VĂN HỌC NÔNG THÔN-Lenghiabk05
TRẠM XÁ LÀNG
Tôi biết ơn bà chủ quán mến khách với lời dặn chu đáo: “Cô cứ đi hết sáu khúc ngõ, bước qua cầu thấy cái biển gỗ có hai vệt đỏ đè lên nhau là trạm xá làng”.
Đi hết hành lang ngôi nhà lớn nhất tôi dừng bước trước cửa phòng có treo biểu “Thường trực”. Trong phòng một người đàn ông và năm cô con gái đang trò chuyện vui vẻ. Tôi rụt rè cất tiếng chào và nhận ra đủ “sức chiến” của sáu đôi mắt tròn xoe. Bất thần người đàn ông vỗ tay đánh đốp, xởi lởi:
Cô Ngân đấy à? Vào đây! Vừa nhận được thông báo hôm qua chiều nay thực tập sinh có mặt. Kỷ luật cực cao. Đón bạn đi, các cô!
Cả năm người ào ra. Người đón nón. Người đón túi. Hai người cầm tay tôi đón dắt vào tận ghế “Hắn thật kèng” –một người nhận xét.Tôi nóng ran người. Lại một người vỗ eo tôi mạnh như thụi, tay kia khoát rộng:
-Hắn là Kim Ngân, họ Phí trung cấp y, chúng tớ biết từ hôm qua, trên giấy. Tớ đây là Hà –dược. Cạnh hắn là Hà –sản. Hắn kia là Mai,hai hắn kia là Lan và Thủy. Người đeo kính chễm chệ bên bàn là trưởng trạm Toản, ngũ tuần đấy nhưng không thèm ngồi lên ngôi chú bác. Anh, anh tuốt tuồn tuột…
Cả trạm cười tưởng bay cả ngói. Các cuộc đón tiếp vui vẻ, vồn vã cả xuồng xã nữa, đã dánh tan trong tôi những ngần ngại ban đầu. Chợt anh Toản gỡ kính gõ gõ lên mặt bàn:
- Rồi chuyện mệt. Giờ thế này nhé! Cac cô chưa đủ sức bao cái kim Phí Kim Ngân đâu. Cho việc ăn uống cửa noánh sẽ lo. Còn ngủ, các cô lạ gì, con gái nằm đâu vui đấy. Cai Ngân như em út trạm xẽ lần lượt ngủ với bà xã anh, các cô, cả cụ Lãn bà nữa. Coi như xong thủ tục công tác. Gời hai cô ù về bảo chị làm cơm cả trạm. Ngon vào!
Bữa cơm chiều nay thật vui. Cả trạm quây quần quanh bàn ăn như tiệc. Tiệc gà, cá chép, cơm gạo quê tráng ngần…Hà –được đề nghị cụm ly “vì sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân”. Tôi mời vào bữa chưa hết lượt, Hà –sản lắc đầu, đặt bạt xuống mâm nghe đánh ‘cạc”
-Hỏng !
--Món nào mặn hả cháu? –Viện trưởng hỏi. Lãn bà và viện trưởng đông y là biệt hiệu của cụ . Hồi –người trông coi vườn thuốc nam kiêm hộ lý trạm xá làng .
Không ạ- Hà- sản lắc đầu –Đã có thông báo mà Kim Ngân cứ quên hoài. Xưng hô anh chị em, hắn, tớ, cho bình đẳng người ta đi.
Cả mâm buông bát cười. Quả thật vợ chồng trưởng trạm năm mươi nhưng vẫn còn tươi trẻ như mới trạc tứ tuần. “Nhàn cư dư thực lại phi nông din thì mẹ đốp chẳng thua Kiều” –sau này trong lúc vui truyện Hà –sản nho nhe văn học thế .
Ngày thực tập đầu tiên cho tôi theo cách nói của anh Toản là “đưa sinh viên đi vãn cảnh trạm xá làng”.
Ngôi nhà chính bốn gian. Có lẽ là “bộ mặt” nên được lợp ngói xi măng. Hai gian đầu là phòng hỗ hợp “trực – khám – họp”. Hai gian tiệp là quầy dược. Goị là quầy những nội thất chỉ có chiếc bàn, cái ghế, cái tủ gỗ. Trong tủ có mấy cái lọ thủy tinh rỗng, dăm chai rượi đông y sủi bọt chắc vì để lâu. Trên nóc tủ có vài bao tải bốc ra mùi lá cây ẩm mốc lưu cữu.
- Nó thế đấy- Anh Toản giải thích- Cũ rồi cái công thức bác sĩ khám kê đơn, dược tá bán thuốc, y tá tiêm. Bây giờ đời mới y bác sĩ kiêm tốn luôn viêc của y dược tá và ngược lại. Bán thuốc, tiêm chọc trở thành khâu liên hoàn thuận tiện cả đôi bên. Nhưng cái chính là theo cơ chế mới “quầy dược ở trong buồng nhưng ai có tiền, có thuốc. Trong tủ con buôn…”
Ngôi nhà dành cho người bệnh ba gian khá rộng. Có mười hai giương đều không chiếu. Một nửa số giường không có giát và bốn chiếc chân được thay bằng gạch kê. Cả ba phòng đều lạnh lẽo hôi ẩm chứng tỏ đã rất lâu không có ngượi đặt chân vào. Phòng nội chú mà không có người bén mảng thì lạy trời…đó là điều lý tưởng của ngành y. Nhưng anh Toản nhìn xói vào tôi
- Đáng lên báo, mục phê bình hay vui cười?
- Dạ…-Tôi ấp úng:
- Cô thì dạ dạ…Còn anh thì thế này: Bệnh nặng thì lên tuyến trên, cơ sởkhông có điều kiện. Ở trạm xá làng thuốc men đâu? Ai phục vụ? Rách việc lắm! Với lại động ốm là nằm trạm xá thì lấy cái gifcung phụng dạ dày. Rồi bệnh viên tuyến trên, đám bác sĩ tại gia vặt ai mà sống. Trạm xá bây giờ chỉ là hình thức cơ cấu. Nó trở thành xưởng phụ cô ạ. Xưởng phụ của bác sĩ làng.
Khu nhà ba gian lụp xụp hơn cả vẻ ấm áp, nhộn nhịp hơn. Gian đầu chắc là bếp vì có dãy kiềng gạch. Gian giữa, phòng khám phụ khoa độc nhất chiếc bàn sắt mạ, một chân tạp gỗ, trên mặt bàn chỏng trơ đôi mỏ vịt. Phòng đẻ, gian chót, ngoài bàn sản phụ có thêm đôi xô, chiếc cân quang treo. Nền nhà còn láng nước chứng tở ít lâu có đúa trẻ chào đời: Cả ba gian đều trổ cửa hậu nhưng không còn song, được che bằng chiếu và phên cót. Đứng trong nhà nhìn rõ cái ao lớn phía sau, cỏ rả um tùm lút chân tường:
Khép cửa phòng đẻ, anh Toản cười nụ:
- Gía phụ nữ đẻ đừng có nước non thì trạm ta được nơi lý tưởng.
- Sao thế ạ?
- Mấy năm trước trạm ta ở ngã ba làng, gần khu dân cư, tiện trục đường cho cấp cứu. Những đoàn quy hoạch nông thôn năm Hai Nghìn xơi hết hai tạ thịt quy ra lợn rồi ném lại một mớ bản vẽ. Tìm được chỗ thuận lợi vừa san nền xong thì huyện lại bảo không được. Chỗ ấy gần chùa, khu văn chỉ, trạm xá bao nhiêu thứ bẩn thỉu ô uế, mất cảnh quan v.v… Nơi ấy bổ sung quy hoạch Hai Nghìn là khu văn hóa giải trí của nhân dân. Văn – giải cóc khô gì! Nó là tư điền của Bí thư huyện rồi. Trạm ở chỗ tứ bề nắng gió, đồng không mông quạnh. Nhưng có cái tiện là bao thứ bẩn thỉu có lối xuống ao. Ao ra ngòi. Ngòi chẩy ra sông…cứ thế,sạch tuốt môi trường. Cô nghĩ sao?
Rõ ràng trạm xá không y tế chút nào. Tôi nói thẳng với anh Toản những nhận xét của mình. Anh Toản gật đầu
- Cô có tinh thần cao đấy. Dựa vào sức người, tình người để làm cái trạm xá ra cái trạm xá. Nhưng cô ơi, lãnh đạo còn lo việc quền binh. Dân tình phải lo cái dạ dày. Mọi phong trào quần thực dĩ là vô làm. Ngân sách đầu tư chỉ là chuyện trong mơ và tự thu tự chi. Lương bác sĩ quy ra thóc giỏi lắm được sáu lạng. Ăn gì để dốc tâm vào sự nghiệp bảo vệ sức khỏe? Họ phải hành nghề tại gia là lẽ đương nhiên. Về làng thực tạp ắt cô hiểu vì sao trạm xá thời nay là xưởng phụ. Trạm xá đích thực ở tại gia những ai võ vẽ kiến thức tiêm chọc, có tiền, có thuốc
Trở lại phòng hỗn hợp, tôi giúp anh Toản căng lại tấm ri đô màu cháo lòng chi chít vết vẩy mực, thuốc đỏ. Tôi toan dọn nền nhà vương đầy mẩu bông, mẩu thuốc lá…thì trước cửa suất hiện ba chị trung niên bế ba cháu bé. Cả mẹ và con đều lếch thếch tã tàng. Có lẽ vì tôi là người lạ nên các chị xét nét bước vào ghế dành cho bệnh nhân. Ba đứa bé lả đầu vào vai mẹ, bàn tay khẳng khiu bấu chặt tay áo như sợ ai giằng ra. Mồ hôi lưu cữu, có mùi gì đó tanh tanh như ẩn đâu đó chợt cốn lên.
- Làm sao nào?- Anh Toản hỏi.
- Cháu nhà em khóc suốt đêm như bị ma ám.
- Con bé vừa nôn vừa ỉa anh ạ
- Thằng cu nhà em…- Người thứ ba mạnh bạo hơn
- Anh xem nó vẫn ho ra rả như cuốc hé lại ỉa tổng tổng như tháo cống.
- Được rồi! Anh Toản gật đầu và mở túi thuốc đưa cho người người đầu tiên và thứ ba viên thuốc, anh lắc đầu nhìn người thứ hai – Con bé nhà cô ba đợt liều cao thế vẫn không chuyển phải đưa nó lên tuyến trên vậy thôi.
Người phụ nữ ôm đứa con vào lòng. Gương mặt chị đờ đẫn, đôi mắt mở to như đứng công việc cực kỳ khẩn thiết nhưng vượt quá khả năng của mình. Anh Toản vừa mở cặp giấy tờ. Chị bế đứa con lao lại thì thào:
- Nhà em và cháu còn nợ anh mấy lần tiêm nhưng quả thực nhà em phải trận ốm vì di te đêm để kiếm cho các cháu thúng gạo nên chưa thanh toán được. Anh đã thương xin thương cho chót. Anh ghi sổ… mùa sau thế nào em cũng xin vâng. Chứ anh cho cháu đi viên huyện alij như hôm nào con nhà Ban không có tiền nộp viện phí ngay lại bế con dọc đường thì…
Anh Toản thản nhiên cười như gặp vấn đề đơn giản quen thuộc. Anh ấy gấp cặp, mở túi hộp bơm tiêm núp trong bàn tay múp trắng của anh; Tôi vẫn thấy lượng thuốc quá ít cho căn bệnh và tầm tuổi đứa trẻ. Its ngày sau tôi phát hiện cả trạm điều trị kiểu nhỏ giọt, tôi nói thẳng điều ấy với Hà-sản- Hà thản nhiên ; “ Một liều thật cao, cao thì tiền cao bảo bác sĩ chém đắt. Một liều vừa nhỏ vừa dễ tính tiền lại được tiếng chữa rẻ. Nông dân quen tinh tiền theo phat tiêm hắn ạ. Bác sĩ đảng viên hay không đảng viên đều thế cả”.
Buổi chiều trở về, vừa qua rãnh nước anh Toản sực nhớ nhủ tôi cùng quay lại: “Để lấy cho chị cô mấy củ riềng kho cá mè. Nhân thể mời sinh viên thăm vườn đông y”.
Vườn đông y khá rộng dễ đến bốn sào Băc Bộ nhưng nếu không có mấy gốc dành dành, riềng, luống ngải cứu …thì dễ tưởng đấy kaf khu vườn hoang hoặc bãi đá bóng trẻ. Như biết tôi thắc mắc, anh Toản đón trước
- lãng phí đất quá hả? Mấy năm trước nó lá vườn đông y màu mỡ cũa huyện đấy. Mười năm cụ Lãn ông, Lãn bà phần lớn là phụ thân của cán bộ xã mỗi năm thưởng ngót chục tấn thóc để sản xuất ra vài tạ sâm hành, nhân trần… Bán chác chả sao. Còn kê đơn, nông dân ốm ưa xài tây y cho mau khỏe để đy kiếm cái ăn ai hơi đau ngồi chờ sao-sấy-sắc. Thật thu một chi mười, đại lạm phát…
Anh Toản bỏ lời, nhìn xói vào mấy luống húng. Rồi anh lớn tiếng:
- Ba viện trưởng đâu rồi?
Đang lúi húi quét lá ngoài vườn , cụ Hồi buông chổi chạy lại. Anh Toản chỉ vặt húng:
- Ai hái như trâu vặt thế này, cụ?
- Tối qua nhà Chí hái về nấu cơm đêm cho đảng ủy họp ăn.
Anh Toản gật đầu bước lại khóm riềng. Bất thần anh lấy bàn chân hất đổ mấy cây riềng bị bứt củ thân còn tươi nguyên dụa vào khóm.
- Lại cả khóm riềng này nữa. Lấy củ sao cụ không đưa cuốc cho họ bới mà lấy tay giật cả khóm thế này. Lấy một phá mười. Chết thật!
Cụ hồi vội nhổ bã trầu:
- Âý, con vợ phó chủ tịch đấy! Cha tổ nó! Trưa nãy nó đến lấy tôi bảo chờ để tôi chêm cán quốc thì mùng thất họ mới được nâng cuốc à? Cha tổ nó! Mồn nói tay giật, quá cánh vợ phó tổng thời tây. Cha tổ nó…
Đến chết cười với cụ Lãn bà. Ra khỏi vườn, anh Toản buồn buồn giọng:
- Không moi đâu ra cái vốn cho cái vườn, anh muốn phá béng, giao đất cho nhân viên tăng gia, nhưng lãnh đạo xã quyết để. Cô biết vì sao không?
- Để tìm vốn đầu tư lấy lại tầm vóc điển hình.- Tôi thật thà.
Anh Toản cười phá lên;
- Cô ngố lắm. Cái vườn để hoang là do luồng gió đổi mới đấy. Trước đây, cán xã, cán huyện đánh chén tì tì.
Đám phục vụ bạ nhà ai cũng bổ vào xin rau thơm. Giờ thời đổi mới họ vẫn ăn tết quanh năm nhưng kín đáo hơn. Ngày nào, bạ nhà ai cũng vào xin gia vị khác nào bày cỗ giữa ngã ba. Dân họ biết bỏ mẹ cả lũ. Vườn thuốc đông y trở thành nơi cung cấp gia vị. Đám phục vụ, vợ con cán bộ cứ việc đến lấy. Có gặp ai dễ thoái thác: “Đi hái lá thuốc, lá xông”.
Một chiều, trong lúc anh Toản đi bắn chim, bưu tá xã đến đưa giấy mời họp. Anh về đọc qua rồi bảo tôi:
- Mai đến phiên cái Thủy đi họp. Lát nữa cô tạt qua nhắc nó hộ anh
Giấy mời ghi rõ tên trưởng trạm. Chắc anh Toản ở ngoài nắng vào lóa mắt đọc nhầm, tôi nhắc lại. Anh cười:
- Ở làng họp triền miên. Cuộc họp nào anh cũng đi với tư cách trưởng nghành thì lấy ai trực trạm. Vì thế anh quy định giấy mời của đảng ủy, mặt trận: trưởng trạm đi. Họp hợp tác, thanh niên, phụ nữ… Các trạm viên chia đều lần đi họp. Đi họp cốt cho đủ mặt ngành giới chứ vấn đề y tế mấy khi có vinh hạnh là một đề mục thảo luận. Với lại ở làng họp là có chén, có quà, chí ít cũng phải biết chia nhau.
Cuối tuần thực tập thứ ba của tôi, Hà – sản trúng quả “bóng bay ca pốt”, Lan vào cầu lô “coóc-ti-dôn” quá hạn, chung nhau đãi cả chạm kẹo dừa, lạc rang. Gần tàn tiệc ngọt, có một vị trung niên bước vào. Tôi nhận ra ngay ông phó bí thư đảng ủy thường đến tiêm ở nhà Lan và cười tít khi lan gọi đùa “ông phó đầu đảng vâng dạ ạ ơi” .
- Ông xem sao đau ngực quá –“ Phó đầu đảng” nói và ngồi cạnh Lan, như vô tình huých người vào vai cô.
- Chuyện vặt – Anh Toản nói và ra hiệu cho tôi mời nước rồi xoay mở tủ thuốc. Tiêm xong anh ấy bao thuốc đầu lọc về phía phó bí thư – Cầm cả mà hút. Ổn rồi! Phó bí thư đút bao thuốc vào túi, ngồi một lát rồi cáo lui. Lạ quá! Trừ tôi với anh Toản tiễn bằng lời, còn lại tiễn chào bằng những cái bĩu môi, lừ mắt. Lan xì công khai:
- Trông thế mà quỵt của em mấy lọ bi.
Như chờ mãi mới có người khơi mào, Thủy lên tiếng:
- Vợ lão cũng nợ em ba đợt tiêm từ năm ngoái.
Hà – sản thở hắt ra:
- Em mới chạy được tí vốn làm ăn mà vợ chủ nhiệm, rồi tay phó chủ nhiệm chơi mấy đợt tiêm chịu, cạn cả rồi. Tay phó không cho khám cứ nằng nặc đòi “ăm-pi” liều cao. Nhìn mặt, em dám chắc hắn bị nổ. Không nể anh thì em vặt cho biết mặt.
- Họ cũng tha gì anh – Anh Toản khoát tay – Nhưng các em khỏi lo. Trạm ta dù sao cũng phải cống tý chút vì cái mục chuyên doanh khám tai gia. Cán bộ và gia đình họ ai nợ? bao nhiêu ? Các em kê biên ra giấy hôm nào kiểm kê anh sẽ ấn vào mục đóng góp ngân sách xã.
Tất cả cười nhẹ nhõm. Lan tỏ ý không vui:
- Anh gắn lọ “cooc” với ngàn ga-ma “mười hai” hắn khỏi ngay thì bon em vặt vào đâu nữa.
- Lần này phải thế. Sắp tới đại hội đảng bộ ông phó cần có sức khỏe để đấu đá kẻo rồi lại trách y tế không chăm nom sức khỏe cán bộ chủ chốt. Dịp này xem ra ông phó khỏe mạnh mà năng tới trạm. Chắc phòng trước việc đổ là do sức khỏe, nếu trúng lại vỗ ngực: tôi yếu đau nhưng dân giao việc thì phải cố gánh.
Ngừng một lát như để nhớ, anh Toản nói tiếp – Toàn quốc giảm biên, quyền lực sẽ tập trung vào số ít người, cái tốt cái xấu đều vào cuộc đại chiến. Làng ta kỳ này đấu đá chắc nảy lửa. Họ Trần đang lên chân nhờ có dân hưu trí hộ vệ. Nhưng xem ra cánh họ Đặng cũng không vì thế mà xuống chân. Nhờ việc xây hội trường, nhà trẻ, họ đã kéo được cánh họ Đào về phe mình. Nhưng tình hình trận mạc lại căng vì lâu nay cỗ bàn, cán các cấp hay ăn ở nhà tay chủ tịch họ Phạm.
- Thế anh ủng hộ họ nào? – Tôi buột miệng.
Anh Toản vỗ tay đánh đốp:
- Câu hỏi rất khá. Anh ủng hộ tất cả các họ.
Cả bọn trố mắt ngạc nhiên. Anh Toản ôn tồn giải thích:
- Trạm ta được như hôm nay, các em làm ăn được như thế là lúc nhờ họ Phạm, khi nhờ họ Trần, người được lòng họ Đào, kẻ dựa thế họ Đặng, làng ta phe cánh có nhiều nhưng xem ra họ Trần và họ Phạm mạnh hơn cả. Cho nên anh tính cả rồi. Bây giờ đổi mới, đại hội toàn thể trạm ta có hai đảng viên đều được đi dự. Như thế anh sẽ bỏ phiếu cho họ Phạm. Cô Hà – sản bỏ cho họ Trần. Hai họ ấy đều có tài vận động, gài người vào ban kiểm phiếu. Qua việc bầu cử hội đồng nhân dân, ban quản lý… các em còn lạ gì. Đại hội ngã ngũ, họ nào thắng trạm ta cũng có phần đóng góp, anh em mình yên ổn làm ăn. Nhân đây anh nhắc cô Hà điều ấy.
Hà – sản dạ ngon ơ. Anh Toản uống một hỏi cạn cốc chè nóng. Một lát anh mở sổ:
- Các em này! Thực hiện chỉ thị của cấp trên và lập thành tích chào mừng đại bộ đảng bộ cơ sở, trạm ta mở chiến dịch đặt vòng trách thai. Ngày mai bắt đầu triển khai. Anh em ta lo việc chuyên môn. Việc mời chị em trong độ tuổi đến trạm là trách nhiệm của ủy ban, cờ đỏ và ban thông tin.
Đêm ấy tôi ngủ ở nhà Lan. Vừa thức dậy đã nghe tiếng loa truyền thanh dóng dả xướng tên chị em trong danh sách đặt vòng tránh thai. Hai đứa ăn cơm nguội rồi ù đi.Tới trạm đã thấy anh Toản và một tốp đàn ông đang trà lá rôm rả.
- Chào “chánh phó lý và các trương tuần đinh viên” – Lan đùa, kéo tôi lướt qua mặt mọi người vào phía trong phòng hỗn hợp.
Đùa tán một lúc, các đội viên kéo nhau đi thực thi công vụ. Hai Hà và cụ Lãn bà đến cùng một lúc. Anh Toản phân công công việc rồi nói vời cụ Hồi:
Cụ ù ra đài xã bảo thằng phát thanh viên nhấn mạnh câu phát thuốc không mất tiền và hai mươi nhăm viên chứ không phải một chục như sáng sớm. Cụ nhắc nó nhấn mạnh mục thóc thưởng, miễn nghĩa vụ… chứ cứ ông ổng phạt với trừ thì có ma nó đi đặt vòng cho. Rồi cụ về phụ việc cơm nước.
Năm chị trung niên xuất hiện trước cửa phòng, sau họ là hai đội viên cờ đỏ tay đeo băng, vai khoác súng trường Mát. Một chị tầm ba mươi khá xinh ào vào phòng dẩu môi nguýt anh Toản:
- Ai khiến ông bắt tôi?
- Bắt cô là chí phải.
- Anh đùa hay thật đấy?
- Đâu có đùa! Cô ba nhóc rồi. Xuống nhà các em nó cho cái vòng để xinh trai. Xuống đi. – Anh Toản xua tay.
- Anh chưa to đâu – Người phụ nữ gằn giọng quay sang ông chủ tịch – Anh… hôm qua em nói với anh thế nào?
Chủ tịch xã vội vàng mở sổ, đeo kính, chăm chú đọc:
- A chết! Tôi quên! Cô ấy có đơn li dị gửi chính quyền. Ông Toản hoãn cho cô ấy đến khi có chồng mới nhé!
- Bắt nhầm! – Anh Toản cười xí xóa. Người ta dẫn một tốp khá đông anh em về trạm. Chắc là bắt tại đồng nên chị nào quần áo cũng vấy bùn. Có chị lủng lẳng giỏ cua bên hông.
Xong bốn ca, tôi lên gặp anh Toản:
- Anh cho người hướng dẫn chị em trước khi đặt vòng. Chứ thế này thì…- Tôi không dám nói hết câu.
- Cứ làm tới đi – Chủ tịch xã phất tay – Nông thôn ý mà. Các bà ấy lẩn như chạch, quây mãi mới rong về đây được. Giơ cho đi rửa ráy khác nào xui các bà ấy biến.
- Để anh làm – Anh Toản nói và băm bổ bước xuống nhà sản. Một lát đã nghe anh quát: “Lên đi… tụt ra… thế… thế…”. Một lát nữa lại nghe anh oang oang: “Đeo cả giỏ cua lên bàn thế à?... Ngửa ra, dạng ra… tốt… tốt…!”.
Được ba ca anh Toản phải lên tiếp bí thư đảng ủy đến kiểm tra. Tôi và Hà phối hợp. Một ca tôi chuẩn bị đưa dụng cụ tránh thai vào vị trí thì có tiếng đập cửa rầm rầm. Hà – dược lao vào: “Ca này có ý kiến của lãnh đạo…”. Người phụ nữ bật lên toan vớ lấy quần. Hà gạt lại: “Cứ nằm đấy… nhưng… hiểu chưa?”. Và Hà ghé tai tôi:
- Bà này bốn gái rồi. Ông chồng cố chết muốn tí thằng cu hương khói, lại là cán bộ thuộc phe phạm nên chủ tịch cho phép đặt lệch đi. Vợ chồng cò chửa là do sự cố kỹ thuật, ông chồng không bị kiểm điểm. Nông thôn nó thế, hắn ạ.
Xong ca “lãnh đạo cho phép”, một người đàn bà sấn sổ bước vào. Chị vừa khóc, vừa leo lên bàn, thổn thức:
- Cha tổ nó! Nó nhốt chị trong buồng, phải gọi cờ đỏ phá khóa các em ạ! Cha tiên nhân nó chứ! Các em cứ đặt cho chị hai ba cái càng tốt. Cốt sao nó ấy vào rồi nó phải ấy ra. Cha tổ nó! Cứ đi mà lấy vợ hai. Chị đủ sức nuôi năm con bé. Chị cần đ. gì cái chức trưởng họ. Chỉ tổ mệt bã người ra…
Gần trưa chị em đứng chật hành lang chờ lĩnh thuốc. Bí thế anh Toản nói đại: “Vô trùng tuốt” tội gì phải nuốt kháng sinh cho thêm mệt người với lại danh sách phát thuốc gửi cả bên “hội phụ nữ”. Thuốc đâu ra! Tôi chợt nhớ tuần trước anh Toản xuống phòng y tế về nắm oạch cái túi lên mặt bàn, ấm ức: “Chui đủ các cửa, giở đủ ngón mà cửa nào cũng trợn mắt lên: “Chủ động tự lo tự cứu…”. Mất cả ngày trời, hai bao Zét mới được chục nghìn bạc thuốc. Để lại hai nghìn anh phát, bán cho đám hay kêu ca, còn lại các em chia nhau…”
Bữa trưa tám mâm bày chật nhà anh Toản. Cán bộ chủ chốt đủ mặt ngồi mâm trên. Như biết tôi sẽ đặt câu hỏi sau nỗi ngạc nhiên, Lan ghé tai: “Ở làng thời nay ăn uống tinh vi hơn. Các ngành giới tiếp khách, liên hoan tại gia sau đó lên phiếu chi”. Cuối bữa, chủ tịch chỉ mặt đội trưởng cờ đỏ, như say:
- Bắt được vợ chồng “lục bướm” tao thưởng hai mâm ngũ món.
Người ta hứa quyết tâm. Sao lại “lục bướm”? Tôi hỏi. Lan, Hà cười phá lên. Té ra là “lục bướm” là thày u của sáu cô gái cách nhau năm một. “Cũng vì- Lan giải thích – trong làng có ông bác sĩ về hưu chuyên tháo vòng chui. Nhờ thế mụ “lục bướm’ được đà xoen xoét: “Tại các chị đặt nó hay lệch sao ấy”. Lần sinh cô thứ sáu, anh Toản vặc cho, mụ thút thít: “Các bác đặt chắc thế thì đúng tại cái lão nhà em. Nó cứ như giặc ấy… Các bác thắt cha nó lại hộ em..”
Ngay đầu giờ chiều người ta đã tóm được vợ chồng “lục bướm”. Bà vợ to như hộ pháp, còn ông chồng còm nhom, xanh bủng như môn đồ của thuốc phiện. Bà vợ xoen xoét: “Em đang có ấy”. Anh Toản nhìn ông chồng và chỉ tôi:
- Cô ấy là chuyên gia sinh đẻ kế hoạch, ông ạ. Mấy lần trước bà trục trặc vì ông mạnh quá. Giờ chúng tôi phải thắt của ông lại.
Nghe thế ông chồng ù chạy để mặc bà vợ bị hai cờ đỏ rong xuống nhà sản.
Thứ hai tuần thực tập thứ tư, tôi và cụ Hồi trực trạm, anh Toản đi họp huyện. Gần trưa anh Toản về trạm. Lúc đi anh nói họp cả ngày mà về giữa chừng hẳn có việc hệ trọng. Quả thế, ngày mai có đoàn kiểm tra tỉnh về trạm. Thông báo rồi anh Toản bảo cụ Hồi:
- Cụ đi tìm mấy đứa đến ngay.
Cụ Hồi lắc đầu:
- Chả có đứa nào ở nhà đâu. Hai cái Hà rủ nhau đi xem bói lá tre từ sáng sớm. Cái Lan đi làm cỏ. Còn cái Thủy đi chợ sắm lễ giải hạn cho anh trai.
- Thì cụ cứ đi nào.
Trưa, các nhân viên đến đủ anh Toản phân công:
- Viện trưởng lo cái vườn đông y. Mượn mấy cái cuốc và xin đâu bó sả, ngải cứu… về đặt ở tư thế sẵn sàng lên luống. Hai cô vệ sinh phòng bệnh nhân. Ba cô lo quầy dược, nhà sản. Tất cả cá co cho mượn giát giường, chiếu một. Rồi anh sẽ tính công…
Chỉ tôi, anh Toản nói:
- Cô Ngân, tối về phụ với chị cắt súc vải hoa Tiệp may ba tấm ri đô. Rồi đi với cái Thủy mượn mấy cái nong to phơi thuốc đông y…
Cả trạm hộc tốc tấn công đón đoàn kiểm tra. Anh Toản lôi trong tủ ra một bó bảng, biểu, phác đồ… Tôi giúp anh phủi bụi, cắt con số mới, dán đè lên số cũ. Cụ Hồi thế mà khỏe, loáng cái đã lôi đâu về hai bó sả, ngải, lại cuốc được luống đất dài.
Buổi sáng ngày đoàn đến, anh Toản mở tủ phát áo blu. Chiếc nào cũng mới cứng, thơm nức mùi hồ vải. Thiếu hai chiếc, anh Toản bảo Lan:
- Cô vù xe máy sang làng Vũ bảo tay trưởng trạm cho anh mượn hai chiếc. Mới vào.
- Lão ấy khó tính lắm – Lan ngúng nguẩy – Lấn trước mượn cái biểu dồ tiêm chủng bẩn một tí mà lão cứ cằn nhằn mãi.
- Cứ đi! Bảo lão tháng trước mượn ta cái bàn để đón đoàn huyện, lúc trả gẫy cái chân anh chưa hỏi đến đâu.
Lan đi rồi, anh Toản giục cụ Hồi:
- Đã bảo từ hôm qua mà cụ cứ đóng bộ tã tàng này thì hỏng ráo! Cụ về thay bộ quần áo khác đi. Nhanh lên.
- Có mỗi bộ lành, tôi cuốc đất bẩn, giặt chưa nỏ.
- Thì cụ cứ về mượn tam ai một bộ. Lúc làm vườn cụ nhớ ngồi ghế chứ ngồi bệt như mọi ngày là mất điểm như chơi.
Cả đoàn áo trắng rồng rắn ra tận ngã ba đón đoàn. Phần cho long trọng, phần vì đường hẹp, nhiều rãnh, cây cối um tùm xe con khó đi. Tôi đảo mắt tìm ngôi hàng hôm nào ngồi nghỉ hỏi đường và… giật thót mình! Như có bàn tay thần thánh, ngôi hàng hôm nào đã biến thành trạm “hồng thập tự” có giường, màn, tủ thuốc… y như thật. Xế cửa một quãng, một tốp thanh niên đeo bình phun, gang tay, khẩu trang tươm tất. Trên đầu mỗi người nổi bật cái mũ có băng giấy trắng, chữ đỏ: “Ruồi – muỗi là kẻ thù phải diệt!”. Đứng chờ một lát, anh Toản sực nhớ, hốt hoảng bảo tôi và Hà – sản:
- Anh quên mất điểm quan trọng. Hai cô ù về phơi mấy bao thuốc đông y cho anh. Sau đó pha mấy chai rượu bổ. Nhớ tăng cồn vào để anh mời khách nếm thử đông y của ta.
Hai đứa tất tả về trạm. Cửa quầy dược vừa mở, hai con chuột cống lao ra làm tôi hết hồn. Lũ chuột con rinh rích chạy trốn. Hà lôi trên nóc tủ, ba bao tải đầy căng. Bao ý dĩ, nhân trần mốc xanh. Bao sâm hành còn tệ hơn, động vào là nát vụn.
- Chẳn sao! Còn đón được mươi đoàn nữa mới chịu vào chuồng lợn - Hà nói và dốc miệng bao vào cái nong lớn.
Phơi xong – mà phơi trên giàn cao để khách ngửi thấy mùi thuốc chứ muốn ngó phải công kênh – Hà phân công:
- Hằn khênh thuyền với cối ra lau sạch, ném vào đấy nắm ý dĩ. Khi nào đoàn đến tớ với hắn sẽ hoàn tán. Tớ ù đi mua vài lít rượu trắng, kẹo đắng về pha rượu đông y. Ngần kia cồn anh Toản bắt pha mười hai chai làm sao được.
Chúng tôi vừa pha xong “kẹo đắng đông y” có ba cụ bà đến xin thuốc tra mắt. Cụ nào cũng che mắt bằng khăn khô đen xỉn.Hà nửa đùa nửa thật:
- Hôm qua sao các cụ không đến? Hoặc để mai có được không? Vừa báo cáo thành tích dứt điểm mắt hột, mắt quặm mà đoàn kiểm tra thấy một lúc ba cụ “cặp là té” thế này thì chết cả nút!
- Nhưng nó đau quá cô ơi! – Một cụ thì thào.
- Cứ phát cho các cụ - Tôi bảo Hà và vội vàng rửa tay khám mắt cho các cụ. Cả ba đôi mắt đều ướt nhèm, mọng đỏ, hậu quả của vệ sinh kém và thiếu sự chăm sóc y tế.
Hà mở tủ lấy ra ba ống sun phát kẽm nhưng không phát ngay mà ghé tai cụ thì thầm. “Ừ… ừ… đoàn đến tôi sẽ nói y lời cô dặn”. Một cụ nói. Một cụ gật đầu. Một cụ cười phô cặp lợi không còn một chiếc răng: “Lạy trời cho ngày nào cũng có đoàn kiểm tra…”.
Một tối, làng có vi-đê-ô, anh Toản chiêu đãi cả trạm. Trước lúc đi Lan đưa cho tôi một lưỡi dao cạo râu. Tôi ngớ ra, Thủy vỗ vai:
- Hắn ngố thấy mồ! Bọn con trai bây giờ hơn cả quỷ sứ. Chúng nó lợi dụng đông người bóp trước chọc sau. Thằng nào đểu hắn cứ cứa cho biết đời. Tớ thủ cả hai lưỡi đây này. Tối nay tớ quyết trừng trị cái thằng khốn nạn đã làm bẩn quần cái Mai.
Xem được một lúc thì loa gọi cấp cứu. Anh Toản, tôi, Hà dược lao về. Người bệnh là cô gái tầm tuổi tôi, rất xinh, mốt đến tận răng. Cô chợt mắc bệnh phụ tình và tự chữa bằng thuốc chuột. Anh Toản nới dải vải cô thít bụng dấu thai, giục tôi đi pha thuốc. May cho cô gặp được bác sĩ giỏi nghề chứ không hậu quả sẽ khó lường nổi.
Nửa đêm cô gái tỉnh táo hẳn. Anh Toản thủ thỉ:
- Hoàn cảnh mày tao không lạ. Tao sẽ kín nhẹm chuyện này. Lần sau rút kinh nghiệm. Nó lo sắm sanh quần áo, son phấn cho thì mày cũng phải thủ mấy cái ca-pốt phòng lúc sinh sự chứ…
- Nhưng nó hứa lấy em…
- Thằng ôn ấy bố nó thế có hứa cái con khỉ. Cố ngủ lấy một lúc. Tao dặn chị mày nấu cả ba bốn suất rồi.
Cô gái bật dậy khỏe khoắn không ngờ:
- Anh cho em về ngay bây giờ. Đã đến nỗi này bố con nó chức to đến mấy em cũng không kinh.Chết em cũng viết đơn tố cáo bố nó hay ăn nằm với bà… Còn nó, ngay sau tối lễ kết nạp đảng nó ăn nằm với con Hòa suốt đêm ngoài bãi…
- Thôi ngay đi – Anh Toản gắt – Con kia nó nằm thì mày đứng à? Với lại ai xin cho em mày đi tây? Hồi nọ bố mày làm nổi nhà máy bằng là trúng xổ số hay thánh giúp?
Cô gái đờ ra rồi ngã vật xuống giường. Chiếc giường và tấm thân đẹp của cô rung lên theo những tiếng nức nở.
Trở lên phòng trực, tôi và Hà trần trọc không sao chợp mắt nổi. Đếm dỗ ngủ đến hai nghìn Hà kéo tôi ngồi dậy, kể chuyện linh tinh. Thoạt đầu là chuyện tình của cô gái uống thuốc chuột. Rồi lan man đến chuyện phe, họ cán bộ ở làng. Phe nào ngoài chuyện lem nhem kinh tế cũng không ít vụ bê bối tình ái. Mấy năm trước vì mối bất hòa nào đó anh Toản công khai cái thai của cô thủ quỹ với ông anh họ kế toán. Từ đấy cán bộ xã, một số cán bộ huyện dù thuộc phe họ nào cũng phải kiêng nể trưởng trạm xá làng. Nhờ nắm trong tay cái “tròng tạm tha” nên anh Toản và các nhân viên dễ bề làm ăn lắm…
- Một con người khôn ngoan – Hà nhận xét về anh Toản như thế rồi lan man – Anh là bác sĩ giỏi có tiếng đã khám chữa cho ai thì hết lòng. Anh chị Toản sống tình nghĩa, hào phóng: Quả thế, các bạn, bà con tôi quen biết đều dành cho anh chị Toản những lời tốt đẹp. Nhiều lần huyện có quyết định điều lên làm cán bộ phong trào nhưng anh đều từ chối. Vua làng hơn quan huyện – Đó là lời bình của cụ Hồi về việc ấy. Lan thì nói: “Ông ấy mà lên huyện thì cánh tớ bị đánh bật khỏi trạm ngay”.
- “Thời cũ khua khoắng ních đầy két rồi. Nay đổi mới làm người cưỡi ngựa xem hoa, lúc im như hến, lúc phán như trời. Một mạnh thường quân có tính toán”.- Hà kết luận. Tôi hiểu nhận xét ấy Hà muốn giành cho trưởng trạm. Có thiếu chính xác và khắt khe quá không? Hà – dược là cô gái hiểu biết sâu sắc nhưng hay dùng lời lẽ cay độc. Nhớ một buổi tối bí thư đảng ủy và anh Toản tranh luận về những đổi mới ở làng. Hà chêm một câu thẳng thừng: “Cái mới ở làng ta là y nguyên như cũ. Đổi mới là cái cũ tinh vi hơn, xảo quyệt hơn”. Qua thực tế ở làng và tình cảm mọi nguwoif đối vơi Hà, tôi tin câu nói ấy là xác thực.
Anh Toản về nhà trở ra với xoong xôi ăng gô thịt gà. Chúng tôi ép bằng dược cô tự tử cùng ăn. Đang ăn, Hà chống đũa nhìn anh Toản:
- Một tuần nữa Kim Ngân hết đợt thực tập mà tận bây giờ anh mới nghĩ ra một việc cần cho nó, cả anh chị nữa.
- Việc gì thế? – Anh Toản hỏi dồn.
- Chúng em bắt nó xưng hô “anh chị” với anh là dở hết chỗ nói. Trong khi đó cả làng này chưa thấy có cô nào xứng đôi với cậu cả nhà anh bằng Kim Ngân đâu.
Anh Toản đờ đẫn một lát rồi mới gượng cười được. Chính điều ấy khiến tôi đỏ mặt hơn. Anh chị Toản có hai người con. Người anh là sĩ quan quân đội, người em du học bên Tiệp. Chỉ nhìn anh cũng biết họ là người trong mơ của phái yếu đuối tuổi yêu đương.
Tảng sáng có ca đẻ. Sản phụ ở xa trạm lại thiếu hướng dẫn y tế nên nước ối sũng lòng võng cáng. Tôi bảo Hà đừng đánh thức anh Toản. Hai đứa dìu sản phụ lên bàn. Hà líu ríu:
- Chị được dùng xô bàn mới, sướng nhé. Cảm ơn cái Ngân đi. Nhớ mời nó ăn cỗ mụ nhé…
Lời Hà khiến tôi nóng ran người. Từ ngày về thực tập tôi và các bạn cùng trưởng trạm làm được một số việc. Bộ mặt và phong cách làm việc của trạm có những thay đổi, tiến bộ đáng kể. Chả hiểu các bạn tôi nói sao mà nhiều bà con hễ gặp là cầm tay tha thiết: “Có biết thương làng thì về làng nhé”, “Về cho chúng tao nhờ vả lúc ốm đau nhé...”.
Một ca mẹ tròn con vuông. Đứa trẻ bụ bẫm đẹp như tranh. Ôi! Sẽ chẳng bao giờ tôi quên được giây phút lần đầu tiên tự mình đón đứa trẻ ra đời. Tiếng khóc chào đời của cu cậu mới tuyệt vời hạnh phúc làm sao! Oa…oa nhé. Lại tóp tép miệng đòi ti ngay nữa chứ!
Lại một tuần trôi qua với biết bao công việc đã khép kín sáu tuần thực tập của tôi bao cơ là bao cơ chuyện trong năm tuần và một cuối cùng ấy. Nhưng… bạn thân mến ơi! Dịp khác nhé. Xin chờ dịp khác nhé.
MỘT MIỀN KHẮC KHOẢI
Câu truyện này xin bắt đầu từ một đêm trăng. Trăng lên. Cả nhà tôi ngồi quanh đống lúa chọn giống cho mùa sau. Bà tôi cầm len nẹn lúa, quay qua thầy tôi:
- Thầy u con Na này. Mai cho tao ra đồng cắm cái niềm, ăn bữa cơm đầu bờ lần nữa. Chứ tao nghe ra khó được trông thấy mùa sau.
- U…chỉ nói gở - Thầy tôi gạt đi.
U tôi nhẹ nhàng:
- Chúng con xin khất u buổi khác. Chứ mai gặt chân trũng, lúa đổ mệt lắm.
U tôi nói rối nhưng biết làm sao khác. Vì lòng thương, lòng kính trọng người già. Tôi vào hùa với u:
Cánh vục Ấu lầy lụt, lắm đỉa lắm. Để hôm nào gặt đồng cao bà nấu cơm gánh ra đồng như mùa trước ấy.
Cha tổ cháu bà – Bà chửi yêu, cầm lên nẹn lúa thích lại với chị em tôi thủng thẳng:
- Tháng trước lên đền Mẫu Lễ khai hạ, bà nhờ cụ từ đảo xem bát hương bản mệnh các cụ bốc cho thời con gái. Đồng trinh thất bảo xỉn mục. Lại mấy hôm bà mơ thấy cụ Tú Trâm. Cụ về nói chuyện ngày xưa rồi bảo;“có việc cần làm sao chưa làm? Làm đi rồi ta cho đi hội đền Cha”. Bà gặng hỏi việc gì. Cụ lắc đâu chỉ tay ra phía bờ sông. Nhờ lời cụ đêm qua, tháng Tuất này bà đi hầu các cụ.
Chị em tôi cười khúc khích. Tháng Tuất là tháng sau. Bà đã ngoài tám mươi nhưng còn mau lẹ đủ việc, lời bà đích thị là thoáng lẩm cẩm của tuổi già. Vĩ nhân về già lắm khi còn quá lẩm cẩm nói chi người thường. Tôi buột miệng:
- Mộng mị buồn cười lắm. Bà tin làm gì cho thêm mệt.
Bà tôi như không nghe thấy.
- Đêm nay thế nào cụ cũng về. Bà sẽ giữ cụ hỏi bằng được xem việc ấy là việc gì. U tôi bật cười. Thì ra u chỉ dành nửa tâm cho cuộc thì thầm với thầy tôi.
Hôm sau, hôm sau nữa… cho đến buổi gặt cuối cùng vẫn không thấy bà nhắc đến việc đi gặt. Mới hay người già mau nhớ mau quên. Hôm rửa liềm cất mùa sau, cậu út huơ cái liềm xén trêu bà:
- Bà ơi, mai bà cháu mình đi gặt đồng cao bà nhá.
- Cha tổ mày chứ - Bà mắng yêu út, xách xô ra vườn tưới rau.
Không ngờ giấc mơ linh nghiệm. Sau lễ xá tội vong nhân bà tôi ngã bệnh. Triệu chứng ban đầu là cơn chóng mặt, sốt nhẹ. Cậu ruột tôi bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng, khám bệnh cho bà xong kéo thầy tôi ra ngoài.
- Không nên đưa bà đi bệnh viện.Vừa tốn kém lại không giải quyết được gì.Tốt nhất bà thích ăn gì thì mua .
Chiều muộn, cụ lang Mạc sang thăm bệnh cho bà, cụ xem mạch, thở dài lo âu hằn rõ trên gương mặt người bạn già của bà.
Không khí trong nhà tôi trầm hẳn xuống. Mỗi người già lên mấy tuổi. Bữa cơm nào cũng thừa.
Tháng Tuất đang ở những ngày cuối. Bà tôi như cành núc nắc mùa đong rơi xuống đống chăn dầy. Thuốc thang bao nhiêu cũng không đủ sứcđẩy lui con bệnh tuổi già. Duy thần sắc, giọng nói của bà vẫn như thường. Tàn lực vị thần. Đấy là niềm hi vọng của gia đình xóm láng.
Một buổi sáng, tôi ngồi bóp chân cho bà.Hai chân bà ấm,nhẹ nhõm hơn mọi ngày.
- Bà thấy dễ chịu rồi. Bà tôi nói, co co hai chân.
- Ngồi lên bà bảo cái này.
Tôi kê lại bao trấu bà dựa lưng, dỗ dành:
- Cháu lấy cháo bà ăn cho nóng bà nhé.
Để lát nữa, bà tôi nhìn lên trần màn, bâng khuâng – Đêm qua cụ Tú Trâm về chơi. Cụ nói bà mới nhớ ra. Còn sống đến giờ thì cái Tâm nhà ông Chí, cô Nở bằng tuổi bà. Tuổi Tuất, Bính Tuất.
Trời đất, nếu bà không đang ốm tôi sẽ ôm bà cười ra nước mắt. Ai lại đem mình ra vận vào hai kẻ ấy.Tự dưng tôi gợn một thoáng trách bà đã khiến tôi phải nhớ cái chuyện không muốn nhớ.
Làng tôi, đích danh làng Vũ Đại. Chí Phèo, Thị Nở là người hàng xóm tôi. Chuyện cũ đã có người người chép thời mới, tên làng, dù đã có hàng chồng đơn xin đổi, trên không duyệt, đành chịu. Dân làng tôi bằng đủ mọi cách triệt nọc “di tích” mà cụ Nam Cao đem vào văn học hiện đại nước nhà. Khu nhà cha con Bá Kiến được cải tạo thành trụ sở Đảng bộ. Vạt vườn chuối có túp lều cô cháu Thị Nở, giữa những năm sáu mươi được san ủi xây ngôi nhà trẻ mẫu. Cũng những năm ấy khu lò gạch cũ được đoàn thanh nieencair tạo thành vườn ươm tặng hội phụ lão. Đến thế mà vẫn không thoát tiếng tăm. Hồi còn trường cấp hai liên xã trò Vũ Đại khổ sở vì các làng “Ê, dân Vũ Đại kia kìa…”, “Này! Bác Chí nhà đằng ấy độ này còn bợm chứ!”, “A lúi! Thị Nở có họ với hắn à?”… Đại để thế.
Cuối cùng tôi cũng gạt đi được những điều không muốn nhớ! Tôi cầm tay bà lắc nhẹ:
- Cháu hâm nóng cháo bà ăn nhé.
- Bà không thấy đói – Bà tôi lắc đầu, mắt không rời ô cửa sổ hé mở. Hình như bà chờ đợi cái gì đó ngoài kia. Một lát bà thở ra nhẹ nhõm – Làng này khối người biết, nhớ chuyện ấy. Nhưng chả ai muốn nhớ. Bố thế, mẹ thế nhưng trời thương phật độ cho đứa con kháu khỉnh đáo để. Trời bỏ sống thì năm nay trạc tuổi u cháu.
Gắng lắm mới kìm được tiếng thốt kinh ngạc. Chí Phèo, Thị Nở có con. Bà tôi đãng trí đến nỗi này ư. Tôi đã lầm. Bà vẫn nhớ nhiều chuyện thời còn là cô Tảo nết na xinh đẹp có tiếng của làng Vũ Đại. Nhưng mãi đến năm tám mươi bảy tuổi bà mới đủ sức gồng lên vượt qua nhiều ngáng trở để thổ lộ nỗ day dứt nhất đời với đứa cháu bà tin yêu.
Để khỏi mất thì giờ tôi xin tóm lược chuyện của bà thời là cô Tảo chưa chồng.
“…Sáng ấy, trời xui đất khiến thế nào cô Tảo lần ra khu lò gạch hoang cắt cỏ. Quang gánh đến khóm ruối thì cô hết hồn vì tiếng rên rỉ từ trong lò gạch.Hồi lâu trấn tĩnh cô vén lau lách nhìn vào. Thì ra Thị Nở. Thị trần truồng quằn quại trong vòm cửa lò gạch. Chốc chốc Thị quằn sấp, lật ngửa, đập tay lên bụng. Không đành bỏ đi cô Tảo vào với Thị. Cô rùng mình lóa mồ hôi hột. Thị Nở như tắm trong vũng nước ối. Cái đầu đen nhu nhú đang chờ bàn tay đón. Cô Tảo vội xắn tay áo. Chiếc khăn vuông làm tã. Lưỡi liềm cắt rốn.Bé gái bụ bẫm choài choài trên vạt cỏ, khóc toang toáng. Thị Nở lịm đi, mãn nguyện. Cô Tảo úp nón che mặt cho Thị, bế đứa trẻ về vườn chuối trao cho bà cô Thị. Cô tắt đòng trở ra lò gạch. Thị Nở ngủ say như chết. Bị đánh thức, Thị chồm dậy cười hô hố. Thị bước thình thịch như không hề vừa qua cơn vượt cạn.
Làng Vũ Đại xôn xao. Thị Nở đẻ ra con gái đứa bé không giống cha cũng chẳng giống mẹ. Bé gái ăm ắp lời năng là cô gái đẹp. Nó ra đời đúng hôm cúng bách nhật lão Chí. Người dang tay đón, rửa liềm cắt cuống, chôn nhau là cô gái từng phát lời thề thà chết chứ không cam làm dâu con nhà Bá Kiến.
Đúng ba tháng sau. Tinh mơ đi chợ bán rau, đến cuối xóm cô Tảo gặp cụ Tú. Hình như cụ Tú vừa mãn đêm cô đầu xóm bãi. Cô hạ gánh chào cụ. Cụ gật đầu: “Ta đoán không sai’. Cô Tảo nghĩ cụ đón đường nói chuyện mối manh. Nhưng cô nhầm, cụ Tú ngậm ngùi.
- Đã thương thì thương cho trót. Thế mới phải đạo làm người. Cháu không ngại bẩn thỉu, dang tay đón nó ra đời. Cớ chi không đặt cho nó cái tên. Sơ sinh sắp đầy cữ mà chưa có tên là có tội với trời đất. Mà nó tội tình gì!
Cô Tảo cúi mặt. Cụ Tú nhìn trước nhìn sau, vén áo the lấy lấy ra năm đồng bạc dúi vào tay cô.
- Đưa cho mẹ con nó. Bảo đặt tên là Tâm. Người ấy phải xứng với tên ấy. Ta bấm ngày giờ sinh, xem tử vi, biết hài nhi phải một thời phiêu bạt quê hương. Nhưng có phúc, có phần. Con bé rồi là người quyền quý, sang trọng và đức độ lắm. Chuyện này chớ lộ với ai. Cháu đi đi. Các cụ sắp hết chầu hát sáng rồi.
Cô Tảo run bắn cả người. Phần ngạc nhiên trước thái độ của bậc nho sinh tiên chỉ làng. Phần nữa tiếng là con nhà khá giả nhưng chưa bao giờ cô cầm trong tay món tiền to đến thế. Năm đồng bạc là ngót mẫu ruộng, là hai suất sưu. Cô run rẩy nhấc gánh. Cụ Tú phải giục hai, ba lần cô mới cất bước nổi.
Cô Tảo gánh cả gánh rau vào vườn chuối. Trong túp nều vườn vóng tiếng vóng rống tiếng khóc Thị Nở. Cũng may túp nều khuất nẻo chứ xom riềng khổ sở vì cô cháu Thị. Tối nay Thị với bà cô dở người s hết cãi chửi nhau quay ra khóc than. Cô chửi cháu khóc. Cháu cãi cô khóc. Cứ thế!
Cô Tảo vén mành chiếu che cửa. Thị Nở vật vã giữa nều. Thị ở trần, hai vành vú căng rức, sữa chảy ròng ròng. Ổ lá góc lều có lưng thúng gạo, nắm tiền lẻ. Nhận ra cô Tảo thị chồm lên. Thị gào. Thị đấm hai giành vú. Sữa bắn đầy mặt cô Tảo. Cô níu Thị ngồi xuống dỗ hỏi. thụ chỉ thúng gạo, chỉ mớ tiền. Cô Tảo bàng hoàng. Ai bảo bà cô Thị dở người! Độ gà gáy canh ba mụ dẫn về tốp người buôn chuyến miền ngược. Mụ bán đứa trẻ giá nửa thúng gạo, đồng hai bạc. Mụ bán mình, đi theo tốp buôn người với giá hai cóc rượu ty. Cô Tảo dỗ dành thị và đi hái lá thuốc nhức sữa. Gánh rau muống bị nắng héo quắt đành đổ xuống sông. Trước lúc về cô Tảo đưa cho thị món tiền của cụ Tú. Thị đờ người ra. Thị nức nở.
- Ơn cụ. Ơn cô. Con đứt ruột còn chả giữ được cầm tiền mua gỗ chôn à.
Cô Tảo gạt nước mắt về. Ai bảo Thị dở hơi. Cô thuật lại sự việc sự tình với cụ Tú Trâm , cụ Tú thở dài, bấm đốt ngón tay, lắc đầu.
Phiền cháu giữ giúp ta món tiền ấy. Qua mùa gặt, ắt có việc dùng. Chớ lộ với ai.
Mùa gặt qua đi. Một buổi sáng, người mõ thấy xác Thị Nở nổi bềnh giữa giếng Tiên trước cửa đình. Lý trưởng lệnh cho đám tuần đinh vớt xác buông sông. Cụ phó hội bàn thêm- Phải thay nước riếng thiêng. Cụ Tú Trâm cất lời thu xếp. Thị Nở cởi áo quan, vải liệm và nắm đất góc nghĩa địa làng.
Đang dịp đói kém nhưng đám tang Thị Nở khá đông. Người đưa đám lỉnh kỉnh bị gậy. Mãn họ tản tác đi kiếm ăn. Dân làng Vũ Đại có dăm ba người nhớ, bấm đôt ngón tay tính ra ngày Thị Nở chết đúng hôm giỗ đầu lão Chí.
“- Sau đó đến nay có tin tức gì về cô Tâm ấy không bà”. – Đó là câu hỏi vội vàng và dầy phất phỏng của tôi ngay khi bà ngừng kể.
Bà tôi lắc đầu:
- Tịnh không ai biết mảy may. Ngay cả đường nét mặt giờ gặp bà cũng không nhận ra nổi. Bà chỉ nhớ nét mặt nó đẹp lắm. Bà bế ẵm bao nhiêu đứa nhưng không có đứa nào được như nó. Đẻ ra có tràng hoa cuốn cổ. Có vết chàm đỏ ở lòng bàn tay và nốt ruồi đôi ở của mình. Các cụ bảo đấy là tướng cao sang…
Tôi đứng lên đỡ bao chấu bị nghiêng bởi cơn ho. Mấy hôm nay bà ho nhiều hơn. Dứt cơn bà nhìn tôi khẽ khàng:
- Bình sinh cụ Tú có dặn người con cả, vào các năm Ngọ, năm Mùi tìm cách tìm kiếm con bé về biết quê hương bản quán. “ Thìn, Tị ly thân thích; Ngọ Mùi quy cố hương”. Nhưng anh con cụ gạt đi. Phần anh ta là cán bộ to. Phần không muốn dây vào chuyện không hay, người xấu. Bà cả đời chả được ra khỏi cổng làng, lo nuôi chồng con , quán xuyến việc nhà. Có muốn cất công tìm kiếm cũng không được. Mà cũng không dám nhờ vả ai. Có lần nói với thầy cháu việc này, thầy cháu gạt đi: “việc gì đến u. Bao nhiêu công của vẫn chưa xóa hết tiếng sấu. Tìm rước của ấy về nó chửa cả làng à…”
Tôi đỡ bà nằm xuống và đi hâm cháo. Bưng cháo lên, đã thấy bà ngồi dậy nhìn trần qua ô cửa hé mở. Bà ăn cháo cho nóng – Tôi đặt bát cháo vào tay bà. Được vài thìa bà đặt bát cháo xuống, thở dài: - Bao nhiêu năm cứ nghĩ đến chuyện ấy bà nuốt không xuôi, ăn gì cũng thấy đắng ngắt. Đêm rồi gặp cụ tú, bà ngẫm lời cụ thật chí lý chí tình. Nay mai về đưới ấy biết đâu chả hỏi han về con bé. Thì bà biết ăn nói sao. Thà rằng chẳng biết cho xong.
Bà cầm bát cháo lên, xúc vài thìa lại đặt xuống. Muống bà ngon miệng tôi nói:
- Bà cứ yên tâm. Nay mai cháu nhờ đài nhắn tin. Còn sống thể nào cô Tâm ấy chả về thăm quê, thăm bà cháu mình. Việc ấy khó gì ạ.
Đôi mắt mờ của bà tôi sáng lên, tin cậy. Bà bưng bát cháo ăn ngon lành.
Năm ngày sau. Tinh mơ tôi đã ra đồng làm cỏ. Quãng nửa buổi sáng, Đứa em hàng xóm chạy ra đứng đầu bờ, cuống cuồng “Về… chị về…, bà mệt lắm…”. Tôi nhào lên, ngã sấp giữa ruộng. Đường về tôi bám vai đứa em, gắng lắm mới khỏi gục ngã.
Trong nhà tôi khá đông người. Tôi nhào vào giường bà. Tôi lay. Tôi gọi hồi lâu bà tôi khẽ hé mắt. Anhs mawys chiếu vào tôi. Bà gật đầu. Chỉ mình tôi hiểu ánh mắt ngắn ngủi, cái gật đầu yếu ớt của bà. “… Việc ấy đến đâu rồi?…”. Cũng chỉ mình tôi hiểu việc ấy là việc gì! Hỡi ôi! Để bà ăn ngon miệng tôi hứa làm việc nhắn tìm và không chỉ một lần tôi hứa. Và hơn một lần tôi nghĩ đấy chỉ là chuyện bà kể lại cho mà biết. Nào ngờ cả khi sự sống chỉ còn giây phút bà vẫn hi vong, chờ đợi sự giải thoát một niềm khắc khoải. Bà cần một sự thật mang sang thế giới bên kia an ủi hai con người khốn khổ nhất lịch sử làng Vũ Đại. Thế mà tôi. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi lao ra nhà ngoài.
Tôi giật bung cánh tủ lấy ra chiếc đài cát sét ấn nút ghi. Tôi ghé sát cửa máy, cố đánh lạc giọng mình. Tiếng băng chạy rè rè.
- Bà sắp mất… mà mày làm trò gì thế Na? Ai đó quát.
Tôi làm như không nghe thấy. Tôi ấn sẵn nút phát, xách cát sét vào trong buồng. Tôi để máy trên đầu giường, lay gọi bà. Bà hé mắt nhìn tôi. Tôi mở máy. Tiếng băng rè rè. Tiếng người vọng ra:
“Cháu là Tâm… cháu đã nhận được tin nhắn tìm của bà… xin bà yên lòng. Cháu và gia đình đang thu xếp để về với bà, với làng…”
Máy tự động tắt. Đôi mắt bà tắt dần ánh nhìn. Môi bà tắt dần mấp máy. Hỡi ôi. Vào tích tắc cuối đời bà mới được nhẹ nhõm nỗi khắc khoải bám riết cuộc đời từ thời con gái bằng trò giả mạo của đứa cháu bà tin yêu nhất. Biết làm sao được!
Có ai nghe thấy không? Ngày… tháng… năm trong mục nhắn tin của đài phát thanh có lời nhắn: “Cháu gái Tâm, có đặc điểm… Xa quê trong hoàn cảnh… Bây giờ ở đâu? Báo tin cho bà… địa chỉ làng Vũ Đại…”. Hôm ấy là lần phát thứ năm, trùng với bách nhật của bà tôi. Trước đó tôi đã nhờ người bạn làm báo giúp việc nhắn tìm trên mặt báo.
Nếu câu chuyện trên may mắn đến được với các bạn thì đó là niềm an ủi tuyệt vời cho người con gái nhà quê. Xin coi đó là chi tiết sơ cư cho lời nhắn tìm: “Cô Tâm có đặc điểm vết chàm đỏ… nốt ruồi đôi… bị bán cho… Ở đâu xin báo tin cho… địa chỉ làng Vũ Đại…”.
LÃO TRƯỞNG XÓM
- Xóm Vũ họp. Kẻng báo bảy giờ tối. Đài “tút tút” một lúc người đã ngồi trật sân đình. Mấy mươi năm… Cũng may xóm còn giữ được ba gian đình bẹp, miếng sân chó giãy làm nơi hội họp. Cũng mấy mươi năm, xóm mới có cuộc họp mau đông đúc đến thế. Này! Xóm họp để thành lập xóm mới đấy. Ơ! Ăn nói rõ dớ dẩn. Hầy! Việc đời vốn lắm éo le.
Thì nói tuột cái sự “lé eo” ra nhớ!
Hơn hai chục năm trước, Đại Lăng xã được chọn thí điểm đường lối làm ăn lớn. Cơ giới hóa. Điện khí hóa. Gà lợn hóa… Viễn cảnh hóa đầy ắp các cặp tài liệu. Rừng rực những cuộc họp thâu canh gà.
Nông nghiệp lớn khong thể chấp nhận kiểu xóm, đội cò con. Làng xóm nháo nhác vào cuộc sát nhập. Xóm Vũ gốc gác ngụ cư, quần tụ kiểu trại ấp, cách làng “nội địa” vạt đồng lớn, con sông rộng vầy vậy. Tin sáy nhập bay ra. Bảy mươi bảy hộ đồng thanh sát với bảy mươi hộ “nội địa” thành đội Tiền Phong. Dân làng xanh mắt. Cái xóm ba ngang có tiếng là cách mạng quá ta. Vũ say viễn cảnh hóa? Hay Vũ hốt bánh xe lịch sử nghiền nát làm tương? …? Té ra các bô lão thúc con cháu cách mạng nhằm mục đích kéo sân kho, trụ sở quân đội qua sông. Như thế tiếng là lớn đội mà vẫn tiện lợi như thời xóm cò con. Nhưng ý xã ủy lại khác. Xóm như đảo. Đường gang tay.Cầu khỉ thế… Lãnh đạo, đường lối, nghị quyết đi lối nào? Tiểu phải lụy đa! Dân xóm giở thói phá ngang. Để an dân, xã ủy hứa lập kế hoạch xây cầu, đắp đường. Xe trọng tải lớn sẽ “bim… bim…” dọc xóm. Dân Vũ chỉ thiếu nước rập đầu lạy tạ ơn trên.Được vài năm, đường vẫn thế. Cầu vẫn khỉ. Lại có lệnh di xóm theo quy hoạch dân cư Hai Nghìn. Vài nhà dư dật chạy trước. Đa số dân xóm ăn chưa đủ chả lẽ vặt răng bán chạy nhà. Hơn bốn mươi vụ gặt cười, khóc trôi qua xứ mạng Tiền Phong. Kế hoạch cầu đường và quy hoạch “Hai Nghìn” vẫn là kỳ phùng địch thủ. Chỉ khổ cái dân Vũ.
Cơ chế mới lên sân tung chưởng quyết đo ván lề lối cũ. Trong cuộc nhị vị yêng hùng tỉ thí ở Đại Lăng có pha tái lập xóm. Hỡi ôi! Tiền Phong tầm cỡ rũ cánh. Con cò Vũ đến cơ vận hồi sinh. Hạ hồi chưa biết “mèo-mỉu” thế nào. Nhưng nguồn tin “Vũ hoàn Vũ” vừa qua cầu khỉ mấy tay ba trợn đã phanh ngực hết xin tử thủ với “kiếp cò con xóm” lại vỗ tay vạn tuế “cò con Vũ”.
Có tay ba trợn sành nho nhe lý giải: Vũ tức là lông. Đã bé tí teo lại ở tít cuối làng ắt phải là xóm “Lông… Dưới”. Ha… ha… dân Vũ ưng mới kỳ. Cần một trưởng xóm mới ra trò. Biết thế! Nhưng chọn ai?
Quyết định lập xóm được công bố. Tiếng vỗ tay tưởng bay mái đình. Đến mục giới thiệu chức ứng cử viên chức trưởng xóm. Ồn ào. Thật ồn ào. Giới thiệu. Rút gọn nhân sự… Danh sách ứng cử viên còn tròn hai. Đối thủ tranh cử là lão Đổng. Lão ấy to như hộ pháp. Ngữ ấy chỉ giỏi vào cày dong trâu.
- Kính thưa các bậc cao niên, trung niên và bạn trẻ - Chuyên gia chủ tọa oang oang – Chúng ta đã thực sự dân chủ trong việc lựa chọn ứng cử viên chức trưởng xóm. Căn cứ vào hiến pháp. Chiểu theo luật bầu cử. Chấp hành nghị quyết của tỉnh, huyện đảng bộ và nghị quyết của xã, chi ủy. Bà con ta đã bầu trưởng xóm bằng phiếu kín. Như luật định, trước khi bầu, đề nghị bà con cử ban kiểm phiếu.
- Tôi có ý kiến. Bà trung niên đứng cái phắt. Bà nhổ quết trầu đánh toẹt – Các ông cứ bày bày phiếu phiếu làm gì cho mất thì giờ, tốn giấy, phí mực…
- Ta chiểu theo luật. Sống và làm việc theo luật, thưa bà… - Chuyên gia ôn tồn.
- Vâng, thưa ông. Tôi cũng biết luật.Nhưng tôi còn thấy bao nhiêu cuộc cử bầu người tôi ưng đều không trúng. Cái tên tôi gạch rõ đậm sợ kiểm phiếu kém mắt thì lại đứng đầu bảng. Đời tôi đủ biết mùi phiếu kín rồi. Cho nên tôi có ý kiến như vầy. Ta nên bầu bằng cách giơ tay. Trên có ông giăng, đất có ánh đèn. Hai vị ấy, ưng ai thì chúng tôi giơ tay. Chẳng có phiếu nào kín bằng bàn tay cày cấy.
Sân đình thoắt chung chiêng trong tiếng vỗ tay, những lời hưởng ứng.
- “Hoan hô mẹ cái tĩn… Đêm nay thế nào bố cu cũng tặng cho cái chân giò”.
“Hoan hô… bàn tay… phiếu bàn tay”.
Lão Đổng trúng chức trưởng xóm với số phiếu áp đảo. Tin ấy chẳng mấy chốc lan khắp Đại Lăng, trở thành chủ vị những cuộc bàn luận.
Vì sao lão Đổng trúng chức trưởng xóm? Câu hỏi ấy có rất nhiều câu trả lời. Ví dụ: Để thưởng công lao bậc lão nông tri điền. Cái xóm đàn bà cũng say bầu lão hay rượu để say cho khỏe. Hoặc thời dân chủ dân ưng người dám đội cả chồng đơn… Rất nhiều câu trả lời bị phủ nhận. Xin hãy nghe đoạn trích cuối băng bức vách tình cờ người đi te đêm thâu được.
- “Ông mình ơi! Ông làm trưởng xóm thật ư?” – Giọng nói trong ngọt như đàn. Giọng bà vợ lão Đổng đấy. Thời con gái bà nết, bà xinh có tiếng. Việc đồng nó tống xuân đi. Bà kém đi những xinh giòn nhưng giọng nói vẫn nguyên thời son trẻ. Nói trộm vía! Bà đứng trong bóng tối nói ra, lọt tai, thì nghìn tay trai tơ chết mệt cả ngàn”. Ta nghe tiếp:
- “Chậc! Thì bà bảo, bà con họ bầu, chả lẽ - Lão Đổng đủng đỉnh.
- “Thì họ bầu. Nhưng làm hay không làm là quyền ông mình chứ. Ông mình cứ ngẫm mà xem. Thời trước chỉ chân ban đội, dao thớt quản trị vợ con cũng được mát mặt. Cứ từ chân đội trưởng trở lên là mưa không đến mặt, nắng không bén đầu. Chẳng những vợ con đình huỳnh mà hàng họ cũng được nhờ. Giờ chính sách mới. Ruộng công được thời tư điền. Sai sót cả họ nửa làng là không xong. Ăn nhằm gì…
- “Ơ! Thế có ăn nhằm thì tôi mới lên làm hở bà!”
- “Tôi không nghĩ thế. Có điều ông mình cứ nghĩ mà xem. Rượu chè, cờ bạc, trai gái, ngoa nguề… Cái xóm như bàn tay mà xấu xa tội lỗi chất cao như núi, đổ đầy góc biển. Người tử tế ra đường cấm dám ngẩng đầu…
- “Ấy đấy bà mình ơi! Tôi nhậm chức là để bà mình đàng hoàng ngẩng đầu đối mặt với thiên hạ.
- “Gớm! Tôi nói chung chung. Chứ thân tôi mà phải cúi đầu à”.
- “Thì bà mình vẫn ngẩng cao đầu. Bà mình chặc… còn sạch sẽ. Tôi cũng đâu phải cúi đầu. Rồi bà mình xem. Chặc! Cuốc ruộng cả ngày, tối họp thâu. Xương cốt nhão cả ra. Bà bê cái hũ ra cho tôi làm cốc nào”.
- “Này! Hôm nay ông mình hai cốc nhé. Mà này! Tôi nghĩ hay ông mình chỉ nhận quyền thôi. Mới chỉ là quyền, có sơ sẩy gì cũng nhẹ án…”.
- “Ừ! Thì quyền trưởng xóm. Bà mình nghĩ đến là hay. Chà… chà! Tiên sư cái anh tam xà. Nhấp vào là cứng ra ngay…”
- “Gớm chết cái… ông mình”.
Giữa tuần trăng xóm Vũ lại họp. Để trưởng xóm ra mắt. Và bà con bàn việc xóm láng, làm ăn. Cũng là lần đầu tiên chủ tọa là người do chính họ bầu lên.
Trăng vằng vặc. Chiếu trải kín sân. Nước chè xanh đặc sánh. Điếu cày roanh roách. Tân trưởng xóm có khác. Lão ta không cần bàn ghế. Lão ta ngồi góc sân với đám lão ông. Chà chà thuốc nước. Chuyện như mổ bò.
Tám giờ, rít vội điếu thuốc, trao ống điếu cho người bên cạnh, Lão Đổng bước ra giữa sân đình. Lão nhìn khắp, cúi nhẹ đầu:
- Thưa bà con, ta họp thôi ạ. Loa xã đã loa, xin miễn đọc quyết định của cấp trên công nhận trưởng xóm Vũ ta. Chỉ dám hỏi bà con có thực lòng bầu tôi?
- “Chứ lại không à” – Nhiều tiếng đồng thanh.
Lão Đổng lùi vào góc sân. Lão khum hai tay giữa lòng, giọng sang sảng:
- Xin đa tạ bà con. Trước khi bàn việc chung, tôi xin phép các bậc cao niên, toàn thể bà con đặng có mấy lời. Những lời tôi sắp nói có thể bất nhã. Thậm chí lếu láo. Nghe được, bà con xin có ý kiến. Không lọt tai, các vị bãi ngay chức trưởng xóm của tôi.
Sân đình im phắc. Cổ kim chưa thấy ai vừa nhận chức đã ăn nói như vậy. Lão Đổng vẫn sang sảng:
- Thưa bà con! Tôi đây, bà con ta ngồi đây, cũng như ai vắng mặt, con cháu ở nhà… Tất cả chúng ta một thời là lũ bợm người.
Sân đình vẫn im phắc. Sự im lặng đông cứng.
- Chúng ta là một lũ bợm người. Lão Đổng nhấn lại, giọng rắn đanh. Đi làm ăn cắp giờ công. Đi gặt ăn cắp thóc. Vãi đạm ngầm đút thứ cứt hóa học vào túi, đổi rượu. Nộp thuế đút thóc lép, gạch đá vào giữa bao. Dám đội bão gió ra ỉa đầy mộ cha thằng ức hiếp, ăn chặn nhưng với kẻ sờ sờ thì run rẩy, cúi luồn… Xóm làng nhăm nhe vặt của nhau từ con gà chíp đến quả chuối xanh. Đọt măng bên này nhú sang bên kia là ngầm chém tận gốc. Trái ý nhau một tí là dọa đốt nhà, đào ao sát móng tường. Xóm ngõ không mấy khi ngớt tiếng chửi rủa. Tóc bạc, đầu xanh, trên dưới như cá mè ranh đồng rứa. Trai tráng động một tí là nói chuyện với nhau bằng con dao. Ra đường trẻ con chửi đ. mẹ con già, thằng lão. Bắt con em bỏ học vì không có tiền sách bút, nhưng một tiếng bán nhà cửa vườn tược đi ngồi vào quán… Đấy! Sơ sơ thói bợm như vậy.
Lão Đổng ngừng lời nhìn bao quát. Lão nói tiếp, giọng lắng xuống:
- Cái phần người trong ta cũng không được ra hồn người. Đui mù, câm điếc, điên khùng. Nhìn con gà cõng cả tấn thóc vào cót nhà ai; lòng lợn dẫn được điện cao thế; rượu bia chưng cất bằng sắt thép, xi măng; gạch ngói nấu ra rựa mận, dồi chó. Văn phòng đêm có gái trần truồng. Ta có biết, có nhìn, có nghe thấy không? Biết hết. Nghe rõ. Nhìn tỏ. Nhưng ta như không có mắt, không có tai, bị ai cắt lưỡi mất rồi. Cái phần người không ra hồn người ấy phải vắt mồ hôi ra để sắm máy móc. Phải còng lưng xây sân kho lớn triệu viên. Mồ hôi lao lực một thời giờ, là đống sắt vụn, là hòn gạch non. Lại có những khi bỏ bố già nằm xó đi đắp đường đón ông to bụng. Động viên con cháu đi lính tráng để ở làng kẻ đảo ngũ cưỡi lên đầu cha mẹ người hứng hòn tên mũi đạn. Lại nữa, bao nhiêu năm tảo tần dốc lòng, phần người vẫn ra vào mái gianh nát… Thưa bà con! Nếu cái phần người còn lại ra hồn người, cường tráng… thì đâu có những cảnh đời thật như đùa, thực ngỡ mơ, như ác mộng. Âý là việc hôm nay phải bàn.
Bài tuyên thệ nhậm chức kết thúc. Lão Đổng run rẩy lùi vào gốc hiên đình. Khối người trên sân vẫn lặng phắc. Những ánh mắt chớp chớp gặp nhau. Chợt đâu đó có tiếng sụt sùi. Có người kéo vạt áo lau mắt. Giuwax sân, một cụ già chống gậy đứng lên. Cụ nhìn khắp:
- Xem ra ông trưởng xóm nói có lý đấy bà con ạ. Vì sao đến nỗi này? Nay gặp vận hội cho làng ra làng, xóm ra xóm, thì nói nhiều chi bằng bàn cách làm ăn, khu xử. Đặng phần ngợm phải chết. Phần người khỏe lên, sáng rạng ra…
Lời cụ già đã khởi động không khí ồn ã truyền thống ở làng.
Cái ông giời giở chứng khóc dai. Đêm nay nữa là bảy đêm tầm tã. Lão Đổng khoác áo bạt dò dẫm trên đường trục xóm. Ruột gan lão nôn nao quá vãng. Cuộc đời lão gắn bó với con đường này. Thơ bé lê la, té nước, vấy bùn, đuổi chuồn, chạy diều. Lớn lên gánh lúa, gánh phân… Cô gái má hồng, mắt dao cau lúng liếng, nón quai thao, yếm đào… bước trên con đường này về làm vợ lão… Nhiều lớp người bạc tóc mà con đường vẫn như thuở sơ khai. Không! Tồi tệ hơn mới đúng. Chỗ sạc lở. Chỗ phên dậu lấn ra. Từ đầu đến cuối xóm vừa chẵn ba mươi hai rãnh xẻ ngang. Tạnh ráo đi lại đã thấy khổ. Ngày mưa gió, vạn bất đắc dĩ mới phải ra đường. Rác rưởi hai bên tràn ra. Cứt trâu, cứt người lềnh bềnh. Mặt đường như ruộng trũng rải phân tươi, bừa ngấu. Trẻ con, người lớn khối lần phải vác cái chân sưng to như ống trít vào trạm xá làng.
Của đáng tội! Mươi năm trước cũng có kế hoạch tu bổ con đường. Đến lúc ra tay thì mất mặt. Cái dân vác cuốc ra chân dậu. Nhà nọ nhìn nhà kia… cùng nhìn vào bờ tre cán Đảng. Ơ hơ! Cán bộ chưa đụng cuốc thì ta tội gì! Thế là huề cả xóm.
Sau ngày nhậm chức, lão Đổng đã nghĩ đến con đường. Khổ nỗi xóm có bao nhiêu việc cần làm ngay. Điều hòa ruộng đất. Dân công đê điều. Thanh niên nhập ngũ. ồi chuyện rượu chè, đâm chém. Tối ngày, đầu thôn động một tí là “Ơ ông trưởng xóm… Này! Xóm trưởng…”. Cái xóm tí hin như bàn tay mà công việc cứ rối tung canh hẹ. Thành thử mãi tháng ba ta lão mới có cơ đụng đến con đường. Dân xóm bàn sửa tạm để ngày mùa dễ đi lại. Muốn làm lớn phải chờ cơ vận. Nhưng… mẹ kiếp! Đến lúc đụng tay mới rõ mặt cái dân Vũ. Lão Đổng thân chinh đi gọi cổng từng nhà. Nhà thì: “xin khất bác hôm sau. Giờ em phải đi kiếm cho các cháu lưng cơm”. Nhà thì: “cháu nó thúc học phí, em phải làm buổi te…”. Hôm khởi công chỉ được dúm người. Mấy bố đảng viên, mấy ông hưu trí ngồi đầu xóm bi bô hết tâm-tim-tả luy… đến ki lô mếch, đếch xì phân khối… Nghe thật “câu đường tiến sĩ”. Khi vào việc như mấy gái tỉnh vào bếp nhà quê. Điên tiết, lão Đổng bãi việc. Mấy đêm liền, lão mất ngủ, xót xa chiêm nghiệm thất bại đầu tiên trong nhiệm kỳ trưởng xóm. Lão cay đắng nuốt cái chí lý lời chửi vỗ mặt: “Tiên sư ông! Đường lầy thì lội mà đi!hứ đang thời kỳ giáp hạt lấy hơi đâu đắp đường với ngõ”.
Bây giờ mùa màng đã gọn. Ơn trời thóc lúa rủng rỉnh. Lão Đổng lại nghĩ đến con đường. Lân la nghe ngóng binh tình, lão biết hai chữ đồng tâm còn mờ nét lắm. Được! Lão cũng đã tính đến nước ấy. Phen này khắc biết thế nào là quyền trưởng xóm.
Lão Đổng dừng bước ở chỗ giáp mối đường trục xóm với đường độc đạo vắt qua cánh đồng nối xóm với làng “nội địa”. Mưa vẫn tầm tã. Đêm nhờ nhờ trông rõ con đường như con rắn đen khổng lồ. Khúc dduoi là đường trục xóm. Khúc giữa trườn qua cánh đồng. Cái đầu chúc vào mố cầu khỉ. Con rắn đã chết, đang thối rữa.
Đến chân cầu khỉ nghe tiếng mưa, biết đêm đã khuya, lão Đổng trở về. Lão dò dẫm. Chốc chốc con rắn đen lại bắt lão vồ ếch. Đường ngõ thế này… Ngày mai lũ trẻ… Lão Đổng đưa tay dụi mắt.
Lũ trẻ xóm Vũ nghịch phá có tiếng. Nhưng chúng trội hơn trẻ xóm khác ở nết ham học và tinh thần đoàn kết. Chỉ trừ có bão chết cò chúng mới nghỉ học. Mưa như mấy ngày qua với chúng chả là cái đinh gì. Cũng nói qua một chút về tinh thần tập thể của trẻ Vũ. Trẻ trong làng vênh váo ỷ thế dân gốc bắt nạt trẻ xóm bãi, ngụ cư.Chúng gây sự bắt vạ, trấn lột sách, bút… đủ trò. Nhiều vụ xô xát xảy ra. Đòn đau đã kết trẻ Vũ thành một khối. Cái thước kẻ cũng được chuốt nhọn đầu làm vũ khí. Dần dà chúng trở lên chai dạn lầm lỳ. Tính liều và tinh thần đoàn kết đã tâng trẻ Vũ lên ngôi. Hãy dè chừng nếu động vào trẻ Vũ. Một đứa bị bắt nạt, cả hội có nghĩa vụ trả thù. Chơi thân với dân “nội địa” bị coi là phản bội. Chúng có bộ luật nghiêm ra phết.
Sáng chưa rõ mặt người, Lão Đổng đã có mặt ở đầu xóm. Đấy là điểm hẹn của lũ trẻ trước khi “hành quân” đến trường. Đã có mấy đứa trẻ đang đùa nghịch. Lũ trẻ lục tục kéo nhau đến. Chúng phớt lờ trưởng xóm té bùn, chọc nhau chí chóe. Lão Đổng không nạt nộ hoặc tỉ tê như mỗi lần may mắn gặp lũ trẻ. Lão đứng nép vào bụi tre dõi mắt về phía làng. Chỉ có người tinh nhạy mới phát hiện ra vẻ phấp phỏng, chờ đợi cái gì đó lặn sâu trong đôi mắt lão trưởng xóm.
“Tùng… ùng…tùng…”. Tiếng trống trường dóng dả bay qua cánh đồng dội vào xóm nhỏ. Lũ trẻ nhớn nhác. “Ơ! Đài nhà tớ vừa tút tút mà…”. “Ừ!Đài nhà tớ tút chuẩn lắm. Hay đồng hồ thầy chạy sai…”. Lão Đổng nhớn nhác còn hơn lũ trẻ: “Lạ nhẩy! Chắc đài tút sớm. Chứ đồng hồ thầy mấy khi chạy sai”. Chợt lão vỗ đầu:
- Các cháu ơi! Chết thật thôi. Hôm qua tao có việc vào trường. Thầy hiệu trưởng nói có đoàn tỉnh về thăm. Hình như có cả vợ ông Tây trắng đi cùng. Thầy dặn các trò đến sớm chỉnh dốnđội ngũ đón Tây thăm. ao cũng có việc vào trường. Phải đến sớm kẻo Tây đến trước ta thì bỏ mẹ. Nào. Hai… ba… chạy!
Lũ trẻ nhất loạt tung giò. Lạch… bạch… Bùn bắn tứ tung. Hệt như đàn vịt chạy trên đồng trũng. Con đầu đàn là lão Đổng. Được mươi bước lão ngã oạch. Lũ trẻ cười ré lên. Sáu, bảy đứa ngã vì cười. Lão Đổng lại vung tay “hai… ba… hầy”. Bảy tám đứa ngã vì “…sau Tây thì bỏ mẹ”. Lão Đổng lại ngã. Một lũ ngã theo.
Rốt cuộc “đàn vịt” cũng đến được chân cầu khỉ. Lão Đổng lướt mắt tính sơ. Ba mươi trong số ba bảy đứa bị ngã. Nhiều đứa vồ hai, ba ếch. Số không ngã quần áo, cặp sách cũng bẩn bết không kém.
- Thế này các cháu ạ - Lão Đổng vuốt bùn bắn đầy mặt chỉ cầu khỉ - Đường đã thế! Cầu còn nguy hiểm hơn. Bác sang trước thăm dò.Rồi cứ đôi một qua cầu.
Lão Đổng bước lên cầu. Lão run rẩy. Lão úi giời ơi. Đến giữa sông lão vung tay: “Anh vẫn hành quân đi qua cầu…”. Tòm… Lão Đổng chìm lỉm. Lũ trẻ rú lên. Chỉ có dòng sông mới nhìn thấy lão khẽ ẩy mũi bàn chân vào cây tre quá giang. Cây tre theo dòng nước vút đi. Lũ trẻ chỉ còn thiếu nước òa khóc. Lão Đổng bước lên bờ run rẩy:
- Chà! Rét quá! Các cháu trở lại đi. Quần áo mặt mũi thế kia đến trường ta cũng cho “dê rô” điểm thi đua. Nói gì Tây. Về đi. Bác sẽ lấy quyền trưởng xóm thưa với thầy hiệu trưởng. Không đứa nào bì phạt đâu.
Lũ trẻ lũi cũi trở về. Lão Đổng ngậm ngùi nhìn theo lũ trẻ và nghĩ lan man. Lão nghĩ đến cụ cựu lý trưởng. Ngày mưa có việc đi đường tình cờ gặp cụ có việc đi đâu về.Này anh trưởng xóm – Cụ cựu lý trưởng giật giọng, chúc đầu cán ô xuống mặt đường – “Nội trực ngoại”, anh nhớ chứ. Ngày tôi làm việc làng tôi chơi sách ấy. Ai lơ mơ tuần đinh nó xóc xác ra”. Tối ấy lão sang nhà cụ. Thâu đêm chuyện con đường. Rồi cụ ghé tai lão: “Như thế… như thế…”. Lão chỉ còn thiếu nước lạy tạ. Người cũ có khác! Thật cao kiến! Lão nhớ đến thầy hiệu trưởng. Lúc này đây, sau khi dóng hồi trống chắc phải quay đi giấu những giọt nước mắt. Hôm qua lão vào trường thưa với thầy việc học phí của mấy đứa trẻ nghèo. Xóm làng đã bàn của ít lòng nhiều, mỗi người một tí cốt sao chúng khỏi lỡ sự học. Nhân thể lão thưa với thầy sự đi lại của lũ trẻ. Thầy hiệu trưởng thở dài: “Bao nhiêu lứa học trò cơ cực vì con đường ấy. Chúng tôi đã kiến nghị nhưng lực bất tòng tâm…”. “Thầy giúp tôi phen này nhé – Lão nói và ghé vào tai thầy – Như thế… phải như thế…”. Thầy hiệu trưởng cười ngất.
Ước đoàn lũ trẻ đã về đến nhà, lão Đổng tắt đồng về xóm. Lão cứ đóng nguyên quần áo lấm lem vào từng nhà. Có nhà lão oang oang từ đầu ngõ. Có nhà lão kéo phụ huynh ra góc hè thì thầm: “Này! Tôi vừa vào trường về. Thầy cô phàn nàn cháu nhà ta hôm nay vắng mặt”. Các phụ huynh rầu rĩ: “Ông nhìn mà xem. Cháu đi rồi cháu lại về. Quần áo, đầu tóc… cứ như từ dưới lỗ ngòi lên. Thật khổ đường với ngõ”. Lão Đổng vuốt bùn trên mặt: “Tôi cũng như ma lem đây này. Tiên sư đường với lối. Chả lẽ để mãi thế. Thôi thì vì con vì cháu. Mai ta họp xóm bàn xem thế nào…”. Cả chục nóc nhà đều có cuộc đối thoại na ná như thế.
Trong số những đứa lấm lem nhất có cậu bé lớp hai nhà ở cuối xóm. Lão Đổng dành nhà này làm cuộc gặp gỡ sau cùng. Cái đàn bà nhà ấy như con mèo hen. Nguyên do chị ta cố rặn bằng được thằng người có chuôi dao ở háng. Chị ta là đảng viên trưởng thành từ phong trào trực chiến, từng là chỉ huy mười hai cô với sáu khẩu trường “mát” và hệ thống ụ súng ở cuối làng. Lão Đổng oang oang từ đầu ngõ:
- Ông đâu? Bà đâu? Ái chà! Ôm nhau hú hí quên nấu cơm sáng để thằng bé đói phải nghỉ học hả. Tôi vừa vào trường về. Thầy cô phàn nàn.
Con mèo ngồi trong bếp ló đầu ra. Chắc mụ đang đun nước tắm cho “chuôi dao”. Mụ the thé:
- Phàn nàn cái nỗi gì. Nó đi nó ngã nó về. Như từ dưới hố lôi lên kia kìa. Sao cô với thầy không ra đường mà phàn nàn.
Lão Đổng lắc đầu, nhắt gừng:
- Cả xóm dễ mỗi nó ngã. Bỏ học bỏ lớp là mất điểm thi đua.
Con mèo hen nhổ bọt đánh tét, nhảy bổ ra khỏi bếp vung tay xỉa xói:
- Tiên sư lớp. Tiên sư thi đua. Đường ngõ thế! Ông tổ cũng bò ra bùn chứ nói gì trẻ mỏ.
Nghe có lời lớn tiếng to, hàng xóm rẽ dậu nhìn sang. Dăm người đi đường tạt vào. Lão Đổng liếc xéo chém chả:
- Bà ăn nói cho tử tế nhé. Chẳng gì tôi cũng là trưởng xóm.
Con mèo hen đay nghiến:
- Trưởng xóm hả! Chưa to đâu. Chưa là cái đ. gì.
- A. Bà chửi tôi hả. Vì sự đi lại, học hành của các cháu, tôi đến hỏi han tử tế. Dễ mỗi cục thịt thừa toòng teng của bà ngã lấm lem đấy hử. Bà đi khắp xóm xem. Chớ có quen mồm chửi láo, nói càn. Ra họp xóm, tôi thách bà chửi đấy.
- Sợ đéo gì mà không dám chửi – Con mèo hen chồm lên – Ngữ ông là cái gì! Mà có là gì, to đến đâu, chỉ nỏ mồm, tôi cũng chửi. Chửi có bài có bản hẳn hoi. A! Ông cười tôi hả! Tiên sư bố đường… Tiên sư bố…
“Thật may cho lão Đổng. Bài chửi sắp đến mục vạn bát thì cụ cựu lý trưởng đi đâu thấy có sự tạt vào. Cụ phân giải đôi bên. Con mèo hen nghe ra. Lão Đổng cũng nghe ra. Những người có mặt cũng nghe ra.
Hình như trời cũng nghe ra đặng phù lão trưởng xóm. Hôm sau trời tạnh ráo. Dân xóm tay mai tay cuốc đổ ra đường.
- Việc lớn “xô” đường mới không phải là lãnh đạo vi hành. Cũng không phải xe tải “bin… bin…”. Mà là chiếc cáng võng như chiếu kín mít. Lão Đổng và một cậu trai khênh cáng chạy huỳnh huỵch.
Hãng thông tấn xã loan tin – Một con rượu ngộ nạn rượu. Dân Vũ dẩu môi – A! Ai chứ tay ấy thì phải thế cho biết đời. Chưa thấy mặt người đã sặc mùi rượu. Ngồi đâu mở miệng ra là xoen xoét “năm mươi với một trăm phần trăm”, “Em nhiệt liệt tán thành nghị quyết bảy mươi lăm mi- ni-lít…”. Với những trời đất gì nữa. Chết! Quy ước xóm như thế mà vẫn vi phạm. Phạm đến mức trưởng xóm phải cáng bờm đi viện. Cứ đợi đấy. Chiều nay trưởng xóm về.
Thật “lầm cái tò”. Sáng hôm sau, lão Đổng mới về. Lão kè kè bên nách tấm giấy đên xì to tướng, y học gọi là phim X. quang. Nhằm vào những nhà hay ầm ĩ vì chuyện rượu chè lão thò ra tấm giấy đen.
- Rõ khổ? Đến viện huyện họ giới thiệu ngay lên viện tỉnh. Xe chũ thập đỏ phải chạy thần tốc. Đấy! bà với các cô nhìn xem! Mớ ruột , buồng gan. Cả mớ phèo, cái cổ hũ… Nó phình lên. Kinh chưa? Ông kính trắng bảo còn may. Chứ chậm tí nữa thì nó nổ tung ra vào nhà xác.
Các bà các cô liếc xéo các đấng mày râu thương mến. Bây giờ lão Đổng mới rủ rỉ:
- Chậc! Nó sâu bợm. Nhưng nó nghèo quá, lại lâm bệnh trọng. Thôi thì bà con ta của ít lòng nhiều, giúp nó một ít.
Mấy mươi nóc nhà lão Đổng đều cho xem “tấm giấy đen” và rủ rỉ như thế. Gần trưa, lão gặp chủ các lò, chủ quán rượi. Các vị chủ quán run rẩy, lịa lịa: “Thề có trời cao đất dày. Em pha bồ kết với phân đạm, thuốc sâu, thì trời vật em ra hộc máu tươi ngay trước mặt bác…”.
- Tôi không bảo các bà pha phách – Lão Đổng êm ấm chìa ra tấm giấy đen – Nhưng các bà nấu, bán cho nó uống đến nông nỗi này. Đúng luật, phải phạt nặng, bắt rỡ quán, đập nò. Nhưng cái sự làm ăn, các bà nên nhớ chớ tái phạm. Giờ các bà nghĩ sao cho đẹp tình xóm làng. Nó hư, ta trị dần. Lúc nó hoạn nạn, ta đùng nên thít chặt hầu bao. Sáng mai phải nộp lệ phí rửa ruột cho nó.
Tinh mơ hôm sau, lão Đổng khăn gói lên…bệnh viện tỉnh. Đến cuối xóm, ngó trước ngó sau, lão rẽ vào… viện. Đấy là ngôi nhà ranh vách, chỉ ba người hây hô là kềnh. Nhìn cơ ngơi đủ biết chủ nhân là tay “ăn giỏi hơn làm”. Lão Đổng xộc thẳng vào nhà. Bảo ba cô gái còn trẻ, khá xinh khóa cửa.
- Mày đâu?
- Dạ! Cháu đây.
- Đêm qua mày về có đụng ai không?
- Dạ không. Cháu đi nối tắt như bác dặn.
- Tốt! Giời tao nói phiên phiến. Còn phải vào làng tạ ơn ông đốc tờ. Người ta học thời Tây, cao kiến thế, tốt thế mình phải đối xử cho đẹp. Mày đã hết lòng giúp tao nhiệm vụ cấp cứu. Với tư cách trưởng xóm, tao hứa kín nhẹm chuyện gà qué cho mày. Tiên xư anh! Mấy mươi năm nhờ thiên hạ nuôi gà, chó nhiều đến thế cũng có tay cao thủ đấy. Chiến công lồng gà thuộc về lũ trẻ. Sơ tính mỗi gà ba tháng thì mọt gông con ạ. Mày mà giở trò bẩn với các “đặc tình” của tao thì cứ gọi là…
- Thưa…lạy bác. Bác sử đẹp thế lẽ nào cháu dám.
- Nghĩ được thế là tốt. Nghe đây, vợ chồng mày ăn ở như thế nhưng cái tình bà con đối lại vẫn rộng mở, khoan dung. Tao quyên được món tiền.
- Ấy chết…Cháu có say… ốm… thật đâu mà.
- Im! Đói cùng túng quẫn. Thì đấy là món bà con giúp mày làm ăn phục thiện. Mua lấy đôi lợn gây giống. Rồi sắm vài tay lưới. Sức mày kiếm ngày dăm ba nghìn không khó. Khoản rượu chè thì như tao đã nói, phải giảm mạnh. Có uống thì trước bữa làm chén cho dãn gân cốt, ngon cơm nghe chưa! Kiếm cái hũ, hôm nào tao kiếm cho bộ tam xà. Thứ ấy uống vào vợ nó cũng thích. Lại có vẻ dân phong lưu.
Lão Đổng đứng lên. Ra đến nhà ngoài, sực nhớ, lão nhảo lại:
- Suýt bỏ mẹ cả bác lẫn cháu. Này, cố ngồi trong buồng dăm hôm cho nước da nó mai mái đi. Chứ cấp cứu nằm viện mà da dẻ như gà chọi thế thì ma nó tin. Nghe rõ chửa. Tao tin được mày rồi đấy.
Các bạn! Không lấy gì làm khó hiểu khi tôi phải lân la ghi chép những chuyện trên trước khi tiếp cận lão trưởng xóm. Với vị “nguyên thủ xóm” như lão Đổng, sự lân la vòng ngoài như thế là ít. Rất ít nữa là khác. Nhưng các bạn thử rơi vào hoàn cảnh tôi xem.
Không ai muốn chia tay với giấc mơ đẹp. Nhưng đang mơ mà có kẻ túm tóc, ghé miệng sấm vào tai: “Dậy. Ngủ gì kỳ vậy…” thì biết làm sao!
Té ra kẻ túm gáy tôi là sếp. Ông đi dự hội nghị nông thôn về. Chắc có quà gì phần nhau đây. Tôi lồm cồm ngồi lên. Sếp gieo người xuống cái giường bùng nhùng chăn màn:
- Tiếc cho chú mày quá. Cái hội nghị nông thôn hay quá trời! Tuyệt nhất là cuộc đối thoại giữa dân báo chí với lão trưởng xóm ở Đại Lăng. Trời ơi! Đến giờ tao vẫn còn điên. Vào cuộc được vài phút thì cái máy mang theo giở chứng. Điên quá. Tao phải đi bài “bờ-tê-xê” (bia thịt chó) cánh trung ương mới để lại hộp băng. Nghe nhé! – Sếp dướn người ấn cuộn băng vào cát-sét nhỏ trên bàn.
- “Thưa ông trưởng xóm.Nông thôn, cụ thể là xóm nhỏ của ông đang thay da đổi thịt,khởi sắc, hồng hào lên. Theo ông có vấn đè nào tồn tại nổi cộm?”.
- “Tồn tại tức là… À! Còn nhiều lắm, nhiều như rơm rạ ngày mùa. Còn nổi cộm. Chà. Tôi ngán nhất đám trai tơ với lũ gái già”.
- “Thưa… Xin ông nói rõ…”.
- “Trai tơ là trai chưa vợ. Gái già là gái quá thì chưa chồng và không chồng. Vô phép, các bác thư thả về làng khắc rõ’.
- “Vâng. Nhất định chúng tôi sẽ về làng, về xóm nhỏ của ông. Nhưng lúc này, chúng tôi, các đại biểu thấy có điều khó hiểu…”.
- “Ờ… ờ… Chung quy là do đẻ đái nhiều các bác ạ. Thuốc men, bác sĩ sẵn. Cái ăn cái uống không quá khổ nên trẻ mỏ bây giờ lớn nhanh như lợn. Đa số được học hành chu đáo. Nhưng phần nhiều học xong về bám đít trâu. Rồi bộ đội giải ngũ. Công trường xí nghiệp dãn nhân công. Thành thử nông thôn hôm nay là cái bồ đựng người. Người nhiều, ruộng ít, nghề phụ teo tàn. Đấy! Nhàn cư vi bất thiện. Các cụ dạy rồi. Lũ con gái hiền lành hơn nhưng xem ra chúng nhiều khổ sở hơn. Lũ đàn ông bây giờ lấy vợ chọn của hồi môn hơn là nhìn người xem nết. Nhiều đứa vì thế, vì nghèo mà hóa gái già. Lại không ít đứa già vì bố mẹ khỏe đẻ, kém nuôi nên chúng vừa nghèo lại không sạch nước cản. Rồi số bà cô gái già vì thời chiến tranh bom đạn. Rồi đám vợ liệt sĩ tuổi ba bốn mươi. Xóm tôi, một đám gái già gầy quắt, cáu bẳn, giở chứng bà cô vì thèm khát làm vợ, làm mẹ…
Đến đây sếp tắt máy, vỗ vai tôi:
- Đấy! Vấn đề xem ra mới lạ lắm. Cánh trung ương còn mải bám mông mấy cô dâu tằm. Ta phải vồ ngay chuyện ở Vũ. Cậu về Vũ ngay cho tớ! Đi xe đạp bất quá nửa ngày đường. Ta phải làm cái gì đó cho ra hồn. Chứ đài tỉnh cứ sài bài ngoại thì có ngày sập đại. Một bài viết. Mười phút phỏng vấn. Tớ cho chú mày bốn mươi tám giờ. Đi đi.
Các bạn! Tôi đang ngồi với lão trưởng xóm. Lúc tôi vào ngõ, lão đang cuốc vườn. Lão tiếp tôi không lạnh nhạt cũng không vồn vã. Mời tôi ngồi chõng tre kê dưới gốc mít, đặt trước mặt tôi bát nước chè xanh, lão chỉ cái máy ghi âm tôi mang theo: “Anh về quay phim phải không?”. Tôi chưa kịp trả lời lão đã dồn: “Có cần chất rơm, rạ lên thuyền lên xe rồi rải khoai, phủ thóc cho đầy để quay không?”. Chà! Trưởng xóm là tay hóm hỉnh đây. Tôi giả tảng thờ ơ xem lão hóm đến đâu. Tức thì lão Đổng tung ra một lô câu hỏi: “Có cần chọn cửa cao nhà rộng? Có cần bảo bà con tắm lợn? Có cần bà con vác cày, dong trâu xếp hàng. Trâu bò béo đi ngoài. Người mặc rách hàng trong không? Tôi lắc tuốt. “Thế có cần mấy đứa xinh xắn, mông nở, vú to gánh thóc quẩy mạ không?”. Đến bụt cũng phải phì cười nói gì tôi người trần mắt thịt lại có tật hay cười. Để chứng minh không phải nhà quay phim, tôi ấn nút máy ghi âm và nói.
- Cháu theo những lời này về gặp bác đấy.
Lão Đổng chau mày khi bắt gặp giọng nói của chính mình. Lão nhìn ra vườn, ấp úng:
- Chà… Không ngờ…
Lâu lắm tôi mới gặp cảnh đường làng đêm trăng. Các cô, các cậu trẻ từng tốp đi lại cười nói inh ả. Dưới gốc bàng cổ thụ, một tốp trai ra bình luận cho điểm gái. Cách đó một quãng, mấy cậu choai khoe nhau côn gỗ, xanh tuya rông. Rõ rành họ phất lờ lão trưởng xóm. Lão Đổng cũng phớt tỉnh kéo tôi nhanh bước. Bất ngờ, đoàn cả chục xe đạp ngược chiều ép chúng tôi sát dậu tre. Lão Đổng vỗ vai tôi:
- Anh thấy chưa! Trai tráng bây giờ lạ lắm. Động một tí là vung côn, huơ dao. Con gái xóm tôi người xinh, nết đẹp có tiếng. Trai thiên hạ đến nườm nượp, xô xáy xảy ra luôn. Phạt nặng mấy chúng cũng không ngán, cốt sao trả được đòn. Tôi ớn bọn chúng lắm rồi. Nhưng lúc này mình nản lòng, thờ ơ với chúng thì cái sự hỏng của chúng thật khó lường. Với chúng phải từ từ từng bước. Anh về thật đúng dịp. Lát nữa anh sẽ thấy nước cờ tôi chơi với bọn trẻ.
Gần đến cuối xóm, lão Đổng kéo tôi vào một ngõ nhỏ. Chúng tôi dừng bước trước ngôi miếu cổ. Trong miếu, đèn, nến sáng trưng. Hương hoa nồng ngạt. Mảnh sân nhỏ trước cửa miếu chật ních người. Sự im lặng của con người như tôn thêm cái huyền hoặc, linh thiêng cổ kính. Không phân công, không mệnh lệnh, tuần tự người nọ tiếp người kia tiến lại gần trước ban thờ rập đầu dâng lễ, khấn vái. Sự xuất hiện của lão Đổng không mảy may tác động.
- Bác tán thành việc cả xóm rập đầu trước bát sứ mẻ? – Tôi ướm hỏi lão Đổng khi trở ra đường.
- Chuyện dài lắm – Lão trưởng xóm thở dài - Ở làng, nhất là xóm nhỏ, nẻo xa, người già cả, đám thợ cày thợ cấy ngoài công việc đồng áng, vui thú gia đình còn biết còn biết khuây khỏa vào đâu? Chả lẽ ra đường, ra bãi nhìn con cháu gây gổ, bóp vú, sờ mông.
Đến chết cười với lão trưởng xóm. Lão Đổng nói tiếp:
- Cũng là sự lạ đời. Trước cái bát sứ có mấy chân hương con người ta đổi khác nhiều lắm. Bao nhiêu kín đáo, oan trái, cả những xấu xa… Không ai khảo mà xưng ra hết. Tôi đã lập mưu thi kế chứ không còn lắm trò nữa.
- Mưu kế thế nào? – Tôi như vồ lấy bàn tay lão Đổng.
- Phải bí mật. Lộ ra họ biết thì lại tối ngày lên đồng múa may. Đột ngột, lão Đổng dừng bước. Lão đập tay lên vai tôi, lại đập tay lên ngực mình: - - Nói vô phép anh! Giá tôi với anh, với những ai đó nữa …chiếm được lòng dân bằng nửa cái miếu kia,chỉ cần thế thôi, thì tốt bao nhiêu.
Tôi giật mình suýt vập đầu vào vai lão Đổng.
Đi tiếp quãng đường, tôi và lão Đổng sững người lại vì tiếng hét: “Cháy…Làng ôi…cháy…’. Tức tiếng kẻng báo hỏa dồn dập. Tôi toan lao về phía ngọn lửa. Nhưng…lạ thay! Lão Đổng mỉm cười kéo tôi lại khóm tre gần đó. Lão hoàn toàn bình chân như vại nhìn những tốp người rầm rập chạy đi cứu hỏa.
Khi ngọn lửa sắp tàn, lão Đổng kéo tôi chạy về nơi xảy ra hỏa hoạn. Rất đông người, phần lớn là cánh trẻ vây quanh đống rơm cháy dở. Lão xô lại đám thanh niên, rối rít vỗ tay, cầm tay.
- Trời đất! Cảm ơn các cháu. Làm ăn thế đấy. Lửa thế. Gió thế. Không có các cháu thì đống rơm này thừa sức hóa tro cả xóm. Khao! Trưởng xóm phải khao đáp cái ơn này. Mấy đứa con gái đâu. Ù ra quán mua cho tao tút thuốc thơm. Nhanh lên!
Mấy cô gái ào đi. Lão Đổng bước lại đám trung niên phẩy tay như làm hiệu. Lão ngắt về với tốp thanh niên khác.
- Úi giời! Toàn các cậu làng bên! Cảm ơn! Cám ơn các cháu không quản ngại cứu hỏa. Kìa! Các trai xóm ta lại đây cả nào.
Mấy cô đi mua thuốc đã về. Lão Đổng vớ cả tút bóc ấn cả bao vào tay các trai.
- Hút đại đi các cháu. Chợt lão vỗ vai một cậu, cậu nữa, reo lên – A! Mấy anh vung côn huơ dao hôm nọ đây hả! Bố sư các anh! Thằng bị chém đi gánh phân khỏe rồi. Chặc! Anh tưởng tôi không biết hả. Trong khi phụ huynh trích lương hưu, vay nợ cho con nộp phạt hành chính, thì các anh hội tửu quán rút kinh nghiệm, sửa côn, học võ chờ cơ hội phục thù. Này! Hôm nọ tôi sang nhà gặp các cụ nhà ta, lúc ấy các tướng đi đâu hả?
Vừa nói lão Đổng vừa gạt, lôi, kéo các trai lại gần nhau. Qủa họ có tụm lại nhưng quen – lạ vẫn phân tốp. Lão Đổng nhích vào đứng giữa hai tốp, nhẹ nhàng:
- Chẳng mấy khi may mắn gặp các cháu chủ - khách đông đủ thế này. Nói gần nói xa chi bằng nói thẳng. Đất lành thì chim đậu. Nhưng trai chủ thật chưa đáng mặt chủ. Cậy thế thổ công, sinh sự bắt nạt, vòi vĩnh trai khách. Các cháu làng bên nghe tiếng trai thơm tìm đến. Nhưng đi thiên hạ mà lách cách côn, dao, coi đất bạn như bãi làng mình thì quả là cạn nghĩ nông suy. Bao nhiêu va chạm chỉ còn thiếu nước đào hào, kê súng bắn nhau. Hậu quả đau đớn nhỡn tiền. Các bậc phụ huynh nghĩ đến con cháu phải cắn răng chết từng khúc ruotj. Nhưng thôi! Ddaam chém là chuyện hôm qua. Trước hiểm nguy, ví như đám cháy vừa rồi, các cháu biết chung lòng hợp sức. Lẽ nào thường nhật các cháu nỡ xử nhau như thù địch…
Đám đông đứng lặng phắc. Lão Đổng nháy tôi đi. Được một quãng, tôi và lão cùng ngoái lại. Các trai vẫn chia tốp. Nhưng đã nghe loáng thoáng tiếng cười nói. Lão Đổng không dấu nổi đắc ý.
- Không có đám cháy đúng tuần trăng thì còn khướt chúng mới chịu đứng với nhau như thế. Hết nước thí quân là cờ vào thế! Bước đầu như vậy là được. Chắc rồi yên ấm.
Chúng tôi bắt vào đường trục đồng. Đang đi, lão Đổng sững lại. Lão khoát tay về phía bờ đê mờ ảo xa xa.
- Ngoài ấy có mỏ cát xây dựng. Trai tráng trong xóm thì vô công rỗi nghề. Trong khi đó xe thuyền tứ phương đến lấy cát bán khắp nơi. Mười nghìn một khối cát chứ rẻ đâu. Dân Vũ nhìn thấy đống tiền mà vêu mõm. Nhưng tôi không chịu đâu.
- Bác định thế nào?
- Còn thế nào? Giao thông và vốn. Con đường như anh thấy đấy, ổn rồi. Nay mai, tôi sẽ chọc tức bọn chủ thuyền cho nó chửi toáng lên rằng dân Vũ ngu. Nằm trong đống của mà chịu đói rách. Chọc trúng “tia máu” dân Vũ việc này chắc xong.
Lội qua con ngòi hẹp, lần theo bờ đạc lở lói, chúng tôi dừng bước trước ngôi nhà nhỏ. Gọi là lều thì đúng hơn. Rất tự nhiên lão Đổng cạy phên liếp:
- Mẹ thằng chim ngủ chưa? Có muốn đánh dậm con bướm cho đủ nếp tẻ thì sáng đèn mở rộng cửa ra nào. A! Đèn sáng sẵn thì dễ chơi lắm rồi.
- Gớm chết! Ai như bác trưởng xóm. Em xin đủ khoản ấy rồi. Mời bác vào chơi.
Sự xuất hiện của tôi khiến nữ chủ nhân đỏ mặt. Cô vội kéo coóc-xê che bầu vú căng sữa. Nhà không có bàn ghế. Đồ gỗ độc một chiếc giường đôi. Lão Đổng tót lên giữa giường và chỉ chỗ tôi ngồi mép. Mùi nước hoa thoang thoảng. Muỗi đàn vo ve. Bên ngoài, đồng bãi râm ran tiếng côn trùng.
- Ông anh đây muốn nghe chuyện chị em. Có gì cứ kể ra. Đừng ngại – Lão Đổng nói, hai bàn tay chai sạn xua xua đám muỗi vo ve trên mặt cậu bé.Trong lòng mẹ, cậu bé ngủ rất đẹp. Gương mặt bụ bẫm, sởn sơ, ăm ắp lời hứa hẹn làm một chàng trai đẹp trong tương lai không xa.
- Chẳng nói thì dấu diếm được ai nữa. Cuối cùng thiếu phụ cũng chịu chuyện. Em chờ đợi suốt một thời bom đạn rồi. Làm vợ, làm mẹ là quyền là khát vọng của phụ nữ. Là danh dự nữa. Riêng em chờ đợi, cả săn đón điều ấy đến nát lòng. Thế rồi thế đấy. Kiếp gái già. Thế gian không có nỗi buồn khổ nào sánh nổi phận đàn bà chịu nỗi gái già, đơn độc, bà cô. Nên em liều. Phải tốn khối tiền xem phim kịch. Lại phải đi làng khác mới dám… Rồi tôi có mang. Gia đình, xóm làng chỉ còn thiếu cách cạo đầu bôi vôi. Có lúc, em toan phỉ phui giọt máu liều thân. Nhưng rồi em cố cắn răng. Trước tháng sinh, em xin xóm vạt đất này. Đám bạn gái lỡ thì người cây tre, người bó mạ giúp mẹ con em có nơi trú mưa nắng. Ơn trời! Mẹ con em vuông tròn. Nhà em lúc nào cũng đông khách. Toàn gái già, gái lỡ trót với nhau. Đứa nào cũng khen em tốt số! Cầu cho người đời cứ xinh trẻ mãi.
- Chẳng niềm vui nào sánh nổi hạnh phúc của người mẹ đâu – Tôi an ủi thiếu phụ và động viên – Ta đã có luật con ngoài dã thú.
- Vâng! – Thiếu phụ nhỏ nhẹ - Nhưng ở làng mấy ai hiểu, cảm thông phận gái già. Đành nhắm mắt thôi. Em gắng nuôi thằng bé ngoan, khỏe, giỏi giang. Nhất định thế! Khối cặp vợ chồng quyền bính, của nả như núi mà con cái có ra gì.
Tôi xin phép thơm cậu bé và chia tay người mẹ. Đường về, lão Đổng trở nên lầm lỳ.Dường như thiếu phụ đã đánh cắp ở lão tính năng nổ và bản chất lão điền hóm hỉnh. Tự lúc nào tôi cũng nhạt mất hứng thú công việc. Thế vào những háo hức là một nỗi buồn rất cụ thể thật khó xoa dịu.
Đêm dần vào khuya khoắt. Cốc tam xà đã kích lão Đổng thường lại. Lão chỉ cái máy ghi âm của tôi, gật gù:
- Thời khoa học lắm cái thú ra phết. Tháng trước tôi phải vào làng mượn cái máy như của anh đặng trị các bà ngoa ngoắt.
Trời ơi! Tôi suýt sặc rượu! Ở làng các bà sẵn sàng bỏ buổi làm để chửi chộm nải chuối, mớ rau… chủi chồng con và chửi chồng con. Có bà cứ nhè lúc vợ chồng con trai khép cửa buồng mới cất giọng. Nhè một đêm bà kia đang “hát” lão Đổng xách đài chạy đến, ôn tồn: “Bà không ngủ để chửi, tốt thôi! Nhưng chửi từ tối đến giờ mệt rồi! Giờ bà chửi khẽ tôi ghi vào máy. Mai họp xóm tôi mở băng đài. Như thế bà đỡ mệt, dâu con chắc ngoan lên…”. Bà kia sợ xanh mắt. Đám chua ngoa nháy nhau: “Liều liệu cái mồm từ nay…”. Ai chứ lão Đổng xắn tay thì không phải chuyện đùa.
Hôm sau, trước khi tạm biệt lão Đổng, tôi phải làm cuộc phỏng vấn chốt chuyến về Vũ. Lão Đổng giãy lảy:
- Phỏng với phiếc làm gì cho rách việc ra. Tôi là cái dân ý mà.
- Nhưng còn xếp của cháu. Lão khó tính lắm – Tôi nài nỉ:
Ngẫm nghĩ một lát, lão Đổng gật đầu:
- Thì vấn. Cậu chuẩn bị máy trước đi.
Cái máy đã sẵn sàng từ lâu cho những phút này. Tôi ấn công tắc máy và đặt câu hỏi:
- Xóm Vũ có những chuyển động đáng mừng. Xin trưởng xóm cho biết động cơ thúc đẩy xóm nhỏ chuyển mình đi lên?
- Chặc! Bợm già mắc bẫy cò kè thôi mà.
- Xin trưởng xóm giải thích cụ thể:
- Chà… chà… Bà nó ơi. Xong chưa…
Tôi vội cắt máy, không để đâu hết ngơ ngác. Lão Đổng cười. Lão ão xuống bếp và trở lên với mâm cơm sáng. Như thế là tôi hết cơ hội yêu cầu giải thích. Vả lại, tôi hiểu, với lão trưởng xóm, khôn khéo nhất là “stốp” ở đây.
Sếp của tôi là một người rất chịu chơi. Ông rửa điếu cày, mua cả lạng thuốc lào Vĩnh Bảo tông chờ tôi trở về. Thưởng thức món ruột đâu đấy, tôi báo cáo chi tiết chuyến đi và trao cho ông hộp băng. Ông mở máy đúng ba lần. Ông kinh ngạc, đập tay lên trán.
- Lạ quá! Lạ quá! Cổ, kim. Á, Âu, Phi, Mỹ-la tinh, cả Úc-đại-lợi. Chưa từng có ai trả lời báo chí công luận như lão trưởng xóm nhỏ này. Sếp thì thầm. Và đột nhiên ông gắt lên- Còn cậu! Cậu đã mục sở thị xóm nhỏ. Cậu giải thích tôi nghe.
- Thưa sếp – Tôi từ tốn – Bợm già là tay cao thủ, lọc lõi các mánh lừa bịp, trấn cướp. Cò ke là loại bẫy rất đơn giản chỉ lừa nổi lũ chim bé nhỏ, khờ khạo, đám gà tồ, chó ngố! – Với trường hợp xóm Vũ ta có thể hiểu đại ý: những tay cao thủ, sừng sỏ bị sa sập bởi cái bẫy đơn giản thô sơ. Cái lớn lao thua cái bé nhỏ. Đau lắm. Đây là một chiều ý nghĩa, một cách hiểu. Nhiều việc lớn lao, những thói hư tật xấu ghê gớm boong ke trong đời sống xóm làng… Rốt cuộc được giải quyết thông đồng bén giọt bằng những biện pháp bình thường, tối đơn giản…
Sếp lắc đầu, hổn hảo:
- Chưa ổn. Phải hội nhập xóm nhỏ. Phải nghiên cứu kỹ câu trả lời phỏng vấn của lão Đổng. Không thể xem thường.
Các bạn! Có lẽ sếp của tôi quyết định đúng. Nên chăng chúng ta cùng suy ngẫm câu trả lời của lão Đổng. Trong khi chờ đợi tìm kiếm lời giải thích thỏa đáng, tôi xin trình các bạn đôi ba chuyện về lão trưởng xóm.
THÁNG BA THƯƠNG MẾN
Cuối tháng hai âm lịch, tôi được xuất ngũ về quê. Tôi gặp cây đa cổ thụ sừng sững đầu làng khi ngày đã ngả sang chiều. Nắng chiều xuân nhàn nhạt. Vòm trời chiều xuân cao cao. Những vầng mây phớt xanh, mây nhờ nhờ trắng đan vào nhau làm âm ấm không gian, âm ấm mắt nhìn.
Lệ quê tôi, những ai trước buổi đi xa hoặc trở về, dân làng vui rủ nhau đến chúc mừng, thăm hỏi. Với những người lính, khách đến càng đông hơn. Buổi tối đầu tiên tôi trở về cũng giống như đêm trước ngày tôi đi lính. Khách ngồi chật trong nhà, ngoài thềm, cả phần bán mái của ngôi nhà ba gian hỗn hợp ‘‘tre-đất” vốn là nơi đặt cối xay thóc. Tôi xăng xái trong nhà, ngoài thềm, ra trái mời bà con hút thuốc cuốn Lạng Sơn tôi mang về và uống nước chè xanh các em hái vội vườn nhà. Bà con, bạn bè ai cũng muốn tôi ngồi lâu với họ để trả lời những câu hỏi về cuộc sống vùng biên, người lính. Nhưng tôi không ngồi lâu được với ai, cũng chẳng trả lời trọn vẹn câu hỏi nào. Giữa lúc tôi mời thuốc lá một ông cụ, nhà ở giữa xóm thì một bác ở cuối xóm vỗ vai tôi, bỏm bẻm miệng trầu: “Năm nay trầu cau tốt, cưới vợ đi cho mẹ mày nhờ, cu ạ”. Tôi nóng ran cả người. Lời khuyên khởi dậy những nỗi niềm, long tôi hướng về Nụ - người vợ chưa cưới của tôi. Đã biết trước Nụ hay tin tôi về sẽ sang cùng mẹ và các em lo việc nước nôi, nhưng lúc này tôi cứ lo lo em chưa biết hoặc đã biết nhưng vì ngại ngùng, vì bận công việc họp hành gi đó…nên chưa sang. Thật lạ lung! Mối băn khoăn đang quẫy thì Nụ từ ngoài thềm bước vào, hai tay em xách hai bình nước. Ánh đèn dầu đủ cho tôi nhìn rõ đôi mắt em long lanh mãn nguyện. Tôi nhìn rõ mái tóc dài óng mượt cảu em và lưng suối tóc lấp lánh ánh kim loại của chiếc cặp hình con bướm. Con bướm ấy tôi làm từ chiếc ca nhôm bẹp, trong suốt một tuần mưa mịt mùng điểm tựa. Mắt tôi bị hút vào mái tóc em. Người xưa nói: phụ nữ tóc dài sẽ thư nhàn hay vất vả nhỉ? Hình như Nụ nhận ra ánh mắt tôi dõi nhìn nên luống cuống đặt bình nước vào tay một bác và bước nhanh ra ngoài. “Nụ… Nụ…”. Tôi nghe rõ ràng tiếng long tôi bật lên run rẩy. Tôi muốn đứng lên chạy theo em, cầm tay em, vuốt mái tóc em… và cùng em xách bình nước nóng, thơm đi khắp trong nhà, ngoài sân để mời, để chào bà con bè bạn. Nhưng tôi ghìm được cảm xúc, ước ao của mình nhờ một điều chợt nhớ đơn giản: Tôi là chàng trai quê, em là cô gái quê, đâu dám vượt “đất lề quê thói”.
“Nụ… Nụ…”. Tiếng lòng tôi run rẩy bật lên. Năm trước tôi được nghỉ phép nửa tháng để sau đó tại ngũ thêm một năm theo yêu cầu của cấp trên. Trong dịp ấy, theo lệ làng, mẹ tôi sắp cơi trầu sang chạm ngõ người tôi yêu thương. Cặp bánh gai đặt lên bàn thờ. Xấp bánh đa vừng bẻ chia cho trẻ. Đấy là kết quả độ chin tình yêu trai làng ta, gái làng ta. Đấy cũng là kết quả của sức ép của họ hang, của việc mẹ Nụ “bật đèn” trước hiện tượng trai tráng quanh vùng dạp dìu vào ngõ… người tôi yêu. Thế là em như ván sắp nên thuyền, tôi như cây chèo đang rõ hình từ phiến gỗ.
Dưới bếp chợt rộ lên những tiếng cười trẻ trung giòn giã. Trong vui vẻ ấy, tôi nhận ra tiếng cười của người tôi yêu thương. Tôi lắng nghe. Chợt có bàn tay ai vỗ lên vai tôi:
- Chú xuất ngũ có được đong gạo không?
- Có ạ - Tôi đáp và nhận ra người vỗ vai là bác ở xóm bên.
- Thế thì tốt chứ không thì…
Tôi không được nghe tiếp “chứ không thì” là sao bởi phía cửa buồng ai đó đã ới gọi. Tôi lách qua khe chiếu để đến chào người dì họ. Dì sờ nắn tay tôi, vuốt lưng, vuốt tóc như vỗ về đứa trẻ. Dì thì tháo:
Mày không đến nỗi phù thũng như mấy đứa về hồi trong năm. Nhưng sao mày gầy thê, lại ghẻ nữa.
Dì thì… dì thì… Tôi ấp úng và lặng đi trong bàn tay vuốt ve của dì. Dì cười mà đôi mắt ngân ngấn nước. Tôi hiểu nước mắt và nụ cười kia nửa dành cho người lính trở về, nửa còn lại dành nhớ thương hai người con đã gửi nhịp đập con tim vào lòng đất miền Trung.
Thức vui với dân làng rồi lại thức rất khuya với Nụ, vừa đặt mình xuống giường, tôi nghĩ sẽ phải ngủ đến chớm trưa mai. Vậy mà lúc thức dậy trời vẫn còn tối đậm, trên bàn thờ vẫn còn le lói ánh đèn dầu bao giờ cùng được mẹ tôi thắp từ lúc tắt mặt trời đến khi sang hẳn. Cùng lúc nhận ra ánh đèn, tôi nghe trong buồng vọng ra tiếng mẹ tôi thì thào với ai đó. Ngay đó, một giọng nói the thé, rin rít đã giúp tôi nhận ra người khách sớm mai. Đấy là vợ chú Thấn, Bí thư đảng ủy, nhà ở xóm bên. Đúng là thím Thấn rồi. Tôi ép mình sát vách, dỏng tai hóng chuyện. Lạy chúa! Cảm ơn linh giác đã mách cho tôi biết thím Thấn sang sớm không phải để hỏi thăm thằng lính hồi hương.
Mẹ tôi thì thào:
- Miệng dân song bể thím còn lạ gi! Cháu nó về đến đồng kẹo cho trẻ tôi cũng phải lo chứ làm gi có hàng biên giới mới chả đồ tâm lý. Chả giấu thím , đến quà sang ông thong gia cháu nó cũng cậy tôi.
Thím Thấn chem chép miệng:
- Vậy mà em cứ tưởng thằng ấy ở biên, làm ăn được, thế nào chả mua ít hàng kiếm đồng lời đỡ bá…
Tai tôi thoắt ù ù như có ai kề cối xay bên cạnh. Rồi vẫn tiếng qua kẽ răng khít khịt trồi ra:
Tưởng có hàng thì bá đưa em rồi quy ra tiền khấu vào món bá khất hồi trong năm và mòn lãi đận rồi. Thật không có cũng đành vậy. Chỗ chị em, em nói thật, anh ấy cứ đay đớn món bá khất, thúc em xin cả bá để lo việc cưới cái út Len. Nể bá, em đành vay ngõ khác đập vào. Người em vay, họ đòi “năm mươi phân”, thóc đến mùa một trả đôi chứ không mềm như em đưa bá đâu…
Cảm ơn thím – Mẹ tôi cất lời nghe run run.
Thằng cả nó về bất quá được bốn chục ký gạo chứ mấy. May thì đử trả ngõ vay nóng chứ bõ bèn gi, bá nhỉ! Nếu thiếu ăn bá cứ sang em, mà sang ngay chứ không tuần tới nhà em nó họp huyện về. Em đỡ không bá nhưng bá đỡ cho em cái ngõ em vay đập vào món bá khất em nhé!
- Thím… thím xơi trầu đi.
- Thằng cả qua tuổi kim lâu rồi thì bá xin cưới ngay đi. Chứ để vậy trai gái gần kề bố ai răn ai lường nổi. Bá cứ lo đi, em đỡ cho một món. Bất quá dăm tạ thóc, dăm chục ngàn là thừa cưới chứ mấy nả…
Thím Thấn kết chuyện bằng tiếng cười the thé rồi cáo về. Mẹ tôi theo tiễn thím ra ngõ. Bao mệt mỏi hành trình mã hồi, rồi đêm vui ào về quật tôi xuống giường ngủ tiếp. Tôi cố gượng đứng lên gấp chăn màn, vừa lúc mẹ tôi trở vào. Tôi hỏi ngay:
- Thím Thấn sang hỏi nợ hả mẹ?
- Mày thì… Mẹ tôi chỉ nói thế rồi bước vào trong buồng đánh thức lũ em vẫn đều tiếng ngủ.
“Mày thì…” – Đấy là lời của mẹ. Bao giờ cũng thế khi đứa con muốn tham dự vào những lo toan của người mẹ đều được mẹ chối từ, gạt đi bằng: “Ối dào… ối dào… mày thì…”. Như thế là mẹ quyết dành hết về mình những gánh nặng. Muôn lo từ nhỏ tới lớn,từ ăn đến mặc, lấy vợ, lấy chồng… muôn lo mẹ chất được cả lên vai, vào lòng.
Tôi cầm khăn mặt ra bờ ao. Mưa phùn bay bay. Từ lúc tôi chia tay Nụ trong đêm, giờ mưa vẫn bay bay, vẫn giăng màn hư ảo. Bên kia bờ ao thấp thoáng bóng cây. Lưng bóng cây thấp thoáng chái bếp nhà Nụ. Tôi vục tay xuống ao vốc nước vào mặt. Màu nước ao quê xanh xanh, mùi nước ao quê ngai ngái. Những mệt mỏi, cả những buồn lo nữa bỗng tan loãng, mất hút trong cái màu, cái mùi nước ao quê đã hơn một năm nay tôi mới được vỗ lên da mặt mình. Từng vốc… từng vốc nhé… A! Nhà bên Nụ đã dậy từ lúc nào. Tiếng em nẹt con lợn đòi ăn nghe sao mà oai thế! Bên ấy là cầu ao nhà em, có cây lộc vừng cổ thụ. Từng vốc…từng vốc nước ao quê ngai ngái, xanh xanh.Buồn cười thật đấy! Ngày ấy làng chưa có nhà hộ sinh, bà Nụ đón Nụ ra đời rồi rẽ giậu, băng qua vườn sang đón tôi. Hai đứa chung quả chanh tưa miệng. Hai đứa chung lưỡi hái cắt rốn. Đến ngày hết ngén, tôi và Nụ lại “ti” chung bầu vú mẹ Nụ, vì mẹ tôi lại mang thai, lại bị ốm. Tôi bú nhờ mè Nụ đến khi đầy tuổi mới thôi.Chúng tôi như củ khoai trầy trật lớn trong luồng đất cằn. Chúng tôi than nhau, đánh nhau, cãi nhau… lại than nhau như hai đứa trẻ sinh đôi. Học hết lớp bảy, tôi và Nụ phải thôi học vì hoàn cảnh éo le. Bố tôi ngộ cảm sau đêm đi riu tép. Mẹ Nụ sinh cô gái thứ bảy lại mắc thêm chứng hậu sản. Chúng tôi cứ vô tư đùa nghịch cho đến khi trái tim tôi đổ nhịp lạ lùng theo ánh mắt chợt nhận ra người “tic hung” đã là cô gái lộng lẫy trong bộ quần áo quê. Hết vô tư sao? Dầu sao cũng chẳng ai thơ trẻ, vô tư mãi được… từng vốc… từng vốc … ao quê.
Các em tôi đi học được một lát thì Nụ sang nhà. Gương mặt em bừng đỏ sau nụ cười gượng thay cho lời chào “trống”, tôi đang ngây người vê thuốc sợi. May mà mẹ từ dưới bếp đi lên chứ không đôi bên chưa cưới khó mà “ngồi được” với nhau.Tôi đã làm vỡ điếu thuốc, còn em đang lùi lại góc nhà.
Mẹ tôi vừa bước qua bậc cửa, Nụ sà lại. thì thào:
Mẹ, con sắp đĩa xôi sng thắp hương thầy để lát nữa bố con… đi ngược…
Mẹ tôi run rẩy đón đĩa xôi đặt lên ban thờ.Nụ rút ba nén hương đưa cho mẹ tôi rồi mạnh bạo bước ra bàn:
Em mua mấy gói kẹo để anh làm quà…
Em thì… tôi chỉ nói được thế! Nụ lặng lẽ xếp mấy gói kẹo lên mặt bàn. Hương trầm đã tỏa ngan ngát. Mẹ tôi chắp tay trước ngực, miệng lầm rầm: “… độ trì… đi ngược… làm ăn…”.
Đi ngược tức là hành trình từ vùng xuôi lên lên vùng đồi núi. Tôi đã quen với tổ hợp từ “đi ngược, lên đoàn” từ thủa lên ba. Làng tôi nghèo lắm. Thiên hạ năm, mười tấn một héc-ta; cơ giới tới bốn, năm mười phần trăm việc đồng mà làng tôi vẫn cứ nghèo. Ngày ba tháng tám khi đồng ngơi việc cũng là trong nahf cạn cái ăn, dân làng tản tứ phương tìm cái ăn đợi mùa. Người sang Nam Đinh, Ninh Bình đóng gạch, nung vôi khoán. Người lên rừng gặp việc gì làm việc ấy, cốt sao có bát cơm, đồng công. Cũng có người đi ngược không cốt tìm việc mà đi mót sắn, mót chè đưa về xuôi đổi thóc gạo. Những nhà khá giả thì ngồi nhà cũng kiếm gấp nhiều lần đám xuôi ngược tứ tán. Họ xuất tiền, xuất thóc, lãi một trả một rưỡi, gấp đôi và lấy mốc là mùa gặt tới. Kẻ khó cần cái ăn, cần đồng vốn, tiền tàu xe thì lãi mấy cũng phải gật, phải ngậm bồ hòn. Tôi đi lính mấy năm, năm nào cũng được hưởng phép. Dịp nghỉ nào về cũng nghe nói làng Hạ (tên làng tôi) quyết tâm phá thế độc canh cây lúa bằng nghề này nghề nọ; nâng cao đời sống bằng kế bày, sách kia; triển khai nghị quyết, chỉ thị này khác… Nhưng rồi làng tôi cũng như năm nào, vẫn nguyên thế độc canh, vạn sự chi dung hợp lý, phi lý chồng lên hạt lúa; vẫn mỗi mùa gặt cờ đỏ, dân quân vác sung, kéo xe đi thu sản; vẫn tháng tám ngày ba người giàu xuất tiền, thóc cho vay lãi, người nghèo tứ tán làm ăn, cả hành khất nữa…
Nụ về rồi, mẹ bảo tôi:
- Con sang bên nhà đưa ông xuống bến xe. Đừng để cái Nụ nó đi. Nó đi thì bỏ mất gánh cỏ bán cho đám xe bò bến than. Bỏ rẻ gánh cỏ đầy cũng được lưng bở gạo.
- Vâng ạ - Tôi đáp và thấy đầu óc chông chênh, giống như ngày nào mưa tắc đường vận chuyển, cả tiểu đội “ăn” nước lã tròn nửa tuần lễ.
Nụ đồng ý để tôi quảy gánh đưa bố xuống bến xe huyện. Hành trang đi ngược của ông gồm vài bộ quần áo, hai ký thuốc lào, ba ký tép khô và năm lý mắm tôm đặc. Trên đường xuống bến xe, bố con trò chuyện rôm rả. Ông không giấu tôi cả việc phải đi vay ai, lãi bao nhiêu phân để có vốn đi ngược. Đến bến đã thấy mấy người làng cũng chờ xe đi làm ăn. Ông không cho tôi xếp hàng chờ mua vé mà giục về và dặn: “Bảo các em làm đất trồng cà. Nếu khan việc sẽ đi mót sắn, mót chè đủ gánh rồi xuôi…”.
Từ bến xe, tôi về thẳng nhà Nụ. Nhà im vắng. Tôi đứng một lát mới thấy Nụ từ vườn rau về. Nụ bảo mẹ đi cắt cỏ, mấy đứa em, đứa đi chăn trâu, đứa đi đánh dậm. Tôi hiểu mẹ đã giành lấy việc đi cắt cỏ để Nụ ở nhà chờ tôi ve
Vào trong nhà, tôi mạnh bạo hẳn lên. Ngồi đối diện với Nụ, tôi hết nói luyên thuyên laij lấy xe điếu chọc đùa vào trán, vào tóc em. Nụ chỉ cười. Hết quay mặt đi lại gục mặt xuống bàn để cười. Một lần Nụ ngẩng lên, mặt đỏ bừng, đôi mắt sáng lạ lùng. Tôi nôn nao bật khổi ghế sang bên Nụ. Em vội đứng lên lách qua người tôi để mất hút sau cửa buồng. Tôi lao theo em. Điều chợt nhớ ngày xưa bé bỏng đuổi nhau chốn nấp gậm giường, niềm âu yếm cả ham muốn nữa vừa dậy lên đã lắng xuống khi tôi nhìn thấy, đúng hơn là ập vào mắt tôi, dáng đứng như bết vào góc tường của Nụ, đôi mắt em mở to, ngấn nước và đầy ắp sợ hãi. Sợ hãi kia có giống ngày xưa tôi dọa em trong đêm đi học nhóm? Có giống như đêm nào bên gốc lộc vừng cạnh cầu ao mùi nước ao quê ngai ngái, màu nước ao quê lấp lánh dưới trăng… Toàn thân tôi thoắt tròng trành. Tôi đảo mắt khắp gian buồng tìm nơi bấu víu. Không thể vịm vào vai em đang nép chặt vào góc tường. Không thể.. Góc trong cùng một lá cót cuộn trong bên cạnh cái lải không đậy nắp. Cái lải chắc dùng đựng gạo nhưng không cần đậy nắp nữa. Vách áp gian ngoài có hàng vấu tre để vắt quần áo. Vài bộ quần áo trên mắc. Dưới chân vách, một rổ khoai củ to nhất cỡ ngón chân cái…
Tôi run rẩy bước ra khỏi gian buồng mà thời thơ ấu đã thuộc từng xó xỉnh, từng chui xuống gậm giường chốn nấp. Tôi không đến bên bàn ngồi xuống chiếc ghế ghép bằng than tre để chờ Nụ mà đi thẳng ra vườn rau. Trên mặt luống đất vằm nhỏ, những cây cà tím đang chờ vào hốc. Tôi cầm lên tay những cây cà, ngắm bộ rễ non tơ và nhớ đến món cà bung tra tỏi, lá lốt ăn thay cơm tối.
Từ nhà Nụ về, tôi thấy mẹ ngồi bên thúng thóc đặt cạnh cối xay. Tôi sà vào với mẹ và đặt tay vào thúng thóc. Những hạt thóc lạo xạo bốc lên mùi hôi ẩm. Tôi nghiền mấy hạt thóc trong lòng bàn tay bằng ngón tay cái. Vỏ trấu và hạt gạo vụn nát. Chắc chắn là thóc lưu cữu từ vài ba năm trước, ngữ này tỉ lệ gạo không thể hơn bốn nhăm phần trăm.
- Mẹ vay ai thế? – Tôi hỏi và nhớ đến thím Thấn.
- Của cô Liên mẫu giáo đấy. Cũng lãi nhưng nhẹ hơn – Mẹ tôi nói.
Sao mẹ lại vay? Con sẽ đong gạo chế độ cơ mà.
Mẹ tôi như bừng tỉnh, vỗ tay lên cạp thúng.
Con không nhắc đến đong gạo thì mẹ quên chuyện. Con xuống bến một lúc thì chú xã đội lại chơi. Chú ấy bảo chế độ gạo xuất ngũ bây giờ trả bằng tiền, giá trăm tám một cân. Cứ như chú ấy tính thì ba tháng Chính phủ trả bằng tiền chỉ đong được nửa tháng giá chợ.
Ngừng một lát, mẹ tôi nói tiếp, giọng trầm xuống:
- Mẹ đã tính nếu được đong gạo thì san cho bên nhà một nửa, đỡ ngày nào hay ngày ấy. Nhưng nếu thật phải lĩnh tiền thì chẳng được mấy nả. Bên ấy ngày càng neo bấn. Vụ chiêm rồi lúa tốt đấy nhưng ruộng ít lại đông miệng ăn. Gặt xong buông liềm coi như trắng tay vì phần cờ đỏ thu tại ruộng, phần chủ nợ thu tươi ngay trên sân.
- Tôi nhớ đến gian buồng trống không, lá cót cuộn tròn, cái lải sành không nắp. Tôi nhớ đến khuôn mặt nhợt nhạt, cái dáng đứng như bết vào góc tường và vầng trán vã mồ hôi khi vung cuốc trên luống cà.
Con xay ù hộ mẹ nhé. Mẹ sang bảo cái Nụ xuống nhà thím Thấn mà lấy thóc. Thím ấy gạt một tạ đến màu thành một tạ sáu bảy cân. Như thế cũng còn nhẹ hơn nhiều ngõ khác. Phải bảo nó xuống lấy ngay không xóm dưới họ lấy cả, ngày mai thím ấy lại lo cưới con gái – Mẹ tôi nói thế rồi sải bước ra ngõ.
Tôi bưng thúng thóc đổ vào lòng cối và mắc chàng xay vào tay cối. Cối xay quay tít. Tiếng cối xay “ù… ù” đan vào tiếng ngỗng kêu “ken ket…”, “ù… ken…két…”.
Ngày tháng ba thật dài. Nhưng dù có dài bao nhiêu rồi cũng phải tối. Tối đậm, tôi và Nụ ra ủy ban xã để trình giấy tờ xuất ngũ của tôi. Đường làng vắng ngắt. Hai bên đường khá dài mái nhà nhưng thoảng mới có ánh đèn hắt ra đường. Có lẽ tôi và Nụ là hai con người duy nhất có mắt trên đường làng trong đêm tháng ba.
Ngày mai hoặc ngày kia trình giấy cũng được – Tôi bảo Nụ và quyết định rủ em đi dọc đường làng. Đi thế, để thỏa mãn cái chớt đến ngồ ngộ: tận hưởng vẻ tĩnh lặng của đêm quê giữa kì giáp hạt, sau đó là vì lâu tôi mới được đi bên em trên đường làng. Cuối đường làng có lối rẽ lên bờ đê. Trên bờ đê có nơi khuất gió, ngày xưa, cả bây giờ nữa, trẻ chăn trâu thường tụ tập.
Nhưng còn các em ở nhà. Chúng nó sẽ đùa nghịch, đánh cãi nhau thay vì học – Nụ nói. Tôi trá lời bằng cách cầm tay em. Sắp đến cổng ủy ban, tôi kéo Nụ bước nhanh hơn. Hai đứa lướt qua cánh cổng mở rộng. Vào đây sẽ giải quyết được gi nào? Cái thiết thực là con dấu để mua gạo thì đã trả bằng tiền. Chế độ: chắc chắn sẽ được nhận một sào khoán sản. Chứ việc ưu tiên ở đây xin đừng có mơ nếu không có “chân rết” vây cánh ở làng.
Chúng tôi dừng bước bên một gốc phi lao. Trước mặt hai đứa là bãi ngô. Sau bãi ngô là dòng song. Con song Trà khá rộng chảy qua làng tôi màu hanh hao êm ái như dải lụa uốn lượn, uốn lượn… Vậy mà chỉ chớm mùa mưa bão,sông thoắt biến hình cuồn cuộn, cuồng nộ như con thủy long lao đi chinh chiến với biển cả.
- Đầu tháng tới là có ngô ăn rồi – Tôi nói để có chuyện vì hai đứa im lặng đã lâu lâu.
- Vâng – Nụ đáp và nói lảng – Ngày kia đám cưới cái Len đấy.
- Anh biết rồi. Cái Len con thím Thấn sắp “chống cười”.
Nụ trở lên sôi nổi:
- Đám cưới con gái Bí thư lấy con trai chủ tịch xã sẽ to nhất làng cho mà xem. Chú Thấn chuẩn bị hơn tạ lợn. Nhà trai chắc phải gấp đôi. Trong món đồ dẫn cưới có ba chỉ vàng, trong hôn lễ có dàn nhạc sống, chụp ảnh.
- Thế còn chúng mình? – Tôi buột miệng hỏi đùa.
- Thế anh đã chuẩn bị được gi nào?
Nụ hỏi thế, giọng điệu rất chi là vui nhộn, vậy mà tôi chết lặng.
Chuẩn bị được gi nào? Gian buồng của mẹ trống không, lá cót cuộn tròn, không có mùi thóc gạo, lũ chuột rúc lên cắn mái rạ. Chăn, màn, giường, gối, thuốc lá, pháo, cơm cỗ… trông vào đâu? Hay là trông, là chờ vào cô mẫu giáo, vợ chú Bí thư?... Chiếu nay, mấy mẹ con đã bưng lên tay bát cơm của thúng thóc vay theo lãi suất “tình cảm”, một tạ đến mùa thành một tạ sáu mươi kí. Chiều nay mẹ tôi và mẹ vợ chưa cưới rủ nhau đi cắt cỏ bán kiếm mấy trăm bạc phòng thím Thấn nài ép thì có đồng đặt đĩa bữa cỗ cưới…
“Lung tung… nghĩ lung tung… Vợ chưa cưới hỏi về việc cưới mà nghĩ lung tung… ê… ê… xấu xấu…” - Tôi nghe hình như dòng sông trước mặt nói thế. Tôi đành chốn tránh sự thật bằng hài hước, vui nhộn giống như hôm nào lình đói bàn chuyện cãi nhau về cỗ bàn, món này, món kia, ngon, dở; giống như trên sạp trong hầm chốt toàn con trai luận chuyện tán gái, đùa trò ôm yêu…
- Anh chuẩn bị đủ ráo cả rồi. Anh sẽ cưới em ngay bằng… bằng… - Tôi nói thế và ôm ghì Nụ vào lòng mình. Đôi môi, cả toàn thân em nóng bừng run rẩy.
- Thoắt thôi, vẫn trong lòng tôi, toàn thân Nụ lạnh toát, run rẩy nhiều hơn. Hai bàn tay và cả khuôn mặt em vã mồ hôi.
- Cưới nhau nhé? – Tôi lại đùa khi trên đường về Nụ đã vui lại.
- Ừ! Thì anh cưới đi. Chúng mình cưới nhau tức là góp thêm vào cuộc sống làng xã một sự kiện tuyệt vời.
Những sự kiện nào nữa? Có thế người vợ chưa cưới của tôi nhận định chưa chuẩn lắm nhưng đang vui và em vội chữa “làng xã” thành “tháng ba” nên tôi đồng ý với Nụ rằng: vài tạ thịt dùng trong cỗ cưới “ chạy bung” con gái Bí thư xã là một sự kiện; tờ lịch treo tường báo ngày tháng của những năm cuối thế kỉ hai mươi nhưng đa số dân làng phải sống, phải lo như đồng bào mình những năm đầu thế kỉ cũng là một sự kiện.
Một chiếc lá to bay qua mặt tôi rồi đậu xuống mắt đường. Cái lá bay đậu vô tình khiến hai chúng tôi cùng hướng mắt lên khoảng không trước mặt. Nhanh thế! Mới ở trên đê bây giờ đã gặp cây gạo cổ thụ giữa làng. Trên vòm cây, những bong gạo lặng lẽ chờ nắng đầu hạ để nở bung, để bay bay. Hoa gạo nở độ tháng ba. Tháng ba dân làng tôi tứ tán tìm cái ăn, tìm đến đám địa chủ mới đợi mùa…
Anh này! – Nụ kéo tay tôi đi tiếp – Sáng nay tụi em tổ chức dựng rạp giúp nhà gái. Rạp rộng kín nửa vào sân gạch nhá. Trong lúc làm, thằng con thím Thấn nghỉ phép cưới em gái cứ bô bô kể rằng xuống ga phía Nam nó gặp người làng mình đi ăn xin. Nó xấu hổ quá vội lỉnh đi, bỏ dở bát phở bò tái. Mấy ông bà cán bộ xã, huyện, chờ ăn cỗ dựng rạp, nghe kể vậy ai cũng cười tít. Nếu không nghĩ đến tình bạn và hoàn cảnh cái Len thì bọn em bỏ về ngay.
Tôi im lặng từ lúc ấy đến khi chia tay vợ chưa cưới, tôi cứ tự hỏi mình: chuyện con trai Bí thư xã ủy kể trong buổi dựng rạp cộng với những người nghe cười tít phải chăng là một sự kiện nữa?
Hôm sau, trong lúc cuốc vườn, mẹ tôi kể thím Thấn chưa gạt thóc cho nhà Nụ vay vì còn phải đi canh đám thợ kim hoàn đánh dây chuyền vàng cho con gái. Cũng đã có người đỡ cho vài thúng thóc, nhưng buổi chiều, mẹ Nụ sẽ xuống xóm dưới để vay thêm với tỷ suất một gấp đôi, tính mốc là mùa gặt tới.
Những ngày sau đó, cả hai nhà có sự chuyển hướng làm ăn. Mẹ tôi, mẹ vợ và vợ chưa cưới của tôi đi xúc tép, mấy đứa lớn đi cắt cỏ bán cho đám xe bò bến than. Đứa em út của Nụ hơn năm tuổi bị nhốt trong nhà hết gào khóc lại bi bô: “ữ… i… à… cái chống cối, ữ… o… à… cái… ung… ồi… khoai”. Có lần nó hát “Xuyền xan ại ậu ến xan, thấy em dất dả ơ hàn anh ương”. Lời hát ấy chắc là đám xe bò dạy lũ trẻ cắt cỏ, lũ cắt cỏ dậy thằng bé bị nhốt trong nhà.
Hơn bốn mươi tám giờ trôi qua, trong suy nghĩ và bàn tay tôi ráo riết hoàn tất một kế hoạch làm ăn. Khi cái riu tép, “con vịt” tre, sang đãi – tất cả là dụng cụ kiếm ăn buổi sinh thời bố tôi – đã sửa chữa chắn chắn bảo đảm cho việc hành nghề, tôi băng qua vườn sang nhà Nụ. Đấy là buổi trưa trời trong, nắng đẹp.
- Tôi và Nụ ngồi trên bậc cửa hướng ra sân. Trên sân lô xô mấy đụn cỏ phơi khô thay rạ đun bếp.
- Nụ này – Tôi vào chuyện, giọng điệu rất “ông chồng” – Anh đã tính kỹ và thấy rằng hai bên nhà không thể trông vào nợ lãi đợi mùa. Hoàn cảnh giống như con voi sa lầy càng giẫy càng lún.
- Ối người tính, nghĩ như anh mà vẫn phải mang nợ chồng chất – Nụ nói, mắt nheo nheo cho như tôi bàn đùa.
- Anh bàn việc nghiêm chỉnh đấy. Em hẳn biết anh sửa cái riu tép…
- Thì em chả giúp anh đưa nó xuống từ gác bếp còn gi.
- Một bơ tép quy ra gạo là nửa bơ. Một buổi đun riu bắt đầu từ mười giờ đêm trước đến năm giờ sáng hôm sau, anh đun em đãi, vừa rui vừa tán cũng cũng được ít nhất ba bơ. Ba bơ tép là hơn ký gạo chưa kể ban ngày làm việc gì đó ví như cắt cỏ bán cũng chắc nửa bơ…
Nụ nhìn đăm đăm về phía trước. Như thế là em đang suy ngĩ về kế hoạch của tôi. Tôi lặng im để em đi đến quyết định cuối cùng. Giây phút ấy tôi lại nhớ đến bố tôi. Sinh thời đêm nào bố tôi cũng đi riu. Người đội riu đi trước, mẹ tôi xách đén “ló” đội sàng theo sau. Con tép đồng bé tẹo vậy mà đỡ được phần nào gánh nặng của gia đình tôi. Trước khi ngộ bệnh, bố tôi còn đun riu trên đồng làng… Tôi hình dung ra cảnh tôi gò lưng đẩy riu trong lòng sông, trên bờ, Nụ đặt sàng sát đèn “ló”, căng mắt nhặt vấn rác ra khỏi mớ tép trong lòng sàng đãi…
- Em không ngại đêm hôm vất vả, nhưng em… sợ… - Nụ ấp úng.
Tôi dồn:
- Sợ gì nào?
- Sợ… sợ… giữa đồng vắng khuya khoắt…
Những tiếng bước chân chạy vội đã khiến Nụ ngừng lời. Em đứng bật lên cùng lúc ngoài ngõ dội vào tiếng reo: “Bố về… A… Bố về…”.Tôi theo sau Nụ đi ra ngõ. Bố vợ tôi đang đi vào, đằng sau, đằng trước là mấy đứa em. Dáng đi của người nặng nề, tấm lưng còng xuống vì gánh nặng trên vai. Một bên vai là gánh nặng, một bên là chiếc khăn vải đã xỉn màu, ươn ướt mồ hôi.
Tôi đỡ gánh nặng đặt xuống thềm. Nụ đã từ trong bếp cầm chiếc rá đi ra ngõ. Bố vợ tôi giật giọng”
- Không phải nấu nướng gì cả. Bố ăn trên đường rồi. Con nấu nước anh uống rồi luộc sắn chia cho các em.
Lát sau, lũ trẻ đã bóc đầy một rá sắn. Những cặp mắt hau háu nhìn rá sắn có củ trắng phau, có củ lốm đốm vàng. Những củ đốm vàng là sắn lưu niên. Năm kia cả tiểu đội tôi say mềm người vì ăn phải sắn lưu niên chứa độc tố.
- Em phải cho vào nắm muối trước khi luộc và nhớ đun thật kỹ - Tôi dặn Nụ thế và xách ấm nước lên nhà.
“Bố vợ hom hem như ngã nước” – tôi vừa đi vừa nhận xét trong đầu như thế. Ông noi:
- Tôi lên Bắc Cạn, chỗ làm năm ngoái anh ạ. Đến nơi may được người quen chỉ nơi khoán đào giếng, đào ao. Ba giếng thơi, một ao thả đều ở sườn đồi đá ong nhưng được cái cơm nuôi, công sá cũng khá. Nhận chỗ rồi tôi đảo về ngay tìm người chứ việc đất đa, thổ mộc một mình khó kham.
- Vâng ạ - Tôi đỡ lời bố.
- Đến ga tàu xuôi, gặp vài người làng mình hành khất, tôi mời họ ăn cơm nắm. Tôi cũng có ý rủ họ đi làm nhưng xem ra sức họ đuối lắm mà mình lại nhận đấu làm khoán
- Vâng ạ.
- Suốt đường về, tôi cứ nghĩ nên rủ anh đi được không. Xem ra bên nhà cũng túng, quanh cùng lại ít việc khả dĩ có bát gạo, đồng công chờ mùa. Đến tối, tôi sẽ sang thưa chuyện với bà. Theo tôi, anh nên đi.
- Thầy cho con nghĩ – Tôi đáp và sực nhớ chưa chế nước ra cốc.
Hai hôm sau, tôi đi ngược cùng bố vợ. Lẽ ra là ba người, nhưng trước hôm đi, người được bố tôi rủ đi – chú ấy cũng là bộ đội phục viên – xin kiếu vì vợ chuyển bụng đẻ. Hành trang của chúng tôi gọn gàng trong ba lô cóc và chiếc khâu từ bao tải loại xác rắn. Vẫn đem theo mấy ký thuốc lào, cá khô, mắm tôm đặc phần làm quà, phần bán đỡ tiền tàu xe, tiêu vặt.
Nơi chúng tôi nhận khoán đào giếng, đào ao cách điểm tự toiowr gần ba năm chừng bảy mươi cây số đường chim bay.
Hoàn thành xong ba cái giếng, tôi ra bưu điện huyện gửi tiền về quê. Phòng trước việc Nụ dành cho mẹ tôi phần hơn, tôi chia món tiền kha khá ra làm ba, hai phần của Nụ, phần còn lại của mẹ. Cô bưu điện ngạc nhiên trước việc hai người nhận tiền có chung một địa chỉ.
Ra khỏi bưu điện, đi được một quãng, tôi gặp hai bác người cùng xóm. Đôi bện mừng đến chảy nước mắt. Tôi kéo hai bác vào quán nước gần đó. Lát sau tôi được biết hai bác cùng lên Na Rì. Một người đến với đứa cháu làm thợ sơn tràng; một người lên chuyển sắn mót phơi khô gửi người quen từ tháng trước. Nhờ gặp hai bác, tôi được yên tâm về nhà tôi, nhà Nụ vẫn bình thường. Như thế là hai mẹ và Nụ vẫn đi xúc tép, bòn đồng. Lũ em lớn vẫn một chiều đi học, một chiều cắt cỏ bán cho đám xe bò bến than. Cậu út vẫn hết gào khóc lại trệu trạo: “I chống cối, o vung nồi…”. Cà tím vườn quê đã cho lứa quả đầu. Lúa cũng khá. Đại diện đầu ngành của xã đang họp phân gạo cứu tế và bàn kế hoạch thu sản vụ tới. Ngày hai bác cất gánh ra đi, việc họp vẫn chưa xong. Nhà thím Thấn cưới chồng cho con gái, mời hơn trăm mâm khách. Đấy là những tin quê quan trọng trong hai mươi ngày qua.
Đưa hai bác ra bến xe rồi tôi trở về với cái ao đang đào dở. Trên đường đi, tôi nhẩm tính thời gian. Như thế là chúng tôi xa quê đã tròn hai mươi ngày. Trong những ngày ấy, chúng tôi đã đào khoán xong ba cái giếng và một cái ao khá rộng đang ở những chục mét khối cuối cùng. Hai mươi ngày đã trôi qua… Như thế tháng Ba chỉ còn hai ngày nữa.
Còn hai ngày nữa là hết tháng Ba. Tháng Ba thương mến ơi! Biết nhắn gì? Biết gửi gì cho tháng
NHỮNG CON RẮN
Lưng chiều. Tư vác dậm đi như lướt trên ngõ. Anh đang vui – Gặp chiều nước cạn dậm một chập đã chấm hom giỏ. Lại nữa, đến đầu ngõ anh đã nghe tiếng dao băm bèo bôm bốp. Như thế là “mẹ nó”đã đầy gánh cỏ đồng xa về nhà. Điều đó báo trước giỏ cá lên chợ con tươi rói, dễ chào.
Nhác thấy bóng chồng vào sân, Na buông dao nhảo về. Chị đỡ cái dậm trên vai anh, đon đả:
- Thầy mình nhanh tý nữa thì gặp cậu với u.
- Cậu Nhãn về phép à? Sao không giữ u với cậu ở lại chơi? – Tư hỏi dồn hàm ý trách cứ.
Na cười phô hàm răng đẹp:
- Rõ chán với thầy mình. Cậu Cẩng chứ cậu Nhãn nào…
- Ừm. Hừm… Tư hừm giọng chặn lời vợ. Anh bực ra mặt. Chưa một lần sở thị nhưng từ lâu anh được nghe nhiều lời đồn đại về cậu Cẩng làng Cọi. Tay thợ đào ếch trong giấc ngủ trên đê. Được thánh báo mộng cho ăn lộc. Giấc tiên đã tâng tay bợm rượu lên hàng Cô – Cậu. Cậu Cẩng đợi lệnh đức Thánh Trần làm việc phúc đức, độ thế cứu dân, trừ ma diệt quỷ… Tiếng tăm cậu Cẩng lừng lẫy khắp vùng.
Na không nói thêm nửa lời. Ngót chục năm chồng vợ, chị hiểu anh hơn ai hết. Thường nhật Tư lành như cây lúa nhưng gặp điều ngang trái anh có họ với Trương Phi.
Na cúi đầu tránh ánh mắt của chồng. Nhưng chị không bỏ lỡ cơ hội được tạo lập bởi kinh nghiệm. Bàn tay chị chậm chạp chọn cá như làm nhịp cho lời nói vừa như kể lể, phân bua:
- Bao nhiêu lời mời mọc, lạy van cậu chỉ lắc. Đến u nói với cậu Cậu xem tướng mặt tôi rồi mới tạt vào vãng cảnh nhà ta. Cậu bảo thế đất nhà ta đẹp. Thầy mình có quý nhân phù trợ. Nhưng động long mạch hướng đông, có tà ám nên làm ăn lúi xúi. Cậu bảo cứ thành tâm rồi cậu kêu Thánh độ trì.
Tư nhấp nhổm ra ý không bằng lòng. Na đón trước tiếng “hừm…” bực dọc bằng cách nhặt lên con cá trên nhỡ.
- Để lại thêm con này nữa. Chứ vài con rô nướng. Thầy mình gỡ nạc cho trẻ thì lại nhắm suông…
Bất thần Na cúi gằm mặt sát đầu gối. Mặt chị vụt đỏ rựng, giọng nói lý nhí:
- Kìa… chỗ cửa.. quần thầy mình. Gớm chết khiếp.
Tư giật nhột nhìn xuống. Anh đứng bật lên trong nỗi ngượng vì sự vô ý của mình.
Mươi hôm sau. Một chiều Tư đi làm về đến đầu ngõ đã thấy chiếc mipha buộc catáp đen dựa bên gốc mít. Nhà anh chưa bao giờ có khách sang đến thế. Tư đang băn khoăn thì Na trong nhà chạy ra. Chị nhìn chồng bằng ánh mắt tươi rói:
- Cậu với u trong nhà. U với tôi van mãi cậu mới nán lại chờ thầy mình.
Tư miễn cưỡng vào nhà. Anh chưa tìm được lời thích hợp chào vị đại diện thánh thần. Cậu Cẩng đã đứng lên cúi người nho nhã.
- Anh Tư đi làm về.
- Vâng. Tư đáp và ngồi xuống ghế cạnh mẹ vợ. Thoáng chốc Tư hoài nghi với mặc cảm bấy nay về những người hành nghề mê tín. Con người đang ngồi trước mặt anh là một đấng thiên sứ có tài tiên tri, giao tiếp âm dương, điều ma cử quỷ. Con người ấy được cả vùng tôn kính là cậu, là Thánh. Dến bà lão chín mươi cũng phải rập đầu một điều cậu hai điều con. Con người ấy không hề giống sự miêu tả của sách báo, phim ảnh. Không râu cằm, ria mép. Không nách tráp, tay ô. Không áo chùng, khăn xếp… Con người ấy – Cậu thánh Cẩng làng Cọi kia mới lịch lãm làm sao. Đồng phục sơ vin.n Tóc chải đầu. Kính trí thức. Nước da khỏe khoắn no đủ… không được giới thiệu trước ắt toàn quốc chắc mẩm cậu là viên chức bậc trung nơi đô thị. Lời ăn tiếng nói tất nhien bội phần hơn nước xuýt đậm mì chính cánh. Con người cậu lồ lộ vẻ mãn nguyện tự tin của kẻ biết thời cuộc đang thuộc về mình, bị mình chi phối. Muốn yên được yên, thích sóng gió khắc có sóng gió.
- Ông Tư này – Cậu Cẩng xưng hô tự nhiên. Trước đó, trong lúc Tư hút thuốc lào cậu đã ném sang anh cái nhìn kẻ cả hàm ý cảnh cáo anh nhà quê quen thói mượn cái điếu thăm dò người lạ - nể lời cụ, cảm tiếng sống của anh chị mà tôi ghé vào chứ công việc chả mấy lúc được thư rỗi.
Bà mẹ vợ cung kính:
- Dạ. Đa tạ cậu…
Cậu Cẩng mủm mỉm, nói ra vẻ không cần ai nghe.
- Chuyện tôi đã nói với cụ và chị. Giờ sẽ nói với anh. Tin hay không tùy tâm. Nhà ta tứ đời vắt mũi không đủ nuôi miệng. Anh chị có tướng đa tài bách nghệ. Nhưng anh chị có tính nghề nào cũng sớm mở chiều dẹp. Của cải lắm phen ngỡ trong lòng bàn tay mà thoắt nhiên tay trắng. Tâm thần cả trong giấc ngủ cũng không yên. Vài lời trót dại, anh nghĩ tôi nói đúng sai?
Tư thần người ra. Rõ ràng cậu thánh đoán mò mà đúng. Đời ông bà, bố mẹ là chuyện hôm qua không nói. Thời hôm nay, ngoài cây lúa, tập thể mở nghề nào vợ chồng anh dốc lòng theo nghề ấy. Rốt cuộc, nghề thì chết vì đủ vòi bạch tuộc tiêu cực, nhũng nhiễ. Có nghề bát cả bát mồ hôi cũng không đủ lửng diều gà. Có nghề, trên kêu gọi làm ngay, làm nhiều. Châu Âu đặt hàng đơn như núi. Ngoại tệ mạnh. Đùng một cái sản phẩm đồ nghề xếp xó như thức ăn dần cho mối mọt. Vợ anh cũng sắm quang gánh chạy chợ. Nhưng chuyens thứ nhất dân phố lừa mất cả sọt. Chuyến tiếp, tiền thuế, tiền chợ gấp đôi tiền lãi. Vợ anh lại hoàn nghề khi đi mò, lúc cắt cỏ bán cho đám xe ngựa bến than. Anh lầm lũi với đánh dậm từ thời cụ tổ làng. Sông xa, ngòi gần. Con cá, con tép. Âu cũng có thu nhập. Của đáng tội bấy nay ở làng có những sang sáng nông nổi. Nhuwnghx chính sách, chủ trương, đường hướng làm ăn… chí lý lắm. Nhưng làm sao vẫn cứ hàng lũ hình nhân ăn trắng mặc trơn, cu thiên xích đế, nhảy nhót múa may trên lưng tấm áo nâu sờn bạc dãi dầu.
Thoáng hồi tưởng làm bật trên môi Tư nụ cười chua xót, mỉa mai. Phận áo nâu khổ từ trong bụng mẹ. Điều ấy đứa đứa trẻ con cũng biết, nói gì thánh. Tư vê mồi thuốc lào dụng ý cho chín thêm những lời khiến cậu thánh bẽ mặt.
Dường như biết điều ấy, cậu Cẩng đặt điếu thuốc đầu lọc xuống bàn. Cùng với ánh mắt bề trên cậu thánh ra giọng mật:
- Biết người có hạn không cứu thì người biết mang tội. Thấy người có lộc không báo người thấy ắt tán tài. Cứ vào tướng mặt anh và đường vân tay chị. Ứng với thẻ quẻ chịu xin hôm qua, nhà ta đây sắp mở nghề phát tài hái lộc.
- Nghề gì vậy? – Tư thốt lên. Trong nỗi kinh ngạc anh thoáng giận vợ. Thì ra hai ngày liền Na bỏ buổi mò đi đến tối mịt mới về. Hỏi thì ậm ừ: “sang làm cỏ giúp dì”.
- Nghề gì à? – Cậu Cẩng mủm mỉm – Như tôi dã nói với cụ và chị sau buổi lễ điện hôm kia.Đang thời âm thịnh dương suy. Âm thịnh thì đồ cúng lễ phải nhiều. Chỉ một cái lễ đã hội đủ tứ nghề. Nghề vàng hương, nghề xáo nếp, hàng gà, hàng mã. Trong tứ nghề phụng âm kính thiên có nghề hàng mà là mau phát, bền lộc hơn cả. Các vị có biết hàng mã Tốc, mã Lủng phố huyện không?
Na và mẹ gần như đồng thanh:
- Dạ. Thưa cậu có ạ.
Cậu thánh Cẩng gật đầu đắc ý:
- Hai nhà ấy cha truyền con nối nghề hàng mã. Cơ ngơi cỡ nhất phố huyện. Phu, thê, đệ tứ một bước là vè vè kích, cúp. Nhưng quân ấy hái lá lộc mà không biết vun gốc tín lễ. Chúng cậy thế độc quyền bắt chẹt dân lành. Chúng dư giả chu du đó đây mà không nửa bước vào cửa cô điện cậu. Chúng tiên tiền như rác nà không đồng bạc, nén hương tiến cửa chùa cung miếu. Tháng trước đi lễ tôi có tạt vào hai nhà ấy. Nhà thì chôn cột an-ten cản phương tài lộc. Nhà thì đôi xà quá có đá hóa tinh. Hai nhà ấy sắp đến ngày mạt vận. Ứng với quẻ thẻ, anh chị nên chớp cơ hội mở nghề hái lộc.
Tư buột miệng:
- Nhưng nghề ấy phạm pháp.
Cậu thánh cả cười:
- Hẳn anh biết lai lịch hai nhà ấy. Nào đã luật nào đụng đến họ.
Ba người chủ nhà đớ ra. Họ im lặng ngầm thừa nhận sự đúng đắn của lời thánh. Mã Tốc vốn là phó phòng văn hóa huyện về hưu.Hàng của ông ở cạnh hiệu sách nhân dân. Mã Lủng là em ông Treo đương chức Bí thư huyện. Ngôi hàng của ông liền vách trạm cảnh sát, bề thế giữa phố huyện không mấy khi vắng khách.
Ba ngày sau. Na đội mưa đi đâu từ sáng sớm. Giữa trưa chị mới trở về. Tựa bó nan nứa, cuộn giấy ngũ sắc vào góc nhà. Chị quay ra với chồng ngồi bó gối hút thuốc lào vặt:
- Cậu dặn hôm nay tốt ngày mở hàng được. Khách xô vía cậu đã xin thánh tìm cho. Giờ thìn mình làm cho tôi đôi ngựa hồng, đôi long đao. Ngựa thế này… Long đao thế này… - Giảng giải một hồi Na te tái xuống bếp quấy hồ.
Ngày mưa, nước lớn cái dậm gác xó. Tư miễn cưỡng mượn việc giải buồn. Anh khéo tay, từng tham gia ban thông tin xã, chuyên kẻ vẽ… Nên việc ấy đối với anh không khó.Tư hì hụi dựng khung, cắt, dán.Đến chiều, ngựa ra ngựa, long đao ra long đao. Na mừng như bắt được vàng. Hai đứa con đi học về thấy lạ mắt cứ quấn quýt quanh món hàng. Xem chán chúng hết đòi cưỡi ngựa lại vác long đao dọa nhau Na phải đe roi chúng mới chịu thôi.
Xẩm tối có tiếng xe máy vào ngõ. Tư thất tán thất hồn. Biết đâu làng xóm thấy láng giềng hành việc phi pháp mật báo công an. Tư toan vơ ngựa nghẽo, long đao nhét vào gầm giường đã nghe tiếng vợ đon đả:
- Hàng của chú xng rồi. Tôi lo lo là. Chỉ sợ chú trễ giờ cậu bấm.
Vợ chồng Tư giúp khách xếp hàng vào bao tải, buộc sau xe máy. Khách vù đi ngay.
Na vặn to hơn ngọn đèn dầu. Chị đặt lên mặt bàn xếp tiền, giọng nói run run:
- Mười tám nghìn thầy mình ạ. Kách khen hàng đẹp, giá mềm thưởng thêm hai nghìn nữa.
Tư lặng người đi. Anh nghe trống ngực dồn như vồ đập đất. Đời anh trong mơ cũng chưa thấy công lao động nào cao giá đến thế. Mà lại nhàn nhã. Không phải lội đồng đến rạc cẳng. Không phải ngâm mình trong nước đến bã bợt da thịt. Không có đàn lũ các loại đỉa bu bấu bòn rút giọt máu loãng… Tư khẽ rùng mình vì một nỗi cảm phục không quá mơ hồ.
Mã đẹp, giá mềm, gia chủ hiền lành… Những tiếng lành đồn xa. Tư – dậm trở thành Tư – mã. Na – mò dần nhường chỗ cho Na – mã. Ở làng quê có thói quen gọi tên người kèm tên nghề như vậy.
Cậu thánh Cẩng phán: “Đang thời âm thịnh dương suy”. Sai đúng ra sao cần phải nhìn đời để mà bàn nghị. Riêng vợ chồng Tư – Na mã bận tối mắt mũi. Những ngày tuần tiết, lễ hội, tết mã tháng bảy, nguyên tiêu, phải nghỉ học phụ giúp. Có khi vợ chồng anh phải mướn nhân công.
Chặp đầu khách hàng chỉ là các con nhang đệ tử trong xóm ngoài làng. Dần dà khách là những bà chuyên nghiệp buôn hàng mã. Họ đặt cọc hẹn ngày đến lấy hàng. Mỗi chuyến vài ba xe thồ. Có khi khách phải thuê xe ngựa mới chở hết hàng. Từ ngày có khách mua buôn nhà Tư – Na mã như một xí nghiệp gia đình chuyên sản xuất hàng âm phủ. Vợ chồng anh không phải tháng đôi ba lần đi chợ mua giang, nứa, giấy màu… Có người hàng xóm xin làm chân cung ứng vật tư. Từ ấy nếu cần vật tư chỉ ới một câu. Mấy tiếng sau xe bò chở hàng về phanh kít tận hiên nhà.
Sau một thời gian lên ngôi chủ xưởng đời sống gia đình Tư - mã được cải thiện rõ rệt. Giầu lên thì chưa hẳn. Nhưng bữa bữa người ngồi đầu nồi đã dịu bớt cơn đau thắt tê tái từng xêu cơm. Mâm cơm thưa dần đĩa cá nát kho tương. Thỉnh thoảng ba ông đồ rau bếp có dịp toe toét dội niêu thịt bụng kho mặn, nồi cá khúc kho riềng. Tháng đôi, ba có khi bốn, năm lần bố con Tư - mã được thụ lộc phật lộc thánh. Na - mã càng năng lên chùa, vào điện quả lộc càng to. Thoạt đầu chỉ là lát oản, quả chuối. Dần dà trong làn Na - mã đi lễ về đã có khi đĩa xôi, miếng thủ, cái cổ gà; khi cả đùi gà, chân giò… Rượu Tư không nghiện. Nhưng rượu lộc anh được thụ luôn. Một điều vợ chồng Tư ngỡ “không bao giờ” đã thoát nổi đến như mơ. Chủ nợ thưa dần rồi vắng hẳn. Món nợ sản lưu cữu trả đánh phắt một tiếng. Đi đâu, ngồi đâu vợ chồng Tư – Na mã đã có được cái đàng hoàng của người không nợ nần.Vợ chồng anh dần có tiếng nói trọng lượng của kẻ đến thời vận.
Bấy nay thời gian đối với Tư - mã là dòng chảy êm đềm qua khung cảnh làm ăn tấn tới.
Cậu thánh Cẩng trở thành khách quý của vợ chồng chủ xưởng hàng âm phủ. Cậu được cả vùng trọng vọng. Cậu đối nhân xử thế bằng phong thái tự tin của người lãnh trọng trách thánh thần ủy nhiệm. Nhưng với vợ chồng Tư, cậu đối xử tự nhiên, bằng vai phải lứa, người trần mắt thịt với nhau. Phải chăng đó là một đặc ân. Đúng quá! Tỉ như việc cậu hết mực lo toan sự làm ăn của họ.
- Ông thấy tôi nói có đúng không? – Cậu Cẩng hỏi. Đấy là buổi tối sau lễ trấn long mạch, trừ tà ám.
Tư – mã chỉ còn biết đáp lại bằng sự im lặng. Tất nhiên sau đó anh luôn lấy câu hỏi ấy làm “điểm khởi xuất những chiêm nghiệm”.
Tư – mã thật lòng biết ơn cậu thánh Cẩng! Cậu đã lướt qua bao nhiêu khẩn cầu, mâm cao cỗ đầy để chui vào mái gianh nát, uống với vợ chồng anh bát nước vối loãng. Đời ông bà, bố mẹ cho chí nửa đời vợ chồng anh một lòng đi theo đủ loại đường hướng làm ăn, chỉ thị, nghị quyết… Vậy mà đói khổ hoàn đói khổ. Ngờ đâu chỉ một lời của cậu thánh cuộc sống gia đình anh biến đổi mau lẹ. Như vạt lúa cằn được bón thúc u rê. Như cơn mưa rào đúng ngày con nước trơ đáy.
Tình ơn, tài phục chưa đủ sức biến Tư – mã thành con nhang đệ tử của cậu thánh Cẩng. Anh vẫn chưa nhìn thấy bằng cứ cậu là vị đại diện cho các thế lực huyền bí. Nhưng vô hình chung nó vỡ đất gieo mầm một thứ tình cảm dầy ma lực buộc Tư – mã nhất nhất y lời cậu thánh.
- Anh nên chạy cái bếp. Cả gian chuồng lợn. Để như thế hại phương tài lộc. Cậu thánh phán như thế trong dịp lễ đoan ngọ năm ngoái. Tư – mã đình việc xuống đi mượn người chuyển bếp. Cái bếp chỉn chu thì bọc hạt đay giống thối rữa.
- Cái giếng chạm long mạch, phải lấp! Để thế tán tài hại thê – Cậu Cẩng quả quyết.
Tư – mã bỏ buổi cày hô vợ con bưng đất lấp giếng.
Vợ chồng Tư – mã lo sắm lễ như pháo thủ lo đạn cho loạt bắn cấp rập.
Sau lễ động mộ đến lễ trấn long mạch.Sau lễ giải hạn là lễ gọi hồn tổ cô. Rồi lễ sao. Lễ bốc bát hương. Tư – mã hì hụi đóng một lúc bảy cái giá để vợ đặt mười ba bát hương xin cốt cửa điện cậu thánh Cẩng.
Một đêm đã khuya lắm Na – mã mới đi lễ về, Tư – mã bị vợ gọi dựng dậy:
- Cậu bảo phải bán ba con bé vào cửa điện. Chúng đẻ giờ ấy, ngày ấy mình sao số nặng lắm. Phi cửa phật điện thánh không ai trông nom nổi.
- Thì bán – Tư gật đầu trong cơn ngái ngủ.
Hôm sau sang điện cậu Tư mã đớ người ra. Nhà Lẹp sắm một lúc bảy cái lễ bán cả bảy đứa con cho các ngài. Anh em nhà Mai, Cuốc nợ nút đầu cũng sắm lễ bán con. (Sau này Tư – mã rất áy náy về việc này. Đã laf con thánh cháu thần mà việc dạy dỗ chúng vẫn bội phần vất vả. Chúng vẫn học dốt, lưu ban. Chúng vẫn mắt toét, thối tai, cam sài, bụng ỏng… hệt như đám con thánh thần không ai dòm ngó đến.)
Sau lễ… đến lễ… Tư mã vã mồ hôi vì lo vì sợ. Cái hòn đá cạnh gốc đa cuối xóm bấy nay là nơi trẻ buộc trâu bỗng dưng hóa hòn đá thần linh. Cây đa cụt ngọn bây giờ là nơi trú ngụ của tiên cô, tiên cậu. Phải xây phải điện cho các ngài. Người dứng chủ việc này, như quẻ thánh đã chỉ đích danh: Bùi Thị Na, tuổi tỵ, xóm Vũ.
- Để tôi nói cho anh nghe – Bà mẹ phủ đầu người con đang băn khoăn – Một người nói thì anh không tin, gàn việc ấy là phải. Nhưng cậu Đút chùa Hang. Cô vào đền Banh. Rồi lời thầy Tông dưới Ba Bướn. Mấy nơi đều y một lời. Cửa nào cũng bảo vợ anh hồng phúc có quý nhân phù trợ. Gốc đa, hòn đá thần cho ai đứng chủ lễ phải theo. Không các ngài phạt cho khuynh gia bị sản chả chơi.
Na – mã dúi vào tay chồng tờ giấy:
- Thầy mình đừng lo. Thầy tính cả rồi. Việc xây cất mình không thạo. Nên gửi cái giấy này để thầy mình lo mua vật liệu.
Tư – mã lướt qua tờ giấy. Anh thất kinh. Bấy nay dốc sức đảm ngôi chủ xưởng và mấy sào ruộng khoán anh mù tịt tình hình. Cứ vào danh sách hằng sản xóm Vũ có tới tám chục phần trăm số hộ là con nhang của ậu thánh Cẩng.Các xóm khác tỷ lệ cũng sít sao. Anh lẩm nhẩm cộng trừ. Vôi, gạch, trang trí, bát hương, đồ thờ… giá tối đa. Vẫn có lãi. Lãi to là khác.
- Thầy mình nghĩ gì mà thần ra thế? Na – mã thì thầm – Hôm sắm lễ, cậu dặn mình cứ mạnh tay vào. Các tín chủ phải đóng chứ. Không thiệt mình đâu.
Ngày đinh thìn tháng quý ngọ hạ móng điện gốc đa cụt. Cậu thánh Cẩng khấn vái đặt viên gạch đầu tiên. Bỗng trưởng công an xã vù xe đạp đến. Tư – mã hết hồn lỉnh vào bụi cây. Bất thần bà chủ nhiệm trong đám phu hồ nhảy cầng cẫng, xỉa tay vào mặt trưởng công an:
- Này này… trần sao âm vậy. Ông chớ có hàm hồ làm việc thất lễ. Các ngài giận thì cái mái bằng nhà ông cũng bốc hỏa. Chớ có nói chơi.
Bà vợ trưởng xóm dịu dàng hơn. Bà kéo trưởng công an ra một chỗ. Cậu thánh Cẩng cũng tiến lại. Ba bên rì râmf đối thoại. Lát sau trưởng công an vù xe đi. Ngờ đâu, buổi trưa ông đến thăm xưởng hàng âm phủ. Ông đặt mua đôi ngựa tía, đôi long đao, đôi súng ngắn. Nhân thể đặt cho ông chủ tịch đôi cúp đời chóp, đôi ca táp. Đều để góp phần dâng lễ mở cửa điện cây đa.Tất nhiên, y lời cậu Cẩng dặn trước, Tư – mã chỉ lấy tiền cho có khước. Dịp lễ điện Tư - mã kiếm được món kha khá.
Sự làm ăn phát đạt của mình nhiều khi khiến Tư – mã chạnh lòng nghĩ đến cảnh mạt vận của đám đồng nghiệp phố huyện. Lòng trắc ẩn xui anh làm một hành trình. Vả lại, dễ năm dài anh không có dịp xuống phố huyện.
Thoáng qua hai gian hàng Tư – mã bàng hoàng nghi ngờ cả đôi mắt vốn tinh anh của mình. Sau vài giây định thần thì thật sự là không thể chối cãi được. Té ra xưởng Tư – mã chỉ đứng hạng bét chuyên sản xuất đồ tầm tầm, bình dân. Trong hàng mã Tốc, mã Lủng, bên cạnh mặt hàng truyền thống bày la liệt của nền công nghiệp hiện đại. Ô tô von ga, La đa, Tô ky ô ta cho đến xe tải cỡ lớn. Kích cúp đủ loại xếp hàng cùng máy bay, súng lớn. Cuối phố huyện, bên cạnh nhà văn hóa, mọc thêm xưởng mã mới. Hỏi ra Tư – mã biết chủ xưởng là ông Rụ, viên chức cấp tỉnh hồi hưu. Háng mã Rụ không bề thế rực rỡ nhưng cực kỳ tinh sảo chứng tỏ sự điêu luyện tay nghề. Com lê, quân phục, phù hiệu, hộp con dấu, sách báo, nghiên bút… Thứ nào cũng tuyệt xảo.Người kém mắt thoáng qua khó thể tin đấy là sản phẩm chế tạo bằng tre nứa, giấy màu, hồ bột. Sự ăn nên làm ra của đối thủ không làm Tư – mã buồn lo. Trái lại anh phấn khởi ra mặt. Đó là dấu hiệu “cung” cõn xa mới đáp ứng được “cầu”. Nền công nghiệp hàng mã có một tương lai cực kỳ sáng sủa.
Hỡi ơi! Đó cũng là biểu đồ một thứ lòng tin nơi thôn dã.
Đời sống gia đình Tư – Na mã được cải thiện rõ rệt. Hẳn rồi.
Na – mã là người khởi xướng những thay đổi trong mái gianh nát. Cho nên con người chị có những biến chuyển đậm nét, sâu sắc hơn cả. Na – mã không còn “biểu diễn” những cơn cáu gắt, hò hét, tay choi chân dậm trước những sự trái mắt mặc dầu vô lý hay hợp lý. Sau ngày mở xướng (như quý bạn đọc đã biết). Chị đoạn tuyệt với nghề mò gia truyền. Đường quê vắng đi đôi chân te tái chợ sớm, chợ chiều, mớ tép, xóc cua đồng.
Khi con người ta được vợi bớt tảo tần, không canh cánh nỗi lo từ hạt gạo, củ khoai; khi sau bữa ăn không phải thít dây quần, bát cơm thi thoảng có hơi thịt ,mùi mỡ… Thì ai trẻ xinh sẽ bền lâu xinh trẻ. Ai đã qua thời trẻ xinh cũng cơ may vãn hồi chút đỉnh. Na – mã dần trọn cơ may ấy.Nước da chị bớt dần màu đen đúa, trăng trắng hồng hồng trở lại. Cặp mông mây mẩy lại như mông bò cái bóc bê gặp mùa cỏ mật. Đôi vú căng căng trồi trồi như hai cái hom vịt te tép. Đôi mắt dần hết lử nhoét lúng liếng sắc giòn trở lại. Sau ngót chục năm quên mất bóng mình Na – mã đi chợ mua chiếc gương to về treo góc buồng. Vào tuổi hồi xuân Na – mã hây hẩy như con sề bóc con đến thì thả nước.
Tài lộc đến với mái gianh càng thôi thúc Na – mã năng đi chùa chiền lễ bái. Điện cậu Cẩng tháng đôi ba lần Na – mã sắm lễ bươn bả xuất hành từ trưa. Chùa chiền, điện miếu quanh vùng dần dần nơi nào cũng có Na – mã thành tâm “nhang-đăng-tửu-quả-thực - cốc” dâng tiến cầu phúc, xin lộc. Có chuyến đi lễ xa nhà vài ngày, có chuyến cả tuần, mươi ngày.
“Phải là việc tối hệ trọng thế nào người đàn bà mới đành xa chồng, xa con như thế”. Tư – mã nghĩ vậy nhưng không sao bứt nổi lo âu. Những thông tin đài báo, những lời đồn đại về tư cách các thầy, các cậu thánh khiến Tư– mã lắm đêm mất ngủ. Nhưng đó chỉ là những lo âu ban đầu. Và nó dần biến mất nhờ những chiêm nghiệm rất đàn ông.
Hơn mười năm chung sống, có với nhau ba mặt con gái, Na – mã vẫn còn là Na – cỏ, Na – mò của Tư – dậm ngày xưa. Sau mỗi lần lên chùa sang điện về đôi mắt Na – mã hừng hực một niềm tin thành kính. Tư chợt nhớ hôm nào.
Buổi tối các bà, các cô tập trung bàn sắm lễ dâng điện cậu Lỗ bên Ba Bướn. Tình cờ đài phát câu chuyện: “Ôi! Lạy thánh…”. Đại ý lễ lạt sơ suất thế nào mà thánh phạt cậu lôi nữ tín chủ vào gầm bàn thờ… Thế là các bà nổi đóa lên. Bà nhảy cầng cẫng. Bà vung tay xỉa xói cái đài.
“- Tôi mà biết mặt thằng con nào chế tạo cái chuyện ấy thì tôi kẹp cho vỡ đầu”.
“- Cha tổ quân thất lễ! Cha tổ lũ báng bổ. Sao cũng có ngày các ngài vật chết tươi đành đạch…”
Nhanh tay lắm Tư – mã mới chặn đứng được hành động “ném tổ nó ra sân”. Cái đài lắp cũ mèng cũng phải tiền nghìn. Phải có niềm tin cổ vũ thế nào “đám các mẹ nó chi ly từng hào bạc, mớ rau” mới dũng cảm đến thế.
Dần dà Tư – mã quen với cảnh “vắng đàn bà quạnh bếp”. Thỉnh thoảng Tư – mã ngồi bó gối mủm mỉm chiêm nghiệm khám phá của một đấng mày râu. Sự quen được kia là nhờ có “sự ấy”. Sau mỗi chuyến đi hành lễ xa về Na như trẻ lại, xinh hơn, gì…gì…hơn. Một cảm giác tuy chưa xưa cũ nhưng đang chai nhàm trong anh bỗng râm ran mơi mới đến lạ.
“Cứ như ý tứ mà suy…”. Cái gì đã manh nha ắt dần rõ hình hài. Các thánh có thánh bao nhiêu, con nhang tín chủ thành tâm đến mấy cũng bị chi phối bởi quy luật cuộc đời. Thoạt đầu là những lời xì xào, cái nhìn khang khác của dân làng. Tiếp đến là lũ trẻ nghêu ngao hát vè: “Lẳng lặng mà nghe… Cái vè thánh Cẩng. Tiếp nữa là nước da, cặp mày, những tiếng ọ ọe của Na – mã. Sau rốt đến Tư –mã. Anh cắn răng, rắp tâm.
Ngày rằm Na – mã đi lễ điện cậu Cẩng khuya lắm mới về đến nhà. Thấy chồng vẫn ngồi bó gối ngoài hiên Na – mã giòn giã:
- Thầy mình chưa ngủ à. Qua giờ tý rồi còn gì. Cửa cậu hôm nay đông ơi là đông. Lộc thánh của thầy…
- Này thì lộc thánh – Tư–mã rít qua kẽ răng. Cái tính “Trương Phi” thoắt đập tan kế hoạch kiên trì đến nhẫn nhục. Tư – mã bật lên. Một tay anh vớ làn lộc thánh anh ném ra sân, tay kia quấn tóc vợ lôi vào bếp. Dù đang cơn lôi đình Tư – mã vẫn con chút tỉnh táo. Anh co chân đá sập cửa bếp “cách âm” tiếng lu loa phá giấc xóm giềng.
- Cô bôi tro trát trấu lên mặt bố con tôi. Tư gằn giọng đẩy vợ suýt đập đầu vào tường.
Sau giây phút kinh hoàng Na – mã định thần được. Chị chắp tay lẩm bẩm:
- Nam mô a di đà. Xin cho tín chủ con là… nhập bất kỳ…
- Câm mồm! Bố thánh cũng không nhập đồng nổi thằng này – Tư gầm lên. Anh lao lại góc bếp vớ cái chày giã cua vung lên – Mày nhìn cái bụng. Mày nghe dân làng…
Nhanh chân Na – mã nhảy vào ô bếp chứa rạ. Cái chày trong tay Tư – mã hụt đích đập vào chạn bát. Bát đĩa vỡ loảng xoảng. Lút trong rạ Na – mã không dậm châm được nên sức lực dồn cả cho tay xỉa, miệng gào:
- Rượu lộc nốc cho đẫy vào rồi hành hạ con này. Anh nghe ai cứ bảo tôi xé xác nó ra. Tôi bảo cậu làm sớ nộp cho thánh phạt quân điêu toa ghen ăn tức ở chết hộc máu tươi, hạn ba đời cha tội, ba đời con…
- Câm mồm.
- Anh im đi thì có. Anh nghe ai xúc xiểm? Không có cậu với thánh thì đói rã họng cả nút. Anh nghi ngờ? Thế ai xui tôi đi tháo vòng chui? Ai bắt con này đi xoa đầu đá cô, đá cậu? Ai xin cậu bốc bát hương cầu con trai.Hả… Na – mã gục mặt xuống đống rạ, bật khóc hu hu.
Tư – mã đập cửa lao ra sân. Anh như tên bắn vào nhà. Ngựa xe, mũ áo, hài hán, phướn cờ, ngai kiệu, kích, cúp… cho chí đồ nghề, bát bột… Tất tật Tư – mã vơ ném vào sân. Đang cơn “Trương Phi” anh vớ cái đèn ném theo.
Giấy, nứa bén lửa cháy phừng phừng. Thuận gió lửa bén vào đống rơm. Lửa rơm ngùn ngụt. Kẻng báo hỏa dồn dập.
Vài ngày sau đêm hỏa hoạn Tư – mã sắm cái dậm mới. Anh đi nghề từ tinh mơ đến tối sẫm Tư không ngó ngàng gì đến vợ. Đêm đêm anh bó gối làm bạn với cái điếu, cút rượu, trái ớt, quả sung.
Cho đến một đêm. Khuya lắm Tư vẫn ngồi góc hè với cút rượu, chùm sung. Trong bếp, Na đi ra phủ phục trước mặt chồng:
- Tôi chót.. Xin thầy mình tha…
Tư vẫn ngồi như hóa đá.
Na bưng mặt hầng hậc. Nước mắt chị ướt đầm gối quần thâm đất tã tàng, ròng rơi xuống mặt hè nứt nẻ. Đã bao đêm vật vã, đã bao nhiêu nước mắt Na vẫn không sao thoát khỏi sức ám ảnh đêm lễ điện rắn thần.
“Mười hai giờ đêm mới xong lễ bốc bát hương. Các con nhang ra về. Chỉ còn Na – mã nán lại giúp cậu dọn dẹp. Cậu thánh hạ mâm lễ mời tín chủ thụ lộc. Hai chén… Bốn chén. Cậu thánh Cẩng hạ chén thắp thêm tuần hương. Bó hương vô ý làm tắt ngọn đèn. Na – mã đang quờ tìm bật lửa thì cậu vấp ngã đè lên. Trong chếnh choáng hơi men Na – mã gắng sức ngồi lên. Nữ tín chủ thành tâm đành bất lực trong cảm giác có con rắn lông lá đang xâu chặt hai khối thịt ngùn ngụt hơi men… Đó là lần đầu tiên nhưng không phải là duy nhất cuối cùng…’
Cuối cùng Na cũng kìm được nước mắt. Chị nhìn chồng đau đớn:
- Thầy nó cho tôi về với u. Ngày mai các dì đưa… đi viện…
- Thôi đi! – Tư quát chặn lời vợ. Giọng anh đanh vút nhưng không chói chát – Đừng có nói đến việc thất đức. Các con, việc nhà bỏ cho ai?
Na òa khóc. Trong nhà, lũ con giật mình, thức giấc. Con chị bế con em đi ra.
Sau buổi đi mò Na trở dạ. Tư hớt hải lấy võng cáng vợ xuống trạm xá làng. Lúc ấy trời sắp tối mưa lâm thâm. Gió hây hẩy.
Mười giờ đêm. Sau mấy tiếng đồng hồ xoay xở bà bác sĩ mới lập được giây phút tuyệt vời cho cơn vượt cạn của người đàn bà. Trong cảm giác đau đớn đầy nhẹ nhõm Na ngây ngất chờ tiếng khóc chào đời. Nỗi nhục nhã ê chề không dễ gì gột rửa. Nhưng bản chất người mẹ, chín tháng mang nặng đẻ đau giúp người đàn bà vượt lên hết thảy cho bình an giây phút hài nhi cất tiếng “oa…oa” chào đón cuộc đời. Cùng lúc với cảm giác hụt hẫng nhẹ lâng, Na nhổm người, căng mắt nhìn xuống phía bác sĩ. Chị rú lên kinh rợn, ngã vật xuống nền nhà loang máu cơn vượt cạn.
Ngoài hiên, nghe tiếng hét Tư xô cửa lao vào. Thoáng nhìn bàn sản phụ Tư hộc lên một tiếng đau đớn. Anh nghiến răng, cầm cập cúi xuống cùng bác sĩ vực Na lên bàn.
Cô hộ lý gói ghém xong cái hình nhân quái dị bằng tấm vải xô. Chụp cái nón lên đầu cô run rẩy đi ra.
Ngoài trời mưa nặng hạt hơn, gió mạnh hơn. Đêm đang vào khuya khoắt.
Vài tuần trước khi câu chuyện trên có may mắn đến với các bạn Na phải chuyển viện. Thể trạng, tinh thần phụ sản có những biểu hiện không bình thường vượt quá khả năng trạm xá làng. Bây giờ Tư – dậm gạo bị củi bó phục vụ vợ nằm bệnh viện huyện. Ngoài đồng lúa nhà anh có thửa chín rục gặp mưa lác đác bật mầm. Ruộng giống như chưa cày vỡ.
Hình như dân làng coi chuyện nhà Tư – Na xảy ra đâu đó ngoài hành tinh này. Ngày rằm, mồng một các con nhang, tín chủ vẫn nườm nượp đi lễ. Cậu thánh Cẩng vẫn bình an vô sự, thong dong mi pha, ca táp, chuông mõ, sớ trạng… đi hành lễ cho bàn dân thiên hạ. Đâu vài ngày trước cậu thánh giải hạn cho nhà Cuốc-te, láng giềng của Tư – Na. Đàn lễ bày giữa sân. Cậu thánh ngồi thiền, tay chuông, miệng sớ oang hết cỡ giọng:
“Việt Nam quốc. Thái Bình tỉnh. Tiền Hải huyện. Lăng Vu tổng.
Hợp đồng gia đẳng. Cẩn dĩ phò an. Cảo chiêu cáo vu… Kim tiền tín chủ Mai Như Cuốc. Thê Thân Thị Trê…”
Cheng…eng…cheng…
Đấy! Không có thánh thần bảo trợ, không có điểm tựa niềm tin như bàn thạch thì ma nào bảo lãnh cho tay thợ đào ếch đàng hoàng hành nghề như vậy.
MỘT NĂM LÀM VỢ
Vào một đêm trăng sáng trên bờ đê bên bụi tre chắn sóng, tôi trở thành đàn bà. Tôi vật vã trên lằn ranh cảm giác bị cưỡng bức và dâng hiến. Hôm ấy tính theo dương lịch tôi tròn mười chín tuổi. Bây giờ người ta gọi là ngày sinh nhật. Tôi khóc. Toản gạt lá tre bày bọc kẹo như làm lễ, dỗ dành.
Trong việc tôi và Toản yêu nhau, gia đình tôi chia làm hai phe. Mẹ tôi, vợ chồng anh cả cho rằng tôi lấy Toản khác nào chuột sa chĩnh gạo. Nội cái tiếng dâu trưởng dòng họ Ðào Ðức đã là mơ ước của bao nhiêu gái làng. Nhà người ta như thế, về làm dâu chỉ việc ăn với đẻ! Chị dâu tôi chua thêm: "Bây giờ đẻ cũng phải theo luật, ít con càng sướng em ạ". Bố tôi đơn phương một phe. Ông vận dụng phép xem tướng và thiên về phê phán. Ðàn ông mỏng môi, dẻo lưỡi, con mắt chảo chớp là mưu xảo lắm! ở tuổi hai nhăm Toản thiếu chất sôi nổi thanh niên nhưng thừa cung cách kẻ phú gia lọc lõi. Xem ra phe nào cũng có cái đúng. Tôi thực sự hoang mang. Ðúng lúc ấy anh hai có thư riêng cho tôi. Anh phân tích, góp ý đúng chín cái gạch đầu dòng. Rồi anh kết luận: "Anh tin út không mù. Hơn người hay không ở chỗ cầm cương con tuấn mã bất kham". Ông anh sĩ quan hải quân thế mà hóm. Toản cầm tinh con ngựa mà.
Ðám cưới ấn định ngày mùng sáu, rước dâu lúc một giờ.
Ðêm mùng năm bạn bè tôi đông đủ. Anh chàng Hưởng chỉ hai hào rượu là say cả chấy bị ép trăm phần trăm cốc tàu. "Hưởng ơi! Na! đi lấy chồng, người vui nhất là cậu. ". "ừ! Vui nhất.". "Này! Cạn cốc này vì hạnh phúc bạn bè.". "Nào! Vì hạnh phúc bạn bè.". "Na đi lấy chồng thì cậu say. Bao giờ cậu lấy vợ thì Na say". "ờ! Say đi! Bao giờ Na bỏ chồng thì tớ lấy vợ. Thề đấy". Không có hơi men trong những lời bạn bè. Tôi cạn cốc vì nỗi buồn khác. Ngày mai tôi đi lấy chồng. Biết bao giờ được đông đủ bạn bè, được vui buồn như đêm nay?!
Mùng sáu là ngày hoàng đạo. Một giờ "con sáo sang sông".
"Cười như anh khóa hỏng thi. Khóc như cô gái sắp đi..." Biết thế mà tôi không cầm nổi nước mắt. Phấn son nhòa vào nước mắt loang lổ khăn mùi soa. Ði qua người đón vía thợ ảnh bắt tôi phải trang điểm lại. "Ðêm tân hôn". Mười một giờ kém Toản vẫn ở dưới nhà. Tôi đoán có việc quan trọng tôi chưa được phép tham gia. Không lẽ ngủ biến như gái chưa chồng. Tôi chống được cơn buồn ngủ nhưng không tránh được những ý nghĩ vẩn vơ. Tôi nhớ đến ánh mắt cô út nhà chồng. Tối muộn tôi đang tắm thì Cúc xộc vào. Cúc ngang nhiên trút hết quần áo: "Nuy đi chị. Ðàn bà với nhau ngại cóc gì". Tôi chỉ dám cởi áo lót. Cúc nhìn như nuốt lấy tôi, thở dài: "Chị thế ông anh em chết mệt là phải". Tôi nhớ đến lời chị dâu: "Em phải nhớ đêm tân hôn là...là...". Thôi rồi chị ơi! Là đã qua rồi trên bờ đê đêm trăng sáng. Giả như lúc này Toản lên giường "chiều và đòi" tôi sẽ dành như một nghĩa vụ để được nhanh chóng ngủ thiếp.
Cảm giác lành lạnh khiến tôi choàng tỉnh. Bàn tay Toản đang day ngực tôi và khuy áo cuối cùng đang bị gỡ. Tôi co người lại. Toản cười đập tay lên tập phong bì:
- Anh phải "giở vở" ông bà già mới chia cho một phần phong bì. Mai chúng mình đếm, vào sổ.
Tôi hoàn toàn tỉnh ngủ. Toản dúi tập phong bì xuống dưới gối, quay ra. Mùi bia mùi thuốc lá quyện mùi mồ hôi, nước hoa. Tôi buồn nôn. Toản hùng hục như gã lực điền cày xới mảnh vườn hoang.
"Có lẽ tôi sướng thật". Nhà chồng tôi có tám sào ruộng nhưng cho cấy rẽ. Thành thử nhà nông mà không phải làm ruộng. Bố chồng tôi là sĩ quan cấp tá về hưu. Lương một tháng của ông đủ cho cô út đang học đại học hai tháng đóng góp, ăn tiêu thỏa thích. Mẹ chồng tôi là cán bộ trưởng thành từ phong trào "phân xanh, lò thúc mầm". Bà đầu thai nhầm xứ nên tên tuổi chỉ gắn với chữ "phó". Ðội phó, trung đội phó, phó cửa hàng trưởng, phó chủ nhiệm... Bà về làm dân sau hai nhiệm kỳ phó chủ tịch xã. Người thân trong họ ghé tai tôi: "Bà dân ấy có trong tay bốn sổ tiết kiệm. Chỉ một sổ cũng thừa mua ba cơ ngơi cỡ nhà đẻ cô". Một lần Toản bảo: "Lãi tháng đủ cho cả nhà chẳng phải làm gì".
Chủ nhật Cúc về trường. Sinh hoạt gia đình trở lại bình thường. Tôi không phải trở dậy sớm nấu cơm sáng, bèo cám. Bữa sáng nhà chồng tôi đổi món luôn. Bánh cuốn, bún chả, cháo lòng... Mẹ chồng tôi biết uống rượu, nhâm nhi như đàn ông. Bà có thói quen ngồi hàng ăn sáng. Vài lần buộc phải đi theo bà tôi được biết hàng ăn sáng là nơi gặp gỡ của những người khá giả, đám chức sắc làng xã. Họ đến để khao đãi nhau, gặp gỡ bàn đủ thứ chuyện. Bố chồng tôi nhận xét đại ý đấy là trạm thu phát những thông tin rất giá trị: "Với những người như mẹ con đó là nhu cầu thiết yếu đấy".
Công bằng mà nói phép xem tướng của bố tôi không hoàn toàn sai. "Ðêm tân hôn" là một ví dụ. Tàn cuộc, Toản lật đi lật lại tấm vải lót, con mắt đầy nghi ngờ xói vào ngực tôi. Tôi hiểu. Tôi nói với Toản rằng dấu vết lần đầu ở trên bờ đê và giọt máu tình yêu đã năm mươi ngày tuổi. Toản nhếch mép: "Thế à". Gần sáng tôi bị phá giấc. Toản dụi đầu vào ngực tôi: "Anh xin lỗi. Phỉ phui những trò tối qua đi". Ðang xoay xở Toản ngồi lên với lấy tập phong bì. Nét mặt Toản vụt sa sầm: "Sao lại thiếu ba phong bì của bạn anh. Không thể thế này được". Toản lao xuống nhà dưới gõ cửa ầm ầm.
Ít lâu sau ngày cưới hầu như tối nào chồng tôi cũng đi đâu đó. Chưa có gì phải nghi ngờ nhưng tôi tưng tức thế nào ấy. Một hôm rất khuya Toản mới về. Tôi để mặc anh gõ cửa. Cũng là đùa chồng một chút. Không ngờ Toản nổi đóa lên.
- Cô làm trò khỉ gì thế!
Vừa lúc mẹ chồng tôi dưới nhà đi ra sân. Bà ngước lên, mát mẻ:
- Trời nóng, lên sân thượng nằm cho mát con ạ.
- Vào buồng Toản đá ghế nhót lên giường kéo màn gió đánh soạt.
- Tắt điện đi!
Tôi tắt điện, lên giường. Toản làm lành ngay được. Bàn tay Toản làm tôi giật nhột buồn cười. Nằm ngửa rồi nằm nghiêng Toản nói:
- Bố em bố anh cực đúng!
- Ðúng gì em không hiểu.
- Lại còn không hiểu! Anh được sướng mà không biết sướng chứ sao. Thời bố mẹ còn "tỏa bóng" thì anh chơi bời phá phách. Bây giờ hiểu ra thì thua xa chúng bạn. Xấu hổ cả với em.
Toản nhìn lên trần màn vẻ mặt đau khổ như con chiên đang xưng tội. Anh đã thú nhận điều tôi nghe thấy bấy nay. "Bố thế, mẹ thế được mỗi người con trai thì...". Mà kể ra Toản cũng lận đận. Hai lần thi trượt đại học. Lần thứ ba có người hứa chắc như đinh đóng cột: "Yên trí! Cứ yên trí. Dăm bảy điểm đại học với tôi là chuyện vặt". Người ấy ôm bọc tiền rồi "yên trí" mất hút. Toản chán đời ăn chơi quậy phá. Ông bố đành ép con trai vào bộ đội. Ông hy vọng đứa con được rèn luyện lập chí vươn lên. Nước cờ đã tính sai. ở đơn vị thủ trưởng là lính của bố. Toản không bỏ được thói "con nhà". Ðược vài năm vui bạn ở công ty liên doanh Toản xin ra quân. Nhờ quen biết, Toản chuyển ngành. Ðầu năm "chín sáu" liên doanh phá sản. Toản lêu lổng ăn chơi. Dịp ấy anh hai tôi về phép. Anh bổ đi tìm bạn. Toản ăn ở nhà tôi cả tháng... Nhớ đến khúc nhôi ấy tôi bảo Toản:
- Anh buồn thì em vui nỗi gì. Ðâu đã hết cơ hội để anh phấn đấu. Cốt nhất vợ chồng mình hạnh phúc.
- Bố em cũng nói thế. Từ mai đừng cài cửa anh nữa nhé. Anh đi chơi vì sự nghiệp đấy.
- Anh thì... - Tôi oằn người tránh cử chỉ thái quá của Toản.
Hôm sau Toản ngồi với bố cả buổi sáng. Bố chồng tôi có vẻ không vui. Cớ sao người bố không vui trước những ân hận, quyết tâm "làm lại" của đứa con? Tôi nói điều ấy với mẹ chồng. Bà cười hàm ý:
- Ối dào! Bố con chỉ giỏi chuyện giặc giã thôi. Chuyện chính trường làng xã thì ông ấy mít tịt. Mọi việc mẹ khắc lo. Cốt ông ấy đừng phá ngang là được.
Có lẽ mẹ chồng tôi đúng? ! Bà muốn con trai khởi nghiệp từ việc nhỏ. Giống như con đường bà đã đi từ "xuất sắc bèo - phân" lên các "ghế" tiếp theo. Bạn bè của bà còn nhiều người đương chức đương quyền. Từ ngày chồng về hưu, tiếng nói của bà có thêm trọng lượng. Tính quảng giao có thêm động lực. Những ngày này bà vắng nhà luôn. Lắm hôm bà đi từ sáng đến khuya. Mẹ chồng tôi buồn vui thất thường. Tôi lựa lời hỏi chồng. Toản có vẻ nản: "Công việc đang vào dây thì có tin tách xóm. Không phải tin vịt đâu. Mẹ phải làm lại từ đầu. Dây mới hoàn toàn..." Tình cờ một hôm tôi nghe được chuyện giữa bố mẹ chồng. Thoạt đầu hai người bàn luận về việc tách xóm. Như thế là trở lại như ngày xưa. Rồi mẹ chồng tôi nói:
- Tách ra, xóm Thường Kiệt này chỉ có thằng Toản nhà mình là đảng viên trẻ nhất, văn hóa cao nhất. Lãnh đạo dự kiến con trai mình vào chi ủy kiêm trưởng xóm.
- Thật ý lãnh đạo, hay ý mình?
- Mình muốn con mãi làm dân thường thua bạn kém bè suốt đời ư!
- Bố mẹ nào lại không mong con cái tiến bộ bằng anh bằng em. Mình thử nhìn lại, nghĩ lại xem nào. Con mình đã làm được những gì mà nảy sinh tham vọng, toan tính cơ hội? Mình đã không khuyên bảo lại ra tay sắp đặt, tiếp sức. Rồi sẽ đi đến đâu? Nhân đây tôi lưu ý mình: Con dâu chúng ta trẻ quá, vô tư quá chưa hiểu hết ngóc ngách cuộc đời. Mình đang vô tình gieo mầm xấu vào đứa con ngoan...
***
... Bữa sáng chỉ có hai bố con. Vài tuần nay thường như thế. Bố chồng tôi chỉ ăn lấy lệ. Sau đó ông uống trà và đi ra vườn. Ban ngày ông làm vườn, đêm thức viết hồi ký. Tôi biết ông lấy công việc khỏa lấp những nỗi niềm. Bố chồng tôi ít nói, sống giản dị. Tiếp xúc với ông không ai tin được đó là người chiến binh dày dạn từng lập nhiều chiến công. Về hưu ông vẫn giữ tác phong quân nhân. Giường cá nhân kê bên cửa sổ. Ba lô, mũ cối treo trên tường. Ông nói đùa: "Chỉ nửa hồi còi là bố đã đứng đầu hàng quân". Ông làm việc, sinh hoạt rất duýt thời gian biểu. Người ngoài không ai biết ông là "thế giới riêng" trong ngôi nhà chung. Mọi việc trong nhà đều do mẹ chồng tôi tính toán, quyết định. Ông sẵn sàng, vui vẻ nghe những lời "thông qua, báo cáo". Có lần bạn lính căn vặn: "Cái gì buộc anh đứng trên cao nhìn xuống dòng đời thường bằng con mắt thờ ơ kẻ cả mãi vậy". Bố chồng tôi chỉ cười.
Chiều muộn mẹ chồng về. Tôi đang quét dọn từ đường. Ngày mai rằm, như lệ, các cụ dâng hương tổ tiên. Bà cầm tay tôi kéo ra góc hiên, nói nhỏ:
- Các con vô tâm đã đành. Mà mẹ cũng sơ ý quá. Hôm nay mẹ đi lễ cửa "cậu" với các bác. Chồng con là đảng viên đã đăng ký kế hoạch hóa gia đình. Con chưa đến tuổi mà đã thế kia. Các bác ấy bảo...
- Các bác bảo sao ạ. - Tôi rùng mình, líu cả lưỡi. Tôi hiểu các bác này là những ai.
- Chồng con sẽ là cán bộ. Sẽ tiến xa. Cán bộ không gương mẫu, lãnh đạo ai? Ðã trót thế thì phải tìm cách chữa cháy. Hai tuần nữa đại hội chi bộ. Con thít bụng lại, ít ra ngoài thôi. Không sao đâu.
Tôi làm theo lời mẹ chồng. Ðúng là không sao thật. Vài hôm sau Toản mới phát hiện ra. Anh áp tai lên bụng tôi nghe ngóng.
- Em thấy khó chịu không?
Tôi buột miệng:
- Em chịu được.
Cuộc họp đúng tối thứ bảy ngày cuối tháng. Cũng là ngày tôi hết hạn "thít bụng". Toản đứng trước gương sửa mái tóc mới sang mốt ba phân. Anh vận "xơ vin", ca vát trông nghiêm chỉnh, khỏe khoắn. Bố chồng tôi trang nghiêm quân phục. Mẹ chồng mặc đồ lụa tơ tằm. Tôi đứng trên gác nhìn theo tổ đảng gia đình. Xóm mới tách chưa có trụ sở, họp hành nhờ nhà trẻ. Nơi ấy, vài tiếng đồng hồ nữa con đường sự nghiệp của chồng tôi sẽ được khai thông. Tôi hồi hộp đứng ngồi không yên. Mười một giờ đêm. Tiếng bước chân như nện vồ trên cầu thang. Tôi mở toang cánh cửa. Toản lao vào nằm vật xuống giường. Mùi rượu nồng nặc.
- Có chuyện gì thế anh?
- Hỏng hết. Ông ấy phá anh.
- Ông ấy là ai?
- Còn ai vào đấy nữa! Anh chỉ kém người trúng cử bốn phiếu. Bố ở trong số bốn người gạch tên anh.
Tôi rùng mình vì cơn gai sốt đau đau bụng dưới từ mấy hôm nay. Hình như Toản uống quá chén, không làm chủ được hành động. Tôi đẩy Toản ra nép vào sát tường. Toản chồm lên vục đầu vào ngực tôi xiết mạnh cánh tay. Tôi oằn người lên. Có cái gì đó chuồi ra nóng nhớp hai bên đùi, dưới mông. Tôi gào lên.
Tôi không nhớ mình ngất đi từ lúc nào, trong bao lâu. Khi tỉnh dậy tôi thấy bụng dưới hết đau, nhẹ bẫng. Mùi cồn, mùi thuốc tây nồng nặc. Toản ngồi ủ rũ cuối giường. Tôi chồm về phía Toản.
- Con đâu?
- Kìa em... nằm xuống.
Tôi xô Toản ngã ngửa, lao ra sân. Con tôi đâu? Vì sao? Vì sao? Tiếng kêu trồi ra đến cổ họng bị đẩy thuốt vào lồng ngực. Tôi ngã vật xuống hiên. Vũng nước nong nóng nhơm nhớp. Ai đó bế tôi lên. Ai đó gọi bác sĩ.
Suốt ba tuần Toản không đi đâu quá hai tiếng. Tôi nhanh chóng bình phục nhưng Toản già đi trông thấy. Chồng tôi đau khổ kém gì tôi đâu. Tôi khóc.
- Tha lỗi cho em... những ngày qua...
Toản lau nước mắt cho tôi.
- Em không có lỗi. Số chúng mình phải thế. Anh từng phút mong em mau khỏe. Em vui khỏe cho anh yên tâm làm lại từ đầu.
- Không! Dứt khoát em không để anh đi con đường ấy. Em chỉ mong có con, vợ chồng hạnh phúc.
- Anh còn mong hơn em ấy. Việc đã qua cho qua luôn? Anh đã chọn cho mình hướng đi khác.
Tôi không thể tin nổi. Toản ngoắt một trăm tám mươi độ chuyển ngay sang thương trường. Anh quyết tâm trở thành thương gia nông thôn. Không! Dứt khoát tôi không để chồng tôi tiếp tục phiêu lưu.
- Em xin anh từ bỏ ngay quyết tâm ấy đi. Chuyện buôn bán phức tạp lắm. Nhà mình không nghèo nên muốn giầu hơn không khó. Sao anh không làm theo lời khuyên của bố! Vườn đất kia, ao kia. Vợ chồng mình quán xuyến, sẽ không vất vả mà thu không ít tiền đâu. Lại chẳng phải ganh ghé với ai.
- Em đúng là phiên bản của bố! Xin em yêu hãy nghe cho rõ. Bố mẹ hai bên cùng nhất trí cao. Các bô lão trong họ gật đầu sái cổ nhé.
Ðến lượt tôi bị thuyết phục. Mảnh đất chái từ đường liền đường liên huyện. Ðất cằn, cây cối oặt èo, hoa lợi cả năm không đủ mua hương nến tuần tiết. Mấy lần trâu bò húc đổ tường bao. Mấy lần "tự vệ" chộp trai gái xé dậu làm trò bậy bạ. Ðất hương hỏa cho thuê sẽ sinh lợi cho cả họ. Tiền thu được đập vào việc tu bổ giỗ chạp... Tránh được việc bổ bán nhiêu khê. Toản nói thêm:
- Tránh tiếng trưởng họ lợi dụng, mẹ đã nhờ người ngoài phát giá. Chiều mai các cụ họp làm văn bản.
Thì ra mẹ chồng tôi đã ngầm chuẩn bị "con đường mới" cho con trai. Chiều hôm trước xong thủ tục thuê đất. Sáng mai bà mời thầy làm lễ động thổ. Gần trưa xe đầu ngang chở vật liệu đổ đống.
Ðúng là "mạnh vì gạo bạo vì tiền". Mười ngày sau cửa hàng khai trương. Kiểu kiến trúc cửa hàng khá độc đáo, hài hòa với ngôi từ đường cổ kính, vườn cây lưu niên.
Tôi rất bỡ ngỡ với công việc mới. Nhà đẻ tôi mấy đời không có ai làm nghề buôn bán. Trái lại Toản có duyên và am hiểu thị trường, anh như sinh ra để làm thương gia vậy. Làng rục rịch cải tạo đường điện. Toản chở về cả xe dây dẫn, phụ tùng điện. Chỉ bằng một mẹo nhỏ anh kéo được mấy vị sếp xã tham gia hợp đồng đường điện. Vào vụ, kho hợp tác còn trống không thì Toản đã có trong tay hàng tấn phân bón. Một lần Toản tung vốn mua phụ tùng giếng khoan. Cả tháng không ai hỏi đến mặt hàng này. Mẹ chồng tôi lo mất ăn mất ngủ. Chồng tôi vẫn bình chân như vại. ít hôm sau đài xã thông báo chương trình nước sạch. Toản có ngay hợp đồng cung cấp vật tư.
Dần dà tôi cũng quen với công việc. Toản bàn mở quầy bia rượu. Quán nhậu bên cạnh cửa hàng vật liệu. Cái lợi rõ mười mươi nhưng có điều phải nghĩ. Tôi nói thẳng ý mình:
- Theo em, việc này không nên. Quanh đây đã mấy người bán như thế rồi. Cụ Hảo với đứa cháu mồ côi thím Bao lòa, chú Rụ thương binh nặng... Toàn những người trong họ mình cả. Vợ chồng mình trẻ khỏe nỡ nào cạnh tranh với họ.
Toản lắc đầu:
- Em mới nghĩ một chiều thôi. Thử đi dọc làng xem! Mới có mấy tháng mà hàng loạt đại lý mọc lên. Họ giở đủ mánh hòng đè bẹp chúng mình đấy thôi.
- Em biết. Nhưng đấy là chuyện người giầu với nhau. Ðằng này họ là những người nghèo, tội nghiệp họ.
- Em ơi. Thị trường là chiến trường. Chiến thắng thuộc về kẻ mạnh. Anh muốn chứng tỏ năng lực của mình.
Mẹ chồng tôi góp vốn chín triệu mua tủ lạnh, dàn video. Ðiều dự báo của chồng tôi rất đúng. Hàng vật liệu chững lại, hàng bia rượu "vào cầu". Ðồng vốn có sức mạnh kỳ diệu. Quán bia rượu của chồng tôi tấp nập đến khuya. Thiếu chỗ, khách tràn cả sang sân từ đường. Rồi thành quen. Khoảng sân lát gạch cổ rợp bóng cây cổ thụ trở thành sân sau của quán nhậu... Nơi thờ cúng tôn nghiêm nhuốm mầu trần tục bê tha. Họ mạc đã có lời ra tiếng vào. Bố chồng tôi rất không hài lòng. Tôi nói với chồng điều này. Toản thản nhiên: "Ðất đã cho thuê. Người trả tiền toàn quyền sử dụng".
Tháng ba âm lịch. Liên doanh thăm dò khoáng sản đóng trụ sở ở làng tôi. Dịch vụ các kiểu mọc lên như nấm. Chồng tôi chấp nhận điều kiện xây tường bao để được thuê thêm đất hương hỏa. Anh có dự định nâng cấp "quầy" lên thành nhà hàng to nhất làng.
Tôi đã có thai được hai tháng. Việc có thai vội, những cơn ốm nghén hành tôi khổ sở. Những việc nhẹ nhàng cũng trở nên nặng nề quá sức. Toản "ăn ké" được hợp đồng vật liệu công trình cống Lân, đi suốt ngày. Tôi luôn phải gắng. Mẹ chồng tôi khó chịu ra mặt, bâng quơ.
- Ðến phải thuê người làm.
Tôi thật thà:
- Việc này phải chờ bố con về.
- Dào ôi! Vẽ! Ông ấy biết gì mà bàn. Có bàn lại chỉ giỏi phá ngang.
Có khách. Vẫn là ông chủ đại lý phố huyện và chiếc dim đỏ. Mẹ chồng tôi tươi ngay nét mặt.
- Ơ... ô anh.
- Chào bà bạn. Ði ba chục cây số để đỡ nhớ bia bà bạn đấy.
Tôi giúp mẹ chồng bày bia, đồ ăn rồi rút vào sau quầy. Tiếng nắp bia nổ bôm bốp. Mẹ chồng tôi làm duyên giọng nói:
- Hôm nay em khao.
- Hôm nay đến lượt anh. Hiểu chưa.
Tiếng cười. Tiếng cụng ly. Những lời mời ép nhau. Hai người có tuổi mới quen nhau mà cứ như đôi bạn thân, quá thân nữa là khác. Tôi nhìn trộm mẹ chồng. Men bia, những câu chuyện làm đẹp thêm gương mặt vốn xinh đẹp của bà. Không hiểu vì uống nhiều hay quá vui mà bà đem chuyện nhà ra đãi bạn. Ðang xây mới cửa hàng bố chồng tôi có giấy mời đi dự lễ truyền thống binh chủng. Xe hẹn ngày đón. Mẹ chồng tôi cười nhạt: "Công việc ùn ùn thế kia. Mình tính sao?". "Tôi phải đi mình ạ. Lâu lâu mới có dịp gặp anh em đồng đội". "Vâng! Lễ hội, chiến hữu ra tiền thì mình cứ đi". Trước ngày hẹn đón bố chồng tôi có thư về. Ông vào Quảng Bình thăm thủ trưởng cũ bị ốm. Sau đó ông đi Tây Nguyên tìm hài cốt người bạn. Ông không hẹn trước ngày về.
Hình như việc thuê người mẹ chồng tôi trù tính từ lâu. Lý là con gái bạn mẹ chồng tôi. Nhà Lý trên phố huyện, có cửa hàng đồ điện. Vì sao cô rời phố về làng phụ việc? Tôi lấy làm khó hiểu nhưng không muốn hỏi. Toản rất hài lòng với việc "tuyển" người. Lý đẹp người, thành thạo công việc, có duyên ngồi hàng, khéo chiều khách.
Từ hôm Lý đến hầu như tôi không phải trông hàng. Hết ốm nghén tôi lại mắc chứng khó ngủ. Hễ chợp mắt là chìm vào những giấc mơ kinh dị. Vỡ giấc là thức đến sáng. Một đêm tôi mơ thấy trần nhà nhỏ nước như mưa. Nước lênh láng khắp nhà. Tôi bị vùi trong màn nước mầu đỏ, mằn mặn. Sáng ra vui chuyện tôi kể với Lý. Lý gạt đi "Mơ mộng vớ vẩn lắm". Tôi cũng nghĩ thế.
Buổi trưa, giấc mơ đêm tái hiện. Tôi sợ vã mồ hôi chạy xuống nhà hàng. Tôi đẩy cửa gian trong. Mẹ chồng tôi và ông chủ đại lý ngồi uống bia. Tôi ra gian ngoài. Lý hỏi đón:
- Lại mơ hả!
- Ừ. Vẫn giấc mơ đêm rồi.
Lý ngẫm nghĩ một lát.
- Tớ vẫn cho rằng mơ mộng là chuyện vớ vẩn. Còn như đêm nay cậu vẫn mơ tương tự thì tớ sẽ đưa cậu đi xem bói lá trầu. Cậu Học làng Trình giỏi cực nhé.
Tối muộn. Mẹ chồng tôi đứng giữa sân ới lên:
- Cô Na xuống tôi có câu chuyện.
Tiếng "cô" tiếng "tôi" phát ra từ cửa miệng mẹ chồng thường báo trước chuyện không êm. Tôi vội đi xuống. Mẹ chồng tôi chao chát phủ đầu:
- Cô ăn chơi thế chưa đủ sướng hay sao mà còn lắm chuyện.
- Chuyện gì ạ?
- Cô còn không biết hả! Nhà này được như thế này là nhờ công lao người đánh giặc, người công tác cống hiến. Cô mơ mộng vớ vẩn rồi đem chuyện nhà đi kháo. Chẳng hóa ra nhà này bóc lột mồ hôi nước mắt thiên hạ.
- Mẹ cứ nghe ai mách lẻo suy diễn lung tung.
- A! Mất tiền cưới xin, nuôi cô ăn sung mặc sướng để được "ní nuận" thế đấy! Cô dỏng tai lên mà nghe đây. Người ta mách lẻo ra tiền ra bạc, giỏi giang bằng vạn nhà cô. Ngữ cô thì làm ăn cái gì.
- Con đã thưa với bố mẹ rồi. Con không hợp với việc buôn bán. Vụ tới mẹ lấy ruộng về cho con làm.
- Cô giỏi rồi. Nhưng nhà này chưa đến nỗi phải bám vào sào ruộng mới sống nổi.
Tôi đi lên gác. Có tiếng xe máy vào sân. Lại ông bạn chủ đại lý của mẹ chồng tôi. Họ chào mời líu ríu. Tôi uống liền hai bát nước sắc lá vông, cao lạc tiên. Bài thuốc của đẻ tôi, cả trò đếm dỗ ngủ đều vô tác dụng. Chuông đồng hồ điểm mười giờ. Tôi đi ra sân thượng. Nhà dưới vẫn sáng đèn. Cửa hàng sáng đèn, mở cửa sổ phía vườn. Chắc chồng tôi đang nhập hàng hoặc tính sổ. Phải giúp anh một tay! Tôi đi xuống. Nhà dưới khóa cửa ngoài! Mẹ chồng tôi vẫn chưa về. Ngay bố chồng tôi cũng đã quen với việc bà vắng mặt đêm hôm. Từ nửa tháng nay vài ba hôm ông đại lý lại đến đón bà đi đâu đó. Trong nhà hàng vẳng ra tiếng cười. Tôi sang vườn vòng lại phía cửa sổ. Trời ơi! Trên nền nhà Toản đang cùng Lý nhồng nhỗng làm tình. Tôi ngoắt về. Lời đồn đại của dân làng đã có bằng chứng. Dấu hiệu Lý có thai không còn là "hình như" nữa. Tôi đi không vững. Ðến giữa cầu thang tôi vấp ngã sấp mặt. Bụng dưới quặn lên, hẫng nhẹ. Trời ơi! Con tôi chuồi ra, vỡ bục, lênh láng. Tôi khóc.
Bố chồng tôi về. Tôi đã xuất viện được ba tuần, ba tuần qua tôi thay bố chồng giữ một vùng riêng trong ngôi nhà to đẹp nhất làng. Thời gian tạm đủ cho tôi nhìn lại chính mình, những ngày tháng qua và đi đến quyết định. Mẹ chồng tôi thản nhiên: "Cô cứ nghĩ cho kỹ..." Toản độc một câu: "Tùy cô."
Ba ngày thôi mà bố chồng tôi già sọm đi, tóc bạc thêm, con mắt đờ đẫn mất hồn. Tôi nói với ông việc chỉ có tôi và bà bác sĩ biết. Hai lần sẩy thai đã để lại di chứng nặng nề. ít nhất dăm bảy năm nữa tôi mới được phép mang thai.
- Lời bác sĩ con phải nhớ. Còn việc vợ chồng con không còn cách nào ư?
- Không bố ạ. Chính con đặt vấn đề trước. Mẹ con, anh Toản nhất trí đó là lối thoát tốt nhất cho cả hai bên.
- Bố có lỗi với con... với ông bà bên nhà... - Bố chồng tôi nấc lên, tắt lịm giữa lời. Ông khóc. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nước mắt người lính già. Những giọt nước mắt đặc quánh lại, hằn vết trên gương mặt. Tôi khóc.
Giấy tòa hẹn ngày đầu tuần. Tôi thu xếp về nhà đẻ. Tư trang gọn gàng túi xách nhỏ. Tôi không quên bóc lịch treo tường. Mảnh thời gian bay bay nặng trĩu cánh tay. Ngày mười hai tháng bảy. Tức ngày mùng tám tháng năm theo lịch can chi. Tôi cất tờ lịch vào túi xách.
Ðường về vơ vẩn tôi nhẩm tính thời gian. Tính theo âm lịch tôi đã có mười ba tháng hai ngày làm vợ. Thời gian vừa đủ cho tôi qua tuổi hai mươi. Rồi sẽ có lúc tôi ngồi một mình "tính sổ" mười ba tháng hai ngày ấy có bao nhiêu ngày hạnh phúc bao nhiêu ngày đau khổ. Bạn cho là khó ư! Không đâu! Tôi tính được mà. Chờ nhé!.
Khói đốt đồng
Quê tôi ngày trước làm ruộng bằng cách phát cỏ, không có cả cày máy lẫn cày trâu. Cỏ phát được cào dồn lại thành từng luống thẳng tắp, xuôi mút theo chiều dài của mảnh ruộng, gọi là vồng cào.
Phần lớn những năm tháng tuổi thơ tôi sống bên cạnh cậu tôi, một người đặc biệt mê ruộng, mê trâu mà mãi gần cuối đời mới sắm nổi trâu. Mùa sau tết, tôi ham nhứt là được theo cậu đi đốt đồng. Gốc rạ, cỏ khô ào ào cháy lướt, nhưng bờ vồng thì cháy chậm, cháy ngún. Những chiều êm gió, khói trắng cuồn cuộn những dải lớn, nhè nhẹ đong đưa.
Đi theo sau những bờ vồng ngún cháy là thế nào cũng có được đồ ăn. Lúc thì đó là những con ốc bươu cháy sém, giòn như mề gà, mùi thơm khen khét và vị ngọt còn đọng hoài trong trí nhớ. Khi khác là những con rắn bông súng no tròn, nằm cong ẹo, bên hông nứt ra đùm trứng trắng tinh, bốc khói nóng hổi. Cậu tôi thường bắt ở những vũng cạn mấy con cá dày mập ú, vùi vô bờ vồng cho lửa ngún qua, thế là có món cá nướng tuyệt vời. Bao giờ đi đồng trong túi cậu tôi cũng có ít hột muối, mấy trái ớt hiểm xanh và lon gô cơm nấu thật khô, ém cứng.
Mấy năm trước cậu tôi ngã bịnh. Cả đời ông chưa một lần giở áo cho thầy thuốc đặt ống nghe. Ban đầu cũng tưởng cái chứng tức thở của ông là do tuổi già. Mà hoá ra sau khi các thầy thuốc soi nhìn, lại là bịnh nan y. Nó là một khối u trong gan. Nhưng chỉ có người thân biết, còn ông thì không được biết. Ngày bịnh viện cho ông xuất viện về nhà, tôi chở ông về nhà tôi ở lại. Nhà tôi ở vùng ngoại ô phía Hóc Môn. Cạnh nhà có hộ láng giềng nuôi mấy con bò. Một khuya, cậu tôi kêu mở cửa cho ông ra sân một lúc. Cứ tưởng ông khó ngủ, muốn ra sân hít thở khí trời. Mãi sáng ra mà vẫn không thấy ông về. Tôi đi loanh quanh qua nhà hàng xóm thì gặp ông đang ngồi lui cui chỉ cho chủ nhà cách bện rơm thành con cúi để un muỗi cho bò, vừa nhiều khói, lại lâu tàn. Rơm bện cháy ngún như bờ vồng cháy khi ta đốt đồng. Ông vừa bện vừa giảng giải cho ông chủ bò như vậy.
Sau buổi sáng hôm đó, ông nhứt quyết về quê, dù cho tôi có cầm giữ cách nào đi nữa. Ông nói cái mùi con cúi làm ông nhớ bầy trâu ở nhà. Ngày ông đi khám bịnh, các con ông định bán trâu để mua máy xới đất, mà ông còn chưa chịu.
Bác sĩ nói rằng bịnh ông chỉ còn kéo dài trong ba, bốn tháng. Nhưng cũng lạ lùng, phải hơn ba năm sau khi rời khỏi nhà tôi ông mới mất, dù chẳng thuốc thang gì. Khói đốt đồng có tham dự gì vào việc này chăng, hỡi các nhà y học?
Sau ngày ông mất, tôi về, mợ tôi nói lại rằng, ông dặn sau này tới thanh minh dọn cỏ mộ ông, nhớ gom cỏ đốt lên ngọn khói…
Hương vị mùa
SGTT.VN - Trong ấn tượng của người miền ngoài, đất phương nam này không có xuân, hạ, thu, đông. Nhưng nếu là người sinh trưởng ở đây như tôi, bạn sẽ có cảm giác mùa theo một cách khác.
Mười mấy năm trước, nhà văn Trung Trung Đỉnh rời Hà Nội vào Sài Gòn, mua căn nhà ở đường Hồ Văn Huê, Phú Nhuận, cứ ngỡ anh sẽ sống ở đây lâu dài. Nhưng chỉ ít năm, lại nghe anh bán nhà trở ra Hà Nội. Gặp nhau, hỏi vì sao anh lại có cái quyết định đột ngột này? Anh nói lấp lửng, vì Sài Gòn thiếu… mùa. Nghe thì có vẻ kỳ quặc, nhưng không phải trong đó không có một phần sự thật.
Trong ấn tượng của người miền ngoài, rõ ràng là đất phương nam này không có xuân, hạ, thu, đông. Vâng, Nam bộ chỉ có hai mùa nắng, mưa. Nhưng nếu là người sinh trưởng ở đây như tôi, bạn sẽ có cảm giác mùa theo một cách khác. Mùa ở đây hiện ra trên hoa trái, trên chu kỳ thu hoạch cá tôm, trên hương vị của từng món ăn chỉ có, chỉ ngon theo mùa…
Muốn ăn điên điển, mắm kho
Thì về Đồng Tháp ăn cho đã thèm
Nhưng cũng không phải lúc nào về Đồng Tháp thì cũng có thể thoả mãn cái “đã thèm” này, mà phải về cho đúng mùa lũ. Không như miền Bắc hay miền Trung, lũ thường xuất hiện đột ngột, gây nhiều tai hại, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện theo chu kỳ từ tháng 7 đến tháng 11 hàng năm, nước lũ dâng theo trình tự thời gian có thể dự báo khá chính xác. Từ xưa người dân trong vùng vẫn gọi đây là mùa nước nổi.
Ngoài khối lượng phù sa khổng lồ mang đến cho đồng ruộng, lũ còn đem về một mùa cá to lớn. Vì thế, mùa lũ còn được gọi là mùa cá lên. Có vô vàn thứ cá, nhưng nhiều nhất của mùa nước nổi vẫn là con cá linh. Không chỉ theo sông Mê Kông, con cá linh còn theo dòng nước tràn chảy qua những cánh đồng mênh mông nằm dọc biên giới Campuchia mà kéo về từng đàn, đôi khi làm sáng trắng cả đoạn sông.
Ngày trước để bắt cá linh, chỉ cần đứng trên sàn nhà dùng cần chong (như cây vợt lớn) mà xúc. Món mắm kho của mùa lũ Đồng Tháp là phải kho với con cá linh non. Con mắm để kho cũng phải là mắm cá linh. Đó là con cá linh của mùa lũ năm trước, được nằm ủ trong hủ để ngấm muối, ngấm thính đúng một năm cho đủ độ “chín”.
Đặt cái bếp cà ràng giữa nhà sàn, bắc nồi mắm lên ngọn lửa riu riu, cho thêm vào nồi chút sả, ớt, vài cọng ngò om. Cá linh sau khi xúc vài cần chong, thấy đã đủ ăn, chỉ cần mổ bỏ ruột là xong .
Nhờ một cô em hay một bà chị xô xuồng ra đám điên điển sau hè, ngắt từng chùm bông bỏ vô cái nón lá để ngửa. Mùa này bông điên điển vàng rực cả đồng nước. Tiện tay nhổ thêm vài cọng bông súng. Bông súng mùa lũ rướn theo nước dài đến hai, ba thước.
Bông súng lột bỏ vỏ, bông điên điển cứ để nguyên mà nhúng vô nồi mắm. Và, không thể thiếu chai rượu đế. Mà đã có rượu đế thì cũng cần có một cây đờn kìm hay cây ghi ta phím lõm. Đồng nước mênh mông, mùi mắm cũ xưa và hơi hướm câu vọng cổ sẽ làm thức dậy cả một thời khẩn hoang.
Cũng trên Đồng Tháp Mười này, trong mùa lũ còn có một món nhiều vô kể, đó là con ốc đồng. Nhưng đã ăn ốc Đồng Tháp Mười thì phải ăn vào mùa hạn.
Dù có quanh năm và sản lượng nhiều hơn bội phần, nhưng người Nam dường như không sành ăn ốc như người Bắc. Món bún ốc, ốc nấu chuối xanh người Nam chỉ biết thưởng thức từ khi có đông người Bắc di cư vào Nam. Đúng hơn là, người Nam vẫn xem ốc là loại thực phẩm ăn chơi chứ không phải là món tham dự vào bữa ăn chính hay thưởng lãm ẩm thực. Nói chính xác nó chỉ là món khoái khẩu của dân nhậu.
Dù ăn chơi, thì cũng phải biết cách ăn cho đúng điệu. Mùa khô, biển nước Đồng Tháp Mười biến mất, cả vùng mênh mông khô kiệt như sa mạc. Chỉ trừ những sông lớn, còn lại những kinh mương trên đồng đều trơ đáy, đất nứt nẻ.
Để tồn tại qua mùa hạn, con ốc có cách thích nghi lạ lùng, nó vùi mình vào bờ đất chỉ còn chừa cái mài hé ra trước khi nắng hạn làm cho đất khô cứng. Suốt mùa hạn, con ốc nằm kẹt một chỗ, chỉ đêm đêm hé mài ra hứng sương, thế mà vẫn sống.
Đồng khô không đánh cá, không làm mùa, người nông dân nhàn nhã. Một sáng nào đó hứng khởi, những anh chàng rủ nhau ra đồng, tay cầm con dao cùn, gõ khe khẽ vào bờ đất. Nơi nào phát ra một tiếng “cắc” thì y như rằng nơi đó ẩn mình một chú ốc. Những chú ốc vì không ăn gì suốt mùa khô nên ruột trắng bong từ đầu tới đít. Điều lạ là nó vẫn cứ mập mạp đầy thịt, lại chắc giòn hơn con ốc mùa mưa.
Cách chế biến món ốc đơn giản nhất là luộc, nhưng phải luộc bằng nước hèm (bỏng rượu). Trong nồi ốc luộc phải có nắm lá ổi để ruột ốc không bị nhớt và tạo cảm giác giòn hơn, đậm đà hơn. Sau khi đưa cay bằng ruột con ốc trắng phau, giòn tan vừa chấm trong chén nước mắm sả ớt, húp thêm ngụm nước hèm vừa chua vừa nóng trong cái vỏ ốc thơm lựng, nghe mồ hôi rịn ra chân tóc và nghe ly rượu vừa uống đi đâu mất tiêu.
Cầu kỳ hơn thì nhóm một bếp than đước nhỏ lửa. Món này ai chế nấy ăn. Đặt ngửa con ốc lên than cho nước ngọt trong ốc sôi riu riu cạn dần, thêm vào một hạt tiêu và hạt muối nhỏ, chờ cho nước sắc vào ruột, vỏ ốc bốc mùi thơm vì sắp cháy giòn thì con của ai - người đó gắp.
Vì là món ăn chơi nên dân gian cho rằng thịt ốc chẳng bổ béo gì. Mấy bà cưng chồng nên cưng cả món ốc khoái khẩu của chồng lại nghĩ ra món ốc nhồi thịt để tăng cường dinh dưỡng. Ruột ốc chỉ lấy phần cùi cứng đem bằm nhuyễn với thịt ba rọi, trộn chút nước mắm, bột ngọt, vài hạt tiêu rồi nhồi trở vào vỏ ốc đem hấp. Mỗi vỏ ốc khi nhồi thịt lại có một lá gừng đặt bên trong vừa tăng độ thơm, vị ấm vừa tiện tay kéo khối thịt ra ăn. Chồng hít hà vị tiêu cay, còn kịp thấy trong mắt vợ lấp lánh ánh nước như gợn sóng ngoài đồng xa mùa lũ…
Nên, dù không xuân, hạ, thu, đông, nhưng chẳng khác gì anh Đỉnh bạn tôi, tôi cũng có bao mùa để nhớ.
Năm nay (2010), đã gần cuối tháng bảy âm lịch rồi mà mùa nước nổi của đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa về, khiến vài triệu nông dân đồng bằng sống dựa một phần vào sản vật mùa lũ mất ngủ từng đêm. Đây là sự trở chứng của trời đất hay bắt nguồn từ sự can thiệp thiếu khôn ngoan của con người? Họ (người nông dân) không thể biết. Cũng chẳng thấy những người có trách nhiệm và có hiểu biết nói điều gì với họ. Sự cố kết sống còn giữa con người với thiên nhiên và con người với con người đã làm nên cuộc sống bền lâu nhiều trăm năm qua tại miền đất này đang có sự rạn vỡ nào đó chăng?
Đồng tro, nhạn đất…
Trần tình: Đã hứa kỳ này sẽ kể chuyện giậm trứng trích. Nhưng câu chuyện lại có liên quan đến một người bạn cũ, cần phải hỏi ý kiến bạn, mà tôi vẫn chưa liên lạc được. Xin thay thế bằng câu chuyện sau đây.
Tuổi thơ của tôi là một bầu trời đầy chim chóc. Đó là bầu trời của một vùng đồng ruộng còn chưa hết dấu vết hoang sơ của thời khai khẩn, nằm giữa hai cánh rừng tít cùng đất nước về phương Nam: rừng tràm U Minh và rừng đước Năm Căn.
Trận đòn đầu tiên trong đời mà tôi còn nhớ, cũng bắt đầu từ chim. Một cây dừa lão trong vườn nhà ngoại tôi có cái hốc rỗng khoét sâu giữa thân cây, một ngày kia tôi phát hiện có cặp sáo nghệ tha rơm vào cái hốc này làm ổ. Năm đó tôi đã bắt đầu biết leo trèo. Cái mỏ sáo có viền vàng và những cọng rơm ấy cứ chập chờn trong mơ. Nó trở thành điều bí mật đầy ám ảnh và mê hoặc của riêng tôi, không một đứa trẻ nào trong xóm biết được. Từ bữa đó, tôi cứ thập thò quanh quẩn bên gốc cây dừa ấy. Cho đến một ngày, khi sáo mẹ, sáo cha không còn tha rơm nữa mà mỗi khi bay về ổ, tôi thấy mỏ chúng luôn ngậm một con cào cào. Không cưỡng lại được tiếng sáo con kêu choe chóe đòi ăn, cũng không lượng được sức mình, tôi leo lên, leo mãi, sức leo đuối dần mà tiếng chim thì vẫn ở trên cao. Bỗng tôi nghe tiếng của cậu Ba tôi từ dưới gốc dừa. Ông nói trong ổ sáo có con rắn lục mè rất độc, đừng leo lên nữa mà hãy từ từ tuột xuống. Nhưng cuộc trở xuống của tôi không còn từ từ được nữa. Thế là tôi tuột một phát, nằm bài tải tại gốc dừa, bụng và ngực trầy xước rướm máu. Chẳng những thế, tôi còn bị cậu đánh cho một trận đòn nên thân.
Nhưng kể từ đó, mỗi lần đi đồng bắt cá cạn hay bẫy chim, cậu tôi thường dắt tôi theo. Bây giờ nhớ lại, đó là những năm tháng đẹp nhất của đời tôi. Những năm ấy, ba tôi biền biệt xa nhà, tuổi thơ tôi gắn bó nhiều nhất với cậu Ba. Cậu Ba tôi là một người mê mải và rành rẻ về chim chóc. Cậu có cả một bộ sưu tập những chiếc nạng dàn thung bằng sừng trâu và đủ loại gỗ với những màu sắc, kiểu dáng khác nhau. Cậu là một người bẫy chim tài tình. Khi cậu quyết định gài bẫy ở đâu, nhất định cần bẫy ấy phải dính chim. Cậu định rằng cần bẫy ấy phải dính lọai chim gì, thì y như rằng nó dính đúng những con chim ấy. Trong nhà cậu nuôi nhiều loại chim như cuốc, trích, cu đất, cúm núm… mà cậu đã dày công huấn luyện, thuần dưỡng chúng thành những con chim mồi tinh khôn, lão luyện, biết gáy, biết túc, biết bo… những khi chủ nó làm hiệu để nhử bắt những con chim khác.
Quê tôi vào những năm ấy, trước mùa sa mưa là mùa đốt đồng. Những cánh đồng ngập rạ và cỏ khô của mùa trước được đốt cháy cho mùa sau nhẹ đi trong việc phát cỏ canh tác. Và sau những đám mưa đầu mùa, không biết từ đâu bay về, rợp cả bầu trời trên đồng là những cánh nhạn đất. Những cánh nhạn màu nâu sẩm bay loạn cả không trung, đâm bổ từ trên cao thẳng xuống mặt đồng, nhưng khi sắp chạm đất thì đôi cánh chúng lại xòe ra, lướt dài theo mặt đồng và lại cất cao lên bầu trời mút mắt, thành những cái chấm nhỏ. Có nhiều buổi chiều tôi đứng ngẩn ngơ trên đồng, hồi hộp nhìn theo từng cánh nhạn vì lo chúng sẽ va vào nhau hay đập người xuống mặt đất, thế nhưng điều ấy chưa một lần xảy ra. Mỗi sớm mai, khi hơi nước còn phả mờ trên mặt tro như khói, thì cánh đồng trở nên hấp dẫn lạ thường: tôi rón bước và chăm chú nhìn vào từng lỏm tro đọng dưới hóc đất chân rạ, không biết cơ man nào là trứng nhạn, những cái trứng màu xám tro điểm nâu lấm chấm, lượm lên tay nghe còn ấm nóng. Có hôm tôi cởi trần để bọc trứng nhạn đầy hai ống tay áo. Và cậu Ba tôi lại hiện ra trước mặt như từ đất vừa mọc lên. Cậu biểu tôi chỉ giữ một ít đủ để luộc ăn thôi, phải vùi bớt trứng nhạn trở lại những hốc tro, để chúng còn nở ra nhạn con cho mùa sau. Những cái trứng nhạn đất ấy có sức sống thật kỳ lạ, chỉ cần qua vài đám mưa, đồng sâm sấp nước, thì ta chỉ còn gặp những cái vỏ trứng bẹp dúm, còn thế hệ nhạn con thì không biết đã đi về đâu, để rồi năm sau, đúng sau mùa đốt đồng, chúng lại trở về bay rợp trời. Quê tôi vào những năm ấy, trước mùa sa mưa là mùa đốt đồng. Những cánh đồng ngập rạ và cỏ khô của mùa trước được đốt cháy cho mùa sau nhẹ đi trong việc phát cỏ canh tác. Và sau những đám mưa đầu mùa, không biết từ đâu bay về, rợp cả bầu trời trên đồng là những cánh nhạn đất. Những cánh nhạn màu nâu sẩm bay loạn cả không trung, đâm bổ từ trên cao thẳng xuống mặt đồng, nhưng khi sắp chạm đất thì đôi cánh chúng lại xòe ra, lướt dài theo mặt đồng và lại cất cao lên bầu trời mút mắt, thành những cái chấm nhỏ. Có nhiều buổi chiều tôi đứng ngẩn ngơ trên đồng, hồi hộp nhìn theo từng cánh nhạn vì lo chúng sẽ va vào nhau hay đập người xuống mặt đất, thế nhưng điều ấy chưa một lần xảy ra. Mỗi sớm mai, khi hơi nước còn phả mờ trên mặt tro như khói, thì cánh đồng trở nên hấp dẫn lạ thường: tôi rón bước và chăm chú nhìn vào từng lỏm tro đọng dưới hóc đất chân rạ, không biết cơ man nào là trứng nhạn, những cái trứng màu xám tro điểm nâu lấm chấm, lượm lên tay nghe còn ấm nóng. Có hôm tôi cởi trần để bọc trứng nhạn đầy hai ống tay áo. Và cậu Ba tôi lại hiện ra trước mặt như từ đất vừa mọc lên. Cậu biểu tôi chỉ giữ một ít đủ để luộc ăn thôi, phải vùi bớt trứng nhạn trở lại những hốc tro, để chúng còn nở ra nhạn con cho mùa sau. Những cái trứng nhạn đất ấy có sức sống thật kỳ lạ, chỉ cần qua vài đám mưa, đồng sâm sấp nước, thì ta chỉ còn gặp những cái vỏ trứng bẹp dúm, còn thế hệ nhạn con thì không biết đã đi về đâu, để rồi năm sau, đúng sau mùa đốt đồng, chúng lại trở về bay rợp trời.
Hớt cá thia thia
Trong thế giới vô số những loài cá nước ngọt bé nhỏ, vụn vặt, thì thia thia là loài có danh, có tiếng bởi một kỷ năng nổi bật: đánh nhau. Bản năng hiếu chiến của cá thia thia, hóa ra lại bắt nguồn từ một lý do rất… tình cảm, chính đáng.
Hớt là đi tìm bắt cá thia thia sinh trưởng trong tự nhiên.
Thôn quê Nam bộ, trẻ con thường chơi cá thia thia theo mùa. Mà không chỉ cá thia thia; đá dế, bắn bi (bắn cu li), thả diều… đều theo mùa. Mùa cá thia thia vào đầu mùa mưa. Khi những cơn mưa đêm đầu mùa làm ngập nước đồng ruộng, thì bóng dáng những chú cá thia thia cũng lượn lờ trong giấc mơ trẻ con.
Trong thế giới cá thia, phái đẹp lại thuộc về… giống đực. Tất cả những gì đẹp đẻ ở ngoại hình đều nằm hết ở con đực: vảy xanh đen, mình thon, phướng dài, vây to, mang rộng, cả thân hình lắp lánh ánh ngủ sắc. Con cái trông có vẻ lầm lủi, phướng cụt, vây ngắn, bụng to, chỉ điểm trên bộ vảy những chấm hay sọc đen nhợt nhạt. Dấu hiệu để nhận biết “ngôi nhà” của cá thia thia là miếng bọt trắng cở đốt ngón tay cái nổi bập bềnh trên mặt nước. Miếng bọt ấy là do chú cá đực tạo ra để “dẫn dụ” một cô nàng nào đó đến làm bạn tình. Miếng bọt xốp kia về sau sẽ là nơi để chị nàng đẻ và ươm trứng, gầy dựng thành đàn cá con.
Dù nước ngập tràn đồng, nhưng để tìm được nơi ngụ cư của cá thia không khó. Cá thia có thể làm tổ ở khắp nơi, trong những đám cỏ rậm ngập nước, dưới những gốc rạ chưa lịp mục rả, cho tới những hóc kẹt giữa những thân bẹ trong các đám dừa nước. Nhưng, với những đứa trẻ sành sỏi, chúng sẽ biết ngay rằng, ở những nơi thông thường ấy, chỉ có những chú cá thia thia thông thường. Những chú cá thiện chiến, thường chiếm cứ những chỗ ở độc đáo, như trong bộng một trái dừa bị chuột khoét rụng xuống ở bờ mương hay một lõm nước dấu chân trâu ở bờ đám mạ. Để sở hữu những nơi này, chủ nhân của nó phải đủ sức thường xuyên đánh bại những kẻ xăm lăng muốn chiếm cứ chỗ ở và người bạn tình của nó. Tình thế ấy đã biến những chú chàng xinh đẹp thành kẻ hiếu chiến, thiện chiến.
Hớt một ổ cá thia thia, thường khi là bắt được cả con đực và con cái. Việc đầu tiên của đứa trẻ là thả con cái để nó còn kiếm bạn tình khác mà sinh sôi đàn con. Con đực, nếu không mang theo gì để đựng, chỉ cần ngắt một cái lá môn cho vào bụm nước là ổn. Nếu thả hai con đực vào chung một lá môn, thì nó vẫn đánh nhau trong ấy.
Thức ăn chủ yếu cho cá thia thia là lăn quăn (bọ gậy) và trứng nhền nhện. Để “tăng lực” và làm cho răng cá bén hơn, đánh nhau hay hơn thì cho cá ăn thêm trùn chỉ. Một chú cá thua trận, vẫn có thể nuôi lại và sau khi bình phục nó vẫn tiếp tục “chiến đấu”. Nhưng thường thì chủ nó sẽ trả nó lại với đồng ruộng, bởi cá thia có một nhược điểm khó hiểu là đã thua thì nó chạy mặt luôn, không bao giờ dám đánh nhau lại với đối thủ đã thắng trận. Nên chú bé chủ nó phải tìm vớt một con cá khác mới mong thắng được không chỉ là con cá thắng trận kia, mà chính là thằng bé đã đánh bại mình. Thông thường trước khi được thả về đồng, nó vẫn được chủ nuôi dưỡng cho lành lặng hết thương tích.
Mùa cá thia thia nào rồi cũng đi qua. Nhưng tuổi thơ của đứa trẻ thì vẫn ở lại với chấm bọt xốp trắng tinh, với hóc đất, với bộng dừa, với mùa sa mưa… dù đứa trẻ ấy về sau đầu hai thứ tóc như người viết bài này.
Chênh vênh
Truyện ngắn. Đỗ Tiến Thụy
_________________________________________________________________
Anh lồng xe trên phố như một con chuột cố nhờ sức gió dập tắt ngọn lửa bén vào mình. 23h, phố núi vắng tênh. Man man trong gió một điệu tăng-gô buồn từ quán cà phê vườn nào đó vọng ra: “Đường về đêm nay vắng tênh... Hàng cây lướt nhanh...”. Anh đã cảm thấy lạnh và muốn về nhà. Nhưng không được. Hương! Hương tóc, hương tình vẫn còn lẩn quất trên áo anh...Mặc dù Giang đã cam đoan nàng không hề trang điểm, và cũng không hề dùng một chút nước hoa nào, nhưng anh vẫn ngửi thấy mùi thơm, mùi thơm không rõ ràng nhưng dai dẳng bám riết lấy tâm trí anh. Những đường phố khuất nẻo mọi đêm thơm lừng thiên lý vậy mà hôm nay anh không thấy gì ngoài cái mùi ám ảnh suốt từ lúc chia tay Giang. Anh đột ngột vặn mạnh tay ga, chiếc xe già nua giật mình ằng ặc mãi mới chiều ý anh tăng tốc. Gió u ú thổi qua tai anh với tốc độ kinh người, vậy mà anh vẫn còn ngửi thấy mùi thơm bám trên áo. Anh bất lực muốn trào nước mắt, đành lủi thủi dong xe chầm chậm ra cầu. Cầu treo Kon-Klor đây. Cây cầu nối phố với rừng đây. Mỗi khi có nỗi niềm không biết chia sẻ cùng ai anh lại ra đứng nơi này để tận hưởng cảm giác tận cùng của nỗi cô đơn. Hồi chiều Giang điện cho anh kèm theo lời đề nghị, không, yêu cầu mới đúng: “Em đã đọc xong cái truyện anh đưa. Em cần gặp anh ngay!”. “Không, không nên Giang à”. “Tại sao?”. “Vì... vì không tốt cho em”. “Nói dối! Anh cũng muốn gặp em, nhưng anh sợ, đúng không?”. Anh im lặng thú nhận. Anh làm nghề viết, một nghề viết không được ai công nhận bởi anh chẳng có trong biên chế một báo nào, vì thế cuộc sống của anh luôn trong tình trạng vất vưởng. Cái bằng đại học ngữ văn không giúp được anh xin việc, đành mài nó ra thành những bài viết nhỏ cộng tác với vài tờ báo. Đã thế anh lại không năng động như người khác luôn đón đầu sự kiện để viết, anh chỉ viết những gì anh thích, đôi lúc máu hâm nổi lên anh cắm đầu cả tháng vào viết văn, vì thế túi anh lúc nào cũng ráo như tổ chim mùa thu, nợ tiền cơm bụi tháng này qua tháng khác. Ấy thế mà có tới 4 cô gái lần lượt yêu anh, chỉ có điều khi anh ngỏ lời cầu hôn thì họ đều im lặng, lắc đầu. Cô gái thứ năm anh không cần yêu và tìm hiểu gì nhiều bởi ngày nào cũng gặp, ngày nào cũng được người ấy hai lần bưng suất cơm đặt trước mặt cùng câu nói: “Anh cứ ăn đi khi nào có trả cũng được”. Nghe nói nàng bị bệnh tim. Đã có vài chàng trai mê cái dáng thon gầy dân dã cùng với cơ ngơi cơm bụi, nhưng khi biết sự thật họ lặng lẽ chuồn. Khi anh ngỏ lời cầu hôn nàng cũng nói thật: “Anh biết em bị bệnh tim rồi chứ? Bác sĩ khuyên không nên có chồng. Có chồng thì không nên có con...”. Mặc, một quả tim yếu nhưng vẫn biết thương một gã nghèo như anh, quả tim ấy chưa đến nỗi hỏng. “Mày sẽ phải trả giá cho cái triết lý cùn này!” - Thụy, thằng bạn đồng niên đã cảnh cáo trước khi anh quyết định cưới nàng. Trớ trêu cho anh là lúc này Giang xuất hiện, một phóng viên mới tinh của tờ báo anh thường cộng tác, mới gặp lần đầu cả hai người đã cảm thấy nửa kia của đời mình vừa tìm thấy. Giang khóc trên vai anh: “Sao em không gặp anh sớm hơn được chứ!”. Anh cắn chặt môi: “Ừ... anh mới ký vào giấy đăng ký kết hôn hôm qua”. “Không thể nào khác ư anh?”. “Không, em hiểu cho, Trân sẽ chết nếu anh phụ cô ấy!”. Giang không tin, bắt anh dẫn đi ăn cơm bụi. Chỉ khi giáp mặt, tận mắt chứng kiến Trân mặt trắng bệch, ôm ngực thở dốc khi vừa thấy anh cặp kê với Giang, khay cơm bụi rớt xuống sàn tung tóe, Giang mới tin. “Đây là bạn của anh. Còn đây là vợ sắp cưới của anh”. Nghe lời giới thiệu công khai, Trân mới tạm thời qua cơn sốc. Nhưng trước vẻ đẹp thanh tao của Giang, Trân tỏ ra lúng túng vụng về tội nghiệp, đánh động lòng trắc ẩn của Giang. Nhưng nhìn vào mắt Giang, anh hiểu Giang vẫn hy vọng vào một biến động nào đó trong cuộc sống vợ chồng sắp tới của anh. Đêm tân hôn, hàng xóm chung quanh anh nhốn nháo bởi một ca cấp cứu lạ. Lạ là bởi những ca cấp cứu kiểu này chỉ xảy ra ở thời “Nam nữ thọ thọ bất thân”. Cũng may quả tim của Trân cũng dần quen với hạnh phúc quá đỗi ngọt ngào. Ban đầu cuộc sống vợ chồng anh khá dễ chịu. Trân vẫn quán xuyến quán cơm nhưng cũng dành thời gian chăm chút anh bằng tất cả sự hàm ơn và tình yêu cộng lại. Nàng không đòi hỏi gì anh nhiều. Nhưng anh thì có. Mỗi khi viết được cái gì, anh reo toáng lên: “Trân! Em xem này!”. Nàng đón bản thảo và đi xuống bếp. Anh nằm lim dim trên giường tận hưởng niềm vui của vận động viên leo núi vừa chinh phục xong một đỉnh dốc. “Em đọc xong chưa? Thế nào?” - Anh hồi hộp hỏi trước khi ngồi vào mâm cơm tương đối nhiều ca-lo, mà cái dạ dày nhỏ như trái quýt chỉ quen với cơm bụi và rượu đế của anh đâu cần như thế. Trân thành thật: “Em chưa đọc. Mà có đọc em cũng chẳng hiểu gì dâu”. Nàng len lén xuống bếp mang lên tập bản thảo đã lem nhem mỡ trộn lẫn nhọ nồi: “Hồi đi học em hay bị ngất, cứ đọc một lức là mắt hoa lên”. Anh thở dài sười sượi, vừa thương vợ, vừa xót xa cho đứa con tinh thần của mình không được đoái hoài. Nhưng Giang thì khác. Giang hồ hởi đón nhận tất cả những gì anh viết ra. Anh hồi hộp ngắm nhìn Giang đọc bản thảo của anh, khấp khởi mừng khi thấy khuôn mặt Giang giãn nở, lòng cuống thốn lên khi thấy cặp mày cong mảnh nhướng lên, cặp môi mọng hồng mím lại. Sau mỗi lần như thế Giang lại buông bản thảo nhìn anh đăm đắm: “Văn anh như có móng vuốt, mà em thích lối văn như thế. Lương tâm con người đang chai đi vì tham vọng, tiền tài. Phải cào bật nó ra cho rướm máu, đau một chút nhưng em tin con người sẽ sống nhân hậu với nhau hơn”. Chao ôi! Đối với người cầm bút, còn hạnh phúc nào hơn khi có người hiểu mình đến thế. Không kìm được lòng nữa, anh và Giang đã hẹn gặp nhau tại một quán cà phê. Cái quán khuất nẻo, mỗi bàn được cách ly nhau bằng những mảnh lồ ô ghép cùng những chậu cây kiểng tạp. Lần ấy, trước lúc ra về, anh đã lập cập cài lại cúc áo cho Giang, còn Giang cẩn thận dùng tay lau đi vết son mờ trên môi anh, tỉ mẩn nhặt những cọng tóc vương trên cúc áo len sờn anh thường mặc. Vậy mà về đến nhà anh đã sững người bởi câu hỏi của Trân: “Sao anh thơm thế”. Anh giật mình ngó vào mắt vợ ánh mắt vô tư biểu lộ sự quan tâm chân thành chứ không có nét gì soi mói đã khiến anh buột miệng nói dối: “Anh bị đau đầu, thằng Thụy đưa anh lọ dầu Trường Sơn...”. “Anh bị gió rồi!”. Vợ anh hốt hoảng dìu anh vô giường, lấy nước ấm rửa mặt cho anh, bàn tay mảnh mai của Trân cuống quýt xoa bóp khiến cho nỗi ân hận trong lòng anh trào ra bằng hai giọt nước to, bỏng xót. Từ đó anh không dám gặp Giang nữa. Anh quan tâm đến vợ nhiều hơn bằng một thứ tình cảm gì đó, nhưng nhất quyết không phải tình yêu. “Anh, em muốn có con!”. Anh giật mình trước lời đề nghị của vợ: “Không! Bệnh của em...”. “Không, em muốn đẻ cho anh một đứa con”. Anh ôm ghì vợ vào lòng dỗ dành: “Anh hiểu! Anh hiểu! Nhưng sức khỏe của em không cho phép. Rồi chúng mình sẽ xin một đứa con nuôi”. Vợ anh im lặng cắn môi như đồng ý. Đùng một cái vợ anh mang bầu. Anh bàng hoàng trước sự thật ngoài ý muốn đó. Một cái chết được báo trước cứ rút ngắn dần thời gian chờ đợi khiến anh có cảm giác ngồi trên đống lửa. Ngày đưa vợ đi sinh, anh chuẩn bị cho mình một tinh thần sẵn sàng đón nhận điều khủng khiếp. Thời gian đứng ngoài phòng sinh dài hơn tất cả thời gian cuộc đời anh cộng lại. Tiếng dao kéo loảng xoảng cứa thót vào tim anh từng chặp. Khi tiếng “Oe” đầu tiên cất lên anh đã tông cửa lao bổ vào phòng. Trên bàn sinh, Trân nằm bất động, toàn thân trắng rợn như nặn bằng thạch cao. Một vệt máu đỏ rùng rùng đập vào mắt, khiến anh chỉ kêu lên được hai tiếng “Trân ơi!” rồi đổ gục vào những bóng áo blu trắng, tai vẫn chập chờn tiếng gọi: Ô xy! Trợ tim!... “Ô, anh tỉnh rồi!” - cô y tá mắt sáng rỡ reo lên khi anh vừa mở mắt: “Quả tim của anh coi bộ dổm hơn của bà xã nhiều!”. Anh ngơ ngác như vừa tỉnh ngủ. Giường bên Trân nhìn anh bằng đôi mắt chứa chan và nụ cười mãn nguyện. Đây là thực hay mơ? Ôi, con trai anh! Thằng bé đỏ hỏn, mắt nhắm nghiền nhưng miệng lại nhích lên nụ cười mụ dạy. Suốt bảy tháng trời anh nghỉ viết để chăm sóc vợ con. Đến khi Trân hoàn toàn bình phục anh lại thấy ngứa ngáy chân tay và lại cầm bút viết. Suốt ba ngày cơm nước thất thường, không tắm gội, không ra ngoài, cái ý tưởng vụt lóe hôm trước đã thành hình hài. Anh hăm hở cầm cái truyện ngắn nóng hổi ấy đi tìm Giang. Nàng hờ hững đón bản thảo: “Không cần đọc tôi cũng biết văn anh bây giờ là thứ văn bằng lòng, mãn nguyện”. Anh không nói gì, thờ thẫn ra về. Thế mà chiều nay Giang lại điện hẹn gặp anh. Chỗ cũ. Hai người vừa ngồi, anh gọi chanh rum cho anh và cam vắt cho Giang. “Em không ngờ văn anh vẫn như xưa”. Anh ngây dại nhìn Giang... “Kìa! Từ từ đã anh!...”. Cô tiếp viên tần ngần mãi trước ngăn tình yêu đang nổi bão, đành mang hai ly nước lại quầy. Bà chủ quán nhướng cặp mày chì vẽ lên xeo xéo: “Sao không mang cho khách?”. “Họ không cần giải khát bằng thứ nước này!”. Cơn thủy triều vừa lắng xuống, anh lấy giọng chân thành pha tiếc nuối hỏi Giang: “Sao em không lấy chồng đi?”. “Anh muốn thế à?”. “Không. Mà... em đã hai bảy tuổi còn gì. Con gái có thì. Em như thế này chả lẽ không có ai theo đuổi hay sao?”. Giang nhếch mép, khẩy mũi: “Đầy! Một giám đốc sở kiêm nhạc sĩ mù, chuyên nhờ người ký âm hộ mong mua chút hư danh, một cộng tác viên có tên trong hội nhà báo nhưng lại chuyên “xào” bài người khác kiếm tiền nhuận bút, một trạm trưởng kiểm lâm nhưng chuyên nghề buôn gỗ lậu... Sao cái lũ bặng nhặng ấy nó vo ve quanh em nhiều thế không biết! Được rồi, nếu anh không yêu em nữa, em sẽ nhón tay lấy một thằng làm chồng, giải quyết khâu xác thịt, còn tâm hồn, nếu cần em sẽ ngoại tình!”. Anh choáng váng trước lời tuyên bố đanh thép ấy nên lắp bắp: “Đừng... Đừng”. “Sao đừng?”. “Em làm thế tội nghiệp những người đàn ông”. “Xí! Thế còn đàn bà thì sao? Anh xem lại anh kìa!”. Rốt cục, có lẽ lo sợ cho quyết định của Giang, và cũng có lẽ do cả một cái gì đó không biết nữa, nên anh đành chấp nhận duy trì cuộc tình đã đẩy anh vào thế chơi vơi như chiếc cầu treo này. Con sông Đăk Bla vốn dĩ vô tư chảy tự đầu nguồn, đến đoạn cầu treo thì gặp cù lao Đăk Son, nó chia làm hai dòng. Theo tháng năm cù lao cứ lớn dần lên, hai dòng chảy cũng dần dần thay đổi. Một bên cồn cào xoáy xiết, một bên phẳng lặng lững lờ. Bờ bồi bây giờ hoa mía tím ngắt trong gió đông. Bờ lở vách dựng đứng, thăm thẳm sâu, đang cháy rực một màu hoa trinh nữ. Trời khuya vắng lặng, cầu treo nhờ nhợ ánh trăng u ám. Rồi mưa. Mưa lay phay cùng với gió sắt se khiến anh đứng so ro như chú cò trong đồng vắng. Mặc dù vẫn ngửi thấy mùi tóc, mùi da thịt Giang ám trên người, nhưng lạnh quá, anh phải ra về. “Đường về đêm nay vắng tênh... Hàng cây lướt nhanh. Mưa ơi có thấu cho ta đường về chốn lạnh lùng. Đời nghèo nào đâu dám mơ tình chung...”. Lời ca ướt sượt nước mưa mọi ngày anh vẫn cho là sến, vậy mà hôm nay nó hợp tâm trạng anh, nó đuổi theo anh về đến tận nhà. Trong đầu anh đã phác sẵn một kế hoạch đối phó với Trân: “Anh chơi chỗ thằng Thụy. Anh em lâu ngày gặp nhau có uống nhiều. Em thông cảm. Anh bị đau đầu. Thằng Thụy có đưa anh lọ dầu Trường Sơn...”. Trân ôm con ngồi như tượng trước cửa dưới ánh đèn huỳnh quang xám lạnh. Vừa thấy anh. Trân đã bật dậy như chiếc lò xo bị nén. Anh luống cuống lách qua người Trân dắt xe vào nhà, tai vẫn dỏng lại đằng sau nghe ngóng. Lạy giời! Trân có ngửi thấy mùi gì không mà đứng trân trân như cọc gỗ thế kia? Dựng xe xong anh toan ra đóng cửa. Cánh cửa sắt cũ hoen gỉ luôn quá sức Trân nhưng thấy Trân vẫn ôm con đứng đó nên anh sợ không dám quay ra. Anh lao vào nhà tắm trút hết áo quần rồi xối nước ào ạt lên người, hòng nhờ nước phi tang điều gian dối. Xong, anh chui ngay lên giường trùm chăn nằm run như cầy sấy. “Anh bế con để em đóng cửa”. Bất đắc dĩ anh phải ngồi dậy thò tay qua màn đón con. Cơ thể do chạm lạnh, cũng có thể do linh khứu trẻ con thằng bé đã ngửi thấy mùi gì đó nên nó choàng mở mắt nhìn anh đăm đăm, cánh mũi dỉnh lên nhấp nha nhấp nhỉnh. Qua nhãn cầu của con, anh biết mình là một kẻ xa lạ đối với nó. Điều đó càng được khẳng định khi bất ngờ thằng bé ré lên, duôi người khỏi tay anh. Anh cuống cuồng ôm chặt lấy con, muốn cất giọng dỗ dành nhưng không được, miệng chỉ “Ầy ầy” lạ lẫm. Thằng bé càng khóc tợn, người xoắn vặn như sợi chão trong tay anh. Trân cuống quýt chạy vào: “Ô-ô-ơ-ơ. Con hư quá! Bố mà con không nhận ra ư? Ôi xôi mẹ xương”. Vừa qua tay mẹ thằng bé lại ngủ ngon lành như không có chuyện gì xảy ra. Trân đặt con xuống giường rồi khẽ khàng hỏi anh: “Anh đi đâu mà mẹ con em chờ mãi?”. Anh lấm lét nhìn vợ. Kẻ ăn vụng bị truy hỏi ngọn ngành đang lúng búng tìm lời biến báo. Và ánh mắt, ánh mắt lo lắng xót xa nhìn kẻ tội đồ đang run rẩy trên giường khiến anh muốn co mình lại như con giun đất sợ ánh sáng ngày. Một chút xíu nữa thôi là anh đã phun hết ra sự thật. Rất may bản chất ngoan cố của thằng đàn ông đã trỗi dậy kịp thời giúp anh bật mồm nói dối. Ôi giá như Trân hiểu chuyện mà bóng gió, mà chì chiết có lẽ anh đã có cớ để mà nạt nộ, rằng anh có quyền như thế, có quyền đi tìm người đồng cảm sẻ chia những tâm sự mà anh không thể tìm thấy ở Trân. Đằng này...
Anh nằm thẳng tưng như thân chuối, mặt úp vào gối, mặc cho Trân nước mắt lã chã rớt xuống lưng anh nóng hổi, bàn tay hối hả xoa dầu cạo gió. Anh bình thản như một kẻ trúng gió thật sự, nhưng trong lòng đang tả tơi như vừa trải qua một cơn lũ xiết. Cơn lũ xiết gặp phải cù lao chia làm hai dòng, một dòng cuồn cuộn bão giông, một dòng hững hờ phẳng lặng. Một lần nữa anh cay đắng nhận ra rằng, mỗi cơn lũ đi qua, dẫu chẳng vô tình nhưng những hạt phù sa không bao giờ đọng vào bên lở.
Họ nhà Vòn
Trát quan tri phủ sức về làng Bụa: Ngày mồng ba tháng tám ta có quan Tây về thị sát lập đồn. Sự nháo nhác của chức dịch trong làng đã lộ tin cơ mật. Một nhóm trai làng ngựa non háu đá bàn mưu đào hố cắm chông trên đường cái để ám sát quan Tây. Nhưng những cái chông tre non bấy cắm trong cái hố nông cạn như chính lòng căm thù tự phát của họ chỉ làm què được con ngựa bạch quan Tây đang cưỡi. Sự ngây thơ đã bị trả giá. Ngay sáng sớm ngày hôm sau, một tiểu đoàn lính Âu Phi đen trũi đằng đằng như cơn bão lôi đình tràn vào làng Bụa. Tiếng súng nổ ran trời đất. "Đoàng. . . đoàng. . . đoàng!...", tiếng súng kèm theo những tiếng rú kinh hoàng của dân lành trúng đạn...
Trong nhà Muôn, cảnh chạy loạn rối rắm. Bà mẹ chồng mù loà cả đời chẳng nghe tiếng súng sợ vãi đái ra quần lập cập chạy trong sân, đụng vào cây cau, quay sang thì đụng vào vại nước, chiếc gậy tre khua khoắng tít mù. Muôn lao ra ngõ, tiếng súng hất ngược vào sân. Chồng Muôn loẻo khoẻo như một con giun mặt tái xanh tái xám ngồi bệt xuống sân lắp bắp như đứa động kinh. Muôn lôi tốc chồng dậy dáo dác nhìn quanh rồi chỉ lên nóc cây rơm cao nghễu. Chồng Muôn líu ríu trèo lên vai Muôn, nửa bò nửa toài như một con sên chậm chạp chui vào đống rơm vùi kín. Muôn cuống cuồng đưa mẹ chồng vào nhà, ấn xuống gầm giường, vừa lúc bọn Tây đã vào đến ngõ. Tiếng xì la xì lô loạn xị cùng bước chân hùynh hụych. Con trâu nhà Muôn ngửi thấy mùi lạ xì hắt ra mấy tiếng rồi lồng lộn bứt thừng vọt ra sân, mũi chảy máu ròng ròng, nghểnh đôi sừng nhọn hoắt lên, cặp mắt đỏ ngầu găm chòng chọc vào toán Tây đen khiêu chiến. Nhưng hỡi ôi! Con trâu mộng của làng Bụa không chọi lại được súng đạn. "Đoàng đoàng đoàng!...". Con trâu rống lên một tiếng thê thảm rồi đổ vật xuống sân, máu tuôn ồng ộc.
Muôn nằm nín thở ghé mắt nhòm ra. "Đoàng đoàng đoàng!...", đạn găm thun thút vào tường đất, vào bồ thóc. Gà vịt trong chuồng túa ra, lông bay lả tả, mịt mù bụi khói. Bọn lính hè nhau vồ gà vịt như một lũ rồ. Muôn nhắm mắt thầm khấn cho chúng mau mau cút khỏi. Giặc thôi trò rượt đuổi, bắt đầu sục sạo quanh hàng rào, bụi chuối. Ngôi nhà tranh vách đất tuềnh toàng chỉ có những sinh linh yếu ớt đang ẩn nấp nhưng cũng khiến cho lũ Tây đen nghi ngại. Hoặc chúng cũng biết rằng chẳng có gì sơ múi được trong đó nên chỉ đứng ngoài sân xỉa vào nhà vài loạt đạn rồi xì xồ bảo nhau quay gót. Muôn ém hơi trút nỗi lo ra nhè nhẹ. ơn trời!
Nhưng không, những tay giết chóc hình như còn thấy thiêu thiếu một cái gì đó trong khung cảnh này nên bất ngờ quay lại. Thằng Tây đen moi túi lấy bật lửa nhằm hướng đống rơm. Máu trong người Muôn phút chốc như ngừng chảy. Muôn vơ vội vạt áo lên mồm cắn chặt. Bản năng ham sống sợ chết của Muôn vẫn còn hoạt động. Nhưng đến khi ngọn lửa lem lém liếm vào đống rơm thì bản năng ấy vụt bay biến. Muôn lao ào ra sân vừa kêu khóc, vừa lăn xả vào cuống cuồng dập ngọn lửa bạo tàn. Ngọn lửa chưa đến hồi cuồng nộ nên đã bị người đàn bà yêu chồng quên cả bản thân mình dập tắt. Tóc rối xoã tung, mặt mày lem luốc tro rơm đen quánh trong những vệt nước mắt trên khuôn mặt hồng lựng lên vì lửa của người đàn bà vừa độ tuổi mười tám mới bén hơi chồng. Bọn Tây đen chết lặng trước vẻ đẹp vừa dịu hiền vừa dữ tợn của người đàn bà A-na-mít một hồi lâu. Những khuôn mặt đen sì có ba vạch sẹo như những con châu chấu ma đờ ra ngây dại. Những cái lưỡi đỏ thè ra liếm những cặp môi dày như đỉa trâu no máu. Giá Muôn cứ đứng lặng im như thế có thể mọi chuyện sẽ khác đi. Chỉ vì sau phút định thần, ý thức được hoàn cảnh hiểm nguy, Muôn đã vùng bỏ chạy. Sự trốn chạy như một thứ kích thích khơi bùng lên ngọn lửa dục cuồng. Thằng chỉ huy to như con trâu mộng tóm gọn Muôn như tóm một con chim sẻ tả tơi sau trận bão, đè vật xuống ngay chum nước dưới cây cau... Hắn rên ò ò như bò rống... Hắn thở hồng hộc như trâu cày trong tiếng kêu cứu tắc nghẹn của Muôn: "Mình ơi...cư...cứu...em!...". Bọn Tây cất tiếng cười hô hố. Chồng Muôn run rẩy vạch kẽ rơm, nhìn muốn nổ con ngươi mà chỉ có thể cắn tay mình đến vãi máu...
Năm, mười, mười lăm, hai mươi phút... Thằng chỉ huy rã cơn cuồng khấu. Nó ú ớ rên lên những tiếng quái rợn cùng lúc thân hình căng ứ rần rật xoắn vặn rúm ró... Nó há hốc mồm thở và phẩy tay một cái. Mặc cho lũ chấu ma ào vào xâu xé Muôn, nó tồng ngồng lảo đảo bước đến chum nước, vục một gáo dừa và đút cái cục hủy hoại to như chiếc chày giã cua nhớt nhát vào súc sùng sục. Gáo nước sàu bọt trắng! Nó hất toẹt gáo nước vào chum, ngồi bệt xuống sân nhe hàm răng trắng ởn ra cười.
Cả một tiểu đội lính lê dương rệu rã rời nhà Muôn. Chúng lột mũ sắt vục nước ao tù cúi đầu rít ừng ực...
- Tôi có đốn mạt không hở cậu? - Lão Vòn ngước cặp mắt ướt nhoèn lên hỏi tôi. Tôi cắn môi giấu một tiếng thở dài. Trong hoàn cảnh ấy lão Vòn không thể nào khác được. Một kẻ từ bé được bố mẹ nuông chiều vì là con cầu tự, nhìn thấy cái lá vàng rơi đã sợ rúm vó rồi thì làm sao dám đương đầu với súng?
- Không ai dám trách ông đâu. Nếu lúc đó ông nhảy xuống thì bọn Tây bắn ông là cái chắc. Rốt cuộc chẳng cứu được vợ mà thiệt thân vô ích.
Cứ tưởng lão Vòn sẽ nhẹ nhõm phần nào. Nhưng ngược lại, lão nhấp nhếu môi sụt sịt:
- Cậu không biết đâu. Tôi khốn nạn. Tôi khốn nạn thật mà...
Tôi ngẩn người nhìn. Lão này gở chết hay sao mà nói những điều tử tế thế nhỉ? Từ bé đến lớn tôi chưa nói chuyện với lão bao giờ. Lão là ông họ gần của tôi. Từ nhỏ tôi đã không ưa con người này. Không phải chỉ vì hàng rào nhà lão luôn ken khít rịt, đến con gà nhiếp cũng không chui lọt, khiến lũ trẻ chúng tôi chỉ còn cách nuốt nước bọt mà nhìn cây ổi hương nhà lão chi chít quả chín trắng, thơm lựng. Hầu như quanh năm lão không ra khỏi nhà. Tôi không ưa lão bởi mỗi lần giỗ họ, lão là vai trên, được xếp mâm trên với các cụ ông. Nhưng bao giờ lão cũng "Nhà cháu không uống được rựợu, mạn phép các cụ cho nhà cháu được ngồi mâm dưới với các bà!". Chả phải lão nhún nhường đâu. Mâm cỗ những năm đói kém chỏn vỏn vài đĩa thịt mỡ trắng ngàu. Các cụ ông có rượu đưa đà khề khà một chặp đã không còn gì để gắp. Mâm dưới, năm nào cũng thế, các bà bảo nhau chỉ chan toàn nước suýt, để giành thịt mang về cho những đứa con quanh năm thèm mỡ. Các bà dùng đũa gắp từng miếng một chia đều các phần. " Mời ông Vòn nhận trước!". Lão ngồi săn văn ngắm nghía những mô thịt tin hin như cân bằng mắt, rồi chồm người sang phía bên kia mâm nhận mô thịt có phần nhinh nhỉnh. Lão tung tăng mang gói thịt về bỏ muối kho mặn chát, ăn dần. Lão sống dật dờ như cái bóng trong ngôi nhà kín như vỏ ốc cùng bà vợ dặt dẹo và đứa con cũng loèo khoèo như lão. Thế mà lần này tôi về quê, lão lại khẩn khoản mời tôi đến nhà. Nếu tôi không kịp can thì lão đã bóp cổ con gà mái ri đang nhảy ổ.
- Chỉ có cậu may ra mới giúp được tôi thôi. Nếu không tôi chết cũng không nhắm được mắt đâu, cậu ạ...
Ban đầu tôi cảm thấy khó chịu và miễn cưỡng. Nhưng nghe lão kể tôi bị cuốn vào câu chuyện đời tư của lão. Câu chuyện của năm mươi năm về trước...
Mặt trời đứng bóng. Quạ lượn chập chờn trên những luỹ tre tanh máu và khét mùi thuốc súng. Bọn Tây đã rút đi. Xóm làng bắt đầu trỗi lên những âm thanh ai oán. Tiếng hờ khóc của người mẹ chết con. Tiếng rên rỉ của ông già Lân nghễnh ngãng. Khi bọn Tây vào nhà, ông chui vào xó cửa, lấy cái nong chắn bên ngoài. Bọn Tây nhìn thấy chân ông thò ra bèn cất tiếng gọi. Ông ngồi run nhong nhóc không ra. Thằng Tây đá văng cái nong, xách tai ông lên, vung dao. Xoẹt! Ông ôm tai lăn lộn, máu vương vãi khắp nhà... Ngoài sân chùa, tiếng xôn xao nhớn nhác của dân làng quanh giếng cạn, xác một người còng queo dưới đáy. Ông lý trưởng dẫn bọn Tây lục lạo khắp làng nhưng không tìm thấy Việt Minh, sợ quá ông nhảy xuống giếng mong tìm nơi ẩn trốn, nhưng Tây đã chõ súng xuống, đòm! Không ai hay việc xảy ra ở nhà Muôn, cũng không ai để ý Muôn đang nằm chết thiếp như một cái xác trên thềm sân lạnh.
Hắn run như chó phải pháo, vừa tụt khỏi cây rơm vừa khóc tu tu. Đáng lẽ phải ôm ngay lấy vợ mà kêu nhưng hắn lại không làm thế. Hắn phệt xuống sân, khóc và giãy đành đạch như trẻ con bị mất đồ chơi. Khóc chán, hắn lao vào Muôn, vừa đấm đá vừa cào xé. Muôn đau đớn ê chề lê lết kêu van:" Tôi...làm gì... nên... tội?...". Hắn gào lên, nước mắt nước mũi ròng ròng: " Đồ con đĩ! Ông nhìn thấy hết nhớ!”. Muôn nhắm nghiền mắt chịu trận đòn ghen quái gở. Những cái đấm đá của tay cớm nắng trói gà chẳng nổi không thấm tháp gì so với cái đau nhức nhối đang lan từ hố chậu buốt lên tận óc…
- Tôi khốn nạn thế đấy cậu ạ... Bây giờ nhiều đêm tôi không thể nào chợp mắt. Cứ nhớ đến ngày ấy là vã cả mồ hôi!
Tôi ngồi thần cả người ra. Lão Vòn vô học, ru rú xó quê... Cả một tiểu đội lính lê dương... Tôi đây này, đã bằng nọ bằng kia, từng đi nước này nước khác. Vậy mà hơn chục năm rồi, tôi không thể quên một phút, cái phút vợ tôi, trước khi nhận lời yêu đã ngước cặp mắt tội đồ thú nhận không còn trong trắng nữa. Một cái gì đó to lắm, cao lắm đổ nhào khiến tôi cảm thấy hẫng sụt. Lòng tôi trống huếnh mất bao ngày. Đã bao lần tôi dùng lí trí ép cái cảm giác mất mát, thiệt thòi ấy xuống, nhưng nó như một bóng đen dai dẳng luôn bám riết lấy trí óc tôi. Tôi nói nhỏ với lão Vòn mà như nói với mình:
- Sự việc qua rồi, ông dằn vặt làm gì cho khổ?
Lão Vòn lắc đầu nhè nhẹ, cặp mắt đẫn đờ:
- Cậu không biết đâu. Mẹ con tôi giấu kín chuyện Muôn bị Tây hiếp. Làng xóm không ai biết cả...
- Ông giấu được là tốt, thế thì có gì mà ông phải ân hận?
Lão Vòn bất ngờ ôm mặt khóc hu hu như con trẻ. Nước mắt chảy đẫm kẽ bàn tay xương xẩu...
*
Muôn vật vờ như tàu lá héo. Căn bệnh quái ác từ bọn lính viễn chinh đổ vào người Muôn như một lời khai tử. Rất từ từ, rất ác hiểm, nó ngấm ngầm tàn phá Muôn từ bên trong. Muôn nằm bẹp trên chõng tre, cửa mình dề dề tháo mủ. Ngôi nhà tranh bốc mùi thối khắm đến nỗi Muôn phải lấy vải thô bọc tro bếp lót quần. Lão Vòn bỏ mặc cho bệnh hoạn gặm dần dần thân thể Muôn mà không mời thầy thuốc. Đầu Muôn trọc lóc như trái bưởi. Muôn mê man lảm nhảm bảo tai có con gì kêu u u, có những giọt nước gì buốt lắm cứ rỉ rả nhỏ lạnh, nhỏ lạnh ở đỉnh đầu...
- Lúc ấy tôi mong cho cô Muôn nhanh chết. " Mày chết đi cho ông nhờ! Đồ đĩ rạc đĩ rày!...Mày chết đi! Mày chết đi!". Tôi rít rẩm trong cổ họng như thế suốt ngày đêm. Muôn đã mấy lần thều thào van tôi cho cô ấy về nhà mẹ đẻ chữa bệnh, nhưng tôi không cho. Đến khi họ nhà cô ấy biết thì bệnh đã nặng lắm rồi. Toàn thân cô ấy xẹp lép như một mớ xương đùm giẻ... Giời ơi! Tại sao tôi lại khốn nạn thế hở giời?- Lão Vòn ngửa cổ kêu lên những tiếng xót xa. Tôi trân trân nhìn lão. Thuở nhỏ tôi nghe loáng thoáng lão Vòn đã bỏ chết một đời vợ trước. Chuyện của các cụ, tôi không mấy để tâm. Đâu ngờ nó lại thế này.
- Đằng nhà cô Muôn nhận con về chạy chữa mà không dám hé răng trách tôi lấy một nhời. Cậu không biết đâu. Ngày xưa, bệnh cô Muôn là căn bệnh điếm nhục đổ vào cả dòng họ. Mẹ con tôi giấu biệt chuyện Muôn bị Tây hiếp là để giấu cái thói ươn hèn nhu nhược của tôi...
- Cũng dễ hiểu thôi. Ai muốn phơi cái xấu của mình ra?- Tôi thông cảm với lão Vòn. Tưởng lão sẽ nguôi ngoai, không ngờ lão khóc méo xệch cả mồm:
- Nhưng tôi lại vu cho Muôn mấy tháng trước đi gặt lúa thuê ngoài Triều Khúc đã lăng loàn trai gái nên mới mắc tim la!
- Tôi thật không ngờ... Ông là đồ...
Tôi muốn tuôn ra muôn ngàn lời rủa xả táp vào bộ mặt nhăn như mớ giẻ kia. Nhưng tôi kìm lại được. Tôi bặm môi quắc mắt nhìn lão. Lão co rúm người lại như con giun bị lật đất phơi ra ánh sáng mặt trời.Tôi rùng mình ghê sợ nhìn lão Vòn như nhìn một con rắn độc. Người ta bảo mỏng môi hay hớt... Môi lão Vòn mỏng dính, dẩu lên thế kia... Chả trách lão dựng chuyện điêu trác hất hình. Lão nghĩ Muôn sớm muộn gì cũng chết nên điều gian dối của lão không thể bị Muôn tố giác.
- Thế ông lấy vợ khác ngay lúc đó à?
Lão Vòn lờ đờ nhìn tôi:
- Không, một năm sau cơ, cậu ạ...
Lão ngồi so lại, đầu gối củ lạc nhô lên quá tai. Khoảng trán vốn đã ngắn troằn giờ càng ngắn hơn bởi những nếp nhăn nhàu nhĩ...
Cứ tưởng bệnh Muôn vô phương cứu chữa. May nhờ có ông lang Mường với bài thuốc bí truyền đựơc vời tới khám bệnh cho Muôn. Ông lang gọi riêng bà Diên ra chỗ vắng nói nhỏ: " Bệnh cô nhà ăn sâu quá, cụt hết cả buồng trứng rồi! Gia đình đồng ý tôi sẽ chữa, nhưng cô nhà không thể sinh nở được.". Bà tái mặt nhưng cắn môi gạt nước mắt gật đầu. Còn người còn của, cốt Muôn sống được là may. Nhưng Vòn thì không nghĩ thế. Đàn bà là cái máy đẻ con. Không đẻ đái gì được nữa thì "thay nái", huống hồ nhà Vòn mấy đời độc đinh... Mẹ con Vòn nguây nguẩy không cho Muôn về lại. Nhà Muôn thì coi con gái đã đi lấy chồng, sống nhà người, chết là ma nhà người, nên thúc ép Muôn đi. Quay qua quẩn lại. Bà mẹ Vòn có vẻ xuôi xuôi. Nhưng Vòn thì mặt rắn câng như gỗ đá. Muôn cắn răng quì lạy chồng, nước mắt đầm đìa mà không lay chuyển được con người trơ tráo, đành khăn gói cúi mặt lầm lũi trở về nhà mẹ đẻ.
Mấy tháng sau, Muôn khe khẽ mở ngọn tre dấp cổng trở lại nhà chồng vào một đêm tối như bưng mắt. Bà mẹ chồng mù loà nằm trên giường tỉ ti khóc lóc gọi tên Muôn. Vòn nằm trên chiếc chõng tre bên cạnh rít qua kẽ răng: " U im đi cho tôi ngủ! U còn nhắc đến con đĩ ấy làm gì! Nó chết rồi!". Bà già lại khóc to hơn: " U con mình ác quá, Vòn ơi! Thế này thì u chết chắc bị chó ngao xé xác, bị bỏ vạc dầu, bị quỉ sứ lột da... Hay là để mai u sang nhà ông bà Diên thưa chuyện...". Vòn bật chồm người dậy. Dưới ngọn đèn dầu tù mù nhưng mặt Vòn trắng bệch đi. Hắn nghiến răng nói gằn trong họng: "U mà nói ra, tôi giết!" và sấn đến túm cổ bà già chét mạnh. Bà già sợ hãi ú ớ run lên.
Muôn lặng lẽ bước vào nhà. Hắn đứng chết trân như thân chuối dựng. Muôn nhìn hắn bình thản như nhìn một con vật yếu đuối. Bước đến nắm tay mẹ chồng, Muôn nói khẽ: " U ơi, con đến để lạy u...con đi...". Hắn giương dáo mắt nhìn Muôn, lập bập mãi mới hỏi được một câu tưởng chừng như hụt giọng: "Mày...đi đâu?". Muôn lột chiếc khăn để lộ mái đầu tóc đang mọc lại lơ thơ và nheo con mắt khinh khi nhìn chồng nói từng lời như rút ruột: " Tôi mà hê ra thì dơ cái mặt anh, cái mặt tôi và cả họ nhà tôi cũng chẳng đẹp đẽ gì! Tôi đi để rửa ô nhục trên cái thân tôi...". Muôn bụm miệng ngoắt người lao khỏi cửa, hút vào vườn cây cối um tùm. Tiếng côn trùng đang nỉ non chợt im bặt theo bước chân chạy trong đêm líu ríu. Tiếng chó sủa ran càn theo một vệt về hướng bến sông...
- Giá lúc đó tôi mà bạo như bây giờ thì cô Muôn không chết. - Lão Vòn nức nở. - Nhưng tôi sợ quá! Từ bé tới lớn tôi có dám ra khỏi nhà vào ban đêm đâu. Đến đi tiểu u tôi còn phải hốt cho một thúng tro đặt xuống gầm giường cơ mà! Hôm đó tôi đã chạy ra đến ngõ. Nhưng gối nó cứ nhũn xuống. Tôi chạy như ma đuổi trở lại nhà sập cửa đánh thình một cái, cẳng chân chưa kịp rút vào bị kẹt sưng mấy ngày liền... Sáng ra thì ...
Đôi dép mo cau... Chiếc khăn vuông đen rơi lại trên bến đò ... Bà Diên chạy dọc bờ sông gào khóc khản cả hơi... Trai làng lặn hụp mấy ngày đỏ kè cả mắt vẫn không mò được xác Muôn. Dân làng người thì xót xa cho kiếp hồng nhan bạc phận, trách mẹ con nhà Vòn ăn ở bất nhân thất đức. Kẻ bênh Vòn thì bĩu môi rỉa rói: Ôi dào, nứa trôi sông không dập thì gãy, gái bị chồng rãy không chứng nọ thì tật kia...
- Thôi được rồi! - Tôi cắt chuyện lão Vòn vì cảm thấy không chịu nổi nữa.- Rốt cục ông muốn nhờ tôi giúp việc gì?
Lão Vòn khóc hưng hức trong cổ họng một hồi lâu rồi lúng túng nói với tôi những lời đứt quãng. Lão bảo, lão hơn bảy chục tuổi rồi, đêm đêm nằm vắt tay lên trán nghĩ lại những việc mình làm trong đời thấy lòng cắn rứt không yên. Hễ cứ chợp mắt là lão lại thấy bà Muôn cái đầu trọc lóc ngoẹo cổ nhìn lão kêu rằng rét quá, rét quá! Lão ngước lên thành kính như con chiên trước cha xứ nhờ rửa tội:
- Cậu ạ, cậu là người có học, thành danh nhất họ. Tiếng nói của cậu quan trọng lắm, các cụ chắc sẽ nghe theo. Tháng tám này giỗ họ có bàn về việc qui lăng các cụ. Tôi nhờ cậu giúp cho một tiếng, đưa bà Muôn vào phần mộ của họ nhà mình! Có được vậy tôi mới nhẹ lòng...
Tưởng gì chứ chuyện đó tôi giúp được. Ngôi mộ đất nhỏ như thúng úp ngoài bến sông là do nhà cụ Diên đắp hồi xưa, dưới chỉ chôn có đôi dép và cái khăn vuông. Mùa lũ, ngôi mộ chìm nghỉm trong nước lạnh. Mùa khô, ngôi mộ bị lút giữa ngô đậu xạc xào heo hắt. Cả họ nhà tôi và họ nhà bà Muôn không ai thừa nhận bà là người của họ mình, vì thế quanh năm ngôi mộ nằm chơ vơ quạnh quẽ. Lạ một điều là ngôi mộ không hề mất. Ngày nhỏ tôi vẫn thấy có chân nhang cắm loe hoe trên ngôi mộ đó... Chuyện cũ mấy chục năm rồi, chắc các cụ nhà tôi sẽ không chấp nhách.
Nhưng tôi đã không giúp được lão Vòn. Trong những việc soạn thảo gia phả, kiến thiết nhà thờ... thì các cụ trong họ trọng tôi. Còn việc này, tôi là kẻ hậu sinh, vai vế trong họ là lớp dưới nên các cụ khăng khăng phản đối. Cái lý của các cụ là, chấp nhận đưa mộ bà Muôn về thì khác nào chấp nhận kẻ lăng loàn đĩ tã, bôi một vết nhơ vào dòng họ Trịnh thanh danh! Họ Nguyễn nhà bà Muôn thì không muốn có thêm một bà cô. Họ đánh tiếng rằng, đàn bà như mớ dưa, ngon khú gì là do tay người muối. Đã lấy chồng là hết trách nhiệm. Hết cách, tôi đành kể ra những lời sám hối của lão Vòn. Ông Cân, trưởng họ Trịnh nhà tôi sỉ bã thuốc lào đánh phụt, xì một cái rõ dài:
- Ôi dào! Tin mồm lão Vòn thì đổ thóc giống ra mà ăn. Lão là chúa hay dựng chuyện, anh không biết à?
Tôi buồn lắm, chẳng biết làm gì hơn là ngồi tần mần viết câu chuyện kể về thân phận một kiếp người. Hy vọng rằng khi bài báo in ra có thể thay đổi được tình hình. Bài viết được in. Tôi hí hửng đưa tờ báo về. Ngay tối hôm đó, ông Cân lù lù xuất hiện tại nhà tôi. Ông chẹp nước chè liên hồi, ý chừng khó nói. Mãi sau ông mới hiêng hiếng mắt nhìn tôi thở dài:
- Hỏng! Hỏng quá! Tưởng anh ăn học hơn người...Ai ngờ...
Tôi bảo:
- Cháu chỉ muốn minh oan cho bà Muôn...
- Giời ơi là giời! - Ông Cân rít qua kẽ răng - Anh làm thế khác nào đổ cứt vào nhà thờ họ. Chuyện bà Muôn tôi lại không biết hơn anh à?!
Ông phủi đít quần hầm hầm bỏ về. Tôi đã khốn khổ khốn nạn bởi những ánh mắt của người trong họ nhìn tôi những lần về quê sau đó.
May cho tôi. Giữa lúc tôi đang khổ sở ê chề thì một sự kiện làm thay đổi mọi chuyện. Một vị khách từ Hà Nội đáp xe về làng Bụa. Ông đến thẳng nhà ông Cân trưởng họ, trong tay là tờ báo có bài viết của tôi.
Ông khách ngồi kể giữa một vòng vây trẻ già họ Trịnh. Ông Cân len tới ngồi sát ông khách, cái nhíp hai đầu to tướng, một để nhổ râu, một để rút quai dép cao su, luôn nhíp nhíp trên cái cằm nhẵn thín, mắt lim dim, đầu gật gù nhè nhẹ. Bọn trẻ con há hốc mồm như nuốt lấy từng lời. Lão Vòn chọn cho mình một góc khuất sau cỗ phản, ngồi bó gối nghiêng tai. Khuôn mặt lão lúc cười lúc mếu, ngô nghê như con trẻ.
Ông khách tuổi ngoài tám mươi nhưng còn minh mẫn tráng kiện, rõ là người đã từng xuống biển lên rừng. Ông tên là Đào Bá Đoàn, nguyên chính trị viên của một đại đội trong đoàn quân tiến lên Tây Bắc. Trong cái đêm mưa phùn gió bấc căm căm, đại đội của ông được lệnh bí mật vượt sông Bùi. Đoàn quân qua sông êm thấm nếu như không có một người đàn bà lẽo đẽo bám theo sau. Nguyên tắc bảo mật thời chiến bắt buộc những người lính phải bắt trói kẻ lạ mặt mang theo để đảm bảo an toàn. Chính ông là người thẩm vấn kẻ lạ mặt trong căn hầm ở nơi tập kết. Cô gái ấy khai rằng, cả nhà cô mới bị giết trong trận càn nên muốn theo bộ đội trả thù. Nhìn vóc dáng ốm yếu của cô, ông đã khăng khăng từ chối. Cô gái khóc dữ quá. Ông buộc phải gửi cô sang đoàn dân công hoả tuyến. Tuyến chiến dịch ngày ấy lan truyền tin về một người đàn bà nhỏ thó, nhưng gánh hàng rất khoẻ, luôn đòi được ra tuyến trước. Một hôm, đang trên đường rút quân sau trận đánh, đơn vị lấm láp bã bời, chỉ mong nhanh đến nơi tập kết cho bộ đội nghỉ ngơi. Bỗng đội hình hành quân chùn lại, xôn xao. Ông lách hàng quân vượt lên. Một tù binh người Angiêri đang ôm đầu kêu khóc, máu chảy ướt đẫm kẽ ngón tay. Cạnh đó, một dân công đang bị bộ đội giữ lại. Một chiến sĩ hấp tấp chạy đến phân trần: " Báo cáo thủ trưởng, bọn tôi đang áp giải tù binh về tuyến sau thì chị này ở đâu lao ra, bất ngờ dùng đòn gánh phang tới tấp...". Người đàn bà ngước khuôn mặt ướt nhoè nhìn ông, khóc rấm rức. Ông sững người khi nhận ra chính cô gái đã gặp ở bến sông Bùi. Ông đứng ra bảo lãnh và gửi cô sang phục vụ ở trạm quân y dã chiến...
Nếu như gần cuối chiến dịch ông không bị thương thì có lẽ chuyện của bà Muôn mãi mãi lấp chìm trong quên lãng. Trong căn hầm ngập ngụa bùn đất mùa mưa gió Điện Biên, ông ngồi dựa vào lưng Muôn để nghe cô kể về hoàn cảnh của mình. Ông đã khóc. Khóc vì cơn đau đạn xé chưa thấm vào đâu so với nỗi đau nhân thế mà cô từng gánh chịu.
Chiến trường ngày càng ác liệt. Bệnh viện dã chiến ta ít, Tây nhiều. Những lính Tây "ba vạch" ngày đêm rên la thảm thiết. Trong lúc sa cơ thất thế, những tên lính lê dương như trở thành những con người khác, thảm hại, đáng thương, chẳng giống lúc chúng lăm lăm trong tay súng đạn quan thầy. Ngày nào Muôn cũng tất bật chạy hết hầm này sang hầm khác thay băng, đút cháo cho cả bộ đội lẫn tù binh. Và Muôn luôn ở bên ông lâu nhất...
- Thế ông lấy bà Muôn à? - Một thằng bé hóng hớt nãy giờ buột miệng. Ông Cân lừ mắt, mắng át đi:
- Ranh con. Hỗn!
Lão Vòn cúi xuống, cổ họng phát ra những tiếng hậm hừ. Chẳng biết lão rên hay lão xuyễn. Ông khách ngẫm ngợi hồi lâu, mắt cứ ứa nước ra. Ông ngửa bàn tay vuốt mắt rồi thẫn thờ:
- Được thế thì phúc cho tôi quá! Bệnh viện dã chiến dính bom... Tơi bời hết cả... Có còn gì đâu!...
*
Họ nhà tôi nhốn nháo cả lên. Ông Cân mặt mày phớn phở đến tìm tôi:
- Anh bổ sung ngay bà Muôn vào gia phả nhớ!
Tôi cặm cụi một ngày. Ông Cân móc kính xăm xoi một hồi, hạ giọng thầm thào:
- Anh viết thế còn ra thể thống gì nữa? Con cháu sau này nó đọc nó cười cho. Chỉ viết từ đoạn bà Muôn theo bộ đội thôi! Tôi đã quyết rồi, mai lập mộ bà Muôn.
Từ bé đến giờ tôi chưa thấy một nghi lễ nào trong họ tôi rùm beng đến thế. Thầy cúng làm lễ gọi hồn bà Muôn từ phương trời xa lắc về nhập vàọ sọ dừa, cành núc nác thay hài cốt để trong tiểu sành táng vào nơi cao ráo nhất, tên bà được khắc vào bia đá với những dòng trang trọng: Trịnh tộc- Mộ phần cụ Nguyễn Thị Muôn - Sinh năm 1934 - Thác năm 1954 - Liệt nữ hy sinh vì nước.... Tôi cắm nhang và thầm khấn:
- Mong bà hãy bỏ qua sự vô tâm của con cháu nhà chồng từ trước đến nay.
Lòng cảm thấy bớt áy náy đối với việc họ hàng, tôi chuẩn bị về Hà Nội. Vừa nổ máy xe thì ông Cân đùng đùng lao đến nhà, trợn mắt lên chửi bới:
- Mẹ cha quân mất dạy! Cả họ nhà nó ngu!
Tôi sững người chẳng hiểu mô tê, hỏi lại. Ông Cân mắng té tát:
- Anh không biết gì à? Sao anh thờ ơ thế? Các anh bây giờ chỉ chăm chắm về với vợ với con thôi, chẳng thiết ngó ngàng đến việc gia tộc nữa. Anh lên đồng Gào chống mắt lên mà xem. Cái thằng họ Nguyễn bên bà Muôn nó cũng lập mộ. Mẹ cha quân mất dạy! Cả họ nhà nó ngu!...
Tôi tất tả chạy lên đồng Gào. Ngôi mộ mới xây, vôi trắng lốp. Tấm bia cũng có những dòng không kém phần trang trọng : Nguyễn tộc- Mộ phần cụ Nguyễn Thị Muôn - Sinh năm 1934- Thác năm 1954- Liệt nữ hy sinh vì nước...
Tôi nhếch mép, trong đầu nảy ra một ý nghĩ chua chát: Bà Muôn sống bằng một cuộc đời đau rất thật, vậy mà chết lại bằng ba ngôi mộ giả! Nhưng tôi vội lắc đầu xua đi ý nghĩ hỗn hào. Thế này cũng được, càng tốt cho bà Muôn chứ sao. Mấy chục năm bà không ai thờ cúng, giờ bà đáng được thờ gấp đôi gấp ba. Sẵn bó nhang còn lại trên mộ, tôi đốt ba nén. Tôi chưa kịp quay về thì một toán thanh niên lộc ngộc, vẻ mặt hầm hầm, tay lăm lăm búa chim do ông Cân dẫn đầu lao lên đồng:
- Chúng mày phá cái mộ ấy cho ông! Mẹ cha quân mất dạy! Cả họ nhà nó ngu!...
Tôi cuống lên giang hai tay cản đoàn người hùng hổ lại. Ông Cân chỉ vào mặt tôi chửi văng cả bọt mép:
- Cái trán mày bóng tứng thế mà cũng ngu à! Ăn lắm vào, béo như chó hàng phở nên lú lấp rồi chứ gì? Nó xây mộ kiểu này là nó ám họ nhà mình. Nó gọi hồn bà Muôn về họ nhà nó rồi. Thế là họ nhà mày thừa mả, rồi sẽ ốm đau chết chóc. Họ nhà anh sẽ lụn bại, không ngóc đầu lên được, hiểu chưa? Phá! Phá hết cho ông!
Tôi hét lên một tiếng khiến cho bọn trẻ chùn tay:
- Không được làm càn! Người ta mà kiện thì cả họ mình đi tù. Rồi lại gây thù chuốc oán cho mà xem. Nhìn kìa!
Một toán thanh niên khác gậy gộc tua tủa do ông trưởng họ Nguyễn dẫn đầu đang lao rầm rập về phía chúng tôi. Cánh thanh niên bên này giơ cuốc lên thủ thế. Tôi đứng giữa hai hai phe bặm môi nghĩ cách dàn hoà. Hai đám thanh niên lưỡng lự, hết nhìn tôi rồi lại nhìn hai ông trưởng họ. Hai ông trưởng họ một cao lòng khòng, một lùn tịt, gườm gườm nhìn nhau bằng cặp mắt hai con trâu chọi. Tôi thấy trong ruột rối bời, chẳng biết nói với họ thế nào.
Giữa lúc đôi bên còn gằm ghè thì một thằng bé hộc tốc chạy lên đồng. Nó thở không ra hơi, giơ tay chỉ về phía bến sông:
- Cụ Vòn... Cụ...
Chả ai bảo ai, tất thảy đều quăng vũ khí lao theo thằng bé.
Bến sông vắng lặng. Gió buôn buốt lùa dọc mặt sông làm nổi lên những gợn sóng lăn tăn. Mưa phùn lay phay. Những chiếc lá ngô tím tái ướt át cứa vào mặt tôi thon thót.
Lão Vòn nằm thoi thóp nơi ngôi mộ giả bà cụ Diên đắp năm xưa. Chiếc cuốc nằm chỏng chơ ngay cạnh lão Vòn quần áo phong phanh, râu tóc lơ phơ ướt bết dính đầy đất cát. Ngôi mộ vừa bị lão phá tan tành. Chúng tôi vội vàng khiêng lão ra ngoài bãi ngô, đặt lên thảm cỏ, đốt một đống lửa to sơ cứu. Lão Vòn đã phát phiền, tay quờ quạng rón chuồn chuồn. Tôi cuống cuồng xoa điên dại vào khuôn ngực hom hem của lão.
Nhưng... muộn quá rồi! Lão đi mà mắt vẫn mở trừng trừng như cầu xin một điều gì đó. Mấy chục con người vừa nãy yêng hùng là thế, giờ len lén ngoảnh mặt. Tôi đặt cả bàn tay nóng ran lên đôi mắt lão Vòn, trong đầu thầm nói: Ông ơi, ông cứ thanh thản mà đi. Khối người còn giấu những điều khuất tất trong cuộc đời, nhưng có phải ai cũng đủ can đảm nói ra được như ông đâu?
Tôi mở bàn tay. Mắt lão Vòn đã khép. Khuôn mặt nhăn nhúm như chiếc lò xo của lão từ từ giãn nở, phảng phất một thứ ánh sáng...
Sang mùa
Truyện ngắn .ĐỖ TIẾN THỤY
________________________
Lại chiều. Cánh đồng nhuốm màu đỏ xuộm. Những cánh cò trễ nải bay ngang. Vài con diều sáo vi vút trên triền đê tím ngắt cỏ may. Anh cùng đàn vịt đẻ về đầm. Những con vịt sau một ngày mò mẫm diều căng lặc lè chầm chậm toả xuống hồ như một đám mây trắng xốp, giỡn đùa inh ỏi. Những nàng vịt mái nhẹ nhàng khoả nước tắm gội kỹ càng, soi gương tỉa tót chán chê mãi mới đồng loạt xoè xiêm tung áo mời chào. Những chàng vịt đực mỏ vàng đuôi vểnh nãy giờ gật gù sốt ruột chỉ đợi có thế là vươn những cái cổ dài xanh biếc màu cánh trả lượn ve vé trên mặt đầm làm cồn lên những quầng sóng hào hoa.
Anh ngồi im lặng trên chiếc lều cắm lênh đênh trên mặt nước ngắm đàn vịt của mình cho đến lúc trời sâm sẩm, lũ vịt lạch bạch lên bờ, khệ nệ bê những cái bụng ậm ạch trứng vào chuồng. Đó cũng là lúc bọn trẻ vắt vẻo trên lưng trâu đủng đỉnh ngang qua. Bao giờ cũng thế, mới chớm tới đầu đầm là chúng hai...ba đồng thanh cất tiếng ê a:
Mặt trời tròn
Quả trứng tròn
Mặt trời đẻ nắng
Trứng tròn nở con...
Tiếng hát cứ xoay tròn hết lượt này sang lượt khác, nhỏ dần, nhỏ dần rồi lặn hút vào luỹ tre xa tít. Mặt đầm trở lại hoang vu ngập tràn năn lác. Gió nồm nam phao phảo thoảng qua, đầm nước lao xao dậy mùi tanh đằm đặm. Tiếng cá đớp ngay dưới chân lều nhưng nghe xa xăm, buồn buồn như bong bóng vỡ. Anh lui cui châm đèn. Một con cà cuống bắt sáng lao vèo đến đậu dính vào vai anh rồi lại hoảng hốt vù đi bỏ lại một quầng cay thơm ngát.
Chị ra. Đúng tầm này là chị tất tả mang cơm nước cho anh. Trong khi anh ăn, chị bó gối nhìm đăm đắm về phía chuồng vịt, nơi thi thoảng lại phát ra những tiếng kêu "lẹp kẹp" đầy bực bõ của lũ vịt đang ngái ngủ, mơ tưởng đến một thứ rất gần mà rất đỗi xa xôi. Anh ăn quếnh quáng cho nhanh rồi giục giã chị về, mặc dầu chị rất muốn nán lại thêm chút nữa.
- Về đi kẻo u chờ!
Nghe anh nhắc, chị lấn bấn đứng lên, quay ra quay vào mấy bận mới lên xe được. Nhưng khi một mình trên con đường thập thõm vết chân trâu chị lại đạp miết đầy nóng vội. Sáng mai, vẫn con đường này chị lại ra với anh, nhưng chuyến đi buổi sáng bao giờ cũng tràn đầy khấp khởi. Nền chuồng lát kín trứng. Những sinh linh phôi thai sau những nhọc nhằn. Vợ chồng già nhưng cái nhìn thì trẻ, cười nụ cười con trẻ, nói những lời con trẻ. Ơ này mình, em nghe hình như trứng cựa? Đâu xem nào. Ừ, đúng đấy! Trứng khoẻ thế này nở đều phải biết!
Niềm vui qua nhanh, nỗi buồn len đến như gió thoảng. Chị nhìn anh bằng cặp mắt âu lo. Liệu có hiệu nghiệm gì không anh? Mình nghĩ vớ nghĩ vẩn gì thế? Thầy đã nói rồi, phải kiên trì mình ạ! Phút chốc, lời vị lương y có nước da đỏ lồng lộng, bộ râu dài bạc trắng như tiên ông trầm ấm bên tai: "Anh chị đều khoẻ mạnh, nhưng tâm thần không được ổn. Chẳng có sinh linh nào tụ hình được trong một tâm thể bất an đâu!". Đơn thuốc thầy kê cho anh chị là hãy dưỡng tâm cho tốt. Vạn vật đều sinh sôi nảy nở, hãy chăm sóc cho vạn vật sinh sôi rồi ắt đến lượt mình. Nghe lời, nhà anh chị gà đầy sân, lợn đầy chuồng, cây cối xum xuê quấn quít. Khi con gà mái so tác rầm đòi ổ, vợ chồng bảo nhau chui vào đống rơm phủ kín đầu, rình. Lúc con gà mặt đỏ gắt màu cờ bay vù xuống sân cục tác inh tai khoe khoang niềm kiêu hãnh vừa qua cơn đau sinh nở, vợ chồng ào đến ổ nâng quả trứng nóng hổi vương vệt máu hồng hồng. Bốn bàn tay ấp chặt lấy quả trứng tròn, bốn con mắt nhìn quấn vào nhau cháy rực những tia thèm khát. Một măng chuối nhọn hoắt đâm lên từ gốc đất phù sa, một chồi non bật ra từ vỏ cây xù sì vươn cành kết nụ...đều khiến hai người hồi hộp. Không chỉ có thế, anh chị còn tình nguyện làm bà đỡ không công cho tất cả những ca sinh nở của gia súc trong làng. Có đứa bé nào vừa cất tiếng khóc chào đời, chị tình nguyện đến trông nom giặt giũ...Vậy mà chưa kết quả. Thế nên mới có đàn vịt này.
Chiều nay chị ra sớm. Chị mặc chiếc áo phin xanh trứng sáo cổ tròn cùng chiếc quần phíp mới lôi từ đáy rương sực mùi băng phiến, đôi chân sần sùi nứt nẻ xâu trong đôi dép nhựa đế cao, mái tóc búi kỹ càng hơn, má chị ửng hồng, mắt long lanh gợn nước. Chị vẫn đẹp, cái đẹp của người đàn bà son rỗi trong tàn phai.
- Hôm nay mình về nhà...
Chị nói lí nhí, đầu cúi xuống bẽn lẽn. Anh rỡ ràng nhìn chị không chớp mắt, lòng rộn lên niềm vui sướng. Quây chắn cho đàn vịt xong xuôi, anh hấp tấp đèo chị lao xồng xộc trên con đường lênh láng ánh trăng, mặc chiếc xe đạp long lên sòng sọc.
Ngôi nhà cổ nép giữa bốn bề cây cối um tùm, trong trăng suông nom càng u tịch. Cái sân gạch bị bóng cây đổ xuống loang lổ khoảng sáng khoảng đen. Có một bóng đen đang đi lại vật vờ trong sân làm dội lên những tiếng gậy tre lộc cộc. Bóng đen ấy là một bà già váy thâm áo đụp, mắt mờ tai điếc, thế mà anh chị vừa về đến ngõ bà đã quẳng gậy xuống sân gào tướng lên:
- Sâm ơi là Sâm! Giời đày hay sao mà con phải ra đồng ăn gió nằm sương! Mày không thương u à?
Anh cuống quít quăng xe chạy tới, như mọi lần, anh chẳng nói được câu gì, chỉ mình bà già rờ rẫm khắp người anh rên rẩm. Sâm ơi là Sâm. Lớn bằng ngần này rồi sao mà ham chơi quá thế. Tóc mày toàn bùn là bùn đây này. Để tí u đun nước tắm cho mày. Dọn cơm! Dọn cơm! Khổ, mày chỉ ăn toàn cơm nguội thôi...
Mâm cơm dọn dưới sân trăng. Nồi đen, cơm trắng. Khói cơm phà mờ mắt ba người. Bà già móm mém nhai,luôn miệng giục: Chúng mày ăn quàng lên chứ, u hết bát thứ ba rồi đây này. Ăn nhanh rồi ngủ sớm nghe chưa. Chúng mày mà thức khuya là u đánh đòn nghe chửa.
Bà già nằm buồng bên này, ngáp một tiếng rõ to rồi nằm im. Nhưng chỉ được một lúc là bắt đầu lẩm bẩm: Khổ thân chúng nó. Chẳng biết tại chồng hay tại vợ mà ra nông nỗi này. Dòng giống nhà ông Hựu, nhà ông Can đều sai con cơ mà. Ờ, chắc tại thằng chồng nó mải chơi. Ngày mai bà cấm. Đừng hòng mà đi nữa nhé. Giá là thằng Lợi thì đẵ chẳng phải bàn. Dòng giống nhà bà ,bà biết chứ. Thì đấy. Ông bà chỉ gặp nhau có một đêm trong rừng Tây Bắc, thế là có ngay thằng Lợi...Bà già trở mình, tiếng giường tre kẽo kẹt. Giọng bà vẫn đều đều kèo kẽo trong đêm như mọt nghiến. Ông ơi là ông. Ông có linh thiêng thì về phù hộ cho con. Chúng nó sắp già cả rồi. Lợi ơi là Lợi ơi. Mày có thương thằng Sâm con Bính không? Kìa, sao con không nói? Tại u, tại u tất con ơi. Báo tử mày ba năm, u đã cầm roi đuổi con Bính về nhà ông Hựu, dưng mà nó quì xuống khóc lóc xin u nhận nó làm con gái. Khổ thân con bé. Ngày mày đi nó càng ngày càng đẹp. Nó đẹp quá thì u lại đâm lo. Khi mày chết, nó vẫn đẹp. Nhưng mà rầu rĩ quá cơ con ạ. Nhìn nó u héo cả ruột cả gan. Ối đám đánh tiếng xin nó đấy, dưng mà u chỉ thương thằng Sâm thôi. Ngày nào nó cũng đến thăm u, chẳng chịu vợ con gì. Mà chính con cũng đồng ý với u như thế đấy thôi. Ba lần u gieo quẻ hỏi con, lần nào con cũng cho một đồng sấp, một đồng ngửa còn gì. Phải thế không nào? Kìa, sao con không nói? Giời ơi! Sao mặt con tím tái đi như thế? Con lạnh lắm à? Chết thôi, năm nào mà u chẳng đốt gửi cho mày một cái chăn bông. Cả quần áo nữa.Thôi con đừng khóc. U xin. Khi nào u mang được mày về, u đắp cho mày cái mả to như cái gò Đống Giai, con nhớ. Ơ kìa, sao mày không nói? Hả Lợi? Hôm nay con ở chơi với u lâu lâu, con nhớ! Kìa, sao con lại bỏ u mà đi như thế...con ơi!...
Buồng bên này, bóng điện ngủ hồng ấm chiếu chăn. Anh quàng tay qua người chị thầm thào:
- Có chắc không?
- Chắc!
- Ừ, trứng mình nuôi khoẻ thế cơ mà. Thôi, ngủ đi cho con nó mập!
Chị mỉm cười rúc đầu vào ngực anh.
Đêm trôi. Đêm trôi...
- Hỡ hỡ hỡ hỡ hỡ hỡ... Lợi ơi, mày bỏ u mày đi đâu!
Anh choàng mở mắt cuống quít ngồi bật dậy, chân trần chạy ra sân. U ơi là u! Con van u đấy! Đêm nào u cũng hờ lên như thế thì nhà con làm sao mà ngủ được! Đi,để con đưa u vào ngủ. Bà già vùng vắng giật tay ra:
- U thương chúng mày!
Vâng, u ơi, con biết u thương chúng con. Chính u đã đứng ra tác thành cho chúng con, rồi chính u lại ngất xỉu khi vợ chồng con đội mâm lễ vật quỳ trước bàn thờ của Lợi. Rồi là những cơn điên dại...
- Dưng mà u thương thằng Lợi...
Vâng, con hiểu mà. Đừng nhìn con như thế u ơi. Thấy u vật vã những đêm trăng, con chẳng đành lòng. Con đã ra đi. Ba lần chứ có ít đâu. Con đã quần nát cả khu rừng năm xưa, nơi chính tay con chôn Lợi rồi mà. Con đã nhắn bao nhiêu tin trên đài, báo, ti vi, cả trên chương trình phát thanh tiếng Bahnar, XơĐăng, Giarai...nhưng chưa có tin tức phản hồi. Có những việc làm nhân danh vì người chết, nhưng kỳ thực là cho người sống. Người chết có đòi hỏi gì đâu? Nếu đòi hỏi thì Lợi nó đã báo cho con biết rồi chứ!
Dường như hiểu những lời gan ruột của Sâm qua bàn tay nắm chặt, bà già ngoan ngoãn để cho anh dìu lại vào buồng.
Sợ vợ thức giấc,anh không dám trở lại giường. Một mình anh ngồi giữa căn nhà ắng lặng. Lợi ơi, sao hoàn cảnh lại trớ trêu thế này? Giá như ngày ấy mày đừng tham mười lăm ngày nghỉ phép. Mà không, trong hoàn cảnh ấy thằng nào chẳng tham. Bính ngày ấy trẻ và đẹp lắm. Vợ chồng mới bén hơi nhau qua ba ngày vội vã...Mày đã bắt sống được bốn thằng, chỉ thêm một thằng nữa là mày ung dung đủ tiêu chuẩn lên xe ngược Bắc.
Lợi ơi, tao nhớ lắm. Cái hôm tao và mày xách súng "đi săn" chuyến ấy, rừng mùa khô hừng hực gió Lào, rền rĩ tiếng ve. Dòng Đăkbla trong veo in rõ mây trắng trời xanh dưới đáy, lững lờ uốn lượn giữa những quả đồi cuộn vồng lên. Nơi ranh giới, những lá cờ đuôi nheo đỏ vàng lẫn lộn, lá rách te tua bởi bao lần pháo dập, lá còn lành lặn bay thẳng căng không nếp uốn. Chỉ có một quả đồi mà bên này giằng qua, bên kia co lại đến trăm lần. Không ít máu đã đổ vào đấy qua những lần lấn dũi, để cuối cùng thương lượng với nhau tại "Nhà hoà hợp" : chia đôi quả đồi. Thế mà vẫn chưa yên. Lá cờ cứ bị dịch dần vào vùng giải phóng.
Lợi ơi! Hôm đó tao đã bảo để tao. Tao thanh tân , chưa vợ con gì. Tao cũng đã bắt được ba thằng. Nhưng khốn nỗi bọn lính E42 quá cáo, chơi bài đi lẻ. Chỉ có hai thằng bơi thuyền độc mộc qua sông, một thằng đứng lại bờ sông cảnh giới, một thằng lò dò tiến vào ranh giới nhổ cờ. Thằng lính to con, bộ rằn ri chật cứng, túi nào túi nấy căng phồng. Mày bảo tao yểm trợ để mày đón đầu bắt nó. Tao nằm nín thở, mũi AK chầm chậm rê theo. Cẩn thận Lợi ơi! Đã bảo rồi mà. Thằng lính to con đã vùng bật khỏi tay mày, quay đầu ù té chạy . Cái bóng của nó đã trùm kín vòng ngắm của tao. Đúng lúc tao mớm tay xiết cò thì mày lại chồm dậy đuổi theo khiến tay cò của tao sững lại. Nằm xuống, Lợi! Tao gào đứt hơi mà mày đâu có nghe. Thế là "Oành!", mặt đất xóc nảy lên, bóng mày và thằng lính bị nuốt chửng vào khói bụi. Tao hẫng một cái như không còn trọng lượng, mũi súng mất đà quay xéo ra bờ sông xổ một tràng dài. Thằng lính cảnh giới hoảng hồn nhảy lên thuyền chèo tuốt luốt sang bờ bên kia.
Lợi ơi, chạy đến tao đã dựng tóc gáy khi trông thấy mày như một con nhái bị quả mìn cóc tiện cụt hai đùi, máu và khói đỏ đen lẫn lộn khét tanh khiến bụng tao cuộn lên một cơn co bóp. Trời ơi, đôi mắt mày! Đôi mắt mày dại đi vì đau đớn nhưng vẫn nhìn chằm chặp vào mũi súng của tao. Tao đã nghiến răng đến vỡ quai hàm thục mũi súng vào cái mặt bạc méo xệch đi vì sợ hãi. Vậy mà mày, mày đã giơ tay cản tao. Cái miệng ựa máu tươi của mày vẫn còn mấp máy được câu: "Đừng...giết...nó!". Lúc đó mày nghĩ mày sẽ sống. Thằng tù binh thứ năm này sẽ giúp mày về quê thăm Bính?
Vậy mà mày không sống. Đêm ấy, trong khu nhà mồ của người Giarai, dưới tán rừng cổ thụ tao đã vác mày. Một thằng Lợi cao một mét bảy mươi lăm giờ chỉ còn là một bọc nilon ngắn chưa tày thước. Hai cái hố, một cho mày, sâu và vuông vức; một cái nữa sơ sài hơn nhưng cũng đủ sâu để chôn một thằng người. Đưa mày về với tổ tiên không trống không kèn không nhang khói, nhưng sẽ có một thứ ý nghĩa hơn nhiều: Máu! Vẫn biết máu chảy sẽ tiếp tục khơi nguồn cho máu chảy, nhưng đó là lúc bình tâm mà ngẫm, còn lúc đó trong đầu tao chỉ có một ý nghĩ duy nhất: Kẻ gây ra cái chết cho mày phải đền tội!
Bọn tao lôi thằng tù binh thứ năm của mày ra khỏi căn hầm nhốt chung mấy chục thằng bị bắt, nó sợ vãi đái ra quần tong tỏng, chân mềm nhũn như rút mất xương. Bọn tao lôi nó xềnh xệch trên mặt đất như lôi một con lợn đem đi chọc tiết.Và nó cũng kêu rống lên như lợn nằm trên phản. Hình như nó biết bọn tao lén lút xử nó nên nó gào tướng lên:"Các ông không đươc giết tù binh...Không được giết...tù...binh!". Chát! Nhát báng súng dộng thẳng vào cái mồm đang gào khóc."Đ.mẹ, chúng mày phá Hiệp định còn to mồm!". Chửi thế nhưng trong bụng tao lại run, dù đã tìm sẵn cái cớ vu cho nó bỏ chạy, phải bắn bỏ. Nhưng chúng tao không dùng súng. Sở chỉ huy Tiểu đoàn gần lắm, lộ là cái chắc. Một nhát báng súng nện vào đầu? Đơn giản quá! Chết thế thì còn sướng chán so với cái chết đau đớn quằn quại của mày. Hồi chiều khi xuống bếp lấy cơm tao đã liếc thấy chiếc liềm cài trên vách hầm. Cái liềm theo bếp Tiểu đoàn từ ngoài vùng chiêm trũng Hà Nam chuyên dùng cho anh nuôi cắt tranh nhóm bếp, lưỡi chấu lởm chởm sáng xanh, sắc lẹm.
Đêm đen kịt, âm u. Ánh đèn pin bịt nilong xanh lạnh quét loang loáng trong khu nhà mồ hoang phế. Những cột tượng gỗ xiêu vẹo ngả nghiêng mặt đầy hang hốc ẩn hiện chập chờn theo đom đóm chớp. Tao đẩy thằng tù binh thứ năm của mày ngã quỳ trước hố huyệt đen hoăm hoẳm. Kẻ sắp bị hành hình ngửa bộ mặt sưng vù ướt nhoè máu và nước mắt lên van vỉ. Nó nói nhiều lắm nhưng tao không cần nghe. Tờ khai của nó tao đã đọc: Nguyễn Bé Em, hai mươi bốn tuổi, một vợ, một con, bố mẹ còn sống, gia đình ở Chợ Lớn Sài Gòn buôn bán khá giả, có tiền đút lót thoát mấy mùa quân dịch, nhưng sau hè 1972 thì bị vét.
Tao nuốt nghẹn vào lòng, mắt chớp chèm chẹp cho khô nước, hai tay nắm chặt chuôi liềm móc lưỡi chấu vào cái cổ to như cổ trâu vai đeo lủng lẳng một cái xích vàng treo tượng chúa Jêsu. Một chân tao dận vào lưng thằng tù binh. Tay giật mạnh, chân đạp mạnh một cái, đầu thằng tù binh sẽ rời khỏi cổ, cái xác không đầu sẽ rơi tòm xuống hố, lấp đất bằng, thế là xong. Lợi ơi, bọn tao lấy máu của thằng chó để tế mày đây! Thằng chó, cầu chúa đi! Tao gằn giọng trong họng. Thằng lính phút chốc hồn kìa khỏi xác, mặt trắng bệch như được nặn bằng vôi, hét lên một tiếng khiếp đảm: "Maa á...ơ.ơ.ơ.i!"...
- U! Trời ơi, sao u lại dậy?
Bà già lọm khọm không nghe gì, quơ gậy lọc cọc lần ra sân ngửa cổ lên trời:
- Hỡ hỡ hỡ hỡ hỡ!
Trong buồng có tiếng trở mình cùng tiếng thở dài ngun ngút. Anh đờ đẫn bước vào. Chị nằm nghiêng, mắt nhắm nghiền giả vờ đang ngủ nhưng mi mắt lại mọng lên. Mấy chục năm rồi nước mắt chị không ngừng râm ri, rỏn ra rồi lại lặn vào, cõi lòng mặn chát. Đời người thì ngắn, đêm lại dài đằng đẵng. Đêm chồng vợ vèo trôi theo nỗi hy vọng phập phồng...
Một đêm như thế.
Nhiều đêm như thế...
Một chiều heo may se sắt, bãi mía triền đê trổ hoa tím ngắt, anh lại lùa đàn vịt trở về. Vẫn công việc bền bỉ và niềm hy vọng âm thầm, nhưng hôm nay anh bỗng thấy không còn hứng thú. Đàn vịt đã rút ruột đẻ những quả trứng cuối cùng, giờ đang độ thay lông. Những chiếc lông trắng phốp cong cong như ngàn vạn cánh buồm theo gió may trôi vùn vụt về phía cuối đầm. Lũ trẻ so ro ngồi trên lưng những con trâu da mốc thếch gầy trơ xương sau vụ cày đông thót ruột, uể oải hát bài ca quen thuộc:
Mặt trời tròn
Quả trứng tròn...
Chị ra. Sớm hơn mọi ngày, nhưng không tự tin bước ào vào với anh như mọi ngày, mà đứng tần ngần trên bờ nhìn cái lưng áo lính bạc phếch của chồng xa xót, cho đến khi anh chầm chậm quay đầu lại thì chị bất ngờ oà khóc lên:
- Về thôi anh ơi...
Nhìn vợ mếu máo anh hơi chờn chợn, nhưng cũng chưa hiểu chuyện gì. Lời hỏi chưa kịp buông chị đã bật ra tức tưởi:
- Hết rồi... Còn trông đợi gì đâu anh ơi...
Bóng tối đổ ập xuống cánh đồng tiếng côn trùng rền rĩ.
Đời người ngàn vạn nỗi buồn, nhưng chẳng nỗi buồn nào giống nỗi buồn nào. Kẻ nghèo khó đông con buồn nỗi buồn cơm áo, dẫu cau có bao nhiêu thì mắt vẫn ánh lên khi nhìn lũ con khoai sắn phổng phao. Còn anh,dù cố giấu nhưng vẫn lộ ra ngoài nỗi buồn tuyệt tự. Đàn vịt đẻ đã vào vụ mới. Lũ trẻ chăn trâu vẫn nghêu ngao mỗi lúc qua đầm:
Mặt trời tròn
Quả trứng tròn
Mặt trời đẻ nắng
Trứng tròn nở con...
Nhàm tẻ. Không gì bất hạnh hơn khi người ta phải làm cái công việc chẳng hứa hẹn điều gì. Thế nhưng anh không dám về nhà. Anh sợ nhìn bà mẹ điên điên dại dại hờ khóc đêm đêm và ánh mắt thất thần như tội lỗi cùng mái đâù tóc rụng xác xơ của chị.
-Sao thế ông anh?
Đấy là tiếng hỏi của người đàn bà chủ lò ấp trứng. Đã quen với gã chăn vịt tính khí hâm hâm, nét mặt phong trần nói nói cười cười, lần nào đến lấy trứng cũng nhận được câu hoắng huýt: " Trứng khoẻ lắm nhé. Nở đều phải biết!". Vậy mà bỗng dưng thấy gã buồn. Vẻ buồn hình như giống với vẻ mặt của chồng mụ mỗi khi bị mụ nhếch mép coi thường sau những lần bỏ mứa, rồi lủi thủi bỏ đi sau mười năm chung sống mà chưa một lần làm tròn bổn phận, để ba đứa con mụ bây giờ ba cha ba hướng. Mà hình như không phải. Cái kiểu buồn của thằng cha này lạ lắm.
- Nói cho nhau biết với! Bạn hàng họ với nhau...
Ánh mắt khó chịu cùng câu nói sẵng được ném ra cho kẻ đã trưa rồi mà vẫn cố tình nấn ná:
- Mang trứng đi. Tôi còn thả vịt.
- Thì...cũng phải đếm đã chứ, ông anh!
- Không phải đếm. Cứ mang đi, bao nhiêu tính sau.
- Ấy chết! Làm thế e không bền. Mất lòng trước, được lòng sau là hơn. Một đôi...hai đôi...Mụ ngồi xổm trước đống trứng cao ngồn ngộn, gối thúc dồn cặp vú trồi lên cổ, đôi mắt lá răm hiêng hiếng nhìn ngang. Sáu mươi... Sáu mươi mốt...Ông anh đúng là thân làm tội đời, nhà cao cửa rộng không ở, bỏ vợ ra đây ngửi cứt vịt. Bàn tay dềnh dàng đếm trứng, bộ ngực dập dềnh nhấp nhô. Hay mụ Bính nó chê ông anh hôi cứt vịt nó không cho ngủ chung?
Anh lừ mắt, ngồi xây lưng lại trước lời chớt nhả, sốt ruột nhìn đàn vịt đói đang cạc loạn trên đầm.
- Thôi, không có mụ Bính thì con này...
Ùm! Anh lắc mạnh vai một cái khiến vòng tay lơi lả của người đàn bà văng tuột. Mụ ối lên một tiếng trước khi rơi xuống đầm, chìm nghỉm, một lát lâu mới nhô lên, thụt xuống. Anh lừ đừ đứng lên với chiếc sào đuổi vịt chọc vào giữa hai cánh tay quạt nước chới với, kéo lên lều. Cứ tưởng mụ sẽ hoảng hồn, nhưng không, mụ đưa tay ra vén tóc, ưỡn ngực chọc vào mặt anh thách thức, cong môi lên khinh bỉ:
- Tưởng làm sao. Hoá ra một thằng hỏng máy!
Lòng tự trọng, bản lĩnh và khí chất đàn ông bị xúc phạm, cái cơ thể đàn bà ướt nỗng nỗng như tưới xăng cháy đùng đùng trước mắt, anh gầm lên một tiếng kinh hồn khiến đàn vịt chạy dạt ra táo tác, rồi lại ào vào tranh nhau đớp những chiếc cúc áo lính to đen quay tròn trên mặt nước như những con niềng niễng. Chiếc lều run lên bần bật, vặn mình răng rắc trong trận cuồng phong. Giữa đồng không mông quạnh, mụ đàn bà rú lên như tiếng còi tàu. Đàn vịt xoay tròn quanh lều như chong chóng vươn cổ quác quàng quạc tạo nên một bản cuồng hoan hỗn loạn...
Đó là lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất, cuộc bão giông chỉ mang tính dằn mặt, cảnh cáo thói khinh thường của mụ đàn bà phóng đãng. Sau hôm đó anh cố tình tránh mặt. Sáng anh lùa vịt đi sớm, trứng bỏ mặc cho chị cùng người đàn bà kia nhặt nhạnh. Sự việc tưởng như chuyện qua đường. Nhưng không. Đêm ấy mụ đàn bà lại mò ra lều anh cùng một cái tin. Một cái tin đẩy anh vào một trạng thái cực kỳ vui sướng nhưng cũng vô cùng khó xử. Vài ba lần anh đứng ấp úng trước chị như kẻ tội đồ mà chưa thể nói lời thú tội. Chị sẽ tha thứ cho anh, anh biết thế bởi đã vài ba lần chị bóng gió xa xôi "Vẽ đường cho hươu chạy", nhưng sao mỗi lần định mở mồm, nhìn thân hình tiều tuỵ, ánh mắt thất thần, cái đầu tóc rụng xác xơ của chị anh lại thấy mình tàn nhẫn.
Bẵng đi một dạo không thấy người đàn bà kia tới, anh thấy bứt dứt, cồn cào. Phố chợ ồn ào, anh len lỏi tìm đường tới lò ấp trứng. Thập thò như một thằng ăn trộm, đảo qua đảo lại hàng trăm lần anh mới lấy hết can đảm bước vào ngôi nhà hai tầng nằm giữa những quán bia hơi, trứng lộn. Chẳng biết hai người trao đổi những gì mà một lát đã thấy anh lao vụt ra khỏi nhà, bỏ chạy.
Anh ôm đầu lăn lộn, khóc rưng rức như một đứa trẻ. Trời ơi, anh buốt sọ quá! Đầu anh giống một quả trứng đang ấp bị đập "choác" một cái vào thành bát, rồi đầu đũa chọc vào ngoáy ngoáy, đổ ộc ra. Cái sinh linh chưa kịp thành hình chỉ còn là một khối lầy nhầy lết bết lông, nhằng nhịt những gân máu đỏ vẫn còn thoi thóp thở trước khi rơi tọt xuống nồi canh bốc khói. Đồ tàn bạo! Đồ súc sinh! Tao tưởng mày ấp vịt con, ngờ đâu mày lại táng tận lương tâm như thế! Rách việc, ấp gì có lãi thì thôi chứ! Mày...mày...mày phải để phúc đức cho con chứ! Con nào? Con tao! Xì ! Ba con vịt giời kia chưa đủ hay sao mà phải mang thêm cái nợ. Phá rồi!...
Chiều tà. Mặt đầm nổi váng riêu cua, người đàn ông ngồi lặng phắc trước cửa lều, trong ánh hoàng hôn, nước mắt trên khuôn mặt dãi dầu sùi đỏ bầm như nến chảy. Đêm xuống. Gió lạnh thổi vuốt dọc mặt đầm. Trong đám cỏ lác um tùm có tiếng rượt đuổi, tiếng chân chạy cuống cuồng lõm bõm, tiếp theo là tiếng kêu tuyệt vọng của một con nhái: " Óc eo!". Tiếng kêu cứ tắc nghẹn dần theo cơn cuốn rút.
Anh đứng phắt lên đi lại phía chuồng. Ngay đêm đó anh quyết định tách riêng những con vịt đực khỏi đàn. Những con vịt mọi ngày tung hoành khắp đồng ruộng mênh mông giờ bị nhốt trong quây sục mỏ táy bùn bạc phệch, khạp chẳng ra hơi. Nền chuồng vẫn lát kín trứng nhưng bây giờ nhìn vào anh sợ đến rùng mình. Những quả trứng trắng phớ. Những quả trứng chết. Những quả trứng đơn thuần chỉ là những cục thực phẩm vô hồn không được thụ sinh.
Mặt trời tròn
Quả trứng tròn
Mặt trời đẻ nắng
Trứng tròn nở con...
*
Người đàn bà đứng ngập ngừng mãi trên bờ không dám thò chân bước lên chiếc cầu ván chênh vênh bắc sang lều. Lòng dạ rối bời, ánh mắt ăn năn. Từ hôm anh vụt ra khỏi nhà với khuôn mặt điếng hồn tới nay chị luôn day dứt. Xin đừng nghĩ chị nhẫn tâm. Khi báo cho anh cái tin vui kia trong lòng chị đã nhen lên một tình cảm mới khó gọi thành tên. Chưa hẳn là tình yêu, nhưng chị đã sẵn sàng sinh cho anh một đứa con như ý muốn. Cũng đừng nghĩ chị sợ miệng lưỡi dèm pha. Thì đã ba lần không chồng mà chửa. Chín chày còn chịu được, thêm chày nữa có nghĩa lý gì! Tai hoạ là do chị đã lân la hỏi thăm về gia cảnh của anh. Mấy bà đi chợ xầm xì mỗi người một kiểu. Người bảo vợ anh mắc bệnh vô sinh. Người khác tỏ vẻ sành sõi hơn ghé tai chị thì thào: Do anh nhiễm chất độc màu da cam! Mới chỉ nghe thế chị đã bủn rủn chân tay muốn ngã khuỵ. Chị quyết định vội vàng để rồi bây giờ ân hận. Chị đến đây để xin anh tha thứ, nếu anh đồng ý, chị sẽ... Nghĩ vậy chị bạo dạn hẳn lên cả quyết bước qua lều, tự tin kéo cánh cửa liếp che cửa... Chị bất ngờ đến há hốc mồm. Trong lều, một chàng thanh niên đeo kính trắng đang nằm ườn đọc sách. Chị bối rối hỏi thăm thì được biết vợ chồng anh đã đưa nhau đi Sài Gòn cấy thai trong ống nghiệm.
Ấy là cậu cháu sinh viên trường Văn đoán thế nên trả lời bừa. Sự thực không phải vậy. Anh chị ra đi không cho ai biết. Anh mặc bộ đồ lính cũ, đi đôi giày côsưghin há mõm, chị vẫn bộ đồ tươm nhất lôi lên từ đáy rương sực mùi băng phiến. Lá thư của một người lạ gieo vào lòng họ nỗi phấp phỏng suốt chặng đường dài: Lợi hy sinh ở tỉnh K, thư báo tìm thấy mộ ở nghĩa trang tỉnh G.
Tây Nguyên mùa khô cỏ trắng xác xơ, trời trong veo thăm thẳm khôn cùng. Ba người đứng giữa những hàng mộ điệp trùng, cố gào lên thật to mà tiếng vẫn bị nuốt vào gió hú. Người lính thứ nhất gằn giọng:
- Mẹ kiếp! Sao ông không báo cho tôi sớm?
Người lính thứ hai gõ chiếc nạng vào tấm bia xi măng vặc lại:
- Đã mấy lần định báo, nhưng lại sợ nhầm.
- Nhầm, nhầm cái con khỉ? Họ tên, quê quán rành rành.
Người lính thứ hai lừ lừ nhìn cặp vợ chồng xa lạ nói dằn từng tiếng:
- Tôi làm quản trang từ ngày có nghĩa trang này hơn hai mươi năm, năm nào cũng có một cặp vợ chồng đưa một bà già cùng hai đứa con một trai một gái lên đây thắp hương quì lạy rất lâu. Chính họ đã đưa ngôi mộ này về trong đợt quy tập đầu tiên. Họ nói đây là người nhà của họ!
Chị mở to cặp mắt đỏ hoe ăm ắp nước nhìn người quản trang sợ sệt. Còn anh cảm thấy sững sờ và run cầm cập, run như hơn hai mươi năm về trước sau tiếng kêu hãi hùng của tên tù binh trước huyệt.:"Maaáơơơi !".Không phải là tiếng kêu của một tên lính trận, mà là tiếng kêu cứu bật ra từ vô thức của bản năng cầu cứu sự chở che của một đứa trẻ chới với giữa lằn ranh sống chết. Tiếng kêu còn khủng khiếp gấp trăm lần B52 rải thảm, pháo chụp, pháo bầy... Ngôi mộ mới đắp rùng rùng chuyển động. Một cơn lốc rừng bất chợt rú rít ào ào. Rừng cây chao đảo ngả nghiêng. Những cột tượng nhà mồ mặt mày hốc hác đồng thanh hú dài "A a a a..."rợn lạnh rừng đêm. Những cái đầu bừng bừng bốc lửa căm thù bất ngờ nguội lạnh. Những khuôn mặt bừng bừng sát khí bỗng lấm lét nhìn nhau lảng dần, lảng dần...Không biết họ nghĩ gì, còn anh, trong đầu anh lúc đó vụt nghĩ tới mẹ. Thời thơ bé, mỗi lần anh đánh nhau với bạn, chỉ vì một con dế, một quả sung, thế là lao vào nhau, mặt mày bầm tím. Xót xa lắm nhưng mẹ vẫn bình tĩnh giơ cao roi mây hỏi rõ ngọn ngành. Và mẹ bao giờ cũng là vị quan toà sáng suốt và dũng cảm. Hai tiếng roi vút nhẹ vào mông hai đứa trẻ rồi mẹ vội vàng quẳng roi đi ôm con mình, con láng giềng vào lòng nức nở...Chiếc liềm tuột khỏi tay anh lúc nào không rõ. Anh kéo người lính đối phương lầm lũi ra về...
*
Hai chiêc cầu vồng bảy sắc vắt ngang cánh đồng luá đang thì con gái xanh rì lặng phắc trải ngút ngát chân trời. Lũ trẻ chăn trâu bỏ dở trò chơi bắt dế, nghiêng tai nghe tiếng sấm vọng ì ầm đằng Đông, rồi cùng nhảy cẫng lên hò nhau chạy vùn vụt trên mặt đê chiều ráng đỏ. Chúng chạy về phía cầu vồng.
Mưa. Mưa rào. Mặt đầm mưa dệt mắt sàng dày khít. Đàn vịt ủ ê trong những ngày oi bức gặp mưa túa cả xuống đầm lặn ngụp vẫy vùng làm bụi nước vung tung toé. Chúng cạc nhau rầm rĩ như muốn át tiếng sấm riếng mưa. Lũ trẻ nhảy loi choi dọc bờ đầm, ngã oành oạch để vồ những con rô rạch. Chúng sẽ mê mải quên trời đất nếu như những con trâu không thấm lạnh tế lồng trong mưa hướng về làng. Lũ trẻ la oai oái đuổi theo đầy tiếc rẻ nhưng vẫn không quên ngoái cổ gào lên lúc chạy ngang lêù:
Mặt trời tròn
Quả trứng tròn...
Mưa tạnh. Gió hiu hiu. Thảm lúa rập rờn gợn sóng. Cánh đồng dậy ran dàn đồng ca nhái bén bám bập bềnh dưới chân những khóm lúa ngậm đòng. Những con cua gặp mưa lột vỏ, thân bấy trắng màu sữa nổi dập dềnh nơi nước đọng. Trong đám cỏ lác cạnh lều có tiếng cá quần ổ, vật ũng oẵng trong tầm chạng vạng.
Chị ra. Mái tóc mới xanh trở lại lấm tấm bụi mưa. Gò má ửng căng nhìn anh ngượng ngiụ:
- Mình...Em thấy...
Anh nhíu mày nhìn chị:
- Thấy gì?
Vất vả lắm chị mới nói cho anh hiểu được niềm vui mà chính chị cũng không ngờ tới. Anh sung sướng muốn phát cuồng , hét to lên một tiếng rồi bế xốc chị trên tay quay một hồi chóng mặt...
Bây giờ chị nằm thiêm thiếp, nét mặt nhẹ nhàng thư giãn, hơi thở đều đều theo khuôn ngực phập phồng, mái tóc xoà kín gối đen nhưng nhức, khoé miệng phảng phất nét cười. Đêm hồi xuân nồng nẫu kéo cặp vợ chồng son chìm vào giấc mơ có những đứa trẻ con bụ bẫm...
- Xoạt!
Anh giật bẵng người tỉnh giấc, vội vàng ngồi dậy. Tiếng động từ ngoài sân. Anh vội nhón gót bước ra. Vằng vặc cả một trời trăng mát lạnh sau mưa. Dáo dác ngó quanh, anh chợt co rúm người lại, toàn thân phút chốc tưởng chừng đông cứng. Nơi góc sân có một bóng đen cong cong dựa bất động vào tường gạch. Trời ơi u! U mà hờ lên lúc này thì giết chúng con đi còn hơn! Đã gần năm nay u có còn dậy như thế này đâu. Sao hôm nay u lại... Xấp ngửa bổ tới anh khựng lại và kịp hoàn hồn. Bố khỉ! Một cái tàu cau. Cái tàu cau vừa tách từ trên cao rơi xuống! Anh rón rén lại cửa buồng bên kia áp tai nghe ngóng. Bà mẹ vẫn ngủ ngon, hơi thở đều đều bình an. Bất giác anh mỉm cười ngửa cổ nhìn lên. Trên tán cau bung xung vòi vọi một bẹ cau căng đẫy mỡ màng dưới trăng. Trong lùm chuối mật một con dế cất tiếng gáy lim dim : Críc! Críc! Vầng trăng muộn trong veo nhìn rõ cây đa, không phải là chú Cuội mà là lũ trẻ chăn trâu làng anh. Lũ trẻ nắm tay nhau vòng quanh gốc đa hát văng vẳng thinh không:
Mặt trăng tròn
Quả trứng tròn
Mặt trăng đẻ sáng
Trứng tròn nở con...
Cả một trời sao nhấp nháy. Thần Nông gật gù cái mũ cánh chuồn. Chòm sao Con Vịt hấp háy mắt cười theo tiếng hát ngân nga, ngân nga xoay tròn khắp bầu trời thoang thoảng hương cau...
Trong núi lạc đà
Truyện ngắn . ĐỖ TIẾN THỤY
Dãy núi có hình một con lạc đà cách làng tôi hai mươi cây số.
Trước chuyến đi rừng đầu tiên ấy, anh Vu cấm tôi ba điều: Cấm không được nói đến những từ hổ, beo, hùm, gấu. Cấm không được ăn cái gì của người Mường. Và cấm không được kêu mỏi chân. Từ ngày ăn chực của rừng, làng tôi đã có tám người bị cọp tha. Bảy người không tìm thấy xác, một người chỉ còn cái đầu, mang về làng chôn, cắm nứa quanh mộ dày đặc, thế mà đêm hổ vẫn về phá mộ móc nốt cái đầu lâu. Tôi cũng nghe kể nhiều về phép chài ếm. Làng tôi đã có người dính chài của gái Mường, đành phải lấy và ở luôn trong núi, hễ về thăm làng là ngơ ngơ ngẩn ngẩn, rồi y như có sợi dây thừng vô hình kéo tuột trở vào. Thế nên khi tới nhà mế Sài, mặc dầu khát khô cả họng nhưng tôi chỉ dám đứng nuốt nước bọt dưới gốc cây đu đủ chín vàng mà không dám tơ hào.
Mế Sài làm nghề thầy lang. Trước nhà sàn phơi đầy những nong lá thuốc thơm ngát. Những phiên chợ cuối năm quê tôi có một quầy giành cho mế. Ngày bé tôi thường theo mẹ đến quầy hàng ấy. Bao giờ mế cũng nhúm cho tôi vài lát cam thảo, tôi ngồi ngậm miệng ngọt lừ, hong hóng nghe hai người nói chuyện. Chính mế Sài đã bày cho làng tôi vào xin đất làm nương cứu đói. Mế Sài góa chồng, ở vậy nuôi một cô con gái. Tôi chỉ biết thế nhưng chẳng để ý làm gì.
Anh Vu vào chào mế Sài và mang biếu mế mấy chai tương, món quà mà người Mường rất thích.
Một cô gái hơn tôi vài tuổi, da trắng bóc, tóc dài đen mượt, môi mọng hồng y hai múi quýt, dáng người eo thon trong áo trắng váy đen dài chấm gót chân có điểm hoa văn thổ cẩm. Tôi vụng không biết tả người. Chỉ biết khi cô từ trong nhà bước ra, anh Vu cụp mắt lóng ngóng thế nào đánh rơi chai tương xuống sân vỡ tóe. Mế Sài đón chai tương còn lại từ tay anh Vu nhìn tôi cười hỏi:
- Đứa nào lố?
Anh Vu ấp úng:
- Đấy là em cháu....Nó mới thi đậu cấp ba... Mẹ cháu hứa cho nó đi rừng một chuyến...
Cô gái nhìn tôi một cái rất nhanh rồi nhoẻn miệng cười, hàm răng đều tắp ánh lên. Anh Vu hấp tấp kéo tôi chạy ngược. Cái dốc nhìn từ làng Bùi thấy giống một dòng thác đỏ, bây giờ vụt lớn, hai bên ngàn ngạt sim mua. Anh Vu hào hển:
- Dốc cao lắm đấy! Nhưng có cách cho mày rồi. Cứ vừa đi vừa bứt sim mà ăn là quên hết dốc. Tôi vừa gật vừa hỏi:
- Cái chị con mế Sài tên là gì?
Anh Vu giật bẵng, đỏ mặt nhìn tôi:
- Tao... nghe người ta gọi... nó là ún Hường.
Anh Vu khe khẽ huýt sáo, khuôn mặt tươi rói. Anh học dốt, mới hết lớp ba đã bỏ. Mẹ tôi sức yếu nên quanh năm nằm lại trong rừng. Anh Vu thành con ngựa thồ những thứ kiếm được trong rừng về nuôi cả nhà. Giờ thì tôi biết sức mạnh nào đã giúp anh Vu gánh gồng trài trãi quanh năm suốt tháng không biết mệt.
Anh em tôi mải mê bứt sim. Những quả sim căng tròn tím rịm ngọt đến lịm người, chẳng còn để ý gì đến dốc. Khi ngẩng lên đã thấy vào thung lũng. Cái thung lũng làng tôi làm nương gọi là thung Găng. Bốn bề ngút ngát. Sắn ngô cao ngập đầu người. Mẹ tôi vui lắm nhưng vẫn nẹt một câu: Cơ khổ! Người ta thích đi Tây đi Tầu, còn mày lại thích chui vào xó rừng này làm gì hở con?.
Những ngày trong núi đối với tôi là cả một thế giới cổ tích vừa khám phá. Tôi líu tíu cùng mẹ và anh Vu nhổ cỏ. Những dây vừng đất lá tròn căng bóng bò lan khắp nương. Tôi chạy chỗ này, tôi nhảy chỗ kia. Mẹ tôi mắng yêu, anh vào đây chỉ tổ quẩn chân người khác. Anh Vu cười buồn, chỗ của mày phải là thành phố. Cố học mà thoát ly. Tôi cãi, em thích rừng hơn. Anh Vu cười, bây giờ nói thế thôi. Thử xem vài năm nữa mày nói thế nào... Đang mải mê, bỗng tôi nghe có tiếng thở hằng hặc trong râm. Tôi quên phắt lời dặn, chạy lại níu anh Vu:
- Em nghe có tiếng con gì như là...hổ!
Anh Vu lừ mắt đe tôi nhưng cũng nghiêng tai, để rồi hai anh em cùng phá lên cười khi thấy từ trong râm chui ra một bầy chó săn, lông con nào con nấy ướt đẫm. Một lát sau có mấy người sách súng chạy qua nương nhà tôi. Một người cất giọng:
- Có thấy thú không?
Tôi lắc đầu, nhưng anh Vu lại chỉ tay lên phía trên:
- Hình như nó chạy hướng này.
Toán thợ săn tất tả chạy ngược lên. Rừng yên ắng trở lại. Gần xế chiều, mẹ tôi về chòi nấu cơm, hai anh em làm tiếp. Đúng lúc ấy có tiếng súng nổ, rồi tiếng tù và rúc rộ. Mắt anh Vu sáng rỡ:
- Hôm nay cho thằng Vân ăn thịt thú rừng mệt nghỉ!
Tối đó chúng tôi ăn quáng quàng rồi xuống mường. Con nai to như con bò được xẻ thịt xâu đều vào dây lạt. Giữa sân, mọi người đang uống rượu. Tôi cùng anh Vu háo hức sà vào. Người chia thịt giúi vào tay tôi hai xâu. Tôi rụt tay lại. Anh em tôi có công gì đâu. Nhưng người chia thịt không để tâm chuyện đó, cứ nói đi nói lại một câu: Có thịt cùng ăn, có việc cùng làm. Tôi cầm hai xâu thịt trên tay chưa biết làm gì thì anh Vu bảo, để đấy, uống rượu đã. Những người Mường đến nhận thịt đều ghé vào uống một hai cần rượu. Anh Vu biết một ít tiếng Mường nên nói cười với họ vui vẻ lắm. Tôi lơ đãng ăn uống, gật chào lấy lệ với tất cả mọi người.
Ún Hường là người đến nhận thịt sau cùng. Không chỉ anh em tôi, mà cả đám trai Mường đột nhiên lặng phắc. Thịt nai nướng quên trên bếp khét mù. Ún Hường nhận hai xâu thịt, nhoẻn miệng cười thay lời cám ơn. Vẫn áo trắng cúc bướm, váy đen trùm gót, khăn thổ cẩm đội hờ, nhưng bây giờ tôi thấy ún Hường đẹp hơn hồi sáng. Khuôn mặt đầy đặn sáng bừng trước lửa. Anh Vu vồ cần rượu hút rào rào. Tôi quên mất trong miệng vẫn còn miếng thịt nai dai ngoách. Ún nói cười mấy tiếng líu lo rồi rảo bước ra về. Bóng áo trắng thấp thoáng mông lung trên đường đồi trăng đẫm. Anh Vu từ từ đứng dậy bước như kẻ mộng du khiến tôi cũng phải theo anh làm hai cái đuôi lẵng nhẵng. Đến ngõ nhà mế Sài chúng tôi mới giật mình tỉnh ra. Không chỉ có anh em tôi theo gót ún Hường. Những trai Mường say rượu là đà dạo quanh quả đồi có ngôi nhà sàn trong tiếng chó sủa râm ran.
Đêm ấy, do cả ngày đường xa cộng leo trèo mệt nhọc, tôi ngủ không vẫy tai. Sáng ra mới thấy tư thế nằm của mình y lúc mới leo lên chòi. Mẹ tôi ca cẩm:
- Tối qua thằng Vân thằng Vu xuống mường làm gì mà khuya thế?
Anh Vu ngượng nghịu:
- Chúng con đi ăn thịt nai ấy mà...
Tôi nhìn anh Vu tủm tỉm cười. Anh lừ mắt đe tôi ý bảo liệu hồn, đừng bép xép, rồi chữa ngượng bằng cách vác dao đi trước. Chúng tôi phát thêm nương mới. Mẹ tôi bảo năm nay phải có thêm trăm quảy sắn để mua xe đạp cho tôi. Tôi hùng hổ vác dao quắm tả xung hữu đột hạ gục vô số cây rừng. Cứ hạ xuống đấy, đợi khô thì đốt. Người Mường đã nhường cả thung Găng này cho làng tôi, muốn phát bao nhiêu cũng được, miễn phát đến đâu thì gieo hạt trẩu xen nương. Tôi làm hăng đến nỗi mẹ tôi phải hãm bớt nhiệt tình. Vừa phải thôi, anh hùng rơm ạ. Giành sức về đi học. Tôi hăng tiết, chừng này bõ gì. Tôi cảm tưởng mình có thể hạ gục tất cả những cánh rừng bằng sức của mình. Lửa rơm mau cháy mau tàn. Mới đến trưa tôi đã phải chống dao nghe lỗ nhĩ thổi phù phù. May mà buổi chiều trời đổ mưa bất thần. Mưa liên tiếp một ngày đêm. Tôi khoan khoái nằm nghe tiếng mưa rớt tinh tang trên cành lá. Mẹ tôi ngồi trong chòi nhìn trời mưa chép miệng tiếc công. Anh Vu thì sáng mắt reo lên:
- Đi tìm nấm!
Chúng tôi lóp ngóp chui vào những bụi bương ướt nhoẹt. Qua một đêm mưa, nấm mối chồi chi chít trên đất như đầu sư. Chúng tôi quơ đầy một bọc, đang tính quay về thì anh Vu vồ được một con cua núi to như cái bát. Anh giơ con cua lên ngang mắt cười ha hả:
- Cua này mà nấu với măng thì ngọt lử ngọt lừ! Đi! Đi kiếm cái măng bương!
Chui rụi một hồi, chúng tôi đã nhìn thấy một đọt măng đang thập thò trong bụi. Anh Vu đưa cho tôi con cua, nhưng tôi không cầm. Tôi gạt gai gỡ vắt, mãi mới chui được vào gần chiếc măng to bằng chiếc phích mới đội đất chui lên. Tôi vít một cái. Tiếng măng oác ngọt vừa cất lên cũng là lúc tay tôi buốt chói đến rụng rời. Một con rết rừng đen trũi to bằng bắp tay lừ lừ như một đoàn tàu bò ngang mắt tôi rồi leo ngược lên cành bương chúc cổ xuống nhìn tôi thao láo. Nghe tiếng rú, anh Vu hoảng hồn vứt cua lao vào lôi tôi ra ngoài. Anh cuống cuồng giật đứt chun quần ga rô cánh tay tôi rồi xốc về chòi. Mẹ tôi kêu giời kêu đất nhìn tôi co giật tím tái. Anh Vu đứng run cầm cập một hồi rồi vác dao quắm giơ lên:
- Để con chặt!
Mẹ tôi rú lên một tiếng giằng con dao khỏi tay anh Vu:
- Giời ơi là giời! Mày chặt tay mẹ đi này Vu ơi!
Anh Vu lắp bắp:
- Làm sao...làm sao bây giờ?
Mẹ tôi lao ra ngoài trời mưa ngửa cổ hú những tràng dài hốt hoảng. Mấy người chòi khác nghe tiếng đội mưa chạy đến. Họ nhìn vết thương của tôi la quýnh lên:
- Gà! Phải tìm một con gà! Nọc rết kị rãi gà!
Nhưng giữa rừng núi thế này gà kiếm đâu ra? Một người sáng trí la lên:
- Mế Sài! Mang xuống mế Sài!
Tôi mê man nằm trên lưng anh Vu chờ chết. Mọi vật trong mắt quay đảo mờ dần. Tôi thấy những đóa sim mua lướt thướt run rẩy trong mưa lạnh. Tôi thấy ngôi nhà sàn chênh chao, xoay tròn chong chóng. Tôi thấy lạnh như bị dìm vào bể đá. Lát sau lại nóng như chìm trong biển lửa. Tôi cảm thấy rất rõ có một luồng độc tố lan nhanh từ khớp vai lên đên đỉnh đầu. Luồng độc tố đi đến đâu thịt da tôi dại tê đến đấy. Chỉ một lát nữa nó sẽ chạy vào tim. Quả tim mười bốn tuổi của tôi sẽ ngừng vĩnh viễn... Lạ một điều là trong lúc nguy nan thế nhưng tai tôi vẫn nghe thấy tiếng người nói xung quanh. Tiếng mế Sài gắt đuổi anh Vu: Đi ra! Tôi nghe anh Vu dạ khẽ và tiếng bước chân vội vã ra ngoài. Tôi thấy nơi tôi nằm đột ngột tối sầm. Tôi nghe mế Sài gọi ún Hường. Có tiếng đáp nhỏ nhẹ và khuôn mặt ún Hường cùng chiếc đèn dầu đỏ bầng trong mắt tôi. Mế Sài ghé tai ún Hường nói một câu gì đó. Ún Hường giãy nảy: Ứ! Mế Sài nghiêm giọng mắng và lôi ún Hường vào góc. Tôi nghe tiếng váy áo sột soạt lòa xòa. Tôi nghe tiếng cười khúc khích. Cánh tay bị ga rô của tôi sưng vù không còn cảm giác từ lâu, thế mà lúc này nó lại cảm thấy rất rõ có một sợi tơ mỏng mảnh diệu kì mơn man nhè nhẹ trên vết thương. Mu bàn tay tôi cờn cợn. Buồn buồn. Rồi nhói dứt...Mế Sài chúm hai ngón tay giơ lên ngang mắt reo mừng: Rồi lớ! Tôi không nhìn thấy tay mế cầm gì. Nhưng rõ ràng là mế có cầm một cái gì đó rất mơ hồ. Rồi lại tiếng cười thẹn thò của Ún Hường... Ún Hường chấm một thứ nước gì đó dinh dính như hồ, thoang thoảng thơm như nước hoa bôi vào mu bàn tay tôi, mặt lại đỏ bầng... Rồi tôi nghe tiếng dao mài quèn quẹt vào nhau. Một bàn tay ấm mịn nâng nhẹ cằm tôi. Tôi cố nhướng đôi mắt đã dại đờ để ghi nhận một hình ảnh lạ lùng. Mế Sài bắt chéo hai con dao trên mặt tôi để ún Hường nghiêng bát cho những giọt nước thánh thót giọt xuống hai lưỡi dao, xuống miệng tôi. Những giọt nước thấm nhanh vào họng. Lan dần lan dần... Tôi cảm thấy những giọt nước có những mùi vị rất khó gọi tên. Nó ngầy ngậy, ngai ngái. Nó mằn mặn, nồng nồng... Mế Sài nhìn tôi cười cười, nói một câu gì đó có nhắc đến tên Hường, khiến bàn tay ún đang xoa bóp cánh tay vừa tháo ga rô của tôi lơi ra một lúc. Cánh tay tôi nhẹ dần nhẹ dần. Đầu tôi cũng nhẹ dần nhẹ dần. Tôi không biết mình thức hay ngủ. Tôi vẫn nghe thấy tiếng khúc khích bên tai. Tôi vẫn ngửi thấy mùi hương vương vất. Tôi lơ mơ nhớ đến những câu chuyện đồng rừng. Những cô gái đẹp nhất mường mười ba mười bốn tuổi đã được tắm bằng thứ nước nấu từ hoa cỏ. Trầm xông xạ ướp mấy năm liền cho da thịt thơm tho quyến rũ để một ngày, cô gái ấy được đem tiến lang cun... Tôi mơ thấy mình thành một lang cun. Vị lang cun trẻ tuổi cai quản cả một vùng Mường rộng lớn. Mường của tôi đầy chim muông. Tiếng cồng mường tôi ngân nga quanh năm suốt tháng. Mường của tôi rượu tuôn róc rách đêm ngày...
Khi tôi thức giấc thì không thấy ún Hường đâu. Mẹ và anh Vu ngồi cạnh tôi, nét mặt thoát nạn nhẹ mhõm. Mế Sài xoa đầu tôi cười nhẹ:
- Đêm qua mày mơ gì lố? Lảm nhảm làm nhàm...
Tôi đưa mắt tìm kiếm ún Hường. Mế Sài hiểu ý tôi:
- Ún đi học rồi lố, thằng Vân à. Dậy được chưa? Dậy ăn cháo.
Tôi ngồi húp chậm rãi bát cháo đậu xanh giải độc. Mồ hôi chảy lạnh khắp người. Vừa húp tôi vừa ngẫm nghĩ. Một ngọn lửa le lói nhen lên trong tôi. Tôi rất muốn nán lại lâu hơn ngôi nhà sàn ấy. Nhưng anh Vu đã điệu tôi về cùng những câu ca cẩm: Cho mày đi chỉ tổ rách việc!
Tôi mười bảy tuổi. Thằng con trai lồ ngồ vừa thi đại học xong, đang nằm dài chờ kết quả. Làng tôi đói to. Nhà nhà nườm nượp vào rừng. Tôi rất muốn theo vào nhưng chưa có cớ. Một ngày, người làng tôi lũ lượt trở về, ánh mắt người nào cũng hoang mang. Mẹ tôi rên rẩm tiếc của. Nương sắn đến kỳ thu hoạch của chúng tôi đang bị dân Mường lên cướp. Tôi không thể hiểu nổi chuyện này. Mới ngày nào họ còn thân thiện với làng tôi như thế. Anh Vu lầm lì nhồi thuốc pháo trộn đinh năm phân và mảnh thủy tinh vào những lon sữa bò làm những quả mìn tự tạo. Anh mài dao lắp dáo. Mấy thanh niên nữa cũng đến nhà tôi căng thẳng họp bàn. Tôi lân la hỏi chuyện nhưng anh Vu gạt đi:
- Mày biết làm gì! Việc của mày là đi học.
Mẹ tôi lo lắng nhìn anh Vu:
- Đừng đánh người ta nhé con ơi! Người ta cũng đói quá nên mới làm liều. Giữ không được thì về, còn người còn của...
Đêm đó tôi nằm trằn trọc. Ngoài sân, tiếng gậy đập vào nhau chan chát. Tiếng đấm đá hừ hự. Anh Vu và thanh niên làng tôi đang tập những đòn tấn công phòng thủ. Họ tập mãi đến hai giờ thì kéo nhau đi. Tôi cũng len lén bám theo. Tôi đi cách anh cùng đám trai làng một quãng. Đường đêm không trăng không sao. Bóng cú lượn chập chờn trong tiếng chuột đồng hoảng hốt. Không biết do lạnh hay do sợ mà tôi rất run. Tôi chỉ bớt run khi thấy ánh điện hầng lên từ một trại gà Cu- ba nằm giữa vùng đồi. Nghe nói người ta thắp điện cả đêm để kích thích gà đẻ ngày hai trứng. Hàng ngàn con gà râm ran cất tiếng gáy trong đêm nghe nôn nao cả người. Đến đường 21 thì anh Vu cùng toán thanh niên phải dừng lại vì có một đoàn xe quân sự phủ bạt kín mít lao ầm ầm về hướng Bắc, đèn pha quét rực trời. Không biết xe chở gì mà đất dưới chân tôi rung chuyển. Lúc đó tôi quên phứt mình là kẻ bám đuôi nên tiến sát đến anh Vu. Anh nhìn tôi tức tối quày quạy đuổi về. Tôi sợ ríu cả chân nghĩ đến đoạn đường đêm phải đi một mình trở lại. May một thanh niên đã nói:
- Để cho thằng Vân đi. Biết đâu được việc. Anh ta ấn vào tay tôi một quả mìn và dặn:
- Khi nào thấy bọn Mường xông lên thì mày đốt và quẳng vào bọn nó, nghe chưa?
Tôi im lặng gật đầu.
Chúng tôi vào nương lúc trời vừa sáng. Mặt trời lên độ nửa con sào đã thấy một đoàn mấy chục người Mường rồng rắn đi lên. Họ tỏa ra ngang thản nhiên nhổ sắn như nương vô chủ. Chúng tôi ào ra ngăn cản. Đá củ đậu bay vèo vèo. Gậy múa vùn vụt. Một vài người trúng đòn kêu rú lên bỏ chạy. Anh Vu thừa thắng dẫn quân đuổi theo. Anh đã sai lầm. Đám người Mường ban đầu không biết thực lực chúng tôi bao người nên còn hoảng chạy. Khi anh Vu đuổi ra chỗ trống thì lộ hết đội hình, họ co cụm lại rồi bắt đầu tiến lên đánh trả. Đã mấy lần anh Vu kêu tôi ném mìn nhưng tay tôi run bắn không châm được. Chúng tôi bị đánh táo tác mỗi người một hướng. Người nhảy vào râm, người chui xuống suối. Tôi và anh Vu bị một toán ba thanh niên Mường vạm vỡ dồn chạy về chòi. Anh Vu trợn mắt muốn nổ con ngươi, cằm nghiến bạnh uất ức nhìn những người Mường ngang nhiên nhổ sắn gánh đi mà không làm gì được. Mãi đến trưa, từ trên chòi cao chúng tôi nhìn thấy có một cô gái Mường vô phúc đang loay hoay đóng gánh, trong khi những thanh niên Mường đã về xa. Anh Vu bật dậy nhảy xuống. Anh giơ tay vả bốp một phát và bắt sống cô gái, trói giật mang về chòi. Đám thanh niên làng tôi dần dần tụ lại. Một vài người bị thương mặt mũi sưng vều. Họ nhìn cô gái Mường bằng những ánh mắt man dã tóe lửa của những con thú.
Đám thanh niên Mường đã lại quay lên. Lần này họ mang theo cả cung nỏ và chó săn. Hai quả mìn nổ đanh xua dạt đám trai Mường hùng hổ lao lên chòi cướp người. Vài trai Mường ôm mặt khóc ầm. Đổi lại, bên tôi cũng có bốn người dính tên. May chưa phải tên thuốc độc. Anh Vu cũng dính một hòn đá ném trúng đầu, máu chảy loang cả áo.
Trời ngả chiều. Cuộc chiến đến độ giằng dai. Đám thanh niên Mường bao vây chòi quyết tâm giải cứu con tin. Thanh niên làng tôi cũng quyết tâm tử thủ. Cô gái bị trói nghiến vào cột chòi khóc lả cả người.
- Thả người của chúng tao ra!
- Chúng tao không thả! Có giỏi thì lên đây!
Trai Mường lại ào lên. Ầm! Tiếng mìn lại nổ. Đám trai Mường nhảy giạt cả ra. Họ gào lên:
- Chơi quân tử! Chơi quân tử! Muốn đánh nhau thì xuống đây!
Không ai dại gì thò chân xuống đất, đám trai Mường sẽ xơi tái chúng tôi ngay.
Tôi hoang mang giữa cuộc chiến bát nháo giành giật miếng ăn, tự sỉ vả mình sao ngu ngốc dấn thân vào vòng rắc rối. Đám người Mường chắc chắn sẽ không bỏ cuộc. Và bên tôi cũng sẽ đánh đến cùng. Rất có thể tôi sẽ làm mồi cho một mũi tên thuốc độc. Tôi run. Cơn run từ trong bụng run ra khiến không thể nào đứng vững.
- Em muốn về! – Tôi nhìn anh Vu cầu khẩn.
Anh Vu nhìn tôi văng một câu rất tục. Anh giơ tay toan vả miệng tôi. Nhưng anh hạ tay xuống. Một tay anh kẹp cổ cô gái, một tay lôi tôi ra cửa chòi gọi lớn:
- Chúng mày để cho em tao về, tao sẽ thả người của chúng mày?
Một trai Mường hất hàm về phía tôi hỏi lại:
- Nó là thằng nào?
- Nó là học trò theo chúng tao đi chơi thôi.
Toán trai Mường tụm đầu vào nhau một thoáng rồi một người nói:
- Được!
Anh Vu dặn nhỏ vào tai tôi:
- Mày về làng bảo chú Hồng gọi thêm người vào đây!
Tôi nhìn anh Vu, nước mắt ứa ra:
- Về đi anh! Đừng đánh nhau nữa...Mẹ dặn rồi mà...
- Cút mau!- Anh Vu vằn mắt quát - Không thể để cho chúng nó cướp không được. Mày có làm đâu mà biết. Bao nhiêu công sức. Nhục như chó!
Anh Vu trợn mắt nhìn tôi nói một câu lạnh buốt:
- Nếu chúng tao không về, nhớ lấy ngày này mà làm giỗ!
Tôi vừa khóc vừa lóng cóng xuống chòi. Đám thanh niên Mường không thèm nhìn tôi. Họ ngửa cổ ngóng lên chờ anh Vu thả người của họ. Nhân cơ hội đó, tôi nhảy vụt vào nương sắn, lần xuống khe tháo thoát.
Tôi ra đến cửa rừng lúc trời đã xế. Tôi đã toan tuông một mạch về làng. Nhưng rồi tôi đứng lại. Anh Vu chắc chắn sẽ không thả cô gái kia đâu. Và đám trai Mương cũng không thể bỏ người. Đêm nay, những thanh niên trong cơn say máu, không biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Một ý nghĩ lóe lên trong óc tôi. Tôi quay gót. Ngôi nhà sàn của mế Sài hiện ra trước mắt. Nghe tôi thuật chuyện, mặt mế Sài thất sắc. Ún Hường kêu lên một tiếng rồi kéo tay tôi chạy ngược vào rừng.
Tôi không nhớ ún Hường đã nói gì, bởi lúc đó tôi đã đoản hơi sắp gục. Hình ảnh tôi nhớ nhất là ún Hường tóc sổ bay tung, một tay túm váy, một tay dắt tôi lao ra giữa đám người đang gằm ghè nhau. Tôi thấy anh Vu cụp mắt trên chòi. Tôi thấy đám trai Mường lảng ra. Cô gái được thả xuống ôm ún Hường khóc ngất.
Sóng gió qua đi như có một phép màu. Dân làng tôi tấp nập vào dỡ sắn. Nương sắn của chúng tôi không còn ai tranh cướp, nhưng lòng tôi bão giông giằng giật. Ngọn lửa nhen nhúm năm tôi mười bốn tuổi giờ gặp gió cháy bùng. Vết cắn của con rết năm nào đã để lại trên mu bàn tay tôi một quầng tròn đỏ tươi như hoa đào, giờ tự dưng râm ran ngứa. Tôi chưa quen gồng gánh nên mẹ bảo tôi ở trong nương nhổ sắn cho mẹ và anh Vu gánh xuống gửi nhà mế Sài, đợi dỡ xong mang xe cải tiến vào chở. Tôi không muốn thế. Tôi nói với mẹ là tôi muốn xuống mường. Mẹ tôi nghe nói thế chỉ cười. Anh Vu nghe tôi nói thế thì quát:
- Tao đi guốc vào bụng mày rồi!
Tôi chẳng vừa, quát lại:
- Tôi cũng đi guốc vào bụng anh rồi!
Anh Vu không thèm đấu đều, lẳng lặng nhổ sắn. Tôi nghĩ anh thách thức tôi. Anh cho tôi là thằng trẻ con. Nhưng tôi mười bảy tuổi, đẹp trai nhất xóm, học giỏi nhất làng. Tôi xứng đáng hơn tất cả những chàng trai đang vây quanh ún Hường. Tôi đã nghĩ thế và tôi hành động. Một buổi trưa, tôi trốn mẹ và anh Vu xuống núi. Tôi hùng dũng nhảy vào vườn của mế Sài. Tôi giơ tay vặn ngoéo quả đu đủ vừa chín tới. Nào, ai ếm ai chài cứ việc!
- Ai lố?
Tôi giật nảy người. Quả đu đủ rơi lăn lóc. Tôi nghe nói người Mường nuôi ma xó. Ma xó có mặt mọi lúc mọi nơi. Nếu ai lấy một cái gì ma xó sẽ đếm. Lấy một đếm một, lấy hai đếm hai... Tôi vặt một quả đu đủ rồi, sao ma xó không đếm một mà lại hỏi ai đó? Tôi là Vân. Tôi muốn gặp ún Hường...Tôi đưa tay vặn quả thứ hai. Không nghe tiếng đếm. Cũng không nghe tiếng ai hỏi nữa. Có tiếng chân bước rất êm trên lá. Rồi tiếng ún Hường cất lên trong veo sau gáy tôi:
- A em Vân! Muốn ăn thì vào nhà.
Vào thì vào! Tôi ngồi nhìn chằm chằm vào bàn tay với những ngón dài trắng hồng đang gọt đu đủ bằng con dao bạc có cái chuôi bằng sừng hươu rất đẹp. Cứ yểm bùa vào đi, tôi sợ gì đâu? Tôi đưa tay cả quyết nhận miếng đu đủ Hường đưa. Tôi nhìn như thôi miên vào miếng đu đủ. Tôi nhìn thấy rõ những sợi ria của tôi loe hoe trên miếng đu đủ vàng hươm. Tôi đang ăn những câu bùa chú vào lòng. Tôi đã thấy phép bùa ứng nghiệm. Bùa chú đã xui khiến tôi, đã trợ lực cho tôi dám ngẩng phắt lên nhìn ún Hường nói một câu khó nhất:
- Tôi yêu em!
Tôi tin vào sức trẻ, tin vào sự ồ ạt giông bão của mình sẽ càn lướt qua trở ngại. Ún Hường sẽ lúng túng đổ gục trước tôi... Nhưng không. Ún Hường nhìn tôi một cái rất nhanh rồi cúi đâu nói nhỏ:
- Vân có nhổ được một gốc sắn không trầy củ không?
Rồi Hường ngẩng lên cười nhẹ. Cái cười vừa kiêu sa thách đố làm tôi muốn nổi khùng. Tưởng gì! Để được yêu, tôi sẵn sàng rời non lấp suối.
Tôi bắt đầu vào cuộc. Tôi đưa mu bàn tay lên hôn vào vết sẹo đỏ màu hoa đào. Tôi để ý thấy mỗi khi tôi nhớ đến ún Hường thì vết sẹo ấy lại ửng lên, phát nhiệt. Tôi hùng hục trên nương đến bã bượi mỗi ngày. Đôi tay tôi phồng rộp, vỡ nước bỏng rát. Nhưng tôi chưa nhổ được gốc sắn nào nguyên vẹn. Gốc nào cũng bị trầy xước không ít thì nhiều. Nhưng tôi không phải kẻ dễ dàng nhụt chí. Tôi đã có cách. Tôi xuống khe múc nước. Khe nước um tùm cây dé hoa nở đỏ rực, dập dờn. Tiếng nước chảy cồn cào vô tận. Những con cua đá giương mắt nhìn tôi thách thức. Tiếng chim ú tim đuổi bắt nhau vang vọng từ núi này sang núi khác như muốn trêu ngươi. Tôi mang những ống bương lớn đựng đầy nước suối xối vào gốc sắn ào ào. Tôi khẽ khàng lấy que cời bới từng ly đất. Một ngày...hai ngày... Và cuối cùng tôi đã thành công!
Tôi ngẩng mặt toòng teeng gánh hai gốc sắn xuống núi. Quả mâm xôi chín đỏ như những mâm lễ vật cầu hôn. Hoa sim hoa mua tím rực hai bên đường như pháo cưới. Tôi đi châng lâng giữa hai ngọn núi, vô vàn tiếng chim hót mê man... Mẹ nhìn tôi không nói. Anh Vu nhìn tôi lắc đầu. Mế Sài bụm miệng cười. Ún Hường Bụm miệng cười. Cái cười túm tím của ún Hường khiến tôi vừa sung sướng vừa uất ức. Các người thấy chưa. Không có việc gì là tôi không làm được. Các người hãy nhìn đi. Hai gốc sắn mấy chục củ, củ nào củ ấy đều lành lặn, không mảy may xướt sát. Chỉ có quả tim mười bảy đang sưng và đôi vai lần đầu gồng gánh xầy sỡ mà thôi.
Hôm sau, hôm sau nữa, tôi điên cuồng với công việc của mình. Trong cơn mụ mị, tôi thấy tất cả công danh sự nghiệp trước mắt chỉ là thứ phù phiếm hão huyền. Tôi điên rồ ước mình sẽ trượt đại học. Cuộc đời tôi chỉ cần một ngôi nhà sàn trong núi với ún Hường là đủ. Mặt mũi tôi đen cháy. Bàn tay tôi sần sùi. Đôi vai tôi chợt da đỏ hỏn. Nhưng tất cả những điều ấy có hề hấn gì? Tôi sẽ nhổ một trăm gốc sắn, một ngàn gốc sắn vẹn nguyên để một ngày ún Hường phải khuất phục trước tấm lòng tôi.
Nhưng tôi càng cố càng vô vọng. Vô vọng đến nỗi một buổi trưa, khi hì hục vác nước dưới khe mang lên xối vào gốc sắn, tôi đã kiệt lực ngã xuống khóc òa. Anh Vu dìu tôi vào chòi. Anh để tôi khóc chán khóc chê rồi mới gắt:
- Mày ngu lắm! Nó nói thế nghĩa là nó đã có người yêu. Gái Mường đã có người yêu thì đừng hòng mà mơ!
- Tôi không tin!- Tôi bật dậy gào vào mặt anh Vu- Anh cũng yêu ún Hường nên mới nói thế. Anh đừng hòng mà tranh với tôi!
Tôi tưởng anh Vu sẽ giáng cho tôi một cái bạt tai. Nhưng không, anh chùng người xuống bơ thờ:
- Cổ cày vai bừa như tao làm sao dám mơ. Phải là người thế nào con Hường nó mới yêu chứ...
Câu nói của anh Vu khiến tôi tỉnh mộng. Tôi thấy mình vô duyên quá đỗi khi đi giành giật với anh. Nhưng tôi cũng vặc một câu chữa thẹn:
- Thế sao anh không nói cho tôi biết sớm?!
Những ngày sau đó, tôi xấu hổ không dám xuống núi. Tôi cởi trần, lầm lì nhổ bật những gốc sắn vứt quẳng chỏng chơ la liệt. Mẹ tôi phải kêu giời, mày nhổ thế ai mà gánh kịp!
Đúng lúc ấy thì tôi có giấy báo trúng tuyển đại học. Tôi có một lý do chính đáng để rút lui trong danh dự.
Tôi ra thành phố. Tôi cố quên ún Hường bằng cách lao vào những cuộc tình. Những cuộc tình ào đến ào đi như những cơn gió không mùi vị, chỉ vương lại một chút buồn buồn, không tiếc nuối. Mỗi lần như thế, tôi hay nghĩ về núi lạc đà và thấy vết sẹo hoa đào trên mu bàn tay đỏ tấy. Không biết bao nhiêu lần tôi định đánh liều một mình tìm về núi lạc đà để xem người được ún Hường yêu là ai, nhưng không có cớ. Nay tôi đã ba lăm tuổi rồi...
Cái Vi, con đầu của anh Vu có giấy báo trúng tuyển đại học. Ngày vui lớn, anh Vu điện: Chú phải về! Tôi mừng cho anh tôi, một đời lam lũ nhọc nhằn nhưng chưa một ngày nguôi quên nỗi mặc cảm thấp hèn bằng cách quyết chí các em, các con ăn học. Tôi về đến nhà thì không thấy mẹ tôi đâu. Anh Vu bảo:
- Mẹ đi vào núi rồi!
Mẹ tôi từ ngày lên lão đã theo các vãi chùa làng đi quyên. Những bà mẹ khốn khổ của làng tôi một thời đói kém bây giờ được chút an nhàn, không hiểu sao cứ thích rủ nhau đi vào trong núi. Đi cả tuần mới về. Cứ còm cõm lội bộ quanh năm suốt tháng, thế mà quyên được mấy chục triệu đồng đúc tượng tô chuông.
- Chú vào mế Sài chở mẹ về!
Tôi đớ người giây lát, thoái thác:
- Anh đi đi!
Anh vu gãi gáy:
- Anh... không biết đi xe máy!
Tôi đang đi về phía núi. Dãy núi hình con lạc đà vẫn xanh mơ như ngày tôi thơ bé. Mỗi khi nhìn về nó tôi vẫn thấy dào lên cảm giác bồi hồi. Tôi lướt xe trên con đường đã trở nên xa lạ. Dãy núi đá vôi bây giờ cảm thấy thấp hơn. Trại gà Cu- ba không còn nữa, thay vào đó là một nhà máy chè, ống khói lơ thơ thơm lựng.
Tôi phải hỏi thăm rất lâu mới tìm được lại nhà mế Sài. Vẫn ngôi nhà sàn nhỏ xinh nằm giữa một quả đồi xum xuê hoa trái. Vừa bước chân vào nhà, tim tôi đã nhảy bắn lên bởi một câu hỏi như vọng về từ chốn xa xăm:
- Ai lố?
Giữa vườn cây, dưới những cây xoài trái sai lúc lỉu, một cô bé giống hệt ún Hường đang nhìn tôi lạ lẫm:
- Chú tìm ai lố?
Trấn tĩnh mấy giây, tôi đã hiểu.
- Chú là người quen của mế Sài. Và...ún Hường...
- Bà cháu trong nhà chú ạ! Cháu sang chơi với bà ngoại mà. Nhà cháu bên kia suối.
Con bé giơ tay chỉ. Một ngôi nhà sàn cũng nhỏ xinh nằm giữa một đồi chè xanh mướt mát. Màu xanh của phong túc yên bình.
- Chú vào nhà bà cháu hay sang nhà cháu?
Con bé hồn nhiên quá khiến tôi lúng túng. Tôi không thể đường đột sang nhà cháu được. Tôi bước vào nhà mế Sài. Mế Sài đang ngồi với mấy vãi làng tôi. Mẹ vừa nhìn thấy tôi thì a lên mừng rỡ:
- Thằng Vân! Sao con biết mẹ vào đây?
Mế Sài nhìn tôi hồi lâu ngờ ngợ:
- Có phải cái thằng gính hai gốc sắn lố?
Câu hỏi khới bùng nỗi xấu hổ vẫn âm ỉ trong tôi. Vết sẹo hình hoa đào lại đỏ và nóng râm ran. Mỗi lần thế này óc tôi lại vụt nhớ đến câu thơ của Tạ Văn Sỹ: “Đã một lần tôi lỡ nó
Lênh đênh
Truyện ngắn củaĐỖ TIẾN THỤY
____________________________
Ngôi nhà nhờ nhợ tối. Hai đứa con úp mặt vào ngực mẹ không dám quay ra. Ngoài sân, hai hình nhân bèo nhèo nhếch nhác, dật dờ vươn những cánh tay nguều ngoào, tiếng nói lào thào như vọng lên từ huyệt mộ… Chị cắn răng khóc thầm. Nước mắt giọt thon thót xuống hai mái đầu khét nắng hôi rình. Đời chị coi như xong. Nhưng còn hai đứa trẻ chúng có tội tình gì? Giá chị goá bụa, con chị bồ côi bồ cút đã đành. Đằng này, nó đang sờ sờ sống đấy. Cha chúng đấy mà những đứa con chị không dám nhìn. Sống như thế thì còn nhục cho vợ con hơn là hắn chết! Trong thâm tâm, đã vài lần khi nỗi khổ cực dâng lên đỉnh điểm, chị đã có những ý nghĩ đen tối.
Không biết ông trời có hiểu lời cầu khẩn của chị hay không mà hôm nay ông lại mượn tay một con nghiện khác đến đây giải thoát cho chị. Chỉ còn một liều thuốc, Lăng đã quá đà hít hết. Con nghiện kia đang đòi cơn không được thoả mãn, tức thì rút con dao chọc tiết lợn nhọn hoắt nhằm bụng hắn xâu một đường rất ngọt. Trong khi phê thuốc con nghiện không biết đau. Lăng ơ lên một tiếng ngạc nhiên trước khi đổ vật xuống sân, ruột phòi một bụm, máu bò lênh loang sân gạch. Chị hét lên một tiếng kinh hoàng rồi nhảy bổ ra. Tiếng kêu làng nước thất thanh. Nhà chị phút chốc chật kín người. Những tiếng thì thào vọng xói vào tai chị: “Thế là con Nền thoát nợ!”…
- Mụ kia! Mù à? Nút start là nút nào? Đổ xà phòng vào chưa? Nó mà trào bọt ra thì mụ chết!
Chị lóng ngóng đong bột giặt đổ vào máy, lập cập ấn nút khởi động. Guồng quay máy giặt sùng sục mà bụng chị còn run bắn. Chị cúi đầu lí nhí:
- Dạ, em xin lỗi cô!
Câu đáp lễ dành cho trẻ mẫu giáo lại bật ra từ miệng một người đàn bà ba mươi tuổi. Thì chị là học trò mà.
Cô giáo bĩu môi xì một tiếng rõ dài rồi bỏ lên lầu. Chị chúi vào đống áo quần dang dở, lẩm nhẩm: “Không nghĩ nữa, không nghĩ nữa…”. Nhưng mà lại nghĩ...
Hắn quằn quại trên giường bệnh, toàn thân co rút, gẫy gập. Hắn đòi cơn ngay sau ca mổ. Vết khâu như con rết trăm chân trên bụng oằn oại ựa máu tươi. Những nốt chích chi chít trên khắp cơ thể hắn đã đóng vảy sừng, đen như vừng rắc. Các y tá vã mồ hôi vừa ghì giữ, vừa xăm soi tìm ven nhưng bất lực. Chúng đã nát và lặnsạch, không thể nào truyền thuốc được. Biệt dược có trong bệnh viện thành vô tác dụng. Bác sĩ chụm đầu hội ý. Cứ để hắn vật vã thế này đứt chỉ là cái chắc. Ba đoạn ruột nối… sức hắn không thể chịu thêm một lần đụng dao. Chị mếu máo níu lấy những bóng áo blu trắng: “Cứu…cứu lấy anh ấy…với!”. Trong đầu chị lúc ấy không còn sự dày vò của những tháng ngày đày đoạ. Không còn một gánh tội nợ như đã mang từ tiền kiếp. Chỉ có anh Lăng, người chồng mà chị đã từng si mê, bất chấp mọi can ngăn của gia đình, người đã có với chị hai mặt con thơ dại. Vị bác sĩ nhìn sâu vào mắt chị, cảm thông, kéo chị ra góc phòng nói nhỏ. Chị lao ra phố. Những góc phố ngoằn ngoèo tăm tối. Những mặt người lãnh đạm, dửng dưng. Bên bờ một con sông đen ngòm ì ạch chảy, chị chìa nắm tiền ướt nhàu vào một con nghiện đang lờ đờ tựa lưng vào góc tường lở mốc, giật vội cái gói nhỏ trong tay hắn, tuông về. Chỉ một hơi khói mơ màng lãng đãng, cánh mũi Lăng nở phồng, tham lam nuốt trọn. Hắn duôi người, lỏng lẻo, thiêm thiếp ngủ. Chị nhìn ông bác sĩ nhoẻn một nụ cười thoát nạn…
- Reeeeng reeeeng reeeeng…! Tiếng chuông gắt gỏng thúc giục. Chị cuống cuồng lao bổ lên cầu thang. Chị co rúm người lại trước những tấm gương gắn tứ phía trong căn phòng lộng lẫy xa hoa. Bóng chị hiện lên trong những tấm gương sao mà ảo não. Một mụ đàn bà tóc tai xơ xác, má nổi sần những vệt nám cơm cháy. Những nếp nhăn xô bồ đuổi bắt nhau dưới khoé mắt sầu muộn. Chị cũng không nhận ra chính mình nữa.
- Sao mà đơ ra đấy! Dọn phòng đi!
Giường ngủ của cô giáo nhầu nhò, ướt nhoẹt, dấu vết của cuộc truy hoan vội vã. Mặt cô giáo phấn son nhoe nhoét, tóc tai bù xù như rơm rối. Một người đàn ông bụng chảy như bụng ỉ bước từ trong nhà tắm ra nhìn chị với con mắt thản nhiên như thể chị là một con gì chứ không phải con người. Chị cúi đầu cuốn tấm ga, lóng ngóng thế nào dẫm phải chiếc bao cao su nhụng nhịu trơn nhẫy, trượt chân ngã đập đầu vào cạnh giường đánh đốp. Không dám suýt soa, chị lồm cồm đứng dậy nhón vội chiếc bao cuốn vào tấm ga cun cút bước đi.
Tin tin tin, cậu Bim đã về! Anh tài xế taxi chạy vòng qua đầu xe sang mở cửa. Chiếc xe bềnh lên khi cậu uể oải chui ra. Mới mười tuổi mà cậu đã bốn nhăm cân. Cậu giơ một cánh tay lên, không nói không rằng, để chị lột chiếc cặp to nặng chịch những sách là sách. Sách nhiều thế này chả trách cậu học giỏi. Thằng Na nhà chị có mấy cuốn vở chép đủ các môn, xong trang nào là xé ra gấp tầu bay, bao nhiêu chữ nghĩa bay vèo theo gió. Cô giáo bảo nó thông minh, gia đình nên quan tâm. Dào ôi, đến ăn còn chả đủ, quan tâm quan tiếc nỗi gì? Học cho có học thôi, lớn lên cho vào bộ đội. Mà chắc gì vào được bộ đội. Thằng Na học hành như thế chắc gì hết lớp 12. Thôi thì mua cho bầy vịt mà lùa.
- Mẹ tôi đâu?
Vừa hỏi cậu vừa ục ịch bước lên. Chị vội vàng kéo lại nói thầm:
- Cậu đừng lên! Cô đang có khách. Cậu đi tắm cho mát...
Cậu Bim bặm môi phụng phịu, buông một câu chỏng lỏn:
- Cóc tắm! Lạnh!
- Cậu Bim giỏi nào, trời lạnh mà tắm mới là anh hùng chứ…
Đấy là chị dùng cái giọng vẫn dỗ thằng Na ở nhà. Mỗi khi cần giục nó cái gì chỉ cần hích một câu là cu cậu tỏ ra một đấng nam nhi. Nhưng cậu Bim không thế. Cậu trợn mắt:
- Ngu thế! Tắm lạnh xưng phổi.
Chị cười xoà nắm tay cậu lôi vào nhà tắm. Nước ấm bốc khói mờ cả tấm gương to. Cậu la oai oái như thể bị bỏ vạc dầu. Thân thể cậu phốp pháp, nổi lập lờ như một bìa đậu phụ trong bồn. Dỗ dành mãi cậu không chịu nằm yên cho kì cọ. Chị gắt:
- Ấm thế này còn kêu!Cậu trừng mắt nhìn rồi bất ngờ giằng vòi hoa sen xịt thẳng vào mặt chị. Giận quá. Giá phải thằng Na chị đét ngay cho một phát vào mông. Nhưng chị chỉ dám làm mặt nghiêm. Cậu Bim nhảy ra ngoài ngồi bết xuống sàn tần mần nghịch chim, lầm bầm: “Nhớ nhé…nhớ nhé!”.
Xong người là chó. Vỗ về mãi mới lôi được nàng Juny đài các vào chậu tắm. Sữa tắm Dove thơm ngao ngát. Máy sấy tóc thổi lông. Bộ cánh của nàng Juny tơi phơ trắng muốt. Chị chạnh nhớ con Vá nhà chị. Bát cơm hớt chả bõ dính răng, suốt ngày Vá chạy nhảy ngoài đồng bắt chuột. Cái đuôi Vá như cán cờ dỏng trong ruộng lúa nhấp nhô. Năm ngoái cậu bị ghẻ kềnh, dẹo dọ cóm róm tưởng chết. Chị lấy nước điếu tắm, cu cậu xót kêu ăng ẳng. Thế mà khỏi, lông lại trơn nuột, mướt dáng như thường.
- Nhắng nhắng nhắng!
Juny vằng ra, ngoắt mõm vào mặt chị mắng xa xả. Ra mải nghĩ, chị đã gí hơi sát máy sấy. Cậu Bim lao đến ôm ghịt lấy con chó xót xa:
- Mày chết nhớ! Phỏng da Juny rồi nhớ!
Tim chị nhảy loạn khi nhìn những ngón tay cậu Bim vạch lông con chó. May mà da nó chỉ hơi đo đỏ. Chị ngọt ngào lấy giọng cầu an:
- Cậu Bim thích ăn món gì để tôi nấu nào?
Như mọi ngày, cậu sẽ ỏng eo món này món nọ, rằng ở trường các cô bắt cậu ăn nhiều ớn tới tận cổ rồi. Còn hôm nay cậu ngẩng phắt lên nhìn bằng ánh mắt căm hờn:
- Ông ăn thịt mày!
Cậu xót con Juny! Trẻ con tuổi này đứa nào cũng thương loài vật. Thằng Na nhà chị, khi bố nó giơ chày nện bốp vào đầu con Vá mang ra quán lấy tiền đi hít, nó cũng ôm đầu rú lên đau đớn và khóc ròng rã cả tuần.
Từ đó cho tới tối, chị làm việc quần quật đặng dìm nỗi lo sợ bị trừng phạt. Khi chị đang chuẩn bị sách vở đi học tiếng Đài thì cô gọi chị lên, mặt lạnh tanh:
- Ngày nay chị phạm bốn lỗi nhẹ: Sử dụng máy giặt chưa thành thạo, dọn phòng chưa khéo léo, có thái độ trịch thượng với trẻ, chăm sóc thú vật chưa đạt yêu cầu. Mỗi lỗi phạt mười ngàn. Và một lỗi nặng: Tọc mạch vào quan hệ của chủ nhà. Lỗi này không chấp nhận được, phạt một trăm ngàn. Tổng cộng một trăm bốn mươi ngàn!
Tai chị ù đi. Chị toan mở miệng thanh minh, rằng cái lỗi thứ năm ấy là oan cho chị quá, chị chỉ bảo cậu Bim là mẹ đang có khách, thế thôi chứ có nói gì đâu? Nhưng cô đã phẩy tay:
- Không nói nhiều! Phạt cho quen đi. Sang bên đó nó không phạt bằng tiền Việt đâu, mà là Đài tệ. Phạt tiền còn may, chứ họ đuổi về là tiền mất tật mang. Biết chưa?
Thấy chị còn xậm xịu, cô giáo đến bên thân ái:
- Là đàn bà với nhau tôi hiểu chứ. Tâm tính đàn bà Việt Nam mình còn u tối lắm, người ta không chấp nhận đâu. Tháng trước bên kia trả về một chị chỉ vì một tội là trưa nào cũng thế, khi chủ nhà đi ngủ là lén mở cửa ra ngoài tìm người Việt Nam để buôn dưa lê. Phải nhịn chuyện đi! Chị nên nhớ, bên đó bất cứ chỗ nào cũng gắn camera, chị làm gì chủ nhà biết hết. Vừa rồi có một chị bị phạt nửa tháng lương vì tội cho trẻ con ăn sữa mà dám ăn vụng của nó một thìa. Và một chị nữa, khi đổ bô cho người già mà dám nhăn mũi, thay quần áo cho người ốm mà mặt mày không tươi tỉnh, bị phạt nửa tháng lương. Nửa tháng lương là bằng ba triệu đồng tiền Việt đấy!
Chị cúi đầu lí nhí:
- Em cám ơn cô!
Đấy là lời cám ơn thực lòng của kẻ bần cùng. Bao nhiêu công nợ ngập đầu ngập cổ, chỉ còn trông vào cơ hội này thôi. Nếu cô đánh trượt, chưa cho bay thì khốn. Mà hết thẩy những điều cô dạy mình đều đúng chứ có sai đâu. Cô bảo, đây là giai đoạn thực tập, hoàn cảnh còn nhẹ nhàng hơn thực tế nhiều. Đấy là cô còn ưu tiên chị, cho về nhà riêng thử việc, chứ mấy chị em khác còn phải chen chúc lê la trong một ngôi nhà kín cổng cao tường như một nhà tù cơ.
*
Hắn ngồi khom người trên ghế, hai tay luồn trong áo xoa xoa vết mổ. Da hắn xanh rớt, mái tóc cắt ngắn để lộ hộp sọ gồ ghề. Nhìn hắn bấy như một con cua vừa lột. Cảnh ngộ đẩy họ vào tình trạng khó mở lời.
- Em đi lấy tiền trả nợ… nhục nhã lắm… nhưng không còn cách nào khác…
Hồi lâu hắn mới ngẩng lên, cái nhìn bị phủ một màn sương:
- Tôi có quyền gì đâu!
- Anh đừng nghĩ thế. Con em gửi ông bà ngoại. Chỉ hai năm thôi mà. Lúc ấy anh cũng đã gần mãn hạn…
Hắn lảng mắt lên tường nhìn theo hai con thạch sùng đuổi nhau. Tần ngần một hồi, Lăng móc túi đưa cho chị một tờ giấy gấp tư. Chị mở ra đọc và bỗng khóc oà. Đơn li dị! Lăng đơn phương xin li dị! Lăng tự trọng. Lăng biết xấu hổ. Lăng muốn giải thoát cho chị. Không phải bây giờ chị mới đứng giữa ranh giới của sự chia lìa. Ngay từ những ngày đầu Lăng nghiện ngập, nhiều lần chị đã có ý định chia tay, nhưng những lá đơn viết rồi lại đốt.
Bạn học với nhau mười hai năm. Chung trường chung lớp chung hoài bão. Nếm chung vị đắng hỏng thi. Chung cả niềm an phận về nhà làm ruộng. Thửa ruộng nhỏ tin hin như manh chiếu không phỉ sức Lăng. Hết việc đồng áng, Lăng chỉ biết ôm con, thuốc lào vận cạp quần lê la những chiếu tổ tôm. Nền không nói nhưng trong ánh mắt gợn lên những ánh muộn phiền. Một buổi tối sau vụ gặt, chân Lăng đi xoắn quẩy về nhà, miệng sừng mùi rượu. Tôi chán cái cảnh này lắm rồi. Hai sào ruộng, bốn tạ thóc. Giống má phân gio hết nửa. Bốn mồm ăn. Húp cháo cũng không đủ. Tôi sẽ đi. Đi đâu? Đi Hà Nội. Làm gì? Làm giàu. Chao ôi, không nghề ngỗng như Lăng thì chỉ có nước đứng chợ người. Móc cống, rửa nhà cầu, làm điếm đực... Chút sĩ khí của kẻ có học trỗi dậy, Lăng giã từ chợ người, chiềng mặt ra làm cò bến xe Giáp Bát. Đất có thổ công, sông có Hà bá, đồng tiền kiếm được đẫm đụa nước mắt mồ hôi. Đêm nằm còng queo dưới mái hiên chờ chuyến xe sáng sớm, nhớ lại những gương mặt ngác ngơ trẻ già đủ loại bị mình doạ nạt đấm đá phủ đầu, thấy lương tâm cắn dứt. Lăng dìm nốt chút lương tâm ấy xuống bằng những liều hút chích, huỷ diệt nốt những gì gọi là người để ngày mai lại tiếp tục ngụp lặn nơi nhốn nháo tranh giành. Sức vóc kiệt cùng, Lăng lê tấm thân tàn tạ về làng. Ngôi nhà nhẵn trơn đồ đạc, chỉ còn tiếng chuột chạy rầm rầm và tiếng nợ đòi ông ổng. Khi không còn lừa ai được nữa, Lăng buôn thuốc phiện để có tiền tiếp tục đánh đu cùng tiên trắng. Nhát dao oan nghiệt của con nghiện hôm trước là bất hạnh hay may mắn cho Lăng? Nếu không có nhát dao ấy biết đâu Lăng đã chịu án tử hình thay cho cái án ba năm như hiện nay?
- Thôi, mình cứ yên tâm đừng nghĩ ngợi gì. Em…đi!
Chị bậm môi chạy vụt ra cửa bưng miệng khóc. Tờ đơn li hôn trên bàn gỗ chập chờn...
*
Đối diện Nền là một ông già bảy mươi tuổi, tuy liệt nửa người nhưng dáng vẻ vẫn phương phi. Người của công ty môi giới nói với chị, ông già này khó tính lắm, đã có ba người bị ông đuổi thẳng rồi đấy, chị nên cẩn thận.
Ông già nhìn Nền từ đầu tới chân bằng con mắt dò xét. Trống ngực Nền đập thình thình. Dọn nhà, chăm trẻ, nuôi chó mèo, nấu ăn… chị đã quen, còn chăm sóc người già chị bỡ ngỡ vô cùng. Ngày học nghề, trung tâm không có người làm mẫu. Mấy chị em thay nhau làm “người già” để cô giáo giới thiệu sơ qua cách nâng đỡ, thay áo quần, bế lên xe lăn… “Hãy yêu quí kính trọng như với cha mẹ mình!”, Nền nhắm mắt niệm câu thần chú của nghề. Ông già gật đầu nhè nhẹ. Nền trút một hơi nhẹ nhõm.
Ông già là chủ một công ty lớn Đài Loan. Tuy lâm bệnh nhưng ông vẫn điều hành công việc. Chiếc điện thoại cầm tay của ông suốt ngày rung vù vù như dế mèn rũ cánh. Con trai ông bốn mươi tuổi, đang thay ông giám sát công việc, nhưng ngày nào cũng hai lần sáng tối đến vấn an. Anh ta bảo Nền đi nghỉ một chút, tự tay lau mặt, thay áo quần cho bố. Cô con dâu cũng làm một chức vụ gì đó trong công ty, thỉnh thoảng cũng vào thăm bố chồng. Cô ta luôn miệng sai Nền nấu sâm pha sữa, Còn mình thì ngồi sẵn bên giường đón từ tay Nền rồi bón cho ông già. Thi thoảng, Nền bế ông lên xe lăn đẩy đi dạo phố. Nền luôn tự nhắc: Mặt mày tươi tỉnh, mặt mày tươi tỉnh. Nụ cười trên môi Nền tươi được hơn ba tháng, cho đến một hôm, môi Nền vẫn cười tươi nhưng nước mắt thì thánh thót rơi vào bát cháo. Đứa em bên nhà điện sang báo bố ốm nặng, sắp qua đời. Nền lo lắng rụng rời cả chân tay. Hợp đồng đã ghi, trong thời gian làm việc không được xin về dù bất cứ lí do gì. Thế mà đứa em lại nói rằng bố nằng nặc đòi gặp chị.
Nhìn cô người hầu, ông già động lòng hỏi chuyện. Nền đành thưa thật. Ông già thở dài, nắm tay Nền nói nhỏ:
- Con cứ về đi. Khi nào xong việc lại sang.
Nền hấp tấp gào qua điện thoại:
- Ngày mai chị bay. Em nói với anh cả đặt đồng tiền xu vào lòng bàn tay bố... Ông chủ bày cho chị thế đấy. Bố sẽ đợi kịp chị về!...
Nhưng cô con dâu đã đến bên Nền lạnh lùng:
- Cô về, bắt buộc chúng tôi phải thuê người khác. Cô suy nghĩ cho kĩ!
Anh con trai ngậm ngùi:
- Hay em chịu khó ở nhà chăm cha. Khi nào cô ấy qua em lại đi làm?
Cô con dâu không chịu. Một cuộc cãi vã nổ ra, có nguy cơ bùng phát. Nền quết nước mắt cúi đầu:
- Thôi, cháu không về nữa đâu.
Sóng gió tạm lắng trong gia đình chủ, nhưng trong lòng Nền lại cồn cào nhức nhối. Cô em van vỉ:
- Bố phát phiền rồi…nhưng cố lòng đợi chị!
Nền cắn răng nói trong nước mắt:
- Em bảo anh cả...bỏ đồng xu trong tay bố đi...Chị không về được đâu!...
Chỉ nói được thế rồi chị úp mặt vào tường nức nở. Chị tin rằng, khi đồng tiền xu được bỏ ra, bố sẽ ra đi thanh thản. Chị âm thầm mua khăn chuẩn bị chịu tang cha nơi đất khách.
Chuông điện thoại lại réo ba nhịp dài nối tiếp. Nhịp chuông đàm thoại quốc tế. Nền run rẩy nhấc máy. Tiếng cô em van nài:
- Chị ơi...Chị cố về đi. Anh cả đã bỏ đồng xu ra rồi. Các vãi đã tụng kinh rồi. Anh hai đã leo lên dỡ ngói mái nhà để cho thoát dương..., vậy mà bố không đi được!...Bố đợi chị về đấy... chị ơi!
Nền dập ống nghe từ từ ngã khuỵu.
Thân thể ông chủ cứ héo úa dần. Nhìn nét mặt căng thẳng của bác sĩ mỗi khi thăm bệnh xong Nền lại cảm thấy lo lo. Số tiền Miền gửi về đã đủ trang trải nợ nần, thời gian hợp đồng sắp hết, dẫu có muốn cũng không thể nấn ná thêm được nữa.
Ông chủ ra đi vào một ngày trời đẹp. Nền khóc ào ạt bên ông, khóc như lúc nghe tin bố qua đời. Đám tang xứ này nhanh chóng nhưng trang nghiêm. Tiễn người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng, trong Nền đã chuẩn bị tâm thế trở về.
Cả gia đình họ Tống lặng phắc lúc luật sư đọc di chúc. Mọi người có mặt và cả Nền nữa, không ngạc nhiên khi ông chủ trao quyền thừa kế cho người bạn tâm phúc chứ không phải cho con trai duy nhất. Những ông chủ Tàu vẫn thâm trầm nhìn xa trông rộng như thế. Duy chỉ cô con dâu nổi giận đùng đùng. Ngay cả việc đó cũng không khiến mọi người bàn tán. Điều khiến mọi người chú ý là bản di chúc có một khoản thừa kế giành cho cô hầu người Việt. Tài khoản ông giành cho Nền không phải bằng tiền mặt, mà bằng một hợp đồng gia hạn làm việc một năm. Nền mừng đến độ choáng người, quì xuống lạy ảnh ông một lạy. Như vậy là vợ chồng chị có cơ hội để làm lại cuộc đời, các con chị có cơ hội mở mày mở mặt.
*
Từ ngày cha mất, ông chủ nhỏ Giang Sinh ăn uống thất thường, về nhà lúc nào cũng say mèm. Bà chủ cũng thất thường đi về không theo qui luật. Họ đã không ăn cùng mâm, không ngủ cùng phòng. Những cuộc đấu khẩu nổ ra kèm theo đồ đạc bay vèo vèo, loảng xoảng. Nền như con chim nhỏ tối tăm mặt mày giữa hai làn tên đạn. “ Có tai như điếc, có mồm như câm”, chuyện nhà người, mình không nên can dự. Nhưng khi nhìn thấy bà chủ trợn mắt mắm môi giang tay giơ chiếc bình hoa nhằm đầu ông chủ mà lia, thì Nền không đành lòng được nữa. Nhà cửa chao nghiêng. Mắt chị toé ra muôn búng hoa cải chói vàng rồi tắt ngấm. Bóng đen loang rất nhanh trong óc Nền...
Trong cơn hôn mê, chị thấy mình trở về làng. Cây si già buông từng chùm rễ lòng thòng cạnh ngôi đền cổ không có bóng trẻ con. Thanh niên bỏ cả ra phố làm thuê. Ngõ xóm vật vờ mấy bóng con nghiện rập rình. Những bức tường cắm mảnh chai chi chít nhốt kín tiếng gà gáy lợn kêu. Cánh đồng quê hương miên man cỏ dại. Thửa ruộng hai sào được chia từ ngày lấy nhau đây. Thửa ruộng đã lay lắt nuôi sống bốn miệng ăn giờ thành hoang hoá. Xác rắn lột vương trắng trên những ngọn cỏ năn. Cào cào châu chấu bay nhảy rào rào, chập chờn áo xanh áo đỏ. Thằng Na lếch thếch cõng con Lành chạy khắp cánh đồng tìm mẹ. Tiếng gọi mẹ khản đặc chìm hút vào tiếng ếch nhái inh uôm. Chị mở miệng trả lời con, nhưng càng gọi chúng càng chạy xa. Na ơi! Lành ơi! Mẹ về với các con đây này!
- Chị tỉnh rồi! – Tiếng reo mừng rỡ cùng khuôn mặt mờ mờ của ông chủ Giang Sinh khiến Nền tỉnh hẳn. Xung quanh trắng toát. Những bóng người lặng lẽ vào ra. Dù đầu nặng như có một hòn đá tảng, nhưng rất nhanh chị đã ý thức được hoàn cảnh của mình. Chị nghiêng người vùi mặt vào gối trên giường bệnh, mặc cho nước mắt cay đắng chảy dài.
Trời còn thương nên chỉ vài ngày nằm viện chị đã có thể trở về nhà, tiếp tục kiếp con hầu. Bà chủ sau vài ngày lo lắng, không thấy Nền đả động đến chuyện đơn từ kiện cáo, bắt đầu ngứa mắt.
- Chị chuẩn bị về được rồi!- Bà chủ lạnh lùng khi đưa tháng lương thứ hai mươi tư.- Hợp đồng đã hết!
- Ơ! - Nền ngớ người trước lời tuyên bố- Tôi còn một năm nữa mà?
Bà chủ bĩu môi không nói. Giang Sinh đến bên vợ nhẹ nhàng:
- Đấy là ý cha. Cô không có quyền làm thế!
Một trận khẩu chiến tiếp tục nổ ra, để cuối cùng bà chủ hầm hầm bỏ đi ném lại một câu chửi lớn:
- Đồ mạt hạng!
Mấy ngày liền bà chủ không về. Nền bị ném tõm vào hoàn cảnh chứa đầy đe doạ. Ngôi nhà sang trọng, nội thất cầu kỳ bỗng trở lên lạnh lẽo. Một ngày chị lau nhà đến ba bốn bận mà vẫn chưa hết thời gian. Chị ngóng tiếng chuông cổng, nhưng khi nó cất lên chị lại giật bắn mình. Về đến nhà là ông chui ngay lên phòng. Căn phòng vốn sạch sẽ tinh tươm giờ ngập ngụa hơi thuốc và rượu. Thức ăn Nền nấu luôn phải đổ đi vì ông chủ không hề đụng đũa. Khi trút những đĩa thức ăn đầy bổ dưỡng mà chị đã kì công chế biến vào thùng rác, Nền bật khóc. Bắt gặp cảnh ấy, Giang Sinh chững lại một hồi lâu:
- Ăn một mình tôi không nuốt nổi. Từ mai chị ăn cùng tôi cho vui!
Bữa ăn cùng mâm đầu tiên với chủ là một cực hình đối với Nền. Chị cắm mặt vào bát cơm không dám ngẩng lên. Chị chạy trốn những lời thăm hỏi của Giang Sinh bằng cách đếm từng hạt cơm trong bát. Một bát cơm có một ngàn ba trăm năm mươi mốt hạt... Giang Sinh ngừng đũa nhìn đăm đắm. Cái nhìn ấm áp bao trùm lấy toàn thân Nền. Một luồng cảm giác lạ chạy râm ran từ chân tóc mai, lan nhanh ra toàn thân. Nền cuống cuồng đứng lên chạy vào nhà tắm tựa tường thở dốc. Hai năm đằng đẵng xa chồng, cái nhu cầu đàn bà tưởng ngủ yên bỗng chốc bùng lên. Soi mình vào gương, chị bất chợt nhận ra mình trẻ quá. Gò má đã bong hết những nám sần trở thành hồng phấn. Mái tóc thôi xác xơ. Cặp mắt đã hết khô, đuôi mắt đã hết rạn, vút dài một cái nhìn thăm thẳm. Cái nhan sắc bị đầy đoạ tưởng đã úa tàn, qua hai năm no đủ không dầu dãi nắng mưa có cơ phát tiết. Nhiều đêm, khi những ý nghĩ tội lỗi len vào óc, Nền đã dằn lòng bằng câu “chồng ta áo rách...”. Nhưng ánh mắt ấm áp và cử chỉ chăm sóc chân thành của Giang Sinh có mãnh lực của một mạch nước ngầm. Tiết hạnh rất thiêng liêng nhưng cũng rất mơ hồ, giữ được nó cần có nhiều rào chắn. Vậy mà ở đây chị chỉ một mình. Lòng kiên định của đàn bà trong những đêm xa xứ cứ mòn dần, mòn dần, mong manh như tơ nhện, chỉ cần một hơi thở gần là tất cả sẽ tiêu tan. Một ông chủ cô độc với một người hầu đang thì xuân sắc... Cái kết cục biết trước đã khiến chị kinh hoàng.
Lá thư của Lăng đến đúng lúc, giải thoát cho Miền khỏi tình cảnh chênh vênh: “Tôi được ân xá, ra trước thời hạn. Nhà quê buồn lắm, ăn rồi chẳng biết làm gì. Bà con họ hàng xa lánh…”. Chị run run ấp lá thư vào ngực mà nghe máu trong người chảy dập dồn. Phải về thôi, kẻo Lăng nghiện lại thì chết! “Anh tốt với em lắm! Nhưng em phải về. Chồng và các con em đang đợi.”- Lá thư viết chật vật mãi mới được mấy dòng ngắn ngủi, đặt cẩn thận trên bàn trà. Chị dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, khoá cửa rồi vùi chìa khoá vào chậu hoa trước cổng. Khi cầm tấm vé trên tay chị mới gọi điện cho Giang Sinh.
Sân bay nườm nượp người nhưng Nền vẫn nhận ra bóng Giang Sinh nháo nhác len lỏi trong đám đông. Tiếng động cơ gầm rú át mọi tiếng người nhưng Nền vẫn biết Giang Sinh đang gọi mình rất lớn. Lòng chị cuống thốn từng hồi. Cửa sổ máy bay nắng lóa. Bóng dáng Giang Sinh nhoè dần nhoè dần.
Máy bay cất cánh. Miền thấy hẫng sụt trong lòng. Một quãng đời lắm tủi buồn đã ở lại sau lưng. Bầu trời mênh mông, xanh thẳm. Mây trắng phơi phới ngoài cửa sổ khiến chị cảm thấy bồng bềnh.
Cái cảm giác bồng bềnh ấy còn mãi cho đến khi chị đã bước giữa những mái bếp tỏa khói lam vương vít. Đường làng gạch lát phẳng phiu mà chị châng lâng như bước trên con thuyền say sóng. Chị ào về nhà mẹ. Những nụ cười mếu máo trên những khuôn mặt thân thương. Giây phút mừng vui đoàn tụ qua nhanh. Chị ngập ngừng cất tiếng: Bố thế nào hở Na? Con...không biết! Chị ngỡ ngàng nhìn thẳng vào mắt con ngạc nhiên nhưng rồi chị chợt hiểu. Chúng vẫn ở với bà ngoại và các dì, có dám bén mảng đến gần Lăng đâu mà biết. Bà già kéo khăn chấm mắt ngẩng lên nhìn con gái buồn rầu: Nó gán ruộng cho nhà Thản lấy tiền để đi Ma Lai ma lôi gì đó. Nghe đâu còn đang học việc ngoài Hà Nội. Về thì bảo ban cho con nó học. Thằng Na hai năm lớp bốn rồi đấy, đúp năm nữa thì có nước hót phân! Lời mẹ rù rì chậm chạp mà tới tấp sóng xô khiến chị chao đảo như kẻ sắp đắm đò. Thằng Na đang hí hởn ôm bọc kẹo Taiwan in hình Trư Bát Giới phưỡn bụng vác bồ cào, thấy bà nói đến chuyện học thì vênh mặt lên dẩu mỏ: Ứ thèm học nữa đâu! Mẹ cho con đi làm Ôsin, mẹ nhớ! Con Lành cũng ngọng nghịu nối lời: Chon nứa. Cho chon đi làm Ôsin nứa. Làm Ôsin được ăn nhiều kẹo xích hơn! Trời ơi con tôi! Chị giật mình kêu thót lên một tiếng bẽ bàng rồi nhìn con trân trối. Tiếng bà già chua chát đế vào: Ừ, nhà mày có mả làm thuê! Lòng kẻ hồi hương vừa ấm lại phút chốc đã trở nên buốt lạnh. Chị gỡ hai bàn tay con đang níu áo mình vòi vĩnh, tức tưởi lao đi. Chụp vào tay lái một chiếc xe ôm đang đón khách đầu cầu, chị gào như mê sảng. Chiếc xe rồ ga phóng hối hả về hướng phố. Cánh đồng xanh non dọc ngang ô bàn cờ trôi loang loáng. Đang độ rét Nàng Bân, gió tái đông réo ạt ào bên tai chị...
Nơi không có sóng Xì phôn
Truyện ngắn củaĐỖ TIẾN THỤY
_________________________________
Nàng hộ khẩu Thủ đô. Nói “hộ khẩu Thủ đô” chính xác hơn nói “người Hà Nội”, vì cả bố và mẹ nàng đã đồng thanh trong lần chàng ăn cơm nhà nàng: Mời anh cầm đủa!
Còn chàng, nếu cứ chiếu theo địa điểm đang ở thì cũng gọi là “người Hà Nội”, nhưng chàng khai tuốt tuồn tuột gốc gác quê mùa: Tôi tên Tương quê Hưng Yên, đóng quân ở Tây Nguyên, giờ đang là học viên... Anh trai nàng phụ họa: Anh Tương đang gian nan môn Anh văn. Em chịu khó gia sư cho anh Tương giúp anh. Anh Tương năm nay ba hai xuân, nhưng vẫn còn trai tân...Nàng cười nắc nẻ khi hai ông lính đồng môn thay nhau trình bày hoàn cảnh. Không phải đùa tếu cho vui đâu. Thực thế đấy. Vốn tiếng Nga kha khá đã giúp chàng Tương rất nhiều trong khai thác khí tài, giờ ra đây không có đất tung hoành. Gặp tiếng Anh, miệng chàng cứng như nhai đá lạnh. Thế nên Ngữ, chàng trung tá đến từ quân khu Thủ đô mới thương tình tiếp thị: Tôi có con em đang học bên Kinh tế...
Nàng học tiếng Anh từ ngày chưa sõi tiếng Việt nên đương nhiên là giỏi. Nói như gió thì ăn nhằm gì, nàng còn hát tiếng Anh như Madona ấy chứ! Nàng không thiếu tiền tiêu. Đương nhiên là thế. Tiền tiêu vặt một tháng của nàng bằng mấy lương chàng. Nàng đồng ý làm gia sư cho chàng chỉ vì thích được “mắng mỏ và dạy dỗ” một thiếu tá quân đội cho oai!
Những gì tiếp theo diễn ra đúng logic cuộc sống. Một trai một gái thanh tân. Cái thông minh sắc sảo của nàng gặp cái chân phương chững chạc của chàng... Đương nhiên!
Mọi người xầm xì chàng Tương khôn. Bố nàng làm to thế, học xong chàng ở lại Hà Nội là đương nhiên.
Có người lại bảo nàng khôn. Thời buổi này bói đâu ra được người đàn ông như thế. To cao đẹp giai, kỹ sư vô tuyến điện tốt nghiệp bên Nga, giờ lại thêm Học viện. Cán bộ nguồn đấy, lên tướng là cái chắc!
Nàng thì nghĩ, chả biết mình dại hay khôn. Nàng đã trải qua mấy cuộc tình. Những công tử Hà thành đi qua đời nàng như lốc xoáy. Rạp người ôm cứng nhau trên con xe phân khối lớn lao với tốc độ kinh hoàng, vũ trường đèn chớp ma quái nhì nhằng quay cuồng cơn say thuốc lắc...Những cơn thác loạn qua đi để lại cho nàng những cảm giác mệt mỏi rã rời. Khi đã chán ngán patê phó mát, người ta lại thèm cà pháo, cua đồng. Đương nhiên!
Chàng Tương thì nghĩ, tình yêu ai lại tính dại khôn. Chàng cứng tuổi, đóng quân nơi hoang vu rừng núi, lòng khô xác như cỏ tranh mùa khô, giờ gặp lửa tức thì bùng cháy. Khi yêu ai chả bảo tình yêu của mình là trong sáng vô tư không vụ lợi. Đương nhiên!
Họ ít đi chơi. Cả chàng và nàng đều không thích trò vờn vã, đãi đưa. Tình yêu cốt nhất là chân thành, chàng nói thế. Đúng, cốt nhất là sự chân thành, nàng cũng đồng ý thế. Nên khi nàng đòi tổ chức mừng sinh nhật của chàng, chàng giãy: Trong đơn vị anh tất cả những chiến sĩ sinh cùng tháng được đơn vị tổ chức mừng sinh nhật một lần. Đông vui đáo để nhé! Nàng phụng phịu: Nhưng đây là Hà Nội. Anh đừng mang nếp sinh hoạt doanh trại vào giảng đường, chán lắm! Chàng Tương ngỏn nghẻn: Dưng mà anh...ngượng lắm!
14-2, nàng hỏi khéo, hôm nay là ngày gì ấy nhỉ? Chàng Tương gãi đầu, ngày gì ấy nhỉ? Nàng khoằm mặt, Valentine, ngày Tình yêu, anh thờ ơ nhỉ! Hiểu ra, chàng à, ngày đấy là của Tây, mình là người Việt Nam, ai lại thế! Nàng háy, anh nhìn xung quanh kìa, ai cũng tặng người yêu kẹo sôcôla và hoa, chỉ có anh là thế! Chàng Tương ngẩn người: À...ra thế!
22-12, chàng Tương hỏi bắt chước nàng, hôm nay ngày gì ấy nhỉ? Nàng ngơ ngác nhìn chàng, có ngày gì đâu nhỉ? Chàng Tương tẽn tò, à...hôm nay bọn anh...được nghỉ...
24-12, nàng thỏ thẻ, hôm nay mình đi chơi Noel! Chàng giật mình, Noel à? Đêm Noel ở Tây Nguyên lạnh lắm! Noel nào bọn anh cũng phải trực.... Nàng đổi tông giọng, nhưng đây là Hà Nội, và anh không phải là bác bảo vệ trường! Chàng nhượng bộ, thì đi! Phố xá như nêm. Xe đổ chỏng kềnh. Chàng cuống quít đỡ nàng đứng dậy luôn miệng suýt xoa: Tại anh không quen xe tay ga. Nàng nén đau xoa gối nhìn chàng nhắc nhỏ: Đấy là xe Attila. Chàng lóng ngóng khởi động lại xe thầm tự giễu: Mình quê thế! Nàng áp má vào lưng chàng, nghĩ thầm: Người đâu mà yêu thế! Nàng đòi overnight – qua đêm...chàng vẫn còn con trai!
Chàng đưa nàng về thăm quê. Con mèo ngồi khoanh tròn giữa sân lim dim sưởi nắng. Nàng reo lên: Ôi, con mèo ngồi như một chữ @! Chàng Tương nhíu mày: Sao không nói chữ @ như một chú mèo ngồi? Mẹ chàng nhanh nhảu: Cua còng gì đấy? Thích ăn để mẹ chạy vào chợ chiều mua cho dăm xóc mà ăn. Cua đang mùa, rẻ lắm! Chàng cười: Ôi mẹ ơi, đấy là tụi con nói về một kí hiệu trong tin học. Mẹ chàng ngẩn người lẩm bẩm: Tin học...tin học...Tin mà phải học! Chàng Tương phì cười túm gáy chú mèo xếch lên. Chú mướp co người, bốn vó rúm vào nhau. Loại này hay chuột phải biết. Chàng hỏi: Miu, nhà mày giàu hay nghèo? Con mèo mắt nhắm nghiền khẽ kêu một tiếng. Chàng cười: Nó bảo nghèo! Nàng cũng cười: Ứ phải, nó kêu meo!
Học năm thứ hai, nàng trầm trồ: Tiếng Anh của anh hơi bị tanh! Bây giờ học kiểu khác. Nàng đưa chàng vào quán Nét. Chàng lơ ngơ giữa căn phòng ngập ngụa tiếng phím gõ rào rào như một nong tằm ăn sắt thép: Học ở đây à? Nàng cười: Chứ sao!
Nàng ấn chàng vào máy: Để em lập cho anh một cái nick, anh sẽ ngất ngây con gà tây! Nàng click liên hồi. Mấy phút sau nick của chàng Tương đã hiện ra với cái tên vô cùng ấn tượng: cuadong70. Anh đánh password vào đi! Nàng ngoảnh mặt ra ngoài để chàng lóng ngóng mổ cò những kí hiệu vào hộp mật mã, lịch sự tuyệt đối! Nàng quay vào cười tươi: Nhớ kĩ nhé, quên là die luôn đấy! Nàng cầm tay cậu học trò lớn xác nắn từng nét chuột. Chỉ vài giây khi nick của chàng xuất hiện trong chat room, đã có cái nick Ngoisaocodon nhảy vào gạ gẫm: Hi!!!!!! are you Korea? (Bạn là người Hàn Quốc?). Nàng nhếch mép: Nó thấy nickcuadong70, tưởng người Hàn đấy. Chàng ngớ ra: Em đặt tên nick của anh như thế có nghĩa gì? Nàng cười rũ rĩ: Ôi giời ôi! Cuadong70 là Cua đồng sinh năm 1970 đấy! Chàng đỏ mặt ngồi thần. Nàng liến thoắng: Out đi anh! Con này là gà nội, tiếng Anh mới ở mức i tờ. Tìm gà Tây chát mới phê! Thế nhé. Em buôn với gà của em đây. Nàng mở máy của nàng. Những cái nick name nhấp nháy liên hồi. Một chàng trai có khuôn mặt đẹp như tài tử cinema xuất hiện trong Webcam. Hộp thoại ríu rít những lời chào thân thiện.
Thoạt đầu chàng Tương hơi bất ngờ và thích thú nhìn chú “gà Tây” ngước lên cúi xuống mổ lúc cúc trên bàn phím. Nhưng chỉ một lát sau mặt chàng đã xịu. Chàng đã đọc được những câu âu yếm hai người chát qua lại với nhau. Chàng đo lường được nồng độ tình cảm và thời gian liên hệ của hai người. Nàng đồng thời “nói chuyện” với chàng trai có nick nameDonjuan bằng cách của người khiếm thị trên bàn chữ Brai, và nói chuyện với chàng bằng môi miệng thường ngày: Anh thấy chưa, học tiếng Anh cách này “vào” lắm! Chàng lững lờ: Ừ, vào lắm! Nàng ngẩng lên nhìn: Anh sao vậy? Xung đột phần mềm à? Đừng chuối thế. Mình học thôi mà. Chúng nó xa tít mù, ảnh hưởng gì đâu. Chàng hờn: Thời đại thông tin, người người đánh bắt xa bờ. Nàng không hiểu ẩn ý của chàng nên lại rào rào múa ngón. Chàng lơ đãng thoát khỏi chương trình messeger, vào mục tin tức. Mỹ tấn công Irarq. Ngày đầu tiên, tên lửa hành trình Tomahoc với độ chính xác cao gần như tuyệt đối đã phá hủy nhiều mục tiêu quan trọng. Quân đội của Tổng thống Saddam Hussein hoàn toàn bất lực trước đòn phủ đầu...
Nàng, mắt vẫn không rời màn hình: Anh thấy chưa, học cách này là nhất quả đất. Chàng rời mắt khỏi trang tin đẫm máu và thuốc súng quay sang. Hộp thoại vẫn ríu rít lời tình tứ. Nàng quay sang giải thích: Con này em mới câu được hai năm. Dân London gốc. Hơi bị đỉnh đấy! Nó đang than thở vì Stress. Vừa lúc đó hộp thoại hiện lên dòng chữ ỡm ờ: Anh sẽ sang Việt Nam gặp em, ok? Nàng cưới xoé lên: Mày dám không, hay chỉ bẻm mép! Rồi gõ nhanh: Ok! Em đang đợi anh!Webcam rung rinh. Chú “gà Tây” ngồi đờ đẫn trong sung sướng đến vài phút rồi mới gõ: Phụ nữ Việt Nam thật tuyệt vời! Anh ơi, gà của em đang nỉ non này... Không thấy tiếng đáp, nàng quay lại đã không thấy chàng đâu.
Nàng lồng lên đi tìm. Kí túc xá Học viện: Không có chàng. Nàng phi xe ào ào trên phố. Dòng người nườm nượp ào qua. Chàng lúc này khác chi chim trời cá nước. Chợt nàng nhớ có lần chàng nói chàng thích những nơi yên tĩnh. Nàng lượn ve vé quanh mấy cái hồ cạn nước Thủ đô. Dưới gốc cây dương liễu kia phải chàng Tương?
Chàng đứng lặng nhìn nàng bằng cái nhìn của người đàn ông khi ghen.
Nàng cũng đứng lặng nhìn chàng bằng con mắt của nhà điểu học ngắm chim bay. Rồi nàng ào vào lòng chàng: Anh đừng có mà ăng ghen như thế! Chàng ngoãy. Nàng cười thầm: Chuyện nhỏ như con thỏ! Hôm sau, để “hạ hoả”, nàng tặng quà chàng. Chàng mở ra ngỡ ngàng: Cái gì thế này? Nàng nghiêng mắt: Xì phôn đấy! Chúng mình có thể nấu cháo với nhau hai bốn trên hai bốn mà không mấy tốn!
Hoan hô Xì phôn! Điện thoại của những người yêu nhau! Trừ bốn tiếng trong lớp, mười tám tiếng còn lại Xì phôn luôn grừ grừ tút tít. Anh đang ở đâu, làm gì, nghĩ về ai? Vân vân và vân vân... Anh đang đọc sách, anh đang ăn cơm, anh đang đánh bóng bàn, anh đang trong... toa lét! Giời ạ! Trong toa lét mà cũng phải báo cáo! Thì... anh là lính thông tin mà, cứ phải chính xác tuyệt đối! Thông tin không chính xác có mà nướng hết quân! Thế em đang ở đâu? Làm gì? Nghĩ về ai? Vân vân và vân vân....Em đang ở nhà. Có đi đâu đâu? Có ai để nhớ đâu? Chỉ mình anh thôi. Ghét thế! Tối nay mình đi Bờ Hồ nhé. Vân vân và vân vân.
Hoan hô Xìphôn! Nhờ có nó, nàng cảm thấy luôn luôn cạnh chàng. Hoan hô Xì phôn! Nhờ có nó chàng cảm thấy luôn luôn cạnh nàng. Họ đắm trong vùng phủ sóng. Nàng mãn nguyện vì đeo được chiếc vòng phát tín vào chân chú chim ngờ nghệch. Chàng hạnh phúc với kiếp một con chim đã đánh số. Con trâu bị buộc chỉ ăn quẩn quanh mòn mỏi trong bán kính qui định của sợi dây thừng. Chàng và nàng bằng lòng quẩn quanh trong bán kính cột viba...
*
Thấy chàng bơ thờ bước vào sân, mẹ đã giật mình:
- Thế con Khánh đâu không về?
Chàng lặng im. Mẹ càng hỏi gặng. Chàng bực mình đáp xẵng:
- Để cho con yên!
Một mình chàng lang thang ra cánh đồng vắng lặng buổi chiều. Gió rười rượi. Chuồn chuồn ngô liệng xè xè trên những đụn rạ dựng im lìm trên ruộng. Hai con chuột béo mẫm vọt ra từ một ngôi mộ đuổi nhau chí chóe ngay dưới chân chàng. Đồng quê muôn thủa vẫn chứa những âm thanh buồn trong lành. Mười mấy năm đi xa, lần nào về quê chàng cũng nôn nao một cảm giác rất lạ. Ngày còn học bên Nga, chàng gọi một cách văn hoa đó là cảm giác “đói đồng”.
“Đói đồng”, nghe thì da diết thế nhưng gần ba năm trời ra ngoài này học, đã mấy lần chàng thấy “đói” đâu. Mụ mẫm trước tình yêu sôi cuồng tuổi trẻ, chàng quên phứt những thao thức thường thấy ở Tây Nguyên. Giờ ngấm đắng, chàng mới ngộ ra khi vui thú ta có thể lãng quên mọi thứ, kể cả nơi chôn nhau cắt rốn, chỉ khi có tâm sự thì quê hương là cái túi trút bỏ buồn phiền. Và đến lúc này chàng lại có một thèm muốn oái oăm được sống như những ngày trên trạm TT. 3006.
Nơi ấy gần trăng gió, gần mặt trời. Mây bốn mùa quấn quít quanh những cột ăng ten cao vút, quấn quít trong mỗi bước đi, trong từng bữa ăn giấc ngủ, nũng nịu chui cả vào phòng máy. Ngày nắng ráo, máy bay dân dụng lững lờ vẽ lên những vệt bay thẳng tắp như những dòng nhạc ngang trời xanh mãi không tan loãng. Đứng trên đỉnh núi nhìn xuống luôn thấy một biển cúc quì rờm rợp cuộn sóng vàng. Càng vào mùa khô, cúc quì càng vàng ngợp. Nhìn đẹp đến nao người nhưng cũng khiến người nhìn có một cảm giác sờ sợ, ngại ngần nếu phải đi xuyên qua rừng hoa ấy. Ngại thì ngại, hàng ngày vẫn phải thay nhau đi thồ nước, đi mua đồ tiếp tế. Chàng là trạm trưởng, lâu lâu thèm dân quá cũng dành phần đi chợ. Cưỡi chiếc Minkhơ ngầu ngã, chàng chạy oành oành trên những đường dốc cao nguyên buông chùng cánh võng. Chàng cũng vào chợ chọn hàng, cũng kì kèo mặc cả. Mặc cả để được hưởng cái hạnh phúc được tiếp xúc với dân, chứ dân chợ vùng cao không khi nào nói thách. Chàng thồ trăm thứ bà rằn về đến chân núi thì dừng lại múc đủ bốn can nước chất lên xe, vằn vèo theo con dốc xoáy ngược lên. Cúc quì quệt vào xe ràn rạt toả mùi hăng ngái. Về trạm thì cả người cả xe vương bộn cánh hoa.
Ngày chàng đi, cậu chiến sỹ báo vụ có biệt danh Tuân toác, cái thằng sau mỗi ca trực lại nằm ghểnh gọng lôi tất cả tin bài trong báo ra hát thành chèo, đã cất lên một câu vọng cổ đầy bịn rịn: Trạm trưởng ơi! Mai trạm trưởng ra chốn thành đô phồn hoa rực rỡ.... Xin trạm trưởng đừng quên chốn rừng xanh núi đỏ có anh em đang vò võ mong...ơ...chờ! Mọi ngày chàng vẫn cười trước trò hát hổng của Tuân, còn hôm đó chàng suýt khóc. Cả trạm tiễn chàng xuống núi. Mấy anh em trong trạm đã đùa: Trông trạm trưởng ngố rừng lắm! Nhưng yên tâm, ba năm Học viện, cơm gạo Thủ đô sẽ làm bong cái da tái ngăm màu sốt rét kia thôi. Chả mấy chốc mà thành người sành điệu! Chàng chống chế: Bảy năm học bên Nga còn chẳng ăn ai nữa là ba năm Hà Nội.
Vậy mà...
Ngay sau khi chàng đưa nàng ra mắt bạn bè, người bạn cùng phòng tên Huân đã lửng lơ: Em Khánh của ông đẹp như dòng Hô-nô-xê! Chàng phổng mũi vì lời bình phẩm ấy. Người bạn thấy thế thì cất giọng bâng quơ đọc bài thơ Nhật Bản:
Sông Hô-nô-xê
Nước rất nông
Đứng giữa dòng cũng không ướt váy
Hỏi lòng một người cũng nông như vậy
Làm sao tôi có thể yêu sâu?
Chàng trợn mắt đùa yêu với bạn: Ông đừng có mà trâu buộc ghét trâu ăn! Huân đáp lại: Tôi nói vì thương ông thôi. Ông với Khánh chênh nhau cả một thế hệ. Cộc lệch như thế thì sống làm sao? Chàng phẩy tay: Chả làm sao cả! Cứ phải yêu người trẻ cho mình...trẻ ra. Mà quả thực từ ngày yêu Khánh chàng thấy lòng phơi phới thuở hai mươi tuổi và lòng trai nguyên nếp. Chàng có những biểu hiện yêu đương hơi lố, không còn phù hợp với cái tuổi trên băm, bất chấp những ánh mắt khó chịu của bạn bè.
Họ hay giận nhau. Huân bảo: Cứ ba ngày một trận giận nhỏ, bảy ngày một trận giận lớn như thế thì mệt lắm! Chuyện vặt! Ông cứ việc chung thuỷ với bà vợ già và hai đứa con gái ở quê, mặc kệ tôi!
Ngày 8- 3 năm nay chàng nảy ra sáng kiến. Tối mồng 7 chàng đã không gọi điện. Chàng nhắn tin. Nhắn tin, người nhận có niềm vui ngắm nghía những con chữ hiển hiện, lời yêu thương được lưu giữ và lan tỏa mãi. “Em luon la nguoi phu nu DAM DANG cua anh”. Tin nhắn gửi đi, chàng khấp khởi mong tin nhắn lại. Nhưng nàng đã gọi lại cho anh sau một hồi lâu, giọng chanh chua the thé: Anh là đồ vô văn hóa! Máy cắt cái rụp. Chàng điếng người không tin vào tai mình. Chàng lập cập mở máy kiểm tra tin đã gửi. Có gì sai sót đâu? Chàng hấp tấp mua hoa và quà tặng đến nhà. Nàng đứng án nơi cổng chỉ tay ra đường hét vào mặt chàng: Chim cút! Chàng sợ đến mụ cả người. Suốt một ngày chàng vơ vẩn tự lục vấn mình có gì sai sót. Đúng lúc chàng bế tắc nhất thì nàng lại ào tới dụi đầu vào ngực chàng: Anh ơi, cho em xin lỗi nha! Tại em dịch sai tin nhắn... Chàng chưa hoàn hồn hỏi lại: Em dịch thế nào? Nàng ghé tai chàng nũng nịu: Tại cái máy không dấu chứ đâu phải tại em. Chữ ĐẢM ĐANG mà em lại...hí hí... tưởng là... DÂM ĐÃNG! Mãi chiều nay con bạn em nó mới dịch cho. Nó mắng em sao mà mày bồ nông thế! Chàng né đầu tránh một cái hôn bất thần, ém một hơi thở dài nhè nhẹ.
Nhưng đấy vẫn là chuyện nhỏ. Chỉ vài giọt nước mắt, nàng đã biến chân lý thành bé tí! Em biết lỗi rồi mà! Vâng, để em sẽ bớt thời gian đọc sách cho bớt bồ nông. Nhưng mà sách Việt Nam chả có gì đáng đọc. Người ta cứ khen Truyện Kiều mà em thấy nó chuối lắm, đọc chả hiểu gì sất. Em thích sách dịch hơn. Điên cuồng như Vệ Tuệ mới đỉnh chứ... Mà phụ nữ hiện đại cần gì sâu sắc. Chỉ cần giỏi ngoại ngữ với tin học là quá ổn! Anh không thích thế à? Hay là anh muốn em quê như mụ vợ lão Huân ấy. Khiếp, hôm nọ bà ấy dẫn con ra thăm chồng, thấy mà man rợ!... Nghe cách nàng dùng từ, chàng phì cười. Thế là huề.
Chàng chuẩn bị làm luận án tốt nghiệp. Nàng ra sức quan tâm chăm sóc chàng. Sữa này để anh uống trước khi đi ngủ. Bánh này để anh ăn điểm tâm chứ cơm nhà bếp thế kia sao mà nhá! Còn nho táo cam chanh để anh dùng sau giờ đánh bóng... Anh ơi anh có mệt không? Hay là mình đi chơi chút cho thư giãn rồi về học? Anh gầy quá thôi! Em thương anh quá! Anh ơi anh sắp thi à? Thôi chúng mình bớt đi chơi, để anh tập trung vào học...
Nàng thực hiện đúng lời hứa, suốt một tuần không đến thăm, không gọi điện quấy rầy nhõng nhẽo. Thấy chưa, ai bảo nàng trẻ người nông nổi? Nàng đã biết hy sinh vì sự nghiệp của chàng. Nàng có phẩm chất làm vợ tướng!
Chàng cảm động vì nghĩa cử của nàng, ra sức sôi kinh nấu sử. Tối qua, chàng ngồi một mình trong phòng. Ông bạn tọc mạch cùng phòng đã ra phố mua tài liệu. Chàng đang đối thoại ngầm với mấy ông tổ của môn Kinh tế học thì tiếng grừ của máy làm chàng giật bắn cả mình. Không phải nàng. Ông ra khách sạn L. khẩn cấp! Tiếng Huân run bắn trong máy khiến chàng linh cảm có chuyện động trời. Mặc vội áo quần, chàng lao ra cổng. Chiếc xe ôm lượn vằn vèo giữa phố xá nghịt người.
Khách sạn L. đây rồi, đèn xanh đỏ in lênh láng mặt hồ. Ông nhìn đi! Nhìn đi! Huân lôi tuột chàng vào lùm liễu, giơ tay chỉ. Khánh! Khánh đang ngồi ngả đầu vào một người đàn ông ngoại quốc trên ghế đá! Chàng giơ tay dụi mắt. Không có lẽ! Bình tĩnh! Bình tĩnh! Tôi thấy họ lên xe taxi từ Bờ Hồ, tôi bám theo về đấy. Chàng lắp bắp: Ông có nhìn nhầm không? Huân gắt lên: Tôi có mù đâu!
Chàng đứng chết trân dưới gốc liễu hồi lâu chưa biết phải thế nào. Ông phải làm gì đi chứ? Chàng sượng sùng: Ông bảo tôi phải làm gì bây giờ? Mà đèn tối lắm, chắc gì đã phải... Huân lại gắt: Không nó thì còn ai nữa? Ông muốn biết đích xác chứ gì, sao không bấm máy mà gọi thử?
Tay chàng lập cập. Em...em...đang...ở đâu? Phía trong kia, cô nàng có mái đầu nhuộm óng lên dưới điện khẽ gỡ bàn tay đàn ông đang choàng qua vai đứng lên đi ra chỗ khuất. Trong máy chàng rành rọt tiếng nàng: Em đang ngồi một mình trên sân thượng. Mà sao anh gọi giờ này? Anh học xong bài rồi à? Ghét anh quá, suốt ngày học, học, chẳng nhớ gì đến người ta cả! Cái giọng nũng nịu thường ngày khiến chàng hồ nghi: Có đúng em đang ngồi trên sân thượng không? Giọng chàng đã gắt, nếu nàng tỉnh táo thì đã nghe thấy trực tiếp bởi hai người chỉ cách vài chục mét. Anh không tin em à? Em đang ngồi buồn muốn chết đây này! Giọng nàng cố tỏ ra cứng cỏi nhưng đã hơi run. Vừa lúc đó người đàn ông ngoại quốc sốt ruột đã quay mặt lại chỗ sáng đèn. Một khuôn mặt đẹp như tài tử xi-nê khiến chàng giật thót. Donjuan! Khuôn mặt đã một lần chàng nhìn thấy trong Webcam giờ đang quàng eo nàng trước mắt chàng. Họ dìu nhau và mất hút sau cánh cửa có hai gã bảo vệ mang đồng phục to như hộ pháp.
Toàn thân chàng run lên trước sự phản bội, nhưng không hiểu sao chính chàng lại là người vội vàng trốn chạy như một kẻ làm điều gian dối. Chàng lao ra giữa đường. Tiếng phanh xe rít két lộng óc cùng mùi khét lẹt xộc lên chàng mới giật mình khựng lại. Chàng đứng cứng như cột mốc giữa đường chẻ đôi dòng xe cộ gầm gào.
Khi đã về ký túc xá, Huân chỉ mặt chàng hầm hầm: Sao ông không nhao ra cho nó bẽ mặt luôn? Chàng ngồi ôm đầu cúi nhìn nền nhà. Chàng cũng không biết tại sao nữa...
*
Chàng vẫn còn yêu nàng. Trái tim chàng bảo thế.
Nàng bấm máy gọi chàng không được, nàng đâm hốt hoảng. Hình như nàng vẫn rất yêu chàng. Nàng lờ mờ thế.
Nàng đâm bổ đến Học viện, thấy thái độ Huân vẫn lành lạnh như thường. Nàng chưa bị lộ. Nàng khẳng định thế.
Nàng quà cáp về quê chàng. Hương đồng gió nội mênh mang. Mẹ chàng đon đả đón nàng, chuyện trò tíu tít rộn ràng. Ông bà ngoài ấy thế nào? Có được khoẻ không? Gớm, năm lần bảy lượt mẹ bảo thằng Tương mời ông bà về chơi cho biết cửa biết nhà, chả hiểu sao anh ấy cứ chần chờ...Dạ, bố mẹ con vẫn khoẻ. Bố mẹ con nhắc tới mẹ luôn. Dạ, bố con gửi biếu mẹ lạng cao hổ, mẹ ăn cho khỏi đau xương. Còn đây, mẹ con gửi biếu mẹ cái khăn phu la. Bố mẹ con mời mẹ ra Hà Nội chơi một chuyến đấy ạ! Gớm, ông bà bày vẽ làm gì cho tốn. Cho mẹ gửi nhời cám ơn ông bà nhé. Mẹ nhốt sẵn con gà mái tơ kia, bảo thằng Tương mang ra biếu ông bà. Chẳng hiểu sao anh ấy cứ vùng vằng. Chẹp! Chúng bay hơi một tí thì giận thì hờn. Ngày xưa đến tuổi là cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, có được yêu đương hò hẹn gì đâu. Thế mà vẫn thương yêu nhau đến lúc bạc đầu.
- Anh ấy đâu rồi hả mẹ?
- Nó đi lên đồng.
- Mẹ dẫn con đi thăm đồng với nhé!
- Ừ, con đầu dâu trưởng, cũng phải lên thăm mộ ông bà.
Xe Attila chở một bà già!
Ô kìa cô kia tóc vàng như rơm!
Vừa nhìn thấy nàng chở mẹ lên đồng, chàng giật mình đứng dậy. Mẹ dóng dả mắng từ xa:
- Các anh các chị nhớn cả rồi, trẻ mỏ gì nữa mà giận với hờn! Chúng bay định để mẹ chết già mà không có cháu hay sao?
Chàng ngượng nghịu đỡ mẹ đi giữa thửa ruộng có những xá cày vương bập bõm nắng chiều. Nàng ríu rít mở túi. Trái cây, bánh kẹo, nhang nến đủ đầy. Mẹ nhìn những ngón tay thuôn nuột của nàng thành thạo châm nhang sắp lễ thì hỉ hả hài lòng. Mẹ là vợ lính, bao công to việc nhỏ trong nhà một tay cáng đáng. Mẹ cần phải có đứa dâu giỏi giang như nàng để quán xuyến gia đình.
Mẹ cắp nón đi dọc theo dãy mộ chỉ cho nàng biết đâu là mộ ông, bà, cụ, kỵ. Nàng lễ phép chắp tay lắng nghe thật xứng là con dâu hiếu thảo. Đến ngôi mộ cha chàng, mẹ dừng lại lâu hơn:
- Gọi là mộ nhưng có gì đâu con. Khi nhận được giấy báo tử, mẹ phải nhờ họ hàng sửa cốt giả để lập mộ mà hương khói. Thế nhưng linh lắm con ạ. Ông ấy vẫn về báo mộng cho mẹ luôn là đã mồ yên mả đẹp.
Nàng đứng lặng yên nghe, hai khóe mắt đã rấn nước ra chiều cảm động. Chàng tự nhiên thấy lòng ấm lại.
- Hai đứa bay làm sao cho phải thì làm, mẹ về trước nấu cơm. Ăn sớm còn ra mà học, chứ nghỉ thế thì thi thố làm sao.
Chỉ còn nàng ngồi lại bên chàng. Những dải khói nhang lãng đãng vương trên ngọn cỏ.
- Sao anh về mà không nói với em?
- Anh về hay ở thì có liên quan gì đến em đâu?
- Anh đừng có chuối thế? Em có gì sai sót đâu nào?
- Ừ, em thì có bao giờ sai!
- Anh đừng trẻ con như thế! Có gì anh cứ nói thẳng ra!
Khối nổ đã được châm ngòi. Chàng ngẩng phắt lên hỏi nàng giật cục:
- Tối qua em đi đâu?
Nàng hơi giật mình, nhưng trấn tĩnh rất nhanh:
- Thì em đã nói rồi.
- Không đúng!
Nàng bèn cười giả lả:
- Đúng là... anh hơi bị cáo đấy! Hôm qua em đi chơi với bạn em. Lúc anh gọi, bọn em đang uống cà phê trước khách sạn L.
Chàng chột dạ nghĩ thầm. Có lẽ mình nghi oan cho em thật. Thì họ gặp nhau...Nhưng chưa chắc đã có gì. Thời buổi hiện đại, giao tiếp cần phóng khoáng. Có nói dối nhau chút đỉnh cũng là để người yêu khỏi buồn lòng vì những thứ không đâu. Chàng cũng thoáng lắm chứ. Nhưng chàng vẫn muốn mọi thông tin phải chính xác.
- Em nói thật đi!
Nàng nhíu mày nhìn đăm đăm vào chàng. Ôi chàng cua, sao hôm nay lại củ chuối thế không biết. Nhưng không sao. Chỉ một đòn này là mọi chuyện lại ngon lành cành đào.
- Anh có muốn em thề không?
- Thề gì?
Nàng không trả lời, nhanh nhẹn thắp thêm ba nén nhang kính cẩn đứng trước mộ bố chàng.
Và nàng chắp tay. Chàng đứng bên nàng mà hồi hộp hơn chờ giờ G. trong những lần diễn tập. Hãy thề đi! Trái tim chiến sỹ của chàng đã, đang và sẽ còn độ lượng. Chỉ cần nàng thành thật chàng sẽ bỏ qua tất cả. Nàng liếc xéo chàng một cái như ánh chớp rồi cất tiếng. Lời thề đọc to không phải để cho người nằm dưới mộ, mà để cho người còn sống. Giọng nàng nghẹn ngào, oan ức:
- Con là Vân Khánh... người yêu của anh Tương. Trước... anh linh bố và hương hồn các cụ, con xin thề là tối hôm qua anh Tương bận học, con chỉ rủ bạn gái con là Nguyễn Mộng Điệp đi chơi và uống cà phê ở quán nước trước khách sạn L. Nếu con nói sai con xin... chịu hoàn toàn trách nhiệm!
Nàng vái ba vái, run rẩy cắm nhang lên mộ và ngồi thổn thức.
Nước mắt axít nhỏ xèo xèo.
Nàng cúi đầu trong nhang khói rưng rưng.
Nàng không biết rằng chẳng còn ai sau lưng.
Khi nàng ngoảnh lại nàng mới giật mình.
Bóng chàng đã xa ở cuối cánh đồng.
Nàng thò tay moi máy bấm số cuống cuồng.
Nàng bất lực buông máy nhận ra đang ở nông thôn.
Giữa cánh đồng không có sóng Xì phôn...
Chuyện không muốn kể
Truyện ngắn của ĐỖ TIẾN THỤY
_______________________________________
Rét đồng chiêm mạ tía hơ tía hất
Mẹ ăn trầu nuốt cái lạnh vào trong
Thân mạ cắm xuống vạt bùn buốt cóng
Ngậm phèn chua bén rễ trổ đòng...
Mẹ bệnh. Một bên ngực mẹ, nơi tám chị em con bấu vào, hút kiệt và lớn lên đã được bác sĩ khoét bỏ. Khuôn ngực sáu mươi lép kẹp giờ lại thêm hõm xuống. Mẹ nằm đó, bàn chân sần sùi nứt nẻ, kẽ móng còn vương bùn đất đồng chiêm quá tương phản với giường ga trắng. Ngồi bên mẹ bây giờ chỉ có con, đứa con mà mẹ đặt nhiều hi vọng và thương yêu nhất, mặc dù con chưa làm được gì cho mẹ ngoài “những câu thơ vô bổ” như lời các em con. Lúc này đây, dưới ánh đèn xám lạnh, mẹ đang trong trạng thái mê, nhưng mẹ ơi, mẹ hãy nghe những lời trần tình của con.
Bà ngoại kể... Trong một chầu tổ tôm, ông lí trưởng và ông phó lí đã gật gù thoả thuận. Mẹ về làm dâu lúc tuổi mười lăm. Đêm tân hôn mẹ đóng chặt cửa không cho cậu ấm mười tám tuổi vào động phòng hoa chúc. Ông lí trưởng đập tan tành chiếc điếu bát nõ vàng se bạc, sai người đi gọi ông phó lí. Bà ngoại tất tả mang trầu rượu xuống nhà thắp hương quì lạy mẹ. Mẹ cuống cuồng chạy ra nâng bà ngoại dậy. Cửa buồng được mở. Chúng con lần lượt ra đời.
Có lần con xem một bộ phim hài: Một ông nhốt gà chờ vợ đẻ, và khi nghe tin vợ sinh con gái thì thả gà ra... Mọi người cười rần rần, còn con thì bật khóc. Con thấy bộ phim ấy như nói chuyện nhà mình. Nhưng chuyện nhà mình không được như phim. Lý, Sự, Sinh, Mong, Mỏi - năm chị con ra đời trong sự hằm hè. Chỉ có con, con sinh ra trong tiếng bom rền, trong chớp đạn phòng không và sự hân hoan tột cùng của bố. Con sống trong sự tưng tiu chằm bặp của cả nhà cho đến ngày con vào lớp một. Một chiều con mang bộ mặt mực lem tím ngoét nhưng vô cùng hớn hở, nhảy chân sáo về nhà để khoe điểm mười đầu tiên. Nhưng chân con khựng lại. Nhà cửa tanh bành nồi niêu vỡ. Năm chị con ôm nhau rúm ró góc nhà. Lọ mực xách dây trên tay con rơi xuống sân tím toé. Bố đang đập bàn hầm hố: “ Họ nhà này chưa bao gìơ chịu độc đinh!”.
Mẹ ơi, đêm đó sáu chị em con đã gào khản giọng tìm mẹ khắp nơi. Mãi sau có người đi cấy về chỉ cho chúng con chạy lên đồng Mả. Mẹ nằm vật vã, rũ rượi trên mộ ông ngoại, mười đầu ngón tay bứt cỏ máu bầm. Mặt mẹ sưng húp, khóc không thành tiếng: “ới cha ơi, sao cha lại gả con như thế hở cha?!”. Các dì các mợ và sáu chị em con ôm nhau khóc theo trong nghĩa địa đêm gió lùa hun hút. Mãi sau dì Thêm đứng phắt lên gạt nước mắt, gắt: “Chị cứ về tháo vòng ra mà đẻ, xem nó có nuôi được không.”. “Hời... ơi...Suốt ngày chỉ rượu với tổ tôm... Đẻ nữa thì lấy gì cho chúng nó ăn?...”. “Nó đã tuyên bố thế, không đẻ mà yên được với nó à?”.
Và mẹ cắn răng mang bầu lần thứ bảy. Phú, Quí - hai em con chào đời trên bờ ruộng mạ chiêm gió đông bắc lùa tím tái. Tiêu chuẩn ăn bồi dưỡng của mẹ là một ổ trứng gà mười quả và một tuần cơm không độn sắn. Mẹ ơi, đến bây giờ con vẫn không thể nào quên, sau những buổi học về, con trai lớn của mẹ vẫn được mẹ phần cho một bát cơm và nửa quả trứng. Trong căn buồng ấm sực khói gộc tre khai nồng nước giải trẻ con, con đã ăn những miếng cơm ngon nhất trần đời, trong ánh mắt chứa chan của mẹ và nụ cười mụ dạy của hai em.
Bỗng: “Đàn ông chui vào buồng gái đẻ để cái đầu nó ngu như lợn à! M...a...ạt! Họ nhà này mạt đến nơi rồi!”, bố đang ngồi nhắm rượu với ngô rang đập bàn quát khiến con giật nảy, nhè miếng cơm đang nuốt dở. Bà nội lom khom chui vào mò mẫm dắt tay con ra ngoài sịt soạt: “Đừng vào trong ấy cháu ơi, nó mà đánh thì bà cũng chịu chẳng dám can.”.
Mười lăm ngày mẹ đã phải ra đồng theo vụ cấy. Hai em Phú Quí khóc ngằn ngặt trên tay chị Mỏi chị Mong. Bà nội mắt toét nhèm mang đĩa bột nấu muối đen màu tro bếp ra dử dê. Hai em nhóp nhép được vài miếng lại ré lên oe oé. Buổi trưa mẹ quần sắn tận bẹn bổ sấp bổ ngửa chạy về. Mẹ ngồi dựa lưng vào cột đỡ cho hai em bú cùng một lúc. Khi hai bầu vú lép xẹp, nổi gân xanh chằng chịt cũng là lúc mặt mẹ tái dại như dây khoai kiệt nước. Mẹ nói không ra hơi: “Mừng...vào lấy...sắn cho mẹ. Mẹ...đói quá!”. Bát sắn lát đen sì mang ra mẹ chửa kịp ăn thì bà Mão láng giềng bế thằng cháu bụ tròn như hạt mít sang, trên tay là bát cơm trắng muốt: “Thím ăn rồi cho cháu ti nhờ một tí. Cái con mẹ nó ăn thủng nồi trôi rế, béo ị như con trâu chươn mà vẫn không có sữa.”. Mẹ bải hoải, đôi môi tái nhợt, lắp bắp: “Đợi...cháu nghỉ... một tí...”. Bà Mão dài môi ghé tai mẹ thẽ thọt: “Thím Mừng này, mai sang nhà tôi lấy lúa về mà ăn. Người khác tôi lấy lãi dững bảy phân. Nhưng thím thì tôi lấy năm thôi...”. Mẹ nhắm mắt gật đầu, vén áo. Thằng bé háu đói ngoạm vú rít choàm choạp.
Bà Mão bế đứa cháu cười toe toét ra về, cố ý bỏ lại bát cơm. Bà vừa khuất cổng, mẹ vồ lấy bát cơm bốc vội bốc vàng, nuốt lấy nuốt để. Bất ngờ bà Mão quay lại: “Uí da, suýt nữa thì tôi quên cái bát!...”. Mẹ sững lại. Miếng cơm nghẹn tắc nơi cuống họng phồng to như quả ổi. Mắt mẹ dàn dụa nước.
Sau vụ cấy mẹ bị một trận kiết lị đè cho ngã quị. Lá mơ lông và trứng gà vừa đỡ mẹ gượng dậy, mẹ đã phải vào rừng Găng đốn củi. Mỗi ngày mẹ gánh hai bó củi gồi to hơn người để đổi lấy một khăn vuông gạo nấu cháo cho bà và các em ăn. Một hôm tối mịt mà mẹ vẫn chưa về. Mọi người bổ đi tìm, mãi mới ra. Một người Mường thấy mẹ nằm gục bên bờ suối, cạnh mo cơm sắn rã rời. Thuốc thang mãi mẹ mới qua đận ấy. Nhưng cũng từ đó mẹ mang trong người một căn bệnh kinh niên.
Nhà thiếu đói triền miên, hai em còi cọc, cóm róm như cặp mèo đi kiết. Các dì các mợ góp tiền mua sữa bột cho, thứ sữa bột đóng bao năm mươi cân thời đó thường vón cục do quá hạn. Các em uống thứ sữa đó đi ngoài như tháo cống. Thương con, mẹ cương quyết chỉ cho các em bú mẹ, bú đến ba tuổi chưa thôi. Kể từ khi biết ngồi, hai em Phú Quí bú quen mỗi đứa một bên, đổi vú chúng nhất quyết không chịu bú. Mỗi khi trái gió trở trời, hai em cùng đau một lúc. Một li thuốc chia đôi, mẹ cầm thìa khuấy leng keng rồi cho Phú uống trước. Đến lượt Quí, nó giãy nảy không chịu uống. Dỗ dành mãi nó mới ngọng nghịu: “Con uống cái leng keng cơ!”. Mẹ bật cười, lại khuấy. Leng keng leng keng. “Nào, u ti tráng miệng nào!”, mẹ gọi. Hai đứa ngồi chồm hỗm hai bên như hai con chó con kéo dài vú mẹ...
“Nhà này bảy đời đa đinh!”, bố gật gù mỗi khi giỗ tết. Những ngày ấy, bốn bố con con ngồi xếp bằng trên ghế phong thư với cỗ mâm đồng. Mâm chõng tre dưới đất là mâm đàn bà, cả bà nội bảy mươi tuổi cũng phải ngồi mâm đó. Và con, con là người đầu tiên phản đối chuyện ấy bằng việc lẳng lặng mang bát xuống ngồi mâm dưới. “Đồ mất dạy! Mày phá gia phong nề nếp nhà tao!”, bố gầm lên chỉ mặt con. Xung đột giữa bố và con bắt đầu từ đó.
Con học giỏi nhờ những buổi trên lưng trâu đọc sách. Dưới tán phi lao chờ mãn buổi cày luôn có những hình vẽ toán học của con. Bố so bì : “Mày chẳng được cái tang trạng gì sất. Nhìn thằng Khoan nhà Tụ kìa, mỗi buổi chăn trâu về nó còn bắt được mấy xóc cua.”. Mẹ kêu lên : “Có ai như ông không, ai đời đi khen đứa ham bắt cua hơn ham học. Bố hằn học: Mày có học nát xương lòi tỉ chế độ này nó cũng không dùng mày!”. Mẹ tự tin: “Chế độ nào chẳng cần người tài? Con cứ học đi, không được bắt chước mấy thằng lêu lổng!”. Mẹ chỉ nói thế thôi, vậy mà bố gầm lên lao vào mẹ mà đấm đá. Con nhào vào bênh mẹ và nhận lấy cái bạt tai nổ đom đóm mắt cùng với bao nhiêu Dế mèn phiêu lưu kí, Sông Đông êm đềm, Chiến tranh và hoà bình...bay vào hố xí. Lạ một điều là mẹ không hề khóc. Mẹ gom góp gạo tiền cho con thi đậu cấp ba. “Con cứ học đi. Ông nội ông ngoại con mang tiếng địa chủ nhưng chỉ tối ngày tổ tôm, không có nợ máu với cách mạng. Bố mày hận vì bị tịch thu tài sản. Đang sung sướng quen rồi mà.”. Bà nội thêm vào: “Bố mày dong dóng ăn chơi từ bé, có phải đụng tay vào việc gì đâu, muốn gì được nấy. Có lần bố mày đòi ăn trứng Trời, bà phải bắc thang lén bỏ trứng gà lên nóc nhà...”.
Những tháng năm đói kém ấy con đã bấm tuột mười đầu ngón chân trên đường lầy để lên trường huyện học. Trời chưa sáng con đã phải dậy đón từ tay bà hai củ khoai nóng hổi hoải bỏ vội vào túi quần, vừa chạy vừa ăn cho kịp giờ vào lớp. Vào lớp rồi lại ngồi run. Hai củ khoai hết veo trên chặng đường năm cây số. Trong bụng thấy réo sôi lên, còn đầu thì loáng thoáng những phưong trình tang cots...Con tưởng đã phải bỏ học nửa chừng nếu như mẹ không vay lãi mua cho con một chiếc xe đạp tòng tọc không chắn bùn chắn xích. Lũ bạn phố huyện con nhà phe phẩy, lượn lờ trên những chiếc xe Viha, Diaman, Favorit...trề môi diễu con. Con có độc một bộ đồ xanh chéo, vừa đi học về là phải cởi ngay ra, treo lên, chủ nhật mới dám đem đi giặt. Có đứa ngồi sau bàn con hỏi kháy: “Bố mẹ đằng ấy là công nhân nhà máy dệt hay sao mà mặc mỗi một bộ vải xanh Nam Định thế?!”. Con đỏ mặt chống chế: “Tớ có hai bộ thay đổi đấy.”. Nó không tin lén lấy bút bi đánh dấu rồi đem ra làm trò cho chúng bạn cười. Cũng may con học giỏi hơn nên bọn chúng chửa dám khinh.
Nhưng ghét thì có. Ấy là từ buổi đi lao động cộng sản trên Tiên Phương. Sợ con xấu hổ với bạn bè, mẹ cắt lá dong gói bánh chưng cho con mang đi ăn trưa. Trưa đó khi chúng bạn túm tụm bày cơm trắng với giò, tôm khô, ruốc thịt...ra ăn thì con một mình lủi thủi mang "bánh chưng" ra sau gốc thông già. Có đứa trông thấy, con vội vàng gói lại rồi bỏ đi. Bọn bạn con cười hô hố bảo con là đồ ăn tham, có bánh chưng mà ăn hẫm một mình. Con không một lời thanh minh, không dám thanh minh, bởi bên trong khuôn bánh chưng lá dong xanh mỡ ấy là những lát sắn đen sì. Nhìn nét nặt con chiều hôm ấy, mẹ đoán ra ngay.
Khi hai em con đi học, mẹ thường đem chuyện này ra kể để làn gương. Bố chửi hất đi bằng điệp khúc cũ: “Có học nát xương lòi tỉ chế độ này nó cũng không dùng chúng mày. Học biết đọc biết viết là được.”. Nghe lời bố, sau mỗi buổi học, hai em con vác gàu ra đìa tát cá về cho bố nhắm rượu. Lớn thêm chút nữa, bố sắm cho mỗi đứa một chiếc cần câu quăng. Sau mỗi buổi câu về ba bố con quây quanh đĩa thịt ếch nấu chuối xanh. Hai em Phú Quí cũng tì tè uống rượu. “Tập cho chúng bay biết uống thì về sau tao già, tao mới uống ké được chúng mày.”. “Giời ơi là giời! Ông làm hỏng con tôi mất!”. Bố gầm gừ: “Mày làm hỏng con ông thì có. Rồi xem hai thằng này sẽ khá hơn thằng nửa đời nửa đoạn kia!”, bố ném ánh mắt hằn học về phía con. Mẹ thở dài kéo con ra ngoài: “Tuổi hai bố con mày xung khắc.”.
Khi bà và mẹ bàn cho con nhập ngũ, con đồng ý tức thì. Trong đầu con lúc đó chỉ xoáy cồn một ý nghĩ duy nhất: Thoát khỏi ngôi nhà ngột ngạt này càng nhanh càng tốt. Bố mỉa mai: “Lấy máu mà viết đơn! Hai thằng chú mày bỏ xác ngoài chiến trường chưa đủ à?”. Bà nội mắt đã mờ loà vịn cột đứng dậy quơ quào: “Trời cao đất dày ơi! Hai thằng nó chết mày mới có tiền đổ vào họng mỗi ngày đấy!”.
Ngày con lên đường, bà lần bao tượng dúi vào tay con: “Bà cho, tiền tuất tháng này của hai chú mày đấy. Vào bộ đội thì cố gắng mà học nữa. Ở nhà có đậu đại học thì mẹ mày cũng không có tiền cho mày ăn học đâu.”.
Ở đơn vị, khi nghe tin bà mất con đã khóc mấy ngày liền. Sực nhớ lời bà dặn hôm nào, con lao vào ôn. Con về phép với tin đỗ trường Lục quân. Bố khinh khỉnh: “Hữu danh vô thực. Sĩ quan đói như ngan ấp, đang xin ra quân cả lũ kia kìa. ”. Còn mẹ thì mừng. Hai mắt mẹ ăm ắp nước.
Hai em con học đì đẹt, hai năm một lớp. Hết lớp ba đã bỏ. Bố sắm cho mỗi đứa một chiếc xe đạp và một thùng xốp. Hai đứa nhận những que kem nước lã pha đường hoá học vào tận bản Mường để đổi ngô đổi nếp. Tận bây giờ con vẫn còn nghe văng vẳng tiếng còi “kem...mút” và tiếng rao dẻo quẹo của hai đứa: “Ai ăn kem nào. Kem dừa kem sữa, ngọt lử ngọt lừ, dừa quấn dừa quýt, dừa vít cong que, già ăn trẻ laị, gái ăn đắt chồng. Ai ăn kem rẻ chạy khoẻ ra mua. Kem mậu dịch đơ...ây!...". Mỗi buổi chiều về, từ thùng xốp bọc cót, hai đứa lôi ra đủ nấm hương, mộc nhĩ, có khi là cả một cặp sừng hươu nguều ngoào. Mắt bố sáng rỡ lên, miệng cười tấm tắc. Lúc đó thì con còn đang đắm chìm trong những phạm trù triết học. Vật chất và ý thức, cái nào chi phối cái nào?
Khi con ra trường, khoác trên mình bộ quân phục sĩ quan thì hai em con đã biết chui vào mấy bãi xe do máy bay Mĩ bắn cháy ở Miếu Môn, móc ngoặc mua xăm lốp, phụ tùng bán kiếm lời. Chúng khụng khiệng áo bay quần bò mũ cối trong sự thèm thuồng xoa xuýt của trai làng. Làng bên có tin đồn: “Cô Hoa bán quán đầu cầu đẻ, đứa con trai giống Phú Quí y tạc. Mẹ áo khăn te tái “đi đón cháu về”. Thằng Quí lừ mắt: “Bà già hâm tỉ độ. Nó ngửa cho cả trăm thằng, biết con ai?”. Bố tợp một ngụm rượu, đế vào: “ừ, sang mà đón về. Ông thì băm cho ngan nó ăn!”. Mẹ bất lực thở dài, chỉ dám thỉnh thoảng lén sang thăm và dúi cho cháu chút quà bánh nhỏ.Giỗ bà năm đó, hai em Phú Quí mặt rượu đỏ cay đỏ cợi tuyên bố: “Mẹ kiếp! Cái đất này giờ khó làm ăn rồi. Hai thằng con tính vào Tây Nguyên xem sao.”. Bố rung đùi gật gù: “Có chí làm ăn lớn thế là tốt!”. Mẹ can: “Thôi, ở nhà no đói có mẹ có con. Chẳng đâu bằng quê mình con ạ!”. Thằng Phú gằn giọng: “ở để cho mấy thằng xã nó hạnh hoẹ à? Mẹ kiếp! Cán bộ gì mà ngu như chó, mở miệng là đường lối chủ trương. Lí thuyết hão. Dân đ. khá lên được.”.
Hai em đi, con năng về với bố mẹ hơn. Bố không còn hằn học với con nhưng cũng chẳng tỏ vẻ thân tình. Số phận đưa đẩy thế nào con lại chuyển sang làm báo. Mẹ tự hào về con lắm, đi khoe khắp làng. Bố xì một tiếng rõ dài: “Tưởng mày theo nghiệp võ tao còn mong được nhờ mơ. Vẻ vang đếch gì cái nghề ấy, như thằng mõ làng ngày xưa!”.
Mừng thọ mẹ sáu mươi, con cháu kéo về cả đàn cả lũ. Mẹ ngượng ngùng trong áo gấm dài thêu. Hai em Phú Quí mang về biếu mẹ nhung hươu, cao hổ. Mẹ thờ ơ nhận: “Mẹ bệnh đại tràng mãn tính, đâu có ăn được những thứ này.”. Con chẳng có gì biếu mẹ, chỉ có bài thơ đọc trước cả nhà. Thế mà mẹ mừng, nước mắt rưng rưng.
Bữa cơm, con hỏi chuyện làm ăn, hai em hãnh diện khoe: Ban đầu vào buôn bán nhì nhằng, mua được miếng đất rộng vung vinh trên đường 14. Đùng một cái, tách tỉnh. Miếng đất ấy nghiễm nhiên thành thành trung tâm thị xã. Tấc đất tấc vàng, cứ việc cắt khoanh ra mà bán. Giờ giàu. Một đứa là chủ tiệm kinh doanh xe Hon-da, một là chủ cửa hàng kim khí điện máy. Hai đứa ăn uống nhồm nhoàm. Thằng Phú dốc li rượu một cách lục lâm, kẻ cả với con: “Ra quân, vào bọn tôi nhượng cho miếng đất mà làm ăn. Ham hố đếch gì ba đồng lương chết đói!”. Con tự ái: “Chúng mày mới giàu mà đã lên mặt dạy đời.”. Thằng Quí xí: “Ông chỉ được cái sĩ bọ! Ông đóng góp được đếch gì cho đất nước ngoài mấy bài báo hô hào cổ động suông? Bọn tôi đây này, thuế mỗi tháng hai triệu, ấy là chưa kể mấy thằng chó Công an, mấy thằng Thanh niên, mấy mụ Phụ nữ...tháng nào cũng cho người đến xin xỏ tổ chức phong trào này nọ. Ông tưởng nhà báo các ông là to hử? Trong tôi ngày nào chả có mấy thằng nhà báo đến kì kèo xin làm quảng cáo. Thí cho mấy đồng thì bảo viết gì chả viết. Đây này...”, nó móc ra một loạt bài báo cắt ép plastic đàng hoàng. Đủ những cái tít kêu như chuông: Doanh nghiệp tư nhân Hưng Phú - đơn vị đi đầu trong phong trào đền ơn đáp nghĩa; Nguyễn Hưng Quí - ông giám đốc hào hiệp với trẻ thơ; Nguyễn Hưng Phú - nhà doanh nghiệp giàu lòng nhân ái... “Đấy, nhà báo đấy!”, thằng Phú ném toẹt những bài báo ấy ra mặt bàn khinh bỉ. Mẹ gắt: “Hỗn nào! Anh con nhờ làm nhà báo nên mới có tên trong Ban soạn thảo hương ước của làng đấy.”. Thằng Quí bĩu môi: “Tưởng gì! Nếu mẹ thích, tên hai thằng con sẽ được khắc vào bia đá!”.
Chúng nói và làm được thật. Ngay ngày hôm sau, tấm bia đá đã có tên hai đứa với mức đóng góp tu bổ đình làng cao nhất: mười triệu. Mẹ hỏi: “Mừng, sao con cũng đóng góp mà không được khắc?”. Thằng Phú cướp lời con: “Ôi dào! Ba đồng tẹp nhẹp ai thèm khắc. Làng qui định rồi, dưới triệu chỉ ghi sổ vàng, trên triệu mới khắc vào bia đá.”. Mẹ kêu lên: “Giời ơi là giời! Làm thế thì bia đá toàn tên những đứa lắm tiền vô học à?”. Thằng Phú vằn mắt quát: “Bà câm mồm đi! Bà muốn thì ôm lấy thằng con lắm chữ mà húp cháo!”. Mẹ điếng người ôm ngực ho rũ rượi trước câu chửi giả bất ngờ. Mẹ tuyên bố từ cả hai thằng.
Suốt những tháng ngày sau đó, mẹ sống vật vờ như cái bóng. Con đã linh cảm sẽ có chuyện không lành. Và đúng. Bao nhiêu mưa nắng gió sương tích tụ trong dần trong người mẹ đã trở thành ung nhọt. Khi đưa mẹ từ phòng mổ ra, bác sĩ nói với bố: “Bà ấy tạm thời qua khỏi.”. Bố thủng thẳng: “Bà ấy sống được là nhờ tiền hai thằng con tôi trong kia gửi ra. Chứ như cái ngữ kia ấy à, bà ấy có mà chôn sớm!”. Con nuốt nỗi mặc cảm yếm thế vào lòng mà không dám ngước lên, bởi những điều bố nói đều là sự thật. Đưa mẹ đi bệnh viện, trong túi con vẻn vẹn một tháng lương ứng trước. Tất cả chi phí cho ca mổ và cả giọt giọt những sự sống đang truyền vào cơ thể mẹ kia đều là tiền của hai em em gửi ra.
Mẹ ơi, khi vừa tỉnh, mẹ mở mắt nhìn khắp lượt sáu chị em con, ánh mắt lần tìm mong mỏi. Con hiểu ý và đi gọi điện. Thằng Phú hỏi con: “Mổ rồi hả? Thế thì ổn. Tôi nhờ ông một việc nhé. Ông nghỉ phép chăm mẹ hộ tôi!”. “Chú phải về. Lúc này mẹ cần đông đủ cháu con...”. “Căng quá! Độ này dân trúng cà phê, mua xe nhiều lắm, tôi về một ngày là đứt mấy triệu...”. Con gặp Quí. Nó hỏi ngay: “Tôi đã gửi tiền về, anh nhận được chưa?”. “Tiền tiền tiền. Chúng mày chỉ biết có tiền. Mẹ không cần tiền lúc này nữa, mà cần chúng mày bên cạnh, hiểu chưa!”. “Thì...có quái gì mà ông làm ầm lên thế? Được rồi, tôi nhờ ông thuê lấy một đứa giặt giũ, đổ bô cho mẹ. Thế là được chứ gì?”. “Khô...ô...ông! Những việc đó tao làm được hết. Tao cần chúng mày về thôi...”. “Nhưng... em không thể bỏ cửa hàng lúc này...”.
Lần tỉnh thứ hai, mắt mẹ sáng lên vì bên cạnh con còn có thêm một người nữa. “Phú...Quí...phải không con?”, mẹ chìa tay hỏi. Thằng Hận, con chị Hoa, đứa bé ngày xưa mẹ te tái định đón về, vội nhào đến ôm lấy mẹ mếu máo: “Bà nội ơi! Bà đừng chết nhé!...”. Khuôn mặt mẹ giãn nở ra một chút rồi cười như mếu.
Lần tỉnh thứ ba, con có cảm giác mẹ rùng mình khi chỉ thấy mình con bên cạnh. Các chị đã phải về với lũ con bìu ríu. Mẹ ú ớ đưa tay ra dấu. Con khiếp sợ cuống cuồng chạy đi gọi điện: “Phú, anh van em đấy! Em về ngay. Mẹ rất mong em...Nếu kẹt quá thì một đứa về cũng được”. Thằng Phú im bặt, trong máy léo xéo tiếng mua hàng và tiếng Hon- da gầm rú. Hồi lâu thằng Phú hỏi con: “Anh Mừng, mẹ mổ vú nào?”. “Vú trái.”. “Anh chờ em bàn với thằng Quí xem sao, có gì chút nữa em điện lại”. Con đợi mãi chuông điện thoại mới reo. Tiếng thằng Quí hỏi độp con: “Anh Mừng, anh còn nhớ ngày xưa em bú vú nào không?”. Con chưa hiểu nó định nói gì nên chưa trả lời. Bỗng con nghe tiếng thằng Phú quát vọng vào trong máy: “Mày bú vú trái chứ còn ai nữa!”. Con hiểu ra và con sững sờ. Con bật khóc và con gào như vỡ máy: “Khốn nạn chúng mày! Chúng mày không phải về nữa đâu...ừ, tao được bú cả hai bầu vú. Trách nhiệm với mẹ bây giờ là tao...”. Con vùng chạy về bên mẹ khóc nức nở như không còn mẹ nữa. Mọi người tưởng mẹ làm sao nên vội vàng chạy lại. Bác sĩ kiểm tra và động viên con: “Anh yên tâm. Nếu không để lại di căn, mẹ anh sẽ sống.”.
Vâng, mẹ ơi, nỗi đau thể xác của mẹ đã được khoét bỏ, nhưng nỗi đau trong lòng mẹ thì lại đang nhức nhối. Mẹ vẫn dạy con: Anh em trong nhà đóng cửa bảo nhau. Con đã vâng lời nên những chuyện đau buồn trong nhà mình không ai biết. Nhưng hôm nay thì con phải nói. Nỗi đau nhân luân của mẹ phải được biết đến, phải được khoét bỏ. Con phải nói...phải nói...Mẹ ơi!
Những đứa con ruộng đồng
Truyện ngắn của ĐỖ TIẾN THỤY
_____________________________________
Sân ga nửa đêm về sáng. Giọng Sài Gòn phát qua loa ngái ngủ. Những gương mặt phạc phờ trong không khí ôi oai. Bảng điện tử trên nóc nhà ga chạy những dòng chữ đỏ lừ rừ: Wel come to…Kính chào quí khách… Tôi sung sướng nhận ra đôi mắt Dịu cháy sáng giữa sân ga nhốn nháo. Tôi muốn nhào đến ôm lấy em. Nhưng câu hỏi của em đã bắt tôi khựng lại:
“Anh vào đây làm gì?”
Sắt đỏ lụi xèo trong nước lạnh. Giá có tàu, tôi sẽ quay ra ngay tức khắc. Nhưng Dịu đã khoác ba lô của tôi bước nhanh ra cửa. Tôi đành lầm lũi theo sau. Chiếc xe thồ lượn vòng vèo quanh những đường phố ánh sáng chập chờn rồi thả chúng tôi xuống một khu ổ chuột.
Trời chưa sáng. Dịu bảo tôi chịu khó ngồi chờ ngoài cửa, để chị em ngủ thêm lúc nữa. Bao nhiêu điều định nói tự dưng bay biến. Tôi tựa lưng vào bức tường rêu ẩm nhắm hờ mắt qua đêm. Xa quân ngũ đã hơn hai tháng, nhưng tiếng kèn báo thức vẫn luôn ngân lên trong tôi đúng năm giờ sáng. Tôi choàng mở mắt. Dịu gõ cửa. Hơn mười gương mặt hốc hác đầu tóc bù xù áo quần xộc xệch ào ra. Tôi đứng trân trối giữa những con người quen quen lạ lạ cùng những câu hỏi thăm tíu tít: Ôi, anh Vững! Anh không nhận ra em à? Tôi gật phứa: Nhớ rồi, nhớ rồi… nhưng quả thật tôi chẳng nhớ đứa nào. Ngày tôi đi lính, chúng còn là những cô bé ốm o gầy nhẳng, vậy mà bây giờ... Chúng em nghe nói anh vào cứ mong ngày mong đêm. Thầy u em ở nhà thế nào? Con Chút nhà em có thi đỗ cấp ba không? A, bọn em dặn người nhà gửi tương, anh có mang vào cho bọn em không đấy?...Dứt lời, cô gái nhào ngay tới nhấc ba lô của tôi và buột miệng kêu “sao nhẹ thế?”.
Nhìn những gương mặt tiu nghỉu, tôi ân hận vô chừng. Tôi chưa hình dung hết sự khát nhớ món ăn dân dã của những người xa quê nên đã lẳng bao tải đựng tương trước lúc lên tàu cho nhẹ gánh.
Tôi tránh ánh mắt các cô gái bằng cách nhìn lảng vào phòng. Căn phòng tồi tàn, áo quần giăng mắc tứ tung. Hai năm quân ngũ, đời lính đã dạy cho tôi tính ngăn nắp. Tôi ghét sự luộm thuộm. Nhưng tôi không thể đứng mãi bên ngoài, đành chui vào căn phòng bùng nhùng dây dợ. Những cô gái hỏi han quáng quàng thêm dăm câu rồi tất bật đi làm. Khu nhà thoắt trở nên ắng lặng. Dịu ngồi đắn đo hồi lâu rồi ngước lên dè dặt:
“Anh sẽ làm gì để sống?”
Tôi tự ái:
“Tất nhiên anh sẽ kiếm việc để làm, không ăn bám em đâu mà lo.”.
Dịu vội thanh minh:
“Là em muốn nói tới công việc lâu dài...”.
Dịu bối rối đứng lên chạy trốn câu chuyện nhạy cảm đáng ra chưa nên nói vào lúc này. Em nấu nhanh cho tôi bát mì và chỉ ngồi lặng ngắm tôi ăn. Đợi tôi buông đũa, Dịu rụt rè:
“Anh...anh chuẩn bị đi theo em đến chỗ chú Cuông. Ở đây…không tiện.”.
Tôi mím môi thở dài. Gặp nhau chưa nói được câu nào âu yếm đã phải xách gói ra đi.
Chú Cuông cũng trọ ở một khu ổ chuột quanh khu chế xuất. Những câu hỏi thăm da diết của chú khiến tôi lúng túng. Năm đứa con chú học hành èo uột, đúp lên đúp xuống. Vợ chú kiệt sức lo toan giờ đang nằm bệt trong bệnh viện. Vậy mà tôi phải dằn lòng nói dối theo lời dặn của thím Cuông. Nghe những thông tin an bình về gia đình, gương mặt khắc khổ của chú mừng ánh lên giây lát.
“Cứ nghỉ ngơi mấy ngày cho khoẻ, rồi chú sẽ kiếm việc cho”.
Nghe chú nói, tôi thấy ngại ngần. Chú đang phải gánh vác cái trách nhiệm nặng nề đối với hơn trăm con em người làng bỏ đồng ruộng theo chú vào đây tính cuộc đổi đời. Tôi không muốn là gánh nặng tiếp theo chất lên đôi vai gầy của chú.
Hằng ngày tôi cần mẫn đọc dò từng số báo đặng tìm một cơ may. Những tờ báo đặc tin cướp –giết- hiếp khiến tôi lo sợ phập phồng. Tôi thấy xung quanh ẩn đầy hiểm hoạ. Không đêm nào tôi ngủ cho tròn giấc.
Dịu đến thăm, không đả động gì đến chuyện việc làm của tôi nhưng mặt đã lộ rõ nét băn khoăn. Tối ấy chú Cuông về reo to từ cửa:
“Tuyển nhân viên bảo vệ. Yêu cầu nam giới, tuổi không quá ba mươi, sức khoẻ tốt. Ưu tiên bộ đội xuất ngũ?”. Tôi vồ lấy tờ thông báo đọc ngấu nghiến. Dịu ghé đầu vào đọc cùng tôi rồi trút ra một hơi thở dài nhẹ nhõm.
“Thế là hai đứa bay được làm việc cạnh nhau, rồi cưới nhau, thuê nhà ở riêng, chẳng còn phải đứa ở đằng đông đứa dông đằng tây như mấy hôm nay nữa.”.
Tôi tức tốc làm hồ sơ. Công ty may yêu cầu tôi bỏ tiền đi học ba tháng nghiệp vụ ở công ty vệ sỹ. Chuyện vặt. Mấy năm quân ngũ lăn lộn các kiểu thao trường tôi còn chẳng ngán nữa là.
Tôi vốn lính đặc công, vào học trường vệ sỹ còn được mời làm trợ giảng trong các môn bắn súng và võ thuật. Khoa mục khó nhất đối với tôi đó là môn thám tử. Xã hội văn minh, lắm người bỏ tiền ra thuê thám tử theo dõi vợ chồng mình. Tôi phải học cách đặt máy nghe lén, cách chụp ảnh trộm từ xa, cách bám đuôi đối tượng để lần dấu vết tới những ổ chuồn chuồn…Tôi chưa có kinh nghiệm yêu đương, những bài tập dạng này khiến tôi lắm phen khốn khổ. Nhưng vì tương lai, tôi phải cố học cho qua.
Ngày bế giảng, trong đầu có một con chim đang đập cánh loạn xạ mong vù về với Dịu. Vậy mà cứ phải chồn chân đợi, đợi mãi đến khi có một chiếc xe hơi loè loẹt đi vào. Chiếc xe có đội bảo vệ mặc đồng phục cưỡi môtô phân khối lớn đi kèm. Ban đầu tôi ngỡ là đoàn xe của một chính khách, sau mới biết đó là ca sỹ Linh Trường. Chàng ca sỹ mặc áo chim cò, kính đen nghiêng ngó từ đầu đến cuối hàng quân. Bất ngờ chàng ngây người trước tôi. Tôi được tách hàng để gặp riêng chàng. Anh có đồng ý làm việc với tôi không? Nhiệm vụ của anh là kèm sát bên tôi, đóng và mở cửa xe cho tôi…Nghe những điều kiện này máu sĩ trong tôi hơi gợn, nhưng mức lương 5 triệu quá hấp dẫn khiến tôi nhè nhẹ gật đầu.
Dịu nhìn tôi thảng thốt:
“Sao anh không về công ty với em, lương thấp một chút nhưng chúng mình được ở gần nhau?”.
Tôi tỏ vẻ sáng suốt:
“Để anh đi làm cho nó kiếm tiền cưới, thế mới gần nhau mãi mãi.”.
Nhận tháng lương đầu tiên, tôi quyết thuê một phòng trọ riêng cho Dịu ở. Tôi không muốn Dịu phải thở thứ không khí thối hoăng nơi con kênh nước đen lềnh bềnh rác rưởi. Tôi muốn hằng đêm Dịu không phải nhìn cảnh những con nghiện tụt quần quá gối chọc xi lạnh tiêm thuốc như chỗ không người. Tôi không muốn Dịu phải nhắm mắt bịt tai mỗi khi đi qua khu bãi rác có những đôi gái trai phì phò nhấp nhổm. Việc làm của tôi đã dấy lên dị nghị của những người làng. Nhưng tôi bỏ ngoài tai. Tôi suốt ngày đêm phải cặp kè bên chàng ca sĩ, có đâu chuyện thuê phòng riêng để tiện hẹn hò. Tôi chỉ băn khoăn đường đi làm của Dịu phải đi qua một khu sân bay cũ vắng vẻ. Nhưng Dịu đã cười giơ trước mắt tôi chiếc kéo may to, nhọn hoắt: Đố đứa nào làm gì được em!
Tôi an tâm ruổi rong cùng ca sỹ Linh Trường theo những show biểu diễn. Buổi chiều tôi đi mua hoa ở các sạp lẻ ngoài đường phát cho người hâm mộ, để đến đêm, khi những người này nhào lên sân khấu tặng hoa tôi lại giang tay ẩy họ bắn ra. Mỗi khi Linh Trường nổi hứng bất thần nhảy xuống giao lưu cùng khán giả, tôi lại toát mồ hôi làm lá chắn. Tiếng tăm đã nổi lắm rồi, nhưng Linh Trường chưa hài lòng. Chàng tổ chức liveshow. Băng rôn căng rợp trời, tờ rơi bay tung phố. Cả một sân vận động ngìn ngịt fan hâm mộ múa may hú hét. Khốn nạn cho chúng tôi, Linh Trường mới hát được một bài, trời chơi khăm cho mưa xối bất thần. Chú gà trống bị nhúng nước, Linh Trường vùng giãy tung toé trên sân khấu rồi hầm hầm nhảy lên xe lao về nhà. Đội vệ sỹ ngơ ngác phi môtô tìm táo tác. Tôi là cận vệ, chẳng có môtô phải vừa chạy bộ, vừa bắt xe ôm đuổi theo đến hộc cả hơi. Linh Trường lao vào nhà dập cửa đánh rầm. Tôi ngơ ngác sững lại dưới bức tượng Linh Trường ngạo nghễ nơi tiền sảnh. Bụng đói cật rét, răng tôi đánh vào nhau lớp cớp. Nhưng tôi không dám đi đâu. Khuya, Linh Trường ra gọi tôi vào. Lần đầu tiên tôi được vào phòng ngủ của chàng. Căn phòng nguy nga như cung điện, có ngai, có sập, có cả cặp ngà voi uy nghi lộng lẫy. Tôi sợ sệt thu mình đứng khoanh tay chờ sai bảo.
Linh Trường khóc, nước mắt nước mũi lã chã lòng thòng. Chàng tiếc đêm diễn mười ngàn khán giả. Khóc chán, chàng sai tôi đi lấy rượu. Hầm rượu của chàng có hàng trăm loại. Rượu Tây rượu Tàu tầng tầng lớp lớp. Rượu tay gấu, pín hổ, nhung hươu… ngâm kỳ hoa dị thảo thẩu bé thẩu to. Uống đi! Mày uống với tao! Kiếp cầm ca bạc lắm mày ơi! Tôi rón rén đón ly rượu chàng đưa. Tôi ngẫm nghĩ nhiều về điều chàng nói. Đời chàng mà còn kêu bạc thì đời tôi gọi là gì? Đời tôi mới đáng gọi là đen bạc. Tôi sinh ở ruộng đồng. Nhưng ruộng đồng không cưu mang nổi tôi. Ăn bữa no bữa đói, học buổi được buổi chăng. Cổng trường đại học quá cao to mà hạt lúa củ khoai thì bé, bao hoài bão đành chôn kín đáy ba lô để giờ đây làm kiếp đầu sai… Thế nên tôi có quyền uống, có quyền say. Ban đầu tôi còn dè dặt, sau tôi đã chủ động nhập cuộc cùng chàng ca sỹ. Khi say người ta muốn nói nhiều, muốn đập phá. Chàng ca sỹ ném thẳng chai Napoléon đang uống dở vào bức tranh sơn mài cỡ lớn trên tường còn tôi chỉ biết giáng nắm đấm xuống sàn thảm hoa huỳnh huỵch. Chàng ca sỹ lại khóc. Khóc chán chàng lại hát. Giọng hát nhừa nhựa lèo phèo khiến tôi bật cười. Chàng chửi, mày cười gì? Tôi không thèm đáp mà cũng cất giọng. Tôi có mỗi bài tủ Tình ca. Nghe tôi hát, Linh Trường trợn mắt: Giọng mày… quá tốt! Tenol. Nam cao. Nhưng thứ nhạc mày hát… là loại… nhạc chùa. Ca sỹ nổi tiếng ngoài Hà Nội… vào đây hát một show chỉ được… hai trăm ngàn. Còn tao, ha ha, ít nhất cũng… hai mươi triệu. Mẹ kiếp, những gì bọn nhạc sỹ… chê là sến thì dân chúng cứ như mê như man. Bọn nhà báo chê tao là ca sỹ hát… nhạc rẻ tiền. Đ. mẹ, nhưng tao đếch cần. Tao hát nhạc rẻ tiền để mua được …những thứ đắt tiền. Mày thấy chưa? Chàng ca sỹ khoát một vòng rộng như bao trùm thế giới: Tao có thiếu gì đâu? Tao chỉ thiếu mỗi… tình yêu!
Tôi duôi cổ ngắm Linh Trường. Tôi đã vô cùng vất vả trước hàng ngàn cô gái như những cánh bướm đêm sặc sỡ lao vào chàng như lao vào ánh lửa cơ mà? Giờ ngắm cặp mắt sương khói của Linh Trường trong căn phòng hoang vu, tôi lờ mờ cảm thấy chàng cô đơn thật sự. Chúng tôi uống. Uống triền miên. Trong xác thân tã tượi bởi rượu, đầu óc tôi đã phiêu diêu không phương hướng. Tôi đã buông xuôi mặc cho Linh Trường cuốn tôi vào một trò chơi rồ dại trái lẽ thông thường với một niềm đam mê không bao giờ thoả mãn. Khi tôi tỉnh dậy giữa ngổn ngang nhầy nhụa, điều đầu tiên tôi thấy được là cảm giác rát bỏng nơi bụng dưới. Tôi chồm dậy ôm cái con trai bị tuốt vỏ chuối đỏ lòm, khóc nức nở. Tôi mặc vội áo quần tháo chạy khỏi ngôi nhà ma quái...
“Sao lại thế này hở anh?”.
Dịu cầm chặt nắm bông băng trên tay, mắt ngấn nước hỏi tôi bằng cái giọng lạc đi vì sợ.
“Anh đã làm gì? Làm gì?”.
Hàng dây câu hỏi lặp đi lặp lại khiến tôi bẽ bàng tủi hổ. Tôi nằm khóc lặng lẽ, mặc Dịu nhẹ nhàng ngượng nghịu nâng niu. Bất ngờ Dịu ngừng tay, giọng thoắt rắn đanh:
“Em hiểu rồi! Em có tiếc anh đâu... Sao anh không nói với em?!”.
Cổ tôi tắc nghẹn trước câu hỏi của em. Ừ, em có tiếc tôi đâu. Nhưng chúng tôi sinh ra nơi ruộng đồng. Cánh đồng đã mở cửa cho chúng tôi đến với nhau nhưng cũng dựng lên một bức tường luân lý vững chắc nơi thôn dã. Từ ngày yêu nhau, sự gần gụi lớn nhất giữa chúng tôi là ngồi sát bên nhau trên triền đê trước ngày tôi nhập ngũ. Đêm trăng ngần ngận. Những con sóng dát vàng nhảy múa nhấp nhánh dưới dòng sông. Chúng tôi nói những câu vu vơ không đầu không cuối, bàn tay vô ý vặt trụi cả một đám cỏ xung quanh. Tôi phải hít những hơi rất sâu mới có đủ can đảm để ôm choàng qua vai em. Mấy năm quân ngũ, đêm nào tôi cũng mơ đến tấm thân mềm mại run bắn trong tay tôi và chính tôi cũng phát run như giẽ. Cặp môi trai tân ngờ nghệch của tôi đến bây giờ còn ngọt mãi dư vị của chiếc hôn vội trên bờ đê trăng sáng…
Giờ cơ sự thế này...tôi biết Dịu oán tôi nhiều lắm. Tôi không biết thanh minh bằng cách nào, chỉ cúi đầu mong em tha lỗi. Cuối cùng thì Dịu cũng mềm lòng:
“Anh phải về công ty với em! Lương em một tháng sáu trăm đủ để hai đứa mình sống tằn tiện. Lương anh sẽ để giành ra, một năm sẽ đủ tiền làm đám cưới.”.
Tôi thở phào thoát tội, vui vẻ khoác đồng phục nhân viên bảo vệ. Hàng ngày tôi đứng trước cổng xét giấy tờ những người đến công ty và theo dõi những công nhân tan ca ra về xem có điều gì nghi hoặc. Sáng tôi chở Dịu đến. Trưa được ăn cùng mâm. Chỉ có buổi tối...tôi phải về ngủ với chú Cuông. Mỗi chiều tan ca, bao giờ tôi cũng nhận ra em trước tiên nhờ ánh mắt cháy sáng giữa muôn dáng người bã bượi.
Được nửa năm, bỗng tôi hốt hoảng thấy ánh mắt Dịu cứ tối dần. Bác sỹ kết luận mắt em suy giảm thị lực. Tôi chăm sóc em bằng mấy gói dầu cá rẻ tiền cùng những lời dỗ vụng về. Tôi khuyên em nghỉ ngơi nhưng Dịu lắc đầu. Môi em mím lại và đôi mắt cố sáng lên yếu ớt. Tôi mơ hồ có chuyện gì đó nghiêm trọng sắp xảy ra nên gặng hỏi. Dịu ấp úng định nói gì đó với tôi nhưng lại thôi. Tôi cũng gặng hỏi chú Cuông và những công nhân trong nhà máy, nhưng ai cũng úp mở nói rằng sau này anh sẽ biết.
Và ngày ấy đã đến. Công nhân vừa vào ca mấy phút bỗng còi nhà máy hú lên gắt gỏng. Không phải tiếng còi tầm, mà là tiếng còi báo động. Máy bộ đàm của tôi réo bỏng từng hồi. Giám đốc Hun Suk quát nạt om sòm trong điện thoại. Công nhân đình công! Toàn bộ bảo vệ trong nhà máy ra dẹp trật tự! Tôi lao về phía đám đông và giật thót người. Đứng hàng đầu đám đình công là chú Cuông và Dịu. Mặt em đanh lại. Tay em nắm chặt giơ cao khẩu hiệu. Mắt em cháy sáng giữa biển người sôi sục. Tôi đứng ngay đơ cùng đội bảo vệ tạo thành một hàng rào an toàn để giám đốc Hun Suk điều đình. Tăng lương! Tăng lương! Và tăng lương! Đó là yêu sách duy nhất của công nhân. Không! Không! Và không! Đó là lập trường kiên định của giám đốc công ty may Hun Suk. Hàng tràng khẩu hiệu của công nhân hô to như sấm dậy cùng những nắm đấm vung lên trời. Trước ý chí của ngàn con người, tôi thấy run sợ, bàn chân cơ hồ không vững. Vậy mà giám đốc Hun Suk mặt không biến sắc:
“Các bạn hãy trở về làm việc nếu không muốn bị sa thải! Còn muốn tăng lương, xin mời các bạn tăng ca!”.
Giám đốc chém tay một nhát lệnh cho đội bảo vệ rồi quay lưng. Đám đông nhào lên nhưng đã bị chúng tôi cản lại. Trong một nỗ lực vô tình, chiếc gậy của tôi đã gạt trúng vào mặt chú Cuông. Tôi vội quay mặt đi rất nhanh nhưng cũng đã kịp nhìn thấy ánh mắt chú toé lên.
Tối, tôi về nhà đã thấy chú Cuông nằm vắt tay lên trán. Tôi len lén như người mắc lỗi, để nguyên quần áo leo lên giường. Im lặng đến tức thở. Không chịu nổi, tôi lên tiếng trước:
“Chú...cháu xin lỗi chú! Cháu phải làm theo phận sự...
Chú Cuông vẫn nằm im. Tôi cố gặng:
“Không còn cách nào khác hơn đình công hở chú?”
Chú Cuông bâng quơ:
“Khổ thân chúng nó! Đang tuổi bay nhảy, vậy mà phải cắm mặt xuống bàn máy suốt ngày, về đến nhà là lăn ra ngủ. Đầu óc cứ mụ mị cả đi, chẳng còn biết đến cuộc sống bên ngoài. Cứ đà này thì ế chồng cả nút!”.
Ba ngày đình công, nhà máy hắt hiu. Giám đốc Hun Suk mặt mày đăm chiêu, khẩu khí đã có phần dao động. Ai cũng nghĩ không chóng thì chầy ông phải nhượng bộ. Nhưng ông trời đã đứng về phe kẻ mạnh. Tin bão lớn quét qua đồng bằng Bắc bộ giữa mùa lúa trổ như một tiếng sét rụng rời. Mùa màng ngập lút trong nước trắng. Chị em công nhân ôm nhau khóc ngất như một đồng lúa nghẹn đòng. Khóc chán, buông ra hỏi nhau ra ngơ ngác: Phải làm gì bây giờ? Phải trở lại làm việc thôi. Phải làm việc để có tiền gửi về nhà cứu đói!
Dịu khăng khăng đăng ký làm thêm ca đêm mặc tôi hết lời khuyên can. Chị em đều làm thêm, em ở nhà sao được. Đêm đêm nhìn chị em vẹo xiêu đạp xe về nhà trọ, tôi cảm thấy ngượng ngùng. Chúng tôi dầu sao cũng còn có đôi có cặp ríu ít đón đưa.
Nhưng hôm ấy tôi phải trực đêm không đưa em về được. Tôi đứng gác mà lòng nóng như có lửa. Tôi linh cảm có chuyện chẳng lành nên tức tốc bổ về. Tôi chết sững trước một đám đông lố nhố. Dịu ngồi bó gối bất động trên giường, đồng phục công nhân rách tướp vương những vệt máu lem nhem. Em nhìn tôi bằng đôi mắt khô khốc vô hồn như nhìn người xa lạ. Mấy người công an đang lập biên bản, lấy lời khai nhân chứng. Tôi nhào vào ôm vai Dịu lay lắc dồn hỏi: Em làm sao thế này? Làm sao thế này? Đám đông nhìn tôi hỏi nhau, người này là ai? Tôi gào to: Tôi là chồng cô ấy! Là chồng cô ấy! Đám đông nhìn tôi ghê tởm: Chồng? Chồng mà để vợ đêm hôm khuya khoắt đi về một mình. Thứ chồng ấy vứt cho chó nó gặm! Qua những lời tường thuật ồn ào, tôi đau đớn hình dung ra sự việc. Sáu đứa sinh viên con đại gia các tỉnh thuê nhà ở “khu quí tộc” đã tụ tập nhau ăn nhậu. Say, chúng rửng mỡ hò nhau phi xe ra đường băng đua tốc độ. Nhìn thấy Dịu đạp xe về một mình, chúng quây tròn lấy em rồi rú ga cho những chiếc xe phân khối lớn dựng đầu như một bầy ngựa vía. Phút chốc, Dịu biến thành con thỏ giữa bầy sói hoang bất trị. Chiếc kéo may trong tay Dịu chỉ là thứ trò chơi doạ trẻ con...
Tôi bóp chặt hai nắm tay nghiến răng gầm lên một tiếng nhảy phắt ra ngoài lao về phía sân bay. Nhưng ngay sau sự việc xảy ra, công an và dân phòng đã ập tới khu nhà của đám sinh viên con giời còng tay giải đi hết thảy.
Công an mời chúng tôi lên đồn làm việc. Họ yêu cầu Dịu tường trình sự việc. Dịu cầm bút ngồi câm lặng hàng giờ. Họ yêu cầu đưa Dịu đi giám định y khoa. Dịu lả đi trong tay tôi như một tàu lá héo. Ngồi ôm thân hình lạnh ngắt của em, tôi có cảm giác sợ hãi là đang ôm một thi thể đưa vào nhà xác. Mãi gần sáng, chúng tôi mới được đưa về nhà. Chúng tôi chưa kịp hoàn hồn đã có một người đàn bà mặt mày bự phấn đến tìm. Bà tự giới thiệu là mẹ của một trong sáu con dê cỏn. Không cần úp mở, bà đặt xuống bàn một cục tiền vuông thành sắc cạnh:
“Đằng nào sự việc cũng xảy ra rồi, gia đình chúng tôi có mười triệu gọi là bồi thường...sức khoẻ!”.
Tôi chưa biết mở lời thế nào thì nhanh như cắt Dịu chộp cục tiền ném thẳng vào mặt người đàn bà cùng tiếng hét:
“Bà cút đi! Một đời con gái của tôi...bà biết không?!”.
Người đàn bà bất ngờ trước phản ứng dữ dằn nhặt gói tiền sợ sệt bước lùi ra cửa. Nhưng rất nhanh, bà lấy lại tư thế liếc xéo tôi rồi bĩu môi dài giọng: “Đời...con ga..a.a.ái!”. Bà quay lưng phủi đít. Chiếc xe hơi bóng lộn vù ga vút đi phụt lại một luồng hơi xăng cay mắt.
Hôm sau, tôi và Dịu lại được mời lên đồn. Ông thiếu tá công an tiếp chúng tôi niềm nở:
“Anh chị nên nghĩ lại. Làm to ra thì anh chị chẳng lợi gì, mà còn tốn thời gian.”.
Tôi vặc ngay:
“Sao lại không được gì? Chúng tôi được sự công bằng chứ! Các ông cứ theo pháp luật mà làm! Không có hoà giải hay bãi bãi nại gì hết!”.
Tôi kéo tay Dịu chạy băng băng qua sân đồn. Một thiếu uý công an mặt còn trẻ măng nắm lấy tôi nói nhỏ:
“Anh chị cứ làm tới cùng, có chúng tôi bên cạnh, đừng sợ gì cả!”.
Tôi gật đầu thay cho lời cám ơn. Vừa lúc đó tôi nhác thấy bóng người đàn bà hôm qua liếc xéo anh công an trẻ rồi nói vọng vào trong phòng giam:
“Con cứ yên tâm, chúng nó không làm gì được con đâu!”.
Đầu óc tôi tái tê một câu hỏi: Chúng nó ở đây là những ai?
Suốt một tuần, tôi nằm ôm Dịu vỗ về. Dịu khóc. Từ ngày yêu nhau, đây là lần đầu tiên Dịu khóc với tôi:
“Thế là em chẳng còn gì cho anh...”.
Câu nói trong vũng nước mắt tê buốt như nhúng điện của em khiến lòng tôi chết điếng. Nhưng tôi đã nhanh chóng vượt qua. Tôi cuống quít hôn lên đôi mắt đầm đìa nước dỗ dành:
“Em đừng nói thế! Với anh, em vẫn là người trong trắng.”.
Dịu khe khẽ lắc đầu. Tôi nói:
“Em đừng nghĩ ngợi nhiều. Anh cũng đã từng hư hỏng…”.
Dịu nhìn thẳng vào mắt tôi:
“Anh là đàn ông. Anh có hư hỏng mấy thì em cũng chỉ buồn không dám trách. Còn em...Em thế này, anh có còn yêu được em không?”.
Tôi không biết trả lời em thế nào. Mọi lời nói lúc này đều vô nghĩa. Tôi từ từ siết em vào lòng. Tôi phải yêu em! Phải yêu em! Tôi phải yêu em ngay lúc này mới mong em nhanh qua cơn choáng sốc. Lý trí thúc giục tôi như vậy trong khi lòng tôi vẫn rối bời. Những vết cào cấu, vết răng cắn của lũ súc sinh vẫn hằn trên cơ thể em. Em nằm yên, đôi mắt sáng mở to nhìn xoáy vào từng li biểu hiện trên gương mặt của tôi. Nước mắt tôi thon thót nhỏ xuống mặt em, nhập vào nước mắt của em cùng chảy chan hoà. Tôi yêu em gượng nhẹ, mơn man như ngọn gió ve vuốt cánh đồng dập nát sau trận bão. Ban đầu em buông xuôi vô cảm, nhưng rồi những làn sóng rung động từ sâu thẳm trong em đã nhè nhẹ dâng dần. Em đưa cả hai bàn tay sục vào mái tóc bù rối của tôi. Mười đầu ngón tay em run rẩy như mười điện cực truyền qua tôi niềm hạnh phúc đớn đau tê dại… Đêm ấy tôi ôm em ngủ và ngập trong một giấc mơ kỳ lạ: Giữa dòng nước đen ngòm lềnh bềnh rác rưởi và những bộ xương cá trắng rữa, có những bông súng tím cứng cỏi kiêu hãnh ngoi lên toả ra một làn hương thanh khiết...
Mấy hôm sau, Dịu là người chủ động bảo tôi:
“Chúng mình phải đi làm thôi, ở nhà thế này thì chết đói.”.
Tôi ngạc nhiên:
“Ơ kìa! Phải đợi ra toà giải quyết xong xuôi vụ kia đã chứ?”.
“Em không ra toà đâu. Em…em...sợ lắm.”.
“Em sợ gì nào? Em nói đi! Vì sao em phải sợ?”.
Dịu không trả lời, chỉ một mực lắc đầu. Nhưng nhìn vào đôi mắt lấp lánh những tia hồi quang, tôi đã hiểu. Dịu không muốn ra toà. Chuyện đau lòng này chúng tôi đang giấu kín, chú Cuông và chị em công nhân cùng làng chưa biết. Ra toà... Mọi chuyện vỡ lở... Chúng tôi là người nhà quê…Thôi quên đi. Hãy coi chuyện vừa qua như một cơn ác mộng. Chúng mình còn phải sống, phải vươn lên...
Tôi lại đóng vai một tên lính canh hàng ngày đứng nhìn dòng công nhân trong đồng phục xám xanh lũ lượt chui vào nhà máy. Dịu của tôi ngày càng xanh xao, thân người quắt lại. Tôi bắt em bồi bổ cùng câu nói đùa: Ăn nhiều vào! Người như que củi thế này thì đẻ làm sao? Dịu cười: Chúng mình đã tiết kiệm được khá rồi anh ạ. Tết này chúng mình sẽ về thăm quê. Em sẽ biếu bố mẹ hai bên mỗi nhà một món, còn lại chúng mình sẽ làm đám cưới!
Có cần phải làm đám cưới nữa không, khi chúng tôi đã thuộc về nhau trọn vẹn? Nhưng chúng tôi là con của nông dân, phải tuân theo những phép tắc ông bà để lại. Chúng tôi bàn nhau sẽ làm hai đám cưới. Trước khi đưa nhau về làm một đám cưới ấm cúng giữa quê nhà để họ hàng hai bên công nhận, chúng tôi sẽ tổ chức một đám cưới ở đây để những người đồng hương nhọc nhằn có dịp hưởng một ngày vui. Chúng tôi sẽ nhờ chú Cuông làm chủ hôn. Chú vừa là đại diện quê hương và cũng coi như người đại diện cho cơ quan xí nghiệp, bởi chú là quản đốc phụ trách hơn trăm công nhân là những cô gái làng tôi. Chúng tôi đã in thiếp cưới, đã đặt cỗ nhà hàng, đã chuẩn bị đưa nhau ra phường đăng ký. Chúng tôi đếm ngược từng ngày mong nhanh đến hôm được lồng vào ngón tay nhau chiếc nhẫn cưới thiêng liêng.
Nhưng đám cưới của chúng tôi đã phải đình lại chưa biết đến bao giờ.
Tôi đang đứng gác thì giám đốc Hun Suk cho gọi tôi vào. Phòng điều hành la liệt những màn hình lớn nhỏ. Có một nam công nhân gầy gò bị bắt đứng úp mặt vào tường. Tôi giật thót người bởi nhận ra đó là chú Cuông. Tôi chưa kịp mở lời thì Hun Suk đã hất hàm:
“Nó là thằng ăn cắp! Mày hãy đánh nó cho tao!”.
Tôi chết sững không còn tin vào tai của mình. Tôi đã từng chứng kiến cái Thoan, cái Na bị phạt chạy một trăm vòng quanh nhà ăn đến nỗi ngất xỉu chỉ vì tội mò xuống nhà bếp uống nước trong giờ làm việc. Tôi cũng đã từng nghe chuyện cái Tích, cái Chắt bị đưa vào phòng lột truồng để khám xét vì nghi giấu vải trong người…Những trò nhục mạ ông giám đốc ngoại quốc này áp dụng để trừng phạt “đám công nhân thất học nhà quê” khiến tôi rất xấu hổ nhưng không có cách nào bênh vực. Nhưng đối với chú Cuông, tôi không thể tin chú là người ăn cắp. Người nhà quê hay tọc mạch nhưng nhờ cái tính ấy mà hiểu người trong làng đến từng chân tơ kẽ tóc. Tôi hiểu chú Cuông dẫu có chết đói cũng không thể làm chuyện ấy.
Thấy tôi có ý ngờ vực, giám đốc Hun Suk nhếch mép ngồi vào máy tính và nhấp chuột. Trên màn hình, một bóng nam công nhân lờ mờ với những việc làm cũng hết sức lờ mờ. Ở góc quay cố định của camera tự động, khó mà phân biệt được rõ mặt và hành vi của từng công nhân.
“Nó thông đồng với công nhân ăn cắp của tao hai cuộn vải”.
Lời giải thích như một lời kết tội của Hun Suk khiến tôi chết lặng.
“Đánh đi!”.
Tôi lại giật thót người khi nghe giục. Tôi ngập ngừng bước lại phía chú Cuông.
“Chú!”
Chú Cuông quay mặt lại. Một khuôn mặt khắc khổ nhưng rắn rỏi.
“Chú ăn cắp thật à?”.
Chú Cuông lắc đầu nhẹ nhưng dứt khoát.
“Đánh đi! Mày không đánh tao sẽ đuổi mày!”.
Giọng ngoại quốc nói tiếng Việt lơ lớ của Hun Suk như một tiếng gầm gừ. Chú Cuông nhìn tôi thông cảm:
“Anh cứ đánh đi! Không sao đâu. Chú chịu được mà...”.
Tôi ghé sát tai chú Cuông nói nhỏ:
“Cháu không tin là chú ăn cắp. Việc gì chú phải chịu đòn?”.
Chú Cuông nói nhanh:
“Anh cứ đánh đi! Hun Suk nó chỉ muốn đánh để dằn mặt chú thôi. Nếu chú không nhận, nó doạ sẽ đuổi hết công nhân trong phân xưởng.”.
“Đánh đi!”.
Tiếng thét của Hun Suk khiến tôi choàng tỉnh. Lúc này thì tôi đã hiểu sự tình. Chú Cuông chịu đòn không phải để giữ miếng ăn cho riêng mình, mà cho cả trăm cô gái làng tôi chú thương quí như con. Và tôi, tôi phải đánh chú cũng không vì miếng ăn của riêng tôi.
Tôi chớp mắt nhanh ngầm thay một lời xin lỗi và giơ gậy cao su. Nhát quật làm tung lên một đám bụi vải nơi áo quần chú Cuông, gây lên một tiếng bộp rất to. Tôi đã cố ý đánh sướt theo mông quần, vậy mà tôi vẫn cảm thấy mông mình đau oằn oại. Đánh! Đánh! Đánh! Sau mỗi câu thúc giục của Hun Suk, tôi lại vung tay. Chiếc gậy cao su mỗi lúc một nặng đến nỗi tôi không thể giơ lên nổi.
“Đồ chó đẻ!”
Sau tiếng chửi, Hun Suk nhảy tới giật phắt chiếc gậy vung lên bổ xuống. Những tiếng quật chắc nịch dội vào da thịt chú Cuông, văng ra, xoáy vào tai tôi, buốt nhói. Tôi đứng giương mắt ếch nhìn ông chủ đánh đập người đồng hương mà không biết làm gì. Chú Cuông ban đầu còn nghiến răng chịu trận, sau đau quá không nén được đã bật ra tiếng chửi. Như một con trâu mộng bị ong châm húc trả thù bờ đất, Hun Suk vén tay áo, giật tung cà vạt nghiến răng đập túi bụi. Càng đánh càng say. Càng đánh càng khoái cảm. Chú Cuông đã không đứng vững được rồi. Chú đổ uỵch xuống sàn như một cái xác vô hồn. Hun Suk lúc này đã lên cơn điên dại. Hắn la lên choe choé và vứt gậy. Hắn vừa đấm vừa đạp. Trước mắt hắn bây giờ không phải là một công nhân, mà là một biển người cứng đầu xúi nhau đòi yêu sách. Hắn muốn giày xéo, muốn đập nát tất cả những chống đối. Hắn nhảy lên người chú Cuông dùng cái cơ thể nặng hơn một tạ dận điên cuồng. Tai tôi ù đi khi nghe những tiếng hự đau đớn. Mồ hôi tôi túa đầm đìa và răng tôi nghiến lại. Mắt tôi hoa lên khi nhìn thấy từ miệng chú Cuông ộc ra một thứ cơm phân máu trắng đỏ vàng lẫn lộn. Sự chịu đựng của tôi đã đến đỉnh điểm. Bao nhiêu máu của tôi đã dồn tất cả về lồng ngực. Dòng máu nông dân trong lồng ngực căng bức muốn nổ tung của tôi đòi lên tiếng. Trong khoảnh khắc nhanh bằng môt phần nghìn giây, tôi đã hành động. Tôi là thằng con trai hai bốn tuổi. Ruộng đồng đã cho tôi sức mạnh. Đời lính đã dạy tôi cách tấn công. Bằng một thế võ áp sát, tôi giơ tay trái túm tóc Hun Suk giật mạnh, tay phải gập nhanh thành chiếc cùi chỏ chắc nhọn dộng thẳng vào khuôn mặt đỏ phực vừa mới ngửa ra. Tôi nghe một tiếng rú đau đớn cùng tiếng ngã như vật thịt. Tôi nhào tới ôm xốc chú Cuông chạy ra đường vẫy một chiếc taxi...
Tôi không nhớ mình đã làm những gì. Chỉ khi thấy Dịu cùng những cô gái làng tôi ào tới xôn xao tôi mới xực nhớ mình đang đứng gục đầu trước phòng cấp cứu trong bệnh viện. Người tôi bải hoải và rỗng rễnh. Tôi mừng rỡ khi vị bác sỹ thò đầu ra gọi tôi vào bế chú lên băng ca trở về phòng hồi sức. Tôi luồn tay dưới gáy và chân chú Cuông toan bế lên, nhưng tôi không tài nào nâng nổi. Vị bác sỹ túm cánh tay tôi lên xem. Cặp mắt ông trợn tròn kinh ngạc. Tay anh làm sao thế này? Tôi giơ tay lên xem và gai người khi thấy hai chiếc răng của Hun Suk cắm ngập vào cùi chỏ…
Tôi bã thã trở về nhà trọ nằm co quắp trong cơn sốt run người. Dịu vừa rửa vết thương cho tôi, vừa nhìn tôi bằng ánh mắt lo lắng khẩn cầu:
“Anh trốn đi, em van anh đấy!”.
Không, tôi không việc gì phải trốn. Tôi đang đợi chiếc còng số 8 bập vào tay để được đứng trước một phiên toà nói những điều bức xúc.
“Anh phải trốn ngay đi. Họ sẽ thuê người giết anh mất, anh ơi!”.
Câu nói làm tôi hoang mang suy tính. Tôi không sợ đối diện với pháp luật. Nhưng tôi là con nông dân, tôi sẽ thua luật rừng trong bóng tối.
Dịu đã gấp tất cả quần áo vào ba lô cho tôi và giục:
Người đàn bà đợi mưa
Truyện ngắn củaĐỖ TIẾN THỤY
_____________________________________
Nửa đêm về sáng, trời chuyển mình bức bối. Chị thức giấc vì cảm thấy ngực mình căng tức, rạo rực đến khó thở. Sợ con giật mình, chị rón rén bước ra mở cửa sổ. Đêm cao nguyên vật vã. Bầu trời loang lổ mây, khoảng đen khoảng sáng. Thoảng như có hơi nước? Mưa, mưa đi! Trong đời mình, chưa bao giờ chị khát mưa như lúc này. Chị khát cho mình, khát cho vườn cây với ngàn vạn nụ hoa căng nhức đang héo úa. Chỉ cần một trận mưa thôi là ngày mai những nụ hoa kia sẽ đồng loạt tung cánh trắng, hương thơm bị nén chặt lâu ngày sẽ bung ra ngào ngạt.
Cả huyện Đăk Hà này đang nghĩ chị điên. Cà phê hai năm liền rớt giá, người ta đã hè nhau chặt hạ, hoặc bỏ mặc những vườn cà phê vật vờ, thì chị lại cố công chăm bón. Mặc ai muốn nói gì thì nói. Vì sao thì chỉ một mình chị hiểu.
Ngày chị mới tới đây, vùng đất này còn hoang hoá. Hoang hoá như chính nỗi lòng của chị. Dưới con mắt của những hộ kinh tế mới quanh đó, chị là một con đàn bà chửa hoang. Chị lao vào làm hùng hục như trâu. Làm để nguôi đi nỗi nhớ nhà. Làm để quên đi nỗi tủi nhục bị bỏ rơi. Đất ở đây tốt quá, đỏ sậm như được ngào bằng mật, cắm cây gì xuống cũng lên vùn vụt. Thấy người ta trồng cà phê chị cũng trồng theo, đâu có biết nó có giá trị cao.
“Cái số chị giàu!”, nhiều người bảo thế khi bé Thương vừa năm tuổi. Vườn cà phê nhà chị quả sai chi chít, thương lái ở đâu kéo đến ngìn ngịt. Nghe đâu bên châu Âu châu Mĩ người ta chặt hạ cà phê giống cũ thay giống mới nên thị trường cà phê khan hiếm. Một cân cà phê bằng mười cân lúa. Chị trở thành triệu phú mà ngỡ trong mơ. Chị chưa biết dùng số tiền ấy vào việc gì. Có người khuyên chị nên mở rộng diện tích cà phê, chị nghe theo và lại trúng lớn.
Đúng lúc ấy thì hắn trở về. Gần chục năm trời hắn không thèm ngó ngàng đến mẹ con chị, bây giờ hắn trở về ngang nhiên tuyên bố nhận con. Hắn đã bị cách chức vì tội ra lệnh cho chặt cao su để trồng cà phê. Chị biết thế nhưng vẫn mủi lòng trước lời lẽ của hắn: “Bây giờ không vướng bận công tác, anh sẽ hết lòng chăm sóc mẹ con em.”. Vì con, chị đã xiêu lòng.
Những tháng đầu về với chị hắn “hết lòng” thật. Cũng xăm xắn bón phân làm cỏ. Có tiền, có chồng, chị trẻ lại thời con gái. Giữa vườn cà phê bạt ngàn hoa trắng, chị nâng một cành lên ngửi, bảo hắn: “Anh xem này, hoa cà phê rất giống mùi hoa bưởi!”. Hắn dí mũi vào cành hoa, cười hềnh hệch: “Giống mùi tiền thì có!”, rồi ôm thốc, dúi đầu vào ngực chị, y như những lần trong rừng cao su rợp lá mười năm về trước. Xung quanh hai người, từng đàn bướm bay lơi lả rập rờn, có con lao cả vào mặt chị. Bây giờ chị mới để ý, cứ đến mùa hoa nở vườn nhà chị lại có rất nhiều bướm. Những con bướm xanh đỏ tím vàng đủ loại bay như dệt, rối cả mắt khắp vườn. Khi hết mùa hoa chúng lại biến đi đâu mất tiêu. Oằn mình trong vòng tay hắn, chị đem điều thắc mắc này ra hỏi. Là kĩ sư nông nghiệp, hắn quá rành. Hắn chỉ cho chị thấy những cái kén sâu treo lủng lẳng dưới lá cà phê giảng giải: “Bướm từ đó chui ra, hút mật, giao hoan, đẻ trứng vào lá, trứng nở thành sâu...”. Hắn nói chưa hết câu, bất giác chị nhếch mép cười. Nhận ra, hắn díp mắt nhăn nhở: “Hỏi vớ hỏi vẩn!”, rồi lại vục mặt vào ngực chị hút chùn chụt mật ngọt ái tình.
Cũng vào mùa hoa năm đó có một người đến hỏi thuê vườn để đặt ong. Thâm tâm chị không thích những con ong, cho rằng bướm ong là loài bạc bẽo, hết mật hoa lại vỗ cánh bay đi. Chị hỏi ý kiến, hắn sáng mắt lên: “Cho thuê! Mất chó gì, vừa được tiền, vừa có người canh vườn hộ, vừa tăng cường khả năng thụ phấn cho hoa.”.
Người nuôi ong cất một cái chái nhỏ làm bếp, xếp những hộp ong xinh xinh thành hàng trong vườn nhà chị. Đêm, người ấy mắc võng, căng lên một tấm tăng giữa hai cây muồng của hàng rào chắn gió. Nghe tiếng ong râm ran, chị cảm thấy vui vui. Bầy ong say mật bay chếnh choáng. Chị cũng chếnh choáng say nghĩ đến một mùa quả bội thu.
Mùa quả chín. Chẳng biết có phải nhờ ong hay không mà năm đó cà phê sai quả quá. Quả chi chít đỏ mọng trĩu cả cành, chắc mẩm phải gấp rưỡi gấp đôi năm trước.
Nhưng hỡi ôi! Cà phê xuống giá! Một cân cà phê không bằng một cân sắn. Nhiều nhà điêu đứng hoảng loạn vì cà phê. Người ta kêu trời kêu đất. Hắn cũng nghiến răng chửi đời đen như mõm chó! Còn chị, chị chỉ thất vọng chứ không buồn. Chết là chết “những ông chủ đời mới” bỏ tiền ra thuê nhân công toàn bộ, cuối tuần mới rủ bạn bè cưỡi xe con mang theo bia lon rượu ngoại nhậu với thịt rừng như một thú chơi thời thượng. Vì thế nên khi hắn bàn “bán quách vườn về thị xã mua nhà”, chị đã không nghe. Hắn nổi khùng: “Cô là người không thức thời!”. Chị chỉ im lặng. Ngày còn là giám đốc nông trường, có lúc hắn đựơc đánh giá là năng động nhạy bén... Biết đâu hắn đúng? Biết đâu hắn bàn thế cũng là lo cho cái gia đình vừa gầy dựng lại?
Nhưng chị đã nhầm. Chị đã phải kêu lên một tiếng “trời ơi!” rồi ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, chị thấy người nuôi ong đang ngồi bên cạnh. Anh khẽ khàng: “Tôi thấy cháu Thương gọi mới chạy vào. Không hiểu có chuyện gì...”. Chị không đáp, đôi mắt mở to thất thần nhìn trần nhà. Chị cứ ngỡ hắn giận chị không chịu bán vườn nên bỏ đi mấy ngày. Ai ngờ, khi mở tủ mới biết hắn đã cuỗm đi toàn bộ số tiền chị giành dụm từ trước tới nay.
Khi hoa cà phê tàn là mùa hoa cao su nở. Đã hết mùa hoa cao su mà người nuôi ong chưa thể đi được như thoả thuận ban đầu. Chị ốm liệt giường. Bé Thương còn quá nhỏ. Chị hỏi trong lúc bàn tay anh run bắn trên trán chị: “Anh ở như vầy...còn đàn ong?...”. “Chị cứ yên tâm, chúng phải lấy mật xa hơn thôi. Khi nào chị khỏi tôi sẽ đi.”.
Anh khuyên chị không nên nằm nhiều. Nghe lời, mặc dù đầu óc còn váng vất, chị cũng cố trở dậy đi thơ thẩn trong vườn. Anh vắt mật ong cho chị uống, bảo mùa này mật tốt nhất vì đang mùa hoa đăk đốm. “Hoa đăk đốm ở đâu anh?”. “Cách đây khoảng bốn chục cây số đường chim bay.”. Tự dưng mắt chị cay xè. Bé Thương hồn nhiên hỏi: “Kìa sao mẹ khóc?”. “Mẹ thương những con ong, con à!...”. “Con ước vườn nhà mình thiệt là rộng, thiệt là nhiều hoa...”. “Để làm gì con?”. “Để những con ong không phải bay xa, mỏi cánh chết!”. Cả anh và chị đều bật cười trước câu trả lời vô tư ấy.
Chẳng biết tự bao giờ chị cảm thấy yêu những đàn ong. Mỗi sáng chị lại háo hức cùng anh mở những chiếc hộp để nghe tiếng ong xuất phát vần vũ như mưa. Rồi khi bầy ong đi hết, khu vườn ắng lặng, chị lại cảm thấy lòng trống trải.
Càng cuối mùa khô, bầy ong đi lấy mật càng xa. Chị đã rớt nước mắt khi thấy những con ong kiệt sức sau chặng đường tìm mật, lảo đảo bay xa tổ để chết, khỏi làm phiền đến bầy. Và chiều đó, khi mặt trời đỏ bầm chìm dần xuống núi, đàn ong mới trở về. Nhưng lạ thay, có những con ong không về tổ mà lừ đừ chuệnh choạng mãi, rồi lả tả rơi xuống sân nhà. Anh run run nhặt một con đặt lên lòng bàn tay. Con ong oằn mình một cái rồi duôi cánh chết đứ đừ. Từ bụng nó tiết ra một giọt mật đặc keo, xanh lét. Anh giật mình dùng ngón tay trỏ chấm giọt mật dị thường ấy bôi lên mu bàn tay. Một phút sau, nơi đó nổi lên những mụn đỏ li ti, bỏng rát. Mặt anh biến sắc: “Mật hoa độc!”.
Sáng hôm sau, mở cửa những hộp ong, chị giật mình nghe tiếng vỗ cánh lạ. Đàn ong xoay tròn như chong chóng xung quanh tổ rồi bốc dần lên cao. Anh đứng như ngây dại hồi lâu mới hốt hoảng cởi áo tung lên. Nhưng động tác kinh nghiệm ấy hôm nay vô vọng. Mở chiếc hộp thứ hai. Cũng vậy. Chị lo lắng hỏi: “Làm sao bây giờ, anh?”. Anh thở dài buồn bã: “Chắc phải đưa chúng đi thôi...”. Chị đề đoán: “ Chắc là chúng đói. Hay ta cho chúng ăn đường?”. Anh im lặng hồi lâu rồi khẽ lắc đầu. Chị cau mặt: “Mất có hai tổ ong mà anh tiếc à?”. Anh vẫn im lặng. Từ hai hốc mắt thâm quầng của anh rỉ ra hai giọt nước đỏ bầm như máu. Trong đời chị đã nhiều lần nhìn thấy nước mắt, nhưng chưa bao giờ thấy giọt nước mắt nào kì lạ như vậy. Nó đọng dai dẳng trên gò má đen xạm của anh. Tim chị nhói lên những nhịp đập khác thường. Bằng nhạy cảm đàn bà, chị biết anh sắp bỏ nơi này ra đi.
Sau trận ốm ròng rã mấy tháng liền, nhờ bàn tay chăm sóc của anh, nhờ mật ong rừng nguyên chất, chị dần tươi tỉnh lại. Đêm ấy, vâng, cái đêm cách đây đúng một năm, chị ngủ một giấc dài không mộng mị. Chợt chị thức giấc vì có tiếng sấm vọng ì ầm. Trong đêm trời đất chuyển mùa, chị cảm thấy tâm hồn tưởng đã tàn lụi bởi giông tố cuộc đời bỗng nhiên được đánh thức, như mầm cây bị vùi trong tro đất cựa mình khao khát vươn lên. Chị thốt lo cho anh. Nhỡ mưa xuống thì sao? Như có ai xui khiến, chị trở dậy khêu đèn rồi ngồi thừ ra nghĩ ngợi. Trời mỗi lúc một bức bối. Bé Thương đang ngủ, trán lấm tấm những hạt mồ hôi nhỏ óng ánh, đẹp tựa thiên thần. Chỉ cả quyết đứng dậy khẽ khàng bước ra vườn, đứng lặng trước chiếc võng buông mùng kín mít. Im lìm. Chân chị run bắn muốn khuỵu xuống. Chị ôm gốc cây muồng thở dốc không biết bao lâu nếu không có một ánh chớp rất gần. Tiếng sét nổ đanh đã hất nhào chị tới võng lay cuống quít: “Dậy... dậy...anh Thạo!”. Anh ngỡ ngàng ngồi dậy đưa tay dụi mắt: “Gì thế...chị?”. “Vào nhà, kẻo... mưa!”. “Ô, có mái che thế này, ướt làm sao được?”. Nghe anh trả lời thế, chị tủi thân bật khóc. Và trời mưa. Mưa xối xả. Mưa điên cuồng. Anh bật khỏi võng xô chị: “Vào nhà ngay! ốm lại thì chết!”. Mặc kệ. Chị cứ đứng thi gan cùng trời đất. Hai người gội mưa, đứng ngây dại nhìn nhau qua những lằn chớp nhóa nhoà không ngớt. Cuối cùng, nhận ra ánh mắt quyết liệt của chị, anh đã phải lập cập dìu chị vào nhà.
Người lo lắng lẽ ra phải là anh. Nhưng không. Chị cuống lên, bắt anh trút bỏ bộ áo quần sũng nước, cuống quít lau người cho anh. Lúc đó anh đứng đực giữa nhà, gối run nhong nhóc, răng va vào nhau lập cập. Và như một cái máy, anh ngoan ngoãn nằm xuống giường cho chị xoa dầu cạo gió. Bàn tay chị ban đầu còn ngập ngừng, lăn tăn, sau hối hả chà siết đến nóng ran trên người, rồi run rẩy dừng lại nơi ngực anh. Trong chị cồn lên một nỗi khát thèm mãnh liệt của bản năng mới hồi sinh. Bất chấp anh có đồng ý hay không, chị cứ kéo tuột anh vào vòng mê đắm. Đáp lại sự cuồng nhiệt như thuỷ triều cuồn cuộn, anh vẫn nằm ngay đơ trong vòng tay siết chặt của chị. Toàn thân anh căng cứng, nóng hừng hực như một ngọn núi lửa sắp sửa phun trào. Răng anh nghiến chặt đến bạnh quai hàm, yết hầu chạy lên chạy xuống như cố nuốt một vật gì tắc nghẹn trong cổ họng. Chị nhắm mắt lại, cảm thấy toàn thân tan rữa như một cây kem mướt mát. Đúng lúc đó, một cơn gió mạnh đã giật tung cánh cửa khép hờ. Mưa quất vào nhà ràn rạt. Anh bật dậy lao ra khỏi nhà như mũi tên rời cánh nỏ vút vào đêm mưa đen kịt.
Chị rã rời, hẫng hụt rơi tỏm vào vực thẳm ê chề. Chị đã nguyền rủa anh, nguyền rủa tính hèn nhát của anh, nguyền rủa cả cơn mưa gió vô tình. Mưa đã đẩy chị đến với anh rồi chính mưa lại giật anh ra khỏi vòng tay của chị.
Sáng hôm sau, anh gõ cửa sớm, tiếng gọi ngàn ngạt như hụt hơi. Chị giận dỗi trùm kín chăn để không nghe gì nữa. Mãi đến trưa, bé Thương chạy vào mếu máo: “Mẹ ơi, bác Thạo đi rồi!”, chị mới vùng dậy chạy ra. Khu vườn không còn những hộp ong trống trải tựa vườn hoang. Mấy con bướm đói ăn đang tranh nhau bâu vào những chiếc hoa mới nở quắt queo dị dạng. Vậy là chị đã đoán đúng. Anh tiếc bầy ong nên đã bỏ đi. Bầy ong quí hơn chị ư? Nỗi giận hờn đàn bà có cơ bùng phát. Chị vùng chạy đi lấy dao ra chặt điên dại vào hai cây muồng nơi anh mắc võng. Và...tay dao chị đã khựng lại ngang chừng. Trên chạc cây muồng có một bọc nilon. Chị mở ra và càng giận dữ. Tiền! Anh ta sòng phẳng tiền thuê vườn chứ gì? Chị không cần tiền. Cái chị cần là thứ khác cơ. Chị hất tung bọc tiền vào vườn cây. Những đồng tiền xanh đỏ tím vàng đủ loại bay tả tơi như bướm rụng. Và chị sững sờ. Một lá thư!
Chị đứng bàng hoàng giữa vườn cây im ắng mà nghe đâu đây những lời anh nói âm âm như của một người đã chết:
...Chị Tâm! Tôi ra đi không phải vì đàn ong đói mật, mà vì một lẽ khác. Tôi đã có vợ. Chắc chị bảo tôi lên giọng đạo đức chứ gì? Không, vợ tôi đã chết cách đây hai mươi năm, ngay trên bàn đẻ đứa con đầu tiên. Vợ tôi đã hét lên một tiếng kinh hoàng khi thấy đứa con của chúng tôi chỉ là một cục thịt toàn lông lá. Chắc chị đã hiểu rồi chứ? Tôi đã từng mắc võng ngủ dưới những cánh rừng hồi đêm còn xanh tốt, sáng ra đã trơ trụi bởi chất khai quang. Tôi là đàn ông nên không tránh khỏi lẽ thường tình. Tôi bỏ làng ra đi làm nghề nuôi ong với suy nghĩ: Cuộc sống nơi hẻo lánh sẽ giúp tôi tránh những quan hệ không nên có. Nhưng cuộc đời đã run rủi tôi gặp chị. Tôi sợ rằng nếu tôi ở lại, một khi không cầm được lòng thì tội cho chị quá!....
Chị khóc. Khóc ghê quá! Hai mẹ con ôm nhau khóc như mưa như gió. Bé Thương hỏi trong tiếng nấc: “Mẹ ơi... bao giờ bác Thạo về?”. Chị nín bặt. Biết trả lời con bé thế nào? Nhưng rồi như có linh tính mách bảo, chị tự tin trả lời con: “Đến mùa hoa năm sau con ạ!”.
Trong chị lớn dần một niềm tin mãnh liệt. Chị lao vào chăm sóc vườn cà phê với một động cơ cháy bỏng. Niềm mong đợi của chị cứ lớn dần, lớn dần. Và hình như cả những nụ hoa cà phê mới nhỏ như những mắt cua đã đỏ đau đáu chờ mưa như chị. Mãi cho đến hôm nay...
Một tràng sấm nổ ran. Bầu trời đêm như bức màn đen bị xé toạc ra làm trăm mảnh. Một làn gió mát rượi từ hướng núi Chưmomray thổi thốc vào nhà. Và tiếng mưa. Mưa rộn ràng reo. Chị đưa tay hứng nước từ giọt hiên vã lên mặt tận hưởng cảm giác hồn nhiên thời con gái. Mặc cho những bụi mưa li ti theo gió vào quấn quít quanh mặt, quanh hai cánh tay trần, mơn man cả khuôn ngực áo trễ tràng. Chị hân hoan đón mưa như những hàng cây trong vườn đang hoan hỉ. Chị sẽ đứng, đứng đến sáng nếu như trong giấc mơ bé Thương không ú ớ goị: “Mẹ ơi...bác Thạo...”. Chị bước những bước chân châng lâng đến giường ngả lưng dỗ con: “ Ừ...Ngủ ngoan đi con...bác Thạo sắp về!”. Chị dỗ con. Chị tự dỗ mình. Chị chìm vào giấc ngủ. Chị nghe có tiếng tí tách của nụ hoa cựa mình. Chị thấy hương hoa đã bắt đầu thoang thoảng. Rì rào...Rì rào...trong giấc mơ chị nghe có tiếng đàn ong mật bay về...
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top