1.
Phố nghèo xưa, mái ngói nghèo xưa
Ngoài ga cũ tiếng còi xa buồn
Phố mờ sương, mái ngói mờ sương
Thiếu phụ buồn thương đi trong sương như nhân ảnh mờ.
(Phố nghèo, Trần Tiến)
-----
Chẳng hiểu sao, mọi lần tôi nhìn thấy thằng bé đó, đều là qua khung cửa sổ ở nhà bà ngoại tôi.
Có những lúc tôi thấy cái dáng gầy gò của nó nhảy chân sáo qua đoạn đường cái không một bóng xe cộ, tay cầm cái bao tải rỗng, ngó nghiêng cái đầu một hồi trước khi phóc qua đường ray tàu hỏa để sang đến Bãi Than. Thế rồi, suốt một tiếng đồng hồ sau, nó cứ lang thang quanh quẩn bên đó, nhặt nhạnh những mẩu than vụn, thỉnh thoảng ngứa chân đá tung lên không trung những cái vỏ hộp rỗng của khách đi tàu vứt xuống. Cái bóng nó mặc áo trắng, vui vẻ nhảy nhót, thoáng gần thoáng xa, nom như con chim bồ câu trắng giữa khu đất rộng lớn, đen sì và bụi bặm.
Có những lúc tôi thấy nó đẩy xe phụ mẹ nó đi đưa than. Thân hình nhỏ bé khuất sau lưng mẹ, nó lầm lũi cúi mặt, bặm môi đẩy cái xe cút kít chở đầy những viên than tổ ong đen nhánh. Những lúc ấy, nó mất đi cái vẻ lanh lợi nhanh nhảu mà tôi vẫn cảm nhận như lúc thấy nó ở ngoài Bãi Than. Cái áo sơ mi cũ rích mặc đã ngả màu cháo lòng và lem nhem những vệt đen, quần cộc, đôi dép tổ ong làm lộ ra những móng chân cáu bẩn. Có những khi nó còn chẳng buồn xỏ dép, cứ thế chân trần bước đi, mặc cho mẹ nó càu nhàu luôn miệng suốt đường đi, giữa buổi chiều oi ả. Chiếc xe lóc xóc vì đường đầy đá răm, nảy lên nảy xuống, hai tay nó càng ghì chặt vào chỗ tay cầm đến độ các ngón tay trắng bệch, lưng khòng xuống, cả thân trên rung lên.
Cũng có những lúc tôi bắt gặp nó đang hì hụi xếp than lên hè nhà bà tôi. Bà tôi đứng bên cạnh, trên tay là cốc nước lọc chờ sẵn, nhìn nó với ánh mắt ân cần xen chút trìu mến, cùng những lời chỉ dẫn hết sức nhẹ nhàng, "đó, con để đó cho bà, ừ, đúng rồi, cảm ơn con, con uống nước đi." Đó là những lần hiếm hoi tôi nhìn rõ khuôn mặt nó. Thật ra trông nó cũng chẳng có gì nổi bật, ngoại trừ mái tóc hơi hoe vàng vì dang nắng nhiều. Nó có vẻ lầm lì khó gần, hầu như chẳng mỉm cười bao giờ, kể cả khi cần đáp lại nụ cười của bà tôi.
Chỉ là có một lần, nó vừa quệt mồ hôi trên trán vừa ngẩng đầu lên ngó nghiêng quanh nhà, đúng lúc bắt gặp tôi ngồi sau cửa sổ đang quan sát nó. Cả tôi và nó cùng hơi giật nảy người, nhưng nó là đứa quay đi trước. Tôi cứ nhớ mãi lần đó, vì ánh mắt nó nhìn tôi lúc đó sao mà buồn thật buồn.
-----
Tôi không biết tên thằng bé. Tôi chỉ biết nó là con cô Cúc bán than. Mẹ con họ mới chuyển đến khu tôi độ hai tuần. Họ dựng lều ở cuối phố, đoạn có ngôi nhà của bác Hòa ngày xưa, giờ đã thành bãi đất hoang, nằm bên bờ sông Sét, cỏ lau mọc đầy. Từ ô cửa sổ trên gác mái nhà bà tôi nhìn ra, có thể thấy được căn lều của cô Cúc hàng đêm, thời điểm mà cô chong đèn nắm mẻ than mới. Thường ngày, bà bắt tôi đi ngủ khi tiếng còi tàu hụ dài báo chuyến tàu đêm chạy qua, tức là khoảng mười rưỡi tối, nên tôi chỉ biết rằng đến lúc đó lều của mẹ con cô Cúc vẫn sáng đèn.
Ấn tượng đầu tiên của tôi với cô Cúc là cô có thân hình chắc nịch và đôi vai rộng của những người phụ nữ làm nông, gương mặt xởi lởi và giọng nói sang sảng khỏe khoắn. Sau này, qua bà ngoại, tôi mới biết rằng cảnh nhà cô cũng buồn. Trước đây, gia đình cô vốn ở đâu đó ngoài bãi sông Hồng, kiếm sống bằng nghề trồng chuối trồng vải. Trên thằng bé con kia còn có một người anh trai nữa, nhưng mấy năm trước anh trượt chân xuống sông đúng mùa lũ, bị con nước cuốn đi, tìm không thấy xác. Chồng cô từ dạo đó chán nản, bỏ bê vườn tược, suốt ngày say xỉn, đến một ngày bỏ nhà đi đâu không hay. Thiếu người làm, mảnh đất nhà cô đành bỏ không. Thằng bé con thì bỏ lớp vì chẳng có tiền theo học. Hai mẹ con họ đã xoay đủ nghề để kiếm sống, rồi thì bỏ xứ mà đi, vì ở quê chẳng kiếm nổi bát gạo. Túp lều nọ chỉ là một trong rất nhiều nơi mà mẹ con cô Cúc đã sống qua.
Bà tôi kể bằng giọng bùi ngùi, rồi khẽ đưa mu bàn tay lên chấm nước mắt.
"Thằng bé tên Hải. Nó kém cháu một tuổi, nhưng mới học hết lớp ba. Giờ nó bỏ học rồi, theo phụ mẹ nó bán nước, bán than. Nó ngoan lắm, lần nào đi qua đây cũng lễ phép chào bà."
"Nhưng mà sao bà biết được những chuyện đó hả bà?"
"Cô Cúc kể. Nhưng cháu đừng có bép xép chuyện này với ai, cũng đừng có hỏi thằng bé đấy, kẻo nó tủi thân."
"Cháu biết rồi. Bà lại còn phải dặn nữa."
Tất nhiên tôi sẽ không bao giờ hỏi thằng bé con cô Cúc về chuyện bố mẹ hay anh trai nó. Nếu có một bài học gì mà khu phố này đã dạy tôi từ hồi còn bé tí hon, thì bài học đó là: đừng bao giờ hỏi người khác về gia cảnh của họ. Mà hơn nữa, kể cả có muốn bép xép như lời bà, tôi cũng chẳng biết phải kể chuyện nhà thằng bé với ai trong đám bạn ở khu phố. Bình thường, những bí mật như thế sẽ được tôi đem ra bàn tán nhỏ to với anh Huy lông, nhưng anh đã theo mẹ xuống quê dưới Hải Dương từ đầu hè. Con bé Bảo An nhà bên cạnh thì vẫn ghét tôi ra mặt từ cuối năm học trước, khi kết quả thi cuối kì môn Văn của tôi cao hơn nó - một điều hoàn toàn trái với thông lệ từ khi tôi và nó cùng cắp sách đến trường tới giờ. Tôi cũng chẳng thể kể với chị Hà nhà bác Liên hay chị Dung nhà bác Toàn đầu phố, dù họ chắc chắn sẽ nghe tôi, bởi hai chị đều đã lớn rồi, và chia sẻ những vấn đề như vậy qua lăng kính trẻ con của tôi có vẻ không thoải mái cho lắm. Người hợp lý nhất để tôi chia sẻ là anh Dũng em chị Dung, nhưng dạo này anh chẳng có nhà bao giờ, trừ những lúc tối muộn, mà thường giờ đó anh cũng cắm cúi ôn bài.
Tóm lại, tôi bị bỏ mặc lại một mình với mớ suy nghĩ loanh quanh về thằng bé con cô Cúc. Mà lúc nãy bà tôi bảo nó tên là gì ấy nhỉ? À, tên Hải...
-----
Nói đến đây, có lẽ lại cần phải giới thiệu qua một chút về đám trẻ con khu phố tôi.
Gọi là phố cho sang, chứ đoạn phố nhà tôi chính xác là cái cửa ngõ của thành phố: đi qua nó là ra đến vùng ngoại ô Hà Nội. Phố chỉ có một dãy nhà, phía trước là đầu quốc lộ, sau lưng là sông Sét. Từ trên cao nhìn xuống, có lẽ đoạn phố này nom giống một cánh tay nối dài của khu đại học - ký túc - nhà tập thể phía trên. Đối diện dãy nhà tôi, qua bên kia đường là đường sắt Bắc Nam, qua đường sắt là hai khu Bãi Đá và Bãi Than, nơi chất đống những nguyên liệu sau khi làm đường sắt và nhiên liệu cho tàu chạy, cũng là nơi thằng bé con cô Cúc hay sang nhặt nhạnh than vụn. Phố vắng người, bụi bặm và đìu hiu và, dù là dưới cái nắng hè chói chang hay dưới bầu trời đông âm u lạnh buốt, vẫn mang cái vẻ cũ kỹ và mỏi mệt.
Đầu phố là nhà bác Toàn. Bác Toàn có hai người con: chị Dung và anh Dũng. Chị Dung năm nay mười bảy tuổi, là hình mẫu người chị đảm đang dịu dàng trong mọi cuốn truyện thời chiến tranh mà ngày ngày bà ngoại vẫn khuyến khích tôi đọc - ngoại trừ việc từ bé đến lớn không lúc nào chị chịu để tóc dài, hai bác bên đó gàn thế nào cũng không được. Chị khéo tay, khéo làm đủ thứ, và cũng rất tháo vát. Sau nhà có một khoảnh đất trống, chị trồng rau ăn cho cả nhà, nếu thừa thì đem ra chợ nhờ người bán. Cứ đến hè, chị nhận đủ thứ việc vặt để kiếm tiền phụ giúp cho gia đình, từ bóc hạt sen, đan rổ rá đến thêu thùa khâu vá.
Bởi vì lúc nào sang bên đó chơi tôi cũng thấy chị luôn chân luôn tay, nên tôi không hiểu chị lấy đâu ra thời gian để đọc sách. Chị mê tiểu thuyết Tây phương, và mê luôn cái tủ sách nhà tôi, thường xuyên gạ tôi cho mượn sách. Cái tủ sách ấy thực chất là do một người bạn của bố tôi mang sang nhờ giữ hộ, nhưng vì bố chẳng ở nhà, với lại chị Dung cũng cẩn thận, nên tôi vẫn tuồn sách cho chị, dù bà nội không đồng ý. Số sách chị Dung từng đọc ở tủ sách nhà tôi có lẽ phải gấp đến chục lần số sách mà chính bản thân tôi đọc, chủ yếu là vì tôi không hiểu nổi mấy câu chuyện tình cổ lỗ sĩ đó có gì mà chị mê đến thế. Chị đọc nhiều, lại nhớ nhiều, tên nhân vật Tây phương dài như sớ, thế mà chị cũng kể lại được vanh vách.
Với khả năng như vậy, rất khó hiểu vì sao học lực của chị từ xưa đến giờ chỉ ở mức trung bình. Chuẩn bị lên lớp Mười hai, chị dường như vẫn chẳng lo lắng gì đến chuyện thi Đại học, trong khi em trai chị kém một lớp đã bắt đầu ôm sách vở đi học khắp nơi. Với tình hình này, tôi nghĩ chị chỉ tính học hết cấp ba.
Em trai của chị Dung là anh Dũng, mười lăm tuổi. Trước đây đám trẻ con chúng tôi toàn gọi là anh Chíp, theo biệt danh ở nhà của anh. Sở dĩ anh có cái biệt danh đó là vì ngày nhỏ anh lúc nào cũng thấp bé hơn bạn bè đồng trang lứa, lớn lên chịu khó tập thể dục mới cao lớn hơn. Tôi vẫn còn nhớ những ngày tháng bác Toàn tay lăm lăm cây roi mây, đi lùng anh Dũng lúc gần đến giờ ăn cơm, miệng không ngừng gào "Chíp! Thằng Chíp!" Sau này anh có giải thích là vì anh là con trai duy nhất trong nhà, bố anh sợ anh lêu lổng nên có quá nghiêm khắc, chứ thực chất anh chẳng phá phách bao giờ.
Anh Dũng Chíp là huyền thoại, là niềm tự hào của đám trẻ con khu tôi. Anh có dáng người nhỏ bé và cách ăn nói lúc nào cũng nhỏ nhẹ dịu dàng, nhưng đố đứa nào sánh được với anh về chuyện học hành. Hồi nhỏ anh có tố chất nên được cho đi học sớm một năm, từ đó đến giờ lúc nào cũng xếp nhất lớp, năm rồi vừa thi đỗ trường chuyên, và chuẩn bị được chọn thi học sinh giỏi quốc gia.
Cũng dễ hiểu thôi khi đám trẻ con trong khu mặc nhiên coi anh là gia sư riêng của mình, tức là, cứ khi nào có bài toán khó là lại chạy sang ới anh nhờ anh giảng (hoặc làm hộ) bất kể thời gian (đến chị Dung còn thi thoảng hỏi anh bài trên lớp cơ mà). Thường thì anh vẫn dễ dãi gật đầu. Chúng tôi không biết trả công anh ra sao, nên thỉnh thoảng kéo nhau đi nhổ cỏ cuốn đất trong vườn nhà anh. Một công đôi việc, vừa giúp cho miếng ăn của anh Dũng ngon miệng, vừa nịnh bợ được chị Dung mỗi lần bọn tôi nhỡ đùa nghịch ngã rách áo rách quần cần phải vá lại trước khi bố mẹ biết và cho ăn đòn.
Cạnh nhà bác Toàn là nhà bác Liên. Chồng bác đi bộ đội rồi mất sớm, để lại bác với đứa con gái duy nhất là chị Hà. Chị Hà, nghe bà tôi kể, ngày xưa đi làm công nhân ở xưởng may khăn tay, nhưng do sức chị yếu mà công việc vất vả quá nên bỏ nghề, đi học bổ túc sư phạm. Năm nay chị hai lăm tuổi, học xong liên thông, nghe bảo mới được phân công đến một ngôi trường ở mãi mạn dưới. Chị vừa lấy chồng hồi đầu năm, cũng bộ đội biên phòng, chẳng mấy khi về nhà. Hiện tại chị đang mang thai đứa con đầu lòng. Trường nghỉ hè, những khi không phải soạn giáo án, chị sang bóc vỏ sen, đơm khăn tay thuê với chị Dung. Hai người thân nhau lắm, toàn thủ thỉ những chuyện gỉ chuyện gì.
Phía trong nhà bác Liên là nhà anh Huy lông. Anh Huy lông hơn tôi một tuổi. Chúng tôi gọi anh như vậy vì hai bên lông mày của anh dày cộm, nhìn y chang hai con sâu lông. Anh Huy có lẽ là người có tầm mắt "mở mang" nhất trong đám trẻ con chúng tôi, không chỉ bó hẹp bởi cái không gian phố bên sông này. Bố anh làm kĩ sư cầu đường, và vì đặc thù công việc phải di chuyển liên tục, ông đưa gia đình đi sinh sống khắp nơi. Anh Huy đã từng bôn ba ở Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên rồi Hòa Bình, trước khi về đến căn nhà anh đang ở hiện tại. Hiện giờ căn nhà đó đang đóng cửa im ỉm, vì bố anh vẫn đang công tác xa nhà còn mẹ anh đã dẫn anh về quê ngoại dưới Hải Dương. Do đã từng sống ở nhiều nơi nên anh Huy có cái vẻ kể cả, thỉnh thoảng lên mặt, mà tôi không thích lắm. Nhưng tôi rất mê những câu chuyện của anh, chúng khác lạ và nhiều màu sắc. Dần dà, anh kể chuyện tôi nghe, chúng tôi trở thành cạ cứng trong phố.
Tiếp đến là nhà bác Đường bác Nhạn, cũng chỉ có một người con gái duy nhất là Bảo An. Gia đình họ mới chỉ chuyển đến khu phố này khoảng ba bốn năm trước. Hai bác lớn hơn bố mẹ tôi khá nhiều tuổi, nhưng Bảo An chỉ mới mười hai tuổi, tức bằng tuổi tôi. Tôi đoán là vì bố mẹ Bảo An sinh ra nó muộn, nên nó được chiều, và không hiểu có phải vì được chiều nên giữa nó với đám trẻ con khu phố luôn có một khoảng cách vô hình. Nó cũng nhỏ nhẹ và đảm đang, nhưng thay vì tạo cảm giác gần gũi như chị Dung, ở nó lại lúc nào cũng toát ra một vẻ lạnh lùng xa cách.
Tôi và Bảo An là trường hợp cùng tuổi duy nhất trong khu phố. Tôi bắt đầu học cùng lớp với nó từ năm lớp bốn, tức là hồi nó chuyển về đây. Năm nay cả hai cùng lên lớp bảy. Bảo An thông minh vừa phải và học khá vừa phải, cái "thông minh" và "học khá" ngây thơ của một đứa trẻ không phải lo nghĩ nhiều, dù không thể nói rằng nó không cố gắng. Ở lớp tôi với nó thân nhau vừa phải, và về đến nhà cũng vậy. Nghĩa là, thỉnh thoảng tôi chạy qua nhà nó xem bài vở, đôi khi nó chạy qua nhà tôi hỏi mấy thứ về trường lớp. Nó mà lăn ra ốm, tôi sẽ là đứa còng lưng chép bài thay nó, và ngược lại, dù trong chuyện này nó thiệt hơn vì tôi hay ốm hơn. Gần đến kì thi môn Nhạc hay môn Thể dục, tôi và nó sẽ bắt cặp với nhau vì nhà gần nên tiện tập luyện. Nghe thì thân thiết, nhưng chỉ có vậy thôi. Mà từ dạo điểm Văn tôi cao hơn điểm nó thì nó cạch mặt tôi hẳn. Cảm giác không giống cá tính của nó mọi khi lắm, nhưng biết thế nào được.
Cạnh nhà bác Đường là nhà bà ngoại tôi, ngày ngày quanh quẩn ra vào chỉ có tôi với bà, cùng hình bóng của ông ngoại qua những câu chuyện bà kể bất thình lình bất cứ lúc nào. Giữa giờ ăn, khi phơi quần áo, khi đang kể dở câu chuyện cổ tích cho tôi nghe trước giờ đi ngủ. Ông ngoại tôi mất gần mười năm nay rồi, vì ung thư. Bà ngoại tôi lúc nào cũng nhắc chuyện ngày xưa cho tôi ăn cháo khó khăn thế nào, ông phải múa may làm trò để tôi ăn ra làm sao, đến mức tôi nhiều khi cảm thấy có lỗi vì lục lọi mãi trong đầu vẫn chẳng thấy mẩu kí ức nhỏ nào về ông cả. Một ngày tôi bắc ghế lên bàn thờ vái ông đủ ba lần, lần nào cũng bắt chước bà ngoại lẩm nhẩm ông phù hộ độ trì cho bà con sức khỏe, cho bố mẹ con ăn nên làm ra, cho con học hành tấn tới. Một ngày bà tôi ra đứng dưới cánh cổng rào vấn vít hoa tầm xuân đủ ba lần, lần nào cũng thở dài thườn thượt, bao giờ con mình mới về được cho thằng Mạnh nó bớt khổ, hở ông?
Thực ra chuyện chẳng có gì. Bố mẹ tôi cưới nhau khi còn trẻ, rồi ly dị khi tôi mới ba tuổi. Bố vào Nam lập nghiệp, rồi lập ra đình trong đó. Tôi sống với mẹ ở Hà Nội. Năm tôi lên sáu, mẹ đi xuất khẩu lao động bên Liên Xô, từ đó đến giờ chưa về thăm nhà lần nào. Năm tôi lên sáu, tôi đã sống với bà ngoại tôi trong căn nhà chẳng rộng rãi mà lại trống vắng vô cùng. Xa bố mẹ từ nhỏ, tôi chẳng nhớ họ nhiều đến thế. Tôi thân thuộc với mấy cái chậu nhôm nặng trịch hay cái quạt tai voi mẹ gửi về được bà giữ trong phòng ngủ còn hơn là thân thuộc với tiếng cười của bố mẹ nữa. Khi nghe nhắc tới hai từ bố mẹ, trong tưởng tượng của tôi, ngoại hình của họ chỉ là khuôn mặt tươi cười trong bức ảnh cưới bà cất trong tủ, còn tính tình họ thì tôi chỉ lờ mờ đoán qua nét chữ trong những bức thư họ đều đặn gửi tôi. Chữ mẹ tôi mềm mại và nắn nót, mỗi lần đọc thư mẹ tôi lại bâng khuâng không hiểu mái tóc hay đôi bàn tay mẹ có dịu dàng như con chữ mẹ viết không. Chữ bố thì ngược lại, là cả một sự nỗ lực để khiến tôi đọc được. Ít ra chúng cũng cho tôi biết rằng ông vẫn quan tâm tới tôi, vậy là đủ rồi.
Bà ngoại tôi có hai người con gái. Dì ruột tôi ở nhà chồng ngay bên Bạch Mai, có gì chạy sang nhà bà tôi dễ ợt. Dì có thằng con tên Trọng, nói nhiều và phá như giặc. Mỗi lần dì tôi đưa nó sang chơi, tôi khổ sở vì phải kèm nó học đã đành, mà cả khu phố cũng nhức đầu vì cái loa gắn trên mồm nó. Mỗi lần như thế, tôi và anh Huy đều phải bày trò rủ nó chơi cùng, dù đầy miễn cưỡng, vì tính tình nó như trẻ con, hở ra tí là khóc nhè, dù nó chỉ kém tôi có một tuổi. Bà ngoại hay thở dài bảo nhà chồng dì tôi nuông chiều nó - chỗ này để tôi trích lời bà, đích tôn với chả đích tiếc.
Nhà bà ngoại tôi có thể coi là ngôi nhà cuối phố. Trước đây phía trong nhà bà còn có nhà bác Hòa, sống với em trai là chú Thuận dớ, nhưng vợ chồng bác đã chuyển lên đoạn gần bệnh viện từ vài năm nay rồi, ngôi nhà cấp bốn trước đây cũng đã bị đập bỏ. Phố dẫn ra sông. Sông èo uột chảy về phía ngoại thành mang theo lưu lượng ít ỏi, nếu trước đây nó có chút sự sống nào đó thì bây giờ linh hồn ấy cũng mệt mỏi tàn tạ lắm rồi. Trong phố có lẽ chỉ có nhà chị Dung vẫn dùng nước sông để tưới rau, còn lại, đôi lúc ngồi trên gác mái nhìn ra sông, tôi chỉ thấy nó giống một ký ức buồn. Vậy nên khi mẹ con cô Cúc đến dựng lều bên sông, tôi không hiểu rằng có phải vì họ thấy con sông buồn nên mới dừng lại ở đó?
-----
- Vọng là tên một ngã tư ở Hà Nội, nút giao giữa tuyến Đại La - Trường Chinh với tuyến Lê Duẩn - Giải Phóng. Trước đây ngã tư Vọng là cửa ngõ phía nam của Hà Nội. Đường sắt Bắc - Nam cũng chạy qua đoạn đường này. Còn nơi các nhân vật sống bây giờ nằm ở phố Vọng. Con sông sau nhà của họ là sông Sét.
- Theo những gì tớ được nghe kể, khoảng những năm 80, dọc đường Giải Phóng đoạn phía nam Ga Hàng Cỏ là nơi người ta chất than và đá dăm để duy trì đường ray và làm nhiên liệu cho tàu chạy. Bãi đá và bãi than đã được giải tỏa từ lâu, giờ đây nơi ấy trở thành khu dân cư thuộc phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân. Không rõ tưởng tượng của tớ về bãi than bốn mươi năm trước đúng được bao nhiêu phần.
- Ban đầu cũng chỉ dự định có hai nhân vật, thế rồi vì xây dựng cả cái không gian ngõ nên cứ bôi ra, bôi ra thêm nhiều người nữa. Riết rồi chẳng rõ ai chính ai phụ =))). Ngoại trừ Hùng Dũng, Duy Mạnh và Quang Hải (cùng hai cameo Đức Huy và Đình Trọng), các nhân vật còn lại đều là OC. Năm sinh của họ bằng với năm sinh của nguyên mẫu trừ đi 20 năm. Ví dụ, cầu thủ Hùng Dũng sinh năm 1993 thì bạn Dũng trong fic sinh năm 1973.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top