mathoiden vuhiepquanson

CHƯƠNG 62: THIÊN NỘ

Mỗi khi tôi nhớ đến miếng quẻ phù bằng đồng xanh ấy, thảm trạng bị lôi hỏa thiêu đốt của Lão Dương Bì sau khi thi biến mười mấy năm trước lại hiện lên rõ mồn một như vừa mới hôm qua. Thứ rêu xác kia là do xác thối trong huyệt nhãn phong thủy chuyển hóa mà thành, nếu đã mở ra long thị, đương nhiên cũng thuộc một dạng thi biến, những thứ rêu thịt rêu xác này cực kỳ âm trầm thối nát, lửa thường không thể hủy diệt nó được, có lẽ mảnh long phù bằng đồng xanh trong túi tôi đây, mới là cơ hội duy nhất.

Ý niệm vừa lóe lên, tôi lập tức xé toác cái túi kín mang theo bên mình, lấy ra mảnh long phù đồng xanh, Tuyền béo ở bên cạnh hình như cũng sực hiểu ra ý đồ của tôi, vội kêu lên: “Không được đâu, vốn đã chẳng đổ đấu được món gì ra hồn, lại còn phải bù cả miếng quẻ phù vào nữa, tham ô lãng phí là tội lớn lắm, buôn bán lỗ vốn tuyệt đối không nên làm...”

Tôi biết miếng bùa bằng đồng này đối với chúng tôi có ý nghĩa không phải tầm thường, nhưng trong ba món đồ đồng xanh ở Quy Khư mà chúng tôi có được, hai món còn lại đã bị mất hết tính đồng, chỉ còn lại miếng long phù đứng đầu trong bốn miếng quẻ phù này, vả lại, nó còn được chôn trong động Bách Nhãn nhiều năm, hải khí ngấm vào trong đồng không tiêu tán, sau khi cân nhắc thiệt hơn, tôi thấy chỉ còn cách dằn lòng bỏ đi vật này mới có khả năng phá hủy hoàn toàn thôn Địa Tiên. Đồng thời, sinh tử của bốn người chúng tôi cũng đều do nó quyết định.

Nghĩ tới đây, tôi bèn nghiến răng, nhìn cái xác không đầu bên dưới đã đến gần trong gang tấc, vung tay ném long phù xuống. Hải khí bên trong chất đồng của long phù trải qua mấy nghìn năm vẫn chưa tan, chỉ thấy rêu xác bên trong hình hài người chết khi phun nuốt khí đen, đã cuốn lấy cả miếng long phù vào bên trong.

Gần như đồng thời, trong hẻm núi, mây đen đã che đầy trời, tối đến mức mặt đối mặt cũng không nhìn thấy đường nét hình dáng của người kia, một đợt sấm ì ùng vang lên trong màn mây mù mịt. Tôi biết, đây là điềm sấm sét sắp giáng xuống, vội vàng bảo mấy người kia nằm rạp xuống đất. Tôi chưa kịp cúi người né tránh, đã thấy một tia sét tựa như rồng uốn xẹt qua trước mắt, làm khoảng không gian giữa hai vách núi dựng đứng bừng lên một quấng sáng chói mắt, sấm vang sét giật ngay bên cạnh, tiếng nổ ầm ầm đinh tai nhức óc, khiến nghìn vạn cỗ quan tài trong hẻm núi đều nhất tề rung lên bần bật.

Những người canh giữ mộ cổ Ô Dương vương bị Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ giam cầm, từng giúp ông ta suy đoán thiên cơ, cuối cùng ứng nghiệm như thần, núi Quan Tài đã bị cơn lũ cuốn từ lòng đất ra đến hẻm núi lớn bên ngoài, nẳm lơ lửng vắt ngang trên dòng sông cuốn cuộn gào thét, vô số thi tiên trong núi thừa cơ thoát ra ngoài, hoàn toàn ứng hợp với tượng “phá sơn xuất sát” miêu tả trong điềm trời.

Chúng tôi bị vây khốn trên vách đá trong hẻm núi, không còn đường thoát, trong lúc tuyệt vọng đã chụp được một cọng rơm cứu mạng. Nói không chừng, đồ đồng xanh ở Quy Khư lại cổ thể xoay chuyển càn khôn, mấy món quẻ phù, gương đồng ấy đều là bí khí phong thủy từ thời thượng cổ, ngoài tác dụng chiêm nghiệm phong thủy, quẻ tượng ra, hải khí ẩn giấu bên trong chát đồng cũng là thứ phi phàm.

Năm xưa, Láo Dương Bì mất mạng trên thảo nguyên Mông Cổ, trước lúc lâm chung đã lén lút nuốt quẻ phù vào bụng, khiến lũ hoàng bì tử đào huyệt trộm xác, lại thần xui quỷ khiến thế nào bị chúng tôi đào lên, cuối cùng thì bị sét đánh, thi thể Lão Dương Bì và con chồn lông vàng đến trộm quẻ phù đều bị lôi hỏa giáng trúng, cháy thành một đống than.

Đáng tiếc, người xưa đã khuất, tôi vĩnh viễn không thể biết được dụng ý thật sự của Lão Dương Bì nữa, nhiều năm sau đó, tôi lại từ chỗ lão Trần mù và Tôn Cửu gia ít nhiều nghe được chút thông tin, dựa vào đó suy đoán, có thể thấy năm xưa Lão Dương Bì quả thật có ý đồ quá phận. Từ xưa, lão đã nghe nói long phù không mắt là bí khí phong thủy, toan chiếm lấy làm của riêng sau khi chết hòng giúp con cháu đời sau được phát vượng, nên mới sắp xếp ra chuyện quái đản như khỏa thân chôn chổng đẩu xuống đất như thế. Chỉ là, lão không biết hành vi ấy rất dễ bị trời trừng phạt, cuối cùng phải nhận lấy kết cục “mưu mô vô dụng, quỷ kế thành không”

Trước khi tìm thấy di thể của trung đoàn trưởng Phong trong hẻm núi Quan Tài, tôi từng trông thấy trong quan tài treo trên vách đá có xác của một ẩn sĩ không bị thối rữa, cái xác ấy vẫn còn nguyên cả râu tóc, thần thái y như lúc sống, thoạt nhìn toát lên vẻ tiên phong đạo cốt, hoàn toàn không giống xác cổ nghìn năm, có lẽ là cương thi từ thời cổ đại còn lưu tồn đến ngày nay. Bấy giờ, tôi đang chuẩn bị sử dụng quẻ phù và gương cổ suy đoán phương vị của mộ cổ Địa Tiên ngay cạnh cỗ quan tài treo ấy, kết quả khiến gần đó giáng xuống một trận sấm sét ì ùng, làm cả bọn kinh hãi một phen.

Trải qua hai trường hợp như vậy, khiến tôi lờ mờ có cảm giác miếng long phù bằng đồng xanh này còn ẩn giấu rất nhiều bí mật, đây có thể là một miếng “lôi phù”. Kỳ thực, khi xác khô thi biến, trong xác có rất nhiều khí ác cực âm, gặp phải dương khí ở thế giới bên ngoài sẽ nảy sinh hiện tượng âm dương va chạm, lại được luồng khí hỗn độn mờ mịt bất minh trong đồ đồng xanh ở Quy Khư kia hấp dẫn, liền gây ra phóng điện ở tầng mây thấp, sản sinh sấm sét trong thời gian cực ngắn.

Người cổ đại tin vào câu chuyện thần thoại “ở trong Lôi trạch có Lôi thần, đầu rồng mình người, vỗ bụng thành sấm”, ngỡ rằng sấm sét lôi điện đánh người phá nhà là do trời cao nổi giận, trừng phạt con người. Đến thời Hán, người ta bắt đẩu dùng lý luận hai khí âm dương tác động lẫn nhau để giải thích hiện tượng sấm sét, đưa ra quan điểm “m dương kề nhau, cảm thành sấm, kích thành sét”, có nghĩa là, âm khí và dương khí tiếp xúc, phát sinh chấn động sẽ hình thành sấm, khi chấn động kịch liệt sẽ hình chành sét giáng xuống.

Mặc dù tôi cũng từng có ý nghĩ này, nhưng không thể xác định sự tình thực hư, lúc này đã rơi vào đường cùng, không còn phương cách nào khác nữa, khó khăn lắm tôi mới nghĩ ra được một cách, trong đầu chỉ còn ý nghĩ trời không tuyệt đường người, tâm trạng đâu mà xem xét nó có khả thi hay không, lập tức cắm miếng long phù nhắm vào đống rêu xác kia ném tới, vừa khéo rơi đúng vào cổ cái xác không đầu của Phong Soái Cổ.

Ai ngờ thi khí trong núi Quan Tài kia quá nặng nề, trong đạo phong thủy gọi là “phá sơn thấu huyệt, quần long kinh chập”, là điềm cực hung, lập tức khiến trong hẻm núi sâu này xuất hiện sấm sét. Sấm sét này không phát ra từ tầng mây trên cao, mà lại nảy sinh trong màn sương đen dưới đáy hẻm núi, chỗ tiếp giáp với mặt nước.

Thường có câu, “sấm đánh không kịp bưng tai”, sấm sét trong hẻm núi bảo đến là đến, trong tiếng sấm ì ùng lúc đấu, bốn bề vẫn còn tối như hũ nút, nhưng khi một tia chớp hình cành cây chĩa nhánh vạch ngang hẻm núi tựa như rồng thần thoạt hiện, ánh điện quang chói mắt lập tức chiếu sáng bừng cả vách đá lên.

Điểu đạo nơi chúng tôi náu mình cực kỳ dốc và chật hẹp, đa phần không rộng quá một thước, khi tia sét lướt qua bên cạnh, tôi còn chưa kịp rạp người né tránh, tranh thủ ánh sáng lóe lên trong chớp mắt ấy, có thể nhìn thấy bốn phía xung quanh đều phủ đầy rêu xác. Thi thể của vô số người chết trong thôn Địa Tiên hầu hết đều đã bị xé toạc hình hài, bên trong lộ ra từng mảng rêu xác đen kịt nhu động, hình thái thiên kỳ bách quái, nhầy nhụa máu tươi bám lên vách đá, chen chúc lúc nhúc bò lên cao.

Tia sét tựa như con rồng lướt qua bầu không kia lóc lên rồi vụt tắt, hẻm núi Quan Tài lại chìm vào màn sương đen mù mịt mênh mang, không gian trong hẻm núi từ tối tăm chuyển sáng rói lại chìm vào bóng đêm chỉ trong một cái chớp mắt, hai mắt tôi bị ánh chớp làm lóa, chưa kịp chớp chớp đã nghe tiếng sấm nổ ùng ùng, tiếng vang còn chứa dứt, dưới đáy khe núi tăm tối bỗng bùng lên vô số quả cầu lửa, tất cả đám rêu xác đều bị lôi hỏa giáng trúng, dường như mảng thi khí mù mịt như sương ở xung quanh cũng bùng cháy, thiêu đốt cả không khí.

Lôi hỏa lan ra cả hai vách núi ké bên núi Quan Tài, tựa một cơn lốc xoáy vừa nóng bỏng dị thường lại vừa lạnh buốt thấu xương cuốn lấy, tôi nằm mơ cũng không thể ngờ mình lại gây nên biến động lớn chừng này, chỉ thấy những mảng rêu xác lớn nhỏ xung quanh đều bị cầu lửa bao bọc, không ngừng vùng vẫy rơi khỏi vách đá dựng đứng, bèn vội vàng nằm rạp xuống né tránh. Lúc này, không biết có phải tai bị ong ong vì tiếng sấm hay không, mà tôi lại nghe thấy trong hẻm núi dường như toàn những tiếng gào rít thê thiết dị thường.

Trong lý luận thông thường của thuật phong thủy thanh ô, vẫn cho rằng lửa trên thế gian ngoài quỷ hỏa thần bí ra, còn ba loại lửa khác nữa, lần lượt là nhân hỏa, long hỏa và thiên hỏa. Long hỏa có thể cháy trong nước, nhân hỏa là thứ lửa bình thường khi đốt củi đốt than; còn thiên hỏa tức là lôi hỏa, hay còn gọi là hận thế hỏa, nếu đức hạnh của người đời suy đồi bại hoại, hoặc có hiện tượng vật già hóa tinh hóa quái, sẽ rất dễ bị lôi hỏa giáng xuống. Dân gian cho rằng, đó là Lôi thần mở mắt, chuyên tru diệt yêu tà gian ác, kỳ thực, đó chính là dị biến của “khí” trong bốn yếu tố phong thủy “hình, thế, lý, khí”. Dị biến dẫn đến thiên địa mất cân bằng, mới khiến trong tầng mây có lôi điện giao kích.

Trong không khí nồng nặc mùi ô zôn tanh tanh, cùng với mùi hôi thối khi đốt xác chết, làm chúng tôi cơ hồ tắc thở, Hai mắt tối sầm lại. Bốn người chúng tôi vội đeo mặt nạ phòng độc, nằm rạp người xuống không dám nhúc nhích, cũng may quần áo mặc trên người đều bằng chất vải chịu nước chịu lửa, lại thêm mặt nạ phòng độc ngăn cách hơi thở của người sống với bên ngoài nên mới may mắn thoát nạn, bằng không chỉ trong giây lát, cả bọn đã bị lôi hỏa thiêu chết trong hẻm núi Quan Tài này rồi.

Bốn người đều kinh hồn táng đởm, không biết đã bao lâu trôi qua, tôi nhìn qua lỗ quan sát của mặt nạ phòng độc, chỉ thấy màn sương thi khí bị lôi hỏa thiêu đốt dã tan hết, ánh mặt trời lại chiếu rọi xuống hẻm núi sâu, vô số muội than đen kịt bay khắp trời, vẫn còn một vài đốm lửa chưa tắt hẳn, Xem chừng kiếp nạn đã qua, bấy giờ tôi mới cởi bỏ mặt nạ phòng độc, một luồng gió núi lành lạnh ùa tới, tuy rằng mùi cháy khét nồng nặc trong không khí vẫn chưa tan hết, nhưng cảm giác bức bối khó chịu nơi lồng ngực đã lập tức bớt đi phần nhiều.

Mọi người trên vách đá đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy trong tầm mắt toàn những cảnh tượng ghê hồn khiếp vía, sau phen chết hụt, càng khiến người ta thổn thức không thôi. Thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài bị lôi hỏa giáng xuống, mưu đồ phá sơn xuất sát của địa tiên Phong Soái Cổ tựa như băng chảy mây tan, trong khoảnh khắc đã thành tro bụi. Vệt nắng trên đỉnh hẻm núi lại hiển lộ, ngoài những vết tích cháy đầy vách đá, không còn xác chết nào nữa, chỉ có vô số mảng muội than đen kịt sót lại sau khi lôi hỏa thiêu đốt thi hài dập dờn phiêu đãng trong làn gió núi, như một trận tuyết đen giăng giăng khắp bầu trời trong hẻm núi.

Trong núi Quan Tài gác nghiêng lên hai vách núi đá, “ván quan tài” ở bốn phía xung quanh đã bắt đầu rạn nứt đổ vỡ, địa mạch Bàn Cổ và thôn Địa Tiên trong núi đều bị nước lửa hủy hoại sạch trơn, trong đống bùn nước nhầy nhão chỉ còn lại một đống gạch ngói tan hoang, ngọc thạch bên trong và nham thạch vỡ vụn, những khối đá, mảng ngói vỡ không ngừng rơi xuống dòng nước bên dưới.

Điều khiến người ta bất ngờ nhất là, thôn Địa Tiên quả nhiên đã ứng với điềm “phá sơn xuất sát”, sự việc đã định sẵn trong mệnh trời rốt cuộc vẫn xảy ra, đây là kết quả chân thực mà những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương dùng quẻ cổ suy diễn cho Phong Soái Cổ, nhưng trong quẻ tượng này lại ẩn giấu lời nguyền ác độc của bọn họ.

Ngay cả bậc kỳ nhân có dị thuật thông thiên như Phong Soái Cổ cũng không phát giác được bên trong quẻ tượng này lại chôn giấu huyền cơ, những người bảo vệ lăng mộ bị Quan Sơn thái bảo dùng cực hình hành hạ ấy chỉ tính ra “phá sơn xuất sát” là điểm triệu cuối cùng của thiên tượng, nhưng lại giấu đi kết quả sẽ xuất hiện ngay sau đó, khiến thôn Địa Tiên mà Phong Soái Cổ dốc hết tâm cơ xây dựng cuối cùng bị hủy bởi lôi hỏa.

Trải qua những sự việc này, khiến chúng tôi không thể không tin, trong một cõi nào đó, đích thực có thiên ý sắp đặt. Kỳ thực, các bậc tiên hiền cổ đại sớm đã nói rõ đạo lý này: “U thâm vi diệu, ấy là cơ trời; tạo hóa biến dịch, ấy là lẽ trời; đem thiên lý ứng với người, ấy là phải; tiết lộ thiên cơ để mê hoặc người, trời ắt trừng phạt.”

Có thể dùng nguyên lý biến hóa của trời đất để chỉ dẫn cho mọi người, như vậy mới có thể sinh sôi không ngừng, khoan hậu bao dung; nhưng thiên cơ vi diệu sâu xa, phàm phu tục tử ở cõi thế tục không nên trộm ngó bí mật trong đó, bằng không ắt sẽ dẫn đến tai họa, hại mình hại người. Có lẽ thuật luyện đơn tu tiên, chưa chắc chỉ là kỳ thuật trong truyền thuyết, nhưng cần phải có tấm lòng phẳng lặng, không muốn không cầu, luyện tập lâu dài sẽ có thể cường gân kiện cốt, diên niên ích thọ. Tiếc rằng địa tiên Phong Soái Cổ kia vổn là kẻ tuyệt thế kỳ tài, nhưng lại mê muội với pháp môn cứu thế độ người, còn ấp ủ những ý nghĩ ngông cuồng trái phận, bức ép những người dân còn sót lại từ thời kỳ Ô Dương vương suy tính thiên cơ, ý đồ luyện ra thi tiên kết quả bị bọn họ lừa gạt đến nỗi tự châm lửa thiêu mình, nhân lấy kết cục tan thành tro bụi.

Hẻm núi Quan Tài này mây mưa vô thường, trời vừa mới quang, đột nhiên lại có mây mù tụ hợp, thoáng cái đã thấy mưa to như trút sầm sập đổ xuống, rửa hết những bụi tro bay lơ lửng trên không trung. Chúng tôi bị mưa xối cho toàn thân ướt sũng, lập tức cảm thấy xương cốt rã rời, ba vạn sáu nghìn lỗ chân lông từ trên xuống dưới thảy đều đau nhức, đành nán lại trong hốc đá đặt quan tài treo trên lưng chừng vách đá nghỉ ngơi cho lại sức.

Mọi người tuy mệt mỏi rã rời, nhưng cả bọn sống sót qua kiếp nạn, lại được nhìn thấy ánh mặt trời, mà thứ đặc sản “thi tiên” của núi Quan Tài cũng bị hủy diệt, ai nầy đều lấy làm vui mừng.

Tôi và Tuyền béo nhắc lại chuyện bị Tôn Cửu gia dụ đến núi Quan Tài đổ đấu, coi như một cú va vấp, cả chuyến đi này hoàn toàn bị người ta lợi dụng làm tay đấm. Trong địa mạch Bàn Cổ tuy có thi đơn, nhưng lại không phải thứ nội đơn có thể cứu mạng Đa Linh, hai thứ này hoàn toàn khác nhau; vả lại, cuối cùng Tôn Cửu gia vẫn không rõ tăm tích, muốn tìm lão ta hỏi tội cũng khó. Nhưng phen này có thể an toàn trở ra, không bị mất chân cụt tay, cũng coi như là tổ sư gia hiển linh, khí số của Mô Kim hiệu úy chúng tôi chưa tuyệt rồi.

Hai chúng tôi càng nói càng phẫn hận, nước bọt bắn tung tóe, những lời ác độc có thể nghĩ được đều tuôn ra hét một lượt, bây giờ thôn Địa Tiên đã không còn tồn tại nữa, nếu Tôn Cửu gia có mặt ở đây lúc này, không khéo chúng tôi ăn tươi nuốt sống lão ta tại chỗ cũng nên.

Út không hề biết chuyện đi Nam Hải mò ngọc, cũng không hiểu tại sao chúng tôi lại cáu tiết lên như thế, chỉ cảm thấy đi một vòng trong huyệt mộ của Phong Soái Cổ mà vẫn còn sống sót trở ra đã coi như niềm vui bất ngờ rồi, bèn lên tiếng hỏi rõ đều đuôi câu chuyện.

Tuyền béo lập tức gập ngón tay đếm ra mười tội lớn của Tôn Cửu gia, đến cả vấn đề tác phong năm xưa cũng tính vào, đương nhiên chuyện này chỉ là cậu ta nghe hơi nồi chõ thôi. Nghe nói, năm xưa khi Tôn Cửu gia vừa từ nông trường cải tạo lao động về, đã lợi dụng cơ hội tham gia công tác khảo cổ tại hiện trường lén lút quan hệ với nữ chủ nhà, kết quả bị nông dân trong thôn bắt được quả tang. Thời bấy giờ, đó là chuyện lớn tày đình, lão ta bị tẩn cho một trận tại chỗ, nếu không phải có các đồng nghiệp nói đỡ thì đã bị dân làng bắt trói giải đến công an rồi.

Về sau, tổ chức yêu cầu Tôn Cửu gia viết kiểm điểm, lão ta lại giảo biện nói rằng mình và người đàn bà nông thôn kia không hề có vấn đề về mặt tác phong. Sự việc lúc ấy hết sức đặc thù, vì bấy giờ ở nông thôn toàn nhà bằng gạch mộc, nhiều rận vô cùng, chúng nhảy lên khắp người, lão ta và bà chủ nhà ban đêm rảnh rỗi không có việc gì làm, bèn ngồi trên giường lột hết quần áo ra bắt rận cho nhau, ngoài ra không làm bất cứ điều gì khác. Thái độ của Tôn Cửu gia trước sự việc này cực kỳ ngoan cố, nhất quyết không chịu thừa nhận chân tướng, khai ra sự thật.

Tuyền béo còn nói, Tôn Cửu gia chính là loại người như vậy, len lỏi vào kẽ hở của công cuộc cải cách mở cửa, chấn hưng kinh tế, còn kiếm được

cái học hàm giáo sư rởm, kỳ thực đằng sau lớp vỏ bọc ấy vẫn còn không biết bao nhiêu tội ác phản động chưa lộ ra, hạng người này lẽ ra phải xử bắn bảy tám chín mười lần mới thỏa lòng thỏa dạ được. Cậu ta vốn đã chướng mắt giáo sư Tôn từ trước, lúc này mồm mép trơn tuột, bịa tạc lung tung bao nhiêu tội ác xấu xa có thể tưởng tượng được đều áp cả lên người lão ta.

Tuyền béo càng nói càng chẳng ra sao, Shirley Dương và Út đều lắc đầu không tin. Shirley Dương nói: “Giáo sư Tôn không thể nào là gián điệp của Cục Tình báo Trung ương Mỹ được, nhưng ông ta là hậu duệ của Quan Sơn thái bảo, cũng không phải người làm công tác khảo cổ thông thường. Thân phận chuyên gia giải đọc long cốt, có lẽ đúng là một lớp ngụy trang của ông ta. Việc mà cả đời này ông ta muốn làm, e rằng chỉ có mỗi chuyện vào thôn Địa Tiên tìm Phong Soái Cổ thôi, tính cách kiên nhẫn tàn khốc cơ hồ đã đến mức biến thái, người bình thường căn bản không thể làm nổi, chuyện này hẳn bắt nguồn từ những gì ông ta phải trải qua trong quá khứ. Việc đã đến nước này rồi, các anh có hận ông ta mấy cũng vô dụng, nghe tôi khuyên một câu, tha được cho người ta thì hãy tha đi.”

Tôi nhắc lại lời Shirley Dương: “Tha được cho người ta thì tha, nhưng Tôn Cửu gia... lão ta có phải là người không? Trên người lão ta có dấu vết bị thi trùng cắn xé, vai bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp xuyên qua mà vẫn như không, thi tiên căn bản không cảm giác được sự tồn tại của lão ta, thứ hư vô như cái bóng ấy, rốt cuộc là gì đây ?”

Bọn tôi vừa băng bó vết thương, vừa thấp giọng bàn luận những dấu hiệu khó thể tin nói xuất hiện trên người Tôn Cửu gia, nhưng trước sau vẫn không nắm được điểm mấu chốt, không ai nhìn thấu nổi bí mật của hậu duệ cuối cùng nhà họ Phong. Đang lúc chuyện trò, chợt thấy một cái bóng to tướng lướt qua vách đá sát bên, cả bọn thảy đều kinh ngạc, trong chớp mắt chỉ thấy vật thể ấy to đến lạ thường, trên người khoác áo bào đen, leo bám trên vách đá dựng đứng mà như đi trên đất bằng, bóng lưng lao vút qua màn sương mù nhanh nhẹn tuyệt luân, đến mức khiến người ta khó mà tưởng tượng nổi.

CHƯƠNG 63: NGƯỜI BẠN TRẦM LẶNG

Tôi thấy có thứ gì đó lướt qua trên vách núi, thân hình thoăn thoắt, nhanh không thua gì loài khỉ vượn, chỉ thấy trước mắt hoa lên một cái, thẩm nhủ chẳng lẽ là con khi Ba Sơn mà người nhà họ Phong thuần dưỡng, nhưng thể hình con khỉ Ba Sơn trong hầm phòng không Thanh Khê dường như không lớn đến vậy, chẳng lẽ trong núi Quan Tài vẫn còn sót lại “thi tiên” hay sao?

Đúng lúc này, cái bóng leo bám trên vách đá kia đột nhiên dừng lại ở chênh chếch chỗ chúng tôi, tôi vội dụi dụi mắt, định thần nhìn kỹ, lại càng thêm kinh ngạc bội phần. Bọn tôi đang ở giữa đoạn điểu đạo vừa chật vừa dốc, cách chúng tôi chừng vài chục mét, có mấy cây cọc gỗ đóng trên vách đá, dùng để đặt quan tài, con khỉ Ba Sơn đang cõng giáo sư Tôn trên lưng, dừng lại trên đó bất động trong mưa. Một người một khỉ, cứ thế ngoái đầu lại nhìn chằm chằm vào chúng tôi, nét mặt đơ ra như gỗ.

Tôi đoán, con khỉ Ba Sơn kia không theo bọn tôi vào hẻm núi Quan Tài, nhưng nó có linh tính, cứ quanh quẩn ở gần đây, cảm giác được dưới lòng đất có biến động lớn, liền một mạch vượt núi băng đèo chạy tới, đồng thời tìm được Tôn Cửu gia trong núi Quan Tài sắp bị hủy diệt, bèn cõng lão ta leo lên vách đá, đối mặt với chúng tôi lần nữa.

Tôi thấy Tôn Cửu gia buông thỏng một cánh tay, khắp người toàn bùn đen, gương mặt bị nước mưa xối vào trông nhợt nhạt hết sức, lão ta không cất tiếng, nhưng tôi có cảm giác, ông chỉ muốn xem xem chúng tôi có chuyện gì hay không, rồi sẽ lặn đi từ nay không gặp lại mọi người nữa.

Chúng tôi và Tôn Cửu gia cùng con khỉ Ba Sơn cứ nhìn nhau từ xa trên vách đá, mấy phút liền không ai thốt lên một lời, vách đá trong hẻm núi Quan Tài này dốc đứng, tôi muốn lại gần lão ta thêm một bước cũng không thể.

Chuyến này, chúng tôi nhặt được mấy cái mạng ở thôn Địa Tiên trở về, may mà mấy người đều không thương tổn gì, nghĩ lại những gì vừa trải qua, cảm giác như vừa gặp một cơn ác mộng, đối với những chuyện đã qua, tự nhiên cũng nhìn thoáng hơn rất nhiều, cảm thấy hành vi của Tôn Cửu gia về tình thì chấp nhận được, nhưng về lý thì khó tha, tuy tôi và Tuyền béo ngoài miệng nói dữ, nhưng thực tâm cũng chẳng muốn truy cứu lão ta gì nữa.

Lúc này, tận mắt trông thấy Tôn Cửu gia được con khỉ Ba Sơn kia cứu ra khỏi núi Quan Tài, tảng đá đè trong lòng rốt cuộc cũng rơi xuống. Chỉ thấy lão ta hình như muốn trốn đi thật xa, không biết bao giò mới gặp lại, tôi chợt nhớ ra còn một câu thoại vẫn chưa nói vói lão, bèn khum tay trước miệng, hét về phía lão ta trong màn mưa: “Tôn Cửu gia, món nợ giữa chúng ta còn chưa xong đâu, mong rằng ông trời phù hộ cho ông được bình an vô sự, ít nhất là cho đến khi ông chạm mặt tôi lần nữa.” Tôn Cửu gia nghe tôi nói thế cũng không biểu lộ gì, chỉ nhìn chằm chằm vào chúng tôi một lúc, gương mặt không còn chút sắc máu thoáng lướt qua một nụ cười lạnh lẽo khó nhận ra, đoạn lão ta khẽ vỗ lên vai con khỉ Ba Sơn một cái. Con khỉ hiểu ý, không buồn liếc nhìn chúng tôi thêm lần nào nữa, vươn cánh tay tung mình bám lên vách đá, nó cõng một người trên lưng mà vẫn có thể leo bám trên vách núi dựng đứng nghìn mét không hề khó khăn, nhổm lên hụp xuống mấy cái đã lên càng lúc càng cao, rồi biến mất trong màn mưa như trút.

Tôi và Tuyền béo vươn người thò ra khỏi điêu đạo, ngước nhìn lên vách đá phía trên, chỉ thấy mưa và sương mù mờ mịt, nào còn tăm tích của một người một khỉ ấy, trong lòng chợt thấy trống trải hoang mang, đành rụt người vào, tiếp tục ở lại trong hốc đá tránh mưa.

Lúc này, hẻm núi Quan Tài mứa gió tơi bời, chúng tôi không dám mạo hiểm leo bám lên vách đá ẩm ướt trơn tuột, đành kiên nhẫn đợi mưa lớn tạnh hẳn. Núi Quan Tài nằm vắt vẻo giữa hẻm núi đã hoàn toàn sụp đổ, vỡ thành vô số khối đá lớn, bị dòng thác cuốn xuống con sông bên dưới, giờ đang là mùa lũ, thế nước trong núi rất mạnh, các di tích như mộ Địa Tiên, Linh Tinh điện rơi xuống nước, lập tức bị nhấn chìm không thấy tăm hơi.

Cả bọn an một ít lương khô rồi ngồi bó gối, mỗi người đều có tâm sự riêng, trầm mặc không nói năng gì, sau phen lao lực, cơn buồn ngủ ập đến, bất giác, cả mấy người đều lần lượt thiếp đi.

Vùng đất Vu Sơn xưa nay vẫn nổi danh là chốn thâm u sớm mây chiều mưa, lúc tôi tỉnh giấc, cơn mưa trong núi vẫn chưa dừng, mãi đến sáng hôm sau, mây mới tan, mưa mới tạnh, có thể vượt núi băng đèo rời khỏi hẻm núi Quan Tài. Dọc đường, chúng tôi chỉ hái vài quả dại trong khu rừng gần đó lót dạ, uống chút nước suối giải khát. Chốn hoang sơn dã lãnh này chẳng có đường đi, lúc ở trên núi trông lộ trình có vẻ không xa lắm, nhưng khi băng rừng vượt suối, vẫn phải đi mất gần một ngày trời. Suốt cả chặng dường, bọn tôi không gặp bóng người nào, càng không thấy tung tích Tôn Cửu gia, cũng không biết lão ta vẫn còn nán lại trong hẻm núi hay đã chạy đến nơi nào nữa.

Tối hôm sau, chúng tôi mới đến dược cổ trấn Thanh Khê không một bóng người, vùng núi hiếm khi được ngày quang mây, không sương không khói, chỉ thấy những vì tinh tú lấp lánh trên bầu trời đêm, sông Ngân hiện lên rõ mồn một trước mắt. Vì cả bọn đều có vết thương trên mình, khó lòng ở lại lâu, trời vừa sáng, chúng tôi lại lập tức ra khỏi núi theo đường sạn đạo, trước tiên tới trạm y tế huyện Vu Sơn trị liệu, đồng thời thương lượng xem nên xử lý Tôn Cửu gia thế nào. Tuyền béo nói, lão họ Tôn này thật đáng căm hận, phải băm vẳm lão ra mới được, nhưng cũng chớ vội làm gì, hòa thượng chạy được thì chùa vẫn còn đó, khi nào về Bắc Kinh sẽ tới hốt ổ nhà lão, lên trời thì đuổi tới điện Lăng Tiêu, xuống biển thì truy tới cung Thủy Tinh, dù lão có là Kim Sí Đại Bàng bên cạnh Như Lai thì cũng phải đến Tây Thiên vặt trụi lông lão, không ăn được bữa Mãn Hán toàn tiệc ở quán Chính Dương Cư thì không xong.

Tôi lo nhất là Tôn Cửu gia còn có mưu đồ gì khác, trên người lão ta xảy ra rất nhiều hiện tượng kỳ quái khó lòng lý giải nổi, càng suy đoán lại càng cảm thấy lão ta không phải người bình thường, thảng như chúng tôi vô ý giúp kẻ xấu làm điều ác, thì tội này thật quá lớn, bất luận thế nào cũng phải nghĩ cách tìm bằng được lão ta.

Có điều, tôi cảm thấy biện pháp vé Bắc Kinh hốt ổ nhà Tôn Cửu gia của Tuyền béo cũng chẳng ý nghĩa gì, xét về thủ đoạn hành sự bí hiểm, Tôn Cửu gia này so với đám tổ tiên Đại Minh Quan Sơn thái bảo của mình tuyệt đối chỉ hơn chứ không kém. Nếu tôi đoán không sai, trước khi cùng chúng tôi xuất phát rời Bắc Kinh, lão ta đã hạ quyết tâm bỏ hết gia nghiệp, không trở lại đó nửa rồi.

Ngay trong ngày, tôi và Shirley Dương ở huyện lỵ gọi điện thoại đường dài về nhà giáo sư Trần ở Bắc Kinh, thử thăm dò chuyện của Tôn Cửu gia. Quả nhiên không sai, Tôn Cửu gia đã bàn giao công việc, viện cớ bệnh tật xin nghỉ hưu sớm về quê, cả gian nhà tập thể kia lão ta cũng trả lại nốt. Hiện giờ, người ở Bắc Kinh cũng chỉ biết có chừng đó thông tin.

Tôi thấy việc này không có kết quả, nghĩ nhiều cũng vô dụng, đành tạm gác lại một bên, tĩnh tâm bồi dưỡng sức khỏe. m khí trong mộ cổ Ô Dương vương và núi Quan Tài quá nặng nề, thân thể bốn người chúng tôi đều tích tụ không ít thi độc, đầu tiên là ho sù sụ không ngừng, hô hấp khó khăn, sau đấy còn thường nôn ra máu bầm, nán lại trong bệnh viện gần một tuần mà vẫn chưa khỏi hẳn.

Hôm ấy, trời vừa tối, tôi nằm trên giưòng bệnh truyền dịch, mơ mơ màng màng gặp phải một cơn ác mộng, tình cảnh trong mộng mờ mịt xa xăm, dường như tôi trở lại thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài, đi vào gian chính của nhà cũ họ Phong, thấy trong nhà hương khói nghi ngút, trên tường treo một bức ảnh thờ, phía trước bày một bàn thờ, trên bàn có bảy đĩa tám bát đựng các món điểm tâm, hoa quả, cùng với ba cái đầu máu chảy ròng ròng của tam sinh trâu, dê, lợn, phướn trắng đong đưa phơ phất, rõ ràng là minh đường của người làm nghề sông nước.

Tôi bước tới trước ban thờ, định nhìn cho rõ xem người trong ảnh là ai. Dưới ánh nến vàng yọt trong nhà, tôi loáng thoáng nhận ra bóng dáng của một thiếu nữ con lai. Tôi thầm nhủ: “Đây không phải Đa Linh ư? Sao cô ấy lại chết... ai đưa linh vị của cô ấy về thờ trong thôn Địa Tiên thế này?” Đang kinh ngạc không hiểu chuyện gì, tôi chợt nghe trên bàn thờ vang lên tiếng ùng ục, như thể có con lợn đang vục mõm ăn nước gạo vậy.

Tôi vội cúi đầu nhìn thử, thấy cái đầu lợn bày trên bàn thờ không hiểu sao lại sống dậy, đang tham lam vơ vét các món điểm tâm hoa quả cúng trên bàn, máu và nước miếng văng tứ tung, trông hết sức hung tợn đáng sợ.

Tôi thấy thế lền nổi giận, trong lòng dấy lên một cảm giác chán ghét khó tả, lập tức vớ lấy cán cây phướn trước bàn thờ, chọc vào cái đầu lợn kia, chẳng ngờ cán phướn bằng giấy bồi mềm quá, hoàn toàn không dồn được sức vào. Bất giác, tôi cuống lên, trán đầy mồ hôi, đang nóng lòng, chợt cảm thấy vai mình bị ai đẩy đẩy mấy cái, lập tức giật mình tỉnh mộng.

Tôi trông thấy Shirley Dương và hai người kia đang ở bên cạnh đánh thức mình dậy mới biết vừa rồi chỉ là mơ, nhưng giấc mơ này thật hết sức kỳ quặc, vả lại còn vô cùng chân thực, khắp người tôi đã ướt sũng mồ hôi lạnh. Tôi thầm cảm thấy đây là giấc mộng chẳng lành, lòng vẫn hoảng hốt không yên.

Út tò mò hỏi tôi mơ thấy gì mà sợ đến nông nỗi này, gặp ác mộng thì phải lập tức nói ra, chỉ cần nói ra là không linh nữa.

Tuyền béo cũng lấy làm lạ: “Nhất này, lá gan cậu xưa nay đâu có nhỏ, cũng tại trên đời không có cây gậy đủ dài, chứ không cho cậu một cây gậy như thế, dám cậu cũng chọc một lỗ trên trời lắm, sao mới nằm mơ một giấc đã sợ thế này rổi?”

Tôi nói, mấy người đừng nói linh tinh, thường có câu nghĩ gì mơ nấy, giấc mơ không phải điềm báo cát hung phúc họa gì cả. Có lẽ tại gần đây tôi nghĩ ngợi quá nhiều về việc của Đa Linh, nên mới gặp cơn ác mộng không đầu không đuôi như thế thôi. Nói đoạn, tôi liền kể lại những gì trông thấy trong mơ cho họ nghe.

Cả bọn nghe xong đều có một dự cảm chẳng lành, chỉ sợ tính mạng Đa Linh phen này khó giữ. Tuy có lỗi với lời ủy thác trước lúc lâm chung của Nguyễn Hắc, nhưng chúng tôi đã tận lực, chung quy vẫn không tìm được nội đơn của xác cổ nghìn năm, Đa Linh rốt cuộc sống hay chết đành trông cả vào phúc phận của cô thôi.

Sau đấy, chúng tôi lại nói sang chuyện Đa Linh trúng phải tà thuật Giáng Đầu của chính cha ruột mình, thật đúng là tạo hóa trêu ngươi, ý trời khó đoán. Có điều, sự kiện ở Nam Hải nếu suy xét đến cùng, vẫn là trách nhiệm của Tôn Cửu gia. Suốt nhiều ngày gần đây, chúng tôi không hề có chút tin tức nào của con người này, cũng không biết lão ta đã lẩn đi đâu mất.

Tôi đoán, Tôn Cửu gia sẽ không rời khỏi khu vực Thanh Khê, dẫu sao đây cũng là nguyên quán của lão ta, thi thể cha và anh trai lão ta cũng ở cả nơi này, nên định khi nào thương thế hồi phục đôi phần, sẽ tiến vào hẻm núi Quan Tài tìm kiếm lão lần nữa.

Chúng tôi đang bàn tính làm cách nào để tìm Tôn Cửu gia, đột nhiên ngoài cửa sổ có ai ném vào một cái bọc, đó vật bên trong dường như cũng không nặng lắm, phát ra một tiếng “cạch” khe khẽ, rơi xuống đất. Tuyền béo lập tức đứng dậy ra ngoài xem, huyện lỵ này có hai khu vực cũ mới, bệnh viện nằm ở rìa khu thành cổ, nhân khẩu không tập trung đông đúc, lại đang giữa mùa hạ, không khí ẩm thấp oi bức, ban đêm tuy có đốt hương muỗi nhưng cửa sổ phòng bệnh vẫn mở ra cho mát, bên ngoài chỉ có mấy ngọn đèn đường lẻ loi chiếu sáng, không bóng người nào. Rốt cuộc, Tuyền béo đành đóng cửa sổ lại, đề phòng có chuyện gì ngoài ý muốn phát sinh.

Shirley Dương nhặt cái bọc lên, mở ra xem, thấy bên trong có mấy bó cỏ dại hình thù quái dị, ngoài ra còn một xấp giấy viết thư, miếng long phù không mắt bằng đồng xanh kia không ngờ cũng ở bên trong. Cô cầm lấy đưa cho tôi nói: “Chắc là Tôn Cửu gia bảo con khỉ Ba Sơn lẻn vào huyện lỵ đưa thư cho chúng ta. Anh xem trong thư viết gì vậy?”

Tôi nôn nóng xem cho rõ ràng, vội vàng mở thư ra, vừa xem vừa đọc lại cho ba người kia. Bức thư do Tôn Cửu gia tự tay viết, ký tên thật của lão ta là “Phong Học Vũ”, văn chương lưu loát dài dòng, đại để nói lão ta tự cảm thẩy hổ thẹn với mọi người, không còn mặt mũi nào đến gặp. Có điều, chuyện đổ đấu ở thôn Địa Tiên núi Quan Tài lần này, toàn nhờ vào Mô Kim hiệu úy tương trợ, tuy sau này có thể không còn gặp lại nhau nữa, nhưng có nhiều chuyện, lão ta không thể không nói cho rõ ràng.

Trong thư, Tôn Cửu gia nói đời này mình chưa bao giờ được thanh thản, trong lòng lúc nào củng đè nặng một trái núi lớn, hoàn cảnh xuất thân cùng vô số nguyên nhân nội tại và ngoại tại khác đã khiến lão ta không có nổi một người bạn để giải bày tâm sự, có thể tín nhiệm được, cũng chỉ có con khỉ Ba Sơn ẩn náu trong hẻm núi Quan Tài kia. Có điều, ông bạn già này của lão ta tuy tuyệt đối trung thành đáng tin cậy, lại rất có linh tính, nhưng dẫu sao cũng không thể nói được tiếng người, giống như một bộ phim của Rumani có nhân vật chính là chó săn vậy, nó vĩnh viễn chỉ là một “người bạn trầm lặng”.

Lâu dần lâu dần, Tôn Cửu gia liền hình thành nên tính cách âm trầm lạnh lùng, trong thế giới quan của lão ta, ngoài việc của nhà họ Phong, trong thiên hạ không còn đại sự nào đáng nói nữa. Vì ở bên ngoài mộ cổ Địa Tiên có Cửu Tử Kinh Lăng giáp mỗi mười hai năm chỉ có mấy ngày trong năm Tý là lúc Kinh Lăng giáp ngủ đông, người bên ngoài mới có cơ hội tiến vào núi Quan Tài. Vì vậv, con cháu của Phong Soái Kỳ đã nhiều lần bỏ lỡ thời cơ, trung đoàn trưởng Phong vì dọc đường nhiễm bệnh nên quá mất thời hạn, nhất thời lửa giận công tâm, khiến hai chân bị liệt, nên mới chất trước khóa Cửu Cung Ly Hổ.

Tôn Cửu gia thấy nhân khẩu trong nhà rơi rụng dần, nếu mùa hạ năm nav vẫn không thể tìm được lối vào thì e rằng cả đời này cũng không còn hy vọng nào nữa. Trải qua nhiểu năm bày mưu tính kế, sắp xếp chuẩn bị, cuối cùng lão ta cũng có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, kế hoạch tuy rất chu đáo cẩn mật, nhưng dẫu sao cũng không thể lường hết mọi chuyện, từ lúc bắt đầu tiến vào hẻm núi Quan Tài đã xảy ra rất nhiều chuyện lão ta không ngờ đến.

Vốn dĩ, Tôn Cửu gia đã thuộc làu “Quan Sơn chỉ mê phú” thật sự, chỉ là lo lắng đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi sẽ bỏ rơi lão ta, vì vậy mới giấu giấu giếm giếm mãi, trước đó còn sắp xếp mấy tình huống, để mọi người tiếp tục với các thông tin rời rạc nửa thật nửa giả ở những địa điểm khác nhau, rồi thêm vào chút khổ nhục kế hòng đánh lừa dư luận, đến lúc mấu chốt mới tự mình lần lượt chỉ ra điểm quan trọng. Kỳ thực, trong bài “Quan Sơn chỉ mê phú” thật sự kia, đã bao hàm cách phá giải khóa Cửu Cung Ly Hổ rồi, trở ngại duy nhất chính là ghép lại những mảnh vỡ của tấm bản đồ phong thủy, nhưng lão ta không liệu trước được việc truyền nhân của Phong Oa sơn nửa đường gia nhập đội thám hiểm, rất nhiều kế hoạch đã sắp xếp từ đầu không thể không thay đổi, dẫn đến cục diện dần dần trở nên hỗn loạn không thể khống chế.

Điều khiến Tôn Cửu gia bất ngờ nhất là một loạt các sự vệc xảy ra ở cầu Hách Hồn do lũ chim yến tạo thành, lão ta vốn định lợi dụng lũ châu chấu giáp vàng mai phục trong hẻm núi để phân tán sự chú ý của mọi người, sau đó chỉ ra đường sống, từ chỗ thác hóa thạch tụt xuống cây xà gỗ để thoát thân.

Sở dĩ sắp xếp như vậy là vì sau khi xuống dưới hẻm núi, sẽ tiến vào địa cung Ô Dương vương, trước đó, lão ta cần làm một “thủ thuật” với thân thể mình. “Thủ thuật” này, thực ra là một “yêu thuật” từ xưa truyền lại, Quan Sơn thái bảo nhờ trộm mộ của ẩn sĩ thời cổ mà phát tích, phát hiện ra rất nhiều thuật phù thủy, tà pháp sớm đã thất truyền cả nghìn năm nay. Trong đó có một môn, là dùng kim châm bằng xương đâm vào não, tương truyền có thể khiến tam muội chân hỏa trong cơ thể tắt ngấm. Vì trên cơ thể người sống luôn có ba ngọn đèn, tượng trưng cho dương khí của người sống, độ sáng tối ba ngọn đèn này thể hiện sự hưng vong của vận khí, phẩm đức chủ nhân, mắt thường không thể nhìn thấy được, chỉ có ma quỷ và cương thi mới trông thấy. Đâm một cây kim bằng xương vào huyệt vị sau gáy, có thể làm tắt ba ngọn mệnh đăng này, lúc trộm mộ có thể tránh được chuyện gặp ma, hoặc có thi biến, nhưng một khi dùng thuật này, tuyệt đối không thể nói với người bên cạnh, chỉ có thể tự biết, một khi nói ra, sẽ lập tức hồn phi phách tán, lúc chết muốn làm ma cũng không xong.

Tà thuật này bắt nguồn từ đất Ba Thục cổ xưa, trên thực tế, đây chính là tiền thân của thuật châm cứu huyệt vị, trong các bức bích họa, nham họa lưu lại từ thời văn minh Vu Sở từng miêu tả rất kỹ lưỡng những trường hợp tương tự. Thầy phù thủy thi triển yêu thuật, người bị kim bằng xương đâm vào, sẽ như có quỷ thần nhập thể, lên núi đao xuống biển lửa hoàn toàn không cảm thấy đau đớn, vì huyệt vị mũi kim đâm vào chính là trung khu thần kinh kiểm soát cảm giác đau đớn, người cổ đại không hiểu sự kỳ ảo bên trong, bèn cho rằng đấy là tà thuật.

Nhưng ở trước Long môn nơi thác đá, sự việc đã phát triển đến mức Tôn Cửu gia không khống chế nổi nữa, lúc rơi xuống xà gỗ vắt ngang vách núi lão ta bị đập đầu, mũi kim vừa đâm vào gáy không biết biến đâu mất, có thể đã ngập lút vào trong đầu, cũng có thể trong lúc hỗn loạn đã bị rơi ra. Sau khi vào địa cung Ô Dương vương, lão ta phát hiện thần kinh của mình dần trở nên tê liệt, cơ thể bị thi trùng cắn xé mà hoàn toàn không có cảm giác gì, nhưng sự thể đã không còn cách nào vãn hồi, sợ rằng trong những năm còn lại, lão ta sẽ phải làm một cái xác sống không còn tri giác Chẳng những vậy, hễ căng thẳng kích động quá độ, lão ta lại cảm thấy mạch máu toàn thân căng phồng lên, phỏng chừng có thể vỡ mạch máu mà chết bất cứ lúc nào.

Tôn Cửu gia lòng dạ sắt đá, sự việc đã xảy ra rồi, đành chấp nhận số mệnh, cũng không lấy đó làm oán hận. Lão ta trời sinh tính tình lạnh nhạt, coi nhẹ cả mạng mình lẫn mạng người khác, có điều, bấy giờ lão ta cũng chỉ định đơn độc một mình tiến vào thôn Địa Tiên, dựa vào bí thuật làm tắt ba ngọn đèn sinh mệnh, lại có gương có Quy Khư trừ tà, chỉ cần tìm được mộ Địa Tiên, hẳn vẫn ứng phó được.

Chẳng ngờ ma xui quỷ khiến thế nào, những dấu hiệu thi biến trên người lão ta làm chúng tôi sinh nghi, khiến láo ta bại lộ thân phận sớm hơn dự định. Để kịp vào thôn Địa Tiên trước khi Cửu Tử Kinh Lăng giáp phong tỏa núi Quan Tài, dẫu biết rõ phen này có đi mà không có về, lão ta cũng đành giở ra kế hiểm, dụ cả bọn cùng tiến vào một lượt.

CHƯƠNG 64: CỬU TỬ HOÀN HỒN THẢO

Sự việc phát triển đến bước này, từ lâu đã vượt khỏi phạm vi dự tính mà Tôn Cửu gia có thể tưởng tượng được, lão ta càng không ngờ những hành vi của mình đều bị Phong Soái Cổ tính toán ra từ lúc còn sống, lòng không khỏi nguội lạnh như nắm tro tàn, cứ tưởng thi tiên trong mộ ắt hẳn sẽ thoát ra ngoài núi, gây nên một trận ôn dịch quy mô lớn. Bất kể trong tai kiếp đó có bao nhiêu người chết, tội nghiệt cuối cùng đều tính do lão ta gây nên, đến khi xuống suối vàng cũng hổ thẹn với liệt tổ liệt tông, tinh thần lão ta cơ hồ rơi vào trạng thái suy sụp.

Chẳng ngờ vào lúc cùng đường tận lối lại có bước ngoặt, đây có lẽ cũng chính là “ông trời có mắt”. Có câu “bọ ngựa bắt ve, sẻ vàng nấp sau”, không chỉ đám người vào núi đổ đấu chúng tôi, mà ngay cả địa tiên Phong Soái Cổ cũng bị ăn quả lừa của những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương năm xưa, có thể nói, Quan Sơn thái bảo và Mô Kim hiệu úy đều không bì nổi với tâm kế sâu xa độc địa của những người bảo vệ bí mật núi Quan Tài kia, nghĩ lại thật khiến người ta dựng hết cả tóc gáy.

Điểm trời mà những người bị giam cầm ấy suy diễn ra trước lúc chết là núi Quan Tài sau khi rời khỏi lòng đất, cuối bùng bị lôi hỏa thiêu hủy, người chết trong thôn Địa Tiên đều bị thiêu rụi không còn cả tro than, cơ hồ tất cả những chuyện ấy đều đã được định sẵn trong cõi xa xăm rồi, mọi si tâm vọng tưởng của thế gian, chẳng qua chỉ là một màn mây khói lướt qua mắt mà thôi.

Tôn Cửu gia lúc đó ngã xuống khỏi vách đá, rơi vào đống người chết trong núi Quan Tài, trong bóng tối mờ mịt may mà không đụng phải tảng đá tan thây nát thịt, sau đó sấm sét nổi lên trong hẻm núi, thôn Địa Tiên chìm trong ngọn lửa. Tôn Cửu gia lúc này chẳng phải người cũng chẳng phải ma, tránh khỏi đợt sấm sét, lại được con khỉ Ba Sơn nghe tiếng mò đến cứu viện, đá băng qua vách núi dựng đứng đào tẩu giữa trời mưa như trút.

Sau đó, trong thư lại nhắc đến, gương cổ Quy Khư là vật báu cổ đại, không thể vì hải khí tiêu tán mà hỏng mất. Trong một khu nhà phía Tây thành Bắc Kinh có một cái giếng khô bỏ hoang, trong đó có giấu một số thứ, có thể dựa theo bản đồ trong thư để tìm đến đào lên, sau đó đem vật ấy phụ trợ với hình khắc ở mặt sau tấm gương đồng, nói không chừng có thể tìm được quẻ cổ Chu Thiên thất truyền đã lâu.

Tôn Cửu gia xuất thân thế gia, tuy rằng các ngón nghề của tổ tiên Đại Minh Quan Sơn thái bảo có mười phần, lão ta cũng chứa học hết một, nhưng từ nhỏ lão đã biết các loại chữ triện Trùng Ngư cổ, ký hiệu cổ, sau khi được phóng thích khỏi nông trường cải tạo lao động Quả Viên Câu, hồi phục công tác lại quanh năm nghiên cứu Long cốt thiên thư thời kỳ Hạ Thương Chu, tiếp xúc với rất nhiều bản khắc trên giáp cốt và đồ cổ đồng xanh. Có điều, tâm tư lão ta không đặt vào công việc, đồng thời không thể xử lý tốt quan hệ với những người xung quanh, nên thường xuyên bị một số nhân sĩ có quyền lực chèn ép, xưa nay chưa hề có cơ hội ngóc đầu.

Vì vậy mặc dù có được một số thành quả, nhưng Tôn Cửu gia đều lần lữa không báo lên cấp trên mà âm thầm giấu đi để nghiên cứu, ngày tháng tích lũy, quy mô nghiên cứu đã tương đối khả quan. Quẻ cổ Chu Thiên, chính là mấu chốt của âm dương, là quỹ tích của thiên địa, tuyệt đối không thể dựa vào máy quẻ đồ và chữ triện cổ vụn vặt mà dễ dàng phá giải toàn diện được.

Từ khi có được tấm gương cổ Quy Khư, Tôn Cửu gia phát hiện quẻ đồ trên mặt sau tấm gương này ảo diệu vô cùng, nếu có thời gian dông dài, kết hợp với thành quả nghiên cứu quẻ cổ Chu Thiên của lão, không chừng có thể khiến toàn quẻ Chu Thiên tuyệt tích đã lâu tái hiện lại trên thế gian.

Nhưng so với quẻ cổ Chu Thiên đã thất truyền cả nghìn năm, Tôn Cửu gia còn có việc quan trọng hơn cần làm. Thời cơ mười hai năm một lần đã tới, việc trong mộ cổ Địa Tiên đã vô cùng cấp bách, không cho phép lão ta hao phí thêm bảy tám năm thời gian nghiên cứu Thập lục tự thiên quẻ. Khi ấy, lão ta lại có ý định mang theo gương cổ vào trong mộ trấn áp thi tiên, nên đành đem hết tư liệu nghiên cứu và các quẻ đồ, quẻ tượng mình thu thập được chôn trong đường hầm dưới đáy giếng khô.

Năm 1971, cả nước Trung Quốc đều sôi sục chuẩn bị chiến tranh, đề phòng mất mùa, triển khai rộng rãi phong trào đào hầm sâu, trữ lương nhiều. Bấy giờ, Bắc Kinh cũng tiến hành mở rộng hệ thống công trình phòng thủ dưới đất, cái giếng khô giấu đồ ấy thông với một đoạn đường hầm đã bị bít kín bỏ hoang. Trong thư, Tôn Cửu gia có vẽ một bản đồ sơ lược, đánh dấu vị trí và các lối vào, lão ta hy vọng chúng tôi về Bắc Kinh có thể đào những thứ ấy lên, sau này có cơ duyên, họa may có nắm được toàn bộ quẻ cổ Chu Thiên, coi như là một sự bồi thưòng và báo đáp của lão ta.

Sau đó, lão ta lại viết, gửi kèm theo thư này còn có mấy món đồ, một là miếng long phù bằng đồng xanh bị thất lạc trong hẻm núi Quan Tài, mộ cổ thôn Địa Tiên bị lôi hỏa thiêu đốt, có lẽ vì hải khí trong miếng Long phù này quá thịnh, cũng có thể do hình thế phong thủy trong địa mạch Bàn Cổ ở núi Quan Tài biến động quá lớn, nhưng bất kể vì lý do gì, hai miếng bùa và một tấm gương cổ mang từ Bắc Kinh tới đây, rốt cuộc vẫn giữ được không tổn hại chút nào.

Ngoài ra, núi Quan Tài là chốn cấm địa tế tự của các thầy mo thời cổ đại, âm khí bên trong hết sức nặng nề, mộ cổ Ô Dương vương ở chỗ địa mạch hình đầu xác chết cũng thuộc loại này, tuy chúng tôi đã có mặt nạ phòng độc bảo hộ song vẫn khó thể chu toàn, những phần da lộ ra ngoài cũng có thể nhiễm phải khí độc thối rữa hủ hóa, vì vậy, trên người cả bọn sẽ lần lượt xuất hiện các đốm đen và vết tụ huyết, sau đó còn nôn máu, ho ra đờm đen, tuy không mất mạng, nhưng về lâu về dài vẫn sẽ để lại mầm bệnh khó dứt trong cơ thể.

Bởi thế, trong bao lão ta có gửi kèm mấy bó Cửu tử hoàn hồn thảo, tên khoa học gọi là Herba Selaginellac, vật này chuyên mọc ở nơi thâm sơn cùng cốc, khi không đủ dinh dưỡng và nước, nó sẽ khô quắt lại ở trạng thái chết giả, toàn bộ sự trao đổi chất trong tế bào đều ngừng lại, nhưng không lâu sau lại có thể hoàn hồn tái sinh, vì vậy mới gọi là Cửu tử hoàn hồn thảo, trong dân gian cũng hay gọi là “trường sinh bất tử thảo” hoặc “Thiên nhiên thảo”, dùng bên ngoài có thể thay thuốc cầm máu trị thương, uống vào có thể tiêu ứ trừ độc, hóa giải khí âm đã bám vào tận xương tủy. Tôn Cửu gia dặn chúng tôi đến tiệm thuốc trong huyện lỵ mua mấy vị thuổc Nam dùng để tiêu đờm giải độc như thịt cá sấu khô, đem mấy bó Trường sinh bất tử thảo đốt thành tro, rồi trộn lẫn liên tục uống trong ba ngày, có thể triệt để trừ hết mầm bệnh trong người. Trước đây, trên vách đá ở hẻm núi Quan Tài mọc rất nhiều loại cỏ này, đều là thứ chín rễ chín lá, không phải tầm thường, nhưng giờ thì không dễ gì gặp được nữa, mấy bó này tuy ít, nhưng cũng đủ cho năm sáu người dùng.

Cuối cùng, Tôn Cửu gia viết trong thư rằng: “Giờ nợ nần của chúng ta coi như đã dứt, tôi không còn lưu luyến gì với thế giới bên ngoài nữa, vả lại sau khi kim xương đâm vào não, thần hồn sẽ tan biến, chết rồi sợ rằng muốn làm ma cũng không được. Thời gian còn lại của tôi không nhiều, sau khi an táng di thể của cha và anh trai, tôi sẽ ở lại hẻm núi Quan Tài này chờ chết, không muốn gặp người ngoài nữa, khi các cô các cậu đọc được phong thư này, có thế xác tôi đã lạnh, được con khỉ Ba Sơn mai táng ở một nơi bí mật nào đó rồi. Khu vực hẻm núi Quan Tài này toàn núi cao chót vót, vách đá ngất ngưởng, dẫu có chôn vùi đại quân mấy chục vạn người cũng không có manh mối đâu mà tìm, vì vậy các cô các cậu khỏi uổng phí tâm sức vào núi tìm tôi nữa, cũng xin các cô các cậu chớ nên tiết lộ chuyện của tôi với bất cứ người nào khác.”

Chúng tôi đọc xong bức thư con khỉ Ba Sơn đưa tới, trong lòng bán tín bán nghi, từ lúc trải qua sự kiện thôn Địa Tiên, cách nhìn của mọi ngưòi đối với Tôn Cửu gia đã thay đổi hoàn toàn. Trước đây, chúng tôi cảm thấy con người này chẳng qua chỉ là một chuyên gia về văn tự cổ lắm tư tâm, tính tình gàn bướng ngang ngược, lại quá khích cực đoan bất cận nhân tình, nhưng sau khi sự việc xảy ra, nghĩ lại mới thấy Tôn Lão Cửu này chẳng những thân thế đặc thù, hơn nữa còn rất giỏi ẩn mình, là một nhân vật thông minh tuyệt đỉnh, đúng như câu “đại tượng vô hình, đại trí giả ngu”. Không biết có phải do di truyền từ tổ tiên Quan Sơn thái bảo nhà lão ta hay không mà tác phong hành sự của người này hoàn toàn không để lộ ra dấu vết gì, đến thần tiên cũng khó lòng đoán thấu được.

Chúng tôi tự phụ là người kiến thức quảng bác, lịch duyệt phi phàm, vậy mà đều bị Tôn Cửu gia này qua mặt, trước khi tiến vào núi Quan Tài, chẳng ai phá được lớp vỏ ngụy trang của lão ta. Thật đúng như trong cuốn Mặt dày tâm đen có viết “tâm đen mà vô sắc, mặt dày mà vô hình” thử hỏi người phàm mắt thịt làm sao nhìn thấu được chứ? Đây chính là chỗ cao minh của Tôn Cửu gia.

Nếu cứ như lão nông Hương Cảng Minh Thúc kia còn đỡ, bề ngoài có vẻ tinh minh giảo hoạt, nhưng cảnh giới quá thấp, còn chưa mở miệng, người ta biết lão là kẻ không đáng tin cậy, cứ thế thì ai còn tin lão? Phàm gặp chuyện gì, cũng đều không thể bị loại người như Minh Thúc che mắt. Tôi thấy, so với Tôn Cửu gia thâm tàng bất lộ kia, Tiểu Gia Cát Minh Thúc thật tình có thế coi như một người thực thà trung hậu.

Út vốn là người bản địa, nhận biết được tính chất của thảo dược, cô nói, loại Cửu tử hoàn hổn thảo mọc ở hẻm núi Quan Tài nay đã gần như tuyệt tích, có được mấy bó này là quý lắm rồi, đích thực có thể hóa giải chất độc trong cơ thể. Tôi vẫn chưa yên tâm, lại tìm một thầy lang Trung y già trong huyện lỵ, hỏi rõ vị chính vị phụ trong đơn thuốc cho chắc chắn, bấy giờ mới y theo cách của Tôn Cửu gia uống vào.

Chỉ vài ngày sau, sức khỏe cả bọn đều có chuyển biến tốt, khi bàn bạc đường đi nước bước sau này, mấy người đều cảm thấy vẫn nên nghĩ cách tìm Tôn Cửu gia. Nhưng hẻm núi Quan Tài địa thế hét sức phức tạp, địa hình hiểm trở thâm u, bên trong hẻm núi quanh năm mây mù bảng lảng, lại có vô số các loại quan tài treo, bên cạnh Tôn Cửu gia còn có con khỉ Ba Sơn kia giúp đỡ, chúng tôi ngoài sáng, lão ta trong tối, muốn tìm được người này thật không phải chuyện dễ dàng.

Chúng tôi vào núi tìm kiếm thêm lần nữa, quả nhiên không có kết quả, xét thấy căn bản không thể tìm được Tôn Cửu gia đang lẩn tránh trong hẻm núi một mình chờ chết, cả bọn lấy làm chán nản, đành chuẩn bị trở vể Bắc Kinh.

Trước khi rời đi, ăn xong bữa tối trong huyện lỵ, tôi và Tuyền béo bắt tay sắp xếp lại hành lý. Phen này vào núi tuy không tìm được nội đơn của cổ thi, nhưng cũng không phải không có thu hoạch, đầu tiên là mang ra được mấy bức họa trong thôn Địa Tiên, đều là bút tích thật của Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ. Người này tuy không nổi danh bằng ngón nghề bút mực, nhưng mấy bức Quan Sơn tướng trạch đồ ấy đều thuộc loại thủ bút và để tài hiếm gặp, có thể đem nhờ Kiều Nhị gia ở Lưu Ly Xưởng định giá hộ.

Ngoài ra, còn có một cái hộp mạ vàng Tuyền béo vớ được trong âm trạch ở thôn Địa Tiên. Lúc đó, cả bọn trông thấy trong mộ cái xác nữ được trâu vàng cõng trên lưng, trong lòng ôm cái hộp này. Mộ thất ấy là do Quan Sơn thái bảo di chuyển từ bên ngoài vào trong thôn Địa Tiên, cơ quan trâu vàng cõng xác thiết kế cực kỳ xảo diệu, một khi trộm mộ xông vào gian chính sẽ kích hoạt chốt lẫy ẩn giấu bên trong trâu vàng, lập tức khiến con trâu húc lật tường mộ, đưa xác mộ chủ vào gian sau.

Chúng tôi chỉ có thể đoán mộ thất có trâu vàng này được xây vào thời Minh, nhưng không có cách xác định danh tính mộ chủ, lai lịch xuất thân thế nào, tại sao lại có ngôi mộ kết cấu tinh xảo nhường ấy.

Tuyền béo đã quen thói trộm chẳng về không, vớ được một món minh khí vào tay, nhưng sau đó gặp phải bao mối hiểm nguy, sớm đã quên béng chuyện này, lúc sắp dọn đồ đạc mới nhớ tới, vội vàng lấy ra định mở xem bên trong có gì.

Cái hộp mạ vàng này hết sức tinh xảo đẹp đẽ, mộ chủ lại là phụ nữ, vì vậy chúng tôi đoán bên trong chắc hẳn là các loại trang sức vàng bạc bồi táng, hoặc trân châu bảo thạch kiểu như xuyến ngọc chẳng hạn. Nom cơ quan trong mộ xảo diệu như thế, thân phận mộ chủ ắt hẳn cũng thuộc loại bất phàm, minh khí tùy thân đương nhiên phải cực kỳ quý trọng, lắc lắc thấy nằng nặng, nhưng cũng không có âm thanh gì. Tôi và Tuyền béo đều nôn nóng muốn xem cho thỏa, thấy cái hộp có khóa, không dám dùng biện pháp mạnh đế khỏi hủy hoại đồ vật đáng tiền bên trong, bèn nhờ Út giúp một tay.

Đợi Út mở xong cái khóa bạc, chúng tôi cùng ngó vào trong hộp, sau khi nhìn rõ vật bên trong, không khỏi nửa bất ngờ, nửa thất vọng. Bên trong cái hộp mạ vàng chẳng có nửa món vàng bạc châu báu gì, mà là máy quyển sách cũ dày cộp, giấy màu vàng sậm. Tôi lật ra xem thử, thấy không giống như điển tịch kinh quyển, trong sách toàn những hình vẽ ly kỳ cổ quái, lời chú giải quái gở khó hiểu, hệt như thiên thư (sách trời) vậy.

Thường có cầu “Thiên thư không chữ”, vì bên trong thiên thư thật sự toàn quẻ tượng quẻ đồ, thoạt nhìn đều là các ký hiệu thần bí như nòng nọc chim cá, không hề có lấy một chữ, nếu có chứ thì đều là sách giải quẻ của hậu thế sau này. Nhưng tôi dám khẳng định, mấy quyển sách dày bịch này, tuyệt đối không phải loại chu Dịch mà tôi thường hay tiếp xúc, xem kỹ lại, mới phát hiện chúng rất giống đồ phổ cấu tạo các loại cơ quan, ám khí thời cổ đại.

Có câu, khác nghề như khác núi, lần đầu tiên tôi trông thấy loại sách cổ này, cũng không dám tùy tiện xác định bừa bãi, may mà có Út đã học hết bản lĩnh của Phong Oa sơn ở đây, tôi bèn đưa cô xem kỹ xem có hiểu được mấy quyển sách này rốt cuộc ghi lại nội dung gì hay không.

Út lật mấy trang sách, cũng kinh ngạc ra mặt, bộ sách cổ này hình như chính là Vũ Hầu Tàng Binh đồ. Vũ Hầu Tàng Binh đồ tuy là hậu nhân mượn danh Gia Cát Vũ Hầu mà viết ra, xuất hiên sớm nhất vào khoảng thời Đường Tống, nhưng các loại cơ quan ám khí ghi chép bên trong đều ảo diệu tinh kỳ, so với trâu gỗ ngựa máy thời Tam Quốc trong truyền thuyết thì chỉ có hơn chứ chẳng kém gì.

Vũ Hầu Tàng Binh đồ là báu vật trấn sơn của Phong Oa sơn, có thể nói nó tương đương với Thập lục tự Ẩm dương Phong thủy bí thuật của Mô Kim hiệu úy, bao đời thợ thủ ông Phong Oa sơn đều coi tập bản vẽ này là tuyệt học đáy hòm, đáng tiếc là nó thất truyền đã lâu. Ông Lý, ông nuôi của Út, tuy rằng tay nghề tinh thâm, sản phẩm tinh xảo có thể dối gạt cả quỷ thần, nhưng thực ra cũng chưa học được ba bốn phần bản lĩnh trong Vũ Hầu Tàng Binh đồ.

Những ngón nghề tuyệt học này xưa nay đều là căn bản an thân lập nghiệp của các nhà, đại đa số sư phụ truyền cho đệ tử đều theo kiểu “mèo dạy hổ”, giữ lại bản lĩnh cứu mạng là trèo cây không truyền. Thêm nữa, lại còn những quy củ kiểu như “truyền nam không truyền nữ, truyền trưởng không truyền thứ”, khiến cho các môn tuyệt nghệ càng truyền càng ít dần, thường xuyên rơi vào tình trạng mấp mé thất truyền, thậm chí là đoạn tuyệt hương hỏa.

Gần một thế kỷ nay, các ngành khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển từng ngày, ngành nghề truyền thống của Trung Quốc khó tránh khỏi có chút “thổ tả”, những thứ xưa cũ bị mai một nghiêm trọng, đến giờ lại không thế kế thừa hoàn thiện những gì còn sót lại, mà vẫn tiếp tục đánh mất. Tay nghề ám khí của thợ thủ công Phong Oa sơn chính là một ví dụ, vì vậy Vũ Hầu Tàng Binh đồ đối với Út mà nói quả có hơi thâm thúy khó hiểu, cô căn bản không hiểu được bao nhiêu nội dung trong đó

Tuyền béo vừa thấy minh khí trong hộp mạ vàng hóa ra là máy quyển sách rách, lập tức mất hứng, chỉ giữ lại cái hộp, định mang ra Phan Gia Viên đẩy đi,r ồi hỏi tôi mấy quyển bản vẽ này xử lý thế nào.

Tôi bảo, thực ra Vũ Hầu Tàng Binh đồ không phải vật tầm thường, có điều người ngoài ngành xem không hiểu gì mà thôi. Có câu, mỗi vật đều có chủ nhân thích hợp, thứ này rơi vào tay người thường thì thật uổng phí của trời. Phen này chúng ta vào hẻm núi Quan Tài tìm thôn Địa Tiên, em Út đây đã giúp đỡ rất nhiều, chi bằng hãy tặng Vũ Hầu Tàng Binh đồ này cho ông chủ Lý, coi như trả món nợ ân tình, nói không chừng ông Lý còn biết được lai lịch xuất xứ của bộ sách này, chúng ta tiện thể mở mang kiến thức luôn.

Tuyền béo hân hoan đồng ý, cậu ta nói thứ này ở trong tay chúng ta cũng chẳng ích lợi gì, cầm đến tiệm tạp hóa của ông chủ Lý, có thể đổi lấy dăm ba cái Ô Kim Cang, dẫu sau này không đi đổ đấu nữa thì sang California cắm trên bãi cát bên bờ biển cũng có thể làm dù che nắng, nói không chừng còn có thể mở ra một trào lưu mới ở Mỹ, thậm chí trên toàn thế giới ấy chứ.

Trong lúc nói chuyên, Shirley Dương lại đến bàn bạc với tôi, trước mắt tính mạng Đa Linh đang nguy ngập trong sớm tối, nhưng bọn tôi lại toi công ở thôn Địa Tiên, chi bằng đi đường vòng về Hồ Nam một chuyến, tìm lão Trần mù xem bói xem thế nào. Năm xưa, lão là thủ lĩnh của phái Xả Lĩnh, kiến thức lịch duyệt bất phàm, cũng chỉ có cách nhờ lão giúp nghĩ xem còn biện pháp nào khác hay không.

Tôi thầm nghĩ, như vậy cũng tốt, lão Trần mù ấy từng thống lĩnh bọn đạo tặc ở mười ba tỉnh Nam Bắc, thực sự là một nhân vật “gọi gió được gió, hô mưa được mưa”, tới khi bắt đầu trộm mộ ở Bình Sơn vùng Tương Tây, không biết gặp phải thứ xúi quẩy gì hay đụng phải hung thần ở đâu, chẳng những không thể vùng lên lần nữa, ngược lại còn ngã dúi ngã dụi, cực kỳ không thuận, chưa qua được núi Già Long đã tổn hao rất nhiều nhân thủ, những người còn lại cũng ngỏm hết trong núi, chỉ còn mình lão may mắn thoát thân, nhưng mù mất đôi mắt, đành ẩn tích mai danh sống đến ngày hôm nay.

Nhưng lão Trần mù năm xưa thông thuộc “Lăng phổ”, thủ hạ tai mắt đông đảo, biết được rất nhiều thông tin về cổ mộ khắp nơi, đến cả mộ hoàng bì tử ở miền Đông Bắc hiếm người nào trong quan nội biết đến, lão cũng hiểu biết đôi phần. Hiện giờ, chúng tôi chi còn cách nhờ lão vắt óc nghĩ lại cho kỹ... xem trong mộ cổ mồ hoang nào còn có khả năng chôn thi đơn dị khí nữa không.

Lão hiện đang ở Tương m, từng là sào huyệt cũ của bọn đạo tặc Thường Thắng sơn, nghe lão Trần mù nói, theo lệ cũ, những đầu mối về mộ táng các triều đại ở các vùng miền, cùng sự việc tụ tập trộm mộ kiếm lợi, đều phải ghi lại tường tận vào sổ sách, nếu may mắn, nói không chừng có thể tìm thấy thông tin liên quan sót lại từ thời trước giải phóng, như vậy còn hơn chúng tôi cứ đâm bừa tìm bãi không có mục tiêu thế này nhiều.

Tuy rằng chuyện này chưa chắc đã khả thi, nhưng hiện tại không ai có phương pháp nào hay hơn, cả bọn bèn quyết định thẳng tiến Hồ Nam, không ngờ đúng lúc này, chúng tôi lại nhận được một tin tức chẳng lành, Đa Linh ở Mỹ đã qua đời.

CHƯƠNG 65: KIM ĐIỂM

Trong di chỉ Quy Khư ở vùng biển Vực Xoáy San Hô, chủ thuyền Nguyễn Hắc bất hạnh gặp nạn, trước lúc lâm chung, tôi từng chính miệng hứa với ông ta sẽ chăm sóc thật tốt cho Đa Linh và Cổ Thái, chẳng ngờ ma xui quỷ khiến thế nào, Đa Linh lại nhặt được cái đồng hồ vàng của tay thuyển trưởng cụt tay trên tàu Mariana, trúng phải tà thuật Giáng Đầu trên chiéc đồng hồ ấy. Chẳng những thế, sau này chúng tôi xác nhận được từ nhiều nguồn, vị thuyền trưởng người Pháp buôn lậu đồ cổ ở Nam Dương ấy, chính là người cha ruột đã mất tích trong chiến tranh Việt Nam của Đa Linh. Chuyện này không thể không nói là do ý trời khéo sắp, nhưng cũng lại là trời cao vô tình.

Chúng tôi đã tìm đủ mọi cách giữ lại tính mạng cho cô, nhưng thời gian lênh đênh trên biển quá lâu, lúc về đến đảo Miếu San Hô, chất độc đã ăn sâu vào cốt tủy, nếu không có tấm áo Phỉ Thúy kia khoác lên người, sợ rằng Đa Linh đã thối rữa mà chết từ lâu rồi. Thế nhưng, đến cuối cùng chúng tôi lại không tìm được nội đơn của xác cổ có thể cứu mạng Đa Linh, vẫn không thể giữ cô lại trên cõi dương gian này.

Sau khi biết được tin này từ bức điện báo của Răng Vàng, lòng tôi như thể bị chèn một tảng đá lớn, vừa tự trách, vừa hổ thẹn với linh hồn Nguyễn Hắc trên trời. Tuy cũng biết rằng sức người có hạn, một số việc có thể làm được, còn một số việc bất luận ra sao cũng không thể hoàn thành, nguyện vọng khởi tử hồi sinh đã trở thành bọt nước, nghĩ đến thế sự lạnh giá như băng, sực sự khiến người ta khó mà chấp nhận nổi.

Cả bọn than thở một hồi, đều nói đây là sinh tử do trời, sức người không thể cưỡng cầu, đã đến nước này cũng chẳng thể làm gì hơn, đành thay đổi kế hoạch, trở lại Mỹ tham gia đám tang của Đa Linh. Dân mò ngọc vùng Nam Hải tuân thủ truyền thống khá nghiêm ngặt, theo phong tục của họ, người sau khi chết, phải thả thuyền đưa Ngũ thánh ra biển thì thi ốt dân mò ngọc mới có thể nhập thổ vi an, ngoài ra còn phải lập đạo tràng trên đất liền và dưới nước, cúng tế ba ngày, siêu độ cho người chết sớm ngày thoát khỏi nỗi khổ luân hồi.

Chúng tôi đến tiệm tạp hóa trong thị trấn nhỏ vô danh kia, chào từ biệt ông chủ Lý. Ông Lý vội vàng đóng cửa tiệm, mời mọi người vào trong hỏi han rối rít: “Nom mọi người mặt ủ mày chau, hẳn là lần này vào núi làm việc không được thuận lợi lắm, thôi thì ngày rộng tháng dài, dẫu có chuyện gì khó khăn cũng không nên để mắc míu trong lòng.” Nói đoạn, ông lấy trong tủ ra hai chai rượu, định cùng tôi và Tuyền béo làm mấy chén.

Chúng tôi chối từ không đặng, đành cung kính tuân theo. Không ngờ ông chủ Lý này tuy tuổi tác đã cao nhưng tửu lượng không hề giảm sút, ba người làm hết nửa bình rượu lâu năm, liền mở máy nói tràng giang đại khải, tôi kế hết chuyện hẻm núi Quan Tài tìm nội đơn không thành cho ông nghe, rồi lấy tập Vũ Hầu Tàng Binh đồ tìm được trong mộ cổ thôn Địa Tiên ra.

Tôi bảo ông chủ Lý: “Có câu, vật về với chủ, bộ Vũ Hầu Tàng Binh đồ này tổng cộng tám quyển, căn bản chẳng dùng được gì trong công cuộc kiến thiết hiện đại hóa, ngoài những vị sư phụ tinh thông ngón nghề chế tạo cơ quan ám khí, có lẽ chẳng còn ai đọc hiểu được nó nữa đâu. Chỉ có ở trong tay ông đây, nó mới có thể phát huy ít nhiều tác dụng thôi.”

Ông chủ Lý nghe tôi nói vậy thì hết sức kinh ngạc vội vàng lấy đôi kính lão, không ngừng lật xem từng trang như thể vớ được món báu vật, vừa xem vừa lẩm bẩm nói: “Tổ sư gia hiển linh, đúng là tổ sư gia hiển linh rồi!” Tập bản vẽ này là bảo điển của các thợ thủ công thời xưa, dây cốt và ốc vít bát bảo xuất hiện sau này đều không so được với sự xảo diệu của các cơ quan mô tả trong đây. Hầu hết các nội dung trong tập sách này đều đã thất truyền nhiều năm, những tưởng rằng các tuyệt nghệ của Phong Oa sơn phải điêu tàn tuyệt tích, người thợ già như ông có nằm mơ cũng không ngờ lại có thể tìm được cả bộ Vũ Hầu Tàng Binh đồ trong mộ cổ, lập tức cảm ơn rối rít, rồi cất ngay tập sách đi.

Tôi hỏi ông chủ Lý tại sao Vũ Hầu Tàng Binh đồ lại xuất hiện trong mộ cổ thôn Địa Tiên, chẳng lẽ nữ mộ chủ được trâu vàng cõng trên lưng ấy cũng là nhân vật của Phong Oa sơn thời Minh hay sao?

Ông chủ Lý cũng là tay lão luyện giang hổ, bèn kể ra một số chuyện xưa tích cũ, gợi cho chúng tôi nghĩ tới một số đầu mối, suy đoán ra cái xác phụ nữ thời Minh ấy có thể là con cháu của kỳ nhân thuật số Lưu Bỉnh Trung, nhà họ Lưu sở trường Kỳ môn Độn giáp, còn tinh thông thuật bố trí cơ quan cạm bẫy. Tuy không phải là người trong Phong Oa sơn, nhưng nhà Họ Lưu có giao tình rất thâm hậu với các đời thủ lĩnh, trong nhà có giâu bộ bản vẽ cơ quan này cũng không có gì kỳ quái.

Nhà họ Lưu chuyên về thuật số và nhà họ Phong Quan Sơn thái bảo là quan đồng triều, vốỗn đã không hợp nhau, địa tiên Phong Soái Cổ nhăm nhe muốn đoạt lấy bản vẽ cơ quan ám khí của nhà họ Lưu, bèn ngấm ngầm trộm ngôi mộ trâu vàng cõng xác mang về. Có điều, Phong Soái Cổ tuy thần thông quảng đại, nhưng chỉ sở trường các ngón dị thuật tà môn, dù lấy được Vũ Hầu Tàng Binh đồ cũng khó lòng hiểu hết sự ảo diệu bên trong, vì vậy cơ quan Vũ Hầu Tàng Binh ở mộ có Ô Dương vương chỉ được cái vỏ bề ngoài, cuối cùng cũng không hoàn thành. Bộ sách này, cũng được an trí nguyên vẹn vào âm trạch trong thôn Địa Tiên cùng với các loại thi hài, minh khí Quan Sơn thái bảo trộm được.

Đương nhiên, đây chỉ là suy đoán của chúng tôi, sau khi núi Quan Tài sụp đổ, tình huống chân thực đã không thể nào khảo chứng nữa. Ba người cụng chén cụng ly, khi đã ngà ngà, mắt hoa tai đỏ thì bắt đầu dốc lòng dốc dạ, nói rất nhiều lời gan ruột. Tôi nói chuyện của Út với ông chủ Lý, bảo rằng học ngón nghề đổ đấu với tôi cũng chẳng ra gì, kỳ thực học xong rồi cũng chẳng có chỗ dùng, vả lại một khi đã làm cái nghề Mô Kim này, muốn thoát thân ra thì khó càng thêm khó.

Bản thân tôi chính là một ví dụ, nhớ năm xưa tôi và Tuyền béo đi Dã Nhân câu ở Đông Bắc, cũng chỉ muốn kiếm một khoản lớn giúp đỡ đám bạn bè nghèo khó chứ chẳng mơ mộng gì cao xa, nhưng từ khi chúng tôi lấy được một đôi ngọc hình con Ly trong mộ vị tướng quân nước Kim kia, những phiền phức không đầu không đuôi cũng bắt đầu tìm đến tận cửa, nhiều lần chịu tội, nhiều lần chịu khổ, có thể sống đến hôm nay mà không cụt tay què chân cũng không phải chuyện dễ. Khoảng thời gian ấy, trên người ai mà không thêm vài vết sẹo ? Cái mũi của Tuyền béo ở núi Côn Luân đã bị gọt mất một mẩu, phá cả tướng, cũng may chúng tôi tay chân nhanh nhẹn, lại được tổ sư gia phù hộ, nên mới có thể ba lần bốn lượt xông ra từ cửa m Tào. Út là cô gái lớn lên trong núi, học cái nghề đổ đấu mò vàng này, thật không ổn thỏa chút nào.

Nói tới dây, tôi ngoảnh đầu nhìn ra, thấy Shirley Dương và Út dang ở gian ngoài trò chuyện, không nghe được câu chuyện của chúng tôi, tôi lại hạ giọng nói với ông chủ Lý: “Phụ nữ ấy à, quan trọng là phải gả cho người tử tế. Chiến hữu hồi bộ đội của tôi nhiều lắm, quá nửa vẫn còn độc thân, nên chuyện này ông khỏi cần phải lo, cứ để đấy cho tôi. Mấy ngày trước tôi hỏi Út rồi, cô bé không muốn ra nước ngoài, nhưng rất muốn đến Bắc Kinh một chuyến. Tôi và Tuyền béo cũng có chút mặt mũi ở Phan Gia Viên và Lưu Ly Xưởng, có thể để cô đến làm trong tiệm đổ cổ của Kiều Nhị Gia, học nghề giám định cổ vật, sau đó gả cho một người đàn ông đáng tin cậy, sống trọn đời hỷ lạc bình an, ông cũng có thể đi theo hưởng phúc.”

Ông chủ Lý gật đầu nói: “Tôi nhìn người chưa bao giờ sai, ý cậu chuẩn quá đi rồi. Tôi đây có bệnh cũ trong người, sức khỏe ngày một yếu đi, nói không chừng mai kia lại xuôi tay về trời thôi, con bé Út này có được chỗ gửi thân yên ấm, tôi có chết cũng nhắm mắt được rồi.”

Sau đấy, ông chủ Lý lại nói, mới đầu khi thấy chúng tôi nhận ra được Ô Kim Cang, ông đã đoán chúng tôi đều là Mô Kim hiệu úy đeo bùa đổ đấu. Ông ta là người đi ra từ xã hội cũ, đương nhiên cũng biết bí thuật Mô Kim, đồng thời hết sức tin phục thuật phong thủy âm dương, định nhờ tôi giúp ông chọn một mảnh đất làm âm trạch sau khi chết.

Tôi bèn khuyên rằng, tôi không thể coi là tinh thông phong thủy, cũng chỉ biết chút da lông bên ngoài mà thôi, chẳng qua dựa vào tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt tổ truyền để kiếm miếng cơm ăn. Những gì nghe được thấy được trong đời, đích thực có rất nhiều chuyện can hệ đến phong thủy, nhưng đồng thời tôi cũng phát hiện, phong thủy không thể làm thay đổi hung cát họa phúc, nó chỉ là một môn địa lý sinh thái học mà thôi.

Để ông chủ Lý tin lời, tôi kể cho ông nghe câu chuyện năm xưa ông nội mình từng đích thân trải nghiêm. Trước Giải phóng, ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi làm nghề đoán chữ, xem phong thủy, xem đất mưu sinh. Những ngành nghề dựa vào thuật số để giúp người chiêm bốc sự cát hung kiếm miếng cơm này vì có hàm lượng tri thức tương đối cao, nên thường được tôn xứng là Kim Điểm. Bản lĩnh của Hồ tiên sinh có được từ nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, đều là chân tài thực học, con người lại tinh minh cẩn thận, nên giành được danh hiệu “Kim Điểm tiên sinh”, xét trong vùng thì gia nghiệp cũng vào hàng tương đối giàu có sung túc.

Kim Điểm Hồ tiên sinh mỗi ngày đều ngồi quán xem bói, giảng về mệnh lý, địa lý cho các loại người từ mọi miền Nam Bắc, một hôm trời mưa lát phất, trên phố người qua lại thưa thớt, buôn bán ế ẩm, các cửa tiệm đèu tháo đèn đóng cửa sớm. Hổ tiên sinh đang ngồi rỗi uống trà trong quán, chợt nghe trên phố có tiếng vó ngựa, người trên ngựa đi tới trước cửa tiệm bói, liền ghìm mạnh cương tung mình nhảy xuống, vội vội vàng vàng chạy vào bên trong.

Hồ tiên sinh vội đứng dậy nghênh đón, đồng thời đưa mắt quan sát người khách mới đến, chi thấy người đàn ông ấy chừng bốn năm mươi tuổi, thân hình cao lớn to khỏe, bộ dạng như một tay thổ hào có tiền có thế, hành sự thẳng thắn mạnh bạo thế này, có lẽ không phải phường giặc cướp, nhưng thần sắc ông ta u uất, nét mặt rầu rĩ như đón khách viếng đám ma, không biết có phải vì trong nhà có thân thích gì qua đời hay không nữa.

Hồ tiên sinh không dám thất lễ, liền mời người khách ngồi xuống, lễ độ rót trà, nói: “Quý khách đến thăm, không biết có chuyện gì chỉ giáo?”

Tay thổ hào ôm quyền nói: “Tiên sinh nổi danh Kim Điểm, bọn tôi nghe tiếng đã lâu, hôm nay đội mưa chạy tới, đương nhiên là không có chuyện không đến điện Tam Bảo, chẳng hay Hồ tiên sinh có hiểu đạo xem đất không vậy ?”

Hồ tiên sinh dựa vào nghề này để kiếm cơm nuôi gia đình, thấy khách là tay mơ, làm sao có thể nói là không hiểu, lập tức tự nâng giá lên nói: “Không phải kẻ hèn này nói ngoa, kẻ hèn năm xưa từng được kỳ ngộ, bái Thiên Nhật chân quân ở núi Nhạn Đãng làm thầy, học được rất nhiều bản lĩnh chân truyền, mấy thứ Trạch kinh, Táng kinh, Thanh Nang áo ngữ, Linh Thành tinh nghĩa, Thôi quan phát vi... không thứ nào không hiểu, không thứ nào không tinh thông, xem đất chọn nhà là nghề chính, đương nhiên khỏi cần phải nói.”

Tay thổ hào kia nghe thế cả mừng, bấy giờ mới nói rõ nguyên do. Thì ra, ông ta họ Mã, tên là Lục Hà, quê ở Đổng Lăng, sau này làm ăn nên chuyển đến sống ở gần hồ Động Đình, mấy năm gần đây, nhà họ Mã cậy thế hiếp người, trên tư thông quan phủ, dưới qua lại với bọn giặc cướp, lũng đoạn rất nhiều chuyện làm ăn ở địa phương. Tiền của nhiều, ông ta muốn xây một trang viên rộng lớn, bèn mời thầy phong thủy về xem đất, chọn trúng một mảnh đất đẹp, liền cưỡng đoạt chiếm lấy, rầm rộ xây dựng nhà cửa trang viện, bỏ ra rất nhiều tiền của, xa hoa vô cùng.

Mã Lục Hà cực kỳ tin vào phong thủy, ông ta chọn mảnh đất ấy cũng bởi nhìn trúng hình thế tiến bảo nạp tài của nó, mọi bố cục nhà ngang dãy dọc bên trong trang viện, dù lớn dù nhỏ đều mời thầy địa lý cao minh về chỉ điểm sắp xếp. Sau khi nhà mới xây xong, cả nhà già trẻ mừng rỡ dọn đến, chẳng ngờ vừa chuyển đến được vài hôm, Mã lão thái gia đã trượt chân trong vườn, chân tay già nua không chịu được va đập, được nửa ngày sau thì tắt thở.

Hỷ sự biến thành tang sự, chưa kịp chôn cất Mã lão thái gia thì con trai cả của Mã Lục Hà ở bên ngoài đã bị kẻ thù giết chết. Tóm lại, từ khi dọn vào nhà mới, trong nhà liên tiếp có người chết, tính cả người hầu kẻ hạ, cả nhà bảy mươi mấy nhân khẩu chưa đầy nửa năm, từ trong ra ngoài đã chết mất mười ba mạng.

Đặc biệt trước khi Mã lão thái gia chết, từng ngồi đánh mạt chược một mình trong sân giữa đêm hôm khuya khoắt, miệng còn lẩm bẩm tựa như ba cửa còn lại đều có một bóng ma ngồi chơi vậy, hành động kỳ dị này làm đàn bà con gái trong nhà sợ đến mặt cắt không còn hột máu, lão thái gia làm sao vậy? Chẳng lẽ bị ma nhập? Nhưng Mã lão thái gia thường ngày ở trong nhà rất gia trưởng độc đoán, nói một là một, hai là hai, mọi người tuy thắc mắc trong lòng, nhưng không ai dám nói thẳng ra. Không ngờ, mới vài ngày sau, ngưòi đã không bệnh không tật mà qua đời. Lúc tìm người đến khám nghiệm thi thể, thấy không trúng độc cũng không bệnh tật, tóm lại là chết không minh bạch, đến nay vẫn chưa có kết quả, giờ người nhà họ Mã nhớ lại chuyện này, vẫn cảm thấy lạnh hết sống lưng.

Nhưng nói ra cũng lạ, người chết càng nhiêu, việc làm ăn của họ Mã lại càng hưng vượng, tiền kiếm nhiều đến độ khiến người ta hoa mắt. Mã Lục Hà ham hố tiền tài phú quý, cắn răng chịu đựng không chịu chuyển nhà, có điều tài vận vượng thì vượng, nhưng trong nhà lại phải vạ lớn, trước mắt vẫn không ngừng có người lăn đùng ra chết, thật sự không thể chịu nổi nữa, ông ta đành tìm người về thay đổi phong thủy, nhưng đã mời hết các thầy địa lý trong vùng, vẫn không có kết quả gì Mã Lục Hà được người ta giới thiệu, biết trong thành có vị Kim Điểm Hồ tiên sinh giỏi xem đất, bèn thúc ngựa phi đến mời Hồ tiên sinh đi xem xem trang viện nhà họ Mã xây trên mảnh đất báu phong thủy kia rốt cuộc có điểm gì sai sót, mà lại thiệt hại nhân khẩu đến thế, nếu có kết quả, sẽ không tiếc vàng bạc tạ ơn.

Hồ tiên sinh nghe xong, cũng cảm thấy chuyện này không phải tầm thường, không ngờ lại chết nhiều người như vậy, hung địa nào mà lợi hại nhường ấy? Tính ông vốn cấn thận, chỉ sợ không phá giải được thì khó ăn khó nói với nhà họ Mã, đang định kiếm cớ chối từ, chợt thấy Mã Lục Hà lấy trong túi ra bốn thỏi vàng đặt trước mặt, bốn thỏi vàng lớn này chỉ là tiền đặt cọc, sau khi xong việc nhất định sẽ có thêm gấp mười lần thế này, gọi là chút lòng thành.

Hồ tiên sinh bị vàng làm cho hoa cả mắt, thầm nhủ: “Hình thế trang viện nhà họ Mã thế nào phải xem thử mới biết được, đây là tiền ta kiếm bằng bản lĩnh thật, có gì phải ngại? chẳng lẽ lại từ chối vụ làm ăn đã đưa đến tận cửa? Và lại, Mã Lục Hà này đội mưa mà đến, không thể phụ tấm lòng người ta được”. Nghĩ đoạn, ông bèn nhận tiền đặt cọc, thu dọn những món cần dùng, mang theo giấy vàng, chu sa, la bàn, đoản kiếm, đèn báo, dầu tây, phong đinh, xẻng mỏ vịt, hoa tiêu... toàn những khí cụ để “xem phong vọng thủy”, rồi thuê một cỗ xe lừa, theo Mã lão lục trở về xem đất.

Đến nhà họ Mã đã là đêm khuya, hai người ở ngoài ăn cơm uống rượu rồi trọ trong khách sạn, đợi qua ngày hôm sau, Mã Lục Hà mới đưa Hồ tiên sinh đi từ trong ra ngoài, nhìn hình đo đất. Trong Thập lục tự Am dương Phong thủy bí thuật mà Hồ tiên sinh được sư phụ truyền cho, có phép Bát trạch minh khí, chuyên dùng để phân biệt sự hung cát hưng suy của bố cục trạch viện, bao năm rồi chưa hề sai trật lần nào.

Sau khi vào nhà, Hồ tiên sinh lấy ra một tấm gương đồng nhỏ, rồi soi ánh mặt trời để xác định phương hướng góc độ. Thuật Mô Kim có từ thời Tam Quồc, thực tế phát nguyên từ thuật Thần Phù thời Tây Chu, bất luận tầm long điểm huyệt hay xem hình xét thế, xưa nay đều không dùng la bàn, dùng la bàn thì không phải là phép cổ.

Hồ tiên sinh theo Mã Lục Hà đi vào, qua nhà qua sân, xem cách bố trí trong các phòng, cảm thấy trật tự rõ ràng, tuy không đến mức cao minh, nhưng cũng coi là tạm được. Có điều, trật tự rõ ràng chỉ là một nhân tố, vẫn còn phải dựa vào phép Bát trạch minh kính tiếp tục tính toán, vì sách cổ có viết rằng: “Nơi ở, chính là căn cơ của người, lớn nhỏ khác nhau, âm dương mỗi khác, nếu không cầu toàn, thì dùng không đủ.”

Từ thời Tống, việc bày bố trong âm trạch và dương trạch đa phần đều theo phép Ngũ tính âm lợi, dựa vào âm đọc cùa họ để phân ra Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, phối hợp với phương vị Ngũ hành Bát môn mà sắp xếp. Họ của Mã Lục Hà và nhà này không hề xung khắc, hơn nữa còn lợi tài hưng vượng, vì thế, nguyên nhân này cũng nhanh chóng bị Hồ tiên sinh loại trừ.

Sau đấy, lại luận tới lý thuyết Đạo gia, suy tính các chi tiết nhật nguyệt, càn khôn, nóng lạnh, thư hùng, ngày đêm, âm dương, chỉ thấy trang viên nhà họ Mã “lấy hình thế làm thân thể, giếng nước làm huyết mạch, lấy gạch ngói làm da thịt, lấy cây cỏ làm lông tóc, lấy môn hộ làm mũ đội ”, tất cả đều không có điểm nào không thích hợp cả.

Hồ tiên sinh lại đề nghị gặp mặt từng người trong trang viện họ Mã, cũng không phát hiện ra kẻ nào “hung thần ác sát cả. Đến lúc này, Hồ tiên sinh không khỏi toát mồ hôi, không hiểu nhà họ Mã gặp phải ma tà quỷ quái gì, vốn là nơi cát trạch cát địa, lại có tướng phú quý, sao trong nhà lại liên tiếp có người bạo bệnh mà chết như thế?

Xem hết bên trong trang viện mà không có thu hoạch gì, Hồ tiên sinh đành ra ngoài xem tiếp, phía sau trang viện nhà họ Mã có một triền núi, Hồ tiên sinh và Mã Lục Hà dẫn người lên đó, từ trên cao nhìn xống, chỉ thấy đúng là một mảnh đất báu phong thủy “sơn thanh thủy tú, rồng bay phượng múa”.

Mã Lục Hà thấy Kim Điểm Hồ tiên sinh mãi vẫn chưa nhìn ra được nguyên nhân, trong lòng càng thấp thỏm không yên, bèn hỏi ông đất này thế nào, rốt cuộc là hung hay cát. Hồ tiên sinh đành nói: “Rành rành là một mảnh đất báu phong thủy quý hóa vô cùng, nhưng tại sao...” đang nói giữa chừng, ông đột nhiên dừng lại, hít sầu một hơi khí lạnh, sắc mặt biến hẳn, kinh hãi thốt lên một tiếng: “Quả nhiên hung hiểm!”

CHƯƠNG 66: MŨ MA

Mã Lục Hà bị Hồ tiên sinh làm cho giật thót mình, biết rằng người này đã tìm được căn nguyên đụng chạm với hung sát trong nhà mình, vội hỏi: “Tiên sinh, sao lại nói vậy? Hung hiểm ở đâu?”

Hồ tiên sinh lau mồ hôi lạnh trên trán, đáp: “Nếu không phải tôi nhìn ra được, già trẻ gái trai nhà họ Mã đều phải xuống m Ty làm ma cả đấy.”

Mã Lục Hà nhất mực tin tưởng thuyết phong thủy, nghe thấy lời này, trong lòng lại càng kinh hãi bội phần: “Mảnh đất báu phong thủy nhà chúng tôi sao lại có vận hung hiểm thế chứ?”

Hồ tiên sinh chỉ xuống núi, nói với Mã Lục Hà: “Ông nhìn kỹ xem, ngọn núi cao phía Tây trang viện nhà họ Mã giống cái gì?” Mã Lục Hà nhìn theo hướng ngón tay, chỉ thấy mé sau nhà mình có một ngọn núi cao, cảnh sắc đẹp đẽ xanh um, bình thưòng nhìn cũng đã quen, cho là thường, không hề cảm thấy gì. Nhưng lúc này ngắm nghía kỹ càng, bất giác cũng kinh hoảng thốt thành tiếng: “Rõ ràng là một cái mũ, đây là... là mũ của phán quan trong kịch nói.”

Hồ tiên sinh nói: “Ngọn núi kia trên nhỏ dưới phình, vươn lên sừng sững như mũi dùi, thế núi lánh dương tìm âm, vừa khéo phủ trùm lên trang viện nhà họ Mã, hình thế này trong phong thủy có tên tục gọi là mũ ma, chẳng trách việc làm ăn trong nhà lại hưng vượng, tiền vào cuồn cuộn, vì đây chính là dường thu tiền âm của phán quan Sâm La điện. Khu nhà này của ông chỗ nào cũng tốt, xây dựng không chút vấn đề, hiềm nỗi lại nằm bên dưới mũ ma, há chẳng phải coi đây như âm trạch mộ phần hay sao? Thứ cho tôi nói thẳng, không đầy ba năm toàn gia nhà ông sẽ chết sạch, gà chó cũng chẳng còn đâu.”

Mã Lục Hà sợ đến hồn xiêu phách lạc, lập tức níu lấy Hồ tiên sinh khẩn cầu: “Tiên sinh nhất định phải cứu cả nhà tôi với, tốn bao nhiêu tiền cũng được, xin tiên sinh cứ nói.”

Hồ tiên sinh bèn an ủi: “Mã lão gia không cần phải lo sợ, chỉ cần bỏ căn nhà này đi, toàn gia nhà ông dọn đi chốn khác là được, giờ vẫn chưa muộn đâu.”

Mã Lục Hà không nỡ bỏ mảnh đất báu nạp tài này, liền đảo mắt van nài Hồ tiên sinh: “Xây khu nhà lớn như vậy tuy tốn kém không ít, nhưng cũng không có gì luyến tiếc cả, chỉ có điều cái “mũ ma” kia rõ ràng là mảnh đất báu phong thủy thu nạp tiền tài, sao có thể để uổng phí vậy được, cầu xin tiên sinh ban cho diệu pháp để nhà họ Mã tôi giữ được tài vận này.”

Sau đấy, Mã Lục Hà lại lấy ra mấy miếng vàng, nói cứng nói mềm, cầu Hồ tiên sinh ban cho kế sách. Hồ tiên sinh từ hồi theo thầy học nghề đã biết một câu ngạn ngữ cổ: “Núi sông mà biết nói, thầy phong thủy chết đói; thảo dược mà biết nói, y sứ không gạo ăn.” Không nên quá tin vào thuyết phong thủy, nhưng các bậc thánh hiền thời xưa cũng thường nói chuyện “thiên nhân tương ứng” có lúc địa lý núi sông dường như cũng có thể ảnh hưởng đến họa phúc cát hung, vì vậy Hồ tiên sinh cho rằng, đạo phong thủy không phải vô căn cứ, cũng thường nghĩ đến chuyện tìm cho mình một mảnh đất báu phong thủy, để đến khi trăm tuổi còn lưu lại phúc ấm cho con cháu đời sau.

Không cầm lòng được trước lời khẩn nài vật vã của Mã Lục Hà, Hồ tiên sinh đành đồng ý. Kỳ thực, muốn giữ lại mảnh đất tài lộc “mũ ma” này cũng không phải chuyện gì khó, chi cần đảo lộn âm dương là được, bỏ dương trạch đi, sau đó đưa mộ phần tổ tiên về mai táng ở đây, việc làm ăn của nhà họ Mã vẫn càng ngày càng phát đạt.

Mã Lục Hà mừng rỡ khôn xiết, luôn miệng tán dương Hồ tiên sinh quả không hổ là cao nhân Kim Điểm, ông ta đã mời hết cả các vị danh gia trong tỉnh, mà không ai nhìn ra được trang viện nhà họ Mã phạm phải hung sát gì, vậy mà Hồ tiên sinh mắt lửa ngươi vàng, vừa lên núi nhìn đã thấu được huyền cơ ngay, đúng là bản lĩnh thần tiên, gặp được cao nhân như thế, nhất định là khí số nhà họ Mã vẫn còn chưa tuyệt.

Đối với chuyện hưng vong của gia tộc, Mã Lục Hà không dám có chút sơ suất, lập tức mời Hồ tiên sinh ở lại nơi tốt nhất trong trấn, rồi phái người đến hầu hạ cơm ăn nước uống, đổng thời một mặt nhờ ông giúp chỉ ra huyệt đạo của địa mạch, mặt khác tiến hành dọn cả nhà đi nơi khác.

Đúng dịp Mã lão thái gia vừa qua đời được tròn năm, họ liền chọn ngày hoàng đạo, tập hợp người đào mộ lên, còn chuẩn bị đủ khí cụ của mặc sư(32) để phòng thi biến. Thời xưa, mọi người tương đối mê tín, những khi khai quật mộ có hoặc di chuyển mộ phần đều lo gặp phải thi biến, nên đều mang theo đầu mực của thợ mộc để khắc chế cương thi. Đầu mực và dây mực dùng để kẻ vạch đo đạc, trong dân gian phổ biến quan điểm là: “Dây mực thẳng, không thể bẻ cong dối lừa”, dây mực chỉ có thể kẻ đường thẳng, có thể nói là bảo vật của các mặc sư, dùng càng lâu càng quý báu. Dây mực là tượng trưng cho chính trực. Từ thời xa xưa. tà đã không thể thắng chính, các vật kiểu như dùi của thợ đá, thước, dây, búa, bào của thợ mộc, đều có tác dụng tương tự, có thể trấn áp các thứ yêu tà quái dị. Rường cột và các đồ gỗ trong nhà mà vô cớ cót két phát tiếng, đều bởi chưa cọ sạch dây mực, lâu ngày hóa thành tinh linh phát ra tiếng động. Đương nhiên đấy đều là truyền thuyết, cũng không có chứng cứ xác thực.

Ngoài ra, còn phải chuẩn bị một ít tiền đồng trước thời Thanh, sau khi quật nấm thấy quan tài, phải áp lên nắp quan mấy chục đồng tiền, bên ngoài chăng hai sợi dây. Làm vậy để phòng ngừa cái xác bật dậy phá quan tài. Tiền đồng đè quan cài còn gọi là “nghìn cân một đồng”, tương truyền, làm như vậy có thể ngăn cách thi thể với dương khí, ngoài ra còn có thuyết nói tiền đồng chính là tiền quan, đè cho cương thi không bật lên được. Các thuật sĩ còn cho rằng chữ trên tiền cổ chính là ấn quang, có thể phá yêu thuật lòe bịp. Truyền thuyết về ấn quan này có rất nhiều, tỷ như có thuyết nói, thời xưa có kẻ trộm, không cần móc túi vẫn có thể lấy tiền bạc từ ngoài xa ngàn dặm, vì vậy phàm các nhà giàu đều đặt một xâu tiền cổ hoặc nguyên bảo có ấn quan trong ngân khố, gọi là tiền “áp khố”, như vậy sẽ không bị trộm nữa. Vả lại, tiền cổ có ấn quan cũng có thể tránh tà, niên đại càng xưa càng tốt.

Theo phong tục mai táng của địa phương, lúc chuyển mộ dời quan cài cần chú ý “vạ miệng”, đây không phải chỉ tiếng lóng trong đạo lục lâm, mà mộ cổ là lãnh địa của người chết, người sống đến tìm ngưòi chết, cần phải kiếm lấy cái cớ cho mình yên tâm, vì vậy mới gượng ép thêm vào rất nhiều điều kỵ húy, “vạ miệng” tức là những cấm kỵ trong lời ăn tiếng nói, kỵ nhất là những từ kiểu như “chết, xác, âm, chạy, mồ, mả...” cho rằng những chữ này không được may mắn, trong lúc nói chuyện đều cố gắng tránh đi. Tuy vậy, hai chữ quan tài phát âm giống như quan tài trong thăng quan phát tài, vì vậy không cần tránh vạ miệng. Những quy củ nhà quê phức tạp này, Hồ tiên sinh trước giờ vẫn nắm rõ trong lòng bàn tay, chỉ điểm rõ ràng đâu ra đấy.

Vào đêm cuối cùng, theo quy củ, cần mời đạo sĩ đến niệm chú an ủi vong hồn, con cháu thắp hương dập đầu xong, mới khiêng quan tài ra, cắm phướn cắm đèn dẫn lối, để trâu vàng ngựa trắng kéo xe, đưa quan tài khâm liệm thi thể Mã lão thái gia đến mảnh đất “mũ ma” chôn cất lại.

Quan tài là trung tâm của việc mai táng, vì trong xã hội cũ, người người đều mê tín tin vào phong thủy, cho rằng đất có đất hung đất cát, sao có sao lành sao dữ, nếu tìm được một mảnh đất lành làm mộ tổ, chôn cất thi hài tổ tiên, con cháu đời sau có thể nhờ vào long khí phong thủy ấy mà phát tích. Gia tộc hưng vượng không ngoài việc làm quan, kiếm tiền, chính vì lẽ này mà quan tài đồng âm với quan tài trong thăng quan phát tài, nên việc chuyển dời mồ mả tổ tiên là hết sức quan trọng, nhà họ Mã lại có tiền có thế, kinh động đến nỗi dân chúng khắp vùng đều kéo về xem náo nhiệt, người đông như nước.

Trang viện về cơ bản đã bị phá dỡ, nơi chôn cũng đã chọn xong, nhưng để đề phòng long khí trong âm trạch chạy mất, trước khi đưa quan tài đến không được đào đất lên, đợi khi quan tài đến nơi, Mã Lục Hà lập tức lệnh cho người nhà bắt tay đào đất. Từ xưa, người ta đã chú trọng đào sâu chôn chặt, quan tài chôn càng sâu càng tốt, chỉ có mộ người nghèo mới đào hố nông, dăm bữa nửa tháng là bị chó hoang đào bới.

Nhà họ Mã tuy thừa tiền, nhưng dẫu sao cũng không phải quý tộc, thời Dân quốc cũng không còn ai xây dựng minh đường mộ thất dưới lòng đất nữa, nên chỉ đào một cái hố sâu để hạ táng mà thôi. Mười mấy người to khỏe thay phiên nhau đào bới, được một cái hố còn sâu hơn cả móng nhà, phỏng chừng cũng sắp xong thì đột nhiên đào được một khối đá.

Mọi người đều lấy làm kinh hãi, huyệt vị này là do Kim Điểm Hồ tiên sinh chỉ cho, sao bên dưới không phải đất lành, mà lại có nham thạch? Hồ tiên sinh ngồi bên cạnh trầm tĩnh quan sát, trong bụng cũng lấy làm lạ, thầm nhủ phen này đúng là thất sách, sao lại chọn đúng một cái huyệt đá thế này? Không khéo phen này mất mặt chứ chẳng chơi. Ông đang ngẫm nghĩ tìm cơ hội lẩn đi, chợt thấy sắc mặt Mã Lục Hà nặng trịch, sầm sì đi tới bên cạnh, bảo ông tới xem thử, tại sao trong huyệt mộ lại có nham thạch.

Kỳ thực, ý của Mã Lục Hà đã hết sức rõ ràng, nhà ông ta cũng dỡ rồi, mộ tổ cũng chuyển đi rồi, nhưng trong huyệt mới lại đào phải nham thạch, tự nhiên phải nghi ngờ Hồ tiên sinh là hạng giang hồ lừa đảo. Họ Mã này ỷ mình qua lại với quan phủ, hoành hành bá đạo đã quen, hại chết một vài dân thường cũng chẳng đáng gì, bây giờ đã định chôn sống luôn Hồ tiên sinh vào cái hố đó.

Hồ tiên sinh hối hận vô cùng, sớm biết thế này thì ban đầu đã không mở tiệm bói, xưng là Kim Điểm kim điếc gì, cứ ù lì chăn dê chăn bò cho nhà địa chủ còn hơn, giờ rơi vào tình cảnh này, tự mình tạo nghiệt thì không thể sống được, đành phải chịu mệnh thôi. Bị cả đám người dổn ép, ông đành ủ rũ tấp tểnh đi tới trước cái hố, trong đầu không ngừng xoay chuyên xem nên tán láo thế nào để bảo toàn tính mạng.

Nhưng nước đến chân mới nhảy, làm gì có cách nào đây? Đang không biết phải nói sao, chợt nghe mấy người phu đào huyệt xì xào ầm ĩ, nói rằng trên tảng đá đào được kia có chữ, hình như là một tấm bia đá. Mã Lục Hà vội kêu người đưa tấm bia ấy lên.

Người đông dễ làm việc, chỉ thoáng sau, tấm bia đá đã được đưa ra khỏi hố, mọi người phủi sạch bùn đất bên trên, chỉ thấy trên mặt bia khắc sáu chữ lớn. Bấy giờ, rất nhiểu người vây lại xem xét, ai biết đọc biết viết đều nhận ra được, lẩm bẩm đọc lên thành tiếng: “Ở thì chết, chôn thì phát.”

Mã Lục Hà gạt đám người ra xem đi xem lại mấy lượt, kinh hãi đến nỗi một hồi lâu không sao khép miệng lại được, quỳ sụp xuổng trước mặt Hồ tiên sinh dập đầu cảm tạ rối rít: “Tiên sinh đúng là thần tiên sống! Mã Lục Hà tôi hôm nay hoàn toàn tâm phục khẩu phục rồi!”

Hồ tiên sinh vốn tưởng rằng phen này bị chôn sống lấp hố rồi, không ngờ lại có kỳ ngộ như vậy. Nơi này xưa nay chưa từng có người xây nhà hay xây mộ, thứ chôn trong đất ắt là di vật từ thời cổ xưa, thật không ngờ lại ứng nghiệm đến thế. Ông cũng ngây ra hồi lầu mới định thần lại được, càng cảm thấy Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật nói đâu trúng đó, mấy thứ kỹ nghệ giang hồ vặt vãnh không thể nào so sánh được.

Khi ấy, người quây xung quanh xem đông nghìn nghịt, ai nấy đều coi Hồ tiên sinh như một vị “bán tiên”, cứ như tinh tú quây quanh vầng nguyệt vậy. Hồ tiên sinh cũng thấy lâng lâng, lòng mừng khôn tả, song bề ngoài vẫn không dám để lộ ra, chỉ tìm mấy câu xã giao ứng đáp, rồi chủ trì nghi thức hạ táng quan tài của Mã lão thái gia. Xong xuôi đâu đấy, ông nhận được rất nhiều tiền tài tạ lễ,

từ đó trở đi, danh tiếng Hồ tiên sinh vang xa, hễ nhắc đến Kim Điểm Hồ tiên sinh, người nào biết chuyện đều giơ ngón tay cái lên, khen một tiếng “thuật số như thần, tay vàng điểm chỉ” nhưng cây to gọi gió lớn, dần dần cũng có rất nhiều tên đạo tặc có ý đồ với nhà họ Hồ, muốn bắt ông đi giúp chúng tìm long mạch trộm mộ.

Hồ tiên sinh tự thổi phồng mình một thời gian, thấy hết đám trộm này đến đám giặc khác không ngừng tìm đến tận cửa, cũng không thể không thu liễm bớt, qua quýt được thì qua quýt, tránh được thì tránh, nhưng ông cũng biết tránh được mùng một không thoát khỏi hôm rằm, cứ ở lại trong thành xem bói xem đất, sớm muộn cũng rước lấy vạ lớn, cái đầu mình rơi xuống cũng không sao, nhưng vợ con trong nhà lấy ai nuôi sống đây?

Vậy là Hồ tiên sinh liền gói ghém hết vàng bạc châu báu, đưa cả nhà đi trốn. Ông vốn không phải người Hồ Nam, nói đi là đi luôn, không có gì vướng bận cả. Hai năm sau, gặp lúc thời cuộc khó khăn, trong nhà hơi túng thiếu, ông nhớ ra mình còn cái tráp chôn ở một nơi bí mật bên hồ Động Đình, đó là món tiền dùng khi khẩn cấp ông chuẩn bị từ lúc gia cảnh còn sung túc, dạo trước đi gấp quá nên không kịp mang theo. Nay cần dùng đến, Hồ tiên sinh bèn hóa trang thành thương khách trở về lấy tiền.

Hồ tiên sinh tính tình cẩn trọng, luôn né tránh tai mắt người khác, lại thông đường thuộc lối nên chẳng tốn mấy công sức đã dễ dàng lấy lại được tráp tiền, đang chuẩn bị mang tiền về nhà thì chợt nhớ ra Mã Lục Hà, thầm nhủ năm đó mình giúp người này lấy được địa mạch phát tài “mũ ma”, lúc này Mã gia chắc hẳn càng thêm hưng vượng, sao không tới đàm đạo một chuyến, biết đâu lại được thêm gì đó.

Nghĩ đoạn, ông quyết định vòng đường đến tìm gặp Mã Lục Hà, chẳng ngờ đến nơi liên đớ người ra, cả nhà họ Mã đều đã ngỏm củ tỏi, mộ phần của Mã lão thái gia cũng bị đào trộm. Hồ tiên sinh cảm thấy hết sức bất ngờ, trong lòng không khỏi thắc mắc: “Chẳng lẽ ta xem địa mạch không chuẩn, hại chết cả nhà Mã Lục Hà rồi?” Nhưng rồi ông lại nghĩ: “Không thể nào, bia đá thời cổ đào được trong huyệt mộ ấy, rõ ràng viết rằng “ở thì chết, chôn thì phát’, chứng tỏ người xưa sớm đã nhận ra mảnh đất báu phong thủy này, lại không phải có người động chân động tay vào, sao có thể sai được chứ?”

Hồ tiên sinh lấy làm nghi hoặc, chuyện này quan hệ đến tính mạng mấy chục con người của một gia tộc lớn, không hỏi thăm cho rõ thì về nhà cũng canh cánh không yên, bèn đi xung quanh dò hỏi, cuối cùng cũng biết được toàn bộ sự kiện. Kết quả càng khiến ông bất ngờ hơn gấp bội.

Thì ra, Mã Lục Hà chuyển dời âm trạch dương trạch xong, quả nhiên việc làm ăn càng thêm hứng vượng, thanh thế như mặt trời chính ngọ, tiền tài cuồn cuộn chảy vào kho. Nhưng trời có gió mưa bất trắc, một ngày nọ, giếng nước trong nhà bị người ta bỏ độc, một mạch chết mất mấy chục mạng người, tuy trong nhà vẫn có người, nhưng người chết quá nhiều, trong lúc vội vàng, đến cả quan tài cũng không kịp đặt mua.

Mã Lục Hà lớn tiếng mắng chửi Hồ tiên sinh là tên bịp bợm, cái mũ ma này vẫn chụp lên đầu người sống nhà họ Mã không gỡ ra được. Ông ta nổi giận đùng đùng dẫn người vào thành phá tiệm bói của Hồ tiên sinh, nhưng lúc đó cả nhà Hồ tiên sinh đã dọn đi đâu không biết.

Mã Lục Hà tìm khắp nơi không thấy, đành hậm hực trở về. Ông ta ngồi thuyền đi đường thủy, không ngờ dọc đường gặp một trận gió lớn, đánh chìm cả thuyền, cả đám người đều làm mồi cho tôm cá, không kẻ nào sống sót. Cả một gia tộc lớn cứ vậy mà chết sạch sẽ không còn một ai.

Thời bấy giờ đang buổi chiến loạn liên miên, mộ phần của Mã lão gia là mộ mới, bằng như một đống vàng bạc đặt lù lù trên mặt đất. Sau khi băng cướp lớn ở Tương m tan đàn xẻ nghé, có khá nhiều kẻ hoạt động đơn lẻ trong vùng. Một hôm, cả trăm người mang theo vũ khí chạy qua, trắng trợn đào ngôi mộ này lên, vơ vét sạch sẽ đồ bồi táng của Mã lão thái gia mang đi.

Bấy giờ, tục hậu táng đã suy tàn, nhưng vẫn thịnh hành lệ đặt tiền “áp khẩu” cho người chết, trong miệng ngậm bạc hoặc tiền đồng, mà nhà họ Mã lại tiền nhiều mạnh chi, trong quan tài quả cũng có một số món xa xỉ đắt tiển, y phục của xác chết không cần phải nói, chỉ riêng cái túi đựng thuốc bằng gấm đỏ, miệng túi nạm ngọc đã đáng mấy trăm đổng Đại Dương rồi. Cuối cùng, bọn trộm còn nhổ nốt mấy cái răng vàng trong miệng Mã lão thái gia rồi mới đập quan tài hủy xác, nghênh ngang rời đi, tình trạng thê thảm hết chỗ nói.

Về sau, lại có mấy toán trộm quy mô nhỏ hơn, cùng một số sơn dân quanh vùng đến lọc hố, huyệt mộ càng đào càng lớn, ở chỗ dạo trước chưa động thổ, lại lộ ra một tấm bia đá. Những người hiếu sự đều đó đến xem, thấy trên tấm bia mới khai quật được ấy, cũng có sáu chữ lớn: “Người ngay phát, kẻ gian chết.”

CHƯƠNG 67: SỔ GHI CHÉP

Chuyện này từng rộ lên một thời, người trong vùng đều xôn xao bàn tán, có người bảo Kim Điểm Hồ tiên sinh chỉ được cái hư danh, lừa Mã Lục Hà một mớ tiền to, lại chỉ cho ngưòi ta một cái hung huyệt, kết quả hại chết mấy chục mạng người nhà ông ta. Có lẽ bản thân Hồ tiên sinh cũng biết có chuyện xảy ra, nên mới dọn nhà trốn đi đâu không rõ.

Nhưng phần đông mọi người lại không nhìn nhận như vậy, mảnh đất “mũ ma” này trước sau đào được hai tám bia đá, chữ khắc bên trên hết sức rõ ràng! Nghĩ kỹ lại những câu “chôn thì phát, ở thì chết, người ngay phát, kẻ gian chết”, thì không phải Kim Điểm Hồ tiên sinh chi sai huyệt nhãn, mà là Mã Lục Hà táng tận lương tâm, bao năm nay minh tranh ám đấu, lại buôn bán thuốc giả, không biết đã hại chết bao nhiêu mạng người, mấy trăm dặm quanh đây thử hỏi có ai không hận hắn ta? Có thể thấy, không thể làm những việc trái lương tâm được. Đây là ông trời muốn trừng trị cả nhà hắn, đúng như câu, trời cao có mắt, mắt thần như điện, báo ứng không sai.

Hồ tiên sinh lại dò hỏi kỹ hơn, mọi người quả nhiên đều hận nhà Mã Lục Hà thấu xương, người này lừa gạt thân thích, hãm hại dân chúng, chứa chấp đạo tặc, chuyên làm những chuyện bịa đặt hãm hại, ăn không nói có, làm cho nơi này khốn khổ vô cùng, gà chó cũng không yên, có thể nói đã khiến cho trời giận người oán. Đại đa số dân chúng đối với chuyện cả nhà người này gặp họa đều vỗ tay khen hay, cho rằng đó là “người ác người sợ trời không sợ, người thiện người bạc trời không bạc; thiện ác đáo đầu đều có báo ứng, chẳng qua chỉ sớm hay muộn mà thôi”.

Còn hai mảnh bia đá đào được ở mộ tổ nhà Mã Lục Hà kia cũng rất có lai lịch, theo lời một hòa thượng già trong ngôi chùa địa phương, rất nhiều năm trước, đích thực từng có địa danh “núi Mũ Ma”, mảnh đất rộng dưới chân núi từng là nơi xây miếu thành hoàng. Những ngày lễ tết, người ta đều đốt tiền giấy cho người âm ở chỗ cửa núi. Tương truyền, bia đá chôn bên dưới ngôi miếu là để cảnh cáo hậu nhân... “âm địa không bằng tâm địa”, phong thủy long mạch có tốt đến mấy, củng không bằng tự mình tích đức, làm việc thiện.

Sau này, miếu thành hoàng bị hủy trong lửa chiến tranh, trải mấy trăm năm dời đổi, di tích cũ sớm đã không còn, không ngờ mảnh bia vỡ trong lòng đất đến nay vẫn còn, lại vì chuyện của nhà Mã Lục Hà mà thấy lại ánh mặt trời, để người đời biết được ý trời sâu thẳm, đạo trời khéo sắp.

Từ đó trở đi, Hồ tiên sinh cũng không dám vỗ ngực tự xưng tinh thông phong thủy địa lý gì gì nữa, rốt cuộc ông cũng hiểu được ý tứ trong những lời sư phụ nói năm xưa. Tại sao lại nói “thiên đạo không lời”? Chỉ vì ông trời không nói chuyện, nhưng cảm ứng của trời đất vẫn luôn ở trong lòng người, bất luận đắp mộ hay xây nhà, đều phải lấy tích đức làm gốc, đúng như câu “tâm là chủ khí, khí phù cho đức”, trời chưa chắc đã có lòng với người, nhưng tâm ý đức hạnh của người lại thường hay cảm ứng với trời cao.

Tôi kể chuyện này cho ông chủ Lý biết, để ông hiểu được đạo phong thủy là chỉ “lẽ thiên nhân cảm ứng, đạo tạo hóa biến dịch”, chứ không đơn giản chỉ là tìm mảnh đất đẹp để chôn cát, không nên mê tín quá. Từ xưa đến nay, bao nhiêu hoàng đế quân vương sau khi chết đều được chôn ở long mạch, nhưng cũng không thể ngăn được dòng chảy của lịch sử thay triều đổi đại.

Ông chủ Lý gật đầu nói: “Đèn không khêu không sáng, lời không nói không hiểu, tấm giấy bồi cửa sổ mỏng manh mà không chọc thì cả đời cũng không rách, hôm nay nghe cậu nói vậy, đích thực rất có lý...” Nói tới đây, ông chợt nhớ đến một chuyện, liền gọi Út vào dặn dò mấy câu, hình như bảo cô đi lấy thứ gì đó.

Út bới rương lục tủ trong phòng một lúc lâu, cuối cùng cũng lấy ra một cái tráp bằng gỗ đen, nắp không có khóa, mà luồn hai sợi dây thừng thắt chặt lại, ở chỗ thắt nút dùng xi niêm phong, phía trên còn có dấu ấn, bên trong nặng trịch, dường như đựng rất nhiều thứ.

Tôi và Tuyền béo đều hết sức tò mò, còn tưởng ông chủ Lý lại khoe với chúng tôi món bảo vật trấn sơn gì, bèn hỏi ông, trong tráp này đựng thứ kỳ môn ám khí gì vậy.

Ong chủ Lý lắc đầu nói: “Trong này đựng thứ gì tôi cũng không biết, thậm chí còn chưa từng mở ra xem, nhưng có lẽ các cậu biết được đôi chút đấy.”

Tôi càng ngạc nhiên hơn: “Đó của ông ông còn không biết, chúng tôi lại không thể nhìn xuyên thấu cái tráp, làm sao đoán được chứ?” Nói tới đây, một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc, tôi vội hỏi: “Chẳng lẽ đây là đồ của Mô Kim hiệu úy?”

Ông chủ Lý đáp: “Đúng thế, lúc trước tôi thấy các cậu có thể nhận ra Ô Kim Cang là biết chắc chắn các cậu cùng nghề với người khách năm xưa đến đây đặt làm chiếc ô ấy rồi. Vì Ô Kim Cang này không phải vũ khí tầm thường, chỉ dùng đến khi đổ đấu mò vàng mà thôi. Năm đó, vị khách thương kia đến tiệm tôi đặt làm một chiéc Ô Kim Cang, đồng thời gửi lại cái tráp này dặn rằng lúc nào lấy ô sẽ mang cả đi, nhưng ông ta đi một mạch mấy chục năm không thấy bóng dáng, giờ tôi đã sắp xuống lỗ rồi, cũng chưa từng gặp lại ông ta.”

Nhắc tới đoạn chuyện xưa này, ông chủ Lý không khỏi cảm thán hồi lâu. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, vật đổi sao dời, nay Phong Oa sơn đã từ Hà Bắc chuyển đến Tứ Xuyên, trải qua bao nhiêu năm, bao thứ mang theo mình đều đã mất hết, nhưng cái tráp này vẫn còn nguyên vẹn, ấy là vì năm xưa đã nhận lời người ta, thì phải giúp họ trông coi cho tốt.

Ông chủ Lý tự thấy mình tuổi tác đã cao, sợ rằng không thể giữ gìn vật này được nữa, liền giao tráp gỗ đen ấy lại cho chúng tôi. Dẫu sao, chúng tôi cũng là Mô Kim hiệu úy, còn hơn để sau khi ông chết, nó rơi vào tay người ngoài, còn bên trong rốt cuộc đựng những thứ gì, thì chẳng thể nào biết được.

Sau khi biết tin Đa Linh qua đời, tâm trạng tôi khá sa sút, thấy cái tráp gỗ này kiểu dáng cổ xưa, đoán rằng bên trong hẳn đựng các thứ quý trọng, bấy giờ hơi men đã xông lên tận đầu nên cũng chẳng gấp mở ra xem ngay. Bọn tôi uống đến tận khuya, say khướt mới nghỉ. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi cám ơn ông chủ Lý, chào tạm biệt rồi lên đường về. Lần này, chúng tôi chia làm hai nhóm, Shirley Dương và Út đi Hồ Nam đón lão Trần mù, sau đấy sẽ vể Bắc Kinh tụ họp.

Dọc đường không ai nói chuyện gì, tôi và Tuyền béo về Bắc Kinh trước, Minh Thúc và Răng Vàng đã đợi sẵn từ lâu.

Minh Thúc không ngừng hỏi han chúng tôi đi đố đấu ở đâu, có mở hàng không, tôi không hé nửa chữ, chỉ bảo Tuyền béo và Răng Vàng dựa theo địa điểm Tôn Cửu gia mô tả trong thư, đào lấy tư liệu lão ta nghiên cứu chỉnh lý nhiều năm, nhưng không có đổ cổ hay văn vật gì, hai người họ đành ủ rũ gói đồ đạc trở về.

Tôi đặt cả mấy món đổ lấy được trong chuyến này lên bàn, đóng cửa lại, cùng Tuyền béo, Răng Vàng bàn tính xem nên xử lý thế nào. Tôn Cửu gia đã ở lại hẻm núi Quan Tài, đời này chắc đến chết cũng không chịu lộ diện nữa, tư liệu về quẻ cổ lão ta để lại đều là thật, chỉ có điều, muốn phá giải được toàn bộ quẻ cổ Chu Thiên, vẫn phải nhờ đến bậc đại hành gia như Trương Doanh Xuyên giúp đỡ, không phải việc một hai năm mà có kết quả ngay, vả lại, cũng không thể thiếu tấm gương cổ Quy Khư kia được.

Dạo trước, tôi cực kỳ hứng thú với quẻ chu Thiên hoàn chỉnh mười sáu chữ, nhưng trải qua rất nhiều sự việc, khiến tôi thầm cảm thấy thiên cơ quẻ tượng mê hoặc người ta không ít, năm xưa Trương Tam Gia hủy đi một nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, rất có thế cũng liên quan đến chuyện này. Ngoài ra, từ trước tôi đã phát hiện Trương Doanh Xuyên là người đạm bạc, không màng danh lợi, hình như cũng không coi trọng toàn quẻ Chu Thiên cho lắm. Trương Doanh Xuyên tinh thông lý học, suy lẽ trời mà hiểu được chuyện người, tầm nhìn rất xa, có thể nhận ra rất nhiều đạo lý mà người thường không sao thấu hiểu. Anh đã thế, tôi mà bổ khuyết đầy đủ Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật cũng chưa hẳn là một chuyện tốt, huống hổ còn phải tốn rất nhiều tâm sức ngồi nghiền ngẫm, tính tôi làm sao ngồi yên một chỗ vậy được chứ?

Tôi tính toán trước sau, cuối cùng quyết định đem hết tư liệu nghiên cứu về quẻ cổ của Tôn Cửu gia chuyển giao cho Trương Doanh Xuyên. Còn gương cổ Quy Khư và long phù bằng đồng xanh đều có ý nghĩa phi phàm, đồ đồng xanh vớt ở Quy Khư lên đều là báu vật thượng cổ, ông chủ thuyền Nguyễn Hắc cùng ra biển với chúng tôi đã vì gương cổ Quy Khư mà chết, chiến hữu năm xưa Đinh Tư Điềm lại có nghìn vạn ối liên hệ vi diệu với mảnh bùa hình rồng kia, những thứ này không nên lọt vào tay bất cứ người nào khác, cứ đưa cho giáo sư Trần xử lý là ổn nhất.

Tuyền béo nâng cái tráp bằng gỗ đen ông chủ Lý đưa cho lên, hỏi tôi: “Nhất này, thứ này tính sao đây? Đã về đến Bắc Kinh rồi, cũng phải mở ra xem thử chứ, nom cái tráp này không nhẹ, lắc lên thấy bên trong lọc cà lọc cọc, có phải đĩnh vàng đĩnh bạc gì không nhỉ ?"

Từ đầu tôi vẫn cho rằng cái tráp này là vật của người khác, sao cũng không thể vì người ta không đến lấy mà mượn cớ chiếm làm của riêng được, nhưng cũng rất tò mò không biết trong tay tiên bối Mô Kim hiệu úy kia rốt cuộc có bảo bối gì. Trên thế gian này chỉ còn lại ba lá bùa Mô Kim chân chính, tôi và Shirley Dương, Tuyền béo mỗi người một lá. Hai lá trong đó do Liễu Trần trưởng lão ở chùa Vô Khổ năm xưa truyền lại, lá còn lại là Tuyền béo tìm được trong ngôi mộ cổ sau miếu Ngư Cốt.

Từ đây có thế thấy, người khách đặt chế tạo Ô Kim Cang ở chỗ ông chủ Lý, rất có khả năng chính là vị tiền bối chết trong hang nhện Long Lĩnh, nếu đúng thế thật, chắc chắn ông ta vĩnh viễn không thể quay lại lấy món đồ mình gửi nữa rồi.

Năm xưa, vị Ban Sơn đạo nhân cuối cùng là Gà Gô vì muốn tìm di tích Thông Thiên Đại Phật tự ở thành Hắc Thủy chôn vùi bên dưới dải cát vàng, đã bái Liễu Trần trưởng lão ở chùa Vô Khổ làm sư phụ, muốn học Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt, chẳng ngờ Liễu Trần trưởng lão lại bất hạnh qua đời, không kịp truyền thụ cho ông Tầm long quyết. Lúc lâm chung, Liễu Trần trưởng lão từng để lại di ngôn dặn dò Gà Gô đến hai bên bờ sông Hoàng Hà tìm một vị Mô Kim hiệu úy khác.

Vị Mô Kim hiệu úy ấy thường cải trang thành khách thương, trên tay luôn cầm một cái bàn tính vàng, tuy Liễu Trần trưởng lão không nói rõ quan hệ của mình với người này, nhưng chắc chắn là bạn bè cộng tác trước đó của ông, giao tình không phải tầm thường, bằng không ông cũng chẳng nhắc đến người này với Gà Gô trong thời khắc cuối cùng của cuộc đời. Đáng tiếc, Liễu Trần trưởng lão không hề hay biết, Kim Toán Bàn sớm đã chết trong mê động Long Lĩnh từ lâu. Vả lại, Kim Toán Bàn hành sự ẩn mật, nếu không phải chúng tôi chạy ra từ mộ u linh thời Tây Chu, tình cờ chui vào hang nhện ở sâu hơn bên trong, sợ rằng chẳng ai biết được Mô Kim hiệu úy Kim Toán Bàn đã chôn thây trong đó.

Chuyện này tôi đã nghĩ đến từ trước, nhưng vẫn không dám xác nhận, bởi không thấy chiếc bàn tính bằng vàng ròng trong cả mộ u linh lẫn hang nhện. Thứ này vàng chóe, nhất định rất bắt mắt, vả lại còn là vật tùy thân quan trọng của Kim Toán Bàn, đương nhiên ông ta sẽ không tùy tiện để rời xa. Từ đây suy ra, chẳng lẽ ngoài chủ nhân đời trước của ba miếng bùa cổ ra, trên đời vẫn còn một vị Mô Kim hiệu úy thứ tư nữa chắc?

Nghĩ tới đây, tôi không kìm được, định mở tráp ra xem trước rồi tính tiếp, tương lai nếu thực sự có người tìm đến cửa đòi lĩnh lại, cứ trả hết đầy đủ mọi thứ cho người ta là được, chỉ xem qua một chút cũng chẳng thể hư hỏng thứ gì. Nghĩ đoạn, tôi liên động thủ cắt đứt sợi dây gân bò đã phủ bụi nhiều năm, vừa mở nắp tráp ra, liền thấy ánh vàng lóe lên chói mắt.

Cái tráp bằng gỗ đen này rất giống rương tiền chuyên đựng tiền bạc sổ sách của các thương gia thời xưa, bên trong là môt chiếc bàn tính vỡ vụn, khung giá, con tính đều đúc bằng vàng ròng, bên trên khắc rất nhiều ký hiệu nhỏ biểu thị thiên can địa chi, dạng thức cổ phác đẹp đẽ, không biết đã truyền qua bao đời.

Tôi thầm nhủ, thế này thì không sai vào đâu được, quả nhiên là vật của Kim Toán Bàn mà Liễu Trần trưởng lão quen biết, xem ra chúng tôi cũng có duyên với người này. Kế đó, chúng tôi lại xem xét mấy món còn lại trong tráp, đều là các cuốn sổ ghi chép, bên trong toàn các chi tiết mua vào bán ra, nhưng đọc kỹ hơn, lại phát hiện trong đó còn kèm theo rất nhiều thông tin, tôi lật lật mấy trang, dường như có chép lại cả những sự tích liên quan tới Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật nữa.

Tuy tôi định lần này lo liệu việc chôn cất cho Đa Linh ở Mỹ xong xuôi sẽ không làm nghề đổ đấu nữa, mà kết hôn rồi sống một cuộc đời bình lặng, nhưng bao nhiêu chuyện tôi trải qua những năm gần đây, cơ hồ đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, tất cả những người tôi quen biết, bao gồm cả Trương Doanh Xuyên hậu nhân của Trương Tam Gia, đều không giải thích được tại sao bộ kỳ thư phong thủy này chỉ còn nửa quyển, dẫu có kể ra được một số lý do, cũng đều khiến người ta khó lòng tin phục. Lúc này, gặp được cuốn sổ của Kim Toán Bàn, không ngờ lại ghi chép sự tích về nó, trong lòng tôi hết sức bất ngờ, càng nôn nóng muốn biết rõ sự tình, bèn đưa hết đồ đạc trong tráp cho Tuyền béo cất giữ, sau đó lấy cuổn sổ lật xem từng trang dưới ánh đèn.

Tôi đọc cả đêm không bỏ sót chữ nào, rốt cuộc cũng giải được mối nghi vấn chôn sâu trong lòng bao năm nay, lại nhớ tới những gì mình và bọn Tuyền béo từng trải qua, cũng không thể không khâm phục tầm nhìn và kiến thức sâu rộng của Trương Tam Liên Tử, người viết nên bộ Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật này, bình yên rút khỏi nơi đầu sóng ngọn gió là chuyện không phải ai củng làm được.

Mượn chuyện xưa để xét chuyện nay, khiến lòng tôi có chút cảm ngộ, quyết định sẽ dũng cảm thoái lui, cũng là để thực hiện lời hứa với Shirley Dương trước đây. Sau khi an táng Đa Linh, tôi sẽ cùng Shirley Dương, Tuyền béo rửa tay chậu vàng, từ nay gỡ bỏ bùa Mô Kim, đem số thanh đầu mò được ở Vực Xoáy San Hô bán đi lấy chút tiền vốn, rồi cùng bọn lão Trần mù, Minh Thúc, Răng Vàng, Cổ Thái ra nước ngoài hợp tác buôn bán làm ăn, cả đời không hỏi đến chuyện đổ đấu nữa.

Gặp những lúc rảnh rỗi thanh tĩnh, tôi sẽ xem lại những thứ của tiền bối Mô Kim hiệu úy năm xưa truyền lại, một là nửa quyển tàn thư Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, rồi ba lá bùa Mô Kim mà tôi, Tuyền béo và Shirley Dương từng đeo. Tôi không biết liệu những món cổ vật này cùng có số mệnh hay không, nhưng khí số “hưng vong” của chúng từ rất lâu về trước, đã được sư phụ của Kim Toán Bàn là Trương Tam Liên Từ nắm rõ cả rồi.

Toàn bộ sự tích của các Mô Kim hiệu úy đương đại đến đây là hết, trong cuốn sổ của Kim Toán Bàn rốt cuộc đã ghi lại sự việc gì? Nguyên nhân thật sự khiến Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật trở thành tàn thư là gì ? Xin mời xem thêm ba chương ngoại truyện.

CHƯƠNG 68: RỬA TAY CHẬU VÀNG

Trương Tam Gia là bậc lão thành trong nghề trộm mộ cuối thời Thanh, ông một mình đeo ba lá bùa, người đời thường hay gọi là Trương Tam Liên Tử, tên thật không rõ là gì, dù thời trước nhậm chức ở núi Côn Luân, thân trong cửa quan, cũng chỉ dùng họ thật mà giấu đi tên.

Tên húy của Trương Tam Gia là gì, đến cả đệ tử con cháu trong nhà cũng đa phần không biết, tại sao lại thế ? Chỉ vì bình sinh những việc ông làm, thảy đều phạm vào cấm kỵ, trong hai đạo hắc bạch không ai không biết, cũng thuộc hàng có số có má trong chốn lục lâm.

Trước thời Dân quốc, Trung Quốc vẫn còn thuộc chế độ phong kiến, thảng như phạm phải tội lớn tày trời, có khả năng sẽ bị tru di cửu tộc, một người gây chuyện, thân thích bằng hữu của y đều bị liên lụy theo, vì vậy người trong giới lục lâm đều không dùng tên họ chân thực, mà chỉ gọi nhau bằng biệt hiệu, ngoại hiệu, dù một số người danh tiếng lẫy lừng khắp thiên hạ, đến lúc chết cũng chỉ để lại thế gian một biệt hiệu mà thôi.

Tuy Trương Tam Gia vướng vào không biết bao nhiêu vụ án, nhưng thời trẻ ông từng được hoàng đế Hàm phong phong thưởng, lại thành thạo sự đời, dùng các thứ cổ vật hiếm quý đổ đấu được kết giao vô số vương công đại thần, quan lại bổ khoái vốn không dám động đến ông, vì vậy mà môn hạ đệ tử rất đông, gia tài giàu không kế xiết, hào kiệt khắp ngũ hồ tứ hải đều muón kết giao cùng.

Một năm nọ, Trương Tam Gia nảy sinh ý định muốn thoái ẩn, ông hiểu được mệnh trời, chán ghét những chuyện cơm áo gạo tiền của thế gian, định quy ẩn chốn núi rừng, sống nốt quãng đời còn lại trong bình yên. Ông liền gửi thiếp mời rộng rãi, mời bạn bè ở khắp nơi đến nhà họ Trương ăn tiệc.

Đã lăn lộn trong hắc đạo thì không thể tách khỏi đám cường đạo Xả Lĩnh khống chế bảy tỉnh miển Nam sáu tỉnh miền Bắc, thời bấy giờ, quan và phỉ là một nhà, Trương Tam Gia tự nhiên cũng phải nhập bọn. Lần rửa tay chậu vàng công khai này, chính là để rút hương trên Thường Thắng sơn.

Khi đó, thế lực của cường đạo Xả Lĩnh đã suy vi, rất nhiều người không hề biết Trương Tam Gia chính là Mô Kim hiệu úy Trương Tam Liên Tử, thêm nữa, thân phận của thủ lĩnh cường đạo tuy tương đối cao, nhưng thanh danh còn xa mới bì kịp Trương Tam Gia, vì vậy hành vi này của ông, còn gây vang động hơn cả chuyện trùm cướp rời băng, có thể coi là một chuyện lớn trong giới lục lâm đương thời.

Những kẻ giang hồ lớp sau, có ai mà không muốn được mở rộng tầm mắt chứ? Đến ngày mười lăm tháng Sáu âm lịch, quả nhiên khách khứa chật nhà, tề tựu đông đủ. Những người đến đây, không ai không phải giang dương đại đạo, giặc cướp lục lâm, bàn ghế kê từ nhà chính ra đến cổng lớn, hai bên chái nhà cũng chật kín người, rất nhiều kẻ thân phận thấp đều phải đứng chứ chẳng có chỗ mà ngồi.

Sau khi sắp xong chỗ ngồi dựa theo thân phận, trước tiên là mở hương đường, bái lạy tổ sư Võ Thánh chân quân, rồi bắt đầu đại lễ. Kỳ thực, đây cũng chỉ là làm ra vẻ vậy thôi, nhưng tục lệ thì không thể miễn được, càng không ai dám sơ suất coi thường. Ngó nhìn trăng trên trời đã tròn, sao cũng lên đủ, người xướng lễ bèn mời thủ lĩnh Xả Lĩnh ra ngồi bên dưới thần vị trong nhà chính, phụ lễ hai bên khênh một lò hương tới, bên trong cắm mười chín cây hương lớn, ba trước, bốn sau, năm trái, sáu phải, một cây ở chính giữa.

Sau một hồi chiêng trống, giờ hành lễ đã đến, các nhân vật hắc đạo đến xem lễ lập tức im bặt như tờ. Lúc này, Trương Tam Gia bước ra, quỳ một chân trước mặt thủ lĩnh hành lễ. Thời bấy giờ, đạo lục lâm vào thì dễ, rút thì khó, người bình thường đều không dám rút hương, giặc cướp bình thường muốn rửa tay không làm nữa, trừ phi cha mẹ ruột hoặc vợ con xảy ra chuyện lớn, người chủ sự trong nhà không thể không trở về thì mới dám nhắc đến chuyện rửa tay chậu vàng. Sau đấy, thủ lĩnh phái người điều tra đích thực có chuyện như vậy, mới có thể cho y rút hương, bằng không giết chết không tha. Tuy Trương Tam Gia thân phận khác thường, nhưng vẫn không tránh khỏi những lễ tiết này, trước tiên phải trần thuật lý do rút hương trước mặt thủ lĩnh.

Trương Tam Gia bẩm rõ nguyên do muốn rút hương rời khỏi đảng cướp, không ngoài những câu như bệnh cũ quấn thân, lại có vợ con nheo nhóc vướng bận, khó thể làm những việc giết người cướp hàng được nữa, cúi mong tổ sư gia và thủ lĩnh giơ cao đánh khẽ, cho đệ tử được toàn thân rút lui!

Thủ lĩnh nghe xong vội đỡ Trương Tam Gia dậy, cười xòa nói: “Chúc mừng Tam ca rửa tay chậu vàng, dũng cảm thoái lui giữa dòng nước xiết là việc đáng quý vô cùng, Hắc bạch lưỡng đạo tren thế gian này, bên nào cũng là nước sôi lửa bỏng, có thể cầm cự đến ngày hôm nay cũng thật không dễ dàng gì, có câu rằng… gió mây thường đến hội, tụ tán chẳng có kỳ, rút hương rời bọn, nhưng nghĩa khí vẫn còn lưu.”

Vậy là Trương Tam Gia cùng thủ lĩnh bước tới trước ban thờ, đứng bên cạnh lò hương, miệng lầm bầm khấn: “Tinh tú đầy trời rải bốn phương, núi cao Thường Thắng ở chính giữa; lưu lãng giang hỗ mấy chục năm, nhiều phần nhờ các huynh đệ chiếu cố; hôm nay tiểu đệ phải rời đi, khẩn thỉnh các huynh đệ khoan dung; tiểu đệ về nuôi mẹ già, nhưng vẫn cùng các huynh đệ đồng mệnh tương liên; binh đến tướng đến, đệ truyền báo; có nước có lửa đệ thông tri; dưới có hoàng thổ trên có trời, đệ và các huynh chung một thuyền; chùy sắt vỡ răng miệng không khai, dao thép cắt gan tâm không đổi; tiểu đệ có sai một lời, ngũ lôi oanh đỉnh diệt toàn gia; xin chúc sao Khôi tụ kim quang, hương hỏa Thường Thắng át Côn Luân, thế thiên hành đạo mãi lưu truyền.”

Trong đạo lục lâm, bất kể ai rút hương, đều phải khấn bài này, nói nhà mình có mẹ già phải phụng dưỡng là lấy cớ “trăm việc thiện, hiếu đứng đầu”, dẫu có viện cớ bằng trời, củng không thể ngăn cản người tận hiếu đạo được. Tuy Trương Tam Gia từ nhỏ cô khổ, không cha không mẹ, nhưng vẫn phải khấn đúng nguyên văn, không thể sửa chữa mảy may, vả lại trong quá trình khẩn không thể sai sót một chữ, cũng không được dừng lại nửa chừng để ngẫm nghĩ, bằng không ắt bị coi là trong lòng hổ thẹn, ý đồ bất chính, đám đạo tặc xung quanh sẽ lập tức nhao lên loạn dao phân thây, băm kẻ tụng niệm kia thành tương thịt.

Toàn văn bài khấn tổng cộng có mười chín câu; khấn một câu lại nhổ một cây hương, khi Trương Tam Gia khấn xong, hương trong lò cũng đã nhổ hết. Lúc này, thủ lĩnh lập tức chắp tay ôm quyền chúc mừng: “Tam ca đi mạnh giỏi, khi nào nhớ nhà thì quay lại uống chén rượu.” Đến đây coi như xong lễ từ nay trở đi Trương Tam Gia không còn liên can gì đến những sự vụ của đạo lục lâm nữa. Mọi người xung quanh cùng bước lên chúc mừng, bên ngoài trang viện pháo nổ rầm trời, trống nhạc tưng bừng, người hầu kẻ hạ lập tức bày tiệc lên, nhất thời rượu thịt ê hề, ly chén chạm nhau, chủ khách đều vui vẻ.

Trong tiệc, đám cường đạo lục lâm đang chén chú chén anh, chợt có người đề nghị: “Hôm nay là ngày Trương Tam Gia nhổ hương rời đảng, các lộ hào kiệt đều tụ tập về đây, trên bàn toàn là rượu ngon thức hiếm, thật thống khoái vô cùng, hiềm nỗi không có thứ gì để đưa rượu, thế này gọi là chỉ sướng mà chưa vui, khó lòng tận hứng. Giới lục lâm chúng ta toàn bọn hán tử thô lỗ, tu mi trượng phu, cũng không thể học theo bọn vản nhân mặc khách chơi trò “hành tửu lệnh”, thế thì nên thế nào đây? Tiểu tử cả gan, xin được mời các vị cao nhân trong tiệc kể lại những sự đắc ý bình sinh của mình cho mọi người, hễ nói đến chỗ kỳ dị, vũ dũng, hay người thường không bì được, chúng ta lại uống một bát lớn để tán thưởng”.

Cả đám đều nhao nhao khen phải, Trương Tam Gia vốn là người thoải mái, ông hiểu rõ đám này muốn tranh thủ cơ hội nghe chuyện của mình năm xưa, đương khi cao hứng, sao có thể chối từ, bèn ngồi giữa bàn tiệc kể chuyện. Có điều, Trương Tam Gia đeo bùa Mô Kim là chuyện bí mật, không tiện thổ lộ trước chốn đông người, nên chỉ ngắt đầu bỏ đuôi, kể cho cả bọn nghe mấy sự việc kỳ hiểm mình từng trải trong đời.

Trương Tam Gia là hậu duệ danh môn, sau khi gia tộc suy vong, từ nhỏ đã phải lưu lạc nơi hẻo lánh, thời thiếu niên tham gia phá giải mấy vụ kỳ án, nhờ dẹp giặc ở Giang Nam mà thành danh, về sau làm quan, từng đánh trận với quân Thái Bình, đàn áp khởi nghĩa nông dân ở vùng An Huy, Giang Tô, đi theo Tả đại nhân trấn áp phiến loạn Tân Cương, cuộc đời nhiều lần qua lại chốn sa trường, tung hoành nơi chiến địa, kỳ ngộ nhiều không kể xiết.

Sự tích của Tam Gia, tùy tiện kể chuyện nào cũng đều là, “nói ra làm trăng sao lu mờ, cất tiếng khiến sông ngòi chảy ngược” làm cả bọn nghe như say như mê. Ông kể xong, lại dựa theo thân phận và lai lịch, lần lượt mời mấy vị tiền bối giảng giải sự tích của mình, đám cường đạo này tung hoành Nam Bắc, qua lại vạn dặm, ngoài giết người phóng hỏa ra còn làm không ít vụ đố đấu quy mô lớn. Trải nghiệm của bọn họ đều khiến người nghe rởn cả tóc gáy, người trong giới lục lâm lại rất thích khoe khoang những sự tích hào kiệt của mình, thật đúng là người nói mặt mày rạng rỡ, người nghe thần hồn điên đảo, trong tiệc không biết đã dốc cạn bao nhiêu vò rượu, mọi người say sưa sảng khoái, uống từ chập tối đến tận sáng hôm sau mới say khướt ra về.

Trương Tam Gia mất hơn một tháng mới thu xếp xong xuôi mọi việc ở hai giới hắc bạch, bấy giờ mới dẫn theo gia quyến trở vé quê cũ. Ông còn phải tháo bỏ bùa Mô Kim trước thần vị tổ sư, sau này không làm Mô Kim hiệu úy nữa.

Trên thế gian này chỉ còn lại ba lá bùa Mô Kim, là vật truyền từ đời này sang đời khác, theo lệ cổ, không đeo bùa không được đổ đấu. Trương Tam Gia có một trai một gái, ngoài ra còn bốn đệ tử. Trừ người con gái không tính, tổng cộng có năm sư huynh đệ. Nhà họ Trương đều là cao thủ phong thủy, đương thời người đủ tư cách đeo bùa này, không ngoài Trương Tam Gia và đám đệ tử của ông, nếu nói rộng hơn, thì cũng không đủ mười người.

Có điều, bùa Mô Kim chỉ có ba lá, rốt cuộc nên truyền cho ai cũng phải lao tâm khó tứ suy nghĩ một phen.

Bốn người đệ tử của Trương Tam Gia, người nào cũng có chỗ hơn người, một là Liễu Trần trưởng lão sau này xuất gia đi tu ở chùa Vô Khổ, năm ấy Liễu Trần trưởng lão vẫn chưa xuống tóc, nhưng không dùng tên thật trong giới lục lâm, không ai biết được danh tính tục gia của ông là gì. Người này từ nhỏ đã là một tên đại đạo có tài phi thiềm tẩu bích, biệt hiệu “Phi thiên thần châu”, chưa một lần thất thủ, khinh công leo trèo cực kỳ xuất chúng, Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt đã học hết chân truyền của Trương Tam Gia. Liễu Trần tính nóng như lửa, thích quản chuyện bất bình trong thiên hạ, có lòng tế thế cứu nhân.

Một người nữa là Kim Toán Bàn, xuất thân trong nhà buôn bán, hiểu được các loại kỳ môn ám khí, con người tinh minh láu lỉnh, nhưng lại có một tấm lòng chính trực hiếm có, chỉ tội quá đỗi tự cao, không để người thường vào trong mắt, chiếc bàn tính bằng vàng ròng không bao giờ rời tay, trên hạt bàn tính và khung giá đều khắc chi chít các ký hiệu Thiên can Địa chi. Chiếc bàn tính này của y không dùng để tính, mà để suy diễn thuật số Ngũ hành, chiêm nghiệm phương vị bát môn. Kim Toán Bàn và Trương Tam Gia quen biết từ xưa, giao tình bất phàm, nửa là sư đồ, nửa là bạn bè.

Người thứ ba là m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ, vốn là con cháu thế gia, khi sinh ra đã có một đôi mắt âm dương, từ nhỏ đã “nhìn được quỷ thần”, vì vậy bị đuổi khỏi nhà, lưu lạc bốn phương, về sau Trương Tam Gia gặp phải, bèn thu làm đồ đệ. Người này trạch tâm nhân hậu, đầy bụng kinh luân, lại tương đối truyền thống thủ cựu, tuy học được một thân bản lĩnh nhưng không thích làm chuyện đổ đấu kiếm tiền, xưa nay chưa từng tham dự hành động tụ nghĩa chia tài nào trong giới lục lâm, vì vậy đi tới đâu cũng đều dùng chân danh thực tính.

Người nhỏ nhất, là đệ tử quan môn của Trương Tam Gia, có biệt hiệu Cối Xay Sắt, tu luyện ngạnh công Thập Tam Thái Bảo Hoành Luyện, từng làm thảo khấu, cũng từng tham gia khởi nghĩa nông dân, hồi trước đã giết người vô số, nhưng Trương Tam Gia nói tính khí của y rất giống với một người huynh đệ năm xưa của mình, lại xét thấy y thủ đoạn cao cường, làm người thành thực, mới thu vào làm môn hạ.

Hôm ấy, Trương Tam Gia gọi đệ tử và con cháu đến trước ban thờ, đặt ba lá bùa Mô Kim lên khay ngọc, nói với mọi người: “Chọn ngày không bằng gặp ngày, hôm nay ta sẽ truyền lại bùa Mô Kim. Trong thiên hạ không có bữa tiệc nào không tàn, dù lấy được bùa hay không lấy được bùa, kể từ hôm nay, các con sẽ phải tự lập môn hộ, dựa vào bản lĩnh của mình mà xông pha bên ngoài. Nhưng có một điều, kẻ nào học Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt của Mô Kim hiệu úy mà không đeo bùa Mô Kim đi đổ đấu, một hai lần có lẽ còn may mắn nhặt được cái mạng về, nhưng đã phạm phải lệ cổ, sớm muộn cũng không tránh khỏi kiếp số, các con nếu không nghe lời này của sư phụ, tới khi đại họa giáng xuống đầu, chớ trách kẻ làm thầy này không nói rõ từ trước.”

Con cháu đệ tử đều biết Trương Tam Gia là nhân vật thông tuệ cái thế, lời đã nói ra không bao giờ sai, đương nhiên không dám không nghe, đều nhất loạt bước lên quỳ lạy, nói: “Ba lá bùa Mô Kim truyền cho ai, đều do sư phụ làm chủ, đệ tử không dám hai lời.”

Trương Tam Gia gật gật đầu, tuy kể cả con trai thì ông có năm đệ tử, song kỳ thực trong lòng sớm đă định đoạt sẽ truyền bùa Mô Kim cho ai rồi. Trước tiên, ông bảo con trai mình lùi ra bên ngoài. Thì ra, bí thuật Mô Kim này truyền thừa nghìn năm nội quy cực nhiều, bùa thật không truyền cho hậu nhân trong nhà chính là một trong số đó.

So với đám trộm mộ dân gian không có phép tắc gì, quy định này xuất phát từ việc đổ đấu trộm mộ kiếm lợi là hành vi cực kỳ tổn âm đức, mặc dù Mô Kim hiệu úy trộm mộ lấy báu vật hầu hết đều để tế thế cứu dân, nhưng những thứ châu báu ấy đa phần không phải phàm vật, một khi lộ diện trên đời, nhất định sẽ dân đến minh tranh ám đấu, truy đến tận cùng thì người đổ đấu đào mộ lấy báu vật ra cũng phải gánh tội nghiệt không nhỏ, bởi vậy mới có câu “làm một đời, nghỉ ba đời”. Tính từ đời con trai Trương Tam Gia, thì tới đời chắt của ông cũng không thể đeo bùa Mô Kim làm nghề đổ đấu, bằng không ắt sẽ bị trời phạt, đoạn tử tuyệt tôn, tan cửa nát nhà.

Cùng là người làm nghề trong xã hội cũ, nghề mổ lợn xưa cũng có cách nói như vậy. Ở phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông, đã có truyền thuyết đồ tể bị báo ứng, nhưng không phải chuyện đồn đại trong dân gian bình thường, mà rất đáng tin. Vì những nghề này đều là tổ tiên truyền xuống, chỉ truyền cho nam không truyền cho nữ, làm bao nhiêu đời đồ tể đều có ghi chép rất rõ ràng.

Phàm là đồ tể, cứ cách ba đời lại có một đời không thể làm đồ tể, tuy cũng phải học lấy tay nghề của đời cha ông, nhưng không thể tự lập môn hộ, giết mổ súc sinh. Nghe nói, quy tắc này là vì lo người sát sinh quá nhiều, sợ tuyệt hậu, nhưng nguyên nhân có phải vậy hay không đến giờ không ai nói rõ được. Tóm lại, cứ ba đời, ắt phải có một đời không thể giữ lấy nghiệp tổ, mà phải học nghề khác mưu sinh, đợi đến đời sau mới có thể tiếp tục làm đồ tể.

Nhà họ Mễ đời đời làm nghề giết mổ dê lợn, truyền đến đời “Mễ đồ tể” liền phạm vào đại kỵ, nghề giết mổ truyền đến đời y, theo lệ cũ vốn không thể động đến đao đồ tể nữa, nhưng y không hề để chuyện này trong lòng, vẫn cứ giết lợn mở tiệm thịt bình thường. Một hôm, trời còn chưa sáng Mễ đồ tể đã thức dậy để giết thịt một con lợn nái, một mình y vào phòng giết mổ thắp đèn, vật con lợn nái xuống đất, tiện tay lần mò mạch máu trên cổ, rút đao định chọc tiết luôn. Nào ngờ con lợn kia đột nhiên cất tiếng, nói bằng tiếng người: “Tôi lẽ ra đến mười lăm tháng Năm mới chết, hôm nay mới mười bốn, ngày giờ không đúng, sao ông dám giết tôi ”.

Gan kẻ làm đồ tể không phải người thường có thể sánh được, vả lại Mễ đồ tể dậy quá sớm, mắt mũi kèm nhèm, còn tưởng mình nghe lầm, lại nghe thấy lợn nói tiếng người, bèn chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, vung đao chọc tiết luôn, mặc cho con lợn nái eng éc giãy giụa, cũng không buồn mảy may động lòng.

Nhưng đến ngày hôm sau, chính là mười lăm tháng Năm, Mễ đồ tể vẫn dậy sớm giết lợn, không ngờ hôm nay y càng mệt mỏi hơn, đến đèn cũng chẳng buồn thắp, đằng nào cũng đã quen tay, lần mò trong bóng tối vẫn làm được. Có điều, lần này không nghe thấy con lợn bị giết kia nói chuyện, lúc giết mổ cũng rất thuận lợi, tựa hồ không phí chút sức lực nào, đến lúc cạo lông, Mễ đồ tể vẫn còn thắc mắc: “ừm, lạ thật, con lợn bị chọc tiết hôm nay sao không thấy kêu la gì nhỉ ? Mà... mà chân lợn sao ít lông thế, trơn nhẵn bóng loáng, sờ cứ mềm mềm như chân gái ấy...”

Nghĩ tới đây, Mễ đồ tể giật mình sực tỉnh, nhận ra mình không hề vào phòng giết mổ mà đang ngồi trong nhà, trên giường dưới đất be bét máu tươi, trên tay y cầm một cái đùi đàn bà trắng toát như tuyết. Mỗ đồ tể lập tức ba hồn rời xác, bảy vía thăng thiên, không dám tin thảm cảnh trước mắt là thật, không ngờ trong lúc mộng du y đã coi vợ mình như con lợn, tự tay xẻ ra làm tám mảnh, máu tươi khắp nhà vẫn còn nóng hôi hổi. Kết quả, ngay ngày hôm ấy Mễ đồ tể treo cổ tự vẫn, trước lúc chết còn dùng máu tươi viết lên tường mấy chữ lớn: “Ngày giờ không đúng.”

Chuyện này nói là lời đồn đãi ở chốn thôn quê cũng tốt, mà là sự tích chân thực cũng được, tóm lại những kẻ dựa vào tay nghề kiếm cơm, đều thà tin là có, chớ ngờ là không, vì vậy Trương Tam Gia không muốn để con trai mình làm Mô Kim hiệu úy nữa. Như vậy, người có thể đeo bùa, chỉ còn lại bốn đệ tử của ông. Trong bốn người này, m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ là tú tài không đội mũ quan, căn bản không muốn làm nghề đổ đấu mà cam tâm tình nguyện làm một số việc tầm thường mưu sinh, hoặc mở trường dạy học, hoặc xem bói chọn đất, tìm nơi xây nhà xây mộ cho người ta, dù sao thì người này đa tài đa nghệ, không lo vô kế sinh nhai.

Trương Tam Gia thấy m Dương Nhãn tâm ý đã quyết, bèn lấy ra một cuốn sách, sách này tên gọi Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, ghi chép lại tỉ mỉ tất cả sở học bình sinh của Trương Tam Gia.

Mô Kim bí thuật kỳ thực chính là một phân chi của Dịch, quẻ cổ Chu Thiên tổng cộng có mười sáu chữ, truyền tới hậu thế chỉ còn lại tám quẻ, tám quẻ này lại phân thành Tiên thiên bát quái và Hậu thiên bát quái. Tương truyền, Tiên thiên bát quái do Phục Hy đại đế có được từ hình vẽ trên mai rùa, Hậu thiên

bát quái là của Chu Văn Vương suy diễn, kỳ thực đều là do người đời sau nghĩ ra, trên thực tế, hai thứ này khác nhau không lớn, đều thuộc Thiên quẻ lấy “long” làm tượng, vì vậy Chu Dịch giải quẻ hẳn thuộc về Long quẻ. Trong các hào của Bát quái này, tuy có cả tượng hưng vong, nhưng xét kỹ ra, đều là số chấn hưng, vì vậy Kinh Dịch từ thiên mở đầu đến thiên kết thúc, đều nói về Càn nguyên thiên đạo.

Còn tám quẻ đã thất truyền từ thời Tây Chu kia, lại thuộc vẻ quẻ m, đa số đều lấy “phượng” làm tượng, người xưa cho rằng quẻ cổ quá chu toàn, đã phát hiện hết thảy mọi bí ẩn trong trời đất, như vậy ắt sẽ bị quỷ thần đố kỵ, dẫn đến việc chẳng lành, bèn hủy đi một nửa của mười sáu quẻ, từ đây không còn lưu tồn trên chế gian nữa.

CHƯƠNG 69: VẬT CỰC TẤT PHẢN

Trương Tam Gia từng trộm mộ cổ thời Tây Chu, từ đó tìm được quẻ tượng Chu Thiên đầy đủ, nên đã dùng quẻ cổ mười sáu chữ làm mồi dẫn, đưa thuật phong thủy âm dương vào trong, viết nên một cuốn Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật trong đó thuật âm dương và phong thủy mỗi bên chiếm một nửa, thiên m dương nói về chiêm đoán thuật số, lý lẽ của tạo hóa, còn thiên Phong thủy thì nói vể thuật thanh ô, đạo phong thủy... chỉ nửa quyển này đã bao hàm Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt của Mô Kim hiệu úy, đổng thời tập hợp mọi tục lệ, quy chế mai táng của các triều đại ở Trung Quốc, có thể nói là “nghiên cứu mọi lẽ của trời đất, tự thành ngôn luận một nhà”.

Ở trước mặt bốn người đệ tử, Trương Tam Gia xé đi một nửa của Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, chỉ để lại nửa quyển về bí thuật Phong thủy, còn phần bí thuật m dương thì bỏ vào chậu lửa đốt thành tro. Mấy người đều nghi hoặc khó hiểu, bèn xin sư phụ chỉ giáo tận tường, cuốn thiên thư này ảo diệu khôn cùng, tại sao lại hủy đi ? Từ nay trên đời há chẳng phải không còn quẻ cổ Chu Thiên nữa hay sao?.

Trương Tam Gia cười nói: “Đất ruộng cấy cày, đường thủy đi thuyền, đầu người không thể mọc ra cây trái, đây đều là đạo trời, hưng vong tạo hóa trên thế gian xưa nay đều đã có định số, nhưng mấy ai nhìn thấu được bí ẩn bên trong? Chi có thể nói rằng từ thuở hồng hoang đã thế, hoặc có tiên, tóm lại là người thế tục như chúng ta không nên biết. Thiên cơ này tuy thâm ảo vi diệu, nhưng lưu lại trên thế gian lại gây họa cho người không ít nên thiêu hủy đi mới là chính đạo.” Nói xong, ông đưa nửa quyển tàn thư còn lại cho m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ, dặn dò: “Bí thuật phong thủy của Mô Kim hiệu úy thâm diệu vô cùng, đã thăm dò hết ba đại long mạch từ Nam chí Bắc, lưu lại nửa quyển tàn thư này trên thế gian, tương lai biết đâu vẫn còn đất dụng võ, con phải giữ gìn cho tốt, chớ nên để thất lạc”.

m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ vội vàng quỳ lạy cảm tạ ân đức của sư phụ, nuốt nước mắt thu nhận cuốn tàn thư, từ đó rời khỏi sư môn đi xa. Cuối cùng, Trương Tam Gia nói với ba Bgười Liễu Trần, Kim Toán Bàn, Cối Xay Sắt, xem ra bùa Mô Kim sẽ rơi vào tay các con rồi. Hôm nay không phải ngày lành, đợi qua giờ Tý, bái lạy tổ sư gia xong, sẽ tiến hành nghi thức đeo bùa.

Đêm hôm đó, Trương Tam Gia dẫn ba đồ đệ ra nhà sau, bảo họ quỳ xuống, dập đầu, dâng hương trước tượng tổ sư Tào công, rồi truyền cho mỗi người một lá bùa Mô Kim.

Sau đấy, còn phải truyền quy tắc hành nghề, khí giới, và các chuyện xưa tích cũ. Trước tiên, Trương Tam Gia hỏi ba người bọn Kim Toán Bàn, có biết tại sao từ xa xưa nghể đố đấu đã tồn tại trên đời hay không?.

Ba sư huynh đệ Kim Toán Bàn cũng là hạng lăn lộn giang hồ đã lâu, kiến văn quảng bác, hiểu rõ tận tường các ngành các nghề, các tục lệ chốn thôn quê, nghe sư phụ hỏi vậy, liền lần lượt trả lời:

Trong thiên hạ có tam giáo cửu lưu, tam giáo là “Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo”, cửu lưu là chỉ chín giai tầng, trong đó lại phân ra thượng cửu lưu, trung cửu lưu và hạ cửu lưu. Trong tam giáo cửu lưu có rất nhiều ngành nghề mưu sinh, tổng cộng có khoảng hơn ba trăm sáu mươi ngành nghề.

Thượng cửu lưu, chính là, nhất lưu Phật tổ, nhị lưu tiên, tam lưu hoàng đế, tứ lưu quan, ngũ lưu viên ngoại, lục lưu thương, thất lưu cầm đồ, bát lưu thợ, cửu lưu nông phu, đây đều là những nghề nghiệp chính đáng. Trung cửu lưu là nơi tập trung khá nhiều các nghệ nhân thủ công, còn hạ cửu lưu, chính là hạng con hát, ca nhi, kỹ nữ.

Trong tam giáo cửu lưu diễn sinh ra mấy trăm nghề nghiệp, vốn không có nghề đổ đấu. Đổ đấu thuộc về tám nghề ngoài. Tám nghề ngoài, gồm có kim điếm, ăn mày, cướp đường, trộm cắp, đổ đấu, đi núi, dẫn lửa, gánh nước, gọi chung là “ngũ hành bát gia”. Kỳ thực, nếu xét kỹ, trong đây có mấy ngành nghề đều có thể coi là “nghề trộm cướp”, nhưng trong tám nghề ngoài lại tách ra để tính, chẳng hạn như cướp đường là cướp trắng trợn ngoài ánh sáng, vì vậy không thể gộp chung với hạng phi tặc trộm cướp trong bóng tối được.

Nghề đổ đấu, chiếm chữ “thổ” trong ngũ hành, theo lý cũng thuộc nghề trộm cướp, không khác gì cướp đường hay phi tặc, chỉ khác là làm chuyện trộm mộ mò vàng. Nói lên cao thì đổ đấu coi như cướp kẻ giàu chia người nghèo; nói xuống thấp thì là kiếm tiền của người chết, làm việc tổn hại âm đức, một cao một thấp, khác nhau một trời một vực.

Mô Kim hiệu úy đương nhiên không thể so với hạng trộm vặt, xưa nay đều chỉ trộm lấy các thứ kỳ trân dị báu cứu tế người cùng khổ, xứng với bốn chữ “trộm cũng có đạo”, thanh danh trên thế gian xưa nay rất tốt. Chì vì từ xưa người nghèo nhiều, người giàu ít, người giàu quá giàu, người nghèo quá nghèo, vì vậy mới có mấy nghề trộm cướp trong tám nghề ngoài, chuyên làm việc thay trời hành đạo.

Trương Tam Gia lắc đầu nói, các con nói nghề đổ đấu này là thế thiên hành đạo, nhưng lại hiểu lầm ý của hai chữ “thiên đạo” Mô Kim đổ đấu cũng không phải là như vậy. Người ở trên đời này có giàu có nghèo, giàu có cũng được, bần hàn cũng xong, đây đều là số mệnh đã định sẵn, cần gì đến đám cường đạo phi tặc thay trời hành đạo ? Đây chẳng qua chỉ là cái cớ để họ giết kẻ giàu sang cướp lấy tiền tài mà thôi.

Đổ đấu là việc trộm mồ quật mả người ta, tại sao lại có người lấy nó làm nghiệp mưu sinh? Chỉ vì các triều các đại đều coi trọng việc hậu táng, bất cứ sơn lăng mộ cổ nào, từ ngày khởi công xây dựng, đã tiêu phí không biết bao nhiêu máu và mồ hôi của dân chúng, không chỉ báu vật bồi táng nhiều không kể xiết mà còn phải giết người chôn sống tuẫn táng theo, cả những người thợ xây lăng cũng khó thoát họa diệt khẩu.

Phải biết, thiên đạo khoan dung, trời cao có đức hiếu sinh, dù mộ chủ ấy lúc sống là minh quân khai quốc hay bậc hiền tài cứu thế, chỉ cần lúc chết, làm việc mai táng quá đỗi xa xỉ, tất sẽ tổn hao phúc đức; thêm nữa, nơi xây mộ đa phần đều chọn đất báu phong thủy, chiếm lấy long mạch của thiên địa làm của riêng, cũng coi như phạm vào điều kỵ của quỷ thần, thiên đạo xưa nay đều không phù hộ cho hạng ấy.

Nghề đổ đấu này, chính là ứng vào thiên lý tuần hoàn, bất kể sơn lăng mồ mả chôn sâu giấu kỹ tới mức nào, sớm muộn “Cũng sẽ gặp họa đổ đấu, ăn miếng trả miếng, đây chính là nguyên tắc của lẽ trời. Vì vậy, đồ đấu mò vàng không đơn giản chỉ là đào trộm mộ cổ; cướp của người giàu chia cho kẻ nghèo, mà cũng ngầm hợp với lẽ hưng phế trong đại đạo.

Cũng như nước Đại Thanh này của chúng ta vậy, thời Khang Hy Càn Long tại vị, nước mạnh dân giàu thịnh thế nhường nào, vậy mà giờ đây thù trong giặc ngoài, ngổn ngang trăm mối, mắt thấy sắp diệt đến nơi rồi. Có câu, vật cực tất phản, có lúc hưng vượng tự nhiên cũng có khi suy vong, xét cho cùng, đều là một chữ “mệnh”.

Ba sư huynh đệ Kim Toán Bàn đều biết sư phụ Trương Tam Gia tài học bao la vạn tượng, không ngón nghề nào không tinh thông, còn sở trường chiêm bốc bói toán, đối với những lời này của ông chỉ thấy tựa hồ có thâm ý, nhưng nhất thời vẫn chưa thể hoàn toàn lĩnh ngộ, đành quỳ dưới đất cung kính lắng nghe.

Kế đó, Trương Tam Gia lại kể vế khởi nguyên của Mô Kim hiệu úy, cuối cùng nói tới các loại quy tắc, sự tích trong nghề. Ông nói, Mô Kim hiệu úy xưa nay không phân biệt sư đồ, ta truyền cho các con Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt, đấy là thầy dạy cho trò, nhưng khi đeo bùa Mô Kim cùng đi đổ đấu thì không thể coi là thầy trò hay sư huynh đệ nữa, mà chỉ có thể coi là những kẻ đem tính mạng ra buộc chung với nhau, cũng chính là đồng bọn. Ba huynh đệ các con sau này ra ngoài đổ đấu, một là không thể phạm vào quy tắc của nghề, hai là không được tham luyến danh lợi, làm nhục thanh danh của Mô Kim hiệu úy; ba là phải chiếu cố lẫn nhau, chuyện lớn chuyện nhỏ đều phải thương lượng kỹ càng.

Sở dĩ dặn dò như vậy, là vì Trương Tam Gia rất hiểu mấy đệ tử này, mỗi người đều có sở trường sở đoản riêng. Liễu Trần từ nhỏ đã được tẩy cân hoán cốt, giỏi thuật khinh công, có thể phi thiềm tẩu bích, thủ đoạn Mô Kim lại càng cao cường, nhưng tâm tính từ bi, ra tay không cứng rắn, có phần quá rộng lượng khoan hòa, hành sự không thể quyết đoán kịp thời, đây là đại kỵ trong nghề trộm mộ.

Còn Cối Xay Sắt cũng có một thân bản lĩnh, gan lớn hơn trời, không sợ quỷ thần, luận giết người cướp hàng thì y là bậc hành gia, nhưng khí chất của kẻ làm giặc cướp quá nặng nề, tính tình hơi tí là bốc lên, làm việc tương đối cẩu thả, thực là một mối họa.

Kim Toán Bàn tinh thông dịch lý ngũ hành, là cao thủ trộm mộ, lại hiểu được các loại phương vật kỳ dị trên thế gian, tuy rằng tâm cơ nhanh nhạy, cẩn thận chu toàn, nhưng thân thủ lại không giỏi. Một thân công phu như Liễu Trần hay Cối Xay Sắt kia, không phải những kẻ nửa đường xuất gia như y có thể luyện ra được, muốn học nhảy cao, nhất thiết phải tắm trong chậu thuốc đun nóng từ năm ba tuổi, còn ngạnh công phu thì trễ nhất cũng phải bắt đầu luyện từ năm sáu tuổi. Kim Toán Bàn này xuất thân trong nhà thương lái, từ nhỏ đã sống trong nhung lụa, chưa từng khổ công luyện tập bao giờ.

Vì vậy, Trương Tam Gia mới bảo họ ba người kết thành đồng bọn, lấy sở trường bù cho sở đoản, chớ nên đơn độc hành sự. Sau đó, liền đem xẻng sắt, móng lừa đen, ô Kim Cang... nhất loạt truyền lại, để ba đồ đệ nhớ kỹ sáu chữ “hợp thì sống, chia thì chết”.

Sau khi Trương Tam Gia dặn dò hết những chuyện này, ba người bọn Kim Toán Bàn coi như đã là Mô Kim hiệu úy danh chính ngôn thuận, từ nay trở đi, ba người sẽ kết thành đồng bọn cùng đi đổ đấu. Sáng sớm hôm sau, Kim Toán Bàn dậy rất sớm, không rủ theo hai sư huynh đệ kia, mà một mình đến thỉnh an sư phụ.

Thì ra, Kim Toán Bàn vẫn luôn thắc mắc tại sao sư phụ lại hủy đi một nửa Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, chỉ truyền cho m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ một quyển tàn thư, nên muốn hỏi rõ ràng trước khi rời núi. Vì chuyện này chắc chắn không đơn giản như Trương Tam Gia giải thích lúc đó.

Trương Tam Gia đang uống trà, nghe Kim Toán Bàn hỏi tới chuyện này, không trả lời ngay mà hỏi ngựợc lại xem Kim Toán Bàn nghĩ thế nào.

Kim Toán Bàn nửa đùa nửa thật nói, tính sư phụ thế nào, đệ tử hiểu quá rồi, xưa nay người nổi tiếng hào sảng, là bậc hào kiệt trong giới thảo mãng, ghét nhất là đám tiên sinh cổ lỗ giọng điệu chua cay, chắc hẳn tên m Dương Nhãn này không được sư phụ ưa thích, nên chỉ truyền cho hắn nửa quyển tàn thư, để hắn vể cả ngày ôm lấy quyển sách rách mà rầu rĩ, nghĩ vỡ đầu cũng không hiểu được sự ảo diệu trong nửa quyển còn lại.

Trương Tam Gia tính tình rộng rãi, quan hệ của ông với Kim Toán Bàn lại không phải tầm thường, nên cũng không có gì giấu giếm y, liền nói thẳng: “Kỳ thực, sư phụ cũng là kẻ rất cổ hủ gàn dở, chẳng qua xưa nay chưa bao giờ giảng đạo thuyết pháp đấy thôi. Nhưng nói thực, sư đệ m Dương Nhân Tôn Quốc Phụ này của con đích thực không thích hợp làm Mô Kim hiệu úy. Thập lục tự m dương phong thủy bí thuật là tâm huyết cả đời của ta, ngày ấy hủy đi một nửa, chỉ để lại nửa quyến tàn thư cho, cũng là hy vọng tuyệt nghệ của Mô Kim hiệu úy chúng ta không bị thất truyền từ đây.

Đạo lý bên trong, Trương Tam Gia đã nói từ trước, giờ lại giải thích kỹ càng. Căn nguyên của Mô Kim hiệu úy là Dịch, đạo sinh sinh biến hóa gọi là Dịch, vì vậy trong Dịch chỉ nói chuyện sinh, mà không nói chuyện khắc, vậy thế nào thì có thể “sinh”.

Sinh, một là chỉ sinh tồn, hai là chỉ hưng vượng. Trương Tam Gia từng thấy được quẻ cổ Chu Thiên trong mộ cổ thời Tây Chu, phát hiện cơ số ảo diệu khôn cùng, thêm vào đó, cả đời ông nhiều lần gặp kỳ ngộ, học được rất nhiều bản lĩnh, bèn kết hợp lại viết nên Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật; trình bày hết thảy lẽ âm dương, lý thuyết hình thế phong thủy trên đời vào trong đó, cũng có nghĩa là, thuật Mô Kim phát nguyên từ thời Hậu Hán, truyền đến đời Trương Tam Gia, đã đạt đến một đỉnh cao chưa từng có.

Nhưng quy luật phát triển của sự vật trong trời đất, là có lên ắt có xuống, có hưng ắt có vong, Trương Tam Gia thông hiểu quẻ cổ, đương nhiên hiểu rõ đạo lý này, cũng như vầng dương giữa trời, tỏa chiếu vạn vật, nhưng qua chính Ngọ, ánh dương sẽ càng lúc càng ảm đạm, dần dần khuất sau núi Tây; đến ngày mười lăm âm lịch, trăng tròn lơ lửng, nhưng tiếp đó sẽ từ từ khuyết dần.

Lý lẽ biến dịch của tạo hóa trong đạo trời, nói một cách đơn giản chính là vật cực tất phản, sự vật phát triển đến một giai đoạn nhất định, thì sẽ đi về một cực khác, vậy làm sao mới có thể khống chế sự suy thoái đây? Duy chỉ có cách duy trì trong trạng thái tàn khuyết mà thôi. Đây chính là nguyên nhân mà Trương Tam Gia hủy đi nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật.

Mô Kim bí thuật tuy bắt nguồn từ thời Hậu Hán, nhưng thật ra từ thời Chu đã có những khái niệm ban đầu, trải qua mấy nghìn năm được các đời Mô Kim hiệu úy từng bước hoàn thiện, trong thuật phong thủy cổ xưa dần dần dung hơp cả phong thủy thiên tinh, phong thủy thiền tông, Bát trạch minh kính, phong thủy Hình thế tông Giang Tây... sinh ra Tầm long quyết và thuật phân kim định huyệt là tập thành của các trường phái phong thủy.

Đến khi Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật xuất thế, lại càng bao la quảng bác, bao hàm cả quẻ cổ Chu Thiên, căn nguyên của bí thuật phong thủy, xét cứu vạn vật trong thiên địa, thực xứng với danh kỳ thuật quỷ thần khó đoán, không thể tiến thêm một bước nào nữa, đấy là điểm vật cực tất phản, từ nay trở đi, bí thuật Mô Kim chi có thể dần dần suy vi mà thôi.

Vì vậy, Trương Tam Gia hủy đi nửa quyển về bí thuật m dương, chỉ lưu lại cho đời sau nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật hòng giúp các Mô Kim hiệu úy sau này còn có cơ chấn hưng, tránh để từ sinh chuyển thành khắc, bị tạo hóa đố kỵ, đoạn tuyệt danh hiệu Mô Kim hiệu úy.

Trương Tam Liên Từ biết trộm mộ là nghề đem tính mạng ra liều, truyền nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật cho mấy người bọn Kim Toán Bàn đều không ổn, nên mới cố ý giữ cho m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ, để người này truyền lại bí thuật phong thủy của Mô Kim hiệu úy cho hậu thế, họa may tương lai còn có kì trùng hưng.

CHƯƠNG 70: KHỞI NGUYÊN

Kim Toán Bàn nghe xong lấy làm tâm phục khẩu phục, khen thầm Trương Tam Gia đã nhìn thấu được vạn vật trên đời. Ngày hôm ấy, y liền cùng Cối Xay Sắt và Liễu Trần cáo biệt sư tôn bắt đầu bước lên con đường Mô Kim hiệu úy.

Bấy giờ, đang là buổi loạn thế thay triều đổi đại, khắp nơi đều là thiên tai nhân họa, dân chúng phải chịu cảnh khốn đốn, ba người trước tiên lên Mang Sơn ở Hà Nam mở hàng, liên riếp trộm mấy ngôi mộ cổ, lấy những đó minh khí đáng tiền nhất ra bán đổi lấy tiền và lương thực cứu tế nạn dân. Mấy vụ làm ăn này của họ đều thuận buồm xuôi gió, từ đấy trở đi bắt đầu đi khắp Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Đồng, không biết đã đào trộm bao nhiêu sơn lăng mộ cổ.

Từ xưa đã có câu “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, người sống ở đời, bất luận ngươi bôn ba nước lửa ra sao, cuối cùng thành công hay không, rốt cuộc vẫn đều do ý trời. Gặp phải vận tốt, thì thứ gì cũng mua bán được, việc làm ăn lên như diều gặp gió, không có mộ nào không trộm được; còn như phải lúc thời vận suy vi, thì cũng rút nhanh như nước thủy triều, đụng việc gì cũng lỗ vốn, phải đem cả tính mạng ra bù.

Thời vận có lúc lên lúc xuống, không thể khi nào cũng thuận lợi như thế được, có một năm nọ, đến lượt ba người bọn Kim Toán Bàn gặp vận rủi. Ba người nhắm được một ngôi mộ cổ ở gần Lạc Dương, bèn nai nịt vào núi, không may đụng phải một trận chiến, lũ bại binh tháo chạy khỏi chiến trường. Bại binh thế lớn, xua theo vô số nạn dân ùn ùn kéo đến tràn cả vào trong núi, khiến ba huynh đệ Kim Toán Bàn bị lạc nhau.

Liễu Trần và Cối Xay Sắt cứu một nhóm nạn dân, trốn vào mộ cổ trong rừng. Trong đám nạn dân ấy, có một phụ nữ mang thai chờ sinh, trong lúc hỗn loạn đã làm động đến thai khí, khiến đứa bé chui ra sớm. Chẳng ngờ, thai nhi này lại nằm ngược, mắt thấy sắp nguy đến nơi, một xác hai mạng nằm lại giữa chốn hoang sơn dã lãnh.

Liễu Trần xưa nay tâm địa nhân từ, làm sao nhẫn tâm nhìn người khác mất mạng trước mắt, ông nhìn ra trong cụm mộ cổ này có một ngôi mộ khí thế sâm nghiêm, bèn xem xét địa mạch, quan sát hình núi, đoán rằng trong mộ chắc chắn có suối Quan Tài, cũng chính là nguồn suối ở trong chỗ đặt quan tài dưới lòng đất... dân gian có thuyết cho rằng, đun sôi nước lấy ở suối Quan Tài có thể giúp sinh nở dễ dàng.

Liễu Trần và Cối Xay Sắt bàn bạc, nhất trí rằng cứu người khấn cấp, bèn nhanh chóng rút xẻng Toàn phong, đào bới như bay. Chỉ một nấm mộ đất, làm sao ngăn được hai cao thủ Mô Kim cùng đào bới, chỉ thoáng sau họ đã thấy nắp quan tài. Chẳng ngờ, trong quan tài của ngôi mộ nhà quê này lại ẩn giấu ám khí, hai người từng trải bao sóng to gió lớn, nay lại lật thuyền trong mương rạch, Cối Xay Sắt bị cơ quan đánh trúng tử huyệt, chết ngay tại chỗ.

Liễu Trần bây giờ mới nhớ ra, năm xưa khi hạ sơn, sư phụ từng dặn đi dặn lại... “hợp thì sống, phân thì chết”, giờ quả nhiên ứng nghiệm. Nếu như có Kim Toán Bàn ở đây, y tinh thông thuật số Ngũ hành Bát quái, chắc chắn có thể nhận ta trong quan tài có cơ quan, nhưng chỉ một ý nghĩ sai lầm đã gây thành họa lớn, giờ có hối hận cũng không kịp nữa rổi. Về sau, Kim Toán Bàn đến tìm hai người đồng bọn, thấy Cối Xay Sắt đã phơi xác tại trận, cũng tối sầm mặt mũi ngất đi, chỉ có thể nói là người không nên tranh với số mệnh. Hai người Liễu Trần và Kim Toán Bàn than thở một hồi, đoạn nuốt nước mắt hỏa thiêu thi thể Cối Xay Sắt, đem tro cốt bỏ vào bình sứ.

Liễu Trần và Kim Toán Bàn thương lượng, theo lời sư phụ : “hợp thì sống, phân thì chết” hai chúng ta từ nay nếu còn tiếp tục đi đổ đấu, chắc cũng không có kết quả tốt đẹp gì, xem ra không thể làm nghề này được nữa rồi.

Những năm này, Liễu Trần đã nhìn hết mọi nỗi khổ của dân gian, tự thấy bản lĩnh của mình có cao mấy cũng chẳng cứu tế nổi ức vạn thương sinh trong thiên hạ, biển khổ vô biên, quay đầu là bờ, ông định treo bùa Mô Kim, mang theo bình tro cốt của Cối Xay Sắt tới Giang Nam tìm ngôi chùa nào đấy xuất gia đi tu, ngày tháng sau này bầu bạn với thanh đăng cổ phật, sám hối những chuyện đã qua.

Kim Toán Bàn không muốn đi tu, lại không muốn tháo bùa, thầm nhủ, nếu không đổ đấu thì vẫn có thể theo nghề cũ, tiếp tục làm thương nhân buôn hàng kiếm lợi, kiếm được tiền cũng có thể phò nguy cứu khổ. Nghĩ đoạn, y bèn nói với Liễu Trần: “Một lá bèo trôi về biến lớn, nhân sinh hà xứ bất tương phùng. Hôm nay chúng ta từ biệt, sau này nhất định còn có ngày gặp lại, nếu huynh gặp phải phiền phức gì cần giúp đỡ, cứ đến đội thuyền Hoàng Hà tìm đệ.”

Sau khi từ biệt ở khu mộ cổ, Kim Toán Bàn quả nhiên chỉ hành nghề buôn bán ở lưu vực Hoàng Hà. Y vốn xuất thân trong nhà thương lái, chuyện buôn bán qua lại đã cực kỳ thành thạo, nhưng thiên tai liên miên bất tuyệt, việc làm ăn cũng không khá khẩm gì cho cam, huống hồ ăn trộm lâu ngày thành nghiện, vả lại trong thiên hạ này làm gì có nghề nào kiếm tiền nhanh bằng đổ đấu? Kim Toán Bàn cậy mình thông minh tuyệt đỉnh, lại chứng kiến Hoàng Hà lũ lụt tràn lan, người chết đói chết trôi khắp nơi, nên vẫn ngấm ngầm làm một vài vụ đổ đấu. Y hiểu đây là trò đem mạng ra đặt cược, nhưng không thể không làm, trong lòng cũng hơi hoang mang, vì vậy mỗi lần đều lên kế hoạch hết sức chu toàn, không chắc chắn vạn phần thì tuyệt đối không ra tay.

Có một năm, Kim Toán Bàn đi đánh hàng, ngồi thuyền xuống hạ du, bấy giờ gặp đúng lúc nước Hoàng Hà dâng cao, dòng chảy cuổn cuộn, Kim Toán Bàn đang ngồi trên boong nói chuyện phiếm với mấy khách thương, đột nhiên trời đất biến sắc, vầng dương trên không tựa như mất hồn, chỉ còn lại một cái bóng tái nhợt, kế đó cả mặt trời cũng không còn tăm tích, mấy đen từ khắp bốn phía đổ về, mặt sông nổi sương mù mờ mịt, còn kèm theo những hạt mưa to như hạt đậu và mưa đá đổ xuống.

Chủ thuyền kêu than không ngớt, thiên địa thất sắc, chứng tỏ con rồng già dưới thủy phủ kia bị kinh hãi, đây là điềm Hoàng Hà sắp dâng lũ, vội vàng cho thuyền chạy về phía bến cảng gần đó. Thuyền hàng đội cơn mưa sầm sập vừa dừng lại, nước lớn phía sau liền ập đến, chỉ thấy trên thượng du sóng lớn đục ngầu, thế nước tựa hồ nối liền với bầu không, chẳng thể nào phân biệt được đâu là nước lũ, đâu là trời là đất nữa. Mưa rào, mưa đá giữa cơn cuồng phong, quyện lấy bùn đất dưới đáy sông, rầm rập đổ xuống, cả thế giới như chìm vào một buổi hoàng hôn đen tối, thật đúng là “Hoàng Hà dâng lũ đất trời tối, ba đào hồng thủy cuồn cuộn trôi”.

Kim Toán Bàn thấy mưa lớn sầm sập, bốn phía càng lúc càng tối, biết rằng phen này gặp phải họa lớn, dù có bản lĩnh bằng trời cũng chẳng kháng cự nổi uy thế của dòng Hoàng Hà đang nổi giận. Y bỏ mặc hàng hóa chất đầy khoang, cùng mọi người nhảy xuống thuyền, co cẳng chạy lên chỗ cao. Trong đám người chạy nạn ấy, có mấy kẻ chậm chân, lập tức bị dòng nước đục ngầu cuốn đi mất, chết trong con nước, đến xác cũng chẳng tìm về được.

Khi xưa, Trương Tam Gia từng nói thân thủ của Kim Toán Bàn không ổn, nhưng còn phải xem là so sánh với ai, đem so với Liễu Trần và Cối Xay Sắt thì y kém hơn rất nhiều, nhưng dẫu sao cũng là tay lão luyện trong nghề mò vàng đổ đấu nhiểu năm, đem so với người bình thường, Kim Toán Bàn cũng có thể xếp vào hàng rất nhanh nhẹn. Bị con lũ đuổi dồn, Kim Toán Bàn chạy thục mạng trong mưa lớn, cuối cùng cũng lên được một ngọn đồi cao.

Kim Toán Bàn chạy lên được đồi cao, nằm rạp nhìn xuống dưới, chỉ thấy mây đen dần tan, bầu trời phía xa xa tựa như một mảng bùn đất màu vàng đen, bên trong ẩn hiện những tia sáng đỏ sẫm. Hoàng Hà đã nuốt trọn các thôn trang thuyền bè bên bờ với khí chế không gì cản nổi, những người và trâu bò dê lợn bị nướclớn cuốn đi vùng vẫy nổi trôi theo con sóng, tất cả đều trở thành thức ăn của lũ binh tôm tướng cá dưới thủy phủ. Người nào may mắn chạy lên được chỗ cao đều mặt mày xám xịt như chì không ngừng kêu cha gọi mẹ, nhưng mọi âm thanh trên thế gian, đều đã bị tiếng nước ầm ầm kia nhấn chìm, cảnh tượng thê thảm không tả xiết.

Trận lũ này đến cực nhanh, dòng sông đục ngầu suốt hai canh giờ mới lắng xuống, Kim Toán Bàn nhặt được cái mạng từ cõi chết trở về, tinh thần chưa kịp trấn định lại sau phen kinh hồn bạt vía, rờ lại đồ đạc trên người mới phát hiện chiếc ô Kim Cang sau lưng đã biến mất.

Khi ấy, Trương Tam Gia để cho bọn họ tổng cộng hai chiếc ô Kim Cang, một là cổ vật nghìn năm của Mô Kim hiệu úy truyền lại, chiếc này ở trong tay Liễu Trần. Chiếc ô Kim Toán Bàn mang theo bên mình là đồ chế tạo thời Minh, công nghệ và chất liệu đều giống hệt như chiếc ô cổ, cũng là một món khí giới phòng thân cực kỳ hiếm có. Chắc chắn trong lúc bỏ chạy tháo thân vừa nãy, y đã để rơi mất ô Kim Cang, giờ chắc hẳn đã bị nước cuốn đi rồi, làm sao tìm lại được, đành nghĩ cách tìm thợ giỏi làm một chiếc khác vậy.

Kim Toán Bàn chủ ý đã định, bèn men theo dốc núi đi xuống, định mua chút đồ ăn của dân trong vùng, nhưng sau cơn đại nạn, dân chết đói nằm la liệt khắp chốn, ruộng vườn nhà cửa mất quá nửa, dù có tiền cũng chẳng mua nổi cái ăn. Y đói cồn cào ruột gan, sắp ngã vật ra tới nơi thì trông thấy rất nhiểu người đi về phía bờ sông, nói là muốn xem Long vương gia. Kim Toán Bàn lấy làm lạ, bèn theo dòng người đi tới.

Vừa ra bờ sông, ngay cả Kim Toán Bàn kiến thức rộng rãi cũng không khỏi giật mình kinh hãi. Chỉ thấy, trên dốc chỗ dòng sông uốn khúc có một con cá lớn mắc cạn, vẫn chưa tắt thở, đầu cá còn lớn hơn ngôi nhà dân bình thường, những cái vảy lớn khắp người trông như lá thép, những chỗ không lấm bùn ánh lên sắc xanh đen, mắt cá trợn tròn, đầu đuôi quẫy loạn, cái miệng đen ngòm mở ra khép vào, tanh hôi không thể tả. Nhìn kích cỡ cái miệng ấy, sợ rằng cả nghìn cân đại hoàng cũng không đủ cho nó xơi một miếng.

Dân chúng trong vùng đều sợ nhũn người ra, run rẩy quỳ trước mặt con cá, thắp hương dập đầu không ngớt, khẩn cầu Long vương gia nguôi giận, mau về thủy phủ. Nhiều người bước lên đẩy, định đưa Long vương gia trở lại Hoàng Hà, nhưng cũng chỉ như bọ ngựa lay cột, không làm nó nhúc nhích chút nào cũng không đi đâu tìm được trâu ngựa tới kéo, cả bọn chỉ biết trơ mắt nhìn Long vương gia hít vào thì ít thở ra thì nhiều, cuối cùng trợn mắt chết bên bờ nước.

Kim Toán Bàn xem một lúc lâu, sau đó lại đến nghe ngóng chỗ dân chúng đang khấn lạy Long vương gia một hồi, tìm đường vào huyện thành ăn chút gì đó. Nghe người trong vùng nói trăm năm qua chứa gặp trận lũ nào thế này, tuy đến nhanh rút cũng rất nhanh, nhưng lại gây ra thiệt hại nặng nề, chẳng những thế Long vương gia ở thủy phủ Hoàng Hà còn chết trên bờ đây tuyệt đối không phải điềm lành, phía sau nhất định còn tai họa lớn hơn nữa. Hoàng Hà nước dâng, dìm chết không biết bao nhiêu người và súc vật, nơi này vốn là đất chó ăn đá gà ăn sỏi; trong vòng mười năm nguyên khí khó mà hồi phục, không biết còn bao nhiêu người nghèo phải chết đói nữa đây.

Kim Toán Bàn nghe được những lời này, bèn động lòng trắc ẩn, mắt thấy thiên tai vô tình làm hại lê dân trăm họ hai bên bờ sông, y thầm nhủ: “Sau trận đại họa này, chắc chắn người chết đói sẽ đầy đồng, giờ đây thế đạo suy bại, quan phủ bất tài, ngoài ta ra, còn ai chịu đứng ra lo liệu nữa đây?” Trong lòng có ý thu xếp lương thực cứu trợ, nhưng hàng hóa của y đã thất lạc trong dòng nước, mất cả tiền vốn, trên người tuy còn một chút tiền bạc, nhưng đối mặt với hàng nghìn hàng vạn dân gặp nạn thật chẳng khác nào muối bỏ biển. Y liền nảy ra ý định đổ đấu, tính toán sẽ làm một vụ thật lớn.

Kim Toán Bàn nhớ đến một sự kiện mấy năm trước, khi ấy y biết được từ miệng một vị khách thương, ở Long Lĩnh cách nơi này không xa, có một lăng mộ lớn thời Đường nằm trong khu vực dốc Xà Bàn quanh co hiểm trở, nếu có thể trộm được một hai món báu vật hoàng gia trong ấy thì không cần phải lo việc xoay xở tiền bạc nữa. Có điều, mặc dù y tinh thông Lăng phổ, nhưng lại không thể suy đoán ra được thời Đường có lăng mộ hoàng thất nào xây ở vùng này.

Y ở khách sạn nghe ngóng vài tin tức, thăm dò một số đầu mối, hỏi rõ đường đi tới Long Lĩnh rồi vào núi tìm mộ cổ, quả nhiên thấy hình thế trong núi bất phàm, tuy có vụn vặt tản mạn, nhưng không thể che giấu được khí tượng rồng bay phượng múa, theo lý phải là một nơi có lăng mộ hoàng gia. Có điều, gần đây có mấy thôn làng rải rác, thường có người chăn dê chăn bò lang thang quanh quẩn, muốn đào hang trộm dẫn xuống địa cung mộ cổ thì dễ, nhưng khó che giấu được tai mắt.

Kim Toán Bàn nghĩ ra một cách, lại trở về bờ sông Hoàng Hà, thấy thi thể con cá lớn vẫn nằm trên bờ sông, bèn nói với dân chúng rằng y nguyên xuất tiền xây miếu Long vương thờ phụng xác cá để cầu thần sông phù hộ nơi này được mưa thuận gió hòa, đồng thời bịa ra một cái cớ, để mọi người tin rằng miếu Ngư Cốt nhất định phải xây trong núi, bằng không sẽ lại xảy ra thủy tai lần nữa.

Xây miếu, đắp nhà, trồng hoa màu để che dấu vết tích đào trộm cổ mộ là thủ pháp thường dùng của Mô Kim hiệu úy, dân quê không hiểu sự tình, tự nhiên tin là thật. Khi ấy, Kim Toán Bàn xuất tiền, dân chúng ra sức, vận chuyển hài cốt con cá lớn vào trong núi, xây thành một ngôi miếu Long vương.

Tranh thủ khoảng thời gian xây miếu, Kim Toán Bàn cũng bắt tay chuẩn bị đổ đấu, dựa theo kinh nghiệm của y mà phán đoán, quy mô mộ cổ Long Lĩnh này không nhỏ, truyền thuyết của dân địa phương về ngôi mộ cổ này cực kỳ thần bí kỳ dị, hẳn cũng không phải chốn dễ đi. Không có ô Kim Cang hộ thân trong lòng Kim Toán Bàn cứ cảm thấy không được chắc chắn cho lắm, nhưng chiếc ô còn lại ở trong tay Liễu Trần, hai người ly biệt nhiều năm không hề liên lạc gì, chính y cũng không biết đồng bạn năm xưa giờ ở đâu, đành lên thuyền đi Bảo Định ở Hà Bắc, tìm danh gia “Ám khí Lý” đặt làm một chiếc mới.

“Ám khí Lý” là một trong các thủ lĩnh ở Phong Oa sơn, tay nghề xuất chúng, có thể chế tạo đủ loại khí giới, nhưng ông ta xem xong bản vẽ và cách chế tạo ô Kim Cang, cũng cảm thấy hết sức khó khăn, đáp rằng ô Kim Cang này không phải vật thường, một số nguyên vật liệu không dễ gì kiếm đủ, hơn nữa còn yêu cầu công nghệ và hỏa hầu hết sức phức tạp, ít nhất phải một năm mới làm xong.

Kim Toán Bàn đang vội đi trộm mộ cổ Long Lĩnh, không thể đợi được sáu tháng nửa năm, lại thêm nhiều năm trôi qua, lời dặn dò năm xưa của Trương Tam Gia đã phai nhạt dần trong tâm trí, y thầm nhủ, sau khi Cối Xay Sắt thiệt mạng, một mình ta từng nhiều lần trộm những mộ lớn, đều không hề sơ sẩy, chỉ cần lúc đổ đấu cẩn trọng một chút, với kiến thức của ta, dẫu có gặp cơ quan ám khí chắc cũng đủ ứng phó, không xảy ra sai sót gì lớn, làm sao mất mạng trong ấy được? Nhưng lúc này, cái bàn tính bằng vàng ròng xưa nay y vẫn mang theo không rời một bước bỗng nhiên nứt toác ra, những hạt tính bằng vàng rơi đầy đất. Cái bàn tính này là bảo vật gia truyền nhà y, vô duyên vô cớ bị hỏng, đương nhiên đau lòng hết sức. Y ngầm cảm nhận được, đây không phải điềm tốt lành gì, chợt nảy ra dự cảm Diêm vương muốn thu lấy cái mạng này của mình rồi.

Kim Toán Bàn thông minh một đời, mọi chuyện đều suy xét cặn kẽ, nhưng lần này quả là khách tang đến nhà, họa tinh ập xuống, như bị ma xui quỷ khiến, dù Quan m Bổ Tát hiển linh cũng không thể khuyên y quay đầu được. Y dứt khoát dằn lòng xuống, thầm nghĩ, là phúc thì không phải họa, là họa thì không tránh được, nếu đã đến số chết thì ở trong nhà đóng cửa ngồi một chỗ cũng không bệnh mà toi đời; nếu mạng vẫn chưa tuyệt, thì núi đao biển lửa cũng về được, toàn thân từ trên xuống dưới không tổn hại chút gì, run rẩy sợ hãi thắp hương cầu bồ tát, chi bằng cứ làm việc nên làm, rổi y lại nghĩ: “Thảng như trộm được châu báu trong mộ cổ Long Lĩnh, cứu tế nạn dân, tích đức hẳn cũng không ít, nếu như có thể hoàn thành được việc thiện lớn này, trong cõi u minh nhất định sẽ có quỷ thần tương trợ, nói không chừng còn tăng thêm tuổi thọ cũng nên”.

Y cảm thấy ngôi mộ cổ thời Đường ấy tuy lớn, nhưng có thể suy đoán ra được kết cấu địa hình bên trong, chắc chắn đơn thân độc mã cũng trộm được đồ quý bồi táng, nhưng cũng nghĩ tới khả năng mình gặp bất trắc trong mộ, vạn nhất có gì sơ sẩy, há chẳng phải sẽ lặng lẽ chết đi hay sao ? Trong quan niệm truyền thống, thanh danh thường quan trọng hơn cả tính mạng, đúng như câu “hổ chết để da, người ta chết để tiếng”, nên Kim Toán Bàn mới đem hết những chuyện từng trải trong đời viết vào cuốn sổ ghi nợ, kể cả chiếc bàn tính bằng vàng ròng bị hỏng cũng bỏ vào trong tráp niêm phong, tạm thời gửi lại ở chỗ “Ám khí Lý”, hẹn khi nào tới lấy ô Kim Cang sẽ mang đi một thể.

END.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: