volamnguba2
Ngọn Hoa sơn chia ra làm hai hòn là Thiếu Hoa sơn và Thái Hoa Sơn, cách nhau độ bảy dặm đường.
Trùng Dương vừa đến chân núi Thiếu Hoa, thì từ bìa rừng dựa triền núi, bỗng có tiếng trống nhạc tấu vang lên. Trùng Dương hết sức lạ lùng, tại sao mình vừa đến nơi này lại có trống tấu lên. Chẳng lẽ sơn dân phường săn ở vùng phụ cận đang cử hành lễ gã gì chăng.
Trong lúc chàng phân vân chưa định, thì từ trong rừng có một đoàn người áo trắng đi ra, toàn là những thiếu niên tuổi chưa đầy hai mươi, mỗi người đều cầm một loại nhạc khí kèn, sáo, trống, phách, vừa đi vừa tấu lên nhịp nhàng, người áo trắng đi đầu cúi rạp người và nói:
- Toàn Chân Giáo Chủ giá lâm, hân hạnh vô cùng. Âu Dương Sơn của chúng tôi đã đợi ở đây rồị
Trùng Dương sắc mặt thản nhiên chẳng chút sợ hãi, gật nhẹ đầu đi thẳng vào rừng!
Vừa bước vào rừng, chàng kinh ngạc đứng sững lại!
Thì ra khắp một khoảng rừng châu vi trên một trăm mẫu ruộng được dán kín bằng loại nhiễu gấm thượng hạng màu sắc rực rỡ chói lòa, toàn dùng nhiễu Ninh gấm Thục. Hai vật liệu ấy hiếm quý vô cùng, vua chúa còn phải liệt vào hàng quý phẩm của Hoàng triều, một năm quan phủ sở tại phải có phận sự dâng nạp đủ số để tấn cung.
Âu Dương Phong ngang nhiên dám dùng vật quý ấy làm lều tượng, treo đầy trong rừng để che ánh mặt trời, đủ thấy y ngông cuồng hoang phí đến mức nào.
Trùng Dương thoáng nhìn sơ qua một lượt, gương mặt chàng càng thêm trầm tỉnh như thường. Tay trái phe phẩy chiếc phất trần, hỏi gã đầu lĩnh áo trắng:
- Xin hỏi tôn giá một lời, Âu Dương sơn chủ ở đâu?
Gã áo trắng khẽ mỉm cười mà không đáp, gã lấy tay bóp lên môi, thổi còi miệng một tiếng "Hoét"! Tức thì tấm màn gấm lay động rồi bên trong chạy ra hai đoàn ngườị Trùng Dương ngạc nhiên đến trước mắt như hoa lên, vì hai đoàn người vừa chạy ra kia không phải là đệ tử nôm hạ của Âu Dương Phong, cũng chẳng phải là những vị hảo thủ võ lâm được mời đến mà toàn là thiếu nữ xinh tươi, tóc mây, da tuyết lồ lộ sắc đẹp si người.
Hai đoàn mỹ nữ ấy ước độ hơn bốn mươi người, hơn phân nửa là gái đất Ô Qua, kỳ dư là gái đất Tây Vực lưng eo ngực đẫy, thân hình đều đặn dong dãi, giữa tháng chạp trời đông mà trên thân hình của các mỹ nữ kia, mỗi người chỉ mặc có lớp lụa trắng mỏng tanh lả lướt hiện ra những đường cong diễm ảọ Cô nào cũng mắt liếc đong đưa môi đào hé nở. Nụ cười xinh lơi lả gợi tình!
Bọn họ sắp theo hàng một chạy nhanh ra, rồi hô lên một tiếng, uyển chuyển lượn quanh chỗ Trùng Dường đứng như một đàn bướm trắng phấp phới giữa hoa tuyết, bày thành một "Mỹ nhân trận" vây chặt Trùng Dương vào trong.
Đám mỹ nữ sau khi sắp thành một hình tròn bao xung quanh Trùng Dương, bèn tay nắm lấy tay uyển chuyển múa lên điệu vũ mê người, mấy mươi gã thiếu niên áo trắng lúc nẫy nương theo bước chân rập rờn của đoàn vũ nữ thổi lên nhịp điệu nhẹ nhàng hòa tấu bả n Nghê thường Vũ Y khúc. Đoàn Mỹ nữ gót sen tha thướt theo tiếng phách của nhịp khúc ẻo lả quay cuồng. Khiến đôi gò bồng đảo lờ mờ trong lớp áo mỏng như sương nhấp nhô lên xuống theo sóng nhạc êm đềm, đôi chân ngà ngọc chuốc khi cao, khi thấp theo chiều xiêm y phấp phới, nếu chẳng có đạo hạnh kiên trì, hay những kẻ huyết khí sôi động, thấy điệu vũ nhạc thể quyến rũ như thế này với những thân hình nõn nà ngất ngây dục tình kia tất đã như si như dại, máu nóng bừng bừng mà quên cả tính mạng nhào tới vồ vập, dù có phải chết dưới móng vuốt của lưới bẫy sắc tình cũng cam tâm tình nguyện miện thỏa được thú tính nhứt thờị
Nhưng Giáo chủ Toàn Chân phái đâu phải con người dễ luyến sắc si hoa, chàng vừa nhìn thấy đoàn mỹ nữ đã hiểu được độc kế của Âu Dương Phong dùng mỹ nhân trận làm mồi câu, đặng phá Thuần Dương Đồng Tử Công của mình, khiến cho nội gia bản lĩnh của mình bị suy nhược, y sẽ thừa cơ hội thanh toán mình.
Trùng Dương nội giận tràn sôi, nhưng sực hồi tâm nghĩ lại, lòng mình bình lặng như mặt nước, đạo lực kiên bền dù là Tây Thi tái thế hay Hằng Nga giáng trần, sắc đẹp thiên kiều bá mỹ cũng xem như xương trắng thịt hôi, sợ gì thuyền tình đắm đuối trí loạn tâm mê? Trùng Dương nghĩ như thế xong, tâm khí bình tĩnh trở lại như cũ. Chàng ngồi xếp bằng tròn dưới đất trơ trơ như hình cây tượng rồi mặc cho đoàn mỹ nữ tha thướt như tiên nương kia lơi lả tống tình bày trò quyến khách, chàng dường như kẻ mắt đui, tai điếc vậỵ
Bọn mỹ nữ thấy Trùng Dương không chịu rơi vào bẫy tình của mình, đều sốt ruột cả lên, cầm đầu trong bọn là một thiếu nữ mũi cao tóc vàng bỗng vỗ tay ba tiếng, đám vũ nữ kia liền đưa tay cởi phăng chiếc áo lụa trắng mỏng trên người phơi bày đôi nhũ hoa tròn lẳn mịn màng như hai trái tuyết lê cùng tất cả vẽ mỹ miều khêu gợi trên thân hình đều đặn nở nang như pho tượng ngọc của mình ra, khiến Trùng Dương tuy là một đạo gia ngoài vòng trần lụy cũng phải đỏ mặt tía taị
Chàng không ngờ Âu Dương Phong lại bày trò vô sỉ như thế, lửa giận nung gan, định tìm cách trêu phá đám mỹ nữ nầy cho bõ ghét.
Bất thần, từ trên ngọn cây trong rừng có một điệu tiêu dìu dặt vang lên, trong êm như tiếng phụng gáy đầu non, đám mỹ nữ đang múa lượn xung quanh Trùng Dương bỗng dừng ngay nhịp vũ, đứng ngơ ngẩn như kẻ mất hồn.
Thì ra bao nhiêu mỹ nữ kia đều là những thiếu nữ mà Âu Dương Phong đã dùng bạc mua từ Tây Vực trở về, có người thì bị Âu Dương Phong dùng cường lực bắt cóc lên Bạch Đà Sơn, bọn họ phận sự nô tì ra, còn phải luyện tập ca múa để giải khuây cho Âu Dương Phong. Y tự biết nội công của y thua sút Trùng Dương rất nhiều nên mới dùng mỹ nhân sắc trận để dụ dỗ Trùng Dương vào tròng.
Toán mỹ nữ trước khi từ trong trại gấm xuất hiện, Âu Dương Phong đã ép bọn họ uống một loại xuân dược kích dục, thuốc ấy sau khi uống vào khỏi cổ, trong người phát ra sức nóng như lửa, dù ở giữa trời tuyết cắt da cũng chẳng cần mặc áo ấm.
Âu Dương Phong sai cắt họ ra ngoài dùng nhục sắc để khích động Trùng Dương cho lụỵ Ngờ đâu tiếng ngọc tiêu bí mật trỗi lên khiến trận tuyến của Mỹ sắc liền sanh biến động.
Tây Độc Âu Dương Phong từ Bạch Đà Sơn đem lại trên bốn mươi my nữ đẹp nhất của mình, cho bọn họ uống vào thuốc hồi xuân, lửa dục như nung nấu lòng họ, nhưng Trùng Dương lại trơ trơ như đá tạc. Bọn họ dục tình phát động đến cực độ định ùa đến để đè Trùng Dương xuống đất làm chuyện ngược đời "Ong chẳng hút nhụỵ Nhụy lại nút ong".
Tiếng ngọc tiêu vang lên vừa phải lúc bốn mươi mấy nàng mỹ nữ không hẹn đồng dang ra, tiếng tiêu như réo rắt ru hồn bọn họ đầu óc ngơ ngẩn, trong người bỗng phát sanh ra một cảm giác lạ kỳ, liền quay người lại hướng vào đám thiếu niên áo trắng đang tấu nhạc kia mà vồ vập hôn hít như điên.
Trong khoảnh khắc trên trăm mạng cả nam lẫn nữ, xà nẹo nhau thành mấy mươi cặp, quấn quýt như sam lăn tròn giãy giụa trên mặt đất, gái thì cười cắm cất dâm dật, còn trai thì tru tréo van xin!
Thì ra đám thiếu nên áo trắng kia là đám nô bộc của Âu Dương Phong. Y là con người rất âm độc trên Bạch Đà Sơn y nuôi trên mấy trăm tỳ nữ nam nô, nhưng không bao giờ cho bọn họ lấy nhau, đối với bọn nam nô, y canh chừng rất nghiêm ngặt và đối đãi rất hà khắc, nếu nam nô với nữ tỳ tư thông nhau, thì nam nô sẽ bị hành phạt đốt sống, còn nữ tỳ thì bị đưa vào hầm rắn để làm mồi nuôi rắn độc.
Thậm chí đến nam nô và nữ nô nót cười nhau một câu cũng bị hình phạt cắt lưỡi ngay, bởi thế bọn nam nô bỗng dưng bị bọn nữ nô ôm chặt lấy mình để săn sàng hiến dâng thân ngọc, bọn họ chẳng những không dám hưởng lấy phúc trời mà trái lại khiếp sợ đến hồn bất phụ thể, như vừa bị rắn độc cắn nhằm!
Những tên nào chưa bị đám mỹ nữ ôm được, liền co giò chạy thục mạng, còn gã nào bi người ngọc ấp yêu thì giẫy giụa chống cự kịch liệt, kêu cứu liên hồị
Trong lúc bọn nam nô, nữ nô náo loạn xốn mắt chẳng thể nhìn, thì trong rừng cây tiếng tiêu vang lên dồn dập "Ù...u"! tựa như tiếng sắt thép chạm nhau lại mường tượng vó câu dong ruổi giữa thiên binh vạn mã.
Lạ lùng thay, giọng tiêu vừa trỗi lên, bọn nữ nô trong tình thế loạn động như cuồng điên kia và đám mỹ nữ đang ôm cứng bọn nam nô liền tự động buông ra rồi lồm cồm ngồi dậỵ Gương mặt ngơ ngác như kẻ mất hồn. Tiếng tiêu cũng lập tức ngưng ngay ở giữa chừng điệu khúc, rồi trở nên dịu dàng êm áị
Một giọng nói khàn khàn chát tai như tiếng phèn la bể cất lên:
- Vị bằng hữu nào thổi tiêu trên ngọn cây đó, mời xuống đây! Nếu như muốn giúp tay Trùng Dương cũng nên quang minh chính đại mới phảị
Tiếng nói vừa dứt, tiếng tiêu cũng dứt theo ngay, tiếp theo đấy là một chuỗi cười rồi từ trên cây nhảy vút xuống một người mặc áo xanh.
Trùng Dương định thần nhìn kỹ thì không ai khác chính là chúa đảo Đào Hoa Hoàng Dược Sư, trên tay y cầm một ống ngọc tiêu dài độ ba tấc, cười lên ha hả và nói:
- Lão độc Âu Dương kia, sao lại núp kín trong rừng để dùng mưu ám toán người, đâu phải là anh hùng hảo hán? Mời ra đây, ta đường đường chính chính đối diện nhau phải hơn!
Trong rừng liền có một tiếng "Hừm"! thật lớn đáp lại, tiếp theo đó là tấm màn gấm rung rinh, rồi đến mười mấy tên nam nô áo trắng phò hộ một gã mày đậm mắt to, râu rồng bó hàm vẹt màn bước rạ
Trùng Dương thấy đúng là Bạch Đà Sơn Chủ Âu Dương Phong Tây Độc.
Đầu tiên y xá Trùng Dương một xá và nói:
- Vương Chân Nhân, tôi Âu Dương Phong thất lễ viễn nghinh xin chữ đại xá chọ
Trùng Dương cũng vội đáp lại một lễ. Âu Dương Phong lại quay người lại, cười lạnh lủng bảo Hoàng Dược Sư:
- Huynh đài đúng là Đào Hoa đảo chúa Hoàng Dược Sư rồi, hôm nay đến Hoa Sơn định giúp tay Trùng Dương chớ gì?
Hoàng Dược Sư ngạo mạn trả lời:
- Nói bậy!
Âu Dương Phong thấy Hoàng Dược Sư không chịu nhận là kẽ giúp tay cho Trùng Dương trong bụng thầm bất bình và nghĩ:
- Vậy mắc mớ gì mà lúc nãy nhà ngươi thổi Ngọc tiêu trỗi khúc Phượng Cầu Hoàng làm lỡ dở vũ điệu "Câu hồn phong vũ" của đoàn nữ nô tả
Nghĩ thế y liền biến sắc mặt hỏi:
- Hoàng Đảo Chủ, nếu ông chẳng phải là kẻ của Trùng Dương thì đến Hoa Sơn này làm gì?
Hoàng Dược Sư đáp:
- Đến để xem ngươi và Trùng Dương đánh nhau, ta chờ bên nào thắng sẽ ra tay kẻ đó. Cửu Âm Chân Kinh nếu chưa qua khỏi tay Hoàng mỗ này thì đừng mong đem khỏi núi nửa bước.
Âu Dương Phong nổi giận đùng đùng, dù sao y cũng là bá chủ một cõi Tây Vực ngang dọc đã quen nết, đối với Trùng Dương còn đôi phần khiếp nể thôi, còn Hoàng Dược Sư y xem ra gì!
Y liền gầm lên một tiếng giận dữ, tay tả khoác một cái, hữu chưởng vung lẹ ra như chớp đấm thẳng vào ngực Hoàng Dược Sư Hoàng Dược Sư không chút bối rối, hơi rùn người xuống một chút là lẻn nhẹ ra sao lưng Âu Dương Phong rồị
Âu Dương Phong lẹ làng tréo tay ra sao móc ngược một quyền, Hoàng Dược Sư kêu lên một tiếng "Úi chà"!, lại lòn người tránh khỏị
Hoàng Dược Sư mặc cho đối phương ra tay thần tốc mạnh bạo thế nào, thân hình chàng nhẹ như bông gòn bay theo chiều chưởng phong luồn qua lộn lại một cách tài tình.
Âu Dương Phong giận như điên, định giở "Cáp Ma công" độc đáo của mình ra để hạ đối phương. Bất chợt lúc ấy, từ trong rừng chạy ào ra ba bốn người nam tử, nhìn kỹ thì là bọn xà nô của Âu Dương Phong, chúng hớt hải kêu lên:
- Sơn chủ! Không xong rồị Từ sau núi có một tên ăn mày xông lên, chúng tôi đã dự bầy xà trận tấn công nhưng bị tên ấy đuổi phá chạy tán loạn hết.
Lời nót ấy làm Âu Dương Phong kinh sợ không ít! Thì ra Âu Dương Phong lần này rời Tây Vực trở lại Trung Nguyên quyết ý đoạt cho được Cửu Âm Chân Kinh, nên trước cụm rừng dưới chân núi Hoa Sơn, ngoài sự bố trí mỹ nhân trận ra, y còn cho mai phục ở sau rừng hàng vạn rắn độc, chờ đợi cho đến lúc cần yếu sẽ dụ Trùng Dương vào "Vạn Xà Trận". Một tiếng hiệu lịnh hô lên mấy vạn độc xà sẽ bổ tới, bất luận võ công có cao diệu bực nào chỉ cần bị một con cắn phải, thì dù thần tiên tái thế cũng khó giải cứu được vận nguỵ
Nào ngờ bao nhiêu công trình sắp đặt chỉ trong khoảng khắc bị phá hết, bảo y làm sao chẳng kinh hãi, chẳng phẫn uất cho được.
Âu Dương Phong hét lên như sấm, hỏi:
- Gã ăn mày ấy tên họ gì? Tại sao lại phá xà trận ta, nói mau!
Đám xà nô kìa đồng rạp đáp:
- Mấy đứa tôi phụng mệnh canh giữ xà trận phía sau núi, bỗng nghe sau lưng chúng tôi có những tiếng người ho lên, chúng tôi hốt hoảng quay đầu lại liền nhìn thấy là một gã ăn mày mặt mày lếch thếch. Chúng tôi vừa định đuổi y đị Gã ăn mày la lối đòi một ngàn cái mật rắn độc ngay lập tức để nhậụ Chúng tôi vừa định mắng y một tiếng. Y liền quay mòng mòng nhằm vào giữa đoàn rắn, phóng ra hai viên đạn khói lưu hoàng, bầy rắn ngửi thấy mùi khói liền chạy loạn cả lên, y còn dùng chiếc gậy trúc đập đuổi lung tung giết một hơi trên mấy mươi con rắn chúạ Bầy rắn còn lại hoảng sợ thi nhau lủi ra sau núi phút chốc đã trốn sạch trơn.
Gã ăn mày phá xong xà trận mới dùng đầu gậy trúc giải huyệt cho chúng tôi, còn nói nhiều câu xốc óc không chiu nổị
Tây Độc tức giận khôn cùng, gầm rống như điên, quên cả Trùng Dương và Hoàng Dược Sư đang đứng trước mặt mình, nhảy dựng lên như gà mắc đẻ. Trong lúc ấy từ bên ngoài bìa rừng bỗng có tiếng rơi nhẹ như tiếng lá rụng, rồi có một người ăn mày trung niên khăn rách áo vá, lưng đeo hồ lô, tay cầm gậy trúc lững thững bước vàọ
Bỗng Trùng Dương vừa thấy người ấy, mừng rỡ kêu lớn:
- Hay quá, cho đến Hồng Bang Chủ cũng đến nữa à!
Cửu Chỉ Thần Cái Hống Thất Công lúc trước gặp mặt Trùng Dương ở thành Yên Kinh, bèn chắp tay vái Trùng Dương và nói:
- Lão ma độc, mi đến Hoa Sơn để cưỡng đoạt Cửu Âm Chân Kinh còn có thể châm chế được nhưng mi lại đem theo chỉ cái thứ rắn độc dơ dáy ấy làm cho vẻ đẹp thanh u của Hoa Sơn bao trùm uế khí, tanh hôi nặc nồng! Cho nên ta giúp mi Đuổi giết bớt bầy trùng nhớp nhúa ấy chạy mất hết rồi! Nếu mi không phục thì cứ việc cùng ta thử sức một hồi chơi!
Âu Dương Phong vừa định ra tay đấu với y, nhưng sực nghĩ lại ba người trước mặt mình đều là những nhân vật đặc sắc vào hạng thượng đẳng võ lâm cả, nếu đấu chống lại một người tánh mạng cũng khó bảo toàn rồi nên y liền lên tiếng khích:
- Hay lắm! Ba người đồng đến đây để đánh một mình ta! Chấp hết chấp hết!
Y đang kêu oai oái như thế thì từ xa có tiếng vó ngựa lốc cốc vọng lại, rồi từ ngoái bìa rừng có Mấy thớt ngựa phóng tới như baỵ Âu Dương Phong đưa đôi mắt ốc nhồi nhìn ra, thấy có ba thớt ngựa chạy lại đều là loại ngựa thấp nhỏ lanh khỏẹ
Vị khách đi đầu là Đoàn Hoàng Gia của Nam Tấn Quốc, thành đại Lý cũng thân hành giá lâm đến đâỵ Sau mấy năm cách biệt, Đoàn Hoàng Gia đã khác hấn lúc còn là Thái Tử Đoàn Cẩm!
Trùng Dương thấy vị Đoàn Hoàng Gia hiện nay hùng tráng ánh mắt anh hào long lanh thoát lộ ra ngoài, đường hoàng bệ vệ không còn là tánh nết thơ ngây nữạ
Hai người kỵ khách phía sau có lẽ là hai vệ sĩ của Nam quốc được đặc phái theo bảo vệ Đoàn Hoàng Giạ Đoàn Hoàng Gia giục ngựa đến bìa rừng, liền xuống ngựa chấp tay vái chào Trùng Dương và nói:
- Vương Chân Nhân vẫn mạnh!
Thì ra Hồng Thất Công và Đoàn Hoàng gia, hai người là do Trùng Dương phái Châu Bá Thông xuống núi Tung Sơn lúc trước mời đến nơi đây (chỉ có Hoàng Dược Sư thì không mời nhưng tự đến tham dự). Trùng Dương lấy danh nghĩa Toàn Chân Giáo chủ đưa cho Châu Bá Thông ba tấm thiếp. Một tấm mời Cái Bang chủ Hồng Thất Công. Một cái mời Đoàn Hoàng Gia của vua nước Đại Lý. Cái còn lại thì mời Thiết Bang Chủ Thiết bang Cầu Thiên Nhậm.
Đại hội Hoa Sơn bắt đầu khai mào dưới mưa tuyết nhẹ rơi! Chỉ có Ngũ bá là:
Bắc cái, Nam Đế, Trung Thần Thông, Đông Tà và Tây Độc.
Âu Dương Phong thấy năm nhân vật cao thủ trong thiên hạ động danh với mình đều tụ họp đông đủ ở Hoa Sơn và như vậy đối với chuyện tranh đoạt Cửu Âm Chân Kinh giữa hắn và Trùng Dương đã trở thành đại qui mô hơn và phổ biến khắp thiên hạ, vô hình trung biến thành một cuộc tranh chấp của năm nhân vật sắc nhọn nhất trong Võ lâm.
Trong năm người ấy, Trùng Dương là người bảo Trì Cửu Âm Chân Kinh.
Âu Dương Phong là kẻ đối đấu chính thức, Hồng Thất Công, Đoàn Hoàng Gia tuy lấy danh nghĩa là đến tranh chấp Cửu Âm Chân Kinh nhưng thực tế là đi ủng hộ Trùng Dương, chỉ có Hoàng Dược Sư ở vào thế đứng trung lập, không theo ai cũng chẳng nịnh aị
Âu Dương Phong vốn tính âm hiểm. Trước tiên y lớn tiếng quát đuổi bọn nam nữ nô tỳ.
- Bọn bây chưa lui đi còn đứng đó làm gì?
Đám nô tỳ thấy chủ sắp nổi hung, lập tức rút lui vào trong.
Âu Dương Phong nói:
Tại hạ là tên dân miền quê Tây Vực, hôm nay may mắn được hội ngộ một lượt bốn vi cao hiền. Cửu Âm Chân Kinh chỉ có một bổn do Vương Chân Nhân giữ trong taỵ Chúng ta tranh chấp bằng cách nào cần phải nói cho minh bạch để tìm một phương thức so tài cho công bằng. Trong các vị ai có cao kiến gì xin đem ra đây, chúng ta cùng thảo luận.
Lời nói của Tây Độc bề ngoài tuy rất êm ái nhưng thâm tâm độc hiểm vô cùng vì câu nói đầu của y nói là Cửu Âm Chân Kinh ở trong tay Trùng Dương, nói một cách khác, y bảo là Trùng Dương muốn một mình độc chiếm Cửu Âm Chân Kinh quý báu kiạ
Âu Dương Phong tự biết vô thuật của mình tuyệt nhiên là không thắng được Trùng Dương, nên có ý dùng lời nói ấy, để khích động mọi người và hy vọng họ sẽ liên kết nhau đối phó với Toàn Chân Giáo Chủ, đánh ngã Trùng Dương đoạt lấy chân kinh! Hoặc giả Hoàng Dược Sư, Đoàn Hoàng Gia và lão ăn mày ra tay đấu với Trùng Dương để mọi người tàn sát nhau chí mạng còn y đứng bên ngoài làm ngư ông đắc lợị Như vậy con người của Âu Dương Phong lòng dạ thật là độc địa thâm hiểm.
Nhưng Trùng Dương là một người từng trải, làm sao lại không hiểu mưu ý thâm độc của Âu Dương Phong. Chàng khẽ mỉm cười nói:
- Hôm nay, ngoài bần đạo đến Hoa Sơn còn mời bao nhiêu cao nhân đến đây, mục đích là đem bổn Cửu Âm Chân Kinh này làm giải danh dự, người nào có đủ tài nghệ áp đảo được bốn người kia thì vị ấy sẽ làm chủ quyển Cửu Âm Chân Kinh. Bản cổ kinh quý giá ngàn đời nầy là tâm huyết của tiền nhân để lại, cần phải truyền giao cho vị anh hào đệ nhất võ lâm mới là xứng đáng, các vị nghĩ có phải chăng?
Hồng Thất Công vỗ tay cả cười và nói:
- Hay lắm! Quyển sách mục ấy, ai nấy đều thèm thuồng như trân châu bảo ngọc không bằng. Lão ăn mày ta lại chẳng xem ra cái quái gì cả, so tài thì cứ so tài, thử xem ai là thiên hạ đệ nhất võ thuật.
Âu Dương Phong gằn giọng hỏi:
- Hồng Bang Chủ định tỉ thí cách nàỏ
Hống Thất Công cười nhạt đáp:
- Thi tài cách nàỏ Tất nhiên là một quyền, một cước, một đao, một thương mà đấu nhau, chẳng lẽ còn âm thầm lén lút dùng rắn độc để cắn người nữa saỏ
Lời nói ấy khác nào đánh mạnh vào tim đen của Tây Độc, y là một tay âm trầm độc hiểm nhưng cũng không thể dằn được sự giận tức, Y "Hừm" lên một tiếng và quát lớn:
- Đồ ăn mày thúị Mi dám buông lời kích bác lão giạ
Nói xong vù ra một chưởng. Chưởng phong bay ra hết sức trầm mình phạt vào trái của Hồng Thất Công.
Lúc nãy Âu Dương Phong công ra hai chưởng đánh Hoàng Dược Sư đều không trúng, nên lần này đã có kinh nghiệm, chưởng vừa đánh ra xem như một thế liều mạng kỳ thật hắn chỉ dùng có ba thành chưởng lực, dẫn dụ cho Hồng Thất Công tung chưởng đánh lại, hắn sẽ tăng cường thêm chưởng lực, dùng lối đánh chớp nhoáng như sấm sét trước hư sau thực, để cho Hồng Thất Công trở tay không kịp. Hồng Thất Công chẳng chút vội vàng, thuận tay vung chưởng gạt một cái thế "Chiến long tại dã" (đánh rồng nơi khoảng không), Còn Âu Dương Phong thì sử dụng chiêu Băng Sơn Đảo Khóa trong chưởng pháp Tuyết Sơn thần Đà. Âu Dương Phong chờ chỗ hai luồng chưởng lực vừa giao nhau trong miệng liền kêu lên một tiếng "Cốc" quái dị, sử dụng ngay Cáp Ma Công tấn công vào ngực Hồng Thất công thì thế nào Hồng Thất Công cũng bị nguy ngaỵ
Nào ngờ chường lực Cáp Ma Công của Âu Dương Phong chưa thoát ra khỏi bàn tay thì Trùng Dương bất thần nhảy vụt vào trận, vung nhẹ ngọn phất trần. Tức thì ngọn phất trần nhọn thẳng như đầu bút phất vào Tam Lý Huyệt nơi cánh tay Âu Dương Phong, miệng thì quát to:
- Khoan đã!
Cái phất của Trùng Dương vừa rồi, xem ra rất tầm thường nhưng Âu Dương Phong vừa bị phất trúng, cánh tay liền cảm thấy tê buốt và mềm nhũn mất cả sức lực.
Y kinh hãi vội thâu chưởng lực nhảy tọt ra sau, cười gần và nói:
- Toàn Chân Phái có danh là môn phái chánh tông trong thiên hạ, nhưng giáo chủ này lại bội ước định lấy hai chọi một, thật chẳng biết sĩ diện gì cả.
Trùng Dương hòa hoãn đáp:
- Có gì mà chẳng biết sĩ diện? Âu huynh, chúng ta đều là giáo chủ của một phái, toàn là người có địa vị. Hôm nay với chuyện này chúng ta không thể dùng cách đấu loạn xị như trả cháo heo mà quyết định được.
Hồng Thất Công liền phụ họa:
- Phải, phải! Lão độc vật, chúng ta không phải là con nít nhỏ, tỉ võ thì phải có lôi đài, đấm đá nhau cũng phải có qui luật mới được chứ!
Chúng ta định xong qui củ rồi hãy đánh nữa, đấu bỏ mẹ nhau bảy ngày bảy đêm cũng không sao!
Hoàng Dược Sư bèn xen vào:
- Khoảng rừng này không phải là nơi thí võ, muốn so tài nhau ta hãy lên đỉnh Hoa Sơn tốt hơn.
Mọi người đều ứng tiếng tán đồng.
Âu Dương Phong đã sắp đặt trước ở cụm rừng này bao nhiêu cơ mưụ Nào ngờ mọi người đều muốn lên sơn đỉnh để so tài, bao nhiêu tâm cơ của y kể như đã bỏ!
Âu Dương Phong chỉ còn cách cười nhạt và nói:
- Được lắm, chúng ta cùng đi vậy!
Ngũ Bá đều dùng thuật khinh công, thân hình vút đi như năm vì sao xẹt, trong chớp mắt năm người đã đứng chót vót trên ngọn Hoa Sơn, trông nhỏ bằng năm ngón tay đang cử động.
Trên đỉnh Thái Hoa Sơn này, tuyết mịt mù, nên trời âm u buốt giá, tuyết đóng trên đỉnh núi một lớp dày hơn ba thước, gió rét căm căm, nếu là người thường chỉ trong vòng một giờ, nửa khắc là máu huyết đặc lại thành băng mà chết. Võ công của Ngũ Bá đến gần mức Lư Hỏa Thuần Thanh, cho nên đối với khí rét cắt da kia chẳng thấm vào đâu cả.
Hồng Thất Công vừa đến sơn đỉnh, dùng gậy trúc gõ lên mỏm đá và nói:
- Tới chỗ lôi đài rồi! Lão độc vật, chúng ta tiếp tục đấu nữa!
Âu Dương Phong cười nhạt đáp:
- Được lắm! Lão ăn xin, Âu mỗ sẵn sàng hầu tiếp ngươị
Trùng Dương vội giơ tay ngăn lại, bảo:
- Xin hai vị khoan đã, tại hạ có một lời muốn nóị
Chàng đứng xen vào giữa Âu Dương Phong và Hồng Thất Công, nói tiếp:
- Hôm nay chúng ta đến đây, đều vì võ mà họp bạn nhaụ Giữa chúng ta chẳng có ai thâm thù đại oán với nhau, cho nên tôi muốn trước khi mọi người so tài, nên ra một quy củ là:
Đấu nhau đến lúc đánh trúng được đối phương thì thôi, tuyệt đối không được làm tổn hại một sợi lông một cọng tóc của đối thủ, nếu các vị bằng lòng giữ đúng quy luật ấy, bần đạo mới dám hầu tiếp, bằng không Vương mỗ chỉ còn cách từ tạ mà không dự vàọ
Âu Dương Phong đôi mắt lục lạc chớp lia, định lên tiếng trả lờị
Đoàn Hoàng Gia và Hoàng Dược Sư đồng cười lớn, vỗ tay tán đồng và nói:
- Lời của Vương Chân Nhân rất phải, chúng ta đánh trúng được nhau thì ngưng tay kể như thắng vậy!
Hồng Thất Công cũng nói:
- Hay lắm, thí võ mà không được làm người bị thương, quy củ này từ xưa đến nay mới có một lần! Này lão độc vật mi có đồng ý hay không?
Âu Dương Phong tuy không vừa ý, nhưng bốn người đều tán thành rồi, một mình sao phản đối được! Đôi mắt y láo liên đảo tròn, đã nghĩ ra một chủ định ác độc, cười gian hoạt và đáp:
- Cũng được! Ta quyết chẳng làm tổn thương đến các ngươi một sợi lông nào cả.
Hồng Thất Công bắt bẻ:
- Mi có muốn chạm đến sợi lông cọng tóc của chúng ta đi nữa, nhưng lão độc vật nhà ngươi tài ba bao nhiêu mà làm được chuyện đó.
Trong Ngũ Bá chỉ có Hồng Thất Công luôn luôn tìm lời công kích Âu Dương Phong, đối chọi nhau chan chát, chẳng chịu nhường một lờị
Nguyên do, Hồng Thất Công tuy tánh nóng như lửa nhưng chánh trực, giao du rất rộng. Y biết rõ còn người Âu Dương Phong này khí lượng hẹp hòi, âm hiểm độc ác. Anh của Âu Dương Phong lúc trước cùng y chấp chưởng Bạch Đà Sơn, nhưng sau anh y bỗng ngã ra chết một cách mờ ám, theo mọi người đồn đại thì Âu Dương Phong và chị dâu y có chuyện lẹo tẹo với nhaụ
Cho nên từ lâu Hồng Thất Công ghét cay ghét đắng Âu Dương Phong như kẻ thù, gặp mặt Âu Dương Phong là châm chọc ngạo chế chẳng chút nương tình.
Âu Dương Phong giận cành hông, chỉ muốn ra tay đập Hồng Thất Công cho hả giận.
Trùng Dương bèn khuyên dứt:
- Chúng ta hôm nay vì võ thuật mà họp bạn, chẳng nên dùng lời hơn thua để kết thù.
Hiện tại chúng ta có năm người, hay là như thế này vậỵ Chúng ta rút tên bắt thăm, nếu ai rút trúng thì nấy ra đấu, hai người được quyền đem tất cả sở học ra, đấu nhau ba trận, nếu được hai trận thì kể như thắng cuộc, rồi tới hai vị khác rút thăm ra đấu, thắng bại phân xong rút thăm đấu chung cuộc! Phương pháp ấy quí vị thấy công bình hay không?
Mọi người ngẫm nghĩ giây lâu, thấy cách thức Trùng Dương nêu ra rất hay, đồng gật đầu đáp:
- Chúng tôi xin nghe theo ý kiến của Vương Chân Nhân.
Trùng Dương rút trong túi ra năm cây tăm trúc bằng nhau, chàng lại đưa năm cây tăm cho Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong, Hồng Thất Công và Đoàn Hoàng Gia bốn người đồng coi quạ
Mọi người đều nhìn nhận không có dấu hiệu gì khác.
Trùng Dương mới rút cây lông nhím trên đầu xuống làm dấu vào hai cây tăm, đoạn nắm chặt năm cây tăm trong tay, và kêu mọi người đến rút.
Để tỏ ra mình không có ý gian, Trùng Dương nhường cho mọi người rút trước, còn sót lại cây chót về phần của chàng.
Kết quả cuộc rút thăm:
Trùng Dương, Âu Dương Phong, Đoàn Hoàng Gia ba người rút nhằm chiếc tăm không có đánh dấu, Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư rút trúng hai cây tăm kiạ
Trùng Dương cười lớn và nói:
- Hay lắm, hai vị đem tuyệt học của mình ra để tranh phần thắng lợi vậỵ Bần đạo may mắn hôm nay được chiêm ngưỡng tài năng của quí vị.
Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư hai người tiến bước ra trước.
Hồng Thất Công bèn lên tiếng:
- Hoàng huynh, trận đấu chúng ta đấu cách nào đâỷ
Hoàng Dược Sư đáp:
- Chúng ta đấu quyền trước vậỵ
Hồng Thất Công cười ha hả và nói:
- Phải!
Nói xong, chàng cắm mạnh chiếc gậy trúc lên mặt đất tuyết, lại cười nói tiếp:
- Mời Hoàng huynh ra taỵ
Tức thì bóng xanh thoắt một cái, Hoàng Dược Sư đã phi thân tiến tới dùng ngay "Lạc Anh quyền pháp" liên tiếp công ra "Vút! Vút!" bốn chiêu quái lạ, nhanh như bão táp mưa sa, tấn công Hồng Thất Công tới tấp.
Trùng Dương thấy Hoàng Dược Sư ra tay rất quái dị, trong nháy mắt đã công ra bốn chưởng nhanh lẹ vô cùng, đứng bên ngoài nhìn vào, mường tượng như có bốn bàn tay cùng đánh ra một lúc.
Hồng Thất Công không chút bối rối, ung dung như thường, quay ngoắt một thế võ Thần Long Điếu Vĩ trong Giáng Long Thập Chưởng, đã đỡ hất được bốn chưởng của Hoàng Dược Sư một cách dễ dàng.
Thế võ ấy trừ Âu Dương Phong ra, Trùng Dương và Đoàn Hoàng Gia đều buông tiếng khen dồị
Hoàng Dược Sư đánh không trúng được địch thủ, đôi mày chàng liền cau lại, áp dụng ngay tuyệt kỹ của Lạc Anh Quyền, thân hình chàng tựa như lơ lững ở nửa không, quay tròn như cánh chong chóng, quyền chưởng kín mít như mưa sa, quyền phong bay ra ào ào như cơn gió lốc, hai tay quyền múa vùn vụt trông mường tượng như hoa anh đào rơi từng cánh.
Trùng Dương và Đoàn Hoàng Gia nhìn quên cả nháy mắt, còn đôi mày rậm của Âu Dương Phong chẳng ngớt nhíu lại, lúc thì nhăn trán múa tay, có khi lại vỗ đùi đánh đét, một mặt thì thưởng thức lối đánh kỳ ảo như sương như khói của Hoàng Dược Sư, cùng lối phản công trầm mạnh hào hùng của Hồng Thất Công, một mặt lại âm thầm nghiền ngẫm những tài nghệ đặc điểm của hai người, để lúc tới phiên mình hạ trận sẽ tìm sơ hở của đối phương tranh phần thắng.
Trùng Dương ngẫu nhiên quay lại thấy bộ tịch y như thế, cảm thấy rất buồn cườị
Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư kẻ mau người chậm, quần nhau đã trên trăm hiệp.
Hoàng Dược Sư bỗng hú lên một tiếng lảnh lót rồi đem Tảo Diệp Thố ra sử dụng, thân hình chàng liền rùn xuống, thâu nhanh tay quyền trở về vừa định vung chân đá rạ
Nào ngờ Giáng Long chưởng pháp của Hồng Thất Công thiện lối đánh lấy công làm thủ, nếu kẻ địch tấn công thì với quyền pháp ấy công sẽ kín mít như tường đồng vách sắt, không một khe hở, nhưng nếu kẻ địch, ngưng tay, thế công hoặc thâu chiêu biến thế, thì thế công của Giáng Long chưởng pháp sẽ bất thần lộ liễu ra liền.
Hoàng Dược Sư lần đầu tiên mới đụng với Giáng Long Thập Bát Chưởng, nên chẳng biết hư thực ra sao, vừa thâu Lạc Anh Quyền, thì Hồng Thất Công đã "hừm" một tiếng, tay trái liền gạt mạnh một cái, tay mặt đảo thành nửa vòng tròn theo thế Kháng Long Hữu Hối (rồng tù biết lỗi) đánh vút vào bả vai Hoàng Dược Sư!
Chưởng ấy quá đột ngột và nhanh chóng, Hoàng Dược Sư không ngờ đối phương xuất kỳ bất ý phản công thần tốc như vậy, liền dậm mạnh chân xuống đất dùng thân pháp Phiên Đảo Trùng Dương (liễu rũ nghiêng ngả) nhẩy bật dậỵ Tuy vậy cũng bị ngọn chưởng của Hồng Thất Công quét trúng vào gót chân, thân hình không gượng được văng bắn ra xa ngoài hai trượng.
Chân chàng vừa chạm đất liền dùng ngay thế Hoàn Kê Bộ (bước đi của con gà lạnh) gượng sức cho thân hình đứng ngay lên, dưới gót liền vang lên tiếng "rắc! rắc!", và một tảng đá núi đã bị gót chân chàng dẫm bể nát rạ
Những cao thủ danh gia lúc đấu nhau, chỉ một chút hơn kém nhau như hột lúa đã kể như bị thua rồị
Hoàng Dược Sư bèn vòng tay và nói:
- Thất huynh quyền pháp cao minh, Hoàng mỗ rất khâm phục.
Hồng Thất Công vội đáp lễ:
- Hoàng huynh nói chi thế, lúc nãy nhờ Hoàng huynh nương tay cho, Hồng mỗ cảm thấy hỗ thẹn vô cùng.
Âu Dương Phong thấy chưởng pháp của Hồng Thất Công như thế, thì kinh hãi trong lòng, tự nghĩ:
- Quyền pháp của lão ăn mày này sở trường ở môn cứng mạnh hùng hậụ Nếu lát nữa giao đấu với y, tất nhiên phải dùng lối đánh nhu trị cương, mới có thể thủ thắng y được.
Hoàng Dược Sư thua một trận, nhưng là một người kiêu ngạo không chịu phục ai, bèn nói:
- Thất huynh, về phương diện quyền thuật thì tiểu đệ cam chịu kém hơn vậy, trận kế tiểu đệ muốn cùng Thất huynh so tài khinh công, Thất huynh có bằng lòng chăng?
Hồng Thất Công cười lớn đáp:
- Lão ăn xin nầy thì chẳng dám từ chối ai điều gì cả, chỉ có sự cướp giựt tâm huyết của người để làm của riêng hay âm mưu hại người khác, những hành vi bỉ ổi ấy, lão ăn mày thà chịu chết chớ không thèm làm.
Lời nói ấy lão dùng để ám chỉ Âu Dương Phong.
Âu Dương Phong quắc mắt nhìn như muốn nuốt sống Hồng Thất Công vậỵ
Hoàng Dược Sư lại nói:
- Tiểu đệ một đời mình rất thích nghiên cứu kỳ môn thuật số, bấy giờ tiểu đệ có một trò chơi nhỏ mọn nầy, mời Thất huynh xem đâỵ
Nói xong lôi trong túi ra nắm tăm ba góc, nhưng loại tăm nầy khác hẳn với tăm tre của Trùng Dương lúc nẫy, toàn làm bằng thép ròng.
Hồng Thất Công cười ha hả và nói:
- Đây là loại đinh dùng để đóng móng ngựa trên chiến trường, Hoàng huynh ở đâu mà có được loại ấy nhiều thế, thật là thần thông quảng đại!
Hoàng Dược Sư sầm nét mặt chẳng đáp lời, rút ra năm cây tăm thép nắm trong bàn tay, đoạn lật nhanh bàn tay vung ra một cái, tức thì năm cây tăm thép tựa như một chuỗi sao xẹt bay xa hơn hai trượng cắm phập xuống mặt đất tuyết, vừa vặn sắp thành hình một đóa mai năm cánh rất đều đặn.
Trùng Dương khen nức nở:
- Tuyệt quá! Thủ pháp ám khí thật là tuyệt.
Hoàng Dược Sư cứ một lần ném năm cây que thép, từng đợt từng đợt vung ra, mọi người nhìn thấy đôi mắt chàng không hề nháy, bước chân chẳng hề di dộng, cánh tay chẳng nhúc nhích, que sắt từ ngón tay chàng bắn ra, tựa như mũi tên lìa ná bay thẳng tắp trở ra vun vút không ngớt, thời gian không đầy một tuần trà, trên mặt đất tuyết bốn mươi lăm que thép cắm thành một hàng hoa mai năm cánh ngay ngắn như cán bút, những que thép đen nhánh in rõ lên nền tuyết trắng phau, trông vô cùng đẹp mắt.
Cái khó ở chỗ là que nào que nấy ghim lên mặt đất tuyết sâu cạn một cỡ như nhau, dù cho nông phu sành nghề cấy lúa, cũng khó mà cắm đều đặn như vậy dược.
Hồng Thất Công trong lòng hết sức khâm phục.
Hoàng Dược Sư cắm bốn mươi lăm mũi thiết tăm thành hàng lối xong, bèn xoa tay và quay sang bảo Hồng Thất Công:
- Thất huynh, tuy những cánh mai hoa tăm kia tiểu đệ bày không ra hình dáng gì cả, nhưng cũng khá tạm để chúng ta làm chỗ so tài vậỵ
Lời nói tuy rất bình thản nhưng trong lòng Hoàng Dược Sư rất dương dương tự đắc.
Trong nghành võ, có lối đấu như Mai Hoa Thung, Thanh Trúc Thung đều dùng cừ tre để cắm làm "thung", và loại cừ tre dù ít dù nhiều cũng có một sức bật trở lại, có thể mượn sức để dùng sức mà nhẩy chuyền từ bộ "thung" này qua bộ "thung" khác.
Hoàng Dược Sư thì trái lại dùng tăm sắt cắm lên mặt đất tuyết để bầy trận mai hoa, mà tánh chất của tăm sắt cứng rắn, tuyệt đối không có sức bật, khó mà mượn sức. Vả lại những tăm sắt ấy là loại đinh dùng để đóng móng chiến mã nhọn bén vô cùng. Nhảy lên những đầu tăm ấy để so tài phải tiểu tâm dùng thuật khinh công khí, và thân pháp của người ấy phải ít nhất vào hạng thượng đẳng tuyệt thủ mới dám bước lên, nếu dưới chân hơi nặng một chút tất bị ngọn tâm đâm thủng bàn chân.
Hồng Thất Công cũng tự hiểu thuật khinh công của mình không bằng Hoàng Dược Sư, và trận Mai Hoa Thiết Tăm này khó mà thắng nổi đối phương. Chẳng qua đối phương đã bày xong trận chiến rồi, mình cũng khó mà từ chối được.
Hồng Thất Công chỉ còn cách giữ vẻ thản nhiên và nói:
- Tốt lắm! Gã ăn mày này xin xả thân để hầu tiếp quân tử vậỵ
Hoàng Dược Sư nhún chân một cái, thân hình đã nhẹ phiêu phiêu đáp lên trận "Mai hoa tăm". Chân chàng đạp vào vị "Khảm", rồi bước sang cung "Ly", chiếm vị trí "Lưỡng Hỏa" ở hướng Nam.
Hồng Thất Công cũng thoát nhẹ thân mình kêu "vù" một tiếng, cũng theo chân bay lên trận "Mai hoa tăm".
Chân Hồng Thất Công đạp vào cung "Chấn" chiếm vị trí "Ất Mộc" của hướng Đông.
Hai người vòng tay nói xong một tiếng "mời".
Tức thì Đông Tà và Bắc Cái thân hình thoăn thoắt nhảy tới bước lui, bắt đầu một cuộc tấn công lẫn nhau rất kịch liệt trên những cây tăm bằng sắt nhọn lêu lểu ấỵ
Hoàng Dược Sư vẫn áp dụng Lạc Anh chưởng pháp của mình và chưởng pháp đem dùng trên trận Mai Hoa Tăm uy lực đã khác hẳn lúc nãỵ
Về môn khinh công thì trong Ngũ Bá Hoàng Dược Sư đứng vào Nhất Tuyệt, mà Lạc Anh chưởng là một pho chưởng pháp hư nhiều hơn thực, lẹ làng uyển chuyển nên một khi đem dùng trên trận Mai Hoa Tăm này, sự lợi hại tăng lên thập phần.
Còn Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công thì trái lại, vì pho chưởng pháp ấy đem áp dụng trên đất bằng thì hiệu lực vô cùng tận. Nhưng nếu đem dung hòa với trận pháp khinh công trên trận Mai Hoa Tăm nầy là cả một thiệt thòi lớn lao, một bên sở trường một bên sở đoản, xê xích nhau một trời một vực.
Hai người quây quần nhau trên Mai Hoa Tăm hơn sáu chục hiệp.
Hồng Thất Công dần dẫn đã thấy kém thế hơn.
Lạc Anh quyền của Hoàng Dược Sư chiếm được ưu thế, quyền pháp càng thêm biến hóa trùng trùng điệp điệp, lớp lớp bay ra, chưởng cũng lẹ làng như cá quẫy trên sóng, thoăn thoắt như én vút từng không, còn Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công chỉ còn đủ sức đỡ mà chẳng có công sức.
So với tình thế dọc ngang như ý ở trận trước thật là khác hẳn.
Âu Dương Phong thấy thế trong lòng rất khoái trá và nghĩ thầm:
- Chẳng gì hay bằng là Hoàng Dược Sư cho lão ăn mày thúi ấy một chưởng lộn mèo trên Mai Hoa Tăm, để cho dám que sắt ấy đâm lủng cả mình mẩy lão, ít nhất lão cũng biến thành kẻ tàn phế, thì mình đỡ bớt đi một tên cường địch đoạt kinh!
Âu Dương Phong ngoại hiệu là Tây Độc, suốt đời lấy việc giáng họa di hại cho người làm điều thích ý. Bất luận kẻ ấy là bạn hay thù, đều đối xử một dạ độc địa, nếu có cơ hộị
Lão mong mỏi giữa Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư, một trong hai người bất kỳ là người nào bị trọng thương không chổi dậy được để lão ta bớt đi một hay kình địch.
Trong trận, Hồng Thất Công thấy Giáng Long Thập Bát chưởng của mình đem dùng trên trận Mai Hoa Tăm nầy kém thế rất nhiều, dù thua đi trận này, cũng chẳng qua cùng Hoàng Dược Sư thủ hòa nhau, nhưng háo thắng là một cố tánh của con người, Hồng Thất Công chưa phải là hạng thánh hiền, làm sao tránh khỏi thất dục của thường tình được.
Bèn rú lên một tiếng lãnh lót, gót chân điểm nhẹ lên Mai Hoa Tăm, dùng lối đánh nhanh để đương cự lại Lạc Anh Quyền của Hoàng Dược Sư.
Hoàng Gia buột miệng kêu lên:
- Ủa! Cửu Tuyệt Thần Quân sao lại biết chưởng pháp của Đào Hoa Đảo Chúa nữả
Thì ra pho quyền của Hồng Thất Công vừa sử dụng kia chính là Yến Song Phi, hoàn toàn mô phỏng theo thế con chim én lúc rời ổ, xòe cánh lượn quanh nền trời mà chế biến thành pho quyền ấỵ Tổng cộng có ba mươi sáu đường thân pháp, nếu là người có nội công tinh tuấn thì có thể trong một hơi thở dụng đủ ba mươi sáu đường tuyệt kỹ ấỵ
Nên rõ là võ công của Ngũ Bá mỗi người có một sở trường đặc biệt và nếu luận về bản lĩnh giữa Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công thì công phu bên ngoài như quyền cước, sức lực thì Hoàng Dược Sư kém thế hơn Hồng Thất Công, nhưng nếu về thuật khinh công đề khí thì Hồng Thất Công thua xa Hoàng Dược Sư vậỵ
Pho Yến Song Phi thân pháp, nếu đem ra đối phó với Âu Dương Phong, Đoàn Hoàng Gia thì còn họa may có chút hiệu lực, nhưng nếu đem ra để chống Hoàng Dược Sư thì có khác nào một tòa tiểu sơn so bì với một hòn núi caọ
Nên Yến Song Phi của Hồng Thất Công vừa đem ra áp dụng thì Hoàng Dược Sư đã cười lên ha hả, rồi đảo ngược Lạc Anh Quyền từ thế nhẹ ra thế nặng. Lúc nãy thì năm hư một thực hoặc tám hư một thực, thì bây giờ trái lại năm thực một hư, tám thực một hư, mỗi quyền mỗi chưởng phát ra đều kẹp theo một sức gió mạnh bạo tương tợ như Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công lúc nãỵ
Hồng Thất Công cả kinh chưa kịp phản ứng, thì bỗng thấy một chưởng của Hoàng Dược Sư chém vụt trở lên.
Hồng Thất Công vừa định vung tay đón lạị
Hoàng Dược Sư bèn lật tay cuốn lại đè lấy cánh chỏ của đối phương xuống, rồi lẹ như chớp xoay tay đẩy mạnh trở rạ
Hồng Thất Công giống như Hoàng Dược Sư khi nãy, bay tuốt ra ngoài hai trượng xa.
Trùng Dương hòa hoãn đáp:
- Có gì mà chẳng biết sĩ diện? Âu huynh, chúng ta đều là giáo chủ của một phái, toàn là người có địa vị. Hôm nay với chuyện này chúng ta không thể dùng cách đấu loạn xị như trả cháo heo mà quyết định được.
Hồng Thất Công liền phụ họa:
- Phải, phải! Lão độc vật, chúng ta không phải là con nít nhỏ, tỉ võ thì phải có lôi đài, đấm đá nhau cũng phải có qui luật mới được chứ!
Chúng ta định xong qui củ rồi hãy đánh nữa, đấu bỏ mẹ nhau bảy ngày bảy đêm cũng không sao!
Hoàng Dược Sư bèn xen vào:
- Khoảng rừng này không phải là nơi thí võ, muốn so tài nhau ta hãy lên đỉnh Hoa Sơn tốt hơn.
Mọi người đều ứng tiếng tán đồng.
Âu Dương Phong đã sắp đặt trước ở cụm rừng này bao nhiêu cơ mưụ Nào ngờ mọi người đều muốn lên sơn đỉnh để so tài, bao nhiêu tâm cơ của y kể như đã bỏ!
Âu Dương Phong chỉ còn cách cười nhạt và nói:
- Được lắm, chúng ta cùng đi vậy!
Ngũ Bá đều dùng thuật khinh công, thân hình vút đi như năm vì sao xẹt, trong chớp mắt năm người đã đứng chót vót trên ngọn Hoa Sơn, trông nhỏ bằng năm ngón tay đang cử động.
Trên đỉnh Thái Hoa Sơn này, tuyết mịt mù, nên trời âm u buốt giá, tuyết đóng trên đỉnh núi một lớp dày hơn ba thước, gió rét căm căm, nếu là người thường chỉ trong vòng một giờ, nửa khắc là máu huyết đặc lại thành băng mà chết. Võ công của Ngũ Bá đến gần mức Lư Hỏa Thuần Thanh, cho nên đối với khí rét cắt da kia chẳng thấm vào đâu cả.
Hồng Thất Công vừa đến sơn đỉnh, dùng gậy trúc gõ lên mỏm đá và nói:
- Tới chỗ lôi đài rồi! Lão độc vật, chúng ta tiếp tục đấu nữa!
Âu Dương Phong cười nhạt đáp:
- Được lắm! Lão ăn xin, Âu mỗ sẵn sàng hầu tiếp ngươị
Trùng Dương vội giơ tay ngăn lại, bảo:
- Xin hai vị khoan đã, tại hạ có một lời muốn nóị
Chàng đứng xen vào giữa Âu Dương Phong và Hồng Thất Công, nói tiếp:
- Hôm nay chúng ta đến đây, đều vì võ mà họp bạn nhaụ Giữa chúng ta chẳng có ai thâm thù đại oán với nhau, cho nên tôi muốn trước khi mọi người so tài, nên ra một quy củ là:
Đấu nhau đến lúc đánh trúng được đối phương thì thôi, tuyệt đối không được làm tổn hại một sợi lông một cọng tóc của đối thủ, nếu các vị bằng lòng giữ đúng quy luật ấy, bần đạo mới dám hầu tiếp, bằng không Vương mỗ chỉ còn cách từ tạ mà không dự vàọ
Âu Dương Phong đôi mắt lục lạc chớp lia, định lên tiếng trả lờị
Đoàn Hoàng Gia và Hoàng Dược Sư đồng cười lớn, vỗ tay tán đồng và nói:
- Lời của Vương Chân Nhân rất phải, chúng ta đánh trúng được nhau thì ngưng tay kể như thắng vậy!
Hồng Thất Công cũng nói:
- Hay lắm, thí võ mà không được làm người bị thương, quy củ này từ xưa đến nay mới có một lần! Này lão độc vật mi có đồng ý hay không?
Âu Dương Phong tuy không vừa ý, nhưng bốn người đều tán thành rồi, một mình sao phản đối được! Đôi mắt y láo liên đảo tròn, đã nghĩ ra một chủ định ác độc, cười gian hoạt và đáp:
- Cũng được! Ta quyết chẳng làm tổn thương đến các ngươi một sợi lông nào cả.
Hồng Thất Công bắt bẻ:
- Mi có muốn chạm đến sợi lông cọng tóc của chúng ta đi nữa, nhưng lão độc vật nhà ngươi tài ba bao nhiêu mà làm được chuyện đó.
Trong Ngũ Bá chỉ có Hồng Thất Công luôn luôn tìm lời công kích Âu Dương Phong, đối chọi nhau chan chát, chẳng chịu nhường một lờị
Nguyên do, Hồng Thất Công tuy tánh nóng như lửa nhưng chánh trực, giao du rất rộng. Y biết rõ còn người Âu Dương Phong này khí lượng hẹp hòi, âm hiểm độc ác. Anh của Âu Dương Phong lúc trước cùng y chấp chưởng Bạch Đà Sơn, nhưng sau anh y bỗng ngã ra chết một cách mờ ám, theo mọi người đồn đại thì Âu Dương Phong và chị dâu y có chuyện lẹo tẹo với nhaụ
Cho nên từ lâu Hồng Thất Công ghét cay ghét đắng Âu Dương Phong như kẻ thù, gặp mặt Âu Dương Phong là châm chọc ngạo chế chẳng chút nương tình.
Âu Dương Phong giận cành hông, chỉ muốn ra tay đập Hồng Thất Công cho hả giận.
Trùng Dương bèn khuyên dứt:
- Chúng ta hôm nay vì võ thuật mà họp bạn, chẳng nên dùng lời hơn thua để kết thù.
Hiện tại chúng ta có năm người, hay là như thế này vậỵ Chúng ta rút tên bắt thăm, nếu ai rút trúng thì nấy ra đấu, hai người được quyền đem tất cả sở học ra, đấu nhau ba trận, nếu được hai trận thì kể như thắng cuộc, rồi tới hai vị khác rút thăm ra đấu, thắng bại phân xong rút thăm đấu chung cuộc! Phương pháp ấy quí vị thấy công bình hay không?
Mọi người ngẫm nghĩ giây lâu, thấy cách thức Trùng Dương nêu ra rất hay, đồng gật đầu đáp:
- Chúng tôi xin nghe theo ý kiến của Vương Chân Nhân.
Trùng Dương rút trong túi ra năm cây tăm trúc bằng nhau, chàng lại đưa năm cây tăm cho Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong, Hồng Thất Công và Đoàn Hoàng Gia bốn người đồng coi quạ
Mọi người đều nhìn nhận không có dấu hiệu gì khác.
Trùng Dương mới rút cây lông nhím trên đầu xuống làm dấu vào hai cây tăm, đoạn nắm chặt năm cây tăm trong tay, và kêu mọi người đến rút.
Để tỏ ra mình không có ý gian, Trùng Dương nhường cho mọi người rút trước, còn sót lại cây chót về phần của chàng.
Kết quả cuộc rút thăm:
Trùng Dương, Âu Dương Phong, Đoàn Hoàng Gia ba người rút nhằm chiếc tăm không có đánh dấu, Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư rút trúng hai cây tăm kiạ
Trùng Dương cười lớn và nói:
- Hay lắm, hai vị đem tuyệt học của mình ra để tranh phần thắng lợi vậỵ Bần đạo may mắn hôm nay được chiêm ngưỡng tài năng của quí vị.
Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư hai người tiến bước ra trước.
Hồng Thất Công bèn lên tiếng:
- Hoàng huynh, trận đấu chúng ta đấu cách nào đâỷ
Hoàng Dược Sư đáp:
- Chúng ta đấu quyền trước vậỵ
Hồng Thất Công cười ha hả và nói:
- Phải!
Nói xong, chàng cắm mạnh chiếc gậy trúc lên mặt đất tuyết, lại cười nói tiếp:
- Mời Hoàng huynh ra taỵ
Tức thì bóng xanh thoắt một cái, Hoàng Dược Sư đã phi thân tiến tới dùng ngay "Lạc Anh quyền pháp" liên tiếp công ra "Vút! Vút!" bốn chiêu quái lạ, nhanh như bão táp mưa sa, tấn công Hồng Thất Công tới tấp.
Trùng Dương thấy Hoàng Dược Sư ra tay rất quái dị, trong nháy mắt đã công ra bốn chưởng nhanh lẹ vô cùng, đứng bên ngoài nhìn vào, mường tượng như có bốn bàn tay cùng đánh ra một lúc.
Hồng Thất Công không chút bối rối, ung dung như thường, quay ngoắt một thế võ Thần Long Điếu Vĩ trong Giáng Long Thập Chưởng, đã đỡ hất được bốn chưởng của Hoàng Dược Sư một cách dễ dàng.
Thế võ ấy trừ Âu Dương Phong ra, Trùng Dương và Đoàn Hoàng Gia đều buông tiếng khen dồị
Hoàng Dược Sư đánh không trúng được địch thủ, đôi mày chàng liền cau lại, áp dụng ngay tuyệt kỹ của Lạc Anh Quyền, thân hình chàng tựa như lơ lững ở nửa không, quay tròn như cánh chong chóng, quyền chưởng kín mít như mưa sa, quyền phong bay ra ào ào như cơn gió lốc, hai tay quyền múa vùn vụt trông mường tượng như hoa anh đào rơi từng cánh.
Trùng Dương và Đoàn Hoàng Gia nhìn quên cả nháy mắt, còn đôi mày rậm của Âu Dương Phong chẳng ngớt nhíu lại, lúc thì nhăn trán múa tay, có khi lại vỗ đùi đánh đét, một mặt thì thưởng thức lối đánh kỳ ảo như sương như khói của Hoàng Dược Sư, cùng lối phản công trầm mạnh hào hùng của Hồng Thất Công, một mặt lại âm thầm nghiền ngẫm những tài nghệ đặc điểm của hai người, để lúc tới phiên mình hạ trận sẽ tìm sơ hở của đối phương tranh phần thắng.
Trùng Dương ngẫu nhiên quay lại thấy bộ tịch y như thế, cảm thấy rất buồn cườị
Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư kẻ mau người chậm, quần nhau đã trên trăm hiệp.
Hoàng Dược Sư bỗng hú lên một tiếng lảnh lót rồi đem Tảo Diệp Thố ra sử dụng, thân hình chàng liền rùn xuống, thâu nhanh tay quyền trở về vừa định vung chân đá rạ
Nào ngờ Giáng Long chưởng pháp của Hồng Thất Công thiện lối đánh lấy công làm thủ, nếu kẻ địch tấn công thì với quyền pháp ấy công sẽ kín mít như tường đồng vách sắt, không một khe hở, nhưng nếu kẻ địch, ngưng tay, thế công hoặc thâu chiêu biến thế, thì thế công của Giáng Long chưởng pháp sẽ bất thần lộ liễu ra liền.
Hoàng Dược Sư lần đầu tiên mới đụng với Giáng Long Thập Bát Chưởng, nên chẳng biết hư thực ra sao, vừa thâu Lạc Anh Quyền, thì Hồng Thất Công đã "hừm" một tiếng, tay trái liền gạt mạnh một cái, tay mặt đảo thành nửa vòng tròn theo thế Kháng Long Hữu Hối (rồng tù biết lỗi) đánh vút vào bả vai Hoàng Dược Sư!
Chưởng ấy quá đột ngột và nhanh chóng, Hoàng Dược Sư không ngờ đối phương xuất kỳ bất ý phản công thần tốc như vậy, liền dậm mạnh chân xuống đất dùng thân pháp Phiên Đảo Trùng Dương (liễu rũ nghiêng ngả) nhẩy bật dậỵ Tuy vậy cũng bị ngọn chưởng của Hồng Thất Công quét trúng vào gót chân, thân hình không gượng được văng bắn ra xa ngoài hai trượng.
Chân chàng vừa chạm đất liền dùng ngay thế Hoàn Kê Bộ (bước đi của con gà lạnh) gượng sức cho thân hình đứng ngay lên, dưới gót liền vang lên tiếng "rắc! rắc!", và một tảng đá núi đã bị gót chân chàng dẫm bể nát rạ
Những cao thủ danh gia lúc đấu nhau, chỉ một chút hơn kém nhau như hột lúa đã kể như bị thua rồị
Hoàng Dược Sư bèn vòng tay và nói:
- Thất huynh quyền pháp cao minh, Hoàng mỗ rất khâm phục.
Hồng Thất Công vội đáp lễ:
- Hoàng huynh nói chi thế, lúc nãy nhờ Hoàng huynh nương tay cho, Hồng mỗ cảm thấy hỗ thẹn vô cùng.
Âu Dương Phong thấy chưởng pháp của Hồng Thất Công như thế, thì kinh hãi trong lòng, tự nghĩ:
- Quyền pháp của lão ăn mày này sở trường ở môn cứng mạnh hùng hậụ Nếu lát nữa giao đấu với y, tất nhiên phải dùng lối đánh nhu trị cương, mới có thể thủ thắng y được.
Hoàng Dược Sư thua một trận, nhưng là một người kiêu ngạo không chịu phục ai, bèn nói:
- Thất huynh, về phương diện quyền thuật thì tiểu đệ cam chịu kém hơn vậy, trận kế tiểu đệ muốn cùng Thất huynh so tài khinh công, Thất huynh có bằng lòng chăng?
Hồng Thất Công cười lớn đáp:
- Lão ăn xin nầy thì chẳng dám từ chối ai điều gì cả, chỉ có sự cướp giựt tâm huyết của người để làm của riêng hay âm mưu hại người khác, những hành vi bỉ ổi ấy, lão ăn mày thà chịu chết chớ không thèm làm.
Lời nói ấy lão dùng để ám chỉ Âu Dương Phong.
Âu Dương Phong quắc mắt nhìn như muốn nuốt sống Hồng Thất Công vậỵ
Hoàng Dược Sư lại nói:
- Tiểu đệ một đời mình rất thích nghiên cứu kỳ môn thuật số, bấy giờ tiểu đệ có một trò chơi nhỏ mọn nầy, mời Thất huynh xem đâỵ
Nói xong lôi trong túi ra nắm tăm ba góc, nhưng loại tăm nầy khác hẳn với tăm tre của Trùng Dương lúc nẫy, toàn làm bằng thép ròng.
Hồng Thất Công cười ha hả và nói:
- Đây là loại đinh dùng để đóng móng ngựa trên chiến trường, Hoàng huynh ở đâu mà có được loại ấy nhiều thế, thật là thần thông quảng đại!
Hoàng Dược Sư sầm nét mặt chẳng đáp lời, rút ra năm cây tăm thép nắm trong bàn tay, đoạn lật nhanh bàn tay vung ra một cái, tức thì năm cây tăm thép tựa như một chuỗi sao xẹt bay xa hơn hai trượng cắm phập xuống mặt đất tuyết, vừa vặn sắp thành hình một đóa mai năm cánh rất đều đặn.
Trùng Dương khen nức nở:
- Tuyệt quá! Thủ pháp ám khí thật là tuyệt.
Hoàng Dược Sư cứ một lần ném năm cây que thép, từng đợt từng đợt vung ra, mọi người nhìn thấy đôi mắt chàng không hề nháy, bước chân chẳng hề di dộng, cánh tay chẳng nhúc nhích, que sắt từ ngón tay chàng bắn ra, tựa như mũi tên lìa ná bay thẳng tắp trở ra vun vút không ngớt, thời gian không đầy một tuần trà, trên mặt đất tuyết bốn mươi lăm que thép cắm thành một hàng hoa mai năm cánh ngay ngắn như cán bút, những que thép đen nhánh in rõ lên nền tuyết trắng phau, trông vô cùng đẹp mắt.
Cái khó ở chỗ là que nào que nấy ghim lên mặt đất tuyết sâu cạn một cỡ như nhau, dù cho nông phu sành nghề cấy lúa, cũng khó mà cắm đều đặn như vậy dược.
Hồng Thất Công trong lòng hết sức khâm phục.
Hoàng Dược Sư cắm bốn mươi lăm mũi thiết tăm thành hàng lối xong, bèn xoa tay và quay sang bảo Hồng Thất Công:
- Thất huynh, tuy những cánh mai hoa tăm kia tiểu đệ bày không ra hình dáng gì cả, nhưng cũng khá tạm để chúng ta làm chỗ so tài vậỵ
Lời nói tuy rất bình thản nhưng trong lòng Hoàng Dược Sư rất dương dương tự đắc.
Trong nghành võ, có lối đấu như Mai Hoa Thung, Thanh Trúc Thung đều dùng cừ tre để cắm làm "thung", và loại cừ tre dù ít dù nhiều cũng có một sức bật trở lại, có thể mượn sức để dùng sức mà nhẩy chuyền từ bộ "thung" này qua bộ "thung" khác.
Hoàng Dược Sư thì trái lại dùng tăm sắt cắm lên mặt đất tuyết để bầy trận mai hoa, mà tánh chất của tăm sắt cứng rắn, tuyệt đối không có sức bật, khó mà mượn sức. Vả lại những tăm sắt ấy là loại đinh dùng để đóng móng chiến mã nhọn bén vô cùng. Nhảy lên những đầu tăm ấy để so tài phải tiểu tâm dùng thuật khinh công khí, và thân pháp của người ấy phải ít nhất vào hạng thượng đẳng tuyệt thủ mới dám bước lên, nếu dưới chân hơi nặng một chút tất bị ngọn tâm đâm thủng bàn chân.
Hồng Thất Công cũng tự hiểu thuật khinh công của mình không bằng Hoàng Dược Sư, và trận Mai Hoa Thiết Tăm này khó mà thắng nổi đối phương. Chẳng qua đối phương đã bày xong trận chiến rồi, mình cũng khó mà từ chối được.
Hồng Thất Công chỉ còn cách giữ vẻ thản nhiên và nói:
- Tốt lắm! Gã ăn mày này xin xả thân để hầu tiếp quân tử vậỵ
Hoàng Dược Sư nhún chân một cái, thân hình đã nhẹ phiêu phiêu đáp lên trận "Mai hoa tăm". Chân chàng đạp vào vị "Khảm", rồi bước sang cung "Ly", chiếm vị trí "Lưỡng Hỏa" ở hướng Nam.
Hồng Thất Công cũng thoát nhẹ thân mình kêu "vù" một tiếng, cũng theo chân bay lên trận "Mai hoa tăm".
Chân Hồng Thất Công đạp vào cung "Chấn" chiếm vị trí "Ất Mộc" của hướng Đông.
Hai người vòng tay nói xong một tiếng "mời".
Tức thì Đông Tà và Bắc Cái thân hình thoăn thoắt nhảy tới bước lui, bắt đầu một cuộc tấn công lẫn nhau rất kịch liệt trên những cây tăm bằng sắt nhọn lêu lểu ấỵ
Hoàng Dược Sư vẫn áp dụng Lạc Anh chưởng pháp của mình và chưởng pháp đem dùng trên trận Mai Hoa Tăm uy lực đã khác hẳn lúc nãỵ
Về môn khinh công thì trong Ngũ Bá Hoàng Dược Sư đứng vào Nhất Tuyệt, mà Lạc Anh chưởng là một pho chưởng pháp hư nhiều hơn thực, lẹ làng uyển chuyển nên một khi đem dùng trên trận Mai Hoa Tăm này, sự lợi hại tăng lên thập phần.
Còn Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công thì trái lại, vì pho chưởng pháp ấy đem áp dụng trên đất bằng thì hiệu lực vô cùng tận. Nhưng nếu đem dung hòa với trận pháp khinh công trên trận Mai Hoa Tăm nầy là cả một thiệt thòi lớn lao, một bên sở trường một bên sở đoản, xê xích nhau một trời một vực.
Hai người quây quần nhau trên Mai Hoa Tăm hơn sáu chục hiệp.
Hồng Thất Công dần dẫn đã thấy kém thế hơn.
Lạc Anh quyền của Hoàng Dược Sư chiếm được ưu thế, quyền pháp càng thêm biến hóa trùng trùng điệp điệp, lớp lớp bay ra, chưởng cũng lẹ làng như cá quẫy trên sóng, thoăn thoắt như én vút từng không, còn Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công chỉ còn đủ sức đỡ mà chẳng có công sức.
So với tình thế dọc ngang như ý ở trận trước thật là khác hẳn.
Âu Dương Phong thấy thế trong lòng rất khoái trá và nghĩ thầm:
- Chẳng gì hay bằng là Hoàng Dược Sư cho lão ăn mày thúi ấy một chưởng lộn mèo trên Mai Hoa Tăm, để cho dám que sắt ấy đâm lủng cả mình mẩy lão, ít nhất lão cũng biến thành kẻ tàn phế, thì mình đỡ bớt đi một tên cường địch đoạt kinh!
Âu Dương Phong ngoại hiệu là Tây Độc, suốt đời lấy việc giáng họa di hại cho người làm điều thích ý. Bất luận kẻ ấy là bạn hay thù, đều đối xử một dạ độc địa, nếu có cơ hộị
Lão mong mỏi giữa Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư, một trong hai người bất kỳ là người nào bị trọng thương không chổi dậy được để lão ta bớt đi một hay kình địch.
Trong trận, Hồng Thất Công thấy Giáng Long Thập Bát chưởng của mình đem dùng trên trận Mai Hoa Tăm nầy kém thế rất nhiều, dù thua đi trận này, cũng chẳng qua cùng Hoàng Dược Sư thủ hòa nhau, nhưng háo thắng là một cố tánh của con người, Hồng Thất Công chưa phải là hạng thánh hiền, làm sao tránh khỏi thất dục của thường tình được.
Bèn rú lên một tiếng lãnh lót, gót chân điểm nhẹ lên Mai Hoa Tăm, dùng lối đánh nhanh để đương cự lại Lạc Anh Quyền của Hoàng Dược Sư.
Hoàng Gia buột miệng kêu lên:
- Ủa! Cửu Tuyệt Thần Quân sao lại biết chưởng pháp của Đào Hoa Đảo Chúa nữả
Thì ra pho quyền của Hồng Thất Công vừa sử dụng kia chính là Yến Song Phi, hoàn toàn mô phỏng theo thế con chim én lúc rời ổ, xòe cánh lượn quanh nền trời mà chế biến thành pho quyền ấỵ Tổng cộng có ba mươi sáu đường thân pháp, nếu là người có nội công tinh tuấn thì có thể trong một hơi thở dụng đủ ba mươi sáu đường tuyệt kỹ ấỵ
Nên rõ là võ công của Ngũ Bá mỗi người có một sở trường đặc biệt và nếu luận về bản lĩnh giữa Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công thì công phu bên ngoài như quyền cước, sức lực thì Hoàng Dược Sư kém thế hơn Hồng Thất Công, nhưng nếu về thuật khinh công đề khí thì Hồng Thất Công thua xa Hoàng Dược Sư vậỵ
Pho Yến Song Phi thân pháp, nếu đem ra đối phó với Âu Dương Phong, Đoàn Hoàng Gia thì còn họa may có chút hiệu lực, nhưng nếu đem ra để chống Hoàng Dược Sư thì có khác nào một tòa tiểu sơn so bì với một hòn núi caọ
Nên Yến Song Phi của Hồng Thất Công vừa đem ra áp dụng thì Hoàng Dược Sư đã cười lên ha hả, rồi đảo ngược Lạc Anh Quyền từ thế nhẹ ra thế nặng. Lúc nãy thì năm hư một thực hoặc tám hư một thực, thì bây giờ trái lại năm thực một hư, tám thực một hư, mỗi quyền mỗi chưởng phát ra đều kẹp theo một sức gió mạnh bạo tương tợ như Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công lúc nãỵ
Hồng Thất Công cả kinh chưa kịp phản ứng, thì bỗng thấy một chưởng của Hoàng Dược Sư chém vụt trở lên.
Hồng Thất Công vừa định vung tay đón lạị
Hoàng Dược Sư bèn lật tay cuốn lại đè lấy cánh chỏ của đối phương xuống, rồi lẹ như chớp xoay tay đẩy mạnh trở rạ
Hồng Thất Công giống như Hoàng Dược Sư khi nãy, bay tuốt ra ngoài hai trượng xa.
Hồi 41
Hồng Thất Công dù sao cũng là một nhân vật thành danh, tuy bị kém thế nhưng tinh thần vẫn không rối loạn, lập tức trầm khí gượng giữ thăng bằng, nhẹ nhàng đáp xuống đất tuyết, dù không bị ngã té, nhưng đã kể là thua mất một trận.
Như vậy Đông Tà và Bắc Cái mỗi người thủ thắng một trận kể như hòa nhaụ
Hồng Thất Công tánh người háo thắng, thua đi một trận lòng vẫn chưa phục liền gọi lớn:
- Hoàng huynh, chúng ta đấu thêm một trận cuối cùng để định rõ hơn thua!
Vương Trùng Dương tươi cười bước ra khuyên ngăn:
- Đủ rồi, đủ rồi, võ công hai vị chẳng ai kém ai, càng xem càng mát mắt quên thôi, kể như đã hòa nhau, vậy trận thứ hai xin nhường lại cho hai người khác!
Trận sau, khi rút thăm thì Đoàn Hoàng Gia đấu với Âu Dương Phong.
Âu Dương Phong ý chỉ quyết ở Cửu Âm Chân Kinh nên xem Trùng Dương là đối thủ số một của mình còn Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư và Đoàn Hoàng Gia chỉ là khách được mời đến để dự kiến.
Bây giờ lại nghe Trùng Dương chỉ định mình cùng Đoàn Hoàng Gia đấu nhau, Tây Độc liền đưa mắt ước lượng đối thủ của mình, thấy Đoàn Hoàng Gia vóc vác trung bình, là một gã đàn ông mình dây, xương nhỏ, ba chòm râu suông đuột quanh miệng, xem lại thì tài năng chẳng xuất chúng, diện mạo chẳng kinh ngườị
Âu Dương Phong thầm nghĩ:
- Một vị Hoàng Gia vạn thắng chí tôn, sáu cung sắc thắm, hoan lạc đêm ngày, có được bao nhiêu tài năng. Hôm nay lại tới đây dự cuộc đại hội quần hàỏ
Nghĩ như vậy, nên quyết ý cho họ Đoàn nếm mùi lợi hại, để ông này sớm rút lui là êm chuyện.
Đoàn Hoàng Gia không chút cân phân địa vị, vẫn thủ theo lễ thường dân, chắp tay chào Âu Dương Phong và nói:
- Phong huynh chúng ta so tài cách nào đâỷ
Âu Dương Phong có hơi khinh thường đối phương, lạnh lùng đáp:
- Cần gì phải tìm cách rắc rối, chúng ta tay không đấu nhau vài hiệp được chăng!
Đoàn Hoàng Gia ôn tồn nói:
- Vậy thì hay lắm.
Nói đoạn cung một tay để ngay ngực. Đứng ngay ngắn theo tấn trung bình và nói:
- Tôi Đoàn mỗ từ nơi man dã đến đây kiến thức hẹp hòi, xin Âu sơn chủ nương tình!
Âu Dương Phong "hừm" một tràng đáp lờị Sở trường độc đáo của y là Cáp Ma Công nhưng y nhất định dành để đối với Trùng Dương mà thôị Nên đối với Đoàn Hoàng Gia, y chẳng đem ra sử dụng.
Tây Độc vừa la to một tiếng:
- Thất lễ!
Song chưởng đã múa vun vút theo thế Minh Đà Thiên Lý (nghìn dặm đà khôn), Đại Mạc Lang Yên (khói đậm sa mạc) trong Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng Pháp, liên tiếp vù ra hai chưởng tấn công đối phương.
Pho Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng Pháp này là tuyệt kỹ của hai anh em Âu Dương Liệt, Âu Dương Phong để hết tâm tư sáng biến ra, toàn pho chưởng pháp có tất cả bốn mươi tám đường, thực hư vô chừng, bốn phương tám hướng tấn công đối phương không biết chừng đâu mà đỡ.
Chưởng pháp Thần Đà Tuyết Sơn nầy cùng với quyền cước võ thuật Trung Nguyên rất khác xa, là vì không có "trục tâm".
Trục Tâm chính là nơi bộ vị trung ương, người phương Nam gọi là "eo ngựa", người phương Bắc gọi là "thung bộ", tỷ như môn Thái Cực Quyền hiện nay dùng thế ngậm hơi vô cực, Lam Tước Vĩ làm thế khởi đầu, lấy gót chân hữu làm trục tâm của Thái Cực Quyền. Nói một cách khác là dùng gót chân phải làm cái trục đứng trung tâm cho thân hình, lấy nhu để chế phục cang, tránh đỡ tùy ý, ứng phó kẻ địch một cách thần tình. Hoặc giả như phái Thiếu Lâm, thế đứng của họ là Cung Tiễn Mã, chân trái là Cung, chân phải là Tiễn hoặc khi chân phải Cung, chân trái Tiễn và hai chân ấy chính là Trục Tâm vậỵ
Nhưng Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng thì không như thế, toàn thân có thể là Trục Tâm, trong nhà võ, các bộ vị nào không thể dùng khí lực được, thì Tuyết Sơn Chưởng có thể vận dụng tất cả.
Âu Dương Phong dùng thế võ đầu Minh Đà Thiên Lý, tả chưởng phát ra là thế hư quyền, quyền bên hữu đánh thẳng vào eo lưng đối phương và trong khi y vừa xoay mình, liền biến sang thế Đại Mạc Lang Yên, quyền bên trái quay ngược trở về sau gáy mình, thừa lúc trong cái thế xoay người ấy, đánh thốc vào ốc o của đối phương, thế đánh ấy thật là quyền pháp trong thiên hạ không hề có.
Âu Dương Phong có ngoại hiệu là Tây Độc. Nguyên nhân vì chuyên dùng quyền pháp âm độc do đấy mà thành danh vậỵ
Đoàn Hoàng Gia thấy tả quyền, hữu chưởng của Âu Dương Phong một lượt công đến, liền khám phá ngay là thế hư nhiều hơn thực, nên đứng yên chẳng nhúc nhích, vờ như đón đỡ.
Quả nhiên không ngoài ý liệu, sức quyền của Âu Dương Phong chưa đánh tới, y đột nhiên thâu tay trở về rồi lại xoay lưng chuyển mình vung quyền công trở rạ
Đoàn Hoàng Gia thấy rõ lối quyền của đối phương, liền vung tay đón lạị Ông dùng thế Chưởng Lục Thủ của họ Nhạc, gạt mạnh một cái, đã hất được lối công của đối phương trở ra ngoàị
Âu Dương Phong không ngờ Đoàn Hoàng Gia ý thức và phá được quyền pháp kỳ dị của mình, trong lòng thầm kinh hãi, song chưởng xoay tít như chong chóng liên tiếp công ra bẩy chiêu theo thế Thất Tinh Biến Thủ (bảy vì sao che lấp tay).
Bảy chiêu ấy toàn dùng sức lực của chỉ và trảo, chuyên chọt vào mặt mũi tai mắt ngũ cung của đối phương cùng những huyệt đạo hiểm yếu trong người Đoàn Hoàng Gia nhảy tránh liên tiếp, thoát được cả sáu chiêu thế tấn công của đối phương. Nhưng đến chiêu thứ bảy thì bị trảo lực của đối phương chộp vào eo lưng, nếu như người khác thì sức mạnh của cái chộp ghê gớm ấy tất phải xương cốt gãy lìạ May nhờ Đoàn Hoàng Gia trời sanh ra dị bẩm, lúc còn làm Thái tử hít được Hoàn đơn bảo huyết của con Kim Tuyến Thiên Vương. Nên trừ ở tay chân và đầu mặt ra, toàn chân mọc lên một lớp da dầy cứng như vẩy con Linh ngư, thành thử cái chộp của Âu Dương Phong chẳng làm tổn hại gì đến Đoàn Hoàng Gia cả.
Âu Dương Phong cảm thấy ngón tay mình như chạm vào một lớp giáp sắt liền giựt mình kinh ngạc, y vội thâu tay nhảy trở ra sau và quát lên:
- Khoan đã!
Đoàn Hoàng Gia định dùng sức mạnh của Kim Cương Quyền Pháp để tấn công, thình lình nghe đối phương bảo ngừng tay, ông hết sức lạ lùng vừa đánh hỏi xem chuyện chi, thì Âu Dương Phong lại nói tiếp:
- Trận này khỏi đấu thêm nữa, trên người gã họ Đoàn này có mặc một lớp giáp sắt mỏng!
Hồng Thất Công cười lớn lên và nói:
- Lão độc vật ơi, xem mi có phải là Tông Chủ của một miền Tây Vực, cùng người ta đấu võ mà cho đến đối phương có hay không có mặc giáp cũng nhìn chẳng rả Đoàn Hoàng Gia là vua của một nước, đường đường chính chính so tài nhau cần gì phải mặc giáp sắt trong người chứ? Lão độc vật, mi tìm một chiếc chảo sắt thật dày, rồi đeo vào sau lưng để Hồng Thất Công này đánh cho một chưởng thử xem chiếc chảo sắt như cái mặt lọ nồi của mi có bể hay là không!
Trùng Dương thầm gật đầu biểu đồng tình, vì một võ gia khi ngoại công phu đã luyện đến mức thượng đẳng thì đối phương dù có mang một lớp giáp thật dày cũng có thể dùng sức mạnh xuyên thấu qua khỏi lớp giáp sắt và làm thân mình kẻ địch bị trọng thương như thường.
Hồng Thất Công không hổ là một Bang chủ của Cái Bang, những lời nói vừa rồi tuy cay cú nhưng xác thực vô cùng.
Âu Dương Phong thẹn quá sanh giận, cất giọng oang oang nói càn:
- Đoàn Trí Hưng làm hoàng đế, tất nhiên bọn ngươi sợ mà bưng bợ đủ điều, trong người rõ ràng có mang một lớp nhuyễn giáp, bọn ngươi còn giúp qua mắt lão Âu nầỵ
Đoàn Hoàng Gia khẽ cười, hai tay mở lấy sợi đai vàng ra rồi vạch áo cẩm bào ra và nói:
- Âu huynh cứ bảo là tôi mặc nhuyễn giáp trong người, xin huynh hãy nhìn kỹ đị
Ông vạch chiếc áo cẩm bào ra, bên trong là một chiếc áo hồ cừu, vạch lớp áo hồ cừu bên trong chỉ còn lại một lớp áo lót mồ hôi, nào thấy bóng dáng một lớp áo giáp nào!
Hồng Thất Công thấy vậy lại châm chích thêm:
- Lão độc vật, trên người của Đoàn Hoàng Gia có mang giáp hay không? Nếu tài nghệ nhà ngươi chẳng bằng kẻ khác thì sớm cút xuống Hoa Sơn trở về Tây Vực cho rồi! Lão ăn mày tuy dơ dáy, nhưng chẳng muốn nghe những lời thúi của mi!
Tây Độc vừa thẹn vừa tức, cười giảo quyệt và nói:
- Phải! phải! Tại ta nhìn lầm, trận tỷ võ nầy chưa kết cuộc, Đoàn Hoàng Gia, chúng ta tiếp tục đi thôi!
Lời nói vừa dứt song chưởng thình lình đẩy mạnh ra, lần này y đã đem Cáp Ma Công ra sử dụng, nên chưởng lực mạnh như thế núi nghiêng đá đổ ào ào bay áp đến tấn công Đoàn Hoàng Giạ
Thủ đoạn của Âu Dương Phong vừa rồi thật là tàn độc, thừa cơ đang lúc đối phương bận cởi áo, chẳng có chút phòng bị gì, bất thần dùng Cáp Ma Công để triệt hạ đối phương chẳng kịp trở taỵ
May nhờ Trùng Dương đứng bên ngoài nhanh tay lẹ mắt, hai ngón tay của bàn tay trái giơ thẳng ra phía trước phát ra một kình lực Nhất Dương Chỉ bay thẳng vào luồng Cáp Ma Công của Âu Dương Phong, tức thì hóa giải được hơn phân nửa sức mạnh của Cáp Ma Công.
Đoàn Hoàng Gia nhờ đấy mới tung mình nên tránh khỏi được Cáp Ma Công của Tây Độc ám hạị
Đoàn Hoàng Gia cả giận, đôi mày cau lại vừa định phản công trở lại thì Âu Dương Phong đã thâu song chưởng về cất giọng khàn khàn như tiếng phèn la bể kêu lên:
- Đại danh vang rền như Đoàn Hoàng Gia mà chỉ có thế thôi! Phải nhờ người lượt trận bên ngoài giúp cho một tay mới đuợc sao! Như vậy có khác nào hai chống một. Hà hà! Âu Dương Phong này kể như thắng cuộc rồi!
Theo quy định trong cuộc so tài thì Trùng Dương không nên giúp như thế, nhưng nếu chàng chẳng dùng Nhất Dưởng Chỉ để triệt bớt sức mạnh Cáp Ma Công của Âu Dương Phong đánh ra thì Đoàn Hoàng Gia thế nào cũng bị trọng thương ngay! Và nếu Đoàn Hoàng Gia không vạch áo ra để chứng tỏ sự ngay thẳng của mình thì Âu Dương Phong cũng chẳng dám tấn công một cách bất ngờ như vậỵ
Âu Dương Phong lấy cớ Trùng Dương làm trở ngại tấn công của y mà lý luận tự cho mình thắng cuộc.
Hồng Thất Công là người thứ nhất không phục, lên tiếng nguyền rủa không ngớt lờị
Đoàn Hoàng Gia sầm nét mặt lại nói với Âu Dương Phong:
- Trận này kể như thua đi, nhưng Âu huynh dám tiếp tục trận thứ hai chăng?
Âu Dương Phong thấy đối phương nhịn nhục chịu thua, dương dương đắc ý nói:
- Làm gì không dám, đừng nói trận thứ hai mà dù cho trận thứ ba cũng sẳn sàng hầu tiếp như thường. Chả cần nói nhiều, trận thứ hai đấu cách nàỏ
Đoàn Hoàng Gia không trả lời mà hỏi lại:
- Cây thiết tranh đàn, Âu huynh có đem theo chăng?
Âu Dương Phong hết sức ngạc nhiên, thầm nghĩ:
- Kỳ thật! Ta có cây đàn tranh bằng sắt tại sao y biết rõ vậy kìả
Y có ngờ đâu mười năm về trước tại Vân Nam, trên Mản Thương sơn, y đã dùng chiếc đàn tranh sắt ấy, bên trong gài hai con rắn giả có lò xo bật ra, và trong mồm hai con rắn giả lại có nọc rắn độc thiệt, cắn trúng Ngọc Động chân nhân suýt nữa vong mạng. Ngọc Động chân nhân lại chính là sư phụ của Đoàn Hoàng Giạ
Cho nên qua sự kinh nghiệm của sư phụ mình bị ám toán, Đoàn Hoàng Gia đã hiểu rất rõ tâm địa của Âu Dương Phong cùng chiếc đàn tranh độc hại ấỵ
Nghe Đoàn Hoàng Gia hỏi đến môn khí giới độc đáo của mình, Âu Dương Phong liền gật đầu đáp:
- Phải! Ta có một cây Thiết Tranh, Đoàn huynh định giao đấu binh khí với ta chăng?
Đoàn Hoàng Gia mỉm cười đáp:
- Chính thế! Trận thứ nhất chúng ta so quyền thì trận thứ hai chúng ta tỷ thí binh khí vậy!
Âu Dương Phong liền chạy bay xuống hang núi, lôi trong hành trang của mình ra một cây đàn tranh bằng sắt dài độ thước hai, trên mặt cây đàn nước sơn đen nhánh, bóng loáng như thoa dầụ
Đoàn Hoàng Gia thì rút thanh Côn Ngô Kiếm của Ngọc Động chân nhân truyền tặng cho, cầm chặt trên tay gạt mạnh một cái và nói:
- Phong huynh ra tay đi!
Âu Dương Phong đôi mày nhíu lại, thầm nghĩ trong bụng:
- "Mi tưởng dùng binh khí để tìm sự thắng lợi được ư! Chỉ nằm mơ thôi".
Nghĩ xong, chẳng cần nhường nhịn khách sáo, loang vút cây thiết tranh theo thế Ngũ Huyền Giao Minh (năm dây hòa reo) rồi Kim Phong Kiếm Vũ (gió vàng chống mưa).
Đầu chiếc đàn vừa đánh vừa đập, mới ra tay đã tấn công hai chiêu vừa hư vừa thực, đánh vụt vào eo lưng đối phương.
Đoàn Hoàng Gia không chút bối rối, dùng Vân Phất kiếm pháp để đối phó.
Pho kiếm pháp này tổng cộng có ba mươi sáu chiêu do Ngọc Động chân nhân rút tỉa từ những thế đánh trong cây phất trần mà chế biến rạ
Trước tiên Đoàn Hoàng Gia đùng thế Dật Phất Khư Vân (phất cánh đuổi mây), ngọn kiếm lật ngang và quét tròn một vòng ngay vào thiết tranh nghe "tưng tưng!" một tiếng, cây thiết tranh của Âu Dương Phong liền bị đỡ hất trở lại trông rất nhẹ nhàng như chẳng một chút phí sức nào cả, khiến Âu Dương Phong hoảng sợ giật mình đánh thót.
Hai chiêu số của Tây Độc công ra vừa rồi đều dùng độc thủ, sức mạnh dị thường mà Đoàn Hoàng Gia lại có thể đón đỡ hết sức nhẹ nhàng như vậỵ
Âu Dương Phong nóng mắt hừ to một tiếng tức thì cây đàn tranh bay múa khắp Đông Tây tựa như gió dập mây cuồng, khi đánh ra như gậy, lúc đón lại như tấm bia dầy, tấn công lợi hại như đao, như kiếm nhưng khi phòng thủ thì kín đáo như vách sắt tường đồng.
Nói tóm lại cây đàn tranh của Âu Dương Phong có thể áp dụng một lượt:
côn, bổng, đao, kiếm, thuẫn bài, luôn cả chiêu thuật điểm huyệt của phán quan bút, thật là món binh khí lợi hại vô cùng.
Lại còn có khi trong thời gian tấn công đối phương, y lại dùng tay khẩy lên cung đàn phát ra những tiếng nhạc tinh tang. Khúc điệu của tiếng nhạc ấy bao hàm những âm thanh thê lương sát phạt, dụng ý làm rối loạn tâm thần của kẻ địch, hầu dễ triệt hạ đối phương.
Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư đứng bên ngoài nhìn xem trận đấu, thấy vậy liền nghĩ thầm:
- Té ra Âu Dương Phong lại có cả tuyệt kỹ này nữả Đoàn Hoàng Gia cớ sao đã biết rõ thủ đoạn của đối phương độc hại như vậy, lại còn yêu cầu đối phương đem ra đối đầu, thật là kỳ quặc!
Đoàn Hoàng Gia thần sắc vẫn ung dung, thanh Côn Ngô kiếm che trước đỡ sau, ánh sáng xanh biếc lập lòe khắp nẻo dưới trên, chống đỡ tất cả các thế, lúc đao, lúc kiếm, khi công khi bia của chiếc đàn tranh đen thui kiạ
Tiếng đàn của Âu Dương Phong không làm rối loạn được tai mắt của Đoàn Hoàng Giạ Hai người quây quần giao đấu nhau trên đỉnh Hoa Sơn tựa như hai chiếc xe gió đang xoáy tít quay tròn vào nhau, đấu trên trăm hiệp vẫn chưa phân được hơn thuạ
Trời dã dần dẫn tối hẳn, mặt tuyết đóng trên đỉnh Hoa Sơn lấp lánh những tia nắng hoàng hôn yếu ớt rọi hắt vào trận đấụ
Âu Dương Phong cùng Đoàn Hoàng Gia hỗn đấu trên trăm hiệp. Âu Dương Phong thấy kiếm pháp của đối phương tuy trầm ẩn kín đáo, nhưng đi đi lại lại, chỉ có ba mươi mấy thế kiếm đó thôi, hơn nữa chỉ thủ chứ ít công, không dám chống đỡ thẳng tay cùng y, hiển nhiên là công lực của đối phương không bằng mình.
Tây Độc tinh thần càng thêm phấn khởi, tự nhủ thầm:
- Ta còn phải để dành sức lực ứng phó với tên cường địch duy nhất là Vương Trùng Dương. Chi bằng dùng cơ quan bí mật trong chiếc thiết tranh ám toán cho lão vua này bị thương cho rồi, để sớm rảnh tay tranh đoạt Cửu Âm Chân Kinh với gã Trùng Dương, kẻo ngày giờ càng diên trì e sanh thêm nhiều biến cố khác bất lợi cho mình.
Nghĩ xong đôi mày rậm cau lại, lập tức áp dụng ngay độc thủ của mình. Y bèn bợ tay vào đáy cây đàn tranh, rồi thình lình xoay cần đàn vào ngay người đối phương theo thế Văn Phi Điệu huyền (nàng Văn Phi khảy đàn), tức thì cây thiết tranh liền trầm xuống, quét ngang trở ra dường như sắp đánh vào hạ bộ của Đoàn Hoàng Gia vậỵ
Đoàn Hoàng Gia vội tung mình nhảy bổng lên theo thân pháp Bình Bộ Thanh Vân (chân bước ngang mây xanh) cả người lẫn kiếm phi thân lên cao hơn sáu thước rồi đáp nhẹ ra ngoàị
Âu Dương Phong cười lên một tiếng gian hoạt, tay trái vươn thẳng ra trước, tay phải đảo ngược chiếc đàn tranh, tức thì có hai tiếng "tình tang" vang lên, hai con rắn giả từ trong cây đàn bật ra ngoài, đầu rắn ra như hai mũi tên bay vút vào eo lưng của Đoàn Hoàng Gia táp nhầụ
Trùng Dương bên ngoài thấy rõ ràng, trong lòng hết sức lo âu cho Đoàn Hoàng Gia, nhưng không tiện dùng Nhất Dương Chỉ dể trợ cứu và dù có muốn ra tay cũng không còn kịp nữa vì hai miệng rắn táp trúng vào eo Đoàn Hoàng Gia rồị
Nào ngờ một luồng ánh sáng lạnh thoáng mất, tiếp theo có hai tiếng "tong tong!" như hai tiếng dây đàn bị đứt, rồi có hai vật đen thui thủi tựa như hai mũi ám khí từ trong ánh kiếm bay xẹt trở ra rơi lộp bộp trên mặt tuyết.
Tiếp theo đấy bóng hai người liền phân ra hai phíạ
Đoàn Hoàng Gia thâu kiếm trở về nét mặt tươi cườị
Âu Dương Phong thì ôm ngang cây đàn tranh, gương mặt teo héo đứng ngẩn người tại chỗ.
Đoàn Hoàng Gia cười lớn và nói:
- Trong binh khí của Âu huynh lại có cả linh vật biết cắn người, hôm nay Đoàn mỗ này mới được sáng mắt rạ
Thì ra Đoàn Hoàng Gia do sư phụ là Ngọc Động chân nhân thuật lại biết rõ trong cây thiết tranh của Âu Dương Phong có giấu ám khí giết ngưới nên cố ý kỳ kèo y giao đấu binh khí, dụ cho y đem ám khí ấy ra sử dụng.
Pho Phất Vân Kiếm Pháp của Đoàn Hoàng Gia không phải chỉ thủ mà chẳng có công, thật sự là ông cố ý giấu mất tất cả chiêu thế tấn công lợi hại để đấu dây dưa với Âu Dương Phong, nung đốt thêm sự cuồng ngạo tự đại trong lòng y, và như vậy y thế nào cũng bắn đầu rắn giả ra tấn công. Ông mới có dịp dùng một thế kiếm chớp nhoáng chém đứt hai chiếc đầu rắn tai hại ấy để hạ nhục Âu Dương Phong cho bõ ghét.
Âu Dương Phong tuy là một gã mưu mô gian hoạt, nhưng cũng không sao đoán được thâm ý của đối phương nên bị Đoàn Hoàng Gia lột trần dã tâm của mình như vậy thẹn đến mặt mày tím lịm, xấu hỗ không sao mở lời được.
Hồng Thất Công cười lên ha hả và nói:
- Lão độc vật, món đồ chơi độc hại của mi đã bị phá mất rồi, còn chưa chịu thua saỏ Lần này Trùng Dương Chân Nhân chẳng có giúp tay đấy nhé.
Âu Dương Phong giọng hậm hực nói:
- Thua một trận thì đã sao! Bất quá là hai người hòa nhau thôi chứ gì.
Trùng Dương vốn tánh khiêm tốn hòa dịu, thấy Âu Dương Phong dù sao cũng là một vị chúa tể của miền Tây Vực không nỡ hạ nhục y quá đáng nên cười và nói:
- Đủ rồi, đủ rồi! Chư vị đều tài nghệ tuyệt luân, chẳng ai kém ai cả.
Tiểu đệ may mắn hai lần được rảnh tay, bây giờ thì xin rút thăm để đấu lại!
Âu Dương Phong nhấp nháy đôi mắt lộ rồi đưa ra một đề nghị:
- Vương Chân Nhân, phương pháp rút thăm đó xem ra chẳng công bằng chút nào, tôi có một ý kiến mớị
Hồng Thất Công liền hỏi vặn:
- Tại sao lại chẳng công bằng hở lão độc vật? Mi nói thử ta nghe đi!
Âu Dương Phong đáp:
- Lão ăn mày thúi nhà mi chỉ biết có cái ăn nhậu cho no ruột thẳng bụng nên lú mất. Mi đâu có hiểu vị Toàn Chân Giáo Chủ này thần cơ diệu toán mưu trí khôn lường, ông ta đứng bên ngoài làm kẻ đứng núi cao xem hổ đấu, chờ đến lúc chúng ta đấm đá xong chân tay rời rã, ông ta sẽ an nhiên mang Cửu Âm Chân Kinh đi, mà chẳng ai làm gì được.
Hồng Thất Công quát nạt:
- Nói bá láp!
Trùng Dương bỗng lên tiếng:
- Phong huynh, nếu vậy theo ý kiến của Âu huynh thì làm cách nàỏ
Âu Dương Phong liền đáp:
- Tôi là một tên dân quê thô lỗ từ Tây Vực đến đây, chẳng có ý kiến gì cao sâu cả, nhưng tôi có một cách khác rất đơn giản.
Vừa nói vừa thò tay vào túi một lúc khá lâu, lôi ra hai đồng tiền vàng từ trào Hán màu vàng lấp lánh sáng ngờị
Âu Dương Phong dồi dồi hai đồng tiền vàng trong tay và cười nói:
- Chúng ta sẽ xin quẻ âm dương để quyết định vậy!
Hồng Thất Công xì một tiếng và hỏi:
- Cách nào gọi là quẻ âm dương?
Âu Dương Phong cười khà khà và đáp:
- Lão ăn mày thúi sao mà ngu quá thế! Ta hiện tại có hai đồng tiền vàng trên tay, mỗi người luân phiên nhau thảy hai đồng tiền này lên để xin quẻ âm dương, nếu đồng tiền ngửa là thắng, sấp là bại, mỗi người thảy ba lần. Nếu người nào thảy ba lần liên tiếp đều sấp cả thì phải đứng ra một bên, để bốn người khác thảy lại, và kẻ nào sấp nhiều hơn ngửa hoặc hai lần đều sấp cả thì phải ra đấu với người kiạ
Trùng Dương cười nói:
- Ý kiến rất hay! Vậy vị nào thảy trước?
Hồi 42
Hồng Thất Công bèn nói:
- Lão độc vật, ý kiến của ngươi đưa ra thì ngươi phải thảy trước đi!
Âu Dương Phong trợn mắt trắng giã ngó Hồng Thất Công một cái, rồi lấy hai đồng tiền và nói:
- Các vị nhìn kỹ đây, trên hai mặt đồng tiền này đều có màu vàng sậm và có hình nổi là ngửa, và mặt bên kia là sấp!
Nói xong vái lầm thầm lên vài tiếng và liên tiếp thảy ba lần đều ngửa cả mặt có hình nổi nằm ngửa lên trờị
Hồng Thất Công thấy vậy thầm nghĩ trong lòng:
- Nguy rồì bọn mình đã bị lão độc vật này lừa rồỉ
Thì ra hai đồng tiền vàng ấy là vật mà Âu Dương Phong thường ngày dùng để luyện chỉ lực cho nên phía ngoài đồng tiền không có gì khác lạ, nhưng cận ở trung tâm chỗ lỗ đồng tiền, hoàn toàn bị chỉ lực của Âu Dương Phong xóa mỏng bớt, thành thử đồng tiền trở nên ngoài nặng trong nhẹ, dày mỏng không đềụ
Âu Dương Phong dồi hai đồng tiền lên cao, khẽ dùng chỉ lực búng nhẹ một cái và như vậy tất nhiên hai đồng tiền bị lật ngửa cả.
Lối ăn gian của Âu Dương Phong đâu thoát khỏi đôi mắt của Trùng Dương và mọi người nhưng bọn họ thầm nghĩ thân phận mình là tông sư của một phái, đâu có thể học theo cách thức gian lận của Âu Dương Phong được. Nên họ tảng lờ như không biết, mặc cho Âu Dương Phong dương dương tự đắc thầm.
Bốn người phân phiên nhau thảy hai đồng tiền vàng ấy, kết quả Trùng Dương và Hoàng Dược Sư hai ngửa một sấp. Đoàn Hoàng Gia thì hai sấp một ngửa và Hồng Thất Công ba lần đều sấp cả.
Y theo quy củ đã định thì Hồng Thất Công bị loại ra khỏi vòng và chỉ còn lại Hoàng Dược Sư, Đoàn Hoàng Gia, Âu Dương Phong và Trùng Dương gieo qua vòng chung kết.
Hồng Thất Công bỗng kêu lên:
- Khoan đã!
Âu Dương Phong giận dữ nói:
- Cái gì khoan với chẳng khoan, thằng ăn mày thúi mi định trở mặt phải không?
Hồng Thất Công hừ một tràng và đáp:
- Nói xàm! Lão độc vật, hai đồng tiền là sở hữu của mi, đúng ra mi cần nên nhường cho ba người kia gieo trước, rồi mi mới gieo sau mới phải lẽ.
Âu Dương Phong nhấp nháy đôi mắt lộ, thầm nghĩ:
- Hai đồng tiền ấy đối với mình đã quen tay như bỡn, thí dụ gieo trước hay gieo sau cũng vậy mà thôi!
Âu Dương Phong nghĩ vậy bèn trao hai đồng tiền cho Trùng Dương gieo trước.
Trùng Dương, Đoàn Hoàng Gia và Hoàng Dược Sư đều hai sấp một ngửạ
Âu Dương Phong thầm mừng trong lòng tiếp lấy hai đồng tiền, vẫn y theo ngón cũ dồi mạnh lên không trung và ngón tay lén búng vào đồng tiền. Y tự tin chắc là luôn ba quẻ sẽ đều ngửa cả, và thế nào Hoàng Dược Sư và Đoàn Hoàng Gia trong hai người thế nào cũng có một ra trận đấu với Hồng Thất Công và y đứng bên ngoài tọa hưởng thế Ngư Ông Đắc Lợi!
Ngờ đâu Âu Dương Phong vừa dùng sức búng mạnh hai đồng tiền lên bảy tám thước cao và rơi nhanh xuống, y thấy rõ đồng tiền lăn tròn trên đất và mặt sấp nhằm úp xuống đất, thì bất thình lình trong thời gian khoảnh khắc ấy, hai đồng tiền vàng bỗng đảo mạnh một cái, mặt úp liền được lật lên và mặt ngửa lại nằm úp dưới đất, rõ ràng là quẻ ngửa, bỗng nhiên lại biến thành quẻ sấp một cách kỳ bí.
Âu Dương Phong kinh ngạc đến giật mình đánh thót. Y vội trợn đôi mắt trắng dã nhìn khắp mọi người, thấy Trùng Dương, Hoàng Dược Sư cùng Đoàn Hoàng Gia cử chỉ chẳng có gì khác lạ, chỉ có Hồng Thất Công trên khóe môi còn sót lại nụ cười châm biếm.
Âu Dương Phong liền biết ngay Hồng Thất Công đã giở trò quỷ hại mình nhưng y chưa nắm được bằng cớ đích xác, chỉ đành nuốt giận lượm hai đồng tiền lên để gieo tiếp lần thứ haị
Lần này Âu Dương Phong đã để tâm lưu ý, hai đồng tiền vừa dồi lên không trung và khi sắp rơi xuống đất, y nhìn thấy rõ hai ngón tay của Hồng Thất Công nhẹ búng khẽ vào khoảng không bắn ra một viên đất bay vào đồng tiền, viên đất nhỏ ấy chính là bụi đất mà Hồng Thất Công đã kỳ cọ trong người và vo tròn thành viên vậỵ
Hai đồng lăn tròn dưới đất và sấp sửa lật ngửa lên, bỗng nhiên biến thành sấp cả.
Âu Dương Phong giận đến hai mắt như đổ lửa ra, gầm to lên:
- Lão ăn mày thúi, mi biết nhục hay là không?
Hồng Thất Công cười to và đáp:
- Đã làm ăn mày thì không biết nhục rồi nhưng trên đời lắm kẻ còn không biết nhục hơn ăn mày nữa kìa, trong cây đàn tranh lại giấu vật hạ tiện để hại người, dùng thủ đoạn để ăn gian kẻ khác, có phải là quân chẳng biết nhục hơn hạng ăn mày không?
Âu Dương Phong lửa giận xông lên đỉnh đầu, không thèm phân biệt hơn thua, gầm lên như cọp, nhảy đến chụp nhầu Hồng Thất Công.
Hồng Thất Công cười lên ha hả và nói:
- Hay lắm, lão độc vật, chúng ta đánh nhau một trận cho đã thèm.
Âu Dương Phong chẳng nói chẳng rằng, hai tay múa tít, áp dụng Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng Pháp, tay bên kia dùng thế Thiên Lý Lưu Sa (ngàn dặm lưu trên cát), tay nọ biến thành chiêu Tiền Phong Chấn Mạc (gió lốc chấn sa mạc), hai tay hai bên như hai cánh cung, nhứt tề công tới, lại còn kẹp theo kình lực của Cáp Ma Công định giết chết Hồng Thất Công trong khoảng khắc xuất thủ ấỵ
Hồng Thất Công chẳng chút khiếp sợ liền sử dụng ngay Giáng Long Thập Bát Chưởng để đối phó, thân hình tung bổng lên không trung theo thế Phi Long Tại Thiên (rồng bay lên trời ) tránh khỏi chưởng lực của đối phương vừa công đến, tiếp theo đẩy lật tay đánh trở ra một chưởng Chiến Long Tại Dã (đánh rồng ngoài biển hoang) chém mạnh vào lưng Âu Dương Phong.
Âu Dương Phong hai tay vung tròn, quay người trở lại theo thế Tuyết Ủng Tuyết Sơn (tuyết đóng trên núi tuyết) một tay đẩy một tay hất, chạm mạnh với thế chưởng của đối phương, tức thì "bùng", "bùng" hai tiếng nổ dữ dộị
Hồng Thất Công bị chấn động đến đầu óc choáng váng, vội nhẩy chéo sang bên để tránh bớt sức dội của chưởng phong.
Âu Dương Phong cũng bị sức dội ép của hai làn chưởng lực đẩy sang phía cạnh hết năm sáu bước.
Qua sự giao tay vừa rồi, mọi người đều thấy rõ ngoại công của Hồng Thất Công và Âu Dương Phong có thể nói là một bên tám lượng, người thì nửa cân, chẳng ai chịu kém aị
Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công thì thiên về hùng hậu uy mãnh, còn Tuyết Sơn Thần Đà Chưởng pháp của Âu Dương Phong thì trái lại lẹ làng nhanh nhẹn, phiêu phiêu bất định, chưởng lực một nhu một cang xoắn tít lẫn nhaụ Với kinh nghiệm vừa qua, cả hai đối thủ không ai dám khinh xuất cho chưởng phong va chạm vào nhaụ
Hai người một qua một lại, thấp thoáng quay tròn giữa cảnh đêm.
Đấu nhau hơn hai trăm hiệp vầng trăng đã tỏ rạng giữa đỉnh đầu, dần dần đã bước qua khỏi thời gian canh ba, không khí trên núi lúc ấy càng tỉnh mịch lạnh lẽo khác thường.
Lúc Âu Dương Phong và Đoàn Hoàng Gia đấu nhau, thì đã xế chiều trời lặn. Khi Âu Dương Phong cùng Hồng Thất Công đụng trận, thì đêm đã rũ xuống từ lâụ
Trùng Dương thấy hai người đấu nhau trên hai trăm hiệp, sợ e nếu kéo dài thêm trận đấu, tất thế nào cũng có người bị thương sẽ mất cả ý nghĩa của buổi đại hội Hoa Sơn luận kiếm. Nên chàng liền lên tiếng khuyên dứt:
- Thôi hai vị hãy ngừng tay! Đừng đấu nữa, đũ rồi! Nghỉ ngơi nửa đêm, rồi sáng mai sẽ đấu tiếp!
Âu Dương Phong giả như chẳng nghe, liên tiếp công ra mấy chiêu lẹ như chớp, rồi bất thình lình kêu lên một tiếng "Cốc" quái dị, thân hình rùng xuống, hai tay chống đất, hai chân bạch ra, ngồi chồm hổm dưới đất như thể một con cóc đang rình mồị
Hồng Thất Công thấy thế, liền biết ngay Tây Độc sắp sửa dụng Cáp Ma Công, y lập tức thâu nhanh thế công nhảy thối lui ra sau, áp dụng Giáng Long Thập Bát chưởng phòng thủ kín môn hộ, huyệt đạo trong ngườị
Hai người ghìm thế mà chẳng bên nào tấn công, tựa như hai con hổ đang rình nhau vậỵ
Trùng Dương thầm kêu khổ trong lòng, vì hai người đã đi đến một trận thế quyết liệt, mỗi người đều áp dụng tất cả thượng thặng võ công bổn môn để triệt hạ đối phương, đâu còn ý nghĩa một trận võ thuật giao hữu để cân phân tài nghệ hơn kém, mà là một trận kịch chiến để tẩy sạch thù hận chẳng nương tay một đường tơ kẻ tóc.
Trùng Dương bỗng sực nhớ một cách, chàng đột nhiên nhảy vọt vào trận, đứng ngăn giữa Hồng Thất Công và Âu Dương Phong rồi nói:
- Hai vị đấu nhau trên hai trăm hiệp đã đủ một trận rồi, nên nhường lại cho các vị khác đấu trận kế.
Âu Dương Phong không ngờ Trùng Dương dám ngang nhiên nhảy ra, lấy thân mình làm bức tường ngăn chận giữa hai người, ác ý liền phát sanh trong đầụ
Y bỗng kêu lên một tiếng "cốc!", vận đầy Cáp Ma Công vào hai tay, song chưởng nhanh nhẹn phân thành tả hữu đẩy ra, tức thì có một luồng gió mạnh bạo, sức có thể lở núi dời non, bay ập vào người Trùng Dương.
Tây Độc qua một lần ám toán Đoàn Hoàng Gia lúc nãy bị Trùng Dương dùng Nhất Dương Chỉ phá nát nên đã rút tỉa được kinh nghiệm, tự biết rõ nếu Trùng Dương ra mặt đối công thì khó mà hy vọng thủ thắng được chàng.
Do đấy trong cây thiết tranh đầu rắn cùng sự đặc biệt huấn luyện xà trận, mai phục sau núi là hoàn toàn để đối phó Trùng Dương. Nào ngờ lần hội Hoa Sơn này mọi việc chẳng như y liệụ Xà trận bị Hồng Thất Công phá mất, sự bí mật của cây thiết tranh thì bị Đoàn Hoàng Gia phơi bàỵ
Cho nên Âu Dương Phong đối với Trùng Dương vừa thù hận lại vừa nể sợ, gặp được cơ hội có thể triệt hạ được Trùng Dương là chộp ngay không chút chần chờ, với lối tấn công xuất kỳ bất ý vừa rồi, y rất hy vọng có thể đánh ngã được Trùng Dương trong nháy mắt.
Nhưng Trùng Dương đã sớm đề phòng trước, luồng kình lực Cáp Ma Công mạnh như thế núi đổ sóng tràn kia vừa ập đến, Trùng Dương sực nhớ đến uy lực của Thiên Cang Bắc Đẩu trận của sư phụ để lại, tâm linh thốt động, ngộ ý bỗng khai thông, hai chân chàng liền thoắt bước, đầu tiên đạp lên vị trí Thiên Triều, chờ cho chưởng lực của Âu Dương Phong vừa công tới, Trùng Dương liền xê dịch bộ pháp chuyễn sang vị trí Ngọc Hoành, ngầm vận sức mạnh của Nhất Dương Chỉ, nhè nhẹ đẩy trở rạ
Âu Dương Phong lẫn kình lực Cáp Ma Công văng bật sang bên cạnh.
Đây là lần đầu tiên Trùng Dương trọng dụng Thiên Cang Bắc Đẩu Trận mà đã nhẹ nhàng phá được kình lực Cáp Ma Công lợi hại của Âu Dương Phong và còn đưa tạt về một phía, khiến Âu Dương Phong không gượng được thế, "ầm" một tiếng như trời long đất lở, đá vụn bắn lên ào ào như mưa cả một khoảng rộng hơn trượng, một tầng nham thạch to lớn như một tòa núi nhỏ cao trên sáu thước, đường kính độ mười thước bị kình lực của Cáp Ma Công tông phải bể thành muôn mảnh to nhỏ rơi lả tả khắp mặt tuyết.
Con người dù sao cũng bằng xương bằng thịt, đá là vật vô tri vô cùng rắn mà Âu Dương Phong đánh nát đá ra thì sức dội lại cũng vô cùng hùng mạnh, hai bắp thịt trên lòng ngực của Âu Dương Phong bị chấn động dử dội, xương chấn thủy đau buốt như lửa đốt, mát tóe sao vàng, loạng choạng ra sau một bước, nếu không kịp thời gượng được là sẽ trượt chân lăn lông lóc từ trên đỉnh xuống chân núi Hoa Sơn rồi, may nhờ liều mạng vận sức bấu chặt hai chân xuống đất, buông người té ngồi trên mặt tuyết mới thoát khỏi cơn nguy hiểm.
Trùng Dương cười lớn và nói:
- Bạch Đà Sơn Chủ, lần này nhà ngươi đánh bể nát tảng đá, dã tâm của ngươi đã lộ ra cho mọi người thấy rõ rồi! Thôi chớ nên đánh nhau nữa, nghỉ ngơi một lát để dưỡng khí định thần.
Âu Dương Phong bị sức dội vừa rồi, khí lực đã tiêu hao gần hết, chỉ đành nuốt giận ngồi yên.
Ngũ Bá chia nhau mỗi người tìm một nơi thích đáng ngồi xuống, mỗi người dùng phương pháp tọa công để dưỡng thần tịnh khí. Mỗi người mỗi phương thức tọa công khác nhaụ
Trùng Dương thì hai mi sụp xuống hai tay bám lên đầu gối, tam hoa tụ đỉnh, tâm lặng như nước, trí hoàn hư vô, mường tượng như một lão tăng nhập định tham thiền.
Hoàng Dược Sư trái lại vòng mắt đảo quanh bốn phía, môi mấp máy không thôi, miệng lẩm bẩm nho nhỏ, tựa như thấy cảnh đêm trăng tuyết, cảnh sắc lộ huyền của núi Hoa Sơn, khiến tình thơ lai láng, nên ngâm vài bài thất tuyệt cho vơi nguồn thị
Đoàn Hoàng Gia thì cử chỉ y như Trùng Dương, mắt hướng về tâm thần, du tuyệt cảnh vọng tâm cởi mở lòng chẳng xuyến xao vì ngoại cảnh.
Còn Hồng Thất Công lại xếp bằng, gác ngang cây gậy trúc trên bắp vế, miệng ngâm ư ử bài ca "Hoa sen tàn, kiếp cơ hàn, kẻ ăn mày lang thang...", tay thì gõ lên mặt tuyết để giữ nhịp điệụ
Riêng Âu Dương Phong tuy bên ngoài vận công điều khí, nhưng ánh mắt không ngớt lưu chuyển khắp mặt bốn địch nhân của mình, sắc thái lúc buồn tức giận biểu lộ rõ ràng tâm trạng dao động của y.
Trời vừa rạng sáng, vầng đông mới ló dạng ở góc trời, Âu Dương Phong đã nhảy chồm dậy gọi lên oang oang :
- Lão ăn mày thúi, sức lực mi đã khôi phục chưa, đêm qua đánh chưa đã tay, hôm nay đánh tiếp .
Hoàng Dược Sư vội đứng dậy nói :
- Trận vừa rồi hai vị chẳng ai thua ai, còn đánh chi nữa, tôi có một ý kiến !
Hồng Thất Công quay lại hỏi :
- Hoàng huynh lại có cao kiến gì thế ?
Hoàng Duợc Sư đáp :
- Chúng ta mỗi người ngâm một câu thơ, người nào ngâm chẳng ra, hay ngâm nghe chẳng được thì kẻ ấy phải ra đối trận.
Hồng Thất Công lắc đầu lia lịa nói :
- Hoàng huynh, vụ ấy thì tôi chẳng dám vâng lời rồi, trong bụng lão ăn mày này chẳng có bao nhiêu chữ, cái gì về thơ từ thi phú thì đệ chẳng thông chút nào cả !
Trùng Dương cũng xen lời :
- Thi phú là một lối văn học vị tất đã có người sành sỏi ? Ai ngâm hay, thi pháp thông hay không thông cũng không có một vị trọng tài quyết định chọ Tốt hơn hết là kể chuyện cổ tích có phần đơn giản hơn, người nào kể chuyện nhạt nhẽo nhất thì kẻ ấy phải ra trận vậy !
Hồng Thất Công và Đoàn Hoàng Gia đều vỗ tay tán đồng.
Hoàng Dược Sư cũng chẳng phản đối, còn Âu Dương Phong vốn là một tên mã tặc xuất thân, đâu biết gì ngắm trăng vọng nguyệt, nên cũng rất bằng lòng về đề nghị của Trùng Dương .
Trùng Dương lại nói tiếp :
- Nếu vậy tôi xin kể trước cho quý vị nghẹ
Nói xong chàng bắt đầu kể :
- Ngày xửa ngày xưa có một vị hòa thượng, một hôm nọ ông dắt một tiểu xa di (thầy chùa con) đến một thị trấn nọ. Đi dọc đường tới dưới một cây, chú tiểu bỗng bắt gặp một bao hành trang, trong bao hành trang ấy đầy ăm ắp những thỏi vàng óng ánh.
Hồng Thất Công cười to ngắt lời :
- Chu choa ! Lại có chuyện kỳ dị như vậy ! Nếu lão ăn xin này mà vớ phải thì lập tức chạy bay đến chợ đổi rượu thịt ăn uống bảy ngày bảy đêm cho phủ phê.
Trùng Dương cũng cười và nói :
- Hồng huynh đừng đùa bỡn chứ.
Chàng lại kể tiếp :
- Chú tiểu hết sức mừng rỡ bèn thưa với lão hòa thượng :
"Thầy ơi !
Có phải là vàng thật không ! Thầy trò ta phát tài rồi ? Thầy và con nên hoàn tục để làm phú ông sung sướng hơn !" Lão hòa thượng sầm nét mặt lại quát mắng :
- Nó nhảm ! Đây đâu phải là vàng mà là thứ thuốc độc hại người ?
Mi không tin, thử thì biết .
Nói đoạn kéo tay chú tiểu núp sau gốc câỵ
Một lát sau có ba người bộ hành đi tới, toàn là phu thợ nề, thợ mộc, tay cầm đồ nghề, có lẽ là vào kinh để tu bổ nhà cửa cho một vị phú ông nào đó.
Ba người thình lình bắt gặp túi vàng dưới cội cây, mừng rỡ như muốn phát điên vậy .
Tên thợ mộc liền nói :
- Bọn mình hôm nay gặp tài thần ban lộc rồi, được bao vàng này chúng ta chẳng cần làm thợ nữa, có mặt thì chia ba người ba phần mạnh ai nấy lãnh .
Một tên thợ mộc khác lại bàn :
- Khoan đã, từ nay về sau chúng ta không còn nghèo nữa, cần phải say sưa một trận để ăn mừng !
Này lão nhị, trong túi ta còn chút ít tiền, chú mày vào thị trấn mua chút ít rượu thịt chúng ta uống một bữa no say rồi sẽ chia ba số vàng này ra, có phải thích không ?
Gã thợ mộc trước hết sức tán thành, lĩnh tiền và đi ngay vào thành để hai tên thợ mộc kia ở lại canh chừng số vàng.
Hai tên thợ mộc liền nhướng mày nhíu trán bàn luận nho nhỏ, một lúc khá lâu thì tên thợ mộc thứ nhất đã về, tay xách một hũ rượu và thêm một đùm thức nhắm mùi thơm phưng phức.
Hai tên thợ mộc ở lại giữ số vàng kia đồng hét lên một tiếng, rút chiếc búa trong đống đồ nghề ra chém chết tên mang rượu thịt về.
Hồng Thất Công bỗng ngắt lời hỏi :
- Chu choa ! Hai tên ấy định nuốt trọn số vàng chứ gì ?
Trùng Dương khẽ gật đầu đáp :
- Thì còn gì nữa, hai tên thợ mộc nghĩ rằng nếu đem số vàng chia cho hai thế nào cũng nhiều hơn chia cho bạ Nên hai người mới âm mưu giết chết đồng bọn của mình để chia số vàng được nhiều hơn một chút.
Hai người giết xong đồng bọn, hí hửng đem xác bạn vứt vào một chiếc hố sâu bên cạnh, tẩy sạch dấu vết sát nhân rồi hai người mới bày rượu thịt do tên thợ mộc vừa bị giết kia đem ra ăn uống.
Ngờ đâu ăn uống chưa hết thức ăn bỗng ôm bụng kêu la vang dội, giãy giụa lăn lộn dưới đất một hồi thì thất khiếu đều chảy máu và chết luôn .
Thì ra tên thợ mộc bị chém chết kia tâm địa còn độc ác hơn hai người kia thập phần, lúc y mua rượu thịt còn lén mua thêm độc dược Mã Tiền trộn vào rượu và thức ăn, định thuốc chết hai đồng bọn của mình để một mình nuốt trọn số vàng .
Hồng Thất Công le lưỡi nói :
- Độc thật, đúng là một bên tám lượng vừa đủ, một bên nửa cân cũng thừa ! Lão độc vật, tâm địa của lão với ba gã thợ mộc tham lam kia giống lắm vậy !
Âu Dương Phong trợn mắt nhìn Hồng Thất Công một cái, tuy lòng rất giận mà miệng khó nên lờị
Trùng Dương mới kể tiếp :
- Khi ấy vị hòa thượng gìa mới ra khỏi chỗ nấp, bước ra bảo chú tiểu:
"Này con, con đã thấy rõ chưa ? Bao ấy là bao vàng, hay bao thuốc độc !" Nói đoạn kéo tay chú tiểu bước đi chẳng thèm ngoảnh lại .
Câu chuyện cổ tích của Trùng Dương kể, dụng ý sâu xa, chàng đem Cửu Âm Chân Kinh tỷ dụ là bao vàng, mấy trăm năm nay võ lâm hào kiệt trong thiên hạ vì tranh Cửu Âm Chân Kinh mà tàn sát lẫn nhau không sao kể xiết. Một kẻ có tâm địa tốt, hà tất vì một quyển sách mà hao tâm mệt trí vô ích như thế !
Chàng vừa kể dứt, Đoàn Hoàng Gia và Hồng Thất Công thầm ngợi khen trong lòng.
Trùng Dương kể hết câu chuyện xong bèn nói :
- Bần đạo đã làm tròn phận sự rồi, tới phiên quí vị vậy !
Hoàng Dược Sư nói :
- Lời tỷ dụ của Vương Chân Nhân, chúng tôi đâu phải kẻ khờ mà chẳng hiểu thâm ý ấy ? Tôi cũng có một chuyện cổ tích tương phản với Vương Chân Nhân kể vừa rồi, chuyện cổ tích này vừa xẩy ra gần đây, chính là chuyện bổn trào Thừa Tướng Tần Cối vậỵ
Hồng Thất Công lên tiếng phản đối :
- Hoàng huynh, thiếu gì chuyện nhảm của Trương Tam, của Lý Tứ, sao Hoàng huynh không kể, lại đi nói chuyện gian tặc làm gì ?
Lúc ấy vua Dụ Khiêm bị bắt, tôn thất nhà Tống qua sông di đô về miền Nam. Tống Cao Tông tức vị Liên An. Nhưng quân Kim vẫn không bỏ qua phân nửa giang sơn còn lại của nhà Tống, Thái tử thứ tư của Kim quốc là Hoàng Nhan Ngột Truật thống lĩnh mấy vạn hùng binh vượt qua sông Trường Giang, công phá Kiến Khương (tức Nam Kinh).
Đuổi Cao Tông chạy đến Đại Hảị
May thay lúc ấy có một vị đại tướng văn võ song toàn, chính là Võ Mục Vương Nhạc Phi, thâu phục được một đám anh hùng trẻ tuổi như Hàn Thế Tung, Lực Kỳ, Trương Lăng v.v. mấy phen làm cho quân Kim thua xiểng niễng, nhờ ở Nhạc Phi trí dũng vẹn đôi, dụng binh như thần, đánh bại Ngột Truật Thái Tử chạy trối chết, giết quân Kim thây chết thành núi, máu chảy đỏ sông, mới giữ vững được nửa phần giang sơn của Nhà Tống.
Nhạc Phi còn dẫn binh truy kích theo, liên tiếp đụng nhau mấy trận, hủy diệt mấy vạn tân binh của Thái Tử Ngột Truật, thâu đoạt được mấy thành Thuận Xương, Ngạc Châu Chánh Dương, đuổi quân Kim thối lui chỉ còn cách thành Biện Lương không đầy mười tám dặm, sắp khôi phục được Kinh đô của Bắc Tống.
Ngờ đâu gian Thừa Tướng đương thời là Tần Cối cực lực chủ hòa, còn Tống Cao Tông sợ Nhạc Phi khôi phục được giang sơn cứu hai vua bị sanh cầm trên đất Kim trở về nước, thì địa vị chí tôn của ông sẽ không còn mà phải nhường lại cho hai vua cũ.
Do đấy Cao Tông bèn nghe theo lời gian thần Tấn Cối, dùng mười hai đạo Kim Bài liên tiếp triệu dụ Nhạc Phi thối binh trở về, lấy cớ ba chữ Mạc Tu Hữu, kết thành tội trạng hãm hại một vị đại công thần, trí dũng kiêm toàn phải chết oan tại Phong Ba Đình.
Cao Tông lại phải hạ mình van lạy Kim Bang để cầu hòa, lấy sông Chuẩn làm ranh giới để Cao Tông được ngồi yên trên địa vị làm vua của phân nửa nước Trung Hoạ
Bởi thế nhân dân bá tánh nhà Tống người người đều hết sức oán hận nguyền rủa tên gian thần Tần Cối đã manh tâm hãm hại Nhạc Phị
Cách ba năm sau Tần Cối ung thư ở sau lưng mà chết, mọi người đều cho dó là sự trừng phạt của đấng thiêng liêng.
Sau đấy Hiếu Tông Hoàng Đế tức vị truy cứu lại tội trạng của Tần Cối, tước đoạt quyền Thừa Tướng của Thái Sư trên lăng mộ của y và khôi phục lại chức vị cũ của Nhạc Phi, rửa sạch oan án trầm khiên của ông lúc trước.
Nhân dân bá tánh cũng chưa hả dạ bèn dùng thép trắng đúc thành hai hình tượng của vợ chồng Tần Cối quì trước lăng mộ của Nhạc Phi, nhận tất cả sự đánh đập sỉ vả của người đờị
Người đương thời có vịnh hai câu đối như sau :
Thanh Sơn hữu hạnh mai trung cốt, Bạch thuyết vô duyên đúc nịnh thần !
Ngoài ra, trong dân gian còn dùng bột mì làm thành hai người ôm nhau rồi bỏ vào chảo dầu sôi gọi là "Du tạc Cối" (Dầu sôi đun Tần Cối), theo âm ngữ Tàu nói là "dầu cha quẩy", ta thường gọi là "cha quẩy" thường ăn cặp với bánh bò lót lòng buổi sáng đấỵ
Như vậy đủ thấy nhân dân Trung Hoa căm hận Tần Cối đến nhường nào, cho nên Hoàng Dược Sư vừa đề nghị kể chuyện Tần Cối, Hồng Thất Công đã chu chéo phản đối không nghẹ
Hoàng Dược Sư bèn nói :
- Tôi chỉ kể một giai thoại của Tần Cối, chứ chẳng hề đề cao Tần Cối bao giờ !
Chàng lại đằng hắng một tiếng và bắt đầu vào chuyện :
- Tần Cối là một gian thần, mọi người đều thù ghét, chắc các vị biết rồi, nhưng con người Tần Cối thông minh tài trí, người thường khó mà sánh bằng.
Sau hoa viên của tướng phủ Tần Cối có trồng một cây cam. Một năm vào tiết mùa đông, cây cam kết trái saị Tần Cối trong lúc lững thững vào hoa viên tản nhàn, thầm ghi nhớ số trái cam quý. Qua vài hôm sau ông lại ra hoa viên, khám phá số cam trên cây mất hết vài mươi tráị
Tần Cối tự biết là đám tôi tớ dưới tay hái trộm chứ không ai khác, nhưng trong tướng phủ đông người khó mà tra gạn cho ra kẻ trộm cam được.
Tần Cối không hổ là một kẻ thông minh tuyệt thế, ông khẽ cau mày nghĩ ra một kế tra vấn kỳ diệụ Ông cho gọi tất cả dám người dưới tay đến trước mặt và nói:
- Cây cam này trổ quả, chua và rất the, ăn không được để cũng vô ích bọn bây hãy cưa đứt gốc cho ta !
Tần Cối vừa dứt lời thì đám thuộc hạ có một tên lên tiếng :
- Thừa tướng gia, cây cam ấy trái rất ngọt chứ đâu có chuạ Tướng gia đốn đi uổng lắm.
Tên Cối cười lớn và nói :
- Hay, hay ! Đã tìm ta tên trộm cam đây rồị Nếu mi chẳng bẻ trộm cam mà ăn, thì sao biết được cây cam kia có trái ngọt ? Đúng mi là trộm cam rồị
Tên nọ chỉ còn cách gầm đầu nhận tội mà không còn chối cãi vào đâu được.
Hồng Thất Công vỗ đùi đen đét cười và nói :
- Thú lắm, thú lắm ! Cái thằng Tần Cối thế mà cũng thông minh đáo để "Vô tài bất túc vi tề gian" (không tài khó có thể làm gian thần được) câu ấy thật không ngoa chút nào .
Trùng Dương vẫn ngồi im thin thít.
Chàng biết câu chuyện của Hoàng Dược Sư vừa kể rõ là châm chích mình ví mình như gian thần Tần Cối, đã biết Cửu Âm Chân Kinh là vật bất tường tại sao lại còn cất giữ để làm gì ? Có khác nào như Tần Cối giả ý đốn cam để gạt người chăng ? Miệng lưỡi của vị chúa đảo Đào Hoa này thật là lợi hại khó ai bì kịp.
Còn Âu Dương Phong vẫn giữ vẻ mặt lầm lì. Hừ một tiếng và lẩm bẩm một mình :
- Thật là đồ "rắm" thốị
Hồng Thất Công hiểu ngay là câu nói tục của Âu Dương Phong vừa rồi tiếng tiếp cốt ý mạt sát Trùng Dương là "đồ rắm thối". Lão bỗng sực nghĩ đến một câu chuyện tiếu lâm cũng hơi tục, bèn cười rằng :
- Vương Chân Nhân và Hoàng huynh đã kể xong giờ thì đến phiên lão ăn mày này kể. Nhưng miệng mồm của kẻ ăn xin thì không được sạch lắm, vì "miệng chó không thể mọc được ngà voi". Chuyện đời xưa của tôi kể có phần chói tai, mong quý vị cũng nên lượng thứ đừng trách.
Trùng Dương cười, nói :
- Bang chủ nói chi câu ấy, ai cũng biết Thất huynh là một người khinh thế ngạo vật, từng trải việc đời, chuyện của Thất huynh hẳn là thú vị lắm !
Hồng Thất Công nhìn Âu Dương Phong, cười khẩy một cái :
- Chuyện của tôi là chuyện Tam Quốc Chí, nhưng mà Tam Quốc Chí lại ghi sót và chỗ ghi sót ấy, chỉ có bọn ăn mày chúng tôi biết được thôị
Quí vị có bằng lòng nghe không ?
Đoàn Hoàng Gia cười ha hả đáp :
- Hay lắm ! Hay lắm ! Vậy Thất huynh hãy kể đị
Hồng Thất Công bèn kể :
- Quan Công trong đêm tối nọ, đốt đèn sáp ngồi đọc sách Xuân Thu, có Quan Bình và Châu Thương đứng hầu sau lưng.
Quan Công thốt nhiên mắc "đánh rắm". Quan ngài cố nín đánh thành tiếng nên xì một cái nhẹ nhàng.
Hồng Thất Công nói tiếp :
- Xin lỗi quí vị cho lão ăn mày nói tục một chút để đậm đà câu chuyện hơn.
(Thương Lan cũng xin lỗi quí bạn đọc giả bốn phương để dịch sát theo nguyên văn cho khỏi mất ý nghĩa thú vị của câu chuyện đang kể) .
Các vị đây, người nào cũng có kinh nghiệm của sự đánh rắm, đánh mà thành tiếng thì không thúi, nhưng thứ âm thầm không có tiếng kêu ấy, thì thật là thúi nực nồng, thúi không thể ngửi, mùi thúi nồng lên lỗ mũi của Quan Bình và Châu Thương.
Quan Bình giận quá chửi đổng kên :
- Thật là khổ hết chỗ nói ! Quân chó chết nào đánh rắm thế ?
Châu Thương tánh như lửa đốt, xách ngay cây Thanh Long Yểm Nguyệt Đao của Quan Công bước mau ra ngoài trướng để tìm kẻ thủ phạm mà chém.
Bên ngoài có mấy tên sĩ tốt đang tuần hành dinh ban đêm.
Quan Công thừa lúc Châu Thương bước ra bèn quay đầu lại mắng Quan Bình :
- Đồ súc sanh to gan ! Chính cha mi đ... chớ còn ai, mà cha mi đ...
là chuyện có gì lạ đâu, mà mi làm to chuyện như thế !
Hồng Thất Công nói xong cười lớn như pháo nổ.
Trùng Dương và ai nấy cũng cười ngất, chỉ có mình Âu Dương Phong hàm râu ràng của y không ngớt dựng lên xụ xuống, sắc mặt lúc đỏ lúc xanh.
Thì ra câu chuyện tiếu lâm của Hồng Thất Công vừa kể rõ ràng là xỏ y, vì y vừa mạt sát Trùng Dương "rắm thối". Hồng Thất Công lại tỷ dụ y là con của Trùng Dương, thật là một sự nhục nhã vô cùng.
Tây Độc giờ phút này đã trở nên thâm trầm hơn nhiều ! Y biết rõ cuộc đại hội Hoa Sơn luận kiếm hôm nay, bốn tên đối đầu của y đều là những nhân vật sắc nhọn vào hàng độc nhất trong võ lâm, bất luận là đụng đến nhân vật nào trong bọn cũng chưa chắc thủ thắng được.
Hồng Thất Công đã dùng lời xỏ xiên mình, thì mình chỉ nên dùng miệng lưỡi trả đũa phải hơn.
Đôi mắt trắng dã của Âu Dương Phong chớp lên mấy cái, đã tìm được một câu chuyện đả kích lại Hồng Thất Công, bèn đằng hắng một tiếng và nói :
- Vương Chân Nhân, Hoàng Đảo Chủ, Hồng Bang Chủ đã kể chuyện rồi bây giờ thì đến phiên tiểu đệ kể vậy !
Hồng Thất Công được dịp là bắt ngay :
- Lão độc vật, muốn nói gì thì cứ nói, có ai cấm cản mi đâu, chỉ đừng có "xì thúi" là đủ rồi !
Âu Dương Phong hừ một tiếng, cố nén giận và kể :
- Thuở xưa có một lão ăn mày dơ dáy, chết bụi chết bờ, linh hồn vật vờ đến âm tào địa phủ, hồn gặp được Diêm Vương vỗ án và quở rằng :
- Ê ! Thằng ăn mày đói kia, số ngươi còn rất thọ tại sao chết sớm thế ? Kẻ nào hại mi, mau nói cho trẫm biết.
Tên ăn mày liền đáp :
- Bẩm Đại Vương, kẻ tiểu nhân bị lão thầy bói hại mạng.
Diêm Vương hết sức kinh ngạc bèn hỏi tại sao lại bị gã thầy bói hại mạng được ?
Lão ăn này liền khóc rấm rức đáp :
- Tâu Đại Vương tiểu nhân vốn là con nhà khá giả cơm no áo ấm, gia tư cũng khá đồ sộ, thật là chuyện không nên chút nào, có một hôm tiểu nhân đến vị tướng số ngồi trước cửa miếu Thành Hoàng để chờ xem tướng.
Lão thầy bói mừng rỡ bảo tiểu nhân :
- Mừng cho ông, mừng cho ông ! Kiếp này ông có số hai mươi vạn kim ngân, ăn mãi suốt đời không hết !
Tiểu nhân nghe xong lời đoán số của thầy bói, trong bụng hết sức vui mừng. Nên về đến nhà chẳng thèm mó tay làm việc gì cả ngồi không ăn xài để chờ số phát tài hai mươi vạn kim ngân kiạ Ngờ đâu đợi mãi mấy năm, cửa nhà đến bán sạch để ăn, mà số tài sản hai mươi vạn kim ngân kia cũng chẳng thấy đến, cuối cùng phải đem thân đi ăn mày và đói mà chết.
Diêm Vương giận dữ mắng to rằng :
- Sao lại có chuyện như thế, tên thầy bói này nói láo ăn tiền hại chết người lành còn để cho y sống để xem tướng đoán liều, hại thêm mạng người nữa sao ? Tả hữu đâu ?
Diêm Vương quá giận liền sai quỷ vô thường lên bắt hồn gã thầy bói dắt xuống âm ty để đối chất.
Diêm Vương vỗ bàn hét to:
- Tên thầy bói láo xược kia, mi tự khoe khoang là thầy tướng số, đoán quyết cho tên ăn mày có hào tài hai hai mươi vạn kim ngân, khiến cho y quá tin mà phải chết oan, tội lớn tày trời, quả nhân tống nhà ngươi xuống tận địa ngục thứ mười bảỵ
Gã thầy bói dập đầu kêu oan, khóc kể là tên ăn mày ấy thật có số được hai chục vạn kim ngân, nếu Diêm Vương không tin có thể đến Tài Khúc Tinh Quân tra xét thì rõ.
Diêm Vương thấy y quả quyết như thế, nửa tin nửa ngờ, lập tức sai quỷ âm đến phủ Tài Khúc Tinh Quân để tra xét lạị Nửa ngày sau âm ti trở lại phúc bẩm là tên ăn mày chết đói kia quả có phát tài hại chục vạn kim ngân.
Diêm Vương vỗ án rầm rầm và hét to:
- Nếu có hai chục vạn lượng kim ngân, sao Tài Khúc Tinh Quân chẳng ban cho ỷ
Âm Sai liền bẩm :
- Tâu Đại Vương, Tài Khúc Tinh Quân tưởng đâu hắn theo đường công danh nên đem số hai mươi vạn lượng ấy giao cho Văn Khúc Tinh quân, nào ngờ đâu hắn chẳng theo đường khoa cử ! Văn Khúc Tinh Quân lại tưởng y học tập võ nghệ theo nghiệp kiếm cung, nêm đem hai mươi vạn lượng kim ngân của hắn giao cho Võ Khúc Tinh giữ cất.
Chẳng ngờ hắn cũng chẳng theo nghiệp võ biền. Võ Khúc Tinh chẳng biết làm sao chỉ đành giao số tài sản ấy lại cho Địa Tạng Vương.
Địa Tạng Vương bèn đem số hai mươi vạn lượng chôn trong nhà hắn, mong hắn có thể khám phá ra hào tài ấy để mà sử dụng. Ai ngờ đâu cái tên vô dụng này lại là một con sâu làm biếng, biếng nhác cho đến đỗi nhà cửa cũng không thèm quét. Tối ngày chỉ mong mỏi cho số tiền từ trên trời rớt xuống bỏ vào túi hắn, thì làm sao mà có được. Cho nên chết đói là đáng lắm !
Diêm Vương sau khi nghe xong giận đà quá giận, vỗ án đánh sầm một tiếng và mắng tên ăn mày :
- Rõ đúng là mi kiếp này có số giàu hai mươi vạn kim ngân, nhưng võ mi không tập, văn mi chẳng học cho đến nhà cửa cũng biếng nhác chẳng quên tiền của đâu sẵn cho mi nằm không mà ăn nhậu chứ ? Quả nhân bây giờ cho mi hai, lựa lấy một, hoặc là bị giam dưới mười tám tầng địa ngục, hoặc là cho mi vào ngõ súc sanh, đầu thai làm mèo !
Hồng Thất Công cười lớn và ngắt nói :
- Ăn mày mà biến thành mèo, thật thú vị !
Âu Dương Phong nói :
- Mi đoán xem tên ăn mày chết đói ấy trả lời như thế nào ?
Hắn bẩm với Diêm Vương rằng :
- Tâu Đại Vương, tiểu nhân cam đầu thai thành mèo, chứ không chịu vào trong địa ngục thứ mười tám để chịu khổ. Nhưng lúc Đại Vương biến tiểu nhân thành mèo thì Đại Vương cho tiểu nhân biến thành con mèo mun huyền sắc, nơi chót mũi chừa chỉ một chùm lông trắng thì tiểu nhân ngàn đội ân Đại Vương.
Diêm Vương cảm thấy lạ lùng bèn hỏi lão ăn mày tại sao muốn biến thành con mèo có lỗ mũi trắng ?
Tên ăn mày ấy liền đáp :
- Bẩm đại vương mèo ở trên trần gian thì phải bắt chuột, nhưng tiểu nhân lại quá biếng nhác, làm biếng đến nỗi không muốn bắt chuột nữa, nhưng không bắt cũng không được, nên tiểu nhân muốn được đầu thai thành con mèo lông huyền đen để khi nằm yên trong bóng tối chuột không thấy tiểu nhân, nhưng lại thấy túm lông trắng trên lỗ mũi, loài chuột có tánh ham ăn, thấy lỗ mũi của tiểu nhân tưởng là cơm, mò đến nơi để ăn nạp mình trước miệng mèo và như vậy tiểu nhân chỉ cần táp một cái là được no bụng ngaỵ
Diêm Vương nghe tên ăn mày muốn được làm mèo, lại biếng nhác cả việc bắt chuột, giận tức không chịu được kêu trời một tiếng rồi đứt hơi chết luôn tại chỗ. Nên từ đấy thập điện Diêm Vương chỉ còn có Cửu Điện Diêm Vương thôi ! Mà Hồng Bang chủ chắc biết mặt vị Diêm Vương chết vì tức giận ấy !
Hồng Thất Công hiểu ngay là Âu Dương Phong trả đủa mình. Y lấy lão thầy bói điển hình cho Trùng Dương và lão ăn mày làm biếng tỷ dụ cho mình. Tây Độc tưởng mình bưng bợ Trùng Dương để mong được Cửu Âm Chân Kinh về tay, nhưng rốt cuộc chỉ là một điều không tưởng có khác nào như gã thầy bói đoán quyết là hai mươi vạn kim ngân là hào tài của lão ăn mày, chẳng bao giờ đến được tay lão đâu !
Hồng Thất Công mắng thầm trong bụng :
- Lão độc vật, ta đâu có phải hạng như mi tưởng !
Trùng Dương liền lên tiếng :
- Âu huynh đã kể xong, tới phiên chót về phần Đoàn Hoàng Gia kể vậy !
Đoàn Hoàng Gia cười nhẹ và nói :
- Tôi cũng xin kể chuyện một vị Diêm Vương vậy !
Một hôm Diêm Vương sai quỷ tốt, bắt hồn ba người xuống trước Điện Diêm La, ba hồn này là hai đàn ông và một đàn bà.
Hồn đàn ông thứ nhứt là một thầy thuốc làm đến chức Thái Y trong triềụ Hồn người đàn ông thứ hai là một bợm trèo tường khoét vách, còn hồn thứ ba là một gái ăn sương.
Diêm Vương thẩm vấn cô ả kỹ nữ ấy rằng :
- Hồn lúc còn sống làm những gì ?
Ả kỷ nữ bèn thưa :
- Bẩm Đại Vương, nô thiếp lúc trước sanh tiền thường đứng trước cửa ngõ, thấy khách đàn ông nào đơn thân lỡ độ đường không nơi ngủ trọ, nô thiếp bèn mời y, bầu bạn cùng y suốt đêm !
Diêm Vương khen ngợi :
- Hay lắm ! Nhà ngươi lúc ấy hay làm điều thiện, kiếp sau ta sẽ cho mi đầu thai làm công chúa lá ngọc cành vàng, tận hưởng phú quí trên trần thế !
Nói xong sai quỷ tốt đưa hồn gái ăn sương đến cửa luân hồị
Diêm Vương lại quay sang hỏi tiếp tên trộm :
- Còn ngươi, trước kia làm nghề gì ?
Tên trộm nhíu mày suy nghĩ một chốc rồi đáp :
- Tâu Đại Vương, tiểu nhân mỗi đêm bò lên nóc nhà thiên hạ, thấy nhà ai phơi áo quần còn bỏ quên ngoài sào chưa đem vào hay tiền bạc hơ hỏng không được kín đáo thì tiểu nhân giúp họ đem đi cất kỹ lưỡng !
Diêm Vương cười ngợi khen và nói :
- Hay lắm ! Kiếp trước ngươi cũng làm điều thiện, kiếp sau cho ngươi đầu thai là một ông nhà giàu .
Rồi cũng sai quỷ tốt đem hồn tên trộm đi đầu thaị
Sau rốt mới hỏi đến tên thầy thuốc :
- Nhà ngươi trước kia làm giống gì ?
Vị y sư bèn thưa :
- Tâu Đại Vương, tiểu nhân lúc còn sống chuyên bốc thuốc trị bệnh cho người, nếu có ai bị bệnh gần chết, tiểu nhân hốt thuốc cứu sống ngay !
Đoàn Hoàng Gia ngừng lại một giây hỏi mọi người :
- Quý vị đoán thử Diêm Vương phán thế nào ?
Hồng Thất Công nhanh nhẩu đáp :
- Ả ăn sương được làm công chúa, bợm trộm làm phú ông, thì vị y sư kia nhất phải làm Thái Sư hay Đại Tướng Quân chớ gì ?
Đoàn Hoàng Gia cười nói :
- Không đúng, Diêm Vương nghe xong lời thầy thuốc khai, liền nỗi giận đùng đùng, và vỗ án mắng rằng :
- Đâu có được như vậy ! Thảo nào gần đây ta sai quỷ tốt lên dương thế bắt hồn người về âm ty này, mà bắt được quá ít, thì té ra tại mi quấy phá ta, những kẻ bịnh sắp chết, ngươi lại cho thuốc trị lành, cứu sống cả ! Như vậy quỷ dưới âm ty này mỗi ngày một thiếu mà nhân số trên dương thế mỗi ngày một nhiều thêm. Khiến cho âm dương mất quân bình, tội trạng rất trọng, Tả hữu đâu ? Mau đem vật hại đời này tống xuống ngục thứ mười bẩy, cấm ngặt chẳng được đầu thaị
Quỷ tốt nghe Diêm Vương phán quyết xong liền kéo xển gã thầy thuốc xuống mười bẩy tầng địa ngục, âm phong hiu hắt cảnh tượng rợn ngườị
Gã thầy thuốc đau lòng khóc như mưa, thình lình nghe dưới từng địa ngục thứ mười tám có tiếng hồn quỷ than van rất bi thiết.
Gã thầy thuốc hết sức lạ lùng, ở tầng địa ngục thứ mười bảy đã khổ sở trăm chiều rồi, tại sao lại có hồn quỷ bị đày ở tầng địa ngục thứ mười tám nữa ? Không hiểu hồn kia lúc sanh tiền, trên dương trần phạm nhằm tội gì !
Gã thầy thuốc bèn hỏi vọng xuống hồn quỷ dưới tầng địa ngục thứ mười tám rằng :
- Ông bạn ở dưới ơi, lúc sanh tiền bạn làm nghề gì, mà phải bị giam dưới tầng địa ngục thứ mười tám vậy ?
Hồn quỷ phía dưới đáp :
- Ôi ! Lúc còn sống tôi dạy học, sau khi chết Diêm Vương bảo tôi là vô công vô tội nên muốn đưa tôi vào cửa súc sanh để đầu thai, tôi yêu cầu Diêm Vương cho tôi đầu thai làm chó cáị
Hồn của gã thầy thuốc cũng rất ngạc nhiên liền hỏi hồn thầy giáo :
- Bạn ơi ! Sao bạn lại đòi đầu thai làm chó cái ! Làm chó cái có điều gì hay đâu ?
Hồn thầy giáo liền đáp :
- Sao lại không hay ? Sách vạn ngữ của Khổng Phu tử có câu :
Lâm tài mẫu cẩu đắc, lâm nạn mẫu cẩu miễn !" (Lúc có tiền chó cái được, lúc lâm nạn chó cái miễn).
Ngẫm lại thì làm chó cái vừa được tài vừa tránh được tai nạn, có phải hay không?
Nhưng Diêm Vương vỗ án quát mắng bảo tôi hiểu được Luận Ngữ thì có thể rành tất cả chuyện âm dương của trời đất, nên tống giam tôi vào cửa địa ngục thứ mười tám nàỵ
Đoàn Hoàng Gia kể xong chuyện cổ tích, trừ Âu Dương Phong, mọi người đều cười đến chảy nước mắt ra, vì hồn tên thầy giáo đem hai câu "Lâm tài vô cẩu đắc, lâm loạn vô cẩu miễn", đọc theo nghĩa trắng và cắt nghĩa theo lối "ba rọi" thành thử tuy sai một chút mà ý nghĩa đã khác biệt ngàn dặm, nên Trùng Dương, Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công ba người có học, đọc sách, hiểu thông kinh thư nên hội cảm được ý nghĩ hài hước của câu chuyện và cười vang lên, còn Âu Dương Phong sanh trưởng ở miền Tây Vực có biết Luận Ngữ là cái quái chi, thấy ba người cười như thế, y nhột nhạt tưởng Đoàn Hoàng Gia dùng chữ nghĩa để châm biếm mình nên nhìn họ Đoàn trừng trừng.
Cuối cùng y không chịu được bèn la lên :
- Chúng ta năm người đều kể chuyện xong vậy chuyện của người nào tệ nhất, kêu kẻ ấy ra đấu cho rồị
Hồng Thất Công nói :
- Chuyện cổ tích của Hoàng đảo chủ kể nghe không haỵ Hoàng huynh đã đề cho gian thần Tần Cối thì câu chuyện của lão độc vật cũng tỏ ra âm đức lắm, phải hạ trận với Đoàn Hoàng Gia !
Âu Dương Phong giận dữ cãi lại :
- Nói bậy ! Chuyện của ta hay như thế tại sao lại bắt ta ra đấu chư?
Hai người lại sắp đấu khẩu với nhau thì Đoàn Hoàng Gia lên tiếng khuyên can :
- Hai vị đừng cãi nhau thất công, để tôi ra tiếp vài chiêu với Hoàng đảo chủ được rồị
Âu Dương Phong mới tạm hạ cơn giận xuống.
Đoàn Hoàng Gia bèn vòng tay nói với Hoàng Dược Sư :
- Lạc Anh quyền Chưởng Pháp của Hoàng Đảo Chủ lúc nãy thật xảo diệu vô cùng ! Đoàn Trí Hưng tôi rất muốn được lãnh giáo Hoàng huynh!
Nguyên vì Đoàn Hoàng Gia thấy quyền pháp của Hoàng Dược Sư, hư thực, thực hư, biến hóa phứt tạp vô cùng hơn của Tuyết Sơn Thần Đà chưởng pháp của Âu Dương Phong rất xạ
Đoàn Hoàng Gia là người rất hâm mộ võ thuật muốn thử sức chưởng pháp với Hoàng Dược Sư, để lấy đó mà tự khảo định võ nghệ của mình ra sao !
Hoàng Dược Sư thấy lúc nãy Đoàn Hoàng Gia đấu với Âu Dương Phong, quyền pháp không có gì đặc biệt hơn người, thầm nghĩ trận đấu này thế nào phần thắng cũng về mình, nên chẳng chút khách sáo quát lên một tiếng:
- Xem đây!
Tay áo vừa rũ xuống, song chưởng đã hư động loang loáng như hoa rơi tuyết rụng, trong nháy mắt đã tấn công ra bảy chiêu liên hoàn, thủ pháp vô cùng quái dị.
Đoàn Hoàng Gia không ngờ đối phương vừa khởi thế lại dùng toàn những chiêu số lạ lùng, thoắt bên trái, nhảy bên phải rồi "bộp! bộp!" bốn tiếng liên tiếp vang lên, trên ngực, sau lưng, bên hông dưới nách của mình bị Hoàng Dược Sư vỗ luôn bốn chưởng, nhanh không kịp đỡ.
Hồng Thất Công thấy vậy lắc đầu luôn hai lượt và thầm nghĩ:
- Hoàng Gia là ông vua quyền pháp chẳng ra trò gì, trận này thế nào cũng thua mất!
Nào ngờ Đoàn Hoàng Gia sau khi trúng phải bốn chưởng, vẫn an nhiên như thường, lại còn lật tay đẩy ra một ngọn Kim Cang Quyền theo thế Thôi Vân Phế Vụ (đẩy mây vẹt sa mù), vù lên một tiếng quyền pháp còn kẹp theo cả luồng kình phong bay áp đến lồng ngực đối thủ.
Hoàng Dược Sư kinh hãi vô cùng vì rõ ràng là mình đã đánh trúng y bốn chưởng, đâu phải là nhẹ, dù Đoàn Hoàng Gia có luyện được ngoại công phu cao diệu đến cỡ nào, ít nhứt cũng bị thương nhẹ, nhưng tại sao chưởng lực của mình vừa đụng phải da thịt y chẳng khác nào như đánh lên một tấm thép cứng, khiến bàn tay, cho lẫn đến ngón tay của mình đau đớn không chịu được, chẳng trách Âu Dương Phong hồ nghi trên người y có mang giáp sắt.
Ngọn quyền của Đoàn Hoàng Gia vừa bay áp tới, Hoàng Dược Sư liền phất tay áo đón liền, "bùng" một tiếng nổ thật to, tay chàng tựa như trúng phải một chiếc búa lớn nặng ngàn cân, nếu Hoàng Dược Sư không phải là một người công lực thâm hậu tất phải bị sức dội của ngọn quyền Kim Cang ấy mà té lộn mèo ngay!
Bao nhiêu ý niệm khinh địch của Hoàng Dược Sư lúc nãy đều tiêu mất, chàng lập tức sử dụng ngay Lạc Anh Chưởng Pháp, lúc thì bảy hư một thực, khi lại năm hư một thực, bóng xanh ảo loạn thoăn thắt trước sau lúc tả lúc hữu, loáng loáng khắp nơi như hoa rụng mưa rơi, một người đứng bên ngoài nhìn vào mường tượng như có mười mấy Hoàng Dược Sư, lộn qua lộn lại bao tròn xung quanh Đoàn Hoàng Gia vậỵ
Đoàn Hoàng Gia không chút bối rối bình tĩnh sử dụng Kim Cang Quyền đối phó lại quyền phong trầm mạnh.
Tiếng gió không ngớt rít lên vù vù, thế tựa như búa lớn chẻ núi cao, chùy to đập đá lớn vậy, quyền phong bay đến đâu, cát đất bụi tuyết liền dậy lên như bão trốt, đem ra ứng phó với Lạc Anh Quyền Pháp phiêu phiêu bất định của Hoàng Dược Sư rất có hiệu quả mà lại chiếm phần ưu thế hơn.
Hồng Thất Công đứng bên ngoài cũng cảm thấy rờn rợn khiếp thầm, tự nghĩ Giáng Long Thập Bát Chưởng của mình đã có danh thần uy hùng mạnh, nhưng nếu đem ra so sánh với Kim Cang Quyền của Đoàn Hoàng Gia vẫn còn sút hơn ba phần, công phu tài nghệ của Đoàn Hoàng Gia này thật là vượt ra khỏi trí tưởng tượng của mình.
Hai người quần nhau ngoài trăm hiệp vẫn không phân thắng bạị
Hoàng Dược Sư bỗng liên tiếp đánh ra hai chưởng, rồi nhảy vọt ra khỏi vòng đấu và gọi to:
- Khoan đã!
Đoàn Hoàng Gia liền thâu nhanh thế quyền, cười hỏi:
- Hoàng Đảo Chủ, chúng ta so tài nhau, vẫn chưa định được thắng bại, Hoàng Đảo Chủ có ý kiến gì khác chăng?
Hoàng Dược Sư đáp:
- Quyền pháp của tôi và ông, cang nhu tương sanh, âm dương hòa hợp, dầu đấu thêm trăm hiệp nữa cũng không phân được thắng bại, hay chúng ta đổi cách giao đấu khác được không?
Đoàn Hoàng Gia ngỡ là y lại ăn quen theo lối đấu với Hồng Thất Công lúc nãy, định bày trận Thất Tinh Thung hay Mai Hoa Tăm gì đây, nên liền nói:
- Hoàng Đảo chủ lại định bày trận chăng? Xin tùy tiện tôn ý!
Hoàng Dược Sư bèn đáp:
- Bày trận mãi nhàm lắm, chúng ta theo lối đấu "ba roi đổi hai giản", như lối đấu của Tần Thúc Bảo với Uất Trì Cung nơi Ngõa Cang Trại vậy!
Tôi chịu cho ông đánh ba quyền, rồi tới phiên ông chịu lại cho tôi đánh trả ba quyền, hai người thay phiên nhau đánh ba lần, ông nghĩ saỏ
Đoàn Hoàng Gia cười lớn và nói:
- Hay lắm! Vậy người nào ra tay trước xin nói rõ.
Hoàng Dược Sư đáp:
- Đây là ý kiến của tôi đưa ra, đương nhiên là tôi chịu cho đánh trước, xin mời vậỵ
Nói xong y dùng mũi giày vẽ lên đất tuyết một vòng tròn, tự mình đứng vào giữa rồi nói tiếp:
- Nếu tôn giá một quyền có thể đánh tôi văng khỏi vòng tròn này thì tôi lập tức rời khỏi Hoa Sơn ngay và tự hậu không bao giờ đề cập đến chuyện so tài với ai nữa!
Đoàn Hoàng Gia trong lòng áy náy khó nghĩ, vì Kim Cang Quyền của mình sức mạnh rất dị thường, đã một lần trong Hoàng Cung ở Đại Lý quốc, thử luyện quyền pháp, chỉ ra tay có một quyền mà cả một hòn giả sơn bằng đá rắn ở Thái Hồ cao cỡ đầu người còn bị nát tan ra từng mảnh vụn. Bản lãnh của Hoàng Dược Sư tuy khá cao cường, nhưng dù sao cũng là một con người bằng xương bằng thịt, một quyền của mình đánh ra thì còn gì tánh mạng của y!
Nhưng Hoàng Dược Sư đã mở miệng đề nghị khêu trận thì không đánh y cũng không thể được!
Đoàn Trí Hưng bất đắc dĩ lên tiếng:
- Hoàng đảo chủ, đây là tự ý của Hoàng đảo chủ vạch đất để giam mình, tiểu đệ đành thất lễ với đảo chủ.
Hoàng Dược Sư cười nhạt đáp:
- Đoàn huynh tưởng ta chịu không nổi sức quyền của Đoàn huynh sao! Cứ đấm thử xem?
Đoàn Hoàng Gia kêu lên một tiếng:
- Hay!
Tay trái liền nhấc lên vận đủ bảy thành công lực, đảo tròn cánh tay vung ra một quyền đấm mạnh vào vai phải của Hoàng Dược Sư.
Đấy là vì lòng nhân hậu của ông, không dám dám toàn lực công kích để tránh cho Hoàng Dược Sư khỏi phải trọng thương.
Quyền phong vừa chạm vào bả vai của đối phương, tay quyền của Đoàn Hoàng Gia cũng liền ngưng lại ngaỵ
Nào ngờ đâu quyền của Đoàn Hoàng Gia vừa chạm vào cơ thể của đối phương, ông liền cảm thấy một cảm giác lạ lùng mà xưa nay ông chưa hề gặp phảị
Thì ra ngọn quyền của Đoàn Hoàng gia chạm lên người Hoàng Dược Sư, chợt thấy thân hình Hoàng Dược Sư hơi lảo đảo, rồi đầu quyền của mình tựa như đánh lên một vật có tánh chất nẩy bật trở lại và thân hình của đối phương mường tượng có thoa lên một lớp dầu, sức quyền mất đi tự chủ và trượt tuốt ra ngoàị
Suýt chút nữa là trật cả khớp xương tay ra, may nhờ ông chưa dùng hết sức lực của mình, vừa cảm thấy nguy, lập tức thu nhanh sức quyền trở về.
Hoàng Dược Sư cười lớn và nói:
- Rồi! Một quyền đã đánh rồỉ
Âu Dương Phong và Hồng Thất Công thấy rõ ràng ngọn quyền của Đoàn Hoàng Gia đấm trúng lên người Hoàng Dược Sư, nhưng chẳng hiểu tại sao không chịu dùng sức để đánh văng đối phương ra ngoài vòng tròn vạch trên đất, mà trái lại thâu nhanh sức quyền trở về, trong lòng hai người hồ nghi không giải nổi lý do, chỉ riêng có mình Trùng Dương là nhìn thấu được sự kỳ diệu bên trong, nên chàng nghĩ thầm:
- Trí cơ của gã họ Hoàng này quả thật linh mẫn, võ công của y có lớp trong bụng, dám phối hợp công phu Triêm Y Thuật Bát Diệt của Võ Đang cùng với Kỳ Môn võ công của mình ra sử dụng, chả trách Đoàn Hoàng Gia phải mắc lừa y rồị
Đoàn Hoàng Gia một đòn không đánh trúng đối phương, không còn dám sơ hở nữa, lần này Đoàn Hoàng Gia không dám nương tình, chân bước tới trước nửa bước, quyền bên hữu vận đúng chín thành công lực, đấm thẳng vào lồng ngực đối phương nghe bùng một tiếng đầu quyền đánh trúng ngay giữa ngực đối phương không chệch một ly, tức thì có tiếng kêu lên "lắc cắc!".
Hồng Thất Công hốt hoảng buộc miệng kêu lên:
- Hỏng mất! Lần này thì gân cốt gảy lọi rồỉ
Nhưng sự thật đã khác xa, lúc đầu quyền của Đoàn Hoàng Gia đánh trúng ngực Hoàng Dược Sư, liền cảm thấy lồng ngực của y hóp vào bên trong, thành thử ngọn quyền của Đoàn Hoàng Gia mường tượng như đánh vào một cái lỗ trống phọc, khiến ông không khỏi hoảng hốt giật mình đánh thót một cáị
Đoàn Hoàng Gia vốn tánh người nhân hậu, nhưng thấy hai quyền của mình đều chẳng trúng được đối phương, trong lòng không kém bối rối lo âu, vội lật tay bổ xuống một quyền Kim Cang Phách Sơn (Kim Cương chém núi) đánh thẳng vào đỉnh đầu đối phương kêu vút một tiếng.
Hoàng Dược Sư khẽ nghiêng dầu qua một bên, đầu quyền của Đoàn Hoàng Gia liền rớt xuống bả vai Hoàng Dược Sư, lại hai tiếng lách cách vang lên, xương bả vai tự động thụt vào, đầu quyền trượt theo cánh tay rơi ra ngoàị
Hoàng Dược Sư không một chút hề hấn gì, bèn cười lên ha hả và nói:
- Xong rồi! Tôi đã chịu ba quyền của tôn huynh, bây tới phiên Hoàng mỗ kính lại!
Đoàn Hoàng Gia tự biết mình khó mà chịu nổi ba đấm của Hoàng Dược Sư, nhưng mình đã đấm xong đối phương ba quyền rồi, đâu thể nào mà chẳng chịu cho đối phương đấm lại, ông chỉ còn cách đứng trân mình chịu đựng cho đủ ba đấm.
Hoàng Dược Sư không chút khách sáo, "phịch" một tiếng, tay quyền đã đấm trúng ngay ngực đối phương.
Quyền ấy nhờ lớp vảy cá trên người Đoàn Hoàng Gia che đỡ, không đến nỗi đau lắm, kể như đã chịu được một quyền rồi vậỵ
Hoàng Dược Sư lại tấn công quyền thứ hai theo thế Hoa Tâm Thám Nhụy (Giữa hoa rồi nhụy) trong pho Lạc Anh Chưởng Pháp, năm ngón tay như năm mũi dùi đánh trúng vào Thái Ất huyệt ngay bả xương sườn của Đoàn Hoàng Gia, lập tức bị loạng choạng về một phíạ
Năm xưa ông hút được đan huyết của con lương chúa, trên châu thân mọc dầy một lớp vảy cá, nhưng lớp vảy ấy chỗ dày chỗ mỏng không đồng, trước ngực và sau lưng lớp vảy có phần dày hơn, hai bên xương sườn thì lớp vảy mọc mỏng hơn một chút.
Hoàng Dược Sư cung năm ngón tay lại cứng như mũi khoan, lại dùng công phu Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp, dù có lớp vảy đỡ bên ngoài cũng vô ích, may là Đoàn Hoàng Gia đã đề phòng cảnh giác ứng biến nhanh lẹ, lập tức vận khí bảo vệ các yếu huyệt, mới khỏi bị nguỵ Và như vậy kể như đã chịu xong thêm quyền thứ nhì của Hoàng Dược Sư.
Hoàng Dược Sư quát lên một tiếng:
- Quyền cuối cùng ráng đỡ!
Tay liền hất lên vù ra một quyền đấm vào giữa mặt Đoàn Hoàng Gia, sợ e đối phương làm hại ngũ quan của mình nên vội lách đầu để tránh, ngờ đâu Hoàng Dược Sư chỉ đợi có thế, là lật tay thành chưởng, "phịch" một tiếng, đã đánh trúng vào Thái Dương huyệt của ông.
Đoàn Hoàng Gia dù có tài thăng thiên độn thổ cũng không sao chịu đựng nổi, thân hình không gượng được liền ngã chúi xuống. Nhưng nếu để té xuống đất thì danh tiếng anh hùng của Nam Đế trên giang hồ kể như phủi tay trôi theo giòng nước chẳng còn, nên thình lình trong thời gian thân hình Đoàn Hoàng Gia sắp phải té rơi xuống đất, ông bỗng ưỡn lưng đứng bật ngay lên như thường, đó là chỗ hay, thiên tư dị bẩm của ông.
Đoàn Hoàng Gia trong lúc còn làm Thái tử, uống được huyết con lương chúa, nhờ đó trong thân hình ông có một bản năng "phản ứng ngầm" rất mạnh mẽ và trong giờ phút sự thất bại chỉ cách có đường tơ, ông vội lật mình trở dậy như một chiếc lò sọ Nơi Thái Dương huyệt của ông tuy trúng phải một chưởng, nhưng chưa ngất nhào mà trái lại xương cốt chuyển động lên răn rắc và đứng ngay dậy như không.
Thật là một sự kiện quá lạ lùng ngoài ý liệu của Hoàng Dược Sư. Vị Đảo Chúa Đào Hoa sợ e Đoàn Hoàng Gia thừa thế phản công trở lại, vội nhảy tuốt ra phía sau trố mắt đứng nhìn.
Đoàn Hoàng Gia cười dài và nói:
- Hoàng Đảo Chúa, trận này kể như tôi bại rồị
Vương Trùng Dương vội tiến ra trước và nói:
- Không phải thế! Không phải thế! Hai vị đều thắng!
Và chàng cất tiếng cười vang lên, hà hà!
Nhờ lời nói khôn khéo của chàng mà cứu vãn được cuộc bất hòa đôi bên.
Âu Dương Phong chớp đôi mắt trắng dã, tiến ra giữa trận và nói:
- Hoàng Đảo Chủ, tôi cũng muốn lãnh giáo Lạc Anh Chưởng Pháp của Đảo Chủ.
Đây là lối thừa nguy của kẻ địch mà tấn công, vì Tây Độc nghĩ rằng Hoàng Dược Sư đã cùng Đoàn Hoàng Gia đấu nhau trên trăm hiệp, chân nguyên tiêu hao không ít, còn mình mới dưỡng tinh thần, sức lực khôi phục như cũ, nếu giờ đây cùng Hoàng Dược Sư giao đấu thêm trăm hiệp ngoài nữa, rồi thừa lúc xuất kỳ bất ý sử dụng Cáp Ma Công ra thì Hoàng Dược Sư nhứt định là sẽ bại dưới tay mình.
Hoàng Dược Sư chưa kịp đáp lời, Hồng Thất Công đã vọt miệng nói:
- Không được, không được! Lão độc vật định dở trò "Xa luân chiến".
Âu Dương Phong cả giận trợn mắt trắng dã hỏi:
- Cái gì mà xa luân chiến? Thằng ăn mày thúi, sức lực mi chắc đã khôi phục rồi, chúng ta choảng nhau năm trăm hiệp nữa xem sao!
Hoàng Dược Sư vội khuyên dứt:
- Thất huynh, Âu Dương Sơn Chủ muốn thử sức tôi, thì họ Hoàng này đâu thể chẳng vâng lời!
Phong huynh, lúc nãy huynh đã dùng thiết tranh, có lẽ trên phương diện nhạc khúc chắc hẳn là cao thâm lắm vậy!
Âu Dương Phong cười đắc ý đáp:
- Ai đồn thế? Tiểu đệ là một kẻ quê mùa đất Tây Vực, có biết nhạc khúc âm điệu du dương ra sao, bất quá mới chỉ tập tành vài cung điệu rừng rú. Xin Hoàng Đảo Chủ dạy thêm cho!
Hoàng Dược Sư đáp:
- Nếu vậy tiểu đệ táo gan mời Âu huynh đem cây đàn thiết tranh ra, so dây nắn phím rao khúc Đại Giang Đông Khứ, để tiểu đệ thưởng thức cầm nghệ tuyệt vời của Âu huynh.
Âu Dương Phong nói:
- Muốn tôi khảy đờn tranh ư? Có sự bất tiện cho quí vị đấy!
Hoàng Dược Sư liền hỏi:
- Xin nói rõ cho chúng tôi biết?
Âu Dương Phong lấy tay chỉ ra phía sau núi và nói:
- Xà trận của tôi đều ở phía sau núi kìa, nếu tôi dạo khúc đàn tranh này, giống vật ấy sẽ ồ ạt kéo lên đây làm kinh động quí vị thì không hay ho gì.
Hồng Thất Công cười lớn và oang oang miệng:
- Lão độc vật định khoe khoang đấu láo nữa đấy à! Mấy con sâu đất vô dụng ấy mà cũng đem ra nhát người saỏ Hừ, theo ý kiến của lão ăn xin này, thì nên kêu người đuổi chúng về Tây Vực cho khỏi bẩn mắt mọi ngườị
Giòng họ ăn mày của lão đây, từ ăn mày lớn ăn mày bé, ăn mày cha, ăn mày con, cho đến ăn mày chít, ăn mày chắt đều là những tay bắt rắn có tài cả.
Âu Dương Phong dửng dưng đáp:
- Tốt lắm! Bao nhiêu rắn của ta kia, mi cứ mặc sức mà bắt thử.
Hoàng Dược Sư xen vào:
- Hai vị lại cãi nhau nữa rồi! Âu huynh, nếu thiết tranh của huynh có thể sai khiến rắn, xin Âu huynh cứ việc tùy tiện, đệ đợi cũng lâu rồỉ
Âu Dương Phong tự nhủ thầm:
- Nếu ta mà điều khiển đàn rắn đến đây, mi đừng mong toàn mạng!
Tây Độc thấy Hoàng Dược Sư ý chẳng sợ Xà trận của mình, liền hừ giọng mũi một tiếng, lập tức lấy cây đàn thiết tranh, ngồi xếp bằng dưới đất, dùng tay trái khảy lên giây cung những tiếng "tình, tang" khoan nhặt.
Đàn thiết tranh lại có tên gọi "tần tranh", âm thanh trong cao, tấu lên để khích động lòng ngườị
Âu Dương Phong với ngón đàn thiết này đã trên hai mươi năm nhàn nhã, kinh nghiệm. Cung đàn vừa tấu lên tựa như có tiếng vó ngựa rập rồn của thiên binh vạn mã, mường tượng như quân thù xâm nhập biên cương, ngàn quân giáp chiến vạn ngựa tung hoành, tiếng sát phạt thúc động hào khí muôn người, hùng tráng như trận Nhạc Phi đại chiến Ngưu Đầu Sơn.
Rập rồn thúc giục như Lương Hồng Ngọc đánh trống tử chiến với Hoàng Thiên Thang, đại phá được Kim binh, chém đầu chủ soái đuổi rợ về Hồ, thâu đoạt lại cương thổ quê hương.
Tiếng đàn hùng tráng khích dộng của Âu Dương Phong khiến mọi người đang ngồi nghe đều nhiệt huyết trào sôi, máu nóng đốt lòng mường tượng như dưới triền núi Hoa Sơn là một trường huyết chiến, giận mình sao chẳng chạy nhào xuống núi, để tung hoành tàn sát cho vơi hào khí đang nung nấu trong ngườị
Hoàng Dược Sư nghe tiếng đàn tranh của Âu Dương Phong tấu lên những âm hưởng sát phạt, mỗi lúc càng rập rồn càng cao vút thêm, và tâm trạng mình nương theo tiếng nhạc thấp cao, càng lúc càng khêu động dữ dội hơn.
Hoàng Dược Sư kinh khiếp trong lòng, thầm nghĩ:
- Lão độc vật này thật là lang độc, y lại dụng khúc "Đại Giang Đông Khứ" để đưa ta vào tuyệt địa!
Hoàng Dược Sư hiểu rõ được âm mưu hiểm hóc của kẻ địch, chàng không dám diên trì nữa, vội thò tay vào túi áo lấy thanh Ngọc tiêu ra để lên miệng, tấu lên tiếng nhạc trong êm để đối kháng lại với tiếng đàn tranh của Âu Dương Phong.
Giọng tranh của Tây Độc cao vút khô khan như gió tuyết đêm đông thê lương tiêu sát, nghe tiếng đàn của y, mường tượng như người đang lạc lõng giữa miền Tây Vực hoang vu, cát vàng muôn dặm tít tấp chân trời hoang vắng đìu hiu, lại tựa như gió bão loạn cuồng, người rên ngựa thét kinh hoàng?
Tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư thì trái lại, thanh âm dìu dặt, không nhặt không khoan, khiến người ta mơ màng như đang giữa tiết xuân êm mát, trăm hoa đua nở, chim hót đầu cành, trai thanh nghịch tuyết, gái lịch bẻ sen, đôi tình nhân âu yếm sánh vai nhau dưới rặng liễu xanh rờn, trong bông hoa muôn sắc, an hưởng lạc thú giữa cảnh vật u nhàn.
Nói tóm lại là tiếng tiêu cùng với giọng đàn khác biệt như trời Nam biển Bắc, tuyệt không thể hòa hợp nhau được.
Hồng Thất Công thích ý quay lại cười với Trùng Dương và nói:
- Vương Chân Nhân, bọn họ đang đấu pháp thuật với nhau đấy!
Trùng Dương cười trả nhưng không dám trả lờị
Đoàn Hoàng Gia bỗng nghe thoang thoảng bên tai có tiếng động rì rào từ sau núi đưa lại, tựa như tiếng gió thổi sóng tràn, mà dưới núi Hoa Sơn không phải là biển cả, thì tiếng sóng ì ầm này từ đâu đến?
Trong lúc ông còn đang lạ lùng chưa hiểu thì Trùng Dương bỗng khẽ giọng bảo:
- Hai vị nên lưu tâm đề phòng, Xà trận của Âu Dương Phong đã kéo đến kìạ
Hồng Thất Công thấp thỏm trong lòng, liền mò tay vào chiếc túi vải lấy thuốc trừ rắn ra thoa vào hai tay chuẩn bị sẳn sàng.
Trùng Dương thấy vậy cuời và nói:
- Thất huynh! Xà trận của Bạch Đà Sơn rất lợi hại, e cỡ ba bốn muôn con chứ chẳng ít, bao nhiêu thuốc rắn sợ không đủ hiệu quả đâụ
Hồng Thất Công nói - Mặc kệ tổ tiên nhà nó, hiệu quả hay chẳng kết quả, nếu ba con rắn thúi ấy mà dám vô lễ với lão ăn mày này thì cây gậy trúc của lão dùng đánh chó kia sẽ đem ra dùng để đánh rắn vậỵ
Trong lúc đang chuyện trò nhau thì từ dưới chân núi có tiếng quái lạ, rồi dưới bóng tuyết rạng ánh trăng vàng có hàng trăm hàng vạn loại rắn, ngúc ngoắc bò lên đỉnh núị
Hồng Thất Công, Đoàn Hoàng Gia hai người lần đầu mới thấy Xà trận của Bạch Đà Sơn chủ, ban đầu thì chỉ thấy những bóng đen lố nhố, tiếp theo là vô số rắn mãng xà, con sau ngậm lấy đuôi con trước, kết thành hàng trăm đường giây rắn dài ngoằn ngoèo bò lên, thanh thế dữ dằn khiến mọi người thấy phát kinh hồn khiếp đảm!
Hồng Thất Công "ủa" lên một tiếng và nói:
- Hiện giờ là mùa đông, khí lạnh tuyết đóng thành băng, rắn trùng đều núp kín vào hang, chẳng lẽ giống rắn của lão độc vật khác biệt mà không biết sợ lạnh saỏ
Y đâu có ngờ rằng hai anh em của Âu Dương Phong noi theo phương pháp nuôi rắn trong "Ngũ Độc kỳ kinh", ngoại trừ dùng thức ăn cay nóng để nuôi rắn để cho giống đó tăng thêm sức chống kháng với khí lạnh lại còn thỉnh thoảng nhốt vào lồng trúc đem vào chỗ đất tuyết tập luyện chúng quen với hơi lạnh. Bởi thế tất cả những giống rắn nuôi trên Bạch Đà Sơn, không hề có thói quen tìm hang để ngủ vùi suốt mùa đông như các đồng loại của chúng ở nơi khác, mà vẫn có thể hoạt động trên mặt tuyết lạnh như lúc bình thường.
Trong lúc Hồng Thất Công còn đương phân vân thì đoàn giây rắn hàng trăm sợi dài thậm thượt kia, càng lúc càng tiến gần thêm.
Âu Dương Phong khẽ nhích nụ cười ranh mãnh, ngón tay lướt trên cung đàn càng lúc càng nhặt thêm, chỉ chốc sau là có một đường giây rắn, ngúc ngoắc bò lên đến đỉnh núi, cách xa chỗ Hoàng Dược Sư đang đứng thổi tiêu không đầy mười trượng.
Trùng Dương kêu "ủa" lên một tiếng kinh ngạc vì năm xưa trên núi Hoa Sơn tìm kinh, đã thấy qua Xà trận của Âu Dương Phong, sánh với trận hôm nay khác xa vạn phần, không những rắn nhiều hơn gấp mấy lần, mà hàng lối lại tề chỉnh khác thường, tự cắn lấy đuôi nhau để kết thành đội ngũ đàng hoàng, dường như đã qua một lần luyện tập thuần thục, khác xa với lối tạp loạn xô bồ thuở trước.
Trùng Dương thầm suy tính, nếu hàng vạn còn mãng xà này đồng lúc bò lên thì Hoàng Dược Sư dù có phép thần thông biến hóa cũng khó cản nổi, đến lúc ấy chàng không lẽ tọa thị điềm nhiên mà chẳng cứu, lại cùng Tây Độc kết thêm mối thâm thù, thật là vạn bất đắc dĩ vậỵ
Trong lúc Trùng Dương đăm chiêu nghĩ ngợi, và bầy rắn đang cuồn cuộn bò đến như sóng tràn, thì bỗng nhiên tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư âm thanh biến đổị
Lúc chàng cùng đối tấu với Âu Dương Phong thì tiếng tiêu dìu dặt ôn hòa như khí tiết mùa xuân, điệu tiêu như Hạc kêu Phụng gáy, nhưng giờ đây biến thành gió thu hiu hắt vó ngựa khô khan, tựa như thiên binh vạn mã đang sát phạt nhau dữ dội, chẳng khác với âm điệu của tiếng đàn tranh chút nào, bất quá là tiếng tiêu thảnh thót, còn tiếng tranh thì vang rền đấy thôị
Kể ra cũng lạ, tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư vừa chuyển sang điệp khúc khác thì đoàn rắn liền im lìm ngưng động đậy ngay, mỗi con đều nhả lỏng đuôi của đồng loại ra, rồi bụng chúng dán xuống đất, cổ chúng lại vương lên, trận rắn lúc trước hàng lối chỉnh tề, giờ đây lại tán loạn lên.
Âu Dương Phong kinh hãi khôn cùng, y không ngờ là tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư lại có uy lực điều khiển được trận rắn của mình, chỉ qua mấy âm điệu của tiếng tiêu lạ lùng kia, mà bầy rắn đã bị kích động mãnh liệt, rắn bé, rắn lớn nhất tề phùng mang uốn mình múa may loạn cả lên.
Bộ dáng khiêu vũ của bầy rắn xem rất dễ tức cười, con thì đưa hỏng chiếc đuôi lên cao ngoe ngoé trong không khí, đầu mình dán sát xuống mặt tuyết, lăn qua lộn lại như bánh xe gió, có con thì uốn khúc thân hình, quẫy tròn loanh quanh, tựa như đợt đóng nhấp nhô trên mặt hồ, có con lại ngúc ngoắc chiếc đầu lắc lư theo tiếng tiêu mau chậm.
Hồng Thất Công khoái chí cười lên ha hả:
- Không ngờ bầy rắn của lão độc vật lại biết làm trò xem. Thích quá! Thích quá!
Tây Độc thấy tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư vừa trỗi lên, bầy rắn náo loạn cả, y biết chuyện chẳng lành sắp đến, vội khảy cho tiếng đàn lớn lên, bỏ nhạc khúc "Đại Giang Đông Khứ", đổi sang lối nhạc buồn buồn, hy vọng ngăn chận được thế loạn cuồng của bầy rắn mình, nhưng khổ nổi tiếng đàn thiết tranh âm điệu âm trầm, nếu khẩy những điệu nhạc hùng tráng rất hay, nhưng nếu tấu lên nhạc khúc du dương ủy mị, thật là khó nghe vậỵ
Tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư càng mau thì bầy rắn lại càng trong thế cuồng loạn múa may có lắm con không dằn được nổi, tự cắn lấy đuôi mình mà lăn lộn rít lên thành tiếng gió vu vụ Có con lại chẳng phân biệt được hơi quen hơi lạ, táp nhầu vào đồng loại của mình mà quấn cứng lạị
Âu Dương Phong hại người chẳng được mà trái lại tự hại lấy mình, y biết nếu tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư không ngưng thì bầy rắn của mình sẽ bị nhạc điệu của tiếng tiêu kích động mà tự tàn sát cắn táp lẫn nhau, bao nhiêu tâm huyết của mười lăm trời sắp biến thành mây khóị
Âu Dương Phong quá sốt ruột chợt nhớ lại ám khí của mình.
Thì ra, cây đàn tần tranh của Tây Độc bên trong dấu nhiều vật cổ quái, ngoài trừ hai đầu cần giả có lò so bật ra ngoài, đầu cần đàn tranh còn có ám khí.
Âu Dương Phong vì muốn cứu bầy rắn của mình chẳng còn kể gì đến uy danh và thể diện. Y bèn khẩy mạnh cây đàn tranh vang lên hai tiếng "từng tang", tức thì có hai vật đen sì lao nhanh ra như hai mũi tèn, bay vút vào hai bên huyệt Thái Dương của Hoàng Dược Sư.
Hai mũi ám khí ấy tên gọi là "xà đầu chủy", bật ra ngoài nhanh như một tia điện lợi hại vô cùng.
Tây Độc biết rõ Hoàng Dược Sư cũng là một tay ám khí nhà nghề, hai mũi xà đầu chủy của mình phóng ra chưa chắc đã hại được đối phương, bất quá bắt buộc đối phương phải ngừng ngay tiếng tiêu, khi ấy tiếng đàn tranh của mình mới có thể thoát ngân ra ngoài để trấn áp được bầy rắn có hiệu quả hơn.
Ngờ đâu hai mũi ám khí đen sì ấy vừa bay đến trước mặt đối phương, Hoàng Dược Sư tuyệt nhiên không tránh né, miệng vẫn ngậm lấy ống ngọc, đầu ống tiêu hất sang bên một cái, đuôi tiêu đưa về bên hữu "cong" "cong" hai tiếng, hai mũi xà đầu chủy đều bị hất rớt xuống đất mà tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư vẫn không hề ngưng.
Âu Dương Phong vừa thẹn vừa giận định phóng luôn một lượt ba mũi chủy còn lại thì bỗng nhiên trong bầy rắn có sự biến hóa kỳ dị.
Thì ra Đoàn Hoàng Gia lần này đến Hoa Sơn vô tình có đem theo một con Kim xà vương mà ông nuôi từ lúc còn làm thái tử.
Con Kim xà này, sau khi được hoàng cung Đại Lý, Đoàn Hoàng Gia quí trọng nó như châu báu, dùng một cái lồng bằng vàng thật đặc biệt nhốt lại, nào ngờ sáng hôm sau khi ngủ thức dậy chiếc lồng vàng bị bẻ gãy tan tành, Kim xà vương không trốn đi, quấn tròn trĩnh nơi trụ rồng tại đại điện, mọi người thấy thế đều hết sức kinh dị.
Đoàn Hoàng Gia mới chỉ biết Kim xà vương không chịu bị nhốt trong lòng mà muốn tự do ở bên ngoài, ông bèn chiều theo bỏ vào trong ngự viên, Kim xà vương hết sức hiền lành thuần tánh không hề cắn ai, chỉ bắt chim chuột để ăn, rồi bò chơi quanh quẩn khắp hoa viên.
Đoàn Hoàng Gia chỉ huýt khẽ một tiếng sáo miệng là Kim xà vương từ trong bóng câu lùm hoa bò ra ngoài, so với mèo chó còn thuần tánh hơn nhiềụ
Con rắn này còn có một điểm lạ là sau khi vào hoàng cung của Đại Lý, từ cung điện cho tới hoa viên, bao nhiêu sâu bọ đều im hơi mất tích chạy tránh sạch trơn, cho nên Đoàn Hoàng Gia xem con Kim xà ấy như một món đồ chơi yêu quí nhứt của mình, cứ mỗi lúc rảnh rang là đi tìm nó ngaỵ
Cho đến đại thần trong triều cũng cảm thấy vị hoàng đế của mình quá thương yêu loài rắn, thật chẳng phải thể thống của một vị vuạ
Nhưng vì Đại Lý chỉ là một tiểu quốc bế quan tự thủ, dân cư an lạc, thế nước thanh bình, nên chẳng lấy đó làm việc quan trọng.
Lần đến Hoa Sơn này Đoàn Hoàng Gia bỗng hứng khởi trong lòng, đem Kim xà vương bỏ vào trong một ống trúc có thoáng khí, rồi để trong túi hành trang của mình cùng đem đi theọ
Sau khi đến Hoa Sơn, Đoàn Hoàng Gia mới để hành trang cho kẻ tùy tùng coi sóc, một mình đến dưới núi để tham gia cuộc so tàị
Nào ngờ Kim xà vương mang cả ống trúc lăn ra ngoài túi hành lý, rồi như có linh tánh, lăn đến dưới chân Đoàn Hoàng Giạ
Đoàn Hoàng Gia nghĩ thầm:
- Phải chăng con rắn này cũng muốn xem thí võ?
Nghĩ thế bèn nhặt ống trúc lên bỏ gọn vào túi, nào ngờ trong cái vô tình ấy mà có chỗ ứng dụng thích đáng phá được Xà trận của Âu Dương Phong.
Nguyên vì con Kim xà này trong lúc Đoàn Hoàng Gia cùng Âu Dương Phong, Hoàng Dược Sư giao đấu thì vẫn nằm im không nhúc nhích, chợt đến khi Đông Tà, Tây Độc, hai người dùng nhạc khí để ấn chứng võ công giữa nhau Âu Dương Phong khảy đàn để xua rắn thì Kim xà vương trong ống trúc lồng lộn không yên rồi sau khi Xà trận cua Tây Độc kéo đến, Kim xà vương ngửi thấy mùi tanh của đồng loại liền rọ rạy trong ống dữ dội, muốn chủ mình thả ra ngoàị
Nhưng Đoàn Hoàng Gia đang chú ý đến Xà trận mà quên hẳn con Kim xà vương trong túi mình.
Cho đến lúc Hoàng Dược Sư thổi lên điệu tiêu Thiên Ma Vũ Khúc, khúc nhạc ấy không những mê hoặc được tâm trí con người khi trỗi đến điệp khúc nhanh nhất lại có thể làm cho người như say ngây, tay múa chân nhảy cho tới chết mới thôi, mà cho đến loài côn trùng điểu thú khi nghe phải cũng bị mê hoặc như người vậỵ
Kim xà vương tuy bị nhốt trong ống trúc ở trước ngực Đoàn Hoàng Gia nhưng cũng bị điệu tiêu Thiên Ma Vũ khúc véo von của Hoàng Dược Sư mê hoặc như đoàn mãng xà của Xà trận Âu Dương Phong, con Kim xà vương liền ở trong ống trúc lăn lộn mấy vòng, khiến cho nắp ống trúc thình lình bật ra, Kim xà vương liền lẹ làng thoát ra khỏi ngực Đoàn Hoàng Gia luồn mình xuống đất rồi như mũi tên, phóng di như bay đến giữa Xà trận.
Con rắn vàng nhỏ ấy là vua của loài rắn, thân hình dài không dầy một thước, nhưng lại là một vị chúa tể cai quản khắp trăm loài rắn trên trần thế.
Kim xà vương vừa bò đến nơi đoàn mãng xà của Âu Dương Phong liền cuộn mình cong lưng quấn tròn vài vòng nhân hình phát ra những tía váng óng ánh dưới ánh mặt trời, và lạ thay bầy rắn của Âu Dương Phong đang bi Thiên Ma Vũ Khuc của Hoàng Dược Sư mê hoặc đến mất tính thường, đang ngây say cuồng loạn, cắn lộn lẫn nhau dữ dội, nhưng khi Kim xà vương vừa xuất hiện thì tình thế hỗn loạn trong Xà trận tức thì im bặt.
Kim xà vương tựa như một vị chí tôn cao cả trong loài người bệ vệ ngẩng cao chiếc đầu vàng óng ánh, luồn vào giữa bầy rắn, lập tức những con rắn mãng xà, rắn hổ, rắn lục xanh dài hơn trượng, nọc độc vô cùng lợi hại kia vừa thấy Xà Vương bò đến gần bên, liều ngã ra cụp đầu ngay đuôi nằm im dưới đất không động đậy gì cả.
Âu Dương Phong kinh khiếp trợn đôi mắt trắng dã, há hốc mồm ra nhìn, Hoàng Dược Sư cũng ngừng ngay tiếng tiêu còn Trùng Dương thì nín thở, lặng im nhìn cục diện biến hóa đột ngột trong xà trận. Con rắn vàng nhỏ ấy ngang nhiên bò thẳng vào giữa trận rắn, rít lên mấy tiếng gió "zíu zíu", thì lạ lùng thay hàng vạn con mãng xà to lớn kia cũng rít lên những tiếng gió "zíu zíu" quái dị đáp lại liên tiếp ba lần như thế.
Hồng Thất Công cười lên ha hả và nói:
- Hay quá! Ngộ quá! Rắn mà cũng có vua chua rắn nữa, bọn nó đang tung hô vạn tuế ba lầân đấy !
Kim xà vương lại lăn tròn dưới đất mấy vòng, trong trận rắn liền có tám con mãng xà bông xanh con nào cũng dài hơn một trượng ngoài lớn bằng cái khạp ríu ríu bò ra đến bên con Kim xà vương, tựa như cận thần hay đại tướng đến hộ vệ hai bên tả hữu vậỵ
Con Kim xà vương thình lình "zíu" lên một tiếng gió, rồi lớn chiếc họng nhỏ có răng bén khít rịt thư lưỡi cưa bén, táp mạnh vào dấu con mãng xà bông xanh gần nhứt.
Con rắn bông xanh ấy thân hình to lớn gấp trăm lần con rắn vàng kìa, nhưng khi bị con Kim xà vương mổ cắn, không những nó không dám cự lại mà con cúi đàu nằm phục xuống đất không nhúc nhích gì cả.
Kim xà vương mổ đầu con rắn bông xanh xong. liền khè lên mấy tiếng con mãng xà bông xanh chết liền tại chỗ. Kim xà vương lại cũng noi thèo cách trừng trị trước liên tiếp mổ chết bảy con rắn còn lạị
Không đầy thời gian một tuần trà, tám con rắn mãng xà to lớn đều chết nằm ngổn ngang trên mặt đất.
Âu Dương Phong thấy Xà trận của mình đã khổ nhọc biết bao nhiêu tâm huyết mới luyện thành bỗng nhiên lại bị một con rắn vàng nhỏ như ngón tay kia hàng phục một cách dễ dàng, thì ngẩn ngơ giận dữ.
Tây Độc vốn là một tay luyện rắn có bản lĩnh, y thấy con rắn vàng nhỏ ấy là một loạt rắn lạ mà y chưa, từng gặp qua, trong cơn phẫn nộ lại nổi thêm lòng ham muốn, y cười lên một tiếng gian hoạt, rồi chẳng cần đế ý chuyện đang so tài với Hoàng Dược Sư, để mạnh cây đàn thiết tranh xuống đất móc ra một nắm thuốc rắn thoa vào hai bàn tay, rồi tung mình nhảy vút khỏi tảng đá, chạy bay vào giữa xà trận của mình.
Và sau đó là phần kết cuộc của chuyện nàỵ
Đoàn mãng xà vựa thấy Tây Độc đến, liền tranh nhau tránh vẹt hai bên, Âu Dương Phong đi thẳng đến bên con rắn vàng.
Thấy Âu Dương Phong đi đến gần mình, Kim xà vương chẳng chút sợ hãi cuộn tròn mình lại đầu ngẩng lên cao, phùng mang rít lên những tiếng zíu zíu quái dị.
Âu Dương Phong cười khe khé và nói:
- Ngoan ngoãn nào, mi theo về ở với ta, có chỗ ở đàng hoàng có món ăn ngọn miệng.
Miệng thì nói, hai ngón tay tả nhanh như chớp chộp lẹ trở xuống, y chắc chắn trong bụng là mình có thể nắm ngay vào cổ rắn một cách dễ dàng.
Tây Độc vốn là tay luyện rắn nhà nhà nghề, trên tay lại có thoa thuốc bắt rắn, đừng nói chi y là người có võ công tuyệt thế mà chỉ cần một người bắt rắn tầm thường thì với cái chộp nghề nghiệp ấy cũng có thể nắm được cổ con Kim xà một cách dễ như bỡn. Nhưng kể cũng lạ, con Kim xà nhỏ ấy dường như chẳng chút nào sợ thuốc rắn, mình nó đan quộn tròn dưới đất liền quẫy mạnh một cái, tránh khỏi hai ngón tay của Âu Dương Phong một cách hết sức khéo léo, rồi quay miệng táp trở lại vào mạch môn nơi cổ tay của Âu Dương Phong.
Thật là một sự bất ngờ ngoại ý liệu, thiếu chút nữa là Âu Dương Phong bị nó cắn phải, may nhờ y là một tay võ nghệ tuyệt luân, ứng biến rất nhanh lẹ, vội lật tay trở lại vù một chưởng nhanh như sấm sét, con Kim xà bị làn chưởng phong mãnh liệt ấy quét phải bắn văng ra xa hai trượng ngoài, rơi đè lên mấy con xích luyện xà, tức thì Xà trận liền hỗn loạn ngaỵ
Âu Dương Phong vừa định tung mình nhảy vụt theo bắt cho kỳ được con Kìm xà vương ấy, thì bất ngờ sau lưng có tiềng gió lạ, rồi một làn quyền bay ập đến sau lưng.
Ngọn quyền phong ấy không phải là Hoàng Dược Sư đánh tới mà chính của Đoàn Hoàng Gia tấn công.
Nguyên vì ông thấy Âu Dương Phong định ra tay hại con Kim xà vương của mình nên Đoàn Hoàng Gia chẳng nói chẳng rằng, phi thân nhảy bổ đến vung ra một quyền đánh vào vai của Tây Độc.
Âu Dương Phong nghe tiếng gió liền với tay đánh trái ra sau nột chưởng dể đón lại, nào ngờ quyền ấy Đoàn Hoàng Gia sử dụng Kim Cáng Quyền, kình lực rất hùng mạnh. Chưởng lực của Âu Dương Phong vừa chạm phải liền "bùng" lên một tiếng, Âu Dương Phong bị đẩy bật lùi ra sau hai bước.
Âu Dương Phong cả giận mở miệng mắng toáng lên:
- Đoàn Trí Hưng, mi tự nhiên lại ra tay đánh lén người thật không còn thể diện gì cả!
Đoàn Hoàng Gia đáp:
- Kim xà ấy là của ta, mi không được có tà ý khác, cũng không được quyền làm hại nó, mi hiểu chưả
Âu Dương Phong cả giận gầm to lên:
- Của mi cải khỉ khô!
Miệng quát, song chưởng đã chấp lại thành một đẩy mạnh ra, tức thì có luồng gió rít lên ầm ầm như sấm động, một nguồn kình lực cửa Cáp Ma Công thế mạnh như bạt núi dời non, cuồn cuộn bay ập đến người Đoàn Hoàng Giạ
Vừa qua, Tây Độc đã một lần trong so tài với Đoàn Hoàng Gia lợi dụng lúc ông ta bất ý sự dụng Cáp Ma Công để hại lén ông, nhưng bị Trùng Dương dùng Nhất Dương Chỉ phá mất. Lần này Âu Dương Phong cũng giở theo mửng cũ, bất thần dùng Cáp Ma Công xuất kỳ bất ý tấn công vào ngực ông.
Nhưng lần này Đoàn Hoàn Gia đã tiểu tâm phòng bị, ông liền hít mạnh một hơi dài và trong luồng khí công như sấm sét kia, thân hình Đoàn Hoàng Gia chỉ khẽ loạng choạng hai bước, rồi chửi to lên:
- Lão độc vật, Cáp Ma Công của nhà ngươi khá cao diệu đấy!
Thì ra Đoàn Hoàng Gia vừa tồi đã sử dụng Tiên Thiên Thần Công để chống lại Cáp Ma Công của đối phương.
Tiên Thiên Công là một môn khí công vận dụng khí lực hỗn nguyên của tiên thiên trong cơ thể con người, trong châu thân nếu khí tiên thiên không đủ, con người sẽ sinh ra bịnh hoạn, trái lại tiên thiên đầy đủ, tức nhân thân thể được cường tráng, tinh thần trí óc được minh tuệ.
Tiên thiên của Đoàn Hoàng gia rất tốt, lúc nhỏ khi đi tắm nơi Thúy Hồ gặp nguy hiểm, hút được máu quí của con lương chúa Kim Tuyến khí tiên thiên càng tăng gia thêm một bực, do đó luồng tiên thiên Hỗn nguyên chân khí của ông tự nhiên vượt đến lằn mức có thể tùy tâm ý phát ra để chống đỡ kẻ địch trong lúc sắp bị nguy hiểm.
Cáp Ma Công của Âu Dương Phong bên ngoài xem ra thì dường nhừ một tuyệt kỹ kỳ bí, nhưng thực tế cũng chỉ là một lối luyện khí tiên thiên mà thôi, bất quá xem trọng ở phương diện bên ngoài, nên với công phu tiên thiên của Đoàn Hoàng Gia đường lồi tuy có khác nhưng phương thức vẫn như nhaụ
Mà công phu nội lực của Tây Độc và Nam Đế thì đều ngang ngửa bằng nhaụ
Cho nên Cáp Ma Công của Âu Dương Phong vừa đẩy ra, Đoàn Hoàng Gia liền vận khí tiên thiên bố trí thắp châu thân để chống lại, thêm vào lớp vảy cá mọc nơi ngực của ông có hiệu lực chống đỡ tất cả sức mạnh quyền cước của đối phương.
Do đó kình khí Cáp Ma Công tấn công đến Đoàn Hoàng Gia không mảy may bị suy suyển.
Âu Dương Phong thấy kình lực Cáp Ma Công không hạ được Đoàn Hoàng Gia mà Xà trận của y cũng sắp tan hoang, nên nén giận ngưng tay nói lớn:
- Được lắm! Chúng ta hãy thâu Xà trận trở về rồi một lát nữa sẽ đánh nhau một trận cho sướng tay!
Đoàn Hoàng Gia liền lên tiếng gọi Kim xàvương:
- Kim nhi trở về mau !
Đoạn ông quăng chiếc ống trúc xuống dưới đất, thổi lên hai tiếng sáo miệng, con Kim xà vương quả là một linh vật khôn ngoan khác thường.
Biết rõ được ý người lập tức rời ngay khỏi trận rắn ngúc ngắc bò ra rồi như mũi tên lìa ná phóng nhanh trở lại phía Đoàn Hoàng Gia đang đứng, bò quanh quẩn xung quanh chân ông mấy lượt mới ngoan ngoãn chui trở vào ống trúc.
Âu Dương Phong suốt nửa đời người chuyên nghề nuôi rắn nhưng chưa hề thấy qua loại rắn nào có thể nghe được tiếng người như con Kim xà kia, cứ lẩm bẩm khen thầm trong bụng không thôị
Hồng Thất Công liền kêu to:
- Này lão độc vật, người ta đã thâu Kim xà vương rồi, mi cũng phải thâu loại trùng thúi ấy trở về đi chứ! lớn xác chẳng ra trò, càng nhiều càng vô dụng, còn để đó có lợi ích gì !
Âu Dương Phong tức muốn nổ cả da bụng ra nhưng khi nhìn sanh Hoàng Dược Sư thấy chàng ta đang dùng tay áo lau ống ngọc tiêu như có y muốn thổi như có ý muốn thổi nữa, Tây Độc giật mình hoảng hốt vội chộp lấy chiếc đàn tranh năm nhón tay thoău thoắt lướt nhanh lên giây đàn phát ra những tiếng "tình tang, tang tình", tấu thành khúc Cô Thành Lạc Nhựt, bầy rắn liền xao động rầm rộ miệng cắn đuôi nhau kết thành hàng ngũ như cũ, ngoằn ngoèo bò trở xuống núị
Hồng Thất Công lại nói:
- Giống dơ dáy tanh hôi đi khỏi nơi đây, Hoa Sơn mới thấy sạch sẽ trở lại!
Âu Dương Phong bị chế diễu mãi trong lòng rất giận muốn gây sự ngay nhưng chợt nghĩ lại nên cố dằn xuống.
Trùng Dương nói:
- Bây giờ đã sắp tối, chúng ta nghỉ ngơi một đêm, ngày mai sẽ đấu tiếp!
Mọi ngươi đều gật đầu đồng ý, mỗi người lại tìm một nơi vừa ý xếp bằng tĩnh tọa để điều nguyên dưỡng khí.
Sáng hôm sau mặt trời mới hé dạng ở phía đông Hồng Thất Công đã tru tréo la to:
- Ôi chu choa! Không xongủồi, lão ăn xin này chết chứ không thể chịu nổi rồị
Trùng Dương hết sức ngạc nhiên vội hỏi:
- Thất huynh có chuyện gì thế?
Hồng Thất Công đáp:
- Chúng ta tranh tài nhau đã hai ngày trời chẳng có chút gì lót bụng, nếu cứ giao đấu thêm có phải là lão ăn mày này khi không mà chết đói nhăn răng chăng?
Mọi người nghe Hồng Thất Công nói thế đều không nhịn được cười vì thật ra người đã thấu triệt được nội công thượng thặng, có thể luyện khí bồi dưỡng tinh thần, ba ngày không cần ăn uống là chuyện rất thường.
Hoàng Dược Sư nghe Hồng Thất Công than đói như bọng, bèn nói:
- Thất huynh đói bụng lắm saỏ Nhưng hoang sơn tuyết trắng thế này có gì mà ăn được, tôi có đem theo Cửu Hoa Ngọc Lộ Hoàn, có thể dùng đỡ đói được, Thất huynh uống đỡ vài viên vậy!
Nguyên vì, Hoàng Dược Sư ở trên Đào Hoa Đảo, vun trồng và nghiên cứu các tánh chất của hoa cỏ, bất kỳ loại kỳ hoa dị mộc hay danh thảo gì trên Trung Thổ, đều được chàng chiết trồng gây giống lên khắp đảo Đào Hoa, nên trên đảo bốn mùa hoa thơm ngát mũị
Hoàng Dược Sư không những tinh thông thuật trồng trọt mà cho đến y lý chàng cũng rất sành, cứ mỗi ngày vào lúc sáng sớm sương mù còn đọng khắp ngọn cây, chàng hứng tất cả sương đọng trên trăm đóa hoa hòa hợp với vài loại thảo dược quý báu chưng và phơi đủ chín ngày chín đêm chế thành viên Cửu Hoa Ngọc Lộ Hoàn.
Công dụng của viên Cửu Hoa Ngọc Lộ có thể trừ độc, ngưng được đau nhức mà còn có thể nhuận thuần cường tráng thân thể, uống một viên có thể nhịn đói cả bảy ngày bảy đêm mà không cần ăn uống gì cả.
Hồng Thất Công nghe Hoàng Dược Sư bảo mình uống thuốc đỡ đói bèn le lưỡi lắc đầu đáp:
- Úy! Ai mà uống thuốc đỡ đói được. Mấy viên thuốc quèn ấy không đủ lão ăn mày nào nhét lỗ kẻ răng nữa là. Mẹ kiếp! Đấu võ hai ngày trời, miệng lạt thấy trời đất!
Trùng Dương và mọi người thấy bộ tịch xấu đói của Hồng Thất Công đều không thể nín cườị
Hồng Thất Công nuốt nước miếng nghe ừng ực rồi đem những món ăn ngon trên khắp Nam Bắc nào là thịt dê tái ở Yên Kinh, cá chua Lưu Ngư ở Hàn Châu, cá chép chưng ở Tô Châu, thịt đút lò ở Hải Nam, đậu hủ đánh huyết ở Tứ Xuyên, mì thịt ngựa thơm phức ở Quế Châu, y cà kê kể một hơi dài sọc dường như đang ăn bằng tưởng tượng những món ăn ngon ấỵ Y lại tỉ mỉ phân tách món ăn chỗ nào cho ngon, món nọ phải dùng với rượu gì mới hợp khẩu, khiến mọi người nghe y kể một hồi cũng phát đói lâỵ
Âu Dương Phong nhóp nhép hàm râu rồng nói:
- Lão ăn mày kể đến món ăn, khiến bụng tao cũng phát đói, chúng ta nên tìm món gì để đỡ dạ nếu không chẳng còn sức lực đâu để mà đấu tiếp.
Hồng Thất Công bèn nói:
- Lão độc vật mi cũng muốn ăn saỏ Ta với mi đánh cá chơi, mi bằng lòng không?
Âu Dương Phong cười khè khè đáp:
- Đồng ý! Đồng ý!
Hồng Thất Công nói:
- Từ Hoa Sơn đến Trường An cách nhau một trăm tám mươi dặm đường, ta với mi phân nhau hai ngã, hạn định trước giờ ngọ là trở về, mỗi người tự ý chọn lựa lấy món ăn, người nào đem về Hoa Sơn trước thì kể thắng, về sau kể như thua, món ăn của ai làm ngon cũng kể thắng, không ngon miệng cũng kể thua, mi bằng lòng không?
Trùng Dương, Đoàn Hoàng Gia và Hoàng Dược Sư không khỏi tức cười, Hồng Thất Công thật là một con người liếng láu khôi hài, cho đến ăn cũng ganh đua so tài như võ nghệ.
Âu Dương Phong không cần nghĩ ngợi gật đầu đáp:
- Được lắm! Phương pháp ấy tuy rất hay, nhưng vẫn còn thiếu sót !
Hồng Thất Công trợn mắt hỏi:
- Lão độc vật, tại sao lại thiếu sót? Mi đinh giở giọng "rắm" thối ra nữa phải không?
Âu Dương Phong cười nhạt đáp:
- Từ Hoa Sơn đến Trường An dọc đường thiếu gì chợ búa, tỉnh thành. Nếu mi chẳng đến Trường An mà đến thị trấn nào gần nhất chân núi mua vài ba món ăn đem về, còn ta phải lặn lội từ đây đến tận Trường An, có phải là mắc mưu mi chăng! Món ăn là ở Trường An hay ở nơi khác làm gì có ký hiệu mà phân biệt được hở thằng ăn mày thúỉ
Trùng Dương gật đầu khen thầm, gã Tây Độc này tuy là một đứa tham gian nhưng tâm địa khá tế nhị.
Hồng Thất Công "ồ" một tiếng và cười lên ha ha rồi nói:
- Lão độc, lời mi nói phải đấy, ta hỏi mi, vậy mi có đến Trường An lần nào chưả
Âu Dương Phong đáp:
- Ta từ xa xôi ở Tây Vực đến Trung Thổ, Trường An là nơi phải đi qua, sao lại không có đến. Lời mi nói có ý nghĩa gì?
Hồng Thất Công nói:
- Phía Đông cửa thành Trường An có một gian tửu lầu sang trọng hiệu tiệm Thái Bạch Cư, mi có biết không?
Âu Dương Phong đáp:
- Ta không nhớ lắm nhưng chắc có lẽ tìm được!
Hồng Thất Công lại nói:
- Như vậy thì được rồỉ Tiệm cao lâu Thái Bạch ấy toàn dùng chén đũa bằng sứ màu xanh da trời của lò sứ "Sài Diêu", quận cảnh Đức tỉnh Giang Tây sản xuất. Khắp thành Trường An không có tửu lầu hay quán ăn nào dám dùng chén bát sứ Sài Diêu cả, mà chỉ có tiệm Thái Bạch Cư thôi, các thị trấn khác thì khỏi nói là chẳng có rồi!
Chúng ta chia hai nẻo Đông, Tây xuống núi, sớm đến tiệm Thái Bạch mua vật thực đem về lấy đồ sứ "Sài Diêu" làm chứng cớ như vậy được chưả
Âu Dương Phong cười lớn và nói:
- Hay lắm! Chúng ta bắt đầu ngay bây giờ đị
Nguyên đồ sứ "Sài Diêu" là một loại từ khí danh tiếng nhất của các quận Cảnh Tỉnh, Giang Tâỵ Cái tên Sài Diêu xuất ở thời kỳ nhà Đường mạt qua thời kỳ Ngũ Đại Hậu Châụ Thái Tổ là Quách Ngạn Oai rất thích chén đĩa làm ở thị trấn Cảnh Đức, nên cho lập tại thị trấn ấy một lò sứ gọi là Ngự Diêu (lò của vua), một hôm tên thợ lò hỏi Châu Thái Tổ thích tráng men gì?
Châu Thái Tổ không nghĩ ngợi đáp ngay:
- Sau cơn mưa khoảng trời xanh lộ giữa mây trắng, cứ y theo màu sắc ấy mà chế ra!
Châu Thái Tổ rất thích màu xanh da trời và quả nhiên tên thợ làm đồ sứ đã theo ý vua nung thành màu sắc xanh da trời ấỵ
Sau đấy Quách Ngạn Oai lập Sài Vinh lên làm Thái tử cho nên mọi người mới quen miệng kêu đồ sứ màu xanh da trời là "Sài Diêu" cho đến thời đại Tống Trào, một số người giàu có dùng đồ sứ thường thích màu sắc của Sài Diêu và Hồng Thất Công là một người sành ăn mới biết rõ được điều ấỵ
Hồng Thất Công và Âu Dương Phong sau khi thuận ưng điều kiện xong, hai người đồng lượt xuống núi phân ra hai nẻọ
Hồng Thất Công đi hướng Tây, vừa đếm xong một, hai ba là hai người dùng ngay thuật khinh công bước chân thoăn thoắt như bay xuống triền núi, trong khoảnh khắc hai người biến mất sau lùm câỵ
Hồng Thất Công vì là Bang chủ của Cái Bang, nên bước chân dẫm khắp thiên hạ. Lộ trình từ Hoa Sơn đến Trường An có thể nói là Hồng Thất Công thuộc làu từng bụi cây, hòn đá, biết rõ đường nào vòng xa, đường nào đi tắt gần hơn, chỉ một điểm ấy cũng đủ hơn Âu Dương Phong rồị
Y vừa rời khỏi núi Hoa Sơn là cắm đầu chạy nhanh, như ngựa tế, không dám dừng bước nghỉ ngơi, nên chỉ độ một giờ đồng hồ sau là đã đến thành Trường An rồị
Hồng thất Công rất sành đường đi nước bước trong thành, nên tìm đến tửu lầu Thái Bạch Cư chẳng mấy khó khăn, y rón rén lẻn vào nơi nhà bếp chỗ trữ cất thực phẩm, với tay ra sau lưng cởi bầu đựng rượu xuống mở nắp một tỉnh rượu rót đầy vào hồ lô của mình, rồi ừng ực tu một hơi cạn bầu liếm mép khen ngợi :
- Rượu ngon thật! Thật ngon!
Sau lại liên tiếp rót thêm, uống luôn một hơi ba hồ lô rượu mới chịu thôi, vừa vươn vai đứng dậy định lẻn qua trù phòng để tìm món ăn, bỗng nghe ngoài trước có tiếng nói khàn khàn như tuồng phèn la bể gọi lên oang oang:
- Chủ tiệm đâu, ở đây có món gì ăn ngon nhất? Bất kỳ là bao nhiêu tiền, mau làm gấp cho tạ
Hồng Thất Công nhận ra tiếng nói của Âu Dương Phong, giật mình thất kinh, thầm nhủ:
- Lão độc vật cũng mau đến dữ he!
Kỳ thật là Âu Dương Phong không thuộc đường lắm, vì y là người xứ Tây Vực đến đây, đối với đường xá Trung Nguyên không mấy thông thạo, nhưng Âu Dương Phong được huy hiệu là Tây Độc thật không ngoa chút nào, trong lúc y đi dọc đường rời khỏi Hoa Sơn không xa, đã chận đón một chiếc xe song mã đang thuận đường và nói:
- Ê chiếc xe này về Trường An phải không?
Người đánh xe là một gã đàn ông nhà quê ưa đến Hoa Âm huyện mua hàng hóa xong vừa sắp sửa về Trường An, y thấy Âu Dương Phong tướng mạo cộc cằn, lập cập nói chẳng ra lờị
Âu Dương Phong không đợi gã nói hết câu đã nhún chân nhảy phóc lên xe, chễm chệ ngồi giữa xe, rồi liên tiếp đánh ra hai chưởng. Bao nhiêu hàng hóa trong xe đều đẩy tuốt xuống đường và hầm hừ quát to:
- Mau mau chở ta đến Trường An, càng mau càng tốt nghe rõ chưa ?
Gã nhà quê thấy Âu Dương Phong ngang tàng quá đáng, không khỏi tức giận vừa định nhảy trở lại một mất một còn với Âu Dương Phong.
Tây Độc cười khẩy một tiếng, giơ tay túm chặt nơi áo trước ngực gã đánh xe giơ bổng gã lên khỏi đầu và quát.
- Mi chịu theo lời ta hay không ? Nếu mi còn cứng đầu chẳng chịu đưa ta đến Trường An thì ta sẽ ném mi xuống đất, cái mạng chó của mi có mà về chầu tiên tổ ngay !
Hai bàn tay của Âu Dương Phong như mười thanh sắt nhọn móc lên da thịt, khiến gã nhà quê đau quá liền la lớn năn nỉ xin tha mạng.
Âu Dương Phong mới để y trở xuống, rồi móc trong người ra một đỉnh vàng quơ qua trước mắt gã nhà quê và mắng to :
- Đồ con mắt đui, lão gia của mi không thiếu gì vàng, thứ hàng hóa mắc dịch ấy giá bao nhiêu bạc ! Mau mau đưa ta đến Trường An, vàng này sẽ về phần mi !
Gã đánh xe thấy được đỉnh vàng, thì bao nhiêu hàng vật bị tổn thất, bao nhiêu sự đau đớn trong thân thể đều quên hết, vâng dạ luôn miệng :
- Vâng ! Vâng ! Tiểu nhân sẽ đánh xe cho lão gia đị Lão gia hãy ngồi cho vững !
Gã lập tức ra roi phóng ngựa chạy như giông như gió, chạy hơn một giờ đồng hồ là đến Trường An. Âu Dương Phong không đợi xe ngừng bánh vội nhảy phóc xuống xe, ném đỉnh vàng lên xe rồi rảo chân chạy thẳng đến hướng cửa Đông thành Trường An.
Tuy vậy, Hồng Thất Công cũng vẫn sớm tới trước y một lúc, nếu Hồng Thất Công chẳng tham uống thì đã mua xong đồ ăn và trở về trước hơn y rồi và Âu Dương Phong kể như đã thuạ
Nhưng vì Hồng Thất Công đến được kho trữ lương thực nghe hơi rượu đã phát thèm không chịu được, nằm khềnh dưới đất uống cho đã nư, diên trì chậm lụt để Âu Dương Phong bắt theo kịp đến nơị
Hồng Thất Công lo lắng nghĩ thầm :
- Không xong ! Lão độc vật đã cùng lúc đến với mình, nếu về cùng lúc thì thành ra hòa nhau rồi ! Không thể được mình phải phá y một trận mới được !
Nghĩ xong bèn lắng tai nghe bên ngoài chuyện gì để tìm cách đối phó, thì nghe Âu Dương Phong bảo tên tài phú tiệm làm năm con vịt quay, năm con gà hấp và năm cân bánh bao nhân bá bửu, lại dặn tiểu nhị dùng đồ sứ Sài Diêu, đựng đàng hoàng, hẹn tối nay sẽ đem chén đĩa trả lạị
Hồng Thất Công lấy tay vỗ trán mấy cái, rồi cười nói một mình:
- Ta cứ y như thế ấy mà làm, để chọc lão độc vật một mách cho bõ ghét !
Nói đoạn bèn lẻn vào nơi đầu bếp đang nấu nướng, thấy hơi thơm bốc mùi, nhìn sáu tên đầu bếp đang rửa rau, thái thịt, chiên xào lăn xăng, tiếng chảo nồi chạm nhau kêu "long cong!" Tiếng dao bầm trên thớt rộn ràng. Hồng Thất Công nhón mình nhảy tót ngồi chồm hổm trên nhà, thấy gã đầu bếp đang dùng lửa riu riu quay vàng năm con vịt của Âu Dương Phong cũng sắp xong, gà hấp thì tẩm mật cũng vừa rồi, liền bất thình lình dùng Giáng Long Thập Bát Chưởng Pháp theo thế Phi Long Tại Thiên (rồng bay trên trời), đánh mạnh lên nóc nhà nghe "ầm !" một tiếng, khiến nóc ngói của nhà bếp lủng một lỗ khá rộng như cái miệng thúng, bụi cát, ngói vụn bay rào rào xuống đất.
Hồng Thất Công cũng đồng thời hét tướng lên :
- Chết chết ! Nóc nhà sập rồi !
Mấy tên dầu bếp đang vùi đầu vùi cổ nấu nướng, bỗng nghe tiếng la hoảng sập nhà, lại thấy bụi cát trên trần nhà rơi xuống như mưa, sợ quính cả chân tay, quăng đao ném chảo, co giò chạy thục mạng ra khỏi trù phòng.
Hồng Thất Công cười tít mắt, buông người nhảy xuống dùng giấy dầu và lá sen lúc nãy y đã trộm sẵn bên kho thực phẩm, trút tất cả vịt quay, gà hấp trong chảo ra, gói lại cẩn thận trong lá sen, rồi lấy giấy dầu túm gọn ghẽ, lại nhón thêm một mớ chén dĩa bằng sứ Sài Diêụ
Tung mình nhằm vụt theo lỗ hổng nóc nhà đã dùng chưởng đánh lủng lúc nãy phi thân bay vọt ra ngoài lướt trở về Hoa Sơn mau như tên bắn.
Mấy tên đầu bếp sau khi chạy thoát ra khỏi phòng, bọn họ nghe "ầm" một tiếng rồi chẳng thấy nóc nhà sập xuống, hồn vía định lại, mới kéo nhau trở lại nhà bếp. Nào ngờ chỉ trong khoảnh khắc mà bao nhiêu gà hấp, vịt quay của vị khách Tây Vực bỗng không cánh mà bay mất.
Bọn họ vò đầu bứt tóc kêu khổ liên miên.
Bọn họ không ngớt phân vân bàn tán, một tên đầu bếp thốt nhiên kêu lên :
- Đúng rồi ! Chắc chúng mình phạm tội với Hồ Tiên ! Cho nên Hồ Tiên mới giáng xuống trừng phạt chúng ta, nếu không tại sao nóc nhà tự nhiên thủng lỗ, đồ ăn đồ uống biến mất cả !
Âu Dương Phong ngồi trước tiệm, đợi một lúc khá lâu, nhưng mấy thực phẩm mình đặt làm mãi vẫn chưa rồi, giận đến vỗ bàn thét như sấm.
Tài phú trong tiệm chỉ còn cách là rầy tiểu nhị cho mát lòng khách, rồi hết lời năn nỉ Âu Dương Phong.
Tây Độc vì sự đánh cá với Hồng Thất Công không thể làm quá, đành nén giận thấp thỏm ngồi chờ, cho nên đến thời gian một buổi cơm, đầu bếp mới làm xong, gói ghém cẩn thận đem rạ
Âu Dương Phong lấy thêm vài món chén tộ Sài Diêu làm chứng cớ, rồi chẳng chút chần chờ, chạy vun vút trở về Hoa Sơn như bị ma đuổị
Hồng Thất Công sau khi dụng kế đoạt lấy thực phẩm trong tửu lầu Thái Bạch Cư, liền noi theo đường cũ trở về Hoa Sơn, tới Trung Thiên môn thì trời vừa mới gần giờ Ngọ, Hồng Thất Công thầm nghĩ trong lòng:
-"Lần này thì chắc chắn là thắng y dư rồi, nhưng cũng nên hạ nhục lão độc vật này một ván cho sát đất để từ nay về sau, y hết cái thói "mục hạ vô nhân" của y mới được".
Hồng Thất Công lại nghĩ ra một kế khác, lão biết rõ Âu Dương Phong trở về Hoa Sơn thế nào cũng phải đi ngang qua Trung Thiên môn mà địa hình của Trung Thiên môn rất gồ ghề hiểm trở, rất thuận tiện cho kế hoạch trêu phá của mình.
Hồng Thất Công bèn đem bao thực phẩm treo cẩn thận lên một ngọn cây, sau đấy mới bò xuống lựa một lùm cây um tùm ẩn mình chờ đợị
Độ thời gian một buổi cơm thì Âu Dương Phong đã đem đồ ăn từ Trường An chạy vun vút đến nơị
Hồng Thất Công nhắm ngay một tảng đá núi dùng tuyệt chiêu trong Giáng Long Thập Bát Chưởng, hất tay đẩy ra một chưởng theo thế Kháng Long Hữu Hối, khiến cho một tảng đá nặng hai trăm cân dư kia, bật khỏi vị trí, lăn lông lốc theo đường mòn nhỏ hẹp của Trung Thiên môn, lao nhanh xuống tông thẳng vào người Âu Dương Phong đang bước thấp bước cao trèo lên kiạ
Âu Dương Phong tay bưng gói thực phẩm, thấy đá núi từ trên triền bỗng dưng lăn xuống, không khỏi giật mình kinh hãi, định tung mình nhảy tránh, nhưng nếu dùng thuật khinh công tung người nhảy bổng lên thì những món thực phẩm bưng trên tay cho đến chén đĩa phải rơi xuống đất chứ chẳng còn, mà nếu không nhảy tránh cũng không thể được.
Nhưng Bạch Đà Sơn Chủ là một tay mưu lược thâm trầm, y sực nghĩ được một diệu kế, vội để gói đồ ăn luôn cả hai cái đĩa lớn Sài Diêu đội trên đầu, dùng khí công hít cứng lạị Sau đấy trụ bộ đứng thẳng người, hai chân như hai khúc cừ chôn chặt trên đất, dùng Cáp Ma Công đẩy mạnh song chưởng ra, đem tất cả công lực bình sanh đánh thẳng vào hòn đá núi quái ác ấỵ
"Ầm !" một tiếng như trời long đất lở, tảng đá không chịu nổi kình lực quá cương mãnh của Cáp Ma Công nát ngứu ra từng mảnh vụn, bay văng rào rào xuống núi, hòn to hòn nhỏ, theo đường mòn lăn xuống như thác đổ.
Âu Dương Phong bị những mảnh đá vụn như mưa bấc lăn tông vào hai chân không chịu được đành phải tung mình nhảy lên để tránh khỏi luồng thác đá đổ xuống, nào ngờ cái nhảy ấy khiến bao nhiêu thực phẩm trên đầu, luôn cả hai cái đĩa bằng sứ Sài Diêu kia cũng nhảy tưng theo lăn rơi xuống chân.
Những món thực phẩm gà hấp vịt quay, Âu Dương Phong mua về đều dùng giấy dầu và lá sen bao gói cẩn thận để vào hai chiếc đĩa sứ, cái nhảy vừa rồi làm cho hai chiếc đĩa lăn rớt xuống ngaỵ
Âu Dương Phong trong lúc cấp bách, quơ tay chụp nhầu, chộp được gói thực phẩm khỏi rớt xuống đất, nhưng hai chiếc đĩa thì tan thành hàng trăm mảnh trên triền núị
Tây Độc không khỏi ngẩn người đứng nhìn, hai chiếc đĩa sứ màu xanh Sài Diêu đã rớt bể, món ăn của mình không còn bằng chứng để định xác, nhưng chẳng lẽ trở lại Trường An thêm lần nữa để lấy thêm chén bát Sài Diêu làm chứng cớ sao !
Y chỉ đành mặt mày bí xị leo lên đỉnh Hoa Sơn, ngờ đâu vừa lên đến đỉnh núi thì Hồng Thất Công đang cười hệt hạt, lù lù bên cạnh Trùng Dương và Đoàn Hoàng Gia, trước mặt núi sắp đầy gà hấp vịt quay, đều dùng đĩa sứ men xanh da trời của lò Sài Diêu, đúng là thực phẩm của cao lâu Thái Bạch Cư chẳng chút sái chạy !
Hồng Thất Công thấy Âu Dương Phong trở về bèn cười ha hả chế diễu:
- Lão độc vật, lần này mi thua xa rồi !
Âu Dương Phong bực tức la lên :
- Thua thì thua, có gì lạ đâu, ta không thuộc đường đi nước bước của thành Trường An, cứ theo đường lớn mà đi, còn mi thì đi quành quẹo theo đường ngang ngả tắt mà chạy, có thắng được ta cũng chẳng danh dự gì mà lớn tiếng hợm mình.
Hồng Thất Công cố ý cúi xuống xem xét gói thực phẩm của Âu Dương Phong đem về, rồi tru tréo kêu lên:
- Lão Độc vật thật chẳng biết xấu chút nào, món ăn của mi có chắc là ở tiệm Thái Bạch Cư thành Trường An đem về chăng ? Tại sao chẳng có đĩa sứ Sài Diêu ? Không thể được, lão độc vật định gian lận nên chẳng tới Trường An mà chỉ mua đồ thực phẩm dưới các thị trấn quanh núi đem về đây thôi, thật là lười biếng không chê được.
Âu Dương Phong tức giận nhảy chồm như điên và hét to lên :
- Lão ăn mày, mi đừng giở giọng thối bắt bẻ ta ! Chén đĩa ta lỡ tay rớt bể ở giữa triền núi, nếu chẳng phải món ăn ở Thái Bạch Cư thì làm gì vịt quay ngũ hương, gà hấp lớp mật ngon lành như thế kia ?
Hồng Thất Công cười, nói :
- À...À ! Lỡ tay làm rớt bể chén đĩa rồi sao ? Đấy là chuyện thường, này lão độc vật, người cần phải đem những mảnh bể ấy về đây để làm chứng cớ, chứ nói suông như vậy ai tin cho ?
Âu Dương Phong nghẹn họng không sao trả lời được, nghĩ mình quá sơ ý đã lỡ rớt bể thật sao chẳng nhặt mảnh bể đem về, giờ đây không có chứng cớ trong tay nói sao cho lại miệng lưỡi leo lự của lão ăn mày ?
Y sực nghĩ đến tình hình lúc mình lên núi, cùng khi đá núi bỗng dưng lăn lông lốc xuống, bỗng tỉnh ngộ ngay, y liền trợn mày dựng râu chỉ ngay Hồng Thất Công mà mắng lên oang oang :
- Thằng ăn mày chết băm, té ra mi phá ta .
Hồng Thất Công cười lớn và nói :
- Đây không phải là phá, mà là cuộc đấu trí nhaụ Lão ăn mày này một đời giữ lấy điều quang minh chánh đại, người ngay thẳng bao giờ chịu làm chuyện mờ ám, lão độc vật, để ta kể hết cho mi nghe mà tức !
Nói đoạn y đem sự việc đến Trường An trộm rượu uống no, làm yêu trong nhà bếp, phỗng tay trên của Âu Dương Phong, cho đến đẩy đá ngăn đường giữa núi ra sao, nhứt nhứt thuật lại rành rẽ khiến cho Trùng Dương, Hoàng Dược Sư và Đoàn Hoàng Gia đến tức cười, còn gương mặt Tây Độc lúc thì trắng lúc lại xanh , đôi mắt trừng trừng nhìn Hồng Thất Công như muốn nuốt sống lấy y vậỵ
Trùng Dương cười hịch hạt, nói :
- Hai vị đều là Châu Du, Khổng Minh trong nhất thời không ai nhường ai, ăn uống xong tính sau ?
Mọi người đều đem gà hấp vịt quay chia nhau ăn uống. Hồng Thất Công là người háu ăn nhất trong bọn, một mình chiếm hết phân nửa lượng số thực phẩm trong buổi tiệc.
Chờ mọi người no nê xong, Trùng Dương mới chậm rãi lên tiếng :
- Hôm nay là ngày thứ ba của cuộc so tài, Trùng Dương tôi một người tự nguyện đơn độc thỉnh giáo với bốn vị !
Hồng Thất Công ltên nói :
- Úy ! Vương Chân Nhân muốn một chống bốn sao ?
Hoàng Dược Sư giọng mũi "hừ !" một tiếng nhằm tỏ ý bất mãn trong lòng. Chỉ riêng một mình Tây Độc thầm mừng rỡ vô cùng, tự nhủ:
- Lão mũi trâu này, quá tự đại thôi, dù bản lĩnh mi trác tuyệt đến bậc nào cũng không sao thắng nổi bốn người chúng tạ Được lắm, để ta khích thêm hắn vài câu nữa !
Nghĩ xong bèn cười nhạt và nói :
- Tất nhiên rồi ! Toàn Chân Phái là tông phái chính trong võ lâm, chúng ta mấy người đây dù là những lão quê mùa nơi thôn dã, làm sao mà chống lại nổi sức mạnh một đầu ngón tay của Vương Chân Nhân được.
Trùng Dương làm gì chẳng hiểu thâm ý độc địa của Âu Dương Phong, nên bèn cười đáp :
- Phong huynh đừng nên xuyên tạc lời nói của bần đạo, Vương mỗ nói một người đối bốn không phải là một lượt đấu với bốn vị, mà lần lướt thỉnh giáo tài nghệ của mỗi người một, thí dụ như "Giáng Long Thập Bát Chưởng" của Thất huynh, Tảo Diệp Thối "Lạc Anh Chưởng" của Hoàng Dược Sư, Tiên Thiên công và Kim Cang Quyền của Đoàn huynh, Cáp Ma Công của Âu huynh, đều là những công phu thượng đẳng độc tôn trong võ lâm. Mà Trùng Dương tôi bình sanh chẳng học được môn gì sở trường, chỉ biết qua loa mà chưa ngộ được chỗ thâm sâu, nên muốn lĩnh giáo những cái hay ho của quí vị để rèn thêm tài nghệ mình, chỉ có thế thôi, mong Âu huynh chớ hiểu lầm !
Chàng còn định nói tiếp, nhưng Hoàng Dược Sư ngắt nói :
- Toàn Chân Giáo Chủ, chúng tôi thỉnh giáo ông bằng phương cách nào ?
Trùng Dương đáp :
- Tôi trước tiên sẽ thỉnh giáo Giáng Long Thập Bát Chưởng của Thất huynh, sau đấy sẽ học hỏi Lạc Anh Quyền của Dược huynh, rồi đến Kim Cang Quyền của Đoàn huynh, và chót hết là lãnh giáo Cáp Ma Công của Âu huynh, và như vậy thì trong bốn vị tôi đà lĩnh giáo đủ cả không thiếu sót một ai !
Hồng Thất Công lắc đầu phản đối :
- Không được, như vậy là chiến pháp xa luân thì dù trong bốn người tôi có một người may mắn thủ thắng được, cũng chẳng vinh hạnh gì !
Âu Dương Phong cười nhạt xen nói :
- Như vậy mới đáng gọi là tài nghệ cao, đảm lược lớn ! Quí vị nghe thấy chưa, võ công của Vương Chân Nhân cao siêu, trác tuyệt như thế nào mà muốn mỗi người chúng ta đều phải khiếp phục dưới tay người, người mới vừa ý .
Hoàng Dược Sư trầm ngâm suy nghĩ giây lâu rồi nói :
- Như vậy chẳng được công bằng lắm, theo ý tôi thì như thế này, hay là hôm nay trước hoàng hôn, Vương Chân Nhân sẽ giao tay với Thất huynh. Sau khi phân thắng bại xong, thì sáng hôm sau, tới phiên tiểu đệ bồi tiếp Vương Chân Nhân , buổi chiều nên nghỉ ngơi, để Vương Chân Nhân lấy lại sức lực, đến sáng hôm sau nữa, thì sẽ giao đấu với Đoàn Hoàng Gia và..
Vừa nói đến đây Âu Dương Phong đã ngắt nói :
- Không được, tôi không thích đoạn hậu, để tôi đấu trận thứ ba vậy.
Thì ra Âu Dương Phong định dùng chiến thuật thay phiên nhau để làm mệt Trùng Dương, như vậy y mới mong có cơ hội triệt hạ Trùng Dương được. Vì nếu theo sự sắp đặt của Hoàng Dược Sư thì trận chót y mới đấu với Trùng Dương. Tuy là Trùng Dương hơn một ngày rưỡi trời luân phiên đấu với ba vị đầu não của cao thủ võ lâm, nhưng đến lúc tới phiên y đấu thì Trùng Dương đã nghỉ ngơi được một đêm, thì sinh lực đã khôi phục đầy đủ rồi, y còn hy vọng gì mà thắng được nữa ?
Cho nên Âu Dương Phong cương quyết yêu cầu được sắp vào trận thứ ba, vì lúc ấy, Trùng Dương đã kịch đấu với Hoàng Dược Sư xong, mà bản lĩnh của Hoàng Dược Sư y đã biết qua là không dưới Trùng Dương bao nhiêu, dù cho Trùng Dương có thắng được đi nữa, sức lực cũng đã kiệt quệ rồi, mình sẽ thừa cái mệt mỏi của y mà tấn công hoặc may mới có cơ thắng được, nên Âu Dương Phong mới nếu đề nghị của mình ra cho Hoàng Dược Sư sắp lại.
Hồng Thất Công lại phản đối :
- Không được ! Phương pháp ấy cũng chưa được công bằng lắm !
Âu Dương Phong đã sốt ruột nên giận dử quát :
- Lão ăn mày, mi lại xía miệng thúi vào !
Ngoài ý kiến của Dược huynh, thì chẳng còn đề nghị nào công bằng hơn nữa !
Hồng Thất Công không chịu kém cãi lại :
- Lão độc vật, chúng ta hôm nay tụ tập đông đủ để luận kiếm tại Hoa Sơn này, không ngoài võ nghệ mà hội bạn, chớ chẳng phải để đối phó với một người nào. Tài nghệ của ai áp đảo được mọi người , võ công của kẻ ấy liệt vào hạng Đệ Nhất anh tài của võ lâm, kẻ nào bị thua là vì tài nghệ kém hơn, cười lên ha hả rồi xí xóa nhau chẳng chút sanh lòng thù oán, như vậy mới đáng là tác phong của anh hùng hảo hán.
Hôm nay là ngày thứ ba của buổi so tài, chúng ta mấy người đều có giao đấu qua, trừ Vương Chân Nhân thì hoàn toàn chưa giao phong với ta lần nào.
Lão độc vật, mi cũng chưa chánh thức đụng độ với Hoàng Dược Sư trận nào, và ta với Đoàn Hoàng Gia cũng chưa hề thử sức qua, như vậy thì công bằng ở chỗ nào ?
Theo ta thì như vầy :
- Trong lúc Vương Chân Nhân cùng với bốn người chúng ta so tài nhau thì bốn người trong chúng ta, người nào với người nào chưa giao tay nhau, cũng nên phân nhau hai trận, có như thế thì chẳng ai nghỉ khoẻ, cũng chẳng ai mệt cả. Vương Chân Nhân cùng bốn người đấu nhau hai trận, thì bốn người trong chúng ta lại đấu lẫn nhau một trận, các vị nghĩ sao ?
Hoàng Dược Sư, Đoàn Hoàng Gia đều không ngớt khen hay, còn Âu Dương Phong thì nhìn Hồng Thất Công căm hận đến thấu xương tủy.
Hồng Thất Công nheo mắt nhìn trở lại Âu Dương Phong như trêu chọc và nói :
- Xong rồi, trời cũng không sớm lắm, tôi cùng Toàn Chân Giáo Chủ mở đầu trước một trận này.
Trùng Dương mỉm cười gật đầu và đáp :
- Thất huynh định dùng quyền hay là binh khí ?
Hồng Thất Công nói :
- Lão ăn mày không có binh khí mà chỉ có cây gậy đánh chó, lão ăn mày không khi nào chịu dùng gậy đánh người trừ phi con người ấy như lão độc vật thì chẳng kể !
Vương Chân Nhân lúc nãy có ý muốn tiếp Giáng Long Thập Bát Chưởng của tiểu đệ thì tiểu đệ xin dùng Giáng Long Chưởng để hầu tiếp phải hơn !
Vương Trùng Dương đáp lại một tiếng :
- Vâng !
Người đã bước ra giữa trận hai tay chấp nhau thành một lễ gọi lớn :
- Xin Thất huynh ra thế !
Hồng Thất Công giọng nói :
- Cam thất lễ !
Chưởng trái đã đảo tròn, tay phải vạch vào khoảng nửa vòng cung theo thế Kháng Long Bữu Hối đánh vút vào ngực Trùng Dương.
Trùng Dương không chút bối rối, hai tay áo phất một cái dùng thế Lão Tử Qui Tụ (Lão Tử phất tay áo) trong Thái Ất Quyền Pháp tung ra một luồng tiềm lực, đẩy trượt chưởng phong của Hồng Thất Công sang bên.
Hồng Thất Công buột miệng khen dồi một tiếng :
- Hảo chiêu !
Tay phải y đã vươn ra một thế Kim Long Tại Điền (thấy rồng trên ruộng) đấm vút vào vai Trùng Dương, tiếp theo đấy cùi chỏ của tay quyền bên hữu, đánh thốc vào mạng mỡ của Trùng Dương theo thế Chiến Long Tại Dã , một chiêu hai thức, nhanh như điện xẹt.
Trùng Dương bèn hiển lộng tất cả công phu cao thâm của mình ra, vai trái hơi xệ xuống, dùng thế Đảo Kề Kim Đăng (xách ngược đèn vàng) hóa giải chưởng lực của Hồng Thất Công, đánh ngay vào mặt, tiếp theo đấy thân hình hơi rùng lại quay tròn một vòng theo thế Long Nữ Phân Lãng (Long nữ rẻ sóng) thoát khỏi đầu cùi chỏ đánh xuyên vào eo lưng, lối tránh phất phới nhẹ nhàng, thân pháp thấp thoáng kỳ ảo, khiến Hoàng Dược Sư và Đoàn Hoàng Gia đứng bên ngoài không khỏi khen dồi.
Trùng Dương nhường Hồng Thất Công đủ ba chiêu đầu xong, Thái Ất Quyền bỗng vụt từ thế thủ chuyển sang thế công , vun vút liên tiếp hai chiêu Thiên Kim Phục Chùy (ngàn vàng dưới trùy) rồi Liên Hoàn Thôi Chưởng (liên tiếp đẩy chưởng ra), bên ngoài nhìn vào tưởng đâu hai tay cùng công ra một lúc, nhưng kỳ thật chỉ một tay mà biến thành hai thức. Trong nháy mắt đã tấn công luôn bốn chiêu một lượt nhanh không kịp nhìn.
Hồng Thất Công đánh vút người thối bước ra sau, sử dụng thế Thần Long Điếu Vĩ (Rồng thiêng quẫy đuôi), với tay đánh tréo trở ra sau, mới hóa giải được tuyệt chiêu vừa rồi của Trùng Dương.
Hồng Thất Công vận dụng tất cả tuyệt kỷ kỳ xảo trong Giáng Long Thập Bát Chưởng ra ứng phó với vị đệ nhất bá chủ võ lâm là Toàn Chân Giáo Chủ, mỗi chiêu mỗi thế đều dũng mãnh vô cùng, chưởng phong ào ào như cơn gió trốt.
Hoàng Dược Sư thấy trời đã khuya , vừa định kêu gọi ngừng tay.
Hồng Thất Công bỗng quát lên một tiếng song chưởng đồng lượt đẩy mạnh ra một thế Song Long Phụng Chu chai rồng dâng ngọc), tấn công vào ngực Trùng Dương.
Chưởng phong trầm mạnh như hai trái núi cuồn cuộn ập tới .
Trùng Dương không chút bối rối, khẻ thối ra sau nửa bước, quyền trái giở cao, xỉa thẳng hai ngón tay nhắm ngay lưng Thất Công điểm nhẹ một cái, lạ thay cái điểm ấy xem ra rất nhẹ nhàng bình thản, như không có một chút sức lực gì, nhưng đủ làm Hồng Thất Công phải loạng choạng thối lui lia lịa ra sau ba bước mới gượng đứng vững được .
Hồng Thất Công vội thâu nhanh song chưởng và nói :
- Lão ăn mày chịu thua rồi ! Nhất Dương Chỉ công phu thật tuyệt diệu !
Thì ra sức mạnh của song chưởng Hồng Thất Công đánh ra, hùng mạnh vô song, nếu đem ra đối phó với Hoàng Dược Sư, Đoàn Hoàng Gia hay Âu Dương Phong trong ba người, thì bất luận người nào cũng không dám vung chưởng hứng đón, nhưng Trùng Dương chỉ khẽ dùng Nhất Dương Chỉ công phu điểm nhẹ vào giữa hai luồng chưởng phong sấm sét ấy.
Nói một cách khác là kình lực của Nhất Dương Chỉ phát ra, mường tượng như một lưỡi kiếm sắc bén vô hình, xuyên thủng chưởng phong và đâm xoẹt vào trước ngực của Hồng Thất Công, bắt buộc y phải thối lui ra sau.
Hồng Thất Công là con người tuy nóng nảy nhưng rất trực tính, tự hiểu Trùng Dương dùng Thái Ất Quyền giao đấu với mình từ nãy giờ chỉ có bảy thành công lực, nên mình mới có thể cùng chàng quay quần dư hai trăm hiệp, nếu khởi đầu mà Trùng Dương dùng ngay tuyệt kỷ Nhứt Dương Chỉ thì mình đã bị đánh bại từ lâu rồi.
Hồng Thất Công lên tiếng chịu thua, buổi thứ ba của cuộc so tài kể như đã kết liễu, mọi người lại ngồi xếp bằng tĩnh tọa, tụ thần điều khí để nghỉ ngơi qua đêm.
Âu Dương Phong âm thầm sẽ đo tính toán, tại sao Trùng Dương chỉ dùng hai ngón tay dí nhẹ một cái mà Hồng Thất Công phải khựng bước thối lui chắp tay chịu bại , vậy quyền pháp ấy là quyền pháp gì và Nhất Dương Chỉ là cái quái gì ?
Chắc có lẽ là tuyệt học Cửu Âm Chân Kinh đem ra ứng dụng chớ không còn nghi ngờ gì nữa !
Âu Dương Phong suốt đêm trằn trọc nghĩ tới nghĩ lui, trời đã trở sang canh ba lúc nào không hay y không còn dằn được lòng mình nữa, bèn lên tiếng hỏi :
- Vương Chân Nhân, trong lòng tôi có điều thắc mắc muốn nhờ ông giải rõ cho !
Trùng Dương liền nói :
- Xin nói cho biết !
Âu Dương Phong khẽ tằng hắng một tiếng và nói :
- Vương Chân Nhân, công phu lúc nãy ông dùng đánh bại Hồng Thất Công, có phải là học thuật từ trong Cửu Âm Chân Kinh rút ra chăng ?
Trùng Dương mỉm cười đáp :
- Không phải, đấy là tuyệt nghệ của gia sư truyền lại, những công phu trong Cửu Âm Chân Kinh hơn phân nửa là võ học của Bàng môn tà đạo, bần đạo chẳng bao giờ chịu luyện đến, kẻ đạo sĩ xuất gia không hề biết nói dối, nếu cuồng ngôn xảo ngữ phải bị đọa luân hồi kiếp kiếp ở địa ngục a tì.
Âu Dương Phong "hứ !" lên một tiếng tỏ vẻ không tin lời.
Hồng Thất Công bất bình xen vào :
- Lão độc vật đừng nghĩ bậy nghĩ bạ, đợi đến lúc mi giao tay thì biết rõ chứ gì ?
Âu Dương Phong nhếch mép cười ngạo nghễ rồi im lặng chẳng thốt một lời .
Trời vừa rạng đông, Hoàng Dược Sư đã đứng dậy phủi áo và nói :
- Vương Chân Nhân, trận này đến phiên tiểu đệ xin thỉnh giáo cao chiêu !
Trước đây, Hoàng Dược Sư đã cùng Trùng Dương đụng độ nhau ba lần, lần thứ nhứt trên hoang đảo ở Huỳnh Hải, lần thứ nhì trên đỉnh Hoa Sơn và lần thứ ba trên đảo Đào Hoa. Cả ba lần Hoàng Dược Sư đều bị kém thế hơn.
Lần này lại đại hội luận Kiếm Hoa Sơn, cũng là lần so tài thứ tư giữa chàng và Trùng Dương Chân Nhân vậy !
Trùng Dương cũng chậm rải đứng dậy và nói :
- Xin lĩnh ý, mời Hoàng Đảo Chủ ra tay trước.
Hoàng Dược Sư chẳng chút khách sáo, vung chưởng đánh mạnh ra "ào" "vút" hai tiếng, dùng ngay Phách Không Chưởng tung ra hai ngọn chưởng phong ném vụt vào ngực Trùng Dương.
Mọi người tưởng đâu Hoàng Dược Sư sẽ dùng quyền pháp trấn đảo là Lạc Anh Chưởng ra đối phó với Trùng Dương, nào ngờ mới khởi đầu Hoàng Dược Sư đã đem Phách Không Chưởng ra tấn công, vượt ra ngoài dự liệu của mọi người.
Trùng Dương dùng tay áo rộng phất phới, vẫn theo mửng cũ dùng quyết chữ "xã" trong Thái Ất Quyền, đẩy trợt chưởng lực Phách Không của Hoàng Dược Sư ra phía ngoài.
Hoàng Dược Sư không một giây chậm trể nhãy sấn tới trước "Vèo ! Vèo ! Vèo" liên tiếp tấn công ra ba chưởng, toàn là Lạc Anh Chưởng Pháp. Ba chưởng vừa thoát ra khỏi tay, một chân cũng lẹ như chớp tung ra, tấn công tới tấp.
Hồng Thất Công thấy vậy thầm nghĩ :
- À ! Té ra hắn đem hai thứ công phu phối hợp thành một, ba chưởng kẹp theo một cước, trên dưới đồng tấn công một lượt, lợi hại thật !
Trùng Dương vẫn ung dung tự tại, Thái Ất Quyền từ tay lo vùn vục bay ra đón trên đở dưới, thoắt Đông thoắt Tây.
Hoàng Dược Sư liên tiếp tấn công tới tấp, khi ba quyền kẹp một đá, lúc năm chưởng quét một cước, lắm lúc lại liên hoàn vung ra ba cước rồi lại hai tay sử dụng Lạc Anh Chưởng biến hóa phức tạp, chiêu thế nhanh chóng kỳ ảo cố ý cho đối phương ảo loạn nhãn quang không còn biết tránh đâu đở đâu được.
Trùng Dương sau trước vẫn y nhiên, tâm thần không chút diệu động, Thái Ất Quyền linh biến khi đón cứng, lúc đỡ mềm, thế hư đổi lấy thế hư, thực chiêu dùng thực chiêu quật lại, mặc cho Hoàng Dược Sư dùng tất cả tài nghệ tuyệt kỷ, vận dụng mọi chiêu pháp khi thực khi hư khéo léo cách nào, Trùng Dương vẫn vững như thế núi, ứng phó một cách thích đáng chẳng chút lầm lẫn.
Hai bên một công một thủ, tới lui tránh né Đông, Tây thoăn thoắt, hai bóng người như "quyện" nhau thành một khối đấu nhau trên hai trăm hiệp vẫn chưa phân định hơn thua.
Đào Hoa Đảo Chủ nghiên cứu tinh vi Lạc Anh Chưởng và Tảo Diệp Thố cả mấy năm trời, lần này Vương Trùng Dương giao đấu, những tưởng với tuyệt kỷ độc đáo vô nhị ấy có thể áp đảo được Trùng Dương, nào ngờ lúc đem ra ứng dụng cảm thấy hai công phu đắc ý ấy vẫn còn sút kém hơn địch thủ quá nhiều.
Âu Dương Phong thầm lắc đầu tự nhủ :
- Oai danh lừng lẫy như Đào Hoa Đảo Chủ kia, rốt cuộc cũng chẳng nên tích sự gì, "học đáo dụng thời phương hậu thiểu" (Học đến chốn nhưng khi dùng vẫn thấy thiếu), câu ngạn ngữ ấy thật chẳng sai chút nào .
Hai người, lúc ấy đã giao tay thêm năm mươi hiệp.
Hoàng Dược Sư bỗng thò tay vào bâu áo rút ra thanh ngọc tiêu cầm nơi tay, chưởng trái vẫn y như củ, dùng Lạc Anh Chưởng, tay phải nắm chặt ống ngọc theo chiêu thức điểm huyệt của "phán quan bút", điểm quét, đâm xỉa, tấn công tới tấp vào các đại huyệt trên khắp người Trùng Dương, uy lực vì thế trong khoảng khắc tăng gia thêm gấp mấy lần .
Trùng Dương khẽ buông tiếng cười, Thái Ất Quyền mềm nhẹ thung dung, đón chặn dễ dàng như chẳng chút dùng sức, bên trong còn lắm khi ẩn hiện một vài chiêu phản kích lợi hại khiến Hoàng Sư phải buộc lòng nhãy lui tránh né.
Hồng Thất Công cảm khái tự than thầm :
- Trùng Dương Chân Nhân quả là một kỳ tài trời sanh, lão ăn mày ta hận mình lúc nhỏ quá biếng nhác chẳng chuyên cần !
Úy chu choa !...
Té ra trong lúc Hồng Thất Công đang lẩm bẩm tự than lấy mình, thì ống ngọc tiêu trên tay Hoàng Dược Sư, loáng nhanh như chớp điểm vào "Trung Phong huyệt" của Trùng Dương, và Trùng Dương đã lẹ làng lật tay chộp ngược trở lại như điện xẹt, nắm chặt lấy khúc trên ống ngọc tiêu.
Hoàng Dược Sư hốt hoảng , tay trái liền dùng Phách Không Chưởng quét tréo trở xuống hạ bộ của Trùng Dương định bắt buộc chàng phải tung người nhãy lên tránh và như vậy mình có thể giựt cái ống ngọc tiêu trở về.
Nào ngờ bàn tay Trùng Dương đang chộp ống ngọc tiêu ấy, thình lình rung động một chút là đà phát ra một kình lực Nhất Dương Chỉ.
Hoàng Dược Sư bỗng cảm thấy bàn tay của mình đang giữ chặt cái ống tiêu, bị một luồng điện khí nóng dồn vào, tựa hồ như ống ngọc tiêu vừa mới từ trong lò lửa đỏ lấy ra vậy, da tay cơ hồ như muốn phồng lên.
Hoàng Dược Sư giật mình kinh sợ , bàn tay không khỏi phải nới lỏng ra đôi chút.
Trùng Dương thừa thế đẩy nhẹ đầu ngọc tiêu, điểm vào Chương Môn huyệt nơi ngực Hoàng Dược Sư.
Đào Hoa Đảo Chủ vừa định vận khí để bảo vệ huyệt đạo, nhưng không thể kịp , tưởng chắc là mình phải ngã xuống tại trận.
Nào ngờ sức mạnh của cái điểm ấy, Trùng Dương sử dụng rất khéo, chỉ chạm nhẹ lên huyệt đạo rồi tiêu mất ngay, chứ chẳng hề có một chút ác ý cho xâm phạm vào huyệt đạo, lại còn thuận tay nhét trả ngọc tiêu vào tay Hoàng Dược Sư, và cười lên ha hả, rồi tung mình nhãy lùi ra sau kêu lớn :
- Thậm cảm Hoàng Đảo Chủ đã nhường tay cho !
Hoàng Dược Sư mặt đỏ như gấc chín, chàng biết rõ nếu Trùng Dương chẳng lưu tình thì mình chỉ còn có cách té xuống chứ không sao gượng được !
Chàng bèn thâu ống ngọc tiêu bỏ trở vào áo và nói :
- Toàn Chân Giáo Chủ quả danh bất hư truyền, Hoàng mỗ hết sức khâm phục .
Trùng Dương thắng luôn hai trận sắc mặt vẫn khiêm tốn dịu hòa, trái lại Âu Dương Phong bên ngoài nhìn xem mặt mày nhăn nhó lo âu, y nghĩ đến bản lĩnh của Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công mình y chưa chắc đã hơn được. Nhưng hai người đều không địch lại Trùng Dương thì còn hy vọng gì thủ thắng được ?
Hồng Thất Công quay lại nhìn thấy vẻ mặt teo héo của Âu Dương Phong như vậy bèn cười nói :
- Lão độc vật, thấy rõ hay chưa, người nào xứng đáng là đệ nhất anh hào, trận thứ ba mi định so tài hay là không ?
Âu Dương Phong lớn tiếng đáp :
- Sao lại không so ? Lão ăn mày thối, chúng ta tái đấu một trận nữa chơi !
Trùng Dương hơi thở vẫn điều hòa vội cười và khuyên ngăn :
- Hai vị đừng gây nhau làm gì chúng ta nghỉ ngơi một buổi rồi sẽ hay.
Âu Dương Phong đã bắt đầu có phần nể tài nghệ của Trùng Dương, trầm ngâm suy nghĩ không nói không năng, ngồi lặng thinh một chỗ.
Hồng Thất Công lần này không chịu được sự ngồi lâu, bèn vung vai đứng dậy nhàn tản ở vùng phụ cận núi Hoa Sơn để giải trí.
Độ xế chiều, Hồng Thất Công rảo bước trở về kêu lớn hỏi :
- Đã tới giờ rồi ! Đến phiên vị nào ra trận đây ?
Đoàn Hoàng Gia liền đứng dậy đáp :
- Thất huynh, tôi xin đứng ra để giúp vui Thất huynh, mong Thất huynh chỉ giáo ít đường tuyệt học !
Hồng Thất Công cười ha hả đáp :
- Lão ăn mày này chẳng có gì là tuyệt học cả, mà chỉ có môn công phu ruột Giáng Long Thập Bát Chưởng để tiếp Tiên Thiên Công và Kim Cang Quyền của ông thôi !
Nếu lão ăn mày này kém hơn thì sẽ phủi đít đi ngay, trái lại nếu may mắn thắng được thì đấu nhau xong, lão sẽ đến Thái Bạch Cư lần nữa, đánh cắp thêm rượu thịt về đây uống mẹ nó bảy ngày bảy đêm cho đã thèm !
Đoàn Hoàng Gia mỉm cười chẳng đáp.
Hai người chẳng cần khách sáo, bước ngay vào trận đấu, tận dụng quyền cước sở năng của mình ra để tranh phần thắng lợi.
Hồng Thất Công vừa bắt đầu đã đem quyền pháp Giáng Long ra ứng dụng.
Đoàn Hoàng Gia cũng đem Kim Cang Quyền ra đối phó.
Hai người kẻ đánh người đở nghe chan chát tựa như chuông đồng chọi lên trống sắt, chẳng ai nhường ai, chưởng phong bay ra ào ào như triền sóng dâng bờ, hoa tuyết bay đầy khắp mọi khoảng đấu trường, đánh nhau trên hai trăm hiệp, vẫn không phân thắng bại.
Trùng Dương đứng bên ngoài không khỏi khen nức nở, chàng ngẫm lại lần so tài với Ngũ Bá trên đỉnh Hoa Sơn này, trừ chàng ra kỳ dư bốn người đều có sở trường riêng biệt.
Đoàn Hoàng Gia và Hồng Thất Công chú trọng về công phu bên ngoài biến thành quá Cang.
Hoàng Dược Sư và Âu Dương Phong lại thiên về nội kình thành ra quá Nhu, nếu như hai bên bổ xung thì thật là mới võ lâm cao thủ thập toàn thập mỹ khó ai sánh kịp.
Nhưng gẫm kỷ lại trên thế gian không có sự vật gì được thập toàn thập mỹ cả, huống hồ gì là một người .
Trong lúc Trùng Dương cảm khái trong lòng thì Hồng-Đoàn hai người đã quần nhau trên ba trăm hiệp rồi.
Đoàn Hoàng Gia vẫn trấn tĩnh như thường .
Hồng Thất Công như có phần sốt ruột nên quát lên một tiếng rồi tung bổng người lên nửa lưng trời, mười ngón tay như vuốt chim ưng quấu trở xuống đầu của Đoàn Hoàng Gia.
Trùng Dương hốt hoảng giật mình vừa định lên tiếng kêu ngừng tay thì chợt Đoàn Hoàng Gia mỉm cười đứng yên chẳng thèm tránh né, rồi nghe "bùng !
bùng !" hai tiếng lớn và hai bóng người liền phân lìa ra phải, trái hai bên, lại thấy Hồng Thất Công nhãy ra ngoài bảy tám bước, thiếu chút nữa là té nhào.
Âu Dương Phong được dịp trả thù, liền chộ lớn :
- Lão ăn mày thúi thua rồi !
Nói chưa dứt lời, thì nghe Đoàn Hoàng Gia "thịch, thịch", thối lui ra sau hai bước loạng choạng như sắp té, may mà ông lập tức dùng thân pháp Thiên Cân Trụy, thấp rùn thân hình xuống, ngón chân bíu chặt xuống mặt đất nên mới tránh khỏi nằm dài dưới mặt đất !
Số là Hồng Thất Công đấu với Đoàn Hoàng Gia trên ba trăm hiệp, tự biết công phu của đối phương chẳng thua sút mình, nếu không dùng hiểm chiêu khó mà chế phục thủ thắng được nên y quát lên một tiếng, rồi tung bổng thân hình lên cao trên hai trượng, hai tay giang ra theo tư thế Đại Bằng Triển Dực (Đại bàng giang cánh), mười ngón tay tợ mười chiếc móc sắt chụp xuống giữa đỉnh đầu "mệnh môn" của Đoàn Hoàng Gia .
Vốn ra Hồng Thất Công chẳng có ý đả thương người, mà chỉ định bụng chộp nhẹ vào mãng tóc trên chót mão của Đoàn Hoàng Gia để cười chút chơi thôi !
Nào ngờ Đoàn Hoàng Gia trong lúc quá cấp bách dùng ngay thế Miêu Phục Kim Lương, vung tay lên trên để chặn lại, và cái ngăn ấy đã ngầm vận Tiên Thiên Công.
Hồng Thất Công vừa chạm đến bàn tay ông, lập tức biến trảo thành quyền, đè mạnh trở xuống.
Như vậy từ trò đùa đã biến thành cứng đấu cứng, mạnh tông mạnh. Hai người đều đem đầy đủ sức lực của toàn thân ra, khiến hai luồng sức mạnh chạm nhau nổ lên chát chúa, và hai người cơ hồ suýt té nhào dưới đất.
Trùng Dương thấy vậy chẳng khỏi cười lên ha hả .
Hồng Thất Công nhảy tọt ra sau nói tía lia :
- Nương tay ! Nương tay !
Đoàn Hoàng Gia cũng vòng tay đáp :
- Thất huynh quá lời ! Đa tạ Thất huynh đã nể tay cho !
Cả hai đồng cười to lên, hoàn toàn chẳng chút thù hiềm.
Âu Dương Phong thầm kêu khổ trong lòng, vì hai người đấu xong trận này thì sáng mai đã đến lượt y cùng Trùng Dương so tài rồi .
Âu Dương Phong tự lượng sức mình không sao thắng nổi Trùng Dương được, trừ phi trước thời gian ngày mai giao đấu nhau, phải cấp tốc tìm ra một biện pháp trong nội đêm ấy để đối phó cho kịp thời, bằng không thì sự bại nhục không sao tránh khỏi.
Âu Dương Phong ngẫm nghĩ giây lâu, tìm ra được một độc kế hạ Trùng Dương, bèn quay sang nói với chàng :
- Vương Chân Nhân, đàn rắn của tôi đói rồi, tôi qua bên ấy cho rắn ăn có được chăng ?
Trùng Dương cười và đáp :
- Âu huynh sao lại trở thành khách sáo như thế. Xin cứ tùy tiện theo ý.
Âu Dương Phong vội đứng dậy xuống núi ngay.
Hồng Thất Công nhìn theo bóng lưng y xuống núi, "hừ" nhẹ một tràng và nói :
- Lão độc vật tự hiểu mình không phải là địch thủ của Vương Chân Nhân, đột nhiên xuống núi chắc hắn có ý gian gì đây ?
Trùng Dương cười nói :
- Thất huynh, Âu Dương Phong dù sao cũng là tông sư của một phái võ, chắc không đến đỗi hèn hạ như thế đâu !
Hồng Thất Công cười nhạt đáp :
- Chưa chắc ! Lão độc vật lòng lang dạ sói. Chuyện gì y cũng có thể làm được cả. Anh ruột của y cùng y luyện võ, bỗng ngã ra chết một cách ám muội, có người đồn đãi là y cùng chị dâu không được trong sạch lắm, có nhiều hành vi ám muội, trái đạo luân thường. Nếu Cửu Âm Chân Kinh để lọt vào tay y, thật là một họa lớn trong giang hồ võ lâm lắm vậy.
Trùng Dương nghe Hồng Thất Công nói thế, trong lòng không khỏi ái ngại lo âu.
Hồng Thất Công nói tiếp :
- Lão ăn mày cần đi tiểu một chút, thuận tiện xuống núi tìm chút đồ ăn lót lòng.
Trùng Dương đâu có quyền cấm cản ai, tất nhiên là để Hồng Thất Công tùy tiện.
Kỳ thật Hồng Thất Công đâu có tiểu tiện gì, chẳng qua là tìm cớ thoái thoát, với ý định là theo dõi hành động của Âu Dương Phong vậy thôi.
Lão vừa xuống núi thì mặt trời vừa lặn về Tây, ánh sáng ban chiều đã ngã màu tím sậm, màn đêm lan dần khắp núi rừng đông giá.
Hồng Thất Công nhướng mắt nhìn xuống chân núi, lấy tà áo trắng của Âu Dương Phong chạy phần phật trong gió tuyết, thoáng mắt đã đến sau núi.
Bắc Cái liền noi theo hướng đi của Âu Dương Phong, tung mình chạy như bay như biến, chỉ một chốc đến sau núi nhìn thấy nơi triền núi về hướng mặt trời mọc có căng ba chiếc lều vải, trước cửa lều có mấy mươi tên trai tráng áo trắng.
Âu Dương Phong vừa đến trước cửa lều thì mấy mươi tên trai tráng áo trắng liền cúi mình chào rất cung kính.
Hồng Thất Công định rút người lẻn đến bên lều, chợt nhìn thấy trên mặt đất bên cạnh gian lều, toàn một màu đen sì như mực.
Hồng Thất Công đôi mắt rất tinh sắc, nhận ra bầy rắn độc của Âu Dương Phong, hằng vạn chiếc đầu ba góc lúc nhúc một khoảng đất dài hơn nửa dặm.
Bắc Cái suy nghĩ lại nếu sang bên ấy, bao nhiêu rắn độc đánh được hơi người lạ ào ào kéo đến thì làm sao mà cự đương cho được ?
Lão chợt nhớ đến con rắn vàng nhỏ của Đoàn Hoàng Gia, vì con Kim xà vương ấy là chúa của loài rắn, cũng là một loại vật để ngự trị tất cả loại mãng xà độc địa trên thế gian. Tại sao chẳng hỏi Đoàn Hoàng Gia để mượn con Kim xà vương ấy để trấn áp bầy rắn kia ?
Hồng Thất Công suy tới, tính lui một hồi, thấy như thế phải mất đi bao nhiêu thời gian, mà y còn phải có mặt nơi đây để khám phá ra âm mưu của Tây Độc và làm như thế sẽ bị bại lộ tung tích còn gì ?
Nhưng nếu không mượn Kim xà, khó mà xuyên qua khỏi Xà trận.
Hồng Thất Công bối rối không biết tính sao cho ổn.
Trong lúc Bắc Cái còn đang phân vân lưỡng ước thì Âu Dương Phong đã chui vào trong lều.
Độ giây phút sau lại bước ra và cất giọng phèn la của y lên bảo một gã trai áo trắng :
- Đêm nay ta cần luyện một môn thần công, bọn người mau đem "đạo khí" ra đây !
Gã áo trắng vội đem đến dâng một ống bằng bạc dài độ hai thước, lớn bằng miệng chén, lại có một tên khác dâng đến một cái kim sắt.
Những tên áo trắng kia đều là những xà nô của Âu Dương Phong trên Bạch Đà Sơn. Tất cả là những trẻ thơ Âu Dương bắt cóc trong nhân gian về nuôi dưỡng đến lớn để làm kẻ tôi tớ cho mình.
Hồng Thất Công cười thầm trong bụng, trong thiên hạ làm gì có môn thần công chỉ luyện trong một đêm mà thành được và môn công phu gì mà luyện bằng kềm và ống bạc như ống cống đặt nước kia, chẳng hiểu gã Tây Độc này định giở trò gì đây ?
Âu Dương Phong tiếp lấy ống bạc rồi quát to ra lệnh :
- Bắt mười ba con rắn độc đem vào đây .
Tên xà nô dạ lên một tiếng lớn, rồi lập tức chạy đến chỗ bầy rắn. Có lẻ trên mình tên xà nô thoa đầy thuốc rắn, nên bầy rắn vừa thấy dạng gã đến là thi nhau vẹt sang hai bên nhường đường cho gã đi.
Hai tên xà nô quanh quẩn trong bầy rắn, chọn bốn con rắn hổ lửa, bốn con rắn lục xanh, hai con rắn hổ có chân, trở vào đứng bên Âu Dương Phong chờ lịnh .
Âu Dương Phong tay phải nằm lấy ống bạc, tay trái kẹp mạnh vào đuôi một con rắn một cái thật mạnh, loại rắn rất sợ lối thủ pháp ấy. Bất kỳ giống rắn hung dử, nọc độc ghê gớm bực nào, nhưng nếu kẹp phải vào đuôi thật đau thì cả mình chúng cũng mềm nhũn ra ngay .
Âu Dương Phong tay trái vừa kẹp, tay một lẹ làng kê miệng ống bạc ngay đầu rắn, con rắn phóng tuốt vào ống chỉ còn một chút đuôi lú ra ngoài.
Con rắn sau khi vào ống bạc vì chật chội không thư thái lắm, khè lên một tiếng rồi ló đầu chun qua bên kia miệng ống định bò ra ngoài.
Âu Dương Phong tiếp lấy chiếc kềm trên tay một gã xà no kẹp mạnh vào đúng chỗ khoang cổ rắn, khiến con rắn không động đậy gì được, hả họng le chiếc lưỡi nhọn lểu ra trông rất ghê sợ.
Âu Dương Phong thêm sức bóp mạnh chiếc kềm, thì từ trong miệng con rắn độc liền xì ra từng giọt một chút nước đen sì.
Tên xà nô lập tức cầm một cái chén hứng lấy.
Hồng Thất Công bàng hoàng sực hiểu, nhủ thầm :
- A ! Lão ta muốn lấy chất nọc độc của loài rắn !
Âu Dương Phong chờ cho rắn ấy nhả hết chất độc trong thân rắn xong, liền nới lỏng chiếc kềm, con rắn liền từ trong ống bạc vọt nhanh xuống đất uể oải bò trở về nhập đoàn với đồng loại.
Âu Dương Phong lại nắm lấy con rắn thứ hai, rồi cũng y như cách trước, để chắt lấy chất nọc độc trong mình rắn ra, thủ pháp rất thuần thục dường như đã quen tay lắm vậy !
Chỉ giây phút sau, nọc độc của mười ba con rắn đã rút xong chất nước độc gần đầy phân nửa chén.
Âu Dương Phong sau đấy ngồi xếp bằng trên đất, giương mười ngón tay ra thọc vào trong chén nhưng đầu ngón tay không hề chạm đến chất nước, mà giữa khoảng cách độ hai ba phân trở lại và trong khoảng khác sau đó, trên đầu y liền xông lên một luồng hơi nóng lờ mờ .
Hồng Thất Công tuy đang ở xa nhìn lại, nhưng đôi mắt của lão rất tinh sáng, thấy trên đầu Âu Dương Phong có luồng khí nóng dâng lên, và chất nọc rắn trong chén lại dần dần hạ thấp xuống, cho đến cạn queo, và trong nháy mắt chén nọc rắn đã không còn một giọt nào.
Hồng Thất Công mới bừng tỉnh ngộ mắng thầm trong bụng :
- Hiểm ác thay cái lão độc vật này !
Nguyên trong Ngũ Độc Kỳ Kinh có ghi rõ những phương pháp luyện công cổ quái của hai anh em Âu Dương Liệt và Âu Dương Phong. Khi xâm nhập Bạch Đà Sơn, lượm được quyển kỳ kinh ấy bên hài cốt của Ngũ Độc Chân Nhân. Hai anh em mới gia công luyện tập môn học thuật ấy và trở thành nhân vật tài nghệ khác phàm.
Sau vì Âu Dương Phong sanh lòng mờ ám với chị dâu mình, y lại biết rõ tính tình của anh độc ác cũng chẳng thua mình, bèn quyết định "tiên hạ thủ vi cường" giết chết người anh, độc chiếm Ngũ Độc Kỳ Kinh cùng người chị dâu xinh đẹp, và luyện thêm môn Cáp Ma Công lợi hại kia.
Trong Ngũ Độc Kỳ Kinh trừ Cáp Ma Công ra còn bao nhiêu pháp môn luyện công đều lạ lùng độc hiểm cũng uy mãnh vô cùng.
Môn Độc Xà Thần Công mà vừa rồi Âu Dương Phong đã luyện là lấy chất độc của mười con rắn độc rồi dùng một môn vận công đặc biệt rút vào cơ thể, nhưng khó một điều là mỗi khi chất độc ấy xâm nhập vào người có thể hại mạng người luyện ngay, nên phải dùng Thăng Giáng Công, là đem chất độc dồn xuống đầu mười ngón tay.
Luyện được như vậy xong, có thể phát ra sức gió của chỉ lực cũng đủ làm kẻ địch bị thương và nếu đấu ngón tay xỉa trúng vào đối phương, hơi độc theo đó truyền vào, tựa như bị rằn độc cắn phải, nhưng độc tố lợi hại còn hơn cả bị rắn cắn.
Một người bị rắn cắn, bất luận ở đâu, tối thiểu cũng vài giờ sau mới chết nhưng nếu bị độc khí của Độc Xà Thần Công đột nhập vào cơ thể thì chỉ nửa giờ sau là ngã ra chết không phương cứu chữa. Nhưng môn Độc Xà Thần Công ấy chỉ có thể duy trì trong mình người luyện một thời gian mười hai giờ đồng hồ thôi.
Sau thời gian ấy, thần công đã tiêu tan mất, và người luyện còn phải uống thuốc giải độc, để bài tiết chất độc ra ngoài mới khỏi nguy hiểm cho bản thân.
Âu Dương Phong vì thấy môn luyện công ấy rất phiền phức mà công hiệu chỉ có thời gian ngắn ngủi nên tuy trong Ngũ Độc kinh ghi chú phép luyện rất rõ ràng, y cũng chẳng ngó tới .
Giờ đây vì phải đối phó với cuộc diện quyết liệt trong ngày mai, nên phải cấp tốc luyện cho được môn công phu âm độc ấy, để mong hạ Trùng Dương đoạt lấy Chân Kinh.
Đấy mới thật là rõ ràng chỗ độc "Của" Tây Độc vậy !
Hồng Thất Công tuy chưa hề đọc qua quyển Ngũ Độc Kỳ Kinh, nhưng lão là một chúa trùm của Bang ăn mày, gót chân dẫm khắp trời thiên hạ nên kiến thức sâu rộng hơn người, lão đã từng nghe lờ mờ lời đồn đải trong giang hồ, về môn luyện công độc hại ấy, nhìn thấy cách thức luyện công của Âu Dương Phong, đã hiểu ngay bảy tám phần, bèn nghĩ thầm :
- Không xong ! Chuyện này ta phải nói rõ với Trùng Dương mới được !
Hồng Thất Công là một nhân vật thành danh trong giang hồ, lão hiểu rõ quy luật trong võ lâm, hôm nay Ngũ Bá tụ hội trên đỉnh Hoa Sơn tuy danh nghĩa là vì tranh chấp Cửu Âm Chân Kinh nhưng kỳ thật chỉ là một so tài trong tình hữu nghị, người nào tài nghệ áp đảo được quần hào, thì được hàm danh thiên hạ Đệ Nhứt . Môn công phu của Âu Dương Phong vừa rồi tuy âm độc hiểm ác, nhưng cũng là một tuyệt kỹ trong tài nghệ cá nhân khó thể bắt bẻ là một sự ám toán được.
Tuy trong lòng Bắc Cái không công nhận hành vi của Âu Dương Phong nhưng cũng không thể đem ra công bố cho mọi người biết, thành ra phạm quy củ của cuộc so tài.
Hồng Thất Công suy nghĩ đến đây không khỏi quẩn trí, miệng lắp bắp công ra lời, quay người trở lên đỉnh Hoa Sơn.
Lúc ấy màn đêm đã rũ trùm mặt đất, ánh sao le lói trên cao, vầng trăng khuyết vừa nhô khỏi ngọn cây ánh vàng lấp lánh trên một dãy núi đồi trắng xóa màu tuyết lạnh.
Hồng Thất Công về đến chỗ một người, thấy Trùng Dương, Hoàng Dược Sư, Đoàn Hoàng Gia, ba người đều đang xếp bằng tỉnh tọa, ngồi thành hình chữ phẩm .
Đoàn Hoàng Gia vì lúc ban ngày đã cùng Hồng Thất Công đấu qua một trận, trong lòng vẫn còn khâm phục tuyệt kỹ của Bang Chủ Cái Bang, nên thấy Hồng Thất Công từ dưới núi trở về, sắc mặt lộ vẻ khác thường, ông không dằn được bèn hỏi :
- Thất huynh, lúc nãy đi đâu thế ?
Hồng Thất Công cười hề hề đáp :
- Lão ăn mày thì còn biết chỗ nào mà đi, chẳng qua ra sau núi bắt bậy vài con rắn để tiêu khiển vậy thôi .
Đoàn Hoàng Gia nghe lời của lão có nhiều ẩn ý bèn cười, hỏi tiếp :
- Thất huynh bắt rắn gì thế, có thể cho tiểu đệ chiêm ngưỡng một chút được chăng ?
Trùng Dương liền lên tiếng :
- Các vị đừng nên trò chuyện nhiều, bồi dưỡng tinh thần để ngày mai đấu tiếp.
Hồng Thất Công nói :
- Vương Chân Nhân, trời sanh cái miệng lão ăn mày này thứ nhứt thích ăn ngọt, thứ nhì hay chuyện phiếm, ông một tình giữ việc Tọa huyền quang của ông, đêm nay lão ăn mày thích kể chuyện tào lao chơi !
Đoàn Hoàng Gia hỏi :
- Chuyện cổ tích hôm trước của Thất huynh kể đủ làm khổ Tây Độc quá nhiều rồi, hôm nay định kể chuyện gì nữa vậy ?
Hồng Thất Công mỉm cười hóm hỉnh và kể :
- Thuở xưa có một con rắn độc, sống đã rồi nên dính tự sát nhưng loài rắn thì tự sát làm sao đây? Chỉ có một cách là cắn lấy đuôi của mình. Con rắn độc ấy quyết định tìm cái chết, nên cuộn tròn lại hung hăng nhe bốn chiếc răng độc táp phập vào chiếc đuôi của nó, nhưng khi chiếc răng vừa chạm vào chiếc đuôi thì không thể nào cắn được nữa.
Vì nó nhớ tại lúc cắn trúng con mồi, thảm trạng của con mồi khi bị chất độc hành hạ đau đớn trong lòng nó trở nên khiếp, không làm sao còn can đảm để tự cắn vào đuôi nó nữa.
Đoàn Hoàng Gia mỉm cười xen lời :
- Sau rốt chắc nó nhãy xuống nước trầm mình chứ gì ?
Hồng Thất Công đáp
- Không phải ! Nó đi tìm đồng loại rắn độc của nó, nhờ con rắn bạn cắn chết dùm, nào ngờ con rắn bạn lắc đầu từ chối và bảo : "Không thể được . Chúng ta không thể cắn giết đồng loại của mình. Nếu anh muốn chết, hãy tìm phương pháp khác tốt hơn ".
Con rắn chán đời ngẫm nghĩ giây lâu rồi bò xuống núi định bụng để cho người nhìn thấy đặng đập chết nó !
Theo câu chuyện vừa rồi mà suy ngẫm, con người tuy là một linh vật khiến được muôn loài, nhưng cứ tìm cách giết hại lẫn nhau chẳng bằng loài rắn hạ tiện vậy !
Đoàn Hoàng Gia gật đầu ngẫm nghĩ.
Trùng Dương là một người tuyệt thế thông minh, chàng lập tức hiểu ngay câu chuyện cổ tích của Hồng Thất Công hàm ẩn thâm ý chứ không phải là một chuyện tiếu lâm hài hước tầm thường mà bên trong có nguyên nhân khác.
Hồng Thất Công kể xong bèn nói với Đoàn Hoàng Gia :
- Đoàn huynh có bắt rắn lần nào chưa ? Mỗi khi bắt rắn có phải giữ gìn cẩn thận đừng để cho đầu rắn đụng vào cơ thể mình chăng ?
Đoàn Hoàng Gia đáp ngay :
- Tất nhiên là thế, nếu để cho rắn độc cắn phải thì làm sao sống được !
Hồng Thất Công quay sang nói với Trùng Dương :
- Vương Chân Nhân nãy giờ ông có nghe không. Nếu ngày sau thấy rắn độc thì chớ khá để nó chạm vào da thịt mình hại lắm !
Trùng Dương hội ý mỉm cười gật đầu đáp lễ.
Sáng hôm sau trời hừng đông, từ dưới chân Hoa Sơn đã hiện ra một bóng người áo trắng .
Hồng Thất Công liền trầm giọng nói :
- Rắn độc đến kia rồi ! Xem y hôm nay có phần hoa dạng khác thường.
Trùng Dương còn hiểu hơn nữa, chốc sau Âu Dương Phong đã lên tới liền, cất giọng gọi lớn :
- Vương Chân Nhân, Hồng Bang Chủ, Hoàng đảo chủ và Đoàn huynh, đêm qua cam thất lễ, vì đám xà nô của tôi vô dụng, khiến bầy rắn bổ chạy bậy bạ khắp nơi, hại tôi một đêm trời cực khổ mới tập trung được bầy rắn về đoàn .
Hồng Thất Công cười giọng châm biếm :
- Phải mà ! Lão độc vật đối với bầy rắn độc của mình hết sức quan tâm, dù cho chính ông già của mình cũng không hiếu kính được như vậy !
Âu Dương Phong nguýt lão một cái, rồi nói với Trùng Dương :
- Vương Chân Nhân, Âu Dương Phong tối hôm nay xin thỉnh giáo vài tuyệt kỹ của ông !
Trùng Dương đáp :
- Âu huynh quá lời, chúng ta tay đi thôi .
Nói đoạn nhẹ nhàng nhãy vút ra giữa sân.
Âu Dương Phong chẳng nhãy bổ theo mà ngồi xổm xuống hai tay chống dưới đất đôi mắt lộ tròn thau láu nhìn thẳng Hai bàn tay của Trùng Dương, chẳng chút di động, cũng chẳng thốt lời :
Trùng Dương biết rõ ý định sắp sửa dùng Cáp Ma Công vì Âu Dương Phong có lẽ cũng biết quyền công chưởng pháp của y thua xa Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư, mà hai người ấy vẫn không là đối thủ của chàng, nên Âu Dương Phong vừa hạ trận là đã dùng Cáp Ma Công ra vậy .
Chàng lại hiểu Cáp Ma Công là tài nghệ độc đáo duy nhất của Tây Độc lợi hại phi thường tuy chàng có Nhất Dương Chỉ có thể chế khắc được công phu âm độc của y nhưng mỗi khi dùng Nhất Dương Chỉ tiêu hao rất nhiều sinh lực nên chẳng lấy tịnh để chế động, ẩn nhẫn đợi chờ mà không ra tay.
Hai người một ngồi xổm, một đứng sững trên đỉnh núi Hoa Sơn, ghìm nhau trên một giờ đồng hồ.
Mặt trời đã nhô cao lên đỉnh đầu, sắc núi như vẽ trên tranh, những chóp tuyết long lanh bị ánh nắng mặt trời rọi xuống dần dần tan rã, nhưng Trùng Dương và Âu Dương Phong chẳng ai chịu ra tay trước, vẫn im lìm bất động như hai tượng đá khắc vậy .
Đoàn Hoàng Gia hết sức ngạc nhiên, liền quay sang hỏi nhỏ Hồng Thất Công :
- Thất huynh chẳng lẽ hai người ghìm nhau như vậy mãi suốt ngày đêm sao ?
Hồng Thất Công lắc đầu nhè nhẹ chưa kịp đáp, lại chợt nhìn thấy Trùng Dương bước tới một bước, nhấc tay công ra trước một chưởng theo thế Thái Sơn Trấn Hải (đẩy núi lấp biển), đánh vút vào chân mày trái của Âu Dương Phong .
Âu Dương Phong chỉ đợi có thế, liền kêu lên một tiếng "cóc !". Hai tay giương thẳng lên trời, hình dáng tựa như đôi lòng bàn tay có một luồng tiềm lực vun vút tuôn ra, thế mạnh như sấm sét ngàn cân, núi nghiêng đá đổ.
Trùng Dương không chút bối rối, dùng quyết chữ "xà" trong Thái Ất Quyền ra nhẹ nhàng đưa vẹt luồng gió mạnh của Cáp Ma Công ra phía ngoài.
Âu Dương Phong thấy thế công chẳng làm gì được kẻ địch, liền ngồi xổm xuống đất, y theo thế cũ, ghìm thế với Trùng Dương thân hình bất động như một hình cây.
Độ thời gian một buổi cơm, Âu Dương Phong mới kêu lên một tràng "Cốc" thật lớn rồi giang rộng đôi tay nhãy vồ lấy thân hình Trùng Dương, song chưởng bay tới đâu kình lực ra như núi lở sống tràn, cuồn cuộn tuôn theo đó.
Trùng Dương vẫn dùng kình lực của chữ Xà trong Thái Ất Quyền để đối phó, nhưng trong lúc Trùng Dương vừa trầm cánh tay xuống định vung tay phản công thì Âu Dương Phong đã lẹ như chớp, nhãy lùi ra sau, vẫn y nhiên ngồi xổm dưới đất bất động, tựa như con cóc đói đang rình mồi !
Trùng Dương không buồn tấn công.
Âu Dương Phong vẫn ngồi xổm như mọc rể dưới đất từ giờ Thìn sang đến Ngọ, suốt ba giờ đồng hồ, hai địch thủ chỉ tấn công nhau có năm hiệp.
Nói một cách khác là cứ độ nửa giờ đồng hồ lại tấn công nhau một chiêu thôi.
Bề ngoài tuy xem ra là một trận chiến lạc lẻo không hứng thú, nhưng thật ra hai người đang giữa một cuộc chiến cực cùng nguy hiểm, sự chết sống chỉ xê dịch trong kẻ tóc đường tơ nên khó ra tay công kích lẫn nhau và mỗi khi ra tay là áp dụng tất cả công lực trong người, mau như sấm giăng điện chớp, nếu đối phương chỉ một ly sơ hở là kể như mạng sống được quyết định theo sự thắng bại rồi vậy.
Hồng Thất Công sốt ruột nhủ thầm :
- Vương Chân Nhân có công phu Nhất Dương Chỉ sao chẳng đem ra áp dụng đánh ngã y cho rồi, để khỏi tốn bao nhiêu thì giờ vô lối còn lão độc vật này công phu âm độc luyện đêm qua, sao chưa chịu đem ra tấn công ? Lạ thật ?
Thật ra Âu Dương Phong đêm qua luyện Độc Xà Thần Công, mà chưa chịu đem áp dụng, vì phàm những tay cao thủ so tài nhau, động tác của họ nhanh nhẹn thoăn thoắt như cheo như sóc , vừa đứng đã chạy vừa nhẩy tới đã thấy thụt lui, bất luận quyền chưởng phát ra, rất ít khi chạm tới tay chân địch thủ được, phần nhiều ở giữa nhau một khoảng cách tối đa độ trên dưới một thước, thoáng một cái là đã lướt qua nơi khác rồi, đừng nói gì va chạm được đến thân hình nhau.
Cho nên Âu Dương Phong tuy chuẩn bị sẵn Độc Xà Thần Công, nhưng trước sau vẫn chưa động tới, y liên tiếp dùng luôn mấy lần Cáp Ma Công, phát ra những luồng sức mạnh có thể lở núi nghiêng thành, nhưng rốt cuộc không làm suy suyển một sợi lông chân của Trùng Dương.
Tây Độc liền thay làn khí kình, dùng Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng pháp, đổi ngay thế công chậm rãi của Cáp Ma Công, biến sang lối đánh loang loáng phất phiêu như gió cuốn mây vờn, luồn lỏi thoăn thoắt quay cuồng khắp bốn hướng tám phương, tấn công Trùng Dương tới tấp .
Hồng Thất Công vừa thấy đã sực hiểu ngay, lẩm bẩm một mình :
- Nguy mất, y sắp sử dụng Độc Xà Thần Công ra, chẳng hiểu Trùng Dương có hiểu được ngụ ý trong câu chuyện của mình kể, để sớm đề phòng chăng ?
Trùng Dương qua mấy hiệp giao tay với Âu Dương Phong, thấy rõ Cáp Ma Công của y, mạnh ác cực cùng, nếu sánh về sức mạnh thì ăn đứt cả Phách Không Chưởng của Hoàng Dược Sư cùng Kim Cang Quyền của Đoàn Hoàng Gia và Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công, nhưng nếu chàng dùng kình lực của Nhất Dương Chỉ ra, khẽ phất tay một cái là phá được Cáp Ma Công của y ngay.
Nhưng Trùng Dương vốn là Toàn Chân Giáo Chủ, đức độ hơn người, chàng cảm thấy Âu Dương Phong luyện được công phu đến mức độ ấy, đã là một sự khó khăn đáng quý trọng. Chàng với y cũng chẳng có thâm thù đại hận gì, hà tất phải sử dụng tuyệt kỷ của mình ra bẽ mặt đối phương tội nghiệp !
Chàng vì thế mà nương tay chẳng đánh, đến lúc thấy Âu Dương Phong biến đổi thế công, đem Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng Pháp ra múa may quay cuồng trước mặt chàng.
Trùng Dương mỉm cười thầm nghĩ :
- Y dùng Cáp Ma Công không áp đảo được mình nên đã cùng trí định đem Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng Pháp ra liều mạng với ta sao ? Thật đáng tức cười !
Nghĩ chưa hết ý chợt thấy Âu Dương Phong song chưởng phân hai, xỉa cận đến thân mình theo thế Băng Hà Ngạnh Địa (sông đóng thành băng cứng như mặt đất), quyền bên trái chưởng bên mặt, liên tiếp tấn công bốn chiều nhanh như gió lốc.
Trùng Dương thấy thế công của đối phương lanh lẹ khó lường không dám khinh nhờn, vội dùng ngay quyết chữ "phi" trong Thái Ất Quyền đón cườm tay của đối phương lại, đồng thời đở cả luồn kình lực vào bay ập đến đưa tréo sang một bên, nào ngờ Âu Dương Phong bất thình lình giương hai cánh tay ra biến quyền thành trảo, mười ngón tay tựa như mười chiếc móc sắt chộp vút vào cánh tay của chàng.
Hồng Thất Công thất thanh la lên :
- Nguy mất !
Lão ngờ là Trùng Dương thế nào cũng bị Âu Dương Phong hạ độc thủ vì Âu Dương Phong vừa rồi đã đem Độc Xà Thần Công ra áp dụng, Trùng Dương ắt trúng phải nọc xà độc té nhào chứ chẳng không.
Ngờ đâu hai bóng người vừa xoắn vào nhau, Trùng Dương buông tiếng cười lớn lên rồi tiếp theo là một tiếng "bộp !" thật to, một bóng người bay văng ra ba trượng ngoài, suýt chút nữa là lăn tuốt xuống chân núi. Biến cố quá đột ngột, không những Hồng Thất Công không thể liệu đoán nổi mà cho đến Hoàng Dược Sư, Đoàn Hoàng Gia đều là hàng công phu nội ngoại tinh thông, nhãn quang sắc bén vô cùng, cũng bàng hoàng ngơ ngác.
Mọi người định thần nhìn lại thì thấy Trùng Dương vẫn đứng im lìm chỗ cũ thần sắc ung dung như thường, còn Âu Dương Phong sắc mặt đen bỗng biến sang màu chàm đổ, đứng sững như trời trồng, rồi giây phút sau Tây Độc quay thoắt thân mình vụt chạy xuống chân núi.
Hồng Thất Công gọi giựt giọng :
- Lão độc vật ! Trận này mi không đấu tiếp nữa nên bỏ chạy một mình như vậy phải không ?
Âu Dương Phong tiếng nói hơi khao khao đáp :
- Nói bậy ! Độ một giờ đồng hồ sau tôi sẽ trở lên để thỉnh giáo với quý vị !
Tiếng nói vừa dứt là y đã cách xa đấy hơn mười trượng, và khoảnh khắc biến dạng trong lùm cây.
Hồng Thất Công chắt lưỡi, nói :
- Bản lĩnh được như thế, mà chẳng đi theo đường phải, thật là đáng tiếc vô cùng .
Đoàn Hoàng Gia không hiểu sự việc ra sao bèn hỏi Trùng Dương :
- Vương Chân Nhân, trận đấu vừa qua là ông thua hay Âu Dương Phong thua ?
Trùng Dương cười đáp :
- Tôi chẳng thua mà y cũng chẳng bại, kể như không ai thắng ai !
Thì ra Âu Dương Phong thừa lúc cườm tay của mình và Trùng Dương chạm nhau, trong thời gian khoảnh khắc ấy lập tức đem Độc Xà Thần Công ra áp dụng ngay, mười ngón tay giương ra quét mạnh một cái, từ đầu ngón tay phát ra một luồng kình lực kèm cả độc khí của nọc rắn, dùng chân nội lực của bản thân định đẩy nọc rắn xuyên vào cơ thể của Trùng Dương, thủ pháp của y lẹ làng khéo léo tựa như một nhạc sĩ nhà nghề đang rung tay trên phím đàn vậy.
Nhưng Trùng Dương đâu phải là nhân vật tầm thường, chàng vừa thấy Âu Dương Phong vươn trảo định chộp, chàng chợt nhớ đến câu chuyện phiếm Hồng Thất Công đã kể trong đêm, liền sáng ý biết ngay, lập tức vận cương khí áp dụng Thái Âm Thần Công ra bố trí khắp cơ thể, chờ cho ngón tay của Âu Dương Phong vừa chộp đến, chàng liền phát mạnh tay áo vào mười ngón y của đối phương kêu "bùng" một tiếng !
Luồng chỉ lực của Âu Dương Phong vừa xuyên ra đụng phải tay áo của Trùng Dương, cảm thấy tay áo của đối phương cứng như sắt nguội, khiến cho chân lực độc khí vừa tuôn ra, bị dội mạnh và quay ngược trở về cơ thể, mười ngón y cảm thấy đau đớn như bị gảy lìa.
Trùng Dương lại thuận thế tay hữu thổ ra dùng ngay Nhất Dương Chỉ điểm nhẹ lên ngực của Âu Dương Phong. Nếu Trùng Dương chẳng nương ấy cái điểm ấy chàng dùng đủ tám phần kình lực, thì sức mạnh của Nhất Dương Chỉ sẽ lập tức hủy nát trái tim của Âu Dương Phong và một đời Tây Độc cũng chẳng còn sống đâu để xưng hùng .
Nhưng Trùng Dương vốn lòng nhân hậu, nên chàng chỉ phát ra có ba phần kình lực, đẩy nhẹ trở ra.
Âu Dương Phong liền mất ngay tự chủ, bị tung bổng lên ba trượng cao, Tây Độc có trí linh biến hơn người. Y biết rõ Nhất Dương Chỉ của đối phương không phát ra thì thôi, nhưng một khi đã phát ra thì uy lực vô cùng, sức mạnh của chỉ kình có thể duy trì giữa khoảng không độ một tuần trà thời gian, nếu mình bị tung lên mà để rớt trở xuống thế nào cũng còn độn ngay dư lực của Nhất Dương Chỉ thì tánh mạng khó mà bảo toàn, bị thương cũng chẳng nhẹ.
Y vội lật mình nhào trái luôn hai lượt giữa không trung bay vượt ra ngoài ba trượng, rớt lên một tảng đá lớn cheo leo ở vực núi, hai chân vừa chấm đất thì lồng ngực cảm thấy nóng buốt như lửa đốt .
Âu Dương Phong hiểu ngay, hại người chẳng được và trở lại hại mình. Xà Độc Thần Công của y bị đối phương hất trả lại, độc khí đã chui lòn vào buồng phổi nếu chẳng kịp thời tìm một nơi ngồi yên vận công để bài tiết xà độc ra ngoài, thì trong vài giờ đồng hồ mạng sống sẽ chẳng còn !
Nên Tây Độc không dám nói chuyện nhiều, bèn tung mình chạy đi một mạch như bị ma đuổi .
Hồng Thất Công thích chí cười lên sằng sặc nói :
- Lão độc vật bị té lộn mèo một cái cũng khá nặng đấy, cuộc so tài trên đỉnh Hoa Sơn đã qua ngày thứ năm, còn một ngày rưỡi thời gian nữa, chúng ta định tiêu khiển bằng cách nào đây ?
Trùng Dương mỉm cười đáp :
- Đợi một chút Phong huynh lên đã. Độ vài giờ đồng hồ sau y sẽ trở lại qua trận so tài kỳ rồi, bần đạo chợt nghĩ ra một ý kiến mới !
Hai giờ đồng hồ sau Âu Dương Phong từ dưới núi thất thểu đi lên, thần sắc hết sức tiều tụy.
Hồng Thất Công cười thầm trong bụng :
- Mi mong hại Trùng Dương giờ đây bụng làm dạ chịu, bị một trận như vậy cho đáng đời, đúng là quả báo nhãn tiền .
Quả không ngoài sở liệu của Hồng Thất Công, Âu Dương Phong sau khi hứng phải ngọn Nhất Dương Chỉ, sợ e xà độc khí công nhập vào tim vội chạy vòng ra sau núi tìm một nơi thạch động kín gió xếp bằng ngồi xuống ngay, vận lấy bổn nguyên chân khí trong cơ thể , tuần hành một tiểu chân thiên, rồi mửa ra vài bụm máu tươi, mới bài tiết được xà độc ra khỏi cơ thể, nhưng vì qua một lần chịu đựng như thế, chân nguyên khi đã tốn hao rất nhiều !
Khổ nỗi lòng y cứ canh cánh mãi quyển Cửu Âm Chân Kinh nên tinh thần vừa hơi khôi phục, lập tức trở lại đỉnh Hoa Sơn ngay.
Hồng Thất Công cố ý làm khổ y nên nói :
- Lão độc vật, trận này thì tới phiên mi so tài với Hoàng Dược Sư vậy !
Âu Dương Phong cặp mắt trắng dã, nguýt Hồng Thất Công một cái.
Trùng Dương vội lên tiếng :
- Thất huynh, bần đạo thấy chẳng đánh nhau nữa làm chi, Âu Dương Sơn Chủ với Hoàng Dược Sư đều là anh hùng một cõi, tài nghệ ngang ngữa như nhau, dù có đấu ba bốn trăm hiệp cũng công phân định hơn thua được, hà tất phải đấu nhau mất công ?
Bần đạo đã có một chủ định mới. Phong huynh hãy nghỉ ngơi một hồi, rồi sẽ nói.
Âu Dương Phong tuy lòng rất âm độc, nghe Trùng Dương nói thế cũng thấy cảm kích vài phần, vì vừa rồi mình mới vận khí bài độc, chân nguyên khí đã bị tổn hại quá nhiều, nếu giờ đây mà cùng với Hoàng Dược Sư ra tay giao đấu, chắc hẳn là phải bại, lại càng mất mặt hơn nữa. Trùng Dương đã đở lời cho mình như vậy, thật chẳng gì hay hơn.
Hoàng Dược Sư thắc mắc hỏi :
- Vương Chân Nhân ý kiến của ông như thế nào xin nói toạt ra, đừng để tôi suy nghĩ mệt trí không chịu được ?
Trùng Dương cười nhẹ và nói :
- Phương pháp của tôi trong trận so tài này có phần đặc biệt, chúng ta hãy dùng cách đấu Ngũ Quốc Giao Binh thật là tiện lợi.
Hồng Thất Công ngạc nhiên hỏi :
- Trong tuồng hát thì có "Lục quốc phong tướng" Chớ làm gì có Ngũ Quốc Giao Binh ?
Trùng Dương đáp :
- Ngũ Quốc Giao Binh theo ý tôi nói là chúng ta năm người án theo phương vị Ngũ hành, cùng ngồi xuống mỗi người chiếm lấy một phương vị rồi dùng nội công kình lực giao kích lẫn nhau, người nào bị di động kể như đã thua phải bị loại ra khỏi vòng đấu.
Cách so tài như vậy rất hợp với lẽ công bằng chẳng ai có thể dùng thủ pháp khác được và còn một điểm đặc sắc nữa là không hạn định một người đấu với một người mà có thể hai đấu một hoặc ba đấu một, thậm chí cũng có thể bốn người công kích một người, đấy là điệu kiện thứ nhất, còn điều kiện thứ hai là mỗi người đều có thể tự lựa chọn đối thủ của mình thích đấu với ai,cứ cùng với người ấy giao tay, muốn trợ giúp người nào cứ tự tiện trợ giúp người đó, cách đấu như thế quí vị có tán thành chăng ?
Trùng Dương vừa nới lời thì Hồng Thất Công đã la to :
- Hay quá ! Cách đấu ấy rất mới lạ và thú vị vô cùng !
Hoàng Dược Sư, Đoàn Hoàng Gia, Âu Dương Phong cũng chẳng có ý gì khác, mọi người đồng loạt tìm vị trí thích đáng ngồi xuống đất.
Trùng Dương tài cao mật lớn, ngang nhiên ngồi ngay trung ương chiếm lấy phương vị "Mậu Thổ".
Hoàng Dược Sư thì ngồi về hướng Đông vị trí Ất Mộc, cách xa Trùng Dương trên dưới độ một trượng.
Còn Hồng Thất Công lại chiếm lấy phương Bắc vì trí Quí Thủy.
Âu Dương Phong thầm nghĩ trong lòng :
- Lão ăn mày luôn ủng hộ lão mũi trâu, đáng lý phải ngồi gần Trùng Dương mới đúng, tại sao lại ngồi ra xa thế kia ?
Trong lúc y còn đang hồ nghi thì Đoàn Hoàng Gia ngồi xuống hướng Nam chiếm lấy phương vị Bích Hỏa, cách Trùng Dương và Hoàng Dược Sư cũng độ một trượng xa.
Âu Dương Phong đành ngồi ngay vào phương vị ngũ hành còn lại tức là hướng Tây vị trí của Canh Kim.
Năm người vừa vặn sắp thành một trận thế ngũ hành hình dáng như một hoa mai năm cánh.
Trùng Dương hít mạnh vài cái để điều động chân khí, xong liền nói :
- Bây giờ chúng ta có thể bắt đầu được rồi !
Chàng ta vừa dứt lời thì Âu Dương Phong, từ nãy giờ vận đầy kình lực của Cáp Ma Công hờm sẵn, bèn kêu lên một tiếng "cốc !" thật lớn, song chưởng đồng lượt vung ra đẩy mạnh về hướng Trùng Dương, kình lực phát ra mạnh như núi nghiêng đá trút.
Tây Độc vẫn không thấy mảy may nhớ đến ơn Trùng Dương đã nương tay cho mình lúc nãy, mà vẫn một lòng quyết giết cho được Trùng Dương để đoạt Cửu Âm Chân Kinh, cho nên vừa ra tay y đã dùng ngay Cáp Ma Công lợi hại để tấn công Trùng Dương .
Trùng Dương không một chút bối rối ngồi xếp bằng im lìm trên mặt đất, thần sắc vẫn ung dung như thường, sức mạnh của Cáp Ma Công vừa áp tới, Trùng Dương không cần dùng Nhứt Dương Chỉ ra đối phó mà chỉ dùng Thái Ất Thần Công sẽ phất tay áo phát ra một luồng lực đạo đón lại, hai luồng chân khí nội gia vừa chạm nhau tức thì "bùng" lên một tiếng.
Trùng Dương vẫn y nhiên bất động, trái lại Âu Dương Phong bị sức dội của Thái Ất Thần Công thân hình y khẽ lảo đảo ngữa ra sau.
Âu Dương Phong vội dùng ngay "Thiên Cân Trụy" thân pháp trầm mạnh thân hình xuống đất mới gượng lấy lại được thăng bằng, tuy thế, y đã khiếp hãi đến mồ hôi lạnh toát ra.
Âu Dương Phong sợ e Thái Ất Thần Công của đối phương càng lúc càng lợi hại thêm thì y sẽ không làm sao chịu đựng nổi và thế nào cũng mất mặt tại chỗ với chúng anh hùng.
Thời may, lúc ấy Hoàng Dược Sư bỗng phát động thế công, phát ra một luồng Phách Không Chưởng Lực, tấn công vào sau lưng của Trùng Dương.
Võ công của Hoàng Dược Sư đặc sắc tự tạo thành một phái riêng biệt không giống ai, Phách Không Chưởng của chàng khác hẳn với Phách Không Chưởng của các võ gia thường, tác động của song chưởng tuy chậm chạp, nhưng kình lực phát ra có một sức mạnh lợi hại vô biên.
Trùng Dương vừa đỡ hết Cáp Ma Công của Âu Dương Phong trổ ra thì chợt cảm thấy phía sau lưng có một luồng lực đạo bay áp tới.
Chàng lập tức xoay luồng Thái Ất Quyền Công trở ra phía sau đón ngay luồng Phách Không Chưởng của Hoàng Dược Sư, chỉ nghe "bùng" một tiếng, nhưng thân hình hai người vẫn y nhiên bất động.
Âu Dương Phong thấy Trùng Dương đang bận chống đỡ với luồng lực đạo của Hoàng Dược Sư, tưởng có thể thừa cơ hội đánh ngã Trùng Dương được, bèn "cốc !" lên một tiếng thật lớn, lại đẩy Cáp Ma Công ra tấn công Trùng Dương.
Trùng Dương trong cái thế gọng kìm giữa hai người vẫn không chút bối rối, chiếc tay áo bên trái phất mạnh trở ra một luồng Thái Ất Chân Khí đón ngay làn Cáp Ma Công của đối phương lại, duy một phải chống với hai nhưng công lực của chàng không chút suy giảm.
Lần này, Âu Dương Phong đề phòng nên vừa bị sức dội của luồng Thái Ất Huyền Công đá dội lại, y dùng ngay Thiên Cân Trụy dộng mạnh bàn tọa xuống đất, gượng vững thân mình.
Âu Dương Phong vừa định dùng Cáp Ma Công để tấn công nữa thì Hồng Thất Công đã quát to lên :
- Lão độc vật, hãy đỡ nè !
Giọng nói, tay đã dùng ngay thế "Kiến Long Tại Gia" trong Giáng Long Thập Bát Chưởng, vù ra một luồng chưởng lực, nhằm ngay bả vai Âu Dương Phong bay vèo trở xuống.
Âu Dương Phong thật không thể ngờ lúc này Hồng Thất Công lại ra mặt hỗ trợ Trùng Dương nên tìm ngay mình mà tấn công, nư giận của y không khỏi trào sôi lên, đầu liền xoay chìu luồng Cáp Ma Công đánh thắng vào người Hồng Thất Công.
Hồng Thất Công vẫn an nhiên như núi Thái Sơn, liên tiếp đánh ra ba chưởng nhanh mạnh như sóng thần ầm ập xô đến tấn công.
Âu Dương Phong chỉ còn cách cố sức chống đỡ thôi.
Bên kia Trùng Dương cùng Hoàng Dược Sư vẫn ngang ngữa không ai thắng ai.
Thì ra Hoàng Dược Sư từ mấy năm nay cư ngụ trên Đào Hoa đảo, gia tâm nghiền ngẫm khổ luyện võ công rất tinh thuần, nên công lực của y thâm hậu không kém sút Trùng Dương bao nhiêu.
Phách Không Chưởng của chàng phát ra kình lực, chưởng phong không phải chỉ phát ra rồi thu ngay lại như võ thuật bình thường mà đặc biệt ở chỗ lúc ban đầu lực đạo tuy có phần chậm chạp nhưng càng lúc càng trầm mạnh thêm lên, có thể duy trì đến thời gian ba bốn tuần trà.
Trùng Dương lúc ban đầu không biết rõ võ công của Hoàng Dược Sư lại đặc kỳ như thế nên suýt chút nữa phải nguy về y.
Khi lần thứ nhứt Hoàng Dược Sư dùng Phách Không Chưởng tấn công phía sau lưng thì Trùng Dương đã dùng ngay Thái Ất Thần Công đón lại.
Nhưng Thái Ất Huyền Công phải vận dụng chân khí ở dưới Đơn điền phát ra tuy mảnh liệt nhưng kình lực không thể duy trì lâu được, nên chàng sau khi phát ra Thái Ất Huyền công để chống lại Phách Không Chưởng song lập tức phải thâu trở về.
Nào ngờ trong thời gian chớp nhoáng ấy, thì Chưởng kình Phách Không của Hoàng Dược Sư bỗng gia tăng thêm cường lực, đánh vút vào người Trùng Dương.
Nếu gặp phải người khác với lối tấn công bất ngờ không kịp phòng bị ấy, thì nếu chàng bị đẩy lui bật lộn nhào ra ngoài vòng đấu, thì ít nhất cũng bị loạng choạng hai lượt và phải xê dịch khỏi vị trí đang ngồi một vài tấc.
Nhưng Trùng Dương trí cơ ứng biến như thần, ngọn chưởng kình của Hoàng Dược Sư vừa chạm vào cơ thể, chàng lập tức phát giác ra ngay, vừa lúc chàng mới đẩy bật luồng Cáp Ma Công thứ hai của Âu Dương Phong trở lại, uy lực của Thái Ất Huyền Công vẫn còn chưa kịp thâu triệt về, chàng liền thuận tay xoay luồng nội lực trở lại phía sau đón ngay luồng chưởng phong Phách Không của đối phương lẹ trong chớp nhoáng.
Nội công của Trùng Dương đã luyện đến mức tinh kỳ, bắp thịt trong châu thân có sức co giãn tùy theo phản ứng của cơ thể, nên sức chưởng của Hoàng Dược Sư vừa chạm vào người của Trùng Dương y chợt cảm thấy thân hình của đối phương như hỏm vào bên trong, và chưởng lực của y vô hình trung bị hóa giải đâu mất.
Hoàng Dược Sư thấy chưởng thứ nhứt không trúng, liền nhanh nhẹn tấn công tiếp chưởng thứ hai, nhưng Trùng Dương lần này đã có kinh nghiệm, hai tay áo phân thành tả hữu hai bên phất ra đón lại, tay áo trái phát ra luồng Thái Ất Công ngăn chận Phách Không Chưởng của đối phương, ngón tay bên bàn tay mặt xỉa thẳng ra, một dắt, một dẫn, tức thì có một làn cương khí vô hình, xoi thẳng vào Thái Dương huyệt của Hoàng Dược Sư.
Hoàng Hoa Đảo Chủ thật không thể ngờ đến Trùng Dương lại có thể một lượt phát ra Thái Ất Huyền Công mà còn kèm theo cả kình lực Nhất Dương Chỉ, không khỏi hốt hoảng giật mình.
Nhưng may là bản lĩnh của y không phải tầm thường, lập tức cúi thấp thân mình xuống sát đất, đảo tròn nửa vòng để tránh, sau đấy đẩy ra một chưởng Phách Không đón lấy kình lực của Nhất dương Chỉ lại.
Nhưng Nhất Dương Chỉ là một công phu trấn môn của Toàn Chân Phái, lợi hại và khác biệt hơn Thái Ất Thần Công rất nhiều nên dù Hoàng Dược Sư kịp thời vung chưởng đón được, nhưng kình lực Nhất Dương Chỉ vẫn xuyên qua Phách Không Chưởng và suýt chút nữa là Hoàng Dược Sư bị ngã chúi mặt trên đất.
Trong cái nguy hiểm chỉ còn xê xích trong đường tơ kẽ tóc ấy, thì Đoàn Hoàng Gia liền phát ra luồng Tiên Thiên khí công của mình để ám trợ Hoàng Dược Sư.
Nguyên là từ nãy giờ tứ Bá đã trước sau ra tay giao kích lẫn nhau, chỉ có Đoàn Hoàng Gia ngồi im quan sát trận đấu và chưa phát động thế công cùng ai cả. Ông vốn là con người trầm tĩnh cực đoan, vẫn tích tiềm lực chân khí, định bụng thử sức với Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư để xem công lực hai người ra sao ?
Nhưng vì Hồng Thất Công cùng Âu Dương Phong đối công nhau, còn Hoàng Dược Sư thì đang bận giao phong với Trùng Dương thành ra ông là người không có địch thủ để thử tài .
Đoàn Hoàng Gia vốn cũng có thể tham gia vào vòng chiến, nhưng trên danh nghĩa một Hoàng Gia, quyết không khứng đấu hai lấy một, nên tạm thời làm kẻ bàng quang mà chẳng ra tay, chợt đến lúc thấy Hoàng Dược Sư bị thọ khổn vì Nhất Dương Chỉ, tình thế có phần nguy ngập, Đoàn Hoàng Gia chẳng cần suy nghĩ thiệt hơn, tay trái liền phất ra ngay một ngón Tiên Thiên Công lực, hậu kích vào lưng của Trùng Dương.
Tiên Thiên thần công của Đoàn Hoàng Gia so với Nhất Dương Chỉ của Trùng Dương tuy có phần khác biệt, nhưng công dụng mường tượng như nhau vì Thiên Tiên công lực cũng dùng ngón tay để phát ra, và Tiên Thiên Công của Đoàn Hoàng Gia không phải do sư phụ là Ngọc Động Chân Nhân truyền dạy, mà chính do trí thông minh của cá nhân ông lãnh ngộ ra vậy.
Thì ra Đoàn Hoàng Gia sau khi lên ngôi hoàng đế, tuy là địa vị chí tôn quân vương một nước, nhưng đối với võ công của bản thân, không những chẳng chút giải đãi bỏ bê, mà trái lại cần mẫn tinh luyện hơn cả lúc bình thường và tài nghệ nhờ đấy mỗi ngày thêm tiến bộ vượt bực.
Một hôm ông lên Điểm Thương Sơn ngoài thành Đại Lý để săn bắn, bỗng thấy trên trời có hai con chim ưng đang đuổi bắt một con diều hâu, có thể là con diều hâu ấy đã lén vào ổ chim ưng ăn hết bầy ưng con, nên vợ chồng này vì nóng lòng con chết thảm nên mới rượt đuổi con diều hâu để trả thù.
Con diều hâu tuy thân hình nhỏ nhưng khôn ngoan giảo quyệt vô cùng, không ngớt lượn tròn trên không trung, hai con chim ưng lớn dù ráo riết truy đuổi vồ bắt, thân pháp con diều hâu trước sau một mực nhẹ nhàng và linh diệu, chỉ thoắt một cái là luồn khỏi những vuốt nhọn sắc của hai vợ chồng chim ưng, khiến cho hai con ưng to đầu mà kém khôn ngoan kia, giận dữ kêu lên oang oác inh ỏi cả tai.
Tuy thế, hai con chim ưng không vì đó mà nản chí bỏ qua kẻ địch, vừa vồ không trúng là lập tức phân ra hai bên tả hữu lượn tròn, chận lấy lối thoát của con diều hâu, đồng thời hai vợ chồng ưng lại biết phân công hợp tác, cứ hễ một con vồ bắt là một con ở trên không canh chừng.
Như vậy con diều hâu không làm sao tìm ra lối thoát được , nhưng dẫu vợ chồng ưng phân phiên vồ bắt liên tiếp mấy mươi lần cũng không làm sao chộp trúng được một mãng lông của con diều hâu ranh mãnh nọ. Hai con ưng đã có phần mệt mỏi chậm chạp dần.
Đoàn Hoàng Gia ngồi trên lưng con ngựa quí Ngọc Tôn, ông say mê đưa mắt nhìn theo động tác của đôi chim ưng đang đuổi bắt con diều hâu, có nhiều tư thế hợp với chiêu số của võ công.
Ông vốn là người yêu chuộng võ thuật như sinh mệnh nên bỏ hẳn ý định đi săn, ghìm cứng cương ngựa một chỗ, ngẩng đầu nhìn mãi lên bầu trời quên thôi .
Đoàn Hoàng Gia thấy đôi chim ưng tuy dũng mãnh, lại được ưu thế lấy hai vây một, mà vẫn không thể vồ bắt được con diều hâu, thầm khen ngợi trong lòng, dùng sức chẳng bằng dùng trí, giống diều hâu này quả thật khôn ngoan khác thường.
Ông đang mãi mê suy nghĩ, thì con ưng trống, trong cơn gấp rút bỗng nảy sanh cơ biến, bèn liếc đầu sang con chim mái kêu lên mấy tiếng quác quác, con chim mái lập tức hội ý ngay, xòe đôi cánh ra thật rộng đập mạnh về phía con diều hâu "phạch phạch" luôn mấy lượt.
Con diều hâu tuy thấy đối phương đổi ngay thế công, nhưng nó cũng không chút loạn ý, cứ mỗi lần bị vồ đuổi là dùng ngay phân pháp thiên phú cực kỳ lanh lẹ của mình lách khỏi sự tập kích của con ưng mái một cách khéo léo.
Con ưng trống từ nãy giờ im lặng, lượn cánh trên phía cao chờ cho vợ mình tấn công con diều hâu lần thứ tư, liền xà cánh xuống đột kích con diều hâu lẹ như chớp.
Thì ra con ưng trống đã quan sát lối tránh của con diều hâu, nó thấy rõ địch thủ có thói quen thiên về phía mặt hơn phía trái. Nói một cách khác là con diều hâu luôn luôn lách mình tránh sang phải và họa lắm mới vọt mình sang phía trái.
Thấy rõ yếu điểm của đối phương xong, chờ cho con chim mái vỗ bắt đối phương lần thứ tư, con ưng trống liền bất thình lình nghiêng nhẹ đôi cánh bay xẹt lẹ phía trái của chim vợ, cơ hồ cùng con chim mái giăng thành một đường thẳng trên nền trời.
Con diều hâu vừa sang ngang qua phía hữu để tránh, thì con ưng trống với thế nhanh như sấm sét chẳng kịp bịt tai, đột ngột như một Phi Tướng Quân từ trên trời đâm bổ xuống, liền theo đấy một tiếng kêu thảm thiết vang lên, con diều hâu đã bị con ưng trống vồ gọn trong đôi vuốt.
Con diều hâu khốn nạn vùng vẫy mong thoát vuốt sắc, thì con chim mái đã bay đến tiếp tay.
Đôi vợ chồng ưng thi nhau vồ mổ cắn xé, máu thịt vùng rơi, lông bay lả tả, trong khoảng khắc con diều hâu đã nằm gọn trong bao tử của cặp vợ chồng chim ưng. Báo xong được thù giết con, hai vợ chồng nhà ưng hả hê kêu lên những tiếng thích ý rồi bay đi.
Đoàn Hoàng Gia sau khi mục kích được pha rượt bắt sôi nổi giữa đôi ưng với con diều hâu, không khỏi ngẩn người suy nghĩ. Nhờ đấy ông đã ngộ ra một đạo lý liên quan đến võ công của bản thân.
Vì mấy năm gần đây võ thuật tuy có phần thành đạt nhưng chuyên về công phu bên ngoài, còn công lực nội gia thì vẫn chưa có gì gọi là khởi sắc cả. Thí dụ như Kim Cang quyền của mình, tuy có sức mạnh địch lại muôn người, nhưng nếu gặp phải một nội gia cao thủ thì vẫn còn kém sút lắm.
Kim Cang Quyền trầm mạnh hùng hậu thì có , nhưng về binh biến nhẹ nhàng thì có phần thiếu sót cần phải chuyên luyện thêm một môn võ công độc đáo khác để bổ sung vào chỗ thiếu sót ấy.
Đoàn Hoàng Gia chủ ý đã định liền bỏ cuộc săn bắn và trở về triều cung, sực nghĩ đến Tiên Thiên Khí Công sẳn có của mình, bèn đem nội kình công lực trong bản thân truyền thấu đến tứ chi, cố gắng rèn luyện đến lúc phát được ra ngoài ngón tay, và có thể tùy tiện thâu xuất theo tâm ý của mình, mới kể là đã thành công.
Môn thần công Tiên Thiên của ông, có thể đánh được ngọn đèn cách một bức tường dày hay cách một lớp da trâu và đâm lủng được tờ giấy mà bức tường và lớp da vẫn bảo tồn được nguyên vẹn chẳng chút hư hại.
Đoàn Hoàng Gia thấy Hoàng Dược Sư sắp lâm vào thế hiểm, ông không chịu thừa cơ nguy của người, nên dùng ngay Tiên Thiên Thần Công điểm vào gáy của Trùng Dương để giúp tay Hoàng Dược Sư .
Trùng Dương cảm thấy có một luồng kình lực tập kích vào phía sau gáy của mình mà sức mạnh và lợi hại chẳng kém với Nhất Dương Chỉ chút nào, chàng không khỏi giựt mình kinh hải, vội phất tay áo ra, dùng khí công Bài Vân Tụ đón lại.
Nhưng Tiên Thiên Công của Đoàn Hoàng Gia là một tuyệt kỹ thượng đẳng của nội gia chân lực, tất nhiên khí công Bài Vân Tụ của Trùng Dương không sao cự lại, hai luồng kình lực vừa chạm nhau thì Tiên Thiên Công của Đoàn Hoàng Gia đã xuyên khỏi và xông thẳng vào người Trùng Dương nhanh trong chớp nhoáng.
Trùng Dương kinh sợ tột độ, lập tức bắp thịt trong cơ thể liền tự động hót vào, đẩy trượt luồng kình lực Tiên Thiên Công ra phía ngoài, tuy vậy tình hình cũng thập phần nguy ngập.
Đoàn Hoàng Gia thấy rõ Tiên Thiên Công của mình đã điểm trúng được Trùng Dương, tuy ông chưa thật tình dùng hết mười phần công lực của mình mà chỉ dùng có bẩy phần thôi, nhưng uy lực cũng vô cùng đáng sợ rồi, không những địch thủ phải bị nội thương mà còn phải té nhủi xuống đất nữa là khác.
Mà lạ thay ! Trùng Dương khi trúng phải Tiên Thiên Công, chỉ khẽ rung động một chốc rồi vô sự như bình thường, võ công thâm sâu, tài nghệ tuyệt vời thật là ngoài ý liệu của ông.
Trong lúc còn thảng thốt bàng hoàng, Đoàn Hoàng Gia chợt nghe Âu Dương Phong kêu lên một tiếng "cốc" thật lớn, tiếp theo đấy là một luồng tiềm lực Cáp Ma Công bay ập vào người Trùng Dương.
Thì ra Âu Dương Phong và Hồng Thất Công sau khi tấn công nhau qua lại độ ba chiêu. Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công, cùng với Cáp Ma Công của Âu Dương Phong mỗi bên đều có một sở trường đặc sắc riêng, hai bên giao đấu nhau ba chiêu vẫn khó định hơn thua được.
Hồng Thất Công liền cười lên ha hả và nói :
- Lão độc vật quả không hổ tiếng đồn ! Được rồi, mi hãy lãnh giáo với Vương chân nhân đi !
Lời nói ấy nghe ra là một câu nói thật tình tầm thường, nhưng kỳ thật Hồng Thất Công đã cho Trùng Dương hay khéo mà gia tâm phòng bị.
Âu Dương Phong trong lòng rất giận, tự nhủ thầm :
- Cái lão ăn mày chó định xỏ ta, nên dụng ý cho lão mũi trâu họ Vương hay, chẳng lẽ Âu Dương Phong ta lại sợ mà chịu bó tay sao .
Y thừa lúc Trùng Dương bị Tiên Thiên Công của Đoàn Hoàng Gia điểm phải, liền kêu to lên một tiếng "cốc", rồi đẩy mạnh luồng Cáp Ma Công của mình ra tấn công Trùng Dương.
Nhưng đối với Cáp Ma Công của Âu Dương Phong, Trùng Dương đã giao sức qua mấy lần rồi, theo sự nhận xét của chàng thì Cáp Ma Công ấy so với Phách Không Chưởng, Tiên Thiên Công của Hoàng Dược Sư và Đoàn Hoàng Gia, thì Âu Dương Phong vẫn còn kém hơn một bực, chỉ cần dùng Bài Vân Tụ , phất nhẹ tay áo là đỡ được một cách chẳng mấy khó khăn.
Nào ngờ Âu Dương Phong lần này lại sanh một kế khác, trong lúc y phát luồng Cáp Ma Công ra tấn công thì tay hữu của y cũng đồng thời vung lên một cái, tức thì "vút" một tiếng xé không gian, từ lòng bàn tay y bay ra một ám khí đen sì lao nhanh vào sau ót của Trùng Dương.
Món ám khí của Âu Dương Phong vừa rồi gọi là Độc Xà Chủy, luyện bằng một thứ gang trên Bạch Đà Sơn, hình dạng như chiếc đầu rắn, mỗi khi ném ra thì đầu rắn liền tự động hả họng, le ra một chiếc lưỡi nhọn lểu bén ngót như mủi dùi, trên mủi ấy có tẩm một loại thuốc cực độc, gặp máu là hít cứng vào, lợi lại tuyệt cùng.
Tây Độc là một tay mưu cơ thâm trầm, y biết rõ Trùng Dương bản lĩnh phi phàm, nếu sử dụng theo cách bình thường không làm sao hại được chành, chỉ có lúc so bì công lực như thế này, bất thình lình thi thố ra, hoặc may mới có hy vọng đánh ngã Trùng Dương thôi , nên Âu Dương Phong cố ý dùng Cáp Ma Công tấn công trước để phân tán sự chú ý của đối phương, sau đấy mới khẽ nhấc cườm tay nhanh nhẹn bắn Độc Xà Chủy bay vút ra.
Y thấy rõ mũi Độc Xà Chủy đang lao nhanh tới huyệt hộ nơi óc của Trùng Dương Chỉ còn gang tấc nữa là ghim sâu lên đỉnh đầu kẻ địch thủ duy nhất của y và Trùng Dương thế nào cũng ngã nhào tại trận.
Ngờ đâu Trùng Dương lại lật tay hất ngược lên vù ra một luồng chưởng phong đánh vẹt những mũi Độc Xà Chủy văng ra xa ba trượng ngoài.
Hồng Thất Công nhãy chồm lên như thú dữ sút chuồng, miệng quát tháo như sấm động :
- Ngừng tay .
Bốn người đang đấu nhau liền ngạc nhiên giựt mình dừng tay cả lại, chăm chú nhìn Hồng Thất Công chờ đợi .
Hồng Thất Công trừng mắt chỉ ngay Âu Dương Phong cười gằn và nói :
- Lão độc vật, trong lúc so tài khí công nội lực, mi lại lén sử dụng ám khí để hại người, không hợp lệ với quy củ của cuộc thử sức hôm nay, khôn hồn cút xuống khỏi núi Hoa Sơn cho rảnh mắt ta.
Âu Dương Phong giận đỏ mặt cũng trợn trừng đôi mắt trắng dã nói lại :
- Thằng ăn mày thối, ta phạm nhằm quy củ cuộc so tài hồi nào ? Mi nói ra đi ?
Hồng Thất Công cười nhạt nói :
- Trong lúc mi dùng Cáp Ma Công tấn công, mi đã dở trò lén lút phóng ra thứ đồ yêu quỉ gì để ám hại Trùng Dương Chân Nhân, như vậy cũng chưa chịu là phạm quy củ sao ? Đợi gì nữa mà chẳng cút đi cho rồi, chắc bộ da mặt mi cũng dày hơn vách tường nữa phải hay không ?
Âu Dương Phong cũng cười khẩy đáp lại :
- Lão ăn mày, mi chỉ lo bợ đít họ Vương mà quên cả nghĩ suy, chưa chắc lão họ Vương chịu đem Cửu Âm Chân Kinh giao cho mi đâu ! Mi bảo là ta phạm quy củ ! Vậy ta hỏi mi lúc nãy họ Vương giao ước cách đấu "Ngũ Quốc Giao Binh" , có nói trước là không cho dùng ám khí hay không ?
Tây Độc đem lời nói ấy ra bắt bẻ khiến Hồng Thất Công không làm sao đáp cho xuôi được.
Hồng Thất Công vò đầu vò trán lẩm bẩm một mình :
- À ! Cái này, cái này, lão độc vật lật lọng phải lắm, mình có lý không được rồi !
Nguyên vì Trùng Dương đâu có giao hẹn chẳng cho dùng ám khí bao giờ đâu ?
Trùng Dương thấy vậy giả lả :
- Thất huynh ! Lời của Phong huynh rất đúng.
Tui lúc nãy không hề giao ước không cho sử dụng ám khí, Phong huynh lại đem thêm môn ám khí ra giúp vui lại càng hay hơn nữa, thật là chuyện không cầu mà được, hà tất phải cải vã nhau làm gì ?
Những lời của Trùng Dương vừa rồi mới thoạt nghe dường như che đậy cho Âu Dương Phong, nhưng nghĩ kỹ lại là một sự mai mỉa sâu sắc.
Trùng Dương coi món ám khí của Âu Dương Phong như một thứ đồ chơi của trẻ nít đem ra giúp vui cho mọi người chứ không làm hại ai được ?
Mọi người nghe xong đều tỏ ra hội ý khếch mép cười.
Âu Dương Phong cũng là một nhân vật có tài trí hơn người làm sao lại chẳng nghe ra lời nói châm chích của Trùng Dương được .
Tây Độc trong lòng tuy rất giận, nhưng vẫn giữ vẻ mặt âm thầm không cho lộ ra ngoài, chỉ cười khô khan một tràng và nói :
- Các vị đều hiểu rõ rồi vậy, Âu Dương Phong tôi không hề phạm quy củ của cuộc so tài ! Nào chúng ta lại tiếp tục so tài đi thôi ! Nghe lời của lão ăn mày thúi đó làm gì
Nói xong tay trái xoay lẹ một vòng giữa không trung tay hữu khẽ nhấc cao lên, tung ra một ngọn Cánh Không Chưởng Lực bay vút vào mặt Hồng Thất Công.
Hồng Thất Công "hừ " giọng mũi một tiếng, tay trái vung nhẹ lên một thế Chiến Long Tại Dã , đỡ hất luồng chưởng của Âu Dương Phong vừa bay tới tiếp theo đấy, tay phải vù trở ra một chưởng Kháng Long Bửu Hối chém xả vào lồng ngực Âu Dương Phong.
Trùng Dương cũng tiếp tục thử sức với Hoàng, Đoàn hai người. Chàng đã lãnh giáo sơ lược qua Phách Không Chưởng đặc sắc có thể duy trì trong một thời gian rất lâu của Hoàng Dược Sư và cũng hiểu rõ Tiên Thiên khí công của Đoàn Hoàng Gia lợi hại không thua gì Nhất Dương Chỉ của Toàn Chân Phái.
Nên lần này chàng không dám sơ xuất nữa.
Phách Không chưởng của Hoàng Dược Sư vừa bay áp đến trước mặt, Trùng Dương lập tức dùng ngay Nhất Dương Chỉ, hai ngón tay điểm nhẹ lên ngọn chưởng phong của đối phương.
Hoàng Dược Sư lập tức cảm thấy ngay tuyệt kỹ Nhất Dương Chỉ quả thật lợi hại vô cùng, vượt bực khác phàm, mình khó mà sánh kịp.
Nhất Dương Chỉ là môn công phu trấn môn duy nhất của Toàn Chân phái, cũng là một công phu cự phách đệ nhất võ lâm. Khi xưa sư phụ của Trùng Dương là Thanh Hư Chân Nhân luyện được Nhất Dương Chỉ xong, tung hoành khắp thiên hạ không ai địch nổi. Cho nên khi Trùng Dương đến Tung Sơn thụ giáo không bao lâu, Thanh Hư Chân Nhân liền bắt chàng giam trong thạch huyệt kín mít để chàng luyện thành Nhất Dương Chỉ hầu thay ông mở rộng cơ sở Toàn Chân phái, làm rực rỡ cho bổn môn trên võ lâm giang hồ.
Môn công phu Nhất Dương Chỉ hoàn toàn nhờ ở thuần dương Tiên Thiên chân khí, mượn lấy ngón tay để phát huy ra ngoài, trên bình diện thì dường như là môn chỉ lực, công phu đại loại như Kim Cang Chỉ hay Nhứt Chỉ Thiền Vân, nhưng sự thật là sai đi muôn dặm vậy.
Môn Nhất Dương Chỉ hoàn toàn phát động theo tâm ý nên uy lực và lợi hại cùng sự biến hóa kỳ diệu gấp trăm ngàn lần các loại công phu chỉ lực kia .
Hoàng Dược Sư thấy Trùng Dương "hừ !" lên một tiếng khẽ, rồi ngón tay vạch điểm giữa không trung một vòng tròn, và từ nơi ngón tay của đối phương ào ào xẹt vụt ra một sức mạnh kỳ diệu bay thẳng đến người mình .
Tuy kình lực của ngón tay ấy phát ra không lấy gì làm mãnh liệt lắm, nhưng không hiểu sao Ngầm lực của Phách Không Chưởng lợi hại của Hoàng Dược Sư chẳng thể cản trở nỗi, và bị sức mạnh ấy xuyên lủng qua và tập kích vào cơ thể.
Thật là một sự bất ngờ ngoài ý liệu của Hoàng Dược Sư. Y cảm thấy thân hình như chạm phải một luồng điện mạnh, tê buốt khắp châu thân, rùng mình luôn mấy lượt vẫn không sao kìm chế được.
Thì ra ngọn kình lực Nhất Dương Chỉ vừa rồi đã điểm trúng vào Thiếu Dương huyệt cận nơi xương bả vai của Hoàng Dược Sư, và kình lực ấy hùng mạnh phi thường, dù Hoàng Dược Sư có tài quán chúng, kịp thời bế được huyệt đạo cũng không sao tránh khỏi té nhủi xuống đất.
Nhưng Trùng Dương, vì cố ý nương tay, nên chỉ lực vừa đánh trúng vào huyệt đạo của đối phương, chàng lập tức thâu nhanh chỉ kình trở về. Nói một cách khác cho dễ hiểu là tựa như một con độc xà hùng mạnh và nhanh nhẹn trương nanh hả miệng, mổ cái trúng phóc ngay đối phương nhưng khi chạm lên cơ thể của địch thủ lại ngậm miệng chỉ để mõm gỏ trúng mà thôi, đó là một hình thức cảnh cáo.
Hoàng Dược Sư cảm thấy thân hình tê buốt một cái, rồi chỉ lực của đối phương bỗng nhiên tiêu tan đâu mất chớ không xâm nhập vào huyệt đạo của mình, tuy vậy vẫn không khỏi kinh sợ đến toát mồ hôi lạnh !
Trong khoảng khắc khi Hoàng Dược Sư bị Trùng Dương dùng Nhất Dương Chỉ phản công, thì Đoàn Hoàng Gia cũng hít mạnh khí đan điền, vận hành Tiên Thiên Cương Khí dồn sang ngón tay trỏ của bàn tay mặt xỉa thẳng vào sau vai của Trùng Dương.
Tiếng gió vừa phát ra, Trùng Dương đó biết ngay chưởng, liền phất tréo cánh tay áo trở ra sau, phát ra kình lực Nhất Dương Chỉ tống mạnh với luồng Tiên Thiên khí công của đối phương.
Tiên Thiên Công của Đoàn Hoàng Gia cùng Tiên Thiên thuần dương của Trùng Dương tuy cùng một đường lối nhưng bản chất lại không đồng đều.
Vì rằng Nhất Dương Chỉ kình lực của Trùng Dương hỗn hợp với sức mạnh của ngũ hành trong cơ thể và nhờ chân khí cương dương phát tiết ra ngoài. (Con nhà võ gọi ngũ hành trong cơ thể tức: Tim, Can, Tỳ, Phế, Thận).
Trùng Dương thuở nhỏ ăn nhầm chất nấm sâm và được Thanh Hư Chân Nhân tận tình chỉ dạy, cơ thể chàng nhờ đấy xuyên thông qua cây cầu mầu nhiệm của trời đất, lại luyện được phép tọa công của Toàn Chân Phái nên khí Ngũ Hành trong người hiệp thành một thể.
Bởi thế cũng đồng thời mà Trùng Dương luyện được Nhất Dương Chỉ, nhưng sư đệ là Châu Bá Thông không sao luyện thành.
Còn Tiên Thiên Công của Đoàn Hoàng Gia, thì nhờ khí kình của công lực cá nhân nên chỉ có thể phát ra sức mạnh của Tam hành còn Hai hành của Tỳ và Thận, vì Đoàn Hoàng Gia chưa xuyên thông qua cây cầu của trời đất, cho nên không thể phát huy ra sức mạnh của Tỳ và Thận, chỉ cần bao nhiêu ấy đem ra so sánh cũng đủ thấy sự hơn kém rõ rệt nhau rồi.
Huống chi, môn võ học nội công, trừ sự thiên tư thông minh ra còn phải nói đến thời gian rèn luyện lâu hay chậm, ba năm, mười năm có tài nghệ căn bản của mười năm hơn kém, chứ không thể vượt bực mà tới được.
Trùng Dương từ lúc thơ ấu nhập môn công phu nội công, sớm tối chuyên cần trên bốn mươi năm khổ hạnh, thì Đoàn Hoàng Gia làm sao bì cho kịp nỗi.
Nên Tiên Thiên Công vừa đụng phải Nhất Dương Chỉ là lập tức bị đẩy lui trở lại ngay.
Đoàn Hoàng Gia chợt cảm thấy đầu óc rung động mạnh, và kình lực của mình vừa phát ra bị đối phương đẩy bật trở về, mường tượng như một người vừa phun ra một bụm nước, bị ngay một luồng sức mạnh vô hình đẩy bụm nước ấy bay tọt trở vào miệng, sự khó chịu và ngột ngạc ra sao cũng đủ hình dung được tình trạng của Đoàn Hoàng Gia đang chịu đựng ở lúc ấy vậy.
Ông cơ hồ suýt buột miệng kêu thành tiếng, kình lực của Nhất Dương Chỉ hợp với sức mạnh Tiên Thiên khí công của đối phương quật ngay trở lại xoi ngay Trung Phong huyệt của Đoàn Hoàng Gia.
Cũng may mà Trùng Dương có nương tay, nên kình lực vừa chạm đến huyệt đạo của đối phương , chàng lập tức triệt ngay trở về, thật là một sự kinh hiểm tột cùng, mồ hôi lạnh trong người Đoàn Hoàng Gia toát ra ướt áo.
Trùng Dương chưa phát huy đủ mười thành công lực của Nhất Dương Chỉ mà đánh bại cả Phách Không Chưởng và Tiên Thiên Công của Hoàng, Đoàn hai người khiến Đông Tà, Nam Đế đều phải thầm khâm phục tài nghệ tuyệt vời của Toàn Chân Giáo Chủ.
Hồng Thất Công và Âu Dương Phong, tuy hai người đang bận đấu nội lực cùng nhau, nhưng cũng thấy rõ sự thắng bại của nhóm người Trùng Dương.
Hồng Thất Công thấy uy lực Nhất Dương Chỉ của Trùng Dương lợi hại đến thế ấy không khỏi kinh hải trong lòng, lão bèn gọi Âu Dương Phong :
- Lão độc vật, hãy khoan !
Miệng quát, tay đã xoay luồng chưởng phong biến thành thế Long Vũ Ư Hải (Rồng múa trên biển) tấn công vào phía trước mặt Trùng Dương.
Âu Dương Phong thấy Hồng Thất Công lại bỗng xoay qua tấn công Trùng Dương rất hợp ý mình, lão bèn rống lên một tiếng như điên, song chưởng đẩy mạnh ra vận đầy kình lực Cáp Ma Công vào phân nửa người bên hữu của Trùng Dương, hợp với Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công thành thế gọng kìm kẹp Trùng Dương vào giữa.
Trùng Dương không chút bối rối, song chưởng phân ra hai phía, sử dụng kình lực Nhất Dương Chỉ bên trái đón Bắc Cái, bên phải đở Âu Dương Phong, tuy công lực phải chia ra đôi tay, nhưng chỉ kình vận không kém uy mãnh.
Chưởng lực Giáng Long Thập Bát Chưởng của Hồng Thất Công từ phía hông vừa đẩy tới, chưởng phong của đối phương chưa áp vào người chàng thì Hồng Thất Công đã cảm thấy một ngọn chỉ quét nhẹ lên vai hữu nơi Tam Lý Huyệt, và cũng như Đoàn Hoàng Gia và Hoàng Dược Sư lúc nãy, kình lực Nhất Dương Chỉ vừa chạm lên da là được đối phương thâu về ngay chớ không xâm nhập đến huyệt đạo, bất quá chỉ cảm thấy chân hình tê buốt như chạm phải làn điện vậy thôi.
Riêng Âu Dương Phong thừa khi Hồng Thất Công phát chưởng chuyển thế cụng sang Trùng Dương, y tập vận toàn lực Cáp Ma Công ra đánh mạnh luồng nội lực bình sinh của mình vào phía hữu của Trùng Dương, ngờ đâu do đấy mà y tự chuốc lấy khổ não cho mình.
Nhất Dương Chỉ của Trùng Dương với Cáp Ma Công của Âu Dương Phong sanh khắc như nước với lửa.
Cáp Ma Công thiên về lối ồ ạt hung mãnh tức như loại khí giới nặng búa lớn, trùy to.
Còn Nhất Dương Chỉ của Trùng Dương lại là một luồng cương khí nhọn bén tựa như một cây cung thần bách phát bách trúng của Thần Tiển Vương Do Cơ, thì dù là cao thủ anh hùng thế nào cũng không tránh khỏi dưới mũi tên xuất quỉ nhập thần của nhà thiện xạ.
Nên khi Cáp Ma Công của Âu Dương Phong vừa đẩy ra, thì luồng chỉ kình Nhất Dương Chỉ đã xuyên lủng qua Cáp Ma Công và đánh thẳng vào ngực nơi Huyết Trở huyệt của y, Trùng Dương vốn cũng y theo cách đối phó với Đoàn, Hồng, Hoàng ba người, chỉ lực vừa lướt lên huyệt đạo của đối phương để cảnh cáo xong là thâu ngay trở về.
Nhưng vì làn công lực Cáp Ma Công của Âu Dương Phong quá mạnh bạo, thế như đá nghiêng biển lở bay ập ra sau, khi bị luồng Nhất Dương Chỉ xuyên qua và trúng lên cơ thể.
Toàn thân Âu Dương Phong vì luyện được Ngũ Độc Kỳ Công nên bắp thịt khắp châu thân đều có thể tự động thâu phát kình lực theo phản ứng, do đấy luồng Cáp Ma Công lập tức được huy động trở về ngờ đâu tông mạnh vào kình lực Nhất Dương Chỉ xuyên thẳng vào huyệt đạo.
Âu Dương Phong kêu lên một tiếng "ối cha !" , liền ngã ngửa đánh phịch một cái, nằm dài trên mặt đất chẳng động đậy được !
Mọi người đều không khỏi kinh ngạc vội ngừng ngay trận đấu.
Trùng Dương liền xốc áo đứnng dậy đi đến bên Âu Dương Phong liếc nhìn qua đã hiểu rõ mọi sự bèn cười và nói :
- Không sao cả ! Chẳng qua huyệt đạo bị phong bế thôi.
Nói đọan dùng tay áo bên hữu phất nhẹ lên người Âu Dương Phong. Cái phất ấy Trùng Dương đã dùng Cách Không Phất Huyệt, công phu từ tay áo bay ra một ngọn kình phong giải thông huyệt đạo cho Âu Dương Phong.
Tây Độc tằng hắng lên một tiếng rồi mới từ từ mở mắt tỉnh dậy, y vừa lồm cồm ngồi lên.
Hồng Thất Công đã cười hăng hắc nói :
- Lão độc vật, lúc nãy mi dùng ám khí, không chịu nhận là hèn kém thì bây giờ chánh thức là hèn kém hẳn rồi, còn đợi gì nữa mà chẳng cút xuống núi cho khỏi hổ mặt hổ mày với chúng ta?
Âu Dương Phong sượng sùng mày mặt, miển cưởng đứng dậy, lui về một phía, vì Trùng Dương có lời giao ước trước , kẻ nào ngã dưới đất trước kể như kẻ ấy thua.
Âu Dương Phong tuy tánh tình ngang ngạnh cũng không thể mặt dạn mày dày để làm kẻ lì được, nên y đành phải nên lòng rời khỏi trận đấu theo đúng lời quy ước, lui ra ngồi trên phiến đá, khoanh tay đứng ngoài làm kẻ bàng quan.
Hồng Thất Công chưa chịu buông tha , cười khanh khách nói tiếp :
- Lão độc vật, còn ngồi đó chờ gì nữa ? Sao chẳng sớm cút khỏi Hoa Sơn cho rồi !
Âu Dương Phong cười gian hiểm, đáp :
- Ta không tham gia trận đấu là quá lắm rồi, bảo ta xuống núi ? Người nào to gan như thế thử vỗ ngực xưng tên cho ta biết ?
Trùng Dương biết rõ Âu Dương Phong hung hăng nóng nảy, nếu Hồng Thất Công trả treo thêm với y thế nào cũng có chuyện sống mái nhau, chàng là người đứng ra tổ chức cuộc đại hội này, đâu thể để cho hai cao thủ vang danh trong võ lâm trở mặt sống chết hơn thua với nhau cho đành ?
Nên chàng cười giả lả :
- Âu huynh, một chút thất tay Thất huynh hà tất phải để bụng làm gì ?Nào ! Chúng ta cứ y theo khi nãy mà đấu tiếp vậy !
Hồng Thất Công mới chịu buông tha cho Tây Độc, chưởng trái liền vung lên liên tiếp bay ra hai chưởng Giáng Long, bay vút vào phía trước mặt Trùng Dương.
Lần này Trùng Dương không dùng Nhất Dương Chỉ mà sử dụng Thái Ất thần công để đối phó, tay áo vừa hất cao tức thì một luồng cương khí cương mãnh bay ra đón lấy ngọn gió chưởng Giáng Long của Hồng Thất Công " ầm !" hai tiếng nổ như xé không, đất tuyết từ phía dưới cuộn tung lên trắng xóa một vùng, kình lực đôi bên tương đương ngang ngửa , chẳng ai lép ai.
Phách Không Chưởng của họ Đoàn cùng Tiên Thiên Công của Nam Đế cũng ào ào bay đến tấn công hai phía mặt trái của Trùng Dương .
Hai người vì lúc nấy bị thất cơ vì Nhất Dương Chỉ của Trùng Dương, tuy không đến nỗi gọi là bại, nhưng trong lòng chưa chịu khâm phục, vì dù sao cũng là tông sư chí tôn của một phái trong võ lâm, ít nhiều cũng có chút tự ái cao ngạo. Bọn họ cảm thấy mình bị Trùng Dương đùa bỡn như một đứa bé con, sự tức lòng như vậy đau dễ nhịn thua được nên không hẹn mà song song sử dụng nội gia chân lực ra để áp đảo Trùng Dương .
Hoàng Dược Sư cũng như Đoàn Hoàng Gia mỗi người đều gia thêm ba thành công lực.
Trùng Dương chợt cảm thấy hai luồng khí công một cương một nhu bay áp vào hai bên hông như thế gọng kềm kẹp thật mạnh chàng vào giữa, lực đạo tuy ôn hòa nhưng sức mạnh ngàn cân khó sánh thì tự hiểu không thể dùng Thái Ất Thần Công cự đương nổi, liền đổi ngay ý định dùng Nhất Dương Chỉ phản kích trở lại để cho mọi người biết rõ sự lợi hại của phái Toàn Chân.
Suy định xong, Trùng Dương liền vụt đứng dậy, hét lớn một tiếng lanh lảnh vang rền khắp rừng cây hốc đá, dội đến từng mây, tiếp theo đấy gióng tóc đạo sĩ trên đầu tự dưng sút xuống, xõa phủ khắp mặt vai tựa như một con người thời thượng cổ, lại mường tượng như con sư tử đang giận dử sừng lông trương gáy, hai tay áo rộng của chàng chia trành hai phía tả hữu, với đầy kình lực Nhất Dương Chỉ, phật trở ra phản kích Hoàng, Đoàn hai người.
Đoàn Hoàng Gia và Hoàng Dược Sư võ công hai người tuy ngang nhau, nhưng công lực của mỗi người lại xê xích khác nhau, Phách Không chưởng của Hoàng Dược Sư tuy chậm, nhưng đi sau mà đến trước, mắt thấy chưởng kình Phách Không của y sắp đánh trúng vào người Trùng Dương, thì bỗng nhiên đối phương vụt đứng người dậy, hú lớn một tiếng lảnh lót và kể ra cũng lạ, tiếng hú ấy bay lọt vào lỗ tai, tuy y là người có công lực cao thâm cũng không tránh khỏi quả tim nhãy thót một cái, và Phách Không Chưởng vì đấy tự dưng chậm lại một giây.
Hoàng Dược Sư thầm kinh hải, định thu thập tinh thần để tăng cường thêm chưởng lực, chợt cảm thấy có một bức tường nặng cứng vô hình đẩy ập về phía mình.
Đào Hoa Đảo Chủ liền nhận biết ngay là lực lượng Nhất Dương Chỉ của đối phương lần này hùng mạnh cực cùng, khác xa hẳn với mấy lần trước khó thể cự đương nổi.
Vì rằng Nhất Dương Chỉ là một công phu súc tính cả Cực Nhu và Cực Cang, dù áp dụng thân pháp Thiết Bảng Kiều hay công phu Thiên Cân Trụy, cũng không thể giữ vững thân hình được.
Hoàng Dược Sư chi còn cách tung mình nhãy bổng lên ba trượng cao để tránh, sau đấy mới nhẹ nhàng đáp trở xuống. Nhưng cái nhãy ấy đã khiến Hoàng Dược Sư rời khỏi vị trí, vô hình trung kể như đã bị thua rồi. Riêng về Đoàn Hoàng Gia, Tiên Thiên khí công của ông vừa tấn công đến bên hông của Trùng Dương, nào ngờ đối phương hú lên một tiếng dài, sử dụng Nhất Dương Chỉ để phản kích lại mình.
Đoàn Hoàng Gia cũng y như trường hợp Hoàng Dược Sư, cảm thấy một bức tường khí lực vô hình, nặng nề đổ ập trở lại, ông tự hiểu là với nội lực công phu của bản thân không sao bám vững lấy vị trí chỗ ngồi được.
Nếu có liều mạng tận lực chống lại thì sẽ bị nội thương rất nặng, nên Đoàn Hoàng Gia chẳng còn đắn đo vội mọp người xuống đất lăn tròn ra ngoài vòng đấu hai trượng xa và như vậy, ông cũng đành chung số phận chịu bại như Hoàng Dược Sư.
Hồng Thất Công thừa trong khoảnh khắc mà Trùng Dương dùng Nhất Dương Chỉ để chống cự Phách Không chưởng và Tiên Thiên Thiên Công của Hoàng, Đoàn hai người.
Thần Cái lại quát lên một tiếng, rạp người xuống đất vận đủ mười hai thành công lực rồ lật tay tung ra một chưởng Thần Long Điếu Vĩ, chưởng phong bay "vút" một tiếng đánh vào phía lưng Trùng Dương.
Trùng Dương lợi dụng ngay dư lực của Nhất Dương Chỉ còn lại chưa triệt về xoay lẹ bàn tay ra sau đưa luồng Nhất Dương Chỉ đón lấy ngọn chưởng lực của đối phương.
Tuy nội công của Hồng Thất Công đã tinh luyện đến mức tuyệt đỉnh đăng phong, nhưng cũng không sao chịu thấu luồng Nhất Dương Chỉ kỳ diệu ấy, toàn thân bị nhấc bổng lên cao.
Hồng Thất Công vội giật mình dùng ngay thân pháp Yến Song Phi,
nhưng cùng bị đẩy tạt ra ngoài hai trượng xa.
Trong thời gian nháy mắt, Toàn Chân Giáo Chủ với môn công phu độc đáo Nhất Dương Chỉ đã liên tiếp hạ ba tay thượng đẳng cao thủ, trong một thời gian nháy mắt.
Ba người tuy bị kình lực Nhất Dương Chỉ nhưng tình trạng mỗi người khác nhau :
Hoàng Dược Sư là người thấy rõ thời cơ sớm nhất, vội tung người nhãy lên cao, tránh khỏi sức mạnh khủng khiếp của Nhất Dương Chỉ, nên người y chẳng bị thiệt hại gì.
Đoàn Hoàng Gia tuy lăn tròn dưới đất tránh khỏi sức mạnh trung tâm của luồng Nhất Dương Chỉ , nhưng cũng bị dư lực của chỉ kình quét tuốt ra ngoai lăn tròn hơn một trượng xa mới ngừng lại, nửa thân mình phía hữu bị kình lực đụng phải, tê buốt như bị lửa đốt.
Còn Hồng Thất Công bị sức mạnh của Nhất Dương Chỉ nhấc bổng lên cao, lão Bang Chủ Cái Bang liền mượn ngay sức mạnh của luồng lực đạo, lộn trái người ra xa, khéo léo tránh khỏi ngọn chỉ kình đập vào trước ngực, nhưng sau lưng đành phải chịu đòn, tuy không đến đỗi bị thương nhưng sống lưng cũng cảm thấy nhức nhối như bị cây dần lên.
Hồng Thất Công là một người trực tánh nhanh miệng, bình thường tuy rất tự cao khí ngạo nhưng lại rất phục thiện.
Lão nhãy vọt ra phía sau, miệng lia lịa kêu to :
- Vương Chân Nhân, lần này thì lão ăn mày chịu phục sát đất rồi "Thiên Hạ Võ Công Đệ Nhất Anh Hào" chỉ có một mình ông xứng đáng mang lấy mà thôi !
Đoàn Hoàng Gia lồm cồm đứng dậy vận khí lưu chuyễn một hồi mới dần dần giảm bớt đau nhức. Ông vòng tay xá Trùng Dương một xá và nói :
- Đáng lý ra, Đoàn Trí Hưng này không nên giao tay với Vương Chân Nhân mới phải, vì mười năm trước đây, ngài đã giúp tôi bình định nội biến trong Hoàng cung Đại Lý. Tôi dù là kẻ bất tài nhưng há lại là kẻ chẳng biết phải quấy hay sao ? Chẳng qua là được Chân Nhân có lòng mời đến đây, buộc lòng phải thi thố ít nhiều sở đắc để khỏi phụ dạ cố tri.
Nhất Dương Chỉ của Vương Chân Nhân, thật là một công phu quán thế vô song, dù cho sư phụ tôi có đến đây cũng chưa chắc là đối thủ của ngài. Lần Hoa Sơn luận kiếm này, kể như lão huynh độc chiếm ngôi vị Đệ nhất Bá chủ võ lâm rồi vậy !
Đoàn Hoàng Gia nói xong liền chấm dứt bằng một tràng cười sảng khoái.
Hồng, Đoàn hai người tâm tình rất khoáng đạt, trước sau nói toạt cảm nghĩ trong lòng mình, chỉ có Hoàng Dược Sư và Âu Dương Phong, lầm lì chẳng nói chẳng rằng.
Hoàng Dược Sư thiên tánh cao ngạo, khí kiêu, tuy trong lòng đã bội phục đến mười hai phần mà trên miệng vẫn cắn răng không thố lộ một lời.
Âu Dương Phong sẵn lòng thâm độc, bèn mở miệng cười nham hiểm và nói :
- Vương Chân Nhân, Nhất Dương Chỉ của ông quả nhiên áp đảo tất cả mọi người, nhưng Âu Dương Phong tôi vẫn chưa lượng sức mình muốn được thỉnh giáo thêm một lần nữa.
Trùng Dương chưa kịp đáp lời, Hồng Thất Công đó oai oái la to :
- Cái lão độc vật nhà ngươi thật chẳng biết hỗ, ngươi đã bị lộn mèo một keo thiếu điều nằm vạ thúi đất. Chưa tởn sao, mà còn đòi so tài nữa ?
Lì lợm chi lắm vậy ! Đứng đó mà lải nhải như chó nhai giẻ rách, dẫn bầy trùng thúi của ngươi cút mẹ xuống núi cho rồi.
Đoàn Hoàng Gia thấy Hồng Thất Công xài xể Âu Dương Phong thậm tệ , không nhịn được liền cười xòa lên.
Âu Dương Phong tảng lờ như không nghe thấy, y là người thiện cách xa mặt mà đoán lòng, liền quay sang hỏi Hoàng Dược Sư :
- Dược huynh, theo huynh nghĩ thì võ công của Toàn Chân Giáo Chủ có đáng là thiên hạ vô song chăng ?
Hoàng Dược Sư quen nết kiêu kỳ, đâu có dễ chịu tỏ lời khâm phục Trùng Dương được. Nên chàng chỉ cười khan một tiếng, không đáp rằng phải, cũng chẳng nói là không.
Âu Dương Phong được thế quay đầu lại trả đũa Hồng Thất Công :
- Ê ! Lão ăn mày thúi, mi thấy rồi chưa ! Dược huynh cũng chưa chịu phục kia mà ! Này ta hỏi mỡ một câu, hôm nay là ngày thứ mấy của cuộc so tài ?
Hồng Thất Công lơ láo một hồi mới đáp :
- Mấy ngày rày lão ăn mày không có nhỏ rượu vào miệng nên trí nhớ cũng lụt mất, chẳng thể nhớ ra được !
Tây Độc cung sáu ngón tay đưa ra trước mặt Hồng Thất Công rồi nói :
- Hôm nay là ngày thứ sáu của cuộc tranh tài, biết chưa ?
Hồng Thất Công đổ quạu hỏi gặng lại :
- Biết rồi thì sao ?
Âu Dương Phong cười nhạt đáp :
- Vậy mi quên Vương Chân Nhân đã nói qua sao ? Chúng ta lần này trên Hoa Sơn luận kiếm, phải đấu nhau đúng bảy ngày bảy đêm.
Bây giờ chỉ mới sáu ngày nghĩa là chưa hết, vẫn còn lại một ngày chót. Ta có một ý kiến mới...
Hồng Thất Công ngắt ngang :
- Lão độc, định giở trò gì nữa đây ?
Lại đem mấy con trùng thúi ra dọa người phải không ?
Âu Dương Phong lắc đầu, trợn mắt trắng dã đáp :
- Nói xàm ! Ai thèm dùng rắn độc làm chi, thắng được cũng chẳng danh dự gì !
Hồng Thất Công ôm bụng cười ngất một hồi, mới nói :
- Trời đất ơi ! Thật là chuyện lạ ngàn năm, chuyện lạ ngàn năm ! Lão độc vật mà cũng biết nói ra những lời quang minh chánh đại nữa ư ? Quả là cọp rừng cữ thịt, beo vàng ăn chay rồi ! Lão ăn mày cười đến rụng răng mất ! Vậy hôm nay mi núp trong lòng núi, lại bái quỉ yêu, bắt rắn luyện công luyện thành cái ví thá gì ?
Kết cuộc vẫn té bò càn chẳng ra cái thể thống gì, mi dùng loại trùng thúi ấy nhắm có thủ thắng được chăng ? Thật là buồn cười !
Âu Dương Phong bị Hồng Thất Công khai toạt âm mưu luyện xà công bí mật của mình trước mặt Trùng Dương, nư giận của Âu Dương Phong không khỏi bốc cao lên đầu, từ lúc trên Hoa Sơn luận kiếm đến giờ, luôn luôn bị Hồng Thất Công châm chọc đủ điều, có thể nói là Tây Độc hận ghét lão ăn mày đến thấu xương thấu cốt.
Chỉ vì Hồng Thất Công tánh tình ngay thẳng, không thể bì kịp với thái độ ôn hòa trầm tĩnh của Trùng Dương, khác hẳn với sự kín đáo thâm trầm của Hoàng Dược Sư, cũng không so được với tánh khoan nhân đại độ của Đoàn Hoàng Gia. Lão không sao hạp nhãn với Âu Dương Phong, nên luôn luôn khích bác châm biếm với đủ mọi cách, lần này lại khai huỵch toẹt sự bí mật của y, khiến y như lửa cháy thêm dầu.
Tây Độc giận lắm nhưng cố giữ vẻ thản nhiên ngoài mặt, chỉ hơi nhích khẽ cổ tay phải lên, tức thì năm mủi xà đầu châm, nối đuôi nhau bay vèo ra, tấn công vào phía dưới bụng Hồng Thất Công.
Âu Dương Phong ra tay rất ác độc, im thin thít chẳng thốt lên một tiếng, chỉ khẽ phất tay áo len lén vung ám khí ra ngầm thanh toán đối phương, y với Hồng Thất Công cách xa nhau không đầy vài bước, có thể nói là trong khoảnh khắc đã bay tới nơi rồi.
Nhưng Trùng Dương rất tinh mắt, thoáng nhìn đã biết dã tâm của Âu Dương Phong, mặc cho ám khí của y lợi hại nhanh chóng thế nào, chàng chỉ dùng một tí công phu Nhất Dương Chỉ, khẽ búng một ngón tay là lập tức có một ngọn kình khí bay ra đẩy Độc Xà Chủy của Âu Dương Phong bay ngược trở về chui tọt vào tay áo của Âu Dương Phong y như lúc cũ trong nháy mắt.
Sự việc ngoài ý liệu khiến Âu Dương Phong không khỏi giật thót mình kinh sợ.
Hồng Thất Công vốn ngổ ngáo như thường không hay là Trùng Dương đã giải cho mình khỏi một nguy cơ .
Hoàng Dược Sư, Đoàn Hoàng Gia đứng bên ngoài nên nhìn thấy rõ mọi việc xảy ra, trong lòng ngầm bái phục, vì từ xưa đến nay các võ gia chỉ nhờ nghe hơi gió mà bắt được ám khí, chớ như thủ pháp vừa rồi của Trùng Dương có thể dụng kình lực của nội công đẩy trả ám khí trở về trên tay nguyên chủ, thật là thế gian hãn hữu không có một kẻ thứ hai nào có thể thi thố được, ngôi vị Thiên Hạ Đệ Nhất Võ Công, quả không hổ danh chút nào.
Âu Dương Phong sắc mặt tái mét, đứng ngẩn ra như trời trồng.
Hồng Thất Công chẳng hiểu ất giáp ra sao cười lên hăng hắc và nói tiếp :
- Ê lão độc ! Đứng tưởng Trời tưởng Phật gì đó, định ăn chay sám hối thiệt sao ? Mi bắt bẻ Vương Chân Nhân phải đấu đủ bảy ngày bảy đêm, mi trừ ra ba con rắn thối ấy còn có nhưng bản lãnh gì cao kỳ khác nữa chăng ? Cứ nói ra ý kiến của mi cho lão nghe thử xem l
Tây Độc tuy hận Hồng Thất Công tím cả ruột gan, nhưng có Trùng Dương trước mặt, không dám giở trò gì khác. Y chỉ đành "hừ !" giọng mũi một tiếng cho đở giận, đoạn quay sang nói với Trùng Dương :
- Vương Chân Nhân, ông có đem Cửu Âm Chân Kinh theo chăng ? Xin đem ra cho mọi người đồng chiêm ngưỡng vật chí bảo của võ lâm !
Hồng Thất Công và mọi người đều thót người ngạc nhiên. Không hiểu Âu Dương Phong thốt câu ấy ra với dụng ý gì !
Trùng Dương tuy liên tiếp thắng được tứ Bá, nhưng trước sau thái độ vẫn một mực khiêm cung từ tốn, chàng vui vẻ gật đầu đáp :
- Cửu Âm Chân Kinh tôi có mang theo người đây, Âu Dương huynh muốn xem cho biết, tôi đâu nỡ hẹp tình !
Nói xong thò tay vào túi móc ra chiếc hộp sừng tê giác hai tay bưng lấy chiếc hộp vỗ nhẹ vào đáy, tức thì "cách" một tiếng, chiếc hộp mở ra làm đôi để lộ ra hai quyển chân kinh màu đỏ, nằm gọn giữa hộp.
Hồng Thất Công để ý canh chừng Âu Dương Phong trở mặt giựt mất chân kinh, tuy có thể tin cậy bản lĩnh của Trùng Dương vị tất Tây Độc có thể đoạt được. Nhưng biết đâu trong khi giành giựt nhau chân kinh tránh sao khỏi bị tổn hại, thì còn gì vật chí bảo vô giá trong võ lâm nữa. Nên lão ngầm theo dỏi từng hành động nhỏ nhặt của Âu Dương Phong.
Nhưng khác hẳn sự nghi nan của lão, Âu Dương Phong chỉ đưa mắt nhìn sơ qua hai quyển Cửu Âm Chân Kinh bên trong rồi thôi chớ không có gì khác, lại nghe y cười nhạt một tiếng và nói :
- Vương Chân Nhân thủ tín đem theo bộ Cửu Âm Chân Kinh đến đây, thật là quý hóa lắm. Nhìn chiếc hộp chân kinh, tụi sực nghĩ được một trò chơi thích thú, chăng hiểu quý vị có đồng ý chăng ?
Trùng Dương cười đáp :
- Phong huynh có cao kiến gì, xin cứ nói thẳng ra !
Âu Dương Phong chớp đôi mắt trắng dã rồi nói :
- Vương Chân Nhân vì muốn bảo vệ đức đạo trong thiên hạ, nên không chịu luyện những võ công âm độc trong võ kinh, đồng thời cũng chẳng chịu truyền lại cho người khác, nhưng Nhất Dương Chỉ của ông sử dụng lúc nãy phải chăng là từ võ công trong Cửu Âm Chân Kinh này mà ra ?
Trùng Dương vội cải chánh :
- Đâu phải thế ! Nhất Dương Chỉ của bần đạo là do tiên sư truyền lại, hoàn toàn là công phu của Toàn Chân Giáo phái, lúc chưa đến Hoa Sơn tìm kinh bần đạo đã sớm học thành tài rồi, nào có phải là võ học của Cửu Âm Chân Kinh , Âu huynh đừng ngộ nhận không nên !
Âu Dương Phong cười gian hoạt, nói :
- Tốt lắm ! Chúng tôi tin tưởng lời nói của Vương Chân Nhân. Chủ ý của tôi là bây giờ muốn Vương Chân Nhân để công khai ở trước mặt mình hạn định thời gian là một ngày và một đêm cuối cùng còn lại của cuộc so tài.
Vương Chân Nhân cố gắng giữ gìn quyển chân kinh, bốn người chúng tôi tận dụng mọi biện pháp đến tranh lấy bất cứ với hình thức nào miễn đoạt được thì thôi. Nhưng nếu trong thời gian đó mà Vương Chân Nhân bảo toàn được quyển Chân Kinh kia, thì chúng tôi nguyện cúi đầu khâm phục sát đất, chẳng bao giờ còn ý vọng tưởng đến Chân Kinh nữa.
Nếu Vương Chân Nhân bằng lòng điều kiện trên, chúng tôi đồng thanh công nhận Chân Nhân quả xứng danh là cao thủ đệ nhất của võ lâm vậy.
Đề nghị của Tây Độc bề ngoài xem ra đường hoàng minh chánh, kỳ thật bên trong ngầm đầy sự hiểm hóc khó khăn. Vì như thế có khác y bảo Trùng Dương phải bày Cửu Âm Chân Kinh ra ngoài để tự do tìm cách đoạt lấy, bằng mọi thủ đoạn chánh hoặc tà, mà Trùng Dương Chỉ có quyền giữ chớ không có quyền phản đối và như vậy một mình Trùng Dương phải chống lại bốn người với một thời gian một ngày một đêm đằng đẳng, thì dù Trùng Dương có võ công cái thế cũng phải có lúc tinh thần mỏi mệt, khó mà giữ gìn trọn vẹn quyển Chân Kinh về mình, vạn nhất một phút sơ thất bao nhiêu công phu khó mỏi bao lâu nay đều trôi theo dòng nước !
Hồng Thất Công định lên tiếng phản đối chẳng ngờ Trùng Dương chẳng chút do dự đáp ngay :
- Hay lắm ! Ý kiến Phong huynh rất hay, bần đạo vui lòng tuân mệnh !
Hoàng Dược Sư và Đoàn Hoàng Gia cũng cảm thấy đề nghị của Âu Dương Phong quá đáng, vừa muốn xen vào bàn luận, song thấy Trùng Dương đã lên tiếng hứa chịu lỡ rồi.
Hồng Thất Công bất bình lên tiếng :
- Vương Chân Nhân bằng lòng điều kiện giữ gìn cả một ngày một đêm chăng ? Không phải là chuyện chơi đâu, sơ thất một chút là hỏng bét tất cả đấy !
Lời nói vừa rồi như ngầm khuyên khéo Trùng Dương nên lưu ý Âu Dương Phong là một tay quỷ kế đa đoan, lòng dạ âm độc khó lường, rủi như Cửu Âm Chân Kinh lọt vào tay y, thì thật là đại họa không nhỏ cho võ lâm .
Trùng Dương nào chẳng nghe ra, nên cười an ủi lại :
- Thất huynh, bần đạo dám nhận lời tất nhiên là có khả năng đủ giữ gìn Cửu Âm Chân Kinh được. Xin quí vị cứ tùy tiện đến tranh lấy thử.
Đoàn Hoàng Gia bèn lên tiếng :
- Tuy lời nói như vậy nhưng kể ra Vương Chân Nhân cũng hơi chịu thiệt một chút ! Theo ngu ý của tôi thì để cho Vương Chân Nhân ngồi trong chiếc động đá bảo thủ lấy Cửu Âm Chân Kinh của mình, mới có phần công bằng .
Ông định nói tiếp thêm thì Trùng Dương đã lắc đầu ngắt lời :
- Không cần tìm chi sơn động cho tốn công, bần đạo cứ ngồi tại đỉnh núi này, giữa đỉnh núi này, giữ gìn Chân Kinh. Chư vị cứ việc tận dụng các phương pháp để đoạt lấy, bất luận dùng sức hay dùng trí, dùng văn hay dùng võ bần đạo cũng thuận ưng tất cả. Hạn định mười hai giờ đồng hồ trong thời gian quí vị tùy tiện ra sức đoạt lấy Chân Kinh vậy !
Lúc ấy trời đã sẩm tối, vầng thái dương đã chìm sau dãy núi Hoa Sơn, sương núi bốc lên mù mịt, gió đêm nhẹ thổi, hoa tuyết lác đác rơi, khí lạnh thấm buốt xương thịt.
Âu Dương Phong nhìn trời, rồi quay sang nói với Trùng Dương :
- Vương Chân Nhân một lời đã định, chúng tôi xin lui xuống núi !
Trùng Dương gật đầu đáp :
- Xin cứ tùy tiện.
Âu Dương Phong lại quay sang nói với Đoàn, Hoàng hai người :
- Chúng ta xuống đi thôi !
Đoàn Hoàng Gia và Hoàng Dược Sư trù trừ giây lâu rồi theo Âu Dương Phong xuống núi.
Hồng Thất Công cũng theo chân mọi người, trước khi đi còn quay lại dặn với Trùng Dương :
- Chân Nhân nên tiểu tâm !
Vương Trùng Dương cười đáp :
- Đa tạ hảo ý của Thất huynh !
Nói xong vòng tay như tỏ ý tiễn khách.
Hồng Thất Công vui vẻ gật đầu rảo chân trở xuống núi.
Trùng Dương lôi chiếc hộp chân kinh ra để dưới đất rồi xếp chân ngồi tĩnh tọa kế bên.
Độ nửa tiếng đồng hồ sau, từ đầu núi phía xa bỗng vang lên tiếng đàn tranh thánh thoát, âm ba cao vút lúc trầm như gió thu hiu hắt khi bỗng tựa vó sắt rập rồn , từng âm thanh nối tiếp xoáy mạnh vào lỗ nhĩ của Trùng Dương.
Toàn Chân Giáo Chủ đã có dịp thưởng thức qua nhạc đàn tranh của Âu Dương Phong ở ngày thứ ba của cuộc đấu, ngở là y tấu nhạc để dục bầy rắn đến quấy rầy, trong dạ tính thầm :
- Bầy rắn của Âu Dương Phong nuôi tuy độc thật, nhưng đã qua bao lần giao tay nhau đều bị mình sát hại vô số, chẳng nhẽ y không biết cơ lợi hại, định xua Xà trận vào chỗ chết nữa hay sao ?
Trong lúc Trùng Dương đang nghĩ ngợi như thế, thì tiếng đàn tranh vụt chốc càng lúc càng cao vút, sắc nhọn tưởng chừng như có thể thủng núi xuyên mây, mường tượng tiếng đàn đang kê sát lỗ tai chàng mà tấu lên vậy.
Trùng Dương cảm thấy tinh thần choáng váng, gan ruột trào trợn khó chịu, tim đập động dử dội, càng lúc càng bị tiếng đàn thúc dục nhảy mau thêm.
Trùng Dương cả sợ thầm nghĩ :
- Lợi hại thay gã Tây Độc , y muốn lợi dụng tiếng tranh để nhiễu loạn chân khí trong nội thân ta, gây cho ta bị tẩu hỏa nhập ma hầu dễ bề thi hành thủ đoạn cướp kinh của y !
Chàng lập tức ngồi theo phương pháp tọa công của Toàn Chân Phái, nhắm mắt định thần, tam hoa tụ đỉnh, năm khí triều nguyên, cố gắng áp chế tinh thần lắng dịu trở lại, không cho tiếng đàn kích động kia xâm phạm đến tâm trí của mình.
Trùng Dương vừa mới áp dụng cao độ của định lực trấn áp lấy ma tâm của mình thì bất thần từ phía đối diện với tiếng tranh của Âu Dương Phong bỗng vang lên giọng tiêu âm u não nuột.
Toàn Chân Giáo Chủ chợt hiểu ngay là tiếng tiêu ấy do Hoàng Dược Sư phát ra.
Trùng Dương đã hai lần nghe qua tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư nên
không đến nỗi sợ hãi lắm.
Tiếng tiêu vừa thổi lên, giọng đàn tranh liền ngưng bặt, khiến càng nghe rõ thêm nhạc điệu uyển chuyển ru hồn . Giọng tiêu Hoàng Dược Sư, lúc khoan lúc nhặt, như thiếu nữ dậy tình xuân, cô phụ buồn gối chiếc, khát khao chuyện khuê phòng, làm người nghe phải máu nóng dâng lửa dực sôi tràn, không thể tự chủ được lòng mình.
Song Trùng Dương là một vị chơn tu đạo căn sâu dày, tuy xuất thân từ con nhà giàu có nhưng từ nhỏ được Thanh Hư Chân Nhân cứu sống hườn dương, giam mình trong cốc thẩm dóc tóc nhập đạo. Công danh phú quý, sắc dục nhục tình trên nhân thế hoàn toàn chẳng chút biết luyến mê. Tiên thiên căn cốt đã như thế, lại thêm định lực sâu dày. Tiếng tiêu của Hoàng Dược Sư dễ gì mê hoặc được chàng ? Nên Trùng Dương vừa nghe âm đạo của giọng tiêu bất giác buột miệng cười thầm .
Lúc ấy tiếng đàn tranh của Âu Dương Phong bỗng dưng lại trỗi lên hòa hợp với giọng tiêu của Hoàng Dược Sư len vào thần trí của Trùng Dương và như thế, tình thế lập tức biến đổi vì tiếng tiêu dìu dặt tương phản với giọng tranh kích động, tựa như nước lửa gặp nhau, lại mường tượng như hai chiếc búa lớn nhỏ nhịp nhàng một mạnh một yếu đập trên hòn đe, tim óc của Trùng Dương như bị rập rờn trên ngọn sóng khi thấp lúc cao chân ngứa ngáy loạn động, ngồi chẳng yên .
Chàng hốt hoảng thầm nghĩ :
- Không xong ! Hai người hợp sức để đối phó cùng, ta khó mà đương cự nổi !
Trong lúc thần trí của Trùng Dương bị giao động dử dội thì từ dưới triền núi Hoa Sơn, bỗng vang lên một giọng hú thảnh thót như tiếng phụng ré đầu non, chát chúa cả lỗ tai.
Tiếng hú vừa nổi lên, tức thì tiếng tiêu dâm dật, giọng đàn kích động bị lấn áp.
Trùng Dương nhờ thế cảm thấy phần nào dể chịu và tinh thần cũng ổn định được khá nhiều. Chàng lập tức hiểu ngay là tiếng hú vừa rồi do Hồng Thất Công phát ra. Chàng chợt bàng hoàng tỉnh ngộ ngay :
- Phải rồi ! Thất huynh ngầm chỉ điểm cho ta không nên ngồi tịnh để đợi địch thủ, mà phải tranh tấn công tinh thần , vậy ta cũng nên bắt chước Hồng Thất Công dùng tiếng hú của mình để trả lễ bọn họ.
Chờ cho tiếng hú của Hồng Thất Công vừa dứt, Trùng Dương lập tức điều vận chân khí nơi đơn điền, hai tay bấu chặt lên đầu gối, ngữa mặt lên trời, phát ra giọng hú sang sảng như tiếng đại hồng chung, ngân vang trong sơn cùng cốc tận, khiếp đảm cả tâm linh mọi người :
- Hú Hú !
Tiếng hú dài lê thê lảnh lót của Trùng Dương vừa vang lên thì chỉ trong khoảng khắc, tiêu và giọng đàn tranh liền ngưng bặt lập tức, cả khoảng thời gian sau cũng chẳng nghe thấy nhạc điệu của tiêu tranh tấu tiếp.
Trùng Dương không khỏi đắc ý cười lên ha hả.
Tiếng cười chưa dứt khỏi vành môi, từ dưới chân núi bỗng có tiếng động lạ vang lên xào xạt, như tiếng tầm ăn dâu, lại mường tượng như tiếng sóng biển lách tách vỗ vào bờ cát.
Trùng Dương phải ngạc nhiên, vội đứng dậy dùng nhãn lực đặc biệt, nhìn xuống núi, thấy trên mấy mươi lằn dài đen thui thủi, ngoằn ngoèo bò lên.
Trùng Dương tự nhủ trong lòng :
- Hừm ! Thật là hay cho gã Âu Dương Phong này chẳng biết xấu hổ chút nào, y lại giục rắn tràn lên tấn công nữa kìa !
Chẳng ngờ lần này chàng chỉ đoán trúng được có phân nửa. Vì lần này tuy Âu Dương Phong dục trận rắn lên núi thật, nhưng bầy rắn vô số con nên ngoằn ngoèo kết thành hàng lối kia từ dưới triền núi bò lên, chỉ bao vây khắp chung quanh ngọn đỉnh mà Trùng Dương đang đứng, mà không hề xông xáo tới tấn công.
Trùng Dương hết sức ngạc nhiên, không hiểu Âu Dương Phong dùng Xà trận bao vây chàng vào giữa định giở trò gì đây ?
Trong lúc chàng còn phân vân chưa quyết thì Xà trận đã bày xong hàng ngũ đang bao vây xung quanh, bỗng dưng xao động lên và tiến gần đến vị trí của Trùng Dương độ mười lằn tên.
Bầy rắn ấy tự động kết thành mấy mươi cái vòng tròn từng lớp, từng lớp bao quanh khắp trong ngoài, đầu của chúng ngốc cao ngoắc qua ngúc lại, rít gió không ngớt.
Tức thì trong khoảng khắc thời gian sau, từng trận hơi tanh nồng nặc vần vũ bay lên đỉnh núi.
Trùng Dương thất sắc bàng hoàng thầm nhủ trong lòng.
- A ! Té ra y dùng Xà trận phun khí độc để đối phó ta, nhưng y đâu biết rằng ta đã tinh thông nội điển, có thể nhịn thở hấp thụ chân khí bên trong, đâu có thể bị y hãm hại được ?
Loại độc xà trừ ra dùng nọc độc cắn chết người, còn có thể phun hơi thổi độc ra ngoài. Người phương Nam nước Tàu có một câu thành ngữ :
"Không phải rắn độc, không thổi sương mù". Đủ thấy nếu không phải là rắn độc thì không có thể phun hơi mù ra được. Nơi miền cao nguyên núi thẩm ở Vân Nam, Quế Châu thường có âm phong độc chướng, trừ những thảo vật thúi nát từ dưới khe rãnh bốc lên còn cả hơi rắn độc lẫn trong ấy. Hơi mù của một con rắn độc có hạn, nhưng hơi độc của mấy vạn con rắn kết tụ lại thì khác hẳn, vì đã thành ra một đám sa mù dày đặc bằng độc khí tanh hôi nặc nồng.
Trùng Dương thìn thấy đám mây độc chướng mù mịt khắp trời đất, vần vũ bay đến kết thành từng vầng sa mờ lập lòe ánh sáng màu hồng sẫm bay thẳng lên sơn đình, tuy trời đang lúc gió Đông vùn vụt, hơi lạnh buốt xương cũng không thổi tan được vầng mây độc chướng ấy.
Trùng Dương liền hiểu ngay là khi Âu Dương Phong hoạn dưỡng loài rắn, đã trộn trong thức ăn của loài rắn một thứ độc dược đặc biệt nên hơi mới kết tụ và không tan như thế.
Trùng Dương lập tức ngồi xếp bằng trên mặt đất, thò tay vào túi móc ra một thứ thuốc trị độc thoa lên lỗ mũi, nín hơi tịnh khí để đối kháng lại với độc khí đầy trời kia .
Trong lúc Trùng Dương dùng nội công nhịn thở nín hơi để chống với đám mây sa mù độc thì từ dưới chân núi xa xa hiện lên một bóng trắng, người cao lớn từ từ đến gần.
Trùng Dương liền hiểu ngay, người đến kia là Âu Dương Phong chứ chẳng ai xa lạ.
Chàng để ý nhìn kỹ quả đúng như y liệu, Tây Độc đang gầm đầu rảo bước, mình mặc chiếc áo nhiễu đoạn xanh, trên vai quấn mấy con rắn mãng xà lốm đốm hoa đỏ, nằm vắt vẻo qua cây đàn thiết tranh mang trên người, chập chờn bước thấp bước cao xuyên qua Xà trận mắt lộ hung quang, miệng cười hiểm độc, lấp la, lấp ló, rướn cổ xem chừng phía trên.
Trùng Dương thấy y không mảy may sợ hãi hơi độc của đám rắn, chàng sực nghĩ được một mưu sâu :
- Y tưởng ta đang bận tịnh hơi nhịn khí, là không thể sử dụng được Nhất Dương Chỉ. Tốt lắm, để ta hại y một keo cho y tởn mặt !
Đúng như sự dự đoán của Trùng Dương, Âu Dương Phong tự hiểu mình võ công không địch nổi đối phương, quyết nhiên không sao đoạt được Chân kinh về mình, nên dùng lời lẽ khích tướng, bắt Trùng Dương phải chấp thuận điều kiện bảo thủ Cửu Âm Chân Kinh để mình tha hồ vận dụng kế mưu hầu mong chiếm đoạt chân kinh về mình.
Ban đầu y ẩn phục bên một ngọn đồi cát cách đỉnh Hoa Sơn không xa , dùng sự khéo léo của tiếng đàn tranh để uy hiếp tinh thần Trùng Dương khiến chàng phải tẩu hỏa nhập ma.
Như vậy, y có thể giơ tay ra mà đở nhẹ quyển Chân Kinh một cách dàng như thổi tro trong bếp.
Ngờ đâu định lực của Trùng Dương rất thâm hậu, hoàn toàn không bị đàn tranh mê hoặc, đang lúc y thất vọng, vừa lúc ấy Hoàng Dược Sư ở ngọn đồi kế bên cũng tấu ống ngọc tiêu lên, hợp với tiếng tranh của mình để tấn công Trùng Dương, y hết sức đắc ý trong lòng, tưởng thế nào Trùng Dương cũng chịu lép.
Chàng ngờ Trùng Dương được Hồng Thất Công ngầm chỉ điểm vận đầy chân khí rú lên một tiếng thanh thót, vang tận cửu tiên, khiếp đảm lòng người.
Âu Dương Phong bất thần bị giật mình, ngón tay trái đang bấm lên giây "vũ", mất đi tự chủ hất mạnh một cái, khiến sợi giây vũ liền "bực !" một tiếng và đứt ngay !
Cung đàn đã đứt phím, điệu tiêu cũng ngưng ngay.
Âu Dương Phong thẹn quá thành giận, vì tự hiểu nội công của mình không sao bì lại đối phương, định lực cũng chẳng bằng, trong lúc cùng đường túng ý, Tây Độc chợt loé lên một mưu lược trong đầu, y nhớ đến phương pháp hà hơi độc hại của bầy rắn mình.
Y lập tức quày trở ra sau núi, phát ra hiệu lịnh đặc biệt, chiêu tập đoàn rắn vây chặt ngọn núi nơi Trùng Dương đang ngồi, sau đấy mới sai khiến bọn chúng phun sa mù độc .
Âu Dương cũng biết là sa mù độc khí không sao hại nổi một người có nội công thâm hậu như Trùng Dương, chẳng qua trong lòng y còn mang một ý nghĩ thâm độc khác là nếu Trùng Dương nhịn thở định khí để chống lại mùi hơi độc của bầy rắn, thì nhất định chàng không sao sử dụng được nội gia cương khí ra được.
Nói một cách khác là công phu Nhất Dương Chỉ tối ư lợi hại của chàng không thể nào thi thố ra được. Và như vậy y có thể nhân cơ hội đoạt lấy Cửu Âm Chân Kinh rồi !
Trong bụng đinh ninh một sự thành công chắc mèm như thế, Dương Phong hí hửng xuyên qua Xà trận rảo bước nhanh chân để trèo dần lên sơn lãnh.
Trùng Dương cố ý nhắm mắt xui mày vờ như đang nhịn hơi nín thở để đối kháng với độc khí của bầy rắn, và những hành động của Âu Dương Phong dường như chẳng chút hay biết.
Âu Dương nhìn thấy Trùng Dương thần sắc khác thường như thế, hết sức cao hứng, trong bụng như mở cờ, đắc ý cười thầm lấy mình :
- Họ Vương ơi, hôm nay thì tự mi lựa lấy cái chết, hừm ! Hừm ! Cửu Âm Chân Kinh, vật vô gía kia kể từ nay là thuộc về sở hữu của Âu mỗ vậy !
Âu Dương Phong lúc lắc cây đàn tranh ra chiều thích ý, nghênh ngang tiến bước lên ngọn núi, đi thẳng đến chỗ Trùng Dương đang ngồi, còn cách Trùng Dương Chỉ độ bảy tám trượng xa nữa, thì bất thình lình Trùng Dương bỗng mở to đôi mắt ra quắc nhìn Âu Dương Phong trên môi lại nhẹ mỉm cười.
Âu Dương Phong biết rõ là chuyện chẳng lành, định quay lưng chuồn thẳng, nhưng làm sao kịp nữa, nghe nổ lên hai tiếng "ầm !" "âm !" như trời long đất lở.
Dương Phong chưa kịp hoàn hồn nhìn kỹ thì nơi chỗ triền núi y đang đứng, bỗng dưng tụt xuống, cát đất lăn tuôn rào rào, đá vụn bay tứ tung khắp đầu cổ mặt mày, một khoảng đất núi đá cát trên bảy tám trượng vuông, lở đổ lăn lông lốc xuống ngay Xà trận khiến bầy rắn cấp thời bị xáo trộn dử dội bò chạy loạn xị cả lên .
Thì ra kình lực Nhất Dương Chỉ của Trùng Dương, là một môn công phu căn bản của hỗn khí nguyên tiên thiên của toàn thân, phối hợp nội ngoại ngũ hành và luyện thành, không vì sự nhịn hơi tịnh khí mà chẳng phát ra được.
Âu Dương lầm tưởng chàng bị vây khốn giữa đám sa mù độc khí thì không còn hơi sức đâu để phát ra uy lực của Nhất Dương Chỉ, thật là một sự sai làm hoàn toàn.
Trùng Dương đợi cho Âu Dương Phong đạp vào phạm vi uy lực của Nhất Dương Chỉ, là chàng tức khắc
dùng ngay cái mạnh nhất trong Nhất Dương Chỉ là Bích Lịch công làm cho một khoảng đất nơi Âu Dương Phong đang đứng bị nứt lở ra và tụt rơi xuống núi, mang theo cả một số lượng cát đá lăn đổ ào ào theo dốc núi, tấn công luôn bầy rắn độc.
Âu Dương Phong cũng bị sức mạnh Nhất Dương Chỉ hất văng, lộn mèo như trái cầu quay tròn giữa không trung, tợ đám mưa đá cát kia rơi lông lốc xuống triền núi.
Nhưng dù sao y cũng là tông sư một phái của miền Tây Vực, tuy bị sẩy chân té, nhưng tâm thần không vì thế mà rối loạn. Y chờ còn cách mặt đất độ hai trượng, liền trân mình gượng lại, cho trọng lực của thân hình nhẹ hẫng để sức rơi từ từ chậm lại.
Tây Độc gấp rút lột chiếc đàn tranh sau lưng ra điểm nhẹ lên một cục đá nhô ra trên triền núi mượn sức của cái điểm ấy lộn nhào người về một phía, hai chân nhẹ nhàng dẩm lên một khoảng đất bằng phẳng. Tuy vậy Y cũng hoảng hốt đến mồ hôi lạnh toát ra ướt cả áo.
Tây Độc bị thêm vố ấy, không còn lòng dạ nào dám ở lại đối chọi với Trùng Dương nên y huýt lên một hồi lo triệu tập đoàn rắn còn lại của mình lủi đi một nước.
Từ đấy y đã hoàn toàn khiếp phục Trùng Dương sát đất, ngẫm lượng sức mình thua Trùng Dương một trời một vực, dù có lao tâm tỗn trí, dụng hết tâm cơ, kết quả rồi cũng thế mà thôi .
Tây Độc thất thiểu dẫn bầy rắn độc lui qua ngọn núi cách bên để chờ kết quả cua bảy ngày so tài giữa Ngũ Bá võ lâm .
Trùng Dương suốt nửa ngày trời liên tiếp phải sử dụng Nhất Dương Chỉ, nguyên khí và tinh lực trong người đã tiêu hao rất nhiều tuy không đến mức độ tổn thương nhưng cũng bải hoải tinh thần lẫn thể xác không còn hơi sức đâu đứng dậy nỗi .
Nếu lúc này mà Hồng Dược Sư, Hồng Thất Công, Đoàn Hoàng Gia trong ba người bất kỳ là ai tiến lên tấn công thì quyển Cửu Âm Chân Kinh trước mặt Trùng Dương, hiện tại sẽ thuộc về kẻ ấy ngay.
Rất may là lúc nãy chàng biểu diển qua Bích Lịch công trong Nhất Dương Chỉ không những hạ được Âu Dương Phong mà còn ngăn chận được tinh
thần của ba người còn lại, nên chẳng có ai dám lên núi tấn công thêm nữa.
Nhờ vậy đến sáng hôm sau Trùng Dương đã khôi phục được phân nữa tinh thần và sức lực, chàng ngẫng đầu lên trời, thở phào một hơi nhẹ nhõm.
Mặt trời vừa lên khỏi ngọn núi thì Hoàng Dược Sư và Đoàn Hoàng Gia song song đi lên núi.
Hoàng Dược Sư vái chào Trùng Dương xông lên nói :
- Đêm qua Vương Chân Nhân hiển lộng tuyệt kỹ Nhất Dương Chỉ, Hoàng Dược Sư tôi hết sức khâm phục nhưng vì tôi chưa lãnh hội được tất cả uy lực Nhất Dương Chỉ của các hạ, nên mạo muội lên đây để xin chỉ giáo thêm !
Trùng Dương thầm kêu khổ trong lòng vì suốt đêm qua, chàng phải liên tiếp áp dụng bảy tám lần công phu Nhất Dương Chỉ, đã đến lúc chàng cần phải nghỉ ngơi để phục hoàn nguyên khí trở lại. Nếu giờ đây Hoàng, Đoàn hai người đem toàn sức ra tấn công thì quyển Cừu Âm Chân Kinh đang để trước mặt kia, khó mà giữ gìn cho được.
Chàng nhìn thấy Hoàng Dược Sư đứng xa nhìn, trên hai trượng vuông , để nói chuyện chứ không dám tiến gần.
Trùng Dương thầm hiểu y có chiều nể nang uy lực Nhất Dương Chỉ của mình, chàng không khỏi cười lên ha hả vả nói :
- Dược huynh muốn tôi cắt nghĩa rành rẽ Nhất Dương Chỉ là loại công phu gì, hay là muốn tôi một lần nữa múa rìu qua mắt thợ !
Hoàng Dược Sư chẳng cần suy nghĩ đáp ngay :
- Chúng tôi đã là kẻ chiến bại hoàn toàn xin chịu thua Vương huynh, chức vị Thiên Hạ Võ Lâm Nhất Bá rất xứng đáng phần Vương huynh chứ không chối cãi vào đâu được. Nhưng chẳng qua trong bảy ngày so tài vừa qua, chúng tôi cảm thấy uất ức không chịu được, nên muốn lãnh giáo thêm Nhất Dương Chỉ của Vương huynh. Lần nầy mà thua nữa thì chúng tôi cam đành chịu phục mà trở về ngay.
Trùng Dương nghe nói xong mới yên lòng vì Đào Hoa Đảo Chủ đã biểu lộ lòng dạ của y đối với chàng, không có ý thù địch. Nhưng khổ nỗi tinh lực của chàng chưa khôi phục, dù muốn biểu lộng một pha thần công như lần đuổi chạy Âu Dương Phong vừa rồi cũng không còn hơi sức đâu mà làm, chàng sực nghĩ ra được một linh ý, bèn nói với Hoàng Dược Sư :
- Dược huynh, Phách Không Chưởng của Dược huynh đã tự tạo cho mình một sắc thái riêng biệt, thiên hạ không ai địch lại, chúng ta cũng nên thử một phen cho biết !
Hoàng Dược Sư dửng dưng đáp :
- Xin tuân mạng !
Trùng Dương lại nói :
- Đây là chiếc hộp đựng Cửu Âm Chân Kinh, trọng lượng rất nhẹ, bần đạo dùng công phu Nhất Dương Chỉ giữ chiếc hộp lại.
Dược huynh vận dụng Phách Không Chưởng từ khoảng xa đẩy tới, nếu Dược huynh có thể đẩy được chiếc hộp xê dịch ra ngoài được nửa phân, thì bần đạo xin hai tay dâng Chân Kinh lên cho Dược huynh.
Lời nói của chàng tuy ôn hòa trầm tĩnh, nhưng cũng đủ làm cho Hoàng Dược Sư mà đến Hồng Thất Công và Đoàn Hoàng Gia đều ngẩn ngơ suy nghĩ.
Vì rằng Phách Không Chưởng Pháp của Hoàng Dược Sư, trong bảy ngày giao đấu nhau mọi người đều có thưởng thức qua, thế công tuy chậm rãi nhưng sức mạnh tuyệt cùng.
Trùng Dương tuy có dùng Nhất Dương Chỉ giữ được chiếc hộp là cùng , làm sao lại có thể cản trở Phách Không Chưởng không cho chiếc hộp xê dịch nơi khác được, trừ phi là chuyện hoang đường và Trùng Dương có phép thuật thì không kể.
Hoàng Dược Sư không dằn được cười nhạt và hỏi :
- Vương Chân Nhân, lời của ông có thật chăng ? Chẳng hối tiếc chứ ?
Trùng Dương cười lớn đáp :
- Dược huynh tôi và ông đâu phải chỉ mới gặp nhau lần này, sao lại có chuyện nói chẳng giữ lời bao giờ ?
Chẳng qua tôi cần phải thanh minh thêm cho rõ ràng là trong lúc hai ta kẻ tranh người giữ, không nên có người thứ ba xen vào, và ông chỉ được dùng đơn độc công phu Phách Không Chưởng chứ chẳng thể dùng thủ đoạn nào khác !
Hoàng Dược Sư chẳng đắn đo, gật đầu ưng thuận ngay :
- Lẽ tất nhiên là thế !
Trong bụng y lại thẩm nghĩ khác :
- Phách Không Chưởng của ta không trúng nổi ngươi nhưng chẳng lẽ lại không nhích động nổi chiếc hộp nhẹ nhàng kia sao ? Cần gì phải nhờ tay người khác giúp đở. Công phu Phách Không Chưởng đã là một tuyệt kỹ quán thế vô song, đâu đến đỗi phải dùng công phu khác hỗ trợ mới thắng được hay sao ?
Trùng Dương lại nói :
- Tốt lắm ! Mời Dược huynh ra tay đi thôi !
Chàng vẫn y theo thế ngồi xếp bằng cũ, cung ngón tay cái bên bàn tay phải lại chỉa thẳng trở xuống, cách mặt hộp độ hai tấc ngoài.
Hoàng Dược Sư chẳng nói năng gì, hai chưởng là là trên mặt đất, tức thì có một ngọn cuồng phong xoáy vụt lên bay thẳng đến đẩy mạnh vào chiếc hộp chân kinh.
Kể ra cũng lạ, khi ngọn kình lực Phách Không Chưởng bay tới, chiếc hộp sừng tê giác mong manh kia chỉ hơi phập phều một chút rồi bình lặng trở lại, chẳng di động một ly nào.
Tha hồ cho Hoàng Dược Sư tận dụng tất cả sở năng của Phách Không Chưởng đẩy bên hữu rồi quét bên trái, rốt cuộc rồi chiếc hộp vẫn nằm ỳ một chỗ không chút động đậy gì cả.
Lần thử sức này có thể nói là Trùng Dương đánh một ván bài liều lĩnh và quyết định, vì sau khi giao đấu với Âu Dương Phong, nguyên khí trong bản thân đã bị hao tổn rất nhiều. Do đấy, Nhất Dương Chỉ cũng bị ảnh hưởng có phần nào yếu kém hơn lúc đầu.
Nếu thật sự cùng Phách Không Chưởng của Hoàng
Dược Sư va chạm nhau, chắc chắn là không thể thủ thắng được.
Nhưng Trùng Dương rất khôn khéo, nghĩ ra cách thức giao đấu như thế. Chàng dùng ngón tay cái bên tay phải giữ cứng chiếc hộp Chân Kinh bằng kình lực Nhất Dương Chỉ .
Mà Nhất Dương Chỉ trong phạm vi một thước trở lại thì uy lực phát ra rất trầm mạnh dù rằng đang lúc cực kỳ mệt mỏi cũng có thế giữ được một sức mạnh tương đối, huống hồ Trùng Dương đã khôi phục được năm thành công lực rồi !
Hoàng Dược Sư liên tiếp tấn công ra mấy chiêu Phách Không chưởng vẫn không di động được chiếc hộp Chân Kinh ra khỏi vị trí một phân hào nào, y không khỏi đỏ mặt tía tai, trong cơn nóng tính thuận chân đạp lên vị trí bát quái bước chân thoăn thoắt
khi tả lúc hữu, sử dụng liên tiếp chưởng pháp Phách Không, từng chưởng một chắc chắn như trái núi đẩy mạnh ra quét rà trên mặt đất mọi người ức thay chiếc hộp như mọc rể trên đá, chẳng chịu xê dịch đi đâu cả.
Hoàng Dược Sư tung một hơi trên mấy mươi "Phách không", rốt cuộc chỉ là công cốc, chỉ tốn hơi mệt sức mà chẳng ra tích sự gì, lúc ấy con người Đào Hoa Đào Chủ tâm tính cuồng ngạo bất khuất kia mới chịu nhìn nhận và khâm phục tuyệt học Nhất Dương Chỉ của Toàn Chân Giáo Chủ quả là công phu toàn bích của võ lâm, tài nghệ của y vẫn còn thua xa lắm.
Nên Hoàng Dược Sư lập tức thâu ngay tay chường, nhãy ra khỏi vòng đấu rồi cười lên ha hả và nói :
- Thần công tuyệt kỹ, phục lắm rồi !
Phục lắm rồi !
Trùng Dương sau một lần hiển lộng thêm kình lực Nhất Dương Chỉ, cảm thấy mỏi mệt vô cùng, chàng cố gượng cười và nói :
- Hoàng Đảo Chủ đã thưởng thức qua , còn Thất huynh và Đoàn huynh có ý muốn thử sức thêm nữa không ?
Đến Hoa Sơn luận kiếm lần này, trong Tứ Bá, trừ Âu Dương Phong là kẻ đối đầu duy nhứt của Trùng Dương đã bị loại ra thì có Hoàng Dược Sư, nhưng giờ đây y đã thật lòng khâm phục Trùng Dương rồi, còn Đoàn Hoàng Gia và Hồng Thất Công thì sẵn lòng kính phục Trùng Dương từ lâu.
Hai người đến tham dự cuộc đại hội này chẳng qua vì lời mời của Trùng Dương chứ chẳng có ý tranh đoạt Chân Kinh. Nên khi nghe Trùng Dương nói thế hai người lắc đầu mỉm cười và đồng đáp :
- Đâu lại có chuyện thế ! Chúng tôi đối với tài nghệ tuyệt kỹ của Vương huynh tự hỗ thầm mình chẳng bằng, nào còn dám bêu xấu trước mặt thánh nhân nữa ! Quyển Chân Kinh kia kể ra hoàn toàn thuộc về sở hữu của Vương Chân Nhân, nay một cách danh chánh ngôn thuận chẳng còn ai tranh tròn gì khác. Và chức Thiên Hạ Nhất Bá võ lâm cũng xứng đáng để tôn tặng Vương huynh lắm vậy !
Bốn người lần này liên tiếp so tài nhau bảy ngày bảy đêm, mỗi người lần lượt đấu nhau trên mười trận, Trùng Dương nhờ ở Nhất Dương Chỉ công phu bảo tồn được Cửu Âm Chân Kinh đến phút cuối cùng, còn danh dự được ngôi vị Nhất Bá Võ Lâm trong thiên hạ.
Bọn họ đều là nhân vật thoát tục, khoáng đạt hào hùng, thắng được chẳng kiêu, bị bại cũng chẳng lấy đó làm thù, chân chính khâm phục tài nghệ giữa nhau.
Hoàng Dược Sư nắm lấy bàn tay của Trùng Dương tỏ ý khâm phục của mình, y bỗng cảm thấy bàn tay của Trùng Dương lạnh như băng, không khỏi giật mình kinh hãi, vội đưa mắt quan sát sắc diện của chàng, rồi hốt hoảng lên tiếng :
- Không xong Vương Chân Nhân vì vận sức quá nhiều khiến tinh lực hư thoát ra ngoài, nhưng không sao tiểu đệ có mang thuốc bổ theo mình đây !
Nói đoạn, y lẹ làng móc trong người ra một chiếc túi lụa nhỏ, trong túi lóc nhóc nhưng viên thuốc lớn nhỏ như hột bắp, thân mật trao vào tay Trùng Dương và nói :
- Vương huynh, đây là những viên thuốc mà tiểu đệ đã dùng những mật tinh anh của trăm thứ hoa chế thành Cửu Hoa Ngọc Lộ hoàn này, tuy không phải là thánh dược nhưng cũng có thể trùng hồi nguyên khí, xin Vương huynh phục vài viên cho mau hồi sức lực.
Trùng Dương gượng cười đáp :
- Hoàng huynh thật là người lấy gan ruột để đối đải bạn bè !
Nói xong, chàng chẳng chút nghi ngại, ngước cổ lên, trút tất cả Cửu Hoa Ngọc Lộ Hoàn trong túi lụa kia vào miệng và nuốt hết.
Bốn người cung kính vái nhau một vái để kết tình thân mật xong, liền ngồi ngay xuống đất.
Đoàn Hoàng Gia nói :
- Chúng ta suýt chút nữa là quên mất Âu Dương huynh, cũng nên mời y đến đây để mọi người cỡi bỏ thù hằn, đổi thành tình bằng hữu giữa nhau vậy !
Hồng Thất Công mau mắn đứng dậy hưởng ứng :
- Phải đấy ! Để tôi đi gọi lão độc vật lên một thể.
Vừa dứt tiếng lão ăn mày đã nhãy phóc một cái mất dạng.
Một thời gian sau, Hồng Thất Công hỗn hển trở về, lắc đầu lia lịa đáp :
- Cái gã Âu Dương Phong thật là đồ chẳng có khí lượng chút nào, y sau khi bị thất bại lẳng lặng rút lui đi mất, tới ba con trùng thúi của y cũng được lùa đi từ lúc nào sạch bách chẳng còn một mống !
Trùng Dương nghe Âu Dương Phong đi không khỏi nét mặt sầm lại.
Đoàn Hoàng Gia lắc đầu than thở :
- Gã ấy tuy lòng dạ lang độc nhưng thực ra cũng là một kỳ tài của võ lâm, chỉ đáng tiếc không chịu học theo nẻo phải, bằng không cũng là một đóa hoa quí trên miền Tây Vực, kể ra cũng uổng thay !
Bốn người bịn rịn nhau trên đỉnh núi Hoa Sơn đến sáng hôm thứ tám,mới chịu phân tay trở về.
Lúc sắp cáo biệt, Đoàn Hoàng Gia nắm tay Trùng Dương dặn dò :
- Vương chưởng môn, từ nay đến mười năm sau, nếu tôn giá có du chơi miền Nam, xin ghé Đại Lý viếng thăm tệ quốc, tiểu vương tuy quê mùa, nhưng cũng có thể tận tình chủ khách được.
Trùng Dương cười xòa đáp :
- Nhớ lại năm xưa bình loạn trong cung, đến nay đã trên mười năm rồi, đời người như kiếp phù du, ngẫm lại chẳng còn bao lâu nữa, cảm thịnh tình mời mọc, bần đạo quyết thế nào cũng vân du một chuyến đến đất Nam, lúc ấy ta sẽ lại gặp nhau vậy .
Hoàng Dược Sư cũng khách sáo, cũng thỉnh mời Trùng Dương đến Đào Hoa Đảo chơi thêm một phen nữa.
Chỉ có Hồng Thất Công xoa tay cười ha hả và nói :
- Vương Chân Nhân, Đoàn Hoàng Gia là vua của một nước, Hoàng huynh là một vị chúa đảo ngoài biển, hai người đều là bực sang giàu, có dinh gia cơ nghiệp, chỉ có lão ăn mày nầy nghèo xơ kiết xác chiếu đất màn trời, bốn bể là nhà, còn nơi nào mà mời Vương huynh được, chẳng lẽ mời ông đi ăn cơm thừa canh cặn của thiên hạ sao ?
Chỉ còn cách là lão ăn mày lết đít đến ăn chực ở núi Tung Sơn là phải hơn ?
Mọi người đều cười xòa lên một trận rồi mới chịu phân tay.
Qua trận so tài trên danh Hoa Sơn vừa rồi, Trùng Dương đã xem Âu Dương Phong là mối đại họa cho võ lâm sau này nên sau khi trở về Tung Sơn chàng ngầm suy nghĩ để tìm phương pháp khống chế y.
Riêng Hoàng Dược Sư từ lúc đại hội Hoa Sơn luận kiếm trở về, dọc đường cử khắc khoải về quyển Cửu Âm Chân Kinh không thể về tay mình trong bụng dàu dàu không vui. Chàng quyết định về đến đảo Đào Hoa là bế môn khổ luyện võ học đúng mười năm, sẽ trở lại Trung Nguyên tìm một cơ hội, tổ chức giống như hội Hoa Sơn vừa qua để cùng Trùng Dương tái quyết một phen sống mái.
Lủi thủi dặm trường ngày đi đêm nghỉ, không đầy một tháng là đã từ miền cát vàng hiu quanh ở Tần Trung trở về đến Giang Nam phong quanh thịnh mậu.
Lúc Ngũ Bá họp nhau trên Hoa Sơn thì thời tiết vào độ tàn đông cuối tháng chạp, mà khi Hoàng Dược Sư trở về đến Giang Nam là đã bước qua lúc mùa Xuân tháng hai, hoa thơm hồng tím, cỏ mượt bờ đường.
Hoàng Dược Sư tuy tánh tình cao ngạo, nhưng là một người phóng khoáng thanh cao, từ nhỏ đã giữ giới đạo gia, kinh luân dù đầy bụng anh tài, song chẳng thích mùi công danh phú quý, dấn thân theo phường ô trọc quan liêu. Chỉ ưa thú lâm tuyền, cam thân theo lối sống ngao du hồ hải, lấ mai hạc làm bạn tri tâm, một mình ẩn cư trên hòn đảo Đào Hoa, tự gây dựng thành một võ phái biệt lập.
Hận vì sư trưởng chết quá sớm, thiếu người chỉ điểm trui rèn, bản lĩnh dù tinh thông tuyệt thế nhưng vẫn không thể đạt đến mức độ thượng thặng vô địch.
Lần này đến dự hội Hoa Sơn luận kiếm tưởng đâu có thể đoạt được kinh quí võ lâm đem về đảo Đào Hoa để nghiên cứu tinh tường thêm bản lĩnh. Nào ngờ tài nghệ Trùng Dương quá siêu việt, không những được ngôi vị Thiên Hạ Đệ Nhất Bá mà cho đến quyển Cửu Âm Chân Kinh cũng về tay Trùng Dương cất giữ.
Hoàng Dược Sư buồn ý trở lại phương Nam, khi đi ngang qua trấn Ô Kiều nằm trong khu vực Ngũ Hồ thấy chợ búa tiêu điều, vườn hoang khói lạnh, biết rõ đấy là thành tích cướp đoạt của đoàn quân Kim xâm lược để lại. Trong lòng đang lúc muôn vàn cảm khái, chợt thấy từ trong vòng thành thị trấn, bá tánh lũ năm lũ bảy, bồng bế con thơ, gồng gánh nồi niêu, người nào mặt mày cũng ủ rũ tiều tụy, dắt díu nhau ra khỏi thành, xem tình hình dường như sắp sửa thiên cư nơi khác.
Một vài gia đình dời đi nơi khác thì là chuyện thường chẳng có gì đáng nói nhưng đàng này cả mấy trăm người cùng thiên cư một lượt, tất nhiên là có chuyện quan trọng xảy ra cho mọi người.
Vả lại, dân quê vốn quen tánh an phận lạc cư ít khi chịu rời xa quê xứ, nếu chẳng có biến cố hệ trọng xảy ra, dễ gì không duyên không cớ lại chịu xa lìa mảnh đất thân yêu của họ !
Hoàng Dược Sư rất phân vân nghi ngại, liền đón đường mọi người lại và hỏi :
- Xin các vị nhín chút thời gian cho tôi hỏi thăm một chút, tại sao các vị toàn một thôn trấn lại thiên cư tất cả, chẳng hay định dọn đến đâu vậy ?
Một cụ già tóc râu bạc phếu thấy Hoàng Dược Sư ăn mặc theo lối văn nhân tu sĩ, bèn thở dài một tiếng và nói :
- Tướng công là người đọc sách, đâu có hiểu được bao nhiêu tình tệ đã xảy ra gần đây. Chúng tôi bị cọp dử bức bách đến đổi không thể ẩn thân, chỉ dành dọn đi nơi khác tha phương cầu thực đấy thôi.
Hoàng Dược Sư kinh ngạc hỏi :
- Sao lại có cọp dử ? Nơi đây thuộc về khu vực Thái Hồ, mênh mông sóng nước, chứ đâu phải núi cao rừng rậm, làm gì lại có cọp hại các vị đến phải lìa quê bỏ xứ được ?
Cụ gìa nói chuyện với Hoàng Dược Sư lúc nãy ngồi ghế trên chiếc cảng xe cây, bên cạnh cụ có một đứa bé trai độ bảy tám tuổi rất kháu khỉnh mắt sáng mày thanh, hớt lời cụ gìa đáp :
- Tướng công, không phải loại hổ dử ở núi sâu hại chúng tôi mà chính Ngũ Hổ ở trong Thái Hồ kìa.
Vài người lớn đứng bên cạnh cậu bé, sợ hãi, lên tiếng mắng át :
- Con nít, con nôi chẳng biết lợi hại, dại mồm nói bậy không nên !
Hoàng Dược Sư tươi cười đáp :
- Thái Hồ Ngũ Hổ à ! Tôi biết rồi, chắc là những hảo hán trong Thái Hồ đấy chứ gì ?
Cụ gìa lúc nãy liền lên tiếng :
- Tướng công hiểu được là đủ rồi xin cho chúng tôi đi kẻo trễ vì trời đã tối, nếu để Ngũ Hổ dắt quân từ trong hồ ra sát hại thì chúng tôi chẳng còn mạng đấy.
Hoàng Dược Sư cười ha hả nói :
- Loại thủy khấu lắt nhắt ấy có đáng gì mà sợ đến thế ? Các vị khỏi cần dọn nhà đi nơi nào, tôi sẽ giúp quí vị chế ngự quân cường đạo ấy cho !
Mọi người nhìn thấy Hoàng Dược Sư bộ vó nho sinh mà dám ăn nói lớn lối như thế, đều kinh ngạc sững sờ trố mắt nhìn chàng như nhìn một kỳ quan trong thiên hạ và xầm xì lẫn nhau :
- Tên học trò khùng này đúng là đang nổi cơn điên, gã chẳng biết sự lợi hại của Ngũ Hổ Đại Vương khắp khu vực Thái Hồ này chăng ?
Hoàng Dược Sư cười nhạt và bảo mọi nói :
- Ngũ Hổ Đại Vương là cái quái gì mà quí vị quá sợ như thế ? Các người chẳng tin bản lãnh của tôi có thể bảo hộ các người được sao ? Hãy xem đây !
Nói đoạn chàng chỉ tay về phía một cây Ô Bá cách đấy không xa. Ngọn cổ thụ Ô Bá ấy bề kính trên nửa thước, thân cây cao trên hai trượng mọc sừng sững bên đường.
Hoàng Dược Sư nhấc chưởng trái lên và quát lớn như sấm :
- Ngã này !
Miệng quát, tay đã ngầm vận sức mạnh của Phách Không Chưởng chậm chậm đẩy ra "ầm !" một tiếng đổ vang tai đinh ốc, tức thì cây cổ thụ liền ngã xuống bên vệ đường gốc rể cũng đều bị bật lên khỏi mặt đất, cát bay văng tua tủa khắp nơi, cành lá đổ xuống rào rào như mưa trút.
Đám người ấy thấy Hoàng Dược Sư đứng cách gốc cổ thụ trên một trượng xa, mà chỉ một chưởng nhẹ nhàng, xô ngã được thân cây to lớn như thế, đến gốc rể cũng bị nhổ lên khỏi mặt đất, mọi người đều khiếp đảm sững sờ đứng trơ ra đấy.
Hoàng Dược Sư lại ung dung lên tiếng :
- Các người đã thấy rõ chưa ? Liệu tôi có đủ sức bảo vệ các người không ?
Trong đám người nỗi lên tiếng xầm xì bàn tán rồi từ trong đám đông có vài vị khá tuổi bước ra vòng tay vái Hoàng Dược Sư một vái sát đất và nói :
- Tiên sinh quả là một vĩ nhân, tài năng siêu thế, chúng tôi có mắt mà chẳng nhìn thấy Thái sơn , vậy quí danh là chi ?
Hoàng Dược Sư cười nhạt đáp :
- Tôi họ Hoàng, tên thì đã quên mất rồi, các vị cũng chẳng cần biết làm gì ? Tôi giúp quí vị san bằng bất công, đôi phó với đám Ngũ Hổ ở Thái Hồ là được rồi.
Nhóm người ấy liền thuật cho Hoàng Dược Sư rõ mọi việc.
Thì ra Ô Kiều, thị trấn này thuộc về vùng cai trị của huyện Nghi Hưng nằm cách xa Thái Hồ không đầy năm dặm. Trong trấn có một ngàn nóc gia, sinh hoạt cũng khá thịnh vượng, từ khi nhà Tống vượt sông Thiên Đô về miền Nam. Ô Kiều trấn liên tiếp hai phen trải qua cuộc xâm lược cướp bóc của đoàn quân Kim, dân cư hơn chín phần mười đều vong gia bại sản, cho đến mười năm sau mới dần dần khôi phục được phần nào sinh lực cũ, nhưng nhân khẫu đã giảm bớt so với thuở trước chỉ còn độ phân nửa mà thôi.
Nhưng từ nửa năm nay, nơi Động Đình sơn phía Đông của Thái Hồ bỗng nổi lên một dám thủy khấu. Nghe đồn đám thủy khấu ấy là dư đảng cướp sông của Trường Giang Bang, chẳng hiểu vì sao lại di cư đến miền Thái Hồ này, sát nhập dám đầu trộm đuôi cướp ở vùng Thái Hồ về một mối, chuyên việc cướp của đốt nhà, giết người đoạt vật, cầm đầu bọn chúng là Bạch Các Hổ Thường Thông, đầu lĩnh thứ hai Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân, thứ ba Xích Mao Hổ Hoắc Cang Thương, thứ tư Diện Hổ Tiêu Tín, đầu lĩnh thứ năm là một nữ tặc tên Yêu Chỉ Hổ Tử Tú Anh, vốn là vợ của đại đầu lĩnh Thường Thông.
Ngũ Hổ lúc mới đến chiếm cứ Thái Hồ, ban đầu bất quá chỉ bắt đám ngư dân xung quanh phải đóng góp tiền bạc cho chúng.
Những đám dân chài chất phát sinh sống ven bờ hồ kia vì sống nơi hẻo lánh xa chốn quan quyền bé cổ kêu chẳng thấu tai trời, nên đành thắt lưng buộc bụng, cung dâng cá thịt cho chúng để yên ổn làm ăn.
Nhưng lòng tham của bọn Ngũ Hổ thật vô đáy, thấy quan phủ không làm gì được mình, càng lúc chúng càng ngang dọc thêm hơn, ngang nhiên khủng bố công khai nhân dân khắp năm thị trấn nằm ven hồ, bắt buộc bá tánh cư ngụ tại các nơi Ô Kiều, Ngư Thanh, Bạch Xa, Xích Phong và Hồng Hoa, năm trấn ấy ngoài ra còn phải cống hiến cho chúng mỗi năm năm chục tên tráng nam và năm chục nàng thiếu nữ. Tráng nam thì chúng dùng làm nô dịch trong các thủy trại, còn thiếu nữ thì chúng dùng để hành lạc thỏa dâm.
Ngũ Hổ còn ra kỳ hẹn trong vòng ba hôm phải trả lời , hăm dọa không cho báo cáo với phủ quan, nếu dân ở thi trấn nào dám cãi lịnh báo quan, hoặc giả nhờ binh triều bảo hộ thì bọn cướp sẽ đến tàn sát làm cỏ hết toàn trấn chẳng nương tay.
Tin ấy vừa đưa ra bá tánh cư ngụ ven bờ Thái Hồ đều kinh hoàng thất sắc. Vì năm thị trấn ấy vốn có một vài lực lượng tự vệ, nhưng có quá ít, sánh với võ lực hùng hậu của bọn thủy khấu thì chẳng khác châu chấu đá xe. Nên Hương Lý trong Thanh Ngư trấn lập tức báo với phủ quan xin binh tiếp viện.
Phủ Nghi Hưng liền phái đến ba trăm quân binh đến giữ gìn thôn trấn. Ngờ đâu không đầy ba ngày, họa lớn đã xảy ra.
Giữa một đêm tối trời gió to, trong trấn Thanh Ngư bỗng nổi lên năm sáu ngọn lửa cao ngất trong khoảng khắc lửa cháy lan tràn khắp nơi, trật tự trong trấn bị xáo trộn dử dội. Từ trong ánh lửa một đại đội thủy khấu tràn ra như thác lũ gặp ai giết nấy, tiếng kêu khóc rền trời.
Quan binh đốn trú nơi trấn vội kéo ra cự địch, nhưng dám thủy khấu đông như kiến cỏ trên năm sáu trăm người, lực lượng gấp đôi quan binh hơn nữa tên nào cũng gan dạ thiện chiến, chém giết như điên, gặp nhà là phóng hỏa đốt liền còn đám quân binh chỉ là dân bị thịt, chỉ quen thói hống hách đồng bào, gặp giặc đã run lên như cầy sấy, thử hỏi làm sao chống cự cho lại.
Nên chẳng đầy một giờ sau, toàn thị trần đều biến thành biển lửa, thây người ngổn ngang như núi, máu chảy thành sông.
Cho đến sáng hôm sau kiểm điểm lại thì Thanh Ngư trấn chỉ còn là một bãi than hồng ! Dân số mười phần hết hơn tám chín.
Chỉ một đêm ngắn ngủi mà tang tóc phủ trùm thê thảm đến thế.
Sau thảm kịch đốt phá thị trấn Thanh Ngư vừa rồi, danh tiếng hung ác của Ngũ Hổ nơi Thái Hồ vang dậy khắp gần xa.
Nghi Hưng phủ sau cơn thất bại nặng nề đâu dễ bỏ qua, liền phái một viên Thống Chế thống lãnh một ngàn quân binh vào hồ để tảo trừ Ngũ Hổ.
Nhưng đám thủy khấu Thái Hồ chẳng chút nao núng, chia quân mai phục sẵn mọi nơi hiểm yếu chờ cho đám quân binh đi sâu vào vòng vây lập tức dưới đáy hồ nhô lên vô số thủy quỷ.
Thủy quỷ chính là một số đồng đảng bọn cướp rành nghề lội lặn, bám vào đục thủng đáy thuyền của quan binh.
Nước hồ theo lỗ hổng tràn vào thuyền như thác trào.
Đám quân binh không thiện về môn thủy chiến, thấy thuyền bị thủng đáy sắp chìm đã hốt hoảng quýnh quíu chân tay, đâu còn lòng dạ chiến đấu nữa . Thêm vào dọc theo bờ hồ, trong đám lau sậy um tùm, những họng thạch pháo khạc ra từng loạt đá cát tro vôi, đồng thời đoàn quân thủy khấu mai phục cung nỏ, cũng bắn tên ra như mưa bấc, tập kích vào hai bên hông của đoàn quan binh, khiến cho quan binh lớp chết lớp rơi xuống hồ mười phần hết bảy tám.
Tiếp theo đấy, gã Đại đầu lãnh là Bạch Các Hổ Thường Thông hợp với Nhị đầu lãnh Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân, thân hành cỡi chiếc thuyền nhẹ xung phong ra đánh giết đám quân binh còn lại.
Vị Thống Chế cầm đầu đám quân binh, chống cự không tới ba hiệp là bị Thường Thông một đao chém rơi xuống nước.
Đoàn quan binh như rắn mất đầu, hoảng hốt tranh nhau tìm đường tẩu thoát, nhưng kẹt vào giữa vòng vây trùng điệp. Không một tên nào chạy thoát được, rốt cuộc đều bị giặc, lớp giết, lớp bắt sống, chẳng chừa một móng.
Không đầy một ngày trời mà trên một ngàn binh đều bị bọn cướp tiêu diệt.
Sau cuộc thất bại nặng nề nầy, Nghi Hưng Phủ không còn dám bén mảng vào vùng Thái Hồ để tấn công bọn cướp nữa.
Thái Hồ Ngũ Hổ được thế càng hung hăng, ra tối hậu thơ cho dân chúng trong trấn Ô Kiều và bốn trấn khác, hạn định nội đêm nay phải cống dâng gái trai cùng tài vật tới bên hồ, bằng trái lịnh chúng sẽ đạp xóm làng thành bình địa, gà chó chẳng chừa.
Chỉ đáng tội cho đám bá tánh bốn trấn còn lại, qua cơn khói lửa binh đao đã xơ xác nghèo nàn còn tiền bạc đâu nữa mà dâng ?
Thêm vào bọn cướp nhất định một số nam nô nữ tì, mà kẻ làm cha mẹ trên đời có ai lại đành lòng dứt bỏ con mình, để đưa cho cường địch được.
Thế lực bọn cướp hung hăng hoành hành, quan binh chánh quyền lại bất lực, nên đám bá tánh chỉ còn có cách đào vong lưu linh khổ sở.
Hoàng Dược Sư nghe bọn họ thuật lại xong, máu nóng dâng tràn, khí hùng sôi động nhưng tính tình chàng rất cổ quái, trong lòng dù đã giận cực cùng, mà trái tai thay, chàng lại buông tiếng cười ha hả như xé ruột, đoạn bảo :
- Hay quá đi mất ! Chả trách bọn thủy khấu hung hăng như thế ! Té ra bọn chúng còn có mấy tên đầu sỏ chỉ huy, các vị hãy yên lòng trở về thôn trấn !
Trong vòng ba ngày, tôi sẽ túm trọn ổ cái mà quí vị gọi là "Thái Hồ Ngũ Hổ" , và sẽ đem về đây treo sống trên ngọn cây cảo mặt mình cho quí vị banh da xẻ thịt nó ra cho hả tức.
Mọi người nghe Hoàng Dược Sư nói một cách quả quyết như thế, và lại thấy chàng tay không mà có thể đứng xa nhổ được cây lớn, nên cũng tin tưởng phần nào !
Họ đồng "ồ !" lên một tiếng khâm phục rồi rầm rộ kẻ đẩy xe gánh gồng, kéo nhau trở vào thị trấn Ô Kiều;
Hoàng Dược Sư cũng theo chân cụ già và cậu bé lúc nãy về nhà tạm trú đôi ngày.
Cụ già ấy rên Võ Trọng Thuấn, là một nho sĩ ở đất Ô Kiều, mọi người thấy cụ ta đức độ tài ba nên kính mến, phục tùng theo bực trưởng lão trong làng.
Hoàng Dược Sư cũng là người đọc sách nên một gìa một trẻ, câu chuyện lại qua rất ý hợp tâm đầu.
Qua sự chuyện trò Hoàng Dược Sư biết đứa bé kháu khỉnh, thông minh linh lợi kia tên Võ Hồng Quang năm nay mới vừa chín tuổi đầu.
Hoàng Dược Sư lần đến Hoa Sơn đầu tiên, thâu nhận đồ đệ là Khúc Thắng tức Khúc Linh Thông. Chàng thấy đưa bé Võ Hồng Quang, tuổi tuy còn bé mà bạo dạn chững chạc, trong lòng rất yếu mến, có ý muốn thâu nhận cậu bé làm đồ đệ, định bụng sau khi khắc phục được Ngũ Hổ Thái Hồ sẽ bàn đến chuyện ấy.
Đêm ấy Hoàng Dược Sư lưu ngụ tại nhà Võ Trọng Thuấn, sau khi dùng cơm tối lót dạ xong, bèn đứng dậy cười và nói với Võ Trọng Thuấn :
- Bây giờ tôi phải đi bắt sống Ngũ Hổ, ông nên cho mọi người hay, cứ yên tâm ngủ kỹ, mọi việc tôi lo liệu hộ cho.
Võ Trọng Thuấn tuy môi vâng dạ bên ngoài, nhưng trong lòng áy náy không yên.
Hoàng Dược Sư thấy vậy khẽ mĩm cười, thoắt một cái đã tung mình vào bóng đêm mất dạng.
Lờ mờ trong bóng đêm, đối diện với bờ hồ, xa xa là ngọn núi Kim Đà và Mạc Lý, một chiếc bờ đê phẳng tắp với hai hàng cây Công Tôn âm u, trong bụng Hoàng Dược Sư đã sẵn mưu thần. Chàng nhãy phóc lên ngọn cây Công Tôn, rảo mắt nhìn soát khắp ba mặt hồ.
Vì theo như lời Võ Trọng Thuấn nói thì hôm nay là kỳ hạn cuối cùng của bọn với trấn Ô Kiều yêu sách giao tráng nam, thiếu nữ cùng tài vật đóng góp cho chúng.
Bọn Ngũ Hổ Thái Hồ vì uy tín của đảng, đêm nay tất thế nào cũng phái người lại, bất luận là bá tánh trong thị trấn đào vong hay không, chúng cũng giở thủ đoạn đốt phá cửa nhà của dân chúng để thị uy với bá tánh nơi trấn khác. Nên Hoàng Dược Sư mới tương kế tựu kế, núp kín trên ngọn cây để đợi chờ.
Lúc chàng đến bờ hồ thì đã canh hai, vầng trăng từ mỏm núi đã nhô dần lên đỉnh đầu trời trở sang canh ba, trên mặt hồ sóng nước tí tấp bao la bỗng nhô lên một đội tiểu thuyền, đầu đuôi nối tiếp nhau có trên ba mươi chiếc, loại thon nhỏ ấy chẳng có mui, trên mỗi thuyền nhỏ chen chúc ngồi ít nhất là bảy tám người, nói một cách rõ ràng hơn là đoàn thuyền ấy chở có trên ba trăm người !
Quả đúng như sự ước đoán của Hoàng Dược Sư, bọn thủy khấu đã huy động đại đội binh tướng định kéo lên bờ trổ tài cướp đoạt.
Chàng nín hơi chờ đợi, nhìn thấy đội tiểu thuyền ấy đã có chiếc cặp lên bờ hồ. Chàng tự nhủ là đã đến lúc biểu lộng thân pháp của mình, liền nhô mình lên khỏi ngọn cây, sử dụng Phách Không Chưởng lực, hai tay đẩy mạnh về phía bờ hồ.
Đêm ấy, chỉ có gió nhẹ lai rai, mặt nước trên hồ vốn phẳng lặng như gương, nhưng khi thần lực Phách Không Chưởng vừa bay ra tức thì "ầm !" một tiếng như sấm bủa mặt hồ, chưởng phong xoáy vào lòng hồ tạo thành một con trốt nước vĩ đại, sống nước dâng cao, ào ạt như cuồng phong biển động.
Bốn chiếc tiểu thuyền đang bơi gần bên xoáy nước bị cuốn lật nhào, trên mười tên thủy khấu trong thuyền chìm lỉm trong đáy nước.
Một biến cố bất ngờ và kỳ lạ ngoài sức tưởng tượng của đám cướp hồ, trật tự của đoàn thuyền nhất thời bị xáo trộn.
Cũng may là bọn cướp vừa bị chìm xuống, tên nào cũng tinh thông thủy tánh, vả lại gần bờ, nước không sâu lắm, chỉ một chốc sau là chúng đã lổm ngổm nổi lên, nhưng gươm , đao, cung tên, đều rớt mất dưới nước, quần áo lại ướt nhem, trông rất tiều tụy mười phần.
Hoàng Dược Sư núp trên ngọn cây thấy bọn cướp hoảng khiếp dồn cục nhau một chỗ không khỏi thích ý, buồn cười trong lòng.
Chàng vẫn im lìm chẳng lên tiếng, chờ cho bọn cướp đã lập lại phần nào trật tự cho đội ngũ, bơi thuyền cập sát bờ hồ. Chàng lại chầm chậm hai tay vạch vào khoảng không một vòng tròn , áp dụng Phách Không Chưởng lần nữa để phá bầy thủy khấu.
Lần này chàng dùng sức hơi mạnh, nên Phách Không Chưởng vừa phát ra liền kêu "ầm !" một tiếng cực kỳ chát chúa, lùng bùng lỗ tai.
Mặt hồ lập tức bị nứt đôi ra thành một xoáy nước, đường kính rộng độ ba trượng, ngọn sóng bủa cao như một bức tường nước vĩ đại, lại thêm bốn chiếc tiểu thuyền bị cuốn vào xoáy nước chìm lỉm.
Bọn cướp trên thuyền rớt lõm bõm xuống hồ, khiến bọn chúng kinh hoàng kêu lên ơi ới vang động khắp đêm sâu !
Thuyền giặc chưa cập bến, đã trước sau liên tiếp chìm hết tám chiếc, tuy không có người chết đuối nhưng bọn cướp đã có nhiều đứa thất đảm kinh hồn.
Trong bọn có một tên thủy khấu da mặt sần sùi có lát, dáng chừng như là một đầu mục, oang oang la lên :
- Không xong ! Hôm nay chúng ta đã xâm phạm đến vị thần của hồ này rồi, nếu không sao lại có việc huyền hoặc như thế, bên bờ hồ bỗng nhiên cuộn sóng lớn, nhận chìm thuyền chúng ta luôn hai lượt vậy ?
Lúc thuyền chỉ huy của thủy khấu cũng vừa đến, trên đầu thuyền có một gã mặt đầy vết sẹo đang đứng quan sát tình hình, đúng là Thường Diện Hổ Tiêu Tín, một trong Ngũ Hổ của Thái Hồ.
Gã trỏ miệng vào khoang thuyền ra lịnh :
- Hoắc lão tam ! Mau đứng dậy ra đây, đốt giấy tiền vàng bạc để dâng thần. Có lẽ Thần Hồ nổi giận ra uy đấy !
Tiêu Tín nói dứt lời, từ trong khoang thuyền liền bước ra một người, thân hình vạm vở cao lớn. Tên đại hán hình dạng rất quái dị, râu tóc đều hoe đỏ, bên râu lại có một bệt son đỏ thấm, mắt cọp, mũi ưng, mới nhìn qua cũng biết là một ma tinh giết người chẳng gớm tay, sau lưng đeo một thanh đao Ngũ Lâm dày cộm. Gã trợn mắt trắng sát nhìn lên bờ và cất tiếng ồm ồm :
- Bây đâu, đem giấy vàng bạc ra đây !
Gã vừa rồi chính là đầu lĩnh thứ ba của Ngũ Hổ Thái Hồ, tên Xích Mao Hổ Hoắc Cang.
Hai tên thủy khấu nghe chủ soái kêu vội dạ lên một tiếng, chui vào khoang thuyền, đem ra hai bó giấy vàng bạc treo nơi đầu thuyền rồi nổi lửa đốt lên để tống quái, còn trịnh trọng đốt thêm một giây pháo lớn.
Hoàng Dược Sư thấy bọn thủy khấu mê tín dị đoan sì sụp lễ bái suýt bật cười thành tiếng, nhưng chàng cố dằn lại, chờ cho tiếng nổ dứt, lại dùng song chưởng vào khoảng không, phát ra một sức mạnh Phách Không Chưởng, vạc đôi mặt hồ, nhận chìm thêm hai tiểu thuyền của đám cướp.
Hai tên đầu lĩnh Thuờng Diện Hổ và Xích Mao Hổ, liền hiểu ngay sự tình, chúng cả giận quát to lên :
- Tên tiểu tử man rợ nào dám đến đây vuốt râu hùm, giở trò ám toán hèn hạ thế ?
Miệng chưa dứt lời, hai tay trước sau mò vào túi da cá rút ra mười hai ngọn phi tiêu, lẹ làng phóng trở ra theo lối liên chu thủ pháp, tấn công về phía hàng cây Công Tôn nơi Hoàng Dược Sư đang núp.
Nào ngờ mười hai mũi phi tiêu vừa phát ra chưa bao xa thì trên đầu ngọn cây liền nhô lên một bóng người nhẹ nhàng phất tay ra, và lạ thay mười hai ngọn phi tiêu của Xích Mao Hổ và Thường Diện Hổ tự động quay đầu trở mũi bay trở lại thuyền giặc, liền " phập ! phập" ghim nhào hết sáu bẩy tên đồng bọn trên thuyền.
Ky dư nhiều mũi không trúng ai, bay cắm sâu vào ván thuyền lút hơn mấy mươi phân.
Đoàn thủy khấu thất sắc nhìn nhau, tiếp theo đấy có tiếng nhẹ nhàng như tiếng lá rụng, bóng xanh của Hoàng Dược Sư đã thấp thoáng hiện lên trên thuyền.
Bọn cướp kinh hãi kêu lên :
- Chu choa ! Thần hồ gia gia đã hiển thánh kia kìa !
Thương Diệu Hổ quát to :
- Không phải thần thánh đâu ! Này thằng kia mi là dân xứ nào to gan lớn mật dám đến đây chống đối với Ngũ Hổ Thái Hồ chứ ?
Hoàng Dược Sư cười gằn đáp :
- Đám cẩu tặc mù quáng kia ! Cậy vào đâu mà dám xưng danh Ngũ Hổ, thứ loài chuột nhắt nhà bây dù liệt vào hàng mèo cũng chưa xứng nữa là khác ? Khôn hồn hãy mau quay trở lại núp kín vào ổ, đặt chân lên đất Ô Kiều là chết cả lũ đấy !
Thường Diện, Xích Mao, hai hổ đều cả giận đồng quát lên :
- Đồ tồi ! Mi dùng tà pháp nhận chìm thuyền của chúng ta .
Chưa nói dứt lời, Đào Hoa đảo chủ đã tung mình nhãy lên đầu thuyền, thân pháp nhanh chóng không sao so sánh được.
Thường Diện Hổ nghênh thanh Ngư lân đao, Xích Mao Hổ hờm sẵn cây kích Đồng giãn, định đón đối phương lại.
Nhưng Đào Hoa đảo chủ đâu phải là nhân vật tầm thường như chúng, bóng xanh thoắt một cái trước mắt, binh khí trên tay đã bị đoạt đi từ lúc nào, "kình" "coong" hai tiếng vang lên, một đôi đao và một đôi giãn đã bị Hoàng Dược Sư bẻ thành sáu khúc, rơi loảng xoảng trên khoang thuyền, tiếp theo đấy chúng cảm thấy nơi eo lưng nhói buốt một cái, mỗi tên trúng phải hai chỉ của đối phương điểm vào yếu huyệt khiến thân hình mềm nhũn ra như một khối bùn, không còn sức lực gì cả té nhào trên thuyền .
Hoàng Dược Sư hai tay túm lấy gáy hai người như chim ưng chộp chuột, giở hỏng lên cao, chẳng chút phí sức bao nhiêu.
Đồng bọn còn lại không khỏi giật mình kinh hoảng, nhất tề vũ lộng khí giới đến cứu chủ tướng.
Đào Hoa đảo chủ vung hai người quay tròn một vòng và quát lớn :
- Chúng bây đứa nào to gan thì lên đây, ta giết chết hai thằng khốn này tức khắc.
Bọn cướp quả nhiên hoảng sợ, không một tên nào dám tiến lên.
Hoàng Dược Sư ném mạnh hai người xuống sàn thuyền rồi cười nhạt bảo :
- Hai thằng vô dụng chó chết, chúng bây mà cũng dám ra tay với ta, dù chúng bây có khổ luyện thêm một trăm năm nữa cũng chẳng làm gì được. Ta muốn lấy mạng bây như lấy đồ trong túi, nhưng ta không thích giết một hai đứa mà muốn cả bọn chúng bây từ thằng giặc con cho đến lão đầu lỉnh, kéo một lượt đến đây để ta giết cho đã tay. Ta hứa với đám cẩu tặc chúng bây là : Một chẳng cần đao kiếm, hai chẳng dụng ám khí, ba chẳng thèm ra tay mà làm cho chúng bay chết hết nghe rõ chưa ?
Tiếng nói của Hoàng Dược Sư tuy không lớn lắm, nhưng chàng áp dụng môn "Truyền thanh nhập mật" dùng nội công phát ra, nên tất cả trên mấy mươi chiếc thuyền lớn nhỏ trên mặt hồ, bất luận cách xa hay ở gần đều nghe rất rõ ràng là Hoàng Dược Sư định làm cỏ toàn thể bọn chúng mà chẳng dùng đến đao thương ám khí cũng chẳng ra tay đánh đá, thật là chuyện lạ ngàn năm, chẳng lẽ gã áo xanh họ Hoàng kia là thánh sống hay sao ?
Nhưng sự việc xảy ra trước mắt quá rõ ràng, chỉ nháy mắt mà gã họ Hoàng đã hạ hai tên đầu lĩnh của chúng một cách dễ dàng , dù không tin cũng phải tin, tên nào tên nấy mặt mày xám xanh như tro, ngẩn ngơ như tượng chết.
Hoàng Dược Sư nói xong liền "hừm !" một tiếng oai dũng giơ chân đá vào mông hai tên giặc chúa té lộn mèo trở vào khoang thuyền đánh "phịch" hai tiếng rất lớn.
Và kỳ lạ thay cái đá của Đào Hoa đảo chủ vừa rồi Thường Diện, Xích Mao hai Hổ cảm thấy huyệt đạo được giải tỏa, tay chân cử động trở lại như thường.
Hoàng Dược Sư sau khi giải huyệt cho hai người xong liền tung mình nhãy vút lên bờ, thoăn thoắt vài cái nhún mình đã biến mất vào bóng đêm !
Xích Mao Hổ, Thương Diện Hổ vừa giận vừa sợ, vội ra lịnh cho đồng đảng quay thuyền trở về sào huyệt.
Hoàng Dược Sư về đến trấn Ô Kiều thì trời đã mới điểm canh tư, chàng lặng lẽ chui vào nhà Võ Trọng Thuấn tìm chỗ nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, cư dân trong trấn, thấy bọn cướp Ngũ Hổ, quả đúng như lời hứa của vị khách họ Hoàng chẳng dám kéo đến Ô Kiều để cướp phá. Ai nấy đều ngạc nhiên họp nhau bàn luận xôn xao, thì Hoàng Dược Sư từ trong nhà cụ gìa họ Võ ung dung bước ra, tươi cười chào hỏi mọi người và nói :
- Các vị hương thôn, đêm qua ngủ yên đấy chứ ? Quí vị cố gắng làm sao gom góp tất cả sào tre phơi áo quần của mọi người trong trấn, độ chừng năm trăm cây là vừa đủ, có thể trọn nhật hôm nay gom đủ số ấy chăng ?
Mọi người hết sức ngạc nhiên liền lên tiếng hỏi Hoàng Dược Sư :
- Hoàng tướng công, ông cần sào tre để làm gì ? Sào tre đâu có thể làm vũ khí được ?
Đào Hoa đảo chủ cười ha hả đáp :
- Các người toàn là ếch ngồi đáy giếng, làm sao hiểu được những sự việc cao siêu trong thiên hạ. Cứ nghe theo lời tôi, đi gom góp cho đủ số càng mau càng tốt, đúng năm trăm cây không dư không thiếu, bảo với các người chỉ năm trăm cây sào tre vô tội ấy mà đắc dụng còn hơn cả thiên binh vạn mã của triều đình .
Mọi người ai nấy nửa tin nửa nghi, nhưng cũng vội vàng đôn đáo kiếm đủ số đem giao cho Hoàng Dược Sư.
Chàng bèn lựa chọn năm mươi tên tráng đinh trong số người đó, nhờ họ chia nhau vác đống sào tre ra ngoài trấn.
Hoàng Dược Sư dắt năm mươi tên tráng dân ấy ra ngoại ô của trấn Ô Kiều đến một nơi trống trải liền bảo mọi người dừng lại.
Đầu tiên chàng vạch lên mặt đất những dấu ngang dọc không đều nhau, sau đấy chàng thân hành ra một mình cắm thẳng đứng năm trăm sào tre trên những dấu vạch ấy.
Khoảng cách của những cây sào không đều nhau, dày thưa bất nhất, khi thì một thước, lúc thì hai thước.
Không đầy nửa giờ sau, trên khoảng đất trống ấy tua tủa những ngọn sào tre dựng lên, đứng xa nhìn vào, dày mịt như một bức tường tre.
Đám cư dân trong trấn ngơ ngác nhìn nhau, chẳng hiểu vị khách họ Hoàng gàn gàn ương ương định giở trò quái lạ gì ?
Sào tre cắm xong xuôi, Hoàng Dược Sư xoa tay cười lớn và nói :
- Xong rồi ! Mọi người hãy trở về trấn, buôn bán làm ăn như thường, không còn lo âu gì nữa !
Ai nấy đều khó mà tin được sào tre lại có thể ngăn giặc. Nhưng đã liều thì ba bảy cũng liều yên được lúc nào mừng lúc ấy.
Hoàng Dược Sư chờ mọi người kéo nhau ra về liền lấy trong tay áo ra thanh ngọc tiêu, rồi ngồi xếp bằng tròn dưới đất chờ đợi mọi việc sắp xảy ra .
Xích Mao Hổ và Thường Diện Hổ hai đầu lãnh của đám thủy khấu Thái Hồ sau khi bị Hoàng Dược Sư nổ cho một trận, sợ hãi lủi thủi kéo nhau trở về sào huyệt nơi Động Đình sơn.
Đại đầu lĩnh là Bạch Các Hổ Thường Thông cùng vợ là Từ Tú Anh đã được tin phi pháo của đám do thám, không khỏi kinh hãi, vội gọi Nhị đầu lĩnh Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân đến Trung Nghĩa đường để nghị sự.
Mọi người bước vào nhìn thấy Xích, Thường hai Hổ mặt mày tiều tụy xơ xác, còn thảm thương hơn là gà nòi bại trận, ngồi cú rủ một đống nơi Trung Nghĩa Đường.
Bạch Các Hổ Thường Thông ngạc nhiên hỏi :
- Nhị vị hiền đệ sao 1ại tệ đến thế, để cho một tên tiểu tốt vô danh hại đến nông nỗi như thế sao ?
Xích, Thường hai cọp, uất ức ứa nước mắt thuật lại mọi việc đã trải qua cho mọi người nghe.
Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân cả kinh la lên :
- Tài ba đến đổi có thể dùng Phách Không Chưởng làm cho mặt hồ nỗi sóng lớn thì chúng ta làm sao chống nổi, hay là bỏ quách tòa thủy trại này trốn đến nơi khác, đừng nên làm ăn nơi Thái Hồ này nữa !
Yên Chi Hổ Từ Tú Anh bực mình đáp :
- Lão nhị, ngươi điên rồi sao ? Sự nghiệp trên Động Đình Sơn này của chúng ta đâu phải một sớm một chiều mà dựng thành được, chỉ vì một tên vô danh tiểu tốt, mà đành hủy phế tất cả hay sao ? Nếu chuyện này loan dần ra thì anh hùng hảo hán trong thiên hạ cười chúng ta đến rụng răng mất !
Thương Diện Hổ bèn lên tiếng :
- Đại ca, theo ý của đệ suy đoán thì tên đạo sĩ chúa ấy không cậy vào một môn võ học đơn độc mà nhất định là có tà thuật. Nếu chẳng thế thì gã làm sao lại dám nói chẳng cần dùng đao thương khí giới lại có thể lấy sanh mạng toàn anh em chúng ta ? Vừa rồi y dùng chưởng đánh trên mặt hồ, nhận chìm thuyền đĩnh của bọn mình, chẳng hiểu có phải là pháp thuật hay chăng ?
Thường Thông như bàng hoàng sực tỉnh, gật đầu đáp lia :
- Phải ! Phải ! Chúng ta nên tìm phương pháp phá tà thuật bàng môn là có thể đối phó tên đạo chúa ấy ngay.
Nếu luận về võ công, ta không tin là tất cả hai ngàn anh em của thủy trại chúng ta lại chẳng thắng nổi một mình y sao ? Đâu có dễ dàng rơi nhào trong tay y được ?
Nói xong liền phân phát thủ hạ, giết vài con chó đen, dùng túi da đựng lấy máu chó rồi chuẩn bị thêm một số vật nhơ uế của đàn bà. Sau đấy điểm tất cả nhân mã trong toàn trại, kéo rốc trên hai ngàn tặc nhân, chúng chia nhau ngồi trên hai trăm chiếc tiểu thuyền tiến về phía trấn Ô Kiều.
Bọn cướp khởi hành vào lúc rạng đông, thuyền cặp bờ hồ thì đã giữa trưa.
Bạch Các Hổ Thường Thông hạ lịnh cho đồng đảng hùng hổ kéo nhau lên bờ, sắp thành đội ngũ tề chỉnh, chẳng gặp một sự cản trở nào. Hiu hiu tự đắc, rần rộ kéo nhau vào thị trấn.
Một thời gian sau thì đoàn quân cướp đã đến bên ngoài thị trấn, bỗng bọn chúng chợt thấy trên khoảng đất trống ở ngoại ô thành Ô Kiều, cắm đầy những ngọn sào tre tua tủa chọc thẳng nền trời, lại có một nho sĩ áo xanh xếp bằng tròn ngồi bình tĩnh
phía trong rừng sào tre ấy.
Thương Diện, Xích Mao hai hổ vừa trông thấy dạng người ấy liền tru tréo la to :
- Chu choa ? Tên đạo sĩ chúa kia quả to gan lớn mật, y dám ngang nhiên ngồi một mình nơi đây để đón chờ chúng ta.
Bạch Các Hổ Thường Thông quát lớn :
- Tên mắc dịch này chàng hiểu định giở thói quỉ gì nữa ? Đằng ta đâu, mau xông tới, bầm nát nó như tương cho ta !
Bọn cướp hò hét xông lên, đao thương sáng ngời định tiến tới tấn công.
Thương Diện Hổ vội ngăn lại và nói :
- Khoan đã, gã dùng thứ sào tre ấy để ngăn trở chúng ta, sợ e là yêu thuật gì đấy ?
Thường Thông liền tỉnh ngộ ngay bèn la lên :
- Phải đấy ! Tên yêu đạo chắc định giở tà thuật, mau đem máu chó, đồ dơ ra đây !
Mấy tên lâu la tay xách túi da đựng máu chó vội tiến lên, mở ngay miệng túi, rải máu chó khắp khoảng đất trống để trừ tà thuật, lại có tên đáng buồn cười hơn nữa, dùng ngọn thương bêu đồ dơ của phụ nữ, reo hò luôn miệng, phân ra bốn phía tấn công vào rừng sào tre.
Rừng sào tre của Hoàng Dược Sư bày bố kia vốn là kỳ môn bát trận, ngũ hành sanh khắc, cùng với sự bố trí trận đồ trên Đào Hoa đảo chẳng khác nhau mấy.
Chàng nhìn thấy bọn cướp ngu dốt đem thuật số kỳ môn bát trận của mình liệt vào hàng yêu pháp, tưới máu chó, quăng đồ dơ tạo thành một cảnh tượng hỗn loạn, trông rất buồn cười.
Nhưng chàng vẫn ngồi yên nơi đấy, ung dung tự tại chờ cho bọn cướp tiến sâu vào trận, lập tức trận đồ diễn thành một màn hài kịch thú vị hiếm có.
Thì ra Thương Diện Hổ, Xích Mao Hổ thống lãnh trên hai trăm tên cướp, đầu tiên xung trong vào rừng sào tre.
Nào ngờ vừa mới chui vô, miệng đã kêu khổ liên miên. Vì những sào tre ấy, khi đứng bên ngoài nhìn vào, thấy thưa thớt trống trải, xuyên qua chẳng mấy khó khăn, nhưng khi đã bước chân vào trận, thì môn hộ điệp trùng muôn lối, khắp nơi trước mắt đều là sào tre khít rịt, mường tượng như lọt vào tấm lưới tre khổng lồ.
Bất luận bọn chúng, luồn sang Tây, len qua Đông, chui tới bò lui, rừng sào tre phảng phất như mênh mông chẳng dứt, càng lúc càng nhiều, mấy trăm tên cướp loanh quanh trong rừng tre, chạm mặt, đụng đầu mãi nhau mà vẫn trước sau không có thể thoát ra được, tựa như bầy cá dại vào lờ, lội tới lội lui, rốt cuộc vẫn lẩn quẩn trong vòng lờ, không phương lội nổi ra ngoài.
Bọn chúng biết chuyện chẳng lành, càng quýnh quít cả lên, đám giặc cướp ngu dốt ấy làm gì biết kỳ môn bát trận ra sao ?
Cứ đinh ninh Hoàng Dược Sư thi thố pháp thuật, mà đại phàm môn học kỳ môn bát trận này hễ càng rối trí lại càng hoa mắt hơn thêm.
Người trong vòng trận, mê tâm hoa mắt đã đành chí như Bạch Các Hổ Thường Thông cùng một số người đứng bên ngoài trận, thấy đồng bọn của mình sau khi vào thì kỳ bí thay nơi miếng đất trống trước rừng sào tre, bỗng mù mù mịt mịt như bị mây mù bao phủ khắp khoảng rừng tre và trong đám mây mờ kia bóng người thấp thoáng lui tới lăng xăng.
Thường Thông và đám thủ hạ không khỏi kinh hãi la lên :
- Không xong yêu thuật ! Yêu thuật !
Trong lúc mọi người kêu la om sòm cả lên thì Hoàng Dược Sư từ trong trận rừng trúc ung dung bước ra, kê ống ngọc tiêu vào miệng, thổi lên khúc "Thiên Ma Vũ Khúc".
Tiếng tiêu vừa thoát ra, tiếng huyên náo lập tức im bặt, người thì mắc kẹt trong vòng trận, lẫn người đứng nhìn bên ngoài, tên nào cũng im chân xuôi tay nghển cổ lắng nghe giọng tiêu trầm bổng.
Tiếng tiêu càng lúc càng du dương thúc giục người nghe càng như say mê thoát tục, bao nhiêu ý niệm ác hung hoàn toàn bị giọng tiêu hoán cải sạch trơn, trên mặt mọi người hiện ra nụ cười lương hậu.
Độ giây lâu sau mỗi tên cướp như không còn tự chủ được, tên nào cũng hoa chân múa tay nhãy loạn xị cả lên.
Ban đầu thì vỗ tay đánh nhịp, nhưng tiếng tiêu quái ác càng lúc càng dìu dặt lại càng mau, chân tay của bọn thủy khấu như bị giọng tiêu lôi cuốn, múa may quay cuồng, cười lên sằng sặc, mỗi lúc múa nhãy lại nhanh thêm, không còn ra nhịp điệu bộ pháp gì cả, rồi lăn quay nhau dưới đất, lật lên lộn xuống, gồng mình uốn lưng, làm đủ trò kỳ lạ như lối vũ man rợ của dân mọi ở tận rừng sâu, có kẻ không chịu nổi với giọng tiêu quá kích thích, chúng rú lên những tiếng rùng rợn, hoặc nắm cả tóc mình giựt bừng bực hay cười rống lên như bị cù lét, xé toạt cả áo quần trên bản thân, đứng bên ngoài nhìn vào, ta có thể mường tượng như đang lạc vào thế giới cuồng loạn của người điên.
Điệu Thiên Ma Vũ Khúc của Hoàng Dược Sư vừa tấu, lợi hại phi thường. Thật là nhạc khúc có ma lực câu hồn hiếp phách có thể khiến cho người mê tâm loạn trí, mất cả tánh thường. Lúc ở Hoa Sơn luận kiếm, Xà trận của Âu Dương Phong còn bị tiếng tiêu chàng tấu lên đến phải quay múa đi loạn cơ hồ tan bầy rắn, huống chi đám thủy khấu phàm tục kia ?
Nên khi giọng tiêu của chàng mới trỗi lên nửa khúc của nhạc điệu Thiên Ma Vũ Khúc, là bọn cướp đã nổi cơn phong điên, nhãy cỡn, múa loạn cả lên suốt mấy giờ đồng hồ không nghỉ. Tên nào tên nấy mệt đến há hốc mồm ra mà thở, cho đến sức mòn lực kiệt, mới nằm ngay đơ trên mặt đất, chân tay không còn đủ sức để mà giở lên.
Hoàng Dược Sư nhìn thấy bao nhiêu đồng đảng của bọn Ngũ Hổ Thái Hồ, đều nằm la liệt trong, ngoài rừng tre chàng mới ngừng tiếng tiêu lại, cất tiếng cười ha hả, rồi từ trong Kỳ Môn Bát Trận lững thững bước ra, rảo bước trở về thị trấn, bảo bá tánh trong chợ rằng :
- Bao nhiêu tên cướp đều bị tôi cầm chân cả rồi, chúng nó đang nằm đợi trói tại nơi đám sào tre mà các vị đã thấy tôi cắm lúc nãy đấy. Các vị mau đem dây thừng ra trói bọn chúng đem về đây.
Bá tánh trong Ô Kiều từ sau khi Hoàng Dược Sư mượn năm trăm cây sào tre, bày thành trận pháp, tuy vẫn mua bán làm ăn như thường. Nhưng người nào cũng phập phồng áy náy chẳng yên. Bọn họ không làm sao tin được với năm trăm cây sào tre tầm thường lại có thể ngăn chống được đám giặc cướp hung hăng.
Nên khi đoàn thủy khấu la hét vang trời kéo đến bên ngoài thị trấn, dân cư trong thành sợ quýnh đến phân tiểu bắn vọt ra trong quần, nhưng chỉ thoáng một chút sau tiếng chém giết bỗng ngưng bặt, rồi bên ngoài thị trấn lại vẳng vang tiếng tiêu thâm trầm nảo nuột, dần dần cao vút, khích động như thiên binh vạn mã dập dồn bóng câu.
Mọi người đang phân vân kinh ngạc thì một chốc sau Hoàng Dược Sư ung dung trở về bảo là bọn cướp hoàn toàn xuôi tay chịu trói.
Ai nấy nửa tin, nửa nghi, liền phái vài người can đảm nhất trong đám, ra bên ngoài quan sát sự thật thế nào ?
Một lát sau bọn họ trở về báo cáo cho mọi người biết, nơi đám rừng sào tre lúc nãy, quả đúng như lời vị khách họ Hoàng vừa nói, bọn cướp nằm ngổn ngang khắp nơi, khí giới la liệt cùng đất, chẳng tên nào buồn cầm đến.
Bá tánh nghe nói mừng như trút được gánh nặng ngàn cân, gánh dây vác thừng, hăm hở kéo nhau tới trận địa .
Hoàng Dược Sư trước tiên bước thẳng vào trận, nhổ ngay tất cả sào tre lên, triệt tám Kỳ Môn Bát Trận, sau đấy mới ra lịnh mọi người trói bọn cướp thành xâu dắt về chợ .
Buồn cười cho đám đồ đảng năm cọp Thái Hồ vì bị tiếng tiêu lôi cuốn, nhãy múa quá độ tên nào cũng bị tinh lực hư thoát ra ngoài, kiệt sức mềm nhũn như bún thiu, tha hồ cho mọi người trói buộc, không còn đủ sức mà vật mình ngồi dậy đừng nói chí là vùng vẫy.
Hoàng Dược Sư nhờ mọi người trong trấn, thiết lập một chỗ ngồi nơi khoảng sân trống nơi giữa chợ, dẫn đám người Ngũ Hổ Thái Hồ cùng tất cả đầu mục lớn nhỏ của bọn cướp tập trung nơi đấy. Còn chàng cùng Võ Trọng Thuấn và vài vị hương lão trong trấn bắt ghế ngồi vào giữa sân, đón sau mọi người dắt tên đầu lĩnh của dám thủy khấu đến.
Bạch Các Hồ Thường Thông cùng bốn anh em bị xô xấp trước mặt Hoàng Dược Sư, năm người đưa mắt lườm nhìn Hoàng Dược Sư chớ chẳng chịu quì xuống.
Hoàng Dược Sư "hừ !" nhạt một tiếng và nói :
- Quân cướp chó kia, ta hứa là không thèm dùng khí giới, chẳng động đến quyền cước tay chân mà có thể sanh cầm bọn bây như trở bàn tay. Lời hứa ấy chẳng chút sai ngoa, bọn bây đã sáng mắt chưa ?
Thường Thông quắc nhìn Hoàng Dược Sư rồi ngoảnh đầu chỗ khác chẳng đáp.
Hoàng Dược Sư lại lên tiếng :
- Sao Bọn ngươi chưa chịu phục đấy à ?
Yên Chi Hổ Tử Tứ Anh bỗng mắng to :
- Chẳng biết liêm sĩ ! Mi bất quá chỉ cậy một chút pháp thuật tồi ấy mà sanh cầm được chúng ta, đâu phải mi dùng võ công chân chánh mà đánh ngã bọn ta đâu ? Dù có đem chúng ta giết chết vị tất đã phục mi ?
Hoàng Dược Sư cười to lên và nói :
- Bọn chúng bây ngu xuẩn đến đáng tội ? Ngu quá là ngu !
Cười xong chàng liền sầm ngay nét mặt bảo :
- Với những đầu óc ngu độn như heo của chúng bây, dù rằng ta cố tốn công giải nghĩa cũng chỉ tốn nước miếng mà thôi ! Chúng bây tưởng là ta dùng pháp thuật thật sao ?
Bạch Các Hổ Thường Thông không chút suy nghĩ đáp ngay :
- Người có tâm hảo hớn cứ thả chúng ta ra, ngươi và ta cứ một đấu một, kẻ đao người thương hay ta quyền người cước, lấy chân bản lãnh để đấu chọi nhau quyết định hơn thua. Nếu quả như chúng ta không địch lại ngươi, lúc ấy dù chết anh em ta cũng chẳng dám oán !
Hoàng Dược Sư cười ha hả nói :
- Lấy một chọi một ! Hừm ! Loại nhãi méo như chúng bây đâu có xứng ta ra tay ?
Ông quay sang bảo tráng đinh đang đứng hầu hai bên, ra lịnh :
- Cứ mở giây trói thả năm tên cẩu tặc ấy ra !
Mọi người không khỏi giật mình kinh hãi, cho đến Ngũ Hổ Thái Hồ cũng không kém ngạc nhiên, quên cả mừng rỡ.
Hoàng Dược Sư lại lên tiếng :
- Ta dùng kỳ môn thuật số bắt sống bọn mi. Nhưng bọn mi đần độn như heo hầm, có biết là Khỗng Minh trận đồ đâu, nên cứ đinh ninh là ta dùng pháp thuật ! Ta khoan hồng đại độ đến cùng, thả năm anh em bọn mi ra tự do, giao trả cả binh khí đàng hoàng, chấp tất năm người cùng đấu tranh một mình ta. Như vậy chết cũng mát lòng phải không ?
Võ Trọng Thuấn ngồi phía dưới Hoàng Dược Sư hoang mang lên tiếng hỏi :
- Hoàng tướng công, như... như...như cái bọn ma đầu này chẳng nên cởi trói cho chúng, vì thả chúng nó khác nào thả hổ về rừng, di họa vô cùng cho lương dân. Kẻ quân tử là trọng đức hành thiện nhưng khi trừ ác phải trừ cho sạch.
Y còn định tràng giang đại hải để lý thuyết thêm, thì Hoàng Dược Sư đã cười to gạt ngang :
- Những phường giá áo túi cơm này. Hoàng mỗ tuy bất tài cũng chẳng xem chúng thấm vào đâu ! Dẫu cho năm đứa cùng một lượt tiến thì tôi chỉ cần độc một bàn tay, cũng đủ sức cho chúng lăn quay trở xuống đất, năm tên bị thịt ấy làm sao thoát khỏi kẽ bàn tay của họ Hoàng nầy được.
Bọn Thái Hồ năm cọp, nghe Hoàng Dược Sư nói thế, giận đến chân lông dựng đứng, tay chân như muốn run lên.
Nhân dân Ô Kiều trấn, nghe Hoàng Dược Sư xài xể bọn chớp tồi tệ như thế không nhịn được đồng cười to lên. Mọi người đều tin tưởng ở bản lĩnh Hoàng Dược Sư.
Bạch Các Hổ Thường Thông vừa được tự do liền nhãy dựng lên quát lớn :
- Họ Hoàng kia ngươi hứa là chỉ một cánh tay để đánh bại chúng ta năm người lời ấy nói thật hay là chơi ?
Hoàng Dược Sư cười nhạt đáp :
- Đại trượng phu nói ra là phải làm, đâu có lý nói xong lại nuốt lời được chứ ! Cứ việc ra tay đi !
Chàng quay sang bảo tráng đinh trong trấn :
- Hãy đem khí giới ra giao trả bọn chúng !
Đám tráng đinh dạ lên một tiếng quay nhau chạy đi, một chốc sau đã vác năm món khí giới của Thái Hồ Ngũ Hổ vứt xuống trước mặt năm con hổ.
Bạch Các Hổ Thường Thông sử dụng một đôi "Điểm cang lang nha hổ" , hình dáng cổ quái như một cặp nồi chơm chởm răng sói bằng gang phía bên trên.
Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân thì cây gậy đuôi beo ba ngấn tên là "Báo vi tam tiệt bổng".
Xích Mao Hổ dùng cây đao có vân vảy cá, sống dày cộm gọi là "Ngư lân đao".
Thương Diện Hổ lăm le cây Nga Mi Thích.
Riêng khí giới của mụ cọp cái Yên Chi Hổ Tử Tú Anh thì rất đặc biệt, tay trái cầm cây đồng chùy "Thất tinh vận hoa biện", tay phải múa may một mặt thuẩn bài bằng đồng, hình dáng như trái tim người, trên mặt thuẩn lại tua tủa chín cái móc nằm ngược, sáng láng nhọn lểu.
Hoàng Dược Sư đối với những món binh khí kỳ quái của đám Ngũ Hổ, chẳng buồn để mắt đến, lại còn cười khinh thị và bảo :
- Cứ việc cầm khí giới ra tay cho rồi ! Đừng diên trì một thời gian nào nữa, ta chưa có hột cơm nào vào bụng cả !
Thái Hồ Ngũ Hổ thấy Hoàng Dược Sư tỏ vẻ "Mục hạ vô nhơn", giận đến tím gan muốn nổ ra ngoài lồng ngực.
Yên Chi Hổ Tử Tú Anh tánh nóng như lửa, múa tít khí giới trong tay, đồng thời mở miệng quát mắng :
- Xông đến cho rồi, thử xem thằng nào hạ thằng nào cho biết !
Hoàng Dược Sư chẳng thèm trả lời, lại quay sang bảo đứa bé Võ Hồng Quang đang đứng bên cạnh :
- Này cháu ngoan ? Đem sợi dây lại cho ta !
Mọi người chưa hiểu ra sao.
Nhưng Võ Hồng Quang rất khôn ngoan lanh lợi, cậu đã hiểu Hoàng Dược Sư định làm gì rồi, nên cười hịch hạc, mau chân đi lượm sợi dây trói bọn cướp lúc nãy đưa đến.
Hoàng Dược Sư khoanh tay phải ra sau lưng và bảo :
- Giúp ta cột cánh tay nầy .
Ai nấy mới hiểu là Hoàng Dược Sư giữ đúng lời cam kết, chỉ dùng một tay để đấu với năm cọp của Thường Thông, mọi người không khỏi ngạc nhiên đến há hốc mồm ra.
Cậu bé Hồng Quang tánh ý vẫn còn con nít vừa cười khúc khích vừa trói quặt cánh tay Hoàng Dược Sư dính vào sau lưng của chàng.
Chờ đâu đó xong xuôi, Hoàng Dược Sư liền nhãy rời khỏi chỗ ngồi, quát lớn :
- Năm người chúng bây tha hồ một lượt xông đến đây tấn công ta mà không được làm hại người bên ngoài. Nếu bọn bây giận cá chém thớt, giận lấy bá tánh vô tội đương xem kia thì... Hừm ! Hừm ! Lúc ấy đừng trách ta ra tay độc ác ?
Xích Mao Hổ Hoắc Đại Cang và Thương Diện Hổ Tiêu Tín, đã bị
Hoàng Dược Sư hạ rồi một keo nên biết rõ kẻ thù địch trước mặt võ công cao diệu khó thể lường được.
Chờ Hoàng Dược Sư dứt lời, lẳng lặng rút phăng thanh Ngư Lân Đao chém xả vào hông đánh chéo qua lưng Hoàng Dược Sư theo thế "Nhạn dực trì tiển" (Chim nhạn chuyển cánh), làn đao xé rít không khí kêu vù một tiếng.
Tiêu Tín thấy Xích Mao Hổ đã ra tay, y cũng thâu thập can đảm , cặp Nga Mi Thích phân thành hai phía tả hữu tấn công vào hai hông của Hoàng Dược Sư nhanh như cắt.
Hai người bất thần phát động thế công, tưởng như thế đã mau lắm rồi, nào ngờ bóng xanh trước mắt thấp thoáng hoa lên, tiếp theo đấy là tiếng hú lảnh lót.
Hoàng Dược Sư đã từ trong kẽ hở của khí giới hai người, uyển chuyển lẹ làng như một con rắn nước luồn tuốt ra ngoài xa cách đấy dư hai trượng.
Yên Chi Hổ Tử Tú Anh lập tức quát to một tiếng :
- Tặc tử chạy đi đâu !
Miệng quát tay phải thuẫn bài đã vung lên, đồng thời đồng trùy bên tay trái cũng đập trở xuống đánh vút vào người Hoàng Dược Sư lẹ như cơn gió lốc.
Nhị hổ bỗng hoảng hốt la to :
- Tẩu tẩu coi chừng phía sau lưng !
Nhưng Hoàng Dược Sư đã nhanh như một bóng ma, vút một cái đã vượt đến phía hậu của Yên Chi Hổ lẹ vươn cánh tay trái chộp được mớ tóc mây phía sau ót của mụ cọp cái giựt mạnh một cái.
Tức thì "bộp !" một tiếng, Tử Tú Anh đã nhào lộn mèo xuống đất, văng xa khỏi đấy hai trượng, quần áo dính đầy cát đất, hai món binh khí cũng văng ra hai nơi xa lắc ngoài bảy tám bước.
Bạch Các Hổ thấy vợ mình bị nhục đến thế, nổi giận bốc ngất trời xanh, quên cả sợ hải lúc ban đầu, phi thân nhãy vút đến, hai cái chùy "Điểm can lang nha tọa" phân ra hai phía tấn công vào hai huyệt Phong Thị và Kiên Dụ của đối phương, hai trái chùy "Điểm can tang nha tọa" ấy hình dáng nhọn như cây bút lớn có thể vừa sử dụng như khí giới lại điểm huyệt như ngọn bút lông lợi hại rất mực.
Trong mấy năm ngang dọc giang hồ làm tên cướp biển, Bạch Các Hổ Thường Thông đã nhờ đôi chùy cổ quái ấy hạ ngã tất cả đám thủy khấu trên khắp sông hồ.
Nhưng hôm nay xui xẻo gặp phải Đào Hoa đảo chủ, tỷ như hòn đá bên cạnh ngọn Thái Sơn, hai cặp tạ cũ ấy vừa đâm thốc vào lưng của Hoàng Dược Sư. Chàng không những chẳng thèm đở tránh mà trái lại lại còn ưởn lưng ra hứng đòn.
Thật là một quái tượng ngoài ý liệu của Bạch Các Hổ, cặp tạ đánh trúng vào lưng của đối phương kêu "phịch !" lên một tiếng, nhưng y liền cảm thấy nơi đầu ngọn tạ chạm vào da thịt đối phương như đánh lên phải một vật trơn tuột lờn nhờn như chất dầu, bay trợt ra phía ngoài, suýt chút nữa là vuột cả binh khí đang cầm nơi tay.
Hoàng Dược Sư thoắt một cái đã qua người trở lại, tay trái lẹ như chớp đớp vào mặt Thường Thông một bạt tai tá hỏa tam tinh.
Vừa vặn cây gậy ba ngấn của Nhị Hổ Tang Nhân quét vòng dưới chân tấn công tới.
Hoàng Dược Sư nhẹ nhàng nhấc chân tung mình lên cao, nhường cho ngọn gậy quét qua rồi sử dụng ngay ngọn cước Tảo Diệp Thố, vung chân đá vào ngấn giữa của cây gậy đuôi beo, khiến Tang Nhân cả người lẫn gậy bay là là ra khỏi vòng đấu hơn bảy tám bước, té phịch trên mặt đất như thiên lôi rớt xuống .
Hoàng Dược Sư liên tiếp trong khoảnh khắc hạ luôn năm cọp, chỉ với một cánh tay trái còn cánh tay phải vẫn y nhiên bị buộc chặt sau lưng bất động.
Năm tên đầu lĩnh Ngũ Hổ lớp ngóp bò dậy, hùng hổ xông trở lại tấn công, quyết một mất một còn với Hoàng Dược Sư để rửa hận.
Tang Nhân, Đại Cang, Tiêu Tín múa tít khí giới lăn xả vào đâm chém như cọp điên.
Thường Thông cũng vung tròn đôi lang nha tọa tung mình nhãy đến, Ngũ Hổ với năm loại binh khí khác nhau trên tay bao chặt Hoàng Dược Sư vào giữa, tấn công tới tấp như mưa rào.
Hoàng Dược Sư cười lên ha hả, tung mình thoăn thoắt giữa bóng binh khí, tay trái chọt một cái thì đoạt thanh dao dày cộm của Xích Mao Hổ, chân hữu như làn sao xẹt, bung trở ra đá Thương Diện Hổ lộn nhào ra khỏi trận.
Tuy đoạt được khí giới của Hoắc Đại Cang nhưng Hoàng Dược Sư chẳng thèm đem ra đở gạt. Chàng cười một tiếng ném mạnh thanh đao lên trời, tiếp theo đấy dùng ngón tay búng nhẹ vào hướng cây đao đang còn lưng chừng ở khoảng không.
Tức thì ngọn đao tựa như mũi tên lìa ná xẹt đi vun vút, lao nhanh về phía Bạch Các Hổ.
Thường Thông hốt hoảng vội vung cây lang nha tỏa định gạt văng mũi đao của Hoàng Dược Sư bắn tới kia.
Nào ngờ Hoàng Dược Sư đã áp dụng Thiền Chỉ thần công, nên thế mạnh của ngọn đao bằng như một mũi tên bo cây cứng "ba thạch" bắn ra sức lao đi như hòn núi đổ nghiêng.
Nên vừa nghe "kinh" "coong" hai tiếng chát chúa , Thường Thông tuy gạt được ngọn đao rơi xuống đất, nhưng hai cánh tay đã tê chồn nhức nhối, hổ khẩu tay đau buốt như kim chích phải, mũi đao lướt qua sát cánh tay cắt đứt miếng lớp áo bên ngoài.
Bạch Các Hổ kinh sợ đến mồ hôi tuôn ướt trán.
Đào Hoa đảo chủ một tay nghênh địch, qua mấy chiêu đầu tay đã làm bọn Ngũ Hổ Thái Hồ, thất điên bát đảo, té bò lổm ngồm, theo lý bọn chúng nên nhận thua mới phải.
Nhưng năm cọp miền Thái Hồ là một bọn vong mạng, quen thói liều lĩnh, tánh nết hung hăng dử tợn, tuy bị té u đầu sứt trán vẫn hùng hổ xông đến quyết hơn thua .
Hoàng Dược Sư cả giận quát lên như sấm :
- Quân giặc chó, cho chúng bây nếm đủ mùi làm chó rồi, giờ đây ta không còn nương tay nữa đâu !
Tiếng quát chưa dứt, bóng xanh đã thoắt một cái như trận gió nhãy sát đến bên Thường Thông.
Bạch Các Hổ ớn lạnh cả sống lưng không dám vung đôi tạ lang nha ra chống đối, mà định rùn thấp xuống dùng "Địa đàn công" để lăn thoát đi nơi khác.
Nhưng thủ pháp của Hoàng Dược Sư nhanh không thể tả, lẹ như chớp tay trái vung ra, chưởng thế tuy nhẹ nhàng phiêu phưỡng chẳng chút dùng sức, kỳ thật khi nhấc tay ra chưởng đã khéo léo ngầm vận sức mạnh, chiếc đầu lâu của Bạch Các Hổ lẫn cả một khúc cổ, bị chặt ngọt xớt như đao tiện, máu tươi như suối trào, vọt phún lên trời.
Tang Nhân thấy đại đầu lĩnh vong mạng, hồn phi phách tán ném phăng hai ngọn Nga Mi Thích định chuồn ra ngoài trận, nhưng y vừa sắp nhãy vút ra khỏi vòng đấu, thì Hoàng Dược Sư nhanh trong nháy mắt phi thân đến nơi vươn tay trái ra chộp cứng lấy áo đối phương, tung bổng lên trời, thân hình của Tang Nhân như một quả khí cầu, bay lộn trên ba trượng cao mới rớt trở xuống đất đánh thịch một tiếng như trái mít rụng.
Thế ném của Hoàng Dược Sư rất xảo diệu, nên khi Tang Nhân rơi xuống đất, đầu trước chân sau chỉ kịp rống lên một tiếng hãi hùng là xương sọ bể nát, óc phọt đầy trên mà đất, trông thật rùng rợn.
Trong Ngũ Hổ Thái Hồ lợi hại nhất là Thường Thông thứ nhì là Tang Nhân, nhưng chỉ vỏn vẹn chẳng tới hai hiệp đã bỏ mạng vì tay của Hoàng Dược Sư.
Ba cọp còn lại là Thương Diện Xích Mao và cả cọp cái Tử Tú Anh, sợ đến gan ruột chạy tuột xuống chân, không hẹn, đồng hè thi nhau chạy trốn.
Nhưng Hoàng Dược Sư đâu dễ buông tha, vừa quăng xong Tang Nhân là đã nhãy bay tới, tay trái một chưởng, vỗ trúng thiên linh cái Xích Mao Hổ, xương đầu y nát, té bịch trên mặt đất, dãy dụa mấy cái đã theo chân đồng bọn chu du xuống địa phủ.
Chân trái của Hoàng Dược Sư cũng đồng thời đưa lên, vít một đá vào hông Tiêu Tín, khiến nội tạng của y hoàn toàn bể nát, thế là trước sau bốn hổ đều chết dưới bản lĩnh quán tuyệt của Hoàng Dược Sư.
Trong Ngũ Hổ chỉ còn sót một hổ cái Tử Tú Anh, tuy bản tánh hung hăng, nhưng trước cái chết khủng khiếp của chồng và ba vị đại đầu lĩnh khiến mụ ta xác chẳng còn hồn, mặt mày tái mét như kẻ chết đuối !
Mụ cố cắn răng mím môi vung ngọn chùy "Cửu Diệp Liên Hoa" liệng ra, tức thì từ những cánh hoa sen trên đồng trùng liền quay tròn chuyển động bay vút ra năm mũi ám khí, tấn công vào ngũ quan thất khiếu của Hoàng Dược Sư.
Ngọn đồng trùng, Cửu Diệp Liên Hoa của Yên Chi Hồ, bên trong ruột trống phỗng dùng để giấu năm mủi tên nhỏ bằng gang, tẩm thuốc độc cực mạnh, gặp máu là hít cứng chẳng rời.
Lúc chẳng dùng đến thì để yên trong lòng trái chúng, nếu khi gặp phải cường địch chỉ cần buông ngay cán chùy, chín cánh hoa nơi đầu chùy lập tức chuyển động và bung ra, những mũi tên độc từ bên trong tự động bay vút ra ngoài.
Môn công phu đồng chùy kẹp ám khí ấy, mười phần ám độc lợi hại. Yên Chi Hổ đã dùng tuyệt kỷ ấy sát hại vô số hảo hán trên chốn giang hồ, nhưng y thị dùng món ám khí âm tổn ấy để hại mạng Hoàng Dược Sư, có khác nào là dã tràng xe cát !
Khi tên độc vừa bay thoát ra ngoài, Hoàng Dược Sư nhẹ nhàng phất tay áo xanh lập tức có một luồng cương khí bay tới đẩy bật những mui phi độc châm quay mũi bay trở lại và lạ lùng thay năm mũi tên độc ấy như năm con rắn linh động bay đúng tai, mắt, mủi họng của Yên Chi Hồ khiến nàng rú lên một tiếng thảm thiết rồi té nhào trên mặt đất.
Kể ra ả nữ tặc ấy cũng khá hào hùng vừa ngã nhào xuống mặt đất y thị liền giơ ngọn đồng chùy lên tự bổ vào đầu mình liền hai cái "bộp ! bộp !", tử tiết theo chồng để tránh nhục nhã.
Hoàng Dược Sư hạ luôn một hơi Ngũ Hổ xong, mặt chẳng đổi sắc, tay phải vung một cái giựt đứt tất cả dây trói và gọi lớn :
- Kéo những tử thi này ra phía ngoài, đào đất chôn cho khuất mắt !
Mọi người thấy Hoàng Dược Sư, chỉ nhẹ nhàng nhấc tay giơ chân có mấy lượt mà giết tan bầy cọp dử trong Thái Hồ dễ dàng còn hơn người ta xắt rau lạng thịt, người nào cũng khiếp đảm kinh hồn, ghê sợ cho bản lĩnh quá sức cao diệu của vị khách áo xanh lạ lùng kia.
Võ Hồng Quang tuy còn bé nhưng khôn ngoan bạo dạn khác thường, vội chạy ra chỉ huy mấy người tráng đinh dùng chiếu bó thân bọn cướp đem ra mai táng bên ngoài bãi tha ma.
Mấy vị hương lão liền cung kính vòng tay hỏi Hoàng Dược Sư :
- Dám hỏi Hoàng ân công còn mấy tên giặc kia thì sao ?
Hoàng Dược Sư bực dọc khoát tay bảo :
- Đám cẩu tặc ấy đâu đáng cho ta ra tay trừng trị. Đem giải tất cả lên quan trị tội được rồi !
Mọi người vâng dạ chẳng dám trái lời.
Hoàng Dược Sư trở về nhà Võ Trọng Thuấn, một lát sau Võ Hồng Quang cũng về đến nơi chạy ù vào tìm Hoàng Dược Sư báo cáo :
- Thưa Hoàng lão gia, năm tử thi của Thái Hồ Ngũ Hổ đã chôn cất xong xuôi rồi !
Hoàng Dược Sư mỉm cười, lấy tay xoa đầu Hồng Quang và nói :
- Cháu giỏi lắm, thông minh lắm, ta nhận cháu làm đồ đệ đem đến một nơi đẹp đẽ tuyển tập võ nghệ chịu không ?
Hồng Quang chưa tỏ ý khẩn cầu, được Hoàng Dược Sư gải đúng chỗ ngứa của mình, mừng rỡ ra mặt, vội quì ngay xuống vập đầu xuống đất vái lấy vái để .
Võ Trọng Thuấn đứng cạnh thấy Hoàng Dược Sư chịu nhận cháu mình làm đồ đệ, sung sướng cười lên ha hả, nói :
- Hoàng tướng công định thâu nhận cháu tôi làm môn hạ thật sao ? Vậy không biết lão ân công luyện công phu thuộc về môn phái nào, và động phủ ở nơi đâu ?
Hoàng Dược Sư chỉ cười mà không đáp, lại quay hỏi Hồng Quang :
- Này con, nơi đây con có làm gì không ? Có thiếu vật gì của ai chăng ?
Hồng Quang lắc đầu đáp :
- Thưa sư phụ, không có !
Hoàng Dược Sư gật đầu đáp :
- Thế thì được lắm, bây giờ chúng ta nên khởi hành là vừa !
Võ Trọng Thuấn nói :
- Hoàng lão sư, ông...ông...
Đào Hoa đảo chủ liền quàng tay phải cặp gọn Võ Hồng Quang vào nách rồi thoắt một cái đã nhãy qua khỏi mấy căn nhà, thấp thoáng lúc nhãy lúc đáp thêm mấy lượt nữa, tông tích chàng đã biến mất vào rừng cây um tùm !
Võ Trọng Thuấn lòng đau như cắt vì thương nhớ cháu thơ.
Bá tánh trong trấn Ô Kiều dụm năm dụm ba kề tai phụ nhĩ, mọi người đều cho Hoàng Dược Sư là thần tiên giáng phàm để cứu nguy cho nhân dân thôn ấp.
Đào Hoa đảo chủ sau khi cắp Võ Hồng Quang vào nách, liền phi
thân vun vút lìa khỏi Ô Kiều trấn.
Chỉ trong một ngày một đêm đã vượt trên tám trăm dặm lộ trình.
Bước vào miền duyên hải của khu vực Triết Đông.
Hoàng Dược Sư mới để Võ Hồng Quang xuống đất rồi nói :
- Đến chỗ địa đầu rồi !
Võ Hồng Quang nhìn ra biển cả xanh ngát, bàng hoàng hỏi :
- Thưa sư phụ, nhà của sư phụ trên biển cả này phải chăng ?
Hoàng Dược Sư gật đầu đáp :
- Đúng ! Nhà của ta trên một hải đảo giữa biển Đông, con đứng chờ ở đây, đợi sư phụ kiếm thuyền, thầy trò ta cùng quá giang.
Võ Hồng Quang liền ngồi xổm trên mỏm đá dựa bờ biển.
Hoàng Dược Sư men theo bờ biển đi ngược lên độ ba bốn dặm thì bỗng nhìn thấy trên một biển nhấp nhô một thuyền nan mỏng manh không chèo không lái, trôi xuôi theo giòng hải lưu.
Hoàng Dược Sư lẩm bẩm tự nhủ lấy mình :
- Nơi đây sao lại có chiếc thuyền lạc lõng vô chủ như thế ? Lạ thật !
Chàng ước định chiếc thuyền ấy cách xa bờ biển không xa liền ngầm vận cương khí, hai tay cung lại thành hình bán nguyệt, đưa thẳng ra ngoài rồi từ từ cuốn trở vào lòng.
Hoàng Dược Sư với cách thức vừa rồi chính đã dùng thần công của Phách Không Chưởng, tức thì chiếc thuyền đang trôi băng theo chiều nước, bỗng xoay tròn một chỗ đoạn từ từ theo tiềm lực của vòng tay Hoàng Dược Sư, nhích dần vào bờ như bị một sức hút vô hình giữ phải vậy.
Hoàng Dược Sư đưa mắt nhìn vào khoang thuyền, bất giác giật mình đánh thót như bị điện giựt.
Thì ra trong chiếc thuyền nan ấy có một thiếu nữ áo hồng đang nằm thiêm thiếp, tuổi độ mười bảy hay mười bốn gì đó, mặt úp xuống khoang thuyền nên không thấy rõ dung nhan nàng ra sao.
Hoàng Dược Sư cau mày nghĩ ngợi, đoạn quay đầu kêu Võ Hồng Quang :
- Hồng Nhi, lại đây mau .
Hồng Quang liền nhãy khỏi mỏm đá, chạy bay đến nơi Hoàng Dược Sư đang đứng, cậu lõ mắt nhìn vào chiếc thuyền, thất thanh la lên :
- Ủa ! Sao trong thuyền lại có một cô gái đang nằm, nàng là người nào vậy ?
Hoàng Dược Sư nói :
- Con xuống bồng nàng ấy lên bờ đi !
Võ Hồng Quang giật mình hỏi :
- Thưa sư phụ, con làm sao ẵm nàng lên được ? Vì ông con ở nhà thường răn dạy, nam nữ thọ thọ bất thân, đệ tử thật không dám vượt lễ nghi đâu !
Hoàng Dược Sư nghiêm sắc mặt đáp :
- Nói xàm, cái gì nam nữ thọ thọ bất thân, thầy rất ghét lối đạo đức giả ấy, một con người chỉ cần tâm địa quang minh, hà tất câu thúc theo lối lễ nghĩa trống rỗng ấy ?
Võ Hồng Quang nghe sư phụ nói thế, không dám cãi lý, chỉ đành bước xuống be thuyền ẵm xốc nàng thiếu nữ ấy lên bờ, thấy nàng ta sắc diện tái trắng, nơi gáy có một vết thương sâu, vết máu chưa khô, trên tay cũng bị thương tích, nói chẳng ra hơi. Tình cảnh xem ra cô rất tiều tụy khổ sở, nhưng mắt mũi cân xứng, môi tím má hồng, chứng tỏ một sắc đẹp kiều diễm hơn người.
Hoàng Dược Sư nhìn thấy dung mạo của thiếu nữ đang bất tỉnh kia, không hiểu vì sao, trống ngực nhãy lên phập phồng khác thường.
Võ Hồng Quang để thiếu nữ nằm nhẹ xuống đất và nói :
- Sư phụ nàng thiếu nữ này có phần kỳ bí lắm, tại sao một mình nàng chơ vơ trên thuyền ! Trên người lại bị thương, mà thuyền thì không có buồm có chèo, tự dưng lại trôi đến nơi đây được chứ ?
Hoàng Dược Sư chẳng bận đáp lời, thò tay vào túi móc ra một bình nhỏ bằng ngọc trong bình đựng đầy ngãi nhung, chàng bèn cẩn thận lấy ra một cọng ngãi nhỏ tí như sợi tơ nhung, đánh lửa đốt lên kê vào mũi thiếu nữ, sức mạnh của hương thơm ngãi nhung quả kỳ diệu, nàng thiếu nữ liền hách xì lên mấy cái, rồi từ từ mở mắt ra .
Nhưng kể cũng lạ, thiếu nữ tuy tỉnh hẳn, mắt đà mở lên trao tráo mà hơi thở yếu nhẹ như tơ, đôi môi anh đào mấp máy không ngớt, nhưng nói chẳng ra lời.
Võ Hồng Quang bèn nói :
- Sư phụ, chúng ta đã cứu nàng tĩnh dậy rồi nhưng cô ta không nói chuyện được, chắc không xong quá ?
Hoàng Dược Sư nghiệm giọng đáp :
- Nói bá láp ! Thiếu nữ này chỉ không nói chuyện được, chứ không bị thương, xem tình cảnh của nàng thì ít nhất ba ngày rồi chẳng ăn uống được vật gì, nên quá đói mà nói chẳng thành tiếng.
Hồng nhi con giúp cô ta tìm vài món ăn uống đở lòng đi.
Võ Hồng Quang ngần ngừ và nói :
- Bờ biển hoang liêu, nhà cửa chẳng có, tìm đâu cho ra thức ăn uống
Hoàng Dược Sư sầm mặt lại đáp :
- Bảo ngươi tìm chút thức ăn uống, ngươi lại nầy nọ kia khác đủ chuyện, cho đến một sự cỏn con mà làm chẳng xong còn xứng đáng làm đồ đệ ta được chăng ? Về nhà đi cho rảnh mắt ta !
Hồng Quang quýnh quít tay chân dạ liền :
- Vâng ! Vâng ! Thưa sư phụ, con xin làm ngay !
Nói xong cậu bé ngoắc mình chạy cong một hồi, trong lòng thầm nghĩ :
- Vị sư phụ này tánh tình lạ thường lại hay tị hiềm giận dỗi không đâu, tuy mình đã bái nhận người làm thầy, nhưng e khó mà làm học trò ông ta được !
Võ Hồng Quang chạy ù một hồi bảy tám dặm đường, thấy phía trước mặt có hơi khói bay lên.
Võ Hồng Quang ngầm kêu lên mừng rỡ :
- Xấu hổ thật ! Phía trước có khói tất có người ở, mà có người ở là chắc hẳn phải có thức ăn uống cho sư phụ rồi . Mình cứ một hai từ chối chẳng chịu đi, xấu hổ thật !
Hồng Quang nhanh thêm bước chân, nhắm phía có làn khói tỏa chạy tới, quả như y diệu, phía trước hiện ra hai căn nhà tranh, khói trắng từ đỉnh nhà bốc lên nghi ngút chứng tỏ là bên trong có người đang nấu nướng gì đó.
Hồng Quang cau mày lẩm bẩm một mình :
- Xem bề thế của căn nhà tranh này, chủ gia nhất định là một nông dân, người trong nhà nấu cơm có lẽ để đem lên ruộng ăn, ta làm cách nào mà xin cho được đây !
Lầm bầm đến đây cậu bé sực nhớ trong túi còn chút ít bạc vụn,mừng rỡ kêu lên :
- À ! Có rồi, tiền còn qua mặt được thánh thần, ta dại gì mà dùng tiền mua lại phần cơm của họ ! Ư hứ !
Nghĩ xong, cậu bèn vuốt lại nếp áo sửa bộ nhu mì bước vào ngạch cửa của nông gia ấy và lớn tiếng chào hỏi hết sức lễ phép :
- Thưa chú, thưa thím !
Cậu bé liên tiếp gọi lớn mấy tiếng, bên trong mới có một người đàn bà quê mùa bước ra đầu rối áo thôi, thấy Hồng Quang là một đứa trẻ bèn hỏi :
- Ủa ! Cậu nhỏ kia, từ đâu đến vậy ! Xem ra cậu chẳng phải là người của bổn thôn, làm gì mà đứng trước cửa nhà tôi kêu om sòm lên vậy ?
Hồng Quang vội móc bạc ra trao tận tay thiếu phụ quê mùa và nói :
- Thưa thím, trong bếp thím hiện có sẵn cơm canh nấu rồi, thím vui lòng nhường lại cho, tôi có người bạn đang...
Cậu bé chưa nói dứt lời, thiếu phụ quê mùa đã lắc đầu lia lịa trả bạc lại và nói :
- Không được đâu, cơm này tôi để đem lên ruộng cho chồng tôi ,
không thể bán cho cậu em được , cậu em đi nơi khác vậy, phía trước cách đây mười dặm đường có một quán cơm vào đó mua tiện hơn !
Nói xong y thị đầu chẳng thèm quay lại ngoe nguẩy đi vào một nước.
Hồng Quang bị thất vọng tưng hửng đứng trơ một chỗ nửa khóc nửa cười.
Mụ nhà quê chẳng chịu nhường phần cơm nước lại cho mình lại bảo đến quán cơm cách đây mười dặm mua, nhưng cậu bé đã chạy một đổi đường dài bảy tám dặm, đã lết bết hai chân, đâu còn sức mà chạy thêm mười dặm nữa. Vả lại bận đi bận về trên chục dặm đường !
Nhưng Hồng Quang vốn là một đứa bé thông minh, cậu ta nháy mắt mấy cái đã suy nghĩ ra được một kế vỗ tay mừng rỡ nói lấy mình :
- Ai bảo bà thấy tiền chẳng thèm, tôi sẽ có cách cho bà biết tay.
Hồng Quang nói xong, liền cúi đầu chui ra phía sau nhà ngó quanh bốn phía chẳng thấy ai, liền đánh đu lên cửa ghé mắt nhìn vào, quả nhiên không ngoài ý liệu, nơi đây là một gian nhà bếp nhỏ và thiếu phụ lúc nãy đang bới cơm múc canh, để vào một chiếc giỏ tre.
Hồng Quang chọn hai cục đá to bằng nắm tay, khẽ với tay nhắm ngay ơ canh đang sôi quăng vào đánh bỏm một tiếng, nước canh trong ơ văng tung toe bắn cả vào mặt thiếu phụ, khiến y thị tá hỏa tam tinh, thất thanh kêu lên như bọng :
- Ái cha !
Y lại quay mắng chửi toáng lên :
- Đồ tiểu yêu chết tử chết tuyệt này dám ghẹo đến cả gái xề này !
Y thị giận đến thở lên hồ hào, rút bên lò ra thanh đũa bằng sắt, tuôn ra khói cửa nhà bếp, miệng láp dáp chửi như mắc thằng bố, chân lẹp bẹp như con vịt xiêm, đuổi thẳng ra khỏi nhà, nhưng chẳng thấy bóng ai.
Hồng Quang thấy thiếu phụ đã trúng kế mình, trong bụng tức cười thầm, hai tay đẩy cửa xong lịch sang bên nhãy tót vào trú phòng, một tay xách gọn giỏ đồ ăn, thuận tay còn rút một mớ củi đang cháy đỏ trong lò rãi đầy trước cửa nhà bếp đoạn ta to lên :
- Không xong ! Có trộm ! Mau bắt trộm bớ người ta !
Thiếu phụ quê mùa kia, một trăm phần cũng không ngờ Võ Hồng Quang gạt gẫm mình, cứ ngỡ trẻ hàng xóm nghịch ngợm, quăng đá vào nhà, vừa đưa lại lọt ngay cả canh, văng lên phỏng cả đầu cổ mình, không khỏi nổi giận xung thiên định chạy thẳng ra ngoài chộp đầu đứa bé nghịch ngợm dần cho một trận .
Nào ngờ vừa chạy ra khỏi cửa nghe trong nhà bếp của mình có tiếng kêu trộm inh ỏi, hốt hoảng chẳng cùng, vội hấp tấp chạy bay trở về .
Ngờ đâu mới chạy về đến cửa đạp phải những tàn lửa của những khúc củi đang cháy đau quá nhãy lên choi chói, ôm lấy bàn chân xuýt xoa rên to :
- Ái cha ! Ái cha !
Hồng Quang thừa lúc thiếu phụ ngồi xổm dưới rên rỉ như bọng, liền xách chiếc giỏ đựng cơm canh chạy dông một hơi mất .
Hồng Quang dùng kế đoạt được giỏ cơm canh của thiếu phụ, mừng rỡ chạy bay trở lại biển, thấy Hoàng Dược Sư đã đở thiếu nữ lúc nãy lên ghềnh đá, lại bảo nàng ngồi xếp bằng, dựa mình vào lòng mình.
Hoàng Dược Sư thấy Võ Hồng Quang xách giỏ đồ ăn chạy trở về , trên mặt không khỏi lộ vẻ tươi cười.
Hồng Quang chạy một hơi đến trước mặt sư phụ, mới đặt giỏ đồ ăn xuống và nói :
- Thưa sư phụ !
Hoàng Dược Sư khoát tay bảo :
- Khỏi thuật lại, thấy dạng của con, thầy đã dư biết giỏ cơm canh này nếu chẳng phải trộm thì cũng là giựt mà đem về đây.
Nhưng không sao ! Đệ tử Đào Hoa đảo của chúng ta, chỉ trọng thực danh mà không câu nệ tiểu tiết, trộm cũng được mà giựt cũng xong chỉ cần đừng sát nhân hại mạng là đủ rồi, mau đem đến đây .
Võ Hồng Quang đinh ninh là ít nhất sư phụ cũng quở trách vài lời, nào ngờ sự việc lại trái hẳn, sư phụ còn tỏ ý khen tặng khích lệ nữa là khác !
Hoàng Dược Sư nói xong liền mở nắp giỏ tre ra, thấy bên trong là một tô canh cải trắng nấu đậu hũ, cùng một thố cơm tấm trắng, hơi còn nóng nghi ngút.
Hoàng Dược Sư liền chan canh vào cơm, thổi cho nguội nhúm từ nhúm nhỏ đút vào miệng thiếu nữ.
Nàng con gái vì quá đói quên cả vết thương trên cổ, ăn một loáng đã vơi hết nửa phần cơm canh trong giỏ, nước da trắng tái mới có chút sinh khí phơn phớt đỏ trở lại, nàng lờ đờ bất lực mở mắt ra rồi khóc và kêu lên :
- Mẹ ơi !
Hoàng Dược Sư thót giật mình thầm nghĩ :
- Té ra nàng còn cả cha mẹ, nhưng chẳng hiểu tại sao lại một thân một bóng trôi dạt trên biển cải mà trên cổ lại bị thương, chẳng hiểu do nguyên nhân nào gây ra ?
Chàng bèn dịu dàng hỏi :
- Tiểu cô nương, cô tỉnh lại đi, nơi đây là bờ biển, cha mẹ cô ở đâu ? Tại sao cô phải ra nông nổi này ? Có thể cho tôi biết được chăng ?
Thiếu nữ nghe Hoàng Dược Sư hỏi văng vẳng bên tai, thần trí có phần khôi phục trở lại, nàng mở mắt nhìn thấy có một vị thư sinh trung niên anh tuấn, phong cách tiêu sái cùng một chú bé mặt mũi sáng sủa đứng gần bên mình, nàng bỗng khóc ồ lên và nói :
- Quân cường đạo ác nhân thất đức kia đã giết chết cha mẹ tôi rồi !
Nói xong khóc lên tức tưởi rất bi thương.
Hoàng Dược Sư thầm kinh hãi, té ra cha mẹ nàng đã bị cường đạo sát hại, chàng tình cờ gặp phải chuyện bất bình này, không thể bỏ qua mà chẳng can thiệp, nhưng nàng cứ khóc lóc mãi biết làm cách nào đây ?
Võ Hồng Quang vọt miệng nói :
- Sư phụ, nơi đây chẳng phải là chỗ nói chuyện, thầy trò ta nên dìu nàng tìm một nơi nào có nhà cửa nghỉ ngơi, đợi lúc nàng bình phục hẳn tính chuyện sau !
Hoàng Dược Sư khẽ gật đầu tán đồng :
- Có lý ! Thầy quên mất vết thương trên cổ của nàng !
Nói đoạn chàng móc ra một hoàn thuốc kim thương, đắp vào vết thương trên cổ nàng, sau đấy bảo Võ Hồng Quang :
- Đồ đệ hãy cùng nàng vào bờ, tìm nơi nào có nhà cửa dân cư tạm cho nàng nghỉ ngơi đôi ngày.
Hồng Quang trù trừ đáp :
- Cái ấy, cái ấy...khó quá vì cô ta là con gái !
Hoàng Dược Sư sầm mặt lại quát :
- Người lại giở giọng cũ rồi ! Lễ giáo đâu phải áp dụng cho hạng chúng ta ! Một con người chỉ cần tâm địa quang minh, cần gì phải khư khư theo lối cổ hủ nam nữ thọ thọ bất thân rỗng tuếch ấy !
Võ Hồng Quang thấy sư phụ sắp nổi giận hoảng hốt líu lưỡi dạ luôn miệng, vội khom người xuống xốc thiếu nữ lên lưng cõng nàng trở lại hướng có nhà cửa mà cậu đã trộm thức ăn lúc nãy, khoảng khắc sau là đã đến nơi cũ.
Thật là oan gia gặp gỡ giữa đường, thiếu phụ quê mùa mà lúc nãy đã bị Hồng Quang dùng kế "điệu hổ ly sơn" để trộm giỏ cơm canh lúc nãy vừa qua lại xách lại giỏ tre lủng lẳng từ phía trước mắt đi lại, chợt thấy tên tiểu yêu Võ Hồng Quang, nàng lập tức la bài hãi lên khiến những tráng phu đang cày cấy gần đó bỏ cả công việc chạy ùa đến độ bảy, tám người, đồng lên tiếng hỏi :
- Gì thế , mụ Tế Nhị ? Mụ la lối ai đấy ?
Thiếu phụ xỉa tay vào mặt Hồng Quang và đáp :
- Mau lại đập thằng tiểu yêu này ! Nó dám trộm cơm canh của tôi, còn dùng than lửa đốt phỏng chân tôi, bây giờ lại lấm la lấm lét trở lại đây, định ăn cắp thêm gì nữa đấy. Mau tóm cổ đừng để nó chạy thoát !
Những nông phu ấy đều là những người thật thà thô lỗ, nghe mụ Tế Nhị nói thế, đều nổi giận la hét lên inh ỏi, kẻ cuốc người xuổng định sấn tới , có vài tên nông phu lanh mắt la to :
- Khoan đã, thằng tiểu yêu ấy sau lưng có cõng một cô gái, chắc là bắt cóc con nhà ai chứ chẳng sai, tóm cổ nó trước rồi sẽ nói chuyện sau !
Mọi người định tiến tới bao vây Hồng Quang vào giữa.
Hoàng Dược Sư liền sấn bước ra trước và nói :
- Các vị hương thân không nên động thủ !
Mấy tên nông phu thấy Hoàng Dược Sư ăn mặc theo lối học trò, mà Tống Trào rất quí kẻ đọc sách, trọng văn khinh võ nên bọn chúng chẳng dám mạo muội thất lễ đành buông xuôi cuốc xuống chờ ý kiến của chàng.
Hoàng Dược Sư mới ung dung tiếp lời :
- Đứa nhỏ đó là học trò của tôi, chư vị có điều gì cứ đem ra thảo luận, chứ chẳng được vô lễ với đồ đệ tôi .
Thiếu phụ nghe Hoàng Dược Sư nói thế, nổi giận cành hông tác sắc mắng to :
- Gã học trò hôi hám kia khéo dạy đứa học trò làm giặc mà còn giở giọng bênh vực nữa.
Hoàng Dược Sư chẳng đáp chẳng rằng, cười nhạt một tiếng tay phải giơ lẹ lên như chớp "bốp ! chát" , vả vào quai hàm thiếu phụ hai cái như trời giáng, khiến thiếu phụ trẹo cả quai hàm sang bên, đau thấu trời xanh đất đỏ.
Không sao mở miệng chưởi được, mụ chỉ rống lên từng hồi, như heo bị chọc tiết.
Mấy tên nông dân thấy Hoàng Dược Sư bỗng dưng ra tay đánh người, giận không nhịn được, la hét vang rần, kẻ phản người cuốc nhất tề giáng xuống đầu đối phương.
Hoàng Dược Sư bình tĩnh như không, khẽ nhắc một cánh tay lên, chẳng hiểu chàng dùng thủ pháp gì mà đoạt một hơi bảy tám nông khí của đối phương vào tay, đoạn chàng phất nhẹ tay áo trở ra, mấy tên nông phu cả người lẫn khí giới, văng ra bảy tám bước, té lổm ngổm trên mặt đất.
Mấy tên nông phu vừa giận vừa sợ, lồm cồm ngồi chờ vậy, ráng gân cổ la lên :
- Không xong ! Có quân cướp giết người, bớ bà con ! Có cướp ! Có cướp !
Hoàng Dược Sư lặng thinh tung người đến sát bên họ, tên nào hả họng la làng, chàng cứ theo phép trừng trị, vả trẹo quai hàm tên ấy, khiến bọn chúng đau đớn quá đỗi, lăn lộn dưới đất như trâu điên.
Những nông dân đang cầy cấy gần đấy, nghe tiếng vội bỏ việc đồng áng tụ tập thành đoàn, chỉ trong chốc lát kéo đến trên một trăm tên.
Hồng Quang cả kinh nói :
- Sư phụ, bọn họ đông người quá, thầy trò ta quả bất địch chúng, chi bằng nhanh chân trở về lối cũ để thoát thân !
Hoàng Dược Sư cười nhạt luôn miệng, ngang nhiên chẳng sợ hãi. Chàng chờ cho đám nông phu kéo đến cách xa độ hai ba trượng, liền chấp hai tay lại như xá, mường tượng như vái chào ra mắt bọn chúng, nhưng kỳ thật chàng chẳng phải hạ mình thủ lễ với họ, mà chính chàng đem sức mạnh Phách Không Chưởng ra áp dụng, khí thế tuy chậm rải từ tốn nhưng sức mạnh thật vô cùng.
Những tên nông phu đi hàng đầu độ ba bốn mươi tên bị sức đẩy của Phách Không Chưởng thi nhau té lộn mèo trở ra sau, "lộp ! bộp !" như tàu chuối rụng, người trước đè người sau kẻ té trên đè kẻ té dưới, khiến bọn chúng kêu lên ôi ối náo loạn cả nột vùng.
Hoàng Dược Sư cất giọng oai nghiêm hét lớn :
- Tên nào không sợ té bưu đầu khỏi cổ thì cứ việc tiến tới thử xem ?
Đám người ô hợp tráng nông kia, tên nào cũng ngán bị té đau, chẳng dám tiến tới chỉ đứng ở xa xa vây lấy thầy trò Hoàng Dược Sư.
Chàng lại cười nhạt bảo :
- Các người cứ một hai vu oan cho thầy trò ta là giặc. Nhưng thầy trò ta trộm cắp vật gì của các người, các người nói cho ta lẹ đi !
Đám nông phu thấy diện mạo Hoàng Dược Sư thần uy lẫm lẫm: mắt sáng mày dài, bọn chúng đều giương cặp mắt đớ lưỡi không sao đáp trôi.
Đào Hoa đảo chủ cười khẫy một tiếng, lại nói tiếp :
- Một chó sủa bậy, trăm chó hùa theo, chúng ta đường đường chính chính như thế này, mà là đạo tặc được sao ?
Những tên đại tặc hung ác nhất trong thiên hạ, tên nào cũng ngôi cao phẩm trọng, ngồi chễm chệ giữa triều ca, hút máu dân đen, đoạt vợ người lành, dù nói ra chưa chắc các ngươi đã hiểu ! Bây giờ bọn ngươi phải nói rõ lý do tại sao cho ta là đạo tặc, nếu nói không thông ta vả rụng hàm hạ của mỗi người cho biết tay.
Đám nông dân vừa mới nếm qua bản lĩnh lợi hại của họ Hoàng, biết rằng chàng đã nói là làm, tên nào cũng kinh tâm run mật, cuối cùng có một tên nông phu bạo dạn nhất trong bọt đứng ra lên tiếng :
- Ông thì không phải là giặc, nhưng đồ đệ của ông lại đi trộm cơm canh của mụ Tế Nhị .
Hoàng Dược Sư cười to đáp :
- Quả thế, đồ đệ của ta trộm cơm canh của các người, không phải vì quá đói bụng mà làm thế, mà hoàn toàn vì cứu sống mạng người. Ban đầu nó đưa bạc ra mua hẳn hòi, nhưng các người lại làm hiểm chẳng chịu bán cho nó, có khác nào bức bách nó phải trộm cho kỳ được ?
Bọn ngươi lại chẳng suy nghĩ cho rõ thiệt hơn đen trắng lại a phù vác cuốc xuổng đánh kẻ có lòng nhân, thử hỏi ai mới là giặc !
Chàng dùng lời ngay ý chánh nói một hơi, nông phu câm mồm không sao đáp được, bọn họ một mặt nể sợ bản lĩnh tuyệt vời của Hoàng Dược Sư, mà còn nơm nớp lo âu chàng nổi nóng bất tử, đưa bọn họ đến cửa quan trị tội phạm thượng kẻ sĩ, thì khốn cả lũ.
Hoàng Dược Sư biết bọn chúng đã sợ, không khỏi cười nhạt luôn mấy tiếng, rảo chân đến chỗ những tên bị vả trẹo quai hàm, đở xốc họ dậy , mỗi tên được chàng tặng thêm hai bạt tay lốp bốp, sửa cho quai hàm trở về vị trí cũ, tức thì bao nhiêu đau đớn phút chốc tiêu tan, tên nào tên nấy xưng tạ luôn miệng.
Mọi người thấy thủ pháp của Hoàng Dược Sư thần diệu như thế, đều nô nức khen lạ kỳ, bọn chúng sau trận đòn ấy đều kính phục Hoàng Dược Sư như thiên thần chẳng còn dám mạo phạm nữa !
Hoàng Dược Sư quay ra sau bảo Hồng Quang :
- Đồ đệ lại đây với thầy !
Hồng Quang thấy sư phụ mình đã chế phục được đám nông dân mới hết sợ, bạo gan tiến lên.
Hoàng Dược Sư lấy tay chỉ vào thiếu nữ và nói với mọi người :
- Cô gái ấy từ trong sào huyệt bọn cướp trốn thoát ra ngoài, chúng ta mới cứu sống nàng và đem lên đây, nàng vẫn còn bị thương nặng ! Tục ngữ có câu : Cứu một mạng người, còn hơn xây chín phù đồ.
Chúng tôi định mượn địa phương của quí vị để cứu mạng nàng. Còn như tên học trò tôi có lỡ trộm cơm của Tế Nhị Nương, tôi xin tạ lỗi quí vị về chuyện ấy, buổi cơm ấy giá đáng bao nhiều tiền, tôi xin bồi thường cho quí vị có được chăng ?
Chàng nói lên như thế, càng làm cho dám nông phu thêm phần kính trọng, nên đồng rập lên tiếng trả lời :
- Được lắm ! Được lắm ! Lúc nãy chúng tôi lỡ nóng mạo phạm đến tướng công hải hà chi lượng, hỉ xả cho chúng tôi vậy.
Mọi người đều ùn ùn đi trước, dẫn đường cho thầy trò của Hoàng Dược Sư về thôn trang mình.
Hồng Quang lẹ mồm nhạy miệng hỏi thăm người trong thôn biết rõ nơi đây là Thanh Vận thôn, ước độ trên một trăm nóc gia chuyên nghề nông vụ làm kế sinh nhai. Vị trí của thôn nằm dưới chân núi cách xa bờ biển độ bảy dặm, trong thôn đại đa số chỉ có hai họ Tề, Vu.
Nơi đây cách huyện thị rất xa, nếp sống thanh bình không nhiễm thói điêu ngoa của phồn hoa đô hội, ngày làm đêm nghỉ, thong dong tự tại như thú sống khoái lạc của đào nguyên, an vui hòa lạc như thiên đàng trên nhân thế, đang lúc vui theo câu chuyện, đoàn người về đến cổng thôn mà không hay.
Hoàng Dược Sư bèn tạm trú tại nhà của một nông dân tên Võ Nhuận.
Nơi đây có phần rộng rãi, hơn nữa lại có nữ tì.
Hoàng Dược Sư đưa thiếu nữ an trí xong xuôi, mới gia tâm băng bó vết thương cho nàng, thuốc thang thoa phết bận rộn hơn một buổi trời, thiếu nữ mới hoàn toàn tỉnh táo hẳn.
Nhưng vì vết thương trên cổ nàng vẫn còn đau đớn lắm, không thể nói chuyện nhiều được vài câu.
Hoàng Dược Sư chỉ còn cách để nàng tịnh dưỡng thêm đôi ngày nữa ?
Cho đến ba hôm sau, vết thương nơi cổ mới kéo da non và sắp lành.
Nàng mới từ từ thuật lại hoạn nạn đã trải qua, khiến Hồng Quang đứng bên nghe lỏm, phải nghiến răng châu mày liền hồi.
Thì ra thiếu nữ ấy họ Phùng, khuê danh Hương Điệp người tỉnh Triết Giang, con nhà lễ giáo gia phong, cha tên Phùng Lai một vị nho sĩ hữu danh nơi đất Triết sớm dấn thân đường hoạn lộ, thi được trúng chức Tiến Sĩ .
Nhưng vì không quen được cảnh thối tha dơ dáy trên chốn quan trường, không chịu hạ thấp phẩm giá theo lũ ruồi nhặng hôi tanh, nên treo ấn từ quan lui về thú sàng dã .
Tiến sĩ Phùng Lai này tánh khí thanh cao, ghét nịnh như kẻ thù. Tại phòng khách nơi nhà, ông tạc lên bốn bức tượng bằng đất của bốn tên gian tên đương triều là Trà Kinh, Đồng Quán, Trương Bang Xương, Tần Cối.
Mỗi ngày sáng sớm thức dậy, sau khi súc miệng rửa mặt xong xuôi, chuyện làm thứ nhứt của Phùng Lai là đến phòng khách mắng chưởi bốn tượng đất gian thần một hơi.
Nào Trà Kinh, Đồng Quán lộng quyền hại nước, Trương Bang Xương mãi quốc cầu vinh, dắt giặc vào nhà, Tần Cối tư thông Kim Bang, hại mạng Nhạc Phi, mắng chưởi cho đến khi hơi giận xông lên đầu, lại dùng roi quất túi bụi vào bốn tượng đất.
Nhưng vì tượng làm bằng đất nung chín, đâu có thể chịu đựng được sự đánh đập nặng tay, không tới năm ba ngày sau là sứt đầu gảy cổ, lại lui cui nắn tượng khác để đánh đập nữa, sở dĩ thế mà một số người kêu lén ông là Phùng Khải Tử (tên Phùng khật khùng).
Vợ con trong nhà dù hết sức khuyên ngăn, nhưng ông vẫn giữ y tật cũ, cuối cùng chán nản đành để cho ông tha hồ nắn tượng theo như ý muốn.
Năm họ Phùng ba chục tuổi, thì vợ là Tần thị sanh được một mụn con gái, vì ngày lâm bồn nằm mộng thấy có một con bướm có hoa điểm tròn bay xà vào lòng nên mới đặt cho con gái tên là Phùng Hương Điệp.
Hương Điệp càng lớn, càng tỏ ra thông minh hơn người, năm tuổi làm văn, bảy tuổi đã biết làm thơ, liếc mắt nhìn sơ, đã thuộc được mười giòng nghiễm nhiên là một nữ tấn sĩ không chức phẩm.
Phùng Lai thấy con gái mình thông minh tuyệt đỉnh như thế, hết sức vui lòng, thường bảo vợ :
- Điệp nhi thông minh như thế, thật là hoa quí trong nữ giới, đáng tiếc là hễ thông minh có dư, thì phúc hậu chẳng đủ, e cho con phải hồng nhan bạc mệnh, không được thọ tuổi trời lắm !
Quả đúng như lời tiên tri của Phùng Lai, Hương Điệp đến tuổi mười sáu, đã gặp phải thảm họa tày trời.
Nguyên vì Tri Phủ nơi đất ấy là Ngõa Tế Dân xuất thân vốn môn hạ Tần Cối, tánh tham vô độ. Từ lúc nắm chức Tri Phủ, hoành hành, tác oai tác phúc khắp địa phương, cai trị tham tài đoạt vật, xén bớt của công hối mại của tư, vơ vét thỏa thích theo túi tham không đáy, tiếng oán của lương dân kêu thấu lừng trời, nên dân chúng lén đặt cho y cái ngoại hiệu là "Ngõa lóc da".
Ngõa Tri Phủ sanh một quí tử tên Ngõa Hy Thuấn, bẩm tánh hành vi còn hơn cha một bực. Hư hỏng cực cùng, suốt ngày lân la tửu điếm trà đình du thủ du thực, đi rong các đường phố tìm gái đẹp cưỡng hiếp.
Bá tánh trong thành thấy mặt y ở xa xa là đã lẩn trốn, để tránh việc gây họa vào thân. Mọi người đều đặt cho y cái tên là Hoa Thái Tếu.
Như vậy, đủ thấy y ham dâm háo sắc đến bực nào !
Một hôm Hy Thuấn, dắt theo vài tên cận vệ lang sói rong chơi ngoài đường phố , tình cờ đi ngang qua cửa nhà Phùng Lai , thấy trước cửa có chiếc kiệu xanh ngừng lại rồi trong kiệu bước ra một thiếu nữ thiên kiều bá mị, sắc thần như Hằng Nga, tuổi cũng vừa độ trăng tròn, có một nữ tì gìa phò đưa thẳng vào bên trong.
Ngõa Hy Thuấn sững sờ đến phách lạc hồn xiêu cho đến khi cánh cửa đóng sầm lại, y mới giật mình sực tỉnh, nháy mắt nhăn răng nói với thủ hạ :
- Thật là một tuyệt thế giai nhân ?
Đám thủ hạ thấy chủ mình tỏ vẻ mê một như thế, bèn hỏi :
- Triết gia, nàng thiếu nữ ấy nhạp nhãn chăng ?
Hy Thuấn xuýt xoa nói :
- Hạp quá rồi ! Chỉ tiếc cô ta là một khuê nữ gia phong không phải hạng liệu ngỏ hoa tường, làm sao mà lọt vào tay.
Một tên ác nô biệt danh là "Thại Tô Tần " cười đáp :
- Con gái nhà lành thì hết cách rồi sao ? Thiếu gia dù có thích mặt trăng trên trời, đại lão gia túng ráng mà cắt mặt trăng xuống cho thiếu gia vừa ý nữa là khác ?
Hy Thuấn được gã bộ hạ nịnh bợ, khoái trá đến từng sợi chân lông cũng thấy hơi mát, tuoi tắn tươi cười nói :
- Phải rồi, nuôi binh hàng ngày dùng trong một buổi, bọn bây tìm mưu cho ta toại nguyện xem nào !
Thại Tô Tần đáp :
- Nếu thiếu gia thích ý, thì chuyện này tiểu nhân sẽ bảo lãnh giúp thiếu gia đến toại nguyện mời kỳ thôi.
Bàn tán xong, cả bọn kéo nhau trở phủ.
Nửa ngày sau Thại Tô Tận từ bên ngoài trở về cười hì hì bước vào cửa thư phòng của Hy Thuấn và nói :
- Thiếu gia ơi, có đường rồi ! Tên thiếu nữ ấy là Hương Điệp, năm nay mới mười sáu tuổi còn trinh chưa chồng, con gái của quan Tiến sĩ Phùng Lai !
Ngõa Hy Thuấn hỏi :
- Hả ? Con của lão "Phùng Khải Tử" ấy à ? Chuyện này không nên đâu ?
Thái Tô Tần đáp :
- Phùng Khải Tử thì sao ! Tục ngữ có câu : Chẳng sợ quan nhưng phủ sợ làng ! Thiếu gia là con của quan Tri Phủ sở tại, họ Phùng dù to gan mấy cũng phải nể nang. Thiếu gia chỉ cần nói rõ với lão gia, bảo chắc là thành công như trở bàn tay, nàng tiên yêu kiều như mộng kia sớm muộn gì chẳng mặc tình thiếu gia ôm hương ấp ngọc .
Ngõa Hy Thuấn ngẫm nghĩ cũng phải, liền đem y muốn mình thuật lại cho cha rõ.
Ngõa Tri Phủ vốn tánh chìu con, trăm sự đều nghe theo, tuy biết Phùng Lai là hạng danh sĩ khí khái, chẳng ham quyền quí nhưng chuyện con mình cưới vợ là một điều đại sự đáng mừng, đâu có gì quá đáng mà chẳng y theo.
Nên hắn phái một viên Thư lại đến nhà họ Phùng mời Phùng Lai đến phủ có chuyên cần kíp.
Phùng Lai hết sức ngạc nhiên vì bao lâu nay chẳng hề giao kết với quan phủ, hà cớ gì Ngõa Tri Phủ lại cho mời mình đến đàm đạo chuyện trọng yếu ?
Ông vốn từ lâu khinh thị Ngõa Tri Phủ là hạng tham quan ô lại quen thói chắt bóp máu mũ lương dân. Nhưng vì đối phương đã có thành ý mời mọc, nên không thể chẳng đi.
Nên buổi chiều hôm ấy, ông buộc lòng đến dinh quan phủ.
Quả nhiên Ngõa Tri Phủ rất ân cần tiếp rước, trà nước xong xuôi bèn mở lời muốn kết thân với nhà họ Phùng.
Phùng Lai nghe xong biến sắc mặt, phất tay áo, đứng ngay dậy đáp :
- Ô hô ! Sao có thể như thế được, họ Phùng nhà tôi cùng gia thế đại nhân sang hèn cách nhau rất xa, tệ nữ vụng về yếu đuối, đâu thể xứng với tư cách của công tử phủ quan ? Chuyện ấy xin phủ quan chớ trách vãn sanh sao chẳng tuân mệnh !
Ngõa Tri Phủ không thể ngờ là Phùng Lai chẳng chút vị nể mình, ngang nhiên từ chối quyết liệt như tát nước vào mặt mình. Nhưng vì hôn sự của cậu quí tử đành phải nén lòng cười giả lả :
- Huynh đài sao còn câu chấp quá ! Bổn quan trọng vọng huynh đài đạo đức văn chương thanh cao, khí tiết, danh rền sĩ lâm. Nên mới...
Phùng Lai chẳng đợi lão ta dứt lời, liền
khoát tay nói :
- Đại nhân không cần nhiều lời, Phùng mỗ nầy là hạng người nào ?
Trong nhà tôi tạc những tượng ai ? Đại nhân là môn hạ của vị nào ? Không cần nói rõ chúng ta cũng điều hiểu rồi !
Nói đoạn cười lên ha hả như điên rồi đứng dậy phủi áo rời ngay phủ đường .
Lời nói ấy tuy nghe chẳng có gì nặng nề, nhưng đã làm cho Ngõa Tri Phủ giận đỏ mặt tía tai, thẹn thùng ngồi cứng một chỗ, không sao nên tiếng được.
Tri Phủ Ngõa Tế Dân là môn hạ của Tần Cối , được đến đây trấn nhậm, hoàn toàn cậy nhờ vào thế lực của Tần Thừa Tướng.
Trong nhà Phùng Lai đã tạc tượng đất Tần Cối để đánh đập sỉ vả, nói một cách rõ hơn là nhất định Phùng Lai không sao ưa được môn hạ của Tần Cối !
Lời của Phùng Lai vừa thốt ra, chẳng khác nào vít bãi bùn dơ lên tô đầy mặt Ngõa Tri Phủ, nặng nề cay cú còn hơn lời chửi rủa.
Ngõa Tri Phủ tức nghẹn giây lâu mới hết, quay sang quát đám thủ hạ nha trảo đang đứng hầu hai bên :
- Đồ vô dụng, còn đứng đực ra đó làm gì ! Mau kêu Diêm Giáp Ty lại đây, nói ta có việc cần thương nghị.
Bọn hữu dạ vâng, chạy bay ra khỏi sãnh đường.
Diêm Giáp Ty mà Ngõa Tri Phủ vừa nhắc đến vốn họ Diêm tên Văn Đạo, là một tay túc trí đa mưu, nhờ tánh tình gian trá, khéo nịnh bợ, nên Ngõa Tri Phủ mới liệt vào hàng tâm phúc để hỏi mưu vấn kế.
Diêm Giáp Ty nghe lịnh Tri Phủ gọi, vội đến sãnh đường luồn lưng uốn gối cười nịnh bợ hỏi :
- Đại lão gia hôm nay có chuyện chi cần đến tài hèn của vãn sanh chăng ?
Ngõa Tri Phủ đáp :
- Chính thế, ta đang mắc phải chuyện khá rắc rối .
Y bèn đem chuyện con trai mình muốn cưới con gái của Phùng Lai làm vợ, và y đã mời Phùng Lai đến cầu thân, và tên Phùng Khai Tử từ chối và xúc phạm y ra sao, nhất nhất thuật lại cho Diêm Giáp Ty nghe hết, cuối cùng nói tiếp :
- Văn Đạo, ngươi làm cách nào cho đứa con gái của gã Phùng khật khùng kia rơi vào tay chúng ta, để trả cái nhục này bổn quan sẽ hậu tạ công lao ngươi !
Diêm Giáp Ty rùn vai, cười nói :
- Sao đại nhân lại nói thế ! Vãn sanh nhờ ơn đại nhân cất nhắc cho chức vị này, lý ra phải vì chủ, chia lo xẻ buồn, đâu dám mong mỏi tưởng thưởng công lao ! Chẳng qua, hôm nay vừa mới tiếp được thư nơi quê nhà gởi đến, nhắn là gia mẫu gần đây vì gìa yếu nên hay bịnh...
Ngõa Tri Phủ chẳng đợi Diêm Giáp Ty nói thêm, lập tức trám miệng y lại. bảo :
- Thôi, khỏi cà kê dài dòng, ta cho mi trước ba trăm lượng bạc sau khi thành công mọi việc, sẽ thưởng thêm ba trăm nữa, đủ chăng ?
Diêm Giáp Ty cười híp mắt, đáp lia :
- Đa tạ ơn sâu của đại nhân ! Gã họ Phùng kia quen tánh tự cao cuồng ngạo, đối với hạng người ấy mềm với họ không được ! Vãn sanh có một diệu kế gọi là "Dụi chão dưới lửa" , cam đoan sẽ hiệu nghiệm như thần.
Nói xong y khẽ rỉ tai nói nhỏ với Ngõa Tri Phủ một hồi.
Ngõa Tri Phủ vỗ tay khen dốt :
- Kế ấy tuy có phần ác độc tổn đức, nhưng nếu chẳng làm thế, thì chẳng thỏa được lòng con ta, mặc, mặc !
Cứ y theo thế ấy mà làm !
Phùng Lai sau khi rời khỏi phụ môn, trong bụng vẫn còn tức ấm ách, vừa đặt chân đến ngưỡng cửa nhà mình, ông đã mở miệng mắng hoảng lên :
- Đồ quan ôn, sanh loài con dịch lại còn đèo bồng con gái quí nhà ta !
Tần phu nhân đang ngồi phòng trong, nghe thấy hết sức lạ lùng, xô cửa bước ra hỏi :
- Ông chẳng phải vừa mới ở dinh phủ quan về đây chăng? Sao lại nổi giận như thế ?
Phùng Lai hầm hầm đem chuyện quan phủ họ Ngõa định cưới con gái cưng của mình cho thằng con trai chó chết của y ra sao, nhất nhất thuật lại cho vợ nghe.
Thuật xong vỗ bàn mắng lớn :
- Thà là ta đem con gái cưng ra cho cá nuốt, còn hơn là đưa cho thằng chó Hỏa Thái Tuế làm vợ.
Ngày mai kêu thợ khéo đến nắn thêm một hình thằng Ngõa Tế Dân để ta đánh cho hả giận !
Tần phu nhân chẳng khỏi kinh sợ trong lòng, tuy là một phụ nữ phòng the, nhưng cũng hiểu rành đường đời lợi hại.
Ngoã Tri Phủ là một tên ô quan lòng dạ hiểm ác, chồng mình đã dám công nhiên hài tội hạ nhục y như thế, tên tặc quan ấy tất nhiên đâu chịu nhịn thua. Y là một Thái thú uy quyền khắp một cõi, muốn hãm hại một lương dân áo rách thật thà dễ như thọc bàn tay vào túi.
Tần phu nhân bèn đem ý nghĩ lo ngại kia thỏ thẻ biện bạch cho chồng hiểu. Nào ngờ càng khiến Phùng Lai càng nổi giận thêm hơn, quát mắng rùm trời :
- Nói nhảm ! Vương pháp tuy trọng, nhưng không thể làm tội một kẻ vô can, ta bình sanh chưa hề làm việc sai phép. Ta Phùng Lai, đầu đội trời chân đạp đất, trong trắng sạch ngần, kẻ nào đâu đến hại ta ? Bà là đàn bà thiển kiến biết gì !
Tần phu nhân biết tánh chồng cương trực nóng nảy, chẳng dám nói chuyện chi xảy ra, vẫn thản nhiên uống rượu ngâm thi, dương dương tự toại.
Nào ngờ sáng hôm sau, đại họa bỗng giáng vào nhà .
Nguyên là lão gia bộc của nhà họ Phùng, mỗi sáng đều thức dậy sớm để mở cửa sau quét trong ngoài từ lâu đã thành lệ .
Sáng hôm nay, lão cũng theo lệ cũ mở cửa quét nhà, nhưng khi cánh cửa vừa mở "két" một tiếng, bên ngoài liền nghe một tiếng "bộp !" thật lớn, rồi một chiếc bao vải màu xanh tự dưng từ đâu rớt ngay vào nhà.
Lão gia bộc kinh hãi, vội đảo mắt nhìn ra ngoài cổng, thì thấy nơi góc đt ờng đầu nhà, có một bóng người thoáng chạy như bay vào ngỏ hẻm mất dạng.
Lão gia bộc nổi tánh háo kỳ, liền mở bọc ra xem, bất giác kinh ngạc đến trợn mắt há mồm !
Vì trong bao vải ấy bọc đầy vàng bạc cháu báu, lại còn có mấy viên ngọc quí giá đáng liên thành chẳng đổi, mỗi viên ngọc quí ấy lớn bằng hột nhãn trở lên, lão gia bộc quính líu cả chân tay vội đóng chặt cửa, xách bao vải bửu vật vào trong nhà trình lại chủ nhân.
Phùng Lai không đợi cho lão bộc nói hết, vội xua tay bảo :
- Của phi nghĩa, chẳng nên rờ tay đến, đem vào đây làm gì ? Mau đem quăng ra ngoài cửa ngõ cho rồi !
Tần phu nhân từ trong khuê phòng bước ra tranh cản :
- Không được ! Tài vật này trời thương tình ban cho gia đình ta, sao lại chẳng cất lấy ! Ông điên rồi sao ?
Phùng Lai cả giận quát lớn :
- Mi mới là đồ điên ! Phùng Lai này chưa hề thọ một đồng một chữ của bất nghĩa . Thành Phúc ! Mi có mau đem ra cửa ngõ quăng đi không ?
Thành Phúc là tên tộc của lão gia bộc, trong lúc hai vợ chồng đang cãi cọ thì từ ngoài cửa bỗng có tiếng gõ cửa dồn dập thình thình như tiếng trống chầu.
Phùng Lai hết sức ngạc nhiên liền lên tiếng hỏi :
- Ai gõ cửa vậy ?
Lão gia bộc vội chạy ra mở cửa, tức thì từ bên ngoài ùn ùn xông vào bảy tám tên công sai hùng hổ như bầy ong vỡ tổ.
Lão gia bộc giật mình kinh hãi hỏi :
- Các vị lão gia !
Nói chưa kịp dứt câu, thì tên công sai dẫn đầu đã phi chân trái lên, đá lão gia bộc té lộn mèo dưới đất, kỳ dư những tên bộ khoái còn lại ồ ạt xông vào khách đường, thấy trên chiếc ghế nhỏ còn để bao ngọc ngà châu báu lúc nãy.
Một tên bổ khoái liền la to :
- Hay cho quân trộm cắp, tang vật còn để nơi đây !
Hai tên bổ khoái khác chẳng đợi đương sự biện bạch, móc chiếc giây sắt ra, "lắc cắt !" hai tiếng, đã khóa chặc cần cổ của Phùng Lai lại, rồi dùng sức lôi mạnh ông ra ngoài.
Phùng Lai rán gân cổ tru tréo lên :
- Phản rồi ! Loạn rồi ! Ta là một kẻ đọc sách, minh bạch vô can, bọn nha trảo công môn chúng bây dám vu oan người hiền lương !
Ông vừa mở miệng kêu lên liền bị bốp, "chát !" mấy tiếng, trên má luôn một hơi ba bốn vả, tối tăm cả mày mặt .
Phùng Lai tuy là một danh sĩ giữ đúng lề lối thanh cao của kẻ sĩ. Nhưng tục ngữ có câu : "Tú tài gặp quan binh, có lý cũng khó biện minh !". Nên ông vừa khai khẩu biện bạch, đã bị bọn chúng chân đạp tay kéo xển ra khỏi nhà, giải về cửa phủ.
Tần thị kêu trời liền miệng, cả nhà xúm nhau than khóc.
Phùng Lai bị đám bổ khoái hung hăng
kéo lê như bay trên mặt đất, xô đầu chúi nhủi về công môn.
Ngõa Tri Phủ lúc ấy đã thăng đường mặt lạnh như sắt, bên dưới hai hàng nha trảo lang sói, trang nghiêm như cảnh thập điện Diêm Vương.
Phùng Lai tuy giận mắt nổ đom đóm, vẫn giữ vẻ trầm tỉnh, thẳng gối chẳng chịu quỳ .
Ngõa Tri Phủ đập mạnh thanh Kinh đường mộc xuống án đánh rầm một tiếng, cất giọng oai nhiêm phán :
- Phùng Lai, mi tự xưng là kẻ hàn sĩ đạo đức, tánh giữ thanh cao, tại sao lại cấu kết với bọn cướp bể, cất dấu của gian ? Bao châu ngọc này là tài vật của nhà viên ngoại họ Hồ bên Ninh Ba Phủ, bị bọn thủy khấu cướp bóc cách đây một tháng.
Án ấy đến nay còn treo chưa khám phá được. Tại sao tang vật của họ lại lọt vào nhà mi, phải cung khai sự thật để tránh khỏi mình tra tấn đến da nát thịt rơi !
Phùng Lai hiểu ngay là tên Tri Phủ này vì sự cầu thân không thành, thẹn quá thành giận, mới vu oan giá họa cho ông, định bắt buộc cung chiêu thành án để khép tội nên không khỏi tức giận, ưỡn ngực la to :
- Bẩm đại nhân nên xét lại, gia thế của vãn sanh tuy không giàu, nhưng cũng đủ lành áo no cơm, lý đâu có chuyện cướp của tư thông với hải tặc được ?
Phùng gia tôi suốt ba đời giữ lấy nề nếp nho gia sĩ khí, trai không hề phạm pháp, gái chẳng biết lăng loàn. Làm gì lại sanh chuyện thông đồng với bọn giặc bể một cách vô lý như thế ?
Hơn nữa bảo ngọc ngà châu báu kia là sáng sớm hôm nay lão gia bộc nhà tôi thấy rõ có người ném vào, biết đâu lại chẳng có kẻ thù vơ, oán chạ định hãm hại gia đình tôi.
Ngõa Tri Phủ làm mặt giận dử quát lên :
- Câm miệng ! Mi bảo là thanh bạch vô can, sao lại sanh chuyện oán thù với kẻ khác, rõ ràng là một sự mâu thuẫn, mi đội lốt học trò nhưng bộ vó ăn cướp, vô ác bất tác, hừm ! Bây đâu, căn nọc nó ra đánh hai mươi hèo, thử xem nó còn giữ mồm lẻo mép nữa không ?
Ngõa Tri Phủ quyết tâm hành hạ Phùng Lai cho bỏ ghét nên rút trong ống lịnh ra cây lịnh tăm đầu đỏ bằng tre, ném phăng xuống đất, mỗi cây tăm thế lịnh là năm hèo, bốn cây tăm vừa đúng hai chục hèo chẵn chòi.
Bọn sai dịch được lịnh lập tức căn nọc Phùng Lai nằm dài trên trên đất trước công đường, lột áo quan ông ra nện đủ hai mươi roi vào mông.
Tội nghiệp cho Phùng Lai dù sao cũng là một thư sinh ốm yếu, sức không trói chặt gà, làm sao chịu đựng nổi sự đánh đập tàn nhẫn, hai chục roi đã làm da nứt thịt bầm, ngất xỉu mấy lượt !
Chờ đánh xong đủ hai chục hèo, Tri Phủ lại quát lớn :
- Đem nước lạnh đến, phun cho nó tỉnh lại xem nó chịu cung khai hay là không ?
Một tên sai dịch liền túm tóc Phùng Lai dựng ông dậy, hất luôn một hơi mấy chén nước vào mặt ông.
Phùng Lai từ từ mở mắt.
Ngõa Tri Phủ cất giọng sang sảng quát :
- Họ Phùng kia, chứng cớ tang tích đã hẳn hòi, bổn quan không muốn mi còn chối quanh, hãy cung chiêu cho mau, tên nào đã đến đánh cắp nhà họ Hồ ?
Phùng Lai nghiến răng nói lên như hét :
- Ngõa Tế Dân, thằng Tri Phủ tham nhũng của địa phương này .
Ngõa Tri Phủ bị Phùng Lai chưởi mình là kẻ cướp tham quan, giận đến lửa cháy cả ngũ tạng, đập án quát tháo như sấm động :
- Đánh thêm chục hèo nữa !
Bọn sai dịch được lịnh là làm liền, vật ngay Phùng Lai trở xuống đất kẻ kìm chân, người dằn cổ, vừa đánh thêm bảy tám hèo thì Phùng Lai đã ngất xỉu như trước.
Tên sai dịch liền ngừng tay chẳng dám đánh tiếp.
Ngõa Tri Phủ giận dử mắng to :
- Đồ tồi, sao không đánh nữa ?
Tên sai dịch liền thưa :
- Bẩm đại quan, phạm nhân thân thể yếu đuối, nếu đánh tiếp sợ chẳng chịu nổi đâu !
Ngõa Tri Phủ nham nghĩ cũng phải, nếu đánh tiếp đủ số hai chục hèo, thì Phùng Lai tánh mạng sẽ ô hô ! Tuy đánh chết một tên dân cũng chẳng tội vạ gì đáng ngại, nhưng sẽ lỡ dở kế hoạch của y. Nên y chỉ đành hầm hầm nén tức nói :
- Cái thằng này cứng cổ lắm ! Lại không thể chịu đòn nhiều ! Bọn bây đem nó tống giam vào ngục, mai rồi sẽ hay.
Phùng Lai bị tống vào ngục thất, cả buổi sau mới dần dần tỉnh lại, thân để đau nhừ như bị cắt ra từng mảnh, vừa mở mắt là ông đã lớn tiếng mắng chửi Ngõa Tri Phủ chẳng tiếc lời .
Ngục tốt canh gác bên ngoài tảng lờ như chẳng hay biết, Phùng Lai chưởi đã một trận đến khi mòn hơi kiệt sức, không còn chưởi được nữa mới chịu thôi.
Ngục tốt mang cơm nước vào.
Phùng Lai đem cơm lẫn bát ném phăng xuống đất và mắng :
- Ta Phùng Lai đầu đội trời chân đạp đất thà chết đói chứ không ăn cơm của thằng quan ấy.
Phàm những tên giám quan ngục tốt. đều quen thói ngang ngược húng hiếp kẻ tội tù, thấy Phùng Lai dám ném cơm quăng chén xuống đất không khỏi tức giận căm gan, vừa định kéo Phùng Lai ra dần cho một trận hả hơi, thì từ bên ngoài cửa thiết lao có tiếng người hô to :
- Quan Diêm Giáp Ty đến .
Hai tên ngục tốt nghe Diêm Giáp Ty đến ngục, chẳng dám ra tay.
Giáp Ty Diêm Văn Đạo vào ngục thấy cơm canh rơi vải đầy đất, lập tức quát mắng bọn ngục tốt vang rần :
- Loại cơm thô cá hẩm này mà dám đem dâng cho Phùng tướng công sao, mau cút đi không ? Nếu còn lần quẩn nơi đây, ta chặt đứt giò chó mi ra !
Ngục tốt không ngờ Diêm Giáp Ty trở lại mắng mỏ mình, chẳng hiểu ất giáp tại sao chỉ đành ậm ực trong cổ họng riu ríu bước ra bên ngoài.
Phùng Lai với Diêm Giáp Ty đã biết mặt nhau, thấy y tươi cười bước vào phía sau lại có tên ngục quan bưng một mâm cơm canh thịnh soạn bước theo.
Phùng Lai chưa hết ngạc nhiên.
Diêm Giáp Ty đã ân cần chào hỏi, và nói :
- Phùng huynh lúc nãy nơi công đường, bị hành hạ quá nhiều ! Nơi đây tiểu đệ có làm một tô sâm thang, Phùng huynh hớp bậy vài ngụm cho mau phục hồi lực .
Phùng Lai ngẫng đầu ngó lên xà nhà ngục, cứng cỏi đáp :
- Diêm Giáp Ty, món sâm thang này của ông đem lại, hay là lão cẩu quan giả lòng từ bi đem đến cho tôi ?
Diêm Giáp Ty tươi cười nói :
- Phùng huynh đã hiểu lầm rồi ! Tri phủ đại nhân hôm nay trước công đường dùng khổ hình đánh Phùng huynh chẳng qua là một sự bất đắc dĩ, chuyện này có nhiều ẩn tình khúc tiết, Phùng huynh hãy uống một chút đỉnh sâm thang đi rồi sẽ nói chuyện sau !
Phùng Lai cười nhạt nói :
- Cầu thân không thành, vu hại người lành là kẻ cướp, cái đó gọi là có nhiều ẩn tình khúc triết ! Hừ ! Phùng Lai ta thà chịu chết đừng nói chi tô sâm thang này, mà cho đến ngọc thủy hay cam lồ ta cũng chẳng thèm uống ?
Diêm Văn Đạo nghiêm sắc mặt đáp :
- Phùng huynh là người đọc sách chắc biết câu "Thức thời vụ mới là người tuấn kiệt". Cái đó tiểu đệ không cần cắt nghĩa chắc Phùng huynh cũng dư biết ! Nhưng Phùng huynh có nghĩ đến chỗ Phùng huynh quá can cường như vậy là bất hiếu chăng !
Phùng Lai cả giận đáp :
- Nói bá láp ? Ta vì thủ nghĩa mà chết sao lại có dính líu đến chữ hiếu được chứ !
Diêm Giáp Ty cười ha hả một hơi dài rồi nói :
- Trong ba điều bất hiếu, không con nối dõi lửa hương là đứng đầu mà Phùng huynh chỉ có một đứa con gái, chẳng có con trai, tỷ như huynh cang cường cho đến chết, thì hương lửa giòng họ Phùng sẽ tuyệt tự mất, lấy ai giỗ quảy cho tông đường đây ! Có phải là một điều bất hiếu trọng đại chăng ?
Lời nói vừa rồi đánh trúng vào tâm sự của Phùng Lai khiến ông động lòng thầm nghĩ :
- Lời nói của y không phải là không có lý. Nếu như ta bị chết trong tay thằng cẩu quan họ Ngõa thì con gái ta chưa chắc đã thoát khỏi bàn tay gian ác của bọn chúng ! Không được, ta cần phải tìm phương kế khác !
Thấy Phùng Lai trầm ngâm mãi không lên tiếng, Diêm Giáp Ty tưởng đâu lời nói của mình đã lung lạc được đối phương, y bèn nói tiếp :
- Kỳ thật thì Ngõa đại nhân chẳng có ác ý với Phùng huynh, nếu Phùng huynh chịu gã lệnh ái cho Ngõa công tử của quan Tri Phủ thì thật là loan phụng hòa đôi, châu liền ngọc hiệp, một đôi giai ngẫu đồng lứa xứng duyên, Phùng huynh còn câu chấp nỗi gì !
Con người đâu thể giữ mãi một mực là thành nhân, phàm sự phải tòng quyền, Phùng huynh là một người thông minh, nên suy nghĩ lợi hại cho tinh tường không cần tiểu đệ phải lép mép nhiều lời !
Phùng Lai cúi đầu suy nghĩ giây lâu rồi bỗng hỏi :
- Ngõa Tri Phủ phái ông đến đây, chẳng lẽ để nói với tôi như thế sao ? Có điều gì cứ nói thẳng ra cho tôi biết !
Diêm Giáp Ty khẽ rùn vai mỉm cười hai tay nâng chén sâm thang dâng đến trước mặt Phùng Lai và cười nói :
- Phùng huynh, nên uống ít hớp đi !
Phùng Lai chuyển ý như thần :
- Cũng được, uống bậy vài hớp xem y nói thế nào cho biết !
Ông bèn tiếp lấy chén sâm nốc một hơi cạn chén.
Diêm Văn Đạo mới lên tiếng :
- Ý kiến của Ngõa đại nhân rất đơn giản, chỉ cần Phùng huynh ưng chịu hôn sự thì dù việc bằng trời cũng giải quyết một cách dễ dàng, lịnh ái sau này sẽ làm vợ của công tử tôi, biết đâu chẳng nhờ vinh dự của chồng được phẩm cấp này nọ, rỡ mặt với xóm làng. Phùng huynh nửa đời người còn lại, cũng đở phải lo vất vả áo cơm, Chuyện kết thân như vậy mà chẳng chấp nhận để hóa hung thành kiết, thật tiểu đệ lấy làm tức cho đại huynh lắm vậy .
Phùng Lai trầm tư một lúc, mới đáp :
- Chuyện này rất trọng đại, nhất thời không sao quyết định được, tối đêm mai tôi xin trả lời dứt khoát được chăng ?
Diêm Cáp Ty cười ha hả đáp :
- Không sao, tiểu đệ đêm mai y hẹn đến viếng đại huynh lần nữa. Mời đại huynh dùng cơm rượu đở lòng.
Ngục quan liền giở mâm cơm ra, bên trong có vài món đồ ăn khá tươm tất cùng một bình mỹ tửu.
Diêm Giáp Ty quay ra ngoài quát bảo hai tên ngục tốt lúc nãy :
- Bọn bây phải hết lòng hầu hạ Phùng tướng công, không được biếng nhác, nghe ta dặn chưa !
Hai tên ngục tốt lúc nãy oai phong hùng dũng bao nhiêu, giờ đây nghe thượng lịnh bảo mình phải phục dịch lại tội phạm, trên mặt ngượng ngịu khôn cùng, nhưng phải đành vâng dạ theo lịnh.
Phùng Lai không chút khách sáo ăn uống no say, Phùng Lai nằm suốt đêm trong ngục lăn lộn không hề chợp mắt, suy tới nghĩ lui để tìm mưu đối phó lại với kế hoạch mềm cứng liên phương của Ngõa Tri Phủ, gần sáng ông mới nghiến răng lẩm bẩm :
- Suốt một đời ta giữ tín làm đầu nhưng chuyện đã đáo đầu, ta không thể chẳng ngộ biến tùng quyền ! Được lắm, như thế ấy vậy !
Qua chiều hôm sau, Diêm Giáp Ty quả y hẹn đến nơi, y còn dắt theo một người Thông phán của phủ đường tên Phi Vân Hải, cũng là tên tâm phúc của Ngõa Tri Phủ.
Phùng Lai đối với hai tên vô lại này có thể nói là ghét tận xương tủy nhưng cố dằn lòng tử tế, bên ngoài khỏi lộ mưu sâu nên vờ tươi cười đứng dậy thi lễ với hai người .
Giáp Ty khách sáo vài câu mở đầu rồi nói với Phùng Lai :
- Phùng huynh, qua một đêm suy nghĩ chắc chắn đã có phần nào so đo hơn thiệt rồi hẳn !
Phùng Lai gật đầu đáp :
- Chuyện đã nước này tôi không nhận cũng không xong ! Song le, Ngõa đại nhân phải chấp nhận ba điều kiện của tôi, nếu thiếu một điều thì Phùng mỗ này thà chết chớ công dám vâng lời !
Diêm Giáp Ty dè dặt hỏi ba điều kiện ấy ra sao ?
Phùng Lại nói rằng :
- Điều kiện thứ nhứt : Hương Điệp vào làm dâu họ Ngõa phải đúng lễ chánh thất, chứ không được coi như hàng thê thiếp.
Điều kiện thứ hai : nếu Hương Điệp sanh được đứa con trai đầu lòng, phải về phần họ Phùng để nối dây lửa hương cho giòng họ Phùng !
Điều thứ ba : vì bị đánh đập giam cầm, sức khỏe, sinh lực bị tổn hao rất nhiều, cần phải được tịnh dưỡng một thời gian ít nhất là một tháng, mới lo liệu hôn lễ được.
Ba chuyện ấy Ngoa Trí Phủ bằng lòng thì xúc tiến cuộc hôn nhơn, bằng không thì đừng nói thêm điều gì vô ích.
Diêm Giáp Ty kéo Phi Thông phán vào một góc nhà phụ nhĩ một lúc khá lâu, cả hai đồng ý điều kiện thứ nhứt thứ nhì không khó, nhưng điều kiện thứ ba phải hoãn lại thời gian một tháng mới thành thân, cần phải hỏi lại ý kiến chủ nhân chớ không thể tự quyết định được .
Hai người dư hiểu, Phùng Lai vì thất thế nên mới ưng thuận sự cầu thân của Ngõa Tri Phủ, vạn nhất nếu ông ta dùng kế hoãn binh tạm mượn thời gian một tháng ấy để thi hành kế Kim Tiền thoát xác thì hai người sẽ bị quở trách.
Phi Thông phán bèn nói nhỏ với Diêm Giáp Ty :
- Tên Phùng Khải Tử này can cường lắm, nếu chẳng chấp thuận lời y thì hôn sự kia e khó thành tựu, thời hạn một tháng cũng chẳng bao lâu chúng ta cứ cho nhưng rình rập theo dõi hành tung y, với một tên học trò trói gà không chặt như y, gẫm lại cũng chẵng chấp cánh mà bay cho khỏi, ta cũng nên rộng lòng mà chấp nhận cho rồi !
Diêm Giáp Ty gật đầu tán đồng, đoạn quay sang trả lời Phùng Lai :
- Phùng huynh, ba điều kiện của huynh, Ngõa đại nhân có thể thuận được, ông cứ an lòng ở lại đây một buổi, nhất định sẽ có tin hay trở lại !
Nói xong, hai người dắt nhau quày quả trở về phủ đường.
Ngõa Tri Phủ nghe Diêm, Phi tường thuật lại ba điều giao kết của Phùng Lai, điểm thứ nhất và thứ hai chẳng có ý gì khác, nhưng qua điểm thứ ba, đôi lông mày gà của y liền nhíu lại, hừ giọng mũi một tiếng và nói :
- Tên học trò khùng ấy muốn một tháng sau mới đưa con gái về nhà chồng ? Văn Đạo ngươi xem y có phải định dùng kế hoãn binh không ?
Diêm Giáp Ty liền đem ý kiến của Phi Thông phán ra nói lại, Ngõa Tri Phủ gật đầu nói :
- Hay lắm, Văn Hải ngày mai thả tên học trò khùng ấy trở về, ngươi cũng chịu khó dọn đến nhà y ở một tháng, chờ đến khi đám cưới xong xuôi sẽ trở về, như vậy không còn sợ y dùng thủ đoạn Kim Thiền thoát xác nữa phải không ?
Phi Thông phán gật đầu tán thành lia lịa :
- Phải, phải ! Vãn sinh xin vì đại nhân mà hết sức mình !
Sáng hôm sau, Phùng Lai được lệnh tạm tha cho trở về, lại còn được phủ quan cấp cho một chiếc xe, có Thông phán họ Phi cùng theo chân bầu bạn đồng về nơi nhà họ Phùng.
Tần phu nhân cùng con gái là Điệp, thấy Phùng Lai được tha, mừng ngoài ý muốn, níu Phùng Lai cảm động khóc ròng.
Phùng Lai cũng nước mắt lã chã, nhưng ngại có Phi Thông phán ở bên cạnh, chẳng dám nói năng chuyện gì.
Phi Thông phán hiu hiu tự đắc, chẳng chút kiêng dè, chỉ huy dám dưới tay, ngang nhiên thu dọn cho y một căn phòng, y có đem theo hai tên tùy tùng mẫn cán, ba thầy trò chiếm lấy căn phòng rộng nhất trong nhà họ phùng.
Không nói ra chớ ai cũng dư hiểu là để giám thị động tịnh của cả nhà họ Phùng.
Phùng Lai chỉ đến lúc tối về phòng riêng, mới đem mọi sự thuật cho vợ nghe.
Tần Thị rơi nước mắt nói :
- Nếu như thế thì đứa con gái như hoa như ngọc của ta, đành phải gả cho đứa con trai của tên cẩu quan ấy sao ? Điệp nhi từ nhỏ đến lớn, được ông rèn luyện khí tiết. Nó thì tự ao ước mình được như nhân vật trong "Liệt nữ truyện", sợ e vụ này thà nó chết chứ chẳng bằng lòng !
Phùng Lai thở dài đáp :
- Không ưng thuận làm sao được ?
Thằng cẩu quan sẽ đánh tôi chết mà thôi, Điệp nhi cũng khó thoát khỏi bàn tay độc ác của cha con nó, cho nên tôi giả vờ thuận lòng để thoát về đây , kế của tôi là...
Ông bèn kề tai phu nhân nói nhỏ một hồi.
Tần phu nhân mặt hơi đỏ bừng, khẽ lắc đầu nói :
- Như vậy sao được, và nguy hiểm quá !
Phùng Lai nghiêm sắc mặt đáp :
- Bà theo tôi đọc sách cũng nhiều, trong binh pháp có chỗ luận về cách : Trí nơi tử địa mà tìm lấy lối sống, bà không biết sao ?
Khi xưa Huỳnh Cái dùng khổ nhục kế chịu cho Châu Du đánh mấy mươi trượng vào đít, đến nỗi máu rơi thịt chảy, nhờ đấy Tào Tháo tín nhiệm, sau lại mới đốt được liên hoàn thuyền kiên cố của họ Tào ! Bà quên rồi hay sao ?
Tần phu nhân nghe chồng thuyết phục một hơi dài mới chịu theo kế.
Cách bốn hôm sau, Phùng Lai cùng Tần thị bổng gây gỗ nhau dử dội, từ phòng trong đến sảnh đường.
Tần phu nhân tóc tai rối bù, khóc tức tưởi , chưởi rủa Phùng Lai là tên chồng bất lương, sao chẳng chết bờ chết bụi cho rảnh mắt .
Phùng Lai cả giận cung tay xén áo túm đầu đấm đá, túi bụi.
Hai vợ chồng xâu nhau một cục, cấu xé nhau thình thịch.
Phi Thông phán vội chạy tới khuyên giải hai người.
Tần phu nhân khóc kể bệu bạo :
- Đồ quân vô lương tâm, thấy con gái được làm dâu quan Tri Phủ là đã đắc ý quên tình, sáu mươi tuổi gìa gần cúp bình thiết rồi còn đòi nạp thiếp lấy hầu, không biết nhục sao ?
Phùng Lai xỉa xói mắng vợ :
- Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại, ai biểu cái bụng bà chẳng biết sanh cho tôi một thằng con trai làm chi ! Thời xưa đàn bà không sanh con trai cho chồng bị liệt vào trong bảy điều bị trục xuất khỏi nhà, ta nghĩ tình tào khang chi thê không đuổi bà ra khỏi cửa, mà chỉ nạp một nàng hầu, mà còn dám nổi hung nữa sao ?
Ông lại quay sang phân trần với gã Thông phán :
- Phi huynh ! Anh thử nghĩ xem Tri Phủ đại nhân trọng vọng tôi, mới chịu cưới con gái tôi về làm dâu nhà người thì dù tôi có nạp thêm một nàng tiểu thiếp để an hưởng chút đỉnh sung sướng lúc tuổi già có bậy hay là không ?
Phi Thông phán bọt xui cả hai đàng :
- Phải ! Phải ! Tần tẩu cũng nên ưng thuận theo lòng anh ấy cho êm thắm cửa nhà .
Tần Thị thà chết chứ chẳng chịu cho chồng lấy thêm vợ bé . Bà nhẩy đổng lên mắng chưởi om sòm.
Phùng Lai càng nổi giận quát lớn :
- Mụ đàn bà hư này quá quắt lắm rồi ! Phúc Toàn đâu, tống cổ mụ ra khỏi nhà cho ta, bảo mụ về nhà cha mẹ mà ở !
Ông gọi liên tiếp mấy tiếng, sai cắt lão gia bộc phải lập tức thu thập quần áo của Tần Thị, mướn xe đưa nàng cho khuất mắt ông.
Tần thị nổi xung đáp :
- Đi thì đi, cần gì đến ông xô đuổi, mụ gái xề này chống mắt xem đồ gìa dịch ông rước thứ quân mèo đàng chó điếm nào cho biết !
Hai vợ chồng xích mích đã đến giai đoạn quyết liệt không phương khuyên lơn được.
Tần thị khóc tức tưởi bước lên xe, rời khỏi nhà họ Phùng miệng không ngớt nguyền rủa chồng vô lương thất đức.
Phùng Lai sau khi vợ đi khỏi, gương mặt ông nặng sình sịch như treo đá, phân bua với Phi Thông phán :
- Phi huynh đừng cười tiểu đệ gặp phải bà vợ như sư tử Hà Đông !
Phi Thông phán vội đáp :
- Sao lại nói thế ! Chuyện vợ chồng xích mích nhau có ai tránh khỏi được, đây rồi năm ba ngày phu nhân cũng đổi ý trở về chứ gì !
Phùng Lai gượng cười nói :
- Chút nữa tiểu đệ quên mất, hôm nay là ngày sanh kỵ của gia mẫu, chúng ta nhấp bậy đôi ba chén rượu tiêu sầu.
Phi Thông phán tuy rất tinh tế, nhưng không sao nhìn thấu được thâm ý của Phùng Lai, tưởng đâu vì chuyện vợ chồng cơm không lành canh không ngọt lúc nãy, Phùng Lai buồn rầu nên mượn rượu giải khuây, y lại là một con người xu thời, thấy Phùng Lai sẽ là sui gia của Ngõa Tri Phủ, mình cũng nên kết giao với y để có phương nhờ cậy sau này, nên cười giả lả nói :
- Xin tuân lịnh ! Uống rượu ngâm thi cũng là một điều khoái lạc trên đời.
Phùng Lai lập tức sai lão gia bộc ra ngoài mua rượu.
Phi Thông phán vội can :
- Phùng huynh, rượu ngoài chợ không ngon đâu. Tiểu đệ có mang theo hai bình Hoa điêu tửu, Phùng huynh khỏi đi mua tốn công mà uống chẳng mấy hứng !
Thì ra Phi Thông phán tiểu tâm cẩn thận, tuy ở tại nhà họ Phùng, nhưng ăn uống mỗi vật đều do nhà mình xách lại chứ chẳng hề ăn cơm của nhà Phùng Lai nấu nướng.
Phùng Lai bất đắc dĩ phải đành nghe theo.
Rượu miền Thiệu Hưng có tiếng khắp Trung Hoa, nào là Nữ Trình, Trần Thiệu, Hoa Điêu, Trúc Diệp v.. v.... đều là những lọai rượu nổi danh khắp giới tửu đồ.
Phùng Lai cùng Phi Thông phán chén chú chén anh, chỉ trong chốc lát đã cạn mất một bình.
Phùng Lai quay sang bảo lão gia bộc đang hầu bên cạnh :
- Phúc Toàn , rượu Hoa Điêu uống lạnh có phần hơi lạt, ngươi đem hâm nóng chút đi !
Phúc Toàn vâng lịnh đem bình rượu ra sau bếp hâm lại, khoảnh khắc bưng bình rượu lên hơi nghi ngút trở vào.
Phùng Lai rót đầy một cốc nâng hai tay trao cho Phi Thông phán mời mọc :
- Phi huynh hãy uống cạn ly này với tiểu đệ.
Phi Thông phán tiếp lấy cốc rượu nốc cạn một hơi.
Phùng Lai cũng bưng ly rượu mình lên, vừa chấm môi liền vờ xảy tay cho ly rượu rớt xuống, rượu văng ướt cả mặt đất,
Phi Thông phán bỗng biến sắc mặt nhãy dựng lên khỏi ghế.
- Hay cho ngươi !
Nhưng chưa kịp hết lời, y tự nhiên líu cả lưỡi, rồi ngã nhào xuống đất kêu bộp một tiếng, máu từ mũi, miệng, tai, mắt trào ra, dãy dụa mấy cái là hồn vía lìa khỏi xác.
Phi Thông phán vừa ngã xuống đất, lão gia bộc Phúc Toàn lật đật bước vào.
Phùng Lai liền hỏi Phúc Toàn, còn hai tên kia xong chưa ?
Ông định ám chỉ hai tên thuộc hạ theo hầu Phi Thông phán mấy ngày nay.
Phúc Toàn hội ý gật đầu, cười đáp :
- Còn gì nữa, theo hầu chủ dưới âm ty rồi !
Thì ra tất cả mọi việc xảy ra, đều là một tấn tuồng diễn ra rất khéo léo đúng kế hoạch của Phùng Lai sắp bày.
Ông mượn cớ nạp thêm nàng hầu, rồi cùng vợ gây gổ, để đưa vợ con đi trước, đem theo tất cả đồ tế nhuyễn trong nhà.
Ba ngày trước đây Phùng Lai đã sớm sai lão gia bộc đi mua một lạng Hạc Đỉnh Hồng, một loại thuốc độc có tiếng, chỉ bỏ một chút ít vào rượu là có thể giết người trong nháy mắt.
Ông vịnh cớ buồn tình vợ con, lấy rượu cùng Phi Thông phán đối ẩm để giải sầu, uống được vài tuần, tìm cách chê rượu lạt, bắt Phúc Toàn đi hâm nóng, cho lão gia bộc bỏ thuốc độc vào rượu, mặc cho Phi Thông phán thông minh tế nhị đến bực nào, kết cuộc cũng không sao tránh khỏi diệu kế của Phùng Lai.
Riêng hai tên tùy tùng của Phi thông phán, thì sau khi Phúc Toàn đã bõ độc dược vào rượu bưng lên cho chủ xong, lão bèn xào nấu hai món ăn khá tươm tất, cắp theo một bình rượu độc đem đến cho hai người nói là của chủ nhân gia thưởng, hai tên tin rằng thật bày ra ăn uống hỉ hả với nhau, cuối cùng rồi theo luôn chủ nhân xuống cỏi dưới, trọn phận tớ thầy !
Phùng Lai thấy kế hoạch đã hoàn thành mỹ mãn, thần sắc vẫn ung dung không đổi, sai cắt lão gia bộc khiêng ba xác chết của thầy trò Phi Thông phán đặt vào phòng riêng của họ, lau sạch máu trên mặt thi thể đoạn lấy mền đắp cho đàng hoàng.
Rất may là trong nhà trừ vợ con ra, chỉ có lão gia bộc Phúc Toàn và một nàng hầu gái, nhưng hai hôm trước nàng đã mượn cớ tiểu thư sắp xuất giá và cả gia đình sắp dọn vào phủ đệ ở, nên cho nàng nghĩ việc về quê , có thể nói là mọi mưu toan kín đáo thần quỷ khó lường.
Phùng Lai lại kêu con gái đến bảo :
- Hương Điệp, con cùng lão gia bộc Phúc Toàn đến thành Đông nơi thành Phúc Thái, tìm mẹ con đang ở chờ nơi đấy, cha có chuyện một chốc sau sẽ đến ngay ! Nghe chưa !
Hương Điệp nhất nhất vâng lời, cùng lão gia bộc ra khỏi nhà.
Phúc Toàn liền thuê một chiếc kiệu, đưa tiểu cô nương đến thành Đông gặp Tần phu nhân.
Ba người đợi chờ cho trời xế bóng, sương mù vương vất ngọn cây mới thấy từ xa một bóng người lẩn thẩn bước đến chấp tay sau đít, ngắm đất nhìn trời, thái độ thung dung như một thi nhân đang tìm hứng vận.
Lão gia bộc Phúc Toàn đứng trước cửa tiệm ngóng đợi, thấy dạng chủ nhân từ xa đi đến liền trở vào thông báo cho mẹ con Tần thị hay để thâu thập hành lý rời khách điếm, thừa lúc cửa thành Đông chưa đóng, thầy trò bốn người đề huề ra khỏi huyện Thiệu Hưng.
Vụ thảm sát ấy đến sáng hôm sau, Ngõa Tri Phủ đã phát giác được vì Ngõa Tri Phủ tuy phái Phi Thông phán đến trông chừng gia đình họ Phùng nhưng vẫn chưa an lòng nên mỗi sáng đều phái một tên công sai đến trước cửa nhà họ Phùng để dò xét động tịnh.
Tên công sai có phận sự canh phòng nhà họ Phùng sáng hôm ấy theo thường lệ đinh gõ cửa thì thấy cánh cửa khép hờ chứ không gài then như hàng nhật. Y ngạc nhiên bước thẳng vào trong, thấy nhà cửa vật dụng trống trơn chẳng thấy dạng một người.
Tên sai dịch biết chuyện chẳng hay liền lớn tiếng réo gọi Phi Thông phán nào ngờ kêu đến rát cuống họng, cũng không thấy ai ừ hữ gì, gã càng kinh ngạc hơn nữa, xông xáo mọi nơi tìm kiếm, khi bước vào một gian phòng rộng lớn, phát giác được thi thể của ba thầy trò Phi Thông phán nằm chết cứng trên giường, thân thể đầu cổ đều lành lặn chẳng có vết thương nhưng da dẻ tím bầm trông rất khủng khiếp.
Gã sai dịch hồn phi phách tán vội chạy ù ra khỏi cửa, chổng mông la hét như điên :
- Có quỉ, có quỉ bà con ơi !
Tiếng la bài hãi của y làm kinh động đến lâm lý xóm giềng, mọi người ùa vào gia cư họ Phùng, mới hay là ba thầy trò Phi Thông phán, đều bị trúng một loại thuốc cực độc mà chết và gia đình họ Phùng bốn người lại mất tích một cách bí mật !
Ngõa Tri Phủ nghe tin tức ấy, giận dử nhãy chồm lên, hét vang như sấm, một mặt ra lịnh đóng chặc cửa thành, khám xét mọi nơi, một mặt thảo trát gởi mọi nơi phải bắt giữ cha con họ Phùng giải về Thiệu Hưng quy án.
Nhưng mọi việc đã quá trễ vì gia đình họ Phùng đã đi khỏi thành từ chập tối đêm qua rồi !
Nhắc lại Phùng Lai sau khi hoàn thành mưu "Kim Thiền thoát xác" trốn khỏi bàn tay Tri phủ họ Ngõa, suốt đêm xe chẳng dừng bánh, trực chỉ đến sông Tào Nga, thuê một chiếc thuyền buồm ra cửa sông.
Nơi đây địa giới của huyện Huỳnh Nham, Phùng Lai đề phòng trát văn bắt phạm của Ngõa Tri Phủ đã gởi đến huyện Huỳnh Nham thì gia đình ông khó mà thoát khỏi huyện được.
Nên cùng gia đình tạm trốn tránh ở đó một đêm, rạng sáng hôm sau lật đật mướn một chiếc thuyền buồm lớn vượt đường biển trực chỉ đến tỉnh Giang Tô, định đến huyện Nam Thông, lên đường bộ đến nhà thầy học của mình là Triệu Nhiêu Sơn tạm trú.
Hôm ấy, trên mặt biển trời quang mây tạnh cảnh sắc nên thơ mát mắt vô cùng.
Phùng Lai dựa lưng vào mui thuyền, nhìn ra cảnh mênh mông không ranh giới của trời biển, lòng lâng lâng vui thú, bèn quay sang bảo vợ :
- Này phu nhân, chúng ta bị phải tên cẩu quan ấy hãm hại, phải lưu vong đất khách quê người nhưng bù lại ngắm được cảnh sắc bao la của vũ trụ cũng không đến đỗi thiệt thòi một chuyến lìa quê vậy ?
Tần phu nhân buồn bã mỉm cười không đáp.
Phùng Lai cảm thấy thi hứng dâng trào, vào trong khệ nệ bưng bình trà ra thay rượu thưởng cảnh ngâm thi.
Ông vừa nghĩ ra được một vế đối hay liền gọi cô gái cưng Hương Điệp ra, định bắt nàng đối lại, thình lình nghe chủ thuyền ủa lên một tiếng kinh hoàng và nói :
- Chết rồi ! Anh em của Đông Hải Vương sắp đến !
Phùng Lai nghe nhắc đến ba tiếng "Đông Hải Vương" đã rụng rời thất sắc, vội hỏi :
- Chủ thuyền ? Sao gọi là Đông Hải Vương, chúng ở đâu ?
Mấy gã thuyền phu chẳng buồn đáp lời, vội chạy ào sau thuyền giở ván lên lấy ra một cờ nhỏ xanh ba
góc.
Phùng Lai thấy lá cờ, tuyến một màu xanh lam có thêu một hình mặt trời bằng chỉ kim tuyến, lại thấy đám thủy thủ tay chân quýnh quít buộc cờ vào dây cột buồm.
Phùng Lai ngơ ngác chẳng hiểu bọn họ định làm gì ?
Cùng trong lúc ấy, từ cuối đường chân trời, hiện lên ba chiếc hải thuyền màu vàng óng ánh dưới tia sáng mặt trời, sấp thành hình chữ phẩm, lướt sóng phăng phăng chạy tới.
Đám thủy thủ trên thuyền họ Phùng vừa ấy dạng ba chiếc hải thuyền kia lừ lừ tiến gần, tên nào cũng nín thở run rẩy, thần sắc kinh mang còn hơn gặp phải cơn hiểm nguy của sóng to gió dử.
Phùng Lai thấy tình hình như thế cũng đã bối rối lây.
Hương Điệp cũng sợ hãi bàng hoàng kề tai nói nhỏ với cha :
- Thưa cha, chắc là thuyền của bọn cướp bóc rồi ! Chúng ta xui xẻo gặp phải hải tặc, kiết hung hai lẽ, chỉ còn biết phó mặc cho trời xanh.
Phùng Lai nghe hai tiếng "hải tặc" không khỏi giật mình đánh thót một cái !
Đông Hải Vương, té ra là vua của bọn cướp biển, chả trách bọn thủy thủ thấy dạng thuyền đến đã khiếp sợ kinh hoàng đến thế, chẳng hiểu bọn chúng thượng lá cờ xanh có thêu hình mặt trời lên cột buồm để làm gì ?
Tần thị nghe bọn cướp đến, sợ hãi ôm con gái, núp kín phía sau lái, trái lại Phùng Lai nổi cơn khùng của kẻ đọc sách lên, thầm nghĩ mình là một gã học trò khốn khó chạy nạn, có vật gì là quí giá mà sợ bọn cướp bốc lột.
Ngẩm nghĩ xong tinh thần tỉnh táo trở lại, trở vào khoang lục rương sách ra lấy một quyển truyện Xuân Thu, ngồi chễm chệ giữa thuyền ngâm nga đọc lớn, mặc cho sấm sét bủa giăng, búa rìu cận cổ vẫn tỏ ra không chút khiếp oai .
Trong khoảnh khắc ba chiếc thuyền to đã cận sát hải thuyền, không đầy hai mươi thước.
Đám thủy thủ trên thuyền họ Phùng bèn hạ buồm xả lái, để cho chiếc thuyền mặc tình trôi theo sóng nước như sẵn sàng chờ đợi một sự khám xét của đối phương.
Một trong ba chiếc thuyền to của bọn cướp chầm chậm tiến tới.
Tần thị trong khoang thuyền lén mắt nhìn ra, sợ đến run rên phát rét, miệng niệm kinh Quan Âm không ngớt, van vái Hoàng Thiên Hậu Thổ chẳng dứt lời.
Phùng Lai trái lại, vẫn thản nhiên đọc chuyện Xuân Thu như chẳng có gì xảy ra quanh mình.
Chàng khẽ liếc mắt nhìn xa thấy trên thuyền giặc lố nhố ba bốn mươi tên đại hán hầu quanh một gã đầu cọp mắt heo, râu rồng bó hàm, mặt đỏ, miệng sếch, bộ tướng dử dằn như Châu Xương thời Tam Quốc.
Gã cướp mặt đỏ nhìn lên lá cờ xanh trên cột buồm của thuyền đối phương rồi cất tiếng oang oang hỏi :
- Bọn ngươi đã nộp thuế hàng năm cho Đông Hải Vương chưa ? Trong thuyền có hàng nào bở không ! Hạng nào đó !
Phùng Lai khi đó mới chợt hiểu lá cờ xanh treo lủng lẳng trên cột buồm kia là biểu hiện của bọn cướp cho nhưng thuyền bè nào đã phục tùng và chịu nạp tiền bảo hộ cho chúng. Chàng hơi yên tâm phần nào. Nhưng khi nghe tên cướp quát hỏi trong thuyền có hạng người nào, thì không khỏi lo ngại thầm .
- Bẩm Nhị đại vương, lần này chúng tôi chở một vị học trò, y đưa vợ con từ Huỳnh Nham huyện vượt bể đến Nam Thông ở Giang Tô.
Lời y chưa dứt thì tướng cướp đầu đảng mặt đỏ quát vang :
- Mi chở thằng học trò à, tốt quá ! Anh em đâu nhẩy qua tóm cổ cả gia tiểu tên học trò ấy cho lão gia .
Bọn lâu la trên thuyền giặc, hung hăng như bảy hổ đói từ bên hông thuyền hạ xuống hai chiếc tam bản nhỏ, rồi bảy tám tên hải tặc nhãy xuống tam bản, bơi sang thuyền đối phương, nhanh nhẹn leo lên thuyền Phùng Lai như bẳy vượn, hùng hổ kéo nhau vào khoang thuyền.
Phùng Lai ung dung rung đùi ngâm đọc Xuân Thu trong khoang thuyền.
Một tên hải tặc bước vào rồi chẳng cần phân biệt trắng đen vung tay đớp vào má Phùng Lai một bạt tai đánh "chát !" một tiếng rồi giật phăng cuốn sách Xuân Thu.
Phùng Lai tru tréo la lên :
- Mi tại sao lại ăn hiếp kẻ tư văn...
Chưa kịp dứt lời thì "bộp !" một tiếng nữa, bụng dưới bị tên cướp nện cho một đạp lộn nhào trên sàn thuyền.
Mấy tên cướp chia nhau phá cánh cửa nơi khoang sau, kéo lôi mẹ con Tần thị ra ngoài.
Bọn cướp thấy tiểu thư Hương Điệp sắc nước hương trời, cười lên hô hố :
- Tuyệt quá ! Hôm nay bắt được một con mái khá khúm, đem ả về nạp cho Tam Đại Vương, thế nào cũng được trọng thưởng .
Bọn cướp bể đã dọc ngang, hung hăng thành tánh còn biết gì thương hương tiếc ngọc, mặc cho mẹ con Tần thị khóc lóc kêu trời, năn nỉ lắm lời, chúng khoái trá cười lên hăng hắc, dùng giây trói thúc hai người lại lẫn cả Phùng Lai, kéo xển trên khoang thuyền, xô xuống tam bản chèo trở về thuyền mình.
Tướng cướp mặt đỏ lại quát lớn :
- Thuyền gia nghe đây, những hành trang cùng tiền bạc của tên học trò này, ta thưởng tất cho các ngươi, nhưng cấm ngặt các ngươi không được đến quan quyền báo cáo, nghe rõ chưa ?
Chủ thuyền cùng đám trạo phu sợ bọn hải tặc Đông Hải Vương còn hơn rắn rết, đâu dám chẳng tuân lời, chỉ còn cách riu ríu trương buồm rời hổ huyệt.
Bọn cướp biển đưa Phùng Lai và vợ con cùng lão gia bộc, tất cả bốn người thẳng xuống hầm.
Lại cắt đặt vài tên đứng bên ngoài canh phòng, mặc gia đình Phùng Lai khóc lóc thảm thương.
Chúng đem rượu ra ăn uống hò hét để tưởng thưởng công lao.
Tần thị bên dưới hầm thuyền ôm con khóc kể :
- Ác chi lắm trời ơi ! Thoát vừa khỏi lưới cẩu quan, mừng chưa kịp no, lại rơi vào tay quân cướp ác nhơn thất đức, sống sao cho được mà sống, con ơi là con !
Phùng Lai phất tay áo, giận dữ mắng vợ :
- Khóc cái gì ! Chết sống có mạng, phú quí tại trời, cao lắm là một đao đứt thành hai đoạn rồi thì thôi có gì mà than trời trách đất ? Đừng láo nháo mà náo loạn ý chí ta !
Thì ra, ông còn hy vọng gặp mặt tên cướp chúa, dùng lưỡi Tô Tần thuyết phục bọn chúng để thoát khỏi đại nạn.
Thuyền lướt sóng băng độ nửa ngày sau, trời vừa sẩm tối thì thuyền tiến sát một dãy cù lao, chập chùng mỏm đá nhọn lểu như chọc thủng nền trời xanh lơ dưới vầng trăng khuyết, vừa lên khỏi đáy nước.
Nơi đảo nầy không phải là một hoang đảo, nên dọc theo bờ biển, nhà cửa san sát đèn đóm sáng ngời như sao sa.
Té ra đây là sào huyệt của bọn Đông Hải Vương, tên là Hắc Phong Đảo, trên đảo tụ tập hơn mấy mươi tên hải tặc cùng gia đình của bọn chúng đều cư ngụ sinh sống trên đảo này.
Nguyên vì thời Nam Tống, quân Kim xâm lăng bờ cõi, chiến chinh liên miên không ngớt, khiến dân chúng cơ hàn khốn khó đến đường cùng, những trai tráng mạnh khõe đều lánh cư đến miền bể, tụ tập nhau trên đảo thành đoàn, lấy cướp bóc để làm việc mưu sinh qua cơn đói rách, cuối cùng quen nết trở thành nghề cướp chánh tông, thế ác qui tụ một ngày một lớn. Bang hải tặc Đông Hải Vương này, chính cũng trong trường hợp ấy mới vừa thành hình.
Trong Bang tổng cộng có ba vị Đại vương, đứng đầu là Thân Hải Trường Kình Trịnh Thiên Vân.
Đầu lĩnh thứ hai tên Cửu Đầu Ngân Ngao Võ Nguyên Khánh, gã thứ ba tục danh Bắc Vĩ Quy Đào Tông Kĩnh, mỗi Đại vương đều có riêng một bản lĩnh xuất sắc, nhờ đấy mới cầm đầu dám người lang sói kia được.
Bọn cướp Đông Hải Vương lúc trước do dám Tôn Phương Cô cầm đầu, sau vì Tôn Phương Cô được Toàn Chân Giáo Chủ Vương Trùng Dương điểm hóa tỉnh ngộ, dốc tóc nhập đạo, lấy hiệu là Tôn Bất Nhị, để lại cơ sở cho Trịnh Thiên Vân cai quản, trong vòng không đầy vài năm, số người nhập đảng càng đông, thuyền bè thêm nhiều mới trở thành bá chủ khắp bể Đông, tự xưng là Đông Hải Vương Bang.
Gia đình Phùng Lai rủi ro mạng vận xui khiến phải lọt vào tay đám giặc này, bị chúng giải về sao huyệt trên Hắc Phùng Đảo.
Tướng cướp mặt đỏ là Nhị đầu lãnh Cửu Đầu Ngân Ngao Võ Nguyên Khánh, sau khi cho thuyền cập bến, liền chỉ huy đám hải tặc cởi trói cho đám người Phùng Lai và giải thẳng lên bờ, đưa về đại trại.
Phùng Lai nhìn thấy nơi giữa đại trại có cấm phòng Trung Nghĩa Đường cực kỳ hoa lệ.
Võ Nguyên Khánh ngồi xuống một trong ba chiếc giao ỷ bọc bằng da cọp được bày giữa Trung Nghĩa Đường, rồi quay sang bảo tên tiểu đầu mục :
- Mau thỉnh Đại trại chủ và Tam trại chủ đến !
Khoảnh khắc sau, từ sau tấm bình phong bước ra hai gã đại hán vạm vỡ ớt dầu là đại đầu lĩnh Thôn Hải Trương Kình Trịnh Thiên Vân, mặt như giấy vàng, đầu cọp, hàm én, hiện lên nét oai vũ khí khái của con người có căn bản võ công, gã đi sau là đầu lĩnh thứ ba Bát Vỹ Quy Đào Tông Kĩnh, mặt đen, mày rậm, da đen như than hầm.
Võ Nguyên Khánh chờ hai người yên vị xong liền quát bảo một tên đầu mục đứng hầu gần đấy :
- Giải tên học trò khó ấy ra đây !
Phùng Lai thấy ba tên Đại Vương người nào cũng sát khí đằng đằng, lúc đầu hơi khiếp, nhưng sau nghĩ lại phúc họa đều bởi số mệnh dù sợ cũng chẳng ích gì, nên cố gượng lấy lại can đảm la lớn :
- Đại Vương sao chẳng trọng kẻ sĩ lại mặc tình hành hạ kẻ tư văn như vậy, làm sao mà thành đại sự nghiệp cho được ?
Ba vị Đại Vương thấy chàng ăn nói khùng khịu, lớn lối ngông cuồng đều cất tiếng cười lên ha hả .
Trịnh Thiên Vân ôm bụng cười một lúc khá lâu mới quay sang nói với Võ Nguyên Khánh :
- Nầy hiền đệ, không ngờ tên học trò khùng này lại có chút khí phách đấy !
Y hất hàm bảo Phùng Lai :
- Mi khai rõ tên họ cho lão gia nghe thử xem !
Phùng Lai đem tên họ mình xưng ra, vừa định đem chuyện mình bị tham quan Ngõa Tế Dân hãm hại, đến phải bỏ xứ lìa quê, thuật lại cho chúng biết thì Trịnh Thiên Vân đã xì một tiếng và quát :
- Câm mỏm ! Trên đời đáng ghét nhất là hạng đọc sách, như chúng ta gặp kẻ nào đọc sách thì nhất định giết chết chẳng hề dung mạng, để trừ hại cho thiên hạ !
Phùng Lai trợn mắt mạnh dạn đáp :
- Đại Vương, những lời của ngài chẳng có đạo lý gì hết !
Trình Thiên Vân cười nhạt nói :
- Đạo lý ư ? Có chứ, thử nhìn khắp thiên hạ từ xưa đến nay bao nhiêu kẻ quan lại mãi quốc gian manh, tàn hại dân lành, có tên nào chẳng phải là kẻ đọc sách xuất thân đâu ?
Như Lý Tư cũng là tên đọc sách, lại bày cho Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn kẽ sĩ, vô đạo tàn ác, đấy là một tỷ dụ thứ nhất và gần đây bổn trào của chúng ta những tay gian thần : Trà Đồng Quán, Vương Bỗ, Trương Bang Xương, Tần Cối, loại trâu vầy, cọp xé ấy, tên nào chẳng Kinh luân đầy bụng, thế mà chúng chiếm được ngôi sang cả giữa triều đình, ngồi trên mồ hôi nước mắt của dân đen lại đang tâm phản bội tổ quốc sát hại trung lương, đưa nước nhà vào thảm họa của ngoại xâm, thì thử hỏi xem hạng người đọc sách có đáng chết hay không ?
Phùng Lai cười dài nói :
- Lời của Đại Vương sai nhiều quá Vãn sinh xin hỏi ngài một câu : Nhạc Nguyên Soái của tiên trào cả phá quân Kim, có phải là người đọc sách hay chăng ?
Lời nói của Phùng Lai bắt lại khiến ba tên cướp chúa cứng họng chẳng thể đáp cho suông.
Giây lâu sau Võ Nguyên Khánh mới lớn tiếng quát :
- Mốc xì ! Nhạc Võ Mục là một vị anh hùng hào kiệt trung nghĩa vô song đâu có phải là hạng người đọc sách mục như mi, đừng nói bá láp bắt quàng !
- Nếu Nhạc Võ Mục không phải là người đọc sách thì làm sao biết cách dụng binh thư như thần, mấy lần đại phá quân Kim được chớ ?
Nếu ông chẳng có danh tài thì làm sao viết được những bài văn từ "Mãn Hồng Hồng", "Ngũ Nhạc Minh" lưu loát hào hùng như thế ấy được ?
Chẳng lẽ anh hùng hào kiệt chỉ biết đánh nhau như điên chẳng cần dụng kế hay sao ?
Ba gã Đại Vương đều câm miệng như hến, không sao đáp cho trôi !
Bắc Vĩ Quy Đào Tông Kĩnh đưa mắt nhìn mẹ con Tần thị một cái, rồi chỉ tay về phía Hương Điệp hỏi Phùng Lai :
- Nàng con gái kia tên họ gì ? Là con gái ngươi phải không ?
Phùng Lai thầm rùng mình e sợ, chàng bèn đem chuyện gia đình bốn mạng người vì bị Ngõa Tri Phủ ép duyên đến phải bõ nhà lưu vong ra sao, nhất nhất thuật lại cho mọi người nghe.
Đào Tông Kĩnh nghe xong cười ha hả một hồi rồi nói :
- Thằng học trò khùng kia , như vậy mới đúng là câu "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ !" mi chẳng chịu gả con gái cưng cho con trai quan phủ , lại đưa nhau chạy trốn trên biển , lọt vào tay ta.
Vừa vặn ta chưa có vợ , có phải là duyên trời đặt để không ? Mi gả con gái cho ta vậy ! Gia đình ngươi hãy trú ngụ nơi Hắc Phong đảo này, cần chi phải đến Giang Nam tìm Bình Mã Chỉ Huy Sứ làm gì cho tốn công mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa là khác.
Vợ chồng Phùng Lai nghe xong , hai người đều nhìn nhau thất sắc kinh hoàng.
Vì hai vợ chồng chỉ có đứa con gái duy nhất ấy , thường hy vọng con gái mình mai sau tìm được người chồng văn thể phong lưu như Tư Mã Tương Như , hạng nhân vật xuất chúng như thế ấy mới thỏa lòng.
Ông thà chịu chết chớ chẳng gả con cho con trai Ngõa Tri Phủ cũng chính vì lẽ đó , ngờ đâu trăm phương ngàn kế thoát khỏi hang hùm, lại rơi vào hổ huyệt của đám cướp bể này ?
Cái gã Đại vương đen như cục than đá kia lại đèo bồng cưới con gái mình khiến Phùng Lai giận đến cơ hồ muốn ngất đi được , nhưng cố dằn cơn nóng đáp :
- Tiểu nữ tư chất yếu đuối dại khờ đâu dám trèo đèo chức cả , xin Đại vương miễn cho !
Đào Tông Kĩnh không thèm đáp mà lại quát nạt :
- Chẳng nói lôi thôi gì cả ! Bốn người bị ta bắt được , thì bổn Đại vương muốn thế nào phải y theo thế ấy , ai nói cùng mi cái gì chức cả chức bé , trèo đèo với chẳng trèo đèo ! Bây đâu ! Hãy chuẫn bị lễ động phòng , bày tiệc hiệp cẩn cho Tam lão gia !
Phùng Lai cả giận, trước mắt cảm thấy tối sầm ngã nhào xuống đất ngất mê mang tại chỗ !
Phùng Hương Điệp nghe tên cướp mặt đen định ép duyên mình làm vợ , giận thẹn mười phần , nàng vì hai tay bị trói quặt ra sau chẳng thể cựa quậy gì được , do một tên lâu la dẫn đi.
Trong lúc thẹn giận quá mức , nàng quên cả sợ hãi , rồi chẳng biết do đâu dâng lên một luồng dũng khí , thình lình nhe đôi hàm răng nhỏ rức như ngọn chuốc , táp mạnh vào cần cổ tên lâu la , khiến tên nọ đau quá rống lên một tiếng "ối cha !" buông cả mối dây đang giữ trong tay.
Phùng Hương Điệp thừa cơ hội lách mình vuột chạy , đâm sầm chiếc đầu vào cột đá nơi Trung Nghĩa Đường định tự sát.
Một tên đầu mục đứng gần bên chiếc trụ thấy thế , vội vàng vọt người ra trước, án cây cột, vung tay định ôm Hương Điệp lại, ngờ đâu chiếc đầu của Hương Điệp vừa vặn tông vào bụng dưới của gã, khiến gã không sao tự chủ được phải thối lùi ra sau , lưng đụng chạm mạnh vào trụ đá đau thấu trời xanh đất đỏ, kêu lên một tiếng "ái cha !" rồi té ngồi trên mặt đất.
Hương Điệp vì dùng sức quá mạnh, cũng không sao đứng vững được té chúi nhủi vào trong lòng của gã đầu mục kia.
Mọi người thấy cuộc diện biến đổi đột ngột không khỏi la hoảng lên động cả sảnh đường.
Tên tiểu đầu mục có lẽ vì sợ Hương Điệp liều mạng nữa nên ôm nàng chặc cứng.
Hương Điệp cố sức vùng vẫy để thoát ra, hai người quyện nhau thành một cặp lăn tròn trên mặt đất.
Đào Tông Kĩnh cười lên hiểm ác, đứng phắt dậy, mắt tóe hung quang rút phăng thanh ngư lân đao phía sau lưng ra kêu "xoảng !" một tiếng, đến sát chỗ hai người đang xà nẹo nhau rồi chẳng cần hỏi han, ánh đao lấp lóe vung lên, đánh "xoạc !" một cái, tức thì chiếc thủ cấp của tên đầu mục nọ, đã văng ra xa khỏi mình y trên bảy tám thước, máu bắn tung toé khắp nơi.
Phùng Hương Điệp rú lên một tiếng hãi hùng, rồi ngất xỉu tại chỗ !
Thì ra trong ba Đại Vương, Bác Vĩ Quy Đào Tông Kĩnh là một tên tham dâm hiếu sắc, tánh tình hết sức tàn nhẫn, hơi giận một chút là đã giết người, thậm chí hắn mổ bụng lóc da người sống là chuyện bình thường như cơm bữa. Y thấy tên tiểu đầu mục ôm cứng Phùng Hương Điệp lòng ghen không khỏi nổi dậy, bèn vung đao chém phăng thủ cấp tiểu đầu mục một cách oan uổng.
Hai tên đầu mục đứng bên cạnh thấy thế hoảng hốt la lên :
- Trời ơi !
Tiếng kêu không mấy gì quan hệ, nhưng vô tình đã làm Đào Tông Kĩnh càng nổi giận hơn thêm, y bèn xoay người lại quát hai tên đầu mục :
- Tam Đại Vương muốn chém đầu thằng nào là cứ chém, bọn mi dám mở miệng kêu la hả !
Hai tên đầu mục vội quì ngay xuống vập đầu vái như tế sao.
Đào Tông Kĩnh chẳng cần phân hơn thiệt cứ một đao là hớt phăng chiếc đầu mỗi tên, văng lông lốc trên mặt đất.
Tần thị và lão gia bộc Phúc Toàn thấy bọn giặc cướp hung tàn như thế hai người kinh khiếp rụng rời cả chân tay, xỉu nhào xuống đất.
Thấy bốn người trong gia đình đều bất tỉnh mê man, Đào Tông Kĩnh phẹt một bãi nước miếng xuống đất nói :
- Toàn là đồ vô dụng, nhát như cheo !
Lại quay sang bảo tả hữu :
- Đem ba cái xác chết, vùi ngoài đồng trống lau quét máu me cho sạch sẽ, hai thằng gìa với mụ lão tống giam xuống hầm tối. Đêm nay dọn sẵn lễ mừng ta cùng mỹ nhân thành thân !
Trịnh, Võ hai người đối với việc Đào Tông Kĩnh giết người như đã quen mắt, chẳng tỏ chút gì lạ hay trách cứ, còn cười bảo :
- Hiền đệ nói gì lạ vậy ? Nếu đêm nay thành thân phải để cho ngu huynh cung hạ chớ !
Đào Tông Kĩnh hết sức cao hứng, sai cắt thủ hạ chuẩn bị mọi thứ.
Tuy trong sơn trại chẳng giăng hoa kết đèn nhưng đêm ấy cũng náo nhiệt vô cùng, nhộn nhàng và vang lên tiếng cười hô hố khả ố của bọn lâu la đầu mục.
Đêm mới vừa buông canh, Đào Tông Kĩnh mặc một chiếc áo tân lang do mười mấy tên đầu mục dắt hoa tươi theo hầu hí hửng đi đến lữ đường chờ đợi tân nương ra giao bái trời đất .
Nào ngờ y chờ cả buổi, trống ngũ âm trổi lên mấy lượt cũng chẳng thấy cô dâu bước ra.
Đào Tông Kĩnh đang hồ nghi phân vân thì từ ngoài vọng lại tiếng la hét vang trời, rồi có mấy tên tiểu cướp chạy đâm sầm vào hổn hển báo cáo :
- Đại vương, không xong rồi ! Tân nương chẳng biết từ đâu nhặt được chiếc kéo, thấy người là đâm túi bụi, đã có ba người bị nàng đâm trúng thương rồi !
Đào Tông Kĩnh cả giận hét to :
- Đâu có thể lộng như vậy được ! Con tiện tỳ này chẳng chịu ra bái lễ tơ hồng, dám liều lĩnh đến như thế ấy sao !
Y quên cả chiếc áo tân lang hoa lệ trên ngực , nhãy ba bước chạy đến tân phòng.
Quả như lời báo cáo, Phùng Hương Điệp nắm chặc một mũi kéo sáng loáng đang cùng hai mụ đàn bà có phận sự phù dâu cấu xé lăn lộn nhau trên mặt đất.
Đào Tông Kĩnh cơn điên nổi lên, chẳng hỏi ngọn ngành búng chân đá mỗi mụ phù dâu nhào hết về một phía.
Phùng Hương Điệp từ dưới đất lồm cồm ngồi dậy, chiếc áo tân nương đã rách be bét khắp nơi.
Đào Tông Kĩnh quát to :
- Nàng điên rồi sao ? Đêm nay ta cùng nàng giao bái trời đất để kết tình chồng vợ, sao nàng còn ở đây làm trò quỉ gì thế ?
Phùng Hương Điệp mặt phấn đổi màu xanh, lắng lặng chẳng đáp lời, thình lình giơ cao mủi kéo đâm thốc vào người Đào Tông Kĩnh !
Nhưng dù sao nàng chỉ là một cô gái yếu đuối, làm sao bì kịp với một gã sức vóc vạm vỡ lại tinh thông võ nghệ ?
Nên mũi kéo chưa chạm được vào làn áo của đối phương thì trên mặt đã "bốp !" một tiếng.
Hương Điệp hứng trọn vẹn một cái tát tai phũ phàng của tên cướp biển, xiểng niểng không sao gượng được té ngữa dưới đất !
Đào Tông Kĩnh định tiến lên túm lấy tóc nàng kéo dựng dậy nào ngờ Phùng Hương Điệp hả rộng đôi môi son táp nhầu vào bắp chuối non của y.
Đào Tông Kĩnh đau điếng nhãy dựng lên, chân còn lại bung ra một bước, đá nàng nhào trái trở ra sau.
Phùng Hương Điệp, chẳng thèm kêu rên, đứng phắt dậy, chộp lấy đồ vật trên bàn, ném liên tiếp vào mặt tên cướp, khiến kiếng, lược, bình, chun trà, tất cả vật dụng trong phòng thi nhau rớt bể nát.
Đào Tông Kĩnh cả giận, hét vang :
- Con tiện tỳ đáng ghét kia, mi tưởng là liều chết chứ không ưng thuận rồi Đào lão gia đây chịu thua mi sao ! Được lắm, để cho mi xót dạ đau lòng thử xem mi còn cưỡng lý đến bực nào cho biết !
Nói đoạn quay sang dặn nhỏ tên thủ hạ mấy câu.
Tên tiểu tặc liền gật đầu đi liền, khoảnh khắc sau trở lại còn dắt theo hai người một nam một nữ.
Phùng Hương Điệp thấy mặt hai người ấy, liền run rẩy biến sắc, té ra hai người bị trói dính vào chính là cha mẹ của nàng.
Đào Tông Kĩnh quát một tiếng ra lịnh, đám lâu la liền nắm đầu giây rút treo vợ chồng họ Phùng, treo tòn ten trên xà nhà, tựa như tuồng đánh đu một thứ.
Đào Tông Kĩnh khoái trá cười lên hô hố và quát :
- Con tiện tỳ, nếu mi chẳng chịu thành thân với ta, ta sẽ treo cha mẹ mi như thế và đánh cho thịt nát da rơi mới thôi, thử xem mi có đau lòng hay không ?
Y lại quát thủ hạ đem đến một ngọn roi đuôi cá đuôi gai chơm chởm.
Tên cướp chúa hung ác dị thường, vừa tiếp lấy ngọn roi đã vung "phắc !" một tiếng quất vào người Phùng Lai, khiến chiếc áo trên người ông bị rách xoạt một đường dài, máu tươi bắn ra lốm đốm trên mặt đất.
Phùng Lai đau đớn kêu thét lên như bị chọc tiết !
Đào Tông Kĩnh cười lên hăng hắc nghe rất khả ố, vung ngọn roi cá đuối kêu vun vút trong không khí định đánh vào mông Tần thị.
Phùng Hương Điệp hoảng hốt la to :
- Tôi chịu rồi ! Ông đừng đánh mẹ tôi !
Đào Tông Kĩnh thâu nhanh ngọn roi trở về cười sằng sặc bảo :
- Cưng ơi ! Cái đó gọi là "Rượu dâng không uống, uống rượu phạt, chưa thấy quan tài, lệ chưa rơi !" hì hì !
Y vẫy tay ra dấu cho bọn tiểu tốt thả vợ chồng Tần thị xuống đất .
Phùng Hương Điệp vội chạy đến ôm mẹ khóc ngất và nói :
- Má đừng trách con gái má bất hiếu !
Phùng Lai bị bọn cướp hành hạ hơn nửa ngày trời, lại lãnh thêm ngọn roi vào lưng thấu tim phổi, thở hổn hển bảo con gái :
- Điệp nhi...cha dù chết cũng chẳng hề gì , con phải giữ đừng cho thất tiết.
Phùng Hương Điệp lòng đau như xé quỳ trước mặt cha khóc đáp :
- Thưa cha con làm sao dám trái lời cha giáo huấn từ lâu, con... con xin lạy tạ ân cha mười sáu năm dưỡng dục cù lao !
Nói xong nàng cúi đầu phủ phục xuống đất khóc như mưa.
Phùng Lai hiểu rõ dụng ý của con gái mình, cười thảm não nói :
- Hay ! Hay ! Con có thể làm như vậy, cha dù dưới cửu tuyền cũng an lòng nhắm mắt ! Công mẹ con, công mười tháng cưu mang, con cũng nên lạy tạ ơn mẹ mới phải !
Hương Điệp khóc không thành tiếng.
Đào Tông Kĩnh đã đợi lâu không chịu được quát lớn :
- Mẹ mẹ cha cha cái đếch khô gì, có mau đổi áo tân nương ra ngoài bái đường cho mau hay không ?
Hương Điệp biết lần này mình ra tay, sẽ mãi không còn thấy mẹ cha, đau đớn vạn phần ruột mềm từng khúc, nhưng trước sự bức bách của tên dâm tặc, chỉ đành riu ríu đứng dậy, nước mắt trào dâng như suối, thê thảm nói :
- Cha mẹ nên thận trọng, con đi đây !
Tần thị nghe thấu thâm ý dặn dò của con gái, ôm chặt Hương Điệp vào lòng.
Đào Tông Kĩnh thấy gai mắt cả giận quát :
- Hai con chó gìa kia cứ mẹ mẹ cha cha với con gái, mãi làm cái trò khỉ khô gì thế ? Bộ định đưa ma hay sao ? Có mau buông tay hay không, nếu còn lôi thôi đừng trách lão gia chẳng vị tình cha vợ đấy !
Y lại quay sang hét ra lịnh bọn tiểu tốt :
- Đưa hai con chó gìa đáng ghét này ra khỏi nơi đây mau !
Tiếp theo đấy y quát tháo bọn tỳ nữ dắt tân nương ra sau thay đổi kiết phục !
Phùng Hương Điệp đã ôm sẵn ý định, nước mắt ráo hoảnh đôi ngươi ngời tia sáng lạ thường, bị bọn tỳ nữ kéo thẳng vào phòng, cài hoa thoa phấn rồi dắt đến lễ đường cùng Đào Tông Kĩnh giao bái Thiên Địa một lễ nghi hoàn tất trong tiếng sáo nhạc tưng bừng.
Đào Tông Kĩnh mặt mày hí hửng tưởng đâu đêm nay có thể cùng người đẹp vầy duyên cá nước !
Sau canh hai đêm ấy, Đào Tông Kĩnh nơi khách đường mọi người đổ rượu say mèm, chân nam đá chân xuôi trở về tân phòng.
Phùng Hương Điệp gầm đầu ngồi yên trên giường, hỹ nương ngồi kế bên khuyên nhủ.
Đào Tông Kĩnh vừa bước vào phòng lập tức khoát tay xua đuổi đám hỹ nương.
Đám hỹ nương biết rõ tánh hung ác của Câu Bác Vỹ Quy nên mạnh ai riu ríu nấy chuồn.
Đào Tông Kĩnh cười khẩy bảo Hương Điệp :
- Chúng ta là vợ chồng rồi còn gì nữa mà thẹn thùng ! Uống vài hiệp rượu cẩn với ta đi cưng !
Phùng Hương Điệp nghiến răng, gượng vẽ mặt vui vẻ đáp :
- Đại Vương đêm hôm nay tiện thiếp đã là người của Đại vương, nhưng thiếp có một điều yêu cầu Đại vương, chẳng hay Đại Vương thuận lòng chăng ?
Đào Tông Kĩnh hồ nghi nhìn khuôn mặt mỹ miều như hoa xuân, cười lên hô hố nói :
- Nương tử, có chuyện gì cứ nói ra chẳng ngại ?
Phùng Hương Điệp nói :
- Cha thiếp tuổi gìa hay bịnh, mẹ thiếp thể chất cũng yếu đuối dễ đau, hai người không thích ở trên hải đảo, Đại vương thương thiếp thật lòng xin ban cho người chút ân huệ, cấp cho chiếc thuyền con, bảo hai người lập tức rời khỏi nơi đây .
Đào Tông Kĩnh ngạc nhiên hỏi :
- Ủa ! Hai ông bà không chịu ở trên đảo thật sao ! Lưu lại trên Hắc Phong đảo này có phải tiện hơn không, khỏi sợ tên Ngõa Tri Phủ bắt bớ truy tầm gì hết .
Phùng Hương Điệp lắc đầu đáp :
- Không được, ông là người trói gà không chặt, bảo ông ở trong sào huyệt bọn cướp phỏng có ích lợi gì ! Ông cũng không thể giúp các ngươi đánh lộn giựt đồ chẳng lẽ ngồi không tọa hưởng hay sao, ông là người khí khái không chịu như thế đâu.
Đào Tông Kĩnh không chịu được sự lải nhải gạt ngang :
- Rồi, rồi ! Nếu ông không ưng ở nơi đây chúng chẳng cầm cọng làm gì, đêm tối như thế này, mai sẽ cấp thuyền cho ông bà đi ngay !
Phùng Hương Điệp lại nói :
- Hai ông bà muốn rời khỏi đêm nay chớ chẳng chịu nhìn con gái sa vào tay giặc. Đại Vương nên lập tức cấp thuyền đưa hai ông bà đi cho rồi !
Nếu như ngày thường, tất Đào Tông Kĩnh sẽ nghi ngờ nhưng vì đêm nay y cao hứng đến tuyệt độ, lại có hơi men chếch choáng nên chẳng chút suy nghĩ đắn đo gật đầu ưng thuận.
Rồi lập tức bảo hai người xuống thuyền đi là xong chuyện .
Y bèn gọi một tên lâu la dặn dò mấy câu, bảo phải chuẩn bị một chiếc thuyền đưa vợ chồng Phùng lão tiên sinh rời khỏi đảo.
Tên lâu la nhất nhất vâng lời theo lịnh.
Phùng Hương Điệp thấy cha mẹ mình đã thoát hiểm mới yên lòng, nàng mỉm cười cố tạo vẻ tươi cười cầm lấy bình rượu rót đầy dâng lên.
Đào Tông Kĩnh mừng rỡ cười híp mắt tay trên chân dưới làm đủ trò khả ố.
Phùng Hương Điệp một mực tránh né và nói :
- Đại Vương, thiếp là người của Đại Vương rồi vội làm gì, hãy uống thêm vài ly giao cẩn với thiếp đã chớ !
Đào Tông Kĩnh lè nhè đáp :
- Phải lắm ! Rượu say gối vế mỹ nhân êm mềm hương thoảng nản lòng trượng phu hè... hè.. ! Nương tử, rượu uống !
Phùng Hương Điệp liên tiếp rót bảy tám chén rượu ép Đào Tông Kĩnh uống cạn.
Đào Tông Kính nửa say men rượu, nửa say sóng tình, bị Hương Điệp chuốc rượu cho một hơi, say nằm dựa ngữa trên ghế thái sư, ngáy vang như sấm.
Phùng Hương Điệp khẽ lay gọi y .
- Đại vương !
Đào Tông Kĩnh lảm nhảm đáp vài tiếng rồi ngáy trở lại nhau rống, chứng tõ y đã say mèm như đất cục.
Hương Điệp cắn chặt hàm răng, cởi chiết mão phụng trên đầu, đi đến bên giường lôi dưới chiếu ra một chiếc kéo sáng loáng mà nàng đã ăn cắp được của bọn người hỷ nương lúc nãy và dấu sẵn nơi ấy !
Phùng Hương Điệp bậm môi giơ cao mũi kéo đâm lút cáng vào yết hầu của tên cướp.
Thì ra nàng từ thuở nhỏ được phụ thân dạy dỗ theo khí tiết thơ hương, trong đầu óc đầy dẫy những nhân vật nữ lưu trinh liệt như "Trinh nữ truyện", "Liệt nữ từ" v.v." Thường lấy nhân vật trong cốt truyện để tự răn lấy mình, nên đâu thể chịu thất thân với bọn cướp sát nhân.
Chợt đến lúc nàng tĩnh dậy lần nữa thì thấy mình nằm trong tay của thầy trò Hoàng Dược Sư.
Hoàng Dược Sư nghe xong không khỏi "hừ !" giọng mũi một tiếng lạnh lùng và nói :
- Tham quan hại dân, cẩu tặc vô đạo, ác thú ăn người, thật là loài đáng ghét cả .
Võ Hồng Quang thấy Hoàng Dược Sư ánh mắt loé lãnh quang, cậu khẽ rùng mình khiếp sợ và hỏi :
- Thưa sư phụ, sư phụ tính thế nào về số phận của Phùng cô nương đây ?
Hoàng Dược Sư nghiêm giọng đáp :
- Việc của sư phụ, con không cần lo tới !
Võ Hồng Quang như đạp phải gai nhọn, im thin thít không dám hó hé thêm nửa lời .
Hoàng Dược Sư cười nhạt luôn miệng, chắp tay sau đít đi quanh nhà khắp mấy lượt mới ngẫng đầu bảo đám người trong làng :
- Các người nên săn sóc đàng hoàng cô nương này, tôi đến thăm Phủ Thiệu Hưng một chuyến !
Nói đoạn, móc trong túi ra một đĩnh bạc để lên mặt bàn đánh "cạch" một tiếng rồi gằn giọng :
- Các ngươi phải chăm sóc chu đáo, ta đi lần nầy độ ba hôm sẽ về, nếu các ngươi hầu hạ sơ xuất điều gì đừng mong mạng nào sống sót .
Nói xong bước ra cửa đi thẳng, chẳng hề quay đầu lại.
Đám nông dân trong Thanh Vân thôn, người người nhìn nhau ngơ ngác, chẳng hiểu vị nho sinh áo xanh kia tánh tình cổ quái như thế, có phải ông ta khật khùng chăng ?
Hoàng Dược Sư mang một bầu tức khí trong lòng, lướt vun vút trực chỉ đến Thiệu Hưng.
Từ thôn Thanh Vân đến phủ Thiệu Hưng lộ trình có trên một trăm hai mươi dặm, nhưng Hoàng Dược Sư dùng thuật khinh công trác tuyệt, nên không tới một ngày là đã vào thành Thiệu Hưng rồi.
Chàng vừa đến cửa thành, liền hỏi thăm nơi gia cư của họ Phùng, liên tiếp hỏi năm sáu người, ai nấy cũng lắc đầu quầy quậy không đáp, rồi rảo bước đi nhanh qua nơi khác như sợ hãi điều gì.
Hoàng Dược Sư bàng hoàng tĩnh ngộ, biết là nơi giữa đường cái hỏi thăm thì không một ai dám dừng lại trả lời vì sợ tai bay họa gởi vào thân !
Hoàng Dược Sư tinh ý bước vào một ngõ hẻm thấy phía trước mặt đi lại một người bán bánh dạo.
Chàng bèn tiến ra trước đón lại, vòng tay thi lễ và nói :
- Phiền tiên sinh cho tôi hỏi thăm nhà của Phùng Tiến sĩ ở về phía nào ?
Gã bán bánh dạo liếc nhìn sơ qua hình dáng của Hoàng Dược Sư, thấy chàng ăn mặc theo lối thư sinh, nghi biểu văn vẻ liền đáp :
- Ồ ! Tôn giá tìm họ Phùng có chuyện gì cần ? Tôn giá ở đâu ?
Hoàng Dược Sư tươi cười nói :
- Tôi là bạn cũ của người, từ Hàn Châu đến đây, không gặp mặt nhau đã lâu, đến thăm viếng vậy thôi !
Gã bán dạo lắc đầu khuyên ngăn :
- Tướng công đừng nên tìm là hay hơn ! Nhà ông ta vừa gặp phải họa tày trời, cả nhà chẳng hiểu trốn đi nơi nào biệt tích .
Hoàng Dược Sư vờ kinh hãi hỏi dồn :
- Ủa ! Nhà ông ấy gặp họa gì thế, hỏa tai chăng ? Hay bị cướp đánh phá !
Gã bán dạo thở dài, đáp :
- Còn ác độc hơn là bị cướp đánh phá nữa, tôi không nói được, nhà của y nơi hẻm Song Liễu phía hữu, căn thứ nhất, trước ngõ có trồng hai cây liễu to tướng, công tử cứ đến đó mà tìm.
Nói xong, đầu chẳng quay, vội vã cất gánh lên vai đi một nước.
Hoàng Dược Sư theo lời chỉ dẫn, tìm ngay được nhà họ Phùng, thấy cửa cái dùng hai thanh gỗ đóng lại, bên trên còn dán thêm dấu niêm phong của phủ quan.
Hoàng Dược Sư đã biết rõ lời Hương Điệp không phải là dối, chàng quyết dò la sự thật của Tri Phủ ra sao, nên trở ra phía chợ, tìm một trà quán nơi thị tứ ngồi nghỉ chân, cũng để thăm hỏi dân tình cho biết mọi sự .
Vừa kêu chế bình trà xong, thình lình thấy một thực khách có vẻ phú thương, uống xong chén trà liền đứng dậy đưa một vị ăn mặc theo lối vệ môn ra cửa và cười nói :
- Diêm Giáp Ty đại nhân, mong tái ngộ, thì Hoàng Dược Sư sực nhớ lại Phùng Hương Điệp có nhắc qua Ngõa Tri Phủ có một tên thủ hạ tâm phúc là Giáp Ty họ Diêm tên Văn Đạo, chuyên việc bày mưu lập kế, đưa đường dắt ngõ, đút nhét cửa sau cho Ngõa Tri Phủ, hãm hại chẳng biết bao nhiêu người. Nếu quả đúng là tên này chàng đâu dễ bỏ qua.
Đào Hoa đảo chủ hối hả gọi hầu bàn đến, chỉ về phía Diêm Giáp Ty và nói :
- Một quan tiền này trả bình trà kia, còn dư bao nhiêu thưởng cả cho mi, có phải người ấy là Diêm Giáp Ty, tên thật là Văn Đạo đấy chăng ? Ta có câu chuyện muốn nói với ông ấy !
Tên hầu bàn mừng rỡ cám ơn rối rít và nói :
- Vâng, Diêm Giáp Ty đại nhân đấy, ông là tay chân đắc lực nhất của Ngõa Tri Phủ, ai cũng đều biết và rất nể nang ổng !
Hoàng Dược Sư lập tức phóng ra khỏi cửa, không đầy hai mươi bước đã bắt kịp Diêm Giáp Ty.
Chàng liền gọi lớn :
- Giáp Ty ! Giáp Ty !
Diêm Giáp Ty nghe có người gọi mình, liền quay đầu lại nhìn, chợt thấy kim quang lấp loé, tiếp theo đấy mấy mũi kim vàng nhanh như làn chớp, bay vút vào yết hầu, y "ôi cha !" một tiếng yếu ớt, rồi ngã nhào trên đất chết tốt .
Đám bộ hành đi trên đường thấy Diêm Giáp Ty bỗng dưng ngã lăn trên mặt đất, tay chân co rút mấy cái rồi tắt hơi liền, ai nấy đều hoảng hốt la lên :
- Không xong l Diêm Giáp Ty bị trúng gió rồi, mau đến cứu ông ta .
Ngoài miệng vờ kêu la như thế, nhưng trong lòng ai cũng sắn dạ thù hằn, nên chẳng ai chịu thật lòng ra tay giúp.
Hoàng Dược Sư giết xong một tên gian đồ, trong bụng thống khoái vô cùng đi thẳng về phía phủ đường.
Thời Tống trào có lệ, nơi trước vệ môn mỗi phủ đường, đều treo một chiếc trống lớn gọi là "oan cổ" trống, bá tánh ai có gặp phải điều gì oan khúc, có quyền giống trống lên.
Tri Phủ hay Huyện quan nghe có người đánh trống, phải lập tức thăng đường để thẩm án.
Nên trước vệ môn của Ngõa Tri Phủ cũng thiết lập một mặt trống oan, song vì Ngõa Tế Dân vốn là một tham quan vọng pháp.
Bá tánh gặp phải oan khiên cũng không nơi mà đầu cáo, nếu lỡ chạm đến mặt trống, minh oan đâu chưa thấy, trái lại kẻ kích trống kêu oan đã bị một trận đòn thừa chết thiếu
sống, nên dù có oan ức tày trời, cũng ôm bụng mà chịu chứ không dám đầu cáo kêu van bao giờ.
Hoàng Dược Sư xăm xuôi đi đến trước mặt trống, rút dùi nện lên mặt trống liên hồi.
Một tên sai dịch liền chạy ra quát lớn :
- Tên học trò khùng kia từ đâu đến vậy ? Bộ chiếc trống kia để cho mi đánh loạn lên như thế sao ? Muốn ốm đòn không ?
Hoàng Dược Sư trừng mắt đáp :
- Mặt trống nầy dùng để khiếu nại, có chuyện oan ức không minh, được quyền đánh trống kêu oan. Tôi bị người ta mưu cướp của hại mạng, giết chết ba người, chẳng lẽ không được đánh trống minh oan hay sao ?
Tên sai dịch nghe có án mạng, không dám diên trì vội vàng báo cáo Ngõa Tri Phủ.
Quan phủ họ Ngõa lập tức thăng đường.
Tên sai dịch liền đưa Hoàng Dược Sư vào .
Đào Hoa đảo chủ đứng sựng chẳng chịu quỳ.
Ngõa Tri Phủ cả giận, vỗ thanh "kinh đường mộc" đánh rầm một tiếng và quát :
- Mi là ai ? Có oan tình gì mau khai ra. Tại sao thấy bổn quan chẳng chịu quỳ ?
Hoàng Dược Sư ngang nhiên đáp :
- Tôi có một người bạn, toàn thể gia đình chồng vợ con gái ba người đều bị hại mạng, xin đại nhân tra xét công minh dùm !
Ngõa Tri Phủ lại quát :
- Bạn mi tên gì họ gì ? Gia đình ba mạng người tại sao bị người sát hại, mau khai ngay, nếu nói dối nửa lời bổn quan sẽ đập gảy đôi chân chó của mi lập tức, biết chưa ?
Hoàng Dược Sư đáp :
- Bẩm đại nhân, bạn của tôi người ta hãm hại đến chết, nguyên nhân chỉ vì dưới gối có một ái nữ rất xinh, khiến một gã vô loại hư hỏng nhễu nước miếng thèm khát, gã vô lại ấy cậy ở chút ít thế lực của bổn địa, mới đem một số gian vật, quăng vào nhà
của bạn tôi, rồi vu oan giá họa cho bạn tôi là tư thông với hải tặc, bức bách gia đình của bạn tôi phải chết một cách oan ức.
Ngõa Tri Phủ càng nghe càng nhột lổ tai, vỗ án quát to :
- Đừng nói hồ đồ ! Bạn của mi tên gì ? Gã vô lại ấy là ai ?
Hoàng Dược Sư gằn mạnh từng tiếng đáp :
- Bạn của tôi họ Phùng tên Lai gã vô lại hại người là Ngõa Tế Dân hiện đương kim làm Tri Phủ Thiệu Hưng !
Lời chàng vừa thốt ra, tất cả sai dịch trên dưới phủ đường đều xôn xao dậy lên.
Ngõa Tri Phủ giận cực điểm, hét vang :
- Quân hỗn láo ! Tên này chắc điên rồi ! Bây đâu...
Tiếng nói chưa kịp dứt, chợt thấy bóng xanh thấp thoáng, hơi gió gần mặt.
Đào Hoa đảo chủ đã lướt sát bàn công án .
Ngõa Tri Phủ bỗng cảm thấy mình nhẹ phễu như trái khí cầu, chân bị nhấc cao khỏi mặt đất, lơ lửng ở nửa lưng trời, chân tay quều quào giữa không khí.
Thì ra Hoàng Dược Sư dùng thuật khinh công xảo diệu của mình, tung người nhãy bổ đến bên Ngõa Tri Phủ giương năm ngón tay ra như cái móc sắt xâu lấy cổ áo của Ngõa Tri Phủ, giở hỏng lên cao tựa hình chim ưng xớt gà, đoạn gót chân nhẹ điểm trên mặt án, nhãy thót lên cây xà ngang ở giữa công đường.
Cây xà ấy lớn độ một vòng tay, Hoàng Dược Sư phi thân vút mình một cái ngồi chễm chệ trên trần nhà, ấy mặt vẫn chộp cứng bâu áo, thòng Ngõa Tri Phủ tòn ten dưới cây xà ngang.
Ngõa Tri Phủ bị lơ lửng giữa khoảng không trời không đất, đong đưa như một chiếc đu.
Nóc của phủ đường rất cao ! Từ chỗ Ngõa Tri Phủ bị treo đung đưa còn cách mặt đất trên hai trượng, nếu Hoàng Dược Sư lỡ sút tay một cái thì Ngõa Tri Phủ sẽ từ trên rớt xuống, dù gan óc chẳng tan tành, xương cốt cũng phải gãy lìa từng khúc !
Ngõa Tri Phủ sợ điếng cả hồn, tru tréo kêu lên :
- Cứu mạng ! Mau cứu mạng !
Bọn sai dịch vệ binh nghe tiếng la thét của Ngõa Tri Phủ, ùn ùn xông vào, thấy Ngõa Tri Phủ bị xách tòn ten trên nóc trần cao, ai nấy trố mắt nhìn nhau lỡ khóc lỡ cười.
Cây xà ngang ấy cách mặt đất hai trượng cao, bất luận là người có bản lĩnh thế nào cũng không sao phi thân lên được. Nếu dùng cung tên bắn lên , sơ suất một chút bắn phải phủ quan lại càng hại hơn nữa , vì "ném chuột vỡ đồ".
Đám sai dịch vệ binh chỉ còn cách la dọa dẩm :
- Ê thằng kia ! Mi còn chưa thả Tri Phủ đại nhân xuống hay sao ? Mi muốn chết không đất chôn thây phải không ?
Hoàng Dược Sư ngồi vắt vẻo trên xà ngang , buông tiếng cười lạnh lùng không ngớt. Chàng đối với đám quan binh sai dịch kia đâu có kể vào đâu, mặc cho bọn chúng la hét đến mòn hơi khan cổ.
Hoàng Dược Sư mới lạnh lùng bảo :
- Ta chỉ cần buông tay là phủ quan của bọn mi sẽ từ trên cao rớt xuống như trái mít, chất đậu hủ trong óc y cũng phọt ra ngay , chúng bay từ nãy giờ "đánh rắm" đã chưa ?
Có mấy tên vệ binh làm tài khôn , từ trong phòng lấy ra một chiếc mền gấm , bốn đứa cầm bốn góc giăng ra thành một chiếc võng khổng lồ hứng phía dưới người của Ngõa Tri Phủ, đề phòng Hoàng Dược Sư rủi sút tay thì có chiếc mền hứng lấy , như vây tính mạng của ngõa Tri Phủ sẽ chẳng đến nỗi.
Hoàng Dược Sư cười khẩy một tiếng tay trái nắm chặt Ngõa Tri Phủ, tay phải phát ra Phách Không Chưởng, một phạt một cuốn, tức thì "bùng !" một tiếng, chiếc mền lẫn trên mười tên sai dịch đều bị ngã lổng chổng xuống đất, tên nào cũng u đầu sứt
trán, chúng hoảng hốt la lên một tiếng thất thanh rồi dạt lui ra sau, chẳng còn tên nào dám cầm mền hứng như trước nữa !
Hoàng Dược Sư hiển lộng thần công ấy xong, lại có tên làm tài khôn , ngỡ Hoàng Dược Sư không phải là người mà là Hồ Ly Tiên hóa thân.
(Bên Trung Hoa có câu tục ngữ là Bắc phương nhìn Hồ Ly, miền Nam lắm "quỉ quái". Nên người phương Bắc có một truyền thuyết rằng : nếu một con hồ ly nào sống được năm trăm năm, có thể tu luyện thành tiên biến thành hình người du hành trong nhân gian nên thỉnh thoảng có những chuyện cổ tích kỳ bí về Hồ Ly thành thành tiên chép ghi trong sách vở lưu truyền. Truyện Liêu Trai Chí Dị của tác giả Bô Lưu Niên cũng vịn vào những cổ tích trên mà viết ra vậy).
Bọn sai dịch cùng vệ binh ngỡ Hoàng Dược Sư là Hồ Ly Tiên giáng phàm bèn vội khiêng bàn hương án ra lên đèn đốt nhang, cùng hoa tươi bánh trái, thi nhau sì sụp lễ bái vái rang :
- Hồ Tiên gia gia, xin ngài đừng quở giận, chúng tôi từ bao lâu nay chẳng lập bài vị của ngài để thờ phượng, cúi lạy đại tiên xá tội, chúng tôi nguyện lễ thường mỗi đêm để tưởng niệm ân đức ngài. Nam mô Hồ tiên gia gia đại từ đại bi !
Hoàng Dược Sư thấy cử chỉ ngu dốt của bọn chúng giận không xong mà cười cũng chẳng được !
Chàng chợt hồi tâm nghĩ lại, người xưa mượn thần thánh để thuyết giáo, giờ đây bọn chúng lại lầm tưởng mình là Hồ tiên, tại sao mình chẳng lộng chân ra giả, đội lốt thần tiên để trêu phá chúng một trận cho bõ ghét.
Hoàng Dược Sư nghĩ xong liền cau mày quát lớn :
- Ngõa Tế Dân tham ác lộng quyền, hãm hại dân lành, tội đáng báo ứng phạt răn, chúng bây tên nào chưởng quản văn thư , mau đem văn phòng tứ bửu ra đây !
Mọi người thấy Hồ Tiên chịu khai khẩu, không dám cãi lời, vội kêu tên Thông phán chưởng quản ấn tín văn phòng đến nơi.
Tên Thông phán này tánh Văn tên Tứ Viễn là người kế nhậm Phi Thông phán nửa tháng trước đã chết do tay Phùng Lai đầu độc.
Gã Văn Thông phán ấy run rẩy đem bút mực giấy má tới phía dưới chân Ngõa Tri Phủ ngóng đầu hỏi :
- Bẩm đại tiên gia gia, chẳng hay ngài có điều chi dạy bảo ?
Hoàng Dược Sư nạt to :
- Ta muốn mi sao một tờ thú trạng ! Mi hãy ngồi chỗ công án, bên kia !
Văn Thông phán riu ríu đi đến bên công án ngồi ke ne ở một bàn chờ lịnh.
Hoàng Dược Sư cúi mặt xuống bảo Ngõa Tri Phủ :
- Họ Ngõa kia, mi phải đem chuyện hãm hại văn sĩ Phùng Lai ra sao, thuật rõ từ đầu chí đuôi cho tất cả công chúng nơi đây nghe. Cấm mi chẳng được dấu diếm nửa lời !
Còn tên Thông phán phải chép hết từng câu không được sơ sót nghe rõ chưa !
Ngõa Tri Phủ bị Hoàng Dược Sư treo tòn ten trên xà nhà, từ nãy giờ quá lâu đã choáng váng đầu óc tim nhãy ngực lòi, hơi thở ồ ề, lão vốn đã lớn tuổi, lại bị tửu sắc gậm mòn thân thể, nên đối với khổ hình ấy thử hỏi làm sao chịu cho kham ?
Lão tham quan hết lòng năn nỉ xin tha mạng, nhưng Hoàng Dược Sư tảng lờ như chẳng hề nghe thấy.
Lão lại nghe Hoàng Dược Sư nói như thế không khỏi trù trừ suy nghĩ .
Trước mặt giữa số đông công chúng bắt lão phải khẩu chiêu những hành vi tham tàn vong pháp tàn hại vô lương của lão ra, thật đã khó lòng lắm rồi ! Huống hồ còn bảo Văn Thông phán ghi chép thú trạng trên giấy trắng mực đen để thành bản án.
Vạn nhất đối phương đem thủ trạng ấy đến Lâm An đầu cáo với thượng ty hay triều đình thì chỉ còn nước làm quỉ không đầu.
Hoàng Dược Sư thấy Ngõa Tri Phủ dần dừ mãi chẳng chịu theo lời, chàng bèn ngầm vận cương khí công, Ngõa Tri Phủ liền cảm thấy năm ngón tay của đối phương tựa như năm đũa sắt nung đỏ lùi sâu vào da thịt nơi chiếc cổ ú nụ bụ thịt của mình.
Ngõa Tri Phủ đau đớn như bị lửa đốt kêu oái lên như gà mắc đẻ :
- Ối trời ơi ! Đau quá ! Tôi nói, tôi nói !
Hoàng Dược Sư mới chịu lơi tay buông lão ra, nhưng lại nắm chặt hai chân lão, khiến người lão thòng ngược thân hình trở xuống và đồng thời quát lớn :
- Nói mau ?
Ngõa Tri Phủ bất đắc dĩ đem sự việc con trai mình Ngõa Hy Thuấn thấy gái đẹp động lòng dâm, rồi việc lão phái Diêm Giáp Ty tới cầu thân bị từ khước, cùng việc bày mưu lập kế vu oan giá họa để bức bách Phùng Lai nhận hôn ra sao, mỗi mỗi khai rõ không sót một chi tiết.
Trên xà nhà Ngõa Tri Phủ nói câu nào bên dưới Văn Thông phán cứ y theo lời khai sao chép chẳng sót một câu, đến lúc Ngõa Tri Phủ dứt thì bản thú trạng đã chi chít trên ngàn chữ.
Hoàng Dược Sư lạnh lùng và lớn tiếng ra lịnh :
- Hay lắm ! Tờ trạng từ đã xong , đóng ấn phủ quan lên cho ta !
Ngõa Tri Phủ kêu khổ liên miên không ngớt miệng. Nhưng
Hoàng Dược Sư chẳng kể số đến, chậm rải chờ Văn Thông phán đóng ấn đề ngày tháng xong xuôi, liền quát to :
- Mi viết xong thú trạng rồi, lập tức xéo ra mau !
Gã Văn Thông phán như trút được gánh nặng ngàn cân vội lui ra khỏi công đường.
Hoàng Dược Sư bèn giơ tay vẫy một cái, tờ cáo trạng như bị sức hút kỳ lạ, cuộn bay lên cao rớt vào bàn tay của chàng.
Tuy vừa rồi Hoàng Dược Sư đã dùng tiên công Phiến Điệp Phi Thiên (chiếc lá bay trên trời) một tuyệt chiêu trong Lạc Anh Chưởng Pháp hoàn toàn vận khí công trong cơ thể để hút lấy tờ giấy bay trở lên.
Nhưng trong đôi mắt không hiểu về võ thuật của đám phàm phu kia, cứ ngỡ là pháp thuật tiên gia, chúng thêm kinh hồn táng đởm, càng tưởng Hoàng Dược Sư là Hồ tiên hóa thân.
Hoàng Dược Sư xếp gọn tờ thú trạng bỏ vào túi xong, liền ra lịnh bọn người đứng phía dưới :
- Mau gọi Ngõa Hy Thuấn và Diêm Giáp Ty ra đây ta bảo !
Mọi người không khỏi thất sắc cả kinh.
Hoàng Dược Sư bèn đong đưa thân hình của Ngõa Tri Phủ xích tới xích lui như chiếc đu và quát tiếp :
- Nếu bọn bây chẳng đi gọi. Ta ném Tri Phủ của bọn bây xuống đất dập nát óc ngay .
Bọn sai dịch sợ hãi suýt tiêu tiểu xón trong quần đồng thanh la lên :
- Diêm Giáp Ty lúc nãy trúng phong chết ở dọc đường, chỉ có tiểu gia gia ở nhà thôi .
Hoàng Dược Sư "hừm" một tiếng, lại nói :
- Mau gọi thằng khốn ấy đến đây, bằng không ta hiển lộ thần thông cho bọn ngươi chết hết chẳng còn một mống nghe rõ chưa !
Bọn sai dịch đành phải ba chân bốn cẳng đi tìm Ngõa Hy Thuấn, nhưng lúc ấy Ngõa Hy Thuấn đang bận đi rong bên ngoài để tìm hoa bẽ nhuỵ.
Mọi người đổ xô đi tìm kiếm khắp nơi. Gần nửa giờ đồng hồ sau, mới bắt gặp Hy Thuấn đang vùi đầu trong một gian nhà "Oa Xá Tử" (một loại thanh lâu kỷ viện dành riêng cho quan trường sĩ binh thời Tống trào) bèn gọi y về.
Hy Thuấn bị đám người xô vào trước công đường và bắt quỳ xuống nơi phía dưới chỗ xà nhà Hoàng Dược Sư đang ngồi.
Hoàng Dược Sư thấy đủ mặt hai cha con họ Ngõa liền hét lớn như sấm :
- Họ Ngõa kia, muốn chết hay là sống ?
Ngõa Tế Dân thở ồ ồ đáp :
- Bẩm đại tiên, tiểu quan đã biết lỗi mình, xin đại tiên mở lượng hiếu sinh tha cho cha con chúng tôi được toàn mạng .
Hoàng Dược Sư cười nhạt nói :
- Tội chết tha được, tội sống khó dung, bọn bây đâu !
Lúc này chàng trái lại là Tri Phủ của sở tại, sai hét bọn sai dịch vệ binh trong phủ chạy cong đuôi cả lên, vài tên sai dịch liền tiến ra trước vòng tay cung kính chờ đợi.
Hoàng Dược Sư lại nói :
- Bọn bây gom tất cả những thùng phân trong phủ đường, bất kỳ của bé lớn già trẻ gái trai, cho đến nước tiểu cũng đem tất đến đây cho mau, thiếu một thùng cũng chẳng được, nếu trái lời thì mạng chó chúng bây khó vẹn toàn.
Đám sai dịch đều ngạc nhiên ngơ ngác đưa mắt thầm hỏi lấy nhau, chẳng hiểu vị đại tiên gia này, cần gom những thùng phân kia để làm gì ? Một tòa công đường trang nghiêm tráng lệ như thế này, lại bày đầy nhưng thùng phân thúi thì còn ra trò trống gì ?
Đào Hoa đảo chủ thấy bọn chúng trù trừ chưa chịu đi, giận dữ quát :
- Lũ chết bầm kia ! Muốn sống hay chết ?
Tiếng quát chưa dứt, thoắt một cái, thân hình Hoàng Dược Sư nhẹ rơi trở xuống như một làn gió, giơ tay núm tóc nơi óc o của Ngõa Hy Thuấn, nhún chân bay vút trở lên chỗ cũ.
Hoàng Dược Sư là tông sư của một phái, võ công của chàng trác tuyệt khó lường. Lúc chàng phi thân hạ xuống đất, bàn tay vẫn nắm chặt Ngõa Tri Phủ chẳng buông, nói một cách dễ hiểu là thân hình lão Tri Phủ vẫn cùng một lượt bay theo nhất cử động của Hoàng Dược Sư.
Khi chộp đầu Ngõa Hy Thuấn xong, Hoàng Dược Sư nhún chân cắp cả hai cha con tên cẩu quan trở lên xà nhà, vì hai tay đều bận nắm lấy hai người, nên không thể dùng tay bíu vào xà nhà như lúc trước.
Mọi người đứng bên dưới thấy đỉnh đầu Hoàng Dược Sư sắp tông phải nóc nhà, thì đột nhiên chàng hả họng ra, dùng răng cắn lấy cây ruôi trên nóc nhà, mượn sức cắn của đôi hàm răng, treo giữ lấy trọng lượng của thân hình mình và hai cha con họ Ngõa.
Mọi người chưa hết sự kinh khiếp thán phục thì Hoàng Dược Sư đã nhanh như chớp vung ngược đôi chân móc vào tường nhà, buông ngược đầu trở xuống, chân trên đầu dưới hai tay vẫn y như cũ nắm chặt cha con họ Ngõa hai bên tả hữu rồi cao giọng quát lớn :
- Cha con họ Ngõa đã lọt vào tay ta ! Bọn ngươi muốn chết hay sống ! Nói mau !
Bọn sai dịch thấy Hoàng Dược Sư bay lên đáp xuống bắt người lẹ trong nháy mắt, đã run lên phát rét còn dám đâu diên trì ?
Cả bọn nhôn nháo chạy nhào vào trong phủ vệ, chỉ khoảng khắc sau hì hục khuân vát tất cả các thùng phân trong ngoài phủ vệ, để chật ních sân công đường, hơi thúi xông lên rất là khó chịu. Mọi người đều phải bưng mũi nín hơi.
Hoàng Dược Sư cười lên khanh khách, kê đầu hai cha con Tri Phủ cụng vào nhau đánh "bốp !" một tiếng !
Hai cha con Ngõa Tri Phủ cảm thấy trước mắt bắn hoa sao, rồi ngất xỉu như chết.
Mọi người chưa hết kinh hãi thì Hoàng Dược Sư đã nhãy vèo xuống mang theo cả hai cha con Ngõa Tri Phủ đứng uy nghi trên mặt công án.
Cha con Ngõa Tri Phủ được chàng để nằm quay lơ trên mặt án tựa như hai con heo tế thần.
Hoàng Dược Sư lại dùng tay điểm vào "nhuyễn ma huyệt" của hai người đoạn trở tay một cái tức thì "bốp ! chát" hai tiếng vang lên, cha con họ Ngõa mỗi người mỗi nện cho một bạt tai, hàm hạ trếu qua một bên, miệng há ra tàng hoạc như hai chiếc càng cua.
Hoàng Dược Sư chẳng gớm mùi hôi thúi đang xông lên lợm giọng kia, xách lên một bình đầy phân đổ ừng ực vào hai lỗ miệng hai cha con của lão tham quan.
Đám công sai phủ vệ đứng xớ rớ bên ngoài, thấy Hoàng Dược Sư đổ nước phẫn dơ, tiểu thúi, cho chủ quan mình uống, không khỏi la lối rùm lên nhưng vừa rồi mục kích được pháp thuật thần thông của Hoàng Dược Sư, nên chẳng tên nào có gan để cứu chủ cả.
Ngõa tri phủ bị hớp phải mấy ngụm chất thúi liền tỉnh hẳn dậy, nhưng khổ nỗi huyệt đạo bị điểm, thân hình không sao động đậy, quai hàm bị trẹo, miệng ngậm lại cũng chẳng xong, nín hơi nhịn thở, mặc cho đối phương đổ vào mồm.
Lúc ấy cha con Ngõa Tri Phủ thật khổ sở trăm chiều, vừa tức vừa giận, dở sống dở chết, uất khí chận ngăn cơ hồ ngất đi thêm lần thứ hai nữa.
Hoàng Dược Sư thẳng tay chẳng chút nễ nang, cứ hết bình này lại xách thêm bình khác, những bình đựng phẩn ấy đủ cả chất phẩm của thê thiếp tì nô, sang hèn dù bất đồng nhưng mùi thủm chẳng kém nhau, hai cha con họ Ngõa nuốt xong một bình lại uống thêm một bình, thật là một món ăn bất hủ nhớ mãi chẳng quên, gồm đủ cả mùi vị từ cao lương mỹ tửu đến cá hẩm cá thiu, đều qui tụ trong chất nước vàng sền sệt nặng mùi ấy, khiến cha con gớm nhờm đến muốn mửa cả ruột gan tim phổi ra ngoài .
Song le ác hại thay, thân hình nằm ngửa chân tay tê cứng như xác chết, miệng lại bị hả lớn ra , muốn mửa cũng chẳng mửa được , nói tóm là cái lối hình phạt mở miệng lớn cho người đổ phân vào bụng, thật còn độc địa hơn là những độc hình kềm kẹp, lóc da, bẻ răng mà Ngõa Tri Phủ đã thường áp dụng khảo tra đám dân lành.
Đám bổ khoái sai dịch thấy Ngõa Tri Phủ đại nhân của mình cùng cậu công tử hách dịch kia bị Hoàng Dược Sư cho uống chất thúi như thế, trừ vài tên tâm phúc của họ Ngõa ra, kỳ dư tuy lặng im chẳng nói, chứ trong bụng hả hê vô cùng.
Sáu chục bình phẩn cũng chẳng ít gì, Hoàng Dược Sư đổ gần trọn giờ đồng hồ mới hết, hai cha con họ Ngõa bị sơi một bửa tiệc canh vàng no đến phát ách, bụng phình to lên như hai cái trống chầu.
Đổ xong bình phẩn cuối cùng, Hoàng Dược Sư ném phăng bình không xuống đất, rồi chùi một tay lên đầu gã Tri Phủ, mới cười nhạt bảo :
- Cha con ngươi hại bá tánh đã nhiều, gìa thì hút đầy bụng máu mủ của dân đen, nhỏ thì phè phỡn một bụng rượu thịt điếm đàng, nên cần phải uống chút phân tiểu để rửa ruột tốt lắm đấy !
Tờ cáo trạng này ta đem đến Lâm An, hôm nay gọi là một sự trừng phạt để răn dạy cha con mi, ta đi đây !
Hoàng Dược Sư quay lại nhìn khắp đám công sai một lượt rồi cười lớn lên và nói tiếp :
- Thống khoái, thống khoái ! Tất cả xê ra cho ta đi !
Lời chàng tuy không lớn, nhưng âm ba sang sảng oai nghi khiếp người, trên trăm công sai đều khiếp hãi, chen lấn nhau xô vẹt hai bên nhường đường cho chàng.
Hoàng Dược Sư cười lên ha hả, bước ra khỏi công đường nhìn thấy cổ trống minh oan treo ngoài cửa phủ, bèn hừm một tiếng và chua chát nói :
- Sài lang đang lúc thịnh hành, khắp trong triều ngoài nội còn treo cổ trống này làm gì ? Hủy nó đi cho rồi !
Nó đoạn nhấc tay một chưởng vào mặt trống một cái tức thì "tùng ! bung !" một tiếng lớn, cổ trống nát biến thành từng cây da rớt lả tả đầy đất.
Hoàng Dược Sư đầu không ngoảnh lại, đi luôn một hơi khỏi thành Thiệu Hưng, trong vòng một ngày đã về tới thôn Thanh Vân.
Kể ra lượt đi, lượt về trên hai trăm bốn chục dặm đường, Hoàng Dược Sư chỉ phí có hai ngày trời .
Về đến thôn Thanh Vân điều trước tiên là Hoàng Dược Sư vào thăm ngay Phùng Hương Điệp, thấy vết thương của nàng đã lành hẳn, tinh thần hoàn toàn khôi phục đủ đầy, chỉ tức một điều là vết thương nơi cổ để lại một vết sẹo đỏ hỏn trên chiếc cổ mịn như ngọc kia, khiến Hoàng Dược Sư thầm tiếc rẻ trong bụng, nhưng chẳng còn cách nào cứu vãn được vết sẹo nhăn mỹ thuật ấy được.
Chàng liền đem đầu đuôi chuyện đến huyện Thiệu Hưng thuật lại tất cả.
Võ Hồng Quang ôm bụng cười bò lăn tròn mặt đất.
Phùng Hương Điệp cũng mất đi vẻ buồn ủ rũ , môi hồng điểm lên nụ cười rạng rỡ như hoa xuân.
Hoàng Dược Sư thấy mỗi khi Hương Điệp mở miệng cười, nét đẹp của nàng còn lôi cuốn hơn tất cả những bức họa truyền thần tuyệt mỹ nhất trần đời, bao nhiêu minh họa trong vũ trụ như bị thu hút vào đôi bờ môi mọng đỏ gắn bó giữa đôi hàm răng đều đặn như ngọc trau.
Hoàng Dược Sư cảm thấy đê mê như vừa nhấp phải ngụm rượu đào, thầm nghĩ :
- Ngõa Tri Phủ tuy đáng ghét, nhưng chưa hề hại mạng cha mẹ nàng, đám giặc ở Hắc Phong Đảo trên Đông Hải mới là thủ phạm sát hại song thân của nàng. Nếu ta giúp nàng báo thù, nàng chắc còn vui lòng nữa ?
Chủ đã định, bèn quay lại bảo Võ Hồng Quang :
- Con ra ngoài hỏi thăm người làng, xem gần đây có ngư thuyền ai cho mướn không ! Nếu có, mướn cho thầy một chiếc để thầy đến Hắc Phong đảo báo thù giúp cô nương này.
Võ Hồng Quang tỏ vẻ kinh hãi đáp :
- Sư phụ đơn thân lướt biển đến sào huyệt hải tặc để trừng diệt chúng sao ? Theo đệ tử thấy thì nguy hiểm quá, hay là sư phụ...
Hoàng Dược Sư nổi giận quát :
- Ai bảo con đa quản đến sự việc của sư phụ, mau đi không .
Hồng Quang không dám cãi lời, đành riu ríu đi một nước.
Phùng Hương Điệp không ngờ Hoàng Dược Sư sốt sắng giúp mình báo thù cho cha mẹ, đôi mắt rưng rưng nhìn Hoàng Dược Sư hết sức cảm kích và nói :
- Tướng công, ngài định đem một thân mình để chống với bọn cường đạo ấy sao ? Theo tiện nữ nghĩ thì đừng nên mạo hiểm thái quá như thế, vạn nhất quả bất địch chúng, sa cơ trong tay chúng, có phải là làm cho lòng tiện nữ ân hận suốt đời chăng !
Nói xong trên khuôn mặt thơ ngây trinh bạch của nàng lộ vẻ rầu rỉ vạn phần.
Hương Điệp vốn gái sanh trưởng miền Giang Nam, từ xưa đến nay nam nữ đất ấy có tiếng là đẹp nhất trong nước, nên mới có tục ngữ là "Ngô Oa, Việt Nữ cùng Tô Hàn giai lệ". Thêm vào giọng nói dịu dàng, lời nói hàm ý tình tứ dễ thương nghe như mật rót vào tai.
Hoàng Dược Sư tuy tánh khí cao ngạo sắt đá nhưng dù sao cũng vẫn là thể chất của da thịt không khỏi rúng động cả tâm thân, nhẹ nắm lấy bàn tay mềm mại của người đẹp và nói :
- Cô nương xin đừng nói chi lời khách sáo, trừ gian diệt ác là bổn phận con nhà võ chúng tôi. Tại hạ không chỉ ở sự báo thù giúp cô nương, mà trừ được cho bá tánh khắp miền Đông Hải một mối hại lớn nữa kìa !
Hương Điệp bị Hoàng Dược Sư nắm chặt lấy bàn tay, ngây ngất ửng hồng đôi má, thẹn thùa nói chẳng nên câu, nhưng bàn tay vẫn để im trong lòng tay của chàng chớ không rút về.
Hoàng Dược vừa định mở lời, thì ngoài ngõ bỗng có tiếng lao xao.
Võ Hồng Quang cùng gã chủ nhà, cùng vài vị phụ lão đất Thanh Vân, xồng xộc kéo vào.
Hoàng Dược Sư vội buông tay cô ả ra, mặt phừng phừng như lửa đốt .
Song le mấy vị bô lão chẳng hề để ý đến mà đồng rập nói :
- Tướng công ! Ông định đơn thân một thuyền đến Hắc Phong Đảo chăng ! Chuyện ấy không nên đâu ! Bọn cường đạo lợi hại lắm, cho đến quan binh, tướng Triều cũng không dám phạm đến họ, nếu rủi ro có gì thật thân xác chẳng còn .
Hoàng Dược Sư lấy tay gạt ngang như chẳng muốn nghe thêm, đoạn nói :
- Thôi xin quí vị ! Chuyện ấy khỏi đề cập đến, tôi chỉ hỏi quí vị có thuyền bè gì chăng ? Dù quí vị có hay không tôi cũng nhất định đi đến Hắc Phong Đảo mà thôi !
Mọi người thấy Hoàng Dược Sư đã quả quyết như thế, đều ngẩn ngơ nhìn nhau, giây phút sau mới đáp :
- Quan nhân thật quyết đi, chúng tôi chẳng dám cản ngăn làm gì, thuyền thì có sẵn, nhưng ngặt nỗi...
Hoàng Dược Sư cười to ngắt lời :
- Ngặt nỗi gì ? Có phải muốn tôi đừng khai là mượn thuyền của thôn Thanh Vân, sợ e tôi chết trên Hắc Phong Đảo, bọn cướp sẽ giận lây đến quí vị, kéo đến đây làm cỏ ngũ thôn này phải không ?
Đám bô lão không thể ngờ là Hoàng Dược Sư thông minh như vậy, lời của mình chưa thoát ra khỏi miệng mà chàng đã hiểu rồi, không khỏi thán phục thầm.
Hoàng Dược Sư lại cười lớn và nói :
- Quí vị an tâm, Hoàng Dược Sư tôi nếu đến đảo Hắc Phong tổn thất một sợi lông chân trên người, thề không còn là anh hùng nữa. Tôi sẽ trừ tuyệt bọn cường nhân vạn ác ấy, để quí vị được lạc nghiệp an cư.
Lời nói của tôi không phải là lớn lối hợm mình đâu. Hồng Quang ! Thuyền ở nơi nào ?
Hồng Quang vội đáp :
- Thưa sư phụ, thuyền đã chuẩn bị xong đang đậu ở bến ! Sư phụ có cần con đi theo hay chăng ?
Hoàng Dược Sư lắc đầu bảo :
- Bản lĩnh con chưa luyện qua, đi theo đặng ăn cơm hay làm gì ? Ở nhà săn sóc Phùng cô nương cho ta !
Hồng Quang mỗi mỗi dạ vâng, Vu Nhậm và mấy vị bô lão thấy Hoàng Dược Sư khăng khăng quyết một, chẳng dám nói ra bàn vào lời nào. Vả lại lúc nãy họ vừa nghe người trên phủ về thuật lại, có một vị văn sinh họ Hoàng, đại náo phủ đường Thiệu Hưng, ép hai cha con Tri Phủ uống phân đầy bụng, mà mấy tên sai dịch chẳng dám làm gì hung phạm, nếu Hoàng Dược Sư chẳng có võ công hơn người thì làm sao ra vào phủ đường một cách thong dong như thế được ?
Nên họ chỉ đành theo chân đưa Hoàng Dược Sư đến bờ biển, nơi đây đã đậu sẵn ba chiếc thuyền cỡ trung, mỗi thuyền dài độ bốn thước có thể chở được ba người.
Hoàng Dược Sư chẳng chút đắn đo nhãy vút lên chiếc thuyền đậu chính giữa và nói :
- Xin cho tôi tạm mượn thuyền này, quí vị hãy về nghỉ ngơi, tạm đợi tin lành.
Hoàng Dược Sư một mình một chiếc thuyền nan, vượt sóng ra biển. Chàng cư ngụ trên Đào Hoa Đảo đã bao năm, đối với sóng gió thủy triều phương hướng hải lưu, thời tiết thay đổi cùng hình thế đảo vực trên Đông Hải, đều thuộc nằm lòng.
Chàng biết Hắc Phong là một đảo lớn trong dãy Tượng Sơn. Quần đảo cách đảo Đào Hoa của chàng độ bảy, tám dặm đường bể, bèn cho thuyền thuận theo ngọn gió Đông, nương theo giòng hải lưu ra sức chống chèo, một ngày một đêm sau, là thuyền đã đến một miền bể đầy dẩy đá ngầm.
Nơi đây rất nguy hiểm cho tàu bè đi bể, gành đá hiểm lổm chổm nhấp nhô như hàm răng sói giao nhau.
Hoàng Dược Sư dư hiểu đây là bãi Tượng Sơn Hoàng Tiểu một miền tử địa của vực tỉnh Triết Giang.
Nhưng chàng là tài cao gan lớn, kềm chặt lái lèo vượt băng qua hiểm địa, định đi tắt cho mau tới.
Thình lình lúc ấy trên đường chân trời trước mặt, bỗng hiện ra ba chiếc cột buồm của loại thuyền có mui lầu.
Hoàng Dược Sư nói thầm :
- Hay lắm ! Ta định tìm đến Hắc Phong đảo, thì bọn giặc đã đến nạp mình rồi !
Chàng ra sức chèo mạnh thêm mười mấy dậm, chiếc thuyền nan băng băng rẽ sóng lướt tới.
Một thời gian sau, hai thuyền đã xáp gần nhau, tên cướp dường như đã nhìn thấy chiếc thuyền của Hoàng Dược Sư, liền trên lầu canh phất cờ ra hiệu.
Đào Hoa đảo chủ dư hiểu đấy là tín hiệu của bọn cướp hỏi mình, chàng không ngớt cười thầm trong bụng, đối phương định đến đánh cướp thuyền chàng, không khác nào dẫn xác đem nạp miệng cọp, tự mình tìm lấy họa tử thần !
Hoàng Dược Sư lập tức buông chèo nhún chân một cái "ùm !" một tiếng nhãy xuống biển nhưng chẳng phải chàng lặn xuống mà thân hình chàng lại nửa chìm nửa nỗi, lờ đờ trên mặt biển.
Thì ra Hoàng Dược Sư sống lâu trên miền bể tập luyện lối đi lại trên nước, đã quen kỹ thuật lặn lội cực kỳ tinh vi, có thể lặn sâu đi dưới đáy nước
luôn cả mấy dặm đường xem nước xanh tường sóng như một đại lộ khang trang trên đất liền.
Chàng khi nãy vừa nhãy xuống nước, liền vận thuật khinh công cho nửa thân hình phía trên nổi phều trên mặt nước, phần chân thì ngập sâu dưới đáy biển rồi mượn khí kình của khinh công vận lên nửa phần thân trên, lại nhờ sức nổi của nước biển, lắc lư lều bều trên mặt nước tựa như chiếc bồn đang trôi vậy , định dọa cho bọn hải tặc trên thuyền phải khiếp vía một phen.
Chiếc thuyền ấy quả nhiên đúng là chiếc thuyền tuần la của bọn hải tặc Hắc Phong, bọn họ thấy trên mặt bể có một chiếc thuyền nhỏ đều xôn xao cả lên.
Nơi đây là miền thủy vực của Hắc Phong đảo, cách bờ đảo chỉ độ mười dặm, tất cả những thương thuyền vận tải hay ngư thuyền chài lưới, không hề dám xâm phạm đến đây, có thể nói mọi miền duyên hải phụ cận, nơi đây là khu cấm hải, nếu không phải thuyền bọn cướp tuyệt không ai dám léo hánh tới, bỗng nhiên lại xuất hiện một chiếc thuyền nan lạ, thử hỏi làm sao chúng chẳng lạ lùng ngạc nhiên được.
Đang lúc còn thắc mắc chưa định thì chuyện lạ tự nhiên xảy ra, người trên chiếc thuyền nhỏ bỗng nhãy ùm xuống biển, hai chân đạp trên mặt nước, lờ đờ cỡi sóng lướt tới, mường tượng như một sơn dân xăn quần lội ngang qua khe nước mà đi vậy, bảo họ làm gì mà không hãi khiếp kinh dị ?
Đầu mục của chiếc thuyền tuần nầy là Cẩm Mao Hổ Trịnh Nghĩa, cháu của Đại Trại Chủ Thốn Hải Trường Kình Trịnh thiên Vân, có chút ít bản lĩnh và sức lực, ngoài ra trên thuyền trên sáu mươi tên tặc đảng do y chỉ huy nữa.
Trịnh Nghĩa đang ngồi nhâm nhi trong khoang thuyền nghe bộ hạ thông báo có một quái nhân đi trên mặt nước tiến tới thuyền tuần, thì giật nẩy mình vội chạy ra đầu thuyền quan sát.
Quả nhiên y tìm thấy có một trung niên văn sĩ, phẫm thái khoan hòa ung dung lướt trên mặt nước nhanh như ngựa tế. Trong loáng người ấy đã tiến sát cận be thuyền mình.
Trịnh Nghĩa không xiết kinh hãi chưa kịp mở lời thì Hoàng Dược Sư rướn mình thót một cái đã nhảy lên đầu thuyền.
Lúc này mọi người thấy rõ phân nửa phía dưới thân mình chìm trong nước nhưng khi chàng nhãy lên sàn thuyền thì trừ ra hai chân có vết ướt in trên ván thuyền ra, toàn thân từ trên tới dưới đều khô ráo không có một giọt nước nào, mường tượng như một người từ trên từng không bước xuống vậy, khiến bọn giặc trong thuyền kinh sợ la ó ỏm tỏi !
Cầm Mao Hồ Trịnh Nghĩa khá có nhãn lực, y thấy ngay bản lĩnh cao siêu vượt bực của họ Hoàng, vì phàm con nhà võ, khinh công luyện đến mức thân hình nhẹ như chiếc lá rơi, có thể nhãy lên lục bình để vượt qua sông, nhưng xa lắm cũng không thể quá chín hay mười trượng là cùng, trên chân ít nhất phải có một vật nổi như khúc cây hay mảnh gỗ mới mượn sức mà nổi trên mặt nước được.
Song le, Hoàng Dược Sư hoàn toàn không cần đến một vật gì có tính chất nổi, mà vẫn lướt trên luồng sóng lớn hơn mười trượng ngoài, nhãy lên thuyền giặc, môn công phu đặc kỳ ấy, không những chưa hề thấy qua, mà cho đến nghe cũng chưa nghe đồn bao giờ !
Trinh Nghĩa làm gan hét lớn :
- Mi là yêu quái ở đâu, dám đến trước mặt lão gia thi thố tà thuật ?
Hoàng Dược Sư lạnh lùng nói :
- Phải, ta mới vừa dùng yêu pháp đây ! Nghe đồn Đông Hải Vương gần đây làm ăn trên miền biển Triết Đông khá lắm, chuyến nào cũng gặp gió lớn rất phát tài.
Vản sanh là kẻ lạc đệ cùng nho nhã chẳng gạo ăn, nên muốn mượn Đông Hải Vương hai mươi vạn bạc, ngươi mau đưa ta đến Hắc Phong Đảo để lấy bạc !
- Đưa cái đếnh mẹ nhà mi chớ đưa ! Mi cậy cái thế lực gì mà dám đòi Đại trại chủ đến hai mươi vạn lượng bạc ? Có bản lĩnh gì hãy thi thố ra cho chúng ta thấy đi .
Lời hắn chưa kịp dứt thì Hoàng Dược Sư thoát một cái như biến, tiến sát đến nơi.
Trịnh Nghĩa cảm thấy trước mắt ảo loạn.
Tiếp theo đấy là hai tiếng "binh ! binh !" rồi có hai bóng người từ dưới ván thuyền tự nhiên tung bổng lên khỏi ngọn cột buồm như hai trái khí cầu căng hơi.
Thì ra Hoàng Dược Sư nghe đến câu thứ hai của Trịnh Nghĩa, liền thi thố môn võ công kỳ diệu của mình ra, áp dụng thuật "cầm nã ưng qua" (móng ưng chộp bắt) chỉ thoắt mình một cái, mỗi tay đã chộp cứng sau lưng một tên giặc biển tựa như ó xớt gà con, dở hỏng khỏi sàn thuyền, dùng sức dồi mạnh một cái, hai tên cướp bể thân hình bị dồi lên cao ba trượng bay vút hướng cột buồm, nếu rơi trở xuống ván thuyền chẳng tan xương nát thịt thì ít nhất cũng dập gan bễ phổi chẳng còn, ngược bằng rơi xuống biển thế nào cũng bị chấn động mê man, rối cũng chìm sâu dưới đáy nước.
Kể cũng may là hai tên hải tặc khá lanh tay lẹ chân, gấp mà không rối, với tay chộp được sợi giây buồm trên ngọn cột. Sợi thừng buồm ấy to bằng miệng chén, mà tài leo giây phăng thừng là một môn tuyệt kỷ nghề nghiệp của bọn cướp bể, hai gã hải tặc liền níu cứng sợi thừng tòn ten trên cao như hai con khỉ đột, mới khỏi rớt xuống thịt nát xương tan !
Nhưng vì trên ngọn cột buồm chót vót mấy trượng cao, muốn tuột trở xuống không phải là chuyện dễ, hơn nữa gió biển ù ù đong đưa qua lại thật nguy hiểm vạn phần.
Cẩm Mao Hồ thấy Hoàng Dược Sư tự tiện dồi bọn thủ hạ mình lên cao như vào chỗ không người, bất giác lửa giận bốc đồng, rút phăng thanh quỷ đầu đao sau lưng ra, dùng thức "Phách cuồng triều" (chém sóng dữ) chém xả vào lưng kẻ địch.
Hoàng Dược Sư đối với tài nghệ non kém ấy đâu xem ra gì ? Miệng "hừ ! " khan một tiếng. Ngón tay búng nhẹ nhàng lên sóng đao của tên giặc bể, môn công phu Đàn Chỉ Thần Công của Hoàng Dược Sư lúc ở Hoa Sơn luận kiếm, cao cường như Đoàn Hoàng Gia, Âu Dương Phong còn phải tránh lui ba bước, huống hồ với tài nghệ nhái tép như Trịnh Nghĩa làm sao đương cự nổi !
Một tiếng "coong !" thanh tao ngân lên, lưỡi đơn đao liền bật khỏi tay bay thẳng xuống biển đánh tòm một tiếng, hổ khẩu tay của Trịnh Nghĩa bị tét ra, máu tươi chảy xuống ròng ròng.
Trình Nghĩa như lửa cháy thêm dầu, khẽ rùn người rút ra một ngọn dao gâm sáng nhánh, nhãy bổ đến tấn công họ Hoàng.
Đào Hoa đảo chủ năm ngón tay giương ra, chộp nhẹ một cái, tay trái đã túm lấy cổ áo y, nhấc bổng lên cao, tay phải vỗ lên mông tên cướp một cái, miệng lại quát to :
- Đi này !
Trịnh Nghĩa lãnh trọn cái vả ấy vào đít văng đi băng băng bảy tám trượng xa "rầm !" một tiếng, lao đầu vào tấm vách ghe, vì lao quá mạnh, ván vách lại mỏng, cả bộ phận đầu tông qua vách ghe làm thủng một lỗ khá to, chiếc đầu lọt tuốt vào bên trong, nhưng từ vai trở xuống, lại mắc kẹt bên ngoài, tựa như tội phạm đeo gông, chới với tay chân như chim mắc bẫy, vùng vẫy mãi chẳng rút đầu ra được, vừa đau vừa nghẹt thở, y hốt hoảng kêu lên oai oái liên hồi.
Hoàng Dược Sư hiển lộng xong thần uy tuyệt kỹ ấy đã khiến bọn giặc bể khiếp vía kinh hồn, trước sau chỉ hai lần động thủ, ném dồi gã giặc văng tuốt lên trời, quăng tên đầu mục đầu xuyên qua ván thuyền, đấy là chỉ sơ sơ mấy hiệp, nếu như thật lòng ra tay thì bọn họ còn mong gì sống sót.
Tên nào tên nầy khiếp sợ run lên cầm cập, mặc cho hai tên trên cao, một tên dưới thấp la hét vang trời, bọn chúng chẳng một ai dám tiến ra trước.
Hoàng Dược Sư liên tiếp hừ nhạt mấy tiếng rồi cất giọng trầm lạnh nói :
- Tên nào chưa chịu phục, cứ việc đến đây quyết cơn thắng bại !
Bao nhiêu bọn giặc cỏ trên thuyền đều lấy mắt nhìn nhau, im thin thít chẳng hé răng một lời .
Đào Hoa đảo chủ cười khẩy và nói :
- Đồ chuột hùa vô dụng, bọn bây chẳng chịu đấu với ta thì ta tìm bọn bây mà xả hơi vậy !
Tiếng "vậy !" vừa dứt, bóng áo xanh đã thấp thoáng xông xáo vào đám bọn cướp, người chàng lướt đến đâu là tiếng "bốp ! bịch" vang lên theo đến đấy, trong khoảng khắc tất cả sáu mươi tên cướp trên thuyền đều bị Hoàng Dược Sư điểm huyệt chỏng vó quay lơ nằm ngổn ngang khắp sàn thuyền.
Thanh toán xong số tặc đảng trên thuyền, Hoàng Dược Sư hả hê cười dài một tiếng, đi đến vách thuyền, thấy Trịnh Nghĩa lúc lắc cái đầu giữa lỗ hổng, tay chân vùng vẫy bơi đạp lung tung vẫn không sao rút đầu ra được.
Hoàng Dược Sư tiến ra trước nhấc tay một chưởng "tắc ! tắc !" mấy tiếng, vách mui đã bị chưởng lực chàng chẻ ra làm mấy mảnh, Trịnh Nghĩa mới thoát ra được.
Y vừa định quỳ ngay dưới chân của Hoàng Dược Sư thì chàng đã quát lên như sấm :
- Mi cũng đi cho rồi !
Miệng quát, tay đã bấu cứng gã đầu mục, dồi mạnh lên trời.
Trịnh Nghĩa cùng chung số phận với hai gã thủ hạ trước, đằng vân giữa không trung.
Chẳng qua lần này Hoàng Dược Sư hơi có phần mạnh tay hơn lúc trước nên thân hình của Trịnh Nghĩa bị tung lên cao khỏi ngọn cột xa lắc.
Trịnh Nghĩa vội nhào người ở nửa không, níu cứng vào thanh cây ngang trên ngọn cột, tòn ten như quả chuông bị treo ngược mới tránh được họa nát xương.
Cẩm Mao Hổ liền với hai chân quặt vào chân cộc buồm định ôm lấy cột tuột xuống.
Chẳng dè Hoàng Dược Sư ngẫng mặt lên hét lớn :
- Thằng giặc ! Giỏi xuống đây, ta sẽ lấy mạng chó của mi ngay !
Trịnh Nghĩa cả sợ vội lật người ngồi vắt vẻo trên cột đôi ngay, chẳng dám tuột xuống .
Hoàng Dược Sư cười như mèo gừ trong cổ họng, đoạn chộp lấy bốn tên giặc biển dưới sàn thuyền dựng xốc dậy, giải huyệt cho bọn chúng và quát lớn ra lịnh :
- Khôn hồn mau trương buồm quay lại chở ta đến Hắc Phong Đảo lập tức .
Bốn tên ăn cướp đâu dám cãi lời run lên phát rét riu ríu bò dậy, kẻ lái người chèo lăng xăng, căn buồm so lèo nhắm hướng Hắc Phong Đảo trực chỉ, còn Hoàng Dược Sư oai phong lẫm lẫm đứng trước đầu thuyền nhìn bọn chúng lom lom như cọp chăn mồi.
Tình hình chiếc thuyền giặc lúc ấy thật đáng buồn cười, trên cột buồm thì lủng lẳng ba tên cướp lắc lư theo lượn sóng dồi, chực muốn rơi đầu xuống biển, trên sạp thuyền thì lổm chổm nằm ngữa nằm nghiêng trên năm mươi tên giặc biển, chỉ có bốn tên là cử động được nhưng cậu nào cũng mặt la mày lét sợ muốn đứng tim.
Không đầy thời gian một buổi cơm, thì Hắc Phong Đảo lồ lộ hiện ra trước mặt.
Bọn lâu la trên đảo có phận sự canh gác hải vọng đài thấy tình hình trên thuyền tuần thảm não như thế, biết ngay xảy ra chuyện chẳng lành vội vã phi báo với đại trại.
Hoàng Dược Sư tinh mắt thấy rõ mọi chuyện nhưng đâu thèm bận tâm để ý đến, mặc nhiên chỉ huy bốn tên giặc nhắm cho thuyền cập bờ, sau đấy mới quát bảo bọn chúng :
- Ta vốn có ý cắt cái đầu chó của chúng bây ra, nhưng thấy chúng bây ngoan ngoãn phục tùng nên tạm thời gởi lại trên cổ cho đó mau cút lên bờ bảo đại vương tiếp rước.
Bốn tên lâu la sợ đến hồn phi phách tán, vội nhãy lên bãi cát chạy thoát khỏi miệng cọp sớm lúc nào hay lúc nấy.
Lúc ấy trên bờ biển đã lố nhố một đoàn người từ xa đến gần, vì hai tên Đại Vương đã nghe bộ hạ thông báo tin tức nên rầm rộ kéo binh tôm tướng tép đến bờ biển đón lại.
Thốn Hải Trường Kình Trịnh Thiên Vân và Nhị trại chủ là Cửu Đầu Ngân Ngao Võ Nguyên Khánh, sau khi Tam trại chủ Đào Tông Kĩnh bị Phùng Hương Điệp đâm chết trong đêm động phòng và trốn đi.
Trịnh Thiên Văn giận dử nhãy lên choi choi giết chết ngay bốn tên đầu mục có phận sự canh phòng trong đêm ấy, lại còn ra lịnh xử đòn đám lâu la phụ trách phòng thủ, mỗi tên lãnh mười hèo đích đáng, sau đấy phái tất cả thuyền bè trên đảo phải cấp thời ra biển tìm Phùng Hương Điệp đem về đảo, xả thân làm muôn đoạn để trả thù Tam trại chủ.
Nhưng biển cả thênh thang, biết trôi dạt về hướng nào, liên tiếp tìm luôn bảy tám ngày trời , cũng chẳng thấy một chút tông tích, cho là Phùng Hương Điệp, một cô gái yếu đuối , đơn thân với chiếc thuyền con, trốn đâu cho được, mười phần đã lọt vào bụng cá hết mười.
Vừa mới ra lịnh đình chỉ công việc tìm kiếm lại thì nghe tin báo cáo có kẻ cướp đoạt thuyền của bổn đảo đang tiến gần Hắc Phong đảo.
Trịnh Thiên Vân, Võ Nguyên Khánh hai trại chủ bừng nổi giận, hét vang :
- Tên man rợ nào to gan đến thế ! Dám đến khiêu chiến với Hắc Phong Đảo ! Phải bầm nó ra từng mảnh vụn, để thiên hạ giang hồ thấy rõ thủ đoạn của Đông Hải Vương nầy !
Trịnh Thiên Vân cùng Võ Nguyên Khánh song song đến bờ biển, liền thấy ngay cảnh tượng bêu rếu trước mặt.
Trên đầu thuyền tuần của mình lủng lẳng ba người như xâu khô mực, trên sạp thuyền ngổn ngang đám lâu la như bầy heo bị trói, lại có một gã văn sĩ áo xanh đứng sững trước đầu thuyền, ngang nhiên ngạo mạn chẳng chút sợ hãi.
Võ Nguyên Khánh quen nết thô bạo, bèn lớn tiếng quát :
- Quân ở đâu thế ! Sao dám đến Hắc Phong đảo này hung hăng .
Hoàng Dược Sư thấy đoàn giặc đông như kiến vẫn chẳng chút sợ hãi cất tiếng sang sảng đáp :
- Xin liệt vị hảo hán vậy ! Hoàng mỗ hôm nay đến bái viếng quí trại, chẳng qua để xin chút tiền tiêu xài để tiêu ngặt, các vị đem ra hai mươi vạn lượng bạc làm lễ tương kiến Hoàng mỗ, hoặc may lấy mắt từ bi mà bỏ qua cho, bằng trái lại hôm nay họ Hoàng tôi đành đại khai sát giới vậy ?
Võ Nguyên Khánh giận chẳng chịu được, buộc miệng chửi thề :
- Cái đếch khô !
Nào ngờ tiếng chưởi vừa thoát ra khỏi miệng, môi chưa kịp ngậm lại thì trước mắt lẹ như chớp bay đến một vật, chẳng sai chẳng lệch, đập trúng ngay răng cửa của y "cộp" một tiếng làm rơi cả về răng của y xuống đất, mà đầu lưỡi lại còn lãnh thêm cả một vật lạ nữa.
Cửu Đài Ngân Ngao vội phun vật nọ ra xem thì thấy là một mũi kim vàng dài độ năm phân còn nhỏ hơn cả loại kim may áo thường, thế mà chỉ vung vai một cái lại có thể búng ra đánh rơi hàm răng cứng chắc của mình. Nếu dùng sức hơi mạnh sẽ xuyên vào mình kể như đi tuyệt !
Võ Nguyên Khánh tuy lỗ mãng hung bạo cũng tránh không khỏi thót ruột đứng tim.
Trịnh Thiên Vân đứng bên thấy vậy cũng kinh tâm táng đởm vì nếu đối phương chẳng có bản lĩnh chân chính, làm sao lại có thể đoạt được thuyền tuần, mà vượt biển đến đây ? Tuy dưới tay y có trên hai ngàn thủ hạ, nhưng hơn phân nửa số đã được phái đi đánh cướp trên khắp mặt biển, trên đảo chỉ còn lại độ trăm người, có bản lãnh kha khá thì chẳng còn mấy người. Hơn nữa Tam trại chủ Đào Tông Kĩnh đã chết lại càng thiếu mất đi một tay giúp sức đắc lực.
Trịnh Thiên Vân hơi chột ý liền gọi lớn :
- Trong bốn bể đều là anh em cả ! Nếu tôn giá muốn có bạc để chi dụng, chúng tôi sẽ niệm tình phái võ lâm, giang hồ đồng nghiệp, hoặc ít nhiều quyết không chịu hẹp bụng tôn giá, chẳng qua là các hạ đòi hai chục vạn lượng e rằng bức người thái quá.
"Thú cùng thì cắn bừa", tôn giá dù bản lảnh cao cường sợ e cũng quả bất địch chúng chăng ?
Lời vừa dứt, Hoàng Dược Sư đã tung mình, nhãy thóc một cái, đã lướt xa mấy trượng đáp nhẹ nhàng lên bải cát .
Bọn giặc liền reo hò tở mở, đao thương cử ra trước tua tủa sáng ngời.
Hoàng Dược Sư tưởng tượng như không nhìn thấy thế trận hào hùng của bọn giặc, ung dung xông vào đoàn người, tức thì có hai tên lổ mãng hung hãn nhứt trong bọn, chẳng nói chẳng rằng, hai ngọn đầu đao phân ra hai phía chém vục ngay đầu của Hoàng Dược Sư.
Đào Hoa đảo chủ với chiếc tay áo rộng xùng xình, chẳng thấy chàng nhấc tay, vương cánh thế nào mà hai ngọn đao của hai gã cướp văng bổng lên trời rồi người chúng cũng bị bật lùi ra sau hai trượng.
Bọn cướp tất cả đều kinh mang khiếp vía.
Lúc ấy trên bãi cát có hơn mấy trăm tên giặc, đao thương côn bổng lớp lớp như cánh rừng ma , nhưng Hoàng Dược Sư chẳng chút ngó ngàng tới, dửng dưng xông tưới vào rừng đao kiếm, bọn giặc không những chẳng dám động đến chàng một sợi lông chân mà trái lại đổ xô tránh vẹt hai bên để nhường đường.
Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh thấy không xong liền la lớn :
- Tôn giá cho biết đại danh ?
Hoàng Dược Sư lạnh lùng nói :
- Tên tuổi của ta, thử bọn bị thịt như mi đâu xứng để hạch hỏi ! Mau đem hai chục vạn lượng bạc ra đây cho ta .
Hoàng Dược Sư nói chưa dứt lời, thì bỗng ánh sáng lạnh loé mắt từ nơi tay của Nguyên Khánh bay ra mấy làn tơ bạc, xẹt thẳng vào người họ Hoàng !
Mấy đường tơ bạc ấy chính là độc môn ám khí của Võ Nguyên Khánh, tên là "Trung mạng thần đinh", cộng có bảy mủi, dùng thuần gang luyện thành, cả đinh dài độ một tấc.
Hình dáng rất lạ kỳ, đinh chia thành hai đoạn gập đôi lại, lúc chẳng dùng đến cất vào trong một chiếc vòng sắt. Chiếc vòng tựa như chiếc xuyến đeo tay của các phụ nữ, đeo dấu trong cườm tay, lúc dùng chỉ cần vung mạnh cánh tay, lò so tự nhiên bật ra, bảy mũi đinh sẽ từ trong tay áo bay ra lẹ như chớp, phân thành bảy phương vị khác nhau, bắn vào các chỗ yếu của đối phương, bàn tay cùng năm ngón chẳng động đậy mà ám khí đã bay ra rồi, nhanh chóng khó lường.
Những mũi đinh ấy được tẩm luyện trong một chất thuốc cực độc, gặp máu là bít cứng, lang độc mười phần.
Ngoài ra nó còn một đặc điểm nữa, là có thể bắn ra ở dưới nước xa được hai trượng, ghim trúng vào người địch như chơi, đủ thấy lực độ phóng ra mạnh dường nào !
Võ Nguyên Khánh dư hiểu là mình không sao đấu lại đối phương, bộ hạ trên đảo tuy đông, cũng chẳng làm được tích sự gì nên y mới xuất kỳ bất ý tung ra bảy mủi Truy Hồn Thần Đinh, mạo hiểm cầu may để thủ thắng.
Song le Đào Hoa đảo chủ đâu phải là nhân vật tầm thường, chàng nhẹ phất chiếc tay áo vào khoảng không một cái và quát :
- Đa tạ trại chủ hậu thưởng, nhưng thẹn chẳng dám nhận !
Từ tay áo bay ta một luồng cương khí đẩy bật bảy mũi Truy mạng thần đinh bay cắm vào bảy tên lâu la đứng cạnh đó chẳng lệch mủi nào.
Bảy tên cướp biển rú lên một tiếng "ối cha !" rồi ngã vật lộp bộp xuống đất lăng lộn rên la như bọng !
Võ Nguyên Khánh định ám toán người chẳng được, trái lại giết bộ hạ của mình, những mũi đinh độc ấy độc tánh rất mãnh liệt, những tên bị trúng đinh đau đớn la hét nghe thảm thương.
Hoàng Dược Sư trầm giọng thật lạnh lùng :
- Nhị trại chủ sử dụng ám khí khéo thật, nhưng tiếc vì những mủi ám khí ấy không có mắt, nên trở lại đâm lấy người nhà, mau đem thuốc ra cứu bọn họ kẻo chết oan rất uổng .
Võ Nguyên Khánh đỏ mặt tía tai, vội móc ra mấy gói giấy nhỏ, đưa cho hai thủ hạ đứng gần đấy :
- Khiêng bọn người bị thương về trại cứu chữa.
Hoàng Dược Sư lại nói tiếp :
- Nhị vị chủ trại nghĩ sao, với bản lĩnh như vậy, hai mươi vạn lượng bạc có đáng không ?
Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh vừa giận vừa sợ, dư hiểu là dù có động viên tận nhân mã trong trại cũng chẳng làm gì được Hoàng Dược Sư.
Trịnh Thiên Vân tròn mắt đảo lia, đã nghĩ một diệu kế liền cười giả lả nói :
- Tôn giá muốn hai mươi vạn lượng bạc có gì mà chẳng được, tiền tài nói trắng ra cũng đều là vật đánh cướp mà có lý đâu lại từ chối, để mất đi một dịp kết giao bằng hữu. Thỉnh tôn giá vào thảo trại uống với chúng tôi ba chén rượu nhạt rồi sẽ giao bạc sau !
Nói đoạn kín đáo lừ mắt ra dấu với Võ Nguyên Khánh.
Hoàng Dược Sư vốn là con người khôn ngoan minh mẫn, sớm đã biết lòng bọn cướp bên ngoài ngọt ngào khách sáo mà trong dạ đã sẵn kế gươm đao để ngầm hại chàng, nên cũng giả bộ cười đáp :
- Tốt tốt ! Trại chủ có lòng mời, Hoàng mỗ đâu dám chẳng vâng chúng ta cùng vào vậy .
Trịnh Thiên Vân hơi hổ thầm vội quay sang ra lệnh thủ hạ :
- Mau quét dọn Trung nghĩa đường sạch sẽ, bày tiệc rượu sẳn sàng.
Đám lâu la vâng mạng chạy như bay, hai gã chúa biển cũng cố dằn cơn phẫn uất dẫn Hoàng Dược Sư vào tòa thủy trại của mình.
Hoàng Dược Sư chậm rãi theo chân hai tên giặc vào nơi sảnh đường, thấy chính giữa tòa đại sảnh có ba chiếc ghế bành bọc da cọp để một hàng ngang, giữa trần nhà có treo một khuôn biển với bốn chữ đậm nét sơn vàng : "Thế Thiên Hành Đạo".
Hoàng Dược Sư cố ý hỏi :
- Ủa ! Quí vị còn một vị thí chủ nữa sao ?
Trịnh Thiên Vân không khỏi tím mặt ngập ngừng đáp :
- Phải ! Chúng tôi còn một Đào trại chủ nhưng mấy hôm trước đã nhuốm bịnh chết rồi.
Đào Hoa đảo chủ buột miệng cười khẩy một tiếng, rồi chẳng chút vị nể, cũng chẳng cần người ta chịu nhường hay không đặt đít ngồi ngay chiếc ghế bành da hổ ở giữa. Ngang nhiên tự toại, dưới mắt không coi ai vào đâu.
Bọn cướp đứng hầu trực chung quanh Trung Nghĩa đường đều tím mặt ồ lên.
Vì chiếc giao ỷ ở chánh giữa chỉ có một mình Đại Trại Chủ mới có quyền ngồi, nếu người ngoài ngồi vào chẳng khác nào như hàm ý truất ngôi Đại Trại Chủ vậy.
Bọn cướp lập tức hờm sẵn binh khí, mặt mặt nhìn nhau chờ đợi, nhưng Hoàng Dược Sư chẳng bận để mắt nhìn đến.
Đám tặc đạo biết chàng bản lãnh cao cường nếu cùng chàng gây sự là rước lấy cái chết, tuy căm tức đến mưởi hai phần, cũng đành hăm hở trơ mắt nhìn chàng chứ không dám xông ra .
Hoàng Dược Sư sau khi ngồi xuống ghế giữa thản nhiên ngẫng đầu hỏi hai gã trại chủ :
- Xin hai vị trại chủ cho biết, tấm biển Thế Thiên Hành Đạo treo trên Trung Nghĩa Đường của quí trại kia, là nghĩa gì ?
Trịnh Thiên Vân không ngờ Hoàng Dược Sư vừa mở miệng đã tìm chỗ bắt bẻ mình, ngẩn người giây phút mới đáp :
- Ồ ! Hoàng tiên sinh tài cao tám đấu, chẳng lẽ cho đến bốn chữ tầm thường ấy cũng chẳng giải thích nổi sao ? "Thiên" là thiên hạ, "Đạo" là chính đạo, chúng tôi tuy chiếm đất xưng vương, lỡ chân làm giặc, cũng chẳng quên nể thiên hạ để hành chánh đạo đấy thôi !
Hoàng Dược Sư cười lên ha hả, tiếng cười sang sảng như giọng chuông đồng, bọn giặc không khỏi ngạc nhiên thất sắc.
Chàng cười như điên một hồi, mới lên tiếng :
- Thế thiên hạ hành chánh đạo, câu nói ấy đối với quí vị chẳng có chút xứng, cướp đoạt ngư dân, tàn hại bá tánh, cưỡng hiếp khuê nữ, đấy gọi là chánh đạo chăng ? Hà hà ! Tấm biển treo nơi đây, chỉ tổ làm nhơ thêm danh tiếng đạo tặc, để Hoàng mỗ phá hủy nó cho rồi .
Dứt tiếng, Hoàng Dược Sư liền dùng chưởng lực "Phách Không" , tay áo vừa phất ra liền "rắc ! rắc !" vang lên, tấm biển "Thế Thiên Hành Đạo" dày hơn mấy tấc bị luồng chưởng phong quét ngang tan biến thành từng mảnh vụn bay rào xuống đất.
Trịnh Thiên Vân, Võ Nguyên Khánh cả giận quát lớn một tiếng :
- Cuồng đồ vô lễ !
Rồi phân ra hai bên một tả một hữu, nhãy như hai mãnh hổ vồ mồi, binh khí trên tay cũng đồng thời hoa lên chém xả vào đối phương.
Trịnh Thiên Vân sử dụng đôi Thiết Điểm Vĩ kích, còn Võ Nguyên Khánh thì dùng đôi kiếm Thư Hùng, đôi kích của Trịnh Thiên Vân lao thẳng vào ngực họ Hoàng theo thế "Phan giang giác hải" , song kiếm của Võ Nguyên Khánh lấp loáng tréo lại như hai lưỡi kéo bén kẹp vào cần cổ của đối phương theo chiêu "Cuồng phong tảo diệp".
Hoàng Dược Sư ung dung chẳng chút vội vàng, mặc cho hai gã cướp chúa hùng hổ tấn công như sấm như sét, chàng vẫn ngồi yên như mọc rễ trên chiếc ghế bành không nhích động nửa bước, chờ cho mũi kích nhọn lểu của Trịnh Thiên Vân gần chạm vào ngực, chàng mới lật tay hữu vung ra một chưởng từ phía dưới nhà xuyên lên trên lẹ như sét chớp, một tay đã chộp vào hai đầu kích của đối phương, gạt mạnh một cái, đoạn lơi tay buông liền trở ra, tức thì hai ngọn kích bằng thép rắn kệch cợm gảy thành bốn đoạn.
Đồng thời tay trái của Hoàng Dược Sư cũng chẳng chịu để không, song kiếm Thư Hùng của Võ Nguyên Khánh chưa chém tới, Hoàng Dược Sư đã dùng Đàn Chỉ Thần Công búng tay vào song kiếm của đối phương, một tiếng "cong" nhè nhẹ ngân vang, ngọn kiếm nơi tay của Võ Nguyên Khánh không sao giữ được, sút khỏi bàn tay bay tuốt lên cao, lưỡi kiếm trên tay hữu, tiếp theo đấy bị Hoàng Dược Sư phi chân đá trúng vào cánh chỏ cũng văng tuốt thanh kiếm lên trời.
Sau khi triệt mất binh khí của đối phương, Hoàng Dược Sư thuận chân dùng luôn "Tảo Diệp thồi" tả một chân, hữu một cước, đã nện cho Trịnh, Võ hai người, mỗi tên một cước đánh "bộp !" văng xa hơn bảy tám thước.
Đào Hoa đảo chủ trước sau vẫn không rời khỏi chiếc ghế, vừa mới một chiêu dằn mặt, đoạt binh khí của hai người còn đá họ nhào hớt xa lơ.
Bọn cướp thấy vậy đều reo hò tở mở, cử động khí giới định đổ ào ra tấn công họ Hoàng
Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh liền lật mình nhãy phắt dậy gọi lớn :
- Khoan đã !
Đoạn Trịnh Thiên Vân cố dằn nộ khí, quay lại nói với Hoàng Dược Sư :
- Hoàng tướng công, bản lĩnh của ngài quá ư cao cường chúng tôi nguyện ý tôn ngài làm bang chủ của chúng tôi.
Y còn định nói tiếp.
Hoàng Dược Sư đã phất tay ngắt lời :
- Bá láp ! Ai thèm làm đầu xỏ của đám giặc cướp chúng bây, mau đem hai chục vạn lượng bạc ra nạp ngay, nếu thiếu một phân hào, ta cũng chẳng thèm đâu, và ! hừ hừ ! người trên toàn đảo của bọn ngươi cũng đừng mong sống sót.
Bọn cướp nghe Hoàng Dược Sư phách lối cuồng ngạo như thế, tên nào cũng nổi giận sốt gan, đồng thanh hét rền trời :
- Đại Vương để mấy ngàn anh em chúng tôi liều mạng với nó, dù nó ba đầu sáu tay, chúng tôi cũng bầm nó nát như tương mới nghe !
Trịnh Thiên Vân lớn tiếng quát :
- Chờ lịnh ta, đừng làm lếu !
Lại quay sang dùng giọng ôn tồn nói với họ Hoàng :
- Tôn giá muốn đến hai mươi vạn lượng, bổn trại cũng chẳng dám kỳ kèo, nhưng vì tiền lương kém khuyết, của dành của để cũng chỉ được bốn năm vạn lượng là cùng , hay là tướng công...
Hoàng Dược Sư cười nhạt bảo :
- Hay là thế nào ? Bắt ta đợi vài bữa nữa phải không ?
Trịnh Thiên Vân đáp :
- Không dám ! Tại hạ chỉ xin Hoàng lão sư lưu lại chơi vài hôm, đợi chúng tôi kiếm đủ số tiền dâng lên...
Hoàng Dược Sư liền nói :
- Không được ! Ta muốn đủ số hai mươi vạn lượng, hôm nay thiếu một phân nào cũng chẳng được .
Võ Nguyên Khánh không nhịn được nổi khùng lên nói :
- Đại ca, quân này chẳng thông tình lý, nói nhiều với nó làm gì , chúng ta quyết cùng liều chết lấy mạng đổi mạng với nó.
Hoàng Dược Sư cười nhạt nói :
- Hừ ! Đồng chết với nhau phải không ! Được lắm !
Chàng vẫn ngồi yên trên ghế, tay trái khẽ vung ra, "rắc ! rắc ! rắc !" mấy tiếng, luồng kình lực Phách Không chưởng của Đào Hoa đảo chủ quả nhiên lợi hại , cây cột giữa nơi Trung Nghĩa đường nầy xây cất rất đơn giản, chỉ chống đở bằng mấy cây cột to, tay trái Phách Không Chưởng vừa đánh ngã xong một cây, tay phải của Hoàng Dược Sư tiếp theo đấy cũng khoát vung ra, tức thì lại "rắc rắc !" mấy tiếng, cây cột to phía bên hữu cũng theo đà tay gảy làm hai khúc.
Mái ngói Trung Nghĩa Đường mất đi sức chống lung lay sắp sập , ngói gạch chuyển mình kêu lên "lách tách !", cát bụi trên trần nhà lớp lớp rơi xuống như mưa.
Bọn cướp đâu còn lòng dạ nào ở lại, la hoảng lên chạy ùa ra khỏi Trung Nghĩa đường.
Hai tên đầu sỏ Trịnh, Võ cũng ôm đầu lủi như chuột.
Hoàng Dược Sư thấy bọn cướp thi nhau mạnh ai nấy lủi như chó ăn vụng bột, buông tiếng cười lên ha hả, "vù ! vù !" thêm hai chưởng, bao nhiêu cây cột còn lại đều một lượt bị đánh gảy đôi cả, đoạn nhún thân hình như mũi tên xẹt xuyên ra ngoài hành lang.
Tiếp liền theo đấy không đầy nháy mắt cả tòa Trung Nghĩa đường sập ầm xuống mặt đất, biến thành một đống ngói vụn.
Hoàng Dược Sư chỉ với bốn cái phất tay nhẹ nhàng như phủi bụi mà có thể đánh sập một tòa Trung Nghĩa Đường hùng vĩ, bọn cướp thấy vậy tên nào cũng khiếp đảm kinh tâm, lắc đầu le lưỡi ngầm khiếp phục sức mạnh như thần của kẻ địch.
Hoàng Dược Sư vừa đặt chân xuống đất, tức thì có một số tiểu đầu mục hung hăng nóng máu chẳng biết chết sống, vội xông tới vung đao chém liền.
Đào Hoa đảo chủ chỉ khẽ giơ tay chộp cứng bâu áo của họ thảy tuốt lên cao, cả người lẫn khí giới bay thẳng lên trời , rớt vào đám người đang đứng, khiến bọn chúng đè lên nhau té lổm ngổm dưới đất, tiếp theo đấy hai chân chàng thoăn thoắt, tay tả rồi đến tay hữu luân phiên nhau chộp người thảy ném như dồi banh, trong khoảng khắc đã liên tiếp ném ngã hơn mấy mươi tên, té đến bưu đầu sứt trán rên la inh ỏi, hàng ngũ của bọn cướp vẹt năm vẹt ba, trật tự nhốn nháo cả lên.
Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh thấy Hoàng Dược Sư làm sập Trung Nghĩa đường của mình, lại còn xông xáo vào đám bộ hạ, bắt thảy quăng vùn vụt vào nhau như thảy đạn, không khỏi ói mật trào gan, bèn quát lên :
- Bây đâu, buông tên !
Nhưng lúc ấy bọn lâu la đang rối loạn dồn cụt lấy nhau còn đâu nghe thấy lịnh của nhị vị trại chủ.
Trịnh Thiên Vân giận như điên vung đao chém luôn hai tên bộ hạ gần đấy và lớn tiếng quát :
- Buông tên ! Đồ tồi !
Bọn lâu la mới sực tỉnh , rầm rộ giương cung lấp tên bắn chĩa vào người Hoàng Dược Sư, trong khoảng khắc đường tên giao nhau, khít rịt như bầy châu chấu.
Hoàng Dược Sư thấy trận mưa tên bay đến liền rú lên một tiếng lảnh lót, thân hình bay vọt lên cao, nhãy bổ vào đoàn người, quơ tay chộp lấy hai gã lâu la, dùng thân hình hai tên ấy làm tấm khiên đở tên.
Không mấy chốc mình mẩy hai tên cướp nhãi vô phước kia ghim đầy những tên như con nhím xù lông.
Hoàng Dược Sư lại vứt hai tên ấy, theo mửng cũ chộp hai tên khác.
Phương pháp đở tên bằng thịt sống ấy khiến ai cũng phải ruột gan đều ớn lạnh .
Đám giặc con ấy hết còn lòng nào bắn tên, hùa nhau chạy ra ngoài đại trại thoát thân.
Hoàng Dược Sư thấy lối đở tên bằng người sống có hiệu quả nhanh chóng, cất tiếng cưới rùng rợn như tử thần hăng máu, bay mình đuổi theo, nhưng không thèm đuổi theo bọn giặc cỏ mà đuổi theo tên đầu xỏ Trịnh Thiên Vân.
Trịinh Thiên Vân thấy Hoàng Dược Sư đuổi tới nơi, hồn vía như thót ra cả bên ngoài, vội ngoặt người sang bên, hai tay vung ra một lượt tiếp theo đấy gập người xuống, dậm chân mấy cái, tức thì "soạt soạt" những tiếng xé rít không khí vang lên liên tiếp, hơn hai ba mươi làn ánh sáng, lóng lánh nhỏ li ti như sợi tơ bạc, bay vút về phía họ Hoàng.
Thứ ám khí ấy gọi là "Bá biến phi hoàng đinh", một bộ môn ám khí mà Thốn Hải Trường Kình Trịnh Thiên Vân nhờ đấy trấn danh khắp giang hồ, dọc ngang miền Đông Hải bao năm nay.
Môn ám khí "Bá biến phi hoàng đinh" vốn một loại đinh đặc biệt chế biến nhỏ như sợi lông trâu, tất cả có năm bộ, phân ra nhét trong năm cái vòng thép bằng hình dẹp đeo trên cổ hai tay và hai chân, mỗi khi muốn sử dụng chỉ cần dùng thế "Dao tử phiêu thân" (Con diều trở mình) uốn lưng gập người xuống, hoặc giả một cái vỗ tay hay phi thân, chiếc vòng dẹp mặt ấy sẽ tự động bật ra sợi giây lò xo mắc ở bên trong, và những mũi phi đinh lập tức được bắn vọt ra ngoài, dầy khít như đám mưa bụi bay thẳng vào người đối phương.
Trên những mủi phi đinh được tẩm trong loại thuốc cực độc, lợi hại khó lường, tuyệt kỹ phóng "Bá biến phi hoàng đinh" của Trịnh Thiên Vân từ xưa nay tung hoành trên khắp mặt biển Đông chưa hề thất bại bao giờ. Nhưng hôm nay y biết rõ bản lĩnh của Hoàng Dược Sư quá mức cao cường, độc đinh ám khí của y khó hại được Hoàng Dược Sư, chỉ mong cho chàng bận tay chống đở một chút để y có đủ thì giờ lẫn vào đám đông thoát thân.
Chẳng ngờ ý mưu chưa kịp thi hành thì sự việc đã xảy khác với lòng tính toán !
Phi hoàng đinh của y vừa bay ra Hoàng Dược Sư liền đoán được ý định của y ngay. Chàng dùng hai tay áo trái và phải, một phất một múa, hai tiếng "vù !", hai ngọn kình phong vun vút bay ra đánh nát những mũi đinh ấy, thành một đám bụi bạc rơi lả tả xuống đất .
Tiếp theo đấy lẹ như chớp chàng xẹt ra trước thộp lấy cổ áo của Trịnh Thiên Vân.
Trịnh Thiên Vân vẫn cố gắng vùng vẫy.
Hoàng Dược Sư lại dùng ngón tay giữa chọt vào "khí du huyệt" của y một cái.
Trịnh Thiên Vân đau quá hét lên một như bị chọc tiết mềm nhũn ra.
Hoàng Dược Sư mới ném y xuống đất và quát :
- Thằng giặc chó ! Có hai mươi vạn hay là không ? Nếu không ta chặt đầu mi ra bây giờ ? Muốn mất thủ cấp hay là mất bạc tùy ý !
Trịnh Thiên Vân bị Hoàng Dược Sư ném mạnh xuống đất đau muốn ngất đi được, lại nghe chàng bảo nếu chẳng đưa bạc ra sẽ cắt đầu mình thay bạc, hoảng hồn la lia lịa :
- Có có ! Có bạc rồi ! Xin tha mạng tiểu nhân !
Hoàng Dược Sư cười lớn bảo :
- Đồ giặc thúi, đến bây giờ mi mới biết tánh mạng dáng quí hay sao ?
Nét mặt bỗng rắn lại, lớn tiếng quát :
- Mau giao bạc đây ! Hai chục vạn lượng, nếu thiếu một phân một hào, hừ ! Ta lập tức lấy mạng mi bù vào, quét sạch hết toàn trại chúng bây cho tất cả số người trên đảo này xuống dưới biển chầu hà bá ngay !
Trịnh Thiên Vân vâng dạ liền miệng :
- Vâng ! Vâng ! Tôi gọi bọn chúng đem bạc ra ngay, bảo đảm chẳng thiếu một hào.
Y lại quay sang ra lịnh bọn thủ hạ :
- Mau giao bạc cho Huỳnh tướng công, bảo chúng gánh đến đây mau lên !
Nên rõ, người xưa toàn dùng bạc nén vàng ròng để tiêu biểu giá trị vật dụng, số bạc càng to thì càng nặng nề phiền phức !
Tống trào kể mười lượng bạc thành một cân, hai mươi vạn lạng bạc bằng như hai vạn cân, tức là hai trăm tấn. Nếu theo bây giờ dùng xe vận tải loại lớn nhất để chở, ít nhất cũng phải đầy hai mươi chiếc chở mới hết, huống hồ là bắt người phải gánh thì tối thiểu phải động viên hai trăm nhân số mới gánh xuể một lần.
Trịnh Thiên Vân bên ngoài tuy kêu gọi thủ hạ mau gánh bạc đem đến nạp, kỳ thật là dò xét Hoàng Dược Sư xem chàng có được bao lớn bản lãnh ? Làm thế nào để chuyển được hai trăm cân bạc ròng một mình ra khỏi Hắc Phong Đảo, vượt bể đến tận nơi xa ?
Trịnh Thiên Vân vừa lên tiếng, Võ Nguyên Khánh đã hội ý ngay, y lập tức phân phó bọn dưới tay đến kho tiền sau núi để gánh hai mươi vạn lạng bạc đem ra.
Đấy là thói quen của bọn cướp bể, mỗi khi cướp đoạt được tài vật, chúng thường giấu vào những hốc núi kín đáo, rồi dùng cây cỏ nghi trang bên ngoài, trở thành một kho bạc thiên nhiên kín đáo khó ai tìm thấy.
Lịnh của hai Đại trại chủ đã ban hành, thì chẳng mấy chốc sau bên ngoài cổng sơn trại đã thấy lố nhố vô số người, trên vai mỗi tên nặng trĩu hai gánh bạc trắng lấp lánh như thủy tinh.
Hoàng Dược Sư thầm kinh ngạc vô cùng, bọn cướp Hắc Phong Đảo trong khoảng khắc mà lấy ra hai trăm tấn bạc ròng không chút khó khăn, đủ thấy nơi chôn cất bạc vàng cướp đoạt của chúng phong phú đến bực nào ?
Đang lúc chàng còn phân vân suy nghĩ thì hai trăm tên tặc đảng đã gánh đủ hai trăm tấn bạc để cận bên chỗ Hoàng Dược Sư đang đứng.
Mọi người chăm chú nhìn Hoàng Dược Sư xem chàng làm cách nào chuyển vận cho kham !
Hoàng Dược Sư cười nhạt chẳng nói chẳng rằng, đi đến mấy gióng bạc nhìn một hồi, rồi tiến gần chỗ Trịnh Thiên Vân đang nằm, chân đá y một cái như trời giáng.
Trịnh Thiên Vân suýt xoa kêu lên :
- Ối ! Tôi đã đem bạc ra giao đàng hoàng rồi. Sao lại còn muốn giết tôi ?
Hoàng Dược Sư quát lớn :
- Đồ chết bằm ! Mi đem hai chục vạn lượng bạc để dưới chân ta, chẳng lẽ ta có phép tiên di sơn đảo hải đem được số bạc này ra khỏi đảo hoang được hay sao ? Có mau chuẩn bị cho ta một chiếc thuyền to, đem số bạc vàng này gánh lên thuyền để ta đáp thuyền rời khỏi đảo, nghe rõ chưa ?
Lời chàng vừa thoát ra, không những Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh phẫn nộ cực cùng mà cho đến những tên lâu la đầu mục trên toàn đảo cũng căm hận đến phùng má trợn mày .
Trong bọn có tên đầu mục tên Ngô Qui biệt hiệu là Hải Hồ Ly, bước đến bên Võ Nguyên Khánh và nói nhỏ :
- Nhị trại chủ, gã họ Hoàng này hiếp ta thái thậm, tiểu nhân có một diệu kế, chúng ta cứ làm y như vậy là đưa cái tên cuồng ngông này xuống đáy biển chầu Long Vương chẳng chút khó khăn !
Võ Nguyên Khánh cau mày trầm ngâm giây lâu rồi đáp :
- Ô ! Phương pháp ấy vị tất có thể thực hành, vả lại làm như thế chả quá ra hai mươi vạn lượng bạc kia cũng theo hắn xuống đáy bể sao, như vậy thì đáng tiếc lắm !
Ngô Quí cố thuyết phục :
- Bẩm trại chủ, hai chục vạn lượng bạc ấy kể như đã mất đứt đi rồi ! Chẳng qua nếu để mặc y dương dương chở đi như thế thì từ nay về sau ta còn uy tín đâu mà làm ăn trên mặt biển nữa ! Đại vương hãy suy nghĩ kỹ lại xem, mạo hiểm như vậy có đáng làm hay không ?
Võ Nguyên Khánh bất đắc dĩ nuốt giận quay sang giả lả với họ Hoàng :
- Tôn giá muốn chúng tôi nạp hai mươi vạn lượng bạc, chúng tôi đã theo ý dâng đủ , tôn giá lại cần thuyền chúng tôi đưa đi chúng tôi cũng ráng chịu cho vừa lòng khách quí ! Song le chúng tôi có một lời thỉnh nguyện là tướng công rời khỏi Hắc Phong đảo đừng làm khó chúng tôi, cũng đừng bắt người nào trên đảo chúng tôi đưa đi. Nếu tôn giá thuận lời, chúng tôi xin xuôi tay hòa thiện, nhược bằng tôn giá cũng không thuận chúng tôi thà ngọc đá nát hay dù có hy sinh tất cả mạng sống anh em trên toàn đảo cũng quyết liều đến mức cuối cùng vậy !
Hoàng Dược Sư cười lớn đáp :
- Ngươi tưởng ta đem trại chủ ngươi theo sao ? Hay sợ ta mượn đến thủy thủ, tài công của bọn ngươi để điều khiển thuyền bạc ? Cứ yên tâm ta chẳng làm khó dễ các người đâu, cứ gánh bạc lên thuyền cho đàng hoàng là ta lập tức rời khỏi nơi đây, chả cần một tên nào của các ngươi đưa đi cả.
Võ Nguyên Khánh mừng rỡ, tự nhủ thầm :
- Mi chẳng cần người của bọn ta đưa đi càng hay ! Lúc ra tay ta chẳng phải bận bịu e dè.
Y vội quay sang bảo một đầu mục đứng bên cạnh :
- Sửa soạn một chiếc lầu thuyền cho Hoàng tướng công, chuẩn bị đủ cả buồm chèo, rồi bảo bọn chúng gánh bạc chất tử tế lên thuyền, phải cho mau !
Nửa giờ sau, Hoàng Dược Sư đã đến bờ biển Hắc Phong đảo, nơi đây quả đã chuẩn bị sẵn một chiếc lầu thuyền sơn vàng óng ánh, mấy trăm tên cướp bể đang hì hạch gánh bạc lên thuyền.
Hoàng Dược Sư thấy bọn cướp đem bạc chất tử tế trong khoang, trên sạp thuyền cũng chuẩn bị sẵn sàng buồm chèo, mọi thứ đầy đủ, chàng mới khoan thai gặc đầu và nói :
- Tốt lắm ! Với số bạc hai mươi vạn kia ta tha mạng cho chúng bây ! Ta đi đây !
Dứt lời đã tung mình nhãy lên đầu thuyền, một mình trương buồm xả lèo nương theo ngon gió Đông, từ từ rời khỏi đảo, thẳng buồm ra khỏi mặt bể mênh mông .
Hoàng Dược Sư vừa lái thuyền ra khỏi đảo chẳng bao xa thì thấy phía sau lưng thuyền mình nơi bến Hắc Phong Đảo có bốn chục thuyền nhỏ lướt ra như bay, trên thuyền chở đầy bọn giặc bể trực chỉ theo thuyền mình ra biển.
Đào Hoa đảo chủ nhìn thấy thế cười nhạt một tiếng, chàng sực nghĩ ra một kế, tung mình nhãy vọt lên cột buồm giữa, tay chân cùng lượt vận dụng, lanh lẹn như con vượn chuyền cây, nháy mắt đã lên đến đỉnh cột buồm, và như vậy, ở trên nhìn xuống mỗi cử động trên thuyền nhỏ của bọn cướp, đều không lọt qua khỏi đôi mắt sáng như cú vọ của chàng.
Hoàng Dược Sư thấy tiểu thuyền của giặc vượt khỏi bờ độ một dặm, thình lình từng đứa một nhãy ùm xuống biển, mỗi tên hải tặc đều mặc quần áo bằng vải dầu. Nhảy xuống biển là lặn ngầm dưới dáy nước.
Hoàng Dược Sư bàng hoàng vỡ lẽ bèn "à" một tiếng và tự nói thầm :
- Té ra bọn chó chết này định làm thủy quỷ !
"Thủy quỷ" chính là một đội đặc biệt lập trong đoàn hải tặc, chuyên môn lặn ngầm theo dõi đáy thuyền giặc để đục phá thủng đáy thuyền địch, để thuyền của bọn địch đang lúc vượt sóng, bỗng dưng chìm lỉm mà không chút hay biết !
Đào Hoa đảo chủ thầm mắng bọn giặc :
- Quân chó chết, không biết nẻo chết sống, dám trước mặt Hoàng Dược Sư này múa rìu qua mắt thợ , chẳng tự lượng thiệt hơn, định xuống uổng tử thành đầu quân chắc !
Chàng liền leo xuống lấy một đầu giây buộc thòng vào eo lưng mình, còn đầu kia thì buộc vào cái khoen sắt trên sàn thuyền. Sau đấy "ùm" một tiếng, nhãy xuống biển lặn sâu xuống nước mất tăm.
Võ công của Hoàng Dược Sư không những đạt đến mức lư hỏa thuần thanh mà cho đến tài thủy tánh, tài nghệ lặn lội dưới nước cũng độc nhất vô nhị. Người thường nhãy xuống biển lặn sâu dưới mặt nước thì không sao nhìn thấy vật xung quanh, Hoàng Dược Sư trái lại có thể nhìn tỏ rõ như trên bờ.
Chàng lặn dưới đáy nước đợi không bao lâu, thì thấy mấy tên giặc bể vẹt nước đạp sóng lội nhanh đến.
Hoàng Dược Sư làm thinh như hến, rút bên hông ra một ngọn dao găm bén ngót, khẽ trườn người một cái, như con cá lóc phóng mình vẹt nước băng băng, xông tới bên bọn cướp vươn tay nắm gọn cổ một tên cướp giật mạnh xuống ngọn dao gâm bên tay phải chàng đã xuyên qua ngực đối phương kêu "sực !" một tiếng, máu phun ra bên ngoài nhuộm đỏ cả một khoảng nước biển.
Đáng tội cho tên cướp, mắt chưa kịp nhìn thấy rõ phía trước, đà dâng mạng vào miệng cọp rồi.
Hoàng Dược Sư đã giết xong một tên , nhưng hai tên kia chưa hay biết đang lừ đừ lội đến, chàng cũng noi theo phương thức cũ, tay tả chớp gáy, tay phải ngoáy mạnh ngọn dao găm, đưa hồn chúng theo đồng bọn trước cho có bạn.
Chàng ẩn mình dưới đáy nước như cá mập rình mồi, lặn qua lội lại. Đội "thủy quỉ" của bọn cướp bể, tên nào vừa ló đầu lặn đến bên thuyền, là chàng khỏi cần hỏi han lập tức nắm cổ lụi liền.
Cứ như thế, trầm sâu dưới đáy nước, đón đầu giết cướp không tới nửa giờ đồng hồ sau, đội "thủy quỷ" trên bốn chiếc thuyền bị chết hơn phân nửa, còn lại số ít lưu lại trên thuyền thấy những đồng bọn nhãy xuống biển chẳng tên nào trở về thuyền, một chốc sau trên một biển lại thỉnh thoảng nổi lên từng cụm máu hồng loang trong nước bể, liền biết ngay là đồng bọn mình đã bỏ xác dưới lòng biển thẳm.
Bọn chúng khiếp đảm kinh hồn, vội quay đầu thuyền, bơi nhanh trở về Hắc Phong Đảo báo cáo với chủ tướng.
Hoàng Dược Sư giết một hơi trên mười mấy tên cướp, lại lội tới lội lui tuần la quanh thuyền thêm một lúc khá lâu chẳng thấy tên nào bén mãng tới nữa, biết bọn giặc bị mình giết hại đã rút mất tất cả, bèn trồi đầu lên mặt biển nhờ sợi thừng buộc ngang eo lưng, ở dưới nước tha hồ lặn lội diệt trừ kẻ địch, mà vẫn không lạc khỏi thuyền mình bao xa , nên chàng về thuyền không mấy khó khăn, nghĩ lại bọn cướp bên ngoài vờ phục tùng, nhưng lại ngầm sắp đặt bọn thủy quỷ để hại mình, lửa giận bỗng sôi lên sùng sục.
Tánh tình của vị Đào Hoa đảo chủ rất cổ quái sắt đá, một khi đã giận là chẳng chút dung tình, lập tức quay buồm cho thuyền trở lại Hắc Phong đảo.
Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh, hai tên cướp chúa đang ở đại trại đợi chờ tin tức, bỗng nghe bọn còn lại trở về cấp báo, những anh em thủy quỷ được phải đi ám toán chẳng những không thành mà còn chết hết một số lớn.
Trong lúc chúng còn đang tức bực, thất vọng nghiến răng bứt tóc, thì lại nghe thêm tin thuyền của Hoàng Dược Sư quay mũi trở lại Hắc Phong Đảo.
Chúng cả kinh thất sắc, lập tức xuống lịnh thổi tù và báo động khắp nơi, phân phát toàn đảo bộ hạ nghiêm mật chuẩn bị cùng kẻ địch quyết một chết sống.
Thuyền lầu của Hoàng Dược Sư hiện ra ven bãi vịnh, bọn cướp trên bờ đã reo hò tở mở, sau ghềnh đá, trên mõm biển bắn rãi ra vô số tên độc như mưa bấc.
Hoàng Dược Sư đứng nép mình sau ngọn cột buồm chánh, đối với những mũi tên của bọn cướp trên bắn xuống rào rào như bầy châu chấu kia chẳng hề đếm xỉa tới.
Chiếc lầu thuyền của chàng lúc ấy trông thật vô cùng quái dị, đầu thuyền cho đến lái thuyền, thậm chí cột buồm, sạp thuyền, be lớn be nhỏ nơi nào cũng cắm chởm chởm đầy những tên. Chiếc thuyền bấy giờ giống như trong Tam Quốc Diễn Nghĩa lúc Khỗng Minh dùng thuyền cỏ mượn tên Tào Tháo vậy.
Hoàng Dược Sư đợi cho chiếc thuyền còn cách bờ không xa, từ sau cột buồm tung mình nhãy ra trước đầu thuyền lẹ như chớp, cúi người xuống nắm lấy sợi đỏi trên sạp thuyền, phi thân lên bãi cát nhanh như chiếc én xuyên mây.
Bọn cướp thấy Hoàng Dược Sư nhãy vút lên bờ cát liền hét vang.
Hoàng Dược Sư chân chưa chấm đất đã vung sợi đỏi dài độ hai trượng ra, vừa đập, vừa quét, khi vụt, khi quay.
Sợi dây tuy mềm mại dịu dàng, nhưng khi đã vào tay họ Hoàng thì còn cứng hơn cả sợi xích sắt, đầu giây bay tới đâu là những tay cung thủ của bọp cướp bị cuốn văng lên không, va mạnh vào ghềnh đá thịt da văng tơi tả, xương cốt nát rụm từng khúc nhỏ !
Mấy trăm tên hải tặc trên bờ biển sợ đến ôm đầu kéo nhau chạy như bầy cá bị đuổi.
Hoàng Dược Sư dùng chân đạp lấy sợi đỏi, hai tay chộp lấy một tảng đá nặng độ hai trăm cân dư, rinh khỏi bãi cát chặn lên sợi đỏi để phòng chiến thuyền trôi đi. Đoạn chàng cười lên rùng rợn, tiếng cười nghe rởn cả tóc tai, rồi tung mình nhãy vào đám đông, quyền chưởng sử dụng một lúc, "Lạc Anh Quyền" phối hợp cả "Tảo Điệp Thối", chân đá tay đấm biến hóa trăm chiêu ngàn thức, thân hình loang loáng, hoặc Đông hoặc Tây, khi tả khi hữu, dành thôi bọn cướp kêu khổ liên hồi, người chàng lướt đến đâu, là chết chóc đến đấy .
Không đầy khoảng khắc bọn cung thủ mai phục trên mặt biển đã chết ngót trăm người, kỳ dư bao nhiêu thấy tình thế bất lợi ùn ùn thi nhau lủi trốn.
Hoàng Dược Sư thấy thây người ngã ngổn ngang trên bãi cát, cười lên ha hả như điên, lao người thẳng đến cổng đại trại.
Lúc ấy bọn cướp giàn thành một trận tuyến dọc theo rào cổng của đại trại, thấy Hoàng Dược Sư nghênh ngang đi tới chỗ bọn họ, khuôn mặt sắc lạnh như vô định cảm kia, tuy không phải là "dạ xoa la sát" nhưng vừa nhìn thấy mặt chàng, bọn chúng không lạnh đã run !
Mọi người rập tiếng hét lên để lấy can đảm rồi từ phía sau cột rào bắn tên ra ào ào, còn không ngớt ném vôi tro thạch pháo, thật phòng thủ còn hơn gặp phải mười vạn quan quân chẳng bằng.
Nhưng đối với thế trận tầm thường của bọn cướp, Hoàng Dược Sư đâu xem ra gì, vẫn thản nhiên tiến đến rào cổng.
Tên bắn tới trước mặt chàng, Hoàng Dược Sư hoặc phất tay áo đánh rơi, hoặc tràn mình tránh né, không tới mười mấy cái nhãy lên đáp xuống đã đến gần bờ rào, song chưởng hiệp lại đẩy ra, tức thì rào cổng bị kình lực của Phách Không Chưởng đánh phải ngã sập cả một khoảng bảy tám trượng dài, nhưng trụ cây lớn bằng miệng chén cũng kêu lên "rắc ! rắc !" và gảy thành đôi đoạn như bị đao bén chặt nhằm.
Bọn cướp cả kinh, ùn ùn thi nhau lủi tuốt vào trại.
Hoàng Dược Sư tung mình nhãy qua bờ rào, hai tay tóm hai tên chậm chân chạy phía sau nhất, quát lớn :
- Đại vương của chúng bây trốn ở xó nào ?
Hai tên lâu la run lẩy bẩy đáp :
- Bẩm tướng công, hai người ở trong đại trại kia kìa.
Hai gã cướp biển chưa kịp hết lời, Hoàng Dược Sư khẽ dùng sức một cái, tức là "rộp !" một tiếng cần cổ hai tên cướp đã gảy lìa, chết ngoẻo đầu dưới đất.
Chàng thẳng tay giết từ ngoài ngỏ cho đến trong trại.
Bọn cướp tranh nhau chen lấn chạy vắt giò lên cổ.
Đào Hoa đảo chủ xông xáo như vào chỗ không người.
Gặp ngay tên nào là chàng nắm gáy hỏi liền :
- Trại chủ của bọn bây trốn ở xó nào ?
Hỏi xong là lập tức vung tay một chưởng chết không kịp ngáp. Chàng xông tuốt vào Trung Nghĩa Đường. Lúc ấy chánh sãnh của Trung Nghĩa Đường đã bị chàng đánh sập, chàng lướt qua đống gạch vụn vào thẳng Trung Nghĩa Đường, nơi đây cũng chẳng thấy một ma nào, chợt nghe có tiếng khua xào xào như tiếng quần áo còn nguyên nếp hồ.
Hoàng Dược Sư cảm thấy lạ kỳ vội cúi nhìn xuống đất.
Thì ra nơi đây có bày một tấm bình phong bằng giấy bồi vẽ sơn thủy, dưới tấm bình phong sơn thủy ấy lại ló ra một đôi chân, Hoàng Dược Sư không khỏi buộc miệng thất cười.
Vì có một kẻ núp vào đấy, tiếng quần áo khua lên lào xào, là vì y quá sợ run lên cầm cập, đụng vào giấy trên bức bình phong mới phát ra tiếng kêu tố cáo kia .
Hoàng Dược Sư không chút chần chờ, nắm lấy hai chân của người ấy lôi ra khỏi bức bình phong, thì té ra là một tên đầu mục gìa, vì yếu chân chạy trốn chẳng kịp mới chui tót dưới bức bình phong để trốn, bị Hoàng Dược Sư lôi tuột ra chỗ núp, hồn phi phách tán, van xin liền miệng :
- Trăm lạy ông tha mạng !
Hoàng Dược Sư nạt to :
- Quân chết dầm, trại chủ của mi núp nơi nào ?
Lão đầu mục gìa đáp :
- Bẩm lão gia, lúc nãy hai vị trại chủ còn ở đây, họ có lẽ biết lão gia sắp vào, nên đã lỏn đâu mất rồi !
Hoàng Dược Sư định giết chết tên đầu mục gìa nọ, nhưng sực hồi tâm tỉnh lại, đối với địa thế Hắc Phong đảo chàng chưa được rành lắm, nếu muốn bắt được hai tên đầu bọn cướp, thì phải có người dẫn đường mới được .
Chủ ý đã định, liền lật tay trái vù ra một chưởng, một tiếng bùng thật lớn vang lên, cái giá bình phong bằng đá vân mẫu, bị đánh bể nát thành mảnh vụng, đoạn lớn tiếng quát nạt gã đầu mục :
- Mi tên gì, muốn sống hay muốn chết ?
Lão đầu mục gìa run như lên cử rét đáp :
- Dạ... Dạ... Tiểu nhân muốn sống ! Tiểu nhân tên Vạn Thiên Quí !
Hoàng Dược Sư "hừm !" to một tiếng và nói :
- Tốt lắm mi hãy khai rõ địa thế trên Hắc Phong Đảo cùng những sào huyệt hang ngách trong trại và dẫn ta đi bắt hai gã Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh, ta mới tha mạng mi ra.
Vạn Thiên Quí vội đáp :
- Xin lão gia thương tình nếu ngài bảo tôi làm thế, thì anh em trong đảo đâu có dung mạng sống cho tôi.
Hoàng Dược Sư gằn giọng bảo :
- Nếu mi chẳng thuận lời, ta cũng giết chết mi ngay, nói thật cho mi biết, ta thề chỉ nội ngày nay phải giết cho hết bọn giặc chòm trên Hắc Phong đảo này, chúng nó còn sống đâu mà sát hại mi chớ ?
Vạn Thiên Quí nóng mình ớn lạnh, lập cập đáp :
- Dạ ! Dạ tôi đưa lão gia đi tìm đại vương của tôi vậy .
Hoàng Dược Sư ngắt ngang :
- Khỏi nói nhiều ! Đi cho mau !
Tên đầu mục gìa run rẩy đưa Hoàng Dược Sư vào trong nội thất của bọn cướp, cũng chẳng thấy một người.
Hoàng Dược Sư nóng nảy mười phần nạt to :
- Hai gã trại chủ trốn đi đâu nói mau. Nếu cố ý diên trì thời giờ thì mạng mi sẽ như cái gía bình phong lúc nãy nát ra từng mảnh.
Lão đầu mục gìa vội nói lia lịa :
- Tiểu nhân đâu dám, Hắc Phong Đảo này trừ đại trại ra còn một gian nhà kho bí mật xây cất trên đỉnh một ngọn núi, chắc Đại trại chủ và Nhị trại chủ núp trên ấy !
Hoàng Dược Sư nạt như sấm :
- Mau dẫn đường ! Nếu chần chờ, chết không kịp ngáp bây giờ !
Lão đầu mục liền dắt Hoàng Dược Sư xuyên qua hậu trại, nơi đây cũng chẳng thấy một người, ngoài rào cổng có thể nhìn thấy dạng một dãy núi sẫm uất cây rừng.
Hoàng Dược Sư một khi đã ra tay là làm tới cùng, quơ một số đồ dẫn hỏa chất vào tòa trại trống rỗng kia, nổi lửa đốt lên, sau đấy mới ép Vạn Thiện Quí dẫn mình ra sau trại tìm hai tên đầu xỏ của Hắc Phong Đảo.
Ngoài trại cũng chẳng có một dạng người đến ngăn trở, chỉ mỗi khi Hoàng Dược Sư đi ngang qua một mỏm đá cheo leo, hay vòng quanh một ngọn núi là tất có một vài mũi tên bắn lén ra, nhưng Hoàng Dược Sư thị như đồ chơi trẻ con, khẽ giơ tay bắt mũi tên rồi lẹ làng phóng quay về hướng cũ luôn luôn, tiếp
theo đấy là một tiếng rú thảm thiết rồi lại im lìm như thường.
Lão đầu mục càng sợ hãi đến hồn kinh đảm khiếp.
Đi qua một đoạn đường núi độ còn vài mươi trượng, trước mặt đã sừng sững hiện lên một ngọn núi cao.
Lão đầu mục lấy tay chỉ ra phía trước và nói :
- Bẩm lão gia, chỗ ngọn núi lõm vào mà lờ mờ thấy được tường rào đó chính là chỗ kho phòng, nếu hai vị trại chủ không có trốn trong ấy thì tiểu nhân không sao biết được nữa !
Hoàng Dược Sư bèn nói:
- Tốt lắm. Mi ngồi yên nơi đây, trời sập xuống cũng chẳng phép động đậy ! Nếu nhúc nhích nửa bước, ta cũng trở lại lấy mạng mi ngay nghe chưa ?
Lão đầu mục gật đầu lia lịa như chày giã gạo.
Hoàng Dược Sư phất tay áo rộng, áp dụng thuật lục địa phi hành, thoăn thoắt bay nhãy trên ghềnh núi đá không đầy một chốc lát đã đến bên rào tường.
Chợt nghe một tiếng còi rúc lên, phía sau bờ tường liền có vô số mũi tên bắn vụt ra, lại còn có cả vôi tro, thạch pháo ào ào ném ra như mưa bấc.
Hoàng Dược Sư hú dài một tiếng lảnh lót tung mình một cái, bóng xanh đã vượt lên đỉnh tường cao hơn một trượng.
Bọn giặc không khỏi khiếp hãi la rùm lên !
Những tên cướp phòng thủ kho phòng đều là những tên được chọn lựa trăm người lấy một trong đám bộ hạ của Đông Hải Vương, chúng không những can đảm thiện chiến, mà tánh tình vô cùng hung hãn.
Bọn chúng vừa thấy Hoàng Dược Sư hiện ra, lập tức đao thương nhất tề cử động đâm vào dưới chân của chàng.
Hoàng Dược Sư hừ hừ cười nhạt luôn miệng, vút mình phi thân vào giữa đoàn giặc cướp, rồi giơ tay nhấc chân thế nào, thân hình chỉ thoát lên thoắt xuống, trong khoảng thời gian nháy mắt đã giựt được hai ngọn trường mâu của hai tên giặc, đoạn đâm Đông đánh Tây, gạt tả quét hữu, ngọn thương bay đến đâu là thây cướp ngã lợt đợt xuống đất như chuối rụng. Không đầy nửa giờ đồng hồ sau một đoàn giặc cướp phòng thủ kho phòng gần năm trăm tên đã bị Hoàng Dược Sư giết hại hơn phân nữa.
Thủ pháp giết người của chàng rất đặc biệt, một mâu bay ra, là xuyên qua mình một tên, nhưng mũi mâu vẫn còn sức lủi chết thêm tên thứ hai, nói một cách rõ hơn là một mũi mâu của chàng đâm ra có thể giết một lượt hai hoặc ba tên cướp như người ta xỏ xâu cá một thứ, khiến cho bọn cướp còn lại, không còn lòng dạ đâu luyến chiến, ùn ùn tranh nhau chạy chết, còn giận cha mẹ tại sao chỉ sanh có hai chiếc giò nên chẳng thể chạy nhanh hơn được.
Hoàng Dược Sư giết rốc một hơi đến trước cửa kho phòng bí mật, chàng vung mạnh một chưởng chém bật cánh cửa mở toang ra, thấy bên trong châu báu ngọc ngà, san hô mã não lóe mắt, từng đống cao nghệu, chỉ có một điều là bên trong vắng hoe như nhà mồ chẳng thấy dạng một người.
Hoàng Dược Sư chẳng màng đến số tài sản khổng lồ kia, tung mình nhãy vụt trở ra, khám phá được nơi sau lưng kho phòng còn có một đường mòn ruột dê ngoằn ngoèo tận đến dưới chân núi.
Chàng không chút chần chờ dùng công phu phi hành trên mặt đất, chạy như bay xuống núi, quẹo qua mấy đường quanh, chợt thấy có bốn tê tiểu tặc vác thương chạy vắt giò phía trước mặt.
Hoàng Dược Sư nhún mình nhãy vụt theo và quát lớn :
- Đứng lại !
Bốn tên tiểu tặc thấy Hoàng Dược Sư đuổi tới, đồng rập reo to lên rồi nhất tề quay người lại.
Đào Hoa đảo chủ tưởng bọn chúng hươi thương liều chết với mình .
Ngờ đâu khi chàng tung mình đến trước mặt bọn chúng thì bốn gã đã quì móp xuống đất, lạy như tế sao, làm Hoàng Dược Sư phải khựng người lại.
Chàng vừa tức giận, vừa buồn cười, một chân bay ra, tức thì "bình !" "bình !" hai tiếng, tên cướp quì ở cuối phía trái bị chàng đá bổng lên như trái banh da tung cao lên mấy bước, rơi trở xuống lại đè phải tên đồng bọn ở bên cạnh, khiến tên này ngã nhào đè lên tên thứ ba, tên thứ ba lại nằm gọn trên mình gã thứ tư. Bốn gã trước sau té đùn cụt một đống, bằng như Hoàng Dược một cước mà đá ngã cả bốn tên một lượt.
Chàng lại cất tiếng nạt to :
- Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh trốn đâu ? Có trong kho phòng không ? Nói cho mau !
Bốn tên cướp kẻ bưu đầu người sứt trán, ê ẩm cả mình mẩy, sợ đến mặt mày tái mét như hết cả máu, lồm cồm bò dậy, lập cập, tươi cười đáp :
- Bẩm lão gia, hai vị trại chủ vừa trong kho phòng, thấy dạng lão gia đến, hai người vội lỏn mất , con đường này thông đến bải biển, có lẽ đi hơn buổi trời rồi !
Hoàng Dược Sư nghe hai tiếng "bãi biển" giật mình đánh thót một cái liền quắc mắt nhìn quanh, nơi đây là chỗ cao nhất trên toàn đảo Hắc Phong, có nhìn thấy suốt bốn phía mặt bể xung quanh đảo.
Chàng thình lình thấy chiếc thuyền chở bạc đậu trên bãi đông nghẹt những đầu người, liền sực tỉnh ngộ ngay là bọn giặc định đáp thuyền trốn chạy.
Hoàng Dược Sư không khỏi bồn chồn nóng nảy quát một tiếng cực lớn đẩy mạnh ra một chưởng đánh nhào bốn tên cướp đang quì trước mặt lăn lông lóc xuống triền núi, rồi chả cần biết bọn chúng sống hay chết, dùng ngay thuật lục địa phi hành tung mình vun vút xuống núi, chạy bay đến bờ biển.
Quả không ngoài ý liệu, Trịnh Thiên Vân và Võ nguyên Khánh hai người thấy Hoàng Dược Sư trở lên bờ, xông xáo giữa rừng tên núi kiếm như chỗ không người, trong khoảng khắc giết hại hơn mấy trăm bộ hạ của mình. Tuy trên đảo đồng đảng có hơn hai ba nghìn người, nhưng bọn chúng thấy Hoàng Dược Sư giết người như ngóe, đã bay hồn mất vía, còn đâu cản đảm để tác chiến nữa. Ba mươi sáu kế, nhanh chân chuồn trước sớm phút nào hay phút ấy. Nên Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh thừa lúc Hoàng Dược Sư đang đối phó với dàn quân phòng thủ kho phòng bên ngoài, hai người dắt theo vài mươi tên thân tín, lỏn ra ngã sau chạy xuống núi.
Đến bờ biển, chợt thấy chiếc lầu thuyền của Hoàng Dược Sư còn đậu ở đấy, Trịnh Thiên Vân nhớ đến hai mươi vạn lượng bạc chất trong thuyền kia, tự nghĩ mình đã kể như phế bỏ cả cơ nghiệp trên Hắc Phong Đảo, song còn nhặt lại được số bạc hai mươi vạn kia, trốn đến Triết Giang, Phúc Kiến hoặc nơi nào, cũng sống vương giả suốt nửa đời người.
Nhưng Trịnh Thiên Vân, Võ Nguyên Khánh tuy thông minh, bọn cướp cũng đâu dại gì, bao nhiêu thủ hạ theo phò anh em Đông Hải Vương từ bao năm nay thấy thủ lãnh của mình, trong cơn nguy khốn chỉ nghĩ đến bản thân mà bỏ rơi tất cả anh em trên đảo, mặc cho kẻ ngoài sát hại lại còn úm theo cả số tài sản định trốn khơi khơi để hưởng lấy an nhàn một mình, bọn chúng đâu dễ làm thinh, nhất tề la lối nguyền rủa vẳng lên.
Đúng lý ra, lúc gặp nạn, mạnh ai nấy trốn, vả lại Hắc Phong Đảo không phải chỉ độc có một chiếc thuyền ấy thôi, nhưng vì bọn chúng đã quen thói tham lam ích kỷ, thấy chủ tướng ôm theo cả một số bạc to, còn mình trái lại những một ten lận lưng, tiền bạc đều cất trong kho phòng bí mật trên ngọn núi kia. Đại trại bị phá tan hoang, có tên nào mà đủ gan mật trở lại, mạo hiểm với lửa đỏ và bị sát nhân họ Hoàng nọ giết, để tìm tài vật phòng thân ?
Chạy trốn chẳng tiền nong, mà vàng bạc thì trại chủ định úm cả trọn gói, tất nhiên chúng đâu chịu trố mắt nhịn thèm, nên bọn giặc tập trung trên bãi biển để kỳ kèo với trại chủ mình.
Trịnh Thiên Vân, Võ Nguyên Khánh dắt theo vài mươi tên tâm phúc lên cả thuyền vừa định trương buồm đào vong, nhưng lại bị đám thủ hạ níu đỏi kéo lại chẳng cho đi, nhứt định đòi chia chát cho được mới nghe.
Trịnh Thiên Vân cả giận, quát mắng :
- Đâu có lộng hành như vậy được, cho đến bọn chết bầm này cũng chẳng xem trại chủ ra gì, định vì một số bạc vô chủ này mà làm khó dễ với ta chăng ? Bây đâu ! Xô tất cả bọn này xuống khỏi đòn ngang, bảo bọn chúng buông giây ra, tên nào cứng đầu chém cho cho ta !
Đám thuộc hạ trên thuyền bình thường rất mực phục tùng lịnh trại chủ, nhưng vì đám tập trung trên bờ biển quá đông, mà cũng không thể cưởng lịnh trại chủ, miễn cưởng vung đao đâm chém bừa bãi trong lúc hai bên còn dằng co nhau thì Hoàng Dược Sư đã đuổi đến nơi rồi !
Hoàng Dược Sư thấy bọn cướp láo nháo trì kéo lẫn nhau thì chẳng cần phân tách lỗi phải ra sao nữa, chàng tung mình nhãy vút vào giữa đoàn giặc hai tay túm lấy hai tên quăng bổng lên trời.
Hai tên cướp rơi lộn mèo lên mình đám đồng bọn, làm cho bọn chúng té ngã đùn cụt lẫn nhau, vừa quăng nhầu vào đoàn cướp, cứ như thế quăng luôn bảy tám cặp thì đã có trên mấy mươi tên té lăn cù nhau dưới đất.
Bọn giặc không khỏi loạn cả lên, la hét như điên, ùn ùn chạy tán loạn khắp tứ phía.
Trịnh Thiên Vân thừa cơ hội lộn xộn trên bờ biển chạt đến đầu thuyền rút đao chặt đứt giây đỏi, đồng thời thúc giục :
- Anh em đâu, trương buồm lên cho mau !
Mười mấy tên thủ hạ trên thuyền vội căng buồm lên cao.
Võ Nguyên Khánh cũng hét lớn ra lịnh :
- Bỏ sào ! Chèo rút !
Tức thì trên mấy chục dầm lẫn sào đập loạn xạ lỏm bỏm dưới mặt biển lanh như con thoi, trong khoảng khắc chiếc thuyền đã rời khỏi bờ mấy trượng.
Hoàng Dược Sư liên tiếp quăng thảy đám cướp xông xáo vào đoàn người như sóng tràn đê vỡ, lướt đến gần được bờ biển thì chiếc thuyền chở Trịnh Thiên Vân đã rời xa khỏi bờ trên mười trượng rồi.
Hoàng Dược Sư thấy bọn giặc đáp thuyền trốn chạy, còn chở theo cả hai mươi vạn lượng bạc của mình thì ngoài cả ý liệu định.
Chàng nhìn khoảng cách giữa chiếc thuyền và bờ biển rồi lập tức hú lên một tiếng thanh tao nhãy vút khỏi bờ đảo, tung cao trên hai trượng, đoạn ở khoảng không lộn người lại, chân trên cao đầu cúi xuống phía mặt nước.
Nhưng kỳ thật thì chàng không hề chúi tòm xuống nước, mà chờ khi sắp rơi là xuống cận mặt nước, song chưởng vỗ mạnh lên mặt nước, người chàng tựa như một con hải yến xẹt vút trở lên ba bốn trượng, song vì lúc Hoàng Dược Sư phi thân khỏi bờ biển thì nước chảy xiết, do đó chiếc thuyền chở bọn cướp lại trôi dạt ra thêm một hai trượng xa. Nói một cách rõ hơn, là đã kéo dài được một khoảng cách với Hoàng Dược Sư vậy.
Kể cũng đáng khen Đào Hoa đảo chủ chẳng chút bối rối, lần thứ hai rơi xuống nước, chàng cũng y theo cách thức trước lại bay vút trở lên tựa như con chuồn chuồn giỡn nước, liên tiếp bốn năm lần xà xuống vượt lên như thế, đã nhãy đáp lên sạp thuyền giặc rồi, trên người Hoàng Dược Sư không dính một chút nước mà có thể vượt qua hai mươi trượng xa trên mặt biển, nhãy lên thuyền một cách nhẹ nhàng như chiếc lá rụng, khiến bọn cướp vừa khiếp phục vừa kinh sợ, kêu lên oai oái.
Hoàng Dược Sư chân vừa đặt lên sạp ván, một cước dưới, một quyền trên trước tiên triệt hai tên cướp phụ trách ở lái thuyền, văng tòm xuống biển như hai quả khí cầu.
Cùng trong lúc ấy, từ phía hữu của chàng liên tiếp réo lên tiếng xé gió "vù !" "vù !" , do những phiêu thương của mấy tên cướp đứng bên be thuyền phía hữu phóng lại.
Những mũi phiêu thương ấy là loại khí giới dùng để đâm cá, nơi đầu mũi có chiếc ngạnh thật sắc,
Hoàng Dược Sư cười lên như ma kêu quỉ hú, ngoáy tay một cái, đã bắt gọn mấy mũi phiêu thương vào tay, đoạn phất mạnh áo trở ra, dùng công phu Đàn Chỉ Thần Công cho mủi phiêu thương quay về nguyên chủ.
Lối ăn miếng trả miếng của chàng vừa độc, vừa chuẩn. Bốn mũi phiêu thương phân ra bốn nẻo, ghìm lút từ trước ngực ra đến sau lưng bốn tên cướp, bọn chúng chưa kịp "ối cha !" một tiếng đã ngã vật xuống sạp thuyền chết lập tức.
Kỳ dư bao nhiêu bọn cướp còn lại, thấy oai thế Hoàng Dược Sư như vậy hết dám chống cự, nhưng ngặt nỗi trên thuyền lại chẳng có nơi nào để trốn chạy chỉ còn cách rủ nhau nhào đầu đùng đùng xuống biển để lặn trốn khỏi tay sát thần họ Hoàng kia.
Những tên còn khá bình tỉnh thì khôn hồn lội trở vào bờ, còn những kẻ quá ngu, chỉ nhắm mắt nhắm mũi bơi cho xa, đến khi sức cùng hơi tàn bị sóng triều nhận chìm xuống đáy biển sâu.
Trịnh Thiên Vân, Vô Nguyên Khánh hai người thấy Hoàng Dược Sư nhãy lên thuyền mình giết người như cỏ, sợ đến quýnh quíu chân tay, bọn chúng lết từ đầu thuyền đến cuối thuyền, lại từ cuối thuyền lết tới mũi thuyền.
Hoàng Dược Sư vừa nhìn thấy mặt hai tên tức thì "ào !" một tiếng gió, người chàng đã nhãy đến đầu thuyền như con đại bàng, đáp xuống trước mặt hai người cách nhau chẳng đầy hai tấc .
Trịnh Thiên Vân kêu lia lịa :
- Khoan ! Khoan đã ! Tôi muốn nói !
Hoàng Dược Sư cất giọng âm trầm như quỉ đêm hỏi :
- Còn muốn nói gì ? Mi bức tử vợ chồng Phùng Lai, ta đã bảo mi đưa ra hai chục vạn lượng bạc để thường mạng, mi lại ẩn lòng lang độc, bề ngoài vờ phục tùng, bên trong âm thầm tìm cách ám hại Hoàng mỗ ta, còn lải nhải gì nữa ? Mau trở đao tự sát để khỏi nhọc sức ta.
Trịnh Thiên Vân biết chẳng còn nài nỉ vào đâu được, mặt như tro xám, Võ Nguyên Khánh trong đầu bỗng loé lên một ý định liền lên tiếng :
- Họ Hoàng kia, trên đất liền tài nghệ ta chẳng bằng mi nhưng dưới nước chưa chắc bọn ta đã kém mi nếu ngươi quả là bậc hảo hán, hãy nhãy xuống nước cùng chúng ta quyết chiến thử xem ai hơn ai kém !
Hoàng Dược Sư lạnh lùng cười khan và nói :
- Bọn ngươi trên bờ bị thịt như thế e dưới nước cũng chẳng ra cái cóc rác gì ! Được lắm ! Chỉ cần bọn bây đành dạ chết thì dưới nước hay trên bờ cũng chẳng hại !
Nói đoạn, song chưởng cuốn tròn một vòng rồi đẩy mạnh trở ra và nói:
- Hai tên chó chết, có mau rút xuống nước cho ta không ?
Chàng chỉ dùng có hai thành công lực Phách Không chưởng mà Trịnh, Võ hai người đã bị kình lực của chưởng phong hốt tuốt xuống biển, đánh ùm một tiếng. Nước bắn tung toé vào be thuyền.
Hoàng Dược Sư cũng quát to một tiếng và nói :
- Ta cũng nhãy xuống biển, bọn ngươi có bao nhiêu bản lãnh cứ việc đem ra hết thi thố, kẻo chết còn ức lòng không nhắm được mắt !
Dứt lời, chàng liền nhún chân nhãy vụt xuống biển. Dưới nước sâu cũng có thứ khí giới khác biệt chuyên để sử dụng dưới nước.
Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh là hai tên cướp biển thiện nghệ lâu năm trên miền Đông Hải, tinh thông thủy tánh là chuyện tất nhiên, nếu chẳng thế, bọn chúng làm sao có ngoại hiệu là Thốn Hải Trường Kình và Cửu Đầu Ngân Ngao được
Bởi thế, chúng dư hiểu trên thuyền không sao chống lại nổi Hoàng Dược Sư, hy vọng với ngón sở trường dưới nước mạo hiểm để cầu may , dù chẳng đấu lại đối phương, thì dưới mặt bể mênh mông nước thẳm, cũng dễ trốn chạy, hơn là bó tay chờ chết.
Hoàng Duợc Sư đâu phải là hạng người như chúng tưởng làm gì chẳng hiểu rõ tâm ý của bọn chúng. Vừa ném hai người xuống biển xong là chàng lập tức nhảy canh dòm chừng rồi.
Trịnh Thiên Vân thấy Hoàng Dược Sư phăng phăng vẹt nước đuổi tới, liền với tay rút một đôi "phân thủy nga my thích" buộc sẵn nơi bắp đùi ra, hụp người chòi chân một cái đã lặn xuống thật sâu, rình chờ Hoàng Dược Sư lội ngang đỉnh đầu mình, sẽ xuất kỳ bất ý trồi lên đâm vào chỗ yếu nơi bụng đối phương.
Dưới mặt nước nhìn đồ vật thật khó song Trịnh Thiên Vân nhờ sinh sống lâu ngày trên mặt biển, nửa đời người làm bạn với biển cả nên dù lặn dưới mặt biển một trượng sâu cũng có thể nhìn lờ mờ một vật ở xa ngoài bảy tám thước.
Ngờ đâu y hôm nay gặp phải Hoàng Dược Sư một con người cũng đã nửa đời làm bạn với bể khơi, thủy tánh cao còn hơn y gấp mười, nên Hoàng Dược Sư từ xa đã thấy rõ Trịnh Thiên Vân đang lăm lăm trên tay ngọn binh khí sáng láng phản chiếu trong ánh nước, liền mắng thầm :
- Thật là đồ trước cửa Lổ Bang mà dám múa búa.
Chàng chợt nhìn thấy Võ Nguyên Khánh đang lội ở cách phía tả Trịnh Thiên Vân độ ba trượng, sực nghĩ được một kế, liền bỏ mặc gã họ Trịnh ở đó, quảy mình lội theo Võ Nguyên Khánh.
Gã họ Võ đang lặn phía trước thình lình nghe sau lưng có tiếng nước khua động, biết là Hoàng Dược Sư đuổi theo mình.
Không dám chần chờ, vội ngoáy tay một cái, ánh sáng lạnh liền loáng lên, một ngọn ám khí vẹt nước băng băng bay đến tấn công Hoàng Dược Sư.
Môn ám khí của gã họ Võ vừa rồi tên là "Ngư vĩ cang thoa", thật ra khi ở dưới nước giao đấu nhau, vì có sức nước cản trở, nên bất luận là binh đao ám khí cũng khó là sử dụng. Thứ nhất là áp dụng ám khí , khó càng thêm khó, chẳng qua loại ám khí "ngư vĩ cang thoa" của Võ Nguyên Khánh, sở trường ở dưới nước sâu, nhờ ở một cái lò so trong ống thiết, dấu dưới tay áo , đẩy bật ra, có thể xuyên qua sức nước ngăn trở, giết chết đối phương trong vòng một trượng.
Hoàng Dược sư chợt thấy trong làn ánh sáng lấp loáng ấy có một vật ám khí hình cá, lao đến trước mặt, chàng liền nhanh tay chộp lấy rồi lặn sâu xuống nước .
Võ Nguyên Khánh thấy ám khí mình vừa phóng ra, liền có một bóng người tự dưng chìm sâu xuống, ngỡ là đã thâu hoạch được công hiệu, thầm mừng rỡ trong lòng, vội đạp chân quay lại, hai tay vẹt nước băng băng, định xem cho tỏ rõ.
Hoàng Dược Sư lẹ như cắt từ dưới sâu bắn vọt lên, một tay chộp lấy hai cổ chân của hắn, dìm xuống đáy nước.
Phàm những kẻ lặn lội dưới nước, tối kỵ là bị người khác giữ lấy tay chân, dìm xuống dưới dáy sâu, dù thủy tánh tinh thông đến bực nào, cũng phải cậy vào tứ chi để xoay tròn nên khi Võ Nguyên Khánh vừa bị nắm lấy cổ chân, đã hiểu ngay mình bị lừa. Dù cho vùng vẫy cũng vô ích trái lại còn bị uống phải nước biển, mà khi uống vào bụng rồi thì dầu tinh thông thủy tánh thế nào cũng phải đi đời .
Võ Nguyên Khánh cố nhịn hơi định bụng tìm cơ hội phóng ra ngọn ngư vĩ kim thoa thứ hai hoặc may trong cái chết tìm lấy ngõ sống, hắn đâu có dè là kẻ cao vẫn có kẻ cao hơn.
Hoàng Dược Sư chộp được cườm chân của đối phương, liền đẩy mạnh hắn về phía Trịnh Thiên Vân đang ẩn mình.
Gã họ Trịnh nằm mơ cũng không ngờ rằng đồng bọn mình đã bị Hoàng Dược Sư bắt sống và đẩy sang phía mình.
Trịnh Thiên Vân đang trầm sâu dưới đáy nước, đôi mắt lom lom chờ đợi, thình lình thấy phía trên đầu lờ mờ có bóng người vẹt nước lướt tới, ngỡ là Hoàng Dược Sư đuổi đến, lập tức đạp chân lặn trồi trở lên, vung cây nga mi thích, đâm vào huyệt đơn điền dưới bụng dưới đối phương kêu "sực" một tiếng ghê rợn.
Trịnh Thiên Vân không ngờ nổi là sự đột kích bất ngờ vừa rồi, lại thành công dễ dàng như thế, thầm mừng trong bụng vội ngoắt mạnh ngọn nga mi thích một cái, kéo cả ruột gan của đối phương ra có nùi, máu tươi vọt phún ra, đỏ hồng cả một khoảng nước .
Đáng tội cho Cửu Đầu Ngân Ngao tung hoành Đông Hải suốt nửa đời người lại chết trong tay của đồng đội Trịnh Thiên Vân.
Trịnh Thiên Vân vừa rút ngọn Nga Mi thích ra thi hài của đối phương liền nổi phù lên mặt bể, khiến y giật mình kinh ngạc vô cùng ! Y dư hiểu là bản lĩnh của Hoàng Dược Sư rất cao cường, một cái đâm bất ngờ vừa rồi mà có thể giết chết chàng được như vậy sao ? Trong lòng lấy làm hồ nghi bất định chẳng lẽ lại đâm nhầm người của bổn đảo sao ? (Vì trong thời gian ấy tất cả bộ hạ trên thuyền đều ùn ùn nhãy xuống biển thoát thân cả).
Trịnh Thiên Vân còn đang lưỡng ước băn khoăn, chợt thấy sau lưng gáy có một bàn tay cứng như sắt nguội chộp cứng cần cổ mình. Trịnh Thiên Vân vì quá bất ngờ, hốt hoảng mở miệng ra, nước biển được dịp tuôn vào bụng òng ọc như chảy vào lổ cống, tiếp theo đấy bụng dưới bị nện cho một quyền thích đáng.
Trinh Thiên Vân đau quá vừa mở miệng thì nước biển lại một phen nữa chảy vào miệng.
Trịnh Thiên Vân uống một hơi nước biển đã lâm vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê.
Hoàng Dược Sư liền nắm đầu xách lên khỏi mặt nước, lúc ấy Thốn Hải Trường Kình mới kịp nhìn thấy cái tử thỉ bị y đâm chết lúc nãy và nổi lềnh bềnh trên mặt nước kia, lại chính là người bạn kết nghĩa Võ Nguyên Khánh. Y buộc miệng kêu "á !" lên một tiếng.
Hoàng Dược Sư khi ấy mới quát to :
- Thằng giặc thúi ! Thấy rõ chưa ! Mi ở dưới nước ám toán ta không xong, lại nhè đồng bọn mình mà đâm chết có người hậu bạn cùng mi đến Uổng tử thành chết cũng đành dạ rồi vậy !
Trịnh Thiên Vân chưa kịp đáp, ngọn chương của Hoàng Dược Sư đã chém xả xuống, bể cả sọ óc trắng vọt ra ngoài chết liền không một tiếng rên.
Giết xong hai đầu đảng Đông Hải Vương, Hoàng Dược Sư thuận tay đoạt lấy thanh bồi đao của họ Trịnh cắt lấy thủ cấp hai người buộc xâu xách vào tay.
Lúc ấy chiếc lầu thuyền chẳng ai lèo lài, bị sóng đánh trôi dạt ngoài xa tít mù một trăm dặm ngoài.
Nhưng Hoàng Dược Sư là người tinh thông thủy tánh, lập tức lội đuổi theo chiếc thuyền nắm lấy tấm ván bánh lái lật mình một cái đã nhãy vút lên thuyền, kiểm soát trước sau mũi lái, trừ bạc nén chất trong khoang ra không còn một tên nào sao lái, Hoàng Dược Sư mới bỏ hai chiếc thủ cấp xuống dong buồm quay lại trực chỉ về phía bờ biển Triết Giang.
Lần này Hoàng Dược Sư đơn thân bình định Hắc Phong Đảo, một người một thuyền sát hại trên sáu trăm tên cướp bể. Sau trận huyết chiến kinh khủng ấy, uy danh của Hoàng Dược Sư chấn động khắp cả miền Đông Hải, Triết Giang trở thành một tông sư duy nhất miền Đông. Tổ cùng với Trung Thần Thông Bắc Cái, Nam Đế. Tây Độc lừng danh trong thiên hạ.
Chiếc lầu thuyền của Hoàng Dược Sư, qua hai ngày một đêm thuận theo ngọn gió, đến chiều ngày thứ hai đến phụ cận vùng bờ biển Hà Nam. Lúc ấy nơi Thanh Vân thôn, Võ Hồng Quang và Phùng Hương Điệp, vì thấy Hoàng Dược Sư đi đã mấy ngày mà chưa trở về, trong lòng hết sức nóng nảy lo âu, sợ chàng gặp chuyện bất trắc, nên nhờ cậy vài người dân làng di dọc theo bờ biển dò la trông chừng tin tức.
Họ vừa thấy Hoàng Dược Sư cặp thuyền vào bờ, an lành trở lại, thật mừng còn hơn bắt được vàng, hoan hỉ la hét vang dậy.
Hoàng Dược Sư bèn bảo bọn họ :
- Ta đã phá tan sào huyệt của bọn cướp biển Hắc Phong Đảo, chém lấy thủ cấp của hai tên chúa đảng đem về đây, kể như đã báo được huyết hải thâm thù cho Phùng cô nương, lại còn đem về vô số tài vật của bọn cướp, các người mau trở về kêu gọi dân làng ra đây khiêng về.
Đám dân làng cả mừng chạy như bay trở về không bao lâu, Võ Hồng Quang dẫn theo một đám đông dân làng rầm rộ đến nơi, nhìn thấy trong khoang thuyền bạc nén từng đống trắng chói cả mắt , hớn hở vui cười, một hô trăm ứng, gồng gánh số bạc trở về thôn.
Hoàng Dược Sư cắt lấy một chéo buồm, bao gói hai chiếc thủ cấp đỏ lòm máu me kia lại trở về Thanh Vân thôn.
Phùng Hương Điệp thấy Hoàng Dược Sư nửa mừng nửa thẹn, lại thấy trên tay Hoàng Dược Sư ôm một cái bọc lớn bèn hỏi :
- Tướng công, trong tay tướng công cầm vật chi thế ?
Hoàng Dược Sư cười thật dịu dàng đáp :
- Đây là chiếc đầu của kẻ thù đã giết cha mẹ cô, nên tôi cắt đem về đây cho cô hả tức, còn chở theo hai mươi vạn lạng bạc trong trại cướp đem về, đủ cho cô ăn tiêu suốt một đời !
Nói đoạn rủ mạnh gói vải buồm trên tay ra, hai chiếc đầu máu me lem luốc rơi lông lốc xuống mặt đất như hai trái dưa hấu.
Phùng Hương Điệp cúi xuống nhìn xem quả đúng là đầu của hai tướng cướp Đông Hải Vương mừng rỡ đến suýt ngất đi.
Hoàng Dược Sư bèn bảo nàng :
- Cô nương, số bạc từ sào huyệt bọn cướp chở về đây, xin nhường lại một phần cho cô, đám tham quan ở Thiệu Hưng cũng đã bị tôi trừng trị tởn vía rồi. Cô có thể trở về cố hương an cư lạc nghiệp mà chẳng còn lo gì nữa.
Phùng Hương Điệp ngập ngừng giây lâu mới đáp :
- Không ! Tôi không cần vàng bạc, cũng chẳng muốn trở về làng cũ ! Nếu tướng công không chê, tiện nữ nguyện ý đến đảo Đào Hoa, làm kẻ tì nữ hèn hạ, suốt đời hầu hạ bên tướng công !
Hoàng Dược Sư hiểu lời nói của Hương Điệp vừa rồi là rõ ràng có ý gởi thân cho, chàng thầm nghĩ nửa đời người giang hồ lang bạc là có cái diễm phúc được một người vợ sắc thắm hoa nhường, phong tư dịu dàng đầm thắm, con người vẹn đôi như thế, còn muốn gì hơn nữa ?
Song vì Hoàng Dược Sư là một danh sĩ quen thói khí khái trượng phu không muốn làm cho người khác dèm siểm mình là kẻ thi ân cầu lợi để cưới một cô gái mồ côi, nên chàng lắc đầu nói :
- Cô nương như vậy sao đặng ? Đào Hoa Đảo tuy phong cảnh thanh tú, nhưng chẳng qua chỉ là một cô đảo giữa biển khơi, cách biệt thế giới bên ngoài thanh tịnh vắng buồn, cô làm sao ở được !
Phùng Hương Điệp đáp :
- Lời của tướng công sai chăng ? Thuở xưa Lâm Hòa Tịnh với nếp sống cội mai làm vợ, hạc trắng làm con, tự cho mình là người trong giới thần tiên ngoại tục ! Thiếp tuy bất tài cũng không sợ tịch mịch là gì !
Hoàng Dược Sư nghe lời đáp, trong lòng hết sức cảm động.
(Nguyên vì thời Bắc Tống, có một vi tu sĩ tên Lâm Thông tại đất Giang Nam tự xưng là Hòa Tịnh tiên sinh, không thích công danh, ẩn cư nơi biệt dã, lúc về gìa ngụ tại bến bờ tây Hàn Châu, trước cửa nhà mình trồng mấy cụm mai to, lại nuôi được hai con hạc trắng. Có người hỏi ông tại sao chẳng chịu cưới vợ, chẳng iẽ không muốn có con để nối hậu sao ?
Lâm Thông bèn mỉm cười lấy tay chỉ mấy cội mai trước nhà và đáp :
- Đấy là thê phòng của tôi !
Lại chỉ vào mấy con hạc đang đứng xớ rớ kế bên chân và nói tiếp :
- Còn đây là con tôi, Lâm mỗ này lấy mai làm vợ, có hạc là con, cần gì phải như thói tục không chịu nổi kia, nhất định phải cưới vợ mới được hay sao ?
Do đấy người mới có câu chuyện Hòa Tịnh tiên sinh là Mai thê, Hạc tử).
Lời của Phùng Hương Điệp vừa rồi, làm cho Hoàng Dược Sư không khỏi bật cười to lên và nói :
- Thật chẳng ngờ Hoàng Cổ tôi lại còn có một người hồng nhan tri kỷ như thế. Tốt số thay ! Cô nương đã nói như thế, tôi cũng chẳng hẹp gì mà không đưa cô nương đến Đào Hoa Đảo sống thử một phen !
Hoàng Dược Sư bèn đem hai mươi vạn lượng bạc kia phân phát cho tất cả cư dân làng Thanh Vân thôn, mỗi người được lảnh hơn một trăm lượng, vui mừng hớn hở ca tụng công đức họ Hoàng chẳng tiếc lời.
Hoàng Dược Sư lưu lại tíc t thôn Thanh Vân thêm hai ngày rồi cùng Phùng Hương Điệp, Võ Hồng quang đáp thuyền trở về Đào Hoa đảo .
Sau đó Phùng Hương Diệp thành ra Hoàng phu nhân.
Hoàng Dược Sư tự dưng được một cô vợ mỹ mạo song toàn nhưng tiếc thay hồng nhan bạc mạng, vì nàng cưởng đọc Cửu Âm Chân Kinh của Châu Bá Thông do dó mà tạ thế, trước khi lâm chung sanh được một cô con gái tên là Hoàng Dung tánh mình cao ngạo cổ quái y như Hoàng Dược Sư chẳng khác.
Nhắc lại Toàn Chân Giáo Chủ Vương Trùng Dương, sau khi đại hội Luận Kiếm Hoa Sơn trở về. Vì được danh Thiên Hạ Đệ Nhất Bá oai danh chấn động sáu cõi, nên chẳng bao lâu nhân vật võ lâm trên khắp miền Nam Bắc các tỉnh đều biết đến bản lĩnh cao sâu của Trùng Dương, nối tiếp nhau kéo đến Tung Sơn.
Những nhân vật võ lâm ấy, một số vì muốn thi tranh tài nghệ với Trùng Dương, một số muốn được kết thân với chàng, không đầy mấy tháng trời mà số vô lâm đồng đạo kéo đến Tung Sơn không dưới số ba bốn mươi người.
Trùng Dương tuy dặn dò Mã Ngọc và Khấu Xử Cơ tìm lời khôn khéo từ chối khách lạ, nhưng cũng cảm thấy hết sức phiền trí bực lòng, nên một hôm bèn phân trần với Châu Bá Thông :
- Này sư đệ, thật là tự ngu huynh chuộc lấy sự bực trí, đáng lẽ ngu huynh chẳng nên đến Hoa Sơn so tài võ nghệ để làm gì, dẫn dắt bao nhiêu tục khách đến quấy nhiểu mải Tung Sơn.
Vừa nói đến đây Châu Bá Thông đã vọt miệng ngắt lời :
- Sư huynh đừng trách tiểu đệ là lắm miệng, những thứ tìm đến so tài sư huynh, chẳng tên nào được lòng dạ tốt cả, sư huynh không chịu động thủ cùng họ thì thôi, sao chẳng để cho tôi đánh họ phun phẩn té tiểu ra, cong đuôi mà chạy một lần cho họ tởn !
Trùng Dương nạt to :
- Nói xàm ! Nếu một người luyện võ công, cốt chỉ để đánh lộn với người thì chả hóa ra gieo rắc thù hận khắp nơi chăng ! Thà chẳng học võ nghệ còn hơn. Đừng nói chi đâu xa, năm trước sư đệ chỉ vì háo thắng tự cường mới bị hai anh em song quái họ Âm vây khổn tại Đông Hải, lại bị nhịn đói ở Đào Hoa Đảo, bài học đó sư đệ quên rồi sao ?
Châu Bá Thông thẹn thùng đỏ mặt cứng họng hết lời.
Khấu Xử Cơ cùng mọi người đứng bên bụm miệng cười khúc khích.
Trùng Dương nhìn ra ngoài núi xa, thở dài một tiếng buồn bã rồi bỗng đứng phắt dậy nói :
- Bá Thông sư đệ, ngu huynh định sáng mai du hành phương Nam một chuyến, sư đệ ráng ở nhà dạy dỗ mấy đứa đồ đệ vậy !
Lời chàng vừa thốt khiến bảy đệ tử của Toàn Chân phái đều giật mình kinh ngạc, chắp tay cúi đầu cung kính thưa :
- Tại sao sư phụ lại động ý viễn hành như thế ?
Trùng Dương đáp :
- Từ mấy tháng nay, Vân Hà động của ta ồn ào như cửa chợ, hết người này lại đến người khác tìm thầy để kết giao bái sư. Một nơi thanh tịnh tốt lành bỗng chốc biến thành một trường danh lợi ô trọc, cho nên thầy muốn rời động du hành, một là tạm thời tránh khách, hai là tai mắt được phần nào thanh tịnh, các con phải ngoan ngoãn cùng sư thúc Bá Thông luyện tập tài nghệ nghe chưa !
Châu Bá Thông chợt lên tiếng :
- Sư huynh, tôi đi theo với sư huynh vậy ?
Trùng Dương hết sức ngạc nhiên bèn hỏi :
- Sư đệ lần này ta đến phương Nam, là vì muốn tránh đám tục khách kia đến quấy rầy. Sư đệ cũng đòi đi theo ta, với dụng ý gì ?
Châu Thông đáp :
- Sư huynh đâu có rõ, lần trước sư huynh đến Hoa Sơn cùng cái tên chết bầm Âu Dương Phong đánh lộn nhau, để một mình đệ ở nhà với mấy sư điệt thật buồn muốn thúi cả ruột, nếu kỳ này sư huynh không đưa tôi đi, đừng trách sao tiểu đệ gây họa cho sư huynh .
Trùng Dương càng lạ lùng hỏi dồn :
- Gây họa dử ? Sư đệ nói năng gì thế ?
Châu Bá Thông gải đầu đáp :
- Sư huynh còn phải hỏi : Nếu sư huynh đi rồi, bọn tồi ấy tìm lên Yên Hà động quấy rầy, tiểu đệ mặc kệ họ, động nào phái nào thấy mặt là đập liền, một tên đập một tên, hai đứa chơi hai đứa, cùng với bọn chúng đánh chơi bỏ ghét !
Trùng Dương cả kinh nói :
- Sư đệ em định làm reo với ngu huynh đấy chăng ?
Châu Bá Thông đáp :
- Sư huynh muốn tôi đừng làm reo cũng chẳng khó, đem tôi đi theo là mọi việc đều êm !
Trùng Dương biết rõ tánh tình của sư đệ mình hễ nói thì làm không chút đắn do hơn thiệt, nếu y đã nói cùng người đánh lộn, thì thế nào cũng xảy ra cuộc ấu đả, chàng không có ở Yên Hà động, lấy ai mà quản thúc nổi y ?
Trùng Dương chẳng biết làm sao hơn chỉ còn cách dậm chân đáp :
- Thôi thôi ! Tôi đưa ông mãnh đi được rồi !
Châu Bá Thông nghe Trùng Dương cho mình đi theo, mừng như mở cờ trong bụng, cười hăng hắc nói :
- Như vậy mới thật là hảo sư huynh ! Thỉnh tướng không bằng khích tướng, hơ hớ ! Sư huynh, anh trúng kế khích tướng của tiểu đệ rồi !
Trùng Dương bị y nói như thế, thật là lỡ khóc lỡ cười. Nhưng đã lỡ hứa cho y theo, không thể nuốt lời.
Hai anh em bèn quyết định sáng hôm sau rời khỏi Yên Hà động xuống núi vân du miền Nam.
Lần du Nam này Trùng Dương đã có định ý đến thành Đại Lý ở đất Vân Nam thăm viếng Nam Đế Đoàn Hoàng Gia, nhưng chàng chẳng hề nói ý mình cho sư đệ biết.
Anh em Trùng Dương khi xuống núi liền theo đường Uyển Lạc thẳng về hướng Tây, qua ranh giới Hà Nam xuyên qua dãy Trường Sơn, Phục Ngưu, Trung Điều, Hùng Nhỉ, trực chỉ đến Đồng Quan cận biên giới Thiểm Tây.
Con đường này đối với Châu Bá Thông không lạ lắm nên y bèn ngạc nhiên hỏi :
- Sao thế ! Sư huynh có định tới Hoa Sơn nữa không ?
Trùng Dương lặng thinh lắc đầu chẳng đáp, sau khi vào biên giới Thiểm Tây. Chàng không đi về hướng Hoa Sơn lại tẻ qua đường đến Đại Tản Quan.
Châu Bá Thông mới lấy vỡ lê :
- Ồ ! Thế ra sư huynh định vào Tứ Xuyên, sao chẳng sớm nói cho tiểu đệ biết với !
Trùng Dương chỉ khẽ mỉm cười lầm lũi tiến về phương Nam, đầu óc đang bận quay về với thời gian năm xưa, lần đầu tiên chàng đến viếng Đại Lý quốc, tình cờ cứu được triều đại họ Đoàn khỏi cơn quốc biến.
Thì ra thành Đại Lý là thủ phủ của Nam Chiến Quốc, quốc vương là giòng họ nhà thế đại tương truyền ngôi báu.
Nam Chiến Quốc là một quốc gia duy nhất của dân tộc thiểu số ở biên cương hai tỉnh Vân Nam, Quý Châu trước kia là Lục Chiến quốc , qua đời Ngũ đại , Tân Đường binh oai cả dậy, sau trong nước sanh nội loạn, có một quan đại thần họ Đoàn (tổ tiên của Đoàn Hoàng Gia hiện tại) dắt cả gia tộc đào vong đến biên trấn lập thành Nam Chiến Quốc, truyền đến vua Hiếu Tông đời Tống Quốc Vương Nam Chiến là Đoàn Thạnh, nhân dân quen gọi là Lão Hoàng Gia.
Đoàn Thạnh là một quốc vương anh hùng đại lược , siêng năng cần mẫn việc quốc chánh, khiến cho một quốc gia tiểu nhược trở thành thạnh trị , trong thành Đại Lý , nhân dân sung túc ấm no. Người đi đường không lượm của rơi, đêm không đóng cửa ngỏ , mường tượng như một thiên đường thế giới.
Đoàn Lão Hoàng Gia tuổi đã nửa đời, tam cung lục viện thê thiếp dẩy đầy nhưng chỉ sanh được một mụn Thái Tử tên là Đoàn Cẩm, chính là Nam Đế đã liệt danh trong hàng Ngũ Bá Vô Lâm trong kỳ Hoa Sơn luận kiếm vừa qua .
Đoàn Cẩm từ nhỏ đã tỏ ra rắn mắc háo động, thích võ hơn văn, một hôm vào tiết tháng hai, khí xuân phơi phới, trong thành ngoài nội muôn hoa ngạt ngào sắc thắm hương thơm. Thái Tử Đoàn Cẩm cảm thấy chân tay ngứa ngáy vì thời tiết rực rỡ quyến rũ
kia, bèn dắt theo vài tên tùy tùng đến Phỉ Thúy hồ để du ngoạn.
Hồ Phỉ Thúy cách xa thành Đại Lý mười dặm về hướng Bắc, mặt hồ rộng chừng hai mươi dặm vuông nhưng cảnh sắc u nhàn mỹ lệ vì núi thẩm nước xanh, quanh năm mặt nước phẳng lì như một viên ngọc bích nên sĩ phu miền trấn Tây mới đặt tên là Phỉ Thúy hồ.
Đoàn Cẩm cùng đoàn tùy tùng đến bên bờ hồ thấy nước trong leo lẻo rất dễ thương, cảm thấy trên người lại nóng bức khó chịu, muốn nhãy ngay xuống hồ xanh biếc kia tắm cho mát, bèn quay lại bảo thị vệ cởi áo cho mình.
Bọn tả hữu tùy tùng kinh hãi bèn quì xuống cản ngăn :
- Tâu điện hạ, không thể tắm ở nơi đây được vì hồ Phỉ Thúy này từ xưa tới nay không ai xuống tắm bao giờ, hễ nhãy xuống là mất mạng ngay .
Đoàn Cẩm hết sức lạ lùng bèn hỏi :
- Trong hồ có yêu quái ăn người chăng ?
Nội thị bèn bẩm :
- Vì điện hạ chưa biết dưới đáy hồ có một con quái long ẩn mình, mỗi kỳ trăng tròn tháng ba, tháng năm, liền xuất hiện trên mặt hồ, vùng vẫy dưới ánh trăng, hào quang màu vàng lóe mắt, đã có nhiều người ở ven bờ hồ nhìn thấy qua, nên không ai dám léo hánh đến bờ hồ trong vòng năm mươi bước mỗi khi về đêm, có mấy đứa bé người Mèo thử xuống hồ tắm chơi nhưng liền mất tích luôn, cho đến thi hài cũng chẳng còn, nghe đồn là bị con khủng long ấy ăn thịt mất.
Đoàn Cẩm vốn tánh cường ngạo bèn bảo tả hữu :
- Trời đất thanh bình như thế này làm gì lại có yêu quái ăn thịt người, đừng có nghe thiên hạ đồn vô căn cứ mà tin nhảm ! Dù có con quái long đi nữa, ta nhất định cũng xuống tắm xem con quái long ấy ra sao, thuận tiện giết chết nó, để trừ hại cho dân lành.
Nội thị xúm nhau hết sức khuyên can, chẳng ngờ càng làm cho vị Tiểu Hoàng Gia cứng đầu kia thêm nổi giận, rút phăng thanh thất thủ đao bên mình ra, hoa lên trong không khí và quát to :
- Đứa nào ngăn trở không cho tao tắm, ta sẽ ngoáy cho một đao thấu tới sau lưng cho biết tay !
Bọn nội thị hốt hoảng vẹt ra hai phía, chẳng tên nào dám lải nhải thêm một câu, chỉ vì Tiểu Hoàng Gia này trời sanh dị bẩm sức mạnh vô cùng, tánh khí như lửa đốt, mỗi khi nổi xung lên là bất kể thân sơ xa gần. Bọn họ chỉ đành nín lặng tiếng mặc cho tiểu chủ tự do hoành hành.
Đoàn Cẩm đắc chí cười lên ha hả rồi ung dung cỡi bỏ áo quần chỉ mặc một chiếc quần lót, ùm một tiếng nhún chân nhãy tòm xuống, hụp vùng vẫy thỏa thích dưới nước hồ xanh mát, hết lội lui lội tới, lại đánh đu theo mấy nhành cây gie ra bờ hồ, cười lên cầm cắc vang cả núi rừng.
Bọn nội thị thấy Đoàn Cẩm nô đùa rất cao hứng, sự sinh nghi trong lòng họ đã tiêu đi phân nửa , ngở là câu chuyện "quái long" chẳng qua chỉ là một câu chuyện thần kỳ bịa đặt của đám dân quê không công ngồi rồi dựng đứng lên cho vui miệng mà thôi.
Đoàn Cẩm đùa nghịch ven bờ hồ một hồi, cảm thấy gần bờ nước quá cạn không mấy hứng , bèn lội ra giữa hồ, chàng vừa lặn ra sâu cách bờ hồ độ mươi trượng, chàng cảm thấy dưới bàn chân có một vật mềm mềm trơn nhớt lạnh quấn lấy bàn chân mình.
Đoàn Cẩm lúc đầu ngở là một con cá lớn trong hồ chạm phải chân mình, tánh chàng vốn ỷ lại hay nghịch, lập tức lặn sâu dưới nước, định bụng bắt con cá to ấy chơi, thình lình nơi chân đau nhói lên dử dội dường như bị một vật gì nhọn cứng đâm vào da thịt, trong lòng đang lúc sợ hãi thì bỗng nhiên nghe những tiếng đập trong nước "Đùng ! Đùng !"
Cách đấy bảy tám bước, rồi trong vùng sóng nước tung tóe ấy, hiện ra một chiếc đầu quái vật lớn như cái đấu, lốm đốm sắc vàng đen, quậy trên mặt nước vài cái rồi lập tức lặn mất ngay.
Bọn thị vệ trên bờ hồ nhìn rõ ràng, hốt hoảng réo gọi vang dậy :
- Điện hạ ơi, không xong Không xong ! Quái long đến rồi chạy mau ! Leo lên bờ chạy cho mau !
Đoàn Cẩm nghe bọn thị vệ réo gọi om sòm trong lòng rất ghét, nhứt định ở lì dưới hồ trêu bọn họ chơi, hơn nữa bản tính trời sanh lại ghét ác như kẻ thù, thầm nghĩ là quái vật núp mình trong hồ kia, quyết không phải là rồng, tuy chưa hề tận mắt thấy trong sách vở, rồng có thể đằng vân biến hóa, hớp khí thành mây, hà hơi thành mưa, có đâu chỉ núp sâu dưới đáy hồ để cắn chân mình ?
Như thế nhất định chỉ là loại thủy quái mà thôi, chàng lại là kẻ sức mạnh hơn người, thủy tánh lại tinh thông hà tất lại sợ nó, trong tay lại có sẵn một lưỡi dao gâm sắc bén, thật là cơ hội rất tốt để trừ khử vật ác giúp ích cho lê dân.
Chủ ý đã quyết bèn chẳng thèm lội lên bờ, mặc cho đám thị vệ kêu réo.
Chàng bình tỉnh lội ra giữa hồ, vừa lội ra độ bốn năm trượng, chợt nghe dưới chân bị giật mạnh một cái, tiếp theo đó hai cổ chân chàng bị một chiếc đuôi mọc đầy vẩy cứng quấn chặt lại và kéo mạnh xuống, thân hình của Đoàn Cẩm chìm lỉm xuống đáy hồ ngay .
Sự nguy hiểm quá ư bất ngờ ấy, nếu gặp phải kẻ khác, tất cả quýnh quíu tay chân vùng vẫy loạn xạ, nhưng Đoàn Cẩm vẫn không chút bối rối, hít đầy một hơi khí trời vào phổi, lặn tuốt xuống nước. Ngọn dao găm liên tiếp vung ra bảy tám nhát đâm vào chiếc đuôi nhám xì đang quấn chặt hai chân chàng, máu từ đuôi quái vật phún ra đỏ hồng cả một khoảng nước hồ !
Quái vật đau quá không chịu được liền nới lỏng chiếc đuôi ra, nhãy lồng lên khỏi mặt hồ.
Bọn thị vệ đồng thanh hét xướng lên :
- Cá to ! Cá to, con cá to quá cỡ !
Thì ra chiếc đuôi mà con vật đã quấn chặt đôi chân của Đoàn Cẩm trơn tru chẳng có kỳ vi gì cả, tựa như chạch cũng không phải chạch, mà là một loài quái ngư to lớn từ đầu chí đuôi, dài độ ba trượng, to như cái thùng cây , đầu nhọn và dẹp, toàn thân sắc vàng óng ánh lại lốm đốm hoa đen. Cái nhãy phóng mạnh vừa rồi cao khỏi mặt nước một trượng ngoài, trên lưng vảy vàng long lanh chói mắt, rơi trở xuống đánh ầm một tiếng, sóng bủa cao như ngọn núi nhỏ, bọt nước sôi ùng ục, quậy cả chất bùn dưới đáy hồ lên đục ngầu cả một khóm nước xanh veo.
Đoàn Cẩm thấy rõ toàn thân con vật lộ trên mặt nước, liền phóng người nhãy ào đến, ngọn dao găm trên tay nhắm ngay sườn con quái vật thích mạnh một mủi, rạch một đường dài trên lưng con quái vật gần hai tấc, máu phún ra như ngọn suối đỏ.
Quái ngư vì đau quá nổi điên, chiếc đuôi quẫy mạnh uốn vòng từng đoạn, trong nháy mắt đã quấn khắp người Đoàn Cẩm trên bốn năm vòng siết chặt lại.
Đoàn Cẩm trong lúc gấp rút, vung lưỡi dao găm nhắm ngay dưới ức con vật đâm nhầu, sức đâm vừa rồi quá mạnh nên ngọn dao gâm lút mất cái mủi lẫn cán vào họng con quái ngư !
Tuy bị trúng ngay chỗ yếu nhưng vì thân hình quái ngư to tớn dị thường, sức chịu đựng rất bền, nên trong nhất thời không sao giết chết được nó.
Quái vật càng đau ráng xiết chặt thân hình, đẩy vẩy vào thân hình Đoàn Cẩm khiến chàng đau nhức khắp châu thân, xương cốt cơ hồ như bị gảy ra.
Quái vật còn ngoái đầu lại hả chiếc họng ngo ngoe hai cái râu kỳ dị hai bên mép ra, nhọn lêu lểu như hai chiếc sừng, định thọc vào yết hầu và Thái Dương huyệt của Đoàn Cẩm để giết chàng .
Nào ngờ Đoàn Cẩm lanh lẹ mưu lược, rút mạnh hai tay ra khỏi vòng siết của quái vật ,chộp lấy chiếc râu bên mép của nghiệt súc, sử dụng thần lực trời ban của mình, cố sức chống đở với hai cọng râu mép kỳ dị kia.
Đoàn Hoàng Gia nhìn thấy nơi phía dưới vị trí đầu và ức của quái ngư, có một chỗ da trắng như sữa không có vảy, trong cơn gấp liền sanh mẹo hay, hả họng táp đại chỗ da mỏng ấy, ngậm chặt cứng chẳng buông, hút mạnh chất máu trong cơ thể quái vật, định bụng cho quái vật mau kiệt sức mà chết.
Chẳng ngờ chất máu ấy vào miệng, tức thì chàng cảm thấy mùi vị vô cùng ngọt mát, chảy xuống vào cuống họng, nghe tinh thần sảng khoái vô cùng, càng cố sức hút mạnh thêm, và lạ kỳ thật, chất máu của quái vật có một sự công hiệu phi thường, hút được một ngụm máu vào miệng, liền cảm thấy tinh thần phấn chấn, sức mạnh tăng thêm một phần, đến lúc uống no đầy bụng, thì thần lực của Đoàn Cẩm đã gia bội không biết bao nhiêu lần.
Chàng bèn dùng sức bẻ mạnh một tiếng "rắc !" khô khan vang lên, hai chiếc râu mép cứng như sắt nguội của quái ngư dài gần hai thước, đã bị sức mạnh kinh hồn của Đoàn Cẩm nhổ nguyên cả cộng ra khỏi miệng quái vật.
Quái ngư mất đi cặp râu, đau quá không chịu được cuốn cả Đoàn Cẩm nhãy dựng lên khỏi mặt hồ trên hai trượng cao rồi "đùng !" một tiếng cả người và vật rơi xuống trên bờ hồ, quái ngư vùng vẫy ưỡn lưng đập đuôi mấy cái, là chết tại trận.
Bọn thị vệ từ nảy giờ nín thở nhìn cuộc chiến giữa người và vật không khỏi sợ hải la lên tru tréo.
Đoàn Cẩm nhờ hút đầy một bụng máu của quái ngư, sức mạnh tăng tiến dị thường chẳng cần bọn thị vệ đến giải cứu đã từ dưới đất trở mình nhãy dựng dậy tuột khỏi vòng quấn của quái ngư, mình mẩy ướt đẩm như chuột lột.
Đoàn Cẩm nhìn lại chiếc quần lót rách như sơ mướp của mình, rồi nhìn quái ngư đoạn vỗ tay cười khanh khách và nói :
- Cái gì mà quái long, khủng long, đấy nguyên hình của quái long, bị ta giết chết, chẳng chút phí sức hà hà...
Chàng đang nhãy nhót vui vẻ cười nói bô bô ra chiều đắc ý bỗng dưng ngã xỉu tại chỗ !
Bọn thị vệ quýnh quíu tay chân, vội vực tỉnh Đoàn Cẩm dậy, khiêng thẳng về triều, để lại hai thị vệ canh chừng xác của quái ngư, và phái một chiếc xe trâu, đến chở xác quái ngư về thành Đại Lý.
Tin ấy không mấy chốc loan đồn khắp dân gian trong Nam Chiến Quốc. Mọi người đều biết Thái tử trời sanh thần lực đánh chết quái long ở Phỉ Thúy hồ, thầm mừng cho Nam Chiến Quốc có phước được trời giáng sanh một vị chân mạng đế vương.
Đoàn Cẩm sau khi được đưa vào nội cung, mê man bất tỉnh cho đến suốt đêm, rồi phát nóng như lửa đốt. Rờ vào da thịt chàng như chạm phải than hồng.
Lão Hoàng Gia hết sức bối rối vội cho đòi ngự y đến chẩn mạch.
Nhưng kể cũng lạ, các vị ngự y trong triều sau khi chẩn mạch xong, vị nào cũng lắc đầu không dám ra toa, vì đều cảm thấy Thái tử Đoàn Cẩm sáu mạch hòa bình, chẳng có một triệu chứng gì bệnh hoạn cả.
Nhưng bảo là không bịnh làm sao Lão Hoàng Gia chịu tin. Nói một cách tóm tắt là Đoàn Cẩm mắc một chứng bịnh lạ, mà ngự y chỉ có thể trị những bịnh thông thường, chứ đối với chứng bịnh khác thường của Đoàn Cẩm thì đành bó tay !
Lão Hoàng Gia càng nóng nảy triệu tất cả danh y trong thành Đại Lý đến cung vi, truyền lệnh bọn họ trị bịnh cho Thái tử, nhưng rốt cuộc các vị danh y này chẩn mạch xong cũng đều lắc đầu, không dám khai toa y như những vị ngự y trong triều.
Lão Hoàng Gia càng nổi cơn lôi đình, một vị cận thần bèn tâu rằng :
- Khải tâu Bệ hạ bịnh của Thái tử rất lạ kỳ , danh y thường không sao chữa được. Bệ hạ treo bảng trọng thưởng, triệu thỉnh vị nào có thể trị bịnh lạ cho Điện hạ, hoặc may có người tài chăng ?
Lão Hoàng Gia vì lo lắng cho Thái Tử mất cả sáng suốt nghe cận thần tâu như thế rất đẹp ý rồng, lập tức cho treo bảng trước Hoàng môn, kể rõ căn do bịnh trạng của Thái tử, trọng thưởng cho kẻ nào trị lành được bịnh của Thái tử đương triều, một ngàn cân vàng ròng thêm phong ấp muôn bộ.
Bảng treo lên không đầy nửa ngày thì phía thành Nam có người giựt bản xin vào triều kiến.
Kẻ xin vào điều trị bịnh trạng cho Đoàn Cẩm, là một đạo sĩ áo tím.
Vị quan viên canh chừng tấm bảng cả mừng đưa đạo sĩ vào chầu.
Lão Hoàng Gia thấy vị đạo sĩ ấy râu dài năm chòm dung nghi thanh tuấn biết rõ là một đạo nhân đức độ, trong bụng mừng thầm, vừa định lên tiếng hỏi han, thì lão đạo sĩ đã cúi đầu thi lễ từ tốn nói :
- Vô Lượng Thọ Phật, bần đạo là Ngọc Động Chân Nhân, nhà tại núi Thanh Thành tỉnh Tứ Xuyên, lấy cứu dân độ thế làm tôn chỉ, từ Tứ Xuyên vân du qua đây nghe đồn Thái Tử lâm bịnh lạ, mạo muội đến đây để xem bịnh tình của người.
Lão Hoàng Gia cả mừng lập tức truyền chỉ cho thị vệ đưa Ngọc Động Chân Nhân vào cung Thái Tử để xem bịnh .
Ngọc Động Chân Nhân vừa đưa tay tuần mạch cho Đoàn Cẩm liền "ủa !" một tiếng lớn và quay sang hỏi một tên thị vệ :
- Quái ngư mà Điện hạ giết chết hôm nọ, hiện để ở đâu ? Hay là quăng rồi ?
Gã thị vệ liền đáp :
- Quái ngư ấy ư ? Không có quăng, để một đống sau hoa viên, tanh hôi lắm, Lão Hoàng Gia định ra lịnh đốt ra tro đấy !
Ngọc Động Chân Nhân liền đứng dậy, nhờ tên thị vệ dẫn đường đưa mình đi xem xác con quái ngư.
Gã thị vệ thấy lão đạo sĩ chẳng chịu trị bịnh cho Thái Tử, trái lại muốn đi xem chuyện không đâu, trong lỏng nghi hoặc chẳng hiểu nhưng không dám cãi lời đành đưa ông ta đến nơi ngự uyển.
Ngọc Động Chân Nhân thấy con quái vật nằm cuộn lại một đống như hòn đồi non, mùi tanh tưởi xông lên lợm cả giọng, liền thò tay vào túi móc ra một lọ ngọc nhỏ, trút ra một chút thuốc bột bôi vào mũi, đoạn bước đến gần xác quái ngư, nhìn xem một hồi, trên gương mặt lộ sắc mừng, vòng tay rút ra một thanh kiếm sáng ngời, chém mạnh vào đầu quái ngư, dùng sức kéo mạnh một cái, khều ra một viên ngọc lớn bằng trứng bồ câu hào quang lấp lánh khắp cùng.
Ngọc Động Chân Nhân bèn dùng khăn tay bao viên ngọc ấy lại mừng rỡ trở vào điện, vừa thấy mặt Lão Hoàng Gia đã nói ngay :
- Kính mừng cho Bệ hạ, bịnh của Thái tử không những chẳng có gì đáng ngại, mà sau khi lành hẳn bịnh chắc chắn sẽ trở thành một vị đại anh hùng oanh liệt nhứt nhì trong thiên hạ làm rạng rỡ cho Nam Chiến quốc thật đáng mừng thay !
Đoàn Lão Hoàng Gia đang cơn ưu sầu khắc khoải vì bịnh trạng của con. Nghe Ngọc Động Chân Nhân nói chẳng đầu chẳng đuôi gì cả, không khỏi ngạc nhiên ngở là lão đạo sĩ có bịnh khùng.
Ngọc Động Chân Nhân bèn nghiêm sắc một nói tiếp :
- Hoàng Gia nên hiểu, quái vật mà Điện hạ giết chết bên hồ Phỉ Thúy chính là một thiện ngư (con lươn) sống lâu năm, rất thông linh, tên gọi là Kim Thiên Vương.
Tuy con lươn chỉ là một loại cá tôm tầm thường, song khi nó đã sống được ba trăm năm sấp lên sẽ trở thành một vật quí trong trời đất rất hiếm gặp được, thịt và máu của nó quí báu vô ngần, ăn được sẽ tăng thêm sinh lực sức mạnh.
Điện hạ trong lúc cùng con Kim Thiên Vương cầm cự nhau dưới nước, vô tình cắn trúng cần cổ , hút được máu của nó, mà lại hút máu dưới cần cổ là một thứ máu tinh hoa của đơn huỳnh huyết, nến phải mê man ba ngày, chớ chẳng có gì đáng ngại cả. Bần đạo chỉ cần thi thố một chút thuật nhỏ mọn là Điện Hạ sẽ tỉnh ngay. Nhưng sau khi Điện hạ tỉnh dậy, sức mạnh sẽ vô cùng, trên châu thân trừ mặt mày ra, khắp da sẽ mọc lên lớp vảy dày như đe cứng, đạo thương đâm chẳng lủng. Bệ hạ thử nghĩ đấy có phải là phúc duyên của Điện hạ chăng ! Có gì mà bệ hạ phải lo rầu cho hao tổn mình rồng .
Lão Hoàng Gia mới vỡ lẽ vì sao mà bao nhiêu danh y chẩn bịnh Đoàn Cẩm không ra nên không khỏi đổi buồn thành vui.
Ngọc Động Chân Nhân liền đi đến bên giường Thái tử Đoàn Cẩm cởi tất cả quần áo trên người chàng ra, xoa hai tay cho thật nóng đoạn xoa bóp trên khắp châu thân của Đoàn Cẩm độ thời gian một buổi cơm, trong bụng Đoàn Cẩm có tiếng sôi lụp bụp.
Chân Nhân liền lấy viên ngọc lươn trong chiếc khăn tay ra, dùng hai ngón tay nhón lấy viên ngọc, lăn qua lăn lại nơi trên ngực dưới phía vú của chàng, cứ lăn đi lăn lại như thế qua nửa giờ đồng hồ sau.
Đoàn Cẩm bỗng cất tiếng rên to :
- Ối cha !
Đôi đồng tử chuyển động không ngừng rồi mở mắt tỉnh dậy ngay .
Lão Hoàng Gia thương con rất mực vội tiến sát bên giường, ôn tồn hỏi :
- Vương nhi, con cảm thấy thế nào ? Trong mình chẳng sao hả con ?
Đoàn Cẩm mở mắt ra, nhớ lại lúc cùng con lươn chúa ác đấu nhau như thật như mơ, bèn ngơ ngác hỏi :
- Phụ Vương ! Sao Thần nhi lại ở đây ? Còn con quái ngư lúc nãy đâu rồi ?
Đoàn Lão Hoàng Gia thấy con mình còn ngơ ngơ ngẩn ngẩn chưa tỉnh hẳn, trong lòng chua xót muôn vàn bèn dịu dàng đáp :
- Quái ngư ấy đã chết rồi ! Vương nhi, vị đạo trưởng này đã cứu mạng con đấy !
Đoạn đem sự việc đã qua thuật sơ lại cho chàng hiểu rõ.
Đoàn Cẩm rất mực thông minh, lập tức xuống khỏi ngọc sàng định cúi đầu tạ ơn, chẳng ngờ vừa cử động thân hình, cảm thấy tứ chi gân cốt khắp châu thân đau đớn như dần, không sao chỗi dậy nổi liền "ối chà !" một tiếng rồi nằm mẹp trên giường ngọc.
Ngọc Động Chân Nhân đở lấy lưng chàng, trong đôi mắt tía ra những tia nhìn hết sức từ ái và nói :
- Điện hạ không cần tạ ơn bần đạo, cũng đừng nói chuyện nhiều hãy nằm nghỉ yên cho lại sức.
Nói xong bèn nhẹ nhàng đở Đoàn Cẩm nằm xuống, đoạn lấy mắt ra dấu Đoàn Lão Hoàng Gia rời khỏi tẩm điện.
Đoàn Lão Hoàng Gia nghi ngại chẳng hiểu ra sao, cũng bước vội theo ra, và hỏi :
- Thưa đạo trưởng, con tôi thế nào có chắc đã lành chưa ?
Ngọc ĐộngChân Nhân chấp tay đáp :
- Bịnh của Điện Hạ chẳng có gì đáng ngại nữa, bần đạo khai một toa thuốc cho Điện hạ uống trong vòng ba ngày là phục hồi như cũ, còn như điều kiện trên bảng vàng...
Đoàn Lão Hoàng Gia liền hớt lời :
- Một ngàn cân vàng chăng ? Tất nhiên là phải dâng kính cho đạo trưởng, xin đạo trưởng yên tâm, Cô Vương sẽ sai người đem đến ngay.
Ngọc Động Chân Nhân vội lắc đầu từ chối :
- Lão Hoàng Gia hiểu lầm rồi ! Bần đạo là một kẻ huyền môn tu hành tứ đại giai không, vô nhân vô ngã, còn lấy số vàng thưởng ấy làm gì ? Bần đạo chỉ có một điều thỉnh nguyện chẳng biết Đoàn Lão Hoàng Gia có thuận tình chăng ?
Đoàn Lão Hoàng Gia vội nói tiếp :
- Có lẽ đạo trưởng chê vàng hơi nặng nề chứ gì hay là đổi lấy châu ngọc vậy !
Ngọc Động Chân Nhân tức cười, đáp :
- Lão Hoàng Gia lại ngộ nhận nữa rồi, điều bần đạo thỉnh nguyện, chẳng phải châu báu bạc vàng, bần đạo có ý nói là những điều kiện trên bảng, bần đạo nhất nhất chẳng muốn, chỉ hy vọng được thu nhận Thái Tử làm môn hạ, để bần đạo dạy người trở thành một trang võ nghệ tuyệt luân, để cho võ lâm một đóa kỳ hoa sau này, Lão Hoàng Gia có chấp thuận lời yêu cầu ấy chăng ?
Lão Hoàng Gia vỡ lẽ bèn đáp :
- Hay lắm ! Đạo trưởng là một cái thế kỳ nhân. Tiểu nhi được hầu dưới gối đạo trưởng, thật là duyên tu mấy kiếp. Bắt đầu từ hôm nay lão đạo trưởng hãy lưu lại ở cung đình với cha con trẫm.
Nói dứt lời, liền quay sang ra lịnh cho nội thần, dọn dẹp một gian cung điện u nhàn cho Ngọc Động Chân Nhân nghỉ ngơi.
Bắt đầu từ hôm ấy, Ngọc Động Chân Nhân lưu lại trong cung điện của vua họ Đoàn, mỗi ngày lại một toa thuốc huợt huyết lưu khí cho Đoàn Cẩm uống. Quả nhiên, hôm sau là lành bịnh như thường.
Sau khi phục hồi sức khoẽ, Đoàn Cẩm cảm thấy con người mình từ lúc uống được huyết con lươn chúa, trong cơ thể có hai hiện tượng lạ kỳ.
Hiện tượng thứ nhất là sau khi rời khỏi giường bịnh, sức lực mạnh vô cùng, sức lực ở chân tay càng lợi hại hơn nữa .
Trong buổi đầu rời khỏi ngọc sàng, cung nữ đến hầu hạ giúp chàng thay đổi xiêm y, Đoàn Cẩm y theo ngày thường dùng tay vịn lấy vai cung nữ.
Nàng cung nữ ấy mặt hoa liền đổi sắc, "ối cha ! " lên một tiếng, rồi ngất xỉu ngay trên mặt đất.
Đoàn Cẩm ngơ ngác chẳng hiểu chuyện chi, sau lại ngự y khám bịnh và nói rõ cung nữ ấy té chết giấc nguyên do vì Đoàn Cẩm vịn lên vai cung nữ ấy quá mạnh, khiến nàng trật cả khớp xương vai, quá đau nên ngất đi.
Chàng không thể tin là mình lại có sức mạnh như thế, song khi chàng tự mình thử dùng tay ấn nhẹ lên bàn ghế vật dụng trong tẩm điện, hễ ấn tới đâu là những tiếng "rắc rắc !" vang lên đến đấy, liên tiếp ấn lún luôn mà híc ghế cây bằng danh mộc.
Đoàn Cẩm mới hiểu rõ là kết quả kỳ lạ của sự uống huyết con Kim Thiện vương, giúp chàng trở thành một người có thần lực kinh hồn như thế, trong dạ nửa sợ nửa mừng.
Hiện tượng thứ hai là sau khi bình phục vài ngày, cảm thấy da dẻ châu thân ngứa ngáy khó chịu vô cùng, không đầy nửa buổi trời, dưới lớp da mọc lên từng mụt đỏ bầm, những mụt màu đỏ ấy, ngứa xót phi thường. Chàng thử dùng tay khưới lên, nhưng vừa khượi phải, da chỗ ấy lập tức biến nên cứng rắn lạ lùng.
Trước sau chẳng tới hai ngày, khắp châu thân mọc lên từng miếng da cứng như vẩy cá, chắc chắn vô cùng, thử dùng dao nhọn cắt đi, nhưng chẳng hề hấn, mường tượng như có một lớp giáp sắt bao bên ngoài vậy.
Đoàn Cẩm mười phần lạ lùng chẳng biết vì sao ?
Đoàn Lão Hoàng Gia thấy con mình đã lành hẳn bịnh, bèn lựa ngày huỳnh đạo kiết nhựt, dạy Đoàn Cẩm bái sư cùng Ngọc Động Chân Nhân, đổi cách xưng hô thành thầy trò.
Lúc ấy Đoàn Cẩm chỉ mới mười bốn tuổi đầu.
Ngọc Động Chân Nhân chờ Đoàn Cẩm lạy mình nhận làm thầy xong mới nói :
- Đồ đệ vô tình giết được con Kim Thiện vương nơi hồ Phỉ Thúy, hút được linh huyết đơn huỳnh nơi cổ quái ngư. Không những tăng tiến thêm mấy ngàn cân thần lực, còn mọc lên một lớp da dày như hình vảy cá, đao thương chẳng phạm được. Đấy là phúc duyên trời ban riêng cho đồ đệ, song le đừng nên vì đó mà tự cao tự mãn, từ nay phải chuyên cần dụng công tập luyện võ nghệ mới đạt đến mức lực địch vạn nhân được !
Đoàn Cẩm hết sức vui mừng, nhất nhất vâng dạ theo lời chỉ giáo của sư phụ.
Ngọc Động Chân Nhân đầu tiên dạy chàng công phu bên ngoài, trong hoàng cung sắp năm cái lu lớn, mỗi lu chứa hơn phân nửa nước.
Loại nước ấy không phải là nước là mà là một thứ nước thuốc sền sệt như chất keo, mỗi ngày bắt Đoàn Cẩm ngâm mình trong lu ấy, mỗi lu ngâm hai tiếng đồng hồ.
Ròng rã ba tháng trời, Đoàn Cẩm phải ngâm mình trong lu thuốc như vậy.
Lúc ấy tay chân gân cốt khắp người của Đoàn Cẩm đã trở nên cứng rắn lạ thường, dùng đao thương chém vào người chàng chỉ nghe những tiếng "coong coong" chứ chẳng chút suy suyển da thịt .
Nhưng Ngọc Động Chân Nhân chưa cho đấy là thành công mà kêu Đoàn Cẩm đến trước mặt và nói :
- Cẩm nhi, ngoại trạng công phu của con hiện giờ chỉ mới luyện ở bước đầu , thân thể con chỉ có thể chống cự với loại đao thương, côn bổng tầm thường, nhưng không có thể chống lại với sức nhọn bén của đao kiếm đâm phải.
Ví như kẻ địch dùng bảo kiếm đâm vào ngực của con vẫn có thể đâm thấu qua suốt bên kia, như vậy con cần phải khổ luyện đến giai đoạn thứ hai nữa .
Chân nhân bèn sai cắt tả hữu trong cung ra sau ngự viện trồng một giàn rào tre, cao độ ba trượng rộng bốn trượng, giữa giàn tre buộc hai sợi giây thành hình như một chiếc đu, bốn phía đu treo bảy tám bao cát lớn.
Chân Nhân bảo Đoàn Cẩm ngồi trên chiếc đu, lại bắt tám tên cận thần giữ lấy đầu giây mỗi bao cát, hễ Chân Nhân hô một tiếng ra lịnh, là tám tên thị vệ lay động đầu giây, những bao cát ấy sẽ như cuồng phong bảo tố, bốn phương tám hướng tống, đẩy vào chỗ chiếc đu Đoàn Cẩm đang ngồi.
Chân Nhân bắt buộc Đoàn Cẩm không được ngồi trơ một chỗ trên đu để mặc cho túi cát xông kích, mà phải nhào lên lộn xuống như một con vượn, lợi dụng sức mạnh của tay chân đánh vẹt túi cát từ hướng Đông bay vù đến, Đoàn Cẩm phải bay một chân lên đá túi cát bật trở lại, hay khi túi cát bên hướng Tây tông lại, Đoàn Cẩm phải đánh hất ra, nếu như ba bốn túi cát không cùng phương hướng nhưng đồng thời công ập đến, Đoàn Cẩm cũng phải đồng thời vận dụng sức của tay chân, đầu gối hoặc cánh chỏ đánh bật trở ra tất cả.
Có lắm lúc tay chân không thể ứng phó kịp phải dùng cả đỉnh đầu để hất bao cát trở ra, lối luyện tập ấy không những huấn luyện cho tay chân và đôi mắt Đoàn Cẩm thêm linh lợi mà còn tăng cường thêm sức mạnh của chân tay chàng.
Tập luyện như thế độ nửa năm, Ngọc Động Chân Nhân mới triệt bỏ túi cát và thay vào đấy một lối tập luyện khác.
Lối tập luyện này dùng ba mươi sáu trái dao cầu bảy gai, mỗi trái dao cầu lớn bằng trái dưa hấu, đúc bằng sắt cứng, trên mỗi bề tròn của trái cầu ấy, có tra bảy mũi dao nhọn lểu như chiếc gai, mỗi trái cầu đều dùng sợi xích buộc vào sào tre, cao thấp, xa gần không đồng đều nhau.
Đoàn Cẩm không ngồi trên đu như lúc trước mà đứng dưới giàn tre, đặc biệt trên người mặc bộ quần áo bằng da dày, tai mắt cũng được che bằng một lớp mặt nạ dày, hiệu lịnh vừa phát ra, tên thị vệ phụ trách lấy sợi dây lay động ba mươi sáu trái dao cầu liền ghì mạnh sợi giây. Tức thì những trái dao cầu như điện giăng sao xẹt bốn phương tám hướng bay ào đến tấn công Đoàn Cẩm.
Vị Thái tử lúc ấy phải sử dụng tất cả sự khéo léo của võ công thượng thừa, chưởng quét chân đá, chảo hất tay đấm, đánh hất tất cả nhưng trái dao cầu công đến.
Lúc đầu vì dao cầu quá khít khao, Đoàn Cẩm không sao đương cự kịp bị trái dao cầu đập trúng vào lớp áo da "soạt !" lên một tiếng, tức thì lớp áo da bị lủng một lỗ to, may là trên mình Đoàn Cẩm có một lớp da dày như vảy cá, lại nhờ lớp áo da bên ngoài án bớt sức bén của trái dao cầu, cho nên trên người không bị tổn thương.
Nhưng dù vậy, sau buổi luyện tập xong, lớp áo da trên người đã rách bương chẳng thành hình.
Ngày thứ hai cũng y theo cách thức như thế để luyện tập.
Nói một cách khác là mỗi ngày phải phí một chiếc áo da để luyện công phu.
Luyện như vậy hơn nửa năm trời , Ngọc Động Chân Nhân mới bảo Đoàn Cẩm bỏ lớp áo da, để mình trần trùn trục, nhãy nhót quay cuồng giữa những quả dao cầu loạn xạ ấy, mặc cho những mũi thương sắc nhọn đập lên người cũng chẳng tổn thương được chàng !
Ngoại trạng công phu của Đoàn Cẩm nhờ đấy trở nên độc nhất vô nhị trong thiên hạ, lừng danh với ngoại hiệu Nam Đế đứng trong hàng Ngũ Bá Võ Lâm vậy !
Thời gian thấm thoát, Đoàn Cẩm đã được hai mươi mốt tuổi thành niên rồi. Dưới sự chỉ giáo của Ngọc Động Chân Nhân người chàng không những cứng như sắt đá, sức mạnh vô cùng, mỗi cái nhấc tay nhấc chân của chàng, có thể giết chết một con trâu mộng như chơi, và hơn nữa đao thương đâm chẳng lủng, tên bắn chẳng hề hấn đến thân thể chàng .
Ngọc Động Chân Nhân thấy công trình dạy dỗ đào luyện của mình đã thành quả được một phần, bèn cáo từ với Đoàn Lão Hoàng Gia để vân du nơi khác .
Đoàn Lão Hoàng Gia hết lòng cầm cọng, nhưng Ngọc Động Chân Nhân khăng khăng một mực, chẳng thuận lời, chỉ hứa là ba năm sau sẽ trở lại thành Đại Lý, để thăm nom tài nghệ của đồ đệ mình thôi !
Đoàn Lão Hoàng Gia đành thết tiệc lớn để tiễn biệt.
Từ khi Ngọc Động Chân Nhân đi rồi, Đoàn Cẩm ở trong hoàng cung cảm thấy vắng vẻ vô cùng, ngày tối ủ rũ nhớ thầy chàng nguôi.
Đoàn Lão gia thấy thế, nên một hôm hạ chỉ ra ngoài thành Đại Lý để săn bắn cho Đoàn Cầm giải khuây.
Lão Hoàng Gia cho điều động hơn ba ngàn binh sĩ theo cuộc săn bắn của mình, đoàn người đi ra khỏi thành Đại Lý trực chỉ về khu rừng hướng Nam, một nơi rừng sâu u tịch, nằm bên cạnh một dãy núi trùng điệp xanh lơ, điểu thú ẩn mình nơi đây rất nhiều.
Đoàn Lão Hoàng Gia hạ lịnh cho binh sĩ bao vây khắp một khoảng rừng núi, giăng lưới giương bẫy, mười bước có một tiểu đội cung thủ hờm sẵn cung tên.
Mọi việc bố trí xong xuôi, một tiếng hô lớn ra lịnh, thì bốn phương tám hướng, tiếng tù và xen lẫn tiếng còi, cùng tiếng reo hò tở mở của ba ngàn quân sĩ chấn động khắp rừng núi thâm u.
Những loài điểu thú sơn cầm ẩn mình trong hang sâu bụi rậm nghe tiếng động rền vang như trời long đất lở, ùn ùn rời khỏi ổ hang chạy trốn.
Nào nai hưu thỏ cáo sói dử heo rừng, từng đàn từng lũ kéo nhau chạy ra ngoài.
Binh sĩ đã hờm săn cung huyền, mặc sức buông tên giựt lưới.
Đoàn Cẩm thấy thú rừng chạy nhãy khắp nơi chân tay cảm thấy không chịu được bèn hú lên một tiếng như rồng gầm, ném cả cung tên, tay không nhãy vào vòng vây, vừa lúc từ trên núi có ba con heo rừng dử dằn hộc tốc chạy nhầu xuống.
Đoàn Cẩm chẳng chút đắn đo, tiến ra trước đón đầu ba con heo rừng ấy lại.
Đám binh sĩ thấy thế đều cả kinh thét lên, vì theo kinh nghiệm của con nhà săn thì heo rừng còn hung dử hơn cả cọp beo. Không những da heo thật dày, đao thương khó hại được nó mà đáng sợ nhứt là lúc heo rừng đang gặp cơn nguy hiểm, tánh càng trở nên hung hăng hơn bình thường bá bội, lồng lộn như điên, nhe hai chiếc răng nanh chơm chởm trước mỏ ra xông ào tới kẻ địch, bất luận là một tráng đinh sức lực mạnh bạo cỡ nào, chỉ cần bị chiểc răng nanh ấy vít phải, là đổ phèo lòi ruột ra chết trong khoảng khắc.
Nói tóm tắt, heo rừng là một loại dã thú liều mạng không sợ chết, những kẻ đi săn tay mơ không thể nào đương cự nổi nó.
Đoàn Cẩm lại một mình tay không chận lại một lượt cả ba con heo rừng, mà con nào cũng to bằng một con trâu nghé, hung hăng hộc lên từng hồi chiếc răng nanh, lêu lểu như hai thanh kiếm sắc, bốn móng cứng như thép nguội bương trên mặt đất, nhãy ào vào người Đoàn Cẩm.
Quân sĩ tả hữu không khỏi vì chàng mà gạt mồ hôi lạnh.
Nhưng Đoàn Cẩm cậy mình tài cao gan lớn, chẳng chút bối rối, thấy bầy heo rừng hồng hộc xông đến, chàng soạt chân xuống tấn đứng chờ, con heo thứ nhất như một ngọn núi bay ào đến, chiếc nanh dài hất lên định vít mạnh vào đùi kẻ thù.
Đoàn Cẩm lanh như cắt giơ tay chộp lấy chiếc nanh nhọn lểu trắng hếu ấy, dùng sức bẻ mạnh một cái "cách !cách !" vang lên hai tiếng thật dòn như bánh tráng gãy, đôi nanh rắn chắc của con heo rừng gảy lìa theo tay chàng một cách dễ dàng, thân hình nặng nề của con heo cũng bị chàng nhấc bổng lên khỏi mặt đất. Con heo rừng thứ hai cũng vừa vặn lao tới như sấm sét đến nơi.
Đoàn Cẩm gầm lên một tiếng cực lớn, ném mạnh con heo rừng thứ nhất vào con heo thứ hai, "bộp ! bộp !" hai tiếng nặng nề, hai con heo đùn cụt nhau một đống trên mặt đất.
Con heo rừng mà Đoàn Cẩm vừa quăng ra, bị hai chếc nanh bén của đồng bọn cắm sâu vào da bụng chết chẳng kịp kêu !
Và con heo rừng thứ hai bị thân hình của đồng bọn đập mạnh lên đầu, cũng chống cẳng quay lơ chết giấc một chỗ.
Đoàn Hoàng Gia chẳng chút bỏ lỡ cơ hội lướt mình tới trước nhấc chân trái lên đạp mạnh vào xương bụng con heo, sức đạp ấy nặng ước có ngàn cân, khiến nội phủ ruột gan của con thú bị nhừ nát chết chẳng kịp dãy dụa !
Đoàn Cẩm liên tiếp đánh chết hai con dã trư khổng lồ, chỉ với một cái giơ tay nhấc chân nhẹ nhàng như trò chơi, con heo rừng thứ ba cũng kịp thời vừa lướt đến hả chiếc mỏ tàng hoạt như máu ra táp nhầu vào phía bụng của kẻ địch.
Khen thay cho sự lanh lẹ biến ứng của Đoàn Cẩm, chàng hơi rùn người xuống, vung tả chưởng nặng như chiếc búa sắt ra, nhắm ngay đầu dã trư đảo mạnh một thoi như trời giáng, ngọn quyền ấy vô cùng lợi hại khiến cho hai chiếc răng nanh bén ngót của mãnh thú, bể thành từng mảnh vụn.
Dã trư quá đau nổi tánh điên lên, hộc to một tiếng dựng thẳng hai vó trước lên bổ ập tới tấn công đối phương.
Đoàn Cẩm hai tay quẫy tròn một vòng, tay trái nắm lấy gáy mãnh thú, tay phải đở lấy dưới bụng nó, quát một tiếng cực lớn tung mạnh đôi tay lên.
Con heo rừng tựa như một viên đạn bật khỏi đường cung, lộn tròn lên cao sáu, bảy thước văng ra xa ba bốn thước "ạch !" một tiếng thật to như bức tường sập xuống, bốn vó sãi lại nằm im trên mặt đất.
Thì ra con vật lãnh trọn một quyền của Đoàn Cẩm vừa rồi đã bị chấn bể nát hết sườn, nên chết trước khi bị ném xuống đất.
Tả hữu binh sĩ thấy vị tiểu Hoàng gia của mình thần dũng như thế ấy đều hoan hô reo hò như sấm động.
Đoàn Cẩm đang lúc dương dương đắc ý, chẳng ngờ nơi một góc vòng vây, có tiếng người hốt hoảng la to :
- Ôi ! Trời ơi, không xong ! Quái thú Quái thú !
Đoàn Cẩm nghe tiếng "quái thú", giật nẩy cả người, vội quay đầu lại nhìn, thì thấy một số binh sĩ đang ôm đầu lủi chạy, phía sau lưng đám binh sĩ độ vài mươi trượng có một mãnh thú chạy tuôn như vũ bảo.
Mãnh thú ấy, trên gáy lông dài sù sụ như bờm sư tử, đầu lại lớn như đầu trâu, cổ dài như cổ ngựa, trên mình rần rặc sắc vàng đen như da cọp, bốn móng cứng rắn như móng hưu dê, thật là một loại thú kỳ dị chưa hề thấy qua bao giờ.
Con mãnh thú ấy cứ nhắm vào đám binh sĩ mà rượt nà tới, tuy có vô số binh sĩ buông tên rào như mưa vào mình mảnh thú, mà những binh sĩ đi theo cuộc săn này có thể nói là những ấy thiện xạ bách phát bách trúng, những mũi tên bắn ra đều trúng phong phóc lên mình quái thú ấy, nhưng kể cũng lạ, bên ngoài thân hình của quái thú mọc lên những cọng lông vàng li ti thưa thớt ấy, thế mà mỗi khi mủi tên vừa chạm vào những sợi lông vàng kia chưa kịp phạm đến da thịt của thú, liền tự dưng dội ra và rơi xuống đất.
Con mãnh thú ấy gầm lên những tiếng quái lạ liên hồi, ầm ỉ như tiếng trâu rống, chỉ còn cách cho Đoàn Cẩm đứng không tới hai mươi trượng.
Bỗng từ bên nên vòng vây "vù" một tiếng ba không, một múi phiêu trượng theo tiếng gió vi vút vào, có lẽ là một cao thủ nào trong đám binh sĩ phóng tới, nên sức đi rất kình mãnh, lao vút vào chiếc miệng rộng đỏ như máu của quái vật.
Mãnh thú ấy liền hả chiếc mõm rộng ra, táp lấy mũi thương nọ, chiếc lưỡi đỏ loét cuốn một cái, đả cắn gảy cán thương rơi xuống đất rồi nhai lên rào rạo nghe ê cả răng.
Thì ra quái thú này lại có thể ăn cả vàng sắt như ăn cỏ non.
Quái thú nuốt xong mũi thương sắt, liền sửng lộng lên "ngoạm !" một tiếng kỳ dị, nửa như tiếng mèo kêu, nửa như trâu rống, bốn móng chụm lại một cái, lao tới chỗ Đoàn Cẩm đứng như một mủi tên xẹt.
Đoàn Cẩm thấy quái thú bổ nhào đến, chẳng chút đắn đo vung tay một quyền đấm vào óc quái vật "bình ! bình !" hai tiếng, quyền trước quyền sau đều trúng phong phóc, không hề sai lệch, nhưng tựa như đánh lên mặt trống chầu, con quái thú chắng hề hấn gì cả.
Quái thú thừa cơ le chiếc lưỡi đỏ ra, liếm vào chiếc khóa giây nịch của Đoàn Cẩm, cho đến ngọn dao gâm bên lưng cũng liếm nốt !
Thì ra quái vật không hề hại người mà chỉ ăn ngũ kim: vàng, đồng, bạc, sắt, kẻm, trên mình người ta thôi.
Đoàn Cẩm bừng bừng nổi giận, hai chân liên tiếp bay ra hai ngọn liên hoàn cước vào dưới bụng của mãnh thú.
Sức lực của chân tay Đoàn Cẩm hùng mạnh mười phần. Nặng nề to lớn như con heo rừng mà chỉ một cái đạp nhẹ nhàng của chàng đã nát tan gan ruột mà chết.
Nhưng con quái thú này trúng luôn hai ngọn cước của chàng chỉ thối lui có hai bước và có lẻ bị đau nên nổi tánh hung lên rống "ngoạp !" một tiếng, hả miệng ra táp đại đối phương.
Đoàn Cẩm liền vung tít hai đầu quyền như hai trái chùy sắt ra chống cự với quái vật, tả một chưởng, hữu một quyền, hai tay như hai chiếc dùi trống nện liên tiếp vào mình quái vật kêu lên "bình ! bình !" như trống thúc quân, thế mà quái thú chẳng chút nao núng, hả rộng chiếc miệng máu táp liên miên vào người Đoàn cẩm, có lúc lại bay hai vó trước lên đá phịch phịch !" vào người chàng, nhưng Đoàn Cẩm cũng y nhiên chẳng hề hấn gì.
Nói tóm tắt là cả người lẫn thú đều được trời sanh cho một thể cách kỳ đạc, tuyệt chẳng biết sợ đao thương quyền cước. Hai bên quần nhau ngót cả buổi vẫn cầm cự nhau bất phân thắng bại.
Đoàn Cẩm hết sức bồn chồn trong lòng, thầm nghĩ :
- Loại thú gì mà kỳ lạ khó đấu quá thế kìa !
Lúc nãy ba con heo rừng, hung hăng cỡ nào mà còn bị một quyền một cước của ta chết chẳng kịp ngáp, mà sao con nghiệt súc này trúng liên tiếp mấy mươi ngọn quyền của ta, chỉ như gãi ngứa nó thôi, kỳ thật !
Đang khi chàng phân vân tính thầm, con quái thú bỗng gầm đầu xuống, cụng mạnh vào người chàng.
Đoàn Cẩm sực nghĩ được một ý hay, vươn tay ra ôm lấy cần cổ quái vật bẻ mạnh một cái, định bụng vặn gảy cổ quái vật, như cách thức giết con heo rừng thứ nhất lúc nãy.
Chẳng ngờ, chàng mới ôm được cổ quái thú, liền cảm thấy da lông của quái thú trơn lùi như như mỡ, vòng tay trợt lớt ra phía ngoài, không những chẳng ôm được quái thú, trái lại bị quái thú hất té ngữa dưới đất, lộn mèo luôn hai tuông.
Đoàn Cẩm nổi giận đùng đùng, chưa kịp phản ứng, thì nghiệt thú thừa khi Đoàn Cẩm lăn tròn dưới đất , liền hung hản cất hai vó trước bổ xuống ngay bụng chàng nguy hiểm vô cùng.
Thân pháp Đoàn Cẩm không kém lanh lẹ, lăn tròn dưới đất lòn trở lại dưới bụng của quái vật tránh khỏi tiếp theo đấy nhãy phóc người dậy theo thế Lý Ngư phiên Thân (cá chép trở mình) với tay chộp lấy cái đuôi dài của quái vật kéo mạnh trở ra sau rồi nhấc bổng lên cao.
Đoàn Cẩm trời sanh thần lực, nên nhấc cao quái thú lên khỏi mặt đất một cách nhẹ nhàng, đoạn quăng mạnh trở xuống, quái thú bị ném
lăn cù dưới đất, binh sĩ bên ngoài không ngớt reo hò hoan hô ầm ĩ.
Đoàn Cẩm trong vô tình phát giác được phương pháp ấy để trị quái vật, tinh thần phấn khởi vô cùng, lúc luyện võ cùng sư phụ, Ngọc Động Chân Nhân đã dạy cho chàng một pho quyền pháp gọi là Bát Long Thiên Chưởng.
Pho chưởng pháp ấy đi theo thức bát môn "bát quái" , bề ngoài nhìn vào, chỉ thấy nhãy cao rùn thấp phiêu phiêu bất định nhưng kỳ thật tấn thối đều y theo bộ pháp bát quái để công kích đối phương tràn qua lộn lại, khiến đối phương rối loạn tâm trí chẳng biết đâu mà đón đở, vừa thấy trước mặt thoắt cái đã biến ra sau lưng, lợi hại phi thường.
Đoàn Cẩm đem pho Bát Quái Phiên Long Chưởng ra sử dụng, lấy phía dưới của quái vật làm mục phiêu tấn công, thỉnh thoảng thối lui, khi Đông lúc Tây, thoắt tả thoắt hữu, chụp được giây trống trải, là lập tức giơ tay chộp lấy đuôi quái vật, dùng sức vung mạnh, quăng ngay mãnh thú té nhào mèo xuống đất.
Và quả nhiên có hiệu nghiệm ngay, quái thú tuy da cứng như đá, dao thường chẳng lủng, nhưng vì thân hình lo lớn, mà phàm những thú vật thân to lớn, sự nhậm lẹ tránh né không được linh biến lắm.
Đoàn Cẩm cứ thỉnh thoảng nhấc nó lên cao và quật mạnh xuống đất.
Quái thú liên tiếp bị quật lộn mèo năm sáu phen, cảm thấy châu thân rêm nhức khắp cùng thì tánh hung hăng càng bộc phát, hả chiếc họng lớn như máu, gầm lên rùng rợn chụp nhầu đến đối phương bất kể chết sống.
Đoàn Cẩm mắt lanh tay lẹ, thoăn thoắt theo bộ pháp Bát Quái Liên Phong Chưởng, trước sau chẳng hề cùng quái thú ngay mặt đấu nhau, mà cứ lòn ra phía sau đuôi của nghiệt súc để tấn công.
Tránh né nhau hơn ba bốn mươi bận, chàng chợt thấy phía bụng dưới của quái vật nơi vị trí "hạ âm" có một khoảng da trắng hếu bằng miệng chén lớn chẳng có lông lá gì cả.
Chàng là một người tuyệt đỉnh thông minh liền biết ngay nơi khoảng da trắng ấy là một chỗ yếu hại duy nhất trong châu thân của quái vật, trong đầu chàng bỗng loé lên một tia sáng, lập tức thâu nhanh thế quyền nhãy dứ đến trước mặt quái thú, hoa quyền đánh vút vào đầu nó.
Quái thú liên tiếp xoay vòng bao nhiêu lượt không sao cản được địch thủ, thú tánh đang nổi điên.
Vừa thấy bóng kẻ thù trước mặt đâu dễ bỏ qua, sừng lông gầm đầu cụng mạnh vào phía đối thủ .
Đoàn Cẩm lần này chẳng thèm tránh né bị quái thú cụng mình té ngửa trên mặt đất đánh "đụi !" một tiếng, chờ cho quái thú cất cao hai vó trước định bổ xuống người chàng.
Đoàn Cẩm lẹ làng lăn tròn một vòng dụng ngay thân pháp Diệp Để Tạng Hoa (dưới lá dấu hoa) rụt người lại rồi thoắt cái nhãy chồm dậy, bất thình lình giương hai cánh tay sắt nguội ra, chộp lấy cần cổ của quái thú.
Quái thú ngỡ Đoàn Cẩm dùng sức mạnh của đôi tay để siết cổ mình, không khỏi sợ hãi, vội bương chân thối lui ra sau, nào ngờ thế vừa rồi chỉ là một thế đánh dứ, hai tay chàng nhanh nhẹn biến chiêu, đập mạnh lên mặt đất, thân hình bay vụt trở lên, song cước đồng tung lên một lượt đá bùng vào khoảng da trắng nơi hạ âm của mãnh thú chẳng chút sai lệch, quái thú liền rống lên một tiếng như xé rách cả rừng cây dãy dụa mấy cái dưới đất bốn vó chỏng ngược lên trời và tắt thở luôn, miếng da bụng cũng bị đá phủng một lỗ lớn máu ri rỉ chảy ra, nhuộm đỏ cả một khoảng cỏ xanh non.
Bọn binh sĩ Nam Chiến Quốc thấy vị Tiểu vương gia của mình giết chết được quái thú ấy, mừng rỡ nhãy nhót tung hô vạn tuế dậy cả núi rừng.
Đoàn Lão Hoàng Gia gạt mồ hôi lạnh trên trán, thở phào một hồi dài khoan khoái, vì từ nãy giờ ông lo lắng cho sinh mạng đứa con yêu duy nhất suýt muốn nín thở đứng tim.
Đoàn Cẩm sau khi giết chết được mảnh thú, mặt chẳng đổi sắc tinh thần vẫn ung dung trở về đoàn người thỉnh an với phụ vương của mình. Đoàn Lão Hoàng Gia lo lắng hỏi thăm.
Đoàn Cẩm cúi đầu cung kính thưa :
- Tâu phụ vương, Thần nhi không thấy mệt mà chỉ cảm thấy thống khoái vì được đấu một trận sướng tay thôi !
Mọi người nghe nói đều chắc lưỡi suýt soa khen lấy thần lực của Thái tử thành Đại Lý.
Đoàn Lão Hoàng Gia liền bãi cuộc đi săn, truyền lịnh binh sĩ khiêng quái thú trở về thành, bá quan văn võ không một ai biết tên thú ấy gọi là chi.
Cuối cùng có một vị học giả cao niên biết được tên thú ấy gọi là Mạc, một trong những loại kỳ lân, sức lực không những rất hung mãnh mà còn có thể nhai cả ngũ kim làm vật nuôi thân, bất luận là tay săn nhà nghề thế nào, gặp nó là vong mạng không còn.
Loại thú ấy ngoài sự nuốt nhai sắt vàng ra còn một đặc điểm lạ kỳ là trời sanh một lớp lông nhung có thể cự đương bất kỳ loài binh khí sắc bén gì, nước lửa không xâm phạm được lớp da ấy là một vật kỳ bửu khó gặp trong thế gian.
Đoàn Lão Hoàng Gia thầm mừng cho sự may mắn của quốc gia, liền dặn dò thợ khéo cẩn thận lột da thú chế tạo thành vào bộ khôi giáp làm vật báu trấn quốc .
Đoàn Cẩm liền xin lớp da mềm trên bụng của thú để may chiếc áo lót làm vật kỹ niệm kỳ công đầu tiên của mình.
Sau lần giết được quái thú ấy, oai danh của Đoàn Cẩm rúng động khắp cõi Nam hoang, biên dân mấy tỉnh Tây Nam mỗi lần đề cập đến Đoàn Cẩm đều sợ hãi kính phục như vị thần linh của mình.
Nhưng chí hướng của Đoàn Cẩm khác với người thường, cảm thấy tay mình được danh thần dũng khắp miền Tây Nam, chưa ai xứng là địch thủ, nhưng rốt cuộc vẫn chưa thực sự chường mặt giữa giang hồ võ lâm, cũng chưa chính thức giao tay với kẻ địch nào, đâu có xứng danh liệt vào hạng anh hùng nhứt thế .
Do đấy chàng đã tỏ ý viễn du Trung Thổ một phen làm một vài chuyện oanh liệt kinh thiên động địa để dương danh vạn cổ. Nhưng khổ nỗi thể chế của Nam Chiến rất khác biệt dị đời, phàm là một Thế tử của Quốc vương thật quyết không thể ra khỏi thành Đại Lý ngoài trăm dặm, nếu ai tự ý bỏ đi là kể như bất kính với thần linh trời đất tất bị họa bất trắc lâm thân.
Cho nên Đoàn Cẩm có hùng khí giao du Trung Nguyên nhưng vì luật quy của hoàng tộc không thể mở miệng ra lời, đành tạm thời chôn chặt vào tim, chỉ mong sao Ngọc Động Chân Nhân, đúng thời gian ba năm trở lại, sẽ cậy nhờ sư phụ đề nghị lời thỉnh nguyện ấy với phụ vương, chuẩn y cho chàng theo sư phụ ngoạn du khắp núi rộng sông dài để lịch lãm thêm phần kiến thức.
Thấm thoát thời gian, ba năm trôi nhanh như nước chảy qua cầu nhưng vẫn chưa thấy sư phụ Ngọc Động Chân Nhân trở bước vân du về miền Đại Lý.
Đoàn Cẩm ngày đêm khắc khoải chờ trông.
Giữa một đêm trăng tròn nọ, Đoàn Cẩm một mình ngồi hóng mát dưới giàn hoa nơi trước điện, nhìn bóng nguyệt lung linh muôn sao vằng vặc lòng buồn mênh mông, đang lúc ngẩn ngơ xuất thần, chợt nghe ngói trên mái điện có tiếng động thật khẽ, rồi một bóng người như oan hồn lăn rơi trở xuống.
Đoàn Cẩm trong lúc thất thần giật thót mình, đến lúc định thần nhìn kỹ, từ cuống họng bỗng buột miệng kêu lên một tiếng "ối cha !" kinh ngạc !
Vì người vừa lăn xuống không ai khác là vị ân sư Ngọc Động Chân Nhân đã cách biệt ba năm dài.
Nhưng vị Ngọc Động Chân Nhân sau ba năm cách này không còn là vị đạo trưởng nghi dung phong tuấn phiêu phưởng như thần tiên giáng phàm, mà là một lão nhân mình mẩy dơ dáy, áo quần rách bươm, tóc tai rối bời, nói hơi nặng lời một chút thì thật chẳng khác một lão ăn mày bao nhiêu.
Ngoài ra sắc mặt của ông trắng bệch như tờ giấy, hai mắt mất thần, trên tay còn lẩy bẩy một thanh kiếm báu. Ông vừa từ trên mái ngói buông mình xuống đất, thân hình lảo đảo chệnh choạng hai lượt, rồi không gượng được "bộp !" một tiếng té ngồi trên mặt đất, thanh bảo kiếm chỏi mạnh xuống gạch rắn kêu "cong !" một tiếng, sao lửa bắn tung toé bốn phía.
Đoàn Cẩm cả kinh, vội tung mình nhãy ra trước, một tay đở xốc Ngọc Động Chân Nhân dậy, hỏi dồn dập :
- Lão sư, làm sao lại đến nỗi này ?
Ngọc Động Chân Nhân rên lên một tiếng và nói :
- Đồ nhi, bồng... bồng thầy... đem vào trong !..
Đoàn Cẩm liền bồng xốc ông lên, định lên tiếng gọi thị vệ.
Ngọc Động Chân Nhân lắc đầu lia lịa như ra dấu bảo chàng đừng thanh trương cho ai hay.
Đoàn Cẩm đành vâng theo lời bồng thầy vào biệt điện.
Ngọc Động Chân Nhân vừa đặt lưng lên giường hai mắt đã nhắm nghiền lại, sắc mặt lộ vẽ đau đớn cực cùng nói lắp bắp chẳng thành lời :
- Con.. vạch tay áo bên phải thầy lên, dùng dao chích lấy máu độc trên miệng vết thương... máu bầm dùm thầy... khéo coi chừng... đừng đụng... đụng vào chất độc... mau đi...
Đoàn Cẩm không thể ngờ vị sư phụ ba năm trời không gặp mặt, lại trở về cung điện tiều tụy dở sống dở chết như thế, trong lòng nghi hoặc chẳng cùng nhưng vì cứu mạng người là tối cần nên chẳng thì giờ đâu để hỏi han.
Trước tiên liền xé rách tay áo bên phải của Chân Nhân, thấy phía sau vai của sư phụ nổi lên một khoảng thịt sưng phù lớn bằng miệng cốc, nơi chính giữa vết thương có hai lỗ thương tích nhỏ như hạt gạo nước vàng không ngớt rịn ra ngoài.
Đoàn Cẩm ngầm than thở trong lòng , rõ ràng là vết thương do rắn, rết độc cắn phải.
Ngọc Động Chân Nhân là người tinh thông võ thuật tại sao lại để cho rắn rết cắn phải được ?
Chàng dùng lưỡi dao găm cắt lấy một mảnh vải trên vạt áo mình, vò lại cho mềm, đè lấy vòng ngoài khoảng sưng sau đấy cẩn thận rạch nhè nhẹ chỗ miệng vết thương, máu đen từ bên trong phún ra đen ngòm như mực tanh hôi nặc nồng.
Chàng dùng giẻ sạch lau lấy chất máu độc, một miếng giẻ không đủ, chàng lại cắt thêm một chéo áo khác, chậm liên tiếp mấy lần, hai miếng giẻ đều thấm ướt cả máu đen, nơi cứng bầm mới thấy xệp xuống chảy ra chất máu đỏ hồng.
Trong lúc lau chất máu độc, Đoàn Cẩm hết sức cẩn thận kỹ lưỡng, không cho đầu ngón tay mình dính phải chất máu độc, tuy vậy sau khi quăng xong hai mảnh vải nọ, đầu ngón tay và hổ khẩu của chàng cũng cảm thấy hơi ngứa tê như bị kiến cắn.
Tinh thần của Ngọc Động Chân Nhân khi ấy mới có phần khôi phục lại nhưng giọng nói vẫn còn mệt nhọc nặng nề, phều phào bảo chàng :
- Con móc túi áo trắng của thầy lấy chiếc lọ con bằng ngọc ra, một nửa rắc lên vết thương, một nửa hòa với linh dương nhũ giác, chất ấy chỉ ở trong hoàng cung của con mới có thôi, quậy cho đều đem đến cho thầy uống, mới mong giải được tính mạng già này.
Đoàn Cẩm nhất nhất y theo, thét thị vệ vào Thái y thất đem "linh dương nhũ giác" đến lập tức, đoạn hòa vào chất thuốc trong lọ ngọc, hai tay dâng lên cho Ngọc Động Chân Nhân uống.
Độ một buổi sau, vẻ đau đớn trên mặt Chân Nhân mới giảm phần nào, ông thở phào một hơi dài và than :
- Nguy hiểm vô cùng ! Thiếu chút nữa là bỏ mạng trên Mãng Thương Sơn chẳng còn !
Đoàn Cẩm nghe ba tiếng "Mãng Thương Sơn" , trong đầu lùng bùng như tiếng sấm, ngạc nhiên vô cùng vì Mãng Thương Sơn ở trung bộ tỉnh Vân
Nam, cách xa thành Đại Lý trên sáu trăm dặm, chẳng lẽ sư phụ chạy một hơi trên sáu trăm dặm từ Mãng Thương Sơn đến đây hay sao ?
Chẳng dằn không được lòng thắc mắc bèn hỏi :
- Sư phụ ngộ hiểm trên Mãng Thương Sơn lận ư ? Nhưng sao phải chạy đến đây ?
Ngọc Động Chân Nhân lại thở phào và đáp :
- Còn tại sao, nếu chẳng vì nghiệp chướng của ngươi ! Chuyện dài dòng lắm !
Đoạn bèn đem sự ngộ hiểm của mình, thuật sơ lược cho Đoàn Cẩm hiểu.
Thì ra Ngọc Động Chân Nhân cùng Đại sư huynh là Ngọc Hư Tử và Nhị sư huynh là Ngọc Tiêu Tiên đều là nhân vật chưởng môn của Nhạn Môn Phái, một số người quen miệng gọi ba vị là Nhạn Môn Tam Ngọc.
Ngọc Hư Tử luyện trên núi Kê Công sơn, Ngọc Tiêu Tiên thì ngao du khắp sông hồ, tông tích bất định. Chỉ có Ngọc Động Chân Nhân thường qua lại trên miền Tây Nam, thường nhúng tay hành hiệp lấy cứu dân độ thế làm tôn chỉ. Là một vị đạo cao đức dày, đời sống đạm bạc không hề dính dấp đến chuyện oán thù trong võ lâm.
Lần này thu nhận Đoàn Cẩm làm môn hạ, chẳng qua vì thấy chàng là một bậc kỳ tài, căn cốt thiên phú, nên mới có ý định luyện cho Đoàn Cẩm trở nên một hòn ngọc quí chốn võ lâm.
Sau bảy năm trời lưu lại truyền thụ ngoại công phu cho Đoàn Cẩm, bèn tự cáo biệt Đoàn Lão Hoàng Gia vân du khắp miền Trung Thổ, định ba năm sau sẽ trở lại thành Đại Lý xem tài nghệ của Đoàn Cẩm thành tựu ra sao, rồi sẽ truyền thụ thêm môn công phu tuyệt kỹ cho chàng.
Gần đến ngày hạn cũ, Ngọc Động Chân nhân từ Thanh Thành Sơn khởi trình định bụng một tháng sau sẽ đến thành Đại Lý, khi đi ngang qua giữa miền Vân Nam, đến khu vực Mãng Thương Sơn thì trời đã xế bóng về Tây, khói chiều cũng sắp tắt trên mấy nếp nhà tranh ven gành núi vắng.
Ngọc Động Chân Nhân lầm lủi băng qua một đoạn u cốc hoang vu, bỗng nghe từ xa vọng lại trong hơi gió có tiếng nhạc ai tấu "tình tang !".
Chân Nhân là người sành âm điệu, nghe tiếng nhạc vẳng đưa biết rõ có người đang tấu đàn tranh, mà loại tranh cầm là một trong những nhạc khí thời cổ khó học hơn cả tì bà, nếu chẳng phải là bậc tài hoa khó mà học cho tinh thuần nhạc vận .
Ngọc Động Chân Nhân thầm nghĩ nơi Mãng Thiên Sơn tuyệt địa này chẳng một kẻ nào dám bén mãng đến , ông đã băng đèo vượt núi hơn hai ngày trời, chẳng gặp một bóng người, cho đến dân Mèo Mán cũng không có nốt, tại sao lại có vị cao nhân nào ở giữa chốn nước độc này gảy đàn tranh một cách ung dung đến thế ?
Lòng hiếu kỳ thúc giục, muốn xem cho rõ tận tường, ông bèn lắng tai nhận định tiếng đàn, phát giác được giọng tranh xuất phát từ dưới đáy cốc, giữa một khoảng rừng rậm rì kia .
Ngọc Động Chân Nhân vì muốn tránh khỏi quấy rầy tinh thần của người gẩy đàn, phá mất nhã hứng của đối phương, nên rón rén bước chân xuyên thẳng vào rừng, quanh co theo tàn cây bụi rậm hơn mười trượng xa, chợt cảm thấy phía trước mặt quang đảng, sáng sủa lạ thường.
Té ra nơi đây là một khoảng đất trống trải độ vài mẫu vuông, chính giữa khoảng đất trống có một tấm bàn thạch, rộng độ mười trượng.
Có một vị đang ngồi xếp bằng trên tấm bàn thạch ấy, hình dáng kỳ lạ vô cùng, mình mặc một chiếc áo nửa tăng nửa tục, tóc trên đầu quấn tròn thành một cục to xù, xem bộ dáng thì trán vồ mũi quập, hai mắt sâu hóm vào trong, râu rồng tua tủa bõ quanh hàm, da dẻ màu đồng cổ, hai chân để trên ngồi theo lối tĩnh tọa, trong lòng ôm một chiếc đàn tranh bằng sắt, tay hữu uyển chuyển, buông bắt giây tơ, vang lên những tiếng tình tang, dưới tấm bàn thạch lúc nhúc vô số giống vật lẫn lộn nửa xám nửa xanh .
Ngọc Động Chân Nhân định nhãn nhìn kỷ, không khỏi râu tóc đều dựng đứng lên.
Té ra dưới phiến đá chỗ quái nhân ngồi kia, lúc nhúc hàng trăm con rắn độc dài ngắn không đều, kỳ hình quái trạng, đủ các màu sắc.
Đám rắn độc ấy con nào cũng khoanh tròn mình lại đầu ngóc lên cao nghệu, hướng vào chỗ quái nhân ngồi.
Giọng thanh tưng lên một tiếng, bầy rắn cũng lắc lư một cái, lại có mấy con rắn to đầu bạnh ra, dẹp lép như cái mặt trăng, chiếc bụng dán xuống mặt đất như cọng lát khô, say sưa theo tiếng đàn tranh lắc lư, múa máy vặn vẹo mình mẩy trông rất buồn cười.
Trừ mấy trăm con rắn to ấy ra, từ trong các bụi rậm bải hoang giữa rừng, bốn hướng tám phương kéo ra không biết cơ man nào là độc xà đủ cả màu sắc, hình trạng ngoằn ngoèo bò đến bên tấm bàn thạch khoanh tròn từng cục, cử chỉ không khác bầy rắn trước .
Ngọc Động Chân Nhân thấy thế, trong lòng ngầm suýt xoa khen phục, vì theo sự nghe thấy của ông, trên đời không thiếu gì kẻ có tài dậy rắn, bao năm qua lại biên cảnh Tây Nam mấy tỉnh, cũng từng phen du lịch qua bên Miến Điện, thấy những vị tăng nhân khổ hạnh miền Tây Trúc dùng một ống tiêu để lên miệng thổi, khiến cho một con mãng xà và trăn nữa, lắc lư, nhãy múa theo nhịp tiêu, vặn vẹo uốn khúc theo ý sai khiến.
Song công cụ để huấn luyện của họ, phải là một ống tiêu và hơn nữa chỉ cẩn thận sai khiến được những con rắn đã được dạy dỗ thuần thục mà thôi.
Còn vị trung niên quái nhân này, phương pháp khiển rắn thật là khác biệt .
Với một cây đàn tranh bằng sắt đơn giản lại có thể dẫn dụ hàng trăm, hàng ngàn con rắn ở khắp kẹt rừng xó núi, đều kéo ra ngoài, bản lãnh khiển rắn của hắn thật là thế gian hãn hữu.
Vị quái khách trung niên ấy tấu một hơi mấy khúc nhạc tranh, bao nhiêu rắn lớn nhỏ trong rừng đều lủ lượt kéo ra theo hướng tiếng đàn.
Trong khoảnh khắc nơi chỗ phiến đá hắn ngồi, trước sau phải trái, bốn bên tám phía, sau chỗ ngồi lấy ra hai chiếc giỏ tre để trên phiến đá, rồi thình lình năm ngón tay thoăn thoắt búng lên cung đàn, tiếng tranh lại tính tình tang tang vang lên gấp rút như thác đổ mưa dồn, mười phần khích động, mường tượng như tiếng sát phạt ngựa hí người reo rập rờn chết chóc.
Bầy rắn đang uốn éo múa may bỗng ùn ùn bò lên, ngẫng đầu cụp đuôi bò gần đến nơi giỏ tre của quái nhân.
Ngọc Động Chân nhân lúc ấy mới để mắt nhìn kỷ, thấy rõ đám độc xà ấy, con nào hai miệng cũng phùng lên, mường tượng như trong miệng có ngậm vật gì vậy.
Bọn chúng bò đến nơi chiếc giỏ tre liền há miệng nhả ra từng vật tròn tròn vào giỏ.
Ngọc Động Chân Nhân khi ấy mới vỡ lẽ, vật tròn mà bầy rắn phun trong miệng ra chính là những trứng của chúng.
Gã trung niên quái khách này dùng tiếng tranh để dụ bầy rắn với dụng ý thu gom trứng rắn đem về ?
Vốn trứng rắn không phải là vật hiếm có, mỗi năm giữa mùa xuân hạ, nơi rừng sâu, núi hiểm hay trong đám cỏ hang đất đều vẫn thường gặp cả ổ lớn hàng chục trứng trở lên .
Nhưng vị trung niên quái khách này không nệ công khó dùng tiếng đàn để mê hoặc bầy rắn hàng ngàn con, bắt chúng tự động nhả trứng ra thật là chuyện lạ trong đời, nếu không thấy tận mắt khó mà tin được, chẳng hiểu hắn làm thế với dụng ý gì ?
Hắn ta tuy mặt mày có vẽ nho nhã, nhưng trên người phảng phất một khí phái tà đạo bàng môn, với kiến thức quảng bác của ông chưa hề nghe ai nhắc nhở đến nhân vật hành động kỳ quặc đến thế.
Trong khi Ngọc Động Chân Nhân miệt mài trong sự trầm tư, thì bên kia động tác nhả trứng của bầy rắn cũng cực kỳ nhanh chóng.
Một con vừa nhả xong được trứng rắn của mình, dường như trút đi một trọng trách, luồn qua bên người quái khách quăng mình bỏ đi như bay vào rừng, con này vừa xong, con kia liền nối tiếp theo đuôi, chờ đến phiên mình cũng như đồng loại đi trước.
Không đầy một giờ đồng hồ, trong giỏ tre đã đầy ăm ắp đủ loại trứng rắn, hàng ngàn con rắn lúc nãy cũng bò đi sạch bách chẳng còn.
Quái khách nhìn thấy chiếc giỏ tre của mình đã vun đầy trứng rắn, mới ngừng ngay tiếng đàn, ngẫng đầu lên trời cười ha hả đắc ý.
Ngọc Động Chân Nhân không dằn được, bèn từ sau bụi cây hiện ra.
Gã trung niên quái khách thấy có người lạ, ban đầu thần sắc hơi ngạc
nhiên, khoảnh khắc đổi sang vẻ nham hiểm, cất giọng nói chát chúa khó nghe như tiếng cú kêu, hỏi lớn :
- Đạo hữu phương nào, quá bước ngang nơi đây, bèo mây gặp gỡ, sao
chẳng bước đến đàm đạo đôi câu cho phỉ dạ kẻ hào khách vậy.
Lời nói nghe qua hòa ái đơn giản, kỳ thật nội ý thâm hiểm cơ mưu.
Quái khách nọ đã dùng phương pháp nội gia trường âm công phu, do từ dưới đan điền phát ra ngoài, hai câu đầu tiếng nhỏ và trong, uyển chuyển như tơ trời lất phất khoảng không, khi rõ khi không, hai câu nói giữa cao dần và xa dần tựa như người từ trên mây nói vọng xuống, câu nói sau cùng, âm ba sang sảng như tiếng chuông, lại mường tượng như sấm trời bạo phát, làm cho màng nhĩ của Ngọc Động Chân Nhân bị chấn động suýt lủng đi vậy.
Ngọc Động Chân Nhân biết rõ quái khách định thị oai với mình. Nhưng
Chân Nhân là một vị đạo gia đức độ, tu hạnh cao thâm, nên không chấp nhất đến thái độ xấc xược của đối phương vừa rồi, lại còn chắp tay thi lễ và nói :
- Vô Lượng Thọ Phật, đạo danh của bần đạo là Ngọc Động, vì có chuyện đến phương Nam, qua ngang chốn này, ngẫu nhiên nghe được nhạc khúc thanh trong, ngờ là có cao nhân qui ẩn sơn lâm, nào ngờ tình cờ gặp được các hạ trổ tuyệt kỹ khiển dụ bầy độc xà, để thu nhặt trứng rắn trong vô ý kinh động đến các hạ mong các hạ bỏ qua cho.
Lời của Ngọc Động Chân Nhân mười phần hòa hạ, có thể nói là không
khêu không chọc, cũng chẳng hài tội người ta.
Nào ngờ quái khách không ai khác lạ, mà chính là một ma đầu danh lừng Tây Vực, không những tánh tình quái dị mà độ lượng rất hẹp hòi, nghe hai câu sau cùng của Ngọc Động Chân Nhân liền khẽ biến sắc mặt .
Vì rằng ban đầu Ngọc Động Chân Nhân bảo là nghe tiếng đàn tranh
tưởng là nơi đây có ẩn cao nhân đạo hạnh nên có ý đến bái kiến, chẳng ngờ sau lúc thấy mặt hoàn toàn chẳng phải và theo lời nói ấy chẳng lẽ mình chẳng là cao nhân sao ? Gã quái khách này từ miền Tây Vực đến đây, lòng đầy cao ngạo, danh tiếng Nhạn Môn Tam Ngọc vang lừng miền Trung Thổ, gã không những chẳng biết đến bao giờ mà trái lại còn lầm tưởng đối phương chẳng coi mình vào đâu, khóe miệng khẽ nhếch nụ cười ngạo mạn và nói :
- Đạo trưởng rất tán thưởng diệu kỹ khiển rắn của tôi chăng ? Cam thất lễ đấy chẳng qua là thuật mọn tổ truyền để dạy trùng mối của Bạch Đà Sơn chúng tôi.
Ngọc Động Chân Nhân nghe ba tiếng Bạch Đà Sơn không khỏi giật thót mình. Ông chợt nhớ lại mấy năm về trước, Ngọc Hư sư huynh của mình có nhắc nhở là nơi Bạch Đà Sơn ở miền Tây Vực, biên giới Tân Cương, từ bao năm nay, ẩn cư một ma đầu lợi hại họ Âu Dương tánh tình cổ quái võ công tự lập thành một phái, trong núi sâu xây cất cung thất tráng lệ huy hoàng, thâu nạp vô số nam nữ tì nô, tích tụ không thiếu ngọc ngà vàng bạc nơi hoang cốc hưởng đủ mọi khoái lạc của thế nhân vua chúa.
Gã ma đầu họ Âu Dương này rất thiện nghề nuôi dạy độc xà ác mãng, từ trên thân thể của độc xà, lãnh ngộ không ít võ công kỳ độc, chế luyện nọc độc của bách xà, chế tạo vô số ám khí tuyệt độc.
Chẳng ngờ y lại có thể đến Vân Nam, thật là một chuyện lạ lùng !
Ngọc Động Chân Nhân liền chắp tay ôn tồn nói :
- Té ra các hạ là Bạch Đà Sơn Chủ Âu Dương Liệt ở Tây Vực, cam thất kính !
Quái khách cười nhạt đáp :
- Nói quá lời, Âu Dương Liệt là gia huynh, còn tại hạ Âu Dương Phong. Gia huynh tạ thế đã hai năm nay chức Sơn Chủ truyền lại cho tại hạ chưởng quản.
Nguyên lai, cha của anh em Âu Dương Liệt là một tội phạm của Tống
triều, bị đày đến Tân Cương sung quân, lấy vợ người Hồi sanh ra hai anh em Âu Dương Phong, nên tuy hai người thuộc về giòng Hán nhưng phân nửa có máu huyết của người Hồi.
Anh em Âu Dương Phong lớn lên vì tánh tình quen thói cường hung,
không chịu nổi nếp sống thanh khổ mới gia nhập vào giới hướng mạ
thảo khấu, chuyên việc cướp của đốt nhà.
Trong một lần đi ăn hàng, anh em Âu Dương Liệt vô tình cướp đoạt nhầm một số lễ vật gả công chúa của vua Hồi. Hồi Vương cả giận liền phái đại đội binh mã đến tiểu trừ.
Anh em Âu Dương Liệt phải dắt nhau vào núi sâu để trốn tránh sự truy tầm của quan quân.
Chẳng ngờ qua cơn biến thì lạc cả lối về.
Hai anh em cố sức tìm kiếm phương hướng nhưng ròng rả bảy tám ngày trời, lương thực bên mình đã cạn mà vẫn chưa tìm thấy lối cũ.
Hai anh em phải ăn cây, củ cỏ, cùng săn bắn chim muông để đở dạ.
Nhưng khổ nỗi lúc ấy vào tiết cuối thu mà Thiên Sơn là một dãy núi
trùng điệp, ngoằn ngoèo trên ba ngàn dặm, mõm núi lúp xúp, mút tầm như biển cả, quanh năm tuyết phủ trắng xóa, huống hồ cuối thu tiết trời trở lạnh, tuyết rơi lác đác, khí lạnh thấu xương, cỏ cây bị che lấp dưới sâu, cho đến điểu thú cũng vào hang ẩn tích, chẳng thấy tăm hơi.
Hai anh em Âu Dương Liệt chẳng còn gì để mong đở lòng, thật chẳng khác nào hảm vào nơi tuyệt địa, hai người núp trong một động đá hoang tịch vừa đói, trơ mắt mà nhìn cái chết từ từ kéo đến.
Âu Dương Liệt là người có huyết tính can đảm, bèn bảo em :
- Này Phong đệ, tuổi anh lớn hơn em mười tuổi, sống hơn em trên thế gian đã nhiều, chết không còn ức hiếp gì nữa. Em còn trẻ sức mạnh, hà cớ phải chết một lượt với anh quá vô lối như thế.
Hay là em cởi áo da trên người anh mặc thêm vào người, lấy tất cả lương thực còn lại của phần anh, bò ra khỏi sơn động tìm đường đào sanh vậy !
Âu Dương Phong chưa kịp đáp lời thì từ cửa động có tiếng xào xạc liên tiếp, rồi từ bên ngoài bò vào một vật dài trắng long lanh như tuyết.
Âu Dương Phong vội quay lại nhìn, mừng rỡ buột miệng kêu lên :
- Đại ca, bạch xà, bạch xà kìa ! Chúng ta có vật đở lòng rồi.
Vật vừa bò vào quả đúng là một con rắn trắng như bạc dài độ tám tấc, lớn cỡ ngón tay.
Vốn ra trong động giá tuyết, trong núi bao nhiêu rắn rết, côn trùng đều tìm chỗ ẩn mình để đánh một giấc đông miên. Con rắn trắng này lại có thể hoạt động trong giữa tiết đông. Kể ra cũng là một chuyện lạ kỳ.
Âu Dương Liệt liền bảo :
- Phong đệ, mặc là rắn trắng hay rắn đen, tóm cho được nó để ăn, cố kéo dài sinh mạng.
Âu Dương Phong gật đầu tán đồng, rút ngọn dao bén nơi lưng ra, đập
mạnh sống dao vào mình quái vật. Đấy là một sự khôn ngoan của gã, vì gã biết rõ loài rắn chịu đựng rất bền, nếu dùng lưỡi dao chặt ra làm đôi, nó có thể với hai khúc mình bị chặt đứt bõ trốn đi hai nơi, một chút chẳng khéo còn có thể bị nó cắn phản trở lại chết mà không kịp trối.
Nên Âu Dương Phong cố tình dùng sống dao đập lên mình rắn. Nó sẽ nổi điên mà phải mình cất cổ lên để mổ, Âu Dương Phong chỉ đợi có thế, lẹ làng buông rơi thanh đao, tay trái lẹ như chớp quảy tròn một cái phía dưới mang con rắn. Đồng thời gót chân cũng lẹ làng đạp lấy phía dưới đuôi rắn, và như vậy con bạch xà đành trơ mình vận cứng xương sống mà chịu, không sao vùng vẫy hay cắn mổ gì được nữa, chỉ kêu khè khè lè chiếc lưỡi nhọn đỏ như máu trông rất dễ sợ.
Anh em Âu Dương Phong thấy con bạch xà ấy, mình trắng như tuyết, chỉ nơi phía dưới bụng từ đầu chí đuôi có năm lằn sọc đỏ như sợi tơ máu .
Âu Dương Liệt thất thanh kêu lên :
- Úy chao ! Quả là con Thiên Sơn Bạch Long đấy.
Thì ra loài rắn Bạch Long là danh sản quý giá của núi Thiên Sơn, kỳ thật chỉ là một loài rắn có màu trắng khác thường hơn đồng loại, mật của nó gọi là Bạch Long Đảm quý giá vô ngần, dùng vào y dược có thể cải tử hồi sinh, các vua chúa cõi Trung Nguyên trước nay thường bắt buộc chư hầu miền Tây Vực hằng năm cung hiến Bạch Long Đảm, đủ thấy nó là một vật quí báu hiếm hoi vô cùng !
Song vì Bạch Long không phải dễ tìm như loại rắn tầm thường. Sự hoạt động của nó cũng khác hẳn đồng loại, vì những giống rắn thông thường đến mùa đông đều chui rúc trong các hang hốc kín đáo để ngủ giấc đông miên, còn Bạch Long ở Thiên Sơn thì trái lại tới mùa đông tuyết giá mới ra khỏi ổ tìm thực vật. Thử nghĩ trừ những kẽ tham lợi liều mạng ra còn ai chịu mạo hiểm tính mạng, lặn lội trong mưa tuyết cắt da để vào tuyệt địa Thiên Sơn tìm Bạch Long bao giờ ?
Hai anh em họ Âu trong lúc thúc thủ chờ chết chẳng ngờ vô tình bắt được một con Bạch Long xà, kể ra phúc quả còn dài.
Âu Dương Liệt liền bảo Âu Dương Phong :
- Phong đệ, anh em ta số mạng còn dài nên gặp con Bạch Long xà này, chúng ta mau mổ mật của nó ra, có thể đở đói trừ lạnh, sau đấy ta ăn thịt và huyết nó thì không còn sợ khí trời lạnh lẻo nữa, đấy là trời thương tình ban cho anh em ta đó, em mau ra tay đi.
Âu Dương Phong nhờ lời nói của anh thức tỉnh ngay, lập tức một tay nắm chặt lấy cổ rắn, tay kia móc thanh dao găm sắc bén bên người ra nhắm ngay bụng rắn vạch một đường dài, nơi chỗ da rách liền lòi quả mật rắn ra, mỗi người nuốt một nửa.
Sau đấy cắt đôi thân rắn ra, mỗi người chia nhau nửa phần vừa mút lấy máu, vừa nhai ngấu nghiến thịt sống của rắn rất ngon lành.
Hai anh em họ Âu ăn xong con Bạch Long Xà, độ một thời gian sau bữa cơm cảm thấy từ đan điền xông lên một luồng khí nóng, chạy luồn khắp châu thân, tinh thần bỗng chốc phát triển lạ thường, chân tay ấm áp trở lại , bên ngoài động gió tuyết ngất trời cũng chẳng biết lạnh là gì.
Âu Dương Phong cả mừng nói :
- Đại ca, chúng ta có cơ hội sống sót rồi, mau ra khỏi động tìm đường trở về.
Hai người đội tuyết băng ra khỏi sơn động, thẳng về phía trước , lúc ấy bọn họ không còn cảm thấy lạnh bao nhiêu, mặc cho gió tuyết quật vào da mặt, trong cơ thể vẫn ấm áp như đang ở bên cạnh lò sưởi đỏ, đi suốt một ngày một đêm vẫn không thấy đói.
Trong mưa tuyết lờ mờ, Âu Dương Phong phát giác phía trước mặt có một cốc núi thâm u.
Phàm những thâm cốc trong núi đều là nơi tránh gió rét mưa tuyết rất tốt.
Hai anh em bèn rảo chân về phía thâm cốc, quả nhiên không ngoài ý
liệu hai người vừa vào được thâm cốc, cảm thấy khí lạnh, gió tuyết đã giảm đi phần nào.
Dưới gốc cây, cỏ vẫn còn rậm rì xanh um khác hẳn với bên ngoài cốc.
Âu Dương Phong mừng rỡ nói :
- Đại ca, chúng ta sắp đến chỗ có người ở rồi !
Âu Dương Liệt liền đảo mắt nhìn khắp đáy cốc, thấy nơi phía dưới đèo núi xa xa, hiện ra hai mái nhà tranh, hai anh em đều mừng rỡ, hướng về phía có nhà ở lầm lủi đi tới.
Tới nơi thấy nhà không đèn đóm gì cả, tối mù mù như căn nhà hoang, hai cánh cửa tre khép hờ chứ không đóng chặt.
Âu Dương Liệt tánh khí hung bạo, chẳng chút nể nang, lấy tay đẩy mạnh cửa phên tre, "bùng !" một tiếng, từ bên trong phên cửa ào ra một luồng âm phong, chạm với khí trời bên ngoài, nhẹ lên một tiếng, khí
lạnh xói buốt vào da thịt, khiến hai người đều nổi da gà lên cùng mình.
Hai anh em họ Âu Dương giật mình kinh hãi vội nhãy tót sang hai phía, rút đao cầm tay để phòng có vật gì quái dị từ trong nhà ra chăng ?
Nhưng qua một hồi, bên trong nhà vẫn tối mù vắng hoe, chẳng nghe động tĩnh gì khác.
Âu Dương Phong bạo gan, lấy đá lửa bùi nhùi ra, bật lửa đốt lên soi rõ mọi vật trong nhà, hai anh em Âu Dương Phong mặc dù gan dạ bằng trời, cũng không khỏi kinh sợ đến tóc râu dựng ngược lên.
Bên trong gian lều tranh ấy có để một chiếc bàn vuông vức, trên bàn
chất đầy từng đống sách da dê, bụi bậm bám đầy, phía sau chiếc bàn là một chiếc giường củ, trên giường có một đạo nhân ốm khổ khắc đang ngồi xếp bằng tĩnh tọa, tựa như một tượng người phơi khô, chẳng phải là người, mắt thụt vào bên trong, dường như bị móc đi cặp mắt nhãn, giống như cái sọ người bọc da bên ngoài, nửa người nửa quỷ.
Âu Dương Liệt cố lấy hết can đảm hỏi :
- Tên đạo nhân rừng rú kia ở đâu thế ! Làm gì ẩn núp trong lều tranh
này, ngươi đi ra đây ngay hoặc may đại gia còn châm chế cho phần nào, bằng không thì máu ông sẽ chảy lập tức .
Réo gọi luôn hai ba hiệp, đạo nhân kia vẫn ngồi yên bất động.
Âu Dương Phong liền lượm một viên đá, nhắm ngay giường cỏ chọi liền,
"bộp !" một tiếng khô khan, viên đá trúng phóc ngay giường, thế mà gã đạo sĩ vẫn trơ trơ không chút phản ứng.
Khi ấy Âu Dương Phong la lên :
- Đại ca gã đạo nhân ấy chết cứng rồi mà !
Âu Dương Liệt nhãy tuốt vào trong, thấy đạo nhân ấy quả đã chết từ lâu
rồi, mình mẩy khô rắn lại như đá, mọi đồ vật trong nhà đều hư mục cả.
Theo đó mà đoán thì đạo nhân ấy chết chẳng biết là bao lâu rồi nhưng không hiểu vì sao, thi hài không thúi rửa lại khô rắn như một tượng đá ?
Lương khô bên giường đã ẩm ướt mục hư vừa đụng tay vào đã nát lên thành bụi vụn, đồ đạc dụng cụ cũng mục rệu, trừ đống giấy da trên là còn khá một chút.
Âu Dương Liệt thuận tay cầm lấy một tấm sách da dê lên xem, thấy trên da dê viết đầy chữ Hán, bèn kêu em :
- Phong đệ, em xem coi là sách gì đây đọc cho ngu huynh nghe thử !
Âu Dương Phong bẻ vài thanh tre trên vách, làm thành một cây đuốc, cầm tấm da dê đến bên ngọn lửa, xem thấy thanh thứ nhất đề bốn chữ khái tự : "Ngũ Độc Kỳ Kinh".
Bên trong cuốn sách toàn là phương pháp và khẩu quyết luyện công, lít nhít dày đặc có chữ, có cả đồ hình lăng nhăng rối mắt, sau cùng có một trang riêng biệt kẹp vào qua quyển vở nội dung như sau :
- Bần đạo là Ngũ Độc Chân Nhân Khương Thái Hư sanh tại phía hữu sông Triết, bình sanh ngưỡng mộ học thuyết của Huỳnh Thạch Công, Lão Tử, nghe đồn Bạch Đà Sơn miền Tây Vực có chân tiên nên không ngại vạn dậm lộ trình đến đây, nào ngờ tới nơi chẳng thấy một người , ban sơ ngở là tiên nhân lánh mặt chẳng chịu gặp nên cố lưu lại nơi cùng cốc này lấy lương khô nước suối qua ngày, tình cờ trong thạch huyệt khám phá được Ngũ Độc Kỳ Kinh này, mở ra đọc thử, mừng rỡ như điên, quên ăn mất ngủ, dốc sức nghiên cứu hơn ba năm trời mới nghiền ngẫm thông suốt, hạ sơn nhiễu thế, giết người vô số , đến tuổi về gìa, mấy năm gần đây, trong mộng thường thấy năm quỉ vô thường tóc xõa máu me đầy người khóc than đòi mạng.
Ô hô ! Một chút nghĩ lầm, gây thành sai lớn , muốn vứt bõ Ngũ Độc Kỳ Kinh nhưng chưa được, muốn hủy bõ độc kinh dạ lại chẳng đành, nên uống mật công rừng tự tận, hậu thế ngẫu gặp thi hài kẻ bạc số, xin hỏa táng tấm xác tan lẫn kinh độc, đừng để lại di hại thế nhân, công đức thật là vô lượng !
Thái Hư tuyệt bút !
Âu Dương Liệt rị mọ từng chữ đọc hết tấm huyết thư, mới rõ được đôi chút.
Vị đạo trưởng chết trên giường kia là Khuơng Thái Hư, uống mật công hủy mình, căn lều tranh này dựng lên giữa nơi cùng âm khí bế, do đấy mà thi hài qua mấy mươi năm vẫn không rữa nát.
Âu Dương Phong cầm lấy quyển Ngũ Độc Kỳ Kinh lật qua mấy trang, bất thần vỗ bàn la lên :
- Này đại ca ! Bổn chân kinh này có chỗ dụng lớn lắm đấy, nói không chừng...
Câu sau cùng chưa nói hết, bỗng "rắc rắc !" mấy tiếng vang lên, chiếc bàn rệu mục kia bị sức cái đập tay của Âu Dương Phong liền sập ngay xuống đất, gảy ba gảy năm từng miếng, những tấm sách da dê rơi đầy trên mặt đất, vừa vặn từ bên ngoài phên cửa một cơn gió trốt thổi lên, hốt hơn mấy mươi trang da dê bay ra khỏi cửa.
Âu Dương Liệt tru tréo lên to :
- Không xong gió trốt kỳ kinh bay đi rồi chạy theo lượm lại mau.
Hai anh em tuôn ra khỏi cửa vừa chạy vừa bò bốn chân tám tay quýnh
thu nhặt những tấm da dê rơi vãi trên mặt tuyết trắng, nhưng vì gió núi quá mạnh, hai anh em đã nhặt được bảy trang trở về còn năm trang nữa bị gió cuốn bay mất tung luôn.
Anh em Âu Dương Liệt dậm chân tiếc rẻ chắc lưỡi liên hồi, chính vì thế mà Tây Độc Âu Dương Phong tuy liệt danh trong hàng Ngũ Bá, nhưng là kẻ yếu nhất trong năm người, chỉ cậy vào những xà độc xà trùng, bàng môn ngoại thuật để chống đở với tài nghệ chân chính của Tứ bá thôi. Trận gió thổi năm tấm da dê ấy rất có quan hệ cho nhân vật trong Ngũ Bá sau này.
Hai anh em họ Âu sau khi nhặt nhanh xong các tấm da dê còn sót lại bèn đóng kín cửa phên, sau đó đem từng trang da dê kia lại thành một quyển, trừ năm tấm bị gió cuốn thiếu đi, bảy trang còn lại cũng tạm gọi là đầy đủ một bộ Ngũ Độc Kỳ Kinh.
Hai người thay phiên nhau đọc suốt từ đầu đến cuối quyển Kỳ Kinh một lượt, cảm thấy khá nhiều hứng thú, vì nội dung quyển kinh bao la vạn thuật công phu, từ luyện công đến luyện quyết, đủ cả nội gia ngoại trạng, phương thức tập luyện chỉ dẫn rất rành rẽ từng chi tiết, lại còn có cả cách thức nuôi rắn độc, huấn luyện mãng xà, cùng những pháp chế luyện độc dược, thậm chí những mật phương lạc thú giữa nam nữ nơi phòng the tẩm bổ hút tinh v.v. cũng đều ghi chú hết sức tận tường.
Hai anh em họ Âu như gặp được kỳ dị bảo trân, bắt đầu từ hôm đó, lưu lại luôn ở Bạch Đà sơn cốc để luyện môn độc công.
Đầu tiên hai người đem thi hài Ngũ Độc chân nhân hỏa táng sau núi, sau đấy rảo quanh khắp sơn cốc một lượt thấy nơi đây đất đai phì nhiêu, hoa trái thạch mậu, thú rừng dẫy đầy khả thể nuôi sống được hai người.
Âu Dương Liệt và Âu Dương Phong an lòng tạm trú trong lều tranh một mặt săn bắn trồng tỉa qua ngày, một mặt chuyên cần, nghiên cứu độc kinh, hai anh em vốn có căn bản võ thuật, thiên tánh sẵn độc như sài lang, luyện môn công phu bàng môn tả đạo ấy rất hợp với cơ bản, nên tấn bộ nhanh hơn người thường thập phần, trong vòng mười năm đã trở nên hai tay tuyệt kỹ kinh người.
Cách đấy vài năm sau, một vùng Tây Bắc bỗng xuất hiện hai tên đại đạo vô hình, lúc ẩn lúc hiện giữa vùng sa mạc Oa Bích giết người đoạt vật , còn hung tàn hơn cả bọn sơn lâm hướng mã, lúc đến như khi đi, hành tung bí mật khó lường, những lương dân bị giết hại cho đến thi hài cũng biệt tích luôn.
Đồng thời nơi Bạch Đà sơn cốc hoang liêu bỗng xuất hiện mấy tòa cung điện nguy nga như hoàng cung vua chúa, trong cung điện vô số nam nữ tì từ các nơi mua về cho đến những cô tóc vàng mắt xanh da trắng như ngọc từ xứ Âu Châu đem về bán cũng có, các sắc các giống mỹ nữ khắp xứ
gần như đủ cả trong tòa cung điện ấy.
Theo lời thương khách buôn bán trong Bạch Đà Sơn về thuật lại thì
chủ nhân của cung điện ấy xa hoa sung sướng còn hơn các bậc vương hầu, trân châu bảo thạch còn nhiều hơn cả sao trên trời, vàng bạc đầy dẫy kho phòng như núi, dường như không phải là cảnh giới của nhân gian mà đó là động đào thiên giới, còn Âu Dương Liệt vì sao mà chết và do đâu mà Âu Dương Phong lại lên kế vị chức Bạch Đà Sơn Chủ thì Ngọc Động Chân Nhân không sao hiểu nổi.
Ngọc Động Chân Nhân sau khi nghe Âu Dương Phong thổ lộ tên tuổi ra, biết hắn là một ma đầu trứ danh ở Tây Vực . Chân Nhân vốn chẳng muốn giao du với tà đạo nhưng lỡ cùng y gặp mặt chuyện trò khó thối thoát được, đành phải ngồi xuống cùng y qua loa vài lời cho khỏi mích lòng.
Hai người cùng ngồi đối diện nhau trên phiến đá cách xa nhau một
trượng.
Âu Dương Phong bèn lên tiếng :
- Ngu hạ lần này không ngại ngàn dặm xa xôi đến đất Miêu Cương, trừ sự thu nhặt trứng rắn đem về Bạch Đà Sơn ấp dưỡng ra còn muốn kết giao một số dị nhân ẩn tích mai danh nơi thâm sơn tuyệt lãnh, đạo trưởng xả thân đạo sĩ, đối với công phu thổ nạp hẳn là tinh thông lắm vậy.
Ngọc Động Chân Nhân rúng động trong lòng, cúi đầu chắp tay chậm
rãi đáp :
- Nào có như thế, bần đạo cũng chẳng qua được biết một vài phép thô thiển vỡ lòng thôi !
Âu Dương Phong bèn nói tiếp :
- Đạo trưởng không nên khiêm tốn, tại hạ đối với thuật nội công có ít nhiều nghiên cứu, chỉ hiềm thiếu cao nhân chỉ điểm, Hội Đốc hai mạch làm thế nào mới có thể tương thông với Khí Hải nơi đan điền, mong đạo trưởng ban lời chỉ giáo.
Hai câu nói bình thường thuận miệng thốt lời y, khiến Ngọc Động Chân Nhân không khỏi giật mình đánh thót, vì phàm luyện võ công phải biết luật nội ngoại ngũ hành.
Nội ngũ hành: tâm, can, tì, phế, thận .
Ngoại ngũ hành là : thân, tay, đầu, mắt, chân.
Nếu một người luyện tới mức nội, ngoại hành câu thông nhau thì bản lãnh có thể đổ ngã núi non, mỗi cái nhấc tay đở chân, hoặc cái chỉ cái xỉa của ngón tay cũng có thể giết người trong khoảnh khắc.
Âu Dương Phong lại hỏi cách câu thông hai mạch Hội Đốc với Khí Hải
ở Đan Điền, chính là câu thông với thận và bao tử hai tạng. Mà trong ngũ tạng thì Tì tạng thuộc Kim, Thận thuộc Thủy.
Trong hai hành Kim và Thủy có một lối câu vô hình của trời đất, là một chướng ngại khó câu thông nhất của các nội gia vận khí nội công.
Nếu như thông được cây cầu trời đất ấy, bản lãnh kể như đã tuyệt đỉnh cao thâm.
Hội chính là Hội Âm, Đốc là Đốc mạch, hai nơi huyệt đạo đó, đều ở thân người nơi cuối đường xương sống dưới mông. Hai huyệt đạo ấy nếu có thể câu thông với Khí Hải nơi phần bụng, bằng như là đem được chân khí chân kình nửa phần phía dưới thân thể vận tất cả vào hai cánh tay, chuyền ra bàn tay và mấy ngón thì những công phu nội gia như Mãng Ngưu Khí, Hỗn Nguyên Công cùng Kim Cang Chỉ hay Nhất Thiền Chỉ rất dễ luyện thành.
Ngọc Động Chân Nhân thành quả của nội công đã đạt được đến mức Lư Hỏa Thuần Thanh, đối với điểm võ học trọng yếu ấy làm gì chẳng thông suốt, nhưng vì thấy Âu Dương Phong cử chỉ lạ thường, lời ăn tiếng nói xấc xược, ngạo mạn không phải là người trong chính phái võ lâm.
Hơn nữa hai người bất quá chỉ mới gặp mặt lần đầu, đâu có thể đem
khẫu quyết nội công liên quan đến tính mạng võ gia mà tùy tiện cho người biết một cách bừa bãi được, nên Ngọc Đông Chân Nhân khẽ lắc đầu từ chối nói :
- Thật không phải với Âu Dương Sơn Chủ, vì nội công của bần đạo rất thô thiển, đâu đáng khoe tài chỉ dạy ai, cái gì gọi là Hội Đốc câu thông Đan Điền, bần đạo quả tù mù chẳng hiểu, mong Âu Dương Sơn Chủ chỉ giáo thêm cho bần đạo.
Âu Dương Phong hết sức bất mản, dùng giọng mũi "hừ !" một tiếng, tay áo trái phất trở ngoài mường tượng như dùng tay áo phủi bụi trên một phiến đá, kỳ thật đã kẹp theo một luồng cương khí hùng mạnh đẩy ập vào kẻ đối diện.
Nếu Ngọc Động Chân Nhân chẳng vận khí kình chống đở tất phải rớt
khói tấm thạch bàn. Ông vội trầm khí đan điền xuống hạ bàn thân, dùng phép Thiên Cân Trụy định thân hình vững như đá núi.
Chưởng lực của Âu Dương Phong đẩy tới toàn thân Ngọc Động Chân Nhân vẫn y nhiên bất động.
Âu Dương Phong bèn cười lên ha hả nói :
- Đạo hữu quả đúng là kẻ đại trí giả ngu, tài cao vờ ra dốt, song Âu Dương Phong này nhất ý cầu học nghề hay, do lòng chí thành chứ không ngoại ý, nếu đạo hữu chẳng tin lời, ngu hạ có một chút lễ vật gọi là...
Nói đến đây, bèn từ ở trong túi lôi ra một xâu minh châu màu sắc lung linh, quả là loài dạ minh châu giá đáng liên thành rực rỡ hào quang, xâu ngọc ước độ hai mươi viên , mỗi viên lớn bằng trái nhãn, chỉ cần được một viên, suốt đời cũng sung sướng ấm no .
Âu Dương Phong giơ cao xâu chuỗi ngọc và nói tiếp :
- Nếu đạo trưởng bằng lòng chỉ dạy Âu Dương Phong thì xâu minh châu này xin kính dưng đạo trưởng gọi là lễ tương kiến, còn mời đạo trưởng đến tận Bạch Đà Sơn Cốc cùng chung hưởng tiêu diêu lạc thú của nhân gian, đạo trưởng có thể cỡi bỏ lớp phong trần để thưởng thức thế giới thiên đàng của tệ xá.
Ngọc Động Chân Nhân thấy y ngang nhiên đem vật ngọc ngà trần tục để lung lạc mê hoặc mình, liền biến ngay sắc mặt, phủi áo đứng dậy nói :
- Lời của Sơn Chủ sai rồi, bần đạo là kẻ xuất gia cầu đạo, tuyệt bỏ lợi danh tham dục. Âu Dương Sơn Chủ lại dùng vật ô uế này để dẫn dụ kẻ xuất gia chẳng lẽ định phá hoại giới hạnh thanh tu của tôi sao ? Đạo chẳng đồng chẳng nên giao kiến, bần đạo xin tạ từ nơi đây !
Ngọc Động Chân Nhân nhìn thấy Âu Dương Phong là người hạ tiện vô cùng, lòng dạ lại lang độc hiểm ác, nên chẳng muốn lôi thôi buộc ràng với y thêm làm gì, bèn đứng dậy cáo biệt.
Âu Dương Phong thấy Ngọc Động Chân Nhân không bị mình lung lạc
được, bèn cười lên gian hiểm, xách cây đàn tranh đứng dậy, cất cười âm trầm nói :
- Đạo trưởng, rượu kính không uống đòi uống rượu phạt chăng ?
Ngọc Động Chân Nhân chưa kịp đáp lời, thì Âu Dương Phong, bỗng ngầm vận nội kình, bứt đứt giây vàng xỏ ngang chuỗi minh châu, vung tay rải một cái, hai mươi viên ngọc quí, thẳng băng một đường tựa như một chuỗi sao xẹt, lửa hoa bay vút ra, mỗi viên ngọc đều nhắm chuẩn yếu huyệt trên châu thân Ngọc Động Chân Nhân lao nhanh tới.
Chân Nhân tay trái đang phe phẩy, chợt thấy Âu Dương Phong đem ngọc quí thế cho thiết đạn bắn vào người mình theo tuyệt kỹ Mãn Thiên Sái Kim Tiền, trong lòng không khỏi nổi giận, tay áo cuốn lên một cái, phất trần bên tay phải đảo vung loang loáng, vù vù lên mấy tiếng, hai mươi mấy viên ngọc nhanh mạnh như những hòn đạn sắt kia đều bị ngọn phất trần của Chân Nhân cuốn gọn lại vận sức rũ một cái, từng viên ngọc quí rơi trên nặt đất vang lên những tiếng kêu nho nhỏ và nát biến như bột vụn.
Âu Dương Phong biết rõ công phu dùng phất trần để đánh bể những viên ngọc quí vừa rồi, Ngọc Động Chân Nhân vừa sử dụng tên là Ưng Lạc Quần Nha (ưng rơi giữa bầy quạ) là tuyệt kỹ tinh hoa trong Kim Cang nội gia công, tức thì đổi ngay sắc mặt tươi cười, vòng tay nói :
- Cam thất lễ , tại hạ nhất thời lóa mắt, không biết đạo trưởng là vị cao nhân, bụng đầy tuyệt kỹ nên múa rìu qua mắt thợ, thật hổ thẹn vô cùng, mong được tha thứ.
Ngọc Động Chân Nhân thấy y đã nói thế, không nỡ làm mất mặt đối phương, nên cũng ôn tồn cúi đầu đáp :
- Vô lượng thọ phật , Âu Dương Sơn Chủ quá lời thôi ! Xin tái kiến.
Ông vừa quay người bước đi, thình lình sau lưng nghe "vù !" một tiếng, rồi có một vật binh khí xé gió kẹp theo cả tiếng giây đồng ù ù rất lạ tai, nhắm ngay lưng mình quét xả tới.
Thật là một sự đột kích vừa nhanh vừa mạnh không thể lường trước được.
Ngọc Động Chân Nhân chẳng ngờ nổi Âu Dương Phong sâu hiểm độc ác đến thế, lửa giận ông bốc cao lên đầu, không còn vị nể gì được nữa. Ông lại biết rõ khí giới của Âu Dương Phong đang dùng đột kích mình chính là cây đàn tranh quái dị nọ, mà cây đàn tranh của y dùng thép ròng đúc
thành, giây huyền làm bằng gân nai thật già, có thể thay thế khí giới tấn công kẻ địch, ông dù muốn tránh cũng chẳng kịp nào.
Ngọc Động Chân Nhân chỉ còn cách quay phắt người lại, cánh tay phải gạt mạnh trở ra. Chân Nhân định bụng dùng nội lực Kim Cang Kình, lấy sống bàn tay bẻ cây thiết tranh của Âu Dương Phong, sau đấy trả lễ lại một đòn sát thủ, để y nếm mùi lợi hại.
Ngờ đâu cây thiết tranh của Âu Dương Phong lại tầm phỗng bên trong, đầu tranh có lưỡi gà, đầu lưỡi gà có gắn hai con rắn giả đúc bằng chất nhuyễn cang, thoa lên lớp sơn đen, in hệt như rắn thiệt, miệng rắn lại có hai chiếc nanh thép sắc bén tẩm luyện trong nọc rắn độc, có thể tự động nhả ra táp, y như rắn thật cắn phải vậy.
Ngọc Động Chân Nhân chẳng dè cây đàn tranh ấy lại dấu thứ ám khí độc giết người kia, cánh tay trái vừa chạm phải cây đàn, tức thì "vút ! vút !" hai tiếng xé rít không khí, từ trong cây đàn bỗng bắn ra hai vật lạ giống như đầu rắn chích vào phía sau bả vai một cái đau nhói, liền khi cảm thấy nơi chỗ bị chích vừa ngứa vừa tê.
Chân Nhân lập tức biết ngay là một phút vô ý bị trúng phải ám khí của tên ma đầu, lửa giận càng xung tim quát lên như sấm :
- Quân vô sỉ, bần đạo cùng mi liều mạng mới được !
Miệng quát tay đã vù ra chưởng quét tréo vào người Âu Dương Phong.
Âu Dương Phong thấy mình được thế, đắc ý cười lên như điên, nhãy lùi ra sau, nhanh như một cơn gió băng mình qua gộp đá chạy lủi vào rừng sâu.
Ngọc Động Chân Nhân căm hận cực cùng, tay phải vung mạnh đuôi phất trần quay ngược như mũi phiêu thương lao vun vút vào phía lưng của gã ma đầu .
Âu Dương Phong lẹ như cắt lủi tuốt vào rừng tràn về một phía, đuôi phất trần lao chẳng trúng, ghim sọc vào một thân cây rừng, cán phất trần lút sâu vào thân cây trên nửa thước .
Âu Dương Phong lỏn sâu vào rừng, cất cao giọng nói vọng lại :
- Lão thầy chùa mũi trâu còn định ăn thua với ta nữa sao, chỉ một giờ sau là mi mà mạng rồi đấy, liệu mà tìm chỗ chôn thây đi !
Ngọc Động Chân Nhân sực nghĩ lại cũng phải, mình đã trúng ám khí của đối phương nếu còn đuổi theo giao đấu dùng sức chạy nhãy thì lại càng mau chết. Vì nếu cùng đối phương giao tay, huyết mạch càng gia tốc để lưu chuyển khắp châu thân, độc khí vào tim phổi công phạt càng mau hơn, một giờ đồng hồ sau là ngã chết chẳng phương cứu chữa.
Ngọc Động Chân Nhân nghĩ thế bèn lớn tiếng quát mắng :
- Tặc tử, bần đạo cùng mi người dưng kẻ lạ, chẳng oán chẳng thù
người lại đang tâm hạ độc thủ ta như thế này, còn mặt mũi nào mà tự xưng tông sư miền Tây Vực, thật là quân tồi bại sài lang.
Âu Dương Phong từ bên trong rừng, cười lên khách khách nghe rất quái dị và nói :
- Tuy ta hạ độc thủ hại mi, nhưng trên người ta vẫn có thuốc chữa, nếu mi muốn còn mạng cũng dễ chỉ cần đưa ra yếu quyết, nội công thế nào để câu thông thận tì hai tạng, khai xuyên cây cầu Thiên Địa của bản thể, ta sẽ lập tức chữa ngươi hết độc ngay , còn có thể hóa địch thành bạn, chết sống hai lòng tự ý ngươi chọn lấy ! Khè...Khè !
Y càng cười, Ngọc Động Chân Nhân nghe lửa giận càng xông cao, cảm thấy nơi bộ phận ngứa ngáy của vết thương dần dần lan rộng ra xung quanh, sau bả vai nhức người như bị trăm ngàn con ong độc đang đốt cắn phải.
Ngọc Động Chân Nhân giọng căm hận nói :
- Âu Dương Phong, mi tưởng dùng thủ đoạn đê tiện hèn hạ ấy có thể bức bách ta phải khai yếu quyết nội công cho mi học sao ? Bần đạo dù chết chí vẫn không sờn, thà bỏ mạng chứ không thể chỉ dạy tên học trò đê tiện và vô sỉ như mi, hơn nữa ta vẫn có thuốc để giải độc được, mi đừng lầm.
Nói đoạn, quay người dùng thuật lục địa phi hành chạy vun vút ra khỏi sơn cốc, ròng rã một đêm hai ngày mới vào đến địa phận thành Đại Lý. Nhưng vì sức đã cùng lực kiệt để tranh thủ với độc tố đang lan dần trong cơ thể.
Tới bờ tường hoàng thành thì thần trí đã mê man dở hôn dở tỉnh, nên vừa gắng sức thoát khỏi rào tường đã từ trên mái ngói lăn rớt xuống đất, nhưng vẫn còn cố định được trí nhớ nhờ Đoàn Cẩm giúp mình chạy chữa vết thương.
Đoàn Cẩm sau khi nghe xong, giận đến tóc tai dựng ngược, hận không được tức thời đến Mãng Thương Sơn tìm Âu Dương Phong để trả hận.
Bắt đầu từ ngày ấy Ngọc Động Chân Nhân lưu lại Đại Lý thành để dưỡng thương, ba tháng sau mới phục hồi công lực như cũ.
Một hôm Đoàn Hoàng Gia bèn hỏi Chân Nhân :
- Con tôi từ lúc được đạo tăng đào luyện võ nghệ thấm thoắt đã mười năm dư, chẳng hay bản lãnh của tiểu vương như thế nào ?
Ngọc Động Chân Nhân lắc đầu nói :
- Môn võ thuật thật là vô biên bất cùng. Sống đến già, học đến già cũng chưa biết đâu là đủ, điều tối cần phải tăng gia lịch lảm, vi hành đến mọi nơi để thu thập kinh nghiệm, mới có thể cùng người so kém hơn thua, hầu rút tỉa tinh hoa của võ thuật .
Nếu bệ hạ muốn cho điện hạ thành kẽ địch vạn nhân, ít nhất phải cùng bần đạo xông xáo giang hồ du lịch đôi ba năm mới được.
Chẳng hay Lão Hoàng Gia có thuận tình chăng ?
Đoàn Lão Hoàng Gia nghe xong mấy lời của Ngọc Động Chân Nhân, không khỏi lộ vẽ khó nghĩ, vì như đã nói trước , quy chế của vương triều họ Đoàn, từ quốc vương cho đến quý tộc không được ra khỏi khu vực Đại Lý thành ngoài trăm dặm, cho nên lời đề nghị của Ngọc Động Chân Nhân khiến Đoàn Lão Hoàng Gia ậm ừ cho qua chuyện chứ không đáp lời.
Ngọc Động Chân Nhân cũng hiểu rõ sự khổ tâm của ông ta nên không đề cập thêm nữa.
Nhưng bất ngờ đêm ấy, trong khi Chân Nhân dạy Đoàn Cẩm phương thức thổ nạp công phu.
Đoàn Cẩm thình lình tỏ ý với thầy :
- Bạch sư phụ, khi sáng sư phụ có xin với phụ hoàng định đưa con đi ngao du khắp nơi, để thu thập kinh nghiệm võ thuật trên giang hồ phải không ?
Ngọc Động Chân Nhân buồn rầu gật đầu.
Đoàn Cẩm lại nói tiếp :
- Sư phụ cũng hiểu rõ quy chế khắt khe của vương quốc họ Đoàn chẳng cho người trong tộc rời khỏi đế kinh quá bảy ngày, dù rằng cha đệ tử làm Hoàng đế trên ngôi chí tôn, cũng không sao phá lệ được mà dầu cho Phụ vương con thuận lời đi nữa các đại thần trong triều cũng lên tiếng phản đối ngay.
Ngọc Động Chân Nhân trầm ngâm giây lát rồi đáp :
- Nếu như lời đồ đệ nói, thì dù cho con học thêm hai mươi năm công phu nữa, thành quả cũng là bao.
Đoàn Cẩm nhìn quanh bốn phía khắp lượt đoạn kề miệng vào tai Ngọc Động nói nhỏ :
- Nếu vậy, con có thể lén trốn khỏi hoàng thành để cùng đi với sư phụ .
Ngọc Động Chân Nhân ngạc nhiên, nói :
- Con định cùng sư phụ trốn đi ư ? làm sao được, Phụ hoàng con chẳng trách phiền con sao ?
Đoàn Cẩm cười nói :
- Sao lại không được ? Phụ vương con chỉ có mình con là con duy nhất chẳng lẽ lại giết con sao. Vương chế triều đình không cho rời thành Đại Lý một cách minh bạch, chớ đâu có qui định chẳng cho đi lén bao giờ ?
Ngọc Động Chân Nhân không khỏi tức cười trước lời nói cưỡng lý trở trái làm mặt của tên đồ đệ mẩn tiệp thông minh .
Hai thầy trò phụ nhĩ xầm xì một lúc khá lâu, Đoàn Cẩm cứ gật đầu vâng dạ lia lịa.
Đoạn cả hai thầy trò Ngọc Động Chân Nhân mất tích một cách bí mật.
Rạng hôm sau, Đoàn Lão Hoàng Gia sau buổi lâm triều trở về nội điện, bỗng một thị thần hơ hãi chạy đến vập đầu tâu lia :
- Tâu bệ hạ,không xong rồi ! Thế tử đã tự ý trốn đi, chúng tôi tìm khắp hoàng cung cũng chẳng thấy .
Lão Hoàng Gia nghe con mất tích kinh hãi cực cùng, vội chạy vào tẩm điện, thì con mình đã đâu mất mà Ngọc Động Chân Nhân cũng biệt tăm, trong cung mọi vật niêm phong bất động, chỉ thiếu một số quần áo tùy thân cùng chút ít bạc vàng tế nhuyễn.
Đoàn lão Hoàng Gia dậm chân than :
- Khổ thật ! Vương nhi muốn cùng sư phụ con dấn bước giang hồ để luyện thêm tài nghệ cũng được đi, sao lại phải trốn . Thật là thiển kiến của con nít !
Một tên thị vệ quỳ xuống tâu :
- Muôn tâu thánh thượng, Điện hạ có để lại một bức thư nơi ngọc án.
Đoàn Lão Hoàng Gia vội bóc ra xem, nội dung như sau :
Phụ vương thọ giám !
Thần nhi theo sư phụ chen chân hải hồ, bốn biển là nhà giường đất, màn sương , kỳ hạn trở lại cố hương đúng ba mươi sáu lượt trăng tròn, đi không thỉnh cáo, thần nhi tự biết tội nghiệt, chỉ vì vương chế khắc khe , buộc lòng làm thế, cúi lạy Phụ vương bảo trọng mình rồng.
Thần nhi Đoàn Cẩm phục bút !
Đoàn Lão Hoàng Gia đọc xong, nước mắt rưng rưng, thở dài một tràng ảo nảo và lẩm bẩm như nói với mình :
- Con ơi ! Dại sao là dại, nếu muốn đi du lịch viễn phương hà tất phải làm thế, con cứ theo chí hướng bẩm rõ với cha, tất nhiên cha có cách an bài cho con, tội vạ gì phải lén lút trốn đi như thế !
Nói đoạn quay sang dặn dò thị vệ tả hữu :
- Các người không được đem chuyện Thế tử tự ý trốn đi khỏi hoàng thành, diện lộ ra người ngoài mà cứ nói là Thế tử mắc chứng bệnh lạ, cần phải ở riêng biệt cung ba năm, không cho ai vào thăm viếng cả. Nghe rõ chưa ?Nếu như tên nào thổ lộ ra ngoài xem chừng chiếc đầu trên cổ.
Nhưng lần ra đi này thời gian tuy kỳ hạn trong thư là ba năm, song vì Đoàn Cẩm mãi vui say theo chân thầy trên bước đường lữ thứ sông hồ, thấm thoắt xuân đi thu lại, sáu năm dài dằng dặc nhẹ như lá rơi song cửa.
Sau đó Đoàn Cẩm khắc khoải nhớ quê Nam, mới từ biệt thầy một mình một bóng trở về đất Tổ.
Cương giới của Nam Chiến Quốc gần như bao quát gần hết tây hộ Vân Nam luôn cả một góc phía Nam tỉnh Tứ Xuyên nên khi Đoàn Cẩm vào biên cảnh quê nhà, còn cách thành Đại Lý ba, bốn ngày đường, vì nóng lòng muốn biết tình hình vua cha sau thời gian cách biệt hơn sáu năm trời, liền tìm một lương dân hỏi thăm.
Đoàn Cẩm vì bình thường ít khi rời khỏi kinh thành, hơn nữa lại xa quê hương quá lâu, dung mạo đã biến đổi đi phần nào, đừng nói chi bình dân bá tánh mà cho đến cận thần trong triều đình cũng chưa chắc đã nhận ra chàng.
Do đấy gã dân quê ấy không làm sao nhận biết kẻ đối thoại trước mặt là Thế tử đương triều, bèn đem mọi tình hình biến cố trong Đại Lý thành thuật sơ lược cho chàng nghe.
Chẳng ngờ Đoàn Cẩm sau khi nghe xong, giật nẩy mình kinh sợ đến tay chân rụng rời, mồ hôi toát ra như tắm.
Thì ra Đoàn Cẩm từ khi trốn theo Ngọc Động Chân Nhân rời khỏi hoàng cung, Đoàn Lão Hoàng Gia bưng bít tin tức không cho các đại thần biết, chỉ phao tin con mình bị bịnh, không dè qua năm sau, tin Thái tử trốn đi bị thấu ra ngoài triều.
Các đại thần hội nhau vào cung thất chất vấn sự kiện Thái tử Đoàn Cẩm tự ý rời cung, yêu cầu Đoàn Lão Hoàng Gia phải gấp chiếu thị toàn quốc phế trừ Thái tử để lập người khác.
Vua họ Đoàn hết sức khổ lòng, cùng đại thần tranh luận một buổi, mới tạm thời gác lại chuyện phế lập đợi ba năm sau, nếu Đoàn Cẩm trở về vẫn còn thân phận chức vị Đông Cung, nhược bằng quá ba năm mà không về thì lúc ấy sẽ lập Thế Tử khác.
Đoàn Lão Hoàng Gia hết sức khó khăn khuyên lơn sự phẫn uất của các đại thần, dùng kế hoãn binh, hy vọng ba năm sau thế nào con mình cũng sẽ trở về, bao nhiêu việc rắc rối xảy ra sẽ giải quyết một cách êm đẹp.
Những buồn thay, ngày tháng thoi đưa ba năm thời gian loáng cái mắt đã qua rồi mà Đoàn Cẩm vẫn biệt vô âm tín, một số đại thần xôn xao bàn tán không ngớt, phần đông đều tưởng Thái tử không trở về theo thơ kỳ hẹn, có lẽ đã chết dọc đường. Chức vị Thế Tử không thể để trống vì Đoàn Lão Hoàng Gia tuổi hạc đã cao, vạn nhất giá băng về trời, thì ngôi lớn lấy ai kế tiếp ! Và Nam Chiến Quốc sẽ sa vào cảnh nổi loạn còn gì ?
Đoàn Lão Hoàng Gia không thể cưỡng lại ý kiến của triều thần, đành phải hạ chỉ phế bỏ Đoàn Cẩm, nhưng lại gặp phải một sự khó khăn khác vì Đoàn Lão Hoàng Gia trừ Đoàn Cẩm ra là con, không có hoàng tử nào khác thì lập ai làm kẻ thừa hành ngôi báu đây ?
Suốt ba tháng trời cân phân triều nghị, Đoàn Lão Hoàng Gia mới quyết định chọn con trai của em mình là Đoàn Chiêu làm Thái tử.
Cha của Đoàn Chiêu là Đoàn Tấn với Đoàn Lão Hoàng Gia là anh em ruột một cha khác mẹ, sớm đã có tham vọng cho con mình kế vị ngôi vua, giờ đây được Lão Hoàng Gia chọn con trai làm Thế Tử, thật là cơ hội tốt cho y biết mấy.
Đoàn Tấn là một người có dã tâm tham tàn lăm le lũng đoạn triều chính, thu tóm quyền hành vào một tay để đạt đến chức vụ Thái Thượng Hoàng mà từ bao lâu nay y khao khát.
Cho nên một năm sau, một năm con y được lập làm Thế Tử, Đoàn Tấn mượn danh can dự chánh sự.
Lần lượt tìm cách phế thải các vị đại thần trong triều, cất nhắc tâm phúc mình lên.
Ban đầu dùng kế hoạch thanh trừng từng người một, sau đấy sẽ tiến hành đến mưu lược soán vị kế ngôi.
Qua năm thứ hai, Đoàn Tấn chẳng biết từ đâu chiêu dụ được một gã tăng nhân cùng một tên đạo sĩ đến thành Đại Lý, rồi chẳng cần sự đồng ý của Đoàn Lão Hoàng Gia hay chăng tùy tiện phong cho gã hòa thượng chức Hộ Quốc Thiền Sư và tên đạo sĩ là Tử Quang chân nhân.
Gã hòa thượng ấy pháp danh là Ngộ Ứng là một tay khí công có hạng, thịt cứng như sắt đao thương chẳng phạm vào người, tự mình đặt cho cái hoa hiệu là Thạch La Hán.
Còn gã đạo sĩ tục tánh là Tốt, đạo hiệu là Diệu Chân, thiện dụng một cây phất trần bằng sắt, giang hồ quen gọi y là Thiết Phất Đạo Nhân .
Đoàn Tấn được thêm hai tên kiện tướng ấy như hổ thêm vây, triều thần còn vị nào dám chỉ trích hay dèm siểm Hoàng thúc Đoàn Tấn vài lời thì không tới ba ngày sau nhất định là chiếc sọ dừa trên cổ họ bị cắt mất một cách bí mật.
Một số người đồn đải là Thạch La hán và Thiết Phất Đạo Nhân, hai gã yêu đạo tay chân đắc lực của Đoàn Tấn kia đều có biệt tài phi thiềm tẩu bích lúc đến lúc đi không một tiếng động, cứ đến mỗi đêm là thi hành công phu dạ hành đến các tư dinh của triều thần lớn nhỏ để thám thính, hành thích, về phúc trình lại với hoàng thúc Đoàn Tấn.
Do đó, nhất cử nhất động của quan viên lớn nhỏ trong triều, Đoàn Tấn đều hiểu rõ như chỉ trên bàn tay. Những người nào có ý chống đối với Đoàn Tấn tất thế nào cũng chết vì hai tên yêu đạo ấy.
Do đấy Đại thần trong triều người nào cũng sợ hãi khiếp oai, thủ khẫu như bình, chẳng dám hó hé phạm đến Hoàng thúc nửa lời.
Đoàn Lão Hoàng Gia vô hình trung biến thành là một tượng phỗng bù nhìn, tha hồ cho Đoàn Tấn tác quái. Không những triều chánh bị bàn tay y lũng đoạn lộng quyền mà cho đến mọi sự trong cung vi cũng bị y xâm dự đến.
Có một lần y uống rượu say, trêu chọc một cung nữ, ả cung nữ ấy liền mách lại với Hoàng Hậu, qua ngày sau, ả cung nữ ấy bỗng biến mất tích một cách bí mật.
Độ ba hôm sau, thi thể của nàng nằm lõa lồ ngoài thành Đại Lý, nơi hạ thể máu me đầm đìa, chứng tỏ là bị hung thủ luân phiên nhau hảm hiếp đến chết.
Đại thần trong triều giả điếc, chẳng dám hó hé nửa tiếng.
Đoàn Lão Hoàng Gia thấy em mình mỗi chuyện mỗi đè ép mình quá mức, lúc ấy mới hối hận việc mình phế lập Thái tử thì đã muộn rồi.
Đoàn Lão Hoàng Gia phần vì buồn rầu các triều thần nhu nhược, khoanh tay mà nhìn non nước ngữa nghiêng, phần vì thương nhớ con mình, lần lần biến thành một chứng tâm bịnh, tinh thần hay hốt hoảng vô cớ.
Đoàn Tấn mới mượn cớ phao ngôn là Đoàn Lão Hoàng Gia long thể bất an, cần phải tịnh tâm nghỉ ngơi, mà Thái tử mới lập, tuổi hãy còn thơ, rồi tự mình kiêm lấy chức Nhiếp Chánh, thực hành mộng Hoàng Đế của mình.
Nam Chiến Quốc vốn ra rất phú cường, nhưng từ khi Đoàn Tấn đoạt vị lên ngôi không đầy hai năm, muôn dân than oán khốn khó nghèo nàn, dân chúng lưu ly khổ sở, nhưng bé cổ kêu chẳng thấu trời.
Đoàn Cẩm nghe xong tin tức ấy thật như sét đánh bên mày, đầu óc lùng bùng một lúc khá lâu mới định tỉnh tinh thần. Chẳng ngờ mình vừa rời quê hương sáu năm trời, Nam Chiến Quốc biến ra nông nỗi như thế !
Chàng cám ơn gã nông phu ấy xong, lòng sầu như lửa nung, đi suốt đêm ngày để mau về đến thành Đại Lý.
Không đầy hai ngày là đã đến bờ thành bên ngoài rồi.
Đoàn Cẩm định vào thẳng trong thành. Sực nghĩ lại một chuyện, thầm trách lấy mình :
- Ta ngốc thật ! Hoàng thúc sau khi độc chiếm triều chánh thế nào cũng chẳng đề phòng ngày trở lại của ta. Nếu thấy ta thì đâu dễ bỏ qua mà còn sai tâm phúc theo sát hại nữa là khác, ta đường hoàng vào thành Đại Lý thế này, có phải là tự đút đầu vào rọ chăng ? Bậy thật !
Nghĩ đoạn chàng chẳng vào mà quay trở lại hướng thành Tây, lên núi Điểm Thương sơn để tạm tránh tai mắt của Đoàn Tấn.
Phía Tây Đại Lý cảnh sắc đẹp như Đào Nguyên trên trần thế khí hậu bốn mùa êm mát tự xuân.
Đoàn Cẩm về đến Đại Lý thành vào tiết cuối xuân tháng ba, núi Điểm Thương khói sương liền giải, phản chiếu ánh hoàng hôn.
Như một giải lụa năm màu lửng lơ quanh sườn núi biếc, muôn hoa rực rỡ đủ màu, trà mi , đỗ quyên, hoa đào đỏ vàng chen sắc trắng, ô hợp thành một bức thảm linh động cả sắc lẫn hương.
Đoàn Cẩm mải mê nhìn cảnh vật, khắc khoải với tâm sự oằn nặng của mình, chợt nghe phía sau lưng có người sang sảng ngâm nga :
Cố quốc tam thiên lý
Thâm cung nhị thập niên
Nhứt thanh Hà mãn tử
Song lệ lạc quân tiền.
(Cổ quốc ba ngàn dặm
Cung sầu hai mươi năm
Một tiếng kêu con út
Lệ rơi nước mắt chàng).
Đấy là bài Đường thi mà Đoàn Cẩm thời nhỏ thường ngâm nga, chàng không khỏi giật thót mình, vội quay ra nhìn xem người vừa ngâm bài thi kia chính là một thư sinh áo vàng, ăn mặc theo lối nho sĩ, trán cao tai lớn mắt sao, tuổi không dưới ba mươi, phong nghi tuấn nhã, phong thái khác phàm.
Đoàn Cẩm vừa thấy mặt khách là trong lòng muốn kết giao ngay bèn tiến tới vòng tay thi lễ và nói :
- Nhân huynh nhã hứng lâng lâng, nên một mình thơ thẩn giữa hoang sơn, để ngâm thi định cảnh, giọng thơ sang sảng hào hùng khiến tiểu đệ khâm phục vô cùng.
Vị thư sinh áo vàng khẽ mỉm cười tự nhiên không đáp lại lời nói của Đoàn Cẩm, trái lại nói một cách bâng quơ :
- Đạo làm người tức là tâm, tâm tức là đạo, linh đài hễ thanh khiết, thị phi chẳng bợn lòng, còn gì dục niệm công danh phú quý nữa ?
Thế nhân cứ mải mê tranh quyết đoạt lợi, kỳ thật nháy mắt phồn hoa chỉ là Nam Kha giấc mộng, nếu biết trước được lẽ ấy có thể ngộ thành đại đạo rồi vậy.
Đoàn Cẩm thấy vị nho sinh áo vàng nói một cách lảng xẹt không đầu không đuôi như thế, không khỏi cười thầm trong bụng, hỏi thăm lai lịch tánh danh của chàng, thì chàng ta thình lình chỉ tay và nói :
- Tôn huynh nhìn kìa, bên kia phải chăng có người đang đi đến !
Đoàn Cẩm vội quay đầu về phía đường đi nhưng nào thấy bóng ai, chàng liền xoay lại định hỏi chàng thư sinh kia, thì lạ quá ! Trong khoảnh khắc nháy mắt ấy, chàng thư sinh nọ bỗng biến đâu mất.
Đoàn Cẩm hết sức kinh ngạc, vội dụi mắt mấy cái, mút mắt chỉ là núi đồi chập chùng, nào thấy bóng dáng chàng thư sinh đâu cả, nếu nói chàng thừa cơ bỏ đi, thì sao mới đó đã chẳng thấy ?
Nếu nói chàng có phép tàng hình lại càng vô lý hơn nữa !
Chẳng lẽ thư sinh nọ là ma quỷ hiện lên để trêu ghẹo mình sao ?
Đoàn Cẩm nghe mọc ốc cả thân thể , vội tung người chạy một hơi mấy dặm đường mới dừng bước lại .
Trời lúc ấy cũng đã tối dần, Đoàn Cẩm chờ cho màn đêm bao trùm khắp vũ trụ mới vào nội thành.
Nơi cửa thành quả nhiên có quân lính đứng gác, tra xét người đi đường.
Đoàn Cẩm thừa lúc tranh tối tranh sáng, quân canh đổi phiên nhau, trà trộn theo bá tánh vào thành, trời cũng vừa mới trở canh hai.
Đoàn Cẩm núp vào một xó tối, đợi đến sang canh ba mới ló mình ra, phi thân nhãy vụt lên nóc nhà dùng thuật phi hành đi thẳng đến hướng hoàng cung.
Chàng từ nhỏ đến lớn sinh trưởng trong hoàng cung, tất nhiên thông thuộc đường lối khắp nơi nên chỉ loáng mắt là đã đến đầu ngoài tường cung điện.
Khom người nhìn vào thấy không có ai, bèn tung mình nhãy vào một lùm hoa, nương theo đường mòn dùng thuật xà hành trườn tới, chợt thấy ánh đèn lấp loé, trên hành lang hiện ra một ngọn đèn lồng, người xách đèn là một cung nữ.
Đoàn Cẩm liền nhận ra ngay diện mạo của nàng cung nữ ấy, chờ cho cô ả đi đến gần, Đoàn Cẩm liền từ trong bụi hoa nhãy vụt ra đón lại và trầm tiếng quát :
- Đỗ Quyên , nhớ mặt ta chăng ? Định đi đâu đó ?
Ả cung nữ tên Đỗ Quyên nọ là một cung phi phục thị trong cung Hoàng hậu nên Đoàn Cẩm rất quen y.
Nàng chợt thấy từ trong lùm cây bỗng hiện ra một người, sợ đến hồn vía lên mây, đến lúc định thần nhìn kỹ càng hãi khiếp hơn nữa, run lẩy bẩy cơ hồ muốn buông rơi cả cây đèn xuống đất thất thanh kêu lên :
- Điện hạ ! Điện hạ về rồi, Điện hạ là quỉ hay là người .
Đoàn Cẩm tiến ra trước hai bước, nghiêm sắc mặt nói :
- Ta bất quá theo sư phụ du lịch xứ xa để tăng gia kiến thức vậy thôi chớ nào có chết đâu sao mi lại tưởng ta là quỷ ? Phụ vương ta đâu rồi ? Nói mau !
Đổ Quyên nghe xong mới yên tâm phần nào , nàng đưa mắt nhìn quanh bốn phía rồi mới đáp :
- Điện hạ về quá trễ rồi, Hoàng thượng từ ba năm trước...
Đoàn Cẩm nạt ngang :
- Mi khỏi nói ta cũng biết rồi, Phụ vương ta đã bị Hoàng thúc giam giữ một nơi kín đáo, vậy người ở nơi đâu mau đưa ta đi.
Đổ Quyên chậm rất đáp :
- Vâng ! Vâng ! Xin Điện hạ theo tiện nô !
Nàng bèn xách lồng đèn, dắt đi quanh qua quẹo lại hết mấy dãy hành lang, đến trước cử một tịnh thất, cung nữ ấy liền dừng bước và thình lình lớn tiếng :
- Điện hạ, Hoàng thượng ở bên trong, Điện hạ gặp người cần tĩnh tâm, đừng nói chuyện lớn kẻo người ngoài hay được, sẽ nguy cho Điện hạ và Hoàng thượng lắm đấy !
Đoàn Cẩm biết rõ tịnh xá này trước kia là Phật đường cũng là nơi Phụ vương chàng dùng để an trí mấy cung nữ gìa nua, chẳng ngờ ông lại phải giam mình vào nơi đây.
Chàng không khỏi chua xót trong lòng, vội khoát tay ra dấu bảo cung nữ :
- Ta biết rồi, mi đứng bên ngoài trông chừng giúp ta một chút, nghe chưa ?
Từ bên trong tịnh xá bỗng vang lên một giọng nói gìa nua :
- Ai ở bên ngoài nói chuyện gì thế ?
Đoàn Cẩm nghe rõ là tiếng của Phụ vương mình, không khỏi tim nhãy lên thình thịch, cảm động đến ứa nước mắt, tung mình nhãy tuốt ra song cửa, miệng hét lên nho nhỏ :
- Phụ vương, thần nhi bất hiếu hôm nay mới trở về thăm Phụ vương.
Chân chàng vừa chấm đất, chợt thấy trước mắt ánh sáng hoa lên, thì ra Phụ vương chàng đang cầm ngọn bạch lạp giơ trước mặt.
Dưới ánh sáng cây đèn sáp, chàng thấy khuôn mặt hiện giờ của Đoàn Lão Hoàng Gia, tuy đã sáu năm cách mặt nhưng cảm như đã gìa trên hai mươi năm, trán đầy vết nhăn, tóc đã trắng hết nửa mái đầu, thân hình ốm yếu hơn lúc trước nhiều.
Đoàn Cẩm hết sức đau đớn, vội quỳ xuống trước mặt Đoàn Lão Hoàng Gia, níu cứng vạt áo long bào của ông và không dằn được, khóc ồ lên.
Lão Hoàng Gia nước mắt cũng tầm tả , gượng gạt nước mắt nghẹn ngào bảo :
- Cẩm nhi, hiện giờ không phải là lúc cho phép cha con ta khóc nhau, thúc thúc của con độc chiếm vương quyền, trong triều đều là gian đảng cả, cho đến trong thâm cung cũng đều đầy dẫy tâm phúc của chúng, nếu bọn chúng hay con vào đây nhất định sẽ gia hại con, con nên tìm cách trốn đi.
Đoàn Cẩm vụt đứng phắt dậy, nghiến răng đáp :
- Tâu Phụ hoàng, không thể được, Phụ vương gặp phải cảnh hôm nay, đều tại thần nhi gây ra cả, thần nhi quyết sẽ tẩy sạch hận thù cho Phụ vương, con đi tìm Hoàng thúc ngay bây giờ !
Đoàn Lão Hoàng Gia vừa định lên tiếng can ngăn, bỗng ngoài tịnh thất có tiếng thét hốt hoảng "ối cha !"
Đúng là tiếng thét của ả cung nữ Đỗ Quyên, tiếp theo đấy là giọng ồ ồ của một người khác :
- Đỗ Quyên ! Canh ba nửa đêm, mi lấm lét đứng đây để làm gì ? Nói mau !
Đúng là tiếng nói của võ sĩ trong cung.
Lão Hoàng Gia sợ hãi đến tái trắng mặt, đẩy Đoàn Cẩm một cái.
Đoàn Cẩm nhìn quanh bốn phía thấy nơi giữa tẩm thất có treo một bức trướng, chàng lập tức thoắt người một cái lẹ như con hồ ly ẩn mình sau bức trướng.
Lúc ấy bên ngoài có tiếng Đỗ Quyên lập cập trả lời :
- Không có ! Tôi tôi... nghe Hoàng thượng đòi ăn sâm thang nên gọi tôi đến trú phòng thông báo đấy thôi !
- Mẹ kiếp nhà nó, nửa đêm gà gáy còn đòi uống sâm thang, ai tin lời quỷ quái của mi, mau cút đi không ?
Đỗ Quyên riu ríu dạ lên nho nhỏ rồi đi ngay.
Chẳng bao lâu sau, chiếc rèm tịnh thất được dở lên rồi có hai người võ sĩ khôi giáp đàng hoàng đi vào.
Hai tên võ sĩ ấy là giống người Nô Di, mày đậm mắt rô, lưng mang trường đao, hai gã tên là Kim Long và Hắc Hổ là hai tên giáp sĩ tâm phúc của Đoàn Tấn.
Kim Long tay bưng tráp thực phẩm Hắc Hổ cầm bình rượu vàng.
Lão Hoàng Gia thấy mặt bọn chúng như gặp phải hung thần, run lẩy bẩy hỏi :
- Bọn bây nửa đêm nửa hôm vào đây có chuyện gì ?
Kim Long cười nham hiểm tâu :
- Tâu Hoàng thượng, Hoàng thúc nghe nói Hoàng thượng suốt đêm tâm hồn ưu tư, không thể an giấc nên đặc sai tiểu thần đem một hồ bích Lục Tửu đến để Hoàng thượng giải sầu.
Hoàng thượng uống rượu này xong tâm thần sẽ êm ái lại thường chẳng còn nghĩ vơ vẩn nữa.
Lão Hoàng Gia biết ngay đó là bình độc tửu.
Không thể ngờ được em mình tàn nhẫn độc ác đến thế, đã tiếm lấy đại quyền lại còn muốn bức tử mình, kinh sợ đến mặt xám như tro chết nói lia lịa :
- Đâu có thể như thế ? Đâu có thể như thế ? Ngươi, ngươi mau kêu Hoàng thúc đến đây cho trẫm.
Hắc Hổ nói :
- Hoàng thượng, Hoàng thúc quyết là không thể đến rồi, Bệ hạ nên ngoan ngoãn uống đi để hoặc may bảo toàn được thi hài, bằng không hì hì...
Lão Hoàng Gia bỗng hét to :
- Cẩm nhi, hãy cứu Phụ vương !
Kim Long cười ha hả nói :
- Tâu Hoàng thượng, Điện Hạ đã chết lâu rồi, còn đâu mà gọi cho tốn công.
Y chưa kịp dứt lời bỗng nghe "vút !" một tiếng gió rít, lại cảm thấy sau gáy mình như bị một chiếc kềm sắt kẹp phải, hai tiếng "ối cha !" chưa kịp thoát ra lỗ miệng thì trên lưng bị đánh một quyền nghe "bình" một tiếng, như búa sắt đập lên mạnh mẽ dị thường, tuy có lớp áo sắt che chở bên ngoài nhưng cũng bị sức quyền xuyên vào trong đập mạnh lên sống lưng, khớp xương gảy lọi cho đến tim phổi cũng bị chấn nát.
Kim Long rống lên một tiếng đau đớn rồi nhào xuống chết tốt .
Thì ra Đoàn Cẩm thấy Hoàng thúc phái người đến bức tử cha mình, tình cha con thấm thiết đâu dễ làm ngơ, bèn từ sau bức trướng soạt bước nhãy vút tới dùng Đại Lực Ưng Chảo chộp lấy gáy Kim Long, tiếp theo đấy nện mạnh vào lưng y một ngọn Kim Cang Quyền, mà Kim Cang Quyền của Đoàn Cẩm có thể lở núi nát đá, thì da thịt của Kim Long làm sao chịu cho kham !
Hắc Hổ giật nẩy mình kinh hãi, vội xoay người lại rút thanh bội đao ra, nhưng động tác của Đoàn Cẩm nhanh hơn y nhiều, chân trái đã bay lên đá văng bình rượu bên tay trái y, chân phải tiếp theo với thế liên hườn thế pháp một tiếng bốp thật lớn, ngọn cước của Đoàn Cẩm đã xuyên lớp giáp hộ tâm, khiến y ngã ngược ra sau.
Song ly Hắc Hổ là một dũng sĩ hữu danh trong cung, tuy bị một cước nơi lồng ngực, vẫn còn nhịn được đau, phản kích lại một ngọn đao chém trả lại.
Đoàn Cẩm liền vung cánh tay sắt của mình ra gạt lưỡi đao trở ra, nhanh nhẹn lật tay chộp lấy sóng đao, dùng sức mạnh gạt một cái đã đoạt ngọn khí giới vào tay.
Hắc Hổ vừa bị tước khí giới, lập tức nhoài người theo thế Yến Tử Phiên Thân (chim én trở mình), tay trái vươn ra tức thì "soạt ! soạt !" từ tay trái bay ra ba mũi tụ tiễn, xẹt vút vào đối phương.
Đoàn Cẩm đâu xem trò trẻ con ấy ra gì, tay hữu khẽ nhấc lên, đã nắm gọn ba mủi tụ tiễn vào tay, tiếp theo đấy là một thế Ngũ Hổ Bảo Đầu (cọp đói ôm đầu) , rướn mình nhãy vù tới, quyền bên trái bay lên "bụp ! bụp !" hai tiếng, chiếc sọ dừa của Hắc Hổ nát ngướu thành một đống đậu hũ lầy nhầy, người y ngã vật ra đất.
Đoàn Lão Hoàng Gia thấy con mình cùng hai tên dũng sĩ hùm beo kia, quây quần nhau kịch liệt, người ông run rẩy như đang ở ngoài cơn gió tuyết, đến lúc thấy Đoàn Cẩm thần dũng vô song một quyền hai cước đã giết chết hai tên tâm phúc thị vệ của nghịch thần một cách dễ dàng không khỏi lòng gìa hớn hở.
Lão Hoàng Gia quên hẳn mình đang trong chỗ lãnh cung, lớn tiếng khen ngợi :
- Chết đáng lắm !
Đoàn Cẩm một chân lại bay lên đá hết hai xác chết vào một xó, vừa định lớn tiếng trả lời với Phụ vương, chợt nghe bên ngoài có tiếng chân bước lên gạch sỏi rào rào, từ xa đến gần.
Đoàn Cẩm liền hiểu ngay là lúc nãy mình triệt hạ hai tên thị vệ, vì tiếng vọng quá to đã náo động đến đám thị vệ bên ngoài.
Chàng liền quay lại nói với phụ vương :
- Phụ hoàng yên tâm ! Thần nhi bảo hộ phụ hoàng xông ra khỏi cấm cung.
Đoàn Lão Hoàng Gia run phát rét đáp :
- Vương nhi, làm sao được bây giờ trong cung cấm có trên mấy ngàn Ngự Lâm Quân đều là tâm phúc của Hoàng thúc con cả.
Đoàn Cẩm nghiến răng đáp :
- Mặc kệ mấy ngàn người, cha con ta chạy được tới đâu hay tới đó, ở đây cũng chết mà thôi !
Nói chưa dứt lời bên ngoài cửa tịnh cũng có tiếng gọi to :
- Lão Long, lão Hổ đâu rồi ! Công việc xong xuôi chưa, giết chết được lão gìa đáng ghét ấy chăng ?
Đoàn Cẩm lặng lẽ thổi phụt ngọn đèn trong cung, tay trái kẹp lấy cha gìa tay phải dựng hai xác chết dậy.
Vù vù hai chưởng, hai xác chết tựa như mọc chân, lao vút ra ngoài song cửa.
Bọn thị vệ bên ngoài xao động, hét tướng lên :
- Úy sao hai người đều chết cả rồi ! Bên trong có gian tế ! Anh em đâu, vào bắt gian tế cho mau !
Đoàn Cẩm quơ lấy một ghế bằng cây giáng thương, nhắm ngay nơi có tiếng nói thẳng tay vụt mạnh ra cửa sổ, tức thì "bộp ! bộp !" liên tiếp hai tiếng, hai thị vệ trong bọn bị trúng phải té ngữa trên đất, bọn thị vệ còn lại la hét náo động vang dậy cả lên.
Đoàn Cẩm cười lên một tràng dài, rồi cõng xốc Lão Hoàng Gia phi thân ra ngoài.
Chàng vừa xông ra khỏi tịnh cung liền thấy mười mấy tên võ sĩ tay lăm lăm khí giới từ phía cửa chạy ùa vào, bọn chúng nhìn thấy Thái tử Đoàn Cẩm đều không khỏi sững người ngạc nhiên vô cùng.
Đoàn Cẩm bình tĩnh đặt cha gìa xuống đất, đoạn hét lên một tiếng cực lớn và dùng chiến pháp Không Thủ Nhập Bách Nhẫn (tay không vào trăm đao) xông vào đám đông, chỉ không đầy ba, bốn hiệp đã đoạt được hai món khí giới cầm trên tay tới lui ngang dọc, chém phải tạt trái đánh thôi bọn võ sĩ ngã lăn chiêng lăn cù, kêu khổ liên miên, mạnh tên nào tên nấy ôm đầu lủi như chuột, về báo với đầu lảnh Ngự Lâm Quân của chúng.
Đoàn Cẩm thấy đám võ sĩ thua chạy vắt giò lên cổ, đắc ý cười vang ha hả.
Đoàn Lão Hoàng Gia không ngờ con mình lại thần dũng hơn người như thế, mừng lo lẫn lộn, không khỏi bừng lên hy vọng sống còn, cất giọng run run hỏi :
- Cẩm nhi, con nhắm có thể thoát ra ngoài không !
Đoàn Cẩm ứng tiếng đáp :
- Tâu Phụ vương, có gì chẳng được, bọn võ sĩ này đối với con chỉ là đồ bị thịt mà thôi.
Tuy bên ngoài chàng nói cứng như thế để an ủi cha già, chớ thật sự trong lòng lo âu khôn cùng, vì Đoàn Cẩm dư hiểu trong cũng có trên mấy ngàn Ngự Lâm Quân và vệ sĩ, một mình tất nhiên là không sợ, nhưng còn phải bảo vệ cả Phụ vương, đánh giết để thoát ra khỏi hang hùm, thật là đáng ngại vô cùng.
Nếu đối phương dùng cung tên loạn xạ, thì tánh mạng của cha gìa kể như kết liễu chẳng còn.
Chàng vừa kẹp Lão Hoàng Gia chạy được vài bước thì bốn phía sáng rỡ như ban ngày.
Bọn Ngự Lâm Quân và võ sĩ đã ùn ùn kéo đến, hét hò vang trời :
- Đừng để thích khách trốn khỏi !
Đoàn Cẩm thấy tình thế như vậy biết khó mà đột phá khỏi vòng vây, tầm mắt chàng chợt nhìn thấy, nơi xa xa về phía trái độ vài trượng ngoài, sừng sững một tòa Vọng Tinh Đài.
Tòa đài vọng sao ấy xây bằng đá cẩm thạch, trên đài có một sân đá rộng độ hai thước vuông, châu vi có một hàng lan can ước hai thước cao, sơn đỏ, đài cao độ hai trượng, chỉ có một hàng bực thềm bằng đá duy nhất thông lên trên đỉnh đài, nóc đài trống trải lộ thiên, bên trên để ba bốn chục đỉnh bằng đồng nặng ba bốn trăm cân gì đó, là nơi để quan Khâm Thiên Giám quan sát tinh tú, hầu đoán vận mệnh nước nhà. Đoàn Cẩm nhìn thấy tòa vọng sao xây bằng đá nọ, liền nảy sinh một chủ định. Chàng kẹp Đoàn Lão Hoàng Gia vào người, chạy bay đến dưới chân đài, tung mình nhãy phóc lên đỉnh đài nhẹ như tàu lá rơi.
Lúc ấy đó có vài mươi tên Ngự Lâm Quân xông vào vườn hoa rồi, chúng nhìn thấy một gã thiếu niên, kẹp nách Hoàng Đế nhãy vụt lên đài vọng tinh, liền thét vang lên, cử động binh khí ùn ùn kéo đến dưới đài, định theo bực thềm đá xông lên.
Nào ngờ Đoàn Cẩm đã sẵn định ý, lựa một chiếc đỉnh lớn nhất đỉnh đài, vận thần lực bê gần đến bên lan can, nhầm ngay bậc đá đẩy mạnh xuống, tức thì "ầm ! ầm !" như tiếng nói lở, mười mấy tên võ sĩ xông lên trước nhất, không kịp trở xuống, hứng trọn chiếc đỉnh như ngọn núi Thôi Sơn từ trên lăn ào xuống, tông vào người đè phải ruột bể bụng, chết lểnh nghểnh trên mặt đất.
Phương pháp xô đỉnh đè người của chàng quả nhiên có hiệu nghiệm, bao nhiêu Ngự Lâm Quân còn lại nhãy cỡn lên, không tên nào dám bén mãng tới gần nữa.
Đoàn Cẩm lại bê chiếc đỉnh thứ hai để bên lan can, đoạn lớn tiếng gọi :
- Bọn chúng bây nghe đây, ta là Thế tử Đoàn Cẩm, vì Hoàng thúc chuyên quyền khiến triều đình đầy tràn gian thần tặc đảng, sanh linh đồ thán khôn cùng, nên ta phụng lệnh ân sư Ngọc Động Chân Nhân trở về thăm viếng Phụ hoàng, cùng giải cứu bá tánh Nam Chiến Quốc khỏi cảnh điêu linh, bọn ngươi sao chẳng hiểu lẽ trời còn giúp kẻ gian làm quấy thế !
Lúc ấy bọn vệ sĩ trong cung đã nhìn thấy rõ mặt mày của Đoàn Cẩm, tên nào cũng ngần ngại chẳng dám tiến lên, vì thần dũng của Đoàn Cẩm đã vang đồn khắp toàn quốc đều biết, nội sự nhấc bổng chiếc đỉnh nặng ba bốn trăm cân thảy trở xuống một cách nhẹ nhàng vừa rồi cũng đủ chứng minh lời đồn đại từ bao lâu nay rồi. Tuy bọn chúng kéo đến đông nghẹt đến mấy trăm tên nhưng chỉ đứng nhìn chứ chẳng có tên nào dám đối thủ nữa.
Trong lúc đó thì Đoàn Tấn cũng tiếp được tin của vệ sĩ trong cung báo cáo Thái tử Đoàn Cẩm đã trở về, y giật bắn cả mình mẩy vội kéo Thế tử Đoàn Chiêu cùng hơn một ngàn tên Ngự Lâm Quân, ngoài ra còn có trên ba trăm tay cung thủ, kéo vội đến Vọng Tinh Đài.
Đầu tiên y ra lệnh cho đoàn Ngự Lâm Quân và đội cung thủ bao vây cẩn mật xung quanh đài, đoạn vênh váo đi đến bên Vọng Tinh Đài lớn tiếng gọi :
- Ai là điệt nhi Đoàn Cẩm, hãy ra đây nói chuyện.
Đoàn Lão Hoàng Gia nghe tiếng Đoàn Tấn giận đến răng nghiến ken két , vội gọi con :
- Cẩm nhi, thằng gian thần ấy đó đến rồi kia !
Đoàn Cẩm an ủi cha gìa :
- Phụ vương đừng vội , Phụ vương hãy núp kín sau chiếc đỉnh đồng, để con ra đối chất với tên gian tặc
Nói đoạn chàng từ phía sau lan can đứng dậy.
Vừa mới lú mặt ra ngoài thì có tiếng xé gió "vút vút !" một loạt tên từ phía dưới loạn xạ vào hướng trước mặt.
Đoàn Cẩm không chút sợ, ngang nhiên đứng sững trên đài, hai mươi mấy mũi tên rít trong không khí lao đến vun vút tha hồ trúng vào mặt vào người hay tứ chi.
Đoàn Cẩm như chẳng hay biết, bao nhiêu mũi tên vừa chạm đến thân thể chàng đều tự dưng rơi lả tả xuống đất, dường như bắn trúng vào bức tường bằng đá hay sắt vậy.
Đoàn Cẩm vẫn vô sự như không, bọn cung thủ không khỏi kinh hỏi sững sốt quên cả buông cung.
Khi ấy, Đoàn Cẩm mới quát mắng oai nghiêm chỉ ngay Đoàn Tấn và quát lớn :
- Ngươi như vậy mà xứng đáng làm chú ta sao, mở miệng kêu ta bằng cháu mà chẳng thẹn ư ? Ta chẳng qua theo sư phụ vân du giang hồ thế thôi, ngươi lại nỡ đem Phụ vương ta giam vào lãnh cung, đêm nay lại còn sai người đem độc tửu đến thuốc chết phụ thân ta ! Ngươi quả là một tên táng tận cả thiên lương !
Đoàn Tấn bừng bừng nổi giận, nạt lại :
- Ta sai người đến thuốc chết cha mi hồi nào ? Rõ ràng là ngậm máu phun người, mi đi suốt bảy tám năm trời chẳng trở về, nước nhà không thể một ngày vô chủ, tất nhiên phải lập Thế tử khác, mi khuya khoắt nửa đêm trà trộn vào cung ép bức
Thánh thượng tội ác tày trời, bay đâu, túm cổ tên súc sinh ấy cho ta !
Đoàn Tấn vừa ra lệnh, mấy trăm tên Ngự Lâm Quân và vệ sĩ trong cung, đồng cử động đao thương ồ ạt tiến lên Vọng Tinh Đài.
Nhưng vì Vọng Tinh Đài cao trên hai trượng, mà trong bọn chẳng có tên nào biết thuật khinh công, chỉ nương theo bậc gạch mà tiến lên xung sát.
Đoàn Cẩm gầm lên một tiếng cực lớn phi thân nhãy qua khỏi lan can, đáp nhẹ trên nửa đoạn bậc thang lên đài.
Hai tên Ngự Lâm Quân xông tới, Đoàn Cẩm đã nện cho mỗi gã một thoi, đánh rơi lông lốc trở xuống như trái dừa khô.
Bốn tên khác lại ào một lượt leo lên tấn công.
Đoàn Cẩm dùng Tảo Đường Thối một quét một móc, cả bốn tên cùng một lượt nhào trở xuống như đá bưng núi lở, liên tiếp mấy loạt xung quanh phòng của đoàn quân Ngự Lâm Quân tấn công lên đều bị Đoàn Cẩm trổ thần uy, chân quét tay đấm hoặc chộp gảy quăng nhầu.
Trong khoảnh khắc trên bảy tám mươi tên vệ sĩ đều bị chàng khi đấm, khi ném nhào trở xuống, té thôi gảy chân lọi tay bể đầu dập mặt rên khóc như ri.
Kỳ dư bao nhiêu vệ sĩ còn lại, thấy trên bực đá, nằm ngổn ngang những đồng bọn bị thương lăn lộn rên la, không khỏi ruột gan lạnh ngắt, chỉ đứng xa xa hò hét để hư trương thanh thế chứ chẳng dám tiến lên nữa.
Đoàn Tấn không ngờ Đoàn Cẩm sức mạnh như thế, mà Vọng Tinh Đài toàn bằng đá, muốn phóng hỏa cũng không được, bọn vệ sĩ lại không phải là đối thủ của Đoàn Cẩm.
Đang lúc giận chỉ hét như sấm, thì Thế tử Đoàn Chiêu bỗng nghĩ được một quỷ kế liền kề tai nói nhỏ với cha.
Đoàn Tấn đổi giận làm vui mừng gật đầu lia lịa, lập tức quay sang dặn dò mấy tên vệ sĩ bên cạnh đến Chiêu Dương cung cứ y theo kế hoạch mà thi hành.
Đoạn ngẫng đầu lên gọi lớn Đoàn Cẩm.
- Súc sinh, hãy bớt hung hăng, ta đã sai người đi bắt mẫu hậu của mi, trói trước đài nếu mi chẳng bó tay chịu trói, ta sẽ giết mẹ của mi trước làm gương.
Thủ đoạn bức chế ấy thật vô cùng lang độc.
Đoàn Cẩm vừa nghe không khỏi giật mình, mồ hôi ướt đẫm cả vầng trán.
Đoàn Lão Hoàng Gia núp sau chiếc đỉnh đồng cũng lạc giọng kêu lên :
- Chết mất con ơi ! Tên gian tặc định hại mẫu hậu của con nữa đấy .
Đoàn Cẩm lòng như lửa đốt, ruột gan rối bời, chàng chợt nhìn thấy con của Đoàn Tấn là Đoàn Chiêu đang đứng ở phía hữu của Vọng Tinh Đài, cách chỗ chàng đứng không đầy mười trượng.
Đoàn Cẩm sực nghĩ được một kế, chàng bèn nhãy vút trở lên đài, nhấc bổng chiếc đỉnh đồng ba bốn trăm cân kia lên, rồi cả người lẫn đỉnh, tung mình từ trên bực đá nhãy xẹt vào giữa đám đông, hét lên một tiếng rúng động cả cung điện, hai tay vung mạnh lao mạnh chiếc đỉnh nặng nề vào giữa đoàn Ngự Lâm Quân.
Bọn binh sĩ thấy chiếc đỉnh hơn bốn thước bề cao từ trên không úp chụp trở xuống đầu, bọn chúng sợ đến phân tiểu xón cả trong quần, kêu thét hải hùng chạy tán loạn khắp bốn phía.
Đoàn Cẩm thừa lúc bọn chúng thi nhau lủi đầu chạy như bầy chuột, đột nhiên, dùng thân tháp Thanh Đình Sao Thủy (chuồn chuồn xớt nước) lướt tới trước mặt Đoàn Chiêu.
Đoàn Chiêu trong lúc dương dương đắc ý đứng bên cạnh mấy tên giáp sĩ của mình, không ngờ Đoàn Cẩm dùng kế thanh Đông kích Tây nhãy đến trước mặt mình không khỏi tay chân luống cuống, chưa kịp mở miệng la lên thỡ lẹ như chớp đó cảm thấy cánh tay của mình bị Đoàn Cẩm khóa chặt. Vừa muốn vùng vẫy kêu cứu, Đoàn Cẩm đã sức mạnh như cọp xoay mình gọn gàng, nhấc thân hình Đoàn Chiêu giơ cao lên và hét vang :
- Tên nào muốn chết thì cứ việc tiến lên !
Bọn vố sĩ đều hốt hoảng vẹt sang hai phía.
Đoàn Cẩm cười nhạt một tiếng, kẹp Đoàn Chiêu vào nách rồi ngang nhiên lớn bước đi thẳng trở lại Vọng Tinh Đài.
Đoàn Tấn không sao ngờ được Đoàn Cẩm bắt cóc Đoàn Chiêu để khống chế mình, vừa thẹn vừa giận, hy vọng bắt Tiêu Hoàng hậu đem ra để làm cái bung xung buộc Đoàn Cẩm phải bó tay đầu hàng chẳng dè con mình quá khù khờ để cho Đoàn Cẩm túm cổ một cách dễ dàng, hai bên đều trở thành trong thế kẹt, ném chuột sợ vỡ đồ.
Đoàn Tấn tức tối như thể lửa nung gan phổi , đang lúc dậm chân chắt lưỡi hít hà, thì vệ sĩ đã đưa Tiêu Hoàng Hậu đến nơi.
Hoàng Hậu áo quần xốc xếch, tóc tai rối bời, gọi lên liền miệng :
- Con ta đâu rồi ? Con ta đâu rồi ?
Đoàn Tấn thấy bộ dạng Tiêu Hoàng Hậu tiều tụy như thế, trong đầu liền loé lên một tia sáng lớn tiếng gọi :
- Súc sinh, mi đừng tưởng bắt được con ta là dọa nạt được ta đâu. Ta có tất cả bảy người con, dù cho mi có giết chết Chiêu nhi, ta cũng còn lại sáu đứa, mà mi thì chỉ có một người mẹ duy nhất. Ta giết mẹ mi chết, mi sẽ ân hận suốt đời, mi thử nghĩ xem ai lời hơn ai ?
Đoàn Cẩm bắt Đoàn Chiêu lên Vọng Tinh Đài, trói quặt hai tay ra sau, để nằm dưới đất nhưng khi nhìn thấy một từ mẫu sau sáu năm trời cách biệt, hình dung vàng võ tiều tụy, bị mấy mươi tên vệ sĩ hùng hổ như lang sói giữ chặt và dẫn đến bên đài.
Đoàn Cẩm không khỏi vùng lên thiên tính mẫu tử thâm tình, chàng ngẫng đầu lên trời than dài .
- Thôi rồi, thôi rồi, ta làm liên lụy cả mẹ hiền của ta .
Than chưa dứt lời từ trong Ngự Lâm Quân vừa kéo đến. Nhảy vút ra hai cái bóng người một tăng một đạo, chính là hai gã Thạch La Hán và Thiết Phất Đạo Nhân, hai tên hộ trợ ở đắc lực nhất của Hoàng thúc Đoàn Tấn.
Một trong hai người cất tiếng hét vang :
- Bọn vô tài vô dụng này, có mau cút ngay không để cho anh em ta túm cổ thẳng tiểu tử kia xem nó có bao nhiêu bản lãnh, xứng đáng đối phó với thủ đoạn của Hộ Quốc Thiền sư ta cùng Tử Quang đạo hữu chăng ?
Nói đoạn Thạch La Hán gầm lên một tiếng để thị uy rồi hươi cây Thiết Thiền Trượng xông thẳng lên đài tấn công.
Thiết Phất Đạo Nhân cũng vũ lộng phất trần theo sát chân gã thầy chùa tiến lên.
Đoàn Cẩm thấy bộ pháp hai người như bay, biết rõ là hai tên kình địch, mẹ của chàng hiện giờ lọt vào tay gian thần khó thể tùy tiện làm hại con y là Đoàn Chiêu được.
Chàng chẳng chút chậm trễ nhấc bổng chiếc đỉnh thứ ba trên Vọng Tinh Đài đứng áng ngay bực đá.
Thạch La Hán dẫn đầu nhãy vút lên múa tít cây thiền trượng theo thế Thanh Long Bái Vĩ (rồng xanh quẫy đuôi), quét vút vào hạ tam bộ của đối phương.
Đoàn Cẩm vội dựng chiếc đỉnh đồng hất trở lại, "cong !" một tiếng chát chúa, hai món binh khí nặng chạm nhau, sao lửa văng đầy trời.
Thạch La Hán cảm thấy hai tay tê rần.
Đoàn Cẩm cũng không tránh khỏi hổ khẩu tay đau buốt như kim châm.
Đoàn Cẩm nổi xung quát to một tiếng hai tay nắm chặt hai chân đỉnh, chàng dựng chiếc đỉnh đồng mấy trăm cân kia sử dụng như tấm thuẫn bài, tấn công đối phương theo thế Vân Đoạn Tọa Sơn (mây vút núi nằm) trong pho Bát Quái Hỗn Nguyên Bài, quét mạnh ngang hông đối phương.
Thạch La Hán thấy chàng tuổi còn nhỏ nhưng mà vũ lộng chiếc đỉnh như gió thì không khỏi kinh hồn.
Cây thiết thiền trượng hất trở lên theo chiêu Tiềm Long Xuyên Tháp (rồng lặng qua tháp) gõ mạnh vào bụng đỉnh đồng đón lại , "kinh" "coong" hai tiếng ngân lên chát cả màng tai, thiền trượng và đỉnh đồng lại tông thẳng vào nhau, lửa sao lại bắn tung toé khắp bốn phía.
Đoàn Cẩm càng đánh càng hăng, vung chiếc đỉnh đồng nghe vù vù trong không khí, bổ thẳng xuống đỉnh đầu kẻ địch.
Thạch La Hán hai lần đở chiếc đỉnh, hai tay đã chấn động đến tê rần không sao dám đở nữa, nên vội dùng chân pháp Dao Từ Phân Thân (chiếc diều lật mình), từ trên bực đá uốn lưng nhãy vút xuống dưới.
Đoàn Cẩm đang định thừa thắng truy kích, thì Thiết Phất Đạo Nhân đã từ một gốc khác phi thân bay vút lên đài, hung hăng nhãy đến bên Đoàn Lão Hoàng Gia đang ẩn núp.
Đoàn Cẩm cả kinh, sợ Thiết Phất Đạo Nhân làm hại cha mình, sốt ruột gầm lên một tiếng như cọp, cả người lẫn đỉnh quay phắt trở lại đứng che mình trước mặt Đoàn Lão Hoàng Gia.
Thiết Phất Đạo Nhân định bụng dùng ngọn phất trần sắt đập bể sọ Đoàn Lão Hoàng Gia giúp Hoàng thúc Đoàn Tấn trừ trước hậu họa, sau đấy sẽ giúp tay Thạch La Hán vây đánh Đoàn Cẩm.
Chẳng dè Đoàn Cẩm đánh thục mạng mấy thế đỉnh khiến Thạch La Hán phải thối lui trở xuống, rồi lẹ như chớp nhãy trở lại che chở cho cha.
Thiết Phất Đạo Nhân thầm khiếp phục tài nghệ cao cường của đối phương, xỉa mạnh cây phất trần sắt ra trước quát lớn :
- Tiểu tử muốn chết !
Ngọn phất trần như một làn điện xẹt lao nhanh vào Kỳ Môn huyệt nơi trước ngực chàng.
Đoàn Cẩm nghiêng người tránh qua một bên , chiếc đỉnh trên tay đồng thời quét mạnh trở ra phản kích lại.
Nhưng chiêu số của cây phất trần trên tay Thiết Phất Đạo Nhân lanh lẹ quái dị vô cùng lại lẹ làng thoăn thoắt , thoạt tới thoạt lui, như cheo như vượn, ngọn phất trần trong khoảnh khắc tấn công ra bảy chiêu liên tiếp, điểm, chọt vào bảy nơi huyệt đạo ở trung và thượng bàn của Đoàn Cẩm.
Đoàn Cẩm vì chiếc đỉnh quá nặng nên xoay trở có phần chậm chạp , so bì với loại khí giới điểm huyệt có phần thất thế hơn nên liền gầm lên một tiếng như cọp, ném ngay chiếc đỉnh đồng xuống đất đánh "sầm" một tiếng, dùng hai tay quyền để chống đở với ngọn phất trần lợi hại của địch thủ.
Hai người nhãy tới tràn lui, lúc công lúc thủ loang loáng như điện chớp sao giăng, khoảnh khắc đã giao đấu nhau trên mười hiệp.
Thạch La Hán trong khi ấy kéo rốc đại đội Ngự Lâm Quân xông lên đài Vọng Tinh .
Đoàn Cẩm vì bận cầm cự với Thiết Phất Đạo Nhân vô phương bảo hộ cha già, chàng thầm than trong lòng :
- Không xong ! Hết cả rồi !
Trong lúc chàng định bó tay chịu hàng để khỏi liên hại đến cha mình, thì trên nửa chừng không vọng lại một tiếng hú lảnh lót vang rền, rồi một bóng vàng thoáng chẳng biết từ hướng nào đáp xuống.
Một vị áo vàng chỉ vung tay một chiêu đã dở hỏng Thạch La Hán lên khỏi mặt đất, rồi ném cả người lẫn trượng bay tuốt xuống dưới đài
Sự xuất hiện đột ngột ấy khiến mọi người kinh hãi không ít.
Đoàn Cẩm định thần nhìn kỹ, trong bụng mừng thầm, té ra người áo vàng không ai khác hơn là vị thư sinh trung niên mà chàng đã gặp trên Điểm Thương Sơn lúc ban chiều, và chờ trong lúc chàng đang trong cảnh thập phần nguy hiểm đột ngột hiện ra trợ giúp.
Đoàn Cẩm phấn khởi trong lòng, gọi lớn :
- Nhơn huynh, mau giúp tiểu đệ bảo hộ gia nghiêm.
Chưa kịp dứt lời thì vị thư sinh áo vàng ấy đã tóm thêm bảy tám tên thị vệ ném lăn quay xuống bực thềm đá, thủ pháp nhanh nhẹ , quả là một tay cao thủ tài nghệ tuyệt vời.
Kỳ dư bao nhiêu vệ sĩ còn lại đều kinh hồn thất đảm ùn ùn vừa lăn vừa bõ chạy nhào trở xuống đất để thoát thân.
Vị thư sinh áo vàng lúc ấy mới ngẫng đầu bảo Đoàn Cẩm :
- Này ! Tên mũi trâu cầm phất trần sắt kia để tôi đối phó cho, các hạ yên tâm xuống đài làm cỏ đám phản loạn kia đi.
Đoàn Cẩm gật đầu tràn mình về một phía.
Thư sinh áo vàng với hai bàn tay không vun vút trái phải hai bên, không đầy ba bốn hiệp, Thiết Phất Đạo Nhân đã thối lui lia lịa ra sau.
Đoàn Cẩm mừng rỡ trong lòng, biết mình đã may mắn được một tay trợ giúp đắc lực chuyển đổi cả thế cuộc, nên thừa cơ xuống đài cứu mẹ.
Nghĩ rồi chàng nhấc bổng chiếc đỉnh đồng nhún chân nhãy xuống dưới đài, lần này chàng không còn e ngại gì nữa, tung mình lướt đến bên Đoàn Tấn xông sát.
Đoàn Tấn hết sức kinh hãi.
Thạch La Hán vội vung cây thiền trượng lướt tới đón lại nạt to :
- Tiểu tử, mi muốn mẹ mi sống hay là chết ?
Đoàn Cẩm gầm lên như điên, đáp :
- Tên gian vương, nếu giết chết mẹ ta, Đoàn Cẩm này sẽ nghiền nát người nó ra trăm ngàn mảnh vụn để đền mạng cho mẹ ta, thằng giặc trọc chó chết nhà mi, dám trợ Trụ làm ác khó mà thoát khỏi cái chết.
Tiếng nói vừa dứt, chiếc đỉnh đồng trên tay Đoàn Cẩm cũng bổ xuống chiếc đầu trọc phếu của y.
Thạch La Hán tuy lúc nãy bị vị thư sinh áo vàng ném lộn mèo xuống đài nhưng vì y có tên là Thạch La Hán da thịt cứng như sắt nguội nên dù bị ném xuống rất mạnh cũng chẳng làm y bị thương được.
Y gầm một tiếng thật lớn múa tít cây thiền trượng theo thế Phong Ma Trượng, bóng trượng chập chờn bốn phương tám hướng áp được vây chặt Đoàn Cẩm vào giữa.
Đoàn Cẩm vẫn không nao núng, vung chiếc đỉnh đồng ba chân, rít gió nghe ào ào như cuồng phong bão tố, sử dụng một lối đánh lạ kỳ cả người lẫn đỉnh quyện thành một khối loanh quanh khi tới lúc lui như trò múa rối, xông bên Đông gạt bên Tây không đầy hai mươi thế đỉnh đã khiến Thạch La Hán từng bước, từng bước nhãy lui ra sau không kịp thở.
Đang lúc đấu nhau mùi mẫn trên đài bổng có tiếng thét lên rùng rợn, rồi có một bóng người lao vụt xuống như mũi tên.
Đoàn Cẩm trong cơn bất ngờ, giật nẩy mình vội hoành đỉnh đề phòng, đến lúc định thần nhìn kỹ, thì kẻ lao xuống chính là Thiết Phất Đạo Nhân, đỉnh đầu bị thủng một lỗ lớn, chất óc lẫn máu tươi phọt ra cả bên ngoài văng đầy cả mặt đất.
Đoàn Cẩm càng cảm thấy tinh thần phấn chấn thập phần.
Gã Thiết Phất Đạo Nhân vốn là một cao thủ trong phái Không Động. Ngọn phất trần, chiêu số biến hóa kỳ ảo dị thường có thể như Ngũ Hành Kiếm Thuật xung kích, lại có thể như phán quan bút đâm điểm tấn công vào các yếu huyệt đối phương, nếu luận về võ công thì y cao hơn Thạch La Hán gấp mấy lần, vốn ra không thể đại bại đến vong mạng một cách mau chóng như thế, nhưng vì hôm nay y gặp phải thư sinh áo vàng là một bậc kỳ nhân cái thế, bàn lãnh của chàng cao diệu không sao tưởng tượng nổi.
Khi chàng vừa ra tay giao đấu với Thiết Phất Đạo Nhân đã sử dụng một pho chưởng pháp rất kỳ lạ, tà áo vàng thư sinh của chàng phất phới dịu dàng , người chàng như chẳng có xương cốt , mềm mại tựa bông gòn , luồn qua lộn lại, quay mòng mòng xung quanh Thiết Phất Đạo Nhân, hai chân bám chặt theo Cửu Cung Bát Quái thoăn thoắt bay tới đáp lui như hai cái chày máy giả gạo vậy .
Pho quyền pháp của chàng nếu nói là Du Thân Bát Quái quyền thì không giống, mà liệt vào Cửu Cung Thần Hành chưởng cũng không phải nốt
Thiết Phất Đạo Nhân cảm thấy trước mắt ảo loạn bóng người chập chờn sau trước, mường tượng như có trên mười bóng áo vàng quây tròn xung quanh mình như bánh xe gió, làm lão ta nhức đầu hoa mắt, đừng nói môn sở trường là Thiết Phất đả huyệt pháp không thể sử dụng ra được mà cho đến công phu gạt đở cũng chẳng có .
Không đầy mười hiệp quần nhau, bả vai Thiết Phất Đạo Nhân đã liên tiếp trước sau lãnh trọn ba ngọn chưởng của đối phương.
Nhờ công lực thâm hậu, nên nơi chỗ trúng chưởng chỉ cảm thấy đau buốt như đốt vậy thôi và nếu Thiết Phất Đạo Nhân biết rõ cơ tấn thối, lùi trở xuống đài thì hoặc may tánh mạng được bảo toàn.
Chẳng ngờ lão ta bị phải mấy chưởng thẹn quá sinh khùng, một mặt vung tít ngọn phất trần bên tay hữu bảo vệ khắp châu thân, tay trái cũng loang loáng theo quyền thế Hắc Hổ của Không Động phái, chặt, chém, đở, gạt, phản kích với đối phương kịch liệt rồi bất thần, lảo đảo mạnh chiếc đuôi phất trần bắn ra một loạt kim vàng lóe mắt, bay vút vào đầu và mặt vị thư sinh áo vàng.
Ám khí của Thiết Phất Đạo Nhân vừa sử dụng kia gọi là Kim Phong Thần Châm, mũi châm nhỏ như lông trâu dấu trong cán phất trần bên trong có lò xo, lúc dùng chỉ cần bấm nhẹ lưỡi gà đảo lẹ cán phất trần trở lại, ba mươi mủi thần châm sẽ đồng loạt bay ra, khít khao như mưa bất, bắn vút vào đầu mặt, cùng các huyệt đạo yếu hại của đối phương.
Những mủi thần châm ấy được ngâm trong chất thuốc cực độc, mỗi khi trúng vào thân người lập tức ghim lút vào da thịt, mười hai giờ đồng hồ sau độc tố theo máu công lên quả tim, nạn nhân sẽ ngã ra chết không phương cứu chữa.
Thản hoặc vừa trúng phải độc châm, kịp thời dùng nội công phong bế mạch đạo, ngoài ra uống thuốc giải độc, rồi dùng đá nam châm hút mủi kim độc ra thì may thoát chết nhưng cũng không tránh khỏi suốt đời tàn phế.
Đấy là môn ám khí trấn sơn của phái Không Động, có danh là lang độc. Thiết Phất Đạo Nhân cũng ít khi dám khinh xuất đem ra dùng nhưng vì liên tiếp bị trúng phát mấy chưởng, khí vận bừng lên, bèn xuất kỳ bất ý bắn kim phong thần châm ra, định dồn đối phương vào tử địa để kết thúc trận đấu.
Nào ngờ kiến thức của vị thư sinh áo vàng rất quảng bác, vừa thấy từ cán phất trần của đối phương vung lên, bay tản ra những làn ánh sáng lấp lánh, lập tức hiểu ngay đối phương sẽ dùng loại ám khí gì rồi, không khỏi nổi giận xung thiên chàng vội tung mình dùng thế Độc Hạc Xông Tiêu (chiếc hạ tung mây) nhấc người lên khỏi mặt đất trên hai trượng),
tiếp theo đấy là một luồng chưởng phong cường mạnh đánh rơi tất cả những mủi độc châm rơi lả tả dưới đất, liền theo đấy, đạp chân vào khoảng không, uốn mình lượn thành nửa vòng tròn ở nửa lừng bay trở xuống, cánh tay trái bất thần vươn ra dài hơn một thước, chiếc bàn tay xòe ra như một thỏi sắt vỗ mạnh xuống đầu đối phương.
Thiết Phất Đạo Nhân nhìn thấy thủ pháp và thân pháp của vị thư sinh áo vàng sực tỉnh ngộ thất thanh la ó :
- Ôi cha ! Mi là môn hạ của Toàn Chân Giáo, đừng sử dụng Thôi Tâm chưởng pháp hai bần...
Lời chưa kịp dứt liền "bụp !" một tiếng, đỉnh đầu đã trúng phải một chưởng của vị thư sinh áo vàng rồi.
Thiết Phất Đạo Nhân cảm thấy khí huyết khắp châu thân, mường tượng như bị phải một luồng sức mạnh kỳ dị hút người trở lên đỉnh đầu đau đớn như dần, chưởng lực chưa trúng ngay mà sọ đầu đã nứt đôi, chất óc phọt ra ngoài, thét lên một tiếng hãi hùng rồi ngã vật xuống đất chết tốt.
Vị thư sinh áo vàng chỉ khẽ cúi người đã chộp lấy chân phải của đối phương, vụt mạnh ra ngoài, chiếc xác to lớn phốp pháp như hũ rượu của đạo sĩ , bay vun vút như tên lìa giây cung rơi bắn vào đám đông.
Thạch La Hán đang vũ lộng cây thiền trượng như mưa tuôn gió vờn, quần nhau với Đoàn Cẩm một mất một còn, chợt thấy thi hài của Thiết Phất Đạo Nhân từ trên Vọng Tinh Đài bay xẹt xuống, vừa giận vừa sợ.
Gầm lên một tiếng dử dội, rồi bỗ nhào đến thí mạng với Đoàn Cẩm. Cây thiền trượng trên tay liên tiếp ra ba thế theo chiêu số Vân Long Tam Hiện (rồng trên mây hiện ba lần) quét sả vào hông đến nách rồi phạt trở xuống hai chân đối phương, nhanh như điện xẹt sao băng.
Đoàn Cẩm trong cơn nguy cấp, sực nghĩ một mẹo, chàng ném mạnh đỉnh đồng vào đoàn người, hai cánh tay liên tiếp theo một giương một chộp "phịch !" một tiếng như tiếng trống.
Đoàn Cẩm lãnh trọn nơi hông một ngọn thiền trượng của Thạch La Hán nhưng nhờ ở lớp vảy cứng mọc trên da, nên không bị thương tổn đến tạng phủ, tay chàng nhanh nhẹn đoạt lấy đầu trượng kéo mạnh một cái.
Thạch La Hán cả người lẫn trượng, chúi nhủi vào lòng Đoàn Cẩm.
Cũng khá khen thân pháp của Thạch La Hán khéo léo nhanh nhẹn, trong lúc gã chúi vào người Đoàn Cẩm, đã kịp thời vung ra một quyền đảo mạnh vào ngực Đoàn Cẩm kêu "bùng" một tiếng.
Thế quyền của Thạch La Hán đánh ra sức mạnh đâu phải tầm thường, nhưng quả lạ kỳ .
Đoàn Cẩm như kẻ vô sự ,vận thần lực gạt mạnh ra ngoài một cái, cây thiền trượng bằng sắt đúc lớn cở miệng chén bị chàng bẻ gảy làm đôi không chút phí sức.
Thạch La Hán không ngờ Đoàn Cẩm có bản lãnh như thế, chịu đựng được một trượng lẫn một quyền của mình, mà người chàng vẫn chẳng bị chút tổn thương, thân hình chàng tựa như sắt đá chẳng bằng, đã thế còn bẽ gảy nổi thiền trượng của mình như trò chơi trẽ nít, không khỏi thất sắc kinh hãi đến đờ người.
Đoàn Cẩm nhãy vút tới sát bên y và quát lớn :
- Mi cũng nếm lại một trượng của ta !
Miệng quát, nửa khúc thiền trượng cũng theo tay quét vòng dưới chân địch nhân.
Thạch La Hán hốt hoảng tung người lên cao, chẳng dè Đoàn Cẩm dùng thế vừa rồi chỉ là thế hư, chờ cho gã trọc tung người nhãy lên, chàng bất thình lình vút ra một quyền đảo mạnh vào ngực gã theo thế Kim Cang Phục Hổ trong Kim Cang quyền pháp.
Thạch La Hán vì còn chới với trên khoảng không, vô phương tràn tránh gì được, cậy vào thân hình mình dày công khổ luyện ngoại công, đao thương chẳng phạm được , thầm ước lượng có thể hứng nổi lấy ngọn quyền của chàng, nên trân mình
chịu đòn.
"Bình !" một tiếng khá to, ngọn quyền của Đoàn Cẩm đấm đúng vào ngực của đối phương, không chút sai lệch mà Kim Cang quyền pháp do sức thần của Đoàn Cẩm sử dụng có thể xuyên cây vỡ đá, thử hỏi thân hình bằng xương thịt gồng luyện khí công của Thạch La Hán làm sao chịu đựng nổi ?
Y "hự !" lên một tiếng đau đớn, mửa phúng ra một ngụm máu tươi rồi ngã vật xuống đất tắt thở luôn, vì ngọn quyền vừa rồi của Đoàn Cẩm không những đánh gảy cả xương cốt nơi lồng ngực mà cho đến tim phổi của y cũng bị chấn bể nát nhừ trong lồng ngực .
Đang lúc Thạch La Hán và Thiết Phất Đạo Nhân đấu nhau chí mạng với đối phương thì Đoàn Tấn đương run run phát rét một chỗ, nhưng hắn vốn là một tiểu nhân quen thói đê tiện thấy tình thế bất lợi nghiêng hẳn về phía mình, lòng sát nhân nổi dậy, lập tức xông tới trước mặt Tiêu Hoàng hậu. Tay trái túm lấy xiêm y nơi lưng ngực bà, tay phải rút phắt ra một ngọn đao sáng quắc, định thích phủng lồng ngực của Tiêu Hoàng hậu.
Tiêu Hoàng hậu vốn là một khuê nữ nhu nhược yếu đuối, chẳng biết lúc ấy từ đâu dâng lên một luồng dũng khí, trừng mắt nhìn Đoàn Tấn quát lớn :
- Quân vô lương phản chúa kia, ta là Hoàng hậu của Nam Chiến Quốc lại là chị dâu mi, mi giết ta thử xem !
Đoàn Tấn bị sự chánh khí đảm lược của Tiêu Hoàng hậu làm y sờn lòng, ngọn dao găm trên tay từ từ buông xuôi trở xuống, quay đầu nhìn ra thấy Đoàn Cẩm tung hoành ngang dọc giữa đoàn Ngự Lâm Quân như vào chỗ không người.
Đoàn Tấn như được khơi thêm lửa hận thù, giá đao lần thứ hai, định đâm chết Tiêu Hoàng hậu bỗng nghe trên Vọng Tinh Đài có tiếng quát sang sảng :
- Ác tặc sát nhân kia, mi muốn tánh mạng con mi chết hay là sống ?
Đoàn Tấn rùng mình kinh hãi, vội đảo mắt nhìn kỹ, thấy gã thư sinh áo vàng đang nhấc bổng Đoàn Chiêu lên cao, hầm hừ như muốn quăng xuống đất vậy.
Vọng Tinh Đài lại cách mặt đất trên hai trượng cao, nếu Đoàn Chiêu bị ném xuống thì thịt xương gân cốt của đứa con trai y sẽ nát biến như xương ngay.
Đoàn Tấn tuy tâm tính như sài lang, cũng không thể không xót thương tính mạng của con trai mình, nên y vội hét lên :
- Khoan đã ! Đừng hại mạng con ta, ta bằng lòng trao đổi Tiêu Hoàng hậu trả lại cho bọn mi, để các ngươi an toàn rời khỏi Đại Lý thành.
Ngờ đâu tiếng cuối cùng của y vừa dứt, thì vị thư sinh áo vàng liền hú lên một tiếng thánh thót, trong như tiếng hạc réo từng không xông tận chín từng mây thẳm, đoạn chàng từ trên đài kẹp theo Đoàn Chiêu vào nách tung mình đáp nhẹ xuống.
Bọn Ngự Lâm Quân đồng la ó vang dậy, ùn ùn kéo đến bao vây chàng vào giữa.
Chàng thư sinh áo vàng chẳng chút nao lòng, cười nhạt một tiếng, xông vào giữa đoàn người , tay trái vẫn kẹp Đoàn Chiêu nơi nách, tay phải quay tròn vun vút đánh ra một pho quyền pháp thật cổ quái, mà xưa nay chưa hề thấy qua, khi chưởng lúc lại chỉ, biến sang chộp rồi lại đổi thành quyền biến hóa không sao lường được, tay quyền chàng đến chỗ nào là Ngự Lâm Quân như đám say rượu ngã đổ lổm nhổm dưới đất, mà đã té trở xuống là không sao ngóc đầu bò dậy được, chỉ nửa khoảnh khắc đã có bảy tám mươi tên nằm chỏng gọng dưới đất, rống lên như bò.
Đoàn Cẩm cất tiếng kêu gọi :
- Gian thần đã đến nước đường cùng, bọn ngươi còn định trợ Trụ vi ác được sao ? Mau buông khí giới đầu hàng mới mong bảo toàn mạng sống.
Bọn Ngự Lâm Quân tuy đều là tâm phúc của Đoàn Tấn nhưng phần đông cũng là vệ sĩ trong hoàng cung bị Đoàn Tấn lung lạc, đối với hành động hoán ngôi đoạt vị của Đoàn Tấn không mấy tán đồng, nhưng đứng trước thế lực như lang sói của quyền thần, chỉ đành nuốt hận mà phục tùng.
Giờ đây thấy Đoàn Cẩm trở về, trong lòng đã rung động phần nào, lại thấy hai tên yêu đạo tay chân đắc lực nhất của Đoàn Tấn đã bị giết chết, nên khi nghe Đoàn Cẩm lên tiếng gọi, hơn nửa số trong đoàn liền vứt binh khí, thối lui sang một phía.
Đoàn Tấn thấy thế lực của mình tan rả như băng tuyết trước nắng hè, trong cơn phẫn uất cực cùng điên tiết giơ cao ngọn thất thủ đao nhắm ngay ngực Tiêu Hoàng hậu nhắm mắt đâm nhầu.
Đoàn Cẩm vì cách quá xa muốn lướt đến cứu cũng không sao kịp nữa, kinh hoảng thét to lên :
- Ối cha !
Giữa lúc cái chết của Tiêu Hoàng hậu chỉ còn cách nhau đường tơ kẽ tóc, ngọn đao quái ác sắp chạm lên da ngực của bà thì đột nhiên một tiếng keng vang lên, ngọn đao trên tay Đoàn Tấn tự dưng sút khỏi tay rơi "xoảng !" xuống mặt đất.
Té ra, trong cơn thập phần nguy cấp ấy, vị thư sinh áo vàng thoắt bay mình lướt đến bên Đoàn Tấn, từ bàn tay chàng lẹ như chớp vung ra một vật bằng sắt bốn góc tròn dẹp như con cờ, lao ngay bạch môn nơi cánh cổ tay của Đoàn Tấn, tức thì y cảm thấy cánh tay cầm đao mềm nhũn ra, năm ngón tay rụng rời lưỡi dao rơi xuống đất.
Động tác của vị thư sinh áo vàng nhẹ như tia điện không bằng, con cờ ném ra vừa đánh rơi xong khí giới trên tay gian thần, liền ném ngay Đoàn Chiêu rơi xuống đất, tiếp theo đấy đã lướt nhanh ra phía trước chộp cứng cổ tay Đoàn Tấn miệng cũng đồng thời hét to :
- Nằm xuống !
Tiếng quát vừa dứt, thân hình của Đoàn Tấn cũng vừa té "bộp !" trên mặt đất.
Vị thư sinh áo vàng cũng chàng chút chậm trễ, một chân đạp lên ngực, khiến y không sao vùng vẫy được.
Mười mấy tên võ sĩ giữ Tiêu Hoàng Hậu thấy Đoàn Tấn té xuống đất, bèn ba chân bốn cẳng chạy tản ra bốn phía.
Thế tử Đoàn Chiêu tuy được vị thư sinh áo vàng bỏ nằm dưới đất, nhưng huyệt đạo đã bị chàng điểm phải chỉ trơ mắt nằm thẳng cẳng một chỗ chẳng có ma nào dám léo hánh đến trợ giúp cả.
Đoàn Cẩm chạy nhoài đến nơi ôm chặt lấy mẫu thân, cảm động đến nói chẳng thành lời.
Vị khách áo vàng bèn quay lại quát tháo bọn vệ sĩ :
- Hoàng thượng hiện ở trên Vọng Tinh Đài, bọn bây chẳng mau đến thĩnh người xuống đoái công chuộc tội, còn đợi lúc nào nữa ?
Lời nói của chàng cũng vừa phải lúc, vì khi ấy Đoàn Lão Hoàng Gia đã từ sau lan can Vọng Tinh Đài lững thững bước ra, đám Ngự Lâm Quân cùng thị vệ vội vã quỳ xuống phủ phục tung hố vạn tuế vang trời .
Đoàn Lão Hoàng Gia thấy đại loạn đã được bình định, vợ chồng ông chẳng hề hấn gì, cha con gian thần đã bị bắt sống, bao nhiêu Ngự Lâm Quân,
vệ sĩ trong cung đều cải tà quy chánh mới yên lòng chậm rãi xuống đài .
Đoàn Cẩm đầu tiên quát nạt tả hữu quân sĩ trói chặt cha con Đoàn Tấn lại, sau đấy mới cắt đặt một số Ngự Lâm Quân tiền hô hậu ủng Đoàn Lão Hoàng Gia, rầm rộ hớn hở mở rộng Kim Loan Điện.
Thái tử Đoàn Cẩm đã trở về người người tung hô như sấm động. Một số tâm phúc của gian thần thấy tình hình trước mắt, cũng liệu theo chiều gió, rập đầu phụ họa tung hô lớn hơn ai cả.
Đoàn Lão Hoàng Gia ngồi chễm chệ trên ngai vàng tuyên bố tất cả tội trạng chất chứa từ mấy năm nay của Đoàn Tấn cùng sự việc trong đêm định dùng độc tửu thí vua, đoạn hạ chiếu chỉ dắt cha con Đoàn Tấn ra khỏi ngọ môn, lăng trì xử tử gia tộc lớn nhỏ đều bị phát vãng vào núi sâu làm khổ dịch.
Nhân dân bá tính trong nước nghe Đoàn Cẩm trở về phục quốc, quét sạch gian thần, nhà nhà đều mừng rỡ, mở tiệc khánh hạ hết sức ngợi khen tài đức của Thái tử họ Đoàn.
Đoàn Cẩm sau khi bình định được nội loạn, thầm cảm kích ơn trọng của vị khách áo vàng, nếu chẳng có chàng giúp đở thì tính mạng cha mẹ của chàng đều bỏ thây nơi tay độc ác của Thạch La Hán và Thiết Phất Đạo Nhân rồi, nên chàng tìm ngay vị ân nhân đáng kính ấy để hỏi xem tên họ là chi, người ở môn phái nào vì sao đến thành Đại Lý, giúp đở mình diệt trừ phản loạn một cách kịp thời như vậy ?
Chẳng ngờ chàng hỏi khắp thị thần trong cung mọi người đều trả lời không thấy, vị thư sinh áo vàng đã đâu mất từ lúc nào.
Cuối cùng có một Ngự Lâm quân gìa đến đưa ra một tờ hoa tiên và nói :
- Tâu Điện hạ vị tướng công áo vàng ấy đã ra đi rồi, tiểu nhân đang đứng ở trước ngọ môn, thì vị tướng công đó từ trong cung bước ra, tay cầm phong thư giao cho tiểu nhân bảo là y gấp trở về Trung Thổ, không kịp đến từ tạ Điện hạ và nhờ tiểu nhân đem phong thư này giao cho Điện hạ.
Đoàn Cẩm kinh hãi, vội bóc thư ra xem, thấy loại giấy đúng là văn phòng tứ bửu trong cấm cung thường dùng, nét mực chưa ráo, bút pháp ngang tàng như rồng bay phụng múa, nội dung như sau :
"Đoàn Cẩm Điện hạ khãi giải :
Duyên bèo nước tương phùng, tình cờ gặp chuyện bất bình , giúp quí quốc diệt gian trừ ác , trách nhiệm của kẽ hành hiệp giang hồ , bất tất phải ân nghĩa thêm phiền , sư môn danh tánh của kẽ bềnh bồng rày đây mai đó , thẹn thùng chẳng muốn nhận ân , nên chẳng lưu lại làm gì , hữu duyên kỳ ngộ gặp lại sẽ có ngày, khẩn mong thương dân cần chánh chuyên luyện võ công, tiến đến ngôi vị anh hào trong rừng võ thuật !"
Phía dưới không ký tên chỉ lưu lại hai chữ Cửu Cửu là hàm ý : Trùng Cửu và Trùng Cửu tức là Tiết Trùng Dương vậy.
Trùng Dương vừa đi vừa ngẫm nghĩ đến hai chữ Cửu Cửu dụng ý sâu xa của mình cảm thấy đắc ý bỗng cười khan lên một tiếng.
Châu Bá Thông từ nãy giờ lầm lủi bước theo chân sư huynh vừa mệt vừa khát, thấy sư huynh nghiêm nghị tư lự chẳng dám lên tiếng thình lình nghe Trùng Dương bật cười khan như thế bèn liến thoắng hỏi :
- Sư huynh có chuyện chi vui mà cười khan lên quái gở như thế !
Trùng Dương như bừng tỉnh cơn mê, cười tủm tỉm đáp :
- Ta nhớ lại lúc Nam Đế còn làm Thái Tử Đoàn Cẩm.
Châu Bá Thông không đợi Trùng Dương hết lời liền "úy" lên một tiếng kinh hãi và ngắt lời :
- Ủa ! Sư huynh định dắt tiểu đệ du lịch thành Đại Lý chăng ?
Trùng Dương lẳng lặng gật đầu mà không đáp, hai anh em lại lầm lủi đi hơn buổi trời thì đã đến dưới chân núi Kiếm Các Sơn.
Châu Bá Thông khát quá không chịu nổi, nhìn thấy phía trước có một đường mòn dẫn đến thôn xóm ở xa xa, bèn mừng rỡ , tay chỉ miệng nói tía lia :
- Sư huynh, chúng ta đến chỗ ấy xin một ngụm nước đở khát đi !
Tánh của Trùng Dương và Châu Bá Thông khác biệt nhau xa lắc, vì tánh Châu Bá Thông thích động, ham ăn, lắm lời, còn Trùng Dương trái lại trầm tĩnh hòa hoãn, cho nên hai người tuy cùng đi chung một đường mà ít khi chuyện vãn nhau.
Nghe Châu Bá Thông nói thế, Trùng Dương đã hiểu ngay tánh ham ăn của hắn sắp nổi dậy, bèn chau mày trách cứ :
- Sư đệ, em dù sao cũng là một người tu luyện nội công, sáng sớm hôm nay đã lo bụng lương khô rồi sao lại đòi ăn nữa ?
Châu Bá Thông chu miệng đáp :
- Tôi đòi ăn hồi nào ? Sư huynh xem trời nắng như thế kia mà chúng ta leo núi hơn nửa ngày trời miệng khô khốc chẳng còn một miếng nước miếng, khát muốn bõ mẹ, tìm người xin chút nước uống cũng không đến nỗi phạm pháp đâu mà sư huynh hòng sợ .
Trùng Dương nghe Châu Bá Thông nói chằm bằm như thế, chỉ đành theo ý chàng, hai người đi theo đường mòn đi thẳng đến sơn thôn nọ.
Nào ngờ đến sơn thôn, Châu Bá Thông sực khám phá thôn xóm này có trên trăm nóc gia, nhưng mỗi nhà nào cũng đóng cửa kín mít, khắp làng im liền như tờ, người chẳng có mà cho đến chó gà cũng không thấy bóng một con.
Châu Bá Thông rất đỗi lạ lùng bèn nói :
- Bá tính nơi đây thật là cần mẫn, cho đến đàn bà con nít cũng ra đồng làm việc ráo trọi ?
Nhưng Trùng Dương là một người kiến thức sâu rộng, chàng thấy ngay tình hình không phải, vì người trong làng dù bất luận lên non đốn củi hay xuống ruộng cấy cày, quyết cũng không không thể nào đem cả con nít theo bao giờ .
Hơn nữa từ nãy giờ trên đường đi, cũng chẳng thấy một thửa ruộng nào.
Chàng hết sức hồ nghi trong lòng.
Châu Bá Thông bỗng vọt miệng nói :
- Sư huynh, mình cứ tưởng đến đây xin bậy một bụng nước cho đã khát, ai ngờ rủi vô cùng, mẹ nó cái làng quỷ này tìm đỏ cả mắt chàng thấy một người làm thuốc, đi thôi !
Trùng Dương lắc đầu, nói :
- Không ngu huynh ở lại chờ người trong thôn trở về .
Châu Bá Thông kinh hãi hỏi dồn :
- Sư huynh, bộ điên rồi sao ? Cả làng quỷ này chàng có một người sống còn ở lại đây làm chi thế ?
Trùng Dương đáp :
- Ta xem thôn này chẳng phải không có người vì xóm làng tề chỉnh khang trang, trong nhà đồ vật trật tự ngăn nắp, không có chút gì lôi thôi, chứng tỏ dân làng có chuyện cần tạm thời rời khỏi nhà mà thôi
Châu Bá Thông không dám cải lời sư huynh của mình, nên đành phải nên lòng chờ đợi.
Hai anh em đợi như thế hơn nửa ngày, Châu Bá Thông lầm bầm trách cứ luôn miệng. Y sốt ruột, đôi mắt láo lên hết nhìn xuôi đến nhìn ngược, nhắc nha nhắc nhỏm như khỉ ngồi trên gạch nung, thình lình nghe nơi cỗng làng có tiếng người xôn xao.
Trùng Dương đã luyện qua công phu Nhất Dương Chỉ vừa lắng tai nghe đã phân biệt được có trên một hai trăm dân làng trở về trong tiếng người xôn xao, còn kẹp theo cả tiếng khóc rấm rứt nữa.
Châu Bá Thông nhãy phắt dậy, rồi như một luồng gió hốt chạy tít ra cổng làng.
Trùng Dương vội cất tiếng lại :
- Sư đệ chớ nên gây họa !
Chàng cũng tức tốc sải chân đuổi theo, quả đúng như ý liệu. Hơn mấy trăm dân làng kéo thành một đoàn đi vào cỗng thôn, trai gái gìa trẻ đủ hạng, mỗi trên tay trên lưng đều mang ống trúc và lồng tre, tiếng khóc lúc nãy là của hai người con gái.
Thì ra có một tráng đinh bộ ba bốn mươi tuổi được hai tên tráng đinh khác khiễng trở về, chân phải của gã tráng niên nọ sưng vù lên như thân cây chuối, màu da tím bầm như mực, đau đớn đến nỗi da mặt chẳng còn chút máu.
Châu Bá Thông chẳng tị hiềm mình là người xa lạ, vội tiến ra trước nhanh nhẩu hỏi thăm một cách trịch thượng :
- Này ! Ê các người nãy giờ đi đâu ?Sao chẳng để một người nào ở lại trông nom làng mạc thế ? Còn chú này bị giống vật gì cắn phải mà đến nỗi như vậy ?
Trùng Dương chưa kịp mở lời, Châu Bá Thông đã nói hước một hơi, chàng thầm gật đầu tự nhủ :
- Không sai ! Châu Bá Thông bảo nạn nhân bị độc vật cắn phải, có thể như thế lắm dấy !
Gã thôn dân nọ thấy Châu Bá Thông là người xa lạ, không khỏi ngạc nhiên, trong bọn có hai tên tráng đinh lớn tiếng hỏi :
- Mi ở đâu đến đây ? Ai mượn mi lo chuyện bao đồng, cút mau !
Châu Bá Thông sầm nét mặt lại và cũng lớn tiếng đáp lại :
- Ta lo chuyện bao đồng thì sao ! Ta nhất định chẳng cút đi mi lại làm gì ta ?
Vài tên thôn phu lỗ mãng nổi nóng lên, hai tên thôn phu đứng gần, lách mình nhãy đến định vồ Châu Bá Thông, chàng chỉ khẽ tràn người sang bên, hai tay chộp lấy cổ áo của hai tên nọ, vung mạnh một cái, hai tên thôn dân tựa như trái cầu lông, văng ra xa bảy tám bước.
Đám dân làng liền la toáng lên.
Trùng Dương vội nhãy bay ra trước quát lớn :
- Sư đệ em lại sinh sự đánh lộn với người rồi, không được làm bậy !
Chàng tiến bước, đứng án ngữ trước mặt Châu Bá Thông đoạn đưa mắt nhìn xem vết thương bị thú độc cắn của gã đàn ông nọ, và nói tiếp :
- Các người sao chẳng mau tìm cách cứu chữa ! Nếu để diên trì e mạng sống người này khó cứu đó.
Đám dân làng thấy Trùng Dương vẽ người phương phi tiêu sái râu dài suông đột, nói năng hòa nhã hiền từ, khác hẳn với vẻ lấc cấc của Châu Bá Thông, lập tức có cảm tình ngay bèn đồng rập đáp :
- Thưa đạo trưởng, đây là anh Lưu Nhất Hổ của bổn trấn, theo bọn tôi vào rừng bắt rắn, ơ hờ bị rắn lục trúc cắn phải (loại rắn này hễ cắn phải người thì vô phương cứu chữa, trừ phi đốt đỏ một miếng sắt, áp lên vết thương cho chay chỗ thịt đó đi).
Châu Bá Thông nghe đến rùng mình rởn óc.
Trùng Dương lẳng lặng móc trong túi ra một lọ sành màu xanh mở nắp trút ra một viên thuốc màu đỏ như lửa, nhét vào miệng nạn nhân và gọi :
- Mau đem nước ra đây, cho y một hoàn thuốc vào bụng .
Viên thuốc vừa rồi chính là lúc Trùng Dương so tài với Âu Dương Phong trong buổi luận kiếm Hoa Sơn thấy Âu Dương Phong nuôi dưỡng Xà trận, và chuyên dùng nọc rắn để hại người, nên sau khi trở về Trung Sơn khổ tâm nghiên cứu chế luyện ra một loại thuốc lấy tên là Hạc Diêm Chu linh hoàn, chuyên giải trừ nọc độc của rắn rít, vì Hạc là khắc tinh của loài rắn, chuyện dùng hạc làm vật nuôi thân, nước miếng của nó rất hiệu nghiệm giải trừ nọc rắn.
Từ lúc chế xong đến nay đây là lần thứ nhất chàng đem ra thí nghiệm cứu người.
Vài người trong bọn dân làng, vội lấy nước thuốc đổ vào miệng Lưu Nhất Hổ để y nuốt trôi hoàn thuốc vào bụng.
Quả nhiên thuốc giải hiệu nghiệm như thần, Lưu Nhất Hổ vừa nuốt xong hoàn thuốc ấy, liền ụa lên một tiếng lớn, mửa ra chẳng ít chất đờm màu vàng đen tanh tưởi, vết sưng phồng nơi giò cũng lần lần sọp xuống, hai cô gái nọ mừng rỡ thôi khóc.
Châu Bá Thông thấy trên người một thôn dân có đeo cái ống tre, chàng vốn tánh rất rắn mắc, bết thình lình giơ tay phải ra giật lấy chiếc ống tre của gã nọ, miệng thì tía lia :
- Trong ống có vật chi thế, cho ta xem thử nào ?
Miệng bằng tay, tay bằng miệng, chàng đợi người đàn ông nọ cho phép hay không chàng đã lẹ tay rút nấp ống tre lên, bỗng thấy bóng xanh lao vút ra, đúng một con rắn lục tre xẹt vút đến vươn cổ nhe nanh, mổ phập tới trước mặt Châu Bá Thông nhanh như mủi tên xẹt.
Châu Bá Thông tuy nghịch ngợm, đất trời cũng chẳng kiêng nhưng lại rất sợ rắn, chàng hốt hoảng tru tréo to lên "ối mẹ ơi !" rồi quăng ngay cái ống tre,
Trùng Dương mắt lanh lẹ, nhanh hơn cả giơ hai ngón tay ra kẹp đúng vào cổ không cho mổ vào mặt sư đệ mình, rồi rẩy mạnh một cái, con rắn lục tre vừa rơi xuống đất, liền uốn mình phóng tuốt vào bụi cây mất dạng.
Trùng Dương trong lòng đã hiểu phần nào, liền hỏi đám dân rằng :
- Các vị kéo nhau hết vào núi, chỉ vì chuyện bất rắn độc đến đỗi một người bị rắn độc cần phải suýt nguy hại đến tính mệnh, các vị bắt rắn như thế có ích lợi gì !
Một thôn dân liền đáp :
- Đạo trưởng chắc có lẽ không hiểu, vì có người xuất tiền trọng thưởng cho chúng tôi bắt được rắn đấy ?
Lại có mấy tên khác lừ mắt ra ý bảo y đừng nói, thôn dân ấy liền hội ý ngay, nhưng đã lỡ thốt lời rồi, nuốt lại cũng không được .
Châu Bá Thông vỗ đùi đánh chách và nói :
- Lạ thật, lạ thật ! Có ai chịu ra tiền cho các ngươi bắt rắn , chả trách cho đến ruộng vườn các người cũng chẳng thèm canh tác.
Chẳng lôi thôi gì cả ! Ta hỏi các người kẻ mướn bất rắn ấy là ai, ra bao nhiêu tiền thưởng !
Lối hỏi xấc lấc của chàng, chẳng một thôn dân nào buồn trả lời.
Trùng Dương thấy bọn thôn dân lặng thinh không đáp, chàng bỗng chợt rùng mình nhớ lại trên đời kẻ thích nuôi vô số độc xà, ngoài Tây Độc Âu Dương Phong ra, còn ai khác hơn.
Song theo lời người giang hồ thuật lại thì Âu Dương Phong thiết lập nơi Bạch Đà Sơn một đầm rắn vĩ đại, nuôi hằng muôn hằng ngàn loại độc xà khác nhau, sao lại có thể từ ngàn dặm xa xôi đến đất Tứ Xuyên này dùng tiền bạc mê hoặc bọn ngu dân này liều mạng bắt rắn cho y, chuyện này thật nhiều chỗ không hợp lý, nhưng đám thôn dân cố tình giữ kín chẳng chịu nói ra thì chỉ còn có cách cưỡng bách bắt họ khai mà thôi.
Trùng Dương liền lừ mắt ra dấu cho sư đệ mình, mà Bá Thông khôn lanh quỷ quái khỏi chê vào đâu nổi, tiếp được chỉ thị bằng mắt của sư huynh mình liền hội ý ngay, tằng hắng rồi nói thật to :
- Ê Cái lũ chết bầm này sao chẳng chịu trả lời sự thật cho ta nghe, rắn độc là vật hại người, bọn bây xúm lại nhau bắt nhiều thế kia có phải định hại người chăng ? Mau mau khai sự thật ra, bằng không. Hừ ! Hừ ! Ông sẽ tịch thâu ống rắn, lồng rắn của các ngươi mang tấm vải kia đem hủy .
Bọn thôn dân nghe Châu Bá Thông nói hăm he như thế đều cả kinh thất sắc, vì lúc nãy đã tận mắt nhìn thấy sơ qua bản lãnh ném người của Châu Bá Thông , hiểu rõ chàng ta hễ nói là làm , vạn nhất bị chàng thả hết rắn độc của mọi người bắt được ra thì thật là uổng công.
Bọn họ không khỏi bối rối nhìn nhau rồi lên tiếng lia lịa :
- Quan nhân đừng vội ra tay. Chúng tôi nói ngay. Chúng tôi nói ngay.
Một lão thôn dân sợ quá, bèn vội vàng tiếp lời :
- Thật chẳng dấu gì quan nhân, chúng tôi kéo nhau vào rừng bắt rắn hoàn toàn vì một món tiền thưởng lớn lao, cho nên dân làng chúng tôi bỏ cả việc rẫy bái mà theo nghề bắt rắn.
- Có người chịu bỏ tiền ra cho các người vào núi bắt rắn hử ? Họ cho được bao nhiêu, mà các ngươi dám liều mạng thế ?
Lão thôn dân đáp :
- Độ một tháng trước đây có một người đột ngột đến làng chúng tôi. Người ấy là một lão gìa sồn sồn, lùn tịt mặc áo vải vàng.
Ngừng một chút lão thôn dân gật đầu nói tiếp :
- Phải đấy. Lão lùn ấy mặt mũi chẳng có gì khác thường, chỉ có đôi mắt sáng lạ kỳ nhìn thấy phải phát sợ. Lão vừa đến làng đã lên giọng hỏi ngay trong làng có người nào biết bắt rắn không ?
Lão lùn ấy tự xưng là một vị lái buôn dược liệu, cần mua một số lượng khá nhiều độc xà để chế thuốc ngâm rượu, nên mướn chúng tôi bắt rắn cho y, giá của y mua rất cao mỗi con rắn độc còn sống trị giá là ba phân bạc, mười con là được ba lượng.
Còn nếu bắt được loại rắn độc đặc biệt thì gía cả còn cao hơn nữa .
Châu Bá Thông lại hỏi tiếp :
- Ngọn núi trước mặt nhiều rắn lắm phải không ? Các người dùng cách nào để bắt ?
Lão nông dân nói :
- Nói chung người đi bắt rắn, hầu hết dùng lưu hoàng chế thành thuốc trừ rắn. Lấy thuốc đó bôi vào tay để mà bắt rắn. Lưu hoàng là một chất độc hạng nhất đối với rắn, chúng nó gặp phải lập tức thân thể như tê dại mềm nhũn ra.
Song lão lùn mướn chúng tôi đến bắt rắn ấy, không bằng lòng dùng lưu hoàng, mà lại bảo chúng tôi phải dùng vật này. Đây ngài xem !
Vừa nói y vừa đưa tay lên.
Trùng Dương nhìn thấy đó là một cây trúc ngắn , trước đầu cây trúc có làm một cái vòng.
Lão nông dân nói tiếp :
- Cái ông lùn ấy dạy chúng tôi cái này để bắt rắn. Chỉ cần tìm đến hang rắn, bốn năm người cầm cái này vây ở miệng hang rồi lấy lá cây đun khói thổi vào hang cho rắn phải bò ra, lúc ấy vòng cổ rắn bỏ vào lồng tre.
Châu Bá Thống chu mỏ :
- Úi cha ! Như thế thì nguy hiểm lắm, sẩy một chút rắn cắn rồi sao ?
Lão nông dân thở dài :
- Cũng không còn cách nào hơn nữa ! "Người vì của mà chết, chim vì ăn mà vong" , trường hợp của Lưu nhị lão mà ngài mới cứu vừa rồi, là một cái gương cho chúng tôi .
Châu Bá Thông sa sầm mặt xuống :
- Bắt đầu từ nay, các người đừng có đi làm cái chuyện ghê rợn đó nữa nghe không . Cái tên đó nó muốn giết hết dân trông làng này đó. Các người ngu quá bị người ta lợi dụng chết đến cẳng rồi mà không biết ! Chu cha !
Mấy lời nói của Châu Bá Thông, làm cho đám nông dân lạ lùng buột miệng kêu lên .
Trùng Dương cũng cảm thấy anh chàng họ Châu nói chẳng e dè vừa muốn mở lời, thì Châu Bá Thông đã nhướng cặp mắt trắng dã lên nói :
- Tôi nói thế các anh không tin à ? Bây giờ tôi hỏi các anh một câu, vậy chớ người ta sống trên đời này, tiền bạc là cần, hay tính mạng là cần ?
Những người nông dân thấy Bá Thông nói giọng trẻ con quá cũng bật cười :
- Tất nhiên tính mạng là cần hơn rồi Nếu như không có tính mạng thì trăm vạn gia đình cũng chẳng dùng vào đâu được .
Châu Bá Thông hỉnh mũi :
- Các người biết như vậy, tốt lắm ! Nè cái lão lùn đó đã mang tiền đến mua lấy tính mạng của các ngươi đấy. Cứ suy nghĩ đi, bắt sống một con rắn độc hắn trả cho các người được mấy đồng tiền !
Hắn mua rắn để làm gì ? Làm thuốc để ngâm rượu à ? Các người biết thuốc và rượu đó bán bao nhiêu không ?
Các người vô núi bắt rắn hơn một tháng kiếm được mấy đồng tiền ? Bị rắn độc cắn chết bao nhiêu người ? Nói đi ! Thử coi ?
Thôn dân nghe Châu Bá Thông nói nột hồi lặng thinh suy nghĩ. Những lời lẽ của họ Châu thật là đúng lắm.
Dân trong làng tuy có kiếm chút ít tiền của lão lùn đó, nhưng mấy tháng nay đã có mấy người bị rắn cắn chết . Nếu cứ như vậy năm này qua tháng nọ, sẽ không biết phải chôn bao nhiêu mạng người thật là một điều dễ sợ !
Châu Bá Thông quan sát sắc diện, biết lời nói của mình đã đánh trúng vào tâm lý của họ. Chàng càng đắc ý nói thêm :
- Bọn ngươi thật là một đám người khờ dại, ta nói thật cho mà biết, cái tên lùn đó bảo các người bắt rắn độc cho hắn đem đi luyện phép yêu để giết người đấy.
Những lời nói bịa đặt trái tai đó, vậy mà các thôn dân lại tin rầm lên, vội vã hỏi dồn :
- Rắn độc lại có thể luyện được phép yêu sao ? Lão gia không đùa với chúng tôi đấy chứ ? Gớm cái thứ như vậy mà luyện thành phép yêu nhỉ ?
Châu Bá Thông lại làm ra vẽ thần bí :
- Ý ! Cho các nói biết nhé : Có giống dân ở miền núi, có một pháp thuật dị kỳ, pháp thuật đó, họ dùng rắn rít, bò cạp luyện thành.
Họ bỏ thứ đó vào vật ăn thức uống, người nhiểm phải là chết liền không kịp ngáp. Vậy nó không phải một thứ phép yêu sao ? Nó còn một cái lợi hại nữa là...
Chàng vừa nói tới đó, bỗng phía sau đám thôn dân có tiếng xôn xao :
- Đó, lão gìa lùn đến đó !
Trùng Dương nghe nói nghĩ thầm :
- Hừ ! Nói tới kẻ gian thì kẻ gian đến liền. Quả là đúng dịp may, để xem hắn là một nhân vật ra sao ?
Châu Bá không nhướng mắt :
- Hắn tới đấy à ? Này, các ngươi hãy lại lấy tiền đi. Mà lấy tiền chứ đừng bắt rắn cho hắn nữa đa.
Dám thôn dân dạ rân lên.
Quả nhiên ngược lại theo đường núi một gả xồn xồn lùn xịt, mặc chiếc áo xám vàng, tay phe phẩy chiếc quạt ba tiêu xâm xâm đi tới.
Hắn nhìn thấy Trùng Dương và Châu Bá Thông đứng lộn trong đám thôn dân thì hơi có ý ngạc nhiên. Nhưng lại tỏ ra vẻ bình thường, lắc lắc chiếc quạt hỏi với giọng người trên :
- Này, bữa nay việc bắt rắn ra sao ? Có thứ rắn độc đặc biệt không ?
Thôn dân nói :
- Lão gia chúng tôi bửa nay cộng chung là bắt rắn được mười bảy con. Toàn là rắn Thanh Trúc và rắn Ô Tiêu, chứ không có thứ rắn độc đặc biệt.
Lão lùn nghe nói, mặt có vẻ không bằng lòng :
- Hừ ! Không có rắn đỏ à ?
Mấy người thôn dân nói :
- Thứ rắn đó nguy hiểm lắm, nó cắn một cái thì tức khắc chết liền. Chúng tôi gặp nó cũng không dám bắt. Xin lão gia thứ mạng cho vậy !
Lão lùn hừ một tiếng :
- Đâu ? Đem lại đây coi .
Thôn dân lần lượt mang lồng tre lại.
Lão lùn với dáng điệu chậm rãi, rút trong lưng ra một cái túi vải, và mở từng cái nắp lồng, lập tức rắn độc phóng vọt ra ngoài.
Lão ta nhanh như cắt chỉa hai ngón tay kẹp lấy mình con rắn, rắn độc tức thì như mềm nhũn không cựa quậy gì cả. Cứ như vậy lão lượm hết bỏ vào trong túi.
Châu Bá Thông trố mắt nghĩ thầm :
- Tài ! Cách bắt rắn của lão này thật là thuần thục , thế mà tại sao hắn không tự đi bắt lấy mà lại biểu thôn dân ? Thật là kỳ hé !
Lão lùn bắt hết rắn xong cột túi lại, đoạn móc tiền ra :
- Được rồi ! Cho tiền đây !
Lão ta lấy ra một đỉnh rưỡi bạc tính chung quanh mười bảy con rắn, trao cho dám thôn dân và nói :
- Mấy hôm nay bắt rắn ít quá ! Các người phải ráng lên, bắt được nhiều con mới có được nhiều tiền chứ.
Một người thôn dân vụt nói :
- Lão gia ! Chúng tôi lo bắt rắn cho lão gia ruộng vườn trong thôn đều bị bỏ hoang tất cả, đã vậy mà có tám người lại còn bị rắn độc cắn chết. Tiền tuy rằng quý, nhưng mạng người lại còn quý hơn. Chúng tôi định từ hôm nay, không dám bắt rắn cho lão gia nữa .
Lão lùn bỗng sa sầm mặt lại :
- Tên nào xúi biểu trừng bắt rắn ? Nói mau !
Thôn dân không dè lão lùn hỏi như thế cho nên ấm ức không biết nói sao.
Lão lùn cười lạt :
- Hừ, ngươi tưởng ta chưa biết kẻ nào đã xúi dục các người à. Cái tên ấy quả là gan hùm. Lại đây ! Lại đây, ta sẽ cho cho ngươi xem sơ sơ cái này, và cũng nhân tiện cho cái tên đó biết bản lãnh của gia gia.
Hắn vừa nói vừa liếc xéo Trùng Dương và Bá Thông một cái, rồi thình lình đưa tay lên đập vào phiến đá to ở dựa vào mé đường.
Tay và đá vừa chạm vào nhau, doi lên một tiếng "bùng !" thật lớn, bột đá và lửa nháng tứ tung.
Các thôn dân nhìn kỹ, thấy đều le lưỡi lắc đầu.
Thì ra, lão lùn vừa đánh xuống một chưởng trên một phiến đá đã in rành nguyên một bàn tay, lún sâu vào quá năm phân.
Châu Bá Thông cao giọng :
- Hay ! Thật là kinh khủng, bản lãnh lợi hại của đậu hũ chưởng !
Lão lùn nghe Châu Bá Thông gọi chưởng pháp của mình là "đậu hũ chưởng" thì đùng đùng nổi giận bước tới quát lớn :
- Chết bầm ! Tại làm sao gọi là đậu hũ chưởng ? Hãy nói ra mau. Ngươi là kẻ lớn tài cao phải không ?
Châu Bá Thông cười hì hì :
- Không dám ! Không dám ! Đây chỉ là kẻ nhỏ, mà tài thì cũng là thấp quá đi thôi !
Lão lùn thì đối phương nói móc mình, khí giận càng nổi lên dử tợn :
- Tên chó chết ! Có phải ngươi là kẻ đã xúi dục họ đừng bắt rắn cho ta đó không ?
Châu Bá Thông vốn là một con người kỳ cục, đối diện với kẻ nào giận thì chàng lại càng cố chọc tức thêm.
Nghe lão lùn nói thế chàng ngữa mặt cười ha hả :
- Đúng vậy ! Chính ta đã bảo họ đấy ! Ngươi ỷ có mấy đồng bạc mục , nói là đi mua rắn nhưng thực thì đi mua mạng của con người. Ngươi có biết không , họ bắt rắn cho ngươi, trong vòng tháng nay đã chết mất tám người rồi đó. Ngươi có bảo bọc cho họ không ?
Lão lùn thực tức lên cực độ :
- Ta bảo bọc hay không bảo bọc thì lại mắc mớ gì đến ngươi ? Ngày nay không gió ngươi lại muốn làm cho có sóng. Lại đây ! Lại đây ! Chúng ta thử nhau chơi.
Vừa nói vừa đưa cả hai tay ngoắc lia ngoắc lịa Châu Bá Thông .
Trùng Dương lập tức bước xéo lên tới trước, vòng tay đối diện với lão lùn :
- Sư đệ của bần đạo, mạo phạm đến tôn giá vì từ trước nay y vốn có tính trẻ con đùa cợt xin tôn giá không nên lấy đó làm thật. Thiết chưởng của tôn giá vừa rồi bần đạo lấy làm khâm phục, ấy chẳng hay lệnh tôn sư là ai có thể cho biết được cùng chăng ?
Lão lùn nghe hỏi, thầm kinh hãi :
- Thiết chưởng công phu là một môn tuyệt kỹ võ lâm ít có người biết, thế mà đạo sĩ này mới nhìn qua đã biết thật quả lạ kỳ !
Lão ta bèn vội vàng hỏi lại :
- Đạo trưởng pháp hiệu là gì ? Xin cho được biết ?
Châu Bá Thông hớt nói :
- Sư huynh ta danh gọi là tổ sư gia ngón đậu hũ chưởng của ngươi đó, sư huynh ta không có xem ra cái cóc gì đâu !
Lão lùn cả giận quát to :
- Không xem ra cóc gì ! Được ta với ngươi hãy thử xem .
Vừa nói lão lùn vừa tung ra một chưởng.
Châu Bá Thông né qua một bên, cười khè :
- Châu Bá Thông không thích đụng chưởng vào kẻ vô danh tiểu tốt, hãy xưng tên ra đây .
Lão lùn gầm lên :
- Lão gia họ Cầu, thiên hạ tôn là Cầu Thiết Chưởng. Còn ngươi là họ Châu hả ? Hay lắm ! Ăn một chưởng rồi sẽ nói !
Dứt tiếng, nhắm Bá Thông đẩy ra một chưởng.
Châu Bá Thông nhãy lùi lại đàng sau bật cười ha hả.
Cầu Thiết Chưởng thấy họ Châu cười rất là cổ quái, lấy làm lạ dừng lại hét lên :
- Chết bầm ! Ngươi cười cái gì ?
Châu Bá Thông cười ngất :
- Lão gia cười cái chưởng pháp của ngươi thiết là luôn cả đậu hủ cũng không làm bể được mà tự xưng là thiết chưởng. Cái xấu hổ nhất trong thiên hạ chắc cũng chỉ cỡ đó mà thôi. Hà hà !
Cầu Thiết Chưởng giận ói mật xanh :
- Ngươi nói chưởng của ta là chưởng đậu hũ vậy thân thể của con người là đá chắc . Nếu ngươi chịu thử nổi một chưởng mà không ói máu ra thì mới hay chứ.
Trùng Dương biết ý của Châu Bá Thông, giá như bình thường, thì ông đã bước lên ngăn cản, nhưng trường hợp này thấy Cầu Thiết Chưởng lời lẽ quá hỗn láo kiêu căng, nghĩ rằng để cho sư đệ mình trừng trị hắn một phen âu cũng là việc hay. Bèn tảng lờ không nói.
Châu Bá Thống ứng tiếng đáp liền :
- Được lắm ! Ngươi đã đem cái đậu hũ chưởng của mình mà thổi phồng lên lợi hại, vậy thì lão gia đứng tại chỗ này chịu cho, ba chưởng của ngươi quả đập chết được lão gia, lão gia sẽ không bẩm báo với Diêm vương gì cả. Bằng như lão gia qua ba chưởng mà vẫn sống nhăn, thì hì hì ! Ngươi hãy chịu khó học cách thức của con rùa đen, mà bò lăn xuống núi, biết chưa ?
Cầu Thiết Chưởng như lửa cháy thêm dầu, rít lên :
- Cần gì ba chưởng, chỉ một chưởng cũng đủ kết liễu tính mệnh của mi rồi.
Châu Bá Thông ưỡn ngực :
- Thử xem !
Cầu Thiết Chưởng gầm lên một tiếng, tung thân nhãy tới vung cánh tay với trọn vẹn thiết chưởng công phu, nhắm đúng vào Hoa Cái huyệt ở giữa ngực của Châu Bá Thông đập tới, với công lực bẩy thành kình khí.
Châu Bá Thông không chút chi giao động, hé miệng rít đầy chân khí, vận xuất Thái Ất Thần công là một công phu niên đẳng của toàn thân sinh mạng.
Loại thần công này, một khi vận đầy chân khí, có thể làm cho các bộ phận trong thân thể mềm xốp như bông gòn, mà cũng có thể làm cho các bộ phận trong thân thể cứng như gang sắt.
Cầu Thiết Chưởng làm sao biết được.
Chưởng phong vừa ập tới, chợt thấy ngực của đối phương hóp sâu vào, mà nơi chịu chưởng thì như cái gối bông xốp xộp, da thịt Châu Bá Thông không bị hề hấn chút gì cả.
Cầu Thiết Chưởng kinh hoảng, vội vàng dụng sức thu hồi kình lực.
Bất ngờ, vừa mới triệt thu, chợt thấy da thịt đối phương thình lình bung ra như sợi dây cung trả lại, tiếp theo một loạt kình phong đùa ra như vũ bão .
Cầu Thiết Chưởng bị sức dội đẩy lùi ra xa năm sáu bước.
Châu Bá Thông ngữa mặt cười ngất :
- Họ Cầu ! Ta bảo chưởng của ngươi là chưởng đậu hũ, có đúng hay không ? Hãy mau bước tới cúi đầu gọi ta gia gia, ba tiếng ta sẽ miễn cho khỏi làm thân con rùa đen.
Cầu Thiết Chưởng quát lên :
- Bản lãnh khá lắm ! Nhưng hãy còn hai chưởng nữa. Đó là do ngươi giao ước. Đỡ này !
Vừa dứt tiếng, liền quăng mình tới, nhầm ngay mỏ ác của Châu Bá Thông phát ra một chưởng.
Châu Bá Thông nhích nhẹ đầu qua một bên, chưởng phong trúng ngay lên mỏm xương vai.
Song, bây giờ không phải mềm như bông nữa. Mà da thịt trái lại như có một lớp sắt bao bọc bên ngoài.
Chưởng lực của Cầu Thiết Chưởng vừa chạm đến, không một chút lay động.
Châu Bá Thông ngữa mặt cười sặc sụa.
Cầu Thiết Chưởng lui lại sau hậm hực :
- Họ Châu ! Đừng vội nghênh mặt !
Châu Bá Thông cười ha hả .
- Đậu hũ chưởng ! Tại sao lại không nghênh mặt ! Chớ mặt lão gia không phải ở đằng trước đây sao ?
Cầu Thiết Chưởng lý sự :
- Người đã giao ta ba chưởng, thế tại sao chưởng của ta vừa tới, người lại né đầu tránh đi, không dám chịu ? Lại còn dám xưng là anh hùng hảo hán nữa à ?
Châu Bá Thông chỉ bằng lòng chịu đánh chứ đâu có giao ước việc chịu đánh trúng chỗ nào. Vả lại cũng đâu có giao rằng không được tránh né ! Chẳng qua Cầu Thiết Chưởng túng quá nói ngang mà thôi.
Đám thôn dân thấy dáng điệu hung hãn của họ Cầu thì đã reo hò hỗ trợ cho Châu Bá Thông, bây giờ thấy Thiết Chưởng bị bại luôn, mà còn tìm cách chống chế vô lý, bèn hè nhau vỗ tay chế giễu :
- A ! Ông tướng lùn hay quá ! Hay quá !
Thấy thôn dân ráp nhau chế nhạo mình, Cầu Thiết Chưởng nổi giận đùng đùng, nhãy phốc lên vung tay nhắm ngay ngực của một thôn dân đánh ào ra một chưởng.
Thiết chưởng công phu đã có sức nghiền đá vụn ra như phấn, nếu mà đánh trúng ngay vào mình của một người chỉ biết cày sâu cuốc bẩm thì kể như tính mệnh bay theo gió bụi.
Châu Bá Thông càng biết nguy hiểm đó hơn nữa, cả kinh dợm chân nhãy tới, trong lúc chàng định ra tay ứng cứu, thì bỗng nhiên...
Thủ chưởng của họ Cầu chưa kịp đụng đến ngực ngươi thôn dân, thình lình hắn ta rống lên một tiếng, văng ngược lại phía sau.
Nguyên vì lúc Cầu Thiết Chưởng vừa vung tay ra thì Trùng Dương đã lẹ làng nhãy tới, ông không dùng chưởng để đối kháng mà lại quây nhẹ cái phất trần đang cầm nơi tay qua một vòng.
Lập tức đã cuốn chặt vào cánh tay phải của Cầu Thiết Chưởng và nhanh như chớp vung ngược ra ngoài, Cầu Thiết Chưởng bị ném tung lên gần một trượng.
May nhờ hắn luyện tập công phu dồn xuống hạ thân chắc chắn nên hai chân vừa chạm đất, đã gượng thế đứng yên lại được không bị té nghiêng, họ Cầu bất giác mặt mày đỏ bừng vì xấu hổ.
Cầu Thiết Chưởng bị thêm một phen điêu đứng nữa, biết rằng Trùng Dương và Châu Bá Thông là hai tay cao thủ ít có trong võ lâm, cùng với họ tỷ thí cách nào nhất định mình cũng sẽ ở vào thế bại. Cái phương pháp duy nhất của kẻ bị thua thì trong ba mươi sáu chước, chỉ có chạy là hơn hết, nhưng hắn thấy rằng chạy như thế, lại có chỗ chưa được cam tâm.
Cầu Thiết Chưởng bèn ngó Châu Bá Thông, cười hung dử :
- Hai người dầu là kẻ có bản lãnh đấy ! Nhưng còn một chưởng hãy chưa đủ số, nếu ngươi dám đứng yên một chỗ chịu ta một chưởng thì Cầu mỗ này sẽ phục lăn sát đất mà rời khỏi nơi này.
Châu Bá Thông cười ha hả :
- Cũng được ! Ta đứng tại nơi đây chịu ngươi một chưởng. Nhưng, ta phải nói với sư huynh của ta vài câu đã.
Chàng bèn bước đến gần Trùng Dương kề tai nói nhỏ.
Chỉ thấy Trùng Dương cau mày, hạ giọng :
- Như thế sao nên ?
Châu Bá Thông cố nói :
- Sư huynh ! Tiểu đệ đã nói rồi, không thể nói lại nữa, xin sư huynh ráng cho mà.
Trùng Dương mỉm cười gật đầu.
Châu Bá Thông bèn bước ra nói lớn :
- Chú lùn, Châu lão gia sẽ đứng ở đây để chịu nhà ngươi một chưởng nữa. Nhưng có một điều này nếu như Châu lão gia không bị thương vì cái chưởng của ngươi thì hà hà... ngươi phải làm theo kiểu con rùa đen, bò đi đúng một trăm bước nghe không ?
Đám thôn dân nghe nói đều cười rộ.
Cầu Thiết Chưởng giận quá, không nói không rằng gì cả vận chín thành công lực vào thiết có chưởng nhắm ngay Thái dương đại huyệt của Bá Thông đánh tới.
Đầu là phần quan trọng của lục dương, một người dầu cho luyện tập võ công đến mức độ da thịt cứng như sắt đá đi nữa, nhưng bộ phận trên đầu vẫn là nơi mềm yếu. Mà chỗ yếu hiểm hơn hết lại là Thái Dương huyệt, đánh trúng vào nơi ấy không chết cũng trọng thương.
Cầu Thiết Chưởng nhắm vào trọng huyệt của Bá Thông quả là muốn hạ độc thủ cực kỳ hiểm ác.
Châu Bá Thông quả nhiên đứng sững không nhúc nhích, và chưởng phong của họ Cầu cũng quả nhiên đánh trúng vào huyệt đạo Thái Dương.
Lạ làm sao, chỉ nghe "bụp !" một cái, đám thôn dân kinh hoảng, tưởng rằng đầu của Bá Thông đã trúng chưởng nứt nẻ ra rồi.
Nhưng định thần nhìn kỹ, Châu Bá Thông vẫn y nhiên bất động, mà Cầu Thiết Chưởng đã quay đầu bõ chạy.
Nguyên vì trong khi họ Cầu xuất chưởng lẹ làng đánh vào yếu huyệt của Bá Thông thì Trùng Dương đã y theo kế hoạch sách định sẵn cũng lẹ làng sử dụng Nhất Dương Chỉ, chỉ khẽ nhích ngón tay hướng vào mạch môn nới cổ tay của hắn ta điểm tới.
Động tác lay khẽ non tay của Trùng Dương bị ống tay đạo bào che khuất, dầu cho ai tinh cách nào cũng không thể phát giác ra được.
Cầu Thiết Chưởng bất thình lình cảm thấy mạch môn tê điếng, thủ chưởng mềm nhũn rã rời, tuy đánh trúng ngay Thái Dương huyệt của Bá Thông, nhưng không có một chút kình lực nào cả, y như là gãi ngứa.
Bá Thông ngữa mặt cười ha hả.
Cầu Thiết Chưởng biết có chuyện mờ ám, nhưng lão ta không biết ngón Nhất Dương Chỉ mà lại cho rằng Châu Bá Thông dùng ám khí hoặc cục đạn hoặc cây kim gì đó rất nhỏ, ném đúng mạch môn làm cho chưởng phong của mình mất hẳn kình lực.
Song, vì không có chứng tích gì để tỏ rằng Bá Thông dùng ám khí, nên Cầu Thiết Chưởng không dám nói ra, sợ đối phương cười xấu hổ.
Nên lão ta đành ngậm miệng quay đầu bõ chạy.
Châu Bá Thông lớn tiếng kêu giật ngược :
- Ê ! Đậu hũ chưởng ! Lão gia đã nói mà không chịu tin, bây giờ lại vỗ đít bỏ chạy sao ? Không được đâu ! Hãy mau làm con rùa mà bò đủ một trăm bước cái đã, rồi Châu lão gia sẽ dung cho.
Cầu Thiết Chưởng nghe Bá Thông bảo mình làm con rùa bò thì cả giận hét to :
- Kẻ sĩ thì chết chứ không chịu nhục, Cầu mỗ này đầu có thể đứt, chân có thể gảy,chứ không thể làm việc đó được đâu. Ngươi đừng mong những chuyện điên rồ như vậy !
Châu Bá Thông giận dử thét lên :
- Người đã thua thì phải làm con rùa, không chịu ta bắt cũng phải làm.
Cầu Thiết Chưởng giận run :
- Nói xàm ! Ngươi đã ném ám khí đánh trúng mạch môn của ta, làm cho chưởng lực của ta không giúp cho người làm quỷ được, bây giờ còn rống họng nhiều chuyện nữa à ?
Châu Bá Thông cười ngất :
- Ngươi nói lão gia dùng ám khí hử ?
Cầu Thiết Chưởng bị hỏi cứng họng, nói :
- Ngươi gìa hàm không chịu nhận, vậy chớ tại làm sao chưởng phong của ta vừa đánh trúng thái dương ngươi bỗng cánh tay ta tê cứng lên,
chưởng lực không phát ra được nữa ?Vậy chẳng phải trong đó đã có chuyện kỳ cục hay sao !
Châu Bá Thông cười ngặt nghẽo :
- Đó là tại các chứng phong thấp của ngươi phát lên, rồi lại gán cho lão gia cái chuyện bậy bạ như vậy để cầu hòa. Không được, hãy làm rùa cho mau.
Cầu Thiết Chưởng nói dặt một :
- Không làm !
Châu Bá Thông gầm lên :
- Ngươi không chịu làm, thì Châu lão gia phải dạy cho ngươi một trận !
Dứt tiếng song chưởng ào ào, đập thẳng vào Cầu Thiết Chưởng.
Cầu Thiết Chưởng này về sau tức là Cầu Thiên Nhẫn, bang chủ của Thiết Chưởng Bang, lúc bây giờ lão ta chưa tiếp nhiệm bang chủ, nhưng đã nuôi trong lòng cái chí hướng luyện thành tuyệt kỹ võ công. Cho nên họ Cầu mới đến Tứ Xuyên này dùng tiền bạc dụ thôn dân bắt rắn, đễ luyện Độc Xà Thần Chưởng, một chưởng công kinh khiếp chưa từng có trong võ lâm, có thể trở thành vô địch trong thiên hạ xưng bá giang hồ.
Nào dè độc xà kiếm chưa đủ số, công phu cũng chưa bắt đầu luyện tập, thì gặp hai anh em Trùng Dương phá vỡ ý định của mình, thử hỏi làm sao nhịn được ! Lại thêm Châu Bá Thông
làm thói con nít, muốn bắt làm rùa, họ Cầu dể đâu chịu khuất phục.
Châu Bá Thông vừa xuất chiêu, Cầu Thiên Nhẫn đã gầm lên một tiếng, cánh tay trái duỗi thẳng bàn tay lật qua, dùng ngay thế Kim Kê Tiễn Dực, nhè nhẹ hứng lấy liên hoàn chưởng của Châu Bá Thông vừa đánh tới.
Trùng Dương nhìn thấy khen thầm :
- Hay ! Người này bản lãnh tuy không bằng những tay luận kiếm hoa sơn, nhưng lại mau lẹ và mạnh mẽ vô cùng, tài đó nếu được phát triển theo tháng năm ắt sẽ không khó trở thành tuyệt thế.
Hai chưởng liên hoàn đánh ra trớt tới. Châu Bá Thông lửa giận bừng bừng nhãy chồm tới đánh khỉa ba chiêu, trong phép tạp quyền.
Chiêu thứ nhất là Miên Lý Chàm của phái Võ Đang, thứ hai là Xuất Văn Thủ vốn của gia sư, và thứ ba là Thắng Quỹ Nhất Điêu Tiên đều được dùng theo thế liên hoàn nhanh như điện chớp.
Cầu Thiên Nhẫn lách bên trái né bên phải một cách chật vật khó khăn. Thầm nghĩ lạ lùng :
- Người này quyền học thâm diệu như thế, không biết y là môn đệ của phái nào ?
Châu Bá Thông vốn là kẻ tính tình kỳ cục, muốn che dấu môn phái của mình để cho kẻ địch không biết đâu mà rờ, bèn áp dụng Đóa Cương Quyền trong những tuyệt học của Thiếu Lâm, nhằm đối phương biến đổi công thế.
Quyền pháp này gồm có hai mươi sáu đường chiêu thuật đưa ra là luôn luôn công hãm ào ạt như sấm chớp mưa tuôn.
Cầu Thiên Nhẫn xem thấy cả kinh, vội vã giở Thông Bối quyền, một quyền thuật căn bản nội gia ra đối kháng.
Thông Bối Quyền còn có tên là Thông Tý Quyền vốn là một quyền pháp có rất sớm trên lịch sử võ học Trung Hoa, đã thịnh hành vào thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Bởi vì lúc bấy giờ đánh giặc dùng chiến xa làm chính, khi chiến xa và chiến xa xáp cận với nhau, tức là lúc mà người với người phân tài cao thấp, lẽ tất nhiên quyền thuật được xem trọng yếu và Thông Bối Quyền cũng bắt đầu ra đời từ đó.
Sử dụng Thông Bối Quyền, Cầu Thiên Nhẫn đã đánh được hai mươi bẩy đường thì quyền pháp nhanh đến cực độ bóng cánh tay vun vút giao khớp quanh mình.
Châu Bá Thông cũng tuôn ra toàn bộ Đóa Cương Quyền cùng với họ Cầu bốn năm mươi hiệp không phân cao thấp .
Châu Bá Thông nôn nóng bồn chồn chàng cho rằng công lực họ Cầu chỉ có thế thôi, dằng dai mãi không đánh bại được đối phương.
Chàng ta nổi nóng hét lên một tiếng, đổi cách đánh, áp dụng Thái Ất Quyền một tuyệt kỹ của môn phái Toàn Chân, từng thức từng chiêu tấn công tới tấp như sóng dậy trường giang ào ào không dứt .
Cầu Thiên Nhẫn vừa thấy cả kinh la lớn :
- Dừng lại ! Có phải Toàn Chân Giáo đó không ?
Châu Bá Thông không chịu ngưng tay, vừa tấn công vừa chửi :
- Thằng giặc chết bầm ! Lão gia là Toàn Chân Giáo đó, rồi có làm sao không .
Nói vừa dứt, lại biến đổi luôn thế đánh, tả quyền hữu chưởng, quyền móc dưới be sườn chưởng đẩy vào giữa ngực, theo chiêu thế Tần Vương Thiên Thạch.
Cầu Thiên Nhẫn vốn đã sẵn khiếp cái tên Toàn Chân Giáo, chân tay lính quính, lật đật vận dụng cả đôi tay, tung ra thế Tả Thôi Hữu Đảo, ý muốn tách rời quyền cước của Bá Thông.
Nào ngờ Thái Ất Quyền là một lối đánh dây chuyền, chiêu thức liên tục thi nhau bay tới hoài không dứt.
Cầu Thiên Nhẫn vừa mới dang đôi tay ra, Châu Bá Thông liền khai triển song thủ, nhanh như chớp bắt chặt ngay cùi chỏ.
Bất ngờ cánh tay bị nắm, Cầu Thiên Nhẫn hoảng hồn, vội vàng uốn cong lưng xuống đang định đá móc ngược lên .
Châu Bá Thông bèn trở thế Lão Ai Chấn Y, vận trọn kình lực vào đôi tay, phi ngược ra ngoài đồng thời hét lớn :
- Đi này !
Tức thì, thân hình Cầu Thiên Nhẫn như một viên đạn ném ra, đầu dưới cẳng trên chúi nhủi theo dốc núi.
Đá cuội đá lồi, chơm chởm theo triền núi, nếu Cầu Thiên Nhẫn lăn lông lốc trên đó nhất định nếu không bị thương tích nặng nề, thì cũng phải trầy mình tét da rách thịt.
Nhưng, quả là bản lãnh khá cao, Cầu Thiên Nhẫn vừa chúi nhủi lập tức dùng ngay thế Thiên Cân Trụy hai cánh tay chống xuống, dỡ cả thân hình đáp lẹ lên mặt đất như một con chuồn chuồn lượn cánh đậu lên dốc núi.
Châu Bá Thông lại thét lên :
- Bò này .
Tiếp theo là chưởng lực bắn ra như xé gió.
Cầu Thiên Nhẫn chưa kịp lật mình trở lại thì kình lực đã xô tới ào ào, lão ta lập tức lách mình thật mạnh, nhãy nghiêng qua tránh né chưởng phong, nhưng phân nửa thân dưới đã bị kình khí đập vào, không thể gượng được, chói tay chói chân lảo đảo bò càn được năm sáu bước, y hệt một chú rùa đen.
Châu Bá Thông vỗ tay cười ha hả :
- Chúa rùa ! Ta đã bảo bò mà không chịu bây giờ mi thiệt là rùa đấy.
Đám thôn dân cũng không kìm được, xúm nhau cười rộ.
Cầu Thiên Nhẫn biết Châu Bá Thông là một nhân vật phái Toàn Chân nên khi chống được đứng lên, đã vội nhún chân nhãy vọt xuống dốc núi như một làn khói xám, nháy mắt, bóng người mất hút.
Châu Bá Thông day lại nói với thôn dân :
- Các ngươi có thấy rõ không ? Cái tên ấy bảo các người bắt rắn, quả thật là không có ý tốt. Hắn dùng mấy đồng tiền mua sinh mạng các ngươi. Bữa nay ta đã đánh đuổi nó chạy đi cũng không phải là cắt đứt nguồn lực của các người, bởi vì cày cấy vun trồng, đã đủ có cơm ăn, chuyện chi lại phải đem mạng của mình mà nhét vào miệng con rắn độc ?
Thôn dân nghe qua những lời của Châu Bá Thông lấy làm phải lắm, ai nấy thảy đều gật đầu vâng dạ. Họ lại còn ân cần mời hai anh em Trùng Dương vào trong thôn nghỉ ngơi, rạng ngày sau mới trang trọng tiễn chân .
Dọc đường Trùng Dương trách Châu Bá Thông :
- Sư đệ, lần này em đã tạo ra một kẻ địch nữa rồi. Bài học với Đông Hải Song Quỹ, sư đệ con chưa đủ khổ hay sao ?
Châu Bá Thông từ trước đến nay vốn tính trẻ con, lúc bây giờ có vẻ ngược lại, nhìn Trùng Dương thở dài :
- Sư huynh ! Anh thường nói tiểu đệ tính con nít, ưa đánh lộn, ưa gây họa đến đâu cũng kết oán gây thù. Kỳ thực thì lúc anh còn trong tuổi thiếu niên lại không có như vậy sao ? Chẳng lẽ chưa từng đánh nhau với bọn hòa thượng Thiếu Lâm ? Chưa từng đại náo Thiếu Lâm tự ?
Tóm lại có lúc tình thế nó buộc người ta phải đi đến việc đánh nhau thôi.
Trùng Dương bị chàng nói chận một hồi, trong lúc đó cũng không biết phải đáp lại làm sao.
Suốt ba ngày đường, vượt qua sạn đạo rồi đến bình nguyên đi riết thêm hai ngày nữa, thì vào đến thành đô.
Thành đô còn có tên là Dung thành, có người gọi là Cẩm Quan thành, phố chợ đối diện với Đại giang, khí hậu ôn hòa, dân cư đông đảo trù phú, vì thế mà chợ búa đường sá hết sức phồn thịnh.
Hơn nữa, lúc bấy giờ phía Nam, quân Kim thường hay vượt Trường Giang cướp bóc, hảm hiếp, những nhà tương đối giàu có trong giải Triết Giang, lần lượt di cư gần hết đến Tứ Xuyên, cho nên cảnh tượng thêm phần tấp nập.
Thành đô ngày nay phô bày sự náo nhiệt mà từ trước chưa từng có.
Đối với nơi đây, Trùng Dương đã khá quen thuộc, sau khi vào thành bèn thẳng đến trú ngụ một khách điếm gần lối Kim Phượng môn.
Châu Bá Thông bỗng thấy tửu hứng nổi lên, bèn nói với Trùng Dương :
- Sư huynh coi chơi vậy mà mình đi đã ngót tháng rồi. Bây giờ nghĩ lại bao tử thật khô khan quá. Sư huynh à, bữa nay tới đô thị, tiểu đệ muốn nhắm chút rượu, nhưng không biết sư huynh có thuận cho không ?
Trùng Dương là một người giới luật rất nghiêm đối với môn nhân đệ tử trong lúc luyện tập công phu, không bao giờ ông cho uống rượu.
Cho nên suốt năm ở Yên Hà động không có được một vò rượu nào mà Châu Bá Thông lại là một con sâu ghiền vì vậy cứ mỗi lúc có việc đi
xuống núi là mỗi lần chàng ta đều lén mò đến chân giải Tung Sơn mua rượu uống. Song vì thể diện của một vị sư thúc đứng trước bọn Khưu Xử Cơ làm cho chàng ta nuốt không ngon miệng.
Lần này theo trùng Dương một chuyến Nam du, lại gặp một trở ngại khác là trước mặt chưởng giáo sư huynh càng làm cho Châu Bá Thông không dám liếc tới bình rượu. Mãi cho đến khi vào đến Thành đô, đường phố dẫy đầy tửu quán chàng ta cứ ngó mấy bảng hiệu mà nuốt nước miếng ừng ực.
Và bây giờ thì không thể chịu nổi nữa đánh liều xin Trùng Dương bỏ lệnh cấm uống rượu một bửa cho đã thèm.
Không dè Trùng Dương nghe nói liền nghiêm nét mặt :
- Sư đệ, chúng ta là kẻ tu đạo, cần phải triệt để tuân theo giới luật về : tửu, sắc. Tục ngữ có câu rất đúng : "rượu là vật độc xoi gan ruột, sắc vì gươm đao xẻ thịt da". Hai chữ tửu sắc luôn luôn cấu kết nhau, người xưa thường nói "rượu làm mai cho sắc", quả là lý chí.
Vì thế mà những kẽ tu luyện, đức không thể thiếu. Phải giữ gìn từng ly từng tí, không được phép buông tuồng phóng túng.
Sư đệ vừa mới đến thị thành đã bị mùi rượu khơi động lòng thèm muốn, nếu như đặt chân vào chốn cung vàng điện ngọc, những thứ câu dẫn lòng người nhan nhãn khắp nơi, thì lúc bấy giờ sư đệ sẽ ra sao nữa ?
Những lời lẽ chân chính trang nghiêm đó, đã làm cho Châu Bá Thông nín lặng.
Chàng ta quả thật là không vui vẻ tí nào, thầm nghĩ mà bực dọc :
- Không cho uống thì thôi, lại cứ ca tụng riết cái thứ kinh đạo đức, thật chán phèo !
Tuy vậy , song vì vốn sợ sư huynh từ lúc nhỏ cho nên đành nín thinh không dám trả lời .
Sau khi bảo chủ quán dọn cơm chay cho hai anh em ăn xong.
Trùng Dương một mình vào phòng tĩnh tọa vận công, còn Châu Bá Thông thì bứt rứt không sao chịu được, bèn nói láo là đi đại tiện , rồi vọt tuốt ra ngoài .
Ra tới ngoài đường Châu Bá Thông suy nghĩ :
- Sư huynh không cho mình uống rượu bây giờ anh ngồi định thần tập luyện, tại sao mình không biết lén trốn đi nốc một bửa cho đã. Chẳng lẽ ảnh là tiên thánh gì hay sao mà có thể đánh tay biết được ? Rõ thiệt là ngốc !
Nghĩ đến kế vẹn toàn Chu Bá Thông hít hít không khí nghe như có mùi rượu gần bên lỗ mũi.
Chàng ta bèn men theo đường, vừa đi vừa thò tay vào túi kiểm soát tiền bạc cẩn thận.
Vừa quẹo qua góc khách điếm, liền gặp một chiếc xe ngựa đưa khách đậu ở bên lề, Châu Bá Thông bèn nhãy phóc lên ngồi bật ngữa trên băng dựa :
- Ừ ! Khá quá ha ! Này, chỡ ta đến quán rượu mau lên !
Người đánh xe hỏi lại :
- Lão gia ở đây tửu lầu nhiều lắm chẳng hay lão gia muốn đến đâu ?
Châu Bá Thông cự nự :
- Hừ, đồ dốt đặc ! Chỗ nào danh tiếng nhất thì đưa tới còn hỏi lôi thôi !
Gã xa phu biết tay này là người xa mới đến, coi mòi có thể đập được nên làm thinh nẹt roi cho xe chạy về hướng Tây Mã Kiều.
Chạy riết đến Túy Tiên Lầu một tửu điếm đồ sộ nguy nga, ca nhạc vang vầy suốt bốn tầng lầu, bàn ghế hoa đăng sắp bày la liệt.
Gã xa phu bèn cho xe đỗ lại ngay giữa cửa.
Châu Bá Thông thấy tòa tửu lầu cao vọi, đèn đuốc ngời ngời, trong bụng thầm nghĩ :
- Chà ! Thật là sang trọng quá, với tửu điếm nơi này thì cái quán rượu ở chân núi Tung Sơn không ra cái cóc khô gì hết.
Tiếng ca tiếng nhạc dặt dìu, mùi rượu mùi thức nhắm bay nghe sực mũi.
Châu Bá Thông tuột xuống xe, sắp bước đi vô cửa.
Tên đánh xe nắm vạt áo chàng kéo lại :
- Lão gia, ngài quên cho tiền xe !
Châu Bá Thông quay lại, hơi lúng túng :
- Bao nhiêu ?
Gã xa phu nói tỉnh bơ :
- Dạ không bao nhiêu đâu, cho ba mươi đồng thôi.
Châu Bá Thông giật nảy mình , nghĩ bụng :
- Tiền thành thị sao mà mắc dử hé !
Thật ra thường lệ một cuốc xe như vậy chỉ khoảng trên dưới ba bốn đồng thôi , nhưng tên đánh xe biết ông khách nầy là người ở tỉnh xa, đúng là dịp cho hắn "xẻ bò tơ" một chuyến.
Cũng đáng đời cho kẻ không biết mà làm phách, chẳng chịu hỏi giá trước khi đi.
Châu Bá Thông nghĩ tức, song không biết làm sao, đành phải cắn răng trừng mắt móc hầu bao trả cho gã đánh xe ba chục đồng rồi quay qua bỏ đi luôn lên lầu tửu điếm Túy Tiên.
Học một bài học mấy chục bạc... chàng họ Châu cảm thấy khôn ra quá xá, cho nên sau khi chọn một bàn trống ngồi xuống, bèn lật bản thực đơn ra xem xét giá tiền từng món đàng hoàng rồi mới kêu năm cân rượu trắng, bốn đĩa đồ nhắm, bật ngữa trên ghế rót rượu nhâm nhi.
Vừa nhậu vừa ăn, vừa nghĩ đến món tiền xe ba mươi đồng, càng tức giận lẩm bẩm :
- Một lát nữa hổng thèm đi xe, hỏi thăm đường đi bộ thử coi tới không cho biết.
Cạn mấy tuần rượu, mà cái tiền cắt cổ vẫn còn ậm ực chưa trôi, chợt nghe kế bên giọng đàn tỳ bà réo rắt.
Châu Bá Thông day lại thì ra đó là hai cha con người hát dạo đang đi đến trước bàn mình.
Người cha tuổi không quá năm mươi, tay ôm chiếc đàn tỳ bà và đứa con gái độ mười tám, mười chín, mái tóc mây đen mướt được uốn cao theo chiếc lược đồi mồi phơi bày chiếc cổ trắng cao với bờ vai tròn vỉn.
Nhan sắc tuy không phải trên đời có một, song với khổ hình cân đối trong chiếc áo lụa màu xanh dợt mỏng manh, nổi bật một làn da trắng phau, điểm sơ một lớp phấn hồng và đôi mắt long lanh, đủ khiến khách ưa nhìn, tay mân mê cặp sanh, đứng nép sau lưng người cha đang vòng tay mời mọc :
- Lão gia, chúng tôi là kẻ lấy đàn ca độ nhật, xin kính hầu lão gia một khúc.
Men rượu lâng lâng với hơi người đẹp, Châu Bá Thông bàng hoàng gật đầu :
- À ! Té ra cô nương là một ca sĩ đấy à ? Chẳng hay nàng hát những khúc chi ?
Người con gái với vẻ thẹn thùng cố hữu, nghiêng mình đưa đôi tay ngà ngọc, trao cho khách cặp sanh bằng gỗ đàn hương.
Châu Bá Thông đón lấy, lật xem mặt sanh ghi đầy dẫy những tên khúc từ, chàng trả cặp sanh và bảo người con gái :
- Hãy hát khúc Biệt Quí Bình Dao.
Người con gái e dè ngồi ghé trên mép ghế, khẽ nhếch môi gõ nhẹ cặp sanh cất giọng châm trầm.
Lão gìa lướt phiếm tỳ bà khoan khoan trong vút.
Giọng đàn tiếng hát, trầm bổng nhặt khoan . Dưới ánh đèn bên chén rượu, bến Tầm Dương như sống dậy giữa Túy Tiên Lầu.
Suốt nửa tiếng đồng hồ khúc Biệt Quí Bình Dao mới dứt.
Châu Bá Thông vỗ tay tán thưởng :
- Hay ! Hay ! Thật là tiếng ngọc, lời châu đẹp hay quá cỡ.
Thật ra Châu Bá Thông vốn không phải là biết nhiều về âm nhạc, song nhờ không khí của tửu lâu và men rượu hơi tiếng tỳ bà với giọng ca người đẹp, đã làm cho chàng ta nổi hứng.
Lão gìa cung kính tươi cười :
- Lão gia thật là một nhà thưởng thức phẩm bình tế nhị. Xin lão gia hãy chọn cho khúc khác.
Đang lúc quá hứng và cho rằng khúc hát cũng chỉ là mấy đồng, Châu Bá Thông bèn lựa bài Kích Cổ Mạ Tào một khúc hát dựa vào câu chuyện Di Chính Bình đánh trống mắng Tào Tháo dưới triều nhà Hán.
Người con gái bèn gõ sanh trỗi giọng.
Khúc Biệt Quí Bình Dao khi nãy trầm trầm hòa hoãn bao nhiêu thì trái lại trong Kích Cổ Mạ Tào, giọng điệu đổi thay hùng hồn dồn dập, âm ba khẳng khái cao vút dị thường, lại thêm gần nửa tiếng đồng hồ nữa khúc ca mới dứt.
Châu Bá Thông coi lại rượu và thức ăn cũng gần cạn sạch, bèn bưng chén nốt đợt cuối cùng, đánh khà một tiếng :
- Hay lắm ! Thôi, hãy ngưng đi. Hai khúc hát vừa rồi, tính bao nhiều tiền ?
Lão gìa vẻ cười tươi tràn đầy lên mặt :
- Đa tạ khách nhân ! Xin cho hai trăm đồng thôi ạ !
Nghe ba tiếng "hai trăm đồng", Châu Bá Thông nhãy nhổm, men rượu bay tan mất hết , trừng mắt hỏi gặng :
- Hai trăm đồng ? Cái gì mà dử vậy ?
Lão gìa mồm cười, lật mặt sanh chìa ra tới trước.
Té ra, có hai chữ nhỏ rí khắc bằng đầu ruồi khắc rõ ràng tám chữ : Toàn khúc một trăm, tiểu khúc năm đồng.
Châu Bá Thông hỏi :
- Làm sao gọi là toàn khúc ? Còn làm sao gọi là tiểu khúc ?
Lão gìa nói :
- Toàn khúc nghĩa là hát hết một bài từ đầu chí cuối còn tiểu khúc tức là một đoạn ngắn trong bài đó . Chẳng hạn vừa rồi khách quan bảo hát Biệt Quí Bình Dao chứ nếu bảo chỉ hát Mang Ấn Chinh Tây hoặc Khổ Thủ Hàn Dao thì lại là giá tiền của tiểu khúc.
Châu Bá Thông chửi thầm :
- Mẹ ! Cái tụi lưu manh Tứ Xuyên này mọi việc đều muốn xẻ da lóc thịt người ta, thật mình không dè lại mắc bẫy chúng.
Dân Tứ Xuyên có một câu tục ngữ :
"Trên trời có chim chín đầu, dưới mặt địa cầu có kẽ Tứ Xuyên".
Nó có ý nghĩa là trong thiên hạ chỉ có người Tứ Xuyên ưa nói nhất, và là người lời lẽ hoạt bát, khôn ngoan nhất.
Hơn phân nửa người Tứ Xuyên có óc tự cao và bài ngoại. Nếu là người ở tỉnh khác đến Tứ Xuyên, mà xử sự đến một mực trung hậu thật thà thì nhất định sẽ bị họ liền. Đó là một thói quen tự nhiên của họ.
Bữa nay Châu Bá Thông, đụng tên đánh xe và hai cha con người hát dạo, cũng chỉ là một cái lệ nho nhỏ vậy thôi.
Nhưng đối với Châu Bá Thông bây giờ thật là vô cùng rối rắm, trong túi có đúng ba trăm đồng, thằng đánh xe ngựa mắc dịch nuốt hết ba chục, còn hai trăm bảy, kêu rượu và thức nhắm tính phỏng đã quá hai trăm, nếu bây giờ trả tiền đàn hát, thì lấy đâu mà thanh toán mâm rượu thịt đã quất sạch rồi đây .
Thấy Châu Bá Thông thộn người ra. Lão gìa đánh đàn cố làm ra vẻ tươi cười :
- Lão gia, ngài là một vị phú gia hào phóng, tiểu nữ hát hơn một tiếng đồng hồ, hai trăm đồng tiền kể cũng không phải là quá đáng, xin ngài ban cho.
Châu Bá Thông đập tay xuống bàn, lớn tiếng :
- Bộ ngươi nói ta là nai tơ đây hả ?
Lão gìa làm bộ ngạc nhiên :
- Chúng tôi đi hát có quy chế đàng hoàng đâu có thể xem khách như nai tơ được. Không tin, lão gia cứ hỏi nhà chức trách ở đây thì biết.
Châu Bá Thông đổ quạu :
- Đồ lẻo ! Cái bọn lưu manh Tứ Xuyên của chúng bây chuyên môn lừa phỉnh người ta. Hai trăm đồng hả ? Xí ! Một xu thế nào cũng không đưa nữa, thử coi ngươi có nuốt sống được lão gia không ?
- Loạn rồi, loạn rồi ! Nghe hát mà không chịu trả tiền, ở đây là nơi có quan có luật, không phải muốn quịt ai cũng được đâu nhé.
Lao gìa vừa nói mấy câu, bỗng có tên hán tử đồng bọn hát thuê tràn xuống, la ó lên :
- Tra lão Tam, kẻ nào nghe hát không trả tiền đâu !
Lão gìa chỉ Châu Bá Thông :
- Đây ! Tên vô loại này đây !
Châu Bá Thông nghe lão gìa gọi mình là vô loại, nổi xung đứng dậy cung tay định xán một chưởng, nhưng kịp thời nghĩ lại, mình là kẻ tinh thông võ nghệ mỗi nhích tay nhích chân là đủ kết liễu tính mạng con người, huống chỉ đánh một lão già, lại càng mất mặt anh hùng hơn nữa.
Suy nghĩ thấy điều bất tiện, bèn vội vàng ngồi xuống nốc cạn hai chén lớn để dằn cơn giận dử và bật ngữa trên ghế cười lạt, không thèm nói mà cũng không thèm ngó tới đối phương.
Lão gìa đánh đàn thấy thái độ của Châu Bá Thông, càng làm cho lão ta tức giận đổ lửa.
- Đồ ăn cướp ! Ngươi trả hay không trả nói đi !
Châu Bá Thông lạnh lùng :
- Không trả rồi có sao không ? Ngươi ăn thịt được ta à ?
Và chàng ta day vô quán, thản nhiên :
- Tiểu nhị tính tiền.
Tiểu nhị chạy lại tính hết thảy hai trăm mười lăm đồng.
Châu Bá Thông xỉa tiền đứng dậy.
Đồng bọn hắc đạo thấy Châu Bá Thông không chịu trả tiền, liền hè nhau la ó :
- Tên lưu manh nghe hát không trả tiền, mau kéo nó lại !
Vừa la vừa xúm nhau giật áo Châu Bá Thông.
Châu Bá Thông cười ha hả :
- Muốn đánh ta phải không ! Hay lắm !
Lão gia uống rượu xong, đang định tìm người đấm bóp đây ?
Xúm lại ! Phải đấm tử tế nhé ! Thằng nào không đánh là con chó.
Trong đám hát dạo có một gã thanh niên giận quá cung tay thoi vô mặt Bá Thông một cái.
Châu Bá Thông chầm chậm phất nhẹ tay áo rộng.
Tên thanh niên ấy tay chưa đụng tới mình Châu Bá Thông đã lảo đảo thối lui té bò trên mặt đất.
Bọn họ hốt hoảng la lên :
- Ối ối ! Tên này có phép yêu. Tên này có phép yêu !
Châu Bá Thông tính đùa cợt của trẻ nít lại nổi lên, cười ha hả :
- Lão gia có phép yêu đấy. Tên nào đụng tới chân lông của lão gia thì lập tức rơi đầu.
Và nhận thấy bên cửa sổ có để một chậu bông lớn, Châu Bá Thông làm cho bọn họ hết hồn chơi, bèn xòe bàn tay khẽ quạt về phía đó một cái, chưởng phong ùa tới hất chậu bông văng xuống đất bể tan như cám.
Chúng nhân cả kinh không dám xông vô, luôn cả bọn tiểu nhị cũng run cầm cập.
Đám hát dạo dang ra chung quanh, lấy tay chỉ chỏ, chửi Châu Bá Thông là đồ yêu đồ quỷ ran trời ran đất.
Châu Bá Thông thấy bộ dạng của họ bắt tức cười, đang định giở trò trêu ghẹo nữa, chợt nghe sau lưng nổi lên một giọng trầm trầm :
- Sư đệ !
Châu Bá Thông day lại, thấy chưởng giáo sư huynh đang vẹt người bước tới.
Chàng ta hốt hoảng, trống ngực đập lên thình thịch, luống cuống nói không ra tiếng :
- Sư huynh ? Anh... anh... làm sao đến đây ?
Nguyên vì Trùng Dương ngồi ở trong phòng tỉnh tọa vận công một lát, không thấy Châu Bá Thông trở vào trong lòng ngờ vực nghĩ thầm :
- Lạ, Châu sư đệ lúc nãy nói đi đại tiện sao lâu quá không thấy trở về vậy cà. Chẳng lẽ...
Ông bỗng sực nhớ việc xin đi uống rượu, chợt giật mình thầm nghĩ thế nào hắn cũng lén đi rồi, bèn lật đật đứng dậy bước ra.
Đối với Châu Bá thông, Trùng Dương có rất nhiều kỳ vọng, ông mong sẽ vì phái Toàn Chân mà đem Nhất Dương Chỉ, một môn học bí truyền, và Thiên Oa Bắc Đẩu trận, một trận đồ tuyệt nghệ của bản môn mà truyền thụ cặn kẽ cho người sư đệ của mình, để làm rạng rỡ tông phái.
Cho nên không muốn chàng vì bị rượu mà tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, những cái thường tình trong thiên hạ.
Không dè Châu Bá Thông không nghe lời lén trốn đi chơi làm cho Trùng Dương vừa giận vừa buồn, bèn bỏ việc luyện công, vội vã ra khỏi khách điếm, đi riết ra đại lộ.
Đối với Thành đô, Trùng Dương là một người rất quen đường thuộc lối, biết rằng địa phương này rất nhiều quán rượu, nhưng Châu Bá Thông mới đến nơi đây chưa biết được nhiều, nhất định sẽ phải đến nơi náo nhiệt nhất. Bèn nhắm hướng Tứ Mã Kiều đi tới.
Tứ Mã Kiều là nơi trú ngụ của Tư Mã Tương Như thuở trước. Vốn là bậc phong lưu văn vật, thuở xuân sanh đã lại Thành đô gẩy khúc Phượng Cầu Hoàng rung động Trác Văn Quân.
Người đời đã lấy đó truyền thành giai thoại.
Về sau, hai vợ chồng Tương Như lại mở một quán rượu tại Tứ Mã Kiều do Trác Văn Quân đích thân đứng bán, mở đầu cho nơi này một không khí tài tử văn chương, vì thế mà từ đó trở đi, dọc giải Tứ Mã Kiều những người có óc kinh doanh buôn bán không hẹn mà cũng dựng lên rất nhiều tửu quán.
Trùng Dương vừa đến Túy Tiên lầu chợt thấy thiên hạ bu quanh trước cửa dòm xem náo nhiệt.
Bên trong thì lắm tiếng ồn ào, biết rằng đã có chuyện xảy ra, bèn vội vàng vẹt người bước vào đúng vừa lúc Châu Bá Thông ấu đả với bọn người hát dạo.
Châu Bá Thông tuy lỗ mãng kỳ khôi nhưng rất sợ sư huynh, nên khi thấy Trùng Dương là anh ta tỉnh hẳn.
Trùng Dương bước tới cười gằn :
- Sao đệ cao hứng dử a ? Đã uống rượu say rồi lại còn đánh lộn nữa chứ ?
- Không đánh lộn. Tiểu đệ không có say rượu mà cũng không có đánh lộn nữa.
- Không đánh lộn. Vậy chớ người ta vây sư đệ lại chi vậy ?
Châu Bá Thông bào chữa :
- Sư huynh, cái đó... cái đó... là họ ăn gian tiền của đệ đấy.
Rồi chàng bèn đem hết việc tên đánh xe ngựa "xẻ" và việc cha con người hát dạo đòi tiền thuật lại cho sư huynh nghe, nhưng còn khúc sau, khúc làm ma làm quỷ với thiên hạ thì anh ta dấu tuốt.
Trùng Dương nghe kể chuyện, vừa giận vừa tức cười, bèn móc túi lấy một xâu tiền ước độ hơn hai trăm chìa về phía lão gìa hát dạo :
- Đừng có mà om sòm, lấy tiền đi đi.
Lão gìa đánh đàn cười ra mặt, thò tay định lấy.
Trùng Dương thấy bọn tham lam, cả giận nói :
- Này, đi đi !
Vừa nói vừa ném xâu tiền lên bàn, chỉ nghe tiếng khua rổn rẻng, xâu tiền đã xuyên lủng mặt bàn, đổ văng tung tóe trên mặt đất, bọn người vây quanh xem thấy thế há hốc mồm kinh hoảng !
Trùng Dương nắm tay áo Bá Thông kéo đi :
- Sư đệ chúng ta đi thôi !
Bọn hát dạo gian xảo không dám hò hét gì hết để cho hai người ngang nhiên bước ra khỏi quán, chỉ biết lấy mắt trừng trừng ngó theo cho tới khi mất hút.
Về tới khách điếm, Trùng Dương vào phòng ngồi xuống, lúc bấy giờ hơi giận lộ đầy sắc mặt :
- Sư đệ ! Hãy nói cho biết, quy củ của Toàn Chân Giáo, sư đệ hôm nay đã phạm vào điều giới luật nào ?
Châu Bá Thông từ bao nhiêu năm nay ở cận Trùng Dương, chưa thấy lúc nào sư huynh mình giận dử như vậy, chàng chỉ còn có nước quỳ bừa trên mặt đất cúi đầu.
Trùng Dương trầm giọng chậm rãi từng tiếng :
- Sư đệ, ngăn cấm việc uống rượu, không phải ta có ý tước đoạt luôn cả một chút ưa thích duy nhất trong đời của sư đệ.
Nhưng, người xưa còn nói : "Việc ăn uống muốn được đức độ hòa nhã, thì tửu lượng không được lạm dụng", mà việc uống rượu của sư đệ thì lại không có lúc ngưng, không có nơi giới hạn, vì vậy ta mới không bằng lòng. Sư đệ cứ nghĩ lại, vừa rồi cũng chỉ vì uống rượu, mà làm một việc xấu trước đám đông người. Một con người dầu có bị rượu say, cũng không thể nào mất đi bản tính của con người được, nếu như sư đệ hành hung rất dễ dàng gây án mạng đến lúc đó, tội của sư đệ há chẳng thêm nhiều, oan nghiệt tạo ra há chẳng chồng chất nặng nề hơn nữa hay sao ?
Những lời đạo nghĩa nghiêm trang ấy đã làm cho Bá Thông cúi đầu câm lặng không dám hé môi.
Đang lúc Trùng Dương đang cố tìm mọi cách dạy dỗ em mình, thì bỗng nghe ngoài cửa điếm có tiếng ồn ào la hét, trong đó có một giọng nói hung hăng :
- Thằng nhỏ kia ! Mi muốn sống hay muốn chết ! Cái tên đạo sĩ ấy ở phòng nào ? Nói mau lên ?
Tiếp theo là giọng nói của người làm công trong khách điếm :
- Dạ thưa gia gia, tiểu nhân xin dẫn đường đây. Người đạo sĩ ấy họ Vương ngụ ở trong phòng đó.
Toàn Chân Giáo Chủ nghe bước chân rầm rập bên ngoài với tiếng ồn ào lộn xộn, thì biết kế đến không phải một, mà ít nhất cũng ba bốn chục người, ông bèn lập tức quát bảo Bá Thông :
- Đứng dậy !
Châu Bá Thông vội vã đứng lên, hai anh em cùng bước ra ngoài.
Vừa ra khỏi cửa, thì thấy một bọn người đã tràn tới tấp nập.
Họ toàn là những thanh niên mạnh khỏe, vận áo ngắn, độ hơn ba mươi người, kẻ cầm đao thương người cầm côn bỗng, hùng hùng hổ hổ xông tới.
Dẫn đầu một tên đại hán, mặt bóng như đồng đen, mày rô mắt lộ, vận quần áo màu huyền, tay cầm hai thanh sắt lớn.
Bọn hán tử vừa ngó thấy anh em Trùng Dương liền rập nói lên :
- Đó tên đứng sau là kẻ đã lừa lão Tra Tam nghe hát không trả tiền đó. Còn đạo sĩ kia là sư huynh của hắn cũng là kẻ đã lấy tiền liệng thủng mặt bàn trong tửu quán đó.
Tên đại hán mặc áo màu huyền liếc xéo hai anh em Trùng Dương đoạn khẽ hất hàm :
- Hai người anh em kia. Các người quá giang thuyền nào đến đây vậy ?
Nguyên tên đại hán này là kẽ xưng bá tại Thành đô, tên gọi Đơn Chí Hồng biệt hiệu Hắc Ban Báo, đôi tay khỏe như trâu nước, vốn là kẽ xuất thân trong chốn lục lâm. Sau cấu kết với bọn bán muối lậu, làm giàu. Bấy giờ mới bỏ nghề, tậu được trang viện to lớn ở Thành đô.
Hắn ta dựa vào thế lực hắc đạo tạo lập phái Bào Ca thế lực bao trùm toàn giới thương thuyền, khách thuyền xuôi ngược Xuyên Tây bầu hắn ta làm thủ lãnh.
Bào Ca là một tổ chức sống trong của xã hội Tứ Xuyên, nguyên ủy của nó vốn đã rất lâu đời. Từ triều đại nhà Đường, dọc dài các đại giang Tứ Xuyên, Trùng Khánh xuất hiện một hội bán công khai, thật ra đầu tiên cũng chỉ là một ổ chuyên buôn muối lậu, kết dây kết cách mà thành. Sau lần lần số người gia nhập càng đông thu hút gồm cả các hạng người phức tạp. Lâu dần biến thành Bào Ca hội.
Bào Ca hội thành phần rộng rải to lớn bao gồm cả xa, chuyển vận tải đường bộ, khách điếm tửu lầu, cho đến các giới thượng lưu sinh hoạt y khoa bói tướng hầu hết đều có chân không sót .
Họ chịu sự sai khiến và bảo bọc của bọn thủ lãnh Bào Ca và lẽ tự nhiên mồ hôi nước mắt đổ ra hằng ngày cũng phải dè xẻn để cung cấp
cho bọn cầm đầu.
Kể cả các giới thượng lưu cũng đều phải cung dâng như thế. Song cũng để bù đắp lại, mỗi khi có kẻ dử hành hung, thì lãnh tụ Bào Ca đứng ra gánh chuyện bất bình. Vì lẽ đó mà việc tốn hao phủ phụng họ cũng không tiếc mấy.
Châu Bá Thông tại Túy Tiên lầu gây sự, làm cho cha con Tra lão Tam oán hận, đem chuyện thưa lại với Hắc Ban Báo Đơn Chí Hồng, gã này nổi nóng dẫn tay chân bộ hạ, thanh thế hùng dũng tìm đến chỗ ngụ của hai anh em Châu Bá Thông để mà vấn tội.
Đơn Chí Hồng mở bằng câu hỏi lóng của Bào Ca hội.
Trùng Dương chưa kịp trả lời, thì Châu Bá Thông đã chưởi tưới hột sen :
- Đồ chó chết ! Lão gia do đường sạn đạo Xuyên Bắc đến đây không có quá giang xuồng ghe gì hết ? Cút ngay đi cho rồi.
Câu nói của Châu Bá Thông, đã phạm vào đại kỵ của Bào Ca hội, làm cho Đơn Chí Hồng giận dử :
- Ngươi là đồ hèn mạt, đi lừa bịp kẻ hát thuê nghèo khổ, nếu không cho các ngươi điều lợi hại, các ngươi sẽ không biết Hắc Ban Báo là nhân vật như thế nào.
Chưa kịp dứt lời, Châu Bá Thông đã thóc tới xáng cho Đơn Chí Hồng hai bốp tai, làm Con Beo đốm đen tá hỏa tam tinh, mắt văng đom đóm:
- Cùng trong lúc Đơn Chí Hồng bị đánh, Trùng Dương vùng hét lên tung mình nhãy tới.
Nhưng không phải tiếp sức tấn công, trái lại ông kéo tay Châu Bá Thông trở về và cũng xáng cho chàng ta hai tát.
Không phải đùa chơi, mà quả hai tát tai của Trùng Dương làm cho Châu Bá Thông cảm thấy đầy trời chớp nhoáng, xính vính té ngồi xuống đất.
Việc xảy ra ngoài ý liệu của Châu Bá Thông, luôn cả Đơn Chí Hồng cũng không biết trời đất ra sao, đồng bọn của Hắc Ban Báo nhìn nhau ngớ ngẩn.
Trùng Dương ngó Châu Bá Thông mắng lớn :
- Nghiệt súc ! Sáng nay đã phạm giới luật bản môn, bây giờ tại còn dám đánh người, quả thật tội chưa hết lại chồng thêm tội nữa. Hãy cút về phòng ngay. Không được chường mặt ra nữa, nghe chưa ?
Châu Bá Thông không dám co cường, cúi mặt lủi thủi về phòng.
Sau khi nạt lui Châu Bá Thông, Trùng Dương mới quay qua Đơn Chí Hồng, cúi đầu thi lễ :
- Vô lượng thọ Phật ! Sư đệ của bần đạo tuy đã lớn, nhưng tính tình hãy còn quá trẻ con, vừa rồi đã đắc tội với lão huynh, xin lão huynh hãy thứ cho.
Đơn Chí Hồng lúc ấy thật là khóc cười lở dở, bởi vì từ trước đến nay y vốn là thủ lãnh Bào Ca hội tại Thành đô, bao nhiêu năm nay không một kẻ nào dám to gan làm điều thất lễ, không ngờ bữa nay mới ló đầu gánh việc cho hai cha con Tra Tam, đã bị hai bạt tai đổ lửa.
Hắc Ban Báo sửa soạn gây chuyện với Trùng Dương, nhưng vừa mới ngẫng đầu, chợt bắt gặp luồng nhãn tuyến như điện chớp của vị Toàn Chân Giáo Chủ xuyên qua, bất giác họ Đơn trong bụng nghe phát run lên.
Nguyên vì Trùng Dương là một con người tư thái uy nghi, nhãn quang của ông lạnh lẽo như ánh điện xanh rờn, một dáng cách không giận dử mà trang nghiêm khiến cho người đối diện dễ sinh sợ sệt.
Đơn Chí Hồng chợt hiểu rằng gã sư đệ của ông ta thủ pháp như thế, tính tình lại kỳ khôi ương ngạnh, mà rồi bị mấy tát tai im thin thít, không dám hó hé một lời, thì đủ biết bản lãnh của ông ta đến bực nào rồi.
Gã Hắc Ban Báo đâu còn có dũng khí nào dám cùng với Trùng Dương động thủ ?
Song, cứ như vậy mà chịu thua luôn thì bẽ mặt quá, nên Đơn Chí Hồng cố tỏ ra giận dử :
- Sư đệ của ông hành vi vô lại, lừa gạt đến người ca hát nghèo nàn, chúng ta là người tai mắt, quyết không để cho kẻ lạ mặt đến đây khinh lờn được, ông hãy kêu hắn ra đây cúi đầu xin lỗi chúng ta thì mới có thể dung thứ tội lỗi của hắn được.
Đơn Chí Hồng nói như thế cho rằng mình đã nhân nhượng quá rồi. Hai cái tát tai, đã không đánh lại, đối với một người đường đường lãnh tụ Bào Ca xử sự như vậy thật là một việc tày trời.
Nào ngờ Trùng Dương nghe nói, ngữa mặt cười hả hả.
Chúng nhân quá đổi ngạc nhiên.
Đơn Chí Hồng thấy phong thái của Trùng Dương hàm ẩn tinh thần ngạo nghễ, làm cho gã bừng bừng nổi giận chực muốn buông lời xỉ mạ.
Nhưng vị Giáo Chủ Toàn Chân Giáo chợt nín cười :
- Các người thật quá coi rẻ những kẻ ở tỉnh lạ của chúng tôi ! Ba chục đồng một cuốc xe, hai trăm bạc nghe một khúc hát, thật quả là khi chúng tôi như một chú nai tơ rồi.
Đơn Chí Hồng đỏ mặt, hắn biết cha con lão họ Tra đã lừa gạt khách lạ tỉnh xa, làm vậy là không phải. Nhưng đã đến mức này đã lâm vào thế "lỡ trèo lưng cọp", đã đâm lao thì dầu muốn hay không cũng phải theo lao.
Hắc Ban Báo bèn cười rống lên một tiếng :
- Thế mà sư đệ của ông không bằng lòng nhận tội à ?
Trùng Dương với vẻ mặt lạnh lùng :
- Có cái gì mà phải nhận tội hay không nhận tội ? Hãy tự xét mình rồi thiên hạ mới xét sau. Nếu quả như bọn họ không lừa phỉnh người khác tỉnh, thì có đâu mang lấy chuyện phiền hà . Vả lại cha con của lão họ Tra, nào đã bị ai lường gạt ?
Đơn Chí Hồng hơi giận xông lên cực điểm, vung tay đập mạnh vào vách tường đánh binh lên một tiếng chát chúa, bức tường dày đã bị vỡ một lỗ to.
Thi triển công phu đập thủng bức tường, họ Đơn đã tự cho rằng không ai sánh kịp, hắn đâu ngờ đối với Trùng Dương, cái thứ công lực vụn vặt ấy nào có nghĩa lý gì.
Vị chưởng giáo Toàn Chân lại cười ré lên ha hả, đưa mũi chân dí dí trên nền đá.
Khủng khiếp làm sao, nền đá lâu đời cứng rắn như gang sắt, bỗng mềm nhũn như nền đất ướt, bị bàn chân của Trùng Dương ấn sâu hơn năm tấc, nơi dấu chân ấy, đá bị nghiện ra như bụi.
Đơn Chí Hồng kinh hãi quá mức, vội vã vòng tay :
- Đạo trưởng võ công thần diệu, tiểu đệ khâm phục vô cùng ! Song trước giờ Ngọ hôm nay, xin đạo trưởng hãy khoan lìa khỏi nơi này vì tiểu đệ còn muốn cùng đạo trưởng dẫn kiến thêm mấy vị bằng hữu nữa.
Dứt lời không đợi Trùng Dương hồi đáp, người thủ lãnh Bào Ca vòng tay lại vái chào, đồng thời xoay mình ra hiệu cho bọn tay chân bộ hạ :
- Đi thôi !
Cả bọn rập lên một tiếng ùn ùn kéo nhau đi hết.
Sau khi dùng thinh uy lui bọn Bào Ca hội, Trùng Dương trở vào phòng, thấy Châu Bá Thông vẫn còn ngay ngắn quỳ y như cũ.
Ông không thèm ngó tới, điềm nhiên lên ngồi luyện công phu.
Hai tiếng đồng hồ sau, vừa đúng lúc mặt trời đứng bóng.
Châu Bá Thông chịu không thấu nữa, kêu :
- Sư huynh ! Nếu anh còn giận, thì hãy đem tiểu đệ mà chặt quách cặp giò đi, để lấy đó làm tội sống.
Trùng Dương lúc bấy giờ mới từ từ mở mắt :
- Sư đệ trong thời gian qua, anh lao tâm mệt trí khuyên em giới tửu đã bao nhiêu lần rồi ?
Châu Bá Thông đáp :
- Bao nhiêu thì tiểu đệ nhớ không rõ có lẽ độ hơn trăm lần. Sư huynh hơn trăm bận khuyên răn mà tiểu đệ vẫn còn phá giới, tiểu đệ phải tự mình vả lấy miệng mình hơn trăm cái mới được.
Trùng Dương nghe lời lẽ của Bá Thông trẻ con như vậy, tuy không cười ra tiếng, nhưng cơn giận cũng đã tiêu tan, ông bèn dịu giọng :
- Tốt lắm ! Tốt lắm ! Thôi đứng dậy đi ! Từ nay về sau không được tái phạm nữa nghe ?
Châu Bá Thông vừa mới đứng dậy, chợt nghe có tiếng gõ cửa phòng.
Chàng bước lại mở cửa thấy tên làm công của khách sạn đứng ở bên ngoài, bộ tướng không yên hơ hải :
- Đạo trưởng ! Có người đưa thiệp mời ngài.
Châu Bá Thông ngạc nhiên :
- Lạ không ! Sư huynh đệ chúng ta đâu có quen lớn gì với ai ở đây đâu, sao lại có thiệp mời đi uống rượu ? Chẳng lẽ...
Trùng Dương nạt Châu Bá Thông :
- Đừng có tưởng xàm !
Và ông day sang bảo tên hầu phòng :
- Được rồi ! Ngươi bảo họ mang thiệp mời đến đây !
Tên hầu phòng dạ dạ lui ra.
Giây lát từ ngoài cửa đi vào hai tên hán tử ăn vận theo kẻ phục dịch, tên đi đầu bưng một cái hộp mạ vàng chói lọi, bên trong để tấm thiệp mời, tên đi sau khệ nệ mang một cái mâm to sơn đỏ, trên mâm đặt sẵn một con gà quay vàng hực, bên cạnh để một con dao nhỏ sắt thép long lanh.
Châu Bá Thông vừa dòm vừa suýt soa tỏ vẻ lạ lùng.
Trùng Dương bước tới liếc qua, trước hết chào hai tên hán tử :
- Thật quá phiền nhị vị !
Và ông tiếp lấy chiếc hộp mạ vàng mở ra liền thấy một tấm thiệp màu hồng, trên đó bốn chữ Long, Hổ, Vân, Long, được kẻ nét vàng rực rỡ.
Ngoài ra không thấy ký tên.
Trùng Dương bật cười hà hà, cầm lấy thanh dao nhỏ, phạt ngang cổ con gà quay, chiếc đầu gà rớt xuống mâm kêu "cộc !" một tiếng khô khan.
Hai tên hán tử có hơi biến sắc nhưng vẫn tươi cười :
- Vương chân nhân ! Đà Chủ chúng tôi đúng trưa nay có mở tiệc rượu mừng. Lời chỉ có thế thôi, quyết không có điều chi thôi thúc.
Vị Giáo Chủ Toàn Chân cũng đáp lời gọn lỏn :
- Hay lắm !
Hai tên hán tử liếc nhau một cái, rồi bưng mâm bưng hộp buôn bả ra về.
Châu Bá Thông ngơ ngác hỏi Trùng Dương :
- Sư huynh ! Vừa rồi anh chặt đầu con gà quay của họ, như vậy là có ý gì ?
- Đó là nghi lễ mời khách của Bào Ca hội !
Châu Bá Thông càng ngạc nhiên hơn nữa :
- Sư huynh, Bào Ca là cái gì ? Là một nhân vật danh vọng ở Thành đô này à !
Trùng Dương cười ngất.
Đoạn ông đem lai lịch Bào Ca hội kể lại cho Châu Bá Thông nghe và kết luận :
- Gã đánh xe và hai cha con người hát dạo mà sư đệ đã gặp qua hôm nay, đều là người trong Bào Ca hội, cho nên thủ lãnh Bào Ca hội nói sư đệ khi dễ bọn họ, hắn mới ra mặt.
Châu Bá Thông nói hớt :
- Rồi vì thấy không thể đánh nổi tiểu đệ, nên hắn mới thỉnh bọn chủ não trong hội tìm cách gây sự với sư huynh đó chứ gì ?
Trùng Dương gật đầu :
- Đúng vậy !
Và ông bèn đem tất cả quy củ của Bào Ca hội nói hết cho Châu Bá Thông nghe.
Một khi mời một người ngoài hội, mà người ấy là một nhân vật có hạng trong chốn võ lâm thì thủ lãnh Bào Ca hội cho hai tên bộ hạ trang trọng mang hộp Hiệp Nghĩa thiếp và một con gà quay, đưa đến tận nơi gọi là giao lễ.
Lễ tiết này có thể gọi là thiện ý, mà cũng có thể gọi là ác ý .
Nguyên vì bên cạnh con gà có để sẵn một thanh đao, biểu thị ý nghĩa giao tiếp về võ học.
Một mặt tỏ ý bằng lòng cùng đối phương kết làm bằng hữu, một mặt khác sẽ trái lại, là cừu nhân.
Nếu như đối phương muốn nên bằng hữu thì cầm đao cắt một đùi gà, bằng như kẻ được mời tỏ ra con người gan mật, tài nghệ cao cường không từ chối việc ra mắt bằng võ lực thì không cần nói dài dòng cứ việc chặt ngang đầu gà là đối phương đã rõ.
Trùng Dương là chưởng môn Toàn Chân Giáo đương nhiên không thể nào ưng chịu cúi đầu trước Bào Ca hội, cho nên hành động chặt đầu gà kia tiếp lễ, và để giữ vững danh phận của mình.
Châu Bá Thông nghe rõ đầu đuôi bèn hỏi Trùng Dương :
- Sư huynh, nếu như ngày mai anh đến ước hội thì tiểu đệ sẽ làm chi ?
- À ! Sư đệ ở khách điếm.
Châu Bá Thông chẳng nói chẳng rằng chi cả, đứng lên thu xếp hành trang.
Trùng Dương lấy làm lạ :
- Sư đệ ! Định dọn hành lý đi đâu vậy ?
Châu Bá Thông trả lời châm bầm :
- Sư huynh đã coi tiểu đệ như một tên đầy tớ, cái này cũng không cho, cái kia cũng không cho, vậy thì tiểu đệ còn theo sư huynh làm gì nữa ! Tốt hơn hết trở về Tung Sơn cái cho rồi.
Trùng Dương biết hắn ta lại nổi tính trẻ con, đành phải dịu giọng :
- Thôi, được rồi ! Ngày mai sẽ cho sư đệ đi theo, song sư đệ phải tuân theo lời anh dặn.
Châu Bá Thông mừng rỡ :
- Điều chi, sư huynh cứ dặn đi ?
- Ngày mai đi với anh, cấm sư đệ không được cùng với người gây gổ đánh đập lộn xộn nhé ! Bất cứ việc gì, khi nào anh bảo sẽ làm, nhớ không ?
Châu Bá Thông cười hì hì :
- Dễ ợt ! Tiểu đệ sẽ làm đúng theo lời dặn của sư huynh .
Rạng ngày sau, tảng sáng, Châu Bá Thông đã thức dậy chuẩn bị.
Mãi cho đến mặt trời đứng bóng, cũng không thấy người của Bào Ca hội phái đến.
Châu Bá Thông ngồi đứng không yên, cứ ra vô dòm chừng.
Bỗng nghe Trùng Dương gọi .
- Sư đệ, đã đến giờ rồi, chúng ta đi thôi !
Châu Bá Thông ngơ ngác :
- Họ chưa cho người đến rước mình biết lối nào mà đi ?
Trùng Dương bật cười :
- Họ không đến rước thì mình cứ tự tìm đường mà đến chớ sao !
Ra khỏi khách điếm, Trùng Dương chợt thấy trên vách tường bên kia hè phố, ai đã vẽ sẵn một con gà trống. Con gà này vẽ bằng than, mà nét thì nguệch ngoạc như trẻ con học vẽ.
Trùng Dương thấy con gà vẽ quay đầu về phía trái bèn dẫn Bá Thông đi theo phía đó, không chút do dự.
Châu Bá Thông bây giờ chợt hiểu ra ràng bọn Bào Ca hội đã ghi ám hiệu bằng con gà trống, cho nên sư huynh mình đi theo hướng đó.
Đi được một đổi, đụng góc quẹo lại thấy tường có vẻ một con gà trống nữa. Con này, đầu day qua mé phải.
Trùng Dương bèn dẫn Bá Thông đi theo ngã đó.
Cứ như vậy đi độ bốn năm ngã rẽ thì tuyệt nhiên không thấy ám hiệu nữa.
Trùng Dương nhìn quanh chợt thấy dưới chân tường trước mặt, có một cây chổi cùn, đầu dựng xiên qua phía Đông Nam, bèn lập tức dẫn
Châu Bá Thông noi theo đường đó.
Châu Bá Thông lại một bận ngơ ngác nữa .
Quả nhiên, không ngoài ý liệu, vừa mới đi thêm được ba bốn chục bước, bỗng có hai tên hán tử áo ngắn ở trước mặt đi lại, vòng tay :
- Gia chủ ở tại đây, xin mời đạo trưởng .
Và lập tức quay mình hướng dẫn hai anh em Trùng Dương đi vào một con đường nhỏ.
Con đường vừa hẹp vừa dài, cuối ngõ sừng sững một tòa nhà cổ, cửa nẻo tứ bề đóng im thin thít.
Hai tên hán tử dẫn đường bước lên thềm đá gõ nhẹ ba tiếng, hai cánh cửa lớn khua lên và mở quát ra.
Một tên hán tử sắc mặt trầm trầm, hung hãn bước ra vái chào :
- Đạo trưởng đã tới ! Gia chủ xin thỉnh nhập !
Trùng Dương nhận ra nơi đây nằm về góc thành Tây gọi là Lựu Hoa Đôn, nhưng con đường hẹp này thì không biết tên là đường gì.
Ông và Châu Bá Thông ngang nhiên bước vào.
Qua khỏi đại môn, là đến một gian nhà mát nhỏ, bốn bên cổ thụ um tùm, tàng cây bóng che tịch mịch.
Sau khuôn nhà mát, là một tòa đại sãnh năm gian.
Bên trong, bọn hán tử gồm đủ hạng cao, lùn mập, ốm, phân thành thế Tam Sơn Ngũ Nhạc, ngồi đầy dẫy cả gian đại sãnh.
Vừa thấy Trùng Dương bước vào, cả bọn ùn ùn đứng dậy rập lên :
- Vương đạo trưởng gía lâm !
Trùng Dương liếc mắt nhìn qua một lượt thấy mé Đông đại sãnh sắp bày hương án, trên đó có năm chiếc lư đồng, chói lọi giăng hàng chữ nhất chỉnh tề.
Mỗi chiếc lư hương cắm một lá cờ tam giác, đó là tên năm xứ : Bồ, Đà, Mân, Lạc và Gia Lăng.
Trùng Dương sực nhớ đã có nghe Bào Ca hội ở Tứ Xuyên từ trước đến nay phân làm năm phái Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương.
Trung ương phái là Bồ Giang, Đông phái là Gia Lăng, Giang Nam phái là Lạc Giang, Bắc phái là Mân Giang, các phái tương giao nhưng không thành hệ thống.
Trùng Dương nhìn qua bên phải của hương án, ở đây năm chiếc ghế dựa sơn màu đỏ, ngồi trên đó năm người lãnh tụ của năm phái Bào Ca hội.
Năm người thủ lãnh của năm phái Bào Ca hình dáng thật là quái dị, mỗi người một vẽ khác nhau.
Lãnh tụ phái Mân Giang là người gầy ốm ăn mặc xốc xếch, đầu tóc chôm bôm, tuổi khoảng năm mươi, mũi quắm như mỏ diều hâu, đôi mắt như cú vọ, da dẻ đen cháy láng bóng.
Hai cánh tay gân guốc nổi lên như giây leo, năm ngón xương xẩu như năm móng thú. Sau lưng mang xề xệ một chiếc hồ lô bằng sắt.
Người này tên là Hề Di, biệt hiệu Thiết Hồ Lô, võ khí chuyên dùng là chiếc hồ lô sắt, danh trấn lưỡng xuyên, giang hồ dậy tiếng. Đã hạ không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán võ lâm, đang ngồi trên chiếc ghế thứ nhất trong Bào Ca hội.
Thứ hai, phái Đà Giang, không biết tại sao thủ lãnh Đơn Chí Hồng lại vắng mặt, thay vào đó Phó thủ lãnh Ân Văn Thiên, biệt hiệu Táng Môn Thần. Mặt vàng như nghệ, tròng mắt trắng dã, nhìn vào như chiếc thây ma, thân hình ốm cao lêu khêu như cây tre miễu. Tinh luyện ba mươi sáu đường hắc sát, tiếng tăm lừng lẫy võ lâm. Người này trong tay cầm cặp Thiết hồ đào , đưa lại khua nghe lăng căng.
Thủ lãnh Gia Lăng Giang, một lão gìa đầu sói vừa mập vừa lùn, râu tóc hoa râm, da mặt hồng hào, tên là Tra Hùng biệt hiệu là Thiết Thích Vị, mặc áo ngắn màu xám, đang ngồi bập bập phì phà với chiếc ống điếu dài thậm thượt như là một lão nông dân.
Tuy dáng sắc quê mùa phục phịch, mà võ công thâm hậu vô cùng, chuyên dùng chiếc ống điếu bằng ngón Hàn Yên điểm huyệt pháp, chấn động võ lâm.
Võ Phan An Du Hiệu, chưởng môn phái Lạc Giang, khoảng trên dưới ba mươi tuổi. Là một người đàn ông tuấn tú, mặt trắng môi hồng, đầu chít khăn tiêu diêu, vận áo bào xanh tay cầm chiếc quạt, dung quang rực rỡ như thư sinh.
Giống như chiếc ống điếu của Tra Hùng, nang quạt của Du Hiệu đúc bằng gang sắt, một loại binh khí lạ lùng.
Trong năm phái Bào Ca, Lạc Giang nhân số đông đảo nhất, mà đất đai rộng lớn hơn tất cả các nơi, đồng thời lợi điểm về hàng hải, đã khiến nơi đây thành chỗ tập trung.
Địa thế và dân số đó đủ thấy kẻ thống lãnh phái Lạc Giang phải là một cao thủ hàng đầu của Bào Ca hội.
Lãnh tụ Bồ Giang phái là một gã trung niên bụng phệ tên Tần Lăng, vốn thương gia xuất thân. Giang hồ quen gọi biệt hiệu Thiết Toán Bàn , vì y dùng chiếc bàn toán sắt làm binh khí.
Tóm lại, ngũ lộ thủ lãnh Bào Ca, hoàn toàn tập trung trong tòa nhà cổ, có thể nói đây là lần tụ hội cực kỳ quan trọng của Bào Ca hội từ trước đến nay.
Trùng Dương từ từ bước tới vòng tay, sang sảng :
- Chư vị thơ gọi bần đạo, không biết có điều chi dạy bảo ?
Những kẻ cầm đầu Bào Ca hội, phô trương thanh thế, nghĩ rằng trước tiên sẽ làm cho đối phương nếu không khiếp đảm, thì ít ra cũng phải kiêng dè.
Không ngờ khi đụng mặt, Trùng Dương vẫn ngang nhiên khinh khi như không, trừ Võ Phan An Du Hiệu, còn hết thảy đều bực tức.
Thiết Hồ Lô Hề Di, thủ lãnh Mân Giang, ngó Trùng Dương, cười lạt :
- Vương đạo trưởng danh hiệu là chi ? Quí địa tu trì tọa lạc tại đâu ?
- Bần đạo tiện danh là Trùng Dương, lều cỏ dựng ở Yên Hà động, được quý vị hạ cố gọi đến đây hội kiến, thật hôm nay là một cơ vinh hạnh trong đời.
Năm vị thủ lĩnh Bào Ca không hẹn mà cùng đứng lên tái mặt.
Châu Bá Thông thấy dáng điệu của họ bắt tức cười, thầm nghĩ :
- Sư huynh ta từ khi Hoa Sơn luận kiếm, chiếm quán quân trong chốn võ lâm, cả Nam Đế, Bắc Cái, Đông Tà, Tây Độc còn phải bị loại, sá gì cái bọn láu cá của chúng bây ? Đừng có chộn rộn mà khổ !
Táng Môn Thần Ân Văn Thiên hỏi lớn :
- Đạo trưởng có phải là Giáo Chủ Toàn Chân Giáo đã chiếm ngôi Thiên hạ đệ nhất võ công tại Hoa Sơn luận kiếm đó chăng ?
Trùng Dương chậm rãi đáp nói :
- Chuyện ấy quả có như vậy. Song danh hiệu Thiên hạ đệ nhất võ công thật bần đạo thẹn mà không dám nhận, chẳng qua các bằng hữu thương tình mà gọi thế thôi.
Thấy Trùng Dương thái độ ung dung, quả không hổ danh tôn sư của phái võ thuật đang lừng danh trong thiên hạ.
Các lãnh tụ Bào Ca lượng sức mình, không thể cùng đối phương qua được hiệp đầu, nếu mạo hiểm giao tranh chắc chỉ sẽ rước lấy thảm bại.
Nhưng trong tình thế lỡ làng, họ khẽ liếc nhau, chưa biết phải đối phó ra sao ?
Thần Toán Tử Tần Lảng vụt cười lanh lảnh :
- Đạo trưởng thật quả danh bất hư truyền, cái bang hội nhỏ nhít của chúng tôi trong chốn giang hồ chắc chắn là không thể nào có trong đôi nhãn quan biễu hiện bản lãnh phi phàm của vị đại tôn sư. Hà hà...
Biết đối phương ám chỉ mình chặt đầu gà, cự tuyệt sự kết giao, Trùng Dương bắt cười thầm và thản nhiên trả miếng :
- Chư vị nói thế e quá đáng đi chăng ? Thật ra đối với quý hội, anh em bần đạo đã dành nhiều ý tốt.
Day qua Bá Thông, vị chưởng giáo Toàn Chân nói tiếp :
- Tệ sư đệ của bần đạo đây từ xa mới đến dã được người của quý hội mời tiếp ba mươi đồng một cuốc xe, hai trăm đồng nghe vài tiểu khúc.
Chúng tôi là kẻ xuất gia xem phú quý như phù vân với số tiền nho nhỏ ấy kể chẳng có chi. Song chắc người của quý hội không khỏi xem chúng tôi như một chú cừu non. Âu cũng là cách dạy khách của người quân tử.
Trong khi vừa nói đến đó, Châu Bá Thông vụt tiếp theo :
- Quả là thúi hoắc !
Lời lẽ nhẹ nhàng châm chọc của Trùng Dương, đã làm cho các lãnh tụ Bào Ca đỏ mặt lên vì nhục nhã, tiếp theo bốn tiếng của Châu Bá Thông, làm cho mặt họ từ đỏ bỗng xống màu tái ngắt, giận run.
Thiết Hồ Lô trầm giọng :
- Vị tôn huynh họ Châu này là sư đệ của Chưởng giáo chân nhân, võ công chắc cũng tương đương mức đó. Chúng tôi là bọn thô lậu quê mùa, nhưng cũng xin với châu huynh lãnh giáo .
Châu Bá Thông thấy bọn họ hầm hầm muốn ăn thua với mình, thật là một việc chàng ta đang muốn mà chưa được.
Song vì nhớ tới điều kiện đã giao chịu với sư huynh nên do dự ngó chừng ông anh nghiêm khắc .
Trùng Dương nạt Châu Bá Thông mà giống như là nạt luôn cả bọn Bào Ca :
- Sư đệ ! Cấm không được với người đấu khẫu và càng không được với người động thủ, nghe chưa !
Và day qua các lãnh tụ Bào Ca :
- Chư vị thách thức làm chi ! Tệ sư đệ vốn người có lỗi, hôm qua đây lại đắc tội với người anh em của quý hội, dám đâu cùng chư vị tranh tài .
Thiết Toán Bàn cười lạt :
- Thế thì, có lẽ Vương đạo trưởng muốn chỉ giáo chúng tôi chăng ?
Trùng Dương mỉm cười :
- Đâu dám ! Bần đạo cùng với chư vị ngày xưa vốn không cừu oán ? Ngày nay lại chẳng thù hận thì nói chi đến chuyện can qua ? Tới mức đối văn, thì kể cũng quá rồi, đâu dám cùng nhau tỷ võ ?
Năm vị thủ lãnh Bào Ca cùng nói :
- Như thế nào thì gọi là đấu văn, đạo trưởng cứ tự tiện nêu lên ?
Trùng Dương cười ha hả :
- Tống Đại khai quốc hoàng đế Triệu Khuôn Dẫn, sau khi thống nhất sơn hà, có bày ra một trò vui gọi là Chén rượu tuyển binh, trong cuộc hội kiến của chúng ta, ngại chi lại chẳng mở ra trò ấy ?
Năm vị lãnh tụ Bào Ca lạ lùng hỏi lại :
- Thế nào gọi là Chén rượu tuyển binh ?
Trùng Dương nhìn quanh khắp sãnh :
- Trong lúc bất ngờ, rượu chưa có, thôi hãy thế trà vậy ?
Vừa nói, ông vừa bước lên cầm lấy bình rót đầy ba chén.
Quần hùng của hội Bào Ca còn đang ngơ ngác.
Trùng Dương đã bưng hai chén trà để lên hai bên chót vai, và một chén đặt ngang lần búi tóc trên đỉnh đầu, sau đó, chân phải đứng yên, chân trái đưa ra quây suốt một vòng, sàn gạch trong sãnh đường lún sâu thành một vòng tròn, bề trực kính có hơn một trượng !
Bọn cao thủ Bào Ca, thấy công lực xuất phát từ mũi chân của chưởng giáo Toàn Chân, bấy giờ nhìn nhau kinh hãi .
Sau khi vẽ xong vòng, Trùng Dương đứng ngay chính giữa mỉm cười :
- Bây giờ bần đạo đứng trong vòng này, hầu tiếp cùng quý vị một ít môn quyền thuật . Chư vị cứ từng người hay là cũng một lượt dạy cho cũng tốt. Lẽ tất nhiên bần đạo sẽ với hai bàn tay không bồi tiếp .
Nếu như cử khai chiêu thế, một chung trà đổ xuống kể như đã bị thua và nếu như đã bị thua, và nếu như bị lăn ra khỏi vòng, cũng coi là bại cuộc.
So tài với nhau bằng cách này quyết không hiểm nguy đến tính mạng, đối với chư vị càng không mảy may thương thế nào cả, không biết quí vị có bằng lòng cách đấu này không ?
Nghe qua cách thức giao đấu của Trùng Dương, quần hùng Bào Ca hội vừa kinh ngạc vừa tức.
Nguyên vì Trùng Dương bày ra cách đấu đó, ngoài mặt nói có tính cách vui chơi, kỳ thực, hàm ẩn một sự coi thường đấu thủ.
Để trên mình ba chén trà trong khi giao đấu, giới hạn cử bộ trong phạm vi nhỏ hẹp của vòng tròn, càng tăng thêm lòng chẳng chút e dè sợ sệt trước những kẻ uy trấn Tứ Xuyên.
Hình thức giao đấu đó, đã nói rõ ra rằng không cần phải dùng tuyệt kỹ cũng đủ đánh lại đối phương.
Quần hùng của Bào Ca đưa mắt nhìn nhau hầm hầm tự ái.
Thiết Thích Vị Tra Hùng người thủ lãnh Gia Lăng, gõ ống điếu bước lên :
- Vương Chân Nhân đã nhìn chúng tôi bằng một cái trò như thế ấy, vậy Tra mỗ này xin lãnh giáo trước tiên.
Châu Bá Thông thấy cái ống điếu của Tra Hùng từ đầu đến cuối toàn bằng thép cứng biết đó là loại binh khí chuyên dùng điểm huyệt.
Dùng một cái ống điếu nho nhỏ như vậy làm vũ khí, người sử dụng quyết không phải hạng tầm thường. Sư huynh chọn đấu pháp như thế đó,
không biết có thắng hắn hay chăng ?
Trùng Dương nhìn Thiết Thích Vị mỉm cười :
- Tra lão tiên sinh sẵn sàng chỉ giáo thật là điều hân hạnh cho bần đạo biết bao. Song chẳng hay ngoài Tra lão tiên sinh ra, còn có vị nào nữa hay không ?
Thiết Thích Vị Tra Hùng cười lạt :
- Vương Chân Nhân một mình ta cũng quá đủ rồi, cần chi thêm nữa.
Trùng Dương cười lớn :
- Tốt lắm ! Xin mời !
Tra Hùng nói như hét :
- Xin khiêm lễ .
Vừa dứt tiếng, chiếc ống điếu quật qua như điện chớp, nhắm ngay Huyết Trở huyệt của Trùng Dương điểm tới.
Vị Giáo Chủ Toàn Chân không chút chi bối rối, thình lình trầm mạnh đôi vai, lật ngược bàn tay nhằm khoảng giữa chiếc ống điếu của Tra Hùng đẩy ra một chưởng.
Thiết Thích Vị chợt thấy một luồng kình lực vút làm cho chiếc ống điếu của mình quật lệch một bên, biết mình đã đi trên đà nguy hiểm, vội vàng triệu hồi công thế, rút nhanh chiếc ống điếu trở về.
Không ngờ Trùng Dương tay phải vừa tung ra, tay trái đã như một làn chớp xéo ngang thắt lưng của Tra Hùng. Giáo Chủ Toàn Chân vừa quát lên một tiếng "đi", thân hình của Tra Hùng đã bay ngược hơn tám thước.
Quần hùng Bào Ca hội thấy Tra Hùng mới vừa nhập cuộc, đã bị đối phương đánh văng một cách dễ dàng, cả bọn thảy đều sững sờ trố mắt.
Quả xứng đáng với danh hiệu, Thiết Thích Vị Tra Hùng tuy bị đánh lui nhưng thân pháp vẫn vững vàng không loạn. Vừa bị bắn tung ra, cả tay chân liền xoay kéo một vòng, để cho mông đít vừa chấm đất, lập tức dùng thế Kim Thiền Bí Lãng nhãy vọt trở qua sát sau lưng Trùng Dương và nhanh như cắt, chiếc ống điếu đã chĩa mạnh vào Chí Đường huyệt của Toàn Chân Giáo Chủ.
Chiếc ống điếu của Tra Hùng chẳng những chỉ sử dụng chiêu số trong Phán quan bút điểm huyệt mà còn án theo đường kiếm ngũ hành, cho nên đầu ống điếu vừa xuyên qua, thì cổ tay vừa lật lại liên tiếp quét trọn ba đường.
Chiêu thức tung ra không những nhằm quật trúng vào hai cẳng Trùng Dương, mà là muốn bức cho đối phương phải nhãy vọt lên làm cho ba chén trà bị nghiêng phải đổ.
Không ngờ thân pháp của Trùng Dương biến hóa vô cùng, lúc đầu ống điếu của Tra Hùng đâm tới huyệt đạo, ông vẫn bình tĩnh đứng yên một chỗ chờ cho đối phương biến thế, thân mình mới khẽ nhõng lên, xoay hẳn một vòng, làm cho chiếc ống điếu của Tra Hùng quét trật vào khoảnh trống.
Thiết Thích Vị đánh hụt một chiêu, biết đã lâm vào hiểm họa, buột miệng la lên một tiếng "không xong" và vừa muốn hoành thân thối hậu, thì Trùng Dương đã quật nhẹ cánh tay theo thế Beo Vàng Vươn Móng nằm chặt cổ tay của đối thủ, bấm đúng mạch môn.
Tra Hùng bỗng thấy tê rần phân nửa thân người, cánh tay như bị bại xụi, chiếc ống điếu rớt lăn xuống đất.
Thiết Thích Vị thẹn thùng đỏ mặt cúi đầu.
Phàm những người đấu võ, nếu như binh khí của mình bị kẻ địch đánh rơi thì một cái nhục không có gì bằng.
Tra Hùng thủ lãnh một bang phái, được coi là một nhân vật có tiếng tăm, bị đối phương đánh bại hai lần, chỉ còn có cách cắn răng nuốt thẹn, nhãy lui ra một bước kêu lên :
- Vương Chân Nhân, quả nhiên bản lãnh siêu phàm, Tra mỗ này xin cam chịu dưới tay !
Táng Môn Thần Ân Văn Thiên, thủ lãnh Đà Giang phái, không thể dằn cơn giận dử vung cặp Thiết hồ đào vọt người bước tới :
- Vương Chân Nhân ! Ta xin lãnh giáo.
Ân Văn Thiên là một người hùng có tiếng miệt Xuyên Nam, trong giới lục lâm đã nổi danh rất sớm, cặp Thiết hồ đào trong tay với chiêu số lạ lùng.
Nhưng so với Tra Hùng về kinh nghiệm và võ công, cả hai mặt Ân Văn Thiên làm sao qua được.
Cho nên khi thấy họ Ân hùng hổ khởi công, quần hùng Bào Ca hội đã cho rằng gã không biết lượng sức mình.
Trùng Dương chưa đáp lời thì Ân Văn Thiên đã quay qua nói với Võ Phan An Du Hiệu :
- Du lão đệ, luận về bản lãnh thì chúng ta những không làm sao sánh được với Vương Chân Nhân dầu có luyện tập thêm trăm năm nữa cũng không theo kịp. Nếu chúng ta cùng hợp lực, làm đổ của Vương Chân Nhân một chén trà, thì chắc cũng chẳng xấu chi. Bằng lòng chứ ?
Châu Bá Thông mắng thầm :
- Đồ chó chết ! Nó nói luyện thêm một trăm năm nữa chưa bằng sư huynh ta. Cho nó luyện trọn đời luôn cũng chưa chắc đã ra gì. Nó kéo hai đứa định đánh rớt chung trà ? Hứ !
Cóc khô !
Ân Văn Thiên và Du Hiệu quả thật là một cập bài trùng hồi thửa còn hoành hành dọc ngang trên những dòng sông Hồ Bắc.
Võ Phan An Du Hiệu vốn có phong cách văn nhân, vóc dáng như một chàng công tử, cho nên thuở đó thường hay giả dạng khách thương, quá giang thương thuyền để làm nội ứng.
Vì lẽ đó mà hai người một văn một võ, tâm đầu ý hiệp cùng một lượt đi đánh cướp thương thuyền và cùng một lượt nhãy vô Bào Ca hội.
Ân Văn Thiên hy vọng cùng với Võ Phan An hiệp lại trước sau công kích họa may có thể lật được Trùng Dương, cho nên mới gọi ra một lượt.
Vị Giáo Chủ Toàn Chân cười ha hả :
- Đầu lãnh Đà Giang muốn hai người hợp sức tấn công ư ? Thế cũng hay, nhưng giá mà năm vị cùng ùa ra một lượt thì có lẽ lại càng hay hơn nữa.
Táng Môn Thần cười lạt :
- Vương Chân Nhân hãy nói ít một chút, để chừa chỗ về sau. Hai cũng quá đủ, cần chi phải đến năm.
Võ Phan An Du Hiệu phe phẩy chiếc quạt cốt sắt khoan thai bước tới nói :
- Lời nói của Ân huynh rất phải, tục ngữ có nói : "Dược với bạn hay hơn học thầy giỏi", huống chi Vương Chân Nhân lại là đệ nhất tôn sư trong thiên hạ, nếu chúng ta có ngã dưới tay người, kể không có gì quá đáng. Hà !
Hà !
Vừa dứt lời người thủ lãnh khôi ngô của phái Lạc Giang đã tung thân lướt tới, phát lên một quạt, ngọn phiến phong bay thẳng tới chén trà trên đỉnh đầu vị Giáo Chủ Toàn Chân.
Du Hiệu nghĩ rằng việc đột kích thình lình của mình trong lúc Trùng Dương bất ý nhất định chung trà sẽ bị văng ngay.
Không ngờ họ Vương là một nhân vật phi thường, chỉ thấy ống tay áo của ông phất nhẹ lên một cái, Thái Ất Thần Công mềm như tơ lụa, nặng như thái sơn đã hất cả quạt lẫn người Võ Phan An xa gần hai trượng, té ngữa nằm dài trên mặt đất.
Thừa lúc Trùng Dương vừa xuất chiêu, Ân Văn Thiên vung mạnh cánh tay, cặp Thiết hồ đào bay ra, phát lên tiếng kêu nghe rổn rảng.
Nguyên vì cặp Thiết hồ đào có cột sợi dây xích nhỏ bằng nửa ngón tay , dài hơn một trưng, nhưng vì Ân Văn thiên quấn trong cổ tay áo rộng nên bình thường không ai thấy được, chỉ khi nào tấn công mới vụt tháo tung ra.
Thiết hồ đào bay như sao xẹt, dụng ý của Ân Vân Thiên là đánh văng chén trà trên vai của Trùng Dương.
Bất ngờ vừa bay tới cánh tay áo rộng của vị Giáo Chủ Toàn Chân đã phất ngược ra sau nghe "xoảng" lên một tiếng, hai trái hồ đào như đụng vào vách sắt, dội ngược lại đầu chủ nhân của nó.
Ân Văn Thiên hoảng hốt vội vàng hụp xuống, hai trái đào sắt sớt ngang qua đầu tóc họ Ân đau điếng.
Quả là đào ông lại đập đầu ông.
Ám khí của mình va lại đầu mình.
Táng Môn Thần bèn gục đầu xấu hổ.
Một cánh tay áo phất tới giật lui đánh bại cả hai người , lại là hai người đầu lãnh.
Châu Bá Thông đứng kế bên không còn nín được ngữa mặt cười ha hả.
Quần hùng Bào Ca hội thấy Trùng Dương trong cái nhụch tay đã hạ luôn ba người đầu não Tứ Xuyên, bất giác đưa mắt nhìn nhau sửng sốt.
Công lực của Giáo Chủ Toàn Chân như vậy dầu cho bao nhiêu người có mặt nơi đây cùng một lượt đứng lên, cũng không đủ sức đương đầu.
Nhưng, cứ như thế mà chịu thua, thì thanh danh của Bào Ca hội há chẳng trôi theo sông nước.
Thấy thái độ lừng khừng của đám thủ lãnh Bào Ca hội, Trùng Dương bỗng bật cười :
- Chư vị đã gửi thiệp mời bần đạo đến đây chẳng lẽ để tình trạng đầu voi đuôi chuột như vậy coi sao được ?
Cũng không cần giữ mặt với nhau làm chi nữa, năm vị cứ cùng một lượt xông lên có phải hơn không ?
Bất cứ món khí giới nào, kể cả báu kiếm quí vị cứ tự tiện dùng, miễn sao hất đổ được chén trà hoặc làm sao cho chân bần đạo phải trệt ra vòng thì kể như phần thắng sẽ về tay quí vì chứ có chi đâu mà sợ.
Thiết Hồ Lô Hề Di được dịp thét lên :
- Các bằng hữu, Vương Chân Nhân đã nói thế, chúng ta đừng phụ lòng người.
Câu nói ch
ưa dứt Thiết Toán Bàn Tần Lãng thủ lãnh phái Bồ Giang cùng vọt xéo lên trên vung chiếc bàn toán sắt, quật thẳng ngang lưng của Trùng Dương.
Bàn toán là một dụng cụ kế toán không nằm trong các bộ môn binh khí. Nhưng bàn toán của Tần Lãng lại đúc toàn sắt thép, đao kiếm tầm thường không làm chi nó được.
Tấn Lãng vốn là môn hạ của Hồng Lạc Công phái Thương Châu, xuất thân hắn đã đem Hỗn nguyên bài pháp biến đụng vào thiết toán bàn, pha lẫn lộn các đường Bản Phủ, làm thành ba mươi sáu thủ thiết toán bàn công suất cực kỳ ảo. Trong lúc huy động, con toán chạy qua chạy lại không ngừng, tiếng vang loạn đã điếc tai rền óc.
Ngoài phần vi diệu của chiêu số, sự di động tạo thành âm hưởng của con toán còn có tác dụng khủng bố tinh thần đối phương .
Thiết toán bàn xử xuất tuyệt chiêu Vận Trù Ốc Toán, công thế nhắm vào Mạng Môn huyệt của Trùng Dương.
Nghe tiếng động sau lưng, biết đối phương phát động công thế, vị Giáo Chủ Toàn Chân không chút chì vội vả, ba chung trà vẫn y mức thăng bằng chỉ nhẹ xoay mình qua một cách bình tĩnh mà cực kỳ khéo léo, chiếc bàn toán sắt của Tần Lãng đã vụt vào khoảnh trống không.
Cách tránh né tinh diệu đó là thân pháp Thiên Oai Bắc Đẩu.
Thiên Oai Bắc Đẩu là một tuyệt kỹ của phái Toàn Chân, nó là một loại vị trí chiếc pháp, mà Trùng Dương đã thọ truyền di huấn của Thanh Hư Tản Nhân, rèn luyện từng nước bước vô cùng trơn nhuận.
Trùng Dương vẽ một vòng tròn diện tích không hơn một trượng để giới hạn vị trí xê dịch trong khi giao đấu, mới nhìn qua y như là việc làm sơ suất, kỳ thật ông đã đem Thiên Oai Bắc Đẩu Trận thu hẹp lại trong một vòng nho nhỏ.
Nội trong vòng tròn nhỏ ấy đủ thừa chỗ trống cho những binh khí kỳ lạ của các cao thủ Bào Ca đánh hụt.
Du Hiệu vung cây quạt sắt, ngoài việc phát xuất phiến phong đánh thẳng vào thất quan trên mặt của địch nhân, phân tán tinh thần của đối phương ra, còn có thể biến thành những ngọn đồi trùng trùng lớp lớp như đường côn bổng.
Nếu sử dụng Phán Quan Bút điểm sẽ liên công vào hai mươi bốn đại huyệt của đối phương một lúc.
Một bên, chiếc Thiết Hồ Lô của Hề Dị tung vẩy ngụy chiêu, đầu nhỏ của hồ lô có thể đâm vào huyệt đạo. Đầu bằng của đít bầu, lại sử dụng như một tấm bia đở ngăn chiêu thức của kẻ địch.
Du Hiệu vươn quạt nhắm vào Thần Đình huyệt xéo bên góc trán, chiếc hố lô Hề Dị đập thẳng ngay tử huyệt ở cạnh hông. Cả hai kẻ trước người sau, ồ ạt tấn công vị Toàn Chân Giáo Chủ.
Bất luận Trùng Dương muốn né tránh bên nào cũng đều khó thoát, bằng như dùng một thủ pháp khác để phá thế đối phương, tất nhiên ba chung trà sẽ dễ dàng đổ rơi xuống đất.
Châu Bá Thông thấy rõ tình thế hiểm nguy đó, buột miệng kêu lên :
- Thật rõ ràng sư huynh đã tự kéo kén trói mình !
Tiếng Châu Bá Thông chứa dứt thì thân hình Trùng Dương đã bắn vọt thẳng đứng trên hai trượng, binh khí của Tần Lãng và Hề Dị quơ vụt vào không khí.
Từ giữa lưng chừng, vị Giáo Chủ Toàn Chân xoay mình nhè nhẹ như cánh diều lượn gió, đáp ngay xuống đất. Ba chén trà mặt nước vẫn không chao.
Thiết Thích Vị Tra Hùng huơ chiếc ống điếu, Táng Môn Thần Ân Văn Thiên vung Thiết hồ đào song song áp lại xoắn chặt Trùng Dương khi mới đáp xuống giữa vòng.
Muốn giải hai chiêu đó, đối với vị Giáo Chủ Toàn Chân, sự thật không phải là chuyện khó, khó ở chỗ là trên mình mang ba chén trà không được quyền làm đổ nước. Giữ người thì đổ trà, giữ trà không đổ thì dễ chi xoay trở .
Đột nhiên Trùng Dương hừ lên một tiếng, rùn lưng xuống vận nội lực bắn ba chung trà vọt tuốt lên không như ba viên đạn.
Trong khoảnh khắc đó , ống tay áo phất lên một vòng phát xuất Thái Ất Thần Công, kình lực cuồn cuộn dậy lên, năm vị cao thủ Bào Ca bị bứt văng ra ngoài một trượng.
Tuy quạt lui đối thủ, nhưng ba chén trà còn lơ lửng trên không.
Châu Bá Thông trợn mắt há miệng hoang mang.
Không ngờ, sau khi đẩy lùi năm ta kiệt tuyệt Tứ Xuyên vị Chưởng giáo Toàn Chân vụt ngữa mặt lên không hút mạnh vào không khí, ba chén trà như có bàn tay vô hình điều khiển, tự động sắp thành hình tam giác, miệng thẳng lên trên, đáy ngay xuống dưới, không chút chi chênh lệch.
Trùng Dương đưa tay phất nhẹ ba chén trà từ từ rơi đúng về vị trí cũ trên mình, nửa nhễu trà không lọt ra ngoài miệng chén.
Năm vị Đà chủ Bào Ca nhìn thấy thân pháp của Trùng Dương, trong lòng vô cùng khâm phục. Nhưng đồng thời hét rập lên một tiếng, năm người chia ra năm hướng, lại xông tới tấn công.
Thay vì dùng chiếc hồ lô sắt, lần này Hề Dị vận công phu lực quật chưởng vào thẳng mạng môn.
Táng Môn Thần Ân Văn Thiên tung Hắc sát chưởng đánh vào tử huyệt hai đạo âm nhu chưởng pháp ào ào ập tới Trùng Dương.
Nếu đổi lài một người bản lãnh bình thường, tránh được đàng trước cũng bị ở đàng sau, trúng một trong hai chưởng cũng đều vong mạng.
Trùng Dương lúc bấy giờ không nhãy lên cao, không tràng mình tránh né, lại rùn chân thấp xuống xử xuất Đà Loa công thế, chỉ thấy trong nháy mắt, thân hình đã lệch ra ngoài hai làn chưởng ảnh.
Chưởng phong của Hề Dị và Hắc Sát Thủ của Ân Văn Thiên cơ hồ đâm thẳng vào nhau.
Hai người không hẹn mà cũng sững sờ khứng lại.
Trùng Dương trở mình tung đôi chân lên.
Bình ! Bình !
Hai tiếng nằng nặng vang lên, Hề Dị và Ân Văn Thiên bị đá bổng ra ngoài.
Bên trái, Hề Dị nhủi nhủi như heo ủi đất, mé bên này Ân Văn Thiên lộn cổ xuống sân nhỗng đít lên trời.
Võ Phan An Du Hiệu, Thiết Thích Vị Tra Hùng, Thiết Toán Bàn Tần Lãng, ba người tuy là những kẻ coi trời đất bằng vung, thị thiên hạ giang hồ như không có, nhưng gặp Trùng Dương thì như trẻ nít đứng trước người lớn tuổi, ngoài mặt hung hăng mà trong lòng đã bắt đầu gượng gạo cầu may.
Lúc bấy giờ năm vị thủ lãnh Bào Ca rập thét lên khẫu hiệu, cùng một lúc tung thế liên hoàn, người dùng quyền cước, người rút binh khí, hùng hổ bủa vây, như chụp xung quanh Trùng Dương một chiếc nôm kình lực.
Vị Giáo Chủ Toàn Chân vẫn với những bước Thiên Oai Bắc Đẩu phải trái dọc ngang, trước sau tề chỉnh.
Năm vị Đà chủ Bào Ca tuy đã sử dụng tận lực bình sinh bản lãnh, quần luôn cả mẩy chục hồi mệt lả mồ hôi, vẫn không sao thủ thắng.
Trong cái vòng tròn diện tích không ngoài một trượng, Trùng Dương ung dung công thủ, dáng sắc tự nhiên như một mình dượt thảo đường quyền. Ba chén trà như để yên trên mặt ghế .
Châu Bá Thông hốc mỏ đứng dòm, hít hà chắc lưỡi liên hồi .
Thình lình, chưởng giáo Toàn phân hú dài một tiếng, thanh âm như muốn xoi thủng tòa nhà cổ, lật nghiêng bàn tay đoạt phứt cây quạt sắt của Võ Phan An, tiếp theo đó quạt ngược ra một cái , ngay chiếc bàn toán sắt của họ Tần.
Cái quạt ngược của Trùng Dương, như sức của cái chày đồng đập trúng vào bàn toán của Tần Lãng đánh "cổn" lên một hồi, chiếc bàn Toán sắt chẻ đôi, con toán loong coong rớt vảy đầy trên đất.
Châu Bá Thông ôm bụng cười sặc sụa :
- Bàn toán sắt cũng bể ! Con toán sắt cũng rơi. Hà ! Hà !
Binh khí bị hủy, quá đỗi thẹn thùng, lại nghe tiếng cười chế nhạo, Tần Lãng nổi xung bao nhiêu giận tức dồn cả lên cánh tay, tung mình nhãy tới giáng xuống đầu Châu Bá Thông như chớp.
Chưa được lệnh của sư huynh, không dám đánh trả lại, lật đật nhãy tránh một bên la lớn :
- Sư huynh anh đập bàn toán của hắn, hắn lại đánh tôi ! Tiểu đệ có nên động thủ hay chưa nói mau ?
Trùng Dương luôn luôn làm một việc gì ít chú tâm đến việc khác, nhất là đang cố ý bức lui sức công hảm bốn bên, mà công phu đi bộ Thiên Oai Bắc Đẩu lại tối kỵ việc phân tán tinh thần, phương chi lui tới trong một cái vòng nho nhỏ, sẩy một ly một tý là hỏng cả thanh danh.
Vì thế mà không nghe được tiếng gọi của Châu Bá Thông, mà dù có nghe đi nữa chắc ông cũng chẳng đáp lời.
Hoàn cảnh của Châu Bá Thông lúc đó thật là khổ sở, vừa phải tội quỳ gần trọn nửa ngày trong khách điếm, bây giờ không được lệnh không dám giao đấu mà khổ nỗi cũng không nhịn cười được, chọc tức thiên hạ dẫn họa vào mình.
Tần Lãng vận xuất Bát Tiên Mê Tông quyền ào ào như gió như mưa, bốn phương tám hướng tấn công Châu Bá Thông tới tấp.
Cứ theo công lực của Châu Bá Thông mà nói nếu chàng muốn đánh ngã Tần Lãng thì không phải khó. Song vì giữ lời răn dạy của sư huynh không dám ra tay, chỉ còn cách bắt chước Trùng Dương, áp dụng Thiên Oai Bắc Đẩu để mà tránh né.
Tần Lãng đang dốc hết cái thẹn, cái tức loạn đả đối phương, chợt một luồng gió cứ cuốn quanh mình như trốt, rồi thì mắt bỗng hoa lên, trước sau tả hữu của mình, đều có bóng của Châu Bá Thông xoay chuyển, bất giác tay chân lính quýnh đầu óc hoang mang.
Cùng lúc đó từ bên trong hậu sãnh chính thủ lãnh Đà Giang Hắc Ban Báo Đơn Chí Hồng sồng sộc ngay ra, tay xách cây đao răng cưa lớn bản.
Nhìn thấy trong vũ sãnh, Trùng Dương đang vũ lộng thắn uy, bốn người bạn của mình thì mồ hôi vã ra như tắm.
Bên góc Châu Bá Thông xoắn tròn theo Tần Lãng, người thủ lãnh Bồ Giang cũng đang xính vính.
Vừa thấy mặt Châu Bá Thông, nhớ lại mấy cái tát tai hôm qua nơi khách điếm. Hắc Ban Báo Đơn Chí Hồng đùng đùng nổi giận, rống bên một tiếng vung chiếc đao răng cưa, nhắm sau lưng Châu Bá Thông bổ xuống một chiêu Hoành Giang Tiệt Đầu.
Liếc thấy trận của mình tăng thêm kẻ địch, Châu Bá Thông vội vàng kêu lớn :
- Sư huynh, sư huynh ! Lại thêm một thằng ăn trộm thúi đánh đệ nữa đây nè . Anh có chịu cho tôi đánh lại hay không ? Trả lời mau đi ? Nó đánh quá đây nè .
Gặp lúc say sưa với Thiên Oai Bắc Đẩu, Trùng Dương im lìm không nghe thấy tiếng kêu.
Đơn Chí Hồng ngó thấy Châu Bá Thông chỉ độc một việc tránh né, chứ không hề đánh lại, lấy làm lạ nghĩ thầm :
- Hừ , cái thằng này bộ điên rồi chăng ? Sao lại cứ réo sư huynh chứ không chịu đánh hả ?
Vừa suy nghĩ vừa sử suất Ngũ Hổ đoạn môn đao pháp, đâm, chặt chém, phạt từng chiêu từng chiêu dử tợn, công hãm Châu Bá Thông.
Châu Bá Thông rợn lên, thầm nghĩ :
- Mẹ ! Ngày nay mình theo sư huynh đến đây mục đích là đánh lộn, mà ảnh thì sớm giờ đã được giãn tay giãn chân, còn mình thì ảnh lại không cho đụng đến mấy thằng chết bằm này ! Sự đời sao lại có thể như vậy, như thế được ?
Châu Bá Thông sau này có cái biệt hiệu là Lão Ngoan Đồng, chỉ tính tình kỳ cục như con trẻ, bản tính rắn mất dị hợm đó phát xuất ngay từ khi còn mới biết bò.
Cho nên trong khi Đơn Chí Hồng và Tần Lãng tấn công tới tấp, chợt như sực nhớ nói thầm :
- Quả là ngu hết sức. Sư huynh dặn đừng đánh với người chớ đâu có dặn đừng đánh ảnh. Cứ đập đại ảnh vài chiêu, cho không cho sẽ biết ngay chớ gì !
Nghĩ thế không còn do dự nữa bèn phóng mình lên thi triển Thanh Long xuất động, một tuyệt chiêu trong Thái Ất quyền nhắm ngang lưng của Trùng Dương đập tới.
Trùng Dương đang cùng thủ lãnh Bào Ca quần đấu, công lực có thừa, y như người lớn giỡn cùng đám trẻ, chợt nghe từ phía sau lưng một luồng đại lực xé gió xẹt tới bên mình.
Một luồng đại lực cương mãnh dị thường, phải do từ cánh tay một cao thủ võ lâm mới có, ít ra cũng cở Tây Độc Âu Dương Phong, Nam Đế Đoàn Hoàng Gia.
Cho rằng cường địch đã đến, vị Giáo Chủ Toàn Chân lập tức rút tay về đẩy mạnh ra sau, theo chiêu thức Bài Vân Thủ của Toàn Chân giáo, đón ngay chưởng lực ào tới sau lưng.
Nhưng trong khoảnh khắc đề kháng khẫn trương đó , ba chung trà bị lơi sức hút , cuồn cuộn rơi xuống đất bể nát tan từng mảnh vụn.
Trùng Dương quay lại quát to :
- Ai !
Châu Bá Thông bị chưởng lực của Trùng Dương đẩy lui mấy bước, hoảng hốt kêu lên :
- Sư huynh ! Tiểu đệ đây !
Sáu đầu lãnh Bào Ca thấy tình hình cũng vội vã thu chiêu.
Trùng Dương không thể tưởng tượng kẻ khuấy rối đánh rớt chén trà của mình lại là Châu Bá Thông, bất giác tức giận hét lên :
- Sư đệ ngươi điên rồi à ? sao lại đánh luôn cả ta như thế ?
Châu Bá Thông rún vai chu mỏ :
- Sư huynh, tiểu đệ không có ý đánh anh, cú vừa rồi chẳng qua là vạn bất đắc dĩ đó thôi !
Trùng Dương kinh ngạc :
- Vạn bất đắc dĩ à ?
Châu Bá Thông kể lể :
- Sư huynh, vừa rồi anh cùng mấy tên Bào Ca, Bào Cá gì đó giao đấu, cái tên láo cá gọi là đồng ý toán ban, thiết toán bàn gì đó, bị đại ca đập nát lúc lắc của hắn, tiểu đệ sợ nó không thấy kêu nó dùm cho nó biết là bể rồi, vậy mà nó hổng biết ơn, còn nhãy tới đánh tiểu đệ.
Nhân vì lúc đi sư huynh có dặn nếu không có lệnh thì không được đánh, cho nên tiểu đệ chỉ có nước tránh né hoài, không ngờ cái tên chó chết bị đệ cho ăn mấy cái tát tai ở khách điếm ngày hôm qua không biết từ xó hóc nào lại đâm xầm hùa ra bu lại tiểu đệ, lấy hai đánh một.
Tiểu đệ đã kêu sư huynh xin phép mấy lần mà sư huynh cứ làm thinh, không lẽ lại cứ cúi đầu đưa lưng cho chúng đập, chỉ có cách phải dùng chưởng lực hất mấy cái chén trên vai anh rớt xuống, để mà nói cho anh biết vậy thôi .
Sư huynh, anh dặn đừng đánh người, chứ đâu có dặn đừng đánh anh ?
Vậy thì kể như tiểu đệ không có phạm gì hết.
Trùng Dương thấy Châu Bá Thông nhăn mày nhíu mặt nói ngược nói xuôi như vậy thật là lỡ khóc lỡ cười chỉ còn cách nhìn sư đệ nghiêm trang :
- Ba chén trà trên đầu trên vai của ta là vật giao hẹn, thắng bại điều đó do ta tự nói ! Bây giờ sư đệ đánh rớt, thì cũng kể như đã thua rồi Thôi hãy đi.
Châu Bá Thông nghe nói, lật đật la lên :
- Sư huynh không phải vậy ! Anh không có thua bởi tay của sáu cái tên vô danh này ! Vì bọn nó chưa có động được đến cái lông chân của anh. Nếu anh không tin thì chỉ cần...
Vừa nói tới đó Châu Bá Thông đã nhãy thóc tới trước mặt Tra Hùng.
Tra Hùng giao đấu nãy giờ quá mệt đang móc hầu bao lấy thuốc nhồi vào ống điếu xẹt đá lửa lên.
Vừa mới châm châm kê vô miệng chưa kịp hút, bất phòng Châu Bá Thông nhãy ập tới hét lên :
- Đón chiêu !
Tiếp theo, chưởng phong xé gió ào ào bay tới.
Tra Hùng hoảng hốt, quặt chiếc ống điếu trở qua theo thế Bạch Kê Tráo Dực, nhắm Linh huyệt đài của Châu Bá Thông điểm tới.
Châu Bá Thông thừa lúc đối phương vội vàng lính quýnh, chuẩn đà búng ra một cước, đá Tra Hùng văng tuốt ra xa.
Trùng Dương nạt lớn :
- Sư đệ ! Ngươi lại đánh người à !
Nghe sư huynh thét mắng Châu Bá Thông hoảng hốt nhãy lùi trở lại, đưa tay tát vào mặt mình ba cái thật mạnh, mặt mũi đớ lơ.
Trùng Dương ngó thấy tức cười :
- Thôi ! Được rồi ! Cho sư đệ trổ tài với họ đấy.
Câu nói của Trùng Dương vừa dứt, Châu Bá Thông như cọp đói gặp mồi gầm lên một tiếng nhảy phốc tới giữa đám Bào Ca hội.
Quần hùng Bào Ca vừa thấy thủ pháp tước đoạt chiếc ống điếu của Thiết Thích Vị Tra Hùng, ai nấy đều kinh hoảng không dè nhân vật Toàn Chân Giáo bản lãnh lợi hại như thế.
Nên khi Châu Bá Thông nhãy tới, tinh thần đề kháng hoàn toàn tan rã, la lên một tiếng, tản dạt ra hai bên.
Châu Bá Thông không nói nửa lời, vung cánh tay ra chộp đúng cổ áo của Hắc Ban Báo Đơn Chí Hồng, quát mắng :
- Đồ chết bầm !
Rồi nhấc bổng họ Đơn ném tuốt ra xa.
Một tiếng "bịch" khô khan như tiếng quăng bao cát, cả cây đao răng cưa và khối thịt của Hắc Ban Báo lăn tròn lông lốc.
Những tay danh thủ Tứ Xuyên còn lại, bét bét ra cửa dông luôn một nước.
Châu Bá Thông dợm cẳng rượt theo.
Trùng Dương vội vàng gọi lại :
- Sư đệ ! Hãy để cho họ chạy !
Châu Bá Thông dừng lại, vị Giáo Chủ Toàn Chân dắt tay người sư đệ, ngang nhiên ra cửa.
Các nhân vật Bào Ca hội bị thần uy của Giáo Chủ Toàn Chân chế phục, lén lén rút đi mất hết không còn lấy nửa bóng người.
Trùng Dương ngữa mặt cả cười, cùng với Châu Bá Thông thẳng về khách điếm.
Lần đến Tứ Xuyên này, vị chưởng giáo của Toàn Chân đã làm cho năm đầu lãnh Bào Ca khiếp đảm, uy danh lan khắp đó đây, một lần nữa sau cuộc luận kiếm Hoa Sơn người lãnh đạo Toàn Chân Giáo đã làm cho giang hồ nể mặt.
Sáng ngày sau, hai anh em họ Vương rời khỏi Thành đô, chọn đường tiến xuống Vân Nam.
Bọn Khưu Xử Cơ bảy người ở lại giữ Yên Hà động, sau khi sư phụ và sư thúc đi rồi, bầu không khí ở động Yên Hà thật là vắng vẻ, ngoài việc luyện kiếm vận công, không có việc gì khác cả. Cứ như thế hơn một tháng trời qua.
Một hôm, nhân lúc nhàn rỗi Khưu Xử Cơ, Mã Ngọc vầy cuộc đấu cờ, suốt nửa ngày trời mới nghỉ.
Khưu Xử Cơ bỗng nghĩ đến một việc bèn hỏi :
- Sư huynh, từ lúc chúng ta lên núi luyện công đến nay, không biết đã mấy năm rồi nhỉ !
Mã Ngọc ngạc nhiên :
- Sư đệ sao mà mau quên thế ? Qua bảy năm rồi còn gì nữa !
- Sư huynh, chúng ta cần phải xuống núi, dạo trước đệ nghe sư phụ nói sau khi khảo sát võ của mình rồi mới cho hạ sơn, nhưng không biết cách khảo sát của sư phụ ra sao ?
Mã Ngọc trầm ngâm :
- Sư đệ, sư đệ có nghe cách thức khảo sát môn đồ của Thiếu Lâm tự hay chăng ?
- Sao không ! Nghe người ta nói rằng, chưởng giáo phương trượng chùa Thiếu Lâm thiết lập La Hán Đường, chế ra mười tám vị La Hán bằng cây, số vị La Hán bằng cây này có đặt cơ quan trong ruột. Chỉ cần ấn vào nút máy, La Hán cây tự di động tập kích người khác. Mỗi người đệ tử Thiếu Lâm, sau khi thành tài, cần phải vượt qua được mười tám vị La Hán giả này mới có thể dấn bước giang hồ.
Mã Ngọc cười ngất :
- Trật !
Khưu Xử Cơ lấy làm lạ :
- Sư huynh, ai ai cũng bảo như vậy, mà không đúng sao nhỉ ?
- Cứ nghĩ lại xem dùng một La Hán để đo lường võ nghệ người khác là không được rồi.
Người cây là chết, người thật là sống, lấy giả thử thật, như thế là thông sao ? Cứ cho là người máy có thể cử động tay chân đi, nhưng sức lực ra sao ? Tất cả những việc đó, đều đặt thành nghi vấn.
Tóm lại, nếu quả như vậy thì không thể kể là đã luyện thành tài, không thể lấy đó mà đoán xem bản lãnh.
Khưu Xử Cơ suy nghĩ gật gù :
- Phải ! Đúng ! Như vậy không thể luyện được thực tài. Sư huynh, thế nhưng anh hỏi tôi việc đó là có ý chi chăng ?
Mã Ngọc mỉm cười :
- Sư phụ là một bậc cao nhân , tự nhiên người sẽ có phương pháp để đo lường công phu học tập của chúng ta. Ta đoán thế nào người cũng sẽ cho ta làm những chuyện thật khó khăn, bằng vào kết quả minh chứng đó định tài bộ.
Chàng còn định nói thêm, thì bỗng có một người đâm sầm chạy đến.
- Sư huynh ! Có...
Vừa nói đến tiếng có bỗng nhiên như nghẹn thở nói không được nữa.
Mã Ngọc nhìn thấy người đó là Đàm Xứ Đoan, thần sắc đã biến đổi. Chàng vội vàng đở người sư đệ vỗ vào Đại Thôi huyệt ở sau cần cổ và Khí Hải huyệt ở sau lưng, đoạn bảo :
- Sư đệ cứ thong thả, đừng quá sợ sệt.
Khưu Xử Cơ vội hỏi :
- Sư đệ gì đó ? Có kẻ địch tới à ?
Chàng tưởng đâu Tây Độc Âu Dương Phong lại mò đến về vụ Cửu Âm Chân Kinh.
Đàm Xứ Đoan lắc đầu :
- Không phải kẻ địch, mà là bọn người tải vàng bạc gấm lụa đi qua.
Mã Ngọc tỏ vẻ ngạc nhiên :
- Đàm sư đệ, chúng ta là kẻ xuất gia hành hiệp, chớ không phải như bọn đại sơn vương, họ tải vàng bạc đi ngang mặc kệ họ, cớ gì chúng ta mà phải nói ?
Đàm Xứ Đoan trố mắt :
- Sao lại không can cớ ? Đó là cống lễ mà hàng năm nhà Tống của chúng ta phải dâng sang Kim Quốc đó.
Khưu Xử Cơ và Mã Ngọc nghe nói thảy đều biến sắc.
Nguyên vì lịch sử Trung Hoa, từ đời nhà Hán đến đời Đường, các nước dọc vùng Tây Vực đến Nam Dương, đều tôn xưng Trung Quốc là thiên Triều, hàng năm nạp Cống Chỉ cho đến đời Tống thì trái lại, chẳng những ngoại quốc không còn triều bái nữa, mà hàng năm còn phải đem vàng bạc lụa là tiến cống nước người.
Bắt đầu từ Chân Tông hoàng đế, triều đại thứ ba của đời nhà Tống, đã phải triều phục Liêu Quốc ở Bắc phương. Dân tộc này còn gọi là Khiết Đan nữa.
Hàng năm lễ cống bạc ròng mười vạn nén, lụa tốt mười vạn cây, phải cho đủ số.
Tương truyền rằng tình trạng đó kéo dài ngót trăm năm, mãi đến đời Hoàng Đế Huy Tông khi quân Kim diệt nước Liêu mới dứt.
Sau khi diệt được Liêu, Kim quốc đổ binh xuống miền Nam xâm phạm Trung Nguyên bắt nhị vị Tống Hoàng đưa về phương Bắc. Nhà Tống di đô về Nam, thiên an Giang tả.
Tống Can Tông một vị vua bạc nhược, nghe lời dèm xiểm của đám gian thần Tần Cối làm cho thế nước bại suy và sau khi hãm hại Nhạc Phi, một bề tôi rường cột trung dõng song toàn đã hòa nghị với nước Kim vào năm thứ mười một đời Thiệu Hưng nhà Tống.
Đối với nước Kim, triều đình Tống đã hạ mình tự xưng Phiên Quốc tự đặt mình là một nước chư hầu lệ thuộc mỗi năm lễ cống vàng bạc là phải tăng gấp đôi, so với hồi tấn kiến nước Liêu.
Tống triều tấn cống Kim bang, tài vật rút từ mồ hôi nước mắt của chúng dân các tỉnh Giang Nam, trong khi đó trăm họ lầm than đói rách.
Cho nên triều đại đó, phàm những người có chí khí, đề cập hai tiếng cống lễ đều cảm thấy là một việc vô cùng nhục nhã.
Mã Ngọc và Khưu Xử Cơ biến sắc cũng vì hai tiếng đó.
Khưu Xử Cơ thở dài :
- Đêm tối trầm trầm, kẻ sĩ lui về ở ẩn. Hừ ! Cống lễ, cống lễ ! Thật là sỉ nhục quốc gia.
Mã Ngọc nghĩ ra một việc, day qua hỏi Đàm Xứ Đoan :
- Này sư đệ đến đây chỉ nói cho biết việc ấy thôi chứ ?
Đàm Xứ Đoan cúi đầu không đáp.
Khưu Xử Cơ nghiến răng :
- Tôi hiểu rồi ! Đàm sư đệ, chúng ta lập tức xuống núi đoạt lấy cống lễ đó.
Đàm Xử Đoan vụt ngẫng đầu lên cặp mắt long lanh sáng rực.
Mã Ngọc nghe nói hoảng kinh :
- Cướp đoạt cống lễ à ? Chúng ta là kẻ xuất gia thanh tịnh trụ trì, đâu có thể hành động theo bọn lục lâm cường đạo ? Nếu sư phụ ta biết được việc làm trái ngược ấy, liệu người sẽ xử trí ra sao ?
Khưu Xử Cơ cười lạt :
- Đại sư huynh, tuy chúng ta là kẻ xuất gia, nhưng bất cứ một kẻ tu từ ở nơi môn phái nào, cũng đâu có thể vượt khỏi ngoài nhân thế. Cống lễ đó là máu huyết của dân tộc ta mà vì nhà vua họ Triệu bất tài, mới đem cống biếu ngoại bang để cho cá nhân mình được giàu sang yên ổn ngồi trên ngôi báu, với dã tâm "sống chết mặc bây".
Hừ ! Chúng ta có nên đoạt nó hay không ?
Mã Ngọc gục gật thở dài :
- Sư đệ nói đúng lắm ! Song vì sư phụ đã căn dặn chúng ta rằng, tài nghệ chưa thành, xuống núi bây giờ là gây họa. Cho nên, đừng nói đến việc chúng ta chưa chắc thành công, mà như công việc làm được theo ý muốn, cũng sẽ bị thầy khiển trách.
Khưu Xử Cơ lắc đầu :
- Sư phụ cũng là con người trung cang nghĩa khí, đối với chuyện lê dân đau khổ, quốc phá gia vong này quyết chắc người không bao giờ trách cứ chúng ta. Phương chi đoạt thu tài vật cống lễ này ta sẽ phân phát lại cho những người nghèo đói đang quằn quại rên siết, góp phần cứu trợ mạng sống cho số đông người, thì tại sao lại chẳng làm ?
Và chàng day qua hỏi Đàm Xứ Đoan :
- Ấy vậy cống lễ này quân Kim có đông không ? Và viên tướng lãnh nào đốc lãnh ?
- Tất cả cống vật đều vận chuyển bằng xe, trên dưới độ hơn một nghìn quân Kim hộ tống.
Còn cái tên tướng cầm đầu, thì là một thằng cha tóc đỏ mặt xanh, tay cầm cây lang nha bỗng, có cái tên dài sọc là Hoàng Nhan Thất Luật, Thất Niêm gì đó, đầu nó đội cái mão vàng giống như một vị Bình Chương vậy.
Khưu Xử Cơ nóng nảy :
- Được rồi, sư đệ hãy ra trước núi gọi Lưu sư huynh, Vương, Hảo sư đệ và Tôn sư muội vào đây mau lên !
Thấy bộ dạng Khưu Xử Cơ, Mã Ngọc vừa giận vừa tức cười :
- Sư đệ, Kim binh hơn một ngàn chúng ta chỉ có bảy, lấy sức bảy người, đi cướp đoạt đồ vật trong tay cả ngàn người, đã là một việc khó.
Huống chi vàng bạc lụa là ít nhất cũng một trăm cổ xe, dầu cho chúng ta có ba đầu sáu tay chưa chắc đã đoạt được.
Khưu Xử Cơ phớt tỉnh :
- Đại sư huynh, anh là một người quá thận trọng, thận trọng đến mức độ không cả quyết ! Anh hãy xem tiểu đệ sắp đặt đây !
Giây phút, Đàm Xứ Đoan đã mời Lưu Xử Huyền, Hảo Đại Thông, Vương Xứ Nhất và Tôn Bất Nhị tề tựu đến.
Khưu Xử Cơ bèn đem việc mình tính đoạt cống lễ nói lại, cả bọn bốn người đều vỗ tay tán thưởng :
- Hay lắm, hay lắm ! Chúng ta hãy nghe Khưu sư huynh sắp xếp.
Mã Ngọc vụt đứng dậy :
- Ta dù sao cũng là một người lớn trong hàng đệ tử, không thể làm trái môn quy. Các sư đệ muốn làm gì cứ làm, đừng tính ta vào trong đó.
Dứt lời họ Mã đứng dậy đi luôn một nước.
Hảo Đại Thông ngó theo Mã Ngọc, chực lên tiếng gọi nhưng Khưu Xử Cơ đã khoát tay :
- Thôi, mặc anh ấy ! Chúng ta sáu người một ý là được rồi !
Chàng liền đem kế hoạch dự định của mình nói rõ cho mọi người nghe, cả bọn vui vẻ tán đồng :
- Hay lắm ! Kế hay lắm !
- Đã là kế hay, thì chúng ta hành động liền không nên chậm trễ.
Các đệ tử Toàn Chân Giáo bèn chia nhau xuống núi.
Dưới chân núi Tung Sơn về phía Đông, có một cái chợ nho nhỏ, gọi là Bôn Ngọ Trấn.
Nơi đây, độ năm ngàn nóc gia, song lại nằm đúng vào cái trục giao thông bởi một con đường cái.
Con đường nầy, thường thường dùng vào việc vận chuyển lương thảo, quân cụ của quan binh.
Sáng sớm ngày hôm ấy bỗng nhiên tiếng người tiếng ngựa vang lên tận xa xa. Rồi thì cát bụi tung tên, dẫn đến mấy mười tên quân kỵ, tất cả đều là Kim binh.
Vừa đến đầu thị trấn, họ tung mình xuống ngựa chia dọc theo đường, hướng vào các xó dân cư ra lệnh :
- Tất cả đều phải đóng cửa lại ! Có đồ vật quan trọng tải ngang qua, kẻ nào lén hé cửa dòm, lập tức đứt đầu ! Nghe đây ! Nghe đây !
Đó là thói quen của quân Kim.
Bất luận tải lương thảo ra mặt trận hoặc từ phương Nam vận chuyển vàng bạc lụa là trở về theo đường quyết không cho người Tống dòm ngó.
Từ trước đến nay dân cư Bôn Ngọ trấn nghe Kim binh truyền rao như thế, nhà nhà đều đóng chặt cửa không một ai dám ló đầu ra. Dọc dài theo thị trấn, một bầu không khí lặng im phăng phắc.
Thấy dân cư đã đóng cửa xong, Kim binh liền dàn ra hai cánh, tuốt gươm khỏi vỏ rầm rập tiến qua thị trấn, như sắp sửa lâm trận.
Cứ theo tình thế lúc bấy giờ, Kim Tống đã nghị hòa, thì việc vận chuyển như thế, tại sao quân Kim lại làm ra quan trọng.
Nguyên vì sau khi nhà Tống lui xuống miền Nam, di đô về Giang Tả, một giải Hoàng Hà Nam Bắc, không thiếu chi những người sẵn bầu nhiệt huyết, không chịu cam lòng thần phục ngoại bang, không bằng lòng để cho quân Kim tàn sát thống trị, họ đã lần lần nổi dậy lập thành những đội nghĩa quân trong dân chúng, nhất là các vùng thôn dã, đánh phá quân Kim ở trong các địa phương.
Công việc của họ là cướp đoạt, đốt phá lương thảo, đánh giết quan lại tướng tá của nhà Kim, cổ khuyến dân chúng không giao dịch nạp lương đóng thuế cho bọn chúng .
Tình hình đó mạnh nhất ở các tỉnh Hà Bắc, Sơn Đông, vì lẽ ấy mà việc áp vận của quân Kim phòng bị hết sức cẩn mật.
Sau khi bố trí xong xuôi, họ xua quân tiến tới, cả khoảng đường dài, bắt đầu thị trấn bụi cát mịt mù, tiếng xe khua vang dội đinh hai điếc óc.
Hơn một trăm cỗ xe tới, như một con rắn dài uốn khúc gầm thét dậy trời.
Cùng lúc ấy từ Bôn Ngọ Trấn đi ra ba gã đàn ông mù mắt, quần áo xốc xếch, đầu vấn khăn sùm sụp. Mỗi người cầm một chiếc gậy tre mò mẫm dò đường.
Quân Kim thấy ba người mù thinh không dẫn đến, lấy làm lạ nạt lên :
- Ủa ! Ba cái thằng đui này, sao lại dám ngang qua chỗ đại quân vận lộ như vậy ? Bọn ngươi không biết à ? Đi trở lại, mau lên !
Ba người mù ấy lại chẳng chịu đi, cứ đứng ngay ở đầu đường vào thị trấn, lải nhải nói chuyện với nhau.
Đoàn quân đi đầu của Kim binh trờ tới thấy ba người ấy không chịu lui vào trấn, lo sợ bị quan trên quở phạt, nổi nóng nạt nộ um sùm.
Trong số ấy có một tên lỗ mãng nhất hùng hổ dang tay xô bọn người mù, miệng thì chửi ó lên :
- Đồ đui ! Đi trở lại mau lên !
Không ngờ tay y vừa đẩy trúng vào người đui thì thân thể người này bỗng mềm nhũn sốp sọp như bao bông gòn.
Tên quân Kim lấy làm lạ định rút tay về, bỗng nhiên một hấp lực vô hình hút chặt tay y lại, không làm sao giật ra được.
Rồi thình lình, thân hình tên mù lại
phình ra như chiếc bong bóng thổi hơi, tên quân Kim bị một sức mạnh bắn vọt ra xa hơn mười bước .
Quân Kim hoảng hốt dừng lại. Hai tên quân Kim đứng gần nhất rút phắt đại đao nhắm người mù đứng giữa xả xuống.
Hai người mù hai chân không hẹn, cũng một lúc cất bổng chiếc gậy tre, điểm ngay vào Khí Du huyệt của hai tên quân vừa chém tới.
Hai tên lính Kim rập lên một tiếng la bài hải, buông đao ngã trên mặt đất.
Liền khi ấy, một tên tướng Kim dẫn đạo quân đầu, đã giục ngựa lướt tới. Tướng này tên Trương Sĩ Lương, vốn là người Hán đầu phục binh Kim, chôn vùi lương tâm nối giáo cho kẻ địch, hà hiếp đáp dân chúng từ lâu.
Thấy ba tên mù dáng dấp khả nghi chỉ nhấc tay đã đánh ngã ba tên binh sĩ của mình, bất giác nổi giận đùng đùng quát lớn :
- Quân phản tặc ! Bắt nó cho ta !
Tiếng quát vừa dứt, gã họ Trương liền ôm mặt lăn xuống ngựa.
Nguyên ba người mù đó là Khưu Xử Cơ, Đàm Xứ Đoan, và Lưu Xử Huyền giả dạng theo kế hoạch đánh cướp quân Kim.
Thấy Trương Sĩ Lương đã theo kẻ thù lại gọi ngược đồng bào là giặc, Khưu Xử Cơ máu giận sôi lên, vung cây gậy trút vút ngay vào họng gã.
Cây gậy trúc xé gió bay tới như một ngọn thương cắm ngay vào miệng Trương Sĩ Lương, xuyên tuốt qua hậu não, ngã xuống óc văng tung tóe.
Quân Kim thấy chủ tướng mình bị giết, khiếp đảm tản ra, hàng ngũ rối loạn xà ngầu.
Càng kinh hoàng hơn nữa là ba người mù vụt mở mắt ra, hét lên một tiếng, từ trong chiếc áo lùng thùng rách rưới mỗi người rút ra một thanh trường kiếm, ánh thép loang loáng vung lên như gió cuốn mây bay chặt quân Kim như đốn chuối.
Quân Kim tuy hung hăng nhưng làm sao cự lại ba tay kiếm Toàn Chân.
Chỉ thấy kiếm quang cuồn cuộn như ba chiếc mống dài đảo lộn, ánh sáng bay đến đâu, quân Kim rạp ngã ra nơi đó, thân lăn lộn máu thịt văng tứ tung.
Chủ tướng quân binh, Hoàng Nhan Thất Luật nghe báo có người chận giết binh lính, phùng râu trợn mắt hét vang như sấm.
Tên tướng lãnh quân Kim bèn thót lên lưng con Hoàng Phiêu Mã, hươi cây Lang Nha Bổng tiến lên tới trước.
Khưu Xử Cơ ngẫng mặt thấy một tên tướng Kim mặt xanh tóc đỏ, ngồi trên lưng ngựa xông tới bèn gọi lớn :
- Sư đệ ! Đánh giặc phải bắt tên tướng trước, ai trói thằng phiên cẩu đó, công trạng kể gấp đôi.
Lưu, Đàm song kiệt vung lên từ bên phải tiến qua, liền bị mấy mươi binh Kim cản lại.
Mấy chục tên quân này toàn là giáp sĩ chuyên việc hộ tống đoàn xe chuyển vận, sức mạnh phi thường.
Lưu Xử Huyền và Đàm Xứ Đoan bị chúng vây vào chính giữa.
Chờ cho một tên quân Kim nào giá đại đao chém xuống, chàng bèn lách mình qua, tay phải dùng kiếm chận đao, tay trái thộp vào ngực gã quát lên một tiếng :
- Bay !
Thân hình tên lính đó tức thì như một trái khí cầu bắn tung lên đâm sầm tới trước đầu ngựa của Hoàng Nhan Thất Luật.
Tên tướng mặt xanh hoảng hốt, cử Lang Nha Bổng đở lên.
Một tiếng bịt khô khan, tên quân Kim vừa rơi xuống thì cả Lang Nha Bổng đập văng tạt một bên.
Trong chớp mắt Khưu Xử Cơ khẽ nhún mình tung chân nhãy tới.
Vừa đúng lúc sáu tên Kim binh cử đao ập lại, chàng bèn dùng chân nhấn mạnh trên đầu một tên, óc phụp bể ra ngã lăn xuống đất.
Nương theo đà của cái nhấn đó, Khưu Xử Cơ như một cánh chim lộng gió lao vút qua hơn năm trượng ập thẳng đến đầu ngựa của Hoàng Nhan Thất Luật.
Tên tướng mặt xanh thấy kẻ địch như một vị tướng trên trời giáng xuống, làm luống cuống nhưng cũng kịp thời vung Lang Nha Bổng quất ngang lưng địch thủ.
Cây Lang Nha Bổng vừa mới đưa lên, Khưu Xử Cơ đã xà xuống tới, tay trái chàng nắm chặt đầu cây Lang Nha Bổng, tay phải vung trường kiếm, đâm thẳng vào yết hầu con ngựa địch.
Con chiến mã ré lên một tiếng hai chân trước dạt ra quỵ xuống, ném Hoàng Nhan Thất Luật lộn mèo tới trước.
Khưu Xử Cơ đút lẹ thanh kiếm vào vỏ, tay trái giật mạnh cả Lang Nha Bổng.
Hoàng Nhan Thất Luật mất đà chúi nhủi về phía bên chàng.
Khưu Xử Cơ lẹ tay chụp ngay đai lưng tên tướng mặt xanh, giở bổng lên không vận khí đan liền hét lớn :
- Bọn giặc Kim ! Chủ tướng của bây đây !
Cùng lúc ấy, ngót toàn quân Kim, bốn phương tám hướng ào tới làm thành mấy chục vòng vây bao chặt ba cao đồ Toàn Chân vào giữa, cho rằng đối phương tháp cánh cũng không thoát được.
Nào ngờ Khưu Xử Cơ đã "tiên phát chế nhân" bắt chủ tướng dơ thẳng lên cao như cọp vờn xác chó, bọn chúng hoảng kinh từ từ lùi tản ra xa.
Có một số giáp binh ỷ mạnh, liều mạng múa đao lướt tới.
Khưu Xử Cơ nắm Hoàng Nhan Thất Luật vung vùn vụt ra trước mặt, bọn chúng mất hồn vía, chạy ùa tán loạn.
Đàm Xứ Đoan, Lưu Xử Huyền từ nãy giờ bị quân Kim vây chặt, chợt thấy Khưu Xử Cơ bắt được viên chủ tướng địch quân, hai người cả mừng huy động hai thanh trường kiếm phát cỏ đám Kim binh, giết đến gần bên sư huynh của mình.
Khưu Xử Cơ quét cặp mắt vào đám quân Kim quát lớn :
- Chúng bây có tiếc mạng chủ tướng của chúng bây không ? Nếu tiếc thì đứng im lại nghe mệnh lệnh của ta.
Chàng vận đan điền phát ra khí quản cho nên giọng nói vang rền như sấm bất cứ một tên quân Kim binh xa gần cũng đều nghe thấy rõ ràng, trong tình thế đang hỗn loạn đó, chúng hoảng kinh im phăng phắc, để nghe chàng ra lệnh.
Khưu Xử Cơ thấy binh Kim đứng im, bèn ném mạnh Hoàng Nhan Thất Luật xuống đất quát lớn :
- Thằng chó Kim ! Ngày nay ngươi rơi vào tay ta, ta hỏi phải trả lời mau, trọng tiền hay trọng mạng ?
Hoàng Nhan Thất Luật bị Khưu Xử Cơ quật xuống rêm mình rêm mẩy, nghe như xương cốt nát tan, hồn vía bay tận mây xanh, kể như không thấy vợ con chi nữa.
Tên tướng Kim này, lúc thường tuy làm hùm làm hổ, nhưng căn bản vẫn là một phường tham sống sợ chết, nên khi Khưu Xử Cơ hỏi bèn lập cập trả lời :
- Hảo hán gia gia, mạt tướng trọng sinh mạng lắm lắm !
Khưu Xử Cơ mỉm cười :
- Tốt ! Đã vậy ngươi hãy bảo binh lính của ngươi đem hết vàng bạc lụa là, tới đây không được thiếu sót nghe chưa !
Hoàng Nhan Thất Luật dòm quanh bốn phía thấy đối phương ngoài ba người ra không thấy có thêm một tên đồng bọn, trong lòng hắn lấy làm khó chịu, lại thêm ý tưởng của họ thiệt quả bằng trời, tài vật của mình áp vật không phải là vật tầm thường, mà là cống lễ của Tống triều hiến nạp hai chục vạn lượng bạc hai chục vạn cây lụa tốt mà đối phương chỉ có ba người sáu tay thôi làm sao họ có thể mang đi được.
Khưu Xử Cơ đoán được tâm lý do dự của tên tướng mặt xanh.
Chàng bèn cười lạt :
- Thằng chó Kim kia, ngươi nghĩ chúng ta có ba người, không vận chuyển tài vật được à ? Ha ha ! Lẽ tất nhiên ta có cánh ! Bây giờ ta hỏi ngươi có bằng lòng giao nạp hay không ?
Hoàng Nhan Thất Luật nghĩ rằng ba tên này vận chuyển hơn một trăm xe, ba tháng cũng chưa xong. Dù ta có bằng lòng đối phương cũng chẳng bay đi đâu mà sợ, hắn bèn gật đầu :
- Hảo hán, ngài đã thích của ấy thì cứ việc mang đi !
Khưu Xử Cơ cười lên ha hả :
- Như vậy mới thật là người thức thời ! Tốt lắm !
Vậy bây giờ người hãy ra lệnh cho tất cả quân lính của ngươi đẩy hết xe về hướng Đông Nam. Dọc đường, không được tiết lộ phong thanh kêu gọi la lối gì cả. Đẩy một khoảng hơn hai mươi dặm, đến bờ sông Vy Thủy, sẽ có đồng bạn ta tiếp đón ! Biết chưa ?
Hoàng Nhan Thất Luật nghe nói hoảng hồn trong bụng kêu khổ liên miên, không ngờ đối phương còn có đồng đảng nữa.
Chẳng qua sinh mạng mình bây giờ nằm trong tay họ, Hoàng Nhan Thất Luật không dám không nghe theo, bèn lập tức lồm cồm ngồi dậy.
Khưu Xử Cơ lấy mũi kiếm chỉa ngang vô lưng hắn.
Dưới mũi kiếm uy hiếp đó, Hoàng Nhan Thất Luật chỉ còn có nước ra lệnh cho quân lính lên ngựa đẩy xe theo con đường Khưu Xử Cơ chỉ định.
Đoàn quân vận tải của binh Kim lại uy phong lẫm liệt chỉnh tề hàng ngũ lên đường.
Dọc đường xuyên qua bao nhiêu thôn trang , Khưu Xử Cơ đều buộc Hoàng Nhan Thất Luật cho lính vào bắt tráng đinh theo phụ lực. Mỗi thôn như vậy, ngoài một trăm người.
Không quá nửa ngày, toàn đội áp vận đông lên thêm mấy trăm người, thanh thế mỗi ngày một lớn thêm ra.
Hoàng Nhan Thất Luật càng cảm thấy lạ lùng, không đoán nổi dụng ý của Khưu Xử Cơ.
Vy Thủy là con sông nhánh của Hoàng Hà, ven bờ địa thế bằng phẳng, mặt sông rộng lớn mênh mông, Khưu Xử Cơ bức bách quân Kim đẩy riết đến đó.
Lúc bấy giờ đã có sẵn bốn người đứng ở bên bờ, ba nam một nữ.
Đó là Mã Ngọc, Vương Xứ Nhất, Hảo Đại Thông và Tôn Bất Nhị.
Thấy Mã Ngọc Cũng đến đó không biết từ bao giờ, Khưu Xử Cơ bèn bước lên diện kiến sư huynh.
Dọc theo ven sông lại sắp sẵn ba mươi mấy chiếc ghe chài, Hoàng Nhan Thất Luật liếc xem tái mặt.
Hắn nghĩ rằng nếu họ khiêng hàng hóa xuống thuyền chở đi thì không làm sao biết được tung tích ở đâu mà tìm kiếm.
Nguyên bọn ba người của Vương Xứ Nhất theo lời dặn trước của Khưu Xử Cơ đến Vy Thủy. Họ giả làm lái cây ở miền Nam đến mướn một số ghe chài để chở hàng hóa.
Họ ăn mặc theo lối thương nhân sang trọng lại bỏ ra thật nhiều tiền, bọn thuyền chủ không nghi ngờ chi cả bèn neo thuyền dọc theo bờ sông chờ đợi.
Khưu Xử Cơ thấy thuyền ghe đã sẵn sàng liền bảo Hoàng Nhan Thất Luật :
- Đến nơi rồi , song ngươi còn phải ra một lệnh nữa. Hãy bảo thủ hạ của ngươi mang tất cả đao thương kiếm kích, cung tên ném xuống sông mau lên !
Thật là một cái lệnh mà Hoàng Nhan Thất Luật không bao giờ nghĩ tới, hắn ta hoảng hốt kêu lên :
- Hảo hán ! Ngài đã lấy hết số vàng, gấm vóc rồi, xin để lại cho binh khí !
Khưu Xử Cơ không trả lời đẩy mạnh mũi kiếm lủng giáp tên tướng Kim và quát lớn :
- Không phải chỉ cống lễ không mà đủ, cả lũ người làm ma nhà Hán nữa ! Ngươi có chịu nghe lệnh của ta không ?
Hoàng Nhan Thất Luật nghe be sườn mình đau nhói vì mũi kiếm, hồn phi phách tán lật đật kêu xin :
- Mạt tướng tuân mệnh ! Tuân mệnh !
Tên tướng mặt xanh run rẩy truyền lệnh, quân sĩ y theo lời của Khưu Xử Cơ.
Kim binh tuy có vẻ căm hờn song không dám trái lệnh.
Lưu Xử Huyền, Đàm Xứ Đoan, Vương Xứ Nhất và Hảo Đại Thông xông vào đám binh lính lột hết khí giới to nhỏ dài ngắn ném xuống sông.
Khưu Xử Cơ lúc bây giờ bèn truyền cho bọn lính tay không đó vận chuyển tài vật xuống hết dưới thuyền.
Gần nửa ngày mới hoàn tất công việc.
Khưu Xử Cơ chờ cho chúng khuân đến cỗ xe cuối cùng mới tặng một đá vô bàn tọa của lên tướng mặt xanh và quát lớn :
- Gửi sinh mạng ngươi lại đó ít lâu, hãy mang quân cút ngay. Đồ chết bầm.
Hoàng Nhan Thất Luật bị một đá như trời giáng lăn tròn gần cả trượng, bò càng bò niễng, đứng lên nhăn nhó như khỉ ăn phải ớt.
Bây giờ trong tay không có một tấc sắt, muốn trở mặt cũng không làm sao được. Tên tướng quân lui thủi kéo quân đi tuốt.
Sau khi quân Kim đi rồi, Khưu Xử Cơ bèn bảo các thôn đinh đã bắt theo phụ dọc đường, lên tất cả trên thuyền.
Mấy trăm thôn đinh nghe Khưu Xử Cơ ra lệnh, hết thảy đều ùn ùn kéo róc xuống thuyền căng buồm cho thuyền xuống thẳng hạ lưu.
Ngoài mười dặm đường sông, Khưu Xử Cơ lựa một chỗ mà hai bên bờ hoang vắng cho thuyền cặp lại và ra lệnh cho khuân hết tài vật lên bờ.
Xong xuôi đâu đó Khưu Xử Cơ bèn tập họp thôn đinh lại nói với họ bằng một giọng trang nghiêm :
- Xin tất cả hãy nghe đây, Kim binh tàn ác thống trị Trung Nguyên chúng ta đã mười mấy năm rồi, trăm họ lầm than cơ cực. Thế mà nhà vua họ Triệu chỉ biết đến cái chức Hoàng đế bình an của mình không hề nghĩ đến giang san gấm vóc, cứu dân cứu nước, chỉ lo vinh thân phì gia, mà không nghĩ đến giống nòi đang quằn quại.
Đã vậy còn vắt mồ hôi máu huyết của lương dân một giải Giang Nam làm lễ cống cho lủ quân Kim cẩu trệ.
Nói đến đây Khưu Xử Cơ cầm lòng không được hai hàng nước mắt trào tuôn.
Chàng nghẹn ngào nói tiếp :
- Tôi sắp đặt kế này, cướp lại cống lễ của Tống triều phân phát lại cho chư vị, vậy chư vị cố sức đem đi hết. Chỉ có điều cần phải nói rõ, số tài vật này là xương máu của bá tánh của phương Nam, chúng ta không thể hưởng trọn một mình mà cần phải chia ra cho dân ở các vùng phụ cận.
Chia được nhiều ra chừng nào, việc làm của chúng ta càng được tốt đẹp chừng ấy.
Số chủ thuyền và tất cả thôn đinh nghe Khưu Xử Cơ nói vô cùng cảm động rập lên :
- Đúng, đúng ! Chúng ta hãy gọi dân nghèo đến mang đi. Tất cả đều chia nhau đi thông báo cho các thôn lạ chung quanh.
Trong giây phút, họ ùn ùn kéo tới có mấy ngàn người.
Khưu Xử Cơ bèn áng theo nhân khẫu mà chia đều ra hết.
Làm được việc phải, trong lòng hết sức vui sướng, Khưu Xử Cơ nhìn chư huynh đệ nói to :
- Mấy chục năm nay, Khưu Xử Cơ này chỉ sống trọn cho một ngày đấy thôi !
Các môn đệ Toàn Chân giáo vỗ tay cười vang dậy.
Đàm Xứ Đoan nói :
- Nếu cống nạp cho Kim Quốc mà mỗi năm đều được như vậy cả, thì hay biết chừng nào.
Vương Xứ Nhất nói :
- Chúng ta làm việc này mà còn quên một việc khá quan trọng.
- Chuyện chi ?
Vương Xứ Nhất ngó Khưu Xử Cơ :
- Sư huynh, chẳng lẽ anh quên rằng sau khi mất cống lễ, quân Kim thẹn quá sẽ tìm cách trả thù. Và sự khó khăn ấy sẽ trút lên cho bá tánh vùng phụ cận ?
- À ! Chuyện này nguy hiểm lắm đấy .
Lưu Xử Huyền ngẫm nghĩ giây lâu :
- Sư huynh, vấn đề này đáng phải suy xét kỹ, chúng ta không thể trong một lúc bỗng chợt mà để lụy cho lê dân.
Khu Xử Cơ quả quyết :
- Đúng rồi ! Tạm thời chúng ta không trở về Tung Sơn, mà phải cấp tốc đến Biện Kinh dò xem bọn Kim đối phó với việc này ra sao, rồi tùy đó chúng ta xử trí.
Hồi 81
Không trở về phương Bắc, bảy người cao đệ Toàn Chân xuôi đường đổ xuống miền Tây.
Trong lúc cướp đoạt cống lễ họ đều hóa trang theo người thường, bây giờ thay đổi y phục trở lại phong cách đạo gia võ phái.
Qua khỏi Vy Thủy quả nhiên đúng như sự ước đoán của họ, dọc theo đường nơi nào Kim binh cũng sẵn sàng đội ngũ, rộn ràng di động, hướng về phía Tung Sơn.
Khưu Xử Cơ nhìn thấy, trong lòng lo lắng không yên. Bởi vì dưới chân Tung Sơn, dân chúng cư ngụ rất đông. Vạn nhất mà bọn quan quân nhà Kim nóng lòng truy nã vụ án cống lễ này, thì tất cả sự tàn nhẫn sẽ dội lên đầu trăm họ.
Họ bèn vội vã đi riết đến Biện Kinh.
Biện Kinh còn một cái tên xưa là Đại
Lương, hiện nay Khai Phong phủ. Thời Bắc Tống gọi là Đông Kinh.
Năm thứ ba đời Tĩnh Khang, quân Kim
xâm lược nhà Tống, phá Biện Kinh bắt nhị đế .
Lúc bấy giờ, nước Kim chưa có một kế hoạch rộng lớn thôn tính Trung Nguyên. Tống tướng Tôn Trạch đã một lần dấy quân khôi phục.
Đáng tiếc là lúc đó Khang Vương Triệu Cấu sau khi vượt sông chạy xuống Giang Nam, luôn cả tôn miếu tại Biện Kinh, cũng không dám nghĩ đến việc trở về nhang khói.
Bọn Khưu Xử Cơ vào đến Biện Kinh, nhìn thấy núi sông cũng vẫn y như cũ, nhưng người thì đã khác xưa rồi, làm cho các vị cao đồ Toàn Chân bồi hồi buồn bã.
Theo ngã Huyền Đức Môn, tiến vào thành nội, chợt thấy nhà cửa phố quán lần lượt đóng cửa, người đi đường cũng lật đật quay về nhà.
Một bầu không khí khẩn trương tràn ngập.
Vương Xứ Nhất liếc qua biết rõ, bảo nhỏ với Khưu Xử Cơ :
- Sư huynh ! Có lẻ chuyện mình đoán đã thành sự thật rồi đấy .
Khưu Xử Cơ im lặng gật đầu.
Bọn họ ăn vận theo lối đạo sĩ, đi lại trên đường tương đối dễ dàng ít người chú ý.
Đi riết đến gần chùa Tướng Quốc, trung tâm thành nội Biện Kinh, chợt nghe ở đầu đường vang dậy tiếng la hét chửi mắng.
Mấy anh em Khưu Xử Cơ lướt tới xem thử, bất giác máu nóng trào lên khóe mắt.
Trên đường lớn một đội Kim binh áp giải từng tốp từng tốp dân chúng, người nào người nấy quần áo cũng xốc xếch rách rưới, mặt mày ủ rủ héo xào. Cứ mỗi mười người cột chung vào một xâu bằng một sợi giây lòi tói lớn, gìa trẻ trai gái lẫn lộn vào nhau. Cứ như thế kéo dài một quãng độ hai ba ngàn người bị bắt dẫn đi.
Khưu Xử Cơ thầm nghĩ :
- Có thể như vậy được sao ? Nước Kim bất chấp, chỉ tổn thất một năm cống lễ mà bắt cả ngàn dân chúng, thật quả là ác nghiệt.
Vương Xứ Nhất chắt lưỡi lắc đầu :
- Sư huynh anh đã gây họa lớn rồi. Hãy nhìn dân chúng bị bắt đó.
Khưu Xử Cơ giận đến muốn vỡ mật xanh, chực xông vào đám Kim binh.
Mã Ngọc cản lại :
- Sư đệ không nên nóng nảy, vạn nhất xẩy ra xung đột, tại Biện Kinh thành dân thứ đông đảo há chẳng gây khổ cho dân thứ hay sao ?
Khưu Xử Cơ cũng cảm thấy dầu mình có bản lĩnh cao tuyệt đến đâu, cũng không cứu được dân chúng, đành phải nuốt hận nghẹn ngào.
Màn đêm phủ xuống, phủ Khai Phong đèn đuốc rạng ngời vẻ phồn hoa vẫn rực rỡ như xưa mà non nước đã đổi thay nhiều quá nên bày rõ bộ mặt vui chơi giả tạo.
Bọn Khưu Xử Cơ bèn chọn khách điếm làm nơi trú ngụ.
Sau khi dùng cơm tối, Khưu Xử Cơ bèn gạ chuyện với tên tiểu nhị để dò xét tình hình thống trị của quân Kim tại Biện Kinh.
Gã tiểu nhị trong quán này cũng là một tay hay nói, từ chuyện buôn bán làm ăn lần lần đến chuyện mãi quốc cầu vinh của bọn Trương Bang Xương, Lưu Dự.
Hồi đầu khi mới đến Biện Kinh, quân Kim liền lập Trương Bang Xương làm Sở Vương, rồi ba năm sau phong Lưu Dự làm Tề Vương, lợi dụng hai tên này làm bù nhìn để bắt cầu cho họ bước lần đến toàn cõi Trung Nguyên.
Và mãi cho đến ngày nay, bằng bàn tay chúa Triệu, quân Kim đã làm ra không biết bao nhiêu uất hận trong dân gian.
Khưu Xử Cơ buồn giận tràn đầy, nghĩ tới việc vua tôi nhà Tống di đô về Nam, lấy Hàng Châu làm một tiểu triều đình, thu hẹp giang sơn lại một góc trời thần phục. Sớm chiều yến tiệc vui say, quên hẳn mối hờn vong quốc.
Cũng như Triệu hậu Chúa non sông gói trọn vào bức màn the, chàng giờ đây cũng bó gối trong khách điếm.
Mà bên kia phòng Vương Xứ Nhất, Lưu Xử Huyền hai người đang say giấc mộng nhàn du.
Khưu Xử Cơ bước ra bao lơn, ngước mắt nhìn trời, dãy ngân hà tinh đẩu nhấp nháy tỏ mờ, từ xa xa tiếng trống đổ canh hai.
Tâm huyết dâng tràn, chàng không thể nào nhắm mắt được.
Khưu Xử Cơ vụt đứng lên thắt lại y phục, xách thanh bảo kiếm, nhãy ra cửa sổ, nhắm hướng nha môn thành Biện Kinh phi thân vút tới.
Người Kim sau khi vào đến Biện Kinh, đã thiêu rụi tất cả dinh thự đền đài thủ phủ của nhà Tống. Khai Phong phủ chỉ còn nha môn, để trấn án Biện Kinh thành.
Vào đến nơi đây đã thấy đèn đuốc sáng choang, bóng người tấp nập, Khưu Xử Cơ biết quan lại đang mở cuộc tra tấn về việc cống lễ bị mất.
Chủ ý đã định, Khưu Xử Cơ bèn nhún mình vượt qua dãy tường cao, lướt thẳng vào nha nội.
Nha môn tuy có Kim binh bố phòng chặt chẻ, nhưng dưới mắt Khưu Xử Cơ bọn Kim binh này cũng không hơn gì những hình rơm dọa chim ngoài đồng ruộng.
Phi thân ẩn hiện không mấy phút chàng đã nhẹ nhàng ngồi ngay trên mái ngói giữa tòa đại sãnh nha môn.
Dùng thế Bích Hổ vượt tường, Khưu Xử Cơ nằm sấp trên mái ngói dòm vào trong sãnh, thấy một người ngồi giữa là tên quan Kim quốc, tuổi trạc trung niên, vận áo da, đội mũ da choàng chiếc đại hoàng tộc.
Chợt nghe tên Vương gia người Kim nói :
- Trương Phủ Quận, Lý Tuần Kiểm, cống lễ Tống triều lần nầy bị cướp mất đi mấy vạn vàng bạc gấm vóc điều đó kể cũng chẳng sao.
Nhưng giọng gã bỗng trầm xuống, lạnh lùng :
- Nhưng, thể diện của quân đội nhà Đại Kim bị mất đi không ít. Một khối trăm xe cống lễ, để cho mấy tên vô loại cướp đi một cách dễ dàng, dân chúng Trung Nguyên đã xem binh tướng của nhà Đại Kim như cỏ rác. Đã không còn phục tùng sự thống trị của thiên triều. Ta cho rằng...
Tên quan họ Lý cung kính hỏi :
- Ngũ Vương Gia ngài cho rằng việc ấy thế nào ?
Gã Vương gia người Kim sắc mặt vụt hiện đầy sát khí :
- Ta cho rằng dân cư tại Bôn Ngọ trấn đã che dấu bọn phản gián. Ngày mai, cấp tốc phái quân giáp sĩ đến trấn này giết sạch. Hừ, giết sạch cả cho ta.
Nằm trên mái ngói, Khưu Xử Cơ nghe nói cả kinh luôn đến hai gã quan viên họ Trương và họ Lý cũng đều biến sắc.
Nguyên tên Vương gia người Kim này là Vệ Vương Hoàng Nhan Hữu, con thứ năm của vua nước Kim, Hoàng Nhan Lượng.
Người ngồi bên trái là Trương Chí Viễn cháu của Trương Bang Xương, đang giữ chức Phủ Doãn Khai Phong. Người ngồi bên phải là Binh mã Tuần Kiễm Lý Đinh Xán.
Vệ vương Hoàng Nhan Hữu cho rằng bị cướp cống lễ này là một việc vô cùng nghiêm trọng, không mở cuộc tàn sát, thì không thể trấn áp người Tống được.
Hắn day qua hỏi Trương Chí Viễn :
- Trương Phủ Doãn ! Ông nghĩ sao !
Trương Chí Viễn run bắn iên, nhìn vào gương mặt sắt của Hoàng Nhan Hữu, miễn cưỡng gật đầu.
Tên Thái tử nước Kim quay sang họ Lý :
- Lý Tuần Kiểm có phải thế không ?
Lý Đinh Xán nghiêm sắc mặt :
- Bẩm vương gia, hạ quan chưa dám tán thành.
Hoàng Nhan Hữu hơi biến sắc .
- Xin nghe !
Lý Đinh Xán run giọng :
- Thánh hiền xưa, lấy nhân nghĩa mà được thiên hạ. Việc chưa rõ lý : Không làm, người chưa rõ tội : Không giết ! Huống chi, bây giờ đen trắng chưa phân minh, tại sao lại tàn sát cả dân cư thị trấn ? Bá tánh không cướp cống lễ mà bị chết như thế, thì thật là vô lý.
Khưu Xử Cơ thầm khen họ Lý. Chàng nghi người này tuy làm quan cho giặc, nhưng cũng còn một chút lương tâm và dám nói như thế, là một kẻ còn ít nhiều dũng khí.
Hoàng Nhan Hữu vụt cười ha hả :
- Lý đại nhân thương dân như con quả là một vị quan tốt !
Lý Đinh Xá lập tức đứng dậy, lột mão ra, ông để lên công án :
- Vương gia bảo hạ quan chỉ huy binh mã tàn sát bá tánh Bôn Ngọ Trấn, hạ quan không dám vâng lời.
Hoàng Nhan Hữu đột nhiên quát lớn :
- Vệ sĩ !
Từ bên ngoài mấy tên Kim binh tiến vô.
Hoàng Nhan Hữu ném đôi mắt như dao về phía Lý Đinh Xán hất hàm ra lệnh.
Lý Đính Xán ngước mặt cười ngạo nghễ :
- Họ Lý này đã vì bá tánh mà hành động, thì cái chết đâu phải là điều sợ sệt ?
Bọn đầu trâu mặt ngựa ấy tới ghịt cứng hai cánh tay Lý Đinh Xán bẻ quặt ra đằng sau đẩy mạnh ra phía cửa.
Khưu Xử Cơ không còn dằn được nữa, giương tay cào ngói nhắm giữa sãnh đường ném xuống.
Tức thì đại sãnh nhốn nháo loạn lên.
Hoàng Nhan Hữu quát to :
- Bắt thích khách cho ta !
Khưu Xử Cơ chẳng kể nguy hiểm gì nữa ngay chân đạp mạnh một cái, mái sãnh đường rớt ra một khoảnh, cây ngói ào ào đổ xuống.
Tử trong sãnh có tiếng người la lớn :
- Nhà sập ! Nhà sập !
Quân Kim nghe la, hồn phi phách tán, xô nhau chạy tán mạng ra ngoài.
Khưu Xử Cơ thừa lúc lộn xộn, lao nhanh xuống, vung kiếm lướt tới bên Hoàng Nhan Hữu.
Lúc bấy giờ đội binh giáp trấn thủ nha môn đã ùn ùn tràn tới như thác lũ, vây chặt bên ngoài.
Khưu Xử Cơ thấy không thể nấn ná được nữa bèn hú lên một tiếng vang động sãnh đường, tung mình qua mái ngói, như chiếc nhạn xuyên không trong nháy mắt hút vào đêm tối.
Về đến khách điếm, bọn Mã Ngọc đã thức dậy hết, Khưu Xử Cơ vừa mới bước vô.
Mã Ngọc liền chân hỏi :
- Sư đệ trọn đêm nay sư đệ đi đâu ?
Khưu Xử Cơ đem việc đại náo loạn Nha môn thuật lại.
Mã Ngọc cả kinh :
- Sư đệ ! Sư đệ đã gây sóng gió rồi. Dân cư Bôn Ngọ Trấn nhất định sẽ bị tàn sát hết.
Khưu Xử Cơ hơi khó chịu :
- Tên cẩu Vương hạ lịnh tận diệt bá tánh, viên quan họ Lý thề chết không làm. Tên cẩu Vương lại muốn giết người này, hỏi vậy ai có thể nhắm mắt làm ngơ cho được ?
Còn bảo bá tánh Bôn Ngọ Trấn chết tại tôi, thì thật là vô lý.
Mã Ngọc thấy Khưu Xử Cơ bất mãn, bèn dịu giọng :
- Sư đệ có lẻ sư đệ đã cho rằng ngu huynh nói quá lời chăng ? Sư đệ hãy suy nghĩ lại, tất cả mọi việc trên đời không thể nhìn vào tiểu tiết, mà phải hấy cái chung của nó.
Chẳng hạn đêm nay, sư đệ đến Nha môn ném hai nắm ngói gây thương tích được mấy tên quân Kim !
Chuyện đó đem lại kết quả gì ? Hay
là chọc cho tên Cẩu Vương thêm giận dử, tăng gia việc giết hại dân lành. Có phải việc làm lợi nhỏ mà hại lớn hay không ?
Lưu Xử Huyền có vẻ nóng lên :
- Lợi nhỏ lợi lớn gì cũng chẳng sao cả. Cứ việc bắt cái thằng Hoàng Nhan Hữu tiện làm hai khúc là xong chuyện.
Mã Ngọc cười lạt :
- Chặt làm hai khúc là xong chuyện ? Nói nghe thật quá dễ dàng ! Bọn hoàng thân gia tộc nước Kim hàng hà sa số, bắt tất cả chặt hết được chăng ?
Mọi người lặng thinh suy nghĩ.
Mã Ngọc nhìn ra cửa sổ giây lâu, vụt nói :
- Bây giờ còn khuya, chúng ta phải gấp rút đến Nha môn, nếu không, đến trời sáng tính mạng bá tánh Bôn Ngọ Trấn không còn giữ được !
Khưu Xử Cơ ngạc nhiên :
- Hừ ! Lập tức đến Nha môn bây giờ à ? Chặt đầu Hoàng Nhan Hữu phải không ?
Mã Ngọc lắc đầu :
- Chúng ta đến tự thú. Cho Hoàng Nhan Hữu bắt bọn ta để bảo toàn mấy ngàn sinh mạng bá tánh Bôn Ngọ Trấn.
Các đệ tử Toàn Chân Giáo kinh dị, cơ hồ cho rằng Mã Ngọc đã phát điên.
Bọn Vương Xứ Nhất chợt hiểu ra.
Khưu Xử Cơ như chưa được yên tâm :
- Sư huynh, tất bảy người chúng ta đều đến nạp mình cả hay sao ?
Mã Ngọc mỉm cười :
- Ai bảo chúng ta đều đến ! Sáu người đến đó. Khưu sư đệ ở ngoài làm chuyện khác. Trong khi bọn này đến cho Hoàng Nhan Hữu bắt, thì sư đệ hãy lẻn vào sau tư thất, bắt cóc đứa con của hắn thì nhất định thằng chó Kim đó không khi nào dám động một mảy lông của bọn này.
Vương Xứ Nhất trố mắt :
- Bảy người chúng ta nạp mình cho Hoàng Nhan Hữu, chẳng khác nào nhãy vô miệng cọp. Vạn nhất thằng chó Kim mang ra chặt đầu hết thì sao ?
Mã Ngọc không nín được cười :
- Sư đệ, sợi xích sắt của thằng chó Kim đó bao lớn ? Cái khóa đồng của nó cứng độ nào, mà lại có thể xiềng được bảy người đệ tử Toàn Chân chớ ?
Cả bọn vỗ tay khen diệu kế.
Khưu Xử Cơ lại hỏi :
- Bắt con hắn được rồi, song không biết giam giữ nơi đâu ?
Mã Ngọc liền bảo.
- Phía Bắc phủ Khai Phong có một chỗ gọi là Vũ Vương đài, nơi đó có rất nhiều hang đá, mà trước kia dân cư dùng làm chỗ ở, sau lúc loạn ly nơi đây hoang vắng. Đem giấu vào đó là kín nhất. Thôi trời đã gần sáng rồi, chúng ta hãy kịp đi cho sớm.
Bảy người cao đồ Toàn Chân Giáo lập tức đứng lên, nhân lúc trời còn tối, chia nhau ra đi.
Bọn Mã Ngọc sáu người sau khi rời khách điếm, thi triển khinh công, phi thân vun vút. Chỉ trong giây phút đã đến Nha môn. Nơi đây đèn đuốc sáng choang, tiếng cười ồn ào náo nhiệt khác thường.
Mã Ngọc vẫy tay, tất cả vượt thẳng lên mái ngói. Từ trên dòm xuống, thấy Hoàng Nhan Hữu đang ngồi giữa sãnh đập bàn quát lớn :
- Bọn bay toàn là vô dụng ! Để cho gian tế đến nơi mà không hay biết, thật là quân ăn hại.
Mã Ngọc ra hiệu, tất cả vận dụng Phi Nhử khinh công từ trên nóc sãnh phóng ngay xuống trước mặt Hoàng Nhan Hữu.
Hoàng Nhan Hữu đang đập bàn vỗ ghế la hét thình lình thấy sáu người đạo sĩ trẻ tuổi, từ trên không rơi xuống chẳng một tiếng động, gã vương gia giật mình la hoảng .
- Gian tế ! Bắt nó cho ta.
Quân Kim nghe hai tiếng "gian tế" đã
khiếp đảm như chim bị ná nhưng nghe lệnh của chủ tướng bèn định thần, ùn ùn tràn tới vây chặt bọn Mã Ngọc vào giữa.
Không dè vừa ập đến, thoáng nghe hai tiếng "bịch, bịch" nổi lên, hai tên quân Kim đi đầu như quả bóng dội vào xách gỗ bắn vọt ra xa hơn một trượng.
Nguyên hai tên quân này xông vô, một thì chợp Vương Xứ Nhất một thì chụp Lưu Xử Huyền định xô quỳ xuống để trói lại .
Hai vị đệ tử Toàn Chân Giáo phất nhẹ tay áo rộng, hai tên quân Kim văng tuốt ra ngoài.
Kim binh ré lên một tiếng tay đao tay kiếm ào ạt xáp vô.
Mã Ngọc dõng dạc :
- Không nên náo động ! Chúng ta là chính phạm vụ đánh cướp cống lễ. Đêm nay đến đây tự nạp mình, trong tay không dính một tấc sất, muốn trói cột cứ việc trói cột chớ không được vô lễ.
Bi tiếng quát như chuông đồng phát ra từ khí đan điền của Mã Ngọc, làm cho bọn thân binh gia tướng của Hoàng Nhan Hữu hoảng kinh khựng lại, tốp trong thụt lui tốp ngoài lóng nhóng, dồn cục lại với nhau.
Vương Xứ Nhất thấy bộ dạng sợ sệt của chúng, chàng bỗng bật cười :
- Đồ gan tép ! Lại trói đi mau lên ! Nếu chậm trễ ta đi rồi dừng có chạy theo sau đít đa nghe.
Hoàng Nhan Hữu nghe nói đỏ mặt tía tai, quát lên :
- Bắt trói lại cho ta !
Kim binh lúc bấy giờ mới dè dặt xông tới bắt sáu người đệ tử Toàn Chân trói lại, mỗi người còng thêm một chiếc còng sắc.
Bọn Mã Ngọc mỉm cười không chút chi phản kháng.
Hoàng Nhan Hữu thấy thái độ đâm ra ngờ vực bèn ra lệnh tập trung bộ binh, kỵ binh và tất cả giáp binh đồn trú Nha môn vây chặt xung quanh từng từng lớp lớp, hơi gió chui qua cũng chẳng lọt.
Sãnh đường lúc bấy giờ như một rừng người, đèn đuốc sáng choang.
Sắp đặt đâu đó xong xuôi, Hoàng Nhan Hữu mới thăng đường thẩm xét.
Ngoài Hoàng Nhan Hữu ra còn có Khai Phong Phủ Doãn Trương Chí Viễn, tên tướng mắt xanh Hoàng Nhan Thất Luật và một số Bình Chương quan viên.
Chỉ thấy Hoàng Nhan Hữu thì thầm với Hoàng Nhan Thất Luật mấy câu, rồi vỗ án thét lên :
- Các tên phản loạn kia. Có biết việc đánh cướp cống lễ, hình tội như thế nào không ? Bọn ngươi từ đâu đến . Có bao nhiêu đồng đảng ? Cống lễ bây giờ mang đến nơi đâu ?
Hãy nói rõ ràng ta sẽ lượng tình mà tha cho tội chết . Nói mau.
Sáu người cao đệ Toàn Chân nghe hỏi, vụt cười sặc sụa.
Tiếng cười của họ oang oang như lệnh vỡ rập lên vang tận bên ngoài.
Hoàng Nhan Hữu nghe giọng cười cổ quái như đinh đóng vào lỗ tai, lửa giận phừng phừng đập bàn hét lớn :
- Quân phản loạn ! Bọn ngươi đã điên rồi à ? Tại sao Vương gia hỏi mà không chịu trả lời ?
Mã Ngọc chợt nín cười :
- Hừ ! Cười là một trong thất tình của con người, nó là một lẽ hết sức tự nhiên trong đời. Sao Vương gia lại ngu quá thế ?
Hoàng Nhan Hữu tái mặt, nhưng chưa kịp nổi cơn thịnh nộ thì Vương Xứ Nhất đã tiếp tời :
- Xin Vương gia nghe cung chiêu đây.
Chúng ta từ miền Nam nước đại Tống đến cống lễ lấy lại đem trở về đại Tống. Thế mà Vương gia còn hỏi ở đâu ? Bao nhiêu người ? Cướp mang về đâu ? Thì còn chưa chịu là ngu xuẩn hay sao ?
Hoàng Nhan Hữu giận run :
- Đồ phản loạn, nói sàm ! Bọn tặc đạo chúng bây không có hình cụ thì chúng bây không biết sợ ! Vệ sĩ đâu ? Mang hình cụ ra đây.
Sai dịch dạ ran, khuân hình cụ dàn ra trước án.
Hoàng Nhan Hữu hất hàm :
- Thấy rõ chưa ? Nếu không chịu thật thà lễ phép cung khai, để da thịt nứt nẻ rồi ăn năn không kịp.
Liếc thấy nào là chày vồ, kẹp sắt, roi gai đầy chật cả sân, Hảo Đại Thông cười ha hả :
- Vương gia ! Cái thứ đồ chơi con nít nào mà gọi là hình cụ ư ? Có thể làm cho da thịt con người tan nát à ? Bần đạo khó tin quá ! Vương gia hãy đem cái thứ nào kinh khủng nhất, để bần đạo nếm thử xem sao ? Còn những thứ này hãy dẹp đi để dành dọa con nít thì hay hơn.
Hoàng Nhan Hữu giận đến tay chân run :
- Tả hữu đâu ? Kẹp đầu tên này lại cho ta.
Nguyên loại kẹp này là một hình cụ tra tấn kinh khủng nhất của thời nhà Tống. Nó là hai mảnh sắt to bản, trên mỗi đầu có hai lỗ luồn tréo vào nhau bằng tám sợi dây gân bò. Khi tra tấn, đem hai thanh sắt đó tròng vào đầu tội nhân, bốn tên quân lực lưỡng quấn tám sợi giây gân vào tay, dùng sức kéo nhập lại tròng con mắt tội nhân từ từ lòi ra một cách ghê rợn.
Lệnh vừa ban ra, bốn tên giáp sĩ đã khiêng hai thanh sắt lại tròng vào đầu Hảo Đại thông, dụng thần lực kéo thẳng.
Rắc ! Rắc !
Hai thanh sắt gảy làm bốn đoạn, bốn tên quân mất đà té ngữa.
Cả bọn quân Kim hoảng hốt trố mắt ra nhìn.
Nguyên vì trong khi bọn quân Kim kẹp hai thanh sắt vào đầu, Hảo Đại Thông đã âm thầm vận khí đan điền, dồn lên xương óc cứng như sắt thép, vừa lúc bốn tên quân kéo mạnh. Chàng bèn tiếp vận nội kình phát ra từ thân tóc thổi bức hai thanh sắt lớn.
Các đệ tử Toàn Chân cười ngã lăn chiêng.
Lưu Xử Huyền vỗ tay tán thưởng :
- Khá lắm ! Khá lắm ! Hảo sư đệ quả thật có thể bẻ sắt !
Hảo Đại Thông làm bộ rên rỉ :
- Úi chà ! May quá ! Gặp thanh sắt mục.
Hoàng Nhan Hữu thấy phạm nhân đùa giỡn với hình cụ giữa công đường, nộ khí xung thiên, đập bàn thét lớn :
- Những tên đạo tặc này bày trò yêu pháp. Hãy mau giết chó đen, đem máu đổ lên đầu chúng cho ta.
Tả hữu nghe lệnh dạ ran.
Bỗng nhiên, từ nha nội có tiếng kêu la náo động :
- Vương gia ! Không xong rồi. Có một tên đạo sĩ áo xanh len vào nội thất bất mất Tiểu Vương gia.
Khưu Xử Cơ sau khi nghe rõ tin tức, bèn trói Hoàng Nhân Kim Chân bỏ vào bao lớn, tự thân mang đến Vương phủ, vượt tường đem trả y
lại phòng ngủ đêm trước.
Sau khi bị qua một trận kinh hồn, Hoàng Nhan Hữu quả nhiên không
dám động tịnh chi cả. Luôn cả vụ án cướp cống lễ cũng bỏ luôn.
Chư tử Toàn Chân qua mấy ngày dạo chơi Khai Phong phủ, cảm thấy non sông dời đổi buồn tình không muốn lưu lại nữa, cùng nhau rời Biện Kinh xuôi xuống miền Nam.
Không quá bảy ngày đã đến Tương Dương, biên cảnh của Tống triều.
Lúc bấy giờ Kim Tống nghị hòa, phía Đông lấy Trung Du phía Tây lấy hai châu Đường, Đặng làm ranh giới.
Đường huyện, Đặng huyện đều là nội cảnh, tỉnh Hồ Bắc, Tương Dương lại là một trọng trấn của Tống triều về phương Bắc .
Bảy người đệ tử Toàn Chân đến Tương Dương không chọn khách điếm làm nơi tá túc, mà tại đi thẳng đến Thuần Dương am ở vào phía Bắc thị thành.
Thuần Dương am là một đạo quán đẹp đẽ, kiến trúc nguy nga với giải
tường hồng ngói lục, với những tàng cổ thụ quanh năm rợp bóng.
Bảy người theo đúng quy củ tục gia đạo pháp vào yết kiến Thanh Trần đạo nhân am chủ.
Thanh Trần đạo nhân tục gia họ Lỗ, vốn là quan lại xuất thân, sau khi nhìn thấu hồng trần bèn đội mũ vàng làn đạo sĩ.
Nghe nói bảy người là đệ tử của Vương Trùng Dương chưởng giáo
Toàn Chân, nên Lỗ Thanh Trần tiếp nghinh thật là cung kính trọng hậu.
Vì tuy chưa từng gặp mặt, nhưng uy danh của Trùng Dương đã dội đến Thanh Trần, vừa gặp bảy vị đệ tử Toàn Chân Giáo, ông bèn vòng tay thi lễ :
- Tôn sư Trùng Dương vẫn mạnh giỏi chứ ? Sao người không cùng chư vị đến phương Nam ?
Mã Ngọc cúi đầu đáp lễ :
- Tôn sư của chúng tôi mấy tháng trước đây có việc đến Vân Nam, hiện hãy chưa về.
Lỗ Thanh Trần khẽ gục gật đầu :
- Đáng tiếc ! Tôn sư không đến được, không thì người Tương Dương chúng tôi đã được diện kiến đệ nhất thiên hạ võ lâm .
Khưu Xử Cơ có vẻ ngạc nhiên :
- Dám thưa am chủ, người nói vừa rồi không biết có ý chi ? Sao lại gọi là thiên hạ đệ nhất.
Lỗ Thanh Trần như chợt nhớ ra mỉm cười :
- Sự thật bần đạo đã nói một lời sơ suất. Đã là người xuất gia học đạo, cần phải thanh tịnh vô vi không nghĩ đến chuyện lợi danh mới phải. Lời nói của bần đạo vừa rồi hàm ẩn cả sự thanh danh hiếu thắng, thật đáng để tiếng cười.
Và ông ân cần nói tiếp :
- Chư vị đường xa mệt mỏi, xin thỉnh ra phòng thuốc nghỉ ngơi, bần đạo còn ít nhiều công quả ngày khác xin bồi tiếp.
Ông ta vừa nói vừa đứng dậy, tỏ ý đưa khách.
Khưu Xử Cơ nghe Thanh Trần nói nửa úp nửa mở, trong bụng đã có phần không thích. Song nghĩ mình là khách, chẳng lẽ lại hỏi nhiều, nên đành ẩn nhẫn đi ra.
Về đến phòng khách, Khưu Xử Cơ bèn hỏi :
- Vừa rồi Lỗ am chủ nói mấy lời nói đó, chư huynh đệ có nghe rõ hết ý của ông ta không ?
Mã Ngọc mỉm cười :
- Sư đệ người ta không muốn nói thì thôi, hà tất phát hỏi cạn làm chi. Hãy đi nghỉ sớm cho rồi.
Khưu Xử Cơ có cái tật là không chịu bỏ qua bất cứ một vấn đề nào úp mở, đêm đó cố gắng làm thinh nhưng trong bụng khó chịu vô cùng.
Rạng ngày để mở sự nghi vấn đó, bèn lần lần ra khỏi cửa am nghe
ngóng.
Chợt nghe có hai người vừa đi vừa tán chuyện :
- Này ! Bữa nay có đến Thành Nam không ? Đến xem thiên hạ đệ nhất cao thủ tỷ võ.
Khưu Xử Cơ lấy làm lạ :
- Thiên hạ đệ nhất cao thủ ? Chẳng lẽ nào sư phụ lại đến Tương Dương rồi chăng ?
Bởi vì từ sau khi Hoa Sơn luận kiếm, võ lâm đồng đạo đều công nhận
Trùng Dương làm Thiên hạ đệ nhất cao thủ, thế cho nên vừa nghe đến hai chữ đệ nhất, là Khưu Xử Cơ không ngăn được nữa, bèn bước theo hai nói ấy vòng tay thi lễ :
- Vô lượng thọ phật ! Xin nhị vị cho hỏi một lời, chẳng hay vị đệ nhất cao thủ nào đến Tương Dương và cùng với ai tỷ võ ?
Hai người đi đường một gìa một trẻ Người gìa có dáng cách nho gia, còn người trẻ thì giống như người buôn bán.
Nghe Khưu Xử Cơ hỏi, họ đều có vẻ ngạc nhiên.
Người gìa bèn hỏi lại :
- Đạo trưởng hình như không phải là người bản địa, chắc từ tỉnh khác đến đây phải chăng ?
Khưu Xử Cơ lại vòng tay :
- Vâng ! Bần đạo là ngươi từ Hà Nam, làm sao tôn giá lại nhìn ra được ?
Ông lão mỉm cười :
- À...Chuyện đó không có gì lạ, trước đây một tháng, có một người đến đây tự xưng thiên hạ đệ nhất võ thuật cùng khắp Đông, Nam, Tây, Bắc không tìm ra địch thủ.
Khưu Xử Cơ vội hỏi :
- Người ấy là một đạo sĩ họ Vương có phải không ?
Gã thiếu niên bật cười :
- Một ông hòa thượng chớ không phải là đạo sĩ .
Ông lão lật đật ngắt lời :
- Đừng lắm chuyện, hãy để đệ nói rõ cho.
Ông bèn thuật lại đầu đuôi công việc.
Nguyên Tương Dương là một địa phương từ trước đến nay võ học
thịnh hành. Người ở Tương Dương phủ Hà Bắc, Thương Châu nói chung đều cho rằng biết võ là vinh dự. Hầu hết mọi nhà đều có đao thương cung kiếm và một sân tập võ.
Không ngờ một tháng trước đây có một vị hòa thượng từ Tây Vực đến, tên gọi Thổ Lợi Đăng Ma theo chân còn có một người đệ tử .
Sau khi đến Tương Dương, không biết ông ta dùng thủ đoạn gì đã cấu kết được với một tay phú hào họ Cảnh, do người này xuất tiền thành lập nơi phía Thành Nam một cái lôi đài, do hòa thượng Tây Vực, Thổ Lợi Đăng Ma làm đài chủ, cùng với thiên hạ anh hùng tỷ võ.
Tương Dương là một nơi tụ hội Võ phong, trong vòng một năm, gần như phải có một lần lôi đài đại hội.
Nhà sư Tây Vực thiết lập lôi đài không phải là chuyện lạ, điều làm cho người ta khó chịu, là ngay trước đài treo một tấm hoành phi, đề bốn
chữ "Thiên hạ đệ nhất" thiếp vàng chói lọi.
Như thế, vô hình chung, Thổ Lợi Đăng Ma tự đặt mình trên ngôi võ
công đệ nhất trong thiên hạ.
Ông ta còn treo một giải thưởng, nếu người nào cùng với ông ta giao đấu mười hiệp trở lên, sẽ được thưởng vàng vòng trăm lượng.
Sự khinh mạn của Thổ Lợi Đăng Ma, ngày thứ khai đài đã làm giới võ thuật Tương Dương chấn động.
Ngày ấy, có một danh gia ngũ hành quyền họ Tưởng, thượng võ đài tỷ võ cùng nhà sư Tây Vực. Nào dè giao thủ không quá năm hiệp, vị quyền sư họ Tưởng bổng nhiên biến sắc, nhãy xuống đài không nói một lời nào, người đệ tử của ông phải đở thầy về. Nội đêm hôm đó, vị quyền sư ấy chết. Sau khi chết rồi, thi thể phù lên, toàn thân máu ứ thâm đen, giống như người chết vì trúng độc.
Gia nhân và đồ đệ của vị quyền sư họ Tưởng vô cùng kinh dị, đệ đơn bẩm báo quan án.
Nhưng lôi đài là công khai tỷ võ, nếu một bên chết, đối phương không phải bồi thường cho nên họ đành phải chịu.
Kế tiếp sau đó, còn có mấy vị võ sư danh tiếng ở Tương Dương thượng đài, kết quả cũng thất sắc nhãy xuống đi về, và cuối cùng cũng chết một cách như vị quyền sư họ Tưởng.
Người ta cho rằng nhà sư Tây Vực có yêu pháp, cho nên không một ai còn dám cùng ông ta tỷ võ .
Khưu Xử Cơ sau khi nghe biết, cả giận nghĩ thầm :
- Sao lại có chuyện như thế được ? Quan chức ở đâu cũng quả là đồ bỏ, để cho tên hòa thượng Tây Vực lập lôi đài công khai giết người, nhắm mắt không can thiệp. Chuyện này nhất định không thể làm ngơ được.
Chàng bèn cảm tạ hai người khách đi đường rồi buôn bả trở lại Thuần Dương am.
Vừa thấy chư huynh đệ, Khưu Xử Cơ đã kêu lên :
- Không được rồi ! Không được rồi ! Giữa ban ngày ban mặt công khai giết người ! Nào còn có vương pháp gì đâu ?
Các đệ tử Toàn Chân kinh hãi.
Mã Ngọc vội hỏi :
- Sư đệ hãy bình tĩnh lại một chút . Chuyện gì đã phát sinh ra thế ?
Khưu Xử Cơ hơi giận hừng hừng đem tất cả câu chuyện đã nghe thuật lại. Và chàng nói tiếp :
- Tên hòa thượng Tây Vực ấy công nhiên treo bảng Thiên hạ đệ nhất võ công khinh thường nhân mạng. Gặp bọn hung ác này, chúng ta không thể khoanh tay ngồi ngó được. Phải tức tốc đến nhà tên phú hào họ Cảnh vì nhân dân bản địa mà trừ khử tên thầy chùa ác hại.
Ai nấy cũng đều kinh động chỉ còn
Mã Ngọc vẫn giữ vẻ trầm ngâm thận trọng :
- Chuyện nghe phớt qua chưa ắt đã đúng. Sư phụ không bằng lòng cho chúng ta gây sự. Chúng ta là kẻ xuất gia tu đạo, chường mặt ra làm chi ?
Mã Ngọc là đại sư huynh cho nên Khưu Xử Cơ dầu là con người hào khí ngạo mạn, nhưng cũng không dám cãi lẽ, nên cố gắng nuốt hận làm thinh.
Mãi cho đến tối ngày hôm đó, Khưu Xử Cơ cứ ra vô bứt rứt không yên, chàng thầm nghĩ :
- Sư huynh tính hay sợ sệt không nên bàn chuyện với ảnh làm gì. Đêm nay ta cứ một mình đến nhà họ Cảnh nghe ngóng thử coi tên hòa thượng Tây Vực này mưu tính những gì ?
Vào khoảng canh ba độ chừng anh em đã say ngủ, Khưu Xử Cơ bèn lén lén ra khỏi phòng nhún mình vọt lên nóc nhà.
Chân chàng vừa chấm lên mái ngói, bỗng thấy một bóng đen vút tới, cất giọng trầm trầm :
- Sư đệ, nửa đêm không ngủ còn định đi đâu ?
Khưu Xử Cơ bất phòng, bị sư huynh bắt gặp, chợt biết nhất cử nhất động của mình, đều bị sư huynh theo dõi, chàng sượng sùng không nói nên lời .
Mã Ngọc hòa dịu :
- Sư đệ, chỗ sư đệ muốn đến, ngu huynh đã biết rồi . Thực ra, thiên hạ đệ nhất võ thuật, là ngôi vị của sư phụ từ sau khi Hoa Sơn luận kiếm. Bắc Cái, Nam Đế, Đông Tà, Tây Độc, người đều xem như một trò đùa. Tuy nhiên người giỏi còn có người giỏi, hơn nữa đâu phải trong khu rừng võ học mênh mông lại chỉ có một người thôi sao ?
Tục ngữ có nói :"Ta không đụng người, người chàng đụng ta", thật là
đúng lắm. Sư đệ, không nên chuốc lấy chuyện phiền làm gì, hãy đi về
nghỉ đi.
Khưu Xử Cơ muốn cùng sư huynh biện bác đôi điều nhưng thấy sắc
diện Mã Ngọc không giận mà nghiêm, nên chàng chỉ nhẹ gật đầu trở lại phòng ngủ.
Sáng sớm hôm sau, Lưu Xử Huyền nói với mọi người :
- Chư huynh đệ, chúng ta đến Tương Dương nay đã hai ngày, về đến quốc thổ đại Tống, mà không dạo xem phong cảnh thật là một điều đáng tiếc lắm. Chúng ta hãy dạo qua một vòng cho thỏa thích.
Nói đến ra ngoài đi dạo ai nấy đều thảy tán thành. Bảy người bèn ra khỏi Thuần Dương am, thẳng ra đại lộ.
Chợt thấy người ta như thác lũ từng đoàn từng tốp vừa đi vừa bàn tán xôn xao.
Có người nói :
- Võ Đang Nam phái chưởng môn nhân đã đến rồi, lôi đài bữa nay nhất định vô cùng hào hứng.
Khưu Xử Cơ nói :
- Các huynh đệ, trăm nghe không bằng một thấy, chúng ta hãy đến xem đả lôi đài đi .
Lưu Xử Huyền, Đàm Xử Đoan, Vương Xứ Nhất một lượt tán thành, Tôn Bất Nhị nói với Mã Ngọc :
- Đại sư huynh, chúng ta đi đi anh ?
Mã Ngọc biết không thể cản được, bèn dặn dò :
- Cũng được ! Nhưng chúng ta phải gìn giữ quy môn, nhất định không được động thủ.
Thấy đại sư huynh bằng lòng, tất cả đều mừng rỡ , theo chân người thẳng đến Thành Nam.
Đến đây, quả nhiên thấy một tòa lôi đài, khuông viên bốn trượng năm
thước. Dưới dài thiên hạ đông như kiến cỏ.
Bảy anh em Toàn Chân đứng xa xa thấy một tấm lụa hồng viết năm chữ lớn "Thiên hạ vô địch thủ", phất phơ trong gió, chính giữa một bức hoành phi chữ vàng chói lọi : "Thiên hạ đệ nhất" như chọc vào mắt mọi người.
Khưu Xử Cơ nhìn thấy, gan ruột sùng sùng, nhưng vì giữa đám đông người đành phải dằn lòng im hơi lặng tiếng.
Chen lấn khá lâu, bảy anh em mới tới được trước đài.
Chợt nghe sau đài một loạt pháo nổ ran, chúng nhân reo lên :
- Đài chủ đã đến !
Cùng lúc đó bên trong tiếng nhạc trỗi lên.
Khưu Xử Cơ mỉm cười :
- Gã hòa thượng này quả là kiểu cách !
Tiếng nhạc vừa dứt, một vị hòa thượng vận đại hồng cà sa xuất hiện,
tả hữu có hai tên đệ tử theo hầu.
Khưu Xử Cơ ngẫng đầu, thấy lão hòa thượng con người cao lớn, mắt đen, mũi quặp, trên mặt lưa thưa đều khắp những lông hoen hoét hồng hồng.
Đầu đội mãi Tì lư viền kim tuyến, giữa chiếc đại hồng cà sa thêu một Thái cực đồ cũng bằng kim tuyến hiện rõ một con người khí khái.
Chỉ có một điều là da mặt lão ta vàng chệch như sáp ong, ở xa nhìn lại như một cái thây ma từ dưới đất móc lên, tuyệt nhiên không ửng một tí máu nào .
Hai cánh tay ốm dài với nhưng ngón xương xẩu như móng quạ, phủ bởi làn da đen trại màu than. Nếu là lúc ban đêm, nhất định ai cũng cho lão là một chiếc thây ma, nếu không phải quỷ hiện hình.
Khưu Xử Cơ liếc thấy kinh hải, xích lại gần Mã Ngọc thì thầm :
- Đại sư huynh ! Anh có xem ra lão hòa thượng này thuộc tông phái nào không ?
Mã Ngọc lắc đầu, tỏ ra không biết.
Khưu Xử Cơ nói nhỏ :
- Tiểu đệ chắc lão hòa thượng này cùng phái với Tây Độc Âu Dương Phong.
Mã Ngọc trừng mắt ngạc nhiên :
- Sư đệ làm sao biết được ?
- Tiểu đệ tuy chưa thấy Tây Độc nhưng nghe Vương sư đệ nói Âu Dương Phong là người Tây Vực, lão hòa thượng này cũng là người từ Tây Vực đến, anh hãy xem ngón tay của hắn rõ ràng là một con người luyện Ngũ Độc Trảo. Nhất định hắn cùng Âu Dương Phong có quan hệ với nhau.
Mã Ngọc gật gật đầu :
- Đã thế chúng ta càng phải cẩn thận hơn nữa không nên lộ diện, không biết chừng Tây Độc cũng có ở gần đây.
Khưu Xử Cơ nghe trong bụng hơi ngán. Nếu quả Tây Độc xuất hiện thì anh em chàng quyết không phải là người đối thủ của hắn. Nhưng bây giờ chuyện đã tới đây không làm sao được chỉ có cách tùy cơ ứng biến.
Bỗng có năm vị đạo nhân xẹt người nhãy lên đài.
Chúng nhân trố mắt nhìn theo, quanh dưới lôi đài im phăng phắc.
Dẫn đầu một vị đại sĩ đầu đội mão cửu lương, mình mặc đạo bào màu xanh thẫm, tuổi độ năm mươi, đôi mắt ngời nội lực, tướng mạo phương phi ba chòm râu ngắn phất phơ theo gió. Theo sau bốn vị không quá tuổi hai mươi, mỗi người sau lưng giắt một thanh bảo kiếm.
Các giới am hiểu ít nhiều trong chốn võ lâm đều biết đó là những người Võ Đang phái.
Vị đạo sĩ mặc đạo bào xanh từ từ tiến lên, nét mặt ung dung rạng rỡ, khẽ động phất trần, mỉm cười điềm đạm :
- Ngưỡng mộ từ lâu, uy danh đại pháp sư Thiên hạ vô địch thủ, đến nay mới được cùng nhau diện kiến.
Lão hòa thượng Tây Vực đảo đôi mắt quái, hất mặt hừ lên một tiếng :
- A di đà phật ! Đạo trưởng có phải là chưởng môn nhân Võ Đang Nam phái Cảnh Ngọc Hư đó chăng ? Mô Phật Bần tăng có được nghe danh.
Cảnh Ngọc Hư vẫn với dáng điệu ung dung :
- Vô lượng thọ phật ! Mười mấy ngày trước dây Trữ Nam Chân, Triển Công Lễ, hai người môn đệ của tệ phái đến quý đài giao thủ, không mấy hiệp đã bị bại lui. Về đến nhà chẳng bao lâu, cả hai đều chết.
Nếu quả họ võ công quá kém, thiếu sự tinh luyện, rước vào mình cái chết cũng chẳng oán hận gì. Thế nhưng...
Nói đến đây, sắc mặt ông chợt trầm, quay lại người thanh nên đạo sĩ phất tay :
- Mang vật ấy đến đây, để cho muôn vạn con mắt cùng trông thấy !
Người thanh niên đạo sĩ đứng bên trái lập tức xích luôn mấy bước trao cho Cảnh Ngọc Hư chiếc hộp cây màu đỏ bên trên phủ mảnh lụa vàng.
Cảnh Ngọc Hư đưa tay đở miếng lụa lên, chúng nhân giật mình trố mắt.
Trong chiếc hộp đựng hai mảnh xương đầu màu xám đen giống như
mảnh xương đã được nhuộm qua mấy lượt mực đậm .
Mọi người nhìn nhau kinh hãi.
Cảnh Ngọc Hư nhìn xuống đất, cao giọng :
- Kính thưa chư vị ! Đây là hai mảnh xương đầu của hai người đệ tử trong môn phái chúng tôi vừa bị hại tại đài này mười mấy hôm trước đây. Sau khi họ chết, trong lễ hỏa táng bần đạo phát giác xương đầu đều biến ra màu sắc xám đen. Rõ ràng đã bị một độc chất xâm nhập vào cơ thể.
Cách giết người mà vị pháp sư tại lôi đài này, không phải bởi võ công tuyệt kỹ, mà là dùng chất độc hại người.
Công chúng dưới lôi đài, thấy hai mảnh xương đầu và nghe mấy lời của Cảnh Ngọc Hư, người người đều tái mặt vừa kinh vừa tức.
Vẫn với một vẻ mặt âm độc rợn người, Thổ Lợi Đăng Ma trầm trầm lặng lẽ không một chút gì khích động.
Đợi cho Cảnh ngọc Hư nói dứt, lão lạnh lùng cười lạt :
- Cảnh đạo trưởng, ngài chỉ biết bần tăng tên là Thổ Lợi Đăng Ma, nhưng có biết biệt hiệu của bần tăng chăng ?Hà ! Hà ! Tuy chưa sang miền Tây Vực, song danh hiệu Ngũ Độc Tôn Giả chắc ngài chẳng lạ gì ? Kẻ mang danh hiệu ấy, đang đứng trước mặt ngài đây ! Hà ! hà .
Bốn tiếng Ngũ Độc Tôn Giả vừa bay ra, bao nhiêu người trên đài, dưới đài kể cả bảy người môn đệ Toàn Chân thảy đều biến sắc.
Nguyên từ trước Mã Ngọc, Khưu Xử Cơ đều được nghe sư phụ nói rằng miền Tây Vực tuy là chốn biên thùy hoang dã, nhưng có cũng nhiều bậc kỳ nhân, mà Tây Độc Âu Dương Phong, cũng chỉ là một trong đám dị thủ đó thôi .
Ngũ Độc Tôn Giả là một nhân vật xuất sắc vùng Thiên Sơn Nam Lộ, hắn tinh luyện một thứ gọi là Ngũ Độc Thần công. Loại Thần công nầy, có người bảo nó thuộc về sự rèn luyện tinh thần, có người nói là công phu nội lực. Lại cũng có người cho rằng loại tà pháp của Hồng Giáo Lạt Ma .
Người Tây Vực có câu truyền ngữ : "Thà gặp Diêm Vương, đừng đụng "Ngũ Độc", đủ thấy Ngũ Độc Thần công là một loại cực kỳ lợi hại.
Tuy nhiên, cũng có nhiều người Tây Vực chưa từng gặp Ngũ Độc Tôn Giả bao giờ.
Cứ theo người ta nói: vị Ngũ Độc Tôn Giả hành tung kỳ bí lắm, không rõ từ đâu đến, không biết từ đâu tới, cho nên đối với người Tây Vực, cái tên Ngũ Độc Tôn Giả cũng chỉ là một nhân vật truyền kỳ.
Không ngờ ngàn dặm xa xôi, y lại lặn lội đến Tương Dương phủ của Trung Nguyên thiết lập lôi đài, không ai biết được dụng ý của con người kỳ dị đó .
Cảnh Ngọc Hư vừa nghe lão hòa thượng Tây Vực nói ra biệt hiệu, ông đã có hơi đổi sắc, nhưng trong thoáng chốc, cười cười ha hả :
- Té ra pháp sư đây là một nhân vật mang cả thinh danh miền Tây Vực, thảo nào bàn tay nghiệt ngã dễ dàng không ngại kết liễu sinh mạng con người . Nghe danh không bằng gặp mặt, tiện đây bần đạo xin lĩnh giáo .
Thổ Lợi Đăng Ma cười lạt :
- Hay lắm ! Từ Tây Vực đến, bần tăng đang mong được sự chỉ giáo của cao thủ Trung Nguyên đã từ lâu ngưỡng mộ Võ Đang phái tuyệt học, nay gặp đây thật là hạnh ngộ .
Cảnh Ngọc Hư giắt phất trần vào lưng, quát lớn :
- Không phải nhiều lời, tiếp chiêu !
Tiếp theo tiếng quát cánh tay phải vung lên, nhắm Ngũ Độc Tôn Giả đẩy ra một chưởng.
Cảnh Ngọc Hư đưa chưởng nhẹ nhàng coi như không có chút chi phí sức, in hình cầm một trang giấy phất qua trước mặt đối phương. Nhưng, Thổ Lợi Đăng Ma biết liền đó là Miêu Chưởng công phu, một tuyệt kỹ của Võ Đang phái .
Lão hòa thượng Tây Vực lập tức hoành chân tung mạnh Kim Cương Xuyên chưởng cuốn luồng chưởng lực của Cảnh Ngọc Hư xô tạt ra ngoài.
Cảnh Ngọc Hư không biến chiêu công địch, nhãy thốc lại sau .
Bảy người đệ tử Toàn Chân hết sức lạ lùng, không hiểu tại sao vị chưởng môn Nam phái Võ Đang , một thế đầu đã vội thu chiêu triệt thoái ?
Nguyên Cảnh Ngọc Hư lúc chưa giao đấu, đã thấy mười ngón tay của đối phương, một màu xám xịt, trong lòng đã hơi sờ sợ, biết rằng Ngũ Độc Thần Công tụ tập vào nơi ấy cho nên không dám khinh suất .
Thổ Lợi Đăng Ma thấy Cảnh Ngọc Hư triệt bộ, trầm giọng quát lên :
- Võ Đang đạo trưởng ! Đón chiêu !
Lập tức Long Hình Phi Bộ, Tỹ Chưởng Xuyên Quang, vị hòa thượng Tây Vực cùng một lúc công luôn hai chưởng .
Chưởng phong cuồn cuộn thẳng vào giữa ngực Cảnh Ngọc Hư .
Khưu Xử Cơ là một người rất thông quyền pháp, liếc qua công thế của Thổ Lợi Đăng Ma, chàng bèn day qua nói với Mã Ngọc :
- Đại sư huynh ! Lạ quá Thủ pháp của tên hòa thượng này, bất quá cũng chỉ là những ngón tầm thường trong Thiên Long chưởng thế sao Cảnh đạo trưởng lại không dám phản chiêu ?
- Sư đệ không thấy móng tay của hắn hay sao ! Toàn thể một màu xanh đen ghê gớm , rõ ràng Ngũ Độc Thần Công tập trung nơi đó nếu đụng phải là nguy hiểm !
Cùng lúc đó Cảnh Ngọc Hư vì phải né tránh hai chiêu nên đã bị lấn ra tới mép đài .
Ngũ Độc Tôn Giả gầm lên một tiếng, song thủ vung lên, năm ngón giương ra một lượt theo thế Kim Long Xuất Trảo nhắm ngay ngực Cảnh Ngọc Hư chụp tới .
Khưu Xử Cơ và Mã Ngọc vì đứng gần đài nên thấy rõ trong lúc Thổ Lợi Đăng Ma giương mười ngón tay chụp tới, thì từ trong đó tuôn ra mấy làn hắc khí mỏng manh như những sợi tơ nhắm ngay mặt Cảnh Ngọc Hư bấu tới.
Mã Ngọc kinh hoảng gần muốn kêu lên .
Trái lại Cảnh Ngọc Hư lúc bấy giờ mới triển xuất Võ Đang tuyệt kỹ, chỉ thấy hai chân ông như đóng chặt vào mép đài, quặt ngữa mình trở lại đằng sau, mới nhìn qua cơ hồ như sắp sửa lộn ngược xuống đài .
Nhưng, chính trong lúc thân hình lơ lửng sắp rơi ra, chợt thấy hai tay áo rộng của ông phất nhẹ trở lên, đồng thời nương theo đà giở lộn mình trở lại giữa đài.
Kim Long Xuất Trảo của Thổ Lợi Đăng Ma đánh trượt vào không khí .
Khưu Xử Cơ vỗ tay tán thưởng :
- Đảo Kỵ Long thủ pháp . Hay ! Thật hay !
Đảo Kỵ Long và Cao Tứ Bình, đều là thủ pháp trường quyền căn bản của Võ Đang, khi nằm vào tay của các bậc danh gia, lại càng tăng phần diệu dụng, cho nên chỉ trong một cái chớp, độc chưởng của Thổ Lợi Đăng Ma bị hụt ra ngoài.
Ngũ Độc Tôn Giả vội quay mình trở lại, triển khai Cô Nhạn Xuất Quân, mười móng tay lang sói lại chụp ngay vào đối thủ.
Cũng như trước, Cảnh Ngọc Hư không dám tung chiêu đối kháng, nhãy xê qua góc trái lôi đài thuận đà bắn đôi bàn chân một lượt theo thế Yến Song Phi ngay vào hông của nhà sư Tây Vực.
Ngũ Độc Tôn Giả thối lui nửa bước, hạ thấp mấy móng tay đen, nhầm hai ống quyển của Cảnh Ngọc Hư móc ngược trở lên !
Cảnh Ngọc Hư nhẹ lắc thân mình, sà ngang bên góc phải của lôi đài như một chiếc lá khô tạt theo chiều gió .
Khưu Xử Cơ kêu lên :
- Sư huynh, Cảnh đạo trưởng không dám đối kháng với móng độc của Thổ Lợi Đăng Ma, sợ e không khỏi bại.
Mã Ngọc lắc đầu :
- Chưa chắc !
Mã Ngọc chưa nói hết lời, trên đài Cảnh Ngọc Hư đã xử xuất Toan Nghê Công, một quyền bộ theo cách Sư Tử vờn mồi, tuyệt kỹ của Võ Đang quyền pháp, nhãy bên trái xây bên phải, chỉ trong chớp mắt, bóng của Cảnh Ngọc Hư loáng thoáng cùng khắp bốn góc lôi đài .
Thốt nhiên, Ngũ Độc Tôn Giả nhãy lui một bước, kêu lên :
- Hãy khoan !
Cảnh Ngọc Hư thu chưởng :
- Đại pháp sư có điều chi dạy bảo :
Nhà sư Tây Vực trầm giọng :
- Lôi đài thiết lập hơn một tháng nay,
những kẽ thượng đài giao thủ, chưa một ai tiếp bần tăng quá năm chiêu. Đạo trưởng đã tiếp được mười mấy chiêu, phá lệ.
Chiếu theo qui củ, bản đài phải trao một trăm lượng hoàng kim. Xin đạo trưởng hãy thu rồi sẽ tiếp đấu.
Cảnh Ngọc Hư vòng tay thi lễ :
- Kẻ xuất gia không cam danh lợi, hoàng kim xin để lại, chúng ta cứ tiếp tục đấu chiêu.
Ngũ Độc Tôn Giả rấp tâm chờ khi Cảnh Ngọc Hư tiếp nhận hoàng kim, sẽ thừa cơ phóng độc, không ngờ vị chưởng môn Võ Đang lại không chịu nhận, làm cho kế quỷ bị hư, lão ta bèn cười lạt :
- Đạo trưởng quả thật đạo hạnh hơn người không ưa tài vật, bần tăng ngưỡng mộ vô cùng !
Và quay lại tên đồ đệ, Thổ Lợi Đăng Ma ra lệnh :
- A Hải , mang binh khí cho ta !
Tên tiểu tăng bái lệnh quay vào trong, giây phút sau mang binh khí ra dâng, dưới đài thiên hạ trố mắt lạ lùng.
Nguyên vì binh khí của nhà sư Tây Vực thật là lạ mắt, nó là một cây thiền trượng hai đầu không phân biệt trên dưới chi cả.
Một đầu có hình đầu rồng đúc bằng loại đồng xanh, một đầu bằng vàng tạc hình đầu cọp.
Một điều lạ khác, là dưới mỗi đầu rồng, đầu cọp đó, lại có một cái ngạnh cong ra bằng thép trắng, giống như một mảnh trăng lưỡi liềm. Một món binh khí mà từ trước đến nay chưa ai từng trông thấy.
Khưu Xử Cơ hỏi Mã Ngọc :
- Đại sư huynh lão hòa thượng Tây Vực sử dụng thứ binh khí kỳ lạ gì thế ?
Mã Ngọc suy nghĩ, lắc đầu :
- Thứ binh khí này thật là cổ quái, ngu huynh cũng mới thấy lần đầu.
Một đầu rồng, một đầu cọp vậy cứ gọi nó là Long Hổ trượng cho rồi. Song cần thấy một điều là cây thiền trượng này công dụng của nó sẽ nguy hiểm gấp mấy lần so với loại binh khí khác.
Khưu Xử Cơ gục gật đầu hội ý. Chàng cũng nghĩ rằng có lẽ thứ binh khí này sẽ dùng các pháp Giải Côn, Lăng Trượng, Hoa Thương và Long Đầu Trắc Đao cùng một lúc.
Trong lúc chàng đang suy nghĩ thì trên đài Cảnh Ngọc Hư đã tuốt thanh trường kiếm ra khỏi vỏ, ánh tinh quang loé ra đến lạnh người.
Thổ Lợi Đăng Ma đón lấy cây thiền trượng cười khẹc khẹc lên như dã thú :
- Cảnh đạo trưởng, quyền cước đã qua, bần tăng xin lãnh giáo bằng binh khí .
Cảnh Ngọc Hư lặng lẽ vung thanh trường kiếm, xử xuất Liên Hoàn Đoạt Mệnh kiếm pháp của Võ Đang.
Cùng một lúc hai đạo kiếm quang toát rực cả lôi đài, nhắm hai bên sườn của đối phương thốc tới.
Ngũ Độc Tôn Giả quay vù cây thiền trượng, đở vẹt hai đường kiếm, đâm thẳng vào chưởng môn đại của huyệt của Cảnh Ngọc Hư.
Vương Xứ Nhất nhìn thấy bỗng bật cười :
- Lão hòa thượng này bản lĩnh cũng tầm thường, nếu hắn thấy sư phụ dùng Nhất Dương Chỉ giao phong với Tỷ Không Chưởng của Hoàng Dược Sư và Cáp Ma Công của Âu Dương Phong, nhất định hắn sẽ lé mắt trước tình thế mãnh liệt, uy lực kinh hồn, mà đối với cái Thiên hạ đệ nhất của y, cũng không bằng cái lông chân của sư phụ.
Sự suy nghĩ của chàng chưa dứt, thì trên đài một chuyện khủng khiếp đã xảy ra.
Trong lúc Cảnh Ngọc Hư thấy Thổ Lợi Đăng Ma lao cây thiền trượng ngay vào đại huyệt của mình, ông lập tức khẽ nghiêng mình, tay trái kéo ngược thanh trường kiếm, theo thế Đằng Giao Khởi Phượng một tuyệt chiêu trong kiếm pháp Võ Đang, thân kiếm dán chặt vô đầu trượng, dùng sức ép định trước tiên hất cây thiền trượng ra ngoài kế đó sẽ phản chiêu đột kích .
Không ngờ, kiếm trượng mới chạm vào nhau, Cảnh Ngọc Hư và Ngũ Độc Tôn Gỉa cũng vừa đâu mặt, chợt vị chưởng môn phái Võ Đang bắt gặp một tròng mắt xanh rờn của Thổ Lợi Đăng Ma ngó chòng chọc vào mình, bất giác một luồng ớn lạnh rúng lên, nội lực như không còn tự chủ .
Cảnh Ngọc Hư muốn dùng sức lách đầu qua tránh né nhãn quan dị thường của đối thủ, không dè trong thời gian cực kỳ ngắn ngủi như làn điện chớp ấy, thân thể của ông bỗng mềm nhũn ra như bún, trí não muốn tránh qua, mà tay chân không theo sự chỉ huy của bộ óc, mặc cho đôi mắt đối phương thu hút như kim gặp đá nam châm.
Vị chưởng môn phái Võ Đang cảm thấy Thổ Lợi Đăng Ma như bị biến thành một con quỷ mặt xanh , tóc đỏ, đang lừ lừ xông tới trước mặt mình .
Chúng nhân dưới đài thấy Cảnh Ngọc Hư vừa hoa kiếm chận cây thiền trượng của đối phương, thình lình bỗng ngây người đứng sững và vị hòa thượng miền Tây Vực chợt cười lên khăng khắc, nhích cây thiền trượng trở mủi đầu rồng, nhắm ngay tử huyệt nơi ngực của Cảnh Ngọc Hư đâm tới .
Nguyên Ngũ Độc Tôn Giả từ nhỏ đã khổ luyện một thứ tinh thần công lực . Nó là một môn pháp từ Thiên Trúc truyền sang, tiếng Phạn đọc là Hắc Ma Hỉ Nhãn, Trung Nguyên phiên dịch là Ly Hồn Pháp.
Nó là một thứ công lực mà kẻ địch phải chịu hoàn toàn sự điều khiển theo đôi mắt của đối phương, chỉ cần nhìn thẳng được vào đôi mắt của địch nhân, thì kẻ ấy lập tức đờ đẫn như không còn hồn vía, trí nảo sinh ra ảo giác, để mặc đối phương thao túng .
Cảnh Ngọc Hư không rõ điều ấy, vô tình đưa mắt cho kẻ địch chụp Hắc Ma Hỉ Nhãn, và đành phải đờ người đứng đợi thiền trượng kết liễu cuộc đời .
Khưu Xử Cơ nhìn thấy tình hình, không còn có thể dừng được nữa, vội vàng bung mạnh hữu thủ, cây phất trần đang cầm ở tay chàng thoát ra từ chưởng lực, theo sức đẩy của chưởng phong, như một phi tiêu, lao vút vào giữa mặt nhà sư Tây Vực .
Đang lúc trong lòng khấp khởi, sinh mạng đối phương nắm chắc trong tay, Thổ Lợi Đăng Ma chợt thấy đôi mắt hoa lên và tiếp theo đó, một vệt dài màu trắng, mang theo một chùm tơ, đã sát ngay thì mặt mình. Không còn cách né tránh nào kịp nữa, Ngũ Độc Tôn Giả liều mạng đở càn một trượng.
Coong !
Một tiếng khua cộc lốc vang lên, chiếc phất trần chạm trúng đầu trượng rồng xanh nhang lửa và kình lực cũng đùa theo quá mạnh, làm cho đầu trượng bật lại đàng sau.
Thổ Lợi Đăng Ma cũng bị dội lui một bước.
Vương Xứ Nhất vỗ tay la lớn :
- Tên hòa thượng chó đó đã bỏ qui củ lôi đài rồi, người ta tay không, mà hắn dùng binh khí !
Dưới lôi đài thiên hạ la ầm lên kẻ cười ngạo người la mắng vang rân.
Thổ Lợi Đăng Ma thẹn quá, chống cây thiền trượng nhãy lui lại đằng sau quát lớn :
- Tặc tử, mau chọn binh khí đi !
Khưu Xử Cơ đảo mình đứng sững bên góc đài phía trái, chống nạnh cười ha hả :
- Muốn ta dùng binh khí à ! Được lắm Bần đạo bên mình sẵn sàng bảo kiếm, song vì bản lãnh của ngươi chưa đủ để đối phó với kiếm thuật của Toàn Chân Giáo, vậy ta xin tạm kiếm món binh khí khác nơi đây cho vừa với sức của ngươi.
Nói dứt tiếng, hai chân chàng ấn nhẹ lên mặt đài, dùng thân pháp Hải Yến Lượt Ba như một cánh én lướt trên lượn sóng, vút thẳng lên nóc lôi đài , móc ngược đôi chân qua bức rèm trước cửa, đưa tay giật phăng tấm lụa hoành phi, dài hơn một trượng, rộng chừng một thước, có viết năm chữ "Thiên hạ vô địch thủ".
Bức hoành phi chướng mắt bị Khưu Xử Cơ giật tuột, thiên hạ dưới đài vỗ tay reo hò ầm ỉ.
Khưu Xử Cơ lột tấm lụa nắm chặt nơi tay, buông đôi chân phẩy nhẹ tay áo rộng, như một chiếc lá khô rơi nhẹ xuống đài, không một tiếng khua. Chỉ thấy chàng xoắn tấm lụa điều mấy vòng, đã trở thành một sợi giây đai, vắt vào nơi tay, quát lớn :
- Võ công đệ nhất thiên hạ của ngươi đâu ? Hãy thử xem sao .
Ngũ Độc Tôn Giả không nói một lời, vận khí lực quật mạnh cây thiền trượng ngang lưng địch thủ.
Khưu Xử Cơ nắm giải lụa làm binh khí, chờ cho thiền trượng vút qua vừa tới, chàng vung mạnh cánh tay căng căng nội lực khiến cho giải lụa hồng mềm mại bỗng trở thành như một sợi xích sắt to lớn, quấn chặt vào đầu cây trượng, kéo mạnh một cái.
Thổ Lợi Đăng Ma gần vuột đôi tay.
Nhà sư Tây Vực hoảng hồn, dang hai chân ra ráng sức kéo cây thiền trượng lại.
Rất may, nội lực của y cũng thuộc vào hạng khá, cây Long hổ trượng mới tuột khỏi giải lụa hồng.
Ngũ Độc Tôn Giả vội vàng phản thủ, quét ngược cây thiền trượng trở lại. Cây thiền trượng của Thổ Lợi Đăng Ma qua chưa kịp, bỗng nhiên trước mặt một ánh hồng quang lấp lóe, giải lụa hồng trong tay của Khưu Xử Cơ thình lình thẳng đứng như một mũi tên lao vút ngay vào mặt.
Ngũ Độc Tôn Giả không ngờ Khưu Xử sử dụng chiêu thức quá ư thần tốc, không còn cách tránh đở nào khác nữa đành phải cúi rạp mình xuống, gần như bò trên mặt đất để tránh đòn, thế mà vẫn bị chéo góc của giải lụa hồng mang theo kình lực đập trúng vào thái dương bên trái, lỗ tai nổ lùng bùng, trước mắt văng đom đóm.
Lần thứ nhất đến Trung Nguyên thiết lập lôi đài, treo cao bảng Thiên hạ đệ nhất, nhà sư Tây Vực ẩn phục một âm mưu dẫn dụ Trùng Dương tới đả lôi đài, để thi hành độc thủ hạ vị cao hiền của đất Trung Nguyên. Không ngờ hơn một tháng nay, Trùng Dương đâu không thấy mặt , mà đệ tử Toàn Chân lại kéo tới.
Thoạt tiên Thổ Lợi Đăng Ma nghĩ bằng vào bản lãnh của mình sẽ cho bọn đạo sĩ thanh niên này hạ đài trong vài ba hiệp.
Không dè gặp phải Khưu Xử Cơ mà võ công và nội lực vượt quá sức tưởng tượng của nhà sư Tây Vực.
Nếm qua vài vị đắng cay, Ngũ Độc Tôn Giả không dám khinh thường chậm trễ, lập tức đem Cuồng Quỷ Trượng một trượng pháp huyền bí của Tây Vực phái ra thi triển.
Chỉ nghe tiếng gió vù vù, trượng ảnh trùng trùng lớp lớp che kín thân mình. Trước hết lập thế phòng thân, nhiên hậu, tạo đủ mọi cơ hội thi triển bình sinh tuyệt kỹ Hắc Ma Hỉ Nhãn Ly Hồn Pháp để chế phục đối phương.
Không ngờ Khưu Xử Cơ là một nhân vật võ công cao nhất trong hàng đệ tử Toàn Chân Giáo, trong tay sử dụng mảnh lụa hồng, lúc mềm lúc thẳng, vung vẩy tung hoành, khi thì như rồng múa trong mây, khi như trường xà uốn khúc, biến đổi chiêu thức uyển chuyển phi thường.
Từng chập từng chập cả Long Hổ trượng cơ hồ bị đoạt bởi giải lụa hồng.
Ngũ Độc Tôn Giả trong lòng bấn loạn, biết rằng cứ theo đà này không sớm thì muộn cũng sẽ bị thảm bại, lão ta quýnh quá liền nghĩ ra một cách đối phó, khạc đầy họng nước miếng phun ngay vào mặt Khưu Xử Cơ.
Phun đàm giải vào mặt địch nhân, vốn không thể gây thương tích, Thổ Lợi Đăng Ma chỉ cốt làm cho đối phương phân tán tinh thần, lợi dụng lúc đó giở trò Hắc Ma Hỉ Nhãn và Ngũ Độc Thần Công.
Quả nhiên Khưu Xử Cơ thấy lão hòa thượng giở thủ đoạn dơ bẩn của trẻ con, chàng gớm quá , vội rút giải lụa trở lui lại đằng sau một bước.
Thổ Lợi Đăng Ma đột nhiên hét lên một tiếng giương năm móng tay nhắm ngay nóc rạp lôi đài nhãy lên bấu ngay trên đó một cái, đồng thời thét lớn :
- Hãy xem cái này !
Phàm những người áp dụng tinh thần công lực nhất định phải làm cho đối phương tập trung chú ý vào con người của mình, hoặc ở một sự vật nào đó, mới có thể dùng nhãn quang khống chế lung lạc tâm nảo, khiến cho đối phương phải chịu hoàn toàn sự chi phối bởi tinh thần của mình.
Thổ Lợi Đăng Ma làm thế cũng cốt để cho Khưu Xử Cơ mắc bẩy. Nhưng, trước khi lên đài người đệ tử thứ hai của Toàn Chân giáo chủ đã thấy qua tình hình giao đấu giữa Ngũ Độc Tôn Giả và Cảnh Ngọc Hư, biết rõ nhà sư Tây Vực lén dùng tinh thần công phu để thủ thắng, thì dễ chi bây giờ chàng bị mắc mưu.
Cho nên, chẳng những Khưu Xử Cơ không ngó theo động tác của đối phương mà lại còn hét lên một tiếng vận đầy nội lực dồn cả lên cánh tay, vung giải lụa hồng thẳng đứng như cây côn, quét phạt ngang vào thân mình của Ngũ Độc Tôn Giả một đường như sét chớp.
Thổ Lợi Đăng Ma không dè kẻ địch chẳng bị dính câu, mà giải lụa lại bay tới như xé gió, lão ta hoảng hồn định đưa thiền trượng lên gạt đở, bất thình lình sợi dây lụa của Khưu Xử Cơ đã bay tới trước quấn cứng cặp giò của Ngũ Độc Tôn Giả, dặt mạnh một cái, ném thân hình của ông ta văng tuốt ra ngoài, như ném củ chùy thung.
Chiếc thân lỏng khỏng của nhà sư Tây Vực như một cây đòn vừa lăn vừa quay tròn trong không khí, vụt thẳng ra khỏi lôi đài, và cứ như thế, quay mãi cho hết đà đâm sầm rớt xuống giữa đám đông khán giả, làm cho ba bốn người ở dưới cũng té theo xây sát cả mặt mày. Thiên hạ ồn ào tán loạn.
Thiết lập lôi đài tại Tương Dương, với Ngũ Độc Thần Công và tinh thần Hắc Ma Hỉ Nhãn, nhà sư Tây Vực đã bá chiến bá thắng, đánh chết không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán võ lâm, không dè trong phút chốc uy danh tiêu tán dưới cánh tay của người đệ tử Toàn Chân giáo.
Thổ Lợi Đăng Ma thẹn quá đâm liều lớp ngóp bò dậy sửa soạn thì lên đài đánh nữa, thì từ sau lưng một giọng lanh lảnh nổi lên :
- Bộ da cọp Thiên hạ đệ nhất vô địch đã bể rồi, bây giờ bị thiên hạ đánh rớt xuống đài lại hóa nguyên hình một chú rùa đen. Còn tính lập đài gì ? Đấu môn gì nữa đó ?
Giữa không khí om sòm hỗn loạn, giọng nói phát lên cao vút rõ từng tiếng một.
Ngũ Độc Tôn Giả giật mình quay lại, thấy kẻ nói đó là một chàng thiếu niên công tử đầu chít khăn thư sinh, chân mang giày cỏ, trạc mười bảy mười tám tuổi, răng trắng môi hồng dáng cách phong lưu, trên tay đang phe phẩy chiếc quạt nan sắt.
Lạ lùng làm sao ! Vừa thấy vị thiếu niên công tử, nhà sư Tây Vực liền tái mặt, cúi đầu lủi tuột vô đám đông mất dạng.
Nguyên người thiếu niên công tử ấy là cháu của Tây Độc Âu Dương Phong. Lúc còn ở Tây Vực Thổ Lợi Đăng Ma đã từng cùng với Âu Dương Phong xảy ra nhiều rối rắm, cho nên lần đến Trung Nguyên này Ngũ Độc Tôn Giả còn có ý tránh né sự lùng kiếm của Tây Độc, nay bất đồ chạm phải Âu Dương công tử, lão ta hoảng hồn rút êm.
Sau khi thấy Thổ Lợi Đăng Ma chạy trốn, cả ngàn người ở dưới lôi đài vỗ tay cười gần bể rạp.
Vương Xử Nhất, Đàm Xử Đoan thấy thiếu niên công tử cử chỉ có nhiều khí phách vừa dợm bước định giao lễ, không ngờ Âu Dương công tử nghinh nghinh ngạo mạn không buồn ngó tới một ai , phe phẩy cây quạt sắt, hất mặt hiu hiu đi thẳng.
Chư đệ tử Toàn Chân thấy vị công tử ít tuổi mà lại quá kiêu căng lấy làm ngạc nhiên trố mắt nhìn theo.
Công chúng thấy đài chủ trốn mất, không có gì xem nữa cũng lần lượt tản ra.
Về đến Thuần Dương am, chư tử Toàn Chân xúm lại bàn tán chuyện phá lôi đài.
Khưu Xử Cơ nói :
- Tên hòa thượng đó bản lãnh tuy có khá, song cũng chưa phải đến bậc thượng thừa, thế mà dám treo bảng thiên hạ đệ nhất vô địch không sợ kích động lòng công phẫn của võ lâm, chắc hắn còn có dụng ý gì khác nữa. Đại sư huynh anh có đoán được điều đó hay không ?
Mã Ngọc có vẽ trầm ngâm :
- Lẽ tất nhiên phải có dụng ý, song khó mà đoán chắc được. Nghe đâu hắn ta dựa vào thế của người phú hào họ Cảnh nào đó ở Tương Dương này, tìm hiểu con người đó thì có lẽ sẽ ra manh mối.
Tất cả đều cho là phải.
Vương Xử Nhất lại nêu thêm một việc :
- Đệ còn thấy một điều lạ hơn trong lúc Thổ Lợi Đăng Ma bị Khưu sư huynh quấn giò vụt xuống dưới đài, thật ra lão ta chưa bị tổn thương, và lại đang sửa soạn nhãy lên giao đấu nữa, bất đồ nhìn thấy gã thiếu niên công tử, lão ta liền biến sắc ôm đầu lủi mất, không nói nửa lời, đó là một chuyện có nhiều uẩn khúc.
Gã thiếu niên ấy là ai ? Tại sao vừa thấy mặt tên hòa thượng đó lại tỏ vẽ sợ sệt ?
Chúng ta tìm hiểu khía cạnh này, nhất định sẽ lòi ra nhiều chuyện lạ.
Đang lúc anh em còn bàn luận, chợt trên mái rèm bỗng có tiếng động khẽ.
Đàm Xử Đoan lập tức đứng lên :
- Ai ?
Tiếng trên đầu rèm vọng xuống :
- Võ Đang phái chưởng môn nhân xin diện kiến.
Mã Ngọc vội vã đứng lên :
- Thật là một điều vinh hạnh. Xin kính mời vào.
Lời nói vừa dứt, ba tiếng gió tiếp theo, từ trên mái rèm ba bóng người vút xuống.
Dẫn đầu là một vị đạo nhân mày thanh mắt sáng trạc độ tứ tuần. Chưởng môn Nam phái Võ Đang, Cảnh Ngọc Hư . Theo sau là hai vị thanh niên tráng sĩ niên kỷ không quá ba mươi.
Bảy người đệ tử Toàn Chân hãy còn nhỏ tuổi. Mã Ngọc vào hàng đại sư huynh cũng chỉ trong khoảng ba mươi, cho nên về mặt nào, Cảnh Ngọc Hư cũng cao hơn một bậc.
Vì lẽ ấy bọn Mã Ngọc nhất tề đứng dậy, thỉnh Cảnh Ngọc Hư, hai vị thanh niên vào nhà cung kính phân ngôi chủ khách.
Khưu Xử Cơ đứng dậy vòng tay :
- Cảnh chân nhân di giá đến đây, mang cho huynh đệ chúng tôi quá nhiều vinh hạnh. Chẳng hay chân nhân có điều chi dạy bảo ?
Cảnh Ngọc Hư thấy đệ tử Toàn Chân đối với mình một mực cung kính, khiến cho ông có vẻ ngại ngùng :
- Chư vị không nên khách lễ ! Đây là Bàng Chí Quang và Cốc Triệu Nguyên, đệ tử của bản môn.
Với thái độ thật tình, vị chưởng môn phái Võ Đang nói tiếp :
- Bần đạo bất tài hôm nay tại lôi đài nếu không nhờ chư vị tá trợ, đã phải táng mạng vì độc thủ.
Khưu Xử Cơ cung kính :
- Nào phải như thế ? Tên tà đạo dùng thủ đoạn quỷ hoặc, chứ phải đâu đạo trưởng đã thất bại bởi võ công ? Đó không phải là điều chính đáng.
Cảnh Ngọc Hư gượng mỉm cười :
- Vâng ! Cũng có một phần như thế. Đêm nay bần đạo đến đây để hỏi thăm chư vị một chuyện. Hai đêm qua, tại Tương Dương thành này đã mất tích ba người con gái, chẳng hay điều đó chư vị có được tin không ?
Mã Ngọc ngạc nhiên :
- Một đợt sóng chưa lặng, thì lại một đợt sóng khác nổi lên. Sự mất tích những thiếu nữ ấy ra sao ? Phải chăng nó có liên quan đến lão hòa thượng miền Tây Vực ?
Cảnh Ngọc Hư gật gù :
- Điều đó cũng chưa biết chừng. Theo chỗ tôi biết thì những thiếu nữ mất tích đều là những cô gái đẹp. Chuyện mất tích của họ cũng rất nên kỳ quặc, cửa nhà không bị cạy, người ngủ trong nhà cũng không nghe một tiếng động gì. Giống như là bị một thứ phép yêu . Cha mẹ của những cô gái này lại không dám dĩ hơi lậu tiếng , họ cho đó là Ngũ Thông hiển thánh.
Nguyên vì thời đại nhà Tống, cả vùng Giang Nam nhân dân sùng bái thần thánh lắm. Rất nhiều địa phương lập miếu thờ Ngũ Thông Thần.
Truyền thuyết rằng nhà nào có con gái đẹp mà Thần để ý đến, thì những người con gái ấy sẽ đẻ ra những đứa con dị tướng.
Vừa nghe đến chỗ đó Lưu Xử Huyền đâm bực :
- Cái quái gì gọi là Ngũ Thông Thần ?
Nói những điều nhảm nhí !
Mã Ngọc lập tức đưa mắt láy chàng một cái.
Lưu Xử Huyền biết mình nói lỡ lời , vội vả nín thinh.
Cảnh Ngọc Hư mỉm cười :
- Chúng ta là kẻ hành hiệp giang hồ, đương nhiên không thể tin vào truyền thuyết ma quái ấy . Bần đạo qua bao nhiêu ngày tìm hiểu dò xét, nghĩ rằng những thiếu nữ mất tích trong hai ngày nay, đầu giây mối nhợ chắc dính liền với gã phú hào họ Cảnh và Thổ Lợi Đăng Ma.
Khưu Xử Cơ kinh ngạc :
- Sao lại có chuyện lạ lùng như thế ? Họ Cảnh là một phú hào tại Tương Dương thiếu gì tiền bạc, cần gì phải bẻ hoa bằng cách lén lút như vậy ?
Cảnh Ngọc Hư hạ thấp giọng :
- Thực không phải thế , tên phú hào họ Cảnh xuất thân là một người bất chính, một nhân vật lai lịch không được rõ ràng.
Mã Ngọc "à" lên một tiếng :
- Có lẽ ! Nhưng y xuất thân bất chính ra sao ? Đạo trưởng có thể cho biết được những điều nghe thấy !
Vị chưởng môn Nam phái Võ Đang liền đem những điều mình biết về tên phú hào họ Cảnh thuật lại cho chư tử Toàn Chân nghe.
Nguyên hắn tên là Cảnh Thiên Kiệt tuy là người Tương Dương, lại là một kẻ lưu manh với hai bàn tay trắng. Hai chục năm về trước, hắn vì không chịu tùng phục gia đình làm ăn lương thiện cho nên mới bỏ Tương Dương, phiêu bạt đi xứ khác. Từ đó người ta không ai biết hắn đi đâu và cuộc sống của hắn cũng không một người nào rõ cả.
Mãi đến hai mươi năm sau, Cảnh Thiên Kiệt mới trở lại Tương Dương.
Lúc ra đi, hắn là một tên lưu manh khố rách, khi trở về thì cả đoàn thê thiếp, tôi tớ đông vầy. Rương tráp hành lý không biết bao nhiêu mà kể. Riêng quần áo không, cũng phải chỡ bằng mười mấy chiếc xe .
Về đến Tương Dương, tậu liền một lượt mấy tòa trang viện phía Đông thành ngoại và mở tiệc mấy ngày thết đãi thân hữu bạn bè.
Người ta hỏi thăm về đời sống và nơi cư trú trong những năm bỏ xứ của y, thì y cho biết là đi buôn bán làm ăn. Nhưng buôn bán làm ăn cái gì và ở đâu thì họ Cảnh không bao giờ chịu nói.
Từ đó về sau, nhà họ Cảnh luôn có nhiều khách lạ mặt ra vào, toàn là những kẻ tướng mạo thô bạo dử dằn, không ai biết họ từ đâu đến và họ không có dáng cách của những những tay hào hiệp giang hồ.
Thiên hạ nổi lên bàn tán xôn xao và nhà chức trách địa phương cũng bắt đầu chú ý.
Những tin tức về tình hình đó, Cảnh Thiên Kiệt luôn luôn nắm vững. Khi biết phủ quan có ý nghi ngờ đối với mình, hắn lập tức sửa soạn một số lễ vật trọng hậu, tự thân đến viếng các quan Tri phủ, Thái Thú, Huyện lại.
Lạ làm Sao ! Qua lần viếng thăm đó, phủ quan đối với hắn, không còn dám điều tra theo dõi chi nữa cả.
Rồi tin tức từ phía sau nha môn đưa ra lại còn lạ lùng hơn nữa, người ta biết rằng những lễ vật mà các quan đã thu của họ Cảnh, đến đêm tháp cánh bay đi mất hết. Mà mỗi một vị quan viên đó lại còn phải bị bay theo một chùm tóc, bảo sao họ chẳng kinh hồn táng đởm. Cho nên tại phủ này, Cảnh Thiên Kiệt chẳng những là một phú hào, mà còn là một nhân vật dị kỳ nữa.
Chư tử Toàn Chân nghe qua lai lịch của Cảnh Thiên Kiệt cũng đều thấy là một con người đáng phải chú ý.
Vương Xứ Nhất nói :
- Đã như vậy, thì việc ba thiếu nữ mất tích nhất định phải có dính với vụ Cảnh Thiên Kiệt rồi, mai chúng ta cứ đến nhà hắn dò la.
Cảnh Ngọc Hư tỏ vẻ mừng rỡ :
- Bần đạo đến đây, hoàn toàn bởi vì việc đó, chúng ta kết hợp cùng một lúc thám do tên phú hào họ Cảnh, nhất định sẽ có nhiều kết quả.
Ngần ngừ giây phút, vị chưởng môn Nam phái Võ Đang nói tiếp :
- Có một điều nữa bần đạo muốn hỏi chư vị, chẳng hay tôn sư là ai, có thể cho biết được chăng ?
Mã Ngọc trang trọng :
- Chúng tôi đều là đệ tử của Toàn Chân giáo , gia sư là chưởng giáo Vương Trùng Dương.
Cảnh Ngọc Hư vòng tay cung kính :
- Thì ra lệnh sư là Thiên hạ đệ nhất võ công, lẽ tất nhiên quý vị là những môn đồ xứng đáng. Bần đạo đã thất lễ rồi .
Bọn Mã Ngọc hết sức từ tốn khiêm nhường. Đôi bên đàm đạo thật tâm đầu ý hợp.
Riết cho đến vừng đông ló dạng tiếng gà báo sáng khắp nơi, vị chưởng môn phái Võ Đang mới cùng hai người đệ tử giã từ.
Chư tử Toàn Chân tiễn chân ra cửa.
Tối ngày hôm đó, mây mờ bao phủ, che khuất ánh sao thưa, các môn đệ Toàn Chân chuẩn bị khởi hành.
Chỉ chừa lại Đàm Xử Đoan, Lưu Xử Huyền ở lại Thuần Dương am, còn tất cả đều phi thân lướt qua tường thành Tương Dương phủ.
Phút chốc đã có mặt ngoài trang viện của tên phú hào họ Cảnh.
Chiếm một khóm đất mênh mông, trang viện nhà cao vòi vọi, phòng ốc lớp lớp như răng lược. Nhà nhà sơn phết trang hoàng đẹp đẽ như nhà quan.
Cách cổng rào còn một đỗi xa xa, Vương Xứ Nhất chợt đưa tay chỉ xéo về một bên trang viện :
- Sư huynh ! Mau xem kìa , có bóng kẻ dạ hành xâm nhập vào trang viện.
Mã Ngọc ngẫng đầu, quả nhiên phía Đông Bắc trang viện có ba bóng người đang vượt khỏi vòng tường, trong nháy mắt không còn thấy nữa. Thân pháp của họ mau lẹ dị thường, chứng tỏ thuật khinh công trác tuyệt.
Hảo Đại Thông nói :
- Phải chăng đó là người của Võ Đang phái ?
- Chưa biết chắc ? Chúng ta cứ thận trọng là hơn.
Bọn Mã Ngọc tiến sát đến bên tường, ném mấy viên đá vào dò dẫm, thấy bên trong không có phản ứng bèn lần lượt phóng qua.
Với thuật khinh công tuyệt kỹ, không mấy chốc năm người đã lọt vào nội viện.
Bên trong đại sãnh đèn đuốc huy hoàng, tiếng người ồn ào phát ra từng chập... Hình như đang tụ tập một số đông người.
Mã Ngọc dẫn đầu nhãy lên mái ngói, theo những miếng kiếng để thu ánh sáng dòm vào đại sãnh, thấy một đám đông người đang quây quần ăn uống. Ở giữa, nơi ngôi vị chủ nhân là một vị trung niên ăn mặc theo lối viên ngoại, vóc mình cao lớn mập mạp, da dẻ hồng hào. Sau lưng có hai tên tiểu đồng đứng quạt hầu. Đích thị là vị phú hào Cảnh.
Cùng tiệc, đều là những người tráng lực, ăn vận theo lối giang hồ, cao thấp mập ốm không đều, giọng nói toàn là dân Hồ Bắc.
Mã Ngọc có phần thất vọng, chợt nghe họ Cảnh lên tiếng :
- Thổ Lợi đại sư có về chưa nhỉ ?
Mấy người ngồi bên trái lắc đầu :
- Sau khi lìa khỏi lôi đài không thấy trở lại. Có lẽ vì bị người đánh bại, về sợ mất mặt với viên ngoại gia gia đi chăng ?
Cảnh Thiên Kiệt cau mày :
- Thắng bại là chuyện thường của con nhà võ, vừa mới bị sơ một trận mà đã dông rồi, thì làm sao hoàn thành việc lớn của Lang Chúa giao phó .
Vừa nghe đến hai chữ "Lang Chúa", Khưu Xử Cơ bỗng giật mình.
Nguyên vì Lang Chúa là tiếng xưng Hoàng đế của nước Kim, đồng nghĩa với những tiếng Hoàng Thượng, Thiên Tuế, Bệ Hạ ở Trung Nguyên vậy.
Lúc bấy giờ Hoàng đế nhà Kim là Hoàng Nhan Lượng đang tích thảo dồn lương với dã tâm qua sông đánh Tống, để thu một phần đất cuối cùng trong giải Giang Nam, mặc dù ngoài mặt hiện đang cùng với Tống triều giao hảo.
Nên khi nghe mấy lời của gã phú hào họ Cảnh, chư tử Toàn Chân chợt hiểu ra rằng họ Cảnh là một loại chó săn của nước Kim nuôi dưỡng, hắn trở lại Tương Dương là để làm nội ứng cho quân Kim.
Lại nghe Cảnh Thiên Kiệt nói :
- Lần này ta mời Thổ Lợi đại sư đứng giữ lôi đài, treo bảng Thiên hạ đệ nhất vô địch, chính là để câu nhử anh hùng, dẫn dụ nhưng kẻ có chân tài bản lãnh, để hoàn thành việc lớn của Lang Chúa giao phó. Không ngờ lão ta là hạng vô dụng, mới vừa thất bại một tí là đã lủi trốn đi mất. Nuôi quân ngàn ngàn dùng trong một thuở, mà lão ta lại như thế thật là cho ăn uổng phí.
Quần hùng trong tiệc, nghe lời lẽ của chủ như thế cũng hùa theo, mỗi người một tiếng, chỉ trích Thổ Lợi Đăng Ma không còn sót một chỗ nào.
Bỗng từ trên mái ngói kế bên, nổi lên một giọng rờn rợn :
- Hùa gió bẻ măng, đâu có phải thái độ người hào kiệt ! Bần tăng bất tài, đã làm mất mặt Viên Ngoại gia gia, nhưng bần tăng tự vấn lương tâm, cũng chưa đến đổi không dám nhìn nhân vật Giang Nam kia mà. Bần tăng vẫn tới đây.
Dứt lời không khí như vẹt ra, Thổ Lợi Đăng Ma đã nhãy vút vào bữa tiệc.
Chúng nhân đều tái mặt không biết lão đến tự bao giờ.
Chư vị đệ tử Toàn Chân cũng không ngờ Thổ Lợi Đăng Ma lại tự nhiên đến một cách thình lình không nghe một tiếng động.
Nhà sư Tây Vực trầm trầm sắc mặt, bộc đầy tràn nội khí. Nhưng hình như lão ta cố gắng dằn lòng, bước tới trước mặt Cảnh Thiên Kiệt, vòng tay :
- Viên Ngoại gia gia, chỗ giao tình của chúng ta bắt nguồn từ mệnh lệnh của Lang Chúa, đó cũng là một điều hay. Không ngờ bần tăng đã gây việc phiền lòng cho Viên Ngoại, quả thật là mang lỗi quá nhiều ! Vậy bây giờ bần tăng xin cáo biệt, hẹn có ngày gặp lại.
Nghe mấy lời vừa thật tình vừa cay đắng của Thổ Lợi Đăng Ma, Cảnh Thiên Kiệt có phần hơi ngượng, ngập ngừng nói :
- Đại sư xin đừng nóng giận. Có điều chi thong thả nói lại với nhau, không nên vì chút việc cỏn con mà bỏ đại sự của Lang Chúa.
Nhà sư Tây Vực cười lạt :
- Có chi gọi là đại sự ? Thật không dám dối nhau, đáng lý hôm nay bần tăng vẫn còn phải phân định hơn thua với mấy tên tiểu tốt, nhưng vì con đường oan gia quá hẹp, xui cho bần tăng chạm mặt với đứa cháu của cừu nhân, vì quan hệ đến sinh mạng của chính mình, nên bần tăng không thể lưu lại được.
Trong tiệc, mọi người nghe nói thảy đều kinh hải, hỏi lên xôn xao :
- Cừu nhân gì đấy ? Lợi hại ra sao ? Hãy nói ra xem nào ? Chúng ta sẽ cùng hợp nhau đối phó.
Thổ Lợi Đăng Ma lạnh lùng nhếch mép :
- Đa tạ hảo ý của chư vị ! Song vì cừu nhân của bần tăng quá ư lợi hại. Sự thật, không phải đề cao người mà hạ thấp mình, nhưng, giả như tất cả chư vị anh hùng có mặt nơi đây cùng một lượt giao thủ với kẻ ấy thì chỉ một chót móng tay của hắn thôi, cũng đủ để đưa chư vị vào tử địa. Đó là bần tăng xin nói thật tình.
Kẻ thù mà nhà sư Tây Vực nói đây, là Tây Độc Âu Dương Phong nhưng mọi người trong tiệc không hiểu cho rằng lão ta cố ý làm tăng thêm chuyện khó khổ của mình, cho nên họ có vẻ tưng tức.
Thổ Lợi Đăng Ma vẫn điềm nhiên nói tiếp :
- Có mặt người cháu của hắn ở đây, thế nào hắn cũng theo đến. Nếu hắn biết bần tăng ở tại trang viện của Viên Ngoại, thì e rằng luôn cả bản thân vị trang chủ cũng khó bảo toàn. Vì duyên cớ ấy, đêm nay bần tăng đặc biệt trở về đây, để nói cho trang chủ biết, và kiếm chút ít lộ phí.
Nhà sư Tây Vực còn chưa dứt lời, thì Cảnh Thiên Kiệt đã khoát tay :
- Tất Thăng, hãy vào trong bảo quản gia trao ba trăm lượng bạc, mang ra cho đại sư làm lộ phí.
Tên tiểu đồng ứng tiếng buông quạt xuống chạy vào trong nhà.
Thổ Lợi Đăng Ma đột nhiên vặn hỏi :
- Viên Ngoại ! Hãy khoan ! Ba trăm lượng là đã đủ rồi sao ?
Cảnh Thiên Kiệt lộ vẽ khó chịu :
- Đại sư, ba trăm lượng bạc đâu phải là ít ?
Thổ Lợi Đăng Ma cười lạt :
- Bần tăng đã vì Viên Ngoại mà thiết lập lôi đài mời anh hùng trong thiên hạ đến, chiêu dụng hiền tài và trừ tuyệt bọn đối đầu. Với tình ý ấy cũng nên trao cho bần tăng một món tiền tương đối nào đó, để trở về Thiên Trúc, ba trăm lượng ai bảo rằng có thể đủ ? Ba vạn lượng kia chứ.
Cảnh Thiên Kiệt giẫy nẩy :
- Ba vạn lượng ? Đại sư không điên đấy chứ ?
Nhà sư Tây Vực cười lanh lảnh :
- Bần tăng nửa điểm cũng không điên. Họ Cảnh, nói thật một câu nhé. Cái gia tài đồ sộ của ngươi ở đây ai nấy cũng đều biết cả. Chúng ta đều là người của Lang Chúa phái đến đây, chẳng lẽ ngươi là bậc phú hào, còn ta lại chẳng có cơm ăn .
Cảnh Thiên Kiệt giận dử :
- Láo ! Ngươi định phao vu cho ta à ?
Thổ Lợi Đăng Ma cười sặc sụa :
- Sao lại phao vu ? Cống lễ phủ quan, ai đã vì ngươi mà dọa bọn ôn dịch đó ? Chẳng phải ta à ? Chẳng lẽ chờ ta nói rõ chuyên ấy với quan Thái Thú Tương Dương à ? Đến lúc đó, e ngươi sẽ không còn là phú hào nữa chứ ?
Các vị đệ tử của Toàn Chân đến bây giờ mới thấy rõ đáy lòng gian trá của Cảnh Thiên Kiệt.
Chợt nghe gã phú hào họ Cảnh cười ha hả :
- Tốt ! Tốt lắm ! Cảnh mỗ từ xưa đến nay thích mềm chứ không thích cứng. Và không bao giờ chịu để ai lừa đảo. Ngươi muốn ba vạn lượng phải không ? Hừ !
Nói chưa dứt lời, chiếc thân phì nộn của y lắc mạnh lên, bước ra khỏi ghế, hai tay nhập một, dụng thế Song Long Đoạt Ngọc, đánh thẳng vào mặt Thổ Lợi Đăng Ma.
Khưu Xử Cơ nằm trên mái ngói, thấy Cảnh Thiền Kiệt vừa mới xuất thủ, đã áp dụng một tuyệt nghệ trong Hắc Hổ Quyền tấn công chớp nhoáng dử dằn, chàng phải thầm khen :
- Không dè cái lão phú hào phục phịch này mà lại có được một công phu đẹp mắt như thế.
Nhà sư Tây Vực bỗng cười lên khẹc khẹc :
- Ngươi lại dám cùng Phật gia động thủ à ?
Tiếp theo tiếng cười, Thổ Lợi Đăng Ma vội né mình qua, đánh một quyền, đồng thời cánh tay dài sọc giương ra, sử dụng Kim Long Thám Trảo định chộp lấy tay áo của đối phương.
Cảnh Thiên Kiệt vụt co cánh tay lại, thuận đà tung thế Thôi Vân Kiến Nhật, bẻ ngang chiêu thế, cùng một lúc tay trái trầm xuống, móc ngược từ dưới lên trên, bằng Thiết Giáp Thủ Quyền đánh ngay vào bụng nhà sư Tây Vực.
Một tiếng "bựt" kêu lên, những người dự tiệc vỗ tay vang dội :
- Hay ! Thủ pháp của Viên Ngoại quá hay.
Không ngờ, tiếng hoan hô chưa dứt, thân hình phì nộn của Cảnh trang chủ đã bị Thổ Lợi Đăng Ma dở bổng lên trời.
Nguyên vì chưởng của Cảnh Thiên Kiệt tuy đánh trúng vào nơi hiểm yếu của đối phương, nhưng khi nắm tay như búa đồng vừa đụng vào da thịt, chợt nghe như đập vô quả khí cầu, không có chút chi phản lực.
Cảnh Thiên Kiệt cả kinh, định rút tay lại, thì nhà sư Tây Vực cười khắc khắc, quay cánh tay ngược lại thi triển Đại Cầm Nã Pháp, bắt mạnh vào hai huyệt Đại Thôi và Nhị Thôi ở sau cổ của Cảnh Thiên Kiệt làm cho gã phú hào Viên Ngoại mềm nhũn cả thân mình, bị đối phương nhấc bổng lên không.
Thổ Lợi Đăng Ma hét lớn :
- Đồ chết bầm ! Ngươi tiếc tiền hay tiếc mạng ?
Thấy Cảnh trang chủ bị nắm giơ lên, quần hùng trong tiệc thảy đều tái mặt .
Họ từ từ dang ra khỏi ghế tung thân nhãy lên tiếp cứu.
Có hai vị thực khách nhãy lên trước hết, định chụp lấy Thổ Lợi Đăng Ma.
Nhà sư Tây Vực cười khè lên như rắn hổ, hạ thân hình Cảnh Thiên Kiệt hơi thấp xuống, đồng thời lia mạnh ra một cước, quét trúng hai viên thực khách, văng ra hơn một trượng, chổng đít lên trời.
Cùng lúc ấy, lại có bốn người khác vung đao xốc tới.
Thổ Lợi Đăng Ma đưa Cảnh Thiên Kiệt ra tới trước, quay tròn như chong chóng.
Bốn người xáp lại sợ chém trúng chủ nhân, vội thối lui.
Tiếp theo, một gã vung côn phạt sát cặp chân với nhà sư Tây Vực nhưng Thổ Lợi Đăng Ma chỉ khẽ nhấc chân qua, cả người thực khách lẫn cây côn đã văng tuốt lên bàn tiệc.
Ào ! Ào ! Cổn ! Cổn !
Cả chén lẩn hồ, cả rượu lẫn thịt tung tóe vào đầu vào mặt của quần hùng. Đám thực khách nhãy tạt ra, té bò lễnh nghễnh.
Trong hỗn loạn có mấy người sử dụng phi tiêu nhưng đối với Thổ Lợi Đăng Ma, thứ đó quả là đồ chơi con trẻ.
Toàn thân của lão ta đã luyện được một thứ công phu gọi là Kim Chung Diếu, trừ đôi mắt và yết hầu ra, tất cả ám khí đụng vô đều dội lại rớt ngay xuống đất.
Tuy có hàng mấy mươi người, nhưng không có một ai tiến gần đến bên mình nhà sư Tây Vực được .
Khưu Xử Cơ lại không dằn lòng được nữa, kêu lên :
- Sư huynh, chúng ta xuống thôi !
Dứt tiếng, thanh trường kiếm thoát ra khỏi vỏ chỉ một cái nghiêng mình, chàng đã lao mình vào giữa sãnh đường.
Vương Xứ Nhất, Hảo Đại Thông lập tức vun vút theo sau.
Chỉ còn lại Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị vẫn phục trên mái sãnh.
Khưu Xử Cơ chân vừa chấm đất, quần hùng của họ Cảnh nhốn nháo cả lên :
- Gian tế ! Gian tế ! Gian tế !
Vì làm nội ứng cho ngoại bang, điều tối kỵ của họ là có người ngoài xâm nhập.
Họ vừa la vừa ùn ùn xô lại.
Mũi kiếm của Khưu Xử Cơ thoắt rung lên, tuồng một lượt đâm toạc vào cánh tay cầm binh khí của bốn người, những tiếng sắt khua vang, gươm đao rớt vảy lên mặt đất.
Tất cả những người còn lại, khiếp hãi trước mũi gươm thần tốc, từ từ lui dạt ra xa.
Ba thanh kiếm của của ba vị cao đệ Toàn Chân như hàng trăm chiếc cầu vồng, cuốn thẳng đến cận nhà sư Tây Vực.
Ánh kiếm Khưu Xử Cơ vừa lóe lên, đã nhằm ngay vào ngực của Thổ Lợi Đăng Ma chỉa tới trong thế Huỳnh Long Thổ Ngọc, mũi kiếm bay vèo như con rồng phun vụt trái châu.
Vừa thấy Khưu Xử Cơ, Thổ Lợi Đăng Ma có phần cuống quít, lão ta lật đật đưa thân mình của Cảnh Thiên Kiệt ra tới trước, định làm cho đối phương phải triệt chiêu.
Không ngờ kiếm pháp của Toàn Chân phái biến ảo dị thường, chỉ thấy đà kiếm đâm thẳng tới, song bản thân của nó còn rất nhiều biến thế. Cho nên đến khi thấy được mũi kiếm của Khưu Xử Cơ hơi run một chút, lập tức đã chuyển sang tuyệt chiêu Thiểm Thiểm Tinh Hà, xẹt ngay tới cánh tay đang nắm người của nhà sư Tây Vực.
Thổ Lợi Đăng Ma rúng động, vội khom người xuống lách xéo một bên.
Vừa tránh mũi kiếm của Khưu Xử Cơ, thì từ hai bên hai thanh trường kiếm của Hảo Đại Thông, Vương Xứ Nhất đã "re ré" xé gió lướt qua, xốc thẳng vào hai bên bệ sườn của Thổ Lợi năng Ma với chiêu thức trong Hoành Sơn Kiếm Thế.
Nhà sư biết kiếm pháp của mấy thanh niên đạo sĩ trước mặt mình, phải nên tránh chớ không thể xem thường, cái chiến pháp bắt người làm bia quyết không còn hiệu nghiệm nữa.
Vừa thoáng nghĩ, lão ta vừa rùn chân xuống, vận kình lực lên đôi tay, đưa cả thân hình phì nộn của Cảnh Thiên Kiệt nhằm Khưu Xử Cơ lao thẳng tới.
Ném Cảnh Thiên Kiệt vào địch thủ, Thổ Lợi Đăng Ma đã thi hành độc kế Mượn gươm kẻ khác, chỉ cần Khưu Xử Cơ trút nhẹ thanh trường kiếm đủ để cho khối thịt của gã phú hào họ Cảnh rơi xuống làm hai.
Song, người ưu đệ Toàn Chân không bao giờ mắc bẫy, tay phải hơi nhích đốc kiếm lên, tay trái chàng hạ thấp duỗi ra, bợ đúng giữa lưng của Cảnh Thiên Kiệt, và nhẹ nhẹ buông rơi xuống đất.
Lợi dụng lúc Khưu Xử Cơ bận hứng người buông người đó, Thổ Lợi Đăng Ma phi thân lướt qua đầu đám thực khách , băng mình phóng tuốt ra ngoài đại sãnh .
Vừa ra tới cửa, hốt nhiên một ánh thép lóe lên, Thanh Tịnh Tản Nhân Tôn Bất Nhị, từ trên mái ngói nghiêng gươm chúi xuống.
Thổ Lợi Đăng Ma hốt hoảng, không ngờ đối phương còn có người mai phục bên ngoài, lão ta lật đật trợn trừng đôi mắt, dùng tinh thần công lực chiếu thẳng vào mặt địch nhân quát lớn :
- Dừng lại !
Nghe tiếng quát thình lình, Tôn Bất Nhị hơi rúng động, chợt thấy đôi mắt kỳ quái của đối phương châm bẫm nhìn mình, bất giác tay kiếm lờ đờ bất động.
Thổ Lợi Đăng Ma cười khặc khặc, giương năm móng tay xám ngắt chực chộp vào giữa ngực nữ tử Toàn Chân.
Mã Ngọc rú lên một tiếng, lao mình thọc ngay mũi kiếm vào thái dương huyệt của nhà sư Tây Vực.
Thổ Lợi Đăng Ma bình tĩnh, chỉ Tôn Bất Nhị thét lên :
- Đâm hắn !
Tôn Bất Nhị như ngây dại, quay mũi kiếm đâm ngược trở lại đằng sau.
Mã Ngọc cả kinh thu kiếm tạt ngang, một tiếng thép khua vang, thanh kiếm của Tôn Bất Nhị văng ra xa gần một trượng.
Thừa lúc đối phương bận rộn, Thổ Lợi Đăng Ma phóng mình mất hút trong màn đêm dày đặc .
Cảnh Thiên Kiệt lóp ngóp xiêu vẹo đứng lên liếc nhìn mấy người thanh nên đạo sĩ đang cùng với đám thực khách giao phong, hắn bỗng cau mày .
Vốn là một con người gian hoạt nổi danh, hắn biết mấy tay kiếm này là những bậc võ công cái thế bản lãnh kinh người, kéo được họ về với mình, sẽ trở thành tay chân đắc lực hơn Thổ Lợi Đăng Ma thập bội. Bằng ngược lại...
Gã phủ hào họ Cảnh vội quát to lên :
- Dừng lại ! Chư vị đạo trưởng là ân nhân cứu mạng của ta, không được một ai động đến.
Đám thực khách lập tức thu binh khí :
- Viên Ngoại ! Những tên này hôm qua đã phá lôi đài, hôm nay thừa đêm tối đến đây, quyết không phải là ý tốt !
Không khí đại sãnh trở nên huyên náo.
Cảnh Thiên Kiệt biến sắc :
- Bậy ! Chư vị đạo trưởng đây đều là bậc cao nhân, thiệt không phải là tay sai của bọn quan phủ, các ngươi không được vô lễ, để ta thưa chuyện cùng người.
Gã phú hào day qua Khưu Xử Cơ vòng tay cung kính :
- Đạo trưởng đến đây tất cả là bao nhiêu vị ? Thưa, tứ hải giai huynh đệ, xin thỉnh ngồi vào tạm dùng đôi chén rượu.
Khưu Xử Cơ dợm trả lời, Mã Ngọc đưa tay chận lại :
- Viên Ngoại đã dùng lễ đãi khách, chúng ta cứ thong thả hầu chuyện cùng người.
Và chàng day qua Tôn Bất Nhị :
- Tên phiên cẩu hòa thượng đã chạy rồi, sao sư muội còn giữ hoài chỗ đó !
Nghe Mã Ngọc nạt lên, Tôn Bất Nhị như người tỉnh mộng, ngơ ngơ ngáo ngáo :
- Ủa ! Sao không chận nó lại !
Mã Ngọc nói như cố khơi tỉnh người sư muội :
- Sư muội Cảnh trang chủ đang mời, muốn cùng chúng ta kết giao bằng hữu, chúng ta hãy vào trong.
Ngoài miệng nói với Tôn Bất Nhị, mà đôi mắt chàng cứ đảo quanh, không biết tại sao Cảnh Ngọc Hư vẫn chưa thấy đến .
Cảnh Thiên Kiệt lộ đầy hoan hỉ, giang tay mời khách ngồi vào.
Khưu Xử Cơ trầm trầm sắc mặt đang muốn chất vấn việc tư thông Kim quốc của gã phú hào họ Cảnh thì Mã Ngọc đã mở lời :
- Cảnh Viên Ngoại mang trong lòng ý chí muốn cùng Lang Chúa tiến vào Nam Tống mai sau đây đại sự hoàn thành, sự phú quý biết làm sao kể xiết ! Hà ! Hà !
Cảnh Thiên Kiệt trong bụng lấy làm ngượng ngùng, căm tức song cố mỉm cười :
- Thật chẳng dấu chi, chư vị anh hùng có mặt tại đây đều là hào kiệt lục lâm của hai vùng Sơn Đông, Hà Bắc, lần này theo tai hạ về Nam với mục đích đóng vai nội ứng Tương Dương, hưởng ứng binh mã Đại Kim xâm nhập. Lòng mong nửa mảnh giang sơn của Tống triều, được hãnh diện nằm vào bản đồ của nước Đại Kim.
Khưu Xử Cơ càng nghe càng giận dữ, Vương Xứ Nhất thì cứ lén dặt dặt chéo áo của chàng, âm thầm đốc xúi ra tay .
Mã Ngọc vẫn điềm nhiên :
- Té ra Cảnh trang chủ đã thay Kim quốc mà bố trí kỹ càng rồi. Thế mà quan binh thành Tương Dương lại ngon giấc trong lúc bốn bề sấm dậy, thật đáng phục biết bao. Chẳng hay vị pháp sư mới chạy vừa rồi, đến đây với tư cách chi ? Sao lại không chịu ở đây để cùng với trang chủ cử đồ đại sự ?
Cảnh Thiên Kiệt dằn ly rượu xuống :
- Điều đó tôi cũng không được rõ, hắn vốn là người từ Tây Vực đến, cũng là người của Lang Chúa phái sang, truyền đến Tương Dương thiết lập lôi đài chiêu dẫn anh hùng hào kiệt trong thiên hạ. Không biết hắn nghĩ sao, bỗng nhiên biến đổi, nói rằng bởi cừu nhân bức bách không thể ở lại. Còn việc hắn gây sự thành thù với ai từ Tây Vực, thì quả chúng tôi chưa được biết.
Cảnh Thiên Kiệt nói đến đây, đột nhiên hỏi lại :
- Chư vị từ đâu đến, Bửu Am tu trì tọa lạc tại đâu ? Có thể cho biết được chăng ?
Mã Ngọc vẫn ôn tồn :
- Bần đạo từ núi Tung Sơn miền Hồ Nam đến, hiện tại chỗ ở không nhất định, tạm trú tại Thuần Dương am, thành nội Tương Dương.
Cảnh Thiên Kiệt tỏ vẻ vui mừng :
- À ! Chư vị lại từ phương Bắc đến ! Thật hay biết bao nhiêu. Đại Kim quốc binh hùng tướng mạnh, như chư vị đã thấy, nay mai nhất định sẽ róc phẳng miền Nam, thống nhất về một cõi.
Hắn còn đang muốn nói thêm, định thuyết phục bọn Mã Ngọc kéo về vây cánh.
Khưu Xử Cơ vụt hét lên một tiếng chồm qua ấn mạnh vào ba đại huyệt Thốn Quan, Thần Đường và Hội Tông nơi cổ tay của Cảnh Thiên Kiệt.
Gã phú hào họ Cảnh bị nắm, bỗng nghe cả mình tê dại đau nhói thấu xương, nhăn nhó kêu lên :
- Ối cha ! Ối cha ! Đạo trưởng.
Khưu Xử Cơ quát lớn :
- Họ Cảnh ? Ngươi đã cam tâm làm tôi mọi cho bọn chó Kim lại còn muốn gieo rắc bịnh truyền nhiễm cho người Hán nữa, phải không ? Nói mau.
Cảnh Thiên Kiệt không ngờ đối phương đột nhiên trở mặt, hắn vụt la liều :
- Cứu mau ! Cứu mau ! Võ sĩ...
Hắn kêu chưa dứt tiếng, thì hai tiếng "bình bình", tiếp theo hai gã lục lâm ngồi kế bên đã văng tuốt ra ngoài xa gần hai trượng.
Nguyên trong lúc Khưu Xử Cơ chụp nắm mạch môn của Cảnh Thiên Kiệt thì hai tên lục lâm đại hán Ngô Quý và Hầu Thất ngồi ở đằng sau rút gươm đâm thẳng vào lưng người cao đệ Toàn Chân.
Ngô Quý và Hầu Thất vốn là hai tên đạo tặc nổi danh phương Bắc, toàn là bọn hung hãn lưu manh. Thấy chủ nhân của mình bị khống chế, bèn láy mắt rút gươm đâm xéo sau lưng đối phương bất chấp luật lệ giang hồ.
Không đợi đến sự tiếp ứng của chư huynh đệ, vừa nghe hơi gió Khưu Xử Cơ tay trái đã phất ngược tay áo rộng, xử xuất Lão Quân Huy Tụ trong Thái Ất thần công, lập tức tiếng "kẻng kẻng" hai tiếng binh khí khua lên, hai thanh kiếm của hai gã lục lâm bắn vọt lên nóc nhà và tiếp theo đó, kình lực từ ống tay áo đập luôn vào giữa ngực đối phương, đẩy bật ra xa, máu từ miệng trào ra, té ngữa ra trên mặt đất.
Khưu Xử Cơ không thèm day lại, xạ đôi mắt vào Cảnh Thiên Kiệt quát lên :
- Họ Cảnh ! Người là người Hán, hay là bọn chó Kim, nói mau ?
Khưu Xử Cơ phô bày tuyệt kỹ, lé mắt, bọn thủ hạ cảnh gia trang đưa mắt nhìn nhau, so vai rụt cổ.
Cảnh Thiên Kiệt cảm nghe bàn tay của đối phương từng lúc càng gia tăng kình lực, năm đầu ngón tay như móng sắt bấm chặt vào làm cho tròng con mắt muốn lòi ra. Gã hoảng kinh kêu lên :
- Đạo trưởng ! Hãy nới tay ! Tôi là người Hán. Ối ! Ối ! Đạo trưởng gảy xương rồi ! Ối ! Ối !
Chư tử Toàn Chân thấy họ Cảnh mặt mày nhếu nháo như một đứa trẻ con bị cua kẹp trúng, bất giác ai cũng cười lên ha hả.
Nghe họ Cảnh nhận mình là người Hán, Khưu Xử Cơ càng giận dử :
- Được rồi ! Đã là người Hán, ta hỏi ngươi một câu : Người sinh trên đời chọn cái chi trước nhất ? Phải làm như Nhạc gia gia để tiếng thơm ngàn thuở hay là học theo Tần Cối để tiếng xấu muôn đời .
Mọi người đều biết Nhạc Phi trung dũng song toàn, hết lòng phò Tống vì nước vì dân, bị bọn Tần Cối âm mưu hãm hại phải chết oan tại Phong Ba đình. Trong khi đó Tần Cối ăn lộc Thừa Tướng của nhà Tống lại thông đồng bán đứng dân tộc cho nước Kim để tiếng ngàn đời nguyền rủa.
Gã phú hào họ Cảnh đang nằm trong bàn tay sắt thép của Khưu Xử Cơ, đâu còn dám giở điều bán nước.
Gã ta bèn nhăn nhó :
- Dạ dạ tất nhiên là muốn noi gương Nhạc gia gia chớ đâu muốn theo Tần Thừa Tướng.
Muốn theo người trung, mà trong bụng cứ mơ tưởng tôn sùng kẻ địch, cho nên họ Cảnh quên suy nghĩ, nhè kêu Tần Cối bằng chức Tần Thừa Tướng. Quả là bọn gian manh đến chết vẫn còn mang những điều vô sĩ trong lòng.
Tôn Bất Nhị vừa giận, vừa tức cười, xì lên một tiếng :
- Ồ hắn không biết nhục ! Cái gì Tần Thừa Tướng ?
Cảnh Thiên Kiệt biết lỡ lời, vội sửa :
- Cái thằng Tần Cối chết bầm đó, chớ không phải Tần Thừa Tướng.
Nghe họ Cảnh lẻo lự vụng về, luôn cả bọn tay chân của hắn cũng thầm khinh dễ.
Khưu Xử Cơ gằn giọng :
- Thế thì tốt lắm ? Ngươi đã biết như thế nào là chính là tà, lại tự biết rõ mình là người Hán, mà lại còn đi làm chó săn chim mồi cho bọn quân Kim, đánh chết dân mình, cướp đoạt nước mình, ngươi có thấy được lòng gian trá đó hay chưa ?
Khưu Xử Cơ cứ nói một câu siết tay lại một cái.
Cảnh Thiên Kiệt mắt đổ hào quang, rên rỉ :
- Ối ! Ối ! Phải ! Phải ! Đạo trưởng dạy thật là phải, kẻ hèn này phải lột da cạo mặt mới hết bợn nhơ ! Ối ! Ối !
Khưu Xử Cơ vẫn không buông :
- Ngươi có hối thật không ?
Cảnh Thiên Kiệt thề bán mạng :
- Vâng ! Vâng ! Tiểu nhân này nói dối, xin chết vì đao kiếm .
Vương Xứ Nhất tiếp theo :
- Họ Cảnh ! Ba người thiếu nữ mất tích tại Tương Dương mấy ngày nay có phải do bàn tay của ngươi không ?
Cảnh Thiên Kiệt hết sức kinh ngạc :
- Không ! Không có đâu đạo trưởng. Kẻ tiểu nhân này ngoài việc làm nội ứng cho Kim bang ra, không có bao giờ làm cái chuyện xấu đó.
Vương Xứ Nhất thét lên :
- Có phải thằng giặc trọc Thổ Lợi Đăng Ma làm việc đó không ?
Cảnh Thiên Kiệt lắc đầu :
- Không ! Không phải ! Tên hòa thượng đó chuyên luyện tinh thần công lực, không thể gần nữ sắc. Mấy tháng nay đến Tương Dương hắn đều ở tại trang viện của tôi, quyết không thể làm ra chuyện ấy.
Thấy dáng điệu của Cảnh Thiên Kiệt quả không phải là nói dối, vậy thì ba người thiếu nữ mất tích chắc chắn không do nơi hắn.
Khưu Xử Cơ tỏ vẻ thất vọng. Nhưng, chàng sực nhớ đến Cảnh Ngọc Hư, không biết vị chưởng môn phái Võ Đang đâu không thấy tới. Chàng bèn day lại nhìn thẳng vào mặt Cảnh Thiên Kiệt :
- Ngươi nói đã hối lỗi, nhưng đó cũng chỉ là lời nói ngoài môi, cần phải tỏ sự ăn năn bằng hành động .
Họ Cảnh hết hồn hỏi lại :
- Vậy đạo trưởng cần tiểu nhân này làm những việc chi ?
Bởi vì chuyện Cảnh thiên Kiệt làm nội ứng cho nước Kim, cũng chỉ nghe biết qua lời lẽ của hắn thôi còn việc hắn liên lạc với người Kim bằng cách nào ? Chuẩn bị lấy Tương Dương thành ra sao ? Đó là những việc mà các vị đệ tử Toàn Chân đang cần hiểu rõ.
Khưu Xử Cơ còn suy nghĩ quanh co .
Mã Ngọc thình lình lên tiếng :
- Cảnh Thiên Kiệt, ngươi đã quyết thành tâm hối cải thì trước tiên hãy giải tán đám giang hồ thực khách này, cho bọn họ trở về phương Bắc.
Cảnh Thiên Kiệt đáp liền miệng :
- Vâng ! Vâng !
Mã Ngọc tại nói :
- Ngươi phải gấp rút lìa khỏi Tương Dương, đưa cả gia quyến về Nam, không cho phép ở lại phương Bắc.
Cảnh Thiên Kiệt đáp liền miệng :
- Vâng ! Vâng ! Xin tuân lời đạo trưởng.
Mã Ngọc nín cười :
- Kỳ cho ngươi nội trong ba ngày phải làm hai việc đó, quá hạn mà ngươi không hành động, chúng ta lập tức sẽ có mặt tại đây, và sẽ chặt đầu ngươi.
Cảnh Thiên Kiệt vâng dạ rối rít :
- Không dám ! Tiểu tử xin vâng lời đạo trưởng.
Khưu Xử Cơ bấy giờ mới buông tay họ cảnh, quát giọng trầm trầm :
- Tha cho ngươi đó !
Cảnh Thiên Kiệt dòm xuống tay mình, thấy mấy dấu tay nổi thành ngấn tím bầm, lún vô trong thịt, gã chợt run khan.
Khưu Xử Cơ gằn giọng :
- Cảnh Thiên Kiệt ! Sau ba ngày nếu ngươi hãy còn ở Tương Dương, ta sẽ không thể dung cho ngươi được nữa. Và nếu ngươi ương ngạnh, tăng lực lượng phòng thủ, ta sẽ chặt đầu theo lời hứa.
Cảnh Thiên Kiệt lại vâng dạ liên hồi.
Năm vị đệ tử Toàn Chân đứng dậy :
- Một lời đã định, hẹn sẽ còn gặp lại !
Dứt lời, như năm cánh dơi đêm, năm bóng người tung lên mái nhà mất hút vào bóng tối.
Đêm đã về khuya nặng trĩu, phủ trùm màu đen thẳm lên ngàn cây hun hút theo ven rừng tiếp cận Tương Dương.
Năm người đệ tử Toàn Chân với thuật khinh công tuyệt kỹ vun vút lao sâu vào bóng tối.
Đột nhiên Khưu Xử Cơ đưa tay ra hiệu :
- Này ! Rặng cây trước mặt hình như tàng ẩn mấy bóng người. Hay là các nhân vật Võ Đang.
Vương Xứ Nhất mỉm cười lộ vẻ bất mãn :
- Ngọc Hư đạo trưởng e phải uổng danh chưởng môn Nam phái Võ Đang. Ai đời lâm trận rồi bỗng không rút mất, hay là lại giở thủ đoạn xui người. Nhưng họ Vương bõ dở câu nói, vì ven rừng đối diện Cảnh gia trang, năm bóng người đã giăng thành hàng ngang, mà kẻ dẫn đầu đúng là vị chưởng môn họ Cảnh.
Bốn người kia cũng đều vận y phục dạ hành cùng trang tuổi ba mươi, nhìn vào có thể biết liền đó là các môn đệ Võ Đang .
Nhưng kìa có lạ không. Họ đều há mồm trố mắt đứng sững như tượng cây im hơi lặng tiếng, kể cả Cảnh Ngọc Hư cũng không một mảy may máy động.
Mã Ngọc chợt hiểu liền, rõ ràng năm thầy trò của phái Võ Đang đã bị địch nhân điểm huyệt. Nhưng, Cảnh Ngọc Hư, người dẫn đầu một môn phái võ lâm khá lớn, võ công và bản lãnh đâu phải tầm thường. Ai có thể ám toán ông ? Ai có thể điểm trúng ông vào huyệt đạo ? Thật là một điều không thể tưởng tượng được.
Khưu Xử Cơ tỏ vẻ nghi ngờ :
- Lạ nhỉ ! Không chừng lại là lão Thổ Lợi Đăng Ma !
Mã Ngọc lắc đầu :
- Bản lãnh của nhà sư Tây Vực, mà chúng ta từng thấy qua ở lôi đài, bảo rằng trong thoáng chốc chế ngự được ngay năm thầy trò của họ Cảnh đạo trưởng là một điều không có thể, chúng ta cứ đến xem kỹ lại.
Khưu Xử Cơ vội đưa tay cản lại :
- Hãy khoan !
Chàng bèn quan sát chung quanh không thấy có chi nghi ngại, mới từ từ bước tới.
Mặc dù kiến thức khá rộng, Khưu Xứ Cơ cũng phải giật nẩy mình.
Tất cả năm người cùng bị điểm vào huyệt đạo, điều đó đã lạ rồi song điều hết sức quái dị là trên mặt mỗi người từng giọt mồ hôi gần bằng hột đậu kế tiếp đổ tuôn không dứt, da thịt giật giật liền hồi, thần sắc cực kỳ thống khổ .
Khưu Xử Cơ nhìn qua biết năm người bị điểm huyệt bằng một phương pháp cực độc. Công phu điểm huyệt này với những cách phá giải thông thường quyết không khi nào cứu được.
Nói một cách khác, chế ngự năm người của phái Võ Đang, nhất định không phải lão hòa thượng Tây Vực mà là một tay đối đầu bản lãnh vô cùng lợi hại.
Khưu Xử Cơ gọi lớn :
- Sư huynh, đến đây. Anh hãy xem họ điểm huyệt bằng cách chi vậy ?
Mã Ngọc bước lên nhìn qua thần sắc Cảnh Ngọc Hư, chàng tái mặt kêu một tiếng thật thanh :
- Úy ! Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp !
Công phu này ở tận miền Tây Vực làm sao lại có ở Trung Nguyên !
Bọn Khưu Xử Cơ, Hảo Đại Thông, Vương Xứ Nhất và Tôn Bất Nhị lần thứ nhất trong trong đời mới nghe đến danh pháp điểm huyệt lạ lùng nên chưa rõ lợi hại đến mức nào, nhưng nhìn qua trạng thái cũng đoán được nó là một loại tối nguy hiểm.
- Sư huynh ! Sao lại gọi là Thấu Cốt Đả Huyệt pháp ?
Mã Ngọc cau mày :
- Nói cho kỹ thật là dài lắm, Cảnh đạo trưởng nội lực tinh thâm, thì chưa đến nỗi nào nhưng mấy vị đệ tử của người, công phu còn tương đối kém, trong một giờ ba khắc từ khi bị điểm vào huyệt đạo theo lối này, e xảy đến nhiều nguy hiểm. Chư đệ hãy đến đây, giải trừ cho họ .
Khưu Xử Cơ trố mắt :
- Sư huynh ! Phép điểm huyệt đặc biệt này chúng ta mới thấy một lần, chưa rõ ra sao, thì làm thế nào giải phá được ?
- Ngu huynh cũng chưa biết rõ, nhưng từ trước có nghe sư phụ nói qua về phép giải Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp này. Chuyện đó hãy nói sau, bây giờ chư đệ hãy bước tới đây, đá vào mỗi người ba cái thật nặng rồi hẵn hay.
Bốn sư đệ nghe Mã Ngọc nói, thì đều kinh ngạc tột độ từ trước đến nay họ chưa từng nghe nói phép giải huyệt đạo nào mà lại phải đá người mấy đá như vậy !
Đối với mấy người đệ tử thì còn tạm cho là được, nhưng phạm vào thân thể vị đạo trưởng, chưởng môn Nam phái Võ Đang quả là một chuyện cực kỳ thất kính .
Bốn người còn đang đưa mắt nhìn nhau thì Mã Ngọc đã nghiêm trang trầm giọng :
- Chư đệ không nên câu nệ cái hư lễ đó, cứu mạng con người đặt lên trên tất cả. Hãy mau động thủ !
Vừa nói, chàng vừa bước tới trước mặt Cảnh Ngọc Hư, khẽ nghiêng mình :
- Đắc tội !
Dứt lời, song cước tung lên, đá vị chưởng môn té tròn dưới đất.
Bốn người của bọn Khưu Xử Cơ thấy sư huynh đã hành động, cũng phải theo y đá ngã bốn người đệ tử Võ Đang.
Năm thầy trò của bọn Cảnh Ngọc Hư ngữa nghiêng dưới đất, đầu cổ mình mẩy cát bụi bám đầy .
Lạ làm sao ! Mỗi người sau khi chịu xong ba cái đá, lồng ngực phồng lên xẹp xuống từng chập, xương cốt kêu răng rắc, cuối cùng ói ra một búng đàm dơ, hai mắt trợn trừng, ngoẻo đầu bất tỉnh .
Vương Xứ Nhất hoảng hốt kêu lên :
- Không xong rồi ! Khéo lại gây án mạng.
Mã Ngọc bật cười :
- Đừng sợ ! Chỉ như thế mới có thể làm cho ói hết đàm dơ ra được. Và khi mà đã trục được đàm dơ, thì sinh mạng mới cứu xong.
Mọi người bây giờ mới vỡ lẽ hiểu ra .
Mã Ngọc bèn bảo Vương Xứ Nhất và Hảo Đại Thông khiêng năm thầy trò Võ Đang bỏ chung lại một chỗ. Mỗi người dìu đặt nằm sấp, đưa lưng lên trên.
Xong xuôi, Mã Ngọc vẩy tay gọi cả bốn người :
- Chư vị sư đệ, hãy sắp bày Thiên Oai Bắc Đẩu.
Bốn người sư đệ muội, nghe vị sư huynh nói đến Thiên Oai Bắc Đẩu, thảy đều giật mình đánh thót.
Khưu Xử Cơ trố mắt nhìn Mã Ngọc :
- Thiên Oai Bắc Đẩu là một trận thế ứng chiến của chúng ta chứ có ăn nhằm gì đến việc cứu sống con người !
Mã Ngọc mỉm cười :
- Sao lại không được. Sư phụ đã có nói, đặc điểm của Thiên Oai Bắc Đẩu là có thể tập trung sinh lực tản mác làm thành một đại lực tương đồng. Y theo nguyên lý đó có thể giải huyệt đạo khi lâm trọng thương. Bởi vì phép Thấu Cốt Đả Huyệt không phải chỉ làm cho khí tắt huyết ứ không thôi mà luôn đến tủy trong xương cũng bị đông cứng lại nữa, chúng ta công lực còn kém, đơn độc một người khó mà giải nổi, phải hợp công lực của tất cả chư huynh đệ lại mới hy vọng có kết quả. Đó là áp dụng nguyên tắc căn bản của Thiên Oai Bắc Đẩu.
Khưu Xử Cơ gật đầu khâm phục sự khám phá của sư huynh.
Thật ra môn điểm huyệt, là một trong những chiêu số nguy hiểm nhất trong rừng võ học, một ngón tay chỉ vào da thịt, nặng thì chết liền tức khắc, còn nhẹ thì làm cho con người tê dại đến hôn mê.
Môn phái nào cũng có một công phu khác nhau đặc biệt ngoài những phép căn bản phổ thông. Nhưng điểm huyệt mà làm cho tay đông cứng lại thì các cao thủ võ lâm cũng ít người nghe nói. Nó là một loại cực ác, người bị điểm khó tìm sinh lộ.
Năm thầy trò Cảnh Ngọc Hư bị vào phép điểm huyệt không có con đường sống đó cho nên họ không lạ gì hiện tượng cực kỳ đau đớn của họ.
Năm người đệ tử Toàn Chân dưới sự chỉ bảo của Mã Ngọc họ bèn ngồi xuống, theo trật tự công lực thấp cao. Tay người này quàng chặt vào vai người kia, âm thầm chuyển vận kình khí, đỉnh tụ tam hoa, liên chuyển tam đại.
Chuẩn bị đầy đủ, Mã Ngọc thét lên :
- Vận pháp kình lực !
Và tay trái chàng đưa ra, nhắm đúng Mạng Môn ở sau lưng của Cảnh Ngọc Hư áp xuống.
Thiên Oai Bắc Đẩu là một tuyệt học của Toàn Chân giáo, thâm bác tinh diệu dị thường, chưởng pháp của Mã Ngọc phát ra, cộng cả kình lực của bốn người sư đệ.
Chỉ nghe Cảnh Ngọc Hư rú lên một tiếng, thân mình như muốn nhãy dựng lên không.
Tiếp theo Mã Ngọc lại dùng chưởng pháp ấn vào Long Vỹ huyệt ở ngang thắt lưng họ Cảnh, cái ấn này không mạnh lắm, vị chưởng môn phái Võ Đang cảm nghe vừa tê vừa nhột, ông chợt cười sặc lên.
Qua phút đó, Cảnh Ngọc Hư liền nghe sự đau đớn và tê dại đều biến mất cả, thân thể ông nhẹ nhàng sảng khoái.
Thấy áp dụng Thiên Oai Bắc Đẩu thành công, bọn Mã Ngọc cả mừng, cứ như thế lần lượt không mấy chốc, giải thông huyệt đạo cho tất cả những người còn lại.
Nhưng mấy người đệ tử Toàn Chân, trừ Mã Ngọc nội lực cao hơn, chưa thấy những sự mệt mỏi lộ ra ngoài còn lại đều mồ hôi ướt áo, hơi nóng bừng.
Cảnh Ngọc Hư nằm dài trên đất hô hấp chân khí hồi lâu, lồm cồm ngồi dậy được, vừa muốn mở lời, đột nhiên từ mé rừng đối diện kia, có tiếng quát lên lanh lảnh :
- Chạy đi đâu ! Hãy dừng lại !
Tiếng quát thình lình, làm cho mọi người giật mình ngơ ngác.
Bởi vì thanh âm nghe rõ mồn một, mà tiếng dội của khinh công lại cũng nghe sát một bên.
Nói một cách khác, kẻ đến có xa là cũng chừng nửa dặm, âm hưởng của đối phương cao vút dội rền, chứng tỏ công lực của kẻ ấy đã đến tầm thâm hậu thượng thừa.
Nếu như lúc bình thường, những người đệ tử Toàn Chân cũng chẳng xem sự việc ấy vào đâu nhưng bây giờ, đã tiêu phí khá nhiều nội lực trong việc áp dụng Thiên Oai Bắc Đẩu giải huyệt cho năm thầy trò Cảnh Ngọc Hư, cho nên nếu trong phút ấy mà chạm mặt đối phương cao thủ, thì khó lòng đối phó.
Đang lúc mọi người còn hãy kinh nghi, chợt nghe hai luồng cước bộ đã tới gần trước mặt.
Tiếng dội lồng qua mặt đất, rõ ràng một trước một sau đang vượt đến khu rừng họ đứng.
Cảnh Ngọc Hư cố gắng đứng lên dòm thẳng ra ngoài, bỗng ông biết sắc :
- Không xong rồi. Kẽ vừa điểm huyệt lại đến đây.
Mấy người đệ tử của ông cùng tái mặt.
Chư tử Toàn Chân day đầu ngó lại cũng vô cùng kinh dị.
Từ xa đưa lại hiện rõ hai người một người chạy trước , một người đuổi theo sau .
Kẻ chạy, Thổ Lợi Đăng Ma, người rượt, là chàng thiếu niên công tử.
Người thiếu niên công tử này không phải là người nào khác lạ, mà là người đã làm cho nhà sư Tây Vực lủi trốn ở tại lôi đài.
Mà theo Cảnh Ngọc Hư, thì cũng chính người ấy đã điểm huyệt ông và mấy người đệ tử.
Người này niên kỷ không quá mười bảy người tám, thế mà môn điểm huyệt vừa độc ác vừa cao kỳ, quả là một việc lạ lùng !
Thổ Lợi Đăng Ma thủ pháp đâu phải kém cỏi so với chư tử Toàn Chân sấp xỉ chẳng bao xa, tại sao vừa thấy người thiếu niên đó, đã hoảng hồn cao bay xa chạy ! Sợ sệt đến mức độ không có chút dũng khí đề kháng nào cả.
Bọn Mã Ngọc chưa giải đáp được những điều ngờ vực thì Thổ Lợi Đăng Ma đã chạy tới nơi, dợm phóng vô rừng.
Khưu Xử Cơ tính ghét kẻ ác như thù thấy Thổ Lợi Đăng Ma muốn nhãy trốn vô rừng không không thể chịu được, nhích tới quát to :
- Thằng giặc chết bầm ! Chạy đi đâu ?
Tiếng quát của chàng dội rung cành lá.
Thổ Lợi Đăng Ma trong lúc bất phòng giật mình đánh thót.
Lão ta ngẫng đầu nhìn tới, chợt thấy nơi ven rừng đang ngồi mấy vị đạo nhân, chính là những kẻ vừa mới chạm trán tại gia trang họ Cảnh. Trong lúc bị cừu nhân rượt bắt và trước mặt lại gặp kẻ đối đầu, nhà sư Tây Vực trong lòng liên miên kêu khổ. Hắn vừa kịp quay mình thì gã Thiếu niên công tử cũng đã rượt tới kề bên, phe phẩy cây quạt sắt cười dài :
- Cẩu tặc ! Ngươi đánh cắp đồ của thúc phụ ta rồi chạy mất, bây giờ có tháp cánh được không ? Mau đem trả lại đây ta có thể cho ngươi thi thể được vẹn toàn bằng không, hừ ! Người có muốn sống cũng không còn được nữa.
Thổ Lợi Đăng Ma mặt như đất sét, hắn thò tay vào thắt lưng, run giọng :
- Ngươi hãy dừng lại ! Dừng lại ! Nếu tiến tới, ta sẽ hủy hoại kinh thư liền. Điều đó cũng không hay gì cho ngươi đâu.
Mã Ngọc giật mình, tên hòa thượng này nói đến kinh thư như vậy kinh văn gì đây ? Chẳng lẽ lại là Cửu Âm Chân Kinh ?
Gã thiếu niên công tử cười lạt :
- Ngươi đem kinh thư ra dọa ta à ?Ngươi đã lầm rồi. Mặc kệ ngươi muốn gì thì muốn cũng không thoát được đâu.
Nguyên Thổ Lợi Đăng Ma vốn là người Thiên Trúc, hắn là một tăng nhân theo phải khổ hạnh, có biết được một ít quyền bổng, khinh công. Từ nhỏ, hắn đã nghe và tự mộ sự phồn hoa phú quý đất Trung Nguyên, sau đó lại có dịp qua miền Tây Vực. Tại đây, hắn nuôi mộng lần đến Trung Nguyên.
Nhưng vì trong lưng quá ít tiền, chỉ còn cách lưu lại Tây Vực, khi tạo ra tiền sẽ thực hiện điều mong ước.
Năm ấy hắn đến Côn Luân sơn một nơi có nhiều phong cảnh, mà quanh năm tuyết đổ giá băng. Song nhờ từ lúc nhỏ đã quen sống trong hoàn cảnh đó, hắn gần như ưa thích.
Ngày thứ ba đến núi Côn Luân, Thổ Lợi Đăng Ma khám phá ra trong vùng rừng rậm bao la có một tòa cung điện nguy nga, nằm giữa một thung lũng chung quanh bao bởi vòng vách núi, đỉnh cao đỉnh thấp như đàn lạc đà đi quanh đồng cỏ.
Nơi thung lũng mà Thổ Lợi Đăng Ma tìm thấy tên gọi Bạch Đà sơn. Số nhà cửa cung điện đó, là nơi của Tây Độc Âu Dương Phong cư trú.
Âu Dương Phong tuy là ở vào miền hoang sơn Tây Vực nhưng tại Bạch Đà Sơn ông ta hưởng thụ trong cuộc sống hết sức hào hoa như những bậc vương hầu. Ngoài lâu đài cũng điện, còn có vô số mỹ nữ nô tỳ phục dịch.
Tây Độc là một con người tham lậu, những kỳ trân dị bửu, hổ phách lưu ly ở các địa phương, đều được ông ta tìm kiếm mang về. Nơi đó quả là chỗ cồn vàng núi ngọc, như là thiên đường ở chốn trên gian.
Thổ Lợi Đăng Ma tình cờ phát giác được một nơi cũng kính hoa mỹ, động lòng lập tức đột nhập Bạch Đà sơn.
Không ngờ lại đúng vào lúc Âu Dương Phong mang bầy rắn vượt núi đi vào Trung Nguyên, tham dự Hoa Sơn luận kiếm, tranh đoạt Cửu Âm Chân Kinh. Sự phòng bị của Bạch Đà sơn có phần lơi lỏng.
Thổ Lợi Đăng Ma đột nhập một buổi tối trời, tuyết phủ ngập đầy trắng xóa, kẻ giữ gìn nơi đây rút vào phòng kín không dám ló ra tự nhiên hoàn cảnh thuận lợi cho Thổ Lợi Đăng Ma thừa cơ hội thẳng vào đến tận phòng ngủ của Trang chủ Bạch Đà Sơn.
Lúc mới xâm nhập, Thổ Lợi Đăng Ma cảm thấy nơi đây giống như cũng thất hạng vương tôn tù trưởng, chứ không phải như loại phú gia. Bởi vì hạng giàu có tầm thường không làm sao có được bọn thủ vệ đông đảo, với cũng thất khảm châu cẩn ngọc như thế ấy.
Đang khi không biết làm sao có đủ lộ phí để viếng miền hòa quí Trung Nguyên, đùng một cái gặp được nơi đẹp đẻ giàu sang như thế, bảo sao nhà sư Tây Vực không động lòng ô uế của phàm nhân .
Thổ Lợi Đăng Ma bèn lật đật đem tất cả công phu luyện ra "độ" dùm cho Âu Dương Phong khá nhiều vàng bạc và châu báu, trong cái vô tình quơ cả một số ngọc xanh để trên bàn của
trang chủ Bạch Đà sơn.
Chưa hết ! Liếc thấy bộ Ngũ Độc Kỳ Kinh chợt động "thiệp tâm" bèn nhân tiện bợ luôn một thể.
Bộ Ngũ Độc Kỳ Kinh chính là một kỳ thư trong thiên hạ, so với Cửu Âm Chân Kinh, những điều tuyệt diệu của nó cũng chưa biết cái nào hơn.
Bản thư đó, ngoài những môn pháp luyện công ra còn nhiều phương pháp luyện thuốc mê độc dược, cho đến cách nuôi và sử dụng độc trùng, rắn dữ.
Thổ Lợi Đăng Ma vừa lấy quyển Độc Thư thì đúng lúc Âu Dương công tử ở ngoài vô tới.
Âu Dương công tử là cháu kêu Âu Dương Phong bằng chú, thường gọi là Âu Dương Nhi, được Âu Dương Phong nuôi dưỡng từ lúc nhỏ. Và Tây Độc đã đem tất cả tuyệt kỹ trong đời mình, truyền hết lại cho cháu.
Âu Dương Nhi bẩm sinh khôn quỷ sáng học, cho nên mời vừa mười tuổi đã luyện được một thân pháp cao kỳ. Thấy Thổ Lợi Đăng Ma lén trộm đồ vật của chú mình, bèn thét lên một tiếng, phi thân lướt tới thiếu chút nữa Thổ Lợi Đăng Ma đã bị chú bé Âu Dương Nhi này bắt được.
Rất may, khi còn ở Thiên Trúc, Thổ Lợi Đăng Ma đã từng học qua thuật tinh thần công lực cho nên khi thấy tình hình giao tranh bất ổn, lập tức thi triển Ly Hồn Pháp, làm cho Âu Dương công tử tan hết hiệu năng chiến đấu, Thổ Lợi Đăng Ma thoát khỏi.
Sau khi trộm được Ngũ Độc Kỳ Kinh, Thổ Lợi Đăng Ma bèn tìm một thạch động hoang vu, tàng ẩn nơi đây nghiền ngẫm công phu luyện tập, bởi vì tất cả môn pháp, mường tượng như hồi lão ta luyện tập phương pháp luyện tinh thần công lực.
Thổ Lợi Đăng Ma biết rằng luyện được hoàn thành, không những sẽ thành đệ nhất đại võ học tôn sư mà lại trở nên giàu sang phú quý vô cùng.
Lão ta bèn quyết ở nơi thạch động này cố công luyện tập, không ngờ mới được hơn mười bữa, Âu Dương Phong đã mang đại đội rắn độc trở về bố trí Xà trận khắp hết các chỗ thâm sơn cùng cốc, và tìm được nơi tàng ẩn của lão ta.
Nguyên vì sau trận Hoa Sơn luận kiếm về tới hay tin Ngũ Độc Kỳ Kinh bị mất, Âu Dương Phong đùng đùng nổi giận, bởi ông ta từ trước đến nay chuyên đi trộm vật của người khắp chỗ, không dè bây giờ đến phiên bị người trộm lại, mà lại nhè khuân vật quí của mình. Cho nên ông ta giàn hết lực lượng rắn độc ra tìm kiếm.
Thổ Lợi Đăng Ma thấy thanh thế của độc Xà trận quá dữ, kinh hồn táng đởm, mang Ngũ Độc Kỳ Kinh liều mạng tìm sinh lộ.
Thoát được trận Độc xà, không dám lưu lại vùng Tây Vực, tìm đường vượt thẳng đến Trung Nguyên.
Không lâu, được Kim Vương Hoàng Nhan Lượng thu nạp cho vào dưới trướng. Vâng mệnh cùng Cảnh Thiên Kiệt đến Tương Dương, chuẩn bị làm nội ứng cho nước Kim.
Âu Dương Nhi vì việc mất Ngũ Độc Kỳ Kinh của chú, bèn xin Tây Độc vượt đến Trung Nguyên. Thật oan gia quấn quít với nhau.
Âu Dương công tử tính tình không giống chú, bẩm sinh phóng đãng, ham mê nữ sắc. Lần thứ nhất đến Trung Nguyên thật thỏa tính dâm ô. Ba người thiếu nữ ở Tương Dương mất tích, chính do bàn tay của hắn .
Trong sự tình cờ, nghe có nhà sư Tây Vực tại Tượng Dương thiết lập lôi đài, Âu Dương Nhi liền lập tức đến nơi thám thính.
Cuối cùng, họ gặp nhau.
Âu Dương Nhi ngàn dặm xa xôi gặp được cừu nhân dễ chi buông thả. Chẳng qua, lúc bấy giờ giữa mặt muôn người không tiện ra tay. Hơn nữa Thổ Lợi Đăng Ma lại sớm tìm đường tẩu thoát .
Âu Dương Nhi bèn phăng lần manh mối, biết việc lập lôi đài này là do tên phú hào họ Cảnh ở Tương Dương cho nên không hẹn, mà đêm nay Âu Dương Nhi cùng đến gia trang của Thiên Kiệt.
Đến ven rừng gặp Cảnh Ngọc Hư và bốn người đệ tử, Âu Dương Nhi ngờ đó là đồng đảng của Thiên Kiệt, gã bèn xử xuất độc môn Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp, với một thủ pháp mau lẹ như điện chớp chế ngự năm thầy trò phái Võ Đang tại ven rừng.
Vốn là chưởng môn nhân một đại phái, võ công của Cảnh Ngọc Hư đâu phải tầm thường, nhưng vì thấy Âu Dương Nhi nhỏ tuổi ơ hờ khinh địch, do đó mà bị khốn.
Sau khi chận đứng thầy trò Cảnh Ngọc Hư, gã cũng không thèm hỏi qua lai lịch, một mình riết tới Cảnh gia trang. Vừa vặn làm sao. Đúng lúc Thổ Lợi Đăng Ma bị bại chạy ra, hai người đụng mặt.
Thật ra, bản thân công lực của Thổ Lợi Đăng Ma, đối với Âu Dương Nhi, không đến đỗi phải sợ sệt quá như thế, song vì bị cái khớp ăn trộm đồ của Âu Dương Phong, e rằng xà quân với thằng cháu, không may kéo thêm thằng chú đến thì không còn đất sống.
Cho nên, cứ thấy Âu Dương Nhi, là Thổ Lợi Đăng Ma như gà chạy mặt, bán sống bán chết, tìm lối thoát thân . Nhưng, quả đúng như lời của nhà sư Tây Vực, con đường oan gia hẹp quá !
Sau lưng, ác nghiệt Âu Dương Nhi rượt bức, trước ven rừng các cao đệ Toàn Chân. Nẻo sinh lộ như treo trên vực thẳm.
Đêm đã về khuya nặng trĩu, phủ trùm màu đen thẳm lên ngàn cây hun hút theo ven rừng tiếp cận Tương Dương.
Năm người đệ tử Toàn Chân với thuật khinh công tuyệt kỹ vun vút lao sâu vào bóng tối.
Đột nhiên Khưu Xử Cơ đưa tay ra hiệu :
- Này ! Rặng cây trước mặt hình như tàng ẩn mấy bóng người. Hay là các nhân vật Võ Đang.
Vương Xứ Nhất mỉm cười lộ vẻ bất mãn :
- Ngọc Hư đạo trưởng e phải uổng danh chưởng môn Nam phái Võ Đang. Ai đời lâm trận rồi bỗng không rút mất, hay là lại giở thủ đoạn xui người. Nhưng họ Vương bõ dở câu nói, vì ven rừng đối diện Cảnh gia trang, năm bóng người đã giăng thành hàng ngang, mà kẻ dẫn đầu đúng là vị chưởng môn họ Cảnh.
Bốn người kia cũng đều vận y phục dạ hành cùng trang tuổi ba mươi, nhìn vào có thể biết liền đó là các môn đệ Võ Đang .
Nhưng kìa có lạ không. Họ đều há mồm trố mắt đứng sững như tượng cây im hơi lặng tiếng, kể cả Cảnh Ngọc Hư cũng không một mảy may máy động.
Mã Ngọc chợt hiểu liền, rõ ràng năm thầy trò của phái Võ Đang đã bị địch nhân điểm huyệt. Nhưng, Cảnh Ngọc Hư, người dẫn đầu một môn phái võ lâm khá lớn, võ công và bản lãnh đâu phải tầm thường. Ai có thể ám toán ông ? Ai có thể điểm trúng ông vào huyệt đạo ? Thật là một điều không thể tưởng tượng được.
Khưu Xử Cơ tỏ vẻ nghi ngờ :
- Lạ nhỉ ! Không chừng lại là lão Thổ Lợi Đăng Ma !
Mã Ngọc lắc đầu :
- Bản lãnh của nhà sư Tây Vực, mà chúng ta từng thấy qua ở lôi đài, bảo rằng trong thoáng chốc chế ngự được ngay năm thầy trò của họ Cảnh đạo trưởng là một điều không có thể, chúng ta cứ đến xem kỹ lại.
Khưu Xử Cơ vội đưa tay cản lại :
- Hãy khoan !
Chàng bèn quan sát chung quanh không thấy có chi nghi ngại, mới từ từ bước tới.
Mặc dù kiến thức khá rộng, Khưu Xứ Cơ cũng phải giật nẩy mình.
Tất cả năm người cùng bị điểm vào huyệt đạo, điều đó đã lạ rồi song điều hết sức quái dị là trên mặt mỗi người từng giọt mồ hôi gần bằng hột đậu kế tiếp đổ tuôn không dứt, da thịt giật giật liền hồi, thần sắc cực kỳ thống khổ .
Khưu Xử Cơ nhìn qua biết năm người bị điểm huyệt bằng một phương pháp cực độc. Công phu điểm huyệt này với những cách phá giải thông thường quyết không khi nào cứu được.
Nói một cách khác, chế ngự năm người của phái Võ Đang, nhất định không phải lão hòa thượng Tây Vực mà là một tay đối đầu bản lãnh vô cùng lợi hại.
Khưu Xử Cơ gọi lớn :
- Sư huynh, đến đây. Anh hãy xem họ điểm huyệt bằng cách chi vậy ?
Mã Ngọc bước lên nhìn qua thần sắc Cảnh Ngọc Hư, chàng tái mặt kêu một tiếng thật thanh :
- Úy ! Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp !
Công phu này ở tận miền Tây Vực làm sao lại có ở Trung Nguyên !
Bọn Khưu Xử Cơ, Hảo Đại Thông, Vương Xứ Nhất và Tôn Bất Nhị lần thứ nhất trong trong đời mới nghe đến danh pháp điểm huyệt lạ lùng nên chưa rõ lợi hại đến mức nào, nhưng nhìn qua trạng thái cũng đoán được nó là một loại tối nguy hiểm.
- Sư huynh ! Sao lại gọi là Thấu Cốt Đả Huyệt pháp ?
Mã Ngọc cau mày :
- Nói cho kỹ thật là dài lắm, Cảnh đạo trưởng nội lực tinh thâm, thì chưa đến nỗi nào nhưng mấy vị đệ tử của người, công phu còn tương đối kém, trong một giờ ba khắc từ khi bị điểm vào huyệt đạo theo lối này, e xảy đến nhiều nguy hiểm. Chư đệ hãy đến đây, giải trừ cho họ .
Khưu Xử Cơ trố mắt :
- Sư huynh ! Phép điểm huyệt đặc biệt này chúng ta mới thấy một lần, chưa rõ ra sao, thì làm thế nào giải phá được ?
- Ngu huynh cũng chưa biết rõ, nhưng từ trước có nghe sư phụ nói qua về phép giải Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp này. Chuyện đó hãy nói sau, bây giờ chư đệ hãy bước tới đây, đá vào mỗi người ba cái thật nặng rồi hẵn hay.
Bốn sư đệ nghe Mã Ngọc nói, thì đều kinh ngạc tột độ từ trước đến nay họ chưa từng nghe nói phép giải huyệt đạo nào mà lại phải đá người mấy đá như vậy !
Đối với mấy người đệ tử thì còn tạm cho là được, nhưng phạm vào thân thể vị đạo trưởng, chưởng môn Nam phái Võ Đang quả là một chuyện cực kỳ thất kính .
Bốn người còn đang đưa mắt nhìn nhau thì Mã Ngọc đã nghiêm trang trầm giọng :
- Chư đệ không nên câu nệ cái hư lễ đó, cứu mạng con người đặt lên trên tất cả. Hãy mau động thủ !
Vừa nói, chàng vừa bước tới trước mặt Cảnh Ngọc Hư, khẽ nghiêng mình :
- Đắc tội !
Dứt lời, song cước tung lên, đá vị chưởng môn té tròn dưới đất.
Bốn người của bọn Khưu Xử Cơ thấy sư huynh đã hành động, cũng phải theo y đá ngã bốn người đệ tử Võ Đang.
Năm thầy trò của bọn Cảnh Ngọc Hư ngữa nghiêng dưới đất, đầu cổ mình mẩy cát bụi bám đầy .
Lạ làm sao ! Mỗi người sau khi chịu xong ba cái đá, lồng ngực phồng lên xẹp xuống từng chập, xương cốt kêu răng rắc, cuối cùng ói ra một búng đàm dơ, hai mắt trợn trừng, ngoẻo đầu bất tỉnh .
Vương Xứ Nhất hoảng hốt kêu lên :
- Không xong rồi ! Khéo lại gây án mạng.
Mã Ngọc bật cười :
- Đừng sợ ! Chỉ như thế mới có thể làm cho ói hết đàm dơ ra được. Và khi mà đã trục được đàm dơ, thì sinh mạng mới cứu xong.
Mọi người bây giờ mới vỡ lẽ hiểu ra .
Mã Ngọc bèn bảo Vương Xứ Nhất và Hảo Đại Thông khiêng năm thầy trò Võ Đang bỏ chung lại một chỗ. Mỗi người dìu đặt nằm sấp, đưa lưng lên trên.
Xong xuôi, Mã Ngọc vẩy tay gọi cả bốn người :
- Chư vị sư đệ, hãy sắp bày Thiên Oai Bắc Đẩu.
Bốn người sư đệ muội, nghe vị sư huynh nói đến Thiên Oai Bắc Đẩu, thảy đều giật mình đánh thót.
Khưu Xử Cơ trố mắt nhìn Mã Ngọc :
- Thiên Oai Bắc Đẩu là một trận thế ứng chiến của chúng ta chứ có ăn nhằm gì đến việc cứu sống con người !
Mã Ngọc mỉm cười :
- Sao lại không được. Sư phụ đã có nói, đặc điểm của Thiên Oai Bắc Đẩu là có thể tập trung sinh lực tản mác làm thành một đại lực tương đồng. Y theo nguyên lý đó có thể giải huyệt đạo khi lâm trọng thương. Bởi vì phép Thấu Cốt Đả Huyệt không phải chỉ làm cho khí tắt huyết ứ không thôi mà luôn đến tủy trong xương cũng bị đông cứng lại nữa, chúng ta công lực còn kém, đơn độc một người khó mà giải nổi, phải hợp công lực của tất cả chư huynh đệ lại mới hy vọng có kết quả. Đó là áp dụng nguyên tắc căn bản của Thiên Oai Bắc Đẩu.
Khưu Xử Cơ gật đầu khâm phục sự khám phá của sư huynh.
Thật ra môn điểm huyệt, là một trong những chiêu số nguy hiểm nhất trong rừng võ học, một ngón tay chỉ vào da thịt, nặng thì chết liền tức khắc, còn nhẹ thì làm cho con người tê dại đến hôn mê.
Môn phái nào cũng có một công phu khác nhau đặc biệt ngoài những phép căn bản phổ thông. Nhưng điểm huyệt mà làm cho tay đông cứng lại thì các cao thủ võ lâm cũng ít người nghe nói. Nó là một loại cực ác, người bị điểm khó tìm sinh lộ.
Năm thầy trò Cảnh Ngọc Hư bị vào phép điểm huyệt không có con đường sống đó cho nên họ không lạ gì hiện tượng cực kỳ đau đớn của họ.
Năm người đệ tử Toàn Chân dưới sự chỉ bảo của Mã Ngọc họ bèn ngồi xuống, theo trật tự công lực thấp cao. Tay người này quàng chặt vào vai người kia, âm thầm chuyển vận kình khí, đỉnh tụ tam hoa, liên chuyển tam đại.
Chuẩn bị đầy đủ, Mã Ngọc thét lên :
- Vận pháp kình lực !
Và tay trái chàng đưa ra, nhắm đúng Mạng Môn ở sau lưng của Cảnh Ngọc Hư áp xuống.
Thiên Oai Bắc Đẩu là một tuyệt học của Toàn Chân giáo, thâm bác tinh diệu dị thường, chưởng pháp của Mã Ngọc phát ra, cộng cả kình lực của bốn người sư đệ.
Chỉ nghe Cảnh Ngọc Hư rú lên một tiếng, thân mình như muốn nhãy dựng lên không.
Tiếp theo Mã Ngọc lại dùng chưởng pháp ấn vào Long Vỹ huyệt ở ngang thắt lưng họ Cảnh, cái ấn này không mạnh lắm, vị chưởng môn phái Võ Đang cảm nghe vừa tê vừa nhột, ông chợt cười sặc lên.
Qua phút đó, Cảnh Ngọc Hư liền nghe sự đau đớn và tê dại đều biến mất cả, thân thể ông nhẹ nhàng sảng khoái.
Thấy áp dụng Thiên Oai Bắc Đẩu thành công, bọn Mã Ngọc cả mừng, cứ như thế lần lượt không mấy chốc, giải thông huyệt đạo cho tất cả những người còn lại.
Nhưng mấy người đệ tử Toàn Chân, trừ Mã Ngọc nội lực cao hơn, chưa thấy những sự mệt mỏi lộ ra ngoài còn lại đều mồ hôi ướt áo, hơi nóng bừng.
Cảnh Ngọc Hư nằm dài trên đất hô hấp chân khí hồi lâu, lồm cồm ngồi dậy được, vừa muốn mở lời, đột nhiên từ mé rừng đối diện kia, có tiếng quát lên lanh lảnh :
- Chạy đi đâu ! Hãy dừng lại !
Tiếng quát thình lình, làm cho mọi người giật mình ngơ ngác.
Bởi vì thanh âm nghe rõ mồn một, mà tiếng dội của khinh công lại cũng nghe sát một bên.
Nói một cách khác, kẻ đến có xa là cũng chừng nửa dặm, âm hưởng của đối phương cao vút dội rền, chứng tỏ công lực của kẻ ấy đã đến tầm thâm hậu thượng thừa.
Nếu như lúc bình thường, những người đệ tử Toàn Chân cũng chẳng xem sự việc ấy vào đâu nhưng bây giờ, đã tiêu phí khá nhiều nội lực trong việc áp dụng Thiên Oai Bắc Đẩu giải huyệt cho năm thầy trò Cảnh Ngọc Hư, cho nên nếu trong phút ấy mà chạm mặt đối phương cao thủ, thì khó lòng đối phó.
Đang lúc mọi người còn hãy kinh nghi, chợt nghe hai luồng cước bộ đã tới gần trước mặt.
Tiếng dội lồng qua mặt đất, rõ ràng một trước một sau đang vượt đến khu rừng họ đứng.
Cảnh Ngọc Hư cố gắng đứng lên dòm thẳng ra ngoài, bỗng ông biết sắc :
- Không xong rồi. Kẽ vừa điểm huyệt lại đến đây.
Mấy người đệ tử của ông cùng tái mặt.
Chư tử Toàn Chân day đầu ngó lại cũng vô cùng kinh dị.
Từ xa đưa lại hiện rõ hai người một người chạy trước , một người đuổi theo sau .
Kẻ chạy, Thổ Lợi Đăng Ma, người rượt, là chàng thiếu niên công tử.
Người thiếu niên công tử này không phải là người nào khác lạ, mà là người đã làm cho nhà sư Tây Vực lủi trốn ở tại lôi đài.
Mà theo Cảnh Ngọc Hư, thì cũng chính người ấy đã điểm huyệt ông và mấy người đệ tử.
Người này niên kỷ không quá mười bảy người tám, thế mà môn điểm huyệt vừa độc ác vừa cao kỳ, quả là một việc lạ lùng !
Thổ Lợi Đăng Ma thủ pháp đâu phải kém cỏi so với chư tử Toàn Chân sấp xỉ chẳng bao xa, tại sao vừa thấy người thiếu niên đó, đã hoảng hồn cao bay xa chạy ! Sợ sệt đến mức độ không có chút dũng khí đề kháng nào cả.
Bọn Mã Ngọc chưa giải đáp được những điều ngờ vực thì Thổ Lợi Đăng Ma đã chạy tới nơi, dợm phóng vô rừng.
Khưu Xử Cơ tính ghét kẻ ác như thù thấy Thổ Lợi Đăng Ma muốn nhãy trốn vô rừng không không thể chịu được, nhích tới quát to :
- Thằng giặc chết bầm ! Chạy đi đâu ?
Tiếng quát của chàng dội rung cành lá.
Thổ Lợi Đăng Ma trong lúc bất phòng giật mình đánh thót.
Lão ta ngẫng đầu nhìn tới, chợt thấy nơi ven rừng đang ngồi mấy vị đạo nhân, chính là những kẻ vừa mới chạm trán tại gia trang họ Cảnh. Trong lúc bị cừu nhân rượt bắt và trước mặt lại gặp kẻ đối đầu, nhà sư Tây Vực trong lòng liên miên kêu khổ. Hắn vừa kịp quay mình thì gã Thiếu niên công tử cũng đã rượt tới kề bên, phe phẩy cây quạt sắt cười dài :
- Cẩu tặc ! Ngươi đánh cắp đồ của thúc phụ ta rồi chạy mất, bây giờ có tháp cánh được không ? Mau đem trả lại đây ta có thể cho ngươi thi thể được vẹn toàn bằng không, hừ ! Người có muốn sống cũng không còn được nữa.
Thổ Lợi Đăng Ma mặt như đất sét, hắn thò tay vào thắt lưng, run giọng :
- Ngươi hãy dừng lại ! Dừng lại ! Nếu tiến tới, ta sẽ hủy hoại kinh thư liền. Điều đó cũng không hay gì cho ngươi đâu.
Mã Ngọc giật mình, tên hòa thượng này nói đến kinh thư như vậy kinh văn gì đây ? Chẳng lẽ lại là Cửu Âm Chân Kinh ?
Gã thiếu niên công tử cười lạt :
- Ngươi đem kinh thư ra dọa ta à ?Ngươi đã lầm rồi. Mặc kệ ngươi muốn gì thì muốn cũng không thoát được đâu.
Nguyên Thổ Lợi Đăng Ma vốn là người Thiên Trúc, hắn là một tăng nhân theo phải khổ hạnh, có biết được một ít quyền bổng, khinh công. Từ nhỏ, hắn đã nghe và tự mộ sự phồn hoa phú quý đất Trung Nguyên, sau đó lại có dịp qua miền Tây Vực. Tại đây, hắn nuôi mộng lần đến Trung Nguyên.
Nhưng vì trong lưng quá ít tiền, chỉ còn cách lưu lại Tây Vực, khi tạo ra tiền sẽ thực hiện điều mong ước.
Năm ấy hắn đến Côn Luân sơn một nơi có nhiều phong cảnh, mà quanh năm tuyết đổ giá băng. Song nhờ từ lúc nhỏ đã quen sống trong hoàn cảnh đó, hắn gần như ưa thích.
Ngày thứ ba đến núi Côn Luân, Thổ Lợi Đăng Ma khám phá ra trong vùng rừng rậm bao la có một tòa cung điện nguy nga, nằm giữa một thung lũng chung quanh bao bởi vòng vách núi, đỉnh cao đỉnh thấp như đàn lạc đà đi quanh đồng cỏ.
Nơi thung lũng mà Thổ Lợi Đăng Ma tìm thấy tên gọi Bạch Đà sơn. Số nhà cửa cung điện đó, là nơi của Tây Độc Âu Dương Phong cư trú.
Âu Dương Phong tuy là ở vào miền hoang sơn Tây Vực nhưng tại Bạch Đà Sơn ông ta hưởng thụ trong cuộc sống hết sức hào hoa như những bậc vương hầu. Ngoài lâu đài cũng điện, còn có vô số mỹ nữ nô tỳ phục dịch.
Tây Độc là một con người tham lậu, những kỳ trân dị bửu, hổ phách lưu ly ở các địa phương, đều được ông ta tìm kiếm mang về. Nơi đó quả là chỗ cồn vàng núi ngọc, như là thiên đường ở chốn trên gian.
Thổ Lợi Đăng Ma tình cờ phát giác được một nơi cũng kính hoa mỹ, động lòng lập tức đột nhập Bạch Đà sơn.
Không ngờ lại đúng vào lúc Âu Dương Phong mang bầy rắn vượt núi đi vào Trung Nguyên, tham dự Hoa Sơn luận kiếm, tranh đoạt Cửu Âm Chân Kinh. Sự phòng bị của Bạch Đà sơn có phần lơi lỏng.
Thổ Lợi Đăng Ma đột nhập một buổi tối trời, tuyết phủ ngập đầy trắng xóa, kẻ giữ gìn nơi đây rút vào phòng kín không dám ló ra tự nhiên hoàn cảnh thuận lợi cho Thổ Lợi Đăng Ma thừa cơ hội thẳng vào đến tận phòng ngủ của Trang chủ Bạch Đà Sơn.
Lúc mới xâm nhập, Thổ Lợi Đăng Ma cảm thấy nơi đây giống như cũng thất hạng vương tôn tù trưởng, chứ không phải như loại phú gia. Bởi vì hạng giàu có tầm thường không làm sao có được bọn thủ vệ đông đảo, với cũng thất khảm châu cẩn ngọc như thế ấy.
Đang khi không biết làm sao có đủ lộ phí để viếng miền hòa quí Trung Nguyên, đùng một cái gặp được nơi đẹp đẻ giàu sang như thế, bảo sao nhà sư Tây Vực không động lòng ô uế của phàm nhân .
Thổ Lợi Đăng Ma bèn lật đật đem tất cả công phu luyện ra "độ" dùm cho Âu Dương Phong khá nhiều vàng bạc và châu báu, trong cái vô tình quơ cả một số ngọc xanh để trên bàn của
trang chủ Bạch Đà sơn.
Chưa hết ! Liếc thấy bộ Ngũ Độc Kỳ Kinh chợt động "thiệp tâm" bèn nhân tiện bợ luôn một thể.
Bộ Ngũ Độc Kỳ Kinh chính là một kỳ thư trong thiên hạ, so với Cửu Âm Chân Kinh, những điều tuyệt diệu của nó cũng chưa biết cái nào hơn.
Bản thư đó, ngoài những môn pháp luyện công ra còn nhiều phương pháp luyện thuốc mê độc dược, cho đến cách nuôi và sử dụng độc trùng, rắn dữ.
Thổ Lợi Đăng Ma vừa lấy quyển Độc Thư thì đúng lúc Âu Dương công tử ở ngoài vô tới.
Âu Dương công tử là cháu kêu Âu Dương Phong bằng chú, thường gọi là Âu Dương Nhi, được Âu Dương Phong nuôi dưỡng từ lúc nhỏ. Và Tây Độc đã đem tất cả tuyệt kỹ trong đời mình, truyền hết lại cho cháu.
Âu Dương Nhi bẩm sinh khôn quỷ sáng học, cho nên mời vừa mười tuổi đã luyện được một thân pháp cao kỳ. Thấy Thổ Lợi Đăng Ma lén trộm đồ vật của chú mình, bèn thét lên một tiếng, phi thân lướt tới thiếu chút nữa Thổ Lợi Đăng Ma đã bị chú bé Âu Dương Nhi này bắt được.
Rất may, khi còn ở Thiên Trúc, Thổ Lợi Đăng Ma đã từng học qua thuật tinh thần công lực cho nên khi thấy tình hình giao tranh bất ổn, lập tức thi triển Ly Hồn Pháp, làm cho Âu Dương công tử tan hết hiệu năng chiến đấu, Thổ Lợi Đăng Ma thoát khỏi.
Sau khi trộm được Ngũ Độc Kỳ Kinh, Thổ Lợi Đăng Ma bèn tìm một thạch động hoang vu, tàng ẩn nơi đây nghiền ngẫm công phu luyện tập, bởi vì tất cả môn pháp, mường tượng như hồi lão ta luyện tập phương pháp luyện tinh thần công lực.
Thổ Lợi Đăng Ma biết rằng luyện được hoàn thành, không những sẽ thành đệ nhất đại võ học tôn sư mà lại trở nên giàu sang phú quý vô cùng.
Lão ta bèn quyết ở nơi thạch động này cố công luyện tập, không ngờ mới được hơn mười bữa, Âu Dương Phong đã mang đại đội rắn độc trở về bố trí Xà trận khắp hết các chỗ thâm sơn cùng cốc, và tìm được nơi tàng ẩn của lão ta.
Nguyên vì sau trận Hoa Sơn luận kiếm về tới hay tin Ngũ Độc Kỳ Kinh bị mất, Âu Dương Phong đùng đùng nổi giận, bởi ông ta từ trước đến nay chuyên đi trộm vật của người khắp chỗ, không dè bây giờ đến phiên bị người trộm lại, mà lại nhè khuân vật quí của mình. Cho nên ông ta giàn hết lực lượng rắn độc ra tìm kiếm.
Thổ Lợi Đăng Ma thấy thanh thế của độc Xà trận quá dữ, kinh hồn táng đởm, mang Ngũ Độc Kỳ Kinh liều mạng tìm sinh lộ.
Thoát được trận Độc xà, không dám lưu lại vùng Tây Vực, tìm đường vượt thẳng đến Trung Nguyên.
Không lâu, được Kim Vương Hoàng Nhan Lượng thu nạp cho vào dưới trướng. Vâng mệnh cùng Cảnh Thiên Kiệt đến Tương Dương, chuẩn bị làm nội ứng cho nước Kim.
Âu Dương Nhi vì việc mất Ngũ Độc Kỳ Kinh của chú, bèn xin Tây Độc vượt đến Trung Nguyên. Thật oan gia quấn quít với nhau.
Âu Dương công tử tính tình không giống chú, bẩm sinh phóng đãng, ham mê nữ sắc. Lần thứ nhất đến Trung Nguyên thật thỏa tính dâm ô. Ba người thiếu nữ ở Tương Dương mất tích, chính do bàn tay của hắn .
Trong sự tình cờ, nghe có nhà sư Tây Vực tại Tượng Dương thiết lập lôi đài, Âu Dương Nhi liền lập tức đến nơi thám thính.
Cuối cùng, họ gặp nhau.
Âu Dương Nhi ngàn dặm xa xôi gặp được cừu nhân dễ chi buông thả. Chẳng qua, lúc bấy giờ giữa mặt muôn người không tiện ra tay. Hơn nữa Thổ Lợi Đăng Ma lại sớm tìm đường tẩu thoát .
Âu Dương Nhi bèn phăng lần manh mối, biết việc lập lôi đài này là do tên phú hào họ Cảnh ở Tương Dương cho nên không hẹn, mà đêm nay Âu Dương Nhi cùng đến gia trang của Thiên Kiệt.
Đến ven rừng gặp Cảnh Ngọc Hư và bốn người đệ tử, Âu Dương Nhi ngờ đó là đồng đảng của Thiên Kiệt, gã bèn xử xuất độc môn Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp, với một thủ pháp mau lẹ như điện chớp chế ngự năm thầy trò phái Võ Đang tại ven rừng.
Vốn là chưởng môn nhân một đại phái, võ công của Cảnh Ngọc Hư đâu phải tầm thường, nhưng vì thấy Âu Dương Nhi nhỏ tuổi ơ hờ khinh địch, do đó mà bị khốn.
Sau khi chận đứng thầy trò Cảnh Ngọc Hư, gã cũng không thèm hỏi qua lai lịch, một mình riết tới Cảnh gia trang. Vừa vặn làm sao. Đúng lúc Thổ Lợi Đăng Ma bị bại chạy ra, hai người đụng mặt.
Thật ra, bản thân công lực của Thổ Lợi Đăng Ma, đối với Âu Dương Nhi, không đến đỗi phải sợ sệt quá như thế, song vì bị cái khớp ăn trộm đồ của Âu Dương Phong, e rằng xà quân với thằng cháu, không may kéo thêm thằng chú đến thì không còn đất sống.
Cho nên, cứ thấy Âu Dương Nhi, là Thổ Lợi Đăng Ma như gà chạy mặt, bán sống bán chết, tìm lối thoát thân . Nhưng, quả đúng như lời của nhà sư Tây Vực, con đường oan gia hẹp quá !
Sau lưng, ác nghiệt Âu Dương Nhi rượt bức, trước ven rừng các cao đệ Toàn Chân. Nẻo sinh lộ như treo trên vực thẳm.
Đêm đã về khuya nặng trĩu, phủ trùm màu đen thẳm lên ngàn cây hun hút theo ven rừng tiếp cận Tương Dương.
Năm người đệ tử Toàn Chân với thuật khinh công tuyệt kỹ vun vút lao sâu vào bóng tối.
Đột nhiên Khưu Xử Cơ đưa tay ra hiệu :
- Này ! Rặng cây trước mặt hình như tàng ẩn mấy bóng người. Hay là các nhân vật Võ Đang.
Vương Xứ Nhất mỉm cười lộ vẻ bất mãn :
- Ngọc Hư đạo trưởng e phải uổng danh chưởng môn Nam phái Võ Đang. Ai đời lâm trận rồi bỗng không rút mất, hay là lại giở thủ đoạn xui người. Nhưng họ Vương bõ dở câu nói, vì ven rừng đối diện Cảnh gia trang, năm bóng người đã giăng thành hàng ngang, mà kẻ dẫn đầu đúng là vị chưởng môn họ Cảnh.
Bốn người kia cũng đều vận y phục dạ hành cùng trang tuổi ba mươi, nhìn vào có thể biết liền đó là các môn đệ Võ Đang .
Nhưng kìa có lạ không. Họ đều há mồm trố mắt đứng sững như tượng cây im hơi lặng tiếng, kể cả Cảnh Ngọc Hư cũng không một mảy may máy động.
Mã Ngọc chợt hiểu liền, rõ ràng năm thầy trò của phái Võ Đang đã bị địch nhân điểm huyệt. Nhưng, Cảnh Ngọc Hư, người dẫn đầu một môn phái võ lâm khá lớn, võ công và bản lãnh đâu phải tầm thường. Ai có thể ám toán ông ? Ai có thể điểm trúng ông vào huyệt đạo ? Thật là một điều không thể tưởng tượng được.
Khưu Xử Cơ tỏ vẻ nghi ngờ :
- Lạ nhỉ ! Không chừng lại là lão Thổ Lợi Đăng Ma !
Mã Ngọc lắc đầu :
- Bản lãnh của nhà sư Tây Vực, mà chúng ta từng thấy qua ở lôi đài, bảo rằng trong thoáng chốc chế ngự được ngay năm thầy trò của họ Cảnh đạo trưởng là một điều không có thể, chúng ta cứ đến xem kỹ lại.
Khưu Xử Cơ vội đưa tay cản lại :
- Hãy khoan !
Chàng bèn quan sát chung quanh không thấy có chi nghi ngại, mới từ từ bước tới.
Mặc dù kiến thức khá rộng, Khưu Xứ Cơ cũng phải giật nẩy mình.
Tất cả năm người cùng bị điểm vào huyệt đạo, điều đó đã lạ rồi song điều hết sức quái dị là trên mặt mỗi người từng giọt mồ hôi gần bằng hột đậu kế tiếp đổ tuôn không dứt, da thịt giật giật liền hồi, thần sắc cực kỳ thống khổ .
Khưu Xử Cơ nhìn qua biết năm người bị điểm huyệt bằng một phương pháp cực độc. Công phu điểm huyệt này với những cách phá giải thông thường quyết không khi nào cứu được.
Nói một cách khác, chế ngự năm người của phái Võ Đang, nhất định không phải lão hòa thượng Tây Vực mà là một tay đối đầu bản lãnh vô cùng lợi hại.
Khưu Xử Cơ gọi lớn :
- Sư huynh, đến đây. Anh hãy xem họ điểm huyệt bằng cách chi vậy ?
Mã Ngọc bước lên nhìn qua thần sắc Cảnh Ngọc Hư, chàng tái mặt kêu một tiếng thật thanh :
- Úy ! Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp !
Công phu này ở tận miền Tây Vực làm sao lại có ở Trung Nguyên !
Bọn Khưu Xử Cơ, Hảo Đại Thông, Vương Xứ Nhất và Tôn Bất Nhị lần thứ nhất trong trong đời mới nghe đến danh pháp điểm huyệt lạ lùng nên chưa rõ lợi hại đến mức nào, nhưng nhìn qua trạng thái cũng đoán được nó là một loại tối nguy hiểm.
- Sư huynh ! Sao lại gọi là Thấu Cốt Đả Huyệt pháp ?
Mã Ngọc cau mày :
- Nói cho kỹ thật là dài lắm, Cảnh đạo trưởng nội lực tinh thâm, thì chưa đến nỗi nào nhưng mấy vị đệ tử của người, công phu còn tương đối kém, trong một giờ ba khắc từ khi bị điểm vào huyệt đạo theo lối này, e xảy đến nhiều nguy hiểm. Chư đệ hãy đến đây, giải trừ cho họ .
Khưu Xử Cơ trố mắt :
- Sư huynh ! Phép điểm huyệt đặc biệt này chúng ta mới thấy một lần, chưa rõ ra sao, thì làm thế nào giải phá được ?
- Ngu huynh cũng chưa biết rõ, nhưng từ trước có nghe sư phụ nói qua về phép giải Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp này. Chuyện đó hãy nói sau, bây giờ chư đệ hãy bước tới đây, đá vào mỗi người ba cái thật nặng rồi hẵn hay.
Bốn sư đệ nghe Mã Ngọc nói, thì đều kinh ngạc tột độ từ trước đến nay họ chưa từng nghe nói phép giải huyệt đạo nào mà lại phải đá người mấy đá như vậy !
Đối với mấy người đệ tử thì còn tạm cho là được, nhưng phạm vào thân thể vị đạo trưởng, chưởng môn Nam phái Võ Đang quả là một chuyện cực kỳ thất kính .
Bốn người còn đang đưa mắt nhìn nhau thì Mã Ngọc đã nghiêm trang trầm giọng :
- Chư đệ không nên câu nệ cái hư lễ đó, cứu mạng con người đặt lên trên tất cả. Hãy mau động thủ !
Vừa nói, chàng vừa bước tới trước mặt Cảnh Ngọc Hư, khẽ nghiêng mình :
- Đắc tội !
Dứt lời, song cước tung lên, đá vị chưởng môn té tròn dưới đất.
Bốn người của bọn Khưu Xử Cơ thấy sư huynh đã hành động, cũng phải theo y đá ngã bốn người đệ tử Võ Đang.
Năm thầy trò của bọn Cảnh Ngọc Hư ngữa nghiêng dưới đất, đầu cổ mình mẩy cát bụi bám đầy .
Lạ làm sao ! Mỗi người sau khi chịu xong ba cái đá, lồng ngực phồng lên xẹp xuống từng chập, xương cốt kêu răng rắc, cuối cùng ói ra một búng đàm dơ, hai mắt trợn trừng, ngoẻo đầu bất tỉnh .
Vương Xứ Nhất hoảng hốt kêu lên :
- Không xong rồi ! Khéo lại gây án mạng.
Mã Ngọc bật cười :
- Đừng sợ ! Chỉ như thế mới có thể làm cho ói hết đàm dơ ra được. Và khi mà đã trục được đàm dơ, thì sinh mạng mới cứu xong.
Mọi người bây giờ mới vỡ lẽ hiểu ra .
Mã Ngọc bèn bảo Vương Xứ Nhất và Hảo Đại Thông khiêng năm thầy trò Võ Đang bỏ chung lại một chỗ. Mỗi người dìu đặt nằm sấp, đưa lưng lên trên.
Xong xuôi, Mã Ngọc vẩy tay gọi cả bốn người :
- Chư vị sư đệ, hãy sắp bày Thiên Oai Bắc Đẩu.
Bốn người sư đệ muội, nghe vị sư huynh nói đến Thiên Oai Bắc Đẩu, thảy đều giật mình đánh thót.
Khưu Xử Cơ trố mắt nhìn Mã Ngọc :
- Thiên Oai Bắc Đẩu là một trận thế ứng chiến của chúng ta chứ có ăn nhằm gì đến việc cứu sống con người !
Mã Ngọc mỉm cười :
- Sao lại không được. Sư phụ đã có nói, đặc điểm của Thiên Oai Bắc Đẩu là có thể tập trung sinh lực tản mác làm thành một đại lực tương đồng. Y theo nguyên lý đó có thể giải huyệt đạo khi lâm trọng thương. Bởi vì phép Thấu Cốt Đả Huyệt không phải chỉ làm cho khí tắt huyết ứ không thôi mà luôn đến tủy trong xương cũng bị đông cứng lại nữa, chúng ta công lực còn kém, đơn độc một người khó mà giải nổi, phải hợp công lực của tất cả chư huynh đệ lại mới hy vọng có kết quả. Đó là áp dụng nguyên tắc căn bản của Thiên Oai Bắc Đẩu.
Khưu Xử Cơ gật đầu khâm phục sự khám phá của sư huynh.
Thật ra môn điểm huyệt, là một trong những chiêu số nguy hiểm nhất trong rừng võ học, một ngón tay chỉ vào da thịt, nặng thì chết liền tức khắc, còn nhẹ thì làm cho con người tê dại đến hôn mê.
Môn phái nào cũng có một công phu khác nhau đặc biệt ngoài những phép căn bản phổ thông. Nhưng điểm huyệt mà làm cho tay đông cứng lại thì các cao thủ võ lâm cũng ít người nghe nói. Nó là một loại cực ác, người bị điểm khó tìm sinh lộ.
Năm thầy trò Cảnh Ngọc Hư bị vào phép điểm huyệt không có con đường sống đó cho nên họ không lạ gì hiện tượng cực kỳ đau đớn của họ.
Năm người đệ tử Toàn Chân dưới sự chỉ bảo của Mã Ngọc họ bèn ngồi xuống, theo trật tự công lực thấp cao. Tay người này quàng chặt vào vai người kia, âm thầm chuyển vận kình khí, đỉnh tụ tam hoa, liên chuyển tam đại.
Chuẩn bị đầy đủ, Mã Ngọc thét lên :
- Vận pháp kình lực !
Và tay trái chàng đưa ra, nhắm đúng Mạng Môn ở sau lưng của Cảnh Ngọc Hư áp xuống.
Thiên Oai Bắc Đẩu là một tuyệt học của Toàn Chân giáo, thâm bác tinh diệu dị thường, chưởng pháp của Mã Ngọc phát ra, cộng cả kình lực của bốn người sư đệ.
Chỉ nghe Cảnh Ngọc Hư rú lên một tiếng, thân mình như muốn nhãy dựng lên không.
Tiếp theo Mã Ngọc lại dùng chưởng pháp ấn vào Long Vỹ huyệt ở ngang thắt lưng họ Cảnh, cái ấn này không mạnh lắm, vị chưởng môn phái Võ Đang cảm nghe vừa tê vừa nhột, ông chợt cười sặc lên.
Qua phút đó, Cảnh Ngọc Hư liền nghe sự đau đớn và tê dại đều biến mất cả, thân thể ông nhẹ nhàng sảng khoái.
Thấy áp dụng Thiên Oai Bắc Đẩu thành công, bọn Mã Ngọc cả mừng, cứ như thế lần lượt không mấy chốc, giải thông huyệt đạo cho tất cả những người còn lại.
Nhưng mấy người đệ tử Toàn Chân, trừ Mã Ngọc nội lực cao hơn, chưa thấy những sự mệt mỏi lộ ra ngoài còn lại đều mồ hôi ướt áo, hơi nóng bừng.
Cảnh Ngọc Hư nằm dài trên đất hô hấp chân khí hồi lâu, lồm cồm ngồi dậy được, vừa muốn mở lời, đột nhiên từ mé rừng đối diện kia, có tiếng quát lên lanh lảnh :
- Chạy đi đâu ! Hãy dừng lại !
Tiếng quát thình lình, làm cho mọi người giật mình ngơ ngác.
Bởi vì thanh âm nghe rõ mồn một, mà tiếng dội của khinh công lại cũng nghe sát một bên.
Nói một cách khác, kẻ đến có xa là cũng chừng nửa dặm, âm hưởng của đối phương cao vút dội rền, chứng tỏ công lực của kẻ ấy đã đến tầm thâm hậu thượng thừa.
Nếu như lúc bình thường, những người đệ tử Toàn Chân cũng chẳng xem sự việc ấy vào đâu nhưng bây giờ, đã tiêu phí khá nhiều nội lực trong việc áp dụng Thiên Oai Bắc Đẩu giải huyệt cho năm thầy trò Cảnh Ngọc Hư, cho nên nếu trong phút ấy mà chạm mặt đối phương cao thủ, thì khó lòng đối phó.
Đang lúc mọi người còn hãy kinh nghi, chợt nghe hai luồng cước bộ đã tới gần trước mặt.
Tiếng dội lồng qua mặt đất, rõ ràng một trước một sau đang vượt đến khu rừng họ đứng.
Cảnh Ngọc Hư cố gắng đứng lên dòm thẳng ra ngoài, bỗng ông biết sắc :
- Không xong rồi. Kẽ vừa điểm huyệt lại đến đây.
Mấy người đệ tử của ông cùng tái mặt.
Chư tử Toàn Chân day đầu ngó lại cũng vô cùng kinh dị.
Từ xa đưa lại hiện rõ hai người một người chạy trước , một người đuổi theo sau .
Kẻ chạy, Thổ Lợi Đăng Ma, người rượt, là chàng thiếu niên công tử.
Người thiếu niên công tử này không phải là người nào khác lạ, mà là người đã làm cho nhà sư Tây Vực lủi trốn ở tại lôi đài.
Mà theo Cảnh Ngọc Hư, thì cũng chính người ấy đã điểm huyệt ông và mấy người đệ tử.
Người này niên kỷ không quá mười bảy người tám, thế mà môn điểm huyệt vừa độc ác vừa cao kỳ, quả là một việc lạ lùng !
Thổ Lợi Đăng Ma thủ pháp đâu phải kém cỏi so với chư tử Toàn Chân sấp xỉ chẳng bao xa, tại sao vừa thấy người thiếu niên đó, đã hoảng hồn cao bay xa chạy ! Sợ sệt đến mức độ không có chút dũng khí đề kháng nào cả.
Bọn Mã Ngọc chưa giải đáp được những điều ngờ vực thì Thổ Lợi Đăng Ma đã chạy tới nơi, dợm phóng vô rừng.
Khưu Xử Cơ tính ghét kẻ ác như thù thấy Thổ Lợi Đăng Ma muốn nhãy trốn vô rừng không không thể chịu được, nhích tới quát to :
- Thằng giặc chết bầm ! Chạy đi đâu ?
Tiếng quát của chàng dội rung cành lá.
Thổ Lợi Đăng Ma trong lúc bất phòng giật mình đánh thót.
Lão ta ngẫng đầu nhìn tới, chợt thấy nơi ven rừng đang ngồi mấy vị đạo nhân, chính là những kẻ vừa mới chạm trán tại gia trang họ Cảnh. Trong lúc bị cừu nhân rượt bắt và trước mặt lại gặp kẻ đối đầu, nhà sư Tây Vực trong lòng liên miên kêu khổ. Hắn vừa kịp quay mình thì gã Thiếu niên công tử cũng đã rượt tới kề bên, phe phẩy cây quạt sắt cười dài :
- Cẩu tặc ! Ngươi đánh cắp đồ của thúc phụ ta rồi chạy mất, bây giờ có tháp cánh được không ? Mau đem trả lại đây ta có thể cho ngươi thi thể được vẹn toàn bằng không, hừ ! Người có muốn sống cũng không còn được nữa.
Thổ Lợi Đăng Ma mặt như đất sét, hắn thò tay vào thắt lưng, run giọng :
- Ngươi hãy dừng lại ! Dừng lại ! Nếu tiến tới, ta sẽ hủy hoại kinh thư liền. Điều đó cũng không hay gì cho ngươi đâu.
Mã Ngọc giật mình, tên hòa thượng này nói đến kinh thư như vậy kinh văn gì đây ? Chẳng lẽ lại là Cửu Âm Chân Kinh ?
Gã thiếu niên công tử cười lạt :
- Ngươi đem kinh thư ra dọa ta à ?Ngươi đã lầm rồi. Mặc kệ ngươi muốn gì thì muốn cũng không thoát được đâu.
Nguyên Thổ Lợi Đăng Ma vốn là người Thiên Trúc, hắn là một tăng nhân theo phải khổ hạnh, có biết được một ít quyền bổng, khinh công. Từ nhỏ, hắn đã nghe và tự mộ sự phồn hoa phú quý đất Trung Nguyên, sau đó lại có dịp qua miền Tây Vực. Tại đây, hắn nuôi mộng lần đến Trung Nguyên.
Nhưng vì trong lưng quá ít tiền, chỉ còn cách lưu lại Tây Vực, khi tạo ra tiền sẽ thực hiện điều mong ước.
Năm ấy hắn đến Côn Luân sơn một nơi có nhiều phong cảnh, mà quanh năm tuyết đổ giá băng. Song nhờ từ lúc nhỏ đã quen sống trong hoàn cảnh đó, hắn gần như ưa thích.
Ngày thứ ba đến núi Côn Luân, Thổ Lợi Đăng Ma khám phá ra trong vùng rừng rậm bao la có một tòa cung điện nguy nga, nằm giữa một thung lũng chung quanh bao bởi vòng vách núi, đỉnh cao đỉnh thấp như đàn lạc đà đi quanh đồng cỏ.
Nơi thung lũng mà Thổ Lợi Đăng Ma tìm thấy tên gọi Bạch Đà sơn. Số nhà cửa cung điện đó, là nơi của Tây Độc Âu Dương Phong cư trú.
Âu Dương Phong tuy là ở vào miền hoang sơn Tây Vực nhưng tại Bạch Đà Sơn ông ta hưởng thụ trong cuộc sống hết sức hào hoa như những bậc vương hầu. Ngoài lâu đài cũng điện, còn có vô số mỹ nữ nô tỳ phục dịch.
Tây Độc là một con người tham lậu, những kỳ trân dị bửu, hổ phách lưu ly ở các địa phương, đều được ông ta tìm kiếm mang về. Nơi đó quả là chỗ cồn vàng núi ngọc, như là thiên đường ở chốn trên gian.
Thổ Lợi Đăng Ma tình cờ phát giác được một nơi cũng kính hoa mỹ, động lòng lập tức đột nhập Bạch Đà sơn.
Không ngờ lại đúng vào lúc Âu Dương Phong mang bầy rắn vượt núi đi vào Trung Nguyên, tham dự Hoa Sơn luận kiếm, tranh đoạt Cửu Âm Chân Kinh. Sự phòng bị của Bạch Đà sơn có phần lơi lỏng.
Thổ Lợi Đăng Ma đột nhập một buổi tối trời, tuyết phủ ngập đầy trắng xóa, kẻ giữ gìn nơi đây rút vào phòng kín không dám ló ra tự nhiên hoàn cảnh thuận lợi cho Thổ Lợi Đăng Ma thừa cơ hội thẳng vào đến tận phòng ngủ của Trang chủ Bạch Đà Sơn.
Lúc mới xâm nhập, Thổ Lợi Đăng Ma cảm thấy nơi đây giống như cũng thất hạng vương tôn tù trưởng, chứ không phải như loại phú gia. Bởi vì hạng giàu có tầm thường không làm sao có được bọn thủ vệ đông đảo, với cũng thất khảm châu cẩn ngọc như thế ấy.
Đang khi không biết làm sao có đủ lộ phí để viếng miền hòa quí Trung Nguyên, đùng một cái gặp được nơi đẹp đẻ giàu sang như thế, bảo sao nhà sư Tây Vực không động lòng ô uế của phàm nhân .
Thổ Lợi Đăng Ma bèn lật đật đem tất cả công phu luyện ra "độ" dùm cho Âu Dương Phong khá nhiều vàng bạc và châu báu, trong cái vô tình quơ cả một số ngọc xanh để trên bàn của
trang chủ Bạch Đà sơn.
Chưa hết ! Liếc thấy bộ Ngũ Độc Kỳ Kinh chợt động "thiệp tâm" bèn nhân tiện bợ luôn một thể.
Bộ Ngũ Độc Kỳ Kinh chính là một kỳ thư trong thiên hạ, so với Cửu Âm Chân Kinh, những điều tuyệt diệu của nó cũng chưa biết cái nào hơn.
Bản thư đó, ngoài những môn pháp luyện công ra còn nhiều phương pháp luyện thuốc mê độc dược, cho đến cách nuôi và sử dụng độc trùng, rắn dữ.
Thổ Lợi Đăng Ma vừa lấy quyển Độc Thư thì đúng lúc Âu Dương công tử ở ngoài vô tới.
Âu Dương công tử là cháu kêu Âu Dương Phong bằng chú, thường gọi là Âu Dương Nhi, được Âu Dương Phong nuôi dưỡng từ lúc nhỏ. Và Tây Độc đã đem tất cả tuyệt kỹ trong đời mình, truyền hết lại cho cháu.
Âu Dương Nhi bẩm sinh khôn quỷ sáng học, cho nên mời vừa mười tuổi đã luyện được một thân pháp cao kỳ. Thấy Thổ Lợi Đăng Ma lén trộm đồ vật của chú mình, bèn thét lên một tiếng, phi thân lướt tới thiếu chút nữa Thổ Lợi Đăng Ma đã bị chú bé Âu Dương Nhi này bắt được.
Rất may, khi còn ở Thiên Trúc, Thổ Lợi Đăng Ma đã từng học qua thuật tinh thần công lực cho nên khi thấy tình hình giao tranh bất ổn, lập tức thi triển Ly Hồn Pháp, làm cho Âu Dương công tử tan hết hiệu năng chiến đấu, Thổ Lợi Đăng Ma thoát khỏi.
Sau khi trộm được Ngũ Độc Kỳ Kinh, Thổ Lợi Đăng Ma bèn tìm một thạch động hoang vu, tàng ẩn nơi đây nghiền ngẫm công phu luyện tập, bởi vì tất cả môn pháp, mường tượng như hồi lão ta luyện tập phương pháp luyện tinh thần công lực.
Thổ Lợi Đăng Ma biết rằng luyện được hoàn thành, không những sẽ thành đệ nhất đại võ học tôn sư mà lại trở nên giàu sang phú quý vô cùng.
Lão ta bèn quyết ở nơi thạch động này cố công luyện tập, không ngờ mới được hơn mười bữa, Âu Dương Phong đã mang đại đội rắn độc trở về bố trí Xà trận khắp hết các chỗ thâm sơn cùng cốc, và tìm được nơi tàng ẩn của lão ta.
Nguyên vì sau trận Hoa Sơn luận kiếm về tới hay tin Ngũ Độc Kỳ Kinh bị mất, Âu Dương Phong đùng đùng nổi giận, bởi ông ta từ trước đến nay chuyên đi trộm vật của người khắp chỗ, không dè bây giờ đến phiên bị người trộm lại, mà lại nhè khuân vật quí của mình. Cho nên ông ta giàn hết lực lượng rắn độc ra tìm kiếm.
Thổ Lợi Đăng Ma thấy thanh thế của độc Xà trận quá dữ, kinh hồn táng đởm, mang Ngũ Độc Kỳ Kinh liều mạng tìm sinh lộ.
Thoát được trận Độc xà, không dám lưu lại vùng Tây Vực, tìm đường vượt thẳng đến Trung Nguyên.
Không lâu, được Kim Vương Hoàng Nhan Lượng thu nạp cho vào dưới trướng. Vâng mệnh cùng Cảnh Thiên Kiệt đến Tương Dương, chuẩn bị làm nội ứng cho nước Kim.
Âu Dương Nhi vì việc mất Ngũ Độc Kỳ Kinh của chú, bèn xin Tây Độc vượt đến Trung Nguyên. Thật oan gia quấn quít với nhau.
Âu Dương công tử tính tình không giống chú, bẩm sinh phóng đãng, ham mê nữ sắc. Lần thứ nhất đến Trung Nguyên thật thỏa tính dâm ô. Ba người thiếu nữ ở Tương Dương mất tích, chính do bàn tay của hắn .
Trong sự tình cờ, nghe có nhà sư Tây Vực tại Tượng Dương thiết lập lôi đài, Âu Dương Nhi liền lập tức đến nơi thám thính.
Cuối cùng, họ gặp nhau.
Âu Dương Nhi ngàn dặm xa xôi gặp được cừu nhân dễ chi buông thả. Chẳng qua, lúc bấy giờ giữa mặt muôn người không tiện ra tay. Hơn nữa Thổ Lợi Đăng Ma lại sớm tìm đường tẩu thoát .
Âu Dương Nhi bèn phăng lần manh mối, biết việc lập lôi đài này là do tên phú hào họ Cảnh ở Tương Dương cho nên không hẹn, mà đêm nay Âu Dương Nhi cùng đến gia trang của Thiên Kiệt.
Đến ven rừng gặp Cảnh Ngọc Hư và bốn người đệ tử, Âu Dương Nhi ngờ đó là đồng đảng của Thiên Kiệt, gã bèn xử xuất độc môn Thấu Cốt Đả Huyệt Pháp, với một thủ pháp mau lẹ như điện chớp chế ngự năm thầy trò phái Võ Đang tại ven rừng.
Vốn là chưởng môn nhân một đại phái, võ công của Cảnh Ngọc Hư đâu phải tầm thường, nhưng vì thấy Âu Dương Nhi nhỏ tuổi ơ hờ khinh địch, do đó mà bị khốn.
Sau khi chận đứng thầy trò Cảnh Ngọc Hư, gã cũng không thèm hỏi qua lai lịch, một mình riết tới Cảnh gia trang. Vừa vặn làm sao. Đúng lúc Thổ Lợi Đăng Ma bị bại chạy ra, hai người đụng mặt.
Thật ra, bản thân công lực của Thổ Lợi Đăng Ma, đối với Âu Dương Nhi, không đến đỗi phải sợ sệt quá như thế, song vì bị cái khớp ăn trộm đồ của Âu Dương Phong, e rằng xà quân với thằng cháu, không may kéo thêm thằng chú đến thì không còn đất sống.
Cho nên, cứ thấy Âu Dương Nhi, là Thổ Lợi Đăng Ma như gà chạy mặt, bán sống bán chết, tìm lối thoát thân . Nhưng, quả đúng như lời của nhà sư Tây Vực, con đường oan gia hẹp quá !
Sau lưng, ác nghiệt Âu Dương Nhi rượt bức, trước ven rừng các cao đệ Toàn Chân. Nẻo sinh lộ như treo trên vực thẳm.
Nghe Âu Dương Nhi nói thế Thổ Lợi Đăng Ma sắc mặt từ vàng chợt biến ra xanh.
Song lão ta tự nghĩ. Đã là phúc, thì không phải họa, đã là họa, thì không trốn đâu cho khỏi.
Con đường tắc nghẽn khó tìm lối thoát, chỉ còn cách duy nhất, với kẻ thù một mất một còn.
Nhà sư Tây Vực bỗng cười lên tru tréo, như tiếng sói kêu đêm .
- Được lắm ! Tiểu tử ! Ngươi đã nằng nặc như thế, Phật gia đây cũng cạn lời. Sinh mạng của Phật gia đêm nay kể như giao lại cho ngươi.
Nhưng trước giờ chết, cũng cần nghinh tiếp một vài chiêu võ gia truyền của Bạch Đà Sơn.
Tuy nhiên, nói đến đây, Thổ Lợi Đăng Ma trỏ vào chư tử Toàn Chân giáo :
- Những người này chắc đã có cùng ước hẹn, vậy chẳng hay một đấu một, hay là hùa cả một lần .
Âu Dương Nhi cười lạt :
- Hùa à ! Những kẻ vô danh ấy đâu phải là bạn ta. Muốn kết liễu cuộc đời ngươi, một mình công tử gia đây quá đủ rồi cần gì phải nhờ đến những kẻ chưa từng quen biết ?
Lời lẽ của gã công tử họ Âu Dương, chẳng những đã không coi Thổ Lợi Đăng Ma vào đâu mà đối với các cao thủ Toàn Chân gã cũng xem như không có mặt ở đó.
Khưu Xử Cơ, Vương Xứ Nhất tức quá muốn tiến lên, Mã Ngọc vội lừ mắt cản lại.
Nhà sư Tây Vực nghe như cất được gánh nặng bởi vì những kẻ trong võ lâm, trọng lời nói hơn là sự sống, đã nói ra quyết không đổi lại.
Chỗ sợ nhất của Thổ Lợi Đăng Ma là những người đệ tử Toàn Chân giáo, nếu họ không tiếp tay với tên tiểu quỷ Âu Dương thì trong cái chết có thể tìm ra đường sống.
Lão ta ngó Âu Dương Nhi dưa một ngón tay như giao hẹn :
- Nói thật đấy chứ ! Nếu như lúc ngươi không đánh lại được ta rồi cái bọn kia lên trợ thủ thì sao ?
Âu Dương Nhi cười lạt :
- Công tử gia gia chẳng lẽ lại không gói ghém được người à ? Không phải nói nhiều lời, xem đây !
Dứt lời cây quạt sắt vung lên, nhằm Trung Phủ huyệt của Thổ Lợi Đăng Ma thọc tới.
Chư tử Toàn Chân không ưa cái lối khoác lác của gã công tử Âu Dương, song đối với chiêu số xuất thủ của gã, cũng phải công nhận là dẹp mắt.
Cây quạt sắt vừa đưa qua, đột nhiên đầu quạt run lên ba cái, như cái chĩa ba, xốc tới ba đại huyệt Triến Cơ, Hoa Cái và Thẫn đường của nhà sư Tây Vực.
Một cách biến chiêu xem như ba cái quạt cùng một lúc xỉa qua, làm cho bọn Mã Ngọc phải âm thầm tán thưởng, khen thằng nhỏ phách lối thế mà chiêu thức khá hay .
Thổ Lợi Đăng Ma vội vàng tung ra một thân pháp hiểm trá lạ thường, chiếc thân vừa lắc lư vừa uốn khúc, như một con trùng, bắn vọt tới sau lưng của gã công tử Âu Dương.
Không ngờ thân pháp của đối phương thần tốc như thế, Âu Dương Nhi giật mình rút cái quạt về phạt xéo lại sau lưng như dao cắt cỏ đã mau mà lại lợi hại muôn phần .
Thổ Lợi Đăng Ma thình lình trỏ lại đằng sau quát lớn :
- Ta ở đây !
Cái quạt của Âu Dương Nhi bỗng như chậm lại tâm trí lập tức lờ đờ.
Lần thi triển Hắc Ma Nhãn này, Thổ Lợt Đăng Ma đã tập trung tận lực cùng kình lực vì con đường sinh tử của mình, không như những lần giao đấu tầm thường ở lôi đài hôm trước, và lão ta cả mừng xốc tới, hai tay công đến lẹ làng.
Âu Dương Nhi vốn là một kệ có căn bản chân truyền danh gia võ học, túc căn đầy đủ nhơn hạng đâu phải tầm thường, nên vừa cảm thấy tinh thần phân tán, công lực giảm suy, vội vã hít mạnh chân nguyên vận khí đan điền, một luồng hơi nóng xông luôn vào tử khuyết, xông thẳng đến Não môn, lập tức tinh thần trở lại binh thường, hừm lên một tràng :
- Thằng giặc chó thật ác .
Liền theo đó Âu Dương Nhi lật nghiêng cái quạt như ngọn gió xé mây: lia phắt xuống chân của nhà sư Tây Vực.
Không ngờ tinh thần công lực lại không chế ngự được đối phương.
Thổ Lợi Đăng Ma hoảng hốt, nhãy chệch sang bên trái.
Phàm những kẻ sử thông công lực tinh thần, mà bỗng nhiên sợ sệt tán loạn thì chẳng những ma công bị hoàn toàn tiêu hủy mà cả đến nội kình căn bản cũng bị giảm suy.
Nhà sư Tây Vực đang lâm vào tình trạng đó .
Trong lúc ấy Âu Dương Nhi công thế gia tăng mãnh liệt, ào ào như mưa rơi trên tàu lá, liên tục vũ lộng cái quạt sắt nhầm vào những huyệt đạo yếu hại của Thổ Lợi Đăng Ma tấn công tới tấp.
Cây Long Hổ trượng mất luôn từ khi bị đánh rớt đài, nhà sư Tây Vực bây giờ chỉ còn hai cánh tay không. bị một loạt chiêu công dồn dập, tay chân quýnh quáng cơ hồ mất luôn thế thủ. Song nhờ học được Ngũ Độc Kỳ Kinh từ dạo đó đến nay, bản lãnh khá thâm hậu, cho nên trong lúc bối rối kịp thời trấn tĩnh, giương ra tay áo rộng, sử xuất Khẩu Dẫn Công phu.
Người áp dụng Khẩu Dẫn công phu, thân hình chuyển động như con trùng xuyên qua lòng đất xốp mục tiêu không đổi mà toàn thân uốn khúc và sự xê dịch tấn công cũng nhanh nhẹn tiến hóa dị thường.
Trong cái công thế đó, khi bên trái khi bên phải, chớp qua nhoáng lại, Thổ Lợi Đăng Ma bám riết theo cái quạt của gã công tử họ Âu Dương.
Mặc dù sự linh động không kém, và công phu điểm huyệt của y cũng quá ư dữ dằn, song nhất thời, Âu Dương Nhi cũng khó lòng áp đảo được nhà sư Tây Vực.
Song phương, kẻ công người thủ một tới một lui, tấn công ào ào như gióng mưa sấm sét tránh né thân hình dịu mềm như không có một dốt xương. Dữ tợn lạ lùng, họp lại thành những pha cực kỳ đẹp mắt.
Chư tử Toàn Chân cũng chăm chú say mê trận đấu.
Qua phút giằng co, Âu Dương Nhi thình lình quát lên một tiếng chiêu thức tức thật biến đổi. Bắt đầu cuộc đấu đến phút này, cái quạt của âu Dương Nhi xếp lại, sử dụng Thái Ất hỗn nguyên, long xà phỉ vu, thuần về việc điểm huyệt địch nhân.
Bây giờ, gã mở bung cái quạt đập xuống chém qua, phất lên, cản lại, từng chiêu từng thức cực kỳ mau lẹ. Không những thế cánh tay hữu của gã, năm ngón giương ra chơm chởm.
trong bóng quạt chập chờn trùng trùng lớp lớp như muôn ngàn lướt sóng ùn ùn dập xuống ẩn đàng sau năm ngón tay như năm chiếc móc sắt bủa vào huyệt đạo đối phương so với lúc đầu, công thế tăng cường gấp bội.
Khưu Xử Cơ thấy công phu của nhà sư Tây Vực bị khắc chế dầu thủ còn không muốn nổi thì làm sao phát động được thế công .
Mã Ngọc trừng mắt khều Khưu Xử Cơ :
- Sư đệ, võ công của chàng công tử này, bây giờ ngu huynh đã khám phá ra rồi. Nó thuộc môn phái Tây Vực của Âu Dương Phong đấy .
Chợt Âu Dương Nhi hú dài lên một tiếng rợn người, tay phải quạt lên một cái theo thế Mục Tống Phi Hồng thân ảnh phi lên sử dụng một hư chiêu, đồng thời tay trái nắm lại, xoè chảo ra thành chưởng thế tống ngay vào giữa ngực Thổ Lợi Đăng Ma.
Bình !
Thân hình cao nghệu của nhà sư Tây Vực nhào ngược mấy vòng trong không khí Trận ác đấu bước vào giai đoạn khẩn trương. Chư tử Toàn Chân theo dõi không chớp mắt.
Với nội lực xấp xỉ hàng cao thủ võ lâm, qua một chưởng nặng nề Thổ Lợi Đăng Ma nghiến răng trục bộ, và thật là bất ngờ, trong cơn xính vính, lão ta lại moi ra một món binh khí.
Thật ra không ai có thể đoán được đây là sự tình cờ hay chân ý. Khi thân hình còn đang chới với chân chưa vững được trên mặt đất.
Thổ Lợi Đăng Ma bỗng bấu tay vào ngay lưng, giật phắt sợi dây dát kim tuyến của mình, rẹt lên một cái. Từ sợi dây mềm mại, qua cái giật mạnh với mấy thành tiềm lực đã thẳng lên như một chiết roi da dài ba bốn thuớc và ào ào, Thổ Lợi Đăng Ma vận kình lực quét mạnh ngang đầu gối của gã công tử Âu Dương, như một luồng gió mạnh cuốn tung mặt đất.
Âu Dương Nhi cứ tưởng một chưởng của mình nếu không kết liễu, thì trận đấu sẽ đổi thay, mà phần thắng phải về mình,bất ngờ đối phương bỗng trả lại được một đòn ác liệt .
Gã đâm ra hoảng hốt phi thân lùi mấy bước.
Đẩy lùi được đối phương, nhà sư Tây Vực không vội tung theo, thò tay vào lưng móc ra một quả thiết cầu.
Nói thiết cầu, nhưng thật ra có lẽ đúc bằng một loại đồng, vỏ chiều lên lấp lánh. Quả cầu này lớn độ bằng nắm tay trên đầu có một cái móc nhỏ.
Thổ Lợi Đăng Ma xỏ sợi dây đay vào trong cái móc đó và Quả cầu vụt bắt ra quay tròn vun vút, nối liền với cánh tay của nhà sư Tây Vực bằng sợi dây đay.
Âu Dương Nhi cười khanh khách :
- Thằng giặc chó bày cái trò gì thế Hãy xem thủ đoạn của tiểu gia đây.
Lập tức chiếc quạt hoa lên như một bờ tường sắt vừa ngăn chận, vừa vừa tìm cách đánh bạt thiết cầu.
Một chuyện lạ lùng là trái cầu của Thổ Lợi Đăng Ma lại là trái cầu rỗng ruột và bên trong dường như có những viên đạn nhỏ, nên càng rung lên, càng nghe tiếng khua vang.
Mã Ngọc vừa nghe qua, biến sắc kêu lên :
- Các sư đệ ! Hãy bịt lỗ tai lại .
Tiếng khua củi chiếc cầu cũng là một loại tinh thần công phu.
Quả đúng như lời của Mã Ngọc tiếng cầu vừa reo lên mấy loạt các đệ tử Toàn chân kể cả nhóm Võ Đang chợt nghe tâm thần rối loạn, họ vội vàng xé khăn nhét bít lỗ tai, đồng thời tất cả đều ngồi xếp bằng dưới đất, vận vội kình tâm pháp, hồi lâu mới đẩy lui được cái tiếng câu hồn quái ác ấy .
Lúc bấy giờ chư tử Toàn Chân mới định thần quan sát trận đấu, thoáng liếc qua thân pháp của gã công tử họ Âu Dương làm cho tất cả giật mình.
Tuy vẫn giao đấu với Thổ Lợi Đăng Ma, nhưng tinh ý trông vào, thì rỏ ràng chiêu thế của âu Dương Nhi đã có chiều gắng gượng bộ mặt trắng xanh của gã bây giờ đã hóa ra hồng tay chân bắt đầu chậm chạp .
Khưu Xứ Cơ vốn là một con người tốt bụng, tuy không có thiện cảm với âu dương Nhi, nhưng thấy gã bị Nhiếp Hồn Pháp của Thổ Đăng Ma đẩy vào tử địa, chàng bất nhẫn day qua Mã Ngọc :
- Sư huynh ! Gã thư sinh cuống ngạo dó không phải là địch thủ của tên hòa thượng quỷ, hắn sẽ bị hại bây giờ Chúng ta phải giúp hắn.
Mã Ngọc lắc đầu :
- Không được, tên đó khinh người lắm, vừa rồi sư đệ không nghe những lời phách lối của y sao , Hắn có xem bọn ta vào đâu mà giúp .
Khưu Xử Cơ nói :
- Tuy vậy nhưng tên hòa thượng đó là cái giống hại người, chúng ta đã vì thế nhân diệt ác, thì đâu lại đi câu nệ những việc như vậy.
Mã Ngọc nhướng mắt mỉm cười :
- Sư đệ có lý, Ngu huynh có một cách này không cần phải nhảy vô giúp hắn, cũng có thể phá được Nhiếp Hồn Pháp của ác tăng.
Khưu Xử Cơ cả mừng :
- Sư huynh, cách gì đó ?
Mã Ngọc nói :
- Sư đệ, em biết thủ pháp ném tiền chứ. chỉ cần làm thế cũng đủ phá độc thủ của lão ác tăng.
Khưu Xử Cơ chợt hiểu, mỉm cười :
- Hãy làm thế thử xem.
Chàng bèn móc ra mười mấy đồng tiền, cánh tay trái vung lên, một đồng tiền thoát ra xẹt tới. Thủ pháp ném tiền này vốn có thể dùng đánh kẻ địch giống như cách ném phi tiểu. Phần nhiều là ném vào đôi mắt và ba mươi sáu đại huyệt trên thân thể.
Khưu Xử Cơ cũng dùng phép đó, nhưng không đánh người mà lại ném vào khoảng trống trên đầu của Âu Dương Nhi.
Khi dộng tiền bay tới giữa đỉnh đầu của gã công tử phách lối đó, thì chàng lại vẫy tay lên một lần nữa, đồng tiền thứ lại vút tới.
Keng....
Cạnh đồng tiền thứ hai, trúng ngay giữa đồng tiền thứ nhất kêu lên một tiếng, lửa văng tung toé.
Bị tiếng reo liên hồi trong quả cầu đồng của Thổ Lợi Đăng Ma làm choáng váng, đầu óc quay cuồng, Âu Dương Nhi tuy cố gắng định thần và vẫn miễn cưỡng giao dấu, nhưng gã cảm thấy cơ thể như lửa đốt, hơi nóng bừng xông lên làm cho đôi mắt đổ hào quang, chiêu thế đã có phần rời rạc.
Lạ làm sao Hai đồng tiền của Khưu Xử Cơ ném ra chỉ chạm vào nhau phát lên một tiếng, hòa vào âm thanh hỗn tạp bởi quả cầu đồng của Thổ Lợi Đăng Ma, bật nên rõ ràng như giếng khánh ngân, Âu Dương Nhi vừa thoáng nghe qua, tri giác bỗng bừng tinh dậy. Gã bèn lật nghiêng cây quạt nhằm ngay eo lưng của tên ác tăng phạt tới.
Thổ Lợi Đăng Ma biết cây quạt của Âu Dương Nhi lợi hại như đao bén, nếu bị nó trúng vào mình, lập tức sẽ đứt làm hai khúc, lão ta bèn lật đật nhảy lùi lại đằng sau.
Khưu Xử Cơ Y theo cách cũ ném ra. Hai đồng tiền lại kêu lên một tiếng nữa.
Tiếng ngân của đồng tiền lọt vào tai Âu Dương Nhi, Y như là uống một thang thuốc tỉnh táo, liền thi triển Vân Ma Tam Vũ tuôn ra một lượt 4 chiêu hư hư thực thực, chụp xuống thân hình của lão ác tăng.
Thổ Lợi Đăng Ma không dè đệ tử Toàn Chân ném kim tiền khua động phá vỡ Nhiếp Hồn Pháp của mình, lão ta rúng động tán loạn thân pháp.
Bởi vì sự truyền dộng thanh âm của trái cầu đồng của nhà sư Tây Vực, cũng là một loại linh thần công phu, điều tối kỵ của nó là bị ngoại vật quấy rầy, nhất là những tiếng khua đồng kim loại thình lình đưa tới và như vậy công phu về Nhiếp Hồn Pháp kể như bị tiêu tan.
Thổ Lợi Đăng Ma thấy biện pháp của mình bị phá, chỉ còn cách chạy là hơn lão ta liền trầm sợi dây da vung mạnh một vòng, trái đồng cầu nhào lộn reo lên một loạt, cố làm cho Âu Dương Nhi bất phòng, vận dụng Quyển Điểu Xuyên Lâm, nhấn mạnh hai chân, phi thân lao thẳng vào góc rừng bên trái.
Chuyện xảy ra, ngoài ý liệu của Âu Dương Nhi và chư tử Toàn Chân, họ đồng quát lên một tiếng, dợm phóng theo cản lại.
Đột nhiên Từ trong rừng, nổi lên một giọng cười rộn rã, như tiếng chuông rền tiếp theo, một loạt kình khí tuôn ra, bật lên hai tiếng "bình, bình" chiếc thân hình cao lớn của lão ác tăng Tây Vực bắn ngược trở lại, lộn nhào mấy vòng, nằm dài trên mặt đất, im lìm.
Chư tử Toàn Chân không ngờ lại có người mai phục, mà người ấy qua giọng cười và nội tức của kình phong, quả là một võ lâm cao thủ. Họ nhìn nhau kinh ngạc .
Âu Dương Nhi rít lên một tiếng, nhảy tới xé toạc thân áo của tão ác tăng. Quả nhiên một gói vải dầu giắt nơi trước bụng ló ra gã công tử họ Âu Dương chớp lấy, đúng là quyển Ngũ Độc Kỳ Kinh mà lão ta lấy trộm ở Bạch Đà Sơn .
Và không chút lưu tình không cần hào khí võ lâm đối với địch thủ bị ngất, gả công tử xứng danh là cháu của Tây độc Âu Dương Phong đâm cây quạt sắt ngay vào bụng của Thổ Lợi Đặng Ma.
Một tiếng "soạt" khá khô khan đến ớn lạnh, gan ruột đổ ra đầy trên mặt đất, lão ác tăng Tây Vực rú lên một tiếng, thân hình run rẩy đứt hơi tức thì .
Chư tử Toàn Chân là kẻ tu đạo, tuy hành hiệp giang hồ diệt ác nhưng từ xưa đến nay chưa khinh sinh mạng một ai. Thấy Âu Dương Nhi thủ đoạn quá hung tàn, lòng bỗng sinh điều trắc ẩn, cúi đầu niệm Phật.
Âu Dương Nhi sắc diện không hề động móc trong lưng ra một gói thuốc bột rải lên mình của Thổ Lợi Đăng Ma, trong giây phút thi thể lão ác tăng chỉ còn trơ lại một đống nước vàng. Thật là một thứ thuốc hóa cốt cực mạnh kinh người.
Gã công tử họ Âu Dương xây mình qua các đệ tử Toàn Chân, khe khẽ vòng tay :
- Cám ơn Chư vị đã có lòng !
Và ngang nhiên đi thẳng.
Khưu Xử Cơ vụt kêu giật lại :
- Hãy khoan . Các hạ, xin lưu danh hiệu .
Thanh âm dậy chứa nội lực của chàng vang động rừng cây làm cho gã công tử họ Âu Dương giật mình khựng lại nhưng thoáng qua, hắn lấy lại vẻ bình thường, quay đầu cười nhạt :
- Chư vị có lòng tương trợ, nhưng vì chú tôi đã ra nghiêm lệnh không cho nói rõ danh tính của người, luôn cả tên họ của tiểu đệ.
- Xin hẹn gặp lại !
Dứt lớt gã điềm nhiên cất bước.
Chợt giọng cười như lệnh vỡ từ trong rừng lại nổi lên :
- Oắt con lão độc vật có cho ngươi dọc đường làm chuyện bẻ hoa hay không . Ba thiếu nữ mất tích ở tương Dương còn chưa chịu để lại à Có muốn ta làm y theo cách ngươi đã làm với Thổ lợi Đăng Ma không ?
Những lời nối từ trong rừng phái ra, làm cho chư tử Toàn Chân kỉnh ngạc :
- A ! Té ra chàng công tử phong do quý phái. Này là cháu của Tây Độc Âu Dương Phong, mà cũng là thủ phạm trộm tại thành Tương Dương nữa, chúng ta thiếu chút nữa dã lấy sắc diện mà đoán sai người rồi.Thật là một nhân vật không biết điều hổ thẹn.
Âu Dương Nhi nghe mấy câu nói đó gương mặt trắng bỗng tái bầm, quay phắt lại phía rừng cây mắng lớn :
- Tên thất phu nào dó dám ngậm máu phun người, nói càn nói bậy như thế ?
Nói chưa dứt lời, từ trong rừng bỗng ào ào tuôn ra một loạt những viên sỏi nhỏ, nhắm ngay mặt gã công tử Âu Dương bay tới.
Âu Dương Nhi tay lẹ như có mắt, bung cây quạt sắt đở liền.
Soạt !
Soạt ?
Chỉ nghe âm hưởng lào rào, mặt quạt của gã đã bị những vật tròn nhỏ bé bắn vào, lủng gần ba chục lỗ.
Âu Dương Nhí hoảng hốt tái mặt.
Bởi vì cây quạt của gã tuy có một thứ tơ lụa bọc ngoài nang sắt nhưng khi sử dụng đã vận kình khí biến thành một bức tường đồng, sức đề kháng cực kỳ vững chắc. Không ngờ bị người ném sỏi làm cho mặt quạt thủng như mặt rổ .
Âu Dương Nhi cúi đầu dòm xuống dưới chân, quyết xem những vật phá thủng quạt mình thuộc loạt ám khí gì, nhưng khi nhìn thấy, gã dửng người lỡ cười lỡ khóc.
Thì ra, vật làm thủng chiếc quạt sắt của gã không phải món ám khí gì cả mà là một nắm đậu phộng rang.
Bọn Mã Ngọc nhìn thấy cũng giật mình, vừa kinh hãi vừa phục.
Căn cứ vào kình lực đó, người ở trong rừng nếu không phải Đông Tà, Tây Độc Nam Đế thì là Bắc Cái chứ không một người vào khác.
Âu Dương Nhi gặp gở phen này quả là việc không may.
Gả công tử âu Dương nghe tim đập thình thịch, nhưng ngoài mặt vẫn còn gượng gạo :
- Người nào đó bản lãnh khá đấy, có lẽ cũng là hạng tiền bổi cao nhân, tại sao lại thập thò tránh né không ra mặt với mọi người .
Gã nói chưa dứt, thì từ trong rừng cây, một tràng cười ra rả. Nổi lên :
- Thằng nhỏ quáng manh. Người còn dám thách đố à ?
Lời nói đến đó bỗng nhiên ngừng lại, và một tiếng động thực khẽ dường như người đó đã nhảy vụt lên ngọn cây, nói tiếp :
- Chó con ! Người gọi ta ra giao đấu à ? Chuyện đó còn sớm lắm ? Trước hết ngươi hãy tiếp hai vật của ta đã. Nếu ngươi đỡ nổi, ta sẽ ra đấu ba chiêu, bằng người không nổi, ta cũng rộng lượng buông tha sinh mạng, nhưng phải cúp đuôi chạy về mà ngó mặt lão chủ của ngươi. Còn ba người thiếu nữ ngươi bắt đó, ta đã thả cả rồi. Đón đây !
Tiếp theo câu nói, một vật từ trong bay ra, xẹt thẳng vào mặt gã công tử bột.
Âu Dương Nhi nghe nói ba người con gái mình bắt cóc đã bị người đó thả hết gã vừa sợ vừa tức, song chưa kịp nói gì, thì vật người ấy ném đã vù vù bay tới.
Gã chú mục nhìn qua thấy vật đó không phải ám khí, mà là một cái chén rượu Âu Dương Nhi còn đang kinh ngạc, chỉ nháy mắt chén rượu đã vù tới trước mặt Không còn cách nào né kịp, gã vội vàng sử chiêu Hồng Vân Thác Nhật bung mạnh cây quạt, hất ngược trở lên, định gạt chén rượu ra ngoài.
Không ngờ cây quạt và chén rượu vừa đụng nhau, đánh "cong" lên một tiếng, cánh tay Âu Dương Nhi dội ngược, hổ khẫu. đau như muốn tét, chén rượu bằng đá bể ra, miếng văng vào mặt vào đầu làm cho gã nghe nhức nhối chịu không muốn nổi, buột miệng la lên :
- ái cha !
Tiếng la vừa thoát ra khỏi cổ, từ trong rừng tiếng cười lại vọng ra :
- Oắt con còn một vật nữa !
âu Dượng Nhi vừa kịp nhận ra cát bầu rượu bằng thiết thì kình phong đã ào tới như núi sập, mồ hôi lạnh toát ra đầy mình của gã.
Nghĩ rằng vật trước chỉ là một cái chung nhỏ bằng đá mà thấy kình lực còn mạnh tợ như thế, huống chi cái bình thiết này vừa lớn vừa nặng hơn thì sức đập của nó sẽ dữ tợn gấp mấy lần.
Gã chỉ còn cách vận hết nội lực lấy đà để nghiêng trợt ra một bên.
Khi cái bình vừa chạm vào cây quạt, Âu Dương Nhi nhanh như cắt lùi hơn mười bước, hai chân chòi trên mặt đất cát lún xuống có đường như lấy cây xéo. Chiếc quạt sắt của gã đã gãy lìa thành hai khúc.
Âu Dương Nhi nghe mình mẩy đau như dằn, tay chân rời rã đứng không còn muốn vững.
Cũng may gã đã vận hết toàn thân công lực lên hai cánh tay, không thì, cả quạt cả bình sẽ đập tan mặt gã.
Âu Dương Nhi mặt mày tái mét vứt khúc quạt còn lại trên tay xuống đất co giò phóng tuốt.
Từ trong rừng, tiếng cười ha hả lại nổi lên :
- Thằng chó chết, đẹp chưa ! Mau cút về Tây Vực, bảo lão chú của ngươi truyền cho mười năm nữa rồi hãy sang đây .
Bọn Khưu Xử Cơ từ lúc cải chén và bình rượu bay ra, đã lờ mờ nhận biết người trong ấy là ai rồi, cho nên sau khi Âu Dương Nhi bỏ chạy Mã Ngọc bèn liếc mắt ra hiệu cho các sư đệ, tất cả đều quỳ xuống day mặt vào rừng :
- đệ tử Toàn Chân giáo, xin tham kiến Hồng lảo tiền bối bang chủ Cái Bang !
Người trong rừng chỉ một vài ngón nhỏ đã đánh bại Âu Dương Nhi, không phải là ai xa lạ, chính là Hồng thất công Bắc cái
Ông cả cười nói với đám tiểu hùng:
- Không cần quá thủ lễ ! Ta với lệnh sư vốn là chỗ tâm giao, các tiểu hiệp không cần phải lễ bái lão già này làm chi. hãy đứng dậy.
Các đệ tử Toàn chân lại cúi đầu mấy lượt rồi mới đứng lên.
Hồng Thất Công vẫn ở trong rừng nói vọng ra:
- Các tiểu hiệp giữ lễ đã xong rồi, bây giờ lão ăn mày xin đi đây ! Cảnh thiên Kiệt là tên đại gian tư thông Kim quốc, vừa rồi lời nhận tội và hứa hối cải trước mặt các tiểu hiệp, đều là lời nói dối, không nên dung túng cho những kẻ như thế ! Hãy trở lại mà trừ hoạ cho dân, cho nước.
Mã Ngọc cúi đầu vâng dạ ...
Hồng thất công lại nói:
- Giết Cảnh thiên Kiệt xong, các đệ tử nên quay về giang bắc không nên ở lại Giang nam này làm chi. Thôi xin kiếu vậy !
Lời vừa dứt chỉ thấy ngọn cây khẽ động, như gió thoảng nhẹ lay, thanh âm vừa dứt thì hình bóng cũng không còn thấy đâu nữa.
Khưu xứ Cơ thở dài:
- vị lão tiền bối ấy trọn đời như thế ! Thật là một con người đáng kính.
Mã Ngọc hỏi:
- Hồng lão tiền bối có căn dặn chúng ta trở lại Cảnh gia trang. Nhưng bây giờ trời đã sáng rồi ! để lại tối mai không biết có nên chăng ?
Hách đại Thông nôn nóng lên tiếng:
- cần gì phải chờ đến tối ! Những kẻ liếm gót bọn chó Kim, như tên họ Cảnh có chém đầu nó giữa ban ngày cũng chẳng hại gì ...
Chư tử Toàn chân nghe rồi ai cũng lộ nét đồng tình:
- Hay lắm ! đi thôi ....
Cảnh Ngọc Hư và bốn người đệ tử Võ đang cùng họp với chư tử toàn chân, gồm cả thảy mười người, thẳng riết tới Cảnh gia trang
Cánh cửa nặng dày qua mấy lớp then đóng chặt, Cảnh gia trang dường như đã có một sự phòng vệ gắt gao.
Khưu xứ Cơ vừa mới tuốt kiếm định nhảy lên đầu tường quan sát, chợt nghe trên lầu có tiếng khua động, rồi thình lình tên nỏ bắn xuống như mưa.
Khưu xứ Cơ hét lên một tiếng, phi thân vút thẳng lên lầu, cây kiếm trên tay loang loáng, lia ngã một hơi mấy gã tráng đinh.
Bọn Mã Ngọc, Cảnh Ngọc Hư cũng phóng mình lên ngõ cửa lầu. Nơi đây có mấy mươi bộ hạ của Cảnh gia trang đang núp sẵn ào ra chỉ trong thoáng mắt bị ngã hết phân nửa còn bao nhiêu rút chạy ra sau.
Tất cả các đệ Võ Đang, Toàn Chân, xông thẳng vào trang viện. Chợt nghe bốn phía giây cung rung lên bần bật, khắp nơi tên xạ ra như cào cào bay, nhưng họ vẫn hoành tay kiếm múa tít tạo thành một bức tường kiếm quang vẹt rừng tên lướt tới.
Bỗng nghe mấy tiếng nổ vang lên, từng bưng khói đen xông mù trong đại sãnh.
Mã Ngọc thoáng thấy, thét lên :
- Cảnh Thiên Kiệt phóng hỏa" Trang biện để đào tẩu, hãy cấp tốc rượt theo.
Chợt một giọng oang oang nổi lên từ trên mái ngói :
- Yêu lão Họ Cảnh đã có đây, đón lấy !
Khưu Xử Cơ mừng rỡ kêu lên :
- Hồng lão tên bối !
Quả đúng như lời Khưu Xử Cơ, trên nóc sảnh hiện ra một lão ăn mày áo rách, lưng quảy bầu rượu nách kẹp một gã béo núc ních chính là tên phú hào họ Cảnh.
Hồng Thất Công gọi lớn :
- Tên Hán gian giảo hoạt này, thấy chư vị đến đây, hắn lập tức phóng hỏa để "thoát chạy, tình cờ ta đến kiếm rượu uống trông thấy liền thuận tay điểm vào huyệt của hắn và mang hắn đến cho chư vị, hãy đón lấy .
ông vừa nói vừa xách Cảnh Thiên Kiệt ném tới. Khưu Xử Cơ và Mã Ngọc vung hai thanh trường kiếm, chỉ thấy ánh thép lóe lên, chiếc thân phì nộn của tên Hán gian họ Cảnh đã rơi làm ba khúc.
Cảnh Thiên Kiệt chết rồi, bọn thủ hạ Cảnh giả trang như rắn mất đầu, xơ rơ tứ tán. Lưỡi lửa từ trong đại sãnh liếm thẳng lên trên nóc.
Lửa phát lên hú gió, gió kéo về đưa lửa lan ra, trong khoảnh khắc cả trang viện mênh mông, biến hẳn thành một góc trời đỏ rực.
Chư tử Toàn Chân lìa Tương Dương phủ, lên đường trở lại Tung Sơn.
Hết
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top