vkloolzz

ăm một ngàn hai trăm bảy mươi lăm, Tống Độ Tông Triệu Kỳ ốm chết ở Lâm An. Cùng năm đó, Giả Tự Đạo lập Triệu Hiển mới bốn tuổi lên làm vua, bản thân hắn nắm quyền nhiếp chính, bưng bít mọi tin tức nơi tiền phương. Triều đình Đại Tống mù mờ hoang mang, bấp bênh bất ổn. Bá Nhan nhận được mật báo, biết rằng thời cơ đã chín muồi, bèn dẫn hai mươi vạn quân xuôi dòng Hán Thủy di chuyển xuống nam. Cùng lúc, Cận Phi và Vân Thù cũng tổ chức nhiều đợt chiêu mộ nghĩa quân tương trợ triều đình. Các hào kiệt miền nam đều nhiệt thành xả thân, khốn nỗi Đại Tống binh hèn tướng yếu khiến công sức đóng góp của họ chỉ như muối bỏ bể, không gặt hái được kết quả gì.

Mùa thu cùng năm, quân Nguyên vượt Trường Giang, theo dòng Giáp Giang tiến vào. Nhiều trọng thần, đại tướng lũ lượt kéo nhau ra đầu hàng, dâng cống mỹ nữ để lấy lòng ngoại bang, trong số đó có Binh bộ Thượng thư Lữ Sư Quỳ và Điện tiền chỉ huy sứ Phạm Văn Hổ.

Mặc Tương Phàn thất thủ, Giả Tự Đạo vẫn cố sức dập tắt mọi lời xì xào, nhưng dần dần, khi các cứ điểm tiền phương liên tiếp bị đánh hạ thì tình hình không thể che đậy được nữa. Tin khẩn tới tấp bay về Lâm An, hoàng thất và các quan lại đều kinh hoàng, thúc ép Giả Tự Đạo thân chinh ra trận đẩy lui quân địch. Họ Giả không còn cách nào khác, đành bổ Hạ Quý làm phó soái, miễn cưỡng thống lĩnh hai mươi vạn thủy lục quân cùng ba ngàn chiến thuyền vượt sông sang tây, giao chiến với quân Nguyên ở Lỗ Cảng.

Khi hai bên giáp mặt nhau, mười vạn hùng binh Nguyên triều nhất tề gầm lên như sấm rền trên sóng, ồ ạt từ thượng lưu kéo xuống. Người Tống tuy yếu về kỵ binh nhưng rất thành thạo thủy chiến, cũng ngược dòng hăng hái tiến lên. Hai bên giao tranh hồi lâu mà không phân thắng bại, Hạ Quý phập phồng lo sợ, nhân lúc không ai để ý liền chèo thuyền trốn chạy.

Bấy giờ, Giả Tự Đạo đang lười biếng tựa vào lòng ái thiếp quan chiến, chung rượu nghiêng ngả trên tay. Hắn vốn mù tịt về chiến trận, chỉ biết hai bên giao đấu ác liệt chứ chẳng biết ai thắng ai thua, nhác thấy Hạ Quý bơi qua cạnh tàu mình, vội hỏi:

- Thắng rồi hả?

Hạ Quý hổn hển đáp:

- Không đỡ nổi!

Giả Tự Đạo xuất thân lưu manh đầu đường xó chợ, nghe vậy phát hoảng, không còn để ý đến cung cách lễ tiết gì nữa, nhảy chồm chồm rủa xả:

- Đồ mặt nạc đóm dày, sao không nói sớm? – rồi vội vàng kéo ái thiếp nhảy tót lên thuyền nhẹ đã chuẩn bị sẵn, nối đuôi Hạ Quý chèo đi rõ nhanh.

Có kẻ trông thấy chủ và phó tướng một trước một sau lủi mất thì kinh hãi báo động. Quân Tống nơi đầu sóng ngọn gió nghe tin ấy, ý chí chiến đấu lập tức tiêu tan. Tướng lĩnh giẫm đạp nhau bỏ trốn, binh sĩ mạnh ai nấy chạy, trận thế hỗn loạn rối ren. Lính Nguyên thừa cơ công kích khiến quân Tống thua liểng xiểng, số đầu hàng lên đến mười mấy vạn người, lương thảo quân dụng bị tịch thu bằng sạch.

Tin bại trận ở Lỗ Cảng truyền về Lâm An, cả triều đình cùng phẫn nộ. Tạ Thái hậu cách hết mọi chức tước của Giả Tự Đạo, truyền chỉ lưu đày Tuần Châu. Giả Tự Đạo trơ trọi một thân một mình, vai vế không còn, phe cánh tan rã, đành bó tay chịu trói, trên đường áp giải bị sai nha là Trịnh Hổ Thần sát hại tại Chương Châu.

Sau trận Lỗ Cảng, tướng sĩ vùng Giang Hoài hoàn toàn thui chột ý chí chiến đấu, phản kháng rất lẻ tẻ, còn phần lớn đào ngũ hoặc đầu hàng. Lính Nguyên chia làm ba đường hành quân, cánh Lương Tiêu tiến vào theo ngả Giang Nam. Vừa tới Kinh Khẩu, gã bỗng nhận được thư khẩn, Bá Nhan ra lệnh quay gấp về Dương Châu.

.

Tại trướng soái Dương Châu, Bá Nhan triệu tập các tướng, nặng nề thông báo:

- Thánh thượng hạ chỉ ngừng xuống nam, chuẩn bị tiễu phạt sang phía tây.

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Tại sao? Không đánh Tống nữa à?

A Truật u ám nói:

- Tây bắc có biến! Cháu nội Oa Khoát Đài là Hải Đô, hiện đang đóng ở Diệp Mật Lập, nhân lúc đại quân ta nam chinh bỏ trống mặt tây bắc đã chiêu tập phiên vương kết thành liên minh bên bờ sông Tháp Na Tư. Hắn kết tội thánh thượng đã chà đạp di huấn của Thái Tổ để thay thế bằng luật lệ của người Hán, vin cớ đó cùng các phản vương tuyển mộ hai mươi vạn thiết kỵ, vượt núi A Nhĩ Thái[2], tấn công cựu đô Hòa Lâm[3].

Bá Nhan tư lự:

- Hải Đô túc trí đa mưu lại giỏi dụng binh, xưa rày vẫn luôn kình chống thánh thượng. Hiện thánh thượng cũng chưa biết nên quyết thế nào, vừa sai tín sứ chuyển lời rằng: “Trẫm chinh thảo Đại Tống hai lần, hai lần đều thất bại quay về. Nay Bá Nhan sắp thành công thì Hải Đô lại đến sinh sự, giữa đường bỏ dở kể cũng đáng tiếc, nhưng nếu vì một dải đồng lầy nước đọng phương nam mà để mất bạt ngàn đất đai màu mỡ phương bắc thì khác nào thả con cá rô bắt con săn sắt, ngẫm thực không đáng”. Và người lệnh cho ta nghị hòa với Lâm An, hai bên vạch địa giới mà cai trị.

A Truật nói:

- Người Tống liên tục thất bại, binh sĩ rệu rã chán chường, đây chính là thời cơ để hưng binh! Nếu nghị hòa để họ lấy lại sức thì mai sau tấn công sẽ khó khăn gấp mười. Hải Đô tuy nhiều binh mã thật, nhưng các phiên vương tây bắc mỗi người một bụng, không đồng chí đồng lòng. Tôi nghĩ, chỉ cần vài vạn tinh binh là đủ chặn đứng mũi đâm thọc của chúng, tội gì phải điều động hết binh mã nam chinh sang đó?

Bá Nhan gật đầu:

- Ta cũng nghĩ như ngươi! Bây giờ ta sẽ về Đại Đô, tìm cách thuyết phục thánh thượng. Khi ta đi vắng, ngươi tạm thay trách nhiệm Chủ soái trong doanh. – Ngừng một lát, y gọi. – Lương Tiêu!

Lương Tiêu đáp lời đứng dậy, Bá Nhan nói:

- Từ lúc này, ngươi làm Tổng đô thống cả thủy và lục quân, phò tá A Truật đốc suất binh mã.

Lương Tiêu nhận lệnh. Bá Nhan lại dặn dò một hồi rồi cho các tướng lui, vội vã trở về Đại Đô ngay trong đêm.

Cùng đêm ấy, Lương Tiêu hạ trại ở Qua Châu. Vừa ổn định lều trướng, nghe báo Quách Thủ Kính cầu kiến, gã mừng rỡ ra ngoài nghênh đón. Hai người đã lâu không gặp, nắm tay nhau hàn huyên vui vẻ. Họ Quách bảo:

- Hôm nay Quách mỗ đến cáo từ đại nhân.

Lương Tiêu hỏi:

- Ông định về Đại Đô à?

- Phải. – Quách Thủ Kính đáp. – Bây giờ quân đội ngừng di chuyển, tạm thời đóng trại một chỗ, ta không cần cất trạm nước mới nữa. Vả chăng năm nay Hoàng Hà dâng cao, có thể gây lũ lụt, thánh thượng triệu ta về bắc bàn bạc cách giải quyết.

Lương Tiêu thở dài:

- Chưa hết can qua đã thủy tai xảy đến, thiên hạ chẳng lúc nào được bình yên.

Quách Thủ Kính cũng thở dài:

- Thế nên mới có câu: Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm. Cảnh trái ngang trên đời thường vô cùng vô tận!

Mỗi người đeo đuổi một suy tư, lặng cầm chén trà buồn bã. A Tuyết đứng bên, thấy vẻ mặt họ bỗng nhiên ảm đạm thì rất lấy làm lạ: “Vừa tươi cười hớn hở, sao đã ỉu xìu ngay được?”.

Sau một lúc trầm mặc, Quách Thủ Kính lên tiếng trước:

- Quách mỗ có một câu này, chẳng biết nên nói hay không.

- Tôi xin nghe, đại nhân đừng khách sáo!

Quách Thủ Kính vịn bàn nhỏm dậy, thở dài:

- Tướng quân là một tài năng hiếm có, đem tài năng ấy đổ vào chinh chiến sát phạt, không cảm thấy đáng tiếc lắm ư?

Lương Tiêu ngẩn người. Quách Thủ Kính đưa nhanh mắt về phía A Tuyết, vẻ ngập ngừng. Lương Tiêu xua tay:

- Ở đây toàn người nhà, đại nhân chớ ngại.

Quách Thủ Kính nghiêm nghị gật đầu:

- Tướng quân không như người khác, Quách mỗ nói thẳng ra vậy.

Y đứng hẳn lên, chắp tay sau lưng bước về phía cửa, dõi mắt nhìn bầu trời trong trẻo ngoài trướng, chậm rãi buông từng chữ:

- Thánh thượng thừa kế bá nghiệp của cha ông, chí lớn dạt dào, muốn mở mang bờ cõi ra bốn biển, tạo nên công tích ghi tạc ngàn năm. Lương tướng quân thạo phép dụng binh, hễ đánh là thắng, hễ chiếm là được, chiến công hiển hách. Chỉ hiềm, người ta thường nói: chẳng vương triều nào là vững bền mãi mãi. Dẫu Đại Nguyên thống nhất thiên hạ thì liệu sẽ duy trì được bao lâu đây? – Y ngoảnh lại, ánh mắt sáng quắc. – Thử hỏi mấy trăm năm sau, sử sách có ghi nhận tướng quân là người như thế nào không? Và tướng quân để lại được gì cho hậu thế?

Lương Tiêu không hiểu lắm, giọng nói pha chút ngạc nhiên:

- Tôi thường nghe: chết là hết. Đã nhắm mắt xuôi tay còn bận tâm nhiều thế làm gì cho mệt?

Quách Thủ Kính lắc đầu:

- Quách mỗ nghĩ nói thế không ổn. Trên đời tuy không có vương triều nào tồn tại mãi mãi, nhưng có những sự vật vẫn lưu dấu ngàn năm, chỉ cần tướng quân dồn tâm trí mình vào đó…

Lương Tiêu sực nhớ ra một chuyện, háo hức hỏi:

- Chắc ông muốn nhắc đến việc triều đình định sửa sang lịch pháp?

Quách Thủ Kính vỗ tay:

- Tướng quân tinh ý lắm. Từ khi Tổ Xung Chi làm ra lịch Đại Minh đến nay, mấy trăm năm rồi, phép tính lịch vẫn chưa cải tiến được là bao. Có hai nguyên nhân: một là do phạm vi đo đạc còn nhỏ hẹp, hai là do kiến thức toán học còn hạn chế. Sắp tới thống nhất được thiên hạ, lãnh thổ Đại Nguyên sẽ rộng lớn vượt xa thời Hán thời Đường. Thánh thượng định đặt đài thiên văn ở các nơi, quan sát nhật nguyệt hầu xây dựng nên cách tính lịch mới. – Nói đến đây, nhận ra Lương Tiêu lắng nghe chăm chú, biết gã đã dao động, họ Quách mỉm cười. – Tướng quân tinh thông toán thuật bậc nhất thời nay, nếu bằng lòng phối hợp với Quách mỗ hoàn thành bộ lịch mới thì quả là cái phúc của lê dân trăm họ, là ơn đức lưu truyền hậu thế hàng ngàn đời sau!

Dạo bị giam trong Thiên Viên Địa Phương, Lương Tiêu đã từng manh nha ý tưởng sáng tạo một bộ lịch hợp lý hơn bộ lịch của tiền nhân. Hiềm nỗi công việc quá lớn, sức một người không đảm đương nổi. Mấy năm nay tuy trải qua nhiều biến cố, nhưng ý tưởng ấy chưa một lần rời bỏ trí óc gã, thậm chí mỗi ngày một thêm cháy bỏng, nay nghe Quách Thủ Kính khơi gợi, nó lại nao nao quẫy động. Lương Tiêu đứng bật dậy đi đi lại lại, chợt thở dài rầu rĩ:

- Đáng tiếc tôi còn bận quân vụ, khó lòng phân tâm đến việc khác.

- Không gấp! Quách mỗ đã phác kế hoạch rồi. Đợt đo đạc tới đây sẽ tiến hành trên diện rộng, bắc phải đến Khâm Sát hãn quốc, tây đến Y Nhĩ hãn quốc, đông đến Cao Ly, nam đến Quỳnh Châu. Quỳnh Châu hiện vẫn thuộc phạm vi kiểm soát của Đại Tống, vì vậy một khi chưa diệt xong Đại Tống thì vẫn chưa thể bắt tay sửa lịch được. Chuyến này trở về Đại Đô, ta sẽ tâu thánh thượng cử tướng quân cai quản cục Thái Sử, giám sát việc tu chính lịch pháp, nhưng thế thì tướng quân đành phải buông hết quyền bính lớn lao cũng như cuộc sống giàu sang phú quý.

Lương Tiêu cười nhạt:

- So với việc làm lịch thì đánh trận và phú quý đáng kể gì đâu.

Quách Thủ Kính hoan hỉ tán thưởng:

- Quả nhiên ta không nhìn lầm! Lương tướng quân đúng là người được sinh ra để tinh nghiên học thuật.

Lương Tiêu nói:

- Đợi thu xếp việc quân tạm ổn, tôi sẽ lên kinh gặp đại nhân.

Quách Thủ Kính giơ tay:

- Thỏa thuận thế!

Lương Tiêu tủm tỉm đập tay ba lần với họ Quách. Cả hai cùng cười phá lên.

Đến giờ cơm tối, A Tuyết bày sáu thức nhắm và một bình rượu hoa quả. Lương Tiêu cùng Quách Thủ Kính nâng chén đàm luận hết sức ăn ý. Lương Tiêu say sưa nói:

- Muốn cải tiến lịch Đại Minh thì cần chú ý đến năm yếu tố : một là chuyển động biểu kiến của mặt trời, hai là tốc độ vận hành của mặt trăng, ba là độ lệch giữa hoàng đạo và xích đạo, bốn là hệ tọa độ của hoàng đạo và xích đạo, năm là chu kỳ của trăng để đi hết một vòng bạch đạo…

Gã càng nói càng sôi nổi, Quách Thủ Kính càng nghe càng rạng rỡ mặt mày. Hai người chấm rượu vẽ toán pháp ra bàn, mô tả các khí cụ thiên văn, trao đổi miệt mài quên cả uống rượu, A Tuyết phải nhắc, họ mới dứt ra được.

Cơm rượu xong, phấn hứng dâng cao, cả hai liền kê giường cạnh nhau trao đổi thâu đêm. Lương Tiêu trò chuyện với Quách Thủ Kính, tầm mắt được mở rộng, tư tưởng càng thêm cao xa. Tiếc nỗi đất nước đương cơn loạn lạc, thiên văn lịch pháp hay thủy lợi máy móc cũng mới dừng ở mức nói cho thỏa lòng mà thôi. Sáng hôm sau, Quách Thủ Kính cáo từ về bắc, Lương Tiêu đi tiễn một quãng đường, nhìn theo bóng họ Quách, lòng ngao ngán: “Quách đại nhân thật cương quyết, dám dứt khoát rời bỏ quân ngũ, dốc lòng chấn chỉnh thủy lợi, sửa sang lịch pháp. Còn ta vẫn phải chinh thảo Đại Tống, thật chán quá đi thôi! Mong rằng sau trận chiến này, thiên thu vạn đại không còn chiến tranh, để ta và Quách đại nhân được tự do xây dựng lịch pháp, sao vẽ sơ đồ núi non, chỉnh đốn bách nghệ, củng cố nông tang, tạo nên một thời đại thịnh vượng huy hoàng chưa từng có trong lịch sử”. Ưu tư hồi lâu, Lương Tiêu ngậm ngùi quay về doanh trại.

.

Tháng năm năm Đức Hữu đầu tiên của nhà Tống, Lâm An biết tin quân Nguyên đang vướng nội loạn ở miền tây bắc, liền cương quyết chém chết tiết sứ Nguyên triều phái đến nghị hòa. Tể tướng Trần Nghi Trung dâng sớ lên Tạ Thái hậu xin hưng binh, đảm bảo sẽ đoạt lại Lưỡng Hoài. Tạ Thái hậu cả mừng, trao ấn soái ba quân cho Trương Thế Kiệt. Họ Trương kéo một vạn chiến thuyền đến hội hợp với Cận Phi, nâng tổng số thủy lục quân lên hai mươi vạn, tiến vây Kinh Khẩu. Lý Đình Chi đốc suất năm vạn kỵ bộ kỵ binh ra Dương Châu đánh A Truật. Vào thời khắc sinh tử ấy, Đại Tống một lòng quét sạch gian nịnh, chỉnh đốn triều chính, tinh binh mãnh tướng tụ họp tại Hoài Đông, sẵn sàng cùng quân Nguyên quyết một trận tử chiến.

Thế tấn công của quân Tống vô cùng dữ dội, tướng giữ Kinh Khẩu là Thổ Thổ Cáp liên tiếp gửi cấp báo, Lương Tiêu bèn dẫn quân vượt sông sang cứu viện. Cùng tháng đó, tướng sĩ nhà Nguyên cũng lục tục kéo đến hội quân với gã. Nguyên, Tống giáp mặt tại Tiêu Sơn, mấy vạn thuyền chiến san sát trên sông làm tắc nghẽn cả dòng chảy.

Trước giờ giao chiến, hàng tướng nhà Tống là Phạm Văn Hổ đến gặp A Truật hiến kế:

- Từ đây đi tiếp lên hai mươi dặm nữa có ngọn núi Thạch Công, đứng trên ấy nhìn xuống, toàn bộ trận thế quân Tống sẽ hiện ra trong tầm mắt.

A Truật mừng lắm, lập tức dẫn các tướng lên núi Thạch Công quan sát.

Ngọn núi cao tám trăm thước, vươn lên sừng sững bên sông. Tướng lĩnh Nguyên triều trèo lên đỉnh nhìn, dưới chân đại giang trải rộng tít tắp, khói sóng mênh mang. Kim Sơn và Tiêu Sơn đứng đối mặt nhau phía xa xa, hàng ngàn hàng vạn thuyền chiến nhà Tống tiến lui liên tục giữa hai ngọn núi, tạo thành một trận thế lạ mắt, tựa vuông mà không phải vuông, dường tròn mà không phải tròn, cứ mười thuyền kết thành một khối vuông nhỏ, cơ cấu hết sức chặt chẽ. Sau một hồi lặng lẽ quan sát, Lương Tiêu chợt thốt:

- Gay go thật!

A Truật ngạc nhiên hỏi:

- Gay ở chỗ nào?

- Ở chỗ trận thế của chúng quá đặc biệt. – Lương Tiêu giải thích. – Trận này tên là Thiên địa huyền hoàng, cứ mười thuyền một đội, khu giữa gồm năm khối, ứng với các vị trí đông, tây, nam, bắc và trung của Ngũ Nhạc. Từ trong ra ngoài, Ngũ Nhạc còn đan xen với chín khối khác, phép sắp xếp mô phỏng Cửu Châu của Trâu Diễn[4]. Mười bốn khối này kết hợp và chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên hình thế vững chãi bao la như mặt đất, gọi là Hậu thổ tiểu trận.

Mọi người quan sát trận thuyền theo chỉ dẫn của Lương Tiêu, quả nhiên phát hiện ra mười bốn khoảnh lờ mờ, bất giác cùng ngấm ngầm khen lạ. Lương Tiêu lại trỏ mé ngoài trận thuyền:

- Ngoài Hậu thổ còn Huyền thiên tiểu trận. Huyền thiên phân chia thành hai mươi bốn khối nhỏ, con số ứng với nhị thập tứ tiết khí trong năm. – Gã vừa thuyết minh vừa trỏ hai mươi tư vị trí. – Huyền thiên thay đổi theo thời tiết trên trời, Hậu thổ tái hiện địa hình dưới đất, muốn nắm bắt cũng không phải là rắc rối lắm, nhưng sự phức tạp sẽ nảy sinh nếu trời đất giao hòa, bởi lúc đó các biến hóa sẽ phát triển ra bất tận, khó lòng ứng phó nổi. Theo chỗ tôi biết, Thiên địa huyền hoàng vốn đã thất truyền, dạo xưa tôi cũng chỉ đọc được lỗ mỗ một vài phần mà thôi. Trong đó có câu: “Trận pháp này gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt, tiêu diệt vạn quân như nhổ một cọng cỏ, tiến thoái dễ dàng, không tài nào phá nổi”.

A Truật đổi hẳn sắc mặt, chưa kịp hỏi gì bỗng nghe có tiếng cười vang:

- Rủi thật rủi thật, cảnh sắc tươi đẹp mà chẳng ai lên thưởng thức, ngoài một đàn chó lâu nhâu sủa bậy!

Các tướng kinh ngạc ngoảnh đầu nhìn, thấy một nho sinh quần áo lôi thôi lốc thốc ngồi trên tảng đá nhẵn bóng, mặt quay ra dòng sông bát ngát, tay cầm bầu rượu giơ cao trước gió, phong thái rất mực tiêu dao. Lương Tiêu mừng rỡ vòng tay chào:

- Công Dương tiên sinh! Xa cách đã lâu, cớ sao vừa gặp ông lại nặng lời với người ta thế?

Tướng lĩnh đều kinh ngạc: “Lương Tiêu quen lão này à? Dưới chân núi có tinh binh vây kín bốn mặt, lão lên đây bằng cách nào ấy nhỉ?”.

Công Dương Vũ thản nhiên đáp:

- Người nào? Ta nặng lời với chó đấy chứ!

Các tướng nghe giọng giễu cợt đều sinh lòng phẫn nộ. Lương Tiêu sực nghĩ ra một điều, bèn hỏi:

- Ông là sư phụ của Vân Thù phải không ạ?

- Thế thì sao?

Lương Tiêu gật đầu, mặt trắng bệch:

- Thế thì tôi hiểu rồi.

Công Dương Vũ nhếch mép:

- Hiểu cái con khỉ! – đoạn cười khà khà, dõi mắt xuống dòng sông, vỗ tay lên mặt đá, dài giọng ngâm. – Thiên hạ vốn là một, Sao nỡ cắt hai miền? Lên lầu Đa Cảnh nhìn xuống, Hận mất nước sao quên. Gần, sóng Trường Giang nổi cuộn; Xa, lẻ loi hai ngọn núi. Muốn mượn tiếng sấm rền, Muốn mượn lưỡi tầm sét, Đuổi rợ khỏi trung nguyên. Ngóng Hoài thượng, Tân Dã xứ, Ngựa mang yên. Ý trời đã định, Lương thảo binh khí cũng vừa quyên. Chỉ thiếu người như Sĩ Nhã, Chỉ thiếu người như Việt Thạch. Phải dóng trống chiêu hiền, Nổi một cơn mưa lớn, Quét sạch bụi bắc biên.[5]

A Truật chăm chú lắng nghe nhưng không hiểu, bèn hỏi nhỏ Đô đốc thủy quân Trương Hoằng Phạm:

- Lão ta hát bài gì vậy?

Trương Hoằng Phạm vốn giỏi thi từ, liền giải thích:

- Bài hát này ý nói: giang sơn tươi đẹp ơi, ta muốn được như Tổ Địch, Lưu Côn đuổi hết Hồ, Lỗ, muốn như Gia Cát Khổng Minh dẫn quân bắc chinh.

A Truật đanh mặt, dùng tiếng Hán hỏi:

- Túc hạ là ai?

Công Dương Vũ nhìn y:

- Ngươi hỏi ta là ai? Ta là kẻ: Sáng rong Nam Hải chiều Thương Ngô, Áo đựng rắn xanh, gan góc to. Lên xuống Nhạc Dương người chẳng biết, Ngâm vang bay vút Động Đình hồ.

Các thân binh không nhẫn nại nổi nữa, bèn lao bổ tới, nào ngờ mới giơ đao đã thấy toàn thân tê liệt. Câu thơ chưa ngâm dứt, mười tên thân binh đã há hốc mồm, đứng rúm một chỗ như tượng đất.

Công Dương Vũ giũ giũ tay áo:

- A Truật, theo ngươi ta là ai nào?

Bài thơ trên do Lã Động Tân làm, Công Dương Vũ nhân hứng đọc ra, ngụ ý mô tả mình có cốt cách phong lưu thần tiên. A Truật không hiểu được ý ấy, lại thấy sự việc quỷ quái lạ lùng, sống lưng ớn lạnh, y hô to:

- Mọi người hãy cẩn thận! Tên đồ gàn này biết yêu thuật đó!

Công Dương Vũ phì mũi:

- Tiên thuật rành rành ngươi lại bảo yêu thuật là sao? Chà, thế nhân vẫn chê bọn Thát ngu như lợn, quả tình không sai, nói cho ngươi nghe chẳng khác gảy đàn tai trâu! Vô vị quá sức!

A Truật gắng trấn tĩnh, chậm rãi hỏi:

- Đừng lải nhải những câu dấm dớ nữa, túc hạ tới đây có công to việc lớn gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Kẻ hèn mọn này khốn cùng quẫn bách, lấy đâu ra công to việc lớn, chẳng qua chỉ táy máy toàn trò vè của bọn hạ lưu thôi. Lý Thái Bạch từng viết: Gieo một ván thiên địa, chưa chắc quên chiến tranh. Lần này ta đến cốt muốn chơi một ván bài từ xa với tên cẩu hoàng đế Hốt Tất Liệt nhà các ngươi.

A Truật nghe lời lẽ quá sức kỳ dị, thầm nhủ: “Gặp một thích khách cao cường thế này, đành đi bước nào biết bước đó thôi. Gắng con cà con kê với lão ta để kéo dài thời gian vậy”. Y bèn hỏi:

- Được, túc hạ muốn chơi kiểu bài nào?

Công Dương Vũ xua tay:

- Bảo đàn gảy tai trâu thực chẳng oan! Gieo một ván thiên địa là gieo xúc xắc chứ cái gì nữa! Ai thắng thì được giang sơn này. Vậy là có người chơi và vật cá cược rồi đấy, chỉ còn thiếu xúc xắc thôi! – Nói đoạn ông giơ cao cái túi vẫn mang bên hông, giũ mạnh, một đầu người lông lốc lăn ra.

Nhìn rõ tướng mạo người đó, A Truật bỗng biến sắc mặt, giọng lạc đi:

- Yến Thiết Mộc Nhi!

Công Dương Vũ cười:

- Tên hắn đấy à? Ta thấy hắn diễu võ dương oai trên lưng ngựa, ngứa mắt quá bèn tiện tay ngắt đầu xuống. – Ông cười hì hì, trỏ đầu người nói oang oang. – Coi nó là con xúc xắc đầu tiên của ta. Nghe đồn hắn là Vạn phu trưởng kỵ binh, vậy tính ba chấm đi.

Yến Thiết Mộc Nhi lĩnh tước Vạn hộ hầu, dũng cảm thiện chiến, nào hay mới đó mà đầu đã lìa khỏi cổ. Các tướng đều sinh mối xót xa thương cảm. A Truật đang giữ trọng trách đại tướng, không dám tỏ ra mềm yếu, bèn lạnh lùng nói to:

- Vạn phu trưởng là xúc xắc ba chấm thì chắc bản soái được sáu chấm nhỉ!

Công Dương Vũ bật ngón cái:

- Thống soái ba quân có khác, rất biết mình biết người. Đáng tiếc chỉ có mỗi ngươi là xúc xắc sáu chấm nên không gieo được lục lục. Cũng may trời còn thương, ban cho ba vị đô thống. Tên đê tiện họ Lương là Tổng đô thống, tính năm chấm. Đô thống lục quân A Lạt Hãn tính bốn chấm, Đô đốc thủy quân Trương Hoằng Phạm tính bốn chấm. Tham nghị chính sự Đổng Văn Bỉnh không có nhiều binh lính nhưng phẩm hàm lại cao, tử tế ra cũng nên tính bốn chấm, còn Phạm Văn Hổ, cái tên bán nước cầu vinh, khốn nạn vô loài nhất trong bọn khốn nạn vô loài, tính một chấm cũng là đề cao hắn thái quá, đem ra làm xúc xắc chỉ tổ bẩn tay lão phu.

Phạm Văn Hổ bị chửi như tát nước, mặt có sắc giận nhưng trong lòng lại mừng húm, khẽ khàng nhích sang một bên.

Lúc này mặt trời chưa lên cao, dải sông tuôn dài, phía xa thoáng đãng bằng phẳng, quang cảnh rất nên thơ. Trong khi đó trên đỉnh núi Thạch Công chật hẹp, bầu không khí ngột ngạt vô cùng. Công Dương Vũ vẫn giữ nguyên vẻ cười cợt như thể họp mặt nói chuyện phiếm. Nhưng ông càng cười đùa, các tướng càng ngạt thở. Ngày thường họ điều động đến hàng ngàn hàng vạn binh mã, nắm trong tay quyền sinh quyền sát bao nhiêu con người, muốn gì được nấy, vậy mà bây giờ khác nào cá nằm trên thớt, mặc kẻ khác làm tình làm tội, chưa ai trong bọn gặp phải tình huống khóc dở mếu dở thế này bao giờ.

Công Dương Vũ vuốt râu:

- Con bạc, con bạc, được ăn cả ngã về không. Ta vừa rồi vận rủi quá, chỉ đổ được tam, xin hỏi quý vị, tiếp theo đây ta nên gieo xúc xắc mấy chấm?

Ông quét mắt khắp mặt các tướng, không ai bước ra.

Công Dương Vũ cười nhạt, đang định lên tiếng khích bác, thình lình Lương Tiêu lướt khỏi hàng, chân không chạm đất, vung tay vỗ lưng một tên thân binh. Tên này chới với khua khoắng tứ chi, huyệt đạo tức thì được giải. Lương Tiêu xuyên trái xuyên phải giữa tốp người, cử động như bướm lượn, xuất chưởng như chớp nháy, chỉ trong khoảnh khắc, hơn mười tên thân binh hoa tay múa chân lấy thăng bằng, cử động trở lại.

Lương Tiêu co mình xuống xà tấn, điềm nhiên nói:

- Công Dương tiên sinh, mời!

Nét giận thoáng qua khuôn mặt Công Dương Vũ, nhưng ông lại nhe răng cười ngay:

- Năm chấm hả, hay lắm!

Đoạn giơ chưởng phải từ từ vỗ tới ngực Lương Tiêu. Chưởng phong đặc quánh, Lương Tiêu không né được, đành phải đón đỡ, nào ngờ vừa cất tay bỗng thấy máu nóng cuộn trào trong ngực, gã mất tự chủ giật lui ba bước. Một tên thân binh không ý thức được mức độ nguy hiểm nên nhào tới đỡ chủ tướng. Vừa chạm đầu ngón tay vào lưng Lương Tiêu, thân hình hắn đã bị một luồng đại lực ùa thốc sang hất văng đi xa sáu trượng. Tên lính lộn bắn một vòng trên không rồi rơi thút xuống vực, tiếng gào thê thảm mau chóng chìm lấp dưới khoảng sâu mênh mông.

Công Dương Vũ không để Lương Tiêu đứng vững, lập tức lắc mình bay đến trên đầu gã:

- Đồ khốn, đỡ tiếp một chưởng của lão tử đây!

Lương Tiêu nào dám đấu tay không nữa, lập tức tuốt kiếm đâm thẳng tới ngực Công Dương Vũ. Ông già hừ mũi, nhuyễn kiếm Thanh Li bật ra khỏi tay áo, lưỡi thép mỏng tang, lúc duỗi lúc uốn hệt như đàn rắn quẫy trườn, mổ vào mọi chỗ yếu hại khắp mình Lương Tiêu.

Kiếm đôi bên vũ động rất nhanh, chỉ ngóc lên hụp xuống một thoáng đã trao đổi năm chiêu, xuất chiêu thần tốc nhưng không giao nhau lấy một lần, trông như thể người nào biểu diễn bài múa kiếm của riêng người nấy, nhưng thực chất toàn những sát chiêu nhăm nhăm tìm sơ hở đánh vào chỗ hiểm của nhau. Lương Tiêu tuy tiến bộ chóng mặt, nhưng vẫn kém sút rất nhiều so với Công Dương Vũ, đã mấy lần suýt lâm hiểm cảnh.

Thấy gã đỡ được liền năm sát chiêu của mình, Công Dương Vũ vừa kinh ngạc vừa buồn rầu: “Chỉ cần thời gian đủ dài, thằng bé này nhất định sẽ trở thành tông sư một phái. Tiếc thay nó kéo bè kéo cánh với quân tàn ác, võ công càng cao sẽ càng gây nhiều tai họa. Hôm nay nếu không trừ bỏ, chẳng biết mai sau nó còn dồn bao nhiêu người Tống vào chỗ chết?”. Ý nghĩ ấy khiến lòng dạ ông trở nên sắt đá. Công Dương Vũ phóng trường kiếm tới mặt Lương Tiêu, khiến gã phải luống cuống tung mình nhảy tránh. Chợt thấy dưới chân hẫng một cái, Lương Tiêu hoảng hồn than thầm: “Chết rồi! Sau lưng là vực thẳm!”. Gã toan ghìm đà lao, Công Dương Vũ đã xoáy thẳng kiếm tới mặt gã.

Đám tướng sĩ xung quanh thốt lên kinh hãi, Lương Tiêu ngã ngửa xuống vực, cùng lúc ấy, nhác thấy một cái khe trên vách đá, gã bèn vận kiếm đâm mạnh vào. Keng một tiếng, Lương Tiêu nắm đốc kiếm, người treo lửng lơ, đu đa đu đưa trên luồng gió sông ào ạt thốc lên. Công Dương Vũ không truy đuổi, vuốt râu giễu cợt:

- Ngươi sử chiêu khỉ đánh đu này hay đấy!

Lương Tiêu tự biết khó thoát chết, cũng chẳng thèm cân nhắc lời nói nữa:

- Ông giở chiêu chó ăn phân mà đâm tôi đi!

Công Dương Vũ chột dạ: “Nó đang ở dưới thấp, ta muốn đâm phải cúi xuống, bộ dạng chồm hỗm như chó hoang, chẳng hóa mắc bẫy miệng lưỡi nó sao?”. Ông già tần ngần, chợt nghe gió rít sau lưng, đám thân binh đã múa đao chạy tới. Công Dương Vũ xoay phắt lại vẫy một chưởng quét ngã bốn tên, đám còn lại khiếp đảm dừng bước. A Truật thét:

- Kẻ nào thụt lùi, chém!

Quân lệnh như sơn, không ai dám chống, đám thân binh tiếp tục hò hét liều chết xông lại. Công Dương Vũ bật cười, nhuyễn kiếm chui tọt vào tay áo:

- Binh tôm tướng tép chả bõ dính răng, chỉ tổ mất công. – Dứt lời, ông lạng đến sát mặt A Truật, tóm chặt lấy ngực áo y, cười khà khà. – Luôn mồm thúc người khác đi vào chỗ chết, còn bản thân mình thì chẳng giở ra được mấy nả sức.

Chủ soái đã bị kiềm chế, đám thuộc tướng đều tái mét mặt.

Lương Tiêu rung tay rút kiếm, tạo đà lộn ngược lên miệng vực, người chưa tiếp đất đã hét vang, vận kiếm sử Hoán kiếm đạo. Quẻ Hoán là Khảm dưới Tốn trên, tức gió đi trên nước, nước gặp gió tan. Hoán kiếm đạo vũ động tựa cuồng phong, trút bão táp xuống lưng Công Dương Vũ.

Ông già vốn cố ý thả lỏng cho Lương Tiêu lên, thấy thế cười nói:

- Đến đúng lúc lắm! – đoạn túm lưng A Truật, quay mặt y ra làm khiên đỡ trường kiếm Ảo Nguyên.

Lương Tiêu vẫn vận kiếm không ngừng, đâm liên tiếp sáu nhát, thân kiếm bị nội lực của gã ép mạnh đến nỗi cong lại, nhát nào nhát nấy đều lướt sát những chỗ yếu hại khắp mặt mũi A Truật. Các tướng chứng kiến mà hồn xiêu phách lạc, nhao nhao phản đối:

- Lương Tiêu, ngươi điên rồi sao?

Lương Tiêu lẳng lặng thi triển kiếm pháp, càng sử càng dẻo tay, trông qua tưởng chừng múa máy phạt chém bừa bãi, nhưng thực chất hết sức cẩn trọng để tránh đả thương A Truật, đồng thời vòng lách qua y để ngắm đâm Công Dương Vũ. A Truật hiểu rõ ý Lương Tiêu nên rất bình tĩnh, kể cả khi mũi kiếm lướt sát trán mình, y cũng không chớp mắt, thần sắc vẫn thản nhiên như không.

Nhìn hai người, một kẻ tự tin có thừa, kiên trì xuất kiếm tấn công, một kẻ dũng cảm đối mặt, thản nhiên coi thường cái chết, Công Dương Vũ vốn tự phụ mà cũng không nén nổi cảm giác ớn lạnh: “Người Nguyên có hạng tướng soái anh dũng thế này, chả trách đánh đâu thắng đó. Kẻ đánh kiếm cố nhiên đã tài ba gan góc, nhưng kẻ hứng kiếm tỉnh bơ mặc kiếm chờn vờn quanh mình mới thực sự là bản lĩnh cao minh”.

Nghĩ tới đây, Công Dương Vũ không nén được lòng mến tài, bèn lôi A Truật sang một bên, duỗi ngón tay nắm mũi kiếm Ảo Nguyên rồi búng nhẹ. Tức thì, một luồng khí nóng chạy theo thân kiếm đẩy thẳng xuống hổ khẩu Lương Tiêu, cánh tay rát bỏng như bị lửa đốt, gã vội thu kiếm nhảy vụt ra sau.

Công Dương Vũ cười:

- Núi đá đổ xuống đầu, mãnh hổ rình sau lưng mà mặt không đổi sắc! Tên nguyên soái Thát Đát này định lực không tồi. Tốt lắm! Lương Tiêu, hai chúng ta cá cược thêm ván nữa, vật cược chính là tính mạng A Truật. Nếu ngươi thắng, ta tha chết cho hắn, nếu ngươi thua thì, chính ngươi phải tự sát.

Lương Tiêu biết không còn cách nào khác để ép Công Dương Vũ thả người, bèn nhướng mày đáp:

- Được, xin tiên sinh nói rõ!

A Truật nghe mà cảm động.

Công Dương Vũ đặt ra việc đánh cược chỉ do hứng chí nhất thời, thành thử nói xong lại hối hận ngay: “Hoàn cảnh bây giờ đã khác trước, ta mà bất cẩn là Đại Tống đi tong. Dẫu rằng năm xưa ta đã lập thệ không ngó ngàng đến sự hưng vong của nước nhà, song đó chỉ là lời lẽ lúc cả giận mất khôn. Tiểu tử Văn Tĩnh từng nói: “Tuy triều đình không đúng, nhưng nếu bọn Thát chiếm đóng Đại Tống, bách tính sẽ khốn khổ”. Hắn nói phải lắm! Lão phu quyết rồi, hôm nay nhất định không để một tên tướng Thát nào toàn mạng xuống núi”. Suy tính xong đâu đấy, ông mỉm cười hỏi:

- Được, ngươi khá đoán xem, tên A Truật trong tay ta đây sống hay chết?

Lương Tiêu ngạc nhiên nghĩ bụng: “Cố nhiên là sống mà”. Gã định trả lời thì sực nghĩ ra: “Không phải, sự sống chết của A Truật đang nằm cả ở tay ông già, ta làm sao thắng được? Nếu ta đoán sống, ông thúc khẽ chưởng lực là A Truật mất mạng, rồi ta phải tự tận. Nếu ta đoán chết thì dù A Truật may mắn được tha, ta vẫn cứ chết như thường”. Lương Tiêu khó xử quá, cứ đứng đực mặt hồi lâu.

Công Dương Vũ cười thầm: “Hễ nó đáp “sống” là ta phát tài, gieo xúc xắc một lượt được cả ngũ và lục. Nhưng xem chừng nó không chịu mắc lừa”. Ông bèn giục:

- Ngươi nghĩ xong chưa? Ta đếm đến ba, nếu ngươi vẫn không đoán ra thì coi như thua. Nghe đây, một…

Lương Tiêu mím môi, mặt trắng bệch. Công Dương Vũ cười:

- Hai!

Khi ông sắp sửa buông từ “Ba!” thì một giọng lạnh lùng xen vào:

- Ta đoán là sống!

Giọng nói không to nhưng rền vang như sấm, chấn động hết thảy màng nhĩ mọi người. Công Dương Vũ giật mình liếc mắt nhìn ra, thấy Tiêu Thiên Tuyệt đang đứng trên một tảng đá, tà áo đen bay phần phật. Ông hơi đổi sắc mặt, nhưng cười ngay:

- Lão quái vật, e rằng ngươi đoán sai rồi.

Đoạn nhấn tay toan đẩy chưởng lực, chợt một luồng gió tanh táp đến sau lưng, Công Dương Vũ lật tay đâm mạnh Thanh Li kiếm ra sau, tức thì nghe thấy tiếng gầm vang vọng. Đúng khoảnh khắc ông già phân tâm, Tiêu Thiên Tuyệt lạng người đến gần, chộp tay vào vai A Truật, một luồng nội lực xộc qua vai y thúc sang lòng bàn tay nhà nho. Công Dương Vũ phải đối phó cả trước lẫn sau, không kịp ứng biến, cổ tay nóng sực lên rồi bị nội kình vô song của Tiêu Thiên Tuyệt đẩy bật ra. Ông chưa kịp chộp con tin lại thì họ Tiêu đã nhấc A Truật lướt lui về sau hơn một trượng, ngạo nghễ nói:

- Ai đoán sai đây?

Công Dương Vũ hừ mũi, liếc mắt trông kẻ vừa đánh lén mình, thấy con hổ đen đang chống ba chân xuống đất, nhe nanh gầm gừ, chân còn lại cào đất toay toáy, trên chân rành rành một vết kiếm sâu, máu chảy đầm đìa. Công Dương Vũ tức giận nghĩ: “Đồ súc sinh, làm hỏng cả việc lớn của ta”. Các tướng ngỡ ngàng không hiểu người áo đen và con vật kia từ đâu chui ra, Lương Tiêu thì trừng trừng nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, bàn tay cầm kiếm run bần bật.

Lúc này, một thân binh lấy tù và ra rúc u u. Đám vệ binh ở sườn núi bắt được tín hiệu liền nhao nhao hò la đổ lên cứu viện. Công Dương Vũ cười ha hả, hai mắt sáng quắc:

- Tiêu lão quái, ngươi có một thứ bản lĩnh thuộc loại vô địch thiên hạ khiến Cùng Nho khâm phục lắm lắm.

Tiêu Thiên Tuyệt nhạt nhẽo hỏi:

- Bản lĩnh gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Công phu đón gió hít rắm ấy, đích thực là thiên hạ đệ nhất! Bất kể lão tử ở đâu, ngươi cũng ngửi được hơi gió, à không, ngửi được hơi rắm mà lần mò tìm đến!

Tiêu Thiên Tuyệt kìm giận:

- Không dám. Lão Cùng Nho cũng có một bản lĩnh đáng gọi là vô song.

Công Dương Vũ vênh mặt:

- Bản lĩnh vô song của lão tử thì nhiều chứ, chẳng hay ngươi nhắc đến bản lĩnh nào?

- Nhiều đến đâu cũng không đáng kể, chỉ đáng kể mỗi bản lĩnh né tránh trốn chạy khi chạm mặt lão phu. Bản lĩnh vắt chân lên cổ chạy tóe khói đó, Tiêu mỗ rất khâm phục.

Công Dương Vũ lắc lư đầu chế giễu:

- Lão quái vật nói sai rồi. Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Thói thường nam nhân theo đuổi nữ nhân, ta là tu mi nam tử, cũng chỉ mến thục nữ, không ham nam sắc, đời nào chịu được trò đeo bám dai dẳng của ngươi… – Ý bảo Tiêu Thiên Tuyệt mắc bệnh đồng tính nam nên mới lẵng nhẵng theo mình khắp nơi cùng chốn như thế.

Ai nghe cũng ngạc nhiên, mọi con mắt đổ dồn vào Tiêu Thiên Tuyệt: “Thật không ngờ, trông lão già mặt mày lạnh lùng, hóa ra lại có đam mê khác thường đến vậy!”.

Tiêu Thiên Tuyệt nổi trận lôi đình, gắt ầm lên:

- Đánh rắm, đánh rắm!

Công Dương Vũ bịt tay áo vào mũi:

- Làm gì mà đánh liền hai phát thế? Thối quá, thối quá! – vừa nói vừa cười ha hả, thanh âm lồng lộng bầu trời.

Trong số những người trên núi, trừ Tiêu Thiên Tuyệt và Lương Tiêu, ai cũng nhức hết cả tai, đầu váng tim run, lảo đảo suýt ngã.

Tiêu Thiên Tuyệt nghe điệu cười thập phần quái dị bèn lưu tâm đề phòng. Lão liếc mắt nhìn quanh, chợt kinh ngạc nhận thấy một chiếc diều lụa hình dáng như con rết, dài chừng mười trượng tà tà bay lên khỏi trận thế quân Tống.

Công Dương Vũ chợt nhích tay, Thanh Li kiếm xé gió đâm tới Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu giật lui nửa bộ, múa tay phản kích. Hai bóng người xoay vù vù trong phạm vi mấy trượng, bàn tay và thanh kiếm liên tục giao nhau chát chát, nghe như tiếng trân châu rơi xuống khay ngọc, khó lòng phân biệt được ai nhanh ai chậm, ai trước ai sau.

Binh lính ùn lên núi càng lúc càng đông. Lương Tiêu lo lắng nghĩ thầm: “Người đời thường nói, hai đánh một chẳng chột cũng què. Công Dương Vũ tuy lợi hại, nhưng trước mặt có Tiêu Thiên Tuyệt, sau lưng có vạn mã thiên quân thì muốn thoát thân e cũng không dễ…”. Gã suy tính rất nhanh, chợt quát to:

- Lão khọm già, xem chiêu đây! – rồi cùng kiếm lao đi, vẫy một nhát đâm thẳng vào Tiêu Thiên Tuyệt. Các tướng đều thốt lên kinh ngạc, nhưng Lương Tiêu chẳng buồn bận tâm, chỉ những múa kiếm thần tốc tấn công.

Tiêu Thiên Tuyết đang ráo riết quyết phân thắng phụ, bị tập kích bất ngờ buộc phải giật lui ba bước. Công Dương Vũ bực tức mắng:

- Ai khiến đồ nhãi ranh nhà ngươi đa sự? – đoạn chuyển kiếm đâm Lương Tiêu.

Lương Tiêu không tránh kịp, tưởng chừng bị mũi kiếm mềm xuyên thủng tim đến nơi, thình lình Tiêu Thiên Tuyệt nhấp chân áp sát, vỗ ra một chưởng. Công Dương Vũ đành buông Lương Tiêu, thu binh khí về ứng phó. Lương Tiêu thở phào, tiếp tục vận kiếm đâm Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu cáu kỉnh quát:

- Đồ súc sinh, muốn chết ư?

Tuy miệng nạt nộ như vậy, nhưng thực chất một thân một mình đương cự với hai cao thủ vốn đã không đơn giản, làm sao mà đánh chết được Lương Tiêu, lão già đành tạm thời thi triển thân pháp né tránh các mũi tấn công.

Nhân lúc Tiêu Thiên Tuyệt chuyển công thành thủ, Công Dương Vũ thừa cơ vung kiếm đâm Lương Tiêu, gã trẻ tuổi đã phòng bị sẵn, xuất thủ chống trả, chỉ thoáng chốc hai bên lại trao đổi mấy chiêu. Lúc này Tiêu Thiên Tuyệt chuyển thế phi thân đến, định giở chưởng, nào ngờ Công Dương Vũ và Lương Tiêu cùng xoay kiếm ra đón lão.

Tiêu Thiên Tuyệt đành đảo người liên tục để né tránh. Thoát hiểm xong, định thần nhìn kỹ thì thấy Lương Tiêu và Công Dương Vũ đã lại xáp vào giao đấu rồi, Tiêu Thiên Tuyệt nổi giận đùng đùng, lập tức chia song chưởng tấn công cả hai. Công Dương Vũ và Lương Tiêu cũng trở kiếm về đấu với lão. Hết đợt này tới đợt khác, lúc xáp vào lúc tách ra hệt như tam quốc tranh hùng, chỉ trong nháy mắt cả ba đã chiết đến hơn trăm chiêu mà vẫn khó bề phân thắng phụ. Quân Nguyên chỉ sợ Lương Tiêu bị thương, lăm lăm đao nỏ hườm sẵn, nhưng ném chuột lại ghê cũi bát nên chưa dám vọng động.

Trong lúc ba người kịch chiến, gió đông bắc nổi lên rất mạnh, con diều lụa nương chiều gió từ từ bốc cao, lên tới khoảng tám mươi trượng, xấp xỉ đỉnh Thạch Công thì nó lững lờ ghé lại gần ngọn núi. Quân sĩ kéo lên càng lúc càng nhiều, Công Dương Vũ biết khó lòng thực hiện được ý định nữa, bèn trừng mắt nhìn Lương Tiêu, lại trừng mắt nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, chợt quất mạnh kiếm tới trước buộc Lương Tiêu phải lùi ra xa rồi vỗ một chưởng về phía Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu huy chưởng chống đỡ, hai chưởng xô mạnh vào nhau, Công Dương Vũ cười ha hả:

- Lão quái vật, Cùng Nho đi đây!

Tiêu Thiên Tuyệt sững sờ một thoáng, đoạn thét vang, tung mình nhảy theo. Công Dương Vũ lộn nhào một vòng, bật ra khỏi đỉnh núi, chỉ còn tiếng cười rơi tõm lại:

- Đừng tiễn nữa, Tiêu lão quái, hẹn ngày tái ngộ!

Khinh công của Công Dương Vũ vốn siêu tuyệt, lại mượn được chấn lực từ đơn chưởng của Tiêu Thiên Tuyệt, có đà băng đi xa tới hơn mười trượng. Hiềm nỗi Thạch Công sơn cao đến tám trăm thước, dù Công Dương Vũ lợi hại cách mấy, rơi xuống tới đất cũng khó bảo toàn tính mạng. Mọi người đều đoán ông ta thà chết chứ không để bị bắt nên nhảy vực tự tận. Lương Tiêu chua xót trong lòng, cơ hồ sa lệ!

Gió sông hun hút, con diều dừng lơ lửng ở lưng chừng không, kéo căng sợi dây gai nối liền mặt đất. Dưới ánh dương, sợi dây sáng lóa như bôi mỡ. Công Dương Vũ vụt phất tay phải, một dải vải trắng dài chừng mười trượng phụt ra khỏi tay áo, cuốn vào dây gai. Con diều hơi trĩu xuống, treo nhà nho đu đưa giữa không trung. Công Dương Vũ vắt dải lụa qua dây gai rồi bám lấy hai đầu lụa, thả mình tuột vun vút xuống như đứa trẻ chơi trò cầu trượt suốt dọc sợi dây dài đến trăm trượng ấy.

Trên núi ai nấy ồ à kinh ngạc. Tên bay chíu chít về phía Công Dương Vũ. Ông giơ kiếm múa tít, cuốn rơi hết những loạt tên. Nhờ dây gai có bôi mỡ, Công Dương Vũ trượt xuống nhanh như sao băng lướt ngang trời, mau chóng vượt ra ngoài tầm xạ tiễn.

Quân hai bên đóng trên sông, trông thấy cảnh tượng lạ mắt ấy đều giơ tay chỉ trỏ, xì xào kinh ngạc.

A Truật cau mày, chợt giật lấy một cánh cung, đặt tên tẩm lửa ngắm bắn dây diều. Sợi dây trét đầy mỡ, vừa chạm phải mũi tên đã bắt cháy bùng bùng, lửa theo chiều gió trùm lên nuốt chửng cánh diều. Con diều lộn nhào rơi xuống, Công Dương Vũ mất thăng bằng, cũng rớt thẳng xuống sông.

Khi còn cách mặt nước chừng mười trượng, giữa tiếng hô hoán của hàng vạn người, Công Dương Vũ búng mình lộn nửa vòng lên trên sợi dây gai, đồng thời duỗi tay trước gió để tấm áo được thổi căng phồng như quả bóng, tốc độ rơi chậm hẳn lại, chậm hơn cả dây diều nhẹ.

A Truật bật la thất thanh:

- Lão đồ nho này ghê gớm thật!

Trong lúc y la, sợi dây đã chạm nước. Công Dương Vũ hạ xuống theo, đạp lên dây mà chạy như cưỡi gió, ung dung lướt vào trận thế quân Tống, mất tăm mất dạng.

Thấy Công Dương Vũ đã thoát nạn, Lương Tiêu cũng yên yên dạ, ngoảnh đầu nhìn quanh thì không thấy bóng dáng Tiêu Thiên Tuyệt đâu nữa, gã vội vàng cầm kiếm đuổi theo. Tiêu Thiên Tuyệt cưỡi hổ vượt núi băng đèo như đi trên đất bằng. Khi Lương Tiêu chạy xuống đến chân núi, lão đã tan biến như chưa từng xuất hiện.

Lương Tiêu ngơ ngẩn hồi lâu, chợt một giọng oang oang vọng tới chỗ gã:

- Tổ sư ngươi! Vì sao lão tử không được đứng đây?

Lương Tiêu nghe giọng quen tai bèn liếc mắt nhìn thì thấy Trung Điều Ngũ Bảo đang giậm chân bình bịch đằng xa, vây xung quanh là binh lính Nguyên triều. Người vừa lớn tiếng chính là Hồ Lão Bách, tay khoanh trước ngực ngang bướng cãi cọ. Hồ Lão Thiên tiếp lời:

- Phải đó, mảnh đất rộng này là hố xí của nhà ngươi đấy à? Mà cứ coi như là hố xí nhà ngươi, cho lão tử đi nhờ một lần thì đã làm sao?

Năm huynh đệ cùng cười ha hả.

Quân Nguyên nghe hắn nói năng nhố nhăng, thảy đều tức giận, chực xúm vào quây đánh, Lương Tiêu bèn tới gần bảo:

- Khoan đã!

Nhận ra gã, binh lính đều lùi lại. Trung Điều Ngũ Bảo gặp Lương Tiêu thì hớn hở vô cùng, vây quanh gã mồm năm miệng mười tranh nhau nói. Lương Tiêu cũng vui mừng không kém:

- Năm tên lưu manh, đến đây làm gì?

Hồ Lão Vạn nói:

- Lão tử theo Tiêu đại gia mà. Tiêu đại gia đi trước, lão tử rớt lại sau, không ngờ bị bọn này vây riết, còn bị chúng đổ diệt là gian tế nữa.

Lương Tiêu cau mày, một binh sĩ bước lên phân trần:

- Bẩm tướng quân, vừa rồi trên núi xảy ra lắm việc rắc rối, dưới đây bỗng mọc đâu ra mấy tên bận trang phục miền nam này, chúng thuộc hạ sinh nghi mới tra xét, không ngờ họ lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay ngay được.

Lương Tiêu bảo:

- Họ không phải gian tế đâu, các ngươi giải tán đi!

Đám binh lính đỡ những đồng đội bị ngã dậy, cùng bái chào rồi rút lui. Hồ Lão Thiên đảo cặp mắt ti hí nhìn quanh:

- Đồ đệ của lão tử đâu rồi đại ca?

Lương Tiêu đứng sững. Hồ Lão Nhất cũng náo nức:

- Dương Tiểu Tước không đi theo đại ca ư?

Hồ Lão Thiên kêu lên:

- Lý Đình đâu? Lão tử thấy nhơ nhớ hắn!

Hồ Lão Vạn cười:

- Lão tử nghĩ ra vô khối tuyệt chiêu muốn truyền hết cho Vương Khả, bảo đảm hắn tiến bộ rất nhanh, không ai địch nổi.

Hồ Lão Nhất liếc Hồ Lão Vạn, giọng mỉa mai:

- Tuyệt chiêu đâu ra, lão tử mà chỉ vẽ cho Dương Tiểu Tước dăm ba chiêu, đảm bảo hắn cất tay là Vương Khả mềm nhũn như quả hồng.

Hồ Lão Thập nói tranh:

- Tam Cẩu Nhi thì thậm chí không cần cất tay, chỉ nhổ một bãi nước bọt cũng đủ dìm chết Vương Khả.

Hồ Lão Thiên huênh hoang:

- Thế cũng chưa là gì, Lý Đình chỉ đánh một phát rắm là đủ để thối ngã tên ranh con đấy!

Ba Bảo này bất mãn về cái câu “không ai địch nổi” nên hợp lực móc máy cho Hồ Lão Vạn biết nhục. Hồ Lão Vạn tức mình, nhưng nghĩ hai nắm đấm không địch nổi sáu cánh tay nên đành nuốt giận làm thinh. Lương Tiêu lưỡng lự một thoáng rồi nói:

- Bọn chúng đang ở Kinh Khẩu, nếu các ngươi muốn gặp thì lên ngựa đi, ta đưa về gặp.

Năm người mừng rỡ vâng lời. Lương Tiêu dắt mấy con ngựa đến, dẫn họ vào thành.

Lý Đình và Vương Khả mừng quýnh lên khi gặp sư phụ. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cũng phấn khởi tột độ, bất chấp ánh mắt tò mò của mọi người xung quanh, ôm chặt lấy hai đồ đệ vẫn đóng nguyên bộ giáp trụ, lăng đi lăng lại như nghịch với trẻ con. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập càng nhìn càng ngứa mắt. Hồ Lão Thập túm áo Lương Tiêu hỏi giật giọng:

- Tam Cẩu Nhi đâu?

- Ừ đúng, Tiểu Tước Nhi đâu? – Hồ Lão Nhất cũng thắc mắc.

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Ta mệt lắm, ngươi hỏi Lý Đình sẽ biết.

Lý Đình chỉ kịp hét lên: “Lương đại ca!” là đã bị Trung Điều Ngũ Bảo túm giằng túm xé, rối rít gặng hỏi. Không còn trốn vào đâu được, gã đành cứ sự thực mà ngọn ngành kể ra.

Ngũ Bảo ngơ ngác nhìn nhau, Hồ Lão Nhất chợt gầm to:

- Ngươi dối trá, đồ súc sinh…

Dứt lời, hắn túm chặt Lý Đình, vo nắm đấm chực đánh. Hồ Lão Thiên xót đồ đệ vội giơ tay ngăn, hai anh em liền lăn xả vào vật lộn. Hồ Lão Thập đứng sững một hồi rồi cũng rống lên oa oa, đá Lý Đình chí chết. Hồ Lão Vạn giơ tay ngăn:

- Ngươi đá hắn thì có tác dụng gì?

Hồ Lão Thập liền nện nắm tay vào vai Hồ Lão Vạn, mắt đỏ hoe hoe. Hồ Lão Vạn đau thấu xương cốt, lật đật giật lui, bực bội mắng:

- Ngươi điên đấy à?

Rồi họ cũng tay đấm chân đá thình thịch. Kình khí bắn ra xung quanh, chém nát từ bộ bàn ghế bằng gỗ tử đàn đến đủ các thứ bình ngọc ấm bạc bày biện trong sảnh.

A Tuyết, Thổ Thổ Cáp và Nang Cổ Ngạt nghe tin chạy sang, nhìn cảnh ẩu đả hỗn loạn quá mức, đều sợ sệt không dám lại gần. Lương Tiêu mất kiên nhẫn đành chạy ra quát to:

- Dừng tay!

Hồ Lão Thập nghe tiếng giật mình, đầu óc cũng hơi tỉnh táo lại, túm vai Lương Tiêu hỏi:

- Đại ca, tên oắt Lý Đình lừa bọn ta, phải không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Hắn không lừa ai đâu, mỗi câu mỗi chữ đều là thật.

Hồ Lão Thập sững sờ thõng tay, dập đầu xuống đất binh binh, mồm lẩm nhà lẩm nhẩm. Hồ Lão Nhất vốn bị ba huynh đệ liên thủ giữ ghịt lấy, đang vẫy vùng giãy giụa, chợt nghe Hồ Lão Thập khóc mếu, hắn cũng rụng rời khóc òa lên.

Không ngờ hai tên ấy nặng tình cảm như vậy, ai trông cũng xúc động can tràng, khóe mắt hoen ướt. Hồ Lão Thiên ngơ ngẩn buông Hồ Lão Nhất ra:

- Hồ Lão Nhất đừng khóc, cùng lắm lão tử tặng Lý Đình cho ngươi là được chứ gì!

Nói đoạn kéo Lý Đình lại, ép gã dập đầu lạy Hồ Lão Nhất. Hồ Lão Vạn thấy thế cũng lôi Vương Khả đến trước mặt Hồ Lão Thập:

- Này, lão tử… – Trong lòng hắn thực ra không muốn, do dự khá lâu mới cắn răng nói. – Lão tử cũng đem đồ đệ kính tặng ngươi đây.

Hồ Lão Thập vắt mũi dãi:

- Thèm vào đồ đệ của ngươi, lão tử chỉ cần Tước Nhi của lão tử thôi!

Hồ Lão Nhất nấc nghẹn:

- Phải, lão tử cũng chỉ cần Tam Cẩu Nhi thôi!

Hai người đau lòng quá đỗi, lại khóc rống lên. Bốn huynh đệ cứ hết khuyên lơn đến chối từ, biếu đi đẩy lại đám đồ đệ tuồng như bọn chúng chỉ là đồ vật chén bát, có thể chuyển nhà đổi chủ bất cứ lúc nào. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cuối cùng bất lực, đành nài Lương Tiêu:

- Ngươi lắm mưu nhiều kế, mau nghĩ cách…

Lương Tiêu thở dài, chìa tay nâng cả Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập dậy:

- Đều tại ta không bảo vệ được hai tên ấy, các ngươi cứ trút giận vào ta đây.

A Tuyết vội can:

- Không được! – đoạn vòng hai tay ôm chặt Lương Tiêu, sợ Hồ gia huynh đệ đánh thật.

Hồ Lão Thập sụt sùi một lúc, lắc đầu bảo:

- Có phải lỗi của đại ca đâu, đều tại lão tử dạy dỗ Tam Cẩu Nhi chưa tới nơi tới chốn.

Hồ Lão Nhất cũng tự trách:

- Phải, Dương Tiểu Tước mà học được hết công phu rồi thì chỉ đánh thắng chứ ai giết nổi hắn?

Lương Tiêu không ngờ hai anh em họ đúc rút kết luận nhanh như vậy, nói giọng ngỡ ngàng:

- Các ngươi nghĩ thoáng ra được thế thì tốt. – Gã quay sang Vương Khả và Lý Đình. – Hai đệ là bằng hữu chí thiết với Tam Cẩu Nhi, Dương Tiểu Tước. Sư phụ của họ là sư phụ của các đệ, cha mẹ họ cũng là cha mẹ của các đệ, sau này dẫu lập được sự nghiệp to lớn thế nào cũng phải ghi nhớ điều ấy.

Hai người vâng dạ, lạy Ngũ Bảo ba lạy. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập đều thở dài, nhưng nghĩ kỹ có ít cũng còn hơn không, cuối cùng đành ngậm ngùi chấp thuận.

Đêm ấy Lương Tiêu mở tiệc tẩy trần cho năm người. Trung Điều Ngũ Bảo không vui vẻ mấy, ỉu xìu uống một lúc rồi gọi Lý Đình và Vương Khả vào vườn trong truyền dạy võ công. Họ đều nôn nóng hết sức, chỉ muốn dốc ngay toàn bộ bản lĩnh ra cho hai đồ đệ, vì vậy đôn đốc luyện tập rất khe khắt. Lý Đình và Vương Khả tuy đã làm tướng nhưng vẫn rất nhu thuận với các sư phụ, không dám chống đối mảy may.

Lương Tiêu thấy vậy cũng yên tâm, bèn về phòng nghỉ ngơi. Giữa đêm, gã choàng tỉnh vì một tiếng hú dài. Lúc đầu còn tưởng là tiếng Trung Điều Ngũ Bảo la ó dạy dỗ đệ tử, nhưng nghe kỹ, nhận ra nội lực vô song trong âm thanh, gã bàng hoàng mặc áo chạy ra.

Ngoài sân, Trung Điều Ngũ Bảo, Lý Đình và Vương Khả đang ngửa cổ nhìn lên, khuôn mặt đầy vẻ kinh hoàng. Trong đêm tối, có hai bóng người xẹt qua xẹt lại trên các mái nhà, tốc độ di chuyển quá nhanh làm phát ra tiếng gió vù vù.

Lương Tiêu chú mắt nhìn, kinh ngạc nhận ra Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt. Tướng sĩ trong phủ cũng mất giấc vì tiếng động, ai nấy theo nhau trở dậy, đèn đuốc thắp sáng trưng.

Công Dương Vũ cười ngất:

- Tiêu lão quái, ở đây toàn là đồng bọn của ngươi, có giỏi thì cùng ta ra ngoài thành đơn đả độc đấu?

Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng trả lời:

- Ra thì ra, kể cả ngươi giăng bẫy ta cũng không sợ.

Hai bóng người tách lìa, song song chạy ra ngoài thành. Lương Tiêu tung mình lên mái nhà, bám sát đằng sau, Trung Điều Ngũ Bảo cũng chạy theo, luôn miệng kêu la chí chóe. Càng tiến xa, cước lực của tám người càng phân rõ cao thấp, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt chạy ngang nhau, Lương Tiêu cách họ chừng một trăm ba mươi bộ, còn Trung Điều Ngũ Bảo thì bị bỏ lại sau khá xa.

Khi Lương Tiêu đuổi đến lầu thành, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt đã ở bên ngoài và đang thần tốc di chuyển về hướng nam, không hiểu họ vượt thành bằng cách nào. Hai bóng đen lao như tên bay, chỉ chớp mắt đã lẩn vào đêm tối.

Lương Tiêu băn khoăn: “Công Dương tiên sinh định đến giết ta ư? Ta phải nói chuyện với ông cho minh bạch, rốt cục là ta sai ở điểm gì, hay chính bản thân ông sai. Còn Tiêu Thiên Tuyệt, ta và lão ấy thù sâu như bể, đánh trận là chuyện nhỏ, báo thù mới là việc lớn, lần này đã gặp được nhất định không thể bỏ qua”. Gã lập tức thét mở cổng thành, lao ra đuổi theo hai người.

[1] Trên núi Thạch Công.

[2] Tức Altai, một dãy núi ở trung tâm châu Á, nằm trên khu vực biên giới Nga, Trung Quốc, Mông Cổ và Kazakhstan.

[3] Tức Kara Korum, kinh đô của Đế quốc Mông Cổ từ thời Oa Khoát Đài đến giai đoạn đầu cai trị của Hốt Tất Liệt, trước khi ông này thiên di về Đại Đô.

[4] Theo Trâu Diễn, đất trung nguyên gồm chín châu: Thần thổ Đông nam Thần châu, Thâm thổ Chính nam Cung châu, Thao thổ Tây nam Nhung châu, Tịnh thổ Chính tây Thăng châu, Bạch thổ Chính trung Kí châu, Phì thổ Tây bắc Trụ châu, Thành thổ Bắc phương Huyền châu, Ẩn thổ Đông bắc Hàm châu, Tín thổ Chính đông Dương châu.

[5] Bài từ theo điệu Thủy điệu ca đầu của Trình Bí thời Tống.

ự việc xảy ra quá bất ngờ, A Tuyết hãi hùng nhắm chặt mắt, la lên thất thanh, Lương Tiêu cũng hoảng hồn tái mặt, kêu trời như bộng.

Hạ Đà La trèo lên rất nhanh, chỉ chớp mắt đã cặp đỉnh, xảy đâu gió rít mạnh trên đầu, gần như quạt hắn ngã nhào xuống núi. Tưởng Lương Tiêu thừa cơ từ điểm cao tập kích, Hạ Đà La hấp tấp vận lực đánh ra một chưởng, vì từ dưới đánh lên, để đảm bảo độ sát thương nên hắn dồn đủ mười thành nội kình. Chưởng phong mang sức nặng ngàn cân, hất đúng con chim gỗ khiến nó tà tà bốc cao. Bốn chiếc chong chóng quay ngược chiều gió, chim gỗ trĩu xuống một nhịp rồi bật lên, dừng giữa lưng chừng, cuối cùng lấy lại thăng bằng và bay đi.

Lương Tiêu thở phào nhẹ nhõm, cười vang:

- Hạ Đà La, đa tạ ngươi đã tiễn chân bọn ta!

Tên cao thủ vùng Tây Vực nằm bám vào vách đá, ngơ ngác nhìn theo hai người đang nương chiều gió bay xa dần, nét mặt sửng sốt, tay chân rụng rời, suýt nữa hắn lăn tòm xuống núi.

Từ khi cất cánh, A Tuyết vẫn nhắm nghiền mắt, mãi cho đến khi con chim thôi lắc lư cô mới định thần, hé mi nhìn ra, chỉ thấy trước mặt trập trùng những ngọn núi xanh cao vút, nắng ban mai nhuộm ánh hồng rực rỡ lên biển mây bồng bềnh. Xa xa, sông hồ lấp lóa như dát vàng khảm ngọc, uốn lượn qua muôn dãy đồi rặng núi rồi chảy tan vào biển lớn. Mấy hôm nay, tuy mắt đã quen với phong cảnh Hoàng Sơn, nhưng chưa bao giờ A Tuyết thấy vùng núi ấy tươi đẹp như lúc này.

Con chim gỗ xuôi chiều gió đưa hai người bay qua đỉnh Quang Minh, ngọn Liên Hoa, ngọn Thiên Đô và lần lượt chao qua sáu mươi chín ngọn còn lại trong dãy Hoàng Sơn. Gió mát lồng lộng thổi phồng tà áo, không gian bao la khiến tâm hồn thảnh thơi rộng mở, Lương Tiêu không kìm được lòng, liền vòng tay ôm A Tuyết. Cô gái ngả đầu vào ngực gã. Trong khoảnh khắc ấy, thân thể và trái tim họ như hòa làm một, mọi mối ưu phiền, mọi sự tranh đoạt trên đời đều nhạt nhòa tan loãng như mây khói xung quanh.

Gió nhẹ đưa chim gỗ ra khỏi vùng núi. Trải dưới đôi cánh nó lúc này là bình nguyên bao la với ruộng đồng mênh mang và đường sá bằng phẳng. Nhiều nông dân đang cày cấy, trông thấy con chim gỗ thì bỏ dở công việc, la ó chỉ trỏ hoặc chạy theo xem.

Lương Tiêu cúi xuống nhìn đồng bằng, thở dài ao ước:

- Giá được bay mãi thế này thì thích biết bao nhiêu!

- Phải lắm! – A Tuyết hưởng ứng ngay.

Lương Tiêu cười buồn, khi ngước mắt lên, nhận ra Trường Giang đang lấp lánh cuộn sóng phía trước, gã liền lay động tay quay. Con chim hạ dần về phía dòng sông, cuối cùng đáp xuống nước, bập bềnh trôi xuôi hạ du.

Lương Tiêu tháo cánh chim làm mái chèo, bơi rẽ về hướng bờ sông. Khi đặt chân lên nền đất cứng, hai huynh muội còn đứng lặng nhìn theo con chim gỗ cho tới khi nó trôi xa hẳn, lòng ngập tràn cảm giác nuối tiếc. Một lúc lâu sau, Lương Tiêu thở dài, dắt tay A Tuyết:

- Đi nào!

Cô gái ngước lên, ánh mắt họ giao nhau. Nhớ lại cảnh âu yếm trên cao lúc nãy, mặt hai người cùng nóng bừng. Lương Tiêu ngoảnh đầu đi, bồi hồi nhận ra rằng trong khoảnh khắc ấy, hình ảnh A Tuyết đã xâm chiếm toàn bộ tâm hồn mình. Gã liếc mắt nhìn trộm, thấy nàng đang chau mày cúi mặt, không hiểu nghĩ ngợi những gì, cảm thấy hơi ấm nơi bàn tay nhỏ nhắn thấm dần vào da thịt mình, gã bỗng xốn xang trong dạ, chỉ muốn ngửa mặt lên trời hú vang cho thỏa niềm thống khoái.

Hai người nắm tay đi về phía đông suốt một ngày thì đến đại doanh Kinh Khẩu. Lính gác trông thấy Lương Tiêu từ xa, vội cấp báo vào doanh. Cổng lớn lập tức mở toang, ba kỵ sĩ phóng thốc ra, chính là Thổ Thổ Cáp, Lý Đình và Nang Cổ Ngạt. Cả ba đều bận áo sô giáp trắng, nét mặt buồn đau.

Khi tới gần, Lý Đình nhảy xuống ngựa, ôm choàng lấy Lương Tiêu khóc lạc cả giọng. Lương Tiêu đoán hiểu tất cả, muốn nói nhưng họng nghẹn ngào, đành chỉ vỗ vỗ vai gã. A Tuyết ngạc nhiên:

- Xảy ra chuyện gì thế Lý Đình? Vương Khả đâu?

Lý Đình rùng mình, nước mắt vòng quanh, môi run run nhưng không thành tiếng. Thổ Thổ Cáp buồn bã đáp:

- Vương Khả tử trận rồi!

A Tuyết máy môi, nước mắt dâng ngập mi rồi chảy ròng ròng xuống hai má. Thổ Thổ Cáp nghiến răng kể:

- Lương Tiêu bỏ đi mà không báo một lời, A Truật đại nhân giận lắm, trách ngươi là đồ vô kỷ luật. Ta nghe chướng tai, bèn bảo dẫu thiếu ngươi thì chúng ta cũng chẳng thua được nào! A Truật nói ngay: “Việc quân không phải chuyện chơi, ngươi đã chắc chắn như vậy thì khi khai chiến, các ngươi làm tiên phong, thắng là công lao các ngươi, thua là tội của Lương Tiêu, ta sẽ nghiêm trị hắn”. Chỉ lát sau, quân Tống hạ chiến thư khiêu khích, đại nhân kéo quân ra nghênh địch. Trận pháp đối phương vô cùng lợi hại, bên ta tổn thất khá nặng. Vương Khả liền đề xuất: “Chúng ta chết cũng không sao, quyết không được để liên lụy đến Lương đại ca”. Thế là hắn rủ Lý Đình dẫn một đội thuyền chất đầy hỏa khí lao vào giữa trận quân Tống, ta và Nang Cổ Ngạt bọc quân yểm hộ hai cánh. Không may Lý Đình bị địch nhân cầm chân ngang đường, Vương Khả bèn đốt luôn thuyền hắn rồi luồn thẳng vào tâm trận địch. Hỏa khí bắt lửa phát nổ, thiêu rụi ngay mười mấy chiếc tàu lớn của quân Tống, kế đó được hướng gió đông nên liên tục lan rộng, khiến mấy trăm dặm thuyền chiến của chúng đều cháy thành than… – Thổ Thổ Cáp nấc nghẹn, chua xót kết thúc. – Quân Tống đại bại, nhưng Vương Khả không quay về nữa, ngay cả thi… thi thể cũng chẳng thấy đâu.

Lý Đình khóc đến lả cả người, khi Thổ Thổ Cáp dứt lời, qua làn nước mắt nhòe nhoẹt, gã nhìn sang Lương Tiêu, thấy gã này cũng đứng như hóa đá, bèn nói:

- Lương đại ca! Nhất định huynh phải trả thù cho Vương Khả, chính mắt đệ chứng kiến tên họ Vân đứng hò hét chỉ huy trong hàng quân Tống. Trước kia thì hắn hãm hại Triệu San, Dương Giác, hôm nay lại đến lượt Vương Khả. Đệ… đệ không đội trời chung với hắn…

Lương Tiêu bỗng rùng mình, hộc ra một ngụm máu, Lý Đình hốt hoảng:

- Huynh sao thế?

Lương Tiêu quệt máu, ngước mắt lên vòm không xám xịt, lầm bầm:

- Sinh con trai phải đâu là tốt, con gái kia mới thực cát tường…

Lý Đình nghe lời lẽ quái lạ đâm rợn người:

- Huynh vẫn tỉnh táo đấy chứ?

Lương Tiêu gạt gã ra, sải bước vào doanh, giọng thảm não:

- Gả chồng cứ chọn tiện đường, con trai đành đoạn sa trường vùi thây. Người có thấy ở miền Thanh Hải, xương chất chồng hỏi mấy ai gom. Hồn ma cũ mới khóc om, trời sầu đất thảm âm âm tiếng hờ.

Mọi người đứng sững, nhìn theo bóng gã khuất dần trong khu lều trại.

Lý Đình gắng vắt óc đoán hiểu ý nghĩa của mấy câu vừa rồi, chợt một tia hồi ức xẹt qua tâm trí. Dạo lên đường tòng chinh, Lương Tiêu đã từng đọc bài thơ này, nào ngờ lời thơ ấy ứng vào bọn họ như một câu sấm nghiệt ngã. Bốn người bạn thân háo hức cùng nhập ngũ, chưa tới Lâm An đã chỉ còn sót mỗi một người. Càng nghĩ, gã càng không cầm được nước mắt, lòng đau như dao cứa.

Trong cuộc chiến Kinh Khẩu, thủy quân Tống tổn thất hơn một vạn thuyền chiến. Lâm An được tin, cả triều đình bàng hoàng thảng thốt. Cùng lúc bên nhà Nguyên, vua quan cũng đang xôn xao tranh cãi xem có nên tiếp tục diệt Tống hay không, vừa hay tin báo tiệp ở Kinh Khẩu bay về, Bá Nhan mừng rỡ dâng biểu: “Sau chiến dịch này, Đại Tống đã hao tổn nguyên khí, cạn kiệt sức lực, phòng thủ mà không giữ được, việc lấy tiểu thành Lâm An dễ dàng khác nào lấy đồ trong túi. Trời đang phù hộ chúng ta, đất đai vạn dặm của Đại Tống chính là cơ nghiệp ngàn đời của bệ hạ”. Hốt Tất Liệt đọc xong tấu chương, bất chấp chiến sự miền tây, lập tức phong Bá Nhan làm Hữu thừa tướng, A Truật làm Tả thừa tướng, Lương Tiêu làm Bình chương chính sự, hạ chỉ cất quân xuống nam tiêu diệt Đại Tống.

Bá Nhan trở về đại doanh, ra lệnh cho A Truật tiếp tục vây hãm Dương Châu, lại cắt Lương Tiêu làm tiên phong kéo quân xuống Thường Châu.

Thường Châu vốn là căn cứ địa của Thần Ưng môn. Sau khi Kinh Khẩu thất bại, Cận Phi và Vân Thù thu thập tàn binh quay về tổng đàn. Nghe tin quân Nguyên kéo xuống nam, hai người vào thư phòng mật đàm cả ngày mà không vạch ra được kế sách nào. Vân Thù ngồi thẫn thờ hồi lâu, chợt nói:

- Huynh đệ ta tử trận nơi sa trường đã đành, nhưng mẫu thân và tỷ tỷ thì tính sao đây? Văn nhi còn nhỏ, chẳng lẽ cũng phải tuẫn nạn vì đất nước à?

Cận Phi lắc đầu than:

- Sự bất đắc dĩ thôi!

Vân Thù cau mày:

- Theo đệ, nên bảo tỷ tỷ thừa lúc đêm xuống đưa mẫu thân và Văn nhi rời khỏi thành…

Cận Phi mắng:

- Vớ vẩn, chúng ta đang giữ trọng trách bảo vệ thành trì, lúc này lại lo di chuyển gia quyến riêng thì còn ra cái thể thống gì?

Vân Thù nhợt mặt, chưa kịp đáp lời thì cửa phòng kẹt mở, ánh sáng soi lên một lão phu nhân khuôn mặt đầy đặn, mái tóc muối tiêu, mình bận đồ sô gai. Sau lưng bà là một thiếu phụ chừng ba mươi tuổi, nét mặt nhang nhác Vân Thù.

Hai huynh đệ sửng sốt nhìn ra. Họ mải bàn bạc, lòng dạ lại ngổn ngang trăm mối nên không để ý rằng ngoài cửa có người. Cận Phi đứng bật dậy, thi lễ:

- Sư nương! – đoạn nhìn sang thiếu phụ. – Tiểu Tuyền!

Vân Thù cũng đứng dậy, cúi đầu trước hai người:

- Mẫu thân! Tỷ tỷ!

Vân phu nhân thong thả nói:

- Tình cờ đi ngang qua, ta đã nghe hầu hết những điều hai con thảo luận.

Giọng bà khản đặc, nhưng lời lẽ thốt ra rất rành rọt uy nghi, ánh mắt xoáy vào mặt Vân Thù:

- Lối suy nghĩ nhỏ nhen của con chẳng khác gì phường tự tư tư lợi như Giả Tự Đạo. Chẳng lẽ bao nhiêu đạo lý cha răn dạy, con đều bỏ ngoài tai hết cả rồi ư?

Vân Thù toát mồ hôi, khuỵu xuống run rẩy thưa:

- Hài nhi gánh nạn một mình đã đành, nhưng để liên lụy đến mẫu thân và tỷ tỷ thì thật không yên lòng.

Vân phu nhân thở dài:

- Nước non loạn lạc, việc nhà đáng chi? Bọn Thát xéo nát hàng vạn dặm giang sơn Đại Tống, tàn sát vô số gia đình, thêm một nhà họ Vân thì đáng kể gì? Ta không phải hạng đàn bà tầm thường, Tiểu Tuyền cũng rất hiểu đại cục. Ở Vân gia, đâu chỉ nam nhi mới biết điều trung nghĩa!

Giọng bà điềm đạm ung dung, Vân Thù nghe mà lòng đau như cắt, nước mắt lã chã tuôn rơi. Vân phu nhân thở dài, chìa tay ra đỡ Vân Thù dậy:

- Con có biết chữ “thù” trong tên con nghĩa là gì không?

- Dạ có, đó là chữ “thù” trong “đặc thù”.

Vân phu nhân gật đầu:

- Đúng, cha đặt tên ấy là mong con nổi bật hơn người, trở thành một đại anh hùng, đại hào kiệt khác hẳn số đông! Làm gì cũng ngó trước ngó sau thì đâu phải cốt cách của trang nam tử!

Vân Thù rùng mình, cúi đầu im lặng. Vân phu nhân ngoảnh lại hỏi Vân Tuyền:

- Văn nhi đâu con?

Vân Tuyền mỉm cười:

- Cháu đang luyện võ mẹ ạ!

Dứt lời, nàng đưa mắt nhìn Cận Phi. Hai người vừa là đồng môn, vừa là phu phụ. Cận Phi ngắm nàng, cảm thấy giữa lúc gian nguy này, mỗi ánh mắt nụ cười của thê tử đều đáng quý vô ngần, nhìn bao nhiêu cũng không đủ, bỗng lại nhớ rằng trong cuộc chiến sắp tới đây, tất cả chỉ có đường chết chứ không còn lối thoát nào nữa, y đau buồn khôn tả, cụp mắt xuống thở dài. Vân Tuyền nhẹ nhàng nắm tay Cận Phi, dùng đầu ngón tay viết nhẹ vào lòng bàn tay y: “Muội không sợ”. Cận Phi giật mình ngước lên, mắt ướt nhoèn.

Vân phu nhân vừa thong thả bước ra vừa bảo:

- Muộn rồi, các con đã vất vả suốt một ngày, mau đi nghỉ đi!

Vân Thù đưa mẹ về phòng xong, định quay về phòng mình thì nghe ngoài vách có tiếng binh khí va chạm, bèn đi vòng qua ô cửa tròn ra ngoài đình. Phong Miên đang cầm kiếm gỗ giao đấu kịch liệt với một thiếu niên sử thương. Sở Uyển chắp tay sau lưng đứng xem, thấy Vân Thù đến liền nhoẻn cười:

- Vân công tử!

Phong Miên muốn hiển lộ bản lĩnh trước mặt chủ, liền nhảy vụt ra sau hai thước, giả vờ sơ hở, dụ thiếu niên nọ xuất chiêu đâm mình. Khi thương đâm tới, Phong Miên vụt nghiêng người nắm lấy cán thương, giơ cao kiếm gỗ chém bộp xuống cánh tay đối thủ. Thiếu niên nọ đành thõng tay giật lui, tức giận thốt:

- Lại thua rồi! – Liếc thấy Vân Thù đứng sau, cậu kêu lên. – Cữu cữu, tại sao con toàn thua thế?

Vân Thù gắng tỏ ra bình thường, mỉm cười nói:

- Ai bảo trước đây con nghịch ngợm ham chơi, luyện công quấy quá!

Cận Văn níu lấy gã:

- Cữu cữu dạy con một ít bản lĩnh cấp tốc để con xung trận giết bọn Thát đi! – Nói đến ba chữ “giết bọn Thát”, mắt cậu bé rực sáng.

Vân Thù thầm thở dài, nhưng ngoài mặt vẫn gượng mỉm cười:

- Cấp tốc thì ta không dạy nổi.

Cận Văn bĩu môi:

- Hừ, cữu cữu hẹp hòi thế? – Cậu quay ngoắt sang Phong Miên. – Chúng ta đấu lại!

Hai bên hò hét, tiếp tục lao vào giao đấu.

Vân Thù theo dõi một lúc rồi bảo Sở Uyển:

- Lại đây, ta có chuyện muốn nói với cô nương!

Sở Uyển theo gã đi ra khỏi đình. Hai người im lìm dạo bước giữa những lùm cây bụi hoa, thình lình Vân Thù lên tiếng:

- Cô nên về nhà thì hơn!

- Vì sao? – Sở Uyển ngạc nhiên.

- Đang lúc nước sôi…

Sở Uyển không nghe hết, lập tức ngắt lời:

- Muội biết, nhưng muội không sợ! – Cô ta đăm đăm nhìn gã, ánh mắt long lanh, giọng dịu dàng. – Có huynh ở bên, muội không sợ gì hết!

Một cái bóng xanh bất thần lướt nhanh qua tim khiến Vân Thù bàng hoàng: “Sao ta lại nhớ tới nàng?”. Gã ngắm Sở Uyển, đau khổ nghĩ: “Sở cô nương cũng là một thiếu nữ tốt, nhưng… e rằng cả đời này, ta không bao giờ quên nổi người đó”. Trước ánh mắt trân trối của gã, Sở Uyển e lệ nhìn xuống, mặt đỏ như quả bồ quân.

Hai người đang lặng lẽ đứng bên nhau, chợt một a hoàn lao tới, kéo Vân Thù gọi giật giọng:

- Công tử ơi… nguy, nguy lắm…

Vân Thù ngạc nhiên:

- Nói chậm thôi nào Thư Mi!

A hoàn nuốt khan, òa khóc:

- Lão phu nhân… treo cổ tự tận rồi…

Hệt như bị sét đánh, Vân Thù giật lui, cơ hồ ngã phệt xuống. Sở Uyển vội giơ tay đỡ, gã thiếu niên chết điếng người, quáng quàng chạy vào phòng mẹ. Xác phu nhân vẫn treo lơ lửng giữa nhà, cổ thít một dây lụa bạch trắng như tuyết. Vân Thù lính quýnh đỡ mẹ xuống, đưa tay thăm mũi thì thấy đã tắt thở. Gã đau lòng quá độ, khóe mắt cay xè, những muốn khóc rống lên mà không sao bật được thành tiếng.

Chẳng biết ngồi thẫn thờ như thế bao lâu, chợt cảm thấy có người vỗ vai mình, Vân Thù ngước nhìn thì gặp ngay đôi mắt sưng húp của Cận Phi. Họ Cận trầm giọng bảo:

- Đại địch đang ở trước mặt, đệ hãy gắng kìm nén đau thương!

Vân Thù liếc ra sau y, chột dạ hỏi:

- Tỷ tỷ đâu rồi?

Cận Phi gục đầu:

- Nàng lừa lúc ta ra ngoài… đã nuốt vàng tự tận…

Y gắng sức nén tiếng thổn thức, nhưng không cầm được hai hàng lệ lăn dài trên má.

Cùng một lúc mất đi hai người ruột thịt, Vân Thù cứ ngồi bệt ra đất, đầu óc trống rỗng, không đứng dậy nổi mà cũng không nghĩ được gì nữa. Cận Phi nhác thấy trên bàn có tờ giấy hoa tiên liền cầm xem, trên đó viết bốn chữ tiểu khải: “Thà làm ngọc nát, còn hơn ngói lành”. Nét chữ thanh tú nhưng bút lực rất mạnh, hằn xuống cả mặt trái tờ giấy, Cận Phi nhận ra thủ bút của Vân phu nhân thì xót xa quá độ, nước mắt chứa chan.

Phương Lan lặng lẽ đi vào, nhìn hai người một lát rồi thở dài:

- Bọn Thát đã đến!

Hai huynh đệ cả kinh, vội kìm nước mắt chạy ra khỏi phòng, lao lên đầu thành. Trên cao, vòm trời bao la xanh ngắt không một gợn mây, dưới thấp, quân Nguyên rục rịch tiến đến, người ngựa dày đặc trên bình nguyên, nhìn không thấy đâu là cùng.

Đột ngột, quân Nguyên ngừng bước tiến, một kỵ sĩ tách tốp phi lên. Cận Phi cười nhạt:

- Định dụ hàng chứ gì?

Y khua tay. Ở các lỗ châu mai, cung nỏ đều kéo căng, chỉ đợi người nọ đến chân thành là bắn hắn thành nhím luôn.

Kỵ sĩ kia phi ngựa rất nhanh, trong thoáng chốc đã tới gần, Vân Thù nhận ra Lương Tiêu, lòng bừng bừng căm giận. Lương Tiêu đến cách thành một ngàn bộ thì gò cương, giơ cao hoa thương, ngửa mặt nhìn lên gọi:

- Có Vân Thù ở đó không?

Vân Thù hỏi to:

- Ngươi đến chiêu hàng à?

Lương Tiêu từ tốn nói:

- Không, ta đến khiêu chiến. Mong ngươi ra đây cùng ta quyết một trận đơn đả độc đấu. Nếu ngươi chết vì tay ta thì từ nay Lương Tiêu sẽ vĩnh viễn cao chạy xa bay, rút lui khỏi mọi cuộc chinh chiến. Nếu ta chết vì tay ngươi thì càng không còn gì phải bàn nữa.

Vân Thù nghe mà nóng máu, định nhận lời ngay, Cận Phi vội can:

- Kẻ này ngụy kế đa đoan, nhất định có âm mưu gì đây, đệ đang mang trọng trách giữ thành, không được khinh suất xuống đó.

Vân Thù sững người, cúi đầu im lặng. Lương Tiêu đứng đợi hồi lâu, không thấy động tĩnh gì bèn sốt ruột gọi:

- Vân Thù!

Vân Thù nhăn mặt chực lao xuống, Cận Phi nhoài theo kéo lại:

- Đừng trúng kế khích tướng của hắn!

Vân Thù đành nghiến răng nén chịu. Gọi liền ba lần mà trên thành vẫn lặng ngắt như tờ, Lương Tiêu hậm hực quay ngựa trở về, cho quân hạ trại ngoài thành, từ hôm ấy tâm trạng buồn chán, ngày nào cũng say sưa chè chén với Trung Điều Ngũ Bảo. Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt và Lý Đình không hiểu ra sao, mà cũng không dám giục gã công thành, vì hễ hỏi đến là Lương Tiêu nổi cáu. A Tuyết thấy đại ca nát rượu như thế thì buồn lắm, khổ nỗi không giỏi khuyên nhủ, cô đành an phận túc trực thường xuyên bên cạnh để lau rửa chăm sóc cho gã.

Sáu ngày sau, Bá Nhan tới Thường Châu. Chứng kiến cảnh bê tha ấy, y nổi trận lôi đình, nhưng thấy Lương Tiêu say đến nỗi thậm chí không nhận ra mình là ai, y tạm thời hoãn xử phạt, thay Lương Tiêu đích thân điều động binh mã tấn công thành trì. Thường Châu thành cao hào sâu, Vân Thù lại giỏi phòng thủ, quân Nguyên tấn công hơn mười ngày mà không có cách nào phá hạ, ngược lại còn tổn thất rất nhiều.

Triều đình Tống nghe tin liền phái viện binh tới, khốn nỗi mới đến Ngu Kiều thì đã bị quân mai phục của Thổ Thổ Cáp đánh tan tác. Tháng thứ hai, Lý Đình phá hủy được tàu bè hộ thành của Thường Châu.

Nang Cổ Ngạt đắp đài cao ngoài thành, đưa thang mây áp sát tường lũy để một vạn bộ binh Nguyên triều đột nhập Thường Châu.

Quân Tống rút vào nội thành, vừa đánh vừa lui. Vân Thù đoạn hậu, múa song kiếm tít mù. Quân Nguyên cứ ùn ùn đổ vào. Được một hồi, Cận Phi thấy tình thế khó bề cứu vãn bèn quay sang túm vai Vân Thù bảo:

- Ta ở đây đương cự, đệ dẫn binh mã phá vòng vây phía nam mà chạy đi.

Vân Thù sửng sốt:

- Huynh nói gì vậy?

Cận Phi xẵng giọng:

- Đệ đã quên phải báo thù cho sư phụ rồi sao?

Vân Thù sững người. Cận Phi nghiêm mặt nói:

- Sư phụ lẫy lừng danh hiệp một thời, cuối cùng tính mệnh tiếng tăm thảy đều bị hủy trong tay Tiêu Thiên Tuyệt, thù cha chưa báo, đệ đâu được phép chết! Tài trí võ công đệ đều trên ta gấp trăm lần, hãy bảo toàn mạng sống để mai sau tiếp tục giao chiến với quân Thát.

Vân Thù vùng khỏi tay y, tức giận phản đối:

- Đệ thà tử trận chứ không bỏ trốn.

Cận Phi kề đao vào cổ mình, trừng mắt:

- Được lắm, nếu đệ không đi, ta tự tử ngay cho đệ xem!

Vân Thù choáng váng nhìn sư huynh, hai mắt đỏ hoe. Cận Phi đâm phập đao xuống đất, nắm lấy vai gã, ôn tồn bảo:

- Sư nương dùng cái chết để gửi gắm Thường Châu lại cho chúng ta, vì vậy ta quyết phải giữ thành đến cùng, nhưng cái chí đuổi man di của sư phụ cũng không thể bỏ lửng ở đây được. Đệ phải gánh lấy cái chí ấy, còn di ý của sư mẫu ta sẽ thực hiện trọn vẹn.

Vân Thù ngơ ngẩn đưa mắt nhìn Phương Lan. Lão già vuốt râu cười lớn:

- Tiểu tử ngốc nghếch, khỏi cần bận tâm đến ta, mau đi đi!

Vân Thù nghẹn ngào:

- Phương lão tiền bối…

Phương Lan xua tay:

- Thân này sắp xuống lỗ rồi, chẳng thiết chạy đâu nữa. Nếu hôm nay con phá được vòng vây, mai sau nhớ gắng sức giết thật nhiều lính Thát thay ta là được. – nói đoạn cười ha hả, giọng cười hào sảng là thế mà vẫn không che giấu được ý vị thê lương.

Vân Thù đang nghẹn ngào, Cận Văn đã dắt ngựa ra. Vân Thù nghiến răng đón lấy dây cương, nhảy phắt lên yên, thình lình ngoái lại tóm Cận Văn kéo lên cùng. Cậu bé bị điểm vào huyệt Khí hộ ở thắt lưng, không cựa quậy gì được. Cận Phi chưa kịp ngăn cản, Vân Thù đã giật mạnh cương. Tuấn mã tung vó phóng vút đi xa. Cận Phi thẫn thờ nhìn theo sư đệ, nước mắt ướt đẫm hai má.

Vân Thù dẫn quân đánh thẳng ra ngoài thành, Lý Đình nôn nóng báo thù nên ráo riết đuổi theo, tới Ngu Kiều thì bắt kịp. Hai bên lao vào chiến đấu kịch liệt, Vân Thù đại hiển thần uy, tung hoành xông xáo giữa trận địch, chém giết vô số rồi dẫn hơn một trăm binh lính sống sót xé trùng vây lao đi.

Hai bên chạy đuổi hơn một trăm dặm nữa. Thổ Thổ Cáp cũng dẫn thiết kỵ Khâm Sát đuổi theo hỗ trợ, ngựa phóng nhanh như gió, tên tới tấp như mưa. Quân Tống ngã nghiêng ngã ngửa, khi cặp bến Bình Giang thì chỉ còn mười kỵ mã, sông sâu trước mặt, kẻ địch sau lưng, quả thực tiến thoái lưỡng nan!

Vân Thù đã trúng mấy mũi tên, máu nhuộm ướt cả giáp sắt. Khi chạm bờ sông, gã không chần chừ nhiều, ôm chặt lấy cháu rồi hú vang, giật ngựa chồm dậy, lao vút xuống sông như mũi tên. Đám tàn quân cũng nhất tề hò hét, nhảy ào ào xuống nước theo gã.

Khốn thay phần lớn bọn họ đều đã bị thương, sóng nước Bình Giang lô xô, chỉ thoáng cái đã nuốt chửng hết người này đến người khác, duy chỉ có Vân Thù nhờ nội công thâm hậu nên cắp Cận Văn gắng sức đạp sóng bơi được sang bờ bên kia.

Quân Nguyên đuổi đến bờ sông. Thổ Thổ Cáp giương cung. Tên vừa rời dây đã bị một ngọn roi quất tới cuốn lấy. Thổ Thổ Cáp ngoái đầu nhìn, kinh ngạc kêu lên:

- Lương Tiêu!

Gã Bình chương chính sự hồi sáng còn say khướt, bây giờ đã nhìn hắn bằng cặp mắt sáng quắc tỉnh táo. Thổ Thổ Cáp ngạc nhiên hỏi:

- Sao không để ta bắn?

Lý Đình cũng thắc mắc:

- Phải đó đại ca, hôm nay không báo thù, còn đợi đến bao giờ đây?

Lương Tiêu nhìn theo Vân Thù hồi lâu, lắc đầu thở dài:

- Hảo hán!

Mọi người ngơ ngác. Lương Tiêu giật ngựa quay về, vừa thả nước kiệu vừa nói to:

- Hắn thà chết không khuất phục, chẳng phải hảo hán hay sao? Hảo hán như thế, ta muốn cùng quyết bề sinh tử chốn sa trường chứ không đời nào lợi dụng cái khó của hắn mà bắn hạ bằng cung nỏ!

Bọn Thổ Thổ Cáp đều đã từng giao thủ với Vân Thù, ít nhiều đều bội phục bản lĩnh của gã, nghe Lương Tiêu nói vậy thì không phản đối, cũng không gạn hỏi gì thêm nữa.

Vừa lúc ấy, một viên Bách phu trưởng giải tù binh đến. Lương Tiêu đưa mắt nhìn, nhận ra Sở Uyển và Phong Miên, cả hai đều trúng tên, đang vịn vào nhau chệch choạc bước đi.

Bách phu trưởng nói:

- Tôi phát hiện hai đứa này bị thương núp bên đường.

Sở Uyển trừng trừng nhìn Lương Tiêu, đôi mắt đẹp bắn ra đầy oán độc. Phong Miên chu môi nhổ nước bọt vào gã, nhưng bị thương yếu sức nên chỉ nhổ được tới vó ngựa mà thôi. Một tên lính đứng bên vụt giơ đao chém tên oắt to gan. Lương Tiêu liền quất roi cuốn phăng đại đao của hắn đi. Tên lính sợ sệt lùi lại sau. Lương Tiêu dặn viên y quan:

- Trị thương cho họ, không được ngược đãi.

Y quan vâng mệnh, rút mũi tên, bôi thuốc và băng bó vết thương cho hai tù binh.

Vân Thù gắng sức vượt sông lên tới bờ, hai cậu cháu dìu nhau mà đi. Sau một trận khổ chiến, họ đều đã sức cùng lực kiệt. Chật vật đi được một quãng, Cận Văn mất máu nhiều quá, ngã vật ra đất, Vân Thù cũng bị kéo ngã theo, tuyệt vọng nghĩ: “Chẳng lẽ chúng ta lại bỏ mạng ở đây?”. Thình lình có tiếng vó ngựa lộp cộp, Vân Thù ngoái đầu nhìn thì thấy nhiều bóng người lố nhố trong đêm, không rõ là bao nhiêu người.

Vân Thù gượng dậy thét to, múa thanh kiếm đâm túi bụi về phía toán người, nào ngờ mới chạy được mấy bước đã quíu chân ngã bẹp xuống, góc trán va phải một tảng đá xanh, hai mắt tối sầm, loáng thoáng nghe thấy tiếng đàn bà kêu lên, rồi đầu óc trống rỗng, ngất lịm đi.

Lương Tiêu dẫn quân quay về Thường Châu, đi được nửa ngày đường thì trông thấy bóng vọng gác in lên nền trời. Nang Cổ Ngạt phi như bay ra đón họ, mặt mày rạng rỡ. Lương Tiêu hỏi han tình hình trong thành, Nang Cổ Ngạt hớn hở kể:

- Bá Nhan đại nhân nói Thường Châu đã làm chúng ta tổn thất rất nhiều binh tướng, phải dạy cho bọn chúng một bài học, vì vậy đại nhân hạ lệnh “đồ thành”, giết sạch từ trên xuống dưới, gà chó cũng không tha. – Hắn cười vang khoái trá, chợt nhận ra mặt Lương Tiêu trắng bệch thì lo lắng hỏi. – Ngươi bị thương ư?

Lương Tiêu vụt túm lấy ngực Nang Cổ Ngạt, nhấc bổng hắn lên khỏi yên, gằn giọng:

- Bá Nhan hạ lệnh đồ thành?

Gã túm rất chặt, Nang Cổ Ngạt tắc khí không nói được, chỉ trả lời bằng cách gật gật đầu. Lương Tiêu lăng tay một cái, Nang Cổ Ngạt ngã ngửa xuống, suýt nứt xương sống.

Lương Tiêu quất ngựa phi nước đại vào thành, chạy quanh một vòng. Không còn một người Tống nào sống sót, chỉ thấy nhiều tốp lính Nguyên mắt đỏ ké, hò hét chém giết. Bọn Thổ Thổ Cáp chạy theo sau, thấy Lương Tiêu phi ngựa lang thang đã lâu, định gọi lại thì bỗng Lương Tiêu giật ngựa quay đầu, phóng nước đại ra khỏi thành, quay về đại doanh.

Phi một mạch tới trướng soái, gã nhảy phắt xuống ngựa, sải bước chạy vào, mấy tên thân binh không ngăn cản kịp, bị gã đấm nhát một ngã nhào hết cả. Bá Nhan đang dùng bữa, ngước lên chưa kịp hỏi han gì thì Lương Tiêu đã vung chưởng phải tát thẳng vào mặt y. Bá Nhan hoảng hồn giơ tay đỡ, chợt nơi ngực tắc nghẹn, hóa ra đã bị chưởng trái của Lương Tiêu khống chế rồi.

Bá Nhan vừa sửng sốt vừa tức giận. Nhưng từng trải trận mạc đã nhiều, y không biểu lộ gì, chỉ nghiêm khắc hỏi:

- Ngươi định tạo phản à?

Lương Tiêu nghiến răng, hai mắt trợn to như muốn nứt:

- Ông hạ lệnh đồ thành?

Bá Nhan cau mày:

- Thế thì sao? Thường Châu khiến chúng ta hao binh tổn tướng quá mức, nếu không trừng trị làm gương thì các thành trì khác cũng bắt chước cứng đầu cứng cổ theo, khi nào mới đến được Lâm An?

Lương Tiêu nhổ phì phì, giọng tức giận:

- Trên chiến trường, kẻ chết người sống là sự thường. Chém chết tướng sĩ thì còn đi một nhẽ, nhưng dân chúng trong thành tay không tấc sắt, ông đuổi tận giết tuyệt như thế, thử hỏi tinh thần anh hùng ở đâu?

Bá Nhan cười nhạt:

- Người trong thiên hạ, ai chẳng là máu thịt do cha mẹ sinh ra, ai mà chẳng có anh em vợ con? Cùng là sát nhân thì giết binh tướng hay dân thường cũng có gì khác nhau? Trước đây ngươi đã tàn hại bao nhiêu người, sao hôm nay bỗng đổi dạ nhân từ như đàn bà thế? Khi đánh trận, tướng quân là nông phu, tất cả số còn lại là lúa đồng. Ai gặt lúa nhiều hơn, nhanh hơn thì kẻ đó là danh tướng!

Y nói gay gắt, sắc mặt nghiêm nghị. Mỗi lời mỗi chữ đều như dùi nhọn xoáy vào trái tim Lương Tiêu. Gã khổ sở nghĩ: “Phải, đều là giết người thì có gì khác biệt đâu?”.

Lúc ấy, Thổ Thổ Cáp, Lý Đình và Nang Cổ Ngạt hớt hải kéo nhau vào trướng, thấy cảnh ấy đều kinh hãi khôn tả. Thổ Thổ Cáp thét:

- Lương Tiêu, ngươi điên rồi sao?

Nang Cổ Ngạt cũng khuyên giải:

- Mau buông Thừa tướng ra, Lương Tiêu!

Lý Đình nói như khóc:

- Lương đại ca, đừng làm chuyện dại dột!

Lương Tiêu nghe can gián, tinh thần bỗng bải hoải. Bá Nhan thừa cơ vùng ra. Lương Tiêu toan đuổi theo, nhưng Thổ Thổ Cáp đã bổ nhào đến giữ chặt gã, Lương Tiêu lấy lại tỉnh táo, thúc cùi chỏ trái vào đúng huyệt Kỳ môn của Thổ Thổ Cáp khiến tên này ngã bổ chửng. Nhưng chỉ một thoáng trùng trình đó đã đủ để Bá Nhan áp sát, vung tả chưởng chém xéo lên ngực gã. Chưởng lực hung mãnh khôn tả, đẩy Lương Tiêu bắn đi đến tám bộ. Hai gối mềm nhũn, gã ngồi phệt xuống đất, miệng ộc máu tươi, đám thân binh hò hét xông tới, ấn dúi gã xuống đất.

Bá Nhan dùng mu bàn tay lau mồ hôi trán, hỏi bằng giọng sắc lạnh:

- Ngươi biết tội chưa?

Lương Tiêu nghiến răng im lặng. Bá Nhan mắng:

- Ngươi vô lễ với thượng cấp, hành thích chủ soái, thực là tội to bằng trời. Có cho voi giày ngựa xéo cũng không quá đáng!

Thổ Thổ Cáp quỳ thụp xuống:

- Mong Thừa tướng khai ân, Thổ Thổ Cáp nguyện đem tất cả công lao đổi lấy tính mệnh Lương Tiêu.

Nang Cổ Ngạt cũng quỳ xuống:

- Tính khí Lương Tiêu xưa nay vẫn nóng nảy thẳng thắn, khẩn cầu thừa tướng cho chúng thuộc hạ đưa hắn về khuyên giải dần.

Lương Tiêu cau mày cáu kỉnh, Lý Đình hiểu rõ tâm ý của gã, bèn dập đầu van vỉ:

- Lương đại ca, đừng nói nữa, đừng nói nữa!

Gã dập đầu đến nỗi trán trợt cả máu. Lương Tiêu đâm mềm lòng, bao nhiêu lời nóng nảy đều nuốt ngược vào, ngước nhìn Bá Nhan, giọng đã hòa hoãn hơn:

- Tôi xông vào trướng uy hiếp ông là quấy! Nhưng ông hạ lệnh đồ thành là sai!

Bá Nhan vốn không nỡ xuống tay với viên ái tướng này, thấy gã biết điều ăn nói ôn hòa thì cũng ôn tồn bảo:

- Đồ thành đúng hay sai thì khoan bàn đến. Ngươi đã nhận lỗi, vậy ta hẵng nể mặt ba vị này mà tha cho ngươi một lần, lần sau còn tái phạm thì chém chết không bàn ra tán vào gì cả. – đoạn khoát tay. – Thả hắn ra!

Các thân binh vâng lệnh buông Lương Tiêu.

Lương Tiêu từ từ đứng dậy, Lý Đình định đỡ lấy gã, nhưng bị gã rảy ra. Lương Tiêu nén chịu nội thương, chậm rãi bước ra khỏi trướng. Bọn Thổ Thổ Cáp sợ gã lại gây chuyện nên đi theo xa xa đằng sau. Lương Tiêu về đến tận trướng mới ngoái đầu lại hỏi:

- Bọn tù binh đâu?

Thổ Thổ Cáp đáp ngay:

- Bọn họ được đối xử rất tốt, đúng như ngươi dặn.

Lương Tiêu bảo Lý Đình:

- Đưa họ ra đây!

Lý Đình phóng ngựa vào doanh, chỉ lát sau đã đưa bọn Sở Uyển ra. Lương Tiêu lặng im một thoáng rồi xua tay:

- Thả bọn họ!

Quân sĩ vâng lời tháo dây trói cho hai người, Sở Uyển không hiểu ra sao, hừ mũi rồi vênh mặt bước đi, Phong Miên cũng trừng mắt nhìn Lương Tiêu, nén đau tập tễnh theo sau Sở Uyển.

Lý Đình tức khí phản đối:

- Hai tên này là đồng bọn sát hại Tam Cẩu Nhi, không thả chúng được!

Lương Tiêu im lìm nhìn theo bóng Sở Uyển và Phong Miên mãi cho đến khi không còn trông thấy họ nữa mới hỏi:

- Các ngươi thử nói xem, chúng ta đánh nhau là vì cái gì?

Nang Cổ Ngạt, Lý Đình và Thổ Thổ Cáp nhìn nhau ngơ ngác. Sau một lúc ngẫm nghĩ, Nang Cổ Ngạt trả lời:

- Thì cũng như Thành Cát Tư Hãn nói đó, điều khoan khoái nhất trong đời nam tử là dẹp yên loạn lạc, chiến thắng địch nhân, đoạt của cải, cướp tuấn mã, bắt lấy thê thiếp của chúng.

Thổ Thổ Cáp phụ họa:

- Đúng vậy, Thành Cát Tư Hãn đã nói thì nhất định không sai đâu.

Lý Đình ngập ngừng một thoáng rồi cũng gật đầu tán đồng.

Lương Tiêu nhìn ba người bạn, ánh mắt lúc lóe sáng lúc tối sầm, đoạn buồn rầu ngó sang thành Thường Châu:

- Tàn sát quyến thuộc, phá tan nhà nát cửa, cưỡng bức vợ con và cướp đoạt những thứ người ta yêu quý, đó là chí hướng của các ngươi phải không?

Ba người bối rối nhìn nhau, Thổ Thổ Cáp ngập ngừng:

- Hình như ngươi có gì không ổn…

Lương Tiêu cười buồn, phất tay áo rồi lững thững bỏ đi.

hết: 

Thùy Thắng Thùy Bại

, xem tiếp: Tây Tái Long Ngâm

hường Châu bị phá, Tô Châu và Hồ Châu trông gương tày liếp, lũ lượt treo cờ trắng đầu hàng. Mùa xuân năm sau, Thổ Thổ Cáp công phá Độc Tùng quan, mở đường cho đại quân Nguyên triều kéo vào Lâm An. Quan viên lớn nhỏ giẫm đạp lên nhau chạy trốn khỏi kinh thành. Tống đế và Tạ Thái hậu hết cách ứng phó, đành phái sứ nghị hòa nhưng bị Bá Nhan từ khước, không lâu sau cũng phải giao nộp ngọc tỉ truyền quốc, dâng biểu đầu hàng. Bá Nhan cất quân tới chân thành Lâm An, Tạ Thái hậu dắt ấu đế Triệu Hiển ra quy thuận. Vua tôi Đại Tống ngậm hờn nuốt lệ quỳ rạp trước vó câu Mông Cổ. Xảy đâu trời bỗng đổ cơn mưa phùn lắc rắc, phủ lên núi non đồng dã một tấm màn nước u ám mịt mờ. Bá Nhan xuống ngựa đỡ Triệu Hiển dậy, bất giác cảm thấy đắc ý vô cùng, không kìm được thống khoái phá lên cười ha hả. Mười vạn quân Nguyên hoan hô rầm rĩ phụ họa chủ soái. Quần thần Nam triều vừa khiếp hãi vừa thương thân, đôi hàng nước mắt đầm đầm như mưa. Người đương thời là Uông Nguyên Lượng có làm bài thơ than rằng:

Núi Tây Tái mặt trời chìm lấp,

Cửa Chính Bắc mưa bụi rắc rây.

Người bắc cười người nam nhỏ lệ

Đỗ quyên, ta vái một lạy này.[2]

.

Lương Tiêu theo đại quân xuống nam, chức là Bình chương chính sự, danh là phó soái toàn quân, thực chất chỉ ngất ngưởng với rượu, ngày nào cũng say ngả say nghiêng, chẳng có lấy một phen tỉnh táo.

Sáng hôm ấy, sau một đêm túy lúy, gã thức giấc với cái đầu đau như búa bổ. A Tuyết thiết tha nài gã ra khỏi doanh trại dạo chơi cho khuây khỏa, Lương Tiêu không nỡ làm cô mếch lòng, đành miễn cưỡng ưng thuận.

Hai huynh muội lỏng cương để ngựa đi tha thẩn ven hồ Tây Tử. Trước mắt họ là mây xám nhàn nhạt, khói sóng mênh mang, đình đài lầu các vẫn vẹn nguyên cảnh cũ, chỉ khác là thiếu tiếng cầm ca réo rắt, bặt hơi đàn sáo rộn ràng, xa xa sương mù giăng kín chân trời khiến không gian ảm đạm, che mờ cả đường nét hùng vĩ của núi Tây Tái.

Lương Tiêu ngắm Tây hồ, hồi tưởng buổi đầu gặp gỡ cha con Hoa Thanh Uyên. Lúc ấy gã và Hiểu Sương còn nhỏ, chưa hiểu chuyện đời, tính tình rất đỗi hồn nhiên, ngày nay cảnh sắc vẫn y nguyên mà sao tâm hồn không thể như trước nữa.

Lương Tiêu đương bồi hồi thương cảm, chợt nghe văng vẳng tiếng hồ cầm, giai điệu thảm não thê lương, liền đó có giọng ca hòa vào:

Chim chóc bay liền cánh,

Cây cỏ mọc liền cành,

Đáy nước từng đôi cá giỡn quanh,

Trên tổ uyên ương sánh,

Phố sá phồn hoa lấp lánh,

Thế gian thái bình.

Ngờ đâu nổi trận điêu linh,

Tây hồ tan vỡ mọi nhu tình.[3]

Khúc nhạc buồn nản nghẹn ngào, ngân nga hồi lâu không dứt.

Lương Tiêu thầm nhủ: “Chim chóc bay liền cánh,Cây cỏ mọc liền cành, Đáy nước từng đôi cá giỡn quanh, Trên tổ uyên ương sánh. Quả thực Tây hồ được tự nhiên ban cho nhiều vẻ phong lưu, dễ gợi hứng hưởng lạc. Trách nào vương công Đại Tống chẳng ham mê trác táng đến nỗi mất sạch tất cả, ngay cả Tây hồ cũng không giữ được. Giá dành một nửa thời gian vui thú xa hoa ấy vào việc trị quốc rèn thân thì làm gì đến nông nỗi này?”. Càng nghĩ càng u uất, gã tháo nậm rượu dốc một hơi cạn sạch.

Khi họ trở về doanh trại thì đã quá trưa, Bá Nhan cho người tới triệu kiến. Lương Tiêu bảo A Tuyết về trước rồi chậm chạp đi vào trung quân, mới gần tới trướng soái, đã nghe bên trong vọng ra nhiều tiếng nói cười nhộn nhạo. Trông thấy gã, Bá Nhan hồ hởi gọi:

- Đến đúng lúc lắm, mau lại chào mấy vị khách quý!

Đám người hiện diện trong trướng cùng ngoảnh ra nhìn.

Lương Tiêu đảo mắt một vòng, mặt tái hẳn đi. Người ngồi bên phải Bá Nhan là vương tử Thoát Hoan, bên trái là Hạ Đà La vận áo trắng phau. Mé dưới Thoát Hoan là một lão già tóc bạc áo vàng, chính thị Hoàng hạc Minh Quy. Mé dưới Hạ Đà La là một lạt ma áo vàng vai u thịt bắp, tướng mạo thô kệch đang xếp chân bằng tròn. Sau lưng bốn người này còn vài gương mặt khác mà phần lớn Lương Tiêu đều đã gặp qua, lần lượt là Cáp Lý Tư, Hỏa Chân Nhân, A Than tôn giả, cuối cùng là một lão già áo xanh lạ mặt, vóc người cao gầy, mặt mũi xương xẩu, thần thái ôn hòa. Lương Tiêu không ngờ những kẻ đối địch mình lại khéo chọn thời gian và địa điểm để hội tụ đến thế, bất giác tim đập thình thịch, mồ hôi đầm đìa, hơi rượu giã đi quá nửa.

Thoát Hoan nhận ra kẻ thù cũ, nét mặt thoạt kinh ngạc thoạt giận dữ, nhưng chỉ thoáng chốc đã làm ra vẻ tươi tỉnh:

- Lương Tiêu đây à? Quả là tuổi trẻ tài cao đúng như lời đồn nhỉ!

Hắn nghiến răng trèo trẹo khi nói ra bốn chữ “tuổi trẻ tài cao”, rõ ràng là thù hận chứ chẳng ngụ ý tán thưởng gì. Bá Nhan đánh mắt ra hiệu cho Lương Tiêu, đoạn vui vẻ giới thiệu:

- Vị này là Trấn Nam Vương Thoát Hoan, hiện đang tiếp quản Giang Nam.

Lương Tiêu vẫn đứng như bụt mọc, Bá Nhan cau mày:

- Gặp vương gia sao không hành lễ?

Lương Tiêu nhếch mép, ngước mắt nhìn nóc lều. Bá Nhan tuy bất hòa với Thoát Hoan nhưng cũng không muốn hắn phải bẽ mặt trước đông người, đang khó xử thì Thoát Hoan phẩy tay, nói cộc lốc:

- Thôi, ta và Lương đại nhân cũng là chỗ quen biết cũ, chẳng phải quỳ lạy làm gì cho nhiêu khê!

Bá Nhan mỉm cười, tận dụng câu đó để thoát khỏi tình thế lúng túng, lại trỏ Minh Quy:

- Đây là Minh tiên sinh, quân sư mới của Trấn Nam Vương. Tiên sinh túc trí đa mưu, học nhiều hiểu rộng.

Minh Quy hơi ưỡn mình lên, phác một điệu bộ như cười với Lương Tiêu, nhưng không tỏ tiếng nhận quen. Lương Tiêu ngạc nhiên tự hỏi, không hiểu tại sao lão già kiêu ngạo này chịu khuất thân làm đầu sai cho Thoát Hoan. Bá Nhan chìa tay về phía lạt ma áo vàng:

- Đây là Đảm Ba đại sư, đại đệ tử của Đế sư[4] đương triều Bát Tư Ba.

Lương Tiêu giật mình, Đảm Ba thì gã không biết, nhưng danh tiếng Bát Tư Ba thì gã đã từng nghe đến rồi. Thiên hạ đồn rằng người này bẩm sinh mẫn tuệ, mười sáu tuổi gặp Hốt Tất Liệt là được phong ngay làm Đế sư, quyền nghiêng một cõi, thanh uy hiển hách.

Đảm Ba chắp tay chào hỏi:

- Bình chương dụng binh như thần, danh thơm vang lừng đến cả triều ca, Đảm Ba kính ngưỡng đã lâu!

Lương Tiêu cúi mình đáp lễ, giọng bình thản:

- E rằng thiên hạ đồn đại quá lời!

Thoát Hoan thấy gã bái chào Đảm Ba mà không dập đầu lạy mình, bất giác hừ mũi tức giận. Bá Nhan toan dẫn kiến tới Hạ Đà La thì lão này đã đứng bật dậy, hể hả nói tranh:

- Đúng là người nhà mà chẳng biết nhau, sái gia có mắt như mù, lỡ tay đắc tội chỗ nào thì mong Bình chương đại xá cho chỗ đó.

Ai cũng lấy làm lạ, không hiểu hai người quen nhau lúc nào và ở đâu. Lương Tiêu tự nhủ đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại, lão già mặt trơ trán bóng này đã nhận lỗi mà mình còn khiêu khích báo thù thì tỏ ra quá hẹp hòi, bèn cười nhạt, quay đi định ngồi xuống, chợt nghe Cáp Lý Tư hỏi:

- Bình chương đại nhân còn nhớ tiểu nhân không nhỉ?

Nhìn cái mặt hơn hớn và ánh mắt láo liên, Lương Tiêu cảnh giác gật đầu:

- Nhớ.

Cáp Lý Tư sải bước ra giữa sảnh, cười hì hì:

- Nếu đại nhân không chê Cáp Lý Tư thấy người sang bắt quàng làm họ thì hãy tỏ tình thân mật chút nào! – Hắn chìa tay trái cho Lương Tiêu.

- Ừ thì tỏ! – Lương Tiêu đáp và giơ tay phải.

Đúng lúc tay hai người áp sát, chiếc nhẫn Xà Nhãn ma toan ở ngón giữa của Cáp Lý Tư vụt xoay mặt đá xuống hướng lòng bàn tay.

Bá Nhan trông thấy rõ mồn một, chưa kịp thét dừng thì tay hai người đã chạm vào nhau rồi buông ngay ra. Lương Tiêu quay mình bước về ghế ngồi, Cáp Lý Tư vẫn đứng đực tại chỗ, mắt nhìn xuống, mặt nhợt nhạt, thảng thốt kêu lên:

- Bình chương đại nhân, xin dừng bước!

Lương Tiêu ngoái đầu:

- Sao nào?

Cáp Lý Tư lắp bắp:

- Nhẫn… nhẫn tôi…

- Nhẫn nào? – Lương Tiêu hỏi.

Cáp Lý Tư nhìn trân trân vào mặt Lương Tiêu, mắt rực lửa. Viên kim cương Xà Nhãn là báu vật gia truyền của nhà hắn, cứng rắn dị thường, cắt đứt được cả đao kiếm bằng thép tinh, vừa rồi hắn định thừa cơ bắt tay để chọc chủng bàn tay Lương Tiêu. Nào ngờ gã thiếu niên tương kế tựu kế, thi triển ngay Như ý ảo ma thủ nhẹ nhàng tuốt chiếc nhẫn khỏi ngón tay đối phương. Khi Cáp Lý Tư phát hiện ra biến cố thì Lương Tiêu đã thu tay về rồi. Không dưng mất cả chì lẫn chài, chưa đả thương được địch thủ đã bị cướp nhẫn quý, Cáp Lý Tư vừa kinh hãi vừa tức giận khôn tả.

Lương Tiêu nghênh ngang ngồi xuống, mặt thản nhiên như không. Cáp Lý Tư đứng mãi đấy không tiện mà về chỗ cũng không xong, chực mở miệng kêu, chợt Hạ Đà La xì xà xì xồ mấy câu. Cáp Lý Tư sợ sệt lùi về sau lưng lão. Hạ Đà La nhìn thẳng vào mặt Lương Tiêu:

- Bản lĩnh của Bình chương đại nhân thật cao cường! Con trai ta có chỗ nào mạo phạm, mong đại nhân thứ lỗi cho!

Lương Tiêu liếc Cáp Lý Tư, lạnh lùng hỏi:

- Hắn là con ngươi à? Ta thấy ngươi là con hắn mới phải.

Thoát Hoan và bọn tùy tùng thảy đều biến sắc, bất bình nghĩ bụng: “Tên này nói năng hỗn hào quá!”. Không ngờ Hạ Đà La hớn hở mặt mày, bật ngón tay cái cười vang:

- Đại nhân tinh tường thực! Hạ mỗ vốn bất tài, chẳng tinh thông môn pháp nào cả, được mỗi thuật dưỡng sinh trụ nhan là tương đối có thành tựu, tuổi tác ngần này rồi nhưng so với người ngoại tam tuần thì trông vẫn trẻ hơn. – nói đoạn vênh váo nhìn quanh, vẻ dương dương tự đắc.

Lương Tiêu vốn muốn làm cho cha con hắn bẽ mặt một phen, nào ngờ Hạ Đà La không tức mà còn hí hửng, khiến gã cụt hứng, chẳng buồn ngó ngàng tới ai nữa, rót rượu ra chén uống tì tì, chỉ thoáng chốc đã cạn sạch hai bình rượu nóng rồi nằm gục xuống bàn, mụ mẫm thiếp đi.

Những người hiện diện trong trướng đều tỏ ra khinh rẻ bộ dạng nát rượu của Lương Tiêu. Bá Nhan bất bình nghĩ: “Thằng ôn này mỗi ngày một tồi tệ, sớm biết nó làm ta xấu mặt thế kia thì đã không gọi sang”. Y đành giả vờ không chú ý đến tác phong của viên ái tướng, quay lại trò chuyện với khách khứa:

- Đảm Ba đại sư phụng chỉ đến trấn yểm long mạch Đại Tống, chẳng hay phương pháp cụ thể thế nào?

Đảm Ba mỉm cười:

- Nghe trấn yểm thì to tát, thực chất tiến hành cũng không mấy phức tạp. Trước tiên cần kéo đổ hoàng cung Đại Tống, cắt lấy căn mạch địa linh của nó, sau đó đào tung lăng tẩm của Tống đế các đời, trộn lẫn tinh cốt họ với xương trâu ngựa rồi vùi xuống đất, xây tháp cao mười trượng chặn bên trên, thu thập kinh Phật, tượng Phật, chân ngôn Mật tông về cất giữ trong đó. Cứ thế, vương khí Đại Tống sẽ lụi tàn, long mạch bị cắt rời, con cháu họ Triệu vĩnh viễn không còn ngóc đầu dậy được nữa!

Lương Tiêu không muốn chuyện trò với đám người này nên cố ý giả say, nghe đến đây rùng mình nghĩ bụng: “Vậy là tên sư trọc kia tới Lâm An để đào mộ người ta? Hắn là kẻ xuất gia, đúng lẽ nên lấy việc hành thiện làm đầu, sao có thể hành động đê hèn đốn mạt đến thế?”.

Thoát Hoan góp chuyện:

- Theo ta, cắt long mạch nhà Tống vẫn chưa đủ đâu.

Đảm Ba tỏ vẻ chú ý:

- Hẳn vương gia có cao kiến, tiểu tăng xin nghe.

Thoát Hoan nói:

- Họ Triệu dứt mạng hoàng đế đã đành, nhưng khó lòng đảm bảo các họ khác không nổi lên chống phá. Chẳng làm thì thôi, đã làm thì nên mạnh tay cho triệt để, phải dò hết mộ táng của các danh gia sĩ hoạn nhà Tống mà tróc đến tận đáy, như vậy mới bảo đảm Đại Nguyên chúng ta sẽ thiên thu trường trị, nhất thống sơn hà.

Đảm Ba băn khoăn:

- Vương gia dạy cũng có phần đúng, nhưng mộ phần của người Tống nhiều như thế, đào sao cho hết?

Thoát Hoan cười hì hì:

- Thì đào được cái nào hay cái đó!

Bá Nhan gật gù:

- Vương gia nói phải lắm! Cũng như hành quân đánh trận đấy, hôm nay giết mấy trăm binh mã, ngày mai gắng lấy mạng đại tướng, khiến chúng mất cả lớn lẫn bé, cuối cùng đành tự nhận thua!

Thoát Hoan vỗ tay:

- Chẳng thẹn là danh tướng đương thời, chuyện gần chuyện xa đều xoay quanh việc đánh trận.

Mọi người cười ồ.

Lương Tiêu càng nghe càng căm giận, phẫn nộ nghĩ thầm: “Ta vào sinh ra tử tranh đoạt giang sơn, không ngờ lại phục vụ cho phường bất nhân vô liêm sỉ này”. Hơi men bốc lên, gã đập mạnh bàn, đứng bật dậy.

Trong trướng lặng ngắt. Bá Nhan nhìn mặt Lương Tiêu, biết rằng sắp có chuyện chẳng lành. Y định quát bảo để trấn áp gã phó soái nóng tính, chợt phía xa có tiếng động rất lạ vọng tới, thoắt chậm thoắt nhanh, thoắt bổng thoắt trầm khiến người ta nôn nao khó chịu. Lương Tiêu quên bẵng cả điều định nói, đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Bá Nhan hạ lệnh cho Na Tốc đi xem tình hình, chỉ lát sau, Na Tốc đã dẫn vào một viên Bách phu trưởng bộ dạng nhớn nhác.

Bá Nhan nghiêm giọng hỏi:

- Hoảng hốt cái gì? Mới thế này đã mất vía thì lúc ra chiến trường còn quýnh quíu tới mức nào?

Bách phu trưởng nuốt ực một cái, vội vàng thi lễ:

- Khởi bẩm Thừa tướng, trong doanh trại hữu quân xuất hiện một quái vật!

Bá Nhan lạnh lùng bảo:

- Chỉ giỏi tầm xàm, ban ngày ban mặt lấy đâu ra quái vật?

Bách phu trưởng biện bạch:

- Tiểu tướng không dám nói ngoa, tiếng động vừa rồi chính do quái vật phát ra đấy.

Đám khách khứa giật mình. Bách phu trưởng kể:

- Thoạt tiên, tiếng động truyền đi từ lều của Ngột Đột Hải, một thuộc hạ của tiểu tướng. Lúc ấy chẳng mấy ai bận tâm, còn tưởng đó là tiếng ngáy của hắn. Tiểu tướng nghĩ chưa tới giờ gà lên chuồng đã chây lười đến thế thì thật không nên, bèn bảo Hô Hòa Đài đi lôi hắn dậy.

Bá Nhan nói:

- Ban ngày ban mặt dám ngủ ngáy ầm ĩ cả trại, phải phạt roi rồi treo lên cổng doanh thị chúng!

Bách phu trưởng vội vã đáp:

- Vâng vâng! Nào ngờ Hô Hòa Đài vào lều Ngột Đột Hải, chỉ kêu “ối” một tiếng là bặt tăm. Tiểu tướng lấy làm lạ, liên tiếp phái người sang xem, không ngờ đi rồi mà chẳng ai trở về, trong khi đó âm thanh quái gở nọ mỗi lúc một vang to, lúc đầu vi vút như tiếng kèn lá chuối, dần dần nổi lên ồn ã như tiếng bò rống, tiểu tướng định đích thân vào xem thì Ngột Đột Hải đi đến.

Thoát Hoan ngạc nhiên:

- Tên ấy không ở trong lều hắn à?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Hắn canh gác ngoài cổng, nghe đồn lều mình có sự lạ thì chẳng nói một lời, cắm cúi chui vào. Chỉ nghe hắn thét lên một tiếng rồi im bặt. Âm thanh quái gở kia vẫn vang vọng, mà càng lúc càng ầm ĩ, một lát sau cả đại doanh đều nghe thấy. Tướng sĩ ta từng trải nhiều chiến trận, sợ gì xông pha nơi hòn đạn mũi tên, nhưng sự việc này lạ lùng quá sức, e rằng có tà vật quỷ quái hãm hại nên người trần không thắng nổi. Nghe nói Đảm Ba tôn giả đang ở đây, tiểu tướng bèn đến cung kính mời tôn giả đi hàng phục yêu ma.

Dứt lời hắn đưa mắt sang Đảm Ba, vẻ mặt đầy thành kính. Trong lúc hắn thuật chuyện, âm thanh kỳ cục nọ biến hóa hết sức quái lạ, trầm như tiếng tiêu rủ rỉ, bổng như ngói vỡ sấm rền, giai điệu lên xuống bất thường, đổi gam không theo quy tắc gì hết.

Bá Nhan tuy không tin chuyện ma quỷ, nhưng chưa bao giờ nghe thấy sự lạ nhường ấy, trong lòng cũng hơi hoang mang. Đảm Ba trầm ngâm một thoáng rồi đứng dậy:

- Bẩm Thừa tướng, Đảm Ba xin đi một chuyến để xem yêu tà xứ nào!

Hạ Đà La cũng chậm rãi đứng lên:

- Cho phép sái gia đi với tôn giả!

Đảm Ba biết võ công Hạ Đà La cao thâm vô lượng, sư phụ Bát Tư Ba còn phải nhún nhường với hắn vài phần, liền chắp tay đáp:

- Vậy phiền tiên sinh!

Bá Nhan vốn chẳng coi phù phép Mật tông vào đâu, nhưng sĩ tốt trong doanh lại rất tin quỷ thần, nếu không khéo ứng xử thì sẽ làm dao động lòng quân, y bèn cười bảo:

- Ta cũng đi!

Đảm Ba can:

- Đâu dám phiền đến đại giá của Thừa tướng, xin hãy hâm nóng rượu chờ, Đảm Ba đi rồi về ngay.

Mọi người quay lại chỗ ngồi, trong lòng vô cùng thấp thỏm. Chỉ thoáng chốc, tiếng động lạ chậm dần, rồi im bặt. Thoát Hoan đập tay cười:

- Tôn giả thần thông quảng đại, không biết đã bắt được quái vật gì? Bản vương muốn sang xem xem.

Hắn nhỏm dậy, chợt nghe có tiếng hò hét vọng tới, đang ngờ vực chưa hiểu ra sao thì thấy viên Bách phu trưởng vừa rồi lại hớt hải chạy vào, hơi thở đứt đoạn, giọng nói rời rạc:

- Bẩm thừa tướng, không ổn rồi! Đảm Ba tôn giả bị thương.

Thoát Hoan sửng sốt:

- Bị yêu quái cắn hay sao?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Không phải yêu quái, đó là một người!

Ai nấy kinh ngạc, Bá Nhan bảo:

- Ngươi thong thả kể cho ngọn ngành, đừng để sót một chi tiết nào cả!

Bách phu trưởng gắng trấn tĩnh, bắt đầu kể:

- Tôn giả đến khu doanh trại của bọn thuộc hạ, dừng ngoài lều, niệm chú một hồi rồi đột ngột đẩy mạnh hai tay ra trước. Một cơn cuồng phong cuộn lên khỏi mặt đất, thổi tốc cái lều đi.

Bá Nhan nghĩ thầm: “Pháp môn Đại thủ ấn của Mật tông đây mà”. Y hỏi:

- Trong lều có gì khác lạ không?

Bách phu trưởng trả lời:

- Nghe thì lạ đấy, chứ nhìn cũng chả có gì lạ. Lều bay đi, để lộ ra Hô Hòa Đài, Ngột Đột Hải và mấy binh sĩ nữa nằm ngã ngổn ngang. Trên giường có một kẻ đang ngủ, người ngợm bẩn thỉu quần áo rách rưới, âm thanh kỳ quái đó chính là tiếng ngáy của lão ta!

Thoát Hoan ngạc nhiên hỏi:

- Sức người mà tạo ra được âm thanh hùng hậu ấy ư?

Mặt viên Bách phu trưởng méo xệch:

- Nghe tưởng bịa, nhưng sự thực đúng thế, tiểu tướng không dám nói man.

Bá Nhan không biểu lộ gì, ôn tồn bảo:

- Được rồi, ngươi kể tiếp đi!

Bách phu trưởng vâng dạ tiếp tục:

- Đảm Ba tôn giả bèn hỏi cái kẻ đang ngủ say sưa ấy rằng: “Yêu quái phương nào dám đến tác oai ở đây?”. Giọng tôn giả như sấm rền, thuộc hạ váng cả óc, điếc cả tai.

A Than tôn giả tán thưởng:

- Đấy là tuyệt kỹ Sư tử hống của tông phái Mật tông!

- Sư tử hống à? – Bách phu trưởng lẩm bẩm. – Tiểu tướng chưa nghe đến bản lĩnh ấy bao giờ, nhưng hổ gầm chắc cũng chỉ đến thế mà thôi! Người nọ bị tiếng động đánh thức, ngồi bật dậy dụi mắt rồi lườm tôn giả: “Ngươi la ó gì vậy?”. Lão ấy để râu dài, đầu tóc rối như tổ quạ, bộ dạng điên điên dở dở nhưng rõ ràng không phải yêu quái. Đảm Ba bèn hỏi: “Các hạ…”. Chưa dứt câu, kẻ kia đã lắc mình áp sát, túm ngực tôn giả ném văng đi…

Ai nấy nghe kể đều biến sắc. Đảm Ba từ nhỏ theo học Bát Tư Ba, thụ giáo hết chân truyền của thầy, bất luận Phật pháp hay võ công đều đáng xếp hạng cao trong tông phái Mật tông, nào ngờ chỉ một chiêu đã bị địch thủ lẳng đi xa, thực khiến người ta bất ngờ.

Bách phu trưởng không nhận ra vẻ kinh ngạc của mọi người, tiếp tục kể:

- Tôn giả nương đà ném, lộn một vòng trên không rồi vững vàng đáp xuống đất. Lão già nọ khen ngợi: “Đại hòa thượng bản lĩnh khá lắm!”. Đảm Ba tôn giả lộ vẻ kinh ngạc, lập tức đính chính: “Ta là lạt ma, không phải hòa thượng[5]”. Người nọ hỉnh mũi: “Mặc kệ nạt ma hay nạt quỷ, cứ lại đây cho lão tử xem bản lĩnh của ngươi được mấy nả!”, đoạn ưỡn ngực bảo: “Nện lão tử sáu chưởng thử xem!”.

Các cao thủ trong trướng nghe đến đây đều tái mặt kinh hoàng, Bá Nhan tự nhủ: “Người này quá tự phụ, Đại thủ ấn của Đảm Ba đã đạt tới cảnh giới phi phàm, xô đổ được cả tường đồng vách sắt nữa là. E rằng ngay sư phụ ta cũng chưa chắc dám đứng yên hứng sáu chưởng liên hoàn của hắn!”.

Bách phu trưởng vẫn thao thao kể:

- Đảm Ba tôn giả tỏ rõ ngạc nhiên, chắp tay hỏi: “Các hạ từ đâu tới? Vì sao giả ma giả quỷ gây rối ở đây?”. Lão già nọ sốt ruột, xua tay nói: “Đừng rườm lời nữa, đánh hay không đây? Nếu không đánh thì ta đi vậy”. Tôn giả đang ngập ngừng thì vị áo trắng đi cùng xen vào: “Tiên sinh đây đã dạy thế, tất có bản lĩnh cao cường. Tôn giả cứ thẳng tay nện mấy chưởng, chắc cũng không đến nỗi làm ông ta sứt mẻ gì đâu!”.

Lương Tiêu cười nhạt nghĩ bụng: “Tên Hạ Đà La gian ngoan xảo quyệt, không nắm chắc phần thắng nên đứng ngoài làm thầy dùi, hô hào chọc ngoáy cho Đảm Ba xuất thủ, định giở mẹo trai cò tranh nhau ngư ông đắc lợi đây mà”.

Bách phu trưởng kể:

- Vị áo trắng nói xong, tôn giả nghe chừng xuôi xuôi, bèn bảo quái nhân nọ: “Vậy xin vô phép!”. Kẻ kia cười ha ha: “Ừ, ra tay đi!”. Tôn giả nhào tới trước mặt lão vung tay đánh một chưởng. Lão già ấy lùi ngay một bước, nhưng tôn giả giật lui đến hai bước.

- Sao, người đó bị thương chứ? – Bá Nhan hỏi.

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Không ạ!

Bá Nhan nhướng mày, mắt đầy vẻ kinh ngạc.

Bách phu trưởng tiếp tục:

- Tôn giả sững người một thoáng rồi đánh ra chưởng thứ hai, lão già lùi một bước, tôn giả lùi hai bước. Lúc này tôn giả đã động nộ, cúi mình chắp tay, xương kêu răng rắc như tiếng đậu tương nổ trong chảo rang, đoạn phóng hai tay, đánh liên hoàn bốn chưởng vào mình lão già…

Thoát Hoan chưa nghe hết đã vỗ tay khen:

- A, lão già nọ mất mạng, còn Đảm Ba bị kình lực của lão chấn ngược lại nên thụ thương phải không?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Lão già lui liền bốn bước nhưng không hề hấn gì, trong khi đó tôn giả giật lùi đến một trượng, mặt trắng nhợt như tờ giấy.

Bá Nhan vỗ bàn đứng bật dậy quát:

- Láo lếu! Xương cốt phát ra tiếng động tức là đã vận nội kình toàn thân. Kẻ kia định dùng xác phàm chống đỡ môn pháp Đại thủ ấn chứa mười thành công lực ư?

Y quát ầm ầm như sấm, Bách phu trưởng kinh sợ quỳ mọp sát đất, khiếp đảm kêu van:

- Từng lời từng chữ của thuộc hạ đều là sự thật, không dám nói càn!

Bá Nhan cũng nhận thấy mình hơi thiếu kiềm chế, bèn nhíu mày ngồi trở lại bàn:

- Thôi, chuyện sau đó ra sao?

Bách phu trưởng nói:

- Đảm Ba tôn giả hít một hơi dài mới gượng đứng dậy được, đoạn nói: “Các hạ võ công cái thế, Đảm Ba tài mọn không sánh bằng, dám hỏi quý tính cao danh?”. Lão già gãi gãi đầu, lẩm bẩm: “Quý tính cao danh? Quý tính cao danh à?”. Lão lải nhải mấy lần câu ấy rồi vò đầu bứt tai: “Chả nhớ nữa, chả nhớ nữa!”. Lão liếc mắt lại, trừng trừng nhìn tôn giả: “Này Nạt ma hòa thượng, ngươi đánh ta sáu chặp, ta cũng phải đánh ngươi một chặp chứ nhỉ!”. Vừa dứt lời, lão lập tức lăng mình tới trước mặt tôn giả. Hai bên mới đứng đối mặt nhau, tôn giả đã ríu chân ngã bật ra xa, miệng ộc máu tươi.

Cử tọa nghe đến đây đều ớn lạnh: “Kẻ này lĩnh sáu chưởng của Đảm Ba mà vẫn bình an vô sự, trong khi Đảm Ba thậm chí không đỡ nổi một chưởng của hắn! Rốt cục hắn là thần thánh phương nào?”. Bách phu trưởng tiếp tục:

- Thấy tôn giả bị thương, chúng thuộc hạ chực vung gươm vung giáo lao vào thì tiên sinh áo trắng đã lắc mình tới trước mặt lão già. Hai bóng người xẹt qua xẹt lại, xoay mòng mòng trong bãi, lão già nọ cứ luôn mồm: “Khá lắm, khá lắm!”, giọng điệu dường hoan hỉ. Họ giao đấu hồi lâu nhưng không phân thắng bại.

Cáp Lý Tư nghe kể cha mình hiển lộ thần uy thì ra chiều đắc ý. Bá Nhan cũng nghĩ: “Thường nghe ngoại hiệu của Hạ Đà La là Xà ma, tung hoành Tây Vực vô đối thủ, ban đầu ta còn bán tín bán nghi, bây giờ xem chừng danh bất hư truyền! Nhưng lão già kia lai lịch thế nào nhỉ?”. Bách phu trưởng vẫn kể tiếp:

- Chúng thuộc hạ thấy tiên sinh áo trắng cũng khó bề thắng được, bèn cùng ùa đến giúp, lão quái nhân cười hà hà: “Hay lắm, chúng ta chơi trò gà con đuổi bắt diều hâu, chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông nào!”. Lão bèn bỏ ngang tiên sinh áo trắng, guồng chân chạy vòng vòng quanh trại…

Thoát Hoan thắc mắc:

- Xưa nay chỉ có diều hâu tha gà, chứ làm gì có gà con đuổi bắt diều hâu?

Bách phu trưởng nhăn nhó nói:

- Tiểu tướng đoán lão già ngụ ý rằng lão là diều hâu còn bọn tiểu tướng là gà con ấy. Tất nhiên gà con thì đuổi bắt diều hâu sao được! Quanh trại lúc đó có đến một trăm binh tướng, toàn bộ hiệp đồng truy kích lão, rõ ràng là trông thấy lão chạy sát gần mà khi cả bọn xúm vào bao vây thì thậm chí không tóm được đến bóng của cái chéo áo.

Thoát Hoan nhăn trán suy luận:

- Nhất định là lão ta nhảy lên cao, phải không?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Tiểu tướng đứng ngoài lược trận nên quan sát rất rõ, ba bốn mươi người cùng bủa vây lão nọ, khi vòng người đổ xô tới, lão ta không hề nhảy nhót gì cả, chỉ khẽ lắc mình xuyên qua giữa đám đông ấy như một đụn gió. Chẳng ai tóm được, thậm chí chạm đầu ngón tay cũng không luôn.

Thoát Hoan ngờ vực ra mặt. Bách phu trưởng định thề thốt, chợt một tiếng hú dài vẳng tới, nội kình rất thâm hậu, tiếng hú thứ nhất chưa dứt, tiếng thứ hai đã vút lên the thé sắc nhọn lẫn với những tràng ri ri. Bách phu trưởng tái mặt kêu:

- Đấy, đến rồi đấy…

Bá Nhan cau mày đứng bật dậy:

- Chúng ta ra xem xem thần thánh phương nào!

Y rời trướng soái trước tiên, Thoát Hoan và những người khác lục tục theo sau. Chỉ trong nháy mắt, còn trơ trọi mỗi Lương Tiêu bên bàn. Gã uống rượu như hũ chìm, lúc này đã say khướt, vừa đứng dậy bỗng thấy nôn nao trong ngực, tay chân bủn rủn, phải bám lấy vách lều, rồi cúi xuống mửa thốc mửa tháo. Thình lình có bóng người nháng lên trước mặt. Lương Tiêu hé mắt nhìn, trong trướng mới xuất hiện thêm một người, miệng rộng mũi cao, hàng mày xếch chạy thẳng lên mấn tóc, tướng mạo uy nghi, chỉ hiềm đầu tóc rối bù, quần áo vốn dĩ là tơ lụa hảo hạng nhưng lúc này đã rách tươm, lem nhem bẩn thỉu. Lão ta ngồi chềnh ềnh trên cái ghế Bá Nhan ngồi lúc nãy, tay cầm rượu tay gắp thịt, liên tục đưa lên hạ xuống ăn uống nhồm nhoàm.

Lương Tiêu nhớ lại câu chuyện của Bách phu trưởng, liền hỏi:

- Ông là ai?

Lão già ngừng ăn uống, cau cau đôi mày ra ý phiền muộn, gõ gõ trán lắc đầu:

- Chả nhớ nữa, chả nhớ nữa!

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Chả nhớ nữa là sao?

Người nọ đáp:

- Chả nhớ ta là ai ấy mà.

Lương Tiêu càng ngạc nhiên:

- Tại sao không nhớ?

Lão già trợn mắt lên toàn lòng trắng, lúng búng nói:

- Không nhớ, hễ nhớ là sai.

Lương Tiêu nghĩ bụng: “Người ngợm đâu mà lạ lùng”, rồi ngoảnh ra nhìn. Đám thân binh ngoài cửa đều đứng ngây như tượng gỗ, nghe trong trướng có tiếng chuyện trò mà cũng không hề nhúc nhích. Lương Tiêu chột dạ, nắm kiếm quát:

- Các hạ làm gì vậy?

Lão già cười:

- Ăn cơm, ăn cơm! – đoạn lim dim đôi mắt, cười hì hì. – Có cơm không ăn, tiện cho hoàng đế; có cứt không ỉa, lỗi với đại vương. Lẽ nào ngươi không ăn uống bài tiết gì hay sao?

Lương Tiêu càng nghe càng kinh ngạc, chợt nhận ra ánh mắt lão già thoáng vẻ điên dại khác hẳn người thường thì dịu mặt hỏi:

- Ông từ đâu đến đây?

Lão già đáp:

- Từ ngoài biển.

Lương Tiêu hỏi:

- Chèo thuyền vào à?

Lão già trừng mắt:

- Nhăng nhít, ta dùng sào đấy!

- Thế chẳng phải chèo thuyền thì là gì?

- Vậy à? – Lão già bối rối, đang định nghĩ tiếp, chợt lắc đầu. – Không nghĩ nữa, càng nghĩ càng sai.

Lương Tiêu nhẫn nại hỏi:

- Ông chèo thuyền đến đây làm gì?

- Tìm người đánh nhau.

- Tìm ai đánh nhau?

- Tìm hòa thượng.

- Hòa thượng nào?

Lão già gãi đầu:

- Chả nhớ nữa!

Lương Tiêu cau mày:

- Không nhớ thì ông định tìm ai?

Lão già vò đầu nghĩ ngợi, chợt trừng mắt, đập bàn quát:

- Đồ khốn, làm hại ta phải suy tư buồn rầu, ta đánh chết mày…

Miệng nói tay vung, hai cây đũa xé gió bay tới nhanh khôn tả. Lương Tiêu né mình, vừa tránh được đôi đũa thì hai chiếc đĩa sứ từ hai mé trái phải lao vào gã. Thì ra lão già đã tính toán được hướng lắc tránh của Lương Tiêu nên ném đĩa khóa đường, đẩy Lương Tiêu vào vòng chắn của hai chiếc đĩa.

Lương Tiêu vội vã xòe hai tay, phẩy trúng hai chiếc đĩa sứ. Đĩa sứ cùng bay xoay vào trong, va nhau vỡ vụn ngay trước ngực Lương Tiêu sau một tiếng động khô giòn. Chiêu này là Tịch hề liêu hề của Sở Tiên Lưu, Lương Tiêu thi triển mô phỏng, chỉ một động tác đã phá được sát chước của lão già.

Quái nhân nọ ồ lên, không có vẻ tức giận mà lại ra ý vui mừng, nhét luôn tảng thịt dê vào mồm rồi tung mình bật dậy, khum năm ngón tay nhoe nhoét mỡ chụp xuống đầu Lương Tiêu.

Lương Tiêu lạng người đi. Lão già chụp hụt, tươi tỉnh reo lên:

- Ta bắt ngươi tránh, ta bắt ngươi tránh! – đoạn tung ra hai trảo nữa, thế tấn công như cuồng phong bạo vũ.

Lương Tiêu cúi đầu né được một trảo, còn trảo thứ hai áp sát quá nhanh, gã không kịp tránh đành tuốt kiếm đỡ, vận đúng chiêu thế Minh Di đâm vào vai phải lão già. Lão già hụp mình tránh được, trôi đến bên bàn, chụp lấy một cây đũa cười hì hì:

- Lại đây lại đây! Ngươi dùng kiếm đâm ta, ta dùng đũa đâm ngươi, xem ai đâm trúng ai nào. – Lão đạp chân lướt đến, giơ đũa phát chiêu, chính là đường lối Minh Di kiếm, nhưng xuất thủ thần tốc hơn Lương Tiêu nhiều.

Lương Tiêu hoảng hồn, cấp tập đổi sang Đại Hữu kiếm, lão già cũng trở tay theo đúng tư thế Đại Hữu đâm đũa ra. Lương Tiêu kinh hãi cùng cực, tung mình nhảy về sau, biến chiêu thành Tiểu Súc kiếm, lão già cũng vận dụng Tiểu Súc, xuất thủ sau mà tới điểm trước, đâm phập vào hổ khẩu Lương Tiêu khiến gã lỏng tay cầm, thanh kiếm rơi kịch xuống đất.

Lương Tiêu không kìm nổi nữa, la lên:

- Ông cũng biết Quy Tàng kiếm?

Lão già cười hì hì:

- Ngươi cũng biết Quy Tàng kiếm?

Lương Tiêu cau mày, đảo chân bước theo Thập phương bộ vòng ra sau lưng lão già, khép song chưởng thi triển Tam tài quy nguyên, nhưng chưa kịp đẩy ra thì đã không thấy bóng dáng đối thủ đâu nữa. Đang tưởng mình hoa mắt thì chợt nghe mé hậu có tiếng kình phong cuộn lên ào ạt, Lương Tiêu vụt đổi chiêu Thiên toàn địa chuyển, xoay phắt người lại đánh vào ngực trái lão già. Lão già cũng xoay người tít mù, giáng chưởng vào ngực trái đối thủ, chiêu thức và tâm pháp đều giống hệt Lương Tiêu.

Chưởng lực chạm nhau, Lương Tiêu bắn vút ra xa một trượng, ngã thình xuống đất, khí huyết nhộn nhạo. Gã tự nhủ lão già này sở học uyên nguyên không kém gì Công Dương Vũ, thành thạo cả Quy Tàng kiếm và Tam tài quy nguyên chưởng, chỉ còn cách áp dụng một loại công phu ít thấy mới mong chế ngự được lão ta. Gã bèn thi triển võ công trong Huyền dịch cảnh, trước tiên vẫy hai chưởng theo chiêu thế Phục Hy vấn quải. Nào ngờ mới nhích chưởng, lão già đã đẩy ra một chiêu Phục Hy vấn quải y xì đúc. Lương Tiêu choáng váng, cấp tập đổi thành Chu Văn Vương bốc quy, thoáng cái lại sang Quỷ Cốc Tử phát khóa, tạo chuỗi hai chiêu liên hoàn. Lão già kỳ quái nọ cười lớn, cũng biến ngay ra hai chiêu này, bất luận chiêu thức hay tâm pháp đều cùng một dạng với Lương Tiêu.

Đến đây, Lương Tiêu đã kinh hãi quá độ, bởi hiện tại trên thế gian chỉ có mình gã luyện được võ học thạch trận của Thiên Cơ cung, không hiểu sao quái nhân kia cũng phát chiêu giống hệt. Lương Tiêu suy nghĩ rất lung, khi chiết giải đến chiêu thứ mười ba thì chợt đoán ra nguyên nhân, buột miệng hỏi:

- Lão già kia, ngươi bắt chước võ công của ta phải không?

Gã vừa mở miệng, quái nhân cũng nói:

- Lão già kia, ngươi bắt chước võ công của ta phải không?

Hai cái miệng riêng rẽ mà cùng cất tiếng một lượt, cùng nói ra một lời.

Lương Tiêu bàng hoàng hiểu rằng bất luận gã sử chiêu nào, lão quái sẽ sử chiêu đó, không chỉ chính xác về động tác tư thế mà còn nhạy bén về thần thái tư tưởng, lại nhờ công lực cực cao nên dù ra tay sau nhưng luôn tới điểm trước để khắc chế gã. Nghĩ đến đây, gã bèn ra chiêu Môn sắt luận đạo, một chiêu bắt nguồn từ điển cố Vương Mãnh thời Bắc triều. Vương Mãnh buổi đầu tấn kiến Phù Kiên, một tay mò trong ngực bắt rận, một tay trỏ trời đất bàn việc lớn, thoát li lễ tiết mà đường hoàng ung dung. Khẩu quyết của chiêu này là, tay trái nhắm thẳng huyệt đạo đối phương, tay phải luồn vào ngực áo lấy ám khí, chẳng hạn chủy thủ hoặc đoản đao rồi bất thần tập kích. Lần này xuất thủ, Lương Tiêu thêm thắt biến hóa riêng, tay trái chĩa thẳng như khẩu quyết, nhưng tay phải thì gập vòng vỗ vào ngực mình. Lão già cũng răm rắp bắt chước, tay trái điểm dứ, tay phải vỗ ngực.

Lương Tiêu cải biến chiêu thức cốt để lão già hạ thủ tự hại bản thân, còn chính gã, trong lúc cử động thì chú ý ghìm lực, khi tay áp hẳn đến ngực thì thu luôn nội kình về. Nào ngờ lão già mô phỏng như hệt, vì vậy chẳng hề bị thương, đồng thời năm ngón tay trái vẫn lừ lừ điểm tới huyệt đạo Lương Tiêu.

Biểu hiện đó chứng tỏ lão quái không những học được động tác, tâm pháp của chiêu thức mà còn cảm nhận được cả mức độ phát kình. Lương Tiêu chưa hết sửng sốt thì đã thấy mình bị dồn vào góc lều, liền bật cao lộn nhào một vòng, đoạn từ trên không hất chân đá dập xuống ngực lão già theo chiêu thức Quảng Thành Tử đảo thích đan lô. Lão già bắt chước ngay lập tức. Một người trên cao, một người dưới thấp, khi hai bên lao qua nhau, Lương Tiêu bỗng cảm thấy đau nhói ở lưng, thì ra đã bị trúng đòn đá ngược của lão già. Ngay tức thì, khối rượu óc ách trong bụng gã cuồn cuộn dâng trào, ộc hết cả ra miệng. Lão già quá đỗi bất ngờ, mặc dù giỏi bắt chước là thế mà cũng không sao thực hiện được trò này, chưa kể lão đang trong tư thế trồng cây chuối, nếu không kịp tránh thì nhất định sẽ bị bãi nôn của Lương Tiêu bắn hết vào người. Lão tức quá kêu oai oái, ngả mình xuống như cỏ rạp trước gió, trườn ra xa một trượng.

Tận dụng khoảnh khắc đó, Lương Tiêu liền lật mình đáp xuống, đứng vững rồi ngước mắt nhìn, gặp ngay bộ mặt cáu kỉnh và cặp mắt trừng trợn của lão già:

- Đồ xấu xa, công phu phun nước đấy tên là gì vậy?

Lương Tiêu vẫn còn đau lưng, nghe vậy bực bội đáp:

- Tên là Thiên hà lơ lửng!

Lão già gãi đầu:

- Thiên hà lơ lửng, thế quái nào mà chưa nghe bao giờ? Ái chà, không nhớ được, không nhớ được!

Hai tay lão gõ đầu, vẻ mặt sốt ruột.

Lương Tiêu thầm nhủ: “Lão này điên điên khùng khùng mà võ công cao cường kỳ dị quá! Ta đánh không lại, ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn”. Thình lình, một cái bóng trắng nháng hiện ngoài cửa. Hạ Đà La lướt vào, chân không chấm đất, khuôn mặt nham hiểm, trông thấy lão quái liền cười ré lên:

- Bạn thân mến ơi, tính toán giỏi thế, nấp đâu không nấp lại nấp vào đây làm sái gia tìm bở hơi tai!

Lão già trợn trắng mắt:

- Ngươi là kẻ nào? Ai là bạn thân mến của ngươi?

Hạ Đà La nghĩ bụng: “Mới giao đấu một trận dữ dội mà đã quên ta rồi sao? Hừ, chắc hắn cố ý nhục mạ ta đây”, đoạn cười nhạt, nắm song quyền đẩy ra. Lúc này hai người đang đứng cách nhau mười trượng, Lương Tiêu sửng sốt: “Lẽ nào quyền kình của tên này bắn đi xa được đến mười trượng?”. Trong lúc đó, Hạ Đà La đã băng tới gần ba trượng, thoắt một cái xòe tay thành chưởng, lại rút ngắn gần ba trượng nữa, lần này tay nắm thành quyền. Thoắt chưởng thoắt quyền như thế thêm ba lần, khoảng cách giữa hai người chỉ còn không quá năm thước.

Lão già tròn xoe mắt nhìn đôi tay của Hạ Đà La, vẻ mặt rất chăm chú.

Lương Tiêu đứng bên xem, nhác thấy song chưởng của Hạ Đà La nhích động, bất giác tự hỏi: “Hắn sắp biến quyền hay dùng chưởng đây? Ờ, phải rồi, chắc là dùng chưởng”. Không ngờ Hạ Đà La thét một tiếng, lại nắm song quyền đẩy ra. Ở bên kia, lão quái xẹt tới xuất chưởng, kình chạm kình, cuồng phong nổi lên khiến cốc đĩa nhảy tâng tâng rồi rơi xuống vỡ loảng xoảng, căn lều rộng lớn cũng nghiêng ngả lắc lư.

Sau chiêu đầu tiên, hai người cùng giật lui ba trượng, vừa hò hét inh tai vừa xuất thủ từ xa, đôi tay co duỗi khum gập nhanh như chảo chớp, thoắt chưởng thoắt quyền, thoắt trảo thoắt chỉ, hệt như trò đánh toan[6] lúc uống rượu cao hứng, chỉ khác là động tác chứa đầy kình lực, thế gian thật hiếm thấy. Ban nãy Lương Tiêu đoán sai động tác xuất thủ của Hạ Đà La, lúc này nhân dịp quan chiến ngầm tập suy luận xem họ ra nắm tay hay bàn tay, ngón tay duỗi hay khum, nào ngờ xem liền mười chiêu mà chỉ đoán trúng hai ba chiêu. Đáng ngạc nhiên là, Hạ Đà La xuất thủ rất rõ ràng gãy gọn mà lão già nọ không bắt chước nổi một chiêu một thức nào của hắn.

Lương Tiêu toàn đoán sai, trong dạ buồn bực. Hai người ra chiêu càng lúc càng chậm, nhưng chưởng phong lại dày nặng và sắc bén hơn lên. Thình lình, chưởng thế của Hạ Đà La ngưng hẳn, lão già nọ thét vang, bước lên một bước, phát chéo chưởng, đẩy chệch luồng kình của Hạ Đà La vào vách lều, cột chống gãy luôn làm ba giữa những tiếng răng rắc. Lương Tiêu chột dạ phi thân khỏi trướng, chưa đứng vững đã nghe liền một hồi rắc rắc, căn lều sụp hẳn, phủ lên Hạ Đà La và quái nhân. Hai bóng người vẫn di chuyển dưới lớp vải da trâu, thoắt tiến thoắt lui như long xà trườn quẫy. Lều đổ đã đánh động cả trại, tứ phía nhốn nháo, tướng sĩ nhốn nháo tuôn đến xem.

Nhóm Bá Nhan cũng đã quay về, định chạy lại gần, nhưng nội kình của hai đấu thủ bắn cả ra ngoài qua lớp vải lều, xem chừng có thể đả thương người. Bá Nhan khó lòng tiếp cận, bèn ra lệnh lấy cung tiễn, kéo căng cung ngắm vào hai người dưới lớp vải, nhưng họ tiến lui thần tốc, nhất thời y không phân biệt được ai với ai.

Hạ Đà La và quái nhân đấu suốt nửa canh giờ. Đám đông bên ngoài chưa biết thắng thua thế nào, đúng lúc bắt đầu sốt ruột thì nghe thấy một tiếng động lạ lùng, lớp lều da trâu thủng hai lỗ. Hai bóng người vừa hú hét vừa song song nhảy vút lên không, xuất liền bảy chưởng như chớp giật. Hạ Đà La vụt lảo đảo, ngã ngửa người ra. Lão già rú vang tung mình xáp tới, quật bốn chưởng vù vù như gió táp sóng xô. Hạ Đà La né mình tránh được ba chưởng, nhưng không né nổi chưởng thứ tư, định xòe tay chắn đỡ thì Bá Nhan vụt thả dây cung, ba mũi tên nối nhau bắn về phía lão già.

Lão già võ công tuy cao nhưng cũng không dám khinh suất, vội co mình tránh tiễn, lại thu chưởng quơ đánh, gạt rơi được hai mũi tên. Hạ Đà La thừa cơ tống một quyền trúng ngực lão. Quái nhân hú dài, bắn ngược người ra sau, thân hình như làn khói nhẹ, như chim hồng bay cao, chỉ nhấp nhô một lượt là lướt đi xa đến hơn mười trượng, vượt qua đầu toán lính, ẩn vào sau một căn lều. Hạ Đà La cũng lật mình đáp xuống đất, giật lui chừng nửa bộ mới đứng vững. Hắn hít một hơi thật sâu, bộ mặt nhợt nhạt.

Bá Nhan hạ cung tiễn, dõi mắt chăm chú nhìn vào chỗ lão già mất hút, đôi lông mày rậm cau rúm. Y đã dồn toàn lực vào ba mũi tên vừa rồi, không ngờ đều trượt đích. Lão già đó đã trúng một quyền của Hạ Đà La mà còn di chuyển nhanh nhẹn như vậy, võ công quả thực cao thâm khôn lường. Bá Nhan nghĩ nát óc cũng không đoán ra gốc gác của nhân vật này, đành hỏi Hạ Đà La:

- Tiên sinh có nhận ra lai lịch người đó không?

Hạ Đà La mím môi, lắc đầu im lặng. Một cái bóng xanh chợt nháng lên, lão già cao gầy xẹt đến trước mặt hắn, rút ra một chiếc bình ngọc trắng như mỡ dê, dốc lấy ba viên đan dược, cười khì khì bảo:

- Mạch Âm duy của đại sư hơi bị tắc, mau uống ba viên thuốc này để chữa trị.

Hạ Đà La đón lấy thuốc, hít ngửi nhưng không uống ngay, ánh mắt lướt một vòng rồi dừng lại ở Cáp Lý Tư. Tên này bắt gặp ánh nhìn của cha, cơ mặt giật nhẹ, bỗng cười hì hì tiến đến, nhón viên thuốc uống luôn. Hạ Đà La quan sát hắn chốc lát, thấy không vấn đề gì mới uống nốt phần còn lại, thở ra hít vào vài lượt xong vui vẻ khen:

- Đan dược của Thường tiên sinh quả nhiên linh nghiệm!

Bá Nhan giật mình, đưa mắt sang lão già áo xanh:

- Tiên sinh họ Thường à? Phải chăng là Tiếu Diêm vương?

Lão già áo xanh sững người một thoáng rồi tươi mặt:

- Kẻ bất tài này chính là Thường Ninh, tên tuổi hèn kém mà được Thừa tướng biết đến, thật vinh hạnh muôn phần! – Lời nói nhún nhường, nhưng vẻ mặt vô cùng đắc ý.

Bá Nhan cười nhạt, không nói gì nữa. Lương Tiêu tự nhủ: “Y thuật của lão này xem chừng không tệ, sao lại đặt ngoại hiệu là Tiếu Diêm vương?”.

Hạ Đà La đảo mắt nhìn quanh rồi dừng lại ở Minh Quy:

- Minh tiên sinh kiến văn quảng bác, chẳng hay có đoán ra thân thế của con người kỳ dị kia chăng?

Minh Quy mỉm cười:

- Minh mỗ tầm nhìn hạn hẹp, quả có thầm điểm qua vài gương mặt, nhưng ngẫm kỹ lại thấy không giống cho lắm, mong Hạ tiên sinh chỉ giáo.

Hạ Đà La nói vẻ thâm độc:

- Minh tiên sinh còn không biết, sái gia làm sao biết được. Kẻ ấy xuất thủ bát nháo khiến người ta không sao nắm bắt được đường lối võ công.

Minh Quy cười:

- Hạ tiên sinh khiêm tốn thế, bất kể kẻ đó là ai, lần sau gặp mặt cũng không dễ mà thoát khỏi tay tiên sinh đâu.

Hai kẻ trông bề ngoài thì cứ tôn xưng nhau lên, thực ra ngấm ngầm mai mỉa lẫn nhau. Hạ Đà La đấu với quái nhân nọ, rõ ràng yếu thế, thẩm hiểu dẫu mai sau còn tái đấu thì cũng chỉ đủ sức tự vệ chứ đừng mơ thắng được lão ta. Vốn là kẻ mặt dày giỏi nín nhịn, nghe giọng khích bác ngầm của Minh Quy, hắn vẫn làm ra bộ hân hoan:

- Minh tiên sinh quá khen!

Minh Quy tủm tỉm cười. Lương Tiêu thừa hiểu tính lão, nhìn lối ăn nói cử chỉ kia là đủ biết lão đã đoán ra lai lịch quái nhân nọ, nhưng vì sao không muốn tiết lộ? Trầm ngâm một lát, gã chợt hiểu ra: “Bề ngoài, lão già và Hạ Đà La cùng chung một thuyền, đều là hai cánh tay phù trợ cho Thoát Hoan, nhưng thực tế thì không được hòa thuận cho lắm. Lão họ Minh biết mà không nói, cốt để Hạ Đà La không nắm được thực lực của quái nhân, lần sau giao thủ nhẹ thì thủ hòa, nặng thì thất bại khốn đốn”.

[1] Rồng gầm Tây Tái. Tây Tái là một ngọn núi ở mặt tây nam Hồ Châu.

[2] Bài Tiền Đường ca của thi nhân – từ nhân Uông Nguyên Lượng thời Tống mạt. Câu cuối bài này mượn hình ảnh chim đỗ quyên với tiếng hót ai oán trong bài thơ Đỗ quyên của Đỗ Công Bộ để tả mối sầu vong quốc.

[3] Bài tản khúc Tây hồ xuân cảm của Lưu Chí thời Nguyên.

[4] Đế sư là chức quan đặt ra dưới triều Nguyên, dành cho vị tăng lữ cao cấp nhất trong Phật giáo Tạng truyền, vừa đảm nhiệm các vấn đề tôn giáo của cả nước vừa điều hành chính sự khu vực Tây Tạng. Bát Tư Ba (tức BLo-gros rgyal-mtshan hPhags-pa) là người đầu tiên giữ chức Đế sư, học vấn cao, được Hốt Tất Liệt rất quý trọng.

[5] Phật giáo Tây Tạng coi Lạt ma là hiện thân của Đức Phật chứ không chỉ là người tu hành kinh kệ bình thường trong thiền viện hay chùa chiền.

[6] Một trò chơi rất phổ biến ở Trung Quốc, tương tự oẳn tù tì của ta, thường chơi khi uống rượu. Có nhiều cách chơi, phổ biến nhất là hai người cùng hô những khẩu lệnh có vần điệu khác nhau đồng thời xòe các ngón tay ra để đọ, ai thua bị phạt uống rượu.

hết: 

Tây Tái Long Ngâm

, xem tiếp: Phần Hương Túy Ngọ

á Nhan sai người dựng lại trướng soái. Xong xuôi, vừa lúc y định đi vào thì một con ngựa phóng nước đại tới, người trên yên mình lấm bụi đường, vẻ mặt căng thẳng. Bá Nhan nhướng mắt nhìn. Kỵ sĩ nhảy xuống ngựa, dỡ trong ngực ra một cuộn giấy màu vàng. Thoát Hoan đưa tay đón, nhưng kỵ sĩ nọ không buồn để ý, đi thẳng đến trình cho Bá Nhan. Thoát Hoan đâm ngượng, lúng túng rụt tay về.

Bá Nhan giở cuộn giấy xem lướt, sắc mặt u ám, từ từ cuốn lại như cũ, nóng nảy cất bước một lúc, chợt nói:

- Truyền lệnh ta, từ tham tướng trở lên, mau về trướng soái nghị sự!

Các thân binh vâng lệnh tỏa đi. Bá Nhan rảo chân vào trướng, ngồi xuống ghế chủ tọa, vẻ mặt kín bưng, chẳng rõ vui hay giận. Bọn Thoát Hoan không đoán được đã xảy ra chuyện gì, đành nén lòng chờ đợi.

Chỉ lát sau, các tướng đã tề tựu đủ, Bá Nhan đứng dậy đi đi lại lại, cặp mắt sáng quắc lướt khắp mặt mọi người, thận trọng thông báo:

- Đại Đô vừa gửi tin khẩn. Con trai Mông Ca là Tích Lí Cát câu kết với Hải Đô âm mưu tạo phản, bắt giữ toàn bộ tướng lĩnh tây bắc và thâu tóm mười vạn quân đang đồn trú tại đó. Hiện tại hắn và Hải Đô đã hợp nhất lực lượng, kéo vào giày xéo cố đô Hòa Lâm, chiếm lấy võ trướng[2] của Thành Cát Tư Hãn. Thánh thượng hạ chỉ cho đại quân ta hỏa tốc hồi sư tây tiến.

Các tướng tái mặt. Đối với người Mông Cổ, võ trướng Thành Cát Tư Hãn cũng quan trọng như ngọc tỷ truyền quốc đối với người Hán, đánh mất chẳng phải chuyện chơi, lại thêm vụ binh biến tây bắc và lực lượng phản loạn lên đến ba mươi vạn người do các danh tướng và phiên vương dũng mãnh như Hải Đô, Tích Lí Cát dẫn dắt, tình thế Đại Đô quả thực quá sức nguy ngập.

Bầu không khí tịch mịch bao trùm cả trướng, âm thanh duy nhất là tiếng bước chân bồn chồn của Bá Nhan. Đi lại hồi lâu, y vụt dằn bước, gọi to:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu giật mình bước ra khỏi hàng. Bá Nhan nói:

- Theo chỉ dụ của thánh thượng, ngươi hãy dẫn tám vạn thiết kỵ Mông Cổ, Khâm Sát và Hán tộc lên bắc trước để cứu viện Đại Đô. A Truật phá xong Dương Châu sẽ đến hiệp lực với ngươi.

Đầu óc Lương Tiêu trống rỗng, chỉ còn quay cuồng một ý nghĩ: “Lại bắt ta phải đánh trận à? Đánh hết Đại Tống đánh sang Mông Cổ, bao giờ cuộc chiến này mới chấm dứt đây? Vậy mà dám nói thiên hạ thống nhất là sẽ vĩnh viễn không còn chiến tranh, thật là rỗng tuếch!”.

Thoát Hoan chen ngang:

- Đùng đùng rút hết binh hùng tướng mạnh về bắc thì diệt Tống bằng cách nào nữa?

Bá Nhan nói:

- Việc gấp phải giải quyết trước, thế thôi. Đám tàn binh bại tướng nhà Tống hiện như cá nằm trên thớt, chẳng có gì đáng ngại. Hải Đô và Tích Lí Cát mới là cường địch kia! – nói đoạn chăm chú nhìn Lương Tiêu. – Chiến dịch lần này có tính quyết định rất cao, chỉ được phép thắng, không được phép thua!

Lương Tiêu thẫn thờ nhìn xuống. Bộ dạng uể oải ấy làm Bá Nhan phát bực, y toan trách mắng thì một Thiên phu trưởng hộc tốc chạy vào, gấp rút báo:

- Bẩm Thừa tướng, phò mã nhà Tống là Dương Trấn đã cắp Ích Vương Triệu Thị và Quảng Vương Triệu Bính trốn khỏi Lâm An chạy về phía nam rồi!

Bá Nhan đang rối ruột vì phản loạn quân sự ở Tây Bắc, nghe đến tin này thì không sao kiềm chế nổi nữa, quát lớn:

- Thế là thế nào?

Tiếng quát rền như sấm nổ khiến viên Thiên phu trưởng phát run, rủn chân khuỵu xuống. Thoát Hoan láo liên con mắt, cười hì hì:

- Thừa tướng hà tất nổi giận, giao việc này cho bản vương đi! Ta đảm bảo sẽ tóm cổ hai tên oắt con đó.

Bá Nhan đăm chiêu:

- Để hai đứa ấy chạy tuốt xuống nam thể nào cũng sinh hậu hoạn! – Y nghiến răng, chợt đập mạnh tay làm sụn cả bàn, trầm giọng thốt. – Phải dùng cách giết gà dọa khỉ, đánh phủ đầu để bọn Tống thôi nuôi vọng tưởng. Trấn Nam Vương, hễ bắt được Triệu Thị và Triệu Bính, ông hãy giết ngay tại chỗ, không được dung tha!

Thoát Hoan vỗ tay:

- Đúng rồi, phủ đầu phủ đầu, chính hợp ý ta. – Hắn cười sằng sặc, dẫn tùy tùng đi ra khỏi trướng.

Bá Nhan sắp xếp binh mã và phân công nhiệm vụ xong thì cho các tướng lui, chỉ giữ Lương Tiêu ở lại. Trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng y bảo:

- Thánh thượng vốn muốn gặp cậu từ lâu, nhưng ngại gián đoạn công cuộc nam chinh nên tạm gác lại. Chuyến này dẫn quân về bắc chính là cơ hội thích hợp để cậu yết kiến người. Lão nhân gia tuổi hạc đã cao, mà tình hình hiện thời tương đối phức tạp, bên ngoài thì có các phiên vương ngỗ ngược, hết kẻ này đến kẻ khác theo nhau nổi loạn, bên trong lại được ông thái tử hèn yếu, chẳng làm nổi việc gì cho nên hồn, vì vậy người hằng mong mỏi tìm được một đại tướng trẻ tuổi tài ba giúp mình chèo chống qua sóng gió, ổn định thể chế cục diện. Người còn mong, cho dù một mai người có đi xa, viên đại tướng ấy vẫn một lòng phò tá thái tử, trấn áp phiên vương, mở mang lãnh thổ cho thỏa di chí của Thái Tổ. Kể từ chiến dịch Tương Dương, hễ cậu đánh trận nào là thánh thượng yêu cầu ta báo cáo tỉ mỉ tình hình trận nấy. Đợt vừa rồi ta hồi triều, người liên tục nhắc đến cậu trước mặt các vương gia đại thần, nhưng không gọi thẳng tên mà gọi là “tiểu ái tướng của trẫm”, nói rằng sẽ dành cậu cho không chỉ đời con mà cả đời cháu của người. Trước đây người đã nhiều lần phá lệ thăng cấp cho cậu, còn nhớ chứ? Và lần này là chỉ đích danh, phong cậu làm soái dẫn binh lên bắc rồi đấy. Ân sủng nhường ấy xưa rày rất hiếm, cậu có phúc lắm mới gặp được đấng minh quân như vậy.

Ngừng một lát, y tiếp:

- Về mặt cầm quân đánh trận, hạng Hải Đô, Tích Lí Cát không bằng một góc của cậu, chiến thắng chúng chắc chẳng khó khăn gì. Lần này về kinh với tư thế trọng thần triều đình, lại sắp lập được công to, nhớ phải khiêm tốn nhún nhường, kiềm chế tính khí kiêu ngạo nóng nảy. Quan trường khác xa chiến trường, nơi đây tua tủa giáo mác nhưng hiển hiện ngay trước mắt, còn chốn quan trường lác đác gươm đao nhưng nhiều thuốc độc và đều ẩn rất sâu. Quan hệ giữa chúng ta có phần đặc biệt nên ta mới rộng dung cho cậu thích gì làm nấy, người khác thì chẳng độ lượng thế đâu. Huống hồ bây giờ cậu quyền cao chức trọng, thiếu gì kẻ ghen ghét muốn hạ bệ. Chẳng may khiến cả thiên hạ thù nghịch với mình thì dẫu có nghìn tay nghìn mắt cũng không ứng phó nổi! Vì vậy khi nào thẳng thừng được hãy thẳng thừng, khi nào cần nín nhịn thì nên nín nhịn, đừng khăng khăng tự phụ tài cao mà kiêu căng háo thắng. Có câu nói thế này: “Biết đâu cao quá đời ghen, Biết đâu sạch quá đời khen da mà”. Khi chinh chiến cũng vậy, đã ra sa trường là khó tránh khỏi giết chóc cướp bóc, chớ cấm đoán xét nét từng li từng tí kẻo người ta kết oán. Còn một điều nữa cậu nhất thiết phải nhớ, thiên hạ này là thiên hạ của họ Bột Nhi Chỉ Cân. Thánh thượng trọng nhất là lòng trung thành, thứ nhì mới đến bản lĩnh, cho dù cậu không nuôi dã tâm chống phá thì cũng nên thận trọng hành xử, vì lưỡi mềm độc quá đuôi ong, lời gièm pha dễ khiến lòng sinh nghi! Nói ngay chuyện hôm nay thôi, cậu vô lễ với Thoát Hoan là chuyện nhỏ, nhưng lỡ hắn để bụng trả thù, thẽ thọt sàm tấu nay một câu mai hai câu, việc bé tất xé ra to. Cái thân làm tướng như chúng ta, một khi bị định tội phản loạn thì sẽ gánh đủ voi giày ngựa xé, lăng trì xử giảo không thiếu cực hình nào. À, suýt quên, ta dặn cậu thêm một câu, đừng có hí hoáy mãi với mấy cái que tính, dạo trước Quách Thủ Kính dốc lòng tiến cử cậu về trông coi cục Thái Sử nhưng bị thánh thượng gạt phắt đi đấy! Đại Nguyên ta dùng võ công bình định thiên hạ, toán thuật lịch pháp chỉ là trò vè thêm thắt, đánh trận trị quốc mới là việc chính yếu. Thánh thượng hùng tài đại lược, không chỉ muốn ôm trọn đất đai trung nguyên mà còn muốn mở rộng ra hải ngoại, dần dần thôn tính cả Cao Ly, Nhật Bản, An Nam, Giao Chỉ, Phù Nam, Đại Tần… Cậu còn trẻ, bản lĩnh như thế lo gì không có đất dụng võ…

Bá Nhan nói một mạch, nói rất nhiều, lúc nhìn lại thì thấy Lương Tiêu bộ dạng lừ đừ, mắt nhìn đâu đâu, y nổi giận gắt:

- Hiểu chưa?

Lương Tiêu giật mình, ngao ngán thở dài rồi uể oải đáp:

- Hiểu mà!

Bá Nhan nghĩ thêm một lúc, thấy không còn gì để dặn dò nữa, bèn bảo:

- Thôi, về mà sắp xếp binh mã, hai hôm nữa là phải lên đường đấy!

Lương Tiêu vái một vái thật thấp, đoạn quay mình sải bước đi ra. Bá Nhan nhìn hút theo bóng gã, bất giác ruột gan rối bời: “Cái đồ quỷ sứ nhà giời, chẳng biết ta còn phải hao tâm tổn sức bao nhiêu nữa với con đây?”.

Lúc ấy trời đã nhọ mặt người, Lương Tiêu bơ phờ đi một quãng, chợt nghe có tiếng cười vang:

- Chúc mừng, chúc mừng!

Gã cau mày nhìn lại thì thấy Minh Quy đang vòng ra từ sau một căn lều. Vốn không muốn nói chuyện với con người này, gã lạnh lùng cắt ngang:

- Có gì mừng mà chúc?

Minh Quy cười tươi:

- Bình chương đại nhân giễu cợt Minh mỗ đấy à? Đại nhân nắm quyền to trong tay, ngày mai lại dẫn quân lên bắc, nếu thắng lợi thì nhất định sẽ được ghi danh sử sách, chẳng phải là điều mừng hay sao?

Lương Tiêu nhếch mép:

- Ông muốn gì cứ nói thẳng ra, đừng vòng vo tam quốc.

Minh Quy thì thào:

- Ân oán ngày xưa chấm dứt nhé! Nếu ngươi không chê, Minh Quy này sẵn sàng giúp ngươi một tay. Chắc ngươi cũng biết Bá Nhan đứng về phe thái tử, đối địch với Thoát Hoan, mai sau Thoát Hoan nhất định sẽ gây khó dễ cho cả ngươi nữa, nhưng nếu có lão phu làm tay trong bên cạnh hắn và bí mật thông báo tình hình thì ngươi được lợi nhiều lắm, việc dữ hóa lành, việc rủi hóa may. – Thấy Lương Tiêu ngờ vực ra mặt, lão bèn ngọt ngào. – Ngươi đừng nghi ngại, ta không có bụng dạ nào khác đâu, vì việc này tốt cho cả ta nữa mà. Hiện thời chính sự nhà Nguyên chứa đựng vô khối mâu thuẫn, ngoài cõi phiên vương phản loạn, trong triều thân vương khuynh loát, hễ Hốt Tất Liệt nằm xuống là sẽ sinh biến ngay. Lúc đó ngươi nắm binh quyền trong tay, ngoài có ta hỗ trợ, trước tiêu diệt Thoát Hoan, sau lật đổ thái tử, cuối cùng dùng quân đội trấn áp chư vương, trở tay một cái là nắm gọn giang sơn Đại Nguyên, hai ta chung hưởng phú quý chẳng phải là hay lắm sao?

Lương Tiêu nhìn bộ mặt quỷ quái, lòng chán ghét lạ lùng, lạnh nhạt hỏi:

- Ông tưởng Lương mỗ sẽ thông đồng làm bậy với ông ư?

Minh Quy sầm mặt:

- Còn giả vờ đóng vai quân tử kia à? Của đáng tội, Minh mỗ tuy có vài ba mưu mô thật, nhưng chưa đến nỗi thẳng tay tàn sát mạng người như ai đó. Ngươi chỉ khẽ trỏ búa Việt cờ mao là thây chất thành đống, máu đổ thành sông, Minh mỗ chả sánh kịp. Ha ha, bốn chữ “thông đồng làm bậy” ta xin dâng trả cho ngươi. – đoạn rũ áo bỏ đi.

Lương Tiêu chết điếng. Xưa nay gã vẫn khinh miệt những hành vi của Minh Quy, nhưng lần này bị lão đả kích đích đáng quá, không đỡ vào đâu được, khổ tâm đứng ngây ra. Chẳng biết như thế bao lâu, cuối cùng gã bò lên ngựa, vào thành Lâm An đi loanh quanh, cuối cùng mua một ít phấn son và váy áo đẹp đẽ.

Tối muộn, Lương Tiêu mới về đến trướng. A Tuyết đang lúi húi khâu vá, trông thấy ca ca thì vui mừng ra đón, giúp gã cởi bỏ giáp trụ. Lương Tiêu nhìn cô gái tươi tắn như hoa, bỗng xót xa trong dạ, ngoảnh đầu đi:

- Trung Điều Ngũ Bảo đâu?

- Họ chạy biến đằng nào từ ban ngày rồi ấy, chơi tới giờ vẫn chưa về.

Lương Tiêu thở dài:

- Vô tư thế cũng vui. Muội đang làm gì đấy?

A Tuyết hồng hồng đôi má, dịu dàng đáp:

- Muội thấy bọn Lý Đình đều có túi hương đeo trong người, mà huynh lại không có…

- Cần chi cái của rách việc thối tha ấy? – Lương Tiêu xẵng giọng, chợt thấy A Tuyết cúi gằm đầu, gã vội vỗ về. – Thôi thôi, ta nói sai, của ai khác thì thối hoắc thối hăng, nhưng túi hương A Tuyết làm thì thơm phưng thơm phức.

A Tuyết che miệng cười khúc khích. Lương Tiêu cũng cười khì, đưa một cái hộp cho cô gái:

- Muội xem gì đây này!

A Tuyết tò mò mở ra, trong hộp là một bộ váy dài màu phấn hồng thêu thùa rất tinh xảo, cô ngạc nhiên hỏi:

- Của ai đấy huynh?

- Của ta tặng muội!

A Tuyết đỏ mặt:

- Muội còn phải theo ca ca đi đánh trận, mặc y phục nữ nhi sao tiện?

Lương Tiêu thở dài:

- Từ nay về sau muội không cần vận giáp sắt nữa!

A Tuyết sửng sốt, vội hỏi:

- Huynh… định đuổi muội đi à?

- Muội đừng cả nghĩ.

A Tuyết lộ rõ vẻ hồ nghi, Lương Tiêu bèn bảo:

- Ta đã sai đun nước thơm, muội tắm rửa rồi mặc áo mới vào ta xem.

A Tuyết đi vào phòng, mặt đỏ lựng như quả bồ quân.

Một lúc lâu sau, cô bước ra trong bộ váy mới. Hơi nước nóng chưa tan vun đôi má cô đỏ hồng, nom càng thêm đáng yêu. Lương Tiêu nhìn không chớp mắt, A Tuyết đâm cuống, chân tay vụng về thừa thãi, bối rối gọi:

- Ca ca!

Lương Tiêu bừng tỉnh, mỉm cười:

- Thì ra A Tuyết xinh đẹp nhường này! Chẳng biết tên nào tốt phúc rước được em ta về dinh nhỉ?

A Tuyết nghe câu đầu tiên, lòng ngập tràn xao xuyến, nghe đến câu thứ nhì lại ấm ức tột cùng, vùng vằng đi đến ngồi trước gương, khổ nỗi lâu ngày biếng điểm trang, vấn tóc mãi vẫn không ngay ngắn. Lương Tiêu phì cười, đứng dậy lại búi tóc giúp rồi lấy hộp trang điểm, vẽ mày và đánh phấn cho cô.

A Tuyết ngẩn ngơ soi gương, mặc gã làm, thình lình nước mắt trào ra, cô hỏi nhỏ:

- Huynh trang điểm cho muội như tân nương ấy, không phải… huynh đã hứa gả A Tuyết cho ai đấy chứ?

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Chỉ nói nhăng, làm gì có chuyện đó? – Gã nắm bàn tay thon nhỏ, kéo cô gái ra ngồi trên bậc thềm dẫn xuống sân, rủ rỉ bảo. – Ta chẳng đã nói rồi đấy ư, ta không bao giờ ép uổng muội lấy ai. Còn nếu muội ưng người nào, ta cũng quyết không ngăn cản muội!

A Tuyết cúi đầu lí nhí:

- Ngộ nhỡ A Tuyết lấy phải người chẳng ra gì, suốt ngày bị họ ức hiếp thì sao?

Lương Tiêu hừ mũi:

- Ta vặn cổ hắn ấy chứ!

A Tuyết cười khúc khích:

- Ối chà… thế chẳng phải muội sẽ thành… thành…

Cô lắp bắp mãi không thốt được hai chữ “quả phụ”. Lương Tiêu cười:

- Thôi được, nể mặt muội, ta tha cái mạng hèn cho hắn, chỉ chặt cụt hai chân mà thôi.

A Tuyết nghĩ thầm: “Huynh có thể tự chặt chân huynh chăng? Mà dầu huynh sẵn sàng làm, muội cũng đau lòng lắm lắm”. Cô nhẹ nhàng tựa má vào vai Lương Tiêu, ánh mắt êm đềm. Gã thiếu niên thẫn thờ tự nhủ: “Nếu A Tuyết lấy ai đó thật, có thể ta dám vặn cổ hắn lắm”, càng nghĩ, càng thấy lòng đầy mâu thuẫn.

Hai người tựa vào nhau, nói chuyện vu vơ. Đến nửa đêm, A Tuyết mệt rũ, mơ màng thiếp đi, khi tỉnh lại đã thấy mình nằm ngay ngắn trên giường, người đắp một cái chăn gấm mềm nhẹ và thoang thoảng thơm. Cô vùng dậy nhìn quanh. Lương Tiêu đang ngồi trước đèn, chừng như viết lách rồi đóng gói một vài thứ gì đó, đặt lên bàn.

A Tuyết dịu dàng hỏi:

- Ca ca làm gì vậy?

Lương Tiêu ngoái đầu lại:

- Muội tỉnh rồi à? – đoạn nhỏm dậy đẩy cửa, đêm đen mịt mùng in nổi chòm sáng của sao bắc đẩu. Gã đứng lặng hồi lâu rồi quay vào gần giường, nói khẽ. – Ta không đánh trận nữa đâu!

- Huynh bảo sao cơ?

Lương Tiêu đáp, sau một lúc trầm ngâm:

- Từ ngày tòng quân tới nay, ta đã tàn hại biết bao người. Những mong sau cuộc chiến này có thể từ bỏ cung mã, về Đại Đô tu đính lịch pháp, sửa sang thủy lợi, nhưng người ta không cho, cứ khăng khăng bắt ta phải sang tây chinh phạt các phiên vương Mông Cổ, cũng tức là tiếp tục giết người… – Gã thở dài. – Đã vậy, chỉ còn cách bỏ đi là ổn nhất.

A Tuyết úp mặt vào vai gã:

- Muội cũng mệt rồi. Chúng ta đi đi, đi thật xa, đến Khâm Sát, Ai Cập, và khắp mọi nơi dưới vòm trời này nhé.

Lương Tiêu cúi xuống nhìn cô gái:

- Nghe muội nói thế, ta vui lắm.

Gã sung sướng mỉm cười, A Tuyết cũng cười theo:

- Có báo cho Thổ Thổ Cáp và mấy người kia không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Lẳng lặng mà đi thì hơn!

A Tuyết tuy thắc mắc, nhưng nghĩ đến lúc được cùng Lương Tiêu rong ruổi mọi nơi thì rạo rực quá, không bận tâm gặng hỏi thêm nữa.

Ý đã quyết, họ liền đóng gói đồ đạc, nhân đêm theo cửa bắc rời thành. Lương Tiêu cầm lệnh phù thông hành nên đi qua các trạm trót lọt, không gặp trở ngại gì cả. Nhưng vừa ra đến ngoại vi, họ trông thấy ngay một đội kỵ binh đèn đuốc gậy gộc hò hét phóng rầm rập trên đường cái. Lương Tiêu rất kinh ngạc, nhưng đã dứt khoát rời quân đội Nguyên triều nên không muốn dính dáng tìm biết gì nữa, bèn bảo A Tuyết:

- Chuyến này ta bỏ đi, nhất định Bá Nhan sẽ nổi giận, phái người đuổi theo. Ta không muốn chạm mặt đám quân sĩ kia. Để tránh bại lộ hành tung, chúng ta hẵng lên núi nghỉ chân vài ngày, đợi ồn ào lắng xuống rồi tiếp tục đăng trình.

Hai người theo hướng đông nam tiến vào vùng núi, không ngờ càng đi càng trông thấy nhiều quân Nguyên hơn. Lương Tiêu tìm đường vòng tránh né, dắt A Tuyết vào sâu trong núi. Đi được chừng nửa ngày, đến giữa trưa Lương Tiêu mới chọn được nơi dừng chân. Gã phát chưởng chặt cây, cùng A Tuyết cất một cái chòi chuẩn bị trú ngụ dài ngày, đợi sóng yên bể lặng thì sẽ đi chỗ khác.

Dựng chòi xong, Lương Tiêu toan ngồi xuống nghỉ thì nghe tiếng sột soạt trong một bụi cây cách đó chừng mười trượng. Đoán là thú rừng, gã mừng rỡ nghĩ: “May thế, có bữa tối rồi đây”, đoạn nín thở băng mình đến nơi, vung tay trái vạch bụi cây, tay phải quơ mạnh. Gã xuất chiêu rất khéo, kình lực bao trùm phạm vi một trượng, dù là hổ báo cũng khó lòng thoát được. Nào ngờ bụi cây tách ra lại phô bày một gương mặt non nớt đang khiếp đảm. Lương Tiêu cả kinh, vội vã thu kình lực, trảo thế dừng sát trên mặt đứa bé. Nó chừng bốn, năm tuổi, quần áo rách rưới, mặt mũi ngoa nguếch máu và đất cát, thấy Lương Tiêu thì hoảng hồn ngoác miệng khóc oa oa.

Đứa bé khóc làm Lương Tiêu luống cuống tay chân, không biết nên xử trí thế nào cho phải. Thình lình, sau lưng thằng bé bốn năm tuổi nhô ra một đứa lớn hơn, tay dang rộng, giọng run rẩy:

- Đừng… đừng chạm vào em ta…

Tiếng nó nói chen lẫn với âm thanh gì xè xè, Lương Tiêu cúi xuống nhìn kỹ, nhận ra thằng bé mồm nói cứng mà thực chất sợ hãi đến mức vãi cả đái, gã vừa kinh ngạc vừa buồn cười: “Rừng hoang núi vắng, mọc đâu ra hai đứa ranh con thế này?”. Nhác thấy sau lưng chúng, sâu trong bụi cây, có một người đàn ông mình vận giáp trụ nhà Tống đang nằm dài, mình mẩy bê bết máu me, gã bèn gạt hai đứa trẻ, vươn tay thăm mũi hắn. Thằng lớn hơn la lối om sòm:

- Đừng có sờ vào… – nhưng thấy Lương Tiêu không thèm đếm xỉa đến, nó sợ hãi khóc òa lên.

Người nọ đã tắt thở, có lẽ cũng khá lâu rồi. Lương Tiêu bần thần đứng dậy. A Tuyết nghe tiếng khóc chạy tới, rất lấy làm ngạc nhiên, lập tức ôm hai đứa bé vào lòng, âu yếm vỗ về. Bọn trẻ chừng như rất tủi thân, A Tuyết càng nựng nịu, chúng càng khóc dai, đứa nhỏ hơn vừa thút thít vừa kêu:

- Mẹ, mẹ ơi…

Lương Tiêu nhíu mày ngẫm nghĩ chốc lát rồi xoa đầu chúng, nhẹ nhàng hỏi:

- Các ngươi tên gì?

Hai thằng bé vẫn còn sợ gã. Đứa lớn hơn co mình lại, sợ sệt đáp:

- Ta… là Thị, nó… là Bính.

Lương Tiêu hỏi:

- Các ngươi đến đây làm gì?

Thị nhi giọt vắn giọt dài:

- Biết đâu. Ta… và đệ đệ đang ngủ, cô phụ bỗng chạy vào, bế xốc chúng ta mang lên ngựa, còn có ối người chạy theo sau, ối người chết… cô phụ… cũng chết… hu hu… cô phụ chết rồi…

Nó nói câu nọ xọ câu kia, kể chuyện không mạch lạc chút nào. Lương Tiêu lắng nghe, vẻ mặt tư lự. Một lúc lâu sau, gã cười buồn:

- Thật không ngờ lại gặp các ngươi ở đây. Hai đứa mang họ Triệu chứ gì?

Hai thằng bé trố mắt nhìn gã. Bính nhi ngây thơ hỏi:

- Vì sao… thúc thúc biết?

Lương Tiêu ngớ người: “Ối chà, lần đầu tiên trong đời có người gọi ta là thúc thúc”. Gã hiền hòa đáp:

- Đương nhiên ta biết, ta còn biết cô phụ ngươi tên là Dương Trấn, thân mẫu ngươi họ Toàn và tổ mẫu ngươi họ Tạ nữa kia.

Hai đứa trẻ càng thêm kinh ngạc, Bính nhi lộ vẻ cảnh giác, rúc sâu vào lòng A Tuyết, hỏi bằng giọng gây gổ:

- Ngươi… ngươi đến bắt ta phải không?

Lương Tiêu không nghi ngờ gì nữa, nhớ lại hôm qua Thoát Hoan đã nhận trách nhiệm truy tầm Triệu Thị và Triệu Bính, gã cau mày nhìn hai đứa trẻ, lẩn quẩn nghĩ: “Thì ra đám binh mã ngoài núi kia đang lùng sục hai tiểu vương này. Ta đâu ngờ chúng còn nhỏ thế, thậm chí chưa đầy mười tuổi”. Gã muốn lìa bỏ chiến tranh chém giết, rủi sao vừa dứt áo ra đi lại gặp ngay hoàn cảnh oái oăm, cứ lầm lì ngồi nghĩ, trong người bứt rứt.

A Tuyết lau nước mắt cho hai đứa bé, dịu dàng hỏi:

- Các ngươi có đói không?

Triệu Bính gật đầu:

- Bính nhi đói lắm, muốn ăn yến sào.

A Tuyết ngớ người:

- Lấy đâu ra yến sào!

Triệu Thị nuốt nước bọn đánh ực:

- Thế nem uyên ương ngũ trân?

A Tuyết lắc lắc đầu. Triệu Thị và Triệu Bính cùng cau mày:

- Thế canh vịt hầm?

A Tuyết thở dài:

- Cũng không có, chỉ có bánh tét thịt bò thôi.

Rồi cô mang thêm lương khô và nước suối lại. Triệu Thị, Triệu Bính lớn lên trong cảnh mâm cao cỗ đầy, quần là áo lượt, nào quen đồ ăn đạm bạc đơn sơ, khổ nỗi suốt một ngày trời chưa có miếng gì bỏ bụng, người đã đói lả, bèn vớ ngay lấy bánh tọng vào miệng nhai ngấu nghiến, làm A Tuyết phải trông chừng nhắc nhở, sợ chúng bị nghẹn.

Lương Tiêu lẳng lặng đi đâu đó một lúc, khi quay về mặt mũi tái xanh, kéo riêng A Tuyết ra một góc kể rõ lai lịch hai đứa bé, trầm giọng bảo:

- Binh mã chúng ta gặp trên đường chính là đám săn đuổi bọn trẻ đấy. Ta vừa trông thấy rất nhiều quân sĩ lảng vảng ở khu phụ cận, chỉ e lát nữa chúng sẽ lần tới đây.

A Tuyết hoảng hốt:

- Vậy chúng ta mau dẫn hai đứa đi tìm nơi ẩn náu.

Lương Tiêu lắc đầu:

- Thoát Hoan đã lĩnh mệnh, nhất định sẽ dốc toàn bộ lực lượng ra lùng bắt. Hắn lắm thuộc hạ, lại nhiều trợ thủ giỏi, riêng một Hạ Đà La thôi đã khó đối phó rồi. Vùng núi này đang bị bao vây, thiên quân vạn mã sẽ lùng sục từng gốc cây ngọn cỏ, không nấp vào đâu được đâu.

A Tuyết nghe đến tên Hạ Đà La là ớn lạnh, run run hỏi:

- Làm sao bây giờ? Chẳng lẽ bỏ mặc chúng nó?

Lương Tiêu u ám bảo:

- Bá Nhan đã ra lệnh rằng hễ tìm được hai đứa là phải giết ngay tại chỗ. Quân lệnh như sơn, không thể sửa đổi được. Rời bỏ ngọn núi này, đối với muội và ta cũng không lấy gì làm khó, nhưng hai đứa kia muốn toàn mạng thì thực không dễ chút nào.

A Tuyết nhìn gã, vẻ mặt buồn thảm.

Thình lình có tiếng người vọng tới, Lương Tiêu giật mình, quay lại ôm thốc lấy hai tiểu vương, cùng A Tuyết chạy đi, đợi cho tiếng người xa hẳn mới chui vào một khe núi nghỉ tạm. Triệu Thị kinh hãi quá độ nên kiệt sức, ngủ lịm đi ngay. Triệu Bính ăn no xong vẫn còn phấn chấn, láu táu trò chuyện, gọi Lương Tiêu là thúc thúc, gọi A Tuyết là thẩm thẩm. A Tuyết nghe vừa thẹn, vừa vui. Lương Tiêu chỉ lặng lẽ ngồi uống rượu.

A Tuyết con cà con kê với Triệu Bính hồi lâu, rất mến nó láu lỉnh đáng yêu, cứ nghĩ ngoài núi đang có bao nhiêu kẻ nhăm nhăm chực lấy mạng thằng bé, cô không nén nổi xót thương. Chống má trầm ngâm một lúc, A Tuyết ghé tai Triệu Bính, vừa thì thầm vừa trỏ Lương Tiêu:

- Con dập đầu lạy ông kia, gọi ông ấy là thúc thúc đi!

Triệu Bính ngơ ngác nhìn A Tuyết bằng cặp mắt long lanh trong trẻo. A Tuyết khẽ đẩy nó, giục:

- Mau!

Triệu Bính không hiểu lắm, nhưng cũng y lời bước đến trước mặt Lương Tiêu, tới nơi lại không biết nên bắt đầu thế nào, nó cứ đứng ngây ra. Lương Tiêu đang lử thử, thấy thằng bé co ro cúm rúm thì ngạc nhiên hỏi:

- Ngươi làm gì vậy?

Triệu Bính vốn sợ gã từ lúc mới gặp, đến giờ vẫn chưa xua hết ấn tượng ban đầu ấy. Lương Tiêu vừa lên tiếng, nó đã bở vía, hai chân mềm nhũn, khuỵu gối xuống dập đầu. Lương Tiêu ngạc nhiên hết sức, thấy nó còn định dập đầu nữa, vội vàng đỡ dậy:

- Nhóc con, vì sao làm thế?

Triệu Bính líu lưỡi:

- Thúc… thúc thúc…

Gọi được mấy tiếng, nó bỗng sợ hãi bật khóc. Lương Tiêu ngẩn người ra. A Tuyết chạy lại xoa đầu Triệu Bính, cười bảo:

- Nó muốn nhận huynh làm thúc phụ ấy mà!

Lương Tiêu đoán ngay ra nguồn cơn, mắng thầm: “Nha đầu ngốc, muội đánh giá ta thấp quá!”. Quay sang nhìn khuôn mặt đỏ tưng bừng của Triệu Bính, gã lại tự nhủ: “Cha nó là hoàng đế, mẹ nó là hoàng hậu, nhưng dầu sao nó vẫn là một đứa trẻ vô tội ngây thơ!”. Gã bỗng sinh lòng thương xót, chùi nước mắt cho thằng bé, mỉm cười bảo:

- Nhóc, bất kể thế nào, ta cũng sẽ bảo vệ con.

A Tuyết mừng rỡ:

- Bính nhi, thúc thúc đã hứa sẽ bảo vệ con, còn không mau lạy tạ đi?

Triệu Bính vẫn không hiểu, nhưng cũng y lời dập đầu, Lương Tiêu vội vàng giữ lại, A Tuyết ôm đứa trẻ vào lòng, dỗ nó ngủ.

Lương Tiêu nặng trĩu tâm sự, không sao chợp được mắt, đến nửa đêm, chợt nghe có tiếng kim khí xoang xoảng ở mặt bắc, gã kinh sợ vớ ngay lấy cung tên chạy ra xem. Trên đường núi phía xa lửa thắp sáng trưng, mấy chục tên lính Nguyên đang giơ đuốc múa đao đấu với bốn người Tống. Thình lình một người rú lên thê thảm rồi gục ngã, lát sau lại thêm hai người, chỉ còn một nữ nhân trụ được, người này tóc xõa phấp phới, tay khua trường kiếm loạn xạ như bị ma nhập.

Xem chừng quân Nguyên có ý bắt sống người cuối cùng, một viên Bách phu trưởng hò hét binh lính vây kín hai mặt, định chặn đứt đường lui của cô ta. Lương Tiêu động lòng trắc ẩn, nhảy ào ngay xuống, nhằm viên Bách phu trưởng bắn một phát. Hắn hự lên, máu ở cổ ồng ộc trào ra. Lương Tiêu đi lom khom, liên tục giương cung nhả tên, bách phát bách trúng. Quân Nguyên không rõ hư thực, hò nhau giãn vây. Nữ nhân nọ thừa cơ lẩn luôn vào rừng. Lương Tiêu hô khẽ: “Theo ta!”, rồi chạy thật nhanh đi trước, người kia bám sát theo sau.

Họ chạy vòng vèo qua rất nhiều ngả rẽ. Về đến chỗ nghỉ, nhờ ánh lửa bập bùng, Lương Tiêu sửng sốt nhận ra Sở Uyển. Cô ta cũng bàng hoàng vô cùng, giơ kiếm định đâm, nhưng sực nhớ mình không địch nổi Lương Tiêu nên lại hạ tay xuống, lòng băn khoăn lúng túng, chưa biết ứng xử ra sao.

Lương Tiêu nhíu mày:

- Thế quái nào mà lại là cô?

Sở Uyển cau có trả lời:

- Câu ấy lẽ ra phải ta hỏi mới đúng!

A Tuyết và hai đứa trẻ nghe động đi ra. Sở Uyển liếc nhìn, bỗng tươi mặt chạy ào tới nắm Triệu Thị và Triệu Bính, mừng rỡ hỏi:

- Thiên tuế… sao lại ở đây? Phò mã gia đâu?

Triệu Thị nức nở:

- Cô phụ chết rồi.

Sở Uyển tái mặt, tức thì cảnh giác đứng chắn trước mặt hai đứa bé, trừng trừng nhìn Lương Tiêu. Gã chán ngán nói:

- Ta mà có ý xấu thì việc gì phải đợi đến bây giờ!

Sở Uyển đỏ mặt hạ kiếm, ôm chặt hai đứa bé vào lòng, hỏi han rối rít. Số là sau khi rời Thường Châu, cô ta đến Lâm An giúp dàn xếp kế hoạch cho hai tiểu vương trốn thoát, nhưng quân Nguyên quá đông và mạnh, quân Tống chỉ có mỗi một dúm nên bị đánh cho thất điên bát đảo, phải lủi vào trong núi, Sở Uyển náu được nửa ngày thì bị truy binh phát hiện.

Lương Tiêu biết rõ rằng quân Nguyên trước sau gì cũng tìm đến đây, bèn dập lửa, lấy gỗ đá bố trí bẫy rập ở chỗ hiểm yếu bên ngoài. Sở Uyển vẫn đề phòng Lương Tiêu, cả đêm cầm kiếm canh gác cho hai tiểu vương, một bước không rời. Khốn nỗi chính cô ta cũng không tránh khỏi mệt rũ sau cuộc chiến đấu dai dẳng nên đến giờ mão thì bắt đầu gà gật. Mụ mẫm thiếp vào giấc ngủ một lúc, chợt nghe loáng thoáng có tiếng cười, Sở Uyển mở bừng mắt nhìn. Lương Tiêu đang dùng cỏ tết một con chim sẻ trông y như thật cho hai đứa bé chơi.

Sở Uyển kinh hãi quá độ, nhảy ào tới vung kiếm thét:

- Cút ngay!

Lương Tiêu giật lui nửa bộ. Triệu Bính vốn nhút nhát nên rất khiếp hãi trước bộ dạng hung hăng của Sở Uyển, bèn lao luôn vào lòng Lương Tiêu, khóc:

- Thúc thúc…

Sở Uyển hốt hoảng giục:

- Thiên tuế mau tránh ra đi, hắn chẳng phải người tử tế đâu!

Triệu Bính tròn xoe mắt nhìn Lương Tiêu, thắc mắc:

- Thúc thúc… mà không phải là người tốt ư?

Sở Uyển nóng nảy giậm chân, chực thóa mạ Lương Tiêu, gã này vội xua tay:

- Đừng tuôn những lời ấy ra trước mặt trẻ con, ta có việc muốn nhờ cô đây!

Sở Uyển thừa biết Lương Tiêu là dạng tinh quái, liền cười khẩy:

- Ngươi tài ba thế, còn phải nhờ cậy ai? Hứ, hẳn lại mưu mô xảo trá gì đây!

Lương Tiêu chẳng buồn phân trần, chỉ bảo:

- Ta đã đi thám thính chung quanh, cách đây không xa có một sơn cốc hẹp, cô dắt hai đứa này lại đó trốn.

Sở Uyển nghi ngờ hỏi:

- Tại sao ta phải đến đấy?

- Ngoài kia rất đông lính tráng sục sạo, trốn nấp thế nào cũng sẽ lộ hình tích. Muội tử ta tính tình ngây ngô, không làm nổi việc quan trọng; ta sẽ nghĩ cách đánh lạc hướng truy binh, trong lúc đó cô dẫn muội ấy và hai tiểu vương ra sơn cốc ẩn nấp chừng đôi ba ngày, đợi quân Nguyên rút lui thì lập tức tìm đến Thiên Cơ cung. – Gã vẽ sơ đồ cho Sở Uyển xem. – Đây là Thiên Cơ cung, cô hãy vào đó gặp cung chủ Hoa Thanh Uyên, chỉ cần nhắc tên ta với ông ấy, nhất định các ngươi sẽ được đón nhận.

Thái độ gã hết sức khẩn thiết, không có vẻ gì giả trá, Sở Uyển ngập ngừng:

- Ngươi… chắc chắn không âm mưu gì chứ?

Lương Tiêu cười buồn, gọi A Tuyết đến, dặn dò y như vậy. A Tuyết liền cự:

- Không, muội phải theo huynh!

Lương Tiêu cười bảo:

- Muội yên tâm, ta ở đây mấy hôm thôi, sau đó sẽ đến Thiên Cơ cung gặp muội. – đoạn tháo Ảo Nguyên kiếm đưa cho cô. – Muội cầm lấy!

A Tuyết nhận kiếm, mắt đỏ hoe, cúi đầu im lặng. Lương Tiêu gắng tỏ ra bình thản, chỉ vẽ lối dẫn đến khe núi rồi giục bốn người đi. A Tuyết đi sau cùng, chân bước như đeo đá, chốc chốc ngoái đầu nhìn lại, ánh mắt chứa chan bịn rịn. Sở Uyển cũng nhìn Lương Tiêu, lòng đầy nghi hoặc. Triệu Bính hỏi:

- Thúc thúc không đi với chúng ta à?

Sở Uyển bế nó vào lòng, thở dài quay đầu đi thẳng.

Lương Tiêu đưa mắt nhìn theo cho đến khi bóng họ biến mất dưới sơn cốc, đoạn dắt ngựa ra, phóng đến chỗ gò cao gần nơi đặt cơ quan. Hầu hết cây cối ở đây đều đã bị kéo cong xuống và ghì lại bằng dây mây bền dai, bên trên đặt đá tảng và chông nhọn. Hết hàng này đến hàng khác như thế, lập thành nhiều dãy bẫy. Lương Tiêu lấy ra một bình hồn thoát chứa rượu sữa ngựa, tu một ngụm thật to. Phía xa, cây cỏ loạt xoạt chen lẫn những lời hô gọi bằng tiếng Mông Cổ.

Một lúc sau, hồn thoát đã cạn đáy, hơi men bốc phừng phừng, Lương Tiêu nằm dài ra đất tĩnh trí, tự nhủ: “Một ngày trước đây ta còn là Bình chương của Đại Nguyên, dẫn quân càn quét khắp vùng hạ lưu Trường Giang, nào ngờ hôm nay lại trở đao chống đối đồng bào”. Gã nhìn thẳng lên trời, bất giác ngây người, những đám mây trắng đang tụ lại với nhau, lờ mờ kết thành hình một khuôn mặt. Gã chớp mắt nhìn lại lần nữa thì thấy giống Lương Văn Tĩnh vô cùng, bỗng run rẩy: “Phải chăng cha ở trên trời cũng biết, cũng đang quan sát con đấy ư?”. Nhiệt huyết sôi trào, gã ngồi bật dậy, dõi mắt trông ra xa, một tốp mười binh sĩ lăm lăm giáo mác đang tiến lại gần gò cao.

Lương Tiêu thình lình chống tay nhảy lên, cất tiếng cười dài. Mấy tên lính nghe động, chưa kịp ngước trông thì hai mũi tên đã bay xuống, bắn trúng hai kẻ đi đầu khiến chúng ngã sấp.

Lương Tiêu phát tiễn liên tục, bọn lính không kịp trở tay, lại thêm bảy tên mất mạng, kẻ cuối cùng lập tức rút lui. Lương Tiêu cũng không đuổi theo, mặc hắn chạy trốn. Chừng thời gian tàn một cây nhang, bốn mặt đã lố nhố những người, hàng trăm hàng ngàn binh lính hò la rầm rĩ, giương khiên tràn tới quanh gò.

Lương Tiêu nín lặng chờ đợi cho đến khi bọn chúng bò lên tới sườn núi mới vung đao chặt đứt dây mây. Sau một hồi rầm rầm rung chuyển, đá tảng chông nhọn ầm ầm bắn xuống. Đám binh lính trở tay không kịp, hết kẻ này đến kẻ khác bị đá đè chông đâm, tiếng gào rú liên miên, máu thịt bắn tung tóe. Bẫy thả hết, quân sĩ cũng tử thương gần như toàn bộ, số còn lại rút xuống chân núi, hàng ngũ chen chúc hỗn loạn.

Lương Tiêu không đợi đối phương chấn chỉnh lực lượng, lập tức nhảy lên ngựa. Gã đã tính sẵn đường đi nước bước, xác định rằng mặt đông nam thưa cây cối, đường núi tương đối bằng phẳng, chính là chỗ để dụng võ, bèn vỗ ngựa cầm cung phóng ào xuống như cơn lốc.

Quân lính không ngăn cản nổi, trân trối nhìn gã phá trùng vây, xuyên qua một sơn cốc, men theo đường mòn phi ra khỏi vùng núi. Đám truy binh tức giận vô cùng, cũng phi ngựa đuổi bắt chặn đường. Lương Tiêu vận hết tài kỵ xạ, bắn không sai trật phát nào, xác chết ngã đầy đất. Thoát Hoan nghe báo vô cùng tức giận, triệu tập thuộc hạ, cầm cung lên ngựa hộc tốc đuổi theo.

Lương Tiêu đánh giết xuống tới chân núi thì mười túi tên bên mình đã cạn, ba cây cung đứt dây oằn cánh, không thể dùng được nữa, bèn giục ngựa quay đầu, lay trường mâu đâm chết năm tên truy binh, đoạt lấy cung tên, lao vào giữa lớp lớp binh lính, kéo căng cung, bắn liên tục sang hai bên trái phải, xông một mạch tới trước mặt viên trưởng toán. Tên này kinh hãi, cử thương lên đỡ, Lương Tiêu vươn tay tóm thương, vung giáo đâm thẳng vào mặt hắn. Tên trưởng toán đổ nhào xuống đất, Lương Tiêu thuận tay ném trường mâu đi, chuyển sang dùng hoa thương, vừa tiến vừa xoay tít mũi thương, mỗi bước tiến là mấy người gục ngã.

Lương Tiêu hết xáp vào lại tách ra khỏi đám truy binh, đánh giết như thế một mạch hơn mười dặm đường. Binh lính ùn ùn kéo đến càng lúc càng đông. Lương Tiêu lại theo kế cũ, cướp hai con chiến mã, giật cương quay đầu vào làm rối trận, len qua hàng quân lại gần viên Thiên phu trưởng, định bụng giết tướng trước rồi đập tan lính sau, đang rung thương chực đâm, kẻ đó bỗng thảng thốt kêu lên:

- Bình chương đại nhân!

Lương Tiêu ngừng thương, nhận ra là một trong các thuộc hạ của mình. Thấy hắn há hốc mồm hãi hùng, gã không nỡ xuống tay, cười bảo:

- Đi đi, về bảo Thoát Hoan, Lương Tiêu này làm phản rồi. – đoạn vung thương gạt phắt hắn lại sau lưng, tiếp tục tả xung hữu đột di chuyển ra khỏi trận.

Gã vừa đánh vừa tiến như thế thêm một lúc thì thấy cờ soái của Thoát Hoan từ từ lướt tới, quân lính nhất tề hô to:

- Bắt sống tên phản tặc Lương Tiêu!

Chắc hẳn viên Thiên phu trưởng vừa rồi đã báo tin về. Lương Tiêu phá lên cười lớn:

- Sống thì chả bắt được đâu, chết có cần không?

Gã giật ngựa lao vào phá trận, tiến đến cờ soái như thủy triều cuộn xô. Quân lính thấy gã kiêu dũng như vậy, đều xúm xít lùi lại bảo vệ Thoát Hoan. Thực chất Lương Tiêu chỉ dương đông kích tây, nhằm lúc hỗn loạn cướp lấy một con tuấn mã dông tuốt về phía đông nam.

Lương Tiêu đánh giết đến giờ ngọ thì con ngựa trúng tên khuỵu xuống. Gã bỏ ngựa chạy lên một gò nhỏ. Thiết kỵ Mông Cổ từ bốn bề ập tới, la hét dập dồn. Lương Tiêu giương cung, kéo nhưng không bắn, ngẩng đầu nhìn quanh. Núi non vây bọc trập trùng, cỏ cây vươn lên rậm rạp. Gã tự nhủ: “Vùng này phong cảnh hữu tình, vạn vật tốt tươi, vùi thây nơi đây cũng không đến nỗi nào”, nghĩ đoạn cười vang. Tất cả tướng sĩ nghe động, từ bốn mặt nhung nhúc kéo đến. Lương Tiêu đứng sừng sững trên đỉnh gò, uy phong lẫm liệt, quân lính đâm chợn, không ai dám lao lên.

Thình lình, có những tiếng hú dài vọng đến như hưởng ứng tràng cười của Lương Tiêu. Ngay sau đấy, xa xa ở phía bắc xuất hiện năm người phi ngựa ào ào. Quân Nguyên chưa ổn định trận thế, lập tức bị họ phá vỡ hàng ngũ.

Lương Tiêu kinh ngạc nhìn xuống, sững sờ nhận ra Trung Điều Ngũ Bảo. Năm huynh đệ bỏ ngựa, thoắt chạy thoắt nhảy tránh tên, băng lên gò nhanh như luồng khói. Hồ Lão Nhất gọi toáng lên từ xa:

- Đại ca định làm phản à? Trò vui thế sao không cho lão tử biết?

Bốn anh em gật đầu:

- Hồ Lão Nhất nói đúng lắm!

Lương Tiêu giận sôi:

- Vui cái con khỉ! Ai bảo các ngươi đến gây rối?

Hồ Lão Vạn cười:

- Lý Đình không cho lão tử tiết lộ!

Lương Tiêu đoán ra ngay, chắc hẳn Lý Đình nghe tin nhưng không dám tự ra mặt, đành xui năm người đến tương trợ. Một cảm giác khó tả trào lên trong lòng, gã mắng ầm ĩ:

- Năm tên khốn, không khiến các ngươi đa sự!

Gã định bụng chiến đấu rồi vùi thân ở đây, dùng cái chết chấm dứt hết mọi ân oán buồn vui, nhưng đến giờ lại không nỡ lòng bỏ rơi Trung Điều Ngũ Bảo. Mấy tên này ngây ngô bừa bãi nhưng rất có tình nghĩa, đã đến đây rồi thì dứt khoát không đời nào để gã lại một mình. Lương Tiêu đành thay đổi ý định cũ, trỏ thương về phía nam, thét:

- Được, xông ra phía kia! – đoạn gắng lấy lại tinh thần, chạy xuống trước tiên.

Trung Điều Ngũ Bảo vốn thích bới chuyện, đang yên đang lành còn gây sự được, nay gặp hoàn cảnh ồn ào phức tạp thế này lý đâu không vui, lập tức cười lớn, nhao nhao phụ họa:

- Đúng, xông ra phía kia!

Cả năm vung binh khí chạy theo Lương Tiêu, giết người phá trận, đồng tâm hiệp lực cướp lấy mấy con chiến mã, xé vây phóng đi.

Liên tục đánh giết hết chỗ này đến chỗ kia chừng nửa canh giờ, sáu người tạm thời cắt đuôi được truy binh, lao vào một vạt rừng. Lương Tiêu nghiêng tai lắng nghe tiếng vó ngựa, nhận ra số nhân mã đuổi theo đã tăng thêm gấp đôi, gã nghĩ bụng: “Lần này kinh động ba quân, hẳn Bá Nhan cũng tới chứ chẳng chơi. Ai còn tâm trí đâu để ý đến mấy đứa bé họ Triệu kia nữa?”. Nghĩ lại mưu kế thành công, gã không nhịn được phá lên cười lớn.

Hồ Lão Nhất ngạc nhiên:

- Đại ca vui vẻ cái nỗi…

Chưa dứt lời, hắn bỗng ho rũ rượi, Lương Tiêu đưa mắt nhìn. Năm huynh đệ võ công cao cường nhưng chưa từng trải chiến trận bao giờ, không giỏi che chắn cung cứng tên mạnh nên ai nấy đều thương tích cùng mình. Lương Tiêu cười bảo:

- Lão tử chém giết suốt nửa ngày trời, đột nhiên buồn tiểu, muốn đi cho nhẹ bụng!

Hồ Lão Bách cụt hứng:

- Đi đái thì vui gì đâu?

Lương Tiêu tủm tỉm đáp:

- Lão tử đái vừa cao vừa xa, phải nói là thiên hạ đệ nhất, ngẫm các ngươi không thể sánh bằng nên lão tử cao hứng thế thôi!

Trung Điều Ngũ Bảo phát bực:

- Chỉ bịa! Lại đây đọ thử!

Năm người vừa khinh suất vừa háo thắng, bất chấp truy binh đang ở sau lưng, cùng nhảy lịch bịch xuống ngựa, đứng thành một hàng tụt quần xuống. Lương Tiêu giả vờ cởi đai rồi chầm chậm dịch vòng ra sau lưng họ. Năm người say sưa thi tài. Hồ Lão Thiên nhìn độ dài vệt nước, hí hửng nói:

- Gì chứ đi tè, chẳng ai bén gót lão tử…

Chưa dứt lời, chợt thấy lưng đau tê, chân bủn rủn ngã vật xuống, Hồ Lão Thiên giương mắt nhìn, nhận ra bốn huynh đệ kia cũng đã nằm quay ra đất. Ai nấy cùng ngoác mồm mắng:

- Đại ca, ngươi ám toán người ta, không tính, không tính…

Lương Tiêu không để cho bọn họ chửi xong, vỗ vào á huyệt từng người, ném lên một chỗ um tùm trên tán cây rồi nhảy lên ngựa, thả năm con chiến mã đi trước, vung thương chặt chém cành lá hai bên đường, thét lớn:

- Lương Tiêu ở đây!

Âm thanh rền vang như sấm, quân Nguyên đang quanh quẩn ngoài rừng, chưa dám mạo hiểm đi vào, nay nghe động liền kéo đến bao vây. Lương Tiêu giương cung hò hét, lao bổ vào giữa đoàn người, xông ra hướng tây được mấy dặm thì bải hoải cả người, gục xuống lưng ngựa thở dốc. Đúng lúc ấy, đằng trước chợt có tiếng vó ngựa, mấy trăm kỵ binh đổ dồn tới, Lương Tiêu định cử thương đón thì thấy toán người đó bỗng rối loạn. Một kỵ sĩ ở đâu múa trường kiếm xông vào đấu với bọn họ.

Lương Tiêu sửng sốt nghĩ bụng: “Ngoài Trung Điều Ngũ Bảo lại còn ai nữa đây?”. Gã giương mắt nhìn kỹ, kinh hoàng suýt ngã, người đó tóc vấn áo thêu, chẳng A Tuyết thì còn ai vào đấy. Chắc A Tuyết khổ chiến đã lâu, vì mình mẩy thấm đầy những máu. Thình lình lại trúng hai mũi tên, cô chới với chao người đi. Ruột gan đau như ai cào cấu, Lương Tiêu gạt mạnh trường thương phi đến bên ngựa A Tuyết, nhoài ôm lấy cô, đoạn trở thương đâm chết tên đầu lĩnh, xé trận phóng ra. Tên bắn đuổi theo rào rào như mưa. Chưa đến mười trượng, con ngựa trúng tên, hất Lương Tiêu rơi xuống.

Lương Tiêu vốn đã kiệt lực, không hiểu sao vừa tiếp đất bỗng như lấy được sức mạnh ở đâu ra, guồng chân chạy điên cuồng. Quân lính tổn thất trầm trọng, mắt đỏ vằn máu, thấy đối thủ mất ngựa liền hùng hổ lao vào như đàn sói. Lương Tiêu đột ngột quay mình nhảy vào cánh rừng bên cạnh. Đám chiến mã đang chạy theo quán tính, bị giật cương cũng không kịp ghìm vó, vấp cây chựng lại, lớp sau ủn lớn trước, lớp trước đẩy lớp sau, ngã dồn một đống.

Ánh sáng hiếm hoi lọt xuống qua tàng lá dày, cảnh rừng có phần u ám, xa xa phía trước có tiếng gì ì oạp như nước chảy. Lương Tiêu chạy mãi chạy mãi, mặt bị gai cào xước nát cũng không biết đau. Chạy thêm một quãng thì ra khỏi rừng, không gian trở nên sáng sủa rộng rãi, một dòng sông lượn quanh đồi núi, mở rộng dần về phía biển. Nước trời mênh mang, bọt tung trắng xóa, thì ra đã tới bờ sông Tiền Đường.

Lương Tiêu bải hoải khuỵu xuống, đang gượng nhỏm dậy thì nghe A Tuyết thều thào: “Ca ca!”. Cổ thiếu nữ trúng tên, máu chảy ròng ròng không cầm lại được, khuôn mặt xanh tái loang lổ những máu, ánh mắt tươi cười đã bắt đầu mờ đi. Lương Tiêu đau lòng quá đỗi, thở hộc ra: “Đồ ngốc…”. Gã luống cuống băng bó cho cô. A Tuyết khẽ than:

- Muội ngốc nghếch… bản lĩnh lại chả ra gì… không giúp được ca ca… Nhưng đời này kiếp này, gặp được ca ca… muội… vui lắm…

Máu chảy ồ ồ như suối, ánh mắt A Tuyết mỗi lúc một tối lại. Lương Tiêu thu hết sức tàn đặt tay lên huyệt Mệnh môn của cô, nói qua hàng lệ:

- Ta nói sai, kẻ ngốc là ta, đáng lẽ ta phải hiểu ngay từ đầu là muội sẽ quay lại…

A Tuyết lướt ngón tay thon nhỏ xanh xao qua khóe mắt Lương Tiêu, mỉm cười:

- Thực ra … muội cũng không… muốn chết…

Lương Tiêu ôm chặt cô gái mà tan nát lòng, lắc đầu quầy quậy:

- Đừng nói linh tinh, muội chết sao được… Ta không cho muội chết.

Đối mặt với thiên quân vạn mã, gã vẫn nói cười như không, vậy mà lúc này, nước mắt cứ tuôn lã chã, thấm ướt cả ngực áo.

Trời dần chuyển màu u ám, mây xếp tầng tầng, hệt như một đốm mực đen lớn rớt trên nền giấy trắng. Cuồng phong nổi lên, lùa hun hút qua dãy cỏ dại lau lách dọc bờ sông, sấm nổ ùng oàng khiến trời rung đất chuyển.

Tiếng sấm nện vào tai A Tuyết, giúp cô tỉnh táo hơn đôi chút. Cảm thấy ba hồn bảy vía mình như đang bị gió rút dần đi, cô gượng đưa tay vuốt ve tóc mai Lương Tiêu, thở dài:

- Muội chết cũng không sao, chỉ hiềm… không yên tâm, vì huynh chẳng bao giờ biết thương bản thân mình. Muội đi rồi, ai sẽ lo lắng cho huynh đây… – Cô lẩm bẩm, nước mắt thánh thót rơi. – Ai cũng nói huynh mạnh mẽ lắm, thực ra… muội biết, huynh giống như ngọn lửa, đốt cháy được kẻ khác, nhưng cũng có thể thiêu rụi chính bản thân mình.

Trí óc A Tuyết bỗng sáng suốt lạ lùng, những điều bình thường không nghĩ tới, không nói ra, lúc này lại ào ạt tuôn chảy thành lời:

- Huynh giống như ngọn lửa, còn A Tuyết giống như thiêu thân… lao vào ngọn lửa… – Một tia sáng kỳ lạ lóe lên trong đôi mắt đẹp, A Tuyết thu hết sức tàn ôm lấy cánh tay Lương Tiêu, lẩm nhẩm. – muội yêu… huynh… rất… yêu… – Giọng cô nhỏ dần, cuối cùng lặng lẽ thoát đi như sợi khói.

.

Sông Tiền Đường ùng ục chảy về đông, một con thủy điểu hót lên ai oán, chớp cánh bay qua mặt nước, dông tuốt về phía tây. Trái tim Lương Tiêu cũng lạnh dần đi như tấm thân người con gái gã đang ôm trong tay. Trên cao, những lằn chớp loằng ngoằng giằng xé vầng mây mù nhưng không đâm xuyên qua được, sấm ì ùng cứ nối nhau rền mãi lên, lấp đi tiếng vó ngựa của hàng trăm hàng ngàn truy binh. Họ đổ dồn đến sau lưng Lương Tiêu mỗi lúc một đông, mỗi lúc một dày. Đột nhiên, một tia chớp ngoằn ngoèo như rắn lửa rạch ngang vòm không, hắt lên muôn ánh nhói buốt, phóng xuống Lương Tiêu tựa lưỡi rìu.

Một tên Bách phu trưởng bạo gan tuốt đao chém vào lưng gã. Quân sĩ nhất tề hô vang trợ uy. Chớp bỗng nhoằng lên, Bách phu trưởng rú thảm, ngã bật ra xa năm trượng, co giật một lúc rồi bất động. Tiếng gầm rống của toàn quân vụt lặng tắt, dải bờ sông mênh mông bỗng yên tĩnh lạ lùng.

Tiếng sấm mỗi lúc một riết róng, lác đác vài hạt mưa to tướng lẫn trong cuồng phong quất xuống mặt người rào rạo, buốt thấu vào tận xương cốt. Lương Tiêu rùng mình ngẩng đầu nhìn lên, da mặt lạnh buốt, không rõ nước mưa hay nước mắt. Phía sau chợt có tiếng quát vang lừng, rồi tiếng vô số vó ngựa chộn rộn phóng lại. Lương Tiêu cúi xuống, đăm đăm nhìn A Tuyết, trong mắt tràn ngập bi thương. Gã vén tóc cô, thì thầm:

- Hiền muội, muội đi trước vậy, ta sẽ theo ngay đây! – đoạn hất hai tay.

A Tuyết lăn tòm xuống nước, sóng trùm lên, chỉ tích tắc đã nuốt chửng cô gái.

Chớp xẹt một cái, cùng lúc một thanh trường mâu đâm vút tới. Lương Tiêu khẽ tràn người sang một bên, nắm lấy cán mâu rồi thúc mạnh cùi chỏ lại sau, kẻ tập kích ộc máu mồm, bay vù ra xa hai trượng. Lương Tiêu quay mình lại, kiếm quang loe lóe, chỉ thoáng chốc, nhiều bóng người xô tới, Lương Tiêu đâm chém như phát cuồng, máu hắt lên ràn rạt. Quân sĩ đều kinh hãi trước uy thế ấy, định dùng đến tên bắn, chợt đằng xa có tiếng cười dài, rồi một giọng u u trầm bổng vọng tới:

- Vương gia có lệnh, bắt sống kẻ đó!

Ai nấy ngoái đầu nhìn. Một tốp kỵ mã đang phóng thốc lại. Ngựa chưa tới gần, ba bóng đen đã buông cương nhảy xuống, chân không chạm đất lướt vào như bay, người đi đầu ré lên:

- Tránh ra mau! – đoạn dập dình hai tay lên xuống, tóm quân sĩ lẳng sang hai bên.

Lương Tiêu nhướng mày cười khẩy:

- Hỏa Chân Nhân! Lao đầu vào chỗ chết mà náo nức thế kia à?

Hỏa Chân Nhân hừ mũi giận dữ, nhảy phóc đến vận kiếm đâm liền. Lương Tiêu bật cao, trở tay tuốt kiếm đâm luôn xuống vai hắn. Lão đạo sĩ chặn đỡ, hai kiếm giao nhau làm lóe ra muôn vàn tia lửa. Cứ thế, hai bên xoay vòng, dịch chuyển, mũi kiếm lúc ẩn lúc hiện. Chưa được ba hiệp, ánh đỏ vãi tung, Hỏa Chân Nhân lảo đảo giật lui liền ba bước, máu theo cánh tay phải tong tong rỏ xuống, hắn trố mắt, bàng hoàng không thể tin nổi.

Lương Tiêu quát:

- Kẻ tiếp theo! – đoạn khoa trường kiếm đâm Cáp Lý Tư.

Tên này vội múa loan đao xoay mình chém xéo. Lương Tiêu chưa xuất hết chiêu đã xoạc chân dịch ngang, gẩy mũi kiếm từ dưới lên. Cáp Lý Tư vội vã thụt lùi, Lương Tiêu di chuyển cực nhanh, xẹt tới sát bên hắn, đâm ra liền ba kiếm, Cáp Lý Tư đành giật lui tiếp. Lương Tiêu liên tục ra tay trước, đều vận dụng chiêu số tấn công, xuất liền mười nhát kiếm. Cáp Lý Tư không đánh trả nổi chiêu nào, chỉ còn nước dẹo trái, vặn phải, tức giận gào rú.

Hỏa Chân Nhân không ngờ võ công Lương Tiêu tấn tới đến thế, vì khinh địch mà thảm bại nên trong lòng ảo não vô cùng. Nay thấy Cáp Lý Tư bị dồn vào thế yếu thì hí hửng được một lúc, nhưng càng theo dõi càng khiếp đảm và căm thù, bèn đổi kiếm sang tay trái, đâm vào vai Lương Tiêu. Lương Tiêu hồi kiếm cản lại. Cáp Lý Tư thở phào, cùng hợp kích với Hỏa Chân Nhân, chia nhau tấn công thượng đoạn và hạ bàn Lương Tiêu.

Quân sĩ vốn tưởng hai tùy tùng cao thủ này sẽ đơn đả độc đấu với Lương Tiêu, ngờ đâu chỉ chớp mắt đã giở trò hai đánh một, đây đó bắt đầu có những tiếng xì xào. Hỏa Chân Nhân và Cáp Lý Tư đều nghe thấy, mặt đỏ như gà chọi, nhưng nghĩ thắng bại mới quan trọng, những việc khác chỉ là tiểu tiết, lại cho rằng hễ bắt sống được Lương Tiêu thì sẽ không còn lời ong tiếng ve nào nữa, họ liền gắng bỏ ngoài tai, tiếp tục hiệp lực tấn công.

Lương Tiêu tập trung tinh thần thi triển Quy Tàng kiếm. Trước lộ kiếm pháp cao thâm khó lường, Cáp Lý Tư và Hỏa Chân Nhân dần dần lúng túng. A Than vốn vẫn trọng thân phận, đứng ngoài thản nhiên quan sát, đến đây thầm nhủ nếu hai tên kia thua thì một mình mình không thể nào là đối thủ của Lương Tiêu được, lập tức bỏ ngay kiểu làm bộ làm tịch, tuốt vòng kim cô nhảy vào tham chiến. Lương Tiêu cười nhạt:

- Đến đúng lúc lắm!

Trường kiếm vạch quanh một vòng, đón lấy hắn. Bốn bóng người lúc lên lúc xuống, nghiêng nghiêng ngả ngả như cỏ bồng trong gió, ánh kim loại chợt lóe chợt tắt, cùng lập lòe đua sáng với chớp nháng trên trời.

Hỏa Chân Nhân bị thương từ đầu, kịch chiến đã lâu nên mất khá nhiều máu, xuất chiêu dần dần chậm lại. Lương Tiêu nhận ra, liền đâm ngay vào mặt hắn. Hỏa Chân Nhân vội vã hụp đầu, chiếc mũ tử kim quan bị hất bay xuống đất, hắn đang lẩm bẩm hú hồn hú vía thì Lương Tiêu quát: “Cút này!”, rồi tung cước đá bộp vào bụng dưới hắn. Hỏa Chân Nhân ộc máu, người lộn phộc lên cao đến hơn một trượng, chân chổng ngược, đầu đâm sầm xuống đất.

.

Mấy hiệp nữa trôi qua, giữa những bóng người loáng động vụt hắt lên một ánh sáng lòa, kèm theo tiếng gầm vang phẫn nộ của Cáp Lý Tư. Từ thắt lưng đến bắp đùi hắn đã xuất hiện một đường rạch dài chừng nửa thước, thịt bửa cả ra ngoài nom gớm chết. Cáp Lý Tư đau quá vùng thoát khỏi vòng chiến, ngồi bệt xuống đất bịt vết thương, mặt mày rúm ró.

A Than hoảng hồn, múa vòng kim cô xẹt đến, Lương Tiêu khẽ khom mình xuống, trở kiếm đâm ngược. A Than liền ngoặc vòng kim cô vào thân kiếm, giằng mạnh về phía mình, trường kiếm tuột tay Lương Tiêu. A Than mừng thầm: “Để xem ngươi còn làm ăn gì được khi mất kiếm báu đây?”. Hắn dồn hết tâm trí vào việc khống chế binh khí, không ngờ bị Lương Tiêu quạt tả chưởng trúng ngay giữa ngực. Hệt như hứng một chùy nặng ngàn cân, hắn loạng choạng giật lui hai trượng, ngã ngửa xuống đất, lục phủ ngũ tạng nhộn nhạo hết cả nhưng vẫn chưa cam chịu buông xuôi, lại chống hai tay, run run đứng dậy. Đúng lúc ấy, một tiếng sấm rền nổ lộng trời cao, A Than giật lên một cái, miệng phun máu tươi, hai mắt trợn tròn, thân hình to lớn đổ ầm xuống đất.

Lương Tiêu liên tiếp đả bại ba cao thủ, mắt váng mày hoa, nhưng đã mất A Tuyết, gã cũng chẳng muốn sống nữa, chỉ mong cùng chết theo cho rảnh, bèn đưa mắt quét khắp mặt tướng sĩ, hai tay chống nạnh, thét vang:

- Mông Cổ không còn hảo hán nào hay sao?

Tiếng thét cùng tiếng sấm rền cuồn cuộn truyền đi xa, mấy ngàn binh mã đều im phăng phắc.

Chợt một giọng trầm trầm vẳng đến:

- Ai bảo Mông Cổ không còn hảo hán?

Giọng nói tuy ở rất xa, nhưng vẫn vang lên rành rọt giữa hàng tràng sấm chớp. Tiếng người vừa dứt, tiếng vó ngựa đã dồn tới gần, một tốp nhân mã xuất hiện ở hướng bắc, rầm rập phi lại. Bá Nhan đi hàng đầu, uy phong lẫm liệt, sau lưng lần lượt là Thoát Hoan, Hạ Đà La, Thổ Thổ Cáp, Lý Đình, Nang Cổ Ngạt, xem chừng toàn bộ tướng lĩnh Nguyên quân đều đổ cả về đây.

Bá Nhan phóng ngựa tới nơi, binh lính lập tức giãn ra nhường đường. Đến cách Lương Tiêu ba trượng, y gò cương, trừng trừng nhìn xuống, trán nổi gân xanh chằng chịt, không nói một lời. Thoát Hoan trông bộ dạng thảm hại của ba tên thủ hạ, cảm thấy không còn tí thể diện nào, liền khoát tay:

- Bắn chết hắn cho ta!

Hạ Đà La xua tay cười vang:

- Việc gì phải phí tên thế chứ! – Hắn liếc con trai rồi nhảy xuống ngựa, nhìn Lương Tiêu bằng cặp mắt xanh biếc, cười hí hí. – Mong được thỉnh giáo cao chiêu của Bình chương đại nhân!

Bá Nhan lạnh lùng ngăn lại:

- Hắn hỏi Mông Cổ có hảo hán hay không, liên quan gì tới dân Sắc Mục nhà ngươi!

Một tia căm giận lóe lên trong cặp mắt xanh, nhưng bị dìm tắt ngay lập tức, Hạ Đà La cười ha hả, lùi sang một bên. Bá Nhan trỏ roi ngựa vào mặt Lương Tiêu, cao giọng bảo:

- Ta với ngươi đơn đả độc đấu, để ngươi đừng coi thường hảo hán Mông Cổ chúng ta!

Các tướng cả kinh, định can gián, Bá Nhan nghiêm giọng mắng át:

- Khỏi phải nhiều lời! – đoạn cởi trường bào ném xuống đất, thét lớn. – Mang chiến mã và trường cung cho hắn.

Thổ Thổ Cáp không để ai kịp thi hành mệnh lệnh, nhảy phắt xuống ngựa, dắt tới trước mặt Lương Tiêu:

- Ngươi cưỡi ngựa của ta!

Tất cả sửng sốt, Thoát Hoan mắng:

- Ngươi cũng định tạo phản phải không?

Thổ Thổ Cáp không đáp, lùi sang một bên. Lý Đình tiến đến, nâng trường thương bằng hai tay:

- Huynh dùng thương của đệ!

Nang Cổ Ngạt cũng bước lại, gỡ cung, cảm khái nói:

- Cầm lấy cung của ta đi!

Thoát Hoan sôi sục thét Bá Nhan:

- Phản rồi, phản một lũ!

Bá Nhan lắc đầu:

- Người Mông Cổ chúng ta trị thiên hạ bằng tín nghĩa, ta có thể bảo họ vứt bỏ nghĩa khí được sao?

Thoát Hoan sững người, không biết đáp lại thế nào.

Lương Tiêu thấy mình đã lâm bước đường cùng mà bằng hữu còn nặng tình như thế thì không nén được cảm động. Gã đón binh khí, đoạn dùng trường thương rạch ngang mặt đất, rành rọt bảo:

- Ta và ba ngươi vạch đất tuyệt giao, từ nay trở đi, không còn quan hệ gì với nhau nữa.

Bọn Thổ Thổ Cáp hiểu Lương Tiêu nói vậy vì sợ liên đới đến mình, nhớ lại tình nghĩa bao năm, không ai cầm được nước mắt, đều chắp tay vái một vái.

Lương Tiêu ngoảnh ngay mặt đi, nhảy lên yên giơ cao trường thương, ngửa mặt hú dài bi phẫn. Quân sĩ nghe thấy mà nhiệt huyết bừng bừng, đều giật cương ngựa, chiến mã chồm dậy, loạt vó sắt tiếp đất gõ ầm vang như trống trận. Đúng lúc này, hơi nước nổi lên mát lạnh, sau một hồi sấm chớp thị uy, mưa rào cuối cùng cũng trút xuống.

Lương Tiêu hú vang cho xả bớt u uất trong lồng ngực, đoạn giật cương phi gần vào vòng đấu. Bá Nhan tế ngựa chạy chênh chếch, dây cung “phựt” một tiếng, mũi lang nha tiễn xé mưa lao tới. Lương Tiêu cử thương đập xuống, hổ khẩu đau tê, suýt đánh rơi binh khí. Thật vậy, Bá Nhan là Mông Cổ đệ nhất thần tiễn thủ, uy danh hai mươi năm nay tất nhiên không phải xây dựng nhờ may mắn. Y bắn liên tiếp hai phát nữa. Lương Tiêu hụp mình xuống, vung trường thương gạt nhanh, một mũi tên ghim lên cán thương, mũi thứ hai lướt qua đỉnh đầu gã, kéo theo kình phong làm rối tung tóc Lương Tiêu.

Hết màn bắn đỡ, hai ngựa đã áp sát. Bá Nhan vứt cung, chuyển sang dùng trảm mã đao. Lương Tiêu đẩy thương vào mặt y. Bá Nhan hoành đao chặn lại. Lương Tiêu bèn xoáy tay vặn thật nhanh, trường thương gãy roẹt làm đôi đúng chỗ ngù thương. Bá Nhan vốn chỉ chú tâm đề phòng thương pháp linh hoạt của Lương Tiêu, nào ngờ gã giở ra chiêu thức lạ lùng ấy, tay trái cầm đoạn cán gãy làm gậy gạt trảm mã đao, tay phải dùng mũi thương làm chủy thủ đâm thẳng vào mắt chiến mã của y. Con ngựa đau buốt tận óc, tung vó rống lên thảm thiết, hất chủ ngã nhào. Bá Nhan thân pháp rất nhanh, trước khi tiếp đất còn kịp quét trường đao một vòng như gió, chặt đứt ba chân ngựa của Lương Tiêu. Hai người đổ ập xuống đất gần như đồng thời, làm nước bùn bắn lên tung tóe.

Bá Nhan nhảy nhỏm ngay dậy, chưa kịp giơ đao, Lương Tiêu đã lật người chồm tới giậm luôn hai chân lên đao, vung hai tay trái chém phải đâm, đạp thanh đao lui ra xa. Bá Nhan đành buông binh khí giật lùi, Lương Tiêu liền tiến theo, tay trái cầm cán thương múa như rồng lượn, tay phải cầm mũi thương khoa như rắn vờn, ngắn dài hỗ trợ lẫn nhau, phối hợp cả hư lẫn thực. Bá Nhan luống cuống nắm lấy cánh cung dài năm thước chém vù vù thay đơn đao. Hai bên vận dụng binh khí khác với đường lối thông thường, tướng lĩnh đứng quan chiến đều trố mắt, nghĩ bụng: “Không ngờ cung và thương còn có cách dùng như thế nữa!”.

Sấm nổ điếc tai, mưa trắng mù trời, giông bão càng lúc càng khủng khiếp. Hai người dầm chân trong nước, thoắt tiến thoắt lui. Kịch đấu hồi lâu, Bá Nhan sử cung càng lúc càng nhuyễn, ngoài đao pháp còn biến hóa thêm nhiều cách thức tinh diệu, thi thoảng chặt ngang chém dọc, thình lình dùng dây cung giằng lấy binh khí đối phương. Lương Tiêu bèn rùn người xuống, chân trái quét mạnh, hắt một vồng nước mưa lên mặt Bá Nhan, nhân lúc y mờ mắt, lại chọc ngay cán thương vào giữa hai đầu mày y. Bá Nhan nhích phần cánh cung ra chặn cán thương của Lương Tiêu, hai người đồng thời sử kình, chiếc cung bị kéo căng tròn.

Lương Tiêu lăng mạnh tay trái ném mũi thương đi, Bá Nhan nhích vai tránh, nhưng cú ném của Lương Tiêu chỉ là hư chiêu, cốt lừa y đưa cổ đến đúng đầu gậy, lúc này cung đã căng hết mức, đoạn gậy chỉ đợi buông tay là bật ra. Bá Nhan ứng biến rất thần tốc, buông tay khỏi cung, hụp đầu xuống, cán thương lướt sát qua trán y. Hai bên đều đã mất binh khí, chỉ còn tay không, bèn giở quyền cước ra đấu với nhau.

Hạ Đà La xem đến đây cũng phải gật đầu tán thưởng: “Võ công hai người tuy chưa phải là tuyệt đỉnh, nhưng biến hóa đa dạng khôn lường!”.

Trong bãi đấu, thân pháp hai bên thình lình thay đổi, Bá Nhan di chuyển thần tốc, tưởng tiến lại lui, tưởng né lại thành chống đỡ, song chưởng chuyển động rất kỳ lạ, không rõ trên dưới, không phân trái phải, Lương Tiêu thì dịch hết bên này sang bên nọ, chưởng thế giữ nguyên không đẩy ra, chỉ chạy vòng vòng. Hai người ở cách nhau chừng mấy thước, càng di chuyển càng thần tốc, hệt như hai luồng gió nhanh, vậy mà xoay liền hai mươi vòng vẫn không chạm nhau một chiêu nào.

Thoát Hoan sốt ruột hỏi:

- Hạ tiên sinh, theo ông thắng thua ra sao?

Lúc này mưa như trút nước, bốn tên thân binh dùng trường mâu chống một bộ giáp trụ che trên đầu Thoát Hoan cho đỡ ướt, nhưng cũng không ăn thua gì. Hạ Đà La lắc đầu:

- Đại nghịch tru tâm chưởng gặp Tam tài quy nguyên chưởng, thắng phụ khó nói lắm.

Thoát Hoan thắc mắc:

- Mong tiên sinh giải thích rõ hơn xem!

Hạ Đà La thủng thẳng:

- Thừa tướng thi triển lộ chưởng pháp Đại nghịch tru tâm do Tiêu Thiên Tuyệt sáng tạo. Vương gia nhìn nhé, hễ tay ông ấy chĩa sang trái thì hạ chưởng xuống lại thành bên phải, khi chĩa tay sang phải thì lại nhằm đánh xuống bên trái; vốn là hướng lên trên, lúc kết chiêu lại ra tấn công bên dưới, rõ ràng là giật lui, lúc tới điểm bỗng hóa thành tiến đến. Ý nghĩa của chữ “đại nghịch” là tiến thoái công thủ đều trái với lẽ thường. Còn “tru tâm” có nghĩa là đánh vào trái tim người ta, làm cho người ta mù mờ, không phân biệt nổi hư thực.

Thoát Hoan phì cười:

- Thế chẳng hóa đánh lừa người ta hay sao?

Hạ Đà La tủm tỉm:

- Vương gia thật sáng suốt, bí quyết của lộ công phu này chính ở hai chữ “tru tâm”, nếu đánh lừa đến mức khiến đối thủ hoang mang thì chắc chắn sẽ có cơ chiến thắng. Vì vậy, lộ võ công này có thể xếp vào loại công phu trí trá bậc nhất thiên hạ, Tiêu Thiên Tuyệt sáng tạo ra cốt để đối phó với Tam tài quy nguyên chưởng.

- Chưởng ấy thế nào?

- Tam tài quy nguyên chưởng là lộ chưởng pháp mà Lương Tiêu đang vận dụng kia kìa. Yếu lĩnh của nó nằm ở chỗ thăm dò hư thực của đối phương, luyện tới mức tuyệt đỉnh thì bách chiến bách thắng, người Hán gọi yếu lĩnh ấy là “quen tay hay việc”, cảm nhận không phải bằng thị giác nữa mà bằng thần khí, ngũ quan đã dừng nhưng tuệ tính còn tiến mãi, nhắm mắt cũng có thể tránh chỗ mạnh, lựa chỗ yếu mà đả thương kẻ thù, có thể nói là công phu đối địch bậc nhất thiên hạ.

Thoát Hoan nửa hiểu nửa không, lại hỏi:

- Nhưng vì sao mãi mà hai người kia không giao thủ?

Hạ Đà La cười:

- Công phu trí trá gặp công phu thẩm thấu, một bên dùng trăm phương ngàn kế đánh lừa đối thủ, bên kia thì cẩn thận dò xét từng điểm hư thực của địch nhân, nếu không chắc chắn hoàn toàn, họ không đời nào liều lĩnh ra tay đâu.

Thoát Hoan gật đầu:

- Bản vương hiểu rồi, chỉ cần Bá Nhan làm Lương Tiêu mắc lừa thì sẽ chiến thắng.

Hạ Đà La lắc đầu:

- Tiểu tử ấy đâu dễ vào tròng như thế? Vừa rồi Thừa tướng giăng ra vô số bẫy rập, hắn đều không mắc lừa. Hà, hai người này, không đấu thì thôi, mà đấu thì thật khó đoán ai sống ai chết!

Hắn cố ý khoe khoang nên nói từng câu từng chữ đều vang dội rành rọt, hai đấu thủ nghe thấy, cùng ngấm ngầm kinh ngạc. Loay hoay thêm ba hiệp nữa, Lương Tiêu vụt phát hiện một sơ hở ở ngực Bá Nhan, liền bổ nhào tới trước, xuất một chiêu Tam tài quy nguyên. Bá Nhan cũng đã tự mình phát hiện ra rồi, liền khép khít song chưởng chắn lên trước ngực. “Bình” một tiếng, hai người dồn toàn lực chạm một chưởng, nước mưa bị kình phong hất dạt, hệt như một màn phi tiễn nhỏ. Lương Tiêu bật ra xa hai trượng, ngã bịch xuống làm bắn tung lên bao nhiêu là bùn đất. Bá Nhan lảo đảo một hồi mới đứng vững được, hai tay run bần bật, khí huyết cuộn ngược trong ngực.

Thình lình, có tiếng động ì ầm như sấm từ đằng đông truyền tới. Lương Tiêu gắng gượng giãy giụa, nhưng không sao nhỏm dậy được, máu hòa với nước mưa chảy xuống theo khóe miệng gã. Kỳ thực, luận về võ công, gã vốn thua sút Bá Nhan, huống hồ trước trận đấu lại đã huyết chiến cả ngày trời, đầu óc mụ mẫm sức lực hao mòn, chỉ nhờ dũng khí cùng sự xuất hiện đúng lúc của Trung Điều Ngũ Bảo và A Tuyết mới gắng chèo chống được đến bây giờ. Sau chưởng vừa rồi, thực đã đến lúc sức tàn lực kiệt.

Hạ Đà La cười ha hả:

- Lương Tiêu, ngươi nhận thua chưa?

Lương Tiêu hừ mũi, gắng chống hai tay, cuối cùng cũng loạng choạng đứng dậy được. Bá Nhan nhìn gã, nói mấy câu, nhưng tiếng động đằng đông ầm ầm như núi lở, khiến tai nghe lùng bùng, làm lấp đi lời nói của y.

Lương Tiêu chật vật ưỡn thẳng lưng dậy, nhìn xuống dòng nước cuồn cuộn, cảm thấy toàn thân nhức nhối, xương cốt như muốn nứt, nhưng cũng không bằng một phần vạn nỗi đau đớn trong tim, nước mắt tuôn rơi hòa vào nước mưa, cứ ròng ròng hết nóng lại lạnh, hết lạnh lại nóng. Bá Nhan bỗng siết chặt hai nắm tay, bộ dạng hung dữ, chậm rãi tiến lại gần Lương Tiêu, bước chân chậm và nặng, làm trái tim người ta cũng trĩu xuống. Tướng sĩ xung quanh bỗng ồn ào, nhiều quân sĩ chỉ trỏ về phía đông, kinh hãi la lối. Bá Nhan đưa mắt nhìn theo. Một bức tường trắng xóa đang ùn ùn kéo đến. Y chỉ kịp nghĩ: “Sóng Tiền Đường!”.

Con sóng tràn tới rất nhanh, hất tung mọi thứ, tiêu diệt hủy hoại mọi chướng ngại cản đường. Tướng sĩ Nguyên triều tuy đã từng trải nhiều chiến trận, nhưng chưa gặp phải sự lạ như thế bao giờ, kinh hãi đến mức không kịp giật lui, lần lượt bị cuốn vào con sóng khổng lồ. Bá Nhan đang đứng ngẩn ra, Lương Tiêu đã thu hết hơi tàn lao phốc lại phía y. Bá Nhan chìa tay ngăn, nhưng chưa phát lực thì con sóng đã ồ ạt trào qua, trùm kín hai người.

Thoát Hoan và đám còn lại đứng cách bãi đấu khá xa, thấy vậy vội giục ngựa chạy đi, đợi con sóng tràn hết sang phía tây mới hoàn hồn giương mắt nhìn xem. Trên bờ sông không còn bóng ai cả. Cả bọn đang định chạy lại gần kiểm tra, chợt nghe một tiếng hú dài, Bá Nhan lật mình lên bờ. Thoát Hoan khựng lại, không giấu nổi vẻ thất vọng, hừ mũi hỏi:

- Lương Tiêu đâu?

Bá Nhan lắc đầu:

- Ta bám được một tảng đá bên sông nên mới may mắn thoát được, còn Lương Tiêu…

Y nhìn xuống dòng nước, chực nói lại thôi. Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt và Lý Đình rụng rời, nằm bẹp xuống bờ, khóc rấm rứt. Thoát Hoan cười nhạt:

- Bá Nhan Thừa tướng! Lương Tiêu là bộ thuộc của ông, nhưng ông quản lý không nghiêm, sau này trước mặt thánh thượng, bản vương đành cứ theo sự thực bẩm báo, đến lúc đó chẳng may tổn thương hòa khí thì cũng mong thừa tướng đừng oán trách.

Bá Nhan nhìn phớt qua mặt hắn, lạnh lùng nói:

- Lương Tiêu tự tung tự tác, chuốc lấy bại vong. Ta dùng người không đúng, tự khắc biết đường thỉnh tội với thánh thượng, trước mắt, việc tây tiến không thể chậm trễ. Thổ Thổ Cáp, Lý Đình!

Hai người vâng lời tiến lên, Bá Nhan trầm giọng nói:

- Hai ngươi thống lĩnh quân sĩ, thay quyền Lương Tiêu.

Thổ Thổ Cáp rùng mình, cùng Lý Đình đồng thanh vâng lệnh. Thoát Hoan biến sắc mặt, hừ một tiếng rõ to, dẫn thuộc hạ vỗ ngựa phóng vụt đi.

Bá Nhan ngước mắt lên trời thở dài, một lúc lâu sau mới nhìn xuống dòng Tiền Đường, cuối cùng lên ngựa phóng về phía bắc, quân sĩ rầm rập theo sau. Chỉ chốc lát, tiếng vó ngựa đã lan đi xa, tiếng sóng cũng lắng dần, sông Tiền Đường trở lại yên tĩnh.

[1] Nát ngọc tan vàng.

[2] Kho quân dụng dành riêng cho đế vương hoặc đại thần.

hết: 

Phần Hương Túy Ngọc

, xem tiếp: Vô Pháp Vô Tướng

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #vkloolzz