Văn Học Phật Giáo

GIỚI HẠN CỦA VĂN HỌC PHẬT GIÁO

Ý nghĩ đầu tiên của một người vừa bước đến văn học Phật giáo, tất nhiên sẽ coi đây chỉ là một nền văn học tôn giáo không hơn không kém, trong tính cách "văn dĩ tải đạo" của nó. Đối với ý nghĩ bàng quan này, một nền văn học như vậy chỉ có nội dung là đủ, còn hình thức diễn đạt chỉ là vấn đề phụ thuộc…; rượu ngon không hệ trọng ở bình chứa. Sự kết cấu của văn học không hệ trọng bằng chân lý tôn giáo đã có sẵn: chân lý thành kiến. Bởi vì chỉ có nội dung, hình thức không cần thiết lắm, do đó, chân lý của tôn giáo sẽ tùy nghi được phô diễn bằng cách vay mượn bất cứ thể tài văn học nào đã được thông dụng. Người ta sẽ không đòi hỏi tác giả phải có một phong cách độc đáo trong đường lối phô diễn; y khỏi phải nỗ lực vận dụng mọi khả năng sáng tạo đến mức tuyệt động, vốn là giá trị đặc sắc của một tác giả văn học - thuần túy. Như vậy, một khi nội dung của kinh nghiệm tôn giáo càng được nới rộng, thể tài văn học càng bị thu hẹp lại. Cho đến một lúc nào đó, lúc mà kinh nghiệm tôn giáo được mở rộng đến vô hạn và tận cùng trong tuyệt đối bất khả tri, người ta bị bắt buộc phải khước từ mọi phương tiện diễn đạt qua các thể tài văn học. Đây là một song quan luận của phương tiện (văn học) và cứu cánh (tôn giáo). Khai triển phương tiện đến tận cùng thì cứu cánh sẽ vắng bặt. Ngược lại, nếu tiến đến chỗ tuyệt đối cứu cánh, phương tiện sẽ hết còn là phương tiện. Nói cách khác, hình như cứu cánh tôn giáo, với những chân lý thành kiến của nó, lúc nào cũng sẵn sàng phản bội mọi tính cách sáng tạo của văn học. Văn học không phải là phương tiện của bất cứ một chân lý cứu cánh nào, thành kiến hay không thành kiến, dù là chân lý về sự sống và cuộc đời; vấn đề sẽ mở sang một chiều hướng khác: đâu là phương tiện, và đâu là cứu cánh của văn học?         

Ở đây, chúng ta có hai lãnh vực mà sự diễn đạt của văn học có thể vươn tới. Trước hết, là hai trích dẫn điển hình, thường được nhắc nhở rất nhiều:

          Thứ nhất, kinh Tương ưng bộ (Samyutta – Nikàya): "Thánh nhân không tranh luận với thế gian. Những gì kẻ trí trong thế gian nói là không, ngài cũng nói là không. Những gì kẻ trí trong thế gian nói là có, ngài cũng nói là có".

          Trong trích dẫn này, mọi diễn tả của ngôn ngữ không được phép vượt qua giới hạn của tri thức thường nghiệm. Chân lý chỉ tuyệt đối ở tự thân của nó, nhưng là tương đối ở lãnh vực diễn đạt của ngôn ngữ. Vì vậy, các tác giả của Phật học có thói quen mở đầu tác phẩm của mình bằng một thái độ khiêm tốn: những gì họ sẽ trình bày không liên hệ đến tự thân của chân lý mà họ muốn hướng đến. người ta không thể nhầm lẫn giữa ngón tay và mặt trăng. Dĩ nhiên, ngôn ngữ ở đây tác động trong những tâm trí bình thường. Hậu quả của nó sẽ là khuôn mẫu để phân tích và phân loại các sự thực của kinh nghiệm. Tức là ngôn ngữ của triết lý.

          Thứ hai, kinh Bát nhã (Prajnàpàmità-sùtra): "Bất hoại giả danh nhi thuyết thật nghĩa". Giả danh, tức biểu tượng và danh ngôn trong tính cách ước lệ của chúng. Những thứ này không liên hệ đến chân lý tuyệt đối, tức thật nghĩa. Do đó, muốn đạt đến chân lý tuyệt đối này, phải vượt qua mọi khả năng của ngôn ngữ và biểu tượng, như người ta cần lìa bỏ tầm mắt khỏi ngón tay để nhìn thẳng vào mặt trăng. Tuy nhiên, trích dẫn của chúng ta nói: ngay nơi biểu tượng và ngôn ngữ mà thể nhận chính bản thân của sự thật. Và đây chính là lý tưởng của văn học Đại thừa. Bởi vì, theo lý tưởng này, vắn tắt, không phải do người nói đã nói ra như vậy, rồi người nghe theo đó mà nghe như vậy và sự thực được phô diễn như vậy nên có ý nghĩa như vậy; nhưng, chính sự thật là như vậy. Những vị đã từng làm quen với văn học Bát nhã sẽ không lấy làm thắc mắc quá đáng về lề lối diễn tả như vậy. Theo tinh thần này mà nói, cái cảm hứng đưa đến sự thành hình của một tác phẩm, bất kể dưới cách thức phô diễn nào, phải là một cảm hứng toàn diện, trong đó không có giới hạn phân biệt giữa một nhãn quan - một ý tưởng - cần được phô diễn và hình thức phô diễn. Tất cả, từ tác giả cho đến độc giả, phải được đặt trong mối tương quan vô phân biệt, như sự phản chiếu giữa các mặt kính đối diện nhau, phản chiếu trong một thế giới trùng trùng vô tận.

          Vì vậy, kinh điển Bát nhã thường chọn những vị chưa chứng ngộ chân lý về tánh Không mà lại có tư cách giảng thuyết về tánh Không. Tất nhiên, trong trường hợp này người ta phải hiểu rằng tánh Không tự phô diễn lấy chính nó, mà người giảng thuyết, sự thực được giảng thuyết, cho đến người nghe, tất cả chỉ như là ráng nắng, mộng ảo, huyễn hóa… Từ đây gợi lên cho chúng ta ý tưởng rằng, một tác phẩm, dù là luận thuật tư tưởng hay văn học thuần túy, không thể nào vượt qua khỏi giới hạn của ngôn ngữ. Nhưng, chính cái cảm hứng bàng bạc từ đầu đến cuối tác phẩm mới tạo cho nó một kích thước rộng rãi, một sức hàm chứa vô biên. Lẽ cố nhiên, cảm hứng thì không thể bị điều động bởi bất cứ ý tưởng nào, mà bộc phát với một thế giới kỳ diệu đột nhiên xuất hiện. Một cách khác, chúng ta nói rằng, tất cả các tác phẩm của văn học Phật giáo đều cố gắng cắm sâu gốc rễ vào tánh Không. Rồi sau đó, vươn mình khỏi lòng đất với tàn lá sầm uất của một thế giới trong trùng trùng vô tận.

          Trong ý nghĩa vừa nói, một tác phẩm xứng đáng với một kích thước rộng lớn, nó phải khởi lên từ cảm hứng của thực tại; vì rằng, ngay qua đó, người ta sẽ thấy một cách như thực đâu là tiếng nói của thực tại và đâu là tiếng nói của lòng người: thực tại tức là lòng người. Và cũng từ đó, người ta sẽ tìm thấy đâu là khát vọng sâu xa đang ẩn kín trong lòng người. Một tác phẩm mà không đủ sức chấn động lòng người để mở ra một thế giới như vậy không thể xứng danh là một tác phẩm văn học. Bởi vì, một tác phẩm tường thuật, về triết lý v.v…, chỉ cần ý tưởng, cần nội dung súc tích là đủ; những gì đáng nói đã được nói hết. Hình thức phô diễn chỉ là phương tiện tùy cơ duyên mà thôi. Nhưng một tác phẩm văn học phải đặt hết tâm tình và cảm xúc ngay ở hình thức phô diễn; và đây không phải là tâm tình và xúc cảm được khơi dậy bởi một chân lý thành kiến nào đó. Như vậy ngay nơi tác phẩm văn học, không phân biệt giữa nội dung và hình thức, mà ngay nơi tính cách phô diễn đương trường của nó, là cả một thế giới sống thực triền miên. Y như Phật quả Viên Ngộ Thiền sư (Bích nham lục); "Ẩn mật toàn chân, đương đầu thủ chứng". Đấy chính là khởi điểm và cũng chính là đích điểm của văn học Đại thừa Phật giáo.

          Quan điểm của chúng ta sẽ được tóm tắt như sau:

1.     Sơ khởi văn học Phật giáo không từ chối vai trò "truyền đạo" của nó. Tức là, chân lý của tôn giáo này, tùy trường hợp, được phô diễn tự do trong mọi thể tài văn học, và coi văn học chỉ như một phương tiện, thứ yếu, không quan trọng cho bằng nội dung.

2.     Nhưng, chân lý ở đây mang tính cách nội tại và cá biệt nơi mỗi người, do đó, sự phô diễn của nó cũng bắt đầu như sự bắt đầu của một tác phẩm văn học, nghĩa là, khởi đi từ cảm hứng bột phát trước một thế giới của kinh nghiệm tâm linh.

3.     Trên khía cạnh tôn giáo, chân lý được chứng ngộ là phản ảnh của một thế giới sống động. Trên phương diện diễn đạt của văn học là cảm hứng tự phát của một tình tự cá biệt. Do đó, lấy tánh Không làm chất, lấy thế giới trùng trùng vô tận làm văn. Văn và chất phản chiếu lẫn nhau tạo thành thề giới toàn diện của văn học Phật giáo.

          Như vậy, chúng ta có thể nhớ lại phát ngôn của Tăng Triệu (Tựa kinh Duy ma cật)

               Thánh trí vô tri nhi vạn phẩm cu chiếu

                Pháp thân vô tượng nhi thù hình tịnh ứng

                Chi vận vô ngôn nhi huyền tịch di bố

                Minh quyền vô mưu nhi động dữ sự hội

Hoặc giả, của Ngạn Hòa Thích Huệ Địa: (Văn tâm điêu long).

                Tịch nhiên ngưng lụ, tứ tiếp thiên tải

                Tiểu yên động dung, thị thông vạn lý

Vân… vân…

II.                KHỞI ĐIỂM CỦA VĂN HỌC PHẬT GIÁO: CẢM HỨNG TỪ ĐỜI SỐNG CÁ BIỆT:

Đời sống cá biệt là hình ảnh nổi bật nhất trong các kinh điển của Nguyên thủy Phật giáo. Đó là hình ảnh lẻ loi của tăng lữ tại các núi rừng, bởi vì, luôn luôn, "một vị tỳ khưu hãy đi cô đơn như con tê giác". Chế độ tăng lữ nguyên thủy không cho phép một thầy tỳ khưu sống giữa đám đông, giữa các thành phố rộn rịp, và chứa đựng tư hữu. Họ không sống quá xa làng mạc, nhưng cũng không quá gần gũi. Tư hữu chỉ gồm một ít vật dụng cần thiết: ba chiếc y, một bình bát, một đảy lọc nước, một khăn ngồi, một dao cạo, và kim chỉ. Trừ những trường hợp khẩn thiết, họ không định cư ở đâu hết; và hình ảnh của đức Phật được mô tả là: Một bình bát với cơm ăn của thiên hạ. Một mình lẻ bóng lang thang trên khắp mọi nẻo đường. Một mục đích duy nhất của đời sống là giải quyết vấn đề sống chết. Một sứ mệnh duy nhất là cởi bỏ mọi ràng buộc cho chúng sinh:

          Nhất bát thiên gia phạn

          Cô thân vạn lý du

          Kỳ vi sinh tử sự

          Giải thoát độ quần mê.

Hình ảnh này là nguồn cảm hứng bất tận của văn học Phật giáo nguyên thủy. Và cả nơi Đại thừa, nhưng với cường độ khốc liệt và cực đoan hơn: "Nhất thiết vô úy nhân, nhất đạo xuất sinh tử"; tất cả các bậc Vô úy, không còn sợ hãi, chỉ có một con đường độc nhất phải đi là qua bên kia bờ của sự sống và sự chết. Qua bên kia bờ là chứng ngộ tính tịch diệt của Niết bàn, nơi đây chính là thế giới của cô liêu tuyệt đối. Thực sự, lối diễn tả rầm rộ của văn học Đại thừa sau này, với thế giới quan trùng trùng vô tận, với khả năng được nói là biện tài vô ngại, tất cả chỉ làm cho hình ảnh cô liêu của đức Phật càng tuyệt đối khốc liệt. Kinh Pháp hoa (Saddharma – Pundarika), một tác phẩm quan trọng của Đại thừa, là một thí dụ điển hình cho chúng ta. Đức Phật xuất hiện giữa thế gian như sư tử giữa đám thú rừng, không sợ hãi gì hết. Nhưng cũng cô đơn như người cha già cả sống giữa đám tùy tùng, chỉ mong đợi duy nhất ngày trở về của đứa con hoang. Khi hội diện, lại còn phải dùng bao nhiêu phương tiện, phải chờ đợi biết bao nhiêu cơ duyên, đứa con hoang mới nhận ra đây quả thực là cha già của nó. 

Theo hình ảnh lý tưởng đó, một vị tỳ khưu, trước khi thể hiện được chân lý tuyệt đối của sự sống, đã phải nỗ lực cho một cuộc đời "lẻ bóng": "Người ngồi một mình, nằm một mình, đi đứng một mình không buồn chán; người ấy ưa tìm sự vui thú trong chốn rừng sâu". (Dhammapada, 306). Đây là một lối diễn tả, về đời sống cô liêu, độc đáo nhất trong văn học Phật giáo nguyên thủy.

Rồi ra, hương vị của chánh pháp là gì? Chính là sự cô liêu ấy. Chánh pháp là dòng suối mát và ngọt của sự sống, rửa sạch tất cả những uế trược của cuộc đời. Bởi vậy, một tâm hồn khi đã chứng nhập chánh pháp, cũng trong và mát như dòng suối ngọt ấy. Kinh Pháp cú (Dhammapada) có câu: "Ai đã từng nếm mùi vị cô liêu, người ấy càng ưa nếm hương vị của chánh pháp." Bởi vì, Chánh pháp là Niết bàn tịch tĩnh. Trong nguồn cảm hứng này, mọi luận biện về Niết bàn, rằng đây là hư vô, đây là bất tử, đây là vân vân, thảy đều không quan hệ. Mà vắn tắt, có thể nói, Niết bàn là gì? Là cõi miền trầm lặng sâu xa, nơi đó vắng bặt mọi uế trược và mọi náo động tạp loạn, mọi tranh chấp thế tục của sự sống. Cố nhiên, đây là hình ảnh Niết bàn tịch tĩnh hay tịch diệt trong nguồn cảm hứng văn học chứ không thể trong suy tư triết lý. Và như vậy, cùng một đoạn trong kinh Pháp cú: "Như một hồ nước sâu, trong suốt và yên lặng; kẻ có trí sau khi nghe Pháp thì cũng trầm lặng sâu xa như vậy." Sự trầm lặng này, nếu không phải là khí vị hiu hắt của cô liêu, thì là gì? Thế là, cô đơn trong hành đạo, những người theo đạo Phật trước kia, như một con tê giác, một mình lẻ bóng giữa cuộc đời trên một con đường cô đơn từ đầu đến cuối. Bàng Uẩn, một tục gia đệ tử của Thiền tông Trung hoa, thời nhà Đường, đặt câu hỏi: "Ai là kẻ trơ trọi không cùng Vạn Pháp làm bạn lữ?"

Trong cuộc đời ấy, cô đơn là người bạn. Nhưng, đồng thời nó lại là một kẻ thù sinh tử. Làm thế nào để chịu đựng đời sống cô liêu giữa núi rừng hoang dại? Câu hỏi này được đặt ra bởi một người Bà la môn tên Janussoni. Phật trả lời rằng: "Tất cả những ẩn sĩ, với những hành vi của thân, miệng và ý mà không trong sạch, khi họ sống trong sự cô liêu của núi rừng, vì các hành vi bất tịnh của họ, khiến họ nổi lên sợ hãi, run rẩy khôn cùng. Còn Tôi, mà các hành vi thảy đều trong sạch, tôi sống trong sự cô liêu của núi rừng. Nếu có những bậc Thánh mà các hành vi thảy đều trong sạch, sống trong sự cô liêu của núi rừng, Tôi là một trong những vị đó. Này, Bà la môn, khi tôi sống đời sống trong sạch của các hành vi của tôi thì hương vị của đời sống cô liêu thâm nhập trong tôi."

Vậy ra, đời sống cô liêu không chỉ là con đường hành đạo, mà còn là kết quả của những hành vi đã rủ sạch mọi bất tịnh.

Chúng ta thấy rõ, phần lớn của nền văn học Phật giáo nguyên thủy bàng bạc những hình ảnh của đời sống cô liêu. Tuy nhiên, chủ đích không phải là trình bày một thứ cá nhân chủ nghĩa nào đó, mà đời sống của Tăng lữ phải rút lui khỏi thế gian, đắm mình trong hư vô chủ nghĩa. Nhưng vì chân lý được nhắc nhở trong các kinh điển nguyên thủy vốn được coi là sở đắc nội tại và cá biệt. "Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình là nơi nương tựa cho chính mình", đây là lời dạy cuối cùng của đức Phật, được ghi lại trong kinh Đại bát Niết bàn. Chúng ta có thể trích dẫn dài hơn một chút: kinh chép, khi A nan xin Phật để lại những lời dạy dỗ cuối cùng, Phật trả lời: "Này A nan da, Như lai không nghĩ rằng: "Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo", hay "chúng Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ta", thời, này A nan da, làm sao Như lai có lời di giáo cho chúng Tì kheo… Vậy nên này A nan da, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một cái gì khác."

Văn học nguyên thủy hay Tiểu thừa không chỉ dừng lại nơi đây. Mặc dù, đây là thời kỳ mà đời sống của Phật giáo duy nhất là đời sống hành đạo của tăng lữ; tất cả mọi nỗ lực đều cốt chinh phục khổ não và hệ lụy nhân sinh; giải thoát và Niết bàn là mục đích tối thượng; và đời sống của tục gia đệ tử không liên hệ gì đến Phật pháp, ngoại trừ công việc hộ đạo. Nhưng ở vài nơi, kinh điển nguyên thủy cũng đã dành chỗ cho các sinh hoạt mang tính cách thế tục. Về điểm này, chúng ta phải kể đến trước tiên là văn học Jataka và kế đến là văn học Avadana.

Jataka hay Bản sinh truyện là những mẫu chuyện tiền thân của đức Thích tôn, trải qua nhiều kiếp với những hành vi như một anh hùng hiệp sĩ vĩ đại xuất hiện giữa thế gian, luôn luôn đem cả thân mạng làm lợi ích cho mọi người. Những mẫu chuyện này, ngoài ước vọng giải thoát để làm lợi ích toàn diện cho thế gian của đức Thích tôn, không chứa đựng giáo lý cốt yếu nào hết. Vì ở đây, Bồ tát (Bodhisattva) – một danh hiệu trước khi Thích tôn thành đạo, sống giữa thế gian, làm tất cả những gì mà thế gian cần có không phải vì giải thoát tối thượng, mà vì sự an lành trong cuộc sống bình nhật. Ngài là một mẫu hiệp sĩ cứu khổ phò nguy, giữa quần chúng bình dân, yếu đuối, bất lực dưới mọi bất công.

Đằng khác, văn học Avadana hay Thí dụ, vốn là những mẫu chuyện ngắn mô tả những xấu xa, ngu muội của mọi người trong đời sống bình nhật; cũng không liên hệ nhiều với giáo pháp cốt yếu của đạo Phật.

Đấy là hai nền văn học đặc trưng của Phật giáo trong sinh hoạt nhân gian. Chúng có cùng tính chất với loại văn chương bình dân. Vai trò của chúng không phải là không quan trọng. Bởi vì, trong nguyên thủy, đời sống tăng lữ vốn ở giữa nhân gian, không quá xa, cũng không quá gần; không mang tính chất của sinh hoạt thị thành. Tùy cơ duyên, các tăng lữ sáng tác những mẫu chuyện vừa tầm để nhắc nhở mọi người đời sống hướng thiện.

Đối với những hạng người ít bị sinh kế quẫn bách, kinh điển dành cho họ vai trò hộ đạo tích cực hơn. Đời sống của họ, ngoài bổn phận của một người cha trong gia đình, công dân trong một nước, họ còn có bổn phận hộ trì Chánh pháp, và tìm những cơ duyên thuận tiện để học hỏi Chánh pháp, gieo hạt giống tốt trong Chánh pháp để một khi thời cơ đến họ sẽ hiến mình trọn vẹn cho mục đích tối thượng là giải thoát và Niết bàn.

Đoạn kinh trích dẫn dưới đây cho thấy điều đó. Kinh mô tả cơ duyên theo đạo Phật của ông Cấp Cô Độc (Anathapindika), một phú hộ đương thời Thích tôn tại thế.

Trưởng giả Anathapindika, ở thành Rajagaha (Vương xá), nước Magadha (Ma kiệt đà), một hôm, vào lúc tản sáng, đến thăm một thân nhân. Vị này, thức  dậy từ sáng sớm đang bận rộn với các tôi tớ, hình như đang sửa soạn một bữa tiệc gì đó. Anathapindika tự nghĩ: "Trước kia, khi ta thường đến đây, vị gia chủ này gác lại mọi công việc, không làm gì hết, trao đổi những lời chào hỏi với ta. Nhưng nay ông có vẻ bận rộn, đang vui vẻ với các tôi tớ, học thức dậy từ sáng sớm và nấu nướng rất nhiều món. Họ đang làm tiệc cưới chăng? Hay đang sửa soạn một cuộc tế lễ lớn lao gì đây, hay sáng mai họ mời vua Tần-bà-sa-la (Seniya Bimbisara) của nước Magadha, cùng với đoàn tùy tùng của vua?" Rồi ông hỏi vị gia chủ. Vị này đáp

"Không có tiệc cưới, cũng không phải mời vua Seniya Bimbisara và đoàn tùy tùng. Nhưng tôi đang sửa soạn một cuộc lễ lớn để cúng dường chúng tì khưu và Phật"

"Ông nói đức Phật phải không?"

"Đúng thế, tôi nói đức Phật."

Ba lần hỏi, và ba lần trả lời như vậy. Anathapindika muốn gặp đức Phật. Vị gia chủ nói:

"Không phải hôm nay, mà sáng mai."

Rồi Anathapindika tâm niệm đức Phật đến độ ông thức dậy ba lần trong đêm vì tưởng rằng trời tản sáng. Khi ông tới cổng thành để đi đến động Thanh lương, có hàng phi nhân mở cho. Nhưng khi ông ra khỏi thành phố, ánh sáng biến mất và bóng tối hiện ra, thế rồi trong lòng ông nổi lên mối kinh sợ, hãi hùng, khiến ông muốn quay trở lại. Nhưng thần dạ xoa (yakkha) tên là Sivaka, vị thần vô hình, thốt lên lời này:

"Một trăm voi, ngựa hay xe với những con la cái,

 Một trăm nghìn thiếu nữ trang sức những hoa tai,

 Thảy không bằng phần mười sáu của một bước dài.

 Này trưởng giả, hãy bước tới, hãy bước tới.

 Hãy nên bước tới, đừng thối lui."

Tức thì, bóng tối biến mất, ánh sáng hiện ra, và nỗi kinh sợ hãi hùng của Anathapindika cũng tiêu tan.

Rồi ông đi tới động Thanh lương và khi đức Thế tôn đang đi lên đi xuống trong hư không, ngài thấy ông, liền bước xuống khỏi nơi ngài đang đi lến đi xuống, ngài gọi Anathapindika:

"Lại đây, Sudatta".

Sudatta là tên riêng của Anathapindika. Ông nghĩ: "Đức Thế tôn gọi chính tên ta", bèn cúi đầu dưới chân đức Thế tôn mong ngài sống an lạc. Đức Thế tôn đáp:

"Đúng vậy, bậc Tịnh hạnh đã đạt đến Niết bàn luôn luôn sống trong an lạc. Ngài không bị nhiểm ô bởi khát ái, không còn sợ hãi, không còn tái sinh. Đã cởi bỏ mọi ràng buộc, xa lìa tâm ái dục,

 Ngài sống tịch tĩnh trong an lạc, đã đạt được sự thanh bình của tâm trí".

Rồi đức Thế tôn giảng giải nhiều điều cho trưởng giả Anathapindika; về Thí, về giới, về thiền; ngài cắt nghĩa sự nguy hiểm, sự phù phiếm, sự bại hoại của những vật dục, sự ích lợi khi trừ bỏ chúng. Khi đức Thế tôn biết rằng tâm trí của trưởng giả Anathapindika đã thành thục, nhu nhuận, dứt khỏi những ngăn che, cao diệu, hòa duyệt, ngài mới giảng thuyết cho ông về Pháp (Dharma) mà chư Phật đã tự mình tỏ ngộ: khổ, tập, diệt và đạo. Và cũng như một chiếc áo sạch không có những vết đen, thì sẽ dễ nhuộm, cũng vậy, ngay từ chỗ ngồi này, với Pháp nhãn, không nhiểm ô, đã trổi dậy trong trưởng giả Anathapindika, rằng "Những gì có sinh tất có diệt," Rồi thì, sau khi đã thấy Pháp, chứng Pháp, biết Pháp, thâm nhập Chánh pháp, sau khi đã vượt lên nghi ngờ, dứt trừ sự bất định, tự mình tín thuận giáo huấn của đấng Đạo sư, Anathapindika bạch đức Thế tôn rằng:

"Hay thay, bạch đức Thế tôn. Cũng như một người dựng dậy những gì bị ngả xuống, vén mở những gì bị che đậy, chỉ đường cho kẻ lạc lối, rọi đèn vào chỗ tối tăm để những ai có mắt thì có thể thấy; cũng vậy, Chánh pháp được đức Thế tôn giảng dạy bằng nhiều thí dụ. Bạch đức Thế tôn, nay con xin nương mình theo Thế tôn, nương mình theo Chánh pháp và chúng tỳ kheo. Xin đức Thế tôn nhận con làm đệ tử tại gia từ đây cho đến trọn đời. Và, bạch đức Thế tôn, xin ngài nhận thọ trai tại nhà con vào sáng mai cùng với Chúng Tì khưu." Đức Thế tôn nhận lời im lặng.

Sau đó, Anathapindika mua khu rừng của Thái tử Jeta, thiết lập tinh xá để Phật dừng chân giảng pháp. Đây là một trong những tinh xá lớn nhất và nổi tiếng trong thời đức Thích tôn tại thế, gọi là Kỳ viên hay Kỳ hoàn (Jetavana).

Những hạng người như Anathapindika, tâm trí đủ mở rộng để lãnh hội Chánh pháp. Nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó. Đời sống của họ không được coi là ở giữa lòng Chánh pháp. Thực sự, văn học nguyên thủy phần lớn chỉ dành cho hạng người xuất gia, với lý tưởng khước từ tuyệt đối. Vì Chánh pháp chỉ có thể thực hiện ở những nơi tịch tĩnh của núi rừng. Nhân cách lý tưởng mà nền văn học này mô tả chính là các vị A la hán (Arhat), là đức Như lai. Và chúng ta đã biết, đó là nhân cách của đời sống cô liêu tuyệt đối:

          Ta hành đạo không thầy dạy dỗ

          Chỉ hành đạo một mình, không bè bạn

          Tích chứa một hạnh mà thành Phật

          Tự nhiên thấu suốt nẻo thành đạo.

Theo gương đó, ước vọng của những người theo đạo Phật bấy giờ là:

"Như giữa lòng biển sâu không gợn sóng, mà hoàn toàn yên lặng tịch mịch; thầy Tì khưu cũng vậy, hãy trầm lặng, không buông lung dù ở bất cứ đâu."

Như vậy, đủ để chúng ta tóm tắt rằng, từ nguồn suối của đời sống cá biệt vì những gì sở đắc đều cá biệt và nội tại, cảm hứng của văn học Phật giáo nguyên thủy bộc phát:

-         Từ nhân cách với đời sống của đức Phật;

-         Từ Chánh pháp, tức chân lý cao cả về khổ đau của sự sống và về lẽ tịch tĩnh của Niết bàn.

            Trên tất cả là hương vị cô liêu tuyệt đối. Bởi vì, hương vị của Chánh pháp chính là hương vị cô kiêu của sự sống.

III. CẢM HỨNG TRONG VĂN HỌC ĐẠI THỪA  

Tư tưởng Đại thừa bắt đầu xuất hiện với nền văn học bát nhã. Nội dung của các kinh điển thuộc văn học Bát nhã đều thuyết minh về ý nghĩa tánh Không. Tư tưởng này là triết lý hành động của lý tưởng Bồ tát đạo.

Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại Trí và Đại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu. Đại bi hay Đại hạnh là tác dụng của Trí tuệ siêu việt ấy trong một thế giới quan được mô tả là trùng trùng vô tận. Như vậy, cỗ xe của Bồ tát (Bồ tát thừa) có hai bánh, Trí và Bi, cùng song song vận chuyển (Bi Trí song vận) để đạt đến giải thoát tối thượng.

Bởi vì tác dụng của Trí tuệ là khả năng soi thấu bản tính của hiện hữu, do đó, lấy tánh Không làm nền tảng. Tuy nhiên, trên phương diện luận thuyết triết lý, chúng ta biết rằng tánh Không có hai tác dụng: phá hủy và kiến thiết. Cả hai tác dụng đều qui tâm trên một mối: tương quan hiện hữu hay lý duyên khởi. Hiện hữu do tương quan, do đó hiện hữu không thực tính. Đây là tác dụng phá hủy. Và do không thực tính, nên hiện hữu mới có thể có tương quan để hiện khởi. Đây là tác dụng kiến thiết.

Kinh Lăng già mô tả sự vận dụng Đại Trí và Đại Bi của bậc giác ngộ rằng:

          Thế gian ly sinh diệt

          Do như hư không hoa

          Tri bất đắc hữu vô

          Nhi hưng Đại bi tâm

          Nhất thiết pháp như huyễn

          Viễn ly ư tâm thức

          Trí bất đắc hữu vô

          Nhi hưng Đại bi tâm

          Viễn ly ư đoạn thường

          Thế gian hằng như mộng

          Trí bất đắc hữu vô

          Nhi hưng Đại bi tâm.

Hiện hữu của thế gian như hoa đốm giữa trời, không từng có sinh khởi, không hề có hủy diệt. Tất cả các pháp như huyễn hóa, vượt ngoài mọi tác động của tâm thức; vượt ngoài mọi ý nghĩa thường tồn và gián đoạn, vì rằng như một giấc mộng. Do đó, trong sở đắc của Trí tuệ chân thật, không có ý nghĩa hữu hay vô. Từ Trí tuệ không còn bị ràng buộc ở hữu hay vô đó mà các bậc đã giác ngộ, hay những vị đang đi trên con đường tiến đến sự giác ngộ, phát khởi tâm nguyện Đại bi.

          Tri nhân pháp vô ngã

          Phiền não cập nhĩ diệm

          Thường thanh tịnh vô tướng

          Nhi hưng Đại bi tâm.

Các ngài thấy và biết rõ rằng mọi hiện hữu đều không có tự tánh, tự thể hay bản thể. Phiền não chướng và sở tri chướng vốn thanh tịnh, vô tướng. Từ bi kiến đó mà các ngài khởi lên tâm nguyện Đại bi.

          Nhất thiết vô Niết bàn

          Vô hữu Niết bàn Phật

          Vô hữu Phật Niết bàn

          Viễn ly giác sở giác

          Nhược hữu nhược vô hữu

          Thị nhị tất câu ly.

   Hoàn toàn không có cái gì mệnh danh là Niết bàn. Không có một vị Phật nào chứng nhập Niết bàn, cũng không có Niết bàn mà Phật chứng nhập. Vượt ra ngoài nhân cách giác ngộ và chân lý được giác ngộ. Hữu hay vô hữu, cả hai đều bị vượt qua.

Nói cách khác, trong lý tưởng hành động, trước tiên Bồ tát phải quan sát để thể chứng tánh Không. Tức là, sự xuất hiện của thế gian như hoa đốm giữa trời, bản chất của nó không bị ràng buộc bởi ý nghĩa xuất hiện hay biến mất. Từ sở chứng đó, Trí tuệ không bị ràng buộc giữa hữu hay vô, và chính nơi đây là cứ điểm để Bồ tát thể hiện tâm nguyện Đại bi của mình. Nếu vậy, phải chăng Bồ tát hành đạo giữa thế giới của hư vô, của mộng tưởng? Thế giới này là hư vô, và mộng tưởng, hầu như là một nhãn quan không thể chối cãi, vì đấy là hình ảnh bàng bạc trong các tác phẩm Đại thừa, Kinh Kim cang nói:

          Nhất thiết hữu vi pháp

          Như mộng, huyễn, bào, ảnh,

          Như lộ, diệc như điện

          Ứng tác như thị quán.

Tất cả mọi hiện hữu do tương quan đều y như là mộng, huyễn, bọt nước, bóng trong sương; như sương mai, như điện chớp.

Làm thế nào để thể hiện tâm nguyện Đại bi trong cái thế giới dẫy đầy tính cách mộng tưởng, không hư như vậy? Nạn vấn này không thể không biết tới. Lối diễn tả trong các kinh điển Bát nhã không nói theo thông lệ. Do đó, sơ khởi, người ta chấp nhận mọi mâu thuẫn nội tại như là lý lẽ đương nhiên. Thí dụ, sinh tức vô sinh, vân vân. Lý luận của tánh Không ban đầu còn theo thông lệ, nhưng đến một lúc, nó trở thành cực đoan không thể tả. Nghĩa là, trước hết, người ta còn có thể vay mượn những gì đã được chứng kiến trong kinh nghiệm thông tục để diễn tả: như ráng nắng, như mộng tưởng, như sao xẹt, như hoa đốm giữa trời... đến kỳ cùng, là Pháp nhĩ như thi: Như vậy là như vậy. Một trong danh hiệu của Phật, Như lai, vốn chỉ cho ý nghĩa này. Luận Đại trí độ nói: "Như pháp tướng mà hiểu. Như pháp tướng mà giảng thuyết. Như con đường an ổn của chư Phật mà đến... nên gọi là Như lai." Nói gọn hơn, Như lai tức là đến như vậy và đi như vậy. Đây mới thiệt là lý tưởng hành động của Bồ tát đạo. Công nghiệp đó sẽ được mô tả như là những dấu chân của con chim trong bầu trời. Bồ tát đến với thế gian cũng vậy. Tất cả mọi công trình đã từng thực hiện và đã để lại cho thế gian chẳng khác nào như sự tích lũy của bao nhiêu dấu chân của cánh chim bay giữa bầu trời. Lối diễn tả này quả thực mang một khí vị văn chương đặc biệt. Theo thuật ngữ, hành động này được mệnh danh là Vô công dụng hạnh: hành động không cần dụng công, ví như hư không. Đây là ý nghĩa: "Như pháp tướng mà hiểu, như pháp tướng mà giảng thuyết".

Ý nghĩa sáng tác (văn học) của Đại thừa cũng theo đó. Kinh Bát nhã nói: "Các đệ tử của Phật làm gì có chuyện giảng thuyết. Tất cả đều do năng lực của Phật. Bởi vì họ y theo những gì Phật đã dạy mà học tập, nhờ đó mà chứng được các pháp tướng. Sau khi đã chứng, tất cả những gì được họ nói ra đều không trái với pháp tướng. Vì chính năng lực của pháp tướng vậy." Đại ý đoạn kinh này nói là sự giảng thuyết của đệ tử Phật không phải do họ muốn bày tỏ một quan điểm nào đó của mình, nhưng đấy là sự bộc phát tự nhiên của những gì mà họ đã chứng đắc.

Bình thường mà nói, đây há không phải là lý tưởng sáng tác của bất cứ một tác giả nào, kể riêng gì các nhà Đại thừa? Một tác phẩm văn học phải xuất hiện từ nguồn cảm hứng chân thành và bộc phát tự nhiên.

Trên đây, chúng ta lấy Tánh Không làm khởi điểm của cảm hứng văn học trong Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, cảm hứng này phần lớn đi vào đường hướng minh giải triết lý, hơn là cảm thức văn chương. Rồi từ nền tảng tánh Không ấy mà mở tầm mắt vào thế giới trùng trùng vô tận, đây mới thật là phong cách văn chương, theo nghĩa thông tục của chữ này.

Trong bất cứ nền văn học nào của Phật giáo, chúng ta có thể thấy rằng, dù khởi sự từ đâu, tất cả mọi nguồn cảm hứng đều qui về nhân cách và đời sống của đức Phật. Đây là điều mà chúng ta không thể quên, khi bước vào thế giới văn học Phật giáo. Nếu ở nguyên thủy, nhân cách của Thích tôn là hình ảnh của một con người, thì tất cả cảm hứng văn học đều khơi nguồn từ lẽ vô thường, từ tính chất mong manh của cuộc sống. Còn ở Đại thừa, đức Phật là một nhân cách siêu việt, do đó cảm hứng văn học cũng được khơi nguồn từ thế giới siêu việt. Tất cả tùy thuộc quan niệm về Phật thân. 

Có hai quan niệm chủ yếu về Phật thân: Sanh thân và Pháp thân. Sanh thân chỉ cho thân thể thụ bẩm của cha mẹ. Pháp thân vốn là hiện thân của chân lý. Nơi nguyên thủy, hay cả Tiểu thừa, Pháp bao gồm lý Tứ đế và Niết Bàn. Đích thực, đây là Pháp duyên khởi. Pháp duyên khởi này được đức Phật giảng dạy để đưa đến chỗ chứng nghiệm về những chân lý cao cả của Khổ, Tập, Diệt, Đạo, cuối cùng là đạt đến giải thoát và Niết bàn. Các nhà Đại thừa sau này mang đến cho Pháp duyên khởi nhiều giải thích mới mẻ. Đặc biệt là triết học về tánh Không của Long Thọ (Nàgàrjuna). Đại khái, nguyên thủy, pháp Duyên khởi có nhiệm vụ giải thích nguồn gốc của sự khổ, để bộc lộ những đặc tính vô thường và vô ngã của sự sống, và từ đó quyết định đường hướng diệt khổ. Nhưng các nhà Đại thừa y cứ trên pháp Duyên khởi để chứng tỏ rằng tự tính của vạn hữu là Không. Tức là, do duyên khởi nên không tự tính. Như vậy, sơ bộ, pháp Duyên khởi chứng tỏ rằng tất cả hiện hữu – nhất thiết pháp – đều là giả ảo, không có bản tính chân thực. Rồi kỳ cùng, không có sự thực nào ngoài giả ảo đó. Do kết quả này, các nhà Đại thừa quả quyết rằng những gì đức Phật nói thảy là chân lý ước lệ, tạm bợ, bởi vì chân lý cứu cánh siêu việt tri kiến và siêu việt ngôn thuyết. Điều đó bắt buộc chúng ta không thể quên thắc mắc này: với danh hiệu Như lai, mà Đại thừa giải thích rằng Pháp Như vậy thì Phật giảng thuyết Như vậy, tại sao sự thực lại không được bao hàm ngay trong tính cách Như vậy đó? Chúng ta có thể tìm thấy một vài giải thích, trực tiếp trong các kinh điển Đại thừa. Thứ nhất, kinh Pháp hoa tuyên bố: "Bản tính của các pháp là vắng bặt mọi dấu vết của tri kiến và ngôn thuyết. Nhưng chính do phương tiện, phát xuất từ Đại bi tâm vô lượng mà đức Phật giảng thuyết những pháp gọi là chân lý cao cả như Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Kỳ thực, chân lý cứu cánh không nằm ở trong đó". Kinh Bát nhã (tiểu phẩm), quyết liệt hơn: Dù có Pháp nào cao cả hơn Niết bàn cũng là Không nốt. Đây là nói về mối tương quan giữa những gì được nói và những gì không thể nói. Tăng Duệ, trong bài tựa viết cho bản dịch Trung quán luận (tác phẩm của Long Thọ), giải thích ý nghĩa tương quan này: "Thật phi danh bất ngộ, cố ký Trung dĩ tuyên chi. Ngôn phi thích bất tận cố giả luận dĩ minh chi, kỳ thật ký tuyên, kỳ ngôn ký minh, ư Bồ tát tọa đạo tràng chi chiếu lãng nhiên huyền giải hỉ". Theo đó, Thật hay Thật tướng, chân lý cứu cánh, nếu không có Ngôn thuyết thì không thể có con đường dẫn đến tỏ ngộ. Do đó, mới tựa vào con đường giữa để công bố. Con đường giữa tức là con đường không bị ràng buộc bởi những siêu việt và nội tại, giữa khả thuyết và bất khả thuyết. Đó chính là con đường im lặng trong nói năng và nói năng trong im lặng. Và rồi, như vậy, ngôn thuyết phải cần được minh giải để có thể lãnh hội thấu đáo. Do đó, mượn hình thức một tác phẩm luận thuyết để tỏ bày. Sau cùng, một khi sự Thật đã được công bố nơi Ngôn thuyết, và Ngôn thuyết đã được tỏ bày thấu đáo trong cõi miền trầm lặng, thì bấy giờ, trong giây phút chứng ngộ tuyệt đối, Bồ tát soi tỏ thấu suốt tất cả tương quan giữa Danh và Thật. 

Giải thích trên có thể biện hộ cho công trình của một tác giả Phật học. Biết rằng những gì mình nói đến không liên hệ đến sự Thật tuyệt đối, dù vậy, vẫn có thể nói và không trái ngược với sự thật. Nghĩa là, mọi tác giả đều có khả năng nói láo, nhưng trong cái láo đó lại có thể phản ảnh cái Thật. Không có giới hạn phân biệt giữa cái Thật và cái Láo. 

Từ quan niệm vừa kể, chúng ta có một hệ luận vô cùng quan trọng để thấy phong độ các tác giả Đại thừa. Ngôn ngữ không phải là chân lý tuyệt đối, nhưng cũng chính ngôn ngữ vốn là biểu tượng của chân lý tuyệt đối. Nếu vậy, không chỉ riêng ngôn ngữ, mà bất cứ một sự thể nào cũng là biểu tượng của chân lý tuyệt đối. Tức là, theo một khẩu quyết của Đại thừa: sinh tử tức niết bàn. Theo hệ luận này, chúng ta sẽ bắt gặp trong các tác phẩm Đại thừa hai phong cách diễn đạt. Hoặc bằng ngôn ngữ, hoặc bằng ảnh tượng. Và chúng ta được gán cho hai lối thuyết pháp của Phật. Hoặc thuyết trong khi ngài nhập định. Hoặc thuyết trong khi ngài ra khỏi thiền định. Khi nhập định, ánh sáng từ thân thể đức Phật tỏa ra. Ngang qua ánh sáng này, những bậc thượng trí trực ngộ ngay pháp sâu xa mà Phật muốn giảng thuyết. Khi ra khỏi cơn thiền định, ngài sẽ dùng ngôn ngữ, với lời lẽ khúc chiết, với thí dụ điển hình, với âm thanh dịu ngọt, Phật sẽ phân trần, giải thuyết những gì cần phải nghe, phải hiểu cho hạng người căn tính thấp hơn. 

Hai cách thuyết pháp phù hợp với quan niệm về Phật. Ứng thân (một danh hiệu khác của sanh thân) xuất hiện giữa thế gian, chịu theo mọi qui ước của thế gian, nên sự thuyết pháp phải chọn con đường ngôn ngữ: phải nói theo thứ tự khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối, vân vân. Pháp thân, vốn là bản thân của chân lý siêu việt, do đó sự giảng thuyết cũng siêu việt. Bởi vì chân lý siêu việt là thực tại toàn diện, nên người nói và người nghe cũng tương ứng trong toàn diện. Ở đây, Pháp không được bộc lộ theo một tình tự có qui ước, mà là đốn khởi, hay trực khởi toàn diện. Do đó, chúng ta thường bắt gặp những diễn tả điển hình như: trên đầu mỗi sợi lông của đức Phật, khi ngài nhập chánh định, xuất hiện tất cả mười phương thế giới, không chỉ những thế giới đang hiện hữu, mà cả trong quá khứ và vị lai. Nghĩa là, tất cả mọi thế giới trong thời gian vô cùng và không gian vô tận. Rồi mỗi thế giới, của vô số thế giới như cát sông Hằng này, trong mỗi thế giới đều có đức Phật đang ngồi nhập Chánh định, và trên đầu mỗi sợi lông đó lại cũng xuất hiện tất cả muời phương thế giới trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó là cái toàn diện cực đại bao la hiện diện ngay trong cái cá biệt vi tiểu cực hạn: Một là Tất cả và Tất cả là Một. Sự diễn tả này là trọng tâm của Pháp giới duyên khởi. 

Trong tư tưởng Đại thừa, có hai quan niệm đặc trưng về duyên khởi. Quan niệm thứ nhất, y theo duyên khởi để đạt đến Pháp Không, thể hiện khả năng siêu việt hữu vô đối đãi, như đã thấy. Quan niệm khác, y trên pháp duyên khởi để chứng nhập thế giới tương giao trong trùng trùng vô tận, tức là Pháp giới duyên khởi. Ở đây, cũng giải thích về tương quan hiện hữu. Nhưng mỗi hiện hữu được quan niệm là một thực tại toàn diện - vì sinh tử tức Niết bàn - do đó, mối tương quan hiện hữu cũng toàn diện. Thí dụ, tương quan giữa hai tấm kính đối diện. Một mặt kính không phải chỉ duy là một mặt kính; nó bao hàm tất cả những gì không phải nó nhưng có quan hệ với nó. Như vậy, hai mặt kính phản chiếu nhau không chỉ là hai, mà là Tất cả, và Tất cả. Danh từ Pháp giới muốn nói rằng tất cả giới hạn vô biên và toàn diện của sự thực đều ở ngay nơi sự thực cá biệt đó. Vậy, Pháp tức là Pháp giới, và như vậy, Pháp thân tức là Pháp giới thân. 

Phật giáo Mật tông gọi Pháp thân hay Pháp với Thân là pháp giới thể tánh trí và biểu tượng là Mặt trời: Đại nhật như lai. Ánh sáng mặt trời vốn bình đẳng và phổ biến. Pháp thân cũng vậy. Chỉ cần có mắt là có thể thấy. Hễ thấy được mặt trời là thấy được tất cả vạn vật. Các Thiền sư thường nói:

          Thanh thanh túy túc

          Tận thị Pháp thân

          Uất uất hoàng hoa

          Vô phi Bát nhã.

Trúc biếc xanh xanh, đâu cũng là pháp thân. Hoa vàng rậm rạp, đâu cũng là Bát nhã. Như vậy, lý tưởng của các nhà Đại thừa là không chỉ học hỏi Chánh Pháp từ kinh điển. Họ học bất cứ ở đâu, từ những sự thể vụn vặt trong cuộc sống hằng ngày. Để có thể được như vậy, phải trải qua những thời đào luyện tâm linh, sao cho tâm trí sẵn sàng mở rộng để đón nhận những chân lý cao cả được giảng thuyết nơi từng hạt bụi. Họ nói: Phá vi trần xuất kinh quyển. Chẻ hai hạt bụi ra thì sẽ thấy kho tàng bất tận của chân lý. Tâm hồn của chúng ta có thể chỉ là đá cuội, nhưng phải đào luyện nó cho đến khi một ngọn gió nhẹ thoảng qua, như một bài thuyết pháp bất tận, là đá cuội ấy gật đầu. Rồi sau đó, đến lượt ta: gia lai thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu, đến lượt ta khi ta lên tiếng thì (những) đá cuội (khác) cũng gật đầu đáp lại. Đây mới chính là lý tưởng của văn học Đại thừa. Nó có thể là không tưởng, nhưng chỉ với một khát vọng bao la như vậy cũng đủ lần hồi trải rộng tấm lòng của chúng ta khắp cả đại thiên thế giới. Kinh Phổ hiền Hạnh nguyện nhắc nhở lý tưởng ấy rằng: "Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng". Hư không còn có thể có chỗ tận cùng, nhưng tâm nguyện (Đại bi) của ta thì không bao giờ có thể cùng tận. 

Nếu chúng ta không hay biết tí gì về tâm nguyện đại bi ấy mà mong bước vào thế giới văn học Đại thừa, đây mới thật là một không tưởng trên mọi không tưởng. Không tưởng này được bộc lộ quá lộ liễu và thô thiển khi nguời ta đánh giá một tác phẩm Đại thừa qua cái gọi là sự khám phá về những thế giới bên ngoài thế giới này, Thế giới vô cùng, vô tận, mà các tác phẩm Đại thừa thường mô tả, có thực như vậy hay không chẳng có gì quan hệ phải bận tâm. Nếu tâm trí của chúng ta không mở rộng kịp với thế giới vô tận được mô tả ấy, thì dù đó có là sự thực, cũng chỉ là sự thực của bóng vẽ. Nghĩa là, nói tóm lại, hương vị của Chánh pháp vẫn là hương vị cô liêu của sự sống. Và đây mới đích thực là tinh chất của toàn thể văn học Phật giáo, bao trùm tất cả mọi khuynh hướng, mọi tông phái của nó.

                                                                                           TUỆ SỸ 

THUYỀN NGƯỢC BẾN KHÔNG

Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước

Thả chiếc thuyền con ngược bến không

Thơ Viên Linh, Thủy mộ quan

Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó, lúc nào đó, bao giờ cũng hấp dẫn như chuyện cổ tích. Mà hình như đó lại là những chuyện mà tuổi con nít của tôi được nghe nhiều hơn là chuyện cổ tích. Trong gia đình tôi, thỉnh thoảng thấy vắng đi một người lớn. Rồi lại nghe những câu chuyện thì thầm. Mấy chú, mấy anh lớn, đã từng ẳm bồng tôi, bỗng chốc họ trở thành nhân vật trong truyện cổ tích. Cách mà người lớn kể chuyện, lại làm cho không khí của chuyện cổ tích ấy càng trở thành huyền bí.

Cho đến khi lai rai đọc được tiếng nước ngoài, chuyện kể về chiến tranh bỗng thành hoài niệm; hay chỉ hình như là hoài niệm thôi, vì đấy là quá khứ mà mình không thấy, không nghe. Có điều, hoài niệm ấy không làm sao mờ đi được. Vì nó đã trộn lẫn quá khứ với hiện tại. Quá khứ ấy, khi chợt biết, nó đã có quá nhiều mất mát. Vì những người đã đi, chưa thấy ai trở lại. Rồi cả những người cùng trang lứa cũng lần lượt ra đi. Mình thì may mắn được ở lại. Nhìn quanh, bảng đen, lớp học, sân trường. Sự sống vẫn băng băng lôi người đi tới, với những cạnh tranh vất vả.

Chiến tranh, thù hận, và đâu đó, từ sâu thẳm của khát khao, tình yêu và sự chết là nỗi ám ảnh, và như chất liệu cho ý thức sinh tồn. Có một cõi thi ca riêng biệt như vậy. Dành cho những tâm hồn nhạy cảm. Nhìn con chim giãy chết trong tranh mà ngơ ngẩn, bàng hoàng. Nhưng ngôn ngữ của nó cũng biến hình. Tình yêu, thất vọng, đam mê, như những con sóng nồng nhiệt trên mặt nước, mà dưới đáy sâu ai biết ẩn chứa những gì.

Nước xa cuồn cuộn ra khơi

Sâu trong tâm thể có đôi giọt gần

(Dư tập, Thủy mộ quan)

Những câu thơ như vậy thật hiếm hoi cho một đời bận rộn. Không bận rộn sao được, khi quanh mình những bạn bèn trang lứa lần lượt ra đi. Một số người vượt suối, vô rừng. Đi theo tiếng gọi của hận thù, máu lửa, trong trái tim đang bốc cháy bởi chủ nghĩa anh hùng. Để lại cho thành phố khúc hát “Người đã đi, đi trên non cao…” Một số khác ra đi, để lại tiếng khóc nghẹn ngào, điên loạn: “Ngày mai đi nhận xác chồng. Say đi để thấy mình không là mình.” Tình yêu, thù hận, bỗng trở thành mâu thuẫn biện chứng.

Mấy chục năm sau, một thế hệ đang lớn, như nắng trưa xích đạo che lu ánh đuốc quá khứ lập lòe của mình; thỉnh thoảng tôi đi tìm lại một vài câu thơ đâu đó, mà cũng không dễ gì tìm được, để cho hoài niệm quay lại một thời, trong đó mình đã sống, đã suy nghĩ, ưu phiền, và cả đến những dại dột ngông cuồng của tuổi trẻ. Trong tình trạng mà người cũ lánh xa, vì hiểm nguy rình rập mơ hồ, thì chuyện biển rộng sông dài chỉ có trong tranh, và trong trí nhớ. Lại vẫn điệp khúc hoài niệm bâng quơ.

Tôi không đoán được bạn trẻ yêu thơ ngày nay, nếu tình cờ đọc được bốn câu thơ dưới đây sẽ gợi lên ấn tượng gì. Nhưng người đã sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, mà tình yêu và thù hận là những xung đột, khắc khoải trong lòng, những câu thơ ấy gợi nhớ một thời, hay đúng hơn là một ấn tượng, có thể thoáng qua chốc lát:

Chiều về trên một nhánh sông

Bên tôi con nước đỏ lòng quanh co

Nước loang dưới đáy trời dò

Buồn tôi thánh thót trên lò nhân sinh

(Một Nhánh Sông, Dư Tập, Thủy Mộ Quan)

Đó là một chút hơi thở tàn sinh, như bóng nắng là đà trên mặt nước, không có những trầm mặc thăm thẳm trong lòng đại dương. Một nhúm cỏ xanh nhởn nhơ trên cánh đồng khô cháy. Nhưng ai có thể phê bình nhúm cỏ vô tình? Ấn tượng của một người đọc thơ từ trong hủy diệt bạo tàn của chiến tranh là như thế.

Rồi đất nước hòa bình, dân tộc đang trở mình từ trong khói lửa, để cho hận thù hóa thân thành tình yêu. Và cũng là lúc bắt đầu một thế hệ cầm bút bị khước từ. Vì đã không thể nhận thức tình yêu theo định nghĩa của biện chứng. Trong đó, tình yêu chỉ có thể trưởng thành bằng hận thù và hủy diệt. “Máu của người đem lại tình thương.”

Ngồi trên đỉnh đồi Trại thủy, giữa thành phố Nha trang, nhìn xuống bên dưới, từ trong làng kéo ra một đoàn thiếu nhi Tiểu học, hô vang khẩu hiệu chào mừng cách mạng, đả đảo văn hóa giáo dục phản động, đồi trụy. Tôi biết mình đang bị chối bỏ. Và bị chối bỏ thật. Từ chỗ là thành phần ăn bám, rồi trở thành phần tử nguy hiểm, và được liệt xuống hàng cặn bã xã hội, tạm tha tội chết để được ân huệ khoan hồng sống hết kiếp sống thừa. Lại một lần nữa, những người cũ của tôi theo nhau lần lượt ra đi. Thời chiến tranh, một lớp bạn lên rừng. Thời hòa bình, một lớp bạn xuống biển. Dân tộc chợt quay trở lại với huyền thoại mở nước. Những người con theo Mẹ, đã có lúc khinh ghét anh em mình, bỏ lên rừng. Một thời gian sau, những người con theo Mẹ lên rừng nay quay trở về đô thị. Lại những người anh em khác sợ hãi, vội bỏ trốn theo, tìm về biển:

Vua gặp Âu Cơ lúc thủy du

Cùng nàng rung động nước thiên thu

Duyên tan nàng bắt con về núi

Những đứa theo cha khổ đến giờ

(Thủy Mộ Quan)

Ba chục năm, một nửa theo Cha, một nữa theo Mẹ. Nhưng huyền thoại của nhà thơ này vẫn còn quên một số anh em trở thành côi cút. Cha thì ở đâu không thấy, mà tự thân thì bị ruồng rẫy bởi chính anh em mình ngay trên đất Mẹ. Không Cha, cũng không Mẹ, ta đi tìm dấu tích Trường sơn, “Quê người trên đỉnh Trường sơn. Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.” (Thơ Tuệ Sỹ).

Tôi không nói đến hận thù. Nhưng một nỗi oan khiên nào đó, khiến cho lời nói của mình như trong cơn mê sảng. Bạn cũ ở quanh đây thôi, vẫn gần như những ngày nào, một thời buồn vui. Có lẽ bạn cũ ngại ngùng, ngại nghe những điều được giả thiết là tôi sẽ nói. Thật sự, tôi chẳng được phép nói gì cả. Vẫn được chỉ định phải đứng bên lề xã hội đang hội nhập văn minh. Còn những bạn khác, hãy gọi là cố nhân, bấy giờ mỗi kẻ một phương trời. Tôi chẳng biết họ đang làm gì, đang nghĩ gì. Mỗi người một phong cách, trong một thế giới mở rộng, đa văn hóa. Tôi nghe nói như vậy.

Dù ở phương này hay phương kia, dù có hay không có hai trận tuyến văn chương cùng chung loại hình ngôn ngữ của Mẹ, vẫn còn hàng vạn nắm xương dưới lòng biển:

Lưu vực điêu tàn ở Biển Đông

Xương bầy như thú cháy rừng hoang

Nhưng rừng không cháy nào đâu thú

Người chết thân chìm Thủy Mộ Quan.

Viên Linh, Thủy mộ quan

Hận thù có thể xóa được dễ dàng thôi, nhưng u uẩn của những hồn oan đáy biển vẫn ám ảnh tâm tư. Người sỗng vẫn mang mãi ân tình của người đã chết, dù trên rừng hay dưới biển, vì oan nghiệt riêng tư hay vì tình chung dân tộc. Xưa Nguyễn Du đã làm “Văn tế thập loại chúng sinh”; không chỉ là món nợ văn chương cho người đã chết, mà đó còn là tình tự thiết tha từ cõi chết vọng về. Tôi đọc bài “Gọi hồn” trong Thủy mộ quan cũng với tâm trạng tương tợ:

Trên Huyết Hải thuyền trồi về một chiếc

Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương

Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt

Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương.

(…)

Trong rêu xanh ngân ngật bóng sơn hà

Lướt hải phận về dưới trời cố quốc.

(…)

Bài thơ không mang tiết nhịp gây cảm xúc bàng hoàng tức khắc, nhưng những ấn tượng rải rác trong cả tập Thủy mộ quan làm cho bài thơ phảng phất nỗi kinh sợ, rùng mình:

Trinh nữ trầm oan nổi giữa dòng

Thân băng ngàn hải lý về sông

Xung quanh không một người than khóc

Chỉ cá trùng dương theo hộ tang.

Dù sao thì đất nước cũng đang hồi sinh. Những người ra đi, lần lượt kéo nhau về. Ấy thế, hờn giận giữa anh em vẫn còn là vết thương nhức nhối. Văn chương bây giờ vẫn là một lựa chọn, hoặc một nhân cách. Thi ngôn chí. Thiên cổ văn chương thiên địa tâm. Trong tận đáy sâu tâm khảm, mỗi nhà thơ vẫn chung một tình tự nghìn đời, dù biểu hiện có hận thù cay nghiệt. Tôi mong được như lời Viên Linh nói:

Sinh ở đâu mà giạt bốn phương

Trăm con cười nói tiếng trăm giòng

Ngày mai nếu trở về quê cũ

Hy vọng ta còn tiếng khóc chung.

Tuệ Sỹ,

Lời mở

Như giấc mộng, bụi hồng cứ rong chơi mà chưa từng biết mình là thật hay là hư, chỉ biết mình đang hiện hữu như là giấc mộng từ nguồn vô thỉ đến đời vô chung và, chỉ biết nỗi buồn vui qua đi như một giấc mộng.

Những chứng tích buồn vui được ghi lại từ những nét chấm phá trong cuộc rong chơi này, qua đó ngôn ngữ được sử dụng như là một vay mượn tạm thời cho những rung động từ trái tim mộng mị, mà thời gian đang giết chết chính nó, từ những đổi thay này qua những thay đổi khác. Ngôn ngữ chính là thời gian và, như vậy ngôn ngữ trở thành một mớ thi ca mâu thuẫn với chính nó. Thi ca là mẹ đẻ của ngôn ngữ, chính vì vậy cho nên tự ngôn ngữ đã mang mần mống mâu thuẫn với thi ca và, thi ca đã mang mần mống mâu thuẫn với chính nó trong cái vô thường, thường xuyên hiện hữu. Mọi vật sẽ trở nên duyên khởi hanh thông từ sự mâu thuẫn nền tảng này, nếu không có nó thì mọi vật sẽ trở nên xơ cứng và bất động.

Và như vậy bụi hồng có cơ hội để rong chơi mà không cần biết sự hiện hữu của chính mình là hư hay thật trong cuộc rong chơi này!

Việt Nam 2004

Phổ Đồng

02. Bụi hồng

Bụi hồng

mang hạt vô biên

Từ cha yêu mẹ

nỗi niềm gởi trao

Nắng vàng

nâng cánh phượng chao

Hai mươi năm ấy

biết bao đổi dời

Cha từ

cửa khép trang đời

Mang đi bụi đỏ

nửa đời mẹ đau

Hạt buồn

héo sắc duyên mau

Sầu lên phong kín

sắc màu thu sang

Cha còn

thử chuyện đá vàng

Bâng khuâng đời mẹ

ngỡ ngàng con đau!

03. Không thời

Gió mơn ru giấc ngủ

Mây trời vương nắng mai

Mộng nào không mộng thật

Mây nào không mưa bay?

Hiện tại làm sao bắt

Quá khứ vô thường không

Tương lai huyễn tưởng mộng

Bây giờ mới từng giây

Ai vượt qua thói quen

Ai thoát nhanh tập quán

Người nắm giữ hiện tiền

Từng sát-na hợp biến

Từng hơi thở nhiệm màu

An lành đang hiện hữu

Tủng tiểm miệng cười tươi

Xuân đến trong khóe mắt

Xuân đi trong nụ cười

Mặc cho việc lui tới .

04. Chưa lìa bước chân

Mưa giăng

rợp bóng chân thường

Chiều nghiêng nắng sớm

vô thường cánh chim

Mình về

nghe máu về tim

Cưu mang huyễn tượng

đắm chìm hồng hoang

Ra đi

tái hẹn bồi hoàn

Phía sau mất dấu

bàn hoàn bước chân

Người về

cho gởi bước chân

Bước lui bước tới

bước chân chưa rời.

05. Quên lối về !?

Ta từ

hạt bụi rong chơi

Lang thang khắp chốn

luân hồi bước chân

Ra đi

sớm nắng phù vân

Tối về hạt nặng

sương ngàn trùng khơi

Mỏi mòn

hạt bụi bên trời

Nhịp chân giong ruổi

gót bời dặm xa

Bóng đời

mấy dạo sương sa

Buồn vui mắt gợn

bóng tà huy rung

Ra đi

là biết nghìn trùng

Lối về bỏ ngõ

như chừng mất tăm

Quê nhà

giở một nấc chân

Vì ham chơi quá

nên quên lối về!?

06. Một vòng tay

Tự tại hỡi!

hãy chờ ta một chút

Vội vàng chi

ta dọn dẹp tự do

Đã đến lúc

chuyện đời rơi hun hút

Nắng vàng hong

sương nặng hạt nào ngờ

Ta hít thở

với hương ngàn gió mới

Chạm từng giây

như chợt sống bây giờ

Sông chia cách

một lần thôi nắng đợi

Nước xa nguồn

như vĩnh viễn cội mơ

Ta tự hỏi

thời gian thành con rối

Ngày qua rồi

sao cắt nghĩa hôm nay

Mai mốt đó

chưa bao giờ lầm lỗi

Có hay không

như giấc mộng đêm ngày

Ta tự nhủ

cuộc sống giờ bằng phẳng

Từ bắt đầu

và chung cuộc nơi đây

Bờ cõi đó

nghìn thu rơi lẳng lặng

Ta trần truồng

ôm trọn một vòng tay.

07. Chấp nhận

Ta hít thở,

cõi thiên thu phía trước

Và phía sau,

nhịp đập tới hồng hoang

Com bướm nhỏ,

quạt cánh mền từng bước

Dội hư vô,

nghe sóng dậy trong lòng

Ngày mới mở,

đang từng giây phút sáng

Tháng năm rồi,

thôi có nghĩa gì đâu

Người huyễn tưởng,

đôi mép bờ xa cuối

Nào ngờ đâu,

chỉ chớp nhoáng ban đầu

Điếm từng phút,

qua từng giây mới lạ

Ngạc nhiên đầu,

cũng là ngạc nhiên sau

Vì biến dịch,

nên vô thường sắc lá

Cho tim ta,

luôn mới nhận sắc màu

Sống hay chết,

không có gì phải bận

Khổ hay vui,

một thoáng hiện qua thôi

Vì duyên sống,

không gì không chấp nhận

Nên rốt cùng,

tự tại hiện trong ta.

08. Giấc mộng

Khi sắc lá,

đang cuốn tròn thơ ấu

Là bắt đầu,

nắng giã biệt trên cây

Đất khẻ gọi,

bốn mùa sương xuống đậu

Trắng đôi tay,

đang thể hiện từng ngày

Còn ôm giữ,

là đất trời dội ngược

Cách ngăn nhau,

chỉ tại một đường tơ

Thôi mặc kệ,

cho cuộc đời xuôi ngược

Lá vẫn xanh,

là thể hiện giấc mơ

Sáng hôm nay,

hoa nở tròn cánh mộng

Một bông hoa,

rơi rụng nhựa về mau

Cho đất khô,

đâm mấy chồi nhú mộng

Cả nghìn thu,

về phối hợp ngàn sau

Ta hiện hữu,

như con tằm ươm kén

Đủ sắc màu,

là thành hoại trong nhau

Giây phút đó,

chợt hiện về ca múa

Ồ đây rồi,

giấc mộng với nghìn năm.

09. Mấy lần đau?

Từ âm vọng,

của nguồn xưa muôn thuở

Hạt bụi này,

lăn lóc mấy lần đau?

Đi và đến,

chưa một lần thấy cũ

Môi hồng loan,

ánh hiện bóng chiều xiêu

Ta tan rã,

như tuyết mùa bão nỗi,

Lại biến thành,

làn khói mỏng mong manh

Lưu lạc mãi,

tuổi đời đau canh cánh

Chuyện qua đi,

chuyện ngày cũ đâu rồi?

Hoàng hôn xuống,

bình minh nào níu được

Bến trăng ngàn

không chở nổi sao băng

Lời hẹn ước,

ta đành mang rao bán

Đổi tóc màu,

kéo lại bước thời gian?

Đời lỡ hẹn,

nay thôi đành câm nín

Ở nơi này,

và tất cả mai sau

Giờ chấp nhận

như trái sầu bọng chín

Đủ sắc màu

và đủ cả vui đau!

10. Vô tận thường không

Chia xa

lá động mơ hồ

Thuyền thôi neo bến

cột trơ dáng buồn

Trăm năm

thành bại vui buồn

Nghìn năm mưa gió

xô nguồn tịch liêu

Ngày tàn

bóng hiện đìu hiu

Thoảng trong nỗi nhớ

thiên thu phận mình.

Ra đi

gợi nhớ tự tình

Thuyền không bến đậu

lênh đênh nẻo về

Bơ vơ

bến mộng

bờ mê

Chơi vơi ẩn hiện

bốn bề mênh mông

Nẻo về

vô tận thường không

Ta yêu

giọt sống vô thường

mong manh.

11. Ráng hồng

Ta đến từ giấc mộng

Mây buồn bay bơ vơ

Giọt sương cười nắng vỡ

Ra đi về chiêm bao.

Ráng mai hồng viễn tượng

Vỡ tràn bờ suơng tan

Đầu sào trăm thước tiến

Bước đầu tiên cuối cùng.

Ta quên hắt tư duy

Đọng lại giọt sương mờ

Trăng nghiêng thềm nắng đổ

Chuyện hư thiệt một đời.

Rêu xanh mờ nắng đợi

Chim trời cắm hạt sương

Uống tràn hư không mộng

Xa mãi giòng sông xưa.

Mây trắng dạt phương nào

Giòng sông, sâu biển cả

Trôi thây về xứ lạ

Mưa tràn kiếp phù sinh?

Thắp lên ngọn nến hồng

Xua tan bờ ảo vọng

Bờ trăng chìm đáy mộng

Nắng xế, chiều mông lung.

Nhịp cầu sanh qua tử

Giòng sông nước cuốn trôi

Hai bờ quên nắng vội

Thỉ chung mất cội nguồn.

Nắng chiều vương nghiêng đổ

Bên thềm tóc hong sương

Gió lùa từng sợi nhỏ

Ráng chiều ánh rừng phong.

12. Nhặt ánh trăng

Từ kiếp nào hạt bụi

Hoá làm kiếp phong trần

Bước đi vương nắng hiện

Bụi hồng vướng trăm năm.

Nến gầy trang kinh mở

Nhạt nhoà chữ run run

Bóng Người về lãng đãng

Nghìn năm vẫn ung dung.

Dưới trăng ngồi đọc kệ

Tụng nghìn trang kinh hoa

Vọng âm hải triều dậy

Biển trầm bọt nước qua.

Lữ hành xuôi quán trọ

Trăm năm mỏi gót hồng

Tàn canh lay đáy mộng

Tay dài nhặt ánh trăng.

13. Giọt nước

Chiềm sâu trong đáy huyệt

Cô liêu một kiếp người

Quán trọ cười triêu nguyệt

Mùa xuân, sẩy bước chân.

Lênh đênh đầu bọt sóng

Ta giọt nước mong manh

Nghìn năm xưa lấp lánh

Vị mặn nào đổi thay.

Biển trầm giọt nắng đợi

Mưa tràn lũng trời xa

Triều dâng chờ nguyệt hạ

Đáy lòng biển lặng căm.

Bọt sóng phù tang hoá

Nước lạnh bờ bến xưa

Muôn đời hạt cát mịn

Giọt nước cười buồn chưa?

14. Một nụ cười

Ngày xưa buồn hiển hiện

Kiếp người quá mong manh

Nỗi đau lòng canh cánh

Thương cho một nụ cười.

Hôm nay buồn đi vắng

Không nỗi buồn, mênh mông

Tràn đầy tâm ảnh hiện

Thế giới ngập hoa không.

Mai kia buồn lắng đọng

Soi rõ bản mặt xưa

Một cục thịt au đỏ

Máu trào nối đường qua.

Thoảng qua từng hơi thở

Vào ra một kiếp người

Êm đềm như lắng đọng

Nhặt hoa miệng mỉm cười.

15. Giọt nắng

Ta mang một giọt nắng

Nghìn năm đọng hai bờ

Sương tan cười mây vỡ

Ảnh hiện trăng đáy soi.

Dòng sông ánh mây hiện

Bồng bềnh lạc xứ xa

Ráng chiều nghiêng đổ hạt

Rừng sâu mờ núi xa.

Chừng ngủ quên giọt nắng

Mở mắt gió đông về

Mùa xuân hoa chao động

Nắng loan rụng bóng chiều.

Tường rêu xanh năm cũ

Sáng lên một chút buồn

Ngày qua lay đầu mộng

Mốt mai cuốn xa nguồn.

Tàn xuân nghiêng sợi nhớ

Nắng ngủ bờ ráng pha

Sợi tóc mềm bến đỗ

Luân lưu tháng năm gầy.

16. Sang trang

Đưa người

qua cuộc tử-sanh

Biển dâu thành bại

hư danh một đời

Buông tay

giọt nắng bồi hồi

Vô thường lay động

chơi vơi phận buồn

Trăm năm

bóng ngã hao mòn

Nghìn năm bụi đỏ

cuốn nguồn tịch liêu

Chim trời

cánh mỏi đìu hiu

Đường qua mất dấu

ảnh chiều hư vô

Ráng hồng

níu hạt chơ vơ

Nằm nghe trăng đổ

bên bờ thời gian

Mây buồn

gió đuổi lang thang

Cho ta hỏi thử

không gian mấy bờ?

Đâu rồi

giọt lệ bơ vơ

Đâu rồi tiếng nói

nguyên sơ nụ cười!?

Từ cuối kiếp

đến đầu đời

Bỗng dưng phút chốc

đổi dời sang trang!?

17. Chiều quê

Lúa xanh reo nắng đậu

Cánh cò mỏi đường qua

Lặng lội bờ sương cũ

In hình điểm đồng xa.

Luỹ tre thềm gió lộng

Bóng ngã chiều mông lung

Chiều quê êm đềm xuống

Mùi lúa thoảng đưa hương.

Đất thơm mùi cỏ dại

Tanh nồng nước phèn cay

Quyện thêm mùi rơm rạ

Bức tranh quê hiện bày.

Mục đồng lưng trâu cỡi

Trâu thong thả đường về

Tiếng sáo diều thoang thoảng

Gió hiu thổi bốn bề.

Chuông chùa buông nhẹ tiếng

Lay động bóng chiều qua

Đèn nhà ai mới tỏ

Giọt nắng vắng bờ xa.

18. Một chút hương

Sáng nay sunset nở

Hương thầm lay bóng đêm

Đọng mãi hương trời cũ

Lửng lơ giọt trăng tàn.

Người đi mang sợi nắng

Làm vỡ cõi hư vô

Vầng trăng thương nỗi nhớ

Trăng nay lạc nơi nào?

Duyên đâu từng nhánh nhỏ

Khởi động vô thường lay

Ra đi còn đọng lại

Chút gì sót trăm năm.

Vầng trăng nghìn năm tỏ

Ráng gầy qua gió bay

Lảng đãng bờ sương đậu

Hương lan đọng bên ngày.

19. Làn gió

Từ kiếp nào làn gió

Lang thang lạc bước chân

Ta làm duyên hạt bụi

Hai bờ vọng, phù vân.

Sát-na từng giây chuyển

Vô thường chạm hư không

Càn khôn đầu ngọn gió

Nhật nguyệt điểm từng không.

Nghìn năm thương làn gió

Vào ra cõi có không

Từ sinh qua tử lại

Thở ra vào cộng thông.

Gió đông lay tuyết rụng

Hoa khai động xuân phong

Gió hè du sen nở

Lá vàng ánh thu phong.

Phù vân hạt bụi nhỏ

Giọt nắng gió cỏn con

Duyên nhau hiện sinh diệt

Nâng niu cuộc sinh tồn.

20. Đến và đi

Người mở mắt

với hai bàn tay trắng

Mồi lợi danh

Khêu gợi đến vô cùng

Và từ đó

những mong cầu tranh thắng

Tự biến mình

làm con vật thiêu thân.

Mùi danh lợi

thoảng đưa mời hấp dẫn

Tự đốt mình

qua vinh nhục buồn vui

Cho đến khi

người buông xuôi cát bụi

Vinh nhục

bại thành

bỗng hóa hư không!

Và tay trắng

vẫn hoàn bàn tay trắng

Còn lại gì

sau đôi mắt khép kia!?

Niềm hối tiếc

đọc qua bờ thất vọng

Ôm nghiệp đời

tham đắm hận cuồng đi!

Và như thế

bao giờ dừng lại được

Kiếp luân hồi

đan trói khổ đeo theo?!

21. Đơn Hà đốt tượng

Tuyết lạnh căm căm phủ đầy trời

Chùa sao ngăn nổi suốt một đêm

Giờ không phương tiện nào kỳ đặc

Phật gỗ trên chùa đốt ấm lên!?

(Cổ tự hàn thiên độ nhất tiêu

bất cấm phong lãnh tuyết phiêu phiêu

hiện vô thiện lợi hà kỳ đặc

Đản thủ đường trung mộc Phật thiêu.)

22. Đức Sơn đốt kinh

Suốt nửa bình sanh từng cưu mang

San định giảng bày lý Kim cang

Hừng hực lửa lòng thôi thúc mãi

Phương nam hối hả dẹp tà man

Đường vô xa vắng Lão bà tiếp

Nghẹn họng lối về tâm mất tâm

Chợt tỉnh Long Đàm đêm thăm thẳm

Kinh xưa còn lại khói phù vân.

23. Đức Sơn vung gậy

Chờn vờn phía trước lại phía sau

Bên phải chợt vung bên trái đau

Ra vào lui tới đều tuyệt lối

Nói được hay không cũng như nhau

Mục đích dồn người vào hố thẳm

Tự do giải quyết vận mệnh mau

Vì thương con cháu nên phương tiện

Gậy chửa vung ra đã nhiệm màu.

24. Tiếng hét của Lâm Tế

Giật mình

mộng vỡ tràn lan

Khối nghi triền kiếp

cưu mang bao giờ?

Ô hay

sự thể nào ngờ

Xưa nay đây đó

bây giờ ở đâu?

25. Bùng vỡ

Mưa rơi ngoài song cửa

Từng hạt rơi tí tách

Từng hạt rơi rõ ràng

Đập tan trời đất cũ

Bùng vỡ tâm hữu vô

Mưa rơi từng hạt nhỏ

Từng hạt rơi tí tách

Từng hạt rơi rõ ràng.

26. Mây bay

Chân em trong bước nhỏ

Tung tăng rất nhiệm mầu

Lên chùa hỏi thăm Phật

Chiều nay mây đi đâu?

Cuối tường con chim ngủ

Giật mình chuông âm vang

Ngước lên nhìn sư cụ

Bát Nhã chuyển sang ngang

“… Thị chư pháp không tướng”

bất sanh và bất diệt

bất cấu và bất tịnh

bất tăng và bất giảm…”

Gió lùa tung vạt áo

Hương quyện nếp cà sa

Sen tàn rơi trong gió

Động với chuông ngân nga

Sư cụ dừng tay lại

Bồ Đề Tát bà ha

Đường về tâm vắng lặng

Mây trời bay xa xa.

27. Tịch liêu

1.1.98 thăm lại Long Tuờng chùa xưa, sau 35 năm xa cách.

Chiều qua

bóng rụng xiêu người

Nắng reo đồng vọng

cợt cười gió mây

Nếp xưa

ủ bước chân này

Rêu phong xanh ngát

phủ dày lối qua

Chim mừng

đồng vẳng hương xưa

Ngất ngây lối bước

ập lùa về dâng

Chùa nghiêng

nắng lửng ngập ngừng

Tháp xiêu bóng đổ

nghe chừng gió lay

Bờ tre

lá động bay bay

Nhớ xưa chuyện cũ

những ngày còn thơ

Gió đông

se cắt sương mờ

Chăn không đủ ấm

giấc mơ nửa chừng

(…)

Giờ đây

bước động ngập ngừng

Người xưa xa vắng

như chừng tịch liêu!

28. Lời đầu tiên

Tưởng nhớ về Thầy, Người đầu tiên mớn sữa nuôi lớn tuệ mạng cho con.

Tre làng

rợp bóng bước chân

Chùa xưa ấp ủ

tâm hồn tuổi thơ

Ngày qua

ươm hạt mộng chờ

Người xưa mớm sữa

ấu thơ no lòng

( ...)

Dại ghê

bứt trộm đòng đòng

Ngất say mùi lúa

trưa hừng hực tuông

Ham vui

Theo cánh chuồn chuồn

Nắng vang giữa bóng

chập chờn hoa rơi

Bướm màu

sắc đẹp trêu ngươi

Phấn hồng vương lại

trên đồi búp măng

Dế buồn

buông tiếng nỉ non

Gợi khêu hấp dẫn

trận đòn mua vui

Vì ham

theo bóng nào nguôi

Sáo diều lồng lộng

bùi ngùi trang kinh!

Trận đòn

nào khỏi thất kinh?

Rồi đâu vào đấy

cũng thành khói mây

Qua ngày

tháng lại thu bay

Vong thân đánh mất

những ngày nguyên sơ

Bây giờ

nhìn lại như mơ

Hiện tiền đối diện

nào ngờ chính tôi

Người xưa

nay đã đi rồi

Như còn hiển hiện

trong lời đầu tiên.

29. Tái sinh

Trăng xưa

rũ bóng hai nghìn

Ngữ ngôn rơi rụng

bao lần đơm hoa?

Trang kinh

dưới nguyệt ta đà

Ngàn năm vang bóng

Người qua trong đời

Còn chăng

tuế nguyệt đổi dời

Tồn sinh hóa diệt

bên trời thiên thâu

Hắc hiu

bờ mộng pha màu

Có-không huyễn tưởng

bên cầu nguyệt trôi

Duyên đầy

duyên thiếu hợp vơi

Hiện tiền hiện khởi

tuyệt vời tính không

Giờ còn hiển hiện

trang không

Đầu tiên ngôn ngữ

cuối cùng tái sinh.

30. Vòng tròn Mã Tổ*

Lão già

nói mộng ra mơ

Vòng tròn oan nghiệt

chực hờ duyên không

Bước vào

nỗi hiểm bên trong

Không vào sức nặng

lại công bên ngoài

Ba hèo

cửa mở chia hai

Vào, không cũng bị

tuyệt hai đầu đường

Chỉ mành

trước gió treo chuông

Bên bờ vực thẳm

hết đường phân vân!

Giờ còn

tí tắc lần khân

Thì ôi nghìn kiếp

xoay vần tử sinh

Mau mau

giải quyết vận mình

Té ra vòng nọ

hiệu linh mất rồi

Ba hèo

gậy đã gãy đôi

Hai đường tự tại

tuyệt vời lối đi.

* Mỗi khi Ngài Mã Tổ Đạo Nhất muốn dạy người thì thường vẽ một vòng tròn, và bảo: “Vào, không vào cũng bị ba hèo.”

31.Trước sau đâu rồi

Ngày qua cây hỏi lửa rằng

Anh sau tôi trước, sao bằng được anh

Khói rằng: nói chuyện vô minh

Không tôi hiện hữu sao thành trước sau

Cả ba ôm lấy cười nhau

Cộng thành đệ nhất trước sau đâu rồi?

32. Dụng tâm

Vô thường

gió thoảng chao cánh bướm

Động cả

chân thường cõi tịch không

Người ơi!

Cảnh động hay tâm động

Mà cả trời thơ

chợt vỡ tung?

33. Trở về

Tay em mười ngón ngọc ngà

Em bưng mặt khóc tìm cha nơi nào?

Thôi em thế sự ra vào

Tìm em không được làm sao tìm người?

34. Hỏi đáp

Có hỏi thì có đáp

Đáp sao không vướng lời

Được mất không vướng ý

Cùng Phật tổ dạo chơi

Hành tung ba nghìn cõi

Không lưu lại dấu giày

Âm ba phổ nhiếp mãi

Vô ngại tâm đại bi.

35.Trò đùa

Hoa giơ trượng quất cùng tiếng la

Mộng vỡ tan tành mộng hiện ra

Ngàn thánh giở trò đùa lém lỉnh

Mửa ra nuốt lại khác chi xa?

36. Niêm hoa 1

Hoa giơ tâm chuyển thái hư không

Ấn dấu truyền trao suốt một dòng

Mộng thật muôn đời chưa hề biết

Viên như trào lộng một dòng không.

37. Niêm hoa 2

Từ hoa

kết mọc đá vàng

Nở tâm rạng mặt

ngỡ ngàng chiêm bao

Suốt từ

mộng mị lao xao

Đến nay vân mộng

truyền trao bao lần?

Thong dong

rất mực vô ngần

Hố sâu không đáy

lại gần đỉnh xưa

Suối nguồn

sự thể đong đưa

Lòng như gái đá

tắm mưa giữa trời

Mốt mai

lòng chảy qua đời

Nước xuôi mặc nước

mưa trời dính ai?

Bình sanh lịch kiếp

nào phai

Sắc không hóa hiện

Như lai hiện tiền.

38. Chưa quen

Lần đầu

lần một

cuối cùng

Gặp nhau như thể

chưa từng quen nhau

Bên người

đối diện gần nhau

Đã từng thưa hỏi

nhưng nào biết tên

Rất mừng

xưa đã quên nhau

Bây giờ muôn sự

hiện tiền mới toanh

Sát na

sinh diệt tinh thành

Nghìn lần nghìn mới

mới thành chưa quen!

39.Hiện sinh

Cha già

bốn đại chia tư

Thiếu duyên năm ấm

chu du biến dời

Ngữ ngôn

hiện giữa nụ cười

Theo duyên bụi lửa

gió vời mây bay

Trùng dương

sóng bủa bên ngày

Ngàn năm bụi đỏ

hiển bày sắc chơn

Tơ hào

ý ngó từng cơn

Ra đi là mất

là còn hiện sinh.

40. Để lại luân hồi

Kính dâng Giác Linh cố Đại lão Hòa Thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN

cố vấn Viện Hóa Đạo GHPHVNTN.

Cơn vô thường

cuốn trôi bờ huyễn-thật

Thạch trụ rừng thiền

xiêu quẹo đổ nghiêng

Hạt bụi đỏ

chợt thấy mình rạn nứt

Vỡ tan tành

như bóng vỡ hư không

Người ra đi

giữa những ngày pháp nhược

Cho ma cường

thêm lộng thế đảo điên!

Bờ tử sinh

niết-bàn nay từ biệt

Nhẹ gót chân

nhàn tản giữa vô phiền.

Nhớ bụi đỏ

cựa mình nghe sương xuống

Ráng mai hồng

cài lại nửa vầng trăng

Bờ bến cũ

lối về trăng sao sáng

Còn nửa kia

Người để lại luân hồi.

41. Nhớ Hà Nội

Sau ba tuần lễ rong chơi tại Hà Nội, giờ chỉ còn lại trong trí nhớ.

Hà nội giờ này

có gì để nhớ?

Cảnh mưa phùn gió bấc

lạnh căm căm

Nhớ gối chăn

qua làn hơi thở ấm

Cho thịt da

hâm nóng mộng nghìn năm.

Nhớ Thăng long

ngày đầu xây dựng nước

Thịnh trị một thời

oanh liệt một phương

Còn gì ngoài

văn bia-quốc tử giám

Khiêm tốn trở thành

di tích quê hương!

Nhớ tháp rùa

đứng nghiêng chờ nắng đổ

Mặt hồ gươm phẳng lặng

bóng chiều xiêu

Hàng cây xanh

mấy lần thay lá cũ

Cho nhựa về

nhú mộng hạt đâm mơ?

Nhớ hồ tây

mưa phùn bay giăng phủ

Bụi sương mờ

lảng đảng bến bờ xa

Từ Thiên phúc,

Kim liên về Tảo sách

Bước lãng du

bến đỗ gót đường qua.

Nhớ gánh hàng hoa

bên bờ yên phụ

Đôi vai gầy

ướt đẫm bụi sương mai

Rảo bước chân

qua phố phường sau trước

Đem cho đời

cái đẹp tưởng chừng phai!

Nhớ những hàng cây

xanh mờ nâu tím

Bóng chiều nghiêng

che phủ ánh trời xa

Bụi mưa phùn

tung gió bay trút lá

Cho đâm chồi nẩy lộc

với nghìn sau.

Nhớ ba mươi sáu

phố phường xưa cũ

Cửa đóng then cài

phong kín tường rêu

Của một thời

chỉ còn qua tên gọi

Ký ức nhạt nhoà

hiện thực còn đâu!

Nhớ tách chè xanh

vỉa hè hôm sớm

Ấm lòng người

hơi toả bóng mù sương

Nhớ tách cafe

bên hồ hoàn kiếm

Đường qua đi

lơ đễnh bước chân về.

Nhớ một cột

chùa xưa sau giấc mộng

Nét hương mù

sen toả ngát nghìn năm

Còn hiện tại

qua rêu mờ năm tháng

Chút tình xưa

dư ảnh mộng vì dân.

Nhớ mái chùa

cong cong chờ nắng đậu

Bụi mưa buồn

loan lổ vách tường sa

Vẫn hiên ngang

chở che hồn dân tộc

Nghiệp sống muôn đời

của tổ tiên ta .

Tháng 03-2003

(1) Theo ý thơ của Huyền Không: “Mái chùa che chở hồn dân tộc …”

42. Nhớ cố hương

Chuông khuya

lay bóng

trăng tàn

Lạnh giòng nước chảy

ngân tràn cuối sông

Đò ngang

nay đã xa nguồn

Thì nay thôi cũng

nghe buồn cố hương.

Chốn về

đau nỗi nhớ thương

Chỉ còn ký ức

vô thường giòng trôi

Phù du

thương một cõi đời

Gió lay ngọn sóng

vàng soi bọt tàn.

Nguồn xuôi

cuối bãi điêu tàn

Biển dâu hiêu hắt

vọng vang bóng chiều

Mơ về

chốn cũ đìu hiu

Tường rêu vách đổ

thành xiêu xa dòng.

Trăng buồn

rủ gió về sông

Soi vùng tâm sự

đau lòng nước qua

Thả buồn

trôi ngược dòng ca

Vọng triều sương khói

âm ba la đà.

Giờ còn

âm vọng xa xa

Khắc sâu dư ảnh

quê nhà cõi không

Chỉ vì

chút nhớ

chút thương

Thời-không xa cách

mà vương thành sầu!

43. Sư về muộn

Đêm nghiêng

ngõ gác trăng vàng

Mấy tầng chuông điểm

đổ tràn thái hư

Sư về

gõ cửa phù hư

Tam sinh đế mộng

trầm hư vỡ bờ

Uống tàn sương,

giọt xuân mơ

Điểm trang hồng nguyệt

kinh thơ vô phiền

Trăng lay

bóng chếch giường thiền

Tụng âm núi dựng

tiếng rền thu không.

Mùa xuân

én trải nắng hồng

Nụ xanh say gió

vàng hong hiên chùa

Gió về

mở mắt nghìn hoa

Gốc mai năm trước

rụng vài đóa hoa!

Trà xanh

Thềm thoảng hương mùa

Gió hây hây thổi

ngày đưa qua ngày

Niềm vui

còn một chút này

Dâng người ở lại

từ rày về sau.

Chùa Bảo Lâm 09.2003

44. Sương ứa lệ

Đôi cánh mộng

lưng trời nay xếp lại

Người ra đi

bụi đỏ chợt hao mòn

Nhớ vầng trăng

nửa cài song cửa mộng

Nửa giật mình

sương ứa lệ tàn canh.

Cầu sinh tử

gãy đôi bờ huyễn hoặc

Bụi mây mờ

xin để lại phía sau

Đêm mộng mị

lững lơ mờ sương đậu

Ráng hồng phai

nghe khóc vỡ ngày tàn.

Hoa sóng cả

bạc đầu vương nắng sớm

Bụi tro tàn

theo gió nước lang thang

Bờ bến cũ

Người về sao chợt sáng

Để ngậm ngùi

nhớ tiếc lại sau lưng !

45. Theo dấu chim bay

Xưa nếu biết

cuộc đời là cõi tạm

Thì lối về

đã theo dấu chân nai

Người cứ tưởng

ta bà là cõi thật

Nên nghìn đời

vẫn theo dấu chim bay.

Sầu hiu hắt

hai bờ loan nắng vỡ

Mộng trần gian

và hiện thật đâu rồi?

Giờ ngoảnh lại

bóng nhoà quên mất dấu

Bước tiếp theo

nghe quờ quạn bồi hồi!

Việc quá khứ

chỉ bày qua ký ức

Nuối tiếc nhiều

và ray rức khôn nguôi

Hiện tại

hạnh phúc đan xen ít ỏi

Khổ đau nhiều,

hận tủi lại càng tăng.

Tương lai chưa đến

mù mờ nào biết

Thả đường dài

quanh quẩn mỏi gót chân

Một trăm năm

bay vèo theo giọt nắng

Chờ trăng già

mơ hỏi tuổi trăng non!

Sỏi lăng mòn

tuổi buồn lên lá thắm

Rừng vẫn xanh

đá dựng bóng trăng qua

Suối róc rách

chở trăng về bến cũ

Nước xa nguồn

về cội lạnh dòng ca.

Mây bóng lay

gió về mưa chớm động

Tàn thu, đông

nghe lạnh tủi đá buồn

Sầu ly biệt

hắt hiu bờ nắng vọng

Én cựa mình

ngơ ngác động xuân phong.

Rồi một sớm

tàn xuân qua lửa hạ

Đào mai buồn

ủ rũ bóng chiều dâng

Nụ có biếc

tuổi xanh, vàng chuyển dịch

Lại một đời xê dịch

nỗi bâng khuâng.

Vì vô thường

luôn luôn là biến dịch

Nên vô thường

luôn hiện hữu như Không

Bờ quá khứ

tương lai thành không tưởng

Niềm bâng khuâng

chợt sáng dõi chân đi.

46. Thở dài đều hơi

Lên non

uống ánh trăng ngàn

Về xuôi

uống suối hoa vàng

cuối sông

Mốt mai

nguyệt hạ mờ sương

Áo trăng ai giũ

bên dòng bụi bay?

Ngày tàn

lá đỏ bóng lay

Nghìn thu lãng đãng

chiều ngây giấc nồng

Sư về

nhặt lá tàn đông

Phía sau mất dấu

rêu rong biển đời.

Chiều buông

vó ngựa chơi vơi

Dặm trường sương khói

vàng rơi cuối đường

Đìu hiu

quán trọ câu vương

Nghìn năm mây trắng

mù sương gót hài.

Đêm tàn

ráng đỏ ban mai

Giật mình ngỡ bóng

chiều phai bên thềm

Hoa cau

nở trắng im đềm

Gió ngây lảng đảng

bờ hiên hương thầm.

Tóc xanh

dài trắng ngày tàn

Chút hương cho gió

nghìn năm sau này?

Trăm năm

dồn lại một ngày

Mỗi giây mỗi phút

thở dài điều hơi.

47. Không đề

1.

Trên đầu sào trăm thước

Con bướm vàng ngủ say

Thiền sư buông tay gậy

Không hư bỗng hiện về.

2.

Ôm mây đầu gối mộng

Ngủ khì vọng trăm năm

Nghìn năm mây lãng đãng

Bước đầu tiên sau cùng.

3.

Đá cười duyên hoa nở

Phật về quên dấu chân

Người đi thiên thu mất

Giọt nắng buồn bân khuân!

4.

Thạch nhơn vẫy cờ múa

Trâu bùn lội qua sông

Sinh tử cầu huyễn mộng

Chợt gãy giữa lòng tay.

5.

Nắng phơi dòng nước lạnh

Mây trời đọng trên mi

Vầng trăng xưa trên đỉnh

Hố thẳm không đáy lay.

6.

Gió lay bông bưởi rụng

Hương thừa sót trăm năm

Đọng mãi vùng ký ức

Thoảng động bờ xa xăm.

7.

Một chút hương cho gió

Một chút lửa cho mây

Một chút tình cho mộng

Một chút si cho ngày.

8.

Xưa kia Người lay mộng

Nay Người về đối không

Mốt mai Người để lại

Biển không hoá mộng vàng.

9.

Chân đi không chạm đất

Mọi nhà ghé lại thăm

Sát-na vô lượng dặm

Chân không giở gót hài.

10.

Qua mơ hiện bươm bướm

Tỉnh ra chủ nhơn ông

Mộng-thật nào biết được

Chân giả có và không?

11.

Tụng kinh hoa lá rụng

Phật quên mất đường về

Buông tay kinh lay động

Phật về từng chữ hoa.

12.

Tự dưng cầu giải thoát

Ai trói buột mà cầu?

Nếu việc không lưu dấu

Xiềng xích có làm gì?

13.

Không nghĩ thiện và ác

Nghĩ gì không vướng tên

Nghĩ về không nơi chốn

Đương niệm về cố hương.

14.

Chuồn chuồn vờn gợn nước

Ảnh chìm mây cuốn bay

Bờ tre trưa gà gáy

Nghìn năm vọng chân mây.

15.

Cu cườm trưa chợt gáy

Nhớ quê nhà ấu thơ

Ngày qua ngày thật vội

Tay trắng tóc bạc phơ!

16.

Hương xoài thơm ngây ngấy

Lay động ký ức xưa

Một khúc đời cơ cực

Tuổi thơ đọng hương thừa.

17.

Rạ rơm mùi nhẫn nại

Mẹ đi cấy trên đồng

Nắng lay da nám đọng

Suốt đời khó vì con.

18.

Sông quê chiều nắng đỗ

Lúa nhẹ thoảng đưa hương

Đò ngang chờ khách vắng

Đèn đỏ lay bóng đêm.

19.

Sinh ra thời ly loạn

Mẹ cha lại nhà nghèo

Tuổi lên năm theo mẹ

Mót lúa cánh đồng xa.

20.

Mùa đông không đủ áo

Trời lạnh đến thấu xương

Co ro trong ổ rạ

Giấc mơ đẹp nửa chừng.

21.

Tối ba mươi mười bốn

Hay theo mẹ lên chùa

Cầu xin trên ân Phật

Cho cả nhà bình an.

22.

Vào chùa năm lên bảy

Làm chú tiểu đuổi chim

Thức khuya và dậy sớm

Tương lai mộng từng giờ.

23.

Năm mươi năm hành đạo

Đến giờ vẫn trắng tay

Từ đầu đến bước cuối

Tay không mộng về nhà.

24.

Dọc đường hoa dại nở

Bướm đậu bờ ngát hương

Vô tình cơn gió thoảng

Lay động giọt nắng xa.

25.

Chú tiểu quỳ đọc tụng

Gật gù tiếng mõ ru

Tiếng chuông choàng tỉnh mộng

Giật mình thời đã qua.

26.

Gối đầu dùi kình ngủ

Âm ba lắng giấc nồng

Chợt tỉnh dùi chuông dộng

Mặt nhật điểm từng không.

27.

Tìm lũng sâu rơi mãi

Như viên bi lăn tròn

Không nơi nào dừng lại

Cuộc sống đã hình thành.

28.

Một viên sỏi liệng xuống

Nước lặng vòng tròn loan

Tâm duyên thế giới hiện

Ba nghìn, hạt bụi lay.

29.

Con dế mèn thấp thỏm

Mơ gối nằm cỏ non

Thay trẻ trò kiêu hãnh

Hơn thua một trận đòn.

30.

Nắng qua còn để lại

Vết hằn nám mặt cha

Suốt đời người xa lạ

Bên cạnh mẹ vì con!

31.

Mỗi trưa hè nắng gắt

Ôi! dòng sông tuổi thơ

Trần truồng duyên vô sự

Còn chút gì mộng mơ.

32.

Lũ chuồn chuồn nhá nước

Đôi cánh trong thật xa

Hình như không biết lạ

Sao lại đậu nơi này?

33.

Trang kinh còn bỏ ngõ

Chú tiểu chạy đâu rồi

Thầy kêu dò kinh đó

Chắc lại tìm mo cau!

34.

“Nhược nhơn dục liễu tri

Tam thế nhứt thiết Phật

Ưng quán pháp giới tánh

Nhứt thiết duy tâm tạo.”

Nếu ai muốn biết rõ

Tất cả Phật ba đời

Nên quán tánh pháp giới

Đều do tâm tạo ra.

Có tạo để tâm tạo đi

Đại thiên sa giới không ngoài tâm ni

Vọng chân phàm thánh khác gì

Cốt đừng chấp nhứt làm gì được tâm?

Thầy tôi lúc đó dạy tâm

Ba nghìn thế giới ngọng câm lời thầy

Mơ màng từ đó đến nay

Chiêm bao lúc tỏ lúc say chưa rành

Thôi thì để mặc đã đành

Nhưng còn giải quyết tử sanh thế nào?

..........

Giờ thì tỏ mặt ra vào

Đến đi qua lại phương nào cũng thông

Mặc cho tâm tạo vô thường

Đói ăn khát uống lạnh nồng đầy vơi

Tuỳ phương tuỳ cảnh tuỳ thời

Nghĩ suy không vướng đổi dời nào can.

35.

Bờ tre ngồi đứng bóng

Gió thoảng đồng lúa xa

Hương nghìn năm còn đọng

Chút tình vọng cố hương.

36.

Ngư ông còn để lại

Nước gợn bóng chân mây

Động chút bờ lau sậy

Trả lại nước lặng sâu.

37.

Đường quê xa nỗi nhớ

Gập ghềnh dấu chân trâu

Ký ức còn ghi lại

Cánh diều ảnh lưng trâu.

38.

Cánh cò nghiêng nắng xế

Thanh bình chiều đồng quê

Mục đồng nghiêu ngao hát

Trâu tự động đường về.

39.

Đu đưa dưới giàn mướp

Bông vàng rụng hương thơm

Cha đồng xa về muộn

Mẹ ngồi chờ trăng lên.

40.

Cớm rang từ hạt nếp

Nghe thơm lửng mía đường

Món cớm hương đồng nội

Nhớ quê mùa gặt xong.

41.

Rặng núi Bà tiếp giáp

Chân trời biển quê tôi

Vị muối mặn nghìn năm

Kết tinh nguồn đá cội.

42.

Lạc điền qua An lợi

An lợi lên Phổ đồng

Mẹ cha khốn khổ sống

Ôi nước lợ phèn chua!

43.

Một chút thương đồng loại

Một chút thương mẹ cha

Một chút thương nơi ở

Cộng nghiệp xứ nạn ta.

44.

Quê cha vùng Nước mặn

Quê mẹ nước xà hai

Gặp nhau cùng nghiệp sống

Quê nào cũng khó khăn.

45.

Năm lên sáu cắm trại

Lần đầu biết biển khơi

Rừng dương biển Cách thử

Nay ký ức mù khơi!

46.

Thương, cha thường dú kín

Mẹ hiện rõ chăm nom

Tính hiện thực thể hiện

Dù sao, mẹ gần hơn!

47.

Con quê nghèo thường đợi

Ngày giỗ chạp ông bà

Tôi tuổi thơ kỳ lạ

Nước mắn dầm cá rô.

48.

Phần thưởng dành toàn xã

Lớp năm mới vào đời

Cuối năm học trò giỏi

Thầy Tô Bường, Thầy tôi.

Sang lớp tư bết bát

Học hành chẳng ra chi

Cha mẹ thầy phiền trách

Không biết lý do gì?

49.

Ham chơi làm theo ý

Những trận đòn nên thân

Mẹ cha vì con trẻ

Không chỉ lo áo cơm!

50.

Mù sương biển đá lạnh

Hạt cát mòn sóng ca

Nghìn năm ru biển cả

Lắng trong vị trăm sông.

51.

Hàng rào hoa dâm bụt

Cha trồng cạnh mái hiên

Gió lay hoa bướm đậu

Nắng xanh trời ấu niên.

52.

Bông bí vàng ong đậu

Trời xanh thấp xuống dần

Trái non vừa tượng nụ

Tương lai một góc trời.

48. Xin chào tất cả

Ngày qua ta đã chết

Tuổi ấu thơ vô phiền

Ngày nay ta đang chết

Tuổi tráng niên vui phiền.

Ngày mai ta sẽ chết

Biết khi nao hiện về

Phát sinh duyên không đủ

Hơi thở thôi ra về!

Chuyện đời xin để lại

Lợi danh cùng xác thân

Thầy tổ cha cùng mẹ

Bạn bè và người thân.

Cỗ áo quan nến thắp

Hai hàng khóc rưng rưng

Tiếng mõ chuông đồng vọng

Muôn năm mộng giấc nồng.

Huyệt sâu ba tấc đất

Hay thiêu thân cuối cùng

Muôn đời nơi an nghỉ

Ngày qua, chợt ngàn trùng.

Ta xin chào tất cả

Hạt bụi của ta ơi

Nghìn năm bay lãng đãng

Trăm năm hết một đời.

Vô thường lay bóng xế

Cô đơn lay phận buồn

Nay ta lay giấc mộng

Mộng-thật trả về không.

Lầu đầu như lần cuối

Bước lãng du không cùng

Thiên thu mơ còn đọng

Bên thềm hạt bụi rơi.

49. Nguyên xuân

Quê người ở

tận nơi đâu?

Hỏi trăng rằng

tận bước đầu phù du

Hằng sa hạt,

đỉnh phù hư

Lạnh dòng nước chảy

sa mù tử sinh.

Hỏi hoa rằng

bướm tự tình

Sắc khoe bóng lệch

lịch kinh thương ngày

Nhụy vàng

nắng đọng màu phai

Vết loan hoen lổ

thời phai từ nguồn.

Hỏi mây rằng

cũng một giòng

Mưa tuôn cuối bãi

đầu truông chân trời

Ngược xuôi

mấy nẻo luân hồi

Nghìn năm mây vẫn

một đời lênh đênh.

Hỏi sông

nước bỗng buồn tênh

Cầu xưa bắt nhịp

tử sinh bao đời?

Nước xuôi

chảy một dòng thôi

Đến đi nào biết

bóng đời hằng đang.

Hỏi sương,

lá cỏ mơ màng

Giọt vang cuối lối

muộn màng chiêm bao

Buồn trông

mắt lá sương mờ

Ảnh trầm gương cũ

bóng mờ nhạt phai.

Hỏi cây

gió động trăng cài

Đong đưa liễu phấn

hồng phai trước thềm

Mai vàng

chớm nụ hoa đơm

Mấy mùa xuân lại

dưới thềm bước qua.

Hỏi sao,

trăng sáng một màu

Ngày qua ráng nhạt

bên cầu cuối sông

Tường rêu

xanh ngắt một dòng

Mưa qua còn để

dội trong sương mù.

Hỏi ngày

đêm vọng thâm u

Bóng đen quá khứ

trầm u bước dài

Tưởng người dưới nguyệt

một mai

Soi trăng lệ nhỏ

ảnh cài lung linh.

Hỏi người

im lặng làm thinh

Buân quơ tóc xỏa

vô tình gió say

Hương trời

gió nội my cay

Một thân phận nhỏ

chiều ngây ngất lòng.

Hỏi da

thịt trả lòng vòng

Đất thưa hạt bụi

một lòng mà ra

Trăm năm

trên cõi ta bà

Thiên thu trong cõi

hằng sa đất trời.

Hỏi trời

đất trả rằng ơi!

Tận nguồn vô thỉ

cuối đời vô chung

Quê nhà

chỉ một bước chung

Đến đi mất dấu,

nghìn trùng nguyên xuân!

50.Hồi đầu

Nước từ

mây quyện hằng sa

Nghìn trùng cát bụi

vào ra cho dù

Mênh mông

khói đọng bờ hư

Khí phân sắc nét

nguyên như vui phiền

Già lam

bóng rợp hai miền

Thượng thừa một cõi

phước điền vọng đưa

Nhớ ngày

giọt nắng chiều mưa

Đọng qua ký ức

đong đưa phận người

Tử sinh

bước một

hai đời

Đầu truông cuối nẻo

gọi mời lãng du

Thì thôi

cũng mặc phù hư

Nhìn mây lãng đãng

sa mù vây quanh

Hồi đầu

bóng hiện tinh anh

Một lần nhận diện

để thành thiên thu.

51. Trăng lên

Bờ trăng

đáy nước đôi đường

Nửa pha màu sắc

nửa nhường thu không

Có-không

huyễn tưởng vô thường

Xem ra hư-thật

sao lường được đây?

Triều dâng

sương đợi nguyệt đầy

Dấu chân du mục

nhớ ngày nguyên sơ

Bước đầu

cuối dặm bơ vơ

Còn nguyên sơ mộng

bên bờ trăng lên.

52. Đi về

Rỗng rang

một cõi đi về

Đến đi mất lối

đường về chân không

Ngược dòng

sóng vỗ đầu non

Chim non bỏ tổ

ngọn nguồn bay xa

Đường về

nào biết gần xa

Hiện thân một cõi

quê nhà mây bay

Hôm qua

mộng vỡ trời tây

Sáng ra chim hót

vườn đầy ráng vân

Đưa ta

huyệt hạ phù vân

Để cho lệ nhỏ

một lần rồi thôi

Thiên thu

đọng lại một đời

Một lần thôi cũng

ngậm ngùi nghìn năm.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: