn tự hào vì điều đó vì là ước vọng của nó từ lúc còn cầm can xách nước ngọt cho cha đi khơi. Mùa săn này về, nó sẽ làm đám cưới với Ngân. Nó sẽ sắm cho Ngân một đôi bông bằng vàng, rủ Ngân lên phố mua đồ cho nhà riêng của hai đứa. Một căn nhà nằm lưng lửng ở làng Nục. Ngôi nhà nhìn ra sẽ thấy biển, thấy làng Nục yên ắng đến thèm một tiếng động mỗi lúc vô mùa săn cá. Một hạnh phúc sắp nảy nở gần bờ biển. Trên mặt Giang, căng tràn niềm vui, an lành. Cuộc tình của Giang và Ngân không gợn một cơn giông...

Đợt săn cuối cùng của mùa săn năm nay kết thúc...

Giang về nhà, tắm rửa sạch sẽ, xà bông thơm phức, thay cái áo sơ mi mới coóng. Giang soi gương hai ba lượt rồi đi qua nhà Ngân. Đêm nay sóng vỗ mạnh... Ngân không còn ở làng Nục. Ngân gửi lại cho Giang một bức thư: “Giang hãy đi tìm một người khác, kiếp này chúng ta không thuộc về nhau dù biết rằng anh rất yêu em...”. Bức thư như bài hát lè nhè buổi chiều ở quán cà phê trước ngõ...

Ngân đã bỏ đi trong một buổi chiều sóng gió hú ầm ầm, buổi chiều như mọi buổi chiều ở làng Nục mỗi mùa săn cá nục. Ngân sợ mình sẽ là một hình nhân nhỏ bé của những buổi chiều như thế: Ngồi dựa cột, nghe cải lương, ca nhạc, ăn ổi chấm mắm ruốc chờ chồng...

Giang không ngờ, có một ngày mình lại có sự lựa chọn giữa Ngân và biển. Nó biết rằng, mình là người của biển, của làng Nục. Muôn đời vẫn thế. Ngân và biển không còn là một...

Gió lại thổi mạnh, lại lưng lửng năm, lại đến mùa săn cá...

Đêm trước ngày khơi, làng Nục lại đỏ đèn...

Ăn cá

Khi tôi còn bé, nhà đông anh em, mỗi bữa cơm má chỉ gắp phần đầu và bụng cá. Má bảo đầu cá tuy hơi xương nhưng ăn rất ngon, đó là nơi tụ hợp những tinh túy của con cá, còn phần bụng thì béo ngậy, lớp da bao quanh có nhiều dầu mỡ, mà má lại rất thích. Má nói ăn phần thịt thì ngọt thiệt, nhưng nhai xạm xạm trong miệng, thấy kì kì. Bọn tôi không biết gì, nghe má nói tranh nhau gắp ăn, đứa hóc xương, đứa khục khặc vì xương ghim cổ họng. Chúng tôi nhăn nhó: “Vậy mà ngon nổi chi!”. Má không nói gì, miệng luôn nở nụ cười bí ẩn. Những miếng thịt nạt, những phần ngon trên lưng con cá được má lần lượt bỏ vào chén từng đứa. Má chống đũa nhìn đám con tranh nhau những miếng cá bé xíu, mắt dường như đọng nước.

            Khi có con, mỗi bữa cơm tôi phải gỡ từng cái xương một, sợ con vô tình nuốt nhầm mắc cổ. Nhiều hôm thức ăn thiếu, có bao nhiêu nạt tôi dẻ hết cho con, chỉ chừa lại mình những nơi xương xẩu. Con bé tinh ý gắp trả lại mẹ, tôi tự dưng nhớ lại năm xưa. Ngày đó tôi hay trêu: “ Má lớn rồi mà ăn còn bị sặc...”. Chưa bao giờ tôi bỏ lại trong chén má, dầu chỉ là mẩu cá nhỏ. Giờ, má tiếp tục những năm cuối đời trong tình trạng đời sống thực vật. Đồ ăn mỗi bữa đều phải xay nhuyễn vì bao tử người già không hấp thụ được bao nhiêu. Nhìn má từng ngày gầy xọp xanh xao, tôi ước gì được thấy má cặm cụi ngồi lừa cho tôi từng miếng xương cá. Nếu thời gian được quay trở lại, con bé vô tâm ngày xưa sẽ nhường phần nạt cho mẹ mình và nói rằng: “Má ơi, má đừng vì con mà giành hết phần xương xẩu cho mình nghen má!”

Mùa cá lòng tong

Chẳng biết ai khéo đặt cho anh Tư biệt hiệu là anh Tư Kềnh, có lẽ vì hễ cứ ghé nhà ai chơi, anh cũng tự nhiên nằm kềnh càng ngoài cửa, cười hề hề, chẳng ai thèm chấp. Vì ngó bộ dạng anh ngẩn ngẩn ngơ ngơ, hiền lành, lại dễ nhờ vả nên ai ai cũng thương cũng quý.

Xóm Đôi nằm lút sâu trong những con mương dài ngoắt ngoéo, mỗi mùa nước lên, nhìn đất trời buồn nao nao, cánh đàn ông con trai lại rủ nhau làm vài trái cóc xanh với chai rượu trắng, kề cà nói chuyện trăng sao.

Anh Tư Kềnh không biết uống rượu. Người ta uống vô thì ngọt từ lưỡi xuống lòng xuống dạ, còn anh có hôm bị chèo kéo, không đặng được cố nhấp môi mấy phát. Ấy vậy mà, đất trời lảo đảo, đầu óc quay cuồng, thế là lại ngã kềnh ra, đúng lúc đó có mấy cô trong xóm đi ngang qua, chỉ trỏ cười. Quê độ, anh gườm gườm nhìn họ, đàn bà con gái mà vô duyên, thử rước mấy ông tối ngày rượu chè say xỉn xem, rồi có cười được mãi hay không? Nhưng trong đám đó, có một người ngó qua anh rồi lặng thinh, chẳng nói chẳng rằng, chạy thẳng một mạch. Đó là cô Liên, cách nhà anh mấy cái cầu tre, nhìn từ đầu cổng bên này sang bên kia là nhác thấy bóng nhau.

Cô Liên mười tám tuổi, da trắng như trứng gà bóc, tóc dài mượt tận gót chân. Anh Tư có nằm kềnh ở đâu, chứ nhà cô Liên là anh tuyệt đối không dám. Bố mẹ cô xem chừng khó tính nên anh cũng ngại.

***

Bữa đó anh Tư Kềnh cứ nằm một chỗ, vạ vật một lúc ở gốc cây, mọi người tản đi hết vì nghĩ anh tự ngã tự về như mọi bữa. Cuối cùng mẹ anh cũng kiếm được anh. Anh ngạc nhiên hỏi: “Ủa? Sao má biết con ở đây?”. Má anh vừa xốc nách anh, vừa la: “Con bé Liên nó qua nhà nó mách nên má biết, lần sau đừng có nghe lời người khác chuốc rượu nghe chưa, cha con khi xưa cũng vì rượu mà cảm chết đó con!”.

Vậy là anh Tư Kềnh quyết không bao giờ lân la đến con ma men nữa, cũng từ đó đầu óc anh cứ lảng vảng hình bóng của cô Liên. Nhưng cô Liên ít ra khỏi nhà, nên thi thoảng anh làm bộ ngang qua, hát mấy câu vu vơ: “Ví dầu cầu ván đóng đinh” xem có ai ngó ra không, nhưng tịnh chẳng thấy bóng ai.

Mùa nước nổi, má kêu anh đi câu cá lòng tong về kho tiêu ăn với cơm, cứ gọi là ăn hoài không biết chán. Anh kiếm mồi rồi thả cần câu ngay gần nhà cô Liên, cũng may chỗ này nước dâng cao, cá lòng tong đớp mồi liên tục, anh câu đến mỏi tay. Vừa lúc trưa, bụng réo òng ọc, tính về thì anh thấy cô Liên đi ngang qua, cô đội nón lá, tay cầm bịch rau so đũa, ngẩn người nhìn anh từ lúc nào. Anh Tư Kềnh hơi giật mình nhưng cố lấy bình tĩnh: “Ủa, cô Liên đi chợ hồi nào thế?”.

Cô Liên cười để lộ hàm răng trắng muốt: “Tôi đi hái bông so đũa nấu canh chua, bữa nay anh Tư câu được nhiều cá không?”. Anh Tư Kềnh trong lòng khấp khởi được bắt chuyện cùng người đẹp nên giơ rổ cá đầy ắp lên, vài con cá đuôi trắng sáng nhảy loi choi thật vui mắt: “Hôm nay tôi may mắn nên câu hết cá bờ kênh nhà cô Liên rồi...”. Cô Liên nheo mắt: “Thế thì anh phải chia cho tôi chứ?”. Anh Tư Kềnh cười hềnh hệch: “Xá chi, cô Liên mang hết về nhà đi, chiều tôi ra con mương gần nhà câu cũng nhiều lắm”.

Nói là làm, anh Tư Kềnh kiếm bao ni lông, trút hết giỏ cá và dúi vào tay cô Liên. Cô Liên vui lắm, không quên cảm ơn rồi quay đi vội vã. Anh Tư Kềnh thu dọn cần câu, trong người lâng lâng như thể trên mây. Về đến nhà thấy má ngồi tựa cửa hỏi: “Cá đâu rồi con?”. Anh Tư Kềnh làm bộ gãi đầu gãi tai bảo: “Bữa nay xui quá, chẳng có con nào má à”. Má thở dài: “Vậy thôi má con mình chịu khó ăn canh suông nha, bữa mai má đi chợ kiếm đồng nào mua ít thịt”.

Anh Tư Kềnh ráng lắm cũng chẳng nuốt trôi hết chén cơm. Như mọi bữa thấy má rầu rĩ vì cảnh nghèo cơ cực anh đã bàn tính với má cho anh lên thành phố. Anh sẽ đi theo mấy thằng bạn cùng quê đang làm thuê trên đó, có đồng ra đồng vào, chứ ở quê thế này, quanh ra quẩn vào làm mướn hoài không đủ sống, nói gì lo cho má. Nhưng bây giờ, anh chẳng muốn đi đâu cả, đầu óc anh lỡ tơ tưởng đến người ta rồi, có người giữ chân anh rồi còn đâu.

Cả trưa anh không ngủ được, nhìn mưa trắng xóa bờ lau sậy xanh ngút mắt trước nhà, cả bầu trời u ám không một gợn mây, rầu thúi ruột. Anh nhỏm dậy lấy cần câu ở góc nhà xách đi, anh tính ra bờ mương gần nhà, nhưng thế nào mà anh lại cứ đội mưa đến bờ kênh nhà cô Liên, rồi ngồi đúng vị trí buổi sáng đó. Trời mưa dầm dề, anh Tư khoác cái áo mưa rách tả tơi, khom rom câu.

Cả chiều chẳng thấy bóng cô Liên đâu, anh thấp thỏm ngó quanh, rồi ráng chờ thêm mà chỉ thấy chung quanh bầu không gian hiu hắt và quạnh vắng. Thất vọng, anh Tư về nhà, vừa kịp cởi giỏ cá ra khỏi người đã thấy trán nóng hầm hập. Má anh cuống quýt, vừa trách vừa lấy khăn ướt đắp lên trán anh mà chửi: “Con không nghe lời má, giờ đau ốm ra đấy, còn làm chi được?”.

Má lụi cụi nấu cháo, mấy con cá lòng tong khẳng khiu kho quẹt trộn chung với cháo cho anh. Anh vừa bưng tô cháo vừa rưng rưng nước mắt, tính nói gì đó với má, rồi thôi. Má xoa lưng anh: “Con tính chừng nào cưới vợ, má như trái chuối chín cây chẳng biết khi nào rụng, con chưa cưới vợ, má chưa yên lòng”.

Anh Tư Kềnh ướm lời: “Má thấy trong xóm, ai hợp ý cùng con nhất?”. Má lắc lắc đầu. Anh liều mạng hỏi: “Má thấy cô Liên được không má?”. Má chép miệng: “Con nhỏ đó đẹp nhất xóm, con làm sao với được?”. Anh cười hì hì: “Con thương cô ấy đâu phải vì cô ấy đẹp đâu?”. Anh tính thú nhận với má vụ cho cô Liên giỏ cá lòng tong, cô Liên đã nhận, có nghĩa cô cũng ưng anh đó chứ, nhưng rồi lại thôi. Má bảo: “Má còn một chỉ vàng dành dụm được, con ưng ai má đi mua trầu cau sang dạm hỏi người ta”.

Thế mà cũng lạ, chỉ mấy bữa ăn cháo và uống vài viên thuốc cảm má mua ngoài tiệm thuốc tây ngoài chợ, anh Tư Kềnh lại khỏe re, lại ra vào cười chào khắp xóm. Đã thế mấy người xóm trên cần người làm phụ hồ, trả công hậu hĩnh, gọi anh nên anh vui lắm. Làm được bao nhiêu, anh đưa má hết. Ai hỏi anh cũng trả lời tỉnh queo: “Để dành tiền cưới vợ”. Chuyện đến tai đám con gái mới lớn trong xóm, thi thoảng gặp anh chúng lại xí xọn hỏi: “Anh Tư Kềnh cưới vợ thật hả? Ai lọt mắt xanh anh Tư thế?”. Anh Tư vênh mặt vắt hai cánh tay gân guốc đen nhẻm ra sau lưng không đáp lời, nghĩ bụng: “Không phải các cô là được rồi!”.

Mấy bữa chẳng thấy cô Liên đâu, anh tính xin cô một cuộc hẹn mà sao khó quá. Thế là tối tối, anh núp sau đám cây trước cổng nhà cô, rồi trời cũng thương khi anh thấy cô Liên từ con hẻm lớn bước vô. Hôm nay trông cô Liên lạ quá, tóc cắt ngắn, ép thẳng lừ. Miệng tô son đỏ chót, từ xa đã thấy mùi dầu thơm phảng phất. Anh dụi mắt tưởng mình nhìn lầm.

Vừa thấy anh Tư, cô Liên cười rất tươi: “Tối thế này mà anh Tư cũng đi câu cá hay sao?”. Anh Tư Kềnh cuống quýt cả tay chân, miệng líu ríu chẳng nói nên lời, những gì tính nói lại bay đi đâu hết. Rồi anh nhìn ra theo sau lưng cô Liên, là một người đàn ông cao to, mắt ti hí, ông ta nói gì đó anh không hiểu. Hai người nắm tay nhau đi thẳng vào nhà. Anh Tư Kềnh ngớ người, anh chổng mông nhòm qua khe cửa nhà cô nhưng chẳng thấy gì…

***

Tin cô Liên sắp lấy chồng Đài Loan lan đi khắp xóm. Đàn ông con trai lại được dịp rủ nhau nhậu nhẹt giải sầu vì con gái mới lớn trong xóm có tí nhan sắc, trước sau gì cũng đi lấy chồng ngoại hết. Anh Tư có lẽ là người biết tin cuối cùng, vì sau bữa gặp cô Liên và người đàn ông lạ mặt, anh trở nên bệnh lại. Anh Tư nằm thừ người, vắt tay lên trán, buồn đến nỗi nước mắt chảy ra không sao ngăn được. Mấy thằng bạn anh ở thành phố về lần nào cũng kể cho anh nghe mấy vụ cô dâu tự tử hay bị giết chết ở xứ người mà báo chí đăng đầy nhan nhản, chẳng hay cô Liên có biết không, mà cô vẫn chịu làm dâu xa xứ?

Ngày đám cưới cô Liên, anh Tư Kềnh thắc thỏm giữa đám đông lố nhố. Anh cầu trời mình đang ngủ mơ. Chỉ đến khi chứng kiến cảnh ông mắt hí trao chiếc kiềng cổ vàng chóe lên cổ cô Liên, anh mới giật mình sực tỉnh. Anh mon men mãi quanh nhà cô, rồi đưa tay vẫy vẫy, lúc đó cô Liên mới nhận ra anh hàng xóm tốt bụng. Đúng lúc cô Liên váy áo xúng xính lộng lẫy tiến đến gần anh, trời xui đất khiến thế nào, anh Tư liều níu lấy tay cô, thì thào: “Cô Liên qua bên bển, lỡ có chuyện gì thì về lại xóm Đôi cô nhé, tôi đợi!”. Cô Liên nghe câu được câu chăng, nhưng anh Tư thấy hai hàng nước mắt cô chảy xuống. Không biết cô cảm động vì lời anh Tư nói, hay cô bắt đầu nhận ra mình sắp phải xa miền quê sông nước thân thương mà chưa biết bao giờ trở lại...

Cũng từ đó, mỗi mùa nước nổi, người ta không còn thấy bóng anh Tư Kềnh ra bờ kênh nhà cô Liên câu cá lòng tong nữa…

MÓN GỎI CÁ

Chiếc thuyền tám mươi mã lực bắt đầu chuyến đi câu cá ngừ đại dương dài ngày trên biển. Khi cách đất liền khoảng hai trăm hải lý chẳng may gặp bão, chủ thuyền cùng mười người đi bạn vội điều khiển con thuyền vào vịnh để tránh cơn cuồng nộ của thiên nhiên. Bão đi quá nhanh. Khi con thuyền cách vịnh chừng vài hải lý, bất ngờ, những đợt sóng khủng khiếp như ngọn núi liên tiếp bổ xuống. Những sinh linh nhỏ nhoi gào thét, cầm cự trong tuyệt vọng. Mưa rơi. Gió giật. Sóng thần. Bầu trời tối tăm như địa ngục. Chiếc thuyền xoay tít như chiếc lá. Rách nát. Tả tơi. Mười một sinh linh ngước mắt nhìn về đất liền lần cuối, lầm rầm đọc điếu văn cho mình, trước khi gửi thân vĩnh viễn dưới đáy đại dương..

Bão tan. Trời quang. Mây tạnh. Những đoàn thuyền đánh cá lại tiếp tục ra khơi. Sau cơn động kinh, biển mệt nhoài thở dốc. Tóc bạc đi nhiều. Những xác người chết chương trôi dật dờ theo thủy triều lên xuống, tự nguyện hiến thân làm mồi cho lũ chim trời, cá nước. Ăn của biển phải trả về cho biển. Đàn cá ngừ đại dương đói ăn thi nhau lao vào những thi thể chết sình ngoạm từng mảng lớn. Thịt người bao giờ cũng là đặc sản..Và chẳng bao lâu sau đó, chúng lại bị mắc vào những lưỡi câu của con người giăng kín mặt biển xanh..

*

Kính thưa quý khách! Hôm nay nhà hàng chúng tôi có món cá ngừ tươi rói mới mua từ những thuyền câu vừa cập bến. Quý khách đều biết ngừ đại dương là đặc sản mà thiên nhiên ban tặng cho con người chúng ta. Chế biến cá ngừ có nhiều cách; hấp, luộc, rán đều ngon. Tuy nhiên, đúng điệu nhất vẫn là ăn tươi. Dạ phải, ăn tươi, nuốt sống ạ. Ta lấy phần phi lê cá ngừ ướp với gia vị chừng nửa giờ đồng hồ, nếu có thời gian, có thể ướp lâu hơn càng tốt. Thịt cá ngừ chấm với mù tạt ăn kèm với rau sống thì không món nào sánh bằng. Đây là món vua Nhật dùng để chiêu đãi khách quý ạ. Tất nhiên những ai mới thử lần đầu đều có cảm giác ghê miệng nhưng khi đã quen rồi thì không thể nào bỏ qua. Món ngon nhớ lâu. Chúng tôi hi vọng quý khách sẽ hài lòng với đặc sản phong phú của nhà hàng chúng tôi. Tôi có một lời khuyên, quý khách nên dùng rượu mạnh mới là sành điệu. Chúc quý khách ngon miệng!

- Nào, xin mời quý vị cầm đũa! Quả thật, cá ngừ đại dương ngon tuyệt!

- Chậc, tôi chưa bao giờ thưởng thức món gỏi cá nào độc đáo đến thế.

- Xin mời cạn ly vì món gỏi cá tuyệt hảo!

- Xin mời! Trăm phần trăm nhá!

Truyện ngắn đi câu

Thả cần câu xuống

Lót đôi dép ngồi

Chiếc phao như điếu thuốc

Ai vô tình đánh rơi

Mấy động tác đi câu được thi sĩ Hữu Thỉnh miêu tả nọ và cái thú đi câu bây giờ về hưu rồi ông Quang mới được tận hưởng. Và như thế là hơi bị muộn. Là bởi vì, từ lúc còn để chỏm, ông Quang đã là một cậu bé sát cá. Đi tát, đi hôi, hoặc xách cần câu đi là thế nào cũng đầy giỏ cá mang về. Còn bây giờ, chiều tà, ông xách cần câu đi ra cái hồ mới xây lát ở cạnh nhà, nhưng chẳng thấy mang giỏ theo. Và khi về thì chưa bao giờ thấy ông xách được một chú cá nhỏ về.

- Này nhé, muốn câu được cá thì phải biết đặc tính ăn mồi của từng loại cá - Ông Quang bảo tôi - Cá chép là vua đổng đãnh, mồi gì nó cũng chê. Mè cũng vậy. Còn cá quả, rô phi thì mồi gì nó cũng đớp. Này, cậu xem này...

Pách! Ông Quang búng tàn thuốc và giật nhẹ chiếc cần trúc. Mặt hồ loang loang những vòng tròn sóng đồng tâm xanh biếc. Thú vị chưa! Trên đầu dây câu, một chú trôi bằng nửa bàn tay đang vật mình rẫy ru2a.

- Ơ kìa, sao bác lại thả nó ra? Nó bé quá ạ?

Ngạc nhiên vì thấy ông Quang vừa lấy con cá ra khỏi lưỡi câu đã ném tòm xuống hồ, tôi cất tiếng hỏi. Nhưng thấy ông đã ngậm điếu thuốc và tung giây câu xuống mặt hồ, chăm chú nhìn cái phao câu nhấp nhỉnh rồi bị kéo rút một hơi mất tăm, tôi liền ngậm miệng.

- Chép thì đệ nhất là giun. Còn mồi của tôi bây giờ là gì? Ông Quang tiếp - Cơm trộn cháo và mẻ, nặn thành viên, phơi ba ngày nắng bốn đêm sương, thả xuống, cá cứ gọi là điếc mũi.

- Nhưng thưa bác, ngoài yếu tố mồi ra, thì còn phải chú ý tới những gì nữa ạ?

- Có mấy điều quan trọng sau đây phải chú ý. Trước hết, phải biết kiên tâm. Thứ hai, con hồ rộng mênh mông thế, phải biết chọn nơi buông cần. Còn về kỹ thuật, phải có mồi, thính thích hợp với từng loại cá, phải biết tập tính từng loài cá. Ví dụ: trê ăn ở tầng đáy; chép ăn ở tầng lơ lửng; trắm ăn nổi. Từ đó, chỉnh phao cho đúng cỡ.

- Thưa bác, đúng là bí kíp bác truyền cho cháu đấy.

- Làm gì mà dùng ngôn ngữ to tát vậy. Vài kinh nghiệm vặt vãnh thôi. Ngoài ra còn phải chú ý đến cách ăn mồi của từng loại. Nhìn xem. Đó, con thì rỉa mồi nhay nhay như kiểu trẻ con ăn dỗ mồi. Con thì ăn tham, đớp luôn cả miếng. Còn con này, chú để ý nhé. Đó! Nó ngoạm mồi rồi nó sẽ kéo... à kéo vút đi đó...

Vút! Lần nhấc cần này của ông Quang là một chú rô phi đen xanh bóng nhẫy, giương vi quật quẫy loạn xạ. Nhưng, lạ chưa kìa, vừa được ngư ông móc ra khỏi mồi câu, lưỡi câu, chú ta đã bị ông tung lên cao, rồi rơi tõm xuống nước; nghĩa là tên tù binh vừa bị bắt lập tức đã được phóng thích, trở về quê hương bản quán, tức là thế giới thủy sinh của mình.

Trong vòng một giờ đồng hồ ngồi xem và được ông Quang truyền nghề đi câu cho, tôi đã chứng kiến, có đến hai chục rô phi, trôi, chép, trắm cỏ, có con to tới nửa cân, cả đến chục con bị chiếc cần câu của ông Quang nhấc khỏi mặt nước, cuối cùng vẫn thoát khỏi một lần hút chết, có lẽ để nhớ đời, lại trở về đóng vai cư dân an toàn của chốn thủy cung.

Câu được cá mà lại thả ra! Bắt được cá rồi lại mở lượng khoan hồng, phóng sinh ngay tắp lự! Ôi! Thế thì tôi hiểu rồi. Nghệ sĩ thỏa mãn ở chính sự sáng tạo, chứ không phải là ở kết quả sáng tạo. Cái thú đi câu của ông Quang không gắn liền với chú cá đặt trên thớt, trong chảo rán, trên đĩa. Cái thú đi câu của ông nhằm sự chú mục có tính siêu thoát, ra khỏi những phiền tạp, ở sự hồi hộp của con tim khi ông buông dây câu. Ở cái thế thư thái thanh nhàn vô vi ngư ông. Ở làn gió mát mang hơi ẩm mặt hồ, dưới bóng cây liễu rủ. Ở cái sảng khoái sung sướng khi trên tay là chiếc cần chĩu ngọn rung rinh một chú cá quẫy. Cái thú đi câu tụ hội ở sự di dưỡng tinh thần.

Cái thú đi câu như danh sỹ Khương Tử Nha bên tầu, uốn bẻ cái lưỡi câu đang cong thành thẳng rồi mới buông câu. Cái thú đi câu ấy là cái thú đi câu của thi hào Cao Bá Quát tiên sinh:

Mượn chiếc cần câu tới giữa dòng

Giải buồn nào có ý gì mong

Cá kia cứ tưởng là ngư phủ...

Ông Quang đi câu chiều chiều. Người đến xem ông câu ngồi hai bên rìa bờ hồ đông như chim sẻ và chốc chốc lại vỗ tay reo, như kiểu tán thưởng, hoan nghênh nghệ sĩ kỳ tài sau mỗi tiết mục biểu diễn trên sân khấu vậy.

Chiều ấy, tiếc cái là mọi người đang chú mục xem ông câu quăng để bắt cá quả, thì đột ngột nổi lên một tiếng còi gắt gỏng. Và liền ngay sau đó, một bóng người đen chũi, đeo băng đỏ thêu hai chữ Bảo vệ tiến đến:

- Ơ kìa! Anh làm cái gì thế!

Thấy người nọ cúi xuống giật cái cần câu của mình, ông Quang liền kêu thật to và giằng lại.

- Tôi tịch thu tất cả đồ nghề câu cá của ông!

- Sao anh lại có quyền to vậy!

- Cá đây là cá công ty tôi chăn thả. Ông biết chữ chứ. Vậy, hãy nhìn xem, cái băng tôi đeo có hàng chữ gì?

Thấy hai người to tiếng, mọi người đang ngồi xem ông Quang câu, liền xúm lại. Ông Quang đứng lên, xoè hai tay phân trần:

- Anh bảo vệ! Tôi tôn trọng trách nhiệm của anh. Nhưng anh hãy hỏi mọi người xem, từ nãy đến giờ, kể cả những ngày trước đây nữa, tôi giật được cá lên, nhưng đã lấy đi một con cá nào không?

- Bác Quang bác ấy nói đúng đấy.

- Câu tiêu khiển thôi, ông bảo vệ ơi!

- Anh bảo vệ hãy nhìn xem, bác Quang bác ấy có cái giỏ đựng cá nào không rồi hãy giở trò tịch thu!

Giữa những tiếng người ồn ào bênh vực ông Quang, người bảo vệ không hề tỏ ra nao núng. Khư khư ôm cái cần câu vừa giật từ tay ông Quang, anh quay ngang quay ngửa, oang oang mặt hồ:

- Tôi không cần biết là ông có cái giỏ nào không. Tôi chỉ biết là ông đã đầu têu cho bọn thanh niên chúng kéo ra đây câu trộm cá của chúng tôi thôi!

- Bọn thanh niên nào?

Mọi người cùng kêu to và đưa mắt lướt qua một vòng xung quanh con hồ rồi cùng sững sờ. Không thể ngờ, lấm chấm phía bên kia hồ, là hàng chục bóng người câu cá trộm.

- Bác đã thấy chưa? Bọn họ hôm qua là những kẻ được nghe bác dạy các thủ thuật làm mồi, rang thính, đặt phao... nghĩa là toàn các bí kíp về nghề câu và chỉ học đến đấy thôi. Còn cái gốc của bác thì họ không cần. Họ còn bỉ bai bác nữa kia!

- Họ còn bỉ bai tôi!

Ông Quang kêu to. Ông biết cái lý do họ bỉ bai ông, chê cười ông rồi. Cái thú đi câu, cái thú thẩm mỹ, cái sự thoả mãn thú vui tâm hồn như các bậc trưởng lão đối với họ đã trở nên xưa rồi. Thành ra mấy buổi chiều nay, anh bảo vệ đã phải liên tục thổi còi hò hét xua đuổi. Có đến gần hai chục gã trai bắt chước ông Quang buông câu ở quanh hồ; và lối sống thực dụng đã cho kết quả đo đếm được ngay, nên khi ra về, gã nào cũng xách một xâu cá to nhỏ đủ loại, nặng chiểu cả tay.

- Cho tôi xin cái cần! Anh khỏi lo! Tôi không bao giờ đi câu nữa đâu!

Đưa tay lấy lại cái cần từ tay anh bảo vệ, ông Quang co một chân lên, tì chiếc cần vào đầu gối, bẻ khục một tiếng, sau đó, gập hai khúc cần lại, cắp vào nách, rồi lẳng lặng ra về. Thế đó, học hỏi điều gì, tiếp nhận từ người khác điều gì cũng phải có đầu có đũa, chứ dở dở dang dang, là chỉ gây điều thiệt hại thôi. Đám người ngồi xem ông câu, cùng kêu ồi một tiếng rồi tản mát đi về phía bọn câu cá trộm in những bóng đen lấm chấm ở phía bên kia hồ, họ là những người thích tò mò./.

Mắt cá ngừ

>> Thư viện: Đoàn Thạch Biền

TRUYỆN NGẮN CỦA ĐOÀN THẠCH BIỀN

NVTPHCM- Buổi chiều, Phiên dẫn tôi lên đỉnh núi Nhạn, tham quan tháp Nhạn được người Chăm xây dựng từ thế kỷ XI. Đây là một tháp Chăm gần như còn nguyên vẹn ở miền Trung, có ít dấu vết trùng tu nên đường nét kiến trúc rất tinh xảo và cổ kính. Đứng ở chân tháp, du khách có thể nhìn toàn cảnh thành phố Tuy Hòa mới xây dựng theo qui hoạch nên gọn gàng và xinh đẹp. Phiên cho biết hằng năm vào ngày rằm tháng giêng âm lịch, tháp Nhạn là nơi tổ chức đêm thơ Nguyên Tiêu. Rất đông những người yêu thơ ở trong và ngoài tỉnh Phú Yên đến tham dự. Tôi nhìn khoảng sân rộng trước tháp đang phủ ánh nắng chiều vàng rực, chẳng có một hàng quán nào. Tôi nói với Phiên:

- Ở đây nên có vài quán bán đồ mỹ nghệ Chăm, vài quán bán món ăn đặc sản của người Chăm. Du khách sau khi mua đồ lưu niệm, sẽ ngồi ăn món ăn Chăm, nghe nhạc Chăm, ngắm tháp Chăm. Thật tuyệt vời!

Phiên trả lời rất nghiêm túc:

- Đây là khu di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia, không ai cho phép mở quán ăn uống.

- Văn hóa lịch sử đi kèm với văn hóa ẩm thực, người ta sẽ nhớ lâu hơn. Vấn đề là tổ chức làm sao cho hài hòa, không chỏi nhau.

- Anh lúc nào cũng thích món ăn đặc sản. Được rồi, tôi sẽ chở anh đi ăn món “đèn biển”.

- Chúng ta sẽ ngồi ăn tối dưới ánh sáng ngọn hải đăng ở Mũi Điện?

- Đến đó anh sẽ biết.

Phiên là phóng viên văn nghệ Đài Phát thanh Phú Yên, anh rất rành các điểm du lịch và các quán ăn đặc sản ở địa phương. Anh chạy xe chở tôi qua những đường phố , hai bên đường trồng cây hoa sữa đang mùa nở hoa trắng như bọt sữa. Phiên cho tôi biết người dân địa phương gọi cây hoa sữa là cây “mùa cua”. Tôi nói:

- Nếu những đuờng phố ở Tuy Hòa một bên trồng cây hoa sữa, một bên trồng cây bơ, thành phố sẽ mau giàu.

Phiên vừa lái xe vừa thắc mắc:

- Cây hoa sữa và cây bơ đâu có gía trị kinh tế cao như cây sưa?

Tôi giải thích :

- Khi đó những con đường ở Tuy Hòa sẽ trở thành con đường “bơ sữa”.

Như thế chưa giàu sang sao ?

Phiên có vẻ thích thú với sự giàu sang bất ngờ này nên bật cười hặc hặc.

Đến cuối đường Bạch Đằng, Phiên dừng xe ở quán hải sản Hùng Râu. Các quán ăn nơi đây đều nằm ở một bên đường, bên kia đường là bờ kè rộng lớn mới xây dựng. Bàn ghế nhựa nhiều màu sắc được bày la liệt, không quen biết khó phân biệt được bàn ghế của quán nào. Nơi đây là cửa sông tiếp giáp với biển nên cùng lúc đón hai ngọn gío biển và gío sông. Tôi thích ngồi nhậu ở một nơi thóang mát như vậy, người ta trở nên phóng khoáng và trò chuyện cởi mở hơn. Còn ngồi nhậu ở những nơi chật hẹp như phòng máy lạnh, người ta cảm thấy tù túng và dễ gây chuyện với nhau.

Cậu phục vụ cầm ly và chén đũa từ bên kia đường bước qua, đặt xuống bàn nhựa. Không cần nhìn thực đơn, Phiên gọi một xị rượu gạo và dĩa cá ngừ sashimi. Tôi không uống được rượu nên gọi một chai Sài Gòn xanh. Cậu phục vụ bước đi, tôi hỏi Phiên:

- Ở đây cũng có bán món ăn Nhật Bản?

Phiên cười rồi giải thích:

- Tuy Hòa được xem là trung tâm đánh bắt cá ngừ đại dương của cả nước. Người dân địa phương gọi là cá “bò gù”. Những con cá ngừ nặng trên 30 ký được xuất khẩu sang Nhật, những con nhỏ hơn thì bán trong nước. Người Nhật thường ăn cá ngừ sống với mù tạc washibi và gọi là món sashimi. Người dân ở đây cũng làm theo như vậy nhưng chế biến khác một chút cho hợp khẩu vị.

Cậu phục vụ bưng ra một mâm nhỏ rồi lần lượt đặt xuống bàn nhựa : một dĩa thịt cá ngừ xắt lát mỏng, một dĩa rau sống với chanh ớt, hai chén xì dầu có đậu phụng giã nhỏ, một hộp mù tạc washibi. Phiên lấy chanh vắt lên những miếng thịt cá ngừ đỏ hồng khiến chúng biến thành trắng hồng. Anh trộn mù tạc vào chén xì dầu. Trải một lá cải đắng trong lòng bàn tay, anh gắp hai miếng thịt cá ngừ bỏ vào rồi bỏ thêm rau thơm xong cuốn lại, đưa cho tôi.

- Anh chấm mù tạc, ăn thử xem có ngon không ?

Nhìn những miếng cá ngừ sống tôi hơi ớn vì sợ mùi tanh, nhưng sau khi ăn một miếng cá ngừ chấm mù tạc cay buốt óc, khiến tôi phải nhắm mắt lại nói với Phiên:

- Tuyệt vời!

- Món “đèn biển” còn trên cả tuyệt vời!

Tôi vội mở mắt hối thúc:

- Vậy gọi ngay món đó đi.

- Anh cứ ăn hết dĩa cá ngừ sống, tôi sẽ gọi món “đèn biển”. Để tôi kể anh nghe lai lịch người nấu món ăn này.

Tôi vừa ăn vừa nghe Phiên kể chuyện. Hùng Râu chủ quán là bạn học của Phiên. Hùng Râu có cô em gái tên Bích Hải. Mùa hè vừa qua cô đã tốt nghiệp ngành kỹ thuật chế biến món ăn của Trường cao đẳng nghề du lịch Sài Gòn. Cô trở về Tuy Hòa chuẩn bị nấu ăn cho một nhà hàng lớn. Trong một chuyến đi chơi Gành Đá Dĩa với người yêu tên Long, không may họ đã bị tai nạn giao thông. Long đã chết tại chỗ, còn Hải thoát chết nhưng sau đó đầu óc lúc tỉnh lúc mê. Bây giờ ban ngày cô ngồi ở nhà xem phim võ hiệp, buổi tối mới  phụ giúp nấu ăn cho quán của người anh. Đặc biệt có ai gọi món “đèn biển”, Hải sẽ ra trò chuyện như gặp tri âm.

Đúng như lời Phiên kể, khi anh gọi món “đèn biển”, một cô gái bưng ra hai nồi om nhỏ bằng đất nung để trên hai cái dĩa. Cô châm lửa vào cồn khô trên dĩa, cho ngọn lửa cháy quanh nồi om.

- Xin mời hai đại ca thưởng thức món “đèn biển” do chính tay tiểu muội nấu. Bảo đảm ngon hơn món ếch nướng của Doanh Doanh sư tỷ nướng cho đại ca Lệnh Hồ Xung ăn.

Tôi vội bụm miệng để khỏi bật cười. Phiên làm như người thân quen, kéo một chiếc ghế đến bên cô gái.

- Mời Bích Hải tiểu muội ngồi, chúng ta cùng bàn chuyện võ lâm giang hồ.

Cô gái ngồi xuống ghế, nói:

- Tiểu muội không dám bàn chuyện giang hồ, chỉ bàn chuyện nấu món “đèn biển”. Muốn làm món này tiểu muội phải chọn những con mắt cá ngừ thiệt bự và còn tươi rồi ướp các loại gia vị hành, tiêu, ớt, tỏi và cho thêm mấy vị thuốc bắc gia truyền. Chưng cách thủy trong nửa tiếng, khi đem “đèn biển” ra đây chỉ cần hâm nóng vài phút là ăn được rồi.

Trong khi Bích Hải nói chuyện, miệng em tươi cười nhưng đôi mắt em thất thần như đôi mắt cá ngừ đông lạnh. Tôi nghĩ phải gia nhập vào thế giới của em may ra mới hiểu được em. Tôi hỏi:

- Hình như tiểu muội đang chờ đợi ai ?

- Tiểu muội đang chờ Long đại ca về để cùng ăn món “đèn biển”.

- Long đại ca của muội đi đâu vậy ?

- Huynh ấy nói đi Gành Đá Dĩa từ sáng mà sao giờ này vẫn chưa thấy về. Xin mời hai đại ca ăn món “đèn biển” khi còn nóng mới ngon.

Bích Hải mở nắp hai nồi om, mùi thuốc bắc bốc lên ngào ngạt. Tôi lấy muỗng múc mắt cá ngừ ăn, hương vị thật đặc biệt. Bích Hải rót một ly  rượu đưa cho tôi.

- Long đại ca nói ăn món “đèn biển”, phải uống một ly rượu mới đúng bài bản. Xin mời đại ca một ly.

Tôi không uống được rượu nhưng để em vui lòng, tôi cũng ráng uống hết một ly. Rượu bốc lên mặt bừng bừng, tôi phấn khích nói:

- Món “đèn biển” ngon lắm ! Long đại ca đã dạy cho tiểu muội nấu món này?

- Long đại ca không biết bí kíp nấu ăn. Chính tiểu muội sáng chế ra món này. Huynh ấy cũng rất thích món “đèn biển” vì rất bổ dưỡng cho người luyện võ công.

- Long đại ca đã dậy cho tiểu muội bí kíp võ công gì ?

- Huynh ấy đã dạy cho tiểu muội: Hàng long thập bát chưởng, Tịch tà kiếm phổ, Hàm mô công, Dịch cân kinh…

- Tiểu muội học nhiều thứ như vậy sẽ bị tẩu hỏa nhập ma.

- Vậy đại huynh nghĩ tiểu muội chỉ nên học một bí kíp gì ?

- Lăng ba vi bộ sẽ giúp muội chạy thoát mọi tai ương trong đời.

- Lăng ba vi bộ của Đoàn công tử chỉ chạy chứ không đánh người. Hay lắm! Đại ca dạy cho tiểu muội bí kíp đó đi. Tiểu muội sẽ dạy lại cho Long đại ca để huynh ấy chạy thoát khỏi chiếc xe tải độc ác kia.

Phiên cười, nói xen vào câu chuyện :

- Đoàn huynh đây ngày mai phải về Sài thành rồi. Hẹn gặp lại tiểu muội một dịp khác.

- Đáng tiếc. Vậy đại ca ngồi đợi tiểu muội tặng đại ca một món quà.

Bích Hải đi về phía quán, tôi nói với Phiên:

- Tội nghiệp  cô gái chung tình. Tôi nghĩ trước khi bị tai nạn, Long và Hải đã cùng xem phim võ hiệp và cùng ăn món “đèn biển” nên bây giờ Hải chỉ nhớ kỷ niệm sâu đậm đó. Đây là tâm bệnh. Tôi về Sài Gòn sẽ tìm một bác sĩ phân tâm học giỏi có thể chữa trị được cho Hải. Tôi sẽ điện thoại cho Phiên địa chỉ bác sĩ, Phiên báo cho gia đình Hải biết để đưa em vào Sài Gòn chữa trị. Tôi thầm mong đôi mắt của Bích Hải sẽ không còn thất thần mà trở nên linh họat như mắt cá ngừ bơi lội giữa đại dương.

Bích Hải từ quán bên kia đường đi tới, trao tôi một hộp giấy.

- Tiểu muội tặng đại ca món quà nhỏ để ghi nhớ đêm tri ngộ này.

Tôi mở nắp hộp: một cái nồi om nhỏ bằng đất nung còn mới, chỉ đủ chưng một con mắt cá ngừ. Tôi nói:

- Sài Gòn không có bán mắt cá ngừ, làm sao huynh có thể sử dụng cái nồi om này?

- Chính vì Sài Gòn không có mắt cá ngừ nên mỗi khi nhìn cái nồi om trống không, huynh sẽ nhớ người đã chưng mắt cá ngừ cho huynh ăn. Và huynh sẽ nhớ chưa dạy cho muội bí kíp Lăng ba vi bộ để chạy thoát mọi tai ương trong đời.

- Đa tạ hảo ý của tiểu muội. Huynh hứa sẽ sớm trở lại nơi đây gặp muội.

Bích Hải nắm hai tay, cúi đầu chào tôi như trong phim võ hiệp.

- Đại ca thượng lộ bình an. Hẹn ngày tái ngộ.

Rồi em lững thững đi băng qua đường trở về quán. Tôi ngồi thẫn thờ nhìn cái nồi om bằng dất nung đỏ au. Phiên nói:

- Sao anh ngồi im vậy? Nhậu tiếp đi chớ.

Tôi chỉ cái nồi om, nói :

- Đầu óc của Bích Hải như cái nồi om này và hình bóng của Long như con mắt cá ngừ. Để quên đi một người tình, người ta phải thay thế bằng một người tình khác. Phiên nghĩ tôi có nên tìm một bác sĩ giúp Hải quên đi Long, như cái nồi om này được sử dụng để kho cá bống?

Đến lượt Phiên ngồi im và tôi nhắc nhở :

- Thôi nhậu tiếp cho hết con mắt cá ngừ.

Mùa cá linh

Đang đi chợ VN ở Orange County với bà xã tự nhiên thèm một chén canh rau dền, tôi bèn đẩy xe đi kiếm rau. Rau mồng tơi, mướp khía thì có. Rau dền hôm nay kiếm không ra. Thường thì ở chợ hay bán loại rau dền tím, cọng dài, lá lớn, bó lại thành từng bó, nhưng hôm nay thì không thấy. Kiếm một hồi, tôi mới để ý thấy có mấy bọc rau lặt sẵn giống như đọt đậu, nhưng nhìn kỹ thì không phải. Lật qua lật lại, coi tới coi lui một hồi, tôi chợt reo lên:

- Rau dền cơm!

- Sao giống đọt đậu quá vậy? …..

Nhưng tôi không còn nghe tiếng bà xã tôi nói nữa. Nãy giờ thấy cá linh, cá lòng tong đông lạnh từ VN qua, rồi bây giờ thấy đọt rau dền cơm, tự nhiên hình ảnh thời thơ ấu lại hiện về.

——————–

[tab:Phần 2]

Lúc đó tôi còn nhỏ lắm, khoảng năm 1959. Gia đình ở dưới quê Tịnh Thới, Cao Lãnh. Ngay sau mùa nước nổi, ba tôi lên Sài Gòn để thi tú tài 2 thì bị công an bắt, ngay tại bến xe Phú Lâm. Cô năm Cam, người cô họ đi chung chuyến xe đò Huê Mỹ với ba tôi sáng hôm đó lật đật đón chuyến xe chiều ngược về báo cho mẹ tôi hay. Mẹ tôi tay chân rụng rời, mặt xanh như tàu lá chuối.

- Làm sao bây giờ chị năm? Mà tại sao họ lại bắt ảnh vậy?

Cô năm kề tai mẹ tôi nói nhỏ:

- Hồi xưa nó theo Việt Minh mà bây giờ không chịu tập kết ra Bắc. Chắc là họ nghi nó nằm vùng!

Mẹ tôi chắc không nghe thấy gì, đứng nhìn trân trân ra trước sân nhà lúc trời đã sẩm tối. Từ lúc hai người lấy nhau tới giờ, mọi chuyện quan trọng đều có ba tôi lo. Mẹ tôi chỉ bếp núc nuôi con, không phải lo toan chuyện tiền nong thóc lúa. Nhà lại ở vùng quê hẻo lánh, cộng sản quốc gia bắt đầu lộn xộn, phải có người đàn ông trong nhà, mà bây giờ một thân một mình với hai đứa con thơ làm sao xoay sở.

- Có con tiếp, mợ ba đừng lo.

Nghe chị Phi, chị giúp việc nhà, lên tiếng, mẹ tôi mới hoàn hồn. Chị là người Miên, nước da đen đúa, tay chân vạm vỡ như đàn ông nhưng tính tình trung hậu, giúp đỡ ba mẹ tôi rất nhiều. Tối hôm đó mẹ con tôi sợ lắm. Lần đầu tiên trong đời không có ba bên cạnh nên động tịnh gì ai nấy cũng đều giựt mình. Sợ nhất là khi có tiếng chó sủa hay gà vịt nhốn nháo dưới sàn nhà, mà ngoài trời thì tối đen như mực. Chị Phi thì thản nhiên ngủ ngáy khò khò.

Mấy hôm đầu cá mắm có bà con tiếp giúp. Gạo thì mẹ tôi không lo vì dưới quê nhà nào cũng có một bồ lúa đủ ăn quanh năm. Mẹ tôi chỉ không dám đi chợ hay mua sắm gì hết, ráng dành dụm tiền bạc để tìm manh mối chạy lo cho ba tôi. Mà người ta cũng giấu, đâu có cho mẹ tôi biết tin tức gì. Chỉ có ông ba Dần, bạn ba tôi, người có thế lực trên tỉnh là có thể lên Sài Gòn dò la tin tức. Nghe ông kể lại là ba tôi không bị đánh, ngoài ra thì ông không biết gì thêm. Mẹ tôi nghe vậy cũng an lòng. Sau đó thì ngày nào cả nhà cũng giở mắm ra ăn. Mắm sặc, mắm lóc, chuối chát, đọt xoài trong vườn chấm húp qua ngày. Hai anh em tôi còn nhỏ, ăn riết ngán gần chết không muốn ăn cơm nữa.

Tháng 6 trời mưa, nước lên trắng đồng. Đến tháng 9 tháng 10 thì nước giựt. Con nước sổ đồng theo sông chảy xiết ra biển. Một buổi sáng theo chị Phi xuống con sông nhỏ trước nhà gánh nước, hai chị em thấy màu nước khác thường. Nguyên một khúc sông lấp lánh bạc. Nhìn kỹ thì thấy cá lội đặc ngừ.

- Cá linh! Trời ơi! Hùng! Chạy lên nói mợ ba lấy cho chị cái rổ.

Mẹ tôi nghe nói liền xách rổ chạy xuống, quơ theo một lon cám. Cám vừa rải trên mặt nước là đàn cá bu lại. Lấy rổ nhanh tay xúc một cái là được gần chục con cá nhảy soi sói. Con nào con nấy vảy bạc lóng lánh, mập và lớn hơn con cá lòng tong, thứ cá có quanh năm suốt tháng mà không ai thèm ăn, như câu ca dao con nít hay hát:

Chèo xuồng bán cá lòng tong

Mủi chảy lòng thòng hỏi chẳng ai mua

Mấy con cá linh rất khỏe, nhảy một hồi văng hết ra khỏi rổ. Chị Phi chạy trở lên nhà lấy cái thúng và cái nắp lu chạy xuống. Hai mợ cháu xúc cá đổ vô thúng lấy nắp lu đậy lại. Một hồi thấy cái thúng nặng chịch hai người mới thôi. Hôm đó mẹ tôi một mớ thì kho lạt chan húp, một mớ thì kho mặn với xả chấm xoài tượng bằm. Cá linh xương mềm, không cần đánh vảy hay cắt đầu cắt đuôi. Chỉ cần mổ bụng bỏ ruột là nấu ăn được. Ai thích ăn mật đắng như chị Phi thì có thể để nguyên con nấu như cá bóng kèo.

Mà đâu phải chỉ có cá linh không. Mấy tháng sinh sôi nảy nở trong đồng sâu miệt biển hồ hay Đồng Tháp Mười mênh mông nước, rồi tới khi nước rút đủ thứ cá lần theo con nước ra sông bé sông lớn, như cá lóc, cá trê, cá he, cá chốt, mè vinh, thác lác, cá rô, cá sặc. Thời đó cá lội đầy sông, chỉ cần lấy rổ xúc hay kéo vó là có cá. Người dân cũng chống xuồng vô ruộng đặt ống bắt lươn, chạch lấu, đặt lợp bắt cá trê, cá lóc. Con nít thì xách nơm lội đồng bắt cá rô. Khi nước ròng người ta xách rổ lội sình đi cào hến, hay giậm cho cá chạch ngoi ra bắt về kho nghệ. Tối thì đi soi ếch. Ai có ghe chài thì ra sông quăng chài, hay kéo đáy, đóng đăng bắt được cá rất nhiều. Một đêm có ghe lớn kéo đáy được cả ngàn vạ cá linh, bỏ cho mấy vựa cá gài mắm.

Buổi trưa đó chị Phi chống xuồng chở tôi len lỏi ra đồng bắt cua bắt ốc, giữa đám cò vạc đang tranh nhau bắt cá, con này rượt con kia kêu quang quác. Cua thì chỉ có cua đồng, nhưng ốc thì có ốc bưu, ốc lác, ốc đắng, ốc gạo. Tôi không dám bắt cua vì cua đồng kẹp rất đau. Cua lại bơi nhanh nên con nít như tôi không dễ gì bắt. Xúc cá thì chậm tay không dính con nào. Cua thì không đụng tới được. Chỉ có bắt ốc là tôi thích nhất vì nó nằm một chỗ trên ngọn lau cọng cỏ, bám theo rễ lục bình hay gốc bình bát, trâm bầu. Tôi chỉ gỡ nó ra thảy vô xuồng là xong. Nhìn tôi mải mê bắt ốc, chị Phi cười nói:

- Từ rày trở đi, hễ có bị đòn thì Hùng nhớ hát, “Má ơi đừng đánh con đau. Để con bắt ốc hái rau má nhờ.” Nghe không? Nhờ được rồi đó!

Chống xuồng về nhà luộc ốc lên, mấy chị em bẻ gai bưởi lể ra chấm nước mắm ăn ngon lành.

Sáng hôm sau, chị Phi xách rổ dẫn tôi xuống sông định xúc cá tiếp thì bác bảy Mừng bên kia sông gọi qua:

- Con Phi qua đây kéo vó nè. Xúc chi cho mệt!

Hai vợ chồng bác bảy Mừng rất tốt bụng. Bác bảy trai chạy xe lôi. Chúa nhật nào, bác cũng chở gia đình tôi qua chợ đi nhà thờ, bất kể trời mưa hay trời nắng. Mới mấy hôm trước, con đường 2 cây số từ nhà lên lộ đá lầy lội quá sức, bác cố gắng kềm chiếc xe nhưng không xuể. Xe trợt qua trợt lại một hồi rồi quăng cả nhà tôi xuống mương, ai cũng ướt như chuột lột. Bác áy náy lắm nên lúc nào cũng muốn kiếm cách để đền bù. Mùa này hai bác bận rộn kéo vó xúc cá linh đem ra chợ bán hay ở nhà làm mắm để dành ăn.

Hai chị em băng qua cây cầu khỉ xuống bờ sông nhà bác bảy tháo dây đạp cần vó xuống, rải cám trên mặt nước một hồi rồi đạp cái đuôi cần để nhấc miệng vó lên. Cái vó khá lớn, lại có cá nên hai chị em nhấc không nổi. Bác bảy gái phải nhào ra vừa đạp vừa nắm dây kéo tiếp. Cá linh, cá chốt rất nhiều, nhảy lưng tưng trắng xóa. Tôm tép búng lạch tạch. Chen lẫn trong đó thêm một mớ cá sặc, lòng tong, lìm kìm. Bác bảy lấy vợt xúc được cũng gần một thúng vạ. Chị Phi xúc một rổ đầy cá lẫn tôm. Năn nỉ trả tiền nhưng bác bảy không chịu. Năn nỉ riết cuối cùng bác mới chịu lấy năm cắc, vì chị Phi cương quyết nằm vạ không về.

Rồi khi ráo sình, mặt đất liền phủ một màu xanh. Tự nhiên ở đâu rau dền nhú ra rồi lớn lên như thổi. Loại rau dền cơm màu xanh cọng nhỏ nhưng nấu canh với cua giã nhuyễn hay với tép vừa xúc dưới sông lên thiệt ngọt. Chung quanh nhà tôi năm đó không hiểu sao mọc toàn loại rau dền này. Mẹ tôi và chị Phi bận rộn cả ngày với nguồn thức ăn trời cho. Vui vì có thể tự nuôi con. Buồn vì không biết ba tôi mệnh hệ thế nào, sống chết ra sao. Chỉ biết thầm cám ơn và vái van trời đất.

Trời nuôi gia đình tôi được khoảng một tháng thì một hôm trong lúc mẹ tôi hái rau, chị Phi xúc tép, hai anh em tôi ngồi chơi trong chõng thì chiếc xe thông tin của dượng sáu Thục trờ tới ngừng lại trước cổng. Đường quê chật hẹp lầy lội, năm thì mười họa mới có chiếc xe hơi chạy xuống nên con nít hiếu kỳ chạy theo coi đông lắm. Người đầu tiên bước ra khỏi xe là ba tôi. Mẹ tôi mừng rỡ quăng hết mọi thứ, hét lên “Ba về! Ba về!” Lật đật dẫn hai anh em tôi chạy ra cho ba tôi bồng, rồi đứng khép nép một mình nhìn ba tôi khóc sướt mướt mà không dám ôm lấy người chồng của mình, vì lúc đó cả xóm bà con bu lại đông nghẹt. Dượng sáu đem đồ trên xe xuống nhiều lắm. Chị Phi và tôi để ý thấy có một cái thùng vuông vức thiệt ngộ nhưng không biết nó là cái gì.

Chiều lại ăn uống xong xuôi bà con thân quyến lại kéo tới. Ba tôi thắp sẵn cây đèn dầu ống khói, ngồi trên bộ ván phía trước nhà kể lại những gì đã xảy ra. Quả thực là họ nghi ba tôi nằm vùng, nhưng ba tôi nói ba tôi là con đỡ đầu của đức cha Ngô Đình Thục. Do đó họ không dám đánh để tra khảo nhưng nhốt để điều tra hư thực. Sau khi xác nhận lúc trước ba tôi chỉ theo Việt Minh chống Pháp chứ không tập kết ra bắc hay ở lại nằm vùng hoạt động cho cộng sản, có theo học khóa Cần Lao Nhân Vị trên Đà Lạt, nhờ đậu thủ khoa, lại là người công giáo nên được đức cha Ngô Đình Thục nhận làm con đỡ đầu, thì họ thả. Ra tù lỡ kỳ thi tú tài 2. Tiền trong túi hổm nay không xài ba tôi lấy mua cái máy hát, là cái hộp mà chị Phi và tôi để ý. Về đến Cao Lãnh, ba tôi liền đi báo tin cho ông trung tá Phát, tỉnh trưởng Cao Lãnh, người bạn công giáo và cùng là Cần Lao Nhân Vị. Lúc ở Cao Lãnh, ba tôi dạy học có ông che chở, công an mật vụ không dám bắt. Đợi tới khi ba tôi ra khỏi Cao Lãnh lên Sài Gòn họ mới thộp cổ. Sau khi nghe nói về tình cảnh dân trong xóm Tịnh Thới, ông liền kêu xe thông tin chở ba tôi lại trạm y tế lấy thuốc chủng đậu mùa về “trồng trái” cho bà con.

Sau đó, ba tôi đem cái máy hát dĩa ra mở cho mọi người nghe mấy tuồng cải lương vọng cổ với hề Minh và Thanh Nga, và mấy vở kịch vui của Trần Văn Trạch. Vừa nghe tiếng trong máy phát ra hai chị em hết hồn bỏ chạy. Cha sanh mẹ đẻ tới giờ mới nghe máy hát lần đầu tiên nên hai chị em tưởng đâu có ai nằm trong đó.

Sáng hôm sau, nhờ xe thông tin của dượng sáu Thục bắt loa kêu gọi, bà con lối xóm tề tựu lại nhà cho ba tôi trồng trái. Ba tôi cầm cây viết có ngòi lá tre, hơ lửa trên chiếc đèn hột vịt rồi chấm vô thuốc, kêu chị Phi lại trước, rạch rạch vài cái trên cánh tay chị đến rướm máu cho thuốc thấm. Chị không sợ nhưng thắc mắc hỏi ba tôi:

- Rồi nó trổ ra trái gì vậy cậu ba?

Chị thắc mắc thiệt tình. Dầu cho ba tôi giải thích, trấn an cách gì đi nữa chị cũng không hiểu. Đối với chị, hễ trồng trái là phải ra trái. Làm tôi cũng phát sợ theo. Vậy là hai chị em bị cả xóm xúm lại chọc.

Ba tôi về, mẹ tôi vui lắm, lăng xăng nấu nướng cho ba tôi ăn để lại sức. Cũng cá linh kho, xoài bằm, tô canh rau dền nấu tép, nhưng mấy hôm nay còn có thêm mồng tơi, mướp khía, gà xé phai hay nồi cháo vịt. Gia đình quây quần bên mâm cơm ấm cúng. Tuy đơn sơ mộc mạc nhưng thấm đượm hạnh phúc gia đình, tưởng đã mất đi nay tìm lại được.

——————–

Ngày hôm đó tôi đích thân nấu nồi canh rau dền tiếp bà xã cho bữa cơm chiều, vẫn miên man nghĩ tới những kỷ niệm xưa. Cả nhà ăn ai cũng thích. Đứa con gái út của tôi hỏi:

- Ba thích canh nào nhất?

Tôi trả lời không đắn đo suy nghĩ:

- Canh rau dền.

Đúng ra con tôi nên hỏi bây giờ tôi thích ăn cái gì nhất. Để tôi có thể trả lời là canh rau dền với cá linh kho.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: