🍊Văn học - Nghệ thuật của ngôn từ
Bất cứ một loại hình nghệ thuật nào cũng sử dụng một chất liệu nhất định để xây dựng hình tượng. Nhờ những thủ pháp riêng của từng loại hình nghệ thuật, các chất liệu được nhào nặn lại và trở thành những yếu tố mang tính thẩm mỹ. Mối quan hệ giữa hình tượng và chất liệu là mối quan hệ hữu cơ, xuyên thấm, thâm nhập vào nhau. Chất liệu sẽ mất tính thẩm mỹ nếu rời bỏ hình tượng và ngược lại hình tượng chỉ có thể tồn tại qua chất liệu. Vì vậy trong thực tế không có hình tượng nói chung mà chỉ có các hình tượng gắn liền với chất liệu cụ thể; hình tượng của một loại hình nghệ thuật cụ thể: hình tượng hội hoạ, hình tượng điêu khắc, hình tượng sân khấu, hình tượng âm nhạc, hình tượng văn học,... Đặc tính và chất lượng của các hình tượng gắn liền với các đặc tính nguyên liệu làm cơ sở cho nó. Hình tượng hội hoạ được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; hình tượng điêu khắc được xây dựng bằng đường nét, hình khối; hình tượng âm nhạc được xây dựng bằng nhịp điệu, giai điệu ; hình tượng sân khấu tồn tại qua hành động, cử chỉ, ngôn ngữ của các diễn viên. Còn văn học? Văn học xây dựng hình tượng bằng ngôn từ.
Ngôn từ là lời nói, bao gồm lời nói miệng (biểu hiện qua âm thanh), lời nói viết (biểu hiện qua văn tự) và lời nói câm (tồn tại trong tư duy). Nếu ngôn ngữ là một thực thể trừu tượng thì lời nói lại hiện ra cụ thể, trực tiếp qua hoạt động ngôn ngữ của con người. Qua lời nói, con người có thể định danh các sự vật, hiện tượng trao đổi tư tưởng, biểu hiện tình cảm, cảm xúc của mình.
Khả năng nghệ thuật của ngôn từ rất to lớn, đáp ứng được yêu cầu phản ánh cuộc sống một cách phong phú đa dạng của văn học.
Trước hết, khả năng nghệ thuật của ngôn từ biểu hiện ở tính hình tượng của nó có thể nói, ngôn từ mang tính hình tượng từ trong bản chất. Từ ngữ không chỉ là những khái niệm trừu tượng mà còn là hình ảnh của thế giới khách quan, là "hiện thực trực tiếp của tư duy” như Mác đã nói từ ngữ khi được sử dụng trong hoạt động ngôn ngữ bao giờ cũng hướng về những đối tượng cụ thể nhằm tái hiện và gợi về đối tượng đó. Bản thân từ ngữ chưa nói lên bản chất cụ thể về sự vật và hiện tượng nhưng từ ngữ có khả năng gợi lên trong tâm trí con người những liên tưởng về đối tượng cụ thể. Vì vậy xét trong bình diện hoạt động ngôn ngữ, từ ngữ vừa có tính cụ thể vừa có tính khái quát. Chính nhờ đặc tính này mà từ ngữ là cơ sở tất yếu để xây dựng những hình tượng vừa mang tính cụ thể vừa mang tính khái quát. Tính hình tượng của ngôn từ được biểu hiện rất đa dạng, trên nhiều cấp độ khác nhauỞ cấp độ từ vựng, tính hình tượng thường thể hiện rõ rệt nhất qua những từ ngữ mang tính tượng hình, tượng thanh ; chẳng hạn các từ "rì rầm", "sầm sập", "róc rách", "leng keng", "lởm chởm", "khấp khểnh", "khúc khuỷu", v.v. Những từ ngữ này về mặt ngữ âm đã có khả năng miêu tả trực tiếp về đối tượng, gợi lên tính tạo hình trực tiếp của đối tượng. Ở cấp độ cú pháp, những câu trần thuật hoặc miêu tả có khả năng tái hiện những bức tranh khác nhau về hiện thực. Đặc biệt là các phương thức chuyển nghĩa không những có khả năng biểu hiện nội dung của sự vật và hiện tượng mà còn làm cho chúng hiện lên với tính tạo hình cụ thể nỗi nhớ mãnh liệt, dữ dội "hiện hình" qua câu thơ Xuân Diệu : "Nhớ em như sóng xoáy sâu đập bờ", những sắc thái tình yêu lứa đôi hiện rõ qua câu ca dao: "Tình anh như nước dâng cao tẩm hương - Tình em như dải lụa đào.”
Tính hình tượng của ngôn từ không chỉ biểu hiện qua từ vựng, qua các phương thức chuyển nghĩa mà còn biểu hiện ở bất cứ lời nói và lời viết nào. Lời nói trong ngữ cảnh cụ thể không những chứa đựng nội dung vốn có của từ vựng mà còn chứa đựng những nội dung do ngữ cảnh gợi lên. Từ những ngữ cảnh riêng, ngôn từ có thể tái hiện đối tượng một cách độc đáo, cá biệt, mang tính nghệ thuật cao.
Trong Truyện Kiều, nhân vật Mã Giám Sinh, khi đến nhà Vương Ông, hắn đóng vai một thư sinh đi hỏi vợ, vậy mà vừa mới bước vào nhà hắn đã "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng". Chi tiết này, ngay tức khắc đã lột mặt nạ của Mã Giám Sinh, hắn hiện nguyên hình là một tên buôn người trâng tráo, vô học. Những chi tiết trên đây là những chi tiết biết nói, những chi tiết cá thể hoá sâu sắc đối tượng miêu tả.
Ngôn từ là chất liệu để xây dựng hình tượng, và thông qua hình tượng để phản ánh hiện thực đời sống khách quan. Hiện thực khách quan mà văn học hướng tới để phản ánh bao giờ cũng được soi sáng qua con người. Con người trong mối quan hệ xã hội là đối tượng chủ yếu của văn học. Con người xuất hiện trong tác phẩm văn học hiện ra với tư cách "người mang lời nói" và những người ấy một phần bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ và bản chất của mình qua lời nói. Như vậy, lời nói không chỉ là chất liệu xây dựng hình tượng văn học mà còn là đối tượng miêu tả của văn học. Một tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể của những lời phát ngôn của người kể chuyện, của cái tôi trữ tình, của các nhân vật qua độc thoại hoặc đối thoại. Ở đây khả năng
nghệ thuật của ngôn từ lại biểu hiện qua chủ thể phát ngôn.
Vì vậy, bạn đọc có thể nhận ra giọng điệu, tình cảm, tư tưởng và tính cách của các nhân vật và hình tượng người kể chuyện. Đọc Truyện Kiều, chúng ta nhận diện được bản chất khoác lác của Sở Khanh qua câu nói của hắn với nàng Kiều : "Nàng đà biết đến ta chăng – Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi" ; chúng ta nhận diện bản chất bạc nhược, nửa vời của Thúc Sinh qua câu nói : "Liệu mà cao chạy xa bay - Ái ân ta có ngần này mà thôi !". Đồng thời hiểu được trái tim nhân hậu của thi hào Nguyễn Du qua lời trần thuật : "Trải qua một cuộc bể dâu trông thấy mà đau đớn lòng". Do chỗ vừa tái hiện đời sống hiện thực bằng lời nói, vừa tái hiện bản thân lời nói trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ, văn học có khả năng to lớn trong việc phản ánh con người và đời sống xã hội. Qua văn học, chúng ta không những thấy được những bức tranh đời sống mà còn nghe thấy tiếng nói của mọi tầng lớp người trong các thời đại khác nhau với những giọng điệu khác nhau.
Gắn liền với hoạt động lời nói là hoạt động tư duy của con người. Tư duy và ngôn ngữ gắn bó chặt chẽ với nhau như hai mặt của một vấn đề. Ngôn ngữ chính là hiện thực trực tiếp của tư duy. Vì vậy, với chất liệu ngôn từ, văn học có điều kiện thuận lợi nhất trong việc tái hiện quá trình tư duy của con người. Các loại hình nghệ thuật khác chỉ tái hiện tư duy con người một cách gián tiếp. Chẳng hạn, bức tượng Nhà tư tưởng của Rôđanh muốn biểu hiện những suy nghĩ cao thượng nào đó đòi hỏi con người phải tập trung cao độ sức mạnh tâm hồn. Nhưng ngay trong tác phẩm này, chúng ta cũng không tìm thấy sự tái hiện những tư tưởng cụ thể. Còn văn học lại có khả năng tái hiện quá trình tư duy của con người một cách cụ thể và trực tiếp. Quá trình tư duy của con người được thể hiện qua những lời độc thoại, đối thoại của các. nhân vật và những lời trần thuật của tác giả. Nhờ tái hiện được quá trình tư duy, văn học có thể khắc hoạ được các chân dung tư tưởng của con người. Mỗi lời nói, ý nghĩ của nhân vật đều chứa đựng thái độ, quan điểm đối với con người và cuộc sống. Và đặc biệt, qua các nhân vật hoặc qua những lời phát biểu trực tiếp, nhà văn có thể nêu lên những quan điểm của mình về nhân sinh và về nghệ thuật. Thi hào dân tộc Nguyễn Du đã từng suy nghĩ, triết lý về chữ "tâm", chữ "tài", về kiếp người qua tác phẩm Truyện Kiều bất hủ. Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Chế Lan Viên, nói lên quan điểm nghệ thuật tiến bộ qua những câu thơ sắc sảo của mình, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Lê Anh Xuân suy nghĩ và khẳng định tầm vóc dân tộc trong thời kỳ chống Mỹ, Xuân Diệu suy tư về cội nguồn của sự sống sinh sôi,... Tất cả những suy nghĩ ấy đều hiện hình trực tiếp qua các tác phẩm văn học.
Lấy ngôn từ làm chất liệu, văn học có thể phản ánh bất kỳ phương diện nào của đời sống hiện thực, có khả năng thực hiện chức năng nhận thức, biểu hiện tư tưởng một cách trực tiếp và toàn vẹn nhất. Nhờ những khả năng to lớn như vậy, văn học đã trở thành "bách khoa toàn thư" về cuộc sống, trở thành một phương tiện giao tiếp tình cảm, tư tưởng thẩm mỹ thông dụng nhất của con người.
Trích sách “ Lý luận văn học”, Chủ biên: GS Hà Minh Đức.
CRE F: Hơn một bài văn
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top