Võ Lâm Ngũ Bá (8~18)
Hồi 8
Kỳ Trận Trên Hoang Đảo
Vương Trùng Dương đi một vòng ở phía Bắc từ Cự Dung Quan ra Trường Thành xuyên vào nội địa Mông Cổ, đến Liêu Đông, lại dạo chơi ở vùng Sơn Đông nửa năm rồi mới trở về bờ biển Liêu Đông. Từ Đinh Khẩu ngồi ghe qua Bột Hải đến Đăng Châu, vừa đi vừa ngắm phong cảnh, vừa dò xét dân tình, đồng thời cũng để kết giao với anh hùng trong thiên hạ. Nếu cứ theo đường lối ấy thì Vương Trùng Dương phải từ Đăng Châu đi sâu vào Liêu Đông, tới Lỗ Nam rồi trở về Hà Nam, Trung Châụ
Nhưng chàng muốn thêm kiến thức nên không đi đường bộ, mà từ Giang Châu dùng thuyền đến Giang Tô, rồi lại từ Trường Giang trở về nội địạ Đi đường này rất xa, phải ngang qua Hồng Hảị Nếu thuận gió thì đi mất mười ngày, còn nghịch gió thì có khi hàng tháng trời mới đến.
Vương Trùng Dương muốn được yên tỉnh nên đã thuê bao cả một chiếc thuyền lớn nói rõ là đến Giang Tô, rồi lại đi Nam Thông.
Trùng Dương giao cho ông lái đò một số tiền trước để mua sẵn lương thực, tích trữ nước uống, rồi chọn ngày tốt để khởi hành.
Từ Đăng Châu thuyền đi vòng qua Lao Thiết Sơn Đầu ở phía Bắc, Sơn Đông bán đảo là Hồng Hảị Vương Trùng Dương sinh trưởng ở Trung Châu, đã mười năm trời nay, đã đi khắp từ Miêu Cương đến Mông Cổ, nhưng chưa từng đi đường thủy, nay thấy trời cao, bể rộng, sơn thủy hữu tình thì trong lòng rất thỏa thích thì nghĩ rằng :
“Ngày xưa đức Khổng Tử đăng Thái Sơn mà thấy thiên hạ, còn hôm nay ta đi biển cả mới biết vũ trụ bao la, thật là “Đọc vạn thư bất như hành thiên lý lộ”.
Mặt trời vừa lặn. Màn đêm rơi xuống, mây nước một màu đen kịt, sóng nước vỗ mạn thuyền rì rào đều đềụ
Đằng sau lái một giọng ca ngâm sang sảng tả cảnh giang hồ vang lên, Trùng Dương thấy muôn phần sảng khoái, bèn mang rượu ra mũi thuyền rồi mời thuyền chủ cùng nhấp nhám.
Cá tươi lấy ở dưới bể đem lên luộc làm thức nhấm, còn gì thú hơn? Xa mút phía chân trời, vầng trăng mới ló ra khỏi mặt nước, chiếu hắt lên không trung một màu trắng xanh trong vắt.
Trên mặt biển lăng tăng sóng gợn, phản chiếu ánh trăng như trăm nghìn con rắn bạc lội nhởn nhơ. Rượu đã ngà ngà, thuyền chủ mới đem chuyện nhà kể lại cho Trùng Dương nghẹ
Ông ta họ Đinh tên Nhị Mao, chuyên sống trên mặt bể từ thưở nhỏ. Đinh Nhị Mao có hai người con trai, người con thứ nhất đặt tên là Đinh Cương, người thứ hai tên là Đinh Nghĩạ
Cả hai tuổi đã trưởng thành mà chưa lập gia đình, cùng theo ông nối nghề đi biển.
Trong lúc tửu hứng, họ Đinh mang những kinh nghiệm trong nghề ra nói như lúc khí trời thay đổi, nhìn mây biết trước được những cơn giông tố hoặc những trận cuồng phong; nhìn chim bay đoán biết được thời tiết sắp đổi thay và kể những loại cá kỳ dị mà trên đất bằng không ai được biết.
Tửu nhập ngôn xuất, liên tu bất tận cho đến lúc cả hai say khướt mới vào trong khoang nghỉ ngơị Con thuyền đi trong biển cả mênh mông chỉ có trời với nước, không trông thấy đâu là bờ.
Họ Đinh cứ theo hướng mặt trời mà đi, đêm thì nhìn sao Bắc Đẩu làm phương hướng. Nước ngọt chứa theo thuyền đã gần cạn.
Người đi biển sợ nhất là nước uống. Hết lương thực còn có thể nhịn được năm, bảy ngàỵ Nhưng hết nước uống thì sẽ chết khát ngaỵ
Họ Đinh nóng lòng lo sợ, cho thuyền ghé vào những hòn đảo nhỏ kiếm nước ngọt. Nhưng đã ghé vào mấy hòn đảo mà không thấy nơi nào có nước ngọt cả.
Lúc bấy giờ nước ngọt mang theo chỉ còn uống độ một ngày nữa là hết.
Mọi người đều hết sức kinh tâm, nhưng không biết làm cách nào, đành phó cho sự may rủị Con thuyền căng gió cứ vùn vụt lướt đi trên mặt nước.
Sự lo âu đều hiên lên trên nét mặt mọi người, họ Đinh, thỉnh thoảng lại chạy ra đầu mũi thuyền nhìn ngó khắp mọi nơi, nhưng lần nào cũng lắc đầu thất vọng.
Qua một đêm dài buồn bã, sáng hôm sau bỗng thấy Đinh Cương reo to :
- Phụ thân ơi! Đằng trước mặt có một hòn đảo lớn lắm.
Đinh Nhị Mao cả mừng lật đật chạy ra ngoài mũi thuyền nhìn theo tay chỉ của Đinh Cương thì quả nhiên về phía Bắc có một hòn đảo lớn hiện rạ
Trên đảo có liên tiếp ba ngọn núi màu xanh xẩm. Đinh Nhị Mao là tay lão luyện trong nghề hàng hải, thoáng trông biết ngay là hòn đảo có nhiều cây cối mọc, cho nên mới có màu xanh thì cả mừng, vội gọi bạn chèo hạ bớt buồm xuống dùng chèo bơi nhằm hướng Bắc tiến tớị
Độ một canh giờ thì quả nhiên đã đến phía đông hòn đảo ấỵ Đinh Nhị Mao sai người con lớn là Đinh Cương lên đảo tìm nước rồi về thuyền báo cho mọi người biết để mang thùng đi lấỵ
Đinh Cương tuân lời, nhưng đi tới hơn một canh giờ mà không trở về. Đinh Nhị Mao nóng ruột vô cùng, lẩm bẩm :
- Thật là đồ vô dụng. Kiếm có một chút nước mà đi tới nữa ngày cũng không xong. Đinh Nghĩa! Con thử lên đảo tìm xem, coi anh con đang ở đâủ
Đinh Nghĩa nghe cha bảo liền đem theo một cái đinh ba, để đề phòng sự bất trắc. Chẳng ngờ, Đinh Nghĩa đi có tới hơn canh giờ nữa mà cả hai cũng chẳng ai trở về.
Đinh Nhị Mao thấy tình hình như thế thì không giấu nỗi cơn lo lắng, tức giận nói lớn :
- Kỳ thật! Sao đứa nào cũng mất hút. Chúng bây hãy ở đây giữ thuyền để ta thân hành đi thử xem saọ
Lúc đó trời đã hoàng hôn, Vương Trùng Dương thấy vậy bèn nói với Đinh Nhị Mao :
- Lão trượng đợi tiểu sinh cùng đi vớị
Đinh Nhị Mao thấy Trùng Dương dáng người nho nhã như một thư sinh, thì nói :
- Đường trên hoang đảo gập ghềnh khó đị Công tử là người văn nhược sợ đi không được.
Vương Trùng Dương mỉm cười :
- Không sao! Tiểu sinh đủ sức. Xin Lão trượng cứ yên lòng.
Nói xong họ Vương nhún mình nhảy vọt lên bờ, nhanh như chim bay không hề phát ra tiếng động. Đinh Nhị Mao giật mình ngạc nhiên nhìn Vương Trùng Dương nói :
- Té ra công tử cũng biết võ nghệ nữa saỏ
Trùng Dương cười :
- Tiểu sinh cũng có học chút đỉnh.
Đinh Nhị Mao lúc đó mới cất tiếng cười ha hả và nói :
- Trông mặt đoán người đôi lúc cũng sai quá. Trông công tử nho nhã thư sinh, trói gà không chặt, chẳng ngờ tài nghệ lại cao cường như thế. Xem cách công tử phi thân vừa rồi cũng đủ biết rõ.
Nói dứt lời họ Đinh bước xuống nước và lội vào bờ. Đi qua một bãi cát, nghe tiếng nước chảy ào ào, Đinh Nhị Mao bèn nói :
- Ở bên đây có thác nước tại sao chúng không tới mà còn tìm ở tận đâu thật là hai thằng vô dụng.
Vương Trùng Dương cùng Đinh Nhị Mao đi tới tận cùng bãi cát, bỗng thấy phía trước có con đường hẹp ở giữa hai cửa núị Ở ngay đường đi có mấy đống đá như có tay người sắp đặt. Mới thoạt trông thật là vô trật tự.
Vương Trùng Dương để ý nhìn một lát, bỗng giật mình kêu lên :
- Lạ thật! Không biết ai đã xếp những hòn đá này theo “Kỳ Môn Bát trận đồ” của “Gia Cát Võ Hầu” đã bày ở Tứ Xuyên?
Họ Vương thấy loạn thạch trận đồ này thì đoán ra ngay sự mất tích của hai anh em họ Đinh.
Đinh Nhị Mao chạy lại trước đống đá thì thấy có một vật sáng loáng nằm dưới đất, vội chạy tới nhặt lên xem thì nhận ngay ra đầu mũi đinh ba của Đinh Nghĩa thì hoảng hốt kêu to :
- Sao lại có mũi đinh ba này ở đâỷ
Nói đoạn ông lấy tay làm loa gọi lớn :
- Bớ Đinh Cương, Đinh Nghĩa!
Tiếng gọi của Đinh Nhị Mao vang vào vách núi đi rất xa rồi dội lạị Họ Đinh gọi luôn một hồi có tới mười câu mà chẳng thấy có tiếng trả lời, thì càng hoảng hốt. Vương Trùng Dương nói :
- Thôi Lão trượng đừng kêu nữa cho uổng công. Tiểu sinh chắc chắn là hai vị anh hùng đã bị vây khốn ở đống đá này rồị
Đinh Nhị Mao lấy làm lạ hỏi Vương Trùng Dương :
- Công tử nói saỏ Đống đá này mà bao vây được người à? Nếu thế thì chắc đảo này có yêu quái rồị
Vương Trùng Dương cả cười :
- Thiên hạ đâu có nhiều yêu quáị Lão trượng cứ đứng yên đây đừng đi đâu, để tôi vào trong kiếm lệnh lang chọ
Nói xong, Trùng Dương tung người dùng thuật khinh công nhảy vào trận đồ.
Đinh Nhị Mao chỉ thấy tà áo vàng thấp thoáng lẫn vào trong đống đá, nháy mắt đã không còn thấy tăm dạng chi nữạ
Vương Trùng Dương lúc ở hang Bách Cầm theo Thanh Hư chân nhân học đạo đã được sư phụ dạy bảo cho biết những Kỳ Môn Thuật Pháp, Ngũ Hành biến hóa nên khi nhìn Bát Trận đồ, họ Vương xem qua đã biết ngay thế phá. Thấy phía Nam là Sinh môn, chàng liền theo cửa đó bước vàọ
Đinh Nhị Mao theo lời dặn của Trùng Dương đứng yên tại đó chờ gần hơn nữa canh giờ mà chẳng thấy họ Vương trở ra thì bắt đầu nóng ruột.
Mặt trời sắp lặn, chỉ còn lấp ló trên mặt nước. Xa xa tiếng vượn hú trong hoang đảo từng hồi nghe não ruột. Đàn chim ríu rít gọi nhau về tổ, cảnh vật thật là vắng vẻ, đượm biết bao nhiêu sự huyền bí hãi hùng. Họ Đinh càng thêm lo sợ chưa biết tính sao, thật là tiến thoái lưỡng nan.
Đang cơn lo lắng ấy, thốt nhiên họ Đinh thấy Trùng Dương từ phía bắc đống đá chạy ra, hai bên nách cắp hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩạ
Đinh Nhị Mao cả mừng reo lên một tiếng cực lớn. Thoáng một cái Vương Trùng Dương đã chạy tới trước mặt Đinh Nhị Mao, đặt hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩa xuống đất.
Hai người dường như còn say ngũ chẳng biết gì cả. Đinh Nhị Mao lấy làm tức giận quát to :
- Hai tên súc sanh thật là vô dụng. Biết bao người chờ đợi lo lắng cho các ngươi mà lại chui vô đống đá ngủ say như chết thế kia thì lạ thật.
Nói xong, họ Đinh lộ vẻ tức giận xốc tới lấy chân toan đá hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩạ
Vương Trùng Dương thấy thế cản lại và nói :
- Không phải lệnh lang ngủ đâụ Đây là vì lạc vào Bát Trận đồ nên bị hôn mê, để tiểu sinh cứu tỉnh chọ
Nói xong, Trùng Dương ngồi xuống lấy tay chà sát người anh em họ Đinh.
Một hồi lâu anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩa mới ú ớ vài câu rồi mở choàng hai mắt ngồi phắt dậy nhìn quanh và nói :
- Trời! Sao tôi lại ở đâỷ
Đinh Nhị Mao dậm chân gắt lớn :
- Súc sanh! Thật là đồ ăn hạị Ta sai ngươi đi tìm mạch nước từ đầu giờ Mùi đến nay đã bắt đầu giờ Dậu mà cũng chưa chịu về, chúng bây lại chung vào đống đá ngủ say như chết. Nếu không có công tử đây vào bắt chúng bây ra thì có lẽ hai chúng bây ngủ luôn trong đó.
Đinh Cương ngơ ngác hồi lâu, nhìn đống đá và nhìn Đinh Nghĩa không biết trả lời thế nàọ
Vương Trùng Dương thấy tình hình như thế thì cất tiếng cười ha hả nói :
- Đinh nhị huynh vào trong đống đá rồi không biết đường ra có phải không?
Đinh Cương gật đầu và kể lại :
Chàng tuân lời thân phụ lên bờ, đi sâu vào trong hoảng đảọ Vừa qua bãi cát nghe rõ ràng tiếng nước suối chảy róc rách ở trong đống đá, trong lòng hết sức vui mừng, xăm xăm đi tới theo hướng tiếng nước chảỵ
Ở ngoài trong đống đá chồng chất dài ước độ vài chục trượng. Chẳng dè khi Đinh Cương bước vào trong, bỗng nhiên thấy quang cảnh biến đổi một cách kỳ dị.
Chàng cảm thấy hình như mình đang đi vào một cái hang sâu thăm thẳm, chung quanh như có cả trăm ngàn ngọn núi đá vây bọc bầu trời tự nhiên tối sầm lại, âm u mờ mịt.
Đinh Cương hoảng sợ vội quay mình trở lại, theo phương hướng cũ đi rạ
Chẳng ngờ đâu đâu cũng thấy núi đá, trùng trùng, điệp điệp. Quanh quẫn một lúc lại trở về chỗ cũ.
Đinh Cương lại nghe tiếng gió vi vu, dội vào vách đá phát ra những tiếng hú quái dị, ghê gợn thì chẳng còn hồn vía, cắm đầu chạy cho đến lúc quá mệt mõi ngã lăn xuống đất, mê man bất tỉnh.
Còn Đinh Nghĩa thì nói rằng :
- Sau khi nghe lời cha bảo, Đinh Nghĩa cầm chiếc đinh ba rời khỏi thuyền, lội lên bờ. Cũng đi qua đống cát theo vết chân của Đinh Cương tới đống đá, nghe tiếng nước chảy ào ào thì độ Đinh Cương đang ở trong đó.
Đinh Nghĩa gọi to lên nhưng chỉ nghe tiếng chàng vọng lại mà không thấy Đinh Cương trả lờị Đinh Nghĩa trong lòng hết sức lo ngại, sợ rằng có sự gì không tốt xảy ra cho Đinh Cương.
Chàng vội vàng đi vào trong đống đá theo hướng tiếng nước chảy mà thẳng tớị Chẳng dè khi vào trong, Đinh Nghĩa thấy một màu trắng xóa như mây mù nổi lên che kín những đống đá, chập chờn nữa tỏ, nữa mờ ẩn ẩn, hiện hiện như trong đám sương mù.
Đinh Nghĩa lấy làm lạ tưởng mình hoa mắt, lấy tay dụi mắt định thần nhìn kỹ thì dường như đang đứng giữa bãi sa mạc, sương mù bao la như mặt biển mênh mông bát ngát thì thốt nhiên không còn hồn vía, kêu gọi Đinh Cương luôn miệng để mong có người đến cứu mình chăng. Chàng bổng thấy trước mặt có một bóng người mặc áo màu xanh, thấp thoáng đi lạị Đinh Cương gọi đến ba, bốn câu mà bóng ấy vẫn không trả lời mà chập chờn như một bóng mạ
Họ Đinh cầm đinh ba nhắm thẳng bóng xanh đâm tớị Bỗng cảm thấy như có người giật mạnh chiếc đinh ba, chàng gượng không nổi té nhào xuống đất, mê man chẳng biết gì nữạ
Nghe hai anh em họ Đinh kể xong, Đinh Nhị Mao rùng mình sởn gáy, vì những người đi biển phần đông đều mê tín dị đoan nên vội vàng xua tay nói :
- Thôi! Chúng ta mau mau rời khỏi nơi nàỵ Đúng là chúng bây gặp “ma hớp hồn” rồi đấỵ
Đinh Cương, Đinh Nghĩa nghe cha nói thì nhận rằng quả nhiên mình thấy rõ những hiện tượng lạ như thế nên chẳng còn hồn víạ Vâng theo lời cha mà nói họ Vương mau mau trở về thuyền.
Trùng Dương biết họ là những người dân còn chất phác rất mê tín dị đoan.
Dầu có giải thích họ cũng chẳng chịu nghe, nên nói với ba cha con họ Đinh :
- Lão trượng và nhị vị cứ yên trí về trước đi, tiểu sinh vào đó một chút sẽ về.
Đinh Nhị Mao nói :
- Công tử hãy coi chừng, coi chừng bị ma hớp hồn.
- Lão trượng đừng ngại, “chính phải thắng tà”. Tiểu sinh đi tìm nước uống rồi sẽ trở về lập tức.
Cực chẳng đã ba cha con họ Đinh phải quay trở về thuyền. Trước khi giã từ, Đinh Nhị Mao còn dặn Trùng Dương một lần nữa :
- Tiên sinh có vào trong đó thì phải mau mau trở về thuyền, kẻo lão phu lo lắm.
Vương Trùng Dương gật đầu rồi nhắm cửa sinh của Bát Trận đồ mà vàọ
Khi vào tới giữa đống đá, Vương Trùng Dương cất tiếng gọi lớn :
- Vị nào lập Thạch trận xin xuất đầu lộ diện, để kẻ hèn này được diện kiến thì thật lấy làm vinh hạnh.
Vương Trùng Dương nói liên tiếp ba lần, bỗng nghe thấy từ trong trận đồ văng vẳng tiếng ngâm thơ đưa rạ Lời thơ bi thảm, giọng ngâm buồn rầu như khóc như thảm.
Vương Trùng Dương lắng tai nghe thì thấy đây là bài thơ của Lý Hậu Chủ trước tác.
Nguyên trước kia vua Đường họ Lý tên Nhứt đóng đô tại Giang Nam bị đại tướng của Tống Thái Tổ là Tào Bân bắt được biến làm nô lệ.
Nhà vua là một thi nhân nên lúc bị giam cầm đã làm bài thơ vong quốc này để diễn tả nỗi lòng đau khổ của mình và sự điêu linh đồ thán của chúng dân.
Lời thơ thật là ai oán khiến cho người nghe phải bùi ngùi tất dạ. Sau vua Lý Nhất bị nhà Tống bắt uống thuốc độc mà chết.
Tiếng ngâm vừa dứt, Trùng Dương cất tiếng nói to :
- Tại hạ là kẻ phiêu lưu muốn kết giao cùng các vị anh hùng trong bốn bể.
Ngẫu nhiên tới đây, được thấy Bát Trận đồ của bật cao nhân sắp đặt. Tại hạ ngưỡng mộ vô cùng, kính mong được gặp mặt, trình bày một đôi câụ
Tiếng nói của họ Vương vang lên như tiếng chuông đồng, và chàng lại dùng mấy câu thơ của Bạch Cư Dị để đáp lại bài hờn vong quốc của đối phương. Những tưởng thế nào người đó cũng ra mặt, chẳng dè không thấy ai trả lời mà cũng chẳng ai xuất hiện.
Bốn bề lặng ngắt. Vầng kim ô đã lặn, ngọc thố mới nhố lên, ánh sáng trăng tỏa ra lung linh huyền ảọ Những tảng đá đen sì nổi bật lên giữa những đám cát trắng phaụ
Cảnh vật càng thêm huyền bí. Bỗng đâu từ xa đưa lại tiếng tiêu bổng trầm thanh thót. Mới đầu âm thanh dịu dàng véo von, réo rắt như ru hồn người vào cõi mộng rồi đột nhiên tiếng tiêu đổi điệu dồn dập như thiên quân vạn mã, hùng tráng như vó ngựa chiến chinh, ào ào như phong ba bão táp.
Vương Trùng Dương nghe tới đây nghe như có một luồng khí nóng từ Đan điền dâng lên hừng hực như muốn nổ tung buồng ngực.
Chàng cả kinh biết ngay đối phương muốn thử công lực của mình. Nếu công lực kém sẽ bị “Tẩu Hỏa Nhập Ma”, có thể chết ngay lập tức.
Trùng Dương vội vàng tĩnh tọa ngay dưới đất. Vận hành nội khí theo cách thức luyện công của Toàn Chân pháị Phút chốc chàng thấy khí huyết điều hòa không còn cảm thấy hồi hộp như trước nữạ
Tiêu thanh không làm cho tâm trí chàng đê mê được, tức thì nhạc điệu khác lại vang lên.
Tiếng tiêu lúc này nỉ non giống như giọng nói của giai nhân êm ái dịu dàng, mơn trớn như nàng mỹ nữ bên đức lang quân trong chốn phòng thẹ
Tiếng tiêu điêu luyện, vô cùng quyến rũ như khêu gợi lửa lòng của người trần tục để đưa vào vòng sắc dục.
Vương Trùng Dương là người tu hành từ thưở nhỏ đã giới sắc cho nên dầu tiếng tiêu như khêu, như gợi vẫn định thần tĩnh trí, tâm hồn thanh tỉnh át được tiếng tiêu đị Vương Trùng Dương bèn nói to :
- Hỡi vị nào dùng tiếng tiêu để làm bấn loạn lòng ngườị Tại hạ là người đã lánh xa trần thế, vinh hoa phú quí, sắc đẹp rượu nồng chẳng hề vương mang, vậy không nên dùng tiếng tiêu làm chi nữạ
Tiếng tiêu tức thì chấm dứt. Một tiếng cười ha hả vang lên :
- Tại hạ đã xa lánh cỏi đời ô trọc, một mình tới nơi hoang đảo hẻo lánh để tĩnh tâm tu luyện, lập “Võ Hầu Bát Trận” để ngăn cản kẻ phàm phu tục tử tới quấy rầỵ Tiên sinh với ngu hạ bất đồng đạo, bất đồng mưu hà tất phải cùng nhau gặp gỡ làm chị Xin mời tiên sinh hãy ra khỏi nơi nàỵ
Vương Trùng Dương ngẫm nghĩ :
- Người này đã bày được “Võ Hầu Bát Trận” ắt cũng không phải kẻ tầm thường, hơn nữa tiếng tiêu của hắn ta vừa thổi biến ảo khôn lường và tỏ ra một bản lĩnh cao siêu, kình lực hơn ngườị Mình không được cùng hắn kết giao cũng thật là đáng tiếc, nhưng cũng thử hỏi tên họ là gì may ra có thể biết ra manh mối tung tích chăng.
Nghĩ đoạn Trùng Dương cất tiếng nói to :
- Vị cao nhân nào nói không cho tiểu sinh được diện kiến thì kính xin cho biết quí tánh cao danh.
Ở trong Bát Trận đồ có tiếng cười ha hả, đồng thời một tiếng nói vang lên như tiếng chuông đồng :
- Dĩ la chôn thần kiếm, tiếng tiêu vạn cổ sầụ
Tiếng nói vừa dứt Trùng Dương thấy một bóng xanh thấp thoáng trong đống đá, chỉ chớp mắt không thấy đâu nữạ
Vương Trùng Dương thấy đối phương không chịu xuất đầu lộ diện lại chẳng chịu nói rõ danh tánh, chỉ để lại hai câu thơ thì chẳng hiểu có ẩn ý gì nên chàng thất vọng vô cùng bèn quay trở về thuyền.
Từ xa thấy từ trong thuyền một luồng khói đen bốc lên nghi ngút, rồi ngọn lửa chập chờn bốc lên caọ
Giật mình, Trùng Dương tưởng có chuyện gì chẳng lành xảy ra, vội vàng tung mình dùng thuật khinh công chạy bay xuống.
Đến nơi nhìn kỹ, họ Vương bất giác phì cườị Té ra cha con Đinh Nhị Mao đang đốt vàng mã cúng bái vì cho rằng hồi nãy hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩa bị ma hớp hồn. Đinh Nhị Mao nhìn thấy Trùng Dương về tới nơi thì cả mừng reo to :
- May quá Vương công tử đã về đây rồị
Vương Trùng Dương nhún mình nhảy vọt lên mạn thuyền. Đinh Nhị Mao vừa muốn ra lệnh cho bạn chèo nhổ neo chèo đi nơi khác, Vương Trùng Dương vội nói :
- Lão trượng không cho lấy nước uống hay saỏ Không biết bao nhiêu ngày nữa mới tới lục địa, không tích trữ nước uống thì làm thế nào được.
- Trên hòn đảo này có ma, không nên lấy nước uống nữạ Nước uống trên thuyền nếu hà tiện cũng còn được hai ngày nữa, ta nên đi tìm đảo khác là hơn.
Vương Trùng Dương cố ý muốn gặp người bày Bát Môn Đồ trận nên gạt đi và nói :
- Không được! Dù cho nước còn được hai ngày nhưng chắc đâu tìm ra hòn đảo khác. Chi cho bằng hãy ở lại đây lấy đầy nước rồi hãy đị Lão trượng hãy yên tâm để việc tìm nước tiểu sinh sẽ lo liệụ
Đinh Nhị Mao thấy trời cũng gần tối, dầu muốn khởi hành cũng không được nữa đành phải cắm thuyền nghĩ lạị
Đêm hôm đó, cha con họ Đinh và tất cả bạn chèo đều chui xuống dưới khoang vì sợ con ma trên hoang đảo, chỉ có một mình Trùng Dương ngồi tĩnh tọa trên khoang thuyền.
Chàng thấy mọi người đều có vẻ sợ sệt thì cười thầm. Chàng bèn vận khí luyện tập nội công của Toàn Chân pháị
Trăng đã lên cao, tỏa ra khắp bầu trời một ánh sáng dịu dàng. Biển yên sóng lặng, thỉnh thoảng mới có một luồng gió nhẹ nhàng thổi qua làm cho mặt nước lăn tăn gợn sóng.
Trên mặt bãi cát, ánh trăng chiếu xuống trông trắng toát một màu như một vùng tuyết trắng. Đối cảnh sinh tình, Vương Trùng Dương tức cảnh muốn làm vài bài thơ ca ngợi cảnh đẹp đêm trăng thì bỗng nghe có tiếng động rất nhẹ trên thuyền.
Là một người rất linh mẫn, Trùng Dương biết ngay là có người dùng thuật khinh công nhảy lên thuyền. Người này thuộc vào hàng bản lãnh cao siêu, thân thể nhẹ nhàng, không phát ra tiếng động mạnh.
Chàng lập tức nhún mình phi thân nhảy vọt ra ngoài mạn thuyền nhanh như tên bắn, cất tiếng cười ha hả :
- Qúy khách! Xin mời xuống đây đàm đạọ
Tiếng nói của chàng vang lên như tiếng sấm khiến cho cha con họ Đinh và tất cả bạn chèo đều thức giấc. Họ run sợ vì cho rằng Trùng Dương đang trò chuyện với ma, không ai dám chạy lên thuyền, nằm im không dám cựa quậỵ
Trùng Dương vừa dứt lời, ngước nhìn lên ngọn cột buồm quả nhiên thấy có một người mặc áo màu xanh đang ngồi vắt vẻo trên cái cột ngang trên tít ngọn cột buồm. Người đó cũng cất tiếng cười khanh khách và nói :
- Khá khen cho túc hạ tai rất thính, cũng đáng mặt hào kiệt trong võ lâm. Xin mời lên đây đàm thoạị
Vương Trùng Dương nói to :
- Xin tuân lờị
Nói vừa dứt lời, Trùng Dương tung vút người lên như con chim bay lên ngọn cột buồm. Vừa đưa tay định nắm lấy cây cột ngang trên đó, bỗng Thanh Y nhân quát lên một tiếng :
- Xuống mau!
Thanh Y nhân vừa nói, tả chưởng ở trước ngực hướng xuống dưới đánh ra một thế, đó là “Ép Vân chưởng”. Vương Trùng Dương ở phía dưới nhảy vụt lên chẳng ngờ bị sức chưởng ở trên đánh xuống có hơn vạn cân lực, không còn thể chống chọi vào đâu được, vội vận dụng hết tuyệt kỹ công phu gồng người lên chịụ
Tuy không bị thương tích nhưng cũng bị chưởng phong xô bật ra ngoài biển.
Nhưng không hổ danh là đệ nhất danh gia của Toàn Chân phái, và là Trung Thần Thông của Võ Lâm Ngũ Bá sau này, họ Vương thấy Thanh Y nhân dùng “Ép Vân chưởng” định hạ mình thì đã nhanh tay chụp lấy mảnh cây dằn trên cột buồm dày chừng năm phân, lớn bằng bàn taỵ
Lúc thân chàng rơi xuống, Vương Trùng Dương dùng miếng cây đó đánh mạnh xuống nước, đoạn lấy đà nhảy vút vào mạn thuyền nhanh như làn chớp nhoáng, toàn thân không hề bị một giọt nước nào làm ướt.
Trùng Dương cả giận vì bản thân chỉ muốn kết giao với Thanh Y nhân nên bản thân không chút đề phòng, nếu không nhờ vào bản lĩnh cao siêu thì còn gì là tánh mạng nữạ Chàng quát to :
- Đây là tại vì quí hữu ra tay trước thì đừng trách tại hạ ra tay thất lễ.
Nói xong Vương Trùng Dương đánh ra một chưởng, một luồng gió lớn phát ra uy lực ghê hồn. Chàng đã từng tập luyện “Nhất Dương chỉ” nên tuy cách xa cột buồm có tới một trượng mà chưởng phong vẫn mãnh liệt vô cùng.
Thanh Y nhân ngồi trên cột buồm vẫn tỏ ý kiêu ngạo không đề phòng, ngờ đâu cột buồm bị chưởng phong của Vương Trùng Dương đánh tới, gẫy ngang làm hai khúc văng xuống biển. Thanh Y nhân ngồi trên cột buồm bị ngã xuống như chiếc lá rụng.
Khi thân hình vừa chấm mặt nước, Thanh Y nhân dùng chân dẫm lên mặt nước nhảy phắt lên bãi cát rồi cắm đầu chạy thẳng.
Vương Trùng Dương cũng vội tung mình nhảy vọt lên bờ, dùng khinh công đuổi theo miệng la lớn :
- Xin hãy dừng chân! Xin hãy dừng chân.
Nhưng Thanh Y nhân vẫn vùn vụt chạy nhanh như bay, biến qua bãi cát và lẩn ngay vào Bát Trận đồ.
Vương Trùng Dương chạy theo tới nơi đứng ngoài cửa nói to :
- Qúi hữu đã có nhã ý đến thăm ngu hạ, xin đừng tránh nữạ
Vương Trùng Dương vừa nói đến đây bỗng thấy bên trong thạch trận vụt bay ra ba hòn đá nhằm thượng, trung, hạ toàn thân của Vương Trùng Dương bay tớị
Nhanh như cắt, Vương Trùng Dương đưa tay lên đã bắt được ba hòn đá đó trong taỵ Vương Trùng Dương cười lên một tiếng to rồi nói :
- Người tưởng Bát Trận đồ của Gia Cát Võ Hầu không ai phá nổi hay saỏ
Nói xong, họ Vương dùng tay bóp vụn ba viên đá trong tay ra làm nhiều hòn đá nhỏ, đoạn vung tay dùng Miêu chưởng ném vút những viên đá nhỏ đó vào trong thạch trận đồ, nếu là thường nhân ném ra thì chẳng khác chi trẻ con nghịch cát.
Nhưng Vương Trùng Dương đã luyện Nhất Dương chỉ nên uy lực thật là ghê gớm. Những viên đá nhỏ mạnh như tên bắn bay vụt vào trong. Không ngờ ở trong thạch trận cũng có nhiều viên đá nhỏ bay ra, nhằm vào những viên đá nhỏ của họ Vương mà ném, hai bên chạm nhau tạo nên những âm thanh chát chúa rồi cùng nhau rơi lả tả xuống đất như trận mưa sa, kỳ ảọ Những bột đá bay tung ra thành những đám bụi mù mịt.
Hồi 9
Khắc Thơ Trên Đá
Thần Long Nhật Hiện Thanh Y Khách
Vương Trùng Dương thầm kính phục bản lĩnh siêu quần của đối phương. Chàng cúi xuống lượm mấy viên đá bóp vụn ra trong tay rồi quát lớn :
- Tại hạ thử dùng cách Mãn Thiên Hoa Vũ thi thố, quí hữu hãy lưu tâm. Nói dứt lời, Vương Trùng Dương vung tay dùng chưởng phong ném vụt những viên đá nhỏ trong tay bay vụt như mưa vào trong thạch trận. Ngờ đâu bên trong cũng có một loạt đá nhỏ bay ra cản lạị Hai luồng chưởng phong gặp nhau đẩy tung những viên đá bật văng trở lại rồi rơi xuống đất. Vương Trùng Dương thấy đối phương chiếm được vị trí trung tâm Tuất thổ, chận giữ mình không cho vào trận thì cả giận nói :
- Đã là một kẻ trượng phu, phải đường đường tỷ thí cho rõ tài cao thấp, chứ cứ lén lúc nấp trong trận đồ, đâu có phải là tay hảo hán. Vương Trùng Dương cố ý dùng lời nói khích, quả nhiên Thanh Y nhân mắc kế từ trong thạch trận nhảy vút ra quát lớn :
- Hay cho họ Vương dám buông lời khinh miệt, coi thiên hạ chẳng ra gì thật là mục hạ vô nhân. Nếu có gan cùng ta tỷ thí vài ba trăm hiệp không? Trùng Dương lưu ý nhìn kỹ, chỉ thấy người này mặc áo toàn xanh, trên mặt đeo một vuông khăn kín chỉ hở đôi mắt sáng quắc như sao nhìn chăm chăm vào Vương Trùng Dương. Họ Vương lấy làm kinh ngạc vì Thanh Y nhân đã biết rõ tên họ của mình thì vội vàng chấp tay nói :
- Túc hạ đã biết tiện danh, vậy cũng xin túc hạ cho tiểu sinh đây biết túc hạ tên họ là gì để tiện bề xưng hô. Thanh Y khách quát lớn :
- Hà tất phải biết tên tuổi của ta làm gì. Hãy coi quyền pháp của tạ Nói dứt lời Thanh Y nhân đã dùng chiêu “Đã Mã Phân Sung” đấm thẳng vào ngực Vương Trùng Dương một quyền hết sức mãnh liệt. Vương Trùng Dương nghĩ thầm trong bụng :
- Chắc người này luyện võ công của Thái Cực phái nên mới sử dụng Thái Cực quyền. Vương Trùng Dương dùng thế “Xuất Vân Thu” ra đối phó. Thanh Y khách lại dùng thế “Nhị Long Tranh Sơn” nhằm đỉnh đầu Vương Trùng Dương đánh xuống, uy lực thật là ghê gớm, sức mạnh như cả trái núi đổ xô đến. Họ Vương bất giác kinh ngạc nghĩ thầm:
- “Sao người này lại sử dụng Ngũ Hành quyền”. Thái Cực quyền là dùng nhu thắng cương, trái lại Ngũ Hành quyền là dùng sức mạnh, càng đánh càng mau, hai thứ sử dụng thật là hoàn toàn trái ngược. Nghĩ như vậy nhưng Vương Trùng Dương cũng vội dùng thế “Sáu Lượng Đổi Cột” của Toàn Chân phái ra đối phó. Thanh Y nhân bỗng biến đổi chiêu thức, chàng ta dùng chiêu “Hồi Quang Phản Chiếu” của “Nhạc Gia Trưởng”. Lúc thì dùng Thiếu Lâm Hổ Quyền, lúc lại quay sang dùng các chiêu thế tối độc của Võ Đương trường quyền. Vương Trùng Dương ngạc nhiên vì thấy Thanh Y nhân luôn luôn biến đổi quyền pháp thì không sao đoán được là người của môn phái nàọ Chàng vẫn sử dụng bài “Thái Ất quyền pháp” của Toàn Chân phái ra đối địch. Thanh Y nhân liên tiếp dùng hết chiêu thức này đến chiêu thức khác tấn công mãnh liệt, khiến Vương Trùng Dương lưu tâm đón đỡ nên chỉ có thủ mà chưa có công. Bỗng thấy Thanh Y nhân cười dài một tiếng và nói :
- Tài nghệ của tại hạ như thế nào chắc túc hạ đã biết rồi, khỏi giao đấu làm gì nữa cho hao phí sức khỏẹ Tại hạ xin kiếu từ, nếu có dịp nào sẽ xin gặp mặt saụ Vừa nói dứt lời, Thanh Y nhân nhảy vụt ra khỏi vòng chiến, tung người lên cao đến ba, bốn trượng như một con chim đại bàng lao vút vào trong Bát Trận đồ. Chỉ thoáng thấy một cái bóng xanh lẩn vào Trung Ương trận, vị trí Tuất Thổ. Hành động của Thanh Y nhân thật là kỳ lạ, võ công hết sức cao siêu, còn hơn lúc Trùng Dương đại náo Thiếu Lâm tự khiến cho họ Vương càng thắc mắc, không hiểu vì cớ gì mà người này ẩn mình trên hòn đảo hoang vu nàỵ Lòng hiếu kỳ càng tăng thêm lên, Trùng Dương nhất định không chịu bỏ qua quyết hỏi ra manh mối, nên quát lớn :
- Chưa phân thắng bại sao túc hạ lại bỏ đị Họ Vương dùng tuyệt kỹ công phu tung mình nhanh như tên bắn nhảy vọt tới đống đá, cung tay định dùng “Sô Ma chưởng” đánh ta đống đá không cho người ấy trốn trong đấy nữạ Thanh Y quái khách đột nhiên nhảy vọt ra ngăn cản chàng lại, vung tay như muốn dùng “Song Chiếu chưởng” đánh ra, họ Vương chuẩn bị đối phó. Nào ngờ trong tay Thanh Y quái khách vụt ra một nắm kim vàng nhanh như tên bắn, tua tủa như mưa nhằm thẳng mặt Trùng Dương bay tớị Chàng giật mình biết không sao tránh khỏi vội vận nội công toàn thân cứng như thép, giơ tay trái lên che lấy mắt và mặt, còn tay phải phất mạnh một cái, một luồng chưởng phong từ trong tay áo bay ra cản những mũi kim vàng rơi xuống đất. Nhưng khiếp thay cho bản lĩnh của Thanh Y quái khách thật vô cùng dũng mãnh, chưởng phong của Vương Trùng Dương chỉ cản được phân nữạ Còn một số kim vàng tới mười ba, mười bốn mũi cứ lao thẳng vào mặt và mình của Trùng Dương. Tuy họ Vương đã vận khí chống cự, những mũi kim vàng không thủng vào da thịt nhưng những chỗ trúng kim cũng thấy hơi đau rát. Khi Vương Trùng Dương buông tay áo xuống đã không thấy Thanh Y quái khách đâu nữạ Trùng Dương phóng mình dùng thuật phi hành chạy quanh Bát Trận đồ mấy vòng mà vẫn không thấy bóng dáng của Thanh Y quái khách thì biết rằng Thanh Y quái khách đã cố tình lánh mặt nên đã lẩn vào trong trận đồ. Họ Vương lượm những cây kim vàng còn dính ở áo bỏ vào tới, hướng vào trong trận đồ nói lớn :
- Hôm nay tại hạ được lãnh giáo võ công của quí hữu rất lấy làm ngưỡng mộ. Xin hẹn hôm khác sẽ tái kiến. Nói xong, Trùng Dương thoát ra khỏi kỳ môn thạch trận trở về thuyền. Ba cha con Đinh Nhị Mao sợ ma nằm dưới khoang thuyền, thấy Vương Trùng Dương nói chuyện với yêu quái và đánh đuổi nhau trên mũi thuyền. Lúc họ Vương bị đánh rớt xuống biển và chàng dùng chưởng lực đánh gẫy cột buồm khiến cho con ma té xuống, rồi họ Vương đuổi theo yêu quáị Ba cha con Đinh Nhị Mao và một số bạn chèo đều biết nhưng không ai dám bước ra khỏi khoang thuyền để xem cho rõ ràng. Mãi không thấy Trùng Dương trở về ai nấy đều lo sợ cho rằng chàng đã bị yêu quái sát hại rồị Ba cha con đều lo lắng không hề ngũ được, đến khi thấy có người nhảy xuống thuyền lên tiếng hỏi và nghe tiếng Trùng Dương trả lời, Đinh Nhị Mao mới dám mở cửa bước ra khoang thuyền nói :
- Vương công tử phúc tinh lớn lắm nên bọn ma quỷ dữ tợn như thế mà không hớp hồn được thật là may mắn lắm. Vương Trùng Dương thấy Đinh Nhị Mao hãy còn mê muội cho rằng Thanh Y nhân là ma quỷ thì không sao nhịn được cười, nên cất tiếng cười khanh khách nói :
- Không phải là ma quái đâụ Chính là vị ẩn sĩ bày ra Bát Trận đồ để ngăn cản không cho ai tới hòn đảo nàỵ Vương Trùng Dương kể lại đầu đuôi câu chuyện giao đấu với Thanh Y quái khách cho cha con họ Đinh nghe và chàng lấy ra mấy cây kim vàng cho Đinh Nhị Mao xem. Cầm chiếc kim vàng trên tay, Đinh Nhị Mao ngẫm nghĩ một hồi rồi nói :
- Những chiếc kim vàng này làm bằng nguyên chất, ít nhất cũng nặng đến mấy tiền, người này chắc phải giàu sang lắm. Hai anh em họ Đinh và mấy người bạn chèo nghe Đinh Nhị Mao và Vương Trùng Dương nói chuyện, lúc đó mới kéo nhau lên mũi thuyền xúm vào xem mấy cây kim vàng. Trùng Dương lại nói :
- Hẳn Lão trượng và liệt vị đây đã biết rõ trên đảo có một cao nhân ẩn cư tại đây để luyện võ công đã lập ra trận đồ làm rối loạn tinh thần những người không biết. Ý chỉ không muốn cho ai quấy rầy chứ làm gì có ma quáị Vậy các người cứ yên tâm mà ngũ cho kỹ. Sáng mai hãy cùng nhau lên đảo lấy nước uống. Đinh Nhị Mao và tất cả mọi người lúc đó mới hiểu rõ nên vui vẻ vào khoang thuyền ngũ một giấc ngon lành. Sáng hôm sau, trời vừa hừng sáng, ba cha con họ Đinh và các bạn chèo đã sửa soạn sẵn đồ đựng nước, theo Vương Trùng Dương lên hoang đảo lấy nước. Vương Trùng Dương đi trước hướng dẫn một số người theo saụ Qua bãi cát, tới những đống đá, Vương Trùng Dương ngạc nhiên nhìn thấy trận đồ đã bị phá vỡ. Những đống đá nằm ngổn ngang không còn hàng lối như hôm qua nữạ Đứng nhìn hồi lâu, Trùng Dương bỗng nói :
- Lạ thật! Lạ thật! Đây đúng là Thanh Y ẩn sĩ đã tự phá vỡ Kỳ Môn Bát Trận và nhất định cao nhân này đã ra khỏi đảọ Chàng bước đi thẳng vào trận. Trông đống đá hôm qua dựng lên làm Trung Ương Tuất Thổ, hôm nay cũng rời rã, rối loạn không còn trật tự nữạ Chàng chợt thấy có mấy hàng chữ lõm sâu vào một tảng đá, mọi người đều tới gần xem thấy nét chữ đẹp vô cùng, như được một người thợ điêu khắc lành nghề tạo nên. Chỉ có Trùng Dương biết ngay Thanh Y nhân đã dùng thuật “Thiết Chỉ công”, vận dụng nội công vào đầu ngón tay mà viết nên nét chữ lõm sâu vào đá chừng năm phân, nét rất sắc xảo, đủ biết rằng Thanh Y nhân là người có học thức uyên thâm, thật là văn võ toàn tàị Ba cha con họ Đinh và bọn thủy thủ là những người ít học nên chẳng hiểu gì cả. Vương Trùng Dương lưu ý đọc suốt từ đầu đến cuối, đó là hai bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, ý nói rằng :
- “Thanh Y nhân đã giang hồ lưu lạc hơn ba mươi năm, coi cuộc đời như phù vân nên đến ẩn cư tại hoang đảo, chẳng muốn liên lạc gì với giang hồ nữạ Nào ngờ đâu gặp tay cao thủ phá vỡ thạch đồ trận, nên không ở lại hoang đảo nữa mà dùng thuyền đi nơi khác.” Toàn thể hai bài thơ đều do Thanh Y nhân dùng “Thiết Chỉ công” khắc vào, công phu thật là điêu luyện. Họ Vương nhìn những dòng chữ và những tảng đá của thạch đồ trận ngổn ngang trên mặt đất thầm nghĩ :
- Không dè ở trên hoang đảo mà có một kỳ nhân võ công trác tuyệt, tài ba quán thế mà mình không được cùng kết giao thật là đáng tiếc. Chàng cứ đứng ngẩn ngơ, lẩm bẩm một mình, than thở tiếc rẻ mãi không thôị Đinh Nhị Mao thấy thế liền hỏi :
- Vương công tử. Quái nhân ấy đã đi khỏi nơi đây rồi saỏ Vương Trùng Dương lúc đó mới giật mình, chép miệng thở dài :
- Vị ẩn sĩ đó đã đi rồi thật là đáng tiếc. Trước khi đi ông ta đã phá hết Bát Trận đồ, không có gì trở ngại nữa và không còn sợ lạc đường như ngày hôm qua nữạ Liệt vị hãy mau mau vào trong lấy nước. Tất cả mọi người đều đi thẳng vào thạch động. Quả nhiên đi độ năm, sáu mươi thước thì thấy có một dòng nước suối từ trên núi chảy xuống. Mọi người đều đổ xô cả lại hứng nước mang về thuyền. Họ chuyền nhau lấy đầy đủ nước uống, rồi mới rời hoang đảọ Thanh Y quái khách ở trên hoang đảo này chính là Hoàng Cố. Sau này cũng là một trong Võ Lâm Ngũ Bá, gọi là Đông Tà Hoàng Dược Sư. Hoàng Cố người tỉnh Triết Giang, tỉnh Hải Ninh, gia cư giàu có. Tổ tiên của Hoàng Cố là một người nổi danh cùng thời với Tô Đông Pha thời Bắc Tống, tên là Hoàng Lỗ Trực. Đời đời truyền nối đều là những người nho phong nề nếp, thân sinh của Hoàng Cố là Hoàng Uẩn Thạch. Hoàng Cố là con trai duy nhất nên được nâng niu, chiều chuộng coi như ngọc báụ Hoàng Cố bản chất thông minh, nổi danh là thần đồng. Vì mới năm tuổi đã biết làm thơ, bảy tuổi đã sáng tác được nhiều bài ca, khiến cho mọi người đều thán phục. Hoàng viên ngoại thấy Hoàng Cố tuổi còn nhỏ mà trí tuệ đã xuất chúng, siêu phàm như thế thì không khỏi lo âu, vì từ xưa đến nay các bậc thần đồng đều chết non như trường hợp Cam La mới mười hai tuổi đã làm nên thừa tướng, nhưng chẳng được hưởng thọ tuổi trờị Nhan Uyên thông minh tuyệt thế, cũng bị yểu tử, sống không được quá ba mươị Hoàng viên ngoại e con mình quá thông minh, lại bị chết sớm nên thường thường dẫn Hoàng công tử đến các nơi chùa chiền, lễ bái đầu khấn phật trời ban phước cho họ Hoàng. Ở quận Hải Ninh có một ngôi Thiên Đồng tự, là một trong những danh xá trong tỉnh Triết Giang. Vị chủ trì ngôi chùa này Hiểu Vân thiền sư, tuổi đã cao nhưng tinh thần còn quắc thước, biết đoán quẻ âm dương và tính toán quá khứ vị laị Một hôm Hoàng viên ngoại và Hoàng Cố đến chiêm bái Thiên Đồng tự. Sau khi lễ phật, Hoàng viên ngoại dẫn Hoàng Cố vào ra mắt Hiểu Vân thiền sư. Vừa trông thấy mặt của Hoàng Cố, Thiền sư lộ vẻ vui mừng nói :
- Hoàng thí chủ thật là phước lớn, Công tử có nhiều quí tướng. Sau này chắc chắn là một người tài ba quán thế, danh tiếng để lại cho ngàn thụ Hoàng viên ngoại đã nghe danh Thiền sư là một cao tăng đắc đạo, không bao giờ nói dối, nên nghe Thiền sư nói như thế bỗng cau mày thở dài nói :
- Bạch thượng tọạ Lão phu chỉ sinh hạ được một tiểu nhi này mà thôị Thiên tính rất thông minh, năm tuổi đã làu thông kinh xử, biết cả làm thơ nên thiên hạ tặng khen là thần đồng. Vì người ta vẫn có câu tài cao mệnh yểụ Thượng tọa cao minh xin xem kỹ lại cho lão phu được nhờ. Hiểu Vân thiền sư bảo Hoàng Cố lại gần xem kỹ nét mặt, thốt nhiên Thiền sư kêu lên :
- Ồ lạ thật! Sao lại có thể thế được. Hoàng viên ngoại nghe Thiền sư nói như thế thì giật mình biến sắc, chắp tay thưa :
- Bạch thượng tọạ Người mới phát giác ra được điều gì? Hung hay kiết? Cúi xin chỉ giáo cho lão phu biết để lão phu đề phòng. Hiểu Vân thiền sư cười nói :
- Bần tăng tuy bất tài nhưng nếu thí chủ có lòng tin cậy thì bần tăng thấy sao nói vậỵ Nếu có điều gì thất thố cũng mong thí chủ bỏ qua chọ
- Bần tăng nhìn kỹ tướng mạo Công tử ắt Công tử không được thọ lắm, tới mười lăm tuổi phải cần tránh lửa, không sẽ bị nạn hỏa đốt chết. Hoàng viên ngoại nghe thấy Thiền sư nói như vậy càng thêm sợ hãi vô cùng vì Hoàng Cố tính ra năm đó đã được mười hai tuổi, chẳng hóa ra chỉ còn ba năm nữa là đã đến số phải lìa bỏ cỏi đờị Viên ngoại không cầm được hai hàng lệ dâng lên khóe mắt. Hiểu Vân thiền sư nói thêm :
- Nhưng bần tăng thấy ở nhân trung của tiểu chủ một luồng tử sát mang vân có thể thoát được đại nạn. Nếu qua khỏi được năm đại nạn thì Công tử đây sẽ trở thành một bậc kỳ tài danh lừng bốn bể. Bần tăng mấy chục năm trời nghiên cứu tướng số chưa hề thấy qua một người như thế, chẳng lạ lắm saọ Hoàng viên ngoại nghe Thiền sư nói như vậy cũng an tâm được đôi chút vẫn còn thắc mắc bèn hỏi :
- Bạch thượng tọạ Tiểu nhi của lão phu có thể nào thoát khỏi được nạn lửa không?
- Mô Phật. Việc tướng số rất huyền bí nên có câu phúc năng thắng số. Cũng như đời nhà Hán có một viên ngoại họ Đặng tên Thông, gia sản hàng muôn triệu thế mà có một người coi tướng lại dám cả quyết rằng sau không bát ăn phải nhịn đói chết. Đặng viên ngoại và tất cả mọi người không ai tin cả và cho người coi tướng đó là kẻ điên khùng, ăn nói quàng xiên. Đến sau vua Cảnh Đế nghe lời gian thần sàm tấu vu cho viên ngoại tư thông với giặc liền bắt viên ngoại hạ ngục, bao nhiêu gia cư điền sản đều bị tịch thu xung công hết. Bọn gian thần lại hạ lệnh cho bọn cai ngục bỏ ông nhịn đói chết ở trong tù. Lúc ấy người ta mới thấy lới tiên đoán của người thầy coi tướng quả là linh nghiệm.
- Còn một người nữa tên là Bùi Tịch, ở đời nhà Đường. Lúc nhỏ thật là nghèo khổ, tướng mạo xấu xa, một thầy tướng coi ông và quả quyết rằng:
- “Số ông ta suốt đời nghèo khổ, không có lúc nào sung túc”. Bùi Tịch nghe nói như thế chẳng những không lấy thế làm buồn mà thường nói với mọi người:
- “Nếu số trời đã định thì tránh sao cho khỏị Kiếp trước ắt có làm điều gì gian ác lắm cho nên kiếp này mình phải chịu nghèo hèn. Thôi kiếp này đã lở, phải tu sửa để dành kiếp sau”. Từ đó Bùi Tịch ăn chay niệm phật, hết sức giữ lòng ngay thẳng, không ăn gian nói dối, hết sức giữ lòng trong sạch, cam chịu cảnh bần hàn. Một hôm Bùi Tịch lượm được một gói bạc không biết của ai đánh rớt. Bùi Tịch ngồi ở lề đường giữ gói bạc quyết đợi thất chủ để hoàn lạị Bùi Tịch ngồi đợi từ sáng sớm đến quá ngọ mà vẫn không thấy ai có vẻ tìm kiếm của rơi cả, bụng chàng đói như cào đã định bỏ đi tìm hàng ăn cho đỡ đóị Nhưng nghĩ lại nếu bỏ đi lỡ người bị mất của qua đây không tìm thấy thì mình biết ai mà trả lại, nghĩ vậy nên chàng ráng ngồi chờ đợị Cho đến gần đầu giờ mùi, họ Bùi vừa đói vừa mệt, hai mắt lim dim muốn ngồi ngũ gục. Bỗng nghe tiếng khóc thảm thiết của một người đàn bà vừa khóc vừa kể lễ:
- Chồng chết không có tiền chôn, đến thị trấn vay được một số đem về làm tang, chẳng may lúc bối rối làm mất dọc đường. Bùi Tịch choàng tỉnh dậy hỏi đầu đuôi gốc ngọn và trao trả bạc lại cho bà ta không thiếu một đồng nàọ Thấy Bùi Tịch ăn mặc rách rưới, người đàn bà định đưa cho một số bạc để tạ Ơn, nhưng Bùi Tịch nhất định không lấy, cam chịu đói một buổị Sau này ngờ đâu Bùi Tịch làm tới chức Thừa tướng. Thế nên người ta mới có câu “Đức Năng Thắng Số”. Vậy bần tăng khuyên thí chủ hãy về nhà chuyên làm việc thiện và cho Công tử tránh nơi có lửa, may ra có thể tránh được tai nạn.
Hồi 10
Coi Thủy Triều Gặp Tai Nạn
Hoàng viên ngoại từ khi nghe Hiểu Vân thiền sư giảng giải về nhà hết lòng làm điều thiện. Những nơi tô tượng, đúc chuông, xây chùa, đắp đường, làm trường học việc gì viên ngoại cũng tham gia đóng góp.
Đối với Hoàng Cố, viên ngoại càng hết sức thương yêu, những nơi nào có lửa tuyệt đối không cho lại gần, nhất là những chốn bếp nước, hay những chỗ đốt vàng mã, đều bắt Hoàng Cố tránh cho xạ
Cả đến lúc nhúm lửa đốt đèn cũng không cho Công tử lại gần. Thật là Hoàng viên ngoại đã làm hết sức của mình để tránh tai nạn theo như lời Hiểu Vân thiền sư đã nóị
Hoàng viên ngoại là người rất tin ở số mệnh, nên hết lòng gìn giữ và dặn bảo lũ gia nhân phải theo lời của viên ngoại mà ngăn giữ Hoàng Cố.
Vì sự giữ gìn săn sóc chu đáo như vậy nên Hoàng Cố cũng rất sợ lửa, trông thấy lập tức Công tử lánh xạ
Quang âm thấm thoát, ngày tháng như thoi đưa, chẳng mấy chốc đã qua ba năm, Hoàng Cố đã được mười lăm tuổi, tức là năm mà Hiểu Thiện thiền sư xem tướng và nói trước Hoàng Cố sẽ gặp nạn lửa mà chết yểụ
Hoàng viên ngoại càng hết sức đề phòng, không rời Công tử một phút nàọ
Từ bữa ăn, đến giấc ngủ, viên ngoại tự mình coi sóc từng tý một.
Ngay cả chiếc đèn thắp trong phòng của Công tử, viên ngoại cũng không cho thắp lên nữa, qua hạ sang thu chỉ còn mấy tháng nữa là Hoàng Cố sẽ thoát nạn. Hoàng viên ngoại hết sức vui mừng.
Hàng năm cứ đến ngày Trung Thu là tất cả những người vùng Chiết Đông đều kéo đến bò sông Tiền Đường xem nước thủy triều lên xuống.
Sông Tiền Đường ở gần huyện Hải Ninh lại còn có tên là Chỉ Giang nữạ Từ phía đông chảy ra biển, hình như cái loa kèn ngoài rộng trong hẹp.
Ngoài cửa Tiền Đường lại có mấy hòn đảo nhỏ nhô lên khỏi mặt nước, những lúc nước triều lên sóng đánh vào những hòn đá đó thành những con nước cao lên đến mấy chục trượng trông rất là ngoạn mục.
Người dân ở tỉnh Triết Đông lại có những lời tương truyền rằng đến xem thủy triều có thể bớt được sự tai nạn.
Dĩ nhiên Hoàng viên ngoại cũng mang Hoàng Cố đến xem thủy triều sông Tiền Đường.
Bằng hữu Vào ngày mười sáu tháng tám, hai cha con viên ngoại và người nhà đến bờ Tiền Đường giang, trên đường đi gặp biết bao nhiêu du khách các nơi đổ đến.
Người đi, kẻ lại dập dìu như đám hộị Nhiều căn liều mới dựng làm chỗ bán các thức ăn và giải khát.
Hoàng viên ngoại tìm một tiệm ăn trong sạch, dẫn Hoàng Cố và gia nhân vào chọn chỗ ngồi khoáng khoát.
Bọn tửu bảo lăng xăng chạy đến mang nước trà và các món điểm tâm lại, hai cha con viên ngoại vừa ăn vừa chuyện trò rất vui vẻ.
Hoàng Cố bẩm chất rất thông minh, tài văn thơ đã nổi tiếng, thấy cảnh sinh tình, chỉ phút chốc đã làm liền mấy bài thơ, ý tứ thanh cao, lời thơ lưu loát. Hoàng viên ngoại nghe Công tử bình thơ thì trong lòng tự nghĩ :
- Xưa kia Lý Hà cỡi lừa du ngoạn, lúc trở về đã sáng tác được nhiều bài thơ bất hủ, tiếc thay mệnh bạc, chỉ sống đến năm 23 tuổị Hoàng Cố mới thấy cảnh đã xuất khẩu thành chương thực là thiên tài, e không thoát khỏi yểu mệnh.
Hoàng viên ngoại nghĩ như thế, thốt nhiên buồn rầu, thở dài một tiếng.
Hoàng Cố thấy viên ngoại đang vui vẻ, bỗng nhiên thay đổi như thế không hiểu vì lẽ gì, chàng muốn cho viên ngoại khuây lãng nên reo to :
- Phụ thân, nước thủy triều đã lên kìa, thật là thập vạn quân thanh bán dạ triềụ
Hoàng viên ngoại và tất cả mọi người đều nhìn ra ngoài sông lúc bấy giờ mặt trời đã xế về Tâỵ
Mặt trăng mới mọc phía đông, từ đàng xa bỗng tuôn lên một luồng sóng bạc trắng xóa, cuồn cuộn chảy vào, nhọn gió đưa theo mát lạnh.
Ngọn sóng càng đến gần, càng nghe thấy tiếng ầm ầm, vang dậy như thiên binh vạn mã. Ngọn sóng cao lên bảy tám trượng như trái núi đổ xô tới reo vào bờ, bọt tung lên trắng xóa, cảnh vật bỗng huyên náo cả lên, Hoàng viên ngoại cầm tay Hoàng Cố dắt ra khán đài cho mãn nhãn.
Hai cha con đang mải mê ngắm cảnh những hòn đảo nhỏ ở ngoài xa bị những luồng sóng lớn bao phủ như chìm hẳn xuống đáy biển.
Mặt trăng đã lên cao, chiếu xuống mặt nước lấp lánh, nhô lên nhô xuống trông như trăm ngàn con rắn bạch.
Ngờ đâu tai nạn lại mang đến thình lình, đằng sau hai cha con có một lão trượng ăn mặc tỏ ra một bực giàu có, hút ống điếu dài ngoằng.
Ông ta nhét đầy thuốc vào ống, mang đá lửa ra đánh để hút thuốc, gió thổi thật mạnh, phải đánh đến bốn năm lấn mới mồi được điếu thuốc.
Lão trượng hít một hơi thật dài, bất ngờ có một luồng gió mạnh thổi đến, tàn thuốc trong ống bay ra, rớt ngay vào cỗ áo của Hoàng Cố, chỉ một loáng, tàn lửa đã cháy loang một mảng áo khá lớn, mùi vải khét nghẹt.
Một tên gia nhân đứng đằng sau Hoàng Cố kêu to :
- Nguy to! Nguy to! áo của thiếu chủ nhân cháy rồị
Vừa kêu vừa chạy lại đập đập vào vai áo để dập tắt lửa đi, Hoàng Cố đang say sưa ngắm cảnh thiên nhiên, thốt nhiên thấy tiếng kêu của tên gia nhân, thấy nóng ở sau cổ, ngoảnh lại, thấy khói bay và thấp thoáng có ánh lửa, thì hoảng kinh chẳng còn hồn vía, đáng lẽ Hoàng Cố cởi áo ra và để gia nhân dập một chút thì hết ngaỵ
Nhưng đã ba năm nay Hoàng Cố bị ám ảnh bởi câu nói của vị thiền sư chủ trí tại Thiền Đông tự là sau đây mình sẽ chết vì nghiệp lửa, cho nên khi thấy lửa cháy ngay ở cổ áo mình thì hốt hoảng không còn bình tỉnh, lập tức nhảy xuống khán đài, nhắm thẳng bờ biển chạy tớị
Từ khán đài đến biển chỉ cách độ mười trượng, Hoàng Cố tâm thần bất định, cắm cổ chạy tới như bay, nhào ngay xuống nước, với mục đích dập tắt lửa mà thôị
Hoàng viên ngoại cùng mấy tên gia nhân trong lúc bất ngờ thấy Hoàng Cố phóng mình xuống khán đài, không kịp ngăn trở.
Đến khi Hoàng công tử chạy xuống bờ biển, thì Hoàng viên ngoại cũng vội vã, tất tả đuổi theo, nhưng Hoàng Cố đã lao vụt xuống mặt nước đánh “Ùm” một tiếng, đồng thời lúc đó nước thủy triều lại dâng lên, ngọn nước trắng xóa cao bằng nóc nhà đổ tới ầm ầm, kéo luôn Hoàng công tử ra ngoài biển khơi, Hoàng viên ngoại cả kinh kêu to :
- Hoàng Cố! Hoàng Cố!
Nhưng than ôi! Ngọn nước vô tình đã mang đứa con độc nhất của họ Hoàng ra biển cả không còn tung tích nữạ
Hoàng viên ngoại gào thét như điên cuồng nhắm mắt định gieo mình tự tử, kẻ gia nhân chạy tới ôm chặt lấy viên ngoại kéo vào, can gián chẳng dứt. Hoàng viên ngoại vừa la vừa khóc, khi thấy ông già hút thuốc làm cháy áo của Hoàng Cố thì không nén được cơn giận dữ nắm ngay lấy ngực áo ông quát to :
- Lão già khốn kiếp, mau thường mạng cho con tạ
Nói dứt lời, Hoàng viên ngoại tay đấm, chân đá, xé rách cả quần áo của ông già nọ. Lão trượng họ Kim không thể ngờ có sự xảy ra như vậy, cố gỡ mà không được, bị Hoàng viên ngoại nắm được chòm râu cứ thế mà rứt, lão già họ Kim đau kêu trời như bọng!
Mọi người chung quanh thấy thế vừa thương hại, vừa buồn cười, xúm lại gỡ mãi Hoàng viên ngoại mới chịu rời tay rạ
Quần áo lão trượng họ Kim đã rách nát tả tơi, bộ râu đẹp đẽ đã bị vặt trụi quá nửạ
Vừa đau, vừa tức, lại vừa sợ, họ Kim chưa kịp nói năng gì thì Hoàng viên ngoại đã chỉ tay vào mặt quát mắng :
- Lão già gần kề miệng lỗ kia, mi thật là vô dụng, hút làm gì mà để cho lửa tạt cháy áo con ta, khiến nó sợ hãi chạy nhào xuống biển, mới bị nước cuốn đi, mi phải thường mạng cho con ta nếu không ta cũng quyết liều cái mạng già này với mị
Nói rồi Hoàng viên ngoại lăn sả vào toan đánh họ Kim một trận nữạ Mọi người đều xúm vào can ngăn, mỗi người một lời khuyên giảị
Còn Hoàng Cố trong lúc thảng thốt, không kịp suy nghĩ cho là nhảy xuống nước sẽ dập tắt được ngọn lửa, chẳng dè bị luồng sóng lớn cuốn ra biển, nhồi lên nhồi xuống, như có sức ép ngàn cân dồn vào ngực không kịp kêu lên một tiếng nào, ngất xỉu đị
Tâm hồn phiêu phiêu, chẳng biết ỏ dưới biển cả bao lâu, bỗng giật mình choàng tỉnh, thấy nằm trong một cái khoang thuyền, sực nhớ lại chuyện vừa qua không hiểu mình còn sống hay đã chết, ngước mắt nhìn quanh, thấy bên cạnh một lão trượng đang ngồi uống rượu, trước mặt còn có một cuốn sách viết một hàng chữ lớn: “Châu Dịch Kinh Thi”. Hoàng Cố chống tay ngồi dậy thì đầu hoa mắt choáng, kêu sẽ lên hai tiếng :
- Ối chao!
Lão trượng giật mình quay lại, hai mắt sáng quắc như hai ngôi sao lóng lánh nhìn Hoàng Cố mỉm cười, cất tiếng sang sảng như tiếng chuông đồng dịu dàng nói :
- Con đã tỉnh dậy đấy ư, hãy nằm im một chút cho khỏe hẳn đã. Cớ sao con lại bị rơi xuống bể?
Hoàng Cố hãy còn ngơ ngẩn giây lát tâm thần ổn định thì thuật lại hết đầu đuôi gốc ngọn. Lão nhân nghe xong vuốt râu cười khanh khách :
- Số con chưa chết, nên con gặp được ta giải cứu, thôi con còn yếu sức hãy nằm yên nghỉ.
Hoàng Cố vâng lời nằm yên, chàng liếc mắt quan sát thấy con thuyền, chẳng được lớn lắm, không phải thuyền câu, ngoài ông lão ra còn có một người trai tráng đang chèọ
Lão nhân cầm bình rượu tu một hơi, đoạn cất tiếng sang sảng ngâm bản “Hái Dâu” của Âu Dương Tu, giọng lão trượng rất tốt vang lên tiếng trong, tiếng đục, trầm bổng du dương.
Trong lúc tửu hứng, nguồn thơ lai láng, bỗng nhiên lão trượng nói to :
- Rượu suông không có đồ nhắm còn gì buồn hơn, đề ta bắt mấy con cá lên làm đồ nhắm và nấu bát cháo ăn chơị
Nói dứt lời, lão trượng bước khỏi khoang ra mũi thuyền nhìn xuống mặt biển.
Ông ta giơ tay phóng hờ xuống mặt nước, một tiếng “ùm” vang lên, chiếc thuyền tròng trành muốn đắm.
Hoàng Cố thất kinh, vội vàng nhỏm dậy giữ chặt lấy mạn thuyền nhìn ra, thấy khi ba đào sóng lặng mặt biển trỏ lại bình thường thì ở dưới nước bỗng nổi lên một đôi cá dài chừng hai thước, ngửa bụng lên trời, thoi thóp cựa quậỵ
Người chèo thuyền tức thì ngưng tay, vớt cặp cá đó lên. Hoàng Cố là một đứa trẻ thông minh, chuyên cần đọc sách, làu thông kinh sử, tuy không biết một chút gì về võ nghệ, nhưng đã được xem nhiều trong sách vở, biết rằng loại cá này thường ở dưới nước tới hơn mười thước.
Lão nhân chẳng những đã nhìn thấy, lại còn dùng chưởng phong đánh xuống chết luôn hai con một lúc thì biết rằng võ công của ông ta rất cao siêu nên reo to :
- Chà! Lão trượng sử dụng miếng “Phách Không chưởng” thật là quá ư lợi hại!
Lão trượng ngoảnh lại cất tiếng cười ha hả :
- Tiểu tử, mi cũng biết sử dụng “Phách Không chưởng” saỏ
Hoàng Cố lật đật trả lời :
- Bẩm lão trượng, tiểu nhi chẳng biết võ nghệ, nhưng thường xem sách thấy nói rằng “Phách Không chưởng” nếu luyện tới đợt nhất, có thể cách một bức tường mà làm tắt cây đèn cầy, đánh vỡ bụng một con bò cách xa một trượng, còn lão trượng đánh xuống mặt nước mà chết cá không phải là “Phách Không chưởng” hay saỏ Chẳng hay lão trượng cao danh quí tính là chi xin cho tiểu nhi được biết.
Lão trượng vuốt râu cả cười :
- Ta họ Châu, khá khen cho con cũng thông minh đấỵ Nhưng sai mất rồi, “Phách Không chưởng” là dương cương, chỉ có thể phá hoại được vật cứng, nhưng đối với nước biển là chất lỏng thì vô dụng, nên không thể giết chết con cá trong nước, miếng võ của ta gọi là “Hỗn Nguyên Nhất Khí chưởng” so với “Phách Không chưởng” còn cao siêu hơn nhiều, con có muốn học không?
Lão trượng họ Châu là một vị danh tướng ở cuối đời Bắc Tống, tên gọi là Châu Đồng là sư phụ của Nhạc Phi, văn học và võ công của họ Nhạc là do Châu Đồng truyền dạỵ Sau này đại phá quân Kim, trở thành một anh hùng của dân tộc Trung Hoạ Mọi người đều sùng bái, đã có nhiều người nhầm tưởng Châu Đồng chỉ có một đồ đệ là Nhạc Phị
Thật ra, trước khi Châu Đồng thu Nhạc Phi làm đồ đệ, thì Châu lão anh hùng đã có mấy đệ tử trước rồị Trong đó, Hoàng Cố là một trong những đồ đệ đó.
Lúc Hoàng Cố xem nước thủy triều vì sợ bị lửa cháy nên nhảy liều xuống nước để dập tắt đi chẳng dè bị giòng nước cuốn ra ngoài biển, nhưng số mệnh không chết nên gặp Châu Đồng ngồi thuyền đi thăm bạn ỏ Định Hải trở về cứu thoát.
Lúc đó, Hoàng Cố đã bị uống nhiều nước, nên đã bất tỉnh nhân sự, hơi thở thoi thóp.
Châu Đồng dùng phương pháp cấp cứu riêng cứu tỉnh và ngắm dung mạo của Hoàng Cố thấy tướng mạo khôi ngô, dung nhan khác tục, thì ý muốn thu làm đồ đệ truyền dạy võ công cho chàng.
Khi Hoàng công tử nghe Châu Đồng nói thế thì cũng có vẽ mừng rỡ phục xuống lạy Châu Đồng và nói :
- Ơn Châu lão bá đã cứu tử hoàng sanh, nay lại thu làm đồ đệ, tiểu bối tuy học văn nhưng vẫn ưa nghề võ, nếu được lão bá truyền dạy thì tiểu bối xin hết sức theo học cho thành tàị
Châu Đồng lại cười nói :
- Con tên họ là gì, quê quán ở đâu, song thân còn hay mất?
Hoàng Cố lại đem gia thế kể lại cho Châu lão trượng nghẹ
Châu Đồng vui mừng lộ ra nét mặt cười nói :
- Té ra con là cháu nội của Lỗ Trực Công, một gia đình nho phong nề nếp, để ta đưa con về Hải Ninh, cho phụ thân con được an lòng và xem người có chịu cho ta thâu nhận con làm đệ tử hay không, rồi sau sẽ quyết định.
Nói xong Châu Đồng ra lệnh cho người chèo thuyền quay trở lại, hướng về phía Hải Ninh rong ruổị Nửa ngày sau thuyền đã cặp bến, Hoàng Cố lên bờ dẩn Châu Đồng về gia trang.
Gia nhân thấy Hoàng Cố về thì trợn tròn đôi mắt, mồm há hốc không người nào nói được một câu nào, Hoàng Cố thấy vậy thì hiểu rõ một phần nào liền nói lớn :
- Sao chúng bây đứng ngây người ra như phỗng vậy, mau mau vào báo với lão gia, ta được Châu bá phụ cứu thoát khỏi nạn thủy tai rồi...
Lúc đó, gia nhân mới reo to lên :
- Té ra thiếu chủ, chúng con cứ ngỡ là...
Tên đó nói chưa dứt câu đã cắm đầu chạy vào trong nhà. Hoàng viên ngoại đang than khóc, nghe tên gia nhân vào báo tin lành thì quá ư mừng rỡ đầu chẳng kịp đội khăn chân không kịp xỏ giầy, cứ thế chạy tới ra ngoàị
Mới tới phòng tiếp khách đã thấy Hoàng Cố và Châu Đồng vào tới nơị Lão viên ngoại đưa cả hai tay ra ôm chặt Công tử vào lòng nghẹn ngào không ra tiếng, nước mắt chảy dài trên má, nửa khóc nửa cười, bấy lâu chỉ thốt được mấy tiếng :
- Trời! Con con...
Hoàng Cố thấy viên ngoại quá tiều tụy không sao cầm lòng cho được cũng òa lên khóc. Thế là hai cha con cứ ôm chặt lấy nhau mà khóc om sòm.
Châu Đồng trông thấy tình của hai cha con viên ngoại như thế cũng phải cảm động, đứng im lặng chẳng nói câu nàọ
Một lúc, Hoàng viên ngoại mới chợt nhớ ra, vội buông Công tử hướng vào Châu Đồng chắp tay xá dài một cài thật sâu :
- Lão phu cam thất lễ, xin quí khách lượng thứ đi cho, ơn tiên sanh cứu tử cho tiểu nhi chẳng khác nào cải tử hoàn sinh cho cả thân già này nữạ Kính mời quí khách ngồi chơị
Châu Đồng vội đáp lễ và nói :
- Xin viên ngoại chớ bận lòng, đó là nhờ hồng phúc của viên ngoại cao dày, nên khiến xui cho tôi gặp gỡ lệnh lang chớ có chi gọi là ơn nghĩạ
Hoàng viên ngoại kéo ghế mời Châu Đồng ngồi và sai gia nhân pha trà giải laọ Những đồ tang chế mang ra vườn sau đốt hết. Mở tiệc ăn mừng, giết bò, mổ heo thết đãi họ hàng và lân bang hàng xóm.
Hoàng Cố mang câu chuyện mình bị giòng nước kéo ra bể, mười phần chết chín, đã mê man hồn quế. May nhờ Châu Đồng vớt lên và đã tốn bao nhiêu sinh lực mới cứu được thoát khỏi tay tử thần.
Hoàng viên ngoại lại toan sụp lạy Châu Đồng để tạ Ơn, họ Châu vội vàng do tay ngăn lại và nói :
- Xin viên ngoại chớ nên làm thế, khiến cho tiểu đệ giảm thọ mất thôị Đây cũng là do số trời định trước, tai ương của Công tử chỉ có thế. Tiện đây, tiểu đệ cũng muốn yêu cầu viên ngoại một việc.
Hoàng viên ngoại sốt sắng trả lời :
- Vâng! Vâng! Ân nhân muốn điều chi, xin cứ dạy bảo, lão phu hết sức tuân theọ Ân nhân muốn bao nhiêu tài vật cứ chỉ giáo, lão phu không dám tiếc chút nàọ
Châu Đồng cả cười nói :
- Không, không, viên ngoại chớ có tưởng nhầm ý của đệ, không bao giờ đệ nghĩ đến tiền tài đâụ
Nói đến đây họ Châu bỗng nghiêm nét mặt nói tiếp :
- Đây cũng là duyên trời rủi khiến cho đệ cứu được điệt nhị Đệ ngắm tướng mạo của lệnh lang, thật là phi phàm xuất chúng, tướng mạo hơn người, ắt sao trở thành người hữu dụng, nên ý ngu hạ muốn thâu nhận lệnh lang làm đồ đệ. Chẳng hay viên ngoại nghĩ saỏ
Hoàng viên ngoại đã nghe danh Châu Đồng là giáo sư của kinh thành cấm quân võ nghệ cao siêu, danh tiếng vang lừng trong thiên hạ.
Nay thấy Châu Đồng tự ý yêu cầu thâu nhận Hoàng Cố làm môn đồ thì còn gì mừng hơn nữa, vội vàng chấp tay vái tạ và nói :
- Ơn đại huynh cải tử hoàn sinh, gia đình tiểu đệ chưa biết lấy gì báo đáp cho xứng đáng, nay mong ơn đại huynh lại quá thương tiểu nhi cho được thụ giáo thì phúc đức họ Hoàng thật là to tát.
Châu Đồng cũng dùng lời khiêm nhượng đáp lạị Hoàng viên ngoại chọn ngày lành tháng tốt mổ heo làm lễ cho Hoàng Cố bái lạy Châu Đồng nhận làm sư phụ.
Châu Đồng từ đó lưu lại Hoàng gia trang, mang tài nghệ ra truyền bảo cho Hoàng Cố cả văn lẫn võ.
Cách dạy của họ Châu cũng khác thường, ngày lẻ học văn, ngày chẵn học võ, về văn không chú trọng đến văn thơ ca nhạc, mà chỉ quan tâm đến luận văn Cổ, Kim và làm những bài phê bình cuộc thế trong thiên hạ.
Châu Đồng dạy cho Hoàng Cố biết Thái Công, am phù Tôn, Ngô binh pháp, về võ không trọng luyện về quyền, chưởng, đao, kiếm mà chỉ chuyên chú về nội công.
Quang âm thấm thoát, ngày tháng tựa thoi đưa, chẳng mấy chốc đã qua một năm, tài văn, võ của Hoàng Cố đã có căn cơ.
Châu Đồng lại dạy thêm cho Hoàng Cố các cách tế thế an bang, còn võ công thì tập luyện thêm gân cốt.
Thời gian thấm thoát lại trải qua ba năm nữạ Hoàng Cố lúc đó được mười chín tuổị Hoàng viên ngoại giục chàng thu xếp hành trang để đi thi huyện, hy vọng có thể đậu cử nhân, làm vinh quang cho tổ tông. Ngờ đâu, Hoàng Cố nhất định chối từ không đi thị
Hoàng viên ngoại thấy chàng từ chối, thì hết sức ngạc nhiên hỏi rằng :
- Sao con lại không chịu đi thi, như thế chẳng uổng công bao nhiêu ngày nấu sử sôi kinh, lại phụ lòng sư phụ con truyền dạỵ
Hoàng Cố cung kính đáp :
- Dám thưa phụ thân, có phải đâu học hành là để được làm quan. Hiện nay trong triều gian thần đang lộng hành, không bà con thân thích ắt không được thu dụng, nếu không dùng tiền tài đút lót ắt không bao giờ thi đậụ Trong triều bại hoại, phần đông là tụi giá áo túi cơm, chỉ muốn vơ vét cho đầy túi tham để tha hồ xa hoa phung phí, hầu non, gái đẹp mặc cho lê dân đồ thán. Con ứng thi nào có ích gì? Nếu may mà đỗ đạt thì cũng ra lòn vào cúi nào có vinh chị Con học để biết cách xử thế, phải đâu ra làm quan mới làm nên công việc vĩ đạị Xưa kia Tín Lăng Quân cướp Phù cứu Triệu, Trương Tử Phòng giúp Lưu Bang đại phá Hạng Võ dựng lên Hán triều cả bốn trăm năm, đâu có phải ra làm quan mới lưu danh muôn thưở.
Hoàng viên ngoại biết tính Hoàng Cố cương cường ý đã quyết thì dù có mắng chửi hay bắt ép cũng không được.
Nghĩ mình sinh con có một mống mà bảo không được, quá suy nghĩ, uất ức thành bệnh, được mấy tháng thì mất.
Hoàng Cố thương cha khóc chảy ra máu mắt. Tống tang cho Hoàng viên ngoại xong xuôi, theo thể chế của người xưa họ Hoàng cự tang ba năm.
Trong ba năm ấy Châu Đồng lại dạy chàng thêm nhiều kiến thức. Nhưng tánh của Hoàng Cố càng lớn càng quái dị chỉ mãi mê theo môn học của Hoàng lão lấy thuyết vô vi mà trị quốc, lại theo cách sống của Trúc Lâm thất hiền đời nhà Tấn, chơi bời trong thế gian, lấy sự phong lưu làm thú, tư tưởng rất là siêu thoát.
Ý Châu Đồng thì muốn truyền thụ tất cả sở học cho Hoàng Cố, khiến cho Hoàng Cố trở nên một người văn võ kiêm toàn, mai sau giúp nước.
Ngờ đâu, chàng chán cả người đời, chán cả vũ trụ, chỉ thích sống riêng biệt thì đâu phù hợp với ý nguyện của tôn sư.
Bởi vậy cho nên sau khi đã dạy cho chàng suốt mười năm trời, Châu Đồng đành âm thầm rời khỏi nhà họ Hoàng.
Từ đó Hoàng Cố vẫn chứng nào tật ấy, trước hết giải tán gia đinh, bán sạch cửa nhà, đồng ruộng lấy tiền đi chu du năm hồ bốn biển cho thỏa chí bình sinh, thỉnh thoảng cũng có đôi ba lần hành hiệp tác nghĩạ
Chưa đầy một năm phung phí hết tiền, Hoàng Cố phải nghĩ đến giúp việc cho các tiêu cục để kiếm tiền độ nhựt. Nhưng chàng thường đòi hỏi thái quá mỗi lần lấy tám trăm, một ngàn lạng vàng.
Có lần chàng đi đến tỉnh Sơn Đông huyện Lịch Thành (tức là Tế Nam phủ ngày nay) ghé thăm tổng tiêu đầu Hà Chấn Viễn là một người tiếng tăm lừng lẫy ở Sơn Đông, Hà Chấn Viễn tước hiệu Kim Đao vô địch, thường được xưng tụng là: Thần Quyền Trấn Sơn Đông.
Hoàng Cố đưa danh thiếp xin yết kiến, gặp mặt Hà Chấn Viễn Hoàng Cố vừa mở miệng là ngỏ ý muốn lấy hai ngàn lạng vàng.
Hà Chấn Viễn tức giận, nhưng cố nén mỉm cười mà rằng :
- Các hạ với tôi chưa từng quen biết, nay muốn lấy hai ngàn lạng vàng tôi khó lòng vâng chịụ Nếu muốn lấy tiền xin các hạ vui lòng biểu diễn võ công cho tôi được thưởng thức tài năng quán thế của các hạ.
Hoàng Cố lạnh lùng đáp :
- Ngài muốn xem võ công của tôi saỏ Được, xin thứ lỗi cho!
Vừa nói dứ lời, Hoàng Cố đưa tay đập mạnh trên bàn, ngón tay như móc sắt móc ra một mảnh gỗ, rồi ném vào giá để làm binh khí làm gãy ba cây đinh ba thành hai đoạn.
Ngón tuyệt kỹ ấy của chàng làm Hà Chấn Viễn giật mình khâm phục.
Thường thường chỉ có sắt chém đứt gỗ chứ có bao giờ lại xảy ra sự ngược đời gỗ làm đứt sắt?
Vậy mà Hoàng Cố đã có thể dùng mảnh gỗ nhỏ ném gẫy ba cây đinh ba một lúc đủ hiểu võ công của chàng cao siêu đến bực nàọ
Hoàng Cố bỗng quát to lên rằng :
- Một mảnh gỗ này liệu nhà ngươi tính xem có đáng hai ngàn lạng vàng hay không?
Hà Chấn Viễn thấy tuyệt kỹ của họ Hoàng bụng sợ hãi nhưng trước thái độ xấc xược của Hoàng Cố, cũng nổi giận lớn tiếng mắng :
- Sao lại ngang ngược như thế được? Ngươi phá hoại binh khí của ta, rõ ràng là cố ý gây sự hãy tiếp một quyền này!
Chưa dứt lời, đã sử dụng thần quyền tuyệt kỹ với thế “Mãnh Hổ Hạ Sơn” Hà Chấn Viễn vung tay quyền đánh thẳng vào ngực Hoàng Cố.
Hoàng Cố cười ha hả tường chừng như không cử động mà thân mình đã rời khỏi chiếc ghế từ lúc nàọ Ngọn quyền Hà Chấn Viễn đánh ra đụng vào chiếc ghế làm nát vụn ra như cám.
Hoàng Cố cười gằn mà rằng :
- Tài nghệ có như thế mà đã gọi là Thần Quyền Vô Địch ư? Thật là nghe tiếng chẳng bằng gặp mặt! Hãy coi ta đây!
Vừa nói vừa đưa chân đá nhẹ vào những mảnh gỗ vụn dưới đất, tung lên như đạn bắn vào mặt Hà tổng tiêu đầụ
Hà Chấn Viễn không ngờ võ công của đối phương ảo diệu đến bực ấy, vội chuyển mình tránh cho làn đạn gỗ vụn khỏi trúng mặt, nhưng cũng không tránh khỏi mấy mảnh.
Nên nhớ rằng không thể coi thường cú đá của Hoàng Cố. Chỉ có một mảnh gỗ vụn nhỏ bắn vào người cũng đau nhức vô cùng.
Hà Chấn Viễn thét to lên một tiếng, rút thanh Kim đao quý ra dùng thế “Đại Bàng Triển Dực” chém vào đỉnh đầu Hoàng Cố.
Ngờ đâu đao vừa chém xuống đã nghe vang “bốp bốp” hai tiếng, mặt đã bị Hoàng Cố đánh trúng một bốp tay, đao trong tay cũng bị chàng giựt được bẻ gãy làm đôi, liệng xuống đất.
Kim Đao Hà Chấn Viễn, Thần Quyền Trấn Sơn Đông, chỉ trong một hiệp, đã liên tiếp bị thiệt hại ba lần.
Hoàng Cố võ công cao siêu đến bực ấy thật là thần xuất, quỷ mạt, thế gian chưa từng mắt thấy tai nghẹ
Hà Chấn Viễn tức giận thét lớn :
- Tiểu tử này phải chăng dùng tà thuật! Bạn hữu ta đâu! Hãy giúp ta bắt lấy nó!
Hơn mười người giúp việc tiêu cục, thảy đều là những nhân vật võ nghệ siêu quần nổi tiếng võ lâm, lập tức đổ xô lại bao vây Hoàng Cố.
Hoàng Cố quát lớn lên một tiếng, hai tay vung lên, xông vào đám đông ngườị Bốp, bốp mấy tiếng liên tiếp, bảy người bị Hoàng Cố bốp tai, giựt mất binh khí, bẻ liệng đi, đồng thời dùng chân đá ngã những người khác.
Chỉ trong khoảnh khắc hơn mười vị tiêu sư oai dũng đều mặt mày sưng vù, la lối om sòm, chen nhau cạy ra ngoài cửạ
Hoàng Cố cười ha hả nói :
- Võ công như thế mà cũng xưng là giang hồ hảo hán! Thôi tôi cũng không nhận số tiền hai ngàn lượng nữa đâụ Hẹn lần khác sẽ gặp lạị
Dứt lời, liền bước ra cử đi thẳng.
Sau vụ đại náo Tổng tiêu cục của Kim Đao Hà Chấn Viễn, Hoàng Cố đã nổi tiếng trong giới giang hồ. Mỗi khi chàng ghé lại tiêu cục nào nhờ giúp đỡ thì các tiêu cục đầu ai nấy đều nén lòng cam giận, giả bộ tươi cười, hai tay đưa tiền dâng nạp không dám bớt một đồng.
Hoàng Cố lấy được tiền không tốn mồ hôi nước mắt như vậy, lại tha hồ tiêu xài phung phí.
Cứ như vậy ba năm liền, các tiêu cục phía Bắc Đại Hà, đều coi Hoàng Cố như thần, một lòng sợ phục, tuy thù ghét chàng nhưng không một ai dám hé răng, đừng nói chi đến tỉ thí võ nghệ với chàng.
Sau đó, có lẽ Hoàng Cố cảm thấy chán nản vì suốt mấy tỉnh miền Bắc, võ lâm hào kiệt không một ai dám chống trả chàng nữa, nên bỗng đi biệt tăm biệt tích. Từ đó các tiêu cục mới được yên vì không bị người đến quấy nhiễu tống tiền.
Hoàng Cố vắng bóng giang hồ như vậy là đi về phương nàỏ Thì ra chàng trở về quê cũ ẩn cư ở núi Nhạn Đãng phía Tây Triết Giang, chuyên tâm luyện tập về dịch lý, theo mấy cuốn sách của sư phụ là Châu Đồng để lại cho, nhất là về tiên thiên dịch ý, thái công âm phù và ngũ hành kỳ môn.
Những phép tắc vừa kể, trong cổ thư của Trung Hoa, gọi là “Kỳ Môn thuẫn pháp”, tuyệt nhiên không phải là dùng để gạt người, cổ nhân hành quân dàn trận đều có sử dụng.
Danh tiếng nhất trong lịch sử là vào đời Xuân Thu Chiến Quốc, Tôn Tẫn đại phá Bàng Quyên đã có lần sử dụng “Lục Giáp trận pháp”.
Tiếc thay từ ngày Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, làm tan hết nền văn hóa nước Tàu, phép “Kỳ Môn thuẫn pháp” này cũng đã thất lạc, cùng với bao nhiêu sách khác, có chăng chỉ còn một vài người nhớ được ít nhiều bí truyền cho con cáị
Mãi đến đời Ngụy, Thục, Ngô, Tam Quốc.
Gia Cát Lượng được cha vợ truyền thụ phép “Kỳ Môn thuẫn pháp” tuy không đầy đủ như trước, song cũng đã dàn được “Bát Quái Trận Đồ” bao vây đại tướng của Đông Ngô là Lục Tốn. Nhưng sau đời Tam Quốc không còn thấy một ai thông hiểu phép bày bố “Kỳ Môn Bát Trận” nữạ
Hoàng Cố tự phụ là thông minh tuyệt thế, quyết tâm luyện cho được “Kỳ Môn thuẫn pháp” nên lui về một vùng thâm u là núi Nhạn Đãng, xếp đá bày trận, chuyên tâm luyện tập nửa năm, liền tìm ra phương hướng của Kỳ môn bát trận, lại nghiên cứu thêm sáu tháng nữa mới nghĩ ra cách bày bốn trọng môn đảo đi nghịch lại, không thấy sai lầm.
Bấy giờ chàng mới bắt mấy con thú nhỏ, thả vào Kỳ môn thạch trận ấy, thấy chúng xông xáo chạy quanh tìm đường ra mà không thoát.
Thấy vậy tự biết là đã học thành công, Hoàng Cố sung sướng quá đỗi, vùng cười lên như phát cuồng dạị
Sau đó chàng bèn nảy ra một ý nghĩ kỳ dị là nếu dùng võ công trác tuyệt của mình, tìm ra biển cả, chiếm một hải đảo làm bá chủ một vùng hải ngoại, thu nạp môn đồ dựng lên một môn phái riêng biệt, dẫu không lưu danh vạn đại cũng có thể nổi tiếng võ lâm.
Quyết định rồi, Hoàng Cố liền rời ngay Nhạn Đãng sơn, tiến về phía bể, mong tìm được hòn đảo hợp ý nguyện.
Chàng lần theo ven biển Sơn Đông, từ bán đảo này, đi ngược lên phía trên, trước tiên Trường Sơn bát đảo, Triều đảo quần, đến vịnh Giao Châu, qua các đảo Lao Sơn, Thất Tinh, kiếm tìm, lựa chọn hơn ba chục hòn đảo, không tìm được đảo nào vừa ý.
Về sau, đi tới một hòn đảo ở tận ngoài Hoàng Hải, thấy hợp ý mình nên xếp đá thành “Kỳ môn bát trận” nào ngờ lại gặp Vương Trùng Dương đi ngang qua, vì dùng thuyền lấy nước ngọt mà phá rối thạch trận của chàng.
Hoàng Cố vốn tính tình kỳ quái, tức giận phá nát Kỳ môn thạch trận, khắc thơ trên đá, ngồi thuyền đi thẳng.
Đó là nguyên nhân tại sao Hoàng Cố lại dấn thân ra hoang đảo, nhưng chuyện đó hãy tạm gác lại một bên.
Nói về Vương Trùng Dương, đáp thuyền của Đinh Nhị Mao, vượt qua Hoàng Hải, đến tận cùng cửa biển nầy, tức là phía Bắc Đông Hải, Đinh Nhị Mao bỗng lấy ra từ đáy thuyền một lá cờ đen hình tam giác buộc giây kéo lên ngọn cột buồm.
Vương Trùng Dương nhìn thấy lá cờ này không khỏi giật mình kinh ngạc vì ngay giữa cờ có thêu một chiếc đầu lâu màu trắng, phía dưới có hai cái xương giao nhau, rõ ràng là lá cờ hiệu của bọn hải tặc.
Vương Trùng Dương bèn hỏi Đinh Nhị Mao :
- Vì cớ gì bọn ngươi lại dương lá cờ kỳ quái này lên như vậỷ
- Kỳ quái ư?
Hai người con Đinh Nhị Mao vội vàng đáp :
- Lá cờ này đối với bọn thương thuyền chúng tôi đắt giá lắm, xin quý khách biết cho rằng mỗi năm chúng tôi phải nộp năm lạng vàng mới được cấp phát lá cờ này đấy!
Vương Trùng Dương không khỏi kinh ngạc mà rằng :
- Năm lạng vàng mua một lá cờ? ích lợi của nó ra sao mà phải trả đắt giá như vậỷ
Đinh Nhị Mao thở dài đáp :
- Qúy khách không rõ, vì mới đi đường bể lần đầu nên không hiểu luật lệ trên mặt bể!
Vương Trùng Dương bỗng tỉnh ngộ :
- À! Thì ra đây là cờ hiệu của bọn giặc bể, cấp phát cho các ngườị
Đinh Nhị Đao run sợ nói :
- Xin quý khách giữ lời, chớ gọi là giặc bể, mà phải gọi là... hảo hán.
Vương Trùng Dương mỉm cười nói :
- Vâng thì gọi là hảo hán. Vậy những hảo hán có lá cờ này dữ dằn lắm phải không?
Người con lớn của Đinh Nhị Mao nhanh miệng đáp :
- Đúng lắm. Qúy khách nói không saị Bao nhiêu thuyền qua lại miền Đông Hải này đều phải nộp tiền cho Nữ Đại Vương, nhận lấy cờ hiện nàỵ
Vương Trùng Dương nghe thấy ba tiếng “Nữ Đại Vương” không khỏi lấy làm kỳ thú, mỉm cười nỏi :
- À, té ra người cầm đầu các hảo hán là một vị Nữ Đại Vương? Nữ Đại Vương chắc là xinh đẹp lắm phải không?
Đinh Cương thuận miệng, liền thuật cho Vương Trùng Dương nghe mọi chuyện.
Thì ra từ ba năm nay, tại Đông Hải đã xuất hiện một “Nữ Đại Vương”, họ Tôn tên Phượng Cô nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, tuổi mới đôi mươi nhưng ác độc không ai bằng, giết người không sờn tay, nhắm mắt.
Bọn hải tặc thần phục, tôn Phượng Cô lên làm nữ chúa cầm đầu cả một bọn cướp bể gọi là Hắc Phượng bang.
Thế lực Hắc Phượng bang rất hùng mạnh, thuyền bè có hàng trăm chiếc, lâu la kể đến hai ngàn.
Khu vực hoạt động của bọn hải tặc này bao trùm cả một vùng biển phía Bắc từ Hoàng Hải Tề Lỗ, phía Nam sát Châu Sơn quần đảo ở Triết Giang. Sào huyệt của chúng, cứ như thiên hạ nói, hình như ở gần Trường Giang Khẩu, Giang Tô.
Cả một vùng bể này bất luận là thuyền buôn hay thuyền đánh cá, gặp thuyền của Hắc Phượng bang đều chắc chắn là hàng hóa bị cướp, người bị sát hạị
Tôn Phượng Cô lại thường dẫn “Hắc Phượng bang” lên đất liền đánh cướp, xung đột với quan binh ở ven biển.
Trong các trận giao tranh, Phượng Cô đầu thắt khăn đỏ hai tay đao, xông pha lãnh đạo bộ hạ.
Chớ tưởng lầm cô là phận nữ nhi, sự hung dữ của cô đã khét tiếng cả một vùng.
Có lần đụng độ với quan binh, một mình cô đã giết ba Thống chế, một viên Đề hạt, uy danh lừng lẫy, khiến quan binh trông thấy cô là đã chạy tán loạn không dám cự địch.
Sau này Phượng Cô đặt ra quy lệ Ở trên mặt biển, thuyền bè nào đi qua Đông Hải, mỗi chiếc phải dâng nạp cho “Hắc Phượng bang” năm lạng vàng, nộp tiền rồi sẽ được cấp phát một lá cờ tam giác màu đen thêu sọ và xương người màu trắng, đi qua Đông Hải phải treo lá cờ lên ngọn cột buồm.
Hải tặc thấy cờ hiệu, biết là đã nộp tiền sẽ không đánh cướp nữạ Cha con Đinh Nhị Mao mới tới Ngao Đẩu dương đã vội lấy cờ treo lên, nguyên do là như vậỵ
Vương Trùng Dương nghe rõ đầu đuôi, nhìn kỹ lá cờ ghê gớm ấy rồi vụt nói :
- Lá cờ này quả thật giúp người ta đi lại yên ổn ở Đông Hải ư? Nếu muốn giả mạo thì làm bao nhiêu lá cờ như thế mà không được?
Đinh Nhị Mao cười nói :
- Mang cờ giả mạo đâu phải là chuyện dễ? Nếu Nữ Đại Vương biết được chắc chắn sẽ toi mạng. Đừng tưởng lá cờ ấy cũng giống như muôn ngàn lá cờ khác, đầu mỗi cái xương có in một dấu nhỏ hình chim phượng hoàng chắp cánh không ai giả mạo được. Năm vừa qua Sùng Minh đảo thuộc tỉnh Giang Tô có một người đánh cá làm giả một lá cờ ra biển đánh cá đến lần thứ ba bị bọn hải khấu hay biết lập tức báo cáo với Nữ Đại Vương. Thế là bao nhiêu người trên thuyền đều bị quăng xuống bể làm mồi cho cá. Từ đó không còn một ai bạo gan nghĩ đến chuyện giả mạo lá cờ nữạ
Đinh Cương nói tiếp :
- Chúng tôi nộp tiền ngày nào tháng nào họ cũng đều ghi rõ không hề lầm lẫn.
Trùng Dương nghe xong câu chuyện của cha con Đinh Nhị Mao bỗng sinh lòng mến phục Tôn Phượng Cô, tuy là hải tặc nhưng bản lãnh phi thường, tài năng xuất chúng, nếu điểm hóa cho nàng, khuyên nàng cải tà quy chánh chắc có thể trở nên người hữu dụng.
Chàng đương nghĩ ngợi bỗng nghe Đinh Nhị Mao la lớn :
- Hảo hán tới kia rồi!
Mọi người hoang mang xao xuyến. Vương Trùng Dương đưa mắt nhìn về phía trước thấy xa xa xuất hiện một chiếc thuyền lón phăng phăng rẽ sóng tiến đến, trên ngọn, một trong ba cột buồm phất phới một lá cờ tam giác màu đen thêu đầu lâu và xương trắng. Đinh Nhị Mao cuống quýt nói với Trùng Dương :
- Hảo hán đến xét thuyền đấỵ Kính xin tôn ông vui lòng tạm lánh xuống đáy thuyền một lát.
Vương Trùng Dương biết rằng đấy là luật lệ trên mặt biển nên mỉm cười vào trong ghe lánh mặt.
Một lát sau, chiếc thuyền ba buồm kia càng ngày càng xáp lại gần. Cách thuyền của Đinh Nhị Mao chừng mấy trượng bọn thủy thủ quăng móc sắt móc vào mạn thuyền của Đinh Nhị Mao rồi mấy tên hải khấu nhảy ào sang hung năng quát lớn :
- Mau hạ cờ xuống cho ta xét.
Đinh Nhị Mao vâng lệnh kéo cò xuống. Bọn hải khấu tất cả bốn tên chuyền tay nhau xét soi tìm dấu đỏ hình chim phượng hoàng in trên lá cờ. Chúng lại lật sổ kiếm tìm rồi quát hỏi :
- Mi là Đinh Nhị Mao phải không? Năm ngoái có nộp năm lạng vàng tính đến tháng sau là hết hạn, lần sau đi ngang qua đây phải nạp tiền lệ nghe không?
Đinh Nhị Mao vâng dạ luôn mồm, tiễn đưa bọn hải khấu lui về thuyền của chúng.
Ngờ đâu lúc thuyền hải tặc sắp khởi hành bỗng một cột buồm gãy làm hai đoạn. Cờ và buồm đều rơi xuống bể, thuyền tròng trành muốn chìm làm cho mấy tên hải khấu té ngang té ngửạ
Đinh Nhị Mao biết là Vương Trùng Dương đánh gãy và chính bọn hải khấu cũng nhận biết, lớn tiếng quát :
- Bọn này táo gan thật, dám ẩn giấu gian tế dưới thuyền.
Chúng chưa dứt lời, Trùng Dương đã từ từ bước ra cười ha hả :
- Bọn giặc cỏ này muốn thu tiền lệ phí chăng? Được ta cũng muống bọn mi hàng năm phải dâng nạp cho ta một số tiền biết chưả
Nghe Vương Trùng Dương nói vậy, bọn hải tặc đều căm gan tím ruột hè nhau rút binh khí ra, vù vù hai tiếng, hai ngọn phi tiêu bay thẳng vào mặt Trùng Dương, chàng cười to hơn nữa :
- Thứ đồ rỉ sét này thì làm gì được ai mà dám hung hăng làm bậỵ
Vừa nói, Trùng Dương vừa vung tay bắt hai ngọn phi tiêu rồi trở tay phát ra hai mũi phi tiêu liền bay ngược lại phía bọn hải khấu găm vào giữa ngực hai tên giặc.
Chúng la lớn lăn xuống mạn thuyền không cựa quậỵ Ngờ đâu chúng không chết, Vương Trùng Dương chỉ dùng cán phi tiêu ném trúng huyệt đạo, chúng chỉ cảm thấy tê buốt ngã xuống không vùng vẫy được mà thôị
Trên thuyền giặc, tất cả có hơn hai chục tên hải khấu thấy đồng bọn bị đã thương vừa sợ vừa giận. Ai nấy đều muốn nhảy sang vây đánh Vương Trùng Dương.
Chàng bỗng quát lớn lên một tiếng, cấm chiếc neo ở trên boong giơ cao lên, tính cả giây xích dài chừng mấy trượng, chiếc neo phải nặng tới một trăm năm mươi cân.
Bọn hải tặc thấy chàng là một thư sinh nhỏ thó, mà có sức cầm nổi cái neo giơ lên ngang mặt coi nhẹ như không thì cũng không khỏi giật mình kinh sợ.
Vương Trùng Dương lớn tiếng nói :
- Bọn mi thật là phường túi cơm giá áo mà đòi chống cự với ta sao nổỉ
Nói rồi liền cầm chiếc neo ném sang phía thuyền giặc làm bọn chúng hoảng hồn né tránh về phía saụ
Chiếc neo như theo lệnh Trùng Dương rơi đúng vào mạn thuyền của bọn hải khấu làm thủng một lỗ vuông hàng thước. Bọn chúng la hoảng, sợ thuyền chìm.
Vương Trùng Dương lại giơ tay trái cầm dây xích quay ba vòng quát lên một tiếng “trúng” đánh ngang vào chiếc thuyền khiến cột buồm và mui thuyền đều bay vọt lên không trung, rơi xuống biển. Thân thuyền rung động. Bọn cướp la lớn :
- Xin đại hiệp tha tội chọ
Trùng Dương thấy chúng biết sợ, liền kéo chiếc neo lại nói :
- Bọn mi hãy mau xa chạy cao bay cho khuất mắt tạ
Chiếc thuyền đã bị hư hại không tài nào bơi đi được nữạ
Trùng Dương lại nói :
- Ta đã bảo bọn mi phải đi cho mau, sao còn chùng chình chưa ra khỏi thuyền. Trên thuyền phải chăng có hai chiếc tam bản, hãy mau thả xuống bơi đi cho mau, nếu không ta đánh chìm thuyền đừng oán trách.
Bọn hải khấu nghe chàng nói như vậy hoảng kinh, vội vã chen nhan hai mươi mấy con người chia làm hai tốp xuống ghe chạy trốn.
Vương Trùng Dương cười nói với Đinh Nhị Mao :
- Này ông chủ thuyền họ Đinh, lần này tôi đã kiếm cho ông được một chiếc tàu lớn, chỉ đem tháo ra bán gỗ cũng có thể được năm chục lạng vàng đủ nộp lệ phí trong mười năm.
Hồi 11
Thoa Vàng Hơn Kiếm Báu
Vương Trùng Dương quả nhiên tinh mắt hơn người xa trông đã nhận biết đúng là thuyền của Hắc Phượng bang được tin báo cáo của bọn thảo khấu thua chạy hôm trước, nên tìm đến vây bắt báo thù.
Chàng liền bảo cha con Đinh Nhị Mao nấp vào trong khoang thuyền để mình chàng đối phó. Thấy cha con cuống cuồng sợ hãi, chàng nói :
- Mấy cha con cứ vào trong khoang, cố ngủ đi một giấc ngủ dậy là việc đâu đó xong xuôi rồi có gì đâu mà ngại!
Cha con Đinh Nhị Mao dở khóc dở cười, nhưng sự thể đã như vậy không còn cách gì hơn là phó mặc cho số mệnh.
Vương Trùng Dương đứng trên mũi thuyền xa trông ngày càng thấy rõ hơn mười chiếc thuyền hải tặc bày thành hàng chữ nhất như một con rắn dài từ từ hướng về phía thuyền của chàng mà tiến đến, phút chốc đã tới gần, thuyền nào cũng đông nghịt những hải khấu, gươm đao giáo mác trông thật dữ dằn.
Chiếc thuyền lớn nhất đi giữa có treo một lá cờ phất phới trên cột buồm chính, cờ thêu chim phượng hoàng màu đen Bên trái là một đội nữ binh mặc áo chiến màu hồng, vây chung quanh một thiếu nữ mặc áo vàng xinh đẹp tuyệt vời, đầu đội mũ thêu kim tuyến, tay cầm trường kiếm sáng ngờị
Vương Trùng Dương thầm nghĩ nàng chính là nữ đại vương mà cha con Đinh Nhị Mao đã từng nói tới, tên gọi Tôn Phượng Cô - thủ lãnh Hắc Phượng bang.
Vừa lúc hai thuyền sáp lại gần nhau, Vương Trùng Dương liền cất tiếng gọi :
- Cô nương phải chăng là Bang chủ của Hắc Phượng bang? Tôi đây là Vương Trùng Dương định tâm đến Đông Hải để tìm cô nương đây Thiếu nữ áo vàng chính là Tôn Phượng Cô, đến gần mới nhìn kĩ nàng bận áo màu ngân bạch viền kim tuyến, thêu ngũ phụng cũng bằng kim tuyến xa trông lấp lánh tưởng như toàn màu vàng.
Thiếu nữ giơ cao thanh trường kiếm cười nhạt mà rằng :
- À ra ngươi có ý tới đây gây sự, tốt lắm tốt lắm. Lâu nay ta không ăn món tim người, bữa tối nay chắc được uống rượu nhắm với trái tim nhà ngươi...
Cha con Đinh Nhị Mao ở trong khoang thuyền nghe nói sợ toát mồ hôi, hai hàm răng đánh vào nhau nghe cầm cập.
Vương Trùng Dương trái lại thản nhiên mà rằng :
- Cô nương thèm ăn tim người ư? Vâng, tôi xin đem trái tim này tặng cô...
Tôn Phượng Cô tức giận thét lớn :
- Nói bậy!
Đồng thời vung tay lên thì thấy “Vút vút” hai tiếng, hai ngọn phi đao nối đuôi bay ra như hai đạo bạch quang nhắm thẳng Vương Trùng Dương bay tớị
Phóng phi đao là tuyệt kĩ của Phượng Cô, mỗi ngọn phi đao nặng chừng một cân bốn lượng Khi phóng ra sức mạnh khác thường, có thể bay xa mười trượng mà trăm phát trúng cả trăm.
Năm trước trên biển Tượng Sơn thuộc Chiết Giang nàng đã dùng tuyệt nghệ này để sát hại thủ lãnh Thanh Ngư bang là Sa Lượng Quảng một chúa cướp biển từng xưng hùng xưng bá một phương, ngoài ra còn bảy đầu mục khác của Thanh Ngư bang cũng bỏ mạng vì ngọn phi đao thần xuất quỷ mạt của nàng, khiến cho thủ hạ của Thanh Ngư bang thảy hết đều qui phục nàng.
Trùng Dương đứng yên không nhúc nhích chờ phi đao tới còn cách một gang tay mới dùng bốn ngón tay kẹp chặt lấy khiến bọn hải tặc giật mình kinh khiếp.
Vương Trùng Dương cất tiếng cười vang :
- Hai thanh sắt vô dụng này mà đòi lấy một trái tim sao được?
Vừa nói vừa bóp vụn ngọn phi đao ném tung lên.
Tôn Phượng Cô nhận biết chàng là một bậc võ công cao siêu bậc nhất, song bản tính cang cường của nàng không chịu khuất phục đối phương, quát to lên rằng :
- Kẻ kia quả nhiên võ công không phải tầm thương nhưng ta sẽ tặng luôn một lúc hai mươi ngọn phi đao còn lại đây, nếu tránh đỡ được cả ta xin quỳ lạy tôn làm sư phụ... Đỡ này!
Thì ra Tôn Phượng Cô có tất cả hai mươi bốn ngọn phi đao truy hồn đoạt mệnh, nhưng phi đao của nàng nặng quá sức phải giao cho bốn nữ binh khỏe mạnh chia nhau mỗi người giữ sáu ngọn.
Tôn Phượng Cô nói dứt lời, quay mình một vòng, vun vút mấy tiếng, liên tiếp phóng ra bốn ngọn phi đao cùng một lượt bay về phía Vương Trùng Dương. Phương pháp phóng phi đao này gọi là “Tứ lý xuất long môn”, hai ngọn nhằm vào đầu vào mặt, hai ngọn khác nhằm vào ngực và bụng, nhưng lạ lùng thay, Vương Trùng Dương vẫn tưởng như an nhiên bất động chỉ thấy hai tay thoáng giơ lên cả bốn ngọn phi đao đã nằm gọn trong tay chàng, còn dễ dàng hơn con nít bắt bươm bướm.
Tôn Phượng Cô vừa giận vừa thẹn tung chân đá ngã nữ binh thứ nhất (vì trong tay y đã hết phi đao), ba nữ binh khác vội tiến đến dâng luôn mười tám ngọn phi đao còn lạị
Tôn Phượng Cô vừa chụp lấy vừa phóng ra, theo liên châu thủ pháp, đầu tiên là thủ pháp “Liên Hoa Tụ Đỉnh” sáu ngọn phi đao bay vụt đến người Vương Trùng Dương Chàng không hề lộ vẻ bối rối lập tức ném bốn ngọn phi đao trong tay xuống, hai tay giơ cao khỏi đầu, múa lên một vòng như chong chóng.
Hai lần trước chàng đã dùng ngón tay mà đỡ nhưng lần này sáu ngọn tới một lượt, Vương Trùng Dương biết không thể dùng ngón tay như trước nữa bèn dùng cả bàn taỵ
Hai tay chàng vừa chuyển hết vòng thì sáu ngọn phi đao của Tôn Phượng Cô đã phân ra bên trái ba ngọn lọt vào hai tay chàng. Vừa lúc ấy Phượng Cô đã ném ra một lượt mười hai ngọn phi đao khác bay tới người chàng như pháo thiên thanh.
Thủ pháp của nàng lần này gọi là “Mãn Thiên Hoa Vũ” mười hai ngọn phi đao phân làm ba tổ, mỗi tổ bốn ngọn chia thượng, trung, hạ cùng tớị Vương Trùng Dương lần này thấy bốn phía đều có ánh phi đao lấp lánh xung quanh mình Tôn Phượng Cô nghĩ thầm rằng nàng đã phóng ra mười hai ngọn phi đao một lần như thế thì thần tiên cũng khó lòng tránh thoát, kẻ kia dù võ công có cao cường đến đâu cũng khó lòng thoát khỏi mạng vong. Ngờ đâu Vương Trùng Dương hét lên một tiếng, hai chiếc tay áo rộng lớn hướng từ trái sang phải phất mạnh một cái, mười hai mũi đao bỗng đảo ngược trở lại chui hết vào tay áọ
Những tên hải tặc trông thấy đều vỗ tay to lên rằng :
- Chà! Thật là hay quá!
Tôn Phượng Cô không ngờ hai mươi bốn phi đao đều bị làm rơi tất cả thì lấy làm ngượng đỏ cả mặt Vương Trùng Dương trước tiên buông bốn phi đao trong tay bỏ xuống, rồi lại từ trong tay áo đổ ra mười hai cái phi đao vừa tiếp được, tổng cộng tất cả là hai mươi cáị
Vương Trùng Dương cất tiếng cười ròn rã :
- Cô nương có nói với tại hạ nếu kiếm kẹp được hai mươi hai cái phi đao của cô không thiếu sót cái nào thì cô nương phải lạy tôi và tôn làm sư phụ, vậy thì cô hãy làm lễ bái sư đị
Tiếng của Trùng Dương vang rền khiến Phượng Cô cảm thấy bẽ bàng, nàng không dằn lòng được giận dữ quát lên :
- Mi mới bắt được phi đao, đó chỉ là trò tầm thường, đã được gọi là võ công đến mức cao siêu, nếu có giỏi hãy cùng bản cô nương đấu vài trăm hiệp phân tài cao thấp.
Vương Trùng Dương lại cười sằng sặc :
- Chẳng cần phải đánh cô nương cũng đã thua rồi
Tôn Phượng Cô quắc đôi mắt sáng như sao hét lớn :
- Chớ có khoác lác, mi có tài nghệ gì hãy trổ cho ta coị
Trùng Dương hỏi :
- Tại hạ xin hỏi cô nương, ngoài môn phi đao ra, cô nương còn có bản lãnh gì nữa không? Cứ mang ra thi thố, tại hạ sẵn sằng thừa tiếp
- Bản lãnh của ta là cây gươm này nếu mi phải là trang anh hùng, hãy sang đây, đấu với ta vài ba trăm hiệp.
Vương Trùng Dương cười ngất :
- Cô nương đào tơ liễu yếu đâu có đủ sức giao đấu đến vài trăm hiệp, tại hạ chỉ lo cô nương không đủ sức đâu tới ba mươi hiệp mà thôị
Tôn Phượng Cô căm gan, tím ruột, mắt phượng tròn xoe, lông mày dựng ngược quát to :
- Mi dám cả gan phạm đến ta, ắt phen này sẽ không có đất mà chôn.
Vương Trùng Dương lấy tay chỉ vào chiếc tàu bị neo sắt đánh hư và nói :
- Cô nương là chủ, tại hạ là khách, tuyệt đối tại hạ không sang chiếc tàu của cô nương. Chúng ta cùng sang chiếc tàu kia giao đấu có lẽ công bằng hơn.
Tôn Phượng Cô không chờ cho Vương Trùng Dương dứt lời đã dùng thế “Cò Nhạn Xung Thiên” nhảy vọt lên mấy trượng rồi trao mình như con én lượn, lao sang chiếc tàu đó và quát lớn :
- Tặc tử! Hãy sang đâỵ
Vương Trùng Dương cười to lên một tiếng, chàng cởi áo dài nhún nhẹ một cái đã bay vụt sang chiếc tàu như sao đổi ngôi, buông mình xuống khoang thuyền nhẹ như chiếc lá rụng, không hề phát ra một tiếng động nhỏ nàọ
Tôn Phượng Cô giật mình và tự biết khinh công của đối phương quá cao siêu, nên cũng không khỏi lo lắng trong lòng.
Từ ngày nàng bước chân hoạt động trong giang hồ, một mình vùng vẫy trên biển cả chưa thất bại bao giờ, Phượng Cô rất tin ở tài mình nên nàng giơ kiếm lên và nói :
- Bản cô nương sẽ dùng thanh gươm này để giao đấu, nếu túc hạ không có gươm, ta sẽ cho người một thanh, cho khỏi mang tiếng đánh một kẻ tay không.
Vương Trùng Dương cười rằng :
- Tại hạ xưa nay không ưa đồ binh khí, nhưng xin cô nương ráng giữ mình.
Vừa dứt lời Vương Trùng Dương đã giơ tay hướng vào Tôn Phượng Cô đánh ra một chưởng nhanh như chớp, Tôn Phượng Cô thật là không ngờ, nên không biết tránh đỡ cách nào đành phải quay gươm lại dùng thế “Hận Dơi Đến Muộn” chém ngang một nhát, bỗng thấy ở trên đầu hơi nhức, và Vương Trùng Dương đã nhảy về phía sau đến hai trượng, chàng ta vừa cười vừa nói :
- Xin thất lễ! Xin thất lễ! Tại hạ chỉ muốn dùng một vật của cô nương làm binh khí.
Tôn Phượng Cô chú ý thấy trong tay Vương Trùng Dương có một vật sáng lung linh, nhìn kỹ bỗng giật mình, thì ra đó là cây Phượng Thoa bằng vàng dài năm tấc, nàng để cài đầụ
Phượng Cô vừa xấu hổ vừa tức, từ trước tới nay ngang dọc trên chốn giang hồ, nàng không gặp người đối thủ, nên vẫn coi đời bằng nửa con mắt Nào có ngờ đâu, vừa giao đấu với Trùng Dương nàng đã thấy rõ đối phương của nàng là một tay bản lãnh cao cường, tài nghệ quán chúng. Chiếc Phượng Thoa cài ở trên tóc nàng mà chàng ta chỉ chớp mắt đã lấy được như không, đủ thấy võ công của nàng sút kém rất xa, nhưng Tôn Phượng Cô là người tuổi trẻ, nhiều tự ái, đâu có chịu thua ngay nên Phượng Cô quát to lên một tiếng :
- Hãy coi kiếm của ta đây!
Nói xong nàng hoa tít thanh kiếm lên, một ánh bạch quang sáng lòe vụt ra Trong một lúc Phượng Cô dùng luôn ba thế trong “Ngọc Nữ kiếm pháp” thế thứ nhất là “Tố Nữ Châm Hoa” thế thứ hai là “Ngọc Nữ Trang Điểm” thế thứ ba là “Tiên Nữ Từ Điện” liên bay ra, đà kiếm đi nhanh như chớp nhằm thái dương, cổ, hai ức của Vương Trùng Dương liên tiếp vung ra, vừa đâm vừa chém, uy lực ghê gớm.
Vương Trùng Dương vẫn điềm nhiên chẳng hề bối rối, chàng chỉ hơi chuyển mình thân pháp lanh lẹ dị thường đã tránh luôn được hai thế, còn thế thứ ba Phượng Cô đâm luôn vào mặt chàng. Trùng Dương dùng luôn chiếc Phượng Thoa điểm ngay vào thanh kiếm Tôn Phượng Cô giật mình sợ hãi vì chiếc Kim Thoa họ Vương vừa điểm vào Phượng Cô tưởng như búa lớn ngàn cân đánh tới, hổ khẩu tê buốt, toàn thân rúng động, không sao giữ nổi thanh gươm nữa đành buông rơi xuống khoang thuyền đánh “Choang” một tiếng.
Vương Trùng Dương cười ha hả :
- Cô bé ơi! Cô bảo đấu với tôi đến ba trăm hiệp mà mới đến ba hiệp đã rớt gươm thôi hãy quỳ nhận ta làm thầy đi thôị
Phượng Cô giận đỏ mặt, tức giận tràn hông, nét ngài dựng ngược, mắt phụng tròn xoe, chẳng nói chẳng rằng, cúi xuống nhặt gươm, rồi bất thình lình dùng thế “Độc Long Xuất Động” lao vút thanh gươm vào giữa ngực họ Vương và hét lớn :
- Tiểu tử, mi dùng bàng môn tả đạo chứ không phải là võ công chân chính, nếu bản cô nương này bị thua một cách đường hoàng sẽ quỳ xuống gọi ngươi là sư phụ.
Vương Trùng Dương thối lui lại một bộ tránh thoát lưỡi kiếm, đoạn cười nói :
- Cô nương cho thế nào là bàng môn tả đạỏ Thế nào là thủ đoạn chân chính? Mà thế nào cô bị thua mới chịu phục nhận ta làm sư phụ, phải nói rõ ràng mới được.
Tôn Phượng Cô bị Vương Trùng Dương hỏi dồn một hơi chẳng biết trả lời thế nào lúng túng nói :
- Mi dùng thủ đoạn không đàng hoàng là vì... là vì mi đã giật chiếc thoa cài đầu và... làm rớt gươm của ta, nói cho rõ là mi không đàng hoàng, không dùng gươm mà đấu với tạ
Tôn Phượng Cô nói như thế Vương Trùng Dương bật cười khanh khách một hồi dài, Tôn Phượng Cô càng thêm tức giận quát to :
- Chẳng hay vì sao mi lại cười như vậỷ Mi không dám đấu kiếm với ta chăng?
Vương Trùng Dương cười dứt tiếng mới trả lời :
- Tại hạ tự nghĩ cô nương là một Bang chủ, điều khiển mấy ngàn hải đảo, làm bá chủ trên mặt biển, võ công ắt phải siêu quần bạt chúng, nào ngờ đâu bản lãnh chẳng khác chi con nít, chiếc Kim Thoa cài trên tóc ta lấy mất cũng không giữ nổi, dùng kiếm đấu với Kim Thoa cũng còn chưa được, huống hồ lại đấu gươm với ta thực là không có kiến thức, chẳng tự xét mình biết người, chẳng đáng tức cười lấm saỏ
Tôn Phượng Cô cả giận hét lớn :
- Nói bậy, ta từ khi ngang dọc trên biển cả chưa một ai buông lời miệt thị, nay mi dám coi ta như con nít, thật là mi đã tới số, thôi mau mau tìm lấy thanh gươm cùng ta đàng hoàng giao đấu để phân tài cao thấp chớ có nhiều lờị
Vương Trùng Dương lại nói :
- Một người võ nghệ cao cường đâu có phải dùng gươm mới được, tay không binh khí cũng có thể vào chỗ trăm quân lấy binh khí của địch nhân. Nay đấu với người tài nghệ cỡ cô nương tại hạ không phách chớ với hai bàn tay không, chỉ trong ba hiệp tại hạ có thể cướp lấy thanh gươm của cô nương như lấy đồ chơi trong túị
Phượng Cô lại như lửa cháy lại đổ dầu vào thêm, tức giận xung thiên cười nhạt một tiếng và nói :
- Năng thuyết bất năng hành, nhà ngươi chỉ được cái ngoa ngôn, có giỏi hãy đấu với ta đị
Vương Trùng Dương cả cười giơ tay nói :
- Khoan đã cô nương, đánh lúc nào đánh chẳng xong, để cho tại hạ nói hết đã, nóng giận làm gì? Cô nương là một lãnh tụ, nếu tại hạ dùng tay không mà đối địch với cô chẳng hóa ra làm cho cô mất mặt với tất cả mọi người trên chốn giang hồ, bởi thế tại hạ mượn cây Kim Thoa để chống lại thanh gươm báu của cô là không muốn để cô mang tiếng với thiên hạ mà cô lại gọi là bàng môn tả đạo như thế có phải cô nương không biết phục thiện, không bằng đứa con nít hay saỏ
Phượng Cô vừa xấu hổ vừa tức giận, nhưng cũng thầm khâm phục Vương Trùng Dương nên đấu dịu :
- Thôi cũng được, ngươi dùng Kim Thoa cũng kể như lưỡi dao găm. Hồi nãy ngươi đánh rớt kiếm của ta cầm tay đó chỉ là thế “Đại Hư Thiên Cân chưởng” và “Hỗn Nguyên nhất khí công” chỉ là chưởng pháp không gọi là kiếm pháp, nên ta yêu cầu ngươi hãy dùng kiếm pháp sử dụng vào Kim Thoa mà đánh bại ta thì ta mới chịu phục.
Vương Trùng Dương bèn nói :
- Tại hạ tưởng cô yêu cầu điều gì chứ như thế có gì đâu mà gọi là khó, cô nương cứ việc xuất thủ tại hạ xin nghênh tiếp Tôn Phượng Cô vung kiếm nói :
- Được lắm, tiện thiếp sử dụng “Ngọc Nữ kiếm pháp” xin túc hạ lưu tâm.
Vương Trùng Dương cũng nói :
- Tại hạ cũng dùng “Ngọc Nữ kiếm pháp” xin cô nương cẩn thận.
Phượng Cô tức thì bước lên một bước, đảo tít thanh gươm dùng thế “Thừa Long Dẫn Phượng” bất ngờ đâm vút vào ngực họ Vương, ngờ đâu Vương Trùng Dương cũng sử thế “Thừa Long Dẫn Phượng” đối phó lạị
Tôn Phượng Cô nghĩ thầm trong bụng, chiếc thoa vàng sao chống nổi thanh kiếm báu, nhưng chẳng ngờ kiếm của nàng chém mạnh vào chiếc Kim Thoa bỗng tự nhiên thấy cây Kim Thoa có một sức hút ghê hồn, chẳng khác chi đá nam châm hút sắt, giữ chặt thanh kiếm nàng lạị
Tôn Phượng Cô thất kinh hồn vía, cố hết sức lấy tay kéo ra nhưng kéo sao nổị Nàng đã vận dụng hết công phu, đỏ mặt tía tai mà thanh kiếm cứ giữ chặt lấy Kim Thoa không hề nhúc nhích.
Vương Trùng Dương tay cầm Kim Thoa quay một vòng trên không khí, Tôn Phượng Cô thấy hổ khẩu tê nhức, chịu không nổi đành buông tay kiếm ra, nhảy vụt lại phía saụ Vương Trùng Dương đưa tay trái ra đỡ lấy kiếm của Phượng Cô rồi cất tiếng cười ha hả :
- Lần này chắc cô nương không còn chê vào đâu được nữa, thôi cứ cúi đầu làm lễ bái sư, từ nay hãy gọi ta là sư phụ.
Tất cả hải tặc đều vỗ tay ầm ầm khen ngợi lấn át cả tiếng sóng biển. Tôn cô nương thẹn quá hóa giận vẫn ngang ngạnh hét lớn :
- Không phải! Thiếp vẫn chưa chịu phục, lần này túc hạ cũng dùng nội công thắng thiếp chứ không phải là kiếm pháp.
Vương Trùng Dương thấy Phượng Cô vẫn gân cổ cố cãi, tính tình thật bướng bỉnh, không biết phục thiện không nín cười được, lại bật tiếng cười to hơn trước :
- Cô nương vẫn chưa chịu phục thiện, hay làm làm bộ ngây thơ để che đi cái kém cỏi của mình, cô nói chỉ dùng nội công mà không dùng tới kiếm pháp chăng? Cô nương nhầm to rồi, tại hạ thử hỏi, có môn kiếm pháp nào lại không dùng đến nội công hay không? Mà hồi nãy tại hạ cũng sử chữ “Quyết” trong “Ngọc Nữ kiếm pháp”, hồi xưa khi sư phụ cô dạy bộ kiếm này chưa dạy đến môn đó chăng?
Phượng Cô ráng gân cổ, cố cãi :
- Cái gì mà Hút với Trơn, thôi hãy trả kiếm cho ta, giao đấu lại một lần nữa, nếu túc hạ thắng thiếp lần này thì thiếp xin chịu thuạ
Họ Vương mỉm cười trả lời :
- Được lắm, cô nương hãy ráng giữ lời hứa, gươm đâỵ
Vừa nói Trùng Dương liệng thanh gươm nhằm ngay Phượng Cô bay tới, chỉ thấy một luồng bạch quang bay tới sức mạnh thần tốc Phượng Cô giật mình sợ hãi chẳng dám giơ tay ra bắt, vội tránh sang một bên, cây gươm bay thẳng vào cột buồm, cây cột buồm đường kính tròn bằng miệng bát, làm bằng một thứ gỗ chai rất rắn mà bị xuyên qua ngập gần phân nửa, cán gươm rung rinh một lúc mới đứng yên.
Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi vỗ tay khen ngợi vang rền. Tôn Phương Cô cũng nghĩ thầm trong bụng :
- Thật là ghê gớm, tài ném phi đao của ta cũng không cắm sâu được vào như thế.
Đoạn Phượng Cô nhảy lui lại cột buồm, rút thanh gươm ra và dùng thế “Kim Kê Tước Cốc” đâm dứ vào mắt họ Vương rồi bất ngờ đảo lộn gươm dùng thế “Kim Giao Quyền Trụ” chém vụt xuống ống quyển chàng Vương Trùng Dương mắt sáng như sao toàn thân bất động, chàng thừa biết thế đầu chỉ là thế hư thế sau mới là thật nên họ Vương đợi cho nàng chém vút vào đôi chân mới cất mình nhảy vọt qua khiến Phượng Cô chém hụt, đồng thời chàng dùng chiếc Kim Thoa nhằm mạch môn Phượng Cô điểm tới, đó cũng là họ Vương sử thế “Kim Giao Quyền Trụ” của Phượng Cô nhưng vì chiếc Kim Thoa quá ngắn nên chỉ nhằm vào huyệt đạo đối phương mà điểm.
Tôn Phượng Cô nhảy lui về phía sau một bước để tránh, thì đã thấy Vương Trùng Dương nhảy vọt tới trước mặt cũng dùng thế “Kim Kê Tước Cốc” nhanh như chớp đâm ngay vào mắt của nàng, so với thế võ Phượng Cô vừa dùng cao siêu gấp bộị
Tôn Phượng Cô muốn thoái lui về sau nhưng không kịp, nàng thất kinh chẳng còn hồn vía gì cả, đinh minh trong bụng phen này chắc đui đôi mắt, bản tâm Vương Trùng Dương không muốn hại nàng mà chỉ muốn dọa cho mà sợ, nên chỉ đâm nhẹ vào mí mắt.
Phượng Cô yên trí phen này chắc bị móc mắt, nhờ đâu chỉ thấy địch nhân điểm nhẹ, mí mắt hơi ngứa, nước mắt chảy xuống như mưa, tiếp theo đó cây gươm trong tay lại bị Vương Trùng Dương đoạt lấy, chàng liệng xuống khoang thuyền, vừa cười vừa nói :
- Lần này là lần thứ ba rồi, chẳng hay cô nương có cần đấu lần thứ tư nữa hay thôi Lúc này Phượng Cô mới thật lòng kính phục, nàng tự biết võ công của mình so với họ Vương một trời một vực, nếu đối phương không có lòng nhân đạo thì mình không chết cũng mù rồi, đâu còn được nguyên vẹn như thế này nữạ
Tôn Phượng Cô tuy tánh nết kiên cường, trong bao nhiêu năm ngang dọc trên mặt biển, chỉ trừ sư phụ nàng chưa bao giờ khiếp phục một ai nhưng nay thấy họ Vương không những bản lãnh cao cường, mà lại có lòng nhân đạo, thốt nhiên có lòng kính phục bèn sụp ngay xuống khoang thuyền, hướng về phía Vương Trùng Dương lạy luôn mấy lạy và nói :
- Thưa lão tiền bối, tiện thiếp hết lòng kính phục võ công của lão tiền bối, mong tiền bối chấp nhận tiện thiếp làm đồ đệ.
Vương Trùng Dương thấy Phượng Cô thật tâm khuất phục thì cười ha hả, trả lại cây Kim Thoa cầm trong tay cho Phượng Cô rồi nghiêm nét mặt nói :
- Về võ thuật man mác như rừng không biết đâu là bờ bến, thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng hữu nhân, võ thuật của tại hạ đối với giới võ lâm hãy còn thua xa lắm, nào đã có gì, còn biết bao người bản lãnh hơn tôi, so sánh, thật như là hạt cát trên sa mạc, nếu cô nương thật lòng muốn tôi thu làm đồ đệ thì cô nương nên cải tà quy chánh, làm những việc lương thiện, vì dân trừ bạo để lại danh thơm muôn thưở chứ cô vẫn theo làm cường đạo trên mặt biển thì tại hạ chẳng dám thâu nhận.
Vương Trùng Dương còn muốn nói nữa thì Tôn Phượng Cô đã đỡ lời :
- Thưa lão tiền bối, việc này không thể nhất đán bỏ được ngay, xin tiền bối hãy tới tiểu trại để tiện nữ bàn lại việc.
Vừa nói dứt lời, Phượng Cô đã quỳ sụp xuống lạy ba lạy mà kêu làm sư phụ rồi nàng lại quay ra nói với tất cả những tên hải đạo rằng :
- Ta đã kính phục lão anh hùng và đồng thời nhận làm sư phụ, vậy ta hạ lệnh cho tất cả phải quay ngược trở về hướng dẫn lão sư phụ tới nơi sào huyệt.
Tất cả mọi người đều hoan hô, hò reo ầm ĩ vang dội cả lên, đồng thời gọi mau dương cột buồm hướng về phía Đông- Nam rong ruổi Tôn Phượng Cô nhảy sang chiếc thuyền của Đinh Nhị Mao, lúc đầu ba cha con Đinh Nhị Mao núp cả xuống dưới đáy thuyền, chẳng người nào dám ngó lên, sau nghe những tiếng khen ngợi của bọn hải đạo vang rền, nóng ruột rủ nhau chui lên khoang thuyền ngó mắt ra coi, sau thấy Vương Trùng Dương ba lần trêu ghẹo Phượng Cô đối với nữ đại vương như con nít.
Lúc bấy giờ cha con họ Đinh mới biết Vương Trùng Dương là một dị nhân, võ công trác tuyệt, một mình có thể đối phó với hàng ngàn kẻ địch, cho đến lúc Tôn Phượng Cô sụp lạy và nhận làm sư phụ, lúc đấy Đinh Nhị Mao mới hết sức khâm phục và yên tâm vô cùng không còn do dự, cũng nhổ neo căng buồm theo đoàn thuyền hải đạo nhắm sào huyệt bọn chúng mà đi tớị
Vương Trùng Dương lúc đó biết rằng sào huyệt của “Hắc Phượng bang” ở trong một đảo nhỏ trong quần đảo Thừa San, tên là Kim Ngao đảo, ở đây có nhiều đá ngầm và luồng nước chảy mạnh thật là hiểm yếu thiên nhiên tạo hóa dành chọ
Những chiếc thuyền đi lại trên biển tuyệt nhiên không dám bén mảng tới gần, Tôn Phượng Cô chọn chỗ này làm sào huyệt thật là vô cùng kín đáo Thuận buồm xuôi gió, thuyền chạy như bay, chưa đầy nửa ngày ở trên mặt biển đã thấy xuất hiện rất nhiều đảo nhỏ như ngôi sao trên mặt biển. Đoàn thuyền đi đến đây lập tức bắn lên trời một cái hỏa tiễn Yên Hoa, Vương Trùng Dương đôi mắt tinh nhuệ, trông thấy mấy ngọn núi nổi lên trong đảo liên lạc với nhau thì chàng thầm nghĩ :
- Chắc đây là quần đảo Thừa San?
Quả nhiên từ lúc đó đoàn thuyền đi vào giữa đảo, quay tay mặt quẹo tay trái như đi vào Bát trận đồ. Trải qua chừng hai tiếng đồng hồ, trước mặt hiện ra một hòn cô đảo Hòn cô đảo này đầu rộng đuôi dài, như con cá ngao khổng lồ. Vương Trùng Dương đứng ở trên boong biết rằng đây là đảo Kim Ngao, ở trong giữa đảo lại thấy những hàng rào dây liên tiếp, cờ bay phấp phới, ven đảo lại có rất nhiều nhà xây cất có ngăn nắp trật tự, chung quanh được bao bọc bởi những hào lũy rất kiên cố.
Vương Trùng Dương thấy sự bố trí cẩn mật ở trên đảo thì biết rằng bao nhiêu công phu tâm huyết của Phượng Cô đã bỏ vào đây bèn nghĩ rằng :
- Cô thiếu nữ này còn trẻ mà đã dựng lên sự nghiệp lớn lao quy mô như vậy, tuy là phường đạo tặc nhưng quả là người có tàị
Trong khi đó Tôn Phượng Cô đã trở về thuyền chỉ huy của mình, hạ lệnh cho mười chiếc thuyền bày theo hàng từ từ đi vào đảo Kim Ngaọ
Từ trong chiếc tàu chỉ huy bỗng thấy bay vụt lên mấy con chim bồ câu bay thẳng về trong đảo, khi chiếc thuyền vừa ghé tới bến đã thấy rất nhiều người ra đón rước, tiếng hoan hô vang rền, Phượng Cô dẫn Vương Trùng Dương vào Đại trại và tới Trung Nghĩa Đường, ở nơi đây đã thấy mười tám người quần áo chỉnh tề, gươm đao sáng ngời đứng thành hàng lối, còn mười tám người nữa đứng hộ vệ xung quanh, một chàng đại hán ước chừng ba mươi tuổi, heo mi trổ mục, lưng hùm vai gấu, nét mặt hung dữ, dưới cằm nhẫn thín chẳng có một sợi râu nào, mặc áo chẽn màu hường.
Đại hán trông thấy Vương Trùng Dương có vẻ một thư sinh, cử chỉ nho nhã lấy làm ngạc nhiên, lúc đó Phượng Cô đã đi trước và tiến lên hai bước giới thiệu :
- Tiên sinh đây là Vương Trùng Dương, còn vị này là phó lãnh tụ của Hắc Phượng bang họ Đàm tên là Thiên Thoại, ngoại hiệu “Phiêu Hải Long”.
Tôn Phượng Cô lại nói với vị phó lãnh tụ họ Đàm rằng :
- Đàm nhị ca, Vương tôn ông đây võ nghệ rất cao cường, hồi nãy tiểu muội đã bái làm sư phụ và cũng đã được Vương sư phụ thu làm đồ đệ rồị
Đàm Thiên Thoại hơi cau đôi lông mày lại, có vẻ không hài lòng, nhưng vẫn gượng cười nói :
- Tôi cũng đã được anh em thông báo đầu đuôi tự sự và hết thảy đều ca ngợi võ công của Vương tôn ông đây rất cao cường, tại hạ hết lòng khâm phục, nay được gặp mặt thật là vạn hạnh.
Nói xong, Đàm Thiên Thoại đưa tay ra nắm lấy tay Vương Trùng Dương để tỏ lòng thân thiện. Khi họ Đàm nắm được bàn tay phải của Vương Trùng Dương rồi, thì chàng ta ngầm vận hết khí lực ra bàn tay rồi bóp thật mạnh, chàng đã cố tình sử dụng Thiết Sa chưởng công, trong khi đó thì trong lòng của họ Đàm lại tự nghĩ bậy rằng :
- Người này có vẻ nho nhã thư sinh, nếu có võ công thì cũng chẳng lấy gì làm cao lắm, chắc Tôn Phượng Cô thấy chàng ta khôi ngô tuấn tú muốn mang về để vầy duyên cầm sắt.
Mấy năm trời nay gần Phượng Cô, Đàm Thiên Thoại tuy là phó Hắc Phượng bang nhưng đã đem lòng thầm yêu trộm nhớ Phượng Cô, chỉ ước ao cùng nàng nên duyên Tần Tấn. Chàng đã xây đắp biết bao mộng đẹp với nàng, nhưng chàng thấy Tôn Phượng Cô tính tình kiêu ngạo, hình như chẳng coi chàng ra gì cả và có thể đối với chàng chẳng có chút gì tính luyến áị
Đến nay thấy nàng dẫn Vương Trùng Dương về và giới thiệu như thế tự dưng đem lòng ghen ghét, muốn dùng Thiết Sa Chưởng khiếp nhục chàng và làm mất mặt Phượng Cô cho bõ ghét nên Đàm Thiên Thoại dùng tận lực bình sinh hết sức bóp mạnh.
Ngờ đâu chàng ta vừa bóp vào tay họ Vương bỗng thấy bàn tay đau nhức, thoạt tiên họ Đàm bắt tay Vương Trùng Dương, thấy bàn tay Vương Trùng Dương mềm nhũn như bông gòn và hình như dính chặt vào nhau, rồi chàng thấy bàn tay đau như dần thì không còn hồn vía vội vàng muốn rút tay về, nhưng lạ thay dù chàng đã dùng hết sức cũng không sao rút bàn tay ra khỏi bàn tay của Vương Trùng Dương.
Lúc đó mới thấy họ Vương cất tiếng cười ha hả nói :
- Cám ơn Phó bang chủ đã nhọc lòng đón tiếp, chúng ta vào trong sảnh đàm đạo với nhau cho vuị
Vừa nói chàng vừa nắm tay Phiêu Hải Long dắt vào trong sảnh, mỗi bước đi của Vương Trùng Dương lại khiến họ Đàm vô cùng khổ sở.
Bàn tay của Vương Trùng Dương lạ lắm, hình như có một sức nóng ghê gớm từ trong lòng bàn tay phát ra khiến cho bàn tay của Đàm Thiên Thoại như nắm phải hòn than nóng giãy, muốn rút tay nhưng không tài nào rút được, mồ hôi trong người toát ra như tắm, ngón tay chàng ta nhức buốt vô cùng, nhưng họ Đàm vẫn cố nghiến chặt hai hàm răng để không phát ra tiếng kêụ
Bỗng đâu bàn tay của Vương Trùng Dương lại đổi sang lạnh giá như băng, bàn tay họ Đàm đang nóng như nắm phải hòn than, nay lại như cầm vào nắm tuyết, khí lạnh ấy truyền đi khắp cả châu thân, bàn tay rét buốt như mạch máu ngừng lại không lưu thông nữạ
Đàm Thiên Thoại rùng mình, biết đã trúng kế của đối thủ và gặp một đối phương võ công trác tuyệt tới độ hết sức cao siêu nhưng đành nghiến răng chịu đựng mà không dám thốt ra tiếng nào Mặt chàng ta lúc thì đỏ rực, lúc thì tái mét, bọn hải đạo trông thấy rất lấy làm ngạc nhiên, trông mặt mũi Đàm Thiên Thoại luôn luôn biến đổi chẳng khỏi cười thầm trong bụng. Tôn Phượng Cô là người thông minh tinh tế nên đã hiểu rõ chỉ cười thầm trong bụng May thay Vương Trùng Dương chỉ kéo Phiêu Hải Long đi có hơn mười thước đến Trung Nghĩa đường, không làm khó chàng ta nữa, mà buông tay họ Đàm ra Lúc đấy, họ Đàm mới thấy bớt đau nhức, cúi xuống nhìn bàn tay chỉ thấy hơi sưng lên một chút chứ không bị thương gì cả mới thấy hơi yên tâm, nhưng trong lòng hết sức căm giận, ngồi tìm kế báo thù.
Tôn Phượng Cô mời Vương Trùng Dương ngồi ghế giữa trong khách sảnh đàm luận thân mật, bọn hải đạo đã bày một bữa tiệc để cho Phượng Cô khoản đãi thượng khách Đàm Thiên Thoại nghĩ được cách báo thù, cũng gượng cười ha hả nói chuyện cho vuị Đến món ăn thứ ba là món thịt heo quay, Đàm Thiên Thoại bõng rút ra từ trong người một con dao găm cắt một miếng thịt mang đến mời Vương Trùng Dương, họ Đàm đưa miếng thịt đó tới trước mặt Vương Trùng Dương và nói :
- Không mấy khi Vương tôn ông giá lâm khiến cho hải đảo chúng tôi lấy làm hân hạnh vinh quang vô cùng, tại hạ xin thay mặt tất cả anh em dâng miếng thịt này để tỏ lòng hâm mộ của chúng tôi, lối đãi khách này thuộc vào đời nhà Tống.
Qui củ của bọn lục lâm là mới quen lần thứ nhất thì Trại chủ nhất định phải dâng món ăn, mà lối dâng món ăn này cũng rất đặc biệt không phải là dùng đũa mà gắp, mà phải dùng thanh gươm ngắn hay dao găm đâm vào miếng thịt rồi dâng lên cho khách gọi là kính món ăn, mà kính món ăn cũng chia ra làm hai loại, một là thiện kính, cầm ngang sống cây dao, lưỡi dao hướng ra ngoài người khách có thể lấy răng cắn miếng thịt một cách dễ dàng, hai là ác kính lưỡi dao hay gươm sẽ xiên qua miếng thịt mũi gươm đó có thể đâm vào lỗ mũi hay đâm vào xuống họng của khách. Biết thế nào mà lường trước cho được, đây là cách thử bản lãnh của người khách xem võ công có cao hay không để đối phó. Tôn Phượng Cô là Trại chủ lẽ ra kính món ăn phải chính do nàng chấp hành nhưng Đàm Thiên Thoại lại tự thay thế nàng mà dùng lối “Ác kính”, Phượng Cô thấy thế vội quát :
- Đàm lão nhị không thể làm như thế được, Vương tôn ông không phải là khách bình thường, không nên làm mất sự lễ độ Vương Trùng Dương cười ha hả nói :
- Không sao, Phó trại chủ đã có lòng đãi khách tại hạ từ chối sao được?
Vừa nói dứt lời, chàng há miệng ra để đợi ăn miếng thịt heo găm ở mũi dao đó, Đàm Thiên Thoại lập tức đưa hẳn miếng thịt vào miệng Vương Trùng Dương còn mũi dao lại cắm xuống cuống họng của chàng mà đâm tới một nhát rất mạnh.
Ngờ đâu Vương Trùng Dương còn ra tay nhanh hơn, chiếc đũa của chàng nhanh như chớp, từ dưới lên trên điểm ngay vào Bát Lý huyệt của họ Đàm, Phiêu Hải Long bỗng thấy tay bị tê buốt không thể dùng sức được, Vương Trùng Dương đã cắn được miếng thịt, nhai một cách ngon lành rồi mỉa cười :
- Cám ơn Phó trại chủ đã có lòng đãi khách.
Đồng thời tay trái phất nhẹ một cái vào vai Đàm Thiên Thoại giải huyệt cho chàng ta, Phiêu Hải Long thấy tay mình tê dại lại có thể hoạt động được như thường, chàng thấy bị hạ nhục trước mặt mọi người thì không gằn được cơn giận, đâm mạnh con dao xuống bàn rượu, ngập sâu chừng một tấc rồi quát to :
- Tại hạ thiện ý muốn kính món ăn cho vui, ngờ đâu mi lại dùng thủ đoạn không đàng hoàng điểm vào huyệt đạo của Nhị Thái Gia, nếu có phải là tay hảo hán mi hãy thử cùng ta vài trăm hiệp để phân tài cao thấp.
Nói dứt lời lập tức Đàm Thiên Thoại cởi áo ngoài ra để chuẩn bị giao đấu Tôn Phượng Cô thấy tình hình như vậy thì mắt phượng tròn xoe quát lớn :
- Đàm lão nhị, ta đã nói trước Vương tôn ông đây, ta nhận làm sư phụ vậy mà mi vẫn vô lễ không nể mặt ta saỏ
Đàm Thiên Thoại lửa ghen phần phật nổi lên như đốt xé cả can trường, chàng cười lên khanh khách, gay gắt nói :
- Tôn Trại chủ, đến nay Trại chủ đã có người sư phụ trẻ tuổi khôi ngô, thật là xứng đôi, đâu cần đến ta và các anh nữa... Có lẽ giờ đây chúng ta sẽ chia tay nhau để Trại chủ khỏi bận lòng.
Tôn Phượng Cô sượng sùng đỏ mặt, chẳng nói chẳng rằng, rút ngay kiếm nhằm Đàm Thiên Thoại đâm luôn một nhát, Vương Trùng Dương bỗng đưa hai ngón tay ra chụp lấy thanh kiếm của Phượng Cô và nói :
- Khoan! Không nên động thủ!
Tất cả bọn hải đạo giật mình kinh ngạc vì biết rằng thanh kiếm của Tôn Phượng Cô tuy không phải “Mạc Gia, Can Tượng” nhưng cũng là một thanh kiếm hết sức sắc bén, mà Vương Trùng Dương chỉ dùng hai ngón tay kẹp được thì quả là một tay bản lãnh rất cao cường nếu không đã bị lưỡi kiếm của Phượng Cô tiện đứt làm đôi rồị Vương Trùng Dương kiềm chế được thanh kiếm của Phượng Cô rồi chàng nghiêm sắc mặt nói :
- Cô không nên nóng nảy làm mất hòa khí trong trạị
Họ Vương lại quay ra nói với Đàm Thiên Thoại :
- Chắc túc hạ muốn thử tại hạ nên khi mới gặp ngoài Trung Nghĩa đường túc hạ dùng “Thiết Sa chưởng” mong khiếp phục và bóp nát tay ta, đồng thời mượn cách kính món ăn đãi khách định thử võ công của tại hạ hay saỏ
Đàm Thiên Thoại cất tiếng cười ha hả :
- Ta từ ngày giang hồ ngang dọc chưa hề khuất phục một ai, vừa rồi sơ ý bị tiên sinh dùng thủ đoạn lén lút không đàng hoàng thừa cơ điểm vào huyệt đạo ta không phục nên muốn cùng tiên sinh giao đấu vài ba trăm hiệp để phân rõ hơn thuạ
Vương Trùng Dương cũng cười nói :
- Cao nhân tất hữu cao nhân trị, từ xưa tới nay chỉ vì túc hạ chưa gặp địch thủ nên cố ý coi thường hạ mục nhân, nay Phó trại chủ muốn thử quyền cước hay binh khí.
Đàm Thiên Thoại nói :
- Hay lắm! Trước hết ta thử đấu binh khí xem saọ
Dứt lời họ Đàm quay lại bảo bọn lâu la :
- Hãy lấy binh khí của ta rạ
Bọn lâu la dạ vang, chỉ loáng một cái đã mang đôi Hổ đầu song câu làm bằng sắt ra, Song câu là một trong mười tám ban binh khí, đứng vào hàng thứ bảy rất khó luyện tập, người nào bản lãnh tầm thường không dám sử dụng. Vương Trùng Dương thấy họ Đàm sử môn khí giới này nhận thấy bản lãnh của Phó trại chủ cũng không phải là kẻ tầm thường Lúc đó Đàm Thiên Thoại lại nói :
- Nơi đây mười tám môn binh khí, môn nào cũng có, tiên sinh muốn sử dụng môn nào xin cho biết.
Vương Trùng Dương mỉm cười nói :
- Hồi nãy, trên mặt biển tại hạ sử dụng cây Kim Thoa để giao đấu với chánh Trại chủ, chắc Phó trại chủ tài nghệ chưa thể so sánh với chánh Trại chủ được nên tại hạ khỏi dùng binh khí.
Nói xong Vương Trùng Dương đứng dậy, tay vẫn cầm ly rượu, kéo một cái ghế ra giữa khách sảnh ngồi ung dung trên ghế rồi nói :
- Tại hạ xin đưa ra một điều kiện, tại hạ vẫn ngồi trên ghế uống rượu, Phó trại chủ cứ tận lực mà giao đấu, và dùng Song câu như đối với địch nhân, nếu tôi bị thương coi như là thua, nếu túc hạ làm cho tôi rời khỏi chiếc ghế này cũng coi như tôi thua, mà nếu túc hạ đánh đổ được ly rượu hoặc làm cho tại hạ không uống được thì tại hạ cũng kể như thua, để như thế chắc thiên hạ chưa ai làm, túc hạ thử tài xem sao!
Thấy nói ngồi trên ghế đấu với kẻ khác đã là sự lạ trong thiên hạ, còn không rời khỏi ghế vừa đấu vừa uống rượu thì thật là thiên hạ vô song, toàn thể hải đạo trong trại thấy thế đều reo to :
- Nếu Vương tôn ông đấu cách đó thì thật là thần tiên hạ giới, đệ nhất danh giạ
Đàm Thiên Thoại thấy Vương Trùng Dương đưa ra điều kiện như vậy thật là cố khinh thường, coi chàng quá thấp liền nộ khí xung thiên quát lên một tiếng :
- Hãy ráng giữ mình!
Dứt lời họ Đàm múa tít đôi Hổ Đầu song câu nhảy vọt tới dùng thế Tiên nhân chỉ lộ đâm luôn vào trước ngực Vương Trùng Dương, tiếp theo hai móc chìm xuống dùng luôn thế Phúc Hải Phiên Giang chém luôn vào hạ và trung bộ của đối phương. Hai ngón này có thực lại có hư, nhanh như chớp bay vụt tới ngực của Vương Trùng Dương chẳng chút bối rối, chàng vẫn điềm nhiên ngồi yên trên ghế, tay trái ung dung đưa rượu lên miệng, khi đôi song câu của Đàm Thiên Thoại đâm sát tới ngực, chàng cũng chẳng buồn nhìn.
Lúc hai chiếc móc câu chìm xuống trung bộ, tay mặt họ Vương mới giơ lên trước ngực phất mạnh một cái, một luồng gió mãnh liệt thổi vào Đàm Thiên Thoại, Phiêu Hải Long giật mình vội vàng thu song câu nhảy về phía sau đến bảy tám bộ.
Họ Đàm nhầm tưởng Vương Trùng Dương dùng Bích Không chưởng hoặc Hỗn Nguyên Nhất Khí chưởng để đối phó với mình, miếng này có thể đứng cách xa đánh người nên vội nhảy vụt về sau tránh.
Ngờ đâu, chưởng phong của Vương Trùng Dương tuy phát ra ghê gớm nhưng có giới hạn, chỉ gần chạm tới người đã tản ngay đị Tuy như thế cũng khiến cho lảo đảo muốn ngã, Đàm Phó trại chủ nổi giận đùng đùng, vung tít song câu dùng thế “Phong Súy Ly Hoa” ở trên đâm vào cổ, ở dưới chém vào bụng nhanh như chớp.
Họ Vương vẫn cầm ly rượu uống từng ngụm nhỏ, người hơi né sang một bên, tay mặt đưa ra một chưởng. Chưởng phong lần này phát ra mạnh mẽ vô cùng, nó như một luồng gió lốc đưa rạ Đàm Thiên Thoại hoảng sợ vội lăn ngay xuống đất để tránh luồng chưởng phong, thế đó gọi là “Ngọa Địa Long”.
Tất cả mọi người cười ầm cả lên Đàm Thiên Thoại càng thêm tức giận quát to lên một tiếng đập chân xuống đất dùng thế “Cá Chép Vượt Đăng” đứng phắt ngay dậy vung đôi song câu dùng luôn hai thế, tiền một ngọn “Tả Sô Hữu Lận”, hậu một thế “Đả Mã Phân Sung” đâm vào hai ức và Thái Dương huyệt của Vương Trùng Dương.
Họ Vương vẫn ung dung không thèm tránh đỡ, tay trái vẫn đưa lên miệng uống, tay phải chỉ phất nhẹ một cái đôi song câu của Phó trại chủ hất văng ra ngoàị Trước sau Đàm Thiên Thoại đã tấn công năm lần mà không khiến cho Vương Trùng Dương nhúc nhích khỏi ghế chứ đừng nói đả thương được chàng Vương Trùng Dương cầm ly rượu cười ha hả nói :
- Lần này tại hạ muốn uống rượu lại vừa muốn ngâm thơ, nhưng tiếc thay tại hạ ngu dốt không sao sáng tác được nên tại hạ xin ngâm bài Tướng Công Tống Tửu của Lý Thái Bạch để liệt vị nghe chơị
Chàng nhấp một hớp rượu rồi giọng sang sảng ngâm rằng :
- Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, Bôn lưu đáo hải bất phục hồi Đàm Thiên Thoại càng lúc càng thêm tức giận, lồng lộn như con thú dữ sử dụng bài “Trà gia câu pháp” vung tít đôi song câu, uy lực ghê gớm, song câu mang theo một luồng gió mạnh, dùng luôn ba thế, thế thứ nhất là “Kim Châu Thám Hải”, thế thứ hai là “Hạ Thủy Trảm Giao”, thế thứ ba là “Song Long Quyền Trụ” nhằm họ Vương đâm chém tới tấp như mưa, tiếng gió phát ra véo véo kinh ngườị
Vương Trùng Dương không hề bối rối, uống liền ba hớp rượu, dùng ba thế trong Thái Ất quyền chống lại, ngón sau cùng Trùng Dương dùng là tay mặt phát ra một chưởng khiến cho kẻ địch phải thối lui bảy tám bước.
Chàng lại ngâm tiếp câu thơ thứ hai Tiếng ngâm thơ vang lên và chàng lại hứng thú cất ly rượu uống một ngụm khà lên một tiếng, lấy tay áo quết qua mồm rồi cười khanh khách. Đàm Thiên quay mình lại dùng luôn thế “Đảo Đả Kim Chưởng” bước đến sau chiếc ghế, giơ đôi song câu đánh vào sau lưng Vương Trùng Dương, chàng đinh ninh họ Vương không thể nào tránh đỡ kịp, vì nếu không bị thương cũng phải nhảy ra khỏi ghế mới có thể tránh, nào ngờ Vương Trùng Dương không nhìn lại, lấy tay phất một cái, một luồng gió mãnh liệt nổi lên đã hất đôi song câu của họ Đàm vụt bay ra ngoàị Đàm Phó trại chủ cũng thối lui tới hơn một trượng Vương Trùng Dương uống một hớp rượu rồi cất tiếng tiếp :
- Nhân sinh đắc ý tụ tân hoan, Mạc sư kim bôi không đối nguyệt, thiên sinh ngã tai tất hữu dụng...
Họ Vương vừa ngâm thơ vừa sử Thái Ất quyền pháp và Hỗn Nguyên chưởng pháp để chống lại những ngón đón nguy hiểm của Đàm Thiên Thoại tấn công liên tiếp Thỉnh thoảng Trùng Dương mới tấn công lại khiến cho Phó trại chủ bị bật văng rạ
Đó chẳng qua là Vương Trùng Dương không có ý sát hại họ Đàm, mà chỉ đùa giỡn chơi, cho nên chàng vẫn ung dung uống rượu ngâm thơ, chỉ chống đõ những thế công của Đàm Thiên Thoạị Họ Đàm đã không tự biết sự yếu kém của mình và độ lượng khoan hồng của họ Vương lại còn tức giận lồng lộn hết sức sử dụng Trà Gia câu pháp để áp đảo Vương Trùng Dương, không ngờ, chàng cứ bị đánh bật văng ra như trái cầu, mồ hôi toát ra như tắm, hơi thở hồng hộc.
Trên ba mươi hiệp qua, Trùng Dương đã uống hết ly rượu và ngâm hết bài thơ Lúc đó chàng mới nhìn Đàm Thiên Thoại và quát to :
- Phó trại chủ! Từ nãy tới giờ chắc túc hạ biết tài nghệ ra sao rồi, sự hơn thua đã rõ, tại hạ mong Phó trại chủ cất song câu đi để giữ niềm hòa khí.
Đàm Thiên Thoại lúc đó phàn thì tức, phần thì xấu hổ với tất cả mọi người nên nộ khí xung thiên, khí tức mờ sao Bắc đẩu, nghe lời nói của họ Vương cho rằng chàng cố tình nhạo báng để hạ nhục y trước mặt Phượng Cô cho nên y chẳng xem xét lợi hại vung tít song câu nhằm đầu Vương Trùng Dương bổ xuống, thế mạnh như vũ bãọ
Họ Vương quát to lên một tiếng, vung hai tay dùng song chưởng đánh ra, đôi song câu của họ Đàm bật ra khỏi tay, bay lên nóc sảnh, hổ khẩu của Phó trại chủ rách toạc ra máu chảy ròng ròng, đồng thời Đàm Thiên Thoại thấy trên trán mình dường như có vật gì đánh trúng, mặt mày choáng váng ngã lăn ra đất.
Tôn Phượng Cô và quần đạo vỗ tay vang dậy, hoan nghinh Trùng Dương và hô to :
- Thế là Vương tôn ông đã thắng rồị
Đàm Thiên Thoại vùng phắt dậy, chạy lại trước mặt Vương Trùng Dương, mọi người đinh ninh họ Đàm tức giận và xấu hổ sẽ liều mạng với Trùng Dương, chẳng ngờ Phó trại chủ tới trước mặt Trùng Dương thì sụp ngay xuống lạy và nói rằng :
- Hồi trước tiểu sinh con ếch nằm trong đáy giếng, coi trời bằng vung nên không biết tài của sư phụ, đến nay tiểu sinh hết sức khâm phục tài nghệ của sư phụ, xin người hãy thâu nhận cho làm đồ đệ.
Vương Trùng Dương cất tiếng cười ha hả :
- Được được nhà ngươi cứ đứng lên ta có vài điều muốn nóị
Tôn Phượng Cô và Đàm Thiên Thoại vốn là người tính nết cường ngạnh, từ xưa tới nay vẫn tự phụ là không có đối thủ. Nay trong một ngày mà cả hai đều nhận Vương Trùng Dương sư phụ đủ biết tài nghệ họ Vương đến đâụ Hai người sau này trở thành hai đồ đệ đắc ý của Vương Trùng Dương trong Toàn Chân thất tử, một người sau đổi tên thành Thanh Tĩnh chân nhân Tôn Bất Nhị còn một người đổi tên thành Trường Chân tử Đàm Xử Đoan.
Vương Trùng Dương chờ họ Đàm đứng dậy rồi nói :
- Tại hạ chỉ là một kẻ tầm thường, lần này đến quí đảo được hai vị Trại chủ có lòng quí trọng muốn nhận làm sư phụ. Quả tình tuổi của tại hạ còn trẻ, đâu đã xứng đáng, huống chi hiện nay tại hạ còn sư phụ. chưa thỉnh thị đâu dám sao dám tự chuyện?
Tôn Đàm nhị vị Trại chủ giật mình nghĩ thầm :
- Võ công của họ Vương này, riêng ta chưa thấy có ai tài giỏi hơn, thật là thiên hạ vô song, mà chàng ta còn có sư phụ nữa thì võ công của ông ta không biết thế nào mà đoán được.
Vương Trùng Dương lại nói tiếp :
- Hơn nữa môn đồ của bản môn không được giết người cướp của làm điều thất đức. Hai vị lại là cầm đầu một toán hải đạo, lấy việc giết người cướp của làm thú, lấy việc đốt nhà phá xóm làm vui thì tại hạ không thể nào thâu nhận hai vị làm đồ đệ được.
Tôn Phượng Cô đỏ mặt khẽ nói :
- Bẩm Vương tôn ông, bản tâm của tiện thiếp không phải là phường đạo tặc, đâu phải mới sinh ra đã làm nghề trộm cướp đó, chẳng qua cũng chỉ vì bất đắc dĩ mà thôị
Vương Trùng Dương mỉm cười khoan khoái nói :
- Việc đã qua tại hạ chẳng nói làm chi, chỉ muốn hỏi cô nương một câu, từ xưa đến nay, những người làm nghề trộm cướp có được kết quả tốt đẹp hay không?
Tôn Phượng Cô tuy không học nhiều nhưng cũng hiểu sơ về việc ngày xưa, những đại đạo giang hồ nổi tiếng như Đạo Thạch, Trường Vạn đều nổi danh một thời, tới sau không ai có tương lai tốt đẹp.
Ngay chính bản thân nàng đã ngót mười năm một số hải đạo tung hoành trên mặt biển, ai nghe thấy cũng đều khiếp vía kinh oaị Tuy vậy vẫn thường bị quan binh tiễu trừ, còn nhiều nhóm thì nội bộ tranh chấp nồi da xáo thịt, rồi tự nhiên tan rã, và đâu có nhóm nào có thể trường cửu, nay Tôn Phượng Cô nghe Vương Trùng Dương nói như vậy không biết thế nào mà trả lờị
Họ Vương trờ vào bàn tiệc, xé một mảnh vải trên bàn vẽ lên trên đó ba cái đầu lâu người chồng gần nhau rồi ném thẳng cho Phượng Cô, bức tranh như một tấm giấy bị thổi bay tới trước mặt, Phượng Cô giơ tay ra đỡ lấy, mở ra xem nhìn kĩ ngẫm nghĩ một lúc rồi nói :
- Tiểu nữ hiểu ra rồi, ngụ ý của tiền bối nói rằng ba tháng nữa nếu tiện thiếp và Đàm nhị đệ thu xếp xong thủ hạ, giải tán nghề trộm cướp thì Vương tôn ông sẽ nhận chúng tôi làm đồ đệ.
Vương Trùng Dương mỉm cười nói :
- Bức tranh này không phải ta nói riêng việc giải tán đảng cướp như thế đâu, các ngươi nên biết rằng đời người như giấc mộng, chớp mắt đã già nua, nào có khác chi bóng câu qua cửa sổ, cuộc phù thế đảo điên, chỉ có tu tâm học đạo mới có thể thoát khỏi cảnh trần thế đua chen. Tôn cô nương đã sớm tỉnh ngộ định ba tháng giải tán trộm đạo mà trở lại đường ngay, như thế cũng là khá lắm, nếu các ngươi đã nhất quyết thì ta cũng chẳng hẹp hòi gì, ta sẽ ở lại trên đảo mười ngày truyền thị nội công khẩu quyết chọ Ba năm nữa đến tỉnh Hà Nam núi Sùng Sơn vào hang Bách Cầm kiếm ta sẽ gặp.
Tôn Đàm hai người không sao cầm được sự vui mừng, đều sụp xuống lạy, tôn họ Vương lên làm sư phụ.
Sáng ngày hôm sau Tôn Phượng Cô lấy ra năm chục lạng đưa cho ba cha con Đinh Nhị Mao và truyền cho họ khởi hành sớm mà trở về Sơn Động. Ba cha con Đinh Nhị Mao vui mừng tuân lệnh, lạy từ Vương Trùng Dương và Tôn Đàm hai vị Trại chủ rồi cùng nhau xuống thuyền nhổ neo kéo buồm khởi hành đi ra biển.
Hồi 12
Cửa Hang Bách Cầm Giết Lũ Hung Tăng
Vương Trùng Dương ở lại hải đảo mười ngày truyền lại cách luyện công, vận khí của phái Toàn Chân cho hai ngườị
Tôn, Đàm cả hai đã có sẵn bản lĩnh công phu, nên sớm hiểu biết. Sau đó, Trùng Dương từ dã hai người để đi một vài nơi nữa, Tôn Phượng Cô nài nỉ Vương Trùng Dương ở lại thêm ít ngày, nhưng Vương Trùng Dương nhất quyết không nghe, nên làm tiệc tiễn hành rồi sai một bọn chèo chiếc thuyền lớn đua Vương Trùng Dương ra khơị
Tôn, Đàm nhị vị Trại chủ đưa tiễn họ Vương một quãng khá xạ Ba thầy trò gạt nước mắt từ giã nhaụ Tôn Phượng Cô và Đàm Hải Thoại trở lại hải trại còn Vương Trùng Dương thì nhắm Nam Đảo Thiên Sinh tiến phát.
Thuận buồm xuôi gió, chẳng bao lâu đã tới nơi, Trùng Dương bước lên bờ, thưởng cho bọn lâu la một số bạc, bọn thủy thủ cảm ơn rối rít, rồi trở thuyền về đảo Thừa San.
Vương Trùng Dương ở Nam Thông lên bờ, trước tiên đến Dương Châu, lại đi thuyền qua biển đến Giang Nam, dạo chơi khắp vùng Tô Thường, rồi mới đi chở về phía Bắc, nhằm nẻo núi Sùng Sơn đi tớị
Lần này chàng ra ngoài du lịch tới ba năm trời mới trở về núi Sùng Sơn, vào hang Bách Cầm để bái kiến sư phụ là Thanh Hư chân nhân, gặp được sư đệ là Chu Bá Thông.
Chàng vừa gặp mặt sư phụ, bỗng giật mình hoảng sợ, từ trước Thanh Hư chân nhân tuy đã già nhưng khí sắc vẫn hồng hào khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn hơn những người trai tráng, nhưng mới cách ba năm nay, chàng thấy khí sắc của sư phụ đã biến đổi hẳn, da dẻ hồng hào đã trở thành khô héo, cặp mắt tinh anh dường như mất thần, trở nên lờ đờ mệt mỏi, nét mặt dường như có một luồng hắc khí bao bọc chung quanh, đúng là một người có bệnh nặng. Trùng Dương cả sợ hỏi Chu Bá Thông :
- Chu đệ, mấy hôm nay sự phụ có được bình an không?
Chu Bá Thông trợn tròn đôi mắt trả lời :
- Sư phụ vẫn như thường, mấy ngày hôm nay sự phụ nhịn cơm để luyện công.
Thanh Hư chân nhân nói :
- Trùng Dương con đã về đấy ư, thật là tổ sư linh thiêng khiến cho con về kịp giờ, ta chẳng bao lâu nữa Vũ Hóa (Những người Cao tăng và Đạo sĩ khi đắc đạo qua đời thường gọi là Vũ Hóa), sư đệ con tuy đã gần ba mươi tuổi, nhưng tính tình hãy còn như con nít không thể làm nên việc chi vĩ đại cả, nên ta cố đợi con về để dặn dò vài việc hệ trọng.
Vương Trùng Dương thấy sư phụ nói sắp sửa từ trần, thì cả sợ vội hỏi :
- Thưa sự phụ, đồ đệ thấy thần sắc của sư phụ có sút kém nhưng chưa đến nỗi nào, có sao sư phụ lại nói như vậỷ
Thanh Hư chân nhân thở dài nói :
- Con không hiểu đó mà thôi, một người đã hiểu được huyền môn thượng nặng nội điển, có thể biết rõ mình sẽ chết vào hồi nàọ Ta biết mình ta, không sao sống nổi được một tháng, nhưng không kịp gặp mặt con, nên ta phải hao tổn không biết bao nhiêu nguyên thần, để kéo dài thêm mạng sống tới hai tháng trời để đợi chu kỳ con về đúng hẹn. Đến nay con đã về rồi, ta không còn phải cố kéo dài thêm làm gì nữa, ta có ba điều cần dặn lại, con cố thực hành cho kỳ được.
Vương Trùng Dương khấn đầu nói :
- Đệ tử hôm nay được nên người, cũng là do sự phụ dạy dỗ, đến nay dù cho sư phụ có bảo con nhảy vào lửa hay là xuống biển, con cũng không từ chốị
Thanh Hư chân nhân thấy Trùng Dương nói một cách thành khẩn như vậy thì gượng cười, nói :
- Hay lắm, ta nói cho con nghe điều thứ nhất. Sáng mai con hãy xuống tóc tức thì, đội mão Hoàng Quán làm đệ tử của đạo gia, phát huy võ học của phái Toàn Chân, dạy dỗ sư đệ của con là Chu Bá Thông, để nó được thành tài, đó là điều thứ nhất.
Vương Trùng Dương kính cẩn thưa :
- Đệ tử xin tuân theo lệnh của sư phụ.
Thanh Hư chân nhân lại nói :
- Điều thứ hai, sau khi ta chết rồi, đồ đệ có thể thu nhận môn đồ, nhưng chỉ có thể thu đến bảy người, thà ít còn hơn nhiều, nếu không phải người có căn bản có thể truyền thụ tuyệt kỹ công phu, nhất quyết con không được thâu nhận, nhưng dù thế nào đi chăng nữa cũng không quá bảy ngườị
Vương Trùng Dương nghĩ thầm trong bụng :
- Ta ở Yên Kinh đã thu Mã Ngọc và Khưu Phùng Xuân làm đồ đệ, ở Đông Hải đảo Kim Ngao lại thu Tôn Phượng Cô và Đàm Thiên Thoại làm môn đồ, như thế trước nay ta đã thu nhận bốn người, nay chỉ có thể thâu thêm ba người nữạ
Ngẫm nghĩ như thế, họ Vương bèn cất tiếng hỏi :
- Thưa sụ phụ, tại sao sự phụ hạn định cho đồ đệ chỉ được thâu bảy người làm môn đồ là có ý nghĩa gì?
Thanh Hư ngoảnh lại nói với Bá Thông :
- Bá Thông, con hãy đến phòng ngủ của ta, mang cái rương màu đỏ ở dưới gầm giường cho tạ
Chu Bá Thông vâng lời đi ngay vào phòng ngủ của Thanh Hư chân nhân, không bao lâu chàng ta đã vác ra cái rương màu đỏ, vừa đi vừa phủi bụi đóng đầy trên mặt rương.
Thanh Hư chân nhân trông thấy cái rương thì có vẻ xúc động, lấy tay áo phủi một lần nữa, rồi mới mở rương rạ
Vương Trùng Dương chú ý nhìn vào trong thấy có một số sách vở đã lâu ngàỵ Thanh Hư chân nhân lấy một cuốn giấy tròn mở ra, họ Vương và Châu Bá Thông thấy sư phụ mở bức tranh ra không khỏi lấy làm ngạc nhiên, vì bức tranh ấy không phải là vẽ sơn thủy, thú vật hay phi cầm, mà vẽ một bầu trời giữa đêm thu, phía Bắc có bảy ngôi sao lớn, giữa ngôi sao lại có một đạo nhận đứng ở đấy, chỉ cao chừng năm tấc, nhưng nét vẽ rất thần tình, trông như người thật, Chu Bá Thông bỗng nhiên reo to :
- Thưa sư phụ, bức tranh này thật là đẹp đẽ, sao sư phụ không treo lên chơi, lại khóa để trong rương thật là phí quá.
Vương Trùng Dương thấy bảy ngôi sao này bày đặt rất khéo thì nghĩ ra vội hỏi :
- Thưa sư phụ, đây có phải là Bắc Đẩu Thất Tinh chăng?
Thanh Hư chân nhân cười nói :
- Con thật là thong minh, mới nhìn sơ mà đã hiểu liền, đúng đấy là Bắc Đẩu Thất Tinh, trên mỗi ngôi sao có một ngườị Đó cũng chính là nguyên nhân ta căn dặn con chỉ được thu nhận bảy người đồ đệ mà thôị
Tuy Thanh Hư chân nhân nói những câu này có vẻ hoang đường ly kỳ, nhưng thật ra Vương Trùng Dương không hổ là một người thông minh, nên chàng có vẻ hiểu ngay, nên lập tức đoán :
- Thưa sư phụ, bảy ngôi sao này có phải là một trận thế của bản phái võ học chăng?
Thanh Hư chân nhân cười nói :
- Phải đây, trận này tên là “Thiên Cương Bắc Đẩu trận” con hãy nhìn cho kỹ, sẽ biết.
Vương Trùng Dương lưu tâm nhìn kỹ chỉ thấy bức tranh màu xanh thẫm, kẻ nhiều nét chữ màu đen, liên kết với những ngôi sao, như long sa du tẩu, tiến thối có trật tự, nhìn kỹ lại càng thấy phức tạp hơn.
Họ Vương cứ ngây người ra mà không thể nào hiểu được nữạ
Thanh Hư chân nhân nghiêm nét mặt nói :
- Đồ đệ, con nên hiểu rõ, đây là một vị trí chiến pháp “Lục Hòa trận” của Tôn Tẩn vào thời chiến quốc, và là cả “Bát Trận Đồ” của Chư Cát Vũ Hầu đời Thục, Hán. Nói tóm lại cũng là một trận đồ nhưng chỉ khác nhau là họ dung thiên binh vạn mã, mà trái lại “Thiên Cương Bắc Đẩu trận” của ta chỉ cần có bảy người theo vị trí Bắc Đẩu Thất Tinh ngồi xuống giao đấu với kẻ địch, tuy chỉ có bảy người nhưng uy lực vô cùng ghê gớm, để ta sẽ truyền thụ khẩu quyết “Thiên Cương Bắc Đẩu trận” cho con trong vòng một tháng, nếu con tập luyện được thành thục có thể quảng đại bản pháị Bởi thế, cho nên ta hy vọng con thu bảy đồ đệ thông minh, trí tuệ để tập luyện “Thiên Cương Bắc Đẩu trận” đó là điều thứ hai con có chịu hoàn thành nó hay không?
Vương Trùng Dương trả lời không hề nghĩ ngợi :
- Đây là một việc trọng đại của Toàn Trân phái đâu dám chẳng tuân, xin sư phụ yên tâm, con xin hết sức ghi nhớ lời sư phụ dặn.
Thanh Hư chân nhân vui vẻ :
- Hay lắm, như thế thật không uổng công truyền dạy võ công của ta, còn điều thứ ba nữa thật là khó khăn và nguy hiểm, nếu con không cẩn thận, có thể xảy ra tai nạn chết người được.
Vương Trùng Dương giật mình hỏi lại :
- Thưa sự phụ chẳng hay việc chi mà ghê gớm đến như thế?
Thanh Hư chân nhân nghiêm nét mặt gọi Chu Bá Thông lại dặn rằng :
- Đồ đệ ra ngoài canh phòng cẩn thận, phải lưu ý đề phòng, cách xa trăm bộ không cho một kẻ lạ mặt nào được bén mảng tới đây nghe không.
Chu Bá Thông tuân theo lời sư phụ dặn, lập tức bước ra ngoài cửa hang canh gác.
Thanh Hư chân nhân lúc đó mới cầm một bức họa khác, nhưng không mở ra lại hỏi Vương Trùng Dương :
- Đồ đệ con đã lịch lãm trong giới giang hồ trên mười năm trời nay, con có nghe thấy ai nói tới một môn võ học kỳ bí tên là Cửu Âm chân kinh mất tích trên trăm năm nay, các phái Võ Lâm ở Trung Thổ hết sức tìm kiếm, nhưng chưa ai tìm gặp được nó, câu chuyện này con có biết không?
Vương Trùng Dương kính cẩn thưa :
- Thưa sự phụ, đệ tử đã từng nghe trong giới Võ Lâm thường nói tới “Cửu Âm chân kinh” là do Đông Tấn Cao, Văn Pháp Hiếm trước tác thu thập tinh nhuệ của thiên hạ võ học, hơn một ngàn năm đúc kết thành. Các vị cao thủ danh gia trong giới võ lâm vì tranh dành “Cửu Âm chân kinh” mà chém giết nhau, chết không biết bao nhiêu ngườị
Sau đó cuốn “Cửu Âm chân kinh” bị phái Không Động cướp được giữ hơn mười mấy năm trời, nhưng lại bị Côn Lôn Ngũ Lão đến cưỡng bách đòi cho mượn “Không Động tam tử” phải dùng hoãn binh chi kế lấy cuốn “Cửu Âm chân kinh”
giả ra trao cho ngũ lão, còn cuốn nguyên bản thì mang đến Trung Thổ ẩn tang, và từ đó thì cuốn “Cửu Âm chân kinh” bị thất lạc, đệ tử nghe nói như thế, không biết có phải chăng?
Thanh Hư chân nhân gật đầu nói :
- Con đã hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện về Cửu Âm chân kinh như thế thì hay lắm, vậy con hãy xem bức tranh này đâỵ
Nói dứt lời, Thanh Hư chân nhân mở bức họa đồ ra, Vương Trùng Dương nhìn vào bức tranh, thấy một bức họa đồ vẽ một trái núi nguy nga hung vĩ, mây trắng bay lơ lửng trân sườn núi, những cây cổ thụ cành lá sum suê.
Họ Vương ngắm ngọn núi và những cây vẽ trong bức họa rất quen thuộc, hình như chàng đã qua nơi này một vài lần rồi, chàng cau mày suy nghĩ một lát thốt nhiên tươi hẳn nét mặt nói với Thanh Hư chân nhân :
- Thưa sự phụ, ngọn núi trong họa đồ này đồ đệ trông như trái núi Tây Nhạc Hoa Sơn ở Thiểm Tây co phải chăng?
Thanh Hư chân nhân cười :
- Đúng lắm, con thử xem trên ngọn núi có gì lạ không?
Vương Trùng Dương cầm bản họa đồ nhìn kỹ lại thấy phía dưới Hoa Sơn có một con suối chảy, nước trong veo, bên bờ có một lão trượng tay cầm cần câu, ngồi dưới gốc thông già, ở lưng chừng núi có một thiếu nữ đang múa kiếm, quần áo phất phới trông như người thật.
Ngoài hai người này ra không còn nhận vật nào khác nữa, lại nhìn phong cảnh trên bức tranh vẽ sơn vẫn không tĩnh, phong quang như thuận.
Vương Trùng Dương cứ ngẩn người ra mà thưởng thức, chàng chú ý nhìn kỹ từng ly một, thốt nhiên nói :
- Thưa sự phụ bức họa này có phải là nơi tàng ẩn bộ Cửu Âm chân kinh.
Thanh Hư chân nhân khen ngợi :
- Con thật thong minh, tương lai có thể phát huy Toàn Chân phái được lắm.
Ta nói cho con nghe bức họa này do chính tay danh họa Hải Vân Tử trong phái Không Động vẽ rạ Hải Vân Tử chính là người tìm ra cuốn Cửu Âm chân kinh là một nhân vật trọng yếu trong việc sao chép giả kinh để gạt Côn Lôn Ngũ Lãọ
Ông ta đã vãn niên quy ẩn ở Hoa Sơn, theo như truyền thuyết chính ông ta đã tàng ẩn cuốn Cửu Âm chân kinh. Đây con hãy lưu tâm nhìn cho kỹ trong cái trục của bức họa này còn có sự bí mật nữạ
Nói dứt lời, Thanh Hư chân nhân xô cái trục bức họa về phía tay tráị
Thật là tinh xảo, mới trông cái trục bức tranh, người ta chỉ cho là một thứ gỗ quý, trông chẳng có gì khác lạ, nhưng khi Chân nhân xô cái trục một cái đã thấy có hai mảnh giấy văng ra, trên mảnh giấy chữ viết nhỏ li ti, nhưng nét bút thật thần kỳ, theo lối chữ của Nhan Lỗ Công.
Vương Trùng Dương cúi xuống đọc :
“Hạo hạo sầu, vong vong kiếp. Nhân cừu sinh tư, nguyệt hữu viên khuyết. Dư ư dức hữu tam niên hảo, kinh ẩn Hoa sơn chỉ dương ngũ, dương duy tật tự trị bất khỏi, nãi di chưởng tước sơn thạch, tha thành ngư hành. Thật chân kinh tại ngư phác đầu chi nội, tịnh thực Tùng thất lâm ư khê biên dĩ vi ký, lưu tăng hữu duyên tịnh lực tật như Hoa sơn họa đồ, khải thị hậu học, sử kỳ tha nhật đắc kinh, đương tri tiền nhân dụng tâm chi khổ, thủ kinh chi nan sở giới trường, thứ miễn dịch chân kinh vi ác giả”.
Hồi 13
Hải Vân Tử Để Bạt Tịnh Đồ
Vương Trùng Dương đọc xong mặt hơi biến sắc nói :
- Thưa sư phụ, té ra Cửu Âm chân kinh ẩn giấu trong bụng con cá trong sơn khê tại Hoa Sơn...
Chưa nói dứt câu, Thanh Hư chân nhân bỗng quát lớn :
- Tên nào cả gan, dám tới đây rình mò.
Vừa nói dứt lời, Thanh Hư chân nhân giơ tay nhắm hướng cửa sổ đánh ra một chưởng, tay vừa đưa ra, thốt nhiên ở ngoài cửa sổ năm trái tròn vừa xanh vừa trắng nhằm thẳng vào chân nhân phóng tới, sức mạnh vô cùng.
Sự việc xảy ra rất bất ngờ, Thanh Hư chân nhân cười gằn một tiếng rồi gồng khí công để chống đỡ.
Vương Trùng Dương tay trái cầm vững họa đồ, tay áo bên phải phất lên kịp thời dùng ngón Phi Tụ Lưu Vân phất rơi ngay mấy cái ám khí đó xuống đất, đến khi nhìn kỹ lại đó là năm trái “Thiết Tật Lê” lớn bằng quả đào, màu xanh chung quanh đầy gai mọc ngược.
Những trái Thiết Tật Lê ấy mỗi trái ít nhất nặng hai lạng. Trong giới giang hồ người xủ dụng được thứ ám khí nặng nề như vậy thật là hiếm có.
Vương Trùng Dương vừa phất rơi Thiết Lê vừa để tấm bản đồ xuống trước mặt sư phụ, rồi nhún mình dung thuật kinh công nhảy vọt xuyên qua cửa sổ ra ngoài nhanh như chớp.
Chàng vừa ra khỏi cửa thì thấy sư đệ là Chu Bá Thông nằm thẳng dưới đất cách căn phòng của sư phụ chừng ba trượng, còn cách xa mười mấy trượng lại có một tăng nhân đầu đội “Giương Giáo Mão” chạy nhanh như bay nhắm thẳng về hướng cửa hang Bách Cầm Vương Trùng Dương thoáng nhìn hình dáng Chu Bá Thông biết ngay bị người ta điểm huyệt. Chàng tự thấy mình cần phải bắt tên hung đồ vì bí mật của “Cửu Âm chân kinh” bị y nghe lóm được thật là nguy hiểm.
Vương Trùng Dương vận hết chân khí, triển khai thượng thặng kinh công quăng mình vọt đi nhanh như điện xẹt, chỉ thoáng một cái đã đuổi theo đến gần sau lưng của tăng nhân ấỵ
Vương Trùng Dương lúc đầu tưởng tăng nhân đó là người của Thiếu Lâm tự, nhưng khi đến gần nhìn kỹ thấy vị hòa thượng này da màu đồng cổ, trên mặt lại để râu quai nón, mặc bộ cà sa hình thức rất kỳ lạ, khác hẳn với các vị hòa thượng của Trung Thổ, Vương Trùng Dương vận khí đơn điền quát lớn :
- Tăng nhân hà phương đáo lai, cả gan lén vào hang Bách Cầm đả thương người, mau ngừng lại, nếu không chớ trách tại hạ vô lễ.
Quái hòa thượng ấy thấy Trùng Dương đuổi gần đến nơi, thốt nhiên ngừng lại, nhưng không hề ngoảnh lạị Trùng Dương phi than chồm tới, chàng thấy Quái hòa thượng đứng yên không nhúc nhích, cũng chẳng có vẻ gì chống cự, thì rất lấy làm lạ.
Họ Vương có vẻ cẩn thận không dung độc thủ, chỉ dung Kim Cương chỉ công, tả chưởng đưa ra dung ngón đòn “Dạ Sai Thám Hải” lấy hai ngón tay hướng ngay vào Phong Phủ huyệt ở sau vai của hòa thượng điểm tớị
Kim Cương chỉ công là một môn tuyệt kỹ của Toàn Chân phái, tuy không lợi hại bằng Nhất Dương chỉ, nhưng uy lực cũng rất ghê gớm, ngón tay đâm vào gỗ đá cũng phải thủng, dù kẻ địch có luyện tập “Thiết Bố Sam” hay “Kim Chung Chạo” nếu bị Kim Cương chỉ chạm một cái lập tức ngoại công bị phá tan.
Vương Trùng Dương dùng Nhất chỉ hướng bả vai nhằm huyệt đạo của hòa thượng điểm tới, nếu trúng, nhất định tay phải của hòa thượng bị trặc xuống.
Nào ngờ ngón tay của họ Vương vừa chạm vào vai đối phương thốt nhiên thấy thân thể hòa thượng như một trái khí cầu bơm đầy hơi huyệt đạo theo thớ thịt lẩn vào ngón tay của Vương Trùng Dương tuột xuống, thế là hoàn toàn giải được môn “Nhất Dương chỉ công” của Vương Trùng Dương thành ra vô hiệu quả.
Hòa thượng đột nhiên quay đầu lại, quắc mắt nhìn họ Vương, đôi nhỡn quang của hòa thượng long lanh sáng quắc, hòa thượng há miệng thổi một luồng lãnh khí trúng ngực của Trùng Dương.
Họ Vương thốt nhiên thấy người như bị điện giựt, chàng từ khi hạ sơn đến nay, đại phá Thiếu Lâm tự, dương uy ở Đại Lý Công, Yên Kinh kỹ phục quần hung, Đông Hải chấn phục khấu đạo, đến đâu thắng đó, toàn vô địch thủ, ngoài ra đánh nhau với Hoang Cổ ba chưởng ở trên hoang đảo tại Hoàng Hải, bất phân thắng phụ, có thể nói là chưa có địch thủ.
Ngờ đâu hôm nay trở về Sùng Sơn bái kiến sư phụ, giữa lúc diện thụ cơ mật, gặp một địch nhân quái dị như thế nàỵ
Y phun ra một luồng lãnh khí. Vương Trùng Dương thấy trong người choáng váng, thần trí bất thanh, muốn ngất xỉu đi, may sao nội công của họ Vương rất thâm hậu, nguyên khí kiên định, lập tức chàng nhảy vọt về phía sau đến bảy tám bộ, vận khí cho lưu chuyển khắp than châụ
Thần trí hồi tỉnh lại Trùng Dương nổi giận muốn nhảy tới lần thứ hai vẫn thấy Quái hòa thượng thân hình bất động, thân thể cứng ngắt hai tay bỏ thõng xuống, nét mặt lạnh lùng không khác gì một xác chết, đôi mắt lõm sâu phát ra một luồng thanh quang như lân hỏa, họ Vương trông thấy nét mặt ghê gớm của y bỗng giật mình quát to :
- Tên Quái tăng ba phần người bảy phần quỷ kia, mi dám tới đây nghe trộm câu chuyện Cửu Âm chân kinh mà mi tưởng lầm ta không biết lai lịch của mi hay sao, mi có phải là môn đồ của Vân Nam Trúc Sơn Ngũ Âm giáo chăng?
Nguyên khi, Vương Trùng Dương khi tới nước Nam Chiêu đã từng ở lại Điền Nam Miêu Cương mấy tháng, biết được một môn phái là “Ngũ Âm giáo” nên chàng cũng nói đại rạ
Chẳng ngờ, vị Quái tăng nọ giật mình kinh ngạc, họ Vương nhân dịp lúc Quái tăng phân thần, tức thì quát lên một tiếng phi thân tới múa quyền nhằm đỉnh đầu y đánh tới, ngón đòn này là một thế tuyệt kỹ trong bài Kim Cương quyền pháp, uy lực rất ghê gớm, chỉ nghe thấy đánh “bùng” một tiếng, tay quyền đã đánh trúng đỉnh đầu của Quái tăng, nhưng thật lạ lùng cái đầu của hòa thượng bỗng rụt xuống.
Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc chàng định thần nhìn kỹ, và vội rút tay quyền về, cái đầu của hòa thượng lại ở dưới cổ nhô lên cao, quái nhân hòa thượng cười to lên một tiếng, há miệng thổi ra một luồng lãnh khí nhắm người Vương Trùng Dương bay tớị
Lần này họ Vương đã cố ý đề phòng, nên nhảy vụt về phía tay trái, vung tay đánh ra một chưởng vào sau lưng của Quái tăng.
Vương Trùng Dương đã dùng “Hỗn Nguyên Kình Lực chưởng” uy lực thực là khủng khiếp, mạnh như sét đánh, khí lực ước có ngàn cân, Quái tăng bị đánh trúng chưởng này chẳng khác chi con diều đứt dây, văng xa đến ngoài hai trượng.
Quái tăng ngã lăn xuống đất mặt mày xanh lét, lực quang trong đôi mắt mất hẳn, nên hắn vội vã lăn đi một vòng, đập chân xuống đất dùng thế “Kim Lý Xuyên Ba” nhảy vọt lên cắm đầu phóng thẳng ra ngoài cửa hang, chạy trốn nhanh như bay, Vương Trùng Dương quát to :
- Ác tăng chạy đâu cho thoát.
Dứt lời họ Vương triển khai phi hành, dùng tuyệt kỹ kinh công, lẹ như chớp tùng mình đuổi theo, Quái tăng về thuật phi hành còn kém họ Vương rất nhiều nên chỉ thoáng một cái Trùng Dương đã đuổi tới nơị
Quái tăng biết mình không thể nào trốn thoát, thét lên một tiếng ma kêu quỷ hú nghe ghê rợn, quay phắt mình lại, giơ hai tay phóng luôn mấy cái ám khí nhanh như điện xẹt.
Vương Trùng Dương biết ám khí của địch phóng ra là Độc Tật Lê thứ ám khí hình tròn, có nhiều gai sắc bén ở đầu có tẩm những thứ độc dược, mình tuy nội công cao siêu, cũng không thể chống cự lại được, chàng lập tức phất tay áo dùng chưởng phong đánh ra và quát to :
- Nguyên bích phục hồi, ác tăng hãy tiếp lấỵ
Năm cái ám khí “Thiết Tật Lê” bị chưởng phong đụng mạnh bay ngược trở lại, đánh trúng vào thân thể của Quái tăng, hình như Quái tăng không có cảm xúc gì vẫn y như thường và đưa cái bàn tay to lớn nhằm Trùng Dương chộp tới, họ Vương vội vàng vung tay nhằm huyệt Minh Mạng ở sau lưng hòa thượng đánh tới, chỉ nghe thấy “Bịch” một tiếng, hòa thượng vẫn như thường.
Đánh trúng luôn mấy quyền mà Quái tăng cũng không hề hấn gì thì biết ngay là Quái hòa thượng đã luyện tập một thứ nhu công rất quái dị, thân thể mềm như bông, lại như cái khí cầu bơm đầy hơị
Tất cả các loại như “Điểm huyệt”, “Bắt Mạch Cầm Nã”, “Kim Cương chỉ”, “Ưng Trảo công”... nếu gặp loại nhu công này cũng trở nên vô dụng, chỉ có thể dùng “Lãng Công Mãnh Đả Trọng Thủ Pháp” mới có thể đả thương y được, một quyền vừa rồi của Vương Trùng Dương đánh đúng vào huyệt “Minh Mạng” của Quái tăng, lập tức hòa thượng thổ ra một búng máu, té ngửa xuống đất nằm yên không cựa quậy gì được nữạ
Họ Vương không ngờ quyền sau này lại có thể đả tử hòa thượng ấy, chàng cũng e dè hòa thượng giả tạo nên dùng chân đá tiếp luôn một ngọn vào thân hình của Quái tăng, khiến cho cái thây bắn ra xa ngoài hơn hai trượng.
Lúc ấy, thân thể của hòa thượng chẳng khác chi một đống thịt, nằm dí xuống đất bất động, Trùng Dương vội chạy tới sờ vào xác Quái tăng thấy lạnh ngắt.
Lúc đó, Vương Trùng Dương mới yên tâm là Quái tăng ấy đã chết, bèn kéo thây qua một bên rồi mới trở vào hang Bách Cầm.
Chàng trông thấy sự phụ là Thanh Hư chân nhân sắc diện biến đổi, ngồi bên cạnh Chu Bá Thông dùng “Nguyên Dương chân khí” của mình, vận động trên hai bàn tay đang giải cứu cho họ Chụ
Hồi lâu, Chu Bá Thông mới mở mắt rạ Thanh Hư chân nhân thấy Trùng Dương trở về thì cất tiếng hỏi :
- Đồ đệ con có đánh chết lão Quái tăng đó không, những yêu nghiệt của Ngũ Âm giáo chuyên môn hại người, nếu con gặp bọn chúng phải diệt trừ đi để trừ hại cho dân chúng không nên nương nhẹ với bọn chúng.
Vương Trùng Dương vội đáp :
- Thưa sư phụ, đệ tử đã đánh chết tên ma giáo đó rồị
- Con có bổ óc nó ra không?
Vương Trùng Dương ngạc nhiên hỏi :
- Thưa sự phụ tên yêu nghiệt đó đã chết còn phá óc nó ra làm gì?
Thanh Hư chân nhân thở dài một cái rồi than rằng :
- Thôi rồi, con đã nhầm rồi, tên yêu nghiệt đó chưa chết hẳn đâụ Nó chỉ giả chết mà thôị
Vương Trùng Dương lấy làm lạ hỏi rằng :
- Thưa sự phụ, chính con đã xem lại cẩn thận rõ ràng nó chết hẳn rồi, sao lại co sự kỳ lạ như thế.
Thanh Hư chân nhân nói :
- Con chưa biết rõ để ta kể lại cho mà nghẹ
Nói xong, Thanh Hư chân nhân bèn kể lại tất cả mọi việc kỳ lạ của Ngũ Âm giáo cho Vương Trùng Dương nghẹ
Về phía Tây tỉnh Vân Nam có một ngọn núi tên là Đại Trúc sơn, nó chỉ là nhánh của Cao Lệ Cống Sơn (tức Dã Nhân sơn) ngang qua một vùng Điền Việt núi sâu rừng rậm, ít người qua lạị
Đại Trúc sơn có một giống dân gọi là Đồng nhân. Trước kia, Đồng tộc ngụ tại Quảng Tây, đời nhà Tống vua Tống Nhân Tôn cử đại tướng Địch Thanh mang quân đi dẹp nước Man, giết được vua Nam Man là Nùng Chí Caọ
Những người Đồng Nhân đó trốn sang Vân Nam và cư trú tại đó, một phần thì lên núi Đại Trúc.
Họ có một thứ tà thuật gọi là Nhiếp Thanh Thuật, thứ tà thuật này rất là kỳ dị quái gở. Họ nằm trong mồ mả, hay quan tài người chết để luyện tập, nhờ có dị thuật này mà Đồng tộc có thể chống lại sự sự xâm lăng của các giống dân khác, nhờ đó dân tộc này mới không bị tiêu diệt.
Ngũ Âm giáo cũng phát sinh ở Đồng tộc mà rạ Thứ võ công của họ gọi là Âm Nhu công, người muốn luyên Nhu Công này phải nằm trong Cổ Mộ hay là cái hòm không của xác chết đã lâu, hút thâu thiên địa và âm chi khí luyện thành võ công, nếu công phu luyện tới đợt thứ nhất, có thể tự do rút cả đầu hoặc tứ chi vào trong thân thể, tránh được sự đả kích của đối phương, lại có thể khiến cho tất cả bộ phận của mình khi vận khí lên mềm nhũn như bông gòn.
Ngoài ra, còn có bài âm độc thủ pháp tấn công kẻ địch khiến cho kẻ địch bị hôn mê cũng như lúc nãy luồng lãnh khí của tên yêu đạo đó đã phun vào người Vương Trùng Dương tên là “Phụ thây khí”.
Người tầm thường bị y phun trúng, lập tức thấy thân thể giá lạnh, người hít phải lãnh khí đó ngất xỉu ngay lập tức, và bị khí lạnh làm cho tứ chi cứng lạị
Bởi thế cho nên Chu Bá Thông bị thứ “Phụ thây khí” phun nhằm ngất xỉụ
Còn họ Vương lẽ ra cũng không sao tránh thoát nhưng nhờ xưa kia Vương Trùng Dương ăn được Trùng Sâm. Thứ sâm này nó bổ phẩm Trùng Dương, bởi thế cho nên dương khí của Trùng Dương rất mạnh, nên không bị ám hạị
Quái hòa thượng đó thuộc loại Đồng tộc, không phải Hán tộc.
Y lén vào trong hang Bách Cầm, phun đảo Chu Bá Thông, và nghe được bí mật của Cửu Âm chân kinh, nhưng bị Thanh Hư chân nhân phát giác kịp thời và bị một chưởng cách ngang cửa sổ té lăn xuống đất.
Tiếp theo đó bị Trùng Dương đuổi theo, y biết không thể nào trốn được vì thuật kinh công của Vương Trùng Dương cao hơn y quá nhiềụ Bởi thế nên y mới giả chết để lừa gạt Trùng Dương.
Cách giả chết của Ngũ Âm giáo hết sức là khéo léo, chỉ cần vận Âm khí lên là toàn thân giá lạnh, không cần hô hấp nên không có hơi thở nữa, mà thân thể cũng cứng đơ như xác chết.
Thường thường các võ gia nội công tinh thục có ngưng thử cũng chỉ được độ mười hay hai mươi phút, nhưng riêng về phái Ngũ Âm giáo là họ có thể ngưng thở liên tiếp hàng mấy khắc đồng hồ.
Dù cho có chôn họ xuống đất họ cũng có thể bới đất mà chui lên được.
Những người biết rõ tà thuật của chúng chỉ có cách bổ đầu lấy óc của chúng nó ra thì nó không thể hồi dương được nữạ
Sau khi nghe Thanh Hư chân nhân nói rõ nguồn gốc của phái Ngũ Âm giáo, Vương Trùng Dương tỉnh ngộ, chàng vội vàng chuyển mình dùng thuật phi hành phóng nhanh như bay ra của hang Bách Cầm, quả nhiên xác chết của Quái tăng đã mất hẳn, dấu máu dưới đất vẫn còng và biến thành màu tím đen. Vương Trùng Dương dậm chân xuống đất mà than rằng :
- Lần này thật là Bát Thập Lão Nương bị thằng trẻ gạt, thật là mắc lỡm của thằng trọc ấy rồị
Sau này, Vương Trùng Dương vì bị Quái tăng giả chết đánh lừa cũng bắt đầu luyện tập ngừng thở, học bản lãnh giả tử ở Yên Hà Động.
Nhờ đó, mới giả chết dụ Tây Độc Âu Dương Phong đến trộm Cửu Âm chân kinh chàng dùng thuật Nhất Dương chỉ phá được thuật Hấp Ma Công của Âu Dương Phong.
Đó là chuyện saụ
Đây nhắc lại Vương Trùng Dương bị mắc kế của Quái hòa thượng, buồn bã trở về Cổ Thụ Lâm kể lại tất cả sự việc cho Thanh Hư chân nhân nghẹ
Thanh Hư chân nhân đã biết trước nên không làm lạ chỉ thở dài, người lại hỏi hình dáng của Quái tăng đó ra sao, và sự giao đấu của hai người thế nàọ
Vương Trùng Dương nhất nhất kể lại từ đầu đến cuối rõ ràng. Thanh Hư chân nhân than thở :
- Quả thật Quái hòa thượng ấy là đồ đệ của Trúc Sơn Lão Quái Đạt Ni Mạ
Ngay khi, Trùng Dương ở Điền Nam đã từng nghe được tên tuổi của Trúc Sơn lão quái, nên hỏi lại sư phụ :
- Thưa sư phụ, có phải mười năm về trước Đạt Ni Ma đã bị “Tẩu hỏa nhập ma” nửa mình bị tê liệt nằm trong Cốc Long Lãnh. Đồ đệ nghe nói ông ấy bị ác đồ bức lấy bí quyết không được, đã giết ông ta bằng cách giải phân thân thể. Như thế tên ác tăng vừa rồi là đồ đệ của Đạt Ni Ma, hắn tên là gì?
Thanh Hư chân nhân lại thở dài nói rằng :
- Trúc Sơn Lão Quái có tất cả ba nghiệt đồ. Sư phụ chúng nó chết rồi thì ba tên ấy tha hồ tung hoành ngang dọc. Ta nghe nói sau đó gặp một số người hiệp sĩ chính phái ở tỉnh Côn Minh giết chết hai tên. Có một đứa thoát khỏi có lẽ là Quái tưng hôm nay đến hang Bách Cầm dò lạ
Tên yêu nghiệt đó mấy hôm nay ta thường thấy xuất hiện ở gần Sùng Sơn lẩn lút trong rừng núi, ta chỉ tưởng đấy là phường trộm cướp quyển kinh bí cấp mà thôi, nào ngờ y lại hướng vào ta mà hạ thủ.
Nhưng đồ đệ đánh trúng nó hai cái Kim Cương chưởng đó thì thương tích của nó cũng đã tràm trọng lắm rồị
Trong một trăm ngày nó phải tìm được thuốc cải tử hồi sinh là Hà Thủ Ô thì nó mới bảo toàn tính mạng được.
Nói tóm lại, ta chỉ hy vọng nó không tìm được thứ thuốc, và sẽ chết trong vòng một trăm ngày thì ta mới khỏi lo về sau mà thôị
Hai thầy trò nói chuyện về Quái tăng và Ngũ Âm giáo xong rồi, thì Thanh Hư chân nhân lại nói qua Cửu Âm chân kinh.
Trước kia, Thanh Hư chân nhân thường nhàn du đây đó, một ngày kia ông đến Hoa Sơn ở tỉnh Thiểm Tây kiếm một người bạn.
Người đi đến gặp người bằng hữu đó, thì người đó lại đúng lúc đi xa nên không gặp, vì muốn gặp người bạn cố tri ấy, nên Thanh Hư chân nhân ở lại Hoa Sơn dạo khắp nơi danh lam thắng cảnh như Hoàng Long Động, Thượng Thiên Thê, Bách Chuyển Phong..v..v...
Một hôm Thanh Hư đang dạo chơi tại núi Thái Hoa, thấy cuồng phong thổi mạnh, mây đen kéo đầy trời, như sắp có trận mưa lớn, Thanh Hư chân nhân sợ ướt hết quần áo thì phiền lắm, nên tìm nơi trú ẩn.
Sau khi rảo bước xuống Huyền Võ Nham thấy tại nơi đây có một cái kệ thiên nhiên, dốc chừng mấy thước sâu, vào chừng một trượng.
Đỉnh kệ có mọc những loại thảo mộc nhỏ, Thanh Hư chân nhân lập tức đi vào trong cái kệ đó, gió càng thổi mạnh, sấm chớp liên hồi chỉ một lát trời mưa như trút nước. Thanh Hư chân nhân tự nghĩ :
- May mà mình trú được ở đây nếu không thì ướt hết.
Mưa ngày càng mau gió ngày càng lớn. Thanh Hư chân nhân ngồi trên một hòn đá, thốt nhiên từ trong hang văng vẳng đưa ra tiếng đàn tranh.
Tiếng đàn điêu luyện, tiết tấu thật là kỳ ảọ Thanh Hư chân nhân giật mình kinh ngạc, thầm nghĩ :
- Sao ở nơi cùng cốc thâm sơn này lại có người gảy đàn tranh.
Nghĩ đoạn, Thanh Hư cất tiếng nói to :
- Bạn nào ở trong thạch động đàn tranh, xin cho tại hạ được diện kiến.
Liên tiếp nói luôn mấy lần, không thấy ai trả lời, mà tiếng đàn vẫn liên tiếp chẳng ngừng, Thanh Hư chân nhân lấy làm kỳ lạ rõ ràng tiếng đàn phát ra từ trong vách đá.
Tự nhiên Thanh Hư chân nhân nghĩ ra một đạo lý, bèn thối lui lại mấy bộ vận nạp khí đơn điền, đưa hai tay để vào vách đá, nơi sinh ra tiếng đàn tranh đều đều kỳ lạ đó vận dụng thế Kim Cương Cự Linh Chưởng hết sức xô mạnh một cái, thật quả là ghê gớm sức xô của Thanh Hư chân nhân nghe đánh “ầm” một cái, một tảng đá ở sát vách tức thì di chuyển có đến hơn ba thước.
Một cảnh lạ lùng hiện ra trước mắt, té ra ở sau tảng đá là một căn phòng, hình như cái đấu, rộng chừng sáu thước vuông, chính giữa có bộ xương người, hai tay hạ thùy coi tựa tăng đạo tĩnh tọạ
Trước bộ xương người đó có để một cái đàn tranh, hình dáng kỳ cổ, cái đàn này chắc làm bằng thép, đen sì lóng lánh, không có bị sét gỉ, dây huyền còn mới, đỉnh phong có một cái lỗ nhỏ, nước mưa từ cái lỗ đó rơi xuống sa trên giây huyền, phát ra tiếng “tình tính tang tang” thay đổi âm điệu một cách kỳ ảo, chẳng khác chi có người gảy đàn.
Đã vén được màn bí mật tiếng đàn trong vách đá phát ra Thanh Hư chân nhân không nhịn được tức cườị
Đột nhiên Thanh Hư chân nhân có một ý nghĩ khác, tại sao xương người này lại ở trong thạch thất?
Vị trí của tảng đá là do nhân lực tạo thành, đóng lại cửa vào thạch thất. Nói tóm lại không phải tự người này di chuyển tảng đá để tự giam mình, ắt đã bị người khác di chuyển tấm đá để ngăn cửa, khiến cho ngạt thở mà chết.
Nghĩ như thế, Thanh Hư chân nhân không còn do dự gì nữa, bèn lấy trong người ra “Thiên lý dạ minh hỏa hồng” đốt lên.
Trong phòng sáng rực, trông rõ ràng không sót một vật gì, lúc đó Thanh Hư lại phát hiện một sự kiện mới lạ nữa, ở đằng sau bức xương người có treo một bức họa đồ.
Đó là một bức thủy mạc vẽ phong cảnh núi Hoa Sơn, giấy họa tuy đã vàng, nhưng không nổi mùi mốc, hoặc hư hỏng, nét vẽ vẫn nguyên vẹn, không hề bị phai bạc. Cái trục họa đồ bằng thứ gỗ quí bóng láng vẫn tốt đẹp.
Ngay ở trên tường có khắc mấy hàng chữ, Thanh Hư chân nhân không giám tự ý xông tới, nhờ phản quang của những nước mưa ở ngoài động, chú ý nhìn vào thì thấy hàng chữ viết như sau :
“Tại hạ là thượng môn của phái Không Động biệt danh kêu Hải Vân Tử, dùng hết sức đời để bảo tồn Cửu Âm chân kinh miên sao để khỏi nguy cho các giới võ lâm. Đã ba mươi năm qua không đổi chí, đến khi mình sắp chết, muốn hủy kinh mà không dám dìm nó xuống khe, chỗ giấu chân kinh để trong họa đồ, tặng kẻ có duyên”.
Khắc trước khi chết “Đức Hữu Ngũ Niên”
Lúc đó Thanh Hư chân nhân mới biết rằng bộ xương người đó chính là Hải Vân Tử đã mang Cửu Âm chân kinh qui ẩn một trăm năm về trước.
Ông ta bảo toàn Chân kinh, đến khi mình sắp chết mới dấu một nơi bí mật lại e dè võ học quí báu nên không dám hủy đị
Nhưng e có những kẻ xấu lấy được làm hại đến võ lâm, giữa hai sự nan giải ấy, không tìm được kế vẹn toàn, nên trước tiên mang ẩn dấu Chân kinh vào chỗ dấu họa đồ, khiến kẻ có duyên sau này tóm được, dụng tâm chịu khổ, Thanh Hư chân nhân nghĩ đến đấy bất giác thấy lòng cảm phục, lập tức hướng về hài cốt của vị võ lâm tiền bối đó vái lạy mấy cáị
Thanh Hư chân nhân lạy hài cốt đó rồi mới đứng dậy, mở bức họa đồ trên tường xuống, cuốn lại để trong túị
Lại còn e có di vật gì khác để lại chăng, Thanh Hư chân nhân cẩn thận đào bới khắp cả mặt đất cả nửa ngày chỉ thấy có mấy cái ám khí ở trong phòng đã rỉ sét cả, trông không ra hình dạng gì cả.
Thanh Hư chân nhân lúc đó mới ra khỏi Huyền Võ Nhan đi xuống Hoa Sơn, mang theo họa đồ hình ra nghiên cứụ
Không bao lâu Thanh Hư chân nhân tìm ra sự bí mật ở trục họa đồ. Lúc đó, mới biết rõ Hải Vân Tử đã dìm họa đồ đó xuống khe núi Hoa Sơn.
Thanh Hư chân nhân có ý định đến Hoa Sơn tìm kiếm, nhưng Thanh Hư chân nhân lại tự nghĩ :
- Là một chưởng môn của Toàn Chân phái võ công đã tới độ cao siêu, tìm ra được Cửu Âm chân kinh chưa chắc có ích lợi gì, mà trong họa đồ vẽ rất kỳ ảo cao thâm, tìm kiếm cũng chưa thể thấy nơi tàng ẩn chốn nàọ
Do đó Thanh Hư chân nhân thấy thọ nguyên đã tận, mới đem họa đồ giao lại cho đồ đệ là Vương Trùng Dương và thuật lại hết đầu đuôị Vương Trùng Dương nghe sư phụ rứt lời thấy trong lòng rất xúc động.
Thanh Hư chân nhân nghiêm nét mặt nói :
- Vương Trùng Dương, điều thứ ba con đã hiểu rồị Sau này con đến núi Hoa Sơn tìm kiếm Cửu Âm chân kinh, điều cần nhất con phải làm ngay là sau khi con tìm kiếm thấy Cửu Âm chân kinh tập luyện độ mười hay hai chục năm, con phải khởi hành đến Tây Nhạc mà tìm cuốn Võ lâm Bí cấp, con gắng ghi nhớ.
Vương Trùng Dương kính cẩn vâng lời, Thanh Hư chân nhân lại trao cái rương gỗ cho chàng và thở dài một cái như trút hết mối ưu tư.
Hai hôm sau Vương Trùng Dương túm tóc làm đạo sĩ trước mặt sư phụ, Thanh Hư chân nhân biết rằng số mạng ông đã tận, nên mang hết khẩu quyết bí truyền và cách giàn bày trận Thiên Cương Bắc trận pháp giảng giải thật cặn kẽ cho Trùng Dương.
Lúc đó, Châu Bá Thông cũng không còn nhỏ dại gì nữa, nên cũng quanh quẩn suốt ngày bên sư phụ và chịu lắng tai nghe sư phụ giảng giải nên chàng ta cũng thu lượm được nhiều bí quyết võ công.
Thời gian thấm thoát, thoáng một cái đã hai mươi năm ngày qua, Thanh Hư chân nhân gọi hai môn đồ đến bảo rằng :
- Nếu ta có thác đi rồi, chúng con hãy cố luyện tập lại võ công, và hết sức giữ mình cho đạo đức, đừng để cho ba chữ Toàn Chân phái bị mất đi trong giới võ lâm. Có như thế ta mới yên lòng nhắm mắt nơi suối vàng.
Thanh Hư chân nhân nói xong, đôi mắt nhắm lại hai tay để trên đầu gối, ngồi xếp bằng tĩnh tọa trên cái nệm tròn, chưa đầy mười phút thì hồn qui tỉnh thổ.
Vương Trùng Dương thấy sư phụ không thở nữa mới giật mình hoảng hốt lại coi và mó vào tay chân của Thanh Hư chân nhân thấy chân tay lạnh như băng, biết rằng sư phụ đã vũ hồn đi rồi, bất giác thương cảm buông rơi hai hàng nước mắt. Chu Bá Thông lại gần hỏi thăm :
- Sư phụ đã tịch rồỉ
Trùng Dương sụt sùi gật đầu, Châu Bá Thông nghe dứt lại oa lên khóc, tiếng của Bá Thông cứ rống lên từng hồi nghe thật là thảm thiết.
Trùng Dương cũng không cản ngăn được sự thương tiếc. Nhớ lại những ngày Thanh Hư chân nhân khổ công luyện tập và khuyên răn dạy bảo, tuy không có công sinh nhưng có công dưỡng, sinh dưỡng đạo đồng, lại càng làm cho Trùng Dương đau xót như ai cắt ruột, bào gan. Chàng ôm lấy người sư đệ mà than khóc.
Khóc mỏi mòn hai người mệt quá cùng thiếp đi lúc nào không biết, đến nửa ngày mới tỉnh, di thể của Thanh Hư chân nhân vẫn ngồi đấy, trông thần sắc như lúc còn sống, Trùng Dương thở dài, lắc đầu nói :
- Thôi thôi, duyên tận kim sinh, chúng ta hãy chôn cất sư phụ cho rồị
Trong rừng sâu không có quan tài, đạo gia thường dùng cách hỏa táng.
Hai huynh đệ Vương Trùng Dương và Chân Bá Thông bèn vào rừng đốn củi khô chất đầy chung quanh thi thể Thanh Hư chân nhân, phóng hỏa, ngọn lửa cao ngất, không đầy một tiếng đồng hồ, thi thể của Thanh Hư chân nhân đã thành đống tro tàn. Hai huynh đệ lấy cái chĩnh đựng cốt đã dự bị sẵn từ trước kia, đựng di khô vào trong và trôn tại một nơi hẻo lánh trong hang Bách Cầm.
Vương Trùng Dương chôn cất sư phụ xong, chàng và Châu Bá Thông theo thể chế của người xưa giữ mộ ba năm.
Trùng Dương tuân theo lời dặn của sư phụ trước kia còn sinh thời, coi Châu Bá Thông như là em ruột của mình, hết sức truyền thụ võ công của Toàn Chân phái cho họ Châụ
Châu Bá Thông chăm chỉ rèn luyện nhưng thật ra chịu khó khổ luyện chỉ có bốn chục phần, còn sáu chục phần là nhờ vào sự thiên phú thông minh của mình, bởi thế cho nên dầu sao về võ thuật của họ Châu vẫn kém xa Vương Trùng Dương.
Quang âm thấm thoát đã qua ba năm trời, kỳ hạn giữ mộ của Trùng Dương đã hết.
Hang Bách Cầm bây giờ đã có thêm ba nam một nữ, đó là Mã Ngọc, Khấu Phùng Xuân từ Yên Kinh đến, Tôn Phượng Cô và Đàm Thiên Thoại từ Đông Hải tớị
Trùng Dương hỏi lại chuyện của Mã Ngọc, thì chàng cho biết, sau khi bái sư rồi đem gia tài phân phát cho tất cả những kẻ bần cùng, chỉ để lại một số tiền làm phí dụng rồi đến ẩn tại Ngọc Tuyền Sơn ở ngoại ô Yên Kinh, cách xa với nơi phồn hoa đô hội, chuyên luyện nội công như Vương Trùng Dương đã truyền bảo liên tiếp trong ba năm trời, đúng kỳ hạn mới khởi hành về phía Nam.
Còn Tôn Phượng Cô và Đàm Thiên Thoại hai người dần dần giải tán bớt thảo khấu của Hắc Phượng bang, lại thảo phá tất cả doanh trại trên Thừa Tứ Quần Đảọ
Lúc đó, hai người mới dời khỏi đảo Kim Ngao, đến tại đảo Sùng Minh tại tỉnh Giang Tô, luyện tập hai năm, rồi mới khởi hành đi Sùng Sơn.
Vương Trùng Dương thấy Mã, Khấu, Tôn, Đàm bất phụ sở khắc, thì mừng rỡ vô cùng, khen ngợi và khích lệ họ rồi cử hành lễ bái sư túm tóc.
Mỗi người được Vương Trùng Dương ban cho một đạo hiệụ Mã Ngọc lớn hơn hết, Vương Trùng Dương cho hiệu là Đơn Dương Tử, Khứu Phùng Xuân hiệu Trường Xuân Tử, đạo danh là Sử Cơ, Đàm Thiên Thoại hiệu là Trường Chân Tử, đạo danh là Sử Điển.
Chỉ có Tôn Phượng Cô là nhi nữ khó đổi tên tuổi, Vương Trùng Dương đang nghĩ ngợi cho nàng một cái một cái đạo hiệu, Tôn Phượng Cô bỗng lấy ra một miếng vải trong túi, trên vải có thêu một cái sọ người bằng chỉ tơ đen, cười nói :
- Thưa sư phụ, ba năm về trước sư phụ cho con một bức tranh này mà cải tà qui chánh, đệ tử thêu bức tranh này đeo ở ngực để nhớ sự khuyên dạy của sư phụ.
Vương Trùng Dương bỗng vỗ tay nói :
- Hay lắm, ta đặt đạo hiệu cho con là Tôn Bất Nhị.
Vương Trùng Dương đặt xong đạo hiệu cho bốn đệ tử, rồi bắt đầu từ ngày hôm ấy, họ Vương truyền cho bốn đệ tử căn bản võ công theo lối thiên phú của từng người và sự ưa thích riêng biệt của họ mà truyền dạỵ
Lúc đó, Vương Trùng Dương cảm thấy hang Bách Cầm quá chật hẹp, không đủ cho cả bốn người tập luyện võ công, bèn dọn đến Yên Hà Động ở đằng sau Thiếu Thất Sơn.
Yên Hà Động là một trong những thắng cảnh của Sùng Sơn. Hai mùa Xuân, Hạ, mây ở Sùng Sơn đa số là do một vùng ở đấy phát ra, suốt ngày trông như khói xương mù, bởi thế cho nên người ta mới đặt cho là Yên Hà Động.
Trùng Dương dọn đến nơi đây là thích Yên Hà Động, nơi hẻo lánh tĩnh mịch, không giống như hang Bách Cầm kế cận với Thiếu Lâm tự, thỉnh thoảng vẫn có người đi lại, mà còn nhờ những khối mấy mịt mù đó để luyện nhãn lực cho mấy môn đồ.
Ngày, tháng thoi đưa thấm thoát đã ba năm trời, tài nghệ của Mã Ngọc và bốn người so với trước đã tăng gấp bộị
Trong ba năm này, Vương Trùng Dương không hề rời khỏi Yên Hà Động nửa bước.
Những lúc rảnh rang, Vương Trùng Dương lại mang hai bản họa đồ một bức Hoa Sơn Tàng Kinh và một bức Thiên Cương Bắc Đẩu trận, khổ tâm nghiên cứụ
Lúc ấy, Vương Trùng Dương mới từ từ hiểu rõ, chàng nghĩ thầm :
“Thiên Cương Bắc Đẩu trận còn thiếu ba người, không thể bày luyện được, nay ta hãy tới Hoa Sơn tìm Cửu Âm chân kinh trước đã”
Sang năm thứ tư, Vương Trùng Dương quyết định tới núi Hoa Sơn, chàng bèn bảo sư đệ là Châu Bá Thông thây thế mình dạy bốn môn đồ, rồi chàng chọn ngày tốt khởi hành ra khỏi Sùng Sơn hướng về Hoa Sơn đi tớị
Sùng Sơn ở tỉnh Hà Nam, Hoa Sơn ở tỉnh Thiểm Tây, vừa là chỗ giáp ranh Trùng Tây Nhị Nhạc, đối diện với núi Hoa Sơn.
Trùng Dương trước đã từng đi qua hai lần, lần này là lần thứ bạ
Đi chưa được mười ngày, Trùng Dương đã tới chân núi Thiếu Hoạ Hôm ấy, gặp lúc đã chiều tà, Vương Trùng Dương bèn tìm tới nhà một người chuyên nghề săn bắn xin tá túc.
Đời nhà Tống bỏ võ, tu văn, phụng thờ đạo giáo làm quốc giáo, Trùng Dương là một đạo sĩ dĩ nhiên được mọi người tôn sùng.
Người đi săn tên Vương Phúc, ân cần chiêu đãị Vợ chồng chia nhau ra một người xuống bếp nấu cơm còn một người thì đứng hầu Trùng Dương.
Lúc đang chuyện trò, bỗng nhiên ngoài của có một thanh niên chưa đến hai mươi tuổi bước vào, dáng người hùng vĩ tuấn tú, lúc đó vợ của Vương Phúc nói vọng lên :
- Bân nhi, con đã về đó à, Đạo trưởng không ăn mặn, con hãy ra chợ mua ít thức ăn chay về đị
Vương Trùng Dương chưa kịp nói gì thì nghe thiếu niên đó nói lớn :
- Thưa phụ thân, thật là đáng tức, hôm nay, con tới núi Hoa Sơn săn bắn, lại xung đột với ba anh em họ Hoắc đấy!
Vương Phúc hừ một tiếng, rồi quay lại nói với Trùng Dương :
- Thưa Đạo trưởng, thằng này là con của lão phu tên là Vương Nguyên Bân, vì mẹ nó nuông chiều, nên hay gây lộn với ngườị
Vương Nguyên Bân vội nói :
- Thưa phụ thân, ba anh em họ Hoắc ấy thường tự khoe mình quyền bảng tinh thông, coi người bằng nửa con mắt, tự xưng là vô địch trong thiên hạ, nên con phát ghét mới cùng chúng gây chuyện đánh lộn, nếu một chọi một con đâu có sợ.
Nhưng đằng này, bọn chúng cả ba đứa áp lại đánh một mình con. Chúng cậy có bài quyền Tam Tinh Liên Tọa quyền mà cả ba đứa cũng hợp nhất lại cùng đánh, nên con đành chịu thuạ Bọn chúng đáng ghét lạ, cứ thấy con từ đằng xa đã sửa soạn đánh nhau với con rồi, như thế phụ thân bảo con có tức không?
Vương Phúc thấy con mình ở trước một vị đạo sĩ mà ăn nói lỗ mãng chỉ kể chuyện đánh nhau, muốn cất tiếng mắng, thì Vương Trùng Dương bỗng cất tiếng cười ha hả nói :
- Con ưa đánh lộn lắm sao, ta thử ngồi tại đây, cho con đánh thử một quyền xem saỏ
Vương Phúc vội nói :
- Thưa Đạo trưởng, thằng con bất hiếu của lão phu vô phép lắm, xin Đạo trưởng đừng giỡn với nó.
Vương Nguyên Bân đã ngắt lời cha, hỏi họ Vương :
- Thưa Đạo trưởng, người kêu tôi đánh thử một quyền chẳng hay có dụng ý gì?
Trùng Dương lại cười ha hả nói :
- Diệt nhi, con cứ đánh ta một quyền, ta sẽ dạy con cách đánh bại ba anh em họ Hoắc.
Vương Nguyên Bân tuổi còn trẻ, tính háo động, nghe thấy Đạo trưởng nói như vậy thì cả mừng, chẳng nói chẳng rằng đưa ngay quyền nhằm ngực nhằm ngực Vương Trùng Dương tống tới một trái rất mạnh, thế võ đó là trích trong bài Hắc Hổ quyền pháp, Vương Phúc trông thấy vội quát to :
- Súc sanh sao vô lễ như thế!
Vừa nói Vương Phúc vừa toan đứng lên cản Vương Nguyên Bân lại, nhưng mới đứng dậy đã nghe tiếng Đạo trưởng họ Vương quát lên một tiếng “té” và tiếp theo đó hai tiếng “bịch bịch” vang lên, thân hình của chàng Vương Nguyên Bân đã bị Trùng Dương dùng tay áo phất một cái ngã ngửa ra đằng sau đến bảy tám bộ.
Hóa ra, lúc Vương Nguyên Bân đấm vào ngực Trùng Dương, họ Vương liền dùng thế Thủy Tụ Lưu Vân, tay áo phất ra, cuốn chặt lấy người mượn sức của cậu đánh lại cậu tạ
Năm xưa, Trùng Dương cũng đã dùng tuyệt kỹ công phu này đại náo La Hán Đường làm ngã một lúc mười tám mộc nhân La Hán của Thiếu Lâm tự, hôm nay Trùng Dương lại mang bài đó ra để đối phó với Nguyên Bân, võ nghệ của Nguyên Bân hãy còn thô thiển chống sao được, nên mới té ra ngoài đất.
Vương Nguyên Bân thấy Trùng Dương chỉ dùng có tay áo đánh ngã mình và lại thấy toàn thân đau nhức thì vội vàng đứng dậy và thưa :
- Đạo trưởng, bản lĩnh người rất cao cường, so với anh em họ Hoắc gấp mấy chục lần, tiểu diệt kính phục Đạo trưởng rồi, xin Đạo trưởng dạy cho diệt nhi vớị
Vương Trùng Dương cất tiếng cười vang hỏi :
- Mày muốn ta dạy mày để đi đánh lôn với ba anh em nhà họ Hoắc thì mày phải kể rõ cho ta nghe ba anh em họ Hoắc là người như thế nào, vì sao mà lại gây sự đánh lộn với màỵ Hãy nói hết cho ta nghe thì ta mới dạy mày được chứ?
Vương Nguyên Bân vội vàng mang hết đầu đuôi câu chuyện nói lại Vương Trùng Dương nghẹ
Nguyên ở dưới chân núi Thiếu Hoa, có nhiều thợ săn ở đấy, họ toàn là những người bản xứ có căn bản võ công, là một nhà săn bắn là phải biết võ rồi vì như thế mới có thể chống lại với thú dữ trong khi săn bắn.
Vương Phúc trước kia cũng thuộc về hạng khá võ thuật, con trai là Vương Nguyên Bân cũng được cha truyền thụ nên cũng khá giỏị
Trong bọn thợ săn thì gia đình họ Vương săn được nhiều thú vật nhất, nhiều người mang con tới xin Vương Phúc dạy bảo võ nghệ chọ
Nhưng cách đây vào khoảng nửa năm, có ba anh em họ Hoắc về ở dưới chân núi Thiếu Hoạ Ba người hãy còn ít tuổi, người thứ nhất tên là Hoắc Văn Quí, người thứ hai tên là Hoắc Văn Phú, người thứ ba tên là Hoắc Văn Định.
Ít lâu sau, ba anh em họ Hoắc nói với bọn thợ săn là võ nghệ của họ Vương còn thô thiển vô dụng, học tới già cũng chẳng có ích lợi gì, trái lại, nếu theo học ba anh em chúng có thể nói mau tiến phát, danh tiếng sẽ nổi như cồn.
Vương Phúc tuổi đã già nên tính tình điềm đạm, tuy nghe thấy cũng chẳng nói gì, trái lại, Nguyên Bân còn thanh niên khí thịnh không chịu khuất phục, lập tức kiếm ngay ba anh em họ Hoắc đánh lộn, thoạt tiên chàng và Hoắc Văn Định giao đấu có đến mười hiệp, chàng đã tặng cho Văn Định một quyền bể lỗ mũi.
Hồi 14
Hoa Sơn Tầm Kinh
Nào ngờ Hoắc Văn Quí, Hoắc Văn Phú hai người, thẹn quá hóa giận lập tức hét lên một tiếng, đồng thời tiến tới, ba người liên thủ, sử dụng “Tam Tinh Linh Tỏa trận pháp”, đánh Vương Nguyên Bân trọng thương, nằm trên đất không nhúc nhích được.
Vương Nguyên Bân còn thổ mấy khẩu huyết, điều trị hơn tháng trời mới được khang phục.
Vương Phúc xem ra ba anh em họ Hoắc tuy danh là nhà săn bắn, thực ra không có đi săn gì cả, lai lịch bất minh, xét ra không phải là người hiền lành, vì mình không muốn gây chuyện, vả lại đã nuốt giận lặng tiếng không đi báo phục, còn khuyên con không nên đi gây chuyện với đối phương nữạ
Nào ngờ, Vương Nguyên Bân không chịu nhục, nhân khi phụ thân vắng mặt, đã lẻn đi hai lần đánh nhau với anh em họ Hoắc, không đem một chút thành tích, trái lại còn bị thương.
Vương Phúc giận dữ tức mình không truyền thụ bản lãnh cho con nữạ
Nhưng, Vương Nguyên Bân vẫn không cam lòng, ngày ngày ở nhà khổ luyện công phu độ chừng một tháng, lại đi kiếm ba anh em họ Hoắc đánh nhau nữạ
Lần nào cũng bị thất bại, trước sau đánh có cả ngàn trận, mà không lần nào được hơn. Lần này may mắn không bị thương, hắn ngập ngà ngập ngừng kể hết câu chuyện đã quạ
Nghe hết câu chuyện Vương Phúc nói với Trùng Dương :
- Thằng bé này “Hão dũng đầu lang”, bại rồi còn không phục người, nhiều khi tôi nghĩ mặc ba anh em họ Hoắc thõng đả một trận, làm cho nó gãy chân, gãy tay, biến thành phế nhân, để sau này nó không còn đánh nhau với người ta được nữạ
Trùng Dương cả cười :
- Vương lão bá, con của ông rất có chí khí, sao để nó thành phế nhân. Hảo hài nhi, mày qua đây lão dạy mày cách phá “Tam Tinh quyền”.
Trùng Dương cầm ba ly nước, bày lên mặt bàn, hai trước một sau, xếp thành hình chữ phẩm đảo ngược rồi dùng ngón lay di động mấy lần ly nước, hỏi rằng :
- “Tam Tinh Liên Tọa quyền pháp” của ba anh em họ Hoắc như thế này phải không? Khi công hai trước một sau và sau một trước phải vậy chăng?
Vương Nguyên Bân mừng rỡ nói :
- À! Té ra ông biết sử dụng “Tam Tinh Liên Tọa quyền”!
Vương Trùng Dương nói :
- Muốn phá Tam tinh liền tọa này cũng không khó lắm. Trước hết mày phải phá cách tiên tọa của họ, nhằm người chính giữa hình chữ phẩm, trùng ngón “Lưu Vân thủ” háp một cái, thiếp một cái, như cách mà ta vừa làm hồi nãy, rồi một tiến một thối, làm té ngã người chính giữa, thế là Tam Tinh Liên Tọa đã được giải thì mày có thể đánh tan họ.
Vương Trùng Dương nói xong, bèn diễn lại hai lần bộ Lưu Vân thủ, mỗi lộ chiêu thức giảng giải kỹ càng.
Vương Nguyên Bàn tâm lãnh thần hội, thốt nhiên cả cười, vỗ tay kêu rằng :
- Được rồi! Đạo trưởng, tôi đi mua món ăn chay về cho ông!
Nói rồi phóng mình chạy như bay ra ngoàị
Vương Phúc than thở nói :
- Thằng bé này thật “ngoan liệt”, mà Đạo trưởng lại dạy nó đánh nhau, như rót dầu trên ngọn lửạ
Vương Trùng Dương nghe nói mỉm cười không trả lờị
Giây lát sau, Vương Nguyên Bân mua mấy gói món ăn chay về. Vương mẫu dọn cơm ra cho Trùng Dương ăn.
Tối đến Vương Nguyên Bân đi ngủ sớm để tĩnh dưỡng tinh thần.
Sáng hôm sau, vợ chồng Vương Phúc còn ngủ chưa thức dậy, Vương Nguyên Bân đã chạy ra ngoài rồi, chưa đến giờ Tỵ đã chấy nó như một lần khói bay ở ngoài chạy về la lớn :
- Đạo trưởng, quyền pháp của ông thật linh. Hôm nay tôi mới ra tay thử đã đánh ba anh em họ Hoắc rã rời tơi tả, lão nhị và lão tam còn bị thương nữa, từ nay trở đi chúng nó không dám coi thường tôi nữa đâu!
Vương Trùng Dương mỉm cười hỏi Vương Nguyên Bân sử dụng thế nào ngón Lưu Vân thủ pháp của mình dạỷ
Vương Nguyên Bân mặt mày hớn hở, liền miệng thuật lại lúc phá Tam Tinh Liên Tọa quyền như thế nào, mới ra tay sử dụng ngay “Bức Thoán Chi Pháp”, về hướng Hoắc Văn Phú ở trung tâm Tam tinh liên tọa, lôi một cái, kéo một cái làm nó té ngã ngay, chút nữa đụng rớt cả cằm, nhưng ba anh em họ Hoắc không chịu thua, vẫn còn đánh nữạ
Vương Nguyên Bân liền dùng hai lần Lưu Vân thủ, khiến Hoắc Văn Phú, Hoắc Văn Định liên tiếp nhào hai cái, một té bị thương sau lưng, một té trật bả vai, không còn bò dậy nổi nữạ Nó mới cười ha hả! Ra về.
Vương Phúc nghe con đánh người ta bị thương, hoảng sợ nói :
- Mày là thằng chó chết, đởm to hơn trời, đánh anh em họ Hoắc lộn nhào hai cái thì thôi, tự nhiên còn đánh người ta bị thương. Tụi nó rất nhiều đồng đảng, thử hỏi từ nay về sau, làm thế nào vào rừng săn bắn được?
Vương Phúc vừa nói dứt lời, thi có tiếng la hét từ đàng xa truyền lại!
Vương Nguyên Bân mặt tái biến, Vương Phúc biết Hoắc Văn Qúi tụ họp đồng lõa đến trả thù, thì cơn giận nổi lên, dậm chân liên hồi chửi mắng Nguyên Bân liền miệng.
Trùng Dương thung dung đứng dậy cười nói :
- Đừng nên sợ hãi, họa này do bần đạo gây ra, phải do bần đạo giải quyết!
Nói rồi chạy ra ngay cổng nhà, thấy có mặt chàng tuổi độ ba mươi, “tía diện tráng hán” tay cầm một cây “Tam cổ thác thiên sai”, thanh thế hung hăng.
Theo sau, hai ba mươi người trang phục “lạp hộ” tay cầm lạp sai, trường thương sáng lóng lánh và đòn bảy dây móc, khí thế dữ tợn hướng vào Vương gia xốc tớị
Vương Trùng Dương đứng ngang trước cổng, cúi đầu chắp tay, niệm một tiếng “Vô lượng thọ Phật”. Bọn chúng thấy trong nhà Vương phúc có thêm một vị đạo nhân mặt mũi hiền từ, y quan sáng rỡ, ăn mặc rất tề chỉnh thì lấy làm ngạc nhiên.
Đại hán cầm “Thách thiên xoa” rung một cái, những vòng sắt trên chiếc thiên soa kêu lên long cong. Gã Lớn tiếng quát :
- Tên đạo sĩ vô danh kia từ đâu đến đâỷ Cút ngaỵ Gọi tiểu tử Vương Nguyên Bân để ta cho nó một soa vào đầụ
Vương Trùng Dương ôn tồn hỏi :
- Tôn giá là đại sư phụ Hoắc Đại Qúi phải không?
Đại hán mặt tím nói :
- Phải! Lão gia là Hoắc Đại Quí, tìm tiểu tử họ Vương để trả thù, không liên can đến ngươi, đừng ngu dại ở đây gánh họa vào thân.
Vương Trùng Dương cười ha hà :
- Sao lại không liên can đến bần đạỏ Vương Nguyên Bân từ bao lâu nay chịu nhục dưới tay anh em của túc hạ. Nhưng nhờ bần dạo dạy nó mấy thế thủ pháp nên phá được Tam tinh liên tỏa quyền của anh em túc hạ. Ha ha ha!
Hoắc Đại Qúi giận dữ gầm lên một tiếng, hươ chiếc soa nhắm ngay ngực Trùng Dương thích mạnh. Vương Trùng Dương không chút bối rối, đứng im chờ mũi soa đến sát bên ngực mới hươ động tay áo phất mạnh lên cán thách thiên soạ
Nghe “bốp” một tiếng, ngọn soa văng bổng lên cao hai trượng rớt vào bãi cỏ hoang, hai hổ khẩu của Hoắc Đại Qúi bị tét ra máu chảy ròng ròng.
Hoắc Đại Qúi cả kinh hồn vía chưa kịp phản ửng. Hai ba mươi tráng đinh thấy chủ tướng bị đại bại vội hươ động binh khí đồng lượt xông tớị
Vương Trùng Dương cả cười, tay áo phất tròn bốn phía, phất tới đâu bọn tráng đinh té lăn cù tới đó, lẫn cả binh khí đều rơi lộp bộp xuống đất tựa như lá vàng rơi rụng trước ngọn cuồng phong.
Bọn chúng lồm cồm bò dậy thất thanh kêu lên :
- Không xong, tên đạo sĩ này biết yêu thuật!...
Trong lúc những tên thợ săn sợ sệt, không dám tiến lên, chợt từ xa có một người chạy vụt đến, trang phục khác thường, đầu chít khăn xanh như người Hồi, râu quai nón tua tủa bó hàm, màu da đen bóng như màu đồng cổ, hai mắt to tròn sáng long lanh tia ra những làn tinh quang hung tợn, bước chân nhẹ nhàng vững chắc, Hoắc Đại Qúi vừa thấy vội quay lại kêu :
- Sơn chủ đến rất phải lúc. Gã đạo sĩ này quá ư lợi hại!
Gã đại hán ấy trầm giọng nói :
- Lợi hại ư? Hừ! Thấm gì, chúng bây chỉ toàn là đồ vô dụng.
Giọng nói nghe thật kỳ dị, oang oang như tiếng sắt chạm nhau, làm nhức tại mọi ngườị
Hoắc đại Qúi hỏ thẹn, lặng im lui ra saụ Cha con Vương phúc lúc này bước ra khỏi cửa, sửa soạn chĩa săn, đòn bẩy chuẩn bị đối phó. Gã râu quai nón chẳng thèm để ý, cười nhạt nói với Vương Trùng Dương :
- Đạo trưởng này, vừa rồi ông sử dụng công phu “Thủy Tụ Lưu Vân”, có lẽ là đệ tử của Toàn Chân pháị
Vương Trùng Dương nghe xong giật mình thầm phục, vì môn công phu của mình, nhờ biết cách vận dung cương khí vào người mới có thể phất tay áo trở nên cứng như sắt, không vật cứng nào so sánh bằng. Nếu là người nội công chưa đến bậc thượng thặng tuyệt thế, không thể sử dụng, không ngờ gã mặt mũi thô kệch, bộ tịch ngờ nghệch như một tên ngu đần lại nhận biết được!
Hồi nãy thoáng qua đã biết là “Thủy Thủ Lưu Vân” công phu đủ thấy gã không phải là một nhân vật tầm thường.
Vương Trùng Dương không dám xem thường, chắp tay thi lễ và nói :
- Các hạ quá khen, xin cho bần đạo biết đại danh quí hiệụ
Gã râu quai nón lãnh đạm đáp :
- Tại ha chỉ là một thôn phu miền Tây Vực, tên tuổi chưa người biết, bỉ tánh là Âu Dương, đơn danh một chữ Phong có người gọi tại hạ là Bạch Đà sơn chủ nhưng tên ấy tại hạ tự thẹn không dám nhận.
Vương Trùng Dương chu du khắp thiên hạ, bình sanh chưa bước chân đến Tây Vực, cũng chưa hề nghe giang hồ nhắc đến tên Bạch Đà sơn chủ lần nào, chàng trầm ngâm giây lâu rồi nói :
- Phàm mọi sự nên dĩ hòa vi quý, các hạ là người có uy quyền với phường săn này, nên bảo họ thu hồi binh khí, bỏ việc oán thù, mọi người giữ phận làm ăn chẳng hơn ru! Hà tất phải gây thù chuốc oán với nhau làm gì cho thêm khổ thân?
Âu Dương Phong không bận trả lời Vương Trùng Dương chỉ quay đầu lại nạt tụi Hoắc Đại Qúi và bọn phường săn :
- Còn đợi gì mà chưa chịu cút trở về? Lui mau!
Phường săn dường như rất nể sợ vị quái khách, nên vừa nghe tiếng quát của y ba chân bốn cẳng lượm lấy binh khí hấp tấp kéo nhau đi hết.
Cha con Vương Phúc thấy thế hết sức ngạc nhiên thầm nghĩ :
- Bọn phường săn này từ trước vẫn ngang ngạnh hết mực, tại sao phục tùng người này như thế, xem chừng y không phải là người sinh trưởng ở vùng này, lạ thật!
Chờ bọn phường săn lui xong, Âu Dương Phong nghiêm mặt nhìn Trùng Dương nói :
- Bọn phàm phu tục tử ấy đã đi khỏi, chúng ta có thể thử tài với nhau được rồị
Vương Trùng Dương vừa thốt ra tiếng “Các hạ” thì Âu Dương Phong đã quát to :
- Hãy đề phòng!
Tiếp theo câu nói, tả chưởng đã vung ra hướng ngay trung bộ của chàng, một ngọn kình phong theo chưởng lực bay áp tới sức mạnh có thể dời non lấp bể.
Vương Trùng Dương không ngờ Âu Dương Phong đột nhiên ra tay, cũng không ngờ chưởng lực của y cương mạnh như thế, lập tức vận khí đơn điền, phất mạnh tay áo đón lạị
“Bùng” một tiếng nổ chát taị
Vương Trùng Dương thân hình vững vàng như trụ đá giữa trời không chút di động. Trong lúc chàng vận khí để chống đỡ chưởng lực chàng đã ngầm thử sức của đối phương, nhận thấy bản lĩnh của Âu Dương Phong tương đương với Bang chủ Hồng Thông mà chàng đã gặp mấy năm về trước, mà cũng không kém quái nhân trong Kỳ môn Thạch Trận trên Kim Ngao đảo, nếu đem so sánh với tài năng chàng lúc đấu với Thiếu Lâm tam lão thì có phần hơn nhiềụ
Âu Dương Phong thấy chưởng lực của mình không đánh ngã được Vương Trùng Dương. Trong lòng vô cùng kinh sợ, vì chưởng lực lúc nãy đã dồn tất cả bình sanh công lực đánh ra mà không hạ nổi kẻ địch.
Bây giờ đã lâm vào thế cưỡi trên lưng cọp, muốn hòa cũng khó mở miệng hòạ Nghĩ thế, y bèn song chưởng lật lại thành chiêu “Phân Bộ Điệu Tiện” nhắm ngay “Huyền Cơ song huyệt” trên ngực Vương Trùng Dương phạt mạnh.
Chờ cho quyền phong vừa chạm đến áo địch thủ, y đột nhiên biến chưởng thành chỉ dùng “Thiết Giáp Thùy” nhắm ngay “Tinh Trúc huyệt” sau lưng Vương Trùng Dương điểm tớị
Âu Dương Phong dùng thủ pháp này rất độc hiểm, bề ngoài y dùng chưởng lực thủ pháp điểm kích yếu huyệt của đối phương, để dẫn dụ đối phương phải vận dụng cương khí ở đơn điền lên ngăn đón.
Lúc ấy y mới bất thần sử dụng độc thủ nhằm ngay yếu huyệt sau lưng của đối phương điểm mạnh, lối đánh hư hư thiệt thiệt ấy, nếu tinh thần đối phương sơ hở một chút là bị nguy liền.
Vì món “Thiết Giáp Thùy” sử dụng ba ngón tay cái, trỏ, và giữa chấp dính lại, thành hình một mũi chùy bằng thép, mỗi móng tay đều để dài lú ra hơn nửa tấc, nhọn sắc như móng chim ưng, chiêu pháp phối hợp với “Ưng Trảo thủ pháp” dù địch thủ nội công thâm hậu đến đâu, trúng nhằm thì ruột, gan, phổi đều bị nát nghiến.
Vương Trùng Dương không ngờ địch thủ ra tay ác độc như thế, chàng thấy mình với đối phương không thù không oán, tự nhiễn y nỡ dùng thủ pháp ác độ hại mình.
Bất giác nư giận trào sôi, chàng lập tức thối lui nửa bướt, sử dụng ngay “Bài Vân thủ” công phu, phất áo bên tả đánh trúng vào ngực địch thủ.
Âu Dương Phong hét lên một tiếng thất thanh lả đảo thối luị
Đúng ra, thủ pháp “Thiết Giáp Thùy” của Âu Dương Phong đã điểm trúng huyệt sau lưng Vương Trùng Dương, nhưng Trùng Dương nhờ luyện nội công của Toàn Chân phái đã đến lúc “Lư hỏa thuần thanh” bắp thịt tự nhiên có phản ứng co giãn theo ý muốn, nên móng nhọn của Âu Dương Phong vừa chạm hờ vào chàng, bắp thịt sau lưng Vương Trùng Dương liền lõm vào sâu, thành ra chi lực của Âu Dương Phong bị hóa giải tiêu tan.
Nếu Trùng Dương muốn giết Âu Dương Phong chỉ cần bồi tiếp một chiêu tuyệt kỷ nữa thì tánh mạng Âu Dương Phong không còn.
Nhưng Trùng Dương tính không háo sát, nên sau khi đả thương đối phương xong, liền lập tức thối hậu, ôn tồn nói :
- Võ công của các hạ quả rất cao cường, bần đạo hết sức khâm phục. Như vậy đủ thấy tài sức ngang nhau, bần đạo xin được thủ huề.
Âu Dương Phong không đáp lời chi “hừ” to một tiếng, thân hình nhẹ như làn khói, tung mình vào sâu trong lòng núi Hoa Sơn, thoắt chốc đã mất dạng. Cha con Vương Phúc bèn tiến lên vái tạ Trùng Dương và nói :
Thằng nghịch tử này đã gây ra bao chuyện tai hại, may nhờ dũng lực của Đạo trưởng giải nguy cho cha con kẻ hèn nàỵ Thật là ân đức như trời bể.
Vương Trùng Dương cười đáp :
- Hai người từ nay đến mười, hay mười lăm ngày, đừng lên núi săn bắn mới mong bảo toàn tánh mạng.
Cha con Vương Phúc ngạc nhiên không hiểu vì sao Đạo trưởng lại dặn mình như thế, nhưng không tiện hỏi, chỉ dạ vâng lờị
Vương Trùng Dương trở về nhà Vương Phúc nghiền ngẫm võ công của Âu Dương Phong, cảm thấy võ công của y rất kỳ lạ.
Chàng lần này đến Hoa Sơn để tìm Cửu Âm chân kinh bất ngờ đụng phải một địch thủ cao cường.
Hơn nữa y lại tổ chức một phường săn đông đảo, xem chừng như y có ý định khác, hay y cũng đến đây để tìm Cửu Âm chân kinh?
Vương Trùng Dương im lặng trầm tư mãi cho đến tối không haỵ Còn cha con Vương Phúc vì hơn một ngày xông xáo mệt mỏi nên đã ngủ say từ chập tốị
Trùng Dương một mình ngồi tĩnh tọa trong phòng vắng, vận khí đơn điền, bồi thần dưỡng sức, chợt nghe ngoài nhà có tiếng động khẽ, Vương Trùng Dương mục chỉ rất tinh, đoán biết đây là tiếng động của loài rắn trùng bò sát đang di chuyển dưới đất và phát ra tiếng động kiạ
Chàng như sực hiểu có chuyện lạ bèn mở hé đôi mắt sáng như sao, nhìn quan sát bốn phíạ Quả nhiên từ ngoài song cửa phát ra tiếng động, dường như có vật gì bò lên.
Trùng Dương bình tĩnh sờ tay lên bàn, lấy năm chung trà sắp thành một hàng ngang trước chỗ ngồị
Thời gian không đây một tuần trà, một con rắn ló đầu vào, hai mang bạnh ra, đầu bằng cái bát lớn, thở khè khè định chui vào nhà.
Vương Trùng Dương nhận ra là loài rắn rất độc tên là “Phúc xà”, da rắn lẫn lộn bốn màu vàng, đỏ, đen, xanh, màu sắc rất ngoạn mục.
Lúc nổi giận hai mang nó bành lớn gấp ba bốn bình thường, nọc độc ghê gớm, bất kỳ người hay vật bị cắn phải, đi chưa được ba bước là ngã xuống chết liền.
Vương Trùng Dương biết rõ loài rắn này không hề có ở miền Tây Bắc hoang sơ lạnh lẽo, và như vậy loài rắn này tất nhiên có người nuôi dưỡng.
Chàng không còn trù trừ, cầm lấy chung trà để lên lòng bàn tay, dùng hai ngón tay kia búng thật mạnh, chung trà như chiếc tên lìa ná bay vút thật nhanh úp lên đầu rắn.
Sức mạnh của chung trà bật ngược thân rắn ra ngoài song cửa, soi lủng vách ván, đầu rắn nát ngướụ Cổ bị đứt ngang như dao tiện.
Chốc sau lại có tiếng bò loạt soạt khác, từ ngoài song cửa thêm một đàn rắn nữa bò vào, Vương Trùng Dương búng thêm chung trà thứ hai như trước.
Cứ như thế Trùng Dương búng hết năm chung trà trước mặt liên tiếp giết chết năm con rắn độc hình dạng như nhaụ
Đột nhiên có tiếng người hút gió thật khẽ, mường tượng như tiếng côn trùng kêu thụ Vương Trùng Dương cười thầm trong bụng :
- Mi đừng hút gió vô ích, bầy rắn của mi chết hết còn đâu mà trở về!
Kẻ bí mật hút gió một hồi, thấy không động tĩnh gì thôi ngưng hẳn tiếng hút gió. Trong nháy mắt sau dó, tiếng sột soạt vang động khắp nơi, rào rào như tiếng tằm ăn dâụ
Trùng Dương biết kẻ lạ đang huy động đoàn rắn vây công mình. Chàng lập tức lay cha con Vương Phúc thức dậy và cho hay :
- Đoàn rắn độc sắp đến, mau dậy đối phó!
Cha con Vương Phúc mắt nhắm mắt mở lật đật trỗi dậy hỏi :
- Rắn đâủ
Nguyên Bân định đốt đèn lên cho sáng, Trùng Dương vội ngăn lại bảo :
- Đừng đốt đèn, rắn thấy mà bò ùa vào thì chết cả lũ!
Tuy trong thà tối đen như mực, nhưng bên ngoài nhà có ánh trăng nên trông thấy rõ như ban ngàỵ Cha con Vương Phúc ló đầu ra nhìn, hai người đều hồn phi phách tán, cơ hồ muốn xỉu!
Vì trên mặt đất trống bên ngoài, lúc nhúc hàng hà sa số đủ loại rắn cực độc, rằn ri, ngũ sắc, lớn nhỏ đủ cỡ ào ào quăng mình như bay, bao vây khắp bốn phía nhà tựa như một đại hội quần xà!
Vương Phúc sợ đến mồ hôi toát ra như tắm, hai cha con Nguyên Bân run lẩy bẩy tìm binh khí cầm tay chờ ứng phó. Vương Trùng Dương thấy thế an ủi :
- Vương lão và điệt nhi yên tâm ngồi vào góc nhà kiạ Có bần đạo ở đây dù có bao nhiêu độc xà cũng không chạm vào hai người một sợi lông chân.
Hai cha con Vương Phúc nghe Trùng Dương nói thế, trong bụng bớt lo, rui ríu vào ngồi thủ thế ở góc nhà.
Trùng Dương lúc ấy chợt nhớ đến bức họa đồ “Thiên Sát Bắc Đẩu trận pháp”.
Trận pháp “Thiên Sát Bắc Đẩu” này án theo phương vị của bảy vì sao Bắc Đẩu hoặc đứng, hoặc ngồi cách xa nhau, rồi án theo sự biến hóa của thất tinh nương tựa công lực bảy người liên đới tương trợ nhau có thể chống đối địch thủ từ bốn phương tám hướng áp tới hoặc giả dùng công lực của bảy người hợp lại để phản công một cao thủ tài ba hơn mình.
Vương Trùng Dương sau khi sư phụ tạ thế trong thời gian cự tang ba năm, chàng đã nghiên cứu tường tận trận pháp Thiên Sát Bắc Đẩu, cảm thấy trận pháp vô cùng huyền diệu, dù chi có một người nhưng với võ công đã đến mức Lư hỏa thuần thanh cũng có thể sức một thành bảy người án theo trận pháp đối phó với cường địch đông.
Đêm nay, với hàng ngàn con rắn độc này chính là cơ hội tốt để chàng đem Thân Sát Bắc Đẩu trận pháp ra thử thách.
Suy nghĩ xong, Trùng Dương quay lại bảo cha con Vương Phúc hãy ngồi vào phía sau lưng mình.
Đoạn Vương Trùng Dương án đúng theo “Thiên Cơ” phương vị trong Bắc Đẩu trận, ngồi tĩnh tọa chờ đợi...
Xảy nghe trên nóc nhà có tiếng động rào rào, rồi bên song cửa cũng có tiếng bò soàn soạt, bốn con rắn to lớn màu đỏ chót chia ra hai ngả bò vào phòng.
Trùng Dương quát lên một tiếng, vung ra một chưởng phạt ngang vào không khí, tựa như một lưỡi đao vô hình sắc bén, thân hình của bốn con đại xà bị làn chưởng phong quét mạnh, đầu mình lìa đôi thành tám khúc văng bật ra ngoàị
Vương Nguyên Bân chợt hét to lên :
- Đạo trưởng coi chừng trên đầu!
Trùng Dương vội thu tả chưởng về. Quét mạnh từ tả sang hữu! ba chiếc đầu rắn to như miệng bát từ trên cao rơi văng mạnh vào góc tường đánh độp một tiếng.
Chàng chưa kịp quay mình để xem loại rắn gì thì từ cửa hai con “Xích luyện xà” phóng vào nhanh như chớp.
Trùng Dương thấy không còn kịp thời giờ để vung chưởng ra ứng phó. Chàng nhanh tay chộp lấy một xác rắn, dùng làm binh khí vụt mạnh vào đôi “Xích luyện xà”, tay Trùng Dương tuy cầm xác rắn nhưng chưởng lực của chàng vẫn còn truyền vào xác rắn phát ra ngoài nên hai con xích luyện xà bi chưởng phong chém đứt thành bốn khúc oằn oại trên mặt đất.
Nhưng lúc ấy đoàn rắn đã ùa tràn vào khắp nơi, trên nóc dưới tường, ngoài cửa, bên song chỗ nào cũng đầy dãy lúc nhúc là rắn độc. Cha con Vương Phúc sợ đến run lên cầm cập gần như ngất đị
Trùng Dương không chút bối rối, án theo phương vị của Thiên Sát Bắc Đẩu trận pháp, trên dưới tả hữu từng chưởng một vung ra, chưởng phong ào ào ra thắp phòng, chỉ trong khoảnh khắc bao nhiêu rắn độc đều đầu mình lìa đôi văng bật ra khỏi nhà, máu rắn vung vẩy khắp tường nhà.
Số rắn bi Trùng Dương giết chết có hơn bốn năm trăm con.
Bao nhiêu rắn độc còn lại ngửi thấy mùi máu nồng nặc của đồng loại dường như kinh sợ lủi đầu bò trở ra như muốn trốn chạỵ
Tiếng hút gió khe khe lúc nãy lại bắt đầu kêu lên 3 lượt, mỗi lượt 3 tiếng, bầy rắn nghe hiệu lệnh hấp tấp rút lui ra ngoài, Trùng Dương thở phào một hơi, rồi mới nói lớn :
- Tôn giá dục rắn thành trận để giết bần đạo nhưng vô ích, chỉ hy sinh mạng chúng vô lối mà thôi, xin tôn giá hãy giải tán bọn chúng để khỏi chết oan loài vô trị
Tiếng nói của Trùng Dương tuy có vẻ bình thường vừa đủ nghe, nhưng thật ra chàng vận dụng nội công “Truyền thanh nhập mật” từng tiếng một truyền ra xa tít như sóng khơi từng đợt, từng đợt như lan tận ngàn trùng, dù người ở xa một dặm ngoài cũng nghe rõ ràng.
Chỉ nghe bên ngoài vang lên một tiếng “hừ” dáng như kẻ địch phẫn uất đến cực độ. Do tiếng “hừ” vừa rồi, Trùng Dương chợt hiểu kẻ địch chỉ huy bầy rắn tấn công vừa rồi chính là gã râu ria Âu Dương Phong chứ không ai khác.
Âu Dương Phong từ dạo trên Mâu Phương Sơn thu thập trứng rắn và khẩn cầu Ngọc Đảnh Chân nhân dạy nội công cho mình không được nên uất ức dùng thiết tranh đánh không lại chân nhân, hoảng sợ trốn đến Tây Vực.
Hầu đem trứng rắn thu thập được chất vào hang nóng phía sau núi Bạch Đà dùng tro than để ấp trứng.
Phong thổ Tây Vực toàn là đất hoang khí lạnh. Không hợp với sự sinh tồn của loài rắn nhưng nhờ Bạch Đà sơn biệt lập trong dãy núi Côn Lôn, bốn mùa thời tiết như xuân, thêm được sự chăm sóc của tay người chẳng mấy chốc trứng rắn nở rạ
Âu Dương Phong ra công săn sóc, gây giống lẫn lộn nhau, không đầy một năm, hắn đã có thêm mấy mươi loại độc xà.
Tuy nhiên bản tánh Âu Dương Phong hoang dâm, độc ác nhưng lại cương quyết dị thường. Bao năm nay hắn nhứt tâm luyện tập võ công để mong đoạt cho được danh: Đệ nhất võ lâm cao thủ.
Hắn còn nghiên cứu quyển Độc Kinh của Ngọc Động chân nhân truyền lại khi xưa, luyện tập bầy rắn đang nuôi bày thành xà trận, cùng phối hợp với võ công cao diệu của mình dự bị ngày làm bá chủ võ lâm.
Không đầy ba năm sau, Âu Dương Phong đã tập luyện thuần thục bầy rắn.
Một hôm hắn giở bộ Độc Kinh ra xem đến trang cuối, hắn chợt đọc một đoạn chú thích cách luyện Cáp Mô công.
Môn Cáp Mô công này là một phương pháp vận dụng khí công, nếu một khi đã luyện thành chỉ cần ho lên một tiếng lớn cũng đả thương được địch thủ trong vòng một trăm bước.
Nhưng muốn luyện được môn Cáp Mô công không phải sự dễ, cần bắt cho được một ngàn con cóc đực thật già hút tất cả chất độc trong thân cóc rồi vận dụng phương pháp thổ nạp (mửa ra nuốt vào) đặc biệt, hòa hợp chất độc ấy với chân khí thành một, lúc này mới có thể vận dụng Cáp Mô công tùy nghi bay ra theo kình khí của mình.
Âu Dương Phong sau khi xem xong, trong lòng thầm nghi nếu luyện được môn Cáp Mô công ấy thêm, thì võ công hiện tại của mình cùng với xà trận vừa tập luyện thuần thục dù không thể dọc ngang thiên hạ, nhưng ít nhất cũng là bá chủ được một miền Tây Vực.
Nhưng loài cóc là sinh vật ở Trung Nguyên, miền Tây Vực không hề có được, Âu Dương Phong bèn quyết định đến Trung thổ sưu tầm loài cóc để chuẩn bị luyện Cáp Mô công.
Cho nên mùa đông năm nay, y đem mười sáu tay xà nô (người giữ rắn) cùng với bầy rắn độc rời khỏi Bạch Đà sơn, đến đất Thiểm Tâỵ Vừa đến Thiểm Tây, Âu Dương Phong đã gặp ngay một ngườị
Người ấy là Quái hòa thượng đã bị Vương Trùng Dương đánh trọng thương tại hang Bách Cầm, may nhờ có Âm Nhu công nên giả chết thoát khỏi tay Trùng Dương.
Quái hòa thượng ấy tên là Mộc Diêm La, là đồ đệ duy nhất của Ngũ Âm phái, Giáo chủ Độc Tôn Giả.
Vì nội bộ Ngũ Âm phái thanh trừng lẫn nhau, Độc Tôn Giả bị giết chết, Mộc Diêm La hoảng sợ trốn lên miền Bắc, ý định đến Tung Sơn Thiếu Lâm tự trộm bí kíp Đạt Ma kinh trong chùa Thiếu Lâm để luyện thêm vô công báo thù cho Dốc Tôn Giả.
Nhưng đường xá không thuộc, lạc đến hang Bách Cầm, vô tình nghe trộm được Thanh Hư chân nhân lúc lâm chung dặn dò Trùng Dương nơi chôn giữ Cửu Âm chân kinh.
Mộc Diêm La quá mừng quên cả nguy hiểm, đề lộ hình tung bị Vương Trùng Dương đuổi đánh thiếu chút nữa vong mạng, phải dùng âm Nhu công giả chết, trốn khỏi hang Bách Cầm.
Nhưng đến khi đến Thiểm Tây, huyện Hoa Âm thì nội thương bộc phát, Mộc Diêm La biết mình khó sống qua khỏi tám mươi ngàỵ
Hắn bôn ba khắp nơi để tìm thuốc chạy chữa vết nội thương kiạ Đến khi gặp Âu Dương Phong, tụy chưa biết y là một danh thủ đất Tây Vực, nhưng thấy diện mạo y kỳ lạ. Sau lưng lại dẫn theo bầy rắn nê lầm tưởng là người đồng đạo nên lập tức cầu khẩn y cứu mạng. còn thố lộ nguyên nhân bị đả thương. Nào ngờ Âu Dương Phong là một ma đầu tham tài háo sát nên chờ nghe Mộc Diêm La thuật rõ nơi chôn giấu Cửu Âm chân kinh xong liền cười lạnh lùng hỏi :
- Thì ra tác hạ vì nghe được sư bí mật của Cửu Âm chân kinh mà bị hạỉ Tại hạ Âu Dương Phong xin giúp các hạ trị lành vết thương!
Nói chưa dứt lời, đã lanh lẹ dùng chưởng vỗ mạnh vào Mạch Môn huyệt của Mộc Diêm Lạ
Mộc Diêm thất kinh vừa định mở miệng kêu lên thì đã cảm thấy khí huyết đảo lộn ngã xuống chết liền tại trận.
Âu Dương Phong sau khi giết chết Mộc Diêm La và biết rõ Cửu Âm chân kinh, quyển bí kíp mà các nhân vật võ lâm không ngớt tìm kiếm tù hai trăm năm nay, hiện giấu tại miền Hoa Sơn, nên bỏ ngay ý định đi Trung Nguyên, lập tức dắt đoàn tùy tùng đến Hoa Sơn.
Y là người cẩn thận rất mực nên biết rằng Cửu Âm chân kinh đã thất lạc mất hai trăm năm nay không thể một sớm một chiều có thể tìm ra được.
Nên đến gần khu vực Hoa Sơn thì dừng bước tạm trú một nơi, khuất phục tất cả thợ săn tiều phu vùng ấy, ép bức dọa dẫm họ phải dò la khắp nơi để tìm ra chỗ chôn giấu Cửu Âm chân kinh, một mặt sai họ lùng tìm khắp thâm sơn cùng cốc bắt cho đủ số một ngàn con cóc về để luyện Cáp Mô công.
Âu Dương Phong y theo trong Ngũ Độc chân kinh, hút tất cả chất độc trong thân cóc rồi theo phương pháp luyện tập Cáp Mô công.
Không đầy một năm đã thấy có căn cơ. Nhưng chưa được đắc thành lắm thì bỗng nhiên gặp Vương Trùng Dương cũng đến núi Hoa Sơn tìm Cửu Âm chân kinh.
Sau mấy trận giao đấu Âu Dương Phong hiểu mình không phải là kẻ đối thủ của Trùng Dương nên nhịn nhục thối lui chờ đêm đến sẽ sử dụng xà trận của mình giết hại Trùng Dương trừ hậu hoạn.
Nào ngờ Trùng Dương bản lĩnh quá cao cường, đánh chết của y hơn mấy trăm con rắn độc.
Sau khi chờ bầy rắn thối lui xong, y chầm chậm vận khí vào miệng, những bắp thịt trên gò má không ngớt rung động lên xuống rồi đột nhiên y ho lên một tiếng lớn, khí chưởng đẩy mạnh vào nhà của cha con Vương Phúc.
Cáp Mô công quả thật lợi hại, “ầm” một tiếng rung chuyển cả mặt đất.
Vách nhà bằng đất nung chín cứng như gạch đã bị kình phong của Cáp Mô công xô ngã hơn phân nửa, cát đất bay văng khắp nơị
Cha con Vương Phúc hoảng hốt kêu to :
- Chết! Chết Trời sập rồỉ
Âu Dương Phong phát thêm một chưởng Cáp Mô công thứ hai nữa liên tiếp “ầm! ầm!” vang dậy như trời long đất lở, vách phòng theo chưởng phong đổ sầm xuống.
Căn nhà tranh rung động ngả nghiêng cơ hồ như muốn sập. Vương Trùng Dương thấy đối phương vô cớ dùng chưởng lực hùng mạnh phá hủy căn nhà của Vương Phúc, bất giác tức giận quát to :
- Hung đồ thật to gan!
Quát xong phi thân theo lô hổng bức tường bị phá vọt mình ra ngoài nhanh như tia điện, Âu Dương Phong thấy Trùng Dương nhảy ra cười ha hả.
Lúc ấy xà trận của Âu Dương Phong bố trí khi nãy vẫn chưa thối lui hết.
Trùng Dương nhìn thấy bầy rắn đang lúc nhúc vô số dưới sân, liền nghĩ thầm :
- “Mi nỡ phá sập nhà của người ta, thì bần đạo giết hết bầy rắn của mi để bồi trừ!”
Nghĩ xong, thân hình chàng đảo thấp, dùng hai tay áo quét mạnh trên mặt đất, sử dụng Thái Ất huyền công của Toàn Chân phái, nghe “bùng” một tiếng thật lớn, bao nhiêu cát đất cùng mảnh vụn của vách tường ngã đổ khi nãy bay ra theo ngọn kình phong mãnh liệt từ tay áo Trùng Dương phất rào rào như một đám mưa bụi dày mù mịt, đập mạnh vào bầy rắn của Âu Dương Phong. Đám mưa bụi cát ấy bề ngoài trông rất tầm thường nhẹ nhàng, nhưng Thái Ất huyền công đã làm cho mỗi hột cát có một kình lực nặng như đá sắt, nóng tựa như than hồng trong lửa đỏ, thử hỏi bầy rắn làm cao chịu đựng nổỉ
Cho nên xà trận lập tức tan biến, bày rắn đổ xô nhau lủi đông lủi tây loạn xị cả lên.
Những tên xà nô, cố gân cổ lên hút gió kêu gọi, lăng xăng dồn đuổi hết sức khổ nhọc mời thu phục bầy rắn trở về hàng ngũ, nhưng số rắn bị thương tích rất nhiềụ
Âu Dương Phong thấy bầy rắn của mình bị phá tan, giận đến râu tóc dựng ngược, “ho” lên một tiếng sử dụng ngay Cáp Mô công đánh bổ vào mình Trùng Dương.
Trùng Dương thấy Cáp Mô công của y lúc nãy phá nát tường nhà, công lực uy mãnh như thế nên chẳng dám chậm trễ, vội hít mạnh chân khí đưa vào đan điền, phất hai tay áo đón lại, đem tuyệt kỹ của Thái Ất huyền công ra đôi phó với Cáp Mô công.
Hai luồng kình khí chạm mạnh nhau “bùng” một tiếng như sét đánh, Âu Dương Phong “hự” to một tiếng, thân hình bị hất bổng lên cao văng tuốt ra xa hơn ba trượng...
Thì ra Cáp Mô công của Âu Dương Phong tuy lợi hại, nhưng vì chưa đến mức tinh thuần nên còn thiếu “chân hỏa”.
Lần thứ nhất và lần thứ nhì Cáp Mô công làm sập được nửa gian nhà của Vương Phúc, chân lực đã tiêu hao phân nửa, cho nên lần thứ ba lúc phát chưởng thổi kình lực Cáp Mô công ra, Âu Dương Phong đã cảm thấy đầu óc nóng ran, nhưng vẫn cưỡng sức cố đen toàn lực vận chuyển khí lực từ đơn điền lên.
Nào ngờ kình lực vừa thổi ra khỏi miệng, thấy khí mạch đảo lộn, cơ hồ muốn ngã nhào, lại bị thêm kình lực của Thái Ất huyền công ập đến. Y cảm thấy toàn thân bị chấn động mãnh liệt, thân hình như chiếc chong chóng quay tròn, rơi “bộp” thật mạnh trên mặt đất.
Tây Độc Âu Dương Phong từ lúc thành danh tới nay, đây là lần thứ nhất bị thảm bại một cách nhục nhã.
Âu Dương Phong vừa rơi xuống đất, tuy biết mình bị nội thương rất nặng, nhưng sợ địch thủ bồi công, tánh mạng khó toàn, vội gượng sức lăn tròn thân hình, nạp khí vào đơn điền và ngồi dậy lẹ làng, cố đè ép khí huyết đang đảo lộn, trầm giọng nói :
- Các hạ bản lãnh thật phi thường! Âu Dương Phong này may mắn được lãnh giáọ Xin hẹn nhau khi khác.
Nói xong, vẫy tay cho bầy xà nô thối lui, rồi tung mình đứng dậy gọn gàng, chậm bước theo sau bầy rắn bị thương.
Vương Trùng Dương thấy y trúng phải Thái Ất huyền công của mình mà vẫn thản nhiên đứng dậy như người vô sự, vừa ngạc nhiên vừa khâm phục công lực phi phàm của Âu Dương Phong. Hơn nữa tính chàng không phải là người háo sát, bèn tươi cười đáp :
- Bần đạo đâu muốn gây thù chuốc oán với các hạ làm gì. Chỉ tại các hạ bức bách quá, bần đạo mới buộc lòng ra tay, xin các hạ lượng tình.
Nói đoạn, quay mình trở vào nhà, thấy cha con Vương Phúc đang tần ngần đứng nhìn căn nhà bị phá vỡ hết phân nửa, Vương Trùng Dương bèn an ủi :
- Chỉ tại bần đạo chỉ điểm cho lịnh lang đi đánh lộn mới ra nông nỗi này!
Cha con Vương Phúc vội cúi đầu, cung kính nói :
- Ân của Đạo trưởng như trời, sá gì căn nhà tồi tàn nàỵ Nơi đây vật liệu sẵn sàng, chỉ trong vài ngày là cha con tôi sửa chữa xong hết. Xin Đạo trưởng yên tâm!
Rạng ngày, cha con Vương Phúc thức giấc thật sớm để thu dọn xác rắn.
Vương Nguyên Bân chợt thấy dưới khung cửa sổ có năm chung trà nằm song nhau, và lạ hơn nữa là dưới mỗi chung trà có một đầu rắn bị ghim sâu xuống đất.
Chàng sau khi rõ biết chuyện giết rắn của Vương Trùng Dương đêm qua, bèn quỳ ngay trước mặt Trùng Dương định mở miệng nóị
Trùng Dương đã hiểu ý định của chàng, vội đỡ chàng dậy, cười bảo :
- Ngươi không nói ra ta cũng hiểu rồi, định bái tạ làm sư phụ phải không!?
Nguyên Bân đáp :
- Đạo trưởng đã soi thấu ruột gan con, đệ tử có ý định như vậy!
Trùng Dương Cười ha hả :
- Tốt lắm! Kêu cha con vào đâỵ
Vương Nguyên Bân tưởng Trùng Dương đã bằng lòng, chàng hết sức mừng rỡ, hấp tấp cho cha haỵ
Vương Phúc nghe xong hân hoan đi vàọ Nào ngờ Trùng Dương nghiêm sắc mặt nói :
- Lịnh lang định bái bần đạo làm sư phụ, đáng lẽ bần đạo không nên từ chối, vì lịnh lang có căn cốt rất tốt về võ học, chỉ cần trau dồi thêm ắt sẽ thành bậc kỳ tàị Giờ đây bần đạo có một điều nhờ cậy không hay hai người có bằng lòng không?
Vương Phúc đáp :
- Tiện nhân đã hiểu, chắc dạo trưởng định nhờ mua thuốc trị rắn chứ gì?
Tiện nhân se lập tức đi mua lưu hoàng về.
Trùng Dương lắc đầu cười :
- Bần đạo không hề sợ! Bần đạo có một bức họa đồ, hai người xem sẽ biết!
Nói đoạn Trùng Dương bèn trương bức Hoa Sơn Tàng Kinh Đồ ra cho cha con Vương Phúc xem.
Vương Phúc dụi mắt nhìn vào, la lên :
- Ủa! Bức tranh vẽ phong cảnh núi Hoa Sơn đây mà! họa thật là khéo!
Trùng Dương hỏi :
- Ông có nghe đến tên Cửu Âm chân kinh bao giờ chưả
Dương Phúc ngạc nhiên đáp :
- Chưa! Cửu Âm chân kinh là cái gì kìả Thật tôi không hiểu!
Vương Nguyên Bân bỗng xen vào :
- Phải rồi! Có một lần đi đánh lộn với anh em họ Hoắc, tôi rình nghe họ bàn soạn nho nhỏ với nhau rằng: “Sơn chủ muốn tìm Cửu Âm chân kinh...”. Lúc ấy tôi không để ý đến, bây giờ nghe Đạo trưởng nhắc, tôi mới nhớ lại! Có lẽ là một vật rất quí trọng!
Trùng Dương gật đầu :
- Đúng thế! Cửu Âm chân kinh là một quyển sách vô giá của võ lâm! Tất cả tinh hoa của võ thuật trong thiên hạ đều tập trung vào quyển sách ấỵ Bởi thế, Sơn chủ Âu Dương Phong mới gia công tìm kiếm, nhưng quyển sách đã lạc mất từ mấy trăm năm nay cho đến lúc gần đây mới có người cho biết là giấu ở núi Hoa Sơn, bức họa đồ này nơi chỉ rõ chỗ giấu Chân kinh!
Vừa nói, Trùng Dương vừa dùng ngón tay chỉ vào họa đồ chỗ thiếu nữ đang múa kiếm giữa sườn núi, và chỗ ngư ông đang câu cá bên khe suối dưới chân núi, rồi tiếp :
- Hai cha con ông sinh trưởng tại Hoa Sơn từ nhỏ đến lớn, có bao giờ thấy một thiếu nữ và một ngư ông giống như trong bức họa đồ này chăng?
Vương Phúc nhìn kỹ bức tranh một hồi rốt ha hả cười to một lúc mới đáp :
- Thưa Đạo trưởng, hại hình ấy không phải là người sống, và dù nếu có phải là người sống từ mấy trăm năm trước, nhưng bây giờ thì đã biến hình đá rồi còn gì!
Trùng Dương hết sức ngạc nhiên hỏi :
- Saỏ Hai hình này là tượng đá ư?
Vương Phúc cười và thuật rõ tự sự. Thì ra hai hình trong bức họa đồ, là hai nơi thắng tích của Hoa Sơn.
Hình thiếu nữ múa kiếm nơi triền núi gọi thắng tích Vũ Kiếm Thạch.
Tương truyền vào đời nhà Đường có một thiếu nữ cha mẹ bị kẻ thù giết chết.
Chỉ có một mình nàng thoát khỏi trốn lên núi Hoa Sơn.
Thời may nàng gặp được kiếm khách chỉ điểm kiếm thuật. Từ đó ngày đêm nàng khổ công luyện tập chờ ngày thuần thục sẽ hạ sơn rửa hận.
Nào ngờ kẻ thù dò biết được, dùng kim ngân mua chuộc dũng sĩ tìm được lên núi để giết nàng trừ hậu hoạn.
Vừa gặp lúc nàng đang luyện kiếm bên sườn núi, tên dung sĩ thừa cơ nàng bất ý phóng ám khí ra sát hại nàng. Nhưng thiếu nữ lúc gần chết đã phóng mũi kiếm trên tay, cắm phập vào ngực thích khách. Và sau khi nàng chết thi thể nàng vì oán khí không tan cứ đứng mãi không ngã, lâu năm chầy tháng biến thành tượng đá.
Do sự tích trên hậu thế mới gọi tượng đá ấy là Vũ Kiếm Thạch.
Còn hình ông câu bên suối nước gọi là thắng tích Hiếu Tử Thạch.
Nguyên do vì ở chân núi Hoa Sơn có một khe nước rất sâu và rộng, nơi dưới khe có một loại cá thịt rất ngon gọi là ngân ngư, bán rất được giá.
Bởi thế sơn dân ở Hoa Sơn rầm rộ kéo đến câu, chài nên chẳng mấy chốc loài ngân ngư gần như tuyệt giống.
Tượng đá Hiếu Tử họ Triệu tên Tử Cáng, vốn là một sĩ tử, văn hay chữ tốt vì chạy loạn Hoàng Sào nên cùng mẹ già ẩn cư tại núi Hoa Sơn.
Người mẹ của chàng ta quê ở Triết Giang, mắc phải chứng đau bụng kinh niên, chi có Ngư thang mới diệu trị được bịnh tình.
Một hôm bịnh tình của mẹ Triệu Tử Cang bộc phát, rên la suối ngày, bà biết nơi sinh cảnh này không làm gì tìm được cá tươi, nên bảo Triệu Tử Cang tìm cách cho bà chết để tránh sự đau đớn hành hạ. Nhưng Tử Cang là một người con hiếu thảo, đâu nỡ đành lòng.
Ông lập tức lấy cần câu chạy bay đến khe Bích Tùng noi theo gương “Nhị thập tứ hiếu” khóc than cho tuyết tan để tìm Lý Ngư về dâng cho mẹ.
Có lẽ vi lòng hiếu của Tử Cang cảm động đến trời, không đầy nửa tháng, ông đã câu được ba con ngân ngư, mừng rỡ ông định xách cá trở về, nào ngờ người lối xóm đến cho hay, mẹ Ông quá đau đớn không chịu được đã treo cổ tự ảị
Triệu Cang nghe xong người chết điếng, đôi mắt từ từ nhắm lại, ngồi im bất động như hình cây tượng gỗ.
Người láng giềng thấy ông ngồi im mãi, định lay ông dậy, nào ngờ lúc rờ đến người ông thì thân mình ông đã lạnh như băng giá cứng từ lúc nàọ
Và kỳ lạ thay, sau khi Tử Cang lìa trần, thi hài như mọc rễ xuống đá, mọi người muốn khiêng về chôn cất, không làm sao khiêng nổi, đành để yên đấy năm tháng dần trôi xương thịt đã biến thành phiến đá.
Hai hình người hóa đá ấy: một ở sườn non, một bên khe suối đối diện nhau.
Nghe bô lão trong vùng thuật lại thì cứ mỗi lần giông to gió lớn thường nghe tiếng múa kiếm vi vu của người thiếu nữ cùng tiếng thở dài não ruột của ngư ông. Sơn dân trong vùng vì thế ít ai dám lai vãng đến chỗ ấỵ
Độ trăm năm về trước nhằm ngày vía của Tây Nhạc Sơn Thần, đột nhiên thiên lôi địa ám, mưa tuôn như xối, sấm sét nổ rung chuyển cả rừng núi, tượng đá Vũ Kiếm Thạch bị sét đánh bay mất một mảng vai tóc và sau lưng tượng Hiếu Tử Thạch thì sét soi thủng một lỗ thật lớn. Sau trận sét ấy những hiện tượng ma quái mới chấm dứt tới naỵ
Hồi 15
Bí Mất Trong Hộp Sắt
Trùng Dương nghe Vương Phúc thuật xong, thì tự nghĩ thầm trong bụng rằng, Hát Vân Tử vẽ bức tranh Hoa Sơn này đã toán sẵn huyền cơ, nơi giấu chân kinh, nếu chẳng ở trong tượng Vũ Kiếm Thạch thì nhất định là ở trong lòng tượng đá Hiếu Tử Thạch hoặc giả là đem chân kinh phân ra làm hai bản giấu vào hai nơi ấỵ
Chuyện này xét ra cũng dễ thấy, nhưng tại sao sư phụ mình là Thanh Hư chân nhân tới Hoa Sơn mấy lần vẫn không tìm ra được nơi giấu Cửu Âm chân kinh, Trùng Dương nghĩ ngợi mãi không sao giải đáp được.
Vương Trùng Dương lưu lại nhà Vương Phúc thêm mấy ngày giúp hai cha con dọn dẹp và sửa chữa lại nhà cửa xong xuôi, mới nhờ cha con Vương Phúc dẫn mình đến hai thắng tích nói trên.
Ba người đi một mạch đến chân Hoa Sơn, Vương Phúc đang lúc định tìm đường trèo lên núi bỗng nghe trên đầu núi có tiếng la hét.
Rồi trên hai ba mươi tên sơn dân săn bắn, dưới quyền thống lãnh của ba anh em họ Hoắc xuất hiện trước mặt ngăn chặn không cho đi tớị
Hoắc Văn Qúi hét lớn :
- Vương Phúc, cha con mi đưa lão đạo sĩ mũi trâu lên núi để phá hoại phong cảnh của Hoa Sơn này phải không? Mau dắt nhau trở về.
Vương Nguyên Bân nhìn thấy anh em họ Hoắc định làm khó mình, định lên tiếng trả lời thì Trùng Dương đã nhanh nhẹn vượt bước lên trước chấp tay thi lễ, nói :
- Vô lượng thọ Phật! Núi Hoa Sơn là danh sơn trong thiên hạ, không phải của riêng một ngườị Bất kỳ ai cũng có quyền đến đây ngoạn cảnh, tại sao các vị không cho bần đạo lên núỉ
Hoắc Văn Qúi đáp :
- Yêu đạo, nhà ngươi cậy có chút yêu thuật hộ thân, định phá hoại phong thủy của Hoa Sơn cho nên cầm thú Hoa Sơn hoảng sợ chạy hết làm chúng ta không còn phương sinh sống. Vì vậy mà mỗi người của bọn ta nhất định liều mạng giữ nơi đâỵ Mi có giỏi cứ giết hết bọn ta rồi hãy lên núị
Nói đến dây hắn quay lại hỏi bọn phường săn :
- Các anh em, từ mấy hôm nay cầm thú đều biệt tăm hết phải không? Chính do lão đạo sĩ mũi trâu ấy gây ra! Chúng ta tiến lên giết chết lão để rửa hận.
Bọn sơn dân đồng rập dạ lớn cử binh khí chờ đợi hiệu lịnh tấn công.
Trùng Dương dù hiểu cầm thú trên núi Hoa Sơn trốn chạy mất là vì kinh sợ bầy rắn của Âu Dương Phong, ba anh em nhà họ Hoắc nay nghe lời xúi biểu của Âu Dương Phong định trút tội lỗi lên đầu mình. Nên cười nhạt rồi đáp :
Mi bảo là ta phá phách Hoa Sơn, đuổi chạy điểu thú nhưng căn cứ vào đâủ
Ta muốn lên núi ta cứ lên. Bọn mi có bao nhiêu người như thế đấy mà ngăn chặn nổi ta saỏ
Hoắc Vãn Qúi không trả lời, tay tả bất thần vung mạnh một ngọn lạp soa nhắm ngay Trùng Dương phóng tớị
Trùng Dương không buồn né tránh mặc cho ngọn lạp soa chạm mạnh vào da, nhưng kỳ lạ thay da thịt của chàng lại tự động hõm sâu vào, làm cho kình lực của ngọn soa vô hình trung bị hóa giải tiêu tan.
Chàng mới nhẹ nhàng giơ hai ngón tay kẹp lấy mũi soa, cười nói :
- Mi bảo bần đạo dùng yêu pháp che mắt người, nếu không thi thố chút công phu, nhà ngươi đâu chịu phục. Xem đây!
Nói đoạn, cổ tày chàng không hề nhích động, chi búng mạnh hai ngón tay, ngọn lạp soa bay trở lại mau như chiếc tên lìa cung bay ghim vào thân cây cổ thụ cách xa hơn bốn trượng.
Nghe “phập” một tiếng, ngọn lạp soa dài hơn ba thước cả mũi lẫn cán cắm lút sâu vào chân cây chỉ còn dư lại đầu cán không đầy ba tấc.
Trùng Dương búng ngọn lạp soa ghim qua thân cây cổ thụ nhẹ nhàng như que tăm đâm thủng miếng đậu hũ.
Bọn phường săn trông thấy như thế đều lắc đầu le lưỡi khiếp sợ vô cùng.
Ba anh em Hoắc Văn Qúi tuy biết bản lĩnh của Trùng Dương phi phàm xuất chúng, nhưng vì chịu mạng lịnh của Âu Dương Phong sai khiến nên nhứt quyết cản trở Trùng Dương đến cùng.
Hắn bèn quát to :
- Yêu đạo, đấy cũng là pháp thuật ám nhãn chúng ta, không phải là chân vũ thuật, nhà ngươi hãy thi triển công phu khác, chúng ta mới bái phục.
Tiếng nói hắn chưa dứt, Trùng Dương đã tung mình nhảy vút lên cao hơn bốn trượng, rồi nhanh như tia điện áp xuống giữa đám người phường săn.
Chân vừa châm đất hai tay đã chộp hai anh em Hoắc Văn Qúi và Hoắc Văn Phúc giơ bổng lên khỏi đầu trông nhẹ như ai chiếc đèn giấỵ Trùng Dương hét lớn :
- Như vậy là chân vũ thuật chưả
Bọn phường săn xôn xao kêu lèn, cử động binh khí định tiến tới trước, Trùng Dương quay tít hai anh em họ Hoắc trên không trung, cười bảo :
- Nếu các người tiến lên, ta sẽ giết chết hai tên này!
Bọn phường thợ săn sợ đánh nhầm hai anh em họ Hoắc, đành thối lui ra saụ
Trùng Dương cười ha hả, nói :
- Nếu bần đạo dùng hai tên này để uy hiếp bọn ngươị Các người sẽ cho ta sợ mà làm thế, không đáng mặt là anh hùng. Để ta mượn hai tên này đấu lại bọn ngươi cho các người thấy mà chịu phục tạ
Hoắc Văn Qúi - Văn Phúc hai người bị cái vỗ ấy cảm thấy toàn thân tê dại, không cử động gì được.
Trùng Dương lúc này mới quát tiếp :
- Đánh mau!
Hai anh em họ Hoắc như hai gã say rượu mất trí. Thượng chân hạ tay nhằm bọn phường săn đánh nhầụ
Trùng Dương không những dùng hai người làm món binh khí mà còn truyền chưởng lực của mình vào chân tay của họ. Hai anh em họ Hoắc theo sự sai khiến của Trùng Dương, tả công một quyền, hữu phát một cước sức đánh của hai người lúc ấy mạnh bạo dị thường, xuất thủ lại vô cùng kỳ ảo, nên chỉ trong chốc lát lai ba mươi tên phường săn kẻ bưu đầu, người sứt trán.
Bọn chúng quá tức giận, quên cả câu “ném chuột vỡ đồ”, đồng hươ động binh khí đâm nhầu hai anh em họ Hoắc.
Thủ pháp của Trùng Dương quả tuyệt xảo, chàng nắm hai người xoay tả, quay hữu, bao nhiêu đao thương của bọn phường săn, không hề đụng chạm mình hai anh em họ Hoắc mà trái lại, bọn họ còn bị quyền cước của hai người đánh thôi thuật điên bát đảo, kêu la ôi ối, thi nhau ôm đầu, lủi chạy như bầy chuột.
Duy có một mình Hoắc Văn Định, từ nãy giờ đứng yên một chỗ quan sát tình thế, y đội nhiên chạy vút ra phía sau lưng của Trùng Dương, rút vội một ống tròn bằng sắt mở nắp ra chỉ nghe “vi vu” một tiếng hút gió thật khẽ, từ trong ống sắt bò vọt ra một con tiểu thanh xà, cất cao chiếc đầu mổ mạnh vào lưng Trùng Dương.
Hắn dùng thủ đoạn này thật hết sức độc hiểm vì con tiểu thanh xà bị nhốt kín trong cái ống sắt, đuôi rắn bị một cơ quan đặc biệt giữ chặt chỉ chừa một phần khúc đầu độ năm sáu tấc có thể ló ra khỏi ống sắt để cắn kẻ địch!
Bởi thế người sử dụng ống sắt không hề bị rắn cắn phải mà có thể tùy nghi sử dụng, thanh xà như một món vũ khí giết hại địch thủ trong nháy mắt.
Hoắc Văn Định biết mình không phải là đối thủ của Trùng Dương nên mới dùng đến thủ đoạn ám muội nàỵ Nọc độc của con thanh xà rất ghê gớm, bị mổ trúng là chết liền tại chỗ.
Vương Trùng Dương tai mắt rất thính, vừa nghe sau lưng có hơi gió lạ, chàng không buồn quay đầu hại, giơ chân lên đá ngoéo ra sau một cước như đá cầu, gót chân không chút sai lệch đó trúng ngay cổ tay đang cầm chiếc ống sắt của Hoắc Văn Định, nghe “bộp” một tiếng, chiếc ống sắt văng bổng lên không trung hơn bốn trượng caọ
Ống sắt rớt xuống lại trúng ngay đầu của Văn Định. Con thanh xà ngửi thấy hơi người là cắn liền.
Văn Định bị thanh xà mổ trúng gò má, kêu lên một tiếng bi thiết rỗi ngã vật xuống đất.
Trùng Dương nghe tiếng rên, vội xoay người lại nhìn, chàng hốt hoảng buông hai anh em họ Hoắc ra nhẩy lẹ đến bên Hoắc Văn Định để giải cứụ
Trước tiên, chàng dùng chân đá ống sắt bắn ra xa, rồi dùng chưởng phong đánh chết con thanh xà, sau đấy mới đỡ Hoắc Văn Định ngồi dậy, thấy thân hình y đã bầm đen, chết cứng từ lâụ
Bọn phường săn thấy thế đồng thanh la lên :
- Không xong! Yêu đạo đã giết người!
Trùng Dương không nói năng gì, lừ lừ đến bên hai anh em họ Hoắc. Giải huyệt cho hai người, rồi sẵn tay mò vào ngực của họ móc ra hai chiếc ống sắt in như chiếc ống sắt vừa rồi của Văn Định.
Trùng Dương rút mạnh chiếc nắp ra, trong ống lú ra một đầu tiểu thanh xà, lo le chiếc lưỡi đỏ như máu, trông thật phát khiếp.
Bọn phường săn vừa thấy đều cả sợ thối luị Trùng Dương ném mạnh hai ống sắt vào chân núi đá, cả ống lẫn rắn đều nát vụn như cám.
Trùng Dương nư giận vẫn còn, túm lấy hai anh em họ Hoắc quát lớn :
- Bọn bay nghe theo lời xúi giục của Âu Dương Phong nuôi độc xà để hại người, lại dám cả gan di họa cho bần đạọ Thầy trò chúng bay theo khuấy rối ta chưa đủ, còn định lợi dụng bọn phường săn chất phác để làm vật hy sinh. Nhưng trời cao có mắt, hại người thành ra hại mình. Lần này bần đạo tha cho, nếu gặp lại lần thứ hai đừng mong sống sót. Cút mau!
Nói xong, giơ chân đạp cho mỗi người một đạp té lăn cù. Bọn phường săn lật đật đỡ hai người đứng lên. Khiêng thây Hoắc Văn Định dắt díu nhau trở về.
Trùng Dương sau khi đuổi tan bọn phường thợ săn, quay sang bảo cha con Vương Phúc :
- Bọn chúng đã đi hết, chúng ta có thể tiến lên Hoa Sơn được rồi!
Ba người đi hơn hai giờ đổng hồ thi đến Vũ Kiếm Thạch. Vương Trung Dương thấy tượng đá Vũ Kiếm Thạch cao độ sáu thước, xa xa đứng nhìn thật giống một thiếu nữ đang vũ lộng thanh kiếm, tà áo phơ phất theo kiếm phong.
Trùng Dương không ngớt ca ngợi cảnh hùng vĩ thiên nhiên của tạo hóạ
Vương Phúc giơ tay chỉ ra phía trước và nói :
- Đạo trưởng xem kìa, trên phiến đá kia còn lưu lại một lỗ thủng, tương truyền đấy là nơi vị nữ hiệp phóng kiếm giết kẻ thù...
Trùng Dương vội đến bên động nhìn xuống phía dưới, quả nhiên bên bờ khe thăm thẳm ấy, khỏi mặt nước độ ba trượng sâu bỗng nhô ra một phiến đá kỳ lạ, hình trạng như một chiếc đe khổng lồ, trên phiến đá sâu lõm một lỗ thủng to bằng miệng bát, trơn láng như do tay người đục khoét, xung quanh mọc đầy những dây leo chằng chịt.
Trùng Dương như có chủ định, nói :
- Hai người đứng phía trên canh chừng, để bần đạo nhảy xuống phiến đá quan sát một chút.
Vương Phúc cả sợ đáp :
- Úy, đâu được! Dưới ấy khe sâu vạn trượng, nếu Đạo trưởng trật chân rơi xuống, xương thịt sẽ không còn một miếng.
Trùng Dương cười đáp :
- Ông yên tâm! Tôi có thể xuống được không sao!
Nói xong khẽ nhún đôi chân, thân hình như chiếc lá rụng nhẹ nhàng rơi xuống khẹ
Vương Phúc kêu lên một tiếng kinh hoảng, hai tay bụm mặt không dám nhìn.
Nguyên Bân can đảm hơn chạy đến bờ khe ngó xuống thấy Trùng Dương đứng vững trên phiến đá lạ.
Nguyên Bân vỗ tay khen ngợi :
- Ba ơi! Đạo trưởng bản lĩnh thật cao kỳ, nhảy một cái đã tới bờ đá.
Vương Phúc quẹt mô hôi lạnh trên trán, chạy đến bờ khe thấy Trùng Dương đứng trên phiến đá chăm chú nhìn vào lỗ thủng.
Vương Phúc thầm nghĩ :
- Cái lỗ thủng nhỏ như vậy có gì đáng ngắm! Vị Đạo trưởng này thật là một lão cuồng sĩ, không lẽ ông là nhà khảo cổ.
Trong lúc lão đang cười thầm trong bụng, thì phía dưới Vương Trùng Dương đang cúi mình xuống bứt sạch đám dây gai xung quanh miệng hang, thò tay vào hàng mò lên một chiếc hộp sắt đã rỉ khắp cùng.
Thì ra Trùng Dương tâm ý rất tinh tế, chàng nhìn thấy phiến đá màu đỏ thẫm, biết đây là loại phún thạch. Và giống thực vật không thể sinh sản trên loại phún thạch này được, trừ phi có tay người gia công trồng trọt.
Trùng Dương suy ra điểm ấy quyết chắc trong lỗ hổng nhỏ thế nào cũng có dấu sự bí mật, bèn xô vẹt gai góc, thò tay vào trong, đụng nhằm một vật, được chôn cứng giữa lòng đá, chàng chuyển sức lôi chiếc hộp ra ngoàị
Trùng Dương thấy trên mặt hộp khắc rõ bốn chữ Chân Kinh Chi Kiện, Trong lòng vô cùng hoan hỉ, tung mình nhảy vụt trở lên núi một cách nhẹ nhàng.
Cha con Vương Phúc không nén được lòng khâm phục. đồng hét lên :
- Đạo trưởng thật tài năng xuất chúng!
Trùng Dương mặc cho cha con Vương Phúc khen ngợi, vội vận lực mở banh nắp hộp rạ Chiếc hộp sắt tuy được phong khóa hết sức kiên cố, nhưng cũng không làm sao chịu nổi nội gia thần lực của Trùng Dương.
“Rắc” một tiếng khô khan, chiếc hộp sắt bị xé toang làm hai mảnh rớt ra một thẻ ngọc phù trong suốt như gương, trên thẻ ngọc có khắc mấy hàng chữ nhỏ, Trùng Dương nhường mắt đọc nhỏ: “Nơi chôn Cửu Âm chân kinh, tận dưới khe sâu Bích Tòng, trong chiếc ngọc hộp, giấu giữa lòng Ngư Thạch, chỗ Hiếu Tử buông câụ Nơi ấy nước sâu một tầm, vách đá tròn như mặt ghế, chính là chỗ giấu chân kinh. Người hữu duyên gặp được, khá giữ cẩn thận, chớ để lọt vào tay kẻ gian ác thêm họa cho muôn người!”.
Nơi dưới có chú danh “Hải Vân Tử di bút” nét chữ so với bút tự trên bức Hoa Sơn đồ không sai một mảỵ
Trùng Dương thầm kinh sợ Hải Vân Tử quả là người trí cơ huyền diệu, ông đã giấu Cửu âm Chân linh theo lối liên tỏa, nếu là người tánh tình nóng nảy thô bạo không thể tìm rạ
Đầu tiên phải phát giác hài cốt trong mật động, rồi mới lượm được bức mật đồ và từ trong bức mật đồ ấy suy nghiệm nơi thắng tích Vũ Kiếm Thạch, Hiếu Tử Thạch là chỗ giấu chiếc hộp sắt Tàng Kinh Chi Kiện, rồi từ chiếc hộp sắt ấy mới biết rõ được nơi giấu mật kinh dưới đáy khe Bích Tòng.
Trùng Dương khi khám phá được sự bí mật trong lòng hết sức mừng rỡ, hai tay nâng cao Chiếc hộp sắt quỳ xuống vái vào khoảng không, miệng lắp bắp :
- Xin tổ sư phù trợ cho đệ tử!
Bất thần trong lúc đó hai con phục xà lớn bằng miệng chén, nhẹ nhàng từ khe sâu trườn lên phía sau lưng Trùng Dương không một tiếng động.
Loại phục xà này rất lợi hại, dù võ công thâm hậu đến bực nào, nếu bị cắn nhằm, độc tố phát ra là chết không phương cứu chữạ
Đôi rắn bò đến chỉ còn cách Trùng Dương năm sáu thước, chàng vẫn chưa haỵ Đến lúc Vương Nguyên Bân phát giác được thì cặp rắn đã bò tới bên chân của Trùng Dương, y hoảng hốt la to lên :
- Úy rắn! Sư phụ, rắn độc sau lưng kìa!
Trùng Dương nghe la giật nẩy mình chưa kịp phản ứng. và trong khi Nguyên Bân vừa cất tiếng, thì đôi rắn đã cất cao chiếc đầu mổ vào người Trùng Dương nhanh như một tia điện xẹt.
Trùng Dương không còn thì giờ chống đỡ vội nhún khẽ đôi chân, bật mình lên khỏi mặt đất cao hơn trượng tránh khỏị
Cặp rắn tuy không cắn trúng Trùng Dương, nhưng trớn nhanh của một cái mổ xuống vẫn còn mạnh, chúng bèn lao mình về phía cha con Vương Phúc, há họng phùng mang táp tớị
Hai cha con Vương Phúc định tràn mình sang bên để tránh. Nhưng làm sao kịp! Trùng Dương thấy nguy cơ vội cắn thẻ ngọc phù nơi miệng.
Hai tay hai mảnh hộp sắt ném nhanh vào cổ rắn “Xoảng, xoảng” hai tiếng kêu vang, hai mảnh hộp sắt như hai ngọn phi đao sắc bén, tiện đứt lìa hai con rắn thành bốn khúc.
Trùng Dương định tiến lên để nhìn xem là loại rắn gì, thì dưới khe sâu, liên tiếp phát ra những tiếng xào xạc như có người dẫm lên đám lá khô.
Chỉ trong chốc lát từ miệng khe bò lên hơn mấy trăm con rắn lớn nhỏ đủ cỡ.
Cha con Vương Phúc sợ đến hồn phách tiêu tan, quýnh quáng kêu :
- Chết mất! Bầy rắn đến nữa rồi!
Trùng Dương biết rõ bầy rắn này do Âu Dương Phong chỉ huy, mai phục sẵn gần bên chân tượng Vũ Kiếm Thạch định ám toán chàng.
Trùng Dương nộ khí xung thiên cười khẩy một tiếng và nói :
- Thứ tiểu trùng vô dụng này mà làm được trò gì? Các hạ núp mãi trong bóng tối để giở thủ đoạn ám muội ra hại người, thật không đáng danh là Bạch Đà sơn chủ!
Nói đoạn chàng quay đi dặn dò cha con Vương Phúc không được rời khỏi chàng quá ba thước để một mình chàng rảnh tay phá tan xà trận.
Và trong khoắng khắc ấy, bầy rắn đã từ bốn phía bò nhanh đến vây chặt ba người vào giữạ
Trùng Dương quát lên một tiếng cực lớn. Rút phăng thanh Tùng Vân bửu kiếm ra đối phó.
Chính vừa lúc trên mấy chục con rắn đầu đàn to lớn, đang nhe nanh, há họng quăng mình mổ tớị Trùng Dương đảo mạnh thanh kiếm tung ra một chiêu “Gió Sét Chạm Nhau”, vận dụng nội lực từ đơn điền phát mạnh theo kiếm phong, chỉ thấy một làn sáng bạc lấp loáng như tia chớp, hai mươi con rắn đầu đàn bị kiêm quang tiện dứt làm đôi, máu tanh văng tung tóe khắp mặt đất. Loài rắn tuy là giống xuẩn động vô tri nhưng cũng biết tham sống sợ chết, ngửi thấy máu tanh của đồng loại đều sợ hãi thụt đầu, rút đuôi lủi trốn ra saụ
Trùng Dương quát thêm một tiếng thứ hai, vũ lộng kiếm quang sử dựng thêm một chiêu “Sấm Bủa Mặt Đất”, mũi kiếm tựa như làn sét đảo tròn trên mặt đất giết thêm trên ba chục con thanh trúc xà còn bò chậm phía saụ
Hai thế kiếm của chàng giết hơn năm mươi con rắn mà thân hình vẫn đứng y nguyên chỗ cũ, hai chân không hề di động nửa bước, bản lĩnh của chàng, thật thế gian hãn hữụ
Bầy rắn còn lại càng khiếp sợ uy lực của Trùng Dương, bất kể hiệu lệnh chỉ huy của chủ nhân, thi nhau lủi trốn, từ phía dưới chân núi phía sau tượng Vũ Kiếm Thạch, liên tiếp có mấy tiếng huýt gió, nhưng bầy rắn vẫn một mực lủi đầu như baỵ Trong chớp mắt đã bỏ trốn sạch không còn một mống.
Trùng Dương nghe tiếng huýt gió, bèn cười lên ha hả nói vọng xuống :
- Bằng hữu, bầy trùng của bạn hết linh rồi, nếu còn chưa phục mời bạn lên đây thử tài cao thấp.
Lời nói ấy Trùng Dương đã vận dụng nội công “Kim Quan Ngọc Sảo” quyết thứ hai mượt bốn của Toàn Chân phái, môn khi công này có thể truyền tiếng nói ra thật xa so với môn công phu “Truyền âm mật thủ” không hơn không kém.
Tiếng nói vừa dứt, thì tiếng huýt sào dưới chân núi cũng bặt luôn. Có lẽ kẻ bí mật tự lượng sức mình nên im lặng rút luị
Trùng Dương thản nhiên sửa lại nếp đạo bào lượm hộp sắt cầm tay, cùng cha con Vương Phúc xuống núi trở về.
Trùng Dương về đến nhà suy nghiệm lời di ngôn trong chiếc hộp sắt, chàng như hội ý được điều gì, nên rạng ngày hội thăm Vương Phúc :
- Ông thường săn bắn ở Hoa Sơn, có biết được người nào rành về thủy tánh chăng?
Vương Phúc suy nghĩ giây lâu đáp :
- Thưa Đạo trưởng, chắc là không, vì nhân dân vùng này đều là thợ săn sinh sống ở núi cao, làm gì biết được lội lặn!
Vương Nguyên Bân lanh miệng xen vào :
- Có có! Có một người rành về thủy tánh. Người ấy ở dựa bên bờ Hiếu Tử Thạch, gia chủ là một lão già họ Khúc. Ông có người con độ mười bốn buổi lội rất giỏi, có bữa con thấy nó nhảy xuống khe lặn xuống dưới đáy để bắt cá.
Trùng hương cả mừng nói :
- Tốt lắm! Nguyên Bân hãy đưa ta đến tìm cha con họ Khúc.
Nguyên Bân lập tức sửa soạn binh khí tùy thân, dẫn Trùng Dương đến nhà họ Khúc. Qua khỏi Hiếu Tử Thạch vào một rừng tùng xanh im mát, cuối rừng tùng có một gian nhà tranh lụp xụp.
Còn cách căn nhà độ ba mươi thước hai người nhìn thấy rõ trong nhà một đứa tẻ xô cửa bước rạ
Đứa trẻ ấy mắt to như lục lạc, da ngăm đen, chỉ mặc một chiếc quần đùi, mình cởi trần trùng trục, tay cắm một mảnh lưới nhỏ :
Nguyên Bân kêu lớn :
- Khúc ca ca, đi đâu thế? Đi đến suối bắt cá phải chăng?
- Phải đấy! Vương ca đi đâu đó?
Trùng Dương bước đến trước mỉm cườị nói với cậu bé :
- Cậu nhỏ, khoan đi đã! Mau trở vào cho gia gia ngươi hay bần đạo có chuyện cần bàn.
Cậu bé họ Khúc gật đầu dẫn hai người vào nhà.
Vào trong thấy một lão già ốm nhỏ, tóc râu rậm rạp, đang ngồi trên bộ ván.
Trùng Dương bước tới chấp tay thi lễ, nói :
- Lão trượng cho biết quí tánh đại danh, cậu nhỏ đây có phải là lệnh lang của lão trượng không?
Lão già khẽ gật đầu và đáp :
- Ngu lão họ Khúc tên Thiên Hùng, thằng nhỏ là con ngu lão, tên là Khúc Thắng, Đạo trưởng giá lâm đến đây có điều chi dạy bảỏ
- Vô sự không dám đến quấy rầy lão trượng, bần đạo có một việc định nhờ lệnh lang giúp chọ Sau khi thành tựu sẽ báo đáp trọng hậụ
Nói đoạn, móc trong túi ra một đĩnh bạc để trên mặt bàn trước mặt Khúc lão và nói tiếp :
- Đây là chút lễ mọn để ra mắt lão trượng.
Khúc lão lạnh lùng nhìn đĩnh bạc rồi nói :
- Đạo trưởng có điều chi cứ nói, Khúc mỗ tuy nghèo thật, nhưng không phải là người ham của, nếu là chuyện phải cha con lão xin tận lực chẳng chút từ nan, còn trái lại là chuyện phi luân vô đạo thì đừng nói là một đĩnh bạc cho đến gấp trăm lần lão cũng từ chối, nhất quyết không chịu nhúng tay vào, xin Đạo trưởng hãy cất đị
Vương Trùng Dương lấy làm khâm phục tiết tháo của Khúc lão trượng, vội vàng đáp :
- Bần đạo rất kính trọng tiết tháo của lão trượng! Bần đạo là kẻ tu hành có bao giờ lại làm chuyện vô đạo, nếu lão trượng có lòng nghi ngờ thì để bần đạo nói rõ, rồi tùy lão trượng định liệụ
Nó tới đây, Vương Trùng Dương quay lại hỏi Khúc Thắng :
- Khúc nhi, bần đạo muốn nhờ điệt nhi xuống khe suối trước mặt mò giùm một vật điệt nhi có bằng lòng chăng?
Khúc Thắng thấy Vương Trùng Dương định nhờ mình lặn xuống suối vớt đồ vật thì lấy làm thích lắm, nhảy dựng lên nói :
- Được lắm, thưa Đạo trưởng, hằng ngày tiểu điệt thường lặn xuống bắt cá, chắc lúc nãy Đạo trưởng đi ngang qua có đánh rớt vật chi xuống suối chứ gì, để tiểu điệt đi lặn xuống vớt lên chọ
Trùng Dương mỉm cười lắc đầu nói :
- Không phải ta làm rớt vật chi, ta chỉ cần hỏi điệt nhi cho ta biết suối ấy sâu chừng độ bao nhiêủ Ở dưới đáy có vật chi lạ không?
Khúc Thắng suy nghĩ một chút rồi nói :
- Thưa Đạo trưởng, cũng khó lòng mà nói chắc được chỗ cạn chỉ độ năm hay sáu thước nhưng cũng có chỗ sâu tới ngoài hai vượng, hàng ngày tiểu điệt lặn xuống tận đáỵ bắt cá nén ở dưới đáy tiểu diệt có thể nhớ rõ từng hòn đá một, vì ở dưới đáy trong vắt, có thể trông thấy rõ ràng.
Vương Trùng Dương nghe xong cả mừng nói :
- Tốt lắm. Bần đạo chỉ nhờ Khúc nhi vớt một cục đá ở dưới đáy lên, sau khi vớt được bần đạo sẽ thưởng thêm mấy đĩnh bạc nữạ
Khúc Thắng có vẻ ngạc nhiên hỏi :
- Một hòn đá có quí báu gì mà phải vớt lên cho kỳ được như vậỷ
Khúc Thiên Hùng cũng có vẻ ngạc nhiên, ông lão nhìn thấy Vương Trùng Dương tướng mạo đoan trang, lời nói ôn hòa, không phải là một người loạn trí có lẽ nào lại phí mấy đĩnh bạc để mò một cục đá vô giá trị để làm gì? Trong lòng Khúc Thiên Hùng có vẻ nghi hoặc nên nói :
- Xin Đạo trưởng chớ nghe lời nói huyền hoặc đồn đại của mọi người, dưới suối đó không hề có báu vật gì đâu!
Vương Trùng Dương đắc đấu mỉm cười nói :
- Bần đạo không phải tìm kiếm châu báu mà tìm một vật quí giá hơn nhiềụ
Khúc nhi, bần đạo hỏi điệt nhi một chuyện, ở dưới phiến Hiếu Tử Thạch có một hòn đá nào giống như con Lý Ngư hay không?
Khúc Thắng la lên một tiếng có vẻ kinh ngạc :
- Sao Đạo trưởng lại biết rõ như thế?
Trùng Dương đáp :
- Ta chỉ cần biết có phiến đá như thế hay không và có thể mang lên khỏi mặt nước được chăng?
Khúc Thắng nghĩ ngợi một lúc rốt nói :
- Quả thật là có phiến đá ở dưới đáy suối, nhưng mang lên quả là khó lắm.
- Sao lại khó? Ở đó có xoáy nước ngầm hay saỏ
- Không có xoáy nước ngầm, nhưng ở dưới chân Hiếu Tử Thạch là đầm sâu có tới hơn một trượng, dưới đáy toàn là cát nhuyễn, có một hòn đá hình dáng giống hệt con Lý Ngư như Đạo trưởng vừa hỏi, dài có tới hơn ba thước, nặng ít ra cũng dư trăm cân, tiểu điệt làm sao nâng nó lên được.
Trùng Dương soa đầu Khúc Thắng, cười nói :
- Miễn là có phiến đá ấy là được rồi, tiểu diệt cứ yên tâm, ở dưới nước có sức nâng, ở trên mặt đất nặng một trăm cân ở dưới nước chỉ còn có năm chục cân, ta sẽ có cách mang phiến đá đó lên khỏi mặt nước.
Khúc Thắng cả mừng, vừa đi vừa nhảy dẫn Vương Trùng Dương và Nguyên Bân tới bờ suối, đến bên Hiếu Tử Thạch, cậu ta bỏ lưới câu xuống đất và tụt vội cả quần ra rồi nhảy ùm ngay xuống nước làm nước bắn lên tung tóe ướt hết cả người Nguyên Bân và Vương Trùng Dương, thời gian ước độ uống xong hai chung nước chè thì thấy Khúc Thắng ở dưới lòng suối chồi lên rồi bò lên lắc đầu nói :
- Khống được, không được, thôi Đạo trưởng trở về nhà tiểu điệt lấy lại bạc đi thôi, tiểu diệt không tài nào mang hòn đá ấy lên được.
Thì ra sau khi nhảy xuống nước, Khúc Thắng lặn một mạch xuống ngay dưới đáy, ở nơi đáy nước trong vắt có thể nhìn mọi vật như ở bên bờ.
Khúc Thắng lượn đi một vòng gạt tất cả nhưng rêu rong bám vào tảng đá hình giống Lý Ngư, đoạn cậu ta ôm lấy tảng đá dùng hết sức mạnh toan bê hòn đá đó lên khỏi mặt nước, nào ngờ khúc đuôi của hòn Lý Ngư cắn sâu dưới nước cứng ngắc như chôn hẳn xuống đó. Khúc Thắng cố hết sức lay chuyển nhưng không hề động đậy, thật là vô phương, phiến đá không hề nhúc nhích, chỉ làm cho bùn cát ở dưới đáy nổi lên đục ngầu chui vào mũi mắt thật là khó chịu, Khúc Thắng vội vàng trồi lên mặt nước thuật lại cho Vương Trùng Dương nghe, Trùng Dương nghe xong trầm ngâm nghĩ ngợi một hồi rồi nói :
- Thôi chúng ta hãy trở xề, để ta sẽ nghĩ cách khác.
Khúc Thắng vội mặc quần áo rồi lại dẫn Vương Trùng Dương và Nguyên Bân trở lại nhà kể lại đầu đuôi cho Khúc lão nghẹ Vương Nguyên Bân chợt nghĩ được một cách bèn nói với Trùng Dương :
- Thưa sư phụ, đệ tử nghĩ rằng với bản lĩnh của sư phụ đủ sức kéo được thạch ngư lên, đã từ lâu cha con đệ tử săn bắn trong rừng lấy và để dành được nhiều loại giây leo phơi khô rất bền bỉ, chúng ta hay trở về lấy giây sắt kết lại cho chắc rồi nhờ Khúc ca ca lặn xuống lấy giây buộc chặt vào phiến đá rồi sư phụ sẽ dùng thần lực lôi lên chắc là phải được.
Vương Trùng Dương gật đầu khen phải, Vương Nguyên Bân vội chạy bay ngay về nhà, không đầy nửa buổi ôm tới một đống dây rừng và một chiếc lưới thú bằng giây sắt, mọi người đều bắt tay vào việc nối dây rừng thành một sợi dây dài đồng thời lùng dây sắt cột lại thật chắc làm gần một đêm mới xong, thành một sợi dây dài có tới ba trượng dẻo dai vô cùng.
Sáng hôm sau, Vương Trùng Dương và tất cả mọi người đã có mặt ở bên bờ suốị Khúc Thắng cầm một đầu dây nhảy ùm xuống nước, chỉ một lát sau cậu ta đã nổi lên và nói to :
- Đạo trưởng kéo đi, dây đã thuộc kỹ rồị
Vương Trùng Dương cả mừng vội vận khí đơn điền vào hai cánh tay từ từ kéo mạnh đầu dâỵ
Nhưng lạ thay, phiến ngư thạch dưới đáy suối không hề nhúc nhích, Trùng Dương kéo luôn ba lần, quái thạch vẫn trơ trơ. Chàng hết sức kỳ lạ, bèn bảo Khúc Thắng lặn xuống nước lẫn nữa quan sát ra sao!
Khúc Thắng lặn xuống một lúc, trồi đầu lên nói :
- Đạo trưởng đừng kéo nữa mất công, dù kéo cách mấy cũng không chuyển được phiến đá ấy đâu!
Thì ra phiến ngư thạch ấy bị vùi dưới đáy suối quá lâu nên đã bị nhiều lớp đá quyện chặt vào thành như một khối làm sao kéo lên được? Hơn nữa sợi giây Khúc Thắng buộc vào ở một phần trên phiến ngư thạch tựa như một que tăm xeo vào núi sắt, kéo nữa chi phí công mệt sức?
Trùng Dương kéo mãi không lay chuyển nổi phiến đá, trong lòng phát giận.
Chàng bèn giật đầu dây một cái thật mạnh. Cái giật ấy chàng đã vận dụng toàn lực của khí kình, đem mười lăm thành phách lực ra sử dụng, “Bựt” một tiếng, sợi giây rắn chắc không chịu nổi sứt mạnh của hai đầu trì kéo, đứt làm hai đoạn.
Trùng Dương hết sứt buồn rầu, thầm nghĩ đã biết rõ nơi giấu Cửu Âm chân kinh, nhưng chỉ có thể cùng mắt để nhìn mà không thể lấỵ Một lần đã thất bại không nói làm gì. Bây giờ lại thất bại thêm lần thứ hai nữạ
Ba người cùng trở về nhà của Khúc Thắng, Trùng Dương vì tâm sự đa đoan không thể ngủ được, đêm ấy chàng ra khỏi nhà, ngẩng đầu ngắm trăng sao trên trời để tiêu sầu, chàng nhìn thấy bảy vì sao bắc đẩu bên phương Bắc, chợt liên tưởng đến bức họa đồ Thiên Oai Bắc Đẩu trận của sư phụ để lại bèn tự nhủ lấy mình :
- “Con người muốn luyện bản lĩnh, hà tất phải căn cứ mãi vào sách vở? Có Cửu Âm chân kinh cũng tốt, không có nó rồi không luyện được tuyệt kỹ hay sao!
Như Thiên Sát Đẩu Trận, và tuyệt kỷ Nhất Dường Chỉ, đâu có nhờ Cửu Âm chân kinh mà cũng vẫn luyện thành được thì saỏ”.
Vương Trùng Dương suy nghĩ đến Nhất Dương chỉ, trong lòng bỗng nảy sinh ra một chủ định. Nguyên trong thời gian bế môn khổ luyện Nhất Dương chỉ ở thạch động Tung Sơn, đã có lần thử qua kình lực của một ngón tay xô mở được cửa đá của thạch động. Chàng đã được sư phụ chỉ dạy qua, Nhất Dương chỉ không những xoi thủng tất cả những vật cứng rắn mà còn bao nhiêu công hiệu khác không lường được, có thể chỉ lửa, vẹt nước phân haị Nhưng chàng chưa có cơ hội ứng dụng thử lần nàọ Đêm nay thừa cơ hội này cũng nên đến bờ suối ứng dụng thử xem saỏ
Nghĩ xong, chàng vội dùng thuật phi thân đề khí đi vùn vụt tới chỗ Hiếu Tử Thạch.
Đến nơi, chàng lựa một phiến đá bằng phẳng ngồi xếp bằng tĩnh tọa, chầm chậm vận khi huyền không, chờ đến lúc thần trí hư không, tâm ý phiêu phiêu vô niệm. Trùng Dương đột nhiên vung cao tay trái dùng ngón giữa chỉ thẳng vào lòng suốị
Lạ thay, mặt nước bỗng cuộn thành một xoáy nước vĩ đại, sóng bủa dập vào bờ dữ dội, rồi nước dưới suối vẹt sang bốn phía, dể lộ ra một trung tâm điểm hõm sâu xuống.
Trùng Dương thấy uy lực của Nhất Dương chỉ hùng mạnh như thế, trong bụng hết sức mừng rỡ nào ngờ thần trí chỉ một chút lơ là, chân khí lập tức bị hóa giải, kình lực của Nhất Dương chỉ bi tiêu tan, mặt nước bị Nhất Dương chỉ đánh vẹt ra bốn phía lúc nãy, cuồn cuộn chảy đổ trở về, ầm ầm như tiếng thác reọ Xoáy nước liền tức thì biến mất!
Trùng Dương duy trì được xoáy nước trên mặt suối không đầy thời gian uống nửa chung trà, tự nghĩ thầm: rất tiếc, công phu ta còn kém! Nếu ta luyện được đến mức có thể duy trì được xoáy nước trong thời gian uống xong hai chung trà, thì chuyện mò đá dưới suối sâu này sẽ dễ dàng như trở bàn taỵ
Suy tính xong, Trùng Dương bèn chậm chậm nạp khí vào đơn điền, gạt bỏ tất cả tạp niệm, song chưởng một nắm, một mở, ngón giữa của tay trái chỉ thẳng vào lòng suốị
Ghê gớm thay sức mạnh kinh khủng của Nhất Dương chỉ, kình lực vừa chạm đến mặt suối lập tức cuốn thành một xoáy nước. Lúc đầu xoáy nước chỉ lớn bằng cài mâm, sâu hơn một thước, qua khoảng khắc sau, xoáy nước càng ngày càng lan to, bằng cái mặt bàn tròn, trung tâm điểm càng ngày càng hạ thấp xuống lòng suối sâu hơn bảy tám thước, kình lực cửa Nhất Dương chỉ xô vẹt sức nước ra bốn phía tạo một bức tường nước kỳ lạ.
Vương Trùng Dương trong lòng nghĩ thầm, chàng sử dụng Nhất Dương chỉ để vẹt nước đã hoàn thành được phân nửa, chỉ cần nới rộng thêm xoáy nước cho lớn hơn một chút trung tâm điểm hạ dần đến đáy suối, là hy vọng vớt được phiến ngư thạch kiạ
Trùng Dương nghĩ đến đây, trong lòng mười phần hân hoan, bất ngờ từ sau lưng vang lên một tiếng “Hừ” khô khan rồi tiếp theo đỏ một giọng cười lanh lảnh cách đó không xạ
Trùng Dương kinh hãi giật mình, tâm thần phân tán, kình lực Nhất Dương chỉ không còn phát ra, nước suối cuồn cuộn chảy lui trở về, ầm ầm như tiếng reo của muôn binh vạn mã, xoáy nước liền biến mất trong nháy mắt.
Trùng Dương đoán chắc tiếng cười phát ra vừa rồi không ai khác hơn là Bạch Đà sơn chủ Âu Dương Phong, chàng vội tung mình đứng dậy nói vọng về phía ấy rằng :
- Ông bạn quí nuôi rắn độc! Mời ra nơi đây, núp sau lưng để cười lén ngươi, đâu phải là hảo hán?
Trùng Dương nói vừa dứt tiếng, thì kỳ dị thay từ phía trên đầu vọng xuống có tiếng người lạnh lùng trả lời :
- Đã là kẻ xuất gia, tinh thần phải giữ cho vô vi thanh tịnh, tu tâm dưỡng tính mới là phảị Canh ba nửa đêm không làm công quả, lại lén đi luyện tập thứ công phu quái lạ để dọa nạt thế nhân, còn dám xưng là hảo lán ư?
Trùng Dương nhĩ mục rất linh thính, chàng nghe tiếng nói người này không phải là Âu Dương Phong, mà là quái nhân đã bày Kỳ Môn Bát trận trên hoang đảo ở Huỳnh Hải lúc trước, lòng thù địch của Trùng Dương bất giác tiêu tan, bèn lớn tiếng hỏi :
- Các hạ là vị bằng hữu tương hội trên hoang đảo khi trước đấy à! Thật là hạnh ngộ! Xin mời ra để bần đạo bái kiến.
Nhưng bốn bề lặng im, không nghe tiếng trả lời, Trùng Dương bèn lập lại lời nói lần thứ hai, vẫn không nghe đối phương trả lời, chàng đành trở về bên bờ suối, thốt nhiên trên đỉnh đầu có tiếng nói vọng xuống rất rõ ràng :
- Ta không muốn giáp mặt nói, chỉ vì ngươi không phải là hạng người cao nhã, lời nói nhà ngươi còn nặng nhiều tục khí! Nhưng ta có một điệu dặn trước với ngươi, đứa nhỏ họ Khúc kia, căn cốt rất tốt ta nhứt định thâu nó làm đệ tử, cấm nhà ngươi thâu nhận nó. Nếu nhà ngươi nói nửa tiếng rằng “Không!”, giữa ta và ngươi từ lúc này sẽ coi nhau như thù địch. Ngươi nhớ chọ
Trùng Dương nghe đối phương nói xong, trong lòng rất kinh sợ, lẩm bẩm nói một mình :
- Thì ra y cũng biết được phương pháp “Truyền âm nhập mật”! Mấy ngày trước đây nơi Vũ Kiếm Thạch. Trùng Dương đã sử dụng quyết chữ “Tống” trong hai mươi bốn quyết của Kim Quang Ngọc Sà để tống đạt tiếng nói của mình đưa ra khỏi đầu nút xa ngoài ba dặm đuổi chạy Âu Dương Phong. Nào ngờ hôm nay chàng gặp quái nhân này cũng dùng công phu “Truyền âm nhập mật” truyền tiếng nói của y từ ba dặm ngoài đến đây thật quả đúng với câu “Trời cao vẫn còn trời cao khác”. Trùng Dương lần này đến Hoa Sơn, thâu thêm Vương Nguyên Bân làm đồ đệ, với Mã, Khâu, Tôn, Đàm bốn đồ đệ cũ. cũng đã được năm ngườị Vừa rồi Khúc Thắng tuy chưa có học đến võ công, nhưng căn cốt đã tỏ ra khác thường, đã định tìm cách thu nhận cậu tạ
Như vậy chàng đã được sáu người đệ tử, có thể thành trận đồ Thiên Sát Bắc Đẩu rồi!
Nào ngờ vị quái nhân này lại đến cảnh cáo chàng, giành cậu bé họ Khúc làm đồ đệ của ỵ
Nhưng bản thân y không chịu ra mặt diện kiến với mình, hành động kỳ bí, tánh khí khác thường của y thật ra ít át sánh bằng.
Nghĩ đến đây Trùng Dương không khỏi lắc đầu mà cười thầm...
Chàng vì liên tiếp hai lần phát ra Nhất Dương chỉ, nguyên khí bị tồn hao rất nhiều, lại thêm vị quái nhân khuấy phá, trong người dã thấy mỏi mệt, bèn lần bước trở về Khúc gia trang.
Nhưng về đến trước nhà, đôi mắt Trùng Dương vừa nhìn thấy một vật, chàng giật mình kinh sợ đến mồ hôi thấm áo!
Thì ra nơi dưới cửa sổ của nhà họ Khúc có hai con phúc xà to lớn kinh khủng, đang nằm oằn oại, song song bên nhau, dài hơn sáu bảy thước, to bằng bắp tay người, nhưng đầu rắn đã bị chặt lìa khỏi thân, máu tanh vẫn còn rơi lộp độp trên mặt đất, chứng tỏ đôi rắn vừa bị giết cách đây không lâụ
Càng lạ lùng hơn nữa là trên mỗi lưng rắn, nằm sắp hàng một số vật gì bằng kim khí.
Trung Dương vội bước đến trước quan sát, hai hàng kim khí ghim sâu trên lưng rắn chỉ là một loại ám khí bằng kim vàng mà chàng chưa hề thấỵ
Loại lim vàng này thật là nhỏ, mường tượng như loại kim may quần áo, chỉ có điều hơi khác đuôi kim có làm thêm bốn chiếc ngạnh thật sắc. Chứng tỏ người sử dụng kim độc này đã chờ lúc đôi phúc xà vừa bò lên cửa sổ, mới phóng ra hai hàng kim vàng, ghim thân rắn từ dầu đến đuôi dính chặt lên vách nhà, sau đấy mới dùng gươm chém rắn thành hai đoạn.
Hồi 16
Bí Mất Trong Hộp Sắt (tiếp theo)
Kẻ thả rắn giết người, trừ Âu Dương Phong ra, thì không còn kẻ thứ hai nào khác. Trùng Dương rời khỏi Khúc gia trang, trong một chút sơ hở ấy, thiếu chút nữa địch thủ thừa cơ hãm hại cha con họ Khúc, chàng thấy lòng hối hận vô cùng.
Trùng Dương đoán chắc kẻ giải nguy kia, nhất định là người đã sử dụng công phu “Truyền âm nhập mật” đối thoại với mình vừa rồi.
Trùng Dương lúc đầu đối với quái nhân ấy không mấy thiện cảm. Nhưng bây giờ đối phương dường như có điều tâm sự gì, nên chẳng khi nào chịu ra mặt nói chuyện với chàng thành ra Trùng Dương dầu muốn kết giao với y, cũng khó mà gặp được. Trùng Dương nghĩ ngợi một chập khá lâu, mới lên giường yên giấc.
Chàng ngủ mê mệt không biết đến lúc nào, chợt nghe tiếng ồn ào bên tai lại cảm thấy như có người lắc mạnh vai mình gọi dậỵ
Trùng Dương đang lúc thần trí phiêu diêu trong giấc mộng, vội mở mắt trở dậy nhìn xem, thấy Nguyên Bân và Khúc Thắng đang đứng bên giường.
Nguyên Bân cười lớn lên nói :
- Sư phụ, bình nhật sư phụ thường dậy rất sớm, sao hôm nay mặt trời đã lên khỏi ba sào, mà sư phụ vẫn còn ngủ ngon quá vậỷ Hay là sư phụ có bệnh?
Khúc Thắng vội rầy Nguyên Bân :
- Đừng nói gở! Thưa Đạo trưởng, ngoài song cửa có hai xác rắn thật lớn!
Trùng Dương là một vị tu sĩ tham thiền luyện khí, mấy ngày qua ngụ tại nhà Nguyện Bân, dù đêm nào ngủ ngon cách mấy, tảng sáng sớm gà gáy là thức giấc.
Nhưng vì đêm qua hai lần sử dụng Nhất Dương chỉ, thần trì mệt mỏi, nên vừa đặt lưng nằm xuống là ngủ mê man một giấc đến mặt trời lên khỏi ba sào vẫn chưa thức, trái với thói quen thường lệ của chàng, bởi thế Nguyên Bân mới lấy làm lạ và lầm tưởng Trùng Dương bị bệnh.
Trùng Dương vươn vai, ngồi dậy và nói :
- Không có gì! Hai con khúc xà ấy đêm qua định chun vào cắn người, bị bần đạo dùng ám khí giết chết đấy!
Vương Nguyên Bân vì đã thấy qua thuật giết rắn của Trùng Dương tại nhà y và đã đem chuyện ấy thuật lại cho Khúc Thắng rõ, nên hai cậu nghe Trùng Dương nói như thế đều rất tin lời chàng mà không chút nghi ngờ.
Khúc Thắng nét mặt tỏ vẻ quan trọng nói với Trùng Dương :
- Đạo trưởng, cha con tôi vừa bàn tính song, nếu muốn đem tảng quái thạch ấy lên khỏi suối, ít nhất phải mướn trên một trăm công nhân, đồng thời phải kiếm cho được mười chiếc xe quạt nước quạt cạn lòng suối, rồi mới cho người xuống đào móc tảng ngư thạch lên. Nhưng gia gia tôi phân vân mãi không rõ phiến đá hình lý ngư ấy có quý báu gì đâủ Mà Đạo trưởng phí trăm mưu ngàn kế để đào lên cho được!
Trùng Dương lắc đầu bảo :
- Chuyện ấy điệt nhi không nên biết! Bần đạo chỉ hỏi một điều, nếu bần đạo có cách làm cho nước suối rút cạn thì điệt nhi có đủ sức vác tảng đá lên không?
Khúc Thắng cười đáp :
- Bản lĩnh thì tôi không có thật, nhưng về sức mạnh thì không thiếu, với vật nặng một hai trăm cân tôi có thể khuân lên như chơị Nhưng tảng quái thạch này một phần lớn bị rút sâu trong bùn đất, sợ phải dùng đến cuốc xẻng mới có thể bốc lên được.
Trùng Dương nói :
- Đến lúc đó Bần đạo sẽ có cách, nhưng đợi ba hôm sau mới haỵ
Nguyên vi đêm qua Trùng Dương đã sử dụng Nhất Dương chỉ hai lần, khí lực bị tiêu hao rất nhiều, cần phải nghỉ ngơi ba ngày, để khôi phục nguyên khí cho đầy đủ mới có thể tái dùng Nhất Dương chỉ. Cho nên suốt ba ngày ấy, Trùng Dương cứ ngồi xếp bằng tĩnh tọa, nhắm mắt dưỡng thần, không nói năng cũng không ăn uống gì hết.
Cha con Khúc lão kinh hoàng tưởng Trùng Dương sang bệnh, nhưng thấy chàng thần sắc bình thường không giống như người bệnh, trong lòng cũng không thấy lo lắng.
Đến sáng ngày thứ tư, sắc mặt Trùng Dương đột nhiên hồng hào tươi nhuận, chàng liền nhảy xuống giường gọi lớn :
- Xong rồi! Khúc Nhi, Nguyên Bân, mau theo bần đạo đến suối vớt tảng ngư thạch lên!
Khúc Thắng thấy Trùng Dương đến nay mới chịu khai khẩu thành lời, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ bèn hỏi :
- Đạo trưởng! Ông có sao không? Ba hôm nay ông cứ ngồi yên bất động, làm cha con tôi lo lắng hết sức?
Nguyên Bân từ ba ngày nay cứ ngồi bên Trùng Dương hầu hạ không dời nửa bước, thấy sư phụ đã tỉnh, cười nói :
- Sư phụ, khúc tiểu ca tưởng sư phụ bịnh, con đã nói rõ sư phụ không phải bệnh mà đang luyện khí dưỡng thần nhưng Khúc ca vẫn không tin. Sư phụ thấy có đáng buồn cười không?
Trùng Dương mỉm cười vò đầu hai cậu bé và nói :
- Thôi, đừng chuyện nhảm mất thì giờ. Hai con mau theo ta ra suối cho mau!
Ba người sửa soạn dây chạc xong xuôi đồng đưa nhau ra bờ suối, từ Khúc gia trang đến suối phải qua một cụm rừng tòng. Vừa đến bìa rừng, bỗng nhiên nghe trên ngọn tòng có tiếng hú quái lạ, rền như tiếng đồng la bể, rồi tiếp theo “Soạt, soạt” hai tiếng, từ trên cao nhảy bụp xuống một bóng người!
Người này không ai khác lạ, chính là Âu Dương Phong, kẻ đã mấy lần lập xà trận để hại Trùng Dương. Nguyên Bân đang lon ton đi trước, thấy thế nguy vội chạy núp phía sau lưng sư phụ. Trùng Dương biết gã Âu Dương này lòng dạ lang độc, thủ pháp hiểm ác, đón mình tại đây, chắc không phải là ý tốt nhưng vẫn giữ phái độ Ôn tồn nói :
- Bần đạo và tôn giá vốn chẳng oán nhau, hà cớ đối xử như kẻ thâm thù?
Tôn giá nên nhìn xa một chút, đừng bức bách bần đạo quá vậy!
Âu Dương Phong dùng giọng mũi “hừ” một tiếng lạnh lùng và nói :
- Lão mũi trâu kia, hãy tách bạch nói chuyện với nhau có lẽ khoái hơn!
Ngươi đến Hoa Sơn để tìm Cửu Âm chân kinh, ta cũng đến đây để tìm Chân kinh như ngươị Cửu Âm chân kinh vật quý báu của võ lâm thất lạc từ mấy trăm năm nay đã thành ra vật vô chủ, ai cũng có quyền tìm nó. Chúng ta không nên ngu dại mà tranh giành mãi với nhau không có ích lợi gì! Bây giờ ta bằng lòng hợp tác với ngươị Tìm xong, chúng ta đồng nghiên cứu chung, có phải là thượng sách không?
Hà tất phải có người độc chiếm?
Lời nói của Âu Dương Phong tuy cung có đôi phần hợp lý. Nhưng Trùng Dương đã mấy lần tranh đấu với y, biết rõ y là một kẻ độc ác khôn lường, không phải là hạng chính nhân quân tử, mà đích thị là nhân vật bàng tà đạọ
Nếu Cửu Âm chân kinh lọt vào tay y khác nào trợ gian vị ác như hùm dữ thêm vây!
Hơn nữa, chàng đã khám phá được nơi bí mật tàng kinh, mười phần nắm chắc trong tay chân kinh là sở hữu của mình, đâu cần ai giúp sức. Bởi thế Vương Trùng Dương lắc đầu nói :
- Lời nói của tôn giá sai rồi! Bần đạo đến Hoa Sơn này, tốt ý đâu phải tìm Cửu Âm chân kinh? Mà dù có tìm đi nữa, bần đạo vơi tôn giá hai ngươi tôn chỉ bất đồng, đâu có thể hợp tác với nhau được? Xin rôn giá cứ tự nhiên theo ý muốn!
Âu Dương Phong đảo tròn dôi mắt trắng dã cười khè khè, nói :
- Không ngờ một kẻ xuất gia như ngươi mà cũng biết nói láo hay saỏ
Vừa nói vừa bất thần tung ra một chưởng đánh mạnh vào ngực Trùng Dương.
Trùng Dương thấy y mới ra tay đã sử dụng ngay một chiêu độc nhứt trong chưởng pháp “Thần Đà Tuyết Sơn chưởng” gọi là “Ngàn Dặm Đà Khôn” thì nổi giận quát lên mốt tiếng cực lớn “Khá lắm!” rồi áp dụng ngay Tự Nhiên Hấp Kinh quyền của Toàn Chân phái ra chống đối, phất tay áo bên tả đón ngón quyền của đối phương lại, đồng thời kéo mạnh tay áo trở về, cái kéo ấy tuy bề ngoài xem ra tầm thường nhưng thật ra đã dồn nội lực vào đấy nên sức hút rất ghê gớm.
Âu Dương Phong bị chưởng này, nhân hình mất tự chủ loạng choạng ngã nhào ra trước sức hút của Tự Nhiên quyền thiếu chút nữa ngã gọn vào lòng của Trùng Dương.
Nhưng Âu Dương Phong không hổ danh la Tây Vực Bạch Đà sơn một cõi tông chủ, quyền cước ứng biến nhanh chóng diệu kỳ.
Vừa thấy thế nguy, y không dám chậm trễ, vội vận đầy khi kình vào đơn điền, dùng ngay thế “Rồng Thiêng Về Ổ” nhấn mạnh gót chân chuyển lẹ thân hình đã hóa giải được ngay sứt hút lạ kỳ của đối phương, đồng thời tả chưởng rút lẹ về, quét mạnh ra ngoài một vòng thành chiêu gió vàng mưa sắt, bề ngoài xem ra như chưởng thế, nhưng bên trong dấu kín chưởng lực của Cáp Mô công xói vào huyệt Thái Dương bên hữu của Trùng Dương.
Trùng Dương chẳng chút bối rối, sử dụng “Chưởng Lục thủ” trong Tự Nhiên quyền vừa phất tay áo đón lại vừa nhấn mạnh một cáị
“Bùng!” “Chát!” hai tiếng, chưởng lực của đối phương bị đẩy bật trở về. Âu Dương Phong không gượng nổi lảo đảo thối lui lia lịa ra sau ba bước, cảm thấy một cánh tay nóng ran như bị lửa đốt phải, nhức nhối vô cùng.
Trung Thần Thông Vương Trùng Dương lần đầu cùng Tây Độc Âu Dương Phong giáo đấu chỉ trong nháy mắt phá một lượt ba chiêu của Âu Dương Phong còn làm cho đối phương hai lần hoảng vía, kinh tâm thật không hổ danh Võ Lâm Đệ Nhất Bá.
Âu Dương Phong vội điều hòa mạch khí múa tít song quyền xử dựng “Thần Đả Tuyết Sơn chưởng pháp” án theo phương vị bát quái ngũ hành, liến tiệp tấn công khắp người Trùng Dương, trong khoảnh khắc thân hình của Trùng Dương như bị vây kín trong chưởng ảnh trùng điệp của Âu Dương Phong, kình lực nhanh mạnh tựa gió cuốn mưa tuôn.
Trùng Dương bình sinh sử dụng Tự Nhiên Quyền để đối phó, tuy thủ nhiều hơn công, nhưng trầm ổn kín đáo dị thường, tựa như trường giang nước chảy, cuồn cuộn không ngừng. Âu Dương Phong đem tất cả tuyệt kỹ của mười tám đường “Thần Đà chưởng pháp” ra thi thố vẫn không làm gì được đối phương, trong lòng hết sức nóng nảy, bực tức.
Trùng Dương vừa đấu vừa nói :
- Tôn giá nên tự lượng sức mình mà thâu chưởng về. Nếu không, đừng trách bần đạo không nể tình.
Âu Dương Phong là người cương ngạnh cực đoan, y thấy mình đấu với Trùng Dương ngoài trăm hiệp, mà không động được chéo áo của đối thủ, càng tức hơn nữa là y đã đem cạn lực bình sinh ra thi triển các chiến pháp tối độc hiểm hỗn hợp với kình lực của Cáp Mô công mà Trùng Dương vẫn ung dung đón đỡ, hóa giải tất cả quyền pháp của y tựa như trò chơi trẻ nít, không xem y ra trò trống gì. Âu Dương Phong càng tức giận thêm. Nghe Trùng Dương nói thế y bèn gầm to lên :
- Cóc cần nhà ngươi nể tình! Có bao nhiêu tài nghệ cứ việc đem ta sử dựng xem dã làm gì được lão gia chưả
Trong lúc y quát lớn, quyền pháp cũng chợt biến đổi sang Bá Vương quyền, hai tay cung tròn thành hình vòng cầu rồi đẩy mạnh ra ngoài “Vù! Vù!” phát ra hai luồng chưởng lực mạnh như hai thác nước.
Thê ấy gọi là “Hạng Vương Cử Đảnh” đống thời chân trái tung lên một cước, vòng tay vừa giao nhau, thân hình của y tựa như một mũi tên xẹt ngắm ngay Trùng Dương lao tới, lần này y xuất chiêu quyền thật lợi hại tột cùng. Đây là một thức tối độc trong “Bá Vương chưởng pháp” có tên gọi là: “Hận trời không cột, hận đất không vòng”. Ban đầu y đánh ra hai chưởng đều là hư thế để dẫn dụ kẻ địch phát chưởng đón đỡ, hoặc giả tràn mình né tránh, rồi thừa lúc địch thủ bất ý, y sẽ lao mình nhảy tới, phía dưới dùng tả cước vừa quét vừa ngoéo phía trên hai tay một xỉa một đâm.
Thế đánh ấy sẽ rất lợi hại, nhưng vô cùng nguy hiểm cho kẻ sử dụng. Vì như vậy toàn bộ ngực phải chịu để trống, thậm chí nửa thân hình phía trước, cũng là lợi điểm cho đối phương phản kích.
Âu Dương Phong cậy mình nội ngoại công phu lợi hại nên vận công cho da thịt cứng như sắt nguội, chịu cho Trùng Dương đánh trúng một chưởng rồi dùng thế nhập nội nhào ra phía trước, lăn xả vào người Trùng Dương.
Nguyên Bân, Khúc Thắng hai người thấy thế, đều rú lên kinh hãị Nào ngờ Trùng Dương vẫn bình tĩnh đứng yên chờ. Âu Dương Phong vừa nhảy ào đến, chàng xoạc hai chân đứng vững vàng như trái núị Âu Dương Phong thấy song quyền cước sắp chạm đến thân hình Trùng Dường thì bỗng thấy trước mắt như hoa lên, thân hình của đối phương đột nhiên biến mất, thành ra Tây Độc chụp vào khoảng không, y thầm nhủ trong bụng một tiếng “Nguy to!”, vừa định hoành thân hồi chiêu đánh trái ra phía hậu, đã thấy một luồng chưởng phong bén nhọn từ phía sau lưng áp đến, đồng thời bàn tay của đối phương nhanh như chớp chộp trúng “Đại Thủy huyệt” sau cần cổ của y, tiếp theo đó một sức mạnh bạt núi dời non, ném bổng thân hình của y lên trên caọ
Cái ném ấy cũng rất lạ, không phải ném thẳng ra phía trước mà tựa như có một bàn tay vô hình cực lớn, dồn mạnh thân hình y lên tận năm sáu trượng cao, quay lộn mấy vòng, rơi đánh “bộp” xuống đất tựa như trời giáng. Âu Dương Phong cảm thấy tứ chi rêm nhức như gãy lìa từng đoạn, đau gần muốn đứt hơị
Chiêu thức của Trùng Dương vừa sử dụng mường tượng như oai lực của Nhất Dương chỉ. Nhưng thật ra Trùng Dương vẫn dùng kình lực của Tự Nhiên quyền đánh bại Âu Dương Phong.
Trong khi mà Âu Dương Phong vung quyền nhẩy bổ đến. Trùng Dương bèn dùng ngay thân pháp “Giảo Thố Nhập huyệt”, thân mình chàng mềm nhũn như chiếc gối gòn người chàng thun lại là tránh ra phía sau địch thủ, toàn thân hình chàng tựa như con thỏ trườn mình tránh khỏi vuốt chim ưng, rồi trong lúc địch thủ quyền cước chưa kịp thâu về, chân mặt chàng bước xéo tới nửa bước giở ngay thủ pháp “Ngư Phu Khiên Chảo” nắm chặt bâu áo của Âu Dương Phong ném bổng y lên cao, sau đấy mới dùng thế “Đẩy Cửa Đuổi Bóng” một tuyệt kỹ trong thần công “Bài Vân thủ” nhắm hai mông của địch thủ vỗ mạnh một cái, thân hình to lớn của Âu Dương Phong tựa như một quả khí cầu bị đẩy bật lên từng không cao năm sáu trượng ngoài rồi rơi nhanh xuống đất như trái mít rụng.
Suốt đời Âu Dương Phong từ lúc xưng hùng ở Tây Vực đến nay, đây là lần thảm bại đau đớn nhứt của ỵ
Nguyên Bân và Khúc Thắng đứng xem nãy giờ thấy Trùng Dương chỉ nhảy nhót nhẹ nhàng, mà đánh Âu Dương Phong xiểng liểng té lên té xuống, hai cậu khoái trá vỗ tay cười tí tắc với nhaụ Âu Dương Phong bị sức rơi quá mạnh, nên “Trí Đường huyệt” nơi sau lưng, “Phong Trì” “Phong Thủ” hai huyệt nơi vai, cùng với “Vĩ Long Cốt” nơi mông, bị va chạm vào đá cứng, khắp người y rêm nhức như kim châm, thân thình bị tê dại hết nửa bên, nằm sóng sượt trên mặt đất một lúc khá lâu mới kêu lên một tiếng “Ôi cha!” nho nhỏ.
Độ một thời gian uống cạn tuần trà, y từ từ bật mình ngồi dậy rồi lấy tay xoa bóp vào “Huyết Bàn” huyệt và “Huyết Trợ” huyệt nơi ngực mới lóp ngóp đứng lên dược.
Âu Dương Phong lúc ấy mặt mày nhăn nhó, trông thật khó coi, chỉ tay ngay mặt Trùng Dương gằn giọng hỏi :
- Lão mũi trâu, Đạo hiệu ngươi là gì? Môn phái, bản lĩnh do ai truyền thụ?
Trùng Dương ôn tồn đáp :
- Rất tiếc bần đạo hơi nặng tai một chút! Bổn ý bần đạo không muốn đa sự, chỉ tại các hạ cứ theo bức bách bần đạo lắm phen buộc lòng bần đạo phải ra tay như vậỵ Bần đạo họ Vương, hiệu là Trùng Dương ngụ tại Tung Sơn Yên Hà động. Nếu các hạ không chê, mong đổi thù thành bạn và mời các hạ tiện dịp đến Tung Sơn một chuyến.
Trùng Dương tuy thắng được đối phương, thái độ vẫn ôn hòa khiêm tốn, không nỡ làm nhục kẻ dưới taỵ
Nhưng Âu Dương Phong ngoại hiệu là “Tây Độc”, đủ biết y là con người tiểu nhân, lòng dạ ác độc khó lường. Mấy lần bị Trùng Dương cho nếm mùi thất bại, xà trận của y cũng chính tay Trùng Dương sát hại hầu sạch nên y đã hận Trùng Dương thâm xương khắc cốt đâu thể nào chịu bỏ qua để kết giao với đối phương.
Y “Hừm” to một tiếng và nói :
- Thì ra mi là Vương Trùng Dương chân nhân, Chưởng môn của Toàn Chân phái! Hừ! Được lắm, ba năm sau, Âu Dương Phong này nhất định sẽ đến Tung Sơn để tìm mi rửa nhục!
Tiếng nói vừa dứt, thì từ giữa không trung vang xuống một chuỗi cười dòn dã, tiếp theo đố một giọng nói trong ấm như tiếng ngọc va nhau, phảng phất như có người núp trên từng mây nói vọng xuồng :
- Gã Âu Dương Phong kia, ngươi đừng nói lếu láo nghe thêm nhột con rái!
Người ta chỉ dụng có một pho Tự Nhiên quyền đánh người, thế mà ngươi giở đủ bảy mươi hai môn bản lĩnh gác cửa của ngươi ra, vẫn đánh không lại người ta mà dám mở miệng hẹn ba năm tái đấủ Hà! Hà! Theo ta thấy thời gian ba năm ngắn lắm nếu ngươi đến Tung Sơn chỉ tổ làm thêm trò cười cho thiên hạ, nên hẹn lại hai mươi năm sau hãy đến!
Âu Dương Phong vốn sẵn tính kiêu ngạo tự phụ, lần này y đột kích Trùng Dương, chẳng dám đem theo một xà nô nào vì sợ chân tướng của mình bại lộ ra ngoài, thắng chẳng nói chi, nhưng nếu thất bại để người ngoài biết được còn gì danh tiếng của ỷ
Nào ngờ sự nhục nhã của mình hôm nay còn có kẻ thứ ba nhìn thấy, lại còn bị kẻ ấy trêu chọc lắm lờị
Âu Dương Phong giận tím mặt mày hét to :
- Kẻ hôi thúi nào gan dám trêu đến bổn sơn chủ, khôn hồn cút khỏi nơi đây!
Trùng Dương cũng hết sức ngạc nhiên. Nghe tiếng nói hơi quen, rõ ràng là tiếng của quái khách trên hoang đảo, võ công của vị quái khách tương đương với gã Âu Dương Phong và tiếng nói phát ra vừa rồi chính quái khách đứng xa đây ngoại mấy dặm, dùng khí công “Truyền thanh nhập mật” đưa tiếng nói đến đâỵ
Và lúc nãy chàng cùng Âu Dương Phong tranh đấu, chắc chắn y đã lén xem từ đầu đến cuối!
Âu Dương Phong đâu có biết được thuật “Truyền thanh nhập mật” là cái chỉ Y tưởng kẻ phát ra tiếng nói vừa rồi đang ẩn mình trên ngọn tùng cao, nên trong lúc nư giận tràn hông y lồng lên như con thú dữ cùng đường gầm to lên :
- Quân cuồng ngông, cho mi biết lợi hại của Bạch Đà sơn chủ!
Vừa nói, vừa vung song chưởng, sử dụng Cáp Mô công đánh mạnh vào không trung. Tuy thân mình y vừa bị thương nhiều chỗ, nhưng vì sức giận trào dâng, nên kình lực của Cáp Mô công nhờ đấy gia đăng gấp bộị Một tiếng nổ “Bùng” chát chúa, bao cành lá trên những ngọn tùng cao ngất trời trong khoảng rộng một trượng đều bị quét sạch, cành lá đổ xuống rào rào như trận mưa giông.
Vương Trùng Dương thấy Cáp Mô công của y vẫn còn hiệu lực như thế thì kinh hãi không ít, vội bước tới can ngăn :
- Huynh đài tội gì hủy hoại rừng tòng cho mệt công, làm mất đi vẻ đẹp của thiên nhiên. Người phát ra tiếng nói ấy đã sử dụng Truyền Âm Nhập Mật công phu nên tiếng nghe như trên đầu, nhưng người cách xa đây mấy dặm ngoàị
Tây Độc Âu Dương Phong là kẻ mãn phu, chưa hề biết hổ thẹn ra sao, nhưng lúc này mặt tím hóa bầm, nư giận vì thế nguôi đi phần nào, quay đầu lại nói với Trùng Dương :
- Vậy ư? Vậy là Âu Dương Phong này hôm nay đành chịu kém! Nhưng trước sau cũng có một ngày đến lãnh giáo với ngươi một lần nữa, không nhất định là mười năm hay tám năm, ngày đó ta sẽ đến tìm ngươi tai Tung Sơn! Nhớ cho!
Nói xong cắm đầu chạy vụt vào rừng mất dạng. Đến sau tại núi Hoa Sơn quần hào đại hội Hoa Sơn Luận Kiếm mới thấy Âu Dương Phong xuất hiện.
Trùng Dương đưa mắt nhìn theo bóng y đến lúc mất dạng, mới lắc đầu lẩm bẩm :
- Gã này thiên chất rất tốt, nếu y theo đường chính, có thể thành nhân vật xuất chúng. Nhưng tiếc thay y đã lầm theo nào tà, tâm tánh lại eo hẹp hiểm độc, nên không thể thành danh! Uổng thật!
Nguyên Bân và Khúc Tháng đồng thanh nói :
- Tên đó vô cớ gây sự, phách lối đáng ghét nên cho y một trận như vậy, thật là đáng đớị
Trùng Dương mỉm cười không nói, hối thúc hai cậu mau lên đường.
Đến bờ suối, Trùng Dương bước tới chỗ Hiếu Tử Thạch, đột nhiên phất nhẹ tay áo, thân hình bay vút lên cao như con chuồn chuồn đuổi mồi nhẹ nhàng đáp trên đầu thạch tượng Hiếu Tử rồi nói vọng xuống :
- Khúc nhi, chờ khi bần đạo vạch nước ra làm đôi, nếu con thấy phiến ngư thạch dưới đáy suối hiện ra, thì lập tức phải nhảy lẹ xuống, lôi tảng đá ra khỏi đáy bùn nghe không?
Khúc Thắng tuy gật đầu vâng dạ mà trong lòng bán tín bán nghị Cậu ta dù rất khâm phục võ công của Trùng Dương, nhưng không thể nào tin nổi vị đạo sĩ này lại có thể rẽ đôi mặt nước, vì sự này quá ư huyền diệu ngoài sức tưởng tượng, nghe như là pháp thuật chứ không phải là võ công!
Trùng Dương nói xong, bèn ngồi xếp bằng trên đầu hòn Hiếu Tử Thạch, tay tả chấp trước ngực, tay hữu chỉ thẳng xuống mặt suối, một cảnh kỳ dị liền xuất hiện trước đôi mắt ngơ ngác tột độ của hạt cậụ Hãy thử nghĩ lúc Trùng Dương tại thạch động sau khi luyện xong Nhất Dương chỉ, chỉ một ngón tay điểm vào mà phiến đá nặng ngàn cân đóng kín cửa động còn bị kình lực của cái chỉ ấy văng xa hơn trượng ngoàị Huống hồ hôm nay đem ứng dụng với giòng thủy lưu là vật mềm, thêm vào kinh nghiệm của hai lần thử thách vừa qua mà Trùng Dương đem tất cả công phu khổ luyện Nhất Dương chỉ truyền vào đầu năm ngón tay, đưa thẳng vào lòng suối, đủ biết uy lực của Nhất Dương chỉ lúc ấy hùng mạnh đến bực nào!
Năm luồng kình lực của Nhất Dường Chỉ vừa chạm mặt nước thì lòng suối dao động dữ dộị Lúc đầu thấy nước cuộn tròn thành một vòng xoáy lớn độ chiếc mâm thau, xoáy nước xoay vòng càng lớn dần ra, phút chốc đã lớn bằng một bàn tròn, lỗ hổng của trung tâm điểm càng ngày càng được nới rộng và sâu lõm xuống dòng suốị
Trùng Dương còn dùng kình lực của Nhất Dương chỉ tạo thành một bức tường vô hình ngăn chặn thế nước không cho lọt vào trung tâm điểm ấỵ Xoáy nước cứ càng xoáy mạnh bao nhiêu, thì trung tâm điểm càng được nới rộng thấp dần xuống đáy suốị
Lúc ấy Trùng Dương đã bắt đầu kiệt lực, mặt mày đỏ rần, khí huyết như muốn trào ra miệng, trên trán gân xanh vồng lên, khí nóng trên đỉnh đầu thỉnh thoảng bốc lên thành từng đợt khói trắng mỏng. Chứng rỏ chàng đã dồn tất cả chân nguyên khí vào kình lực Nhất Dương chỉ để hạ thấp dần trung tâm điểm của xoáy nước, tựa như một kẻ đào giếng, từng tấc đất, đào xuống đáy sâụ
Đợi một thời gian ăn xong buổi cơm, Trùng Dương đôi mát nhắm khít lại, mồ hôi trong người đã tháo ra như tắm, trung điểm của xoáy đã tụt xuống thật sâu gần đáy suối, những phiến đá nằm sát tận đáy sâu đã bắt đầu hiện ra trước mắt mọi ngườị
Khúc Thắng mừng rỡ reo lên :
- Chu choa! Đó cục đó, cục đá lý ngư nằm phía bên kia!
Trùng tương cố nhướng đôi mắt hết thần nhìn xem. Quả nhiên không ngoài ý niệm, nơi trung tâm điểm của xoáy nước lờ mờ hiện lên một tảng đá đen thui hình dài, nhưng vì bóng nước nhấp nhô, ảo loạn nhãn quan nên nhìn không rõ có giống hình lý ngư chăng.
Khúc Thắng đã y theo lời dặn của Trùng Dương cởi tuột quần áo ra chờ đợị
Nghe “sầm” một tiếng, xoáy nước đã chạm mạnh tới đáy suối, tảng quái thạch hình lý ngư ấy đã nằm chênh vênh giữa lòng suối cạn.
Khúc Thắng không chút chần chờ nhảy tọt vào trung tâm điểm, vì nơi trung tâm điểm không có nước nên Khúc Thắng nhảy xuống như ngay vào chỗ đất hoang, hại tay chàng ôm chặt phía trên tảng quái thạch, lắc mạnh mấy cái, đã nhẹ nhàng kéo tảng đá lên mặt đất phù sạ
Lần trước, Khúc Thắng không đem khối quái thạch lên được là vì bị sức nước cản trở. Vì con người ở trong nước cứ bị sức nước nâng lên mất đi tự chủ, nên không thể đem toàn sức lực ra ứng dụng như trên đất bằng được. Bây giờ không bị sức nước ngăn cản Khúc Thắng có thể hai chân bám chặt vào lòng suối làm điểm tựa để phát ra sức lực, nên đem phiến đá lên khỏi mặt phù sa cứng một cách dễ dàng.
Vương Nguyên Bân lập tức quăng dây xuống đất để Khúc Thắng cột chặt vào tảng ngư thạch, Vương Nguyên Bận cố sức kéo đầu dây trên, để kéo bổng tảng đá lên khỏi đáy suối hơn thước rồi mới nghịt chặt đầu dây vào chân tượng Hiếu Tử. Trùng Dương thấy giây chạc đã được cột xong xuôi lên tiếng gọi :
- Khúc nhi, mau leo lên! Ta sắp trả thế nước trở về nguyên vị!
Khúc Thắng vội nắm chặt vào sợi dây, tay chân quấn chặt vào sợi dây làm thang để leo lên. Vì lòng suối không mấy sâu chỉ độ trượng ngoài, nên chỉ mấy cái trườn mình Khúc Thắng đã lên khỏi miệng suối cũng vừa lúc ấy Trùng Dương đã đến hồi kiệt sức không gượng được, đầu chàng ngẩng cao, hú lên một tiếng lảnh lót như rồng ngâm, thâu hồi ngay Nhất Dương chỉ. ầm ầm vang lên mấy tiếng như sét nổ lưng trời, suối nước cuốn cuộn đổ trở về, tông mạnh vào nhau, tạo thành một cây nước khổng lồ, cao trên mấy trượng, hoa nước bắn tung tóe khắp cây cối xung quanh suốị
Thật là một sự nguy hiểm tột cùng, nếu Khúc Thắng trèo lên hơi chậm một chút, hoặc giả Trùng Dương sớm thâu Nhất Dương chỉ một chút thì Khúc Thắng còn mắc kẹt trong đáy nước, hứng chịu tất cả sức nước dồn ép mạnh bạo thế kìa, nếu thân hình của cậu bé kia không nát nhũn ra thì nội tạng lục phủ cũng bị dập nát, tánh mạng khó bảo toàn.
Trùng Dương thấy đại sự đã hoàn tất, bèn nhún mình nhảy xuống đất, tinh thần uể oải hết sức.
Lúc nãy chàng dùng Nhất Dương chỉ để cản ngăn sức nước. Thời gian kéo dài hơn một buổi cơm, sức lực có thể nói là tiêu pha gần hết, cho nên chàng vừa nhảy xuống thạch tượng liền ngồi xếp bằng tĩnh tọa để điều dưỡng nguyên khí.
Nguyên Bân và Khúc Thắng nắm đầu dây dùng tượng Hiếu Tử Thạch làm chiếc trụ tựạ kéo phang tảng đá lên. Tuy tảng đá nặng đến trăm cân ngoài, nhưng nhờ đã rời khỏi đáy suối, thêm sức nâng của nước cho nên sức nặng trăm cân chi còn lại nặng năm mươi cân, không mấy chốc. hai cậu đã kéo phiến ngư thạch lên thỏi mặt nước.
Trùng Dương tuy tinh lực bị tiêu hao mỏi mệt, nhưng vừa trông thấy ngư thạch nước nhỏ ròng ròng đang tòn ten trên bờ suối, tinh thần phấn khởi phần nào!
Chàng chầm rãi đứng dậy, bước đến quan sát ti mỉ, thấy tảng đá lý ngư là một nham thạch được bàn tay người đẽo thành hình lý ngư. Theo di ngôn trong chiếc hộp sắt bí mật của Hải Vân Tử để lại thì Cửu Âm chân kinh được giấu kín trong thạch ngư nàỵ Trùng Dương chép miệng lẩm bẩm :
- Thật không ngờ Hải Vân Tử trí cơ huyền diệu tuyệt vời, ông đem chân kinh bí mật giấu vào đây, thật kít đáo không chê vào đu được.
Chàng hợp sức với nguyên Bân và Khúc Thắng đem tảng quái thạch lên hẳn trên bờ suốị Sau đấy mới lật nghiêng tảng đá lên xem, thấy dưới bụng ngư thạch gần phía đuôi có một đường kháp thật nhỏ, đường kháp ấy được trét bằng một loạt đất đặc biệt, rắn như chất đá. Trùng Dương biết chỗ ấy là nơi giấu chân kinh.
Nhưng vì sức cùng lực tận nên không thể dùng chưởng lực đánh bể phiến ngư thạch ra làm đôi để được thấu đáo sự bí mật bên trong.
Trùng Dương giúp Nguyên Bân và Khúc Thắng buộc chặt tảng ngư thạch vào cán lạp soa khiêng trở về Khúc gia trang. Nào ngờ ba người vừa đến trước cửa nhà thì gặp phải một chuyện rắc rối xảy ra: Cha của Khúc Thắng là Khúc Thiên Hùng tự nhiên đi đâu mất! Khúc Thiên Hùng là một ông già bệnh hoạn.
Một năm về trước, ông vào rừng đốn củi bất cẩn bị rắn độc cắn trọng thương, tuy đã giặt thuốc trừ độc không đến nỗi bị chết nhưng nọc độc của rắn đã thấm sâu vào gân cốt, nên từ đó, sức lực suy giảm. Không thể làm gì nặng cũng không thể đi xa, thân hình gần như con người tàn phế, vì vậy bình nhật Khúc Thiên Hùng không bao giờ ra khỏi nhà nửa bước. Nhưng hôm nay Trùng Dương và Khúc Thắng về đến nhà thấy ông đâu mất mà quần áo đồ đạc trong nhà ngã đổ ngổn ngang khắp nơị
Khúc Thắng bồn chồn lo âu, réo lên :
- Cha ơi! Cha đi đâu rồỉ...
Cậu réo liên tiếp mấy lượt cũng không nghe tăm hơi gì cả. Khúc Thắng phát hoảng chạy giông ra bìa rừng khóc thét lên :
- Nguy rối! Nguy rồi! Cha tôi bị thằng chó Âu Dương Phong sát hại rồi! Hu hu...
Trùng Dương nhíu mày suy nghĩ. Chàng không tin là Âu Dương Phong, dù sao cũng là Tông Chúa một phái, không đến đỗi hèn hạ ra tay sát hại một người tàn phế như Khúc lãọ
Trùng Dương định gọi Khúc Thắng trở về, bất thần từ bìa rừng tiếng kêu sợ hãi: “Ôi cha!” tiếp theo tiếng Khúc Thắng kêu thét lên :
- Đạo chưởng! Cứu tôi! Cửu tôi!
Trùng Dương giật nẩy mình, không chút chậm trễ, hất tay áo, từ trong nhà tung mình nhảy vọt ra phía bìa rừng mau như một cơn gió thoảng, chàng đưa mắt nhìn quanh bốn phía, thấy vắng lặng như tờ, Khúc Thắng đã biến mất dạng.
Trùng Dương vô cùng hoảng hốt, chính mắt chàng thấy rõ ràng Khúc Thắng đứng tại chỗ này kêu khóc om sòm, tại sao chỉ trong nháy mắt biến đâu mất!
Chàng bực tức đưa mắt lục lọi khắp chỗ! chợt nghe trong nhà có tiếng Nguyên Bân thét lên :
- Ôi cha!
Trùng Dương giựt mình tỉnh ngộ, chàng nhớ đến trong nhà có phiến ngư thạch, trong bụng ngư thạch lại có dấu Cửu Âm chân kinh! Như vậy chàng đã bị trúng kế “Điệu hổ ly sơn” của địch. Nếu để chân kinh lọt vào tay kẻ địch, thì công của chàng hóa ra công dã tràng mà còn mang thêm tiếng chê cười của võ lâm giang hồ, chịu sao cho nổỉ
Chàng vội dùng ngay thân pháp “Huỳnh Hạc Xung Thiên” thân hình tựa như làn điện. Rất may phiến ngư thạch vẫn còn kia nhưng Nguyên Bân mặt mày tái mét núp vào xó nhà đang run lên cầm cập.
Trùng Dương ngạc nhiên quát hỏi :
- Nguyên Bân, chuyện gì xảy ra mà sợ hãi quá thế?
Nguyên Bân thấy sư phụ trở về, mới hoàn hồn đáp :
- Sư phụ, chuyện ghê quá! Lúc nãy con ngồi trong nhà để canh chừng tảng đá, bỗng nhiên ngoài cửa ra có hơi gió lạnh bay vào, tiếp theo đó có tiếng kêu “Ngáo ộp” kỳ lạ như tiếng con ễnh ương, con vội quay dầu nhìn ra thì eo ơi, một khuôn mặt kỳ quái hiện ra, ba phần giống người, bảy phần như quỷ sứ nước da vàng ệch không có một chút máu, mắt tai, miệng, mũi rộng tềnh hệch như năm cái hang cuạ Đệ tử quá sợ vừa mở miệng kêu lên, cái mặt quỷ sứ ấy bỗng nhăn nanh há miệng thổi ra một cái bóng trắng vả mạnh vào gò má đệ tử một vả đau thấu trời xanh đất đỏ. Đệ tử không biết đây là người hay là quỷ! Thật là ghê...
Trùng Dương chợt thấy dưới chân Nguyên Bân có miếng giấy nhỏ bay phấp phới, chàng vội nhặt lên xem. Thì ra dấy là một tờ hoa tiên bằng lụa trắng! Trong ấy nguệch ngoạc mấy dòng chữ theo nét bút sắc vô cùng.
“Trùng Dương chân nhân nhã giám :
Cha con họ Khúc ta đã bắt đị Khúc Thắng ngày sau sẽ là đệ tử của tạ Ngươi khỏi phí công truy tìm mất công. Nếu có lúc rảnh mời đến Đông Hải, Đào Hoa đảo sẽ gặp thầy trò ta”.
Cuối thư không đề tên, chỉ thấy viết một chữ “Dược” rất thảọ
Trùng Dương bàng hoàng suy nghĩ thì ra kẻ bắt cha con Khúc Thắng là kẻ dùng Truyền âm nhập mật cười ngạo Âu Dương Phong vừa rồi chính là Hoàng Cố, người mà Trùng Dương đã gặp qua trên hoang đảo ở Hoàng Hải lúc trước. Sau này chính y là Hoàng Dược Sư đảo chúa Đào Hoa đảo biệt hiệu là Đông Tà. Và Khúc Thắng Cảnh là Khúc Linh Phong đệ tử thứ hai của Đông Tà vậy.
Hồi 17
Thiết Chưởng Hành Tung
Trùng Dương cầm tờ hoa tiên bằng lụa trắng xem xong, chàng xé nhỏ từng mảnh vụn, ném rơi lả tả dưới đất. Nguyên Bân từ nãy giờ tay chân còn run cầm cập, mắt vẫn láo liên. Trùng Dương đưa tay vuốt tóc cậu, nói nhỏ :
- Con cứ yên tâm, cha con Khúc Thắng đã được cao nhân tiếp dẫn đi về Đào Hoa đảo để truyền thụ võ công và có ngày sẽ trở về. Bây giờ hai thầy trò mình đem tảng ngư thạch này vào trong, chờ thầy tịnh dưỡng lấy lại chân khí, rồi sẽ lấy chân kinh rạ
Hai thầy trò bàn bạc xong, chàng liền ngồi xuống đối diện với Nguyên Bân, hai chân xếp lại, đôi miệng khép kín rồi vận dụng “Thổ nạp” tiếp dẫn khí hỏa quy nguyên để bồi dưỡng lại chân khí mà chàng đã sử dụng vào Nhất Dương chỉ vừa rồị
Suốt ngày đêm, chàng ngồi tĩnh tọa, mãi đến sáng hôm sau chàng mới đứng dậy đưa tay ngoắt Nguyên Bân, nói :
- Nguyên Bân con, bây giờ thầy đã khôi phục phần nào, vậy con hãy dang ra cho thầy dùng chưởng lực mới bửa tảng ngư thạch này được. Nói xong, chàng phất tay áo một cái tức thì một tiếng “Chát” nhắm vào bụng ngư thạch, đá vụn tua tủa rơi đồm độp xuống nền gạch, bụng đá chẻ làm đôi theo đường gân, tức thì chiếc hộp trong ruột tảng đá văng ra, đen thui thủị Nguyên Bân thấy chiếc hộp sắt lòi ra, miệng bô bô la lớn :
- Sư phụ, chiếc hộp kia rồị
Trùng Dương bước lại gần, xem xét, thấy chiếc hộp, dài hơn một thước, cao hai tấc hình trạng như cái tráp hình chữ nhật đựng sách, chàng nhấc chiếc hộp lên xem một lúc lâu, thấy toàn diện không có nắp để mở. Chiếc hộp láng lẫy không có một vết hàn nàọ Chỉ thấy dưới đáy chạm mấy chữ theo lỗi triện son đỏ “Cửu Âm Chân Bổn”.
Trùng Dương liền dang tay tính đánh một chưởng để mở chiếc hộp sắt, nhưng chàng lại hạ tay xuống không nỡ hủy hoại chiếc hộp. Chàng nhủ thầm :
- Nếu mình không phá vỡ chiếc hộp thì làm sao lấy được “Cửu Âm chân kinh”.
Ông lăn qua lăn lại chiếc hộp sắt một hồi lâu, miệng nói lẩm bẩm :
- Chà! Chiếc hộp đẹp quá, rõ ràng là một báu vật đáng giá.
Chàng cầm chiếc hộp sắt đặt nằm trên chỗ đất bằng phẳng, hai chân đứng dang ra, vung tay áo một cái, vận nội công bửa mạnh một chưởng vào chiếc hộp.
Chưởng lực phát nổ hai tiếng “Chát, chát...” hộp sắt xoay tròn. Chàng bước đến thấy hộp sắt không chỗ nào móp méo, chàng hết sức ngạc nhiên nói :
- Năm xưa tại chùa Thiếu Lâm ta dùng một chưởng đánh ngã mười tám tượng mộc La Hán. Thế mà chiếc hộp sắt nhỏ bé như thế này mà không hề hấn gì saỏ Lạ thật! Dù chiếc hộp làm bằng thép đi nữa cũng phải vỡ làm đôị
Ông ta nhíu đôi mày lại rồi đi qua đi lại suy nghĩ...
Nguyên Bân cũng ngạc nhiên vô cùng, cậu thầm nghĩ :
- “Chưởng lực của sư phụ hùng mạnh lắm kia mà! Tại sao chiếc hộp nhỏ thế này mà lại đánh không bể?”
Chàng bèn bưng chiếc hộp lên nhìn và nói :
- Sư phụ con xem chiếc hộp này không phải bằng sắt hay bằng đá, dường như là một chất bằng sừng hay xương, chắc có lẽ là sừng hươu hay xương trâu gì đẽo thành.
Trùng Dương cười bảo :
- Không đúng! Nếu bằng sừng hay xương, tuy cứng nhưng rất dòn, không thề nào chịu nổi chưởng phong của ta! Hay là ta đem bửu kiếm chặt thử xem đứt hay không!
Trùng Dương nói đoạn rút thanh “Tùng Vân cổ định kiếm” cầm nới tay, để chiếc hộp thật ngay ngắn trên phiến đá ngư thạch, giơ kiếm thật cao, bổ mạnh xuống một nhát theo chiều dài chiếc hộp, nghe “cong” một tiếng thật thanh, tựa như tiếng đại đồng chung ngân mãi không dứt, trên nắp hộp tua tủa những ánh lửa bắn ra như hoa saọ Thầy trò Trùng Dương ngạc nhiên nhìn kỹ, chiếc hộp không hề có một vết sứt mẻ cỏn con.
Nguyên Bân vội nói :
- Sư phụ, có lẽ sư phụ chém nhẹ tay quá! Chém thêm lần nữa thử xem!
Trùng Dương chán nản đáp :
- Khỏi cần chém thêm. Kiếm ấy ta đã vận dụng tất cả chân lực rồi, dù cho là “Cửu luyện thuần can” ta chém cũng đứt ra làm haị Nhưng hộp này chém không suy suyển chút nào có lẽ một vật chí báu khó tìm trong thiên hạ. Công phu ta không đủ sức chém vỡ nổi đâu!
Nguyên Bân cứ lẩm bẩm cho là lạ lắm, chàng cầm chiếc hộp ngắm nghía bốn bên rồi nói :
Sư phụ, con xem chất chiếc hộp này không ngoài hai chất sừng và xương, dường như nó là sừng tê giác thì phảị
Trùng Dương nghe đến hài tiếng “tê giác” như người sực tỉnh buộc miệng kêu :
- Tê giác?
Chàng giằng chiếc hộp trên tay Nguyên Bân, áp vào má xem thử, thấy hơi lạnh của chiếc hộp thấm vào da, rồi lại dùng lưỡi nếm thử, cảm thấy chót lưỡi có vị cay và đắng. Trùng Dương còn phân vân ôm chiếc hộp xuống bếp thảy ngay vào lu nước một cảnh tượng kỳ lạ liền hiện rạ
Thì ra trong lu còn hơn nửa lu nước, Trùng Dương ném chiếc hộp vào, nước trong lu bỗng dâng lên khỏi miệng lu, bọt tăm sôi lên sùng sục như bị đun sôi, trong chốc lát nước trong lu cạn không còn một giọt.
Vương Nguyên Bân cứ chắc lưỡi kều lia lịa :
- Lạ quá! Lạ quá!...
Cậu ta nhìn thân đáy lu chỉ còn trơ chiếc hộp, nhưng mặt hộp vẫn khô khan không dính lấy một giọt nước. Trùng Dương thất thanh kêu lên :
- Vật chí bửu, chí bửu! Đại sư Hải Vân Tử năm xưa dùng sừng con Chiếu Dạ Bích Thủy Tê Giác để chạm thành chiếc hộp này...
Nguyên Bân nghe Trùng Dương nói thế, trong lòng hết sức ngạc nhiên bèn hỏi :
- Sư phụ! Chiếu Dạ Bích Thủy Tê Giác là giống vật gì?
Trùng Dương bèn giải nghĩa cho cậu rõ. Tê Giác là một loại sinh vật chỉ có trong núi Tây Thủy, sừng của Tê Giác quí hơn cả châu báu ngọc ngà, Tê Giác sống trên một trăm năm màu da từ đen sẽ trở thành trắng, gọi là Bạch Tê. Sừng của con Bạch Tê còn quí hơn nữa vì nó có thể trị được bệnh, công hiệu có thể cải tử hoàn sanh, nếu Bạch Tê sống được thêm một trăm nữa màu trắng sẽ đổi xanh gọi là Thương Tê, sừng của Thương Tê kêu là Bích Thủy Tê Giác, theo lời đồn thì loại Thương Tê này mỗi khi nhảy xuống nước, mặt nước liền rẽ hai, loại Thương Tê rất hiếm nên sừng của nó là một vật kỳ bửu trên đời!
Ngoài công dụng trị lành bá bệnh, cải tử hoàn sanh ra nó còn có thể rọi sáng ban đêm, như ngọc Dạ minh châụ Không hiểu Hải Vân Tử làm sao có được vật quí như vậy để làm vật giấu Chân kinh. Và có lẽ thời gian quá lâu, sừng tê giác tự thay đổi thể chất liền lại trở thành một khối làm mất dấu vết khắp xung quanh hộp.
Dù kiếm dao sắc bén, dù lửa nóng nung nấu cách nào, cũng không làm sao suy suyển được nó.
Nguyên Bân nghe sư phụ giải nghĩa xong chàng hơi thắc mắc hỏi tiếp :
- Nếu thể chất của Bích Thủy tê giác cứng rắn như thế cho đến sư phụ dùng kiếm lẫn chưởng cũng không làm vỡ được thì ông Hải Vân Tử dùng chất gì mà đẽo nó thành hình chiếc hộp được? Con thật không hiểu nổi!
Trùng Dương nhíu mày suy nghĩ rồi đáp :
- Ta cũng không hiểu nốt, hay Hải Vân Tử có một loại thuốc đặc biệt có thể làm cho sừng tê giác mềm lại không chừng! Ngày mai ta trở về Hà nam. Con có bằng lòng theo ta về Tung Sơn không?
Nguyên Bân cả mừng, cúi đầu làm lễ và thưa :
- Nếu sư phụ vui lòng thâu nhận, con nguyện cầm roi theo hầu dù thiên sơn vạn hải, con cũng không từ.
(Vương Nguyên Bân sau khi theo Trùng Dương lên núi Tung Sơn, luyện thành tuyệt kỹ trở nên nhân vật kỳ tài trong Toàn Chần Thất Tử, biệt hiệu là Ngọc Dương Tử Vương Xử Nhứt).
Rạng ngày sau, Trùng Dương trở về nhà Vương Phúc xin cáo từ và đem chuyện thu nhận Nguyên Bân lên núi Tung Sơn để truyền thụ võ công ra thảo luận với Vương Phúc. Vương Phúc hết sức mừng rỡ, vái tạ Trùng Dương gởi gắm Nguyên Bân cho chàng.
Hai thầy trò rời khỏi Hoa Sơn, ngày đi đêm nghỉ, tới địa phận Thiểm Tây vào “Lâm Đồng Quan” Trùng Dương đưa Nguyên Bân leo lên một ngọn núi gần Lâm Đồng Quan, chàng thấy địa thế Lâm Đồng hiểm trở liền buột miệng than :
- Đồng Quan bốn phía núi cao, hình thể như chiếc miệng bình, có thể ngăn được thiên binh vạn mã, thật là một lợi điểm tranh bá đồ vương. Thật không hổ là nơi phân tranh của binh gia kim cổ.
Vương Nguyên Bân cũng thường nghe các lão bô săn bắn khi nhàn hạ đem “Tam Quốc Chí” ra bàn. Cậu nhớ đến chuyện Mã Siêu đại chiến vời Tào Tháo tại Lâm Đồng Quan. Tào Tháo phải cởi áo cắt râu chạy trối chết. Chàng định hỏi sư phụ nơi Ma Siêu đuổi Tào Tháo nằm ở chỗ nàọ
Bỗng nghe tiếng nhạc ca reo vang, rồi từ quan lộ hướng Đông, một thớt ngựa phi đến như baỵ Trên lưng ngựa chở một chàng thiếu niên ăn mặc theo lối tráng đinh, bên vai tả bị một vết thương lớn, máu chảy thấm Ta ngoái áo đỏ lòm. Chàng thiếu niên mệt lả nằm móp trên lưng ngựa, hái tay ôm chặt vào cổ ngựa, dường như vết thương rất nặng, nên đầu cứ gục xuống không thể cất lên nổị
Phía sau, xa xa đuổi theọ Một người trong bọn lớn tiếng gọi :
- Thằng họ Lưu kia định chạy đi đâủ Chúng ta thề quyết bắt mi để phanh da xẻ thịt!
Nguyện Bân kéo tay Trùng Dương, nói :
- Sư phụ, con xem bọn người đuổi theo mặt mày đều rất hung ác chắc không phải là người hiền. Chúng ta mau đến giúp gã thiếu niên kia kẻo nguy!
Trùng Dương gật đầu nói :
Cứu người nguy khốn là bổn phận hành hiệp của con nhà võ. Con đứng đây đợi, đừng đi đâu, để ta xuống giúp người ấỵ
Nói đoạn phẩy nhẹ tay áo, thân hình như chim xòe cánh, nhẹ nhàng bay vút xuống núi, đứng chận ngay giữa đường. Thời gian không đầy nháy mắt, sáu thớt ngựa một trước, năm người sau phóng nhanh tới như cơn giông.
Con ngựa chở thiếu niên bị thương chạy trước rất hung hãn, thấy Trùng Dương đứng chặn đường liền hí một tiếng thật lớn cất cao hai vó trước búng mạnh vào ngực Trùng Dương.
Trùng Dương không chút bối rối, khẽ tràn mình đã lướt đến bên hông ngựa, nhanh nhẹn đưa tay tả lên chộp lấy thân hình gã thiếu niên bị thương rồi kẹp nhẹ y vào nách.
Bọn người đuổi theo sau thấy thế đồng quát tháo vang rền, giục cương tiến nhanh lên.
Trùng Dương sau khi kéo được thiếu niên khỏi yên ngựa, khẽ nhún gót chân, thân hình nhẹ như chiếc tên lìa ná, vút một cái đã cao hơn ba trượng, nhảy đến một ngọn đồi đặt thiếu niên nằm êm ái xuống đất. Năm người đuổi theo sau vội nhảy xuống ngựa vây quanh ngọn đồị
Trong bọn, một gã đại hán mày rô, mắt lộ, mặt đen như chảo sắt chỉ Trùng Dương và quát lớn :
- Lão đạo sĩ hôi hám kia từ đâu đến, dám cả gan cứu giúp kẻ thù của bổn bang? Muốn sống, khôn hồn trả kẻ ấy lại cho chúng tạ Ta sẽ tha cái mạng chó của mi!
Trùng Dương mỉm cười đáp :
- Xin lỗi liệt vị, chàng thanh niên này còn nhỏ tuổi sao lại có chuyện thù hằn với quí vị? Bức bách người thế cô sức yếu, đâu phải là hảo hán? Theo thiện ý của bần đạo, liệt vị nên buông tha chàng ta rồi quay trở về là phải hơn.
Bốn gã kia tức giận, đồng cười lên một tiếng “mốc xì!” rồi vung tay ném ra bốn mũi phi tiêu bay thẳng vào mặt Trùng Dương.
Trùng Dương xem trò trẻ con ấy ra gì, chàng đứng im chờ bốn mũi phi tiêu gần đến mặt, giơ tay quay nhanh một vòng nắm gọn bốn mũi phi tiêu trong lòng bàn tay, năm ngón tay khẽ bóp một cái, bốn mũi phi tiêu sắc bén chỉ còn là nắm bột vụn rơi lả tả xuống đất.
Năm gã đại hán lộ vẻ kinh hoàng, há hốc miệng đứng nhìn, bao nhiêu khí thế hung hăng lúc nãy đều biến đâu mất.
Gã đại hán mặt đen nói lớn :
- Mi là một tên yêu đạo phải không? Tên là gì, định dùng pháp thuật để lòe chúng ta saỏ
Trùng Dương cười to bảo :
- Giữa thanh thiên bạch nhật, ta là người rõ ràng chứ đâu phải ma quỷ gì mà dùng pháp thuật để lòe ngườỉ Trí óc các ngươi kém quá thế? Các người thuộc bang nào, Bang chủ là aỉ Mau nói rõ để khỏi mất hòa khí đôi bên.
Đại hán mặt đen lớn tiếng đáp :
- Lão gia của mi là hảo hán ngồi vào hàng thứ tư của Thiết Chưởng bang, ngoại hiệu là Thiết Diện Hổ, chính danh là Đỗ Hồng. Yêu đạo, mi đừng cậy chút bản lĩnh ấy mà gánh vác việc ngườị Mi hãy xem vật này thì biết.
Nói đoạn y lôi từ trong túi ra một vật bằng thép, hình bàn tay người, tự cao tự đại giơ cao bàn tay thép ấy lên khỏi đầu vất nghinh mặt khinh khỉnh trông thiệt đáng ghét!
Trùng Dương suốt đời bôn ba giang hồ, đối với các Bang hội chàng đều hiểu rõ. Chàng chợt nhớ đến chiếc bàn tay thép này là tín vật của Thiết Chưởng bang...
Bang hội này hoạt động trong khu vực hai hồ ở miền trung lưu sông Trường Giang. Bang chủ và thủ hạ đều là lục lâm cường đạọ
Không ngờ hôm nay vô tình đụng chạm tới chúng, Trùng Dương cho là dịp thuận tiện để trừ họa cho dân lành. Chàng bèn cười to và nói :
- Sá gì miếng thép bể ấy, đáng bao nhiêu tiền mà cũng xưng là Bang. Thiếu niên ấy ta dã nhất định cứu giúp, mặc xác tín vật nhà ngươi là thiết chưởng hay mộc chưởng! Cút ngay để ta còn thì giờ chữa chạy người lâm nạn.
Đổ Hồng giận đến mắt nổ đom đóm, gầm lên :
- Yêu đạo! Thấy tín phù của Bang chủ mà còn dám ngông nghênh vô lễ? Mi chết cũng là đáng số!
Năm người hò hét phân làm năm ngả leo lên ngọn đồi để tấn công Trùng Dương.
Trùng Dương thấy thế cười ha hả bảo :
- Thật là đồ ngu, ta giữ thể diện cho bọn ngươi, bọn ngươi lại không muốn, lên đây đề rước nhục vào thân à! Hãy về đi! Tìm thầy học thêm rồi hãy đến cũng không muộn!
Đổ Hồng từ xưa nay là kẻ tự phụ ngông cuồng, chưa hề có người dám trước mặt y buông lời khi rẻ như vậỵ Y giận đến mặt đen hóa tím hét to như sấm, thôi thúc mọi người đồng loạt vũ lộng binh khí tấn công Trùng Dương tới tấp, Đổ Hồng hăng hái tiến bước tới trước, giơ đao lên khỏi đầu dùng thế “Hoa Sơn Một Cửa”
chém mạnh vào vai của địch thủ. Trùng Dương không thèm né tránh, đưa vai ra hứng lấy mũi đao uy mãnh của ỵ Đổ Hồng cảm thấy lưỡi đao hình như chém vào đám bông gòn mềm nhũn.
Y kinh hãi định thâu nhanh ngọn đao trỏ về, Trùng Dương mỉm cười phẩy nhẹ nửa chiết tay áo đánh vào mặt Đổ Hồng, thân hình Trùng Dương tuy mềm như bông gòn nhưng tay áo của chàng lại cứng thư sắt thép. Đỗ Hồng chỉ “Hự” được một tiếng đã văng hắt ra sau nằm chết giấc.
Bốn người còn lại thấy thế đều giật mình kinh hãi, định xông tới tấn công.
Trùng Dương cười nhạt bảo :
- Đừng dại dột tiến lên mà toi mạng! Xem bản lãnh của bần đạo!
Nói đoạn, chàng phẩy mạnh tay áo vào miếng đất trống trước mặt, cái phất ấy chàng đã thầm vận “Thái Ất huyền công” nghe “Ầm” một tiếng, cát đá theo ngọn kình phong từ tay áo phát ra, bay lên đập mạnh vào thân hình bốn tên cường đạo, trở nên lợi hại hơn cả những loại ám khí “Bồ đề tử” hay “Thiết liên tử” rất nhiềụ
Bốn tên cường đạo cảm thấy khắp thân hình vừa đau rát vừa nóng bỏng, kêu la ôi ối té bò lê dưới đất. Chúng đồng thất thanh kêu lên :
- Không xong! Không xong! Tên yêu đạo này có phép thuật, chạy mau kẻo chết!
Nói đoạn, bốn người vội lốm cồm bò dậy, ôm đầu lủi mất.
Nguyên Bân thấy khoái trá vỗ tay cười ngất. Trùng Dương chờ bọn chúng chạy khỏi mới tiến tới bên gã thiếu niên bị thương. Thấy sức mặt y dã trắng bệch như tờ giấy, hôn mê bất tỉnh, hơi thở thoi thóp như sắp chết, Nguyên Bân hết sức lo âu, Trùng Dương liền nói :
- Không sao! Vì máu ra nhiều quá, nén y bất tỉnh đấy thôị Ta cho y uống thuốc y sẽ tỉnh lại ngaỵ
Chàng vạch vết thương nơi vai của thiếu niên, thấy bị chém bằng ngọn sử đao nên da thịt chỗ ấy loét loét lòi cả xương rạ Nếu là người thường, bị đao chém sâu như thế, thì đã ngã xuống chết rồi, nhưng thiếu niên này vẫn còn đủ sức giục ngựa chạy trốn được, kể ra cũng là một nhân vật khác thường.
Trùng Dương vội móc ra một gói thuốc “Thái Ất Thánh Linh Tán” và một viện “Kim Thương Đại Hoàn”, tự tay cho thiếu niên uống và thoa vào vết thương, đoạn băng lại kỹ lưỡng.
Hai thứ thánh dược trị nội ngoại thương của Toàn Chân phái thực là linh nghiệm. Trong giây phút, thiếu niên đã từ từ mở mắt và lẩm bẩm một mình :
- Cẩu tặc! Bọn bay đông bao nhiêu thiếu gia cũng không sợ! Tiến lên đây, đánh thêm vài trăm hiệp nữa, nếu ta sợ bọn bây ta không phải là hảo hán!
Hồi 18
Khảo Trường Giết Tham Quan
Trùng Dương vỗ nhẹ vai, gọi :
- Thiếu gia mau tỉnh dậy, cường tặc đã bị ta đuổi chạy rồi!
Thiếu niên trở mình tỉnh dậy, bàng hoàng hỏi :
- Ủa! Dạo trưởng đánh lui được cường đạo rồi saỏ Qúi đạo hiệu là chỉ
Nguyên Bân lanh miệng thuật tỉ mỉ lại vụ nhau lúc nãỵ
Thiếu niên nghe xong “Ồ” một tiếng rồi lồm cồm ngồi dậy, phục xuống lạy tạ Trùng Dương đã cứu mạng.
Trùng Dương đỡ y dậy và nói :
- Cậu họ Liễu phải không? Tên gọi là gì? Tại sao bị bọn người kia rượt đánh như thế?
Thiếu niên bèn thuật cho Trùng Dương rõ đầu đuôi câu chuyện như sau :
Chàng họ Liễu tên Quân Bảo, người Hà Nam, gần với quê quán của Trùng Dương ở Trần Lưu huyện không xạ Gia đình họ Liễu là một danh gia thế tộc. Cha của Quân Bảo Liễu Quan Phổ làm chức Tiết độ sứ thành Đàn Châu, đời Dực Tông Tuyên Hòa nguyên niên, cùng theo Trùng Quang đánh rợ Liễu bị tử trận. Lúc ấy, Quân Bảo mới mười sáu tuổị Nghe tin tức Cha bị giặc giết chết chàng đau xót xuýt chết, thề quyết lớn lên sẽ rèn tập kiếm cung để sang tận biên giới càn quét giặc Hồ Lư để báo thù cho chạ
Cho nên năm vừa thọ tang cha, chàng đã ném bỏ sách vở, nhất tâm rèn luyện võ nghiệp. Ngày đêm gắng sức trau dồị Đến năm hai mươi tuổi, Quân Bảo thấy bản lãnh của mình đã khá, tự lượng có thể xuất đầu lộ diện tìm chữ công danh. Mùa thu vừa qua, chàng đến kinh đô vào khảo trường để tranh chức Võ Cử.
Thưở ấy nhà Tống trọng văn khinh võ, nên 10 năm mới có một khoa thi Võ Cử một lần.
Chủ khảo năm ấy là Binh bộ Thượng thư Vương Bổn Luyện, vốn là một tham quan, rất được lòng của quyền thần trong triều là quan Thái sư Trà Kinh.
Trước ngày mở khoa thi, Binh bộ Thượng thư, Vương Bổn Luyện đã được Bành tổng binh đút lót một số vàng trọng hậu để gửi gắm con y là Bành Chiêm Ngaọ
Thượng Thư Vương Bổn Luyện híp mắt nhận lễ trọng của Bành tổng binh và hứa chắc là sẽ chấm cho Bành Chiêm Ngao đậu Võ trạng.
Tới ngày khảo thí, Vương binh bộ sáng sớm thức giấc, sau khi tắm gội xong xuôi, tiền hô hậu ủng, bệ vệ tiến đến khảo trường. Vương binh bộ cảm thấy cử tử đến dự khảo năm nay có trên hai ngàn người, hắn cau mày suy nghĩ, trong bụng đã tìm ra được diệu kế để đánh rớt cử tử bốn phương.
Ngày thi thứ nhất là thi viết.
Tổng trào gọi là “Thiệp Thí” mỗi cử tử phải luận một bài văn, đề mục không ngoài kế hoạch hành quân hay mưu lược an bang tế thế. Ngày thứ hai mới khảo thí cung mã. Ngày thứ ba mới chánh thức tỉ thí võ nghệ để chủ khảo theo đấy mà chấm võ trạng nguyên.
Vương binh bộ cố ý đánh rớt tất cả cử tử, cho nên giữa nắng dưới ánh mặt trời như thiêu như đốt, lại ra lịch cử tử bắt đầu “Thiệp Thí” đã thế lại còn bắt buộc mọi cử tử không được phép che lều để tránh nắng.
Bao nhiêu cử tử đều phải phơi mình dưới cái nắng cháy da phỏng trán trên hai giờ đồng hồ, mọi người đều đầu nhức mắt hoa, mồ hôi thấm ướt trong ngoài, mệt đến lè lưỡi, há họng còn tinh thần đâu mà nhả ngọc phun châu, chỉ còn cách viết vội vàng cho hết quyển đem nạp để sớm tránh cái nắng như thiêu như đốt ấỵ
Tất cả cử tử đều không ngớt nguyền rủa vị giám khảo quá nhẫn tâm.
Vương binh bộ đem tất cả hai ngàn quyển văn vứt bỏ vào sọt giấy, chỉ chừa lại quyển văn của Bành Chiêm Ngao, rồi mạo theo bút tự của y, viết thành một quyển khác đem lên nạp cho Tống Vương. Đến ngày thứ hai khảo thí cung đaọ
Vương thượng thư cho bày trước hiệu đài một hàng dài năm cát thiết đỉnh thật tọ
Cái nhỏ nhất nặng hai trăm cân, rồi luân lưu nặng dần lên bốn trăm cân, sáu trăm cân, tám trăm cân cho đến cái lớn nhất là một nghìn cân.
Sau tiếng pháo lệnh, các cừ tử đều đổ xô vào khảo trường, mọi người thấy trước hiệu đài bày thành một dàn năm cái đỉnh to lớn như thế đều giật mình lo ngạị
Vương binh bộ ngồi trên hiệu đài lên tiếng gọi lớn :
- “Các cử tử bốn phương nghe đây: Bổn quan vì quốc gia, cầu hiền tài để giúp nước nhà nên bổn quan đã tâu xin Hoàng thượng chuẩn tấu cách thức khảo võ năm nay là cử đảnh để chọn chức võ trạng. Cử tử nào muốn chiếm được thủ khoa, ít nhất phải giơ bổng nổi chiếc đảnh một ngàn cân kia xong rồi mới được thi võ để tranh tài cao thấp. Các cử tử đã nghe rõ chưa!”
Tất cả cử tử nghe nói xong, đều ngẩn người nhìn nhau phẫn uất đến cực điểm, bàn tán xôn xao khắp võ trường. Vì từ xưa nay mỗi khoa thi võ cử thường là cỡi ngựa bắn cung. Tuy có khảo thí sức lực, nhưng thường chỉ là khuân đá ném lao, nào ngờ quan chủ khảo năm nay lại bày cách phải cử đỉnh ngàn cân thật là một điều lệ gắt gao xưa nay chưa hề có.
Vương binh bộ thấy tình hình như vậy liền lên tiếng quát tháo :
- Các cử tử không được lắm lời, đấy là ý muốn của Hoàng Thượng, sao các người dám buông lời chê bai nghị luận. Cổ nhân lấy sức lực luận anh hùng, như Mạnh Khoa, Nguyên Bá một tay giơ nổi ngàn cân, danh dũng sĩ của họ vẫn muôn thưở lưu truyền trong sử sách. Hạng Sở Bá Vương anh hùng cái thế sức dịch muôn người, dẹp tan bạo Tàn, cứu nguy cho thiên hạ. Phải chăng nhờ ở sức mạnh cử đảnh bạt sơn? Còn các ngươi mười năm khổ công luyện tập chỉ biết đánh gươm múa quyền, cỡi ngựa bắn cung những môn tầm thường vô dụng ấy có thể cự địch vạn nhân hay không? Kẻ nào bất phục cứ tự tiện lui ra khỏi võ trường, không được châu đầu chụm lại buông lời oán trách mà phạm tội với triều đình.
Hơn hai ngàn cử tử nghe lời đe dọa ấy đều phải nén lòng im hơi lặng tiếng, tự biết mình bé cổ tiếng kêu khó thấu đến cửa rồng, chỉ dám giận mà không dám thốt thành lờị Hơn phân nửa cử tử vì quá phẫn uất ùn ùn kéo nhau ra về.
Vương Bổn Luyện mỉm cười đắc ý, ra hiệu lệnh bắt đầu cuộc khảo khí trong đám cử tử chỉ rải rác đi ra vài mươi người, kẻ mạnh nhất chỉ đến cái đảnh thứ ba sáu trăm cân là cùng. Đến cái đảnh thứ tư tám trăm cân là họ đã lắc đầu lè lưỡi ríu rít rút lui không một ai dám giơ tới, huống hồ là cái đỉnh nặng nhất một nghìn cân kia thì ai dám sờ mó đến bao giờ.
Vương Bổn Luyện thấy mưu gian đá thành công, trong lòng cả mừng, bên ngoài vờ chán nản lắc đầu nói :
- “Bao nhiêu cử tử năm nay, toàn là thứ vô dụng, cái đảnh một ngàn cân như thế kia mà không một ai cử nốt, tìm cho được một dõng sĩ anh hùng thật khó, tiếc thay!”.
Vừa dứt lời, thì từ trong đám đông cử tử bỗng nhảy ra một võ sinh lớn tiếng nói :
- Các người thật là đồ ăn hại, cái đảnh nhẹ hếu sáu trăm cân mà giơ cũng chẳng muốn nốt, để ta giơ bổng chiếc đảnh ngàn cân cho các ngươi rõ tài!
Gã võ sinh nọ chính là Bành Chiêm Ngao con trai của quan Bành tổng binh.
Gã nghênh ngang tiến tới chỗ chiếc đảnh lớn nhất giơ hai tay nắm chặt lấy chân đảnh giơ lên, chiếc đảnh cao cỡ hình người, lớn kềnh càng như cái lu nước, nặng đến ngàn cân kia mà gã họ Bành giơ cao khỏi đầu, trông nhẹ nhàng như trò chơi, mọi người ngồi trên hiệu đài đều nức nở ngợi khen.
Vương binh bộ sáng rỡ đôi mắt quay sang nói với tả hữu :
- Thật quả hạt minh châu lẫn trong sỏi cát, bổn quan vì quốc gia tìm được kẻ chân tài rồị
Bành Chiêm Ngao giơ bổng chiếc đảnh nghìn cân liên tiếp ba lần, mới từ từ để xuống rối vênh váo bước lên hiệu đài chờ lệnh. Vương Bổn Luyện bước xuống nắm tay y hỏi :
- Tráng sĩ tên họ gì?
Bành Chiêm Ngao cung kính đáp :
- Bẩm đại nhân, vãn sanh tên Bành Chiêm Ngao, người ở Hà Nam, huyện Chương Võ.
Vương Bổn Luyện liền nói :
Táng sĩ đã cử chiếc đảnh ngàn cân, thần lực quán chúng, bổn quan chấm tráng sĩ đậu Võ Trạng kỳ này rất xứng đáng vậỵ
Nói đoạn quay sang tả hữu :
- Các ngươi mau đem áo mão đến đây dâng cho Tân khoa võ trạng.
Hai gã tùng nhân liền chạy đến, bưng hai cái “Đại hồng kim huê” định dội lên đầu cho tân Võ trạng Bành Chiêm Ngao...
Lúc ấy từ trong đám đông, bỗng nhảy ra một người hét lớn lên :
- Hãy khoan!
Người ấy chính là Liêu Quân Bảọ
Chàng thây Bành Chiêm Ngao không một chút vận sức mà có thể giơ nổi chiếc đảnh ngàn cân, trong lòng phát hồ nghi, vì nhìn thấy cử tử họ Bành, thân hình ốm nhỏ không phải là một trượng phu dõng lực, thì làm sao cử nổi chiếc đảnh ngàn cân dễ dàng như thế. Cho nên Quân Bảo liền rảo bước đến chiếc đảnh đưa tay sờ thử xem coi thì biết rõ là giả tạo, nên lên tiếng ngăn cản.
Vương binh bộ biến sắc một vội quát lớn :
- Tên tiểu tử quê mùa kia từ đâu đến, võ trạng nguyên khoa này đã chấm xong rồị Mi còn đến đây làm gì!?
Quân Bảo thấy cử chỉ khác thường của quan chủ khảo, chàng đã hiểu rõ ít nhiều ẩn tình bên trong liền nói lớn :
- Vãn sanh không có ý tranh đoạt chức Võ trạng, mà cốt ý đến đây để thử xem sức mình có thể cử nổi chiếc thiết đỉnh ngàn cân kia không!
Nói xong chàng không chờ Vương Bổn Luyện cho phép hay không, vội giơ tay nắm lấy chân đỉnh giơ lên cao một cách nhẹ nhàng, mọi người thấy thế đều lớn tiếng cổ võ vang dậy khắp khảo trường.
Liêu Quân Bảo vừa giở bổng chiếc đảnh lên, chàng đã hiệu rõ tất cả sự thực! Thì ra chiếc thiết đỉnh ấy tuy điền số mục trọng lượng là một ngàn cân, hình dạng chiếc đỉnh xem ra rất to lớn, nhưng lại nhẹ phều không tới bảy mươi cân, hiển nhiên là chiếc đảnh rỗng ruột được trạm trổ một cách khéo léo, nếu không giơ chiếc đảnh lên thì khó mà biết được là chiếc đảnh rỗng ruột.
Liễu Quân Bảo cười ngất một hơi dài rỗi mới nói :
- Bẩm Đại Nhân! Chiếc đảnh này nặng đến một ngàn cân ư? Nó chỉ nặng độ một trăm cân là cùng!
Đám cử tử đều ngạc nhiên nhôn nhao cả lên. Vương binh bộ mặt xanh như chàm đứng chết trân trên hiệu đàị
Bành Chiêm Ngao thấy tình hình như thế, nhảy lẹ xuống giáo trường hét lớn một tiếng :
- Tiểu tử!
Vừa hét vừa phi nhanh ra một chưởng thoi vào mặt đối phương. Quân Bảo cười khẩy một tiếng, sử dụng ngay cầm nã thủ bắt cứng tay y rồi lôi mạnh một cái và quát :
- Té xuống!
Tân khoa Võ trạng Bành Chiêm Ngao dũng lực cử đỉnh ngàn cân như thế mà lại không chống được cái lôi tầm thường của Quân Bảo, té nhủi xuống đất, nằm sấp như một con ếch chết khô.
Chính cái té quá ư dễ dàng ấy, đã giúp mọi người càng hiểu rõ ngay chân tướng của Bành Chiêm Ngao, cho nên từ trong đám cử từ có trên mấy chục người chạy đến bên chiếc đỉnh tranh nhau giở lên xem thử quả nhiên chỉ nặng có mấy mươi cân. Mọi người đều phẫn uất đồng thanh la lớn :
- Không thể như vậy được! Chúng ta mười năm khổ công luyện tập, lăn lộn vạn lý quan san đến đây để khảo thí, không lẽ để cho tên chủ khảo này ăn của đút lót, làm chuyện bất công hay saỏ
Có nhóm lại hét lớn :
- Bắt tên chủ khảo dơ dáy ấy, chặt đầu lột da đi!
Vương binh bộ lúc đầu còn ra oai quát tháo bọn quân sĩ tùy tùng bắt những cử tử làm loạn khảo trường trục xuất ra khỏi trường thị Nhưng cử tử bốn phương có trên mấy ngàn người, mà đám quân sĩ tùy tùng không tới hai trăm, nếu giở thói bạo động ra, với một nhóm quân sĩ ít ỏi ấy không đủ cho đám sĩ tử đang phẫn uất kia làm cỏ trong nháy mắt: Nên tuy miệng chúng dạ rân nhưng tên nào tên nấy im thin thít chẳng dám rục rịch gì cả.
Liễu Quân Bảo không còn vị nể gì nữa, phi thân nhảy lên hiệu đài túm áo Chủ khảo Vương binh bộ quát mắng :
- Cẩu quan hôi thúi này, triều đình mở khoa thi để chọn hiền lọc sĩ, mi lại ăn của đút lót rồi nhắm mắt há miệng để chọn một Võ Trạng Nguyên thiu nhớt như vậy phải không?
Bọn võ sĩ hầu cận hai bên rút khí giới định tiến lên tiếp cận, Quân Bảo hai tay giơ bổng Vương binh bộ lên khỏi đầu, lớn tiếng quát :
- Đứa nào tiến lên một bước, Liễu mỗ sẽ quật chết tên cẩu quan này ngaỵ
Bọn võ sĩ thấy thế đều sợ hãi đứng yên. Vương chủ khảo hồn vía không còn vội khoát tay lia lịa cho bọn thủ hạ lui xuống, mồm lắp bắp van xin :
- Chuyện... chuyện này không phải do hạ quan chủ mưu, mà chính tại Bành tổng binh đem lễ cho tôi năm ngàn lượng vàng và bảo tôi làm như vậy để giúp cho con trai y được cái chức Võ Trạng Nguyên!
Liêu Quân Bảo cả giận, quay lại nói lớn với đám sĩ tử :
- Các bạn đã nghe rõ chưả Tên cẩu quan này đã nhận của Bành tổng binh năm ngàn lượng vàng để chấm cho con trai của Tổng Binh đậu võ trạng, chúng ta mười năm khổ luyện mong có ngày ra sức cho Triều Đình. Nhưng bị tên cẩu quan tham tài đã cố ý rào đường lấp ngõ làm mất một bước tiến của chúng tạ Tội của y đáng chết hay đáng sống?
Chúng cử tử đều phận uất đồng rập lên một tiếng :
- Đáng chết, đáng chết! Lột da nó ra!
Liêu Quân Bảo được đám cử tử vỗ tay cổ võ, đang lúc hăng say quên cả lợi hại, vận sức nắm hai chân của Vương chủ khảo dộng đầu y xuống đất nghe “bộp” một tiếng, xương sọ của Vương chủ khảo bể nát, óc phọt ra cả hai bên, nầm dẫy tê tê trên mặt đất.
Mọi người thấy Quân Bảo đã quật chết Vương chủ khảo, đồng cổ võ ồn ào như sấm động. Trong đám đông lại có người la lớn :
- Đã giết tham quan thì bề nào cũng đắc tội với triều đình, chúng ta phá luôn cái khảo trường rồi tẩu thoát!
Đám cử tử đang hăng máu nghe đâu là làm đó không còn kể đến nguy hiểm gì cả, mạnh ai nấy đập phá cho đã taỵ Bao nhiễu bàn ghế lều trại rào dậu của khảo trường chỉ trong chốc lát đã bi đám cử tử đập phá tan tành, ngã đổ lăn lóc khắp mặt đất.
Chỉ tội cho đám binh si vô tội bị đám cử tử quá khích xông đến chém giết tơi bời không còn một tên sống sót.
Đến lúc trong triều hay được tin tức, cử tử náo loạn trường thi giết chết chủ khảo, phái đại dội binh mã tới vây bắt, thì khảo trường chỉ còn là một đất hoang, với trên mấy trăm thi thể đứt đầu lủng ruột của đám quân sĩ nằm la liệt dưới mặt đất, còn đám cử tử đã nhanh chân trốn chạy mất dạng từ lúc nàọ
Liêu quân Bảo là thủ phạm giết chết chủ khảo, nên sau khi trốn về được tới nhà, bèn thu thập tất cả đồ tế nhuyễn, đuổi tất cả gia nhân, rồi một người một ngựa bươn bả ngày đêm định trốn đến nương tựa với người chú làm nghề lái cây ở tận Hồ Nam nơi Nhạc Châu Thành.
Đi được bảy tám ngày đường đến gần địa phận Hồ Bắc, chàng noi theo đường nhỏ băng qua Tòng Bá Sơn để đến bờ sông Nam Giang. Lúc ấy triều đình đã họa đồ hình của Liêu Quân Bảo phân phát khắp nơi lại còn treo giải thưởng trọng hậu cho ai lùng bắt hay chỉ điểm quan quân bắt được tên trọng phạm Quân Bảọ
Quân Bảo cả sợ liến lấy mực đen bôi lên khắp mặt mày còn mua thêm thuốc cao dán cùng mình mẩy, mặt tai để không ai nhìn mặt được. Đến bờ sông Nam Giang chàng biết nơi bến sông có tai mắt của quan quân rất nhiều nên không dám qua sông ban ngàỵ Chàng tìm nơi vắng vẻ gần đấy ẩn nấp.
Quân Bao nhìn kỹ biết rõ là thuyền bè đang lo chuyên chở loại đá Hoa Cang từ miền Thái Hồ về nạp cho Triều Đình.
Thấy tình hình như vậy, Quân Bảo tự biết là không hy vọng gì qua sông được. Chàng vừa định dời bước men theo bờ sông để tìm cách khác thì bỗng lúc ấy tiếng kêu la vang dậy, nhìn lại chàng thấy trên mấy chục tên lính hung dữ, có một gã Đô đầu đi trước dẫn đường, toán lính bắt theo hơn mười mấy người phường thuyền ăn mặc lam lũ, giải lên bờ sông.
Những người phường thuyền này đủ cả nam nữ, bé lớn. Gã Đô Đầu vừa giải bọn phường thuyền lên hết trên bờ, thì từ dưới đại thuyền bước ra một vị võ quan, quát mắng :
Trương Đô Đầu có bắt được tất cả những bọn lái thuyền cứng đầu, không chịu đem thuyền đến nạp ấy chưả
Trương Đô đầu chắp tay cung kính thưa :
- Bẩm Thống Chế Lão Gia, tiểu nhân đã bắt giữ tất cả bọn họ đến đây chờ Lão Gia phát lạc.
Vị Thống Chế ấy tên gọi là Vạn Thế Kiệt được Thái sư Trà Kinh phái đến đây để coi sóc việc chuyên vận đá hoa cương, với chức vụ Tổng Chỉ Huy y liền lớn tiếng mắng :
- Bọn mi thật đáng tội chết, nơi đâu cũng là đất đai của triều đình, các ngươi đều là con dân của Hoàng đế. Bọn mi đã thọ ân mưa móc của Triều ca, chỉ giúp cho quan gia vài ngày vận chuyển đá Hoa Cương về nạp cho Hoàng Thượng, mà bọn mi lại cưỡng mệnh không chịu! Bọn mi có biết rằng tội không tuân Thánh chỉ nặng ngang hàng với tội mưu phản không?
Trong bọn phường thuyền có hai người đứng dậy lên tiếng :
- Bẩm thượng quan, trên tháng nay phường chúng tôi vì phải chuyên chở đá Hoa Cang cho Triều Đình mà không chài lưới gì được cả, đến đỗi nhà không còn gạo để nấu, Thượng Quan có thấu biết cho không?
- Bây đâu! Bắt hai thằng mọi ấy cho ta!
Nào ngờ hai tên phường chài ấy phẩy tay một cái “Vút, vút” ném ra hai mui phi tiêu bằng gang cắm phập vào yết hầu và ngực của Vạn Thế Kiệt. Y kêu lên hai tiếng “Ối chà!” rồi ngã “Bộp” xuống đất chết tốt.
Bọn quan binh hò hét vang lên, hai gã thuyền chài bèn móc trong người ra hai chiếc bàn tay người bàng sắt giơ cao lên khỏi đầu làm hiệu lệnh. Vừa thấy tín hiệu bàn tay sắt thì lạ lùng thay đám thuyền chài muôn người như một đồng loạt rút khí giới giấu sẵn hoặc nhanh tay đoạt lấy khí giới của bọn quan lính rồi nhảy bổ đến chém giết đám quan quân tới tấp.
Đoàn quan binh phụ trách việc đốc công dân phu không tới bảy mươi người, mà đám dân phu có trên bốn năm trăm nên chẳng mấy chốc bọn quan binh lớp chết lớp té xuống sông, kỳ dư bao nhiêu lủi đầu chạy trốn thục mạng.
Trương Đô Đầu thấy tình thế nguy hiểm định quay đầu tẩu thoát, gã phường chài phong ám khí lúc nãy vội rút thanh giới đao ra, tung mình nhảy ra trước chận lại, quát lên :
- Cẩu quan hại dân hại nước, định chạy đi đâủ
Trương Đô Đầu run lẩy bẩy chưa kíp trả lời thì từ phía sau ba bốn tên dân phu kẻ đao người kiếm đã xông tới vật Trương Đô Đầu xuống rồi thi nhau đâm nát thân thể y thành một đống thịt bầy nhầy trên mặt đất.
Quân Bảo núp trong bụi cây mục kích tất cả sự việc, trong lòng hết sức khoái trá bèn rời chỗ núp bướt rạ Gã chận đầu Trương Đô Đầu lúc nãy là một đại hán lùn thấp thấy Quân Bảo là người lạ mặt liền múa dao tiến tới hét lên :
- Mi là đồng bọn của cẩu quan phải không? Cho mi theo bọn chúng về chẫu hà bá luôn thể!
Quân Bảo vội chấp tay đáp: “Kính chào chư vị hảo hán, tại hạ là Liễu Quân Bảo, không phải là người của quan quân...”
Gã đại hán lùn thấp liền reo lên :
- Ủa! Các hạ là thủ phạm giết chết chủ khảo tại kinh đô đấy phải không?
Liễu Quân Bảo mỉm cười gật đầu và đáp :
- Phải! Chính là tại hạ!
Gã đại hán lùn thấp vội giắt đao vào lưng, tươi cười bảo :
- Các hạ dám ở kinh đô giết chủ khảo, thật là một trang hảo hán. Tiểu đệ là Thiết Bối Hùng Truy Bá, thay mặt Thiết Chưởng bang chủ cung nghinh các hạ gia nhập vào Bang! Anh em ta đâu mau lại đây!
Nói xong, y bước tới nắm tay Quân Bảo tỏ vẻ rất thân mật, những bang chúng võ trang dân phu lúc nãy cũng tranh nhau bước đến kẻ vỗ vai, người kéo tay, mỗi người một câu, làm Quân Bảo trả lời không kịp thở. Bọn họ bèn đem những thành tích vẻ vang của Thiết Chưởng bang ra kể lại cho chàng nghe để Quân Bảo bùi tai mà ra nhập vào Bang.
Thì ra Thiết Chưởng bang thế lực bành trướng tai trung du của sông Trường Giang và cả một miền Hồ Quảng.
Bang hội này đượm màu thần thánh mê tín, bang chúng tuy không đông lắm nhưng cũng có trên bảy ngàn người, tổ chức hết sức bí mật. Bang hội được sáng lập vào thời Tống Thần Tông. Lúc đầu chỉ là một tổ chức ô hợp của đám người buôn muối lậu và cướp bóc, nhưng sau khi tống Dực Tông tước vị triều chính thối nát, gian thần Trà Kinh lộng quyền, tham quan ô lại đầy dẫy, dân gian lầm than đói rách, nên phẫn uất kéo đến ra nhập vào Thiết Chưởng bang càng ngày càng đông.
Bang chủ thời ấy là Thiết Hưng, thấy bang chúng đã đông, qui mô đã rộng lớn, bèn mở Hương Đường, định lại qui chế Bang hội, thâu nạp tất cả anh hùng cùng bọn lục lâm thảo khấu để củng cố thế lực, lập Tổng Đà tại Tương Tây trên Thiết Chưởng sơn.
Thiết Chưởng bang chủ mưu mô rất lợi hại, luôn luôn tìm dịp chống đối với triều đình để thu hút lòng dân. Nghe được tin Phủ Quan xung công thuyền bè, áp bức dân gian phải làm xâu để chuyện vận đá chuyển đá hoa cương, lòng dân đang than oán, Thiết Hưng cho là một cơ hội tốt để gây thanh thế cho Thiết Chưởng bang, nên phái hai vị đầu mục là Thiết Bội Hùng Truy Sát và Sơn Thạch Hổ Tra Thành đem mấy mươi bang chúng tới bờ sông Nam Giang trà trộn với đám dân phu để tìm cách giết chết quan binh và ngẫu nhiên gặp được Liễu Quân Bảọ
Liễu Quân Bảo thầm nghĩ hiện giờ chàng đang bi triều đình tập nã gạt gao, họa đồ hình dạng chàng nơi đâu cũng có, khó mà còn chỗ trốn tránh cho an toàn.
Thiết Chưởng bang là một Bang hội đối lập với triều đình thật là hợp với ý chí và tình cảnh của chàng hiện tạị Nên chàng chẳng cần suy hơn tính thiệt, vội gật đầu ưng thuận gia nhập Thiết Chưởng bang và nhờ Truy Bá tiến dẫn mình vào hộị
Liễu Quân Bảo được Truy Sát và Tra Thành đưa tới Thiết Chưởng sơn ở Tương Tây để yết kiến Bang chủ thiết Hưng. Sau khi chích huyết thề nguyền và làm đủ tất cả mọi nghi thức của một bang chúng gia nhập vào Bang hội, Liễu Quân Bảo được Thiết Hưng phong cho chức Đầu mục và cắt đặt chàng làm Phân đà chủ ở Dương Huyện tại tỉnh Hồ Bắc.
Mục đích của Liễu Quân Bảo gia nhập vào Bang hội Thiết Chưởng là vì chàng ngưỡng mộ tài nghệ cao siêu của Bang chủ Thiết Hưng chỉ muốn được học hỏi tài nghệ của Bang chủ chứ không ham muốn đến chức vị phân đà Chủ của Thiết Chưởng bang chút nàọ Chàng mấy lần cậy nhờ Truy Sát và Tra Thành nói với Bang chủ Thiết Hưng, nhưng Thiết Hưng cứ một mực tìm cách thối thoái, Quân Bảo hết sức thất vọng.
Quân Bảo gia nhập Thiết Chưởng bang thấm thoắt thời gian đã trên bốn năm. Chàng càng ngày càng bất mãn ra mặt với hoạt động không được minh chánh của Thiết Chưởng bang. Có một lẫn chàng đến Thiết Chưởng sơn yết kiến Thiết Hưng tường trình hoạt động trong khu vực Dương Huyện của mình, bỗng gặp nơi khách thính có mấy vị khách lạ, ăn mặc rất quái dị, ngôn ngữ lại khác thường, dáng như không phải người Trung Nguyên. Quân Bảo hết sức ngạc nhiên, liền dò hỏi những bang chúng trên núị Bọn họ liền kề tai chàng bảo khẽ :
- Đà chủ không biết saỏ Những người này là sứ giả của nước Kim được đặc phái đến yết kiến Bang chủ đấy!
Quân Bảo càng hồ nghi hơn nữạ Vì một Bang hội thế lực tầm thường như thế này, tại sao Kim Chúa cần phải sai sứ giả đến yết kiến Bang chủ để làm gì, chàng cố hết sức dò hỏi những người tâm phúc của Bang chủ Thiết Chưởng bang.
Thì ra Kim Chúa phái sứ giả tới đây để liền lạc bí mật với các Bang hội ở phương Nam này, ước hẹn sau khi diệt Liêu Xong, quân Kim sẽ tấn công xuống miền Nam để diệt cả nhà Tống và nhờ các Bang hội hãy thừa cơ nổi dậy, chiến đoạt Châu phủ, giết chóc quan quân, khuấy rối hậu phương của quân Tống, để đội quân của Kim Chúa dễ dàng thành công khi cử đồ đại sự.
Liêu Quân Bảo tuy rất oán ghét tham quan vô lại của nhà Tống, nhưng nghe đến bang Hội của mình tư thông với giặc ngoại bang, chàng hết sức bất bình, thầm nghi rằng :
- “Triều đình dù thối nát đến mức nào, chúng ta cũng không nên cấu kết với ngoại bang làm giặc! Không được, ta phải hết sức can ngăn Bang chủ, nhưng nếu người không chiu nghe lời phải, ta sẽ xin ra khỏi Bang hội!”
Rạng ngày Liễu Quân Bảo tìm cách yết kiến Bang chủ Thiết Hưng và nói :
- Thưa Bang chủ! Tiểu nhân thấy trong sảnh đường có hai ba vị khách lạ dường như là sứ giả của nhà Kim ở phương Bắc.
Thiết Hưng liền ngắt ngang lời nói của Quân Bảo :
- Hiền đệ không cần nói ta đã hiểu! Hiền đệ hãy ngồi xuống ta sẽ nói cho biết mọi sự.
Chờ Quân Bảo ngồi xuống xong Thiết Hưng nghiêm sắc mặt lại và nói tiếp :
- Tháng trước đây, chúa nước Kim là Hoàn Nhan A Cốt đã phái sứ giả đến miền Nam, liên lạc với tất cả Bang hội trên giang hồ, cùng nhau trong ứng ngoài hiệp lật đổ Triều Tống để cộng hưởng vinh hoạ Bang chủ hứa không chiếm đất đai của Trung Nguyên mà chỉ cần gái đẹp cùng ngọc ngà và hứa sau khi dại sự đã thành sẽ cắt đất phong Vương cho chúng ta một cõị Thật là cơ hội tốt để chúng ta lập chữ công danh. Nếu sự thành thì xênh xang áo mão, vương hầu một cõi xưng hùng, có phải vinh dự hơn là suốt đời phải núp trong nùi sâu rừng thẳm để mang danh thảo khấu không?
Quân Bảo nghe đến đây, phẫn uất không nhịn được thét lớn :
- Bang chủ!
Thiết Hưng vụt sầm nét mặt nói :
- Hiền đệ đừng nóng, ta còn vài điều muốn nóị
Vừa nói hắn vừa móc trong túi ra tín vật của Thiết Chưởng bang là chiếc hàn tay sắt, giơ cao lên và gằn giọng tiếp :
- Thiết Chưởng bang của chúng ta từ ngày thành lập đến nay Bang chủ luôn có một uy quyền tối cao, mỗi câu mỗi lời đều là mệnh lệnh, kẻ dưới tuyệt đối tuân theo, chớ không được quyền dị nghị chê bai! Phàm là người của Bang hội, kẻ nào không tôn kính Bang chủ thì phải y theo quy luật của bang mà trừng trị. Nếu là tội cực nặng thì lột trần thân thể giam vào động Ngũ Thánh cho ngàn rắn phân thây!! Mi còn có lời gì muốn nóỉ
Thiết Hưng trong lúc nói mấy lời ấy, sắc mặt của y thật lạnh lùng đáng sợ.
Những bang chúng hầu hạ hai bên tả hữu hầm hè chờ lệnh là xông lên. Liễu Quân Bảo nhìn thấy tình hình nghiêm trọng như vậy trong bụng hơi hoảng, nín lặng không nói gì cả.
Thiết Hưng thấy chàng muốn nói lại thôi, liền cất tiếng sang sảng nói :
- Liễu Đà Chủ, bây giờ chắc không có điều gì nói thêm nữa phải không?
Liễu Quân Bảo tự hiểu, nếu bây giờ chàng lên tiếng phản đối là nguy đến tính mạng ngaỵ Vả lại, Thiết Chưởng bang tư thông vớt nước Kim đã thành sự thật, lời phải trái của chàng cũng thành vô dụng mà thôi, nên nói một cách xuôi xị :
- Thưa Bang chủ, tôi không có ý kiến gì cả!
Thiết Hưng cười giả lả và nói :
- Tốt lắm, Liễu Đà Chủ lui ra ngoài nghỉ ngơi, ba ngày sau hãy trở về Cái Dương huyện.
Liễu Quân Bảo buồn bã trở về Nghinh Khách quán, nằm nghỉ hơn hai ngày trời càng nghĩ càng không phục, bèn quyết định ly khai với Thiết Chưởng bang để khỏi “Trợ Trụ vi ác” mà bại hoại thanh danh.
Sáng ngày thứ ba Liễu Quân Bảo lên đường trở về Cái Dương huyện. Nhưng vừa về đến Dương huyện, Tổng Đà Chủ đã phái thêm một phó phân đà chủ, tên Thiết Diện Hổ Đổ Hồng, gã là người tâm phúc của Bang chủ Thiết Hưng, bề ngoài đến đây để tiếp tay cho Quân Bảo những kỳ thật là để canh chừng mọi cử động của Quân Bảọ
Quân Bảo thấy vậy trong lòng càng thêm phẫn uất, ý định thoát ly chốn khỏi Bang hội càng cương quyết hơn.
Độ nửa tháng sau, chàng mượn cớ đến Kinh Đô để do thám tin tức trong triều, và để cho Thiết Diện Hổ Đổ Hồng khỏi nghi nan. Quân Bảo đem theo ba tên bang chúng đồng đi theo với mình.
Chàng đã tính sẵn mưu lược thoát thân, nên đêm đến một thị trấn phía Bắc thành Cái Dương liền tìm khách điếm nghỉ ngơi, lén bỏ “Mông hãn dược” vào rượu phục cho ba tên bang chúng uống say mê man. Chàng mới đổi thay y phục len lén dắt ngựa ra khỏi khách điếm ra roi suốt đêm rời khỏi địa phận tỉnh Hồ Bắc.
Liễu Quân Bảo tưởng mưu kế của minh như vậy là kín đáo, khó ai phát giác được. Nào ngờ Đỗ Hồng đã được mật lệnh của Bang chủ Thiết Hưng nên nhất cử nhất động của Quân Bảo đều không thoát khỏi tai mắt của Đổ Hồng.
Chàng trốn khỏi khách điếm chẳng đầy ba giờ đồng hồ sau là Đổ Hồng đã tiếp được tin cấp báọ Y lập tức dắt theo bảy tên tâm phúc đuổi theo bén gót. Ngựa của Quân Bảo tuy chạy rất khỏe nhưng suốt mấy ngày đêm không hề dừng vó, đến Lâm Đồng Quan là người ngựa đã thấm mệt. Nhờ vậy Thiết Diện Hổ cùng bảy tên bang chúng đuổi theo bắt kịp. Liễu Quân Bảo vì sự sống còn của tính mạng, tận lực giao đấu giết được ba tên bang chúng, nhưng chàng cũng bị trúng một đao gần đứt lìa bả vaị
Chàng phục mình trên ngựa chạy thục mạng. May nhờ số mệnh còn dài, ngẫu nhiên gặp lúc Trùng Dương lấy được Cửu Âm chân kinh từ Hoa Sơn trở về ra tay cứu cho khỏi chết.
Liễu Quân Bảo thuật rõ thân thế mình xong và đã biết ngươi cứu mạng chàng chính là Vương Trùng Dương chân nhân danh tiếng đồn đại như sóng dậy trong giới Võ Lâm, chàng hết sức mừng rỡ ngồi phục xuống lạy Trùng Dương xin thâu nhận chàng làm đồ đệ.
Trùng Dương tính thầm trong bụng, hiện giờ đã có bốn người đệ tử, lần đến Hoa Sơn thâu nhận Vương Nguyên Bân, trên đường trở về lại bắt gặp Liễu Quân Bảo nếu nhận thêm hắn làm đồ đệ thì trước sau được sáu tên đệ tử chỉ còn thiếu một người nữa là có thể luyện được “Thiên Sát Bắc Đẩu trận”. Chàng bèn gật đầu đáp :
- Tốt lắm! Ngươi muốn bần đạo thâu nhận làm đồ đệ phải không? Bần đạo rất sẵn lòng vì đã làm ơn thì làm ơn cho trót! Nhưng bần đạo là kẻ huyền môn đạo sĩ, không thể thâu nhận đồ đệ tục gia! Nếu nhà ngươi muốn bái ta làm sư phụ thì phải dóc tóc làm đạo sĩ tuyệt điều hệ lụy, ngươi có bằng lòng không?
Liễu Quân Bảo vội đáp :
- Đệ tử sinh nhằm giờ xấu, nên số mệnh chịu lắm gian truân, lòng đệ tử chán ngán hồng trần thế sự. Nếu được ân sớ chỉ điểm sông mê độ khỏi bờ tục lụy để được ngồi dưới chân Tam Thánh hưởng thú tiêu dao thanh tịch. Thật là ngoài ước muốn của đệ tử. Xin ân sư ban đạo hiệu cho đệ tử.
Vương Trùng Dương cả mừng cho phép Liêu Quân Bảo khấu đầu làm lễ và thâu nhận chàng làm đệ tử. Liễu Quân Bảo sau này là Liễu Xử Huyền, một nhân vật khét tiếng trong Toàn Chân thất tử.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top