văn hoá kinh doanh 3
Văn hoá kinh doanh Việt Nam
Một trong những yếu tố đảm bảo cho sự kinh doanh thành công tại VN là phải hiểu được văn hoá và cách
ứng xử của người bản xứ. Vấn đề này có thể tác động mạnh mẽ đến các quan hệ và hiệu quả kinh doanh
của các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay, vẫn còn tồn tại một số rào cản phi chính thức đối với hoạt động
đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài tại VN. Đây là những điểm hoàn toàn khác biệt mang tính đặc trưng
của phương đông. Ví dụ: việc gây khó khăn của công chức nhà nước trong việc giải quyết hồ sơ, giấy tờ xin
cấp phép đầu tư. Tuy nhiên, những vấn đề này có thể được giải quyết nhanh chóng thông qua tư vấn SMIC.
Danh thiếp
Mặc dù không thông dụng như ở các nước khác như Nhật bản và Đài Loan nhưng việc trao thẻ danh thiếp
vẫn là một việc rất quan trọng. Lưu ý rằng bạn có thể dễ dàng nhận được danh thiếp của người VN nhưng
điều đó không đảm bảo rằng công ty được in trong danh thiếp là hợp pháp và người có tên trong danh thiếp
đó là đáng tin cậy. Danh thiếp của bạn nên được in bằng cả 2 thứ tiếng (tiếng Việt và tiếng Anh) để tạo cho
bạn sự thuận lợi trong giao tiếp với đối tác VN. Danh thiếp nên được trao và nhận bằng cả hai tay.
Tiếp xúc trong kinh doanh
Mặc dù người VN có thể đồng ý đề nghị tiếp xúc với những người chưa quen biết, nhưng sẽ dễ dàng hơn
nếu lần gặp đầu tiên được giới thiệu từ một nhà đầu tư đã được biết đến tại VN, thông qua bạn bè hoặc một
kênh chính thức nào đó; ví dụ các hiệp hội, các tổ chức tư vấn ....
Ngôn ngữ bóng gió (ngôn ngữ nóng)
Bạn có thể sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh trong hầu hết các cuộc tiếp xúc với các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài và các tổ chức tư vấn nhưng việc này sẽ không thể thực hiện trong trường hợp tiếp xúc với các quan
chức chính phủ hay các doanh nghiệp nhà nước. Cần chú ý rằng, nhiều người VN có thể giao tiếp và làm
việc bằng tiếng Anh nhưng quá trình giao tiếp cần chậm và súc tích. Khi sử dụng phiên dịch, bạn nên nói
trực tiếp với đối tác và nhìn thẳng vào mắt họ. Nếu có thể, hãy cố gắng sử dụng phiên dịch người Việt Nam.
Tiếp đãi
Người VN rất lịch sự và thường cười để biểu thị sự đồng ý với bạn cho dù trong thực tế họ có thể không
hiểu rõ những gì bạn đã nói. Những nụ cười và những cái gật đầu thường là để biểu thị việc họ hiểu những
gì bạn đang nói mà không phải là những cam kết kinh doanh.
Nhà đầu tư nước ngoài cũng nên có những tài liệu giao dịch bằng cả tiếng Anh và Tiếng Việt kèm theo danh
thiếp và các sản phẩm cụ thể trong những cuộc đàm phán. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng nên đặt lịch
làm việc với các đối tác VN và chuẩn bị các tài liệu liên quan đã được dịch sang tiếng Việt Nam trong cuộc
họp để cả hai bên có thể hiểu rõ những gì muốn thảo luận.
Tiệc tùng có ý nghĩa quan trọng trong làm ăn tại VN. Những bữa ăn tối với các đại lý và nhà phân phối sẽ
giúp phát triển mạng lưới phân phối và làm găn bó thêm mối quan hệ giữa các đối tác VN với nhà đầu tư.
Việc chúc tụng trong các buổi tiệc lớn và hát hò sau bữa tiệc là rất phổ biến. Khi tại bữa tiệc có rượu cognac
hoặc whisky thì mọi người chỉ cùng bắt đầu uống sau những lời chúc tụng. Ly rượu lên được cầm bằng tay
phải và khi chúc thì chúc với người ngồi bên trái. Thông thường những lời chúc tụng là "Trăm phần trăm"
hoặc "chúc sức khoẻ"
Đàm phán - Vấn đề quan trọng nhất trong đàm phán tại VN là phải kiên nhẫn
Để đàm phán thành công thì vấn đề hiểu rõ nền văn hoá VN là một vấn đề hết sức quan trọng. Bạn nên thảo
luận chi tiết về giá cả và phương thức thanh toán trong buổi đàm phán. Người Việt Nam thường thích mua
các mặt hàng nổi tiếng, bền, tốt và kèm theo các dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng.
Không nên cảm thấy nặng nề khi có những phút im lặng trong quá trình đàm phám. Giữ im lặng là rất có ích
nếu phía VN đưa ra những yêu cầu và đề nghị không có căn cứ hoặc không thể đáp ứng. Người VN dễ bị
ảnh hưởng bởi không khí của buổi đàm phán, bạn nên tránh những hành vi bất lịch sự, thô thiển. Người VN
là những con người có tự trọng, vì vậy tỏ thái độ tôn trọng và lịch sự sẽ là cách tốt nhất để đạt được thành
công trong đàm phán.
Tiến trình đàm phán có thể diễn ra chậm vì thường có những giao tiếp xã giao không chính thức trước cuộc
đàm phán. Các quyết định kinh doanh cũng thường không đạt được ngay từ buổi gặp đầu tiên. Nếu bạn
muốn có ngay sự phản hồi của đối tác, hãy gửi những tài liệu đã được dịch sang tiếng Việt cho đối tác VN
trước khi cuộc họp diễn ra.
Các thoả thuận nên ngắn gọn, dễ hiểu và chính xác. Không nên bỏ quá nhiều thời gian vào việc mặc cả
những vấn đề nhỏ và quá chi tiết. Bạn nên sử dụng các chuyên gia tư vấn pháp luật trong quá trình đàm
phán đặc biệt nếu nội dung đàm phán có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
Để tránh sự hiểu nhầm, cần yêu cầu người phiên dịch của bạn xem lại các tài liệu để đảm bảo rằng các bên
có cùng một loại tài liệu với những nội dung giống nhau.
Nếu có bất kỳ sự nghi ngờ nào về thẩm quyền đàm phán của phía đối tác Việt Nam, hãy yêu cầu đối tác
xuất trình giấy uỷ quyền có chữ ký và được đóng dấu của giám đốc công ty là người có thẩm quyền tham
gia đàm phán.
Hãy thận trọng đối với các thoả thuận bằng miệng vì nó có thể bị thay đổi thậm chí cả trong trường hợp bên
VN và bên nước ngoài đã có những thoả thuận mang tính nguyên tắc. Bên VN có thể yêu cầu đàm phán lại
nếu họ cho rằng các điều kiện trước đó đã thay đổi hoặc có thể yêu cầu đàm phán thêm về một số vấn đề
khác.
Thư từ giao dịch
Phí giao dịch bằng điện thoại ở Việt Nam là tương đối cao so với khu vực và thế giới. Vì vậy, các công ty VN
thường mong muốn đối tác nước ngoài gọi cho họ. Các thư từ giao dịch thường được gửi thông qua fax.
Các thư từ giao dịch với Chính phủ, các Bộ, Ngành của VN nên được viết bằng Tiếng Việt.
Quà tặng
Tặng quà cho nhau là thói quen trong hoạt động kinh doanh tại VN. Quà tặng thường được sử dụng vào
cuối mỗi buổi gặp và chỉ cần những món quà nhỏ cho buổi gặp là đủ. Ví dụ: cà vạt, biểu tượng của công ty
hay sách....Ngưòi VN có thói quen hỏi tuổi của người nói chuyện với mình để biết nguời đó lớn tuổi hơn hay
ít tuổi hơn họ từ đó có cách xưng hộ phù hợp.
Giới tính trong biểu lộ tình cảm
Theo phong tục Việt Nam, người cùng giới có thể nắm tay nhau hoặc cầm tay nhau đi dạo. Nhưng người
khác giới thì không được phép làm vậy, ngay cả các cặp vợ chồng cũng hạn chế bày tỏ tình cảm với nhau
nơi công cộng.
Ăn mặc
Người Việt Nam coi trọng cách ăn mặc gọn gàng. Vào mỗi kỳ nghỉ, họ có thể trưng diện hơn một chút. Phụ
nữ ăn mặc kín đáo dễ gây thiện cảm với người khác.
Khác phương Tây, ở Việt Nam có thể đưa ra những nhận xét về cách ăn mặc, cân nặng của bạn mà không
sợ mếch lòng.
Các giá trị gia đình
Cuộc sống riêng tư cũng là đề tài được phép bàn luận. Việt Nam theo triết lý đạo Khổng lấy gia đình và các
mối quan hệ làm trung tâm. Vì vậy, đừng ngạc nhiên khi vừa mới gặp, người Việt Nam sẽ hỏi về gia cảnh và
con cái. Tốt nhất hãy trả lời "chưa" chứ không nói "không" vì từ đó bị hiểu là "không bao giờ" và như thế
nghĩa là lập dị.
Cách xưng hô
Với văn hoá phương Tây có xu hướng đề cao tuổi xuân thì xã hội Việt Nam lại tôn trọng người già. Xác định
tuổi chính là để có cách xưng hô hợp lý. Khi gọi tên một ai đó, nên chú ý thêm vào đằng trước những từ
"anh", "chị", "em", "chú", "cô", "bác"... tuỳ theo giới tính và lứa tuổi.
Tiền bạc
Đừng bất ngờ khi người Việt thường có một số câu hỏi như "Một tháng bạn kiếm được bao nhiêu tiền?",
"Bạn mua đôi giày này bao nhiêu?" v.v...một vài câu chào nghe có vẻ tò mò chẳng hạn "Anh/chị đi đâu
đấy?", "Ăn cơm chưa?" thật ra tương đương với câu "Anh/chị khoẻ không?" trong ngôn ngữ phương Tây và
không ai chờ đợi một câu trả lời cụ thể. Đó là thể hiện sự quan tâm tới người khác theo truyền thống của
Việt Nam.
Cảm ơn và xin lỗi
Người Việt Nam không có nếp quen cảm ơn và xin lỗi bằng lời nói mà đôi khi bằng một nụ cười. Ở nông
thôn, trong giao tiếp, lời cảm ơn của bạn dễ bị coi là quá khách sáo.
Xếp hàng
Còn một điểm nữa là xếp hàng. Trừ ở sân bay hay trong các văn phòng cơ quan Nhà nước, ở những nơi
công cộng, nếu không đông lắm, hãy tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể mà có cách giải quyết phù hợp.
KHÁC BIỆT VĂN HÓA TRONG CÔNG CUỘC LÀM ĂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Vạn Phú
LTS - Ðụng chạm đến văn hóa là chạm đến những nơi sâu kín bên trong mỗi con người nên dễ gây dị ứng.
Ngay cả khi tự nhủ mình chỉ đang ghi lại cảm nhận của những người nước ngoài về tính cách làm việc của
người Việt Nam, đôi lúc chúng tôi cũng thấy muốn có phản ứng tranh luận trước những nhận xét quá thẳng
thắn.
Ðây là đoạn mở đầu cho bài báo đăng tải trên tờ Sài Gòn Kinh Tế Thời báo trong số ra cuối tháng Ba. Bài
báo có những ý kiến chủ quan, nhưng ít ra cũng cho thấy giới chuyên viên ở Việt Nam suy nghĩ như thế nào
trước những lời chỉ trích cho rằng người Việt Nam ở trong nước thường thiếu những suy nghĩ trực tiếp và
thực tế trong việc giải quyết vấn đề làm ăn với người nước ngoài.
* Ðiều quan trọng cần phải xác định ngay từ đầu là không có tính cách văn hóa tốt hay xấu; đại kỵ hơn nữa
là dùng chuẩn mực văn hóa của mình để phán xét văn hóa nước khác. Nhưng trong giao dịch làm ăn với
bên ngoài, bên cạnh việc tìm hiểu đặc trưng văn hóa của đối tác để ứng xử đúng cách, cũng rất cần biết
người nước ngoài cảm nhận thế nào về phong cách làm ăn của doanh nhân nước ta như cổ nhân từng nói
- biết người, biết ta... Thật ra, cho đến nay, chưa thấy một công trình nghiên cứu khoa học nào về tính cách
văn hóa kinh doanh của Việt Nam - mà chỉ có những nhận xét rải rác đây đó, những lần tiếp xúc về chủ đề
này với những người nước ngoài từng làm ăn, sinh sống lâu năm, và một số bài viết của các nhà nghiên
cứu văn hóa nước ngoài.
Nhận xét đầu tiên của họ là người Việt Nam thường thích làm hài lòng người khác, nhất là khách từ phương
xa đến. Và thế là có chuyện. Ðiển hình là cách trả lời khẳng định "Vâng", "Có", "Chuyện nhỏ" cho mọi câu
hỏi mặc dù thâm tâm người trả lời chỉ muốn xác định họ hiểu vấn đề nêu ra. "Ông có chắc chuyến hàng này
sẽ giao đúng hạn vào tháng tới?". Người trả lời đáp: "Vâng"; để thiết lập mối hài hòa giữa hai đối tác với
nhau nhưng trong bụng liền nghĩ tới hàng loạt chuyện phải giải quyết để đúng hẹn. Người nước khác sẽ nêu
điều kiện trước, giải quyết xong mới nói "Vâng"; người Việt nói "Vâng" trước rồi mọi chuyện từ từ tính sau.
Ngay cả ngôn ngữ cũng phản ánh sự khác biệt này. Có ai hỏi: "Anh chưa ăn cơm tối à?", người Việt sẽ trả
lời: "Vâng, tôi chưa ăn tối". Người Anh sẽ nói: "Chưa, tôi chưa ăn tối". Tâm lý muốn tìm sự đồng tình như thế
nhiều lúc gây ra hiểu lầm không đáng có.
Người nước ngoài cũng thường ngạc nhiên về tính thiếu rõ ràng trong trách nhiệm giải quyết công việc, nhất
là ở các công ty quốc doanh hay các cơ quan nhà nước. Họ thường bị "chuyền" từ phòng ban này sang
phòng ban khác và không ai đứng ra nhận lãnh trách nhiệm giải quyết một sự vụ cụ thể nào đó. Ở đây, nếu
loại trừ yếu tố bộ máy quan liêu, vẫn còn tính cách văn hóa muốn có sự đồng thuận trong tập thể, không ai
muốn "chơi trội" cả.
Trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, người quản lý đến từ các nước phương Tây thường nhận xét
nhân viên của họ có cách ứng xử rất lạ khi gặp vấn đề nan giải. Thay vì đến gặp người quản lý để cùng tìm
cách giải quyết, họ thường tự mình xoay xở và hậu quả là làm chậm công việc, hiệu quả thấp. Họ ít khi nói
thẳng vì không muốn làm mất lòng người khác. Họ có tâm lý tôn trọng quyền lực cao nên dễ bị căng thẳng
mỗi khi quan hệ với cấp trên không như ý muốn. Người phương Tây tách bạch quan hệ công việc với quan
hệ cá nhân. Họ có thể vừa khiển trách nặng lời một nhân viên trong giờ làm việc nhưng vẫn vui vẻ chuyện
trò khi gặp lại ở một nơi nào đó bên ngoài công ty. Nhưng người Việt gắn kết hai mối quan hệ này làm một -
và thường phải "tiêu tốn thời gian" để xây dựng quan hệ.
Tiến sĩ Paul Pilavachi, giảng viên Học Viện Quản Trị Kinh Doanh (UBI, Bỉ), trong buổi nói chuyện tại Saigon
Times Club vào tuần trước đã đưa ra các khía cạnh văn hóa do nhà nghiên cứu người Hà Lan, Hofstede,
phát hiện nhằm khái quát hóa những khác biệt trong tính cách văn hóa của các nước. Các khía cạnh phổ
biến nhất gồm tâm lý tôn trọng quyền lực, tâm lý cá nhân/ tập thể, tâm lý tránh sự bất định. Sự khác biệt
giữa người dân các nước là do mức độ cao thấp của các dạng tâm lý này.
Ðiều đáng ngạc nhiên là người Việt Nam, được cho là có tâm lý tập thể cao, nhưng ít thành công hơn trong
những dự án có nhiều người làm chung so với người Mỹ chẳng hạn, một dân tộc ai nấy đều đồng ý là có
tính cá nhân rất cao. Ông Pilavachi đưa ra một giải thích - rằng người có tâm lý tập thể cao khi bắt tay làm
chung nhóm thì mục tiêu đầu tiên là tạo ra sự đồng thuận của nhóm, xây dựng quan hệ hài hòa giữa mọi
thành viên trước. Quá trình này sẽ làm chậm công việc của nhóm, và đôi lúc mục tiêu ban đầu bị quên lãng.
Còn người có tâm lý cá nhân, dù làm chung, mục tiêu cao nhất của họ là hoàn thành công việc của nhóm,
quan hệ giữa những người trong nhóm là chuyện thứ yếu.
Nếu chúng ta đôi khi nhận xét người Mỹ tâm lý cá nhân cao quá, cái tôi của họ lớn quá, thì cũng đừng ngạc
nhiên nếu biết họ nhận xét người Việt sao mà ít chịu nói thẳng, cứ vòng vo bên ngoài chứ không chịu nhìn
thẳng vào vấn đề cần giải quyết. Có đúng là đôi lúc chúng ta không bị thuyết phục bởi lô gích rất chặt chẽ
của một đối tác đến từ Mỹ vì thâm tâm tự nhủ, sự đời không đơn giản như thế, có nói thì họ cũng không
hiểu, thôi đành gật gật cho qua.
Trong thương thảo hợp đồng, người Việt thường tin vào cảm nhận của mình đối với đối tác, thường nghĩ
đến những nét lớn của thương vụ chứ không chú ý nhiều đến các tiểu tiết. Người nước ngoài, ngược lại, rất
sòng phẳng khi đem theo luật sư đến bàn đàm phán dù trước đó đã có quan hệ tốt với đối tác. Cách làm
này thường gây sốc và tạo cảm giác thiếu tin cậy từ phía chúng ta. Còn trong hội nghị, hội thảo, người Việt
thường giữ im lặng dù chưa hiểu, hay chưa đồng tình. Thái độ này xuất phát từ tâm lý không muốn đối đầu,
hay không muốn đặt mình vào tình thế khó xử, dễ mất mặt.
Nhận xét về tính cách văn hóa lúc nào cũng mang tính chủ quan và phần lớn dựa vào khuôn mẫu định kiến.
Bản sắc văn hóa không dễ và không việc gì phải thay đổi nhưng biểu hiện bề ngoài của thái độ văn hóa lại
dễ điều chỉnh để thích nghi với từng hoàn cảnh - với mục tiêu làm ăn thành công trên thương trường quốc
tế. Chuyện duy trì bản sắc văn hóa trước cơn lốc toàn cầu hóa lại là một đề tài khác, xin hẹn một dịp khác.
Văn hoá Việt Nam
Văn hoá Việt Nam khá ôn hoà. Chúng ta không quá khắt khe về tôn giáo như người Trung Đông, không có
kỷ luật để khép mình vào tập thể như người Nhật Bản, không quá lệ thuộc vào gia đình, dòng họ như người
Italia, không tự hào về chủng tộc như người Hoa... Tính chất này giúp con người Việt Nam có tính khoan
dung, mềm dẻo, dễ hoà đồng, nhưng cũng làm chúng ta dễ chao đảo, không có điểm tựa vững chắc về tinh
thần. Số liệu điều tra cho thấy, phần lớn doanh nhân Việt Nam kinh doanh không bắt nguồn từ truyền thống
gia đình, lại xuất thân từ những gia đình nghèo, không được đào tạo cơ bản, nên có nhiều hạn chế về kiến
thức và trình độ. Thực tế này cộng với nền tảng tinh thần không ổn định đã làm nhiều doanh nhân có tham
vọng không giới hạn trong việc làm giàu và tích luỹ tư bản. Những vụ án kinh tế gần đây như Lã Thị Kim
Oanh, Nguyễn Thị Bé Tư, vụ công ty Đông Nam Associates..., đã cho thấy khi quyền lực, cơ hội được đặt
vào tay những con người hạn chế về trình độ và tư cách đạo đức, thì có thể làm nảy sinh những tham vọng
tội lỗi vô hạn đến như thế nào. Đành rằng, trong kinh doanh, lợi nhuận là mục đích chính, nhưng việc mưu
cầu lợi nhuận đến mức bất chấp đạo lý, luật pháp, quá táo tợn như vậy quả là một tiếng chuông cảnh báo
về tình trạng VHKD của Việt Nam.
Xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, con người Việt Nam thường có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và
muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Vì vậy, theo nhiều nhà nghiên cứu nước
ngoài, bối cảnh và môi trường kinh tế Việt Nam thuộc loại "xã hội thiếu chữ tín" (low trust society). Trong bối
cảnh kinh tế thị trường, khi các mối quan hệ được mở rộng, điểm yếu này càng có nguy cơ bộc lộ rõ ràng,
thể hiện ở tầm vĩ mô là việc các chính sách của Chính phủ thường hay thay đổi, và khi thay đổi lại không
cần tính đến quyền lợi của những người có liên quan. Còn ở tầm vi mô, theo nhiều nhà kinh doanh nước
ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam không coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lý do khách quan để khước
từ việc thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Chừng nào các
nhà quản lý và doanh nhân Việt Nam còn chưa nhận ra tầm quan trọng của chữ tín trong mọi mối quan hệ,
thì chúng ta còn khó lấy được niềm tin của đối tác. Thậm chí, về lâu dài, sẽ có ảnh hưởng xấu đến hình ảnh
của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Một số người Việt Nam không có bản lĩnh "văn hoá" vững vàng, sa vào trạng thái choáng ngợp trước những
thành tựu kinh tế của phương Tây, trở nên sùng ngoại quá đáng, phủ nhận tất cả những giá trị cổ truyền của
dân tộc. Những người này phần đông là giới thanh niên làm việc cho các công ty nước ngoài và những
người kinh doanh bằng viện trợ của thân nhân từ nước ngoài gửi về. Việc đánh mất bản sắc văn hoá dân
tộc mình đã làm họ rập theo khuôn mẫu phương Tây trong mọi hành vi. Thật ra, văn hoá không phải là "đồ
ăn nhanh", để có thể học theo trong một sớm một chiều, mà cần trải qua nhiều thế hệ. Văn hoá cũng giống
như tảng băng trôi, mà một người từ nền văn hoá khác chỉ có thể nhận biết được phần nổi (phần nhỏ nhất),
chứ chưa thể ý thức được phần chìm dưới nước (phần quyết định), được tích tụ qua nhiều thế hệ và đã ăn
sâu vào ý thức hệ của mỗi thành viên trong nền văn hoá đó. Chính vì vậy, việc bắt chước thiếu chọn lọc của
một nhóm doanh nhân Việt Nam chỉ làm nghèo đi đời sống tinh thần của họ và làm yếu đi bản sắc dân tộc
trong VHKD Việt Nam. Sự sùng ngoại quá đáng đó còn làm giảm sút uy tín của doanh nhân Việt Nam trong
con mắt của những đối tác nước ngoài, vì họ đã từ bỏ bản chất thật của mình để trở thành đồ giả trong con
mắt người ngoại quốc.
Một số khác, trong đó có cả các nhà quản lý, vẫn giữ tư tưởng bảo thủ, hoặc vì không có điều kiện, hay vì
không muốn thay đổi, nên đã trở thành lạc hậu với bên ngoài. Thiếu những kiến thức và kỹ năng cần thiết
trong thời kỳ đổi mới, họ dễ bị thua lỗ, bộc lộ nhiều sai sót trong kinh doanh với các đối tác nước ngoài.
Những người này, đã góp phần làm VHKD Việt Nam kém năng động, chậm hoà đồng trong tiến trình hội
nhập, ảnh hưởng đến hình ảnh Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Văn hóa kinh doanh tại thị trường Nhật
Giờ làm việc:
Tuần làm việc từ Thứ Hai đến Thứ Sáu. Sáng từ 9h00' - 12h00', chiều từ 1h00' - 5h00'. Nghỉ trưa 1 tiếng.
Người Nhật Bản tuân thủ rất nghiêm túc giờ giấc.
Trước 9h00' sáng, người Nhật thường không có thói quen vừa dùng bữa sáng vừa bàn công việc nhưng
gặp gỡ bàn việc vào sau 5h00' chiều dễ được chấp nhận hơn.
Các doanh nghiệp lớn của Nhật không chấp nhận gặp gỡ bàn việc vào ngày Thứ Bảy nhưng các doanh
nghiệp vừa và nhỏ thì có thể mặc dù việc này không được hoan nghênh.
Các cửa hàng bán lẻ thường mở cửa từ 10h00' sáng đến 7h00' chiều vào tất cả các ngày trong tuần, kể cả
Thứ Bảy và Chủ Nhật.
Một số nguyên tắc kinh doanh:
Hối lộ công chức là phạm luật.
Người Nhật rất coi trọng văn hóa và các nguyên tắc kinh doanh. Họ đặc biệt ứng xử rất lịch thiệp, tiêu chí
này không chỉ để đánh giá sự tôn trọng lẫn nhau mà còn là tiêu chí để đánh giá một người trong xã hội Nhật
Bản. Bạn sẽ được hỏi thăm và chúc mừng rất chu đáo, trong khi những người chủ nhà Nhật Bản lại thường
rất khiêm tốn. Tất nhiên, bạn cũng sẽ được đánh giá cao nếu người Nhật nhận thấy sự khiêm tốn ở bạn
(nhất là trước những lời khen ngợi).
Các buổi gặp mặt làm việc thường diễn biến chậm, thời gian cuối buổi thường được dùng để ghi nhận
những kết quả mà các bên đã đạt được. Thời gian giao lưu buổi tối thường sẽ đem lại cho bạn những phản
hồi hữu ích. Người Nhật coi sự thiếu thẳng thắn là bất lịch sự. Ví dụ bạn nên đi ngay vào vấn đề khi bắt đầu
buổi làm việc thay vì những lời mào đầu dài dòng. Tuy nhiên, khi người Nhật còn đang lưỡng lự, chưa thể
có quyết định dứt khoát thì bạn nên kiên nhẫn, giữ bình tĩnh.
Tiếng Anh không được sử dụng rộng rãi lắm trong đàm phán thương mại cũng như chính trị. Nếu tiếng Anh
được chấp nhận sử dụng, bạn nên nói chậm và rõ ràng, diễn đạt đơn giản, không sử dụng thành ngữ.
Những buổi đàm phán sử dụng tiếng Anh thường có phiên dịch.
Tuân thủ chính xác giờ giấc đặc biệt được người Nhật coi trọng. Bạn nên đến trước giờ hẹn ít nhất 5 phút.
Trong trường hợp mà nhiều khả năng bạn đến muộn, nên gọi điện xin lỗi trước và đưa ra chính xác thời
gian mà bạn có thể có mặt. Các cuộc gặp cần được lên lịch hẹn trước.
Bạn không nên đưa những người không liên quan (bạn bè, vợ, chồng, trẻ em,...) đến tham dự buổi làm việc,
kể cả các buổi làm việc trong bữa tối.
Các tài liệu giới thiệu doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ như catalog, profile nên được trao vào buổi gặp mặt
đầu tiên.
Danh thiếp được trân trọng cầm ở tay hoặc đặt trên bàn. Khi đến Nhật làm việc, bạn nên mang theo nhiều
danh thiếp vì các buổi đàm phán thương mại luôn được khởi đầu bằng việc các bên trao danh thiếp cho
nhau. Bạn nên lưu ý rằng với người Nhật, việc cho danh thiếp vào túi quần, túi áo hoặc viết lên danh thiếp là
không thể chấp nhận được. Bạn nên làm danh thiếp với một mặt là tiếng Nhật nhưng không nên chuyển địa
chỉ liên hệ sang tiếng Nhật vì như vậy có thể sẽ làm cho địa chỉ trở nên khó hiểu hơn.
Cách sắp xếp chỗ ngồi trong các cuộc đàm phán với người Nhật cũng theo những thông lệ chung. Những
nhân vật quan trọng nhất thường ngồi ở vị trí cách xa cửa ra vào nhất. Những vị trí gần cửa ra vào nhất
thường dành cho những người hay phải đi lại. Nếu không chắc đâu là chỗ ngồi của mình, bạn có thể nán
chờ giây lát hoặc hỏi xem bạn có thể ngồi ở đâu.
Quà cáp với người Nhật là việc không cần thiết đặc biệt trong buổi gặp đầu tiên, kể cả các món quà đắt giá
cũng sẽ không thích hợp. Khi các bên tìm được triển vọng trong quan hệ hợp tác làm ăn, bạn có thể tặng
các món quà lưu niệm nho nhỏ, nếu mang dấu ấn của doanh nghiệp bạn thì càng tốt. Ví dụ như chiếc bút bi
của doanh nghiệp hoặc một cái cà vạt. Việc mở gói quà trước mặt người tặng được xem là bất lịch sự.
Giải quyết những bất đồng: Người Nhật thường rất tránh khơi mào cho sự bất đồng. Họ có thể đưa ra
những câu trả lời không rõ ràng hoặc thậm chí họ có thể trả lời đồng ý mặc dù họ không định thế. Điều đó
có thể gây ra rắc rối về sau. Để giải quyết vấn đề này, bạn nên chuẩn bị sẵn một tài liệu nêu rõ ràng và ngắn
gọn các điều khoản mà hai bên cần thống nhất và sử dụng nó như một biên bản ghi nhớ kết quả của mỗi
buổi làm việc.
Người Nhật rất coi trọng sự sạch sẽ, khi giao tiếp với người Nhật bạn nên hết sức chú ý. Các tài liệu, hàng
hóa, bao bì,... cần phải sạch sẽ, gọn gàng. Bao bì sản phẩm đúng tiêu chuẩn, hình thức đẹp, kích thước
hợp lý sẽ tạo được sự lôi cuốn và tiện dụng cho người sử dụng.
6 bài học về văn hóa kinh doanh Nhật Bản
Con người của đất nước mặt trời mọc luôn nối tiếng về tính kỷ luật và hiệu quả cao trong lao động. Những
yếu tố nào đã làm nên thành công như vậy? Dưới đây là 6 bài học thu được từ văn hóa kinh doanh tại xứ sở
hoa anh đào.
1. Trân trọng danh thiếp
Một cuộc gặp gỡ làm ăn ở Nhật được bắt đầu bằng meishi kokan - một nghi thức trao đổi danh thiếp kinh
doanh rất trang trọng. Khi nhận thiếp, các doanh nhân cầm bằng cả hai tay, đọc kỹ, nhắc lại thật to các
thông tin, và sau đó cất chúng vào sổ đựng thiếp để sử dụng khi cần. Họ không bao giờ nhét chúng vào
trong ví, bởi điều đó thể hiện sự bất kính.
Bài học: Trao đổi danh thiếp là một phương thức gây ấn tượng quan trọng khi gặp gỡ làm ăn. Sự trân trọng
chỉ ra rằng bạn đánh giá cao sự hợp tác lâu dài giữa hai bên.
Áp dụng: Bạn không cần thiết phải thực hiện đầy đủ nghi thức meishi kokan tại công sở của mình, bởi điều
này có thể khiến bạn trở nên ngờ nghệch! Việc cần làm khi nhận thiếp là chú tâm đến những thông tin trên
nó. Hơn nữa đừng bao giờ tỏ ra khiếm nhã khi tùy tiện nhét tấm danh thiếp vào bất cứ vật gì gần nhất.
2. Kính trọng bậc " trưởng bối "
Có một tập quán trong các buổi tiếp xúc ở Nhật, đó là luôn hướng điều phát biểu đầu tiên tới người có thứ
bậc cao nhất hiển diện ở đó. Mọi người không bao giờ đi ngược lại ý kiến của bậc trưởng bối và dành cho
người đó sự chú ý cao nhất.
Bài học: Văn hóa kinh doanh ở Nhật đề cao vị trí của các bậc trưởng bối vì sự uyên thâm và kinh nghiệm
quý báu mà họ đã đóng góp cho công ty. Tại đất nước này, tầm quan trọng của một người tỉ lệ thuận với sự
già dặn.
Áp dụng: Học hỏi và làm theo cấp trên của bạn. Nếu chống đối với sếp, bạn sẽ không bao giờ chiến thắng
trong bất kỳ trường hợp nào. Hãy hiểu rằng, một người có được sự thăng tiến lên các cấp cao hơn, chủ yếu
là nhờ kỹ năng chuyên môn và sự từng trải của họ.
3. Thấm nhuần động cơ làm việc nhờ các khẩu hiệu
Rất nhiều doanh nhân Nhật Bản bắt đầu một ngày làm việc bằng một buổi tập trung, tại đó, họ xếp hàng và
hô vang những khẩu hiệu của công ty như là một phương thức truyền cảm hứng, động lực và lòng quyết
tâm.
Bên cạnh đó, hoạt động này còn làm cho các mục tiêu của công ty luôn được thôi thúc hoàn thành trong tâm
trí mọi người.
Bài học: Làm việc với động cơ rõ ràng kết hợp với sự hăng hái là vô cùng quan trọng. Những mục tiêu dài
hạn của công ty cần được củng cố thường xuyên, nếu không chúng sẽ bị chểnh mảng bởi các nhiệm vụ cá
nhân thường ngày.
Áp dụng: Nghiêm túc nhắc nhở bản thân mỗi khi bạn ngồi vào vị trí làm việc. Làm sống lại những mục tiêu
dài hạn mà bạn từng ấp ủ. Lập một bản danh sách những câu khẩu hiệu của chính bản thân bạn, chúng có
thể củng cố lòng tin và nhắc nhở bạn mỗi khi bạn cảm thấy thoái chí hay hồ nghi.
4. Nghiêm túc trong công việc
Tại Nhật Bản, trong các cuộc họp, mỗi người luôn phát biểu khá chậm rãi, rành mạch, còn người nghe rất
tập trung tinh thần. Có một điều khá đặc biệt, đó là người Nhật thường "lim dim" mắt khi tập trung lắng nghe,
trong khi ở nhiều nơi trên thế giới, đó lại là dấu hiệu của sự chán chường!!!
Bài học: Người Nhật luôn tạo ra không khí trang nghiêm tại nơi làm việc. Sự hài hước hiếm khi được sử
dụng, ngoại trừ trong giờ giải lao. Tại đây, hoàn toàn không có cảnh quàng vai bá cổ hay tụ tập buôn
chuyện.
Áp dụng: Sự ngột ngạt và trang nghiêm thái quá tại công sở là điều hoàn toàn cần tránh. Bạn không cần
phải cư xử tại văn phòng như tại một buổi lễ long trọng nào đó, nhưng cũng không được phép "tự nhiên như
ở nhà". Tác phong và đạo đức nghề nghiệp làm gia tăng sự nghiêm túc trong công việc, kéo theo đó là sự
nâng cao hiệu quả lao động.
5. Làm ra làm, chơi ra chơi
Sau một ngày làm việc hối hả, người lao động Nhật Bản lại sẵn sàng cho các hoạt động giải trí, thư giãn.
Các quán rượu là sự lựa chọn phổ biến. Nếu như tại nơi làm việc họ tỏ ra trang nghiêm thì quầy rượu lại là
nơi để họ bùng nổ, bộc lộ bản thân.
Bên cạnh đó, một thú vui khác của họ là hát hò cùng nhau trong các quán Karaoke. Ngoài mục đích cân
bằng cuộc sống, những nơi giải trí ban đêm còn là địa điểm để người Nhật thiết lập mối quan hệ, chia sẻ
thông tin.
Bài học: Không để công việc nhấn chìm cuộc sống của bạn. Thời gian rảnh rỗi là một phần quan trọng trong
ngày, bởi nó là lúc để giải tỏa sự căng thẳng và xoa dịu những mối lo âu. Khi bạn dành thời gian giải trí với
đồng nghiệp cũng như các đối tác, mối quan hệ hợp tác sẽ càng trở nên gắn bó hơn.
Áp dụng: Có những lúc, bạn nên gạt bỏ hẳn hai chữ "công việc" ra khỏi tâm trí mình. Hãy tận hưởng những
phút giây hạnh phúc và tham gia vào các buổi liên hoan văn phòng. Là một tập thể thân thiết ngoài công sở
với các đồng nghiệp cho phép mọi người tìm lại được sự cân bằng.
6. Tận dụng các mối quan hệ như là một sự ủng hộ
Các mối quan hệ rất được coi trọng ở Nhật Bản. Sự ủng hộ từ nhiều người sẽ tạo cho họ lòng tự tin và sức
mạnh. Thực tế, các doanh nhân Nhật thường sắp xếp một cuộc gặp gỡ cá nhân với cấp quản trị cao hơn để
tranh thủ sự tán thành và ủng hộ của cấp trên.
Và còn tuyệt vời hơn khi họ có được sự khích lệ từ đồng nghiệp.
Bài học: Có được sự tán thành của những người thành đạt, bạn sẽ trở nên đáng tin cậy trong con mắt của
nhiều người và tạo nền tảng vững chắc để đảm nhận những vị trí cao hơn.
Áp dụng: Chúng ta vẫn hay gọi đây là "công nghệ lăng-xê" - một việc thường không được đánh giá cao. Dĩ
nhiên bạn không muốn làm bộ làm tịch như một kẻ ba hoa khoác lác, nhưng hoạt động này vẫn có giá trị
như một sự nhấn mạnh về tầm quan trọng của tinh thần tập thể. Điều căn bản cần nhớ là hãy xây dựng
những cầu nối vững chắc, thuận tiện tới bất cứ đâu bạn muốn đến, và những người khác chắc chắn sẽ
đánh giá cao về năng lực của bạn.
Ngô Đức (Theo Askmen)
TẬP QUÁN VÀ VĂN HÓA KINH DOANH TẠI HOA KỲ
Hiểu về văn hóa nói chung và văn hóa kinh doanh nói riêng ở một nước ngoài sẽ có ích cho các doanh
nghiệp trong quan hệ kinh doanh với các bạn hàng ở nước đó. Phần này nhằm tóm tắt và hướng dẫn một
số nét cơ bản về văn hóa kinh doanh ở Hoa Kỳ với hy vọng phần nào giúp các doanh nghiệp Việt Nam, nhất
là các doanh nghiệp mới thiết lập quan hệ kinh doanh với các bạn hàng ở Hoa Kỳ, giao tiếp và duy trì quan
hệ kinh doanh có hiệu quả hơn với các bạn hàng ở nước này.
Là một nước có diện tích lớn thứ 3 trên thế giới và với khoảng 290 triệu dân có nguồn gốc từ nhiều nơi khác
nhau trên thế giới, Hoa Kỳ là một xã hội đa dạng nhất trên thế giới. Mặc dù đại bộ phận người Mỹ được coi
là có nguồn gốc từ Châu Âu, song những người thiểu số như người gốc Mỹ (người da đỏ), người Mỹ gốc
Phi, người Hispanic, và người Châu á cũng rất đông. Hiện nay, mỗi năm có tới trên một triệu người nước
ngoài di cư đến Hoa Kỳ sinh sống và làm ăn, và dự kiến đến năm 2050 người Mỹ da trắng chỉ còn chiếm
dưới 50%. Các cộng đồng đang sinh sống ở Hoa Kỳ đều có những bản sắc riêng của họ, kể cả ngôn ngữ,
tôn giáo, tín ngưỡng, và phong tục; do vậy, rất khó có thể khái quát chính xác được văn hóa nói chung và
văn hóa kinh doanh nói riêng ở nước này. Phần giới thiệu dưới đây chỉ là những nét cơ bản và hướng dẫn
chung.
Một số nét cơ bản
Cách viết họ tên
Tên người Mỹ được viết theo thứ tự tên riêng trước, sau đó đến tên đệm và cuối cùng là họ. Họ lấy theo họ
bố; không dùng họ mẹ. Ví dụ, Bill William Clinton trong đó Bill là tên riêng, William là tên đệm, và Clinton là
họ. Tên đệm thường được viết tắt hoặc thậm chí không viết. Ví dụ, Bill William Clinton thường được viết là
Bill W. Clinton hoặc chỉ viết ngắn gọn là Bill Clinton. Họ tên cũng có thể viết theo tứ tự họ trước rồi đến tên
riêng, và cuối cùng là tên đệm. Trong trường hợp này sau họ có dấu phẩy. Ví dụ: Clinton, Bill William.
Phụ nữ Mỹ khi lấy chồng đổi họ theo họ chồng. Có một số người dùng cả họ mình và họ chồng. Ví dụ,
Hillary Rodham Clinton, trong đó Hillary là tên riêng; Rodham là họ của Hillary; và Clinton là họ của chồng.
Cách xưng hô
Trừ một số trường hợp đặc biệt, người Mỹ thường gọi nhau bằng tên riêng. Tuy nhiên, có một số nguyên
tắc phổ biến mà các nhà kinh doanh nước ngoài nên theo.
• Đối với lần tiếp xúc trực tiếp hoặc qua thư từ đầu tiên, nên gọi nhau bằng Mr., Mrs., Miss, Ms. hoặc Dr. và
tiếp theo là họ. Ví dụ, Mr. Clinton.
• Có thể gọi tên riêng khi được mời hoặc sau khi đã có quan hệ thân mật.
• Không gọi tên riêng (trừ phi được mời) đối với những người hơn nhiều tuổi, hoặc có địa vị hoặc cấp bậc
cao hơn mình nhiều, hoặc đối với những người mà bạn muốn thể hiện sự tôn trọng.
• Đối với trẻ em thì luôn luôn có thể gọi tên riêng.
• Đối với quân nhân hoặc cảnh sát nên gọi bằng cấp bậc (nếu biết) hoặc gọi chung là "Officer" và tiếp theo
là họ. Ví dụ, General Clark hoặc Officer Lugar.
• Đối với người mới gặp lần đầu và không biết tên (ví dụ như nhân viên bán hàng, thư ký, lái xe, nhân viên
khách sạn...) có thể gọi "Sir", "Mr.", "M'am" hoặc "Miss".
Một số tính cách đặc trưng của người Mỹ
Khác với một số nền văn hóa khác, nhất là văn hóa Châu á, nhìn chung, người Mỹ rất coi trọng tự do cá
nhân và tính tự lập. Gia đình, cộng đồng, tôn giáo, hoặc tổ chức là thứ yếu so với các quyền cá nhân. Chủ
nghĩa cá nhân này cũng dẫn đến một tính cách nổi bật của người Mỹ là cạnh tranh.
Phong cách chung của doanh nhân Mỹ là ít chú ý đến nghi lễ, đi thẳng vào vấn đề, và muốn có kết quả
nhanh. Trong đàm phán, người Mỹ thường xác định trước và rõ mục tiêu cần đạt được, chiến lược và chiến
thuật đàm phán, và dùng số liệu để chứng minh cho các luận điểm của mình. Họ muốn dành chiến thắng về
phần mình, song cũng sẵn sàng thỏa hiệp trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. ở Hoa Kỳ, "có đi có lại" là nguyên
tắc quan trọng trong đàm phán chính trị cũng như trong kinh doanh.
Người Mỹ thích nói thẳng, rõ ràng, và dễ hiểu. Họ không thích kiểu nói vòng vo, xa xôi, hoặc ví von. Nhìn
chung, khi người Mỹ nói "được" thì có nghĩa là được và "không được" có nghĩa là không được. Người Mỹ
không ngại ngùng khi trả lời "tôi không biết" nếu như họ không biết về vấn đề mà bạn quan tâm, hoặc "tôi
không phụ trách việc này" nếu như vấn đề bạn quan tâm không trong phạm vi trách nhiệm của họ. Tuy
nhiên, người Mỹ thường sẵn sàng chỉ cho bạn biết bạn phải hỏi ai hoặc tìm ở đâu để có những thông tin mà
bạn cần, hoặc ai là người phụ trách việc mà bạn quan tâm.
Tính thẳng thắn và sự lịch thiệp cũng có mức độ khác nhau tuỳ theo vùng. Người New York nổi tiếng là trực
tính, và thậm chí hơi thô bạo nếu so sánh với văn hóa Châu á. Người ở vùng Trung Tây cũng thẳng thắn
nhưng thường lịch sự hơn nhiều. Người California không phải lúc nào cũng nói đúng ý nghĩ của họ. Ví dụ ở
Los Angeles - miền đất của những giấc mơ - nếu ai đó nói với bạn "Tôi sẽ trở lại vấn đề này với bạn" thì
cũng có thể là họ sẽ làm như vậy thật, song cũng có thể họ ngụ ý là "Bạn không có cơ hội".
Nhìn chung, người Mỹ không có thói quen nói hoặc cười to trong khi ăn uống hoặc ở nơi công cộng. Họ rất
tự giác xếp hàng đợi đến lượt mình khi có từ hai người trở lên, và không có thói quen chen ngang hàng. Tại
cửa ra vào thang máy, tầu điện ngầm, hoặc xe buýt, người ở ngoài thường đợi cho người ở trong ra hết rồi
mới vào. Người Mỹ có thói quen cám ơn khi được người khác giúp đỡ dù chỉ là một việc rất nhỏ như
nhường đường chẳng hạn.
Chào hỏi
Cũng như ở các nơi khác, ở Hoa Kỳ, bắt tay là một cách chào phổ biến. Bạn có thể bắt tay cả đàn ông và
phụ nữ ở những lần gặp nhau đầu tiên hoặc sau đó. Người Mỹ có thói quen bắt tay chặt dùng cả bàn tay
chứ không phải chỉ ngón tay (không có nghĩa là bóp chặt đến mức làm đau tay người khác) để thể hiện sự
thân thiện và nhiệt tình. Bắt tay lỏng lẻo có thể bị coi là không chắc chắn, thiếu tự tin, và thậm chí là hờ
hững trong quan hệ. Rất ít khi thấy người Mỹ dùng cả hai tay để bắt tay. Thỉnh thoảng bạn có thể thấy đàn
ông với đàn bà hoặc đàn bà với đàn bà chào nhau bằng cách ôm, và thậm chí cọ má vào nhau hoặc hôn
nhẹ lên má nhau. Hình thức chào này thường chỉ dành cho những người là bạn bè lâu, hoặc ít nhất cũng đã
quen nhau. Ngoài ra, người Mỹ rất ít đụng chạm vào nhau.
Không nên hỏi tuổi, hoặc thu nhập của người Mỹ. Tôn giáo, chính trị, và tình dục cũng là những lĩnh vực
nhạy cảm ở Mỹ. Tốt nhất là bạn nên tránh những chủ đề này trừ phi với những người bạn thân.
Khi nói chuyện, người Mỹ thường nhìn thẳng vào người đối diện và đứng không qúa gần. Không nhìn thẳng
vào người mình đang nói chuyện, nói năng nhỏ nhẹ, thái độ bẽn lẽn có thể bị coi là người không có quyền
hành hoặc yếu đuối. Bạn cũng có thể nhìn thấy người Mỹ gác chân nọ lên chân kia và ngả người về phía
sau khi ngồi nói chuyện với khách. Những nét văn hóa này thường mẫu thuẫn với truyền thống tôn trọng lễ
phép và khiêm tốn của người Châu á. Nói như vậy không có nghĩa là người Mỹ kiêu ngạo hoặc thô lỗ.
Người Mỹ thường coi trọng tính hiệu qủa hơn là sự lịch thiệp.
Cử chỉ, điệu bộ
Người Mỹ cũng sử dụng cử chỉ, điệu bộ ở những mức độ khác nhau trong giao tiếp để nhấn mạnh điều
mình muốn nói hoặc có thể chỉ theo thói quen tự nhiên. Lắc đầu từ bên nọ sang bên kia có nghĩa là không
đồng ý. Gật đầu có nghĩa là đồng ý. Rướn lông mày thể hiện sự ngạc nhiên. Nhún vai thể hiện sự hoài nghi
hoặc không chắc chắn. Trong nhà hàng khi muốn gọi người phục vụ bạn có thể giơ tay lên cao và chìa ngón
tay trỏ ra để thu hút sự chú ý của họ. Tuy nhiên, nếu vẫy hoặc chỉ thẳng ngón tay trỏ vào người khác lại có
nghĩa là buộc tội hoặc thách thức người đó. Giơ tay ra với lòng bàn tay hướng về phía trước có nghĩa là
dừng lại. Đối với người Mỹ giơ ngón tay giữa lên bị coi là tục tĩu và thách đố.
Thời gian là tiền bạc
ở Hoa Kỳ, "thời gian là tiền bạc". Thời gian cũng được coi là một loại hàng hóa như tất cả các loại hàng hóa
khác. Người Mỹ tiết kiệm thời gian cũng như tiết kiệm tiền bạc. Những người cung cấp dịch vụ như luật sư,
kế toán, tư vấn, các nhà tâm lý học, thợ sửa chữa cơ khí... thường tính phí hoặc tiền công dựa trên số giờ
làm việc cho khách hàng, đôi khi kể cả thời gian tiếp và/hoặc nói chuyện qua điện thoại với khách hàng. Do
vậy, các nhà kinh doanh, khi cần sử dụng luật sư, cần phải chuẩn bị rất kỹ các câu hỏi và nội dung cần tư
vấn, và đi thẳng vào vấn đề để tiết kiệm tối đa thời gian sử dụng luật sư, tức là tiết kiệm chi phí cho chính
mình.
Tương tự như vây, các nhà kinh doanh Mỹ không có nhiều thời gian để nói chuyện rông dài hoặc đọc những
bức thư dài hoặc chờ đợi sự trả lời chậm trễ. Các bức thư chào hàng hoặc giao dịch trước hết phải thu hút
được sự chú ý của người đọc, và phải ngắn gọn và rõ ràng (Xin xem thêm mục hướng dẫn viết thư chào
hàng), trả lời thẳng vào các vấn đề hoặc cung cấp đúng những thông tin mà đối tác yêu cầu. Sự chậm trễ trả
lời các thư hỏi hàng của đối tác Mỹ chắc chắn sẽ làm mất cơ hội kinh doanh.
Giao tiếp kinh doanh
Gặp gỡ làm việc
Người Mỹ muốn biết trước nội dung cuộc gặp, vai trò và quyền hạn, và thậm chí cả thân thế sự nghiệp của
khách. Rất nhiều trường hợp, nhất là đối với các cuộc gặp với các quan chức chính phủ hoặc lãnh đạo
doanh nghiệp cấp cao, bên chủ thường yêu cầu gửi trước tiểu sử tóm tắt của trưởng đoàn. Họ thường định
trước thời lượng cho các cuộc gặp gỡ (các cuộc tiếp xã giao thường kéo dài 30 - 45 phút và hiếm khi quá 1
tiếng) và không ngại ngùng chủ động kết thúc khi hết giờ, nhất là khi họ có việc bận tiếp sau đó, hoặc thấy
cuộc gặp không mang lại lợi ích gì. Không thiếu những cuộc gặp kết thúc trong khi phía khách chưa kịp đề
cập hết các vấn đề muốn nói.
Người Mỹ thường rất đúng giờ. Sự chậm trễ được hiểu là thiếu quan tâm, coi thường đối tác hoặc kém cỏi
trong sắp xếp thời gian. ở các thành phố lớn thường xảy ra tắc nghẽn giao thông thì có thể cho phép sớm
muộn đôi chút song không nhiều. Nếu không may bị muộn 10 -15 phút thì nên gọi điện thoại báo trước và
xin lỗi, và, nếu có thể, cho biết lý do. Nhiều thành phố ở Hoa Kỳ rất rộng; đi từ địa điểm này đến địa điểm
khác có khi mất hàng giờ. Do vậy, khi sắp xếp các cuộc gặp cần phải tính trước thời gian đi lại và trừ hao
thời gian tắc nghẽn giao thông. Ngược lại, đến sớm có thể làm bên chủ bối rối do chưa sẵn sàng tiếp đón
hoặc được hiểu là quá sốt ruột hoặc không có việc gì tốt hơn để làm. Nói chung, nên đến vào đúng thời gian
ghi trên giấy mời hoặc đã hẹn.
Cũng vì muốn tiết kiệm thời gian, nên các cuộc gặp làm việc với người Mỹ thường là ngắn, tập trung và đi
thẳng vào vấn đề. Đối với một số nền văn hóa vừa gặp nhau đã bàn ngay đến chuyện làm ăn thì có thể bị
coi là mất lịch sự, trong khi đó người Mỹ lại thích nói chuyện làm ăn trước, sau đó mới nói đến chuyện cá
nhân và các chuyện khác. Vì vậy, thường thì khách, nhất là những người chào hàng phải chuẩn bị rất kỹ và
đi thẳng vào nội dung sau những câu chào hỏi xã giao ngắn gọn. Yêu cầu này càng quan trọng nếu cuộc
làm việc được tiến hành thông qua phiên dịch vì thực chất thời gian làm việc chỉ còn tối đa một nửa. Trong
các cuộc họp hoặc gặp gỡ làm việc, người Mỹ có thể cắt ngang lời nhau để hỏi hoặc nêu ý kiến của mình.
Thói quen này có thể bị coi là bất lịch sự trong một số nền văn hóa Châu á. Do vậy, các nhà kinh doanh
nước ngoài không nên ngạc nhiên khi bị người Mỹ cắt lời để hỏi hoặc nêu ý kiến của họ.
Khi thấy không còn nội dung cần thảo luận và bên chủ không muốn nói sang vấn đề khác thì khách cũng
nên chủ động kết thúc cuộc gặp. Nếu cuộc gặp đã đủ dài và bạn thấy có người vào phòng thì thầm với
người tiếp chính bên chủ hoặc đưa cho người đó một mảnh giấy thì bạn cũng nên hiểu đó là tín hiệu bên
chủ muốn kết thúc cuộc gặp. Trước khi kết thúc cuộc gặp nên chủ động tóm tắt những việc đã bàn hoặc
thỏa thuận và nói rõ những việc mà hai bên dự định sẽ triển khai. Sau mỗi cuộc gặp gỡ quan trọng, phía
khách nên gửi thư cám ơn và tranh thủ nhắc lại những vấn đề mà hai bên đã bàn hoặc thoả thuận.
Kiểm tra an ninh tại nơi làm việc
Sau sự kiện khủng bố 11/9, việc kiểm tra an ninh được thực hiện rất nghiêm ngặt không những tại các sân
bay mà còn tại các nơi làm việc quan trọng và đông người. Khách đến làm việc nhất là tại các cơ quan của
chính phủ và các tòa nhà lớn ở những thành phố lớn, nên mang theo giấy tờ tùy thân có dán ảnh để xuất
trình tại thường trực, và không nên mang theo hành lý cồng kềnh. ở một số công sở, do người ra vào đông,
cho nên việc đăng ký để lấy thẻ ra vào và kiểm tra an ninh đôi khi khá mất thời gian. Để không bị muộn hoặc
bị rút ngắn thời gian cuộc gặp, khách đến làm việc (nhất là các đoàn đông người) ở những công sở này
thường phải đến sớm để "trừ hao" thời gian đăng ký lấy thẻ ra vào và kiểm tra an ninh.
Trang phục
Ngoài xã hội, nhìn chung, người Mỹ mặc rất thoải mái, không cầu kỳ và không quan tâm nhiều đến cách ăn
mặc của người khác. Trên đường phố, đôi khi rất khó có thể phân biệt đẳng cấp, địa vị xã hội hoặc nghề
nghiệp dựa vào quần áo bề ngoài. Nữ nhân viên bán hàng tại một siêu thị có thể mặc đẹp và đắt tiền hơn
một nữ luật sư giỏi có mức lương cao hơn gấp nhiều lần.
Tuy nhiên, trong công sở, tại các hội nghị, hội thảo, tiệc và các cuộc tiếp khách các doanh nhân Mỹ cũng
mặc chỉnh tề và đẹp như ở các nước khác. Khách đến thăm và làm việc thường mặc com lê thẫm mầu và
cravát. Mùa hè, mùa xuân, hoặc những dịp không trang trọng lắm có thể mặc com lê sáng mầu. Doanh nhân
nữ cũng thường mặc com lê với màu sắc đa dạng hơn so với nam giới. Mặc gọn gàng và chỉnh tề quan
trọng hơn là kiểu cách. Một số thương nhân dùng chất lượng giầy và đồng hồ đeo tay để thể hiện mình. Thứ
Sáu hàng tuần thường là ngày người Mỹ ăn mặc ít nghi lễ nhất tại các công sở. Mặc dù nhìn chung người
Mỹ không cầu kỳ trong ăn mặc nhưng nếu một doanh nhân đến giao dịch mặc một bộ com lê quá cũ và
hoặc nhàu nhĩ chắc chắn sẽ tạo ấn tượng ban đầu không hay đối với đối tác.
Nghi lễ xã giao
Người Mỹ quan tâm nhiều đến nội dung và hiệu quả công việc hơn là nghi lễ xã giao. Họ quan tâm nhiều
đến năng lực chuyên môn và khả năng quyết định vấn đề hơn là chức vụ hay tuổi tác của đối tác. Họ có thể
cử một chuyên viên kỹ thuật trẻ đến gặp một lãnh đạo cấp cao của bên đối tác không phải vì coi thường đối
tác mà bởi vì chuyên viên kỹ thuật trẻ đó là người nắm vững nhất về vấn đề cần trao đổi. Mặt khác, người
Mỹ có thể bực mình nếu bên đối tác được đại diện bởi một cấp thấp hơn, nhưng không phải vì lý do họ bị
coi thường mà vì lý do đại diện bên đối tác không đủ thẩm quyền quyết định vấn đề mà hai bên đang quan
tâm.
Do chi phí lao động đắt, các công ty và công sở ở Hoa Kỳ hầu như không có người tiếp tân riêng như
thường thấy ở các công sở và doanh nghiệp Việt Nam. Khách (kể cả quan chức cao cấp) đến làm việc có
thể được mời uống hoặc không. Nếu có, cà phê, trà, nước lọc và nước giải khát thường được để sẵn ở một
bàn nhỏ trong phòng tiếp khách để khách tự phục vụ. Để tiết kiệm thời gian, ở Hoa Kỳ còn tổ chức kiểu vừa
ăn sáng hoặc trưa vừa thảo luận công việc tại nhà hàng hoặc ngay tại công sở của họ.
Đối xử bình đẳng với phụ nữ
Khoảng trên 60% phụ nữ Mỹ đi làm. Số phụ nữ Mỹ đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong kinh doanh
mặc dù vẫn còn ít, song đang tăng lên. ở Hoa Kỳ vẫn chưa hết sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Tuy
nhiên, ở Hoa Kỳ, phụ nữ có cương vị cao trong các cơ quan hoặc công ty nhiều hơn, và họ có quyền lực
hơn so với ở các nơi khác trên thế giới. Phụ nữ Mỹ không muốn mình bị coi là đặc biệt hoặc không quan
trọng. Nếu gặp những đối tác kinh doanh là nữ, bạn hãy đối xử với họ như đối xử với các đối tác nam giới
và không nên phật ý vì cho rằng bên chủ đã đưa phụ nữ ra tiếp bạn. Nếu họ là chủ mời bạn đi ăn, hãy cứ để
họ trả tiền như những người đàn ông khác. Trong kinh doanh, phụ nữ Mỹ cũng quyết đoán không kém gì
nam giới.
Đối xử bình đẳng với những người khác chủng tộc
Hoa Kỳ là một nước đa chủng tộc. Người nước ngoài di cư đến Hoa Kỳ sinh sống và kinh doanh ngày càng
nhiều. Trong thực tế cuộc sống ở Hoa Kỳ vẫn chưa hết sự phân biệt chủng tộc. Tuy nhiên, luật pháp Hoa Kỳ
cấm mọi hành động phân biệt chủng tộc. Người nước ngoài đến Hoa Kỳ kinh doanh cần hết sức tránh các
hành động, hoặc ngôn ngữ thể hiện sự phân biệt chủng tộc. Ví dụ thay cho từ "black American" (người Mỹ
đen) người ta dùng một từ khác lịch sự và ít phân biệt chủng tộc hơn là "African American" (người Mỹ gốc
Phi).
Mời cơm làm việc
Khách nước ngoài đến làm việc có thể được bên chủ mời ăn sáng, trưa, hoặc tối, và vừa ăn vừa làm việc.
Tuy nhiên, bên chủ cũng có thể mời khách ăn sau khi kết thúc công việc thành công. Nguời Mỹ có thể thảo
luận công việc trước khi ăn. Họ hầu như không uống đồ uống có cồn khi ăn sáng hoặc ăn trưa vì vẫn còn
trong giờ làm việc. ở Hoa Kỳ, hầu như không có cảnh ép hoặc thi nhau uống rượu trong bữa ăn. Khi được
mời, bạn có thể từ chối và nói thẳng lý do, nếu bạn không muốn uống. Không uống rượu là chuyện bình
thường ở Hoa Kỳ.
Nếu bên chủ không sắp xếp chỗ ngồi trước thì khách có thể chờ họ mời ngồi, hoặc có thể tự chọn chỗ ngồi
nếu bên chủ để khách tự chọn. ở những bữa tiệc ngồi lớn đông người, thường có bố trí trước chỗ ngồi cho
một số người hoặc cho tất cả. Mục đích chủ yếu của việc bố trí trước này là để đảm bảo nghi lễ ngoại giao
và/hoặc tiện cho trao đổi công việc. Nếu trên giấy mời có ghi "RSVP" thì bạn cần phải xác nhận có dự hay
không càng sớm càng tốt.
Danh thiếp
Danh thiếp không quan trọng đối với người Mỹ. Người Mỹ trao danh thiếp cho nhau không trịnh trọng như
người Châu á. Người Mỹ thường chỉ nhìn lướt qua hoặc thậm chí không nhìn danh thiếp trước khi cất đi
hoặc bỏ vào túi. Thói quen này không có nghĩa là Người Mỹ không tôn trọng đối tác, bởi vì họ quan niệm tập
trung vào người đang đối thoại với mình quan trọng và thể hiện tôn trọng hơn là nhìn vào danh thiếp. Tuy
nhiên, danh thiếp của đối tác vẫn được các nhà kinh doanh Mỹ lưu giữ để có địa chỉ liên hệ khi cần thiết,
đặc biệt là đối với những người mà sau cuộc nói chuyện họ thấy cần phải giữ quan hệ.
Vị trí ngồi khi tiếp khách
Sắp xếp chỗ ngồi giữa khách và chủ như thế nào chủ yếu phụ thuộc vào tiện nghi trong phòng. Khách đến
đàm phán hoặc thảo luận công việc thường được mời ngồi theo hình thức đàm phán - khách ngồi đối diện
với chủ, trong đó trưởng đoàn hoặc người có chức vụ cao nhất của các bên ngồi ở vị trí chính giữa bên
mình. Bàn tiếp khách có thể là hình chữ nhật, bầu dục, hoặc tròn.
Trong các cuộc tiếp khách xã giao, nếu trong phòng là bộ bàn ghế thường dùng để tiếp khách đàm phán, thì
người tiếp chính bên chủ thường ngồi ở đầu bàn (vị trí số 1 trong sơ đồ dưới đây). Những người khác của
bên chủ ngồi một bên. Đoàn khách ngồi một bên, trong đó trưởng đoàn hoặc người có chức vụ cao nhất
trong đoàn khách ngồi gần nhất với người tiếp chính bên chủ (vị trí số 2 trong sơ đồ dưới đây).
Sơ đồ vị trí ngồi trong các cuộc tiếp xã giao
Nếu trong phòng là bộ xa lông, thì người tiếp chính bên chủ và trưởng đoàn bên khách có thể ngồi cạnh
nhau cùng hướng về một phía (như thường thấy trong các cuộc tiếp xã giao khách quốc tế của Lãnh đạo
Đảng và Nhà nước ta), hoặc bên khách và bên chủ ngồi đối diện nhau.
Cấm hút thuốc
Hút thuốc bị cấm ngày càng ở nhiều nơi ở Hoa Kỳ. Bạn luôn luôn phải hỏi xem có được phép hút thuốc hay
không trước khi châm lửa hút thuốc. Pháp luật cấm hút thuốc trên máy bay, trong nhiều nhà hàng, và ở các
nơi công cộng. Hút thuốc thường bị cấm trong các tòa nhà làm việc; do vậy, những người hút thuốc, bất kể
là ai, đều phải ra khỏi nhà và xuống đường để hút thuốc, kể cả trong những ngày mùa đông giá lạnh. Khách
đến làm việc cần hết sức tránh hút thuốc trong phòng làm việc không hút thuốc của bên chủ. Đối với những
cuộc làm việc dài, thường có bố trí thời gian giải lao để cho những người hút thuốc ra ngoài hút thuốc, nếu
không, bạn có thể chủ động xin phép tạm nghỉ để ra ngoài hút thuốc.
Tặng quà
Tặng quà ở Hoa Kỳ không quan trọng như ở các nơi khác trên thế giới, và thậm chí còn có thể gây phiền
toái. Thà là không tặng quà còn hơn là tặng sai hoặc tặng không đúng người. Luật pháp Hoa Kỳ thực tế cấm
các quan chức chính phủ nhận quà trong quá trình thi hành công việc. Những món quà có giá trị từ 50 USD
trở nên đều phải nộp lại cho cơ quan. Các doanh nghiệp cũng thường theo dõi chặt chẽ việc tặng quà. Tặng
quà không phải là một tập quán bình thường ở Hoa Kỳ, nên tặng quà cũng có thể gây bối rối cho người
nhận do họ không chuẩn bị quà để tặng lại hoặc làm bối rối những người khác do họ không mang theo quà
để tặng. Đối với các cuộc tiếp các quan chức cấp cao nước ngoài, bên chủ thường hỏi trước xem bên
khách có mang quà tặng hay không để họ chuẩn bị quà tặng đáp lễ.
Tuy nhiên, người Mỹ có thể vui vẻ nhận lời mời đi uống với bạn tại một quán ba hoặc đi ăn tại một nhà
hàng. Bạn cũng có thể tặng vé hoặc mời họ đi xem biểu diễn văn nghệ hoặc một sự kiện thể thao, hoặc đi
chơi gôn. Những món quà mang tính kỷ niệm và liên quan đến công việc (ví dụ như bút, lịch, giấy ghi lời
nhắn, và những thứ tương tự) cũng có thể được chấp nhận một cách vui vẻ. Những món quà khiêm tốn
(nhưng không phải qúa rẻ tiền) đặc trưng cho nước bạn hoặc công ty bạn (ví dụ như hàng thủ công mỹ
nghệ, sách giới thiệu về đất nước con người, hoặc vật kỷ niệm của công ty, và những thứ tương tự) cũng có
thể dùng làm quà tặng sau khi kết thúc công việc.
Luật chống tham nhũng ở nước ngoài của Hoa Kỳ
Các cuộc điều tra do Uỷ ban chứng khoán và ngoại hối Hoa Kỳ (SEC) tiến hành vào giữa những năm 70
cho thấy trên 400 công ty Hoa Kỳ đã thừa nhận đã trả các khoản tiền bất hợp pháp lên tới trên 300 triệu
USD cho các quan chức, các chính trị gia, và các đảng phái chính trị nước ngoài. Nhằm chấm dứt tình trạng
hối lộ các quan chức nước ngoài và khôi phục lòng tin của công chúng đối với hệ thống kinh doanh Hoa Kỳ,
năm 1977, Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành Luật Chống tham nhũng ở nước ngoài (US Foreign Corrupt
Practices Act - FCPA) ).
Luật này cấm tất cả mọi cá nhân và công ty Hoa Kỳ, kể cả các công ty nước ngoài có phát hành chứng
khoán đã được đăng ký ở Hoa Kỳ hối lộ các quan chức và nhân viên của các đảng phái chính trị, hoặc chính
phủ ở nước ngoài (cán bộ và nhân viên công ty nhà nước cũng coi là quan chức và nhân viên chính phủ).
Các đối tượng chịu sự điều chỉnh của luật này cũng có thể bị coi là vi phạm luật này nếu họ ra lệnh, uỷ
quyền, hoặc giúp đỡ người khác (ví dụ như công ty con hoặc đại lý của họ ở nước ngoài) vi phạm các điều
khoản chống hối lộ của Luật này. Công ty Hoa Kỳ sẽ bị coi là vi phạm luật này khi họ chào hoặc hứa sẽ trả
tiền, hoặc trả tiền (ví dụ như hoa hồng) cho một người nào đó (ví dụ như đại lý bán hàng) mà họ biết rằng
hoặc có lý do để biết rằng toàn bộ hoặc một phần số tiền đó sẽ được dùng để hối lộ các quan chức hoặc
nhân viên của các đảng phái chính trị, hoặc chính phủ ở nước ngoài. Ví dụ, một công ty Hoa Kỳ chấp nhận
trả tỷ lệ hoa hồng cao bất hợp lý cho một đại lý bán hàng ở nước ngoài trong một thương vụ bán thiết bị
quân sự cho chính phủ nước ngoài mà không yêu cầu đại lý này giải thích lý do thì cũng có thể cũng bị coi
là vi phạm luật này.
Trả tiền, hoặc biếu hiện vật/dịch vụ có giá trị nhằm tác động đến một hành động hoặc quyết định tuỳ ý của
quan chức để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình (ví dụ như để xin giấy phép đầu tư, bán hàng,
hoặc giành hợp đồng thầu xây dựng ...) bị coi là hành vi hối lộ.
Tuy nhiên, trả tiền, hoặc biếu hiện vật/dịch vụ chỉ nhằm thúc đẩy các công việc thường lệ của chính phủ
không bị coi là hành vi hối lộ. Ví dụ, trả tiền cho nhân viên hải quan làm ngoài giờ nhằm hoàn thành sớm các
thủ tục hải quan để có thể kịp xếp hàng xuất khẩu hợp pháp xuống tầu không bị coi là vi phạm Luật FCPA
này. Trả tiền phù hợp với các văn bản pháp luật và qui định của nước ngoài cũng không bị coi là hối lộ.
Vi phạm luật chống tham nhũng ở nước ngoài có thể bị xử lý hình sự hoặc dân sự. Công ty có thể bị phạt tới
2 triệu USD. Cá nhân lãnh đạo, nhân viên, đại lý, và cổ đông công ty trực tiếp vi phạm có thể bị phạt tới
100.000 USD, hoặc bị tù tới 5 năm, hoặc phải chịu cả hai hình phạt này. Cá nhân hoặc công ty vi phạm luật
này còn có thể bị cấm làm ăn với chính phủ Hoa Kỳ.
Luật FCPC đã được sửa đổi bổ xung năm 1998. Theo sửa đổi này, công ty hoặc cá nhân người nước ngoài
cũng bị coi là vi phạm luật này nếu họ tiến hành, trực tiếp hoặc thông qua đại lý, việc trả tiền hối lộ trong
phạm vi lãnh thổ Hoa Kỳ.
Thông tin thường xuyên
Giữ liên hệ và thông tin thường xuyên với bạn hàng Hoa Kỳ là rất quan trọng. Các nhà kinh doanh Hoa Kỳ
nổi tiếng là không kiên nhẫn và rất ghét sự im lặng. Họ muốn được thông tin thường xuyên về những diễn
biến trong kinh doanh bất kể là tốt hoặc xấu. Do vậy, ngay cả trong các trường hợp không đáp ứng được
các yêu cầu mua hàng của phía Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên trả lời không đáp ứng được
nhu cầu để giữ quan hệ và liên hệ lại khi có thể. Nếu cần thời gian để nghiên cứu hoặc thu thập thông tin
trước khi trả lời thì cũng nên thông báo cho đối tác biết đã nhận được yêu cầu và sẽ trả lời sau và, nếu có
thể, hẹn thời gian trả lời cụ thể. Không nhất thiết phải chờ có đầy đủ thông tin rồi mới trả lời một thể; Những
nội dung nào có thể trả lời trước thì trả lời; Những nội dung chưa trả lời được thì hẹn trả lời sau.
Ăn ở và đi lại
Khách sạn và nhà nghỉ
ở Hoa Kỳ, đặc biệt là ở trung tâm các thành phố lớn, giá thuê phòng khách sạn rất đắt. Giá phòng tại những
khách sạn xa trung tâm thường rẻ hơn, song ở những khách sạn này chưa chắc đã kinh tế hơn. Các thành
phố ở Hoa Kỳ thường là rất rộng và giao thông công cộng không thuận tiện, (do sử dụng phương tiện ô tô
riêng là chủ yếu) cho nên đi lại từ ngoại ô vào trung tâm thành phố thường phải sử dụng xe thuê hoặc taxi.
Giá thuê xe với người lái hoặc taxi ở Hoa Kỳ rất đắt. Hơn nữa, các khách sạn xa trung tâm thường xa các
dịch vụ công cộng, do vậy khách ở thường phải sử dụng dịch vụ của khách sạn. Dịch vụ của khách sạn
thường đắt hơn dịch vụ ở ngoài.
Ngoài những khách sạn đắt tiền với giá phòng có khi tới 3.000 - 4.000 USD/đêm, ở Hoa Kỳ còn có nhiều
motel (tạm dịch sang tiếng Việt là nhà nghỉ dọc đường) với giá rất rẻ, có khi chỉ khoảng 25 - 30 USD/đêm.
Những motel này có các phòng ở khép kín, sạch sẽ, và có những tiện nghi tối thiểu như TV và điện thoại.
Motel thường thấy ở những điểm nút giao thông, dọc đường cao tốc chính, hoặc ở ven đô. Một số khách
sạn (thường gọi là suite hotel) còn có cả bếp và một số dụng cụ nấu ăn cơ bản.
Các khách sạn thường tính cước điện thoại đắt hơn nhiều lần so với giá cước công cộng. Ngoài ra, nhiều
khách sạn còn tính cả tiền nối mạng (trung bình khoảng 20 - 30 USD). Khách có thể tiết kiệm bằng cách sử
dụng điện thoại di động của cá nhân (điện thoại di động mang từ Việt Nam sang không dùng được vì khác
dải tần) hoặc mua thẻ điện thoại trả tiền trước để gọi qua máy trong phòng khách sạn hoặc máy điện thoại
công cộng. Nhiều khách sạn có điện thoại công cộng ngay trong sảnh (lobby) hoặc trước cửa. Mặc dù có
một số khách sạn thu phí sử dụng máy điện thoại trong phòng để gọi bằng thẻ điện thoại trả tiền trước, song
nếu cộng cả phí này thì gọi bằng thẻ trả tiền trước vẫn rẻ hơn so với sử dụng cả máy và đường dây điện
thoại của khách sạn.
Giá khách sạn cũng thay đổi theo mùa và theo ngày. Giá phòng in trên các tờ rơi hoặc quảng cáo trên các
trang web thường là giá thấp nhất, và chưa kể thuế và dịch vụ. Giá phòng đôi thông thường cao hơn giá
phòng đơn. Giá thuê phòng tại những khách sạn gần khu tổ chức hội chợ triển lãm trong thời gian diễn ra
hội chợ triển lãm có thể cao gấp đôi so với những lúc khác. Do nhu cầu phòng ở trong dịp diễn ra hội chợ
cao, nên nhiều khách sạn yêu cầu phải trả 100% tiền phòng ngay khi đặt phòng. Trong trường hợp không
sử dụng hết số tiền đã trả do giảm số phòng hoặc số đêm ở, khách sạn sẽ giữ số tiền thừa đó để khách
quay trở lại ở lần sau chứ không trả lại tiền.
Những khách sạn phục vụ chủ yếu đối tượng khách du lịch (ví dụ như các khách sạn ở gần các khu nghỉ
hoặc vui chơi giải trí) thì giá phòng thường cao hơn vào dịp cuối tuần vì khách thường đến đông vào những
ngày này. Những khách sạn phục vụ chủ yếu đối tượng khách đến ở vì công việc (ví dụ như các khách sạn
hạng sang ở khu trung tâm thương mại) thì giá phòng trong những ngày làm việc thường cao hơn giá vào
cuối tuần.
Đặt phòng trên mạng Internet (thông qua trang web của các hãng du lịch hoặc của khách sạn) thông thường
rẻ hơn so với gọi điện thoại đặt trực tiếp với khách sạn (vì khách sạn thường có hợp đồng giá ưu đãi cho
các hãng du lịch, hoặc không tốn nhân lực để trả lời điện thoại). Hơn nữa, đặt phòng càng sớm thì giá
thường càng rẻ hơn. Tuy nhiên, khi đặt phòng qua trang web trên mạng Internet cần phải chú ý các điều
kiện qui định trong đó, nhất là các điều kiện về đặt cọc, trả tiền, và huỷ phòng. Nhiều trường hợp, nhất là
trường hợp đã trả một phần hoặc toàn bộ tiền trước khi hủy phòng không lấy lại được tiền. Hầu hết các
hãng du lịch đều có thể chào trọn gói phòng khách sạn, vé may bay, và cho thuê xe. Giá trọn gói thường rẻ
hơn so với tổng giá đặt lẻ cộng lại.
Trong các khách sạn thường có một số phòng dành cho những người hút thuốc. Khi nhận phòng tại khách
sạn, người hút thuốc cần phải đăng ký ở những phòng này và tuyệt đối không được hút thuốc trong phòng
"không hút thuốc". Trong một số nhà hàng có thể có khu vực dành riêng cho người hút thuốc. Nếu bạn
muốn hút thuốc trong khi ăn thì bạn cần phải chọn chỗ ngồi ở khu vực này.
ở một số khách sạn ở Hoa Kỳ, nhất là ở những thành phố đông người như New York hoặc San Francisco
chẳng hạn, có thể xẩy ra mất hành lý khi để ở sảnh; do vậy, khách phải cẩn thận với hành lý của mình và
không nên để hành lý tại sảnh khách sạn mà không có người trông. Nếu bạn đã trả phòng mà không muốn
mang hành lý đi theo bạn có thể gửi lại khách sạn không mất tiền trong một vài ngày, và phải nhớ lấy và giữ
phiếu gửi hành lý để xuất trình khi nhận lại hành lý.
Đi lại bằng máy bay
ở Hoa Kỳ, có tới vài chục hãng hàng không (không kể các hãng nước ngoài) kinh doanh các tuyến bay nội
địa. Mỗi hãng mạnh ở một số tuyến khác nhau, nhằm vào những đối tượng khách khác nhau, và với các
điều kiện dịch vụ khác nhau nên giá vé cũng rất khác nhau, có khi chênh nhau đến 2 - 3 lần trên cùng tuyến
bay. Bay thẳng thường đắt hơn nhiều (nhưng tiết kiệm được nhiều thời gian) so với phải chuyển máy bay
dọc đường. ở một thành phố hoặc xung quanh đó có thể có hai ba sân bay khác nhau; do vậy, bạn phải báo
cho người ra đón mình biết rõ sây bay bạn sẽ đến hoặc khi mua vé máy bay bạn phải chọn sân bay gần với
địa điểm đến.
Cũng giống như khách sạn, giá vé máy bay thay đổi theo mùa, theo ngày và theo giờ bay. Bay vào những
giờ không thuận tiện, nhất là vào đêm khuya hoặc sáng sớm giá vé thường rẻ hơn. ở Hoa Kỳ, có thể mua
vé máy bay trên mạng Internet một cách dễ dàng. Nói chung, bạn nên truy cập trang web của nhiều hãng
hàng không khác nhau hoặc nhiều hãng du lịch khác nhau để so sánh và lựa chọn phù hợp nhất với mình.
Khi mua vé trên mạng cần đặc biệt chú ý đến các điều kiện giao dịch vì có loại vé đã mua rồi không trả lại
được hoặc có một số điều kiện ràng buộc khác. Vé máy bay mua qua mạng Internet có khi chỉ những thông
tin in ra từ máy tính trong đó có ghi tên hành khách, chuyến bay, và giá vé.
Do hậu qủa của Vụ khủng bố 11/9/2001, việc kiểm tra an ninh tại các sân bay ở Hoa Kỳ hiện nay rất chặt
chẽ và phiền toái. Hành lý gửi cùng chuyến bay không được khóa để thuận tiện cho kiểm tra an ninh. Nếu
khóa, nhân viên an ninh được quyền phá khóa để kiểm tra. Ngoài hành lý xách tay, hành khách còn phải cởi
cả áo khoác (kể cả com lê), giầy, thắt lưng, mũ để đưa qua máy chiếu. Máy tính xách tay có thể phải bật lên
để chứng tỏ máy hoạt động bình thường. Sau khi đi qua cổng từ, hành khách còn có thể bị kiểm tra xác suất
bằng dụng cụ dò kim loại trên người.
Những hành khách mang quốc tịch hoặc đến từ những nước mà Hoa Kỳ cho là thù địch với họ thường là
những đối tượng bị kiểm tra chặt chẽ hơn. Để tránh những phiền toái có thể xẩy ra, nếu bạn có nhận mang
hộ ai đó thứ gì ra hoặc vào Hoa Kỳ, bạn cũng nên kiểm tra cẩn thận để tránh nhận mang những thứ bị cấm
mà mình không biết. Các đồ dùng bằng kim loại nhọn sắc (dao, kéo, bấm mong tay...) không được phép
mang theo trong hành lý xách tay.
Nhằm hạn chế một phần nguy cơ không tặc cướp máy bay để đâm vào các mục tiêu ở Thủ đô Washington
D.C., Cơ quan an toàn hàng không Hoa Kỳ gần đây qui định hành khách trên các chuyến bay cất đi từ hoặc
đến sân bay Ronald Reagan (sân bay nằm trong địa phận Thủ đô Washington D.C.) phải ngồi yên tại chỗ
trong vòng 30 phút đầu sau khi máy bay cất cánh và 30 phút cuối trước khi máy bay hạ cánh. Do vậy, bạn
cần phải chuẩn bị sẵn sàng để không phải đi vệ sinh trong thời gian này.
Trên một số tuyến bay nội địa, có một số hãng hàng không không xếp chỗ ngồi (ghi trên thẻ lên máy bay)
cho khách trên máy bay mà để khách tự chọn chỗ ngồi theo ý thích. Trong trường hợp này, trên thẻ lên máy
bay của khách chỉ ghi các ký hiệu A hoặc B hoặc C. Tại cửa lên máy bay hành khách xếp hàng theo hàng
ghi trên thẻ. Thông thường khách xếp ở hàng A được mời lên máy bay trước, tiếp đến là hàng B, và sau đó
là hàng C.
Để tiết kiệm tối đa chi phí và có thể hạ giá vé tới mức thấp nhất, hầu hết các hãng hàng không không phục
vụ bữa ăn trên các tuyến bay nội địa, ngoài nước uống.
Khi nhập cảnh vào Mỹ bạn nhớ không nên mang theo thực phẩm tươi sống (kể cả rau quả). Những thứ này
bị cấm mang theo người vào Mỹ do sợ mang theo dịch bệnh truyền nhiễm.
Đi lại bằng ô tô
Các thành phố ở Hoa Kỳ thường rất rộng. Phương tiện giao thông chính ở Hoa Kỳ là ô tô cá nhân. Mặc dù
một số thành phố (New York, Chicago, Washington DC ...) có hệ thống tầu điện ngầm và/hoặc xe buýt khá
thuận tiện, song nhìn chung hệ thống giao thông công cộng ở Hoa Kỳ rất kém. Khách nước ngoài đến Hoa
Kỳ làm việc, nhất là mới đến lần đầu, thường phải sử dụng tắc xi hoặc xe thuê với người lái. Những người
thông thạo đường sá và có bằng lái xe hợp lệ có thể thuê ô tô tự lái để đi lại.
Giá thuê ô tô để tự lái, và giá xăng ở Hoa Kỳ rất rẻ. Giá thuê xe 4 chỗ để tự lái một ngày (24 tiếng) chỉ
khoảng 40-50 USD. Giá xăng hiện tại ở Hoa Kỳ cũng chỉ tương đương 7.000 - 8.000 đồng Việt Nam/lít.
Thuê xe để tự lái ở Hoa Kỳ rất dễ dàng, song bạn cần phải có thẻ tín dụng thông dụng. Do giá nhân công
lao động ở Hoa Kỳ rất đắt nên giá thuê xe cùng với người lái khá đắt. Ví dụ, giá thuê xe 40-50 chỗ cùng với
người lái tại New York rẻ nhất cũng phải 80-100 USD/giờ, tối thiểu phải thuê 4 giờ một ngày, chưa kể tiền
típ cho lái xe. ở một số thành phố khác giá thuê có thể còn đắt hơn.
ở những thành phố như Washington DC, San Francisco, New York và Chicago..., taxi có thể là phương tiện
phù hợp nhất để đi lại trong thành phố đối với khách lạ. Đối với các thành phố lớn như Miami, Houston, và
Los Angeles, do khoảng cách từ nơi nọ đến nơi kia rất xa, cho nên taxi có thể đắt đến mức không chịu nổi.
Hơn nữa, vẫy xe taxi trên đường ở những thành phố này cũng rất khó và thường là phải gọi điện thoại đến
hãng taxi để đặt xe.
Cho tiền phục vụ
ở Hoa Kỳ có tập quán cho tiền phục vụ (tiếng Anh là "tip"). Tập quán này được pháp luật thừa nhận và thu
nhập tiền tip cũng phải chịu thuế. Nếu bạn nhờ người khuôn vác trong khách sạn mang hành lý cho bạn từ
sảnh lên phòng hoặc ngược lại thì bạn nên cho họ khoảng 1 USD mỗi kiện. Tại các nhà hàng bạn nên cho
phục vụ khoảng từ 15 - 20 % trị giá hoá đơn. Tiền tip cho lái xe tắc xi, thợ cắt tóc, hoặc người phục vụ ở
quán ba cũng vào khoảng 15% trị giá dịch vụ. Đối với lái xe thuê đưa đón đoàn đi làm việc hàng ngày, bạn
cũng nên cho họ mỗi ngày khoảng 10 -15 USD.
Có người quan niệm đây là khoản cho tuỳ ý - tức là, nếu phục tốt hoặc tôi thích thì tôi cho còn không cũng
chẳng sao. Nhưng thực tế không phải như vây. Tuy đây không phải là khoản cho bắt buộc nhưng cũng gần
như bắt buộc. Khách hàng sẽ bị ấn tượng rất xấu, và bị đối xử không thân thiện hoặc thậm chí hằn học nếu
không cho tiền tip. Có nhà hàng tự động tính tiền tip gộp vào trong hóa đơn tiền ăn. Bạn nên để ý nếu trong
hóa đơn đã có khoản tiền ghi là "service charge" hoặc "gratuity" thì bạn không phải cho thêm tiền tip nữa.
Nếu bạn trả tiền bằng thẻ tín dụng thì bạn có thể cộng cả tiền tip vào tiền hóa đơn trước khi ký chấp nhận
trả tiền.
Giờ làm việc và ngày nghỉ
Giờ làm việc hàng ngày phổ biến nhất là từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều, trong đó có khoảng nửa đến một
tiếng ăn trưa. Các ngân hàng thường mở cửa từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Tuy nhiên, cũng có nhiều
ngoại lệ. Nhiều nơi có thể bắt đầu và kết thúc ngày làm việc sớm hơn. Các công ty kinh doanh thường làm
việc nhiều giờ hơn và kết thúc ngày làm việc muộn hơn. Có ngân hàng mở cửa sớm hơn và đóng cửa muộn
hơn thông thường. Một số công ty áp dụng chế độ giờ làm việc linh hoạt để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân
viên, nhất là trong việc đưa đón con đi học.
ở Hoa Kỳ không có qui định ngày nghỉ thống nhất trong cả nước. Về nguyên tắc, những ngày nghỉ liên bang
chỉ áp dụng với thủ đô Washington DC và các nhân viên thuộc các cơ quan liên bang. Chính quyền các
bang quyết định các ngày nghỉ trong bang mình. Nhìn chung, các bang đều nghỉ theo các ngày nghỉ liên
bang. Các ngày nghỉ ở Hoa Kỳ thường vào thứ Hai trong tuần để tránh gián đoạn công việc, đồng thời tạo
thuận lợi cho sinh hoạt gia đình, nhất là nếu muốn đi nghỉ xa nhà. ở Hoa Kỳ có 10 ngày nghỉ chính trong
năm là:
Tết Dương lịch: Ngày 1 tháng 1
Ngày Martin Luther King: Thứ Hai tuần thứ ba tháng 1
Ngày Tổng thống: Thứ Hai tuần thứ ba tháng 2
Ngày Tưởng nhớ: Thứ Hai tuần cuối tháng 5
Ngày Độc lập: Ngày 4 tháng 7
Ngày Lao động: Thứ Hai tuần đầu tháng 9
Ngày Columbus: Thứ Hai tuần thứ hai tháng 10
Ngày Cựu chiến binh: Ngày 11 tháng 11
Ngày Tạ ơn: Thứ Năm tuần thứ tư tháng 11
Ngày Nô en: Ngày 25 tháng 12
Nếu Tết dương lịch, Ngày Độc lập, hoặc Ngày Nô en rơi vào cuối tuần thì được nghỉ bù vào thứ Sáu trước
đó hoặc thứ Hai sau đó. Khi những ngày nghỉ lễ này rơi vào thứ Năm hoặc thứ Ba, thông thường các công
ty cho nghỉ luôn một mạch cho đến hết tuần hoặc hết ngày lễ.
Nếu không phải vì những công việc cấp thiết thì các nhà kinh doanh nước ngoài không nên đến Hoa Kỳ để
bàn chuyện kinh doanh vào tuần trước Nô en và tuần sau Tết dương lịch. Nhiều người ở Hoa Kỳ nghỉ làm
từ Nô en đến hết Tết dương lịch; vì vậy, họ thường bận rộn vào dịp trước và sau đó.
Tìm hiểu Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Mỹ
Chuẩn bị khi đàm phán
Lưu ý:
Tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến tại Mỹ. Làm việc với doanh nhân Mỹ, bạn cần nói tiếng Anh rõ ràng và
chính xác hơn. Tại Mỹ, trang phục công sở rất quan trọng và nó phản ánh bộ mặt của công ty. Các doanh
nhân Mỹ rất nhạy cảm với tiêu chuẩn ăn mặc. Không nhất thiết phải nêu các học vị trên danh thiếp - card
visite. Người Mỹ sẽ ấn tượng hơn với kiến thức của bạn về thị trường, sản phẩm và công ty họ. Số phone
và fax của bạn trên card nên có mã số quốc tế của nước mình.
· Lên kế hoạch những cuộc họp đàm phán trước ít nhất là 1 tháng đến 6 tuần hoặc ngay khi biết chi tiết
về chuyến đi của bạn
· Xác nhận lại cuộc hẹn một ngày trước đó và không bao giờ đến địa điểm họp mà không báo trước.
· Doanh nhân Mỹ hiếm khi rời khỏi công ty để gặp đối tác, nên, bạn phải đến gặp họ tại công sở hoặc
một địa điểm họ lựa chọn
· Đảm bảo rằng tất cả những thông tin cần thiết đã sẵn sàng, trong đó có giá cả, điều kiện thanh toán,
tính năng sản phẩm và các điều kiện giao dịch khác.
Trong đàm phán
Những cuộc gặp và đàm phán trực tiếp là yếu tố quan trọng khi kinh doanh tại Mỹ. Để không khỏi bị sốc,
bạn cần lưu ý những điểm sau:
Card của bạn sẽ không bị từ chối nhưng không phải lúc nào bạn cũng nhận lại card của đối tác. Ở Mỹ, việc
trao card cho nhau không quan trọng như ở những nền văn hoá khác. Đối tác nhận card của bạn sẽ được
cất vào trong ví, nhưng đôi khi một số người sẽ nhét ví vào túi quần sau. Cử chỉ này chỉ để thuận tiện chứ
không phải là hành động coi thường đối tác như trong những nền văn hoá khác. Trong nhiều trường hợp,
card không được thường xuyên trao đổi nếu như bạn không muốn liên hệ với người đó lần sau.
Thông thường, công việc kinh doanh được tiến hành với tốc độ chóng mặt. Trong một cuộc họp, những
người tham gia sẽ bắt tay vào công việc chỉ sau một số câu hỏi thăm xã giao.
Nhiều người Mỹ tin rằng, đất nước họ là một trong nền kinh tế thành công nhất và thể chế dân chủ nhất và
cho rằng cách thức của người Mỹ luôn luôn đúng. Thái độ này thường dẫn đến sự thiếu quan tâm hoặc
không thông hiểu các nền văn hóa khác của doanh nhân Mỹ.
Nguyên tắc thời gian là vàng bạc rất được coi trọng trong văn hoá kinh doanh Mỹ, vì vậy phải luôn luôn đi
ngay vào trọng tâm vấn đề. Ở Mỹ , tiền bạc là ưu tiên hàng đầu và là yếu tổ quyết định chiến thắng trong
các thương vụ. Trong các cuộc thương lượng, doanh nhân Mỹ thường nhấn mạnh vào khả năng tài chính
và vị thế của mình. Thông thường, khi có ưu thế, họ không ngần ngại sử dụng chúng và tốn ít thời gian vào
việc thoả thuận, nhân nhượng.
Lưu ý
Mỹ là một xã hội thích kiện tụng nhất thế giới. Có những luật sư chỉ chuyên về một ngành, một lĩnh vực
trong xã hội. Thông thường, người Mỹ sẽ không do dự khi nói không. Doanh nhân Mỹ rất thẳng thừng và
không do dự bày tỏ thái độ bất đồng với bạn.
Mặc dù là những người ưa mạo hiểm, doanh nhân Mỹ vẫn theo đuổi một kế hoạch tài chính đã định sẵn.
Thông thường, ngay từ cuộc gặp đầu tiên, doanh nhân Mỹ đã tìm cách vạch ra một thoả thuận miệng.
Người Mỹ thường không thích những khoảng lặng trong quá trình đàm phán, họ thường quyết định rất
nhanh và quyết đoán.
Kiên trì là một phẩm chất khác ở doanh nhân Mỹ, vì họ tin tưởng rằng luôn luôn tìm ra giải pháp. Ngoài ra,
họ tính đến nhiều khả năng khi cuộc đàm phán lâm vào bế tắc.
Nhất quán cũng là một phẩm chất khác của doanh nhân Mỹ: khi họ đã nhất trí về một hợp đồng nào đó,họ
hiếm khi thay đổi.
Nhớ rằng, mức giá đầu tiên chỉ bắt đầu ở mức thương lượng, phía Mỹ sẽ chờ đợi vài lần chào hàng và
hoàn giá tiếp theo trước khi đạt được giá cả thoả thuận.
Tham khảo ý kiến luật sư về bất kỳ hợp đồng đã thoả thuận được
Kết thúc cuộc họp bằng việc chủ động hẹn một cuộc họp tiếp theo, không nên chờ đợi đối tác của mình làm
việc này.
Một số lưu ý khác
• Không hút thuốc trong phòng làm việc.
• Bạn hàng Mĩ không hay mời ăn uống chiêu đãi lẫn nhau như khách hàng một số nước châu Á. Nếu họ
nói : mời đi ăn trưa thì thông thường ai ăn người đó trả tiền. Nếu họ mời: Tôi mua bữa trưa mời bạn, thì mới
có nghĩa là họ trả tiền cho bạn.
• Doanh nhân châu Á thường hay cố gắng làm thân với nhau để kinh doanh. Doanh nhân Mĩ -nhất là công
ty lớn thì tách bạch giữa khách công việc và bạn bè.
• Ngày nghỉ ngày lễ doanh nhân Mĩ muốn dành riêng cho nhu cầu cá nhân, gia đình, nên tránh giao dịch
vào thời điểm trước sau những ngày này .
• Không nên ghi điện thoại di động, nhà riêng vào danh thiếp mà chỉ cho ai thật cần thiết.
Văn hóa kinh doanh Trung Quốc
Đất nước Trung Quốc đổi mới
Nếu bạn muốn làm ăn với các đối tác người Hoa, bạn phải thực sự tôn trọng những phép tắc kinh doanh
của họ. Người Trung Quốc (TQ) rất coi trọng sự đúng hẹn. Họ sẽ không bao giờ đợi nếu bạn không đúng
giờ.
Kể từ năm 1978, khi Trung Quốc mở cửa cho đầu tư và thương mại tự do, đất nước này đã có những thay
đổi chóng mặt về cả kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại rất nhiều những đặc thù truyền thống
trong văn hoá kinh doanh của TQ, một đất nước với những nghi thức và phép tắc cố hữu được xây dựng
trên nền tảng về văn hoá và lịch sử lâu đời. Hiểu biết về giá trị văn hoá và đạo đức trong kinh doanh là một
điều quan trọng khi "bắt tay" với các doanh nhân người Hoa.
Đối với người TQ, "Guanxi" theo nghĩa là quan hệ hay mối liên kết có một tầm quan trọng đặc biệt. Thiết lập
được một mạng lưới các mối quan hệ giữa các cá nhân và tổ chức là một hoạt động chủ chốt trong chiến
lược kinh doanh. Từ nhiều thế kỷ trước, đó là cách duy nhất để mọi thứ xuôi chéo mát mái. Ngày nay, yêu
cầu xây dựng mối quan hệ tương trợ dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau vẫn mang ý nghĩa sống còn để thành
công.
Bên cạnh đó, "Mian-zi" với nghĩa là "thể diện", sự hãnh diện cá nhân là điều luôn được giữ gìn, gắn liền với
địa vị xã hội và danh tiếng của mỗi cá nhân. Trong văn hoá kinh doanh của người Hoa, "giữ thể diện", "mất
thể diện" hay "đem lại thể diện" có một sự tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh. Việc bạn khiến cho
ai đó mất thể diện trong tổ chức có thể gây ra sự bất đồng nghiêm trọng. Ngược lại, việc khen ai đó trước
mặt các đồng nghiệp khác là một hình thức "đem lại thể diện" và có thể tạo ra sự tôn trọng, sự trung thành
của cấp dưới.
"Keqi" dựa trên sự kết hợp của hai âm tiết "ke" có nghĩa là khách mời và "qi" là ứng xử cũng là một từ được
đặt lên hàng đầu khi thiết lập các mối quan hệ kinh doanh. Thể hiện sự khiêm tốn, nhún nhường thì quan
trọng trọng hơn việc bộc lộ khả năng ngay lúc đầu, việc thể hiện bản thân quá sớm với các đối tác TQ dễ bị
gây nghi ngờ.
Theo Times, nếu bạn muốn làm ăn với các doanh nhân TQ, bạn phải thực sự tôn trọng những phép tắc kinh
doanh của họ. Người TQ rất quan trọng sự đúng hẹn. Họ sẽ không bao giờ đợi nếu bạn không đúng giờ.
Hiếm người TQ nào đặt quan hệ làm ăn với người mà họ không biết rõ ràng. Do đó, hãy giới thiệu thật kỹ
bản thân để tạo niềm tin khi bước đầu bắt tay vào kinh doanh. Thêm vào đó, bạn cũng cần nắm rõ thứ bậc
trong tổ chức công ty. Người TQ nhìn nhận mỗi cá nhân là một thành phần trong hệ thống bậc thang của tổ
chức. Bạn đừng vào phòng họp trước người có chức danh cao hơn bạn.
Quan hệ lâu dài cũng được xem là có giá trị hơn sự giao dịch, giải quyết công việc nhất thời. Vì thế, đừng
vội vã "tấn công", sự tin cậy là điều cần xây dựng trước và khiêm tốn cộng với kiên nhẫn chính là chìa khoá
của thành công.
Bạn cũng đừng coi thường những điều tưởng chừng nhỏ nhặt như trao đổi danh thiếp. Danh thiếp nên được
in một mặt bằng tiếng Anh và một mặt bằng tiếng Trung. Khi đưa danh thiếp nên đưa bằng cả hai tay và lật
mặt tiếng Trung lên trên. Khi bạn nhận danh thiếp, đừng nhét luôn vào túi mà hãy đọc cẩn thận và đặt thiếp
lên trên bàn để thể hiện sự tôn trọng. Nếu viết thông tin về đối tác, bạn cần viết tên gắn liền với chức danh
hoặc gọi một cách trân trọng là "ông" hay "bà".
Đối với người TQ, né tránh giao tiếp bằng mắt cũng bị coi là không đáng tin cậy. Bạn cũng không nên từ
chối trực tiếp, sẽ bị coi là ứng xử thiếu lịch sự. Thay vì trả lời "Không" một cách dứt khoát, bạn nên nhẹ
nhàng và tế nhị hơn để giữ thể diện cho đối tác. "Có thể" hay "Tôi sẽ suy nghĩ về điều đó" là cách từ chối
thường thấy của người Hoa.
Thu Lê
Người Hoa trong kinh doanh: Chữ tín là vốn quí nhất
Đối với người Hoa, chữ "tín" được coi là số 1 trong làm ăn, kinh doanh, thậm chí chữ "tín" còn
được xem là chiến lược, là phương pháp kinh doanh.
Ai không có chữ "tín", không giữ lời hứa mà làm trái đi sẽ không được giữ lại trong hệ thống buôn bán, làm
ăn của họ. Bên cạnh đó, gia đình, thân tộc, cộng đồng là chỗ dựa, là nền tảng ban đầu để người Hoa lập
nghiệp kinh doanh.
Khát vọng làm ăn lớn
Làm việc nhiều năm với các doanh nghiệp người Hoa, ông Lê Phụng Hào - Phó tổng giám đốc Công ty Cổ
phần Kinh Đô - nhìn nhận: "Người Hoa có tầm nhìn kinh doanh rất dài hơi. Họ luôn nhạy bén, có khát vọng
đột phá, đi đầu và làm ăn lớn. Chữ "tín" cũng xuất phát từ chỗ này".
Chỉ sau 13 năm, từ một phân xưởng và một trụ sở nhỏ tại quận 6, Tp.HCM, đến nay Kinh Đô đã có chín
công ty từ Bắc chí Nam. Từ qui mô chỉ có 70 cán bộ công nhân viên, Công ty Cổ phần Kinh Đô nay có trên
6.000 cán bộ công nhân viên với doanh số năm 2006 là 2.000 tỉ đồng, nộp thuế 120 tỉ đồng.
Theo ông Hào, việc chuyển từ cơ sở gia đình sang công ty TNHH rồi công ty cổ phần và đưa cổ phiếu lên
sàn là quá trình "nỗ lực tự lột xác" của Kinh Đô cũng như một số doanh nghiệp người Hoa khác. Trong thời
buổi hội nhập, họ đã có những bước dần thoát khỏi tập quán làm ăn theo kiểu gia đình.
Tại một hội thảo mới đây, TS. Trần Khánh, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, cho rằng người Hoa đặt sự tồn
tại và thành đạt của mình trong sự phát triển chung của tập thể cộng đồng doanh nghiệp. Luôn gắn kết chức
năng kinh tế và chức năng xã hội trong hoạt động doanh nghiệp. Coi trọng đầu tư mở rộng uy tín xã hội. Đề
cao hoạt động doanh nghiệp, coi đó là phương tiện chính để cải thiện cuộc sống cá nhân...
Tại Tp.HCM, chỉ chiếm 7% dân số nhưng doanh nghiệp của người Hoa chiếm đến 30%/tổng số doanh
nghiệp thành phố. Số doanh nghiệp này đã đóng góp lớn cho nền kinh tế TP.HCM trong nhiều năm qua.
Riêng năm 2006, cộng đồng người Hoa đã đóng góp cho TP nhiều doanh nghiệp có sản phẩm chủ lực, như
Công ty TNHH Dây cáp điện Tân Cường Thành (sản phẩm dây điện, cáp điện); Công ty Cổ phần Hữu Liên -
Á Châu (sản phẩm ống thép); Công ty Cổ phần Kinh Đô (bánh cookies, bánh cracker); Công ty Sản xuất -
Thương mại Thiên Long (bút viết); Công ty Dệt Thái Tuấn (sản phẩm gấm phi lụa).
Chữ "tín" giá ngàn vàng!
Câu chuyện của ông Lý Ngọc Minh, Giám đốc Công ty TNHH Minh Long 1 (Bình Dương, chuyên về sản
phẩm gốm sứ), bắt đầu bằng chữ "tín".
"Trong công việc, giao thương người Hoa đặt chữ "tín" lên hàng đầu. Có chữ "tín" là có tất cả. Chữ "tín"
đáng giá ngàn vàng. Có chữ "tín" không cần vốn người ta vẫn có thể giao hàng cho anh bán", ông Minh
khẳng định.
Chữ "tín" của người Hoa không cầu kỳ, không hoa mỹ. Đơn giản: nó là sự tin thực, không gian dối, không
lươn lẹo, là sự tin cậy nhau trong quan hệ làm ăn. Cũng nhờ chữ "tín" mà lâu nay người Hoa rất đơn giản
thủ tục, giấy tờ, giảm thiểu việc ký tá, hợp đồng, giao kèo và rất ít tranh chấp, kiện cáo nhau ra tòa.
Theo ông Minh, nếu có vướng mắc gì đó mà hai bên giải quyết không xong, thường người Hoa nhờ người
có uy tín hoặc mời người được trọng nể trong hội, trong nghề đứng ra phân giải là êm thấm.
Chữ "tín" là vốn liếng quí giá mà ông Minh mang theo suốt cuộc đời mình, đồng thời truyền lại cho con cháu.
Nhờ chữ "tín" của cha và gia đình ông, nên ngay những ngày đầu thử khởi nghiệp nghề gốm sứ cách đây
37 năm cùng với người anh em kết nghĩa là Dương Văn Long (hiện là chủ doanh nghiệp Minh Long 2,
chuyên về gốm sứ công nghiệp), ông Minh đã được chủ xưởng thạch cao Minh Phát ở Lái Thiêu bán thiếu,
bán chịu nguyên liệu.
Gốm sứ Minh Long hiện đã nổi tiếng trên thị trường trong và ngoài nước, sẵn sàng cạnh tranh với bất cứ
sản phẩm nào cùng loại, ông Minh có kinh nghiệm nào cho sự thành công? "Đơn giản, rất đơn giản, đó là
niềm đam mê. Nhưng để nuôi được niềm đam mê đó thì không đơn giản chút nào", ông Minh nói.
Theo ông, đam mê phải bắt nguồn từ cái tâm chứ không phải từ đầu óc. Sự đam mê đã thôi thúc ông Minh
đi từ Nam ra Bắc, từ Á sang Âu đào từng cục đất, học từng nét cọ, xem từng dây chuyền công nghệ để rồi ở
mỗi nơi ông tích góp từng chút, từng chút những điều hay, những nét đẹp gom về cho sản phẩm của mình.
Quan niệm của ông Minh là "tận nhân lực rồi mới tri thiên mệnh", tức phải làm hết sức mình rồi mới nói số
trời.
"Tuy nhiên điều đó sẽ vô nghĩa nếu như không có những người anh em, không có cộng đồng", ông Minh
nói. Tại Bình Dương có hàng trăm cơ sở làm nghề gốm sứ, hầu hết là của người Hoa. Mỗi người chủ, mỗi
cơ sở đều có một bí quyết riêng, ai cũng cố để giữ gìn nhưng trong quan hệ công việc, trong cuộc sống, họ
sẵn sàng giúp nhau, kể cả chuyện tiền bạc, mối mang.
"Nhớ những lúc khó khăn, lúc mới vào nghề, tôi phải mang sản phẩm của mình sang nung nhờ ở những lò
nung của người khác. Không ai từ chối. Tuy là việc nhỏ nhưng nếu không có những lần đó, chưa chắc tôi có
được ngày hôm nay", ông Minh nhớ lại.
Ông Minh cũng không quên nhắc đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Bình Dương trong
suốt thời gian qua. "Đó là nguồn động viên, cổ vũ rất lớn đối với tôi", ông Minh cho biết.
* Những đặc trưng về văn hóa kinh doanh của người Hoa
- Nền tảng gia đình và chữ "tín" là báu vật.
- Đề cao vai trò của tổ chức xã hội, nghiệp đoàn truyền thống.
- Chấp nhận mạo hiểm và quyết đoán trong kinh doanh, được sự giúp đỡ đắc lực của tập thể, gia đình và
bạn bè.
- Đa dạng hóa, đa phương hóa hoạt động đầu tư.
- Kết hợp giữa cách làm truyền thống với kiến thức và thực tiễn kinh doanh hiện đại...
(TS. Trần Khánh, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á)
10 bí quyết kinh doanh ở Trung Quốc
1. Biết mình, biết người
Có rất nhiều cơ hội kinh doanh tại Trung Quốc nhưng đừng nghĩ là người tiêu dùng bản địa dễ dãi, chỉ một
sự lựa chọn là đủ. Sản phẩm hay dịch vụ của bạn cần phải thay đổi cho phù hợp với nhu cầu và lợi ích của
người dân địa phương. Việc dành thời gian tìm hiểu người tiêu dùng trước khi xâm nhập thị trường là rất
quan trọng. Ở các quốc gia châu Á, chính quyền rất sẵn lòng tư vấn thị trường miễn phí.
2. Bàn đạp Hồng Kông
Cái lợi lớn nhất của việc sử dụng Hồng Kông làm căn cứ để xâm nhập thị trường Trung Quốc là do vùng
lãnh thổ này có cơ sở hạ tầng tài chính và pháp luật rất đầy đủ và đáng tin cậy; mức thuế trung bình ở mức
thấp (15%); dễ dàng thành lập doanh nghiệp và có thể thuê nhân viên và tư vấn người địa phương có kinh
nghiệm, nói tiếng Anh tốt.
3. Học ăn, học nói
Cách thức đàm phán kinh doanh của người Mỹ và người Trung Quốc rất khác nhau. Chào bằng tiếng Hoa
và trao danh thiếp bằng hai tay thể hiện sự bày tỏ lòng kính trọng và chắc chắn ngay sau đó bạn sẽ nhận
được sự tôn kính từ họ.
4. "Người thứ ba"
Nên biết rằng quan hệ marketing quốc tế tại Trung Quốc nói riêng và châu Á nói chung chỉ hiệu quả khi bạn
xây dựng quan hệ và làm việc trực tiếp với đội ngũ nhân viên người bản địa. Hãy sử dụng "trung gian" bởi
đó là điều không thể thiếu khi làm việc với người Trung Quốc, thậm chí ngay cả sau khi bạn đã từng gặp gỡ
đối tác.
5. Có đi, có lại
Các công ty Trung Quốc đang đẩy mạnh xâm nhập thị trường nước ngoài. Nếu bạn ra tay giúp thì khi cần
họ sẽ đáp lại nhiệt tình hơn.
6. Biết "lì xì"
Khi ai đó giới thiệu bạn với đối tác, hãy "cám ơn" họ, và nếu có thể nên kín đáo gửi họ một khoản tiền nhỏ.
Người Trung Quốc có thể xua tay nói không, nhưng bạn đừng thấy thế mà "đóng hầu bao lại". Người Trung
Quốc không nói thẳng như người Mỹ, họ nói thế nhưng không hoàn toàn là thế!
7. Nói đi đôi với làm
Bạn cần biết kiên trì và nhẫn nại thì mới có nhiều khả năng giành thắng lợi. Mặc dù người Trung Quốc có
thể không phản ứng khi bạn tiếp xúc với họ hoặc làm như họ không quan tâm tới những gì bạn chào mời,
song nên nhớ rằng, những hành động nỗ lực thu hút họ chú ý quan trọng hơn rất nhiều những lời mời chào
"suông" của bạn.
8. Đừng tiếc thời gian nhậu
Gặp gỡ đối tác trong bữa trưa hay bữa tối là cơ hội để bạn thấy đừng quá vội vàng mà cần phải chậm bước
khi kinh doanh tại Trung Quốc. Các bữa ăn tại Trung Quốc thường kéo dài hơn thời gian bạn nghĩ. Hãy kiên
nhẫn và linh hoạt. Khoảng thời gian giao tiếp trên bàn ăn chính là sự đầu tư cho hoạt động kinh doanh trong
tương lai của bạn ở xứ sở này.
9. Không phát ngôn bừa bãi
Nhã nhặn và chín chắn là hai điều rất quan trọng. Không người Trung Quốc nào muốn làm ăn, kể cả trên
mạng hoặc trên thực tế, với những người không tôn trọng cách sống và cách kinh doanh của họ. Hãy thận
trọng khi đưa ra những lời bình luận về chính trị. Người Trung Quốc không muốn bày tỏ ý kiến với bạn về
những gì họ nghĩ về chính sách của Chính phủ, trừ khi bạn cực kỳ thân thiết với họ.
10. Chiến thuật số đông
Để có được sự hiện diện và mang lại lợi nhuận cho bạn tại Trung Quốc đòi hỏi phải có những sản phẩm bảo
đảm chất lượng, giá cả phù hợp với túi tiền của đa số người dân.Và tốt nhất là nên cố gắng khơi gợi người
tiêu dùng ham muốn sử dụng sản phẩm của bạn.
Văn hoá tặng quà trong kinh doanh
Trong một thị trường đa văn hoá và phụ thuộc lẫn nhau của thế kỷ 21 này, sự thành công của các doanh
nhân còn được quyết định bởi kiến thức về những điểm khác biệt giữa các nền văn hóa trong hành động và
tập quán kinh doanh.
Trong một thị trường đa văn hoá và phụ thuộc lẫn nhau của thế kỷ 21 này, sự thành công của các doanh
nhân còn được quyết định bởi kiến thức về những điểm khác biệt giữa các nền văn hóa trong hành động và
tập quán kinh doanh.
Sự thiếu hiểu biết về các văn hoá kinh doanh tại các thị trường khác nhau có thể dẫn tới những hiểu nhầm
hay gây mất lòng đối tác kinh doanh. Những bước tiến vững chắc ra thị trường toàn cầu sẽ không thể thiếu
kiến thức về các tập quán, nghi thức kinh doanh ở từng nền văn hoá cụ thể.
Một phần quan trọng trong kiến thức kinh doanh đa văn hóa - đó là các quy ước, tục lệ tặng quà khác biệt
trên thế giới. Việc hiểu rõ văn hóa tặng quà và các quy ước có liên quan có thể giúp các doanh nhân nước
ngoài xây dựng thành công những mối quan hệ tốt đẹp hơn với các đối tác kinh doanh, đồng nghiệp hay
khách hàng địa phương.
Các quy ước, tục lệ tặng quà đa văn hóa thường liên quan tới những yếu tố chính sau:
- Ai là người nhận quà tặng? Đó là cá nhân, nhóm người hay tổ chức? Địa vị, trạng thái của người nhận quà
là gì?
- Loại quà nào có thể chấp nhận, loại quà nào không thể chấp nhận?
- Những nghi thức, quy tắc nào có liên quan tới việc trao quà và nhận quà?
- Có nên đền đáp lại món quà?
Tại nhiều quốc gia ở Bắc Mỹ hay vương quốc Anh, việc tặng quà là khá hiếm gặp trong thế giới kinh doanh.
Trên thực tế, nó có thể dẫn tới sự hiểu nhầm việc tặng quà như một hành động hối lộ. Tuy nhiên, tại nhiều
quốc gia khác, việc tặng quà và các nghi thức của nó giữ một vị trí trung tâm trong các hoạt động kinh
doanh.
Để nêu bật một vài khía cạnh khác biệt của các văn hoá tặng quà trong kinh doanh, chúng ta sẽ xem xét các
ví dụ cụ thể.
Tục lệ tặng quà tại Trung Quốc
- Đây là một hành động thông thường và mang tính xã giao trong các ngày kỷ niệm, cảm ơn vì đã giúp đỡ
hay thậm chí nhờ cậy giúp đỡ trong tương lai.
- Tuy nhiên, không thể tặng quà nếu không có lý do hợp lý hay không có người chứng kiến.
- Khi một doanh nhân Trung Quốc muốn mua một món quà, sẽ rất bình thường với việc họ sẽ trực tiếp hỏi
người nhận quà thích gì.
- Quà tặng kinh doanh luôn được đền đáp ngược lại. Không thực hiện điều đó có thể là một hành động tồi.
- Khi tặng quà, tuyệt đối đừng đưa tiền mặt.
- Đừng quá căn cơ với lựa chọn quà tặng của bạn bởi nếu vậy bạn sẽ được xem như một 'iron rooster' (gà
trống sắt) - ý muốn nói việc có được một món quà từ bạn cũng như việc nhổ một chiếc lông từ con gà trống
sắt.
- Tuỳ thuộc vào loại quà, hãy tránh việc tặng đơn lẻ một cái gì đó. Người Trung Quốc rất coi trọng sự cân
bằng và hài hoà, vì vậy hãy tặng một đôi.
Tục lệ tặng quà tại Nhật Bản
- Việc tặng quà là một phần trung tâm trong văn hoá kinh doanh của người Nhật Bản.
- Hãy mang theo nhiều món quà khác nhau trong chuyến đi của bạn để nếu bạn được ai tặng quà, bạn sẽ
có cái để đền đáp lại.
- Văn hoá kinh doanh của người Nhật Bản nhấn mạnh vào hành động của việc tặng quà chứ không phải
bản thân món quà.
- Những món quà đắt tiền là điều bình thường.
- Thời điểm tốt nhất để tặng quà đó là cuối buổi gặp gỡ.
- Món quà cho một cá nhân nên được trao tặng một cách riêng tư.
- Nếu bạn trao quà cho một nhóm người, thời điểm tốt nhất là khi có mặt tất cả mọi người.
- Nghi thức chính xác nhất đó là trao tặng hay đón nhận một món quà bằng cả hai tay.
- Trước khi chấp nhận một món quà, bạn nên lịch sự từ chối một hoặc hai lần.
- Con số bốn hay số chín thường được xem là không may mắn. Việc tặng món quà đi theo cặp là hoàn toàn
có thể.
Tục lệ tặng quà tại Ả Rập Xê Út
- Việc tặng quà chỉ nên được thực hiện với những người thân thiết nhất và mang ý nghĩa tình cảm sâu sắc.
- Món quà nên có chất lượng tốt nhất.
- Đừng bao giờ mua vàng hay lụa như một món quà cho đàn ông.
- Bạc có thể được chấp nhận.
- Luôn trao hay nhận quà với tay phải.
- Người Ả Rập Xê Út rất thích các loại nước hoa, dầu thơm cho quần áo. Phổ biến nhất là sản phẩm 'oud'
có thể có giá đến 1000 bảng Anh/ounce.
- Việc mở gói quà khi nhận quà là không thích hợp.
Trung Quốc, Nhật Bản và Ả Rập Xê Út chỉ là một vài trong số rất nhiều văn hoá tặng quà kinh doanh khác
nhau. Thích hợp nhất, bạn nên tìm hiểu chắc chắn về các nghi thức tặng quà cụ thể tại bất cứ quốc gia nào
bạn có kế hoạch kinh doanh. Có như vậy, bạn sẽ giảm thiểu các hành vi gây hiểu nhầm hay mất lòng, đồng
thời mở rộng cánh cửa dẫn tới thành công.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top