vanity fair - chapter 35+36 - hội chợ phù hoa - vantuandinh
CHƯƠNG XXXV
MẸ GÓA CON CÔI
Trong thời gian ấy, những tin tức về chiến dịch “Bốn cánh
tay” và “Waterloo” cũng vang dội về tận nƣớc Anh. Báo “Tin
tức” là tờ báo đầu tiên công bố kết quả của hai trận đánh. Những
tin tức vinh quang ấy khiến cho toàn thể nƣớc Anh rung động lên
vì kiêu hãnh cũng nhƣ vì sợ hãi. Tiếp theo là những chi tiết; sau
tin chiến thắng là danh sách thƣơng binh, tử sĩ. Nói sao cho xiết
đƣợc nỗi khắc khoải của mọi ngƣời khi lần giở những trang báo.
Khắp ba nƣớc (1), trong từng làng, từng nhà, nghe công bố tin
tức về những trận chiến đấu ở Bỉ (2), ai ai cũng cảm thấy hào
hứng sôi nổi; ngƣời ta vừa phấn khởi, vừa biết ơn lại vừa lo âu
đau đớn vì tang tóc khi đọc bản thống kê những sự tổn thất của
mình. Ngay bây giờ cũng vậy, giá có ai lật giở lại chồng báo cũ
thời đó, hẳn cũng vẫn còn cảm thấy nhƣ phải nín thở vì lo lắng.
Bản danh sách liệt sĩ cứ mỗi ngày lại đăng tiếp thêm, ngƣời đọc
phải ngừng lại ở giữa chừng. Nhƣ xem nội dung một câu chuyện
còn sẽ đăng tiếp trong các kỳ báo sau. Các bạn thử tƣởng tƣợng
1
Ba nƣớc: Nƣớc Anh và hai thuộc địa chính là Ai Len và Ấn Độ (ND).
Waterloo: Một thành phố ở trung tâm nƣớc Bỉ, phía nam thủ đô Bruycxen.
2
3
W.M. Thackeray
xem, khi những trang báo còn tƣơi nét mực kia nối tiếp nhau đến
tay ngƣời đọc thì họ cảm thấy gì?
Nếu một trận đánh chỉ có hai vạn ngƣời Anh tham gia đã
khiến cho cả nƣớc ta rúng động đến thế thì các bạn thử nghĩ xem
suốt thời gian hai chục năm về trƣớc nhân dân châu Âu ở trong
một tình trạng ra sao khi quân số tham chiến không phải là hàng
ngàn, mà hàng triệu. Mỗi ngƣời trong số đó, khi đánh gục một kẻ
thù, đồng thời cũng tàn nhẫn đâm lƣỡi dao sâu vào trái tim một
con ngƣời vô tội ở hậu tuyến xa xôi.
Những tin đăng trên tờ báo “Tin tức” nổi tiếng kia gây ra một
sự choáng váng khủng khiếp trong gia đình Osborne, nhất là
những ngƣời đứng đầu gia đình này. Hai cô con gái tha hồ mà
khóc. Ông bố già nua vốn âu sầu lại càng rầu rĩ hơn trƣớc số
mệnh tàn nhẫn.
Ông cố tin rằng đó là sự trừng phạt con ông vì đã nghiêm khắc
đến nỗi ông phải run sợ vì những lời nguyền rủa của chính ông
đã quá vội vàng trở thành sự thực. Đôi lúc ông run lẩy bẩy vì hốt
hoảng, dƣờng nhƣ chính ông là thủ phạm gây ra tai họa mà con
ông đã phải chịu. Trƣớc kia còn mong có dịp cha con hoà giải
với nhau, thí dụ vợ George rất có thể bị chết hoặc con trai ông có
thể quay về với gia đình và nói “Thƣa cha, con đã có lỗi”. Nhƣng
bây giờ không còn hy vọng gì nữa rồi. Con trai ông đứng bên kia
bờ vực thẳm không cách nào qua đƣợc và nhìn ông với đôi mắt
âu sầu. Ông nhớ lại có lần con ông bị sốt, ai cũng tƣởng không
sao thoát chết; nó nằm liệt trên giƣờng bệnh im lặng, đôi mắt
cũng mở trừng trừng trông buồn thảm ghê sợ nhƣ thế. Trời ơi!
Lạy Chúa, hồi ấy ông bố cứ bám chặt lấy ông bác sĩ, lẽo đẽo theo
4
Hội Chợ Phù Hoa
sau ông ta với một nỗi khắc khoải não nuột trong lòng. Tới khi
cơn sốt đi qua, con trai ông bình phục lại nhìn ông với đôi mắt
quen thuộc hằng ngày, ông mới nhƣ cất đƣợc một gánh nặng
trong tâm hồn. Nhƣng bây giờ còn săn sóc hoặc chữa chạy hoặc
mong gì sự hoà giải đƣợc nữa, và nhất là còn đâu những lời lẽ
phục tùng để xoa dịu lòng giận dữ vì quyền lực của ông bố bị tổn
thƣơng, khiến cho dòng máu bực bội sôi sục kia lại chảy tự nhiên
nhƣ xƣa. Cũng khó mà đoán biết đƣợc rằng trái tim của ông bố
kiêu hãnh bị vò xé bởi điều gì nhiều nhất; bởi vì ông không còn
có dịp tha thứ cho con trai ông, hay vì lời tha tội mà lòng kiêu
hãnh của ông vẫn mong đợi có ngày nói ra sẽ không bao giờ còn
đƣợc dùng đến nữa.
Dẫu sao đi nữa, ông già nghiêm khắc ấy cũng không chịu thổ
lộ tâm tình với ai. Ông không bao giờ nhắc đến tên George khi
nói chuyện với hai con gái. Nhƣng ông ra lệnh cho mọi ngƣời
trong gia đình để tang và bắt cả bọn gia nhân phải mặc đồ đen
mọi cuộc tiếp tân và mọi trò giải trí đều đình chỉ. Ngày cƣới con
gái đã ấn định nay tạm hoãn; tuy ông không báo gì cho anh con
rể tƣơng lai, nhƣng cứ nhìn dáng điệu bề ngoài của ông Osborne,
anh chàng Bullock cũng chẳng dám hé răng nhắc đến chuyện
cƣới xin vội. Thỉnh thoảng anh ta và hai cô con gái Osborne lại
thì thầm với nhau trong phòng khách, nơi ông bố không bao giờ
còn bƣớc chân đến; ông ta ở lỳ trong căn phòng làm việc của
mình. Toàn bộ mặt trƣớc của toà nhà cửa đóng kín mít trong suốt
thời gian để tang.
5
W.M. Thackeray
Khoảng ba tuần lễ say ngày mƣời tám tháng sáu (1), ông bố
William Dobbin đến thăm ông Osborne. Tại khu phố Russell mặt
ông tái mét, phờ phạc; ông khăng khăng đòi gặp mặt, ông
Osborne. Ngƣời nhà dẫn ông vào phòng ông chủ; sau vài câu trao
đổi mà cả ngƣời nói lẫn ngƣời nghe không ai hiểu gì, ông uỷ viên
hội đồng thành phố lấy trong ví ra một lá thƣ, có đóng một con
dấu đỏ lớn, ngập ngừng nói: “Con trai tôi là thiếu tá Dobbin có
nhờ một sĩ quan trong trung đoàn thứ... mới về tỉnh hôm nay
chuyển cho tôi một lá thƣ, trong có kèm một phong bì gửi cho
ngài.”
Đoạn ông uỷ viên hội đồng thành phố đặt phong bì xuống mặt
bàn; ông Osborne nhìn trừng trừng vào mặt khách một lúc lâu, tia
mắt làm cho ông lão đƣa tin phải hoảng. Ông ta lấm lét nhìn
ngƣời bố đau khổ một lát rồi vội vàng lủi ra. không nói thêm lời
nào.
Cũng vẫn nét chữ khoẻ mạnh, cứng cáp quen thuộc của
George. Thƣ viết vào hồi rạng sáng ngày 16 tháng sáu, ngay
trƣớc khi anh ta từ biệt Amelia để ra trận. Con dấu lớn màu đỏ
mang hình huy hiệu của gia tộc, có câu cách ngôn Pax in bello.
Đó tức là huy hiệu của dòng họ. Bàn tay đã ký dƣới lá thƣ này
thôi không bao giờ cầm đƣợc bút hay nắm đƣợc cán gƣơm nữa.
Sớm hôm sau, khi George đã gục trên chiến trƣờng, bạn anh đã
lần túi áo lấy lại con dấu ông Osborne không hề biết việc ấy; ông
ngồi lặng lẽ, giƣơng cặp mắt đờ đẫn nhìn phong thƣ. Lúc sắp sửa
bóc thƣ, ông suýt ngất đi.
1
6
Là ngày bắt đầu trận đánh Waterloo.
Hội Chợ Phù Hoa
Bạn đọc đã bao giờ có chuyện xích mích với một ngƣời bạn
thân chƣa? Những lá thƣ hồi hai ngƣời còn thân thiết với nhau
bây giờ đọc lại sao khiến bạn bực mình đến thế! Còn có gì đáng
chán cho bằng phải đọc lại những lời lẽ bộc lộ một nỗi cảm tình
đã chết lụi đi rồi. Đó là những tấm mộ chí giả dối dựng trên thi
thể của Tình yêu! Đó cũng là những lời phẩm bình tàn ác và đáng
buồn đối với Hội chợ phù hoa vậy. Hầu hết chúng ta đều có dịp
hoặc viết, hoặc nhận đƣợc đầy ngăn kéo toàn những lá thƣ nhƣ
thế. Ấy là những căn hầm đựng xƣơng khô mà chúng ta vừa trân
trọng lại vừa xa lánh. Ông già Osborne còn bồi hồi run rẩy mãi
mới dám mở bức thƣ của đứa con trai đã chết ra đọc.
Nội dung lá thƣ rất sơ sài, con trai tội nghiệp của ông cũng
quá kiêu ngạo không chịu bộc lộ những tình cảm đằm thắm ủ kín
trong thâm tâm. Anh ta chỉ nói rằng, đêm trƣớc khi dự một trận
đánh lớn, anh ta muốn gửi lời từ biệt đến cha, và trịnh trọng ngỏ
ý mong ông chăm sóc đến ngƣời vợ và rất có thể cả đứa con nhỏ
mình để lại. Anh ta buồn rầu thú nhận rằng đã tiêu xài gần hết cả
gia tài nhỏ mọn của mẹ để lại, và cám ơn cha trƣớc kia đã đối xử
rộng lƣợng với mình; cuối cùng, anh ta hứa với cha rằng dù phải
gục ngã trên chiến trƣờng, hay đƣợc thoát chết, bao giờ anh ta
cũng hành động cho xứng đáng với cái tên George Osborne.
Do thói quen của ngƣời Anh, do tính kiêu hãnh hoặc cũng có
thể là do vụng về, George không viết thêm gì nữa. Ông bố không
thể nhìn thấy cái hôn ngƣời con trai đã áp vào địa chỉ đề trên lá
thƣ. Ông già Osborne buông rơi lá thƣ xuống đất, tâm hồn bị
giằng xé giữa những nối tiếc hận vì sự giận giữ. Ông cảm thấy
7
W.M. Thackeray
mình vẫn yêu thƣơng con trai, nhƣng chƣa thể tha thứ cho nó
đƣợc.
Tuy nhiên, khoảng hai tháng sau, khi hai cô con gái cùng đi lễ
nhà thờ với bố, họ nhận thấy ông già không ngồi vào chỗ mọi
khi; ông hƣớng mắt qua đầu hai con gái nhìn chăm chăm vào bức
tƣờng trƣớc mặt. Thấy thế hai cô thiếu nữ cùng đƣa mắt nhìn
theo: họ thấy trên mặt tƣờng có một bức phù điêu đắp hình
Britannia (1) ngồi khóc trên một chiếc bình đựng tro hài cốt, bên
cạnh có một lƣỡi gƣơm gãy và một con sƣ tử nằm phủ phục; họ
hiểu rằng bức tƣợng đƣợc dựng lên để kỷ niệm một chiến sĩ nào
đó đã tử trận. Các nhà điêu khắc đƣơng thời có sẵn trong đầu
hàng mớ những mẫu biểu tƣợng buồn thảm tƣơng tự; bây giờ các
bạn có thể gặp trên tƣờng nhà thờ St. Paul la liệt hàng trăm
những bức tƣợng ngụ ngôn huênh hoang ngoại đạo nhƣ vậy.
Trong khoảng mƣời lăm năm đầu thế kỷ hiện tại, tranh và tƣợng
loại này rất đƣợc ƣa thích.
Mé dƣới bức tƣợng có vẽ hình huy hiệu của gia đình Osborne,
kèm theo một dòng chữ ghi rõ bức phù điêu đƣợc dựng lên để kỷ
niệm đại uý George Osborne thuộc trung đoàn bộ binh thứ... của
hoàng gia tử trận ngày 18 tháng sáu năm 1815, thọ 28 tuổi, khi
chiến đấu cho Hoàng đế và Tổ quốc trong trận chiến thắng
Waterloo vinh quang. Dulce et decorum est pro patria mori (2).
Nhìn bức tƣợng hai chị em bị xúc động dữ dội đến nỗi cô
Maria phải rời nhà thờ ra về ngay. Mọi ngƣời kính cẩn dẹp ra
nhƣờng lối cho hai cô thiếu nữ mặc áo tang đen vừa đi vừa nức
1
2
8
Ngƣời đàn bà tƣợng trƣng cho nƣớc Anh.
Chết cho tổ quốc là êm đềm và danh dự (N.D).
Hội Chợ Phù Hoa
nở khóc và cảm thƣơng ông bố già nua khắc khổ ngồi đối diện
bức tƣợng kỷ niệm ngƣời liệt sĩ. Cơn xúc động ban đầu đã qua,
hai chị em hỏi nhau: “Liệu ba có tha thứ cho vợ anh George
không nhỉ?”.
Những ngƣời quen thuộc gia đình Osborne bàn tán nhiều về
sự xích mích giữa hai cha con do việc anh con cƣới vợ gây nên
bây giờ cũng tỏ ý hy vọng ông bố chồng sẽ tha thứ cho ngƣời con
dâu đã trở thành goá bụa. Ở khu City cũng nhƣ ở khu phố
Russell, nhiều ngƣời đã bỏ tiền ra đánh cuộc với nhau về việc
này.
Ví thử hai cô con gái có lo ngại gì về việc Amelia có thể đƣợc
công nhận là dâu con trong gia đình hay không thì bây giờ họ
càng lo lắng hơn, vì đến cuối mùa thu, ông Osborne báo cho họ
biết rằng ông sẽ đi ra nƣớc ngoài ít lâu. Ông không nói rõ là đi
đâu, nhƣng họ thừa biết là thế nào ông cũng sang Bỉ; họ lại biết
rõ rằng ngƣời vợ goá của George vẫn còn ở Brussels. Dobbin phu
nhân và mấy cô con gái vẫn cung cấp cho họ những tin tức khá
chích xác về Amelia.
Anh chàng đại uý thực thà của chúng ta đã đƣợc thăng cấp
nhân dịp viên thiếu tá chỉ huy phó trung đoàn bị tử trận. Còn ông
O‟Dowd, con ngƣời dũng cảm đã chiến đấu anh dũng trong trận
này cũng nhƣ đã chứng tỏ đức tính bình tĩnh và can đảm của
mình tại bất cứ nơi nào, thì đƣợc thăng chức trung tá, lại đƣợc
ban tƣớc Tuỳ giá Hiệp sĩ.
*
9
W.M. Thackeray
Khá nhiều chiến sĩ trong trung đoàn thứ... bị thƣơng nặng qua
hai trận đánh vẫn còn lƣu lại Brussels suốt mùa thu để an dƣỡng,
hàng bao nhiêu tháng sau trận đánh vĩ đại kia, thành phố Brussels
vẫn còn là một quân y viện khổng lồ; binh lính cũng nhƣ sĩ quan
đã bắt đầu chữa lành thƣơng tật, cho nên các công viên và những
nơi công cộng trong thành phố chật ních toàn những quân nhân
què chân, cụt tay, già có, trẻ có. Cũng nhƣ tất cả mọi ngƣời trong
Hội chợ phù hoa, vừa thoát khỏi bàn tay của tử thần, họ đã lăn xả
vào mà đánh bạc mà vui đùa, mà yêu thƣơng. Trong số này, ông
Osborne tìm thấy rất dễ dàng vài ngƣời trong trung đoàn... ông
vẫn nhớ rõ quân phục của họ, lại vẫn thƣờng theo dõi những sự
thăng thƣởng và thuyên chuyển trong trung đoàn; ông thƣờng ƣa
nói chuyện về trung đoàn và về các sĩ quan, y nhƣ mình cũng là
một thành viên của quân đội. Sau hôm tới Brussels một ngày,
ông vừa bƣớc ra khỏi khách sạn đối diện với công viên, thì nhìn
thấy ngay một ngƣời lính bận bộ quân phục quen thuộc ngồi nghỉ
trên một tấm ghế đá. Ông bƣớc lại gần, run run ngồi xuống bên
ngƣời thƣơng binh.
- Có phải ông thuộc đại đội của đại uý Osborne không? -
Ngừng lại một chút, ông tiếp - nó là con trai tôi đấy ông ạ.
Ngƣời này không thuộc đại đội Osborne, nhƣng cũng đƣa bàn
tay không bị thƣơng lên vành mũ chào ông già đờ đẫn và sầu não
với một điệu bộ vừa buồn bã vừa kính cẩn. Anh ta đáp:
- Cả binh đoàn không có một sĩ quan nào đẹp trai và can đảm
hơn. Một viên trung sĩ thuộc đại đội của đại uý Osborne (bây giờ
thuộc quyền chỉ huy của đại uý Raymond) hiện có mặt trong
thành phố, anh ta đang chữa vết thƣơng ở vai, bị một viên đạn
10
Hội Chợ Phù Hoa
xuyên thủng. Nếu muốn, ngài có thể tìm gặp; anh ta sẽ kể cho
ngài rõ việc trung đoàn thứ...tham chiến nhƣ thế nào. Nhƣng chắc
ngài đã gặp thiếu tá Dobbin, bạn thân của đại uý dũng cảm ấy rồi
chứ? Cả bà Osborne cũng còn ở đây; nghe nói bà ấy mệt lắm. Họ
còn bảo rằng đến sáu tuần nay bà ấy nhƣ ngƣời mất trí. Nhƣng
xin lỗi ngài chuyện ấy chắc ngài đã biết rõ.
Ông Osborne đặt vào tay ngƣời lính một đồng ghi nê và hứa
sẽ đãi thêm một đồng nữa, nếu anh ta dẫn đƣợc viên trung sĩ nói
trên tới khách sạn Công Viên. Lời hứa quả có hiệu lực; viên hạ sĩ
quan nọ chẳng bao lâu đƣợc đƣa đến gặp ông Osborne. Anh lính
mách tin ra về kháo ầm lên với một hai ngƣời bạn rằng cụ thân
sinh ra đại uý Osborne đã tới; thật là một ngƣời hào phóng, rồi họ
đƣa nhau đi chè chén thoả thích chừng nào tiêu hết sạch hai đồng
tiền vàng lấy đƣợc từ ví kiêu hãnh của ông già đau khổ kia mới
thôi.
Đi cùng viên trung sĩ cũng vừa chữa lành vết thƣơng, ông
Osborne thăm lại chiến trƣờng Waterloo và chiến trƣờng Bốn
cánh tay; hồi ấy hàng ngàn đồng bào của ông cũng tổ chức những
chuyến đi thăm viếng nhƣ vậy. Ông cùng viên trung sĩ đi xe ngựa
thăm lại cả hai khu vực xảy ra chiến sự dƣới sự hƣớng dẫn của
ngƣời này. Ông đƣợc thấy lại chỗ ngã tƣ, nơi trung đoàn bắt đầu
tác chiến ngày mƣời sáu và cả cái sƣờn đồi thoai thoải, nơi quân
Anh đánh bật đoàn kỵ binh Pháp truy kích đội quân Bỉ đang rút
lui. Ông đến cả chỗ viên đại uý anh hùng đã chém chết tƣơi tên sĩ
quan Pháp đang vật lộn với ngƣời sĩ quan cầm cờ trẻ tuổi để
giành lấy lá quân kỳ, vì lúc này mấy viên trung sĩ bảo vệ cờ đã bị
bắn chết cả. Ngày hôm sau đoàn quân rút lui cũng theo con
11
W.M. Thackeray
đƣờng này; và đây là khoảng đất trên đó, đêm hôm mƣời bảy,
trung đoàn trú quân dƣới trời mƣa tầm tã. Quá bên kia một chút
là vị trí quân Anh đã chiếm đƣợc và giữ vững suốt ngày hôm ấy,
lúc thì tập hợp lại để nghênh chiến với bọn kỵ binh Pháp tấn
công, lúc thì nằm bẹp trong hầm trú ẩn để tránh đạn trọng pháo
của địch bắn dữ dội xuống đầu. Và đây là cái dốc, nơi buổi tối
hôm ấy, toàn bộ trận tuyến quân Anh đƣợc lệnh phản kích khi
quân địch tiến công lần cuối cùng bị đánh bật trở lại, và chính là
chỗ viên đại uý khoa lƣỡi kiếm vừa hò reo vừa lao xuống sƣờn
đồi, rồi trúng đạn gục chết. Viên trung sĩ hạ thấp giọng tiếp:
- Chính thiếu tá Dobbin đã mang thi hài của đại uý về Brussels
và cho ngƣời chôn cất nhƣ ngài đã rõ.
Trong lúc viên hạ sĩ quan kể chuyện, một đám đông nông dân
và những ngƣời bán hàng rong vây quanh hai ngƣời, tranh nhau
mời ông già mua đủ mọi thứ kỷ vật của trận đánh, nào là báng
súng, lon vai, những mảnh áo giáp vỡ nát, cả những hình chim
diều hâu bằng sắt gẫy.
Thăm viếng xong quang cảnh những nơi ghi lại dấu vết chiến
thắng cuối cùng của con trai, ông già chia tay cùng viên trung sĩ
và đãi anh ta một món tiền thật hậu. Ông cũng đã thăm nơi an
nghỉ cuối cùng của con. Thật ra, ngay sau khi đến Brussels, ông
đã lập tức đi viếng mộ George. Thi hài con ông đƣợc chôn cất tại
nghĩa trang Laeken, một nghĩa trang rất đẹp gần thành phố.
Ngày trƣớc, một lần đến thăm chốn này, ông đã vui miệng ngỏ
ý muốn sau này khi mình chết sẽ đƣợc chôn cất tại đây. Ngƣời
bạn thân đã mang thi thể của viên đại uý về chôn tại một khu đặc
biệt trong nghĩa trang; một hàng rào nhỏ ngăn khu vực này với
12
Hội Chợ Phù Hoa
khu vực các giáo đƣờng, các toà dinh thự và những vƣờn cây là
nơi những ngƣời theo đạo cơ đốc của nhà thờ La Mã đƣợc chôn
cất. Hình nhƣ ông già Osborne lấy làm tủi nhục vì con trai ông,
một ngƣời thƣợng lƣu nƣớc Anh, một đại uý trong quân đội Anh
quốc lừng danh tiếng, lại không xứng đáng đƣợc chôn cùng một
chỗ với mọi ngƣời dân ngoại quốc tầm thƣờng khác. Chúng ta ai
có thể biết đƣợc trong cái nhìn đầy thông cảm nhiệt tình của ta
đối với ngƣời khác có mấy phần phù phiếm và trong tình cảm
của ta có bao nhiêu phần ích kỷ. Ông già Osborne cũng không để
tâm phân tích tâm trạng phức tạp của mình để thấy sự xung đột
giữa tình phụ tử và tính ích kỷ đã diễn ra nhƣ thế nào. Ông tin
chắc rằng mọi việc mình làm đều phải, và trong bất cứ trƣờng
hợp nào, mình cũng nên hành động theo ý riêng... Và y nhƣ cái
nọc của con ong vò vẽ hay con rắn, sự giận dữ của ông trào lên
đầy chất độc sẵn sàng làm tê liệt kẻ nào dám chống lại. Ông kiêu
hãnh cả về lòng căm thù của mình cũng nhƣ về mọi việc mình
làm. Bao giờ cũng có lý, bao giờ cũng phải dẫm đạp mà tiến lên
và không khi nào hoài nghi, phải chăng sự ngu độn đã thống trị
thế giới với những đức tính lớn lao ấy?
Sau buổi đi thăm chiến trƣờng Waterloo, xe ngựa của ông
Osborne về đến gần cổng thành phố vào lúc hoàng hôn thì gặp
một chiếc xe ngựa mui trần khác, trên có hai ngƣời đàn bà và một
ngƣời đàn ông ngồi, lại có một sĩ quan cƣỡi ngựa đi kèm bên
cạnh. Ông Osborne hốt hoảng quay ngƣời lại; viên trung sĩ ngồi
cạnh đặt tay lên vành mũ chào ngƣời sĩ quan và quay sang nhìn
ngƣời bạn đồng hành tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Viên sĩ quan cũng
chào lại, nhƣng không chú ý lắm. Thì ra đấy là Amelia ngồi cạnh
13
W.M. Thackeray
chàng sĩ quan cầm cờ trẻ tuổi bị què, đối diện với bà O‟Dowd,
ngƣời bạn trung thành của cô. Đúng là Amelia, nhƣng trông khác
hẳn hình ảnh ngƣời con gái tƣơi tắn, xinh đẹp còn lƣu trong ký
ức ông Osborne.
Mặt cô gầy và tái nhợt, mớ tóc đẹp màu nâu ẩn dƣới một chiếc
mũ tang. Cô thiếu nữ đáng thƣơng quá! Mắt cô mở trừng trừng,
nhƣng nào cô có nom thấy gì đâu! Lúc hai chiếc xe gặp nhau, cô
nhìn thẳng vào mặt ông Osborne, nhƣng không nhận ra ông; nếu
không trông thấy Dobbin cƣỡi ngựa đi bên xe, ông già cũng
không nhận ra cô là ai. Ông thù ghét Amelia quá rồi. Trƣớc khi
gặp Amelia, ông không hề ngờ rằng mình ghét cô thiếu nữ đến
thế. Xe Amelia qua rồi, ông quay lại ngó viên trung sĩ, mắt long
lên sòng sọc, mồm lẩm bẩm chửi rủa, nhƣ muốn nói: “Sao mày
lại dám nhìn tao? Đồ khốn nạn! Tao ghét cay ghét đắng nó.
Chính vì nó mà bao nhiêu hy vọng của tao sụp đổ, bao nhiêu
niềm kiêu hãnh của tao tan vỡ”. Ông thét thằng hầu ngồi phía
trƣớc: “Bảo nó đánh xe nhanh lên”.
Một lát sau, nghe có tiếng vó ngựa phi nhanh sau xe, chính là
ngựa của Dobbin. Lúc hai chiếc xe gặp nhau, Dobbin đang mải
nghĩ đến chuyện khác; đi đƣợc một quãng, anh ta mới nhớ ra
rằng vừa gặp ông Osborne. Anh ta bèn quay sang nhìn xem
Amelia gặp mặt bố chồng có xúc động không, nhƣng cô thiếu nữ
không hay biết điều gì hết. Hằng ngày Dobbin vẫn thƣờng cƣỡi
ngựa đi theo xe của Amelia; anh ta vội rút đồng hồ xem rồi xin
lỗi bạn, lấy cớ vừa chợt nhớ ra có hẹn với một ngƣời và phi ngựa
quay trở lại. Amelia cũng không biết đến việc Dobbin ra về, cô
14
Hội Chợ Phù Hoa
vẫn ngồi rầu rĩ nhìn phong cảnh phía trƣớc mặt; xa xa là cánh
rừng, nơi George đã lên đƣờng ra trận.
Dobbin phi ngựa lên, chìa bàn tay ra gọi:
- Cụ Osborne! Cụ Osborne!
Ông Osborne không chìa tay ra bắt, trái lại ông văng tục một
câu, quát xà ích giong xe nhanh hơn. Dobbin đặt bàn tay lên
thành xe nói:
- Tôi muốn gặp cụ, tôi có một chuyện muốn thƣa cùng cụ.
Ông Osborne giận giữ đáp:
- Chuyện về mụ đàn bà kia à?
- Không, chuyện về con trai cụ.
Ông Osborne ngồi phịch xuống, tựa vào góc xe. Dobbin chờ
cho phút xúc động qua đi, anh ta cho ngựa theo sát sau xe, không
nói thêm gì, cứ thế qua thành phố về đến khách sạn của ông
Osborne. Rồi anh ta theo ông già lên phòng trọ. Trƣớc kia, nhiều
lần George đã đến phòng này, đây là chỗ ở của vợ chồng
Crawley hồi còn ở Brussels.
- Vậy ông có việc gì chỉ thị cho tôi nào, ông đại uý? - Xin lỗi,
tôi phải nói là thiếu tá Dobbin; bởi vì những kẻ tài ba hơn ông
chết đi rồi, tất nhiên các ông thay thế họ.
Ông Osborne nói với cái giọng châm biếm, mà thỉnh thoảng
ông rất ƣa dùng. Dobbin đáp:
- Những kẻ ƣu tú hơn đã chết thật rồi. Tôi cũng muốn thƣa với
cụ về một ngƣời trong số đó.
Ông già cau mặt nhìn khách, văng tục rồi nói:
15
W.M. Thackeray
- Xin ông nói gọn cho.
Viên thiếu tá đáp:
- Tôi đến đây với tƣ cách là bạn thân nhất, đồng thời là ngƣời
thực hiện di chúc của ngƣời đã mất. Di chúc đƣợc thảo ra trƣớc
khi xuất trận. Cụ có rõ anh ấy túng thiếu thế nào và ngƣời vợ goá
bây giờ quẫn bách ra sao không?
Ông Osborne đáp:
- Tôi không biết đến ngƣời vợ goá nào hết. Mặc xác con bé ấy
cho nó trở về với bố nó.
Nhƣng ngƣời khách cứ tƣơi tỉnh nhƣ thƣờng, không để ý đến
câu cắt ngang của ông già. Anh ta tiếp:
- Thƣa cụ, cụ có rõ hoàn cảnh hiện nay của chị Osborne ra sao
không? Tai hoạ vừa giáng xuống gần nhƣ làm rung chuyển cả
cuộc đời của chị ấy và làm chị ấy nhƣ mất trí. Tôi thấy chị ấy rất
khó lòng mà bình phục lại đƣợc. Tuy vậy cũng còn một chút hy
vọng, và tôi đến để thƣa cùng cụ về điều này. Chị ấy cũng sắp
đến kỳ sinh nở. Không lẽ cụ lại muốn trút lên đầu đứa bé sự giận
dữ đối với cha nó? Hay là vì thƣơng anh George, cụ sẽ tha thứ
cho đứa con anh ấy?
Ông Osborne vừa thao thao bất tuyệt biện hộ cho hành động
của mình, vừa luôn mồm thề độc; ông tự biện hộ cốt để cho
lƣơng tâm khỏi cắn rứt và ông thề độc để làm tăng thêm tội bất
hiếu của George. Thử hỏi khắp nƣớc Anh, có ngƣời bố nào lại
rộng lƣợng đƣợc nhƣ ông đã đối xử với con trai ông? Vậy mà
hắn dám chống lại ông một cách tai quái đến thế. Hắn đã chết,
nhƣng cũng chƣa hề muốn hối hận về tội lỗi đã phạm. Hãy để
16
Hội Chợ Phù Hoa
cho hắn chịu những hậu quả tai hại do chính sự rồ dại và sự bất
hiếu của hắn gây ra. Về phần ông, ông bao giờ cũng giữ lời hứa.
Ông đã thề không bao giờ thèm nói chuyện với ngƣời con gái
kia, cũng không chịu nhận ngƣời ấy là con dâu. Ông thề độc một
câu và tiếp:
- Ông có thể bảo với cô ta thế, tôi đã quyết định giữ đúng thái
độ nhƣ vậy từ nay cho tới lúc chết.
Thế là tuyệt mọi hy vọng. Ngƣời đàn bà goá đành phải sống
trong cảnh túng thiếu hoặc nhờ Joe trợ cấp cho đồng nào hay
đồng ấy; ta có thể bảo với nàng nhƣ thế, nhƣng nàng cũng chẳng
quan tâm đến chuyện ấy lắm đâu. Dobbin buồn rầu nghĩ thầm.
Quả thật, từ sau khi chồng chết, ngƣời thiếu phụ đáng thƣơng kia
không hề bao giờ nghĩ đến chuyện này; mang nặng nỗi đau
thƣơng trên vì đối với Amelia bây giờ hạnh phúc hay tai họa nào
có khác gì nhau. Mà quả vậy tình bạn và lòng thƣơng mến đối
với cô cũng chẳng có nghĩa lý gì nữa, cô lặng thinh tiếp nhận tất
cả, rồi lập tức lại vùi mình vào trong cõi sầu muộn.
*
Sau cuộc nói chuyện vừa kể trên, mƣời hai tháng trời đã trôi
qua trong cuộc đời của Amelia tội nghiệp. Thời gian đầu, cô đã
sống trong một tâm trạng bi thƣơng sầu não, khiến cho những kẻ
chứng kiến và miêu tả nỗi đau đớn đang làm cho trái tim cô rỉ
máu phải lùi lại không dám nhìn. Bên giƣờng nằm của tấm linh
hồn đau khổ và bất hạnh kia, xin các bạn hãy nhẹ bƣớc. Hãy bắt
chƣớc những ngƣời chăm sóc cô, nhẹ nhàng khép kín cánh cửa
17
W.M. Thackeray
của căn phòng âm u nơi cô sống với sầu não và đau thƣơng và
không rời cô nửa bƣớc cho tới khi thƣợng đế ban cho cô một
niềm an ủi. Một ngày kia, trong tâm trạng vừa bàng hoàng vừa
sung sƣớng, ngƣời con gái sớm goá chồng đã đƣợc một đứa bé
vào ngực... một đứa trẻ có đôi mắt y hệt nhƣ đôi mắt của George
đã khuất...một đứa con trai đẹp nhƣ một thiên thần. Tiếng đứa trẻ
khóc chào đời đối với cô có tác dụng nhƣ một phép mầu. Cô ôm
đứa bé, vừa cƣời lại vừa khóc... áp đứa con vào trái tim, cô thấy
nhƣ tình yêu, hy vọng cùng những lời cầu nguyện sống lại với
mình. Bây giờ cô đƣợc cứu sống rồi. Những ông thầy thuốc săn
sóc cô trƣớc đó đã tỏ ý quan ngại rằng hoặc tính mạng hoặc là lý
trí của cô bị đe doạ. Họ đã khắc khoải chờ đợi giờ phút hiểm
nghèo ấy trƣớc khi có thể tuyên bố rằng mọi sự đều ổn. Những
ngƣời đã lo lắng, sợ hãi sống bên cạnh cô hàng tháng ròng thấy
thật bõ công vất vả của mình bấy lâu khi thấy đôi mắt cô lại lóng
lánh nhìn họ đầy trìu mến.
Trong số này có anh bạn Dobbin của chúng ta. Chính anh ta
đã đƣa cô về căn nhà của mẹ cô ở nƣớc Anh, khi bà O‟Dowd
nhận đƣợc lệnh của ông trung tá đành phải từ biệt cô... Cứ nhìn
Dobbin ôm đứa bé và Amelia vừa ngắm nó vừa cƣời sung sƣớng,
ai cũng phải vui lây. William là cha đỡ đầu của đứa bé. Anh ta
bóp óc để chọn đủ các thứ đồ chơi cho nó, nào là cốc, thìa, nào là
tàu bằng giấy và cả những cành san hô nữa.
Ngƣời mẹ tự tay mình chăm sóc đứa con, may quần áo cho nó,
sống vì nó. Amelia không muốn mƣợn ngƣời giữ trẻ, cũng ít khi
để cho bàn tay ngƣời khác đụng đến con mình. Riêng thiếu tá
Dobbin là cha đỡ đầu của đứa bé thỉnh thoảng đƣợc nâng niu nó
18
Hội Chợ Phù Hoa
một chút. Amelia coi đó là một ân huệ lớn đối với anh ta. Đứa
con là tất cả cuộc đời của cô. Hạnh phúc của cô là đƣợc vuốt ve,
đƣợc bao bọc đứa bé yếu ớt vô tri kia trong một bầu không khí
yêu thƣơng và phụng thờ; dòng sữa đứa con bú chính là cuộc
sống của cô. Đêm đêm nằm một mình, cô cảm thấy có những
phút bản năng làm mẹ thức dậy kín đáo và say sƣa mãnh liệt.
Thƣợng đế tối linh đã ban riêng cho ngƣời làm mẹ những phút
giây nhƣ vậy; những mềm vui ấy vừa cao thƣợng quá lại vừa tầm
thƣờng quá đối với lý trí... sự phụng thờ mù quáng và đẹp đẽ ấy,
chỉ có tâm hồn ngƣời đàn bà mới hiểu nổi.
William vẫn để tâm những hành động ấy của Amelia và theo
dõi mọi nhịp đập của trái tim cô. Tình yêu đã khiến anh ta sáng
suốt đoán đƣợc mọi cảm xúc của trái tim ấy. Chính vì thế mà, hỡi
ơi, anh ta cũng đành phải nhận rằng trong trái tim của Amelia
không hề có chỗ nào dành cho mình. Dobbin nhƣ cam chịu số
phận hẩm hiu một cách hiền lành và gần nhƣ bằng lòng với điều
đó.
Có lẽ bố và mẹ Amelia hiểu rõ tình cảm của viên thiếu tá họ
cũng có ý khuyến khích anh chàng. Ngày nào Dobbin cũng đến
thăm, ngồi nói chuyện hàng giờ với Amelia hoặc với gia đình
ông Clapp chủ nhà. Hầu nhƣ ngày nào anh ta cũng kiếm cớ mang
lại biếu ngƣời này hoặc ngƣời khác một món quà và trở thành
bạn thân của con gái ông Clapp. Cô thƣờng gọi anh ta là “Thiếu
tá kẹo bánh”. Amelia rất mến cô bé. Chính cô bé này thƣờng
đóng vai trò tiếp tân, thƣờng dẫn anh ta vào thăm Amelia. Một
hôm cô bé cƣời ầm lên vì thấy “Thiếu tá kẹo bánh” bƣớc xuống
xe, ôm theo đủ thứ, một con ngựa gỗ, một cái kèn, một cái trống
19
W.M. Thackeray
và nhiều thứ đồ chơi kiểu nhà binh khác để tặng chú bé Georgy;
chú mới đƣợc gần sáu tháng, đã chơi làm sao đƣợc những thứ ấy.
Đứa nhỏ đang ngủ; hình nhƣ Amelia hơi bực mình vì đôi ủng
của Dobbin cứ kêu cọt kẹt. Cô nói “suỵt” và chìa bàn tay ra.
Thấy Dobbin lúng túng đặt hết đồ chơi xuống đất rồi mới bắt tay
đƣợc, cô mỉm cƣời. Anh ta bảo cô bé:
- Em Mary ơi, xuống nhà chơi nhé. Anh có chuyện muốn nói
với bà Osborne.
Amelia nhìn lên hơi ngạc nhiên, rồi đặt con xuống giƣờng.
Dobbin nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay trắng muốt mảnh dẻ của cô
nói:
- Tôi đến để từ biệt Amelia.
Cô mỉm cƣời hỏi:
- Từ biệt ƣ? Anh phải đi đâu thế?
- Chị cứ gửi thƣ cho luật sƣ của tôi, họ sẽ chuyển đi. Chị sẽ
viết thƣ cho tôi chứ? Tôi đi vắng lâu đấy.
Amelia đáp:
- Tôi sẽ biên thƣ cho anh về Georgy. Anh William thân mến ạ,
anh đối với mẹ con tôi tốt quá! Anh nhìn nó xem, có phải nó đẹp
nhƣ thiên thần không?
Vô tình, bàn tay hồng hào xinh xinh của đứa trẻ nắm lấy ngón
tay của anh chàng sĩ quan trung thực. Amelia ngƣớc nhìn anh
tràn trề niềm vui sƣớng của ngƣời mẹ. Cái nhìn tàn ác nhất đời
cũng không thể khiến anh chàng đau khổ bằng tia mắt đầy trìu
mến nhƣng vô tình đó. Anh ta cúi xuống nhìn hai mẹ con, trong
20
Hội Chợ Phù Hoa
một lúc lâu, nghẹn lời không nói đƣợc gì. Gắng thu hết sức lực
trong ngƣời anh mới nói đƣợc một câu: “Cầu Chúa ban phƣớc
lành cho chị”. Amelia cũng đáp lại nhƣ thế và ngẩng đầu lên hôn
anh.
Thấy William Dobbin đi ra cửa, bƣớc chân nặng nề. Amelia
lại nói “Suỵt! Khéo Georgy thức dậy đấy!”.
Cô không nghe thấy tiếng ngựa chuyển bánh, cô còn bận
ngắm đứa con đang mỉm cƣời trong giấc ngủ.
21
W.M. Thackeray
CHƯƠNG XXXVI
LÀM THẾ NÀO SỐNG ĐÀNG HOÀNG
KHÔNG MỘT ĐỒNG LỢI TỨC
Có lẽ Hội chợ phù hoa này làm gì có ai thờ ơ đến nỗi không
thỉnh thoảng nhòm ngó tí chút đến việc làm ăn của ngƣời quen kẻ
thuộc, hoặc quá từ bi đến mức không buồn ngạc nhiên tự hỏi mấy
bác Jones và Smith hàng xóm làm sao vẫn cứ vắt mũi đủ đút
miệng quanh năm? Mặc dầu rất kính trọng gia đình Jenkins s (vì
tôi đã có dịp ăn tiệc trong gia đình này đôi ba lần), tôi vẫn phải
thú thật rằng từ nay cho đến chết tôi không thể quên đƣợc sự kinh
ngạc khi thấy bầu đàn nhà Jenkins s xuất hiện tại công viên trên
một chiếc xe ngựa đồ sộ, kẻ hầu đầy tớ dập dìu; bởi lẽ dẫu tôi
thừa biết rằng xe ngựa là đồ cũ mua lại, mà bọn đầy tớ chỉ đƣợc
nơi ăn chốn ở, chứ không có tiền lƣơng, nhƣng nguyên ba thằng
hầu và cái xe ấy cũng phải tiêu tốn ít nhất là sáu trăm đồng hằng
năm... Thế mà còn tiệc tùng sang trọng, lại hai đứa con trai nội
trú ở trƣờng trung học Iton; mấy cô con gái thì đủ cả cô giáo và
thầy giáo dạy riêng. Mùa thu họ đi chơi ở Eastbourne hay
Worthing; thỉnh thoảng họ lại ra ngoại quốc du lịch một chuyến;
mỗi năm một lần, họ còn tổ chức một buổi dạ hội, có tiệc ăn đêm
đặt tại nhà hàng Gunter (nhân tiện xin nói thêm, nhà này quen
22
Hội Chợ Phù Hoa
thầu những thứ bữa tiệc loại thƣợng hạng của gia đình Jenkins;
tôi biết rõ điều này vì có lần đƣợc mời đến để lấp một chỗ trống,
thì thấy ngay rằng một bữa ăn nhƣ thế vƣợt xa những bữa tiệc kẻ
tầm thƣờng này vẫn đƣợc dự). Ngƣời hiền lành đến đâu cũng
đánh một dấu hỏi rằng gia đình Jenkins làm thế nào mà sống kiểu
ông hoàng nhƣ vậy đƣợc? Jenkins là cái gì? Còn ai lạ gì anh ta
nữa... Một nhân viên quèn tòng sự tại ngự tiền văn phòng, lƣơng
đồng niên 1.200 đồng. Hay là chị vợ có của riêng? Úi dà!... Cô
Flint là một trong số mƣời một đứa con của nhà quý tộc quèn
vùng BuckingHampshire . Suốt năm những thứ cô đƣợc gia đình
cho chỉ là một con gà tây vào ngày lễ Giáng sinh! Bù lại, cô phải
nuôi ba cô em trong suốt mấy tháng nghỉ hè, và còn phải tiếp
mấy ông anh trai mỗi khi họ ra tỉnh chơi nữa cơ chứ. Thế thì
Jenkins giữ thăng bằng ngân sách bằng cách nào nhỉ? Tôi cũng
nhƣ bất cứ ngƣời bạn nào của anh ta đều phải tự hỏi không hiểu
tại sao Jenkins chƣa bị truy tố trƣớc pháp luật từ lâu. Mà làm sao
năm ngoái anh ta vẫn còn dám vác mặt về Boulogne. (Thiên hạ
lấy làm kinh ngạc về điều này lắm).
Tiếng “tôi” ở đây có nghĩa là tất cả mọi ngƣời... nghĩa là bà
Grundy (1) trong một độc giả nhƣ vậy...Mỗi ngƣời đều có thể chỉ
ra trong đám thân bằng cố hữu một gia đình nào đó vẫn sống
đàng hoàng không biết bằng cách nào. Chắc hẳn chúng ta cũng
đã từng nâng nhiều cốc rƣợu mà gật gù thù tạc với chủ nhân,
1
Ngôn ngữ Anh có một câu thông thƣờng bà Grundy sẽ nói thế nào về
chuyện này?” nghĩa là thiện hạ sẽ dị nghị ra sao về chuyện này. bà Grundy”
nghĩa là hàng xóm láng giềng”, lấy ý trong một tác phẩm của Morton, thế kỷ
19 (N.D).
23
W.M. Thackeray
đồng thời ngạc nhiên tự hỏi không rõ lão này xoay đâu ra tiền mà
mua rƣợu.
Khoảng ba bốn năm sau, sau khi ở Pariss trở về nƣớc, hai vợ
chồng Rawdon Crawley sống trong một căn nhà nhỏ rất đầy đủ
tiện nghi tại phố Curzon trong khu May; đám bạn bè thƣờng
đƣợc họ thết tiệc, không mấy ai không tự đặt câu hỏi trên về họ.
Ở trên tôi đã có dịp nói rằng nhà tiểu thuyết có con mắt thấu suốt
mọi sự, cho nên tôi cũng có đủ thẩm quyền tiết lộ với bạn đọc tại
sao vợ chồng Crawley không một xu dính túi mà vẫn sống đàng
hoàng. Nhƣng tôi có thể yêu cầu các báo chí có thói quen trích
bài đăng trong các tuần báo khác đừng in lại những chuyện tôi kể
dƣới đây đƣợc không?... Bởi lẽ tƣ cách là kẻ đã khám phá ra sự
thực (mà cũng có tốn kém đôi chút đấy), tôi muốn đƣợc hƣởng
chút lợi lộc. Ví phỏng trời cho tôi có đƣợc một mụn con trai, tôi
sẽ bảo họ rằng: “Con ơi, con nên chịu khó đi lại giao thiệp luôn
luôn với anh ta thì mới học đƣợc cách sống ung dung mà quanh
năm không mất xu nào. Nhƣng tốt nhất là đừng có quá thân mật
với các ông sang trọng loại này, nên nhờ ngƣời khác tính toán hộ
mình vì giống nhƣ bảng tính lôgarít, nếu ta phải làm lấy những
con toán thì sẽ tổn phí khá nhiều công sức”.
Về chuyện không mất một xu mà trong khoảng hai ba năm,
Crawley và vợ sống một đời sống hết sức thoải mái và hạnh phúc
ở Pariss, chúng tôi chỉ có thể kể lại rất sơ lƣợc. Chính trong thời
gian này, anh ta bán lại lon trung tá của mình, từ giã đội ngự lâm
quân.
24
Hội Chợ Phù Hoa
Khi chúng ta gặp lại thì chỉ còn nhận thấy dấu vết cái nghề
trận mạc cũ của anh ta ở bộ ria mép và cái danh hiệu trung tá in
trên tấm danh thiếp.
Ở trên đã nói, vừa đến Paris, Rebecca đã chiếm một vị trí nổi
bật trong giới thƣợng lƣu của kinh đô nƣớc Pháp; cô ta còn đƣợc
vài gia đình nổi tiếng nhất thuộc giới quý tộc Pháp mới khôi phục
lại uy thế tiếp đón rất long trọng. Bọn ngƣời Anh sang trọng ở
Paris cũng săn đón Rebecca làm cho các bà vợ tức lộn ruột; họ
không thể chịu nổi con ngƣời bon chen ấy. Trong mấy tháng liền,
Rebecca quen đi lại những phòng khách chính ở khu ngoại ô St.
Germain và thƣờng xuyên ra vào chỗ triều đình lộng lẫy huy
hoàng; đƣợc tiếp đón hết sức long trọng; cô ta sung sƣớng quá và
dễ thƣờng hơi bị choáng váng trong thời kỳ khoái hoạt ấy thì
phải, cho nên mới có ý muốn coi thƣờng đám bè bạn của chồng
mình hầu hết là những quân nhân trẻ tuổi trung thực.
Phải ngồi cạnh những bà quận chúa và các bậc mệnh phụ
trong triều, viên trung tá thấy buồn quá; anh ta cứ ngáp ngắn
ngáp dài. Mấy bà cụ chơi bài cãi nhau ồn cả lên vì một đồng năm
frăng; thấy thế, trung tá Crawley chán ngấy, chẳng buồn ngồi vào
chiếu bạc nữa. Anh không thƣởng thức nổi cái tế nhị trong câu
chuyện họ nói với nhau, vì không biết tiếng Pháp. Anh ta tự hỏi
không hiểu vì sao đêm nào vợ mình cũng chịu khó cong lƣng
chào hàng tá những bà hoàng bà chúa để làm gì. Bây giờ Rawdon
mặc Rebecca đến dự những buổi tiếp tân này một mình; anh ta
trở lại với những thú chơi riêng bình dị mà anh ta thích giữa đám
bạn hữu tự mình chọn lấy.
25
W.M. Thackeray
Thực ra, khi chúng tôi nói rằng một ông sang trọng sống đàng
hoàng mà quanh năm không một xu lợi tức, ấy là chúng tôi muốn
nói ông ta có những nguồn lợi ta không biết rõ - nghĩa là không
rõ ông ta bù đắp việc chi tiêu trong nhà ra sao. Riêng ông bạn
trung tá của chúng ta thì vốn có biệt tài trong các trò chơi may
rủi. Anh ta lại chịu khó tập luyện thƣờng xuyên trong các món
đánh bài xì, chơi xúc xắc, hoặc bi-a, cho nên so với kẻ thỉnh
thoảng mới giải trí, dĩ nhiên anh ta “tài nghệ” hơn. Biết cầm một
cái gậy bi-a cho khéo cũng công phu chẳng khác gì ngƣời cầm
bút vẽ, thổi sáo, hoặc đánh kiếm... mới đầu không thể thắng đƣợc
ai, nhƣng hễ chịu cần cù học hỏi, lại có chút năng khiếu là tự
nhiên ngƣời ta có thể trở thành xuất sắc. Cho nên từ chỗ chỉ là
một tay chơi tài tử khéo tay, Crawley leo lên địa vị một nhà lão
luyện trong nghề bi-a. Y nhƣ một viên tƣớng, thƣờng thƣờng
thiên tài của anh ta phát triển song song với những sự nguy hiểm;
mỗi khi thần may mắn suốt buổi quay lƣng lại với anh ta, hễ đặt
tiền là y nhƣ rằng mất hút, anh ta chỉ cần chơi vài “cú” thật táo
bạo và tài tình, là đủ lấy lại đƣợc ƣu thế, cuối cùng lại đƣợc nhƣ
thƣờng, và thiên hạ lấy làm ngạc nhiên vô cùng - thiên hạ đây tức
là những anh không rõ ngón chơi của Crawley; còn những tay
quen thuộc thì rất dè dặt mỗi khi đặt tiền để thi tài với ngƣời đã
thạo nghề lại giàu mánh khoé nhƣ vậy.
Trong môn đánh bài, Rawdon cũng không phải là tay kém
cạnh. Bƣớc vào mỗi cuộc chơi, anh ta thƣờng thua lúc đầu vì
chơi thiếu thận trọng và vụng về; thế là bọn mới đến coi thƣờng
tài nghệ của anh ta; cho đến lúc bị mất liên tiếp những món tiền
nho nhỏ, anh ta mới hăng máu, thận trọng hơn. Ta để ý sẽ thấy
26
Hội Chợ Phù Hoa
Crawley đổi hẳn lối chơi và chắc chắn chƣa hết canh bạc anh ta
đã đánh cho kẻ thù những đòn thất điên bát đảo. Quả thật rất ít
ngƣời dám nói là có lần mình đã hạ đƣợc Rawdon.
Vì Rawdon luôn luôn đƣợc bạc cho nên bọn ghen ghét và bọn
mất tiền hay nói xấu anh ta, điều đó cũng không lạ. Cũng nhƣ
ngƣời Pháp thƣờng nói về con ngƣời không bao giờ chịu thất trận
là Quận công Wellington rằng chẳng qua ông ta bách chiến bách
thắng cũng nhờ những sự may mắn lạ kỳ liên tiếp nhau giúp đỡ
mà thôi; họ còn đồn rằng quận công đã chơi một nƣớc bạc bịp ở
Waterloo để nắm chắc phần thắng về mình. Tóm lại ở nƣớc Anh,
ngƣời ta thì thào rằng trung tá Crawley cứ đƣợc bạc luôn hẳn có
chuyện bịp bợm chi đây.
Hồi ấy ở Paris có hai sòng bạc lớn là “Frascati” và “Salon”,
nhƣng ngƣời ta mê đánh bạc quá, thành ra, những sòng bạc công
khai không đủ thoả mãn “máu mê” của thiên hạ; ngƣời ta đánh
bạc ngay cả trong phòng khách ở nhà riêng. Trong những cuộc
họp mặt buổi tối thân mật êm đềm tại nhà trung tá Crawley, chủ
và khách không ai thoát khỏi cái trò giải trí tai hại này... Và cái
bà Crawley nhỏ bé tốt bụng kia lấy làm phiền lòng lắm lắm. Bà
nói về chuyện chồng mê chơi xúc xắc bằng một giọng vô cùng
buồn nản; bà kêu rên với mọi khách khứa đến nhà chơi về
chuyện này. Bà yêu cầu những ngƣời bạn trẻ tuổi tuyệt đối đừng
bao giờ mó vào cái ống đổ xúc xắc. Cái lần anh chàng Green trẻ
tuổi thuộc đội khinh binh bị thua một món tiền lớn, suốt đêm
hôm ấy bà khóc mãi, và quỳ xuống mà cầu xin chồng huỷ bỏ
khoản nợ, đốt tờ văn tự đi; ấy là theo lời ngƣời đầy tớ kể lại về
anh chàng trẻ tuổi bất hạnh.
27
W.M. Thackeray
Rawdon biết làm thế nào đƣợc? Chính anh ta cũng vừa thua
món tiền lớn về tay lão Blackstone, thuộc đội khinh kỵ binh, và
lão bà trƣớc Punter thuộc đội kỵ binh Hanover. Green sẽ đƣợc
hƣởng một thời hạn rộng rãi; nhƣng còn chuyện trả tiền?...Dĩ
nhiên là phải trả...
Đốt văn tự nợ, có hoạ là chuyện trẻ con.
Nhiều sĩ quan khác, đặc biệt là bọn còn ít tuổi (vì bọn trai trẻ
ƣa xúm xít quanh bà Crawley lúc tan buổi họp ra về), mặt anh
nào anh ấy buồn rƣời rƣợi, vì ít nhiều đã để lại một số tiền trên
mặt cái bàn đánh bài tai hại kia. Bắt đầu có tiếng đồn đại không
hay về căn nhà của bà chủ, những tay già đời báo cho bọn còn
non nớt về sự nguy hiểm. Trung tá O‟Dowd thuộc trung đoàn
thứ... là một trong những trung đoàn chiếm đóng Paris thời đó
cũng cảnh báo trung uý Spooney về việc này. Hai vợ chồng viên
trung tá bộ binh và hai vợ chồng trung tá Crawley đã cãi nhau
một trận ầm ĩ ngay giữa nhà hàng cà phê Paris, nơi họ đến dùng
bữa cơm trƣa. Hai bà vợ cùng tham gia tích cực vào cuộc đấu
khẩu. Bà O‟Dowd tát vào mặt bà Crawley và gọi chồng bà này là
đồ lừa đảo; trung tá Crawley thách trung tá O‟Dowd đấu súng.
Viên tổng chỉ huy hay tin bèn gọi trung tá Crawley đến hỏi
chuyện và ngăn không cho cuộc đọ súng xảy ra; lúc này Crawley
đã sửa soạn sẵn đôi súng lục “đã dùng để bắn chết tƣơi đại uý
Marker”. Giá Rebecca không đích thân quỳ xuống mà van xin
trung tƣớng Tufto có lẽ Crawley đã bị tống về Anh rồi; suốt mấy
tuần lễ sau anh ta đành chỉ đánh bạc với bọn dân thƣờng.
Tuy nhiên Rebecca vẫn thấy rõ rằng dù cho ông chồng có tài
mấy và có đƣợc bạc luôn đi nữa thì tình thế vẫn cứ bấp bênh lắm.
28
Hội Chợ Phù Hoa
Dù rằng ít khi hai vợ chồng chịu trả tiền ai, nhƣng vốn nhỏ
mọn của họ rồi cũng có một ngày mòn đi thành con số không. Cô
ta vẫn bảo: “Mình ơi, đánh bạc có thể giúp mình tăng thêm số thu
hoạch thật đấy, nhƣng bản thân nó không phải là một số thu
hoạch chắc chắn. Rồi có ngày thiên hạ chán đánh bạc, lúc ấy vợ
chồng mình xoay xở ra sao?” Rawdon công nhận vợ nói có lý;
quả thật anh ta đã nhận thấy rằng sau mấy buổi tổ chức ăn đêm
tại nhà và v.v. bọn đàn ông đã tỏ ra chán không muốn đánh bạc
với anh ta thực, và cái sức quyến rũ của Rebecca cũng không thể
khuyến khích họ tham dự một cách hào hứng nhƣ trƣớc.
Cuộc sống thoải mái vui vẻ của đôi vợ chồng ở Paris chẳng
qua cũng là một trò giải trí vô nghĩa cho qua ngày; Rebecca hiểu
rằng muốn giúp cho chồng làm nên thì phải về nƣớc. Cô phải
kiếm cho chồng một chức vụ nào đó ở nƣớc Anh hoặc ở các
thuộc địa; cho nên cô ta quyết định hễ có cơ hội là trở về Anh.
Biện pháp đầu tiên của Rebecca là xui chồng bán phăng cấp bậc
trung tá và chịu ăn nửa lƣơng vậy. Ít lâu nay, anh ta đã thôi
không đảm nhiệm chức vụ sĩ quan phụ tá của tƣớng Tufto nữa
rồi. Đi đâu Rebecca cũng giễu cợt lão sĩ quan già này về mớ tóc
giả lão đeo khi đến Paris, về tấm áo gi lê, về bộ răng giả, nhất là
về chuyện lão cứ nhất định tự cho mình là một tay chim gái cừ
khôi, và đàn bà con gái ai đến gần lão cũng phải mê tít. Hồi này,
lão trung tƣớng đang xun xoe quanh bà Brent - vợ viên cao uỷ
Brent; bà này có bộ lông mày rậm nhƣ chổi sể; lão tốn vô khối
hoa, cơm thết tại khách sạn, vé mời ghế “lô” rạp hát và các thứ
đồ chơi vặt. Bà Tufto đáng thƣơng cũng vẫn không sung sƣớng
hơn mấy tí, vẫn đành ngồi suốt những buổi tối dài đằng đẵng với
29
W.M. Thackeray
mấy cô con gái; bà hiểu rằng ông trung tƣớng nhà bà còn đang
bận túc trực sau ghế bà Brent ở rạp hát, râu tóc uốn quăn, xức
nƣớc hoa thơm lừng. Mất lão trung tƣớng, Rebecca đã có hàng tá
đàn ông cảm lăn cảm lóc thế chân; kể ra khôn ngoan lanh lợi nhƣ
cô ta thì đánh gục tình địch dễ nhƣ bỡn, nhƣng ta đã rõ, Rebecca
cảm thấy chán ngán cuộc sống thù tiếp vô vị; những “lô” ghế ở
rạp hát, những bữa tiệc ở khách sạn cô thấy ngấy lắm rồi. Những
bó hoa thơm không dành làm vốn cho tƣơng lai đƣợc, mà các thứ
đồ chơi lặt vặt, khăn tay thêu hoa và bao tay bằng da dê nào có
gặm ra mà ăn đƣợc đâu. Cô thấy sự vui chơi vô nghĩa quá, phải
kiếm những món lợi nào chắc chắn hơn mới đƣợc Đúng lúc ấy,
có tin đồn lan ra trong đám chủ nợ của viên trung tá ở Paris,
khiến họ bằng lòng quá. Bà Crawley, bà cô giầu có mà viên trung
tá vẫn hy vọng hƣởng gia tài sắp chết rồi, viên trung tá cần có
mặt ngay bên giƣờng bệnh của bà. “Bà trung tá” và con trai ở lại
Paris, khi nào ông chồng sang đón sẽ về nƣớc sau. Trung tá lên
đƣờng đi Calais và đến đó an toàn; có lẽ sau đó sẽ đi Dover; thật
ra, Rawdon đi xe ngựa đến Dunkirk rồi chuồn một mạch sang
Brussels, nơi mà từ trƣớc anh ta vẫn trú. Thì ra ở Luân đôn,
Rawdon nợ còn nhiều hơn cả ở Paris, cho nên anh ta thấy cuộc
sống ở cái thành phố Bỉ lặng lẽ kia đẹp hơn những nơi kinh đô
quá ồn ào.
Bà cô chết thực rồi. Rebecca đặt may một bộ đồ tang thật long
trọng cho mình và con trai. Ngài trung tá còn đang bận thu xếp
vấn đề thừa kế gia sản. Bây giờ họ có thể thuê buồng ở tầng thứ
nhất không phải sống trong tầng hầm của khách sạn nhƣ trƣớc
nữa. Trung tá phu nhân và ông chủ khách sạn có một buổi hội ý
30
Hội Chợ Phù Hoa
với nhau về việc sắm thảm mới để trang hoàng trên tƣờng và trải
trên mặt sàn. Hai bên đồng ý với nhau về mọi thứ. Riêng về
khoản giá cả thì không thoả thuận đƣợc. Rồi Rebecca lên xe đi,
chị vú nuôi ngƣời Pháp bế thằng con trai ngồi cạnh. Hai vợ
chồng ông chủ khách sạn mỉm cƣời theo ra tận cổng để tiễn.
Nghe tin Rebecca lên đƣờng, trung tƣớng Tufto nổi lôi đình; thấy
lão nổi lôi đình, bà Brent bèn nổi lôi đình với lão. Trung uý
Spooney thấy trái tim nhƣ vỡ ra từng manh. Còn ông chủ khách
sạn thì sửa soạn sẵn phòng trọ đẹp nhất, chờ hai vợ chồng bà
khách xinh đẹp trở lại, ông ta cẩn thận xiết lại (1) dây buộc những
chiếc vali đồ sộ mà khách đã yêu cầu ông giữ gìn chu đáo hộ. Bà
Trung tá đã đặc biệt căn dặn ông về việc này. Ít lâu sau, mở ra thì
ở trong chả thấy có cái quái gì đáng tiền cả.
Trƣớc khi sang thủ đô nƣớc Bỉ với chồng, Rebecca cũng ghé
qua nƣớc Anh, để đứa con lại lục địa cho chị vú nuôi ngƣời Pháp
trông nom.
Cuộc chia tay giữa Rebecca và thằng con trai cũng không
khiến cả hai mẹ con đau lòng lắm. Nói cho đúng thì từ khi sinh
con đến giờ cô ta cũng ít khi nhìn đến thằng bé. Theo lối nuôi
con của các bà mẹ Pháp, cô ta gửi con cho một bà vú nuôi tại một
làng gần khu ngoại ô thành Paris. Ở đây, thằng bé Rawdy đi guốc
gỗ, sống chung trong cái gia đình đông đúc gồm các trẻ em đƣợc
gửi bà vú, cũng không phải là không có hạnh phúc. Bố nó cƣỡi
ngựa đến thăm con trai luôn; thấy con bẩn thỉu nhƣng hồng hào,
bi bô hò hét, nặn đất cát một cách thú vị dƣới con mắt coi sóc của
bà vú nuôi là vợ ngƣời làm vƣờn, ông bố vui vẻ lắm.
1
Tiếng Pháp: Serrer.
31
W.M. Thackeray
Rebecca không ƣa đến thăm con trai. Đã một lần thằng bé làm
bẩn tấm áo lông mới màu cổ vịt của cô ta. Chính nó cũng ƣa
đƣợc bà vú nuôi nâng niu hơn đƣợc mẹ bế, và khi phải từ biệt
ngƣời vú nuôi tốt bụng đã săn sóc mình nhƣ con đẻ, thằng bé gào
khóc hàng mấy giờ liền; mẹ nó phải nói dối rằng hôm sau sẽ
đƣợc về với bà vú nuôi tốt bụng, nó mới tin.
Lúc chia tay, bà vú nuôi cũng buồn, nghe nói thằng bé sẽ trở
lại ngay, bà này cứ ngóng ngóng chờ mãi.
Có thể nói hai vợ chồng Rawdon là tiền bối của cả một thế hệ
những tay giang hồ táo bạo ngƣời Anh, sau này đã tràn vào lục
địa và làm nghề lừa đảo mà sống tại khắp các kinh đô Âu châu.
Trong thời kỳ 1817-1818, ngƣời ta rất kính trọng danh dự và sự
giàu có của ngƣời Anh. Hồi đó, họ chƣa biết quỵt tiền một cách
trắng trợn, nhƣ ta thấy bây giờ. Hồi ấy những thành phố lớn của
châu Âu cũng chƣa mở cửa đón bọn lƣu manh ngƣời Anh. Bây
giờ thì khó lòng mà thấy một tỉnh nào ở Pháp, ở Ý mà không có
mặt vài đồng bào quý báu của chúng ta với cái điệu bộ nghênh
ngang khệnh khạng rất Anh cát lợi nhận ra đƣợc ngay ở bất cứ
đâu. Họ quỵt tiền các chủ quán, đổi ngân phiếu giả cho các ông
chủ nhà băng cả tin, ăn cắp xe ngựa của các chủ xe, lừa đồ trang
sức của các hiệu kim hoàn, chơi bạc bịp để lừa tiền của các khách
du lịch, nẫng túi, thậm chí cuỗm cả sách ở các thƣ viện công
cộng... Ba mƣơi năm trƣớc, chỉ cần là một “quý ông” ngƣời Anh
đi xe ngựa riêng là đến đâu cũng đƣợc tín nhiệm; và đáng lẽ lừa
thiên hạ nhƣ bây giờ thì hồi ấy họ lại bị thiên hạ lừa. Vợ chồng
Crawley bỏ đi đƣợc vài tuần thì ông chủ khách sạn ở Paris mới
biết mình vừa bị một vố đau: bà Marabou chủ hiệu trang sức, vác
32
Hội Chợ Phù Hoa
hoá đơn đứng tên bà Rawdon Crawley đến đòi tiền xoành xoạch;
ông Didelot, chủ hiệu “Thỏi Vàng” ở phố Hoàng Cung năm sáu
bận đến thăm xem cái bà phu nhân xinh đẹp mua chịu đồng hồ và
xuyến kia đi vắng đã về chưa?(1) Cả bà vợ ngƣời làm vƣờn đã
săn sóc cậu con trai của bà “phu nhân” cũng không hề đƣợc trả
tiền công sáu tháng nay về việc cho cậu bé Rawdy bụ bẫm khoẻ
mạnh kia bú sữa. Vợ chồng ông Rawdon Crawley vội vàng quá,
cũng không kịp nghĩ đến cái món nợ nhỏ mọn ấy nữa. Còn ông
chủ khách sạn thì từ bữa ấy cho đến chết cứ ra sức mà chửi tàn tệ
cả cái giống Anh cát lợi. Ông ta gặp khách du lịch nào cũng hỏi
thăm có biết một lão trung tá Crawley nào đó... và vợ lão... một
ngƣời đàn bà nhỏ nhắn, rất dí dỏm không? Ông nói thêm: “Ngài
ơi ! Chúng nó lừa tôi một cách khốn nạn quá (2). Giọng ông than
thở khi kể lại tai hoạ trên nghe thật ảo não.
Rebecca về thăm Luân đôn nhằm mục đích thƣơng lƣợng với
bọn chủ nợ của chồng, định đề nghị chịu khoảng 4% hoặc 5% với
điều kiện để cho chồng đƣợc yên ổn trở về nƣớc. Ta không cần
phải tả lại những cuộc thƣơng lƣợng gay go này làm gì. Cuối
cùng Rebecca làm cho họ hể hả tin rằng món tiền cô ta đƣa ra là
tất cả vốn liếng của chồng và Crawley thì thà sống suốt đời ở
ngoại quốc còn hơn về nƣớc để bị chủ nợ giày vò. Cô ta trình bày
với họ rằng chồng mình không còn trông mong vào khoản tiền
nào khác, và họ cũng đừng hy vọng hƣởng một tỷ lệ lãi cao hơn;
cuối cùng toàn thể đám chủ nợ đồng tình ƣng thuận; thế là với
1
2
Tiếng Pháp: Cette charmante Miladi … de retour.
Tiếng Pháp: “Avec sa femme une petite dame, très spirituelle”…”„ils
m‟ont affreusement vole.”
33
W.M. Thackeray
một vạn năm nghìn đồng tiền mặt, Rebecca đã thanh toán đƣợc
một món nợ gấp hơn chục lần số tiền này.
Rebecca không cần nhờ luật sƣ thu xếp hộ mình. Xem cách cô
ta trình bày với thầy kiện của chủ nợ thì sự việc đơn giản quá; chỉ
có một là thuận, hai là mất nợ, thế là họ đành chịu, cho nên thầy
cò Lewis đại diện ông Davids ở công viên Sƣ tử đỏ, và thầy cò
Moss thay mặt ông Manasseh ở phố Cursitor (ông này là chủ nợ
chính của viên trung tá), cả hai phải khen bà Rawdon lo việc tài
tình quá, những tay nhà nghề cũng không bằng.
Rebecca khiêm tốn nhận lời khen; cô gọi mang một chai rƣợu
mạnh và bánh ngọt đến chỗ ở là cái quán trọ tồi tàn, nơi thƣơng
lƣợng công việc, để thết đãi mấy lão thầy kiện của chủ nợ; đoạn
cô ta hết sức vui vẻ bắt tay từ biệt họ, rồi lập tức quay về lục địa
với chồng con và báo cho chồng biết tin anh ta hoàn toàn đƣợc
giải phóng. Trong thời gian mẹ đi vắng, thằng con trai bị cô
Genevieve, tức là chị vú nuôi ngƣời Pháp, bỏ lơ là không săn sóc
đến. Chị ta mải chấp chới với một thầy quyền trong trại lính ở
Calais, quên khuấy mất nhiệm vụ của mình. Thằng bé Rawdy đã
bị chị vú bỏ quên trên bãi biển, bị lạc, suýt nữa thì chết đuối.
Thế là trung tá Crawley và vợ về Luân đôn. Chính trong toà
nhà ở phố Curzon, khu May Fair, họ đã thi thố tài năng trong
cách sinh sống bằng mọi mánh khoé nhƣ đã nói ở trên.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top