Xong trận Vân Đồn – Lục Thủy, tạo bước ngoặt cho kháng chiến, điểm đến tiếp theo của Thiệu Hưng là Bạch Đằng giang.
Ba tháng sau khi tiến quân vào đất Đại Việt, Thoát Hoan quyết định cho rút quân. Quân Nguyên rút về bằng hai ngả, một ngả thủy quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, một ngả bộ binh của bại tướng hai lần – Thoát Hoan.
Trình Bằng Phi và Đạt Truân được phái đi hộ tống thuyền chiến của Ô Mã Nhi về nước. Nhưng trên đường rút luôn bị quân dân ta chặn đánh, cuối cùng phải quay về Vạn Kiếp hội cùng đại quân bộ. Đoàn thuyền của Ô Mã Nhi lại "tứ cố vô thân", cả ngày tắm bằng cơn mưa máu đồng đội.
Ô Mã Nhi đến Trúc Động, định cho quân tiến vào sông Giá. Quân ta đâu dễ để chúng đạt được mục đích, luôn được điều động để đánh ngăn, khiến chúng tiến thoái lưỡng nan, chỉ có thể tiến vào bến sông Bạch Đằng uy dũng ngày trước dưới thời nhà Ngô. (1)
Thuyền Ô Mã Nhi đến sông Bạch Đằng, quân ta chờ đợi tập kích. Đích thân quan gia và Hưng Đạo Vương tham chiến, lệnh chia đội quân thành ba toán quân. Một trú ở tả ngạn, một ở hữu ngạn, còn lại thì ẩn náu trên các nhánh sông khác thông với Bạch Đằng cũng chính là toán quân làm nhiệm vụ nhử địch vào bãi cọc ngầm – Thiệu Hưng.
Tướng quân Nguyễn Khoái thống lĩnh quân Thánh Dực, đội cấm binh tinh nhuệ nhất của Đại Việt, từ hạ lưu đánh thẳng vào chính diện đội hình chiến thuyền của Nguyên. Một phần hiệu binh Thiệu Hưng do cha lãnh đạo vốn đang giả thua trận, bất ngờ đổ lại đánh, đồng thời dàn xếp đội hình, chắn ngang cửa ra biển. Những nhánh sông có mai phục khác như sông Chanh, sông Kênh, sông Giá, sông Thai, sông Điền Công,... dưới sự chỉ huy của Yết Kiêu phối hợp xông ra.
Phần tôi với chị Triêu Dương nhẹ nhàng hơn, song cũng trùng trùng nguy hiểm, nhiệm vụ của chúng tôi là đốt thuyền bè chở đầy chất cháy rồi đẩy về phía thuyền quân giặc. Sau khi cởi bớt xiêm áo trên người cho dễ bơi lội, tôi nhảy xuống sông, nấp sau chiếc thuyền chở chất cháy để giặc không thấy tay đang cầm đuốc. Mỗi người trong đội bơi được giao đốt hai đến bốn thuyền, tiếp theo là đẩy. Người trên bờ có khả năng phóng lao thì đốt nhiều hơn, khoảng trên mười thuyền bè, đội quân dưới nước vẫn giúp đẩy thuyền sâu vào nơi địch. Nếu chỉ dựa vào sức đẩy dưới nước thì thuyền chuyển động rất chậm. Thế nên, chúng tôi đã chuẩn bị những thân tre dài làm sào, quấn nối lại với nhau để khiến sào càng dài hơn. Lúc tôi ướt sũng đi lên bờ, áo dính sát người, thở không ra hơi, chị Triêu Dương thấy hình xăm thì tủm tỉm cười, thì thầm với tôi: "Ra bản đồ ở đây", rồi lấy thêm áo khoác cho tôi, khiến tôi ngại ngùng cực độ. Sau khi đốt thuyền chứa chất cháy, tôi gia nhập cánh quân bắn cung tên, còn chị Triêu Dương chuẩn bị hỏa tiễn.
Phàn Tiếp là tướng giặc thấy thua trước mắt bèn cho quân đổ bộ lên chiếm núi Tràng Kênh, cho quân lính lấy chỗ cao, tựa lưng, dàn thế trận mới rồi cùng chiến thuật bắn cầu vồng. Nhưng sự tình hãy còn chưa xong, quân Phàn Tiếp bị phục binh cùng dân quân ở núi Tràng Kênh vây đánh, đẩy lại thế trận Bạch Đằng.
Tôi thoáng trông thấy những đầu cọc nhọn bịt sắt, trong lòng cũng đột nhiên rạo rực. Cọc càng nhô cao theo thủy triều dần rút, quân địch càng thất bại nặng nề. Quân Thát tiến thoái lưỡng nan, chỉ còn văng vẳng tiếng kêu la thảm thiết, xác chết chất chồng trên thuyền chiến, vung vãi khắp mặt sông.
Trận chiến đó kéo dài đến tận chiều, chủ tướng hay quân sĩ, gần như không thoát được một ai, người bị bắt sống, người bị thương, người bỏ mạng. Hàng trăm thuyền chiến đắm, hơn bốn trăm thuyền khác bị quân ta chiếm giữ. Cánh quân thủy nhà Nguyên thất bại thảm hại. Tôi vui mừng reo lên.
Tôi nghe Yết Kiêu kể, trận cọc đó, Hưng Đạo Vương đã manh nha ý định trước kháng chiến lần hai, nhưng khi đó chưa có sắt, quân ta lại không bắt được thời cơ thích hợp nên để quân Nguyên dễ dàng đi qua khiến chúng ngạo nghễ đắc thắng.
Lần thua ê chề này của chúng, âu cũng do chủ quan khinh địch. Quân Nguyên có lẽ cũng biết về tiếng tăm lẫy lừng của Tiền Ngô Vương năm chống Nam Hán, Đại Hành hoàng đế năm chống Tống diễn ra trên sông Bạch Đằng. Nhưng chúng khinh suất chúng tôi yếu thế, hai lần để chúng dễ dàng vượt sông thành thử mới dẫn đến thất bại hôm nay.
***
Kết cục của giặc ngoại bang hiển nhiên ai nấy đều đoán được, giống như những gì Quốc công tiết chế tiên liệu. Chẳng mấy chốc, chiến công lẫy lừng bao trùm đất Đại Việt.
Triều đình đã dự sẵn định công phạt tội rạch ròi. Vậy nhưng đâu thể làm vừa ý hết cả. Người lập công ở trong nước thì nhiều, mà bổng lộc triều đình thì có hạn, hơn nữa còn phải suy tính việc phục hồi đất nước sau chiến tranh. Nhiều người vì vậy đâm ra bất mãn ngay trên thuyền chiến.
Tin đến tai Thượng hoàng, ngài bèn dụ rằng:
"Nếu các khanh biết chắc là giặc Hồ không vào cướp nữa thì nói rõ cho trẫm biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế mà đã vội thưởng hậu, vạn nhất giặc Hồ trở lại, và các khanh lại lập công nữa thì trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ."
Lời vàng của Thượng hoàng đến tai kẻ không biết chuyện thì cũng chẳng lưu lại được gì, song cũng không dám trái.
Yết Kiêu đối với chuyện luận công này cũng chẳnglấy chi làm hứng thú. Nói đúng hơn là không có tư cách dự bàn. Chàng làm gia nô phủ vương chứ không phải môn khách như tướng Phạm Ngũ Lão. Từ dạo ấy ở phủ Hưng Đạo Vương, Yết Kiêu đã thề một lòng trung thành, cả đời nhận lệnh ngài, "thà chết già làm gia nô chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu"(2). Mà cũng bởi hai chữ gia nô phủ vương hầu nên số phận định sẵn trọn đời không thấy con đường làm quan. Có hay không có chức tước, âu cũng không mấy quan trọng.
Trong những trận chiến trước, nhiệm vụ của Yết Kiêu là tìm cách đục thuyền giặc trong đêm. Hiển nhiên, đã là Trần triều đệ nhất đô soái thủy quân thì việc này dễ như trở bàn tay.
Mỗi thuyền phải đục khoảng trên hai mươi lỗ, vừa đục được lỗ vừa phải dùng giẻ đã cuộn tròn và buộc dây đút lút lại. Các cuộn giẻ ấy đều được buộc lại với nhau bằng một sợi dây. Một đêm, một mình Yết Kiêu đục được khoảng ba mươi thuyền giặc. Khi đã đục được số thuyền định sẵn, Yết Kiêu rút dây, thuyền giặc dần đắm một lượt.
Phần tôi, lẽo đẽo theo chàng tôi cũng đủ thấy vui và tự hào rồi. Hơn nữa, cho dù không làm quan, nhưng tiếng thơm lẫy lừng của Yết Kiêu ai nấy đều tỏ.
Yết Kiêu có dạo còn bảo tôi sẽ trở thành một nữ anh hùng, công lao xứng đáng được ghi lại. Tôi chỉ cười chua chát:
"Công lao của công chúa An Tư còn chẳng được ghi. Huống chi là hạng vô danh tiểu tốt này?"
Khoan hãy xét đến công trạng, điều trước mắt, tàn quân Thoát Hoan vẫn chưa rút về nước hoàn toàn.
Tinh thần chiến đấu chưa nguôi, Yết Kiêu xin với Quốc công tiết chế, nhanh chóng ra hội binh với Dã Tượng. Từ Bạch Đằng, chúng tôi ngược lên lộ Lạng Châu lùng đánh giặc. Hai ngày đường, chúng tôi tiến tới Đơn Kỷ, Lộc Châu, quyết định tập kích quân Nguyên trên đường chúng rút về.
Vốn dĩ quân Nguyên không định đi qua Đơn Kỷ, nhưng vì lệnh trên loan tin giả quân Đại Việt "chia binh hơn ba mươi vạn, giữ cửa quan Nữ Nhi cùng núi Khâu Cấp, trải dài hơn trăm dặm chặn đường về", làm chúng nghe thấy sợ hãi nên nhanh chóng đổi đường.
Thật ra, chúng tôi cùng lắm đóng quân ở đó chỉ vài vạn, con số ba mươi vạn chỉ là thổi phồng lên cho quân giặc khiếp sợ, mục đích cho chúng không tiến đánh, vì hầu hết quân chủ lực đã dồn về ven biển để tiêu diệt thủy quân.
(1) Nhà Ngô: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
(2) Sự kiện Hưng Đạo Vương đem lời của cha là An Sinh Vương Trần Liễu – anh trai Trần Thái Tông Trần Cảnh (muốn giành lại ngai vàng từ tay Trần Thái Tông) ra thăm dò ý tứ của các con và bề tôi. Dã Tượng và Yết Kiêu đã nói câu trên.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top