Việt Nam-ASEAN: 10 năm đồng hành hội nhập
Cách đây tròn 10 năm, ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Sự kiện chính trị quan trọng này đã thể hiện rõ nét chính sách chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam, mở ra một thời kỳ hội nhập sâu vào khu vực của Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị-an ninh, kinh tế và chuyên ngành.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã mở ra một trang mới trong lịch sử ASEAN. Từ đây chấm dứt tình trạng chia rẽ, đối đầu trong khu vực; các nước còn lại như Lào, Mianma, Campuchia lần lượt gia nhập Hiệp hội. ASEAN thực sự là một tổ chức của cả khu vực Đông Nam Á.
Mười năm qua, với tư cách là một thành viên mới của ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp nhất định cho Hiệp hội.
Những đóng góp của Việt Nam trong ASEAN
- Việt Nam không những tham gia tích cực vào chương trình hợp tác sẵn có, mà còn đóng góp to lớn cho sự hình thành các sáng kiến, cơ chế hợp tác mới của ASEAN. Ngay cả khi chưa gia nhập ASEAN, Việt Nam đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC, 1992), tham gia ngay từ đầu vào ARF (1994).
Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức (1995), Việt Nam cam kết tiến hành thực hiện tương đối tốt các chương trình cũng như cơ chế hợp tác của ASEAN, từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) cho đến Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN (Framework Agreement on Services - AFSA), Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - AIA), Hiệp định khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN (ASEAN Industrial Cooperation - AICO), Sáng kiến hội nhập (IAI)...
Điều quan trọng hơn là Việt Nam cùng với các nước ASEAN đề ra nhiều sáng kiến mới, nhằm khắc phục những mặt yếu kém, trì trệ trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác khu vực phát triển. Cụ thể là Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị ASEAN lần thứ VI (tại Hà Nội, tháng 12/1998), với một “Chương trình hành động Hà Nội” (HPA) được thông qua, vừa mang tính định hướng vừa đưa ra giải pháp cho việc hiện thực hóa “Tầm nhìn 2020” - nền tảng tư tưởng cho sự thiết lập Cộng đồng ASEAN sau đó (10/2003).
Việt Nam cũng có nhiều đóng góp về mặt ý tưởng và đề ra biện pháp nhằm thu hẹp khoảng cách và phát triển tiểu vùng. Điều này được thể hiện trong “Tuyên bố Hà Nội” năm 1998, “Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, nhằm tăng cường liên kết ASEAN” năm 2001...
Ngoài ra, Việt Nam còn có sáng kiến trong việc tạo dựng ý tưởng và xây dựng cộng đồng ASEAN trên 3 trụ cột chính, trong đó Cộng đồng Văn hóa-Xã hội là do Việt Nam đề xuất.
- Việt Nam đã và đang đóng vai trò tích cực trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hòa giải khu vực, góp phần củng cố vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Đây là một trong những đóng góp nổi bật của Việt Nam.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã biến ước mơ và ý tưởng về xây dựng ASEAN thành một khối thống nhất với tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á, được đề cập trong “Tuyên bố Băng Cốc 1967” đã trở thành hiện thực.
Đây cũng là hành động hòa giải khu vực, đánh dấu sự chấm dứt đối đầu giữa hai khối ASEAN và Đông Dương được hình thành dưới thời Chiến tranh Lạnh, mở ra thời kỳ mới của sự hợp tác hữu nghị láng giềng và hội nhập khu vực, củng cố địa vị của ASEAN trên trường quốc tế.
Sau sự kiện 28/7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, việc gia nhập ASEAN của Lào, Mianma và Campuchia về cơ bản đã được giải quyết. Với tư cách là tổ chức của tất cả các nước trong khu vực, ASEAN không chỉ lớn mạnh lên về một số lượng, mà còn cả ý chí và lòng quyết tâm hội nhập của tất cả thành viên, trong đó có Việt Nam.
Sự tham gia một cách có hiệu quả của Việt Nam trong ASEAN đã góp phần quan trọng cho việc mở rộng hợp tác của ASEAN với các đối tác bên ngoài, nhất là các đối tác và láng giềng của Việt Nam. Điều này được thể hiện bằng việc Việt Nam đã góp phần làm tăng mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, ASEAN và Liên bang Nga, ASEAN và Ấn Độ, ASEAN và EU.
Cùng với quan hệ Việt -Trung được cải thiện nhanh chóng trong thập niên qua, vị thế địa lý chiến lược và sự phát triển năng động của Việt Nam thực sự đã và đang đóng góp một phần quan trọng làm cho ASEAN-Trung Quốc xích lại gần nhau hơn, hiểu biết và hợp tác nhiều hơn.
Hơn nữa, cùng với sự lớn mạnh của ASEAN, Việt Nam đã và đóng vai trò không nhỏ trong cân bằng chiến lược và ảnh hưởng giữa các nước lớn, đặc biệt là trong cân bằng chiến lược Mỹ-Trung. Đây là vấn đề lớn, có ý nghĩa trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á.
Với chủ đề làm cho Hợp tác Á-Âu trở nên thực chất và sống động hơn, Hội nghị ASEM-5 được tổ chức tại Hà Nội tháng 10/2004 đã góp phần cải thiện hình ảnh và tình đoàn kết của ASEAN. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc thuyết phục các đối tác EU chấp thuận kết nạp Mianma, một trong 3 thành viên mới của ASEAN, vào ASEM. Điều này đã góp phần duy trì sự thống nhất và hòa thuận trong ASEAN.
- Việc Việt Nam tham gia vào ASEAN đã và đang tạo môi trường thuận lợi hơn cho đất nước giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu qủa vào hệ thống toàn cầu.
Trong bối cảnh gián đoạn các mối quan hệ truyền thống, bị cấm vận, cô lập bởi hậu qủa của chiến tranh để lại, thì sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN không chỉ để góp phần thực hiện chính sách đổi mới toàn diện, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế do Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 đề ra, mà quan trọng hơn là tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ khu vực và quốc tế. Cụ thể, sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành nước sáng lập viên ASEM (1996), thành viên chính thức của APEC (1998), mở rộng không gian hợp tác với các nước Đông Nam Á (qua cơ chế ASEAN+1 và ASEAN+3).
Điều quan trọng hơn, Việt Nam trong 10 năm gia nhập ASEAN, đã từ nền kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua việc hội nhập này, Việt Nam đã từng bước điều chỉnh bộ máy hành chính phù hợp với nền kinh tế thị trường; đồng thời thông qua hợp tác và cạnh tranh, các nguồn tiềm năng nội địa được khơi dậy. Đây là thành tựu có ý nghĩa lớn nhất đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập ASEAN nói riêng trong thời gian qua.
Trên các lĩnh vực cụ thể:
- Về chính trị, ngoại giao và an ninh: Việt Nam là một trong 18 thành viên tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ASEAN Regional Forum - ARF) ngay từ đầu.
Với tư cách là Chủ tịch ARF nhiệm kỳ 2000-2001, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các nước khác trong ASEAN duy trì những nguyên tắc cơ bản, bước đi vững chắc của ASEAN (tiếp tục tập trung thực hiện các biện pháp xây dựng và củng cố lòng tin, tăng cường hiểu biết lẫn nhau) trên con đường tiến tới “ngoại giao phòng ngừa”.
Ngoài sáng kiến xây dựng “Chương trình hành động Hà Nội năm 1998”, Việt Nam đã đưa ra sáng kiến, cùng với các nước ASEAN kiên trì thương lượng với Trung Quốc để có một “Tuyên bố về nguyên tắc ứng xử biển Đông” vào năm 2002.
Gần đây, Việt Nam đã tích cực và chủ động trong việc đóng góp nội dung cho “Tuyên bố Bali II” và “Dự thảo Cộng đồng ASEAN” nhằm hình thành Tuyên bố và Kế hoạch hành động của Cộng đồng An ninh ASEAN.
Việt Nam cho rằng, cách tiếp cận An ninh toàn diện với việc khẳng định sự ổn định của chính trị-xã hội, tăng trưởng kinh tế với thu hẹp khoảng cách phát triển, xóa đói giảm nghèo làm nền tảng và cơ sở đảm bảo sự bền vững của Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC). Ý kiến, đề xuất này được các nước ASEAN nhất trí, và được nhấn mạnh trong Hành động của Cộng đồng An ninh ASEAN.
Ngoài ra, Việt Nam đã vận động nhiều nước khác đề cao chủ quyền quốc gia, đưa vào văn kiện ASC những cụm từ hoặc tuyên bố mạnh mẽ như “các nước ASEAN không để lãnh thổ của mình được phép sử dụng vào mục đích chống phá các nước khác; cũng không cho phép can thiệp quân sự từ bên ngoài vào dưới bất kỳ hình thức và biểu hiện nào”. Đây là một trong những tuyên bố mạnh mẽ nhất của ASEAN từ trước tới nay về chính trị và an ninh.
Việt Nam cũng đã góp phần to lớn vào việc mở rộng quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của ASEAN, giúp ASEAN mở rộng thêm nhiều đối tác như Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, tổ chức nhiều Diễn đàn hợp tác lớn như ASEM, sắp tới là APEC-2006, giúp các nước lớn còn lại của thế giới tham gia dễ dàng hơn vào ASEAN, ASEM. Ngoài ra, Việt Nam còn tích cực trong hoạt động chính trị, an ninh như tham gia các hoạt động của Nghị viện ASEAN, hợp tác trong các vấn đề an ninh phi truyền thống.
- Về kinh tế: 10 năm qua, Việt Nam đã để lại ấn tượng khá tốt đẹp đối với các nước ASEAN không chỉ về thành tựu phát triển kinh tế (nhất là trong lĩnh vực tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo) mà còn trong việc thực hiện cam kết hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện lộ trình AFTA, tích cực chủ động tham gia mọi chương trình hợp tác kinh tế của ASEAN, phù hợp với quyền lợi của đất nước. Từ năm 1995 đến năm 2000, Việt Nam đã đưa vào danh sách CEPT 4.233 mặt hàng, chiếm 67% trong tổng số 6.332 mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi MFN.
Tháng 2/2001, Chính phủ Việt Nam đã công bố lịch trình tổng thể cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT cho đến 1/1/2006 là thời điểm hội nhập đầy đủ vào AFTA. Việt Nam cũng tham gia ký kết Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) ngày 7/10/1998, với mục tiêu tạo ra một khu vực đầu tư tự do trong nội bộ các nước ASEAN vào năm 2010 và cho các nước khác ngoài ASEAN và năm 2020.
Việt Nam tham gia ký và thực hiện khá tốt Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN (AFAS), về “Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN” (AICO), về “Sáng kiến hội nhập” (IAI), đã chủ động đưa ra và tích cực thực hiện Chương trình hợp tác phát triển Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), trong đó có dự án xây dựng các hành lang kinh tế, nhất là hành lang kinh tế Đông-Tây, hành lang lưu thông Côn Minh-Hà Nội-Hải Phòng...
Có thể khẳng định rằng, về hợp tác và liên kết khu vực nói chung, và kinh tế nói riêng, Việt Nam đã chủ động đưa ra nhiều sáng kiến, đề xuất, được các nước ASEAN đánh giá cao.
Về quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và các nước trong ASEAN từ thập niên 1990, nhất là từ sau khi Việt Nam vào ASEAN năm 1995, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt trên 20%. Năm 1994, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN chiếm tỉ trọng 21%, đến đầu những năm 2000 chiếm trên 25%.
Về đầu tư, đến tháng 6/1995, các nước trong ASEAN đầu tư vào Việt Nam gần 200 dự án với tổng số vốn pháp định trên 2 tỉ USD, chiếm 15% FDI vào Việt Nam thời điểm đó. Đến năm 2004, các nước khác trong ASEAN đã đầu tư trên 600 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 10 tỉ USD, chiếm 27% FDI vào Việt Nam. Xingapo từ nhiều năm qua đã trở thành nước đầu tư số 1 tại Việt Nam với gần 400 dự án, số vốn đăng ký lên đến 8 tỉ USD đến cuối 2004. Malaixia, Thái Lan cũng là những nước đầu tư lớn, xếp thứ 11-12 với tổng số vốn đăng ký trên 1 tỉ USD.
Không chỉ hội nhập kinh tế với ASEAN, Việt Nam cùng các nước này mở rộng không gian hợp tác kinh tế với các nước Đông Á (ASEAN+3), với các nước EU trong khuôn khổ ASEM, với các nước Châu Á-Thái Bình Dương trong khuôn khổ APEC.
Trong 10 năm qua, Việt Nam luôn phấn đấu phát triển kinh tế đạt tốc độ cao với tỷ lệ tăng trưởng trung bình khoảng 7%. Tuy vẫn còn là nước nghèo, nhưng Việt Nam đã rút ngắn được một chút khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước ASEAN 6 (Thái Lan, Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia, Philíppin, Brunây). Từ năm 1994 đến năm 2000, Việt Nam đã rút ngắn khoảng cách GDP/đầu người so với các nước trong khu vực (so với Xinhgapo từ 17,1 lần xuống còn 15 lần, với Malaixia từ 5 lần xuống còn 4,2 lần, với Thái Lan từ 4,4 lần xuống còn 3,4 lần, với Philíppin từ 2,5 lần xuống còn 1,9 lần, với Inđônêxia từ 2,3 lần xuống còn 1,7 lần).
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng các ngành kinh tế khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp) giảm đáng kể, năm 2004 còn 21,76%; khu vực II (công nghiệp, xây dựng) 40,09%; khu vực III (thương mại, dịch vụ) 38,15%. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo đã được những thành tựu đáng kể và được cộng đồng quóc tế ghi nhận.
Việc Việt Nam đang tích cực chuẩn bị các điều kiện để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sẽ là mốc đánh dấu sự phát triển và hội nhập kinh tế của Việt Nam.
- Về văn hóa-xã hội: Trong 10 năm qua, tích cực hội nhập với khu vực Đông Nam Á và thế giới, Việt Nam luôn gìn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của khu vực và thế giới, giao lưu học hỏi, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các nước bạn bè trong ASEAN.
Các trường đại học, các học viện, trung tâm nghiên cứu đã góp phần quan trọng vào công việc này. Hàng ngàn sinh viên học tập và tốt nghiệp ngành Đông phương học là nguồn nhân lực chất lượng cao cung cấp cho các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các cơ quan ngoại giao, văn hóa...
Hiện nay một số trường, viện đang đào tạo trên đại học các ngành Châu Á học, Đông phương học. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á là cơ quan nghiên cứu hàng đầu của cả nước, đã công bố hàng chục công trình có giá trị về Đông Nam Á, về quan hệ Việt Nam-ASEAN.
Ngày nay ASEAN đã trở nên khá quen thuộc với giới thanh niên, sinh viên ở các thành phố lớn trong cả nước. Việc trao đổi văn hóa giáo dục giữa Việt Nam với các nước ASEAN đã không ngừng được mở rộng. Nhiều đoàn nghệ thuật Việt Nam đến thăm, biểu diễn ở các nước bạn, giới thiệu nền văn hóa dân tộc đặc sắc của Việt Nam; đồng thời nhiều đoàn nghệ thuật các nước ASEAN đã đến biểu diễn, giao lưu tại Việt Nam.
- Về giáo dục: Ngay từ đầu những năm 1990, Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam đã coi việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á là một ưu tiên. Thực hiện chủ trương đó, tháng 2/1990, Bộ Giáo dục Đào tạo chính thức gia nhập tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á (SEAMEO). S
Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính của ASEAN, Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam trở thành thành viên của Tiểu ban Giáo dục của ASEAN (ASCOE), đã tích cực phối hợp với các nước trong khu vực với nhiều hoạt động thiết thực, có hiệu quả và được các bạn đánh giá cao.
Những cơ hội và thách thức mới:
Những năm gần đây, sự thay đổi nhanh chóng của môi trường địa-chính trị khu vực (với sự trỗi dậy của Trung Quốc, sự gia tăng hiện diện và can dự của Mỹ ở Châu Á, sự chuyển mình của Ấn Độ và nhất là sự trì trệ trong ASEAN) đã thôi thúc ASEAN đổi mới, điều chỉnh chính sách nhằm tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy liên kết khu vực.
Một trong những thích ứng mới này là xây dựng Cộng đồng ASEAN (AC) vào năm 2020 và tích cực mở rộng đàm phán, thiết lập các Khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương (RTA và BFTA) với các đối tác ngoài khối. Bên cạnh đó, ASEAN đã và đang có những linh hoạt hơn trong việc áp dụng “phương thức ASEAN” bằng cách cho phép thực hiện nguyên tắc hay công thức 10-X từ năm 2002...
Việc quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc (CAFTA) từ 2002, và đặc biệt là tuyên bố Bali II năm 2003 về sự thiết lập AC dựa trên 3 trụ cột chính là Cộng đồng Kinh tế (AEC), Cộng đồng An ninh (ASC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC) vào năm 2020 là những quyết định đúng hướng, kịp thời của ASEAN trước nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn.
Việc hình thành và tăng cường các cơ chế hình thức hợp tác và liên kết mới này đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ASEAN, trong đó có Việt Nam:
1. Thứ nhất, việc thiết lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ đưa ASEAN trở thành một khối có sự liên kết vững chắc, một thị trường duy nhất có cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu thông tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư vốn và nhân công có tay nghề sẽ thúc đẩy cải cách hệ thống pháp luật và nền hành chính quốc gia trong nước, tiếp cận được nhiều hơn các yếu tố bên ngoài, nhất là vốn, thị trường và công nghệ hiện đại, làm tăng cơ hội việc làm và nâng nhanh mức sống của dân chúng.
2. Thứ hai, sự thiết lập Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) sẽ làm tăng nhanh mức độ tin cậy và ý thức cộng đồng trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác chính trị-an ninh nội khối lên tầm cao mới.
Điều này sẽ góp phần tạo ra sự thăng bằng trong hợp tác khu vực và quốc tế, giúp ASEAN vừa tăng cường tính mở, vừa duy trì được bản sắc, phong cách ứng xử truyền thống của mình, làm tăng khả năng phòng ngừa và tiến tới giải quyết các xung đột có thể xảy ra trong tương lai. Điều này phù hợp với chính sách và lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của Việt Nam.
3. Thứ ba, sự gia tăng giành ưu thế kiểm soát địa-chính trị giữa các nước lớn tại Đông Nam á, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc cùng với cơ hội phát triển của thể chế thương mại tự do đa phương, song phương về một mặt nào đó, cũng mở rộng cơ hội hợp tác và tăng sức “mặc cả” của ASEAN trong các vấn đề quốc tế khu vực. Điều này sẽ có lợi cho Việt Nam - nước có vị trí chiến lược, đang thu hút sự chú ý của các nước lớn.
Bên cạnh những thuận lợi trên, Việt Nam đã và sẽ gặp phải những thách thức phải vượt qua để tham gia đầy đủ và có hiệu quả cao hơn vào hoạt động của ASEAN, tương xứng với vị trí và vai trò của mình trong Hiệp hội:
- Về hợp tác trong Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC): đối với Việt Nam, thách thức không phải là nhỏ trong khi gia nhập ASC. Hợp tác an ninh không chỉ thuần túy hay nghiêng về hợp tác an ninh phi truyền thống mà cả về hợp tác chính trị và quốc phòng.
Sự khác biệt về chế độ chính trị và hệ tư tưởng còn là một trong những trở ngại khá lớn đối với Việt Nam trong ASC. Tuy nhiên, với việc duy trì cơ chế theo “Phương thức ASEAN” trong ASC, thì sự tác động của cộng đồng này đối với đời sống chính trị và an ninh ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng sẽ không lớn.
- Trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC): Về khía cạnh chính trị, thì sự hội nhập sâu rộng về kinh tế đòi hỏi Việt Nam phải hài hòa về mặt pháp luật cũng như ứng xử. Điều này ít hay nhiều sẽ đụng chạm đến chủ quyền và an ninh quốc gia.
Về kinh tế, Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi và hiệu quả quản lý còn bất cập, hệ thống các thể chế kinh tế thị trường phát triển chưa đồng bộ, còn yếu kém... AEC sẽ tạo ra sức ép lớn đối với các sản phẩm và thị trường của Việt Nam trong và ngoài nước.
Còn tác động về mặt xã hội: có thể tạo ra các dòng di cư lớn, trong đó có “chảy máu chất xám”, làm tăng nạn thất nghiệp và tệ nạn do nhiều công ty bị phá sản và nhiều người chưa thể làm quen hay điều chỉnh phù hợp với cơ chế hay môi trường mới.
- Trong hợp tác Đông Á: Việt Nam là thành viên ASEAN, cầu nối của ASEAN với các nước Đông Bắc Á về mặt địa lý, có thế và lực đang lên sẽ đóng vai trò như thế nào trong liên kết ASEAN và Hợp tác Đông Á? Liệu sự chậm chạp trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh và liên kết nội khối của ASEAN có ảnh hưởng như thế nào đối với Việt Nam và tiến trình nhất thể hóa Đông Á là những vấn đề đang đặt ra và cần có lời giải đáp.
10 năm, một chặng đường Việt Nam hội nhập vào khu vực. Việt Nam đã có những đóng góp nhất định cho sự tồn tại, phát triển của ASEAN và cũng đã đạt được những thành quả bước đầu.
Phía trước của ASEAN tuy còn nhiều cơ hội để phát triển, song cũng không ít thách thức đòi hỏi Việt Nam cũng như các thành viên khác trong ASEAN phải tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ hơn nữa, cùng nhau đưa ra những ý tưởng mới và các biện pháp thực hiện các ý tưởng đó để có thể biến ý tưởng của “tầm nhìn 2020” thành hiện thực, xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN và trở thành một nhân tố chủ đạo của Cộng đồng Châu Á./.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top