Ngày bình thường như bao ngày
Đó là một ngày hè bình thường như bao ngày.
Sáu giờ sáng, bà đập tôi dậy, bắt ra sau nhà rửa mặt mũi chân tay, rồi ra góc sân đứng dưới gốc sung tập thể dục.
Sáu rưỡi sáng, khi đã tập bài thể dục đủ ba lần, hít đất xong xuôi, tôi được bà cho vào ăn sáng. Thường thì bà toàn dậy sớm thổi xôi, nhưng cũng có những hôm bà dễ tính cho tôi tiền xuống chợ mua bánh giò hoặc bánh tẻ. Bà cấm tiệt tôi ăn mì tôm, bảo mì tôm gây ung thư, mặc dù món đó trên thành phố hầu như sáng nào giữa buổi học tôi cũng xực.
Tám giờ sáng, tôi phải ngồi vào bàn học theo lệnh của bà. Bà tôi trước đây là giáo viên nên nghiêm khắc với chuyện học hành của tôi lắm. Bà giao cụ thể từng bài cho tôi, bắt tôi làm cho bằng hết, rồi rà soát lỗi sai của tôi hết một lượt, trước khi cuối cùng tôi cũng được "thả tự do". Nhưng cái tự do này cũng chán ngắt.
Mười giờ sáng, tôi nằm dài ra chiếc xích đu ngoài sân, tay giơ cao cuốn truyện tranh, vừa đọc vừa dỏng tai nghe ngóng bên ngoài phên dậu. Thường những lúc đó thằng Trọng sẽ ngấp ngóng ngoài cửa, mặc dù tôi đã bảo nó không biết bao nhiêu lần rằng giờ đó tôi chuẩn bị phải đi nấu cơm phụ bà, không ra chơi với nó được. Đợi tiếng huýt sáo quen thuộc của nó phát ra ngoài hàng rào, tôi đứng dậy, thở dài bảo thằng bé hay quên không biết lần thứ ba mươi sáu hay bốn mươi mốt, anh sắp bận, để đến trưa đi. Nó sẽ tiu nghỉu bỏ đi, không quên dặn tôi tới hai ba lần, chiều nay, anh Mạnh nhớ nhé nhớ nhé.
Mười giờ mười lăm phút sáng, tôi bò lê ra đất, lấy hơi thổi phù phù vào bếp lửa. Ở quê không có nồi cơm điện, bà tôi vẫn nấu cơm theo cách truyền thống bằng bếp lửa. Có những hôm tôi thổi không khéo, tro bay hết cả ra ngoài làm tôi ho sặc sụa. Trong lúc đó, bà nhặt rau, thái thịt, rửa cá, tóm lại làm mọi món ăn khác ngoại trừ việc nấu cơm là giao cho tôi. Những ngày cuối tuần khi bố tôi tạt qua nhà, bà cứ khen với bố rằng tôi thổi cơm khéo, chẳng hiểu khen đùa hay thật. Ngày qua ngày bữa cơm chỉ có hai bà cháu, mà tôi thì chẳng có khẩu vị gì sất.
Mười một rưỡi, bà đi ngủ. Tôi thì chẳng bao giờ ngủ trưa nổi, và bà cũng không cấm cản tôi gì. Vậy là trong khi bà trèo lên chiếc phản chợp mắt, tôi ra ngoài cổng, đứng ngóng hết về phía đầu làng lại về phía cuối làng, đợi thằng Trọng đến.
Mười hai giờ trưa, thằng Trọng đến. Thi thoảng nó trễ một vài phút, nhưng thường là đúng giờ. Thì, cả ngày nó có làm gì đâu, ngoài việc đợi tôi và chơi với thằng Hải.
Mười hai giờ mười lăm, tôi thấy mình ở ngã ba đường đồng, nơi giờ này chẳng có xe cộ qua lại, đang trút bi ve từ trong túi quần ra trước ánh mắt hăm hở của hai thằng nhóc (đúng hơn thì, vẻ mặt của Hải phải thay bằng từ háo hức, vì trông nó không băm bổ muốn nhào đến chỗ bi như thằng Trọng). Tôi để thằng Hải lựa một nửa số bi, xếp đội hình, thế rồi hai đứa say sưa bắn phá nhau. Thằng Hải ít nói, mặt lúc nào cũng hơi lầm lì, nhưng nó chơi rất khá, tôi chỉ đôi khi thắng được nó bằng may mắn. Nhưng mà, kể cả lúc thắng hay thua, trên mặt nó cũng chỉ có một biểu cảm cười ngượng. Trái ngược hoàn toàn với thằng Trọng bên cạnh, to mồm cổ vũ, khua tay múa chân các kiểu, nhưng chẳng bao giờ sờ được vào viên bi nào.
Một rưỡi chiều, thằng Trọng kêu chán. Không hiểu nó chán cảnh ngồi ngoài hay chán những cách bài binh bố trận đã trở nên nhàm chán của tôi và thằng Hải, nhưng nó đòi chơi trò khác. Tôi hỏi trò gì, nó đáp không ngần ngừ, phi dép. Lại một lựa chọn kì lạ khác, nhưng tôi và Hải lại chỉ biết nhìn nhau, rồi tháo hai đôi dép tổ ong buộc dây thép lọc xọc ra, chia đội ném. Trò này cũng vui, nhưng giá mà có ai đó ngoài mấy đứa tôi.
Hai rưỡi chiều, thể nào thằng Trọng cũng nài nỉ tôi mang xe ra đê. Gần nhà bà tôi có con sông tên Cà Lồ, hai bên bờ là những vườn cây trĩu quả. Tôi chạy về nhà lấy xe, và vì lúc này bà tôi đã lại loanh quanh ở khoảnh vườn trước nhà nên việc xin bà lấy xe cũng chẳng khó khăn lắm. Tôi đạp xe đến ngã ba, ở đó Hải và Trọng đã chờ sẵn, trên tay Hải là con diều ni lông tôi mua cho nó dưới chợ, được nó giấu cẩn thận dưới gốc một cây táo gai gần đó. Tôi chở Hải, thằng Trọng đuổi theo sau, ra đến bờ sông chỉ mất độ mười phút.
Ở trên đê, hai đứa nó mới thực sự thư thái. Chúng nó bắt tôi thả diều, rồi nhân lúc tôi không để ý, mò xuống dưới sông. Thằng Hải té nước, thằng Trọng đứng bên cười khanh khách. Lúc nhận ra, tôi vội vàng lao xuống quát chúng nó lên bờ. Sông Cà Lồ vốn chỉ là một con sông nhỏ, lưu lượng nước không nhiều, nhưng tôi vẫn sợ chúng nó bị dòng nước cuốn đi. Hai đứa ướt nhẹp, tiu nghỉu chạy đến ngồi cạnh tôi, thằng Hải đưa tay lấy từ tôi sợi dây diều đang giữ con diều hình phượng hoàng của nó bay cao vút. Cách đây vài hôm tôi có lắp lên thân diều một ống sáo, tiếng sáo dìu dặt trong gió chiều nghe chao ôi mênh mang. Trọng dựa đầu lên vai Hải, mắt mơ màng hướng lên trời, tay nhịp nhịp lên đùi, miệng hát vu vơ một giai điệu tôi không rõ tên. Giọng nó hơi nghèn nghẹt và đứt quãng, lúc nghe như người sổ mũi, lúc thì lại như thể nó đang khóc nức nở.
Năm rưỡi chiều, mặt trời xuống gần đường chân trời, ánh nắng dần tắt trong không gian rộng lớn, trên trời xuất hiện những gợn sẫm màu lăn tăn. Từ làng, những cột khói cơm chiều đã vươn lên qua những ngọn cây. Hải tiếc nuối đứng dậy, đưa tay kéo tôi lên. Tôi kéo con xe nãy giờ vẫn vứt chỏng chơ dưới bờ sông lên trên đê, ba đứa cuốc bộ về nhà. Đó gần như là một nghi thức, ngầm định thống nhất giữa ba đứa trẻ con chúng tôi. Chúng tôi chia tay nhau ở ngã ba đồng.
Hải rẽ trái, tức là hướng xuống đồng, cẩn thận giấu con diều vào bụi rậm gần một cây táo gai bên đường. Sau đó, nó đi thẳng ra khu mả giữa đồng, một lát sau đã lẩn khuất đâu đó sau những bia mộ.
Trọng rẽ phải, cứ thế đi về phía đầu làng. Tôi đứng đó nhìn mãi khi hình bóng nó bay lên không trung rồi mờ dần, mờ dần, cuối cùng tan vào làn khói chiều.
Khi chỉ còn lại một mình, tôi mới ngơ ngẩn quay ngược lại đường cũ độ mươi bước, rẽ tay phải vào một cái xóm nhỏ. Nhà bà tôi ở ngay đầu xóm.
Về đến nhà, tôi lại giúp bà thổi cơm. Thỉnh thoảng bà sẽ hỏi tôi rằng tôi đã đi đâu cả chiều, và khi nghe tôi nói dối rằng tôi vừa sang chơi với mấy đứa nhà chú Đậu Toàn, bà không thắc mắc gì thêm nữa. Thực ra đó cũng không hẳn là một lời nói dối - tôi hoàn toàn có thể biện minh rằng Hải và Trọng là "mấy đứa" bên nhà chú Toàn thật, chỉ là không phải hai thằng con nghịch như quỷ sứ của chú, mà là hai đứa trẻ con khoác vai chú cười toe toét, trong một tấm ảnh đen trắng chú cất kỹ nơi tủ đầu giường, từ ngày chú mới khoảng tám, chín tuổi.
Ăn cơm xong, tôi tắm, giặt, leo lên phản đấm lưng cho bà và nghe bà kể những câu chuyện tôi đã nghe cả nghìn lần về người ông đã khuất của tôi, rồi thiếp ngủ trong những giấc mơ kì quặc.
Có lần, trong giấc mơ, tôi thấy hình bóng thằng Trọng hư ảo hiện ra trong màn sương, nhưng khi nó càng tiến lại gần, tôi càng nhận ra nó mang gương mặt của chính tôi. Có lần khác, tôi thấy mình đứng giữa một khu rừng phủ đầy tuyết trắng, những thân cây cao hút mắt che khuất cả bầu trời, và tôi không phân biệt được nơi đó là ngày hay đêm, chỉ có những ánh sáng xanh lập lòe xung quanh mình. Có lần khác nữa, tôi thấy Hải và Trọng ngồi trên triền đê, và tôi cất tiếng gọi hai đứa nó, nhưng gió thổi quá to, và tiếng gọi của tôi bị bạt đi trong gió, cùng với đó là thân người của tôi cũng bị dần đẩy lùi lại. Những giấc mơ lúc nào cũng kéo dài và đầy mê hoặc, nhưng khi tôi tỉnh dậy, tất cả những gì tôi nhớ chỉ có chừng ấy.
Cũng vẫn chỉ là chuyện bình thường, của một ngày hè bình thường như bao ngày.
Hết
Vâng thưa các bạn, tôi vẫn găm nhiều fic Mạnh Hải Trọng trong máy lắm =))))))).
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top