vu tich
Công chúa tiền triều
1.
Làng Thụy Khê năm ấy mất mùa to. Đã hai năm hạn hán, lượng gạo dự trữ mùa cũ cạn sạch, số gạo mới bị trưng thu gần hết. Trên những cánh đồng còn trơ vài cọng rơm rạ khô khốc, thảng hoặc lại thấy vài cánh chim màu đen bay vọt lên, để lại một xác người quắt queo khô đét. Cây cỏ hanh hao đi dưới nắng, không còn đủ sức để phơ phất tán lá còm cõi vàng rớt che cho người ngồi bên dưới. Khắp nơi chan màu nắng xon xót mắt, đó là thứ duy nhất còn sự sống ở miền đất này.
Đưa mắt nhìn lại phía con đường dẫn về làng vốn đầy bùn bập bõm giờ đây đã chuyển màu trắng bệch, vết nứt nẻ đan nhau chạy dọc theo con mương khô nước, trơ lớp cặn đáy nông choèn, bà Hoa khẽ thở dài, phẩy mạnh hơn cái nón đang cầm trên tay. Gối đầu lên đùi bà, bé Bình vẫn say ngủ. Hơi thở con bé ngắn, khẽ đến dường như không có. Đưa tay lên trán con gái, tim bà đau thắt lại. Trán nó nóng như lửa, mồ hôi ướt đẫm, tứa ra thành dòng. Nhận biết sự tiếp xúc, con bé cau mày nhẹ, nhưng có lẽ cũng chẳng còn sức để mở mắt. Nó thở hắt ra, hơi khọt khẹt trong cổ. Bà Hoa ôm con bé chặt hơn, để nó ghé vào ngực mình. Bà mở ống tre đang để trong đống hành lý bên cạnh, cạy mồm con bé, dốc cho nó chút nước cháo. Dòng nước trắng nhờ tràn ra hai bên mép đôi môi đã tái bệch.
"Không thể nào chậm được nữa," bà Hoa nghĩ, lại xốc hành lý lên vai, lấy tấm mền cũ che chắn con bé cẩn thận trước khi dốc nó lên lưng, đứng dậy. Chân bà vẫn chưa hết rời rã, lưng bà đau dội từng cơn, kết qủa của chuyến thồ hàng đến huyện ven vào chiều hôm trước. Bà đã hy vọng kiếm đủ tiền mua cho con bé thang thuốc, nhưng ngay cả chủ hàng cũng chẳng còn tiền trả cho bà. Chợ vắng lặng, thưa thớt người, đây đó kháo nhau về chuyện người này chết đói, người kia tự tử. Chỗ tiền công còm chỉ đủ cho bà mua ít gạo chắt nước dùng dần. Còn con bé từ hồi đêm đã trở bệnh nặng, hôn mê bất tỉnh. Bà quyết định không thể để con ở làng được nữa, liền thu xếp đồ đạc, cõng nó lên kinh. Không phải bà mong sẽ có vận may kiếm sống hơn ở chốn kinh kỳ. Ở đó, bà chỉ biết duy nhất một người: Lê Duy Cẩn, anh trai bé Bình. Lần cuối cùng nghe tin, bà biết gia đình Duy Cẩn không sung túc lắm tuy vẫn đủ sống. Nhưng bà trông đợi một điều: May ra, có ai đó vì tình nghĩa xưa mà cứu chữa cho con bà. Bà chỉ mong có thế, chỉ cầu xin có thế. Mẹ con bà không cầu gì cả, chỉ cần được sống. Mẹ con bà sẽ rau cháo nuôi nhau, đến khi bé Bình lớn, lấy được người chồng tốt, bà nhắm mắt xuôi tay cũng là mãn nguyện rồi.
Dù đất nước này có thế nào, triều đại này có ra sao, mẹ con bà cũng không cần biết nữa.
Từ ngày loạn lạc ấy, khi bà ôm bé Bình chạy lên Cao Bằng giữa mùa đông cắt da cắt thịt, rồi cái ngày quân Tây Sơn đánh tới, mẹ con bà thất lạc, bơ vơ giữa rừng, bà không nhớ bao nhiêu lần chân bà đã bật máu, bao nhiêu gai góc đã đâm vào da thịt, bao nhiêu lần thay tên đổi họ, bao nhiêu vùng đã đi qua. Bên cạnh bà, bé Bình chỉ mở to mắt, im lặng. Chỉ mới năm tuổi, nhưng bà nghĩ, con gái bà đã hiểu biết mọi chuyện. Nó đã rất ngoan ngoãn đưa cho bà tất cả quần áo, trang sức để đem bán, ngoan ngoãn ăn những gì mà bà tìm được đem về, ngoan ngoãn phụ giúp cho bà công việc trong mái nhà nhỏ xíu của hai mẹ con. Nó không bao giờ nói ra, không bao giờ hỏi, nhưng bà tin rằng, nó biết. Và nó đã chấp nhận.
Đất nước này có thế nào cũng không liên quan đến chúng ta, chính con bé đã nói vào ngày cử hành tang lễ của Quang Trung hoàng đế. Cái làng nhỏ của bà nghe tin muộn, và cũng chẳng có mấy ồn ào. Những cuộc thay vua đổi chúa chẳng có gì quan trọng vào thời đại này. Những cuộc thay vua đổi chúa liên tục diễn ra. Thật vô nghĩa, bà đã nghĩ. Bà đã nhận ra sự vô nghĩa ấy trong cái ngày tháng ba lạnh buốt ở miền núi cao, khi Đức bệ hạ đã chạy sang bên kia biên giới. Vì cái gì, bà tự hỏi khi nhìn xuống sinh linh bé bỏng trong tay, vì cái gì mà bà lại ở nơi này?
Không liên quan đến chúng ta, con bé nói, nhìn thẳng vào mắt bà. Trong đôi mắt trong vắt ấy, bà không thấy sự giận dữ hay oán trách, cũng không đau khổ. Con bé đã im lặng nắm chặt tay bà trên con đường đến làng Thụy Khê này, cũng chính nó dập tắt chút làn khói hy vọng còn sót lại trong bà. Đã mất. Đã mất hết rồi. Không thể nào khác được. Nó muốn nói với bà điều đó, bằng sự thản nhiên đến lạnh lùng. Lúc ấy, bà muốn hét lên, quát lên rằng không phải thế. Dòng máu ấy vẫn đang chảy trong nó, đứa con gái bất trị này. Nó là con của Bệ hạ. Nó là công chúa của Đại Việt đẹp đẽ hoa lệ, của một triều đại huy hoàng. Dòng máu vương tộc đang chảy trong nó, mãi mãi chảy trong nó. Dòng máu của một gia tộc đau đớn bị phản bội và hủy hoại vẫn đang kêu gào. Nó không thể phủ nhận điều đó, coi như không có gì. Không thể.
Nhưng cuối cùng, bà im lặng. Những lời ấy tan đi nhanh như khói. Kết thúc rồi, bà nghĩ. Từ cái ngày mà số phận đã để mẹ con bà lại, dứt hai người ra khỏi bọn họ, ném khỏi cuộc viễn du biệt xứ không hẹn ngày về. Con bà chỉ là phận nữ nhi, có thể làm gì? Hay nó lại như người chị mình, phải gánh chịu một số phận làm con cờ chính trị đổi trao? Dòng máu vương giả ấy có khi lại là lời nguyền nghiệt ngã đối với con bà. Cuộc đời bà chỉ còn mỗi mình nó. Chỉ cần con bà sống, chỉ cần con bà hạnh phúc và bình yên, thế là đủ.
Công chúa của một đất nước đã mất, để làm gì?
***
"Bệ hạ ơi là bệ hạ ơi! Nhà Lê mất rồi..."
Tiếng gào não nề ấy, Ngọc Bình vẫn nghe đi nghe lại mãi trong mơ, những giấc mơ rời rạc và bất chợt. Nó thấy lại quang cảnh cái đêm đó, trên lầu vọng gác nhìn ra dòng sông, nó cùng rất đông người đã tụ tập chờ đợi. Và vị quan ấy đến, cầm lấy tay Đức hoàng thượng mà khóc "Nhà Lê mất rồi!".
Nhà Lê mất rồi. Tiếng nói vang vọng tựa như âm thanh của gió thổi qua các rặng núi giá lạnh trong cái mùa đông mà Ngọc Bình được đưa khỏi hoàng thành. Trong những ngày buốt giá dằng dặc nơi vùng núi hoang sơ, nó nhìn lên bầu trời, đếm từng cánh chim bay vụt qua. Nó không quan tâm đến mọi chuyện ồn ào xung quanh, chỉ buồn. Nó cũng dửng dưng không mang chút gì hy vọng. Đức hoàng thượng đã lên thuyền ra đi đêm đó, lưng áo hoàng bào khuất vào bóng tối. Một linh cảm mạnh mẽ mách bảo nó rằng sẽ vĩnh viễn không bao giờ gặp lại Ngài.
Nhà Lê đã mất rồi. Nó nhận biết điều đó là sự thật. Và chấp nhận như chấp nhận rằng phụ hoàng đã mất. Lúc ấy, đối với nó, "nhà Lê" và "triều đình" là một khái niệm vừa rõ ràng vừa mơ hồ, gắn kết với nhau, có hình dạng của hoàng thành quanh co nhiều ngã rẽ giữa vô số bức tường gạch đá; cái tổng thể của những con người bao giờ cũng xúm xít thành nhiều đám đông, nhưng một khi thoát ra khỏi đám đông đó, nó sẽ chỉ có một mình. Những khái niệm ấy cũng mơ hồ như "phụ hoàng", "hoàng tỷ", "hoàng huynh", "công chúa", "bệ hạ"... qúa nhiều con người mà nó không thể nào nhớ hết được. Và cũng chẳng quan trọng gì khi những điều ấy mất đi.
Nhưng tất cả các khái niệm rắc rối đó lại liên quan chặt chẽ đến nó. Tại sao người ta lại đuổi giết nó? Tại sao nó lại phải trốn tránh? Tâm trí non nớt của nó tự tìm cho mình câu trả lời: Vì nó thuộc "nhà Lê". Nó đã nhẹ nhõm xiết bao khi chỉ còn lại một mình với mẹ. Từ đây, sẽ không ai tìm nó nữa. Mẹ nó sẽ không phải chạy tướp máu chân. Mẹ nó sẽ không phải hoảng loạn từng đêm khi nghe tiếng chân người qua lại. Tất cả bọn họ đã đi rồi, đi rồi. Đi theo Hoàng thượng. Đi theo Bệ hạ. Đi và chìm khuất vào bóng tối.
Có một cuộc ra đi khác, Ngọc Bình không còn nhớ rõ, nhưng thi thoảng màu sắc ngày hôm ấy vẫn thoảng qua trí nhớ nó. Dòng sông màu nâu bạc óng ánh nắng. Chiếc thuyền được trang trí sặc sỡ. Những chiếc lọng vàng bên bờ đất. Sắc màu của rất nhiều bộ áo quần lộng lẫy. Và đôi mắt đen, rất đen của một cô gái trẻ. Đôi mắt nhòa lệ.
Ngọc Bình giữ những ký ức ấy cho riêng mình, chưa bao giờ đưa ra hỏi mẹ. Nó sợ nói với mẹ về chuyện ngày xưa. Giờ đây, nó nhận biết rõ rệt hơn về thân phận của mình, và càng muốn tránh xa cái qúa khứ ấy. Nhà Lê đã mất rồi. Tất cả họ hàng nó đang ở bên kia biên giới, qua nhiều ngọn núi, một đất nước mênh mông xa lạ. Lưu đày vĩnh viễn. Tha hương vĩnh viễn. Tất cả hào quang qúa khứ còn lại trong nó là một tòa thành với thật nhiều lối rẽ ẩn giữa vô số bức tường.
Nhà Lê mất rồi. Có ý nghĩa gì khi là công chúa của một vương triều đã mất?
Bệ hạ... Nhà Lê mất rồi!
Khi Ngọc Bình tỉnh dậy, nó vẫn chưa thoát khỏi giấc mơ, và đã ngạc nhiên xiết bao khi thấy mình đang nằm ở một nơi rất êm ấm. Chớp mắt vài lần để quen với căn phòng chỉ leo lét ánh sáng từ ngọn nến đang bị thổi bạt đi bởi gió thổi vào từ cánh cửa sổ mở, Ngọc Bình nhận ra căn nhà này không chút gì giống với nhà trong ngôi làng của nó. Mái nhà bằng gỗ chắc chắn tuy đẽo hơi thô, không phải lợp bằng rơm rạ. Tường gạch đỏ hơi bạc màu. Chiếc giường nó đang nằm bóng màu gụ, trải chăn mềm. Nó đã hoàn toàn quên đi cảm giác của một chiếc giường, thật vậy. Ngoài cửa sổ, cây lá rào rào lay động, lẫn trong tiếng côn trùng ồn ã.
Giá mà trời mưa, theo thói quen, nó nghĩ. Đã hạn hán kéo dài, khí hậu hanh khô, nóng bức đến có thể thiêu cháy cả người. Những ngày như thế, khi trở về nhà, mẹ nó hầu như không còn thở được nữa. Chỉ mặc mỗi chiếc yếm, mồ hôi bà ướt đầm cái chiếu đang nằm. Lưng bà nổi đầy những vệt đỏ, dấu đòn gánh thâm đen lại trên vai như bị nhuộm. Những lúc mẹ không để ý, Ngọc Bình vẫn thường lặng lẽ nhìn bà. Chỉ mới bốn năm, nhưng nét xuân sắc của một người phụ nữ cung đình đã tàn phai, héo úa như bông hoa bị thiêu đốt bởi nắng. Nó lại nhìn lên trời, và những cơn mưa đến, dù thi thoảng giữa cơn hạn khắc nghiệt tưởng chừng trải dài vĩnh viễn, trở thành niềm an ủi duy nhất của nó. Niềm an ủi duy nhất giữa một vùng cằn khô đang bị hóa thành sa mạc và những bóng người vật vờ nâu xỉn lê bước xung quanh.
Vừa lúc Ngọc Bình định xuống giường đi tìm mẹ, cánh cửa phòng bật mở. Một người đàn ông trung niên ăn mặc theo kiểu văn nhân bước vào, sau lưng ông là hai cô hầu nhỏ. Thấy nó đã dậy, ông nhẹ gật đầu, bước lại gần. Trong ánh trăng hắt vào từ cửa sổ, đôi mắt dài và sắc của ông sâu lại, hai vết nhăn trên trán đen thẫm như vẽ bằng mực.
- Mẹ đâu? - Ngọc Bình hỏi trống không. Hẳn mẹ đã đem nó đến đây, nhưng tại sao bà không ở cạnh nó, còn người đàn ông này là ai?
Người đàn ông dừng lại trước giường, chậm chạp cúi đầu trước Ngọc Bình.
- Mẫu thân của người đang ở đây, thưa công chúa.
-------
Chú thích:
Kinh tế trong vùng của Tây Sơn: "Thuế má qúa đáng đến nỗi nhiều làng xiêu đi. Nhà nào có mấy người thì bắt đi lính cả, có nhà 5 người thì đi cả 5, không kỳ già nua trẻ yếu." (Thư giáo sĩ Eyot gởi ông Blandin). Các giáo sĩ ủng hộ Tây Sơn vì nhà Lê và Nguyễn trước đều cấm đạo "Ách Tây Sơn còn được thích hơn ách quân Trung Hoa hay nói cho đúng thì sự thống trị của họ dễ chịu hơn dưới các triều vua trước... Thành thử nếu họ bớt bắt tàn nhẫn trong vài trường hợp có lẽ chúng tôi không mong đổi họ với vị vua nào khác...” (Thư ông La Mothe gởi ông Blandin).
2
"Công chúa", trong một khoảnh khắc, Ngọc Bình không hiểu người đàn ông trước mặt đang nói đến ai. Giọng ông ta lại rất khó nghe, chất Thanh Nghệ lơ lớ nằng nặng. Và sau khi đã hiểu, nó thấy nỗi sợ hãi khủng khiếp dậy lên trong lòng.
Ông ta biết nó là ai! Người ta đã bắt được hai mẹ con nó! Người ta sẽ đem hai mẹ con nó đi giao nộp! Người ta đã bắt mẹ nó đi!
Ngọc Bình sợ đến nỗi không cất được tiếng. Nó chỉ mở to đôi mắt hoảng hốt nhìn người đàn ông. Như nhận ra sự sợ hãi của nó, ông ta càng cúi đầu thấp hơn.
- Công chúa đừng sợ. Hạ thần là Phan Huy Ích, tôi thần của nhà Lê. Mẫu thân người sau khi đến đây đã bị kiệt sức, đang được chăm sóc ở phòng bên bởi lệnh của Duy Cẩn vương gia.
Ngọc Bình vẫn khó khăn lắm mới nghe được câu nói của người tự xưng là Phan Huy Ích này. Nó không biết ông ta là ai, cũng chẳng hiểu vị vương gia ông đang nhắc tới là người thế nào, nhưng nỗi sợ hãi trong lòng nó dịu xuống. Họ không thuộc về "bên đó", không phải những người muốn giết nó. Họ là "nhà Lê". Nhà Lê, thứ tưởng chừng không còn tồn tại, nhưng vẫn hiện hữu, vẫn sống. Vẫn còn sống.
- Cho cháu gặp mẹ. - Ngọc Bình nói. Gương mặt người đàn ông có một thoáng biến đổi rất nhanh, nhưng ông chỉ lùi lại cho hai người hầu gái đỡ con bé xuống giường. Nó vẫn còn yếu, chân run rẩy đi không vững và đầu óc chao đảo như say sóng, người chẳng còn chút sức lực nào. Phan Huy Ích quay người mở cửa dẫn nó ra hành lang nhỏ, rồi đưa vào căn phòng bên cạnh giống hệt phòng nó đã nằm.
Đèn nến trong căn phòng này sáng hơn phòng nó, cũng đông người hơn. Ngoài mẹ nó đang nằm trên giường, chăn đắp ngang ngực, còn có một thầy thuốc vẫn đứng cuối giường cùng vài hầu gái. Bên chiếc bàn cạnh cửa sổ, một người đàn ông mặc kiểu thường dân lặng lẽ rít điếu thuốc lào. Thấy Ngọc Bình được đưa vào, đôi mắt đen của ông ta nheo lại. Nhưng Ngọc Bình không để ý đến ông ta. Nó với tay cố đi nhanh đến chiếc giường của mẹ. Bà Hoa nhắm mắt thiêm thiếp như đang ngủ.
- Mẹ, mẹ ơi! - Ngọc Bình gọi, lay nhẹ vai mẹ. Mi mắt bà chớp khẽ, rồi từ từ mở ra. Cái nhìn của bà đục ngầu. Một hơi thở khò khè dội lên trong cổ họng.
- Mẹ, mẹ sao vậy? - Con bé đã hoảng hốt thật sự. Nhìn gần, mẹ nó chỉ còn da bọc xương, những chiếc gân xanh nổi chằng chịt trên gương mặt tái sạm, môi trắng bệch, tróc ra từng mảng. Mái tóc dính bết vào đầu bà như rơm ướt. Thậm chí, bà không còn sức để đưa tay chạm nó.
Ngọc Bình làm sao biết được nó đã hôn mê cả vài ngày. Nó làm sao biết được mẹ đã cõng nó cả ngày lẫn đêm, dưới cái nắng chang chang của mùa hè rực lửa, qua biết bao đường đất để đến được kinh thành. Dùng chút sức lực cuối cùng, bà đem vật tin của vua Lê Hiển Tông trao cho để nhờ Lê Duy Cẩn cứu đứa con gái nhỏ. Lúc nó qua khỏi nguy hiểm, cũng là lúc bà gục ngã. Chút nhựa sống cuối cùng bị rút kiệt trong năm năm dài đã bị đốt cạn sạch, thiêu cháy đến không thể phục hồi được nữa.
- Mẹ! Mẹ ơi! - Con bé giờ đây bật khóc. Bà Hoa gom hết sức tàn gắng nhìn đứa con gái lần cuối cùng. Bà đã đợi chỉ để gặp nó. Ngọc Bình đáng thương của bà giờ đây sẽ chỉ còn lại một mình. Cái thế giới nhỏ bé của hai mẹ con cũng đã chẳng còn nữa. Bà đã mong được nhìn thấy nó trưởng thành, lập gia đình và hạnh phúc. Điều ấy cũng chẳng thể nào thực hiện, với một người mẹ như bà, đau xót xiết bao.
Bà thấy nỗi đắng cay dâng nghẹn cả cổ họng mình. Ông Trời ơi, Đức Phật ơi, bà đã không cầu xin gì nữa, không mơ ước gì nữa, chỉ mong được sống để bảo vệ đứa con gái nhỏ này. Vậy mà cuối cùng bà lại để nó nơi đây. Giữa thời thế loạn lạc này, bà chỉ muốn đưa con đi thật xa, vậy mà tình thế bắt buộc bà trở lại, đưa nó vào hang hùm rồi bỏ rơi nó. Công chúa cuối cùng của một vương triều, cái gánh nặng và lời nguyền của số phận dành cho con bé là qúa lớn. Vậy mà, bà không có cách nào để bảo vệ nó. Không có cách nào. Bà nhớ, hôm ấy, khi nghe lời nói dửng dưng của con bé, bà đã thực sự muốn hét lên. Cho bản thân bà, cho Đức Hoàng thượng qúa cố, cho cả quãng đời vàng son đã tàn héo trong cung nội. Rốt cuộc, bà nhận ra, bà chẳng là gì. Cuộc đời bà đã kết thúc ngay từ khi chưa bắt đầu. Dù đất nước này có thế nào đi nữa, sự thật vẫn chỉ như thế mà thôi.
Một hơi thở nữa lại thoát ra khỏi bà như sự sống đang từ từ lìa bỏ. Bà nhớ đến sáng xuân năm nào, khi bà mới mười sáu tuổi, đứng trong hàng ngũ cung nhân được tuyển lựa. Hoa đào đã nở đỏ rực bên kia bức tường Hoàng thành, trong vườn Thượng uyển. Bà đã nghĩ, cuộc đời này thật đẹp.
Khuôn mặt con bé nhăn nhúm lại trong cơn nức nở. Bà lại nhớ đến sự im lặng của nó khi được bế đến cạnh linh cữu vua cha. Đôi mắt tròn to nhìn không chớp xuống hình hài già nua quấn trong nhiều lớp vải với vẻ im lặng đầy thấu hiểu. Đến mức bà cảm thấy bóng của cái chết đang phản chiếu trong đôi mắt đó.
Những người trong phòng đang tiến lại gần. Bà thấy mơ hồ những chiếc bóng đang dịch chuyển. Tuy không rõ mặt người, nhưng bà thầm nhẩm lại trong tâm trí. Lê Duy Cẩn, anh trai của Ngọc Bình, con của đức vua Lê Hiển Tông, kẻ còn ở lại sau khi tông thất nhà Lê theo vua Lê Chiêu Thống chạy trốn khỏi Bắc Hà. Kẻ còn ở lại để nhận chức Giám quốc do tên tiếm vị ban cho, rồi sau đó, đến lượt mình bị hất bỏ. Bà có thể tin tưởng giao con gái mình cho một người như thế?
Còn người bên kia, đang đứng gần cửa vào hẳn là Phan Huy Ích. Hiến Sát sứ Phan Huy Ích của triều Lê, hay Lễ bộ Thị lang Phan Huy Ích của Tây Sơn? Tại sao ông ta lại ở nơi đây? Giới văn nhân sĩ phu với thói lật lọng và đạo đức của họ, hay còn điều gì khác? Mà tại sao lại phải quan tâm đến điều đó khi nhà Lê chỉ còn là dĩ vãng?
Bà nhắm đôi mắt đang bỏng rát, nghe tiếng khóc của con mình như từ xa vọng lại, như tiếng từ tiền kiếp, từ địa phủ đang kêu gọi. Bà thấy cô đơn và bơ vơ tột cùng, hơn cả khi bị lạc trong cánh rừng Cao Bằng năm đó. Mẹ con bà đã bị bỏ lại. Con bà đã bị bỏ lại ở nơi này, trong cái bóng của dĩ vãng xáo trộn giữa loạn ly. Bà như thấy trước cả tương lai của nó. Những cái bóng điên cuồng nhảy múa xung quanh bà, ngập trong thứ ánh sáng vàng quạch.
Bà muốn nói với con một điều gì đó, nhưng là điều gì? Ý nghĩ của bà đang bị cuộn xoáy vào một cái hố sâu đen ngòm, rơi xuống thăm thẳm. Bà cố, cố để mở mắt thêm lần nữa, nhìn vào đôi mắt đứa con gái nhỏ.
Một lần nữa, bà thấy cái chết phản chiếu trong đôi đồng tử đen như đêm.
***
Đám tang diễn ra lặng lẽ ở cánh đồng ngoại thành Thăng Long. Mộ bà Hoa nằm chung với những cung nhân của triều Lê, tuy tách biệt hẳn. Ngọc Bình không phản ứng khi nghe Duy Cẩn bàn về nơi chôn cất. Nó im lặng suốt từ cái chết của mẹ, chỉ rơi nước mắt khi những người phu hạ huyệt, hất từng cuốc đất xuống nắp chiếc quan tài gỗ. Giờ đây, nó im lặng đốt từng nắm giấy tiền vàng bên ngôi mộ. Bầu trời xanh trong không một gợn mây hắt nắng chói chang xuống mặt đất, đáp lên đôi mi nó ánh sắc mờ.
Ngoài Ngọc Bình, chỉ có Phan Huy Ích và Lê Duy Cẩn theo linh cữu. Lê Duy Cẩn cảm thấy có trách nhiệm với cô em gái út mà ông hầu như không còn nhớ mặt, tuy vậy vẫn không đủ kiên nhẫn để ở lại đến qua trưa. Con bé không ăn không uống, chỉ ngồi đốt vàng mã hoặc ngẩn ngơ nhìn hàng mộ, không hề có ý muốn đứng dậy. Phan Huy Ích cũng không có ý muốn thúc giục nó.
Ngồi dưới tán cây gần đó, Huy Ích chăm chú ngắm nhìn con bé. Tuy hơi còi cọc so với tuổi và gầy guộc bởi thiếu ăn, lại vừa qua cơn bạo bệnh, cô bé này tương lai sẽ là một mỹ nhân. Đôi mày lá liễu, môi như cánh hoa đào còn chưa nở hết, hình dáng gầy gò ẻo lả lại có một thi vị riêng. Vừa đến tuổi để tóc, mái tóc con bé xõa trên vai, đen nhánh. Và đôi mắt nó, đôi mắt vời vợi nỗi buồn thương ấy lại gợi nhớ ông đến một qúa khứ chưa xa...
Chớp mắt, Huy Ích nhìn về phía chân trời sau những hàng cây. Nhanh qúa, mới đó đã gần tám năm rồi, ông nghĩ. Tám năm với biết bao cuộc chiến, bao đổi thay, thời thế xoay vần đến mức nhiều khi ông tưởng mình đã ở một kiếp sống khác. Triều đại chuyển dời, cảnh sắc phai tàn, người cũng phiêu bạt, lưu tán. Thăng Long, kinh kỳ đô hội ngày nào, giờ trở thành một cánh đồng hoang đầy tiếng chim ăn xác chết kêu váng óc. Hoàng thành lộng lẫy giờ thành phế tích. Nếu nàng trở về, hẳn sẽ đau lòng xiết bao.
"Ta muốn trở về Kinh Bắc," nàng nói, vào cuộc gặp trước khi ông ra Bắc. Trước đôi mắt mênh mông đã sớm mệt mỏi của người thiếu phụ trẻ, ông chỉ biết cúi đầu. Nàng là một hoàng hậu, Bắc Cung hoàng hậu, nhưng ngày tháng của nàng chỉ là thời gian đằng đẵng ngóng nhìn về phương Bắc, thở dài trong màn mưa Phú Xuân kéo dài lạnh lẽo. Mà về để làm gì, ông muốn nói, nhưng lặng im. Nàng may mắn đã không ở lại Thăng Long sau những ngày chiến tranh để nhìn quê hương mình bị giày xéo, điêu tàn. Nàng may mắn đã không phải chứng kiến cuộc nồi da xáo thịt trong hoàng tộc, để rồi thân tộc nàng kẻ thì mất tích trên vùng núi cao, nơi hang sâu rừng dữ, kẻ vùi xác nơi quan ngoại không có ngày về. Mười sáu tuổi, nàng đi qua bến sông trên con thuyền sơn son thiếp vàng, đi mãi, không bao giờ trở lại.
Ta muốn trở về Kinh Bắc, nàng nói, nhìn thẳng vào mắt ông. Hai đứa trẻ ngủ trong lòng nàng. Mái tóc cài trâm bạc rơi qua vai, bên chiếc cổ cao, viền lấy khuôn mặt tròn như trăng rằm. Ông hiểu, Kinh Bắc có mẹ nàng, bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền. Nàng muốn trở về bên người thân duy nhất. Nàng cô đơn giữa một triều đình loạn ly và những con người xa lạ. Chồng nàng đã mất, hai đứa con còn qúa nhỏ để có thể tranh giành với ai, đóng một vai trò nào. Nàng ở đây để làm gì?
Nàng cố tình không hiểu, hay không muốn hiểu, ông nói với nàng trong cuộc đối thoại câm lặng. Nàng là công chúa nhà Lê. Nàng là điều duy nhất có thể gắn kết triều đình này với Bắc Hà. Nàng phải ở lại nơi đây. Và con cái nàng, họ ngoại của đức vua Lê Hiển Tông, mang dòng máu của họ Nguyễn Tây Sơn, là thứ đảm bảo cao nhất để kết hợp hai miền đất. Đó là số phận, ông nói. Nàng im lặng.
Nàng là công chúa nhà Lê, ông nghĩ, lại nhìn về phía cô bé mặc tang phục trắng. Công chúa cuối cùng của nhà Lê, dòng máu còn sót lại của vương triều. Nhưng chỉ là một đứa con gái nhỏ, là thứ để giành giật và trao đổi. Ông nghĩ đến sự ai oán trong đôi mắt của người mẹ lúc lâm chung hướng về mình. Bà hiểu điều đó, và bà đã van xin ông cứu đứa con gái bà. Ông nhớ đến bóng người thiếu phụ dưới hàng cây đại trắng, mùi hoa đăng đắng và màu rêu xanh trên bức tường đá, đôi mắt đen như đã thu lấy tất cả những tinh tú từ bầu trời vùi chôn xuống hố sâu.
Chiều dần buông. Nắng vẫn còn chói gắt, chiếu xiên ngang, hắt bóng những hàng mộ kéo dài qua khoảng đất trống. Màu cỏ úa chập chờn lay động. Ngọc Bình không còn giấy tiền nữa để đốt, nó ngẩng đầu nhìn trời. Phan Huy Ích đứng dậy, bước về phía con bé, đưa tay cho nó.
- Ta đi thôi, công chúa. - Ông nói, giọng khẽ khàng. Con bé nhìn ông.
Rồi nó đứng dậy, đi qua ông, coi như không thấy bàn tay đang đưa ra.
-------
Chú thích:
Sau khi lên ngôi, triều đình của vua Lê Chiêu Thống hoàn toàn không có gì, Trịnh Bồng lại muốn tiếm ngôi. Lê Chiêu Thống liền liên lạc với Nguyễn Hữu Chỉnh phạt Trịnh Bồng. Thế lực của Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc Hà ngày càng lớn, lực lượng ngày càng mạnh, Tây Sơn e ngại nên đánh ra Thăng Long. Vua Lê Chiêu Thống đưa cung quyến chạy trốn. Lê Duy Cẩn được lập làm Giám quốc.
Thành Thăng Long: Sau khi đuổi Nguyễn Hữu Chỉnh, Tây Sơn thu liền 2 vụ thuế ở Bắc Hà rồi rút về Phú Xuân. Nguyễn Huệ cho phá cung chúa Trịnh đem về xây Phượng Hoàng Trung đô. Rồi quân Thanh vào, khi rút đi thì Thăng Long đã bị tàn phá nặng nề.
3
Đường từ Thăng Long đến Kinh Bắc phơi bày một cảnh tượng tang thương: Người chết đói khắp nơi, bên vệ đường, dưới tán cây, dưới ruộng, trên đê, trong bờ nước. Những xác chết chưa phân hủy hết bốc mùi hôi thốc nồng nặc. Những bộ xương mà không ai buồn thu dọn rải rác với đủ mọi tư thế, có người trên miệng còn dính đất, rễ cây, thậm chí, có xác chết rõ ràng đã bị phanh thây xẻ thịt. Dưới bánh xe ngựa, thi thoảng lại có tiếng răng rắc kèm một cú giật nẩy nhẹ như thể vừa cán qua một mảnh xương. Đồng ruộng trơ ra những gốc rạ xạm đen bên các con mương khô khốc. Những mái nhà rơm xơ xác oằn đi, tưởng như sẵn sàng bốc cháy dưới nắng. Gà vịt cũng không còn thấy bóng, chỉ có một vài cánh chim đen đúa thình lình từ một bụi cây nào đó bay vọt lên.
Ngọc Bình và Phan Huy Ích quan sát cảnh vật hai bên đường qua hai cửa sổ xe ngựa, không ai cất lời, cũng không nhìn nhau. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ khác.
Phan Huy Ích nghĩ đến những gì sẽ nói với bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền sắp tới để bà nhận nuôi Ngọc Bình. Tuy Duy Cẩn là anh trai cô bé, ông ta hiện tại đang bị giám sát ngặt nghèo bởi hai thế lực Phục Lê và Tây Sơn. Để Ngọc Bình nơi ấy, cô bé sẽ rơi vào tầm ngắm của cả hai. Cho nên ông đã nghĩ đến bà Chiêu nghi, mẹ công chúa Ngọc Hân. Bà đang ở một ngôi làng ở Kinh Bắc, là thân mẫu của Thái hậu Tây Sơn nên được cấp dưỡng đủ điều kiện để chăm lo cho cô bé côi cút.
Trong khi đó, Ngọc Bình nhìn rất chăm chú vào những xác chết bên đường, cảnh tượng tiêu điều đang lướt qua trước mặt. Những ngày qua, nó đã bớt lầm lì, tuy vẫn rất ít nói năng. Nó vẫn chưa hồi phục sau cái chết của mẹ. Giờ đây, nhìn những thây người la liệt, nó nhớ về mẹ mình, và cùng với nỗi buồn thương, nó cảm thấy một điều gần như giận dữ.
- Tại sao họ lại chết? - Ngọc Bình đột ngột cất lời. Phan Huy Ích nhìn con bé, không vội trả lời. Nó đang hỏi về những người kia, hay mẹ nó, hay những người đã chết khác nữa? Ông sẽ trả lời nó sao đây? Câu trả lời nào là chính xác?
- Tại sao không có ai giúp họ? - Giờ thì con bé nhìn ông. Huy Ích hiểu nó đang nói đến ai. Hẳn nó đã nghe, đã được kể nhiều về đức Lê Thánh Tông, những cuộc phát chẩn, công đức của ngài.
- Kho lúa của triều đình còn phải dành cho cuộc chiến phía Nam, - Ông trả lời như một triều thần. Ông thấy sự nghi ngờ, cả giễu cợt nữa, ánh lên trong mắt con bé. Nó đang kết tội ông, Huy Ích thầm nghĩ, nó biết ông là một vị quan, một vị quan chỉ trơ mắt nhìn dân của mình chết đói mà không mảy may xúc động. Nhưng ông sẽ nói thế nào đây? Rằng ông chỉ là Thị lang bộ Lễ? Hay bảo rằng trong triều đình hiện giờ Thái sư Bùi Đắc Tuyên đang chuyên quyền, ông bị thất sủng, tiếng nói chẳng có chút trọng lượng nào? Rằng triều đình đang rối loạn sau ngày Quang Trung hoàng đế mất đi, mà chuyến đi đến Bắc Hà này của ông cũng là để thám thính, xem xét tình hình? Rằng ở phía Nam, quân Nguyễn đang được các chiến binh Tây dương giúp sức nên tấn công ồ ạt vào Quy Nhơn, tình thế nguy cấp vô cùng?
Hoặc là, nó hỏi rằng, ông đang làm gì vậy? Ông phản bội nhà Lê, làm quan cho Tây Sơn, cuối cùng vì cái gì? Có thay đổi được gì không? Hay chính ông nữa, ông cũng chỉ là con cờ trong cuộc chơi quyền lực của các chúa? À, ông nhớ không, Nguyễn Hữu Chỉnh từng chế giễu ông “Chỉ là nhà Nho nói khoác”? Các ông tự khoác cho mình một sứ mạng qúa cao, cái gì là “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”? Cái “thiên hạ” ấy chưa bao giờ thuộc về các ông thì các ông có thể làm được gì?
- Thần không thể thay đổi được nhiều, - Phan Huy Ích thừa nhận. Ông vẫn giữ cách xưng hô quân thần với Ngọc Bình. - Thần chỉ có thể làm tất cả những gì trong khả năng của thần, than ôi, đó không phải là khả năng kinh bang tế thế, trị quốc bình thiên hạ, thậm chí là giành giật quyền lực nơi cung nội. Thần chỉ có duy nhất cây bút cùng chút tài văn chương, ăn nói để viết vài áng văn, tấu sớ, đi thuyết phục người này, người khác. Tất cả những gì thần có thể hy vọng, không phải là sự lớn mạnh hay suy vong của vương triều, gia tộc nào, mà là thần có thể góp sức đưa chút an bình về cho nước Việt này. Lê hoàng đế sai thần thuyết phục Thái Đức vương, thần ra đi. Nhà Thanh cho gọi sứ thần, thần ra đi. Bớt được cuộc chiến nào, mâu thuẫn nào là bớt được hàng trăm, hàng vạn mạng người phải chết vì chiến trận, bớt được số của cải bị tiêu hao một cách vô nghĩa lý, đỡ gánh nặng cho lê dân.
Thần không thành công lắm, - Ngừng lại một lát, Huy Ích thở dài. Ngọc Bình vẫn lắng nghe ông, nhưng ông đang nói như tự bộc bạch với chính mình hơn với cô gái nhỏ. - Có lẽ vì thần chỉ là một văn nhân tầm thường, không có tầm nhìn xa để đoán định được sự việc, ngăn chặn nó. Thần đã nghĩ rằng, nếu có thể đem đạo lý rèn giũa chốn cung đình, mài sắc pháp luật trong một nước, lấy Lễ trị quốc, lấy Nhân bảo ban vua quan, thế là nội trị bình yên. Thần đã nghĩ rằng, xông pha muôn dặm, đem tấc lưỡi thuyết phục thiên hạ, bảo đảm hòa bình, thế là giữ yên bờ cõi. Thế nhưng, mọi việc đâu chỉ đơn giản như vậy.
Chiến thắng một vài trận chiến, hoặc thậm chí, thật nhiều cuộc chiến, vẫn chẳng có ý nghĩa gì trong việc trị quốc an dân. Một đất nước bị tàn phá, lễ nghĩa cương thường bị phá hỏng, đó là lúc con người được bộc lộ đầy đủ dã tâm. Nam không giữ Tam cương Ngũ thường, nữ không trọng Tam tòng Tứ đức, ai nấy cũng chỉ bo bo lo cho quyền lợi của mình, chà đạp nhau mà sống, mà giành giật quyền lực. Lúc ấy, ai lo cho dân, ai coi trọng nước mất hay còn? Bên trong xâu xé lẫn nhau, bên ngoài thì bị khinh rẻ chê cười. Vậy mà vẫn cứ bám lấy hào quang qúa khứ, thêu dệt những chiến công, tự hào tô son trát phấn cho những bóng ma đã phai nhạt, không biết nhìn thẳng vào thực trạng mà hạ bớt thói ngông cuồng. Tuy lực vẫn còn, nhưng lòng dân ngày càng xa rời thì trường tồn thế nào?
- Ông lo lắng cho sự trường tồn của vương triều này? - Ngọc Bình nheo mắt. Huy Ích giật mình. Cô gái nhỏ này có sự tinh nhanh đến quái ác. Câu hỏi của cô bé khiến ông phải suy nghĩ. Một lần nữa, ông lại tự hỏi mình, ông làm quan vì cái gì? Vì điều gì mà ông đánh đổi cả điều cao nhất trong Ngũ thường, Tam cương, chính ông chứ không phải ai khác?
- Khổng gia đề cao nhất là Đức, - Cuối cùng, ông trả lời. - Đó là lòng nhân ái đối với thiên hạ.
Ngọc Bình không hỏi nữa. Không phải nó đã hết thắc mắc, nhưng chính nó vẫn chưa hiểu hết mình thắc mắc điều gì. Nhiều năm sau này, khi có một người khác nói với Ngọc Bình về chữ Đức, nàng lại nhớ đến cuộc trò chuyện với vị Thị lang họ Phan trên chiếc xe ngựa đi qua con đường đầy xác chết. Và ý nghĩ xưa đã dần sáng rõ lên trong nàng: Lúc ấy, nàng còn chưa biết đến nỗi khổ đau phải âm thầm gánh chịu.
***
Bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền nhanh chóng tiếp nhận Ngọc Bình hơn Huy Ích đã e ngại. Nơi đây qúa quạnh qũe, bà nói, ta cũng muốn có một người bầu bạn. Và dòng dõi Đức Hoàng thượng thì cũng là con cháu ta. Ta sẽ chăm sóc Bình như chính con mình.
Ngọc Bình tay ôm bọc quần áo, trên cổ đeo miếng ngọc mà phụ hoàng đã trao cho mẹ nó, ngước nhìn người phụ nữ phúc hậu và dinh thự nhỏ của bà. Trong chiều muộn, từ những bụi chanh, hồi và quế trong vườn, hương thơm đằm đằm, nhè nhẹ tỏa ngát. Gia nhân đang thắp đèn quanh dinh, tiếng bước chân êm nhẹ như lá. Côn trùng, ếch nhái đã bắt đầu dàn đồng ca rỉ rả của mình.
Một lần nữa, theo thói quen, nó lại nghĩ.
Giá mà có mưa rơi...
---------
Chú thích:
Thái Đức vương: Nguyễn Nhạc
Tam cương: Quân - Sư - Phụ.
Ngũ thường: Trung, Hiếu, Nghĩa, Trí, Tín.
Phan Huy Ích được lệnh của Trịnh Bồng chinh phạt Nguyễn Hữu Chỉnh khi ấy chiêu binh ở Nghệ An, làm một cái chuông (tên của Chỉnh) để bắt nhốt Chỉnh. Nhưng quân Trịnh thất bại, Nguyễn Hữu Chỉnh chế giễu Huy Ích “chỉ là nhà Nho nói khoác”.
Triều đình biến động
1
Trong lòng Thị lang Phan Huy Ích như có lửa đốt. Giục tên đánh xe nhanh nhanh vào triều, giọng ông run rẩy thấy rõ. Vừa từ Bắc Hà trở về, ông chưa kịp cởi áo ngoài đã nghe hung tin báo tới: Thánh thượng cho gọi Lê Trung vào triều để bắt giết. Xác Lê Trung vẫn chưa kịp đưa đến kinh thành, nhưng ông biết mình đã tới trễ, qúa trễ.
Một đám đông đang tụ tập trên đường khiến xe Huy Ích phải dừng lại. Vội vã ra đi, ông thậm chí đã không kịp cho gọi đội hộ vệ. Tên đánh xe quát hét dẹp đường cho quan Thị lang, nhưng hàng người chỉ giãn ra từ từ khiến viên quan càng thêm sốt ruột. Ông hé tấm màn che cửa sổ xe, nhìn ra ngoài. Đằng xa phía trước thấp thoáng những cái đỉnh mũ đính gù màu đỏ của quân lính. Một đám quân khác bị ép chính giữa, đang bị dẫn đi, hẳn là thân tín của Lê Trung. Trong đám đông, một người nào đó chợt ngâm nga:
"Tới đâu ngọc thạch câu phần
Than rằng Thăng, Điện ấy dân tội gì?"
Phan Huy Ích thở dài, khép rèm lại. Ông biết mình đã tới qúa trễ. Cơn biến loạn từ nay khó lòng ngăn nổi. Công khó của ông từ ba năm trước cố gắng gìn giữ triều đình này xem như đổ sông đổ biển. Đau lòng khôn xiết, ông chỉ biết than thầm trong bụng "Bệ hạ ơi là bệ hạ ơi..."
Ông không biết mình đang gọi đức Quang Trung hay Hoàng thượng hiện giờ. Vì đâu nên nông nỗi này, ông tự hỏi. Từ ngày đức vua Quang Trung mất đi, đám thuộc hạ của ngài, những võ tướng kiêu ngạo ấy, những văn quan đầy tham vọng ấy, không ai còn coi ai ra gì, tranh giành đấu đá lẫn nhau. Mới ba năm trước, ông đã phải đứng ra can ngăn Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, hai vị trọng tướng đem quân đóng ở hai bờ Nam, Bắc sông Hương, dâng biểu tố tội nhau. Mối họa ấy vẫn còn di căn, kết qủa là tình hình hiện tại.
Đã hết rồi cái thời đức Quang Trung đòi "giết hết những kẻ nhị tâm, không tha một người nào". Bùi Đắc Tuyên lấy danh nghĩa cậu của ấu chúa còn nhỏ tuổi để nắm triều chính, gây ra bất mãn trong triều đình rồi đến lượt mình bị Võ Văn Dũng giết chết. Trần Quang Diệu bỏ cả nơi đang phòng thủ quay về triều định đánh nhau với Võ Văn Dũng. Trong chiếu dụ gửi cho hai tướng ngày ấy, Huy Ích đã hết lời khuyên giải, vạch rõ mối nguy của triều đình ngoài biên ải phía Nam, trách cứ những kẻ vì việc tư mà phạm đến chuyện công, lấy binh ép cả Hoàng thượng. Nhưng nào có tác dụng. Những kẻ võ biền lớn lên trong vùng thôn dã, cậy vào thanh đao thanh kiếm mà lập quốc, tự cao vào công trạng ngất trời thì còn biết suy xét thiệt hơn, nghĩ đến đại cục gì. Chỉ có đức Quang Trung khiến họ kính sợ mà quy thuận, nhưng ngài đã mất rồi, trong khi ấu chúa còn qúa nhỏ, qúa hồ đồ.
Toán lính được đưa đi hết, đám đông dần giãn ra, xe lại từ từ chạy. Nhưng Phan Huy Ích không còn cảm thấy vội vã nữa. Ta vào triều làm gì đây, ông tự hỏi. Bây giờ việc cần làm là thăm dò, trấn an tinh thần tướng lãnh. Nghĩ vậy, ông gọi tên đánh xe, chuyển hướng chạy về dinh tướng họ Trần.
Ba năm nay, sau cái chết của người chú bên vợ Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu đã bị thu hết binh quyền, cái vị trí trong Tứ trụ đại thần chỉ là danh hão. Lòng bất mãn lên đến tột đỉnh, vị tướng này đi đâu cũng cho hai trăm quân theo phòng vệ, cũng không vào chầu Hoàng thượng. Thêm cái chết của viên tướng thân thiết Lê Trung, người từng cùng Diệu vào sinh ra tử thủ thành Quy Nhơn, không khó để đoán ra tâm trạng hiện giờ của họ Trần. Vừa lo lắng, Huy Ích vừa thầm trách vị vua trẻ đang tự chặt tay chân mình. Không có Diệu, giờ này cơ nghiệp Tây Sơn há còn bền vững? Không biết cách an ủi, lại khiến tình thế căng thẳng thêm, thù oán dâng cao, khác gì tự mở cửa cho Nguyễn vương đánh vào.
- Không, không phải lỗi của Hoàng thượng, - Bùi Thị Xuân lắc đầu. Trần Quang Diệu cáo bệnh không tiếp Phan Huy Ích, chỉ có nữ tướng vợ ông ra đón. Huy Ích cũng đã lường trước trường hợp này, võ tướng bọn họ không coi trọng sĩ phu các ông. Ngày trước, cũng nhờ Tham tri Võ Đình Tú hòa giải mà chiếu dụ của ông đến được tay hai tướng. Ông chỉ hy vọng vào vị nữ tướng thống lãnh đội nữ binh này, người vẫn giữ lòng trung thành ngay cả khi người chú Thái sư bị bên đối địch giết chết. Dù rằng, cũng như chồng, bà đang phải gánh chịu vô số những ánh mắt, lời nghi ngờ dò xét.
Hiện giờ, bà đang rót trà cho ông, đôi bàn tay gân guốc vì nhiều năm trên sa trường đã mất đi vẻ mượt mà thời trẻ. Bà vẫn giữ vẻ trầm tĩnh, tuy không giấu được nét căng thẳng trên vầng trán, giữa đôi lông mày. Qúa nhiều biến động đã xảy ra cho họ Bùi nhà bà, vinh quang tột bực mà cũng đắng cay vô hạn. Là họ ngoại của nhà vua, có lúc quyền hành một nước trao cả vào tay người Thái sư Bùi Đắc Tuyên, quyền lực tập trung cả ở Thiền Lâm tự. Vậy mà, chỉ trong một đêm, bọn Võ Văn Dũng vào tận phủ đệ của Hoàng thượng bắt cha con họ Bùi, nhận nước họ đến chết. Dù Hoàng thượng đã cho chém Hộ giá Nguyễn Văn Huấn an ủi vào thời gian sau đó, nhưng họ Bùi, cùng họ Trần nữa, giờ đây chỉ còn là cái vỏ rỗng.
- Không phải lỗi của Hoàng thượng, - Bùi Thị Xuân nhắc lại. - Ngài còn qúa trẻ, mới có mười lăm tuổi. Một vị ấu chúa cần có quần thần sáng suốt chỉ đường vạch lối, chỉ rõ đúng sai. Nhưng bên ngài hiện giờ chỉ có bọn cơ hội tranh giành lẫn nhau, dâng lời sàm tấu. Từ khi chú Tuyên mất đi, quyền lực lại thuộc về bọn gièm pha ấy. Ngay cả xông thẳng vào phủ đệ nơi Hoàng thượng ngự giá để ép đòi người chúng cũng dám làm. Ấu chúa thân cô thế cô, lại không quyết đoán, có thể làm được gì?
- Tại sao giết Lê tướng quân? - Phan Huy Ích hỏi. Sự giận dữ lại hiện lên gương mặt Bùi Thị Xuân.
- Hiến công Quang Bảo, con trai Thái Đức hoàng đế, làm loạn ở Quy Nhơn. Hẳn hắn vẫn còn căm tức vì mất quyền kế tự của Thái Đức đế. Thêm Nguyễn vương dùng kế ly gián, khích hắn chiếm lại đất mà ta đã lấy. Loạn đã dẹp được, nhưng Thái phó Lê Văn Ứng tâu với Hoàng thượng rằng Lê tướng quân làm nội ứng do ông ấy trước đây là bộ hạ của Thái Đức hoàng đế.
- Chỉ vì vậy? - Huy Ích kinh ngạc hỏi. Trong triều Tây Sơn, quan lại từ những triều Lê, Trịnh là vô số. Lẽ nào lại nghi ngờ cả một người từng là thủ hạ của vị vương anh em? Cho dù mối quan hệ của hai bên đã từ lâu lấy Bến Ván làm ranh giới phân chia, rồi đến ngày phải trừ diệt nhau vừa qua. Mối quan hệ của Phú Xuân và Quy Nhơn vừa mang tính huynh đệ bạn hữu, vừa thù địch hơn cả những cựu thù, ân sâu mà oán cũng nặng nề không kém. Với trường hợp như vậy, người đứng đầu phải biết tùy nghi xem xét, lẽ nào có thể hồ đồ quyết định.
- Tôi cho rằng, có kẻ nghi ngờ quyền bính qúa cao của anh Diệu. Vừa tước quyền ở Phú Xuân, vừa sợ anh ấy thông đồng với thân tín làm phản, "có tật giật mình" nên chỉ cần một chút nghi ngờ cũng loại bỏ Lê tướng quân. Trong việc này, anh Diệu càng không thể tha thứ được cho bản thân vì đã nghe lời hoàng thượng gọi Lê tướng quân từ Quy Nhơn trở về. Tội nghiệp Lê tướng quân, nghe trong triều báo về, ông ấy bị chặt làm năm khúc, bêu xác ngoài thành!
Bùi Thị Xuân nặng nề trả lời, mắt long lanh lệ. Phan Huy Ích ngồi lặng trên ghế, ngụm trà đắng ngắt trong miệng.
Gió cuộn xoáy trên đường khi xe ngựa chở Thị lang họ Phan trở về phủ. Trời sắp vào đông, mây kéo nằng nặng trên khoảng không tối đi rất nhanh. Đèn chưa được thắp, Phú Xuân mờ mờ tối như bị phủ trong mây mù. Đi ngang qua gò Dương Xuân, Phan Huy Ích gọi người phu xe dừng lại. Ông xuống xe, ngước nhìn lên thành.
Trên bức tường trước thành, nổi lên giữa bầu trời đầy mây xám ngoét là hình dạng kỳ dị, méo mó của một cái xác chắp vá gá vào giá gỗ. Huy Ích thầm lấy làm may mắn vì đã không thấy rõ được trong cảnh tranh tối tranh sáng này. Những người bạn, anh em của Lê tướng quân sẽ còn đau xót biết chừng nào khi đến đây vào buổi chầu ngày mai?
Và những kẻ đối nghịch trong triều đâu phải đã hả hê. Đây chỉ là sự báo thù cho cái chết của viên Hộ giá Văn Huấn. Đây là sự báo nghiệp cho cuộc chiến giữa anh em Quang Trung và Thái Đức đã khiến hàng vạn người thiệt mạng. Đây là sự báo thù cho việc bức chết Thái Đức đế năm năm về trước. Thù oán nối tiếp nhau, sẽ không kết thúc cho đến khi vương triều này tận diệt.
Phan Huy Ích khẽ rùng mình. Ông lên xe, cho ngựa chạy. Gió thổi lật tấm màn che cửa sang bên, ông thấy dòng sông Hương yên ả khuất sau các lùm cây lướt qua bên cạnh.
"Tới đâu ngọc thạch câu phần...", Huy Ích thầm nhẩm lại câu hát mới nghe hồi sáng. Hoài Nam khúc, bài thơ đang được Nguyễn vương tuyên truyền ở phương Nam. Chỉ một bài thơ từ hàng chục năm trước, nhưng cũng đủ làm lòng dân rúng động. Và loạn phù Lê ở Cao Bằng, xứ xứ nổi loạn tại Bắc Hà...
Không phải lỗi của hoàng thượng, Phan Huy Ích nhớ lại lời của Bùi Thị Xuân, nhưng vì lý do hoàn toàn khác. Hoàng thượng chỉ là một đứa trẻ. Một đứa trẻ thì làm sao gánh vác được món nợ qúa lớn của tiền nhân? Đức Quang Trung đã đi trong lúc mọi thứ đều dang dở. Mọi thứ đang diễn ra hiện tại là kết qủa của ngày trước, kể cả sự việc hôm nay. Con trai vua Thái Đức làm loạn vì ta xóa bỏ vương triều Quy Nhơn, việc không thể khác được. Nguyễn vương đang tấn công qúa mạnh, không kết hợp hai vùng đất thì sẽ không thể chống lại. Quy Nhơn thân cô thế cô, quân đội lại đã bị tổn hại nặng nề sau trận chiến với Quang Trung hoàng đế ngày trước sẽ chỉ làm mồi cho Nguyễn quân ngày càng mạnh. Chiếm được cứ điểm quan trọng Quy Nhơn, Nguyễn vương sẽ đủ sức đánh vào toàn bộ vùng Thuận Hóa - Điều không thể để cho xảy ra. Nếu biết trước đến ngày anh trai phải uất hận thổ huyết mà chết khi Quy Nhơn bị Bùi Đắc Tuyên giải giáp, người con trai lại bị phanh thây, ngày xưa đức Quang Trung có chọn cách hành xử ấy? Và giờ đây, thông qua việc này, vương triều của ngài tan nát.
Một đứa trẻ thì có thể làm gì? Huy Ích nhắm mắt thở dài. Chính ta cũng không thể làm gì, huống hồ một đứa trẻ. Đứa trẻ kế thừa một đất nước đã sức cùng lực kiệt vì chiến tranh, lòng dân tan tác vì phân hóa, một vương triều vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, đối xử với nhau bằng thứ lễ nghĩa giang hồ. Một đất nước xây dựng trên bể máu của vô số mạng người. Không có điều gì mà không phải trả giá, và oan hồn chồng chất oán thù của những gì đã bị giết chết vẫn không thôi kêu gào trong lòng người còn sống.
Oán thù đã xâm nhập cả vào triều đình này. Bao vây nó. Rồi sẽ nhấn chìm nó.
------------------------------
Chú thích:
Ngọc thạch câu phần: Ngọc và đá đều cháy nát. Kinh Thư viết: Hỏa viêm Côn Cương, ngọc thạch câu phần (Lửa thiêu núi Côn Cương, ngọc và đá đều cháy cả). Núi Côn Cương sản sinh ra ngọc.
"Thăng, Điện ấy dân tội gì": Khi Tây Sơn khởi loạn, đánh vào Quảng Nam, đã huỷ hoại cả vùng Thăng Bình, Điện Bàn. Người chết vô số.
Loạn Tiểu Triều: Năm 1793, bị quân Nguyễn tấn công, vua Thái Đức cầu cứu Tây Sơn. Quân Tây Sơn đến nơi, đẩy lùi quân Nguyễn, rồi tuyên bố giải giáp quân Thái Đức, chiếm vùng đất. Vua Thái Đức thổ huyết mà chết. Con trai ông, Quang Bảo, được đưa về Tiểu Triều làm Hiến công. Năm 1798, Quang Bảo làm loạn ở Quy Nhơn, thua bị phanh thây.
2
Vị hoàng đế trẻ tuổi cũng đang phiền muộn, nhưng vì lý do hoàn toàn khác với Phan Thị lang. Bắc Cung Thái hậu trở bệnh. Nàng không báo với ai, im lặng nằm vùi trong nội cung. Chỉ đến khi bệnh tình của nàng qúa nặng, cung nữ mới lén báo cho đức vua Cảnh Thịnh. Sau khi đến thăm Bắc cung Thái hậu, Quang Toản trở nên u uất sầu não. Cậu đóng cửa ở lì trong ngự điện, cả thái giám thân tín nhất cũng không được phép bước vào.
Từ ngày ông cậu Bùi Đức Tuyên bị giết, tâm trạng của Quang Toản đã thành thất thường như vậy. Người bên cạnh vẫn biết ý, không dám nhắc đến chuyện ấy với đức vua, nhưng cậu làm sao quên được cảnh tượng ngày hôm đó. Bọn quân lính đã bao vây phủ đệ, đốt đuốc sáng trời, la hét đòi giao Bùi Thái sư cho chúng. Mấy hôm sau, trước Quang Toản là xác chết trắng bệch, trương phì của người thúc phụ vẫn thường mua kẹo bánh, chơi đùa với cậu. Từ ấy, người ta ít thấy vị hoàng đế trẻ tuổi cười, cậu trầm uất giam mình vào phòng, chỉ xuất hiện khi có người muốn gặp. Tự bản thân cậu cho rằng, cậu hoàn toàn không phải là một vị vua.
Người ta yêu qúy người anh Quang Thùy hơn cậu, anh ấy lại là trưởng nam, đủ cả đức lẫn tài. Quang Thùy đi sứ phương Bắc, đĩnh đạc nói chuyện với sứ giả của Càn Long, được phong làm An Nam Quốc vương Thế tử. Vậy mà không hiểu tại sao Quang Thùy không được lập làm kế vị. Mối mặc cảm ấy, cùng với sự ức hiếp của các đại thần, cái chết của người cậu, đã khiến Quang Toản ngày càng co mình lại, mặc việc triều chính muốn ra sao cũng được. Bên ngoài thì tất cả lệnh truyền đều do đức vua ban ra, nhưng thật sự, cậu chỉ ngồi đó, cho các đại thần cãi nhau chán rồi, người nào thắng thế thì kẻ đó quyết định. Từ khi Thái sư Bùi Đức Tuyên mất, thế sự của triều đình càng trở nên rối rắm như rắn mất đầu. Cầu hòa với Trần Quang Diệu nhưng lại sợ thế lực của người con rể họ Bùi, quan lại quyết định phế bỏ binh quyền họ Trần; Quang Bảo ở Quy Nhơn nổi loạn, họ lại nghi ngờ những kẻ có liên hệ với Thái Đức đế. Nỗi sợ hãi bao phủ triều đình này như thể đang nằm trong một cơn bão. Nỗi sợ hãi bao phủ tất cả, chế ngự tất cả. Và những quyết định đưa ra vội vã với tính quyết liệt đến tàn khốc được đặt vào tay đức vua như bản án tử chậm rãi siết chặt cậu.
Càng lâu ngày, cậu bé càng cảm thấy cô độc tột cùng, đến mức giữa tuổi đang còn trẻ mà như mất hết cả sinh khí. Làn da cậu tái xanh, hình dáng gầy guộc, dấu tích của nhiều ngày tự giam mình trong phòng. Cậu sợ ngai vàng. Mỗi khi ngồi lên đó, nhìn xung quanh, cậu thấy hàng trăm cặp mắt dõi vào mình như ngàn mũi giáo. Người ta qùy bái cậu, nhưng cũng quát hét nhau trước mặt cậu, và Quang Toản lại nhớ đến cái đêm mà binh lính xông vào phủ điện. Khi ấy, cậu có cảm giác người ta sẵn sàng giết cậu cùng với Bùi Thái sư. Cậu chết đi, Quang Thùy lên thay danh chính ngôn thuận. Đó mới là người xứng đáng làm hoàng đế, xứng đáng nối nghiệp lớn của phụ hoàng. Đó là những gì người ta đã nói với cậu từ rất lâu trước đây, ngay từ khi cậu bước lên ngai vàng. Người ta đã tranh cãi, đã đánh giết nhau vì người kế vị mà chỉ có danh thế của quan Thái sư, của Trần Quang Diệu và nhà họ Bùi mới có thể giữ ngôi báu lại cho cậu. Quang Toản yêu qúy anh trai, do đó tự căm ghét chính mình. Ngai vàng là một gánh nặng và hoàng thành trở thành một nấm mồ đối với đức vua. Phụ hoàng, mẫu thân cậu đã mất, những cung phi được tuyển lựa cũng không hợp ý. Duy có Bắc Cung Thái hậu dịu dàng với cậu, nhưng cậu không được phép qúa thân mật với bà. Càng lớn, Quang Toản càng trở nên trầm lặng. Cậu chẳng cười, cũng chẳng khóc, không hề hé lộ vui buồn. Thái độ của cậu khiến những cận thần bên cạnh lầm tưởng đức vua đang vào lúc trưởng thành chín chắn, họ càng cẩn thận, mưu toan và giảo quyệt hơn. Chỉ có Bùi Thị Xuân thân cận, lại là một phụ nữ, hiểu được tâm trạng tuyệt vọng của Quang Toản. Bà muốn khích lệ cậu, nhưng cũng không biết làm thế nào. Nhà họ Bùi của bà đang bị muôn vạn lời ong tiếng ve vây phủ, lại thêm người chồng họ Trần bị thất sủng, dễ đem lại dị nghị không hay nếu bà gần gũi đức vua. Bà đành chỉ biết trơ mắt nhìn vị vua trẻ ngày càng trở thành một cái xác không hồn.
Đêm nay, Quang Toản lại cảm thấy buồn thương đến không thể chịu đựng nổi. Ngồi bó gối nhìn vào ngọn đèn cháy gần cạn dầu trước mặt, cậu thậm chí không biết mình nên khóc hay không. Đồng hồ nước điểm từng giọt lặng lẽ, gió thổi ào ào bên ngoài vườn Thượng uyển. Bên ngoài có nhiều tiếng chân về phía mạn Bắc, hẳn là thầy thuốc mà cậu cho gọi đã tới, đang thăm bệnh cho Bắc Cung. Quang Toản muốn đứng lên đến nơi đó, nhưng đồng thời cậu lại sợ hãi phải nhìn gương mặt xanh xao mất hết sinh khí của người lâm bệnh.
Trong một khoảnh khắc, trong Quang Toản dậy lên nỗi cồn cào thèm khát ánh nắng bên ngoài. Nắng và cát nóng, trải mênh mông vàng rực chói chang, miền đất nơi cậu đã được sinh ra, không phải kinh thành ẩm ướt, lạnh lẽo, cô tịch này. Cậu muốn vứt bỏ tất cả, nhưng cũng không đủ can đảm để làm. Mẫu thân cậu, Chính cung hoàng hậu, đã tự hào biết bao về người con Thế tử. Phụ hoàng cậu, đức Hoàng đế vĩ đại, đã chờ đợi ở cậu biết bao. Còn cậu, cậu ngước nhìn người anh cả, rồi chỉ có cảm giác muốn chạy trốn. Chạy trốn đến một nơi thật xa.
Ngày mai, Quang Toản nghĩ thầm, ngày mai sẽ lại có một cuộc rối loạn nho nhỏ, một cuộc tranh cãi gay gắt hơn những ngày khác vì cái chết của Lê Trung. Và cậu sẽ ngồi đó, nghe tất cả, nhìn tất cả bọn họ. Họ nói, qua những kẽ răng nghiến chặt. Trong lòng họ nguyền rủa cậu. Họ muốn giết cậu. Bè phái Võ Văn Dũng thù cậu vì cái chết của Nguyễn Văn Huân. Bên Trần Quang Diệu oán cậu vì vụ sát hại Lê Trung không chứng cứ. Cậu ngồi đó, hứng chịu tất cả, truyền tải tất cả, phân phối tất cả - những oán thù này, những tranh chấp này, những hành động độc ác và những mưu toan kinh khủng được tượng hình thành lệnh truyền và tấu sớ. Đã có một người đỡ lấy cho cậu gánh nặng ấy, ông cậu già nua Bùi Đức Tuyên, người đã nhận lấy oán thù và đã chết thảm khốc.
Chạy trốn, cậu đã luôn luôn chạy trốn. Không đánh Gia Định, không chiến tranh với quân Thanh, bãi bỏ tất cả tín bài lẫn chế độ kiểm soát dân, gấp rút chôn phụ hoàng, không dời hành cung - Đó không phải là việc làm của cậu, một đứa bé mới có chín tuổi đầu. Nhưng người ta đã đẩy cậu ra, lấy cậu làm lý do cho tất cả những sự đình trệ đó. Không ai đủ can đảm để tiến lên, chỉ có một mình cậu nhận lấy trách nhiệm của kẻ chạy trốn và hèn nhát.
Cậu nhớ đến Bắc Cung và giọng nói phương Bắc ấm áp như nắng của vị công chúa Lê triều. Ánh nắng cuối cùng trong hoàng thành này đã sắp tắt rồi, Quang Toản nghĩ trong đau đớn.
Gió đêm mùa đông vẫn ào ào thổi qua khoảng sân đầy lá rụng. Vị vua trẻ ngồi lặng yên trong đêm, đếm từng tiếng bước chân đang đi về hành cung phương Bắc.
***
Tin Bắc Cung Thái hậu lâm trọng bệnh gây xôn xao triều đình và cả trong dân chúng. Vị hoàng hậu xinh đẹp dịu dàng này giành được nhiều tình cảm của người dân. Người ta thương tiếc nàng lẫn hai đứa con còn qúa nhỏ. Trong khi đó, các vị trọng thần trong triều đình còn lo nghĩ đến một chuyện khác cấp bách hơn: Công chúa nhà Lê sắp mất ngay trong lúc dầu sôi lửa bỏng chiến tranh với Gia Định. Các thế lực phù Lê ngoài Bắc mượn cớ này nổi loạn mạnh mẽ hơn thì thật là mối nguy to lớn.
Trong buổi họp kín của các quan, vấn đề ấy được đưa ra bàn luận. Giá con trai của Bắc Cung Thái hậu lớn hơn, triều đình đã có thể phân phong cho ngài một miền đất phía Bắc, vỗ an dân. Hay ta lấy cho Bệ hạ một công chúa nhà Lê khác, một người lên tiếng. Nhưng tông thất nhà Lê đã thất lạc hết cả, người khác lắc đầu. Ta không thể cưới cho Bệ hạ con gái của những kẻ dòng dõi họ Lê đang nổi loạn, đã chạy sang nhờ cậy nhà Thanh, cũng không phải con gái của những người như Lê Duy Cẩn. Thế lực phù Lê cực kỳ căm ghét chúng.
Phan Huy Ích im lặng.
- Tại sao người không báo về bệnh tình của mình? - Huy Ích hỏi. Ngọc Hân không trả lời ông. Nàng im lặng hướng đôi mắt mệt mỏi ra sân vườn bên ngoài. Hành cung Ngọc Hân trang trí theo kiểu phương Bắc, cành đào năm xưa Quang Trung hoàng đế đã cho đưa về Phú Xuân vẫn được đặt trang trọng giữa phòng, những bông hoa được thay thế bằng hoa vải. Ánh mắt Ngọc Hân đi lướt qua cành đào, không dừng lại.
Môi Ngọc Hân mấy máy, mắt nàng chớp vài lần, nhưng cuối cùng vẫn không có lời nào được thốt lên. Nàng ngồi dựa vào đầu giường, thân hình đã gầy rộc đi, mái tóc đen điểm vài sợi bạc. Nàng mới hai mươi tám tuổi, Huy Ích thầm nghĩ, xót xa.
- Đã có ai báo cho mẫu thân ta chưa? - Ngọc Hân chợt hỏi. Huy Ích chưa kịp trả lời, nàng đã lắc đầu. - Đừng báo vội.
- Được bà Chiêu nghi chăm sóc, biết đâu người sẽ khỏe hơn?
Chỉ thấy một nụ cười thoáng qua đôi môi nàng.
- Điều ta lo lắng nhất bây giờ là hai đứa trẻ, - Nàng nói, giọng nhẹ nhàng. - Nhờ ông dạy dỗ cho chúng. Còn nếu... nếu như Gia Định đánh vào...
Nàng im lặng. Hơi thở nặng nhọc gấp gáp thoát ra khỏi lồng ngực. Mặt nàng nhăn nhó như đang phải chịu một cơn đau xé. Một lát sau, Ngọc Hân mới nói tiếp, giọng càng nhỏ lại.
- Nhờ ông nói với mẫu thân ta... đưa chúng ta về Kinh Bắc.
Công chúa, Phan Huy Ích gọi thầm trong cơn lạnh giá đang làm ông tê cứng cả ruột gan. Nàng đã quen với tang thương, chấp nhận tang thương, thậm chí, chuẩn bị cho nó. Nàng biết, khi có biến loạn, không còn ai để chăm lo cho hai đứa trẻ, cũng chẳng còn nơi để chúng nương náu. Dòng dõi của cựu triều và triều đại thù địch, mục tiêu đầu tiên, nhất thiết phải hủy diệt.
Nàng chỉ lặng lẽ rơi nước mắt. Lệ lăn tròn trên gò má xanh xao, cũng chẳng còn có thể tuôn chảy được nữa. Nàng đã thật sự muốn tìm đến cái chết, Phan Huy Ích thầm nhủ, nhưng nàng cũng không muốn chết. Nàng lại càng không biết phải sống thế nào. Nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn không có bến bờ cùng sự tuyệt vọng ngày càng sâu, bén rễ ăn mòn cả xương tủy. Nàng đã cố chống chọi, nhưng nàng đang thua cuộc.
Ông chỉ có thể bất lực nhìn nàng, câm lặng.
3
- Đại đô đốc Lê Chất làm phản?
Quang Toản giật mình hỏi. Tiếng nói của vị vua vốn thường ngày giữ một thái độ thờ ơ với triều chính làm hầu hết các vị quan trong sân điện rùng mình, không phải vì sợ hãi, mà vì nhận ra được tầm nghiêm trọng của sự việc.
Đại đô đốc Lê Chất, con rể của Lê Trung, đã cải trang cùng gia đình, tùy tùng trốn khỏi Quy Nhơn vào đêm thuộc hạ Lê Trung bị săn lùng. Nổi tiếng là một chiến tướng giỏi, lại cực kỳ thông thuộc vùng Quy Nhơn, Phú Xuân, nếu Lê Chất về hàng Nguyễn vương thì thật là đại họa. Năm xưa vì Nguyễn Văn Trương theo về mà Nguyễn vương lấy được Gia Định, chuyện ấy các triều thần đều nhớ, nhưng không ai dám lên tiếng. Chỉ có Thái phó Lê Văn Ứng trong lòng cảm thấy nôn nao, buột miệng trách mắng:
- Thần đã nói rằng bọn thân tín với Thái Đức hoàng đế vốn không thể nào tin được. Hết Ngô Văn Sở ở Bắc Hà, giờ đến bọn Lê Trung, Lê Chất tại Quy Nhơn. Bọn chúng vẫn oán ta cướp đất của chủ, lại cho rằng ta tuyệt tình ruột thịt, bức chết Thái Đức đế, chỉ chờ cơ hội để làm phản.
Câu nói này của Lê Văn Ứng, ác thay, lại làm rúng động lòng người hơn lúc nào. Đại Tư mã, Tổng trấn Bắc Hà Ngô Văn Sở vốn là người có giao tình với nhiều vị quan từ ngày Tây Sơn khởi nghiệp, vì sự việc của Bùi Đắc Tuyên mà bị Võ Văn Dũng ép chết. Sự cay đắng đó vẫn còn chưa nguôi trong lòng người triều đình, giờ đây lại bị Lê Văn Ứng nêu ra. Bên ngoài, mọi người đều im lặng, nhưng trong tâm kẻ thì giận viên Thái phó, kẻ thì đem lòng oán ông ta.
Lê Văn Ứng không biết rằng chỉ vì một câu nói mà đưa mình đến họa sát thân. Không vào chầu Hoàng thượng, nhưng Thái phó Trần Quang Diệu được nghe báo lại câu nói làm xôn xao triều đình kia. Vết thương chưa lành miệng lại tiếp tục vỡ toác trong lòng viên tướng họ Trần. Ông nhớ năm xưa Ngô Văn Sở phò đức Quang Trung đánh giặc Thanh ở Đống Đa, đi sứ phương Bắc uy vang lừng lẫy, vậy mà vì xung đột trong triều phải mang tiếng bội phản. Năm ấy, từ Bắc Hà trở về, nghe được tin về âm mưu phản loạn của Bùi Thái sư định giết chết ba vương tử để lên ngôi Hoàng đế, Võ Văn Dũng bắt buộc phải hành động nhanh chóng ngăn chặn. Rồi "nhổ cỏ phải nhổ tận gốc", Võ Văn Dũng đưa thư ra Bắc Hà cho bắt cả Ngô Văn Sở lẫn những thân tín của Bùi Đắc Tuyên, thậm chí cho người đến Diên Khánh định giết cả Trần Quang Diệu. Sau lần được hòa giải, Diệu không trách Văn Dũng, nhưng lòng oán hận đối với những kẻ xúi bẩy không sao nguôi đi được. Là một võ tướng tâm cơ giản đơn, ông không nghĩ nhiều đến những mắc mứu của các mối liên hệ trong triều, chỉ trọng mối tình nghĩa bạn bè ngày cũ. Giờ đây, câu nói của Lê Văn Ứng giữa triều đình như châm dầu vào lửa. Trần Quang Diệu tự thề với lòng, không bao giờ tha cho Văn Ứng.
Trần Quang Diệu thầm nghĩ, tuy giờ đây ông bị rút hết binh quyền, nhưng Quy Nhơn mất liền liên tiếp ba vị tướng tài trong lúc quân Gia Định ngày càng áp sát, Hoàng thượng sẽ bắt buộc phải gọi đến ông. Hơn nữa, tình hình Quy Nhơn nguy ngập lại là một hoàn cảnh tốt để lợi dụng rối loạn trừ khử những kẻ không vừa ý. Lê Văn Ứng vừa giết tướng Quy Nhơn, vừa mạt sát họ là kẻ phản phúc, vậy còn ai trong triều này đáng thế vào vị trí đó nữa?
Qủa nhiên ít ngày sau, vua Cảnh Thịnh cho gọi Trần Quang Diệu vào triều. Giữ thái độ khiêm cung, ra vẻ được phục hồi binh quyền hay không không quan trọng, Trần Thái phó từ tốn bẩm:
- Thành Quy Nhơn là nơi hiểm yếu, giữ vai trò sống còn với triều đình ta, lại vừa gặp nhiều biến động, lòng quân, lòng dân ở đó hẳn còn đang xáo trộn. Để ổn định tình hình, ta cần cử một người vừa có địa vị cao cho người kính sợ, vừa có lòng trung thành, là tâm phúc của Hoàng thượng để giữ gìn kỷ cương trong thành.
Diệu chỉ cần nói thế, rồi xuôi tay đứng đợi. Quan Thái sư đã mất, trong Tứ trụ đại thần thì Văn Huấn đã chết, Văn Danh và Diệu không được vua tin tưởng, Văn Dũng phải phòng vệ Nghệ An, Bắc Hà, chỉ còn quan Thái phó Văn Ứng đủ điều kiện mà Diệu đã nói. Không từ chối được, mùa đông năm ấy, Lê Văn Ứng phải sửa soạn ra trấn thủ Quy Nhơn.
Cuộc bỏ trốn của đô đốc Lê Chất đã kéo theo một hệ qủa tệ hại là khắp nơi lòng quân rệu rã, họ bỏ về với Nguyễn vương nhiều vô số. Không còn cách nào khác, vua Cảnh Thịnh phục hồi binh quyền cho Trần Quang Diệu, để ông huấn luyện binh lính chuẩn bị phòng thủ phía Nam.
Trong suốt mùa đông, bệnh tình của Bắc Cung Thái hậu không hề có tiến triển, chỉ ngày càng xấu đi. Ở Bắc Hà, Khâm sai Tiết chế Quang Thùy được lệnh ổn định các nhóm phiến loạn, và nếu có thể, tìm kiếm tông thất nhà Lê đã thất lạc.
- Lệnh của Bệ hạ khác nào bắt ta mò kim đáy bể! - Vừa nghe xong lệnh báo, Quang Thùy đã kinh ngạc thốt lên. Khi quân Tây Sơn đánh vào thành Thăng Long, tông thất nhà Lê đã theo vua Lê Chiêu Thống chạy trốn lên Cao Bằng, rồi lại qua biên giới. Khi đến Cao Bằng, họ có hơn ba trăm người, sang biên giới chỉ còn chừng tám chục. Trong vùng núi mênh mông ấy, biết đâu mà tìm?
Nhưng lệnh vua đã ban, Quang Thùy cũng chỉ biết lắc đầu mà tuân theo. Chàng cho gọi người canh giữ hoàng thành Thăng Long, bảo đưa mình đến nơi cất giữ kim sách của tông thất. Bỏ qua phần ghi chép về vua Lê Chiêu Thống, Quang Thùy lướt qua danh sách công chúa vương tôn của vua Hiển Tông. Ngọc Hân công chúa có vài người em gái, nhưng hầu hết lớn tuổi hơn Quang Toản khá nhiều, có tìm được thì họ cũng đã lập gia đình. Ánh mắt Quang Thùy dừng lại ở dòng cuối cùng: Công chúa Lê Ngọc Bình, vừa bằng tuổi Quang Toản.
Công chúa cuối cùng của nhà Lê, chàng nghĩ trước khi gấp cuốn sách lại. Cơ may duy nhất của triều đình. Nhưng biết tìm nàng ở đâu?
Mùa xuân Kỷ Mùi, Nguyễn vương đích thân đem quân tấn công Thị Nại. Nghe tin, Trần Quang Diệu bàn với Võ Văn Dũng giả tín hiệu của quân Gia Định, lừa Văn Ứng ra cho tay chân giết chết. Cả hai mật báo cho Tổng quản Quy Nhơn Lê Văn Thanh, nghe bắn ba phát súng hiệu thì cử Văn Ứng đi.
Hôm ấy, nghe đúng ba phát súng bắn ngoài cửa biển, Lê Văn Thanh báo động với Văn Ứng, cử ông ta ra trận chống đỡ quân Gia Định đánh vào. Vốn có dự mưu trước, quân lính đi cùng Văn Ứng giữa đường bỏ về gần hết. Không ngờ quân Gia Định đánh thật, Lê Văn Ứng tức tốc bỏ chạy về, để quân Nguyễn chiếm cả vùng duyên hải.
Thừa thắng tiến tới, thủy quân Gia Định đánh vào Quảng Ngãi, các đô đốc Tây Sơn người bị giết, kẻ quy hàng. Lê Chất đem hai trăm quân cùng thuộc hạ về với tướng Võ Tánh. Hợp binh Lê Chất, Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành đánh bại quân của Lê Văn Thanh, Văn Ứng ở Kha Đảo. Tổng quản Quy Nhơn Lê Văn Thanh, Binh bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phác, Thiếu úy Trương Tấn Thúy đem hơn bốn vạn quân ra hàng.
Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng vội vã xuất quân đến Quảng Ngãi ứng cứu. Giữa đường, quân lính Võ Văn Dũng bị Tống Viết Phúc đánh tan. Ngoài khơi, quân cướp biển chi viện của Tây Sơn bị Tống Phúc Lương truy đuổi đến tận Phú Yên. Quân Nguyễn vương tiến đến sát Sa Kỳ.
Tây Sơn mất Quy Nhơn vào tháng sáu.
Tin Quy Nhơn thất bại như tiếng sét đánh vào giữa triều đình Phú Xuân. Từ thưở lập quốc, nhờ có Thái Đức vương Nguyễn Nhạc giữ thành Quy Nhơn mà quân Nguyễn không đánh được lên phía Bắc. Giờ đây, chỉ trong vòng hai tháng, Quy Nhơn bị hạ. Trần Quang Diệu không dám báo tin về thất bại của Võ Văn Dũng, càng không thể giải thích lý do của trận thua Thị Nại. Ông cho quân đóng lại tại phía Đông Thanh Hảo chờ cứu viện. Vua Cảnh Thịnh triệu tập quần thần khẩn cấp. Ai nấy đều bàng hoàng. Lời nói của đức vua Quang Trung lúc sắp băng hà hiển hiện rõ ràng hơn lúc nào hết trong tâm trí những người có mặt trên gò Dương Xuân "Nếu quân Gia Định đánh vào, ta và các ngươi chết không có chỗ mà chôn đâu".
Quang Toản nhìn những gương mặt câm lặng xung quanh mình. Hiện giờ thì họ đều im lặng, chàng nghĩ. Đây là kết qủa cho tất cả những việc làm của họ. Lê Trung chết, Lê Chất làm phản, Quy Nhơn đại bại, tất cả tuần tự diễn ra. Họ đang tuần tự dẫn chúng ta vào chỗ chết. Và giờ thì họ im lặng.
Trong nỗi căm giận bùng cháy, chàng lại cảm thấy hả hê. Nhưng khi nghĩ đến Bắc Cung Thái hậu đang ốm nặng ở nội cung, Quang Toản thấy sự vui mừng của mình biến thành đau khổ. Người không thể mất đi trong lúc nhìn thấy Tây Sơn tận diệt. Và hai đứa em của chàng, chúng không hề có tội lỗi gì. Nhưng chàng có thể làm gì đây?
Quang Toản chăm chú quan sát những người đang đứng trên sân điện, những kẻ đang câm lặng như đá nhìn lại chàng. Ta có thể làm được gì đây, chàng tự hỏi. Những giờ phút dài dằng dặc trong căn phòng kín có thể đem lại được gì? Họ đang nhìn vào ta để làm gì? Họ đang mong chờ gì? Ở một người như ta?
Cuối cùng, Bùi Thị Xuân bước ra khỏi hàng ngũ đang đứng yên như phỗng. Bà cúi đầu, giọng nói rõ ràng, vang như chuông.
- Bệ hạ, xin người thân chinh ra trận.
***
Những ngày trong năm Kỷ Mùi, cung nội Phú Xuân tràn ngập một không khí ảm đạm u buồn. Bắc Cung Ngọc Hân chỉ còn tính từng ngày. Nàng đã yếu đến không thể nhấc đầu khỏi gối. Nghe Quang Toản báo tin, chỉ có đôi mắt khẽ chớp cho thấy nàng đã nghe.
- Tình hình nguy ngập lắm sao? - Ngọc Hân hỏi, tuy không chờ đợi câu trả lời. Nàng nhìn chàng thiếu niên vừa bước qua tuổi mười sáu, dong dỏng cao, khuôn mặt trắng xanh như con gái. Trong mắt Quang Toản ánh lên nét cương quyết, nhưng nàng cũng thấy cả sự do dự.
Theo truyền thống, Quang Toản cũng được dạy võ nghệ, nhưng Ngọc Hân hiểu rõ đứa trẻ này hoàn toàn xa lạ với chiến trường.
- Mẫu hậu đừng lo. Sắp hết mùa gió nồm, quân Cựu Nguyễn cũng sắp rút đi. Chỉ cần ta cố giữ không để bọn chúng tiến qúa sâu, cuối năm nay ta củng cố binh lực thì tình hình sẽ lại ổn.
Ngọc Hân chỉ gật đầu. Nàng vẫy Quang Toản lại giường, nắm lấy tay cậu.
- Nếu thấy nguy hiểm thì đừng cố đánh. Hãy bảo trọng cho mình trước, con nhé.
Trên khuôn mặt thường ngày lạnh băng của vị vua trẻ thoáng một nét ấm áp chen lẫn nỗi buồn khó tả. Chàng muốn nói, mẫu hậu hãy đợi con trở về. Nhưng lời nói cứ tắc lại trên môi chàng. Thay vào đó, chàng mỉm cười.
- Hoàng nhi đã cho người báo tin với Phù Ninh Từ cung. Bà sẽ đến đây làm bạn với mẫu hậu trong lúc hoàng nhi đi vắng.
Ngọc Hân thở ra. Nàng nhìn mông lung ra ngoài, một lát sau, nàng gật đầu.
- Con cho gọi Phan Thị lang vào đây, ta có chuyện muốn nói.
Ngọc Hân biết Phan Huy Ích đã được lệnh chuẩn bị sẵn điếu văn cho nàng. Cả triều đình này đang chờ đợi lúc nàng xuôi tay nhắm mắt. Tang lễ cũng đã được chuẩn bị. Nàng thấy điều đó trong đôi mắt đức vua. Giờ đây, nàng nhìn người đàn ông đang qùy trước sảnh, trong ánh nắng mờ mờ hắt vào từ sân vườn, chợt có cảm giác muốn mỉm cười.
- Ông định viết như thế nào? - Nàng hỏi. Phan Huy Ích tránh nhìn nàng. Ngoài vườn, hoa đào đã tàn rồi, ông thầm nghĩ. Không, không phải khu vườn trước mặt ông hiện tại vẫn đang rực rỡ mai vàng. Mười mấy năm về trước, ngày ông đến Thăng Long, hoa đào đã đỏ thắm cả khoảng đất bên bờ hồ Gươm. Màu đỏ ấy như loang ra cả đất và trời, cả mặt nước và chiếc cầu nhỏ.
"Nguyệt in phách quế, mái trường thu vừa rạng vẻ làu làu,
Sương ủ hồn hoa, niềm thương uyên chột rơi mùi thoang thoảng,
Nẻo chân du quạnh cõi biết tìm đâu,
Niềm vĩnh mộ bâng khuâng hằng chạnh tưởng."
Ông cúi đầu đọc. Nàng ho nhẹ. Kéo chăn lên che mặt, nàng quay vào trong. Ông biết đến lúc mình nên ra về. Ra đến cửa phòng, ông chợt nghe nàng ngâm khe khẽ:
"Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không..."(*)
Khi đứng giữa vườn mai đang vào mùa vàng rực, chập chờn lay động như ngàn cánh bướm, ông nghĩ, ông sẽ giữ lại tất cả những bài văn tế nàng. Tất cả.
Và ông nhớ đến mùa xuân của mười mấy năm về trước, bóng người thiếu nữ cùng đào hoa soi xuống mặt hồ. Màu đỏ sóng sánh chập chờn trong những giấc mộng, loang vào bóng tối.
----------------------------
Chú thích:
(*) Trích trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Sau khi từ quan về Sài Sơn, Phan Huy ích hoàn tất bản dịch này.
Bài thơ của Phan Huy Ích trích trong Dụ Am thi tập, phần Văn tế Vũ Hoàng hậu.
Theo thư của các giáo sĩ cho biết, sau khi Quang Trung mất, triều đình Tây Sơn đã có một cuộc rối loạn do tranh cãi quyền kế vị giữa Quang Thùy và Quang Toản, “nhiều người bị giết”.
Kinh Bắc: Tên cũ của Bắc Ninh.
Tề Ngôi: Quân cướp biển Trung Hoa được Tây Sơn bảo trợ, trở thành lực lượng quan trọng trong thủy quân của Tây Sơn.
Phù Ninh Từ cung: Tên hiệu của bà Nguyễn Thị Huyền dưới thời Tây Sơn.
Bài văn tế của Phan Huy Ích trích trong Dụ Am thi tập, phần Văn tế Vũ Hoàng hậu.
Mưa trút hoàng thành
1.
Bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền được tin của Ngọc Hân công chúa khi cùng con gái nuôi Ngọc Bình trở về nhà sau chuyến dâng hương ở Điếm Kiều, đền thờ bà tổ nghề thuốc ở làng Phù Ninh. Một vị quan nhân trẻ tuổi đã đợi bà trong nhà cùng vài người lính, đưa cho bà bức thư của Hoàng thượng gọi Từ cung đến Phú Xuân gấp. Đọc xong lá thư, bà thẫn thờ mất một lúc, phải nhờ Ngọc Bình đỡ lại ngồi trên ghế. Vị quan nhân vẫn khoanh tay đứng đợi.
- Bao giờ Từ cung có thể lên đường? - Anh ta hỏi. Bà Huyền gật đầu, chậm nước mắt.
- Càng nhanh càng tốt. Ta có thể đi ngay ngày mai.
- Vậy tôi sẽ cho người chuẩn bị. Tôi được lệnh hộ tống Từ cung đến Phú Xuân. - Nhận thấy ánh mắt dò hỏi của bà Huyền, người quan trẻ tuổi hơi cúi mình. - Tôi là Khang công Nguyễn Quang Thùy, Khâm sai Tiết chế Bắc Hà.
Dù chỉ là một khoảnh khắc thoáng qua, nhưng Quang Thùy nhận thấy rất rõ ràng bà Chiêu nghi và cô gái đứng sau bà biến sắc. Đây cũng là phản ứng bình thường mỗi khi người khác nghe đến tên chàng, nhưng trong mắt cô gái trẻ, sau sự kinh ngạc ban đầu, ánh lên tia nhìn tức giận mà Quang Thùy không hiểu tại sao. Cô ta cáo từ vào thu xếp hành lý cho bà Chiêu nghi, để bà lại tiếp quan Tiết chế.
Lui vào nhà trong sau khi thu xếp chỗ nghỉ ngơi cho Quang Thùy cùng quân lính, bà Huyền thấy Ngọc Bình đang gấp quần áo bà cùng với hành lý của nàng. Nhìn thấy bà, Ngọc Bình chỉ nói gọn:
- Con sẽ đi với mẹ đến Phú Xuân.
- Con không nên đến đó, - Bà Huyền lắc đầu. Nhưng Ngọc Bình nhìn lên bà, đôi mắt trong khó đọc được những tình cảm trong đó.
- Chị ấy cũng là chị gái con.
Bà Chiêu nghi im lặng. Bà thở ra, không nói nữa. Tất nhiên thôi, bà nghĩ, người ta càng lớn thì cảm giác muốn tìm về người thân thuộc càng thôi thúc. Con bé chắc hẳn cảm thấy cô đơn biết bao. Một người chị, dù chưa bao giờ gặp mặt, vẫn là cùng chung giọt máu đào. Những năm sống cùng bà, nó chưa bao giờ tỏ ra qúa thân thiết hay gần gũi với bất cứ ai. Trong thái độ tránh né, xa lánh ấy, người con gái nuôi này mang một nỗi niềm khó mà bày tỏ với người ngoài.
Nhưng thật ra, trong lòng Ngọc Bình, cùng với khao khát muốn tìm về thân thuộc đó, còn có một ý nghĩ khác: Sự tò mò. Càng lớn, suy nghĩ của nàng càng có sự chuyển biến đổi thay khác xa hồi còn nhỏ. Ngày nhỏ, đối với thân thuộc và dòng họ, Ngọc Bình chỉ có cảm giác duy nhất muốn trốn tránh, sợ hãi và e ngại. Nhưng trưởng thành, hiểu biết nhiều hơn, lại ở giữa vùng đất Kinh Bắc quanh năm nhộn nhịp, là quê hương của họ Lý khai quốc Đại Việt, tiếp xúc với dòng người đủ mọi miền quê, văn hóa, là nơi tụ tập đông đúc của những cựu thần, hoàng tộc Lê triều, được nghe kể về cuộc chiến tranh mà lúc xưa mẹ phải đưa nàng đi trốn, càng ngày sự tò mò về dòng họ Lê trong nàng càng lớn. Tình cảm âu yếm ruột thịt mà ngày xưa nàng dồn hết cho người mẹ giờ đây lưu chuyển thành sự gắn bó vô hình với lịch sử của một vương triều, với một họ tộc đã không còn tồn tại. Tuy hiểu rõ sự đổi thay của cuộc đời, sự biến chuyển, nối tiếp nhau của các triều đình, vương tộc, Ngọc Bình không phải không đem lòng oán kẻ đã đuổi giết dòng tộc nàng. Quang Thùy đã không lầm khi nghĩ rằng nàng giận dữ lúc nghe đến tên con trai Quang Trung hoàng đế.
Ở Phù Ninh, Ngọc Bình được bà Chiêu nghi cho học nghề làm thuốc truyền thống. Bà muốn cô bé hòa nhập vào cuộc sống bình thường, trở thành một cô thôn nữ bình dị không biết đến thế sự. Nhưng nghề làm thuốc khiến Ngọc Bình tiếp xúc được với đủ mọi hạng người, nghe được vô số câu chuyện từ bốn phương; từ vua Nguyễn Phúc Ánh kiên trì đánh ở phía Nam cho đến những tranh chấp trong nội bộ triều đình Phú Xuân. Ngọc Bình lại rất thông minh, được thầy yêu qúy cho theo những chuyến đi chữa bệnh vùng xa, từ cung phủ sang trọng đến các ngôi làng bần cùng hẻo lánh. Do đó hiểu biết và suy nghĩ của nàng lại càng vượt xa ý muốn của người mẹ nuôi an phận.
Năm xưa, khi đã chiến thắng chúa Trịnh ở Phú Xuân, Tây Sơn kéo quân ra Bắc Hà với chiêu bài "Phù Lê diệt Trịnh", đã cam đoan không xâm phạm đất đai của nhà Lê. Thế nhưng, Tây Sơn chiếm Nghệ An, giết chết sứ giả Lê triều, đánh ra Thăng Long. Cung quyến nhà Lê chạy đến Cao Bằng trong khi vua Lê Chiêu Thống trôi dạt về Kinh Bắc, rồi Thanh Hóa. Đi đến đâu, họ bị quân Tây Sơn đuổi giết đến đấy, chỉ một phần tư chạy qua được Đại Thanh, còn lại lưu tán cả. Hai mẹ con nàng đã thất lạc từ đây. Tây Sơn đã phản bội nhà Lê, phản bội chính những giao ước, thỏa thuận, đạo lý của mình. Trước sự trỗi dậy của vua Lê Chiêu Thống không an phận làm một ông vua bù nhìn, trước sức mạnh của một Nguyễn Hữu Chỉnh, Tây Sơn nhất quyết phải trừ diệt nhà Lê. Ngọc Bình không bao giờ quên được những cuộc truy đuổi ấy, tiếng chân và vũ khí khua vào nhau lúc nửa đêm. Nàng không bao giờ quên cảm giác sợ hãi ngày còn nhỏ. Nàng không bao giờ quên cái chết của mẹ nàng.
Cho nên, nghe tin về Ngọc Hân công chúa, trong lòng Ngọc Bình đã có sự xáo trộn lạ lùng. Nàng khao khát muốn gặp người vừa là chị mình, vừa là Hoàng hậu, rồi Thái hậu của kẻ đã hủy diệt cơ đồ nhà Lê. Có lẽ mẹ nàng năm xưa đã đúng khi nghĩ rằng dòng máu vương tộc sẽ không thôi chảy trong huyết quản con cháu vua chúa. Ngọc Bình muốn đặt chân đến vương triều ấy, gặp những kẻ đã chiến thắng từ Nam ra Bắc, chiếm lấy vị trí của dòng họ nàng. Có lẽ, nàng nghĩ, đó là sự tò mò. Từ cái ngày đi về Kinh Bắc trên chiếc xe ngựa của vị cựu thần nhà Lê, trong tâm trí Ngọc Bình đã nảy ra liên tiếp rất nhiều câu hỏi, cảm giác muốn tìm hiểu, muốn nhìn rõ một điều gì đó mà nàng vẫn chưa nắm bắt được, chưa hình dung ra được. Nàng không hiểu ngay chính câu hỏi, huống hồ gì câu trả lời.
Sự mơ hồ trong tâm can ấy khiến vẻ lặng lẽ mà Ngọc Bình đã có từ khi còn nhỏ trở thành trạng thái dường như là thờ ơ khiến người khác phải e dè. Nàng bao giờ cũng như đang suy nghĩ điều gì, ở một nơi mà người khác không bao giờ bước vào được. Với bà Huyền, sự xa cách của Ngọc Bình là di truyền của dòng máu qúy phái, che giấu con người tình cảm, đôi lúc là nông nổi của người con gái nuôi. Bà không hiểu được những gì đã xáo động trong tâm trí cô gái vừa đến tuổi trưởng thành, cô công chúa vừa bước ra ngoài và vừa dè dặt, vừa muốn lật tung những thắc mắc xung quanh.
Đó cũng là điều mà Quang Thùy nghĩ khi nhìn thấy Ngọc Bình ra vườn thu dọn những sàng thuốc đang phơi trong nắng chiều muộn. Ngồi trong hàng hiên, chàng tò mò ngắm cô con gái nuôi của bà Chiêu nghi, họ Nguyễn tên Bình như người ta đã kể. Dù đã từng nhìn thấy rất nhiều mỹ nhân tại vô số vùng đất từ Nam chí Bắc, cả ở xứ Đại Thanh hoa lệ, Quang Thùy vẫn phải cho rằng người con gái này là một nhan sắc hiếm có. Chỉ cài mỗi chiếc trâm hình hoa mai nhỏ, để mái tóc buông lơi xuống bờ vai mảnh dẻ, chiếc áo lụa màu hoàng yến mềm mại bám sát lấy thân hình, làn da trắng như ngọc ẩn hiện sau rìa cổ áo, gương mặt đẹp như tranh vẽ, nàng như thiên tiên quấn trong một đám mây. Và vẻ mơ màng, lối xa cách trưởng giả tạo cho nàng cốt cách băng tuyết khiến chàng thầm lấy làm kính sợ.
- Xứ Kinh Bắc qủa là nhiều người đẹp. - Quang Thùy buột miệng nói suy nghĩ của mình. Ngọc Bình ngoảnh lại, vẻ lạnh lẽo trong đôi mắt nàng biến thành dường như giễu cợt.
- Đáng tiếc, tiện nữ không phải người Kinh Bắc, - Nàng mỉm cười, an nhiên. - Đại nhân nên đem những lời khen tặng ấy cho Ngọc Hân công chúa.
- Bắc Cung Thái hậu là mẫu hậu của ta. - Quang Thùy cau mày. Sự giễu cợt trong mắt cô gái trẻ càng rõ ràng.
- Ồ, thế mà tiện nữ cứ tưởng điều đó với các ngài là được phép. - Nàng nghiêng đầu duyên dáng, nhưng Quang Thùy chẳng khó khăn gì để nhận ra ẩn ý trong câu nói. Cơn giận bùng lên trong lòng chàng. Những lời chế giễu về phong tục, văn hóa của bọn sĩ phu miền Bắc đối với triều đình, với cả chính chàng, Quang Thùy đã nghe nhiều, cũng đã quen. Nhưng lời nói ấy lại được thốt ra từ một cô gái nhỏ xinh đẹp, trong một khung cảnh bình an như thế này, như ngọn roi quất đúng vào điểm yếu của lòng tự tôn trong chàng. Tuy vậy, vốn là người đã dầu dãi từ nhỏ, Quang Thùy đủ bình tĩnh để che giấu cơn giận, chỉ cười nhạt.
- Vậy thì hiểu biết của tiểu thư phải chăng rất hạn chế? - Chàng trả đũa, cô gái tên Bình vẫn giữ vẻ thản nhiên. Nàng nhún vai, bắt chước đúng giọng nhạo báng của chàng.
- Tiểu nữ chỉ là một thôn nữ làng quê hẻo lánh, vốn chỉ được dạy những điều truyền thống, mắt thấy tai nghe mà đánh giá xung quanh, nào biết được những thứ xa xôi. Ngài Tiết chế cho đập chùa, phá điện, vốn cũng đã là không sợ người đời dèm pha, lẽ nào lại chấp nhặt câu nói nông cạn của tiểu nữ?
Từng lời, từng lời đều được Ngọc Bình dùng giọng dịu dàng chậm rãi mà nói, cùng với nụ cười rất ngây thơ trên gương mặt như hoa hàm tiếu, nhưng Quang Thùy nghe như muối xát, như ớt cay. Chàng ngồi lặng, nói cũng dở, không nói cũng không xong. Trong lúc chàng còn đang suy nghĩ, Ngọc Bình buông một tiếng cười khẩy, ôm rổ thuốc đi vào nhà.
Bên trong nhà, ngay sau bức vách chắn hàng hiên Quang Thùy đang ngồi, tiếng bà Huyền vọng ra:
- Ngọc Bình, con cất thuốc xong chưa?
Tiếng cô con gái trả lời gì đó mà Quang Thùy không thể nghe được. Chàng ngẩn người. Sau một vài khắc, sau cơn choáng giận mà cô gái vừa gây ra hồi nãy, chàng nghe cái tên được bà Chiêu nghi gọi như đánh mạnh vào trong trí não.
Ngọc Bình?
---------------------------
Chú thích:
Đập chùa, phá điện: Chỉ lệnh của nhà Tây Sơn cho phá chùa, chỉ để lại mỗi vùng một ngôi chùa và chuyện Quang Trung cho phá cung điện của họ Trịnh, đem gạch đá, tài nguyên về xây Phượng Hoàng trung đô.
Sứ giả nhà Lê: Khi kết giao với nhà Lê, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã cam kết không xâm phạm một tấc đất nhà Lê. Nhưng rồi Nguyễn Huệ chiếm Nghệ An. Vua Lê sai sai danh sĩ Trần Công Sán, mà Nguyễn Huệ biết tiếng và phục tài, cùng với hoàng thân Lê Án, vừa là chú vừa là thầy của công chúa Ngọc Hân, mang quốc thư vào xin lại Nghệ An và cam kết hàng năm nộp toàn bộ thuế của tỉnh cho Nguyễn Huệ, nhưng Nguyễn Huệ đã không cho còn hạ ngục và gông cổ cả phái đoàn rồi đem ra biển nhận thuyền cho chết.
2.
Chuyến đi khởi hành từ sáng sớm, xuyên qua vùng Kinh Bắc, nơi những xóm làng còn chưa phai màn sương, những cánh đồng vừa gặt, qua con sông Đuống tấp nập phiên chợ sớm. Rơm êm êm dưới bánh xe ngựa lăn chầm chậm. Mưa lất phất cho đến gần trưa, kéo dài trên đường. Ngọc Bình cảm thấy như mưa đã chạy theo nàng.
Sau một đêm sắp đặt việc trong dinh phủ, lo lắng cho người con gái cách xa ngàn dặm, bà Chiêu nghi đã mệt mỏi ngủ thiếp đi trên xe ngựa. Để mẹ nuôi ngả đầu vào vai mình, Ngọc Bình quay sang nhìn màn mưa ngoài cửa, màu xanh thẫm của ruộng nương và núi đồi, rừng thẳm kéo dài tít tắp. Mây phía đằng xa đùn lên tầng tầng lớp lớp như núi, ngọn phủ màu ánh bạc rực rỡ. Thi thoảng, xe đi qua một khu nghĩa trang nhỏ, chỉ có vài nấm mộ nằm cạnh nhau bên cụm nhà nâu nâu màu rạ. Người qua lại trên đường không cả ngoái nhìn đoàn xe quan lính đi ngang, ai nấy cũng vội vã đến thờ ơ.
Lại sắp đến ngày nộp thuế, Ngọc Bình thầm nghĩ. Phủ của bà Chiêu nghi không phải đóng thuế, nhưng những ngày này nàng vẫn ôm hộp thuốc theo người thầy đi thăm bệnh khắp các làng. Những vụ đụng độ nho nhỏ vẫn xảy ra, năm nào cũng vậy. Cùng với tiếng trống thúc nộp thuế vang dội từ đầu đình, các toán lính cũng tỏa ra đến từng nhà. Trút tất cả những bọc thóc còn lại trong góc những ngôi nhà nghèo nhất vào túi, thu nhặt từng đồng kẽm còn bóng ướt mồ hôi trước các ánh mắt thảng thốt. Dù nhịp điệu cuộc sống đã đi vào ổn định hơn trước kia, nhưng những đợt bắt lính liên tục cho chiến tranh đã không để lại trong làng mấy người đàn ông trưởng thành. Tuy là nơi xa cách với chiến trận ở Quy Nhơn, Bắc Hà cũng phải dốc sức cung cấp quân lương, chưa kể đến những biến động chính trị liên tục xảy ra trong triều đình, những biến loạn trong Nghệ An, Thanh Hoá, ngay cả tại Kinh Bắc. Sau khi Tổng trấn Bắc Hà Ngô Văn Sở bị bắt giải về Phú Xuân, quyền hành tại vùng này đã hoàn toàn thuộc về vị Khâm sai trẻ măng Quang Thùy. Thở dài, Ngọc Bình ném một cái nhìn oán ghét về phía đám quân đang đi trước xe, trong đó có cả Quang Thùy.
Nhưng hiện tại thì Quang Thùy không để tâm đến Ngọc Bình, chàng đang chìm trong suy nghĩ về lý do mà Quang Toản đã cho gọi chàng trở về Phú Xuân đúng lúc này, lấy cớ là để hộ tống Từ cung. Người em trai của chàng vốn là một thiếu niên đầy tình cảm và rất giản đơn, Quang Thùy không thể không nhận ra ý nghĩ của vị vua trẻ: Chàng được gọi về để sẵn sàng nối ngôi nếu như Quang Toản có chuyện gì ngoài chiến trận.
Một việc mà không vị vua nào dám làm trong hoàn cảnh thế này, Quang Thùy cau mày. Trong triều có nhiều người ủng hộ chàng, và Quang Toản có thể gặp nguy hiểm, nhất là nơi chiến trận rối loạn. Lệnh vua chàng không thể không theo, lý do cũng rất hợp lý để chàng không thể viện cớ thoái thác. Chàng chỉ có thể hy vọng Quang Toản bình an trở về, chàng cũng yên tâm được trở lại Bắc Hà.
"Ngai vàng..." Quang Thùy cười buồn, nhìn về phía chân trời xa, nơi những ngọn núi chập chùng nối tiếp nhau, lẫn vào nền trời xanh mờ. Không phải chàng chưa từng có ước mơ về nó, nhưng cũng là chuyện lâu rồi, trước khi chàng nhận ra được ý nghĩ của phụ hoàng. Chàng sẽ không bao giờ được làm thế tử, không bao giờ. Không mấy ai hiểu lý do, và có hiểu thì cũng không ai dám nói ra. Họ qúa run sợ, hoặc qúa kinh tởm để nói ra điều bí mật mà không hề bí mật ấy.
Năm xưa, khi phụ hoàng chàng, Quang Trung hoàng đế, còn đang chinh chiến ở phương Bắc, hoàng thúc Thái Đức đế đã cưỡng bức mẹ chàng tại Quy Nhơn. Hoặc là cả hai thông gian với nhau. Ai đã chứng kiến cơn giận của Bắc Bình vương khi biết chuyện đều phải hãi hùng khi nhớ lại. Đó là khởi đầu, một trong nhiều lý do cho cuộc chiến khủng khiếp khiến hàng vạn người chết tại Quy Nhơn. Cuộc chiến mà dân đinh trong từng xóm làng bị vét sạch, Bắc Bình vương đem đại bác nã vào thành, bức Thái Đức đế phải ra van lạy xin tha. Cuộc chiến đã gây một vết rạn nứt to lớn trong lòng Tây Sơn, một sự đổ vỡ từ tận trong tâm khảm mà không ai có thể quên.
Lớn lên, mẹ chàng đã mất, nhưng Quang Thùy nhận thấy rõ sự oán hận vẫn không nguôi đi trong đôi mắt người cha mỗi khi nhìn chàng. Một vết thương sâu hoắm ăn sâu vào tâm khảm người hoàng đế muôn kẻ run sợ. Và Quang Thùy biết rõ ngai vàng sẽ không bao giờ có cái tên của chàng. "Làm nhơ uế cả một triều", đó là lời trong bài hịch mà phụ hoàng đã cho viết để kết tội Thái Đức đế, hành động của ông ta, của mẹ chàng, và chàng là hiện thân của nỗi nhục nhã ấy, sự phản bội không thể tha thứ. Sự hiện diện của chàng đã đủ để nhắc nhớ phụ hoàng tất cả những gì đã diễn ra.
Ngày đi sứ phương Bắc, được vua Càn Long ban làm An Nam Quốc vương Thế tử, rồi một lần nữa, thấy người cha quyết liệt giành lại chức vị ấy cho Quang Toản, ý nghĩ về ngai vàng đã không còn trong lòng chàng. Ngược lại, Quang Thùy phải an ủi những người ủng hộ chàng "Ta hay em ta làm thế tử cũng thế mà thôi".
Nhưng có thật ai cũng có thể gánh vác vị trí đó không? Quang Thùy đã hy vọng biết bao ở Quang Toản, nhưng rồi chàng đã thất vọng. Chàng vẫn thương yêu đứa em này vô cùng, nhưng không phải ở vị trí hoàng đế. Qúa tình cảm và qúa giản đơn, đó không phải là đức tính cần thiết cho một hoàng đế. Chàng đã hy vọng có thể giúp đỡ, phụ trợ cho nó, nhưng người ta vẫn sợ hãi chàng, cử chàng về phương Bắc. Để rồi, mỗi lần gặp, chàng lại thấy tinh thần hoàng đế trẻ bạc nhược đi dần. Quang Toản chỉ là một đứa trẻ, làm sao có thể chống chọi lại, tồn tại được giữa một triều chính hỗn loạn và những con người cương cường, hung bạo như thế? Giờ đây, em chàng lại phải ra trận, một sự có mặt chỉ mang ý nghĩa động viên tinh thần, nhưng vẫn đầy nguy hiểm. Chiến tranh sẽ làm nó cứng rắn hơn, hay sẽ hoàn toàn hủy hoại nó?
Tuy vậy, Quang Thùy chưa bao giờ có ý nghĩ soán ngôi đoạt vị. Chàng yêu kính cha mình, và cảm thấy có lỗi với ông, cái lỗi lầm mà chàng tự thấy mình phải gánh thay cho mẹ. Chàng cam tâm làm một kẻ tùy tòng bị đưa về phương Bắc, miền đất hỗn loạn, nghèo khó, xa xôi, đầy những hận thù, oán giận. Chàng đã quen với những lời mỉa mai, thậm chí nhiếc mắng thẳng thừng, sự oán ghét không thèm che giấu của những kẻ hướng về Lê triều, họ Trịnh. Chàng đã quen với những mùa đông cắt da cắt thịt, nắng hạ hanh hao oi nồng. Chàng đã quen với những chuyến đi dài tiễu trừ phiến loạn không bao giờ kết thúc, không có ngày ngơi nghỉ. Chàng đã quen với những con đê yếu ớt trong mùa lũ khắc nghiệt, những ngày nắng hạn cháy da cháy thịt, những tàn phá không thể hồi phục nổi của chiến tranh trên vùng đất, trong lòng người. Tuổi thanh xuân của chàng đã trôi đi trên lưng ngựa từ cái ngày phụ hoàng dẫn chàng ra trận. Và cả cuộc đời mình, chàng đã nguyện dâng hiến nó cho vương triều cha chàng đã sáng lập.
Vương triều, Quang Thùy thầm nghĩ, lại nhớ về cô gái trong xe ngựa đằng sau, tuy không quay nhìn. Cô ta có phải thật là Ngọc Bình chàng đang tìm kiếm? Lẽ nào lại có sự trùng hợp đến thế cả về tên, tuổi tác, vị trí? Cô ta có phong cách của một qúy tộc từ trong xương tủy, không thể lầm lẫn được. Đêm qua, chàng đã cho gọi trưởng làng để hỏi chuyện, biết rằng Phan Huy Ích đã đưa cô gái này đến làng Phù Ninh. Cựu thần của nhà Lê, thân tín của Ngọc Hân công chúa, cùng với sự che chở từ Chiêu nghi của Lê triều, cô con gái nuôi này không phải một danh phận tầm thường. Nhưng làm sao để chứng minh? Chỉ cần họ không thừa nhận, không có chứng cứ thì chàng cũng không có cách nào ép buộc. Cho nên cách làm khôn ngoan nhất hiện giờ là coi như không có gì xảy ra. Đưa hai người vào cung nội gặp gỡ Bắc Cung Thái hậu, chàng tin họ sẽ tự để lộ mình. Rồi sau đó...
Rồi sau đó..., chàng nghĩ đến hình ảnh cô gái trẻ trong bóng nắng vàng như mật của hoàng hôn, nơi những tán lá cũng như được dát một lớp vàng mỏng, sáng lên tựa một khu vườn huyền thoại. Cô gái với đôi mắt mang nhiều vẻ giễu cợt lạnh lùng, cái miệng sắc sảo mà chua cay. Nếu qủa thật nàng là công chúa Lê triều, chàng có thể hiểu được thái độ ấy. Những việc đã qua không thể quay lại được, cũng không có cách nào thay đổi. Sự oán ghét của nàng nhắm vào chàng có nên chăng?
- Tiểu thư có vẻ không thích tôi? - Quang Thùy hỏi khi lại gần Ngọc Bình trong lần nghỉ ngơi giữa chặng. Nàng đang ngồi cạnh bờ sông, hứng nước vào cái ống tre. Khỏa tay vào làn nước trong vắt, nàng làm ra vẻ không nhìn thấy vị quan Tiết chế bước tới cho đến khi chàng mở lời.
- Dù sao Bắc Cung Thái hậu là chị nuôi của nàng, chúng ta cũng là họ hàng. - Quang Thùy ngồi xuống cạnh Ngọc Bình. Nàng vẫn không nhấc tay lên khỏi nước, nụ cười dửng dưng vẫn ở trên môi.
- Vậy thì ngài phải chăng nên gọi tôi là di nương? Qủa thật tiểu nữ không dám nhận, không dám bắt họ quàng với dòng dõi qúa tôn qúy như vậy.
Nàng đóng nắp ống tre, gài vào thắt lưng, toan đứng dậy. Quang Thùy nhìn nàng, cau mày.
- Bắc Cung Thái hậu được đức Hiển Tông gả cho phụ hoàng để kết nối tình thông gia, sao lại nhắc đến dòng họ này khác?
Lần này chàng nghe rõ tiếng cười khẩy của Ngọc Bình. Nàng đã đi được một bước, chỉ hơi quay đầu lại.
- Huyền Trân công chúa lấy Chế Mân, Ngọc Vạn công chúa lấy vua Chettha cũng là để vùng đất các ngài đang đóng đô đổi chủ. - Nàng chế nhạo. - Ngày trước phụ hoàng ngài cầu hôn công chúa nhà Thanh hẳn là học tập tiền nhân. Xưa nay chỉ nghe các nàng công chúa chân yếu tay mềm lấy thân mình đổi đất, sự hy sinh của phụ hoàng ngài kể cũng là lớn lao.
- Đừng xúc phạm phụ hoàng ta! - Dù đã nhủ lòng không nổi giận trước những lời trêu chọc cay độc của Ngọc Bình, Quang Thùy vẫn không thể kềm được. Nàng khoanh tay cười nhạt, dường như chẳng sợ hãi gì cơn giận của quan Tiết chế.
- Tiểu nữ đang khen ngợi phụ hoàng của ngài, sao lại lấy đó làm xúc phạm? Sự xúc phạm ấy, phải chăng là ngài đang tự nghĩ ra?
Quang Thùy thả lỏng những ngón tay đang nắm lại không biết tự lúc nào. Bình tĩnh, chàng tự nhủ, nàng ta có lý do để thù oán. Nhưng không phải với chàng.
- Những việc của tiền nhân, ta không thể thay đổi được, càng không can hệ đến ta. - Chàng nhỏ nhẹ nói. - Tại sao tiểu thư không thể quên được, lại đem ra chế giễu tôi?
- Ngài lầm rồi, Tiết chế đại nhân. Trên đời này, không có việc gì có thể bị lãng quên. Ngài càng cố vùi lấp, tô vẽ, càng cố để quên lãng, coi như không có gì xảy ra thì lòng oán chất càng cao. Ngài có thể lừa mình, nhưng không thể lừa người, càng không thể lừa sự thật. Chỉ có nhìn thẳng vào những sai lầm, thừa nhận và sửa chữa chúng.
- Vậy thì ngoài việc kết thân với tiểu thư, trở thành những người bạn tốt, tôi có thể làm gì khác? Tôi không lẩn tránh những trách nhiệm mà tôi phải mang, nhưng tiểu thư chẳng phải đang nói chuyện nhầm người? - Quang Thùy thở ra. Ngọc Bình im lặng. Nàng quay đi mà không nói lời nào.
Thật là ương ngạnh, Quang Thùy lắc đầu, nhìn ra dòng sông vẫn êm ả chảy trước mặt, nắng loang loáng trên mặt sóng. Chàng chợt cảm thấy buồn cười với cơn giận của mình lúc nãy. Đó chỉ là một cô gái nhỏ. Chàng nghĩ mình có thể hiểu được cảm giác của nàng... Cuộc chiến ngày xưa và những gì đang ở hiện tại. Chàng vẫn phải cho quân đi tiêu diệt tông thất nhà Lê nổi loạn rải rác trong núi. Triều đình lại vẫn cần một cô công chúa nhà Lê để liên kết với Bắc Hà. Nhưng lẽ nào chỉ là như vậy? Ở Kinh Bắc, chàng cũng có một người bạn, Nguyễn Gia Vu, cháu Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, con trai Ngọc Quỳnh công chúa của Lê triều. Cậu ta vẫn mong chờ vua Lê trở về, và cậu ta vẫn là bạn chàng. "Chúng ta phải tiếp tục con đường của tiền nhân. Nhưng chúng ta sẽ là bạn cho đến khi phải thành kẻ thù", Gia Vu nói, mỉm cười. Quang Thùy đã cảm thấy một niềm vui gần như là đau đớn.
Chúng ta phải tiếp tục, con đường này, địa vị này, niềm tin này - tất cả những gì đã được đặt vào tay chúng ta, đã hiện diện từ trước khi chúng ta mở mắt chào đời. Ngay cả sự ô nhục của mẹ, sự căm giận của phụ hoàng, nỗi oán hận mà cựu thần nhà Lê khắp miền Bắc này nhắm vào người con của kẻ tiếm ngôi vua họ, chàng cũng phải gánh vác mà không được quyền từ bỏ, thậm chí không được cất lời than thở. Tất cả những gì chàng có thể làm là cố gắng, cố gắng. Cho đến khi trái tim lẫn tinh thần bị bào mòn, trống rỗng.
Dù vậy, chúng ta có lỗi gì?
Nàng đang nói đến ai? Dòng sông vẫn chảy trôi, những con sóng mang theo nắng chìm khuất vào đáy nước. Chàng nghĩ đến những gì đã đi qua, những giấc mơ đã tan vỡ, những tình cảm đã bị hủy hoại, nhạt phai. Chàng nghĩ đến những tháng ngày bất định trước mắt, cái cảm giác chông chênh kể từ ngày phụ hoàng đột ngột qua đời. Một khoảng trống cứ lớn mãi ra, không thể nào lấp đầy được, ở cả hai thế giới trong và ngoài chàng.
Ngoảnh lại nhìn cô gái đang dựa lưng vào chiếc xe ngựa, khoanh tay nhìn về phía núi, vẻ mong manh trong sáng như những giọt mưa đáp xuống trong nắng, Quang Thùy chợt có một cảm giác giống nỗi buồn rầu. Nàng trông có vẻ gì đó lạc loài kỳ lạ với thế giới xung quanh. Cái thế giới của con người, của vạn vật đầy những xáo trộn, và vũ trụ mở ra sau nó, cõi thinh không vô cùng vô tận.
Tất cả, thế giới này, mặt đất đang phơi mình trong nắng, sáng chói và bất tận, dòng sông lấp lánh uốn khúc và cồn cào. Tất cả đều ẩn chứa trong lòng mình cơn bão chỉ chực chờ ngày bùng nổ. Tất cả, phơi bày trong nắng những hang hốc tăm tối và u buồn. Sự sống này, là một thứ gì đó rất hoang tàn. Như sa mạc.
Chàng nghĩ đến người em ở chiến trận, và có thể cảm thấy cát đang lẫn vào hơi thở, trôi vào phổi.
***
Một ngày cuối tháng sáu, quân do vua Cảnh Thịnh thân chinh chỉ huy xuất trận tại Phú Xuân. Ngồi trên lưng voi, Quang Toản cảm nhận từng cái lắc lư nặng nề khi con vật to lớn chậm rãi bước. Bắt đầu rồi, chàng nghĩ, đã bắt đầu nhiệm vụ một vị vua của chàng. Chiến trận đầu tiên mà chàng tham dự. Trong lòng Quang Toản, cùng với sự lo lắng nôn nao, lần đầu tiên chàng cảm thấy nhựa sống đã từ lâu bị vùi lấp trỗi dậy. Lần đầu tiên chàng cảm thấy rằng mình có khả năng làm một điều gì đó, mình có một địa vị nào đó trong cuộc đời này.
Đứng ở chân thành nhìn theo đoàn quân của vị hoàng đế, cũng là người anh em họ, nữ tướng Bùi Thị Xuân cố nén một tiếng thở dài. Bà đã đề nghị Hoàng thượng thân chinh lần này không phải để hy vọng một chiến thắng hoặc xoay chuyển tình hình, mà là một lời nhắc nhở với các chiến tướng ở chiến trường, trong đó có cả chồng bà. Cùng chuyến đi này, hình ảnh Hoàng thượng sẽ được cải thiện trong mắt quân tướng triều đình. Và bà mong đức vua sẽ tìm lại được trong mình dòng máu đã hun đúc nên một nhà Nguyễn Tây Sơn đánh đông dẹp bắc bốn phương lừng lẫy. Đức vua là con trai của Quang Trung hoàng đế, đến cuối cùng vẫn là thế.
Bà hy vọng rằng, tất cả không phải đã qúa muộn.
-----------------
Chú thích:
Di nương: Dì.
Đại Nam thực lục ghi: "Nhạc đắc chí, ngày càng buông thả dâm loạn, giết Nguyễn Thung, người cộng sự lúc đầu, lại hiếp vợ Huệ, người người đều ghê tởm”.
Sử gia nhà Nguyễn ở đây có lẽ thành kiến qúa nặng. Việc bắt đầu từ khi Nguyễn Nhạc kéo Nguyễn Huệ từ Bắc về Phú Xuân, không đồng ý với việc đánh Bắc Hà. Rồi anh em mâu thuẫn về kho tàng chiếm được của chúa Trịnh. Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn, có lẽ do căm tức mà thực hiện hành động giết người, cướp vợ này.
Lại bộ Hồ Đồng làm cho Nguyễn Huệ một bài hịch, chửi bằng “sài lang, chó heo” để kể tội Nhạc “làm nhơ uế cả một triều”, “khinh suất, can không nghe” và cả quyết rằng “ngôi báu tất phải đổi dời”.
Một giáo sĩ cho biết, trong cuộc chiến này, chỉ trong lực lượng của Nguyễn Nhạc đã có 4 vạn người chết. Nguyễn Huệ vét hết dân đinh từ 15 đến 60 tuổi ở các tỉnh lỵ, nhưng cũng phải bắt lính thêm một lần nữa ở quanh Quy Nhơn để bổ sung thương vong trong đội quân của mình.
Trước khi mất, Quang Trung gửi thư cho vua Thanh xin được gả một cô công chúa nhà Thanh và 2 vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông làm sính lễ.
3.
Lễ bộ Thị lang Phan Huy Ích đã ngạc nhiên đến bàng hoàng khi thấy Ngọc Bình đến Phú Xuân cùng với bà Chiêu nghi. Hẳn nàng không biết triều đình đang tìm kiếm, đang nhắm vào mình. Và sắc đẹp của nàng cuốn hút mọi sự chú ý ngay từ lúc vừa bước xuống xe. Trời đã đổ cơn mưa nhẹ. Người con gái áo xanh thêu hoa trắng, tay khẽ nhấc gấu áo dài để lộ lớp vải lót hồng phấn bên trong cùng chiếc quần lĩnh màu ngà, gương mặt trắng trẻo, thanh tú nhìn xuống như Tây Thi soi mình vào mặt nước, chẳng mấy chốc đã trở thành chủ đề xôn xao kinh thành. Qủa đúng như ông nghĩ, cô bé ngày xưa đã trở thành một giai nhân. Nhưng nhan sắc kiều mị này phải chăng chỉ đem lại họa hơn là phúc, Huy Ích lo lắng nghĩ thầm. Còn có cả Quang Thùy theo hộ tống. Khi đôi mắt sắc sảo của vị vương gia này lướt qua ông, dù chỉ trong một thoáng, ông thấy mình như bị nhìn xuyên qua. Như có một điều gì đó mà Quang Thùy hiểu rõ, nhưng chưa vội nói ra.
Không kịp ghé lại dịch quán, bà Chiêu nghi thúc giục người cho bà vào cung gặp Bắc Cung Thái hậu. Đi qua cánh cửa đá chạm rồng phượng cao vút, đi qua khoảng sân mênh mông của cung điện mà Võ vương Nguyễn triều đã xây dựng, bà Chiêu nghi và Ngọc Bình được đưa vào hành cung phương Bắc. Bắc Cung Thái hậu vừa uống thuốc, đang nằm nghỉ, không mở mắt ngay cả khi bà mẹ buông một tiếng khóc nghẹn ngào. Ngọc Bình cầm tay chị bắt mạch, cau mày.
- Can hỏa qúa vượng, lại thêm suy nhược, hàn nhập từ ngoài vào. Như cái cây đã khô cả, lại bị lửa đốt cháy. - Ngọc Bình lui ra sảnh, nói với Phan Huy Ích và Quang Thùy vẫn đứng đợi bên ngoài, để bà Chiêu nghi ở lại với Ngọc Hân.
- Nghe nói ở làng Phù Ninh có một bài thuốc tên gọi Thái Ất thần cao chữa bá bệnh. Xin hỏi tiểu thư có thể chữa cho Thái hậu bằng cách ấy được không? - Phan Huy Ích hỏi, vì sự có mặt của Quang Thùy mà đối với Ngọc Bình như người xa lạ.
- Nếu thật thuốc tiên chữa bá bệnh thì hẳn đâu có người phải chết. - Ngọc Bình lắc đầu. Người cung nữ sau lưng nàng nhăn mặt. Đã quen cách nói trong dân gian, nàng làm sao biết được kiêng kỵ nơi cung cấm. - Vả lại bài thuốc ấy cách bào chế, sắc rất cầu kỳ. Tìm đủ vật dụng, nguyên liệu làm thuốc, đợi cho đủ thời gian e rằng phải mất vài năm. Ngay cả sư phụ của tiểu nữ cũng chưa từng thử bào chế bao giờ.
- Vậy thì không còn cách nào chữa cho Thái hậu? - Quang Thùy nôn nóng xen vào. Như thường lệ, Ngọc Bình khẽ nhếch môi khi nghe giọng chàng.
- Trong cung nội nhiều ngự y tài vang thiên hạ, tiểu nữ chỉ học nghề vặt nơi làng quê, không dám lạm phán.
Giọng chế giễu ấy, dù đã được ngụy trang khéo léo bằng âm điệu dịu dàng, cũng không qua được mắt của Phan Huy Ích. Sự lo lắng của ông lại càng tăng thêm gấp mười lần. Trong cái cười nhẹ của Quang Thùy và ánh mắt của Ngọc Bình, ông nhận ra sự quen thuộc của họ. Sự quen thuộc hẳn do chuyến đi dài đã đưa tới.
- Tại sao công chúa lại đến đây? - Huy Ích hỏi Ngọc Bình khi Quang Thùy đã cáo từ lui ra, chỉ còn hai người ngoài hàng hiên phủ đệ Bắc Cung. Ngọc Bình không vội trả lời ông, nàng đưa mắt nhìn ra dòng sông xanh ngắt mềm mại trải dưới nắng. Vài con thuyền lững lờ trôi tựa như những chiếc lá. Màu hoa vông đỏ rực đã che phủ một phía bờ sông. Bên kia bờ, những khóm điệp vàng rải rác nổi bật lên trên nền lá xanh non. Mưa vừa tạnh, gió còn mang hơi lạnh ẩm ướt thổi trượt qua tóc nàng. Phú Xuân phủ một làn sương mờ như bụi nắng. Dưới những bậc thang đá dẫn xuống chân gò, vài mái nhà cũ kỹ xam xám ẩn hiện trong tán xà cừ, long não. Những bức tường bao giờ cũng xanh màu rêu trên nền đá lam bạc tạo thành vô số ngõ ngách đan nhau. Tiếng xe ngựa lộc cộc đâu đây, cùng tiếng chuông rung nhè nhẹ. Ve kêu râm ran, thanh âm như vang lên từ đá.
Đẹp thật, nàng nghĩ, hơi có cảm giác ngỡ ngàng. Nàng đã chờ đợi được nhìn thấy những cung điện uy nghi cao vút với hàng lính tráng mũ sắt cùng giáo mác chói lòa, không phải kinh thành mang vẻ lặng trầm u tịch trước mắt. Dù đây đó, dấu tích của cuộc chiến, những đống đổ nát vẫn còn, nhưng chỉ cần quay lưng đi, tất cả đã như nước rút qua mà không để lại một vài tiếng sóng. Thời gian ở nơi đây sẽ trôi đi lặng lẽ mà không còn một vết dấu nào lưu lại, như bóng câu ngoài cửa sổ, người con gái mười sáu tuổi nghĩ thầm, chợt rùng mình.
- Muốn đến thăm chị mình cũng phải có lý do? - Nàng nói sau một hồi lâu im lặng. Phan Huy Ích lắc đầu, ông kể cho nàng nghe về suy tính của các vị quan trong triều. Trái với dự đoán của ông là Ngọc Bình sẽ sợ hãi, khi nghe xong, nàng chỉ cười nhẹ.
- Tôi vốn chỉ nghĩ triều đình các ngài yếu về sắp xếp nhân sự, không ngờ lại có thể rất ấu trĩ. Dù có hay không, thậm chí có mười cô công chúa Lê triều ở nội cung đi chăng nữa, các nhóm phù Lê cũng vẫn sẽ nổi loạn. Một chiêu bài không thể dùng đến hai lần. Vả lại, trong các nhóm nổi loạn ấy, có mấy người vì nhà Lê thật sự? Chẳng lẽ ngài không hiểu những việc như thế?
- Công chúa biết một mà chẳng biết hai, - Phan Huy Ích lắc đầu. - Một việc tuy rằng bên ngoài có vẻ vô dụng, nhưng lại có thể chấn hưng tinh thần chính người trong triều đình. Hiện giờ tình hình phương Nam nguy ngập, họ muốn có một cảm giác an toàn về phương Bắc. Đó không phải vì người khác, mà vì chính mình vậy.
Ngọc Bình im lặng. Một lát sau, nàng thở dài.
- Nếu chúng ta không để lộ ra, thậm chí không thừa nhận thì chẳng ai có thể khám phá ra tôi là ai. Tôi đã đến đây, không thể đột ngột bỏ về. Nhưng tôi sẽ thận trọng.
- Vâng, xin người cẩn trọng... cả với những người quanh đây. - Huy Ích cúi đầu. Ông muốn nhắc nàng về Quang Thùy, nhưng nghĩ lại. Về vị vương gia ấy, ông sẽ giải quyết. Nếu có nghi ngờ nào, anh ta sẽ tìm đến ông trước tiên. Ngọc Bình chỉ là một cô gái nhỏ, không thể lường hết vị hoàng thân này. Năm mười tám tuổi, trong biến loạn Bùi Đắc Tuyên, anh ta đã kiềm chế Ngô Văn Sở cùng toàn bộ quan lại ở Bắc Hà để không gây ra bạo động, êm thấm soán đoạt quyền lực của bè phái Thái sư họ Bùi vào tay mình. Mười tám tuổi, từ một cậu bé được quan lại, võ tướng hộ tống, bảo ban, anh ta trở thành kẻ nắm thực quyền vùng Bắc Hà mà không một ai có thể can thiệp vào. Nói với Ngọc Bình điều đó, nàng sẽ để lộ ra sự cảnh giác, khác nào càng khiến anh ta động tâm.
Nhưng Quang Thùy tỏ ra cao cơ hơn Phan Thị lang một bậc. Chàng không tìm gặp ông, cũng không tỏ vẻ khác lạ ngoại trừ cái nhìn đầu tiên. Phan Huy Ích vừa nghi hoặc, vừa tự nhủ rằng chàng thật ra không hề biết điều gì, cảm giác đầu tiên của ông chỉ là do chính ông tự huyễn hoặc. Trong lúc đó, Quang Thùy đặc biệt lưu ý người trong cung nội để ý từng bước đi, lời nói của mẹ con bà Chiêu nghi.
Tuy vậy, với tình trạng Bắc Cung Thái hậu đang yếu dần, không mở mắt kể từ khi bà Chiêu nghi đến, tất cả công việc của người trong cung, gồm cả bà Chiêu nghi và Ngọc Bình, là chăm sóc người bệnh. Từ sáng gà chưa gáy bà Chiêu nghi đã thu xếp vào cung. Ngọc Bình bận rộn với những thang thuốc, thậm chí cho người về Phù Ninh tìm người có Thái Ất cao. Trong thâm tâm, nàng hiểu những việc này thật vô ích, nhưng không thể không làm.
Đôi lần, đứng cạnh giường nhìn người chị thiêm thiếp dưới lớp chăn dày, trong căn phòng trang trí kiểu hoàng thành Thăng Long, Ngọc Bình lại tự ngăn mình đưa tay lay Bắc Cung dậy. Không phải Bắc Cung, nàng nghĩ, là Ngọc Hân công chúa. Nàng công chúa giờ chỉ là một lớp xác ve mỏng mảnh, níu kéo cuối cùng, vô vọng cho chút sự sống còn cố nán. Ngọc Bình đến Phú Xuân với hy vọng gặp được chị mình, nhưng Ngọc Hân mười phần đã có chín phần chìm vào cõi chết. Trên bờ vực hoàng tuyền, trên chiếc cầu của sông Nại Hà ấy, chị đã nghĩ gì, Ngọc Bình thầm hỏi. Chị đi vào cõi chết mà không thốt ra bất cứ lời trăn trối, không một lần nhìn cuộc đời này lần cuối, mặc cho hai đứa trẻ vẫn mỗi ngày đến lay mẹ chúng. Chị đi vào cõi chết, bỏ lại tất cả những ân oán, đau thương trên cuộc đời này. Linh hồn chị đang lang thang đâu đó trên cõi trần phải chăng tìm về phương Bắc quê hương, nơi mà mười mấy năm trước đã có một con sông chở chị đi vĩnh viễn? Nỗi oán hờn câm lặng, không cần tỏ bày, cũng không mong người thấu hiểu này lớn đến thế nào? Người công chúa đã từng bị hoàng tộc đe dọa xóa tên khỏi gia phả, đã chứng kiến gia tộc bị hủy hoại bởi chính người chồng mình?
Cầm lấy bàn tay gầy xanh tái, nhẹ như một bông hoa tàn úa, Ngọc Bình cảm thấy tất cả những thắc mắc nghi hoặc của mình trước khi đến đây không còn quan trọng nữa.
Những dòng người cứ đến rồi đi trong căn phòng lặng phắc. Sau những lớp cửa, nắng ngày cuối hạ ruổi qua mau. Phượng vĩ rực rỡ cháy bùng lên trong những đợt mưa dài. Dòng sông vẫn êm ả chảy, sen hồng nở kín dưới chân cầu. Một buổi sáng, khi tiếng chuông từ đồi vọng xuống vẫn còn đổ hồi, ngân vang, kéo dài trên rặng cây xạc xào dưới mưa, mạch đã tắt hẳn trên tay Bắc Cung Thái hậu.
Những ngự y đứng sắp hàng ngang, cúi đầu im lặng. Hai đứa trẻ cùng bà ngoại chúng vật mình khóc bên giường. Những cung nữ vừa chậm nước mắt vừa lấy ra ba viên hổ phách, chín viên ngọc trai để bỏ vào miệng người chết cùng chiếc khăn liệm bằng lụa đã được thêu từ mùa đông năm trước. Có tiếng chân chạy rầm rập bên ngoài khi người trong cung xao xác báo tin. Hoàng thượng không ở trong thành, cũng chưa có hoàng hậu, hành cung phương Bắc tự mình chuẩn bị phát tang cho Thái hậu.
Trong chính điện, một vài đại thần biết tin sớm đã đến, khe khẽ nói chuyện với nhau. Phan Huy Ích đứng lặng lẽ một nơi, trong tay ông nắm chặt những bài văn tế đã viết sẵn.
Đứng một mình nơi hàng hiên vắng nhìn tất cả những sự ồn ào ấy diễn ra, Ngọc Bình ngạc nhiên thấy mình không có cảm giác đau buồn. Đã từng chứng kiến bao nhiêu cái chết, nàng không thấy sự khác biệt ngay cả với người là chị mình. Trong lòng nàng chỉ có một khoảng trống ngày càng mở rộng ra như là hẫng hụt. Nàng nhớ đến giấc mơ nhiều năm về trước, cô thiếu nữ mắt đen đã đi qua con sông trong một ngày ngập nắng.
Chị ấy không cả mở mắt ra một lần, nàng nghĩ. Không hiểu sao điều đó khiến nàng rơi nước mắt.
Trong lệ mờ, nàng nhìn ra khoảng đất đang ngập trong mưa. Nắng chưa lên và đêm chưa hết sương mù. Một màu tím biêng biếc bao phủ không gian, trên từng viên đá, loang kín khoảng trời cùng dòng sông yên lặng. Kinh thành hun hút mưa. Tiếng mưa rơi vào giữa thinh lặng của đá, núi và mặt đất.
Nàng nghe, dưới những sự xao động như sóng trên mặt nước, tiếng thì thầm của các linh hồn ngủ sâu trong đá.
-------
Chú thích:
Khi Nguyễn Huệ định lập Lê Duy Cẩn làm vua sau khi Lê Hiển Tông mất, tông thất nhà Lê đe dọa sẽ xóa tên Ngọc Hân khỏi gia phả. Việc này khiến Nguyễn Huệ phải để Lê Duy Kỳ, tức vua Lê Chiêu Thống kế vị.
Đóa mạt lị trong đêm
1.
Tin Bắc Cung Thái hậu viên tịch được báo ra Trà Khúc giữa lúc việc quân đang hồi rối loạn. Ở đầm Mân Khê, khi quân Tây Sơn giằng co với quân Gia Định, Cảnh Thịnh đã cho Trần Viết Kết một trăm chiếc thuyền, định ập vào đánh sau lưng quân Gia Định ở Sa Huỳnh. Một trận bão nổi lên, vùi đội thuyền Tây Sơn xuống biển, Trần Viết Kết phải chạy về Cổ Lũy. Đội quân của Quang Toản mắc kẹt trong thành, không thể nào tiến lên được.
Vừa nhận được tin của Thái hậu, vua Cảnh Thịnh lập tức ra lệnh lui binh trở lại Phú Xuân, để lại Tiết độ Văn Giáp giữ Trà Khúc. Quân của Quang Diệu, Văn Dũng về Quảng Nam. Quân Nguyễn cũng không truy đuổi.
Chúa Nguyễn Phúc Ánh đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định để ghi nhớ thắng lợi.
***
Trong lúc chờ đợi vua Cảnh Thịnh trở về, linh cữu Bắc Cung Thái hậu được quàn tại điện của bà, thân nhân quyến thuộc canh giữ suốt ngày đêm. Ngọc Bình cũng vào cung theo bà Chiêu nghi. Là anh trai nhà vua, Quang Thùy giữ nhiệm vụ canh gác người đến viếng và coi sóc mọi việc.
Đêm nay, Quang Thùy đi tuần một mình trong hoàng cung vắng lặng. Đáng lẽ chàng có thể gọi vài người lính cùng đi, nhưng bỗng nhiên chàng lại muốn ngắm trăng trong yên tĩnh. Khi chàng khởi hành, trăng đã thật sáng, tròn vành vạnh trên bầu trời. Vậy mà chỉ trong vài cơn gió, trận sa mù kéo qua, con đường trước mặt chàng mờ trong sương giăng. Ánh trăng cũng nhạt nhòa như phải lọc qua sương, qua mây, qua gió, tỏa thứ ánh sáng vừa do dự, vừa lưu luyến man mác xuống khoảng đất trắng lờ lững từng cụm khói mỏng.
Sa mù, Quang Thùy ngẩng nhìn bầu trời tím thẫm qua làn sương, nghĩ thầm. Đã lâu rồi chàng chưa lọt trong đám sa mù như thế. Trên mảnh đất này thường xuất hiện những mảng sương từ sông thổi vào, lẩn khuất khắp các ngõ ngách, phủ mờ vạn vật. Không một dấu hiệu báo trước, chỉ thình lình xuất hiện, chàng đã đôi lần phải khó chịu với nó khi vừa mới đến đây. Nhưng đêm nay, cơn sa mù này hỗ trợ cho ý muốn được lẩn trốn của chàng.
Đã qúa lâu rồi, chàng nhủ thầm. Đã bao nhiêu, tám hay mười năm, từ cái ngày chàng buộc phải rời hoàng cung đại nội Phú Xuân? Và hương hoa đang lẩn khuất đâu đây, lãng đãng trong gió này đã bao lâu rồi chàng mới được cảm nhận lại? Đêm bình yên như chưa từng biết đến nỗi u buồn. Thành quách lặng thinh như chưa từng chứng kiến muôn ngàn dâu bể. Hương hoa vẫn nồng lên trong chàng nỗi nhớ nhung, xót xa kỳ lạ không hiểu vì sao. Chàng nghĩ đến nỗi tang thương, sự mỏng manh của kiếp người, cả của những gì được ngợi ca và xưng tụng như gia đình cùng đất nước. Chàng nghĩ về những ngày ngồi bên bờ những sông hồ miền Bắc phủ sương mù, thấy thế giới xung quanh chỉ là một vùng trắng xóa. Chàng đã một mình đến nơi ấy. Chỉ có một mình giữa cung điện, đền đài của một Thăng Long bị phá hủy, tàn phai, giữa những quan quân, lính tráng và xung đột triền miên không dứt. Rồi mai này sẽ ra sao, dạo gần đây, cái ý nghĩ ấy thường hiện lên trong chàng, để chàng sợ phải đối diện với câu trả lời.
Chàng đi men theo dưới hàng cây không rõ dáng hình trong bóng tối, theo mùi hương của một loài hoa đêm. Trong sa mù, chàng thấy những mặt trăng nhỏ sa xuống trước mặt, trắng mờ. Chàng dừng lại, nhận ra mình đang đứng trước giàn hoa mạt lị. Giàn hoa cao qúa đầu chàng, những bông hoa trắng lặng lẽ bung cánh trong đêm. Hương thơm nồng nàn khiến người ta có thể đắm say đến bật khóc lên được.
Đêm và những gì che giấu trong nó, Quang Thùy mỉm cười, chạm tay vào giàn hoa, hái một cành nhỏ. Sa mù tan dần, chàng thấy ánh đèn của hành cung bên cạnh hắt đến, ánh vàng mờ mờ đã không qua nổi làn sương. Tiếng chân khẽ khàng trên nền gạch đá. Ánh đèn lung lay một lát, rồi yên, như thể người cầm đèn đã đặt nó xuống.
Trong đêm như thế này, ai lại ra vườn cung nội? Quang Thùy thầm nghĩ, bước tới gần. Xuyên qua sa mù, chàng hơi giật mình khi thấy bóng người mặc áo trắng đang ngồi trên bậc thang đá: Ngọc Bình.
Nàng vẫn mặc áo xô tang trắng, tóc để xõa như dòng suối đổ qua lưng. Nghiêng xuống tờ giấy để trên đùi, khuôn mặt nàng sáng dịu dàng trong ánh đèn vàng lung lay nhẹ trong gió. Trăng đã lại sáng, vằng vặc trên mái đình. Vườn đêm rì rào lá, tiếng côn trùng nỉ non giữa những vách đá.
Nàng đẹp thật, chàng không thể ngăn mình có ý nghĩ ấy, mặc cho bao lời chế nhạo nàng đã nói. Dù đã bớt dần những lời cay độc, nàng vẫn đối xử với chàng một cách lạnh lùng, không bỏ qua cơ hội nào để mỉa mai chàng. Chàng vẫn kiên nhẫn chờ đợi đến lúc nàng thấy được sự qúa quắt của mình. Không phải chỉ vì nàng đẹp...
Ở phía Ngọc Bình, sương mù cũng đã tan. Nghe tiếng chân bước lại, nàng ngẩng đầu, khẽ cau mày khi thấy Quang Thùy. Nàng không đứng lên, chỉ gật đầu chào. Nhìn gần, Quang Thùy nhận ra nàng có vẻ mệt mỏi sau những ngày canh linh cữu.
- Sao tiểu thư vẫn ngồi đây, không vào nghỉ? - Chàng hỏi. Đúng lúc ấy, một trận gió mạnh thổi tới, cuốn tờ giấy trong lòng Ngọc Bình bay về phía chàng. Quang Thùy vội đưa tay nắm lại. Không chủ ý, mắt chàng lướt qua những dòng chữ đầu. Chẳng khó khăn để chàng nhận ra...
- Ai tư vãn? - Quang Thùy đưa lại tờ giấy cho Ngọc Bình. Nàng nhận lấy, môi hơi mím lại. - Tiểu thư lấy cái này trong cung của Thái hậu?
- Không, tôi nhờ Phan Thị lang, - Im lặng một thóang, rồi vẻ tinh quái lại hiện lên trong mắt Ngọc Bình. - Từ lâu tôi vẫn nghi ngờ về bài viết này, nên xin ông ấy bản hoàn chỉnh.
- Nghi ngờ? - Quang Thùy bước tới gần hơn khi Ngọc Bình cúi xuống đọc những hàng chữ trong tờ giấy. Nàng nhún vai rất nhẹ.
- Tôi tự hỏi có người phụ nữ nào viết như thế này khi vừa mới mất chồng? Lời thơ rất hay, nhưng trong cảnh lại thành ra sáo. Thơ rất mượt, nhưng trong tâm lại hóa không thành. Cấu trúc chặt chẽ, kết mở vuông tròn, nhưng xét về tình lại không thể hợp. Vả lại... - Ngón tay Ngọc Bình dừng trên một dòng chữ. - Có người nào, gia tộc bị soán đoạt cả, mà có thể ca ngợi kẻ ấy những câu "Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương", "Khắp tôn thân cùng đội ơn sang"... Nói như vậy, đối với những người biết chuyện chẳng hóa ra trò cười hay sao?
Quang Thùy im lặng. Nàng lại bắt đầu rồi, chàng nghĩ. Cô gái trẻ này dù rất thông minh nhưng trong sự bạo gan của nàng có sự liều lĩnh nông nổi gần như khờ dại. Nếu chàng là một người khác, đơn thuần hơn hay không biết kiềm chế hơn, giờ này nàng đã mất đầu vì những câu như thế. Nhưng lúc này Ngọc Bình không để tâm đến phản ứng của chàng, nàng thật tâm hướng hoàn toàn sự chú ý của mình vào trang giấy. Sự tò mò trong đôi mắt nàng khiến Quang Thùy cũng phải nghĩ mình nên nói một điều gì đó.
- Tôi nghĩ, Thái hậu dù có yêu thương phụ hoàng hay không, thì cũng không oán người. - Chàng nói, Ngọc Bình ngẩng lên nhìn chàng. Trăng soi sáng gương mặt nàng, long lanh trong đôi mắt hồ thu trong trẻo. Chàng gật đầu nhẹ.
- Vì cha... phụ hoàng là một người rất tình cảm. - Ngọc Bình nhướng mày, nhưng chàng không ngừng lời. - Năm xưa người với Thái Đức đế xung đột, nhưng cuối cùng vẫn để cho người anh em đường sống. Đối với các người vợ, phụ hoàng lại càng ân cần yêu thương. Khi mẫu hậu của đức vua Cảnh Thịnh viên tịch, phụ hoàng đã đau đớn đến gần như mất trí, quàn bà trong điện tới vài tháng trước khi chôn cất. Với anh em, thuộc hạ, sự nhiệt tình của người đã gắn kết cả Tây Sơn này. Người thật sự là một người tình cảm đến mức có thể mắc nhiều sai lầm vì thế...
Yêu càng nhiều thì hận càng sâu, Quang Thùy lại nhớ đến người mẹ, ánh mắt người cha mỗi khi nhìn thấy chàng. Nỗi buồn ấy hẳn đã hiển hiện trong giọng nói chàng khi Ngọc Bình nhìn chàng, im lặng. Sự nghi ngờ không vơi đi trong mắt nàng. Nàng quay về phía màn sa mù đã gần tan hết, chỉ để lại một lớp mỏng manh như khói, bàng bạc trong ánh trăng như ngàn ánh đom đóm nhỏ màu bạc bay vào đêm.
- Ngài lại lầm rồi, Tiết chế đại nhân. - Trong giọng Ngọc Bình giờ đây không còn âm điệu dịu dàng cợt nhạo. Nàng ngẩng nhìn vầng trăng ngày càng lên cao, chiếu sáng các mỏm núi xung quanh. Cả những mái điện cong cũng sáng lên như dát bạc. - Công chúa hẳn đã đem tất cả những oán hận ấy trút vào chính bản thân mình.
Nàng không hướng mắt về phía chàng, nhưng Quang Thùy nhận ra được sự cô độc thẳm sâu dưới hàng mi, trên từng đường nét nhỏ nhắn, kiêu kỳ của chiếc mũi, vầng trán, đôi môi đang được ánh trăng mờ phủ. Trong bộ áo trắng, nàng tỏa sáng bằng một cảm giác lạ lùng khó lý giải. Sự đơn côi kết tinh của mây mù, sự tĩnh lặng của nước hồ khuất dưới tán cây, nét lẻ loi không chủ định và làn khói mơ hồ của tang thương phảng phất, nàng bé nhỏ trong đêm, giữa núi và thành đá, chìm sâu trong cái tịch liêu nơi gió xoáy, hoa nở, hương tàn. Ngay từ đầu, chàng đã không chấp nhặt những lời nói của nàng. Đối với chàng, nàng chỉ là một cô gái nhỏ, mỏng manh, nhạy cảm. Và đơn côi.
- Dù lời nói này là không phải với cả những người đã chết và phụ hoàng, nhưng nếu nàng muốn nghe, - Quang Thùy cân nhắc từng lời. - Phải tàn ác vì không thể nào làm khác, hay là vì bất cứ lý do gì đi nữa, thì sẽ phải trả giá. Chúng ta mỗi người tồn tại theo cách mà mình có thể. Sinh ra trong đế tộc, hoặc muốn làm đế vương, vốn phải hiểu sự tàn khốc của việc giết hoặc bị giết, cái giá của địa vị mình đang có, của sự bắt buộc phải tiêu diệt lẫn nhau để tìm đường, tìm đất sống cho mình. Nếu phải trả giá thì đón nhận nó, đơn giản như vậy, dù cái giá khủng khiếp đến thế nào. Những cái giá phải trả luôn luôn khủng khiếp. Thái hậu là một phụ nữ thông minh, là một người mẹ, người chắc chắn hiểu được sự sinh tồn của con người.
Ngọc Bình cau mày. Mắt nàng bất chợt bắt gặp đôi mắt Quang Thùy đang cúi xuống nhìn mình chăm chú. Chàng đang tìm kiếm điều gì đó ở nàng, nửa như tò mò, nửa như dò xét. Trong đêm, mắt chàng không rõ màu sắc. Đêm trong đôi mắt chàng, một cõi cô lạnh, mông lung không bến bờ kết thúc tựa khoảng trống trên mặt biển khơi, bầu trời trên ngọn núi. Khó mà gọi tên của sắc màu ấy, sắc màu sẽ biến mất, mờ tan trong ánh nắng ban ngày.
Một đôi mắt thật lạ lùng, nàng nghĩ. Có nhìn thẳng vào đôi mắt ấy, nàng cũng không bao giờ đọc được những gì ẩn chứa đằng sau, dù khuôn mặt chàng không thiếu cảm xúc. Cảm thấy như tất cả đều hiện diện, nhưng đã bị hòa tan vào bóng tối, bị phủ che bằng tấm màn của đêm. Ngay cả với cái nhìn dò xét này, chàng cũng không gây cho nàng cảm giác e ngại, chỉ mơ hồ một suy nghĩ không nắm bắt được. Nàng không có ý muốn tránh ánh mắt chàng, ngược lại, thật muốn được chạm tới đáy mắt ấy, chạm tới được điều đã chìm sâu trong đêm.
Nàng chớp mắt. Ngoảnh ra sân. Đêm thật là lạ lùng, nàng nghĩ, chợt cảm thấy sức nặng của những ngày qua trĩu xuống trên vai, trên mí mắt. Khi nhìn Quang Thùy, nàng đã muốn nói, rất nhiều, rất nhiều. Các người trả giá, nhưng còn những kẻ khác, những kẻ vốn dĩ vô tội và vô can, những kẻ đã bị dẫm đạp dưới vó ngựa chiến, dưới mũi giáo sắt, những kẻ đã gục ngã trên cánh đồng bị bóc kiệt lớp nhựa sống… Đế vương? Tại sao họ lại phải trả giá cho giấc mộng đế vương của các người? Tình cảm? Cái con người tàn sát cả ngàn người, vạn người, cả những anh em, thuộc hạ, đồng bạn cũ, lại có thể có tình cảm? Nhưng đối diện với nàng chỉ là một con người với ánh mắt của đêm cô tịch, vẻ lặng lẽ tận cùng của bóng tối. Vốn dĩ anh ta cũng không thể trả lời nàng. Nàng không muốn tranh luận về chuyện mình cũng không hiểu rõ bây giờ.
- Dù sao thì người cũng chẳng còn để có thể trả lời ta được nữa. - Nàng thở ra, đứng dậy, cầm lấy đèn định quay đi. Quang Thùy gọi nàng lại, chìa tay ra. Trên tay chàng là một cành hoa màu trắng.
- Bông hoa này tôi hái ở trong vườn. - Chàng nói, hơi ngập ngừng. - Khi nhìn thấy tiểu thư, tôi đã nghĩ nên tặng nó cho nàng.
Ngọc Bình chớp mắt, im lặng đưa tay nhận. Xoay cành hoa giữa những ngón tay, bất chợt nàng mỉm cười.
- Đại nhân thật là người sâu sắc và tinh tế. Mấy lời nhắn gửi của Ức Trai tiên sinh vào loài hoa này, tiểu nữ sẽ ghi nhớ. - Nàng đưa mắt nhìn Quang Thùy, khóe môi hơi cong lên, chậm rãi đọc:
"Mài son bén phấn hây hây
Đêm nguyệt đưa xuân, một nguyệt hay
Mấy kẻ hồng nhan thì bạc phận
Hồng nhan kia chớ cậy mình thay"
Trong lúc Quang Thùy vẫn còn đang ngẩn mặt, Ngọc Bình cài cành hoa vào tóc, nghiêng mình cúi chào viên Tiết chế, quay trở vào nội cung.
---------------
Chú thích:
Ức Trai tiên sinh: Nguyễn Trãi. Bài thơ "Hoa nhài" trích trong Ức Trai thi tập.
Hoa mạt lị: Hoa nhài, còn gọi là hoa lài.
2.
Quang Toản trở về Phú Xuân vào giữa đêm. Không kịp cởi chiến bào, đức vua đi thẳng vào điện quàn linh cữu Thái hậu khi ấy chỉ còn một vài người canh giữ. Bà Chiêu nghi đã đưa hai đứa trẻ về phòng nghỉ, Ngọc Bình vừa đứng dậy thắp lại vài ngọn nến trong phòng thì một thiếu niên mặc hoàng bào, gương mặt hốc hác đã xông thẳng vào điện. Những cung nữ hoảng hốt tỉnh khỏi cơn mơ màng, vội vàng sụp xuống, ú ớ tiếng "Bệ hạ vạn tuế" khi Quang Toản đi qua mà không nhìn đến ai. Sau lưng Quang Toản, Quang Thùy cùng vài người lính chạy theo, dừng lại ngoài cửa.
Vị vua trẻ đứng lại trước quan tài phủ hoa trắng, nhìn trân trân vào linh vị trên bàn thờ nghi ngút khói hương. Mắt chàng đỏ nhưng ráo hoảnh. Chậm chạp, tay Quang Toản chạm vào nắp quan tài như vẫn cố tìm lại một hơi ấm. Tiếng thở khẽ thoát ra khỏi cổ họng chàng, như thể cả những cơn nức nở cũng đã hóa tan.
- Mẫu hậu... - Quang Toản thì thầm. Trên đường trở về, chàng đã ước tất cả chỉ là một cơn ác mộng. Nhưng giờ đây, cùng với linh cữu này, sự thật đã hiển hiện trước mắt chàng. Nếu ngày ấy chàng nói với Bắc Cung đợi chàng trở về, người có ra đi sớm như thế? Càng nghĩ, Quang Toản càng đau đớn.
Mười mấy năm trước, khi Bắc Cung bước vào gia đình khi mới mười sáu tuổi, Quang Toản cũng chỉ là một đứa trẻ nhỏ. Người mẹ ruột bận bịu với các em, với công việc của một phu nhân khi người cha mải chinh chiến sa trường, giữa Quang Toản và nàng công chúa nhà Lê đã hình thành một thứ tình cảm vừa giống như chị em ruột thịt, vừa giống mẹ con, vừa như hai người bạn. Những khi Ngọc Hân buồn nhớ gia đình, Quang Toản lại đi hái hoa, chạy ra ngoài thành tìm mua sản vật phương Bắc về cho nàng. Ngọc Hân dạy Quang Toản đọc, viết. Giọng đọc thơ ngân nga của cô thiếu nữ Bắc Hà đi vào từng giấc mơ của cậu công tử nhỏ. Mẹ Quang Toản không mấy hài lòng khi biết được sự thân thiết này, và cùng với việc lên ngôi của Quang Trung hoàng đế, khoảng cách của hai người ngày càng xa. Tuy vậy, cảm giác ấm áp của những ngày thơ trẻ ấy, Quang Toản không bao giờ quên.
Đứng trước quan tài giây phút này, trong đêm cô tịch, lặng yên của hoàng thành, khi mà những người bên cạnh không dám ngay cả thở, Quang Toản thấy mình bị vùi vào một hố sâu không ánh sáng, không có cả bóng tối, bức bối đến không thể thở nổi. Hết rồi, chàng thầm nhủ, nhìn lên bài vị Bắc Cung như cầu cứu. Trong những ngày tháng qua, tâm trạng của Quang Toản ngày càng xuống dốc khi chiến sự của Tây Sơn rối như mớ bòng bong, bản thân bị các đại thần ngăn giữ không cho xuất quân ngay cả tại sa trường. Càng ngày chàng càng thấy mình bị mắc vào một cái lưới nhện, cảm giác buồn bực và bất lực đến tận cùng. Trở về Phú Xuân, đem theo sau một thất bại, để vị vương nhà Nguyễn khắc một chữ Bình Định đầy mai mỉa vào vùng đất cơ nghiệp tổ tiên, giây phút này, Quang Toản chỉ ước ao người đang nằm trong quan tài, tên được khắc trên bài vị kia là chàng.
Tại sao, chàng nghĩ, đầu óc rơi vào một cõi mơ hồ xáo động. Tại sao về điều gì, về cái gì, chàng không thể hiểu được. Chỉ có câu hỏi lặp đi lặp lại trong đầu chàng, xoay vòng, cuộn xoáy. Tại sao ta lại ở đây, câu hỏi cuối cùng ấy khiến chàng chỉ muốn rút thanh kiếm đâm thẳng vào cổ họng mình, chính tại nơi đây, giây phút này.
Quang Toản giật mình khi một bàn tay giữ tay chàng lại. Từ lúc nào không biết, chàng qủa thật đã rút kiếm ra. Quang Thùy nhìn xuống người em trai bằng cặp mắt nheo lại nghiêm khắc, rút thanh kiếm ra khỏi những ngón tay Quang Toản đang quắp chặt. Thanh sắt lạnh vừa rời khỏi tay, Quang Toản đã như đổ sụp xuống trước quan tài.
- Đứng lên đi, bệ hạ. - Quang Thùy nói, giọng băng giá. Ngọc Bình thoáng ngạc nhiên khi nhận thấy những đường nét trên khuôn mặt viên quan Tiết chế sắt lại, làm cho chàng như già thêm cả chục tuổi. Dưới đất, đức vua trẻ vẫn còn run rẩy. Không ngẩng đầu lên, Quang Toản nói, giọng như đã bị rút đi tất cả sự sống.
- Hết rồi. Tất cả đã hết rồi.
- Không phải, bệ hạ. Ta mới chỉ mất Quy Nhơn, và ta sẽ lấy lại. Chỉ cần bệ hạ không ngã lòng, ta nhất định sẽ hồi phục. - Quang Thùy cứng rắn nói, thanh kiếm nắm chặt trong tay. Quang Toản ngẩng lên, trong nỗi đau đớn và hổ thẹn cùng cực này, nhà vua lại cảm thấy sự căm giận trào dâng.
- Anh đừng tự lừa mình nữa, - Giọng nói khàn đặc của Quang Toản trầm xuống như chờ đợi bùng nổ. - Rồi chúng sẽ vào Phú Xuân này, sớm thôi. Chẳng còn gì ngăn chúng được nữa.
- Bệ hạ, chỉ cần người không ngã lòng...
- Im đi!
Quang Toản hét, cắt ngang câu nói của người anh. Tất cả những đè nén trong bấy nhiêu năm chợt bùng phát trong lòng chàng. Nhà vua đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt vị Khang công, cười cay đắng.
- Chỉ cần ta không ngã lòng, nói mới dễ nghe làm sao! Chỉ cần ta không ngã lòng thì đám tướng sĩ đang ăn thịt uống máu nhau ngoài kia có nghe ta không? Chỉ cần ta không ngã lòng thì mảnh đất này, cả Bắc Hà của anh nữa, có vắt ra được thêm giọt máu, con người nào không? Huynh trưởng, mỗi tháng, mỗi ngày anh quần quật gom góp từng đồng, từng thăng gạo ở Bắc Hà, rút thịt rút tủy kẻ khác để người ta chỉ muốn chém anh thành trăm mảnh ấy - Anh phải biết rằng chẳng còn gì cho chúng ta nữa hết! Người phụ hoàng, hoàng đế vĩ đại của anh ấy - đã để lại cho chúng ta một đất nước bị cướp phá sạch sanh, rối tung loạn lạc. Cho chúng ta một đám thuộc hạ ăn cướp khôn bề giáo huấn. Đặt cho chúng ta một gánh nợ máu ở Quy Nhơn, Gia Định. Ngài ấy đã giết cả vạn người Đường ở Gia Định khiến bọn thương nhân chạy trốn cả, gây hấn với khắp nơi, khiến giờ đây ta muốn mua một cân thuốc súng tốt cũng phải lạy lục bọn người Anh Cát Lợi! Không vũ khí, không lương thực, không cả con người, anh muốn nói chúng ta sẽ thắng như thế nào đây, huynh trưởng?
- Bệ hạ, tình hình không tệ như người nghĩ. Trong triều ta còn nhiều tướng tài, chỉ cần ngài đoàn kết họ lại... - Quang Thùy kiên nhẫn nói, một lần nữa bị Quang Toản ngắt lời.
- Thì sao? Được một năm, hai năm, rồi thì sao? Lương hết, đất cạn, tiền trong kho không còn, người chẳng lớn kịp để bắt đi. Hay lại đi cầu cứu nhà Thanh, cầu cứu Xiêm La, Chân Lạp, Cao Miên? Những vùng đất ấy cũng đã bị tên cựu Nguyễn kia vươn tới rồi. Trong mảnh đất bị cô lập này, anh có thể làm gì? Anh tưởng cứ tiếp tục đi ăn cướp, đem quân đi đánh vùng này vùng khác là đủ, là được, là có thể tiếp tục tồn tại sao?
- Nếu người không nghĩ đến đất nước này, cũng nên nghĩ đến gia tộc của chúng ta, những anh em và thân nhân ngài, bệ hạ. Phải chống đỡ để có được con đường sống. - Trong giọng Quang Thùy có sự nhẫn nhịn tột độ. Quang Toản im lặng, tay nhà vua lại xuôi về bên hông, trả cho chàng vẻ kiệt sức bải hoải.
- Ta không đủ sức, - Quang Toản nói, giọng nhỏ như thì thầm.- Anh làm thay ta đi, hoàng huynh.
- Bệ hạ, người đừng nói vậy...
- Tại sao ta lại ở đây? - Trong mắt Quang Toản, sự tuyệt vọng như đã nhấn chìm chàng. Chàng hướng mắt nhìn ra hoàng thành sau cửa cung đang chìm trong bóng tối, cười nhạt. - Tại sao phụ hoàng lại chọn ta? Tại sao ta lại phải gánh vác tất cả những tham vọng mà ngài đặt lên vai ta? Một kẻ như ta, tại sao cơ chứ? Ta có muốn đâu, có cầu đâu, tại sao cơ chứ?
Xuôi tay, nhà vua bước ra khỏi Bắc cung, vẫn không hề để ý đến người xung quanh như khi đến. Nghe những bước chân nhà vua nặng nề đi khuất, Quang Thùy gọi những thái giám, dặn dò cẩn thận trông chừng Hoàng thượng. Nhìn xuống thanh kiếm trong tay, Khang công thở dài. Những cung nữ trong điện vẫn chưa hết cơn hoảng sợ thảng thốt nhìn chàng. Ngẩng lên, bắt gặp đôi mắt Ngọc Bình vẫn đang quan sát việc vừa diễn ra, đột nhiên Quang Thùy cảm thấy hổ thẹn. Chàng rời khỏi Bắc cung vội vã.
Đêm vẫn lặng im bao phủ hoàng thành. Ánh trăng mờ yếu ớt khuất sau mây. Bên bờ sông Hương, đèn đuốc từ đội quân vừa về tới thắp sáng một góc trời. Buông thanh kiếm rơi xuống chân, Quang Thùy thấy dường như nỗi tuyệt vọng của Quang Toản đã truyền sang cho chàng.
"Tất cả những gì Hoàng thượng nói đều đúng", chàng thì thầm, không nhận ra chính những điều mình đang nói. Chàng nhớ về những chuyến đi dài như không bao giờ kết thúc trong vùng núi rừng phía Bắc. Có lần, chàng bị bệnh nặng trong một mùa đông. Giá rét đã bủa vây chàng, làm đông cứng tất cả các giác quan, đâm thấu tâm can. Sự đau đớn đã làm chàng chỉ có khát khao được chết.
Ta có thể làm gì đây, chàng tự hỏi. Chàng không đủ ngây thơ như Quang Toản để tin rằng chỉ cần chàng lên ngôi thì mọi việc sẽ ổn. Ngược lại, những xáo trộn lúc này sẽ phá nát chút ổn định mong manh còn lại của Tây Sơn. Sự rạn vỡ đã đến điểm tận cùng, không còn cách nào cứu vãn. Quy Nhơn đã mất, Phú Xuân sẽ gặp nguy hiểm, dù sớm hay muộn. Rồi sau đó...
Là Bắc Hà. Bắc Hà sẽ trở thành cứ địa cuối cùng của Tây Sơn, nơi duy nhất mà Tây Sơn có thể trốn chạy, nương nhờ. Ở Bắc Hà, triều đình có thể bắt đầu lại. Việc chàng có thể làm từ bây giờ là xây dựng, củng cố nó. Chiêu binh mãi mã, thu thập lương thảo, kêu gọi nhân tâm... Và cần có một danh nghĩa để triều đình lưu lại ở phương Bắc. Các sĩ phu vẫn còn mến tiếc nhà Lê. Cần một động thái để khẳng định lại sự hòa hợp của Tây Sơn với cựu triều.
Việc ấy cần sự có mặt của công chúa Bắc Hà.
Trong đêm, hương hoa mạt lị vẫn mênh mông lan tỏa. Quang Thùy nhớ tới nụ cười của cô gái trẻ vào đêm trăng ấy, trong chàng dậy lên nỗi đau khó bề lý giải.
- Xin lỗi. - Chàng nhắm mắt. Không còn trăng cũng như ánh đèn từ trong cung nội, từ bên kia bờ sông hắt đến. Đêm bao vây chàng bằng những cơn gió trượt dài xuống từ núi cao. Thanh âm của đêm vẫn lặng lẽ diễn ca. Gió đập vào cánh cửa phòng nơi vị hoàng đế trẻ lại tự giam mình. Gió lay ngọn lửa trên những ngọn nến vừa được thắp bởi cô gái trẻ không biết rằng những ngón tay của số phận đang siết chặt lấy nàng.
Gió trượt trên ánh thép của thanh gươm dưới chân chàng thanh niên đứng lặng yên trong bóng tối.
--------
Chú thích:
Một lần đánh vào Gia Định, tướng Phạm Ngạn của Tây Sơn bị phục binh giết chết. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ liền ra lệnh giết hơn một vạn người Hoa ở Hội An báo thù. Từ đó, Hội An sụp đổ, thương nhân nước ngoài không còn dám tới buôn bán.
Tình trạng tương tự cũng xảy ra với Phố Hiến và Kinh Kỳ.
Ngoài biển, cướp biển Tề Ngôi được Tây Sơn bảo trợ tung hoành cướp phá vùng biển Đông, cản trở giao dịch, lưu thông. Nhà Thanh rất không vừa lòng.
Dù đã mở đến 3 khu buôn bán với Trung Quốc, Tây Sơn cũng chỉ giao dịch được với người Anh mà nhà Nguyễn chưa bang giao.
3.
"Nhờ ngài xem lại lịch trình của Thị lang Lễ bộ Phan Huy Ích vào chuyến công cán Bắc Hà sáu năm về trước. Nếu có thể, tôi muốn có danh sách những người Phan Thượng thư đã gặp và những nơi ông ấy đã đi.
Gấp."
Quang Thùy xếp lá thư gửi cho Ngô Thì Nhậm, niêm phong lại, đưa cho tên lính chuyển đi. Hiện giờ Ngô Thì Nhậm đã lui về, chỉ chuyên tâm vào nghiên cứu Phật học ở Trúc Lâm Thiền tự, nhưng sáu năm trước ông vẫn còn là Binh bộ Thượng thư ở Bắc Hà. Nhờ cậy Ngô Thì Nhậm, Quang Thùy không sợ đánh động người trong triều đình rồi đến tai Phan Huy Ích.
Sáu năm trước... Chỉ một thời gian thật ngắn, vậy mà qúa nhiều người đã ra đi. Sau cái chết của Thái Đức đế, Phan Văn Lân chê trách nhà vua bức chết chú mà bỏ đi cùng bao nhiêu người khác. Rồi Võ Văn Dũng ép Ngô Văn Sở phải phản bội, gây xao xác trong triều. Ở nơi Bắc Hà xa xôi, chàng có thể cảm thấy sự tan rã dần dần của một triều đình đã từng hùng mạnh. Ngô Thì Nhậm đã biết điều đó, sớm hơn lúc nào.
"Tướng phủ phồn hoa cục dĩ di,
Thôn cương cổ sát thượng y y.
Hàn tuyền cảnh thế đam quyền lợi,
Khô thụ trào nhân tác phúc uy.
Kí vãng thị phi, vân biến hóa,
Như Lai sắc tướng, nguyệt minh huy."
Nhìn theo bóng áo đỏ của tên lính văn thư đi khuất sau hành lang vắng, Quang Thùy chợt thở dài, ngâm khẽ những câu thơ của viên quan họ Ngô trong tâm trí. Chưa tới năm mươi tuổi, vị sĩ phu này đã sớm dứt khỏi con đường quan lại mà ông từng theo đuổi cả một đời. Trong những bài thơ ở Trúc Lâm Thiền tự, chàng chỉ thấy một người chán chường với thời thế, không màng đến hưng vong thành bại.
"Đất nước này có thế nào cũng không liên quan đến tôi", Ngọc Bình đã nói khi Quang Thùy hỏi nàng về ý định sau khi đám tang Bắc Cung Thái hậu hoàn thành. Tất nhiên tôi sẽ về Kinh Bắc, nàng nhìn chàng như lấy làm lạ về câu hỏi, đất nước này có thế nào cũng không liên quan đến tôi. Trong đáy mắt nàng, trong chiều sâu hút đen thẳm ấy là một sự dửng dưng đến mức khiến chàng phải chạnh lòng.
Nếu như nàng không phải là công chúa triều Lê? Chàng chợt nghĩ cùng với cái chau mày. Lúc ấy, chàng sẽ phải suy tính cách khác, sẽ phải phiền phức nhiều hơn, nhưng không hiểu sao chàng lại cảm thấy nhẹ nhõm. Lôi kéo một cô gái vào ván cờ chính trị đang đến hồi thua cuộc không phải là điều chàng muốn, tuy chàng vẫn có thể sẵn sàng làm. Đúng như những gì Quang Toản đã nói vào đêm đó, "rút thịt rút tủy kẻ khác". Người em trai của chàng thật ra không ơ hờ như Quang Thùy đã tưởng. Chỉ đáng tiếc, sức mạnh để phản kháng, để có thể trở thành một người lãnh đạo lại không có ở Quang Toản, hoặc là đã bị triệt tiêu, bị đè nén từ qúa sớm.
Sau đêm ấy, nhà vua trẻ tiếp tục giam mình trong phòng kín, thỉnh thoảng đến đốt hương trước linh cữu Bắc Cung. Không nói một lời, cũng không nhìn ai, trong mắt chàng thiếu niên hiện diện một cánh cửa đã khép kín. Làn da chàng càng xanh xao hơn, gò má trũng lại. Vẻ bi ai ấy khiến những vị quan nhìn thấy nhà vua cũng phải thương cho lòng hiếu thuận của chàng. Sự thua cuộc ở Quy Nhơn cũng được thứ tha, được nhắc tới nhẹ nhàng hơn. Trong tình thế nguy ngập này, có vẻ như cả những phe phái cũng đã nhận ra sự sống còn của mình gắn liền với triều đình, hòa hoãn với nhau như ngày xưa họ đã từng đoàn kết để nhắm tới một mục tiêu duy nhất. "Những kẻ chỉ có thể cùng hoạn nạn chứ không thể chung hưởng vinh hoa", Quang Thùy nghĩ thầm. Không trách ngày xưa Lê Thái Tổ cho trừ khử những công thần đưa tới thắng lợi của ngài. "Dưỡng hổ di họa", trong tình thế này, nên thả hổ ra đối đầu với kẻ thù hay trừ khử chúng? Ai trong số chúng đáng phải tiêu diệt để bảo toàn cho lực lượng khác?
Giờ đây, việc cần làm duy nhất là ngăn cản sự phân rã này, không thể để nó tiếp tục. Không thể để nó phá hủy Tây Sơn thêm nữa. Tất cả đã bắt đầu từ sớm, rất sớm, cái mầm mống này. Từ cuộc chiến tranh của hai anh em Quang Trung và Thái Đức, từ những cuộc thanh trừng nội bộ người thân tín với anh em bên kia. Từ cuộc tử hình Vũ Văn Nhậm, từ khi Nguyễn Văn Duệ bị chính những người từng là huynh đệ cho voi giày, từ khi người con nuôi của phụ hoàng chàng bỏ trốn về với Nguyễn vương. Sự xao động lan như sóng nước, khiến Nguyễn Văn Trương đem quân về với họ Nguyễn lưu vong, chiếm được Gia Định. Nó đã rạch đôi Tây Sơn, và từ đường cắt, những vết nứt đã lan rộng, dần dần tạo thành một mành lưới đan vào nhau, chực chờ đổ vỡ bất cứ lúc nào. Đổ lên chàng, đổ lên Quang Toản và thân tộc, những người chàng yêu thương, bảo vệ. Nhìn vào bức tường mờ mờ tối trong căn phòng dịch quán còn dính một vệt đen như mực dây vào, bóng tối trong Quang Thùy ngày càng loang dần, gần như là giận dữ.
Sau khi Bùi Đắc Tuyên chết, mối họa tranh chấp phân tán của các quan chẳng những không được ổn định, ngược lại, trong sự bàng quan của Quang Toản, các đại thần càng lộng hành hơn. Nhưng đó chỉ là một con sóng ngầm, mà chuyện ngày xưa đã bị Hiến công Quang Bảo khơi lại bằng cuộc làm phản của mình. Thậm chí Quang Bảo đã có thể sẵn sàng về với Nguyễn vương, việc không ai có thể ngờ. Mối thâm thù của Quy Nhơn và Phú Xuân trở thành một bóng ma ám ảnh vương triều. Chiến tranh, xung đột và bè phái đã lợi dụng nó, nuôi lớn nó, biến nó thành một công cụ tàn phá khủng khiếp.
Muốn đánh thắng kẻ địch bên ngoài thì phải ổn định được trong triều. Phải lựa chọn và trừ khử như thế nào để làm lợi cho đại cuộc, bất kể đó là kẻ nào.
Bỗng Quang Thùy nghe tiếng chân vội vã đi về phía phòng chàng. Chàng đứng dậy mở cửa khi người bên ngoài chưa kịp gọi. Ngoài thành có tiếng xôn xao từ xa vọng lại, như thể có rất nhiều người.
- Có chuyện gì vậy? - Quang Thùy hỏi, nghĩ ngay tới một cuộc binh biến. Tên thái giám cúi đầu, giọng run rẩy.
- Bẩm Khang công, Thái phó Trần Quang Diệu kéo quân về bờ Nam sông Hương, kêu gọi Hoàng thượng ra ngoài thành đối chất vụ ám sát nào đó.
Lời chưa dứt, Quang Thùy đã vội vã chạy bổ về phía cung nội. Liếc mắt về sông Hương, chàng thấy một đại quân vũ khí sáng lòa đang hạ trại. Tiếng reo hò vọng đến tận hoàng thành.
Trong cung, Lễ bộ Thị lang Phan Huy Ích đã đứng đợi sẵn, gương mặt lấm tấm mồ hôi. Vẫn chưa thấy đức vua Cảnh Thịnh. Lắc đầu, Phan Huy Ích ra dấu về phương Bắc. Quang Thùy hiểu, em chàng vẫn đang ở trước linh cữu Thái hậu, xem như không nghe không biết chuyện đang xảy ra.
- Đừng báo cho Hoàng thượng. Ngài sẽ đi ra ngay nếu nghe đám lính gọi, thế thì khó mà bảo toàn mạng. - Quang Thùy hấp tấp nói. Huy Ích gật đầu, ông cũng nghĩ như thế. Ông đã phụng mệnh Hoàng thượng gọi Trần Quang Diệu vào triều, sứ giả vừa đưa lệnh đi.
Tại sao Trần Thái phó làm loạn, một người vừa đến hoảng hốt hỏi. Phan Huy Ích im lặng đưa ra một chiếu thư vừa được Trần Quang Diệu gửi tới. Lệnh gửi cho Võ Văn Dũng bảo ám sát Trần Quang Diệu còn nguyên dấu mộc đỏ của vua Cảnh Thịnh.
- Tất nhiên Hoàng thượng không làm việc này, - Nhận thấy ánh mắt của các vị quan, Huy Ích thở dài. - Có kẻ đã sợ bị truy tội về sự thất bại ở Quy Nhơn, khi đó quan Thái phó không đem quân ứng cứu thành mà quay về Quảng Ngãi, định giết người diệt khẩu. Võ Đại Tư đồ nhận được thư này lại giao cho Trần Thái phó. Trần Thái phó tính nóng như lửa, liền đem cả đại quân từ Quảng Nam về đây. Tôi e rằng lệnh gọi của đức vua sẽ không có tác dụng.
Qủa nhiên một lúc sau, sứ giả đã trở về triều báo cáo Trần Quang Diệu kháng lệnh vua, không vào chầu. Cung điện lặng phắc. Quân ở Quảng Nam của Trần Quang Diệu là đội quân tinh nhuệ nhất, nếu đánh vào, đức vua không thể nào chống đỡ nổi.
- Cho gọi nữ Đô đốc Bùi Thị Xuân! - Quang Thùy lên tiếng, phá vỡ sự im lặng ngột ngạt. Chàng ngồi xuống chiếc kỷ gần đó, ngón tay ấn vào giữa hai lông mày.
"Đến lúc rồi", chàng nghĩ. Lựa chọn và trừ khử. Bất kể đó là ai.
***
Bùi Thị Xuân xuống ngựa, đi vào giữa đám binh lính đang hạ trại như chỗ không người. Thấy nữ Đô đốc trấn giữ kinh thành, phu nhân của Trần Thái phó đi đến, đám lính tự động dạt ra nhường lối cho bà. Chiều đã buông xuống phủ Phú Xuân. Đèn trong doanh trại được bắt đầu thắp lên. Theo ánh đèn đến trại chủ tướng, Bùi Thị Xuân hất tấm vải che cửa bước vào trước sự bối rối của hai tên lính canh. Ngồi giữa chòi, thấy vợ đi tới, Trần Quang Diệu cau mày. Ánh mắt của Bùi Đô đốc bừng bừng giận dữ.
- Phu quân muốn làm phản à? - Bà hỏi, không cả cúi chào. Không đợi Trần Quang Diệu trả lời, bà nói tiếp, - Chính chàng đã lập đức Hoàng thượng, giờ đây cũng chính chàng định tạo phản sao?
- Phải, Hoàng thượng có nghĩ đến cái ân tình mà nàng vừa nhắc đó đâu! - Quang Diệu cũng tỏ ra giận dữ không kém gì vợ. Tay ông nắm chặt lại trên bàn. - Ta chinh chiến nơi lửa đạn, đổi cái mạng này cho ngài, nhưng ngài có nghĩ đến không? Hay ba lần bốn lượt muốn giết ta? May mà lần này Văn Dũng nghĩ đến ơn nghĩa ta che giấu không báo cho triều đình về trận thua của hắn mà đưa lá thư cho ta, nếu không ta đã chết mất xác rồi!
- Chàng làm như vậy, đáng giết lắm! - Bùi Thị Xuân gằn giọng. Nắm tay viên Thái phó đập xuống bàn.
- Nàng nói gì? - Quang Diệu quát. Bùi nữ tướng không thay đổi sắc diện.
- Thân làm tướng ngoài quan ải mà để thua trận, đó đã là tội đáng chém. Bao che cho nhau, lấn lướt Hoàng thượng, đó là tội đáng chém thứ hai. Bị Hoàng thượng bắt tội lại định mưu phản, đó là tội thứ ba. - Bùi Thị Xuân nhấn từng chữ một. Bà nhìn trân trân vào gương mặt đã nhạt bớt sắc đỏ của Quang Diệu. - Vả lại, chàng phải hiểu hơn ai hết, trong triều hiện giờ Hoàng thượng không có thực quyền, không để tâm triều chính, lúc này ngài chỉ chú mục vào than khóc Thái hậu. Một cái lệnh như vậy, chàng nghĩ Hoàng thượng chủ ý ban ra sao, dù ngài có đóng dấu triện đi chăng nữa? Chàng nghĩ Hoàng thượng có đủ sức bảo vệ chàng sao?
- Vậy nàng nghĩ ta phải ngồi yên cho bọn chúng giết ta để bảo vệ Hoàng thượng của nàng à? - Giọng của Trần Quang Diệu đã hạ thấp xuống. Ông nghĩ đến trách nhiệm của mình khi lập mưu trừ khử Lê Văn Ứng, dẫn đến trận thua Thị Nại rồi mất Quy Nhơn. Bùi Thị Xuân nhận ra sự nao núng ở chồng, liền tiến thêm một bước.
- Trong triều gian thần lộng hành, tình thế hiện tại lại càng cực kỳ nguy ngập. Phải trừ bọn ấy đi thì vua tôi mới toàn tâm chống giặc được. Thiếp đã trình bày nỗi khổ tâm của chàng với Hoàng thượng, ngài rất hiểu. Trong những năm vừa qua, Hoàng thượng bị bọn chúng chèn ép, thật ra cũng không thể làm gì. Hiện giờ lại có đại binh của chàng đóng ở đây, hỗ trợ cho Hoàng thượng trừ khử gian thần thì thật là một công đôi việc. Chúng ta phải dâng sớ cho ngài vạch rõ tội bọn chúng.
Đây là một bước lùi của nhà vua, Bùi Thị Xuân nghĩ thầm. Không hạch tội với Quang Diệu, lại cho ông mặc sức trả thù những kẻ chống đối trong triều. Mượn lực một phe cánh này để trừ khử phe cánh bên kia. Trận quyết chiến đang đến, thà suy yếu một góc còn hơn trong nhà đánh lẫn nhau, mở cửa cho giặc vào. Quang Diệu từ nay biết ơn Hoàng thượng, cảm kích ơn đãi ngộ, dốc sức phò tá. Vậy thì Tây Sơn mới có cơ hội tồn tại.
Đây là những gì Quang Thùy đã dặn dò bà. Vợ chồng bà chỉ cần dâng tấu, còn triều đình sẽ điều tra kẻ tạo ra chiếu chỉ giả. Bè phái của kẻ ấy sẽ bị ghép tội phản loạn và bị tận diệt. Bất kể đó là ai.
Đêm mùa thu năm Kỷ Mùi, phủ Phú Xuân đỏ rực ánh đèn và vang tiếng vũ khí, tiếng quân lính hò la. Lính triều đình ập vào nhà các đại quan, bắt cả những thuộc hạ dẫn đi. Thượng thư Hồ Công Diệu, Trần Viết Kết bị tống giam vào tử ngục. Quan Trung thư Phụng chính Trần Văn Kỷ, thân tín của Quang Trung hoàng đế từ ngày khởi nghiệp không tránh khỏi liên lụy, phải chạy trốn khỏi thành.
Đứng khoanh tay trên gò Dương Xuân nhìn xuống kinh thành, vết lửa từ những ngọn đuốc trải dài bên bờ sông Hương, Quang Thùy không nhận ra Ngọc Bình đã đến phía sau chàng.
- Đại nhân đã từng bảo phụ hoàng ngài là một người rất tình cảm, nhưng cũng có thể có những hành động hung tàn. Ngài qủa là con trai của phụ vương ngài. - Nàng nói, nhưng Quang Thùy không quay lại. Chỉ nghe một tiếng cười khẽ khi cơn gió chợt thổi bạt qua.
- Nàng lầm rồi, tiểu thư. Phụ hoàng ta không thể ra tay với những gì người yêu qúy. Nhưng ta thì có thể.
-----------
Chú thích:
Bài thơ của Ngô Thì Nhậm, dịch nghĩa:
Tái kinh Thiền Lâm tự
Phồn hoa tướng phủ cuộc tàn rồi
Chốn cũ làng quê cảnh lại tươi
Suối lạnh nhường răn người hám lợi,
Cây khô như giễu kẻ khoe oai.
Việc đời phải trái mây thay đổi,
Đạo Phật xưa nay nguyệt sáng ngời.
Nguyễn Văn Duệ: Một tướng của Tây Sơn, ở Nghệ An kềm chế Nguyễn Hữu Chỉnh. Sau cuộc chiến của Nguyễn Nhạc- Nguyễn Huệ đã từ bên Nguyễn Huệ định về phía Nguyễn Nhạc, ý định bất thành bị quân Tây Sơn đem cho voi giày, đầu bị bêu ở thành Hội An.
Vũ Văn Nhậm: Con rể Nguyễn Nhạc, bị Nguyễn Huệ nghi ngờ. Được lệnh đi đánh Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long, Vũ Văn Nhậm lập Lê Duy Cẩn làm Giám quốc, bị Nguyễn Huệ khép tội có ý làm phản, xử tử. Sau này Nguyễn Huệ vẫn phải lập Lê Duy Cẩn làm Giám quốc để an định dân.
Nguyễn Đăng Vân: Con nuôi của Nguyễn Huệ đang ở Gia Định cho rằng "bạn đã hóa thù" phải trốn đi tìm Nguyễn Ánh đang ở Xiêm La.
4.
Cuộc tiễu trừ bè phái của Hồ Công Diệu kéo dài khiến cho đám tang Bắc Cung Thái hậu bị hoãn lại đến cuối mùa thu. Sau cuộc gặp với vua Cảnh Thịnh, Trần Quang Diệu lại đưa quân về Quảng Nam. Ở Gia Định, giáo sĩ Bá Đa Lộc cũng vừa mất, Nguyễn vương cho hoãn lại các chiến dịch tiến công. Triều đình Tây Sơn có một khoảng thời gian qúy giá để ổn định biến loạn.
Thư của Ngô Thì Nhậm đến tay Quang Thùy vào một buổi chiều. Những gì chàng yêu cầu đã được đáp ứng đầy đủ. Sáu năm về trước, Quang Trung hoàng đế vừa qua đời, triều đình đã đặt luật ngầm theo dõi hành động của tất cả các quan lại. Chuyến đi của Phan Huy Ích được ghi lại chi tiết đến tận ngày giờ đến và đi. Quang Thùy dò tay lên những sự kiện, búng nhẹ vào tờ giấy.
Đây, chàng chợt thốt ra lời. Phan Huy Ích đến nhà Lê Duy Cẩn, rồi đi tới Kinh Bắc. Trong khoảng thời gian đó, ông ta có cho gọi thầy thuốc, tổ chức đám tang cho một phụ nữ. Quang Thùy ghi chú: Điều tra về người mà Phan Thượng thư tổ chức tang lễ và tìm đến người thầy thuốc hỏi xem ông ta đã chữa trị cho ai. Rồi chàng gửi thư về cho thuộc hạ ở Bắc Hà.
Vòng vây càng lúc càng siết chặt, Quang Thùy thầm nhủ. Chỉ cần một vài bước nữa, chàng sẽ chạm tay đến được cái bí mật ẩn giấu kia. Rồi sau đó...
Với nỗi buồn mênh mang không hiểu nổi, Quang Thùy ngước nhìn lên bầu trời mùa thu với những vạt mây trắng đang trôi đi trên cao, qua những cành cây đang rụng lá. Bầy sếu hoa thiên di ríu rít kêu. Nắng nhạt vàng rơi xuống từng vạt trên nền đất nâu được phủ lên bởi một lớp lá mỏng. Những đám cỏ úa mọc ven chân thành lơ thơ vài cụm cúc vàng. Cơn gió lạnh luồn dưới mặt đường, len qua những lớp áo. Không hiểu vì sương mù hay vì không khí thu, khí trời nằng nặng, âm ẩm lạnh. Đường lên hoàng thành lát đá xám, lún phún cỏ, dấu xe ngựa in hằn những vệt đất bùn. Vài người lính đi ngang cúi thấp đầu chào chàng. Quang Thùy quay về phía bờ sông. Sen trên mặt nước đã tàn gần hết, những chiếc thuyền vẫn êm ả trôi, tiếng lao xao vọng đến như đang gọi chàng.
- Tiết chế đại nhân. - Tiếng Ngọc Bình phía sau làm Quang Thùy giật mình ngoảnh lại. Nàng cúi chào chàng, trên tay còn mang một làn trái cây nhỏ, hẳn là vừa đem vào cung cho bà Chiêu nghi. Dạo này, nàng thôi những lời trêu chọc lẫn những ánh mắt ác cảm, chỉ đối với chàng bằng sự lịch sự lạnh lùng. Thậm chí có lần chàng đã thấy Ngọc Bình bảo cung nữ đắp chăn cho Quang Toản khi hoàng đế trẻ ngủ gục trong lúc canh linh cữu. Mọi việc đang dần trở nên thuận lợi hơn, Quang Thùy nghĩ, khẽ nhíu mày.
Cùng đường, hai người im lặng đi xuống gò. Từ mái tóc Ngọc Bình, hương hoa nhài len khe khẽ vào khứu giác Quang Thùy. Nàng đã khoác thêm áo ngoài màu lam nhạt ngoài áo mặc mùa hè. Thu rồi, chàng thầm nghĩ, lấy làm ngạc nhiên vì đến tận bây giờ mới chợt nhận ra sự chuyển dịch của thời gian. Bao mùa đã trôi qua, xuân hạ thu đông tiếp nối là bao nhiêu công việc, bao nhiêu dự định. Tất cả đã chẳng có ý nghĩa nào ngoại trừ những vạch mốc thời điểm của thiên nhiên.
- Hôm nay trời đẹp thật. - Quang Thùy chợt nói, chàng lại quay về phía bờ sông.
- Từ ngày đến đây tiểu thư bận bịu qúa nhiều công việc, hẳn chưa có dịp thăm thú Phú Xuân. Hôm nay trời đẹp, ta làm một cuộc dạo chơi trên thuyền được chứ? - Quang Thùy nhìn Ngọc Bình, mỉm cười. Nàng cau mày, đưa mắt về phía con sông và những chiếc thuyền. Bị lôi cuốn bởi ý nghĩ về một chuyến đi quanh Phú Xuân, Ngọc Bình gật đầu.
Quang Thùy đưa nàng xuống bến, thuê một chiếc thuyền. Người lái thuyền cởi dây ràng, tựa mái chèo vào kè đá đẩy thuyền ra xa. Những cánh bèo trôi trên mặt nước trong xanh đến gần như thấy được cả vài con cá vẫy cái đuôi vàng bên dưới dạt ra hai bên mạn thuyền. Ngồi ở đuôi thuyền, Ngọc Bình quan sát cảnh vật hai bên bờ Phú Xuân chầm chậm lướt qua. Bên cạnh, Quang Thùy thỉnh thoảng lại chỉ những di tích, đọc tên các danh lam cho nàng. Đồi Vọng Cảnh, ngọn Ngọc Trản, bãi Lương Quán, tháp Thiên Mụ, đồi Long Thọ, cồn Gia Viễn, những vườn cây ăn trái đang thay lá, những bãi hoa cúc vàng rực vào mùa. Hai bên bờ, thuyền đậu thưa thớt, thấp thoáng những ngôi nhà nhỏ ẩn sau hàng cây đang chuyển màu nắng óng. Người dân thong thả lại qua trên con đường đất, những tấm vải đủ màu sắc bay phần phật trước làng dệt. Cảnh sắc yên bình đến mức không thể biết được mới vài ngày trước đã có sự biến lớn trong hoàng thành, Ngọc Bình thầm nghĩ, nhớ lại cảm giác đầu tiên khi đến đô thành này. Đau thương chỉ đến như nước chảy, như mưa trút dằng dai, để khi nắng lên, tất cả đã hóa tan vào làn sương mỏng, nỗi xót xa đã đến vào những ngày tháng cũ bay ngan ngát vào trời xanh.
Thuyền đi hết đoạn sông, ghé vào bến. Quang Thùy lại đưa nàng lên núi Bằng Sơn, đồi thông Thiên An. Khi xe ngựa đưa nàng vào thành, Ngọc Bình đã nhìn thấy rừng thông này, nhưng đây mới là lần đầu tiên nàng chạm vào những gốc thông cao vút, xù xì. Gió nổi, những ngọn cây xanh rì trong mùa lá rụng rì rào như tiếng mưa rơi. Những hồ nước xanh như ngọc lặng yên chen giữa cỏ cây. Sương đã buông, màu trời lam dìu dịu như màu áo nàng mặc. Khói sương quẩn quanh quấn trên những mỏm cây, bàng bạc phủ trên mặt nước lờ lững. Không khí thanh mát mùi lá thông, hương cay cay của cỏ và qủa mục. Để Ngọc Bình một mình tha thẩn dạo chơi trên đồi, Quang Thùy tựa lưng vào một gốc thông, lại nhìn xuống bến sông. Tiếng hò từ xa vẳng tới, lan như những con sóng nhỏ dưới mái chèo.
"Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến đây là chỗ rẽ của lòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào?"
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào? Chàng cười nhẹ một mình khi nỗi buồn thường trực trong những ngày này lại ùa đến. Sau tang lễ Bắc Cung Thái hậu, chàng sẽ lại hộ tống bà Chiêu nghi trở về Bắc Hà, nhưng còn Ngọc Bình? Công việc cần phải nhanh chóng xúc tiến, chỉ cần chứng minh được thân phận của nàng, mọi việc còn lại đã có các quan trong triều định đoạt. Nhiệm vụ của chàng chỉ đến thế.
Rồi người thiếu nữ ấy sẽ vào cung nội, phó mặc đời mình cho vòng quay, gió lốc của chiến tranh. Chàng không thể chắc chắn về số phận của chính mình, vậy thì tại sao phải kéo nàng vào? Có nên không? Có. Tất cả những gì chàng có thể làm cho triều đình đều nên làm. Có phải không? Không. Rồi nàng sẽ oán hận chàng. Hơn cả oán hận người cha đã cướp đi gia đình nàng.
Từ trên đồi, Ngọc Bình cũng quay lại nhìn viên Tiết chế đang đứng lẻ loi trong sương mù. Tiết chế thủy bộ chư quân, Tổng binh dân thứ, Đặc sứ Bắc biên, người đã cùng Trần Quang Diệu thống lĩnh quân binh đánh tan Lê Duy Chỉ khi chưa đến tuổi thành niên, người đã vực Bắc Hà dậy sau nạn đói khủng khiếp giết chết mẹ nàng. Người mà ở Bắc Hà tên tuổi đi liền với niềm kính phục, nỗi sợ hãi và sự oán ghét song hành. Người chủ một vùng đất mênh mông, rộng lớn, đầy biến động, cai trị nó bằng sự cương quyết lẫn tàn khốc mà nàng đã được chứng kiến vài ngày trước. Người mà trong một đêm dẹp tan được tranh chấp triền miên của triều đình, đưa Trần Quang Diệu quy thuận vua Cảnh Thịnh. Vậy mà trong những lúc bình thường, khó nhận ra hình bóng ấy.
Chàng đã luôn mềm mỏng với nàng, Ngọc Bình tự nhủ. Lý do là gì? Có lẽ cũng chẳng có lý do. Con người này mềm mỏng với tất cả mọi người. Nàng đã chờ đợi được nhìn thấy một triều đình hùng cứ một vùng, nhưng đã lại thấy nỗi đau, sự bất lực, bơ vơ của những con người trong đó. Nàng đã nhìn thấy nhà vua trẻ qụy xuống trong nỗi tuyệt vọng vô bờ, sự bất lực trong mắt viên Tiết chế. Nàng nhìn thấy hai đứa con của chị nàng, không thể không yêu thương chúng. Họ có tội lỗi gì, nàng tự hỏi. Và tất cả những nỗi oán hận chất chứa bấy lâu trong lòng nàng đã lặng yên.
Đất nước này có như thế nào cũng không liên quan đến tôi, nàng đã nói thật. Nhưng nàng biết, khi trở về Bắc Hà, nàng sẽ ngóng trông tin tức của họ và sẽ đau buồn nếu điều xấu nhất xảy ra. Những con người này, cũng như nàng, phải gánh mối nợ của tiền nhân. Không như nàng, họ không có cách nào lẩn tránh. Và cái giá họ phải trả sẽ thảm khốc thế nào, nàng không dám nghĩ tới. Nhìn Quang Thùy đứng đó, sự cô độc trầm tĩnh như một cành thông chỉ biết rì rào cùng gió, nàng lại nhớ về vị vua trẻ nằm trước linh cữu, co mình dưới tấm chăn mỏng trong đêm dài. Đối với họ, sự sống có lẽ còn nặng nề hơn cái chết, nàng thầm nghĩ, xót xa.
Nàng thấy thương họ, đó là sự thật.
Trên bầu trời, nắng đã dần tắt, mây kéo về. Quang Thùy ngẩng lên, gọi Ngọc Bình đi về trước khi trời mưa. Vậy mà họ vẫn không kịp xuống thuyền. Trên đường đi, mưa rơi lất phất rồi trút xuống ầm ào. Trời tối sầm xuống như đêm. Lúc lên thuyền, cả hai đều ướt sũng, run lên vì lạnh. Người chèo đội chiếc nón tơi vừa giật sợi dây cột thuyền, vừa nói vọng vào khoang:
- Các ngài thay đỡ quần áo trong hòm cho khỏi lạnh.
- Sao lại có quần áo ở đây? - Mở cái hòm ở cuối khoang thuyền, qủa nhiên thấy vài bộ y phục dân dã ở trong, Ngọc Bình thắc mắc. Quang Thùy thắp ngọn đèn trong khoang, trả lời lơ đãng.
- Thuyền này về đêm được các ca nhi thuê...
Chàng chợt bỏ lửng câu nói. Ngọc Bình biết ý, cũng im lặng đưa cho chàng một bộ quần áo. Nàng đã cởi áo khoác ra, bộ áo mỏng đẫm nước dính sát vào da thịt. Cổ áo ngoài bung ra, để lộ chiếc yếm hồng bên trong cùng bờ vai trắng như ngọc. Thấy ánh mắt của Quang Thùy, nàng đỏ mặt. Chàng vội quay mặt đi.
- Để tôi tắt đèn vậy. - Chàng nói. Ngọn đèn dầu nhỏ được thổi tắt. Bóng tối trở lại trong khoang thuyền đóng kín, giơ tay không thấy ngón. Đêm đã buông trong một cái chớp mắt bên ngoài. Con thuyền vẫn lặng lẽ lướt đi giữa màn mưa mờ mịt trên sông.
Những ngón tay Ngọc Bình run rẩy khi nàng chạm tới sợi dây yếm cột trên cổ. Trong bóng tối, nàng vẫn cảm nhận rõ ràng sự hiện diện của người thanh niên ở cùng, hơi thở cùng mùi thơm như hoa quế khi chàng cởi áo. Má nàng vẫn nóng dù toàn thân lạnh run, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Tiếng chân đi đến hòm đựng quần áo ngay cạnh chỗ nàng đang ngồi. Nàng chợt nhớ đã không đưa cho Quang Thùy dây thắt lưng. Vội vàng qươ tay vào hòm lấy mảnh vải dài, nàng đưa nó về phía tiếng chân đang đến.
- Đây... - Nàng nói. Ngay lúc ấy, con thuyền chênh chao nhẹ. Bóng người trước mặt mất đà, ngã về phía nàng. Đột nhiên, nàng thấy mình bị phủ lên bởi một thân người nóng ấm, trong mùi hoa quế ngọt nồng. Hai cánh tay rắn chắc ôm lấy nàng.
"Xin lỗi", hơi thở của người thanh niên phả lên vành tai khiến nàng run khẽ. Trong bóng tối, chàng chống tay nhỏm dậy, kéo nàng lên theo. Tay chàng đặt lên chiếc lưng nhỏ, vào khoảng da mát lạnh chỉ được che đậy bằng sợi dây cột mỏng manh. Bàn tay ấy trượt lên cổ nàng, nơi sợi dây chỉ còn một nút thắt là rơi xuống. Hơi thở chàng nóng rực trên mặt nàng, qua má, qua mí mắt, chỏm mũi, đôi môi. Khoảnh khắc môi chàng chạm vào đôi môi đang run rẩy của nàng, tất cả những ý nghĩ như đã rời bỏ nàng.
Trong khoảnh khắc, một sự lặng im sâu hút như miệng vực đã bao phủ cả hai người trong khoang. Môi chàng dừng lại, không cả thở. Chiếc thuyền chênh chao làm tim nàng hẫng nhịp, và đôi tay, bờ môi kia bao phủ nàng.
Ghì chặt thân hình đang tê cứng lại của Ngọc Bình vào lòng, Quang Thùy dấn sâu thêm nụ hôn, nuốt lấy hơi thở nàng đầy mùi mưa thanh khiết ngọt ngào. Đôi môi này đã thốt ra bao lời chế nhạo chàng, nhưng giờ đây đã hoàn toàn quy phục, bộc lộ đầy đủ sự thơ ngây vụng dại. Môi chàng dò tìm nàng. Đôi bàn tay chai vì cung kiếm vuốt ve làn da mỏng manh, mượt mà, mát lạnh như lụa qúy đang dần ấm lên, trên bờ ngực phập phồng sau lớp vải. Sợi dây yếm thúc thủ, trượt xuống, phơi bày nàng với bóng tối. Thân thể chàng dưới hai tà áo chưa khép lại ép sát vào nàng, cho nàng mượn hơi ấm trong bóng đêm đặc quánh lạnh lẽo, ong ong tiếng mưa, giữa thế giới tràn ngập nước bên ngoài. Bàn tay, đôi môi chàng chiếm hữu nàng, khiến nàng muốn kêu lên vì sợ hãi.
Không biết nàng đã đẩy chàng ra, hay là chàng thốt nhiên lùi lại, Ngọc Bình chợt thấy mình bị ném về phía sau, lưng chạm vào thành khoang thuyền. Hơi thở gấp vẫn còn nghe rõ, nhưng khi Quang Thùy cất lời, giọng chàng rất trầm.
- Xin lỗi. Tôi không cố ý mạo phạm tiểu thư.
Hơi thở thoát qua đôi môi vẫn còn ran rát của Ngọc Bình đến giờ nàng mới cảm nhận được. Một chiếc áo khô được thả xuống, nàng cầm lấy, run rẩy mặc vào. Tiếng chân đi đến bên kia khoang thuyền, nơi xa nhất có thể được. Nàng co người lại, ngồi bó gối một góc. Gai ốc vẫn nổi khắp người nàng và trái tim vẫn không thôi đập dồn dập, đến mức nàng chỉ nghe loáng thoáng những gì Quang Thùy nói sau một hồi lâu im lặng:
- Nàng muốn tôi tạ tội thế nào, tôi cũng xin nhận lãnh.
Có thể chàng đã dập đầu xuống trong bóng tối, nhưng Ngọc Bình vẫn không thốt ra một lời. Đèn trong khoang thuyền không được thắp cho đến khi thuyền cập bến. Lấy chiếc ô trong khoang che đầu, Ngọc Bình xuống thuyền mà không nhìn lại một lần. Nàng vội vã đi về dịch quán.
Quang Thùy đưa cho người chèo thuyền gấp đôi số tiền đã định. Xuống bến, nhìn theo bóng nàng khuất vào bóng tối, giữa những người khoác áo tơi hay che ô qua lại trên đường, chàng thở ra. Đưa tay vào túi, chàng lấy ra một miếng ngọc xanh còn nguyên dây đeo cổ, đưa trước mặt. Trong ánh đèn nhập nhoạng, chàng vẫn nhận rõ những đường nét của ấn triện triều Lê khắc sâu vào miếng ngọc.
Sợi dây dài đã che giấu miếng ngọc dưới những lớp áo của Ngọc Bình. Nhưng chàng đã nhìn thấy nó khi nàng đưa quần áo cho chàng.
--------------------
Chú thích:
Núi Bằng Sơn: Tên cũ của núi Ngự Bình.
Hoa rơi
1.
Mùa đông năm Kỷ Mùi, tang lễ Bắc Cung Thái hậu diễn ra lặng lẽ giữa kinh thành. Một số ngôi nhà nhỏ được cất lên tại cánh cổng ra vào cung dẫn ra bờ sông. Thuyền đậu san sát trên sông, cờ trắng bay rợp trời. Hàng rào lính kéo dọc hai bên bờ. Đúng giờ, vua Cảnh Thịnh dẫn đầu đoàn rước đưa quan tài xuống thuyền. Đoàn thuyền lướt chầm chậm giữa đám khói hương nghi ngút từ những bàn thờ đặt trên bờ.
Đứng trước mũi thuyền rồng nhìn về phía chiếc thuyền chở quan tài Bắc Cung Thái hậu dẫn đầu đi về phía dòng sông mờ sương xam xám, gương mặt vua Cảnh Thịnh lại trở về nét băng giá lạnh lẽo thường ngày. Gương mặt chàng cũng giống như khi được gọi ra để tiếp chuyện Trần Quang Diệu, tuy chàng đã làm hết phận sự của mình. Không ai biết được những gì đang diễn ra trong lòng nhà vua, kể cả khi chàng ngồi suốt đêm trước linh cữu Thái hậu đêm trước tang lễ. Trong đôi mắt màu nâu nhạt trong suốt ấy, có điều gì đó đã vĩnh viễn chết đi. Quang Thùy đã vài lần gợi chuyện với người em, nhưng những gì Quang Toản đáp trả chỉ là cái nhìn hoàn toàn hờ hững.
Vậy mà có lúc ánh mắt ấy cũng có chút thảng thốt, Ngọc Bình nghĩ thầm, quan sát nhà vua từ chiếc thuyền chênh chếch đằng sau. Lần đầu tiên nghe giọng nàng, Quang Toản thình lình quay lại. Cái nhìn của nhà vua dán chặt vào nàng khiến những người xung quanh cũng phải hoảng sợ. Nhưng một lúc sau, khi Quang Toản quay đi, khuôn mặt, đôi mắt chàng trở về sự trống rỗng muôn thưở. Nhà vua như một tượng đúc bằng thủy tinh, đó là những gì Ngọc Bình đã xác định. Lạnh lẽo, rực rỡ, nhưng vô cùng mỏng manh. Trái ngược với người anh Quang Thùy có vẻ ngoài mềm mại hiền hòa nhưng bên trong lại băng giá cứng rắn như một khối thép bạc.
Nghĩ đến Quang Thùy, gò má nàng lại chợt nóng rực. Nàng quay nhìn phía bờ sông, nơi người dân đang cúi sụp xuống khi thuyền đi qua. Từ buổi tối ấy, nàng đã cố tình tránh mặt Quang Thùy. Chỉ cần nghe tiếng chàng từ xa, nàng đã tìm cách nào đó lánh đi. Quang Thùy ở giữ kinh thành, không đi theo đám tang, điều đó làm nàng cảm thấy nhẹ nhõm. Nếu không, nàng bắt buộc phải đối mặt với chàng, và sự bối rối này nàng không biết cách nào để che giấu.
Đó là lần đầu tiên có người đàn ông ôm nàng, chạm vào nàng, nụ hôn nóng rực ấy vẫn còn cháy rát trên môi nàng. Đã từng có rất nhiều người ngưỡng mộ nàng, nhưng trước vẻ lãnh đạm của nàng, họ chỉ đứng xa xa nhìn, không có cả sự bạo gan để chạm vào tay nàng. Cái mãnh lực của một đôi tay quất siết quanh mình, đôi môi tham lam muốn nuốt trọn nàng, nàng chưa từng biết tới. Nàng cũng chưa từng biết rằng những điều đó có thể làm cho nàng quên cả linh hồn mình. Khuất phục hoàn toàn. Quy thuận hoàn toàn.
May mà chàng đã thả tay ra... Ngọc Bình cúi đầu che giấu đôi má càng lúc càng đỏ lên. Nàng đang nghĩ những điều hoàn toàn không thích hợp trong một đám tang, nàng tự nhắc mình. Và dù sao đi nữa, đó cũng là con của kẻ thù. Như mọi khi, suy nghĩ cuối cùng ấy dội một gáo nước lạnh làm tê cứng cả trái tim nàng.
Nàng không biết phải làm sao đối mặt với những cảm xúc, tình cảm này. Tha thứ, nàng có thể. Nhưng yêu thương, nàng chưa sẵn sàng. Nhìn về chiếc thuyền đầu đoàn, nàng lại thấy nỗi xót xa lặng thầm cho người chị tưng tức trong tim. Chị đã sống như thế nào với gánh nặng ấy, nàng tự hỏi. Nàng đã muốn tìm câu trả lời trong những gì còn sót lại trong cung tẩm, trong cả những bút tích được cho là của chị mình. Nhưng có vẻ như Ngọc Hân công chúa đã biết trước điều đó, đã cho thiêu hủy tất cả những gì thể hiện bản thân mình, cuộc đời mình. Thiêu cháy bản thân trước khi xác thịt trần tục đi vào cõi vĩnh hằng.
Một cái chết chậm rãi như dòng nước trôi đi trước khi tan biến, nàng thầm nhủ. Nàng đã từng nghĩ có một sự oán trách ngấm ngầm, một sự bất mãn vô phương bày tỏ trong cách nhắm mắt và chết đi như thế. Nhưng dần dần, nàng chỉ thấy buồn. Buồn như thấy một người đang rơi xuống hố sâu nhưng không thể nào cứu giúp. Như thấy ngày tàn, mây tận, sao sáng lên rồi tan biến cuối trời.
Đó là một cảm giác nàng không hiểu rõ. Nàng đã từng nhìn vào cặp mắt người chết. Đôi đồng tử đen trơ khấc, như mảnh phản chiếu của thủy tinh, như sắt. Chỉ khi khép mắt lại, con người mới có thể rời bỏ thế giới này một cách an bình. Rời bỏ để trôi đi trên một con sông đầy tiếng cô hồn rên xiết. Trong công việc mà nàng đã chọn, cái chết là người bạn đồng hành của sự sống, là người khách không mong muốn nhưng con người phải học cách đón nhận. Đón nhận, và dâng hiến mình cho nó là một chuyện khác, tất nhiên.
Miên man, nàng nghĩ đến đôi mắt có màu đêm thật lạ. Trong đôi mắt ấy, nàng có thể hình dung ra trăng tàn, sao tắt, mây trôi, ánh sáng của những gì chưa từng hiện diện. Đó cũng là một con người thật lạ lùng. Tựa như bóng tối. Nàng có thể nghe được thanh âm nhưng không nắm bắt được hình hài. Chàng chỉ cười mỗi khi nàng trêu chọc, chỉ im lặng khi có điều không vừa ý. Giọng nói đã mang âm miền Bắc trầm trầm. Tất cả về chàng đều tốt đẹp, đều được ngợi khen, kính trọng. Nhưng đằng sau cái vỏ đó là một con người mà nàng luôn lấy làm e ngại, ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy. Không chỉ vì chàng là con trai của kẻ ấy.
Trong bóng tối chênh chao, âm âm tiếng mưa, nàng đã nghĩ về màu sắc đôi mắt chàng. Cảm thấy bị hút vào nó, màn đêm mông lung, ấm áp không một ngọn gió, nồng hương hoa quế giữa hạ, không thể chống lại nổi. Đó là suy nghĩ cuối cùng của nàng trước khi bờ môi bị chiếm lĩnh. Rơi vào trong vòng tay ấy như buông mình vào vực sâu. Một cảm giác đầy nguy hiểm. Nỗi sợ hãi đã đến, bóp nghẹt tim nàng. Âm vọng vẫn còn nghe rõ trong dòng nước chảy xuôi, tiếng ồn xao xác của đám người.
Đoàn thuyền đi hết một ngày đến nơi hạ huyệt. Bắc Cung hoàng hậu được chôn cạnh lăng Đan Dương của Quang Trung hoàng đế. Sau một ngày làm lễ tiếp theo, đoàn người trở về. Ngang qua gò Thiên Mụ, bà Chiêu nghi dừng lại, muốn lên chùa thắp hương cho con gái. Những chùa chiền trong Phú Xuân bị phá gần hết, chỉ để lại vài ngôi chùa làng, trong đó có chùa làng Hà Khê dưới chân gò Thiên Mụ. Ngọc Bình đi theo mẹ nuôi nàng. Hai người tách khỏi đoàn, đi theo những bậc thang đá lên ngôi chùa cổ. Trong lúc bà Chiêu nghi trò chuyện với các sư thầy, thắp hương làm lễ, Ngọc Bình lang thang đi dạo trong sân. Mùa đông, mưa rây rắc lất phất hầu như suốt cả ngày. Những đám lá rụng nằm ép xuống trong nước, dưới những bước chân người. Trước cổng chùa, những cái chõng nhỏ của người bán hương, xem bói gá vào tường san sát nhau. Tò mò, Ngọc Bình ngồi xuống cái ghế kê trước chõng của một ông thầy bói hình dạng cổ quái với hàm râu bạc phơ quặp lên, chiếc khăn đội đầu to gấp đôi bình thường. Nàng viết ngày giờ sinh của mình vào tờ giấy, đưa cho ông ta. Chỉ liếc qua nhìn nàng, ông thầy bói lại cúi xuống ngắm nghía tờ giấy, cầm cây bút ghi những phép tính khó hiểu bên cạnh.
- Xem cho ta với nào!
Giọng nói vọng phía sau Ngọc Bình khiến nàng giật nảy người. Người vừa đến nghiêng xuống trên nàng, với tay lấy cây bút còn để trên bàn rồi mới ngồi xuống bên cạnh, ghi tuổi mình ra giấy. Vẫn mùi hoa quế thoảng qua khi chàng lại thật gần. Ngọc Bình thấy môi nàng run.
Đẩy tờ giấy về phía ông thầy bói, Quang Thùy mới quay nhìn nàng. Ngọc Bình thấy má nóng lên, vừa giận vừa thẹn. Nàng định đứng dậy, nhưng chàng đã nắm vạt tay áo nàng lại.
- Tiểu thư, - Ông thầy bói gọi nàng, vẫn không ngẩng lên. - Lá số tiểu thư thật là một lá số độc đáo kỳ lạ. Cực kỳ tôn qúy mà cũng cực kỳ nghiệt ngã. Phụ mẫu xuất thân vương giả, nhưng cơ nghiệp sớm tiêu vong, phải xa lìa từ rất sớm. Cung Phu thê có Địa Không, Hóa Kỵ tọa thủ cho thấy sự gãy đổ, trắc trở, tuy người chồng cũng là bậc tôn qúy hiếm có trên đời. Thiên Di, có Phi Liêm, Quan Phù, Thiên Hình bị miệng đời đàm tiếu, ghét ghen. Mệnh có Thái Âm, Thiên Cơ, người xinh đẹp, phong nhã, thông tuệ, nhưng lại có Thiên Khốc, Điếu Khách, cuộc đời chìm trong nước mắt. Trăng thượng tuần sắp đến ngày viên mãn gặp lúc đêm tàn, ánh rực rỡ lúc gần tắt càng mong manh lắm.
Những lời ấy, Ngọc Bình chỉ nghe được có ba bốn phần. Tâm trí nàng chú mục cả vào vạt áo đang bị Quang Thùy nắm lấy. Không thể giằng ra, cũng không tiện phản ứng giữa chốn chùa chiền trang nghiêm u tịch, nàng chỉ có thể ngồi yên, tuy vẫn không nhìn thẳng vào chàng. Ông thầy bói sau một hồi ghi chép liền ngừng lại, chăm chú nhìn người thanh niên trước mặt.
- Có qúa nhiều sát tinh, phải chăng đại nhân theo nghiệp binh tướng? Cung nào trong lá số của ngài cũng không tốt, nhất là Đào Hoa, Thiên Không tại Mệnh. Thiên Không đi kèm với Thiếu Dương, lại có cả Thái Dương cho thấy một trí tuệ cao thâm, nhưng là số Uổng tử. Ví như chim bay ngang trời gãy cánh, cây đào bị đốt cháy giữa thời kỳ tươi đẹp. Có một bài thơ vịnh về nó, đại nhân có muốn nghe?
"Thiên Không hội với Đào Hoa
Cầm kì thi họa tài ba tuyệt vời
Cơ mưu quyền biến hơn người
Ngàn năm bạc mệnh một đời tài hoa"
Quang Thùy cười khẽ, trả tiền cho ông thầy bói rồi cầm hai tờ lá số đứng dậy. Vẫn không thả tay áo Ngọc Bình, chàng dẫn nàng vào hiên chùa khuất sau hàng thông xanh cùng đại trắng. Vừa đi, chàng vừa cười nói:
- Bọn thuật sĩ giang hồ vốn thích hù dọa người khác làm vui, tiểu thư đừng nghe lời bọn họ làm gì.
- Buông ra! - Vừa đến chỗ vắng người, Ngọc Bình liền dứt mạnh tay khỏi cái nắm của Quang Thùy, nhưng chàng cũng đã thả ra. Mất đà, nàng va vào bức tường đằng sau. Cố nén cười, Quang Thùy nhìn gương mặt đỏ rực của nàng càng cúi thấp xuống. Bây giờ thì nàng giống một thiếu nữ hơn, không phải hình ảnh ta-đây-nữ-đại-phu thường lệ, chàng nghĩ thầm.
- Tiểu thư đang giận gì thế? Nếu về lời nói của ông thầy bói thì lá số của tôi còn tệ hơn nàng nhiều. Nàng đâu có số Uổng tử như tôi. - Chàng quyết định đùa thêm một chút. Nghe lời nói, Ngọc Bình cau mày.
- Đừng nói gở... - Nàng chợt nín bặt. Giờ thì cả làn da cổ nàng cũng nóng bừng. Quang Thùy im lặng. Một lần nữa, nàng thấy mình bị bao bọc bởi hương hoa quế khi chàng tiến lại. Ngoài hàng hiên, mưa đã nặng hạt hơn, rơi xuống như một tấm màn nước từ những viên đá lợp. Hàng cây che chắn hai người khỏi những ánh mắt bên ngoài. Nhưng chàng dừng trước nàng, cúi đầu. Môi chàng chỉ cách mái tóc nàng một khoảng cách rất nhỏ, đủ để lời nói chàng thổi qua tóc mai nàng.
- Giờ thì tiểu thư không dùng loại hương hôm đó. Tiểu thư đừng dùng nó nữa. Loại hương ấy khiến người khác không cưỡng lại được đâu.
Mất một lúc để Ngọc Bình hiểu được ý chàng. Đi theo linh cữu, nàng không dùng hương. Còn hôm ấy, nàng đã đeo túi phấn mạt lị trong người, hẳn nó đã theo mưa ngấm vào nàng. Quang Thùy đứng tránh ra một chút, vẫn cúi đầu.
- Tôi đã nói nếu tiểu thư muốn bắt lỗi tôi thế nào cũng xin nhận lãnh. Thái độ lẩn tránh của tiểu thư trong những ngày vừa rồi khiến tôi rất khổ tâm.
Ngọc Bình mím môi. Vậy là chàng bị thu hút bởi mùi hương trong bóng tối, cái lý do ấy khiến nàng vừa nhẹ nhõm, vừa ngượng ngùng lại vừa tức giận. Tức giận vì lý do gì, nàng không hiểu, nhưng nó khiến mắt nàng cay. Nàng chớp mắt, nhìn ra màn mưa bên ngoài. Nàng đã không muốn liên quan qúa sâu đến những người này, phải không? Vậy thì tại sao phải đau lòng?
- Tôi tha lỗi cho đại nhân. - Giọng nàng bình thản. Nàng quay lưng định bước đi, một lần nữa, Quang Thùy nắm tay áo nàng giữ lại.
- Tiểu thư, buổi tối này tôi muốn gặp nàng cùng bà Từ cung ở dịch quán. Nhờ nàng báo với bà Từ cung là đầu giờ Dậu tôi sẽ tới.
Ngọc Bình quay lại, hơi cau mày. Hẳn chàng muốn bàn về chuyến trở về Bắc Hà, nàng thầm nghĩ, gật đầu.
Khi bóng người con gái đã khuất sau hàng cây, Quang Thùy mở hai tờ lá số trong tay ra. Ngày giờ sinh mà Ngọc Bình đã ghi hoàn toàn trùng khớp với tư liệu mà chàng xem tại kho lưu trữ trong hoàng thành Thăng Long.
"Nàng qủa thật là công chúa", chàng bật nói ra từ tâm can lạnh ngắt như những giọt mưa vẫn trút bên ngoài.
-----------------
Chú thích:
Uổng tử: Chết yểu.
Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan...: Những sao và cung trong tử vi.
2.
Thị lang Phan Huy Ích đã không chút nghi ngờ khi được tin nhắn tới dịch quán bà Chiêu nghi đang trú ngụ. Hẳn mẹ con bà đang sắp xếp về lại Bắc Hà và muốn gặp ông chào từ biệt. Chỉ khi nhìn thấy Quang Thùy ngồi trong xe dừng trước cửa dịch quán, đang ngẩng đầu nhìn mưa lất phất bay qua ánh đèn treo trước cửa, ông mới thoáng giật mình. Trông thấy Phan Huy Ích xuống xe, Quang Thùy cũng đến thi lễ với ông.
- Khang công hôm nay cũng đến đây thăm bà Từ cung? - Phan Huy Ích thăm dò. Quang Thùy có nhiệm vụ hộ tống hai mẹ con về Bắc Hà, sự có mặt của chàng có thể không có ẩn ý gì như ông đã tưởng. Nhưng Quang Thùy chỉ mỉm cười, nụ cười rất khó dò.
- Tôi đã cho người mời Phan Thị lang. Ngài đã tới, vậy thì chúng ta vào.
Nói đoạn, chàng gọi người ra mở cửa. Vẫn với dáng điệu thong dong như vậy, chàng đợi người đánh xe cho hai chiếc xe vào trong sân rồi mới bước vào trong. Nghe tiếng cửa mở, bà Chiêu nghi vội ra ngoài tiếp đón. Bà không hề có chút nghi ngờ, chỉ mệt mỏi sau những tháng ròng rã trông chừng linh cữu con gái. Bà nói điều đó, tạ lỗi với hai người đi sau mình. Phan Huy Ích vẫn liếc chừng Quang Thùy, còn ánh mắt chàng dõi vào khoảng không, tư lự.
Trong nhà, Ngọc Bình đang châm trà, nàng cúi chào khi thấy khách đi tới, lùi lại phía sau bà Chiêu nghi khi chủ khách phân thứ tự ngồi. Nàng đã trở về vẻ lãnh đạm thờ ơ, đôi mắt nhìn xuống tối lại trong ánh đèn. Chưa đoạn tang, nàng ăn mặc đơn giản, không đeo trang sức. Mái tóc đen viền lấy khuôn mặt nàng tạo nên vẻ thanh nhã tú lệ đến mức Quang Thùy thấy tim mình đập hẫng đi một nhịp. Nhưng từ đầu đến cuối nàng vẫn không nhìn chàng.
- Ngài Tiết chế hẹn chúng tôi bàn việc gì thế? - Bà Chiêu nghi mở đầu cuộc trò chuyện bằng giọng xởi lởi trong khi rót trà ra tách. Quang Thùy lịch sự nhận lấy, hớp một ngụm rồi mới ngẩng lên nhìn bà.
- Đáng lẽ bà và tiểu thư sẽ trở về Bắc Hà trong vài ngày nữa, nhưng hiện giờ có việc gấp, mong hai người nán lại. - Chàng thong thả nói, để mọi ánh mắt trong phòng, ngoại trừ Ngọc Bình, hướng về mình rồi mới tiếp tục. - Có một lời cầu hôn được đưa ra với Bình tiểu thư.
Giờ thì Ngọc Bình đã phải ngẩng lên nhìn Quang Thùy, nhưng chàng tránh ánh mắt nàng. Mắt bà Chiêu nghi mở lớn, bà hỏi dồn:
- Ai thế? Nhà nào thế? Như thế nào? Ai mà quan Tiết chế phải đích thân đến nói?
- Họ Nguyễn, - Chàng không cười, lời nói ngừng trên môi chàng một thoáng. - Đương kim hoàng thượng muốn cầu hôn Bình tiểu thư.
Trong phòng lặng phắc như tờ, có thể nghe rõ ngọn lửa đang cháy trong ngọn đèn trên bàn. Bà Chiêu nghi gần như bật ngửa ra sau. Bà lắp bắp những từ ngữ rối vào nhau.
- Hoàng... Hoàng thượng? Nhưng... tại sao? Bình nó... nó chỉ là một dân nữ bình thường... không thể...
- Nàng ấy không phải là dân nữ bình thường. - Quang Thùy nhìn thẳng vào mắt bà như thôi miên. - Nàng ấy là công chúa Lê Ngọc Bình của đức Hiển Tông.
Bên cạnh chàng, Phan Huy Ích trút ra một tiếng thở. Vậy đấy, ông nghĩ, cuối cùng thì anh ta cũng tìm ra. Ông đã qúa bất cẩn. Ông thấy lòng mình chùng xuống, não nề. Nhưng khi ông nhìn lên Ngọc Bình, khuôn mặt nàng vẫn giữ vẻ băng giá lạnh lẽo, chỉ có đôi mắt trừng trừng nhìn viên Tiết chế.
- Sao... sao ngài... ngài lại nói thế? - Vẫn bà Chiêu nghi là người nói chuyện giữa đám người im lặng. Quang Thùy rút trong tay áo ra một cuộn giấy, chậm rãi nói.
- Sáu năm trước, mẹ Bình tiểu thư, hay ta gọi là Ngọc Bình công chúa, đã đưa nàng, lúc ấy đang bệnh nặng, đến nhà Lê Duy Cẩn nhờ cứu giúp, rồi bà cũng mất do kiệt sức. Thị lang Phan Huy Ích đây là người gọi thầy lang và tổ chức tang lễ cho mẹ nàng, rồi đưa nàng về Kinh Bắc nhờ cậy bà Từ cung. Từ ấy, nàng đổi họ thành Nguyễn Bình, sống dưới thân phận con nuôi bà. Lê Duy Cẩn đã xác nhận.
Chàng đặt thủ bút của Lê Duy Cẩn xuống bàn. Vốn cũng đã sống lâu trong cung cấm, bà Chiêu nghi đã lấy lại bình tĩnh, bà lắc đầu.
- Đứa bé đó bệnh qúa nặng, không sống nổi. Thấy Bình cùng tuổi, ta đưa về nuôi, rồi đặt tên ấy cho nó đó thôi, không phải...
- Cùng tuổi? Ý bà nói là cả ngày giờ sinh? - Quang Thùy đặt mảnh giấy Ngọc Bình đã tự tay ghi ngày sinh của nàng lên tờ giấy trước. Bây giờ chàng có thể cảm thấy ánh mắt nàng ghim thẳng vào chàng. Nhận ra nét chữ con gái nuôi, bà Chiêu nghi giật mình, nhưng vẫn cố phủ nhận lần cuối:
- Đúng vậy. Ngay cả điều đó cũng đâu chứng minh được con bé là công chúa Lê triều.
- Vâng, vậy thì giải thích ra sao về vật này trong người nàng?
Không giật mình khi Quang Thùy rút miếng ngọc từ thắt lưng ra, Ngọc Bình có cảm giác mình đã chờ đợi giây phút này. Chờ đợi sự xuất hiện của thứ nàng đánh mất. Nàng đã lo lắng, nhưng không thể nói với bà Chiêu nghi. Giờ đây, bà nhìn nàng, Phan Huy Ích cũng nhìn nàng. Câu hỏi trong mắt họ: Tại sao? Tại sao? Nhưng không có câu hỏi trong mắt nàng khi nhìn chàng. Nàng mỉm cười, cất tiếng nói đầu tiên trong buổi tối này.
- Nếu tôi nói mảnh ngọc này là của cô công chúa đã mất thì sao, Tiết chế đại nhân?
Chàng nhìn khuôn mặt băng giá của nàng, vẫn tránh đôi mắt đang ngập tràn bóng tối.
- Nếu cần, Lê Duy Cẩn sẽ được gọi đến đây để nhận diện.
- Ồ, bao nhiêu năm rồi, sự đánh giá của ông ấy có chính xác không?
Chàng bắt buộc phải nhìn thẳng vào mắt nàng. Nàng đang thách đố. Nàng sẵn sàng chống cự đến phút cuối cùng. Nàng buộc chàng phải tàn nhẫn.
- Tốt thôi, - Chàng nói, cất mảnh ngọc vào tay áo. - Vậy ngày mai tôi sẽ đưa hai mẹ con trở về Bắc Hà, cùng với con của Bắc Cung Thái hậu. Chúng tôi đang cần ổn định miền Bắc. Nếu nàng không chấp nhận, Văn Đức phải đến nhận tước công ở một vùng nào đó thôi.
Giọng chàng vẫn mềm mại, mắt không rời khỏi nàng. Nàng im lặng. Tất cả im lặng. Không thể chịu đựng ánh mắt ấy thêm được nữa, chàng đứng dậy.
- Nàng và bà Từ cung hãy suy nghĩ. Lễ bộ Thị lang, đây là việc của ngài. Ngày mai chúng ta đến báo tin mừng cho Hoàng thượng.
Không thể ngồi lại, Phan Huy Ích cũng phải đi theo Quang Thùy ra về. Vừa đến cửa, chợt tiếng Ngọc Bình từ bên trong vọng đến.
- Tiết chế đại nhân. - Nàng gọi. Quang Thùy đứng lại, không quay mặt về phía nàng. - Ngài khám phá ra chuyện này từ lúc nào?
Giọng nói của nàng, dù đã cố kìm nén, vẫn không tránh khỏi cảm giác đổ vỡ trong âm điệu. Khiến chàng phải lặng im mất một lúc.
- Từ lần đầu tiên đến phủ Từ cung. - Chàng trả lời, bước đi. Chàng không thể thấy tay nàng đang đặt trên lưng tựa ghế của bà Chiêu nghi run lên. Nàng cúi đầu, nghe tiếng chân đi khuất, rồi tiếng cửa mở, xe ngựa chạy ra. Còn có tiếng động khác, nghe như rất nhiều bước chân ngoài dịch quán. Hẳn chàng đã sai lính đến canh gác. Nàng nhắm mắt, run rẩy. Vì tức giận. Vì sợ hãi. Vì một cơn chuếnh choáng đã đến phủ vây tâm trí nàng. Sự hẫng hụt của một điều nàng vẫn không thấu rõ. Nàng thấy mình bị đẩy xuống vực thẳm.
- Con ơi!... - Tiếng bà Chiêu nghi rền rĩ. Bà ôm lấy vai nàng. Mắt bà nhòa lệ. Bà sẽ lựa chọn sao đây, giữa người con gái nuôi và đứa cháu ngoại? Thằng bé ấy liệu có chịu đựng nổi một mùa đông thôi ở vùng núi khắc nghiệt miền Bắc, giữa những xung đột triền miên? Nàng đặt tay lên vai bà. Bờ vai đã gầy rộc đi vì tang chế con gái. Bà đã cưu mang nàng, cho nàng một mái nhà, dạy dỗ nàng, coi nàng như con đẻ. Ơn nghĩa ấy, suốt đời này nàng cũng không trả nổi.
- Mẹ, con không sao đâu. - Nàng nói, ôm lấy bà, một cử chỉ mà nàng chưa bao giờ làm. Trong tay nàng, bà Chiêu nghi nấc lên từng đợt. Bà nghĩ đến đứa con gái vừa chôn cất, và một đứa con gái khác sắp phải vào nơi triều đình hỗn loạn sắp đến ngày tàn lụi.
Đôi mắt Ngọc Bình dõi vào bóng tối trong góc phòng, câm lặng.
***
- Không! Nếu là nàng ta thì không! - Quang Toản lắc đầu. Giọng chàng mạnh mẽ cương quyết đến đáng ngạc nhiên so với tình trạng hiện tại. Vừa nghe Quang Thùy trình bày xong, nhà vua đã lập tức bày tỏ thái độ chống đối. Đôi mắt nâu của Quang Toản cau lại, dường như giận dữ. Theo lệ, Phan Huy Ích phải cất lời.
- Tại sao, bệ hạ? Nàng ta có gì không vừa ý người chăng?
- Đầu năm sau ta sẽ tiến đánh lấy lại Quy Nhơn, vậy thì phải gấp rút tiến hành hôn lễ. - Đứng khoanh tay dựa vào tường, Quang Thùy cúi đầu nói, giọng chàng trầm xuống. - Bệ hạ, người là vua một nước, người không thể hành động vì ý thích cá nhân. Dù nàng ta có tật bệnh, có khó chịu, không vừa mắt người đến đâu đi chăng nữa, người cũng nên vì lợi ích chung, nghĩ đến đại cuộc. Thần đã cho người trong bộ Lễ chọn ngày tốt trong tháng này.
- Khang công! - Quang Toản quát, chỉ tay vào Quang Thùy. Môi nhà vua run lên vì giận. Chậm chạp, Quang Thùy ngẩng đầu, nhìn vào mắt người em.
Bàn tay Quang Toản rơi xuống bên hông trước đôi mắt đầy ngập nỗi buồn thương của người anh cả.
----------------
Chú thích:
Văn Đức: Tên con trai công chúa Ngọc Hân.
3.
Quang Thùy cúi đầu đứng trước cánh cửa dịch quán của mẹ con bà Chiêu nghi một lúc lâu rồi mới bước vào. Chàng phải đến để thông báo cho Ngọc Bình về kế hoạch hôn lễ và mẹ nuôi nàng sẽ trở về Bắc Hà ngay hôm sau đó. Chàng sẽ về Bắc Hà sau khi tận mắt nhìn thấy nàng vào cung. Chính chàng đã lập ra kế hoạch ấy. Đáng lẽ đó không phải là việc của chàng, có thể giao cho các quan bộ Lễ, nhưng chàng lại muốn tự mình thực hiện. Vì nỗi đau này chàng đáng phải gánh chịu. Vì chàng cần chính tay mình cắt đứt những luyến lưu với cô gái trong ngôi nhà này.
Cuối cùng, chàng thừa nhận, chàng bị nàng thu hút. Ngay từ khi nhìn thấy nàng ngập trong ánh hoàng hôn tại phủ Chiêu nghi. Ngay từ khi nàng khuấy động trong chàng sự tức giận chưa từng biết tới. Từ khi lặng lẽ dõi theo nàng. Từ khi im lặng trước muôn vàn lời trêu chọc của nàng. Từ khi muốn lại gần nàng thêm một chút, chút nữa. Từ khi không muốn trao nàng vào tay kẻ khác. Từ khi muốn nắm lấy hình bóng đang trốn chạy của nàng trong những ngày nàng tránh mặt chàng.
Tất cả đều là nguyên nhân. Tất cả đều vượt qúa tầm kiểm soát của lý trí chàng. Tất cả đều là không thể và không nên. Tất cả những điều đó, chàng nghĩ mình phải tự tay cắt bỏ. Nhìn nàng trở thành hoàng hậu, chàng sẽ quay lưng trở về phương Bắc, thế là kết thúc. Kết thúc cho cả cuộc đời. Không bao giờ gặp lại trong cả cuộc đời.
Chàng đưa tay cho những người lính ra hiệu im lặng. Khu dịch quán im lìm trong đêm. Theo lời chỉ của những nữ tì, chàng tới phòng Ngọc Bình. Nhẹ nhàng, chàng gõ cửa, gọi tên nàng.
Ngọc Bình đang ở một mình. Cầm con dao nhỏ trong tay, nàng chăm chú gọt củ mài để sắc thuốc. Bà Chiêu nghi thường hay bị ho vào đêm, nàng muốn nấu một bình thuốc làm qùa tặng trước khi mẹ nuôi nàng về Bắc Hà. Nghe giọng Quang Thùy ngoài cửa, nàng giật mình, con dao trượt qua thân củ mài trơn tuột, cắt thẳng vào cánh tay nàng.
- Ôi! - Nàng kêu lên, ôm lấy cánh tay máu đã ngay lập tức ứa ra đầm đìa. Nghe tiếng kêu, Quang Thùy vội đẩy cửa vào, thất sắc khi thấy cảnh tượng con dao vẫn còn xoay vài vòng sau khi rơi xuống dưới chân Ngọc Bình. Chàng chạy lại, nhưng trước khi chàng đưa tay chạm vào nàng, Ngọc Bình quắc mắt.
- Đừng đụng vào tôi! - Nàng gằn giọng. Ôm cánh tay đi tới tủ thuốc, lấy bông vải chậm máu, rắc thuốc lên vết thương, nàng chỉ lúng túng khi cột băng bằng một tay. Vừa lúc nàng định cúi xuống dùng miệng cắn một đầu vải, Quang Thùy đã đến đằng sau, cầm lấy tay nàng. Hai cánh tay chàng đặt hai bên vai nàng, và nàng lại thấy mình lọt vào vòng tay chàng.
- Đừng đụng vào tôi! - Nàng không thể thoát được vòng tay ấy, không thể giằng ra khỏi bàn tay cứng như thép đang cầm cổ tay nàng. Chàng lặng lẽ quấn miếng băng, cột lại, vẫn không thả tay nàng ra. Càng vùng vẫy, nàng lại càng cảm thấy vòng tay chàng siết chặt.
- Tôi nghe nói mẹ nàng đã đổi mạng để cứu nàng, vậy mà giờ đây nàng muốn tìm đến cái chết sao? - Giọng chàng nghiêm khắc. Nàng chớp mắt. - Mỗi người khi sinh ra đều mắc một món nợ sinh thành, trong hoàn cảnh nào cũng phải cố mà sống chứ.
Nàng bật cười. Nàng cười lớn. Không màng đến chuyện dứt khỏi tay chàng, nàng chỉ cười. Như thể nàng chưa từng được cười trong đời.
- Ngài lầm rồi, Tiết chế đại nhân. - Khi ngưng cơn cười, giọng nàng lấy lại sự lạnh lùng. - Tôi có tìm đến cái chết bao giờ đâu. Tôi còn phải sống để chứng kiến vương triều của ngài tuyệt diệt. Cái ngày đó chắc chắn sẽ đến trước cái chết của tôi. Tôi sẽ sống để chứng kiến tất cả các người bị voi dày ngựa xé, mồ mả tổ tiên của các người bị quật lên ném cho súc vật, vĩnh viễn không được siêu sinh.
Quang Thùy buông tay, nàng bước ra xa chàng, không nhìn vào khuôn mặt quen thuộc ấy. Chàng hẳn đang tức giận, nhưng nàng hoàn toàn cảm thấy dửng dưng. Người được quyền căm giận là nàng mới phải. Cúi xuống nhặt củ mài cùng con dao rơi trên đất, nàng lại trở về với công việc như thể không có người cùng ở trong phòng. Gió đã đập cánh cửa ra vào đóng lại.
- Nàng muốn căm hận tôi thế nào cũng được, - Cuối cùng, Quang Thùy nói, giọng chàng vẫn có sự nhẫn nhịn thường lệ. - Nhưng Hoàng thượng không có lỗi gì trong việc này, đừng đem những lời ấy nguyền rủa Hoàng thượng.
- Ôi, Hoàng thượng bệ hạ của ngài! - Ngọc Bình cười khẩy. - Ngài ấy có một triều đình giỏi giang đến mức cái gì cũng phải đi cướp về, ngay cả một chút danh nghĩa cỏn con cũng phải nhờ cậy đến những cô công chúa nhỏ bé. Ngài ấy có một người anh em thuộc hạ trung thành đến mức hạ tiện, không từ ngay cả những thủ đoạn bỉ ổi nhất để lừa một cô gái.
- Những việc ấy do nàng tự để lộ ra, ta không đánh lừa nàng. - Không thể đừng được, Quang Thùy nói. Con dao trên tay Ngọc Bình dừng lại. Khi nàng ngẩng lên, sự giận dữ trong mắt nàng còn sắc hơn cả dao, muốn đâm thấu chàng.
- Tiết chế đại nhân, ngài quên rằng ngài đã xúc phạm tôi thế nào khi ở trên thuyền hôm đó sao? Để lấy được sợi dây trên cổ tôi, ngài đã dùng thủ đoạn bẩn thỉu thế nào? Rồi ngài đã nói những lời xin lỗi ngọt ngào đê tiện thế nào? Những chuyện đó, mỗi khi nhớ lại đều làm tôi buồn nôn.
- Không phải. Hôm đó ta thật chỉ muốn đỡ nàng dậy rồi lấy sợi dây. Ta không có ý...
Choang! Quang Thùy vừa kịp lách mình tránh con dao lẫn củ mài Ngọc Bình ném tới. Con dao va vào tấm gương sắt sau lưng chàng vang một tiếng rền rĩ. Cả người Ngọc Bình run lên vì giận. Lệ long lanh trong mắt nàng.
- Ngài không có ý, vậy thì ngài xem thường tôi đến mức nào, Nguyễn Hữu Khang? - Nàng gọi tên húy của chàng, đứng dậy, nước mắt bắt đầu chảy dài trên má. - Ngài biết rõ sẽ dâng tôi cho em ngài, vậy mà vẫn làm những việc đó với tôi. Cha các người hủy diệt dòng tộc tôi, bây giờ đến lượt ngài coi tôi là kỹ nữ trong triều đình, mặc cho các người muốn làm gì thì làm à?
Quang Thùy im lặng. Chàng tới nhặt con dao trên đất, bước tới đặt nó lên bàn trước mặt Ngọc Bình.
- Nàng muốn ta tạ tội thế nào, cứ việc. Nếu giờ đây nàng muốn cầm con dao này giết ta, ta cũng không oán trách. Ta có lỗi với nàng, chỉ một mình ta thôi. Giết ta đi, nàng sẽ không còn phải mang mối thù hận nào nữa. - Giọng chàng chân thành. Nhưng gương mặt Ngọc Bình vẫn không biến đổi.
- Ngài tự giết mình đi! - Nàng nói qua kẽ răng. Chớp mắt nhìn nàng, Quang Thùy thở ra, gật đầu. Cầm con dao trên bàn lên, chàng không do dự đâm thẳng vào cổ mình.
Rầm! Lần này, cả chiếc tủ đổ xuống trên chàng. Con dao bị hất sang bên, để lại một vệt cứa trên cổ, chàng ngã xuống đất. Ngọc Bình đã nhanh tay xô tủ sách cạnh bàn. Sách vung vãi xung quanh chàng. Cả chiếc bàn cũng đã nghiêng đổ, ngọn đèn rơi xuống, vỡ nát. Căn phòng chìm trong bóng tối, chỉ có chút ánh sáng từ hành lang len qua những kẽ cửa hở, nhỏ và mảnh như sợi chỉ. Phòng bà Chiêu nghi ở đầu bên kia dịch quán, đám lính và nữ tì biết chàng ở trong phòng, không ai dám bước vào. Chàng nghe tiếng cô gái thở nhẹ. Rồi một bàn tay dò dẫm đặt lên ngực chàng.
- Tiết chế đại nhân... - Nàng gọi. Chàng thở ra.
- Ta chưa chết.
- Ngài... ngài định chết thật à? - Giọng nàng run rẩy, và chàng nhớ ra nàng là cô bé mới chỉ mười sáu tuổi. Lần theo cánh tay đang đặt trên ngực, chàng chạm vào mặt nàng cúi xuống trên mình.
- Ta đã nói với nàng rằng mỗi người trên đời này khi sinh ra đều mang một món nợ. Có những món nợ mà ta phải lấy cả cuộc đời mình để trả. Không chỉ cuộc đời ta, mà còn tất cả những gì của ta, kể cả nàng. Ta không thể toàn vẹn cả đôi bên. Kiếp này không thể trả được cho ai, vậy thì kiếp sau đền đáp.
- Tôi lấy mạng ngài để làm gì? - Nàng nói. Chàng có thể hình dung ra cái cau mày của nàng trong bóng tối. Cười khẽ, chàng ngồi dậy, ôm lấy nàng. Ngươi đang làm gì vậy, chàng tự hỏi mình. Chàng đã đến đây với ý định lạnh lùng báo cho nàng về hôn lễ với một người đàn ông khác. Vậy mà, khi thấy những giọt nước mắt của nàng, chàng đã thật sự cảm thấy mình đáng chết. Chàng đã thật sự muốn tìm đến cái chết để chấm dứt nỗi thống khổ của nàng, của chàng. Nàng không đáng phải chịu số phận mà chàng đã đẩy nàng vào. Nhưng ngày nào còn sống, chàng không thể nào làm khác. Cũng như chàng không thể ngăn được tình cảm này với nàng. Không thể ngăn mình ôm lấy nàng. Hôn nàng. Hôn lên đôi mắt còn đẫm nước. Gò má mằn mặn. Đôi môi hé mở.
Trong bóng tối này, chàng có thể lẩn tránh chính bản thân mình.
Trong bóng tối này, chàng có thể lẩn tránh chính bản thân mình. Không phải là Khang công Tiết chế Bắc Hà, không phải là Nguyễn Hữu Khang, con trai của Quang Trung hoàng đế và một người vợ đã bị truất phế. Gánh nặng truyền đời, niềm u uất không bề hóa giải ấy đang tan đi cùng từng cái chạm khẽ của đôi môi. Đôi bàn tay do dự của nàng đặt lên vai chàng. Hôn nàng cũng là một điều tự nhiên như thở. Như lần đầu tiên và lần cuối cùng. Đó là điều bí mật của bóng tối. Nằm sâu trong bóng tối. Thuộc về bóng tối. Một điều sẽ vỡ tan dưới ánh sáng.
Cảm thấy nàng dưới làn môi, dưới những ngón tay là một điều lạ lùng. Môi nàng mềm mại. Thân người nàng nhẹ bỗng. Chỉ muốn chiếm lấy một cái gì đó cho riêng mình là cảm giác chàng chưa từng biết tới.
- Chúng ta đi khỏi đây được không? - Nàng nói. Chàng có thể hình dung ra đôi mắt nàng dõi vào chàng. Chàng im lặng.
Tay nàng xuôi xuống.
Nàng đứng dậy. Đi về phía cửa. Bước ra. Ngoảnh lại nhìn chàng.
- Nguyễn Hữu Khang, tôi nguyền rủa triều đình của ngài. Các người sẽ tuyệt diệt. Không chừa một ai.
***
Giữa mùa đông, hôn lễ của vua Cảnh Thịnh và công chúa Lê Ngọc Bình được gấp rút tổ chức tại Phú Xuân. Tin công chúa nhà Lê bất chợt xuất hiện làm xôn xao dân chúng. Nhưng khi biết đó là cô con gái nuôi kiều diễm của bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, ai nấy cũng đều công nhận nàng đích thực là một công chúa. Khi đám rước đưa kiệu nàng đi qua, người dân đổ ra đường xem mặt hoàng hậu mới. Trong tình hình chính trị hỗn loạn của đất nước, một hôn lễ được tổ chức trong triều đình gây nhiều dư luận hơn lúc nào.
"Cha lấy chị, con lấy em, phong hóa gì thế này?", có người lắc đầu. Công chúa Ngọc Hân vừa mất, triều đình đã tìm ngay một công chúa nhà Lê khác về. Nhà vua Cảnh Thịnh lại còn trẻ, chưa có người nối dõi, nếu triều đình tồn tại, vua đời sau rất có thể sẽ là họ ngoại nhà Lê, người ta bảo nhau. Rồi họ nhắc nhau về việc nhà Trần đã soán ngôi họ Lý, đem chôn sống tất cả tông thất nhà Lý, bắt người họ Lý trong thiên hạ đổi thành họ Nguyễn. Lần này họ Nguyễn sẽ đổi thành họ Lê hay họ Lê thành họ Nguyễn đây? Dù gì đi nữa, số phận nàng hoàng hậu này có thể cũng không hơn Lý Chiêu Hoàng. Chẳng phải khi nhà Lý mất, công chúa, con gái trong tộc đều bị Trần Thủ Độ đem gả cho người Mán? Đến đây, họ lại thở dài. Thời đại loạn ly này, đã là phận hồng nhan, lại sinh trong hoàng tộc thì đúng là viên ngọc rơi vào vũng lầy mà thôi.
Mà có biết thái độ cô dâu lúc nhận kim sách do nữ quan đem tới trong lễ đón dâu thế nào không, người ta xì xào kể cho nhau nghe về chuyện do những người đã hé mắt nhìn được vào trong sân dịch quán, hoặc chính những nữ tì đã nói. Nàng đứng yên, không qùy xuống nhận như lệ thường, bà Chiêu nghi mẹ nuôi nàng phải thay mặt đón lấy. Khi qùy lạy song thân, ở đây là bà Chiêu nghi và bàn thờ tổ tiên lần cuối, nàng cũng không khóc. Ánh mắt cô dâu có điều gì lạ lắm, họ rỉ tai nhau. Như thể nàng sắp ra chiến trường hay đi giết kẻ thù. Đúng là kẻ thù còn gì, một người buột miệng. Họ nhìn nhau, rùng mình.
Những tiếng nói ấy xôn xao hai bên đường khi chiếc kiệu ngọc lệ tứ mã đi qua, len lỏi giữa tiếng lính quát dẹp đường và tiếng kèn nhạc báo hỷ. Trong kiệu, những bà Thượng thư được cử tới rước dâu thỉnh thoảng lại nhìn trộm tân Hoàng hậu. Nàng nhắm mắt, ra vẻ như ngủ. Đã đành lễ diễn ra từ giờ Tý, đêm qua phải thức suốt, nhưng ai lại có thể ngủ trong hoàn cảnh thế này, các bà nhìn nhau thầm hỏi. Các bà nhớ lại hôn lễ của mình, cảm giác lo lắng hồi hộp bồn chồn đã trải qua trên kiệu. Cô gái này đã mười sáu tuổi, sắp là Chính cung Hoàng hậu, lẽ nào lại có thể cư xử như thế?
Mặc những tiếng nói bên đường, tiếng ồn ào náo động của đám rước lẫn ánh mắt tò mò của các bà Thượng thư, Ngọc Bình vẫn nhắm mắt im tĩnh. Đến sân điện Đại Triều, kiệu ngừng lại, phải có một cung nữ lay nàng mở mắt. Mùa đông ở đây hầu như chẳng bao giờ ngớt mưa, nàng nghĩ thầm khi được đỡ xuống kiệu, đi qua khoảng sân rộng ướt nước. Cửa đại điện mở ra đón nàng vào một căn phòng lớn, đèn lồng và nến thắp sáng ngời các hàng cột sơn son thếp vàng. Một con đường giữa điện được trải thảm hoa giữa hàng quan lại hai bên đang đứng đợi nàng. Tất cả mọi ánh mắt đều hướng về nàng.
Cơn rùng mình khẽ lan trong điện triều như sóng ngầm. Tân Hoàng hậu rực rỡ trong bộ phụng bào, gương mặt sáng như trăng rằm, nhan sắc kiều mị mê hoặc lại khiến người khác phải sợ hãi. Đôi mắt nhìn xuống của nàng đen thẳm, lạnh lùng như ánh nước. Nàng điềm tĩnh bước vào giữa hai hàng người, mắt không nhìn ai, tai như không nghe không biết xung quanh, thậm chí không ngước nhìn nhà vua. Sau khi thi lễ, nàng đi lên ngồi trên chiếc ghế cạnh ngai vàng. Lúc ấy, nàng mới đưa mắt nhìn xuống hàng ngũ triều thần đang cúi đầu chúc mừng trước điện.
Cảm nhận ánh mắt nàng dõi vào mình, Quang Thùy ngẩng lên. Nàng đang mỉm cười, nụ cười nhẹ đến mức chỉ có chàng nhận ra được. Trong đôi mắt nàng là một miền tối tăm sâu thẳm.
----------------
Chú thích:
Việc họ Trần và họ Lý: Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Qúy Đôn và Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Word count: 2831
4.
Cuộc tiễu trừ bè phái của Hồ Công Diệu kéo dài khiến cho đám tang Bắc Cung Thái hậu bị hoãn lại đến cuối mùa thu. Sau cuộc gặp với vua Cảnh Thịnh, Trần Quang Diệu lại đưa quân về Quảng Nam. Ở Gia Định, giáo sĩ Bá Đa Lộc cũng vừa mất, Nguyễn vương cho hoãn lại các chiến dịch tiến công. Triều đình Tây Sơn có một khoảng thời gian qúy giá để ổn định biến loạn.
Thư của Ngô Thì Nhậm đến tay Quang Thùy vào một buổi chiều. Những gì chàng yêu cầu đã được đáp ứng đầy đủ. Sáu năm về trước, Quang Trung hoàng đế vừa qua đời, triều đình đã đặt luật ngầm theo dõi hành động của tất cả các quan lại. Chuyến đi của Phan Huy Ích được ghi lại chi tiết đến tận ngày giờ đến và đi. Quang Thùy dò tay lên những sự kiện, búng nhẹ vào tờ giấy.
Đây, chàng chợt thốt ra lời. Phan Huy Ích đến nhà Lê Duy Cẩn, rồi đi tới Kinh Bắc. Trong khoảng thời gian đó, ông ta có cho gọi thầy thuốc, tổ chức đám tang cho một phụ nữ. Quang Thùy ghi chú: Điều tra về người mà Phan Thượng thư tổ chức tang lễ và tìm đến người thầy thuốc hỏi xem ông ta đã chữa trị cho ai. Rồi chàng gửi thư về cho thuộc hạ ở Bắc Hà.
Vòng vây càng lúc càng siết chặt, Quang Thùy thầm nhủ. Chỉ cần một vài bước nữa, chàng sẽ chạm tay đến được cái bí mật ẩn giấu kia. Rồi sau đó...
Với nỗi buồn mênh mang không hiểu nổi, Quang Thùy ngước nhìn lên bầu trời mùa thu với những vạt mây trắng đang trôi đi trên cao, qua những cành cây đang rụng lá. Bầy sếu hoa thiên di ríu rít kêu. Nắng nhạt vàng rơi xuống từng vạt trên nền đất nâu được phủ lên bởi một lớp lá mỏng. Những đám cỏ úa mọc ven chân thành lơ thơ vài cụm cúc vàng. Cơn gió lạnh luồn dưới mặt đường, len qua những lớp áo. Không hiểu vì sương mù hay vì không khí thu, khí trời nằng nặng, âm ẩm lạnh. Đường lên hoàng thành lát đá xám, lún phún cỏ, dấu xe ngựa in hằn những vệt đất bùn. Vài người lính đi ngang cúi thấp đầu chào chàng. Quang Thùy quay về phía bờ sông. Sen trên mặt nước đã tàn gần hết, những chiếc thuyền vẫn êm ả trôi, tiếng lao xao vọng đến như đang gọi chàng.
- Tiết chế đại nhân. - Tiếng Ngọc Bình phía sau làm Quang Thùy giật mình ngoảnh lại. Nàng cúi chào chàng, trên tay còn mang một làn trái cây nhỏ, hẳn là vừa đem vào cung cho bà Chiêu nghi. Dạo này, nàng thôi những lời trêu chọc lẫn những ánh mắt ác cảm, chỉ đối với chàng bằng sự lịch sự lạnh lùng. Thậm chí có lần chàng đã thấy Ngọc Bình bảo cung nữ đắp chăn cho Quang Toản khi hoàng đế trẻ ngủ gục trong lúc canh linh cữu. Mọi việc đang dần trở nên thuận lợi hơn, Quang Thùy nghĩ, khẽ nhíu mày.
Cùng đường, hai người im lặng đi xuống gò. Từ mái tóc Ngọc Bình, hương hoa nhài len khe khẽ vào khứu giác Quang Thùy. Nàng đã khoác thêm áo ngoài màu lam nhạt ngoài áo mặc mùa hè. Thu rồi, chàng thầm nghĩ, lấy làm ngạc nhiên vì đến tận bây giờ mới chợt nhận ra sự chuyển dịch của thời gian. Bao mùa đã trôi qua, xuân hạ thu đông tiếp nối là bao nhiêu công việc, bao nhiêu dự định. Tất cả đã chẳng có ý nghĩa nào ngoại trừ những vạch mốc thời điểm của thiên nhiên.
- Hôm nay trời đẹp thật. - Quang Thùy chợt nói, chàng lại quay về phía bờ sông.
- Từ ngày đến đây tiểu thư bận bịu qúa nhiều công việc, hẳn chưa có dịp thăm thú Phú Xuân. Hôm nay trời đẹp, ta làm một cuộc dạo chơi trên thuyền được chứ? - Quang Thùy nhìn Ngọc Bình, mỉm cười. Nàng cau mày, đưa mắt về phía con sông và những chiếc thuyền. Bị lôi cuốn bởi ý nghĩ về một chuyến đi quanh Phú Xuân, Ngọc Bình gật đầu.
Quang Thùy đưa nàng xuống bến, thuê một chiếc thuyền. Người lái thuyền cởi dây ràng, tựa mái chèo vào kè đá đẩy thuyền ra xa. Những cánh bèo trôi trên mặt nước trong xanh đến gần như thấy được cả vài con cá vẫy cái đuôi vàng bên dưới dạt ra hai bên mạn thuyền. Ngồi ở đuôi thuyền, Ngọc Bình quan sát cảnh vật hai bên bờ Phú Xuân chầm chậm lướt qua. Bên cạnh, Quang Thùy thỉnh thoảng lại chỉ những di tích, đọc tên các danh lam cho nàng. Đồi Vọng Cảnh, ngọn Ngọc Trản, bãi Lương Quán, tháp Thiên Mụ, đồi Long Thọ, cồn Gia Viễn, những vườn cây ăn trái đang thay lá, những bãi hoa cúc vàng rực vào mùa. Hai bên bờ, thuyền đậu thưa thớt, thấp thoáng những ngôi nhà nhỏ ẩn sau hàng cây đang chuyển màu nắng óng. Người dân thong thả lại qua trên con đường đất, những tấm vải đủ màu sắc bay phần phật trước làng dệt. Cảnh sắc yên bình đến mức không thể biết được mới vài ngày trước đã có sự biến lớn trong hoàng thành, Ngọc Bình thầm nghĩ, nhớ lại cảm giác đầu tiên khi đến đô thành này. Đau thương chỉ đến như nước chảy, như mưa trút dằng dai, để khi nắng lên, tất cả đã hóa tan vào làn sương mỏng, nỗi xót xa đã đến vào những ngày tháng cũ bay ngan ngát vào trời xanh.
Thuyền đi hết đoạn sông, ghé vào bến. Quang Thùy lại đưa nàng lên núi Bằng Sơn, đồi thông Thiên An. Khi xe ngựa đưa nàng vào thành, Ngọc Bình đã nhìn thấy rừng thông này, nhưng đây mới là lần đầu tiên nàng chạm vào những gốc thông cao vút, xù xì. Gió nổi, những ngọn cây xanh rì trong mùa lá rụng rì rào như tiếng mưa rơi. Những hồ nước xanh như ngọc lặng yên chen giữa cỏ cây. Sương đã buông, màu trời lam dìu dịu như màu áo nàng mặc. Khói sương quẩn quanh quấn trên những mỏm cây, bàng bạc phủ trên mặt nước lờ lững. Không khí thanh mát mùi lá thông, hương cay cay của cỏ và qủa mục. Để Ngọc Bình một mình tha thẩn dạo chơi trên đồi, Quang Thùy tựa lưng vào một gốc thông, lại nhìn xuống bến sông. Tiếng hò từ xa vẳng tới, lan như những con sóng nhỏ dưới mái chèo.
"Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến đây là chỗ rẽ của lòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào?"
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào? Chàng cười nhẹ một mình khi nỗi buồn thường trực trong những ngày này lại ùa đến. Sau tang lễ Bắc Cung Thái hậu, chàng sẽ lại hộ tống bà Chiêu nghi trở về Bắc Hà, nhưng còn Ngọc Bình? Công việc cần phải nhanh chóng xúc tiến, chỉ cần chứng minh được thân phận của nàng, mọi việc còn lại đã có các quan trong triều định đoạt. Nhiệm vụ của chàng chỉ đến thế.
Rồi người thiếu nữ ấy sẽ vào cung nội, phó mặc đời mình cho vòng quay, gió lốc của chiến tranh. Chàng không thể chắc chắn về số phận của chính mình, vậy thì tại sao phải kéo nàng vào? Có nên không? Có. Tất cả những gì chàng có thể làm cho triều đình đều nên làm. Có phải không? Không. Rồi nàng sẽ oán hận chàng. Hơn cả oán hận người cha đã cướp đi gia đình nàng.
Từ trên đồi, Ngọc Bình cũng quay lại nhìn viên Tiết chế đang đứng lẻ loi trong sương mù. Tiết chế thủy bộ chư quân, Tổng binh dân thứ, Đặc sứ Bắc biên, người đã cùng Trần Quang Diệu thống lĩnh quân binh đánh tan Lê Duy Chỉ khi chưa đến tuổi thành niên, người đã vực Bắc Hà dậy sau nạn đói khủng khiếp giết chết mẹ nàng. Người mà ở Bắc Hà tên tuổi đi liền với niềm kính phục, nỗi sợ hãi và sự oán ghét song hành. Người chủ một vùng đất mênh mông, rộng lớn, đầy biến động, cai trị nó bằng sự cương quyết lẫn tàn khốc mà nàng đã được chứng kiến vài ngày trước. Người mà trong một đêm dẹp tan được tranh chấp triền miên của triều đình, đưa Trần Quang Diệu quy thuận vua Cảnh Thịnh. Vậy mà trong những lúc bình thường, khó nhận ra hình bóng ấy.
Chàng đã luôn mềm mỏng với nàng, Ngọc Bình tự nhủ. Lý do là gì? Có lẽ cũng chẳng có lý do. Con người này mềm mỏng với tất cả mọi người. Nàng đã chờ đợi được nhìn thấy một triều đình hùng cứ một vùng, nhưng đã lại thấy nỗi đau, sự bất lực, bơ vơ của những con người trong đó. Nàng đã nhìn thấy nhà vua trẻ qụy xuống trong nỗi tuyệt vọng vô bờ, sự bất lực trong mắt viên Tiết chế. Nàng nhìn thấy hai đứa con của chị nàng, không thể không yêu thương chúng. Họ có tội lỗi gì, nàng tự hỏi. Và tất cả những nỗi oán hận chất chứa bấy lâu trong lòng nàng đã lặng yên.
Đất nước này có như thế nào cũng không liên quan đến tôi, nàng đã nói thật. Nhưng nàng biết, khi trở về Bắc Hà, nàng sẽ ngóng trông tin tức của họ và sẽ đau buồn nếu điều xấu nhất xảy ra. Những con người này, cũng như nàng, phải gánh mối nợ của tiền nhân. Không như nàng, họ không có cách nào lẩn tránh. Và cái giá họ phải trả sẽ thảm khốc thế nào, nàng không dám nghĩ tới. Nhìn Quang Thùy đứng đó, sự cô độc trầm tĩnh như một cành thông chỉ biết rì rào cùng gió, nàng lại nhớ về vị vua trẻ nằm trước linh cữu, co mình dưới tấm chăn mỏng trong đêm dài. Đối với họ, sự sống có lẽ còn nặng nề hơn cái chết, nàng thầm nghĩ, xót xa.
Nàng thấy thương họ, đó là sự thật.
Trên bầu trời, nắng đã dần tắt, mây kéo về. Quang Thùy ngẩng lên, gọi Ngọc Bình đi về trước khi trời mưa. Vậy mà họ vẫn không kịp xuống thuyền. Trên đường đi, mưa rơi lất phất rồi trút xuống ầm ào. Trời tối sầm xuống như đêm. Lúc lên thuyền, cả hai đều ướt sũng, run lên vì lạnh. Người chèo đội chiếc nón tơi vừa giật sợi dây cột thuyền, vừa nói vọng vào khoang:
- Các ngài thay đỡ quần áo trong hòm cho khỏi lạnh.
- Sao lại có quần áo ở đây? - Mở cái hòm ở cuối khoang thuyền, qủa nhiên thấy vài bộ y phục dân dã ở trong, Ngọc Bình thắc mắc. Quang Thùy thắp ngọn đèn trong khoang, trả lời lơ đãng.
- Thuyền này về đêm được các ca nhi thuê...
Chàng chợt bỏ lửng câu nói. Ngọc Bình biết ý, cũng im lặng đưa cho chàng một bộ quần áo. Nàng đã cởi áo khoác ra, bộ áo mỏng đẫm nước dính sát vào da thịt. Cổ áo ngoài bung ra, để lộ chiếc yếm hồng bên trong cùng bờ vai trắng như ngọc. Thấy ánh mắt của Quang Thùy, nàng đỏ mặt. Chàng vội quay mặt đi.
- Để tôi tắt đèn vậy. - Chàng nói. Ngọn đèn dầu nhỏ được thổi tắt. Bóng tối trở lại trong khoang thuyền đóng kín, giơ tay không thấy ngón. Đêm đã buông trong một cái chớp mắt bên ngoài. Con thuyền vẫn lặng lẽ lướt đi giữa màn mưa mờ mịt trên sông.
Những ngón tay Ngọc Bình run rẩy khi nàng chạm tới sợi dây yếm cột trên cổ. Trong bóng tối, nàng vẫn cảm nhận rõ ràng sự hiện diện của người thanh niên ở cùng, hơi thở cùng mùi thơm như hoa quế khi chàng cởi áo. Má nàng vẫn nóng dù toàn thân lạnh run, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Tiếng chân đi đến hòm đựng quần áo ngay cạnh chỗ nàng đang ngồi. Nàng chợt nhớ đã không đưa cho Quang Thùy dây thắt lưng. Vội vàng qươ tay vào hòm lấy mảnh vải dài, nàng đưa nó về phía tiếng chân đang đến.
- Đây... - Nàng nói. Ngay lúc ấy, con thuyền chênh chao nhẹ. Bóng người trước mặt mất đà, ngã về phía nàng. Đột nhiên, nàng thấy mình bị phủ lên bởi một thân người nóng ấm, trong mùi hoa quế ngọt nồng. Hai cánh tay rắn chắc ôm lấy nàng.
"Xin lỗi", hơi thở của người thanh niên phả lên vành tai khiến nàng run khẽ. Trong bóng tối, chàng chống tay nhỏm dậy, kéo nàng lên theo. Tay chàng đặt lên chiếc lưng nhỏ, vào khoảng da mát lạnh chỉ được che đậy bằng sợi dây cột mỏng manh. Bàn tay ấy trượt lên cổ nàng, nơi sợi dây chỉ còn một nút thắt là rơi xuống. Hơi thở chàng nóng rực trên mặt nàng, qua má, qua mí mắt, chỏm mũi, đôi môi. Khoảnh khắc môi chàng chạm vào đôi môi đang run rẩy của nàng, tất cả những ý nghĩ như đã rời bỏ nàng.
Trong khoảnh khắc, một sự lặng im sâu hút như miệng vực đã bao phủ cả hai người trong khoang. Môi chàng dừng lại, không cả thở. Chiếc thuyền chênh chao làm tim nàng hẫng nhịp, và đôi tay, bờ môi kia bao phủ nàng.
Ghì chặt thân hình đang tê cứng lại của Ngọc Bình vào lòng, Quang Thùy dấn sâu thêm nụ hôn, nuốt lấy hơi thở nàng đầy mùi mưa thanh khiết ngọt ngào. Đôi môi này đã thốt ra bao lời chế nhạo chàng, nhưng giờ đây đã hoàn toàn quy phục, bộc lộ đầy đủ sự thơ ngây vụng dại. Môi chàng dò tìm nàng. Đôi bàn tay chai vì cung kiếm vuốt ve làn da mỏng manh, mượt mà, mát lạnh như lụa qúy đang dần ấm lên, trên bờ ngực phập phồng sau lớp vải. Sợi dây yếm thúc thủ, trượt xuống, phơi bày nàng với bóng tối. Thân thể chàng dưới hai tà áo chưa khép lại ép sát vào nàng, cho nàng mượn hơi ấm trong bóng đêm đặc quánh lạnh lẽo, ong ong tiếng mưa, giữa thế giới tràn ngập nước bên ngoài. Bàn tay, đôi môi chàng chiếm hữu nàng, khiến nàng muốn kêu lên vì sợ hãi.
Không biết nàng đã đẩy chàng ra, hay là chàng thốt nhiên lùi lại, Ngọc Bình chợt thấy mình bị ném về phía sau, lưng chạm vào thành khoang thuyền. Hơi thở gấp vẫn còn nghe rõ, nhưng khi Quang Thùy cất lời, giọng chàng rất trầm.
- Xin lỗi. Tôi không cố ý mạo phạm tiểu thư.
Hơi thở thoát qua đôi môi vẫn còn ran rát của Ngọc Bình đến giờ nàng mới cảm nhận được. Một chiếc áo khô được thả xuống, nàng cầm lấy, run rẩy mặc vào. Tiếng chân đi đến bên kia khoang thuyền, nơi xa nhất có thể được. Nàng co người lại, ngồi bó gối một góc. Gai ốc vẫn nổi khắp người nàng và trái tim vẫn không thôi đập dồn dập, đến mức nàng chỉ nghe loáng thoáng những gì Quang Thùy nói sau một hồi lâu im lặng:
- Nàng muốn tôi tạ tội thế nào, tôi cũng xin nhận lãnh.
Có thể chàng đã dập đầu xuống trong bóng tối, nhưng Ngọc Bình vẫn không thốt ra một lời. Đèn trong khoang thuyền không được thắp cho đến khi thuyền cập bến. Lấy chiếc ô trong khoang che đầu, Ngọc Bình xuống thuyền mà không nhìn lại một lần. Nàng vội vã đi về dịch quán.
Quang Thùy đưa cho người chèo thuyền gấp đôi số tiền đã định. Xuống bến, nhìn theo bóng nàng khuất vào bóng tối, giữa những người khoác áo tơi hay che ô qua lại trên đường, chàng thở ra. Đưa tay vào túi, chàng lấy ra một miếng ngọc xanh còn nguyên dây đeo cổ, đưa trước mặt. Trong ánh đèn nhập nhoạng, chàng vẫn nhận rõ những đường nét của ấn triện triều Lê khắc sâu vào miếng ngọc.
Sợi dây dài đã che giấu miếng ngọc dưới những lớp áo của Ngọc Bình. Nhưng chàng đã nhìn thấy nó khi nàng đưa quần áo cho chàng.
--------------------
Chú thích:
Núi Bằng Sơn: Tên cũ của núi Ngự Bình.
5.
Khi đã ra khỏi dịch quán của Quang Thùy, đi được một đoạn, Ngọc Bình bắt buộc phải ngồi bệt xuống dưới một mái hiên để trấn tĩnh. Chiếc ô nghiêng ra phía trước, che chắn nàng với bên ngoài. Đây chỉ là một cách phòng vệ an toàn, đã qúa khuya để có người bước ra đường, và cũng không ai có thể tưởng tượng được tân Hoàng hậu lại ngồi đây trong trang phục thị nữ. Ngay cả nàng cũng không tưởng tượng được mình dám làm việc mà nàng đã làm.
Ý tưởng này đã manh nha từ sau buổi tối Quang Thùy đến phòng nàng, nhưng nàng chưa từng dám chắc nó sẽ biến thành hiện thực. Từ khi biết rằng chàng thực sự có tình cảm với mình, sự oán hận đã kết hợp với tình cảm, với lòng tự cao, với sự giận dữ trong nàng, khiến nàng muốn trả thù cho bằng được. Trả thù chàng, trả thù chàng vì đã yêu nàng, trả thù những gì đã khiến chàng hy sinh nàng. Nhưng can đảm để trốn ra khỏi cung điện ngay trong đêm hôn lễ, để tìm đến, quyến rũ một người như Quang Thùy, nàng chưa dám tưởng tượng.
Vậy mà, người đã giúp cho nàng chính là Quang Toản. Sau khi đãi yến triều thần, trở về cung được trang hoàng rực rỡ cho hôn lễ, nhà vua chỉ nhìn lướt qua nàng, rồi đến ngồi thừ người cạnh chiếc bàn giữa phòng, nơi vẫn để mấy ly rượu hợp cẩn. Cả tên thái giám được giao nhiệm vụ ghi chép đêm hôn lễ cũng không dám mở miệng giục nhà vua. Sự thất thường của Quang Toản trong cung từ lâu đã thành lệ: Chàng sẽ làm ngược lại những gì mà người khác khuyên. Nếu giục giã, e rằng nhà vua sẽ đi ngay ra ngoài, bỏ mặc Hoàng hậu một mình, tên thái giám nghĩ thầm. Cho nên, đến khi Quang Toản vẫy tay bảo tất cả ra ngoài, thị nữ lẫn thái giám như được thoát tội. Còn lại hai người trong phòng, Quang Toản quay sang nhìn nàng.
- Xin lỗi, ta không muốn ép nàng như thế này. - Đó là câu đầu tiên nhà vua nói với Ngọc Bình trong suốt mấy tháng ròng, kể từ lúc canh linh cữu Thái hậu. Đôi mắt nâu của chàng mênh mông buồn. Trong bộ long bào, chàng trông càng có vẻ gầy gò hơn. Hình dáng ấy, cùng giọng nói khó khăn yếu ớt, đã làm cho cả sự giận dữ của Ngọc Bình cũng dịu xuống. Nàng chưa bao giờ ghét Quang Toản, người thiếu niên đáng thương này. Đồng thời, nàng nhận ra đây cũng là một cơ hội cho mình.
- Thần thiếp không dám trách cứ Hoàng thượng, chỉ xin Hoàng thượng gia ân cho một ước nguyện cuối cùng. - Cúi đầu rất thấp, nàng van xin bằng giọng nói dịu dàng của mình. - Ngày mai thân mẫu của thần thiếp phải về Kinh Bắc, ân tình bao nhiêu năm giờ phải đoạn tuyệt, đau lòng khôn xiết. Biết rằng mới từ bên bà đến đây, nói ngay đến chuyện trở lại là rất tức cười, nhưng ngày nào thân mẫu còn ở đây, thần thiếp vẫn muốn trọn đạo làm con. Đêm cuối cùng này, thần thiếp chỉ muốn trở về bên mẹ. Sau này giang san cách trở, tuổi già giọt lệ như sương, e rằng muốn gặp nhau cũng khó. Được bên nhau giây phút nào là qúy giá giây phút ấy. Đó là ước nguyện duy nhất của thần thiếp, sau này thần thiếp không dám đòi hỏi gì hơn nữa, xin nguyện cả cuộc đời theo bệ hạ.
Một cảm xúc rất khó đoán định đã thoáng qua gương mặt Quang Toản khi nghe lời nói của Ngọc Bình. Nhưng chàng im lặng quay đi, nhìn một lúc lâu vào ngọn đèn. Một lúc sau, Quang Toản gật đầu.
- Đây là việc không hợp lễ, nhưng nếu nàng muốn ra, ta sẽ giúp. Nàng hãy cải trang thành tì nữ trong dịch quán mà đi để không sinh dị nghị. Và hãy trở về trước khi trời sáng.
Nói đoạn, chàng tìm cho nàng một bộ quần áo thị nữ, đưa nàng thẻ bài ra vào cung. Vì việc này không một thái giám cung nữ nào được biết, nàng đã một mình lẻn ra cửa sau của cung, nơi dẫn vào Ngự Thiện phòng đang tấp nập bận rộn cho yến tiệc. Đến dịch quán của Quang Thùy, nàng lại trà trộn vào đám khách đến tiễn chàng, lẫn trong đám thị nữ. Trang phục nữ tì của các dịch quán trong thành đều giống nhau, lại tranh tối tranh sáng khi trời đã về khuya, không ai nhận ra nàng. Ở trong bếp, nàng đã chờ đến khi mọi người đi ngủ hết để lẻn đến phòng Quang Thùy. Từ khoảng bếp đến phòng chàng, mưa đã hắt ướt đẫm tóc nàng.
Những việc còn lại, trời đã giúp cho nàng...
Hay trời đã thông đồng làm hại nàng, giờ đây, dưới mái hiên, trong màn đêm ướt sũng, Ngọc Bình lại tự hỏi mình. Lòng tự cao của nàng khi thấy chàng chọn triều đình của chàng hơn là nàng. Sự không cam tâm của nàng khi phải trao thân gửi phận cho một người không hề muốn. Cái khao khát muốn đập nát chàng cùng tất cả những gì chàng trân qúy. Tất cả những điều đó đang dẫn nàng đến đâu đây? Khi tất cả những gì nàng đang cảm thấy chỉ là sự tan nát của chính trái tim mình.
Không cam tâm. Nàng thật sự không cam tâm. Không thể cam tâm.
Những ngày lớn lên ở làng Phù Ninh, nàng cũng đã từng có ước mơ cho cuộc đời mình. Nàng chưa hình dung ra được nó rõ ràng, đó chỉ là mảnh vụn chợt đến chợt đi trong tâm tưởng. Cuộc đời đã trải ra trước mắt nàng thật rộng lớn, đầy ước muốn khám phá, suy tưởng. Nàng muốn học thật nhiều về thuốc. Nàng muốn đi đến những danh lam mới chỉ được nghe tên và miêu tả. Nàng muốn được gặp nhiều con người thú vị, có thể kể cho nàng nghe về tổ tiên nàng, những gì đã đến trong cuộc đời này, đất nước này. Nàng muốn một ai đó sẽ đến để yêu thương nàng. Phủ Chiêu nghi lạnh lẽo chỉ có hai mẹ con, nàng muốn có được một gia đình đầm ấm...
Tất cả những ước muốn đó đã tan tành chỉ trong khoảnh khắc. Cuộc đời nàng đã kết thúc chỉ trong khoảnh khắc Quang Thùy đặt chân vào phủ Chiêu nghi. Vì cái gì? Vì tính toán của những kẻ không liên quan đến nàng. Vì những tính toán của chàng.
Ước muốn cuối cùng của nàng trong giây phút tuyệt vọng ấy là chàng hãy đưa nàng đi. Đi theo chàng. Giữ nàng lại. Vào chốn dầu sôi lửa bỏng, đối mặt với bất cứ điều gì, ngay cả khi chàng biến thành một kẻ bất nhân bất nghĩa giết em đoạt ngôi, nàng cũng có thể chấp nhận. Vậy mà không. Vì sự tôn qúy của chàng.
Nàng chỉ muốn đập nát chàng bằng bất cứ giá nào, cho chàng nếm trải những gì nàng phải chịu đựng. Nàng muốn cười nhạo vào mặt chàng trước những mảnh vỡ do nàng gây ra. Vậy mà tại sao chàng có thể nhìn nàng như thế? Tại sao lại gọi tên nàng? Tại sao lại đối với con người chàng gọi tên Ngọc Bình ấy bằng sự dịu dàng say đắm mà cũng tuyệt vọng đến thế? Tại sao lại khiến nàng quên đi cả những giận dữ hằn thù khi ở trong vòng tay chàng?
Mùi hoa quế cay cay như một nỗi u sầu, bỏng cháy nơi khóe mắt, trong từng hơi thở. Màn đêm mông lung chơi vơi vô tận mở ra đằng sau những dự cảm tăm tối. Ngay từ nụ hôn đầu tiên nàng đã cảm nhận được nó, cõi đơn côi khó lý giải hun hút như miệng vực trong con người này - nơi con người này đã bị ném vào. Bám víu lấy nàng trên từng đầu ngón tay. Từng cái hôn in hằn vào da thịt, ngập sâu vào da thịt. Nỗi tuyệt vọng ấy trút sang nàng, phủ vây nàng. Và khi nghe tên mình vọng trong đêm, nàng đã có ý muốn ôm lấy, được ôm lấy con người này vĩnh viễn. Nỗi chua xót đã đốt cháy tâm can nàng thành dòng sông lửa. Nỗi chua xót đã bắt đầu bằng những nghi hoặc, những giận dữ và đắng cay, sự thất vọng vô bờ vì một điều vẫn chưa hiểu rõ. Tất cả đã hóa thành tuyệt vọng. Tuyệt vọng nồng lên trong bóng tối ngột ngạt. Bóng tối không có giới hạn kết thúc lẫn khởi đầu. Nàng bị nhấn chìm vào đó, tình yêu như nước dâng, tràn vào phổi, vào tâm trí nàng. Như trong nước dâng, nàng chỉ có thể run rẩy đón nhận bản án của đời mình. Chàng đã mở ra trước nàng một bóng đêm mà nàng chưa từng biết tới, những mê đắm và cuồng say ập đến như sóng bể. Đêm bị đốt cháy trong tiếng thở. Cái đau khi bị phá vỡ trở thành niềm hân hoan đến ứa lệ. Chàng đã rơi vào bẫy. Chàng đã thua. Nàng đã nghĩ đến điều đó khi đón nhận chàng, khi chính mình bị quy phục, bị ném vào một cõi mơ hồ chỉ có hai người hiện diện. Chỉ có hai người hiện diện trong thế giới bóng tối tràn đầy nước.
Trong thế giới đó, nàng đã ôm lấy chàng. Trôi đi. U sầu rơi vỡ xuống như tiếng mưa rì rầm. Âm vang. Chàng đã thua. Nàng nghe thấy trong huyết quản đang trào sôi làm ù cả tai. Nàng đã buông tay để đón nhận chàng bằng tất cả những gì mình có. Bằng nỗi hân hoan ngạt thở. Bị sự không cam tâm xé toạc ra từng mảnh.
Chàng đã thua. Chàng yêu nàng. Chàng gọi tên nàng. Chàng yêu nàng. Chàng thuộc về nàng. Nhưng chàng không thuộc về nàng. Và nàng đã vĩnh viễn thuộc về kẻ khác. Cái nàng đang có trong tay chỉ là những khoảnh rắc đang rơi vỡ như mưa. Và dằng dặc tháng ngày căm hận. Và dằng dặc cuộc đời. Như nước trôi đi không quay lại. Yêu nàng, yêu nàng như lời cầu cứu. Chua xót, chua xót vang trong đêm thành tiếng trả lời. Nỗi sợ hãi dâng như sóng bể khi nàng nghĩ đến phải xa rời con người này, con người đã hóa thành một phần máu thịt với nàng, hóa thành một ký ức không thể quên trong cuộc đời nàng. Bóng đêm mùa hạ là nỗi đơn côi khủng khiếp. Bàn tay, đôi môi, thân thể, tình yêu của chàng là liều độc dược mạnh nhất thế gian. Oán hận này sao lại qúa xót xa, căm ghét này sao lại thành cảm động, càng giận dữ lại càng cảm thấy đau thương. Càng giận dữ càng cảm thấy không đành lòng. Không thể thứ tha, lại càng không thể chấp nhận. Lúc buột miệng gọi tên chàng, nàng biết rằng mình cũng đã thua.
Nếu như chàng không hề có tình cảm gì với nàng, có phải tất cả đã giản đơn hơn? Có lẽ nàng đã không căm hận chàng đến thế? Và sự không cam tâm này nàng đã có thể chịu đựng được?
Hay câu hỏi thật sự phải là, nếu như nàng không có tình cảm với chàng?
Điều gì đã khiến nàng vượt qua lớp lớp tường thành để làm một điều phi luân đến mức nàng cũng không dám tin này?
Mưa vẫn rỉ rả rơi trong đêm lạnh. Phú Xuân tối đen, thấp thoáng đó đây ánh đỏ đèn lồng. Bầu trời vần vũ mây thỉnh thoảng lại chớp sáng những tia chớp vô thanh. Cái ngõ vắng nơi nàng đang ngồi sâu hun hút như miệng vực, cuốn lấy cả mưa, cả nàng, cả thanh âm bật ra khi nàng gục đầu nức nở.
Sau chiếc ô, nàng khóc thương cho những gì đã kết thúc ngay từ khi chưa bắt đầu.
***
Đến sáng, mưa vẫn dai dẳng rơi. Quang Thùy cho xe ngựa dừng trước cửa đại nội, ngẩng đầu nhìn lên cánh cổng thành đang mở. Theo lệ, chàng phải đến từ biệt với nhà vua, nhưng gặp Quang Toản là điều cuối cùng chàng mong muốn bây giờ. Chàng đã phải thu hết can đảm đến đón bà Chiêu nghi rồi để xe đưa chàng đến đây mà không nửa đường quay ngược lại. Trong xe, bà Chiêu nghi đang nhìn chàng, ánh mắt lạnh lùng như từ cái ngày chàng đến buộc Ngọc Bình vào cung nội. Họ đều căm ghét chàng, và chính tay nàng đã đẩy chàng vào địa ngục kể từ đây.
Trong sân triều thấp thoáng bóng áo vàng. Quang Toản đi ra, vài người lính đi phía sau che lọng cho nhà vua. Quang Thùy phải cố gắng để không quay đi. Chàng không thể nhìn thẳng vào mặt người em mình. Nếu có thể, chàng đã rút gươm ra và xin nhà vua ban cho mình tội chết.
Có nhận ra thái độ lạ lùng của Quang Thùy hay không, Quang Toản vẫn không để lộ ra. Nhà vua chào hỏi bà Chiêu nghi với thái độ lịch sự có phần dè dặt thường ngày. Cuối cùng, Quang Toản mới quay lại, nhìn vào gương mặt đăm chiêu của anh trai. Một nụ cười thoáng qua gương mặt nhà vua.
- Khang công, đi đường bình an. - Đó chỉ là một câu nói bình thường, nhưng Quang Thùy đã thoáng giật mình. Đôi mắt nâu trong suốt của Quang Toản dõi thẳng vào chàng sự an nhiên kỳ lạ, như có một điều gì đó đã khiến nhà vua bình tâm lại. Quang Thùy khổ sở gật đầu, thi lễ với nhà vua. Lúc viên Tiết chế đã định lên xe, Quang Toản quay lại ra hiệu với người lính đứng sau. Người lính tiến đến đưa cho Quang Thùy một hộp gỗ nhỏ.
- Chính cung muốn tặng cho Khang công món qùa để cám ơn ngài đã đưa mẹ nàng về Kinh Bắc. - Quang Toản nói. Nhà vua nhìn lên ngọn cây đang oằn xuống bởi gió ngay lúc mà sự thất sắc đã thoáng qua gương mặt người anh. Cúi đầu nhận lấy, Quang Thùy cất chiếc hộp vào tay áo. Đứng yên một lúc, chàng hạ thấp giọng nói với Quang Toản:
- Bệ hạ, từ nay người đã có gia đình. Xin người hãy cứng rắn và quyết đoán hơn. Vận mệnh của quốc gia, gia tộc và Chính cung đều phụ thuộc vào ngài.
Một trận gió nữa lại quét qua tà áo rộng của nhà vua. Quang Toản nhìn người anh lên xe, cho ngựa chạy. Mắt chàng vẫn trong như mắt một đứa trẻ trên gương mặt không lộ vui buồn. Hai bàn tay giấu vào ống áo, chàng lại ngẩng lên, dõi theo đường đi vô hình của ngọn gió trên những cành cây.
Khi đã đi được một đoạn, Quang Thùy lấy chiếc hộp trong tay áo ra, mở nắp. Trong hộp là một cành hoa mạt lị héo khô, bông hoa đã rơi khỏi cành. Một cuốn giấy nhỏ bằng nửa ngón tay ghi mấy câu thơ ngắn:
"Hoa khai bất đồng thưởng,
Hoa lạc bất đồng bi.
Dục vấn tương tư xứ,
Hoa khai hoa lạc thì."
Chạm vào những cánh hoa mềm nhũn đã chuyển màu nâu xám, Quang Thùy nhận ra, đây là cành hoa chàng đã tặng nàng đêm ấy.
Con đường trước mặt chàng chìm trong mưa. Mặt sông mịt mờ sương tỏa. Đá và cây cùng yên lặng. Sau lưng chàng, mưa đã xóa dấu bánh xe trên đường ướt.
Chẳng mấy chốc, chiếc xe ngựa đã lẫn vào trong sương, chỉ thấy chút bóng mờ. Đứng trên lầu cao, nàng vẫn nhìn theo hình bóng mơ hồ như ảo ảnh đã tan trong mưa cho đến khi mưa đẫm mắt nàng.
Đó là lần cuối cùng nàng nhìn thấy chàng.
-----------------
Chú thích:
Bài thơ Vọng xuân từ của Tiết Đào. Dịch nghĩa:
Hoa nở không cùng ngắm
Hoa rơi không cùng sầu
Muốn hỏi tương tư nơi đâu
Khi hoa nở lúc hoa rơi?
Thiên định
1.
. Mùa đông, những ngọn gió từ biển thổi vào sắt se lạnh. Đứng trên bãi cát nhìn đoàn tàu neo đậu đang bập bềnh nhè nhẹ trên những đợt sóng, khuôn mặt Nguyễn vương đầy vẻ đăm chiêu phiền muộn. Hoàng hôn đang xuống, màu vàng rực đang loang trên mặt biển xanh. Xa xa, ông có thể nghe tiếng xôn xao của doanh trại quân lính phía sau mình. Lại một ngày nữa, Nguyễn vương để thoát ra một tiếng thở dài. Lại một ngày nữa ông phải ở hòn Nan Dự. Gần một năm nay ông đã phải ở hòn Nan Dự. Lời khuyến dụ mà ông đã ban ra ở Gia Định đang trở thành lửa đốt chính ông "Thành Quy Nhơn chỉ Bắc, đạp phá trùng vi. Đô Thuận Hóa rung cờ, dẹp yên đảng ngụy". Những lời đó đang tan như muối trong gió biển.
Một năm nay, thành Bình Định - cái tên mới mà ông đặt cho Quy Nhơn - bị Trần Quang Diệu vây khốn, trong không thể ra mà bên ngoài cũng không thể đánh vào để giải cứu. Từ cuối năm Kỷ Mùi, quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chỉ huy đã bất ngờ tấn công chiếm lại Thị Nại, ập vào bao vây Bình Định đúng mùng hai Tết Canh Thân. Bên ngoài thành Bình Định, Trần Quang Diệu cho xây thành đất dài hơn bốn ngàn trượng. Trước cửa biển Thị Nại, Võ Văn Dũng đem hai chiếc Định Quốc Đại hải thuyền đầy đại bác cùng tàu thuyền nhỏ chắn đường. Trên đất liền, họ cho đặt vô số đại bác chĩa xuống cửa biển. Bị cắt lìa hoàn toàn đường tiếp viện với bên ngoài, Quận công Võ Tánh, cũng là anh rể ông, chỉ còn cách đóng cửa thành cố thủ. Địa thế hiểm hóc của Phú Yên khiến cho quân Gia Định phải khó khăn mới có thể nhích từng bước một chậm chạp, rồi lại bị đánh bật ra.
Vậy mà ông đã nghĩ họ sẽ sớm tan rã, Nguyễn vương cau mày thở dài. Cuối năm Kỷ Mùi, ông đã cho ngừng các cuộc tấn công, ổn định trong ngoài thành Bình Định, sắp đặt mọi việc để nhắm tới việc thuận đường tấn công Tây Sơn, tiến về phương Bắc. Nhưng bọn họ đã làm đảo lộn mọi suy tính của ông. Trong cái chết, họ lại tìm được ý chí cũ. Phú Xuân làm binh biến để ổn định nội bộ. Hai viên hổ tướng Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng dốc sức tấn công. Quân cướp biển Tề Ngôi lẩn quẩn vào tận Hòn Khói làm các cuộc đánh cướp lương thuyền. Về phía ông, Nguyễn Văn Trương đã bắt được một trăm năm mươi chiếc thuyền chở hơn ba vạn thăng lúa cùng khí giới, đạn dược Bắc Hà tiếp tế vào. Tên vua trẻ con ấy cũng đã lớn rồi, Nguyễn Phúc Ánh nhủ thầm. Ông thật muốn nhìn thấy nó, đứa con trai của Nguyễn Huệ, kẻ thù bất cộng đái thiên của ông. Nó đã trở thành mèo hay thành hổ, ông nghĩ, khóe miệng hơi nhếch lên.
Dù sao đi nữa, thành Bình Định đã bị vây cả một năm nay, sự sống còn chỉ tính từng tháng, từng ngày. Ông chưa bao giờ nghi ngờ sự can trường của Võ Tánh, nhưng sức người, sức thành có hạn. Lại thêm bọn hàng binh vẫn không quên nhà Tây Sơn, liên tiếp tan rã, thay nhau làm phản. Ông đã không giết bọn chúng để tỏ lòng nhân đạo, lại thu dụng chúng làm Ngự lâm quân. Vậy mà bọn chúng không thể nào bỏ qua lời kêu gọi của Phan Huy Ích trong lời hiểu dụ gửi tới "Qúy phủ ta: Cội gốc nền vương, dậu phên nhà nước". Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Điềm trông coi Ngự lâm quân kéo thuộc binh về với Tây Sơn ngay khi có dịp, Lê Văn Thanh thừa dịp đêm khuya chèo thuyền trốn đi. Đám Ngự lâm quân bỏ trốn nhiều đến nỗi ông đã phải an ủi những thuộc tướng của mình, mà nào có xong. Phạm Văn Điềm trở thành mối họa thường trực cho quân Gia Định. Hắn mộ quân dân trên núi, bất thần đánh ập xuống bất cứ khi nào. Nguyễn Văn Thành phải chống lệnh ông, không thể xuất binh đánh đồng Cây Cầy vì phải trông giữ bọn lính bỏ về phía bên kia, "bọn còn lại cũng không thể tin" - ông ta trình bày, và ông không thể nói được gì.
Lòng trung thành với vương triều cũ là thứ không thể xóa nhòa, mặc cho ông có đối tốt với bọn chúng thế nào, Nguyễn Phúc Ánh nghĩ khi mặt trời đã mấp mé bờ nước. Ông đang phải trả giá cho lòng tốt, cho sự nhân đạo của mình. Võ Tánh đã phải cho giết hàng binh trong thành sau khi chúng nổi loạn định mở cửa cho Trần Quang Diệu. Dân chúng ở đây không như Gia Định, không hướng về nhà Nguyễn. Cũng như Nguyễn Lữ không giữ được Gia Định khi lòng dân không hướng về Tây Sơn. Như thế, dù có chiếm được đất, ông cũng sẽ bị phản bội bất cứ lúc nào. Không thể nhân nhượng, "Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc" - Trần Thủ Độ đã nói với vị Thái thượng hoàng nhà Lý trước khi đưa người đến siết cổ ông ta. Ông đang phải trả giá cho lòng nhân đạo của mình bằng tính mạng của người tướng thân tín, anh rể ông, cuộc đời của chị gái ông, Ngọc Du công chúa.
Tàn sát không phải là bản tính của ông. Bốn năm trước, khi những sĩ quan Tây dương định bắn Phóng diên lưu hỏa pháp đốt thành trong kế hoạch hạ Quy Nhơn chỉ mười ngày của họ, ông đã ngăn lại vì tính tàn sát qúa cao của thứ vũ khí ấy. Năm trước, một lần nữa, ông đã tha cho tất cả binh lính Tây Sơn đầu hàng, từ Tổng quản Quy Nhơn đến tên lính thấp nhất. Nhưng rốt cuộc, cả một người dân quèn cũng sẵn sàng chống lại ông. Tàn sát không phải là cách thức, nhưng nhân đạo cũng không phải là giải pháp an dân.
Đêm xuống, gió biển lạnh ngắt ào ạt thổi, nhưng lòng Nguyễn vương nóng như lửa đốt. Ông đứng yên trên bãi cát, nhìn về những chiếc thuyền lớn đóng theo kiểu Tây dương đang trở thành khối bóng đen khổng lồ, kỳ dị trên mặt biển. Chính ông đã chỉ huy đóng chúng, niềm tự hào của ông. Chính ông đã đem một chiếc thuyền Tây dương cũ về, rã ra rồi đóng lại, học hỏi cách đóng thuyền của họ rồi phát triển đội thuyền của mình, tự xây xưởng đóng thuyền lớn ở Gia Định. Đội thuyền của ông, với đại bác và được các chiến binh châu Âu huấn luyện, là đội thủy quân mạnh nhất ở vùng biển Đông này, vượt qua cả thủy quân Tây dương ở Ấn Độ. Chúng là của ông, do một mình ông xây dựng nên. Tất cả những thứ ông có là của ông, do chính tay ông tạo ra. Nước Xiêm lợi dụng ông, nước Pháp ngoảnh mặt không giúp đỡ ông, chỉ có ông và Bá Đa Lộc tự gầy dựng tất cả. Từ Xiêm La trở về, với sự giúp đỡ của Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương, ông đã lấy được Gia Định, kết thúc sự chiếm đóng của quân Tây Sơn ở nơi ấy. Rồi Bá Đa Lộc trở lại cùng đoàn người Tây dương chỉ có hơn trăm mà ông ta mộ được. Số quân đánh thuê ít ỏi đó đã đem khoa học quân sự về cho ông. Từ hai bàn tay trắng, ông đã tạo lập được đội quân hùng mạnh, căn cứ vững chắc cho riêng mình. Giờ đây, Bá Đa Lộc đã mất, ông đã có thể đi theo con đường của mình hoàn toàn. Giờ đây, không gì có thể ngáng đường ông, kể cả Tây Sơn. Đã hơn hai mươi năm, ông đã kiên nhẫn trong hơn hai mươi năm, đã hết lần này đến lần khác hồi phục sau những thất bại trong suốt một thời gian dài, vậy thì một hai năm nữa có là gì.
Chỉ là, sự ngáng trở này thật làm ông thất vọng. Tên vua trẻ con kia đã chứng tỏ sức cầm cự của mình, nó sẽ chống đỡ được bao lâu? Thời gian kéo dài, Bắc Hà ổn định, trở thành hậu cứ của Tây Sơn như Gia Định là hậu cứ của ông, vậy thì ưu thế của ông sẽ mất. Có thể ông đã qúa lo xa, nhưng qủa thật thực lực quân sự của hai bên lúc này vẫn xấp xỉ nhau. Quân lương của Gia Định trong suốt năm nay đã đến hồi cạn kiệt. Bọn Tề Ngôi cướp phá, bão và gió lớn đã lấy đi không ít lương thảo. Ông đã phải lấy trước thuế năm sau, tăng điền tô, định lấy cả gạo của người Thượng. Vậy mà vẫn lâm vào tình cảnh khó khăn đến nỗi Nguyễn Đức Xuyên dâng sớ xin dừng binh đợi sang năm. Không tiếp cứu được Bình Định, bị chia cách hoàn toàn hai đội quân thủy bộ, không có cách nào đánh vào, Trần Quang Diệu chiếm lại được Bình Định thì công lao bao năm của ông trở về điểm xuất phát. Đúng vào lúc ông nghĩ mình đã có thể lật ngược thế cờ tiến về phương Bắc. Cảm giác ấy thật đáng thất vọng.
Dừng binh lúc này là mất Võ Tánh. Lần đầu tiên trong suốt mười năm qua, ông đã không trở về Gia Định theo luồng gió nồm mà ở lại tiếp tục chiến tranh. Nhưng ông đang bị mắc kẹt, thật sự bị kẹt vào giữa những hẻm núi quanh co của Phú Yên, kẹt giữa đám dân quân trong vùng trung thành với Tây Sơn, kẹt ở cửa biển bị hai chiếc thuyền lớn cùng vô số đại bác chắn lối. Hòn Nan Dự trở nên bí bức và tù túng đến lạ giữa biển trời mênh mông này. Nguyễn vương chỉ có thể ngẩng đầu nhìn trời mà thở dài.
- Chúa công... - Tiếng gọi ngập ngừng phía sau. Nguyễn vương gật đầu ra hiệu mình đã nghe. Hắn có tin từ chiến trận báo về. Ông chậm rãi quay lại, nhận bức thư từ tay viên tùy tướng. Không vội vã, ông trở về doanh trại, đến cạnh ngọn lửa sáng rồi mới mở thư.
Nguyễn Văn Thành báo cáo đã dò hỏi được người Thượng con đường vòng đánh tập hậu ở đồng Cây Cầy, xin cho tiến đánh.
- Trời giúp ta! - Nguyễn vương thốt lên. Những người lính xung quanh quay nhìn ông. Nhưng ngay lập tức, gương mặt ông trở lại vẻ điềm tĩnh thường trực. Chỉ có đôi mắt ông sáng rực.
Qủa thật trời đã giúp ta, xếp lá thư lại, Nguyễn Phúc Ánh quay trở vào trại của mình, ngồi xuống bên bàn viết, từ tốn mài mực. Ta đã thấy rõ kẻ địch, ông thầm nhủ. Đồng Cây Cầy là con đường còn lại dẫn vào Phú Yên, ngoài con đường phải qua Thị Nại. Chiếm được đồng Cây Cầy là thông được hai đại binh. Trận chiến ở đây đã kéo dài nửa năm, hao tốn biết bao tướng sĩ, binh lính. Giờ đây, trời đã mở cho ông con đường.
Nguyễn Văn Thành cần thêm Tống Viết Phúc và Lê Văn Duyệt. Lê Chất về La Hai. Quân Cù mông chuẩn bị.
Đường vào Phú Yên đã mở. Mục tiêu tiếp theo là Thị Nại.
***
Đầu năm Tân Dậu, quân Gia Định tấn công Nguồn Cơ. Đô đốc Hoan của Tây Sơn bị giết. Tiếp tục truy kích đến Tuần Dã, vấp phải sự chống cự quyết liệt của đội quân do Từ Văn Chiêu chỉ huy, quân Nguyễn dùng súng bắn vào. Quân Tây Sơn thương vong vài vạn, phải bỏ chạy.
Từ núi An Tượng, Đầm Sanh, Sơn Chà, quân Tây Sơn phải rút từ Đá Mài đến Hoa An, Hoa Lục. Hai đội binh Gia Định thông được với nhau, đóng quân dọc sông Hà Thanh.
Ở hòn Nan Dự, Nguyễn vương cho sắp sẵn thuyền nhỏ, chuẩn bị tiến về cửa biển Quy Nhơn.
------------
Chú thích:
Hòn Nan dự: Còn có tên là hòn Nần. Là một hòn đảo trong vũng Cù mông. Nguyễn Ánh đóng ở hòn đảo này để chỉ huy các chiến dịch quân sự của mình.
2.
Tết Nguyên tiêu năm Tân Dậu ở Phú Xuân diễn ra lặng lẽ hơn bình thường. Dù đã được chuẩn bị trước cả tháng, tin chiến trận gấp gáp báo về khiến người người lo lắng. Vua Cảnh Thịnh cũng bãi bỏ lễ ngắm trăng trên núi Bằng Sơn để họp bàn quân cơ với các quan. Trên đường lộ, trên núi, trên con sông, những bóng đèn lồng đỏ vẫn rực sáng như trôi đi giữa trời đêm, nhưng chủ đề chính của các cuộc trò chuyện là tin chiến trường. Lần đầu tiên kể từ hơn một năm trở lại, Phú Xuân lại thấy hơi thở của chiến tranh đang tiến gần. Người ta đã quen với chuyện bàn luận về cuộc chiến đến nỗi chỉ một cuộc rút lui cũng đủ tạo ra sợ hãi. Tây Sơn mới chỉ rút ra khỏi cổng vào Phú Yên, một người nói, nhưng không ai tránh khỏi lo lắng. Đầu năm, tại ngôi chùa trên núi, sư ông đã bói một qủe rất xấu cho triều đình, người ta bảo nhau. Đó là một linh cảm tồi tệ treo lơ lửng, nhuộm màu đỏ của lửa. Không ai bảo ai, nhưng lời phán bảo kia cùng với sự biến ngoài chiến trường đầu năm mới làm không khí Tết Nguyên tiêu nặng nề như khoảng lặng trước một cơn bão.
- Chị ơi, thả đèn đi! - Tiếng Ngọc Bảo bên cạnh làm Ngọc Bình rời mắt khỏi đám người đang nói chuyện bên cạnh. Nàng đang ngồi tại bờ sông, nơi rất đông người đến thả đèn và những câu chuyện xung quanh không thể không làm nàng chú ý. Dù đã được nghe báo cáo tại cung đình, nhưng qua những lời bàn tán, nàng có thể cảm thấy sự xáo động diễn ra rất rõ rệt. Chiến tranh đã qúa lâu, họ đang chờ đợi sự kết thúc, dù ở bất cứ phía nào, nàng thầm nghĩ, đưa cho Ngọc Bảo một chiếc đèn hoa sen nhỏ. Con bé đón lấy, hớn hở thả nó xuống nước. Chiếc đèn chầm chậm trôi đi, rồi lẫn vào hàng trăm ánh đỏ trên sông, cuốn về phía chân trời đen hút. Con bé cười rộn rã.
Ngọc Bình mỉm cười nhìn nó. Hôm nay, khi lễ ngắm trăng trên núi bị hủy bỏ, nàng đã xin với Quang Toản cho ra ngoài. Cùng với Ngọc Bảo và Văn Đức, cả ba khoác trang phục một nhà đánh cá để dạo chơi trên phố. Bọn chúng có vẻ hớn hở khi được tung tăng đi lại và gọi nàng là "chị" thay vì "hoàng hậu nương nương" hoặc "lệnh bà". Đến tận bây giờ, nàng vẫn chưa quen cách gọi ấy. Thằng bé Văn Đức giờ chắc đang la cà ở một tiệm bánh nào gần đây, nàng nghĩ, lấy ra thêm một chiếc đèn. Ngọc Bảo đón lấy, đôi mắt to tròn nhìn nàng.
- Chị ước gì? - Nó hỏi. Nàng lắc đầu.
- Không, cái này là của em.
- Em ước cho chị. - Con bé vẫn bướng bỉnh nói. - Em đã ước cho anh Văn Đức, giờ đến chị.
- Em có bao nhiêu là anh chị, em ước cho họ trước đi. Chị tự thả đèn được, còn họ đâu thả được. - Nàng cười. Con bé hơi cúi xuống, rồi gật đầu. Ngọc Bình lấy một chiếc đèn nhỏ, để trên lòng tay, chợt ngẩn người.
Nàng sẽ ước điều gì đây?
Cho bà Chiêu nghi, nàng đã dâng hương cầu phật. Ngoài bà ra, nàng còn ai nữa? Còn ai muốn nàng cầu xin cho họ?
Ngón tay nàng chạm xuống mặt nước lạnh. Cái lạnh chầm chậm lan lên cánh tay, rồi thân thể nàng. Cầu cho chàng bình an, nàng thầm nói, trước khi đèn rời khỏi tay nàng, trôi vào dòng sông đen ánh trong đêm.
Giờ này chàng hẳn lại đang rong ruổi đâu đó trong vùng núi lạnh, giữa cái rét cắt da miền Bắc. Qua tấu sớ của chàng gửi cho vua Cảnh Thịnh, bọn thổ hào, phiên liêu được dịp Vạn Tượng đánh vào Nghĩa An nổi dậy khắp nơi. Qùa năm mới của chàng đến sớm, trước lúc chàng phải lên đường. Khác với những món qùa nghĩa vụ gửi cho nàng từ một năm nay, những món qùa nàng có thể đoan chắc do người khác chọn và chàng chỉ thêm một bức thiệp chúc mừng cũng với phong cách lịch sự lạnh lùng như thế, chàng đã có qùa riêng cho nàng. Chiếc trâm bạc nhỏ, lẫn vào trong hàng gói qùa to lớn. Chiếc trâm đơn giản, như chỉ của một cô gái bình thường. Nhưng nó là của nàng, dành riêng cho nàng. Nàng nhận ra nó ngay lập tức vì cành hoa bạc đính lên. Cành hoa phỏng theo cành mạt lị ngày xưa.
Ngày xưa, những từ ngữ ấy đăng đắng trên lưỡi nàng. Đã hơn một năm rồi, có lúc nàng tưởng chàng đã quên nàng, chàng đã cố tình quên nàng như quên đi một lỗi lầm không thể tha thứ trong đời chàng. Cây trâm ấy đến, nhưng để làm gì? Rồi thời gian sẽ trôi như nước chảy, tất cả chỉ là "ngày xưa", mặc cho nàng có rơi bao nhiêu nước mắt vì nó đi chăng nữa. Rơi nước mắt vì một cây trâm bạc, để làm gì?
- Chị ơi... - Ngọc Bảo gọi, níu tay nàng. Nàng đã ngồi thừ người nhìn vào dòng sông qúa lâu, để mặc bàn tay mình chìm trong nước. Giờ thì ngón tay nàng đã lạnh buốt, cả người nàng run lên. Nàng ôm bàn tay, lắc đầu cười.
- Không sao đâu. Em thả đèn xong chưa, mình tìm em Đức rồi về thôi. Ở nhà đang mong.
Ngọc Bảo gật đầu tuy vẫn còn đang nhìn phố phường rực rỡ ánh đèn luyến tiếc. Nó đã quen với những lúc Chính cung chợt ngẩn người nhìn ra xa như hồn đã lìa khỏi xác. Ngày xưa mẹ nó cũng thế. Họ đều mỉm cười bảo nó đi về sau đó. Chính cung là em của mẹ cho nên hai người thật là giống nhau, nó nghĩ, luồn những ngón tay vào nắm lấy tay Ngọc Bình. Từ tiệm bánh, Văn Đức chạy ào về phía nàng, trên tay còn một ôm bánh to. Hôm qua là sinh nhật của thằng bé, và nó vẫn còn đang tự thưởng cho mình những món ngon lành. Mỗi tay dắt một đứa, Ngọc Bình thong thả đưa hai đứa trẻ đi trên con đường dẫn về hoàng cung. Chúng với tay tranh giành bánh với nhau, cười vang bên nàng. Mưa lại lâm thâm rơi, giọt nhỏ không đủ lưu lại trên làn da nóng.
Hơn một năm rồi, nàng lại thầm nhắc, nhìn những ánh đèn rực màu lửa hai bên đường, trước mặt. Rồi sẽ là những ngày tháng thật dài, nhưng chuyện gì sẽ tới? Cuộc chiến này sẽ đến đâu? Quang Thùy đã làm hết sức để cố gắng giữ vững triều đình này như cuộc chiến vô vọng chàng vẫn làm với những con đê miền Bắc. Chàng không bao giờ chấp nhận thất bại, không chịu thất bại. Chàng sẵn sàng hy sinh bất cứ gì, kể cả bản thân, linh hồn mình. Nàng chỉ là một phần trong số đó. Nhưng còn nàng, nàng sẽ thế nào đây?
Hơn một năm, đủ để nàng cảm thấy sự giận dữ của mình dịu xuống, cũng đủ để nỗi nhớ trở thành một phần không thể tách rời trong nàng. Nàng nhớ miền Bắc, nàng nhớ những cánh đồng thơm mùi lúa, nàng nhớ khu vườn trồng đầy dược thảo, nàng nhớ nắng, nhớ mưa, nhớ đến cả cái lạnh như châm kim vào sau những lớp áo. Nàng nhớ cuộc sống trước kia, lúc tự do đi đến bất cứ nơi nào. Nàng nhớ những lễ hội, nhớ giọng nói, tiếng cười. Khi biết rằng không thể nào quay về được nữa, nỗi nhớ đó càng cào cấu tâm can nàng. Và mỗi khi nhớ về miền Bắc, nàng lại nghĩ đến người con trai vẫn rong ruổi khắp các vùng miền nơi ấy. Người con trai đã đưa nàng đến đây, rồi bỏ nàng lại.
Ngày nàng rời khỏi Kinh Bắc, mưa đã như đuổi theo nàng...
Rồi sau này, cuộc đời nàng sẽ ra sao? Không biết đây là lần thứ bao nhiêu, nàng không thể ngăn mình tự hỏi. Nàng sẽ sống cả cuộc đời mình trong cung điện này, trong làn mưa đổ quanh năm này, với những con người này? Một năm đối với nàng thật là dài, dài đến như vô tận. Nàng đếm nắng, nàng đếm mưa, nàng đếm chờ đến ngày lá mọc rồi lá rụng. Nàng đọc những tấu sớ gửi cho Quang Toản, nàng chờ tin từ Bắc Hà. Bắc Hà, phương Bắc của nàng. Mỗi chữ trong tiếng gọi ấy đều như mũi dao đâm thấu trái tim nàng.
Nàng sẽ sống ra sao đây, với nỗi đau từ vết thương không chịu liền miệng này, khi mỗi ngày nàng đều phải gặp em trai chàng?
Những đứa trẻ vẫn ríu rít nói cười. Tay nàng nắm chặt tay bọn chúng hơn một chút. Giọt máu của chị nàng, điều an ủi duy nhất của nàng ở nơi này.
Về tới cung, đưa hai đứa trẻ đi ngủ, Ngọc Bình quay trở về phòng. Nàng được ở trong điện Chính cung hoàng hậu cũ, khu cung điện bao giờ cũng sáng rực ánh đèn. Những cung nhân cúi chào nàng. Họ cố tình không để ý qúa nhiều đến trang phục nàng đang mặc. Vua Cảnh Thịnh qủa thật rất nuông chiều Chính cung, họ nghĩ. Nhà vua cho phép nàng làm bất cứ điều gì nàng muốn.
- Hoàng hậu nương nương, Hoàng thượng đang đợi người. - Trưởng cung nữ nói. Ngọc Bình nhướng mày trước khi quay vào nội cung thay áo để đến gặp nhà vua.
Quang Toản qủa thật đang đợi nàng trong phòng tiếp khách. Chàng đang ngồi bên bàn nước, xoay một vật nhỏ bằng bạc giữa những ngón tay. Một nếp nhăn nhạt hiện lên giữa hai lông mày nhà vua. Khi lại gần, Ngọc Bình nhận ra chàng đang cầm cây trâm của nàng. Hẳn nàng đã để nó trên bàn. Thấy nàng, Quang Toản đặt cây trâm xuống, gật đầu đáp lễ lời chào.
- Hoàng thượng đến đây đêm khuya thế này, hẳn có việc? - Nàng nói, cúi xuống rót trà. Khuôn mặt Quang Toản đầy vẻ suy tư. Chàng không để tâm đến việc nàng nhẹ nhàng rút cây trâm về, giấu vào trong tay áo.
- Ở bên ngoài không có điều gì lạ chứ? - Quang Toản hỏi. Chàng nói tiếp khi nàng chưa trả lời. - Những người Gia-tô giáo có biểu hiện gì đặc biệt không?
- Thần thiếp không chú ý đến người Gia-tô, thưa Hoàng thượng. - Dù có cảm thấy lạ lùng trước câu hỏi của Quang Toản, nàng vẫn không để lộ ra. Quang Toản đăm chiêu gật đầu.
- Ngài đừng ép họ qúa, - Sau một lúc im lặng, nàng nói. Nàng không muốn quan tâm, nhưng những gì đã nghe được khiến nàng không thể không nói. - Đã đành họ bị các giáo sĩ Tây dương từ miền Nam vào xúi giục, nhưng càng mạnh tay thì lại càng khiến lòng căm giận sâu thêm mà thôi.
- Ta không muốn làm thế, nhưng chúng chỉ muốn giết ta bằng bất cứ giá nào. - Quang Toản thở dài. - Bọn giáo sĩ chỉ muốn biến đất nước này thành quốc gia nằm dưới quyền điều khiển của Giáo hội bọn chúng. Ta dám thề với trời, Nguyễn vương bây giờ đang ve vãn lấy lòng đám giáo sĩ, nhưng nếu chiếm thế mạnh, hắn ta cũng sẽ ban lệnh cấm đạo mà thôi.
Trong giọng nói giận dữ của Quang Toản có sự sôi nổi hiếm có. Cấm đạo khác với phá nhà thờ và hạ nhục con chiên, nàng muốn nói, nhưng cuối cùng im lặng. Quang Toản đã đích thân chủ trì triều chính một năm nay mà không có một vị quan dày dặn kinh nghiệm giúp đỡ. Dù Phan Huy Ích đã được phong làm Lễ bộ Thượng thư và La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp được gọi vào triều, hai người bọn họ cũng chỉ chuyên về học thuật, văn sách hơn là chính trị. Nhiệt tình của Quang Toản nhiều khi trở thành những mệnh lệnh tủn mủn, cay cú không cần thiết. Bắt con chiên đạp chân lên ảnh, nếu không bị sung quân đi nuôi voi, nàng tự hỏi điều ấy có tác dụng gì.
Tuy vậy, đó không phải là việc của nàng. Nâng ly trà lên nhấp môi, nàng lại cảm thấy cây trâm cồm cộm trong tay áo. Nàng muốn hỏi tin tức chiến tranh đã thế nào, nhưng Quang Toản không nói, nghĩa là chưa có tin gì mới. Mỗi khi có sự biến xảy ra, chàng đều tìm đến nàng. Một mình chàng nói, còn nàng sẽ nghe. Mới tự thân chấp chính, nhà vua có sự nhiệt tình đến gần như ngây thơ. Điều gì đối với chàng cũng mới lạ và khó khăn, nếu chỉ ngồi nghe đám quan lại nói chuyện thì vẫn không thể hiểu được. Nàng lại im lặng như nàng luôn luôn im lặng. Ý nghĩ của nàng lại chuẩn bị bay xa khỏi căn phòng này.
Chiến tranh, đó mới là điều liên quan chặt chẽ đến số phận của nàng, của tất cả con người nơi đây. Đêm nay, Quang Toản cũng im lặng. Chàng nhìn ra khoảng không nhuốm màu đêm ngoài cửa, rồi bất chợt thở dài.
- Không hiểu sao ta có một linh cảm rất lạ. - Chàng nói, ngập ngừng. Ngọc Bình ngước nhìn lên. Nhà vua cũng cảm thấy nó sao, cái linh cảm đang lơ lửng trên bầu trời Phú Xuân? Cuộc chiến vẫn còn đang ngang sức, tại sao trong lòng ai cũng xuất hiện một khoảng đen tối mờ mịt này?
Ngồi thêm một lát, Quang Toản đứng dậy, nhìn lại Ngọc Bình, gật đầu:
- Nàng nghỉ đi.
Khi bóng áo vàng đã khuất sau cửa, nàng ngồi xuống, gọi người trong cung cho tắt đèn. Và trong ánh trăng chiếu chênh chếch qua hàng hiên, nàng rút cây trâm trong tay áo ra, chăm chú nhìn từng nét khắc của chiếc lá, cành hoa, từng cánh hoa bằng bạc. Từng đường nét lấp lánh dưới ánh trăng, hắt ánh sáng trắng mờ.
"Dục vấn tương tư xứ...", nàng thì thầm, áp bông hoa bạc vào môi. Kim loại lành lạnh. Nàng nhắm mắt khi lệ lại chực chờ rơi.
Sau mi mắt nhắm, nàng không thấy tia chớp sáng của số phận đã rực lên trong một khoảnh khắc giữa đêm trăng ấy.
---------
Chú thích:
Vạn Tượng: Lào
3.
Đêm sau ngày Nguyên tiêu, ở cửa biển Thị Nại bỗng xuất hiện những chiếc thuyền nhỏ men theo phía núi hướng về bãi cát. Trong im lặng, những bóng đen trên thuyền lên bờ, hướng về hải đồn sáng rực ánh đèn bên bờ biển. Ngoài khơi, một đoàn thuyền nhỏ khác cũng nương chiều gió nam tiến lại gần khối thuyền đồ sộ sừng sững đang đứng chắn cửa biển. Một tiếng nói từ trên vách đá hỏi xuống khi đoàn thuyền tấp vào:
- Mật khẩu?
Có tiếng trả lời, rồi đoàn thuyền lại tiếp tục lách giữa những hàng tàu thuyền đậu dày đặc, đi vào thủy trại. Tiếng lách cách khe khẽ. Người trên thuyền lấy ra những lưỡi móc câu móc vào thân các thuyền lớn bên cạnh.
Rồi lửa bùng lên.
Rất nhanh, lửa lan trên các thuyền sáng rực cả một góc biển. Ngoài xa, tiếng súng đại bác nổ phá tan sự tĩnh lặng của màn đêm. Tiếng reo hò nổi lên khắp phía, động cả sóng biển. Trên những tháp canh, lính Tây Sơn hoảng hốt tỉnh dậy trong ánh lửa cháy sáng trời. Từ dưới bãi cát, đoàn người mang lưỡi lê bật lên, ánh thép sáng loáng trong trăng. Súng bắt đầu nổ. Những người đầu tiên chạy ra ngoài vách đá bị bắn rơi xuống, tiếng hét hãi hùng vang vọng trong đá.
Theo luồng gió đang thổi mạnh, các thuyền chèo tay nhanh chóng từ ngoài khơi ập vào. Lúc này, quân Tây Sơn đã lấy lại bình tĩnh, hướng đại bác bắn về phía cửa biển. Trên chiếc thuyền đầu tiên, viên tướng đang chỉ huy bị pháo mất nửa người. Lê Văn Duyệt trên thuyền kế cận không quay đầu lại, vẫn thúc quân tiến tới. Lướt qua con thuyền đang chùng lại hãi hùng, ông cho viên tướng điều khiển thuyền một nhát kiếm chém bay đầu. Những con thuyền trôi giữa lằn đạn, áp sát thuyền địch, ném đuốc và các hỏa khí vào. Chẳng mấy chốc, cửa biển biến thành một bó đuốc cháy rực. Tiếng đạn pháo vang rền trên các vách đá, các chiến hạm. Những chiếc thuyền bắt lửa bắt đầu phát ra tiếng rầm rĩ rồi nổ tung, chìm xuống mặt nước đang chuyển sang màu đỏ.
Thuyền của Tây Sơn đã ra chặn đánh. Trận chiến nổ ra ngay trên mặt biển.
Gió nam từ biển thổi vào đất liền, cuốn lửa bốc cao gần chạm núi. Lửa lan vào đoàn thuyền bên trong của Tây Sơn còn chưa bị đốt. Những binh lính Tây Sơn vẫn đánh trả trong các pháo đội cho đến khi lửa bén vào kho thuốc súng, tiêu diệt tất cả trong một cái chớp mắt của tiếng nổ kinh hồn.
Dưới ánh trăng, mặt biển đỏ rực cuồn cuộn sóng, gió đánh tan ngọn khói vào những tầng mây. Trong những vách đá, tiếng đạn, tiếng súng, tiếng nổ cùng tiếng quân lính hò reo đập dồn vào nhau đinh tai nhức óc. Lưỡi lửa liếm vào trăng. Tiếng nổ rung động cả những vách núi, lan vang theo sóng.
Từ hòn Đất nhìn về Thị Nại, Nguyễn Phúc Ánh vẫn giữ thái độ điềm nhiên, kể cả khi ngọn lửa đã bốc cao. Bên cạnh ông, những viên sĩ quan Pháp đều nôn nao. Tay họ đặt lên đốc kiếm, siết chặt. Đôi mắt xanh của họ nhìn không chớp như bị thôi miên trong ánh lửa, trong tiếng chiến trận đang vọng về. Chưa bao giờ có một trận đánh nào như thế ở vùng Cochinchine, họ nghĩ, thấy dòng máu trong người mình sôi sục. Nếu không có lệnh của Nguyễn vương bắt họ phải ở lại bảo vệ ông, họ sẽ lao về phía ngọn lửa kia ngay lập tức. Chiến trận, họ sống vì sức hấp dẫn của nó, và đang bị nó thôi miên. Chưa từng có trận chiến nào như thế ở Cochinchine, khi mà người đàn ông phương Đông tầm thước này chỉ dùng bốn ngàn quân cùng vài chiếc thuyền nhẹ tồi tàn để làm nổ tung cả một hạm đội, để phá tan phòng vệ gồm toàn đại bác, trọng pháo cùng hàng vạn quân ở cửa biển.
Hãy nhìn hai chiếc thuyền lớn của Tonkin đang quằn quại cháy và chìm xuống biển. Hãy nhìn những thân người đang rơi xuống vách đá từ các cuộc đánh xáp lá cà. Những người phương Đông bọn họ không biết sợ chết! Hãy nhìn những con thuyền lao vào giữa làn đạn pháo rít lên trên đầu. Hãy nhìn đám quân của Tonkin vẫn cương quyết bám trụ đến cùng khi lửa đang tiến đến họ như cơn bão, bắn đến phát đạn cuối cùng ở vị trí cho đến khi bị lửa nuốt trọn. Nhìn thấy sự can đảm đó, người ta đang lao vào nhau mà không kể sống chết, chỉ có chiến tranh cháy rực trong mắt họ, người đàn ông nào không khỏi nôn nao.
Không thể kìm được, viên sĩ quan de Forcans nhẹ nhàng lùi về sau, trốn đến bến thuyền và lặng lẽ lao vào cuộc chém giết đang đến hồi quyết liệt. Nơi ấy, anh ta đốt được bảy chiếc thuyền.
Nguyễn Phúc Ánh không để ý đến cuộc bỏ trốn đó. Ông đang vạch ra những đường đi của cuộc tiến công trong đầu mình. Hoàng Văn Khánh đã đi vòng đường núi để cản tiếp viện của Tây Sơn. Võ Văn Dũng giờ đây chỉ có thể chống cự cho đến chết. Có chống cự cho đến chết thì cũng không thể cứu được đội thủy quân của Tây Sơn. Nguyễn quân sẽ làm chủ mặt biển kể từ đây.
Mất thủy quân, Tây Sơn không thể di động trên các đồng bằng ven biển. Họ sẽ bị dồn về các hẻm núi và sẽ tự tan rã nếu thời gian kéo dài. Giờ đây, ông sẽ chọn hướng tấn công nào, Phú Xuân hay Bình Định?
Gió nam vẫn rào rạt thổi quanh ông. Đó là ý của trời, ông nghĩ. Đang mùa gió nam, nhưng gió đêm nay thật mạnh. Ngọn gió đã thiêu hủy cả một đội thuyền chỉ trong thoáng chốc. Các chiếc thuyền nhỏ đầu đóng đinh sắt của ông vẫn đang lướt đi, không sợ lửa đạn. Ông đã chuẩn bị cho họ không phải đại bác hay pháo mà là củi rưới nhựa trám dẫn lửa.
Ông đã tạo ra một trận Xích Bích cho nước Nam này. Đời đời sẽ ghi nhớ nó như Đệ nhất Vũ công trên mặt biển.
Hãy nhìn điệu vũ của lửa giữa trăng và biển. Đêm Nguyên tiêu rực rỡ.
***
Lửa cháy đến trưa mới tắt. Nguyễn vương cùng những hộ vệ lên tàu đi vào giữa những xác tàu cháy đen và mặt biển bập bềnh gỗ, than, máu cùng với thây người. Một viên đạn sượt qua trước mũi tàu ông từ một đồn canh vẫn còn sống sót của Tây Sơn, nhưng những người còn lại đang rút lui.
Đổ bộ vào chợ Giã, Nguyễn Phúc Ánh cho người báo tin về các đội quân ở Phú Yên, Bình Thuận, kể cả Xiêm La, Cao Miên. Ông cho kiểm lại quân số của mình, mất hơn sáu trăm người. Tướng Võ Di Nguy, Hoàng Văn Định, Nguyễn Vĩnh Hựu thiệt mạng.
Võ Văn Dũng cho báo về Phú Xuân thiệt hại của trận chiến: Hơn hai vạn người chết, gần hai ngàn chiếc thuyền bị đốt, sáu trăm đại bác cùng vô số của cải rơi vào tay Gia Định.
Đội thủy quân của Tây Sơn bị tiêu diệt hoàn toàn.
-----------
Chú thích:
Cochinchine: Nam Kỳ.
Tonkin: Bắc Kỳ.
Từ cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn, người phương Tây dùng cách này để gọi Đàng Trong - Đàng Ngoài. Ở đây, Tonkin chỉ quân đội của Tây Sơn.
4.
Tin cấp báo về đến Phú Xuân lúc trời đã khuya. Vua Cảnh Thịnh vội vã mở bản tấu, rồi buông xuống thẫn thờ. Nhà vua gật đầu cho người lính báo tin lui ra, gương mặt không lộ chút cảm xúc. Đặt bản tấu lại trên bàn, chàng ngồi yên lặng, trân trân nhìn nó. Một lúc sau, chàng đứng dậy, chậm chạp ra khỏi phủ điện.
Ngọc Bình đang cởi trang sức chuẩn bị đi ngủ, ngạc nhiên khi thấy Quang Toản lặng lẽ vào phòng nàng. Không đáp lại lời chào, nhà vua ngồi xuống bên bàn, ánh mắt trống rỗng cắm xuống mặt sơn mài đen bóng trong ánh sáng ngọn đèn nhỏ duy nhất trong phòng. Ngọc Bình nhẹ nhàng lấy bình trà rót cho chàng, máy móc theo lệ thường của nàng, rồi ngồi ở phía đối diện.
- Nàng nói gì đó đi, - Quang Toản chợt nói. - Nàng nói gì cũng được. Hay hát cho ta một bài dân ca quê nàng đi.
Ngọc Bình chớp mắt nhìn chàng. Trong giọng chàng có sự khẩn nài yếu ớt khiến người nghe không khỏi chạnh lòng. Ngồi im một lúc, nàng khe khẽ hát một bài ca Kinh Bắc chợt đến trong tâm trí.
"Bèo giạt
Mây trôi
Chim sa
Cá lội
Ngậm một tin trông, hai tin đợi, ba bốn tin chờ...
Sao chẳng thấy anh?
Một mảnh trăng treo
Suốt canh thâu
Anh ơi trăng đã ngả mái đầu
Thương nhớ ở ai
Sương rơi
Đêm sắp tàn trăng mờ
Cành chè đu trước ngõ là gió la đà
Em vẫn mong chờ...
Sao chẳng thấy anh?"
Nàng chợt ngừng lại khi tay mình bị một bàn tay nắm chặt. Đôi mắt nâu của Quang Toản nhìn nàng, trong chiều sâu trong suốt đó lại như có một khoảng tối chập chờn. Những ngón tay xương xương của chàng siết chặt bàn tay nàng đến phát đau. Mím môi, nàng không rút tay về, chỉ khẽ khàng nói:
- Hoàng thượng, có việc gì vậy?
Quang Toản chớp mắt, lơi dần những ngón tay, nhưng vẫn không thả tay nàng ra. Trong khoảnh khắc của cái chớp mắt đó, đôi mắt chàng chợt biến thành màu nâu xám, trơ trơ như củi mục.
- Giọng nàng rất giống giọng Bắc Cung, - Gương mặt xanh xao của Quang Toản như được đúc bằng đá trắng, hầu như mất hết sự sống của con người. Đôi mắt chàng vẫn nhìn thẳng vào nàng, không chớp. - Nàng cũng ngày càng âu sầu như Bắc Cung. Ta chỉ sợ một ngày nào đó, nàng cũng ra đi như Bắc Cung... Ta không thể làm được gì... Ta đến nói chuyện với nàng, nhưng nàng luôn im lặng...
Bàn tay Quang Toản buông nàng ra cũng bất thần như khi chàng nắm lấy. Chàng nhìn lại vào mặt bàn, như thể, lần nữa, sức lực đã bị rút cạn. Ngọc Bình nhớ lại hình ảnh của Quang Toản lần đầu gặp chàng. Một năm nay, nhà vua có vẻ bình tâm lại, chăm chú lao vào công việc, nhưng cái vỏ ấy chỉ cần một tác động là lại vỡ toác, trả lại con người tuyệt vọng run rẩy bên trong.
- Hoàng thượng, có chuyện gì vậy? - Một lần nữa, nàng hỏi. Lần này, ngay cả nàng cũng thấy lo sợ. Sự biến nào đó khiến cho Quang Toản phải thất thần như vậy chưa từng xảy ra trong hơn một năm nay.
Đầu Quang Toản càng cúi xuống thấp hơn. Khi nói, miệng chàng như không mở ra, và nàng khó khăn lắm mới nghe được tiếng phát ra từ cổ họng.
- Đội thủy quân ở Thị Nại đã bị tiêu diệt hoàn toàn... Toàn bộ thủy quân của Tây Sơn ta bị tiêu diệt hoàn toàn... Không còn cả đến một chiếc thuyền...
Một cơn buốt lạnh chạy dọc sống lưng nàng. Sự kinh hoàng này khiến nàng cũng không thể nói được gì. Nàng nhận thấy ngón tay mình đang run lên. Lẽ nào có thể như thế? Nguyễn vương dùng cách nào để hủy cả một đội thuyền hùng mạnh đến vậy chỉ trong có một ngày? Mới hôm trước, mọi việc đều yên ổn, chưa có động tĩnh nào, nàng nghĩ, lặng đi. Nhà vua đang run rẩy thật sự. Bàn tay chàng khoanh lại, nắm chặt trên mặt bàn. Trước con người ấy, nàng bắt buộc phải lên tiếng an ủi chàng.
- Chúng ta còn bộ binh, Hoàng thượng. Tây Sơn mạnh về bộ binh hơn thủy quân. Cầm cự được với Nguyễn vương rồi chúng ta sẽ xây dựng lại. Người đừng qúa tuyệt vọng.
Giọng nói nàng có vẻ rắn rỏi đến mức lạnh lùng. Nhưng điều đó lại có tác dụng trấn tĩnh Quang Toản. Vẫn cúi đầu, nhưng ánh mắt chàng đã bớt xáo động. Ngồi một lúc, chàng thở dài.
- Ta thật rất dễ mất bình tĩnh. Lại để nàng phải an ủi, ta thật là vô dụng. Khi gặp chuyện, ta không thể tỉnh táo được, ta thật là vô dụng.
- Hoàng thượng đừng nói vậy... - Ngọc Bình vội nói, nhưng chợt im lặng khi nhà vua ngẩng lên, quay về phía nàng. Khoảng đen tối lại xuất hiện trong mắt chàng, phủ lên đôi đồng tử nâu đục. Lần đầu tiên nàng thấy nhiều cảm xúc đến thế hiện lên trên khuôn mặt thanh tú vô hồn. Giận dữ, thất vọng, buồn bã, đau đớn và cả... khao khát. Ánh mắt ấy khiến nàng phải cúi đầu.
- Hoàng thượng, xin người bình tâm lại. - Nàng bước lui ra xa chàng, qùy xuống. Giọng nàng vẫn nhỏ nhẹ. Như đụng phải một bức tường, Quang Toản ngồi yên, rồi đứng lên đi khỏi cung mà không nói với nàng lời nào.
Chậm rãi, nàng đứng dậy, đi lại phía chiếc giường, ngồi xuống. Tim nàng vẫn còn đập nhanh. Nàng sợ. Nàng đã sợ thật sự. "Ép nàng ở bên ta đã là việc không phải. Ép nàng phải hầu hạ ta khi nàng không muốn, ta không thể làm được", Quang Toản đã nói. Còn nàng thì lại không dám đối mặt với hậu qủa việc làm của mình. Nàng đã cam tâm ở trong cung lạnh suốt đời, nhưng có thể không? Không sớm thì muộn, sẽ có kẻ thắc mắc về người thừa tự của nhà vua. Không kể bản thân nhà vua hầu như ngày nào cũng đến tìm nàng...
Việc mà nàng đã gây ra, sẽ đến lúc nàng phải nhận lãnh. Cả ba người sẽ phải nhận lãnh. Nhưng có đến ngày ấy không? Hơn lúc nào hết, nàng chỉ cầu mong có thể đem bí mật này xuống mộ. Không cần thêm một người nào bị tổn thương nữa. Quang Thùy nói đúng, nàng chỉ nên trả thù một mình chàng, không cần thêm bất cứ ai. Không được thêm bất cứ ai. Nếu không, đó sẽ là lưỡi dao quay ngược lại đâm vào nàng.
Có thể đến ngày ấy không? Một lần nữa, nàng hỏi mình như tuyệt vọng. Nàng đang muốn gì đây? Cầu cho tàu của chúa Nguyễn tiến vào, chấm dứt cuộc sống này của nàng? Không. Nàng không biết nữa.
Bên ngoài vườn Thượng uyển, mưa xuân lại lắc rắc rơi. Đứng lặng yên trong mưa, nhà vua hướng cặp mắt trong suốt của mình dõi vào bầu trời mây xám. Chàng muốn hét lên, hét lên một điều gì đó. Nhưng chân tay chàng bủn rủn, miệng chàng đắng ngắt. Tên thái giám hầu vội đưa ô ra che cho nhà vua. Lặng lẽ, chàng quay về cung, đóng cửa phòng mình lại.
Ngày mai, chàng nghĩ. Ngày mai ta sẽ bàn cách để cầm cự với quân Nguyễn bằng bất cứ giá nào. Không cầu viện Bắc Hà. Chưa đến lúc.
***
Sau trận thua Thị Nại, Võ Văn Dũng đem quân về hợp với Trần Quang Diệu, tổng lực công kích thành Bình Định. Từ Văn Chiêu bày trận phục kích giết chết và bắt sống bốn tướng của nhà Nguyễn. Phạm Văn Điềm theo chiến thuật du kích đánh úp và giết tướng Gia Định ở Hội An. Đến tận tháng tư, quân Nguyễn vẫn không thể đánh vào Bình Định.
Ở Bình Định, Võ Tánh viết thư cho Nguyễn vương: "Đại binh của Tây Sơn đang dồn hết về đây vây thành Bình Định thì Phú Xuân coi như bỏ ngỏ. Hãy nhân đây đem quân ra đánh lấy Phú Xuân. Lấy thành Phú Xuân đổi một mạng của thần thật mãn nguyện lắm rồi".
Nhận được thư, Nguyễn vương cũng phải thẫn thờ mất một lúc. Từ trận Thị Nại, ông cũng đã có ý đánh ra Phú Xuân. Tống Phúc Chu được lệnh về Gia Định bắt lính, Nguyễn Văn Trương đem thuyền đánh vào Quảng Nam, Quảng Ngãi, đưa cả ba chiếc thuyền lớn Long Phi, Phượng Phi, Bằng Phi ra Đà Nẵng. Nhưng ông không muốn bỏ Bình Định, bỏ Võ Tánh, vẫn thúc đánh vào. Chuẩn bị đánh Phú Xuân, ông đã gửi thư cho Võ Tánh, bảo bỏ thành mà chạy. Giờ đây, viên tướng này lại tự nguyện hy sinh, lấy mình làm mồi nhử quân Tây Sơn.
Bọn tướng Bắc Hà chán nản vì đánh qúa lâu đang định bỏ rơi ông, không thể chờ đợi thêm được nữa. Đám tướng sĩ Tây Sơn bị dồn vào tuyệt lộ chống trả đến cùng, khó có thể thắng được. Đánh vào Phú Xuân, "vây Ngụy cứu Triệu", may ra là cách duy nhất.
Ngày cuối tháng tư năm Tân Dậu, Nguyễn vương cho ghe thuyền và hơn một vạn quân tới biển Quy Nhơn, giả cách chuẩn bị đánh vào Bình Định. Vài ngày sau, quân rút đi, để lại một đống lửa lớn trên núi Một. Từ thành Bình Định nhìn về cột khói bốc cao, viên Phò mã Hậu quân mỉm cười.
Đây là lời từ giã của Nguyễn vương cho người cuối cùng của Gia Định Tam kiệt.
Ngày đầu tháng năm, quân Nguyễn với ba chiếc thuyền lớn cùng hàng trăm ghe chiến chở một vạn rưỡi bộ binh dàn trận trước cửa sông Hương.
5.
Tin quân Gia Định bất thần đánh úp Phú Xuân làm náo loạn kinh thành buổi sáng ngày đầu tháng năm. Những ghe thuyền thường ngày đậu ven sông vội vã cởi dây bơi về cuối nguồn, dân chúng nhốn nháo thu dọn đồ đạc, người nhanh chân theo thuyền chạy đi xứ khác, người đóng cửa trốn trong nhà. Trên đường chỉ có hàng đoàn quân lính cùng vũ khí sáng loà di chuyển. Những đội tượng binh, bộ binh phòng thủ kinh thành được lệnh chuẩn bị, tiếng chân rầm rập khắp nơi. Tiếng súng từ phía cửa sông vọng tới nghe rõ mồn một, tưởng như chỉ cách một bức tường đá vô hình.
Trên đỉnh núi Qui sơn, Phò mã Nguyễn Văn Trị chỉ huy một vạn quân bắn xuống và đóng cọc gỗ ngăn quân Nguyễn. Trận chiến kéo dài suốt ngày, quân Nguyễn không thể vượt qua hàng cọc trên bờ sông, ghe thuyền bị chìm khá nhiều. Bóng đêm buông xuống Phú Xuân cùng tiếng súng nổ rải rác cuối cùng. Vài người dân đã mở cửa ra, nói chuyện xì xào với nhau.
Cung điện Phú Xuân có một đêm không ngủ. Trong sân điện, đèn đuốc thắp sáng trời. Những con voi dậm chân thình thịch xuống nền đá. Đô đốc trấn thủ kinh thành Bùi Thị Xuân đã cho đội nữ binh canh giữ trước cung. Các quan lại tập trung trong điện, chờ nghe báo cáo từ chiến trường và đội cảnh vệ. Vua Cảnh Thịnh ngồi trên bệ rồng, gương mặt đanh lại càng giống như được tạc từ đá. Cả nhà vua cũng đã mặc chiến bào, nai nịt gọn gàng để ra trận bất cứ lúc nào. Giờ đây, cả triều đình xôn xao vì chính nội loạn tại kinh thành hơn là ở cửa sông: Một tên thợ mộc đã tiết lộ âm mưu làm phản của người Công giáo, mở cửa Phú Xuân cho Gia Định. Đội canh phòng bắt được thư của Nguyễn vương gửi cho Giám mục trong người hắn.
- Tình hình nguy cấp, xin bệ hạ cho tru diệt tất cả giáo dân trong thành! - Nội hầu Lê Văn Lợi nói đanh thép. Ông ta nhận được nhiều cái gật đầu đồng tình. Trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc, nước sôi lửa bỏng này, người ta sẵn sàng tiêu diệt những gì chỉ mới có dấu hiệu nghi ngờ. Cũng như ở Quy Nhơn ba năm trước, cuối cùng phải ra lệnh trừ đạo vì những giáo dân nổi loạn. Trước sát khí đằng đằng của các quan, vua Cảnh Thịnh mím môi, rồi gật đầu.
- Hãy xem tình hình thế nào. Giờ ta cần chú tâm vào bọn giặc ở cửa sông trước đã. Ngày mùng năm sẽ tiến hành tru diệt.
Đến ngày mùng năm còn hai ngày nữa, đủ để cân nhắc tình hình và động tĩnh của giáo dân để quyết định đúng đắn, thời hạn ấy cũng vừa lòng các quan trong triều, Quang Toản thầm nghĩ. Thật ra, giáo dân không phải là mối lo của chàng hiện tại. Chàng đang chờ tiếp viện từ Thanh Hóa và Quy Nhơn. Tin mới được đưa đi buổi sáng, hy vọng sẽ đến sớm. Canh phòng Phú Xuân hiện tại không có một chiếc thuyền chiến cũng như một vị tướng khả dĩ nào. Nhà vua bắt đầu thấy hối hận về quyết định của mình. Dốc sức tấn công Quy Nhơn, trấn giữ kinh thành hiện tại cũng chỉ có Bùi Thị Xuân. Nếu vượt qua được Nguyễn Văn Trị, quân Nguyễn sẽ đánh thẳng vào thành mà không gặp trở ngại nào.
Lê Văn Duyệt cũng có cùng ý nghĩ như vua Cảnh Thịnh. Chờ màn đêm buông xuống, ông cho hai mươi chiếc thuyền men theo bờ cát, vòng ra sau quân Tây Sơn đánh tập hậu. Bị đánh bất ngờ, Nguyễn Văn Trị chỉ chống đỡ được đến tảng sáng rồi đội quân tan vỡ, phi ngựa cấp báo về thành. Quân Gia Định tràn vào cửa Duyên Hải như chỗ không người.
Nghe tin báo, vua Cảnh Thịnh vẫn không đổi sắc diện. Nhà vua đứng dậy, cho gọi Bùi Thị Xuân và đội tượng binh, chặn đánh quân Nguyễn ở cửa Eo.
Ngoài khơi, hai chục chiếc thuyền cứu viện của Tây Sơn đã tới, nhưng bị đánh bật ra.
Trận chiến trong kinh thành bắt đầu cùng với ánh nắng buổi sớm. Từ thành nhìn ra có thể thấy bụi mù bốc tung lên ở bến sông. Tiếng trận chiến được đá và núi nhân lên vang rền. Ghe thuyền Gia Định dần đậu dày đặc dọc bến.
- Hoàng thượng có bị thua không? - Văn Đức hỏi, phá vỡ sự im lặng ngột ngạt trong sân điện. Cung quyến của nhà vua được tập trung ở đây từ khi trận chiến bắt đầu. Không ai trả lời thằng bé. Mọi người tập trung lắng nghe tiếng binh khí, tiếng la hét, tiếng đạn pháo đang vọng vào.
Không phải có bị thua không, mà là còn được bao lâu nữa, có thể sống được không, Ngọc Bình nghĩ, nhìn hai đứa trẻ con của chị nàng. Ruột gan nàng như lửa đốt. Quang Toản ngoài kia hẳn được đội hộ vệ trông chừng, nhưng khi quân Nguyễn tiến vào, hai đứa trẻ này sẽ ra sao? Nên chờ đợi ở đây hay đưa đám trẻ đi trốn trước? Nên gửi chúng cho ai? Đám quan văn võ trong cung đã len lén chạy trốn hết. Về phần nàng, nàng không sợ hãi cho mạng sống của mình. Đúng ra, nàng đang giận dữ với bản thân vì đã từng nghĩ tới ngày này. Từ ngày Quang Thùy đưa nàng vào đây, nàng biết mình sẽ sống chết với cung điện này. Nàng đã chấp nhận số phận của mình.
Tin quân Nguyễn bất thần xuất hiện ở cửa sông Hương được báo về cung điện lúc trời vừa tảng sáng. Nhà vua đã đi gọi người ngay lập tức, không kịp để tâm đến cung quyến. Từ ngày nhận được tin dữ về Thị Nại, Quang Toản cũng ít gặp nàng. Chàng ở lì trong điện Cần Chính, chờ đợi từng tin chiến trận. Chàng đã chống đỡ trong tuyệt vọng, kể cả lúc này.
Ở bến sông, thế trận đang dần tan rã. Vài ngàn lính còn trong kinh thành không thể chống lại một vạn bộ binh đang đổ xuống. Bùi Thị Xuân mồ hôi ướt như tắm, hét lên với vua Cảnh Thịnh bên cạnh:
- Không thể chống được đâu, Hoàng thượng. Người hãy về cung chạy đi!
Quang Toản nhìn lớp lớp thuyền ken đặc sông, biết không thể làm gì được nữa, liền theo Bùi Thị Xuân chạy về thành. Trên đường về, thấy quang cảnh hoang vắng xơ xác hai bên đường khi người trong cung bỏ trốn, vứt lại cả giày dép, mũ mão, nhà vua lại càng sốt ruột. Trước cửa điện, Thái tể Quang Thiệu, em trai Quang Toản, đã cho ngựa xe đợi sẵn, trong xe chất đầy vàng bạc, ấn tín đã vội vàng thu gom được. Nhìn sắc mặt của Cảnh Thịnh và nữ tướng họ Bùi, Quang Thiệu hiểu ngay tình hình. Viên Thái tể liền kéo nhà vua lên xe cùng các quan lại trung thành đã đợi sẵn.
- Khoan, còn thân quyến của ta!... - Quang Toản vội vàng nói. Nhưng Bùi Thị Xuân đã thúc cho ngựa chạy. Dưới chân gò, đám bụi từ đội tượng binh và nữ binh đang rút lui đã thấy rõ. Còn vài bước nữa, đám quân Nguyễn sẽ bắt được họ.
- Không kịp nữa, Hoàng thượng! - Bà kêu lên, giọng vỡ ra trước ánh mắt thảng thốt của nhà vua trẻ. Cả đứa con gái mới mười bốn tuổi của bà và mẹ của Quang Diệu vẫn còn trong kinh thành, không còn cách nào cứu được. Chiếc xe ngựa lao về phía cửa sau của cung. Đám binh lính vừa rút về chạy theo sau.
Quân Nguyễn chiếm được Phú Xuân khi những người trong sân điện vẫn còn chưa biết vua Cảnh Thịnh đã đi.
- Hoàng thượng chạy khỏi Phú Xuân rồi! - Một tên thái giám trung thành chạy bổ vào trong sân, hét lên cùng với tiếng ồn đang ập đến từ bờ sông như luồng sóng thần.
Hai đứa trẻ nắm chặt tay Ngọc Bình, cố gắng để không run rẩy. Không còn kịp nữa, nàng nghĩ, bàng hoàng nhìn chết lặng về phía cửa cung. Quân Nguyễn đã bao vây kinh thành, tiếng bước chân vang lên từ khắp mọi hướng. Những cung nhân xung quanh nàng kêu khóc, bỏ chạy tán loạn. Có thể chạy đi đâu giữa những bức tường thành này, nàng tự hỏi. Bọn họ, cũng như nàng, đã bị bỏ lại.
- Chính cung, người trốn đi! - Quang Điện nói to, mồ hôi lấm tấm trên trán cậu thiếu niên. Cậu nắm tay những công chúa đang khóc gần đó, giọng đanh lại. - Phụ nữ trốn đi, đừng xuất hiện trong loạn quân! Tìm một điện thật kín trốn vào!
Những người em trai khác của nhà vua còn đang đứng gần đó gật đầu. Họ phải bảo vệ phụ nữ trong gia đình, không thể để cho kẻ thù làm nhục. Cả ánh mắt của Văn Đức cũng quắc lên. Nó nắm tay Ngọc Bình và chị gái, kéo đi.
Thấy cử chỉ đó, trong cõi lòng rối bời của nàng dậy lên một niềm thương cảm xót xa mà cũng ấm áp đến nao lòng.
Nhưng vừa đến cửa sân điện, họ đã bị bao vây bởi một hàng lưỡi lê tuốt trần.
***
Laurent Barizy nhìn lại một lần cuối đoàn quân đang tiến về thành đá trong bờ sông. Chậm rãi, ông bước xuống khoang thuyền chiếc Bằng Phi. Vị chúa nhà Nguyễn vẫn ngồi trong khoang, chăm chú nhìn vào bàn cờ tướng trước mặt, quân cờ gỗ xoay giữa những ngón tay.
- Ngài không vào Phú Xuân sao, Nguyễn vương? - Barizy hỏi, lấy làm lạ lùng trước thái độ của người hoàng đế. Vẫn không ngẩng lên, ông ta đặt quân cờ xuống vị trí đã nhắm, mỉm cười.
- Không cần phải vội vàng. Ngày mốt là Tết Đoan ngọ, là ngày tốt để đặt chân lên đất tổ tiên ta.
Có người vợ Việt bản xứ, Barizy đã hiểu phong tục của họ cùng những kiêng kị, lễ tết rắc rối. Nhưng Nguyễn vương thì khác. Dù đã nhiều lần xung đột với Pigneau de Behaine về bảo toàn tục lệ tổ tiên với luật lệ Thiên Chúa giáo, ông ta là kẻ ghét mê tín dị đoan cùng cực. Mới đầu năm, ông ta biến báo bỏ qua lời khuyên nhủ về giờ xuất quân khắc tuổi để bắn pháo hoa cho lễ xuất quân đánh Thị Nại. Dù đã chăm đi chùa, lễ bái, khác với tính cách ngông nghênh ghét bỏ sư sãi, thày cúng thời còn trẻ, đó vẫn chỉ là những việc phục vụ mưu tính của ông ta. Đó chỉ là việc để lôi kéo bọn sĩ phu địa phương làm đối trọng với các giáo sĩ, Barizy hiểu. Khác với thời còn trẻ, ông ta ngày càng điềm tĩnh và khó lường hơn, báo biến và thâm trầm như lòng biển, Pigneau de Behaine đã có lần từng nói với ông.
Pigneau de Behaine đã đào tạo nên con người này, đã bỏ cả cuộc đời giúp đỡ ông ta, hy vọng có thể truyền bá, tạo sức ảnh hưởng Giáo hội sâu rộng hơn lên đất nước này. Nhưng không cần đến lúc vị giáo sĩ mất, Nguyễn vương đã tỏ rõ thái độ chống đối, đã tỏ rõ rằng đất nước này không dành cho các giáo sĩ. Ông ta bỏ tất cả những xác tín thời còn trẻ, cố hướng Đông cung Cảnh, người con bị Tây hóa qúa nặng nề của mình, về với Nho học bằng bất cứ giá nào. Ông ta thậm chí còn dùng đúng những cách Pigneau từng làm để yêu sách ngược vị giáo sĩ này trở thành kẻ trông nom thành Diên Khánh cho ông. Pigneau vừa mất, Đông cung Cảnh cũng qua đời. Cả cuộc đời cùng những nỗ lực của Pigneau cuối cùng là một số không tròn trĩnh.
Người đàn ông phương Đông này đang chờ đợi điều gì đó, không phải ngày Tết Đoan ngọ của ông ta.
Như đoán được ý nghĩ của Barizy, Nguyễn Phúc Ánh cười nhẹ, chạm tay vào con cờ viết chữ Vương ở hàng cuối cùng.
- Trong cờ vua của các ngài, quân vua cũng đứng ở vị trí này, phải không? Đứng ở một vị trí gần như bất động, có khả năng cực kỳ hạn chế, cũng gần như là vô năng. Đó là giá trị của những gì quyết định sống còn thành bại.
Không muốn thừa nhận với vị vương rằng không hiểu ông ta muốn nói gì, Barizy im lặng. Quay trở về bàn cờ của mình, Nguyễn vương hơi cau mày trước thế trận đang bày.
Đã lệnh cho Lê Chất đuổi theo tên ngụy vương kia và lính không được xâm hại đến người trong thành, ông vẫn còn đang rất thận trọng xem xét tình hình. Lính chặn đường quân cứu viện của Trần Quang Diệu từ Bình Định về ra sao rồi, ông tự hỏi.
Trần Quang Diệu sẽ làm gì tiếp theo đây? Kéo đại binh trở về, phải vượt qua hàng cảnh vệ ông đã giăng ở cửa Phú Yên, hao binh tổn tướng chẳng để làm gì - hay là quyết chiếm lấy Bình Định, thay Võ Tánh trở thành con chuột trong rọ?
Con đường nào đi nữa, ván cờ này cũng đã bị chiếu tướng. Phần thắng thuộc về ông.
-----------
Chú thích:
Pigneau de Behaine: Bá Đa Lộc.
Đông cung Cảnh: Nguyễn Phúc Cảnh, con trai cả của Nguyễn Ánh, được gửi đi Pháp với Bá Đa Lộc khi mới 4 tuổi.
Cửa Duyên Hải: tên cũ của Thuận An.
Thư Lelabousse cho Boiret: “Cho tới bây giờ, Đức vua không nhận tôn giáo nào khác hơn đạo thờ ông bà, thế mà từ 2 năm nay, ông đã xây cất nhiều Khổng miếu. Điều làm mọi người ngạc nhiên là ông hoàng này vốn không bao giờ chịu đựng đạo Phật đến nỗi đánh roi những người đem tượng vào phòng Hoàng hậu và đánh 100 roi những ông hoà thượng hành lễ, ông hoàng đó bây giờ lại đi chùa và dự những cuộc lễ của các vị sư mà ông đã luôn luôn ghê tởm”.
Hoàng đế
1.
- Không bắt được ngụy Toản? - Nguyễn vương hỏi khi cùng Lê Văn Duyệt đi lên cung điện trên gò Dương Xuân. Lê Văn Duyệt báo cho vị vương biết quân truy đuổi của Lê Chất bị đội tượng binh đánh lui. Khi thấy đàn voi tấn công, những con ngựa bỏ chạy, vỡ đội hình không kịp đuổi theo vua tôi Quang Toản.
Nguyễn vương gật đầu, đưa mắt nhìn cánh cổng trong của điện Dương Xuân đang mở ra. Hàng lính hai bên lối đi đứng nghiêm đón vị vua tiến vào. Bầu trời nằng nặng, mây đen kéo về, như thể sắp có mưa. Nguyễn vương nhớ lại những cơn mưa triền miên ở xứ này. Mùa hạ, sau nhiều ngày nắng nóng kéo dài đến ghê người là những ngày mưa cũng dầm dề như vậy. Đã qúa lâu rồi, lần cuối cùng ông bước trên những bậc thang này, dưới bầu trời mưa này. Những ngày ấy, ông mới chỉ là một đứa trẻ. Quân Trịnh rồi Tây Sơn đến, và sau cái đêm kinh hoàng đó, ông đã trở thành kẻ bị lưu đày khỏi quê hương. Một đứa trẻ bị truy đuổi giữa những cánh rừng nước mặn đầy cá sấu, cọp beo của miền Nam hoang dã.
- Bảo Nguyễn Văn Trương xuất quân ra sông Gianh đuổi theo chúng. - Nguyễn vương nói. Lê Văn Duyệt cúi đầu tuân lệnh. Khung cảnh rộng lớn tráng lệ của phủ Dương Xuân mở ra trước mắt họ. Nhưng khác với vẻ thán phục có phần lạ lẫm của Lê Văn Duyệt, đôi mắt vị vương triều Nguyễn vẫn nhìn vào khoảng xa xăm bất định, có gì đó như buồn bã. Hơn hai mươi năm rồi, ông tự nhắc mình. Hơn hai mươi năm, ông còn mong được nhìn thấy gì của những ngày xưa cũ? Sau cái đêm đó và những trận chiến sau này, dòng chính Nguyễn Phúc tộc chỉ còn lại một mình ông. Họ Nguyễn lừng danh của chúa Nguyễn Hoàng khai phá miền đất này chỉ còn lại một mình ông. Tất cả đã không còn cả đến mảnh xương khi lăng mộ của họ bị quật lên, ném vào vực thẳm sông sâu. Bọn ngụy Tây đã rắp tâm xóa sạch dấu vết của họ Nguyễn Phúc trên mảnh đất này. Núi vẫn đó, sông còn đây, đá và điện đài vẫn hiện diện đầy câm lặng. Đón ông như một người xa lạ.
Ông xa lạ với nơi đây, trở nên xa lạ với nơi đây. Tất cả chỉ còn là cái vỏ rỗng của thành quách và những đống đổ nát còn chưa kịp bôi xóa, những con người xa lạ. Rêu bám mảng tường cũ kỹ như từ trăm năm trước, xóa mờ chút dấu vết còn trong ký ức. Cung điện Dương Xuân này đã bị quân Trịnh tàn phá nặng nề. Những công trình dở dang, vụng về của Tây Sơn chắp vá vào phá vỡ chút lưu luyến trong tiềm thức. Phủ Dương Xuân chẳng còn là cung điện Dương Xuân của các chúa Nguyễn mà ông ghi nhớ. Quân Trịnh cướp phá đến từng cây cột chống, Tây Sơn chắp vá, đổi thay đến từng khu, từng điện, để rồi tất cả những gì ông nhận được bây giờ chỉ là những mảnh vụn chẳng hề có một chút hình hài. Tất cả chỉ còn là phế tích gợi nhắc đến thất bại đắng cay của họ Nguyễn. Phế tích của qúa khứ.
Hơn hai mươi năm, chưa bao giờ Nguyễn Phúc Ánh lại cảm nhận rõ ràng về khoảng thời gian đằng đẵng ấy đến thế. Tất cả tuổi trẻ của ông, cả cuộc đời ông đã dùng để chạm đến được ngày này. Để nhận được cái vỏ rỗng của qúa khứ. Để nhận ra cái vỏ rỗng của qúa khứ. Ông đã đem oán thù đổ đầy cái vỏ ấy để có thể giữ nó sống sót, để có thể níu kéo nó lại. Để có thể ghi nhớ những tháng ngày êm đềm mỏng manh của tuổi thơ đã kết thúc từ qúa sớm, những hình ảnh cuối cùng của hoàng thúc, của họ Nguyễn thời hưng thịnh. Nhưng lúc này, ông thấy nỗi buồn dâng lên đắng lòng. Thời gian đã trôi đi, đổ ập xuống ông, cuốn mãi và nhấn chìm ông vào bến bờ xa lạ. Ông thấy mình, thực sự cảm thấy mình là một kẻ lạc loài.
Giây phút ấy, ông nhìn thấy nàng.
Cơn mưa màu xám xanh của mùa hạ đã đổ. Đứng trong hàng hiên, sau hàng quân lính quây thành vòng tròn quanh một đám người lố nhố là người con gái đẹp nhất mà ông từng thấy. Nàng không nhìn ông. Nàng không nhìn bất cứ ai hay bất cứ đâu. Nàng bất động. Linh hồn nàng bất động. Mái tóc đen nhánh phủ lên vai nàng, làm nổi bật lên đôi mắt cũng mang một màu đen huyền hoặc. Nhìn nàng, giây phút đó, ông như thấy một làn chớp sáng của qúa khứ ngày xưa giữa đô thành này, tưởng như có thể chạm vào được nó. Cái ảo tượng hiển hiện rõ ràng trong mưa của những ngày xưa trong sáng và vô tư lự để lại nỗi u sầu kéo dài không dứt như gió thì thầm trên đỉnh núi cao, âm vang của mưa trên mặt nước của dòng sông uốn khúc mất hút giữa sương mờ. Nàng bất động, như một nỗi buồn đã kết tinh lại, đọng thành băng đá, tạo nên nàng. Nàng bất động, như màn mưa đã rơi trong những đêm dài.
Cái khoảnh khắc ngắn ngủi mà ông đã ngây ra nhìn nàng như kéo dài cả một đời. Nhận thấy ánh mắt của vị vương, Lê Văn Duyệt vội tâu:
- Thưa chúa công, đó là gia quyến của ngụy vương. Chúng thần đã bắt được chúng khi vào thành. Ngụy Toản đã không kịp đem chúng theo.
Nguyễn vương gật đầu. Rời mắt khỏi cô gái, ông lại bước về cung điện chính. Mới vào thành, bao nhiêu công việc còn đợi ông.
- Cho người đến thống kê bọn chúng. Đừng đối với chúng qúa tệ.- Ông nói, trở về với con người điềm tĩnh thường ngày. Nỗi buồn qua đi, và ông nghĩ đến chuyện nên làm gì tiếp theo sau khi chia đôi quân Tây Sơn ở hai miền Nam Bắc.
Mục tiêu tiếp theo là Bắc Hà.
***
Tin Phú Xuân thất thủ chỉ trong hai ngày báo về Thăng Long vào đúng Tết Đoan ngọ. Chỉ kịp đem theo một số quân bản bộ, Quang Thùy vội vã đến Phượng Hoàng cung ở Nghĩa An đón Quang Toản. Cung điện này đang được xây dở dang thời Quang Trung hoàng đế sinh tiền. Đoàn người của Quang Toản cũng vừa đến, nét thất sắc, mệt mỏi còn in hằn trên khuôn mặt. Thấy viên Tiết chế Bắc Hà đã tới, mọi người như được cứu. Quang Toản ở trong cung cũng vội đi ra. Bộ chiến bào vấy khói súng cùng bụi đường vừa được thay ra, nhưng đôi mắt thất thần của nhà vua khiến Quang Thùy nghĩ ngay đến một thảm kịch còn nặng nề hơn thua trận.
- Khang công... - Quang Toản nói, giọng hụt hơi, không kịp cho Quang Thùy cúi chào. - Ta không kịp đem theo thân quyến. Các em và Chính cung đã lọt vào tay quân Cựu Nguyễn.
Quang Thùy đứng lặng trong khoảng sân điện gay gắt nắng. Một lúc sau, chàng chớp mắt, gật đầu.
- Hiện giờ ta cần phải bảo vệ an toàn cho Hoàng thượng. Hẳn quân của Cựu Nguyễn cũng sắp đuổi đến đây. Thần cần phải gọi các tướng lập trận phòng thủ gấp. Hoàng thượng, xin người nghỉ ngơi.
Nói xong, chàng quay đi, cũng vội vã như khi đến. Quang Toản đứng chôn chân trên bậc cửa nhìn theo người anh, miệng nhà vua vẫn hé mở như còn định nói gì.
Quang Thùy trở về Phượng Hoàng cung khi trời đã khuya. Quang Toản vẫn chờ chàng. Nhà vua đã bớt thất sắc, tuy bối rối buồn bã. Nhìn thấy người anh, Quang Toản đứng lên định nói, nhưng Quang Thùy đưa tay ngăn lại.
- Hoàng thượng, thần đã sắp xếp cho người về Thăng Long. Mai chúng ta sẽ khởi hành. - Giọng chàng không có vẻ gì sẵn sàng cho những việc riêng tư. - Trở về Thăng Long, chúng ta sẽ sắp xếp lại triều đình để tính chuyện lâu dài. Đêm nay người cần đi nghỉ sớm, có rất nhiều chuyện cần người phải chủ trì.
Quang Toản im lặng. Quang Thùy lại cúi chào trở về nơi canh gác. Khi chàng đã ra đến cửa, nhà vua chợt gọi:
- Khang công, thân quyến...
- Những người chạy theo ngài và nhiều người khác đều để thân quyến của họ ở Phú Xuân, Hoàng thượng. - Không quay lại, Quang Thùy nhìn vào màn đêm, trầm giọng. - Người phải tính cách hồi phục để cứu được họ, chứ không phải tự cảm thấy tội lỗi vì đã để họ lại hay nghĩ ngợi chuyện gì đến với họ. Thần và những người khác đều cần Hoàng thượng.
Gió mùa hạ quấn lấy bước chân khi chàng bước ra sân. Lại bể nước ở góc sân, Quang Thùy vốc một gáo nước, chậm chạp uống. Gió nóng và chuyến đi dài làm chàng khát cháy cổ. Cơn giận dữ làm chàng khát cháy cả cổ. Chàng đã cố trút nó vào những mệnh lệnh điều động quân, nhưng giờ đây, nó lại trở lại.
Ngài đã làm gì vậy, Hoàng thượng, chàng muốn hỏi nhà vua như thế, rất muốn hỏi. Tất cả các người làm gì vậy? Lao vào đánh Quy Nhơn mà không canh phòng Phú Xuân, ngay cả khi Thị Nại đã bị hạ. Tất cả các người làm gì vậy? Đại quân của Tây Sơn đã bị kẹt cùng Trần Quang Diệu ở Quy Nhơn, thủy quân bị diệt, các người muốn ta làm gì được đây? Cả kinh thành cũng mất, các người chạy đến được đây mà không đem được nàng theo, tại sao các người đối xử với nàng như vậy? Ta giao nàng cho các người đâu phải để trở thành con mồi trong tay Nguyễn quân?
Tất cả những điều đó, chàng đã nuốt ngược vào trong. Chàng là gì, là gì để hỏi họ? Chàng là gì để hỏi về nàng? Chàng có tư cách gì để nói với Hoàng thượng như thế?
Nàng thành công rồi đó, chàng cười khẽ trong cay đắng, Ta sẽ không bao giờ còn đủ tư cách để làm người. Hơn một năm qua, chàng đã lao vào vô số công việc, vô số trận đánh để sự xấu hổ, nỗi nhớ nhung không còn dày vò mình. Cả cuộc đời chàng cho đến khi gặp nàng là như vậy, nhưng nàng đã hủy hoại tất cả những gì chàng có thể tự hào, kiêu hãnh vì cuộc đời đó. Cuộc đời chàng đã bị nàng hủy hoại, không còn có thể phục hồi.
Vào đúng lúc chàng tự hỏi còn điều gì có thể khiến chàng tổn thương hơn được nữa, thì nàng rơi vào tay kẻ thù. Số phận còn có thể ác nghiệt với chàng đến mức nào?
- Tiết chế đại nhân! - Tiếng ngựa phi dồn về phía Quang Thùy cùng giọng người lính đưa tin cấp báo. - Quân Nguyễn đóng tại sông Gianh đưa thủy bộ quân đến từ phía Hoành Sơn khoảng gần một vạn.
- Bảo quân lính tập trung ở núi Thần Đầu! - Ném gáo nước vào bể, chàng quay lại nơi buộc ngựa. Gió và đêm rách toác trước mũi ngựa khi chàng phi về phía núi.
Số quân Quang Toản đem theo chỉ có hai ngàn, lại mệt nhọc, chỉ có thể dùng cách đánh mai phục, chàng thầm nhủ. Núi Thần Đầu có hai bờ liền nhau, nước biển chạy vào giữa, thủy bộ quân tất phải đi vào.
Số phận, cứ cười đi. Ông trời, cứ cười đi. Chàng ngẩng đầu đón ngọn gió đang ran rát bên tai, nhìn lên bầu trời đêm trăng thượng huyền trải ngàn sao sáng rực. Chàng đã không còn luyến tiếc gì nữa. Cả cuộc đời này, chàng đã từng hứa sẽ hiến dâng cho vương triều. Và cuộc sống này, chàng sẽ dâng nó cho Hoàng thượng. Chàng đã chờ đợi đến ngày này.
Số phận, nếu muốn, cứ cười đi.
-------------
Chú thích:
Nghĩa An: Tên cũ của Nghệ An và Hà Tĩnh.
Đại Nam thực lục viết: "Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy. Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng hoàng khảo (tức mộ Nguyễn Phước Luân cha Nguyễn Ánh) ở xã Cư Hóa (tức lăng Cơ Thánh) Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa, Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi”.
2.
Quận công Võ Tánh niêm phong lá thư, đưa cho người liên lạc với Trần Quang Diệu, đoạn nhìn lại lầu Bát Giác. Rơm củi mà ông gọi chất dưới lầu đã cao. Bên cạnh ông, Lễ bộ Tham tri Ngô Tùng Châu, người được cử cùng giữ thành Bình Định im lặng. Đã không thể khuyên chủ tướng được nữa. Nghe tin Phú Xuân thất thủ, lại không thể trở về vì bị chặn đường ở Quảng Nam, Trần Quang Diệu dốc sức ngày đêm tấn công thành. Lương trong thành đã cạn, người người đều kiệt quệ, phải thịt voi ngựa mà ăn, Võ Quận công viết thư xin hàng, chỉ mong viên tướng họ Trần tha cho binh lính. Còn bản thân ông cho chất củi dưới lầu Bát Giác, quyết chết theo thành. Bao lời khuyên can ông hãy bỏ thành mà chạy đều bị bỏ ngoài tai.
Giờ đây, thuốc súng đang được rải lên đống củi. Viên tướng đi lên lầu, nhìn xuống thành Bình Định. Quân lính đang tụ tập quanh khu đài, lặng phắc. Người Tham tri đứng trước lầu, khoanh tay chào chủ tướng. Một nụ cười váng vất in trên khuôn mặt viên quan văn.
- Tướng quân liều mình với nước, tôi lại không hết trung với vua hay sao? Tôi xin phép đi trước ngài. - Ngô Tùng Châu nói, đoạn dốc lọ thuốc độc đang cầm trong tay vào miệng. Thuốc có tác dụng ngay lập tức. Chỉ một lúc sau, Ngô Tùng Châu qụy xuống, oằn oại rồi tắt thở.
- Còn chờ gì nữa? - Võ Tánh quát xuống người lính đang cầm đuốc. Anh ta trân trân nhìn người quan văn đã gục dưới sân, ngước lên vị tướng, lắc đầu. Anh ta không thể làm được. Không thể châm lửa đốt cháy chủ tướng của mình. Đã hơn một năm đồng cam cộng khổ cùng nhau, không ai có thể làm được.
Võ Tánh im lặng. Ông chậm chạp gật đầu.
- Cho ta điếu thuốc.
Một viên tướng vội chạy đi lấy ống điếu, châm thuốc dâng lên đài. Võ Quận công ngồi xuống, chậm rãi rít thuốc. Chờ người đi khỏi khu vực lầu Bát Giác, ông bất thần ném điếu thuốc vào đống củi dưới chân. Ngọn lửa bùng lên cùng một tiếng nổ lớn. Trong chớp mắt, lầu Bát Giác ngập lửa. Tiếng kêu khóc vang động cả thành.
Quản binh Nguyễn Tấn Huyên nghe tin tức tốc quay về. Trước ngọn lửa đã bốc cao ngút trời, ông ngửa mặt than thở, rồi cũng lao vào đám cháy rừng rực.
Trần Quang Diệu chiếm lại được thành Bình Định vào cuối tháng năm.
***
Tin báo về đến Phú Xuân cho Nguyễn vương vào ngày đã có bão quét qua biển, tạo nên một trận mưa dầm dề xám ngoét. Ông im lặng hồi lâu, rồi vẫy tay cho người lính báo tin lui. Gọi viên tùy tướng, ông chậm rãi nói:
- Tiết tháo như vậy, Trương Tuần, Hứa Viễn nhà Đường cũng không hơn được. Cấp cho gia quyến Võ Quận công châu ấp ở Gia Định. Cho hỏi thăm nhà cha mẹ, vợ con của những người cùng tử tiết, ban cấp cho họ.
Viên tùy tướng cúi đầu vâng mệnh. Nguyễn vương nhìn màn mưa bên ngoài, cố nén tiếng thở dài. Võ Tánh, người còn lại của Gia Định tam hùng đã chết rồi. Những cái chết nối tiếp nhau, Bá Đa Lộc, Phúc Cảnh, Phúc Hy, giờ đây là Võ Tánh. Họ không thể đợi đến ngày có thể cùng ông bước vào Phú Xuân. Hai người con chết liền nhau ở Gia Định mà ông không thể dự đám tang của chúng. Người bạn vào sinh ra tử từ thưở thiếu thời. Những người thuộc hạ thân tín. Cả những người con mà ông phải xa lìa từ rất sớm. Ông đã trả không phải chỉ cuộc đời mình cho ngày này. Càng gần chiến thắng, những cái chết càng nối tiếp nhau xảy ra. Để lấy được Phú Xuân, ông đã mất Võ Tánh. Và còn ai nữa, trong chiều dài hai mươi năm đằng đẵng? Trong những trận chiến sắp tới, khi vua tôi Quang Toản đã an toàn ra Thăng Long?
Vài ngày trước, Nguyễn Văn Trương báo về đội quân đuổi theo bị phục kích ở núi Thần Đầu, chết mất qúa nửa, phải bỏ chạy. Ông đã cho chém Nguyễn Kế Nhuận, kẻ cầm quân, nhưng vẫn để hụt mất tên ngụy vương. Tiết chế Bắc Hà Nguyễn Quang Thùy đã kịp ra đón hắn vào, cũng là kẻ đã bày trận chặn đứng Văn Trương. Một đứa con nữa của Nguyễn Huệ. Chẳng phải Nguyễn Huệ ngày xưa cũng mang chức quan Tiết chế trước khi trở thành Bắc Bình vương?
Bắc Hà địa thế hiểm trở, lính Nam lại không quen thủy thổ, khó có thể đánh vào. Trước mắt lui về đắp đồn phòng thủ ở Linh Giang, đưa quân phá rối vùng Thanh Nghệ tạo nội loạn, tập trung giải quyết bọn Trần Quang Diệu ở Bình Định. Trước tấm bản đồ chiến trận, Nguyễn vương nhíu mày. Nhưng không thể để qúa lâu cho Tây Sơn có cơ phục hồi, phải làm cách nào để khích chúng nôn nóng tấn công. Làm cách nào để tiêu diệt được số quân thật lớn ở Bắc Hà trước khi tiến ra. Nhịp độ chiến tranh càng nhanh thì càng có lợi hơn cho ông.
Kinh nghiệm từ những ngày trẻ tuổi đã dạy cho ông rằng, người tướng giỏi không phải chỉ biết cầm quân. Những hành động nôn nóng tấn công khi chưa đủ lực, vội vã giết Đỗ Thanh Nhơn, tướng không nghe lệnh, đã đưa ông tới hết thất bại này đến thất bại khác. Kể cả phải trả bằng tính mạng của Ngọc Đảo, cô cô của ông, khi một toán lính bất mãn phản bội. Điều đó đã dạy ông biết kiên nhẫn. Một thời gian cay đắng khi bị giam lỏng ở Xiêm đã cho tính bốc đồng nóng nảy của ông nguội lại, dạy cho ông biết cách kiềm chế bản thân, lấy lòng người. Kẻ chiến thắng là người sống sót chứ không phải giành thắng lợi trong vài trận chiến. Kẻ duy trì được chiến thắng là người biết nắm giữ mối quan hệ quanh mình. Trong mười năm, ông đã kiên nhẫn thực hiện những cuộc tấn công quấy rối chứ không dốc toàn lực đánh vào, đã xây dựng nên thành trì kiên cố của mình ở Gia Định cùng đội thủy quân mạnh nhất biển Đông.
Gia Định, nơi mà họ Nguyễn của ông đã bị đẩy lui về, là một vùng đất hoang sơ, dân cư thưa thớt, gồm đủ các sắc dân sống phân tán, rải rác. Các tỉnh lỵ phía Tây thường xuyên xảy ra tranh chấp với Cao Miên, Xiêm La, tách rời với phần còn lại. Tây Sơn đã phá nát những xóm làng, bến cảng trù phú ở Cù lao Phố, Mỹ Tho, Chợ Lớn. Sau cái chết của Đỗ Thanh Nhơn, những lực lượng chống Tây Sơn bị xé nhỏ, đánh giết lẫn nhau mà chính ông cũng phải hao binh tổn tướng nhiều lần. Với đội quân chắp vá, rời rạc và ít ỏi như thế, ông đã không thể chống chọi lại với Tây Sơn, kẻ đã chiếm giữ được vùng đông đúc, thịnh vượng nhất của Đại Việt. Nhờ có Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương, ông đã lấy được Gia Định từ tay Nguyễn Lữ, rồi Bá Đa Lộc về, đem theo kỹ thuật quân sự châu Âu cùng những người Pháp. Không có lợi thế về quân số, địa hình, ông đã chú trọng xây dựng quân đội dựa vào khoa học kỹ thuật châu Âu. Trên vùng đất trù phú còn chưa được khai thác, ông cho xây dựng đường giao thông, khuyến khích phát triển trồng lúa, trầu không, mía đường. Ông thậm chí đã gửi phái đoàn liên lạc với người gốc Cao Miên, Chân Lạp ở phía Tây để gắn kết họ về với quốc gia này, để dân chúng hòa nhập cùng nhau. Trên bộ, ông phát triển công nghiệp chế tạo nhựa, khai thác mỏ quặng, rèn đúc súng hỏa mai, chế tạo súng đại bác di động... Trên biển, xưởng đóng thuyền của ông được cho rằng không thua bất cứ một cơ sở ở châu Âu nào, xuất xưởng những chiếc thuyền hiện đại nhất. Ông đã đào tạo người Việt sử dụng những kỹ thuật tối tân này, lược dần sĩ quan Pháp. Quân đội của ông được huấn luyện dùng súng, chế tạo đại bác bởi chính những bậc thầy ngoại quốc. Đội thủy quân của ông hiện tại do chính người Việt chỉ huy, điều khiển.
Mười năm, mất mười năm để ông biến Gia Định, Sài Côn từ một vùng đất hoang thành một phủ đệ thịnh vượng, phát triển, thành một thành trì vững bền, hùng mạnh, đủ sức đối đầu với phần còn lại của Đại Việt, và hơn nữa, tạo ảnh hưởng lên cả lân bang. Bằng những chiến thuật ngoại giao mềm dẻo, ông đã đưa triều đình Xiêm La, phải, chính triều đình đã từng đánh lừa ông về để giam lỏng ông, phải nhờ cậy, dựa vào ông. Vua Vạn Tượng đã giao ước với ông gây rối Tây Sơn ở Nghệ An.
Ông đã kiên nhẫn, và tất cả đã đưa tới thắng lợi hôm nay. Ông biết giá trị của thời gian và sự qúy giá của thời điểm, tầm quyết định sống còn của tâm lý kẻ cầm quân.
Gia quyến của ngụy triều trong tay ông là một của báu vô giá.
***
Đã bao lâu rồi, Ngọc Bình ngẩng lên khi nghe mưa lại đập ồn ã ngoài cửa. Mưa ngớt rồi lại mạnh lên, cứ thế từng đợt trút xuống như vô tận. Trong căn phòng mờ tối, giữa những con người yên lặng, nắng hắt vào yếu ớt cũng đã không còn. Đã bao nhiêu ngày đi qua từ khi họ bị đem vào đây? Thỉnh thoảng lại có người đến, nhìn qua một lượt, ghi chép một lượt rồi lại ra đi. Những ngày đầu, người trong phòng còn nói chuyện, còn hỏi nhau việc gì sẽ đến, nhưng dần dà tất cả đều im lặng. Ngọc Bảo và Văn Đức đang gối đầu lên lòng nàng, nhưng cả hai đều không ngủ. Chúng mở mắt dõi ra cửa như chờ đợi. Chờ đợi điều gì? Có thể trong tâm lý ngây thơ của chúng vẫn mong đội quân của Hoàng thượng sẽ quay trở lại. Còn nàng chỉ mong Quang Toản trốn đi thật xa.
Lẽ nào đây là sự kết thúc, nàng tự hỏi mình. Hai lần, nàng đã hai lần ở trong những ngày tan vỡ của một vương triều. Nàng nhớ lại những ngày giá rét trên vùng núi Cao Bằng, chỉ có thể ngẩng đầu nhìn cánh chim chao lượn trên đầu. Hẳn mẹ nàng cũng đã trải qua cảm giác này khi bế nàng chạy trốn. Căn phòng này và rừng núi kia, rốt cuộc chỉ là những hình ảnh khác nhau của một cuộc lưu đày. Giữa trời đất này không còn chỗ để đến. Hẳn mẹ nàng cũng đã từng ngẩng đầu lên hỏi trời: tại sao? Tại sao lại xảy ra với con bà? Ngày ấy, bà chưa biết rằng nàng sẽ lần thứ hai rơi vào ngục tối. Ngày ấy, bà đã xin người ta đưa con mình đi thật xa, không biết đến ngày nàng lại tự mình chui vào cái thòng lọng của số phận. Đã có lúc, nàng tưởng mình thoát được nó, nhưng nàng đã lầm.
Nàng chờ đợi sự kết thúc của mình với sự bình thản khôn cùng. Trong cuộc đời ngắn ngủi đã trải qua, nàng cũng chẳng có gì để luyến tiếc. Cuộc đời nàng đã kết thúc từ ngày bước vào cung nội. Ước mơ, tình yêu, gia đình, tất cả đã tan vỡ hết kể từ ngày nàng vào cung nội. Nàng thậm chí chẳng còn sức lực để oán giận bất cứ ai. Quang Toản, Quang Thùy, hai người hãy đi thật xa, đừng quay lại. Nhưng nàng hiểu rõ, đó chỉ là một ước muốn viển vông. Họ không thể nào thoát khỏi số phận của mình, những gì cuộc đời đã đặt họ vào.
Nàng mệt mỏi rồi. Nàng mong chờ sự kết thúc. Nàng mong chờ được kết thúc trước tất cả bọn họ để không phải nhìn thấy bất cứ ai ra đi.
Cửa lại mở. Một viên tùy tướng thấp bé bước vào, gọi to:
- Công chúa Lê Ngọc Bình! Đi ra!
Hai đứa trẻ trong lòng nàng giật nảy người, cuống quýt nắm lấy tay nàng. Những người còn lại trong phòng nhìn nàng, sự kinh hãi đọng trên khuôn mặt câm lặng. Bắt đầu rồi sao, nàng tự hỏi, đứng dậy. Bắt đầu từ Hoàng hậu, âu cũng là một cách tốt.
Không, hắn gọi nàng là công chúa, nhìn vào lưng tên quan đi trước, Ngọc Bình nhíu mày. Đã lâu rồi không ai gọi nàng như vậy, kể từ khi Phan Huy Ích cũng chuyển sang gọi nàng là Chính cung. Họ muốn gì ở nàng với địa vị là công chúa nhà Lê?
Đi vòng qua những hành lang rả rích mưa, nàng được đưa đến trích đình trong vườn, nơi nhìn ra hồ nước. Chiều đã buông mờ mờ trong màu xám xịt của mưa mù. Khu trích đình thắp đèn sáng rực, ánh vàng loang vào nước trên hồ, trong mưa, trong không khí. Giữa đình kê một chiếc bàn nhỏ để bình trà và đồ ăn. Một người đàn ông trung niên mặc hoàng bào ngồi cạnh bàn. Thấy nàng, ánh ngạc nhiên thoáng trong mắt ông ta.
- Nàng là công chúa Ngọc Bình? - Ông ta hỏi. Giọng nói miền Nam ôn tồn, còn chút âm hưởng miền Trung.
Nguyễn vương Nguyễn Phúc Ánh, nàng nghĩ.
3.
Nàng xuất hiện từ những cơn mưa, ông đã nghĩ khi quay lại, thấy nàng cùng màn mưa đang rơi xuống như châu sa, sáng lấp lánh trong ánh đèn. Là cô gái ông đã thấy trong ngày đầu đặt chân trở lại hoàng thành. Nhìn gần, vẻ u nhã điềm đạm, nét cô liêu buồn bã của nàng lại càng có khí chất bức người. Ngay cả khi nàng chỉ đứng yên, nhìn ông bằng đôi mắt lạnh nhạt, dù ông tin nàng đã nhận ra mình đang đứng trước ai. Đã bị giam lâu ngày, tóc nàng rối, đổ xuống lưng, làn da xanh tái. Nhưng dáng vẻ này lại hợp với vẻ u uất của nàng.
Viên tùy tướng đã đưa nàng tới lui ra. Nguyễn vương chỉ vào ghế đối diện, giọng nói vẫn ôn tồn.
- Mời nàng ngồi.
Cô gái thản nhiên đi tới trước mặt ông, ngồi xuống, không tránh né cái nhìn của ông. Ngay cả vài viên tướng thuộc hạ của ông cũng không dám làm như thế, Nguyễn vương thầm nhủ, thấy thú vị với cô công chúa Lê triều. Ông rót trà và gắp đồ ăn cho nàng. Nàng chỉ nhìn ông, không chớp mắt.
- Từ lâu ta đã nghe danh công chúa Ngọc Hân và Ngọc Bình là nhị Kiều của đất Thăng Long, qủa là tiếng đồn không sai. - Nguyễn vương mỉm cười. Vẻ giễu cợt đến trong đôi mắt Ngọc Bình trước khi nàng lại dùng đến giọng cợt nhạo của mình với vị chúa nhà Nguyễn.
- Vậy thì hóa ra lại rất thất lễ với ngài. Lẽ nào ngài đang tự ví mình với Tào A Man?
Cách dùng từ của nàng khiến ông suýt bật cười. Cô gái táo gan này, ông lắc nhẹ đầu. Gương mặt không đổi sắc, ông nhẹ nhàng nói.
- Với ta, Tào Tháo là một kẻ xa lạ, nhưng có những câu thơ của ông ta mà ta rất tâm đắc. Nàng đã nghe "Đối tửu đương ca. Nhân sinh kỷ hà. Thí như triêu lộ. Khứ nhật khổ đa. Khái đương dĩ khảng. Ưu tư nan vong. Hà dĩ giải ưu?" chưa? Đáng tiếc là nàng không có một Chu Du để xướng họa huyền cầm, chỉ có một tên vua yếu ớt bạc nhược, chỉ biết ngẩng đầu mà oán trời xanh.
Nàng quắc mắt. Nhưng Nguyễn vương đã không để cho nàng kịp nói. Đôi mắt ông nheo lại, như muốn nhìn thấu nàng.
- Ta không tin cuộc sống của nàng hạnh phúc. Vẻ u buồn của nàng không phải tự nhiên mà có, cũng không phải một hai ngày mà thành được. Nhìn nàng, ta lại nghĩ tới những gì đã qua đi không trở lại, sự tuyệt vọng, cái chết dần mòn trong đôi mắt nàng. Nhìn nàng, ta lại nhớ tới câu "Thí như triêu lộ. Khứ nhật khổ đa". Ngay cả bây giờ, nàng cũng không sợ chết, phải không?
"Nàng ngày càng âu sầu", Ngọc Bình nhớ lại lời Quang Toản đã nói trong đêm đó, im lặng. Nàng như vậy thật ư, nàng tự hỏi mình. Vẻ xao động trong mắt nàng đã bị Nguyễn vương nhận biết. Nụ cười vẫn giữ trên môi ông.
- Nàng là một công chúa nhà Lê, dòng dõi cành vàng lá ngọc, lại bị gả cho kẻ xuất thân lục lâm thảo khấu, vào dòng dõi của kẻ thù diệt tộc, lẽ nào lại có thể hạnh phúc? Lẽ nào nàng lại không căm ghét kẻ đã ép uổng nàng?
- Không. Tôi không ghét họ. - Trông vào màn mưa, nàng cười nhẹ. - Tôi đã từng căm hận, nhưng bây giờ thì không còn nữa.
- Tại sao? Nàng lại có thể bỏ qua mối thù thiên thu của dòng họ, nghĩa vụ của người con cháu? - Nụ cười của Nguyễn Phúc Ánh biến mất. Ngọc Bình im lặng nhìn ông, cuối cùng, nàng thở dài.
- Ngay cả ngài nữa, Nguyễn vương. Tôi không căm hận ngài. Nhà Lê suy sụp mà bại, họ Nguyễn rối loạn mà vong, anh em Tây Sơn đánh từ Nam ra Bắc, tất cả các chuyện ấy thuộc về những người đã chết. Phải gánh lấy gánh nặng của tiền nhân là một chuyện đáng thương. Cả ngài nữa, ngài đã đuổi theo đánh nhau với một bóng ma. Nếu tôi là một nam nhi, phải có trách nhiệm khôi phục, phát huy, báo thù cho dòng tộc, thì có lẽ tôi cũng sẽ làm như ngài, như họ. Chúng ta là kẻ thù của nhau, nhưng nếu oán hận nhau thì hẳn là đã tìm sai người.
Cơn mưa bên ngoài vẫn gõ nhịp đều đặn xuống hồ nước, loang loáng trong bóng tối đã buông. Nàng lại nhớ về một buổi chiều đã trở thành xa xôi trên chiếc thuyền ngược dòng sông. Trên đồi nhìn xuống hình bóng chàng giữa rừng thông, nàng đã thấy cảm thương tới sắt se lòng. Nàng nhớ một lần Quang Toản đến tìm nàng, cùng ngồi bó gối im lặng nhìn mưa. Nàng nhớ bàn tay những đứa trẻ dẫn nàng đi trong cơn biến loạn. Nàng cảm thương và nàng hờn oán, nàng yêu và hận, nàng tự thấy xót xa cho bản thân mình và tự thấy nên thứ tha. Tất cả những tình cảm ấy thật khó phân định rạch ròi. Nhìn người đàn ông trước mặt, nghĩ tới cuộc phục thù đằng đẵng dài hơn cả cuộc đời của nàng, nàng đã thở dài.
Ông ta đang nheo mắt. Cái nhìn của ông ta mất hết vẻ dịu dàng đã có. Hẳn ông ta đang muốn hỏi, nàng hiểu gì về cảm giác nhìn người yêu thương bị giết ngay trước mặt mình, nàng hiểu gì về cảm giác bị truy đuổi, nàng hiểu gì về cảm giác chứng kiến chín đời tổ tiên, cha mình bị quật lên, đem vứt đi, nàng hiểu gì về sự cô đơn chỉ có một mình dưới gầm trời này? Tất cả những điều đó, nàng cũng đã trải qua, nhưng nói để làm gì. Ngài có hiểu cảm giác cả cuộc đời mình đã bị đập nát chưa, nàng muốn hỏi. Nhưng nói những điều ấy để làm gì?
Món nợ của tiền nhân phải đến lúc được kết thúc. Nguyễn tộc, Tây Sơn, Lê triều - Thảm kịch đã xảy ra trên đất nước này phải đến lúc được kết thúc. Bằng cách nào? Oán thù đã in hằn lên từng tấc đất nhuộm đỏ máu, không thể xóa nhòa. Oán thù đã khắc nét trên gương mặt người đàn ông này, sâu trong đáy mắt ông ta, dưới cái vỏ hiền hòa tươi cười ấy. Nàng nhận ra nó như nhìn vào một tấm gương.
Đến lượt vị chúa tránh ánh mắt của nàng. Ông nhìn xuống mâm đồ ăn vẫn còn chưa ai đụng đũa, xuống ly trà sóng sánh sắc nâu trong ánh đèn. Ông nhìn ra mặt hồ được mưa vẽ nên những vòng tròn nhỏ liên tiếp nhau. Đôi mắt nàng vẫn nhìn ông như một tấm gương.
Nàng hiểu được gì, qủa thật ông muốn nói. Nhưng nàng hiểu. Vẻ u buồn khi linh hồn đã bị một nhát dao chí mạng ấy, sự cô đơn ấy phủ lên ông. Ông nhớ về cảm giác khi nhìn thấy nàng lần đầu. Qủa thật, đã từng hiển hiện cái ảo tưởng như chớp sáng của một thời qúa vãng. Cái khát khao muốn chạm đến những gì đã từng bị thiêu hủy, những ký ức rực rỡ và trong sáng chưa từng hiện diện bao giờ.
Nàng không hiểu, ông muốn nói. Nàng không hiểu những gì ông đã dựa vào để có thể sống còn. Nàng không hiểu thời gian dài đằng đẵng đã qua trong cuộc đời ông. Cùng với thời gian, oán thù đã trở thành một phần thân thể, trái tim ông. Chỉ khi diệt được tất cả những dấu vết hiện diện của Tây Sơn trên cõi đời này mới có thể làm ông thỏa mãn. Chỉ khi bắt chúng phải trả giá, trả giá cho từng giọt máu, sinh mạng mà chúng đã lấy đi mới làm ông thoả mãn.
Ông có thể kể cho nàng nghe từng cái tên, từng thân phận. Anh cả Hạo, anh hai Đồng chết trận khi đánh nhau với Tây Sơn. Em Mân chết khi bị Tây Sơn chặt đứt cầu phao. Em Thiển bị giết ở hòn Đá Chồng. Lê Phước Điển, phò mã của Ngọc Tú mặc áo ngự chết thay cho ông ở hòn Đá Chồng. Ngọc Tuyền bị Tây Sơn bắt, tự tử năm mới mười chín tuổi, chồng là Nguyễn Hữu Thuỵ bỏ mạng ở Chân Lạp. Võ Tánh, phò mã của Ngọc Du, vừa mất ở Bình Định. Và bao nhiêu người nữa, Định vương hoàng thúc, Châu Văn Tiếp, Võ Danh Sở, Bạch Doãn Triều, Nguyễn Tịnh… Linh hồn họ ám ảnh ông từng ngày, từng giờ, kêu gào được báo oán. Nỗi đau của những người còn ở lại không buông tha trái tim ông. Tinh anh dòng họ Nguyễn kiêu hùng phù vua Lê đuổi giặc Minh lập quốc, khai phá miền Nam này không tha thứ nếu ông thất bại.
Nhưng ông đang thù hận ai? Một bóng ma. Chỉ là một bóng ma.
Nàng cười nhạo mối thù mà ông trân trọng gìn giữ. Nàng muốn bảo, Này, nếu muốn, ngài hãy lên ngôi xưng đế, hãy thu phục giang sơn cho thỏa tham vọng của mình, đừng vin vào mối thù không thức thời ấy. Đế nghiệp trên đời này đều phải dựa vào hủy diệt. Trên mảnh đất này, bao nhiêu lần đã diễn ra các dòng họ bị tru diệt? Nhà Tiền Lê soán ngôi họ Đinh, nhà Trần cướp ngôi nhà Lý, rồi đến lượt họ Hồ đoạt ngôi họ Trần, các cuộc thanh trừng mà vua Lê Thánh Tông cùng họ Nguyễn các ngài đã thực hiện trên mảnh đất miền Nam này với những tộc người bản xứ. Những cuộc tàn sát quy mô, khủng khiếp của các bậc tự xưng minh chúa, hiền vương ấy là con đường sáng nghiệp của họ. Ngài là một nam nhân, chẳng lẽ lại không hiểu guồng quay của thời thế, cái tình trạng của thế thời?
Ông đã quay trở về đây rồi đó, vậy ông thấy mình nhận được gì, níu kéo được gì của qúa khứ không?
Tất cả chúng ta là những đứa trẻ sinh trong loạn thế, phải gánh vác tội lỗi cũng như ân oán chúng ta không gây nên. Chúng ta lớn lên và đều đã bị hủy hoại trong loạn thế. Chúng ta hủy hoại nhau, không thể nào khác được. Chúng ta phải hủy hoại nhau, đó là số phận của chúng ta.
Đôi mắt nàng dõi vào ông. Ông nhìn thấy trong đó một linh hồn đã bị tử thương. Nàng đã từng căm hận, đã muốn trả thù, đã trả thù, và đã làm tử thương chính mình. Nàng đã từng đau đớn, luôn luôn đau đớn, và sẽ tiếp tục gánh chịu nỗi đau bằng sự dịu dàng của những cơn mưa. Rơi vào trong thinh lặng và biến mất không một vết dấu.
Chậm chạp, ông vỗ tay cho gọi người tùy tướng. Anh ta đi vào, nàng đứng dậy. Nhưng ông ngăn lại.
- Từ hôm nay nàng về dịch đình ở với các phu nhân. - Trước khi nàng kịp nói, ông gật đầu. - Hai đứa trẻ sẽ được đưa về cùng nàng. Dù sao chúng cũng là họ ngoại của vua Lê Hiển Tông.
Khi nàng ra khỏi trích đình, Nguyễn vương cúi xuống, chạm tay vào ly trà đã lạnh. Hỏng rồi, ông thầm nghĩ. Ông đã muốn chiêu dụ nàng, việc mà ông đã nghĩ rằng rất dễ dàng khi nàng là công chúa Lê triều, một cô gái trẻ non nớt.
Nhưng nàng lại là cô gái với đôi mắt mang màu mưa ông đã thấy dưới hiên hoàng thành.
***
Vua Cảnh Thịnh ra Thăng Long lập đàn tế trời, đổi hiệu thành Bửu Hưng, thành lập lại triều đình ngụ tại Cấm Thành.
Cuộc chiến tại Quy Nhơn vẫn diễn ra quyết liệt. Lê Văn Duyệt, Lê Chất đánh bại Tây Sơn ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa. Tống Viết Phúc bị phục binh giết ở Trà Khúc. Nhưng Trần Quang Diệu vẫn không thể phá được vòng vây của Nguyễn Văn Thành.
------------
Chú thích:
Bài Đoản ca hành kỳ 1 của Tào Tháo. Dịch nghĩa:
Trước rượu nên hát
Đời người bao lâu?
Giống như sương sớm
Ngày qua khổ đau
Nghĩ tới ngậm ngùi
Buồn đau suốt đời
Lấy gì quên được?
Ánh có năm anh em trai, bốn chị em gái. Anh lớn là Hạo, làm Cai cơ, đánh nhau với Tây Sơn chết trận. Anh thứ hai con cùng mẹ với Ánh là Đồng, làm Đội trưởng, năm 1777 theo hộ giá Duệ tông Phước Thuần, bị Tây Sơn giết chết ở Long Xuyên. Em kế Ánh tức con thứ tư của Nguyễn Phước Luân thì chết lúc còn nhỏ. Người kế là Mân, năm 1783 đánh nhau với Tây Sơn ở đồn Cá Trê thua chạy qua cầu phao, Tây Sơn chặt cầu phao nên rơi xuống nước chết đuối. Người kế nữa em cùng mẹ với Ánh là Điển, năm 1783 bị Tây Sơn bắt giết ở hòn Đá Chồng. Chị lớn cùng mẹ với Ánh là Long Thành công chúa Ngọc Tú, năm 1779 vào Gia Định, được gả cho Cai cơ Lê Phước Điển, năm 1783 Điển mặc áo ngự chịu chết thay Ánh, bị Tây Sơn bắt giết ở hòn Đá Chồng. Chị thứ hai là Phước Lộc công chúa Ngọc Du, năm 1779 vào Gia Định, được gả cho Chưởng Hậu quân Võ Tánh, năm 1801 Tánh bị Tây Sơn bao vây, tự thiêu ở thành Bình Định. Em gái kế Ánh là Minh Nghĩa công chúa Ngọc Tuyền, năm 1779 vào Gia Định, được gả cho Cai cơ Nguyễn Hữu Thoại, năm 1782 Thoại bị Tây Sơn đánh bại ở Đồng Nai, vợ chồng lạc nhau, kế Thoại được sai qua Xiêm cầu viện, Ngọc Tuyền ẩn náu trong dân gian bị Đốc chiến Tây Sơn là Tập bắt được đưa về Sài Gòn, trên đường chửi mắng rồi nhảy xuống sông tự tử, năm ấy mới 19 tuổi. Hữu Thoại thì theo đường Chân Lạp qua Xiêm, bị người Chân Lạp giúp Tây Sơn nên giết chết. Em gái út Ánh là công chúa Ngọc Uyển, mẹ họ Tống, sau 1774 lưu lạc trong dân gian ở Thanh Hóa, lấy chồng là Tống Phúc Tín. Riêng cha Ánh sau khi đã chết về tay Trương Phước Loan năm 1765 đến 1790 lại bị Nguyễn Huệ sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đem quân tới xã Cư Hóa đào mộ, vứt xương xuống vực.
4.
- Chúa công, người không thể làm thế!
Dù Lê Văn Duyệt đã giữ cho giọng mình không có vẻ xúc phạm, nhưng Nguyễn vương cũng có thể nhận thấy sự kinh ngạc lẫn phê phán trong câu nói.Ông đã gọi Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành về Phú Xuân để ban cho chức Quận công, cùng vài tướng khác chuẩn bị chiến dịch Bắc Hà. Khi còn lại hai người, ông nói cho viên tướng trung thành đã theo ông từ ngày mới mười bảy tuổi ý định của mình. Không cần nghe hết câu, Lê Văn Duyệt đã ngay lập tức lắc đầu.
- Chúa công, người phụ nữ ấy có đẹp đến thế nào đi nữa thì vẫn là vợ của kẻ thù. Lưu một người như thế bên mình là mầm họa. Đã đành những người chiến thắng có thể chiếm đoạt thê thiếp của kẻ bại trận, nhưng không thể là một người vợ chính thức. Ngài định lập cô ta làm phi tử, về tình về lý đều không thể hợp.
Khi Lê Văn Duyệt cúi đầu nói những câu đã được cân nhắc hết mức có thể, Nguyễn vương chỉ im lặng nhìn Lê Quận công. Ông đã đoán trước được phản ứng này, và không chỉ ở Lê Văn Duyệt. Cho nên, ông chỉ nheo mắt chờ viên tướng bình tĩnh lại.
Lê Văn Duyệt không thể tin được vào tai mình. Trong suốt hơn hai mươi năm đi theo vị vương này, ông chưa bao giờ thấy ngài ta bị lụy vì nữ sắc. Chỉ có hai người vợ trong những ngày lưu lạc, không uống rượu, không niềm đam mê nào khác ngoài sách vở và chiến trận, điều gì khiến ông ta có một quyết định liều lĩnh đến thế? Thê thiếp của kẻ thù chỉ là chiến lợi phẩm, là thứ tiêu khiển rồi loại bỏ, huống hồ gì ngài ta, vị vương luôn nói đến lễ nghĩa, phong hóa, đã ban lệnh cấm ngặt binh lính phạm đến người bại trận này. Việc làm bại hoại đến phẩm cách, ngay giữa lúc trận chiến còn chưa định cuộc, lúc Phú Xuân vẫn còn đang bị đe dọa bởi Trần Quang Diệu ở Quy Nhơn, lúc lòng người còn phân tán, là không thể chấp nhận được. Ông đã thấy ánh mắt ngài ta ở sân điện, nhưng không thể ngờ đến mức ấy.
Người phụ nữ ấy qúa đẹp, Lê Quận công thầm lắc đầu. Vẻ đẹp mà ngày xưa Câu Tiễn phu nhân phải cho dìm Tây Thi xuống bể. Rồi thanh danh của Nguyễn vương sẽ đời đời bị vấy bẩn bởi hành động này. Ngay đến ông cũng không thể tin được.
Đến lúc Lê Văn Duyệt đã im lặng hồi lâu, như thể chờ ông trả lời, Nguyễn vương mới chậm rãi mỉm cười.
- Khanh nghĩ ta chỉ vì một nhan sắc mà quyết định ư? Tình quân thần hơn hai mươi năm, ta đã từng nghĩ khanh hiểu ta hơn thế. Nàng ta là công chúa nhà Lê, Văn Duyệt. Nàng ta cần thiết cho chiến dịch tiến về Bắc Hà. Nghe tin Hoàng hậu đã được sung làm phi tần của ta, khanh nghĩ bọn ngụy Tây sẽ cảm thấy thế nào?
Lê Văn Duyệt ngẩng lên, cuối cùng, ông thở dài:
- Nhưng chúa công, cho người phụ nữ ấy một danh phận, có nên chăng? Dù có là dòng dõi kim chi ngọc diệp thì vẫn đã bị kẻ thù vấy bẩn. Triều ta chủ trương Nho học, nữ lưu đề cao tam tòng tứ đức, lẽ nào chúa công lại nâng một người như vậy ngang hàng với Vương hậu đã hy sinh cả đời vì ngài, với Trần phi đồng cam cộng khổ bôn ba cùng ngài? Chúa công vẫn có thể lấy cô ta làm nàng hầu, và một công nương dòng dõi nhà Lê khác, ta có thể sang Đại Thanh tìm về.
- Khanh vẫn chưa hiểu ý ta, Văn Duyệt. - Vẫn giữ nụ cười trên môi, vị vương nhà Nguyễn đứng dậy, rời khỏi chiếc ghế đang ngồi đến bên cửa. Nắng vẫn đang hắt vào rực rỡ. Phượng đã lại đỏ rực Phú Xuân, chen cùng sắc điệp vàng. - Ta không chỉ nhắm đến trận chiến này, mà còn là thời gian sau đó. Ở Bắc Hà, khanh nghĩ người ta sẽ quan tâm đến chuyện ta đánh nhau với Tây Sơn sao? Tỏ lòng trân trọng với một người phụ nữ, không quan tâm đến qúa khứ của nàng ta, nàng ta lại là dòng dõi cựu triều, đó là bày tỏ đức nhân của ta với những người trong thiên hạ. Họ biết được bao dung, được tha thứ. Có thế, những người cũ của triều Lê mới có thể theo ta. Bọn sĩ phu tuy ngoài miệng luôn nói trung nghĩa tiết tháo, nhưng trong tâm lại kén chọn, tính toán, ranh ma. Chúng chỉ cần có một triều đại dung nạp chúng, chúng quan tâm đến bản thân hơn sự sống còn của triều đình, chúng để ý đến sĩ diện, thanh danh hơn là thực tế. Chỉ cần thỏa mãn sự tự tôn của chúng thì có thể thu phục được. Khi Lê, Trịnh suy vong, chúng ở đâu? Phò vua hay đấu đá với nhau, chia bè lập phái, bất mãn quy ẩn, than thở hão huyền? Khi Lê Chiêu Thống cần chúng, chúng ở đâu? Khi dân Đàng Ngoài chết đói năm Canh Tuất ấy, chúng ở đâu? Chúng yêu qúy gì vua, gì chúa? Chúng quan tâm gì đến vận nước, mạng người? Tất cả chỉ vì cái danh, cái chữ sĩ, cái thể diện. Tây Sơn đã cưới một công chúa nhà Lê cho vua chúng để lấy lại địa vị cho nhà Lê, ve vãn đám sĩ phu, dân chúng Bắc Hà. Ta cưu mang nàng ta chính là dùng cách “Gậy ông đập lưng ông”, chứng tỏ tấm lòng kính trọng của ta với nhà Lê là thành thực. Ta vừa không mang tiếng diệt Lê, vừa tránh khỏi tiếng tăm giả Phù Lê như bọn ngụy Tây.
- Tiếng tăm giả Phù Lê? - Lê Văn Duyệt đột ngột quay nhìn theo Nguyễn vương. Ông ta đang khoanh tay trông ra phía núi, lưng quay lại.
- Từ khi khởi nghiệp ta vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng. Đã đến lúc ta bình định ngụy Tây bằng danh phận của chính mình rồi.
Xưng đế. Lên ngôi hoàng đế. Đối mặt với Tây Sơn trên cương vị một hoàng đế. Bây giờ vẫn chưa đến lúc, ta còn đang chờ một thời điểm chín mùi. Nhưng sớm, rất sớm thôi.
Nàng ta cần thiết cho cuộc chuẩn bị này của ông, và sau này nữa. Nàng ta cần thiết cho con đường bình định và đế nghiệp của ông. Ông đã nghĩ ngay ra điều đó từ khi đọc thấy tên công chúa Lê Ngọc Bình trong danh sách những người bị bắt. Trước khi biết nàng là ai.
Cái bóng ma của Lê triều vẫn còn qúa lớn. Ông vẫn còn phải dựa vào nó, cũng như Tây Sơn không thể dứt bỏ được nó. Dù có lấy được Bắc Hà, ông vẫn phải đối đầu với áp lực dựng lại nhà Lê. Làm một chúa Trịnh "thờ Phật để ăn oản" ư? Đó không phải là ý muốn của ông. Ông không chỉ muốn cái oản nhỏ bé kia, không chỉ cần yên ổn hưởng lợi. Nhà Lê đã không thể phục hồi được nữa. Tây Sơn đã diệt nó. Với một hồn ma, người ta nên tỏ lòng tôn kính, nhưng không thể để nó trở về dương thế.
Công chúa cuối cùng của nhà Lê, người đã rơi vào tay Tây Sơn, hạt giống cuối cùng của nhà Lê bị Tây Sơn tiếp tục triệt tiêu. Ông đã thấy điều đó trong mắt nàng, cả trong cõi lòng trống trải, độ lượng và chấp nhận của nàng. Đây là cách duy nhất để cứu nàng, người con gái bơ vơ giữa những sụp đổ và chôn vùi, hay sẽ hủy hoại linh hồn nàng thêm nữa? Cứu được cuộc đời nàng, và hủy hoại linh hồn nàng, ông chỉ có thể chọn một. Chúng ta phải hủy hoại nhau, đó là số phận của chúng ta. Nguyễn tộc, Tây Sơn, Lê triều. Đó là một vòng tròn. Một món nợ đến lúc phải trả, cho tất cả những người trong đó.
Ông cần có nàng trong cuộc dựng xây vương triều Nguyễn của mình. Với địa vị đặc biệt, nàng là một biểu tượng đầy giá trị mà ông có thể sử dụng vinh danh cho mình, cho triều đình của họ Nguyễn.
Ông nói cho Lê Văn Duyệt không phải vì muốn nghe ý kiến của người bạn lâu năm này, mà là để ông ta loan truyền cái tin ra ngoài. Ông chưa muốn cưỡng bách nàng. Ông biết không thể cưỡng bách nàng khi nàng không sợ chết, cũng chẳng sợ hãi ông. Ông chưa thể chiêu dụ được nàng, nhưng thời gian đang cần rút ngắn.
Ông cần ngụy Tây nghe được tin này.
***
Dù đã cuối tháng bảy, khí hậu miền Bắc vẫn oi ả ghê người. Đêm lặng không chút gió, hầm hập nóng. Gió tạt qua mặt Quang Thùy khi chàng phi ngựa trên con đường đến Cấm Thành, tưởng như có thể cảm thấy cái ran rát của bụi. Việc chuẩn bị đưa quân đến Nghĩa An đã xong. Cần giữ vững tuyến phòng thủ ở Linh Giang khi quân Nguyễn tập trung về ngày càng nhiều. Nguyễn vương đã tung thuộc hạ của mình vào Nghĩa An, Thanh Hóa gây những trận đánh nhỏ. Ở Thanh Hóa đã có Quang Bàn, chàng sẽ đích thân đi phòng thủ Nghĩa An. Tây Sơn cần thời gian để phục hồi, cũng cần thời gian để chờ động tĩnh của Trần Quang Diệu. Quang Toản mới ra Thăng Long được hai tháng, cần nhiều nỗ lực để hòa nhập.
Nhưng nhà vua gọi chàng đến làm gì vào giữa đêm thế này?
Đón Quang Thùy trong điện không chỉ có mình Quang Toản. Quang Thiệu và Quang Duy cũng ngồi hai bên chiếc bàn lớn kê giữa phòng, trên gương mặt họ đọng một nỗi giận dữ lẫn cay đắng không rõ lý do. Nhà vua không nhìn lên khi Quang Thùy đi vào, làm lễ, chỉ nhìn xuống hai bàn tay nắm chặt với nhau trên bàn. Những ngón tay xoắn vào nhau, vặn vẹo như muốn gãy.
- Có chuyện gì vậy? - Quang Thùy quay sang hỏi Quang Thiệu. Viên Thái tể trẻ tuổi này nhìn vua Bửu Hưng như chờ được phép nói. Quang Duy không đừng được, buột miệng trả lời.
- Anh Thiệu ở ngoài nghe người ta nói rằng Chính cung đã trở thành cung phi của Nguyễn Phúc Ánh.
Quang Toản làm một động tác như giật nảy mình. Vai nhà vua run lên. Đầu chàng càng cúi xuống thấp hơn. Bắt gặp ánh mắt của Quang Thùy, Quang Thiệu do dự gật đầu.
- Bắt được bọn quấy rối ở Thanh Hóa, Tuyên công nghe chúng nói vậy, liền báo cho em. Em hỏi những người từ Nam ra quanh đây, ai cũng bảo thế. Có người còn kể cung nữ trong phủ nói rằng Chính cung hiện đang ở điện riêng, chỉ có Nguyễn Phúc Ánh được phép vào. Trong cung đang chuẩn bị, chỉ đợi một thời gian nữa để làm lễ phong.
- Hắn muốn làm nhục chúng ta, tên tiểu nhân bỉ ổi! - Sự giận dữ của Quang Duy bùng nổ. - Như vậy... Như vậy... Chính cung sẽ...
Cậu bỏ lửng câu nói. Đôi mắt nâu của nhà vua chết lặng trong ánh đèn. Đó là điều mà ai cũng hiểu, nên Quang Thiệu đã chỉ cho gọi người trong gia đình đến để thông báo trước.
Dù có đánh vào được Phú Xuân, dù có chiến thắng, nàng cũng không được phép sống. Là một Hoàng hậu, trong hoàn cảnh này, nàng sẽ không được phép sống. Dù việc là thật hay giả, lửa đã lan ra, không thể phục hồi những gì đã bị đốt cháy, không thể đối đầu với một dư luận rộng lớn đến thế. Danh dự của vương tộc, của nhà vua không thể chịu một nỗi nhục đến thế.
Đó là điều mà ai trong căn phòng này cũng hiểu.
Và họ biết điều này cũng có sự xác tín. Quả thật, Nguyễn vương dám làm cả những điều như thế, khi ông ta đã cho giết lần lượt, từng người anh em của họ tại Phú Xuân. Mỗi ngày, mỗi tháng, họ lại nghe tin dữ báo về. Và dù lòng đau đớn như bị dao cắt, họ vẫn chỉ có thể câm lặng chịu đựng. Ngay cả cái tin này, cái tin này ưữa, cũng chỉ đem tới những giận dữ và cay đắng câm lặng, trên khuôn mặt từng người trong họ.
- Hoàng thượng... - Quang Thùy gọi. Quang Toản chậm chạp ngẩng lên, gương mặt trắng nhợt như giấy, như đang sợ hãi chính người anh trước mặt. - Mọi việc xin để người quyết định. Thần xin phép lui về để mai lên đường đến Nghĩa An.
Nói đoạn, chàng quay gót ra khỏi phòng. Quang Toản đứng bật dậy, quát theo:
- KHANG CÔNG!
Giọng nhà vua có sự cuồng nộ mà Quang Thùy chưa bao giờ nghe được hay tưởng tượng ra. Nhưng chân chàng không dừng lại. Ra khỏi khu cung điện mát lạnh, luồng khí nóng ập thẳng vào mặt chàng. Chàng chợt đứng khựng lại trong khoảng sân lớn được bao vây bởi tường đá cao ngất. Thế giới chao đảo xung quanh chàng. Những luồng khí luân chuyển trong thinh không mập mờ. Ánh sáng của sao cắt vụn bầu trời.
Thế giới quay cuồng quay cuồng những bóng hình đen đúa méo mó. Nghe như có tiếng cười ác độc vọng xuống từ trời thẳm.
Nàng sẽ phải chết.
Nếu chàng thắng, nàng sẽ phải chết.
---------
Chú thích:
Thờ Phật để ăn oản: Khi chúa Trịnh muốn lật đổ nhà Lê, đã cho người đi hỏi ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông chỉ im lặng, rồi quay lại bảo người nhà quét lễ đường, "có thờ Phật mới được ăn oản".
Mặt trời lặn
1.
Ngọc Bình sờ tay lên trán Văn Đức, cau mày. Thằng bé lại lên cơn sốt nóng, không biết đã lần thứ bao nhiêu từ mấy tháng qua. Nó sinh ra đã thiếu tháng, lại bị kinh hoàng sợ hãi. Ban đầu là những cơn ác mộng, sau đó nó suy kiệt dần dần. Dù Nguyễn vương đã cho gọi ngự y, nàng cũng đích thân chăm sóc thằng bé bằng tất cả kiến thức mình có được, nhưng thể trạng yếu ớt của nó không thể phục hồi khi tâm lý mang đầy những bất an. Hai đứa trẻ không còn nói cười, kể cả lúc đã được đưa về dịch đình, thoát khỏi căn phòng tối ám kia.
Văn Đức muốn cùng chết với các anh chị, thằng bé từng nói. Ý thức về vương tộc của nó đã vượt qua nỗi sợ. Cả hai đứa trẻ đã chuẩn bị cho cái chết của mình, tuy vẫn mong chờ Tây Sơn quay trở lại. Sự can đảm đó, lòng tin không suy chuyển đó đã nằm trong máu thịt chúng, được hun đúc nên trong triều đình. Khiến nàng không thể nói với chúng rằng em không cần phải chết, rằng dòng máu họ Lê sẽ cứu được chúng. Nói với chúng điều đó là một sự sỉ nhục. Được sống với chúng là một sự sỉ nhục.
Cho nên, nàng có cảm giác Văn Đức đã xuôi tay, không chống chọi với căn bệnh của mình. Bao nhiêu thuốc thang cũng trở thành vô ích. Trong tâm trí trẻ thơ, nó cảm thấy thỏa mãn khi được chết mà không phải chịu hành hình. Nó vừa sợ hãi, vừa đón nhận kết thúc của một thành viên hoàng tộc. Bệnh phát từ trong tâm, nàng không có cách nào chữa trị.
Bên cạnh nàng, Ngọc Bảo im lặng nhìn khuôn mặt nhỏ nhắn xanh rớt của đứa em. Đôi mắt con bé vẫn tròn to, nhưng đã mất hết vẻ vui tươi trong sáng, chỉ có sự nhẫn nhịn và hiểu biết thầm lặng chìm sâu trong đó. Thời gian bị giam cầm qúa lâu khiến cho những đứa trẻ dần dà trở nên u uất. Chúng đã vào tuổi hiểu chuyện, và vẫn thường núp nghe trộm câu chuyện của nàng cùng Nguyễn vương mỗi khi ông ta ghé qua.
Mỗi khi ghé qua, ông ta lại đem tình hình chiến tranh kể với nàng. Ông ta biết rằng nàng muốn biết. Trong khu dịch đình này chỉ có ba người bọn nàng, cùng với vài cung nhân bao giờ cũng giữ thái độ im lặng tuyệt đối. Nhưng nói với nàng điều đó, đối xử ưu đãi với nàng như vậy, Nguyễn vương muốn gì?
Hẳn ông ta không muốn phạm đến con cháu của Lê triều khi đang muốn tiến quân ra Bắc. Nguyễn vương biệt đãi nàng, trong những lời nói lại muốn nàng ủng hộ ông ta. Vị vương này là một người nhiều tham vọng. Tham vọng hay oán thù nhiều hơn, nàng đang tự hỏi. Dù trong mỗi lời, mỗi chuyện ông ta kể đều thấp thoáng sự giận dữ, chỉ muốn tru diệt Tây Sơn bằng bất cứ giá nào, nàng lại thấy sau đó là một con người rất kiên nhẫn, rất tính toán. Ông ta là một kẻ biết điều khiển chính mình, đến mức hầu như không phải là một con người bình thường. Người như thế, có thể mang được tình cảm nào, thậm chí cả sự oán thù, hay không?
Khi ta lên bốn tuổi, phụ hoàng bị hại chết, ta được hoàng thúc nhận nuôi, Nguyễn vương từng kể với nàng. Mười ba tuổi, ta theo hoàng thúc chạy ra Quảng Nam, rồi Gia Định. Mười lăm tuổi, tất cả nam nhân họ Nguyễn đều bị Tây Sơn tàn sát, ta may có Bá Đa Lộc che chở đem đi trốn, rồi dựa vào danh thế họ Nguyễn chiêu binh. Đất Gia Định, người Việt sống xen lẫn với người Miên, kinh tế do người Tàu làm chủ, quân Xiêm thỉnh thoảng sang cướp bóc. Đó là một vùng đất hoang dã chỉ có rừng và kênh rạch, sông nước, gồm đủ các tộc người. Có lần lùng bắt ta, Tây Sơn đã ép tất cả người Việt ở Chân Lạp phải về nước. Có lần xung đột với ta, Tây Sơn đã giết cả vạn người Tàu ở Chợ Lớn, nơi mà họ đã chạy dạt về sau khi Cù lao Phố bị đốt phá sạch sanh. Ngày đó, ta nóng nảy, bồng bột, cả dựa dẫm nữa. Ta đã dựa dẫm Bá Đa Lộc rất nhiều. Ông ấy phải rèn luyện, uốn nắn ta từng câu nói, đưa ta tới những kỹ thuật phương Tây: chế tạo lựu đạn, công cụ đo đạc, vũ khí... Ông ấy cho ta thấy rằng, chiến tranh trong thời đại tiếp theo sẽ dựa vào phát triển kỹ thuật, kẻ được trang bị kỹ thuật, vũ khí tân tiến hơn sẽ giành phần thắng.
Đại Việt ba mặt là biển, trước nay chỉ dựa vào thành cao, hào sâu, địa thế hiểm trở mà ngăn quân địch trên bộ, hầu như không có khả năng thủy chiến. Các đảo ngoài khơi hết rơi vào tay người Tàu rồi đến Tây dương, đó là mầm họa, lúc bị bao vây sẽ chỉ biết từ trong đánh ra, bị dồn vào góc. Mất ưu thế trên mặt biển là tự đưa mình vào thế thua. Tổ tiên ta đã biết được điều đó, đã cho người kiểm soát các đảo mà chúng ta có thể với tay đến được. Tuy vậy, các tàu gỗ không thể đối đầu với tàu Tây dương, các đoàn thuyền nhỏ khó mà chống lại pháo và đại bác.
Nhưng chiến tranh chỉ là cách trong một lúc, không phải thế lâu dài. Đại Việt phía Bắc giáp Đại Thanh, phía Tây giáp Xiêm, Chân Lạp, Vạn Tượng. Lúc tiến lúc lui, lúc dựa thời lúc cần phải ra tay trừng trị, đừng để bị lợi dụng. Ngày mới hai mươi tuổi, sau khi bị đánh tan tác, ta cho phép một đoàn quân lưu vong Xiêm gia nhập nhằm tăng lực lượng. Khi đánh nhau với Tây Sơn, quốc vương Xiêm liền ép ta về Vọng Các, dùng danh nghĩa ta để vào Gia Định. Chân Lạp, Vạn Tượng tùy thời mà trục lợi. Bọn giáo sĩ Tây dương ngày nay cũng thế. Khi con trai ta được đưa lên thuyền sang Lang-sa, hết Bồ Đào Nha rồi đến Anh Cát Lợi cố sức giành giật thằng bé trong tay Bá Đa Lộc. Đứng giữa luồng tranh chấp, phải biết lựa chọn theo ai đánh ai. Chiến tranh ở Đại Việt sẽ không chỉ đơn thuần là cuộc chiến trong hay ngoài nước, mà là cuộc chiến của nhiều thế lực, là cuộc tranh chấp ảnh hưởng của nhiều quốc gia trên biển Đông.
Bá Đa Lộc đã dạy ta rằng, từ khi phát hiện ra phương Đông, Giáo hội Thiên Chúa giáo đã khoanh vùng, chia phần việc truyền đạo cho từng nước Tây dương, tự coi chúng ta là thuộc địa của họ. Tây dương đang tiến về phương Đông. Các nước lân bang cũng muốn đất đai ta, muốn sử dụng ta để tác động lên những tiểu quốc. Các thành phần trong Đại Việt ngày càng phức tạp. Không thể chiến tranh mãi mãi, cũng không thể đứng ngoài, không thể không lựa chọn. Tây Sơn dùng sức mạnh mà bình định, nhưng chỉ được trong một lúc. Xiêm vẫn dung dưỡng ta để phá hoại, Tây dương dạt về Gia Định mà câu kết với ta. Gây chiến chính là cách đưa sức mạnh vào tay kẻ thù, làm kiệt quệ chính mình. Nhưng mở cửa đón nhận chính là giết mình vậy.
Ta thừa nhận mình đã từng phạm nhiều sai lầm, nhưng ta không sợ sai lầm. Chúng giúp ta học hỏi cách để trở thành người chiến thắng. Giờ đây, Xiêm, Châp Lạp trở thành những nước thân thuộc ta, giúp ích cho ta. Ta có thể đuổi bốn vạn quân Xiêm về nước chỉ bằng một lời nói. Giờ đây, những sĩ quan Ba-lang-sa là thuộc hạ của ta, ngay cả Bá Đa Lộc cũng không thể áp đặt ảnh hưởng của mình lên triều đình ta.
Loạn trên đất nước này không chỉ là kết qủa của những cuộc chiến tranh giữa các dòng họ, Tây Sơn cho ta thấy điều đó. Đất nước này, từ đám sĩ phu đến nông dân làm ruộng, đều là những kẻ phù phiếm dễ bị cuốn theo một chiều ý thức, dù ở bất cứ phía nào, như đám rễ cây cắm vào đất. Đất nước càng rộng lớn, càng phức tạp thì càng bị phân chia. Trên mảnh đất này, chỉ có kẻ mạnh thì thắng. Ta dựa vào thanh danh nhà Nguyễn mà chiêu binh ở Gia Định, kẻ khác cũng có thể dựa vào thanh danh đời trước mà nổi lên, kể cả giáo dân, sư sãi, thôn làng, huyện lỵ... Chỉ một phát súng bắn vào, tất cả sẽ nổ ra tan tác. Chiến tranh để thu phục đất đai thì dễ, giữ được một mảnh đất như thế nguyên vẹn mới là việc khó làm.
Dù có thắng được Tây Sơn, một cuộc chiến khác của ta cũng chỉ mới bắt đầu. Sẽ có những kẻ muốn tách rời, có những kẻ phản bội, những kẻ vẫn còn đeo bám vào các hồn ma, những kẻ không bao giờ chịu bị cai trị. Chỉ cần một mồi lửa, mối liên kết lỏng lẻo trên đất nước này sẽ tan rã, bị thiêu rụi. Người trong đất nước này không có một khái niệm về Đại Việt từ Lạng Sơn đến Gia Định, chỉ biết Đàng Trong, Đàng Ngoài, nhà Lê, họ Trịnh, họ Nguyễn, vẫn còn ngóng về tiên tổ của các đất nước xa xưa, chỉ biết có cụm làng xã, thôn xóm, thân tộc xung quanh mình. Nếu cứ tiếp tục như thế, loạn sẽ không bao giờ dứt, phân tranh không bao giờ hết. Chiến Quốc, Xuân Thu, đống xương Vô Định, nấm đất Đống Đa chẳng bao giờ là một hình tượng tốt đẹp.
Ta đã lớn lên trong tranh chấp, trong chiến loạn, cả cuộc đời ta chỉ biết có chiến tranh. Nàng cũng vậy, chiến tranh đã lấy đi tất cả của chúng ta. Người con trai đầu tiên, ta đã phải để nó lưu lạc, lênh đênh ngàn vạn dặm, đã thả nó vào chiến trường từ năm mười ba tuổi. Rồi nó chết khi ta còn đang ở hòn Nần. Cứ tiếp tục như vậy đến bao giờ?
Đại Việt này đã từng có một Lê triều tồn tại chỉ trên danh nghĩa - nhưng đó cũng là thứ duy nhất để liên kết Đại Việt, không để nó phân chia thành Tiểu Trịnh, Tiểu Nguyễn hay muôn vàn các vương quốc nhỏ. Làm sao để gắn kết được những phần đất này, những con người, dân tộc qúa khác biệt này?
Vị vương nhà Nguyễn im lặng, trầm ngâm nhìn ra khoảng sân bên ngoài. Lúc ấy, nàng chợt thấy sợ con người này. Trong đầu ông ta luôn luôn là những tính toán dày đặc. Và khi nói về con người "ngày xưa" của mình, kể cả về những bi kịch, những khốn khổ cực độ, ông ta vẫn chỉ bình thản, dửng dưng như chuyện một người khác. Con người này, dường như sau khi nếm trải tất cả những cay đắng, thất vọng, những dập vùi, đã trở thành một khối ý chí không gì lay chuyển nổi. Oán thù ngày xưa đã hòa trộn với một điều gì đó cao hơn cả tham vọng. Ông ta như muốn chạm đến một điểm nào đó mà chưa ai đặt tay tới.
Hôm ấy, trước khi đi về, ông ta đã nhìn nàng cái nhìn rất khó hiểu. Như thể muốn nói với nàng rằng "Hãy giúp ta".
Ngay từ đầu, nàng đã nhận ra ý muốn lôi kéo nàng của Nguyễn vương. Được sự hậu thuẫn của Hoàng hậu Tây Sơn, công chúa Lê triều, hẳn là một sự tác động lớn lao đến tinh thần binh lính, kể cả quân Nguyễn và Tây Sơn. Hay như lời ông ta nói, "danh nghĩa của Lê triều là thứ duy nhất gắn kết Đại Việt".
Nhưng nàng không thể làm được.
Nhìn gương mặt bé nhỏ, xanh xao trong cơn bệnh, nàng nghĩ đến những con người ngoài kia và trong hơn năm mươi năm chiến tranh. Biết bao nhiêu năm tháng đã qua trên mảnh đất này, biết bao máu đã đổ. Nàng vừa mong ước sự kết thúc, vừa sợ hãi nó.
Hẳn cậu bé này cũng đối mặt với cái chết của mình như vậy.
Vầng trăng tháng mười vằng vặc sáng trên những ngọn cây đang trút lá. Mặt đất đang thiêm thiếp ru mình vào cõi chết. Ngọc Bảo đã rời giường bệnh của đứa em, đứng ở cửa nhìn ra ngoài. Nàng nhớ đến mình khi bằng tuổi cô bé, và sự cô đơn đang dâng lên trong đôi mắt trong.
--------
Chú thích:
Vô Định: Thời Xuân Thu, khi Tần đánh Triệu, đã giết hai triệu binh lính Triệu ở Vô Định.
Năm 1792, Xiêm cho 4 vạn quân sang giúp binh với Gia Định. Nguyễn Ánh đe "Mua một con gà mà không trả tiền thì bị giết hết chỉ trừ một người chạy về Ayuthaya báo tin thôi" và cấm đặt chân qua biên giới Việt - Lào.
Vọng Các: Bangkok
Ba-lang-sa: Pháp
2.
Nguyễn vương đặt bản tấu xuống, ngoái nhìn về phía tấm địa đồ sau lưng. Từ tháng bảy, sau cuộc điều động quân đầu tiên của Tây Sơn đến Nghĩa An trấn, ông đã sai Nguyễn Văn Yên đo đạc, vẽ tấm địa đồ lũy Trấn Ninh này. Lũy Trấn Ninh, phòng tuyến đầu tiên của nhà Nguyễn ở Nghĩa An trấn, cũng là nơi Tây Sơn sẽ đánh ra. Ông đã chờ đợi, và vua Bửu Hưng đã đưa ba vạn quân từ Thăng Long đến.
Tên vua trẻ con ấy qủa thật nôn nóng, Nguyễn vương mỉm cười. Giống như ông ngày xưa. Mỗi lần bị đánh tan, ông lại đi tập hợp quân lính để đánh ngược lại ngay sau đó với sự liều lĩnh đến khờ dại. Lũy Trấn Ninh có cửa sông Nhật Lệ, bắt buộc phải thủy chiến, trong khi thủy quân Tây Sơn, ngay cả bọn Tề Ngôi cũng đã bị ông bắt trên biển, đem dâng cho vua Thanh. Trong trận có cửa Nhật Lệ, đằng sau có sông Linh Giang, thủy quân sẽ là điểm yếu đưa Tây Sơn vào chỗ chết.
Phá được quân của bốn trấn Bắc Hà, đường tiến ra Thăng Long sẽ không còn gì trở ngại. Nguyễn vương đứng dậy, đến gần tấm địa đồ tuy ông đã gần như thuộc nó nằm lòng. Chúng qủa thật nôn nóng, ông lắc đầu. Bắc Hà đang xứ xứ lũng động, trong tình trạng ấy mà vẫn xuất binh. Nếu thắng thì cũng khó có thể tiến, nếu thua thì không còn đường lui. Dân chúng Bắc Hà chẳng vui vẻ gì khi bị cuốn vào thêm một cuộc chiến nữa, Tây Sơn có chiêu mộ được tân binh thì cũng dễ tan rã. Trong cuộc chiến tại Quy Nhơn, ông đã truyền dụ binh lính: “Phủ Quy Nhơn là dân cũ của ta… Từ rày về sau gặp quân giặc, mà chư tướng giết tại trận thì không kể; như bắt sống giữa trận thì không cần tra xét gì, hễ người Quảng Nghĩa trở ra thì cho lưu dụng, người Quy Nhơn trở vào cấp tiền gạo cho về. Ấy là nghĩa phải đánh mà nhân nên thương vậy. Nếu ai cố ý giết càn, sẽ theo phép quân trị tội”.
Một lần nữa, ông lại chơi trò đánh cuộc nguy hiểm với đám hàng binh và dân chúng thù địch. Chẳng phải ông tin tưởng gì “Tây Sơn tụ hội ở đó, ức hiếp dân phải theo” như chính lời truyền dụ đã nói ra, cũng hiểu hơn ai hết sự phẫn nộ của binh tướng Nguyễn sau cái chết của Võ Tánh và một năm trời gian khổ. Nhưng sự kềm chế là cần thiết, không chỉ cho bây giờ mà còn khoảng thời gian rất dài sau này. Ông không thể tiến ra Bắc với tư thế của một bạo quân, không thể để những cuộc thanh trừng báo thù trở thành thói quen trong đám binh lính để gây rối. Ông cần sự ủng hộ của dân chúng.
Phú Xuân đầu đông bắt đầu những ngày mưa dai dẳng. Như thói thận trọng đã có, ông cho phòng thủ Phú Xuân chặt chẽ, kể cả để quân ở Gia Định, đề phòng có biến ở Bình Định. Một giáo sĩ đã báo cho ông biết là bọn Trần Quang Diệu định đưa quân xuống Gia Định. Nhưng sau nửa năm bị vây trong thành, ông không tin chúng còn đủ cả lương lẫn lực để làm một cuộc trường chinh như thế. Lần này, ông sẽ thân chinh đến lũy Trấn Ninh. Cơ hội để tiêu diệt hoàn toàn Tây Sơn chính là đây.
Theo thói quen, bước chân đưa ông đến biệt điện của cô công chúa Lê triều. Trời đã tối nhưng chưa khuya hẳn, chắc nàng vẫn còn đang thức, ông thầm nghĩ. Biết được tin này, nàng sẽ cảm thấy thế nào? Nàng đã từng nói không thù hận ông, dù vậy, điều đó còn phụ thuộc vào việc nàng dành tình cảm gì cho bọn Tây Sơn, chồng nàng. Ông đã vài lần thăm dò, nhưng nàng lập tức im lặng như một cánh cửa đóng kín. Ông đã từng nghĩ chỉ cần đối tốt với hai đứa trẻ thì nàng sẽ cảm động, nhưng từ đầu tới cuối, nàng vẫn giữ thái độ lịch sự lạnh lùng. Trái tim nàng như một cánh cửa đã đóng kín. Hoặc đã không còn nữa.
Nguyễn vương ra dấu cho những cung nhân trước cửa điện yên lặng. Trong điện vẫn sáng đèn, thói quen của nàng trong những ngày gần đây để sẵn sàng đến bên thằng bé. Qủa nhiên nàng vẫn ở trong phòng người bệnh, đầu gục xuống bàn. Căn phòng nồng mùi thuốc từ cái nồi đất liu riu lửa ở góc. Khi lại gần, ông nhận ra nàng đã ngủ. Mái tóc xõa ngang mặt nàng, vài sợi phất phơ trong làn gió đang thổi vào từ cánh cửa hé mở. Hẳn nàng ngủ gục khi đang canh thuốc, ông nghĩ, vén những sợi tóc sang bên cho nàng.
"Quang Thùy", nàng gọi, mắt chớp khẽ trước khi mở lớn. Nhận ra ông, sự kinh hoàng trên gương mặt nàng khó mà tả được. Ông nghĩ đến tên lính ăn cắp đã bị ông ra lệnh chặt tay khi bắt qủa tang. Nàng đã thì thầm rất khẽ, nên mất một lúc để ông hình dung lại được những thanh âm ấy.
Quang Thùy... Ông hơi nhíu mày khi thấy nàng nhét một vật lấp lánh ánh bạc vào tay áo. Mặt nàng tái hẳn, mặc cho sự điềm tĩnh hơn người sẵn có. Nàng nhìn lên ông, môi mím lại.
- Ta làm nàng giật mình à? - Ông nhẹ nhàng hỏi, quay lưng đến bên thằng bé trên giường, cúi xuống xem khí sắc của nó. Nàng cũng đứng dậy, khi nói, giọng nàng có vẻ như đã bình tĩnh lại.
- Ngài đến đây có việc gì vậy ạ?
Ông thích sự lịch duyệt của nàng. Lịch duyệt ngay cả khi chế nhạo hay tức giận. Thái độ ấy làm ông cảm thấy nhẹ nhàng. Ông đã mệt mỏi khi phải tiếp xúc với những tướng lãnh miền Nam bộc trực thô lỗ, những thủy thủ đánh thuê phương Tây ngang tàng tục tằn. Sự lịch duyệt trong cốt cách, không phải qúy phái làm bộ, chỉ có ở những cô gái dòng dõi cao qúy. Cả sự kiêu kỳ ngấm ngầm, cái sắc sảo của những thiếu nữ Bắc Hà. Trong cuộc đời rong ruổi của mình, ông khó gặp những người như thế, chỉ có một ít ký ức từ ngày trong hoàng thành.
Nàng là một công chúa, xuất thân từ hoàng thành và hiểu hơn ai hết con đường của vương tộc. Không phải thứ nhân đức kiểu đàn bà, của những kẻ hiền nhân nhỏ mọn, không phải thứ lý luận đầy mùi giả trá của bất cứ kẻ nhân danh bất cứ danh nghĩa nào. Kẻ làm vương không thể có cái nhân của đàn bà, dũng của kẻ thất phu. Nàng hiểu sự tàn nhẫn của điều không thể tránh khỏi trong thứ chiến tranh này. Nơi mà ngay cả oán thù cũng chỉ giản đơn là một phương tiện, một thứ vũ khí được cố tình tạo lập, ngay cả oán thù cũng là một điều phi lý đến mức đáng cười.
- Ta định báo với nàng rằng ta sắp thân chinh đến Nghĩa An trấn.- Ông nói, không quay lại.
- Nghĩa An trấn? - Nàng lặp lại như sợ hãi.
Nơi Nguyễn Quang Thùy trấn giữ, ông thầm nhớ đã nói cho nàng việc đó. Lúc ấy, ông không để ý đến cái chớp mắt rất nhẹ của nàng. Một cảm xúc khó gọi tên đã thoáng vụt qua đôi mắt nàng. Vậy mà ông đã không nhận ra.
- Bửu Hưng đã đưa ba vạn quân đến đó. - Lần này thì nàng im lặng.
Nàng có thể hỏi gì? Ông định đánh như thế nào? Xin ông đừng giết họ? Xin ông đừng làm hại họ?
Chuyện đó chỉ nghĩ thôi đã thật phi lý. Họ đang muốn đánh vào giải cứu cho nàng. Ông đang muốn đánh bại họ. Chiến tranh là việc của họ, là cuộc đời của họ. Là số phận của họ. Còn nàng chỉ có thể im lặng đứng bên. Ngay cả trái tim nàng cũng không thể cảm thấy giá lạnh hơn mỗi khi nghe tin tức của họ thêm được nữa. Cho nên, nàng im lặng. Ông quay nhìn nàng, rồi lại bên bàn tự rót cho mình một ly trà. Trà đã lạnh, mùi hoa nhài đã phai. Ông thích trà hoa sen hơn, thứ mùi ấy thanh mát như sương buổi sớm, không thơm nồng như loại hoa ban đêm này.
- Khi đã phai đi, mùi hoa này để lại vị đăng đắng. - Ông chợt nói, xoay ly trà trong tay. - Thật lạ là không biết vị đắng đến từ đâu, không ở vị nước, cũng không ở mùi thơm. Nó giống như một ký ức vừa thoáng qua trong đêm.
Nàng vẫn im lặng. Ông đặt ly trà xuống, mỉm cười chào nàng trước khi về cung. Khi đã ra cửa, ông thấy nàng vẫn nhìn xuống bộ bình trà trên bàn.
***
Mùa đông ở Nghĩa An trấn chỉ có gió lạnh và hơi ẩm như từng nhát dao cứa vào da thịt. Trên khoảng đất lớn, ba vạn quân mới đến đang vừa xuýt xoa vừa dựng lều hạ trại, phân đi khắp nơi trong thành. Nhìn lại những sắp xếp của mình một lần cuối, Quang Thùy lên ngựa, về nơi nhà vua đang đóng.
Trời lạnh, nhưng chàng đang thấy cơn giận bừng bừng trong người.
Quang Toản gật đầu khi thấy viên Tiết chế. Nhà vua còn đang nói chuyện với nữ tướng Bùi Thị Xuân. Kiên nhẫn đợi nữ tướng cáo từ, chỉ còn hai người trong căn phòng, Quang Thùy mới bước lại gần Quang Toản - đang quay lưng ngắm địa đồ.
- Hoàng thượng, không thể tổ chức tấn công lúc này. - Quang Thùy giữ cho giọng mình bình tĩnh. Khi nghe tin nhà vua bất chợt tập trung quân lính bốn trấn tiến về Nghĩa An, chàng đã nổi giận. Tâm trạng của chàng những ngày gần đây rất xấu, chàng tự biết điều đó nên rất tự kiềm chế mình.
- Hoàng thượng, lúc này người cần củng cố lực lượng ở Thăng Long, tranh thủ ảnh hưởng với người Bắc Hà chứ không phải đi gây chiến. Chúng ta tổ chức khoa thi, viết chiếu cầu nhân tài là để bổ sung lực lượng. Bắc Hà không phải nơi thuận lợi cho ta như Quy Nhơn để làm lại từ đầu. Ta chưa đủ lực lượng về quân cũng như tướng. Những đám phiến loạn được Nguyễn vương đưa vào gây rối khắp nơi, có thể tạo nguy hiểm ngay tại Thăng Long. Hơn tám mươi tướng của ta còn đang kẹt ở Quy Nhơn, không có người cầm quân.
- Không có người cầm quân thì Tiết chế để làm gì? - Quang Toản hỏi, vẫn không quay lại. - Khang công, anh sẽ cầm quân trận này.
- Hoàng thượng, ta không bắt buộc phải đánh, tại sao...
- Không bắt buộc, Khang công? - Quang Toản ngắt lời người anh, quay phắt lại với sự giận dữ cháy rực lên trong mắt. - Các em của ta bị giết, Chính cung của ta bị cướp còn chưa phải là tình thế bắt buộc tấn công sao hả?
- Chưa phải, thưa Hoàng thượng. - Quang Thùy nghiến răng cố giữ sự bình tĩnh cho mình. - Dù ngài tấn công sớm hay muộn thì cũng thế mà thôi. Người đã ở trong tay Nguyễn quân cả rồi, cướp làm sao được nữa? Tấn công mà không có tướng cầm quân, không đủ lực, không có thời điểm thích hợp thì cầm chắc thất bại.
- Anh không quan tâm đến họ, nhưng ta quan tâm! - Lần thứ hai, Quang Toản quát át lời viên Tiết chế. Giờ đây, cả hai người nhìn nhau với sự cuồng nộ không che giấu. Tay Quang Thùy run lên. Không nói thêm một lời, chàng quay bước ra khỏi phòng.
Hoàn toàn hỏng rồi, chàng nghĩ khi cơn giận mờ trong mắt. Nếu chàng không cầm quân, nhà vua sẽ đích thân ra trận, không còn đường nào khác cho chàng. Lũy Trấn Ninh chắn ngang Quảng Trị, vừa vững chắc vừa hiểm yếu, địa bàn lại qúa rộng, vô cùng khó kiểm soát, giữ liên lạc, phải có những vị tướng giàu kinh nghiệm, biết ứng phó tình huống nhanh nhạy. Tướng lĩnh Quang Toản đem theo chỉ có Đô đốc, Thiếu úy, làm sao đủ sức cầm quân đối đầu với những Nguyễn Văn Trương, Đặng Trần Thường, tướng quân nhà Tống Phúc? Thuyền ở Bắc Hà chỉ có vài chục, bọn Tề Ngôi đã trở về Đại Thanh sau khi căn cứ của chúng bị Nguyễn vương tiêu diệt, làm sao đối đầu với thủy quân của Nguyễn vương?
Đánh vào lúc này là tự sát. Nhưng nhà vua đã không cho đường lui nữa.
--------
Chú thích:
Nhân của đàn bà, dũng của kẻ thất phu:Lời Hàn Tín nhận xét về Hạng Vũ khi bỏ về với Lưu Bang.
3.
Mùa đông năm Tân Dậu, hoàng tử Văn Đức qua đời.
Cậu bé trút hơi thở cuối cùng sau một hồi mê sảng rồi lịm đi. Nguyễn vương không ở trong cung, cung nhân gọi lính vào đưa cậu hoàng tử Tây Sơn đi chôn ở ngoại thành. Ngọc Bảo vừa khóc vừa chạy theo đám lính đang đem thi thể đứa em ra ngoài, nhưng cánh cửa biệt điện đã đóng sập lại. Con bé vừa đấm vừa đá vào cửa, gào thét đòi trả Văn Đức, mặc cho trận mưa đang xối xuống. Ngọc Bình phải chạy ra giữ nó lại. Con bé vùng vẫy, móng tay nó cào cấu thành vệt trên cánh tay nàng. Một lúc sau, nó dịu xuống, chỉ òa ra nức nở. Nước mưa nhòe nhoẹt trên mặt nó, trên mặt nàng.
Những ngón tay bé nhỏ trượt trên cánh cửa gỗ dày, để lại những vệt nước dài.
***
Ngày đầu năm Nhâm Tuất, Tây Sơn đánh vào lũy Trấn Ninh.
Lũy Trấn Ninh do chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai Đào Duy Từ xây dựng để phòng thủ chống lại quân Trịnh ở phía Bắc. Lũy dài hơn ngàn trượng, cao một trượng năm thước, phía ngoài đóng cọc gỗ lim, phía trong đóng cọc tre, đổ đất dày năm lớp. Cách ba đến năm trượng lại có pháo đài đặt súng thần công, cách một trượng có một súng phóng đá. Trong lũy có nhiều tầng, nhiều lớp liên hoàn, nhiều tuyến chiến đấu, ngoài lũy còn có đường hào bao quanh. Đầu mút của lũy kéo đến núi Đâu Mâu, cửa sông Linh Giang. Trong hơn một trăm năm phân tranh Trịnh – Nguyễn, lũy đã vô số lần đẩy lui các đợt tấn công của quân Trịnh. Từ khi lui về sông Gianh, Nguyễn vương đã cho người củng cố, phòng thủ lũy Trấn Ninh thêm chặt chẽ.
Nghe tin Nguyễn vương thân chinh đến Trấn Ninh, Quang Thùy đã trì hoãn việc xuất binh. Nhưng không chỉ Quang Toản, tướng sĩ binh lính đều nóng lòng sốt ruột, nhất là những người đã để gia quyến ở Phú Xuân, có thân nhân tại Quy Nhơn. Ngay cả Bùi Thị Xuân vốn là một tướng dày dạn kinh nghiệm chiến trường cũng ủng hộ việc đánh lũy. Chồng bà đang bị vây ở Quy Nhơn, con và mẹ già đang ở trong tay quân Nguyễn. Trước khi xuất quân, Nguyễn vương đã cho người quật mộ Quang Trung hoàng đế ở Phú Xuân, kích động tinh thần binh lính cực độ. Biết được Nguyễn vương đang ở Đồng Hới, lòng căm thù sôi sục chỉ muốn xẻ thịt lột da ông ta càng bùng lên dữ dội. Mọi người đều liều chết muốn đánh, không thể nào cản được. Thêm quân Tề Ngôi của Trịnh Thất đã đem thuyền tới hợp lực, đồng thời thôi thúc tiến công. Tình hình Quy Nhơn không ngừng chuyển biến xấu khi đội quân kiệt quệ của Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng ngày càng bị siết chặt, quân Nguyễn ngày càng áp sát thành. Lần lữa mãi gần ba tháng, cuối cùng Quang Thùy cùng Tổng quản Siêu dẫn quân đánh thẳng vào Trấn Ninh, Tư lệ Đinh Công Tuyết và Đô đốc Nguyễn Văn Kiên đánh núi Đâu Mâu, đem hơn một trăm thuyền chắn cửa Nhật Lệ. Nguyễn vương cho Nguyễn Văn Trương đánh ngoài biển, các tướng còn lại phân binh dọc lũy bắn súng, ném đá chống cự, bản thân ông ở trên núi Đâu Mâu đốc chiến.
Nghe Nguyễn vương ở núi Đâu Mâu, Quang Toản đem tất cả binh mã cùng năm ngàn nữ binh của Bùi Thị Xuân đến tấn công. Bùi Thị Xuân đốc quân áp sát mặt lũy, nhanh chóng nhảy vào những nơi mà súng và máy ném đá không bắn đến, chuyền vai nhau lên thành. Đánh xáp lá cà từ sáng đến trưa, Tây Sơn phá đổ một vài mảng lũy. Nhưng ngoài biển, Nguyễn Văn Trương nhờ gió thuận dễ dàng phá tan đội thuyền đứng chắn, vòng vào đánh tập hậu ở Linh Giang. Quân Tây Sơn rối loạn, Quang Toản phải ra lệnh lui binh.
Lúc bấy giờ, Tây Sơn đã tiến qúa sâu vào phòng tuyến, phân khúc mất liên lạc với nhau. Quân Nguyễn từ trước sau ép tới, lính Nguyễn Văn Kiên bị cắt lìa trong lũy phải đầu hàng. Đại binh của Quang Toản đã lui mà Bùi Thị Xuân mãi mới biết, liền cấp tốc chạy theo. Đến Linh Giang, thủy quân Nguyễn đã chặn đường, thêm quân Nguyễn trên núi tràn xuống, Bùi Thị Xuân phải xông pha đưa Quang Toản qua sông. Lúc thoát được, lính bản bộ chạy theo chỉ còn vài trăm người.
Ở Trấn Ninh, Quang Thùy là người cuối cùng biết đại quân đã rút lui, sông Linh Giang bị chặn. Để bảo toàn lực lượng, chàng đưa quân đi vòng đường núi về Nghĩa An trấn.
Đất Thuận Hóa, từ núi Hải Vân đến Linh Giang đã hoàn toàn thuộc về nhà Nguyễn.
***
Bảy ngày sau Quang Thùy cùng quân lính mới về đến Phượng Hoàng Trung đô. Thấy chàng, số binh lính ít ỏi trong thành cũng chẳng còn sức để mừng rỡ. Những ngày này, tàn binh thỉnh thoảng lại xuất hiện trước cửa thành, không ít trong số đó đã chuẩn bị trút hơi thở cuối cùng. Nghe báo tin Khang công đã về bình an, vua Bửu Hưng trút một hơi thở dài, gật đầu, nhưng không ra đón. Sắp xếp chỗ cho binh lính, kiểm kê trong ngoài, hỏi thăm Bùi nữ tướng bị thương rồi Quang Thùy mới đến gặp nhà vua.
- Người không bị thương chứ, Hoàng thượng? - Quang Thùy hỏi khi nhìn thấy nhà vua ngồi sau chiếc bàn lớn, trong căn phòng không thắp đèn. Ánh sáng mờ nhạt của bầu trời mùa đông chiếu vào chỉ làm hiện ra mờ mờ đường nét người và đồ vật. Quang Toản gật đầu.
- Tình hình nguy cấp, ta cần gấp rút về Thăng Long tập hợp binh lính phòng thủ. Bùi Đô đốc xin ở lại dưỡng thương, không thể theo ta được. Xin Hoàng thượng chuẩn bị khởi hành. - Quang Thùy nói, giọng đều đều. Quang Toản chậm chạp quay lại, khuôn mặt khuất trong bóng tối không nhìn rõ, chỉ có bàn tay nắm chặt trên bàn. Một lúc sau, nhà vua mới mở miệng.
- Ta nên làm thế này, ta nên làm thế kia, anh không còn gì khác để nói nữa sao, Khang công? - Giọng nói của Quang Toản khàn khàn, như chưa hết mệt mỏi. - Sao anh không nói: ‘Hoàng thượng đã rõ những lời thần nói chưa? Hoàng thượng đã đẩy ba vạn quân vào chỗ chết!’ Sao anh không nói rằng ta đã suýt nữa đẩy anh vào chỗ chết? Sao anh không nói rằng: May mà anh thông thuộc vùng này, cơ trí biến trá không đâm đầu vào Linh Giang như ta, anh mới sống được mà về đây? Sao anh không nói: Hoàng thượng coi nơi chiến trường là gì mà chạy ra rồi lui binh không thèm báo cho tướng biết, để kẻ thì phải đầu hàng, người chết, người suýt chết trong trận?...
- Hoàng thượng, thần không dám. - Quang Thùy cúi đầu, cảm thấy ánh mắt Quang Toản dõi thẳng vào mình. Bàn tay nhà vua đặt trên bàn đang run lên.
- Tại sao các người lại không dám? Tại sao các người bỏ cả mạng để cứu ta? Tại sao đến lúc này anh vẫn nghĩ nên đưa ta trở lại Thăng Long? Việc khôn ngoan nhất lúc này là anh giết ta, coi như vết thương từ chiến trận không qua khỏi, để tránh khỏi sự phẫn nộ của binh lính với một vị vua như ta.
- Họ không phẫn nộ, Hoàng thượng. Tất cả bọn họ đều muốn đánh. Phụ hoàng bị quật mộ là việc không thể tha thứ được. Người đích thân cầm quân đối đầu với Nguyễn vương là phù hợp với ý muốn của bọn họ. Chẳng qua trận này ta có rất ít cơ hội thắng.
- Nên anh cố tình đánh cầm chừng, để số quân lớn ở lại bên cạnh ta cho dễ bề rút lui, phải không Khang công? Nhưng ta đã làm hỏng toan tính đó của anh. - Quang Toản cười khẽ, quay đầu nhìn vệt nắng đang chiếu qua cửa. - Bao giờ cũng vậy, Khang công. Anh bao giờ cũng vậy. Cảm xúc của người khác đối với anh chỉ là những điều phù phiếm, không cần thiết. Anh bao giờ cũng biết cái gì nên hay không nên làm, không có khoảng ở giữa. Nhưng đã thế thì tại sao anh lại trung thành với một kẻ vô dụng như ta đến vậy? Kẻ như ta sẽ đưa Tây Sơn vào chỗ diệt vong, tại sao lại vẫn trung thành với ta? Cái lý trí lạnh lùng đó của anh ở đâu rồi?
- Người muốn hỏi về lý trí thì bây giờ cũng trễ rồi, Hoàng thượng. Đã trễ cho bất cứ thay đổi nào. - Quang Thùy trả lời khô khốc. Im lặng lạnh ngắt trong phòng. Quang Toản ngồi ngả ra lưng ghế, lắc đầu thở dài.
- Trong những ngày vừa qua, ta chỉ sợ anh gặp bất trắc... Ta sẽ không sống nổi nếu anh chết vì lỗi của ta, Khang công. Ta đã cướp của anh mọi thứ. Mọi thứ mà anh xứng đáng có được lại rơi vào tay một kẻ như ta. Anh đã nhường cho ta tất cả. Ta chỉ ước anh không làm như vậy, Khang công.
Quang Thùy không trả lời. Trong giọng nói của Quang Toản không có sự trách móc hay giận dữ, chỉ đau đớn. Mà cũng có thể trách móc hay giận dữ với ai, chàng tự hỏi. Đã qúa trễ rồi, chàng nhận ra điều đó khi còn đang cầm quân tấn công vào lũy Trấn Ninh. Nguyễn vương đã giăng ra một cái bẫy thật lớn cho tất cả lòng tự hào, tự tôn của Tây Sơn. Trong địa bàn rộng lớn, bị chia cách, phân tán ấy, ông ta chỉ chờ họ xông vào, để tường lũy trở thành những vách ngăn chia nhỏ quân họ, rồi đưa quân bao vây bọc hậu. Sự liều lĩnh, can đảm, bầu nhiệt huyết mà Tây Sơn tự hào đã trở thành thứ làm hại họ, cái bẫy sập xuống họ. Ông ta đã chọn núi Đâu Mâu để có thể quan sát được tất cả diễn tiến ấy. Và hẳn ông ta đã mỉm cười.
Chàng biết rõ điều đó, nhưng không thể ngăn lại được. Không thể ngăn lại oán thù của hàng chục năm chiến tranh, của mối nhục lăng mộ vị Thái Tổ Võ hoàng đế bị khai quật, của từng người, từng người trong hoàng tộc bị đưa làm vật hiến tế. Tất cả những gì mà họ tự hào, kính trọng, yêu thương đã bị chà đạp. Tất cả là một màn diễn đê tiện và tàn khốc. Ông ta biết đích xác điểm yếu của Tây Sơn để tiêu diệt kẻ địch như thế.
Đã xa rồi thời huy hoàng của Tây Sơn, khi Thái Đức hoàng đế tập trung lực lượng, Quang Trung hoàng đế mộ binh đánh thần tốc đến bất cứ nơi nào. Tất cả những gì chàng có trong tay hiện giờ chỉ là những mảnh vụn tan tác. Muốn tấn công, chàng đã phải cho người đến thuyết phục bọn Tề Ngôi từ Đại Thanh trở lại. Một đội thủy quân tan nát. Một hàng ngũ chỉ huy đã tàn sát nhau đến trở thành kiệt quệ. Một triều đình chạy loạn tả tơi. Tất cả đã vụn vỡ không bề cứu chữa. Chàng đã nghĩ đến điều đó trong những ngày đưa quân băng rừng về Diễn Châu trong sự mệt mỏi bải hoải và chán chường cực độ của binh lính. Cùng thất bại này, Tây Sơn cùng với tất cả niềm tự hào, ý chí và ước vọng của nó đã bị tiêu diệt. Không còn gì và đã không còn có thể làm được gì. Chàng đang biết là sự sống của Tây Sơn chỉ còn trong gang tấc, chỉ cần Nguyễn vương đưa quân quét qua miền Bắc là sẽ tan rã, nhưng vẫn muốn chống chọi đến cùng. Đã qúa trễ để có thể làm lại. Chàng không muốn nghĩ đến những gì đã qua. Chàng không muốn chùn chân trước cái chết. Trong cuộc đời, chàng vốn đã không có khao khát nào ngoài việc dâng mình cho chiến trận. Nàng là một khao khát đã bị chàng quay lưng, chối bỏ. Nàng là một vết thương không thể lành. Trong cuộc đời mình, chàng vốn chưa bao giờ có được gì, vậy thì sao phải nghĩ lại những điều đã qua.
Quang Toản không nhìn Quang Thùy, không thể nhìn. Đến Phú Xuân, rồi lại đón ở Nghĩa An, ra Thăng Long, người anh đã làm hết sức mình để bảo toàn cho chàng, cho triều đình. Cuối cùng bị chàng phá nát. Địa vị của thế tử, tình thương của người cha, ngai vàng, triều đình, kể cả nàng, Quang Thùy đã nhường cho chàng. Chàng chỉ ước ao Quang Thùy không làm thế. Chàng chỉ ước ao những thứ ấy không bị đặt vào tay mình. Rồi đây, chàng sẽ trở thành tội nhân, kẻ chịu trách nhiệm cho sự tan vỡ của Tây Sơn một thời rực rỡ. Vốn rằng điều đó cũng chẳng có mấy ý nghĩa đối với chàng, nhưng nó đã làm vỡ tan cả chút lòng tự tôn còn sót lại của chàng. Hai lần trực diện đối đầu với Nguyễn vương là hai lần thua nhục nhã. Hai lần để mất nàng vào tay Nguyễn vương. Chàng đã nghĩ, mình có thể vì nàng mà cứng rắn, có thể vì nàng mà dốc lòng bảo vệ. Nhưng nàng không cần chàng, không bao giờ quan tâm đến chàng. Chàng không thể làm được gì, cho bất cứ ai. Những ngày tháng kéo dài trong phòng kín, những giờ khắc thiên thu trước triều đình, những thất bại liên tiếp trong chiến trận, sự im lặng của nàng. Rốt cuộc, cả cuộc đời này, chàng có được gì?
Tất cả những việc này có ý nghĩa gì, nhà vua ngẩng đầu nhìn vệt nắng chiếu xiên, lại trở về với câu hỏi muôn thưở của mình. Chàng không thể thoát ra vị trí này, không bao giờ. Không bao giờ có thể. Cho đến tận ngày cuối cùng của hơi thở này, chàng sẽ vẫn phải gánh vác nó. Từ ngày đầu tiên cho đến ngày cuối cùng, chàng không hề mong muốn nó. Có một điều nghi hoặc đang ngày càng lớn dần lên trong chàng. Chàng nghi hoặc tất cả, cả người anh trước mặt. Tất cả những việc này, những vùng vẫy, nỗi giận dữ, cay đắng, chua xót, đau đớn này - có ý nghĩa gì? Chàng đã nghĩ đến điều đó khi nhìn Bùi Thị Xuân cùng đội nữ binh vùng vẫy đưa chàng qua sông. Máu của họ đã nhuốm đỏ mặt nước, nhuộm đỏ áo chàng. Và biết bao người khác. Đây là lần đầu tiên chàng thật sự làm kẻ tham gia trận chiến, và sức ép kinh khủng của nó đè lên chàng, ám ảnh cả trong từng giấc ngủ chập chờn. Chàng thấy mình đứng giữa cánh đồng xác chết trải rộng đến chân trời, không bề kết thúc. Những con người đã từng có cuộc đời, có hơi thở, yêu thương, thù hận. Bị đốn ngã như cỏ dưới lưỡi liềm. Chỉ vì một kẻ như chàng? Suy nghĩ ấy khiến chàng không thể chịu đựng nổi.
Sự tồn tại này của chàng từ đầu, ngay từ lúc bắt đầu, phải chăng đã luôn là như thế? Bắt đầu từ người anh, và như vòng nước lan rộng. Cuộc chiến mà chàng đã khởi sự, vì tức giận, vì căm hận, cuộc chiến vẫn đang tiếp tục để cố giữ lấy Tây Sơn này - có ý nghĩa gì? Vì chàng, vì một triều đình đã tự hủy hoại mình đến mức không thể cứu vãn? Sự tồn tại này có ý nghĩa gì?
Quang Thùy cúi đầu, cáo từ lui ra để chuẩn bị cho chuyến về Thăng Long. Mặt trời đang lặn, ánh hồng lan qua những tầng mây trên đỉnh núi cao. Bầu trời mùa đông trắng xám đang chuyển màu tím thẫm. Chàng dừng lại trước cổng Phượng Hoàng cung, nhìn xuống những vệt máu đã khô trên nền đá. Có dấu trượt của một bàn tay đẫm máu trên cánh cửa.
4.
- Tiết chế đại nhân, ngài nói với Hoàng thượng ta cần ở lại tĩnh dưỡng?
Quang Thùy dừng tay cời lửa, quay lại. Bùi Thị Xuân bước vào chòi canh, vẫn cố gắng đứng thẳng tuy hơi nhăn mặt. Vết kiếm chém dọc lưng bà tuy không sâu nhưng dài, khó khăn lắm mới cầm được máu. Một nữ binh đỡ bà ngồi đối diện Quang Thùy trong chòi, rồi lui ra.
- Phải. - Quang Thùy gật đầu. - Phu nhân nên nghỉ ngơi. Ở lại Nghĩa An này, nếu có thể, phu nhân hãy xem tình hình thế nào để liệu định. Thành Quy Nhơn đã bị vây gần năm, hẳn không còn cầm cự lâu được.
Bùi Thị Xuân im lặng, nheo mắt nhìn người Tiết chế trẻ tuổi. Anh ta đang bảo bà đi tìm Quang Diệu, không cần tiếp tục theo bảo vệ cho Hoàng thượng. Đoán được ý nghĩ của nữ tướng họ Bùi, Quang Thùy gật đầu lần thứ hai.
- Đã vài lần phu nhân đổi mạng cho Hoàng thượng, ơn nghĩa của triều đình, phu nhân đã trả rồi. Nợ nước đã xong, phu nhân có thể nghĩ đến chuyện nhà mình. Đừng để binh đao loạn lạc rồi kẻ Bắc người Nam không còn cơ hội gặp lại. Oan khiên ấy có đem xuống tuyền đài cũng không vơi được. Vì công việc triều đình, vợ chồng phu nhân chẳng có được mấy ngày bên nhau, trong khó khăn loạn lạc này đáng ra nên được sát cánh cùng nhau mới phải.
Bùi Thị Xuân vẫn nhìn Quang Thùy. Chàng lại quay về với đám lửa giữa chòi canh, cời lên từng mảnh than hồng. Gió hun hút thổi trên những cánh đồng trống hoang trong đêm đông. Bốn phía im lặng như tờ, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng chân đi lại trong sân. Lửa nổ lách tách, uốn mình phừng lên. Miếng giáp trên tay chàng sáng loáng trong ánh đỏ, nổi rõ hình một cành hoa khắc nổi.
Chàng đang bảo bà rằng, chẳng còn mấy ngày nữa, hãy đi tìm Quang Diệu trước khi qúa muộn. Quy Nhơn không thể giữ lâu hơn được nữa. Nhưng quân Nguyễn sẽ thừa cơ đánh ra, bà có thể nào bỏ rơi nhà vua? Bà là người hộ vệ quan trọng nhất của nhà vua, lẽ nào có thể rời khỏi vị trí?
- Vậy mà có người nói quan Tiết chế là một người rất vô tình. - Cuối cùng, bà thở ra. Quang Thùy chỉ mỉm cười.
- Khi nghe về chuyện phu nhân liều chết công núi Đâu Mâu, tôi nghĩ người căm giận Nguyễn vương nhất trên chiến trường ấy chính là phu nhân. Có những người không thể trở về, không thể đến bên nhau, phu nhân thì có thể. Cả cuộc đời này, hai vợ chồng phu nhân đã vì triều đình qúa nhiều rồi. Hoàng thượng cũng đã tự lập được, đã có tôi bảo vệ. Giờ đây, đội nữ binh tan tác, đội tượng binh không còn bao nhiêu, nhiệm vụ của phu nhân cũng nhẹ nhàng rồi. Tất cả còn lại dựa vào số trời vậy.
- Không, Hoàng thượng vẫn chưa thể tự lập được đâu. - Bùi Thị Xuân lắc đầu. - Tuy bề ngoài thì thay đổi, nhưng bên trong ngài vẫn run rẩy sợ hãi. Tôi đã ở bên ngài trong tất cả những trận chiến, tôi hiểu rõ. Từ khi có Chính cung, ngài làm ra vẻ cứng rắn hơn đó thôi.
Chiếc cời lửa trong tay Quang Thùy dừng lại. Bùi Thị Xuân lại hiểu ánh mắt chàng thành một ý khác, bà gật đầu.
- Hoàng thượng rất thương yêu Chính cung. Ngài phải thấy được ánh mắt Hoàng thượng khi nhìn Chính cung. Cho nên thái độ vừa rồi của Hoàng thượng trên chiến trường, mong Tiết chế đại nhân hiểu cho. Từ nhỏ đến lớn, Hoàng thượng là một đứa trẻ cô đơn, không có ai để yêu thương, cũng không có người bầu bạn. Ở chiến trận, tôi căm giận cũng chính một phần vì Hoàng thượng vậy.
Thế còn ta, một ý nghĩ thoáng qua tâm trí Quang Thùy. Các người có thể yêu, có thể giận, còn ta thì có thể không? Cơn giận lưu cữu từ lâu lại bùng lên trong lòng chàng, khiến ánh mắt chàng lạnh như băng. Buông chiếc cời lửa xuống, chàng đứng dậy, làm ra vẻ như đang nhìn ra bên ngoài xem tình hình canh phòng. Bùi Thị Xuân nhìn theo hình khắc trên cái giáp tay của chàng. Khi chuyển động, cành hoa mềm mại sống động như thật. Một vật tinh xảo như vậy chắc chắn được chế tạo riêng. Cành hoa cũng chỉ đắp nổi trên một bên cánh tay. Bà lấy làm lạ.
- Sao chiếc giáp tay của ngài hai bên không giống nhau? - Bà hỏi, không ngăn được tò mò. Quang Thùy đưa cành hoa lên, cười nhẹ.
- Vì dưới lớp bạc này là cành hoa thật. Một người thợ ở Hàng Bạc, Thăng Long làm cho tôi.
- Cành hoa ấy hẳn có kỷ niệm nào đặc biệt với ngài? - Bùi Thị Xuân chỉ vui miệng hỏi. Nhưng nụ cười đã biến mất trên khuôn mặt viên Tiết chế, chàng lại nhìn lên trời, trong mắt chỉ có màu đêm. Dưới bầu trời sao này, tưởng như có thể tan biến được, chàng thầm nghĩ. Đã bao nhiêu đêm như thế này, chàng tự hỏi. Đối mặt với hoang mạc và giữa nhao nhác con người, đợi chờ cái chết bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, sự sống cũng chỉ là giọt nắng mỏng manh rơi trên tay tắt trước ngày. Đã bao nhiêu đêm chàng nhìn lên bầu trời, và dù không hề mong muốn, nghĩ về nàng. Giọt nước mắt của nàng. Đôi mắt nàng. Cánh hoa bé nhỏ trong vòng tay đã tan biến cùng giấc mơ ngắn ngủi. Chàng không oán trách nàng, không thể. Chỉ chua xót. Chỉ muốn mình tan biến đi cùng đêm.
Gần tám trăm đêm, một con số thật lớn nhưng chỉ như một cái chớp mắt. Chàng vẫn còn tưởng thấy hương hoa và vị mưa thoang thoảng, ngày càng xa vời nhưng cũng ngày càng đậm nét trong ký ức. Tình yêu ấy, cơn mơ thoáng qua ấy đã trở thành một niềm chua xót, là những cảm xúc không thể gọi tên nằm trên ranh giới mỏng manh của cay đắng và ngọt ngào, thương tổn và an ủi, để nhớ nhung mà cũng chỉ muốn được lãng quên. Là cơn mưa bóng mây thoảng trên sa mạc, khi tạnh đi chỉ để lại hơi nóng ngút ngàn thiêu cháy những gì còn lại nằm trong cát.
Dưới bầu trời này, nàng sống ra sao? Khi bị bỏ lại, nàng đã sợ hãi thế nào? Giờ đây, khi nghĩ về nàng, chàng thấy sự cay đắng dịu lại, trôi dần vào tâm thức chấp nhận u buồn. Ý nghĩ khiến chàng chỉ cầu mong được chết.
- Tôi đã hại chết người ấy. - Cuối cùng, chàng trả lời.
***
Trước khi trở về, quân Nguyễn còn bắt được thuyền lương của Tây Sơn ở sông Gianh. Nguyễn vương cho đưa những Đô đốc bị bắt đến Bình Định để báo cho bọn Trần Quang Diệu chiến thắng ở Trấn Ninh. Tâm trạng ông vẫn còn vui cho đến khi về cung điện Phú Xuân, được tin báo cái chết của Văn Đức. Ông vội vã đến ngay khu biệt điện của Ngọc Bình.
Những căn phòng trước đây sáng đèn giờ âm u tối, bốc đầy hơi lạnh của mùa đông chưa qua. Ngọc Bình ngồi dưới hàng hiên trông ra hồ nước, không quay lại kể cả khi nghe tiếng chào của các cung nhân. Nàng nhìn xuống những vòng sóng nhỏ liên tiếp hiện rồi tan trên mặt nước. Trời đã ngả về chiều, âm u mây xám nặng trĩu. Cây trong vườn vừa đâm chồi, búp non chưa kịp phủ màu xanh. Đám rêu sau một mùa đông đã phủ khắp khoảng tường đá bao quanh, xanh ngả sang sắc đen mờ. Nhìn tất cả cảnh sắc đó, chỉ thấy sự sinh sôi của chúng ngưng lại, chết đi trong mắt nàng.
Nghe bước chân Nguyễn vương tới bên, Ngọc Bình ngẩng lên. Ông nghĩ mình hiểu được câu hỏi trên gương mặt nàng.
- Bửu Hưng được Bùi Thị Xuân hộ giá thoát qua Linh Giang. - Ông nói. Nàng vẫn nhìn ông. - Chủ tướng trận này Nguyễn Quang Thùy đưa quân vòng đường núi an toàn.
Mi mắt nàng hạ xuống. Nàng lại nhìn ra hồ, coi như không có người bên cạnh. Đứng mãi một lúc, Nguyễn vương đành phải lên tiếng.
- Ta biết nàng đang buồn khổ, nhưng nàng định im lặng với ta đến bao giờ?
- Xin lỗi, tôi không có ý thất lễ với ngài, đó chỉ là tính khí thường ngày thôi. - Nàng miễn cưỡng nói. - Từ ngày còn nhỏ, mỗi khi có chuyện, tôi chỉ muốn được yên lặng một mình.
- Tính cách ấy, không trách nàng ngày càng có vẻ u uất.- Nguyễn vương lắc đầu, ngồi xuống chiếc ghế vừa được cung nhân đưa đến. Một nụ cười váng vất thoáng qua khuôn mặt Ngọc Bình.
Từ lúc nào rồi nhỉ, nàng tự hỏi. Từ những ngày chỉ biết ngẩng đầu nhìn bầu trời mùa đông mờ mây xám. Từ những ngày chỉ có một mình trong góc nhà chờ mẹ về. Từ những ngày ngồi câm lặng đốt vàng bên mộ mẹ. Từ những ngày mới bước vào cung, mang theo một vết thương của mối tình chưa bao giờ tồn tại.
- Căn bệnh không tìm được nguyên nhân thì không thể chữa được. - Nàng nói. Vết thương do một điều không tồn tại gây ra thì không có cách nào kết thúc. Sự hiện hữu của Không là vô tận. Nàng đã mắc bệnh của một loài Sơn giá cô rồi vậy. Những đêm dài kêu trong núi khóc thương cho mọi kiếp người.
Khi nãy, lúc Nguyễn vương bước vào, nàng không thể quay lại, không thể cất tiếng hỏi. Ông an toàn, ung dung trở về, vậy họ thì sao? Họ sẽ ra sao? Từng ngày trôi qua, cái chết in hằn, khắc dấu vào trái tim nàng, là ý nghĩ đầu tiên khi nàng tỉnh dậy và ý nghĩ cuối cùng khi nàng nhắm mắt. Dấu vết của nó ngày càng sâu, đến gần như rỉ máu. Nàng có lúc đã tưởng mình không thể chịu đựng được. Nàng nghĩ đến tấm thân bé nhỏ đang nằm dưới một nấm đất đắp vội trong khí trời giá lạnh này. Đó là cái chết đầu tiên. Chỉ là cái chết đầu tiên.
Nhìn ông ngồi đó, nàng chỉ muốn cầu xin ông trả nàng lại căn ngục tối lạnh lẽo. Ở đó, sự cô độc, khốn khổ mới có thể áp chế nỗi lo lắng đến đau thắt cả tâm can này. Hãy trả nàng về bên họ. Hãy để nàng sống và chết một cách giản đơn như những đứa trẻ kia đã quyết tâm chọn con đường cho mình. Nhưng nàng biết ông sẽ không buông tha nàng khi chưa đạt được mục đích.
Luôn luôn, đó là những việc không liên quan đến nàng.
Nhưng ngay cả cái chết, nàng giờ đây cũng không thể tự chọn cho mình. Cái chết của nàng cũng sẽ bị lợi dụng, như sự sống của nàng.
Đông qua rồi xuân đến, lá rụng rồi lá mọc. Thời gian cứ kéo dài mãi ra, phía trước trở thành một vực sâu hun hút. Giờ đây, nàng bi%
Thiên Không
1.
Tháng tư năm Nhâm Tuất, tại Phú Xuân, trên đường đến hoàng thành đang nhộn nhịp chuẩn bị cho ngày lễ đăng ngôi của vị vua nhà Nguyễn xuất hiện một đoàn người ngựa không đông lắm đi vào cung. Những người ở Phú Xuân vốn quen với sự di chuyển của các đoàn quân, lần đầu tiên thấy đoàn hộ tống phụ nữ, trẻ em này, đoán ra ngay đó là gia quyến của Nguyễn vương vừa từ Gia Định đến.
Đây là lần đầu tiên Vương hậu họ Tống được nhìn thấy hoàng thành. Bà vén rèm xe, tò mò nhìn quang cảnh của dòng sông, thành đá và núi. Vốn đã quen với nắng gió Gia Định và những cánh đồng lúa nước, sông ngòi chằng chịt hoang dã, bà không khỏi chạnh lòng khi cảm nhận được sự u tịch của thành đô này. Bà không nén nổi tiếng thở dài khi buông rèm xuống. Cái thở dài đó không qua được Tả cung tần họ Trần.
- Vùng đất này phong cảnh hữu tình, con người hiền hòa, chị nhất định sẽ thích. - Trần phi ân cần nói. Quê bà ở Phú Xuân, chuyến này được trở về sống ở quê thật là vui không kể xiết. Nhưng với Vương hậu, Phú Xuân là một miền đất xa lạ. Vả chăng, năm vừa qua là một năm đại tang của Tống Vương hậu, Đông cung Cảnh, đứa con trai của bà mất vì bệnh đậu mùa. Đã sớm phải gạt nước mắt xa con từ nhỏ, nay thái tử đến hai mươi mốt tuổi, đang vào lúc xuân xanh rực rỡ, tiền đồ sáng lạn lại qua đời, Vương hậu vật vã chết đi sống lại. Vì bận chinh chiến, Nguyễn vương cũng chưa về thăm vợ con lấy một lần. Chỉ trong một năm, bà như già hơn cả chục tuổi. Nỗi u uất trong mắt bà ngày càng đông lại như khối băng không thể tan. Trần phi cũng lấy làm xót xa. Làm chị em đã mười mấy năm, cũng lại đã làm mẹ, hiểu tấm lòng người mẹ, bà lo lắng lắm.
Mười mấy năm, bà nghĩ, thở dài. Cuối cùng thì cũng đến ngày an định giang hà, nghĩ đến những lúc bôn ba cùng Nguyễn vương phiêu dạt khắp nơi mà lấy làm nhẹ nhõm. Cuối cùng thì gia đình cũng có ngày đoàn tụ, không phải nơm nớp lo cho người ngoài chiến trận, lo binh lính một nơi nào đó đột nhiên xộc vào. Ở Phú Xuân yên bình này, trong hoàng thành tráng lệ, con cái bà sẽ được nuôi dưỡng hoàn hảo. Đối với người mẹ, có điều gì quan trọng hơn con mình nữa chứ?
Nhưng mà, Trần phi hơi nhíu mày, trong quân xôn xao tin đồn rằng Nguyễn vương sẽ lấy cô công chúa triều Lê, vợ của ngụy vương. Nghe thấy lần đầu, bà đã coi như lời nói nhảm, lẽ nào Nguyễn vương lại có thể hành động như thế? Nhưng lần thứ hai, thứ ba, bà biết được thêm là cô gái này đẹp lắm, "qủy mị" - có người kể. Thế là bà đâm lo cho Nguyễn vương. Loại phụ nữ làm nước mất nhà tan thì không phải là một cái phúc để giữ lại bên mình. Vương hậu khi biết chuyện chỉ im lặng, như thói quen bà đã có. Để xem thế nào đã, bà thận trọng gật đầu.
Khi xe ngựa vào cung, Nguyễn vương đi thị sát tình hình xây đắp hoàng thành vẫn chưa về. Nội giám dẫn các bà cùng hoàng tử, công chúa vào nội cung. Thấy khung cảnh lạ, các cô cậu bé tỏ ra thích chí, chạy khắp nơi. Những bà già, thiếu phụ mệt mỏi đi nghỉ sớm. Hai bà phi không khỏi cảm thấy cô đơn xa lạ. Hai người bèn đi dạo xung quanh. Ngang qua khu vườn trồng toàn thông xanh, Vương hậu phát hiện một khu nhà lợp mái đỏ rất đẹp nhưng cửa lại khóa, liền gọi thái giám gần đó để hỏi.
- Bẩm lệnh bà, đây là nơi ở của Lê công chúa. - Người thái giám cúi đầu nói, không thể thấy được gương mặt hai người phụ nữ thoáng biến sắc. Vốn nơi nội cung này chỉ có một mình Nguyễn vương tự do ra vào, ông chỉ cấm người không phận sự đến đánh động Ngọc Bình, thái giám lại nôn nóng muốn lấy lòng nữ chủ nhân mới tới, có lệnh là mở cửa cho hai bà vào.
Đúng như khung cảnh bên ngoài, biệt viện này là một nơi đẹp đẽ mĩ lệ, cấu trúc so với các phần khác trong cung lại có vẻ thanh tịnh cao qúy hơn. Sau hồ nước trong vắt bao quanh có cây cầu dẫn qua là một ngôi nhà nhỏ cửa gỗ nâu khuất sau hàng liễu. Hàng liễu đang vào lúc trổ bông đỏ rực, cành đung đưa trước gió yêu kiều xanh tốt đến mức một lúc sau hai người mới nhận ra cô gái đứng cạnh hồ, cũng đang nhìn lại.
Đẹp thật, dù là phụ nữ, Vương hậu cũng không khỏi choáng người mà buột miệng khen thầm. Không điểm trang, chỉ cài một chiếc trâm bạc ơ hờ trên tóc, áo xanh ngắn ngang gối ngoài chiếc quần lụa màu mỡ gà, vẻ trắng trong hơn cả nước hồ, yểu điệu hơn liễu, phong nhã hơn hoa này lần đầu tiên bà mới được thấy. Nhưng cũng không thể trách người ta gọi nàng là "qủy mị". Còn trẻ mà sự thê lương u uất in cả vào dáng hình, tuyệt không phải là người có phúc.
Bên cạnh Vương hậu, Trần phi không thể đừng mà cảm thấy chua xót. Vốn đã nghe về vẻ đẹp này, nhưng không ngờ còn vượt qúa tưởng tượng của bà. Nhan sắc u linh như trăng trong nước, hoa trong gương tưởng không thuộc cõi trần. Trước đây, bà chỉ bán tín bán nghi Nguyễn vương muốn lấy cô gái này, nhưng giờ thì tin chắc. Dù có là gỗ đá cũng không thể không xiêu lòng trước vẻ khuynh quốc trước mặt. Khuynh quốc, phải, khuynh quốc.
- Hai người là... - Ngọc Bình là người lên tiếng trước. Nghe cửa mở, nàng nhìn ra, thấy hai phu nhân lạ đi vào. Qua cách ăn mặc, họ không phải người trong cung, y trang lại rất giản dị, nàng không thể nghĩ ra ngay đây là phi tần của Nguyễn vương.
- Nàng là công chúa Lê triều? - Tống Vương hậu nhẹ nhàng hỏi. Ngọc Bình chớp mắt, gật đầu. - Ta là Tống Vương hậu, còn đây là Trần Tả cung tần.
Nghe giới thiệu, Ngọc Bình lại chớp mắt, vẫn đứng yên. Nàng chỉ hơi thoáng ngạc nhiên, còn lại không hiểu phi tần của Nguyễn vương có việc gì muốn tìm nàng. Ông ta đưa gia đình đến đây, hẳn đã có ý muốn ở lâu dài, nàng nghĩ, bất chợt cảm thấy đau thương, sắc mặt như bị mây phủ. Thái độ ấy bị hiểu thành ý nghĩa khác.
- Ta nghe nàng là công chúa nhà Lê mà không biết phép tắc, - Trần phi cau mày. - Là phi tần trong cung, gặp Vương hậu sao không thi lễ?
Ngọc Bình vẫn trơ mắt nhìn hai vị phu nhân. Phi tần? Nàng không phải phi tần của Nguyễn vương. Tuy giờ đây là tù nhân bị giam lỏng của ông ta, so về địa vị nàng cũng không thua họ. Nàng vốn tính ngang ngạnh, với nam giới cũng không nhún nhường, lại đang cho rằng hai vị phu nhân này khinh dễ mình, thêm tâm trạng buồn bực sẵn chỉ cầu chết đi được, liền cười nhạt.
- Cung kính mà không có lễ thì phiền. Tiểu nữ là con gái đức Lê Hiển Tông hoàng đế, so với Nguyễn vương vẫn chỉ là một phiên vương, địa vị không khỏi có phần chênh lệch. Nếu thi lễ, chẳng hay có nên dùng lễ quân thần?
Cô gái nhỏ, giọng nói thì thánh thót, nhưng ngạo khí kiêu kỳ thì đủ dư chọc giận người khác. Trần phi vốn là người thông thuộc sử sách, nghe nàng trích câu nói của Khổng Tử, cả giận mà nghiến răng nói:
- Thời nay qủa là trọng sắc hơn trọng đức. Chúa công mê muội hay sao mà thu nạp một kẻ táng gia khuynh quốc, vô đức thất tiết, cuồng ngạo vô sỉ này?
- Thu nạp? - Những lời sau của Trần phi, Ngọc Bình hầu như không để ý. Qua hai câu nói, nàng lờ mờ đoán ra ý của họ, liền tái mặt. Mắt nàng mở lớn, tay chân tự nhiên lạnh toát, cơ hồ như bị ném xuống hố sâu. Nàng đứng lặng, không thể nói được lời nào. Thốt nhiên nghe tiếng đổ vỡ đằng sau, quay lại thì thấy Ngọc Bảo chạy đi. Con bé thấy động liền ra nghe chuyện, hẳn cũng đã hiểu. Nhìn lại hai vị phu nhân, rồi Ngọc Bình vội vàng chạy theo sau nó vào nhà.
Hai người nhìn nhau, không biết làm gì đành đi ra. Cánh cửa lập tức được khóa lại.
- Bộ dạng cô ta hình như không biết gì đâu. - Tống Vương hậu nói. Trần phi im lặng gật đầu, nhớ tới cánh cửa khóa, trong lòng cũng có chút bất nhẫn. Hai người đều hiểu tính tình Nguyễn vương có chút ngược ngạo, tuy đã nhu nhuận nhiều. Cô gái đó hình dung rầu rĩ, nghĩ lại cũng đáng thương.
- Người xinh đẹp đến vậy, lại qúa sắc sảo thông minh, bỉ sắc tư phong, khó mà toàn vẹn được. - Vương hậu thở dài, trong lòng bà không gợn chút hờn ghen. Cô gái ấy tuổi tác cũng xấp xỉ Đông cung Cảnh, trời ghen người tài sắc, bà chỉ thấy thương tâm. Từ cái chết của con, cõi lòng bà đã nguội lạnh. Vả lại, đã gần bốn mươi tuổi, bà chẳng còn hy vọng nào nữa vào tấm lòng luyến ái của nhà vua, tuy Nguyễn vương đối với bà vẫn thập phần kính trọng. Trần phi lại nghĩ xa hơn. Nàng công chúa này tuy có vẻ băng tuyết, nhưng đôi mắt long lanh, dáng dấp phong nhã, là kẻ lụy tình mà cũng khiến người khác rơi vào lưới tình, tuyệt đối không phải phong vận của một cô gái đoan trang đứng đắn. Tuy giờ đây cô ta chưa biết chuyện, nhưng nếu sau này đồng ý làm phi tần của Nguyễn vương thì không khéo có cái loạn Đặng Thị Huệ.
Vua chúa trong gian khổ mà lập nghiệp, trong xa hoa mà tiêu tán cơ nghiệp. Huống chi nàng ta là người của kẻ thù, giữ nàng ta bên cạnh khác nào Phù Sai đón Tây Thi, Đổng Trác lấy Điêu Thuyền. Giờ thì Trần phi hiểu nỗi lo của Lê Văn Duyệt lẫn các tướng lãnh đã biết công chúa nhà Lê. Lý do của Nguyễn vương tuy hợp lý, nhưng ai biết nhan sắc kia có thể làm gì. Ngạo khí của cô ta lại qúa cao, khó bề mà ưng thuận một việc làm bất nghĩa như vậy. Nếu ưng thuận thật thì rất lấy làm đáng lo cho mục đích đằng sau, mà con người cũng chẳng ra gì. Liều lĩnh, bất chấp đạo lý không phải là đức tính tốt cho phụ nữ.
Trong lúc hai vị vương phi còn đang lo nghĩ, trong biệt điện, một thảm cảnh khác lại xảy ra. Ngọc Bảo vốn đã sẵn chủ ý sau cái chết của Văn Đức, giấu thuốc độc vào áo. Thuốc này Ngọc Bình dùng để sắc trị bệnh cho Văn Đức, vốn dặn kỹ hai đứa trẻ không được đụng vào. Lúc này, nghe câu chuyện của Ngọc Bình, lòng căm phẫn uất ức bấy lâu bùng nổ, Ngọc Bảo liền khóa cửa phòng, dốc hết số thuốc đã giấu vào miệng. Khi Ngọc Bình gọi được cung nhân phá cửa, cô bé đã thổ huyết quằn quại trên đất, da mặt tái xạm. Nó nắm lấy tay Ngọc Bình vừa lao vào, thều thào:
- Tây Sơn ta thà chết không chịu nhục. Phải sống dưới tay một kẻ hủy hoại, làm nhục gia tộc mình, thà chết còn hơn.
Giọng nói của Ngọc Bảo vẫn rất bình tĩnh, không xao động cho đến khi nói hết câu. Đôi mắt đen của nó nhìn nàng như một lưỡi dao. Sự kết tội cay đắng, nỗi căm phẫn lạnh ngắt ghim thẳng vào nàng. Sau khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, cô bé ói ra một bụm máu, gục xuống. Hơi thở nó tắt đi trong khi máu vẫn còn đang loang trên áo người chị dâu, cũng là dì ruột. Cung nhân nhốn nháo chạy đi gọi người. Hai vương phi biết chuyện, liền vội vã quay lại.
Giữa phòng, Ngọc Bình ngồi lặng yên giữa những tiếng động, tay ôm chặt cô bé mười hai tuổi. Máu từ miệng nó tiếp tục rỉ ướt đẫm áo nàng. Vài giọt máu bắn lên má nàng, đang chảy xuống như nước mắt.
Nhìn đôi mắt nàng, Tống Vương hậu giật mình.
Mắt nàng ráo hoảnh. Đôi đồng tử đen bất động như hóa đá, như cái chết.
-----------
Chú thích:
"Cung kính không có lễ thì phiền", "Thời nay ta không thấy ai trọng đức hơn sắc đẹp" là những câu nói của Khổng Tử.
Bỉ sắc tư phong: Được cái này thì mất cái kia.
Trong một đêm dừng lại nghỉ giữa đường trong chuyến đi từ Kinh Bắc đến Phú Xuân, chàng từng nhìn vào bóng đêm mà bảo, Lạc ở trong rừng là một cảm giác rất thú vị. Khi ấy, chàng đang ngồi cùng với đám binh lính hộ tống, cạnh đám lửa. Họ đang nướng thịt thỏ và uống rượu. Nàng ngồi cạnh xe, làm ra vẻ như không để tâm.
Ta sinh ra trong rừng, trên núi. Rừng rậm, mỏm núi dốc ngược, không để tâm là ngã xuống vực. Trong đêm hun hút tối, lạc khỏi đường mòn, mỗi bước chân qua là như được tái sinh. Đến lúc sáng ra, nhìn xuống mặt biển trải dưới núi Hoành Sơn, cảm thấy đó như là thế kiếp của mình. Hẳn người chấm dứt một đời, đến Tây Thiên cũng có cảm giác như thế.
Đám binh lính cười rộ. Thế nếu trong bóng tối lại có một mỹ nhân xuất hiện thì có còn muốn trời sáng nữa không? Mắt chàng chợt bắt gặp nàng. Vẫn muốn, vì bóng tối không thể kéo dài mãi, có ước cũng không thay đổi được. Đem giấc mộng ấy trở về, rồi lại vào rừng khi trời tối. Đó là lý do mà con người cứ phải tái sinh vậy. Chứ nếu chỉ có đá và vực, quay lại để làm gì?
Đêm ấy gió lớn, trời lạnh, trăng sáng. Đám lửa rừng rực cháy. Gõ hai thanh gỗ vào nhau, chàng thì thầm hát.
"Cụ hoài dật hứng tráng tứ phi,
Dục thướng thanh thiên lãm minh nguyệt.
Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ cánh lưu,
Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu.
Nhân sinh tại thế bất xứng ý,
Minh triêu tán phát lộng biên chu."
Lúc ấy, nàng chợt nghĩ, trong con người này là một sự trống rỗng khó bề lấp đầy. Như thế, chỉ có cách đi vào rừng, đưa mạng sống mình thử thách với từng bước chân. Và cả sống hay chết cũng không còn quan trọng nữa.
***
Vụ ồn ào nơi biệt điện của công chúa nhà Lê chẳng mấy chốc đã lan truyền trong những người mới đến trong cung. Cửa biệt điện đã mở, người tò mò kéo đến không ít, mượn cớ để nhìn qua mặt cô công chúa. Nhưng nàng tịnh không xuất hiện, kể cả khi thi thể Ngọc Bảo đã được đưa đi.
Nguyễn vương ra lệnh khám xét biệt điện, lấy hết tất cả những gì có thể gây nguy hiểm. Phòng của Ngọc Bình cũng bị lục tung lên, lấy đi từ gói thuốc đến con dao nhỏ. Nhìn quang cảnh đó, nàng chỉ ngồi ở một góc phòng, im lặng, cặp mắt trống rỗng. Thấy Nguyễn vương, nàng quay mặt, không nhìn. Ông xua tay bảo người trong phòng ra hết, rồi mới quay lại nhìn nàng.
- Nàng không nên tìm đến cái chết, - Ông nói, giọng vẫn nhẹ nhàng. - Nếu nàng chết, ta sẽ đưa thi thể nàng đến Bắc Hà, phơi trước thành Thăng Long cho tất cả bọn chúng thấy. Nàng không muốn người thương yêu của mình chứng kiến cảnh đó chứ?
Mi mắt nàng khẽ chớp, nhưng nàng vẫn ngồi bất động. Đứng yên một lúc, ông đi ra khỏi phòng. Đến trước cửa, ông ngoái lại nói:
- Dù sao, việc ta muốn thu nhận nàng vẫn là tấm lòng chân thành của ta. Ta sẽ không ép nàng. Từ nay nàng có thể tự do đi lại trong cung, trở thành người trong gia đình ta.
Cho đến khi cánh cửa đóng lại, trên khuôn mặt như tạc bằng đá của nàng hoàn toàn vẫn không có động thái nào.
Khi Nguyễn vương đến vấn an Quốc mẫu, rồi đến thăm hỏi Vương hậu, trời đã tối khuya. Trần phi còn ở trong điện của Vương hậu. Hai người vẫn còn kinh động vì vụ tự sát của cô gái nhỏ.
- Ngay cả một đứa bé của Tây Sơn cũng còn như thế, hèn gì chúng ta đã phải cực khổ hơn hai mươi năm. - Vương hậu lắc đầu, mắt bà vẫn còn đo đỏ. Cái chết ấy thật qúa khủng khiếp, bà không tưởng tượng nổi. Trần phi vỗ nhẹ lên lưng bà. Quay về phía Nguyễn vương đang im lặng, Trần phi nhỏ nhẹ hỏi:
- Chúa công, người định thu nhận cô công chúa ấy thật sao?
Nguyễn vương gật đầu. Hai vương phi nhìn nhau, biết đã không thể nói được. Gặp bà thì đã dốc số thuốc còn lại ngay vào miệng trong tình cảnh đó rồi, Trần phi thầm nghĩ. Nhưng cô công chúa này sau một hồi im lặng lại đứng dậy, lấy khăn lau mặt, thay áo, chải tóc cho cô bé, khi đám lính đưa thi thể đi còn dặn theo hãy nhẹ nhàng với nó. Không hiểu cô ta là loại người gì. Ánh mắt cô ta không lành, để người mang mối hận thù lớn như vậy bên mình, dù chỉ là trong cung, Nguyễn vương có tỉnh táo không?
- Nàng ta là người như thế nào? - Vương hậu hỏi. Nguyễn vương im lặng, một lúc sau mới trả lời.
- Nàng ấy là người hiểu đạo lý, biết nói chuyện đại nghĩa, tấm lòng đại lượng, không phải những kẻ chấp nhặt, chỉ biết nghĩ đến bản thân. Đối với ta không mang oán hận, đối với người biết dùng lý để suy xét. Tuổi tuy còn trẻ nhưng hiểu biết đại thể, tuy kiêu kỳ nhưng biết giữ lễ. Đứng trước kẻ thù không run sợ, rất kiên cường.
- Kiên cường? Thế những tấm gương trung trinh tiết liệt, chúa công bỏ đi đâu? - Trần phi không thể đừng mà buột miệng hỏi. Nguyễn vương cười khẽ.
- Có những trường hợp chết dễ hơn là sống. Trước đây ta cũng sợ nàng ta nghĩ quẩn mà liều mình, nhưng giờ thì ta đoan chắc nàng ta sẽ mở to mắt mà sống đến ngày cuối cùng. Đến ngày đó, ta sẽ phải nghĩ cách cho nàng tiếp tục sống.
Chỉ e rằng nàng ta sẽ biến thành chim Tinh vệ mà thôi, Trần phi nghĩ thầm. Trong ánh mắt của Nguyễn vương, bà thấy một nỗi bất an lớn dần, cuộn dâng như sóng biển. Nàng sẽ hủy hoại ông, đó là một linh cảm xác tín đến mức bà tin nó sẽ biến thành hiện thực. Có sự đổi khác nào đó ở ông mà bà chưa nắm rõ được. Và bà cảm thấy bóng ma trong đôi mắt nàng công chúa kia sẽ ám ảnh triều đình này đến trọn đời.
***
Ngày một tháng năm năm Nhâm Tuất, Nguyễn vương làm lễ đăng tôn, đặt niên hiệu là Gia Long, ban lệnh đại xá trong nước và duyệt thủy bộ quân, ra lệnh Bắc phạt.
Đại quân Nguyễn rầm rộ tấn phát ra Bắc. Hai mươi vạn bộ binh, năm vạn thủy quân, gần chín trăm thuyền chiến dưới quyền của các tướng Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Nguyễn Văn Trương do Gia Long hoàng đế thân chinh chỉ huy quét qua các vùng đất miền Bắc như chẻ tre. Chỉ trong một tháng, xứ Nghĩa An đã do nhà Nguyễn hoàn toàn làm chủ. Tuyên công Nguyễn Quang Bàn, đốc trấn Thanh Hóa ra hàng.
Lúc này, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng cùng các bộ tướng đã theo đèo Quy Hợp vào Nghĩa An, số quân lính chỉ còn một phần tư. Đến Hương Sơn, bị đánh bất thình lình, đội quân bị giết sạch, các tướng bị bắt. Ở Diễn Châu, Bùi Thị Xuân nghe tin liền đem đội nữ binh đến giải cứu. Qua một chặng đường rừng vất vả, Trần Quang Diệu đã bệnh nặng, phù thũng đi đứng khó khăn. Đến sông Thanh Chương, quân Nguyễn bao vây, Bùi Thị Xuân bị bắt cùng Trần Quang Diệu. Võ Văn Dũng chạy đến Nông Cống bị dân bắt giao về Nghĩa An.
Một đêm, trên đường áp giải, Võ Văn Dũng phá được cũi, âm thầm định đưa hai người còn lại chạy trốn. Nhưng Trần Quang Diệu kiệt sức không thể đi được nữa, Bùi Thị Xuân nhất quyết không bỏ chạy, ở lại chết cùng chồng. Thời gian cấp bách, Võ Văn Dũng đành phải đứng dậy, rưng rưng nước mắt, nắm lấy tay vị tướng họ Trần lần cuối như lời giã biệt. Trần Quang Diệu mỉm cười gật đầu.
Lúc ấy, điều gì đã hiện hữu trong tâm trí của họ, của ông? Những ngày say mê, đầy nhiệt huyết tại Tây Sơn, ví có thể phá đổ cả trời để thế thiên hành đạo. Rồi những ngày chống đối đến suýt giết nhau tại Phú Xuân. Những ngày, lại một lần nữa, đồng cam cộng khổ đối mặt với cái chết dần mòn. Một thời tuổi trẻ đầy hoài bão và ước mơ bị tiêu diệt trên đỉnh cao nhất của danh vọng, khi tưởng như đã chạm vào được chúng. Những hoài bão và ước mơ đã bị bỏ rơi, lạc loài khi mất phương hướng, bị cuốn trong cơn lốc của ân oán quyền lực. Họ nghĩ đến những điều ấy, những gì họ đã bỏ cả cuộc đời để bảo vệ, dựng xây, và cũng chính họ làm tổn hại. Họ nghĩ đến những người bạn, kẻ chết, người bỏ đi, người sắp phải đối mặt với cái chết. Những người bạn, người anh em vào sinh ra tử, rồi giết nhau. Họ đã giết nhau, bảo vệ cho nhau, giết nhau. Để rồi, khối hồng thủy, vầng thái dương rực rỡ trên đỉnh Tây Sơn kia đã tan vỡ tự bao giờ?
Lúc ấy, điều gì đã tồn tại trong đôi mắt viên tướng họ Trần khi nhìn bóng dáng người bạn chìm vào bóng tối? Ông đã vượt qua cả một chặng đường, đưa vài ngàn quân bệnh tật, đói khát, và cả bản thân bệnh tật, đói khát của mình đến nơi đây để làm gì? Tuyệt đối không phải để cầu mong sự sống. Đó là con đường dấn thân vào cái chết. Ông muốn tìm đến với họ, chứng kiến những ngày cuối cùng khi vương triều do ông góp phần xây dựng, là một trọng thần của nó, sụp đổ.
Vì sao, ông tự hỏi. Điều gì đã xảy ra chóng váng đến thế? Quy Nhơn mất, dồn quân vào chiếm lại Quy Nhơn, bị đưa vào bẫy của Nguyễn vương, bị dồn vào trong núi, siết chết từ từ. Bị phân tán, xé nhỏ, cuối cùng bị quét sạch như đám lá thu trong cơn gió. Như triều dâng, và mặt trời đã ngập chìm trong biển.
Bên cạnh ông, Bùi Thị Xuân im lặng. Sao nàng lại ở đây, ông muốn hỏi. Nhưng điều đó không quan trọng nữa.
Nàng đã đến. Và đã ở lại.
----------
Chú thích:
Bài thơ Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt Hiệu thư Thúc Vân của Lý Bạch, trích dịch:
Lòng tràn hứng dật, tứ hùng bay
Muốn lên trời xanh bắt vầng trăng sáng
Rút đao chém nước, nước càng trôi
Nâng chén tiêu sầu, sầu vẫn sầu
Người sống trong đời này không toại ý
Sớm mai xoã tóc dạo thuyền thôi
Chim Tinh vệ: Tương truyền, con gái vua Viêm Đế (Thần Nông) vượt biển Đông, không may bị sóng đánh chìm chết đuối, hồn mang mối căm hờn, hóa thành chim Tinh Vệ, hằng ngày ngậm gỗ và đá ở Tây Sơn đem ra lấp biển Đông cho cạn để trả hờn chết đuối vì sóng biển.
3.
Bên ngoài lại náo loạn, Ngô Thì Nhậm thầm nghĩ ra tiếng ồn vọng qua vách tường, khoảng sân của Trúc Lâm thiền tự vào phòng ông. Quân Nguyễn đã tấn công chưa, ông tự hỏi. Thành Thăng Long sẽ trụ được bao lâu, hay chính người trong thành sẽ mở cửa cho Nguyễn quân vào? À không, với tính cách của Khang công, anh ta sẽ không bao giờ đầu hàng. Người con kiêu hãnh nhất của Quang Trung hoàng đế, cố chấp và kiêu hãnh. Nhưng một mình anh ta thì không đủ để chống đỡ tàn cuộc này.
Tiếng gõ cửa nhẹ ngoài phòng ông. Một chú tiểu bước vào, đưa cho ông lá thư. Quang Thùy gửi.
"Quân Nguyễn sắp vào thành, Ngô đại nhân hãy lánh đi một thời gian."
Ngô Thì Nhậm mỉm cười. Lánh đi? Lánh đi đâu? Ông đã không còn ở trong triều đình, nhưng cũng sẵn sàng đối mặt với kết qủa những hành động của mình. Đạo Phật đã dạy cho ông lẽ vô vi của cuộc đời. Thời thế đã dạy cho ông cách đối mặt với những luân chuyển của nó. Từ Trịnh, Lê đến Tây Sơn, ông đã làm quan cho cả ba nhà, đã từng kiêu hãnh, cũng đã từng chán chường. Giờ đây, còn gì đáng để sợ hãi nữa?
Gửi cho ông lá thư này, Khang công đã thừa nhận thành Thăng Long sắp thất thủ. Ngô Thì Nhậm thở dài, ngồi xuống đạo tràng tọa thiền, tiếng động bên ngoài lùi xa khỏi tâm trí ông.
Trong Cấm Thành, qủa nhiên tình hình rất hỗn loạn. Những quan văn võ đã chạy trốn gần hết, Quang Thùy nhìn một dúm người còn lại, ra hiệu cho Đại Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết lại gần, hạ giọng nói nhỏ.
- Quân ngoài thành đang tan rã, không thể chống cự lâu được. Đại Đô đốc chuẩn bị đưa Hoàng thượng và em ta trốn đi.
Đô đốc Tuyết nhìn Khang công, rồi gật đầu. Xe ngựa đã được chuẩn bị sẵn, bí mật đưa đến cửa sau của cung. Quang Toản cùng Quang Thiệu, Quang Duy được đưa đến xe. Nhà vua vẫn chưa hiểu sự tình, quay lại phía Quang Thùy, ngạc nhiên.
- Chuyện gì đây, Khang công?
- Thành Thăng Long sắp thất thủ, xin Hoàng thượng hãy trốn đi. Chúng ta vẫn còn một đạo quân ở Cao Bằng, họ sẽ đưa Hoàng thượng sang Đại Thanh. - Quang Thùy khoanh tay, điềm tĩnh nói. Quang Toản chớp mắt.
- Còn Khang công?
- Thần sẽ ở lại giữ thành để giữ bí mật việc Hoàng thượng đã đi. Như thế bọn chúng sẽ không đuổi theo người. Xin người hãy đi mau. Quân lính chỉ tạm thời đánh dạt được một góc để người chạy ra ngoài, không giữ được lâu đâu.
- Không... - Không đợi Quang Toản nói, Quang Thùy đưa mắt ra hiệu cho Đô đốc Nguyễn Văn Tứ và Tư mã Nguyễn Văn Dụng bên cạnh. Hai người liền áp vào, khóa tay Quang Toản đưa lên xe, mặc kệ sự vùng vẫy la hét của nhà vua. Ở trong xe, Quang Thiệu và Quang Duy hợp lực giữ chặt, thậm chí bịt miệng Quang Toản. Quang Thùy nghiêng người, nhét một bọc vải gấm vào áo Quang Toản.
- Xin lỗi đã mạo phạm Hoàng thượng. Nhưng cứu người trong gia tộc là nghĩa vụ của thần. Người phải sống.
Đô đốc Tuyết ra roi cho ngựa chạy. Tiếng hét của Quang Toản trong xe vẫn vọng ra khàn đục, đầy thống khổ.
- Khang công! Khang công! Khang công!
Quang Thùy đã quay vào thành, không ngoái lại. Nhìn hai người thân tín còn lại là Đô đốc Trương Đăng Đồ cùng phu nhân ông, chàng gật đầu.
- Ta đi thôi.
Ngoài thành, ánh đuốc của đoàn quân đang bao vây tạo thành một vòng cung lửa ngày càng siết chặt. Quân Nguyễn đã vài lần tấn công, phá vỡ đội quân phòng thủ ngoài. Thuyền chắn ở cửa sông cũng đã tan. Những quân nhân mới được tập hợp về rã nhanh chóng. Hiện giờ chỉ còn lính bắn đá phòng thủ và một số quân bản bộ. Chỉ trong một, hai đợt tấn công nữa, thành khó mà trụ nổi. Chưa kể đại quân của Nguyễn vương sắp đến, Quang Thùy nhìn xuống vòng cung lửa ấy, cau mày. Ánh sáng lửa mập mờ trong sương tỏa. Sương giăng giữa mùa hạ, lơ lửng giữa bầu trời thành những mảng trắng xóa như mây đang sà xuống.
Giá mà có Bùi Thị Xuân bảo vệ Hoàng thượng sẽ yên tâm hơn, chàng nghĩ. Giây phút này, chàng không thấy sợ hãi cho bản thân, cũng không buồn lo cho Thăng Long. Chỉ cần Quang Toản cùng các em bình yên, giữ lại dòng máu cho gia tộc, thế là đủ. Dù phụ hoàng chưa bao giờ thừa nhận, nhưng chàng là con cả, là người nhận trách nhiệm bảo toàn cho gia đình. Đã đến lúc chàng trả hết gánh nặng của cả cuộc đời này.
Điều gì đã xảy ra, trong ánh đuốc sáng trời trong lẫn ngoài thành, trên tường thành cao ngất lộng gió của đêm giữa hạ này, chàng tự hỏi. Chàng đột nhiên thấy mình bị đẩy ra trước lũy thành với gươm giáo, súng ống, đạn pháo đì đùng nổ. Rất nhanh chóng, tình thế đã xoay chuyển không thể nào chống lại nổi. Hay là chàng đã nhận ra điều đó, rất lâu trước đây, nhưng chưa bao giờ thừa nhận nó? Chàng vẫn muốn chống lại, chống lại đến cùng. Đó là sự kiên cường hay cố chấp? Chạy trốn chưa bao giờ là phương cách của chàng. Chàng đã lớn lên với sự kiêu hãnh trong đội quân của Quang Trung hoàng đế, đã trưởng thành với những sĩ phu của đất Bắc Hà, chưa bao giờ phải nếm trải những tranh chấp trong triều đình, những rối loạn, thất bại trong chiến tranh ở Quy Nhơn. Ngay cả lúc này, chàng đã giữ thành, giữ Quang Toản, tập hợp binh lính phòng thủ trong tuyệt vọng. Đáng ra chàng phải để Quang Toản chạy đi sớm hơn. Chàng nghĩ về điều đó, với sự hối tiếc không phải cho bản thân mình.
Giá như... Giờ đây, khi nhìn dòng sông đuốc từ đằng xa đang tiến lại, chàng hiểu rằng đại quân của Nguyễn vương đã đến. Giờ khắc này, chàng vẫn muốn quyết chiến một trận cuối cùng, có thể không? Người đàn ông đã chiếm được nàng, chàng nghĩ về điều đó, không giận dữ hay oán trách. Chàng nên oán trách chính mình. Chính chàng đã hại nàng. Chàng đã hy sinh tất cả, đã làm tất cả, nhưng cuối cùng tất cả là vô ích. Một cơn sóng đã đến, cuốn trôi Tây Sơn xuống đáy biển. Chàng đã kéo nàng vào, đã hủy hoại nàng. Đây là những gì chàng đã phải trả giá.
Cuộc đời chàng là một cuộc trả giá dài.
Tiếng hò reo lại nổi lên. Một cuộc tấn công nữa. Sau lưng chàng, Đô đốc Trương Đăng Đồ vội chạy lên thành.
- Tiết chế đại nhân, xe ngựa đã chuẩn bị xong.
Quang Thùy ra hiệu đã nghe. Đại quân Nguyễn đến sớm hơn dự kiến, Quang Toản chưa chạy được xa. Lần này chính chàng phải đóng vai Lê Lai cứu chúa.
Đến cuối cùng, chàng vẫn muốn chống cự đến cuối cùng.
Quân Nguyễn lại công thành. Đá hết, đạn cạn, quân ngoài thành tràn vào cửa như dòng lũ. Trong đám rối loạn, một chiếc xe ngựa vọt qua cửa thành, chạy về hướng Tây.
***
- Không có quân lính đuổi theo. - Quang Thiệu thì thầm. Nhóm người đang nghỉ đêm bên sông Xương Giang. Bốn bề tĩnh mịch, chỉ có vài mái nhà sáng đèn. Nhóm đã cải trang đoàn thương nhân trọ tại chùa Thọ Xương. Sau một hồi vùng vẫy, Quang Toản đã im lặng. Nhà vua ngồi yên một góc, nhìn qua cửa sổ đến hình bóng của thành cổ Xương Giang tại bờ sông. Xương Giang, nơi diễn ra trận đánh của Lê Thái Tổ với quân Minh, chiến thắng lập nên triều Lê, chàng thầm nghĩ. Chạy đến nơi này phải chăng là định mệnh?
Khang công đã đánh lạc hướng quân Nguyễn, cũng như mọi người, Quang Toản thầm nghĩ, lòng chua xót. Chợt nhớ đến túi gấm Quang Thùy nhét vào áo, chàng vội vàng lấy nó, mở ra. Trong túi là một miếng ngọc thạch khắc chữ Bình, dưới góc là ấn triện của nhà Lê. Quang Toản chưa bao giờ thấy miếng ngọc này, nhưng chữ Bình làm chàng nhận ra nó thuộc về ai. Dấu hiệu của công chúa Lê triều.
"Có đức, công mới lớn
Có người, đất mới linh
Giữ nước không cốt ở hiểm yếu
Giữ dân không cốt ở hùng binh"
Bên bờ sông chợt vẳng lại một giọng ca. Xương Giang phú của Lý Tử Tấn. Người trong phòng nhìn nhau. Quang Toản ngẩn người. Giọng ca vẫn thong thả theo tiếng mái chèo oàm oạp trên mặt nước trôi về phía thượng nguồn.
"Từ đây khắp cõi đều yên lành
Kéo nước Ngân Hà rửa giáp binh
Sông đây, đất ấy,
Muôn thuở thanh bình."
Tiếng thở trong phòng tưởng như có thể nghe được. Tiếng chèo thuyền xa dần, chìm vào bản diễn ca của côn trùng, ếch nhái trong đêm. Nơi đây là chiến thắng Chi Lăng Xương Giang lẫy lừng thưở trước của triều Lê, giờ đây, mọi người đều đã nhớ ra. Không ai bảo ai, một làn khí lạnh ngắt khe khẽ truyền đi, cùng với nỗi nuối tiếc xót xa, niềm cay đắng đến tưởng chừng không chịu đựng nổi. Trần Thị Lan, vợ của Đô đốc Tuyết lặng lẽ lau nước mắt. Quang Toản thẫn thờ nhìn vào màn đêm. Chính chàng là người đầu tiên nhận ra ánh đuốc đằng xa đang hướng tới.
Xương Giang, nơi này là định mệnh. Tay chàng nắm chặt miếng ngọc bội có chữ Bình.
***
Bầu trời lại kéo mây đen kín, mưa tầm tã. Bánh xe ngựa lút vào trong bùn, không thể chạy được nữa. Quang Thùy cùng Đô đốc Trương, vợ ông Nguyễn Thị Dung bỏ xe đi vào rừng. Đã mấy ngày nay, quân lính đuổi sát phía sau, ba người điều khiển xe sao để không bị bắt, cũng không để mất dấu với bọn lính. Vùng núi rừng này hiểm trở, lại bị mưa lũ, khó khăn cho cả người chạy trốn lẫn kẻ đuổi bắt.
Mưa mùa hạ giữa rừng quất rát mặt chàng khi Quang Thùy ngẩng lên nhìn bầu trời tối sụp xuống. Lúc này nếu thành công thì Quang Toản đã đến biên giới. Cố vài ngày nữa, nhiệm vụ của chàng sẽ hoàn thành. Dấn sâu vào rừng, lính khó mà tìm được. Đủ thời gian để Quang Toản chạy đi. Chàng không mong một người như Quang Toản sẽ phục hồi Tây Sơn, chỉ mong bảo vệ được những đứa em mình, ngoài những người mà chàng không thể bảo vệ ở Phú Xuân.
Mưa cứ từng đợt ngớt rồi lại tạnh cho đến tối. Ba người không dám đốt lửa, để quần áo ướt ngồi giữa rừng, không khỏi run rẩy vì lạnh. Đô đốc Trương nắm tay vợ an ủi, Quang Thùy đưa mắt ra nơi khác. Đây là nơi nào, chàng tự hỏi. Xung quanh tối đen, bầu trời lờ mờ xam xám. Sương lại loáng thoáng quẩn quanh đâu đây. Lá rào rào cùng tiếng côn trùng, tiếng thú vật ăn đêm. Loài chim nào vừa bay qua, đập cánh xao xác trên đầu. Đã mấy ngày chỉ ăn lương khô trên xe, cơn đói cùng với mưa lạnh đang ngấm sâu vào từng tấc da thịt, bải hoải cả người.
Có thể cảm thấy từng mảng sương như mạt thủy tinh đâm vào da, chàng nghĩ khi nhìn theo những hình bóng trắng phảng phất từ bầu trời. Chàng lại nhớ về khoảnh khắc êm đềm mơ hồ của những ngày ngồi cạnh bờ sông giữa đông lạnh. Nhìn ra mặt nước chìm dưới khối sương được gió thổi trôi lờ lững, chàng có thể cho rằng mình đã quên đi những muộn phiền. Và một đêm sương, chàng đã thấy bóng trăng phủ vây dáng hình một người con gái. Nàng ở sau màn sương, dường như chỉ đưa tay ra là có thể chạm tới được.
Đúng lúc ấy, từ bìa rừng, tiếng nói vang vọng dội vào, được khuếch âm qua những tầng đá trở nên méo mó.
- Nguyễn Quang Thùy, chúng ta biết đó là ngươi. Bửu Hưng đã bị bắt tại Xương Giang. Bọn đi theo là Nguyễn Văn Tuyết, Trần Thị Lan, Nguyễn Văn Trứ, Nguyễn Văn Dụng đã bị giết. Đại quân đã bao vây rừng, hãy ra hàng trước khi bị giết!
Tiếng nói còn lặp lại thêm vài lần nữa. Quang Thùy thấy cơn lạnh đã ngấm vào máu mình qua từng lời nói. Hai người bên cạnh chàng ngừng cả thở. Họ đưa mắt nhìn nhau. Quân Nguyễn đã gọi đúng tên những người đi theo bảo vệ cho Quang Toản. Lời nói của chúng chín phần mười là thật.
Quang Thùy ngả lưng vào phiến đá đằng sau, nhắm mắt lại. Hết rồi, trong đầu chàng ong ong câu nói. Số phận đã hoàn toàn đánh bại chàng. Đã tước đi của chàng đến hy vọng cuối cùng.
Ban đầu là mẹ, là gia đình.
Là phụ hoàng, là ước mơ.
Là nàng, là bản thân.
Cuối cùng, là hy vọng.
Chàng thấy mình đã bước vào vực đá. Nghe tiếng tan vỡ từ tận cùng sâu thẳm.
Khang công nên xuất gia, một ngày nào đó, khi chàng đến thăm Ngô Thì Nhậm ở Trúc Lâm thiền tự, ông đã chợt nói. Tay ông đặt trên những tính toán kỳ lạ. Người có Thiên Không tại Mệnh là người "nhị trùng bản ngã", suốt đời bị giằng xé giữa Sắc và Không. Lòng ngài chỉ muốn xa lánh cõi đời, nhưng lại có qúa nhiều ước muốn. Nếu có thể dứt bỏ sớm thì tránh khỏi họa, bằng không đến cuối cùng, tất cả sẽ về lại Không. Thiên Không chủ tranh đoạt, vất vả cả một đời, cuối cùng tất cả chỉ như khói bay đi.
Cuối cùng là Không với xuất gia để thành Không, khác nhau điều gì?
Tránh được thống khổ.
Đã từng có một giấc mơ lâu rồi, từ những ngày rất nhỏ, khi chàng đi lạc trong rừng. Đêm xuống, bốn phía tối đen, văng vẳng tiếng thú kêu. Không hiểu sao lúc ấy chàng không thấy sợ, chỉ muốn bước đi, bước đi. Có cảm giác nếu dừng lại thì chàng sẽ chết. Nên không thể dừng lại.
Nếu dừng lại, sẽ chết.
Giọng nói ấy thì thầm trong bóng đêm. Thì thầm bên tai, lan xuống bàn chân. Bàn chân đạp vào cạnh đá, rễ cây tứa máu. Cành cây đâm vào thân thể. Bóng đêm xé toạc mình, từng mảnh một. Vậy mà cứ không đốt lửa, lặng lẽ đi. Nói sợ chết mà đi thì sao không sợ chết khi rơi xuống vực, chàng tự hỏi. Không bao giờ có câu trả lời.
Chỉ cứ thế bước đi, chờ nắng lên.
Trong một đêm khác, cái đêm mà chàng vẫn lẩn tránh phải nhớ lại, chàng đã bắt được bông hoa lặng lẽ tỏa hương trong bóng tối. Điều ngọt ngào duy nhất trong một chuyến đi dài. Nhưng bông hoa đã tàn héo ngay lúc chạm vào, vệt gai của nó đâm vào nhức nhối, thành một vết thương không thể nguôi ngoai.
Giờ đây, trên nền rừng ẩm ướt, bầu trời sáng lên với những cơn sấm chớp đì đùng, soi rõ những thân cây đủ các dạng hình kỳ dị, trong tiếng mưa bắt đầu rơi, không át được tiếng chân đang tiến tới, chàng thấy đầu óc mình trống rỗng. Hết rồi, chàng nghĩ, đứng dậy, rút kiếm ra. Bên cạnh chàng, hai vợ chồng Đô đốc Trương cũng làm theo. Họ là tướng trên chiến trận, chết trong chiến trận là điều mà họ mong chờ.
- Tiếc là chúng ta không còn dịp nào đến hồ Trúc Bạch ngâm thơ, nghe hát được nữa. - Trương Đăng Đồ cười, vẫn nắm lấy tay người vợ. Chậm chạp, họ tiến về phía tiếng chân gần nhất.
Họ là tướng trên chiến trận. Chỉ cứ thế bước đi.
Mưa rơi, hợp cùng ánh chớp và lửa làm khuôn mặt những kẻ chờ đợi họ bên ngoài trở nên mờ mịt, méo mó. Những đường nét loang loáng, mờ mịt của giáo gươm vung lên quanh họ. Những tiếng la hét. Tiếng binh khí va đập. Tất cả hòa trong mưa đang ngày càng lớn. Hạt mưa rơi rát da. Mưa trắng bạc mắt cùng sấm chớp. Tiếng rừng núi gầm gào. Tiếng đất trời rung chuyển. Họ lao vào mưa.
Nhưng điều họ đã chờ đợi không tới.
Những thanh kiếm, mũi giáo tránh đâm vào họ. Những họng súng không nhả đạn. Những cung tên không bắn. Hết lớp này đến lớp khác tràn lên, bao vây, rút kiệt sức họ. Chờ đến khi họ tê cứng trong cơn mưa, kiệt lực vì đói mệt. Chờ đến khi tay họ không cầm nổi thanh kiếm để kề mũi giáo vào cổ họ.
- Giết ta đi! - Trương Đăng Đồ rít lên. Tên lính gần đó lắc đầu.
- Ta được lệnh phải bắt sống gia quyến ngụy triều.
Quang Thùy đưa mắt nhìn Đô đốc Trương. Chúng không phân biệt được chàng và Trương Đăng Đồ, Nguyễn Thị Dung lại được chồng bảo vệ, nên chúng không thể ra tay.
Nguyễn vương muốn bắt sống chàng. Rơi vào tay kẻ thù, phải chịu những nhục hình của kẻ ấy. Trước mặt nàng...
Cơn giận đã cho thân thể kiệt lực của chàng sức mạnh. Nhẹ nhàng hụp người xuống, chàng hất kẻ đang kề gươm vào cổ mình sang bên. Môn quyền này chú Tư Lữ đã dạy chàng từ những ngày còn ở Tây Sơn. Đám quân còn lại tràn đến, khép kín trước mặt chàng như một bức tường. Sau lưng chàng là vách đá.
Từ những ngày còn nhỏ, đi lạc trong rừng, chàng thường tự hỏi cảm giác rơi xuống vực núi là như thế nào. Quang Thùy mỉm cười. Sấm chớp vẫn giật sáng lên trên bầu trời. Mưa lạnh ngắt.
Lấy hết sức bình sinh, chàng lao vào vách đá.
Sấm nổ. Đất dưới chân núi rung chuyển. Tiếng sấm không át được tiếng vỡ đập khô khốc của xương người vào đá. Đám lính lùi lại, bàng hoàng. Thân thể người thanh niên trượt xuống, nửa khuôn mặt anh ta đã dập nát. Máu bắn đi trong mưa, tạo thành những giọt đỏ quạch rưới trên đất.
Nguyễn Thị Dung và Trương Đăng Đồ lợi dụng ngay lúc rối loạn cướp lại kiếm. Hai người nhìn nhau, hai bàn tay nắm lại, kề gươm vào cổ mình. Cùng một lúc, hai thanh kiếm cứa qua mưa.
Đám binh lính đứng trơ như tượng trước quang cảnh trước mặt, có kẻ đã rơi cả vũ khí. Mắt chúng không thể rời khỏi thi thể bên vách đá. Cần một lực lớn thế nào để va đập như thế? Một người hỏi, tiếng lạc trong màn mưa. Mưa đang bao phủ anh ta, cuốn đi những vệt máu loang đọng thành vũng xung quanh.
Mưa. Chàng nghĩ, trong tâm trí đang chìm vào cõi hư vô. Mưa và bóng tối.
Hương hoa thoảng đâu đây, thật dịu dàng.
Đã từng có một giấc mộng, từ nhiều năm về trước...
***
Ngọc Bình giật mình tỉnh giấc khi cơn mưa đập cánh cửa sổ sập vào. Nàng đã ngủ gục ở cái ghế góc phòng. Mưa đang vần vũ bên ngoài, sầm sập trên nền đá, trên mái lợp. Hàng thông rào rào trong mưa. Chớp thỉnh thoảng lại lóe lên trắng sáng, hắt bóng những cành liễu tả tơi lay động trượt qua căn phòng tối.
Nàng chớp mắt, nhìn vào bóng đêm.
Từng đầu ngón tay nàng lạnh toát. Cái lạnh gai gai trên sống lưng nàng. Cái lạnh tỏa đi đến từng mạch máu trong thân thể. Như châm kim vào da thịt. Như đang cào xé nàng. Lòng nàng cồn cào một nỗi đau không hiểu vì sao.
Nàng tỉnh giấc có phải vì mưa? Cơn mưa đã đến tự bao giờ? Tựa hồ như tiếng bước chân qua cửa và mùi hoa quế tháng năm thoảng tới.
Nàng đứng dậy, bước ra ngoài hiên. Vua Gia Long đã cho nàng tự do đi lại, nàng không muốn để cung nhân bên cạnh nên họ đã lui ra. Giờ đây, chỉ còn một mình, nàng hướng đôi mắt như hóa đá về phía màn mưa. Mấy ngày nay, người mà nhà vua sai đến báo tin chiến trận cho nàng không tới. Tin tức đã dừng lại ở ngoài thành Thăng Long. Nàng đã đợi cả ngày lẫn đêm, hầu như không dám ngủ. Nàng đã mất ngủ từ ngày đầu tiên ông tiến quân ra Bắc. Những cơn ác mộng đầy máu và thây ma làm nàng không thể ngủ.
Nhưng giấc mơ đêm nay lại rất dịu dàng. Nàng không nhớ gì về nó, chỉ là cảm giác như được chạm vào một điều rất thân thương, xưa cũ. Như có ai đó đã lau cho nàng những giọt nước mắt đã không rơi. Rồi để lại một nỗi đau xót đắng tâm can.
Thăng Long, họ đã đến Thăng Long. Nàng thì thầm, hơi thở buốt lạnh qua mũi. Nỗi đau này, nỗi đau không thể lý giải này, nàng nghĩ mình biết nguyên do của nó, nhưng không thể thừa nhận. Đó là một cảm giác mãnh liệt giống như khi xưa, nàng nhìn lưng áo hoàng bào của hoàng đế trôi vào dòng sông lạnh, biết rằng vĩnh viễn không thể gặp lại.
Vĩnh viễn, từ đó khiến nàng run rẩy. Nàng không thể chấp nhận nó. Nàng đã sống, đã nhủ lòng cố mà sống để được gặp lại họ, được gặp họ một lần nữa. Hoặc là, biết được họ đã trốn chạy an toàn, không bao giờ trở lại. Vĩnh viễn, đó là gì? Chỉ có một điều vĩnh viễn tồn tại giữa nàng và họ: Sinh ly tử biệt.
Thăng Long, mỗi chữ của nó như dao đâm vào tim nàng. Giấc mơ đêm và hương hoa quế. Tiếng mưa rơi và nỗi sợ hãi dâng trào. Nàng biết những linh cảm này đang mách bảo điều gì, nhưng không thể thừa nhận nó. Như nàng chưa từng thừa nhận cái ý nghĩ rằng chàng sẽ tử chiến chứ không bao giờ chịu đầu hàng. Như ngày xưa nàng đã từng ao ước rằng chàng hãy trở thành một kẻ nào đó, như thế nào cũng được, để giữ nàng lại, trở về bên nàng. Nhưng chàng không bao giờ lựa chọn nàng.
Mưa vẫn rơi. Nàng nhìn theo đường đi ngoằn ngoèo của tia chớp cắt qua bầu trời trên những ngọn thông. Tiếng rì rào của đêm và mưa đang mời gọi nàng, cùng với cơn nóng lạnh không ngừng luân chuyển trong tim. Nàng bước vào màn mưa, đi qua cây cầu nhỏ bắc qua hồ, lần đầu tiên từ hơn một năm qua bước chân vào vườn Thượng uyển. Những bước chân cứ đưa nàng đi trong bóng tối. Mưa xối xuống nàng từng đợt.
Đây là Bắc cung, nơi chị nàng đã sống và đã chết. Đây là hành cung của nàng trước kia. Đây là mái hiên mà nàng đã gặp Quang Thùy trong đêm, nơi chàng đã cho nàng cành mạt lị. Đi xa hơn một chút, nàng dừng lại trước một giàn hoa. Trong đêm mưa gió, những bông hoa trắng nhỏ vẫn nở. Những cánh hoa run lên trong mưa, trong gió quật.
Vậy mà mình chưa từng biết có một giàn hoa nơi này, nàng thầm nghĩ. Nó đã lẩn khuất nơi đâu cho đến lúc này? Dưới đất, trên đám cỏ, những bông hoa cũ đã rơi, chuyển màu nâu nhạt. Nàng ngồi xuống, nhặt chúng lên, từng bông một.
Sáng hôm sau, khi tin thắng trận ở Thăng Long được báo về cung điện Phú Xuân, người ta phát hiện ra Ngọc Bình công chúa nằm sốt mê man dưới gốc mạt lị trong vườn.
Mưa đã ngớt từ sáng sớm, để lại mấy dòng nàng dùng tay vạch trên đất còn chưa xóa hết.
Tầm hảo mộng,
Mộng nan thành
Hữu thùy tri,
Ngã thử thời tình.
---------
Chú thích:
Bài thơ Giá cô thiên của Nhiếp Thắng Quỳnh, dịch nghĩa:
Tìm mộng đẹp,
Mộng không thành
Có ai hay,
TìnChân chính anh hùng
1.
Những thi thể được đưa từ Sơn Tây về Thăng Long, trình diện trước mặt vua Gia Long. Ông cho gọi bọn Quang Toản đến nhận diện. Khi ba anh em Quang Toản được giải vào, lính gác lật lên ba cái chiếu thấm đầy máu trong sân. Cái xác cuối cùng khiến nhiều người phải ngoảnh mặt đi vội.
- Khang công! - Quang Thiệu nghẹn ngào gọi. Quang Duy run rẩy. Đôi mắt nâu trong suốt của Quang Toản dán chặt vào nửa khuôn mặt còn nguyên vẹn cho đến khi cái chiếu lại được phủ xuống. Vua Gia Long gật đầu, cho giải bọn Quang Toản về và đưa những cái xác đi chôn cất. Lính vội lau dọn những vệt máu rong từ ngoài cửa vào trong sân do máu trộn cùng với nước mưa vẫn chưa khô từ xác nhỏ xuống.
- Ban thưởng cho những người cáo giác Bửu Hưng chưa? - Vua Gia Long gọi Lê Văn Duyệt từ phía sau bước lại gần. Lê Quận công gật đầu. Dân địa phương đã báo cho Lê Chất đến bắt vua tôi Quang Toản, trong lúc đại quân đang đuổi theo chiếc xe ngựa giả. Khoản tiền thưởng được nêu qủa thật là có lợi.
Trong khi đó, Nguyễn Phúc Ánh lại nghĩ đến điều khác. Ông thở dài.
- Lê Chất qủa là kẻ giảo hoạt khôn lường, trước đây ta vẫn không nhìn nhầm người. Giờ ta phải thêm cho hắn một công lớn nữa rồi.
Lê Văn Duyệt im lặng. Chỉ trong vòng ba năm, từ khi phản Tây Sơn về với nhà Nguyễn, Lê Chất đã được phong chức Quận công Bình Tây Đại nguyên soái, ngang bằng với ông. Chuyện đó đã phát sinh không ít dị nghị. Nhưng tại sao người luôn trọng hậu đối đãi với Lê Chất như nhà vua lại cảm thấy không vui?
Vua Gia Long đứng lên, chầm chậm bước xuống bậc thềm còn ướt nước, ngẩng nhìn trời. Đây là lần đầu ta đến Bắc Hà, ông từng nói với Lê Quận công khi cả hai vào thành Thăng Long. Tổ tiên ta phải giả tiếng ở đây mới có thể trở về miền Nam. Tổ tiên ta bị đẩy khỏi nơi đây, nhưng ta đã trở lại.
Ta đã trở lại, ông nói và mỉm cười. Giữa ánh sáng rực rỡ của ngày mùa hạ. Với sự an nhiên như thể điều này là đương nhiên.
Thái độ này thật khác với khi nhìn thấy anh em Bảo Hưng. Khác với tưởng tượng của Lê Văn Duyệt là nhà vua sẽ vui mừng thỏa mãn, ông chỉ dựa lưng vào chiếc ngai, nheo mắt nhìn xuống người đối địch trẻ tuổi. Qúa trẻ. Với đôi mắt nâu gần như trong suốt, kể cả khi nhìn lên kẻ sẽ phán quyết án tử với mình. Hình dáng mảnh khảnh, làn da tái, có vẻ trong sáng lạ lùng đến mức ông đã phải cho người nhận diện lại. Tại sao Nguyễn Huệ lại chọn một đứa con như thế, nhà vua quay lại hỏi viên tướng họ Lê sau đó. Lê Quận công cũng không biết cách nào để trả lời.
Giờ đây, vị hoàng đế mới của đất Việt đang nhìn lên bầu trời trên điện Kính Thiên. Nắng ngập trong mắt ông. Cuộc hành trình hơn hai mươi năm đã đến ngày kết thúc. Con đường mà ông đã đi từ ngày mới bước vào tuổi hiểu biết. Cả cuộc đời ông. Phục thù cho mối hận cả xưa lẫn nay của dòng họ.
Phục thù, không phải trả thù.
Con đường phục thù ấy mới chỉ đi được phân nửa.
***
Sau khi xếp đặt mọi việc ở Bắc Hà, vua Gia Long trở về Phú Xuân vào tháng mười. Vua tôi Tây Sơn bị đóng cũi đưa theo. Triều đình định tội tận pháp trừng trị sau khi làm lễ tế ở Thái miếu.
Cái tin ấy không gây xao động trong dân chúng bằng những hình phạt được đưa ra. Không dùng những đại hình tra tấn như lăng trì, chém ngang lưng mà là voi giày và trảm quyết cả dòng họ. Đó là hình phạt cho tội đại nghịch, cho những kẻ làm phản. Nhà vua, một lần nữa, muốn khẳng định lại vị trí của nhà Nguyễn ở Phú Xuân và Đại Việt này, người ta nói với nhau.
Ông nói với nàng điều đó, trong căn phòng nàng ở biệt viện, nay đã là hành cung của nàng. Nàng nhìn ông, đầu dựa trên gối, chiếc chăn vẫn kéo lên gần ngực. Từ đêm mưa ấy, căn bệnh của nàng đã kéo dài dù các ngự y tận tình cứu chữa. Khi mùa đông về, những cơn mưa ngày càng dai dẳng, nàng nằm thiêm thiếp trong phòng. Đôi lúc, những cung nhân thấy nàng mở mắt nhìn lên trần màn hàng giờ liền. Nàng không nói chuyện với ai, sự im lặng này đã kéo dài cả mấy tháng. Ngay cả khi Tống Vương hậu đến thăm, hỏi chuyện, nàng cũng nhắm mắt ra vẻ không nghe.
- Tại sao nàng phải khổ như vậy? - Tống Vương hậu ngồi cạnh nàng, nhẹ nhàng nói. Giọng bà chân thành. Chính bà đã cho người tận sức cứu nàng. - Mạng sống của bản thân là qúy giá, có người muốn sống mà còn không được. Trong thời này, đã bao nhiêu người phải chết, có thêm một mạng của nàng cũng chẳng để làm gì. Nàng còn trẻ, xinh đẹp như thế. Công ơn sinh thành, dưỡng dục của mẹ cha để tạo thành một con người, nàng có thể dễ dàng vứt bỏ như vậy sao? Chúa công nói nàng là người hiểu biết đại thể, nàng cũng hiểu người sống trong thời này là như thế, có đau lòng đến mấy cũng phải cố mà sống. Ta sinh ra hai đứa con, cả hai đứa đều mất sớm, nàng tưởng ta không đau lòng đến chết đi được sao? Nhưng người sinh trong đời đã là một món nợ, đến lúc nào còn có thể thì còn phải cố mà sống.
Rồi bà kể cho nàng những ngày ở đảo với mẹ chồng, nhìn bốn phía chỉ có đá, núi và biển. Những mùa bão bay tốc mái nhà. Những đêm đằng đẵng nằm nghe sóng đợi trời sáng. Những ngày không tìm được cái mà ăn, tưởng đói đến ngất đi. Bàn tay chai lại vì công việc đồng áng, những vết đứt từ khung dệt. Nhớ con chỉ biết viết lên lá thả xuống biển. Nhớ chồng mà không biết người ấy còn sống hay không. Những cái chết. Thân thể đứa con lạnh ngắt trên tay.
Bà kể cho nàng về mẹ chồng, người đang là quốc mẫu của thiên hạ. Chồng mất sớm, bảy đứa con lần lượt chết, đứa con gái còn lại cũng vừa góa bụa. Nàng tưởng tượng được không, những cái chết thật thảm khốc: Trong đám loạn quân, bị chặt cầu chết đuối, tự sát, bị giết. Cái năm mà cả ba đứa con trai, con rể chết trận trong một lần Tây Sơn tiến đánh, đứa con gái bị bắt rồi tự tử, bà vừa chạy trốn vừa khóc. Nước mắt bà rơi trên con kênh, dòng sông bạc ánh nước. Và biển đã đón người mẹ khổ đau ấy. Tiếng kêu gào đã lẫn vào trong sóng.
Ngọc Tú công chúa, lấy chồng là Lê Phúc Điển năm hai mươi tuổi, goá năm hai mươi bốn. Trong lần Tây Sơn tiến đánh, Lê Phúc Điển cởi áo đổi cho Nguyễn vương, bị giết ở hòn Đá Chồng. Công chúa ban lời thệ “Khi nào lấy lại được kinh đô cũ sẽ xuất gia thờ Phật”.
Những người công chúa họ Nguyễn, những vương phi họ Nguyễn hầu hết tất cả đều đã góa bụa. Chồng họ, con họ, cuộc đời của họ đã bị chôn vùi trong chiến tranh. Máu và nước mắt của họ Nguyễn đã thấm đỏ mảnh đất phương Nam. Quốc mẫu của một thời đại đau đớn, gánh lấy tất cả nỗi đau ấy. Nước mắt đã hóa thành huyết lệ rồi khô cạn.
"Nó chỉ là một đứa trẻ tội nghiệp", Quốc mẫu đã nói khi nghe kể về nàng. Hẳn bà đã nhớ lại những con gái của mình, những công chúa, công nương của một triều đại thất chí, lạc loài và bất hạnh. Nỗi đau chúng ta phải gánh chịu là như nhau.
Bà kể, bàn tay khô sần, âm ấm đặt lên trán nàng. Nàng vẫn nhắm mắt lặng im.
Hôm nay, thấy ông vào, nàng đã nhỏm dậy, trước khi cơn bải hoải kéo nàng xuống. Ông nói với nàng, đều đều, tên những người bị bắt và hình phạt đối với họ. Những bản án trảm quyết, voi giày gắn liền với từng cái tên. Khi ông đọc xong, nàng chỉ nhìn ông. Đôi mắt nàng đã mất hết ánh lửa xa xôi buồn bã ngày trước, chỉ là đôi đồng tử màu đen trống rỗng.
Đây là hình phạt cho tội đại nghịch, ông nói. Chỉ dùng cho gia quyến ngụy triều và võ quan không chịu đầu hàng. Đây là hình phạt để răn đe kẻ làm loạn. Chỉ tận pháp trừng trị như thế mới có thể dập tắt được ý muốn phản loạn. Chỉ diệt trừ tận gốc như thế mới có thể ngăn ngừa hậu họa. Dù Tây Sơn đã tàn lụi, số người bị xử tử chỉ có hơn ba mươi, nhưng những kẻ vẫn ngóng tìm về bóng ma của nó, của nhà Lê, nhà Trịnh vẫn chưa thôi ý định báo phục. Sự nghiêm minh của pháp luật phải được chứng tỏ ngay lúc này.
Đôi môi tái nhợt của nàng mấp máy. Phải một lúc sau, qua vài lần cố thử, giọng nói đã lạc mất trong mấy tháng qua của nàng mới trở lại.
- Cho tôi gặp họ.
- Nàng phải tự đi được đã. - Ông nói, nheo mắt.
Mười ngày sau nàng mới đủ sức đứng dậy để đến nhà ngục, cần có người dìu đỡ. Cùng với hai cung nữ, nàng xuống ngục đá được xây dưới chân hoàng thành. Cơn mưa mùa đông đã làm các bức tường đá ẩm ướt, lạnh ngắt như băng, bốc đầy vị rêu mốc và mùi thối khẳm, tanh nồng lưu cữu. Mấy ngọn đèn nhỏ không thắp sáng nổi qúa vài bước chân, nhìn ra phía trước chỉ có bóng tối đặc quánh, hai bên mờ mờ những thanh gỗ nối tiếp nhau chạy dài. Càng xuống sâu, không khí càng đông lại, khí lạnh xộc thẳng vào như cắt nát cả phổi. Thấy công chúa lảo đảo, cung nữ bên cạnh vội khoác thêm áo cho nàng.
Vài ngọn đèn nữa được đem đến, giờ đây đã soi tỏ bóng người mờ mờ sau những thanh gỗ. Thấy ánh sáng, có người nhìn ra, tỏ vẻ lạ lùng khi thấy nàng. Ở nhà ngục sau cùng, nàng mới nhận ra những khuôn mặt thân quen. Họ ngẩng nhìn, chớp mắt để làm quen với ánh sáng đã trở thành lạ lẫm. Khi ngục tốt đã mở cửa ngục, giọng nói đầu tiên mới ngờ ngợ cất lên:
- Ngọc Bình?
Giọng nói ấy vang từ sâu tít trong tường, mang một thanh âm quen thuộc đến mức nàng thấy làn khí ấm áp tràn vào phổi, át đi cả hơi lạnh khó ngửi của nhà ngục. Lấy chiếc đèn từ trên tay cung nữ, nàng bước lại. Chân nàng đạp lên đống rơm ướt được trải trên nền đất, vấp vào vài sợi xích kêu loảng xoảng. Người vừa gọi tên nàng nheo mắt trong ánh đèn vừa tới. Nhưng nàng mất một lúc mới nhận ra được.
- Hoàng thượng? - Ngọn đèn rung lên trong tay nàng.
tinhh tôi lúc này.
2.
Người trước mặt không phải là chàng thanh niên mảnh khảnh thư sinh, gương mặt trắng trẻo thanh tú như con gái trong trí nhớ của nàng. Nắng gió và chuyến đi dài, hàng tháng giam cầm trong ngục đã làm chàng sạm lại, đen đúa, gầy rộc đi như một thanh củi khô. Chỉ có đôi mắt trong veo màu nâu là vẫn như xưa. Chúng sáng lên khi nhìn thấy nàng, khi Quang Toản cười.
- Đúng là nàng rồi. - Giọng nói chàng mừng rỡ như đang ở một cánh đồng tràn ánh sáng.
Nàng không thốt được lời nào, chỉ đứng trân trân nhìn nhìn chàng. Đằng sau, hai cung nữ vào theo nàng, đặt những gói thức ăn mà nàng chuẩn bị sẵn lên đất, trước những người bị gông vào sát tường. Quang Toản cũng đeo gông, nhưng cái gông của chàng to gấp đôi người khác, dính chặt vào tường. Hai chân chàng cũng bị xích ngược vào tư thế nửa qùy nửa ngồi. Ở tư thế này, tù nhân không thể buông lỏng thân thể một khắc, xương cốt bị vặn trẹo đi, đau đớn tột cùng. Nàng có thể hình dung ra được sự thống khổ ấy, miệng chát đắng. Nhưng khi nàng còn chưa kịp nói gì, ở sau lưng nàng, một giọng nói cáu kỉnh đã vọt lên.
- Nhà chúng ta không thiếu cơm mà lại phải ăn cơm của người khác! - Quang Điện gạt chân vào chén cơm đã được bày trước mặt. Xích kêu chát chúa. Cậu quay sang nàng, vẫn cặp mắt rực sáng như ngày bảo nàng đi trốn. - Tôi nên gọi chị là Chính cung hay tước vị gì khác mà Nguyễn Ánh đã ban cho chị đây? Chị nói cho bọn tôi dễ gọi!
Dù trong bóng tối, nàng có thể cảm nhận được những ánh mắt đang hướng về mình. Kẻ phản bội! Căn phòng gào lên trong câm lặng. Dù đã chuẩn bị sẵn tinh thần, nàng vẫn thấy chân mình run. Một lần nữa, có người nói trước nàng.
- Đừng nói như thế, Quang Điện! - Quang Thiệu bên cạnh vội nói. - Đó không phải là lỗi của nàng. Là đàn ông mà không bảo vệ được người trong nhà, còn trách móc được sao?
- Không, không phải thế!... - Nàng muốn gào lên, nhưng thanh âm nàng khàn đi. Nàng nhìn quanh phòng, nàng nhìn Quang Toản. Nàng không làm gì hết. Nàng không biết, đã không biết gì hết. Đó là lý do mà nàng đã phải sống để gặp họ. Nàng không thể chết oan khuất như vậy. Nàng muốn gặp họ để nói rằng nàng không phản bội, đó không phải là tội lỗi của nàng.
Nhưng giờ đây, nàng chợt hiểu, nàng có nói gì đi nữa cũng là vô ích.
Quang Toản nhìn nàng, đôi mắt trong như muốn nhìn thấu nàng, qua bóng đêm. Cuối cùng, chàng gật đầu.
- Ta tin nàng.
Ba chữ ấy dập tắt cơn sóng rì rào đang nổi lên trong phòng giam. Không còn sức để đứng, nàng thả mình rơi xuống bên Quang Toản. Chiếc đèn trên tay nàng vụt tắt. Nàng cúi đầu, đôi vai run rẩy.
- Không, không phải thế... - Nàng thì thầm. Nghe tiếng thở dài bên cạnh. Khuôn mặt Quang Toản đang nhìn xuống nàng. Như chàng đang nhíu mày.
- Nàng trông có vẻ xanh xao qúa. Sức khỏe nàng có tốt không? Nàng phải giữ gìn sức khỏe, sống tốt mới được.
Chậm chạp, nàng ngẩng lên. Ánh sáng leo lét từ ngoài cửa ngục chiếu vào làm đôi mắt Quang Toản như được tạo thành từ nước. Kỳ lạ, tại sao mắt chàng càng lúc càng trong như vậy, nàng nghĩ thầm. Giọng nói của Quang Toản vẫn ấm áp, điềm tĩnh, trái ngược với vẻ ngoài hiện tại.
- Lúc đưa ta lên xe ngựa chạy trốn, Khang công đã nói, điều hối tiếc lớn nhất trong đời của anh ấy là đã đẩy nàng vào triều đình trong những ngày đen tối nhất. Như vậy, nếu nàng nghĩ quẩn mà liều mình, nếu nàng sống khổ sở, Khang công không thể yên lòng mà nhắm mắt, sẽ bị giằng xé ở cả thế giới bên kia. Anh ấy không có cách nào để chuộc lỗi của mình, chỉ mong nàng có thể vì anh ấy mà sống. Hận anh ấy cũng được...
- Đừng nói nữa. - Nước mắt đã tràn qua má nàng nóng hổi. Nàng cúi đầu, không buồn lau đi, chỉ để mặc mình run rẩy. Hận, phải, nàng nên hận chứ. Chưa bao giờ, chưa bao giờ trong cuộc đời này, người đó lựa chọn nàng, nghĩ cho nàng. Bảo nàng cố mà sống ư? Nói dối. Người đó không vì nàng mà sống, không muốn gặp nàng, sợ phải gặp nàng. Không gặp nàng cho đến hết đời. Thà chết còn hơn gặp lại nàng. Thà tự sát mà chết chứ không cần sống. Người ấy đã chết cho sự kiêu hãnh của mình, vậy còn nàng, nàng phải mang mối nhục này sống để làm gì?
Chưa bao giờ, chưa bao giờ trong cuộc đời này, người ấy nghĩ cho nàng. "Dù thế nào cũng phải cố mà sống", đó là lời nói của người ấy sau khi đẩy nàng vào hang hùm. Là cái lý gì chứ? Người ấy tước đi của nàng tất cả, ngay cả trái tim, tình yêu của nàng, bỏ nàng lại, rồi bảo nàng phải sống tiếp ư? Có tư cách gì mà nói như thế?
Rồi đến lượt nàng, nàng đã làm gì? Người ấy thà tự sát chứ không muốn sống để gặp nàng, phải chăng đó là lỗi của nàng? Nàng đã làm một việc quái ác đến thế, gây tổn thương đến thế, để người ấy không bao giờ còn đủ tư cách để làm người. Nàng đã nói thế, đã làm thế. Đã đẩy người ấy vào địa ngục. Để người ấy không thể sống. Nàng sẽ sống như thế nào, với gánh nặng ấy?
Dù thế nào cũng phải cố mà sống, đó là cái lý gì?
Quang Toản im lặng chờ nàng dịu xuống. Khóa xích kêu khe khẽ khi chàng cử động. Ngẩng nhìn qua lỗ thông khí cao trên mái nhà giam, chiếu qua thứ ánh sáng mờ nhạt như một ngôi sao xa tít, chàng mỉm cười.
- Nàng biết không, ta bị bắt ở Xương Giang. Trước khi bị bắt, ta nghe được một bài hát trên sông có câu: "Sông đây, đất đấy. Muôn thưở thanh bình". Lúc ấy, ta đã nghĩ, đó chẳng phải tên của nàng sao? - Giọng Quang Toản nhỏ nhẹ đủ cho một mình nàng nghe. - Trong những ngày tháng bị giam vừa rồi, ta chợt nghĩ được nhiều thứ, những điều mà trước đây ta chưa từng nghĩ.
Rốt cuộc, ta làm vua để làm gì? Khi vừa biết nhận thức, ta đã được cầm ấn triện thái tử, rồi hoàng đế mà chưa biết mình phải làm gì. Rồi chiến tranh, rồi tranh đoạt, mâu thuẫn. Ta cứ để mình bị cuốn đi, người khác nói sao thì mình nghe vậy. Tình thế thế nào thì ta ứng phó theo thế. Những phản ứng của ta chỉ làm tình hình tệ hơn. Ta luôn luôn tự hỏi, tại sao lại là ta?
Rốt cuộc, ta tự hỏi, chúng ta để làm gì? Những máu xương này, những cái chết này, rốt cuộc để làm gì? Cái lý tưởng thế thiên hành đạo của Tây Sơn ngày khởi nghiệp đã mất lâu rồi. Tất cả mọi người chỉ lao vào tranh giành, cấu xé lẫn nhau. Tây Sơn đánh cường hào áp bức, nhưng cuối cùng lại trở thành chính những kẻ ấy. Nguyên do là gì?
Nhưng Tây Sơn nổi dậy có phải là sai không? Không. Chúng ta chiến thắng. Chúng ta có thể tự hào. Chúng ta là cơn lũ quét sạch những tranh chấp trên đất nước này. Điều chúng ta không thể làm là để mảnh đất ấy có thể mọc lên những chồi cây xanh tốt.
Phải, đó là điều mà ta không thể làm. Tây Sơn cũng không thể làm. Chúng ta bị cuốn vào thời thế, vào chiến tranh. Không có vương đạo, chỉ có bá đạo. Thắng làm vua, thua làm giặc. Kẻ nào chiến thắng cũng như thế mà thôi. Nhưng tại sao lại có chiến tranh, tại sao chúng ta nổi dậy, tại sao chúng ta thất bại, ý nghĩa của sự tồn tại, đã từng tồn tại của chúng ta là gì?
Khang công đã chết. Bao nhiêu người đã chết. Chúng ta cũng sẽ chết. Tất cả chúng ta có ý nghĩa gì?
Khi bị bắt, ta chợt nghĩ, thế là đã "thanh bình". Đã thống nhất. Đã bình yên. Điều mà chúng ta không thể làm được, đã có một người làm được. Trong đôi mắt người ấy, ta thấy sự thù hận, nhưng không phải là cừu hận. Người ấy phục thù bằng cách làm được những gì mà chúng ta không thể làm.
Ta nghĩ đến nàng. Chúng ta không đem lại hạnh phúc cho nàng. Chúng ta cũng không có hạnh phúc. Không ai trong chúng ta hạnh phúc. Như vậy, nếu có một kết cuộc có thể đem lại bình yên thôi, cũng đáng để chúng ta hy sinh bản thân mình. Đó chẳng phải là điều mà chúng ta đã muốn làm khi khởi nghiệp sao? Đó chẳng phải là mơ ước của chúng ta sao? Đó chẳng phải là khát vọng của chúng ta sao?
Vì khát vọng ấy mà hy sinh chẳng phải là ước nguyện của chúng ta sao?
Khi chúng ta bị hủy diệt, sẽ không còn oán thù trên mảnh đất này. Chúng ta là một cơn hồng thủy, và đã đến lúc chúng ta tự tan biến. Chỉ có thế, cây cỏ mới có thể mọc lên.
Trên đời này chẳng có gì là vĩnh cửu. Có thịnh thì phải có suy. Suy thì sinh ra loạn. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Cần có kẻ điều chỉnh, mang lại thanh bình. Nhưng cũng cần có kẻ biết đứng dậy chống đối, giương lên lá cờ chính nghĩa.
Chúng ta không thể đảm nhận cả hai vai trò, vậy thì, nhiệm vụ của chúng ta giờ đây là ngẩng cao đầu nhận lãnh kết cuộc của mình. Cái chết của chúng ta đem lại bình an cho đất nước này. Nhưng cái chết của chúng ta phải cho thấy rằng khát vọng của chúng ta, điều mà chúng ta kiêu hãnh vì nó, không chết.
Một kẻ không biết làm vua như ta, đến cuối cùng, chỉ việc này là có thể làm. Ta sẽ nhận lãnh kết cuộc của một triều đại. Ta sẽ sống, sẽ chịu đựng tất cả những nhục hình này đến ngày cuối cùng.
Quang Toản ngừng lời. Ngọc Bình đã ngẩng lên, chăm chú nhìn chàng. Chàng bất chợt ước ao mình có thể chạm vào nàng, lau nước mắt cho nàng. Chàng đã ao ước điều đó biết bao nhiêu. Đã có những ngày thật dài chàng lặng lẽ nhìn nàng trốn đâu đó trong cung rơi nước mắt mà không dám đến gần. Đã có những ngày thật dài trong hơn bốn trăm ngày được ở bên nàng.
Đã có những ngày thật dài...
- Khi đưa ta ra khỏi cung, Khang công đã nói: Người phải sống. Anh ấy đã nguyện chết cho ta được sống. Chúng ta vui khi được chết mà không phải phạm tới nàng. Qúa nhiều người đã chết. Qúa nhiều người chết. Nàng hãy vì ta mà sống. Vì ta mà sống để nhìn sự thanh bình của đất nước này. Vì ta mà sống để biết cái chết của chúng ta có giá trị thế nào. Khi đặt tên cho nàng, người con cuối cùng của triều Lê, hẳn phụ hoàng và mẫu hậu của nàng đã mong muốn được nhìn thấy điều đó. Số phận đã đặt nàng nơi đây là để cho nàng thành chứng nhân của nó...
Quang Toản chợt ngừng nói khi một bàn tay chạm vào má chàng. Nàng vòng tay qua chiếc gông, ôm lấy chàng. Nước mắt nàng ướt đẫm cổ và vai chàng.
- Đừng. Người ta dơ bẩn lắm. Đã mấy tháng nay ta không được tắm. Còn rận rệp nữa...
Chàng bối rối, luống cuống trong vòng tay nàng càng lúc càng siết chặt. Tiếng thổn thức của nàng làm rung động cả chiếc gông, cả sợi xích to bằng bắp chân đang bao vây chàng. Chàng vụng về vẫy bàn tay đang bị giam trong gông vỗ nhè nhẹ lên vai nàng. Hơi ấm của nàng bao phủ chàng, át đi mùi mưa lạnh của căn hầm giam tối.
Nàng hãy hứa vì ta mà sống, được không? Chàng muốn hỏi, nhưng cuối cùng im lặng. Nghe nước mắt nàng rơi trên vai.
Đã c3.
Trà này thật là có vị đắng, Nguyễn Phúc Ánh thầm nghĩ khi đặt ly trà hoa nhài xuống bàn. Cảm giác của ông đêm đó qủa không sai. Khi mùi hoa phai đi, một tư vị đăng đắng sẽ còn phảng phất ở lại. Ngọc Bình thích mùi trà này, ông đã đặt loại thượng hạng cho nàng, sai cung nhân ủ. Hoa nhài... Cành hoa trên tóc nàng và cành hoa ông đã chợt thấy trên miếng giáp của thi thể người thanh niên kia, chúng giống nhau một cách lạ lùng.
Mưa vẫn rả rích ngoài hiên khi bóng chiều đang dần buông xuống. Nàng vẫn chưa về. Ông vẫn chưa quen hẳn với mùa đông và mưa đông Phú Xuân. Mùa đông trước ông còn đang ở chiến trận. Những năm tháng trước đây chỉ còn là cái bóng nhạt mờ. Mùa đông Phú Xuân ảm đạm mưa không dứt, làm con người như bị dìm trong nỗi buồn, trong hơi lạnh tái tê như dao đâm. Ông nghĩ đến những ngày tháng trước mắt, những kế hoạch đang còn suy tính. Hoàng đế, cái tên ấy không làm ông cảm thấy vui như đã nghĩ.
Ngón tay ông vẫn nhớ cảm giác khi bóp cò cây súng điểu thương. Thân thể ông vẫn nhớ cảm giác được rong ruổi trong những chuyến đi dài. Thời còn trẻ, ông đủ ngông nghênh để đứng cuối mũi thuyền bắn vào đám lính đang truy đuổi để chặn đường cho thuộc hạ chạy thoát. Thời còn trẻ, ông bơi vượt qua những con sông đầy cá sấu, ngủ đêm với đám rắn lúc nhúc dưới mạn thuyền. Chiến trận có một sức hấp dẫn mê đắm, cả khi chiến đấu lẫn khi vạch bàn chiến lược. Những ngày bình an phía trước lại cho ông một cảm giác trống trải khó lý giải.
Có một khoảng thời gian khác, ngắn ngủi nhưng dài dằng dặc giữa những khoảng đất đầy cọ và sông nước Xiêm La. Cũng cảm giác trống trải này, nhưng cũng là sự hoang mang đến cùng cực. Chỉ có chừng sáu trăm quân lính, bị Xiêm vương theo dõi gắt gao không để rời khỏi tầm kiểm soát một bước, cả những người Tây dương cũng không ngó đến, hy vọng phục hồi của ông nhỏ hơn cả hạt cát. Mỗi đêm, mỗi buổi chiều, khi công việc trong đồn điền kết thúc, những chiếc thuyền đã cập về bến dưới hàng dừa nước, ông lại nhìn về phía chân trời nơi trăng đang mọc. Chuông chùa từ những tòa tháp cao với vòm nhọn dát vàng vang dội trong thinh không, thúc vào thành ngực ông từng hồi giục giã dài. Phương Đông - Quê hương, gia đình, dòng tộc, thù hận và chia ly. Tiếng gọi ấy vượt qua ngàn dặm đường, vượt qua núi, qua biển để theo cơn gió đến với ông. Mẹ già, người vợ tảo tần nhẫn nhịn, người con trai nhỏ bé đã mím môi cùng Bá Đa Lộc buổi xuống thuyền - Họ vẫn đợi ông. Linh hồn của các chúa Nguyễn vẫn đợi ông. Linh hồn của những người anh em chết trận vẫn đợi ông. Những tiếng gọi ấy đã vực ông dậy trong những đêm dài thăm thẳm, trong nỗi cay đắng, nhục nhã và u uất của cuộc sống lưu vong giữa triều đình Xiêm La tráo trở đầy thủ đoạn.
Những ngày ấy đã dạy cho ông biết cách giành lấy chiến thắng bằng mọi giá. Ông không thể thua. Ông nhất định phải thắng trận chiến này. Toàn diện. Hoàn toàn. Chỉ có thế, Nguyễn Phúc tộc mới có thể tồn tại. Chỉ có thế, ông mới trả được món nợ đã mang với dòng họ, với mẹ già, với vợ con. Nếu ông thất bại, họ sẽ bị hủy hoại cùng ông - như những kẻ bây giờ. Chiến tranh chỉ có thể kết thúc khi duy nhất một kẻ được phép tồn tại.
Ông đã sống, đã hy vọng, đã đợi chờ bằng sức mạnh của ngọn lửa cháy bừng lên trong gió chiều tà khi từng ngày lịm tắt. Ông đã cố gắng bắt lấy bất cứ cơ hội nào có thể, và cũng đã bấy nhiêu lần gượng dậy sau thất vọng. Giữa đất nước của các mái chùa vàng, ông đã mài dũa lòng mình bằng lửa. Ông không cho phép mình buông tay, không cho phép mình lơi lỏng trong bất cứ giây phút nào. Lửa đã lan rộng, ngùn ngụt trong khoảng trống của thời gian ấy. Như địa ngục.
May mà ông đã gặp nàng, ông nghĩ khi đứng dậy, trở về cung. Còn biết bao công việc chờ ông. Miễn thuế mùa hạ cho Bắc Hà, phát chẩn cứu đói cho Gia Định, mở mỏ khai thác kim loại cho Thanh Hóa, tất cả đều cần nhân lực và vật lực hỗ trợ. Thời bình đối với ông là một cuộc chiến khác. May mà ông đã gặp nàng, người đầu tiên nói với ông rằng mối thù của ông không có ý nghĩa gì. Không có ý nghĩa gì, không phải như những lời trầm trọng, thổi phồng của mọi người xung quanh.
Hay là do chính ông đã nuôi dưỡng cảm giác đó trong những thuộc hạ, những kẻ xung quanh mình? Sự thù hận đem đến một sức mạnh to lớn, sự cảnh giác cao độ, đủ để đập nát mầm mống của kẻ địch từ trong trứng nước. Oán thù này sẽ đời đời được ghi nhớ, được nuôi dưỡng, bằng văn tự, bằng bài học, bằng hình phạt. Phải được ghi dấu sâu sắc vào trong tim bất cứ ai. Một thứ oán thù được cấy vào trong tiềm thức, để họ Nguyễn này phải luôn luôn nhớ được vị trí của mình, của những gì đã diễn ra suýt dẫn đến mối họa diệt tộc. Trong khi nó thực ra lại không có mấy ý nghĩa đối với ông. Không còn. Cùng với thời gian, với qúa nhiều việc đã diễn ra, sự căm hận này đã bị đẩy về một phương hướng khác. Nó vẫn còn ở đó, nhưng dưới một hình thái khác, không phải như ông đã tưởng.
Nàng gọi đúng tên nó, cảm giác đó, nhìn thẳng vào ông. Nàng là người duy nhất nhận ra sự mơ hồ trong ông. Cho ông thấy con đường mà ông thực sự muốn. Giải thoát cho ông.
Kẻ bên ngoài bảo ông chiều chuộng, si mê nàng. Thật ra, ông hàm ơn nàng. Cô gái trẻ thua ông hai mươi tuổi ấy lại có sự trong sáng, tỉnh táo và độ lượng đã bị tiêu diệt, xóa sạch trong ông từ rất sớm. Vì thế, ông tôn trọng nàng. Nàng gần với ông hơn bất cứ ai. Một người như ông, kẻ đã sớm dứt bỏ mọi ham muốn, đam mê nào có hại cho sự nghiệp, một giọt rượu cũng không uống, uốn nắn, rèn luyện chính bản thân mình đến mức khắc nghiệt, lại có thể say đắm một cô gái trẻ? Lại có thể vì một sắc đẹp mà hồ đồ? Mà nếu có, thì cứ coi như đó là điều lỗi lầm duy nhất mà ông tự cho phép bản thân mình. Nếu như trân trọng, nâng niu một con người là lỗi lầm.
Con người đó lại đang đợi trước cửa cung của ông. Sắc mặt nàng vẫn còn tái xanh, tuy không bệch bạc như mấy ngày trước. Nàng dựa vào cột đỡ hàng hiên, phải có một cung nhân che ô tránh mưa bên cạnh. Mắt nàng đỏ, hẳn là mới khóc. Nàng nhìn ông, vẻ u buồn ảm đạm đã trở về trong mắt nàng. Người con gái luôn khiến người khác muốn đưa tay đỡ lấy, nhưng phải ngần ngại không dám chạm vào.
- Nàng tìm ta có việc gì? - Ông hỏi khi nàng cúi chào. Vẫn không đứng dậy, nàng nói, giọng còn rất mệt mỏi.
- Xin ngài có thể gia ân cởi gông xích cho hoàng... cho Quang Toản. - Cái tên ngập ngừng trên môi nàng. Ông cau mày. - Sức khỏe người ấy yếu lắm, đang ăn còn phải nôn ọe ra, đau bụng quằn quại mà không gập người xuống được. Làm ơn, ngài làm ơn thả lỏng xích cho người ấy.
Giọng nàng run rẩy, không phải vì sợ hãi. Nàng cúi đầu rất thấp, gần như chạm xuống nền đất. Ông nhớ đến sự cao ngạo của nàng trước kia, cảm thấy vừa thương tâm vừa khó chịu. Ông im lặng nhìn ra ngoài sân, nơi mưa vẫn không ngớt rơi trong bóng tối vàng quạch ánh đèn.
- Không được. Hình phạt ấy là quy định. - Ông nói, quay lưng định đi. Ông không muốn nhìn thấy nàng như thế này. Nàng ngẩng đầu lên, nhưng vẫn qùy, không đứng dậy.
- Vậy thì tôi sẽ qùy ở đây chừng nào người ấy vẫn bị trói. - Tính ương bướng của nàng trở lại. Không trả lời, ông đi vào cung.
Qủa thật, nàng đã qùy trước cửa cung ông, không chỉ một đêm mà cả ngày hôm sau. Nàng bảo cung nhân đem đồ ăn và thuốc đến, quyết giữ sức chống chọi với ông đến cùng. Nàng bỏ mặc cả những ánh mắt tò mò, thương hại, dò xét của người qua lại. Đêm sau, mưa chợt nặng hạt, gió giật, hắt ướt cả khoảng hiên. Khi ông ra, nàng vẫn co ro qùy dưới chiếc ô, không thể giấu được làn da tái đi vì lạnh.
- Sao nàng phải làm thế này? - Ông hỏi, cố gắng chế ngự ý muốn sai lính lôi nàng về cung. Nàng ngẩng nhìn ông, cái chế giễu lặng thầm lại hiện lên trong mắt.
- Tôi cũng là gia quyến ngụy triều, tất nhiên phải chịu chung hình phạt, thưa ngài.
Ông mỉm cười trước lời nói của nàng.
- Không. Trước đây ta nghe nàng gọi tên một người khác. Nàng cũng thương khóc một người khác. Nàng đã không giữ đạo làm vợ, giờ đây còn có thể nói đến điều đó sao?
Làn da xanh xao của nàng không thể tái đi hơn được nữa, chiếc ô trên tay nàng rung động. Nàng cụp mắt xuống, không giấu được cái cắn môi. Nhưng khi nói, giọng nàng vẫn cứng cỏi.
- Ngoài tình còn có nghĩa. Người ấy là một người rất lương thiện, rất dịu dàng, rất biết cảm thông. Dù có là kẻ thù danh nghĩa, gia ân với người ấy cũng không làm giảm đi tính nghiêm khắc của ngài.
- Có đấy. - Ông ngồi xuống hàng rào bên hiên, chênh chếch trước mặt nàng. Mưa hắt vào ướt một bên vai ông.- Kẻ thù danh nghĩa, nàng cũng hiểu mà. Nếu ta là một kẻ điên cuồng thù hận thật, thì ta đã quật mộ kẻ tiếm vị kia ngay từ lúc bước vào Phú Xuân, không chung sống với nó cả hơn nửa năm, ta đã có thể tra tấn hành hạ bọn Quang Diệu suốt mấy tháng ở Bắc Hà, ta đã có thể đem tất cả những kẻ liên quan đến ngụy Tây ra xử, tắm máu cả mảnh đất này, không chỉ võ quan và gia quyến chúng. Ta đã không làm thế. Ta đã đem mọi thứ xử trị theo pháp luật. Ta đã tha cho tất cả những kẻ chịu đầu hàng. Ta đã ban lệnh cấm tàn sát dân ở ngay chính hang ổ kẻ thù. Nàng nghĩ ta không biết căm giận ư, khi Võ Tánh mất ở Bình Định sau khi chính những kẻ ta đã tha mạng kia trở thành chướng ngại vật bao vây ông ta? Nàng nghĩ ta không biết trách cứ bản thân vì quyết định ấy sao, dù khi làm lại, ta vẫn sẽ làm như thế? Nỗi đau của chúng ta không có ý nghĩa gì sao? Mối hận của chúng ta không có ý nghĩa gì sao? Sinh mạng của chúng ta không có ý nghĩa gì sao? Ta và nàng, cái ngày mà chúng ta bị đuổi giết, bị hủy hoại, có tội lỗi gì ư? Ta là kẻ rõ hơn ai hết tất cả thảm cảnh, tất cả nỗi đau mà một người có thể phải chịu đựng. Ta là vua của đất nước này. Dù sau này ta có làm những việc như thế nào, đó vẫn là pháp trị của ta. Ta tuyệt đối không phải loại người làm việc hàm hồ, nghe theo những lời van xin khóc lóc. Ta không muốn nhìn thấy nàng hạ mình thế này, và ta cũng không nghe khi nàng làm thế. Có gì muốn nói, nàng đứng lên đi.
Ngọc Bình chớp mắt, rồi chống tay đứng dậy. Cung nhân bên cạnh phải chạy lại đỡ nàng. Lảo đảo dựa vào cột chống, nàng nhìn ông chờ đợi. Ông thở ra.
- Từ ngày mai hắn sẽ bị giải đến sân Thái miếu phơi dưới trời. Nàng không cần cầu xin nữa, mà hắn cũng không muốn nàng cầu xin ta đâu. Hình ảnh nàng ngày vừa rồi mà đến tai hắn, nàng nghĩ hắn sẽ đau lòng thế nào? Khả năng chịu đựng là một niềm kiêu hãnh của nam nhân, nàng là vợ hắn, cũng nên kiêu hãnh vì hắn mới là đạo. Trần Quang Diệu xin ta tha cho mẹ hắn mà cũng giấu không cho bà biết, để bà có thể tự hào. Chịu đựng nỗi đau thể chất là việc của nam nhân, và chịu đựng nỗi đau tinh thần là việc của nữ nhân. Nếu muốn chia sẻ với hắn, nàng nên học cách để cùng kiêu hãnh với nỗi đau đó, không phải làm việc này.
Ngọc Bình cúi đầu im lặng. Ông đứng dậy, đi vào cung. Mưa vẫn tầm tã với làn chớp sáng giật từng hồi ngoài trời. Lặng lẽ, nàng quay bước về cung mình.
Trong đêm, mưa dần ngớt. Thông lại reo rì rào trong sân. Nước nhỏ tí tách bên mái cùng gió vi vu thổi. Nàng ngồi bó gối nhìn ngọn đèn uốn mình bùng lên rồi lại lịm đi theo từng cơn gió luồn qua cửa sổ. Bình trà vừa pha đã nguội lạnh. Người cung nhân ngủ gục bên cửa, hơi thở khe khẽ vang. Bếp lửa để giữa phòng than nổ lách tách. Rồi mưa lại tới, rì rầm, rỉ rả.
Nàng rút cây trâm bạc trên đầu xuống, chăm chú nhìn những đường nét uốn lượn của cành hoa, chiếc lá. Ngón tay nàng viền theo chúng. Lớp kim loại lạnh ngắt dưới làn da nàng. Nàng nghĩ đến hơi ấm của một ngày xa xôi nào đó. Những vòng tay đã ôm lấy nàng đều đã rời xa.
Chậm chạp, nàng ấn đầu mũi trâm vào cánh tay. Máu ứa ra, giọt đỏ như son trên làn da nàng. Nàng nhăn mặt, dừng tay. Màu bạc vẫn lấp lánh sáng trong mắt nàng.
Nàng không muốn tìm đến cái chết. Nhưng chỉ có cái đau đang dội lên này mới chế ngự được cơn giá lạnh trong tim nàng. Mới có thể giúp nàng chịu đựng được.
Nàng không muốn tìm đến cái chết.
----------
Chú thích:
Những việc của Gia Long sau khi ổn định Bắc Hà được dựa theo ghi chép của Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn.
** Quật mộ và xử tội với thi hài là một hình phạt bình thường trong thời Nguyễn. Sau này cả Lê Văn Duyệt lẫn Lê Chất đều bị hình phạt này. Cho nên nó chẳng có gì to tát như người đời sau truyền tụng là "thù hận đời đời" đâu.
ó những ngày thật dài...
4.
Tháng mười một, giữa những cơn mưa dai dẳng, bầu trời Phú Xuân chợt hửng nắng. Nắng trắng xanh, mờ nhạt trải trên những vũng nước đọng, trên các cành cây cao còn bóng loáng nước, len giữa những mảng sương phảng phất từ sông ùa vào. Mặt sông lấp lánh ánh bạc như dòng thủy ngân lặng lẽ chảy, uốn mình gữa những đồi núi xanh đen. Trong sân Thái miếu, nắng rọi lên lưng của hàng người mặc áo tù màu xám đang qùy. Họ giống nhau một cách đáng ngạc nhiên, không phân nam nữ, từ màu da tái sạm, hình dáng khô gầy đến nét mặt sắt lại, khắc khổ, nghiêm nghị. Trước mặt họ, những hàng người khác, mặc quan triều sặc sỡ, đang đứng nghiêm, kính cẩn nghe nhà vua đọc lễ văn tế tổ tiên - Những vị chúa nhà Nguyễn đã khai phá vùng đất Phú Xuân này, đã mở đầu một vương triều, đã sinh ra vị hoàng đế đầu tiên ở miền Nam Đại Việt.
"Trẫm vì chín đời tổ tiên mà báo thù", nhà vua nói, trước khi quật mộ kẻ cừu địch ở Phú Xuân, và cả dòng họ Hồ ở Bình Định, đồng thời phá tan cả một huyền thoại về "vùng đất thế phát" mà Tây Sơn từng loan truyền. Các nhà địa lý, phong thủy thực hiện các bí thuật yểm bùa lên huyệt mộ. Họ được toàn quyền làm việc đó, vì nhà vua vốn thông hiểu kiến trúc châu Âu hơn là để tâm đến phép phù thủy địa phương. Ngay khi còn ở Thăng Long, nhà vua đã cho xây dựng hàng loạt miếu công thần từ Nam chí Bắc, đã trùng tu, cúng lễ tổ tiên nhà Lê, đã tế lễ những trung thần Lê, Nguyễn trận vong. Ân đã đền, bây giờ là lúc trả oán. Ngày hôm nay sẽ là ngày đáng ghi nhớ đối với các sử gia. Trong lẫn ngoài Thái miếu, một không khí lạ lùng đang bao phủ: Hả hê, sợ hãi, đau thương, oán hận, có người trút một tiếng thở dài nhẹ nhõm, cũng có người lặng lẽ lau nước mắt, có kẻ run lên vì sợ. Tất cả sự chú ý tập trung về những cái lưng đang bị cột oằn xuống phủ màu vải xám giữa sân.
Hôm nay trời đẹp thật, dường như chẳng để ý gì đến không khí ấy, chàng trai ở đầu hàng trên cùng ngẩng lên, nheo mắt nhìn bầu trời trắng xám. Nắng chiếu vào đôi mắt nâu trong veo như của một đứa trẻ, lạc loài với khuôn mặt gầy sọm, đen tái và hình dáng như một cành cây khô bị ngâm nước lâu ngày. Vài sợi tóc rơi xuống trước mặt, không cách nào vuốt sang bên được, chàng lấy thế làm phiền muộn.
Chàng thật muốn nhìn thấy bầu trời, ánh nắng, mặt đất trong ngày cuối cùng này. Trời đã không phụ chàng, cho hôm nay là một ngày nắng hiếm hoi giữa mùa đông. Miên man, chàng lại nghĩ đến vùng đất hanh vàng nắng của những ngày thơ ấu, rồi chàng tự hỏi, miền đất ấy có thật không, hay nó vốn chỉ tồn tại như ước vọng của chàng. À, ký ức, giờ đây, khi nhớ lại, chàng không rõ ký ức mình đã bắt đầu từ đâu. Từ giọng nói ngân nga của nàng công chúa Bắc Hà, từ những ngày mưa ảm đạm bên ngoài khu vườn nhỏ, những hạnh phúc le lói như chớp sáng của nắng xuyên qua tán cây? Chàng chưa bao giờ cảm thấy yêu cuộc đời này, nhưng khi sắp phải rời bỏ nó, lại có một cảm giác trìu mến như với một mùa hạ cũ.
Xung quanh chàng, đám quân lính đã rục rịch chuyển động. Tế lễ đã xong, giờ là lúc đưa phạm nhân ra pháp trường. Những đầu dây buộc họ được kéo lên, và họ đứng dậy, từng người một. Chàng cảm thấy hai chân đã rời khỏi mình, không còn một chút cảm giác, chỉ có thể di chuyển do bị kéo về phía trước. Từ phía xa, trong vùng đất rộng được xây vội vàng thành đất bao quanh, chàng nghe tiếng giậm chân của những con voi to nặng. Giữa khoảng đất có những bộ xương trắng không đầu được bày ra gọn gàng. Rất từ tốn, đám lính nhặt từng mẩu lên, đập nhỏ rồi bỏ vào chậu sành giã nát. Từng người xung quanh đến đái vào. Tiếng thở nặng nề bên cạnh và chàng thấy miệng mình đắng ngắt.
Khi chiếc uôm chứa xương vụn được đưa tới trước mặt, chàng ngẩng nhìn vị hoàng đế trên khán đài. Đây là những gì ông đã cảm thấy, phải không? Ông đã từng muốn thét gào, muốn đập phá, muốn ngay lập tức có cánh, có vuốt để giết kẻ đã làm điều tương tự với tông miếu gia tộc ông. Ông muốn ta cảm thấy nỗi đau đó. Ông muốn tất cả đều phải biết sự giận dữ này. Những việc không bao giờ được tha thứ. Không bao giờ tha thứ.
Bữa cơm cuối cùng được bày trước mặt chàng. Đám người không ai đụng tới những khay thức ăn dù đã bị ép ngồi xuống. Dùng những ngón tay run lẩy bẩy, chàng gắp món ăn được dành riêng cho mình.
- Hoàng thượng, nhà chúng ta thiếu gì mâm vàng đĩa bạc mà phải ăn của chúng!- Quang Thiệu giận dữ nói to. Đám lính liền tới bịt miệng cậu. Chàng không nhìn người em. Đừng nghiệt ngã với cái chết như vậy, chàng muốn nói. Được chết trên pháp trường, dù với hình phạt nào, vẫn còn may mắn hơn những người đã bị dẫm đạp nát tan ngoài chiến trận, hứng chịu những cơn đau triền miên của kiếp người khổ ải. Cũng đừng nghiệt ngã với kẻ khác. Nỗi đau có thể mang xuống tuyền đài, nhưng đừng đem theo thù hận. Đã sắp trở thành oan hồn lưu lạc không mộ không thây trên cõi thế này, còn sá gì đói hay no? Tỏ ra dũng cảm ư, chàng không đủ sức. Tỏ ra căm hận ư, chàng mệt mỏi rồi. Ông ta muốn thấy chàng giận dữ, hờn căm trước những cái xác này. Ông ta muốn tất cả phải thấy được sự giận dữ đó. Sự giận dữ của ông ta. Sự căm hận của ông ta. Càng phản ứng, chàng sẽ càng chứng tỏ rằng ông ta đúng.
Chàng không cười, chỉ cố chống tay đứng dậy. Bọn lính liền xốc chàng lên, bịt miệng chàng bằng miếng vải lớn.
Nhóm người bị tách đôi ra, một bên bị lãnh án xử trảm, một bên bị voi giày. Họ nhìn nhau, im lặng. Như những người đang hẹn ngày gặp lại.
Chàng dẫn đầu đoàn người đi về phía sân bên kia, nơi tiếng rống của đàn voi ngày càng gần. Mặt đất rung rinh nhè nhẹ. Trên bục cao, vị quan trông coi việc thi hành án đang rà soát một lần cuối bản danh sách. Đã nghe tiếng gọi tên tử tù từ bên trảm quyết vọng đến. Những lớp người đang đứng vòng trong vòng ngoài pháp trường lặng phắc. Có tiếng xì xào rì rầm như sóng biển đang lan tỏa, lơ lửng trên khoảng không gian rộng. Trời đang dần chuyển sang trưa, gió hiu hiu, mát lạnh, mặt trời chỉ là một vầng sáng trắng sau tầng mây. Chim ríu rít kêu ở đâu đó giữa những lùm cây. Chàng có thể tưởng tượng ra tiếng thông reo rì rào trong núi, sau các mỏm đồi.
Lính kéo đoàn người sắp hàng theo thứ tự. Chàng là người cuối cùng. Vì bên xử trảm bắt đầu và kết thúc sớm hơn, chàng cũng sẽ là người cuối cùng bước ra pháp trường. Đã nghe tiếng hét lan truyền từ đầu bên kia lại. Bùi Thị Xuân và con gái bà bị đẩy ra trước. Cô bé mười lăm tuổi mặt tái xanh, chân đứng không vững, ngoái nhìn mẹ thảng thốt như cầu cứu. Lính bước tới, thô bạo giật bộ quần áo trên người cô xuống. Chàng ngoảnh đi.
Có một sự phi lý khủng khiếp đang xảy ra nơi đây, chàng thầm nghĩ khi tiếng voi rống lên xé toạc màng nhĩ cùng tiếng hét của cô gái nhỏ. Những đứa trẻ có tội tình gì? Có và không có và sẽ có. Người đàn ông đang ngồi kia, dưới những tán lọng vàng, trong đám người nhao nhác tựa cỏ trong cơn gió, là một đứa trẻ còn sót lại và đã thực hiện nhiệm vụ báo thù của mình. Ông ta đáp lại kẻ thù bằng chính những gì ông ta đã phải chịu đựng. Ông ta sẵn sàng phơi bày trong ánh sáng sự trả giá của vòng luân hồi bất tận, sự sòng phẳng của oán thù. Ông ta hiểu hơn ai hết sức mạnh của lòng oán hận, sức sống, sự tồn tại dai dẳng của nó. Dù bao nhiêu năm tháng trôi qua, dấu vết của nó cũng không bao giờ bị xóa nhòa, sẽ còn được nhắc lại, ghi nhớ, ca ngợi hay nguyền rủa.
Đó chính là sự phi lý khủng khiếp mà chàng đang cảm thấy lúc này. Ở vào địa vị ấy, chàng có làm không, chàng tự hỏi mình, và câu trả lời là có. Như ngày xưa chàng đã muốn bắt Lê Chất, đã muốn trừ diệt tất cả những kẻ liên quan đến Lê Trung, nạn nhân dưới tay chàng. Trực tiếp hay gián tiếp, cuối cùng khác gì nhau. Không có và sẽ có, khác gì nhau?
Trong cuộc chiến này không có đúng và sai, thiện và ác, chỉ có những kẻ phải tìm đường để tồn tại theo cách của riêng mình. Những ước mơ, hy vọng cũng phải tìm cách để tồn tại. Trong tấn thảm kịch đang diễn ra trước mắt, chàng chỉ cảm thấy nỗi buồn mênh mang cho thân phận con người. Kết thúc rồi, chàng tự nhủ. Những sinh mạng cuối cùng phải trả giá cho hơn ba chục năm ròng hỗn loạn. Khoảng trời mênh mông đang ửng màu xanh mờ trước mắt chàng thật là xa vời vợi. Khoảnh khắc này, chàng thật muốn sống đến mức nào.
Tiếng Bùi Thị Xuân quát lên, và tiếng động xung quanh chợt lặng. Bà đã quát con voi lùi lại, theo hiệu lệnh mà bà đã quen thuộc trong từng ấy năm ròng. Chàng mỉm cười. Đàn voi lại được thúc tiến tới. Chàng lại ngoảnh mặt đi.
Không phải chàng sợ hãi, nhưng nhìn những người phụ nữ bị lột trần, giẫm nát dưới chân voi, chàng thật có một chút bất nhẫn. Chàng muốn dành cho họ một chút tôn trọng cuối cùng. Không nhìn họ, và ghi nhớ họ, trong ký ức còn lại ngắn ngủi này, bằng hình ảnh tươi đẹp nhất. Chàng cũng muốn nàng như vậy. Có ý nghĩa gì khi thấy thân thể nát bấy của những người thương yêu, thấy họ bị lăng nhục trước mặt mình? Nàng hãy sống hạnh phúc, và đừng tới pháp trường, chàng đã nói. Chàng phát hiện ra họ đã nói với nàng rằng Quang Thùy thắt cổ tự tử, tránh phải kể cho nàng về thi thể chàng đã chứng kiến. Điều đó thật tốt.
Ở hai đầu pháp trường, máu đã ướt đẫm khoảng đất dưới bục xử trảm, dưới chân voi. Đám người qua những rung động, xôn xao ban đầu đã lặng dần, thở nặng nề. Mùi máu tanh nồng cuốn trong gió, hắt thẳng vào bầu trời. Người thanh niên với đôi mắt trong vẫn lặng lẽ đứng tựa vào cột chống của thành đất, có vẻ an nhiên kỳ lạ trước khung cảnh trước mặt. Chàng nhìn vị hoàng đế đằng xa, thấy cái cau mày rất rõ của ông ta. A, ông ta cũng mệt mỏi, chàng nghĩ, với sự thích thú gần như trẻ thơ. Những đứa em của chàng thật đáng tự hào, không ai run rẩy. Hẳn Khang công cũng phải đồng ý như thế. À không, Khang công sẽ rất đau lòng. Làm một kẻ chứng kiến cuối cùng như thế này là hình phạt khủng khiếp nhất có thể được đưa ra.
Nàng không chứng kiến là một điều tốt. Để chàng phải bận lòng vào khoảnh khắc cuối cùng là không nên. Nàng là một người thông minh, hẳn hiểu điều đó.
Trước mặt chàng, Quang Bàn đã bị gọi đi. Rồi rất nhanh, chàng thấy mình đã đứng trước đàn voi to lừng lững. Những cái chân to tướng màu xám sần sùi của chúng giậm xuống đất. Đám lính lấy ra những sợi dây to chắc vòng quanh tay chân, cổ chàng. Đầu bên kia của dây đã được quấn vào năm con voi đang được tập hợp thành vòng tròn xung quanh. Chàng thấy mình nằm ngửa ra giữa khoảng không của đất và trời.
Chân tay mất cảm giác cũng là một điều hay, chàng thầm nghĩ khi đám voi được thúc di chuyển. Những cái xương bị hành hạ, bẻ trẹo trong những ngày qua của chàng đang tách dần khỏi thân thể, nhưng không còn cảm giác. Từ bụng dưới, cái đau như dao đâm thường lệ lại dội lên, làm mờ cả mắt chàng. Nó xóa đi cả cảm giác đôi chân đang bị xé toạc khỏi người. Chàng nhìn lại lần cuối chiếc uôm có xương cốt cha mẹ, rồi hướng mắt về phía bầu trời.
Chàng lịm đi từ từ, đôi mắt trong vẫn nhìn bầu trời xanh mờ trải ra mênh mông cao vút.
Thật muốn sống để nhìn những ngày bình an này, đó là ý nghĩ cuối cùng của chàng khi chìm vào bóng tối. Chàng lại nhớ đến nắng và cát, màu vàng trải đến mênh mông.
***
Khi ông bước vào điện, nàng đang thừ người trước một bàn thờ nhỏ. Lệ hoen trong mắt nàng, dường như cũng là chẳng còn nước mắt để mà khóc. Trong cung cấm lập bàn thờ, nhất là cho những kẻ phản loạn, nhưng với nàng thì ông có thể du di. Ông lặng lẽ đến bên, thả xuống bàn trước mặt nàng một bọc vải nhỏ. Mép vải rơi xuống, để lộ ra một miếng ngọc màu trắng xanh.
- Quang Toản nhờ đưa cho nàng. - Ông nói, tránh gọi "ngụy Toản" theo thói thông thường để tránh kích động. Những ngón tay run rẩy của nàng chạm vào bọc vải, lấy miếng ngọc ra. Nàng chăm chú nhìn với sự ngạc nhiên hiện lên trong mắt. Ông quay lưng ra khỏi điện. Hẳn nàng không muốn thấy ông lúc này.
Ông cũng không cần phải nói cho nàng biết rằng miếng ngọc chính là nguyên nhân những cơn đau bụng của kẻ ấy mà nàng đã chứng kiến. Tên ngốc nghếch này, khi bị bắt, sợ bọn canh giữ cướp mất nên đã nuốt miếng ngọc vào bụng. Trước khi bị hành hình, hắn nói bí mật ấy với ông. Nhờ ông lấy nó ra từ những mảnh xương thịt dập nát.
Ông rửa máu trên đó, trao nó lại cho nàng.
Đức phi
1.
Đầu mùa hạ năm Giáp Tý, Phú Xuân nhộn nhịp, huyên náo với những đám lính, thợ được tập trung về xây Hoàng thành mới. Vua Gia Long đã quyết định bỏ khu cung điện cũ trên gò Dương Xuân, chỉnh trang toàn bộ kinh đô. Năm trước, nhà vua đã cho đắp lại kinh thành theo mẫu của các thành trì châu Âu do đích thân ông vẽ kiểu, đúc chín khẩu súng đồng đặt bao quanh. Sau Phú Xuân sẽ là Thăng Long, Gia Định cũng được trùng tu, thay đổi. Từ đầu năm, sau chuyến đi sứ Đại Thanh xin sắc phong, Đại Việt đã có tên mới là nước Việt Nam. Nhà vua quyết tâm thay đổi toàn bộ đất nước, người ta nói với nhau.
Trên con đường dẫn lên chùa Thiền Lâm gần khu hoàng thành sắp bị phá dỡ, người thanh niên tên Hài vừa chậm rãi bước vừa đưa mắt nhìn quanh. Cái mũ đánh cá che gần hết khuôn mặt anh ta, chỉ lộ ra làn da rám nắng. Chạm phải một người, anh liền vội vàng đứng tránh, nhưng không xin lỗi. Anh không muốn gây sự chú ý với giọng nói phương Bắc của mình.
Dưới gốc cây đa sau lưng chùa, Hài nhận ra người đã hẹn anh. Mặc áo đoạn xanh, quấn khăn quanh cổ dù trời đã ấm lên, một thiếu phụ ôm đứa trẻ nhỏ đang cúi đầu đọc mẩu giấy trong tay. Thấy Hài bước tới, thiếu phụ đứng tránh sang bên, đưa mắt dò xét. Chiếc khăn đã che nửa mặt nàng, chỉ để lộ đôi mắt đen thăm thẳm và làn da trắng tái. Đứa bé trên vai nàng có vẻ chỉ được vài tháng, cái miệng hồng hồng nhóp nhép khẽ trong giấc ngủ.
- “Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc. Phong ba bất động thiết tâm can.” - Hài đứng dựa lưng vào gốc cây, thì thầm đọc mấy câu thơ. Nghe đến chữ Thiết tâm, mắt thiếu phụ sáng lên. Nàng gật đầu, đi về chỗ vắng người trong hiên chùa. Nhìn quanh không có ai, nàng liền lấy trong tay áo ra một bức thư đã niêm phong kín, đưa cho Hài.
- Nhờ anh gửi cho bà Chiêu nghi. Trong đây ghi rõ ngày tháng mất của những đứa trẻ để làm bài vị cho chúng. - Nàng nói, giọng phương Bắc nhẹ nhàng. - Mộ phần của chúng và Ngọc Hân công chúa đang ở sau gò Dương Xuân, tôi đã cắm miếng vải trắng chỉ dấu. Chờ đến đêm anh hãy ra. Không có ai làm phiền anh đâu.
Nàng nói thêm câu cuối sau một khắc ngần ngừ. Hài nhìn người thiếu phụ trước mặt, lờ mờ đoán được nàng là ai. Người có liên hệ với bà Chiêu nghi ở đất Phú Xuân này, lại có đủ quyền lực để bảo đảm cho bà trộm thi hài ba mẹ con công chúa về Phù Ninh chôn cất, còn ai ngoài người con gái nuôi của bà. Tả cung tần, Tam phi Lê Ngọc Bình trong cung điện Phú Xuân.
Nhận ra ánh mắt của Hài, Ngọc Bình chớp mắt, quay đi. Nàng biết người này từng là Đô đốc của Tây Sơn. Phan Huy Ích đã liên lạc với anh ta giúp nàng. Ngoài mẹ con Ngọc Hân, nàng còn cần phải sắp xếp nơi chôn cất cho vài người nữa đang nằm sau gò Dương Xuân, trước khi cung phủ bị phá, chôn vùi vĩnh viễn dấu tích của một triều đại xuống đất bùn. Sau một lúc im lặng, nàng thở dài.
- Sự mạo hiểm vất vả của ngài, thật đội ơn khôn xiết. Nhờ ngài chuyển lời với bà Chiêu nghi, đứa con gái bất hiếu bạc phúc của bà chẳng có gì báo đáp ơn dưỡng dục, chỉ có thể đưa nắm xương tàn của mẹ con chị về với quê hương.
Trong khi con đành phải để thịt xương nơi đất lạ, nàng nghĩ khi cúi chào người Đô đốc trước khi quay bước. Trước cổng chùa, đoàn kiệu đã đợi nàng. Nàng vào kiệu, trở về cung. Bên đường, có người chợt nhận ra nàng, giọng ngân nga lại cất lên.
"Gái đâu có gái lạ đời
Con vua lại lấy hai đời chồng vua"
Tiếng cười vẫn đuổi theo kiệu nàng khi xuống dốc. Không quay lại, nàng cắn môi nhìn xuống đứa con gái nhỏ trong tay. Đứa bé vẫn thiêm thiếp ngủ, đôi má hồng phúng phính cọ vào vai nàng. Nàng đưa tay chạm vào làn da nóng ấm, thấy mình bình tâm lại.
Vậy là mẹ con chị sẽ được về quê hương, nàng mỉm cười trong nỗi buồn mênh mang đang dâng như nước triều lúc hoàng hôn. Ước nguyện lúc sinh thời chỉ có thể thực hiện khi đã mất. Còn nàng, tâm nguyện cả đời này là gì? Nàng cũng không biết, không cần biết nữa. Dù sao thì nó cũng chẳng bao giờ được thực hiện. Nàng giờ đây chỉ có thể dồn hết tâm tình vào sinh mạng bé nhỏ trong tay này. Những tiếng cười, ánh mắt ấy coi như là cái giá phải trả cho cuộc sống của nàng.
Hai chúng ta cùng trả giá, ông nói, vào cái đêm mà nàng đã tìm ông, lần đầu tiên nghiêm túc nói về ý định nạp nàng làm phi tần của ông. Hai chúng ta cùng phải trả giá, danh dự của ta và cuộc đời của nàng.
- Tại sao? - Nàng hỏi. - Tại sao ngài lại muốn lấy tôi? Giờ đây, thiên hạ đã định, ngài đã cho người sang Đại Thanh đón thân quyến vua Lê Chiêu Thống về, đã tôn tạo, lễ viếng tông miếu nhà Lê, đã làm hết những gì cần làm. Tại sao lại cần tôi?
Ông không vội trả lời nàng. Ngón tay ông miết trên miệng chén trà tráng men xanh. Mùi hoa sen thoang thoảng trong khí lạnh mùa đông.
- Nàng nghĩ gì? - Cuối cùng, ông hỏi. Mắt nàng dõi thẳng vào ông.
- Tôi không tha thứ cho ngài. - Nàng nói, ông ngẩng lên, nhìn vào mắt nàng. - Đánh bại Tây Sơn, giết bấy nhiêu người, ngài có thể đảm bảo rằng không còn oán thù trên đất nước này không?
- Không. - Ông mỉm cười. - Oán thù là một điều khó lý giải. Có khi người ta coi đó là trách nhiệm của mình, buồn cười vậy đấy. Oán thù chính nghĩa và oán thù phi nghĩa, cuối cùng chẳng phải lẽ phải đều thuộc về kẻ chiến thắng? Mai sau, những kẻ muốn chống lại vương triều ta sẽ lật lại mối thù của Tây Sơn, tô đậm nó, tuyên truyền về nó. Đúng như những gì ta đã, đang và sẽ làm với mối thù của mình. Ta đã nói với nàng, con người là thứ rất phù phiếm. Ta phải bảo vệ những gì thuộc về ta, nếu nói theo đại nghĩa đại lượng là sự thống nhất bình an của đất nước này. Dùng oán thù chống lại oán thù, đành phải vậy. Oán thù là một mục đích, oán thù cũng là một phương tiện. Những kẻ suy nghĩ giản đơn chỉ biết có đúng và sai, kẻ thù và đồng minh, "bên ta" và "bên địch", anh hùng và tiểu nhân, tô vẽ và chà đạp, chẳng ai hiểu cho chúng ta đâu. Nỗi đau của nàng, sự mơ hồ của ta, suy nghĩ của hắn, chẳng ai hiểu đâu.
Họ im lặng, nghe dòng nước miên man trôi bên ngoài. Ông nâng ly trà lên môi, nhìn màn mưa giăng mờ như sương trước cửa. Bên ngoài. Một vùng đất rộng lớn. Một đất nước rộng lớn. Một thế giới rộng lớn.
- Chỉ điều này ta có thể hứa với nàng: Nước Đại Việt này, dưới triều đại của ta, và cả của con ta nữa, sẽ trở thành đất nước hùng cường nhất trong vùng biển Đông. Tất nhiên ta không biết những gì sẽ xảy ra sau đó, ta chỉ có thể làm hết sức mình. Đó là điều duy nhất ta có thể làm để cho mạng sống của những người đã chết có một giá trị nào đó. Những người ta yêu thương, cuộc đời của ta, thuộc hạ của ta, và cả kẻ thù của ta.
Ta đã nghĩ về điều này sau khi kẻ cựu thù của ta, Nguyễn Huệ chết đi. Suốt thời tuổi trẻ, ta đã như một con thiêu thân lao vào đánh trận. Có một vạn quân ta cũng đánh, mà có vài trăm quân ta cũng đánh. Ta đã lấy bất kỳ thế lực nào, dùng bất cứ phương tiện gì, miễn là có thể giúp ta đánh bại kẻ thù. Nhưng rồi, ta đã bất ngờ biết bao khi quân dân Gia Định mở cửa đón chờ ta vào. Cai quản cả đất Gia Định, coi sóc phát triển cả về kinh tế, chính trị cho vùng đất ấy, những thuộc hạ dưới tay ta ngày càng nhiều, ta hiểu ra rằng chỉ là một tướng giỏi trên chiến trường thì vẫn không thể đứng vững. Ta không thể chỉ dựa vào chiến tranh để tồn tại.
Đất nước phức tạp này không thể duy trì chiến tranh. Tây Sơn định đánh Lưỡng Quảng của Đại Thanh nhưng rốt cuộc bị chính nội loạn trong nước phá hủy. Chiến tranh ư? Chiến tranh quyết định được cái gì? Làm được cái gì? Chúa Hiền nhà Nguyễn từng đánh thắng quân đội Ô Lan, Nhật Bản, đáng tự hào không khi hoàng thúc ta bị đuổi chạy ra Gia Định, khi hoàng tộc nhà Nguyễn tàn sát lẫn nhau? Đáng tự hào không khi chính sự lụn bại của nhà Nguyễn đã để cơ hội cho anh em Tây Sơn lớn mạnh? Nhà Nguyễn đã bại vào tay họ Trịnh trước khi bị Tây Sơn tiêu diệt hoàn toàn. Ta đã là nạn nhân của chính tranh đoạt trong Nguyễn Phúc tộc trước khi là kẻ bị Tây Sơn truy đuổi. Lê Thái Tổ đuổi quân Minh, nhưng chính cháu của ngài lại phải dựa vào nhà Thanh. Tây Sơn thắng Xiêm, thắng Thanh, nhưng chính những kẻ chiến thắng ấy lại bị hủy diệt đến tận cùng. Ánh hào quang của chiến tranh chỉ lừa dối được một lúc, không phải đến tận khi chết người ta mới biết. Chiến tranh chỉ là một cuộc hủy diệt, không hơn. Chiến tranh chỉ là phương pháp cuối cùng. Giá trị của một đất nước không dựa vào chiến tranh mà chính ở nội lực của nó.
Ta chỉ có thể làm chủ đất nước này khi ta thực sự mạnh. Điều đó, không lực lượng nào khác có thể giúp được, ngoại trừ chính bản thân ta.
Rồi Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc chết, ta tự hỏi, kẻ thù của ta chẳng lẽ là một đứa trẻ mười mấy tuổi đầu? Lúc ấy, ai cũng thúc giục ta ra trận, cho rằng chỉ là mấy đứa trẻ thì thế nào ta cũng thắng. Nhưng không phải như vậy. Chiến tranh không phải là việc của một hai người, hay thậm chí là của một hai dòng tộc. Nó gắn kết với vô số thứ như niềm tự tôn, tính địa phương, niềm tin, những mắc míu của quyền lực và tham vọng. Ta nhận ra rằng, để chiến thắng, ta cần phải có đủ sức mạnh để không chỉ đoạt được, mà phải thu phục được thiên hạ. Đối thủ của ta, những gì ta phải vượt qua là vô số bức tường vô hình giăng mắc khắp nơi, những gì đã cản ngăn họ Trịnh, Tây Sơn cũng sẽ cản ngăn ta. Dốc toàn lực đánh vào, đuổi tận giết tuyệt đến người lính cuối cùng như cách Tây Sơn làm thì ta vẫn có thể thắng, nhưng cái giá qúa đắt ấy sẽ trở ngược lại hại ta sau này, sẽ phá nát mảnh đất này ra thêm nữa. Thời trẻ, ta đã là một con thiêu thân, đã phạm nhiều sai lầm. Cái chết của Nhạc, Huệ như một gáo nước xối thẳng vào ta lúc ấy, dập tắt ngọn lửa hừng hực trong ta. Kẻ thù của ta đã mất, sự báo thù của ta có ý nghĩa gì?
Ta muốn thắng, muốn báo thù kẻ đã quật mộ tổ tiên ta, đã dồn đuổi hoàng thúc của ta vào chỗ chết, phá nát gia đình ta bằng chiến thắng trên chiến trường, không phải một triều đình lụn bại được cai quản bởi một đứa trẻ. Vậy thì, ta chỉ còn chiến thắng bằng cách chứng minh rằng, ta vượt trội hơn. Đó mới là chiến thắng thật sự của ta. Ta cũng nhận ra rằng, mình còn có trách nhiệm với con cháu, với những kẻ đã theo ta, với tương lai của họ. Ta nhìn những đứa trẻ của Nguyễn Huệ, và ta tuyệt đối không muốn con ta sẽ phải như thế.
Thống nhất một đất nước còn dễ hơn cai quản nó, giữ vững nó thành một khối. Lấy được thiên hạ thì phải có trách nhiệm với thiên hạ. Cách duy nhất để giữ một đất nước là làm cho nó giàu mạnh, không phải chỉ đơn giản dựa vào quân đội hay chiến tranh. Miền Bắc giàu văn hóa, kiêu hãnh nhưng nghèo tài nguyên đất đai, miền Trung phức tạp các tộc người, miền Nam giàu có nhưng chưa khai thác hết, còn đầy tranh chấp. Nhà Lê lúng túng không theo kịp tốc độ phát triển của đất nước, của con người, để chia năm xẻ bảy. Tây Sơn mắc kẹt trong những cuộc chiến tranh, oán thù, sự phân rã do chính mình gây ra. Ta, hoàng đế đầu tiên của nước Nam Việt thống nhất này, sẽ đưa nó trở thành cường quốc tại biển Đông. Đó là tham vọng của ta. Đó là những gì ta có thể đền đáp cho những người đã chết. Đó là giá trị duy nhất, sự khẳng định duy nhất về chiến thắng của ta.
Chỉ làm được điều đó, chiến thắng của ta mới có giá trị.
Nàng nhìn đôi mắt như loài sư tử trên sa mạc của ông. Nàng cảm nhận được ánh lửa trong đôi mắt ấy, và cả câu trả lời cho nàng. Nàng sống để làm gì khi tất cả mọi người đã ra đi, câu hỏi đã lặp đi lặp lại trong nàng. Giờ đây, nàng nhận ra câu trả lời. Nàng muốn cái chết của họ có giá trị. Đó là điều Quang Toản từng nói, từng ước mơ.
Ông là một hoàng đế. Và cũng là một kẻ mà không có gì không dám làm. Tất cả đều được tính toán thật hoàn hảo, cả ở trong tính chất vô lương, vô đạo, không thể chấp nhận được của nó. Giờ đây, nàng nhận ra sự thiếu hụt cảm xúc trong con người ông là gì: Ông sẵn sàng hy sinh ngay cả bản thân mình để đạt được điều mình muốn. Nàng là một trong số đó. Nàng là một trong những nguyên nhân đẩy Tây Sơn tự sát trước lũy Trấn Ninh. Nàng cũng sẽ là một lý do mà ông có thể dựa vào để kêu gọi nhân tâm trong nước.
- Ngay cả khi tôi không bao giờ tha thứ cho ngài? - Nàng hỏi. Ông không lảng tránh mắt nàng.
- Giữ một người như nàng bên cạnh là gánh nặng của ta. Nếu thấy ta đi chệch đường, nàng sẵn sàng trả mối thù ấy, phải không?
Nàng gật đầu.
Cả hai chúng ta phải trả giá. Giờ đây, khi nhìn ánh hoàng hôn loang thành vệt sau dòng sông yên lặng, nàng lại mường tượng ra tia sáng dịu dàng của những ngày qúa khứ, trong một Phú Xuân xưa cũ đang bị gấp rút đổi thay. Chẳng mấy chốc, vết tích ngày xưa sẽ không còn nữa. Nhưng vết thương vô hình của nó, vết thương của chiến tranh mà bất cứ ai đã đi qua đều phải gánh chịu, vẫn còn dai dẳng.
"Tâm như quy hải triều, mộ phong lưu bất trụ". Dòng nước vẫn trôi đi, cuốn về chân trời khác. Có một điều bí mật đã vĩnh viễn nằm lại trong dòng nước ấy, trong những tháng ngày xưa cũ. Tội lỗi của nàng, tình yêu của nàng, nàng đã từng vì nó mà phá bỏ tất cả các giá trị của bản thân. Nàng đã từng vì nó mà bất chấp tất cả. Vì nó, nàng sẽ hy sinh cả cuộc đời mình. Vì cả xương cốt của một người đã vĩnh viễn bị giam cầm trong ngục. Vĩnh viễn ở lại đây bên nàng như ám ảnh.
Nàng cúi xuống, hôn nhẹ lên vầng trán lớt phớt vài sợi tóc tơ. Tiếng cười bên ngoài, và cả thế giới đang xao động xung quanh, đã trở nên im lặng.
-----------
Chú thích:
Ô Lan: Hà Lan. Thế kỷ 17, chúa Hiền ở Đàng Trong đã lãnh đạo thủy quân đánh thắng đoàn thuyền của người Hà Lan.
Tâm như quy hải triều, mộ phong lưu bất trụ: Cổ thi, nghĩa: Lòng như nước thủy triều cuốn về bể, gió buổi chiều không giữ lại được.
Bài thơ Vân Đồn của Nguyễn Trãi. Dịch nghĩa: Sơn thủy rõ cùng tô vũ trụ. Phong ba nào dễ chuyển tâm can.
** Thiết Tâm là tên dinh của bà Chiêu nghi.
*** Theo gia phả của tộc Nguyễn Đình, bà Chiêu nghi đã trộm xác mẹ con Ngọc Hân về chôn tại Bãi Cây Đại đầu làng Phù Ninh.
2.
. Lê Văn Duyệt lững thững bước vào Hoàng thành, khu cung điện mới xây còn chưa hoàn tất vài khu vực. Nhà vua cùng cung quyến vừa dọn sang đây, chuẩn bị cho lễ đăng ngôi Hoàng đế chính thức của ông. Tống Vương hậu đã cho gọi Lê Tả quân, hẳn là muốn nhắn gửi vài lời với những người thân của bà ở Gia Định. Địa vị của một quan thái giám làm ông có được những mối liên hệ trong hậu cung nhà vua, và ông không thể không đem lòng kính trọng vị Vương hậu này. Đông cung Cảnh con bà, vị thái tử bạc mệnh, là một nhân sĩ phi phàm. Cái chết của Đông cung cũng gây sự tiếc nuối không nguôi trong lòng Lê Văn Duyệt.
Với Tống Vương hậu, người chuẩn bị trở thành Hoàng hậu Việt Nam, cái chết ấy mãi mãi ở lại bên bà, khắc dấu lên gương mặt nghiêm nghị. Bà đón Lê Văn Duyệt, hỏi ông về tình hình ở Gia Định bằng sự chu đáo thường nhật. Trong lúc đang nói chuyện, cung nhân báo rằng Tam phi đã đến. Vương hậu gật đầu, gọi nàng vào.
- Quảng Nam dâng trái nam trân, Tam phi đem về cho Ngọc Ngôn vài trái. - Vương hậu cười nói, không quên bày thứ trái qúy cho Lê Văn Duyệt. Ông cầm một trái trên tay, bất chợt lại thấy bồi hồi.
- Lúc xưa chúa đến Quảng Nam, đói lả vì không lương thực, may mà có trái Nam Trân này mới có thể sống sót. Ngày đến Bắc Hà bình Tây, Quảng Nam cũng dâng thứ trái này cho Hoàng thượng. Ngài đem phân phát cho binh lính...
Tống Vương hậu đưa mắt, Lê Tả quân chợt im lặng, nhận ra sự lỡ lời của mình. Tam phi chỉ ngồi im trên chiếc ghế giữa phòng, mắt nhìn xuống đĩa trái cây, đưa cho cung nhân đằng sau đem về cung. Cử chỉ của nàng thanh lịch, cả cách phục sức cũng giản dị tao nhã. Đây là lần đầu tiên Lê Văn Duyệt được nhìn nàng gần như thế, và ông không thể không nhận ra sự đổi khác nơi nàng. Có thể là nét đẹp của phụ nữ một con đã thay thế vẻ thơ trẻ thiếu nữ, có thể là sự sầu muộn chỉ ngày càng tăng thêm nơi khóe mắt, hay là một điều gì khác, lạnh băng, chết lặng, trên gương mặt không hề đổi sắc ngay cả khi nghe về những tháng ngày định mệnh năm ấy.
Hay nàng ta đã quên rồi, ông tự nhủ. Nàng hiện giờ đang là phi tần được sủng ái nhất của vua Gia Long, điều lo ngại nhất trong triều đình, sự khó hiểu không lời giải đáp gây e dè trong đám quân nhân. Nhà vua đã phong nàng làm Tả cung tần ngay sau khi nàng bước vào cung, địa vị chỉ đứng sau Hoàng hậu, Trần phi, những người vợ từ thưở hàn vi khốn khó của ngài. Và dù với bao nhiêu lý do đi nữa, sự sủng ái không che giấu ấy có gì để giải thích? Dù Hoàng thượng có nói bao nhiêu lý do đi nữa, sự sủng ái này là có thật, Lê Tả quân thầm nghĩ. Một điều thật sự lạ lùng với người đàn ông thực dụng ông từng biết. Với người đàn ông, vị quân vương xem phụ nữ chỉ là thứ phiền nhiễu và hậu cung là một chiến trường nhức óc, đầy phiền muộn đến mức có lúc chỉ muốn tất cả biến đi cho xong. Vì lấy cô công chúa này, ngài ấy đã mang tiếng bất đạo. Sủng ái cô ta, đời đời Hoàng thượng cũng không gột rửa được lời cợt nhạo của người đời. Là một người thông minh, đáng lẽ Hoàng thượng phải hiểu điều đó hơn ai hết?
Tất cả đều có sự ngoại lệ, và người Tam phi trẻ trung xinh đẹp này phải chăng là ngoại lệ cho tất cả những gì thuộc về Hoàng thượng?
Nàng vẫn im lặng, đưa mắt nhìn ra khu vườn vừa được xây còn rất thưa thớt cây cao, chỉ có hoa đang nở rộ vào giữa mùa xuân. Mai vàng cả một góc sân, sắc màu của thược dược, mẫu đơn chen nhau trên thảm cỏ. Tống Vương hậu tiếp tục câu chuyện với Lê Văn Duyệt. Ông kể cho bà về căn bệnh của Mạc Tử Thiêm ở Hà Tiên. Ông ta không có người thừa kế, Hoàng thượng đã sắp xếp cho quan lại trong triều tới trấn thủ. Nhưng e người Xiêm cho rằng mảnh đất ấy thuộc về họ, sẽ gây rối loạn để lấy lại.
Vương hậu gật đầu. Khi Lê Tả quân ngẩng lên, ông nhận ra cả Tam phi cũng nhìn mình. Mắt nàng đăm chiêu. Cảm giác ngờ ngợ e ngại về người con gái này lại cồn cào trong ông.
- Lê Tả quân là một vị tướng giỏi, nhưng sự kiêu ngạo của ông ấy có thể sẽ gây họa sau này. - Khi Lê Văn Duyệt đã về, Vương hậu cho gọi Ngọc Bình đến gần. Nàng chợt nói điều ấy. Vương hậu ngẩng lên, hơi cau mày.
- Lê Văn Duyệt là một người rất trung thành.
- Qúa trung thành cũng không phải là một điều tốt cho kẻ bề tôi. - Nhìn xuống mẫu thêu trên tay, Ngọc Bình ra vẻ lơ đãng nói. - Ngày xưa vua Lê Thái Tổ dựa vào võ công mà lập quốc, lại qúa e ngại, bị ám ảnh bởi sự xuất sắc của các bề tôi mà cuối cùng để triều đình tan tác. Trong triều nào cũng không tránh khỏi nạn phe cánh, nạn công thần tập trung quyền lực vào tay. Người như Lê Tả quân, công qúa cao mà không biết e dè, e rằng gây nghi ngại cho kẻ bề trên không ít.
- Tam phi nói rằng Hoàng thượng nghi ngờ Lê Tả quân?
- Không, - Ngọc Bình mỉm cười. - Hoàng thượng là một Hoàng đế biết cách dùng người sao cho có lợi nhất, kể cả khuyết điểm của họ. Hoàng thượng trưởng thành từ võ công, điều khiển một đội quân ô hợp với đủ mọi thành phần, ngài biết cách dùng người và lấy lòng người. Nhưng e rằng, cán cân chỉ nghiêng đi một chút là thế cân bằng ấy bị phá vỡ. Thịnh giả tất suy, cường giả giai tuyệt diệt.
- Tam phi, - Vương hậu nạt khẽ, để lộ ra sự khó chịu sâu sắc trên vầng trán nhăn lại. - Đến bao giờ nàng mới học được sự cẩn trọng trong lời nói? May mà nàng nói những lời này với ta, không thì Hoàng thượng có yêu thương nàng cách mấy cũng không tránh được cho nàng tội khi quân.
Ngọc Bình im lặng. Ngón tay nàng miết lên hình thêu cồm cộm trên mảnh lụa. Cẩn trọng, nàng tự nhắc mình, không hề cảm thấy tổn thương vì lời nhắc nhở của Vương hậu. Qủa thật, nàng đã hơi giận dữ vì câu nói của Lê Văn Duyệt khi nãy. Và ánh mắt ông ta nhìn nàng... Ồ, mà nàng là ai ở đây để giận dữ? Đó chẳng phải là địa vị thật sự của nàng sao?
Nhận thấy ánh mắt của Tam phi, Vương hậu thở dài, lắc đầu.
- Nàng lại tiếp tục làm khổ bản thân. Bây giờ nàng phải sống vì con mình nữa chứ. Hoàng thượng... - Bà im lặng một thoáng. - Đối với ta là Ân, đối với Trần phi là Nghĩa, với nàng thật sự là Tình. Cả cuộc đời này, ngài đã đem hiến nó vào cuộc phục hưng nhà Nguyễn. Đến tận bây giờ ngài mới tìm được cho mình một hồng nhan tri kỷ.
Nàng chớp mắt.
Nếu như Vương hậu nghĩ những lời ấy là an ủi cho nàng, bà đã lầm. Một cơn giận dữ không thể kềm lại được, không thể kiểm soát được đang bùng nổ trong lòng nàng, cuộn xoáy dưới cái bề mặt băng giá ấy. Khi cáo từ Vương hậu về cung, nàng thấy chân mình vẫn còn run.
Đó phải chăng là trò đùa cuối cùng của số phận, nàng thầm nghĩ khi đi bên hàng hoàng mai lất phất rơi trong gió. Nàng hiểu chứ, nàng đâu còn là cô bé. Ban đầu, cũng như mọi người, nàng đã nghĩ đó chỉ là hành động nhằm mục đích chính trị, một hành động thương hoa tiếc ngọc để nàng không phải đi lưu đày trên một hoang đảo nào đó, để tranh thủ cảm tình của nhà Lê. Nhưng giữa hậu cung này, giữa đoàn phi tần bắt buộc phải có của bất cứ hoàng đế nào, ai là kẻ được ân sủng nhiều nhất? Ai là kẻ nhà vua luôn đến tìm khi không phải đến những cung khác theo bổn phận? Chính điều đó, điều nàng đã thấy trong mắt Lê Văn Duyệt, làm nàng giận dữ hơn lúc nào.
Khi vua Gia Long đến cung nàng đêm đó, trời đã khuya. Ông đã từ điện Cần Chính về muộn. Ngọc Ngôn đã được đưa đi ngủ, Ngọc Bình đang ngồi bên cửa, may chiếc áo nhỏ xíu cho con gái. Nàng không còn sắc thuốc từ lâu, dường như đã bỏ hẳn. Nàng không muốn nhắc nhớ đến quãng đời ngày trước, chỉ chuyên tâm lo cho đứa bé. Ngồi trong đêm, khoác trên vai chiếc áo mỏng khi trời vẫn chưa ấm hẳn, nàng trông có vẻ mong manh hơn cả lệ thường. Nghe tiếng cung nhân chào, nàng nhìn ra, nhưng không đứng dậy. Ông có thể đoán ra tâm trạng không tốt của nàng.
Ông tha thứ cho sự vô lễ, sự ngang ngạnh, ngỗ ngược của nàng, như mọi khi.
Có thể điều này là lạ lùng, nhưng càng ngày, ông càng thấy nàng giống ông. Ông xưa kia - chàng thanh niên đơn độc đi giữa cánh rừng nước mặn, chẳng có gì khiến ông lùi bước mà cũng chẳng để tâm đến bất cứ luật lệ, đạo lý nào. Ngay cả khi nàng đang ngồi đó, nàng cũng chẳng thuộc về ông. Như con người xưa kia đã bị chính ông đốt cháy, triệu tiêu, đã bị hủy hoại trong chiều dài đằng đẵng của kiếp người. Hay chưa bao giờ được hiện diện.
Gió thổi nhè nhẹ qua mái tóc nàng để xõa trên vai, đổ qua lưng, đưa vào hương hoa mạt lị từ khóm cây vừa được trồng góc vườn. Khâu nốt đường chỉ rồi nàng mới nhìn lên ông, đứng dậy.
- Hoàng thượng dùng bữa chưa ạ? - Nàng hỏi, nhìn vào những cuốn sách mà ông đem đến, để trên bàn. Trinh Quán sử yếu mà Nguyễn Văn Thành đã dâng cho ông lúc vừa vào Thăng Long. Nhưng ông không muốn nói ra điều ấy với nàng.
- Nàng bảo cung nhân thắp thêm đèn cho ta đọc sách. - Ông nói, nàng gật đầu, đi ra gọi người. Nàng vốn ít lời, ít cả cảm xúc. Chỉ khi có người cho gọi hoặc có việc, nàng mới rời khỏi cung. Dường như nàng đang tự đày mình vào một án tù trong chính hành cung hoa lệ này. Nàng ở bên ông như một pho tượng, một tảng đá mà đã không ít lần ông đã nảy ra ý muốn đập nát nó.
Nhưng như vậy, nàng sẽ còn lại gì?
Khi đèn được thắp sáng trong cung và trà đã được châm, nàng ngồi xuống ghế đối diện ông, tiếp tục khâu. Một cô gái như thế lại khiến cho bao nhiêu con người nghi ngại sao, ông nghĩ khi đưa mắt nhìn nàng qua rìa cuốn sách đang mở. Nàng nghĩ gì trong khoảng lặng im kéo dài như khoảng mênh mông giữa bầu trời và những ngọn núi cao ấy? Có một điều vĩnh viễn đã được đặt ra, đừng hỏi và đừng yêu cầu được hỏi. Nàng có thể sẽ quan tâm khi ông nói về một con đê, một cuộc bạo loạn, nhưng hoàn toàn dửng dưng với chính bản thân ông. Nàng sẽ không quan tâm, không cho phép mình quan tâm.
Ngay cả lúc này, qua nếp nhăn rất mờ giữa đôi lông mày, ông có thể cảm thấy nàng hẳn lại đang có điều bực bội. Qua mi mắt hướng xuống, không nhìn thẳng vào ông lấy một lần, ông biết sự khó chịu ấy liên quan đến ông.
- Ta rất thích đường lối chính trị đời Đường. - Ông chợt nói, giở những trang sách loạt soạt. - Đời Đường là thời đại rực rỡ nhất của Tàu. Lấy đạo lý để răn thiên hạ, học tập người Tây dương về khoa học kỹ thuật, phát triển những đoàn thuyền buôn của mình đến các vùng lân bang để giao thương, học hỏi... Đó chẳng phải là cách để giữ chủ quyền quốc gia mà vẫn giàu mạnh?
Nàng ngẩng lên, nếp nhăn trên trán hơi giãn ra.
- Nhưng nhà Đường đã cách ta tám trăm năm, liệu có thể áp dụng những điều đã cũ vào nước ta?
- Chính sách có thể cũ, nhưng đạo lý thì không cũ. - Ông gật đầu, đặt cuốn sách xuống, nhìn vào mắt nàng. - Chính trị đời Đường chính là chính trị cho một nước tập quyền, thống nhất. Sau nhà Hán với chính sách vô vi, với mối loạn của rợ Hồ ngoài biên ải vừa bình định, với những phân chia, rối loạn liên tiếp của Tam Quốc, Tấn và Tùy, nhà Đường biết cách sử dụng đúng đắn Nho học để kêu gọi lòng trung quân ái quốc. Khổng giáo và cách sử dụng đúng đắn của nó - Không phải dựa vào bảng vàng tiến sĩ mà là sử dụng những kẻ có thực tài. Đưa kẻ sĩ vào chính đạo và đưa đạo học vào trị quốc.
- Như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã nói “Kẻ giỏi thì làm được mà kẻ không giỏi không làm được”. – Ngọc Bình chậm rãi nói.
- Phải. Tiếc là Nguyễn Thiếp đã mất ngay sau khi về quê, ta không thể vời ông ta được nữa. Đất nước này, buông lỏng thì sẽ loạn, mà siết chặt sẽ gây oán. Hồ Qúy Ly đã đưa ra những cải cách, nhưng sai thời điểm và hoàn cảnh dẫn đến mất nước. Nhà Lê học tập chính những cải cách của Hồ Qúy Ly lại trở nên cường thịnh. Tuy vậy, Nho học đến cuối thời Lê lại trở thành văn vẻ thuộc lòng sáo rỗng, những người tài năng như Nguyễn Gia Thiều, Lê Qúy Đôn, Đặng Trần Côn... chỉ sáng tác thơ văn suông mà không tìm được cách nào thi thố với đời, hoặc chỉ chia bè kết phái, đấu đá lẫn nhau. Những kẻ ấy văn chương lại chẳng bằng Nguyễn Trãi, mẫn tiệp lại kém Duy Từ hay sao? Lê vong không phải tại người bất tài mà chính vì không sử dụng được người vậy. Tài ít dùng vào việc nhỏ, công lớn thì phải kiểm soát, trong thiên hạ giờ chỉ có đám nho sĩ là có khả năng quản lý. Chúng – Kẻ có tâm thì lại không có chí, kẻ có tài thì lại không có lượng. Kẻ có học thì bo bo giữ lấy đạo lý Khổng giáo bài Tây, ngại tà. Kẻ có tài không chịu quản thúc thì manh tâm làm loạn. Người vô học nhưng tài năng như Lê Văn Duyệt thì lại dễ sa vào ngông ngạo, hại mình hại người. Kẻ theo Phật thì chống Chúa, kẻ theo đạo thì mạt lị Phật. Kẻ nào cũng chỉ nghĩ cho bản thân mình. Tấm gương Lê vong, Tây Sơn diệt chẳng lẽ còn chưa đủ? Trước mắt cần phục hồi lại hạ tầng, hệ thống dân sinh đã bị chiến tranh tàn phá, liên kết mọi người dưới cái tên một quốc gia duy nhất, một chính thể duy nhất.
Và phải học tập người Tây dương, cả về khoa học lẫn quân sự, nhưng phải dè chừng họ. Ta phải tìm cách sử dụng, học tập được những hiểu biết, trí tuệ của họ, mối quan hệ của họ. Nàng biết không, Anh Cát Lợi vừa đến xin buôn bán ở ta. Đó là đế quốc mạnh nhất, rộng lớn nhất thế giới, đất nước đã thu tóm Ấn Độ và vô số vùng đất khác ở biển Đông. So với họ, ta thà chọn người Ba-lang-sa, tuy nguy cơ vẫn cao, nhưng nếu cố gắng bắt kịp họ - ta đã thiết lập được quan hệ với Ba-lang-sa đủ để họ huấn luyện ta - thì ta vẫn còn hy vọng. Giữa Anh Cát Lợi và Ba-lang-sa, chỉ có thể chọn một phía. Hiện giờ đáng tiếc rằng tất cả nhân lực, tài lực phải để xây dựng trong nước. Giá mà ta được hơn trăm tuổi!
Nàng nhìn ông. Mắt ông sáng lên trong ánh đèn, làm ông như trẻ lại. Nàng nhớ đến cuộc nói chuyện đầu tiên, khi ông hé lộ cho nàng về những dự định, kế hoạch, ước muốn mà ông muốn thực hiện với đất nước này. Phải, chính vì điều đó, nàng đã tin ông. Ông là một Hoàng đế.
Ông như một người đi trên dây, chênh chao giữa hai bờ vực thẳm suốt cả cuộc đời.
Nàng chớp mắt, nhìn ra ngoài khoảng sân phủ tràn bóng đêm. Trăng cuối mùa xuân hắt ánh vàng trên lá cành và mặt đất. Nàng lại nhìn ông. Và cơn giận dữ ban sáng trở thành một nỗi đau âm ỉ cháy trong đám tro tàn của cõi lòng nàng.
- Nàng giận ta à? - Ông đã im lặng quan sát nàng.
- Không. - Nàng lắc đầu.
"Lại đây", ông đưa tay. Chậm chạp, nàng đứng dậy. Vòng tay qua, ông áp đầu dưới ngực nàng. Tim nàng vẫn đập bình thản. Như ánh mắt nàng nhìn ông. Bóng tối chập chờn lay động dưới đôi mi dài. Nàng ở đây, nhưng một phần khác của nàng, nhịp tim này, con người này, vĩnh viễn đã không thuộc về ông.
Cũng như con người xưa kia đã bị tiêu diệt trước khi được ra đời.
Nàng giận ta à? - Ông lại hỏi.
Không.
"Bắc phương hữu giai nhân. Tuyệt thế nhi độc lập. Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc. Giai nhân nan tái đắc", Những câu thơ ấy chợt bật lên trong ông. Như một nỗi day dứt. Ông tự thấy mình như Hán Vũ đế và Lý phu nhân ngày trước, ôm lấy bóng trong gương, hương trong áo tìm quên.
Ôm nàng trong tay, giây phút này ông chợt hiểu cảm giác của những bậc quân vương đã đổ ngàn vàng mua lấy một trận cười, xé ngàn dải lụa cho một cái nhìn Bao Tự.
Tất cả đều là những kẻ thất bại đáng thương.
Khi phải đánh đổi, tất cả đều là thất bại.
Tất cả đều đã qúa muộn màng. Tình cảm này, hoàn cảnh này. Không thể nào cứu vãn. Không cách nào cứu vãn.
Đó là một ý nghĩ câm lặng, không bao giờ hiện hữu. Ông biết, dù có bao nhiêu tháng năm qua, cho đến cuối cuộc đời này, nó cũng vẫn sẽ ở lại với ông. Nàng là một gánh nặng của ta, ông đã nói. Và hơn thế, ông đã trả giá bằng danh dự của mình cho nàng, để giữ nàng lại. Và hơn thế, nỗi ám ảnh không thể gọi tên của mùi hoa mạt lị quẩn quanh bên bóng ma của một điều chưa từng hiện diện sẽ theo ông đến hết cuộc đời. Cả những thi hài bên bờ Nam sông Hương này sẽ còn lại trong gió, trong sương, phủ vây nàng. Phủ vây ông.
Chúng ta cùng trả giá, nàng nghĩ, nhìn xuống ông. Đó là điều cũng đương nhiên như hơi thở, như mặt đất.
------------
Chú thích:
Mạc Tử Thiêm: Cai cơ người Xiêm cai quản vùng Hà Tiên trước khi vua Gia Long cho quan lại bản địa đến trấn giữ.
Trinh Quán: Niên hiệu của vua Đường Thái Tông.
Lê Văn Duyệt: Lê Văn Duyệt là người ái nam ái nữ bẩm sinh, là thái giám nhưng không phải hoạn quan.
Trái nam trân: Bòn bon. Từ thời Gia Long, vào dịp lễ Tết, Quảng Nam lại đem tiến cống thứ trái này vào cúng trong Hưng miếu.
Bờ Nam: Phủ Dương Xuân ở bờ Nam sông Hương, kinh thành Huế được xây dựng sau này nằm ở bờ Bắc.
* Bài Giai nhân ca của Lý Diên Niên: Phương Bắc có giai nhân. Dung nhan tuyệt thế nhất đời. Người không cần biết khuynh thành hay khuynh quốc. Giai nhân khó gặp lại.
Lý Diên Niên viết bài này để giới thiệu em gái cho Hán Vũ đế. Sau này Lý phu nhân mất sớm, Vũ đế thương khóc vô cùng.
3.
Gia Long hoàng đế đang ở trong tâm trạng buồn bực. Lần này, không phải kẻ hồ đồ Nguyễn Văn Thành ăn nói hồ đồ, không phải Lê Chất lại gây xích mích với người xung quanh, mà là kẻ vốn giữ thái độ im lặng tuyệt đối, lầm lì tuyệt đối Đông Các đại học sĩ Nguyễn Du. Ai có thể ngờ một người như hắn lại làm chuyện thế này. Còn ông, đường đường là một hoàng đế, cũng chỉ có thể ngậm bồ hòn làm ngọt.
Cuốn sách mới, tác phẩm mới của Nguyễn Du đã được chuyền tay giữa những sĩ phu kinh thành, nhanh chóng được học thuộc từng đoạn một. Đoạn trường tân thanh, đó là một tác phẩm xuất sắc, ông công nhận, nhưng đoạn sau của nó... Ông có thể nghe tiếng cười đằng sau lưng đang nhắm vào ông.
"Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình", "Nghĩ mình phương diện quốc gia. Quan trên trông xuống, người ta trông vào", ông biết những lời ấy nhắm vào ai, vào chuyện gì. Nhưng ông chỉ có thể im lặng. Chẳng qua, đó cũng chỉ là một trong nhiều thứ đã được truyền tụng, được đưa đến trước ông, trực tiếp hay gián tiếp. Ông vốn biết đó là chuyện sẽ xảy ra, và đã sẵn sàng chấp nhận đối mặt, cũng đã quen. Ông chỉ lo lắng rằng văn bản này sớm muộn cũng sẽ đến tay nàng.
- Đoạn trường tân thanh của Đông Các đại học sĩ? Thần thiếp đọc rồi. - Nàng cười nhẹ khi ông ướm hỏi. Dựa lưng vào chiếc tràng kỷ ngoài hiên, nàng nhìn ráng chiều đang buông xuống trong làn mưa bụi, tay vẫn rung nhè nhẹ thằng bé đang say giấc. Nó là đứa con thứ ba của hai người, và nàng đang chờ đợi đứa thứ tư. Sự sủng ái của nhà vua khiến cuộc hôn nhân này không bị quên lãng cùng với thời gian, chỉ càng ngày càng gây nhiều dư luận. Đã bảy năm, nhưng hầu như không ngày nào ông lẫn nàng không bị nhắc nhớ về những gì đã qua. Để rồi, một bức tường cao đã được xây nên, chưa bao giờ bị phá bỏ giữa ông và nàng trong từng ấy năm. Nàng đang bước vào độ tuổi đẹp nhất của người phụ nữ, nhưng càng ngày, vẻ đẹp của nàng càng có vẻ chênh chao, thương tổn, đau đớn. Trong đôi mắt nàng, sau hàng mi rợp, là một nỗi day dứt mãi không tan, một vết thương chỉ sâu hơn cùng năm tháng. Kể cả khi nhìn xuống những đứa con, mỉm cười với chúng, nàng chưa bao giờ dứt được nét ưu tư. Trong ánh thu vàng, những tán lá chuyển màu nâu về với đất, tiếng loài chim thiên di lại văng vẳng trên trời cao và hoa cúc lại rực rỡ vườn thượng uyển, nàng gây cho ông cảm giác về một ánh nắng nhẹ như khói mỏng thoáng qua trước hiên nhà. Như là, chỉ trong khoảnh khắc, nàng sẽ tan biến, bay đi khỏi cõi đời này.
Từ ngày ấy, một phần của nàng đã vĩnh viễn chết đi, ông nhận ra điều đó, nhưng không thể nào khác được.
- Nghe nói Xiêm và Chân Lạp lại hiềm khích với nhau, hoàng thượng định thế nào? - Nàng chợt hỏi, không muốn bàn luận thêm về cuốn sách. Ông nhìn vào trong phòng, nơi Ngọc Ngôn và Ngọc Khuê đang nô giỡn với nhau trên chiếc giường rộng. Mắt chúng giống như nàng, đen và sáng, trong veo như nước.
- Ta đã cho Tổng trấn Gia Định chuẩn bị vũ khí, lương thực đề phòng sẵn. - Ông trả lời, tự hỏi giữa ông và nàng có thể nói điều gì khác ngoài những chuyện như thế? Nàng gật đầu nhè nhẹ với đứa trẻ.
- Hoàng thượng vất vả cả ngày rồi, xin người về nghỉ.
Khi nói như vậy, nàng tỏ ý mệt mỏi, không muốn gặp ông. Ông nhìn nàng, rồi quay bước rời khỏi cung. Vì đang có thai, nàng được miễn qùy lạy. Sức khỏe của nàng những tháng gần đây lại đi xuống. Hai đứa trẻ liền nhau đã vắt kiệt sức nàng, hay còn một điều gì khác mà ông không phân định được. Nó hiển hiện trong đôi mắt đen hút như vực sâu của nàng, khiến nàng càng có vẻ chênh chao, bất định, càng có dáng vẻ của người đang rơi xuống, không bề chế ngự bản thân. Xuống một nơi nào đó, thẳm sâu hơn cả cõi lòng nàng.
Ông cũng chỉ có thể đứng nhìn khi nàng luôn luôn im lặng khi phải nói về bản thân. Ông cũng không quên mắt nàng đã tối lại khi nghe tin ông cho xây thành Bình Định để tiếp tục canh chừng mầm mống, dòng dõi của Tây Sơn. Nàng hiểu, và nàng sẽ vĩnh viễn căm ghét mình vì sự thấu hiểu đó.
Trong nội cung ngày càng nhộn nhịp này, khi từ ngày ông lên ngôi, các quan đã đua nhau tiến cử con gái mình vào, nàng và hành cung của nàng là một sự tách biệt gần như ốc đảo. Hoàng hậu yêu thương nàng, tránh được cho nàng những hiềm khích vặt vãnh. Nhưng sự yêu thương của ông khiến cho nàng càng bị cô lập hơn. Bản tính cô độc sẵn có khiến nàng không quan tâm đến điều đó, nhưng cũng không ai có thể cởi bỏ gánh nặng đã từ lâu chất chứa trong nàng. Đã thế, càng ngày nàng càng đẹp. Đẹp như một cánh bướm đang vùng vẫy trong lửa.
Ông đã nghĩ những đứa trẻ có thể giúp cho lòng ham sống của nàng trỗi dậy. Qủa thật, nàng đã cố gắng, đã tươi tỉnh, đã mừng vui, dồn hết tình thương cho chúng. Nhưng khoảng tối ấy vẫn ở mãi mãi bên nàng như một cái bóng. Chỉ cần quay lại, nàng sẽ trông thấy nó, và sẽ không bao giờ thoát được. Nó dần dần nuốt chửng nàng, phủ lên nàng cái đẹp mê đắm, đớn đau. Trong mùa thu này, khi những làn sương mỏng nhẹ thoảng đâu đây cùng màn mưa vô thanh buông xuống tựa sương mù, ông có cảm giác mình sẽ đánh mất nàng bất cứ lúc nào.
Nàng không bao giờ tha thứ cho ông, và cái chết của nàng sẽ là hình phạt cuối cùng đối với ông.
Chúng ta phải hủy hoại nhau, nàng đã nói. Ông thấy cõi lòng mình nứt toác như mặt đất vào mùa hạn dưới ánh mắt nàng.
Ngồi trong sân, nhìn bóng ông đi khuất, nàng lại ngẩng nhìn trời. Những bóng mây mờ nhạt của hoàng hôn đang trượt xuống cùng mưa. Sa mù lại lãng đãng thổi vào, hẳn đêm nay hành cung của nàng lại đắm trong sương. Trong những đêm sương, hoa mạt lị nở rộ, trắng xóa một góc vườn như ngàn sao sa xuống. Tiếng sáo ở đâu đó vi vu thổi cùng gió chiều.
"Giết chồng rồi lại lấy chồng. Mặt nào còn sống ở trong cõi đời?", nàng thì thầm. Sinh linh nhỏ bé cựa nhẹ trong tay nàng. Nàng chớp mắt, lại thấy ran rát trên mi. Đã bao nhiêu ngày qua như thế, nhưng hôm nay, nàng đã mệt rồi. Nàng chỉ muốn khóc, nhưng nước mắt đã lạc mất vào quãng đời nào. Sự tồn tại này, đối với nàng đã trở thành một gánh nặng không kể xiết. Nàng còn có thể cố gắng đến bao giờ?
Bảy mùa lá mọc rồi lá rụng, ngày tháng lặng lẽ trôi như dòng sông miên man chảy. Trầm tích của những ngày tháng cũ lặng lờ đọng lại trong sa mù. Có những đêm nàng chỉ muốn mình không thức dậy, nhưng những bàn tay nhỏ bé lại chạm vào nàng, lay nàng thức tỉnh. Ông muốn nàng có thật nhiều con, vì ông hiểu, chỉ có chúng giữ được nàng lại. Nhưng đến bao lâu?
Đêm nay, nàng qủa thật đã cảm thấy mình khô kiệt như ngọn đèn cháy cạn đến cả bấc.
***
Đêm tháng chín năm Canh Ngọ, Lê Tam phi trở dạ, sinh một hoàng nam. Vua Gia Long vội vã đến hành cung nàng. Quan ngự y bối rối, sợ hãi thông báo với ông, Tam phi có thể không qua khỏi. Sức khỏe của nàng đã yếu, nàng lịm đi sau khi sinh, chỉ lơ mơ hồi tỉnh những khoảnh khắc ngắn ngủi. Cái tin loan ra, cả Hoàng hậu cũng đến cung Tam phi. Ngọc Bình khép mắt nằm trên giường, hơi thở khó khăn, khuôn mặt tái nhợt. Đến nửa đêm gần sáng, nàng tỉnh dậy. Ngọc Ngôn, Ngọc Khuê đã cùng cha chúng tụ tập bên giường nàng. Bàn tế tổ tiên ban tên thụy cho nàng đã được bày.
Nàng mỉm cười, đưa tay đòi cung nhân đưa đứa bé mới sinh đến cho mình. Thấy sự tỉnh táo đó, người trong phòng đều hiểu khoảnh khắc này là lúc hồi quang phản chiếu của nàng. Cung nhân đỡ nàng dậy. Nhà vua ôm đứa trẻ trao cho nàng.
- Đứa trẻ này được đặt tên là Cự, ta sẽ phong nó là Thường Tín công. - Ông nói. Những danh phong này mới chỉ là dự định của ông, nhưng thời gian của nàng chẳng còn bao lâu nữa. Ông muốn thông báo cho nàng biết kế hoạch của ông cho tất cả đứa con nàng. - Quân sẽ được phong là Quảng Oai công.
Nàng ngẩng nhìn ông, mắt mở lớn, môi run rẩy. Quảng Oai, Sơn Tây - nơi Quang Thùy qua đời và Thường Tín - quê hương của Lý Tử Tấn, tác giả Xương Giang phú. Ông nhìn nàng, khe khẽ gật đầu, đẩy Ngọc Ngôn ra trước.
- Ngọc Ngôn sẽ được phong là An Nghĩa công chúa.
Nàng vẫn nhìn ông.
Hai dòng lệ chậm chạp chảy tràn trên má nàng. Nàng nhắm mắt, trao lại đứa bé cho Hoàng hậu bên cạnh. Thân thể nàng run lên. Cung nhân vội đỡ nàng nằm xuống. Tay ông nắm lấy bàn tay đã lạnh của nàng. Nàng nhìn ông, lần đầu tiên trong bấy nhiêu năm, nét cười thực sự mơ hồ hiện lên trên gương mặt nàng.
- Cám ơn Hoàng thượng. - Nàng không hỏi ông tại sao lại biết những gì nàng chưa từng kể. Nàng không hỏi ông tại sao lại chưa từng hỏi nàng. Tất cả những điều đó, nàng cảm thấy không còn quan trọng nữa. Tất cả những đau thương hay thù hận đã không còn ý nghĩa gì nữa. Nàng nhìn ra đám sa mù đang phảng phất mơ hồ ngoài đám cỏ. Mùi nhang đèn trong phòng đã lấn át hương hoa. Nhưng nàng đoan chắc những cánh hoa trắng đang bung nở trong vườn.
- Hoàng thượng... - Ngón tay nàng siết chặt tay ông. - Đáng tiếc là không thể cùng ngài thực hiện lời hứa ấy, nhưng ngài hãy nhớ những gì chúng ta đã nói. Thần thiếp... là sinh mạng cuối cùng...
Ông gật đầu, chạm tay lên má nàng, gạt những sợi tóc dính bết sang bên. Hơi thở nàng ngắn dần. Ông cúi xuống, thì thầm tên thụy cho nàng.
- Ta sẽ phong nàng là Đức phi. - Ông nói thêm sau một khoảnh khắc im lặng. Nàng đã nhắm mắt.
Đức phi, nàng nghĩ, trong tâm trí mơ hồ. Nàng nhớ đến chuyến xe ngựa mười mấy năm về trước hướng về Kinh Bắc. Đã có người nói cho nàng về chữ Đức. Từ rất lâu trước đây...
Lúc ấy, nàng đã không hình dung ra được cuộc đời mình.
Nàng muốn nói một điều gì đó, nhưng cuối cùng im lặng. Mọi điều đều không cần thiết. Sẽ không ai biết được hay được biết, nàng tự nhủ. Rồi đây, sẽ chẳng còn lại dấu vết nào của nàng trong cõi đời ngoài vài dòng ngắn ngủi. Những danh xưng này liệu có ý nghĩa gì? Chẳng còn dấu vết nào, của họ, của nàng, của những ngày tháng ấy.
Ngoài kia, tiếng chuông chùa lại vang, hẳn đã đến lúc nắng lên. Nàng lại nhớ đến buổi sáng xa xôi nào đó, những thanh âm lan truyền trong đá như sóng dưới mặt nước ngầm. Khi ấy, là cô bé mười sáu tuổi, nàng đã rơi nước mắt cho một người không mở mắt nhìn lại cuộc sống lấy một lần.
Nàng nhớ đến tình yêu của ngày tháng ấy, những ánh sáng lấp lánh kỳ ảo trên mặt sông, dưới mái chèo. Tiếng thông reo và bóng tối chênh chao giữa tận cùng yên lặng. Mưa đã rơi, giữa một thế giới tràn ngập nước.
Mưa đã rơi, nàng nghĩ khi tiếng rì rầm lại vọng vào cùng hồi chuông ngân dài. Có tiếng nói, tiếng khóc trong phòng, nhưng tất cả đã hóa thành xa diệu vợi.
Mùa thu mờ sương và ánh bình minh tím loang trên mặt sóng, nàng có thể hình dung ra khung cảnh ấy, như cái ngày mười sáu tuổi.
Nàng có thể nghe, tiếng mưa đang rơi vào giữa thinh lặng của đá, núi và mặt đất.
***
Nguyễn Phúc tộc thế phả ghi: Tam phi Lê Ngọc Bình qua đời ngày mười hai tháng chín năm Canh Ngọ, hưởng dương hai mươi sáu tuổi.
Trưởng nam là Quảng Oai công Nguyễn Phúc Quân, con thứ là Thường Tín công Nguyễn Phúc Cự, trưởng nữ là An Nghĩa công chúa Ngọc Ngôn, thứ nữ là Mỹ Khê công chúa Ngọc Khuê.
Vua Gia Long phong tặng nàng là Đức phi.
Ông đã thực hiện lời hứa với nàng. Ông đã vẽ nên bản đồ hoàn chỉnh của Việt Nam từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, vươn xa đến các đảo Trường Sa, Hoàng Sa ở biển Đông. Một loạt các hệ thống đê điều, đồn điền và khu khai thác bị tàn phá trong chiến tranh được xây dựng lại. Nền thống nhất của Việt Nam được duy trì bằng mọi giá.
Ông đã làm hết sức mình, cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời.
Trong thời Gia Long và Minh Mạng, Việt Nam là cường quốc mạnh nhất Đông Nam Á.
Hết
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top