van12

PHẦN  I:  VĂN HỌC

MẢNG I:

      Văn học sử

KHÁI QUÁT VHVN TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN HẾT TK .XX

A.

Giai đoạn 1945-1975

:

1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa:

- Đường lối văn nghệ của Đảng cộng sản, sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ở đất nước ta một nền văn học thống nhất.

- Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

- Nền kinh tế : nghèo nàn và chậm phát triển.

- Về văn hóa: điều kiện giao lưu bị hạn chế, chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn hóa các nước XHCN (Liên Xô, Trung Quốc…).

2. Quá trình phát triển và các thành tựu chủ yếu:

a.

Chặng đường 1945-1954

:

-  1945-1946 văn học phán ánh được không khí hồ hởi, vui sướng của nhân dân khi đất nước vừa giành được độc lập.

- Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

- Thành tựu:

+ Truyện và kí: “Một lần tới thủ đô” (Trần Đăng); “Đôi mắt” (Nam Cao)…

     +  Thơ ca: “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm); “Việt Bắc” (Tố Hữu)…

     +  Kịch: “Bắc sơn” (Nguyễn Huy Tưởng); “Chị Hòa” (Học Phi)…

b.

Chặng đường 1945-1964

:

- Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề, của hiện thực đời sống: “Sống mãi với thủ đô” (Nguyễn Huy Tưởng); “Sông Đà” (Nguyễn Tuân);

- Thơ ca phát triển mạnh mẽ: “Gió lộng” (Tố Hữu); “Ánh sáng và phù sa” (Chế Lan Viên)…

- Kịch: “Đảng viên” (Học Phi)…

c.

Chặng đường 1965- 1975

:

Chủ đề bao trùm của văn học là đề cao tinh thần yêu nước, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

- Truyện, kí:

“Người mẹ cầm súng” (Nguyễn Thi); “Rừng xà nu”(Nguyễn Trung Thành); “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi” (Nguyễn Tuân)…

- Tiểu thuyết:

“Dấu chân người lính” (Nguyễn Minh Châu)…

- Thơ ca :

“Ra trận”; “ Máu và hoa” (Tố Hữu); “Đầu súng trăng treo” (Chính Hữu)…

- Kịch:

“Quê hương Việt Nam” (Xuân Trình); “Đại đội trưởng của tôi” (Đào Hồng Cẩm).

3. Đặc điểm cơ bản:

- Văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.

- Nền văn học hướng về đại chúng.

- Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

B.

Giai đoạn từ sau 1975 đến hết thế kỉ XX

:

1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa:

- Với chiến thắng mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc ta mở ra một thời kì mới - thời kì độc lập, tự do và thống nhất đất nước.

- Từ năm 1986, với công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản đề xướng và lãnh đạo, kinh tế nước ta cũng từng bước chuyển sang nền k. tế thị trường, v.hóa nước ta có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với nhiều nước trên thế giới.

2. Những chuyển biến và một số thành tựu ban đầu:

- Sự nở rộ ở thể loại trường ca“Những người lính đi tới biển”(Thanh Thảo); “Đất nước hình tia chớp” (Trần Mạnh Hảo)…

- Một số tập thơ

có giá trị: “Tự hát” (Xuân Quỳnh); “Khối vuông ru-bích”(Thanh Thảo) “Thư mùa đông” (Hữu Thỉnh)…

- Văn xuôi

có nhiều khởi sắc: “Mùa lá rụng trong vườn” (Ma Văn Kháng); “Thời xa vắng” (Lê Lựu)…

- Từ  năm 1986 văn học chính thức bước vào chặng đường đổi mới, văn học gắn bó hơn, cập nhật hơn những vấn đề của đời sống hàng ngày: “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu); Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường); hồi kí “Cát bụi chân ai” (Tô Hoài).

- Kịch

nói phát triển mạnh mẽ: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ…

CÂU HỎI THAM KHẢO THI TỐT NGHIỆP

:

Câu 1

.(2 điểm): VHVN từ năm 1945 đến 1975 phát triển qua mấy chặng? Nêu những thành tựu chủ yếu của mỗi chặng?

Câu 2

.(2 điểm): Nêu những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975.

Câu 3

.(2 điểm): Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, hãy giải thích vì sao VHVN từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX phải đổi mới?

Câu 4.

(2 điểm): Nêu những thành tựu ban đầu của VHVN từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX.

MẢNG II

: TÁC GIA

Bài 1

:  Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh

I.

Quan  điểm sáng tác văn học của Hồ Ch

í Minh 

:

- Văn học là vũ khí chiến đấu phụng sự có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng.

 + Nhà văn phải có tinh thần xung phong như người chiến sĩ ngoài mặt trận.

+ Quan niệm này  được thể hiện ở  bài : Khán « Thiên gia thi » hữu cảm : « Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong.. Và Trong  Thư gửi các nghệ sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, bác khẳng định : Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.

- Văn học phái có tính chân thực và tính dân tộc :

+ Nhà văn : phải miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn hiện thực đời sống ; Giữ tình cảm chân thật ; Phát huy cốt cách dân tộc ; Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

+  Đề cao sự sáng tạo của người nghệ sữi.

- Văn chương phải có mục đích, và hướng tới đối tượng sáng tác: Bởi vậy trước khi viết Người luôn đặt ra các câu hỏi: Viết cho ai?(đối tượng); Viết để làm gì? (mục đích);Viết cái gì?(nội dung) và  Viết như thế nào? (hình thức).

II.

Sự nghiệp văn học của  Hồ Chí Minh

:

* Văn chính luận:

+ Tác phẩm tiêu biểu

: “

Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925); “Tuyên ngôn độc lập” (1945)

Nội dung:

nhằm tấn công trực diện với kẻ thù hoặc thể hiện những nhiệm vụ Cách mạng qua các chặng đường lịch sử.

+ Nghệ thuật:

Những áng văn chính luận tiêu biểu của HCM cho thấy  tác giả viết không chỉ bằng lí trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo mà còn bằng cả tấm lòng yêu, ghét sâu sắc, mãnh liệt, nồng nàn.

* Truyện và kí:

+ Tác phẩm tiêu biểu:

“Vi hành”, “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, Kí: “Vừa đi đường vừa kể chuyện” (1963)

+  Nội dung:

Vạch trần bản chất đen tối của thực dân Pháp và bè lũ phong kiến tay sai;

ca ngợi chiến sĩ cách mạng kiên cường đấu tranh vì đọc lập tự do của dân tộc.

+ Nghệ

thuật: Tác phẩm cô đọng, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo, giàu tính hiện đại và giàu chất trí tuệ.

* Thơ ca:

Tập “Nhật ký trong tù

(1942 – 1943), gồm 134 bài tứ tuyệt

Nội dung:

+ Vạch trần bản chất đen tối của chế độ nhà tù, xã hội TQ dưới thời Tưởng Giới Thạch những năm 1942 -1943.

+ Thể hiện một tâm hồn lớn và nhân cách cao đẹp của Bác( bức chân dung tự họa): nghị lực phi thường; khát khao tự do; yêu đất nước và luôn hướng về Tổ quốc;; nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên; động lòng trắc ẩn trước nối đau khổ, bất hạnh của con người….

Nghệ thuật: Đa dạng, linh hoạt về búp pháp; kết hợp hài hòa giữa búp pháp cổ điển và hiện đại…

Tập “Thơ Hồ Chí Minh

, gồm 86 bài ; được viết khi Bác ở chiến khu Việt Bắc và trong thời kì kháng chiến chống Pháp;  (1967);

+ Nội dung: thể hiện tấm lòng yêu nước của vị lãnh tụ và ngợi ca sức mạnh quân dân trong kháng chiến;Phong thái ung dung, tâm hồn hòa hợp với thiên nhiên và bản lĩnh của một nhà cách mạng luôn tin vào tương lai đất nước…. mục đích tuyên truyền  Dân cày, Ca sợi chỉ…

+ Nghệ thuật: vừa mang màu sác cổ điển vừa thể hiện tinh thần hiện đại.

Tập“Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh”. : viết về đề tài kháng chiến, tình bạn và những tâm tình riêng.

III.

Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh:

độc đáo và đa dạng ở mỗi thể loại

- Văn chính luận

:

ngắn gọn, súc tích, lập luận sắc sảo, chặt chẽ, lĩ lẽ đanh thép; bằng chứng thuyết phục và đa dạng về bút pháp; giàu tính luận chiến, hình ảnh và giọng điệu.

-  Truyện và kí

: hiện đại, có tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén.

- Thơ ca

: Có loại thơ tuyên truyền cổ động lời lẽ mộc mạc giản dị; có loại thơ hàm súc, uyên thâm , kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại; giữa chất trữ tình và chất thép; giữa sự trong sáng giản dị và sự hàm súc, sâu sắc.

Bài 2 

: Tố Hữu

I.

Những chặng đường thơ Tố Hữu

:

            Những chặng đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng một lúc với sự nghiệp cách mạng.

        * Từ ấy (1937-1946):

Tập thơ đầu tay của một hồn thơ sôi nổi, say mê lí tưởng từ khi giác ngộ cách mạng đến lúc trưởng thành của người thanh niên cách mạng. Tập thơ chia làm 3 phần:

+ “Máu lửa” được sáng tác trong thời Mặt trận dân chủ; thể hiện sự cảm thông sâu sắc với nỗi cơ cực của người nghèo khổ trong xã hội, khơi dậy ở họ ý chí đấu tranh và niền tin vào tương lai.

+  “Xiềng xích” dduocj sáng tác khi tác giả bị giam trong các nhà lao ở Trung Bộ và Tây Nguyên, thể hiện tâm hồn tha thiết yêu đời, khát khao tự do và ý chí kiên cường của người chiến sĩ cách mạng.

+ “Giải phóng

” Được sáng tác khi  Tố  Hữu vượt ngục đến những ngày đấu giải phóng; ca ngợi độc lập tụ do, khẳng định niềm tin vào lí tưởng..

        *Việt Bắc (1947-1954):

- Sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

- Là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp gian lao, anh dũng và thắng lợi vẻ vang. Thể hiện những tình cảm lớn của người Việt Nam trong kháng chiến: tình yêu quê hương đất nước, tình đồng bào, đồng chí, tình quan dân, tình cảm với lãnh tụ. Tác phẩm tiêu biểu: “Việt Bắc”; “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”; “Ta đi tới”.

        * Gió lộng (1955-1961):

-

Ra đời khi xây dựng  XHCN ở niềm Bắc, và tiếp tục đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

-

Với cảm hứng lãng mạn, lạc quan, tập thơ ca ngợi công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc. Thể hiện tình cảm đối với miền Nam ruột thịt, bộc lộ ý chí đấu tranh thống nhất đất nước; tính cảm quốc tế vô sản rộng lới. Tác phẩm tiêu biểu: Bài ca xuân 61; Người con gái Việt Nam

        * Ra trận (1962-1971), Máu và hoa(1972-1977):

- Sáng tác trong những năm kháng chiến chống Mĩ quyết liệt cho đến ngày toàn thắng.

-Là khúc ca ra trận nhằm cổ vũ, động viên, kêu gọi chiến đấu ở cả hai miền Nam Bắc. Ngợi ca cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại, ngợi ca đất nước và con người Việt Nam anh hùng.Tác phẩm tiêu biểu: “Chào xuân 67”“Theo chân Bác”; “Việt Nam- Máu và hoa”.

*

Ngoài 5 tập thơ trên, Tố Hữu còn có hai tập thơ

:

 Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (1999

). Đây là hai tập thơ viết sau 1975, bộc lộ những chiêm nghiệm của nhà thơ

v

ề lẽ đời, giọng thơ trầm lắng, giàu suy tư.

II.

Những đặc điểm cơ bản của  phong cách thơ Tố Hữu

:

        -

Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ Tố

H

ữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị:

        - Thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

        - Thơ Tố Hữu có giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết.

        -

Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.

CÂU HỎI THAM KHẢO

THI TỐT NGHIỆP

:

Câu 1. (2 điểm):

Nêu những nét chính về quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh. Quan điểm đó đã giúp anh (chị) hiểu sâu sắc thêm về thơ văn của Người như thế nào?

Câu 2. (2 điểm):

Trình bày những nét khái quát về sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh.

Câu 3. (2 điểm):

Nêu những đặc điểm cơ bản của phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh.

Câu 4. (2 điểm):

Tại sao nói những chặng đường thơ của Tố Hữu gắn bó mật thiết với  những chặng đường cách mạng của dân tộc ?

Câu 5. (2 điểm):

Tại sao nói thơ Tố Hữu là thơ  trữ tình - chính trị ?

Câu 6. (2 điểm):

Tính dân tộc trong

nội dung và hình thức nghệ thuật thơ Tố Hữu biểu hiện ở những điểm cơ bản nào?

         =====================

MẢNG III

: VĂN NGHỊ LUẬN

Bài 1 

:  Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)

1.  Hoàn cảnh ra  cảnh ra đời:

- Ngày 19/08/1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/08/1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội và tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn “Tuyên ngôn Độc lập”.

- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

-

Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách : nền độc lập vừa mời giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động. Bọn đế quốc thực dân - dưới danh nghĩa giúp các nước Đông Dương giải giáp vũ khí quân đội Nhật - đang âm mưu xâm chiếm nước ta.

2. Giá trị, mục đích,  đối tượng của bản “Tuyên ngôn Độc lập”:

- Giá trị:

Là văn kiện lịch sử vô giá: Tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do trên đất nước ta.

+ Giá trị văn học:

-- Là áng văn chính luận đặc sắc với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, những bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc.

-- Là áng văn tâm huyết của HCM, hội tụ vẻ đẹp, tư tưởng, tình cảm của Người, đồng thời kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự dô của dân tộc ta.

- Đối tượng:

Nhân dân Việt Nam; các nước trên thế giới; bọn đế quốc, thực dân đang lăm le xâm lược nước ta : Mỹ, Pháp, Anh.

- Mục đích:+

-T

uyên bố nền độc lập của nước Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam mới; ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, thực dân.

+ Đập tan luận điệu xảo trá của  thực dân Pháp.

3.Nội dung:

   3.1. Phần 1 (Từ đầu đến “Không ai chối cãi được”) : Nêu nguyên lí chung

-

Người đã trích dẫn bản hai bản “Tuyên ngôn độc lập” (1776) của Mỹ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” (1791) của Pháp. Hai bản Tuyên ngôn này khẳng định quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi con người ở mọi dân tộc. Tác giả dùng chính lí lẽ của đối phương đáp trả lại đối phương, nhắc nhở đối phương đang đi ngược lại những gì mà tổ tiên họ để lại.

-  Từ quyền con người Bác mở rộng thànhquyền của dân tộc.Đây là một suy luận hết sức quan trọng vì đối với những nước thuộc địa như nước ta lúc bấy giờ thì trước khi nói đến quyền của con người phải đòi lấy quyền của dân tộc. Dân tộc có độc lập, nhân dân mới có tự do, hạnh phúc. Đó là đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.

=> Lập luận vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản TN.

   3.2. Phần 2(từ “Thế mà… phải được độc lập”) : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khảng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

- Bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ xác đáng, những bằng chứng không ai có thể chối cãi để bác bỏ những luận điệu của thực dân Pháp muốn "hợp pháp hóa" việc chiếm lại nước ta :

+ Pháp kể công"khai hóa", bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội diệt chủng của chúng. Tội nặng nhất là gây ra nạn đói năm giết chết hơn hai triệu đồng bào ta từ Bắc Kì đến Quảng Trị (dẫn chứng)

+ Pháp kể công "bảo hộ", bản tuyên ngôn kể tội hai lần chúng dâng Đông Dương cho Nhật (dẫn chứng)

+ Pháp nhân danh Đồng minh đã chiến thắng phát xít, giành lại Đông Dương, bản tuyên ngôn kể tội chúng phản bội đồng minh: đầu hàng Nhật, khủng bố Cách mạng Việt Nam đánh Nhật cứu nước. Bản tuyên ngôn nói rõ: Dân tộc Việt Nam giành lại độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.

=> Bằng giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục, đoạn văn đã tố cáo hùng hồn và đanh thép tội ác của thực dân Pháp. Bằng phương pháp liệt kê, tác giả đã nêu lên hàng loạt tội ác của thực dân Pháp trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và ngoại giao

- Từ những cứ liệu lịch sử hiển nhiên đó, bản Tuyên  ngôn nhấn mạnh đến những thông điệp quan trọng:

+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước VN.

                 + Kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết chống lại âm mưu của thực dân Pháp.

       + Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của dân tộc VN.

   3

.3. Phần 3

(còn lại) : Lời tuyên ngôn và tuyên bố về

ý

chí bảo vệ

nÒn

độc lập của toàn dân tộc

- Tuyên bố về quyền được độc lập của

dân tộc

-

Tuyên bố về sự thật là nước Việt Nam đã giành được độc lập.

- Tuyên bố về

ý

chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc bằng mọi giá.

   Những lời tuyên ngôn này được trình bày lôgic, chặt chẽ, cái trước là tiền đề của cái sau.

4. Nghệ thuật :

- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục 

- Ngôn ngữ chính xác, trong sáng, gợi cảm.

- Giọng điệu linh hoạt.

5. Chủ đề:

Tuyên ngôn độc lập

tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới quyền được tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, nền độc lập, tự do mà nhân dân ta vừa giành được và quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy của toàn dân tộc.

CÂU HỎI THAM KHẢO THI TỐT NGHIỆP

:

Câu 1. (2 điểm):

Nêu hoàn cảnh sáng tác bản TNĐL.

Câu 2. (2 điểm):

  Nêu mục đích, đối tượng của bản TNĐL

Câu 3. (3 điểm):

Giải thích vì sao mở đầu bản TNĐL, Bác lại trích dẫn bản: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp.

Câu 4. (3 điểm):

Văn phong chính luận của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập

Câu 5.(5 điểm):

Bình luận về sức thuyết phục của bản Tuyên ngôn Độc lập

----------------------------

Bài 2

 : Nguyễn Đình Chiểu,  ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Phạm Văn Đồng)

1.  Hoàn cảnh ra đời:

Bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc được viết nhân kỷ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu (3/7/1888 – 3/7/1963), giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta, nhất là đồng bào Nam Bộ đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Bài viết được in trong Tạp chí Văn học tháng 7 – 1963. 

2. Hệ thống luận điểm:

   2.1. Luận điểm bao trùm bài viết

:

            - Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao có ánh sáng khác thường (một hiện tượng văn học độc đáo, thơ văn có vẻ đẹp riêng không dễ nhận ra), phải chăm chú nhìn thì mới thấy (phải cố gắng tìm hiểu và tìm hiểu kỹ, phải kiên trì nghiên cứu thì mới cảm nhận được những vẻ đẹp riêng của nó) và càng nhìn thì càng thấy sáng (càng nghiên cứu sâu, càng tìm hiểu kỹ ta sẽ càng thấy được cái hay của nó và càng khám phá được những vẻ đẹp mới).

- So với thói quen đánh giá thơ văn Đồ Chiểu trước đó (chỉ dựa vào hình thức nghệ thuật trau chuốt, lời văn trang nhã, hoa mỹ) thì đây là một cách tiếp cận vấn đề mới và sâu sắc.

2.2. Luận điểm triển khai:

a.“ánh sáng khác thường” trong cuộc đời và quan niệm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu

+ Đời sống và hoạt động của Nguyễn Đỡnh Chiểu là một tấm gương anh dũng.

+ Với Nguyễn Đình Chiểu, cầm bút, viết văn là một thiên chức.

+ Làm người phải có khí tiết , phải phấn đấu vì nghĩa lớn, vì đất nước, dân tộc.

+ Văn thơ phải là vũ khí chiến đấu.

b.“ánh sáng khác thường” trong thơ văn yêu nước chống ngoại xâm của Nguyễn Đình Chiểu:

+ Thơ văn yêu nước chống ngoại xâm của Nguyễn Đình Chiểuđó “làm sống lại” một thời kì “khổ nhục” nhưng “vĩ đại”.

+  Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của thời đại, cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm bằng những hình tượng văn học “sinh động và não nùng” xúc động lòng người. Tiêu biểu nhất là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

    + Nguyễn Đình Chiểu chính là lá cờ đầu của thơ văn yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX.

c.“ánh sáng khác thường” trong truyện thơ Lục Vân Tiên:

- Khi nói về“Lục Vân Tiên”, Phạm Văn Đồng nêu quan điểm : “cần phải hiểu đúng Lục Vân Tiên thì mới thấy hết giá trị của bản trường ca này”.

- Theo Phạm Văn Đồng, có những đánh giá chưa thỏa đáng về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của truyện thơ Lục Vân Tiên :

+ Về tư tưởng : những giá trị luân lý mà Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi đó “lỗi thời” “ở thời đại chúng ta”.

+ Về nghệ thuật : lời văn “nôm na”, “không hay lắm”. 

-  Phạm Văn Đồng  đó giúp chúng ta nhận ra nhữ

ng “ ánh sáng khác

thường” của truyện thơ Lục Vân Tiên:

+ Thứ nhất, tác giả đó chỉ cho chúng ta thấy rằng : không phải mọi “giá trị luân lý” mà Nguyễn Đình Chiểu đó từng ngợi ca đều trở nên “lỗi thời”.

+ Thứ hai, về nghệ thuật: do muốn viết một tác phẩm “dễ hiểu, dễ nhớ, có thể truyền bá rộng rãi trong dân gian” nên lời văn có phần “nôm na”.

2.3. Luận điểm kết thúc:

Khẳng định vẻ đẹp nhân cách, vị trí của Nguyễn Đình Chiểu trong nền văn học dân tộc và nhấn mạnh ý nghĩa, giá trị to lớn của cuộc đời, văn nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu đối với đương thời và hôm nay.

4. Nghệ thuật:

- Bài văn có bố cục chặt chẽ.

- Cách lập luận đi từ chung đến riêng, kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận diễn dịch, quy nạp, bác bỏ.

- Lời văn vừa có tính khoa học, vừa mang màu sắc văn chương.

- Ngôn ngữ giàu hình ảnh.

- Giọng điệu luôn thay đổi: lúc hào sảng, lúc xót xa.

5. Chủ đề:

Qua bài viết, Phạm Văn Đồng muốn khẳng định : Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là cuộc đời của một người chiến sĩ đã phấn đấu hết mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự nghiệp thơ văn

của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng hùng hồn cho địa vị và tác dụng to lớn của văn học nghệ thuật cũng như trách nhiệm của người cầm bút trước cuộc đời. Cuộc đời và văn nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là bài học cho hôm qua mà cho cả hôm nay.

CÂU HỎI THAM KHẢO THI TỐT NGHIỆP

:

Câu 1 (2.0đ):

Nêu hoàn cảnh sáng của bài viết Nguyễn Đình Chiểu,  ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Phạm Văn Đồng). Anh (chị) hiểu nhận định sau của tác giả như thế nào : “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng  con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng tháy sáng. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”.

Câu 2 (3.0đ):

  Theo lập luận của Phạm Văn Đồng thì đâu là “ánh sáng khác thường” trong thơ văn yêu nước chống ngoại xâm của Nguyễn Đình Chiểu?

Câu 3 (3.0đ):

  Phạm Văn Đồng đã lập luận như thế nào để thuyết phục người đọc : cần “phải hiểu đúng Lục Vân Tiên thì mới thấy hết giá trị của bản trường ca này”.

Câu 4 (5.0đ):

  Phân tích nghệ thuật lập luận của Phạm Văn Đồng trong bài viết Nguyễn Đình Chiểu,  ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc.

=====================

MẢNG IV

: VĂN BẢN NHẬT DỤNG

Bài 1

:

Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1- 12- 2003

(Cô-phi An-nan)

1. Hoàn cảnh sáng tác:

Cô-phi An-nan đã

d

ành sự quan tâm đặc biệt cho cuộc chiến chống đại dịch HIV/AIDS. Tháng 4 – 2001

, ô

ng đã ra “Lời kêu gọi hành động” gồm 5 điều về đấu tranh chống đại dịch HIV/AIDS và thành lập Quỹ Sức khỏe và AIDS toàn cầu.

Như đúng tên gọi, văn bản  “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS”, được viết nhân ngày thế giới phòng chống AIDS : 1- 12- 2003, để gửi đến nhân dân trên toàn thế giới.

2. Nội dung:

+ Đặt vấn đề: Các quốc gia đã nhất trí thông qua “Tuyên bố về cam kết phòng chống AIDS”.

+ Thực trạng của vấn đề : Các nguồn lực đã được tăng lên phục vụ cho phòng chống HIV/ AIDS;  Đại dịch HIV/ AIDS vẫn đang hoành hành dữ dội trên toàn cầu; Những mục tiêu đặt ra trong “Tuyên bố về cam kết phòng chống AIDS” đã không được hoàn thành.

+ Nhiệm vụ cấp bách đặt ra : Đặt vấn đề AIDS lên hàng đầu trong chương trình nghị sự và hành động; Giật đổ thành lũy của sự im lặng, công khai lên tiếng về HIV/AIDS; Xóa bỏ sự kì thị và phân biệt đối xử

+ Kết luận : Cuộc chiến chống lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính chúng ta.

3. Nghệ thuật:

- Lập luận : mạch lạc, rõ ràng theo trình tự : đặt vấn đề, quan sát đánh giá thực trạng của vấn đề; rút ra kết luận về nhiệm vụ cấp thiết cần làm ngay.

- Vận dụng thành công các thao tác lập luận bác bỏ, so sánh, chứng minh; sử dụng nhiều câu văn cô đọng, súc tích, đúc kết chân lí kết hợp với những hình ảnh gần gũi giản dị.

- Luôn luôn định hướng thuyết phục vào đối tượng giao tiếp.

4. Chủ đề:

Bản thông điệp khẳng định phòng chống HIV/AIDS phải là mối quan tâm hàng đầu của nhân loại, và những cố gắng của chúng ta còn quá ít . Tác giả tha thiết kêu gọi hãy coi việc chống đại dịch này là cuộc chiến, mọi người phải đối mặt với sự thật, không vội vàng phán xét đồng loại và chung tay “đánh đổ các thành luỹ của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh dịch bệnh này”.

CÂU HỎI THAM KHẢO THI TỐT NGHIỆP:

Câu 1. (2 điểm):

Hãy chỉ ra cách lập luận của Cô - phi An - nan trong bài viết “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003”. Đánh giá hiệu quả của cách lập luận đó.

Câu 2. (3 điểm):

Viết một bài văn nghị luận ngắn khoảng 400 từ trình bày những hiểu biết của anh/chị về căn bệnh HIV/AIDS và kêu gọi mọi người hãy tham gia vào việc phòng chống HIV/AIDS.

Bài 2

: Nhìn về vốn văn hoá dân tộc (Trần Đình Hượu)

1. Xuất xứ:

Văn bản bài học được trích từ phần II của bài viết Về vấn đề tìm đặc sắc văn hoá dân tộc - bài viết gồm 3 phần, in trong công trình Đến hiện đại từ truyền thống.

2. Nội dung:

   2.1. Khái niệm “đặc sắc văn hoá dân tộc :

+ “Đặc sắc văn hoá dân tộc” được hiểu là những nét đặc trưng, riêng có, những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất của nền văn hoá một dân tộc, giúp khu biệt văn hoá của dân tộc này với dân tộc khác. Những đặc trưng này biểu hiện trong mọi lĩnh vực của nền văn hoá, cả trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của con người,…

+ “Đặc sắc văn hoá dân tộc” là một hiện tượng kết tinh, tổng hoà những giá trị nội tại của dân tộc với những giá trị được tiếp biến từ bên ngoài, được hình thành trong suốt quá trình lịch sử; không phải là một phạm trù nhất thành bất biến dù nó cũng có những mặt ổn định.

   2.2.Những ưu điểm và hạn chế của “vốn văn hoá dân tộc”:

Các bình

diện cụ thể

Ưu điểm

Hạn chế

Tôn giáo

Không cuồng tín, mà dung hoà các tôn giáo

®

các tôn giáo đều có mặt nhưng không có những xung đột quyết liệt.

Ít quan tâm đến giáo lí nên tôn giáo không phát triển

®

khó tạo nên tầm vóc lớn lao của các giá trị văn hoá.

Nghệ thuật

Sáng tạo được nhiều tác phẩm tinh tế, xinh xắn, có tính thẩm mĩ.

Không có quy mô lớn, không có những công trình kì vĩ, tráng lệ.

Quan niệm sống

Mong ước thái bình, sống thanh nhàn, thong thả.

An phận thủ thường, không mong gì cao xa dẫn đến sức ì, ngại phấn đấu.

Ứng xử

Trọng tình nghĩa.

Không chuộng trí, chuộng dũng.

Khôn khéo, biết giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn.

Không đề cao trí tuệ.

Không cự tuyệt trước cái mới.

Chần chừ, dè dặt.

Sinh hoạt

Hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, có quy mô vừa phải.

Hiếm có những vẻ đẹp phi thường, những cách tân táo bạo.

3. Đặc trưng chung của văn hoá Việt Nam:

- Xoá bỏ những cái thô dã, hung bạo, văn hoá Việt Nam đã tạo dựng và gìn giữ

®­îc

cái "nền nhân bản".

-  Đặc trưng chung, bao trùm của “vốn văn hoá dân tộc”“thiết thực, linh hoạt, dung hoà”:

 + Thiết thực:

Ước mong thái bình để làm ăn cho no đủ, sống thanh nhàn chứ không mong gì cao xa, khác thường ; trong tâm trí nhân dân thường có Thần và Bụt mà không có Tiên vì Thần uy linh bảo quốc hộ dân, Bụt hay cứu giúp người còn Tiên nhiều phép lạ, hay ngao du ngoài thế giới.

+ Linh hoạt:

Thể hiện rõ nét ở sự tiếp biến, “sàng lọc, tinh luyện” các giá trị văn hoá thuộc nhiều nguồn khác nhau như Nho, Phật, Đạo giáo,… để “thành bản sắc của mình”. Trên thực tế, tính linh hoạt cũng thể hiện rất rõ trong quan niệm và cách ứng xử. Chẳng hạn : Người Việt luôn luôn tâm niệm “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nhưng cũng không vì thế mà tuyệt đối hoá vai trò của ông thầy : “Học thầy không tày học bạn”.

+ Dung hoà:

Văn hoá Việt Nam là sự dung hợp, dung hoà của cái vốn có với văn hoá Phật giáo, Nho giáo,… Các giá trị văn hoá nội sinh và ngoại lai, bất kể từ nguồn nào, đều không loại trừ nhau trong đời sống văn hoá Việt. Ví dụ : Thơ văn Lí  - Trần

CÂU HỎI THAM KHẢO THI TỐT NGHIỆP

:

Câu 1 (2.0đ) :

Qua bài viết “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” của tác giả Trần Đình Hượu, anh (chị) biết được điều gì về những ưu điểm và hạn chế của “vốn văn hoá dân tộc” ?

Câu 2 (2.0đ) :

Dưạ vào bài viết “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” của tác giả Trần Đình Hượu, hãy giải thích 3 điểm đặc trưng,  bao trùm của “vốn văn hoá dân tộc”: “thiết thực, linh hoạt, dung hoà”.

===================

MẢNG V

: THƠ TRỮ TÌNH

Bài 1

:  Tây Tiến (Quang Dũng)

1. Hoàn cảnh ra đời bài thơ:

- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947

, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc

. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.

- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(

1986)

2. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ:

            Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.

3. Nội dung:

  3.1.

Đoạn 1: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi..... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”:

Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.

* Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội:

- Nhớ những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đó đi qua: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông- những địa danh gợi lên không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm.

- Bức tranh của núi rừng miền Tây được vẽ bằng nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội:  Các từ láy giàu sức tạo hỡnh; Cách ngắt nhịp 4/3;  Nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn;  Âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập vồ người.

*  Nỗi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm trên đường hành quân:

- Nhớ cái tếu táo, lạc quan trong gian khổ : “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

- Nhớ cái nhìn bay bổng, lãng mạn của người lính Tây Tiến sau những chặng đường vất vả: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” (Câu thơ sử dụng nhiều thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, bay bổng).

- Nhớ thương những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không bi luỵ. Nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh:  “gục bên súng mũ bỏ quên đời”.

- Nhớ tình cảm quân dân giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc : “Nhớ ôi… thơm nếp xôi”

  3.2. Đoạn 2: : “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa..... Trôi dũng nước lũ hoa đong đưa

: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

     a. Những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết qua những đêm liên hoan văn nghệ đậm màu sắc lãng mạn, trữ tình

- Đêm liên hoan được miêu tả bằng những chi tiết lãng mạn:

            + Đêm liên hoan như đêm hội giao duyên, đêm tân hôn của những cặp tình nhân (hội đuốc hoa)

+ Nhân vật trung tâm của đêm hội là những thiếu nữ Tây Bắc trong những bộ trang phục và vũ điệu vừa lộng lẫy, vừa e thẹn, tình tứ.

+

Cái nhìn trẻ trung, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê sung sướng của những người lính Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa.

            Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp giàu bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến

     b.  Vẻ đẹp của con người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước Châu Mộc

- Không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ mộng nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại.

- Nổi bật lên trên bức tranh sông nước là cái dáng mềm mại, uyển chuyển của các cô gái Thái trên con thuyền độc mộc.

- Những bông hoa rừng cũng như đang đong đưa làm duyên trên dòng  nước lũ. 

- Những bông lau ven rừng như có hồn và gợi nhớ da diết.

   3. 3.

Đoạn 3

: Bức tượng đài người lính Tây Tiến bất tử với thời gian

            Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.

- Gian khổ mà hào hùng

:         

+ Thân hình tiều tuỵ vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến : không mọc tóc, xanh màu lá

+ Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ.

- Thiếu thốn mà vẫn mộng mơ:

+ “Mắt trừng” là chi tiết cực tả cái phẫn nộ, sôi sục của nội tâm hướng về nhiệm vụ chiến đấu.

“Mộng qua biên giới” là mộng chiến công, khao khát lập công; và “mơ Hà Nội dáng kiều thơm” là mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch. Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính - những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc “mộng” và “mơ” ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến công.

Þ

Người lính toát lên vẻ đẹp oai hùng dữ dội mà hào hoa lãng mạn.

- Sự hy sinh của người lính Tây Tiến

+ Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “Đời xanh

” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.

+ Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.

+ Họ coi cái chết tựa lông hồng. Sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.

+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

: Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.

+  Hàng loạt từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành… gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.

=>Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.

   3.4.

Đoạn 4

:

Đoạn thơ còn lại:

- Khẳng định vẻ đẹp tinh thần của người lính Tây Tiến đối với thời đại và đối với lịch sử:

+ Vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về.          

+ Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là chứng nhân đẹp đẽ của thời đại chống thực dân Pháp.

- Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra đi khụng hẹn ngày về. Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến.

è

Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.

4. Nghệ thuật :

+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn.

+ Sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ và giọng thơ.

5. Chủ đề:

Qua bài thơ,Quang Dũng đó ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình, dữ dội mà mĩ lệ của thiên nhiên núi rừng miền  Tây Bắc của Tổ quốc, đặc biệt khắc vào thời gian một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa.

MỘT SỐ ĐỀ  VÀ ĐÁP ÁN TIÊU BIỂU

Đề 1:

Cảm nhận  đoạn thơ sau đây trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:

“Người đi châu mộc chiều sương ấy,

...

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Đề 2

: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến.

 Đề 3: Cảm nhận của anh (chị) đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến:

                                      “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

                                      ...

                                      Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Đề 4

: Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến.

Đề 5:

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến:

                                      “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

                                      ….

                                      Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Gợi ý

Đề 1

.

Cảm nhận đoạn thơ:                                                                                                

Các ý chính:

    1.

Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng và của thơ ca thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Cả bài thơ là một hồi tưởng, bốn câu thơ bình giảng ở đây cũng là hồi tưởng. Sau cảm hứng tràn đầy về cuộc hành trình đầy gian khổ tự hào của các chiến sĩ Tây Tiến, bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc, một thời từng gắn bó với đoàn quân Tây Tiến. Bên cạnh hình ảnh chan hoà màu sắc, âm thanh và rất tình tứ của "hội đuốc hoa" là cảnh sông nước miền Tây mênh mang mờ ảo.

    2.

Không gian dòng sông trong một buổi "chiều sương" thật lặng lờ, hoang dại. Bên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, thiên nhiên qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng như có linh hồn phảng phất trong gió, trong cây:

" Có thấy hồn lau nẻo bến bờ"

    3.

Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Và cái "dáng người trên độc mộc" cũng là gợi, nhưng vẫn làm rõ cái dáng đẹp, khoẻ của những chàng trai, cô gái trên con thuyền độc mộc lao trên sông nước. Như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ.

    4.

Bốn câu thơ như một bức tranh thuỷ mặc. Nhà thơ không chỉ làm hiện lên trước người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật. Đó không phải là bức tranh tĩnh vật mà chính là những kỉ niệm đẹp không bao giờ nguôi yên trong kí ức của nhà thơ đang được đánh thức. Nét đặc sắc nghệ thuật của bốn câu thơ: Những nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm mại, tài hoa, truyền được cái hồn của cảnh vật.

 Đề 2

.

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến

.

          Các ý chính cần có

    1. Giới thiệu khái quát:

    - Quang Dũng (1921-1988) là nghệ sĩ đa tài nhưng nổi bật là thơ. Tây Tiến là bài thơ nổi bật nhất trong đời thơ của ông nói về những kỷ niệm với trung đoàn Tây Tiến.

    - Trung đoàn Tây tiến thành lập năm 1947, hoạt động ở vùng biên giới Tây Bắc hoang vu, khắc nghiệt. Đơn vị phần lớn là thanh niên Hà Nội: học sinh, sinh viên, trí thức... Quang Dũng là một thành viên của đoàn quân ấy.

    - Cuối năm 1948, Quang Dũng rời xa Tây Tiến. Cảm xúc về những kỉ niệm dâng trào, ông viết Nhớ Tây Tiến

(in lần đầu năm 1949) sau đổi là Tây Tiến

. Bài thơ đặc biệt thành công trong việc khắc hoạ hình tượng người lính.

    2. Hình tượng người lính Tây Tiến:

    - Vẻ đẹp hào hùng:

    + Trong cuộc trường chinh gian khổ: người lính ở đây là những trí thức, học sinh, sinh viên xuất thân Hà Nội, chưa quen với gian lao, lại phải ném vào cuộc hành quân dài ngày, địa hình hiểm trở, khắc nghiệt, phải đối mặt với cái chết từ nhiều phía.

    + Tư thế hành quân, dáng vẻ dữ dội khác thường của người lính (chú ý một số hình ảnh: gục lên súng mũ bỏ quên đời, đoàn binh không mọc tóc, xanh màu lá, dữ oai hùm, mắt trừng…)

    + Lí tưởng chiến đấu cao đẹp và tinh thần hi sinh cho Tổ quốc (đi sâu phân tích các hình ảnh: những nấm mồ viễn xứ, chẳng tiếc đời xanh, chẳng về xuôi, âm thanh trầm hùng của sông Mã đưa tiễn những người con hi sinh về đất mẹ.

    - Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn:

    + Vẻ đẹp của tình người: gian khổ, ác liệt, hi sinh, người lính ở đây vẫn là những con người mơ mộng, lãng mạn, quyến luyến tình người (tình cảm với cô gái Mai Châu mùa cơm mới, dáng kiều thơm của cô gái Hà thành, dáng hình sơn nữ trên con thuyền độc mộc).

    + Cảm xúc về thiên nhiên: tinh tế trong phát hiện và cảm nhận cái đẹp (một nếp nhà sàn thấp thoáng trong mưa, hồn lau nơi bờ suối, dáng hình sơn nữ buổi hoàng hôn, bông hoa đong đưa trên dòng nước…). Dễ say đắm trước những vẻ đẹp man sơ và khác lạ (dốc thăm thẳm, cồn mây heo hút, thác gầm thét, cọp trêu người…)

    + Tâm hồn lạc quan, yêu đời, nguyện dấn thân vào cuộc chiến đấu được thể hiện qua quan niệm lãng mạn về người anh hùng (coi cái chết nhẹ tựa lông hồng) và qua nếp sinh hoạt văn hoá ngay trong những ngày gian khổ, hi sinh (những đêm liên hoan văn nghệ trong rừng sâu)

    - Nghệ thuật của ngòi bút Quang Dũng trong khắc hoạ hình tượng người lính:

    + Hình ảnh đặc sắc (đoàn binh không mọc tóc, xanh màu lá, giữ oai hùm), ngôn từ mới lạ và sự kết hợp của các từ cổ với các từ ngữ dân dã, đời thường (biên cương, viễn xứ, kiều thơm, chiếu, đất, bỏ quên đời, chẳng về xuôi) tạo được vẻ cứng cỏi ngang tàng của người lính gần với các tráng sĩ trong văn học cổ mà vẫn hiện đại.

    + Bút pháp hiện thực đan xen bút pháp lãng mạn, thủ pháp đối lập - tạo nên vẻ lãng mạn, bay bổng của người lính mà vẫn rất chân thực, tạo âm hưởng bi tráng cho bài thơ.

    3. Đánh giá:

    - Thành công trong việc khắc hoạ hình tượng ngời lính xuất thân Hà Nội đã làm hoàn thiện gương mặt người lính kháng chiến chống Pháp năm xưa, đặt Tây Tiến vào vị trí không thể thay thế trong thơ ca về đề tài người lính.

    - Sự tài hoa, tấm lòng xúc động chân thành của Quang Dũng đã dựng nên tượng đài bất tử về người lính vô danh trong cuộc chiến đấu hi sinh cho Tổ quốc.

Đề 3

.

Các ý chính cần có:

    1.

Giới thiệu xuất xứ đoạn thơ.

Tây Tiến

là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng và của thơ ca Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Tây Tiến

viết về những kỷ niệm của một đoàn quân chiến đấu ở vùng biên giới Việt - Lào. Đây là một vùng rừng núi hoang vu với nhiều đèo cao, vực sâu, thú dữ… Thiên nhiên khắc nghiệt, hiểm trở nhưng cũng rất hùng vĩ, nên thơ. Đoạn thơ trên đã khắc hoạ rõ nét bức tranh thiên nhiên đặc sắc ấy, đoạn thơ nằm ở phần đầu bài thơ.

    2.

Ba câu thơ đầu tái hiện vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ của thiên nhiên miền Tây Tổ Quốc. Với bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã miêu tả rừng núi nơi biên cương với vẻ đẹp vừa hoành tráng, dữ dội, hiểm trở, vừa huyền bí, hoang sơ nhưng rất đỗi thân thương, gắn bó với người lính. "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm" - một câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc gợi lên cảm giác góc cạnh, gồ ghề, đầy nguy hiểm của thiên nhiên đồng thời cũng thể hiện được nỗi vất vả, gian nan của người lĩnh Tây Tiến. "Heo hút cồn mây súng ngửi trời" - câu thơ vừa mô tả được chiều cao của vách núi vừa thể hiện được sự tinh nghịch, lạc quan của người chiến sĩ. "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" - câu thơ thứ ba ngắt nhịp ở giữa gợi lên được sự gập ghềnh, khúc khuỷu và hiểm trở của thiên nhiên. Ba câu thơ đầu tái hiện rõ nét những vất vả, gian truân của người chiến sĩ Tây Tiến trên con đường hành quân chiến đấu, chính những khung cảnh thiên nhiên đã nâng cao tầm vóc của người chiến sĩ.

    3.

Câu thơ cuối "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" - Quang Dũng sử dụng toàn thanh bằng tạo nên một hình ảnh gần gũi thân thuộc, một dấu hiệu bình yên giữa mênh mông rừng núi hiểm trở, xa lạ. Câu thơ đồng thời cũng thể hiện được tâm trạng thảnh thơi như tếng thở phào nhẹ nhõm của người lính khi lên tới đỉnh dốc và nhìn thấy những bản làng thấp thoáng ẩn hiện giữa làn mưa rừng.

 

Đề 4

.

Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong Tây Tiến

của Quang Dũng.

    A. Yêu cầu:

    1.

Phân tích, chỉ ra được những đặc điểm của thiên nhiên Tây Tiến - một vùng rừng núi nơi miền Tây Tổ quốc thời kì kháng chiến chống Pháp.

    2.

Thấy được bút pháp mô tả thiên nhiên, tấm lòng xúc động chân thành của nhà thơ với những kỉ niệm Tây Tiến.

    B. Nội dung chính cần có.

    1. Giới thiệu khái quát.

    - Quang Dũng (1921 - 1988) là nghệ sĩ đa tài nhưng nổi bật nhất là thơ. Tây Tiến

là bài thơ tiêu biểu nhất trong đời thơ của ông nói về những kỉ niệm với trung đoàn Tây Tiến.

    - Trung đoàn Tây Tiến thành lập năm 1947, hoạt động ở vùng biên giới Tây Bắc hoang vu, khắc nghiệt. Đơn vị phần lớn là thanh niên Hà Nội: học sinh, sinh viên, trí thức… mà Quang Dũng là một thành viên.

    - Cuối năm 1948 Quang Dũng rời xa Tây Tiến. Cảm xúc về những kỉ niệm dâng trào, ông viết Nhớ Tây Tiến

(in lần đầu năm 1949) sau đổi là Tây Tiến

. Cùng với việc khắc hoạ hình tượng người lính, bài thơ cũng thành công trong việc khắc hoạ hình ảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây Tổ quốc.

    2. Hình ảnh thiên nhiên Tây Tiến.

    a) Vùng núi rừng hiểm trở, hoang vu, khắc nghiệt

.

    Dốc cao khúc khuỷu, ngàn thước dựng đứng, chất ngất. Vực sâu heo hút, thăm thẳm, lấp trong sương núi. Vẻ hoang vu xa vắng gợi lên từ những tên làng, tên bản, tên châu rất lạ tai (chú ý các từ tạo hình, sự phối thanh, ngắt nhịp trong cách mô tả thiên nhiên ở đoạn thơ đầu).

    b) Thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng.    

    Thiên nhiên Tây Tiến có cái hùng vĩ, trùng điệp, thăm thẳm đồng thời cũng có vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của nó (chú ý các hình ảnh: hương hoa rừng thoang thoảng trong đêm, nếp nhà sàn thấp thoáng trong mưa bay, dáng hình sơn nữ trên con thuyền độc mộc giữa hai bờ lau sậy hoang vu, hoa trôi đong đưa trên dòng nớc…)

    c) Thiên nhiên hoang dã, huyền bí, thâm u.

    Ngòi bút Quang Dũng đã trả lại cho núi rừng Tây Tiến vẻ huyền bí, thâm u ngàn đời của nó (chú ý: những con đường heo hút trong mây, trong sương lấp, những buổi chiều âm vang tiếng gầm thét của những ngọn thác, cảnh đêm đêm cọp trêu người, hồn lau nơi rừng suối…)

    d) Nghệ thuật mô tả thiên nhiên của Quang Dũng. Sử dụng các từ ngữ giàu chất tạo hình, hình ảnh độc đáo, lạ. Nghệ thuật phối thanh, ngắt nhịp. Đặc biệt thủ pháp đối lập, bút pháp hiện thực đan xen bút pháp lãng mạn… làm cho thiên nhiên Tây Tiến vừa dữ dội, hoành tráng mà cũng thơ mộng, tràn đầy cảm hứng lãng mạn, đầy thử thách mà không làm con người run sợ, nản lòng.

    3. Đánh giá     

    -Thiên nhiên Tây Tiến chính là cái nền cho sự xuất hiện người lính Hà Nội và bộc lộ phẩm chất của họ: hào hùng và hào hoa. Tạo nên vị trí không thể thay thế của Tây Tiến ở thơ ca về đề tài người lính.

   - Thiên nhiên cụ thể sinh động trong bài thơ cho thấy tài năng và những kỉ niệm của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến thật sâu sắc, cảm động.

Đề 5

.    

Các ý chính:

1. Giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, giới thiệu đoạn trích

    - Quang Dũng (1921-1988), quê ở huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây. Ông làm thơ, viết văn và vẽ tranh. Tiêu biểu là tập thơ Mây đầu ô (1986).

    - Tây Tiến in trong tập Mây đầu ô. Bài thơ ra đời gắn với một chặng đường hoạt động trong quân đội của nhà thơ.

    Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội.

    Bài thơ ra đời khi Quang Dũng rời xa đơn vị, nỗi nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội thôi thúc và tạo nguồn cảm hứng cho nhà thơ.

    - Bài thơ gồm bốn đoạn. Đây là đoạn  là đoạn thứ ba trong thi phẩm.

2. Cảm nhận đoạn thơ

    a) Sơ lược về đoạn thơ

    Trên cái nền hùng vĩ và diễm lệ của núi rừng miền Tây (đoạn thơ 1 và 2), tới khổ thơ này chân dung người lính Tây Tiến được thể hiện qua dòng hồi tưởng và nỗi nhớ của Quang Dũng. Hình ảnh người lính Tây Tiến được tái hiện với tầm vóc bi tráng khác thường, tầm vóc của những con người "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" song vẫn đậm chất lãng mạn, thơ mộng, hào hoa.

    b) Hai câu thơ đầu

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

          Bệnh sốt rét làm rụng hết tóc và màu da xanh như lá của đoàn binh Tây Tiến là hiện thực khắc nghiệt được diễn tả bằng phép tạo hình thật dữ dội: vừa tột cùng cơ cực (không mọc tóc) vừa lẫm liệt kiêu hùng (dữ oai hùm). Hai câu thơ bật lên từ hiện thực trần trụi mà vẫn tạo được vẻ đẹp khác thường của người lính. Cụm từ "dữ oai hùm" thể hiện cái đẹp của dũng khí, nét oai phong của người chiến binh. Người chiến sĩ Tây Tiến mang cái oai linh của núi rừng trong dáng vẻ lẫn cốt cách của mình.

    c) Hai câu thơ tiếp theo diễn tả sinh động vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ý chí đánh giặc "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" được diễn tả qua hình ảnh "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới". Người lính với ý chí ấy lại rất lãng mạn, hào hoa trong đời sống tình cảm: quê hương, đôi lứa. Cái chí và cái tình của người lính được thể hiện thật đẹp, lãng mạn. Cái chung và cái riêng không mâu thuẫn nhau, tạo nên vẻ đẹp tinh thần của người chiến sĩ Tây Tiến.

    d) Hai câu 5 và 6

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

           "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" là một phần bức tranh hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh: mất mát, đau thương. Người lính Tây Tiến không ngần ngại nhìn thẳng vào hiện thực đó. Họ sống có lý tưởng cao đẹp, dám xả thân vì Tổ quốc, "chẳng tiếc đời xanh". Câu thơ 6 mang âm hưởng của những câu thơ cổ diễn tả "Chí làm trai dặm nghìn da ngựa", coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Đó là lời thề cảm tử trước lúc lên đường.

    (Chú ý các từ Hán Việt: "biên cương", "viễn xứ", làm tăng vẻ đẹp tôn nghiêm của những nấm mồ người chiến sĩ).

    e) Hai câu thơ cuối:

"Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

             Gợi âm hưởng bi tráng. Ngời lính Tây Tiến hy sinh, trở về với đất mẹ trong sự tiếc thương, ngưỡng mộ của bao thế hệ, "Áo bào thay chiếu" là sự thật bi thảm: những người lính hy sinh không có cả đến manh chiếu bọc thân. Song thái độ yêu thương trân trọng đối với đồng đội và cảm hứng lãng mạn của thi sĩ tạo nên ở Quang Dũng cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết: Người chiến sĩ hy sinh được bọc trong những tấm "áo bào" sang trọng.

    Câu thơ cuối vang lên như khúc nhạc kỳ vĩ. Âm hưởng của khúc chiêu hồn tử sĩ dội lên từ chữ "gầm". Tiếng gầm của sông Mã nổi lên thành tiếng khóc lớn của thiên nhiên tiễn đưa các anh về cõi vĩnh hằng. Sự hy sinh cao cả cần có sự tiễn đưa lớn. Tới đây, ấn tượng đọng lại trong lòng người đọc là âm điệu bi thương nhưng rất hào hùng.

3. Kết luận

    - Đoạn thơ kết hợp hài hoà bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn, sử dụng xen kẽ các từ Hán Việt, thuần Việt, lối diễn tả cường điệu.... tạo nên âm hưởng bi hùng khi viết về các chiến sĩ Tây Tiến.

    -Tây Tiến của Quang Dũng góp phần cùng thơ ca kháng chiến làm ngời lên hình ảnh con người đẹp nhất của một thời: hình ảnh người lính: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".

---------------

Bài 2

:  Việt Bắc (Tố Hữu)

1. Hoàn cảnh ra đời :

Tháng 5/1954, chiến dịch Điện  Biên Phủ thắng lợi, tháng 7/ 1954, Hiệp định Giơ –ne-vơ về Đông  Dương được kí kết, hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giái phóng và bắt đầu xây dựng cuộc sống mới.

Sáng tác vào tháng 10 năm 1954. Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu Việt Bắc để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.

2.Cảm xúc chủ đạo:

Cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ (từ “nhớ” xuất hiện tới 35 lần), nỗi nhớ gợi về những kỉ niệm về Việt Bắc kháng chiến (thiên nhiên, cảnh vật, sự kiện, con người).

3. Kết cấu bài thơ:

Kết cấu đối đáp: Đối đáp giữa Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca. Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của người yêu với người yêu.

4. Cách sử dụng hai đại từ “mình” và “ta”:

-  Là hai đại từ thường được sử dụng trong ca dao trữ tình, những câu hát giao duyên giữa người con trai và người con gái.

- Cặp đại từ “mình”, “ta” được sử dụng tạo ra sắc thái riêng: thắm thiết mà không sỗ sàng, kín đáo mà không xa vời. Mặt khác, chúng sử dụng để chirphias nào cũng được, nam hay nữ ccungf được.

- Cặp đại từ  “mình”, “ta” được Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt:

+ Có lúc “mình” là người ra đi, “ta”là Việt Bắc: Mình về mình có nhớ ta.

+ Có lúc “mình” là Việt Bắc, “ta” là người ra đi: Ta về, mình có nhớ ta/ ta với mình, mình với ta,…

+ Có lúc “mình”, “ta’ dùng để chỉ cả hai,  “cái ta chung”: Mình đi mính lại nhớ mình/ Rừng  cây núi đá ta cùng đánh Tây….

- Sử dụng hai đại từ này trong cuộc chia tay lịch sử góp phần thể hiện tìnhcảm gắn bó giữa cách mạng với nhân dân, giữa nhân dân Việt bắc với cách mạng….,chứng tỏ sự tài hoa à tinh tế của Tố Hữu.

6.Giá trị nội dung và nghệ thuật:

- Nội dung

: Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng,, cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. tác giả đã đưa ra lời nhắn nhủ: hày nhớ mãi và phát huy truyền thống quý báu anh hùng, bất khuất, ân nghĩa thủy chung của cách mạng, của con người Việt Nam.

- Nghệ thuật: Tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị; thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian…

7.1 Nội dung:

7.1.Tám câu đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng, lưu luyến giữa kẻ ở người đi.

- Bốn câu đầu:

lời ướm hỏi của người ở lại. Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng, cảnh và người VB gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời khẳng định tấm lòng thủy chung của mình.

+ Nghĩa tình của kẻ ở- người về được biểu hiện qua các đại từ mình - ta quen thuộc  trong thơ ca dân gian gắn liền với tình yêu đôi lứa, cách xưng hô mình - ta tạo nên sự thân mật, gần gũi. Điệp từ “nhớ”, láy đi, láy lại cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” vang lên day dứt khôn nguôi.

+ Các từ “thiết tha”, “mặn nồng” thể hiện bao ân tình gắn bó.

- Bốn câu sau:

tiếng lòng của người cán bộ về xuôi  tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, cùng với cử chỉ “cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm : chưa xa đã nhớ, sự bịn rịn luyến lưu của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc.

+ Hình ảnh “áo chàm” (nghệ thuật hoán dụ) có giá trị khắc họa bản sắc trang phục của đồng bào Việt Bắc nhưng sâu xa hơn lại để nói rằng ngày chia tay cán bộ kháng chiến về xuôi cả nhân dân Việt Bắc đều hiện diện.

+ Câu thơ bỏ lửng “cầm tay…” diễn tả thái độ nghẹn ngào không nói lên lời của người cán bộ giã từ Việt Bắc về xuôi.

7.2. Mười hai câu tiếp:  nhớ về những kỉ niệm chiến khu gian khổ

+ Nhớ thiên nhiên khắc nghiệt:  “mưa nguồn, suối lũ,

+ Nhớ cuộc sống  những mây cựng mự” nhưng nghĩa tình “Mình về rừng núi nhớ ai… để già”

chiến khu gian khổ nhưng căm thù giặc sâu sắc: b¸t cơm chấm muối, mối thù nặng vai.

+ Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa.

Câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình”: nhớ mình - tức nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ.

7.3. Từ câu 25 đến câu 42:  nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp nghĩa tình.

Nhớ gì như nhớ người yêu

……

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

- Nỗi nhớ VB được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết.

- Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng đầu núi, nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể. Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Thiên nhiên Việt Bắc như hiện hữu trước mắt với Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê thật gần gũi thân quen..

- Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc:

+ Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia, đầy nghĩa tình : Thương nhau… chăn sui đắp cùng.

+ Nhớ đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả nhưng vẫn lạc quan, yêu đời: Nhớ sao  … núi đèo

- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ … suối xa

=> Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình. Những câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu…

74. Từ câu 43 đến câu 52: Bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc.

- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người : “hoa” cùng “người”. Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.

- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:

+ Mùa đông rừng vẫn xanh, bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối.

+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng tinh khiết, đẹp đến nao lòng.

+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.

+ Mùa thu với ánh trăng hoà bình dịu mát, đem lại không khí bình yên.

- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên nhiên cảnh vật:

+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.

+ Bức tranh mùa xuân  hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón” 

+ Bức tranh mïa hè dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình

+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.

- Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại:

+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả

+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của thiên nhiên.

   7.5. Từ câu 53 đến câu 83: Khung cảnh Việt Bắc trong chiến đấu

        a. Từ câu 53 -> 74:

 “Nhớ khi giặc đến giặc lùng

………………..

         Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

-  Khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những cảnh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.

- Việt Bắc - căn cứ địa cách mạng:

+

 Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành ng­êi ®ång hµnh víi ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta đánh giặc.

+ Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.

+ Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…luỹ sắt, rừng che, rừng vây…

+ Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô,Cao- Lạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của  người cán bộ kháng chiến về xuôi.

-  Việt Bắc chiến thắng:

+ Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi. Sức mạnh của quân ta làm rung chuyển cả trời đất. Các từ: Rầm rập, điệp diệp, trùng trùng…

+  Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “¸nh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan”->

ánh  sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.

+ Hình ảnh đoàn dân công: sức mạnh của quần chúng nhân dân thật hùng vĩ. Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.

+ Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên…

+ Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập.

+ Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, ấm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.

b.Từ câu 75- câu 83:

            Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.

8..Chủ đề:

Bài thơ khẳng định nghĩa tình cách mạng, nhắc nhở sự thuỷ chung của con người đối với con người và đối với quá khứ, cách mạng nói chung.

MỘT SỐ ĐỀ  VÀ ĐÁP ÁN TIÊU BIỂU

Đề 1

: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

“Mình đi có nhớ những ngày

...

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”   

Đề 2

: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau đây:

“Ta về mình có nhớ ta

...

Nhớ ai tiến hát ân tình thuỷ chung”

Gợi ý

Đề 1

.

Các ý chính:

    Phần thứ nhất bài thơ gợi nhớ những kỷ niệm "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng" của cả một thời kỳ vận động cách mạng và thời kỳ kháng chiến.

    1. Trong cấu tứ toàn bài, tác giả đã tưởng tượng, sáng tạo ra một đôi bạn tình Mình - Ta, tưởng tượng ra kẻ ở lại là Việt Bắc và người ra đi là những cán bộ về xuôi hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp giao duyên chia tay lịch sử này, Việt Bắc là kẻ ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời vận động cách mạng, đấu tranh gian khổ, khoảng sáu năm trước Cách mạng tháng Tám, để sau đó, kẻ ra đi nhớ lại kỷ niệm thời kháng chiến chín năm.

    2. Lời của Việt Bắc ở đây chỉ có mười hai câu lục bát nhưng tất cả đều xoáy vào kỷ niệm không thể nào quên của những ngày cách mạng còn trong trứng nước.

    - Trước hết là kỷ niệm của một thời vận động đấu tranh cách mạng gian nan và khổ cực. Những từ ngữ, những hình ảnh chỉ cần nhắc lại là cũng đủ tạo nên nỗi nhớ cảm động:

                                                          "Mình đi có nhớ những ngày

                                                Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù"

          Hình ảnh mưa lũ, mây mù vừa là tả thực nhưng cũng vừa là ẩn dụ có ý nghĩa tượng trưng, nhắc lại để cho người trong cuộc nhớ đến bao nhiêu khó khăn, thử thách, về những lúc khốn khó, cơ cực mà đồng bào và cán bộ đã phải chịu đựng.

    - Đó là những kỷ niệm thắm thiết nghĩa tình sâu nặng.

      Cũng chính trong hoàn cảnh ấy, xứ sở Việt Bắc, con người Việt Bắc càng "đậm đà lòng son", cưu  mang cho cách mạng, cùng chung mối thù, cùng chịu đựng gian khổ, hy sinh. Bao nhiêu điều tốt đẹp đọng lại trong cụm từ - quán ngữ: "đậm đà lòng son".

    - Biện pháp tiểu đối với sử dụng sáng tạo càng làm nổi bật cảm xúc. Câu thơ "Miếng cơm chấm muối / mối thù nặng vai" tạo một tiểu đối vừa gợi gian khổ vừa như cụ thể hóa mối thù của cách mạng: phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Mối thù dân tộc như đè nặng lên hai vai trách nhiệm của mọi người. Cũng như vậy, ở tiểu đối "Hắt hiu lau xám / đậm đà lòng son" vừa gợi cho ta nhớ về những mái nhà tranh nghèo của đồng bào Việt Bắc và tấm lòng son đỏ của họ dành cho cán bộ, chiến sĩ, cho cách mạng.

    - Đoạn thơ ngắn tám câu đã điệp đến bốn từ "mình" và bốn từ ngữ "nhớ", "có nhớ". Những từ "mình" điệp ở đầu mỗi câu thơ đã tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào. Những từ "nhớ", "có nhớ" gợi đến âm hưởng của ca dao, dân ca, góp phần diễn tả một cách cảm động tràn đầy nỗi nhớ về cái nôi Việt Bắc - quê hương cách mạng.

    - Từ đạo lý truyền thống của dân tộc, tác giả đã nâng lên thành một tình cảm mới, in đậm nét thời đại, góp phần làm nổi bật chủ đề của toàn bài: ân tình cách mạng. Việt Bắc là quê hương chung của mọi người, là cội nguồn của sức mạnh làm nên thắng lợi của cách mạng, của kháng chiến.

    - Bằng giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết của ca dao, dân ca, của điệu thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc, Tố Hữu nhắn nhủ với chúng ta hãy nhớ mãi, hãy giữ lấy cái đạo lý ân tình chung thủy quý báu của cách mạng.

 

 Đề

2

.

Các ý chính:

    - Việt Bắc của Tố Hữu là một bài thơ hay, tiêu biểu cho thơ ca thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Thông qua cuộc đối thoại tưởng tượng giữa người ở và người đi trong ngày chiến thắng, bài thơ đã thể hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm đằm thắm, sắt son của nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của cán bộ kháng chiến với thiên nhiên núi rừng và con người Việt Bắc.

    Giữa rất nhiều đoạn thơ biểu hiện nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi, ta bắt gặp đoạn thơ sau đây:

"Ta về, mình có nhớ ta

                                                          ...

                                                    Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"

    Đoạn thơ gồm mười câu ghi lại nỗi nhớ của nhà thơ và cũng là của cán bộ đối với cảnh và người Việt Bắc.

    - Mười câu thơ nhịp nhàng ấy vừa là một bộ phận hữu cơ của bài thơ vừa biểu hiện một ý thơ hoàn chỉnh. Mở đầu là câu giới thiệu chung về nội dung xúc cảm của đoạn thơ:

                                                          "Ta về, mình có nhớ ta

                                                 Ta về, ta nhớ những hoa cùng người"

    Câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta" vừa là lời thoại, nhưng đồng thời vừa là cái cầu nối sang câu dưới, là cái cớ để bày tỏ tấm lòng của mình. Ra về, lòng vẫn nhớ. Nhớ nhất, lưu luyến nhất hoa cùng người. Hoa ở đây là thiên nhiên; thiên nhiên đẹp, tươi sáng như hoa vậy. Hoà vào thiên nhiên ấy là con người. Hoa cùng người là hai bộ phận khăng khít không thể tách rời trong bức tranh Việt Bắc.

    - Tám câu thơ còn lại tràn ngập ánh sáng, đường nét và màu sắc tươi tắn. Cảnh và người hoà quyện vào nhau. Trong bốn cặp lục bát, câu sáu dùng cho nhớ cảnh, câu tám nhớ người. Cảnh và người trong mỗi cặp câu lại có những điểm, sắc thái riêng. Cứ thế đoạn thơ lần lượt gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ, mở ra trước mắt người đọc những phong cách đa dạng về đường nét, màu sắc, ánh sáng, âm thanh, gợi ở chúng ta những rung động trước khung cảnh vừa hùng vĩ, vừa mênh mông, man mác.

    - Phong cảnh mà tác giả gợi tả ở đây là phong cảnh núi rừng diễn biến qua vẻ đẹp riêng của bốn mùa trong năm: mùa đông, rừng biếc xanh đột ngột, đây đó bùng lên màu đỏ tươi rói của hoa chuối rừng như những bó đuốc thắp lên sáng rực. Xuân sang, rừng lại ngập trắng hoa mơ "nở trắng rừng". Cái màu trắng dìu dịu, tinh khiết phủ lên cả cánh rừng, gợi lên một cảm giác thơ mộng, bâng khuâng. Rồi hè đến, "Ve kêu rừng phách đổ vàng". Chỉ trong một câu thơ mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo mùa hè - hè đến - cây phách chuyển màu vàng. Sự đổi thay sinh động ấy làm sống dậy thời gian. Và cảnh rừng đêm thu dưới ánh trăng hoà bình âm vang tiếng hát. Như vậy có buổi trưa tràn đầy ánh nắng, có ban đêm êm dịu. Mùa nào cũng đẹp, cũng đáng yêu, mỗi mùa là một bức tranh.

    - Một vẻ đẹp nữa trong bộ tranh tứ bình ấy là vẻ đẹp con người. Con người và những hoạt động của con người là một bộ phận không thể tách rời trong khung cảnh Việt Bắc. Dường như khó có thể hình dung "đèo cao nắng ánh" lại thiếu hình ảnh người lên núi, mùa xuân lại thiếu cảnh "người đan nón", hè sang lại thiếu cảnh "cô em gái" đi hái măng. Thiên nhiên và con người đã hoà quyện và tô điểm cho nhau. Và trong nỗi nhớ nhà của người ra đi, kỷ niệm về những con người Việt Bắc là kỷ biện đậm đà nhất, sâu sắc nhất. Trong nỗi nhớ, con người lại càng thêm gần gũi, gần với thiên nhiên và gần bên nhau.

    - Bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết, tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Những câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, câu nọ gợi câu kia, ý nọ gợi tiếp ý kia cứ trào lên dạt dào cảm xúc qua cách xưng hô "mình - ta" thắm thiết. Nhạc điệu dịu dàng, trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang một âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru - khúc hát ru kỷ niệm. Đặc biệt từ nhớ được lặp lại nhiều lần, mỗi lần một sắc thái khác nhau và cấp độ tăng lên làm cụ thể hơn tấm lòng lưu luyến của tác giả với chiến khu, với cảnh và người Việt Bắc. Đoạn thơ được mở đầu bằng câu thơ kiểu dân gian "Ta về, mình có nhớ ta" thì cuối đoạn dường như đã được trả lời. Cả tamình đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung "tiếng hát ân tình" và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến, vấn vương trong những tâm hồn chung thuỷ.

    - Có thể nói đoạn thơ này là một trong những đoạn hay nhất của Việt Bắc, nó có giá trị tạo hình cao, được cấu trúc cân đối, hài hoà. Cảnh và người đều đẹp, đều đáng yêu. Cảnh và người hoà quyện vào tình cảm thắm thiết của tác giả.

Bài 3

:  Đất nước (trích Trường ca mặt đường khát vọng- Nguyễn Khoa Điềm)

1.

Xuất xứ

&Hoàn cảnh sáng tác

:

 “Đất nước”

thuộc  phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng – tác phẩm được hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971,  in lần đầu  tiên vào năm 1974.Bản trường viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.

2. Nội dung và nghệ thuật:

- Nội dung: Đoạn trích thể hiện cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về đất nước trên nhiều bình diện như lịch sử, văn hóa, địa lí…Đặc biệt, đoạn trích đã có  đóng góp quan trọng đó là: nhấm mạnh t tưởng: Đất nước là của nhân dân.

- Nghệ thuật: Hình thức suy tư, thủ thỉ tâm tình; giọng thơ trữ tình – chính trị sâu lắng; chất liệu văn hóa dân gian được sử dựng nhuần nhị, sáng tạo…

2.

Nội dung

:

  2.1. Phần 1: Cảm nhận về  Đất Nước

-

Đất nước thậtdung dị, đời thường

:  Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn, những dãy tre làng, “bới” tóc của mẹ, gừng cay, muối mặn, cái kèo, cái cột, hạt gạo...

- Đất nước “đã có” từ thủa rất xa xưa và rất gần gũi

th©n

thương

đối với mỗi con người.

-

Nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện

: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hoá dân gian với hình thức thơ trữ tình- chính luận.     

- Về không gian địa lý :

+ Đất nước là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người ( nơi anh đến trường... nơi em tắm). 

+ Đất Nước tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa : “Đất Nước là nơi ta hò hẹn. Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.

+ Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao thế hệ  “Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại…”).

- Về thời gian lịch sử :

Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.

+ Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước).

+ Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại (“Trong anh và em hôm nay. Đều có một phần Đất Nước”)

+ Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai (“Mai này con ta lớn lên. Con sẽ mang Đất Nước đi xa. Đến những tháng ngày mơ mộng”).

- Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ

vÒ tr¸ch nhiÖm

của

mçi ng­êi

:

+ Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người, v

× thÕ

mçi

người phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở.

+ Cần biết gắn bó biết san sẻ : sự sống của mỗi con người không chỉ là của riêng cá nhân mà còn thuộc về Đất nước.

+ Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ, lời tự nhủ với chính bản thân đầy chân thành tha thiết.  

   2.2.Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” trong phần 2 của đoạn trích:

-

 Về địa lý :

Nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc chí Nam. Tất cả các địa danh được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử. Nói cách khác, chính những huyền thoại, huyền tích và sự thật lịch sử về nhân dân đã làm nên tên tuổi của các địa danh ấy, biến chúng thành danh thắng, thành di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến :

          + những người vợ nhớ chồng – núi Vọng Phu;

          + cặp vợ chồng yêu nhau – hòn Trống Mái;

          + người học trò nghèo – núi Bút, non Nghiên;

          + Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…

Trong con mắt của nhà thơ, mỗi danh thắng không chỉ là một nét vẽ tô điểm vào bức “tranh họa đồ” Đất Nước mà còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân trong mấy nghìn năm lịch sử : sự thủy chung; tình nghĩa vợ chồng; tinh thần yêu nước; ý thức hướng về tổ tông, nguồn cội; tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó vươn lên; tinh thần xả thân vì cộng đồng, dân tộc… Tựu chung lại, đúng như nhà thơ đã khái quát : “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi. Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.

-  Về lịch sử :

khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến “lớp lớp”  những con người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Không ai khác mà chính họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Đất Nước: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, bản sắc văn hóa các vùng miền… Cũng chính họ “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” tạo dựng chủ quyền, đắp nền xây móng cho ngôi nhà Đất Nước để các thế hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát triển.

-  Về văn hóa :

khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước: thật say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh cho đến ngày toàn thắng.

3. Nghệ thuật:

            - Thể thơ tự do.

            - Sự hoà hợp một cách nhuần nhuyễn giữa hình thức thơ trữ tình- chính trị với chất liệu từ ca dao, cổ tích, huyền thoại.

            - Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình.

4. Chủ đề:

Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình- chính trị, đoạn trích Đất Nước đã quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn và vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”

MỘT SỐ ĐỀ  VÀ ĐÁP ÁN TIÊU BIỂU

Đề 1

: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

“Trong anh và em hôm nay

Làm nên đất nước muôn đời”.

Đề 2

: Anh/chị hãy trình bày những cảm nhận về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong chương Đất nước (trích tường ca Mặt đường khát vọng). Cảm nhận về đoạn thơ sau:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có từ ngày đó…”.

Gợi ý

Đề

1

.

 Bình giảng đoạn thơ trong Đất nước

của Nguyễn Khoa Điềm.

           Các ý chính cần có

    1. Giới thiệu khái quát

    Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mĩ. Tác phẩm của ông thường viết về phong trào đấu tranh cách mạng ở Huế thời Mĩ - Ngụy. Đất nước

là chơng V trong 9 chương của trường ca Mặt đường khát vọng (1974) - tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ.

    Đoạn trích trên đây nằm trong phần đầu, thể hiện một cách cảm nhận mới mẻ về đất nước: đất nước là sự thống nhất giữa riêng và chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này với thế hệ khác.

    2. Cảm nhận đoạn thơ.

    a) Cảm nhận mới mẻ về đất nước

(9 dòng đầu)

    - 2 dòng mở đầu: bằng giọng điệu tâm tình của đôi lứa, cách nói nhẹ nhàng, chừng mực, nhà thơ đưa ra một nhận thức mới về đất nước: đất nước thật gần gũi, thân thiết, ở ngay trong mỗi con người chúng ta, "trong anh và em".

    - 4 dòng thơ tiếp theo (Khi hai đứa… vẹn tròn, to lớn): cần bình giảng kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (khi/khi, Đất Nước/Đất Nước…) và cách sử dụng các tính từ đi liền nhau nhằm chứng minh: đất nước là sự thống nhất hài hoà giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, cá nhân với cộng đồng. Đất nước là kết quả của tinh thần đoàn kết dân tộc và tình yêu thương.

    - 3 dòng thơ tiếp theo (Mai này… mơ mộng): không chỉ nói lên quan niệm đất nước là sự thống nhất hài hoà giữa các thế hệ hôm qua, hôm nay, ngày mai mà còn là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước. Các từ ngữ: mai này, lớn lên, tháng ngày mơ mộng… cần được phân tích kĩ để thấy ý nghĩa của nó trong việc biểu đạt nội dung trên.

    - Hai chữ Đất Nước trong toàn chương và trong đoạn trích được viết hoa như một mĩ tự thể hiện tình cảm sâu sắc của nhà thơ với đất nước và tạo nên nỗi xúc động thiêng liêng cho người đọc.             

    (Cần so sánh với hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi và hình tượng đất nước của Tố Hữu, Chế Lan Viên… thời chống Mĩ để thấy nét độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm)

    b) Trách nhiệm với đất nước

(4 dòng thơ còn lại).

    - 4 dòng thơ nói về trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước mà như một lời nhắn nhủ tha thiết, chân thành. Bởi đất nước được cảm nhận hết sức thiêng liêng mà thật gần gũi: "là máu xương của mình". "Gắn bó", "san sẻ", "hoá thân"… vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ, là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước. Những dòng thơ hay ở cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

    - Sử dụng các từ mệnh lệnh: "phải biết", một loạt từ chỉ hành động liên tiếp nhưng đoạn thơ không phải là những lời răn dạy, giáo huấn khô khan, khó tiếp nhận. Trái lại vẫn rất thơ và dễ đi vào lòng người.

    3. Đánh giá

    - Đoạn thơ tập trung được những phẩm chất tiêu biểu của Mặt đường khát vọng

: tính chính luận hài hoà với chất trữ tình, giọng thơ tha thiết, dịu ngọt, ngôn từ hình ảnh đẹp, sáng tạo.

    - Viết về đề tài quen thuộc: đất nước nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích vẫn có vị trí riêng. Những nhận thức mới mẻ về đất nước, tình cảm xúc động thiêng liêng của đoạn thơ gợi được lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước ở người đọc.

    

Đề 2

.

Các ý chính:

1. Cảm nhận về đất nước được biểu hiện trong chương Đất Nước

    a) Giới thiệu đôi nét về tác giả, những đóng góp cho thơ ca Việt Nam hiện đại, vị trí của chương Đất Nước, những phát hiện và đóng góp của nhà thơ trong quan niệm về đất nước - lý giải định nghĩa về đất nước (Có thể mở rộng liên hệ với Nguyền Đình Thi, Hoàng Cầm, Tố Hữu khi biểu hiện chủ đề đất nước trong thơ).

    - Trước hết, đất nước bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất, thân thiết nhất và cũng bình dị nhất trong đời sống vật chất và tâm hồn mỗi con người bình thường: gắn với những chuyện "ngày xửa ngày xưa", miếng trầu bà ăn, với sự lam lũ và tảo tần "xay, giã, giần, sàng", với tình nghĩa thuỷ chung như "gừng cay muối mặn"...

    b) Đất nước được tác giả cảm nhận từ phương diện địa lý và lịch sử thời gian, không gian: Những huyền thoại về Lạc Long Quân và Âu Cơ, về đất Tổ Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, về con chim phượng hoàng, con cá ngư ông... gợi lên một thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông vô tận.

    c) Đất nước còn được cảm nhận như một sự thống nhất các yếu tố lịch sử, địa lý, văn hóa, phong tục; sự gắn bó giữa thế hệ này với thế hệ nối tiếp khác để:

"Trong anh và em hôm nay

                                                          Đều có một phần Đất Nước"

và một tinh thần trách nhiệm:

                                                          "Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

                                                          Làm nên Đất Nước muôn đời..."

    d) Đỉnh cao của cảm xúc trữ tình cũng là điểm hội tụ tư tưởng cốt lõi của đoạn trích: Đất nước này là đất nước của Nhân dân.

    - Đó là những địa danh, những hiện tượng, những con người... gần gũi quen thuộc, thiêng liêng và gắn bó: hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, những ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm...

    - Đất nước gắn với những con người vô danh bình dị: "Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã làm ra Đất Nước".

    Tóm lại:

    * Cảm nhận về Đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự phát hiện, đóng góp và làm sâu sắc thêm ý niệm về Đất Nước của thơ thời chống Mỹ cứu nước.

    * Nhà thơ đã tạo ra được một giọng điệu riêng, không khí riêng, không gian nghệ thuật riêng đầy màu sắc sử thi, đưa người đọc vào thế giới của truyền thuyết, huyền thoại nhưng lại mới mẻ và hiện đại trong hình thức thể hiện bằng thể thơ tự do. Đó là sự thống nhất giữa tư tưởng và nghệ thuật.

2. Cảm nhận đoạn thơ.

     Chín câu thơ đầu nói đến nhận thức của tác giả về đất nước theo phương diện lịch sử - văn hóa. Các ý chính cần khai thác:

    a) Đất nước có tự "ngày xưa", lịch sử đất nước gắn liền với một nền văn hóa lâu đời của dân tộc.

    - Hình ảnh "ngày xửa ngày xưa" mẹ kể gợi về đất nước một thời thanh bình xa xăm trong ca dao, cổ tích...

    - Hình ảnh "miếng trầu bà ăn" là truyền thống, phong tục của người Việt, làm người đọc có thể liên tởng đến linh hồn của một quốc gia.

    b) Đất nước lớn lên từ trong vất vả đau thương cùng với những cuộc trường chinh không nghỉ.

    - Phân tích hình ảnh "cây tre" - biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam: "Biết trồng tre đợi ngày thành gậy" gợi liên tưởng đến đoạn đường trường bốn ngàn năm chìm trong máu lửa của một dân tộc bất khuất luôn phải đương đầu với những kẻ thù tàn bạo nhất, quyết bảo vệ đến cùng nòi giống và xứ sở của mình.

    - Hình ảnh "Tóc mẹ thì bới sau đầu", "hạt gạo phải một nắng hai sương..." gợi sự tần tảo, vất vả, lam lũ của đất nước và của những con người làm ra đất nước này.

    c) Đất nước của những con người sống nghĩa tình, thuỷ chung son sắt

    Phân tích câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" với thành ngữ "gừng cay muối mặn" quen thuộc, với những câu ca dao đằm thắm nghĩa tình "Tay bưng chén muối đĩa gừng...".

    d) Phân tích, khái quát chung về giá trị nghệ thuật của đoạn thơ

    Khi làm có thể kết hợp phân tích nội dung với nghệ thuật, nhng cần làm nổi bật những ý khái quát là:

    - Sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao, truyền thuyết, cổ tích tạo nên những hình tượng, những ý thơ, tứ thơ mới mẻ, độc đáo: "gừng cay muối mặn", "ngày xửa ngày xưa...".

    - Hình tượng thơ có sức mạnh gợi cảm. Mỗi câu chữ đều gợi liên tởng đến những chiều sâu của không gian và thời gian, của lịch sử và văn hóa với biết bao thăng trầm, đổi thay của đất nước, của chính những con người đã làm nên đất nước này.

    - Lặp từ "Đất nước" (5 lần): Sự hiện diện gần gũi trong muôn mặt đời thường của đất nước, đất nước của nhân dân.

    -Giọng thơ tâm tình, tha thiết, trầm lắng, trang nghiêm mà linh hoạt về nhịp điệu góp phần biểu hiện chủ đề đất nước trong bút pháp chính luận - trữ tình.

Bài 4

:  Sóng  (Xuân Quỳnh)

1. Hoàn cảnh sáng tác:

Sóng

được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).

2.

Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ:

- Âm điệu của bài thơ Sóng là âm điệu của những con sóng ngoài biển khơi, lúc ào ạt, dữ dội lúc nhẹ nhàng, khoan thai. Âm điệu đó được tạo nên bởi: Thể ngũ ngôn với những câu thơ được ngắt nhịp linh hoạt.

- Bài thơ có hai hình tượng là “sóng” và “em” -  lúc phân tách, soi chiếu vào nhau, lúc nhập hòa làm một trong một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh

.

3. Ý nghĩa hình tượng sóng:

-

Sóng là một hình ảnh của thiên nhiên được miêu tả ở nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều trạng thái  khác nhau và luôn vận động không ngừng nghỉ.

- Sóng là hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho một tình yêu nồng ấm, dạt dào, tha thiết, cao vời, bền bỉ và vĩnh hằng.

4.

Nội dung :

- Khổ 1 :

+ Sóng hiện ra với những đối cực Dữ dội >< Dịu êm; ồn ào>< lặng lẽ như những cung bậc tâm trạng của người phụ nữ khi yêu.

+ Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.

- Khổ 2 :

        + Từ ngàn, triệu năm qua, con sóng vẫn thế như từ ngàn, triệu năm qua, tình yêu vẫn là một khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ.

        + Đó cũng là khát vọng cháy bỏng trong trái tim không bao giờ thôi khát khao yêu đương của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

- Khổ 3, 4 :

        + Không thể truy nguyên nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu của con người. Đó mãi mãi là bí ẩn diệu kì, là sức hấp dẫn mời gọi của tình yêu. Không thể cắt nghĩa tình yêu và cũng chẳng nên cắt nghĩa tình yêu bởi rất có thể khi ta biết yêu vì lẽ gì thì cũng là lúc tình yêu ra đi.

        + Người phụ nữ, nhân vật em trong bài thơ cũng không thể cắt nghĩa được tình yêu. Một sự bất lực đáng yêu của một trái tim yêu không chỉ đòi hỏi cảm xúc mà còn đòi hỏi nhận thức mãnh liệt. 

- Khổ 5 :

        + Con sóng, dù ở trạng thái nào (trong lòng sâu, trên mặt nước, ngày hay đêm), đều thao thức một nỗi niềm “nhớ bờ”. Nỗi nhớ choán cả không gian, thời gian.

+ Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ cũng vậy. Hạt nhân của nó là nỗi nhớ, một nỗi nhớ cồn cào, da diết, nỗi nhớ chiếm cả tầng sâu, chiều rộng và trải dài theo thời gian, lúc hiện hữu, khi lắng sâu, lúc ý thức, khi nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức.

- Khổ 6, 7:

        + Cũng như sóng chỉ có một hướng đích duy nhất là bờ, em chỉ có phương anh làm điểm đến, bất chấp cuộc đời có nhiều trái ngang.

+ Sự thuỷ chung của sóng với bờ hay cũng chính là sự chung thuỷ của em với anh. Nếu nỗi nhớ làm thành biểu hiện nồng nàn, sôi nổi của tình yêu thì sự thuỷ chung lại là phần đằm sâu trong trái tim người phụ nữ. 

- Hai khổ cuối :

        + Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn trong tương quan với cái vô thuỷ, vô chung, vô cùng, vô tận của thiên nhiên, vũ trụ. Trước cái vĩnh hằng của tạo hoá, trước dòng chảy vô hồi, vô hạn của cuộc đời, tình yêu của con người mãi mãi chỉ là “bóng câu qua cửa sổ”. Đó là cảm thức về thời gian. Dường như càng yêu mãnh liệt, càng khát khao gắn bó, con người càng hay nghĩ về thời gian ! Người phụ nữ đang cháy bóng khát khao yêu và được yêu trong Sóng cũng không phải là ngoại lệ.

        + Vậy, chỉ có một cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi. Đó là  “Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hoá tình yêu, được hoà tình yêu của mình vào khối tình chung của nhân loại, như con sóng hoà vào đại dương mênh mông, bất tận.

6. Nghệ thuật:

- Thể thơ năm chữ, cắt khổ không đều nhau.

- Nhịp thơ đa dạng, linh hoạt.

- Giọng điệu tha thiết chân thành,  tha thiết, ít nhiều có sự phấp phỏng lo âu.

- Xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ nghệ thụât về tình yêu của người phụ nữ.

7. Chủ đề:

Sóng

là bài thơ tình đặc sắc, bộc lộ tâm hồn đám say, tha thiết và hồn nhiên , trong  sáng trong tình yêu của  Xuân Quỳnh.  Qua đó, bài thơ thể hiện những khát vọng tình yêu  mãnh liệt của trái tim người phụ nữ chân thành, giàu khao khát nhưng cũng rất tự nhiên.

MỘT SỐ ĐỀ  VÀ ĐÁP ÁN TIÊU BIỂU

Đề 1

: Bình giảng đoạn thơ sau:

                                                          “Con sóng dưới lòng sâu

...

Cả trong mơ còn thức”

Đề 2

:     Sóng là bài thơ tình tiêu biểu của Xuân Quỳnh, thể hiện một tâm hồn luôn trăn trở, khát khao được yêu thương, gắn bó.

          Bình giảng đoạn thơ dưới đây để làm sáng tỏ nhận định trên:

                                                          “Con sóng dưới lòng sâu

                                                          ...

                                                          Hướng về anh một phương”

Đề 3

: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

                                                          “Cuộc đời tuy dài thế

                                                          ...

                                                          Để ngàn năm còn vỗ”.

Đề 4

:                                                           “Ôi con sóng ngày xưa                                                                                                             ...

                                                          Cả trong mơ còn thức”.

          Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên để làm nổi rõ sức gợi cảm phong phú, bất ngờ của hình tượng “sóng” trong sự liên hệ, đối sánh với nhân vật trữ tình “em”.

Đề 5

:

Ph©n tÝch h×nh t­îng sãng trong bµi th¬ “Sãng” cña Xu©n Quúnh.

Gợi ý

Đề 1

.

1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích:

    - Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

    - Sóng là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh: luôn luôn trăn trở, khát khao được yêu thương gắn bó. Bài thơ được in ở tập Hoa dọc chiến hào (1968).

    - Đoạn thơ trích nằm ở phần giữa của bài thơ. Có thể xem đó là đoạn tiêu biểu của tác phẩm. Giống như toàn bài, ở đoạn thơ này, hai hình tượng sóngem luôn tồn tại đan cài, khắc họa rõ nét nỗi nhớ, sự thủy chung tha thiết của nhà thơ. Mỗi trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đều có thể tìm thấy sự tương đồng với một đặc điểm nào đó của sóng.

2. Bình giảng 6 câu đầu:

    - Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: lòng sâu - mặt nước, ngày - đêm.

    - Nỗi nhớ thường trực, không chỉ tồn tại khi thức mà cả khi ngủ, len lỏi cả vào trong giấc mơ, trong tiềm thức (Cả trong mơ còn thức).

    - Cách nói có cường điệu nhưng đúng và chân thành biểu hiện nỗi nhớ của một tình yêu mãnh liệt (Ngày đêm không ngủ được).

    - Mượn hình tượng sóng để nói lên nỗi nhớ vẫn chưa đủ, chưa thoả, nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ của mình (Lòng em nhớ đến anh).

3. Bình giảng 4 câu tiếp theo:

    - Khẳng định lòng chung thủy: dù ở phương nào, nơi nào cũng chỉ hướng về anh - một phương.

    - Trong cái mênh mông của đất trời, đã có phương bắc, phương nam thì cũng có phương anh. Đây chính là "phương tâm trạng", "phương" của người phụ nữ đang yêu say đắm, thiết tha.

4. Một số điểm đặc sắc về mặt nghệ thuật của cả đoạn thơ:

    - Thể thơ 5 chữ đợc dùng một cách sáng tạo, thể hiện nhịp của sóng biển, nhịp lòng của thi sĩ.

    - Các biện pháp điệp từ, điệp cú pháp góp phần tạo nên nhịp điệu nồng nàn, say đắm, thích hợp cho việc diễn tả nỗi nhớ mãnh liệt: con sóng (3 lần), dưới lòng sâu - trên mặt nước, dẫu xuôi - dẫu ngược...

    5. Kết luận chung:

    - Trong đoạn thơ, Xuân Quỳnh đã thể hiện rất gợi cảm, sinh động những trạng thái cảm xúc, những khát khao mãnh liệt của một người phụ nữ đang yêu.

    - Từ đoạn thơ, có thể nói tới tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu: táo bạo, mạnh mẽ nhưng vẫn giữ được nét truyền thống tốt đẹp (sự thủy chung, gắn bó).

 Đề 2

.

    Các ý chính:

    - Giới thiệu vài nét về tác giả: Xuân Quỳnh (1942-1988), là nữ thi sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

    - Sóng là bài thơ tình tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh - luôn luôn trăn trở, khát khao được yêu thương, gắn bó. Bài thơ được rút ra từ tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968).

    * Bình giảng

 1. Nỗi nhớ được biểu hiện bằng hình tượng "Sóng"

    Biện pháp nghệ thuật:

    - Dùng từ đối lập: dưới - trên; lòng sâu - mặt nước;

    - Dùng điệp từ "con sóng" ba lần;

    - Nhân cách hóa: "con sóng nhớ bờ, ngày đêm không ngủ".

    Cách diễn đạt trên đây nhằm thể hiện nỗi nhớ dồn lên tầng tầng, lớp lớp như từng đợt sóng. Con sóng nhớ bờ thao thức, trào dâng tưởng chừng tới tột độ.

    Tất cả nhằm thể hiện nỗi nhớ da diết trong tâm hồn người con gái đang yêu. Nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp đan xen nhau, nối tiếp nhau, thôi thúc, giục giã.

  2. Nỗi nhớ được biểu hiện trực tiếp

    Thường trực, liên tục, cho dù đó là đêm hay ngày:

                                                - "Lòng em nhớ đến anh

                                                Cả trong mơ còn thức

                                                - Nơi nào em cũng nghĩ

                                                Hướng về anh - một phơng"

        Xuân Quỳnh đã tìm được cách nói đạt nhất để biểu hiện nỗi nhớ trong tình yêu: ngủ, thức ("dẫu xuôi", "dẫu ngược") đều không yên vì nhớ mong, vì đợi, chờ, vì hướng "về anh".

    Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh có màu sắc của ca dao:

                                                "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

                                      Như đứng đống lửa như ngồi đống than"

    Đó là trạng thái bồn chồn, xao xuyến, không ổn định, bứt rứt như cắn xé, như giục giã lòng người, đứng ngồi không yên vì nỗi nhớ thường trực.

3. Kết luận

    Đây là một trong những khổ thơ hay, bộc lộ nỗi nhớ khi đang yêu trong bài Sóng của Xuân Quỳnh.

    Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của tác giả được khơi dậy khi đứng trước biển cả. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ, lúc thì hoà nhập, lúc lại là sự phân thân của "em". Người phụ nữ trong bài thơ soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, thể hiện tâm trạng của mình khi đang yêu thật xác đáng và đẹp đẽ.

Đề 3

.

1.

Sóng là một bài thơ tiêu biểu cho thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Bài thơ có âm hưởng dào dạt như nhịp những con sóng - thực ra việc diễn tả nhịp điệu bên ngoài (sóng) chỉ là để diễn tả nhịp điệu bên trong của tâm hồn (những cảm xúc, suy tư trong tình yêu). Nói cách khác, bên cạnh hình tượng sóng, bài thơ còn có một hình tượng khác, luôn gắn liền với sóng, là "em". Sóng chính là sự hoá thân, là hình ảnh ẩn dụ của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Ngời phụ nữ ấy soi vào sóng để thấy mình rõ hơn, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái xúc động, những nỗi khao khát của lòng mình, để khẳng định tình yêu.

2.

Ngay từ lời mở đầu, Xuân Quỳnh đã dùng hình tượng sóng để biểu hiện khát vọng tình yêu. Tình yêu cũng như sóng luôn là chuyện của muôn đời. Nhu cầu nhận thức về tình yêu cũng là biểu hiện cụ thể của tình yêu; khi nào còn mong muốn hiểu biết về tình yêu của mình thì người ta còn yêu nhau. Tình yêu luôn có người bạn đồng hành là nỗi nhớ, là nỗi lo âu và suy tư - qua đó có thể thấy quan niệm tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vừa có nét mới mẻ, hiện đại vừa có cội nguồn sâu xa từ tình cảm truyền thống của dân tộc.

3.

Xuân Quỳnh đã kết thúc bài thơ với những cảm nhận rất tinh tế về sự trôi chảy không ngừng của thời gian, với ước vọng thật mãnh liệt về sự bất tử của tình yêu:

"Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ"

    Biển dài rộng tới đâu rồi cũng có bờ, có giới hạn và những đám mây không thể dừng lại mãi mãi trên biển mà chúng phải tiếp tục cuộc hành trình trên bầu trời để đi về cõi vô tận xa xăm. Cũng thế, cuộc đời con người tuy dài nhng không phải là vĩnh viễn, dù con người không mong đợi nhưng năm tháng vẫn bình thản trôi qua đời người theo quy luật tất yếu khắc nghiệt của thời gian.

    Nếu khổ thơ trên là một so sánh thì khổ thơ sau là một ẩn dụ, hai khổ thơ hình thành quan hệ tương phản giữa cái hữu hạn và vô hạn. Trong cái hữu hạn của đời mình, con người vẫn luôn khao khát, mong mỏi tình yêu của mình là vô hạn, là bền vững muôn đời. Niềm khao khát ấy Xuân Quỳnh lại gửi vào hình tượng sóng: những con sóng tan ra không phải để biến mất trên đại dương mà để hoá thân, để tồn tại vĩnh viễn trong vô tận những con sóng khác - cũng thế, con người sẽ ra đi nhng tình yêu còn ở lại, một tình yêu vô tận, vĩnh hằng như sóng trên biển khơi. Thực ra không phải chỉ ở thời thiếu nữ nhiều sôi nổi, say mê mà cả về sau này, khi đã phải chịu đựng nhiều đau khổ, đã từng trải, cái khát vọng được còn lại mãi mãi tình yêu của mình vẫn là ước muốn tha thiết nhất trong trái tim giàu yêu thương ấy (Tự hát, Thơ tình cuối mùa thu, Thời gian trắng).

4.

Nhờ hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện rất gợi cảm, sinh động những trạng thái cảm xúc, những khao khát, suy tư trong tình yêu, nhất là khẳng định được sự bất tử của tình yêu chân chính. Có thể nói đến Xuân Quỳnh với bài thơ Sóng, thơ ca cách mạng Việt Nam mới bắt đầu có một tiếng nói trực tiếp bày tỏ những cảm nghĩ rất sôi nổi, mạnh mẽ và cũng rất tự nhiên, chân thành của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.

   

Đề 4

.

Các ý chính:

1. Sức gợi cảm phong phú của hình tượng "sóng" trong sự liên hệ đối sánh với nhân vật trữ tình "em"

    Để làm nổi bật ý này, bài làm có thể phân tích theo mấy ý nhỏ sau:

    1.1. Sự liên hệ đối sánh giữa hình tượng "sóng" và nhân vật trữ tình "em" trong bài thơ: Có thể giới thiệu, giải thích khái quát, ngắn gọn đặc điểm nghệ thuật chung của bài thơ (lưu ý cách xây dựng hình tượng, cấu tứ có sự soi chiếu bổ sung giữa "sóng" và "em", chủ yếu nhằm làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu).

    1.2. Trong đoạn thơ này, sự liên hệ đối sánh giữa "sóng" và "em" thật sự đã gợi được những liên tưởng phong phú. Cụ thể:

    - "Sóng" xưa nay "vẫn thế"; cũng như tình "em" mãi "khát vọng" "bồi hồi" ("Ôi con sóng ngày xưa… Bồi hồi trong ngực trẻ").

    - "Sóng" khó biết khởi nguồn "từ đâu"; cũng như tình "em" khó biết bắt đầu từ "khi nào" ("Trước muôn trùng sóng bể... Khi nào ta yêu nhau").

    - "Sóng" luôn thao thức vì "nhớ bờ"; cũng như "em" luôn thao thức "nhớ đến anh" ("Con sóng dưới lòng sâu... Cả trong mơ còn thức"), v.v...

2. Sự liên hệ đối sánh giữa "sóng" và "em" cũng tạo nên những liên tưởng, cảm xúc thật bất ngờ:

    Để làm nổi bật ý này có thể phân tích các ý cụ thể sau:

    2.1

. Bất ngờ ngay trong việc gợi cảm nhận về sự giống nhau giữa "sóng" và "em". Chẳng hạn: cả hai cùng gợi một khát vọng muôn thuở, muôn đời; cùng gợi một nỗi thao thức không nguôi; cùng gợi những băn khoăn suy nghĩ tìm kiếm đến ngọn nguồn; "sóng" là sự sống của biển cũng như "nhớ" và "khát vọng" là sự sống của tình yêu, sự sống của "em"... Những miêu tả, cảm nhận như vậy đều bất ngờ, mới mẻ.

    (Có thể liên hệ, phân tích thêm để làm rõ việc Xuân Quỳnh dùng "sóng" trong trạng thái động để gợi tả tình yêu của người phụ nữ là một bất ngờ, vì xưa nay thơ ca thường nhìn nhận tình yêu của giới nữ ở trạng thái tĩnh, thụ động; đặt "sóng" và "em" cạnh nhau trong sự đối sánh tương đồng, làm cho "em" mang thêm nhiều đặc tính của "sóng" cũng như "sóng" sẽ mang thêm những trạng thái, cảm xúc đầy nữ tính của "em": "sóng" không chỉ ồn ào, dữ dội mà còn dịu êm, lặng lẽ, không chỉ vỗ trên mặt nước mà còn vỗ dưới lòng sâu...).

    2.2.

Bất ngờ ngay cả trong việc gợi lên ý thức về chỗ khác nhau giữa "sóng" và "em"

    Chẳng hạn: "Sóng" "nhớ bờ", thao thức cả ngày lẫn đêm nhưng đó vẫn là nỗi nhớ trong thời gian hiện thực, còn "em" nhớ anh, thao thức từ cõi thực cho đến cõi ""; "sóng" đã thao thức thờng xuyên và tha thiết: "Ngày đêm không ngủ được", nhưng "em" thao thức còn da diết, khắc khoải hơn: "Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức", v.v...

    Ý thức về sự khác nhau giữa "sóng" và "em" như vậy sẽ góp phần tạo nên sự vận động bất ngờ của hình tượng thơ, cảm xúc và liên tưởng thơ.

3. Sau khi phân tích cụ thể, cần có sự đánh giá khái quát: Đây là một đoạn thơ hay trong một bài thơ được nhiều người yêu thích.

    Có thể nêu bật mấy ý sau:

    - "Sóng" là hình tượng đặc sắc thể hiện một cách nhìn độc đáo, mới mẻ về vẻ đẹp tình yêu và tâm hồn người phụ nữ (có thể liên hệ, so sánh thêm với các bài thơ tình yêu của Xuân Quỳnh hoặc các tác giả khác có dùng biểu tượng sóng).

    - Đoạn thơ hay ở cách cấu tứ, cách xây dựng hình tượng, ẩn dụ, hay ở giọng thơ vừa nồng nhiệt vừa sâu lắng, nhất là có sức gợi cảm phong phú bất ngờ.

Đề 5

:

I.

MB

:

- “ Sãng” lµ bµi th¬ t×nh ®Æc s¾c nhÊt cña Xu©n Quúnh. Søc sèng vµ vÎ ®Ñp t©m hån cña nhµ th¬ còng nh­ nh÷ng s¸ng t¹o nghÖ thuËt trong bµi th¬ ®Òu g¾n liÒn víi h×nh t­îng trung t©m-  “ sãng”.C¶ bµi th¬ lµ nh÷ng con sãng t©m t×nh cña t¸c gi¶ ®­îc kh¬i dËy khi ®øng tr­íc biÓn c¶, ®èi diÖn víi nh÷ng con sãng v« h¹n.

- T¸c gi¶ ®· m­în h×nh t­îng sãng ®Ó diÔn t¶ t×nh c¶m cña ng­êi phô n÷ khi ®ang yªu mét c¸ch ch©n thµnh, trong s¸ng.

II.

TB

:

- H×nh t­îng sãng ®­îc gîi ra b»ng ©m ®iÖu lóc nhÞp nhµng, khi d¹t dµo s«i næi, lóc thÇm th× l¾ng s©u, gîi lªn ©m h­ëng nh÷ng ®ît sãng liªn tiÕp, miªn man, ®­îc t¹o nªn b»ng thÓ th¬ n¨m ch÷ víi nh÷ng c©u th¬ liÒn m¹ch hÇu nh­ kh«ng ng¾t nhÞp. NhÞp sãng còng chÝnh lµ nhÞp lßng cña nh©n vËt tr÷ t×nh, mét ®iÖu t©m hån kh«ng thÓ yªn ®Þnh, ®Çy biÕn ®éng, ch¶y tr«i vµ chÊt chøa nh÷ng kh¸t khao r¹o rùc:

“D÷ déi vµ dô ªm

                                                            ån µo vµ lÆng lÏ

S«ng kh«ng hiÓu næi m×nh

Sãng t×m ra tËn bÓ”

-Mçi ®Æc tÝnh cña  sãng ®Òu t­¬ng hîp víi khÝa c¹nh tr¹ng th¸i cña t©m hån. T¸c gi¶ ®· sö dông biÖn ph¸p nghÖ thuËt ®èi lËp ®Ó diÔn t¶ tr¹ng th¸i biÕn ®æi kh«ng ngõng cña sãng. ®ång thêi qua sãng thÊy ®­îc t©m t×nh, tÝnh khÝ cña ng­êi con g¸i ®ang yªu: hä sèng víi nh÷ng tr¹ng th¸i tr¸i ng­îc trong lßng “  d÷ déi råi dÞu ªm, ån µo vµ lÆng lÏ”.

- Víi kh¸t väng lín lao nh­ thÕ, sãng kh«ng chÞu dõng l¹i ë s«ng, v× “ s«ng kh«ng hiÓu næi m×nh”, sãng ph¶i “ t×m ra tËn bÓ”. Hµnh tr×nh ra bÓ réng, tõ bá giíi h¹n chËt hÑp t×m ®Õn ch©n trêi bao la cña t©m hån. Ra ®Õn bÓ réng, con sãng míi thËt sù t×m thÊy m×nh, nhËn thøc ®­îc søc m¹nh vµ kh¸t khao cña nã.

- Sãng lµ vÜnh h»ng víi thêi gian, dï ngµy x­a hay ngµy sau vÉn kh«ng thay ®æi,  còng nh­ nçi kh¸t väng t×nh yªu cña con ng­êi- nçi kh¸t väng båi håi trong tr¸i tim tuæi trÎ:

“«i con sãng ngµy x­a

Vµ ngµy sau vÉn thÕ

                                                                     Nçi kh¸t väng t×nh yªu

Båi håi trong ngùc trΔ

 Khi t×nh yªu ®Õn, nh­ mét t©m lÝ tù nhiªn vµ th­êng t×nh, ng­êi ta lu«n cã nhu cÇu tù t×m hiÓu vµ ph©n tÝch. Nh­ng t×nh yªu lµ mét hiÖn t­îng t©m lÝ kh¸c th­êng, ®Çy bÝ Èn nªn kh«ng thÓ gi¶i thÝch, còng kh«ng thÓ c¾t nghÜa ®­îc. Cuèi cïng ®µnh ph¶i thó nhËn: “ Em còng kh«ng biÕt n÷a”-> Lêi thó nhËn ch©n thµnh, tÕ nhÞ nh­ng s©u l¾ng.

“Con sãng d­íi lßng s©u

……………………

.

C¶ trong m¬ cßn thøc”

- T¸c gi¶ ®· m­în h×nh t­îng sãng ®Ó diÔn t¶ nçi nhí trong tr¸i tim ®ang yªu: “ nhí kh«ng ngñ ®­îc”, “ trong m¬ cßn thøc”-> nèi nhí cån cµo, da diÕt, th­êng trùc bao trïm lªn c¶ kh«ng gian vµ thêi gian, kh«ng chØ tån t¹i trong ý thøc mµ cßn len lái vµo trong tiÒm thøc, x©m nhËp vµo c¶ trong giÊc m¬. Nã cuån cuén, d¹t dµo nh­ nh÷ng ®ît sãng biÓn triÒn miªn, kh«ng nghØ. -> T×nh yªu cña ng­êi con g¸i võa thiÕt tha, m·nh liÖt  võa trong s¸ng, gi¶n dÞ võa thuû chung, duy nhÊt võa ch©n thµnh ®»m th¾m. §©y chÝnh lµ c¬ së ®Ó ®i ®Õn ®Ých cña t×nh yªu lµ h¹nh phóc gia ®×nh còng nh­ con sãng nhÊt ®Þnh sÏ vµo ®Õn bê “ dï mu«n vêi c¸ch trë”.

“ Lµm sao ®­îc tan ra

          Thµnh tr¨m con sãng nhá

Gi÷a biÓn lín t×nh yªu

§Ó ngµn n¨m cßn vç”

  Cuèi cïng, sãng còng nãi gióp cho nhµ th¬ nçi kh¸t väng ®­îc sèng trän vÑn, sèng hÕt m×nh trong t×nh yªu, cho t×nh yªu lµ tÊt c¶ ®Ó tõ ®ã vÜnh viÔn ho¸ t×nh yªu, ®Ó t×nh yªu trë nªn bÊt tö.

III.

KB

:

 Qua h×nh t­îng sãng ng­êi ®äc c¶m nhËn ®­îc søc sèng vµ vÎ ®Ñp t©m hån cña ng­êi phô n÷ khi ®ang yªu. Ng­êi phô n÷ m¹nh b¹o, chñ ®éng bµy tá nh÷ng kh¸t väng vµ nh÷ng rung ®éng r¹o rùc cña lßng m×nh trong t×nh yªu.

·

Đề 3: Phân tích bài “Sóng” của Xuân Quỳnh

I.Đặt vấn đề

Biển và sóng là những đề tài quen thuộc của thơ ca. Mỗi nhà thơ nhìn biển theo cảm hứng riêng của mình. V.Hugo trong “Đêm đại d­ương” khi đứng tr­ước biển cả mênh mông sâu thẳm, đã nghe đư­ợc”Những tiếng ng­ười tuyệt vọng kêu la”. Puskin thì liên t­ưởng những đợt sóng thét gào với nỗi cay đắng trong tình yêu.

Xuân Quỳnh tìm đ­ược những suy nghĩ tinh tế và thú vị về tình yêu qua hình ảnh những con sóng biển.

II.Giải quyết vấn đề

1.Sóng biển và tình yêu

Tác giả đã nhìn thấy sóng qua hai tính cách gần như­ đối lập nhau “dữ dội”, “ồn ào” với “êm dịu”, “lặng lẽ”. Đấy là hình ảnh thực tế về sóng biển. Như­ng nhà thơ còn hình dung ra sóng như­ thể một con ngư­ời, con ngư­ời của suy t­ư, tìm kiếm:

Dữ dội và êm dịu………. Sóng tìm ra tận bể

Từ hình ảnh sóng đi ra khơi xa rồi sóng lại vỗ vào bờ, nhà thơ liên t­ưởng tới tình yêu:

Ôi con sóng ngày x­a…………. Bồi hồi trong ngực trẻ

·

Đây là một liên t­ưởng thú vị, bởi vì cũng nh­ư sóng biển tự bao giờ cho tới nay, tình yêu vẫn luôn luôn là nỗi khao khát của con ng­ười. Nếu tình yêu là nỗi khát vọng của con ng­ười thì đối với tuổi trẻ, tình yêu càng trở nên thân thiết đến nỗi có thể tuổi trẻ gắn liền với tình yêu. Đấy phải chăng là điều mà Xuân Diệu từng phát biểu:

Làm sao sống đ­ược mà không yêu /Không nhớ không th­ương một kẻ nào.

2.Tình yêu của anh và em     

Cả đoạn thơ trên nói về sóng biển và tình yêu một cách chung, nh­ư một quy luật của cuộc sống. Đến đoạn thơ tiếp theo, tình yêu trở nên cụ thể, đó là tình yêu của anh và của em. ý thơ phát triển rất hợp lý, tứ thơ sâu sắc làm nên dáng nét suy t­ư trong thơ của Xuân Quỳnh:

Tr­ước muôn trùng sóng bể ……….. Từ nơi nào sóng lên

·

Tại sao “tr­ước muôn trùng sóng bể”, “em nghĩ về anh, em” ?

Thắc mắc về biển cả, chính là thắc mắc về tình yêu. Bởi vì tình yêu chính là thắc mắc về ng­ười mình yêu. Đó là một hiện t­ượng tâm lý thông thư­ờng trong tình yêu - yêu có nghĩa là hiểu rất rõ về ng­ười

mình yêu và đồng thời ng­ười yêu vẫn là một ẩn số kỳ thú đối với mình. Cũng như­ vậy, ngư­ời đang yêu rất hiểu về tình yêu nh­ưng đồng thời vẫn luôn luôn tự hỏi không biết thế nào là tình yêu. ở đây, nhà thơ Xuân Quỳnh đã liên hệ tâm lý ấy bằng hình tư­ợng nghệ thuật hồn nhiên, dễ th­ương và gợi cảm:

Sóng bắt đầu từ gió ……… Khi nào ta yêu nhau.

Yêu, rõ ràng là thế mà đôi khi cũng không biết nó là gì. Nó cụ thể mà mơ hồ, nó gần gụi mà xa xôi, nó đơn giản mà phức tạp. Nó là con sóng. Nhà thơ lại trở về nghệ thuật nhân hóa:

Con sóng d­ưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nư­ớc

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ đ­ược

·

Tư­ởng t­ượng đã giúp nhà thơ lý giải một hiện t­ượng của thiên nhiên: con sóng nhớ biển nhớ bờ cho nên ngày đêm liên tục vỗ vào bờ. Đâu đây có hình ảnh ý thơ của Xuân Diệu:

Bờ đẹp đẽ  cát vàng/Thoai thoải hàng thông đứng/Như­ lặng lẽ mơ màng/Suốt ngàn năm bên sóng (Biển)

·

Cũng nh­ư vậy, yêu có nghĩa là nhớ. Nhớ cả trong mơ cũng như­ khi còn thức. Yêu anh có nghĩa là nghĩ đến nay, luôn luôn nghĩ đến anh:

Lòng em nghĩ đến anh

Cả trong mơ còn thức

·

Phải chăng đó là điều mà Nguyễn Bính đã thể hiện một cách duyên dáng qua hình thức thơ dân dã của mình:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một ngư­ời chín nhớ mư­ời mong một ngư­ời

Cái nhớ của tình yêu chính là nỗi khát khao vô hạn, là nỗi nhớ không nguôi:

Uống xong lại khát là tình

Gặp rồi lại nhớ là mình của ta

(Xuân Diệu)

·

Những liên t­ưởng trên đây giúp ta thấy cách diễn tả của  Xuân Quỳnh chân thật và hồn nhiên biết chừng nào. ở thơ của Xuân Quỳnh có sự liên kết giữa cái hồn nhiên chân thật ấy với chất suy t­ư một cách tinh tế và chặt chẽ làm cho bài thơ ánh lên vẻ đẹp của một tâm hồn suy nghĩ.

·

Ng­ời ta nói yêu nhau tức là cùng nhau nhìn về một h­ướng. Còn nhà thơ Xuân Quỳnh của chúng ta thì lại bảo:

Dẫu xuôi về phư­ơng Bắc

Dẫu ng­ợc về phư­ơng Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

H­ướng về anh - một ph­ương

Hình ảnh “h­ướng về anh một phư­ơng” làm ta nhớ tới mấy câu ca dao

:

Quay tơ thì giữ mối tơ

Dẫu trăm nghìn mối vẫn chờ mối anh

·

Đó phải chăng, từ nỗi nhớ trong tình yêu, nhà thơ muốn làm nổi bật tình cảm thủy chung duy nhất của ng­ười con gái. Dù đi đâu, dù xuôi ng­ược bốn phư­ơng, tám h­ướng, thì em cũng chỉ h­ướng về một phư­ơng của anh, có anh, cho anh. Nhà thơ lại trở về với hình ảnh những con sóng để làm điểm tựa cho ý t­ưởng của mình. Bởi vì, dù có xa vời cách trở bao nhiêu, con sóng vẫn tới đ­ược bờ:

Ở ngoài kia đại dương.....

Dù muôn vời cách trở

3.Tình yêu và cuộc đời

ở trên, tác giả liên t­ưởng sóng với tình yêu. Đoạn thơ cuối cùng so sánh cuộc đời và biển cả:

Cuộc đời tuy dài thế........

Mây vẫn bay về xa

·

Tình yêu là một biểu hiện của cuộc đời. Tình yêu chính là cuộc sống. Cho nên đoạn thơ cuối cùng mở rộng tứ thơ - tình yêu không phải chỉ là của anh và em mà tình yêu phải hòa trong biển lớn nhà thơ gọi là Biển lớn tình yêu:

Làm sao tan đ­ược ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

III.Kết luận

·

Bài thơ trữ tình tình yêu như­ng không quá hời hợt, dễ dãi. Từ âm điệu cho tới tứ thơ. “Sóng” toát lên phong cách của Xuân Quỳnh. Bài thơ giúp ta hiểu sâu sắc ý nghĩa tình yêu trong cuộc đời.

·

D­ường như­ biển cả bao la luôn luôn thu hút cảm hứng của Xuân Qùynh. Biển là tình yêu, sóng là nỗi nhớ, và cả sóng biển sẽ giúp nhà thơ xua đi bao điều cay cực:

Biển sẽ xóa đi bao nhiêu cay cực

Nư­ớc lại dềnh trên sóng những lời ru.

Bài 5

: Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo)

1. Xuất xứ:

Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca rút trong tập Khối vuông ru-bích (1985) là một trong những sáng tác tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo : giàu suy tư, phóng túng và ít nhiều nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực.

2. Ý nghĩa nhan đề, lời đề từ

- Nhan đề:           

+ Ghi ta không chỉ là nhạc cụ truyền thống của Tây Ban Nha mà còn được coi là biểu tượng cho nền nghệ thuật ở đất nước này

            + Lor-ca là nhà thơ, nhạc sĩ, kịch tác gia nổi tiếng người Tây Ban Nha, người đã khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật

à

Đàn ghi ta (của Lor-ca) là biểu tượng cho những cách tân nghệ thuật của người nghệ sĩ thiên tài Ga-xi-a Lor-ca.

- Lời đề từ:

khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”.

+ Đây là câu nói nổi tiếng của Lor-ca trước khi từ biệt cõi đời. Nó cho thấy ột người nghệ sĩ có tình yêu say đắm với nghệ thuật, với xứ sở Tây Ban cầm.

+ Với tư cách là một nhà cách tân nghệ thuật, Lor-ca nghĩ rằng đến một ngày nào đó thơ ca của ông cũng sẽ án ngữ, ngăn cản sự sáng tao nghệ thuật của những người đến sau. Vì thế, nhà thơ đã căn dặn các thế hệ sau : hãy “chôn” nghệ thuật của ông (cùng với ông) để bước tiếp.

3. Nội dung bài thơ:

   3.1 Đoạn 1 (6 dòng đầu): Hình tượng người “kỵ sĩ văn chương” đơn độc.

- Gợi liên tưởng đến khung cảnh của một đấu trường với những võ sĩ đấu bò tót nổi tiếng dũng cảm ở Tây Ban Nha.

- Cuộc chiến đấu giữa:

+ Khát vọng dân chủ của công dân Lor-ca với nền chính trị độc tài.

+ Khát vọng cách tân nghệ thuật của người nghệ sĩ với nền nghệ thuật già nua.

- “Những tiếng đàn bọt nước”(tiếng đàn không chỉ cảm nhận bằng thính giác mà còn bằng thị giác), cùng chuỗi hợp âm li-la li-la li-la đã cho thấy nghệ sĩ Lor-ca đang bay bổng với những giai điệu mới, với khát vọng cách tân nghệ thuật.

-  Lor-ca đơn độc,mệt mỏi tranh đấu bền bỉ cho những khát vọng nghệ thuật cao đẹp.

=>Như vậy, 6 dòng thơ đầu tiên là “khúc tiền tấu” của bản độc tấu ghi ta mang tên Lor-ca. Trong những giai điệu đầu tiên vút lên mạnh mẽ, hào hùng có những khoảnh khắc lắng xuống, day dứt, mong manh.

   3.2. Đoạn 2 (12 dòng tiếp): Lor-ca bị bắn và tiếng đàn ghi ta “máu chảy”

-

 Hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ” gợi lên cái chết thê thảm của Lor-ca.

-  Cái chết đã ập đến quá nhanh và phũ phàng, giữa lúc Lor-ca không ngờ tới (Chàng vẫn còn đang “hát nghêu ngao” và vẫn chưa thể tin được rằng việc mình “bị điệu về bãi bắn” lại là một sự thật – Lor-ca đã “đi như người mộng du”).

-

Tiếng ghi ta không còn vẹn nguyên, nó đã vỡ ra:  thành màu sắc (tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy); thành hình khối (tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan); thành dòng máu chảy (tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy).

- Mỗi tiếng ghi ta là một nỗi niềm của con người trước cái chết của Lorca:

+ Sự tiếc thương của người tình thủy chung (Tiếng ghi ta nâu. Bầu trời cô gái ấy).

+ Nỗi niềm xót xa, tiếc nuối của con người, của nhà thơ trước hành trình dở dang của những cách tân nghệ thuật (Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy. Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan)

+ Nỗi đau của chúng ta trước cái chết thê thảm của người nghệ sĩ (Tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy).

è

Như vậy, Lor-ca đã phải dừng lại vĩnh viễn trong cuộc chiến đấu cho tự do, công lý và những khát vọng cách tân của người nghệ sĩ cũng theo đó mà như “bọt nước vỡ tan”.

- 4 lần cụm từ “tiếng ghi ta”được lặp lại, thể hiện cảm xúc mãnh liệt và cảm nhận đa chiều (mỗi “tiếng ghi ta” gắn liền với một hình ảnh) của tác giả về cái chết của Ga-xi-a Lor-ca.

- Thủ pháp chuyển đổi cảm giác tạo nên những cảm nhận rất mới, rất độc đáo, phù hợp với những nỗ lực và khát vọng cách tân của người nghệ sĩ Lor-ca.

   3.3. Đoạn 3 (4 dòng tiếp) :

Những tiếng đàn không được tiếp tục

+ Tiếng đàn như cỏ mọc hoang

” đồng nghĩa với nghệ thuật như cỏ mọc hoang tức là nghệ thuật thiếu vắng những người dẫn đường, vắng bóng người định hướng. Hành trình cách tân nghệ thuật của Lor-ca không có người tiếp tục.

+ “không ai chôn cất tiếng đàn” thể hiện một nỗi thất vọng lớn bởi dường như không ai thực sự hiểu Lor-ca, hiểu những suy nghĩ sâu sắc của người nghệ sĩ thiên tài gửi lại cho hậu thế. “Không ai chôn cất tiếng đàn” có nghĩa là không ai dám chôn nghệ thuật của Lor-ca.

+ “Vầng trăng”: vừa là hình ảnh thật vừa là hình ảnh tượng trưng cho nghệ thuật.

+  “Giọt nước mắt” và “đáy giếng” là những hoán dụ nghệ thuật về người nghệ sĩ Lor-ca.

à

Hai câu thơ là nỗi buồn – một nỗi buồn trong sáng và rất đẹp của người nghệ sĩ chân chính luôn day dứt, khắc khoải những giá trị nghệ thuật đích thực và những khát vọng sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ.

Hình ảnh của Lor-ca, di sản nghệ thuật của ông, lý tưởng của người nghệ sĩ suốt đời đấu tranh cho nền dân chủ, cho nghệ thuật chân chính không bao giờ lụi tắt. Trái lại, nó càng “long lanh” hơn bao giờ hết. Vầng trăng của thiên nhiên, vầng trăng của nghệ thuật như đang giao thoa ánh xạ với nhau để soi tỏ một con người đã chết cho quê hương.

   3.4. Đoạn 4 (9 dòng cuối) : Suy tư về sự ra đi của Lor-ca.

- Tác giả đã nói về cái chết của Lor-ca từ góc độ tướng số học. Theo đó, cái chết của Lor-ca là một định mệnh đã được báo trước trên đường rãnh của bàn tay. Dòng thơ thể hiện một thái độ chấp nhận định mệnh phũ phàng, chấp nhận sự ra đi của Lor-ca như một quy luật không thể khác.

- Lor-ca đau đớn khi những khát vọng cách tân của ông không được người đời sau tiếp tục. Nhưng Lor-ca còn đau đớn hơn nếu văn chương của ông, tên tuổi của ông là “lực cản” kìm hãm những nỗ lực sáng tạo của các thế hệ kế tiếp. Chính vì thế mà hình tượng Lor-ca “bơi sang ngang - trên chiếc ghi ta màu bạc” thật nhẹ nhàng, thanh thản

- Quyết định từ biệt thế giới mở đường cho những cách tân nghệ thuật của những người đến sau, Lor-ca đã hành động dứt khoát : “chàng ném lá bùa cô gái Di-gan – vào xoáy nước – chàng ném trái tim mình – vào lặng yên bất chợt

=>  Lor-ca  ra đi thật đẹp, thật “sang”, thật đúng với tầm vóc và tư tưởng của người nghệ sĩ nổi tiếng. Những tiếng li-la li-la li-la… một lần nữa lại cất lên như bài ca về sự bất tử của một con người, như bản độc tấu ghi ta ngợi ca người nghệ sĩ chân chính, ngợi ca con người sáng tạo.

4. Nghệ thuật

- Về mặt cấu trúc: bài thơ là một tác phẩm trữ tình nhưng có cấu trúc như một tác phẩm âm nhạc. Dòng thơ “li-la-li-la-li-la” là một sự kết hợp âm nhạc với thơ.

- Nghệ thuật tượng trưng được sử dụng với tần số cao.

5. Chủ đề :

Qua hình tượng Lor-ca và tiếng đàn ghi ta, tác giả đã diễn tả cái chết bi tráng đột ngột của người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do và cách tân nghệ thuật, đồng thời bày tỏ nỗi đau xót sâu sắc và niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của tên tuổi và sự nghiệp Lor-ca.

MỘT SỐ ĐỀ  VÀ ĐÁP ÁN TIÊU BIỂU

Đề 1

: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

“không ai chôn cất tiếng đàn

Tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng”

(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)

Đề 2

:

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo:

…“Tây Ban Nha

                                      hát nghêu ngao

                                      bỗng kinh hoàng

                                      áo choàng bê bết đỏ

                                      Lor-ca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như người mộng du

....

long lanh trong đáy giếng”

Đề 3:

Phân tích bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”.                                                

GỢI Ý

Đề 1

:

I.

Mở bài

:

          -Thanh Thảo là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Từ sau năm 1975, ngòi bút của ông vẫn không ngừng nghỉ trong cuộc hành trình nghệ thuật của mình. Ông đã có nhiều nỗ lực tìm tòi, đổi mới trong tư duy nghệ thuật và hình thức của thơ.

-Trên hành trình đổi mới thơ, “ông vua trường ca” đã ám ảnh người đọc bằng nhiều sáng tác độc đáo. Trong đó, “Đàn ghi ta của Lor-ca” in trong tập “Khối vuông ru-bích”(1985) là một thi phẩm xuất sắc. Bốn dòng thơ đã thể hiện niềm xót thương, bày tỏ sự đồng cảm, tri âm của nhà thơ đối với người nghệ sĩ Tây Ban Nha Gar-xi-a Lor-ca được xem là kết tinh cho vẻ đẹp của bài thơ vừa mang hình thức thơ viếng, vừa như một bi ca:

“không ai chôn cất tiếng đàn

Tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng”

II.

Thân bài

:

          1.

Giới thiệu vài nét về bài thơ và cảm hứng thơ

:

-Thanh Thảo không dựng lại toàn bộ cuộc đời của Lor-ca mà ông chỉ chọn cái thời điểm bi phẫn nhất trong cuộc đời của người nghệ sĩ Tây Ban Nha cho cảm hứng sáng tạo của mình: lúc Lor-ca bị bè lũ Phrăng-cô sát hại. Thực ra, Lor-ca đã dự cảm và luôn bị ám ảnh bởi cái chết của mình nhưng ông không thể ngờ rằng cái chết phũ phàng nhất đã đổ ập xuống thân phận ông vào cái ngày oan nghiệt 19-8-1936, lúc cuộc đấu tranh cho công lí và con đường cách tân nghệ thuật của ông còn đang dang dở.

          -Viết về một nhà thơ bậc thầy trong nền thi ca hiện đại thế giới theo khuynh hướng thơ siêu thực và tượng trưng; một con người mà tên tuổi đã trở thành biểu tượng cho khát vọng tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật; một con người mà tài năng đã tỏa sáng từ hai phương diện nhạc sĩ kiêm thi sĩ… nhưng có cái chết quá phũ phàng, Thanh Thảo đã chọn một hướng đi riêng: đã “cấy” nhạc vào thơ, kết hợp giữa màu sắc thơ viếng phương Đông và chất bi tráng trong nhạc giao hưởng phương Tây, đã tái chế, tái tạo vốn thi liệu từ nguồn di sản thơ của Lor-ca…Tất cả đã thăng hoa thành cảm xúc của bài thơ như một sự lựa chon tất yếu.

          2.

Vẻ đẹp của đoạn thơ

:

*Hai dòng trên:

          -ý nghĩa của hình tượng tiếng đàn: Hình tượng tiếng đàn liên tục được nhắc đến trong bài thơ với những biến ảnh khác nhau: tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy,...Và mỗi lần xuất hiện, nó mang một nét nghĩa mới, nhưng tất cả đều gắn với tâm tư, số phận chủ nhân của nó. Đặt trong mạch cảm xúc của bài thơ, tiếng đàn mang ý nghĩa biểu tượng cho thi ca và tổng hợp mọi sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca. Lời di chúc bằng thơ của Lor-ca mà Thanh Thảo lấy làm câu đề từ: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” là chiếc “chìa khóa” để người đọc mở cánh cửa bước vào thế giới của bài thơ chứ không phải chỉ giản đơn nói về tình yêu say đắm của Lor-ca với nghệ thuật và với xứ sở của mình.

          -Với cách láy vắt dòng một cách phóng túng, tự nhiên và nghệ thuật sử dụng ẩn dụ, so sánh đầy sáng tạo, hai dòng thơ đã mở ra nhiều hướng diễn dịch;

          +Bọn phát xít đã giết chết Lor-ca, nhưng chúng không thể chôn cất nổi tiếng đàn, không thể huỷ diệt được nghệ thuật, không thể nào làm tắt được “tiếng hót con chim hoạ mi” của xứ sở Tây Ban Nha trong kí ức nhân loại. Như “cỏ mọc hoang”, Lor-ca cùng những vần thơ tràn đầy lửa nóng của ông vẫn mãi mãi bất tử.

          +Nhưng ẩn sâu trong vỉa tầng của câu chữ, có cái gì quặn thắt, xót đau. Phải chăng, sự ra đi quá đột ngột của Lor-ca đã tạo nên một khoảng trống trên con đường nghệ thuật của nghệ sĩ và của cả đất nước Tây Ban Nha. Bởi lẽ, người khai sáng, nhà thơ ham cách tân Lor-ca không còn thì lấy ai làm người dẫn đường, và chắc rằng, hành trình nghệ thuật mà Lor-ca theo đuổi chẳng khác nào như “cỏ mọc hoang”?

          +Không dừng lại ở đó, dường như ý thơ còn thấm đẫm nỗi buồn của một nhà thơ phương Đông ham cách tân với người nghệ sĩ phương Tây ham tìm tòi, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật. Thanh Thảo đã có một cách đọc riêng về lời di chúc của Lor-ca: Nhà thơ của xứ sở “áo choàng đỏ gắt” ấy biết một ngày nào đó, những sáng tạo nghệ thuật của mình sẽ áng ngữ, ngăn cản những người đến sau nên trước lúc đi xa đã dặn lại hậu thế cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để mà đi tới, nhưng tiếc thay không ai thực sự hiểu được lời di chúc được viết bằng máu của con tim đầy nhiệt huyết ấy. Bởi vì, đối với người nghệ sĩ chân chính, đối với một nhà thơ tôn sùng “cái tôi đa ngã”, “cái tôi chưa biết” (với khát vọng tạo lập mối quan hệ tương giao giữa con người nhất thời với con người muôn thuở) như Lor-ca thì không gì đau đớn hơn khi tên tuổi và sáng tạo nghệ thuật của mình được đặt lên bệ thờ và trở thành bức tường kiên cố cản trở sự cách tân văn chương của hậu thế.

          *Hai dòng dưới

: Sự bất tử của Lor-ca

          -Nếu như ở hai dòng thơ trên, ý thơ thiên về biểu hiện nỗi xót xa, nuối tiếc trước cái chết bi thảm của Lor-ca thì ở hai dòng dưới, ý thơ lại thiên về sự tô đậm cho sự bất tử của người nghệ sĩ Tây Ban Nha trong mối đồng cảm, tri âm sâu sắc.

          -Từ sự kiện đau thương trong cuộc đời Lor-can là sau khi ông bị sát hại, bọn sát nhân tàn bạo đã phi tang cơ thể ông để hòng che giấu tội ác của chúng, Thanh Thảo, bằng “nghệ thuật sắp đặt” dựa trên nguyên lí của “cấu trúc gián đoạn” đã tạo nên một hình ảnh trùng phức, giao thoa của “nước mắt vầng trăng, long lanh trong đáy giếng” để gợi nên những suy tư đa chiều. Tất cả đều vận động trong “quỹ đạo” của niềm ngưỡng vọng, mối đồng cảm trước cuộc đời bi hùng của nghệ sĩ Lor-ca:

          +Vầng trăng bây giờ không “chếch choáng” nữa mà nó “long lanh” soi tỏ hình ảnh một con người đã chết cho quê hương, cho sự hồi sinh của nền dân chủ.

          +Vầng trăng tìm đến bên Lor-ca hay Lor-ca là vầng trăng trường cửu, vĩnh hằng long lanh dưới tầng tầng nước phủ thời gian?

          +Giọt nước mắt của cuộc đời đau buồn đã hoá thành vầng trăng, một vầng trăng mãi mãi long lanh trong đáy giếng để nhận diện “kẻ sát nhân mang mặt nạ người”, để làm thăng hoa cuộc đời và sự nghiệp của Lor-ca...

          3.

Đánh giá chung

:

          -Đã nhiều lần Thanh Thảo bày tỏ niềm ngưỡng mộ đối với những người nghệ sĩ phương Tây, nhưng có thể khẳng định rằng “Đàn ghi ta của Lor-ca” là bài thơ thành công hơn cả. Qua bài thơ, Thanh Thảo đã tạc nên một tượng đài của Lor-ca giữa lòng nhân loại.

          -Trong sự thành công vượt trội ấy của bài thơ, không thể không nói đến sự góp mặt của bốn câu thơ trên. Bốn câu thơ đã thể hiện khá rõ nét kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo: giàu suy tư, mãnh liệt và phóng túng trong cảm xúc, âm điệu thơ luôn biến hoá, hình tượng thơ “mờ nhoè” trộn lẫn giữa thực và mộng (nhuốm màu sắc siêu thực) tạo thành một cấu trúc có tính mời gọi trái tim độc giả.

III.

Kết bài

:

          -Người nghệ sĩ Lor-ca cầm chiếc đàn ghi ta của mình bơi qua dòng sông định mệnh từ mùa hè năm 1936, nhưng dư âm vang vọng của cuộc đời ông thì còn mãi mãi. Góp phần làm cho tiếng đàn ghi ta bay cao, bay xa mãi cùng với năm tháng không thể không tri công Thanh Thảo- dù người con đất Quảng viết bài thơ này chỉ để giải toả ‘nguồn năng lượng” đang ứ đọng trong trái tim mình .

          -Trong hành trình đi tìm định nghĩa cho thơ, người ta đưa ra nhiều ý kiến khác nhau, nhưng dù có quan niệm thế nào đi chăng nữa thì bốn câu thơ trên của Thanh Thảo cũng có thể dùng để minh hoạ cho vẻ đẹp đích thực của thơ ca.

Đề 2

:

1.Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ (Tham khảo đề 1).

2.Cảm nhận đoạn thơ:

a.

Về nội dung

: Vẻ đẹp bi tráng và sự bất tử của Lor-ca.

*12 dòng thơ trên

: Vẻ đẹp bi tráng của Lor-ca

-Người nghệ sĩ tài hoa và phóng khoáng có tiếng hát yêu đời, yêu tự do (hát nghêu ngao, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy,…).

-Hiện thân cho số phận đau thương: bị bọn phát xít giết hại dã man (bị điệu về bãi bắn, áo choàng bê bết đỏ,…).

-Cái chết của Lor-ca gợi lên hình ảnh cái đẹp bị bạo lực tàn ác huỷ diệt (tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy,…)

*4 dòng dưới

: Sự bất tử của Lor-ca.

-Bọn phát xít đã giết chết Lor-ca nhưng không thể nào tiêu diệt nổi “tiếng đàn” của người con xứ sở Tây Ban Nha (không ai chôn cất tiếng đàn, tiếng đàn như cỏ mọc hoang,…)

-Sự bất diệt, vĩnh hằng của Lor-ca và nghệ thuật của ông trong mối đồng cảm, ngưỡng vọng của nhà thơ Thanh Thảo và cả nhân loại tiến bộ (giọt nước mắt vầng trăng, long lanh trong đáy giếng,…).

b.

Về nghệ thuật

:

-Biện pháp nghệ thuật đối lập, nhân hoá, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,…mang màu sắc của chủ nghĩa siêu thực, gần gũi với sáng tác của Lor-ca.

-Câu thơ giàu nhạc điệu, cảm xúc tinh tế, mãnh liệt.

3.

Đánh giá chung

:

-Đã nhiều lần Thanh Thảo bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với một số nghệ sĩ phương Tây, nhưng có thể khẳng định rằng “Đàn ghi ta của Lor-ca” là bài thơ thành công hơn cả. Qua bài thơ, Thanh Thảo đã tạc nên một tượng đài Lor-ca giữa lòng nhân loại.

-Trong sự thành công vượt trội ấy của bài thơ, không thể không nói đến sự góp mặt của bốn câu thơ trên. Bốn câu thơ đã thể hiện khá rõ nét kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo: giàu suy tư, mãnh liệt và phóng túng trong cảm xúc, âm điệu thơ luôn biến hoá, hình tượng thơ “mờ nhoè” trộn lẫn giữa thực và mộng (nhuốm màu sắc siêu thực) tạo thành một cấu trúc có tính mời gọi. Tất cả đều làm nổi bật hình tượng Lor-ca, một nghệ sĩ tài hoa có số phận bi tráng của đất nước Tây Ban Nha.

Đề 3

 :

A.

Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

 :

(Tham khảo các đề trên)

B.

Phân tích bài thơ 

:

I. Hai đoạn đầu :

Hình ảnh Lorca hiện lên qua chính thơ Lorca và cái chết bi tráng của Ông.

                                  những tiếng đàn bọt nước

                                  Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

                                  li-la li-la li-la

                                      đi lang thang về miền đơn độc

                                      với vầng trăng chếnh choáng

                                      trên yên ngựa mỏi mòn

1.Hình ảnh Lorca hiện lên theo lối ấn tượng qua thi ảnh :

- H/a thơ  :áo choàng đỏ gắt- vầng trăng chếnh choáng- yên ngựa mỏi mòn.

 + Làm cho người đọc nghĩ tới xứ sở Tây Ban Nha

(áo choàng đỏ gắt- nghĩ tới đấu trường-những đấu sĩ- những cuộc đấu bò tót vốn là đặc trưng của Tây Ban Nha) và mường tượng xa gần ám ảnh tới con người, cuộc đời, số phận Lorca

. (Đi lang thang về miền đơn độc : gợi hình ảnh Lorca thường thích đi khắp xứ sở như một gã Digan đơn độc mà hát lên những bài thơ của mình. Vầng trăng chếng choáng, Trên yên ngựa mỏi mòn

gợi nhớ câu thơ của Lorca   “con ngựa đen-vầng trăng đỏ” ).

 + Giúp ta hình dung ra không khí, không gian rất Tây Ban Nha, thời Lorca sống. Đó cũng là cái nền ảm đạm để xuất hiện hình ảnh Lorca- chàng kị sỹ cô đơn.

+Có ý nghĩa tượng trưng: không chỉ là khung cảnh của một đấu trường với cuộc đấu giữa những võ sĩ  với bò tót mà còn là một đấu trường đặc biệt của người chiến sĩ Lorca với nền chính trị độc tài, người nghệ sĩ Lorca có khát vọng cách tân nghệ thuật với nghệ thuật già nua cằn cỗi của xử sở Tây Ban Nha.

Những hình dung từ : chếnh choáng, mỏi mòn, đơn độc còn gợi hình ảnh Lorca trong cuộc đấu tranh ấy còn cô đơn, đơn độc. Phải chăng đó là bi kịch chung của những người chiến sĩ tiên phong

 ?

Những hình ảnh này còn được Thanh Thảo xử lý theo trường phái tượng trưng : giàu chất biểu tượng và thể hiện theo phép tương giao và nhất là được viết theo lối sắp đặt gợi sự tương phản.

những tiếng đàn bọt nước

                                  Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

Hai dòng thơ này gợi nên sự tương phản gay gắt : âm thanh nhỏ bé >< sắc màu gay gắt ; tiếng đàn nghệ sĩ >< áo choàng đấu sĩ ; vẻ khiêm nhường >< sự ngạo nghễ ;  nghệ thuật >< bạo lực ; số phận con người ><hiện thực dữ dội(Chu Văn Sơn). Nó làm ta liên tưởng đến người nghệ sĩ

Lorca trong cơn bão cuộc đời, liên tưởng đến người chiến sĩ đấu tranh cho tự do và người cách tân nền nghệ thuật già nua. Trong hoàn cảnh đó, bi kịch đến với Lorca là không thể tránh khỏi.

          Tóm lại chỉ mấy thi ảnh được thể hiện bằng bút pháp của trường phái ấn tượng, tượng trưng, Thanh Thảo đã giúp ta cảm nhận được một bức tranh thơ: trên bầu trời ảm đạm, lạnh lẽo của đất nước Tây Ban Nha xuất hiện chàng kị sĩ- nghệ sĩ Lorca đơn độc, mòn mỏi như biểu tượng cho người chiến sĩ đấu tranh cho tự do chống lại chế độ độc tài và nhà cách tân nền nghệ thuật già nua

.

2.Tấm lòng ngưỡng mộ của Thanh Thảo với Lorca được thể hiện qua nhạc điệu

:

- Thanh Thảo đã ’’cấy’’, đã ’’khảm’’ lên bức tranh thơ một chuỗi âm thanh :

li-la li-la li-la

gợi một “cú vê” ghi ta của người đệm đàn- chuỗi âm thanh mở đầu này như phần dạo đầu để người hát bắt đầu trình diễn ca khúc.

Ý nghĩa :

gợi hình ảnh Lorca, dùng lời ca để ca ngợi Lorca, hợp lời, hợp cách. Đó mới là tri âm, đồng thời bộc lộ lòng ngưỡng mộ của Thanh Thảo với nghệ sĩ thiên tài Tây Ban Nha này.

                                      Tây Ban Nha

                                      hát nghêu ngao

                                      bỗng kinh hoàng

                                      áo choàng bê bết đỏ

                                      Lorca bị điệu về bãi bắn

                                      chàng đi như người mộng du

Cả bài thơ là những khúc nhạc mơ hồ, những thi ảnh lãng đãng về thơ Lorca viết theo bút pháp tượng trưng siêu thực. Riêng sáu dòng thơ này nhà thơ lại chen mấy dòng tự sự

làm cho hình ảnh cái chết của Lorca hiện rõ. Có lẽ Thanh Thảo đã quá xúc động trước cái chết thương tâm của Lorca. Nó làm chấn động tâm hồn Thanh Thảo và cái chết ấy như hiện rõ mồn một trong tâm trí Thanh Thảo và trên trang thơ :

                                      Tây Ban Nha

                                      bỗng kinh hoàng

                                      áo choàng bê bết đỏ.

Từ áo choàng đỏ gắt

trở thành áo choàng bê bết đỏ. Từ đỏ gắt

- gợi ngọn lửa đấu tranh, gợi khát vọng đấu tranh đã chuyển thành bê bết đỏ

-gợi màu máu-gợi cái chết thương tâm bi tráng đầy ấn tượng.

                             ’’Tôi không muốn nhìn thấy máu’’

Có lần Lorca đã kêu lên như thế nhưng máu của Lorca đã đổ. Hay nói cách khác : Lorca muốn chết tử tế trên chiếc giường nhà mình, muốn nằm trong đất với cây đàn, thơ, chí ít chàng muốn mình như một đấu sĩ bước vào đấu trường trong cuộc chiến một mất một còn với con bò tót định mệnh- con bò cô đơn với trái tim cao thượng, chàng sẵn sàng chết trước cặp sừng oai hùng của nó.

Nhưng chàng không ngờ cái chết lại đến với mình bi thảm thế-lén lút thế-bọn phát xít đã hèn hạ ám hại chàng-chàng đi như người mộng du. Mâu thuẫn giữa hiện thực phũ phàng và tâm trạng của Lorca càng làm tăng thêm tính bi kịch của cuộc đời Lorca và càng làm cho bạn đọc đau đớn và càng thêm khinh bỉ bọn phát xít.

II. Hai đoạn giữa :

Suy nghĩ về sức sống của thơ Lorca và cái chết bất tử của Ông.

                                      tiếng ghi ta nâu

                                      bầu trời cô gái ấy

                                      tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

                                      tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

                                      tiếng ghi ta ròng ròng

                                      máu chảy

-Tiếng ghi ta (nghệ thuật) được điệp lại

và mở đầu những dòng thơ như diễn tả cảm xúc mạnh liệt và đa chiều về thơ Lorca đồng thời khẳng định nội dung phong phú kì diệu của thơ Lorca.

-Tiếng ghi ta (nghệ thuật của Lorca) lại được viết theo lối sắp đặt trong quan hệ tương phản

 (sự sống- cái chết, vĩnh hằng-nhỏ nhoi), (nâu-xanh-đỏ) như muốn ngợi ca thơ Lorca  là sự biểu hiện những thái cực tương phản của sự sống và của tâm hồn Lorca.

-Tiếng đàn ghi ta (nghệ thuật của Lorca) lại được diễn tả theo phép tương giao và là những biểu tượng giàu chất triết lí :

+Tiếng đàn ghi ta nâu, lá xanh : âm thanh đã được cảm nhận qua sắc màu.

+Tiếng đàn ghi ta tròn bọt nước vỡ tan : âm thanh được cảm nhận qua hình khối.

+Tiếng đàn ghi ta nâu : gợi nghệ thuật Lorca gắn bó với cuộc đời, thiên nhiên.

+Bầu trời cô gái ấy : gắn với tình yêu lồng lộng, cao đẹp.

+Tiếng đàn ghi ta xanh biết mấy : nghệ thuật gắn bó với cuộc sống xanh tươi dù sương gió.

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

                                      tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy

Và nghệ thuật cũng tham gia vào cuộc đấu tranh như những người chiến sĩ nên cũng vỡ tan máu chảy-cao cả bi tráng. Nghệ thuật của Lorca thật phong phú bình dị và cao cả, nhẹ nhàng mà thấm thía, cụ thể mà sâu xa, lãng mạn mà thực tế, siêu thực mà hiện thực. Đó là nghệ thuật bình dị gắn bó với cuộc đời, với tình yêu và cuộc đấu tranh cho sự tiến bộ xã hội nên vô cùng bình dị gần gũi và cũng vô cùng cao cả. Nghệ thuật của Lorca là tiếng nói của cuộc sống và cả cái chết nữa.

Thơ tức là người. Qua Thơ Lorca, Thanh Thảo đã làm sống lại con người Lorca. Đó là hình tượng của một con người yêu tha thiết quê hương mình, đất nước mình. Là tâm hồn có một tình yêu thật đẹp, cao rộng- người gắn bó mãnh liệt với thiên nhiên cây cỏ, bầu trời, mặt đất. Đó là người nghệ sĩ có năng lực sáng tạo phi thường, và là người nghệ sĩ-chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh cho tự do và tiến bộ xã hội.

                                      không ai chôn cất tiếng đàn

                                      tiếng đàn như cỏ mọc hoang

                                      giọt nước mắt, vầng trăng

                                      long lanh trong đáy giếng

. Đã có cách hiểu một cách máy móc: Di chúc của Lorca: “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” thế mà  “không ai chôn cất tiếng đàn”. Di chúc của Lorca không người thực hiện (nỗi xót xa của Thanh Thảo). Không ai hiểu, không ai tri âm với Lorca. Lorca muốn sau khi mình qua đời, sự sáng tạo cũng chấm dứt thì hãy chôn nghệ thuật của mình đi để kẻ hậu sinh khỏi bị cái bóng của mình ngăn cản. Đó là đạo đức của một vĩ nhân-sẵn sàng hy sinh dang vọng cá nhân để cộng đồng phát triển.

                                      tiếng đàn như cỏ mọc hoang

Nghệ thuật thiếu vắng người dẫn đường, vắng bóng người định hướng. Câu thơ là tiếng thở dài, lời nuối tiếc trước cái chết của một nhà cách tân.

. Nhưng theo tôi hiểu, với nghệ thuật so sánh :

                                      tiếng đàn như cỏ mọc hoang

là lời ngợi ca nhà thơ đã chết nhưng sức sống của thơ Ông vẫn tiềm tàng bất diệt không gì ngăn cản nổi. Câu thơ là bài ca ca ngợi sức sống mãnh liệt của thơ Lorca

(câu này gợi câu nói “Bao giờ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây” của Nguyễn Trung Trực, lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp. Ông đã dùng sức sống mãnh liệt của cỏ để ví với sức chiến đấu bền bỉ dẻo dai của nhân dân Nam Kỳ).

Tác phẩm nghệ thuật là con đẻ của người nghệ sỹ nhưng khi nghệ sỹ đã trao nó cho công chúng thì sự sống chết mất còn là do sức sống của chính tác phẩm quyết định. Nhiều khi trái tim nghệ sỹ đã ngừng đập nhưng nghệ thuật của họ vẫn tồn tại có khi vĩnh hằng (chỉ riêng nghệ thuật có thể đứng ngoài cái chết - Sê đư rin).

Tuy nhiên, đỉnh điểm của lời ca ngợi vẫn là hai câu thơ:

                                       giọt nước mắt vầng trăng

                                      long lanh trong đáy giếng

Câu thơ viết theo lối sắp đặt- bị lược bỏ những quan hệ từ làm cho bạn đọc tha hồ liên tưởng, sáng tạo cùng tác giả.

. nước mắt biểu tượng cho tình thương

, cho sự tri âm

. Vầng trăng

biểu tượng cho nghệ thuật (của Lorca). Hai câu thơ khẳng định quân thù dù quẳng xác Lorca xuống giếng để phi tang nhưng tình yêu và cái đẹp

trong thơ Lorca đã kết thành thứ ánh sáng kì ảo vĩnh hằng

trong tâm hồn các thế hệ sau.

III. Hai khổ cuối:

Thơ Lorca bất tử nên Ông cũng bất tử theo. Lorca từ giã tất cả để làm nên sự sống.

                             đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lorca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

Đường chỉ tay đã đứt như biểu tượng cho  thái độ chấp nhận định mệnh như một quy luật phũ phàng. Định mệnh hữu hạn đặt dấu chấm hết cho số phận một con người. Dòng sông rộng vô cùng  là biểu tượng cho dòng sông số phận cũng là ranh giới giữa cuộc sống và cái chết, dòng sông vô hạn của thực tại và hư vô.

Chiếc ghi ta màu bạc là biểu tượng cho cái đẹp của nghệ thuật. Nó trở thành con thuyền chở Lorca sang ngang

đi vào cõi siêu sinh bất tử. Thanh Thảo tôn vinh thơ Lorca bất tử nên người sáng tạo nên nó cũng bất tử theo.

                             chàng ném lá bùa vào cô gái Di gan

                             vào xoáy nước      

Là bùa là biểu tượng cho cái đẹp huyền bí có thể trấn an mọi xoáy nước hung dữ thì trái tim Ông biểu tượng cho tình yêu có thể giúp tâm hồn bạn đọc xao động không yên.

                             chàng ném trái tim mình

                             vào im lặng bất chợt

                             li-la li-la li-la

Lorca đã mang cái đẹp, tình yêu đến giáp mặt với sự chết hoà vào sự chết để mở ra những nẻo đường kỳ ảo cho cuộc sống, cho tâm hồn con người

(Thanh Thảo). Nhà thơ đã ươm những hạt giống thơ của mình vào tận trong lòng sự chết để cuộc sống có thể nở hoa.

li-la li-la li-la

Chuỗi ân thanh kết thúc bài thơ là sự

giao thoa giữa thanh âm và thi ảnh

. Nó không chỉ gợi một cú vê ghi ta vang vọng sau khi lời ca đã ngừng mà còn gợi hoa Tử đinh hương- loài hoa có màu tím ngắt được người phương Tây ưu chuộng. Chuỗi âm thanh liên tiếp gợi hình ảnh những đoá hoa Tử đinh hương với những bông nở liên tiếp. Đó là hoa của Thanh Thảo, hoa của người đời dâng trước tượng đài Lorca, hay đó là những đoá hoa thể hiện sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của nhà thi sĩ hay là những đoá hoa thể hiện sự sống bất diệt của nghệ thuật Lorca.

Kết luận :

1. Bài Đàn ghi ta của Lorca quả là có cách thể hiện mới mẻ hiện đại nhưng đọc kỹ ta thấy nó cũng giản dị như nhiều kiệt tác khác (cái đẹp chính là sự giản dị).

Nó giản dị ở nội dung và cũng giản dị cả cách thể hiện nữa. Nó khẳng định  thơ Việt Nam có thể

  tiếp cận và học tập cách thể hiện phương Tây trên cơ sở giữ được bản sắc

  văn hoá phương Đông.

2. Có lần Thanh Thảo đã nói: “Phần tích diện, phần thu góp là cả một quá trình nhưng sáng tạo là khoảng khắc’’. Tôi nghĩ đàn ghi ta của Lorca chính là khoảng khắc xuất thần thăng hoa của tâm hồn thi sỹ như Ông đã tâm sự. Bài đàn ghi ta được viết như một sự gợi ám về giây phút bi phẫn trong cuộc đời của Lor-ca nhằm để giải toả nguồn « năng lượng » tích tụ trong tâm hồn Thanh Thảo,  thế nhưng đến hôm nay, thi phẩm vẫn có sức sống vững bền trong lòng độc giả.

§Ò bµi

1

:

Em h·y ph©n tÝch bµi th¬ §µn ghi- ta cña Lor- ca cña Thanh th¶o

Gîi ý:

1. Ý nghĩa tựa đề và lời đề từ

a. Tựa đề “Đàn ghi ta của Lor-ca”

- Đàn ghi ta là niềm tự hào, là một phần hồn của đất nước Tây Ban Nha (nên còn được gọi là Tây Ban cầm).

  - Đàn ghi ta gắn bó thân thiết với Lor-ca trên những nẻo đường ca hát và sáng tạo.

Đàn ghi ta là biểu tượng cho tình yêu của Lor-ca đối với đất nước Tây Ban Nha, cho con đường nghệ thuật của tác giả, cho khát vọng cao cả mà Lor-ca nguyện phấn đấu suốt đời.

b. Lời đề từ:

Đây là di chúc của nhà thơ, khi tiên cảm về cái chết:

 - Hãy chôn tôi với cây đàn - phần hồn của đất nước Tây Ban Nha → tình yêu Tổ quốc nồng nàn.

 - Hãy chôn tôi với cây đàn – biểu trưng cho sự nghiệp của Lor-ca → ước nguyện suốt đời theo đuổi sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật, mong muốn xóa bỏ ảnh hưởng của bản thân để dọn đường cho thế hệ sau vươn tới.

2) Ý nghĩa tượng trưng qua hệ thống hình ảnh

- Đoạn l

    + Hình ảnh Lor-ca được giới thiệu bằng những nét chấm phá, phần nào chịu ảnh hưởng của trường phái ấn tượng: nh

÷ng

tiếng đàn bọt nước - Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt - li-la li-la li-la - đi lang thang về ven biển đơn độc - với vầng trăng chếnh choáng - trên yên ngựa mỏi mòn.

     + Những hình ảnh tương phản vừa giúp ta hình dung về Lor-ca, vừa gợi ta liên tưởng đến khung cảnh của một đấu trường. Nhưng ở đấy không phải đấu trường với cuộc đấu giữa võ sĩ với bò tót mà là một đấu trường đặc biệt với cuộc đấu giữa khát vọng dân chủ của công dân Lor-ca với nền chính trị độc tài, của khát vọng cách tân nghệ thuật trong chàng nghệ sĩ Lor-ca với nền nghệ thuật già nua. Ở đó, nhìn theo góc độ nào cũng vẫn chỉ thấy con người tự do và nhà cách tân nghệ thuật thật mong manh và đơn độc.

           - Đoạn 2

     + Cái chết bất ngờ đến v

íi

Lor-ca. Con người trong sạch và vô tội ấy dù luôn bị ám ảnh về cái chết của chính mình, vẫn không thể nghĩ là nó lại đến sớm thế và đến vào lúc chàng không ngờ nhất.

     + Cảnh Lor-ca bị hành hình với những diễn biến phũ phàng lúc đầu được diễn tả bằng hình ảnh thực: “áo choàng bê bết đỏ”, sau đó, sự kiện thảm khốc ấy tạo những cú xốc dây chuyền được diễn tả theo lối tượng trưng, liên tục chuyển đổi cảm giác, qua hệ thống những âm thanh vỡ ra thành màu sắc, thành hình khối, thành dòng máu chảy: “tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”, “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”, “tiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy”.

           - Đoạn 3

      + Niềm xót thương Ga-xi-a Lor-ca và nỗi xót tiếc những cách tân nghệ thuật của Lor-ca không ai tiếp tục:   Không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc

hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

Di chúc “Khi tôi chết, hãy chôn tôi vời cây đàn” của Lor-ca được lấy làm đề từ của bài thơ như một thứ chìa khoá ngầm hướng người đọc hiểu thông điệp thực sự của bài thơ. Di chúc này, trong nhận thức của một người đọc bình thường, hiển nhiên bộc lộ tình yêu say đắm của Lor-ca với nghệ thuật? Không chỉ có vậy, nó còn là tình yêu tha thiết với xứ sở tây-ban-cầm? Nhưng Lor-ca không phải là một nghệ sĩ sinh ra để nói những điều đơn giản. Do đó, di chúc của Lor-ca còn những ý nghĩa sâu xa khác. Nhà thơ cách tân là Lor-cạ biết thi ca mình một ngày nào đó sẽ án ngữ, ngăn cản những người đến sau trong sáng tạo nghệ thuật nên đã dặn lại cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để đi tới. Nhưng vì quá ngưỡng mộ Lor-ca, người ta đã không biết vượt qua Lor-ca 

          + Chẳng phải do ngẫu hứng khi Thanh Thảo viết: “không ai chôn cất tiếng đàn - tiếng đàn như cỏ mọc hoang...”-> Câu thơ mở ra nhiều hướng diễn dịch: là nỗi xót thương cái chết của một thiên tài; là nỗi xót tiếc hành trình cách tân dang dở không chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha. Bởi lẽ, nhà cách tân Lor-ca đã chết, nghệ thuật vắng thiếu kẻ dẫn đường. Nghệ thuật thành thứ cỏ mọc hoang? Nhưng ý thơ đâu chỉ dừng lại ở đó. Dường như còn có cả nỗi b

uån

của người nghệ sĩ ham tìm tòi cách tân, rốt cuộc không ai thực sự hiểu di chúc của Lor-ca. Nỗi xót đau trước cái chết của Lor-ca và trước sự dang dở của một khát vọng cách tân đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn được viết theo lối sắp đặt, dựa trên nguyên lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn: giọt nước mắt vầng trăng - long lanh trong đáy giếng,... do đó, tạo lập một hệ hình ảnh trùng phức giao thoa, ánh xạ vào nhau, gợi những suy tư đa chiều...

 - Đoạn 4

         + Cái chết thực sự của một nhà cách tân là khi những khát vọng của anh ta không có ai tiếp tục. Nhưng cái chết đau đớn hơn của một nhà cách tân còn là khi tên tuổi và sáng tạo của anh ta được đem lên bệ thờ và trở thành một bức tường kiên cố cản trở sự cách tân văn chương của những người đến sau.

         + Vậy, nhân danh lòng kính trọng Lor-ca, hãy để cho Lor-ca có được một sự giải thoát thực sự. Thôi đành chấp nhận định mệnh phũ phàng. Đường chỉ tay bé nhỏ, dòng sông rộng mênh mang, hay là phận người thì ngắn ngủi mà thế giới thì vô cùng. Lor-ca đi vào cõi khác với hình ảnh: “Lor-ca bơi sang ngang - trên chiếc ghi ta màu bạc”.

         + Các hành động ném lá bùa, ném trái tim vào xoáy nước, vào cõi lặng yên đều mang nghĩa tượng trưng cho sự giã từ và giải thoát, chia tay thực sự vời những ràng buộc và hệ luỵ trần gian...

• Yếu tố âm nhạc trong bài thơ

Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca ngoài cấu trúc tự sự còn được chồng thêm một cấu trúc khác: cấu trúc nhạc giao hưởng, gợi liên tưởng một bè trâm (basso osunato) có phần nhạc đệm của ghi-ta. Các chuỗi âm li-la li-la li-la luyến láy sau hai câu thơ đầu, gợi liên tưởng tiếng vang của chùm hợp âm sau tấu khúc hoặc ca khúc mở đầu. Chuỗi âm “li-la li-la li-la” kết thúc bài thơ gợi lên tiếng vang của chùm hợp âm vĩ thanh, sau khi phần chính của bản nhạc đã được diễn tấu xong, hoặc khi ca khúc đã dừng lời. Việc cấy nhạc vào một bài thơ trong trường hợp tưởng mộ Lor-ca - nhà thơ, nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà cách tân sân khấu - sẽ mang ý nghĩa của một sự kính trọng

Đề bài 2: Vì sao tác giả lại viết: “Không ai chôn cất tiếng đàn - tiếng đàn như cỏ mọc hoang”.

Ý thơ trên mở ra nhiều hướng diễn dịch:

         + Là nỗi xót thương cái chết của một thiên tài;

         + Là nỗi xót tiếc hành trình cách tân dang dở không chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha. Bởi lẽ, nhà cách tân Lor-ca đã chết, nghệ thuật vắng thiếu người dẫn đường. Nghệ thuật thành thứ cỏ mọc hoang?

         + Nỗi xót đau trước cái chết của Lor-ca và trước sự đang dở của một khát vọng cách tân đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn được viết theo lối sáp đặt, dựa trên nguyên lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn: giọt nước mắt vầng trăng-long lanh trong đáy giếng,... do đó, tạo lập một hệ hình ảnh trùng phức, giao thoa, ánh xạ vào nhau gợi những suy tư đa chiều...

MẢNG VI

:    KÝ

Bài 1

: Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân

)

1.

Hoàn cảnh sáng tác:

+ Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.

+ Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.

 2. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tượng con sông Đà:

* Vẻ hung bạo, dữ dằn

:

- Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”,  có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu.

-  Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…

- Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào.

-  Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau

- Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập nhiều phòng tuyến… sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.

* Vẻ trữ tình, thơ mộng

: 

-  Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều.

-  Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.

-  “Nhìn sông Đà như một cố nhân”,

nhà văn cảm nhận

rõ nét cái

chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.

-

Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đó quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.

3

. Hình

tượng người lái đò:

-  Là người tinh thạo trong nghề nghiệp:

+  Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy luật của thần sông thần đá”.

+  Ông thuộc lòng những đặc  điểm địa hình của Sông Đà “ Lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà  “như một thiên anh hùng ca mà ông đó thuộc đến cả những cái  chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.

-  Là người trí dũng, tài hoa tuyệt vời:

+  Cuộc vượt thác Sông Đà là

cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà

đòi hỏi lòng gan góc, dũng cảm sự tỉnh táo sáng  suốt: “sóng thác đó đánh đến miếng đòn độc hiểm nhất…ông đò vẫn cố nến chặt vết thương…hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.

+ Tay lái linh hoạt, khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông  tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”,  “Vút, vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”.

+ Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…”.

è

Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đó tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà ngay trong quần chúng lao động bình thường xung quanh ta. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.

- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần nữa cho thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh…

4. Nghệ thuật:

- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác giả.

- Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.

- Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả vẻ đẹp trữ tình  rất  nên thơ  của con sông.

5. Chủ đề:

Qua hình

tượng

sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động - chất vàng mười của cuộc sống.

CÂU HỎI THAM KHẢO

THI TỐT NGHIỆP:

Câu 1. (2 điểm):

Nêu hoàn cảnh sáng tác bài tuỳ bút “Người lái đò sông

 Đà”

(Nguyễn Tuân)

Câu 2. (5 điểm):

Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng  sông Đà trong bài tuỳ bút  “Người lái đò sông  Đà” (Nguyễn Tuân)

Câu 3. (5 điểm):

Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người lái đò trong bài  tùy bút “Người lái đò sông  Đà”(Nguyễn Tuân)

Đề 1: Phân tích hình tượng người lái đò ở tác phẩm Người lái đò sông Đà để làm rõ nét độc đáo trong cách miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân.

Đề 2: Một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.

          Phân tích nhân vật người lái đò để làm sáng tỏ nhận định trên.

 Đề 3: Phân tích hình tượng sông Đà trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, qua đó nêu lên những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.

Đề 4: Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời thơ mộng” (Sách Văn học lớp 12-Tập 1-NXB Giáo dục 2000).

          Anh/chị hãy phân tích hình ảnh con sông Đà để làm sáng tỏ nhận xét trên.

Đề 5: Phân tích nhân vật người lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) để thấy sự thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của nhà văn trước và sau cách mạng tháng Tám.

Gợi ý

Đề 1:

Giới thiệu chung về tác phẩm:

Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân, được in trong tập Sông Đà

(1960). Ở thiên tuỳ bút này, nhà văn đã xây dựng được 2 hình tượng đáng nhớ là con sông Đà và người lái đò. Đây là 2 hình tượng mang đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân, đã để lại cho độc giả những ấn tượng mạnh mẽ.

    1.

Phân tích hình tượng ông lái đò:

- Ông lái đò có những ngoại hình và tố chất khá đặc biệt: tay "lêu nghêu", chân "khuỳnh khuỳnh", "giọng ào ào nh tiếng nước trên mặt ghềnh", "nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó"… Đặc điểm ngoại hình và những tố chất này đợc tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động trên sông nước.

- Ông lái đò là người tài trí, luôn có phong cách ung dung pha chút nghệ sỹ: ông hiểu biết tường tận về "tính nết của dòng sông", "nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở", "nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá", "thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở", biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên "thạch trận" sông Đà. Đặc biệt, ông chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn những thử thách đã qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn.

- Ông lái đò rất mực dũng cảm trong chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: tả xung hữu đột trước "trùng vi thạch trận" của sông Đà, kiên cường nén chịu cái đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo mà vô cùng chuẩn xác, mạch lạc (tránh, đè sấn, lái miết một đờng chéo, phóng thẳng…)

- Ông lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày. Ông lái đò chính là một người anh hùng như thế.

    2.

Những nét độc đáo trong cách miêu tả nhân vật ông lái đò của Nguyễn Tuân:

- Nguyễn Tuân chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sỹ của ông lái đò. Đây là cách viết phù hợp với quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn, phù hợp với cái nhìn rộng mở của ông về phẩm chất tài hoa, nghệ sỹ. Theo ông, nét tài hoa, nghệ sỹ của con người không chỉ thể hiện trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nữa. Khi con người đạt đến trình độ điêu luyện trong công việc của mình là khi họ bộc lộ nét tài hoa, nghệ sỹ rất đáng được đề cao.

- Nguyễn Tuân có ý thức tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ phẩm chất của mình. Điều đáng chú ý trước hết là nhà văn miêu tả cuộc vượt thác như một trận "thuỷ chiến". Càng nhấn mạnh thách thức ghê gớm của "thạch trận" sông Đà, tác giả càng khắc hoạ được sinh động sự từng trải, mưu mẹo, gan dạ của ông lái đò. Dĩ nhiên, để có thể miêu tả được trận "thuỷ chiến", nhà văn phải huy động tới vốn hiểu biết khá uyên bác của mình về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quân sự và võ thuật…

- Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, hoàn toàn phù hợp với đối tượng. Tác phẩm có rất nhiều từ dùng mới mẻ cùng lối nhân hoá độc đáo và ví von bất ngờ mà vô cùng chính xác (nắm chặt lấy được cái bờm sóng, ông đò ghì cương lái, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước…)

Đề 2

.

Các ý chính :

    1.

Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân, được in trong tập Sông Đà (1960). Trong thiên tuỳ bút này, nhà văn Nguyễn Tuân không những miêu tả được bức tranh thiên nhiên Tây Bắc thơ mộng, hùng vĩ mà còn khắc hoạ được những vẻ đẹp của người dân Tây Bắc nơi thượng nguồn sông Đà lắm thác nhiều ghềnh.

    2.

Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời say mê đi tìm cái thật và cái đẹp. Khi phản ánh vẻ đẹp của con người, ông đặc biệt quan tâm vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Nguyễn Tuân quan niệm rằng, vẻ đẹp tài hoa của con người không chỉ thể hiện trong lĩnh vực hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn thể hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Khi con người đạt tới trình độ điêu luyện trong công việc của mình là khi đó họ bộc lộ vẻ đẹp tài hoa. Với quan niệm đó, sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của những người dân lao động bình thường. Nhân vật người lái đò trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà

cũng là người tài hoa nghệ sĩ.

    3.

Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò sông Đà trước hết thể hiện qua sự hiểu biết sâu rộng của ông về qui luật của dòng sông. Ông "nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở". Hơn thế nữa ông "nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá" và làm chủ được dòng sông.

    4.

Người lái đò là một nghệ sĩ trong nghề sông nước. Ông có trình độ lái đò điêu luyện và bản lĩnh vững vàng khi băng ghềnh vượt thác. Để khắc hoạ tài hoa của người lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân đã miêu tả một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm và vô cùng ngoạn mục. Người lái đò phải đương đầu với đoàn quân đá vô cùng nham hiểm. Bọn chúng giăng ra nhiều cạm bẫy. Ở vòng vây nào cũng có nhiều cửa tử mà chỉ có một cửa sinh. Người lái đò phải tỉnh táo, khôn ngoan và khéo léo mới có thể vượt qua được "trùng vi thạch trận" để đưa con thuyền tới đích an toàn.

    5.

Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, uyên bác. Khi miêu tả người lái đò, nhà văn đã sử dụng nhiều tri thức khác nhau, đặc biệt là ông tổng hợp được tinh hoa của nhiều ngành nghệ thuật trong những trang tuỳ bút của mình. Từ hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân muốn nói lên rằng, vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của con người không phải tìm đâu xa mà có ngay trong cuộc sống hằng ngày của người dân lao động. Người lái đò sông Đà khuất nẻo cũng là người nghệ sĩ tài hoa và cũng là người anh hùng trong công cuộc vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt.

Đề 3

.

Đáp án 1

Các ý chính:

    1. Người lái đò Sông Đà

là một tuỳ bút đặc sắc của Nguyễn Tuân, in trong tập Sông Đà (1960). Trong tác phẩm này, Nguyễn Tuân không chỉ ca ngợi con người Tây Bắc mà còn thể hiện được vẻ đẹp độc đáo của sông Đà - vừa hung dữ, hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình.

    2. Tính chất độc đáo của con sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện ngay ở câu thơ mở đầu của tác phẩm:

"Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu" nghĩa là: mọi dòng sông đều chảy về hướng đông chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc (thơ Nguyễn Quang Bích). Con sông Đà có hai nét tính cách trái ngược nhau: vừa hung dữ, hiểm trở, vừa thơ mộng, trữ tình.

3. Tính chất hung dữ của con sông Đà

    - Ở phía thượng nguồn, con sông Đà có nhiều ghềnh thác hiểm trở, nhiều hút nước, xoáy nước giữa lòng sông. Những tảng đá như tạo thành những trận đồ bát quái để thử thách những người lài đò xuôi ngược trên sông.

    - Để làm rõ tính chất "hung bạo" của con sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả  cuộc chiến đấu sinh tử giữa người lái đò với con sông Đà. Con sông lúc thì giống như một con ngựa bất kham, lúc lại như "một loài thuỷ quái khổng lồ" hung ác, nham hiểm và độc địa. Con sông Đà càng hung dữ bao nhiêu thì chân dung của người lái đò lại càng cao đẹp và hùng vĩ bấy nhiêu.

    4. Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của con sông Đà

    - Xuôi về phía hạ lưu, nước sông chảy hiền hoà thơ mộng. Cảnh sắc hai bên bờ thật đẹp, thật gợi cảm "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".

    - Vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà được Nguyễn Tuân gợi lên qua những hình ảnh nên thơ "cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê,  quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Thêm vào hình ảnh con hươu vểnh tai ngơ ngác, đàn cá đầm xanh quẫy vụt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi…

    5. Những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm

    - Nguyễn Tuân có một vốn tri thức phong phú, nhiều mặt: về lịch sử, địa lí, địa chất, hội hoạ, điện ảnh..

    - Qua việc miêu tả con sông Đà, ông đã cung cấp cho ngời đọc những hiểu biết về những tên gọi khác của con sông Đà qua từng thời kỳ lịch sử, về địa lý, địa chất của nó… đưa lại cho người đọc những trang viết hấp dẫn, lí thú.

    - Nguyễn Tuân đã biết vận dụng mặt mạnh của nhiều ngành nghề nghệ thuật khác để làm tăng khả năng biểu hiện của văn chương. Miêu tả con sông Đà, có lúc ông giống như một nhà quay phim lão luyện, hết lùi lại để bao quát toàn cảnh sông Đà, có lúc lại quay cận cảnh để đặc tả một con thác hung dữ. Khi miêu tả cảnh sắc hai bên bờ sông và dòng nước sông Đà, Nguyễn Tuân lại sử dụng các gam màu rất bạo, rất tài hoa của một hoạ sĩ tài năng: nước sông Đà lúc thì có màu "xanh ngọc bích", lúc lại "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"… Cách miêu tả con sông Đà từ phương diện văn hoá, mĩ thuật của Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang viết tài hoa, độc đáo.

    - Khi miêu tả con sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng vốn từ ngữ phong phú, đa dạng. Miêu tả cuộc quyết đấu của người lái đò với con sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng nhiều từ ngữ của quân sự, võ thuật với một lối tạo câu văn ngắn; khi miêu tả vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà, câu văn của ông lại được kéo dài ra mang đậm chất trầm tư, mơ mộng. Nguyễn Tuân đã xứng đáng là "một người nghệ sĩ của ngôn từ".

Đáp án 2

Các ý chính:

    1. Giới thiệu đôi nét về Nguyễn Tuân và hoàn cảnh ra đời của tuỳ bút Người lái đò Sông Đà:

    1.1. Nguyễn Tuân (1910-1987) là nhà văn với phong cách nghệ thuật tài hoa, độc đáo, đã từng nổi tiếng trước Cách mạng với tác phẩm Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn tiếp tục nổi tiếng với những chuyến đi và có biệt tài với thể loại tuỳ bút.

    1.2. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tuỳ bút Sông Đà của Nguyễn Tuân, xuất bản lần đầu vào năm 1960, nằm trong mạch sáng tác viết về đề tài xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc nước ta hồi bấy giờ (Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, Mùa lạc của Nguyễn Khải, ...).

    2.

Phân tích hình tượng sông Đà

    Cần dựa vào tác phẩm để nêu được một số ý sau đây:

    2.1. Cùng với "người lái đò", dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, hình tượng sông Đà đã hiện lên nh một nhân vật đầy sức sống, có tính cách riêng độc đáo, gây cảm xúc đặc biệt cho ngời đọc.

    - Sông Đà với tính cách "hùng vĩ" và "hung bạo" (thác đá, vách đá dựng đứng, "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió... gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào", những cái hút nước ghê rợn, ...).

    - Sông Đà "thơ mộng" và "trữ tình" ("tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi"; với mỗi người, theo Nguyễn Tuân, sông Đà gợi cảm một cách: khi thì "như một cố nhân", khi thì "hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa",  khi thì một "dòng xanh ngọc bích", khi thì loé lên một "màu nắng tháng ba Đường thi", ...).

    2.2. Hình tượng sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả từ phương diện thẩm mỹ với nhiều góc nhìn và cách nhìn khác nhau:

    - Tác giả gợi lại lịch sử sông Đà gắn với hình ảnh cuộc sống con người Tây Bắc từ góc nhìn văn hóa, lịch sử.

    - Tác giả luôn thay đổi cách nhìn với khát vọng phát hiện tính cách độc đáo nhiều vẻ của sông Đà (khi thì đi trên sông, khi nhìn từ đôi bờ, khi tưởng tượng táo tợn muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả qua ống kính từ đáy sâu hút nước, khi thì nhìn từ trên tàu bay...).

    - Từ những góc nhìn và cách nhìn ấy, tác giả đem đến cho ngời đọc một quan điểm mới về vẻ đẹp thiên nhiên: thiên nhiên không chỉ là "rừng vàng, bể bạc", mà nó còn là một thách thức biểu hiện khát vọng không nguôi của con người trong cuộc đấu tranh vật lộn đầy thông minh và tài trí mới có thể giành được sự sống về tay mình.

    3. Những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc mà Nguyễn Tuân đã vận dụng để làm nổi bật hình tượng sông Đà.

    3.1. Phối hợp một cách linh hoạt, tài tình các thủ pháp nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa (cần nêu được vài dẫn chứng cụ thể từ trong tác phẩm).

    3.2. Cách hành văn độc đáo, đầy biến hoá, đầy sức gợi tả, gợi cảm.

    3.3. Vận dụng tri thức của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau để vừa miêu tả vừa bộc lộ cảm xúc (kiến thức âm nhạc khi nghe âm thanh tiếng thác; kiến thức thi ca khi tạo nên những liên tưởng bất ngờ đầy gợi cảm; kiến thức điện ảnh như đưa ống kính vào cận cảnh, khi nhìn từ xa; đặc biệt là kiến thức vô cùng phong phú giàu có về ngôn từ...).

  

Đề 4

.

      Phong cảnh Tây Bắc qua hình tượng con sông Đà.

    Các ý chính cần có.

    1. Giới thiệu khái quát

    - Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là cây bút tài hoa độc đáo của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đặc biệt thành công ở thể tuỳ bút.

    - Người lái đò sông Đà

ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi miền tây Tổ quốc. Phong cảnh Tây Bắc "hùng vĩ uy nghiêm" và "tuyệt vời thơ mộng" được Nguyễn Tuân thể hiện trong tuỳ bút này chủ yếu qua việc mô tả con sông Đà.

    2. Phân tích hình tượng con sông Đà

    Dòng sông Đà đã hội đủ cả hai phẩm chất tiêu biểu của thiên nhiên Tây Bắc: vừa hùng vĩ uy nghiêm (hung bạo), vừa tuyệt vời thơ mộng (trữ tình).

    a) Sông Đà hung bạo

    - Cảnh trí dữ dội: bờ sông đá dựng đứng vách thành. Lòng sông có chỗ nước chảy xiết giữa hai bờ đá. Những cái hút nước nguy hiểm như những cái giếng sâu, chỉ rình để lôi tuột những con thuyền vô ý xuống đáy sông.

    - Âm thanh ghê rợn: sông Đà nhiều ghềnh, thác. Đặc biệt có nhiều thác dữ, tạo nên những âm thanh ghê rợn của muôn trùng sóng nước: như van xin, như oán trách, khiêu khích, có lúc lại rống lên như tiếng của hàng ngàn con trâu mộng lồng lộn trong rừng tre nứa nổ lửa.

    - Lòng sông Đà toàn đá chìm, đá nổi, ẩn nấp, mai phục hàng ngàn đời, tạo nên nhiều vực xoáy, lung chết rình rập, đe doạ con người.

    - Nghệ thuật mô tả: nhiều từ ngữ mạnh (rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy thuyền), nhân hoá sống động (làm mình làm mẩy, giận dỗi vô tội vạ), so sánh diễn đạt lạ lẫm (ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh).

    b) Sông Đà tuyệt vời thơ mộng trữ tình.

    - Sông Đà có vẻ đẹp đầy chất thơ của mình, được Nguyễn Tuân ví như một áng tóc trữ tình.

    - Sông Đà đẹp bởi những màu sắc đặc trưng của nó qua mỗi mùa, gợi cảm như "cố nhân xa cách lâu ngày" được gặp lại, huyền ảo như nắng tháng ba trong nghệ thuật Đường thi.

    - Sông Đà có vẻ đẹp cổ kính hoang sơ ngàn đời của nó: quang cảnh mặt nước "lặng tờ", bờ sông hoang dại như bờ tiền sử và rất nên thơ: những nương ngô non, những đồi cỏ tranh đẫm sương đêm, những con hươu thơ ngộ, những đàn bướm nhởn nhơ, những chiếc thuyền vút đuôi én, những chú cá "bụng trắng như bạc rơi thoi".

    - Nghệ thuật mô tả: chi tiết gợi cảm (con hươu thơ ngộ), so sánh đẹp (như một áng tóc trữ tình, như một cố nhân), nhiều câu văn xuôi giàu chất thơ (thuyền tôi trôi trên sông Đà).

    3. Đánh giá chung

    - Thấy được nét ổn định và biến đổi trong phong cách Nguyễn Tuân qua sự so sánh với những sáng tác trước cách mạng của ông. Thấy được tấm lòng nhà văn đối với quê hương đất nước.

    - Ngòi bút tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân giúp ta cảm nhận đợc vẻ đẹp của thiên nhiên nơi miền tây Tổ quốc mà thêm yêu đất nước.

   

Đề 5

.

  Phân tích nhân vật người lái đò và so sánh với nhân vật Huấn Cao.

    Các ý chính cần có

    1. Giới thiệu khái quát

    - Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là cây bút rất mực tài hoa, độc đáo của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sở trường của ông là thể tuỳ bút. Người lái đò sông Đà

là tuỳ bút tiêu biểu rút ra từ tập kí Sông Đà

(1960).

    - Người lái đò sông Đà ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi miền Tây Tổ quốc. Trong đó nổi bật lên hình tượng người lái đò vừa như một anh hùng vừa như một nghệ sĩ trong cuộc vượt thác lao ghềnh, chiến đấu với thiên nhiên.

    2. Phân tích nhân vật

    a)

Cần điểm qua một vài nét về cảnh tượng con sông Đà hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội mà cũng tuyệt vời thơ mộng - đó là cái nền để người lái đò xuất hiện.

    b)

Người lái đò - anh hùng sông nước: trong cuộc chiến đấu với con sông dữ, ông lái là người chỉ huy tài ba, trí dũng, can trường, vượt qua hết các vực xoáy, luồng chết, cửa tử… đưa con đò đến nơi sóng yên nước lặng (tập trung phân tích tư thế, phong thái, hành động… của người lái đò trong cuộc chiến đấu với dòng sông).

    c)

Người lái đò - nghệ sĩ tài hoa: trong nghề chèo đò vượt thác ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa, nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc lòng cửa sinh, cửa tử, thuần thục điêu luyện trong nghề nghiệp. Nói như Nguyễn Tuân "tay lái ra hoa".

    d)

Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân: cách khắc hoạ ngoại hình, hình ảnh mạnh mẽ, độc đáo, ngôn từ phong phú, mới mẻ. Cần lưu ý việc Nguyễn Tuân lược bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của người lái đò.

    3. So sánh với nhân vật Huấn Cao

a) Nét chung

(tính thống nhất)

    - Vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.

    - Vẫn là ngòi bút tài hoa uyên bác, vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hoá, nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.

    - Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức phong phú, lạ lẫm.

    b) Nét riêng (sự vận động trong phong cách Nguyễn Tuân)

    - Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới là những "con người đặc tuyển, những tính cách phi thường". Sau cách mạng, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống chiến đấu, lao động hàng ngày, trong nhân dân đại chúng.

    - Trước cách mạng, nhà văn thường khám phá vẻ đẹp thiên lương, thú chơi cao sang, đài các của con người. Sau cách mạng, ông đi sâu phản ánh vẻ đẹp về thể chất và tinh thần, "chất vàng mười" của những người lao động âm thầm, bình dị.

    - Trước cách mạng, Nguyễn Tuân thường đối lập hiện tại với quá khứ, có lúc sa vào chủ nghĩa hình thức cầu kì, ngôn ngữ khinh bạc. Sau cách mạng, ông đã tìm thấy sự thống nhất quá khứ, hiện tại, tương lai, tìm thấy chố đứng trong đời sống nhân dân, tự nguyện đem ngòi bút phục vụ cuộc sống chiến đấu, lao động của nhân dân.

    4. Đánh giá 

    - Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy một Nguyễn Tuân tài hoa uyên bác, độc đáo, có tấm lòng sâu nặng với thiên nhiên, con người nơi miền Tây Tổ quốc.

    - Ca ngợi sự dũng cảm tài trí, vẻ đẹp của con người Việt Nam trong lao động xây dựng đất nước, Người lái đò sông Đà

thật sự là một bài ca về lao động, về con người trong lao động.

Bài 2

: Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

1. Hoàn cảnh ra đời, vị trí, bố cục của đoạn trích:

* “

Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

là bài kí xuất sắc được viết tại Huế ngày 4-1-1981 và sau đó được in trong tập sách cùng tên.

* Bài bút kí có 3 phần, đoạn trích là phần thứ nhất.

Đoạn trích gồm hai phần :

- Phần đầu (từ đầu đến “quê hương xứ sở”) : Thủy trình của Hương giang

+ Sông Hương ở thượng lưu (“Trong những dòng sông đẹp… chân núi Kim Phụng”)

+ Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế (“Phải nhiều thế kỉ qua… bát ngát tiếng gà”)

+ Sông Hương giữa lòng thành phố và khi tạm biệt thành phố: (“Từ đấy… quê hương xứ sở”)

- Phần cuối (đoạn còn lại) : Sông Hương - dòng sông của lịch sử và thi ca

+ Sông Hương với lịch sử dân tộc (“Hiển nhiên… một lời thề”)

+ Sông Hương với cuộc đời và thi ca (“Sông Hương là vậy” đến hết). 

2.

Vẻ đẹp của hình tượng sông Hương trong bài bút kí:

- Sông Hương ở thượng lưu :

+

Sông Hương - “bản trường ca của rừng già”. ở nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa hùng tráng vừa trữ tình, như bản “trường ca” bất tận của thiên nhiên.

+ Sông Hương - "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại". Ví sông Hương với những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn tô đậm vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của con sông ở thượng nguồn.

+ Sông Hương – “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Sông Hương được coi như là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của không gian văn hóa Huế. Nó góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở.

-  Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế :

+ Sông Hương - người gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Sông Hương giống nhưngười gái đẹp nằm ngủ mơ mànggiữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức. Thủy trình của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích.

+ Sông Hương -vẻ đẹp trầm mặc”, “như triết lí, như cổ thi”. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa” được phong kín trong lòng "những dòng sông u tịch". Chảy bên những di sản văn hóa ấy, sông Hương như khoác lên mình tấm áo “trầm mặc” mang cái "triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay.

-  Sông Hương giữa lòng thành phố Huế :

            + Sông Hương - "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình, nó không muốn dời xa thành phố thân thương. Đó là tình cảm của sông Hương với Huế, cũng là tình cảm của nhà văn với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ.

            + Sông Hương – “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là nó "khi sinh thành trên mặt nước của Hương Giang trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya".

- Sông Hương khi tạm biệt thành phố:

Sông Hương – người tình dịu dàng và chung thủy.

Trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt của sông Hương trước khi ra khỏi thành phố ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ được coi là biểu hiện của nỗi “vương vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình. Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận, miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc, mới mẻ về con sông. Từ những cái nhìn ấy, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu mến tha thiết, niềm tự hào và một thái độ trân trọng, gìn giữ đối với vẻ đẹp tự nhiên, đậm màu sắc văn hóa của nhà văn với dòng sông quê hương.

-

 Sông Hương  - dòng sông của lịch sử, cuộc đời và thi ca:

+ Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc.

+ Trong đời thường, sông Hương mang một vẻ đẹp giản dị của “một người con gái dịu dàng của đất nước”.

+ Sông Hương là dòng sông thi ca, là nguồn cảm hứng bất tận cho các văn nghệ sĩ.

3. Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài bút kí

- Tinh tế, tài hoa.

- Uyên bác (có vốn tri thức phong phú, sâu sắc về lịch sử, văn hoá và nghệ thuật xứ Huế).

- Giàu trí tưởng tượng, lãng mạn, bay bổng.

- Gắn bó máu thịt và yêu tha thiết cảnh vật và con người xứ Huế.

4. Nghệ thuật:

- Sáng tạo được những trang văn đẹp - được dệt nên bởi một kho từ vựng phong phú, uyển chuyển và rất giàu hình ảnh.

- Các biện pháp nghệ thuật: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh

gắn liền với những liên tưởng bất ngờ, thú vị cũng đã tạo nên những góc nhìn đa sắc về sông Hương.

5. Chủ đề:

Bằng tài năng của cây bút giàu trí tuệ, tác giả bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao đối với dòng sông quê hương, xứ Huế thân thương và đất nước.

CÂU HỎI THAM KHẢOTHI TỐT NGHIỆP:

Câu 1. (2 điểm):

Giới thiệu vài nét về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Câu 2. (5 điểm):

Cảm nhận của anh (chị) về cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài  bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”  

Câu 3. (5 điểm):

Phân tích vẻ đẹp độc đáo của hình tượng sông Hương trong bài  bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Đề

:

Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của dòng sông Hương trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Văn bản được trích trong SKG Ngữ văn 12) của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Gợi ý

:

I.

Mở bài

:

          -Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số ít các nhà văn nổi tiếng với thể loại bút kí. Những trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường hầu như chỉ dành riêng cho vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam mà trong đó mảnh đất cố đô Huế thật sự đã khơi được những cảm xúc sâu thẳm trong cõi lòng người nghệ sĩ tài hoa này.

-Trong bài ca về đất trời và con người xứ Huế, “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được xem như một giai điệu tha thiết, ngọt ngào. Có thể nói, đó là một bài thơ bằng văn xuôi về Huế, về sông Hương – một dòng sông mà tác giả đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hoá cùng với vốn ngôn từ giàu có của mình để phát hiện, diễn tả vẻ đẹp độc đáo, đầy sức quyến rũ của nó dưới nhiều góc độ khác nhau.

II.

Thân bài

:

1.

Những cảm nhận về sông Hương

:

          a.Vẻ đẹp sông Hương từ góc nhìn địa lí:

          *Sông Hương ở thượng nguồn:

-Theo tác giả, nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn, người ta khó mà hiểu hết được vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó không muốn bộc lộ ra.

          -Bằng kiến thức uyên bác về địa lí của một nghệ sĩ mang đậm chất Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm cuộc hành trình tìm về cội nguồn của sông Hương, cho ta biết được quan hệ của nó với dãy Trường Sơn. Và trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn nhưng cũng có lúc dịu dàng, say đắm. Tác giả gọi đó là “bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi thì “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc thì “mãnh liệt vượt qua ghềnh thác”, khi thì “cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực sâu”, lúc thì “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

          -Lúc này dòng sông được nhân hoá như “một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại” với một “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.

          *Sông Hương đoạn chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố:

          -Trải qua cuộc hành trình đầy gian truân, sông Hương khi vừa ra khỏi rừng đã “nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng xứ sở”. Lúc này, dòng sông mang bóng dáng của những cô gái xinh đẹp trong truyện cổ tích đang “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại” được “người tình mong đợi đến đánh thức”.

          -Và cũng từ góc nhìn địa lí của một nhà văn nặng lòng với cái đẹp, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn người đọc theo suốt toàn bộ thuỷ trình của dòng sông. Đến đây, hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa đã làm nổi bật một sông Hương đang dạt dào sức xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng giữa khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn (…) ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế” để rồi “từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”…Bằng năng lực quan sát tinh tế và vốn ngôn ngữ phong phú, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang đến cho bạn đọc những câu văn đầy màu sắc tạo hình và ấn tượng về một sông Hương vừa mạnh mẽ, vừa dịu dàng, có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố; và cũng có khi mang vẻ đẹp trầm mặc lúc qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến khi bừng sáng, tươi tắn khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.

          *Sông Hương đoạn chảy vào thành phố:

          -Sông Hương gặp thành phố như “tìm đúng đường về”, cho nên nó bỗng vui tươi hẳn lên và đặc biệt trở nên chậm rãi, êm dịu “cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.

-Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên “khuôn mặt kinh thành” của dòng sông. Đến đây, cái tôi tài hoa của một tâm hồn thấm đẫm văn hoá Huế đã để cho trí tưởng tượng thỏa sức vẫy vùng trong không gian rộng mở của lối văn “độc tấu” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Đó là sự liên tưởng bất ngờ và cũng đầy chất thơ khi nhà văn phát hiện “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như một vành trăng non”; rồi nét uốn lượn cánh cung của dòng sông sang Cồn Hến, tác giả lại cảm thấy đường cong ấy khiến “dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”, hay hình ảnh “trăm nghìn ánh hoa đăng bềnh bồng (...) qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”...Thú vị nhất có lẽ là những câu văn tác giả miêu tả lưu tốc của sông Hương khi qua thành phố và khúc rẽ đột ngột của dòng sông trước khi ra biển. Nhiều người đã biết vẻ lặng tờ của dòng nước sông Hương, nhưng chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mới phát hiện ra “điệu slow tình cảm” mà sông Hương dành riêng cho Huế. Với cái nhìn say đắm của một trái tim đa tình, sông Hương hiện lên như một người tình chung thuỷ cho nên khi rời khỏi kinh thành, nó đã “chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến (...) để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ một điều gì chưa kịp nói nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối”. Nói theo câu chữ của tác giả thì “đấy là nỗi vấn vương, cả chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu”.

          Tóm lại: trong mọi không gian và thời gian, dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện ra quen thuộc mà lạ lẫm đến bất ngờ. Bằng những con chữ có hồn, nhà văn đã góp phần làm nổi bật vẻ đẹp theo từng mỗi bước đi của dòng sông.

          b.Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn lịch sử:

          -Không chỉ đẹp dịu dàng, sông hương còn là dòng sông mang trong mình bao bí ẩn của lịch sử. Nếu những trang miêu tả dòng chảy của sông Hương là những trang trữ tình nhất thì những trang nói về lịch sử là những trang viết tràn ngập cảm hứng tự hào.

          -Trong mối quan hệ với lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước của các vua Hùng, từ thuở nó mang tên là Linh Giang trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, qua những ngày “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, rồi những ngày “lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa” cho đến khi nó “chứng kiến thời đại mới cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này”...

          -Tác giả đã lược thuật một cách ngắn gọn nhưng không hề chung chung trừu tượng, đưa ra những thông tin chính xác nhưng đầy sức tạo hình, gợi cảm về những thời kì lịch sử mà sông Hương đã trải qua, để rồi từ đó cất lên tiếng nói ngập tràn niềm yêu thương, tự hào về dòng sông bằng một câu văn dạt dào chất thơ: “Sông Hương là vậy, là dòng của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc, khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.

          c.Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hoá:

          -Sông Hương trong cảm hứng của Hoàng Phủ Ngọc Tường còn mang vẻ đẹp của một dòng sông văn hoá. Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya (...) toàn bộ nền âm nhạc cổ điển của Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này”. Tác giả tưởng tượng Nguyễn Du thời làm quan đã bao năm lênh đênh trên dòng sông này để rồi từ đó “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”.

          -Tác gỉa cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương, một dòng thơ không lặp lại mình, ấy là “dòng sông trắng, lá cây xanh” trong thơ Tản Đà, là vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan, là sức mạnh phục sinh trong tâm hồn thơ Tố Hữu,...Nhà văn đã hoàn toàn hữu lí khi gọi sông Hương là “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.

2.

Đánh giá chung

:

          -Sông Hương ngoài đời vốn rất đẹp và vẻ đẹp ấy đã thăng hoa trong niềm xúc cảm của nhiều nghệ sĩ. Song, có thể nói rằng chỉ đến “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì vẻ đẹp của sông Hương mới hiện lên một cách toàn vẹn. Dù nhìn ở bất kì góc độ nào, và bất cứ bước đi nào của dòng sông Hương thì nó đều hiện lên với một vẻ đẹp đầy sức quyến rũ.

          -Tạo nên vẻ đẹp làm say lòng người ấy của sông Hương, không thể không nói đến sự kết hợp thành công của một trí tuệ uyên thâm, một tầm hiểu biết sâu rộng và một nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, một năng lực nội cảm mạnh mẽ. Chính cái chất nghệ sĩ trong nhà khoa học của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo nên sức công phá kì diệu của “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vào trái tim độc giả.

III.

Kết bài

:

          -Hiện lên trong bài bút kí, sông Hương là một hình tượng nghệ thuật hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của thiên nhiên, văn hoá, lịch sử và tâm hồn. Vẻ đẹp của sông Hương chính là vẻ đẹp của xứ Huế và con người xứ Huế.

          -Cũng như Nguyễn Tuân khi miêu tả dòng sông Đà trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã giúp chúng ta hiểu ra rằng: thiên nhiên quả là một sản phẩm nghệ thuật vô giá. Thái độ ứng xử của con người với thiên nhiên chính là thái độ ứng xử với cái đẹp, đối với những giá trị văn hoá, lịch sử...

          -Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” mà tác giả đặt tên cho nhan đề bài bút kí không chỉ là câu hỏi đặt ra với đất trời mà câu hỏi đặt ra cho mỗi chúng ta đối với mỗi tên đất, tên làng,... trên bản đồ Tổ quốc thân yêu.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: