Năm Lành.
Đi từ sáng sớm mà tận xế chiều mới tìm được nhà của ông Năm Lành, không biết nên gọi là nhà hay là chùa nữa. Ở xứ sở này có cả hàng ngàn cái chùa tự tạo như vậy, và vì thế cũng có cả hàng ngàn thầy chùa, thầy pháp như thế. Đó là những điện thờ nhỏ bé để nhà tu hành sống một cuộc sống ẩn dật, trong số họ cũng có những bậc chân tu và cũng đầy những người trần tục.
Ông Năm tuy gầy gò nhưng thật là đẹp lão, mái tóc trắng bạc phơ, ánh mắt của ông thật hiền và nụ cười nhân ái, nhất là hai hàng lông mày thật là dài, biểu hiện của sự trường thọ, đúng là một tiên ông giữa đời thường. Cả ĐHC lẫn Lý Thông, Ba Cao đều ngưỡng mộ nhìn cái đầu của ông, chẳng phải là để có được cái đầu này ung dung trên cổ thì đã từng phải có tới bốn cái đầu khác rơi xuống hay sao?
Tự nhiên có ba người lạ hoắc tới tìm, ông Năm không hề tỏ ra ngạc nhiên, có lẽ vì những người xa lạ đến tìm ông cũng nhiều. Có người đến để thờ cúng, đến để đàm đạo, đến để học tập kinh sách... nhưng chủ yếu là đến để hốt thuốc vì ông Năm bây giờ vừa là thầy tu vừa là thầy thuốc nam. Trong nhà ông , trừ điện thờ ra chỗ nào cũng chất đầy các loại rễ cây, vỏ, lá... mùi đủ loại cây thuốc thơm sực nức. Có cả chục người đang ở trong nhà, họ đều bỏ ra ngoài khi thấy bọn ĐHC tiến vào, có lẽ họ nghĩ đám này là CA cũng nên. Sau những câu chào hỏi, trong lúc uống ly trà nhài thơm phức, Lý Thông mới thăm dò "bọn tôi tới để xin lại Món Đồ mà lúc trước ông Tám có gởi lên cho thầy..."
Tư Hường đã suy luận như vậy - Y thật là tài tình, linh cảm là một món quà mà Thượng Đế ban cho con người, nhưng không phải ai cũng được hưởng.
Nghe nói thế ông Năm gật đầu, ông cũng đang chờ con cháu ông Tám lên để đưa lại mà mãi không thấy ai đến. Tám Nghĩa đã gửi cái bọc giấy này lên khá lâu rồi, cái bọc vẫn còn y nguyên, ông Năm chưa hề mở ra xem.
Cái bọc giấy này y hệt cái bọc giấy mà Tám Nghĩa gửi cho Tư Hường.
Năm Lành đã tìm đến đạo Phật như một sự giải thoát khỏi cái quá khứ đau buồn, nhưng ông càng muốn quên đi cái quá khứ ấy thì Tám Nghĩa lại càng muốn khơi lên điều đó. Ông Năm đã tìm được một con đường mới cho chính cuộc đời của mình, một con đường đòi hỏi phải đặt vào đó tất cả niềm tin và ý chí, còn Tám Nghĩa thì vẫn lầy lội trong cái quá khứ bi kịch vừa có dáng vẻ đau thương vừa có dáng vẻ hào hùng mà chính ông ta cũng không thể tự lý giải được. Còn Ông Năm từ lâu lắm rồi đã giải thoát khỏi quá khứ, đã tìm cho mình một con đường mà với ông, đó chính là sự quên mình.
Chẳng biết giữa Tám Nghĩa và Năm Lành ai đúng ai sai, nhưng sớm muộn gì thì họ cũng mang cái quá khứ ấy trở về với cát bụi... đám con cháu với những nỗi lo "cơm, áo, gạo, tiền" đâu có rỗi hơi mà nghĩ đến.
Khi tất cả đi hết rồi, chỉ còn một mình Tư Hường trong căn nhà trống trải. Ông Sáu cũng đã đi đâu đó, thực ra tuốt phía sau nhà bếp cũng có vài người đàn bà và mấy đứa con nít, những người sống nương tựa vào ông Sáu, họ quét dọn và nấu nướng, thỉnh thoảng hái trái cây mang ra chợ bán.
Pho tượng vũ nữ không đầu vẫn đang múa trên bàn.
Tư Hường lại châm thuốc hút, dù là chỗ đông người hay một mình, lúc nào y cũng hút thuốc, một loại thuốc rẻ tiền...
Y đâm ra sợ pho tượng, bởi vì Ba Cao đã nhìn thấy những điều kinh khủng từ pho tượng, Ba Cao đã nhìn thấy thì tất nhiên Tư Hường cũng nhìn thấy. Nhưng y không hề nói ra – Đâu có gì bắt buộc con người phải nói ra tất cả những điều mà họ nhìn thấy ?
Cảm thấy sợ khi phải ở một mình với pho tượng, y đứng dậy thong thả đi ra ngoài, theo con đường nhỏ đi hơn nửa tiếng thì ra đến chợ.
Tư Hường thích ngắm nhìn những người đàn bà ngoài chợ, dân gian từng có câu "trai khôn tìm vợ chợ đông", Tư Hường không đi tìm vợ, nhưng y tìm được rất nhiều điều từ những ngôi chợ làng quê này.
Đây là một ngôi chợ cổ xưa có tuổi cỡ trăm năm rồi.
Chỉ cần nhìn sơ qua khu chợ, nhất là những cái thúng cái mẹt của những người "buôn gánh bán bưng" là có thể hiểu cuộc sống của "người Việt", chẳng phải là ở cái chợ nhỏ bé này, nơi kinh thành sầm uất cũng vậy thôi.
Đây là một đất nước thuộc sở hữu của các Vua Chúa, của các Vị Tướng đã từ hàng ngàn năm rồi, và các Vua Chúa, các Vị Tướng phi thường đó vẫn hàng ngày mỉm cười độ lượng nhìn các thần dân của mình, việc chăn dắt cả một bầy cừu hiển nhiên là không dễ dàng.
Tư Hường thong thả đi qua cầu, y đi bộ tà tà theo những con đường ruộng, nhiều năm trước y đã cùng với Tám Nghĩa đi như thế này, bây giờ thì chỉ còn một mình.
Lúa đã bắt đầu ngậm sữa, tỏa ra một mùi thơm phảng phất.
Nơi y đến là một ngôi chùa, thực ra đó là một ngôi nhà nhưng đã biến thành chùa từ hàng chục năm nay rồi, bên trong chính điện thờ tượng Phật Thích Ca, bên ngoài là tượng Quan Âm cầm tịnh bình, trên đầu có che lọng. Đây là nơi tu hành của các sư nữ.
Những nơi như thế này không thuộc quyền quản lý của giáo hội, vì họ không đề tên chùa... cuộc sống ở nơi này là cả một sự thanh bình. Họ sống hoàn toàn tự cung tự cấp, chùa có mấy mẫu ruộng, các sư cô tự cày, cấy, gieo trồng và gặt lúa, những công việc nào cực nhọc quá thì họ thuê thêm người ngoài làm. Lúa trồng để chùa dùng, họ còn bán bớt để mua thêm quần áo, dầu, nhang đèn..., xung quanh chùa trồng đủ loại cây ăn trái, đủ các loại rau cải, trồng đậu nành để làm đậu hủ, các sư nữ còn tự làm chao để ăn, món chao của họ có thể nói là ngon tuyệt vời, hơn chao đỏ HK nhiều.
Tư Hường ngồi đàm đạo với bà Chín, một ni sư già nhất ở đây... có lần y hỏi sao chùa không đặt tên, sư bà nói "nêu đặt tên thì phải vào giáo hội, lúc đó nhiều khi họ cử người khác đến để trụ trì ngôi chùa... mà ở nơi đây họ sống như vậy đã hàng chục năm nay rồi. Mỗi người một hoàn cảnh, có người tu từ tấm bé, có người gặp hoàn cảnh éo le xuống tóc đi tu... lâu ngày họ đều có gương mặt hao hao giống nhau, một gương mặt hiền hiền như mặt Phật.
Nơi đây không cần phải có phật tử cúng dường, của cải họ tự làm ra nhiều khi còn dư để giúp những người cơ nhỡ. Các ni sư sống một cuộc sống tự cung tự cấp, bình yên và trong lành, nơi này có khác gì Niết Bàn ?
Niết Bàn có gì khác nơi này ?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top