Việt Nam Sử Ca - Ngọc Diện Hoa

VIỆT NAM SỬ CA

(Ngọc Diện Hoa chuyển thể thơ dựa theo

Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim)

cảm ơn anh Nguyễn Sinh, TP HCM đã sưu tập và chuyển cho sugia.vn

toàn bộ sử ca này

NƯỚC VIỆT NAM (

越南)

I. 

QUỐC HIỆU

Hồng Bàng lập nước Văn Lang

Âu Lạc, Thục Phán sửa sang bội phần.

Tượng Quận gọi bởi nhà Tần

Hán diệt Triệu, xẻ ba phần nước Nam:

Cửu Chân, Giao Chỉ, Nhật Nam

Giao Chỉ, Đông Hán đổi làm Giao Châu.

Nhà Đường nước chiếm, nhà thâu:

“An Nam đô hộ phủ”, sầu quốc vong!

Nhà Đinh dẹp loạn sứ xong

Đổi Đại Cồ Việt ngoài trong một lòng.

Sang đời nhà Lý Thánh Tông

Xưng danh Đại Việt, tuyên ngôn sử hồng.

Cùng thời, vua Lý Anh Tông

"An Nam quốc" nhận gia phong Tống triều.

Bắc Nam tranh chấp tiêu điều

Gia Long thống nhất, xây triều Việt Nam.

Dân tình khổ cực đã cam

Việt Nam, Minh Mệnh đổi làm Đại Nam.

Bá quyền chưa bỏ ý tham

Phương trời đất Bắc nhúng chàm đảo điên.

Sử vàng dệt một trường thiên

Việt Nam hai chữ gắn liền tự do!

II. 

VỊ TRÍ, DIỆN TÍCH:

Việt Nam chữ S ốm o

Ở giữa co lại, phình to hai đầu.

Xem qua số sướng, sang giàu

Ai ngờ mấy kỷ vương sầu, xót xa!

Đông - Nam hai hướng đi qua

Ký lô vuông khoảng vào ba trăm ngàn!

Đông Nam rào cản Hải Nam

Miếng mồi tranh chấp mộng tham của Tàu.

Miền Tây giáp giới Ai Lao

Vương triều một cõi ngày nào: Cao Miên.

Trung - Nam - Bắc cả ba miền

Gần Tàu chỉ khiến ưu phiền nước ta!

Chia nhau nước thẳm Hồng Hà

Thái Bình, miền Bắc phù sa đắp bồi.

Trời sinh núi cặp, người đôi

Trung xuôi, Thượng ngược sinh sôi tháng ngày.

Miền Trung cát trắng đong đầy

Trường Sơn một giải trời mây thắm hồng.

Miền trong, ruộng nước khai thông

Đồng Nai cuộn sóng sánh dòng Cửu Long.

Chung tay gắng sức vun trồng

Chen vai cuốc đất, cày đồng, trổ mương.

Giống nòi chung một tình thương.

Thái, Mèo, Chàm, Mán, Mọi, Mường, Khách, Vân...

Người Kinh chiếm bảy, tám phần

Sáu mươi sắc tộc góp phần giữ quê.

Da vàng trọn nghĩa phu thê

Thông minh, trí tuệ, trăm nghề thủ thân.

Chữ "Lễ, Trí, Tín, Nghĩa, Nhân"

Luân thường đạo lý đã phân rõ ràng!

Đàn bà mẫu mực, trung can

"Tiết, Nghĩa, Cần, Kiệm" đảm đang việc nhà.

Đàn ông giữ vững sơn hà

Xông pha sóng gió xứng là... mày râu!

Dầu rằng vóc sắc khác nhau

Cho dù tốt, xấu cũng đâu khác nguồn?

Muôn lòng giữ cội, gìn khuôn

Bắc - Nam kết một chiếc xuồng Việt Nam!

Quyển I

THƯỢNG CỔ THỜI ĐẠI

上古時代

Chương I

1. Họ Hồng Bàng

鴻龐

2. Nước Văn Lang郎

(2879-258 trước Tây Lịch)

Người xa bến bãi sông Lam

Ta về Đồng Tháp không cam lỗi thề?

"Giấy rách còn giữ lấy lề"

Người Việt đâu cũng nhớ về chốn quê.

Lạc Long Quân lấy Âu Cơ

Mười lăm bộ họp dưới cờ Văn Lang.

Họ Hồng Bàng, giữ giang san

Mười tám đời rạng ngai vàng Hùng Vương!

3. Chuyện cổ tích về đời Hồng Bàng:

Giặc Ân thua bởi nhiễu nhương

Thiên Vương Phù Đổng phi thường lớn mau.

Núi cao theo nước nông, sâu

Năm nào Sơn, Thủy tranh cầu Mỵ nương.

Sử xanh chép lại mà thương:

Chử Đồng Tử khổ mới tường Tiên Dung.

Lòng trời lượng cả bao dung

Tu nhân, tích đức hòa chung tiếng cười.

Chương II

NHÀ THỤC (258-207 trước Tây Lịch)

1. Gốc tích nhà Thục:

Thục Phán lấy đất, chiếm người

Văn Lang, Âu Lạc, đồng thời nhập chung.

Thục - Tàu chẳng thể cùng vùng

Khâm định Việt sử bàn cùng một chương.

2. Nước Âu Lạc:

Phong ba, nắng gió ai lường

Xây trang huyền thoại Mị nương ngậm ngùi.

Hờn vây, oán trả nào nguôi

Duyên tình tráo trở, bùi ngùi thế gian.

3. Nhà Tần đánh Bách Việt:

Ai xui Thục chiếm Văn Lang

Cho chàng Trọng Thủy lừa nàng Mỵ Châu.

Giặc Tần gieo rắc thương đau

Thục Phán - Bách Việt, lấy đầu Đồ Thư.

4. Nhà Thục mất nước:

Loa thành nhà Thục thật, hư:

“Nỏ thần trăm phát”? Gian mưu Triệu Đà:

Se duyên, Thục - Triệu thông gia

Đà mang giảo kế lừa nhà Thục Vương.

Xót nàng duyên gãy mà thương

Tội nàng tình thiệt vạ vương rụng rời.

Triệu Đà được nỏ, nuốt lời

An Dương Vương phải bỏ đời giữa khơi!

Chương III

XÃ HỘI NƯỚC TÀU VỀ ĐỜI

TAM ĐẠI VÀ ĐỜI NHÀ TẤN

Triệu - Thục hỗn chiến máu rơi

Bên Tàu, nhà Hán đánh rơi họ Tần.

1. Phong kiến:

Mỗi người thủ lãnh một phần

Lập thành một nước, cống thần mỗi năm.

Chư hầu có đến tám trăm

Chia công, hầu, bá, tử, nam hưởng cùng.

2. Quan chế:

Tam công, nhà Hạ ra khung:

Đại khanh, Nguyên sĩ với cùng Cửu khanh.

Nhà Ân, hai tướng, năm quan

Sáu quan thái, sáu phủ đàn, sáu công.

Sáu quan, đặt bởi Chu Công

Thiên, Xuân, Địa, Hạ, Thu, Đông, được thành.

Thiên quan, cấp đứng đầu ngành

Tên là Chủng tể, tuần hành ở trong.

Đại tư đồ giữ thương, công

Giáo dục, cảnh sát, hội đồng: Địa quan.

Đại tư mã, đầu Hạ quan

Cầm binh phụng mạng, trị an nước nhà.

Tam công một chức đặt ra

Quan trên chính sự, dưới là lục quan.

Hành chính chẳng được cùng can

Tam cô, Thái, Thiếu phó bàn chiến chinh.

3. Pháp chế:

Đời Thái Tổ có năm hình

Thêm roi da với đày mình: tội lưu.

Nhà Ân, nhà Hạ, nhà Châu

Lăng trì, mổ, muối, chặt đầu, xé thây...

4. Binh chế:

Năm người, nhập ngũ binh ngay

Quân, Sư, Súy, Lữ mỗi tay một phần.

Thiên tử thì có sáu quân

Nước nhỏ được một, chư thần được ba.

Nhà, Tỉnh từ Nước mà ra

Ấp, Khâu, Điện có cổ xa, trăm người.

5. Điền chế:

Mười phần ruộng lấy một mươi

Đi theo Phép cống tùy thời biến thiên.

Ân, Chu dùng phép Tỉnh điền

Công, tư hoa lợi, nộp liền đức vua.

Người nông của chẳng dư thừa

Giàu nghèo cấp bậc thì chưa rõ ràng.

Lý Khôi, Chiến quốc, luật ban:

Toàn dân làm ruộng, chẳng màng phép chi.

"Thiên mạch" được mở tức thì

Hai phép Cống, Tỉnh biệt ly, bất hoàn.

6. Học hiệu:

Vua, quan, nếu có sinh con

Vào trường Đại Học đọc mòn lễ, thư.

Tiểu học dạy cách làm người

Kính, nhường ứng xử, mở lời khéo khôn.

7. Học thuật:

Đời Chu có lắm danh ngôn

Khổng, Lão lễ nghĩa tiếng đồn chẳng ngoa.

Mặc Định kiêm ái, ôn hòa

Hàn Phi, Quỷ Cốc sáng lòa hiếu nhân.

8. Phong tục:

Công, thương, nông, sĩ đã phân

Phu tùy, phụ xướng mười phần lễ nghi.

Tổ tiên thờ phụng kính tri

Đến đời Ngũ bá mất đi tục này.

Văn minh Tần đã đổi thay

Triệu Đà truyền luật mới này mọi nơi.

Chương IV

NHÀ TRIỆU 

(207 - 111 trước Tây lịch)

1. Triệu Vũ Vương:

Tránh cho máu chảy đầu rơi

Triệu Vũ Vương mới chịu lời Hán Vương.

Nam Việt một cõi nhún nhường

Vua con yếu nhược, tính phương bán nhà.

2. Vũ Vương thụ phong nhà Hán:

Vũ Vương lập nghiệp bên ta

Bên Tàu, Hán diệt Sở là Lưu Bang.

Cao Tổ thấy Vũ đăng quang

Bèn sai Lục Giả chiêu hàng, tấn vương.

Kiêu căng, Vương mới coi thường

Lục Giả phân giải hư tường, mới thông.

3. Vũ Vương xưng Đế:

Khi Cao Tổ khuất ngôi rồng

Lữ Hậu quay lại tranh dòng, lấn vua.

Cấm quan hệ với bán mua

Vũ Vương bất mãn mới xua lính càn.

Xưng làm Hoàng Đế lại gan

Trường Sa đánh tới mở màn chiến chinh.

Quân Hán chẳng thuộc địa hình

Không quen thủy thổ muôn tình bệnh đau.

Quay đầu rút chạy về mau

Thanh thế Vũ Đế ngầu ngầu đỉnh thiên.

4. Vũ Vương thần phục nhà Hán:

Hán Văn Đế gởi thư riêng

Lục Giả nhận biển, trao liền Vũ Vương.

“Trẫm nay mọi việc đã tường

Lấy lại đất nước từ phường Lữ gian.

Quần thần thúc ép đăng quang

Nay thư gởi đến vua bàn chuyện binh.

Vì dân, trẫm mới cầu xin

Trường Sa hỗn loạn, dân tình khổ đau.

Nhà vua hãy rút binh mau

Hai bên chiến loạn thêm sầu thế nhân.

Đôi lời trẫm đã tường phân

Mộ phần đã sửa ở Chân Định rồi.

Hai nơi mấy núi xa xôi

Ganh nhau chẳng khác chi loài tiểu nhân”.

Lời thư tử tế hiền nhân

Tin lời, Vũ Đế xưng thần Hán cao.

Giáp Thìn, Triệu Vũ bãi trào

Trăm hai mốt tuổi đi vào vạn thu.

5. Triệu Văn Vương:

Văn Vương trí nhược, tâm nhu

Lên ngôi, giặc giã biên khu loạn ngầu.

Quân nhà Hán cứu binh nhau

Mân Việt giết chúa nạp đầu mới yên.

Mời chầu, Trang Trợ phụng thiên

Vũ Vương chẳng chịu mới liền gởi con.

Anh Tề Thái tử tâm non

Mười năm lạc nước nên mòn nghĩa quê.

6. Triệu Minh Vương:

Nghe Vũ mất, Anh Tề về

Lập hậu, xưng Đế đâu ngờ kẻ gian.

Tư thông kiếm lợi hai đàng

Cù bà vợ lẽ, ra màn cướp ngôi.

7. Triệu Ai vương:

Minh Vương khi đã mất rồi

Thái tử Hưng được lên ngôi trị vì.

Hán sai Thái Qúi tùy nghi

Cùng bà Thái hậu thị phi mập mờ.

Dụ con dâng nước, bán bờ

Hai bên chỉ đợi đến giờ nạp ra.

 May nhờ Tể tướng Lữ Gia

Vạch mưu Cù Thái hậu và Ai Vương.

Người Nam đánh Hán kiên cường

Cho rằng vĩnh cữu, ai tường bại vong!

Quyển II

BẮC THUỘC THỜI ĐẠI

北屬時代

(111 tr. Tây lịch – 931 s. Tây lịch)

Chương I

BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT

1. Chính trị nhà Tây Hán:

Vũ Đế chiếm Đại Việt xong

Đổi Giao Chỉ bộ mà hòng nuốt tươi.

Thái thú, Thứ sử trêu ngươi

Lạc hầu, Lạc tướng, chia người trực phiên.

Thạch Đái đóng phủ Long Yên

Là quan thứ sử trước tiên quận này.

Vương Mãng cướp Hán vào tay

Tích Quang, Đổ Mục thẳng ngay chẳng về.

Đến khi Quang Vũ yên bề

Quang, Mục, Đặng Nhượng theo lề cống sang.

2. Tích Quang và Nhâm Diên:

Thái thú Giao Chỉ: Tích Quang

 Khai hóa, dạy nghĩa cho hàng thứ dân.

Nhâm Diên, Thái thú Cửu Chân

Chăm lo khai khẩn, canh tân ruộng đồng.

Chương II

TRƯNG VƯƠNG 

徵王 (40-43)

1. Trưng thị khởi binh:

Thời kỳ Bắc thuộc long đong

Thù chồng, khởi nghĩa, Châu Phong lập thề.

Người Giao Chỉ lại cùng về

Ba năm dựng nước theo cờ Nhị Vương.

Tô Định bạo ngược khôn lường

Giết người Giao Chỉ không tường thị phi.

Bắt Thi Sách đem giết đi

Hai Trưng Trắc, Nhị tức thì khởi binh.

Con dòng Lạc tướng Mê Linh

Đuổi quân Tô Định mà bình đất Nam.

Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam

Chẳng bao lâu hạ sáu lăm thành trì.

Xưng vua, lừng lẫy ai bì

Mê Linh đóng phủ, uy nghi một miền.

2. Mã Viện sang đánh Giao Chỉ:

Tân Sửu, Quang Vũ lệnh truyền

Phục Ba Mã Viện, binh liền thẳng dong.

Đoàn Chí cùng với Lưu Long

Phó và thuyền tướng tháp tòng xuất chinh.

Hai bên giáp chiến tử sinh

Hát Môn đẫm máu giấu hình Nữ Vương.

Trung lưu nữ kiệt can trường

Thua cơ Mã Viện, cùng đường nhảy sông.

Sông xanh nước chảy mênh mông

Ghi trang quốc sử muôn dòng tiếc thương.

Hồn thiêng phảng phất trong sương

Hát Giang sông sáng soi gương Hai Bà!

Ba năm một cõi sơn hà

Nghìn năm Bắc thuộc sao mà sánh qua!

Anh thư, lịch sử nước ta

Nữ vương chỉ có Hai Bà, chẳng ai!

Qúy Mão mồng sáu tháng hai

Hương hoa khói tỏa tạc đài ngợi ca!

Chương III

BẮC THUỘC LẦN HAI

 (43-544)

I. NHÀ ĐÔNG HÁN:

1. Chính trị nhà Đông Hán:

Nhà Đông Hán trị dân ta

Tham tàn, hiếp đáp quả là Khuyển Ưng.

Người Giao Chỉ khổ vô chừng

Tìm vàng dưới biển, lên rừng kiếm châu.

2. Lý Tiến và Lý Cầm:

Nhân tài bị bỏ, còn đâu

Lý Cầm, Lý Tiến cùng nhau khẩn cầu.

Hán Minh Đế ngẫm lời tâu

Thăng quan chức hậu, nễ nhau mấy phần.

Trương Trọng đi sứ cầu thân

Năm phần cứng cỏi, năm phân nhún nhường.

Nhìn người chớ có khinh thường

Nhân tài trí dũng, ai nương tướng ngoài.

3. Sĩ Nhiếp (187- 226):

Người nước Lỗ, đổ mậu tài

Tránh loạn biên tái, nên ngài đến ta.

Đời Hiến Đế, năm thứ ba

Trong Châu giặc giã, xin ra trấn ngoài.

Đình hầu thọ sắc phong rồi

Tướng quân An Viễn đến hồi trị gia.

Lấy điều phép tắc xây nhà

Nhân dân trọng đức tôn là Sĩ Vương.

II. ĐỜI TAM QUỐC (220-265)1. Nhà Đông Ngô (222-280):

Đông Ngô thế mạnh hùng cường

Nhà Đông Hán đã vào đường thế cô.

Nước Tàu xé lẻ địa đồ

Giao Châu lệ thuộc Đông Ngô Tôn Quyền.

Bính Ngọ, Sĩ Nhiếp quy tiên

Sĩ Huy xưng Thái thú liền thế cha.

Quảng Châu: Hợp Phố trở ra

Giao Châu: Hợp Phố ngược mà trở đi.

Đái Lương cùng bọn Trần Thì

Đem quân đến bắt Sĩ Huy phải hàng.

Anh em năm kẻ liên can

Bị giết bởi tội chịu hàng họ Tôn.

Bấy giờ, Ngô chủ tính khôn

Hai châu Giao, Quảng phải dồn một Châu.

Lữ Đại - Thứ sử đứng đầu

Đem quân lấn chiếm chư hầu Cửu Chân.

2. Triệu Ẩu:

Giao Châu, Giao Chỉ tương phân

Thứ sử Lục Dận muôn phần ác tinh.

Mậu Thìn, Quốc Đạt khởi binh

Quân tôn nữ Triệu Thị Trinh đứng đầu.

Anh em bảo bọc cho nhau

Ai ngờ gặp phải chị dâu chẳng hiền.

Thị Trinh lập tức giết liền

Lên rừng mộ lính, múa quyền, cỡi voi.

Non nhà lửa bỏng, dầu sôi

Anh em Triệu Ẩu song đôi chém Kình.

Anh hùng, nữ tướng kiên trinh

Lục Dận lạc phách, hồn kinh lắm điều.

Theo mây về cõi tiêu diêu

Non sông tạc tiếng: "Nhụy Kiều tướng quân"!

“Tài trinh đệ nhất phu nhân

Bậc chính anh liệt nữ thần” tỉnh Thanh.

3. Nhà Ngô chia đất Giao Châu:

Nhà Ngô chặt cội, đẵng cành  

Đem đất Nam Việt chia thành hai Châu.

Quảng Châu cùng với Giao Châu

Quan Tàu Thái thú thay nhau bạo tàn.

Dân gian loạn lạc, mới bàn

Giết quan Thái thú mà hàng Ngụy quân.

Giao Châu mục, có Đào Hoàng

Đầu Ngô, hàng Tấn để còn Giao Châu.

III. NHÀ TẤN (265-420)

1. Chính trị nhà Tấn:

Thiên hạ, nhà Tấn đã thâu

Thương nhà Ngụy mới phong hầu cháu con.

Các thân vương vì sống còn

Thi nhau thủ đoạn chẳng tròn đệ huynh.

Thiên tai tại thượng vô tình

Xưng vương, xưng đế một mình, một sân.

Hơn mười sáu nước tranh phân

Ngũ Hồ loạn lạc muôn dân cực hình.

2. Nước Lâm Ấp quấy nhiễu Giao Châu:

Bên trong chính sự bất bình

Bên ngoài giặc phá, dân tình oán than.

Giặc Lâm Ấp muốn thi gan  

Phạm Hùng cướp cạn, quân càn Nhật Nam.

Canh Thân, Tuệ Độ đã làm

Giao Châu Thứ sử diệt Chàm trị yên.

Phạm Hồ Đạt được mấy niên

Bị Chư Nông phản cướp quyền, hỏng xôi!

Khi Phạm Dương Mại chiếm ngôi

Nam Bắc triều đã phân đôi nước Tàu.

Đông Tấn và Tống đánh nhau

Vua Lâm Ấp mới gây sầu Giao Châu.

IV. NAM BẮC TRIỀU (420-588)

1. Tình thế nước Tàu:

Canh Thân, Lưu Dụ mưu sâu

Cướp ngôi Đông Tấn chia nhau Bắc triều.

Giao Châu phụ thuộc Nam triều

Ngụy, Tề, Chu đế gây điều ngoại xâm.

2. Việc đánh Lâm Ấp:

Nói về họ Phạm ngấm ngầm

Ngôi người khác lại rộ rầm cướp đi.

Thấy Tàu nội loạn ra chi

Sai cống nhà Tống muốn vì Giao Châu.

Tống triều nào há chịu đâu

Họ Phạm kia mới hái dâu nhử tằm.

Hòa Chi, Tông Xác đã căm

Mang binh sang đánh, Phạm ngầm chạy mau.

Đàn Hòa Chi vội tóm thâu

Người vàng một tượng, báu châu chật nhà.

Gian tham chẳng đổi thật thà

Vàng kia cái lộng cũng là con dao.

Hòa Chi rớt chức, mất bào

Giao Châu Thứ sử lộn nhào, hỡi ôi!

3. Sự biến loạn ở đất Giao Châu:

Kỷ Mùi, nhà Tống mất ngôi

Nhà Tề kế nghiệp không thôi cướp giành.

Nhà Lương khởi sự máu tanh

Tiêu Tư tàn bạo lòng đành dửng dưng.

Chương IV

NHÀ TIỀN LÝ

前李

(544-602)

1. Lý Nam Đế (544-548):

Giao Châu thóc chín lưng chừng

Thân trâu, kiếp ngựa vang lừng trống khua.

Ngoài biên, giặc Tống hơn thua

Bên trong, Lâm Ấp vào mùa phá ranh.

Bên Tàu, lưỡng thổ phân tranh

Tề vừa phế Tống, Lương thanh toán Tề.

Tham tàn thái thú, người ghê

Hùng tâm, Lý Bí giương cờ diệt gian.

Vạn Xuân thoát cảnh lầm than

"Thái bình thiên đức", xua tan bóng tà.

Bình minh chiếu sáng sơn hà

Thanh bình tự chủ như là đến phiên!

Nghe qua, Lương Đế đảo điên

Xua quân lấn chiếm, Bá Tiên phụng quyền.

Thua đi, thắng lại truân chuyên

Lý Bôn quyết định trao quyền Triệu Vương.

2. Triệu Việt Vương (549-571):

Triệu Việt Vương - Dạ Trạch Vương

Trung kiên dạ tướng, cung thương quật cường.

Thông gia Phật Tử, lầm đường

Nhằm tin rễ phản, nào lường vạ, may!

3. Hậu Lý Nam Đế (571-602):

Tranh ngôi, Phật Tử ra tay

Hậu Lý Nam Đế thua ngay nước Tùy.

Giao Châu hết thịnh thì suy

Ba trăm năm lẻ chịu quỳ Bắc phương!

Chương V

BẮC THUỘC LẦN THỨ BA

(603 - 939)

I. NHÀ TUỲ (589-617)

Việc đánh Lâm Ấp:

Nhà Tùy sai tướng Lưu Phương

Sang đánh Lâm Ấp xem dường ý gian.

Vì đồn Lâm Ấp lắm vàng

Phạm Chí chạy, Phương giữa đàng bệnh... thăng!

Giết người, cướp của nên chăng

Mạng đi thay của họa rằng đã vương.

II. NHÀ ĐƯỜNG (618-907)

1. Chính trị nhà Đường:

Mậu Dần, Tùy mất bởi Đường

Tân Tỵ, Cao Tổ phô trương thế ngoài.

Cắt Đại tổng quản trông coi

Cùng việc cai trị coi mòi ở lâu.

Khâu Hòa quản đất Giao Châu

Ngang tàn, bạo ngược như nhau, một phường!

2. An Nam đô hộ phủ:

Nhà Tùy tiếp đến nhà Đường

Đời nào cũng vẫn coi thường Giao Châu.

Dân ta lệ thuộc vào Tàu

Mười hai mảnh đất chư hầu ngó nhau!

3. MAI HẮC ĐẾ (722)

Nhằm trừ giặc cướp nương dâu

Họ Mai một cõi Hoan Châu đứng đầu.

Nhỏ người, sức khỏe tựa trâu

Thúc Loan mặt mũi, mày râu đen sì!

Xưng vua Hắc Đế gây uy

Đánh nhau nổi tiếng gan lỳ tướng quân!

Anh hùng, thất thế sa chân

Họ Mai kia chốn phong trần, lánh xa.

4. Giặc bể:

Tân Tỵ có quân Đồ Bà

Ngoài bể vào phá với là Côn Lôn.

Ra vào cướp giật cô thôn

Quan Kinh lược đánh, hoảng hồn chạy nhanh.

Trương Bá Nghi xây La thành

Phòng ngừa cướp đánh và canh cướp ngầm.

5. Bố Cái Đại Vương (791):

Họ Quang kia thật là thâm

Làm quan bảo hộ chuyên nhằm vét vơ!

Nhân dân ta, lúc bấy giờ

Sưu cao, nặng thuế hai bờ chẳng cam.

Phùng Hưng vốn ở làng Cam

Vùng lên giết chết quan tham Chính Bình.

“Đại Vương Bố Cái" thâm tình

Thương thay yểu mạng, vô hình thở than.

6. Việc đánh nước Hoàn Lương

Phùng An nhút nhát cầu an

Cha giành độc lập, con hàng giặc Xương!

Nhà Đường đánh nước Hoàn Lương

Giết người Mường, Mán, ăn lường thảm thương!

7. Nam Chiếu cướp phá Giao Châu:

Tư thù, Mán tộc và Mường

Xui người Nam chiếu cướp đường Giao Châu.

Tranh nhau đến loạn xà ngầu

Mười năm đổ máu đi chầu Diêm Vương!

8. 9. Cao Biền bình giặc Nam Chiếu.

Công việc của Cao Biền:

Cao Biền tướng giỏi nhà Đường

Tinh thông sách học, làu thường tướng môn.

Trừ căn, tính quẻ Càn Khôn...

Bình quân Nam Chiếu, huyệt môn yểm trừ.

10. Sự trị loạn của nước Tàu:

Vua mà chính trực công tư

Nhân gian chẳng được khúc từ “Sâm thương”!

Hưng, suy nghĩ cũng là thường

Ta - Tàu nội loạn, sa trường tử thương.

III. ĐỜI NGŨ QÚY (907-959)

1. Tình thế nước Tàu:

Bên Tàu, Ngũ Quý phân vương:

Hậu Đường, Hán, Tấn, hậu Lương, ngũ vùng.

Hậu Chu: năm nước xưng hùng

Để Khúc Thừa Dụ được cùng tấn quan.

2. Họ Khúc dấy nghiệp:

Khúc Thừa Dụ (906-907)

Giao Châu, họ Khúc xây làng

Người giàu tốt bụng, không màng dã tâm.

3. Khúc Hạo (907-917):

Làm quan chỉ độ tròn năm

Trao quyền Khúc Hạo lo chăm nước nhà.

4. Khúc Thừa Mỹ (917-923):

Khúc Thừa Mỹ, nối nghiệp cha

Mất lòng phải vạ, họa nhà: Tù binh!

Khúc cha đại nghĩa thâm tình

Khúc con chính nghĩa thường tình bỏ đi!

5. Dương Diên Nghệ và Kiều Công Tiễn

(931-938)

Lý Khắc Chính ác ai bì

Nên Dương Diên Nghệ mới vì Khúc gia.

Đánh cho Lý Tiến chạy xa

Dạy cho Khắc Chính biết ta, biết mình!

Ai ngờ nội phản, tham sinh

Kiều Công Tiễn lại vong tình, giết đi!

Gian thần, lịch sử còn ghi:

Trong lo thí chúa, ngoài thì loạn tâm.

Ngô Quyền khởi nghiệp Đường Lâm

Căm phường phản chúa, kiên tâm báo thù.

Kiều Công tiếng xấu thiên thu

Tìm đàng cứu viện quân thù: Hán Vương.

Hoằng Tháo: Thái tử Bắc phương

Xâm lăng chẳng thấy con đường hiểm sâu.

Ngô Quyền sai vót nhọn đầu

Đằng Giang đóng cọc chìm sâu xuống dòng.

Gian thần phải tội bên trong

Bạch Đằng Giang sóng đầy chông giết thù.

Ngô Quyền đức trí cương - nhu

Quăng đi cái ách nghìn thu thuộc Tàu.

Danh thơm, tiếng mãi về sau

Non sông gấm vóc nhắc nhau bảo toàn.

Chương VI

KẾT QỦA THỜI BẮC THUỘC

1. Người nước Nam nhiễm văn minh của Tàu:

Theo dòng lịch sử tính toan

Ngàn năm Bắc thuộc gì còn nước ta!

Hay, dở từ ấy mà ra

Luân lý, phong tục ruột rà với nhau.

2. Nho Giáo:

Theo gương "trung hiếu" làm đầu

"Để" "Thử" là gốc, làm câu sửa mình.

Nho gia, lý tưởng anh minh

Luân thường đạo lý thâm tình sử xanh.

Làm người trọng nghĩa, khinh danh

Ai ai cũng thể cây xanh, hiệp hòa.

Tăng, Sâm, Khổng Tử đề ra

Đi qua Khổng Cấp, Mạnh Nha, đạo thành.

Nho gia vất vả trường sanh

Thủy Hoàng đốt sách, máu tanh học trò!

Đời Cao Tổ, đạo thịnh to

Nhà Hán bớt khó nên cho mở trường.

Đạo nào mà có chủ trương:

Lập trường "Nhân-Nghĩa": Đạo đường Việt Nam.

3. Đạo Giáo:

''Vô tri, điềm tỉnh'', trừ tham

Không dùng "trí lực" mà cam khổ mình.

Đạo giáo triết học cao minh.

Tu tâm, trị nước mô hình "trường sinh".

Lý Đan nước Sở phát sinh

Làm dây Tầm gởi qua mình nhà Chu.

Quên chuyện tình, lo ''chuyên tu''

Cho mình "bất tử" mà đu với đời.

Trương Đạo Lăng, quả gặp thời

Tần, Đường, Hán mới tin lời viễn vong.

Đồng hành tiên thuật, hạnh thông

Hoàng Cân Trương Giác, Cát Hồng nối nhau.

Tử - Sinh vốn đã từ lâu

''Trường sinh" ai đã được đâu, phép màu?

4. Phật Giáo:

Đời người đầy ải khổ đau

"Sinh, lão, bệnh, tử'', nỗi sầu biến thiên.

Luân hồi kiếp bởi nhân duyên

Làm sao thoát được ưu phiền thế gian?

Đức Thích Ca đã không màng

Quên thân Thái tử, tìm đàng Phật ngay.

"Niết bàn" khi đã rũ tay

Bất sinh, bất diệt thành thầy Phật gia.

Bà-La-Môn, gốc Thích Ca

Từ Ấn Độ đã đi qua nước Tàu.

Rồi vì "Tông Chỉ" khác nhau.

Nên Phật tích đổi ra màu Phật kinh.

Nhà Đông Hán có Huệ Sinh

Thái Am với Tống Vân tinh Phật đàn.

Vua Đường hạ chiếu Huyền Trang

Đi sang Thiên Trúc, Kinh mang để truyền.

"Tây Du Ký", động địa thiên

Ngô Thừa Ân truyện giải phiền chúng sinh.

Biết bao nhiêu nghĩa với tình

Biết bao câu chữ ẩn hình tử sinh.

Tiền Lê, nhà Lý, nhà Đinh

Thịnh hành đạo Phật; Nho vinh Lý - Trần.

Quốc đạo thống nhất bất phân

Đạo nào cũng đã góp phần đấu tranh!

5. Sự tiến hóa của người nước Nam:

Nho, Phật, Lão phát triển nhanh

Dân ta tín ngưỡng theo thành thói quen.

Cần dùng, cách chống ươn hèn

Tranh đua chẳng phải bon chen cạn cùng.

Ta – Tàu tục lệ như chung

Văn minh nước Việt không sùng bái Tây.

Gì của Tàu, cũng cho hay

Tiến hóa chẳng mấy, loay hoay kém người.

Quyển III

TỰ CHỦ THỜI ĐẠI

(Thời kỳ thống nhất)

自主時代

Chương I

NHÀ NGÔ

(939-965)

I.

1. Tiền Ngô Vương (939-944)

Ngô Quyền nối tiếp ngôi trời

Xưng Vương, Kỷ Hợi, sáng ngời Cổ Loa.

Sáu năm chỉnh đốn gần xa

Giáp Thìn, chèo chống sơn hà, hết duyên.

2. Dương Tam Kha: (945-950)

Tam Kha em vợ cướp quyền

Xưng Bình Vương phản, đời nguyền rủa không?

Non nhà ngập cảnh bão giông

Xương Ngập trốn ở Lịnh Công đợi thời.

3. Hậu Ngô Vương (950-965):

Xương Văn, em ruột thay lời

Giam cha nuôi - cậu, vạ trời tạm qua.

Người nhà, chẳng giết, nên tha

Truyền cho giáng chức còn là lệnh Công.

Cùng anh, trị quốc song song.

Hai Vua một nước theo dòng Hậu Ngô.

Anh em dựng lại cơ đồ

Như tình Trắc - Nhị cùng khô máu đào.

Hiềm rằng đại loạn gươm đao

Công Ngô Quyền đã rơi vào đáy sông!

II. THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)

Thổ hào Trần Lãm, Kiều Công

Thái Bình, Cảnh Thạc với dòng Nguyễn Khoan.

Lý Khuê, Nguyễn Siêu sống còn

Lữ Đường, Khánh, Thuận thủ đòn Tá Công.

Đằng Châu, Bạch Hổ, Phạm Phòng

Tranh ngôi, trở mặt, sanh lòng đánh nhau.

Chương II

NHÀ ĐINH

丁(960-980)

1. Đinh Tiên Hoàng (968-979):

Họ Đinh - thứ sử Giao Châu

Con là Bộ Lĩnh chăn trâu khác thường.

Thông minh, khí chất quân vương

Cờ lau tập trận, người thường nễ danh.

Thương người trí dũng, hùng anh

Trần Minh Công mới phong thành tướng quân.

Hoa Lư tiếng đã vang lừng

Đem quân bắt giết thanh trừng loạn quan.

Bộ Lĩnh khí chất cao sang

Sứ quân thập nhị quy hàng bốn phương.

Vinh tôn đức "Vạn Thắng Vương"

Lên ngôi hoàng đế hùng cường nước Nam.

Bên Tàu, họ Triệu tham lam

Hậu Chu - Khuông Dận gian phàm giống nhau.

Mở đường ''Nam tiến'' trước sau

Tiên Hoàng tính kế: Hòa nhau Tống Triều.

Ngoài yên, triều cống kẻ kiêu

Bên trong lập tức ra điều dạy quan.

Dầu sôi giữa điện phòng gian

Nuôi đàn hổ dữ ngăn can phản thần.

Quân binh ngũ hạng mà phân:

"Đạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ" quân vạn hàng.

Chừng như ổn thỏa giang san

Phế trưởng, lập út, Tiên Hoàng chết oan!

Sử rằng: Đổ Thích tính toan...

Giết Tiên Hoàng cướp ngai vàng hưởng hơi.

Đêm nằm mộng thấy sao rơi

Cho mình số Đế khơi khơi, mới lầm.

Đời người dễ được trăm năm

Làm con giòi chết, tiếng tăm để đời!

Nam Việt Vương - Liễn, một thời

Lẫy lừng trận mạc, ngôi rơi mới cuồng.

Giết em cũng giống một tuồng

Bị người giết lại rặc khuôn sử Tàu.

Tội đồ Đỗ Thích trước sau

Đình thần bắt được chặt đầu, bệu thây.

Cùng ngày, Đinh Tuệ lên ngay

Nhiếp chính: Thái hậu cùng thầy họ Lê.

2. Phế Đế (979-980):

Nước nguy, vua bé, mập mờ

Lê Hoàn, Thái hậu đến giờ tự thông.

Vua - chồng chết cũng coi không

Xem ra chẳng phải là dòng chính chuyên!

Ai người dựng tích mà truyền

Khen Dương Thái hậu người hiền, thiện chân?!

Đinh Điền, Nguyễn Bặc trung thần

Can ngăn đổi chúa, vào phần thảm thê!

Vừa phiên Tống đế thừa cơ

Vua còn nhỏ dại, giương cờ xâm lăng.

Tướng quân họ Phạm bàn rằng:

- Ai luận thưởng, phạt? Chi bằng phế vua?

Dù trong, quả thật hơn, thua

Nhưng ngoài đánh giặc cần vua có tài.

Thái hậu có một không hai

Lột áo con mặc, chuyển ngai họ Hoàn!

Đinh Triều thế phổ cung son

Hai vua, mười bốn năm tròn phải cam!

Chương III

NHÀ TIỀN LÊ

前蔾

(980-1009)

1. Lê Đại Hành (980-1009)

Lê Hoàn ở tỉnh Hà Nam

Xưng Hoàng đế bởi không cam rợ người.

Hay rằng Tống chúa mười mươi

Manh tâm lấn chiếm, ăn tươi nước mình.

Vẽ vời binh vực nhà Đinh

- “Ba đời truyền tập", bất bình xuất chinh.

2. Phá quân nhà Tống:

Lưu Trừng thống lĩnh thuỷ binh

Toàn Hưng, Nhân Bảo: Lục binh đánh tràn.

Đại Hành giữ Bạch Đằng Giang

Trá hàng giết chết Hầu gian, địch tàn.

Non nhà thắng lợi vinh quang

Cho rằng chẳng thể sánh ngang Tống trào.

Thôi thì... để Tống trên cao

Người Nam chịu cống miễn sao được lành.

3. Đánh Chiêm Thành:

Đại Hành đối Tống đã thành

Đánh Chiêm vì lỗi giam đành sứ ta.

Bắt người, lấy của chẳng qua

Chỉ là bắt chước người ta đấy mà!

4. Việc đánh dẹp và sửa sang trong nước:

Sửa sang trong nước, triều ca

Tử An cùng với quan nha họ Từ.

Phạm, Ngô sách lược, binh thư

Đại Hành rảnh rỗi dẹp trừ Mường qua.

Năm Ất Tỵ, vua băng hà

Hăm bốn năm Đế, thọ là sáu lăm.

Công lao xóa trắng lỗi lầm

Người dân Nam Việt rầm rầm ngợi ca.

Thanh danh lừng lẫy gần xa

Buồn thay! Cốt nhục toàn là bạo quân.

Anh lo đấm đá tưng bừng

Giành ngôi thể chẳng chưa từng đệ huynh!

5. Lê Trung Tông (1005):

Đăng cơ, thái tử vạ rình

Ba ngày tại vị, đầu mình... rớt êm!

Long Đĩnh ngày ác, dâm đêm

Giết em Long Việt, đã thèm thú riêng!

6. Lê Long Đỉnh (1005-1009):

Lê Ngọa Triều quả vua... điên

Ác bằng Kiệt, Trụ lại ghiền máu tanh.

Hành người khác, tính trời sanh

Tẩm rơm đốt sống đã thành trò chơi.

Đẵng cây, người té khơi khơi.

Đầu sư: Róc mía, vẽ vời xảy tay!

Giữa triều trò nhái, vua bày

Đem người bỏ sọt, ban ngày thả sông!

Vua nòi "khát máu, tanh dòng"

Ăn chơi trụy lạc, không lòng nghĩa nhân.

"Ngọa Triều" cho đáng tấm thân

Ngàn năm bia miệng hại dân, để lời.

Tiền Lê truyền dẫn ba đời

Hăm chín năm Đế, hết thời, công… toi!

Chương IV

NHÀ LÝ

(1010-1225)

I. LÝ THÁI TỔ (1010-1028)

Niên hiệu: Thuận Thiên

順天

1. Thái tổ khởi nghiệp:

Công Uẩn được chọn lên ngôi

Họ Lý khởi nghiệp quê ngoài Bắc Ninh.

Tương truyền chỉ có mẹ sinh

Nhân khi mộng thấy ''thất trinh'' với Thần.

Khánh Văn nuôi dưỡng, đỡ đần

Vừa ba tuổi đã quen dần kệ kinh.

Chìu theo thế thái nhân tình

Dời đô ý sẵn cho mình phát quang.

2. Dời đô về Thăng Long thành:

Thái Tổ mộng thấy điềm sang:

Rồng vàng uốn khúc bay ngang chánh thành.

Đại La đổi Thăng Long thành

Con Rồng cháu Thánh, xứng danh Lạc Hồng.

3. Lấy kinh Tam Tạng

:

Đời Lý, đạo Phật đã thông

Đạo Thanh, Phạm Hạc bỏ công tới Tàu.

Mang kinh Tam Tạm truyền nhau

Chùa chiền, chuông đúc có hầu mọi phương.

4. Việc chính trị:

Nhận phong Giao Chỉ Quận Vương

Chiêm Thành, Chân Lạp cũng đương thái bình.

Các hoàng tử giỏi cầm binh

Công chúa thu thuế quân bình mỗi năm.

Công Uẩn thọ đến năm lăm

Mười chín năm Đế, thâm trầm thiện lương.

II. LÝ THÁI TÔNG (1028-1054)

Niên hiệu: Thiên Thành

天成

1. Lê Phụng Hiểu định loạn:

Hoàng triều phải cảnh tai ương

Hoàng tử thì lại như phường bọ sâu.

Giữa triều, lấy nghĩa can nhau

Không nghe, Phụng Hiểu chém đầu Võ Vương!

Đông Chinh, Dực Thánh cùng đường

Hai vương rớt lại coi dường chịu thua.

Thương tình cốt nhục, nhà vua:

''Chức cũ không được hơn thua, hãy dùng''.

2. Sự đánh dẹp:

Nhà vua trước dẹp giặc Nùng

Sau bình Chiêm cũng là cùng giúp dân.

Thái Tông vốn thật từ nhân

Thứ tha Nùng Trí, nới chân kẻ thù.

Thương dân, tiếng để thiên thu

Người nào có tội được bù chuộc thân.

3. Giặc Nùng:

Trí Cao chẳng chịu yên phần

Xưng là Hoàng Đế mở dần Đại Nam.

Tám Châu chiếm lấy vì tham

Địch Thanh phá trận, Trí cam mất đầu.

4. Đánh Chiêm Thành:

Chiêm Thành quấy nhiễu từ lâu

Thái Tông ngự giá tiến sâu Phật thành.

Tướng Chiêm phản chúa đoạn đành

Chém đầu Sạ Đẩu để thành quốc vong.

Thái Tông trông thấy động lòng

Lệnh truyền các tướng chớ hòng giết dân.

Bắt vương phi với cung nhân

Ê Mị giữ tiết gieo thân giữa dòng.

5. Việc chính trị:

Chăm lo muôn việc ngoài trong

Hoàng nam, cấm bán làm dòng bộc nô.

Đường quan lộ mở ra vô

Thêu thùa, cung nữ, gia nô có phần.

Hăm bảy năm đã trị dân

Vua hiền, con thảo mẫn cần chí tôn.

III. LÝ THÁNH TÔNG (1054-1072

)

Niên hiệu: Long Thụy Thái Bình

龍瑞太平

1. Việc chính trị

:

Thái Tông tiên đế di ngôn

Cho con thái tử Nhật Tông kế vì.

Thánh Tông lấy hiệu hợp thì

Đổi nước Đại Việt, trị vì sắc son.

2. Lất đất Chiêm Thành:

Gương hiền hiếu độ làm con

Còn thêm trí dũng song toàn phá Chiêm.

Ba Châu, mới được thâu thêm

Chế Cũ sợ chết mà đem biếu ngài.

Hậu tiền, tả hữu phân hai

Điều binh khiển tượng, đem tài giữ ngai.

Chu Công một bức tượng đài

Thờ Khổng Tử với bảy hai loại người.

Ngài qua cái tuổi năm mươi

Ngai vàng đã ngự đúng mười bảy năm.

IV. LÝ NHÂN TÔNG (1072-1127)

Niên hiệu: Thái Ninh

太寧

1. 2. Ỷ Lan Thái Phi. Lý Đạo Thành:

Năm Tý được lợi chữ Nhâm

Nhân Tông bảy tuổi, thiên mầm nổi danh.

Ỷ Lan, mẹ được buông mành

Làm Thái Phi cạnh Đạo Thành Thái sư.

Cùng nhau Phụ chính thanh trừ

Tôi hiền, tướng giỏi công tư rõ ràng.

3. Việc sửa sang trong nước:

Vua cho mở cuộc thi văn

Trường Quốc Tử Giám sánh bằng Hàn Lâm.

Võ, Văn chín phẩm lao tâm

Vua Chiêm, Tống Đế ngấm ngầm đánh ta.

4. 5. Việc đánh nhà Tống

 .

Nhà Tống lấy đất Quảng Nam:

"Thơ Thần" đã được truyền ra

Lý Thường Kiệt viết như là thánh thư:

"Sơn hà, Nam quốc đế cư

Tiệt nhiên định tự thiên thư" ngọn ngành.

"Như hà nghịch lỗ lai" tranh

"Hành khương nhữ đẵng" thanh danh phí phàm.

"Nước Nam là của người Nam"

Thơ Thần đã được dùng làm chánh ngôn.

Non sông hợp nhất càn khôn

Tuyên ngôn độc lập - trường tồn khắp nơi.

Thường Kiệt danh sáng rạng ngời

Bình Chiêm, Phá Tống dù ngoài bảy mươi.

Danh ngang Lã Vọng nước người

Cho nhân dân Việt tiếng cười tự do.

Dân tình hưởng phút ấm no

Trời Nam nhuộm trắng cánh cò ngã nghiêng.

Nhân Tông cưỡi hạc quy tiên

Con Hoàng, cháu Đế, Hầu Hiền thế ngôi.

Chương V

NHÀ LÝ (Tiếp theo - 1010-1025)

V. LÝ THẦN TÔNG (1128-1138)

Niên hiệu: Thiên Thuận

天順 .

Tương truyền thế tử nằm nôi

Là con cầu tự, đến hồi hóa thân.

Từ Đạo Hạnh, đạt thiện chân

Chùa tu một đấng, chẳng cần tranh đua.

Cháu vua đã được làm vua

Hiền từ đức độ không thua kém gì!

Giúp vua giữ vững ngôi vì:

Anh Nhị, Bá Ngọc, quan tri Khánh Đàm.

Nương vườn, lính đổi phiên làm

Tù nhân đại xá, An Nam thái bình.

Ngài là một đấng hiền minh

Mười năm tại vị, trời sinh phước nhà.

VI. LÝ ANH TÔNG (1138-1175)

Niên hiệu: Thiệu Minh

紹明

.

1. Đỗ Anh Vũ:

Phụ chính vua nhỏ lên ba

Có bà Thái hậu nết nhà chẳng chuyên.

Dám cùng Anh Vũ đưa duyên

Lộng quyền quá độ, căn nguyên mọi đường.

Bá quan mưu sự, đáng thương

Tự Minh, Vũ Đái, Quốc, Dương rụng đầu!

Thái hậu dám cướp ngôi đâu

Tô tướng phụ đã đỡ đầu bệ cao.

2. Tô Hiến Thành:

Hiến Thành hữu dũng lược thao

Giúp chúa đánh dẹp giặc Lào, nước yên.

Ngưu Hống phải chạy như điên

Thân Hợi bị bắt, Thái Nguyên được bình.

Thái tế vốn trọng thâm tình

Quan chức lớn vẫn giữ mình sáng sao.

3. Giặc Thân Lợi:

Thái Nguyên, Thân Lợi loạn trào

Xưng con thiên tử năm nào Nhân Tông.

Tô Hiến Thành dẹp mới xong

Xuất gia tham vọng, vướng vòng tội vong.

4. Việc chính trị:

Giáp Thân, nhà Tống sắc phong

An Nam vương quốc cho xong mọi bề.

An Nam tên nước bấy giờ

Đem con giao Thái Phó, nhờ gởi trao

Lý Anh Tông bệnh, thoái trào

Ngôi ba mươi bảy, thọ vào bốn mươi.

VII. LÝ CAO TÔNG (1176-1210)

Niên hiệu: Trinh Phù

貞符

1. Tô Hiến Thành làm phụ chánh:

Thái hậu đã muốn đổi người

Lập Long Xưởng tính nuốt tươi ghế vàng.

Đem tiền của lót mọi đàng

Họ Tô từ chối, lòng vàng dễ mua?

Trung thành chẳng tính hơn thua

Vâng theo chiếu chỉ ngôi vua luận bàn.

Giàu sang phú quý không màng

Cùng Gia Cát Lượng ngang hàng, quý sao!

2. Sự nội loạn:

Tiếc rằng vua ở ngôi cao

Khi Hiến Thành mất, sa vào cuộc chơi.

Làm cho nội loạn tơi bời

Phạm Du, Quách Bốc ngôi trời quyết đua.

Hai mươi lăm tuổi, xế mùa

Mất năm Canh Ngọ, về chùa khói hương.

VIII. LÝ HUỆ TÔNG (1211-1225)

Niên hiệu: Kiến Gia

建嘉

1. Trần Thị:

Thái tử Sam nối tông đường

Yêu Trần thị, phá cương thường lập Phi.

Trần thị giàu có, kiêu lỳ

Cha đêm đánh cá, ngày thì phá dân.

Họ Trần có một chút ân

Đỡ đần Thái tử sa chân ở đời.

Có nhan sắc nên gặp thời

Lấy Thái tử hưởng phước trời Thứ phi.

2. Quyền về họ Trần:

Thái hậu tìm cách giết đi

E rằng vua quá yêu vì, họa mang.

Vua mê nàng, đem giang san

Chín đời Lý gán cho quan Độ liền.

Vua thân mắc phải cơn điên

Nên Trần Thủ Độ toàn quyền ghét thương.

Đi tu khi biết nhầm đường

Vì thương gái út nên nhường ghế cha.

IX. LÝ CHIÊU HOÀNG (1225)

Niên hiệu: Thiên Chương Hữu Đạo

天彰佑道

Không trai, số tại mình ra

Hai công chúa: chị tên là Thuận Thiên.

Cùng con Trần Liễu se duyên.

Em là Chiêu Thánh, tục truyền Phật Kim.

Huệ Tông quý mến thiên kim

Giang sơn gấm vóc, ngài đem tặng nàng.

Chiêu Thánh công chúa đăng quang

Thủ Độ ép chuyển ngôi sang phía chồng.

Hai trăm mười chín năm ròng

Họ Lý đã chấm dứt dòng lập vua!

Danh thơm đâu dễ mà mua

Vì dân sao lại hơn thua lỗ lời?

Thi đua giữ nước chín đời

Việt Nam cường thịnh sáng ngời một nơi.

Cuối đời, vua chỉ ham chơi

Huệ Tông nhu nhược mới thời cáo chung!

Chương VI

NHÀ TRẦN (1275-1400)

Thời kỳ thứ nhất (1225-1293)

I. TRẦN THÁI TÔNG (1225-1258

)

Niên hiệu: Kiến Trung

建中

1. Trần Thủ Độ:

Thủ Độ bày vẽ mông lung

Cướp ngôi nhà Lý gian hùng, bất lương. ...

Chiêu Hoàng bảy tuổi nào lường

Nhường ngôi đứa trẻ chưa tường yêu đương!

Trần Cảnh tám tuổi hiền lương

Một tay Thủ Độ đảo lường thị phi!

"Triệt Lý" lịch sử còn ghi

"Nhổ cỏ tận gốc" mới phi giống người!

Huệ Tông hiểu ý mười mươi

Thắt cổ tự tử, ngậm cười thế gian.

Độ lấy Thái hậu, chẳng màng:

Hai chị em họ, rõ ràng trớ trinh.

Làm cho họ Lý điêu linh

Đào hầm chôn sống, cầm tinh bạo tàn.

Luân thường đảo lộn họ hàng

Bỏ em, lấy chị, phủ phàng thế gian.

Cướp về người vợ có mang

Vừa tròn ba tháng, con quan Trần Thừa.

Ép làm hoàng hậu cho vừa

Bức Trần Liễu loạn, gan thừa: Thái sư.

Hại ngầm họ Lý cho nư

Đổi Lý thành Nguyễn nát nhừ càn khôn!

Nghiệp Trần giật lấy sinh tồn

Thủ Độ tạo nghiệt oan hồn quá sâu!

Sơn hà dùng mẹo mà thâu

Một tay xóa Lý, mưu sâu đã cài!

2. 3. Việc đánh dẹp giặc giã.

Việc cai trị:

Xem ra... Thủ Độ cũng... tài

Với Trần, giúp đỡ vua ngoài tới trong.

Ngôi nhà Lý lấy vừa xong

Xoay qua "trị nước, giao thông, học hành...".

4. 5. Việc thuế má. Đắp đê:

 ''Quan là quan'', lệ đã thành

Không quan, tiền chảnh, vẫn anh lính hàn.

Sưu thuế chẳng tính hèn sang

Thuế thân, ruộng, muối, cá, vàng, óc, ngao...

6. Việc học hành:

Học hành chẳng chút lãng xao

Mở khoa Tiến sĩ thấp cao đệ trình.

Nhâm Thìn mở "Thái học sinh"

"Tam khôi", Đinh Vị, quy hình một khoa:

Trạng nguyên, Bãng nhỡn, Thám hoa

Văn Hưu viết sử, một khoa, đổ nhì.

Lại cho Tam giáo được thi

Ba Nho, Thích, Lão, chọn đi đạo nào?

7. Pháp luật:

Gia hình thấy cũng hơi cao

Người nào "trộm cắp" thì vào chặt tay.

Nhẹ chặt chân, nặng voi giày

Người tham xám mặt, xanh mày, bớt gian.

8. Quan chế:

Nhà Trần lo việc sửa sang

Chia quan chức với phân quan đại thần.

Thị Lang - Văn nội đồng cân

Lang Trung, Viên ngoại cũng gần Thượng thư.

An Phủ Sứ, Tri phủ thư

Đối Thông, Thiên tứ gia trừ, tứ ân.

Võ ngoại có Ngự sứ quân

Đô thống, Kinh lược, quan thân Thử, Phòng...

Võ nội có những sắc phong:

Phiêu kỵ Thượng tướng, Kim phòng, Phó đô.

9. Binh chế:

Quân - Thần nghĩa chẳng mấy khô

Cùng nhau yến ẩm nào phô lễ nghì.

Mười năm một Bậc, lệ ghi:

Mười tám năm mới vinh quy một Hàm!

10. Việc đánh Chiêm Thành:

Gìn sông, giữ núi An Nam

Bắc chống Mông Cổ, bình Nam: Chiêm Thành.

11. Quân Mông Cổ xâm phạm đất An Nam:

Mông Cổ hiếu chiến, gian manh

Lanh nghề cưỡi ngựa, giỏi ngành kiếm cung.

Bành trướng vốn tính khí chung

Xăm lăng Tây Hạ với cùng nước Kim.

Đất người chiếm lấy, vô tim

Triều Tiên, Trung Á chẳng ghìm vó câu!

Thiết Mộc Chân, chúa cầm đầu

Tư Hãn tắm máu, ngõ hầu lập Nguyên.

Thái tổ băng giá đến phiên.

Đăng ngai, nối nghiệp chuyển quyền: Thái Tông.

Nguyên Định Tông mới nối dòng

Ba năm đã mất, Kha Mông giở trò.

Mông con nhà chú Quí Do

Khác "Chi" nhưng cũng một "lò", một "chiêu".

Hiếu Tông - Mông Cổ cà khiêu

Sai Hạt Lỗ đánh Tống triều, Ba Tư.

Đồng liêu Hạt Lỗ, tay cừ

Là Hốt Tất Liệt không từ tiến binh.

Giữa chừng hai nước chiến chinh

Mông Kha mất, Liệt tự mình kế ngay.

Đánh khắp Nam, Bắc, Đông, Tây

Nhà Mông đổi chủ thay thầy, hóa Nguyên.

Ngột Lương Hợp Thai cầm quyền

Sai sứ đến Thái Tông khuyên thuận hàng.

Vua, quan Trần quyết hai đàng:

Một, giam sứ giả. Hai, dàn trận nghinh.

Thái Tông anh dũng thân chinh

Cùng Trần Quốc Tuấn chống binh Nguyên triều.

Binh phân, thế yếu tiêu điều

Bỏ kinh đô chạy như diều đứt dây.

Thái Tông bụng dạ trên mây

Trần Nhật Hiệu với cách hay "phải hàng"!

Thái sư Thủ Độ vội can:

"Đầu thần chưa rớt, đừng bàn thuận Nguyên".

Nghe lời cứng cỏi, vua yên.

Đồng tâm đánh giặc, quân Nguyên rút về.

Cùng đường mỏi mệt, la lê

Coi là "giặc Phật" không hề cướp chi!

Quân Mông Cổ bị đuổi đi

Nhưng khi dứt Tống, tức thì giở chiêu:

Bắt vua Trần đến Mông triều

Lạy chầu để nhận những điều phải theo.

Lê Phụ Trần đổi một keo:

Ba năm chịu cống, qua đèo, vượt sông.

Chuyên cần thế sự, Thái Tông

Truyền ngôi Thế tử ngừa phòng trước sau:

''Anh em chớ có tranh nhau

Chăm dân, trị nước về sau một lòng''.

Đỡ đần việc nước, Thái Tông

Được tôn làm Thái Thượng Hoàng giúp vua.

Thái bình qua hết bốn mùa

Băm ba năm Đế, về chùa, sáu mươi.

II. TRẦN THÁNH TÔNG (1255-1278)

Niên hiệu: Thiệu Long

紹隆

1. Việc chính trị:

Non sông nở đóa hoa tươi

Thái tử tử tế, thương người giống cha.

Trời xanh một cõi bao la

Thánh Tông đổi lấy hiệu là Thiệu Long.

Anh em lấy đức trời đong

Cha ông để nước chớ hòng thị phi.

Quan Nho có Mạc Đỉnh Chi

Lê Văn Hưu viết sử thi nước nhà.

Trang điền, thời ấy mà ra

Vương hầu, Phò mã lo qua ruộng đồng.

2. Sự giao thiệp với Mông Cổ:

Nhà Trần dẫu nhận sắc phong

Ba năm cống nạp, vẫn phòng giặc Mông.

Hòa ngoài vẫn biết bên trong

''Xâm lăng'' mưu giặc chất chồng thế thôi.

Cho nên lính ngũ phân đôi

"Quân", "Đô" cũng phải không thôi hợp thời.

Cứng bên trong, ngoài dịu lời

Nhà Nguyên kia mới không thời khó ta.

Thông minh, tiếng đã gần xa

Năm mươi bốn tuổi, vua ta băng hà.

Thái Thượng Hoàng được mười ba

Hai mốt năm Đế quả là nghĩa nhân.

III. TRẦN NHÂN TÔNG (1279-1293)

Niên hiệu: Thiệu Bảo

紹寶

1. Việc chính trị:

Thái tử Khăm được triều thần

Tôn làm vua, tức Nhân Tông bấy giờ.

Thời ngài đánh giặc mỏi mê

Thiệt con vua giỏi chẳng chê chút nào!

2. Việc văn học:

Vua quan học rộng, tài cao

Thi thơ Phạm, Nguyễn đương trào hảo văn.

Hưng Đạo, Quang Khải ai bằng

Oai phong khí lực đằng đằng xuyến xao!

Chương VII.

GIẶC NHÀ NGUYÊN (1284-1288)

I.

1. Sài Thung sang sứ An Nam:

Nhà Nguyên cậy ở trên cao

Sài Thung ngạo mạn muốn vào nước ta.

Nhà Trần thủ lễ, thiệt ra:

Lượn con sóng dữ để mà chèo ghe.

2. Trần Di Ái theo nhà Nguyên:

Nguyên - Mông ỷ mạnh, hăm he

Bày ra lắm lẽ để... đè nước Nam:

Vua Nam cấp tốc sang chầu

Châu vàng, báu ngọc... cung cầu phải hay.

Người hiền sĩ, kẻ khéo tay

Thầy giỏi giảng dạy, đưa ngay tới Tàu!

Nhà Trần cũng lắm mưu sâu:

Đưa Trần Di Ái sang hầu giặc Nguyên.

Vua Nguyên nổi giận như điên

Phong Di Ái chức quan liền: Quốc vương.

Vua Trần phái tướng ngăn đường

Bắt Trần Di Ái, triệt đường quân nhu.

Sài Thung bị bắn mà mù

Đi đời một lũ theo thù, phản trong.

3. Thoát Hoan sang đánh lần thứ nhất:

Nguyên chủ nổi giận bão giông

Sai con Thái tử quyết lòng bá vương.

''Mượn đường", sách cũ một chương

Đánh Chiêm nhưng cũng gian lường bẫy giăng.

Giặc năm mươi vạn hung hăng

Quân ta thủy, bộ chỉ bằng nửa thôi!

Trứng mà chọi đá, than ôi

Diên Hồng hội nghị "đánh" thôi, hay "hòa"?

Bà Trưng, Bà Triệu quần thoa

Nữ lưu đánh giặc có hòa được không?

Quân dân, bô lão một lòng

Dưới cờ Quốc Tuấn ngoài trong đã đồng.

Giữ đường bộ lẫn đường sông

Không cho giặc kiếm cớ hòng lẻn qua.

4. Trần Hưng Đạo Vương

quân thua về Vạn Kiếp:

Một lòng giữ lấy sơn hà

Trận đầu: Kỳ Cấp với là Khả Li.

Hy sinh thân xác, xá gì

Lộc Châu thất thủ, phất kỳ Chi Lăng.

Quân đông, địch quá hung hăng

Kế nào bằng kế phải chăng, giữ mình?

Quy hàng, vua định trọn tình

Nhưng còn xã tắc, quân mình, phải lo?

Ngặt vì thế giặc quá to

Vua Trần lòng dạ đói no rối bời!

Đại Vương đã quyết một lời:

"Chém đầu thần trước mới thời hàng Nguyên''.

Lời tâu trung liệt, vua yên

Đức Trần Quốc Tuấn soạn liền "Binh thư".

''Thơ Thần" thời Lý - thiên thư

Đời Trần, "Hịch tướng sĩ" như thi thần.

Thường Kiệt, Quốc Tuấn thương dân

Khác bao vô sĩ quốc vong mắt mù!

'' Này là Kỷ Tín, Do Vu

Dự Nhượng, Thân Khoái... trung lưu chẳng thừa.

Trung thần, nghĩa sĩ đời xưa

Liều thân cứu Chúa, nắng mưa chẳng sờn.

Đây còn Kính Đức chính chơn

Kiểu Khanh miệng mắng Lộc Sơn nghịch đồ.

Văn Lập sức yếu thế cô

Một mình giữ lấy thành đồ Điếu Ngư.

Lại còn có Xích Tu Tư

Đánh quân Nam Chiếu rạng chừ đức danh.

Nay quân Mông Cổ vây thành

Cậy danh Tất Liệt, quyền hành Vân Vương.

Bạc vàng vơ vét tứ phương

Thân dê chó, lưỡi cú, thường mắng vua.

Ta đêm ăn ngủ thớt thưa

Ruột đau như cắt, mắt thừa lệ tuôn!

Quân thù chưa diệt mà buồn

Thây nội cỏ rũ mới suông dạ này!

Dẫu rằng 'da ngựa bọc thây'

Chỉ mong thấy cảnh nước mây thái bình.

Các ngươi nay chẳng thấu tình

Lính: Cơm đâu có; ngựa mình ai cho?

Bệnh đau, sống chết ai lo

Quan: Ai thăng thưởng; bổng kho đâu dùng?

Nghĩ gần, sao chẳng thẹn thùng

Đứng nhìn chủ nhục suy cùng chẳng run?

Nghĩ xa, chẳng trọn tình chung

Lấy điều 'quốc sỉ' mà nung chí bền?

Thân làm tướng, hầu giặc trên

Thái Thường đãi yến chẳng 'rên' trong lòng!

Chọi gà, đánh bạc coi không

Vui thú vườn ruộng mà lòng chẳng đau?

Nước nhà trong cảnh bể dâu

Còn ham săn bắn, đá cầu để vui!

Mắt thấy giặc đến mà đui

Áo giáp giặc? Cựa gà dùi thủng sao?

Mẹo cờ bạc dẫu là cao

Đem vào mưu sự, hư hao mọi điều!

Ôi chao! Ruộng lắm, vườn nhiều

Lấy nhiều vàng bạc mà chìu giặc chăng?

Quân thù nào sợ chó săn

Rượu ngon, tiếng hát, giặc rằng: điếc tai?

Thiệt là chẳng nghĩ một mai

Thái ấp ta mất, bia ai bị nguyền?

Vợ con gia quyến, quan quyền

Tiếng xấu còn mãi lưu truyền sử sau!

Đau lòng, ta bảo mấy câu:

Cẩn thận củi lửa, lo hầu kiếm, tên.

Thanh danh từ đó mà nên

Để tâm vì nước ở trên vị lòng.

Sức bền, người tựa Bàng Mông

Nhà nhà Hậu Nghệ mới hòng rạng danh’’.

5. Thành Thăng Long thất thủ:

Lời vàng dẫn dạy đã thành

Cánh tay "Sát Thát": Rành rành gi ết Mông.

Chí khí lớn nhưng giặc đông

Trận đầu phải bỏ trống Thăng Long thành.

6. Toa Đô đánh Nghệ An:

Toa Đô quân tiến khá nhanh

Nghệ An giặc chiếm, cũng đành bỏ đi. 

7. Hưng Đạo Vương đem vua về Thanh Hóa:

Thượng tướng Quang Khải chỉ huy

Quân binh lúc thủ, lúc khi vội vàng.

Phản nòi, Trần Kiện đầu hàng

Giữa đàng bỏ mạng vì màn loạn tên.

Thân giòi có mấy kẻ nên

Danh cao, đức trọng mấy tên để đời?

Đây hồn sông núi trùng khơi

Đi bên đất nước nhắc thời vẻ vang!

Trần Bình Trọng:

Trung thần, lịch sử thêm trang

Tướng Trần Bình Trọng sánh Quan Vân Trường.

Ngẫm lời khẳng khái mà thương:

Giặc dụ: "Có muốn làm Vương, được làm?''.

- "Ta thà làm quỷ nước Nam

Không màng Vương Bắc, chẳng tham hơi đồng''.

Khác chi nghĩa khí Quan Công

(Không hàng Tào Tháo), một lòng đầu rơi!

Chết đi, tiếng tốt để đời

Còn hơn tham sống, người thời rẻ khinh.

Nghĩa nhân sau trước trọn tình

Bền lòng cứu nước, hy sinh nghiệp đồ.

8. Trận Hàm Tử Quan:

Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô:

Được tin binh mã Toa Đô

Thế cùng lương cạn, mưu đồ hợp binh.

Chiêu Vương xuống lịnh, chớ khinh

Nguyễn Khoái, Quốc Toản dẫn binh đón đường.

Trần Nhật Duật - Chiêu Văn Vương

Triệu Trung, Tống tướng chẹn đường Toa Đô.

Tưởng Tống khôi phục cơ đồ

Hãi hùng binh giặc cơ hồ vỡ tan!

Hàm Tử nổi sóng Bình Than

Toa Đô khiếp vía lùi sang Thiên Tường.

9. Trận Chương Dương Độ:

Trần Quang Khải khôi phục Thăng Long:

Hàm Tử rồi đến Chương Dương

Con đường thắng trận, hai Vương lẫy lừng.

Thoát Hoan bị đánh giữa chừng

Bỏ Thăng Long chạy, bừng bừng giận căm.

Mừng lòng, Quang Khải xướng ngâm:

"Chương Dương đoạt sáo, hồ cầm Tử Quan".

10. Trận Tây Kết:

Tướng nhà Trần chém được Toa Đô:

Một lòng "Hội nghị Bình Than''

Vua quan Trần đã chẳng màng hiểm nguy.

Đuổi về Tàu lũ Mã Nhi

Toa Đô tử trận, còn chi cái đầu!

Lòng trung ai cũng như nhau

Hiểu người đối xử là câu gốc nền.

Xứ người, bỏ mạng, ơn đền

Hưng Đạo thương cảm nghĩa bền kẻ trung.

Ngự bào cởi đắp, chôn chung

Lễ nghi tử tế cạn cùng nghĩa nhân!

''Thương người như thể thương thân''

Làm con người tốt, trí nhân phải cần.

11. Trận Vạn Kiếp:

Thoát Hoan trốn chạy về Tàu:

Thoát Hoan... chạy thoát lấy thân

Ba quân khiếp hãi theo lần, trốn sau.

Binh thua, ai cũng giữ đầu

Mở gấp đường máu về Tàu, phước cha!

Biết Thoát Hoan muốn chạy xa

Đạo Vương điều động quân ra cản đường.

Hai con Nghiêu, Úy, tước vương

Cùng nhau chận lấy nẻo đường Tự Minh.

Bắc Giang, chặn đánh Nguyên binh

Khiến bọn Hằng, Quán bỏ mình trúng tên.

Thoát Hoan, Phàn Tiếp còn hên

Hoan chui vào ống mới nên giữ mình.

Bài học cho kẻ viễn chinh

Nghinh ngang lúc đến, thất kinh lúc về!

Đại Vương quyết định mọi bề

Bằng tài thao lược, tràn trề đức nhân.

Thêm vua tôi của nhà Trần

Một lòng hòa hợp giữ phần cán cân.

Địch quân tan tác mười phân

Sơn lam, chướng khí gì cần đánh lâu!

Sanh ra bệnh tật ốm đau

Xâm lăng, giặc biết dãi dầu đến phiên!

Chương VIII

GIẶC NHÀ NGUYÊN (1284-1288)

1. Nguyên chủ định khởi binh phục thù:

Hưng Đạo phá được quân Nguyên

Nhà Nguyên xấu hổ đương nhiên báo thù.

Sa mưa tính chuyện giả mù

Đạo Vương chuẩn bị quân nhu gấp liền.

2. Thoát Hoan sang đánh lần thứ hai:

Năm Đinh Hợi, lũ giặc Nguyên

An Nam thẳng tiến, ngang nhiên, hầm hừ.

Tin từ Trấn thủ báo thư

Trần Hưng Đạo mới chần chừ tính toan:

Ngặt là lũ giặc Thoát Hoan

Thêm ba mươi vạn nên còn thế hăng.

Ta trước sau tính phải chăng

Một đằng vườn trống, một đằng Hán Nam.

Ô Mã Nhi lòng nào cam

Chiêu Lăng hóa cám mới làm lại gan!

Dân tình cực khổ ly tan

Xâm lăng, tự cổ bạo tàn bất dung!

3. Trận Vân Đồn: Trần Khánh Dư

cướp lương của quân Nguyên:

 Giặc Nguyên lương thực cạn cùng

Khánh Dư nghĩ kế, ung dung... cướp thuyền.

Mã Nhi, trước thắng, bụng yên

Sau khinh địch, xuống cửu truyền vấn vương...

Trương Văn Hổ nhận tải lương

Hết phương chống đỡ, kiếm đường thoát chân.

Giặc Nguyên hoảng hốt, phân vân

Nửa phần trốn chạy, nửa phần tử vong.

4. Trận Bạch Đằng: Ô Mã Nhi phải bắt:

Hưng Đạo dự đoán dễ không:

Quân Nguyên tháo chạy qua sông Bạch Đằng.

Mã Nhi ngu ngốc, hung hăng

Chẳng ngờ mắc kế "cọc giăng" giữa dòng.

Vướng cọc, bị bắt vào tròng

Phàn Tiếp, Lệ, Ngọc mang gông "Hiến phù".

Xâm lăng tiếng xấu nghìn thu

Thoát Hoan hai chữ ''cương - nhu'' nhớ đời!

Gương xưa, tích cũ có lời:

Mẹ cha nào muốn con rơi máu đào!

Chẳng qua mỗi Chúa một trào

Tướng thua, binh chết, hồn nào chẳng thiêng?

5. Hưng Đạo Vương đại phá Nguyên binh:

Thoát Hoan phải kiếm đường riêng

Gặp binh Ngũ Lão đương nhiên thất thần.

Ba ngàn binh của Trương Quân

Chủ mất vội chạy lấy thân trễ tràng.

Bằng Phi, Lỗ Xích vội vàng

Thoát tên thuốc độc hợp đàng Tư Minh.

Trương Ngọc, Bát Xích bỏ mình

Xương trắng chất đống vô hình khí thiêng.

Nhà Trần đại phá quân Nguyên

Giang sơn thoát được oan khiên sấm rền.

Hai phen ngựa đá dập dềnh

Âu vàng thiên cổ vững bền núi sông.

Thăng Long khai tiệc mừng công

"Thái Bình diên yến", mây trong, nắng lòa.

6. Sứ An Nam sang Tàu xin hòa:

Mậu Tý, Thiên Thứ xin hòa

Nhà Nguyên thua trận xuê xoa thuận tình.

Nhân dân thoát cảnh điêu linh

Nhà Trần giữ chữ công, minh vẫn truyền.

Hiếu sinh, thả lũ giặc Nguyên

Nhưng theo Hưng Đạo: "đắm thuyền Mã Nhi".

Vì hắn ác chẳng ai bì

Giết người thỏa chí, vậy thì... chết sông!

7. Định công, phạt tội:

Triều thần lắm kẻ hai lòng

Tham sống, sợ chết chẳng hòng Thiện - Chân.

Móc moi tội lỗi mà cân

Rỉ tai vua để phân trần, tiểu nhân!

Thượng Hoàng chẳng chút phân vân

Đem công thế tội, xử phân định lường.

Công thần đệ nhất Đạo Vương

Khánh Dư, Quang Khải, phong Vương nhất Hàm.

Huyền sử Toản bóp nát cam

"Phá cường địch, báo hoàng ân" lập thề.

Tuổi mười sáu, sức tràn trề

Nhân, Hùng,Trí, Dũng dưới cờ Đạo Vương.

Trung thần Bình Trọng, Chiêu Vương

Ngũ Lão, Nguyễn Khoái... ban Vương, thưởng Hầu.

Đánh giặc, ai có công đầu

Cứ theo mà định, chẳng cầu tấu chương.

Võ, Văn công, tội tỏ tường

Thượng Hoàng về phủ Thiên Tường, giá băng.

Nguyên triều, Tất Liệt cũng... thăng

Đăng quang, vua mới thuận chăng: Nghị hòa.

Yên lành hóa giải nguy cơ

Nước Nam thoát khỏi những giờ chiến tranh.

Chương IX

NHÀ TRẦN

Thời kỳ thứ hai (1293-1341)

I. TRẦN ANH TÔNG (1293-1314)

Niên hiệu: Hưng Long

興隆

1. Đức độ vua Anh Tông:

Vua hiếu thảo, phúc trời sanh

Thông minh trực chánh, tâm lành trị yên.

Ngài là thái tử Trần Thuyên

Hưng Long, niên hiệu Anh Tuyên, kế triều.

Cương thường chỉnh đốn mọi điều

Võ, Văn: Ngũ Lão, Hán Siêu vững vàng!

Phạm Ngũ Lão

Đời xưa kể chuyện thế gian:

Ngồi, tay đan sọt, lòng mang nước nhà.

Giữa đàng nào thấy lính qua

Đùi bị giáo "kích" vậy mà chẳng hay!

Đạo Vương mến kẻ dũng này

Cho về dưới tướng đêm, ngày lập công.

"Dực quân Quản Thánh" được phong

Võ giỏi lại nổi văn phong: "Thuật hoài":

Giữa trời, "bày tỏ lòng tôi"

Nam nhi khúc hát xa xôi vọng về.

Trung quân, ái quốc vẹn thề

Đôi vai xã tắc, não nề tiếng ru.

"Non sông múa giáo mấy thu

Ba quân thế hổ nuốt Ngưu sao dần.

Làm trai danh chẳng trước sau

Nghe người kể chuyện Vũ Hầu, thẹn tai''.

Mạc Đỉnh Chi: Trạng Nguyên

Đỉnh Chi nổi tiếng văn tài

Họ Mạc thời bé, con trai kẻ hèn.

Không dầu, bắt đóm làm đèn

Học hành đổ đạt xứng hàng Trạng Nguyên!

2. Trần Hưng Đạo Vương mất

:

(1300-20 tháng, Canh Tí)

Nước Nam yên ổn mọi miền

Đến phiên Thượng phụ hết duyên cõi phàm.

Công thần đệ nhất nước Nam

Thái sư, Nguyên soái với hàm Đại Vương.

Chuyện xưa cũng kể một chương

Trần Liễu chịu nhục mà nhường đứa dâu.

Thái sư Thủ Độ thâm sâu

Tráo ngôi, đổi vị mưu cầu lợi danh.

Lời cha trăn trối rành rành:

‘Thù nhà báo trả’’ hay đành phải quên?

Hiềm riêng, Vương quyết không nên

Vì dân, vì nước phải quên hận nhà.

Hai lần giữ lấy sơn hà

Anh em đoàn kết, một nhà phải thương.

Đời ngài đáng để làm gương

Uy quyền lớn chẳng giống phường tự kiêu.

Lo mình ít, nghĩ dân nhiều

Đi rồi, trung hiếu, vài điều dạy vua.

Hơn đồ bán nước, hơn thua

Lo mà vơ vét, ganh đua thế thời.

Ngài đi non nước lệ rơi

Hương hoa thờ phụng cho đời đức tin.

3. Việc đánh Ai Lao:

Ai Lao quấy nhiễu dân tình

Vua sai Ngũ Lão đi bình mới yên.

Nghệ An, Thanh Hóa hai miền

Tai qua chiến sự, họa liền: giặc sinh.

4. Sự giao thiệp với Chiêm Thành:

Huyền Trân công chúa

Tàu - Nam hai nước bãi binh

Nam - Chiêm chẳng có chiến chinh, thái bình.

Chế Mân hôn ước định tình:

Hai châu Ô, Rí dâng xin lễ quà.

Nhữ Hài kinh lý phân ra

Đặt quan cai trị Thuận và Hóa Châu.

Trần Khắc Chung nén thương đau

Thân chinh tống tiễn, chia sầu kẻ đi...

Huyền Trân đội bóng Tây Thi

Khắc Chung như Phạm Lãi vì chúng sinh.

Dẫu là nhi nữ thường tình

Quốc gia đại sự phải mình biệt hương!

Huyền Trân nhận lãnh tai ương

Hai năm hoàng hậu thảm thương: Góa chồng!

Hỏa thiêu như tục thuần phong

Phi tần, hoàng hậu chết trong lửa Hời.

Mạng người nào phải đùa chơi

Anh Tông vội vã cho mời Khắc Chung.

Bàn nhau cách cứu em cùng

Trước sau theo kế phải dùng, đón ra.

Chế Mân vừa mới ra ma

Chế Chí lo lễ táng mà thế vua.

Lòng hay phản trắc hơn thua

Cho nên mới bị Trần vua bắt đì.

Người em Chế Chí nối vì

Hận sâu tích cũ, căm vì chuyện xưa.

Nhân Tông công đức đã thừa

Ngôi hăm mốt, Thượng Hoàng vừa sáu niên.

II. TRẦN MINH TÔNG (1314-1329)

Niên hiệu: Đại Khánh

大慶

.

Giết cậu Trần Quốc Chân:

Thái tử Trần Mạnh nối phiên

Nghe lời nịnh hót đảo điên sĩ hiền.

Công thần phải tiếng oan khiên

Thân sinh hoàng hậu chết phiền, oán mang.

Quốc Chân tình thật nào gian

Lại oan "mưu phản" mà mang xích xiềng!

Khen cho Trần Nhạc tham tiền

Vu gian chủ tướng, đáng nguyền lắm không?

Vì ghen, vợ vạch mưu chồng

Vua nông nổi mắc vào tròng kẻ gian!

Mấy dòng chép lại mà than:

Làm quan minh chánh, thế gian chẳng nhiều!

Can qua tức tưởi trong triều

Nhưng thời lúc ấy có nhiều đổi thay.

Chu Văn An dạ thẳng ngay

Tâu ''xin chém bảy kẻ hay nịnh thần".

Siêu, Hài một dạ đỡ đần

Lão, Chi, Trung Ngạn góp phần lược thao.

Cùng nhau gìn giữ một trào

Đánh Chiêm Thành với Ai Lao quấy rầy.

Vẽ mình, tục cấm từ đây

Thâm tình một họ không bày kiện nhau.

Thái học sinh mở khoa đầu

Văn ôn, võ luyện cùng nhau giữ nòi.

III. TRẦN HIẾN TÔNG (1329-1341)

Niên hiệu: Khai Hữu

開祐

1. 2. Giặc Ngưu Hống. Giặc Ai Lao:

Minh Tông ra chiếu nhường ngôi

Lên mười, Thái tử Vượng ngồi ghế vua.

Hiến Tông hoàng đế kế thừa

Quốc sự mọi việc đều đưa Thượng Hoàng.

Thời ngài, giặc giã con con

Giặc trong Ngưu Hống và còn Ai Lao.

Quân Trần đánh, giặc cao bay

Quân Trần vừa tháo, lao nhao quấy rầy!

Hiến Tông hoàng đế yếu gầy

Mười ba năm vị, tới ngày phải xa.

Chương X

NHÀ TRẦN

Thời kỳ thứ ba (1341-1400)

I. TRẦN DỤ TÔNG (1341-1369)

1. Việc chính trị:

Nhằm khi vua trẻ băng hà

Người em lên kế hiệu là Thiệu Phong.

Thượng Hoàng định việc ngoài trong

Nhưng khi ngài mất, Dụ Tông rượu chè.

Đào hồ, đắp núi đâu dè

Ăn chơi, bài bạc... nào khe đói nghèo.

Giặc giã cướp phá ì xèo

Cơ đồ Trần đã bay vèo khỏi tay!

2. Việc giao thiệp với Tàu:

Bên Tàu, Nguyên cũng suy lây

Sĩ Thành, Hữu Lượng hai tay soán trào.

Họ Chu khởi nghiệp binh đao

Mười lăm năm đã lật nhào đế Nguyên.

Nhà Trần dẫu nhược uy quyền

Nhà Minh mới lập muốn liền nghỉ ngơi.

Chiêu an, Minh Đế mở lời

Dụ Tông sai sứ cống, thời được yên.

3. Việc giao thiệp với Chiêm Thành:

Chiêm Thành loạn lại đến phiên

Anh em dòng họ Chế liền chiếm ngôi.

Quân nhà Trần quá suy đồi

Đưa quân giúp Chế, thua oai, chạy về!

Chế Bồng Nga lúc bấy giờ

Vua Chiêm uy vũ tràn trề khí danh.

Đánh An Nam mở chiến tranh

Quân Trần không mạnh, tan tành dưới giông!

Duệ Tông, xa đọa thong dong

Mất năm Kỷ Dậu, không con nối dòng.

4. Dương Nhật Lễ:

Họ Dương có mẹ hát rong

Bỏ chồng, lấy Túc Vương ông ở triều.

Nhật Lễ tài chẳng bao nhiêu

Được Hoàng Thái hậu thương chiều mới ngông.

Triều thần chẳng chút đồng lòng

"Cung Định Vương mới là dòng dõi vua".

Dương Nhật Lễ cũng chẳng vừa

Vong ân bội nghĩa có thừa ác tâm.

Dứt nhà Trần, mưu đã thâm

Thái hậu bị trảm, hại ngầm dượng nuôi.

Thương người có mắt mà đui

Ma xui, quỷ khiến mà nuôi đứa này!

Triều thần bắt Lễ phơi thây

Cung Tĩnh Vương được rước ngay, cùng ngày.

II. TRẦN NGHỆ TÔNG (1370-1372)

Niên hiệu: Thiệu Khánh

紹慶

Nghệ Tông nhu nhược cầu may

Cho người ngoại thích ứ đầy quyền quan.

Họ Hồ dòng dõi Chiết Giang

Sang ta, đổi họ, sắp ngàn kế trong.

Hai người cô lấy Minh Tông

Sanh hai Thế tử gia phong nối dòng.

Nghệ Tông rồi đến Duệ Tông

Phong "Trung tuyên hầu" chức khỏi phòng họa sau.

Hai năm, Hồ tính trong đầu

Nhâm Tí ép Nghệ mau mau nhượng quyền.

III. TRẦN DUỆ TÔNG (1372-1377)

Niên hiệu: Long Khánh

隆慶

1. Việc chính trị:

Em vua, Thế tử thay phiên

Niên hiệu Long Khánh, tên miền: Duệ Tông.

Em Quý Ly cũng được phong

Lập làm hoàng hậu cùng tông họ hàng.

Họ Trần thiệt khéo làm ngang

Cô, dì, em, chú chẳng màng, lấy nhau!

2. Thi cử:

Giáp Dần, thi cử hàng đầu

Năm mươi Tiến sĩ vào chầu trước sau.

3. Việc đánh Chiêm Thành:

Quân Chiêm phá sập Hóa Châu

Duệ Tông thống lĩnh đánh nhau tuyến đầu.

Chế Bồng Nga với kế mầu:

''Giả hàng'' nên sớm lấy đầu Duệ Tông.

Lời thiêng vọng giữa thinh không

Vua ra chiến trận, mạng vong tế thần!

"Tiên trách kỷ. Hậu trách nhân"

Đánh qua, giết lại chỉ ngần ấy thôi!

Giỏi cho một lũ bọ giòi

Bỏ vua mà chạy, bề tôi nghĩa gì!

Đỗ Tử Bình với Quý Ly

Hám danh, chuộng lợi khác chi hạng bần.

Duệ Tông bướng bỉnh một phần

Bỏ mình giữa trận, phong trần liệt cương!

IV. TRẦN PHẾ ĐẾ (1377-1388)

Niên hiệu: Xương Phu

Lên ngôi cũng cháu Đế vương

Là Thái tử Hiển, tinh tường, trí thông.

Xương Phu đổi hiệu, đắng lòng

Mười một năm Đế, quyền không, bù nhìn.

1. Chiêm Thành sang phá Thăng Long:

Chiêm Thành đánh phá đô kinh

Ra vô như cá quẫy mình, sủi tăm.

Chế Bồng Nga quả không lầm

Vua Trần chẳng thể nào cầm quốc gia.

2. Tình thế nước Nam:

Sinh linh tán thán gần xa

Sưu cao, thuế nặng kêu la mỗi ngày.

Kho tàng trống hốc trong tay

Thuế thân từ đấy giáng chày xuống dân.

3. Nhà Minh sách nhiễu:

Nhà Nguyên kết thúc số phần

Nhà Minh sách nhiễu ngàn lần vét vơ.

An Nam cống vật mệt khờ:

Tăng nhân, cây quý đưa về Bắc phương.

Giáp Tý, bắt cống thạch lương

Đòi hỏi đủ thứ đo lường thực hư.

4. Nghệ Tông thất chính:

Nghệ Tông chẳng thể công tư

Quân binh không có coi như mất quyền.

Triều thần chỉ nghĩ tư riêng

Quý Ly, vua lại ưu tiên cậy nhờ.

5. Lê Quý Ly mưu giết Đế Hiển:

Nhà Trần ngó bộ tàn giờ

Nên cho ngoại tộc thừa cơ truất quyền.

Họ Lê làm chuyện đảo điên

Giết chết Đế Hiển ngang nhiên giữa triều.

Thượng Hoàng tâm mỏng, lòng xiêu

Thương cho Đế Hiển ít nhiều liệt trinh.

"Giải giáp" chẳng để cứu mình

Thân vua "thắt cổ" nhục hình, tội oan!

V. TRẦN THUẬN TÔNG (1388-1398)

Niên hiệu: Quang Thái

光扆

1. Phạm Sư Ôn khởi loạn

:

Chiêu Định con út Thượng Hoàng

Lên ngôi, dạ cũng héo hon cả lòng.

Quang Thái niên hiệu Thuận Tông

Làm vua tay vẫn trống, không chút quyền.

Giặc giã nổi dậy khắp miền

Vì "thượng bất chính", quan viên bất bình.

Nguyễn Thanh tức Đức Vương - Linh.

Sư Ôn, Vương Kị dấy binh bên ngoài.

Lương Giang, một cõi, Quốc Oai...

Với cùng Nông Cống đánh hoài ngày đêm.

2. Chế Bồng Nga tử trận:

Thanh Hóa lại bị giặc Chiêm

Chế Bồng Nga dẫn quân thêm, phá thành.

Quý Ly bại trận, chạy nhanh

Thiệt là nhục nhã thanh danh tướng Trần.

Thắng thua cũng đã định phần

Thượng Hoàng sai tướng Khát Chân xuống đường.

Hết thời, lũ giặc nhiễu nhương

Khiến thằng đầy tớ cùng phương, khiếp liền.

Phản vua, nó chỉ đúng thuyền

Họ Chế trúng đạn, quan viên cắt đầu.

Bồng Nga lừng lẫy còn đâu

Tài cao Bắc Đẩu, thua nhau thế, thời!

Chạy đâu cho thoát cơ trời

Tranh đua xâm lược khiến đời phải chê!

3. Lê Quý Ly chuyên quyền:

Từ khi chiến sự yên bờ.

Quý Ly kia lại trở cờ soán ngôi.

Công thần bị giết không thôi

Nghệ Tông mọi sự coi mòi chẳng xong!

Như con chim đã vào lồng

Mượn lời Lưu Bị mà hòng gỡ nhơ.

4. Nghệ Tông mất:

Làm hại tôn tử mà ghê

Cơ đồ đổ vỡ là... nghề... Nghệ Tông!

Thông minh, khí chất đã không

Đen, hồng quáng mắt, hư tròng, nhuốc nhơ!

Ba năm trị nước khù khờ

Vào năm Giáp Tuất, xa bờ, lánh non.

Hưởng dương bảy bốn xuân son

Hăm bảy năm giết hết con cháu mình.

VI. Lê Quý Ly mưu sự thoán đoạt:

Thái sư phụ chính trớ trinh

Quyết định đại sự, cũng mình Quý Ly.

So Trần Thủ Độ khác gì?

Đều là cướp đoạt ngôi vì thế gia!

Cá nhân tuy dạ xấu xa

Nhưng mà "đối địch" cũng ra hạng chì!

1. Việc tài chính:

Việc tài chính đến việc thi

Lưu hành tiền giấy tức thì hạnh thông.

Giấy cây rêu bể: mười đồng

Cái sóng, ba chục; phượng, rồng tính cao.

Ai làm tiền giả, trảm đao

Tiền giấy dân dụng, đồng hào nộp vua.

Mười mẫu ruộng, dân được mua

Đại vương, công chúa ruộng… chùa cứ thâu.

Dân gian phạm tội như nhau

Ruộng điền kia cứ đổi hầu chuộc thân.

2. Việc học hành:

Trường thi theo lệ định phân

Ám tả bãi bỏ, thế chân tứ trường.

Bài kinh nghĩa thi nhất trường

Nhị trường: thi phú, tam trường: biểu văn.

Thi Hội đã trúng, thì rằng

Làm thêm bài nữa định bằng thấp, cao.

Giáo chức lộ, phủ, châu nào

Châu: mười lăm mẫu, phủ vào mười hai.

3. Việc cai trị:

Y phục của các quan sai

Quý Ly định lại theo đai phẩm đồng:

Nhất, nhị phẩm tía đỏ hồng...

Cải tổ mọi thứ ngự phòng, đại đô

Bởi lòng muốn dựng nghiệp Hồ

Làm bao người đã xuống mồ ngán ngao!

4. Lập Tây Đô:

Tây Đô – Thanh Hóa xây trào

Quý Ly dời chuyển ra vào hiếp vua.

Bính Tý, xúi đạo sĩ hùa

Vào xui vua phải vô chùa bỏ đao.

Ép màn: ''Nhường nhịn ngôi cao''

Thuận Tông phải đổi áo bào mới yên.

Mười năm tại vị quá hiền  

Vua gì chẳng chút binh quyền tới tay!

5. Sự phế lập Trần Thiếu Đế (1398-1400):

Hạ hồi thiệt, giả nào hay

Thái tử ba tuổi, Hồ... bày giữa ngôi.

Kiến Tân lấy hiệu cho... oai

Hai năm đã bị phế ngôi, truất quyền!

Còn đâu vua sáng, tôi hiền

Cha truyền con nối, hết duyên họ Trần!

Thương loài tầm gởi náo thân

Cười đời con rận nương nhờ tóc râm.

Mười hai đời - cả trăm năm

Một thế kỷ quá thăng, trầm máu tanh!

Chống Mông Cổ, phá Chiêm Thành

Sửa sang bề cõi, rạng danh nước nhà.

Để rồi mất nước, chẳng qua

Nghệ con sa đọa, Dụ cha mắt lòa.

Để anh em chị gần xa

Lấy nhau loạn xạ đúng là loạn luân!

Chương XI

NHÀ HỒ

(1400-1407)

I. Hồ Quý Ly: (1400)

Niên hiệu: Thánh Nguyên

Quý Ly chẳng chút bâng khuâng

Họ Lê vội đổi ra khuôn Hồ - Tàu

"Nhà Ngu" vốn tổ từ lâu

"Đại Ngu" cải hiệu, mà đau giống dòng.

Theo Hồ, "Quốc tổ" mà phong

"Thánh Nguyễn" lấy hiệu để hòng phước sau.

Chưa chi đã phải đánh nhau

Trước sau gì cũng thua đau Chiêm Thành.

Làm vua chưa được rạng danh

Muốn làm Thái Thượng, Hồ đành nhượng ngôi.

II. HỒ HÁN THƯƠNG (1401-1407)

Niên hiệu: Thiệu Thành

1. Việc võ bị:

Hán Thương nối nghiệp cha rồi

Làm vua cho có vị thôi, gọi là…

Triều cương lớn nhỏ, gần xa

Trong ngoài chính sự phải qua họ Hồ.

2. Việc sưu thuế:

 Thuyền buôn theo loại mà hô

Nhất nhị tam cứ ra vô tính tiền.

Nhà Hồ định lại thuế điền

Làm như thuyền loại, thu tiền giống nhau.

3. Việc học hành:

Toán Pháp được đặt hàng đầu

Thêm trường, thêm cách ngõ hầu mở mang.

Đậu thi Hương muốn làm quan

Phải vào Bộ Lễ qua màn kiểm văn.

Thi Hội đã đổ, quan đăng

Thái học sinh bảng đỏ giăng rỡ ràng.

Y tỳ coi việc thuốc thang

Coi như cải cách mở mang nhà Hồ.

4. Việc giao thiệp với Chiêm Thành :

Với Minh, lượn đợt sóng xô

Họ lăm lăm cứ muốn vồ An Nam.

Với Chiêm Thành, dạ chẳng cam

Mộng xa đánh lấy đất Chàm, cất binh.

Nhâm Ngọ, Đỗ Mãn xuất chinh

Vua Chàm Ba Đích Lại xin hiếu hòa

Cổ Lụy, Chiêm Động khói lòa

 Dân Chàm bỏ đất, bóng nhòa xót xa.

Được voi đòi tới tiên nga

Hai mươi vạn lính đánh qua Chiêm Thành.

Nguyên Khôi, Đỗ Mãn hư danh

Đồ Bàn chẳng đổ mới đành rút binh.

5. Việc giao thiệp với nhà Minh:

Nhà Minh tham vọng hết mình

Mượn chuyện Hồ giết Thiêm Bình, nổi phong.

Thiêm Bình dòng dõi Nghệ Tông

Khi không đem cả tổ tông tế thầy.

Ngôi vua Trần mất nào hay

Nghệ Tông mờ trí sinh bầy cháu đây.

Họ Hồ kia đã lên thay

Đánh Minh thấy cũng chung xây nước nhà.

Nhà Minh một lũ quỷ ma

Chu Năng, Mộc Thạnh với là Lý Bân.

Trả thù nên mới xua quân

Làm ra cái cớ phù Trần lấn chân!

6. Nhà Minh đánh họ Hồ:

Quý Ly chuẩn bị mọi phần

Nhưng ngôi soán nghịch, mất dần bụng dân.

Trương Phụ dùng kế ly thân

Truyền hịch kể tội bất nhân họ Hồ.

7. Thành Đa Bang thất thủ:

Thành Đa chẳng thể phá vô

Mộc Thạnh cho đốt lửa khô phá lần.

Thành Đa thua đã mười phân

Đông Đô cướp của, hiếp dân, bắt người.

8. Trận Mộc Phàm Giang:

Đinh Hợi, Mộc Thạnh trêu ngươi

Dàn quân thuỷ lục nuốt tươi Nguyên Trừng.

Ba trăm thuyền chiến giữa chừng

Hai bên lính giặc như rừng phủ giăng.

Quân Mộc Thạnh khí đang hăng

Bình Than, bỏ hẳn, Hồ... thăng Bến Hàm.

9. Trận Hàm Tử Quan:

Thua đau, tức tưởi nhà Hồ

Như sói mắc phải cọp vồ trong mưa!

Đâu là Hàm Tử Quan xưa

Giặc chưa đánh đến, lính... đưa giáo hàng!

Núi Cao Vọng, họ Hồ tàn

Đều bị bắt sống, người hàng, kẻ không.

Bảy năm công sức đổ đồng

Dã tràng xe cát biển đông máu đào.

Vinh hoa giống tựa chiêm bao

Phú quý thoáng chốc lao xao thác gào!

Làm chi cái chuyện loạn trào

Để cho tiếng xấu đi vào vạn thu.

Ham danh chỉ nghĩ lợi mình

Lo tranh quyền lực, quên tình nước non.

Cầu người, ''nhục thể bất quờn''

Chỉ đi rước cáo, rửa hờn vịt thôi!

Chương XII

NHÀ HẬU TRẦN

陳後

(1407-1413)

1. Nhà Minh chiếm giữ đất An Nam

:

Nhà Minh giả dối nước đôi:

"Phù Trần'' là cách hạ hồi. Hỡi ôi!

An Nam đã chiếm được rồi

Mới lòi đuôi cáo tha mồi tới hang.

Cắt quan cai trị tham tàn

Đất chia muời bảy Phủ đàng, năm Châu.

Mười hai Vệ giữ yếu đầu

Ba ti "Bố, Án, Chưởng" hầu dã tâm.

Phẩm hàm tặng kẻ… sơn lâm

Tài đức, học giỏi tráo nhầm giả, chân.

Cho thành quan phủ, quan thân

Ai người liêm sĩ mà cần lợi danh?

2. Giản Định Đế (1407-1409):

An Nam tình thế mong manh

Lữ Nghị, Hoàng Phúc thi hành thế oai.

Ai mong thoát kiếp tôi đòi

Noi theo Trần Quĩ hạ hồi lập công.

Trần Quĩ con thứ Nghệ Tông

Xưng hiệp Hưng Khánh, tay không dựng Trần.

Chiếm Châu, binh được mấy phần

Quan lại, hào kiệt, quân dân lại hầu.

3. Trận Bô Cô:

Quân Minh bốn vạn tan mau

Lữ Nghị bỏ mạng thân... trâu, đáng đời!

Dèm pha, Giản Đế hợt hời

Nghe lời kẻ nịnh, đầu rơi đại thần.

4. Trần Quý Khoách (1403-1413):

Còn đâu Đặng Tất, Cảnh Chân...

Công thần lại nhận phước phần chẳng may!

Đặng Dung, Cảnh Dị buồn thay

Rời vua vì phụ thân rày thác oan.

Trần Quý Khoách được suy tôn

Cũng là cháu của Nghệ Tông - Thượng Hoàng.

Lên ngôi lấy hiệu Trùng Quang

Hòng mong khôi phục giang san họ Trần.

Nhưng mà mỗi cõi tự phân

Hiệu lệnh không nhất, quân dân mất đầu.

5. Trương Phụ trở sang An Nam:

Trương Phụ thắng trận, giết ngầu

Rút xương, nấu thịt, chảy dầu ngó chơi!

Ác nhơn, ai nấy rụng rời

Hung đồ đắc ý, coi trời bằng vung!

Quân Hậu Trần lắm tin hung:

Giản Định bị bắt, quân trung tận cùng.

Giặc bao vây đánh tứ tung

Hóa Châu thất thủ, chết chung tướng Trần.

Nguyễn Biểu không hổ sứ thần

Mắng giặc bị giết, xứng thân kẻ hùng.

Phần Trần Qúy Khoách, Đặng Dung

Cảnh Dị... tử tiết, gương trung rạng ngời.

6. Hóa Châu thất thủ:

Thái Phó tiếng xấu để đời

Phan cha hàng giặc, con thời bất trung.

Phan Liêu giở thói gian hùng

Bao nhiêu tướng sĩ khai cùng họ Trương.

Trương Phụ nhân thế đã tường

Bàn qua Mộc Thạnh mở đường Hóa Châu.

Đặng Dung, Nguyễn Suý chặn đầu

Lên thuyền Trương Phụ biết đâu người nào?

Trương Phụ khí số còn cao

Thuyền con xa chạy, rồi vào đánh ra.

Hậu Trần vua tướng ra ma

Bất khả nhục một bài ca để đời.

"Thuật Hoài" truyền tụng mọi nơi

Đặng Dung viết với những lời đắng cay:

"Tuổi già bao việc rối thay

Vô cùng trời đất hưởng say cuộc này.

Gặp thời, bần tiện ngất ngây

Anh hùng lỡ bước ngẫm cay đắng thừa.

Nghiêng vai đội đất phò vua

Tẩy binh gội rửa mây đùa gió trong.

Bạc đầu, thù nước chửa xong

Mài gươm dưới bóng trăng trong bấy rày".

Bảy năm máu chảy sông đầy

Lòng người ly tán, xương dày núi cao!

Non sông lại tắm máu đào

Hờn căm một thuở anh hào có hay?

Chương XIII

THUỘC NHÀ MINH (1414-1427)

1. Việc chính trị nhà Minh

:

Nhà Minh sinh sát trong tay

Thẳng lưng bóc lột, đọa đày nước Nam.

"Đồng hóa" sách lược đã làm

Phong tục, tập quán phải cam với Tàu!

2. Việc tế tự:

Hoàng Phúc bắt các phủ, châu

Bách thần, Văn miếu thi nhau phụng hầu.

3. Cách ăn mặc:

Bắt dân ăn mặc theo Tàu

Tóc không cho cắt để hầu hóa dân.

4. Sự học hành:

Mở nhà học dạy các phần:

Âm dương, thầy thuốc... đều cần chức quan.

Sư tăng, đạo sĩ đăng đàn

Giảng truyền đạo lý cho hàng thứ dân.

Tứ Thư, Tinh Lý mà phân

An Nam sách vở đong cân lấy về.

Chức quan phân bổ ê chề

Hiếm hoi như đếm hai bờ ngón tay!

5. Việc trạm dịch:

Đông Quan - Hà Nội ngày nay

Đến Gia Lâm chạy giấy ngày: Ngựa phi.

Còn thì thuyền biển kéo đi

Hai loại trạm dịch: Ngựa phi với thuyền!

6. Việc binh lính:

Tính theo sổ bộ phân biên

Hai hay ba xuất tùy miền có dân.

7. Phép Hộ thiếp và Hoàng sách:

 Mỗi người có giấy hộ thân

Ghi tên tuổi với gia phần ở đâu?

Tên không đúng giấy, tóm mau

Bắt đi làm lính đương đầu súng gươm.

Lý trưởng, Giáo thủ gờm gờm

Coi việc Lý, Giáp roi đòn gớm ghê!

8. Việc thuế má:

Dâu mỗi mẫu, một lạng tơ

Mỗi cân tơ thuế một tờ lụa trơn.

Thuế ruộng chẳng có nhẹ hơn

Còn thêm thuế muối xanh dờn mặt dân.

9.Việc sưu dịch:

Trương Phụ rồi đến Lý Bân

Thêm Mã Kỳ nữa ác nhân lạ nòi.

Phu phen, khổ ải muôn nơi

Lên rừng, xuống biển tàn hơi một đời.

10. Quan lại:

Duy Trung, Nhữ Hốt hợt hời

Nguyễn Huân nịnh giặc dựa hơi, đáng nguyền.

Vô liêm sĩ đến thản nhiên

Tham lam vơ vét của riêng một mình.

Non sông máu đổ chiến chinh

Lam Sơn khởi nghĩa, Chí Linh nặng thề.

Chương XIV

MƯỜI NĂM ĐÁNH QUÂN TÀU

(1418-1427)

1. Lê Lợi (

鯬利

) khởi nghĩa ở Lam Sơn

:

Lam Sơn ruộng núi muôn bề

Lê Lợi giàu có bằng nghề ruộng nông.

Giúp người hào kiệt lưu vong

Người nghèo, kẻ khó những mong được về.

Nhà Minh dụ dỗ chán chê

Lợi thà giữ tiếng, chẳng về với Minh.

Truyền Hịch, giặc giết sinh linh

Dựng cờ nghĩa xưng Bình Định Vương.

Thế thiên hành đạo lẽ thường

Đánh nhau vài trận đã tường trí cao.

Khởi đầu lương cạn, gian lao

Thế cô sức yếu rút vào Chí Linh.

2. Về Chí Linh lần thứ nhất:

Lê Lợi bị giặc phục binh

Vợ con để chúng mặc tình lý lao.

3. Về Chí Linh lần thứ hai:

Lần hai bị bắt suýt xao

Lê Lai phải đổi áo bào cứu Vương.

Liều mình cứu chúa can trường

Đem thân Kỷ Tín mà nhường Hán Cao.

4. Bình Định Vương về đóng Lư Sơn:

Lê Lợi cầu cứu Ai Lao

Thu tàn quân lại tiến vào Lư Sơn.

Dưỡng thanh thế, đánh trả hờn

Phục binh thẳng trớn mà vờn Lỗi Giang.

Gặp ngay Nguyễn Trãi giữa đàng

Dâng "Bình Ngô sách" luận bàn chuyện quân.

6. Nguyễn Trãi

阮廌

Cháu ngoại Nguyên Đán nhà Trần

Cùng Trần Nguyên Hãn hai thân một cành.

Con bảng nhỡn Nguyễn Phi Khanh

Bị nhà Minh bắt về thành Kim Lăng.

Nam Quan ải cũ truyền rằng:

Nguyễn Trãi níu áo, chùng chằng, lệ rơi.

Phi Khanh nghĩa khí mấy lời:

"Thù cha, nợ nước, con thời nhớ cho''.

Quay về, Nguyễn Trãi đắn đo

Đêm ngày viết những câu hò nhặt khoan.

"Bình Ngô" kế sách vẹn toàn

Đêm dâng Lê Lợi cho tròn hiếu nhân.

7. Bình Định Vương phá quân Trần Trí:

Trần Trí mang mấy vạn quân

Vậy đồn Ba Lậm hậu sân có Lào.

Lê Lợi phục sẵn đánh vào

Quân Minh bỏ chạy, quân Lào kéo sang.

Lầm mưu tưởng địch đã hàng

Lê Thạch tử trận, giặc càn rút chân.

8. Về Chí Linh lần thứ ba:

Trận đầu thắng bại đã phân

Chí Linh ở tạm đến lần thứ ba.

Quân binh đói chỉ còn da

Ăn cả voi ngựa, may ra, sống còn!

Hết lương nhưng ý chẳng mòn

Gan vàng thử lửa hóa còn trí mưu!

Lê Trăn thương thuyết "cương nhu"

Hòa hảo cùng với quân thù, dưỡng binh.

9. Bình Định Vương hết lương phải hòa với giặc:

Quan Minh mệt mỏi, thuận tình

Lương trao, bạc ném ra hình thiện chung.

Trần Trí, Sơn Thọ sinh lung

Nghi là giả kế, bắt Lê Trăn cùng.

Biết giặc nghi hoặc lung tung

Tuyệt giao, Lê Lợi về vùng Lư Sơn.

10. Bình Định Vương lấy đất Nghệ An:

Quân binh thế đã mạnh hơn

Giáp Thìn, quân tiến chập chờn Nghệ An.

Nhữ Hốt, Phương Chính hồn tan

Trà Long chiếm lại, Ba Căng cũng về.

Vua Minh nhận sớ, bất ngờ

Vội truyền chiếu chỉ hẹn giờ phải xong.

Trần Trí, Phương Chính sợ gông

Xua binh thủy bộ trong hòng đánh ra.

Đinh Liệt ra giữ Đỗ Gia

Bắt Chu Kiệt cũng không tha Hoàng Thành.

Trần Trí khiếp vía trốn nhanh

Lý An hoảng hốt thủ thành, tính sau.

11. Vây thành Tây Đô:

 Đinh Lễ vây đánh Diễn Châu

Đuổi Trương Hùng chạy, lương thâu lính dùng.

Lưu Nhân, Lê Sát hợp cùng

Đinh Lễ lại trổ sức sung hạ thành.

Tây Đô thất thủ đã đành

Tân Bình, Thuận Hóa cũng dành tới tay!

12. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa:

Cướp lương, Đinh Lễ phủ vây

Nguyên Hãn, Lê Nổ... đều tay tướng trời.

''Đại Thiên Hành Hóa'' ra đời

Sức như bão nổi bù thời thế cô!

13. Quân Bình Định Vương tiến ra Đông Đô:

Tiến quân dần đến Đông Đô

Uy danh lừng lẫy, nghiệp đồ đã cao.

Tuyên Quang chặn cửa ra vào

Vân Nam binh cứu đợt nào cũng tan.

Nguyễn Xí binh thẳng Đông Quan

Trần Trí chống giữ chờ đàng viện binh.

Lý Triện, Văn Xảo thông minh

Chia quân hai ngã phá binh viện vào.

Nhận thư Thái Phúc mật trao

Phương Chính vội vã đi vào Đông Quan.

Thái Phúc ở lại Nghệ An

Lê Bôi, Lê Thận, Lê Ngân đánh ào.

Nghiêm hình, kỷ luật khá cao

Người theo đầu phục vái chào nghĩa binh.

Đông Đô, thủ chắc như đinh

Lê Lợi hạ lệnh quân mình rút mau.

14. Trận Tụy Động: Vương Thông thất thế:

Bị thua mấy trận phủ đầu

Quân Minh khiếp sợ vội cầu cứu binh.

Vương Thông sắp sẵn lộ trình

Năm vạn binh mã hợm mình kéo sang.

Trần Tín rớt mão, rụng gan

Phương Chính thất trận, xung hàng lính công.

Nhà Minh đã bớt cuồng ngông

Khẩn sai thống lĩnh Vương Thông thế quyền.

Lý Triệu thua, thắng liên miên

Lý Lượng, Trần Hiệp tới phiên... chịu sầu.

Quân Minh như rắn mất đầu

Tranh nhau dẫm đạp qua cầu, thảm thê!

Mã Kỳ, Phương Chính quăng cờ

Cùng Vương Thông kéo nhau về Đông Quan.

15. Vây thành Đông Đô:

Người theo Vương có hàng ngàn

Trẻ già, hào kiệt vội vàng nhập quân.

Lê Lợi giảng giải nghĩa nhân

Anh tài hữu dụng thì thân được dùng.

Đông Đô chia lại bốn vùng

Đông Tây Nam Bắc đạo, chung sống còn.

16. Vương Thông xin hòa lần thứ nhất:

Bấy giờ, Thông quá kinh hoàng

Muốn bãi binh, ngại không còn tiếng chi!

Liền dùng "sách cũ" một khi:

"Ai con cháu họ Trần thì mới Vua".

Bình Định Vương nuốt chanh chua

Mở lòng trắc ẩn mà mua lấy tình.

Chẳng ngờ, giặc lại trớ trinh:

Mặt ngoài hòa thuận, trong mình đặt chông.

Số là phản nước Trần Phong

Với Lương Nhữ Hốt sợ "gông" nếu hòa.

Lấy gương Ô Mã ngày qua

Giữa dòng bị cọc, hù hà Vương Thông.

17. Bình Định Vương đóng quân ở Bồ Đề

Bình Định Vương đã đề phòng

Bắt thằng thư tín, ''niêm phong'' Bồ Đề.

Nghệ An, Thái Phúc não nề

Diễn Châu, Tiết Tự, thất cơ, phải hàng.

Đánh đâu, thắng đó dễ dàng

Lại vì khinh xuất, địch càn Từ Liêm.

Thanh Trì, Phù Liệt mất thêm

Triện, Lễ bị giặc lẻn đêm, giết dần.

18. Bình Định Vương đặt pháp luật

để trị quân dân:

Lê Lợi ra "kỷ luật quân"

Phạm ba điều cấm, bất phân, gia hình:

"Gian dâm, khinh mạn, vô tình

Phạm nhằm tội ấy, dứt tình, chẳng tha''.

Mười điều kỷ luật tướng gia:

"Ồn ào, đặt chuyện để mà lính kinh.

Ra trận, cờ phất, chùng chình

Phòng không gìn giữ, nghe chiêng chẳng lùi.

Lo vợ con, việc binh lười

Mập mờ sổ lấy tiền người, ác dâm...

Theo bụng yêu ghét để lầm

Phạm điều ấy, chém! Khắc tâm mọi ngày''.

Quân đi, dân kính phục thay

Quân về, người vẫy cờ bay đón mừng.

19. Trận Chi Lăng: Liễu Thăng tử trận:

Chi Lăng chiến thắng vang lừng

Liễu Thăng bị mắc trong rừng núi dao.

Đầu rơi tại Mã Pha Đao

Lương Minh bị chém khi lao trận tiền.

Lý Khánh khiếp, phải tự quyên

Hoàng Thúc, Thôi Tụ vội liền tháo thân.

Tướng Trần Nguyên Hãn... chặn chân

Cướp đường lương thực, "rút gân" lũ gi òi.

Tướng nhà Lê: Vấn, Xí, Khôi

Đêm quân thiết đội vây ngoài, bủa trong.

Thôi Tụ, Hoàng Phúc vội… dông

Quan binh bắt lại, chẳng hòng thoát ra.

20. Vương Thông xin hòa lần thứ hai:

Mộc Thạnh hoảng hốt chạy xa

Vương Thông kinh hãi, bèn ra nghị hòa.

Lê Lợi chẳng sợ điêu ngoa

Thuận tình chấp nhận nghị hòa vớ i Thông.

21. Trần Cao dâng biểu xin phong:

Trần Cao dâng biểu xin phong

Đưa nhiều cống vật mà mong thuận đò.

Nhà Minh biết giả, vẫn cho

Tuyên Tông Minh Đế hẹn hò giải binh:

Chỉ cần thả những con tin

Bỏ tòa Bố Chính, thôi binh, rút cầu.

Có người muốn khỏi họa sau

Xúi Lê Lợi giết tránh lâu họa mình.

Bình Định Vương nói chí tình:

"Báo ân, báo oán rập rình được chi.

Đã hàng còn giết, đức gì

Mở con đường sống, ai đi hại người.

Ghê gì ham uống máu tươi

Giết người tay trắng, tiếng cười vạn năm!"

Mấy lời nghe có từ tâm

Giặc về còn cấp năm trăm chiến thuyền.

Tiễn đưa như thể hàn huyên

Từ xưa chẳng vậy, danh truyền hiếm thay!

Non sông một bóng cờ bay

Trời Nam nước Việt từng ngày sáng trong.

22. Tờ Bình Ngô Đại Cáo:

吳大

Bình Định Vương dẹp giặc xong

"Bình Ngô Đại Cáo" mấy dòng giải phân:

''Nhân nghĩa cốt ở yên dân

Điếu phạt khử bạo cũng ngần ấy thôi!

Nước Việt, văn hiến đi đôi

Sơn xuyên, Nam Bắc xa xôi cũng gần.

Từ Triệu, Đinh, Lý đến Trần

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên phân mỗi phần.

Cường nhược lúc khó định phân

Đời nào cũng có dấu chân anh hào!

Lưu Cung tham quá té nhào

Triệu Tiết mộng lớn để vào tử vong.

Toa Đô - Hàm Tử vào tròng

Bạch Đằng cuộn sóng cuốn dòng Mã Nhi.

Kê Chư vãng cổ còn ghi

Rõ ràng chứng cớ quá chi tỏ tường!

Vừa rồi, Hồ đã khoa trương

Chính sự cuồng loạn, bốn phương chán chường.

Cuồng Minh mượn cớ nhiễu nhương.

Gian tà bán nuớc, theo phường lợi vinh.

Lửa hung tàn nuớng dân tình

Hầm giam con đỏ, bỏ mình vạ vương.

Dối trời, lừa đất khôn lường

Hai mươi năm kế kiếm đường hại dân.

Càn khôn nát nghĩa bại nhân

Núi non thuế má vét gần thớt thưa.

Đào mỏ núi, lam chướng thừa

Xuống biển mò ngọc chưa vừa túi tham.

Những trông hố bẫy hươu đen

Lưới dò chim sả đã quen săn lùng!

Tàn hại cả giống côn trùng

Không chồng, không vợ, hãi hùng biết chăng?

Chúng há miệng máu, nhe răng

Xây nhà đắp đất chẳng rằng: Chán ch ưa?

Tay nào phục dịch cho vừa

Bắt người canh cửi, lọc lừa xiết bao!

Dơ thay! Đông Hải máu đào

Ác này trúc Khánh Nam nào đủ ghi!

Thần nhân phẩn nộ sầu bi

Trời kia cũng chẳng thể chi khoan hồng.

Lam Sơn binh dấy đồng lòng

Cùng lũ nghịch tặc thề không đội trời.

Đau lòng mười mấy năm rồi

Nằm gai, nếm mật hạ hồi trở trăn...

Đêm ngày phát giận quên ăn

Sách xưa thao lược băn khuăn dưới mành.

Cổ, Kim suy xét ngọn ngành

Nghiệm ra biết lẽ: Hưng, Thành, Bại, Hư.

''Đồ hồi" mộng mị, cương, nhu

Nổi cờ nghĩa lúc quân thù gieo tai.

Sao Mai - Tuấn Kiệt chẳng ai

Nhân tài như lá thu phai, võ vàng!

Nơi mưu sự thiếu kẻ bàn

Đỡ đần văn, võ hiếm hàng trước sau.

Cứu dân vẫn lấy làm đầu

Con mắt chỉ thấy dầu dầu: Đông Đô.

Người hiền tả, hữu nơi mô

Cổ xe vắng bóng trống khô giữa đời!

Tự ta bơi giữa biển khơi

Cứu người chết đuối một trời tính toan.

Giận hung đồ quyết sống còn

Lo nỗi nước cũng mỏi mòn khó khăn.

Linh Sơn, lương cạn đói nhăn

Thôi Huyện, quân thiếu chỉ bằ ng bấy nhiêu!

Trời trao khốn khó quá nhiều

''Kiên cường'' ta đã lấy điều làm gương.

Cờ bay, gậy múa bốn phương

Tiệc rượu tướng sĩ một phường cha con.

Yếu chống cường, vững tâm son

Địch nhiều, ta ít nhưng còn dạ gan.

Muôn đời: Nghĩa thắng hung tàn

Lấy chí nhân cản bạo tàn, ác gian.

Bồ Đằng một trận sấm vang

Trà Lâm trúc chẻ tro than xa, gần!

Quân thanh thế mạnh, khí thần

Trần Trí, Sơn Thọ tứ thân điếng hồn.

Lý An, Phương Chính bồn chồn...

Tây Kinh quay ngược càn khôn, rút về.

Tuyển quân tiến đánh tứ bề

Đông Đô ta lại lấy về được ngay!

Ninh Kiều, máu chảy, trôi thây

Tụy Động, xác chất dơ đầy vạn năm.

Trần Hiệp, chi tặc phúc tâm

Lý Lương gian, chết dập bầm, rã thây!

Lũ Vương Thông cạn cách bày.

Mã Anh hết xảo đường này, kế ma.

Trần Trí khiếp vía lạy tha

Ta lấy đức phát, chúng đà chịu thua.

Tưởng đâu chúng hết dám đùa

Ngờ đâu kiếm cớ mà mua lấy phiền.

Chỉ quen đổ vạ, thiệt điên

Bày trò nhơ nhuốc, oan khiên một đời.

Nhãi con Tuyên Đức tưởng chơi

Đổ dầu vào lửa: Khơi khơi tướng quèn!

Đinh Mùi tháng chín: Liễu sang

Tháng mười: Mộc Thạnh nghênh ngang tiến vào.

Chỗ hiểm, ta chận xít xao

Sau, ta sai tướng đào hào, chận lương.

Ngày mười tám, Thăng cùng phương

Hai mươi, mất hướng, chết đường Mã Yên.

Ta đường lương đạo tuyệt liền

Lại điều binh giữ những miền tối tăm.

Lương Minh bị hãm, hăm lăm

Hăm tám, Lý Khánh kế lầm, tự vong.

Lưỡi dao ta sắc, lượn vòng

Khiến ngọn giáo giặc lồng bồng khoảng không.

Thành vây bốn phía niêm phong

Mười lăm, hẹn diệt giặc trong tháng mười.

Binh sĩ khí tựa nai, hươu

Bầy tôi đủ mặt dũng mưu, vẹn toàn.

Gươm mài, núi đá phải mòn

Voi kia khát uống, không còn nước sông!

Trận đầu, kình ngạc nổi phong

Trận sau, chim chóc muôn giòng phá banh.

Gió to quét sạch lá cành

Tổ kiến hổng sụt, đê thành vỡ toanh.

Thôi Tụ vì thế mất danh

Hoàng Thúc tự trói để thành bại binh!

Lạng Giang tắc nghẽn thây sình.

Bình Than máu lính bỏ mình đ ỏ sông.

Gió mây biến sắc trên không

Trời trăng ảm đạm không dòng sáng trong.

Binh Vân Nam khiếp, ngã lòng

Không phương trốn chạy, ách dòng Lê Hoa!

Trận Cần Trạm, Thăng thua to

Mộc Thạnh như thỏ, co giò trốn mau.

Đỏ ngầu suối máu Lãnh Câu

Đan Xá, thây chất gọi sầu núi cao!

Đầm đìa cỏ nội, máu đào

Cứu binh hai mặt té vào hố sâu.

Các thành mất chúa, khấu đầu

Bỏ dao, cởi áo để hầu được tha!

Tướng giặc chúng đã hàng ta

Cọp, Lân đuôi vẫy, lột da, chịu hàng!

Thể lòng trời đất lầm than

"Thần vũ bất sát", mở đàng chúng đi.

Nội quan, tham tướng Chính, Kỳ

Năm trăm thuyền cấp để đi về Tàu.

Giữa khơi hồn lạc, phách rầu

Tổng binh, tham chính Thông hầu kém đâu!

Dưới thuyền, trên ngựa như nhau

Chạy về đến nước, váng đầu, thất kinh!

Có câu: "Úy tử, tham sinh"

Chúng đã sợ chết mà xin hiếu hòa.

"Toàn quân vi thượng" xê xoa

Đất nước thoát họa, xóa nhòa bóng mây!

Ấy là mưu kế sâu dày

Cũng là chưa thấy xưa rày, tới nay!

Non sông rạng rỡ mặt mày

Nước nhà cũng đã thấy ngày được yên!

Đất trời quang đại đến phiên

Trời trăng mờ tối đã liền phục sinh!

Ngàn năm quang đại thái bình

Nhục thiên cổ hết, oan tinh sạch làu!

Tổ tiên, trời đất ơn sâu

Ông bà linh hiển cùng nhau hộ trì.

Ô hô! Một mảnh nhung y

Vẫy vùng chi chí công ghi đại thành.

Một nhà bốn biển sóng xanh

Mở hội Vĩnh Thạnh mà thành duy tân.

Bố này báo khắp xa, gần

Rỉ tai nhau rõ những phần xảy ra!"

Chương xv

NHÀ LÊ

(1428-1188)

THỜI KỲ THỐNG NHẤT (1428-1527)

I. LÊ THÁI TỔ: (1428-1433)

Niên hiệu: Thuận Thiên

順天

1. Bình Định Vương lên ngôi tôn:

Non sông đã hết phong ba

Đến phiên Lê Lợi dọn nhà, đổi ngôi.

Ngặt vì cớ sự đã rồi

Trần Cao, ngôi vị đang ngồi ngự chơi.

Trước kia, Lợi muốn hợp thời

Lập Trần Cao để trả lời giặc Minh.

Trần Cao nghĩ cũng oan tình

Giữa đàng ách đã dính mình nạn tai.

Ba chân, bốn cẳng chạy dài

Cái ải thuốc độc đợi ngài đã lâu.

Ngẫm mà buồn kiếp thân trâu

Ruộng cày đã hết, duyên trâu chẳng còn!

Thí Cao, Lợi lấy ngôi son

Xưng Lê Thái Tổ chẳng còn vướng chân.

Lừa Minh, Lê Lợi phân vân

Kêu rằng "cháu chắt nhà Trần chẳng ai''.

Bắt quan, dân viết tờ khai

Nhà Minh mới thuận phong ngài tước Vương.

Ba năm lệ cống như thường

Đúc người vàng nộp, nhịn nhường trước sau.

Vì rằng, quốc thổ gần Tàu

Giang sơn lớn nhỏ tranh nhau đã từng.

Chi bằng lễ vật mà dưng

Cho Tàu đừng có thăm chừng nước ta.

Bên ngoài, dứt việc can qua

Bên trong, tưởng thưởng cùng ca thái hoà.

Hàng văn, Nguyễn Trãi phong hầu

Hàng Võ, Lê Vấn đứng đầu tướng quân.

Mang "Quốc tính" thưởng hiền thần

Thay dòng cả thảy xem gần mấy trăm.

Suy ra, kể cũng cười thầm

Thay danh, đổi họ, ai ngầm thích đâu!

Quốc Công - Nguyên Hãn công đầu

Thái Úy - Văn Xảo, đứng đầu võ văn.

Những người trung nghĩa hay chăng

Công thần đệ nhất cũng... văng giữa đồng!

"Thượng trí tự": Thưởng nhất công

"Đại trí tự": Thưởng cho dòng nhị công.

"Trí tự": Tưởng thưởng tam côn g

Học hành, cai trị, cũng đồng... tạm an.

2. Việc học hành:

Học hành đã được sửa sang

Mở Quốc tử giám cho hàng sĩ nho.

Tứ phẩm thi Minh kinh khoa

Phật, Lão thi đậu vào tòa sĩ, tăng.

3. Luật lệ:

Theo Đường năm tội mà răn

Lưu, Xuy, Đồ, Trượng, nặng chăng: Tử hình.

Công thần mắc tội, lưu tình

Con cái thì được sá hình bởi công.

Già yếu miễn bớt xiềng gông

Tội cắp mà nhận cũng đồng giảm cho.

Rượu chè, đổ bác, phạt to

Đánh trượng hoặc chặt cho què tay chân.

Hình phạt ấy có bất nhân

Nhưng đời lắm kẻ lười mần, thích ăn.

4. Việc cai trị:

Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An

Hải Tây, Thanh Hóa năm hàng đạo quan.

Mỗi đạo, Hành Khiển giữ an

Đại xã thì có dân gian trăm người.

Trung xã thì có năm mươi

Tiểu xã thì chỉ mười người trở lên.

5. Phép quân điền:

Thái Tổ định phép "quân điền"

Công điền, công thổ chia liền với nhau.

Thứ dân với những công hầu

Giàu nghèo chưa hẳn thấy đâu bến bờ.

6. Việc binh lính:

Mười vạn ở lại nước nhờ

Mười lăm vạn nọ trở về ruộng nương.

Năm phiên chia lính tỏ tường

Phân nhau đi ở mà thường bảo ban.

7. Công thần bị giết:

Ngoài yên, trong nẩy nghi gian

Lê Thái Tổ lại giết quan đại thần.

Có câu: "Điểu tận, cung tàn"

Hết thỏ thì mạng chó săn chẳng còn.

Công danh đã chẳng vẹn toàn

Một người bị hại, chết oan mấy dòng.

Trần Nguyên Hãn tướng Quốc Công

Thái Úy Văn Xảo giữ không nổi đầu!

Xưa nay, mấy kẻ hiểu câu:

"Công thành, danh thoái" sâu như Tử Phòng?

Giúp Lưu Bang dựng nghiệp xong

Từ quan ẩn dật mới hòng giữ thân.

Đến phiên Thái Tổ lìa trần

Ngôi vua chừng ấy chỉ ngần sáu năm.

Công lao đi với lỗi lầm

Thọ bốn mươi chín về... thăm cửu truyền!

Sang sông gọi gió đưa thuyền

Bờ kia tới được thì nguyền gió đông!

II. LÊ THÁI TÔNG (1434-1442)

Niên hiệu: Thiệu Bình

紹平

-

Đăng cơ, Thế tử Nguyên Long

Nghị bàn quốc sự qua... ông Tư đồ.

Mười một tuổi biết chi mô

Phụ chính Lê Sát tha hồ dọc ngang.

Cậy công, trái phép, làm càn

Khi Thái Tông lớn, kiếm đàng diệt ngay.

Thời này, vua chẳng gặp may

Trời gây lũ, hạn, phá bay mùa màng.

Việc thi cử có sửa sang:

Năm năm Hương thí, Hội hàng sáu năm.

Nhăm Tuất, Tiến sĩ hàn lâm

Tạc tên bia đá nở mầm sử xanh.

Tiền và lụa vải thông hành

Vải hăm bốn thước cho thành một cây.

Sáu mươi đồng - một tiền đây

Lụa ba mươi thước - đóng đầy tấm trơn...

Tấm vải: Hăm bốn thước hơn

Còn giấy một tập tính tròn: Trăm thôi.

Những cải cách ấy nước đôi

Chấn chỉnh đánh trống để rồi bỏ xuôi.

Nói về vua trẻ ham vui

Đắm say tửu sắc mà vùi chí trai!

Nguyễn Trãi bị hại:

Bấy giờ, Nguyễn Trãi - Ức Trai

Sống nhàn hạ ở trại nhà Côn Sơn.

Ai xui chẳng rõ nguồn cơn

Thái Tông lúc duyệt binh còn ghé thăm.

Làm vua chỉ tạo lỗi lầm

Luân thường chẳng giữ, phạm nhầm đức nhân.

Thị Lộ tài trí muôn phần

Mang thân hoa sắc đỡ đần tiên sinh.

Can chi, vua ép theo mình

Như phường cướp vợ, nhân tình để đâu!

Quá nhiều trăng gió trước sau

Đến huyện Gia Định ngã đau, bỏ đời.

Tuổi hai mươi, chín năm trời

Ăn chơi cho lắm, sớm rời cơ ngơi!

Than rằng: Nguyễn Trãi khơi khơi

Triều thần ghen ghét, ghép rơi m ất đầu!

Tru di ba họ thảm sầu

''Họa vô đơn chí'', cúi đầu, hỡi ôi!

Chữ son chỉ một mà thôi

Hai vầng nhật nguyệt sáng soi tấm lòng.

Hay cho cái giống "lọt tròng"

Thời nào chẳng có muỗi mòng bọ ve!

Côn Sơn suối nước còn nghe

Dòng thơ Người trổ măng tre để đời!

Oan khiên, Người chẳng một lời:

Làm con người có mấy thời rạng danh?

Sống làm chiếc lá mong manh

Chết làm trùn ủi đất xanh cây đời.

Chữ Nhân - Nghĩa với thế thời

Ai người chính trực đổi đời thế gian!

III. LÊ NHÂN TÔNG (1443-1459)

Niên hiệu: Diên Ninh

筵寧

Bang Cơ lên nắm giang san

Vừa mới hai tuổi được can chuyện gì?

Lê Khả, Nguyễn Xí tức thì

Để Hoàng Thái hậu trị vì quốc gia.

Trong ngoài lại nổi can qua:

Chiêm Thành đánh phá Hóa Châu bất ngờ.

Lê Khả phụng chỉ mang cờ

Đi cùng Lê Phụ trói về Bí Cai.

Rồi lập Mã Kha Qui Lai

Cháu Bồ Đề cũ lên ngai chúa Chàm.

Đất Bồn Man phía Đông Nam

Xin hàng, lệ thuộc đổi làm một châu.

Dương Thái hậu, đã từ lâu

Nghe lời xàm tấu chẳng cầu giả chân.

Khắc Phục, Lê Khả, Lê Ngân.. .

Can ngăn chẳng đặng, dần dần chết oan!

Nhân Tông thì vẫn vua con

Nhưng vừa thân chính, tính toan mọi phần.

Làm tròn cái việc "truy phong"

Cấp ruộng cho cháu con dòng có công.

Phù Tiên vâng lệnh Nhân Tông

Làm bộ Quốc sử vinh phong nước nhà.

Tiếc thay! Vua trẻ hiền hòa

Vì người anh phản, mới mà mạng vong!

 Nghi Dân cùng bọn Phạm Đồn

Phan Ban, Lê Đắc Ninh đồng Trần Lăng.

Giết em vì bởi thù hằn

Anh em ruột thịt, chẳng bằng Tiền Ngô!

Mười bảy năm với sóng xô

Mất năm mười chín, xuống mồ tới phiên.

Nghi Dân soán cướp vương quyền

Vừa chừng tám tháng đầu liền… bị rơi.

Chẳng qua quá ác, nghe lời

Những phường xu nịnh mới thời diệt thân.

Năm Canh Thìn, những đại thần

Nguyễn Xí, Đinh Liệt... giết ngần ấy gian.

Triều cương chém giết phủ phàng

Tạm thời chấm dứt, mở màn thịnh Lê.

IV. LÊ THÁNH TÔNG (1460-1497)

Niên hiệu: Quang Thuận

光順

.

Triều thần đồng ý rước về

Bình Nguyên Vương thuở bơ vơ lạc dòng.

Tư Thành, con út Thái Tông

Niên hiệu Quang Thuận, tinh thông, trí hào.

(Mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao

Thị Lộ - Nguyễn Trãi năm nào tái sanh.

Bà mang Hạo tức Tư Thành

Nào hay Phi tử Thị Anh hại mình).

Tư Thành thuở nhỏ thâm tình

Thờ mẹ hiếu thảo, bẩm sinh đã hiền.

Công thần bị giết, tổ tiên

Cho cấp đất ruộng quan điền phụng r iêng.

Hương hồn Nguyễn Trãi oan khiên

Hai mươi năm đã đến phiên sạch làu.

Ức Trai tâm thượng Phục Hầu

Sao Khuê sáng xóa oán sầu vạn sau.

1. Việc cai trị:

Luật thời Trần giữ như nhau

Trên thì Tướng quốc, lục đầu Thượng thư.

Đặt thêm Lục tự thảo từ

Quang, Hồng, Nhị - Thái, Bộ như Tự thừa.

Lễ nghi, quan chế giống xưa

Quan hưu trí sĩ tuổi vừa sáu lăm.

Nước mười hai đạo thay năm

Quan Tòa Thừa, Hiến, Đô chăm việc hình.

Các đạo có nhiễu sự sinh

Giám sát ngự sử tùy hình xử ngay.

Đất Chiêm đã lấy trong tay

Quảng Nam chia lại xứ này mười ba.

2. Việc thuế lệ:

Ruộng điền ba hạng đóng qua

Thuế đinh đồng hạng, nộp ra tám tiền.

Một kỳ sổ hộ: Sáu niên

Kê khai hộ khẩu nộp quan huyện nhà.

3.Việc canh nông:

Khuyến nông cần phải lo xa

Ruộng hoang, Hộ Bộ liệu mà tấu thiên.

Bốn hai cơ sở đồn điền

Đặt quan khai khẩn khỏi phiền khổ dân.

4. Nhà Tế sinh:

Đau yếu, dịch tể định phân

Phát thuốc chẩn bệnh là phần Tế sinh.

5. Việc sửa phong tục:

Lễ nghi, tôn giáo loạn hình

Lắm kẻ trái lẽ thường tình thế gian.

Chùa chiền, hôn sự, lễ tang

Cấm xây cất, hát hội hàng với nhau.

Thánh Tông trong mấy năm đầu

Đã thay đổi tận gốc râu của người.

Cai trị, thuế má, tế trời

Canh nông, phong tục, hai mươi bốn điều:

Phép tắc, lễ phép, thương yêu

Vợ chồng cần kiệm, làm nhiều hạnh nhân.

Anh em hòa thuận xa gần

Đàn bà ở góa muôn phần xót thương.

Chính chuyên chẳng thể dối lường

Không nuôi trai trẻ kiếm đường loạn dâm.

Sĩ phu giữ hạnh, tránh lầm

Điển lại sổ sách tránh nhầm lận gian.

Giúp nhau dân với viên quan

Thương gia không được quyền làm giá cao.

Hôn giá tế tự dạt dào

Cúng tế, du hí cấm vào nhiễu dâm.

Hàng quán, điếm trọ cấm thâm

Cùng bến, trai gái không nằm tắm chung.

Chọn già đức giảng lễ cùng

Ai xúi kiện tụng, vào khung tội hình.

Vương, công, đại nếu tham sinh

Dân mà cáo trạng, quan hình xử ngay.

Thừa chính, Hiếu sát đó đây

Kiểm tra huyện, phủ bề dày tiết liêm.

Tòa Thừa, toà Hiếu lập nghiêm

Mường, Mán không được làm điềm cưỡng thê.

6. Địa đồ nước Nam:

Sau điều giáo huấn mọi bề

Cho thổ quan vẽ địa đồ nước Nam.

7. Đại Việt sử ký:

Hai bản, Ngô Sĩ Liên làm

Năm quyển chép việc Hồng Bàng, Sứ quân.

Sử xanh chẳng thể lưng chừng

Phần sau, mười quyển chép từng Đinh – Lê.

8. Việc văn học:

Thánh Tôn vốn thích làm thơ

"Tao đàn nguyên súy" chuyên về xướng ngâm.

Để đời "Hồng Đức quốc âm"

"Thiên Nam dư tập" là mầm luật Lê.

9. Việc võ bị:

Luyện quân lo thủ mọi bề

Cho thi võ nghệ, phòng hờ xâm lăng.

10. Đánh Chiêm Thành (1470):

Chiêm Thành lại cứ lăng nhăng

Cầu Minh xin viện, tưởng rằng sách hay.

Thánh Tông trừng trị thẳng tay

Phá Đồ Bàn bắt Toàn ngay, giặc tàn.

Tướng Chiêm chịu cống, xin hàng

Trà Toại chạy tới Minh van với cầu.

Thánh Tông biết được mưu sâu

Sai Lê Niệm bắt, giải đầu tới kinh.

11. Đánh Lão Qua (1479):

Chiêm Thành tạm dứt chiến chinh

Lào, Mường phải chịu cúi mình, khiếp danh!

12. Đánh Bồn Man:

Bồn Man làm phản đã đành

Xui người Lào đánh để giành đất ta.

Đuổi nhau đến tận Kim Sa

Thánh Tông toàn thắng, Lão Qua đã bình.

 Nhà vua ngự giá thân chinh

Đánh Bồn Man (trước đã xin quy hòa).

Nay vì có giặc Lão Qua

Cầm Công nổi dậy, mà ra sự tình.

Lê Niệm vâng lệnh cầm binh

Cầm Công thua chết, Man xin chịu hàng.

13. Việc giao thiệp với Tàu:

Thánh Tông trị nước giỏi giang

Luôn ngừa phương Bắc ngó ngàng nước ta.

Nhắc quân thần biết phòng xa

Giữ gìn tất đất ông cha để đời.

Anh minh gương sáng rạng ngời

Quang Thuận - Hồng Đức ai thời sánh qua!

Băm tám năm gánh sơn hà

Thọ năm mươi sáu, ngài đà giá băng.

V. LÊ HIẾN TÔNG (1497-1504)

Niên hiệu: Cảnh Thống

景統

Thế ngôi cha, Thái tử Tăng

Lấy hiệu Cảnh Thống, hiệu rằng Hiến Tông.

Vua hiền, đôn hậu, hạnh thông

Thay trời trị nước một lòng từ bi.

Đời ngài không giặc giã gì

Bảy năm ngôi vị rồi thì quy tiên!

VI. LÊ TÚC TÔNG (1504)

Niên hiệu: Thái Trinh

泰貞

VÀ LÊ UY MỤC

黎威穆

(1505-1509):

Túc Tông con thứ nắm quyền

Lên ngôi sáu tháng, rũ phiền tuổi xanh!

Triều thần liền chọn người anh

Tức là Uy Mục nổi danh hung tàn.

Lên ngôi đã giết họ hàng

Sát Hoàng Thái hậu với quan cựu thần.

Làm vua nổi tiếng bất nhân

Đắm say tửu sắc, chẳng phân chính, tà!

Lắm đường phản trắc, yêu ma

Nên sứ Tàu mới gọi là: ''Qủy Vương"!

Thường dùng "ngoại thích" dối lường

Chọn người sức mạnh chẳng tường nghĩa nhân.

Họ Mạc đánh cá lọt chân

Đô Chỉ huy sứ về phần Đặng Dung.

Quan tôn thất, quyết chẳng dùng

Công thần chẳng dụng, anh hùng chán hung!

Đuổi người chớ đuổi đến cùng

Chó khôn lúc khốn, điên khùng máu tanh.

Nói về họ Giản tên Oanh

Tu Công, Uy Mục ngọn ngành một tông.

Dòng con vua cháu Thánh Tông

Bị giam, đút lót mở còng thoát thân.

Uy Mục đến lúc mãn phần

Mà người sát hại, anh gần: Tu Công.

VII. LÊ TƯƠNG DỰC (1510-1516)

Niên hiệu: Hồng Thuận

烘順

.

Giết anh, con chú bác xong

Tu Công thế chỗ, đi tong ván bài.

Tương Dực xa xỉ, bất tài

Điện trăm nóc, Cửu Trùng đài dựng chơi!

Khốn thay mười mấy năm trời

Bạc tiền hời hợt, thân người chẳng ra.

Thông dâm mỹ nữ triều cha

Sứ Minh sang thấy, kêu là "tướng heo".

Làm vua chẳng mấy người the o

Sơn hà nổi loạn, người nghèo khắp nơi.

1. Việc thuế má:

Dân gian, thuế vét... đáy vơi

Kho vua, vàng bạc của trời... thặng dư!

2. Đại Việt thông giám:

Vũ Quỳnh, binh Bộ thượng thư

Viết sử Đại Việt giống như trước dùng.

Thêm mười một quyển bổ sung

Tổng luận sử bộ sai Lê Trung làm.

3. Sự biến loạn:

Hoang chơi, vua quá là ham

Bỏ lơ việc nước chẳng cam, chẳng màng.

Đắc Bằng, Trung, Nguyễn Văn Lang

Người già, mất, kẻ từ quan chức về.

Sanh ra nội loạn tứ bề

Duy Nhạc, Văn Tổng đánh về Đôn g - Gia.

Nghệ An, Văn Triệt phá ra

Sơn Tây thì có loạn là Trần Tuân.

Phùng Chương, Tam Đảo một khung

Ninh, Hưng, Hy chiếm mấy vùng phá chơi.

Trần Cao xưng có "tướng trời"

Có "Thiên tử khí" chỉ lời ngụy minh.

Cho mình "Đế Thích giáng sinh"

Xua binh đánh phá, còn mình cướp ngôi.

Tương Dực khí số tới rồi

Nửa đêm bị giết, ngôi ngồi tám năm.

VIII. LÊ CHIÊU TÔNG

Niên hiệu: Quang Thiệu

光紹

VÀ LÊ CUNG HOÀNG

Niên hiệu: Thống Nguyên

統元

(1516-1527)

Triều đình hội ý bốc thăm

Nhằm Quang Trị mới vừa tầm tám thôi.

Phùng Mại muốn đổi cho rồi:

Cẩm vương con trẻ lên ngôi nối quyền.

Bọn Trịnh Duy Sản thấy phiền

Đem Phùng Mại chém ngang nhiên giữa triều.

Lên ngôi, ngày chẳng bấy nhiêu

Quang Trị bị giết là điều ác nhân.

Triều đình chính sự bất phân

Hoàng Dụ nhân thế kiếm phần phủ vây.

Bọn Trịnh Duy Sản nhanh tay

Đem con của Cẩm Vương đây, lập liền.

Mười bốn tuổi có cơ duyên

Chiêu Tông, cháu của vua hiền Thánh Tông.

Thương rằng Quang Trị chết non

Giết tươi Phùng Mại, hai oan oán hồn.

Lê Khắc Xương ấy mà khôn

Chối từ chức Đế mới tồn mạng cao.

1. Giặc Trần Cao quấy nhiễu ở Đông Đô:

Đông Đô nhiễu loạn Trần Cao

Ngõ hầu chiếm chỗ, lật nhào họ Lê.

Hai đàng chém giết chán chê

Trần Cao bí thế, rút về Lạng Nguyên.

Bọn Trịnh Duy Sản chuyên quyền

Khinh địch chuốc lấy ưu phiền, vạ vương.

Quân Trần Chân chận bốn phương

Trần Cao bị đánh hết đường hảo huyên.

Nhường con, Cao mới trao quyền

Chán chường mà cắt tóc liền tu tiên!

2. Quan trong triều làm loạn:

 Triều ca lại loạn đến phiên

Chiêu Tông, trẻ thiếu tôi hiền bảo ban.

Triều thần bè phái hai đàng

Hai họ Trịnh - Nguyễn ngang tàng đánh nhau.

Trần Chân quyền bính tóm thâu

Vua nghe sàm tấu mới hầu giết đi!

Oán vua trẻ sớm bất nghì

Quân Trần Chân phản cũng vì chủ oan!

Hai bên đánh quyết sống còn

Đặng Dung, vua phải chịu lòn biết sao!

3. Mạc Đăng Dung chuyên quyền:

Mạc Đăng Dung ở Đông Cao

Xem ra cũng chẳng anh hào thứ chi!

Cháu bảy đời Mạc Đỉnh Chi.

Lên quan ngự thí, chẳng thi bao giờ.

Sức mạnh đánh cá chẳng chê

Vua nào thấy cũng vỗ về, tấn phong.

Họ Mạc vì cậy có công:

Dẹp xong Trịnh - Nguyễn, dứt dòng phản vương.

Bấy giờ quyền thế mọi phương

Ra vào thấy cũng đường đường một vương.

Giết trung thần chẳng xót thương

Xưng vương, xưng tướng, cũng phường soán ngôi.

Chiêu Tông hối hận đã rồi

Nửa đêm trốn chạy, bỏ ngôi, lấy người.

Đặng Dung quyền thế đặng mười

Lập vua nhưng bủa lưới trời cung son.

Thống Nguyên tước hiệu Cung Hoàng

Phan Điền lấn lướt chỉ toàn xúi thôi!

Khiến cho "lửa bỏng, hỏng xôi"

Chiêu Tông mắc lưỡi tôi đòi Trịnh Tuy.

Đặng Dung dụ kẻ vô nghì

Chiêu Tông bị bắt, tức thì, giết đi!

Mười một năm ở ngôi vì

Thọ hăm sáu tuổi, từ ly não lòng!

Cung Hoàng, Thái hậu đồng thông

Hai năm lao khổ chết trong thé t gào.

Họ Mạc làm chuyện soán trào

Cướp ngôi Lê để ra bao tiếng đời!

Triều thần máu chảy, đầu rơi

Nhiều người không phục tìm nơi ẩn mình.

Tội thay muôn vạn sinh linh

Thay triều đổi chúa chẳng tình nghĩa chi.

Xót nhà Lê chẳng bỏ đi:

Vũ Duệ, Ngô Hoán, Mậu, Huy, Duy Tường.

Bá Ký, Kim Bảng, Vô Cương

Tuấn Mậu, Bạt với Tự Cường, Hữu Cương.

Triều Lê khoa bảng đường đường

Biết điều sỉ nhục, lại tường nghĩa nhân.

Nhổ vào mặt kẻ bất nhân

Trên ngôi soán chúa, dưới sân lấn quyền.

Thị phi tiếng mãi còn nguyền

Lam Sơn tiên đế, ngôi truyền tới đâu!

Tiếng thơm nghĩa khí về sau

Chết vinh hơn sống nhục câu "sĩ hiền"!

Mười đời Lê cũng đã truyền

Từ Thái Tổ đến Cung Hoàng: Trăm năm.

Ba đời có tiếng tốt chung

Thái Tổ với Thánh Tông cùng Hiến Tô ng.

Ba vua giữ vững non sông

Trưởng thành nên chuyện tư công rõ ràng.

Vua non kế nghiệp bạo tàn

Hoang dâm, ngu xuẩn, dã tràng nghiệp cha!

Nhà Lê thời thế đã qua

Tiếc công vua trước, xót xa kiếp người!

Nghịch thời, nhà Mạc cướp ngôi

Làm vua cũng chẳng có ngồi được lâu!

Chuyên quyền họ Trịnh về sau

Chỉ ở ngôi "Chúa" chớ hầu ngôi "Vua"!

Đời nào cũng mãi hơn thua

Cho người chép sử từng mùa... hát rong!

Quyển IV

TỰ CHỦ THỜI ĐẠI (1528-1802)

(Thời kỳ Nam Bắc phân tranh)

NHÀ HẬU LÊ

黎後

Thời phân tranh (1533-1788)

Chương I

LỊCH TRIỀU LƯỢC KỶ

Nước Nam một cõi biển Đông

Ngô Vương đuổi Hán uy phong lẫy lừng.

Tiên Hoàng dẹp loạn sứ quân

 "Quan quang thượng quốc" năm chừng sáu trăm.

Hậu triều Lê quá hoang dâm

Để cho họ Mạc ngấm ngầm cướp ngôi.

Nhớ thời Lê trước không thôi

Lê Trung Hưng mới chia đôi nước nhà.

I. Nam triều Bắc triều:

Sáu năm tan nát sơn hà

Bắc Nam như chẳng cùng là mẹ cha.

Phù Lê, đuổi Mạc chạy xa

Họ Trịnh ỷ thế xoay ra lộng hành.

II. Trịnh Nguyễn phân tranh:

Hai nhà Trịnh - Nguyễn phân tranh

Nhồi da xáo thịt chia ranh bến bờ.

Mang danh chính nghĩa phù Lê

Hai bên xưng Chúa mà chờ lấn Vua.

Chương II

NAM TRIỀU

南朝

BẮC TRIỀU

北朝

(1527-1592)

1. Chính trị nhà Mạc:

Đăng Dung nổi gió được mùa

Đinh Hợi, chính thức xưng vua, tiếm triều.

Phép Lê đâu dám sửa nhiều

Sợ người tưởng nhớ tiền triều Thánh Tông.

Cho nên lấy đức mà đong

Nhưng tâm gian ác, tư công h ẹp lòng.

Cựu thần nam bắc tây đông

Thay tên, đổi họ mà không chịu về.

Nhiều người chẳng phục, giương cờ

Phù Lê đánh Mạc đôi bờ đảo điên.

Thọ Trường, Nguyễn Ngã, Công Uyên.

Đánh vùng Thanh Hóa, phá mi ền Mã Giang.

Noi phép Lê, bắt chước Trần

Ba năm chiếm lấn đến phần nhượng ngôi.

Khi làm Thái Thượng Hoàng rồi

Hèn nhát đến nổi cầu ngoài ngoại bang.

Ngôi vua truyền Mạc Đăng Doanh

Mười năm sau mất, Doanh dành cho con.

Mạc Đăng Dung cũng vẫn còn

Nên Mạc Phúc Hải tính toan được gì?

2. Việc nhà Mạc giao thiệp với nhà Minh:

Gian hung chính khí bất tri

“Vị lợi”, “vị nghĩa”, nhà Minh

Sang An Nam chỉ thêm sinh bất bình.

Đinh Dậu, mưu sự chiến chinh

Cừu Loan - đô đốc, Mạc bình giúp Lê.

Canh Tý, giặc phạm bến bờ

Đăng Dung sợ hãi quỳ chờ chiếu ban.

Giặc chưa đến đã vội vàng

Trói mình chịu tội, đầu hàng, nhục sao!

Sợ oai, bỏ mất thanh cao

Miệng cọp mới hả, vội trao mỡ vào!

Tôi trung nào lại soán trào

Giết vua để tiếng nghịch vào kiếp sau!

Một đời tiếng tốt da trâu

Ai đâu phản quốc để đau giống nòi!

Vua một cõi, lại hẹp hòi

Cởi trần, quỳ gối để... thòi lợi riêng.

Vua gì chẳng phải thuận thiên

Là người trâng tráo, sỉ liêm bất nghì.

3. Họ Nguyễn khởi nghĩa giúp nhà Lê:

 Từ khi Mạc cướp ngôi vì

Cựu thần hầu hết trốn đi chốn nào?

Nguyễn Kim lẫn ở Ai Lao

Con Nguyễn Hoằng Dụ, anh hào họ Lê.

Hoằng Dụ xưa đóng Bồ Đề

Đốt kinh đô, chém tế cờ Như Tô.

Nịnh Tương Dực nên xây… mồ

Cửu Trùng Đài đổ, mạng Tô chẳng dài!

4. Quyền về họ Trịnh:

Lê Trang Tông (1533-1548)

Nguyễn Kim chọn sẵn trên ngai

Con Chiêu Tông, út tên ngài Duy Ninh.

Sợ triều biến động trớ trinh

Trang Tông lấy hiệu mới sinh: Nguyên Hòa.

Làm vua mười sáu năm hờ

Ba mươi mốt tuổi, đến giờ, lại... thăng!

Nguyễn Kim nắm hết võ, văn

Sau bị "thuốc" chết, không trăng trối gì!

Trịnh Kiểm, con rễ kế vì

Chiêu hiền đãi sĩ, oai nghi một vùng.

Phùng Khắc Hoan tức Trạng Bùng

Với Lương Hữu Khánh về cùng giúp Lê.

Một nhà hai cảnh, hai quê

Nhà Lê, họ Mạc làm nhơ sơn hà.

Bắc triều: Thanh Hóa trở ra

Nam triều tính ngược từ xa trở vào.

Lê Trung Tông (1548-1556)

Nhà Lê vẫn giữ ngôi cao

Duy Huyên thế tử được trao nối dòng.

Thuận Bình là hiệu Trung Tông

Năm hăm tám mất, ngôi rồng tám năm.

Vua không con, Kiểm ngấm ngầm

Họ Trịnh chắc mẩm, âm thầm: Soán ngôi!

Nhưng còn lưỡng lự nước đôi

Phái người lẻn hỏi, bói coi tận tình.

Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn thông minh

Trọng hiền, nhà Mạc phong Trình Quốc Công.

Thanh Liêm, quan đã từng thông

Giỏi sấm ký, chẳng vị lòng Bắc - Nam.

Qua lời, thấy Trịnh khá tham

Trạng Trình ngoảnh bảo người làm mấy câu:

"Năm nay, mùa chẳng được đâu

Hãy tìm giống cũ mùa sau được nhờ

Giữ chùa, tưởng Phật, mà thờ

Tha hồ ăn oản đừng lơ chữ Tình".

Họ Trịnh nghe được giật mình

Hiểu lời mách nước của Trình Quốc Công.

Nhà Lê có một Huyền Tông

Là cháu Thái Tổ, Anh Tông tế đàn.

Lê Anh Tông (1556-1573)

Anh Tông tên húy Duy Bang

Họ Trịnh lập để mà dàn cảnh thôi!

Nhằm khi Trịnh Kiểm mất rồi

Trao quyền Trịnh Cối thuộc nòi phá chơi.

Triều cương rối loạn tơi bời

Người em Trịnh Cối khơi khơi đoạt quyền.

Trịnh Tùng hống hách đến phiên

Khiến Anh Tông phải bỏ miền, chạy xa.

Hữu Liên kiếm được vua ra

Trịnh Tùng sai giết để mà diệt căn.

Mười sáu năm hưởng thóc cằn

Bốn hai tuổi mất, chẳng bằng tớ vua.

Lê Thế Tông (1573-1599)

"Giữ chùa ăn oản của Chùa"

Thái tử Đàm bị Tùng... lùa nối ngôi.

Vua Thế Tông chỉ có ngồi

Trẻ con bảy tuổi mấy hồi định phân?

Ngôi hai mươi bảy, mãn phần

Gạt dòng nước mắt lìa trần: Băm ba.

Thời ngài, họ Mạc chạy xa

Trịnh Tùng chấm dứt can qua mấy nhà.

Đông Đô, Bắc tiến thẳng đà

Thăng Long, Mậu Hợp hóa... ma giữa đồng.

Đăng Dung vây cánh đi... tong

Năm đời họ Mạc cũng xong mất rồi!

Đăng Doanh chẳng chịu thiệt thòi

Còn lên nối dõi ngôi trời Thái Tông.

Mười năm sau đến Hiển Tông

Là Mạc Phúc Hải ngôi rồng năm năm.

Họ Mạc gây những lỗi lầm

Phúc Nguyên nhận lãnh hờn căm giống dòng.

Phúc Nguyên lấy hiệu Tuyên Tông

Mười lăm năm mất, truyền dòng đến con.

Ba mươi năm ở ngôi son

Với cùng họ Trịnh sống còn... thịt nhau!

Tưởng đâu đem kiếp thân trâu

Cùng nhau chống giặc chờ câu thái hòa.

Nào ngờ chung một bến bờ

Cùng trong một nước trở cờ, đánh nhau!

6. Khôi phục thành Thăng Long:

Trịnh Tùng

Trịnh Tùng công lớn đứng đầu

Làm em lại cứ đánh nhầu với anh.

Làm tôi lại quá... tài lanh

Giết vua, đổi chúa, sử xanh khó lường.

Tuy rằng chẳng mấy người thương

Nhưng làm tướng cũng mọi đường giúp Lê

Mặc đời tốt, xấu, khen, chê

Khi làm chúa cũng không lơ với đời.

Cho nên mới cúng tế trời

Một lòng "thủ lễ" dưới thời nhà Lê.

Ba điều không được thờ ơ:

''Thức ăn, củi đuốc dân quê, chẳng dùng.

Không cướp của kẻ khốn cùng

Không dâm hiếp bậy, không cùng vị riêng''.

Thăng Long, quân tiến thản nhiên

Vừa phá hào lũy vừa khuyên dân tình.

Quân Mạc tan tác, thất kinh

Lớp hàng, lớp chạy chẳng rinh được gì.

7. Nhà Mạc mất ngôi:

Trịnh Tùng bắt Mậu Hợp đi

Thăng Long hành tội khác chi kẻ thù.

Về Thanh Hóa chém để hù

Nhà Mạc bia miệng thiên thu lỗi lầm.

Từ khi họ Mạc rắp tâm

Soán ngôi, giết chúa sáu lăm năm ròng.

Mạc Toàn đến Mạc Kính Cung

Với Mạc Ngọc Liễn về vùng Long Châu.

Ít lâu, Liễn chết để câu:

"Số trời đã định ta hầu nhà Lê.

Chớ dân có tội gì ghê

Mà chinh chiến khồ, thảm thê thế này?

Lánh mình ngoài nước là hay

Nhưng đừng cầu cạnh Tàu này hại dân!"

Mấy lời thiệt có đức nhân

Tiếc thay nhà Mạc chẳng phân một lần!

Nhà Minh che chở, đỡ đần

Cao Bằng chút đất náo thân một vùng.

8. Việc nhà hậu Lê giao thiệp với nhà Minh:

Họ Mạc tố giác Trịnh Tùng

Thừa cơ soán vị, gian hùng họ Lê.

Vua Minh khám xét mọi bề

Thượng thư, Ngự sử chực chờ tiếp quan.

Ngàn cân bạc, trăm cân vàng

Mười người kỳ mục lên đàng cống sang.

Thế Tông bị buộc phải hàng

Nam Quan phó hội, nộp vàng giống xưa.

Đô thống sứ nhà Mạc thừa

Phong vua Lê để cho vừa rẻ khinh.

Phùng Khắc Khoan sớ tâu trình

Nhà Minh gỡ gạc là mình "tạm phong".

9. Con cháu nhà Mạc ở Cao Bằng:

Kính Chi, Mạc Hợp bị gông

Huyện Đông Triều lại kế dòng: Tráng Vương.

Bính Thân, Trấn thủ Hải Dương

Phan Ngạn bắt được Kính Chương dẫn về.

Con trai, Kính Dụng không ngờ

Giữ đất Yên Bắc đến giờ chết chung.

Long Châu, trước có Kính Cung

Chạy đi rồi lại về vùng Lạng Sơn.

Bị Trịnh Tùng đuổi, tay trơn

Kính Cung bày tỏ mối hờn với Minh.

Nhà Minh thấy cũng thương tình

Bắt Lê để Mạc tồn sinh: Cao Bằng.

Chương III

TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH

1. Họ Trịnh ở Miền Bắc xưng Chúa

Trịnh Tùng quá thể kiêu căng

Quyền hành tóm hết cho bằng chúa, vương.

Gây ra thảm cảnh khôn lường:

Nhồi da, xáo thịt tang thương tứ bề.

2. Họ Nguyễn xưng Chúa ở miền Nam

Nguyễn Kim lo liệu mọi bề

Hai trai, một gái chẳng nhờ được ai.

Giúp Lê, đánh Mạc, tướng tài

Trịnh Kiểm: con rễ, con trai: Uông, Hoàng.

Phước phần chẳng tới cung son

Bị thuốc độc chết, Kiểm toan cướp quyền.

Trịnh Kiểm hiểm độc đến điên

Giết em vợ, tính mưu riêng lợi mình.

Nguyễn Hoàng sợ Kiểm dứt tình

Ra Hải Dương hỏi Trạng Trình Bỉnh Khiêm.

Trịnh Tùng, được bảo bên thềm:

"Giữ chùa ăn oản là điềm thọ lâu”.

Họ Mạc cũng được mách câu:

"Cao Bằng tuy nhỏ, đủ sau kế cầu”.

Đến phiên họ Nguyễn thuộc làu:

"Hoành Sơn nhất đái, ngày sau náu mình”.

Nguyễn Hoàng thấu hiểu lẽ tình

Cố xin anh rễ cho mình lánh xa.

Cơ cùng, khổ cực không nhà

Khôn ngoan, hiền thục lấy đà tiến thân.

Một lòng giữ lấy đức nhân

Vào Nam lập nghiệp, dân bần chúng theo.

Giúp Lê qua lúc ngặt nghèo

Trịnh Tùng, thằng cháu lại gieo tiếng hèn.

Nguyễn Hoàng kiếm cách mấy phen

Chạy về Thuận Hóa giả hèn thứ dân.

Bấy giờ Nam - Bắc đã phân

Nhà Thanh đất cũ dần dần tóm thâu.

Nguyễn Hoàng cẩn thận làm đầu

Gả con Trịnh Tráng trước sau nhịn nhường.

Chương IV

SỰ CHIẾN TRANH

1. Họ Trịnh đánh họ Mạc ở Cao Bằng

:

Lê Kính Tông

Thế Tông đến lúc lên đường

Duy Tân, hoàng tử đường đường đăng quang.

Đình Hàm, Nhạn ở Đại An

Cùng Văn Khuê với cả ngàn loạn quân.

Thăng Long, Mạc chiếm nửa phần

Bị thua mới lại thu quân Cao Bằng.

Trịnh Tùng nhân thể kiêu căng

Kính Tông biết được cắn răng, chực hờ.

Ngờ đâu mưu sự hở cơ

Bị bức tử chết, đăng cơ: Duy Kỳ.

Lê Thần Tông

Thần Tông cũng chỉ hư vì

Trịnh Xuân phóng hỏa, hiểm nguy phố thành.

Cha con trở mặt tranh giành

Trịnh Tùng nổi trận tam bành, giết con!

Rồi Tùng mạng cũng chẳng còn

Trịnh Tráng kế nghiệp, méo tròn tấc son.

Hùm dữ không nỡ ăn con

Làm người khôn lại sống mòn nghĩa chung!

Kính Khoan là cháu Kính Cung

Xưng vương, xưng tướng ở vùng Thái Nguyên.

Nhầm phiên Trịnh Tráng cầm quyền

Tan bầy, mới tính đi lên Cao Bằng.

Họ Trịnh lại muốn trừ căn

Kính Cung bị bắt, Trịnh rằng: ''giết mau!''.

Kính Khoan vội chạy sang Tàu

Về sau dâng biểu mà đầu họ Lê.

Mạc - Trịnh mưu sự ủ ê

Trung thần nghĩa sĩ hai bờ ở đâu?

2. Nhà Thanh dấy nghiệp:

 Nước Tàu có xứ Mãn Châu

Lập nên nước lớn đứng đầu nước Kim.

Nhà Nguyên chiếm đất làm riêng

Nhà Minh dứt nghiệp, Thanh liền thế chân.

Mãn Châu bị cắt bốn phần

Gọi là Vệ địa với ngần ấy châu.

Đời Thanh, Thái Tổ gom thâu

Bốn châu nhập một, chia nhau trị vì.

Lỗ Nhĩ Cấp Xích mất đi

Thánh Tông, nối nghiệp trị vì mấy năm.

Đại Thanh Thế Tổ Phúc Lâm

Dã tâm: Tầm chúa ăn mầm đất Minh.

Đến khi đất nước chiến chinh

Lý Tự Thành loạn, Yên Kinh đánh vào.

Chừng khi Tam Quế hồi trào

Yên Kinh thất thủ mới vào Hải Quan.

Tự Thành kêu gọi đầu hàng

Khiến Ngô Tam Quế kiếm đàng viện Thanh.

Nhà Thanh suy tính gian manh

Giúp Tam Quế đánh Tự Thành, xuất binh.

Phúc Vương, vua ở Nam Kinh

Tình thế náo loạn, nộp mình cậy nương.

Đường Vương rồi đến Quế Vương

Lần lượt xưng Đế chỉ dường mấy năm!

Trời mưa, đất chịu âm thầm

Lụt lâu, nước động, rau răm héo tàn.

Dân Tàu nội loạn lầm than

Nhà Mạc cũng đã đầu hàng họ Lê.

Nhà Trịnh chuẩn bị mọi bề

Hai bên hỗn chiến mượn cờ giúp vua.

Họ Trịnh càng đánh càng thua

Chúa Nguyễn trả đũa, sức thừa phản công.

4. Đánh nhau lần thứ nhất (1662):

Minh, Thanh chưa ngã ngũ xong

Trịnh Tráng mượn lệnh vào trong xét dò.

Bắt Nguyễn nộp thuế, mở kho

Phúc Nguyên nhận chỉ nhưng cho giả đò.

Đàng trong quả thật họa to

Trịnh Tráng quyết dứt mối lo cạnh mình.

Danh Thế, Nguyễn Khải ra binh

Năm ngàn binh mã rập rình Hà Trung.

Phúc Vệ, Hữu Dật chống cùng

Phao Trịnh Nhạc phản, Dật dùng kế mưu.

Trịnh Tráng chẳng rõ thật hư

Rút quân về Bắc, thâm thù tính sau.

5. Đánh nhau lần thứ hai (1630):

Canh Ngọ, dự tính đánh nhau

Đem sắc dụ trả, giữ đầu sông Gianh.

Nhân con là Ánh tranh giành

Chúa thư gởi Trịnh nhờ thành nội gian.

Trịnh Tráng nghi hoặc, không màng

Nhật Lệ đóng giữ, quân canh trễ tràng.

Chúa Sãi hạ lệnh quân sang

Binh Trịnh bị đánh, vội vàng rút ngay.

6. Đánh nhau lần thứ ba (1635):

Ất Dậu, chúa mất, con thay

Em ruột Nguyễn Ánh ra tay phản loàn.

Phúc Khê giúp chúa Phúc Lan

Vây binh bắt được rồi mang xử hình.

Tưởng trời như đã giúp mình

Trịnh Tráng sai tướng ra binh tức thì.

Bắt Bùi Công Thắng giết đi

Quý Tỵ phải rút bởi vì khí oi.

7. Đánh nhau lần thứ tư (1648):

Mậu Tý, Trịnh Tráng trổ mòi

Thuỷ, bộ hữu lộ song đôi đánh vào.

Đất Nam Bố Chánh xôn xao

Cửa biển Nhật Lệ thêm bao sóng gào.

Trường Dực, đánh mãi không vào

Họ Trương cố giữ thì nào dễ ăn.

Chúa sai con Nguyễn Phúc Tần

Dùng mưu đánh úp mấy lần, Trịnh tan.

Trong Nam, chúa Thượng mạng tàn

Ngoài Bắc, vua mất, hai đàng tổn hao.

Người đi, của mất biết bao

Tham quyền, đoạt lợi máu trào đỏ sông.

8. Đánh nhau lần thứ năm 1655):

Ất vị, Tiến, Dật vượt sông

Đánh Bắc Bố Chính, tấn công Thạch Hà.

Hoành Sơn, Hữu Đức đánh ra

Hà Trung, Hữu Dật đánh qua An Tràng.

Tướng Trịnh Phạm Tất ra hàng

Văn Hiểu trúng đạn, thân tàn, mạng vong.

Vũ Lương, Hữu Đức chức tong

Lạc Xuyên, Trịnh Trượng chẳng hòng dám ra.

Tướng Nguyễn giỏi quả không ngoa

Đuổi quân Trịnh chạy nhập nhòa gió mưa.

Huyện thành lấy bảy cho vừa

Trịnh Lượng bị giáng, Tráng đưa Tạc vào.

Nghệ An, Trịnh Tạc hồi trào

Phải về lại Bắc mà vào vấn an.

Quang Nhiêu thủ ở Tràng An

Bị thua, tạ tội, quân tan phía ngoài.

Trịnh Toàn, con út ra oai

Toàn quyền quyết đoán từ ngoài tới trong.

Mọi chuyện cũng chẳng như mong

Đánh thua chỏng gọng còn trông được gì!

Vừa khi, Toàn được lòng dân

Trịnh Tráng bịnh mất, Căn nhân cớ này.

Thấy em công đức đủ đầy

Giam Toàn vào ngục, mặt dày, giết ngay.

Anh em vua chúa xưa nay

Nào ai hiểu nghĩa chân tay máu đào.

Trịnh Căn lo hậu trước sau

Chia quân ba đạo cùng nhau tiến vào.

Quân Nguyễn được báo, phòng cao

Hai bên đánh mãi chẳng sao tiến, lùi!

Quân Nguyễn lại gặp chuyện sui:

Hàng quân bỏ trốn; tới lùi kỵ nhau.

Hữu Tiến, Hữu Dật giữa cầu

Người lui, kẻ tiến thua đau mấy đàng.

Khiến cho bảy huyện Lam Giang

Về tay quân Trịnh, lầm than võ vàn.

9. Đánh nhau lần thứ sáu (1661):

Tân Sửu, thẳng tiến Linh Giang

Trịnh Căn rã bọn, tan hàng: Quang Nhiêu.

Tiến binh, phá trận khá nhiều

Cũng đều bị Nguyễn sáng chiều, phá tan.

10. Đánh nhau lần thứ bảy (1661)

Rước vua, Trịnh Tạc hoang mang...

Tháng chín vua mất, vội vàng sắc phong.

Thần Tông qua đến Huyền Tông

Tám năm sau mất, Gia Tông kế dòng.

Bày ra thảm cảnh ngăn sông

Giành nhau tất đất mà hòng hại dân!

Kẻ tám lạng, người nửa cân

Tranh nhau mà lấn chẳng cần xả hơi.

Bốn mươi lăm năm lệ rơi

Chỉ vì Nguyễn - Trịnh tơi bời đánh nhau!

Linh Giang phân giới trước sau

Bắc - Nam ngưng chiến cùng nhau thủ hòa.

Chương V

CÔNG VIỆC HỌ TRỊNH LÀM Ở ĐẤT BẮC

1. Việc giao thiệp với nhà Thanh:

Thời kỳ thứ nhất: (1570-1657)

Trịnh Kiểm (1570) - Trịnh Tùng (1570-1620)

Trịnh Tráng (1623-1657).

Những gì họ Trịnh làm qua

Chỉ là đánh Mạc với nhà Nguyễn thôi.

Nhà Thanh, lệ cống cho rồi

Còn công việc khác thì coi nhẹ nhàng.

2. Việc lấy đất Cao Bằng của họ Mạc:

Ất Sửu, Kính Khoan xin hàng

Vua Lê phong Thái Úy hàng Quốc công.

Mạc Kính Vũ chẳng nhận phong

Cũng không về cống, ngôi rồng tự xưng.

Quân Trịnh vây đánh tưng bừng

Họ Mạc phải chạy run chân, rụng hồn.

Nhà Minh can thiệp tài khôn

Cao Bằng được ở chỉ còn bốn châu.

Ba đời truyền tập không lâu

Đinh Văn Tả đánh mà thâu đất về.

Họ Mạc thuyền úp, nghiêng đê

Kính Cung, Khoan, Vũ tới giờ trảm biên.

3. Quan chế:

Thời kỳ thứ hai: (1657-1729)

Trịnh Tạc (1657-1682), Trịnh Căn, 1682-1709)

Trịnh Cương (1709-1729)

Khi tranh chấp được tạm yên

Luật Hồng Đức đã tới phiên khác dần.

Tham tụng, Bồi tụng nhất phân

Ngang hàng Tể tướng coi phần trị an.

Thượng thư - Lục bộ hàng ngang:

Công, Binh, Lại, Hộ, Lễ quan, với Hình.

Lục phiên coi việc cung đình

Võ bị, Ngũ phủ, quan hình tam ban.

Triều đình chốn của vua quan

Phủ Liêu họ Trịnh là hàng Chúa cha.

Triều đình hư vị có là

Việc quân dân, chính ngồi xa ngó nhìn.

Mỗi năm quan võ thi trình

Một bài khảo hạch giữ mình hoặc không.

Quan hưu, bổng lộc chẳng đồng

Nhất phẩm được bốn trăm đồng nhận chơi.

Trăm quan: Cửu phẩm hưởng hơi.

Đến đời sau, chúa bán hợt hời chức quan.

Sáu trăm mua bậc chức nhàn

Trên ngàn tám: Huyện hay quan Phủ từ.

Tiền mua tất cả công tư

Tài năng xuống cấp, tâm như ván bài.

4. Việc binh lính:

Ưu binh được cấp công điền

Vua, Chúa, có kẻ giữ đền thắp nhang.

Nhất binh giữ trấn, sửa sang

 Không cần thì cứ ruộng quan cấy cày.

5. Hình luật:

Hình luật từ trước tới nay

Ngũ hình: Tử, Trượng, Lưu, Xuy và Đồ.

Tiểu tụng: ẩu đả, hộ, hô

Đại tụng: mưu sát ra vô cướp tiền.

Xử không xong, quan nộp tiền

Xử rồi mà kiện thì liền phạt thêm.

Thừa, Trấn, Ti xử không êm

Lên Hiến ti, Giám, Đề thêm Ngự đài.

Lệ xử không được kéo dài:

Nhân mạng bốn tháng, bạc bài chỉ hai.

Điền thổ, trộm cướp cơ ngơi

Hẹn cho ba tháng thì thời phải xong.

6. Thuế đinh, thuế điền và sưu dịch:

Sáu năm, hộ tịch khai thông

Một quan – quan tám là đồng thuế thân.

Bình Lệ - phép đánh một lần

Sinh, tử chẳng kể mấy lần, chẳng tha.

Công điền, ba hạng tính ra

Sáu tiền, với tám hay là một quan.

Sưu dịch: cầu cống, đường làng

Tế tự phủ chúa tùy hàng dụng chi.

7. Các thứ thuế:

Thuế tuần ti

Hăm ba cơ sở tuần ti

Thuyền bè buôn bán thu chi tính phần.

Tre gỗ: Mười đóng một phần.

Tạp hóa: Bốn chục một lần thuế thôi.

Thuế muối:

Nấu xôi chẳng được ăn xôi

Cũng như nấu muối, thuế... vòi quá cao.

Trịnh Cương đánh thuế, dân chao

Trịnh Giang không lấy đồng nào mới yên.

Thuế thổ sản:

Giáp Thìn, chúa định thuế riêng:

Vàng, chì, bạc, kẽm, sơn, diêm, rượu, dầu.

Tre, lụa, chiếu, gỗ, đồng thau

Tơ, tiêu, cá, mắm, vật cầu giấy, than.

8. Sổ thu chi:

Lắm giặc thời chúa Trịnh Giang

 Chi thu đủ việc, các quan hội trào:

Đồng niên trưng dụng ra sao

Hộ phiên chi, phát ghi vào sổ biên.

9. Việc khai mỏ:

Mỏ đồng Ngọc Tuyển, Thái Nguyên

Đồng, vàng: Kim Mã, Liêm Tuyền, Tụ Long.

Người Tàu khai thác cho không

Phu phen nhiễu sự bất đồng đánh nhau.

10. Việc đúc tiền:

Dùng tiền Hồng Đức bấy lâu

Trịnh Doanh làm chúa bàn nhau đúc ti ền.

Tham nhũng được phát sinh liền

Bính Thân, đúc ba vạn tiền Cảnh Hưng.

Đúc thêm bạc để tiêu dùng

Năm đồng: nửa lạng quy chung: chục tiền.

11. Sự đong lường:

Đong lường, lối cũ, lệ riêng:

Một thăng: sáu hạp; y nguyên đã từng.

Phạm Công Trứ mới tấu dưng:

Hoàng chung quản ống làm chừng để đong.

Ngàn hai hột thóc đen trong

Gọi là thược, hạp, thăng hòng định cân.

12. Việc in sách:

Bản in sách phát toàn dân

Trịnh Giang tiết kiệm một phần phí hao.

Cấm không mua sách của Tàu

Nước nhà khắc một công đầu mở mang.

13. Việc học hành:

Thi cử quy định dễ dàng

Bạc tiền trao đổi thành hàng chợ phiên.

Thi Hương, Hội mỗi tam niên

Ai thi phải nộp quan tiền "minh kinh".

14. Trường học võ bị:

Mở trường chiến lược chiêu sinh.

Ba tháng: đại tập, hư vinh hậu nhờ.

Xuân, Thu võ nghệ học khờ

Đông, Hạ thì học mắt mờ... võ kinh.

Ba niên, thi võ học sinh

Múa gươm, phi ngựa, đao binh, thí đài.

Canh Thân, lập miếu hiền tài,

Thành Vương, Tôn Tử với ngài Thái công.

Đằng sau, Hưng Đạo đức ông

Lập riêng cái miếu Quan Công tế hằng.

15. Làm quốc sử:

Nước nhà bao nổi trầm, thăng

Nên làm quốc sử để nhằm nhắc nhau.

"Việt sử toàn thư" mở đầu

Phạm Công Trứ soạn mai hầu đặng in.

Đời Hi Tông, năm Bính Thìn

Lê Hi, Đức Quí góp mình mới xong.

Trang Tông cho đến Gia Tông

"Quốc sử thục lục" của dòng hậu Lê.

Sử chép công việc mỏi mê

Chẳng hay biết đúng khen chê, bạn thù?

Đời Cảnh Hưng có sĩ phu

Lê Quý Đôn với Nguyễn Du, Nguyễn Hoàn.

Tham khảo sử cũ, làm tròn

Cùng Ngô Thời Sĩ chép toàn"Tục biên".

Sái quyển "Quốc sử tục biên"

Nối liền vua trước mà truyền Ý Tông.

16. Sự đánh dẹp giặc giã trong nước

Thời kỳ thứ ba (1729-1782)

Trịnh Giang (1729-1740) - Trịnh Doanh (1740-1767)

Trịnh Sâm (1767-1782)

 Thời này nổi loạn ở trong

Duy Phương bị mắc vào tròng Trịnh Giang.

Giết vua, xưng chúa ngang tàng

Xa xỉ, hung bạo vào hàng ác tinh.

Nhân dân mất cảnh thanh bình

Trung thần bị hại còn tình nghĩa chi!

Duy Mật, Duy Chúc, Duy Qui

Võ Thức, Công Thế phế đi ác thần.

Chẳng may mưu sự vỡ lần

Bỏ triều mà chạy, danh cần hay thân?

Muôn dân nội loạn xa gần

Vậy mà chúa Trịnh lo phần hưởng chơi.

Để hòng gìn giữ cơ ngơi

Trịnh Giang bị phế, đáng đời rủa chê!

Trịnh Doanh, em ruột mệt khờ

Lo mà đánh dẹp tứ bề loạn thêm.

Giặc Ngân Già:

Loạn ngày nối tiếp loạn đêm

Ở làng Ninh Xá lại thêm "Ngân Già".

Đình Dung, Cao, Chấn đánh ra

Cùng nhau cướp phá, nào tha họ Hoàng.

Chẳng may gặp phải Trịnh Doanh

Đình Dung bị chém, xóa danh ''Ngân Già''!

Giặc Ninh Xá:

Nguyễn Diên, Ninh Xá loạn qua

Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển với là Trác Oanh.

Cùng nhau tạo dựng thanh danh:

Hồng Châu, Nam Sách, Thuận Thành, Chí Linh.

Quan nha Thống lĩnh Hải Ninh

Là Hoàng Nghĩa Bá đi bình Phao Sơn.

Lương thực dự trữ hết trơn

Tuyển, Cừ thua chết, tiêu trơn sắc chàm.

Nguyễn Hữu Cầu (Quận He):

Hữu Cầu quả khác người phàm

Giỏi nghề bơi lội, lại ham vẫy vùng.

Theo Nguyễn Cừ múa kiếm cung

Đúng khi Cừ bắt, về vùng Đồ Sơn.

Giết quan Trịnh Bảng rửa hờn

Đánh lấy Kinh Bắc, thỏa cơn tang bồng.

Ra vào xem dễ như không

"Đông đạo Thống quốc" tự phong bấy giờ.

Trần Đình Cẩm với Phương Đề

Bỏ ấn tính chạy thất thơ, thẹn người.

Ngũ Phúc cứ tưởng mười mươi:

Bao vây bắt sống nuốt tươi Hữu Cầu!

Hữu Cầu cá chẳng mắc câu

Quân Trịnh chẳng biết ở đâu, lúc nào?

Hữu Cầu có lắm mưu cao

Cướp nhà giàu để mà trao kẻ nghèo.

Đi đâu cũng có người theo

Ngờ đâu "kẻ cắp phải... teo mụ già"!

Anh hùng vang bóng đã qua

Phạm Đình Trọng bắt chém mà mạng vong!

Nguyễn Danh Phương (Quận Hẻo):

Có người tên Tế tên Bồng

Dấy binh khởi nghĩa ở vùng Sơn Tây.

Chẳng may bị Lý bắt đày

Còn thủ hạ đáng mặt mày: Danh Phương.

Sáng chiều lo tích trữ lương

Mười năm vùng vẫy huyện đường Tuyên Quang.

Than ôi! Tướng Trịnh: Nguyễn Phan

Đến làng Tĩnh Luyện, bắt mang trảm đầu!

Hoàng Công Chất:

Phá Xuân Tường đến Khoái Châu

Bắt quan Trấn thủ Sơn Châu chém đầu.

Mãnh Thiền lo chạy cho mau

Cướp miền Thanh Hóa, quân hầu vạn tên.

Hoàng Công Chất số chẳng bền

Nguyễn Thục vừa đến, lăn kềnh chết ngang.

Lê Duy Mật

Nhà Lê, công đã dã tràng

Âm mưu lật Trịnh chẳng màng máu tanh.

Qui, Chúc buồn chết đã đành

Những người đồng đảng cũng nhanh bỏ đời.

Duy Mật chiếm cứ vài nơi

Trước vùng Thanh Hóa sau dời Ngọc Lâu.

Ngọc Lâu bị phá, còn đâu!

Nhớ thời Lê - Nguyễn mà cầu Vũ Vương.

Bắc - Nam phân giới hai đường

Sợ phiền họ Trịnh, Vũ Vương chối từ.

Trịnh Sâm làm Chúa, đưa thư

Vỗ về không được lo trừ khử ngay!

Nguyễn Phan, Thế Đạt ra tay

Trấn Ninh cô lập đêm ngày vắng tanh.

Hoàng Đình Thể mới liên danh

Trấn Ninh ba đạo tiến nhanh phá thành.

Duy Mật kiên quyết thủ thành

Thế Chiêu rễ phản, mới đành tự thiêu!

Khởi binh, dấy loạn cũng nhiều

Trí, mưu lại chẳng đồng đều mới thua!

Dân, quan với họ hàng vua

Hồn ma bóng quế, ngẫm chua chát lòng!

Họ Trịnh làm có như không

Đánh Đông, dẹp Bắc chẳng công cán gì.

Dân nghèo, chính trị lại suy

Về sau Trịnh đổ, Lê đi dứt dòng!

Chương VI

CÔNG VIỆC HỌ NGUYỄN LÀM

Ở MIỀN NAM

Họ Nguyễn tự quản miền trong

Xây thành đắp lũy oai phong một đàng.

1. Quan chế:

Triều cha, chúa Trịnh bổ quan

Phúc Nguyên kháng lệnh, triều can chẳng trình.

Tam ti nơi chúa làm dinh.

Coi việc chính trị, tình hình khó khăn.

Xá sai ti giữ tụng án văn

Chi thu thuế bởi Tướng thần lại ti.

Tế tự có Lệnh sử thi

Theo trọng hay yếu mà tùy bớt đi.

2. Thi cử:

Đinh Hợi, chúa mở khoa thi

Thi hoa văn với lại thi chính đồ.

Tam ti, ai đậu thì vô

Văn chức, Lệnh sử khan khô một bài.

Xem ra thấy cũng sơ sài

Đánh nhau chỉ trọng võ tài, rẻ văn.

3. Việc võ bị:

Võ bị, huấn luyện kỹ càng

Chuyên tâm tập luyện, phòng màng chiến tranh.

Đúc súng đại bác thủ thành

Quân cơ năm loại tập tành ngựa voi.

4. Việc thuế khóa:

Thuế điền ba hạng xét coi

Ruộng đất xấu xí cấm moi lấy tiền.

Đất hoang là ruộng tư điền

Dân cày thì thuế công điền nộp quan.

Thuế xuất nhập cảnh tiền quan

Chia thành mười loại, sáu dành trữ kho.

5. Số tiền chi thu trong nước:

Quý Dậu, chúa lại xét dò

Xem vàng trong nước có... bò hết không?

Có năm dư... bốn trăm đồng

Có năm kho trống rỗng không có tiền.

Cho nên định luật tháng Giêng

Ngày mồng ba nộp tấu thiên phải đồng.

Tiền đồng, tiền kẽm lưu thông

"Thái bình" hai chữ khắc xong mới xài.

6. Việc giao thiệp với nước Tiêm La:

Phù Nam nước bị chia hai:

Chân Lạp, Xích Thổ, lá bài dã tâm.

Xích Thổ xé bởi ngoại xâm:

Nước Tiêm, La Hộc một mầm đệ huynh.

Về sau, bóng gắn với hình

Nước Tiêm La Hộc đủ mình với ta.

Minh Thái Tổ gọi Tiêm La

Bị người Chân Lạp cứ qua đánh hoài.

Sinh sót nên bị cọt còi

Về sau cường thịnh ra mòi cọp, lang.

Đánh Chân, cùng Pháp ngoại bang

Gặp giờ, chúa Nguyễn xóa tan Chiêm Thành.

Tiêm La thế yếu mới đành

Để cho Chúa Nguyễn bảo hành đất Chân.

Ất Tỵ, Chân Lạp, Nặc Thâm

Đem binh Tiêm cướp phá ngầm Hà Tiên.

Phúc Khoát thư trách vua Tiêm

Dung túng kẻ nghịch để dìm nước Chân.

Ất Hợi, Tiêm muốn hòa thân

Xin Nguyễn đừng đánh thuế dân lái thuyền.

Chúa rằng quốc lệ đã truyền

Không sao bỏ được, Tiêm nguyền tuyệt giao.

Đinh Hợi, Diến Điện đánh vào

Tiêm La mất chúa, coi mào đã xong.

Quốc Anh người tỉnh Hà Đông

Tự xưng Phi Nhã để hòng chiếm ngôi.

Chiếu qua Chân Lạp mà đòi

Nặc Ông bắt lỗi "khác nòi", chẳng dưng.

Tiêm La gây chiến tưng bừng

Lúc Chân Lạp, lúc thẳng thừng Hà Tiên.

Hà Tiên, quan trấn Trần Liên

Quốc Anh vội vã đánh liền Tiêm La.

Nặc Ông phải kiếp không nhà

Nhờ quân Nguyễn giúp, sơn hà tạm yên.

Vua Tiêm về đến Hà Tiên

Truyền thư đến để bàn riêng sự hòa.

Mặc Thiên Tứ chẳng chịu cho

Con gái bị bắt, mới lo nghị hòa.

Trần Liên được gọi về nhà

Trả con gái, đem Chiêu mà thủ tiêu.

Chiêu Thúy dõng dõi Tiêm tri ều

Quốc Anh sợ loạn, giở chiêu giết liền.

7. Lập dinh Định phủ:

Đến đời chúa Sãi, Phúc Nguyên

Truyền qua chúa Thượng, chuyển sang Phúc Trần.

Lập dinh, định phủ, quan phân

Sửa sang phép tắc, định dần lễ nghi.

Vũ Vương, Giáp Tí trở đi

Mười hai cuộc đất tức thì một dinh.

Chính dinh rồi đến Cựu dinh

Quãng Bình, Vũ Xá, Bố Đình, Quảng Nam.

Phú Yên, Bình Thuận, Bình Khang

Ba dinh này trước là đang của Chàm.

Chân Lạp bị Nguyễn lấy làm:

Trấn Biên, Phiên Trấn, miền Nam Long Hồ.

Hà Tiên, Thiên Tứ lấn vô

Chúa Nguyễn khai khẩn đất khô Nam phần.

Đời Nguyễn Phúc Khoát đổi dần:

Lập Vương, xưng Chúa bỏ lần chức Vua.

Mở mang một cõi tranh đua

Làm cho nước Việt chẳng thua láng giềng!

Chương VII

NGƯỜI ÂU CHÂU SANG NƯỚC VIỆT NAM

I. SỰ ĐI TÌM ĐẤT:

 Người Âu châu sang Á đông.

Người Âu châu sang đất Việt Nam.

Người ngoài đến viếng thay phiên:

Bồ Đào Nha, Nhật với thuyền Hòa Lan.

''Kinh kỳ, thứ nhất hạng sang

Thứ nhì Phố Hiến, sau... nàng Hội An".

Anh, Pháp buôn chẳng dễ dàng

Thấy chưa có lợi, kiếm đàng trở ra.

II. SỰ ĐI TRUYỀN GIÁO:

Đạo Thiên Chúa:

Sách sử cũng có chép là:

Đời Lê đã có Tây qua nước mình.

Sử Trương Vĩnh Ký chứng minh:

Đời Nguyễn, Kinh Thánh được... rinh tới nhà.

Người theo đạo, chúa lo xa

Nguyễn - Nam, Trịnh - Bắc cho là ''đạo gian''.

Chúa Thượng là Nguyễn Phúc Lan

Cùng Trịnh Tạc chẳng mở đàng đạo vô.

Chúa Hiền... "ác" với GiaTô

Trịnh Căn đốt sách, sóng xô giáo đồ.

Trịnh Cương, Doanh lại khan khô

Giết, cấm giáo sĩ, hàm hồ thấy hơn!

Thành ra có sự oán hờn

Bên "Lương", bên "Giáo" ghét hơn đ ịch thù.

Nắm lấy "bảo thủ" mà đu

''Sùng, tín" phải diệt mới... hù ngoại bang.

Đôi bên chém giết hàng đàn

Oan hồn chồng chất hàng ngàn có vui?

Chương VIII:

VẬN TRUNG SUY CỦA CHÚA NGUYỄN

1. Trương Phúc Loan chuyên quy ền:

Đời Nguyễn Hoàng tính trở lui

Khi Vũ Vương mất cũng "sui" đủ bề:

Thế tử thì chết tỉnh bơ

Con trưởng cũng mất, phải chờ chúc thư.

Phúc Luân, di chiếu lập từ

Trương Phúc Loan đổi, hầm hừ lấn sân.

Lập con Chúa thứ, Phúc Thuần

Mới mười hai tuổi gọi Thuần Định Vương.

Họ Trương đảo lộn cương thường

Nên nhiều người mới xéo đường, phá truông.

Miền Bắc, Trịnh lấy Phú Xuân

Tây Sơn cũng chiếm mất luôn Quy thành.

Anh em trở mặt phân tranh

Tương tàn cốt nhục, sông Gianh ngậm hờn.

2. Tây Sơn dấy binh (1771-1778)

Phù Ly, huyện lỵ Quy Nhơn

Anh em Nguyễn Nhạc, tài hơn mọi người.

Họ Hồ là tổ bốn đời

Nay theo họ mẹ, kêu mời khởi binh.

Thương người khốn khổ mưu sinh

Nguyễn Nhạc hào phóng, hết mình bảo ban.

Giam thân nhốt củi thi gan

Đang đêm phá ngục, trừ quan, lấy thành.

Quảng Nam vây đánh tốc hành

Quảng Bình chiếm lấy mà thành lập dinh.

3. Quân họ Trịnh vào lấy Phú Xuân (1775):

Khi nhà Nguyễn có loạn tình

Trịnh Sâm mượn tiếng đi bình Phúc Loan.

Bèn sai đại tướng quân Hoàng

Phùng Cơ, Đình Thể liên hoàn tấn công.

Hoàng Đình Bảo giả như không

Ra chiêu giở quẻ bòng bong rắn rồng.

Hờn xưa, đánh Nguyễn gây phong

Nhằm thời họ Nguyễn suy vong tới rồi.

Sau khi chúa Nguyễn rã rời

Đông Cung kế vị gặp thời gian truân.

Hoàng Ngũ Phúc đánh Phú Xuân

Quảng Nam, Đà Nẵng chiếm luôn lấy đà.

4. Chúa Nguyễn chạy vào Gia Định:

Định vương ngự ở triều ca

Nghe tin thất trận báo qua, rụng rời!

Chúa tôi thuyền thủng ra khơi

Vào Nam để đợi chờ thời họa chăng!

Dùng thành Gia Định làm căn.

Đông Cung để lại mà ngăn địch thù.

Gia Định, Nhạc lấy êm ru

Non sông bốn cõi biên khu xóa nhòa.

Quân nhà Nguyễn đánh xuề xòa

Sau rồi chạy đến Biên Hòa, Long Xuyên.

Nguyễn Nhạc xưng Đế ở Quy Nhơn (1778): 

Tây Sơn chiếm được vài miền

Quân Hoàng Ngũ Phúc đánh liền bại ngay.

Khi quân Phúc Hợp bao vây

Khôn ngoan, Nguyễn Nhạc giơ tay... trá hàng.

Trong tay ấn, kiếm Trịnh ban

Không lo mặt Bắc, Nhạc bàn kế gian.

Thọ Hương, con gái ngọc vàng

Nguyễn Nhạc đem gán cho chàng Đông Cung.

Tin lầm, Phúc Hợp vạ chung

Thua đau, phải chạy về vùng Vân Phong.

Bên Trịnh, Ngũ Phúc mạng vong

Lui về Thuận Hóa, Triệu Phong giữ mình.

Nguyễn Nhạc thấy rõ tình hình

Quân binh đã mạnh, xoay tình một chương.

Đông Cung, trúng kế nào lường

Lý Tài bắt lại, không đường trốn đi!

Công hầu "phước'' chẳng ra gì

Còn thêm chữ "họa" chi chi giữa đầu!

Tân Chính, Thái Thượng còn đâu

Nguyễn Huệ vây chặn, chém đầu... thị uy!

Nguyễn Nhạc xưng Đế lập vì

Niên hiệu Thái Đức, ngại gì tiếng tăm!

Đồ Bàn tính chuyện trăm năm

Tây Sơn họ Nguyễn thăng, trầm tới đây!

"Tiết chế", phong Nguyễn Lữ ngay

"Long Nhượng" đại tướng về tay Huệ liền.

Hai bên chiến sự triền miên

Vì chúa Nguyễn muốn tước quyền Tây Sơn.

5. Nguyễn Vương khởi binh đánh Tây Sơn:

Tranh giành biết chúa nào chơn

Toàn gây những chuyện căm hờn một khuôn.

Ánh (con Hưng Tổ Phúc Luân

Cũng là cháu Thái Phúc Thuần, Thượng Vương.

Nguyễn Phúc Thuần với Nguyễn Dương

Bị Tây Sơn giết), tìm đường trốn ngay.

Chiêu binh đánh trả từ đây

Không lâu đã có trong tay Sài Gòn.

"Anh hùng xuất thiếu niên" con

Vừa mười bảy tuổi tinh khôn lẫy lừng!

"Đại nguyên súy" được tôn xưng

Vai "Nhiếp Chính quốc" cũng từng tới tay.

Chiếm Gia Định, nở mặt mày

Đong đo đâu đấy chờ ngày đánh nhau.

Tiêm La thống sứ từ lâu

Ăn tươi Chân Lạp, mưu sâu lấn đường.

Năm Canh Tý, Ánh xưng Vương

Thăng quan tưởng thưởng, đo lường tội, công.

Đỗ Thanh Nhân sớm thay lòng

Bên ngoài chức trọng, bên trong lộng quyền.

Vương sai người giết chết liền

Ba quân tướng sĩ khắp miền loạn lên.

Thêm vào hiếu sự hai bên

Tiêm La, Chân Lạp chẳng bền nghĩa danh.

Vua Tiêm La - Trịnh Quốc Anh

Bị Phan Văn Sản tranh giành chiếc ngôi.

Chất Tri chẳng chịu thiệt thòi

Giết luôn Văn Sản, triệt nòi... Quốc Anh.

Xưng vua, kể cũng... lừng danh

''Phật Vương'' lấy hiệu, mong thành... thánh nhân!

Vua Tây Sơn năm Nhâm Dần

Cùng Huệ lượt trận, thuyền gần mấy trăm.

Đường sông thẳng tiến đăm đăm

Trời xanh cuộn gió hờn căm chất chồng.

Cần Giờ, Huệ đánh tiên phong

Nguyễn Vương chạy xuống Ba Giồng, rút đi.

Gia Định lấy lại khó gì

Nguyễn Nhạc không ở, về Quy Nhơn thành.

Tây Sơn - chúa Nguyễn phân tranh

Quân Châu Văn Tiếp chiếm thành Sài Côn.

Nguyễn Vương thoát nạn, hoàn hồn

Nhờ người tướng giỏi bảo tồn đại danh.

Vương từ Phú Quốc về thành

Tây Sơn thắng lớn, Ánh đành chạy ra.

Khác nào: "Kiến leo cành đa

Leo phải cành cụt, leo ra, rớt vào"!

6. Nguyễn Vương định cầu viện

nước Pháp - Lan Tây:

Nguyễn Vương chẳng chút núng nao

Dù ăn củ chuối, cháo rau mỗi ngày!

Bá Đa - Giám mục mới bày

Cầu viện nước Pháp lúc này, giải vây.

Nguyễn Vương viết quốc thư ngay

Mang hoàng tử Cảnh trao thầy, đợi tin.

Tiêm La, Ánh cũng "cầu xin"

Thua đau, phải viện quân binh mấy lần.

Vua Tiêm La không phân vân

Mượn đường xâm lấn nào cần giả, chân?!

Lời rằng tốt, xấu không phân

Con đường viện ngoại thì chân thiện gì!

Khi Châu Văn Tiếp chết đi

Quân Tiêm phá nước thua gì cướp binh!

7. Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La

:

Dân tình oán nẩy, hờn sinh

Tây Sơn Nguyễn Huệ mang binh đón dò.

Rạch Gầm, Xoài Mút, Mỹ Tho

Dàn quân, bố trận không cho giặc về.

Đuổi Xiêm, phá Nguyễn hai bờ

Nguyễn Huệ dệt lấy trang thơ anh hùng!

Vì rằng Nguyễn Ánh đường cùng

Đi cầu cứu viện qua vùng Pháp xa.

"Cõng rắn để cắn gà nhà"

Xem ra, chẳng phải chỉ là Nguyễn Vương!

Tầm thư trích cú từ chương

Huynh sao đệ vậy chung trường ấy ra!

Chương IX

HỌ TRỊNH MẤT NGHIỆP CHÚA

(1510-1786)

1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ:

Trịnh Sâm bỏ trưởng, dâm tà

Mê say Thị Huệ nên sa thế cùng.

Cho mình một đấng anh hùng

Ngôi vua muốn cướp, nên dùng kế gian.

Bèn sai Vũ Thiệu Thị lang

Sang Thanh để kiếm một đàng tấn phong.

Vũ Thiệu mắc cỡ tâm trong

Uống ngay thuốc độc, tỏ lòng cản ngăn.

Trong triều, đảng phái tung tăng

Hai phe Khải, Cán hung hăng mọi đường.

Cán con chẳng mấy người thương

Thường hay bệnh hoạn, cầm cương khó làm!

Sâm cha sắp chết, chưa cam

Di thư lập Cán lên làm Chúa thôi.

Con đầu, Trịnh Khải giành ngôi

Trừ quan Phụ Chính và rồi tiếm vương.

2. Kiêu binh:

Quan quân biến loạn triều cương

Quân Tam phủ lại coi thường thế gian.

Kiêu binh phá xóm ngang tàng

Cho công họ lớn, giăng màn l ấn tranh.

Quân Tam phủ - lính Nghệ Thanh

Thời Trịnh Tạc mạnh mà thành nổi danh.

Giết quan Tham tụng Quốc Anh

Tham tụng Quý Cảnh suýt thành bóng ma.

Đốt nhà Công Trứ chẳng tha

Dương Khuông không nhả, Nguyễn La chẳng từ.

Canh coi phủ Chúa, làm nư

Bùi Huy Bích dỗ, từ từ bớt kiêu.

Nhà Trịnh đã đến thời xiêu

Tây Sơn diệt Trịnh, tàn tiêu cuộc cờ!

3. Tây Sơn lấy Thuận Hóa:

*Nguyễn Hữu Chỉnh:

Kiêu binh giết Bảo mà ghê

Chỉnh xin Nguyễn Nhạc theo về, Nhạc cho.

Cống Chỉnh đảm lược, giỏi Nho

Hoàng Ngũ Phúc trước đã cho nhập cùng.

Sau Hoàng Đình Bảo tin dùng

Đi theo lập nghiệp anh hùng với nhau.

Hữu Chỉnh biết Nhạc từ lâu

Nay về với Nhạc mưu cầu rạng danh.

Tây Sơn – Chúa Trịnh chẳng lành

Hữu Chỉnh bàn kế lấy nhanh Bắc Hà.

Binh ra Thuận Hóa làm đà

Ngô Cầu trấn thủ thì là hám sinh.

Tờ thư dụ gởi Hoàng Đình

Trao qua tướng Phạm, vô tình... cách ly.

Hoàng Đình Bảo chẳng hay chi

Quan không hợp chí, làm gì chẳng thua?

Công lao Hữu Chỉnh thêu thùa

Thương cho tướng Trịnh gan thừa tử sanh.

Đình Bảo tử chiến thơm danh

Ngô Cầu ghét Bảo lòng đành thản nhiên.

Đa nghi, nóng nảy, tham tiền

 Lầm mưu Hữu Chỉnh, hàng liền Tây Sơn.

4. Tây Sơn dứt họ Trịnh:

Kiêu binh Bắc phủ đang lờn

Trong cơn hoạn nạn, uy sờn, rã ben.

Tây Sơn đánh tới bao phen

Bùi Thế Dận, Tự Quyền hèn, chạy đi.

Bùi Thế Toại, Tạ Danh Thùy

Mất toi Thanh - Nghệ còn gì để mơ?

Bùi Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ

Bỏ Sơn Nam bởi thua cơ bất ngờ!

Khen cho Chúa Trịnh cầm cờ

Lên voi, thất trận, lui về Sơn Tây.

Đi đâu thoát họa đang vây

Duyên may có hạn, cùng ngày vạ mang!

Gian xảo kế, có Nguyễn Trang

Chúa lầm kẻ phản giở màn bất lương!

Can trường Khải đáng làm gương

Cùng đường tự sát hơn vươn tay còng!

Hai trăm mười sáu năm ròng

Chèn Lê, Chúa Trịnh gãy dòng, đứt dây.

Chương X

NHÀ HẬU LÊ MẤT NGÔI VUA

1. Tây Sơn rút quân về Nam:

Nhà Trịnh số đã an bày

Hậu Lê cũng phải đến ngày diệt vong!

Tây Sơn dứt Trịnh vừa xong

Nguyễn Huệ cái chức Quốc Công tới phần.

Vua mang công chúa Ngọc Hân

Cành vàng lá ngọc nương thân tướng hiền.

Nguyễn Nhạc ở Bắc ngại phiền

Xong xuôi, vội vã lệnh truyền trở lui.

Mắt tham thấy bạc nào đui

Đang đêm tháo chạy rinh chui... bạc vàng.

Hữu Chỉnh bị bỏ, vội vàng

Bán sống, bán chết tìm đàng nhảy theo.

Xiu lòng, Nhạc chẳng làm eo

Cho theo Nguyễn Duệ, xuôi chèo Nghệ An.

Nhà Trịnh đã hết làm ngang

Là cơ hội tốt vua, quan nắm quyền.

Hiển Tông tới tuổi quy tiên

Hoàng tôn Chiêu Thống đến phiên bất tài.

Đình thần lắm kẻ hàng hai

Tây Sơn tiến tới, quăng hài thẳng dông.

Hai tên Trịnh Lệ, Trịnh Bồng

Giành tranh ghế Chúa, đèo bòng chữ Vương.

Chiêu Thống lập Án Đô Vương

Được “Vương” muốn “Thượng”, tìm đường lấn vua.

Lê Chiêu Thống phải chào thua

Cho vời Hữu Chỉnh giúp vua, dẹp Bồng.

2. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ở đất Bắc:

Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp Trịnh xong

Vua phong chức Bằng Trung Công Tư đồ.

Cậy công, Chỉnh lại hàm hồ

Làm điều hống hách, ra vô lạn lờ.

Tây Sơn máu đổ dầm dề

Anh em Nhạc - Huệ xoay cờ, đánh nhau.

3. Tây Sơn lấy Bắc Hà:

''Anh em nhồi thịt da đau"

Anh than, Huệ mới nhìn nhau hết phiền.

Hay tin Hữu Chỉnh chuyên quyền

Nguyễn Huệ sai Nhậm giết liền chẳng tha.

Vua thấy Chỉnh sắp ra ma

Bỏ Kinh đô chạy thẳng đà Mục Sơn.

Nguyễn Văn Hòa, tướng Tây Sơn

Bắt Chỉnh nhốt củi, rửa hờn Thăng Long!

Vũ Văn Nhậm giết Chỉnh xong

Tôn Lê Duy Cẩn, tức Sùng Nhượng Công.

Lên làm "giám quốc" hư không

Bắc Hà chắp nối nửa Công, nửa Gà!

Ngày ngày, chầu chực người ta

Có tiếng, không miếng, quân gia chẳng nhìn.

Nguyễn Huệ khi nhận được tin

Vũ Văn Nhậm phản, tức mình, kéo binh.

Ban đêm tiến thẳng vào kinh

Đem người cháu rễ gia hình, thị oai.

Nguyễn Huệ thấy việc xong rồi

Cho Ngô Văn Sở trông coi Bắc Hà.

Quan Lê lắm kẻ chạy xa

Người thì nhậm chức, kẻ... ma giữa đồng!

Lê Chiêu Thống có như không

Triều cương đổ nát, đi tong bệ Rồng.

Ba trăm sáu chục năm ròng

Giàn xiêu, bí đổ, Lê không có gì!

Chương XI

NHÀ NGUYỄN TÂY SƠN (1788-1792)

1. Nhà Nguyễn Tây Sơn dấy nghiệp:

Triều quân chủ, sử còn ghi:

An dân chí lý, đương nghi chính triều.

Nguỵ triều: tiếm vị, lòng điêu

Tham lam, bạc nhược làm điều ác gian.

Muôn dân bách họ lầm than

Khom lưng uốn gối nào màng kỹ cương.

Hưng vong, lấy lẽ đo lường

Tây Sơn thịnh bại, đường đường Đế Vương.

Nguỵ triều cầu viện Bắc phương

Gia Long chính sử trăm đường thị phi.

2. Vua Quang Trung

光忠

(1788-1792):

Vua tài, lịch sử còn ghi:

Anh minh, quân tử chẳng bì tiểu nhân.

Nguyễn Huệ sức khỏe tuyệt trần

Cơ mưu diệu biến, tiên thần chẳng hơn!

Cùng anh dựng nghiệp Tây Sơn

Phú Xuân đóng phủ, tay trơn đất Chàm.

Nhà Thanh dòm ngó phương Nam

Quần thần tấn lập lên làm Quang Trung.

3. Tôn Sĩ Nghị đem quân sang An Nam:

Vua Lê thế bí đường cùng

Thái hậu hết cách bèn dùng sách quen:

Mang hoàng tử chạy bao phen

Tâm không hổ thẹn, bon chen đến Tàu.

Càn Long nghe Sĩ Nghị tâu:

"Giúp người trước cũng về sau giúp mình"!

Vua Thanh chuẩn tấu, ra binh

Mang quân bốn tỉnh mà bình Tây Sơn.

Thế giặc mạnh, Văn Sở chờn

Tam Điệp lui trớn, còn hơn đối đầu.

Phú Xuân, cấp báo mấy câu

Nguyễn Huệ nhắc nhở: mưu sâu kíp dùng!

Bắc Ninh, Nghị đến ung dung

Vua quan Chiêu Thống... cung nghing lạy chào.

Đêm ngày chầu chực ra vào

Thân vua một nước! Ôi chao thẹn thùng!

Tuồng như lũ Mạc Đăng Dung

Vua hèn, lột áo, thân giun... nạp mình!

Tên Tôn Sĩ Nghị coi khinh

Nghinh ngang lính gác đưa trình ý quan.

Tàu ngày, cướp phá dân làng

Vua lo giết hại người hàng Tây Sơn.

Dân tình khiếp hãi nào hơn

Non sông khốn đốn căm hờn chẳng vơi.

4. Vua Quang Trung đại phá quân nhà Thanh:

Đánh giặc nào chuyện đùa chơi

Bắc Bình Vương được quân mời bệ cao.

Đăng đàn, tế lễ, thay bào

Quân binh lập tức đi vào Nghệ An.

Quang Trung phủ dụ chiêu an

Cho ăn Tết trước, rồi bàn xuất chinh.

Quân ta mười vạn tân binh

Giặc hai mươi vạn, ỷ mình thiện binh.

Quang Trung mưu tựa Khổng Minh

Thần cơ diệu đoán tình hình chẳng sai!

Ngài như Hưng Đạo thứ hai

Điều binh thần tốc, thiên tài giở ra.

Cuối năm tiến thẳng Bắc Hà

Qua sông Giản Thủy vào nhà họ Lê.

Lê Chiêu Thống khiếp, không ngờ

Quang Trung phá giặc, san bờ Phú Xuyên.

Ngọc Hồi tuyến địch đầu điên

Vì cô lập chẳng ''khua chiên'' gọi là...

Quang Trung rạng sáng Mồng Ba

Tháng giêng - Kỷ Dậu, đánh ra Hà Hồi.

Loa kêu, quân địch rối bời

Mất hồn, khiếp vía, rụng rời, bó tay!

Mồng Năm, rạng sáng cùng ngày

Tây Sơn tiến đến bao vây Ngọc Hồi.

Đạn Tàu xối xả không thôi

Quang Trung trí lược hạ hồi, lập mưu:

Cỏ rơm quấn lửa, đốt thù

Ba mảnh ván ghép thủ mười lính khiên.

Mỗi người có một dao riêng

Hai mươi lính nữa ráp liền phía sau.

Xáp lá cà đánh với nhau

Giặc chịu không thấu, quay đầu chạy nhanh!

Quan Thanh: Đề đốc Thế Hanh

Tiên phong, tả, dực: Long, Thăng bỏ mình.

Bị vây, Nghi Đống thất kinh

Thắt cổ tự vẩn, chôn mình Đống Đa.

Nửa đêm tin xấu báo ra

Tôn Sĩ Nghị hoảng liệu mà chạy xa.

Lên ngựa, yên chẳng kịp tra

Quăng cha áo giáp, tranh qua chi ếc cầu!

“Quân trung vô thủ”, trước sau

Tranh cầu, cầu gãy, xô nhàu chết sông!

Hồn ai oán lạnh giữa dòng

Chồng, con, mẹ, vợ khóc ròng giá đông!

Quang Trung vừa tới Thăng Long

Chiêu an, phủ dụ bền lòng nghĩa nhân.

Cho lương, thuyền đến hàng quân

Coi như một cách gia ân, mở lòng.

Vì tờ mật chiếu Càn Long

Gởi Tôn Sĩ Nghị tỏ lòng xâm lăng.

Quang Trung bảo Thời Nhiệm rằng:

"Dùng lời khéo cản, ngăn màn chiến tranh".

5. Vua Quang Trung cầu phong:

Càn Long chiến sự không thành

Trong mình rực lửa... tam bành, định sang.

Hoàng đệ vua, Phúc An Khang

Tổng đốc Lưỡng quảng vội vàng trấn an.

An Khang có tính mê vàng

Cho nên đút lót vàng ngàn, d ễ không.

Quang Trung tấu biểu cầu phong

Yên Kinh được cống, vàng đong thế tình.

Hòa Thân được của, tâu trình

Vua nghe Khang nói chí tình, bãi binh.

Mật ngọt, ruồi chẳng coi khinh

Phong vương Nguyễn Huệ, mà sinh cảm tình.

Quang Trung chọn kẻ giống mình

Là Phạm Công Trị, rập rình tiễn đi.

Văn Chân, Văn Sở... phò trì

Huy Tấn, Huy Ích lễ nghì: Cống Voi!

Càn Long tiếp đón hẳn hoi

Làm "lễ ôm gối" mà coi một nhà.

Vời đến chầu ở Nhiệt Hà

“Truyền thần vẽ ảnh” thiệt là hậu ân!

6. Vua Chiêu Thống nhà Lê

bị nhục ở bên Tàu:

Bên Tàu, Thống chẳng yên thân

May sao có được vài chân kẻ hầu!

Khang lừa ''đổi áo, gọt đầu''

Chờ khi phục quốc, mưu cầu Đế, Vương?!

An Khang gạt Thống cùng phương

Khi Càn Long hỏi, tấu chương mà rằng:

"Duy Kỳ chẳng muốn nhọc nhằn

Đổi tóc, áo ở muôn trăng với Tàu".

Càn Long chấp thuận lời tâu

Truyền cho Chiêu Thống vào chầu Yên Kinh.

Lê Quýnh trung hậu, tức mình:

"Đầu, da chặt, lột mặc tình coi không.

Nhưng tóc và áo đừng hòng

Đừng mong ta bỏ tục dòng nước Nam!"

Vua khen trung liệt, vẫn giam

Quýnh vì quốc thể không cam cá thừa.

Còn bè bán nước, dây dưa

Ham vinh, sống nhục, mưu lừa bán vua.

Văn Quyên họ Nguyễn không vừa

Trung can, mắng kẻ gian lừa "Chó Ngao!

Sao mày dám nhục vua tao!"

Đòn roi một trận mưa rào, khổ thân!

Trung quân báo trọn hoàng ân

Mà vua mãi quốc thì ân nghĩa gì!

Tình cảnh Chiêu Thống lâm ly

Tay trơn, chí nhụt còn gì viện xin!

Thêm Hoàng tử mất thình lình

Vong vua rầu rĩ, ly hình xứ xa!

"Rước voi về giày mả cha"

Đâu là đại phước, đâu là họa thân?

Lê Chiêu Thống nhục muôn phần

Xa xôi vạn dặm hư thân đã đành!

Nương mình nấp bóng nhà Thanh

Suy ra, trách kẻ gian manh đoạn tình.

Lừa trên, dối dưới coi khinh

Vong vua đãi bạc, hư vinh nhục mình.

Thiên cha cũng thiệt… thiên tinh

Con Thiên tử lại muôn hình đắng cay!

7. Đức độ Vua Quang Trung:

Quang Trung đức độ cao dày

Am tường trị nước, dùng bầy tướng hay.

Nguyễn Thiếp dạ thẳng lòng ngay

Không theo, vua lấy nghĩa Thầy, kính thay.

La Sơn Phu Tử xưa nay

Không ham phú quý, lòng đầy nước non.

8. Chính trị của vua Quang Trung

Phu thê, dạ cũng vuông tròn

Bắc Cung Hoàng hậu phần còn Ngọc Hân.

Với vua Lê, trọng muôn phần

Lòng không lướt lấn, đỡ đần khó khăn.

Bắc thành tên gọi thành Thăng

Nghệ An đất tổ: "Phượng Hoàng trung đô".

Sơn Nam nhị trấn địa đồ

Hai quan Trấn, Hiệp tha hồ giữ coi.

Phân tri, văn Huyện rập ròi

Coi về kiện cáo, lần hồi xử phân.

Phân suất, quan võ có phần

Binh lương giữ việc chuyên cần kiểm tra.

9. Quan chế:

Quan chế, sử có ghi qua:

Quan cao Tam thiếu hay là Tam công.

Tư cối, lệ, khấu, Tư không

Tư Đồ, Tư mã thuộc dòng "Đại tư".

Hàn Lâm, Lục bộ thượng thư

Thị trung ngự sử, Trung thư sảnh đường.

Đại học sĩ nắm quan trường

Tiền, Trung, Tả, Hữu, về đường tướng binh.

10. Việc Đinh điền:

Đinh (người) ba hạng phân minh:

Cập nách, tráng hạn (trung bình), lão nhiêu.

Điền (ruộng) tam cấp chia đều:

Tam, Nhị, Nhất đẵng mà kêu rõ ràng.

11. Học hành:

Thi Nôm, học giỏi làm quan

Văn hay chữ tốt thêng thang tướng hầu.

Văn chương chẳng mượn chữ Tàu

Tiếng mình, mình học làm giàu chữ Nôm.

12. Việc làm chùa chiền:

Sư nhiều, lắm sãi mòn trôn

Kinh thông dốt nát, thì không trụ trì.

Quang Trung lệnh dọn chùa đi

Cho gom gỗ lại là vì thế nghiêm.

Tu hành phải có căn nguyên

Sư tâm đắc đạo, nhà Thiền đặng thơm.

13. Việc định đánh Tàu:

Nước Nam, Tàu cứ ngắm dòm

An Nam chỉ dám... lôm lôm Chiêm Thành.

Chân Lạp hoặc đánh Tiêm La

Tàu kia nước lớn sao mà... ngó xa!

Quang Trung thiệt khác người ta

Cầu phong kế hoạch chẳng qua dưỡng mình.

Luyện quân chờ lúc nhuệ tinh

Đánh Tàu bắt trả lại mình mấy châu.

Cầu hôn tính nước về sau

Âu là kế sách đương đầu với Thanh.

Than ôi! Chí lớn không thành

Tiêu hao sức lực, tan tành ước ao.

14. Vua Quang Trung mất:

Vua hiền tài, chẳng thọ cao

Nghiệp chung đại cáo đi vào vạn năm!

Ngôi vua chỉ được bốn năm

Thọ bốn mươi tuổi, bệnh ngầm giá băng!?

Rạch Gầm, Xoài Mút hay chăng

Sĩ Nghị buông kiếm, Xiêm - Thanh bạt hồn!

Người đi bóng ngã hoàng hôn

Hồn thiêng, trợ hộ trường tồn nước Nam.

15. Vua Cảnh Thịnh

景盛

(1782-1802):

Chí cha, Quang Toản khó làm

Vua con mười tuổi đành cam ngậm ngùi.

Quyền hành ở cậu họ Bùi

Anh ruột Thái hậu một hùi với nhau.

Không đem xã tắc làm đầu

Mà lo cấu xé mưu cầu lợi riêng.

Trên phân đảng, dưới phân quyền

Tây Sơn trên biển như thuyền gãy thân.

Chương XII

NGUYỄN VƯƠNG THỐNG NHẤT NƯỚC NAM

1. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La:

Nói về Nguyễn Ánh nhanh chân

Trước khi Nguyễn Huệ thắng quân Xiêm về.

Nguyễn Ánh đành phải ở nhờ

Qua Xiêm lánh nạn chờ ngày phát uy.

Lưu vong với Thống khác gì

Về tài trí, Thống sao bì Nguyễn Vương.

Vua Xiêm trọng Ánh khác thường

Vua Thanh coi Thống giống phường rợ nô!

Kiếp Vương sung sướng chỗ mô

Mà bao người cũng nhào vô, thiệt là...

2. Nguyễn Vương Ánh về lấy Gia Định:

Khi Ánh khổ ở Xiêm La

Nguyễn Huệ lúc ấy đã ra Bắc Hà.

Giúp Lê qua những phong ba

Không giành thế lực, chẳng sa lấn đường.

Được phong là Bắc Bình Vương

Phế ngay Trịnh Khải tỏ tường phép khuôn.

Nguyễn Nhạc xưng Đế - Phú Xuân

Gia Định giao Lữ canh chừng, chẳng lơ.

Rồi khi Nhạc - Huệ trở cờ

Quân Gia Định phải điều về Quy Nhơn.

Tây Sơn thế đã kém hơn

Là cơ hội tốt rửa cơn oán hờn.

Nguyễn Ánh chí lớn không sờn

Nửa đêm từ tạ, thuyền quờn chốn xa.

Những điều cần kíp làm qua

Thu "Thiên địa hội" đám Hà Hỉ Văn.

Bấy giờ hào kiệt, nhân văn

Tây Sơn mấy tướng khăng khăng nhập hàng.

Đông Định Vương - Lữ, không màng

Lui về Lạng Phụ, bỏ ngang Sài Gòn.

Văn Tham, Thái phó tài non

Mắc mưu, theo Ánh, tướng còn mấy ai?

Nguyễn Lữ đại tướng bất tài

Bỏ chạy, nhận lấy lá bài tử vong.

Phạm Văn Tham đã phản công

Nguyễn Vương lại thẳng Gò Công chạy về.

May nhờ Võ Tính cao cơ

Đem binh giúp Ánh, qua đê vượt cầu.

Võ Tính đáng bậc mày râu

Vì anh chống Nguyễn rơi đầu, ruột đau!

Võ Tính về giữ vườn Trầu

"Gia Định bậc nhất'' dạ sầu thế chung.

Nguyễn Vương hết sức tin dùng

Đem công chúa gả mà cùng tiến binh.

Quan Tiền phong chưởng cơ Dinh

Chiếm Gia Định mở lộ trình đánh ra.

Tây Sơn, Thái Bảo ra ma

Phạm Văn Tham trước cũng sa kế lường.

Thân tướng tử chiến sa trường

Phạm không binh viện, cùng phương phải hàng.

3. Nguyễn Vương sửa sang mọi việc ở Gia Định:

Nguyễn Ánh lo việc sửa sang

Cấm trò phù thủy, ngăn can bạc bài.

Canh nông, thuế khóa lâu dài

Quan tâm võ bị hòng... bài Tây Sơn.

4. Việc khai khẩn điền thổ:

Nguyễn - Nam, Trịnh - Bắc căm hờn

Đầu rơi máu đổ, xám nhờn cỏ cây.

Công lao Nguyễn Ánh là đây:

Làm Gia Định héo giờ này phục sinh.

Phủ binh cho đến cùng đinh

Khai hoang, lĩnh ruộng, làng đình đổi da.

5. Việc buôn bán:

Thông thương các nước gần xa

Cần lưu huỳnh, lấy thóc mà đổi trao.

6. Ông Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh ở Pháp về:

Ánh đem hoàng tử ngoại giao

Cho Bá Đa Lộc mà nào thấy tin?

Louis mười sáu nghĩ tình

Ký tờ giao ước, lược trình mấy câu:

''Pháp giúp Vương bốn chiếc tàu

Ba đạo: Lục, Hắc dẫn đầu pháo binh.

Nguyễn Vương cũng phải nhượng mình

Pháp quản cửa Hội, định bình Côn Lôn.

Pháp tự do bán với buôn.

Người Âu không được qua truông vượt rào.

Khi Pháp có loạn chiến nào

Lương thực Ánh phải thầu bao lính, tàu.

Nếu khôi phục nước về sau

Mỗi năm làm một chiếc tàu trả ngay''.

Giao ưóc hay nhục ước đây

Lợi mình chưa một, lợi Tây đã mười!

May sao "nhục ước" buồn cười

Tình hình bất lợi, nằm... lười Paris.

Bá Đa Lộc thấy cũng kỳ

Mộ người, mua súng giúp vì chỗ thân.

7. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn

lần thứ nhất (1790):

Nguyễn Ánh sai Chưởng tiền quân

Quan cũ ngày trước, công thần: Văn Câu.

Tiên phong: Võ Tính, Thành, Châu

Cùng vây Bình Thuận, phủ đầu Phan Rang.

Văn Câu binh bại tiêu tan

Gia Định nghị tội: Bãi hàng chức quan.

"Con đường phú quý" thênh thang...

"Bất đắc kỳ tử" cũng đang đợi mình!

Nguyễn Vương lại tự thân chinh

Chiếm phủ Diên Khánh rồi bình Bình Khang.

Chiến thuyền vào bể Nha Trang

Thắng xong thẳng tới địa bàn Phú Yên.

Nguyễn Vương giục thủy binh liền

Tiền binh đánh với binh tiền Tây Sơn.

Quân Thái tử Bảo yếu hơn

Bỏ Thị Nại, hướng Quy Nhơn trốn về.

Tây Sơn - Nguyễn Nhạc não nề

Sống còn là cách cầu nhờ Phú Xuân.

Cảnh Thịnh sai Huấn, Công Hưng

Tư đồ Văn Sở với cùng Lê Trung.

Văn Châu, thống lĩnh đi cùng

Hai đường thủy, bộ trùng trùng giải vây.

Nguyễn Vương vội vã rút ngay

Chạy về Gia Định chờ ngày phản công.

8. Thế lực Tây Sơn;

Phạm Công Hưng giải vây xong

Tịch thu của cải, niêm phong bảo tàng.

Nguyễn Nhạc tức kẻ làm ngang

Thổ huyết bỏ mạng, oán than ngậm lời.

Tây Sơn Nguyễn Nhạc về trời

Mười sáu năm đế, cuối đời chát chua!

Hai vua còn lại một vua

Sắp thêm vua nữa ăn, thua chán chường!

Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Vương

Vua nào giữ được giang sơn vững bền?

Tây Sơn thế lại mạnh lên

Vây thành Diên Khánh bấp bênh mấy lần.

Phú Xuân loạn bởi đại thần

Giết nhau mới tạo muôn phần nghịch thiên.

Bùi Đắc Tuyên lại chuyên quyền

Lừa Ngô Văn Sở vào xiềng với gông.

Bọn Nguyễn Văn Dũng đánh đồng

Nghe Văn Kỷ giết người trong thế cùng.

Dìm sông chết kẻ anh hùng

Tây Sơn đã đến đường cùng cáo chung.

Quang Diệu nghe báo hãi hùng

Không quyền, vua trẻ khóc cùng, thế thôi!

Lui binh, Quang Diệu về rồi

Hai bên Dũng - Diệu đến hồi cự nhau.

Thất kinh, vua gọi vào chầu

Vỗ về, họ mới quay đầu bắt tay.

''Tứ trụ'' chẳng được bao ngày

Trần Quang Diệu bị thâu ngay tước quyền.

Vua nhỏ dại, chẳng người khuyên

Võ quan kiếm chuyện đảo điên tứ bề.

9. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn

lần thứ hai (1797):

Nguyễn Ánh cơ hội đã chờ

Dẫn Đông cung Cảnh đánh về Quy Nhơn.

Tây Sơn con cá thờn bơn

Nhưng cò chưa thể nuốt trơn được liền.

Văn Thành, Tánh đánh Phú Yên

Tây Sơn phòng kỹ, đương nhiên thủ huề.

Nguyễn Vương thấy khó lui về

Bèn chuyển hướng đánh bất ngờ Quảng Nam.

Đánh hoài, Vương liệu chẳng kham

Rút về Gia Định, rồng cam ở chuồng.

10. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn

lần thứ ba (1798):

Thư về cấp báo Phú Xuân

Là tin Nguyễn Bảo luông chuông, trốn tìm.

Nghe anh theo Ánh, vô tim

Cảnh Thịnh bắt Bảo mà dìm xuống sông.

Lê Trung, Trấn thủ không xong

Âm mưu tạo phản, thông đồng, chém đi.

Văn Huấn, Thiếu phó uy nghi

Vạ mang đố kỵ mà đi đứt đời.

Giết nhau quả thiệt tơi bời

Tướng Tây Sơn nản, rụng rời bỏ vua.

Nguyễn Vương như gió được mùa:

"Đại đô đốc chúng đã hùa với ta!".

Vương thương lượng đến Tiêm La

Theo đường Vạn Tượng đánh ra Bắc Hà.

Một nhà, một nước, một cha

Gà làm bạn cáo, cáo tha mất liền!

Quy Nhơn, Ánh lấy về nguyên

Rút về Gia Định, giao quyền Tính, Châu.

Bá Đa Lộc lại bệnh đau

Mất rồi, Vương tặng công đầu: Quận công.

11. Quân Tây Sơn vây thành Bình Đ ịnh:

Tây Sơn xáo xộn bên trong

Mượn tay Văn Dũng tấn công tướng Trần.

Quang Diệu về bắt loạn thần

Vua Cảnh Thịnh phải phân trần, biện minh.

Canh Thân, Quang Diệu ra binh

Cùng quân Văn Dũng vào bình Quy Nhơn.

Tùng Châu, Võ Tính không sờn

Giữ thành lương thực hết trơn cũng đành.

Tháng giêng Tân Dậu, tương tranh

Vương sai Tống Phúc Lương nhanh mở đường.

Di Nguy, Văn Duyệt tinh tường

Mang thủy quân chận, cắt đường Tây Sơn.

Được Thị Nại, lại tay trơn

Đông cung Cảnh ốm, căm hờn với ai?

Nguyễn Hi, hoàng tử thứ hai

Tháng sau cũng mất, Vương ai oán lòng!

12. Nguyễn Vương thu phục Phú Xuân:

Tây Sơn vây mấy tháng ròng

Giải vây chẳng được, sai vòng cửa sau.

Vương kêu Võ Tính, Tùng Châu:

“Bỏ thành trốn chạy giữ đầu lấy công”

Võ Tính ngay thẳng một lòng:

''Phú Xuân nên lấy để hòng tiến binh''.

Nghe lời Tính, Ánh ra binh

Tây Sơn Cảnh Thịnh hoảng kinh, rụng rời!

Hai bên loạn chiến tơi bời

Đạo đồ Thiên Chúa nhập... đời chiến chinh.

Vua hèn, quan chỉ lo mình

Nên dân tình giữ phận mình tép tôm.

"Lạy trời cho có gió Nồm

Cho quân nhà Nguyễn giông buồm thẳng ra".

Tây Sơn số kiếp không nhà

Nguyễn Huệ mất sớm, sơn hà tả tơi.

Phú Xuân như đánh giỡn chơi

Quân phò mã Trị rã rời, bại ngay.

Vua Cảnh Thịnh chống nửa ngày

Tan bầy, rã bọn ai thầy, tớ đây?

Tìm đàng "xa chạy, cao bay"

Ngày đêm vội vã ra ngay Bắc Hà.

Quang Thùy, em chẳng rời xa

Thị Xuân hộ giá vua mà rước đi.

Họ Bùi hào kiệt nữ nhi

Vợ Trần Quang Diệu, sử ghi: Anh hùng.

Tôi trung chẳng gặp thời chung

Cây xanh thiếu nắng thung chùng, héo hon!

Vợ chồng lòng dạ sắc son

Tôi trung thờ chúa vuông tròn có nhau.

13. Võ Tính tử tiết:

Quy Nhơn, Võ Tính, Tùng Châu

Quân Trần Quang Diệu bao vây giữa thành.

Viện binh bị đánh tan tành

Cùng phương, Võ Tính mới đành tự thiêu:

"Như ta chủ tướng thì liều

Còn như quân sĩ làm điều tội chi?

Người nên mở lượng từ bi..."

Lầu cao Bát Giác truyền ghi một lời!

Tùng Châu nghĩa đảm đầy vơi

Dùng ngay thuốc độc, muôn đời thủy chung!

Toàn là những bậc anh hùng

Thời nào tướng nấy kiên trung phải cần.

Vào thành, Quang Diệu an dân

Chôn thây Châu, Tính tỏ phần nễ yêu.

Y lời, quân tử nào điêu

Đem tâm đức độ làm điều trị gia.

14. Trận Trấn Ninh:

Phú Xuân thất thủ, tin qua

Cảnh Thịnh vội chạy kíp ra Bắc Hà.

Viện binh các trấn kéo ra

Quân non ba vạn có đà vượt sông.

Tướng Nguyễn thấy chống không xong

Trần Thường, Tống Phúc Lương đồng rút binh.

Nguyễn Vương phải tự thân chinh

Thủy, bộ hai hướng Trấn Ninh thủ vì.

Tháng giêng Nhâm Tuất, Quang Thùy

Cùng Thị Xuân lại kiên trì phá ra.

Nguyễn Văn Kiên lại xấu xa

Thua trận Nhật Lệ phải ra chịu hàng.

Nguyễn Văn Thận giữ Nghệ An

Vua Tây Sơn dẫn binh tàn chạy đi.

Quang Diệu, Văn Dũng so bì

Trấn Ninh bị phá, thủ gì Quy Nhơn?

Bỏ thành mà chạy hay hơn

Nghệ An thẳng tiến qua cơn hoạn này.

Vua tôi gặp gỡ tại đây

Lo mà chống Nguyễn với xây dựng nhà.

15. Nguyễn Vương lên ngôi tôn (1802)

Gia Long nguyên niên

嘉隆元年

Phú Xuân chiếm giữ làm nhà

Tháng năm Nhâm Tuất xưng là Gia Long.

Lập đàn tế cáo vừa xong

Đồng thời lệnh tiến thẳng dong Bắc Hà.

16. Quân Nam ra lấy Bắc Hà:

Văn Trương, đường thủy đánh ra

Bộ binh: Duyệt, Chất chia mà đánh sang.

Quân bộ vượt sông Linh Giang

Tiến vào Hội Thống sang bằng lũy dinh.

Khiến quan Trấn thủ hoảng kinh

Bỏ Nghệ An chạy, náo mình Diễn Châu.

Quân Nguyễn triều kéo đến đâu

Tây Sơn chẳng đánh mau mau chịu hàng.

Cảnh Thịnh thấy quân vỡ tan

Cùng em bỏ trốn mà sang Nhị Hà.

Dân gian ở đấy tìm ra

Đem vua bỏ củi coi là lập công.

Quang Thùy, Đốc Tú đau lòng

Hiên ngang tự tử, vợ chồng chết chung.

Thị Xuân, Quang Diệu anh hùng

Cùng Vũ Văn Dũng nhận khung giảo hình.

Tiểu nhân, quân tử khó bình

Bên ta cứu chúa, bên mình phản dân.

Trung thần, phản trắc bất phân

Luận công, định tội chờ phần kiếp sau.

Tây Sơn dựng nghiệp không lâu

Tàu không kẻ lái lao đầu hố sâu.

Quyển V

CẬN KIM THỜI ĐẠI

NHÀ NGUYỄN

阮氏

(1802-1945)

Chương I

THẾ TỔ (1802-1819)

Niên hiệu: Gia Long

嘉隆

1. Thế Tổ xưng Đế hiệu:

Tây Sơn xóa xổ vương hầu

Hăm bốn năm, Ánh nối cầu Việt Nam.

Phú Xuân - Thủ phủ Bắc - Nam

Thế Tổ cấp đất, phong hàm Trịnh - Lê.

Bắc thành tên gọi bấy giờ

Văn Thành phụng chỉ vỗ về, ngó coi.

Xếp đặt đâu đó hẳn hoi

Nhâm Tuất, nghị tội rạch ròi Tây Sơn.

''Hiến phù'' làm lễ rửa hờn

Tù quốc gia chẳng nặng hơn phạm nhà!

Hồn ma cũng dễ gì tha

Đào mồ, quật mả vua nhà Quang Trung.

Mang thây nghiền bột vứt tung...

Đầu đem xích lại giam vùng tử lao!

Văn thần, võ tướng, ôi chao

Hàng rồi cũng đánh máu trào mới tha!

Vua tha, nhưng tướng chẳng tha

Thời Nhiệm chết bởi roi da Trần Thường.

Vợ chồng Quang Diệu thê lương

''Voi giày'' đến chết một phường trẻ thơ!

Hình gia xử ác người ghê

Ban công, luận tội nào ngờ tiểu nhân!

Quân thù xâm lược nào thân

Cũng đâu số phận nát gân, tróc mày!

Cho người viết lại dòng này

Than dài, nước mắt thương vay, đắng lòng!

2. Việc triều chính:

Điêu linh sáu chín năm ròng

Triều cương đổ nát, thuần phong lụi tàn.

Gia Long mới cấm dân gian

Không tin Thần, Phật sinh sang rượu chè.

Quan nào lập phái, kết bè

Đua nhau quấy nhiễu hằm hè, chẳng tha.

Với Tàu, Chân Lạp, Tiêm La

Giữ tình hiếu thuận, nước nhà mới yên.

Triều ca sửa đổi mà truyền:

Theo Lê, chế độ vua quyền, phủ nha.

Bồ tụng, Tham tụng bỏ qua

Chỉ còn Lục bộ, đầu là Thượng Thư.

*Bộ Lại thưởng phạt công tư

Xét công trạng, thảo chiếu từ, bổ quan...

*Bộ Hộ coi việc kho tàng

Đinh điền, thuế má, bạc vàng, chuyển thông...

*Bộ Lễ coi tế, tôn phong

Học hành, thi cử, thọ đồng, tế nhân...

*Bộ Binh kén chọn tân quân

Thuyên bổ võ chức, hiệp quần thưởng công...

*Bộ Hình duyệt án chưa thông

Hình danh pháp luật, tấu dâng, nhục hình...

*Bộ Công coi việc cung đình

Xây thành, dinh thự, công trình bán mua.

Lập Đô sát viện can vua

Tả, hữu Ngự, Phó theo tua đứng đầu.

Bốn Doanh, ba Trấn chia nhau

Trấn gồm có Huyện, Tri và Phủ châu.

3. Binh Chế:

Ban công, định tội liền nhau

Thờ người tử trận, phong Hầu kẻ công.

Lính già chiến trận về xong

Các Trấn theo lệ quay vòng: Giản binh.

Kinh đô nơi đặt Thâu binh

Tinh binh với lại Cấm binh giữ thành.

Lính Cơ, lính Mộ trấn hành

Binh khí đủ cỡ, tập tành với nhau.

Tàu thuyền lớn, bọc đồng thau

Tuần dinh tiền hậu, canh tàu viễn chinh.

4. Việc Tài chính:

Tài chính đổi mới hợp tình

Gia giảm khi lũ hạn sinh mất mùa.

Thuế điền, ba hạng thu mua

Thuế đinh, lệ định khác mùa, khác nơi.

Năm năm, đinh hạ lỗ, lời

Dân, quân, chức sắc đồng thời phải khai.

Ruộng điền, điền bạ sinh nhai

Ba năm trả lại, không ai bán, nhường.

Thuế thân, sản vật coi tường

Thuế thuyền nước khác, ước lường: Nhỏ, to.

Nhà vua chế kiểu thước đo

Người Tàu khai mỏ, vua cho hưởng dài.

Năm Gia Long tính thứ hai

"Gia Long thông bảo" thông khai bán hàng.

Mười lượng bạc, một lượng vàng

Cho phép Gia Định chuyển sang đúc tiền.

Đồng, chì, sản vật: cân thiên

Cân trung bình để cân riêng bạc vàng.

5. Công vụ:

 Gia Long cứu xét mà bàn

Xây nhà, sửa lộ, làm đàng nghỉ chân.

Quan các Trấn, phải cùng phân

Đê điều cẩn thận, phòng dân mất mùa.

6. Pháp luật:

Làm theo luật lệ nhà Lê

Tân Mùi, Thế Tổ châu phê Văn Thành:

Đem luật Hồng Đức, nhà Thanh

Soạn thành một bộ phát hành mọi nơi.

7. Việc Học hành:

Học hành, thi cử nào chơi

Lập miếu Khổng Tử, chẳng hời đạo Nho.

Mở thi Hương, chọn học trò

Người giỏi văn nọ vào lò luyện văn.

Nước nhà cần võ và văn

Lệ thi tuyển võ, văn thần mỗi năm.

Thời Gia Long thịnh Quốc âm

Nên nhiều tác phẩm rộ rầm nổi danh:

"Văn tế" của Nguyễn Văn Thành

"Hoa tiên" - Huy Tự; ''Bắc hành" - Nguyễn Du.

''Lẩy Kiều'', mẹ hát mà ru

"Truyện Kiều" hảo bút, ngàn thu để đời.

Địa dư, Quốc sử cùng thời

Thượng thư Quang Định viết mười quyển xong.

8. Việc giao thiệp với nước Tàu:

Năm Giáp Tý, Tàu sang phong

Ta ba năm cống... vía ông, một lần.

Ngà voi, quế mỗi trăm cân

Sừng Tê hai bộ, lụa cần trăm cây.

Một ngàn lượng bạc đủ ngay

Vàng hai trăm lượng tới ngày… cúng dâng!

9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp

và nước Tiêm La:

Ba vua Chân Lạp tranh phần

Nặc Ông Vinh lại chẳng cần biết em.

Láng giềng, Thế Tổ... dòm xem

Sai Thành Nhân lập Ông em kế vì.

Kể từ năm đó trở đi

Nặc Ông Ấn mất, trị vì: Ông Chân.

Chân Lạp nhận phận chư thần

Ba năm chịu cống một lần nước ta.

Vương triều Chân Lạp can qua

Ba em Ông Nặc lại ra đoạt quyền.

Quân Tiêm La, xuất binh liền

Ông Chân thua chiến... về miền Tân Châu.

Việt Nam nhận biểu, cứu nhau

Tiêm La mới chịu quay đầu, bỏ đao!

10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao:

Năm Quý Hợi, nước Hồng Mao

Anh Cát Lợi, đáo qua, rao bán hàng.

Gia Long bảo thủ, không màng

Tiêu tan cơ hội mở mang với người.

11. Việc giao thiệp với nước Pháp-Lan-Tây:

Với Pháp, trọng chín, kính mười

Vì Bá Đa Lộc giúp Người biết bao.

Tàu hàng, thuế chẳng thu cao

Cho Lan Tây nọ ngồi vào chức quan.

Xem ra trọng hậu vô vàn

Chầu không bắt lạy, thêm quan lính hầu.

12. Sự giết hại công thần:

Người đời vẫn có cái câu:

"Được chim bẻ ná, khi giàu phủi ơn"!

Nguyễn Ánh nào khá gì hơn

Như Lê Lợi giết hết trơn đại thần!

Hồi chuông cảnh tỉnh xa gần

Nghĩa nhân chẳng giữ, muôn phần bại danh.

Đặng Trần Thường, Nguyễn Văn Thành

Công thần bậc nhất nỡ đành trảm biên!

Văn Thành vốn ở Thừa Thiên

Vào Gia Định lại truyền duyên mấy đời.

Vương nghe học rộng, bèn mời

Phong cho chức Tổng trấn nơi Bắc Hà.

Trung quân chức cũng từng qua

Học hành xứng đáng đảm nha Tổng tài.

Văn Thành có đứa con trai

Cử nhân đổ đạt thành tài: Văn Thuyên.

Văn tài lắm nẻo truân chuyên

Chưa chi đã rước buồn phiền tới thân.

Thơ văn thỏa chí gieo vần

Tâm tư tại nội nguy thân thế này:

- "Ái Châu nghe lắm người hay

Cầu hiền mong ước đã rày bấy nay.

Ngọc kinh sơn phác có đây

Ngựa kỳ ký Bắc biết hay đã rồi.

Hương từ nghìn dặm xa xôi

Gò cao, Phượng hát, mây trôi chín tầng.

Gặp nhau, sơn tế ân cần

Có cơ hội đổi xoay vần đó đây''.

Làm xong gởi đất Thanh ngay

Cho Khuê với Nhuận, hai tay tú tài.

Ai ngờ Trương Hiệu thài lai

Thêm hành ớt tỏi đến tai Duyệt rồi!

Duyệt - Thành hai tính ngược đôi

Ghét cha, Duyệt mới ra mòi chém con.

Văn Thành níu áo kêu oan

Gia Long dứt áo chẳng còn trọng đâu.

Triều đình ép nhận tội mau

Văn Thành uống thuốc chết sầu, hận sâu.

Văn Thuyên phải bị chém đầu

Thù nhau "vạch lá tìm sâu" mới... ''người''!

Trần Thường số cũng buồn cười

Hà Đông, Chương Đức quê người nghiệp trơn.

Vì sao chạy trốn Tây Sơn

Đi vào Gia Định, hỏi cơn cớ gì?

Thượng Thư Binh Bộ cũng chì

Lê Chất sao lại bươi chi lỗi lầm?

Giam Thường vào ngục tối tăm

Rồi mang xử trảm, mà lầm kẻ thâm.

Để đời bài vịnh quốc âm

"Hàn vương tôn phú" thâm tr ầm, đáng thương.

13. Xét công việc của vua Thế Tổ:

Nguyễn Ánh bền bỉ khôn lường

"Trường kỳ kháng chiến" người thường chẳng kham!

Vì danh, khổ nhọc đều cam

Đại công thống nhất Bắc Nam vẫn truyền.

Nhưng khi hết chuyện truân chuyên

Công thần giết hại liền liền mới đang!

Không tha kẻ đã xin hàng

Vô tâm sỉ nhục tông đàng Tây Sơn!

So Hán Cao, Độ còn hơn

Lòng mang nặng chữ "căm hờn" mới ra.

Thái sư, chôn sống người ta

Gia Long, mồ mả, không tha được người!

Công thần số phận trêu ngươi

Đường cùng, nhận kiếp thân cười bóng ma.

Công nhiều, tội cũng nhiều ra

Không như kiếp bọt hát ca giữa dòng.

Làm vua mười tám năm ròng

Thọ năm chín tuổi, Gia Long băng hà.

Chương II

THÁNH TỔ (1820-1840)

Niên hiệu: Minh Mệnh

明命

1. Đức độ vua Thánh Tổ:

Hoàng Thái tử Đảm thay cha

Thông minh nổi tiếng vốn là bẩm sinh.

Sinh thời, hiếu học, thâm tình

Thờ gương Khổng - Mạnh, giữ mình đạo Nho.

Nhìn dân ngả ''Đạo'' mà lo

Nên không ngại... giết thầy trò Gia Tô.

Vì mong bảo vệ cơ đồ

Không cho kẻ lạ, ra vô nước mình.

2. Việc Chính trị trong nước:

 Lâm triều, phán xử anh minh

Thêm Tự, Viện để thông tin tới mình.

Phẩm hàm chín thể quân tình

Tùy theo công trạng mà bình chức danh.

Minh Mệnh thay đổi ngọn ngành

Đổi Trấn ra Tỉnh giống Thanh của Tàu.

Lãnh binh, Tổng đốc trước sau

Tuần phủ, Bố chính cùng nhau giữ gìn

3. Nội các:

Nguyên niên Minh Mệnh, Canh Thìn

Thị thư viện đổi sang dinh Thư phòng.

Lấy Tam, Tứ phẩm bên trong

Đổi thành Nội các trong vòng mười năm.

4. Cơ mật viện:

Minh Mệnh, năm thứ mười lăm

Lập Cơ mật viện để nhằm trị an.

Tam phẩm chọn lấy bốn quan

Kim bài lãnh lệnh vinh quang Đại thần.

5. Tôn nhân phủ:

Minh Mệnh mười bảy, Bính Thân

Đặt Tôn nhân phủ đỡ đần họ vua.

Thờ vua bảy miếu, khác chùa

Tả Chiêu, hữu Mục chia vừa trước sau.

Một Tôn nhân lệnh đứng đầu

Tả hữu tôn chính đầu tàu bốn quan.

Tôn khanh tả hữu coi tang

Tá lý giúp đỡ con quan, họ hàng.

6. Quan chế:

Thánh Tổ xếp đặt thứ quan

Chánh, Tòng tùy Nhất, Cửu hàm chia hai.

Chánh Nhất Phẩm có bốn vai:

Đông, Văn, Cần, Võ anh tài phía văn.

Ngũ quân Đô thống võ quan

Văn Đại học sĩ phân hàng thấp cao.

Tòng Nhất Phẩm đệ nhị trào

Hiệp biện đại học sĩ vào sĩ gia.

Hàng võ: Đô thống… nhị gia

Chánh, tòng nhất, cửu phẩm qua chín hàm.

Quan viên tùy chức mà làm

Vinh quy bái tổ, quan hàm rạng vai!

7. Đặt Tổng đốc, Tuần phủ ở các tỉnh:

Minh Mệnh năm thứ mười hai

Đổi Trấn thành Tỉnh theo bài Tống, Thanh.

Tống đốc, Tuần phủ nên danh

Án sát, Bố chính thêm ngành Lãnh binh.

Việc quân, dân phải giữ gìn

Chính trị, giáo dục, luật hình, chẳng lơi.

8. Lương bổng của các quan viên:

Kỷ Hợi, Minh Mệnh hai mươi

Thánh Tổ phân bổng hai mươi thứ quyền.

Chánh tới Hậu bổ quan viên

Từ hai đến bốn trăm tiền mỗi quan.

Gạo, tiền xuân phục, đưa sang

Sợ quan tham nhũng, vua ban dưỡng tiền.

9. Tiền Dưỡng liêm:

Loại “quan tiền”, vua thưởng riêng

Tri châu, phủ huyện, được tiền Dưỡng liêm.

Năm mươi quan cấp thanh liêm

Hai mươi quan cấp công nghiêm hạng bình.

10. Sự học hành thi cử:

Học hành thi cử chiêu sinh

Đầu Hương, giữa Hội, cuối Đình: Tam khoa.

Đổ Tam trường gọi: Sinh đồ

Xem ra cũng được một bồ chữ Nho.

Sinh đồ - cô Tú khá to

Tứ trường: Hương cống, một lò Cử  nhân.

11. Sách vở:

Văn chương ưu ái dăm phần

Bình đàm, viết lách, gia ân kẻ tài.

Những người viết sách một mai

Trịnh Hoài Đức với Công Tài, Văn Thiu.

Nguyễn Đình Chính, Vũ Văn Tiêu

Nhiều tác phẩm viết nhiều điều Sử, Thi...

12. Việc sửa phong tục:

Cuối đời Thánh Tổ trở đi

Thuần phong bị hủy khác chi chiến trường.

Mười điều răn dạy làm gương:

''Đôn nhân luân: Trọng Ngũ thường, Tam cương.

Chính tâm thuật: Chẳng vướng thường

Vụ bản nghiệp: Bảo nghề thương chẳng quèn.

Thương tiết kiệm: Ấy đáng khen

Hậu phong tục: Giữ tâm đèn sáng thêm.

Huấn tử để: Dạy con em

Sùng chính học: Nói không thèm đạo man.

Giới dâm thắc: Chẳng dâm gian

Chận phép thư: Đề răn can mọi người.

Quảng thiện hạnh: Chuyện tốt tươi

Mười điều răn dạy để đời thế gian.

13. Nhà Dưỡng tế:

Thánh Tổ thương kẻ nghèo nàn

Lập nhà Dưỡng tế, cắt quan cấp tiền.

Người nào quan quả, ưu tiên

Kẻ tàn tật cũng được quyền ở ăn.

14. Việc Đinh điền và Thuế má:

Đinh điền, thuế má không tăng

Người Minh Hương nộp sáu quan năm tiền.

Thuế mỏ, sản vật y nguyên

Thêm thuế ruộng muối bốn tiền ba mươi.

15. Việc võ bị:

Võ bị cũng chẳng chây lười

Pháo đài, tàu biển tuần nơi hiểm nghèo.

Ba Doanh, mười lăm Vệ theo

Toàn quyền Đô thống lái lèo Thủy binh.

 Kinh binh cùng với Cơ binh

Các Doanh, Vệ, Đội, thành hình Bộ binh.

Kỵ binh và Pháo thủ binh

Điểu thương, cờ, súng xập xình thần công.

Tượng binh voi bốn mươi con

Bộ, Thủy, Tượng, Kỵ và còn Pháo binh.

Sáu loại Binh chế triều đình.

Thánh Tổ lệnh thế, quan mình có nghe!

Trọng văn, khinh võ, hai phe

Bỏ bê binh lực hằm hè gớm thay!

1. Sự giặc giã:

Tiêm, Lào quấy nhiễu Nam, Tây

Cựu thần Lê dấy đó đây Bắc Kỳ.

Quan trường chỉ giỏi chi li

Thần dân bất mãn: Vua chi hẹp hòi.

May nhờ tướng giỏi bầy tôi

Minh Giảng, Công Trứ lần hồi tóm thâu. ...

2. Giặc ở Bắc Kỳ:

Giặc cỏ quấy mấy Huyện, Châu

Loạn lớn Nam Định đứng đầu họ Phan.

Năm Minh Mệnh, đã lấn sang:

Ninh Bình, Nam Định, Tuyên Quang loạn tràn.

3. Phan Bá Vành

潘伯

(1826-1827):

Nguyễn Hạnh, Đức Cát, Bá Vành

Giết quan Thủy ngự Đặng Đành, Nguyễn Trung.

Trấn thủ Nam Định số cùng

Để Lê Mậu Cúc vẫy vùng tứ tung.

Bá Vành đánh phá muôn trùng

Hợp cùng giặc Khách cướp vùng biển khơi.

Tiên Minh, Huyện lệnh quấy tơi

Dẫn binh lính phá tơi bời Nghi Dương.

Quay về chiếm phủ Thiên Tường

Vây quan chợ Quán, Kiến Xương đánh tràn.

Vua sai tham biện Nghệ An

Tham biện Thanh Hóa diệt đàng họ Phan.

Binh triều đình, thế nước tràn

Bá Vành, đồng đảng, bị quan bắt về.

4. Lê Duy Lương

黎濰良

(1833):

Đương thời, có cháu nhà Lê

Mưu khôi nghiệp cũ, trương cờ khởi binh.

Lê Duy Lương ở Ninh Bình

Nổi lên tự nhận xưng mình: Hoàng tôn.

Đem binh vây Huyện, Châu, Thôn

Hưng Hóa đánh trả bảo tồn chút danh.

Tổng đốc hai tỉnh Nghệ - Thanh

Quang Cự - Văn Trọng vây nhanh Ninh Bình.

Bắt Duy Lương giải về kinh

Dòng Vương dính tội, gia hình phải cam:

Bình Định, Quảng Nghĩa, Quảng Nam

Ngăn ngừa khởi loạn, đầy làm thứ dân.

5. Nông Văn Vân

農文霧

(1833-1835):

Nông Văn Vân ở Tuyên Quang

Tri Châu Bảo Lạc, họ hàng Văn Khôi.

Loạn vì chuyện bực mình thôi

Vân bị ghép tội theo Khôi phản loàn.

Văn Khôi dấy loạn Phiên An

Vân, anh vợ chẳng thoát màn lưới giăng.

Trong lòng bất mãn đang căng

Vùng lên đánh chiếm Cao Bằng - Thái Nguyên.

Bắt quan tham, thích chữ liền

Mặt khắc bốn tiếng: "ăn tiền của dân"!

Triều đình đánh dẹp mấy lần

Hao binh, tổn tướng, muôn phần khó khăn!

Quang Cự lấy lại Cao Bằng

Tiến công ba mặt nhịt nhằng kiếm cung.

Ba đạo hội ở Vân Trung

Cùng đường, Vân định dung thân xứ Tàu.

Nhà Thanh được báo từ lâu

Vân bị đuổi bắt ở đầu Tuyên Quang.

Phạm Văn Điển đuổi tận hang

Văn Vân lẫn giữa bạt ngàn núi xanh.

Văn Điển đốt lửa chung quanh

Vân thà chết cháy giữ danh, chẳng hàng!

6. Giặc ở Nam Kỳ: (1833-1838)

Nam Kỳ đất mới khai hoang

Là nơi thánh nghiệp đăng quang rỡ ràng.

Vào đời Thánh Tổ khang trang

Nhưng nghe kẻ bậy, hàm oan đại thần.

Tổng trấn Gia Định thương dân

Gia Long Thánh Tổ trọng thân cựu thần.

Biết Duyệt nóng nảy, bất cần

Thương vì "khai quốc công thần", mới... lơ!

Văn Duyệt mất nên chẳng ngờ

Xuân Nguyên tráo trở, mập mờ giở chiêu.

Tham lam, làm ác khá nhiều

Móc moi chuyện nhỏ, kiếm điều hại chơi.

Tội nhân có Nguyễn Hữu Khôi

Con nuôi Văn Duyệt theo nòi họ Lê.

Văn Duyệt tưởng thưởng mọi bề

Phong phó vệ úy cầm cờ giúp cha.

Bị Xuân Nguyên bắt chẳng tha

Bất bình, Khôi giết cả nhà Xuân Nguyên.

Tổng đốc đã xuống cửu tuyền

Quan Án, quan Lãnh... ở hiền, được an.

Quân triều đang đóng Phiên An

Phần nhiều theo hết về hàng Văn Khôi.

Xưng Đại nguyên soái hẳn hoi

Cắt đặt phong thưởng như coi triều đình.

Công Triều nhận lệnh, ra binh

Gia Định lục tỉnh, rinh về biếu Khôi!

Triều đình sai những bầy tôi

Phúc Lương, Xuân, Thúy, Gi ảng rồi Văn Năng.

Đem Thủy, Bộ, Tượng đánh ngăn

Công Triều quăng giáo, giơ khăn, chịu hàng!

Văn Khôi bị phản, còn gan

Đóng thành chống giữ, kiếm đàng viện Tiêm.

Ngã đau mà chết im lìm

Triều đình, Ất Tị mới dìm Phiên An.

Nguyễn Xuân, Văn Trọng bạo tàn

Vào trong giết chết quân quan cả thành.

Trời còn có đức hiếu sanh

Quân hơn nghìn tám, giết đành đoạn sao!

Núi mồ tập thể, ôi chao

Có tên "mả ngụy" xương cao ngất trời!

Sáu người bị bắt, hết thời

Xương gan thịt trộn, bã bời, gớm thay!

Lăng trì, ngựa xé, voi giày

Gia hình thời Nguyễn, tội này khó dung.

Một linh mục Pháp cùng chung

Vào thành truyền giáo nhận khung giảo hình.

Thế gian nào đã tận cùng

Đức nhân hai chữ chẳng dùng sáng gương?

7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất:

Lê Văn Duyệt

黎文悦

Phiên An thành hủy nát tương

Lê Văn Khôi cũng hết đường tái lai.

Triều đình nghị tội cả hai

Công thần Chất, Duyệt vương tai rủa nguyền.

Sử kia, nhà Nguyễn còn truyền:

"Đại Nam liệt truyện chính biên" viết rằng:

"Năm xưa, Gia Định là căn

Văn Duyệt ở với nghịch thần trảo nha.

Bọn Khôi lò ấy mà ra

Cùng nhau phản loạn, quân ta cực lòng.

Nay Duyệt phải tội thông đồng

Chức quan đoạt lại, gia phong xử hình.

Nghe Đô sát viện tâu trình

Vua dụ Nội các lời bình như sau:

Văn Duyệt chết đã từ lâu

Xuất thân từ thuở thằng hầu cấm cung.

Đức Hoàng khảo đã tin dùng

Ban chức đại tướng cho cùng xuất binh.

Hắn mưu phản nếu mà sinh

Nước yên, một kẻ hoạn tình sợ chi?

Từ khi trẫm được ngôi vì

Suy đi, tuổi nó cũng thì đã cao.

Cựu thần chẳng mấy trong trào

Cho nên rộng lượng chớ nào khắc khe?

Ai dè nó chẳng biết nghe

Đem lời rắn rết mà khoe cái tài.

Bọn Thanh - Nghệ, lũ bạc bài

Văn Khôi vô lại, mà sai rước về?

Thổ hào, Văn Nhã đứa quê

Vĩnh Ưng, Vĩnh Lộc loạn nhờ nó dung.

Trần Văn Vĩnh, Đặng Vĩnh Ưng

Tù phạm mà nó cũng dùng cận thân.

Thuyền bè khí giới, tiền dân

Nó mang đem cất nói cần đánh Tiêm.

Phòng giặc đường biển Hà Tiên

Chân Lạp đường bộ, nó điên chẳng phòng.

Phiên An thành nó ở trong

Hào sâu, cao lũy, thì phòng cái chi?

Ruột nó, người biết đường đi

Nhưng chẳng chịu nói nên chi vạ này.

Mụt nhọt mà để lâu ngày

Thì nung lên mủ đau tay nhức liền.

Ví như Văn Quế, Xuân Nguyên

Có hiền, chúng cũng đến phiên quấy xằng.

Mồ cha, em, hắn tiếm "Lăng"

Tự xưng "Cô" để bọn loạn thần nhớ chăng?

Thầy Hữu Tử có nói rằng:

"Người trên không phạm, chỉ xằng, có đâu!".

Cho nên, hắn chết chưa lâu

Con nuôi dấy loạn mà hầu gỡ danh.

Ba năm chúng bám lấy thành

Bộ khúc ở lại chẳng đành bỏ đi.

Triều đình mở lượng từ bi

Mà chúng chẳng hối, bất tri đáng nguyền.

Nay đem hết những căn nguyên

Trình ra thị chúng mà truyền nghịch thiên.

Hôm sau, Nội các Hà Quyền

Tri Phương, Hoàng Quýnh trình nguyên t ấu rằng:

Chở che phỉ loạn làm xằng

Gây nhiều biến sự đủ bằng cớ đây".

Thục lục ghi chép một dây

Nhìn qua, ngó lại tớ thầy với nhau.

Nội các định sáu tội sau

Bảy tội phải trảm cái đầu... bóng ma!

Vua bèn xuống dụ truyền ra

Tội Duyệt nhổ hết tóc ta cũng thừa.

Bổ quan quách, giết thây thừa

Gia phong niêm cửa chưa vừa tội y.

Nhưng ta cũng phải từ bi

Xương khô đã rã, cương thi còn gì?

Vậy thì Tổng đốc, ngươi đi

Tới mồ của hắn tùy nghi phủ bằng.

Dựng bia khắc chữ mà rằng:

"Đây mồ Văn Duyệt làm xằng bị giam".

Tội danh kẻ chết phải làm

Cho người sau biết người gian rủa nguyền.

Cháu hắn thì tội giảm thuyên

Trảm giam hậu cũng như khuyên đủ rồi.

Cực hình đã phục thì thôi

Cân nghiêm ba thước tỏ oai búa riều".

Án Lê Chất:

黎質

Án Duyệt định sáng, thì chiều

 Bá Tú kiếm tội sáu điều họ Lê.

Mười tội tiếm loạn nhuốc nhơ

Cộng mười sáu tội, Chất ngờ được chăng?

"Vua rằng: Tội sống không tăng

Có nhổ hết tóc cũng bằng Duyệt thôi.

Duyệt sao Chất vậy cho rồi

San bằng bia mộ chẳng đòi phá thây.

Vợ hắn là Lê Thị Sai

Đàn bà thì chẳng gieo tai vạ gì.

Con cái chẳng chính pháp chi

Truyền giam trảm hậu, chúng ghi khắc cùng".

Suy đi, Minh Mệnh bao dung

Đại thần tiên đế dựng chung cái nhà.

Hai tay đỡ lấy nghiệp cha

Cũng nên ngoảnh lại mới là chính quân.

Nghĩ lại, mới thấy vô chừng

Văn Duyệt, Lê Chất chưa từng ngoại gian.

Công lao nhận lấy phủ phàng

Địa ngục khắp nẻo, thiên đàng một phương.

8. Giặc Tiêm La (1833-1834):

Tiêm La thủy bộ năm đường

Đánh Nam Kỳ với cớ thường: Giúp Khôi.

Thánh Tổ được báo, tức thời

Gọi Trương Minh Giảng, truyền vời Nguyễn Xuân.

Văn Thụy, Văn Điển, Văn Xuân

Cùng nhau tiến đánh, dứt tuồng giặc Xiêm.

Nguyễn quân lấy lại Hà Tiên

Sau chiếm Châu Đốc, xuống miền Nam Vang.

Nguyễn Xuân, Minh Giảng thẳng đàng

Năm sau thắng trận, địch hàng Việt Nam.

9. Việc Ai Lao:

Quân Tiêm đã nhúng tay chàm

Nên Lào mới chịu hòa đàm dứt binh.

Chiêu Nội, tù trưởng Trấn Ninh

Vội xin lệ thuộc vào dinh Nam Kỳ.

Cam Môn, Sầm Nứa, Mương Duy

Savanakhet trị vì bởi ta.

Thành thử nước Việt to ra

Minh Mệnh dứt chuyện hai nhà Lào, Tiêm.

10. Việc Chân Lạp:

 Lấp Trấn Tây thành (1835)

Nước Lào coi đã tạm xong

Đến phiên Chân Lạp, Nặc Ông chẳng còn.

Nối ngôi, vua lại không con

Dòng Phiên liêu giữ ngôi son, tiếm triều.

Long, Kiên một bọn đồng liêu

Người Chân Lạp nhận quan triều Việt Nam.

Trấn Tây công việc phải kham

Trấn chia hai Huyện. Phủ làm băm hai.

Đại thần Tham tán quan sai

Đề đốc, Hiệp tán... coi cai các phần.

Khâm sai Văn Đức đại thần

Doãn Uẩn, Minh Giảng đỡ đần một tay.

Kiểm buôn, xét bán hàng ngày

Do ruộng đất, thuế đinh hay thuế thuyền.

Nhưng khi Thánh Tổ quy tiên

Quan quân bỏ Trấn, về miền An Giang.

11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương:

Lo kẻ gian lẫn ngoại ban

Trà trộn giảng đạo, vua bàn bế quan.

Minh Mạng thật quả không màng

Thức thời học tập, mở mang dân tình.

Lãnh sự Anh, Pháp vào xin

Minh Mệnh cương quyết, triều đình chẳng ưng.

Thấy vua đối xử dửng dưng

Chaigneau trả chức rưng rưng trở về.

Mười năm đối ngoại ơ hờ

Việt Nam lạc lõng hai bờ u minh.

12. Sự cấm đạo:

Ngỡ mình dân tộc văn minh

Rành rành "Chính đạo" dân mình mới theo.

Đạo Tây mê hoặc eo xèo

Cho là "Tả đạo" bọt bèo, cấm ngay.

Giáo dân bị giết thẳng tay

Triều đình chung ý, không may vận nhà.

Thiên chúa, chính đạo như ta

Lòng tin tự có sao mà cấm dân?

Sinh linh cực khổ muôn phần

Sinh ra giặc, loạn, cứu bần nổi lên.

Thời chuyên chế, ngẫm không nên

Cương - Nhu nhân mệnh khắc trên mới bền.

13. Vua Thánh Tổ mất:

Minh Mệnh vượng số không bền

Không anh quân cũng chẳng tên bạo tàn.

Hai mốt năm giữ giang san

Mất năm Canh Tí, thọ hàng: Năm mươi.

Chương IV

HIẾN TỔ (1841-1847)

Niên hiệu: Thiệu Trị

紹治

1. Đức độ vua Hiến Tổ:

Miên Tông thái tử đôi mươi

Tức là Thiệu Trị vốn người hiền lương.

Lên ngôi tiếp một con đường

Chế độ, thuế má, quan trường giống cha.

Thời ngài giặc giã can qua

Tiêm La, Chân Lạp theo mà phá ta.

2. Việc Chân Lạp:

Giặc, loạn quấy nhiễu quốc gia

Mai này, mốt nọ, lúc xa, lúc gần.

Lâm Sâm vốn ở Nam phần

Cùng thầy chùa loạn nằm gần Trà Vinh.

Triều đình thấy vậy, ra binh

Chân Lạp nội loạn mới bình Lâm Sâm.

Nguyên niên Thiệu Trị đến năm

Tạ Quang Cự rút về nằm An Giang.

Minh Giảng mất, việc dở dang

Quang Cự chán ngán ngút ngàn, mất đi.

Trấn Tây mất tướng, giảm uy

Nên người bản xứ tức thì nổi lên.

Nghĩ suy cũng thuận lẽ trên

Nước ai, người nấy phải nên giữ gìn!

3. Việc Tiêm La:

Tiến Lâm, Công Trứ xuất chinh

Sâm chống không nổi, quan binh rã hàng.

Tiêm La trở mặt, làm ngang

Mang binh thuyền tới đánh tràn tứ tung.

Tri Phương, thống lĩnh trùng trùng

Văn Nhân, Công Trứ, với cùng Nguyễn Lâm.

Quân binh trước đánh, sau hăm

Quân Tiêm hoảng loạn mới ngầm rút chân.

4. Việc giao thiệp với nước Pháp:

Cấm đạo đã lỏng vài phân

Giáo sĩ được thả dần dần hết ra.

Đang khi thương thuyết với ta

Thì đâu đạn Pháp từ xa bắn vào.

Quân Pháp ngang ngược, làm cao

Thiệu Trị cấm Đạo xít xao mọi nhà:

Một cấm buôn bán hàng xa

Hai cấm giảng đạo ''gian tà Ki Tô''!

Đinh Vị, Hiến Tổ xuống mồ

Ba mươi bảy tuổi, nghiệp đồ bảy năm.

Công lao chung với lỗi lầm

Trị nhà hay dở một mâm lỗ lời!

Chương V

DỰC TÔNG (1847-1883)

Niên hiệu: Tự Đức

嗣德

1. Đức độ vua Dực Tông:

Hồng Nhậm hoàng tử nhỏ người

Học hành thông thái, đôi mươi, ôn hòa.

Đăng cơ ở điện Thái Hòa

Niên hiệu Tự Đức tức là Dực Tông.

Thờ mẹ Từ Dụ hết lòng

Việc nhà, việc nước chẳng hòng lãng xao!

Triều thần lắm kẻ tài cao

Trẻ người, trung liệt đương trào Tri Phương.

Trọng Bình, Đăng Quế họ Trương

Hoàng Diệu, Thanh Giảng là phường lão quan.

Tuổi già việc nước trễ tràng

Không am thời thế, chẳng màng kiến tân!

2. Đình thần:

Người trẻ đi khắp xa gần

Thấy qua đổi mới mười phần xứ Tây.

Nguyễn Điều, Đức Hậu mở mày

Thêm Nguyễn Trường Tộ trình bày đổi thay.

Tự Đức nhanh chóng duyệt ngay

Các lão thần ấy bác bày tỏ khinh.

Có người quê ở Ninh Bình

Dâng tờ cải cách, Văn Điền họ Đinh:

''Khai mỏ, luyện tập quân binh

Thông thương buôn bán muôn hình lợi dân".

Triều thần lại chẳng nghe phân

Vua không cả quyết, hại dân, bại nhà.

Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La

Ca ngợi "nước ấy quả là đổi thay".

Quốc gia có lợi từ đây

Giặc chẳng kiếm cớ nọ này xâm lăng.

Tân Tị, những kẻ trẻ măng

Đi sứ Hương Cảng, thấy rằng: ''nước ta.

Phú cường làm lợi quốc gia

Là đường buôn bán để mà dưỡng binh.

Lấy Tàu, Nhật Bản làm tin

Xin vua bài cựu tân nghinh nước mình!"

Vua, quan chẳng thấu tình hình

Tin điều cũ tưởng mới dựa mình bóng râm.

3. Việc ngoại giao:

Tự Đức phạm phải lỗi lầm

Bế quan tỏa cảng tối tăm con người.

Gia Định bị Pháp nuốt tươi

Dùng Thương bạc viện với người ngoại dương.

Bình chuẩn ti buôn bán thường

Nhưng chẳng thể hiểu tận tường ngoại giao.

4. Việc cấm đạo:

Cấm đạo khắc nghiệt gắt gao

Giáo sĩ truyền đạo ghép vào tội chung.

Đạo trưởng bắt được hình cung

Thích chữ vào mặt đày vùng nước xa.

Ngu dân phải cúng ông cha

Ai mà bỏ đạo, tạm tha một lần.

Lửa không chịu nổi nước dâng

Giết dân theo đạo muôn phần ác tâm.

Cấm người buôn bán đã lầm

Tây kia mượn cớ gieo mầm chiến chinh.

5. Việc Thuế má:

Đại loại thuế sản, linh tinh

Theo đời Hiến Tổ lập trình dụng thu.

Nhằm khi Pháp đánh trả thù.

Triều đình chịu phí, thấy... mù đến phiên.

Bây giờ kiếm cách thu tiền

Họ Hầu, nha phiến ưu tiên được vào.

Trưng thu chẳng được là bao

Vua, quan nghĩ cách tào lao ki ếm tiền:

Ngàn quan: Cửu phẩm được liền

Chục ngàn: Lục phẩm chẳng phiền đợi lâu!

6. Việc Văn học:

Triều đình Nguyễn tính về sau

Thâm sâu chữ nghĩa hàng đầu Dực Tông.

Nho gia gạn đục, khơi trong

Trọng văn mới mở nhiều vòng khóa thi.

Mở Nhã, Cát sĩ tập thi

Giỏi văn học được làm tùy quan viên.

"Tập hiền viện, khai kinh niên"

Thiền viện, vua với quan viên hưởng nhàn.

Tiếc thay những chuyện đáng bàn

Không làm để cuối cùng hàng Pháp xa!

7. Việc Binh chế:

Tưởng lính mình giỏi, hóa ra

Giáo gươm sao thể chọi qua đạn thù!

Nhè gương cũ kỹ mà đu

Súng châm ngòi bắn sao hù giặc đây?

Tập luyện lại chẳng hàng ngày

Một năm... hai phát đếm đầy... ngón tay!

Quá sáu phát, phải thường ngay

Cho lính xuất ngũ cởi giày, nghỉ ngơi.

Lính thế sao giỏi, hỡi ơi

"Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung"!

Quan binh thấy nản vô cùng

Chừng nào trùng đất ra vùng biển khơi?

Chương VI

CHẾ ĐỘ VÀ TÌNH HÌNH NƯỚC

VIỆT NAM ĐẾN CUỐI ĐỜI TỰ ĐỨC

1. Cách tổ chức chính trị và xã hội:

Luận

Vua:

Vua trong một cõi thảnh thơi

Tức là làm chủ khung trời Đế, Vương.

Minh quân: Giặc khỏi nhiễu nhương

Ác quân: Cướp đoạt chẳng đường thiện tai!

Triều đình:

Triều thần nào của riêng ai

Toàn người đổ đạt, miệt mài sử kinh.

Triều thần đại diện dân sinh

Triều thần đốn mạt, thân vinh chủ thầy.

Đôi điều đã định xưa nay

Tôi hiền, chúa sáng: cơ may nước nhà.

Còn mà chúa sáng, tôi ma

Vua gian, tôi sáng: non nhà rã tan.

Quan tư:

Lên quan nhờ có tông đàng

Làm người phải trọng họ hàng, luật quê.

Làm quan phụ mẫu, dân nhờ

"Miệng quan, trôn chảo" làm phờ phạt dân!

Quyền tự trị của dân làng:

Trở lên, Tổng thuộc triều thần

Tổng trở xuống dưới là phần của dân.

Tổng gồm làng, xã được phân

Có hai Tổng, Phó giữ chân quản làng.

Luật đình không được chen ngang

"Phép vua thua cả lệ làng" đã lâu.

Giá thú, sinh tử có đâu

Mẹ cha phải nhớ để sau lại truyền.

Trình làng tính chuyện đưa duyên

Tiền cheo phải nạp quan tiền lễ tân.

2. Bốn hạng dân:

Coi theo sứ mạng mà phân

''Công, Thương, Nông, Sĩ'' tứ phân rõ ràng:

''Công'' chỉ là thợ nghèo hèn

Như là thợ mộc, thợ rèn, dệt tơ.

Những người ít học làm nghề:

 Lưới chài, thợ gốm, thợ nề, đẵng cây.

''Thương'' loại buôn bán mắn may

Rày đây mai đó kiếm ngay mối lời.

"Thương" mình chỉ loại... cà bơi

Cá trong hũ nước chờ thời giữa khơi!

"Phi thương bất phú" một đời

Nước mình thời đấy phú thời được chăng?

''Nông'' được mùa mới nói năng

Mất mùa, ''nông'' phải nhăn răng... khóc cười!

''Sĩ'' mới là đóa hoa tươi

Dạy học, bói toán, cứu người, được quan...

Nghe ra cũng khá an nhàn

Chẳng Cử nhân cũng Tú... gàn láo liêng.

Thi Hương "phụng chỉ cầu hiền"

Tứ Thư, Tàu sử luân truyền phải nghe.

Ve sầu rã rích mùa hè

Thư sinh rã rích như ve rỗng hình.

Mù mờ trình độ thất kinh

Thuộc làu kinh sách, ngỡ mình thánh nhân.

Sĩ phu có học, bất nhân

Dân gian thất học, bất phân đánh đồng.

Lệ thành "Nhất sĩ, nhì nông"

Hết gạo thành lệ: ''Nhất nông, sĩ nhì''!

3. Sự sinh hoạt của người trong nước:

Điều vua dạy nhớ mà ghi:

Nhà phải tranh lá, xây thì không công (I)

Ăn nghèo, mặc khổ, quần... không

Chẳng mang gấm vóc, chân không xỏ giày!

Xem ra giống kẻ ăn mày

Văn minh sao lại đọa đày thứ dân!

Muốn sang, phải ráng lập thân

Ra quan mới rạng công thần tổ tông.

Thi hỏng, bức chí, hóa ngông

Đi làm giặc cỏ oai phong bỏ bà.

Nước nghèo, dân khổ, hóa ra

Triều đình bè đảng để mà giết nhau.

Lòng dân ly tán, mà sầu

Nước ngoài xâm lược mới cầu: "Cần vương."

Cuối đời Tự Đức vô phương

Yếu hèn chuốc lấy con đường diệt vong!

Chương VII

NƯỚC PHÁP LẤY ĐẤT NAM KỲ

1. Nước Pháp đánh Đà Nẵng (1856-1858

):

Từ đời Minh Mệnh, Dực Tông

Cuối đời Tự Đức cũng không thức thời.

Thói cũ ôm giữ khơi khơi

Khai thông dân trí lỏng lơi thế này.

Giết hại giáo sĩ người Tây

Pháp nhân cớ ấy khởi ngày xâm lăng.

Như thò túi áo lấy khăn

Pháp lấy Đà Nẵng, vua ngăn được nào?

Đình Lý, quan Nguyễn đương trào

Thủ thành, trúng đạn, ngã nhào, hy sinh.

Nguyễn Tri Phương, Chu Phúc Minh

Cùng nhau chống Pháp, thủ binh Liên Trì.

Lính Pháp tiến chẳng được chi

Dịch tả mắc vướng, đường đi chẳng rành.

Rigault đánh Huế không thành

Gia Định đánh lấy chiếm nhanh Nam Kỳ.

2. Quân Pháp vào đánh Gia Định (1859):

 Rigault ra đánh Bắc Kỳ

Dò tình hình lại chuyển đi Cần Giờ.

Cần Giờ, Pháp đóng hai bờ

Gia Định, đại bác tới giờ phá tiêu.

Gia Định vốn đất phì nhiêu

Binh khí đầy đủ với nhiều tài nguyên.

Nhưng quân lính Nguyễn chẳng chuyên

Hai đêm chống chọi thì liền bại binh.

Đô đốc là Vũ Duy Ninh

Mất thành, tự tử giữ tình với vua.

Pháp lấy Gia Định như đùa

Vào trong vội vã san chùa, đốt lương.

Ra Đà Nẵng, đánh Tri Phương

Pháp bèn chuyển hướng, tính phương nghị hòa.

Triều đình chủ chiến, chủ hòa

Bất thình lình lại hù hòa với Tây.

Thành ra thương thuyết chẳng hay

Mất đi một cái dịp may nước nhà.

Bây giờ, Anh, Pháp tính xa

Rút binh Đà Nẵng để qua đánh Tàu.

Tướng Pháp lại mắc bệnh đau

Nên chịu đám phán bằng câu nhịn, nhường.

Triều đình phái Nguyễn Tri Phương

Thế Hiển, Thất Hợp lên đường vào Nam.

Sài Gòn, Pháp, Ý chẳng kham

Ta quân mười vạn đánh làm lại gan.

Tuy nhiên chỉ loại tập tàng

Súng thô thiển chẳng sánh ngang đạn thù!

Đào hầm "thủ", chẳng dám "công"

Lấy gan giữ nước chống lòng hại dân.

Dằn co, tháng chín, Canh Thân

Anh, Pháp giải giáp, chia phần cùng Thanh.

Nước Pháp muôn sự được lành

Dồn quân tiến đánh... nuốt nhanh Nam Kỳ.

Tân Dậu, trung tướng Charner

Dồn binh lên tận Kỳ Hòa phủ vây.

Gan người sao chống đạn Tây

Bỏ đồn cho giặc, chạy ngay, lẽ thường!

Vassoigne thiếu tướng bị thương

Nguyễn Duy, Thế Hiển trúng thương bỏ mình.

3. Mất tỉnh Định Tường (1861):

Binh Tri Phương loạn quân tình.

Pháp đưa thủy, bộ hành binh Định Tường.

Công Nhàn, Hộ Đốc cùng phương

Mỹ Tho bỏ giặc, kiếm đường chạy đi.

Thượng thư Bộ Hộ Bá Nhi

Kinh lý Nam bộ mà đi xét lường.

Nguyễn Bá Nghi xem đã tận tường

Biết không chống nổi, xin đường hòa thôi!

Triều đình Huế tính nước đôi

Phe Trương Đăng Quế ra mòi lắm mưu.

Triều đình chẳng có trung lưu

Chỉ lo bảo thủ, cương- nhu chẳng cần.

Nước nhà mất đất dần dần

Quân Pháp lấn thế như tầm nuốt dâu.

Quân dân biết dựa vào đâu

Đem đầu đỡ đạn vì đau nước nhà.

4. Mất tỉnh Biên Hòa và tỉnh Vĩnh Long (1862):

Tân Dậu, Pháp đổi tướng qua

Hải quân thiếu tướng tên là Bonard.

Thay cho trung tướng Charner

Biên Hòa ba đạo gầm gè nuốt xong.

Nhâm Tuất, đánh chiếm Vĩnh Long

Mang ngàn quân lính tấn công tỉnh thành.

Tổng đốc ra sức giao tranh

Chỉ hai ngày giặc, phá thành đại công.

Trương Văn Uyển thấy không xong

Bại quân rút tới Mê Kông đợi chờ.

5. Hòa ước năm Nhâm Tuất (1862):

Nam, Bắc nổi loạn tứ bề

Phụng, Tường đánh phá từng giờ Hải Dương.

Mất hai tỉnh, loạn nhiễu nhương

Bắc Ninh, Văn Thịnh xuống đường chiếm luôn.

"Mất bò mới chịu làm chuồng"

Triều đình Huế phải vào khuôn nghị hòa!

Hai sứ thần vội vô Nam

Phan, Lâm ký ước với cam kết là:

"1. Pháp - Ý giảng đạo vào ra

2. Phải nhường cho Pháp: Biên, Gia, Định Tường.

3. Để thuyền Pháp được thông thương

Đạn dược, binh khí, tỉnh nhường, cấm qua.

 4. Nước Nam thương hiệp gần xa

Hoặc san, nhượng đất, báo qua Pháp tường.

5. Pháp -Ý được ngõ thông thương

Vào cửa Đà Nẵng, thương trường Quảng Yên.

6. Pháp tốn ngót bốn triệu Yên

Nước Nam phải chịu trả tiền mười năm.

7. Vĩnh Long, Pháp trả nước Nam

Nhưng dẹp xong loạn mới cam rút về''.

Bảy điều ước nhục nhã ghê

Nước Nam chịu nhận ê chề, tái tê.

Nhường đất, chịu sự nhuốc nhơ

"Rượu phạt... phải uống bởi chê... rượu mời!''.

Hồn ai luyến nước trên đời

Vì đâu chết thảm, ai thời cố tri!

6. Sứ Việt Nam sang Tây:

Nhường đất, Tự Đức sầu bi

Gia Định quê ngoại lại đi trao người!

Sai Phan làm chuyện nực cười

Sang Paris chuộc đất người đã... ăn!

Ngu khờ đâu kẻ xâm lăng

Cáo ăn gà có nhùn nhằn, nhả ra!

Nửa năm chầu chực người ta

Phan, Phạm Phú Thứ về nhà, trắng tay.

7. Việc bảo hộ Cao Miên (1864):

Chuộc ba tỉnh mất cơ may

Triều đình Huế chẳng có hay kế nào!

Thi hành hòa ước đã giao

Pháp lo đánh dẹp loạn trào, loạn dân.

Mở trường, định thuế, canh tân

Đem chữ Quốc ngữ thế chân Hán từ.

Hán Nôm chỉ có Thi Thư

La tinh mượn lấy coi như tiếng mình.

Grandière làm được công trình

Dù mục đích Pháp trớ trinh chẳng luờng.

Cao Miên bảo hộ tỏ tường

Tiêm La thất thế phải nhường mới xong.

8. Nước Pháp lấy ba tỉnh phía Tây đất Nam Kỳ (1867):

(Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên)

Tình hình cai trị xiềng gông

Pháp mưu nuốt trọng Vĩnh Long, An, Hà.

Ngặt vì đường sá lại xa

Aubaret chịu bàn qua chuộc nhà.

Triều đình mặt mũi nở ra

Tiễn Thành, Thanh Giản liệu xa, liệu gần.

Gia, Biên, Định trả, Pháp cần

Thủ Dầu Một với Sài Gòn, Mỹ Tho.

Nam Kỳ, Pháp bảo hộ cho

Hai trăm ngàn thuế mà lo trả đều.

Sứ thần cũng biết Pháp điêu

Hai bên qua lại bấy nhiêu chẳng thành.

Giáp Tí, thôi chuyện chuộc thành

Chiếu theo hòa ước thi hành thế thôi!

Ất Sửu, Grandière triệu hồi

Zoze thiếu tướng một đôi đến, về.

Pháp cai trị có lối lề

Grandière quyết định không hề nhả ra.

Cháu Ông Chân dấy can qua

Nổi lên chống với vua nhà Cao Miên.

Pháp nhân chuyện lập kế liền:

Nhận người cháu nọ, đổ phiền Việt Nam.

Cao Miên mắc kế vu oan

Vĩnh, An, Hà, Pháp nuốt ngon đất nhà.

Triều đình Huế tá hỏa ra

Bính Dần, Thanh Giản liệu mà giữ an.

Đinh Mùi, Rigault lại sang

Giúp cho thiếu tướng Gran một đầu.

Cá mè một lứa hè nhau

Tháng sáu Đinh Mão bắt đầu tấn công.

Phan Thanh Giản liệu chẳng xong

Những hy sinh trước hóa không được gì!

"Thôi thì... nộp quách thành trì

Để binh sĩ khỏi vạ bì máu tươi.

Cháu con muốn khỏi chê cười

Cày ruộng mà sống, quan người chớ mang".

Dặn xong, thuốc độc sẵn sàng

Uống vào kết liễu một trang anh hùng.

Trung quân đến lúc cạn cùng

Tùng Châu, Võ Tính kiên trung thu ở nào!

Mất đất cũng lỗi đương trào

Máu nào đổ chẳng máu đào Việt Nam!

Nam Kỳ thuộc Pháp gian tham

Trăm năm nô lệ mà cam hận nhà.

Chương VIII

GIẶC GIÃ Ở TRONG NƯỚC

1. Việc rối loạn trong nước:

Trị dân, vua có lệnh ra:

Tri Phương, Thanh Giản, Đăng Giai lược hình.

Các Kinh lược sứ thâu tin

Dân gian hay dở mà trình thực thi.

Dục Tông triều đại loạn ly

Cuối đời Tự Đức trở đi, loạn nhiều.

Bắc Kỳ là xứ tiền triều

Dân tình thương tưởng đến triều họ Lê.

Cho nên nổi dậy dựng cờ

Lấy cớ khởi sự dễ bề gọi binh.

Bên Tàu có loạn Thái Bình

Bị Thanh đánh bại, sang rình phá ta.

Nào là giặc Khách, loạn ta

Hết giặc lại mắc vạ là thiên tai!

Dân tình thất nghiệp dài dài

Mới làm nghề... giặc, oán ai não nề!

2. Giặc Tam Đường (1851):

Quảng

, Nghĩa

, Đường

Tân Hợi, giặc Khánh lại về

Quảng, Lục, Đức họp một rê Tam Đường.

Thái Nguyên quấy phá, nhiễu nhương.

Văn Giai dụ dỗ Tam Đường mới yên.

Giáp Dần, Giai mất, đến phiên

Bắc Kỳ loạn lạc, truân chuyên tứ bề.

3. Giặc Châu Chấu (1854):

Lê Duy Cự

黎濰柜

Duy Cự dòng dõi nhà Lê

Nổi lên khởi nghĩa, dựng cờ Sơn Tây.

Bá Quát bất mãn quan thầy

Dấy binh cho thỏa mặt mày giáo sinh.

Xuất thân Phú Thụy, Bắc Ninh

"Quốc oai giáo thụ" nổi đình văn nhân.

Bức chí, bỏ ấn quan thân

Theo Cự làm loạn, góp phần ''Quốc sư''.

Quan binh Lê Thuận dẹp nhừ

Bắt Cao Bá Quát chém trừ, lệnh vua.

Gặp năm châu chấu phá mùa

Lấy tên Châu Chấu như... đùa gọi chơi.

''Thần Siêu, Thánh Quát'' về trời

''Cái Cùm'' ở lại... Đế mà đợi... Vương!

4. Giặc tên Phụng (1861):

Tạ Văn Phụng

謝文俸

Loạn lạc dấy khắp bốn phương

Giặc Tạ Văn Phụng cũng dường bốn năm.

Tên này trước cũng tay thâm

Theo Tây, dẫn lính đánh ngầm Quảng Nam.

Dựng Lê, hắn nẩy ý tham

Tự phong minh chủ, tên hàm Duy Minh.

Đem quân lấy phủ Hải Ninh

Cùng bọn giặc Khách thông tình một mai.

Bắc Ninh, Văn Thịnh làm cai

Xưng là nguyên suý tức Cai tổng Vàng.

Kiếm tên Uẩn nhận họ hàng

Tôn làm minh chủ nhập đàng Tạ Văn.

Qua Yên Dũng, đánh Lạng Giang

Bắc Ninh quan phủ xin đàng giải vây.

Bấy giờ, bố chính Sơn Tây

Bố chính Hà Nội, quan thầy Hưng Yên.

Điều quân ba tỉnh thay phiên

Đánh hơn mười trận, dẹp yên loạn này.

Hải Dương bị Phụng phủ vây

Giặc Nông, giặc Khách cũng đầy Thái Nguyên.

Cao Bằng, giặc Khách chưa yên

Triều đình muôn chuyện loạn phiền chẳng an.

Vũ Tảo chiếm lại Tuyên Quang

Bắt Uẩn đóng củi, nộp quan đợi hành.

Nguyễn Tri Phương lại tảo thanh

Bắt Thanh, Vân, Đắc lấy thành Thái Nguyên.

Phá sào huyệt ở Ma Hiên

Đào Trí, Quốc Dụng lấy liền Quảng Yên.

Nam Kỳ, Văn Phụng viện binh

Thiếu tướng Bonard tức mình, gạt đi.

Giặc bể càng đáng càng lỳ

Quan Lê Quang Tiến, Phan Huy trầm mình.

Đức Dụng, Huy Sách hoảng kinh

Đức Khuê, Hồ Thiện bỏ mình Quảng Yên.

Giặc ba đạo, ba trăm thuyền

Thừa cơ cướp biển ở miền Hải Dương.

Hải An quân vụ Tri Phương

Sai Văn Vĩ đánh chặn đường, dẹp yên.

Quan Đề đốc Thiện, Trần Chuyên

Đốc binh Ông Ích Khiêm liền xuất binh.

Giặc lui về giữ Hải Ninh

Tri Phương sai Đặng Trần Chuyên vây thành.

Ích Khiêm hiệp với nhà Thanh

Ở Khâm Châu đánh lấy thành Hải Ninh.

Phụng, Ước trốn ở Quảng Bình

Bị quan binh bắt luật hình tới nơi.

Bốn năm công đổ bể khơi

Mình chết, dân khổ, tả tơi, sướng gì!

Cao Bằng, giặc Khách lấy đi

Trọng Bình kinh lược đến khi diệt trừ.

Chi Hương tuần phủ nhọc nhừ

Bảy tháng sau mới diệt trừ Cận Bang.

Chia binh bốn hướng Lạng Sơn

Trương Cận Bang chịu ngậm hờn, hết phương.

Võ Trọng Bình, Nguyễn Tri Phương

Bình xong loạn vội lên đường tới kinh.

5. Sự phản nghịch ở kinh thành:

Loạn ngoài tỉnh, loạn thâm tình

Hồng Bảo thất lập tức mình, loạn ngai.

Ăn chơi chẳng học thành tài

Vua cha Thiệu Trị thở dài... truất ngôi!

Hồng Bảo bức chí cái tôi

Thông đồng ngoại quốc, nên ngôi muốn dành.

Không may mưu sự chẳng thành

Bị giam ngục tối mà đành quyên sinh.

Người con lại được lưu tình

Họ Nguyễn đổi lấy họ Đinh cứ truyền.

Năm thứ mười chín, phá tiền

Tự Đức ra lệnh xây liền Vạn Niên.

"Vạn Niên là Vạn Niên nào

Thành xây xương lính, hào đào máu dân."

Lòng người oán giận, hờn căm

"Sơn đông thi tửu" hội nhằm Đế Vương.

Mưu tôn Đinh Đạo tấn đường

Là Đoàn Hữu Ái với Trương Trọng Hòa.

Đoàn Trưng, Tư Trực đồng khoa

Phạm Lương cùng với quan nhà họ Tôn.

Xông vào điện giết Dực Tông

Chưởng vệ đóng cửa, vua không việc gì!

Định Đạo phải tội giảo trì

Hữu quân Tôn Thất Cúc thì quyên sinh.

Đồng đảng, trị chẳng lưu tình

Luật hình nặng nhẹ dứt tình, xử phân.

Giặc Đá sách nhiễu nhân dân

Nhờ quan Nguyễn Tấn nhanh chân dẹp trừ.

6. Giặc Khách ở Bắc Kỳ:

Bên Tàu chính sự cũng hư

Nhà Thanh chút nữa thì như lửa tàn.

Ngoài thì Anh, Pháp, Tây, Lan

Trong quân dấy loạn: Kim Lăng, Thái Bình.

Quảng Tây thì có Hồng binh

Cùng Tiêu Triều Quí, Tú Thành, Tú Thanh.

"Thái bình thiên quốc" xưng danh

Mười bốn niên đã chia ranh một miền.

Tướng nhà Thanh: Tăng Quốc Phiên

Hồng Chương, với Tả dẹp yên phía ngoài.

Quý Hợi - Đồng Trị thứ hai

Các tướng ấy đánh rớt ngai Tú Toàn.

Nội bộ tranh đấu mất còn

Nghĩa tình chẳng trọn, sao còn ngôi son?

Dư đảng còn lại Ngô Côn

Chạy sang ta trốn, giữ hồn chống Thanh.

Trá hàng rồi phá xung quanh

Quan quân đánh mãi cũng đành bó tay !

Cao Bằng, Côn lấy trong tay

Triều đình phải cạy vậy vào nhà Thanh.

Ông Ích Khiêm, Nguyễn Viết Thành

Cùng tướng Thanh: Quý, đánh thành Thất Khê.

Quan binh thất bại mọi bề

Viết Thanh tử, Chi Hương lê cực hình.

Triều đình sai Võ Trọng Bình

Ra Bắc xem xét tình hình thế vua.

Giặc trong chưa rõ thắng, thua

Giặc ngoài, Pháp lại chanh chua Bắc Kỳ!

Chương IX

QUÂN NƯỚC PHÁP LẤY BẮC KỲ

Lần thứ nhất

1. Người Pháp tìm đường sang Tàu

Nam Kỳ, Pháp đã lấy đi

Dò la Bắc với Trung Kỳ mở mang.

Tháng ba, Lagrée kiếm đàng

Bệnh gan mà chết, hết màn lênh đênh.

Chiến tranh Pháp - Phổ bấp bênh

Hoàng gia Pháp bại, lập nên Cộng hòa.

Nhằm năm Tự Đức hăm ba

Pháp thua nhưng chẳng nhả ra Nam Kỳ.

2. Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis):

Tên Đồ Phổ Nghĩa thiệt chì

Buôn bán vũ khí mà đi tới Tàu!

Chẳng biết luật nước người đâu

Chở đồ quốc cấm, qua cầu, ngạo quan!

Triều đình biết hắn làm càng

Mà vẫn nhũn nhặn sai quan giảng huề.

Họ Đồ cố chấp, khinh vua

Xem tờ hòa ước chỉ trò đùa thôi!

Triều đình chẳng muốn lôi thôi

Văn Tường, Tuấn, Doãn tức thời vô Nam.

Nam Kỳ ba tỉnh hội đàm.

Xử việc Đồ Nghĩa nhờ làm cho xong.

3. Đại úy Francis Garnier (Ngạc Nhi) ra Hà Nội:

Dupré thống đốc mưu trong

Bắc Kỳ muốn chiếm, cam lòng mới tâu:

"Đất Bắc giáp với nước Tàu

Hãy mau chiếm giữ mới hầu trị lâu".

Pháp - Phổ vừa mới đánh nhau

Thượng thư thuộc địa, mấy câu tức thì:

"Tạm thời đình chuyện Bắc Kỳ"

Thiếu tướng Pháp lại kiên trì nài xin.

Gặp khi Tường, Doãn vào trình

Thật là gặp cái dịp mình đợi mong.

Garnier nhận lệnh đã xong

Vội đi Hà Nội ngóng trông thế tình.

4. Hạ thành Hà Nội năm Qúy Dậu (1873):

Đại úy làm chuyện trớ trinh

Giúp Nghĩa đã khiến mưu mình lộ ra.

Không buồn hỏi đến quan ta

Thản nhiên cho mở ngã qua Hồng Hà.

Quan nhà Nguyễn tá hỏa ra

Xoay qua phòng bị chỉ là thấm đau!

Pháp thấy cá đã ăn câu

Bắn vào Hà Nội phủ đầu đối phương.

Can trường tướng Nguyễn Tri Phương

Giữ thành quyết chiến, bị thương quật cường.

Nguyễn Lâm phò mã liệt cương

Quyết tâm chống địch, kiên cường hy sinh.

Một nhà nghĩa trọng thâm tình

Ba triều thanh bạch, trung trinh đứng đầu.

Thương dân lấy nước làm đầu

Tri Phương nhịn đói, chịu đau bỏ mình.

Triều đình Huế đã hoảng kinh

Chỉ trơ mắt ếch ngồi nhìn trái sung!

5. Lấy mấy tỉnh ở Trung Châu:

Hà Nội thất thủ, thế cùng

Quan Nguyễn trốn sạch, cướp vùng nhóm nhen.

Hautefeuille, bảy lính quèn

Hai mươi ngày bốn tỉnh bèn tới tay.

Uổng thân cái lũ quan thầy

"Cháy nhà ra mặt chuột" đầy nhục dơ!

6. Đại úy Francis Garnier chết:

Triều đình Huế lại ngu ngơ

Trước đi úp thúng, này nhờ cậy nia.

Dangelzer với Bohier

Linh mục, giám mục làm chìa khóa cho.

Đình Túc, Gia Hội chung đò

Cùng Nguyễn Trọng hợp liệu lo Bắc Kỳ.

Kế Viêm phụng mệnh ra đi

Tiết chế quân vụ bảo trì các nơi.

Toàn quyền Lê Tuấn nhận lời

Nguyễn Văn Tường phó gót dời phía Nam.

Chuyện điên điên cũng đã làm

"Thương thuyết, năn nỉ", đã nhàm lũ Tây!

Suý phủ ném đá giấu tay

Chính tên thiếu tướng bày mưu đánh mình.

Vậy mà còn kiện, còn xin

Triều đình như bệnh, dân tin chỗ nào!

Đang khi thương thuyết cao trào

Giết chết Đại úy thiệt là... hay sao!

Quân Cờ Đen có công lao

Hai bên cùng đánh, lẽ nào nhượng nhau?

Phục binh Cầu Giấy đón đầu

Garnier bị giết, cắt cầu hiệp thương.

Vĩnh Phúc công trạng phi thường

Tiếc thay sau chót phải đường trớ trinh.

7. Ông Philastre ra Hà Nội:

Tin đen, thống soái lôi đình

Nguyễn Văn Tường phải giải trình lý do.

Nghe lời có lý, thuận cho

Philastre mới liệu lo Bắc Kỳ.

Trả bốn thành, lệnh đã thi

Quân Pháp nhanh rút, dồn đi Hải Phòng.

Đợi cho hòa ước ký xong

Thống soái về nước khi thông mọi bề.

8. Hòa ước năm Giáp Tuất (1814):

Mọi việc như đã mong chờ

Văn Tường, Thống soái ra về tự nhiên.

Giáp Tuất, hăm bảy, tháng giêng

Hăm hai điều ước nhường quyền, ký riêng:

''II. Thống lĩnh Pháp công nhận quyền:

Nước Nam độc lập chẳng phiền nước chi.

Nhỡ khi phải loạn, nhờ gì

Pháp sẽ giúp đỡ không vì tính toan.

III. Còn vua Nam nhớ làm tròn:

Theo chính lược Pháp chẳng hòng đổi thay.

Pháp cho ngàn khẩu súng tay

Một trăm đại bác, với ngay năm tàu.

IV. Pháp còn giúp đỡ về sau

Cho người dạy thuế, giúp nhau thương trường.

V. Miền Nam, sáu tỉnh phải nhường

Để dân tự chọn con đường Đạo, Lương?

Qui Nhơn - Thị Nại thông thương

Ninh Hải, Hà Nội lưu thương Hồng Hà.

Tự do buôn bán vào ra

XIII. Pháp đặt lĩnh sự chỗ mà nhượng giao.

XV. Bất kỳ người của nước nào

Có thông hành Pháp, được vào nước Nam.

XVIX. Họ có kiện tụng làm sao

Chỉ lĩnh sự Pháp mới vào xử phân.

XX. Hai nước được đặt sứ thần

Làm theo hòa ước những phần hành thôi''

Khi hòa ước ký xong rồi

Tường về, Tuấn mất một đôi lẻ bầy.

Quan thầy Dupré chia tay

Krantz, quản đất Nam này, thế chân.

Hòa ước bán đất, buôn dân

Ai chủ, ai tớ đã phân rõ ràng!

Hài kịch đến lúc mở màn

Hết tuồng, bi kịch đầu hàng, hỡi ôi!

Chương X

TÌNH THẾ NƯỚC NAM

Từ năm Giáp Tuất về sau

1. Văn Thân nổi loạn ở Nghệ An:

Hòa ước, nổi loạn đi đôi

Ghét nhau, Lương, Giáo cháo xôi một nồi.

Garnier lấy Hà Nội rồi

Chống Tây, mạn Nghệ tới hồi công khai.

Trần Tấn và Đặng Như Mai

 Cả hai là những tú tài Nghệ An.

Văn thân địa hạt họp bàn

"Bình Tây sát tả" mấy hàng hịch ra:

"Triều đình hòa Tây bỏ ta

Sĩ phu bất xá, đuổi ra lũ này.

Nghìn năm văn hóa xưa nay

Không cho lũ giặc có ngày tỏ oai".

Dẫu là nửa đúng, nửa sai

Nhưng lòng yêu nước mấy ai sánh bằng!

Triều đình ngu muội hay chăng

Hòa Tây để giặc làm xằng, mới đau!

Lấy Hà Tĩnh, đánh Diễn Châu

Quang Hoán, Huy Điển cùng nhau mở màng.

Thất Triệt, Tổng đốc Nghệ An

Ngấm ngầm giúp đỡ, hội càng mạnh lên.

Khâm sai chính Nguyễn Văn Tường

Cùng Lê Bá Thận lên đường dẹp ngay.

Văn Thân rã hội, tan bầy

Triều đình cũng chẳng đôi ngày được yên!

2. Giặc ở Bắc Kỳ:

Mạn Hải Dương, tỉnh Quảng Yên

Còn người mạo nhận sinh tiền họ Lê.

Giúp tên Francis nào ngờ

Triều đình với Pháp đất bờ đã dưng.

Garnier quay mặt dửng dưng

Giúp thuyền cho Huế thẳng thừng dẹp tan.

Giặc cờ vàng khuấy Tuyên Quang

Vĩnh Tường, Châu Thượng lập làng làm căn.

Tôn Thất Thuyết đánh quá hăng

Sùng Anh bị bắt, vàng khăn rã bầy.

Làng Cổ Loa, mạn Sơn Tây

Có tên Trận lại quậy ngày, quậy đêm.

Tôn Thất Thuyết lại dẹp êm

Tên Trận danh bại, Thuyết thêm công thành.

Lạng Sơn, giặc Khách hoàng hoành

Lý Dương Tài chiếm rừng xanh đứng đầu.

Trước làm quan ở Tầm Châu

Bị cách chức mới phản Tàu, rắc tai.

Quảng Tây đề đốc Tử Tài

Vây núi Nghiêm Hậu bắt Tài, giặc tan.

Bắc Kỳ giặc loạn ngỗn ngang

Vua chia hai đạo Lạng Giang, Đoan Hùng.

Đặt Tĩnh biên sứ coi chung

Phụ trách hai lộ, vua dùng Kế Viêm.

3. Sự giao thiệp với nước Tàu:

Nước Nam độc lập nhưng hiềm

Bao lần thắng cũng "khiêm nhường" đãi bôi.

Triều đình Huế tính nước đôi:

Hòa ước với Pháp, không thôi cống Tàu.

Mong rằng có thể giúp nhau

Xưng thần, cống phẩm mà cầu với Thanh.

Dực Tông có sứ đi tranh

Lê Tuấn, Tư Giảng đồng thanh tấu trình.

Bọn giặc Khách phá nước mình

Nguyễn Tu, Hoàng Tịnh đồng tình cáo tri.

Hòa ước Giáp Tuất trở đi

Độc lập, nô lệ có gì khác đâu?

Nên theo lệ cống từ lâu

Chống Tây phá ước cầu Tàu mới xong.

Năm Bính Tí, sứ Dực Tông:

Ân Niên, Lê Cát với ông Lâm Hoành.

Nguyễn Thuật, Khánh Tiến, Nguyễn Hoan

Xưng thần, cống phẩm chịu lòn với Thanh.

Nhà Thanh sai Trương Đình Canh

Sang Huế bàn việc ngọn ngành bán buôn.

Sẵn thăm dò nước Nam luôn

Pháp biết được mới ra khuôn trách phiền.

4. Tình thế nước Tàu:

Nước Tàu trước vẫn thượng thiên

Cho nên lệ cống theo phiên đã thành.

Nay Tàu yếu đã rành rành

Nước Nam chẳng dám phá ranh vượt rào.

Thế kỷ mười chín, Tây Âu

Phương Tây lược địa, nước Tàu khó tranh.

Nhờ Tàu, cơ hội mong manh

Vua cấm nha phiến mà thành khổ dân.

Mới ra hòa ước Nhâm Dần

Vua Đạo Quang ký nhượng phần bán buôn.

Hàm Phong hòa chẳng giữ khuôn

Anh, Pháp như mối ăn luồn Bắc Kinh.

Canh Thân, máu nhuộm thượng đình

Thiên Tân hòa ước hạ mình, bán dân.

Bị phương Tây lấn mấy sân

Nhà Thanh sắp đổ chỉ cần chút giông.

Mà nhà Nguyễn vẫn ngóng trông

"Chết đuối vớ bọt" thật không thức thời!

5. Sự giao thiệp với nước Pháp:

Bắc Kỳ tạm ổn mọi nơi

Philastre biến, Rheinart thế vào.

Giặc loạn Hà Nội hạ trào

Dujardin thiếu tá được vào ngó coi.

Hiệp thương ký mới ráo ngòi

Ông Nguyễn Tăng Doãn ra coi Bắc Kỳ.

Kiếm đất, lập trại thị uy

Hải Phòng, Ninh Hải tức thì chọn ngay.

Thượng thư Bộ Hộ gặp may

Là Phạm Phú Thứ nở mày Hải An.

Tổng lý Thương chánh Đại thần

Kiêm chức Tổng đốc nắm phần bán buôn.

Hi Tăng, Tăng Doãn vào luôn

Định việc thương chánh, diễn tuồng thế vua!

Triều đình chỉ nghĩ bán mua

Cho nên trúng một quẻ bùa bọn Tây.

Rheinart khâm sứ ra thay

Hải Phòng: ông Trúc, Kergaradec: Bắc Kỳ.

Sài Gòn, Thành Ý nhận đi

Vào làm lĩnh sự làm vì thế thôi!

Rhinart cáo bệnh về rồi

Philastre lại khứ hồi Huế ngay.

"Nghinh tân, đả cựu'' mắc dây

Triều đình lộ kế cho Tây chúng bì.

Mậu Dần, đấu xảo Paris

Tăng Doãn, Thành Ý vội đi chịu đòn.

Cho người sang học Toulon

Thêm mười hai đứa trẻ con xuất hành.

Sang Hương Cảng học trường Anh

Tiêm, Tàu thông sứ mới thành vạ đây.

Pháp mang hòa ước ra ngay

Triều đình sai quấy, tớ thầy phải nghe.

Khâm sai Huế - Philastre

Triều đình cả nễ vì nghe có tài.

Hiểu Nho, tình, lý lọt tai

Khi ông về nước, không ai rọi đèn.

Xiêm, Tàu giao thiệp bao phen.

Thêm nước Anh quốc, rối ren một nùi!

Chính phủ Pháp, chúng chẳng... đui

Vi phạm hòa ước, phanh phui mọi đàng.

Hai bên tình thế chẳng an

Pháp muốn bảo hộ diễn màn kế gian.

Rheinart vừa mới lại sang

Làm khâm sứ Huế nên càng khó khăn!

Nước Anh, Mỹ, Ý lại căng

Muốn vào buôn bán khăng khăng mọi phần.

Nên không muốn Pháp chen chân

Đem chuyện buôn bán xử phân luận bàn.

Lĩnh sự Pháp lại đổi quan

Ông Le thống đốc mới sang Sài Gòn.

Triều đình Huế chẳng khôn ngoan

Thông thương, khai hóa thì còn b ỏ bê.

Cờ Đen loạn, triều đình ngơ

Chẳng sao cấm cớ, quay cờ, lộng hung.

Chính phủ Pháp lập tức dùng

Kế sách trước, đánh; sau cùng kéo binh.

Tình hình chiến sự phát sinh

Chiếm Bắc Kỳ, Pháp mặc tình bán buôn.

Chương XI

PHÁP CHIẾM LẤY BẮC KỲ

Lần thứ hai (1882)

1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội:

Người Pháp có giấy thông thương

Bị giặc Khách chận trên đường Vân Nam.

Pháp bèn bắt lỗi Việt Nam

Thống đốc Vilers mới làm tấu thư:

"Nước Pháp chẳng thể chần chừ

Nên dùng binh lực mà trừ loạn đi". ...

Tháng hai, Nhâm Ngọ, Henri

Gởi thư đến Huế ra ni bực mình.

"Luật vua xem chẳng còn linh

Bắc Kỳ loạn lạc, triều đình ngó lơ.

Đi đâu cũng khó khăn ghê

Quan Huế thất lễ với bề Rheinart.

Nay Pháp chẳng thế làm ngơ

Bảo vệ quyền lợi chẳng chờ đợi lâu''.

Mang trăm lính, hai chiếc tàu

Henri cùng hẹn gặp nhau Hải Phòng.

2. Hạ thành Hà Nội lần thứ hai (1882):

Đãi đằng tử tế cho xong

Tổng đốc Hoàng Diệu phòng hờ thực hư.

Đại tá sắp kế đã dư

Cho nên gởi tối hậu thư tới thành.

Tám giờ, quân Pháp đánh nhanh.

Ba tiếng sau đã lấy thành như chơi.

Quan ta bỏ chạy rối bời

Tổng đốc Hoàng Diệu chịu lời đắng cay.

Thắt cổ chết, rạng mặt mày

Hơn Tôn Thất Bá mặt dày trốn xa.

Để đời khúc "Chính khí ca"

Ai hay dở đã phân ra rõ ràng!

Dực Tông triệu tập vội vàng

Kinh lược Nguyễn Chính, phó quan họ Bùi.

Mau mau tìm cách mà lui

Về thủ Mỹ Đức chịu lùi địch xa.

Rheinart khâm sứ phân qua:

"Tình thật chẳng muốn đánh Hà Nội đâu.

Vậy thời lấy lại cho mau

Thành trì còn đó chớ đâu mất gì!".

Triều đình nghe nói chẳng suy

Sai Trần Đình Túc vội đi nhận thành.

Pháp chơi "mèo-chuột" đã đành

Triều đình ngu muội mới thành tội nhân!

Hai lần lấy, trả hai lần

Trước khi đớp chuột, mèo vần chuột chơi!

Trả thành, Pháp đóng khơi khơi

Qua lời thương nghị lòi đuôi cáo già:

*Pháp phải bảo hộ nước ta

*Hà Nội lập tức nhường qua Bắc Kỳ.

*Pháp đặt thương chính tức thì

*Nước Nam phải sửa những gì tả tơi.

Giao quyền Pháp quản tức thời

Triều đình hiệp hội trả lời rằng:"Không!''.

Trần Đình Túc nhiệm vụ xong

Hà Ninh Tổng đốc, nhận phong, Độ vào.

3. Việc cầu cứu nước Tàu:

Triều đình bị ép đã chao

Nhưng trong tâm não trọng cao nước Tàu.

Nên Phạm Thận Duật mau mau

Cầu Tàu phương sách làm đầu, thói quen.

Ỷ Tàu với lại Cờ Đen

Ấm đầu cứ việc... ho hen, họ vào.

Cho nên rát họng kêu gào

Ngờ đâu nếm muối chớ nào thấy chanh.

Tổng đốc Lưỡng quảng: Thụ Thanh

Mượn cớ đánh Pháp để giành nước ta.

Đóng quân phía Bắc Hồng Hà

Kính Bưu, Diên Húc, quan nha Cảnh Tùng.

Bắc Ninh, quân tiến ung dung

Quảng Tây, Bố Chánh cũng cùng chạy qua.

Chủ nhà nuôi... hổ trong nhà

Tha về...beo nữa để mà hại dân!

4. Quân Pháp lấy Nam Định (1883):

Pháp muốn thu xếp dần dần

Công việc bảo hộ đỡ phần chiến tranh.

Nhưng còn lính của nhà Thanh

Tràn sang các tỉnh, Pháp đành phản công.

Vilers thay bởi Thomson

Tấn công Nam Định hẹn trong nửa ngày.

Henri kéo lính bao vây

Vài trăm tên giặc trong tay súng đồng.

Triều đình đã trả lời: "Không"

Cho nên Nam Định mất trong Quý Mùi.

Trọng Bình, tổng đốc trốn chui

Đề đốc tử, Án sát lui chốn nào?

5. Đại tá Henri Rivière chết (13-4-1883):

Vừa khi Pháp tiến, Tàu vào

Bắc Ninh tổng đốc ra mào thế công.

Giốc Gạch, tổng, phó đứng trông

Chực đánh Hà Nội chưa công đã lùi.

Berthe, đại uý đánh vùi

Bắc Ninh Tổng đốc, tướng Bùi Ân Niên

Thấy quân Pháp đã tiến binh

Nhưng tin Tàu chịu chi binh giúp mình.

Lui về mà giữ Bắc Ninh

Kế Viêm, tiết chế rập rình đợi cơ.

 Cờ Đen - Vĩnh Phúc đang chờ

Đóng phủ Hoài Đức dễ bề đánh Tây.

Nam Định đã ở trong tay

Henri kéo lính dong ngay Bắc Kỳ.

Cầm binh khinh địch, kiêu kỳ

Phục binh Cầu Giấy tức thì... bắn bia.

Bị thương: Đại úy Villers

Cờ Đen - Vĩnh Phúc, không dè lập công.

Non trăm mạng tử thương vong

Henri Rivière đi không thấy về.

Lục quân thiếu tướng Bouet.

Được điều ra tận Bắc Kỳ chỉ huy.

Courbet thiếu tướng cũng đi

Chiến thuyền tiếp ứng, Paris lệnh tr uyền.

Harmand ra Bắc toàn quyền.

Hải, Hà, Nam Định lại liền sửa sang.

Georges mộ lính cờ vàng

Cho theo binh Pháp vào hàng tiền quân.

Quân ta đánh Pháp tưng bừng

Trứng chọi với đá vang lừng chiến công.

Yêu nước nhưng chẳng đồng lòng

Đánh không thống nhất mà hòng thắng ai!

Giáo gươm chống đạn quá tài

Quân không luyện tập hằng ngày, phải thua!

Lãnh sự Thành Ý bị xua

Phe ''hòa'', phe ''chiến'' hơn thua... lớp rùa!

Rối ren, đất nước te tua

Dực Tông bệnh mất, tuổi vừa năm lăm.

Ngôi vua băm sáu mươi năm

Mười sáu, tháng sáu nhằm năm Quý Mùi.

Chương XII

CUỘC BẢO HỘ CỦA NƯỚC PHÁP

1. Sự phế lập ở Huế: vua Hiệp Hòa 

協和

 (1883):

Nhà Nguyễn đã đến lúc sui

Hết đời Tự Đức, trở lui mất quyền.

Ngôi vua vẫn tiếp tục truyền

Nhưng quyền chính trị mọi miền trống không.

Triều thần chuyên chế bên trong

Tự Đức mắc bệnh, ngôi rồng tuyệt tông.

Ba con nuôi được nối dòng

Dục Đức, Dưỡng Thiện, Chánh Mông ruột rà.

Di chiếu cũng đã bàn qua:

Dục Đức đức tính khó mà thánh quân.

Vua chọn Dưỡng Thiện hiền nhân

Nhưng mà nước loạn, vua cần tuổi cao.

Di chiếu: Phụ chính đương trào

Đại thần đệ nhất tuổi cao Tiễn Thành.

Văn Tường phụ chính nhị danh

Thứ ba Thất Thuyết mà thành đại tam.

Ba ngày, Tường, Thuyết đã làm

Đổi tờ di chiếu mới cam bực lòng.

Phế vua Dực Đức cho xong

Đem em tiên đế Dục Tông lập vì.

Triều thần chẳng dám nói gì

Đình Phùng, ngự sử tức thì cản ngăn:

"Tự quân có tội gì chăng

Chưa chi đã phế làm xằng được sao?".

Tường, Thuyết quyền thế một trào

Bắt giam rồi cách chức nào nễ nang.

Hiệp Hòa niên hiệu đăng quang

Giảng đường, Dục Đức thì đang ngậm ngùi!

2. Quân Pháp lấy cửa Thuận An:

Hiệp Hòa mới lập xong xuôi

Harmand cũng đã theo đuôi Hải Phòng.

Courbet, Bouet hội xong

Phủ Hoài chiếm đóng ngoài trong sẵn sàng.

Courbet đánh cửa Thuận An

Bắt nhận bảo hộ, mưu gian rõ ràng.

Quân Pháp đang thắng Cờ Đen

Tiến lui gặp lũ mới bèn đóng binh.

Hải Phòng, trung tá Brionval

Đem lục quân đánh chiếm thành Hải Dương.

Bouet đang thắng vẫn lường

Điện Paris để xin đường viện chi.

Lục quân tiến đánh Bắc Kỳ

Mục tiêu kế tiếp tức thì Thuận An.

Ba ngày Trấn Hải vỡ tan

Quan Trấn tử nạn, Nhẫn, Hoàng nhảy sông.

3. Hòa ước năm Quý Mùi (1883):

Triều đình thấy sự chẳng xong

Còn trông gì nữa mà không chịu đình.

Harmand bắt phải giải binh

Khâm sai Đình Túc đi xin nghị hòa.

Quý Mùi, tháng bảy, hăm ba

Hòa ước của việc ''bán nhà'', lập ra.

Harmard với De Champeaux

Trọng Hợp, Đình Túc bốn... đầu kết cam.

Hăm bảy điều khoản tham lam:

*Nước Pháp bảo hộ nước Nam rất dài.

Nước Nam giao thiệp với ai

Phải do Pháp ký cho vào hoặc không!

*Bình Thuận nay thuộc đàng trong

Đèo Ngang, Pháp đóng với cùng Thuận An.

* Còn phần đất từ Đèo Ngang

Khánh Hòa đổ lại, vua quan triều đình.

*Khâm sứ Pháp được sự sinh

*Pháp đặt Công sứ an ninh Bắc Kỳ.

Ký xong, hòa ước gởi đi

Paris lược duyệt rồi thì thực thi.

4. Việc ở Bắc Kỳ:

Hòa ước bán nước, vinh chi

Kêu quân mình lập tức thì bỏ đao.

Thượng thư Bộ Lại đương trào

Là Nguyễn Trọng Hợp: Áo bào Khâm sai!

Phong chức Công Bộ làm cai

Cho Văn Chuẩn phó Khâm sai Bắc Kỳ.

Thêm Khâm sai phó: Hồng Phì

Cùng nhau ra Bắc chiêu nghì vỗ an.

Non nhà đại nạn lầm than

Chia năm, xẻ bảy, gian nan não nùng!

Còn ai ngồi khóc cha chung

Còn ai phụng chỉ cúc cung triều đình?

5. Vua Hiệp Hòa bị giết (1883):

Triều đình Huế lại rung rinh

Nhờ sách bảo hộ cho mình vững ngôi.

Triều thần chẳng chịu nước đôi

Thuyết Tường chuyên chế, vua, ngôi chẳng bền.

Hiệp Hòa thấy vậy, cho nên

Thượng thư Binh Bộ chuyển lên Văn Tường.

Thuyết đang Binh Bộ đường đường

Chuyển sang Lại Bộ coi dường mất uy.

Thấy vua lòng đã sinh nghi

Để lâu thành vạ, bỏ đi được rồi.

Thuyết Tường mưu sự hẳn hoi

Trình qua Thái hậu hạ hồi phế đi.

Thái hậu nào có nói chi

Con út Dưỡng Thiện lập vì mới xong.

Hiệp Hòa cái ách tự tròng

Dám vuốt râu cọp, đụng lông hai người.

Thuyết, Tường nào dễ trêu ngươi

Mượn ''lưới'' Thái hậu bắt người Đế Vương!

Nhốt vào Dục Đức giảng đường

Cho uống thuốc độc, coi thường sử xanh.

Thấy quan Phụ chánh Tiễn Thành

Không theo như ý, đem hành quyết luôn!

Hiệp Hòa bốn tháng lệ tuôn

Cơ ngơi chưa vững, hết tuồng, hóa ma.

6. Vua Kiến Phúc:

建福

Dưỡng Thiện được chọn cho qua

Niên hiệu Kiến Phúc, huý là Ưng Đăng.

Mười lăm tuổi biết đâu rằng

Chỉ là con rối trong băng Thuyết, Tường!

Bắc Kỳ, quân giữ mấy phương

Sơn Tây binh mã tướng Hoàng Kế Viêm.

Bắc Ninh: Quang Đản ngày đêm

Cùng Tàu chống Pháp là điềm họa to.

Khâm sứ Pháp Huế trách cho

Rút quân, Tường Thuyết phải lo liệu lường.

Các quan người mỗi con đường

Người về, người bỏ quan trường chạy đi.

Nước nhà gặp buổi sinh ly

Triều đình chẳng có tay chì đảm đương.

Văn Hòe tri phủ Kiến Xương

Vụ Mẫn bỏ chức, về vườn họa may.

Thiện Thuật quân vụ Sơn Tây

Về ngay chống Pháp chốn này: Hải Dương.

Nam Định, Đề đốc quan lương

Theo Tàu chống Pháp, núp... tường nhà Thanh.

7. Sự đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ:

Harmand lập lính khố xanh

Và đội tuần cảnh coi canh Bắc Kỳ.

Cờ vàng Bouet thị phi

Harmand ra lệnh bỏ đi chẳng dùng.

Cờ Đen chận đánh đồn Phùng

Thiếu tướng Bouet lại cùng đánh nhau.

Toàn quyền, Bouet hợp đâu

Paris, thiếu tướng xin mau trở về.

Lục quân trao lại Bichot

Ninh Bình, đại tá đi lo lấy thành.

8. Lấy Sơn Tây:

Hai bên chiến sự giao tranh

Toàn quyền thiếu tướng Harmand phải về.

Bắc Kỳ thiếu tướng Courbet

Toàn quyền quyết định mọi bề trị an.

Thiếu tướng còn đang sửa sang

Quân ta tiến đánh, đốt càn Hải Dương.

Quan Pháp sự cố bất tường

Tỉnh thần tòng phạm, đày đường Côn Lôn.

Viện binh từ Pháp tinh khôn

Thủy bộ hai lộ gian ngôn tớ thầy.

Chín ngàn quân Pháp bủa vây

Chia làm hai đạo Sơn Tây đánh vào.

Cờ Đen, Tàu, lính, ôi chao

Mười sáu ngày đánh thì vào thế lui.

Súng Pháp bắn đạn như vùi

Mạn ngược rút chạy thụt lùi mới xong.

9. Lấy thành Bắc Ninh:

Quân Tàu càng mạnh, càng đông

Thiếu binh, Pháp lại chờ trông mỗi ngày.

Hàng ngũ tướng Pháp... chia tay

Tướng Millot thế quan thầy Courbet.

Được binh, Pháp mới hăm he

Quân Tàu đe một, Pháp đe tới mười.

Quân một vạn sáu nghìn người

Hai lữ, mười pháo nuốt tươi Hải Hà.

Bắc Ninh - Hà Nội: Tàu, ta

Thống tướng Millot mới ra lệnh liền:

Sông Hồng, Brière vượt biên

De Négrier qua liền Bắc Ninh.

Sáu ngày đánh hết sức mình

Quân Tàu bỏ mặc Bắc Ninh, rút về.

Thái Nguyên, thiếu tướng Brière

Đánh lên Yên Thế lầy về dễ không.

10. Lấy Hưng Hóa:

Quân Pháp tiến đến mạn sông

Tuyên Quang, Hưng Hóa còn trông n ỗi gì?

Lữ đoàn thứ nhất ra đi

Sơn Tây, Hưng Hóa rồi thì Đà Giang.

Hai bên khởi sự đánh càn

Lữ đoàn nhì lại hiệp đàng với nhau.

Cờ đen hợp với quân Tàu

Đốt cả phố xá, quay đầu chạy ngay.

Kế Viêm binh rút cùng ngày

Theo đường thượng đạo về ngay Kinh thành.

Pháp chiếm Hưng Hóa, vội nhanh

Coronnat dẫn lính phá banh đồn Vàng.

11. Lấy Tuyên Quang:

Cờ đen đang đóng Tuyên Quang

Millot đường thủy dò đàng Lô Giang.

Hưng Hóa, Duchesne quân sang

Việt Trì xuất phát, Tuyên Quang giặc tràn.

Một giờ chiến đấu hiên ngang

Cờ đen thất thế vội vàng thoát thân.

12. Hòa Ước Fournier:

Giáp Thân (1884-1814)

Cao Bằng, Tàu chẳng rút chân

Còn Lao Kay với một phần Lạng Sơn.

Pháp bèn tính chuyện thiệt hơn

Sai Fournier gặp Hồng Chương nghị hòa.

Đôi bên thỏa thuận mọi bề

Coi triều đình Huế ''con cờ'' trong tay!

Nước Tàu mới rút quân ngay

Nước Nam chính sự hằng ngày, Pháp lo.

Thấy ngay mưu sự cầu ngoài

Mưa lâu ướt đất, chuột lòi mặt mo!

Cờ Đen đánh Pháp công to

Coi như bỗng chốc ra tro, mất hình...

8. Hòa ước Patennôtre tháng 5

năm Giáp Thân (5-1884):

Công sứ Pháp ở Bắc Kinh

Patennôtre tảo trình phía Nam.

Paris điện khẩn phải làm

Ra Huế sửa lại kết cam Quý Mùi.

Mười chín điều khác chút thôi

Văn Tường, Thận Dật, Tôn vùi ký qua.

Bình, Hà, Thanh, Nghệ tính ra

Bốn tỉnh này thuộc phần ta, Trung Kỳ.

Ấn Tàu bắt nấu chảy đi

Từ nay nước Pháp bảo trì Việt Nam.

Cống Tàu, người Việt không làm

Giáp Thân, hiệp ước hòa đàm cáo tri.

Pháp đô hộ cả ba kỳ

Triều đình Huế chỉ hư vì vậy thôi!

Việt Nam bị bổ ra rồi

''Tam phân, ngũ liệt'' thiệt thòi trăm năm.

Còn đâu lịch sử nghìn năm

Non sộng thấm máu thăng trầm, xót xa !

14. Việc triều chính ở Huế:

Triều đình cũng chẳng nhận ra

Do đâu mà có vạ ta, vạ mình?

Làm ra chuyện loạn triều đình

Là hai phụ chính Thuyết, Tường chứ ai!

Thất Thuyết nóng nảy, kém tài

Đa nghi, chém giết khiến người hãi kinh!

Văn Tường giỏi chữ, trớ trinh

Giao thiệp khôn khéo, tính tình tham gian.

 Nguyễn Văn Tường nắm hàng văn

Thất Thuyết nắm võ khăng khăng mọi đường.

Hoàng thân, quốc thích, quan trường

Ai sai, trái ý chỉ đường chết thôi.

Thuyết dùng nghi vệ vua tôi

Mộ quân phấn nghĩa tới hồi dụng sau.

Tường thì hối lộ làm đầu

Tiền sềnh giặc Khách từ Tàu đúc qua.

Tiền thời Tự Đức mà ra

Đã mỏng, lại xấu bắt ta phải xài.

Không tiêu phải tội dài dài

Vua thì nhỏ tuổi, quan ai dám bàn?

Hai ông cậy thế làm càn

Chuyên quyền lắm nữa tông đàng đảo điên.

Vua thì bị đổi liên miên

Không bị ép thuốc, cũng liền chết không.

Ai mà dám chống hai ông

Là vua cũng chẳng mà hòng sống đâu!

Hiệp Hòa bị giết ít lâu

Đến phiên Kiến Phúc theo sau, dứt trần.

Tháng tư, mồng sáu Giáp Thân

Kiến Phúc bệnh mất, nghiệp trần hết vương.

Sự tình, sử chép hai đường:

Mắng Tường mới bị Văn Tường... thuốc tiêu!?

15. Vua Hàm Nghi:

Thuyết, Tường sinh sát toàn triều

Vua mười hai tuổi sáng chiều lập xong.

Ưng Lịch, em của Chánh Mông

Hàm Nghi lấy hiệu mà không biết gì.

Rheinart, tư giấy có ghi:

Nam triều vua mới lật thì báo ngay.

Thuyết Tường tự tiện như vầy

Khâm sứ thấy vậy thư tay Bắc Kỳ.

Thống tướng Millot tức thì

Guerrier với quân đi chịu phiền.

Sáu trăm quân, pháo dàn hiên

Bắt triều đình Huế… cảm phiền tấu xin.

Chữ Nôm giấy phép đệ trình

Thuyết Tường đem gởi dinh Khâm sứ liền.

Rheinart phép tắc xỏ xiên

Chữ Nôm kia phải làm phiền chuyển Nho.

Bấy giờ, Khâm sứ mới cho

Chính điện mở cửa, lò dò tấn vương.

Rượu phạt uống thấy mà thương

Lên gân, xuống cốt mọi đường nhục gia.

Chương XIII

CHIẾN TRANH VỚI NƯỚC TÀU

1. Trận Bắc Lệ:

Hòa ước Tàu - Pháp ký qua

Lao Kay, Cao, Lạng nhả ra để hòa.

Quân Tàu biết vẫn xuê xoa

Ở đồn Bắc Lệ, Pháp xa bắn vào.

Sáu ngày xin hoãn xem sao

Dugenne không chịu, ì xèo đánh nhau.

Đánh cho tới sáng hôm sau

Tàu vây bốn mặt, Pháp mau rút về.

Millot sai tướng Négrier

Bốn đội bộ, pháo sang bờ cứu binh.

Đong đo tiếp ứng tình hình

Négrier được triệu chờ binh nhập thành.

2. Đánh Phúc Châu và vây Đài Loan:

Bắc Kỳ, Tàu đánh, tin nhanh

Lanh tay, Pháp lệnh vây thành Phúc Châu.

Hai trăm rưỡi triệu, trả mau

Đài Loan bị đánh kéo nhau nghị hòa.

Hòa ước Ất Dậu thông qua

Tàu thua nhượng bộ, Pháp ra trả thành.

3. Trận Đồn Chũ, và đồn Kép:

Bể Đông, Pháp bắn tan tành

Quân Tàu Đông - Quảng sang tranh Bắc Kỳ.

Viện binh Pháp chẳng thấy chi

Millot cáo bệnh mà đi trở về.

Viện binh hai vạn dưới cờ

Chia ra bốn đạo mà chờ phản công.

Servière một đạo mạn Đông

Doninier một đạo vượt sông tới Đầm.

Lạng Thương, Négrier đăm đăm

Mibielle, Bảo Lạc ngấm ngầm trợ chung.

Quân Tàu lính rụng như sung

Quân Pháp, thương tật, tử cùng ngót trăm.

Đông Bắc, Tàu rút mất tăm

Duchesne kế tiếp là tầm Tuyên Quang.

Cờ đen cứ địa cần san

Berger quân trấn ngay đàng Thái Nguyên.

4. Trận Yên Bạc:

Quân Tàu đóng ở Quảng Yên

Đến tháng mười một, xuống miền An Châu.

Thiếu tướng De Né theo sau

Trần đầu Núi Bóp giết Tàu sáu trăm.

5. Lấy thành Lạng Sơn:

Ngàn viện binh Pháp lăm lăm

Thêm quân hai đạo hướng nhằm Lạng Sơn.

Quân Tàu đóng giữ hết trơn

Pháp dùng kế đánh khôn hơn: ngang hàng.

Tức là Đồn Chũ đánh ngang

Tuần Muội đánh lại vào đàng Đồng Sơn.

Quân Tàu thanh thế đã sờn

Hết đường rút chạy mới vờn Lạng Sơn.

Hai bên giao chiến thiệt hơn

Lạng Sơn Pháp chiếm rửa hờn Đồng Đăng.

Quân Tàu hai ngã chạy phăng:

Thất Khê với lại Nam Quan chạy về.

Ất Dậu, thiếu tướng De Négrier

Phá Ài quan mới rút về Lạng Sơn.

6. Thành Tuyên Quang b ị vây:

Khi Pháp đánh ở Lạng Sơn

Cờ đen, Tàu mạn sông Hồng, Lô Giang.

Bấy giờ, kéo đánh Tuyên Quang

Quân chia hai đạo hiên ngang phá thành.

Dominé vừa thủ vừa canh

Ngoài công, trong thủ bất thành thắng thua.

Lạng Sơn, Pháp lấy như đùa

Binh lên cứu viện được mùa phản công.

Ất Dậu, lính Pháp vượt sông

Đoan Hùng diễn trận, Tàu không được gì.

7. Mất thành Lạng Sơn:

Quảng Tây, đề đốc ra uy

Từ Long Châu dẫn binh đi cứu mình.

Đồng Đăng, hai mặt giáp hình

Hao binh tổn tướng muôn tình khó khăn.

Phùng Tử Tài thế đương hăng

Rút binh, Pháp bỏ một đằng Lạng Sơn.

7. Hòa Ước Thiên Tân 24-4 Ất Dậu (1885):

Bấy giờ, Pháp tính thiệt hơn

Lạng Sơn bỏ lại, lính chờn hết đi.

Thủ tướng Jules Ferry

Từ chức xoa dịu phẩn bi thế tình.

Sứ thần Pháp ở Bắc Kinh

Patenôtre lập ước trình chiến chinh.

Thay chức và viện trợ binh:

Thống đốc sự vụ dân tình Courcy.

Tham mưu tổng trưởng Warnel

Thiếu Jamont với tướng Prudhomme.

Tàu theo hòa ước, rút về

Hồng Chương ký ước hai bờ phải cam:

Pháp hưởng quyền ở Việt Nam

Thuyền Tàu vào cảng không làm khó khăn.

Pháp trả cửa bể mặt bằng

Tiền binh phí tổn thì rằng miễn chân.

Ngay hôm hòa ước Thiên Tân

Courbet trung tướng mất gần Đài Loan.

Chương XIV

LOẠN Ở TRUNG KỲ

1. Thống Tướng De Courcy vào Huế:

(18-4-1885 Ất Dậu)

Pháp bảo hộ, lắm tính toan

Quan nhà sức mọn, vẫn còn đánh Tây.

Ở Huế, Tường, Thuyết hằng ngày

Triều đình thao túng, gió mây mọi đường.

Dục Đức chết thật thê lương

Hầm giam tăm tối, đói xương rã tàn.

Chết rồi, Tường, Thuyết vu gian:

Thông mưu với giặc ra màn diệt thân.

Lập đồn Tân Sở hậu thân

Chở ra Cam Lộ châu trân chất đầy.

Nói là phòng để mai này

Quân binh ra đó còn ngày chống Tây.

Đánh Pháp, ý định đã đầy

Đại bác, Pháp bắt dẹp ngay cổng thành.

Thiên Tân hòa ước với Thanh

Courcy thống tướng ra nhanh Bắc Kỳ.

Năm trăm quân tới thị uy

Bắt triều đình Huế thực thi ước hòa.

Khâm sứ Pháp De Champeaux

Cùng hai quan lớn theo nhau đón đàng.

Đón chào ở cửa Thuận An

Hôm sau, Thống tướng triệu quan Thuyết, Tường.

Sang dinh bàn việc kiến vương

Tức là yết kiến cung đường Hàm Nghi.

Thuyết, Tường lừng lẫy uy nghi

Thấy thống tướng vậy, giận ghi ở lòng.

Cựu thần nói chuyện nho phong:

Thuyết văn, tướng võ dáng trông chẳng hùng.

Đầu trọc, người béo, đen mun

Đi không chững chạc, giao dung chẳng sành.

Xưa nay, cậy thế với danh

Hiếp người, chém giết tam bành lấy oai.

Chừng như đối đáp người ngoài

Trong bụng sợ khiếp nên oai nuốt vào.

Tường thì giao thiệp, mưu cao

Một mình phó hội "bàn đào" Courcy.

Thuyết viện cớ bệnh không đi

De Courcy bảo bệnh thì phải khiêng.

Sợ oai quan Pháp tới phiên

Nhân động đất nghĩ trời liền khiến đây.

Thuyết bèn sửa soạn đánh Tây

Pháp bắt mở cửa quan thầy Pháp vô.

Triều đình thấy Pháp xử thô

Bắt mở cửa chính, hàm hồ, lố lăng.

Trái điều quốc thể nên chăng

Thống sứ không chịu, gạt phăng trở về.

2. Triều đình chạy ra Quảng Trị:

Hôm sau, Cơ mật viện chờ

Bên dinh Khâm sứ định bề chính, bên.

Courcy không tiếp, chẳng lên

Thái hậu tặng phẩm, kiêu kênh chẳng cần.

Courcy khinh mạn muôn phần

Triều thần ngơ ngác thấm dần trẽn trơ.

Thất Thuyết tức giận mới thề

Sống chết một trận cũng nhờ trời đây.

Nửa đêm, Mang Cá đạn bay

Dinh Khâm sứ đạn cũng cày cháy lan.

Chiều hôm, thống sứ tiệc tan

Vừa nghe súng nổ, lính quan rụng rời.

Nhà xung quanh cháy rực trời

Quân Pháp ráng giữ chờ thời sáng ra.

Sang ngày qua tới hăm ba

Pháp bèn công phá, quân ta chạy nhầu.

Văn Tường vào giữa điện tâu

Xin rước Thái hậu tới đầu Khiêm Lăng.

Tường chực sẵn, Thái hậu rằng:

Lo thu xếp hẳn họa hằn cho xong.

Vâng lời, Tường ở lại trong

Ngoài kia, Thất Thuyết ruổi rong một lòng.

Xa giá đi tới Kim Long

Lên chùa Thiên Mụ, Thuyết vòng đón lui.

Dân gian, già trẻ dập vùi

Đàn bà, công tử ngậm ngùi oán thương.

Dắt nhau chạy loạn mù sương

Tìm phương sống tránh mọi đường súng dao.

Trường Thi, xa giá bôn đào

Nghỉ một lát, Thuyết vội vào hối đi.

Rằng Tây đuổi tới tức thì

Sáng hăm bốn những hiểm nguy bớt dần.

Quảng Trị, xa giá nghỉ chân

Tuần phủ Quang Đản chia phần lính canh.

Lương, tiền, khí giới mất đành

Quân vài nghìn vạn cũng thành bóng ma.

Chín mươi sáu lính gọi là

Bị thương với tử, so ra, Pháp lời.

3. Nguyễn Văn Tường ra thú:

Pháp chiếm giữ khắp mọi nơi

Các quan chẳng dám khơi khơi nhận mình.

Nguyễn Văn Tường mới cậy xin

Caspard Giám mục thú trình Courcy.

Thương bạc viện, chức vẫn y

Đại uý Schmitz canh ky mỗi ngày.

Thời hạn hai tháng trong tay

Làm sao mọi việc yên ngay hãy làm.

3. Xa giá các bà Thái hậu về Khiêm Lăng:

Văn Tường viết sớ kết cam

Xin rước Thái hậu dân an cạn cùng.

Hàm Nghi, Thái hậu tam cung

Bị Thuyết canh giữ, sớ dưng chẳng tường.

Hàm Nghi rồi phải lên đường

Lạy tạ từ mẫu sầu vương não nùng.

Một giờ sau, chốn từ cung

Thái giám lại chẳng đi cùng với vua.

Quảng Trị, tin tức thớt thưa

Từ Dụ tiếp được tin đưa của Tường.

Xin về Huế sống như thường

Tìm vua chẳng biết vua dường ở đâu?

Thuyết thư về nói trước sau

Rằng Tường đã phản mưu cầu nọ kia.

Xin rằng chớ vội mà nghe

Lời qua, tiếng lại e dè tính sao?

Tường giục lại kíp hồi trào

Thái hậu quyết định trở vào, chẳng ra.

Quang Đản hộ giá bôn ba

Khiêm cung, Tường rước các bà thỉnh an.

Khi Tường đi vắng, Thọ Xuân

Được làm giám quốc, xóa luôn chức nhà.

Thượng thư Binh Bộ Champeaux

Được Courcy định để mà bãi binh.

Tổng đốc Nam Định: Đình Bình

Kinh lược: Hữu Độ cùng dinh Văn Tường

Coi chung Cơ mật viện thương

Vì hai ông ấy làu thường mọi khâu.

Văn Tường, Hữu Độ chống nhau

Nên Độ mới phải quay đầu trở ra.

5. Quân Cần Vương:

Quảng Bình, hịch đã phát ra

Bình Thuận, Thanh - Nghệ dân ta tỏ tường.

Hưởng ứng hịch khắp mọi phương

Nơi nào cũng có con đường đấu tranh.

Thống tướng định dẹp cho nhanh

Ngàn rưỡi quân định rời thành Huế đi.

Nhưng mà chính phủ Paris

Điện sang lệnh cấm lạm vì đại binh.

Pháp dịch chết mấy ngàn binh

Cho nên hoãn cuộc trường chinh tảo trừ.

Hàm Nghi chẳng biết thực hư

Triều đình rối rắm y như giẻ nồi.

Văn Tường ngày hẹn xong rồi

Kỳ hạn hai tháng tới hồi nghiệm thu.

Tường bị người ghét, mới trù

Xin đem trị tội đền bù tội y.

Courcy Thống tướng Bắc Kỳ

Chiếu quân kỷ bắt đày đi Văn Tường.

Thất Đính, Thận Duật chung đường

Trên tàu, Duật chết, đại dương dựng mồ.

Haiti, đảo lạ sóng xô

Văn Tường bệnh chết, xác khô vô hòm.

Pháp cho mang hết về chôn

Một thời Phụ chánh mấy hồn thác oan?

6. Vua Đồng Khánh 

同慶

 (6-18-1885):

Trị Tường, thống lệnh đã ban

Triều chính giao Độ với Phan Chính Bình.

Bắc Kỳ, Trọng Hợp: Lược kinh

Pháp lập vua mới thân tình: Chánh Mông.

Tới phủ Khâm sứ thụ phong

Niên hiệu Đồng Khánh, vua không thực quyền.

Hàm Nghi nghĩa chẳng chao nghiêng

''Cần Vương Hịch'' phát thiêng liêng gọi lòng.

 Thương vua, lắm kẻ còn mong

Theo lời hịch gọi, gieo giông khắp vùng.

Quảng Nam, ''Nghĩa hội'' chuông rung

Quan sơn phòng sứ Trần cùng lập nên.

Bình Định, Bình Thuận, Phú Yên

Cờ nghĩa dấy khắp mọi miền đánh Tây.

Đình Hội đó, Tự Như đây

Quảng, Thanh, Bình - Trị cờ bay máu đào.

Lê Ninh, Hà Tĩnh anh hào

Nguyễn Phạm Tuân với Văn Mao hợp đoàn.

Có ông Nghè Nguyễn Xuân Ôn

Cùng Lê Doãn Nhạ xây đồn Nghệ An.

Nhiều người xướng hịch là quan

Binh vào tỉnh, phủ thiêu làng đạo lang.

Bắc Kỳ, Tạ Hiện cựu quan

Bãi Sậy Thiện Thuật cũng quan cựu triều.

Thêm Tàu quấy nhiễu liêu xiêu

Pháp chia binh chống thiếu điều hết hơi.

7. Thống tướng De Courcy phải triệt về:

Hay việc rắc rối, lôi thôi

Courcy, Thống tướng ra coi Bắc Kỳ.

Nhưng mà khắc nghiệt, đa nghi

Cho nên sự việc rù rì chẳng xong.

Paris phe "muốn", phe "không"

Brigoon từ chức để hòng giữ danh.

Thủ tướng Pháp mới tài lanh

Courcy bị triệu phải đành rút chân.

Varnel, trung tướng thế thần

Paul Bert, Thống đốc cũng dân văn về.

8. Vua Hàm Nghi ở Quảng Bình:

Đồng Khánh ở Huế đăng cơ

Cựu thần chống Pháp làm lơ chẳng cần.

Quảng Bình, đại tá Chaumont

Ngăn đường Thất Thuyết thông dân Bắc Kỳ.

Nghệ An, Thanh Hóa ra uy

Văn thân đánh dữ, mấy khi nước nhờ.

Để Grégoire lại phòng hờ

Chaumont đi lấy binh về đánh nhau.

Quảng Bình, vua ở đã lâu

Thất Thuyết xem cũng vả đầu ngán ngao!

Chống không nổi Pháp, bôn đào

Để vua ở lại, bay cao tới Tàu.

''Trung quân'' chẳng biết về đâu

''Ái quốc'' cách cuối là cầu ngoại bang.

Triều Châu, nơi chết danh tàn

“Ông già chém đá” ngục đàng lạnh tanh.

Có câu: "Cây đắng, trái lành"

Thiệp, Đạm con cái xứng danh anh hùng.

Bảo vệ vua trọn tình chung

Phạm Tuân, Lê Trực cũng cùng đảm can.

Mignot chia đánh hai đàng

Một đàng Tuyên Hóa, một đàng Nghệ An.

Văn Thân thất thế, rã tan

Metznigert rút, tìm đàng ti ến ra.

9. Ông Paul Bert (5-3-1886 đến 11-11-1886):

Quan văn tên gọi Paul Bert

Đặt phủ Thống sứ mà... đe Bắc Kỳ.

Lo toan mọi việc thu, chi

Lập Thương nghiệp cục, mở thi học đường.

Đồn điền điều lệ, chủ trương:

Làm trước rồi mới lệ thường tấu sau.

 Paul Bert lo quá, bệnh đau

Cùng năm thì mất, Bihourd thế quyền.

10. Lập Tổng Đốc toàn quyền phủ:

(5-10 Đinh Tuất)

Pháp lập bảo hộ Cao Miên

Kiêm luôn bảo hộ ba miền nước Nam.

Rành rành bản chất tham lam

Viễn đông thuộc địa một quan... toàn quyền!

Nam Kỳ, thống đốc là trên

Cao hơn khâm sứ Cao Miên, Bắc Kỳ.

Trên các thống đốc hạng nhì

Toàn quyền thống đốc tay chì Coustant.

Chương XV

VIỆC ĐÁNH DẸP

Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ

1. Việc đánh dẹp ở các nơi:

Trung Kỳ nghĩa đảm trung can

Trứng chọi đá, lửa thử vàng đó đây.

Tên Trần Bá Lộc xuống tay

Đàn áp khởi nghĩa, nịnh thầy đến phiên.

Bắt Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền

Với Nguyễn Đức Thuận thay phiên chém liền.

Cho nên Bình Thuận, Phú Yên

Đảng Văn Thân rã mới yên Kinh kỳ.

2. Vua Đồng Khánh ra Quảng Bình:

Quảng Bình, Đồng Khánh ra đi

Chiêu quan cũ, dụ Hàm Nghi tước vì.

Chuyến đi chẳng kết quả chi

Phải quay trở lại Huế vì bệnh đau!

3. Hoàng Kế Viêm ra quân thứ mạn

Quảng Bình:

Kế Viêm, đề đốc về đầu

Kinh lược đại sứ đã hầu đến tay.

Văn Ban, Nguyễn Trực về đây

Nguyên Thành, Chư, Khải trao ngay khanh hầu.

Paul Bert, Đồng Khánh bàn nhau:

Kế Viêm An phủ thì hầu giữ y.

Lại phong làm Hữu trực kỳ

Tiện nghi hành sự vỗ vì Hàm Nghi.

Hàm Nghi ba tỉnh bảo trì

Các quan nguyên chức, vua thì tước Vương.

Thanh Thủy, Lê Trực một đường

Hà Tĩnh, Thất Đạm một phương lách luồn.

Tôn Thất Thiệp, Nguyễn Phạm Tuân

Thanh Hóa quyết liệt, canh chừng Hàm Nghi.

Kế Viêm ra sức được chi

Năm Đinh Hợi phải chịu đi trở về.

4. Lập đồn Minh Cầm (1887):

Triều đình lỡ vận sa cơ

Cho nên phó mặc đôi bờ lũ Tây.

Mua chuộc thủ hạ, chước hay

Nên không dùng đại binh này tấn công.

Quảng Bình, Mouteaux ra phong

Đánh đồn Lê Trực mà không lợi gì.

Thanh Thủy thủ kỹ từng ly

Minh Cầm đồn lập dự khi phải càn.

Lê Trực trung - ái hai đàng

Quan đề đốc vốn thuộc hàng chính quân.

Con người nghĩa khí đức nhân

Nên Mouteaux vẫn mong ông thuận hàng.

Lê Lộc giữ dạ trung cang:

"Vì Vua, vì nước chẳng màng hy sinh''.

Vây làng, đại uý ra binh

Phạm Tuân phải đạn, bỏ mình vinh quang!

Thuốc phiện hối lộ chỉ đàng

Tên Ngọc nhận đổi giàu sang một mình.

Đại úy ban lệnh rút binh

Lính Pháp về lại đồn binh Minh Cầm.

Để cho tên Ngọc âm thầm

Chờ thời cơ mới ngấm ngầm xuống tay.

Mouteaux mỏi mệt lâu ngày

Xin về Pháp nghỉ chờ ngày được thay..

5. Vua Hàm Nghi bị bắt:

Tháng giêng, Mậu Tý, quân Tây

Ra Quảng Bình để mà vây vua nhà.

Vừa khi kiếm chẳng có ra

Thì đồn Mang Cá, chạy ra Đình Tình.

Minh Cầm, nó vốn bình sinh

Hàm Nghi hầu cận khai trình chỗ vua!

Pháp truyền bắt sống nhà vua

Những ai chống cự hay hùa, giết đi.

Hai tên lãnh mệnh mà đi

Hai mươi thủ hạ kiên trì bắt vua.

Bị đâm, Thất Thiệp chịu thua

Nửa đêm bị giết, chát chua một đời!

Hàm Nghi thấy phản, truyền lời:

"Gươm đây sao chẳng lấy thời giết ta.

Làm chi cái chuyện phản nhà

Giết ta hơn bắt ta mà nộp Tây!"

Vua vừa đôi chín, tội thay

Năm năm vong vị chẳng may chút nào!

Dẫu rằng bị bắt, bị đày

Xem ra cũng đáng mặt mày Đế, Vương!

Vua thời loạn lạc đáng thương

Kiên trì đánh giặc sáng gương để đời!

Lễ Vương, Pháp lấy đãi Người

Algérie xứ phải đày Người đi!

Hàng năm, Pháp cấp tiền chi

Dẫu xâm lăng cũng đôi khi có... tình!

Trương Quang Ngọc, Nguyễn Đình Tình

Hai hàm quan võ, nhục mình lĩnh binh!

Thủ hạ lĩnh vài đồng trinh

Đứa hàm suất đội, bán tình lấy công!?

Tôn Thất Đạm thấy chẳng xong

Vua đã bị bắt, còn mong nỗi gì!

Thôi thì... thư gởi Hàm Nghi

Cuối đầu tạ lỗi chia ly vẹn toàn.

Thư cho thiếu tá vuông tròn

Xin cho thủ hạ sống còn, may ra:

"Bây giờ, Pháp muốn bắt ta

Thì vào rừng thấy mả ta ở rừng!".

Thắt cổ, nước mắt rưng rưng

Còn hơn những kẻ tráo trưng hại người!

Thất Thuyết cư xử người cười

Hai con thì lại hóa mười hoa tươi.

Lê Trực cũng chẳng hổ ngươi

Lời lẽ khẳng khái khiến người ngợi khen.

Triều đình bắt tội, thật hèn

Pháp thì tha bỗng trắng đen một đàng.

Quảng Bình, quê cũ về làng

Mạn ngoài kính đức, trong đang quý tình!

Yêu nước đâu chỉ quyên sinh

Sống cho có ích, trung trinh để đời.

5. Vua Thành Thái

Đồng Khánh Mất:

(25-1-Mậu Tí 1888)

Đồng Khánh phải bệnh về trời

Ba năm ngôi vị tuổi đời hăm lăm.

Miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần

Làm vua như bột vào khuôn có là...

Khâm sứ Huế chợt nhớ ra:

Ngày trước Tự Đức tức là Dực Tông.

Dực Tông trai, gái cũng không

Phải đem ba cháu cùng dòng dưỡng nuôi.

Dục Đức lớn tuổi lên ngôi

Bị phế, giam bởi bầy tôi Thuyết, Tường.

Thuở nhỏ lui tới Pháp thường

Cho nên quen biết tướng là Rheinard.

Nhớ cảnh Dục Đức xót xa

Nhìn cây biết cội mới ra nhớ người.

Bửu Lân chỉ mới lên mười

Đang cùng với mẹ ngậm cười chốn lao.

Nguyễn, Trương: Phụ chính đương trào

Giúp vua Thành Thái đi vào kỹ cương.

7. Sự đánh dẹp ở Bắc Kỳ:

Thiên Tân hòa ước hiệp thương

Quân Thanh cũng đã hết đường đến ta.

Vua quan triều Huế chẳng qua

Bù nhìn một lũ có là thứ chi!

Các cuộc khởi nghĩa Bắc Kỳ

Bị Hoàng Cao Khải vô nghì dẹp tan!

Văn Thân - Đốc Tít ra hàng

Tán dương Thiện Thuật chạy sang xứ Tàu.

Kiều, Kỳ ra thú, giữ đầu

Cai Kinh bị bắt, biết đâu chốn đày?

Hoàng Hoa Thám chiến khu đây

Ba mươi năm đánh quân Tây khi ếp hồn!

Thủ hạ ám hại, ngậm hờn

Ngàn năm gương sáng chập chờn nghĩa chung.

8. Việc Phan Đình Phùng:

Non sông tưởng nhớ anh hùng

Đình Nguyên, Ngự sử Đình Phùng họ Phan.

Can Thuyết, Tường phế tân quân

Nên bị cách chức, bãi quan về nhà.

Hương Khê, Hà Tĩnh quê cha

Mở đồn điền ở quê nhà Vụ Quang.

Qua Tàu, ông gởi người sang

Học nghề đúc súng tìm đàng đánh Tây.

Vốn người thao lược, văn hay

Tướng tài mà chẳng cơ may gặp thời!

Văn Thân, đầu đảng riêng trời

Quân Pháp nễ mặt, Huế thời... phải lơ.

Đình Nguyên vùng vẫy Hương Khê

Giết Trương Quang Ngọc một bề tớ gian.

Về già, bệnh mất, quân tan

Nguyễn Thân, tổng đốc dã man "quật mồ".

Thuốc súng trộn với xương khô

Ghiền cho nát xác không mồ, bắn tan.

Có người nói chỉ ý quan

Nguyễn Thân sau đó vội vàng chôn thôi.

Đình Nguyên Ngự sử mất rồi

Đảng Văn Thân mới đến hồi vỡ tan!

9. Lòng yêu nước của người Việt Nam:

Pháp đô hộ, dân lầm than

Ngọn lửa đánh Pháp cứu màn điêu linh:

Kỳ Đồng cùng với Thiên Binh

Nổi lên ở mạn Thái Bình - Bắc Ninh.

Bắc Kỳ, ''Nghĩa Thục Đông Kinh''.

''Duy Tân'' cùng với Chu Trinh sáng ngời.

Phan - Chu gương tốt để đời

Nhắc cùng con cháu một thời lầm than.

Hà Nội, đầu độc Tây lang

Sưu cao, thuế nặng oán than mỗi ngày.

Hết vua Thành Thái bị đày

Duy Tân cũng phải tới ngày biệt quê!

Việt Nam tình cảnh thảm thê

Trăm năm nô lệ mỏi mê tháng ngày!

Ai gây thảm họa như vầy

Ai người cứu thỏ giữa bầy sói lang?

Chương XVI

CÔNG VIỆC CỦA BẢO HỘ

1. Đà Nẵng, Hà Nội và Hải Phòng

thành đất nhượng địa:

Sau khi đánh dẹp đã an

Toàn quyền lần lượt mở mang mọi đường.

Triều đình Huế ký giấy nhường

Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng nhượng không.

2. Việc kinh doanh ở các xứ bảo hộ:

Công việc bảo hộ đã xong

Chính phủ lo ngại ngoài trong phục thù.

Bảo an xét kỹ từng khu

Dùng người bản xứ mà thu dụng dần.

Binh hai sắc lính đã phân:

Khố xanh thì giữ cướp gần, cướp xa.

Khố đỏ quản trị sơn hà

Nước nhà có loạn thì ra chiến trường.

Hành binh, đường sá, thông thương

Lợi đường buôn bán, tiện đường đánh nhau.

Thương cục, lập xưởng đóng tàu

Mở đường xe lửa phòng sau lợi mình.

Cam Môn, Cam Cát, Trấn Ninh

Pháp đi lấy lại mấy dinh tận Lào.

Nhân Tiêm giết một binh trào

Hai tàu chiến Pháp đổ vào Mê Nam.

Tiêm La hòa ước phải làm

Nhường Lào cho Pháp, kết cam rõ ràng.

Bồi thường hai triệu phật lăng

Những người chống Pháp hung hăng, trị liền.

Lập phủ thống sứ Vientiane

Cai trị địa hạt Lào đang được nhường.

Rousseau thấy việc lương ương

Tám mươi triệu mượn chi phương Bắc Kỳ.

Đinh Dậu, Rousseau ra đi

Doumer thay chức, định vì thuế nha.

Cho độc quyền muối, rượu, nha

Bỏ Nha kinh lược, xoay qua mượn tiền.

Canh nông, công nghệ mọi miền

Hai trăm triệu mượn mở liền hỏa xa.

Nhâm Dần, Doumer về nhà

Toàn quyền tổng đốc mới là Beau.

TỔNG KẾT

Việt Nam sử lược ban đầu

Đến đây tạm dứt hạ hầu tiếp chương.

Chép sử như dệt vải thường

Dệt xong mới biết tận tường đẹp hư.

Việt Nam tấm sử công tư

Còn dài dằng dặc cũng như sợi tằm.

Khỏe mạnh, vải dệt mới chăm

Bệnh đau, bỏ dở như tầm ngán dâu.

Tương lai hay dở về đâu

Người bản quốc biết đuôi đầu nhẫn thân.

Học tập những cái ta cần

Tương lai kỳ vọng phước phần một mai.

Văn hóa ta kém chi ai

Tiềm năng hiếu học miệt mài mới thông.

Noi theo chí khí cha ông

Dệt thêm giai đoạn sử hồng gấm hoa.

Điều nên cần tránh tiêu pha

Những gì hủ bại hại nhà, bỏ đi.

Nhân cách đừng lẫn lộn chi

Đồng tâm hiệp lực cái gì cũng xong.

Thái lai, bỉ cực hưng vong

Tuần hoàn tạo hóa đã đong cạn đầy.

Đại đồng chi thể mà hay

Lương hữu dĩ giã đến ngày sấm tan.

Sử xanh viết dưới trăng vàng

Khúc ca suy - thịnh vô vàn đắng cay.

Xuân về trên những bàn tay

Dệt đêm xanh sử, bớt ngày héo hon.

Ai người nhớ nước, thương non

Mở trang lịch sử gọi hồn cố hương!

CHUNG

(Trọn cuốn "Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim).

Mục lục: "Việt Nam sử ca"

I. Việt Nam sử ca:

Quyển I: Thượng cổ thời đại

Chương I. Họ Hồng Bàng

Chương II. Nhà Thục

Chương III. Xã hội nước Tàu

Chương IV. Nhà Triệu

Quyển II: Bắc thuộc thời đại

Chương I. Bắc thuộc lần thứ nhất

Chương II. Trưng Vương

Chương III. Bắc thuộc lần thứ hai

Chương IV. Nhà Tiền Lý.

Chương V. Bắc thuộc lần thứ ba

Nước Tàu về đời Ngũ Qúy

Chương VI. Kết quả của thời đại Bắc thuộc

Quyển III: Tự chủ thời đại

Chương I. Nhà Ngô

Chương II. Nhà Đinh

Chương III. Nhà Tiền Lý

Chương IV. Nhà Lý

Chương V. Nhà Lý (tiếp theo)

Chương VI. Nhà Trần (Thời kỳ thứ nhất)

Chương VII. Giặc nhà Nguyên - I

Chương VIII. Giặc nhà Nguyên - II

Chương IX. Nhà Trần (Thời kỳ thứ hai)

Chương X. Nhà Trần (Thời kỳ thứ ba)

Chương XI. Nhà Hồ

Chương XII. Nhà Hậu Trần

Chương XIII. Thuộc nhà Minh

Chương XIV. Mười năm đánh Tàu

Chương XV. Nhà Lê

Quyển IV: Tự chủ thời đại

Chương I. Lịch triều lược kỷ

Chương II. Nam triều - Bắc triều

Chương III. Trịnh - Nguyễn phân tranh

Chương IV. Sự chiến tranh

Chương V. Công việc họ Trịnh làm ở ngoài Bắc

 Chương VI. Công việc họ Nguyễn làm ở miền trong

Chương VII. Người Châu Âu sang nước Việt Nam

Chương VIII. Vận trung suy của chúa Nguyễn

Chương IX. Họ Trịnh mất nghiệp chúa

Chương X. Nhà Hậu Lê mất ngôi vua

Chương XI. Nhà Tây Sơn

Chương XII. Nguyễn vương thống nhất nước Nam

Quyển V: Cận kim thời đại

Chương I. Thế tổ

Chương II. Thánh tổ

Chương III. Thánh tổ (tiếp theo)

Chương IV. Hiến tổ

Chương V. Dực Tông

Chương VI. Tình hình nước Nam cuối thời Tự Đức

Chương VII. Nước Pháp lấy Nam kỳ

Chương VIII. Giặc giã trong nước

Chương IX. Quân Pháp lấy Bắc Kỳ lần thứ nhất

Chương X. Tình thế nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau

Chương XI. Quân Pháp lấy Bắc Kỳ lần thứ hai

Chương XII. Cuộc bảo hộ của nước Pháp

Chương XIII. Chiến tranh với nước Tàu

Chương XIV. Loạn ở Trung Kỳ

Chương XV. Việc đánh dẹp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ

Chương XVI. Công việc của bảo hộ

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: