Đất nước(1)
Đề bài: Lòng yêu nước và cảm nhận về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng). - Văn Nghị Luận - Lớp 12
Bài làm
Lòng yêu nước là nguồn cảm hứng chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học dân tộc ta. Nối tiếp cảm hứng này, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã có những khám phá mới mẻ trước một chủ để, một đôi tượng tưởng chừng đã cũ nhưng với vốn văn hóa, với trí tuệ, với sự rung cảm chân thành, Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp những cảm nhận rất độc đáo, rất riêng về đất nước:
Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Bằng cách hóa thân vào nhân vật, nhân vật "anh" tâm tình với nhân vật "em", Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận đất nước đã có tự ngàn xưa. Khi ta được sinh ra đất nước đã bao bọc, đã nuôi dưỡng đời sống, tâm hồn nhưng đất nước ấy không cao xa mà rất đỗi gần gũi, thân thuộc xung quanh ta. Lòng yêu nước được Nguyễn Khoa Điềm gợi lên từ những sự vật, hình ảnh gần gũi, từ những sinh hoạt thường ngày trong mỗi gia đình Việt Nam ta. Lòng yêu nước,truyền thống lịch sử lâu dài của đất nước được gắn với những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể cho ta ngày tuổi thơ, từ miếng trầu bây giờ bà ăn. Lòng yêu nước được gợi lên từ hình ảnh cây tre làng thân thiết, từ tục "bới tóc sau đầu", từ câu ca dao "gừng cay muối mặn", từ "cái kèo, cái cột", từ "hạt gạo một nắng hai sương". Để cảm nhận thật cụ thể về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật chiết tự. Đất Nước là một từ ghép bao gồm hai thành tố "đất" và "nước", nhưng mang nghĩa bóng, Nguyễn Khoa Điềm đã tách đôi từ "đất nước" để định nghĩa từng thành tố "đất" và "nước".
Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông mong nước biến khơi
Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở.
Từ đây, dòng suy tưởng Nguyễn Khoa Điềm ngược về quá khứ nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến đầu tiên và dài nhất về truyền thuyết này. Đây là truyền thuyết giải thích và khẳng định cội nguồn của dân tộc Việt Nam, tạo cơ sở xây đắp tình đoàn kết. Một dân tộc nhỏ bé đến mấy cũng có thể phát triển vững bền trước bao thế lực ngoại xâm tàn bạo chính là nhờ sức mạnh đoàn kết. Như vậy, nhà thơ đã khơi dậy truyền thống lịch sử lâu dài của dân tộc từ những gì bình dị nhất. Trong những điều tưởng chừng bé nhỏ, bình dị ấy lại ân chứa chiêu dài của bề dày lịch sử văn hóa của một đất nước. Những điều tưởng chừng bình thường ấy đã cỏ từ ngàn xưa và sẽ sống mãi với dân tộc Việt Nam. Đất nước vừa gần gũi bình dị trong cuộc Sống hàng ngày như sự sống, như hơi thở của con người, của đất nước.
Sau khi khám phá cội nguồn đất nước, dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm lí giải về những người làm nên đất nước. Nhìn lại trường kì lịch sử, bao thế hệ nhân dân bằng mồ hôi xương máu của mình đã lao động dựng xây chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Lòng yêu nuớc ở chương thơ này gắn liền với tình yêu nhân dân, cùng Niềm tự hào, sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân. Lâu nay khi dựng lại quá trình lịch sự dân tộc, các tài liệu khoa học thường dựa vào các triều đại, dòng họ, nhăc đến tên Tuổi các cá nhân kiệt xuất hay những chiến công hiểm hách, nhưng ở đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm không hề một lần nhấc tới tên Tuổi cá nhân nào mà luôn gắn bó nghìn năm đất nước với các thế hệ người Việt. Bằng một đoạn thơ dài. Nguyễn Khoa Điềm lần lượt làm sáng tỏ nhân dân là ai, nhân dân có những phẩm chất cao quý như thể nào, vai trò lớn lao của nhân dân trong trường kì lịch sử.
Nhìn lại suốt bốn ngàn năm đất nước, nhân dân là tầng tầng lớp lớp những con người bền bỉ xây dựng và bảo vệ đất nước. Khi đất nước thanh bình, nhân dân chỉ "côi cút làm ăn lo toan nghèo khó", họ thầm lặng cần cù trên cánh đồng, trên mảnh vườn thân thuộc. Khi đất nước có nạn ngoại xâm, họ sẵn sàng ra trận cống hiến đời mình cho nền độc lập:
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.
Bằng giọng thơ tự nhiên, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả lẽ sống bình dị của nhân dân. Đối với họ, cần cù làm lụng hay ra trận đánh giặc vì nghĩa đối với cộng đồng, vì hạnh phúc yên âm của gia đình. Khi người vợ ở nhà nuôi cha mẹ già, con thơ cho chông ra trận, vì trách nhiệm đôi với gia đình, cũng có nghĩa là vì độc lập dân tộc. Tác giả đã dùng lại cách nói của người xưa "nuôi cái cùng con" dễ gợi lên đạo lí sống từ ngàn xưa mà nhân dân gìn giữ. Họ cứ thầm lặng cống hiến đời mình làm nên đất nước muôn đời:
Họ đã Sống và chết Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Nhân dân là lực lượng đã sáng tạo, giữ gìn và truyền lại mọi tài sản vật chất cũng như mọi giá trị tinh thần làm nên đất nước:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, lên làng trong mỗi chuyến di dân.
Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận vai trò nhân dân qua một hệ thống hình ảnh rất cụ thể nhưng lại mang ý nghĩa khái quát sâu xa. Trong mỗi hình ảnh ấy đều có sự hài hòa giữa vật chẩt và tinh thần. Hạt lúa, ngọn lửa đâu chỉ là vật chất mà còn là sự Sống, là hơi ấm, tình thương được nhân dân truyền từ đời này sang đời khác, từ nhà này qua nhà khác. Giọng điệu, tiếng nói là thứ tài sản vô cùng quý báu của một dân tộc. Nhân dân truyền giọng điệu của mình cho con
cháu cũng là truyền giá trị tinh thần, bản sắc văn hóa, và cao hơn nữa là truyền đạo lí sống. Tên xã tên làng đâu chỉ là tên mà trong đó đã kết đọng truyền thống lịch sử. địa lí hay nghề nghiệp riêng của một miền quê nào đó. Nhân dân đi đến đâu thì mang theo và phát huy bản sắc quê hương mình đến đó.
Moi cảm nhận, khám phá về hình tượng đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đều nhằm hướng tới đôi tượng cụ thể, đó là tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên ở các đô thị miền Nam. Hơn nữa, tác phẩm lại ra đời trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, khi vận mệnh dân tộc đứng trước những thử thách lớn. Vì vậy lòng yêu nước ở đây không chỉ dừng lại ở nhận thức, tình cảm mà phải dẫn tới hành động cống hiến. Bao giờ cũng vậy, lòng yêu nước chân chính phải gắn cùng ý thức đấu tranh, với trách nhiệm cống hiến cuộc đời cá nhân cho cộng đồng. Nhằm nhắc nhở trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay trước vận mệnh của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày sự khám phá, cảm nhận về đất nước ngày một sâu rộng. Ban đầu, Đất Nước là những gì cụ thể, bình dị trong đời sống của chúng ta, Đất Nước ở xung quanh ta, nhưng đến đoạn thơ sau, Đất Nước đã ở trong ta, Đất Nước có trong mỗi người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa câm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn.
Bằng cách diễn đạt theo lối vượt cấp, nhà thơ cứ dần dần mở rộng đất nước trên bình diện không gian mang tính cộng đồng. "Trong anh và em", trong mỗi con người đang sông hôm nay đều có một phần Đất Nước. Cá nhân nào mà chẳng thừa hưởng một phần từ người đi trước để lại, một phần giá trị vật chất và tinh thần của Đất Nước. "Khi anh và em cầm tay nhau" rồi "khi chúng ta cầm tay mọi người", Đất Nước mới "vẹn tròn to lớn". Ở từng cấp độ, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng từ ngữ gợi cảm xúc và nhận thức phù hợp hài hòa nồng thắm gợi lên sắc thái thiết tha của tình bạn, tình yêu. Cụm từ "vẹn tròn to lớn" gợi lên tính xã hội, tính cộng đồng. Đặc biệt cụm từ "hai đứa" cùng giọng tâm tình đã đem đến cho câu thơ không khí thân ái, chan hòa.
Không chỉ cảm nhận đất nước rộng lớn trên bình diện không gian, Nguyễn Khoa Điềm còn khẳng định đất nước vững bền phát triển theo chiều thời gian:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng.
Đất nước ngày một giàu đẹp tươi sáng hơn cùng những thế hệ sau. Thế hệ sau cứ tiếp nối thế hệ trước để đưa đất nước đến bến bờ mới. Hình như khi cảm nhận tương lai đất nước, tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm bỗng trở nên thơ mộng, lãng mạn. Mọi cảm nhận về đất nước gắn với tình yêu con người đã kết tinh lại trong lời nhăc nhủ thâm thía trách nhiệm đôi với cộng đồng:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho hình dáng xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Đến đây, nhà thơ gợi nhắc nghĩa vụ thiêng liêng của từng cá nhân trước vận mệnh đất nước. Khi nói "Đất Nước là máu xương của mình" thì đất nước ấy trở thành một phần cơ thể, thành sự sống, thành cả tâm linh của mỗi chúng ta. Những con người đang sống hôm nay đều mang trong mình một phần đất nước thì phải biết gắn bó và san sẻ. Khi gắn kết với cộng đồng cũng là đang san sẻ với chính mình. Mọi người sẽ gắn bó trong sự chia sẻ. Từ đây ta nhận ra nhân sinh quan của con người cách mạng ở thời đại chúng ta. Sau Nguyễn Khoa Điềm, Tố Hữu cũng khẳng định quan niệm gắn bó và san sẻ, cống hiến và hưởng thụ sâu sắc ấy:
Nếu là con chim, chiếc lá
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Nguyễn Khoa Điềm còn đưa ra quan niệm về sự hóa thân của những con người bình dị làm nên danh lam thắng cảnh, sự tích sông núi để sống mãi muôn đời cùng đất nước:
Những người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Tóm lại, với những xúc cảm, suy tư nồng thắm sâu sắc về đất nước, về nhân dân, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong thời đại mới. Với lời thơ dung dị mà truyền cảm, đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đề tài đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất Nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết và thiêng liêng. Đọc Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mồi con người Việt Nam trong mọi thời đại. Những vần thơ ấy sẽ vượt qua thử thách của thời gian và sống mãi trong lòng người đọc.
Sau khi khám phá cội nguồn đất nước, dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm lí giải về những người làm nên đất nước. Nhìn lại trường kì lịch sử, bao thế hệ nhân dân bằng mồ hôi xương máu của mình đã lao động dựng xây chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Lòng yêu nuớc ở chương thơ này gắn liền với tình yêu nhân dân, cùng Niềm tự hào, sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân. Lâu nay khi dựng lại quá trình lịch sự dân tộc, các tài liệu khoa học thường dựa vào các triều đại, dòng họ, nhăc đến tên Tuổi các cá nhân kiệt xuất hay những chiến công hiểm hách, nhưng ở đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm không hề một lần nhấc tới tên Tuổi cá nhân nào mà luôn gắn bó nghìn năm đất nước với các thế hệ người Việt. Bằng một đoạn thơ dài. Nguyễn Khoa Điềm lần lượt làm sáng tỏ nhân dân là ai, nhân dân có những phẩm chất cao quý như thể nào, vai trò lớn lao của nhân dân trong trường kì lịch sử.
Nhìn lại suốt bốn ngàn năm đất nước, nhân dân là tầng tầng lớp lớp những con người bền bỉ xây dựng và bảo vệ đất nước. Khi đất nước thanh bình, nhân dân chỉ "côi cút làm ăn lo toan nghèo khó", họ thầm lặng cần cù trên cánh đồng, trên mảnh vườn thân thuộc. Khi đất nước có nạn ngoại xâm, họ sẵn sàng ra trận cống hiến đời mình cho nền độc lập:
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.
Bằng giọng thơ tự nhiên, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả lẽ sống bình dị của nhân dân. Đối với họ, cần cù làm lụng hay ra trận đánh giặc vì nghĩa đối với cộng đồng, vì hạnh phúc yên âm của gia đình. Khi người vợ ở nhà nuôi cha mẹ già, con thơ cho chông ra trận, vì trách nhiệm đôi với gia đình, cũng có nghĩa là vì độc lập dân tộc. Tác giả đã dùng lại cách nói của người xưa "nuôi cái cùng con" dễ gợi lên đạo lí sống từ ngàn xưa mà nhân dân gìn giữ. Họ cứ thầm lặng cống hiến đời mình làm nên đất nước muôn đời:
Họ đã Sống và chết Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Nhân dân là lực lượng đã sáng tạo, giữ gìn và truyền lại mọi tài sản vật chất cũng như mọi giá trị tinh thần làm nên đất nước:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, lên làng trong mỗi chuyến di dân.
Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận vai trò nhân dân qua một hệ thống hình ảnh rất cụ thể nhưng lại mang ý nghĩa khái quát sâu xa. Trong mỗi hình ảnh ấy đều có sự hài hòa giữa vật chẩt và tinh thần. Hạt lúa, ngọn lửa đâu chỉ là vật chất mà còn là sự Sống, là hơi ấm, tình thương được nhân dân truyền từ đời này sang đời khác, từ nhà này qua nhà khác. Giọng điệu, tiếng nói là thứ tài sản vô cùng quý báu của một dân tộc. Nhân dân truyền giọng điệu của mình cho con
cháu cũng là truyền giá trị tinh thần, bản sắc văn hóa, và cao hơn nữa là truyền đạo lí sống. Tên xã tên làng đâu chỉ là tên mà trong đó đã kết đọng truyền thống lịch sử. địa lí hay nghề nghiệp riêng của một miền quê nào đó. Nhân dân đi đến đâu thì mang theo và phát huy bản sắc quê hương mình đến đó.
Moi cảm nhận, khám phá về hình tượng đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đều nhằm hướng tới đôi tượng cụ thể, đó là tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên ở các đô thị miền Nam. Hơn nữa, tác phẩm lại ra đời trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, khi vận mệnh dân tộc đứng trước những thử thách lớn. Vì vậy lòng yêu nước ở đây không chỉ dừng lại ở nhận thức, tình cảm mà phải dẫn tới hành động cống hiến. Bao giờ cũng vậy, lòng yêu nước chân chính phải gắn cùng ý thức đấu tranh, với trách nhiệm cống hiến cuộc đời cá nhân cho cộng đồng. Nhằm nhắc nhở trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay trước vận mệnh của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày sự khám phá, cảm nhận về đất nước ngày một sâu rộng. Ban đầu, Đất Nước là những gì cụ thể, bình dị trong đời sống của chúng ta, Đất Nước ở xung quanh ta, nhưng đến đoạn thơ sau, Đất Nước đã ở trong ta, Đất Nước có trong mỗi người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa câm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn.
Bằng cách diễn đạt theo lối vượt cấp, nhà thơ cứ dần dần mở rộng đất nước trên bình diện không gian mang tính cộng đồng. "Trong anh và em", trong mỗi con người đang sông hôm nay đều có một phần Đất Nước. Cá nhân nào mà chẳng thừa hưởng một phần từ người đi trước để lại, một phần giá trị vật chất và tinh thần của Đất Nước. "Khi anh và em cầm tay nhau" rồi "khi chúng ta cầm tay mọi người", Đất Nước mới "vẹn tròn to lớn". Ở từng cấp độ, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng từ ngữ gợi cảm xúc và nhận thức phù hợp hài hòa nồng thắm gợi lên sắc thái thiết tha của tình bạn, tình yêu. Cụm từ "vẹn tròn to lớn" gợi lên tính xã hội, tính cộng đồng. Đặc biệt cụm từ "hai đứa" cùng giọng tâm tình đã đem đến cho câu thơ không khí thân ái, chan hòa.
Không chỉ cảm nhận đất nước rộng lớn trên bình diện không gian, Nguyễn Khoa Điềm còn khẳng định đất nước vững bền phát triển theo chiều thời gian:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng.
Đất nước ngày một giàu đẹp tươi sáng hơn cùng những thế hệ sau. Thế hệ sau cứ tiếp nối thế hệ trước để đưa đất nước đến bến bờ mới. Hình như khi cảm nhận tương lai đất nước, tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm bỗng trở nên thơ mộng, lãng mạn. Mọi cảm nhận về đất nước gắn với tình yêu con người đã kết tinh lại trong lời nhăc nhủ thâm thía trách nhiệm đôi với cộng đồng:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho hình dáng xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Đến đây, nhà thơ gợi nhắc nghĩa vụ thiêng liêng của từng cá nhân trước vận mệnh đất nước. Khi nói "Đất Nước là máu xương của mình" thì đất nước ấy trở thành một phần cơ thể, thành sự sống, thành cả tâm linh của mỗi chúng ta. Những con người đang sống hôm nay đều mang trong mình một phần đất nước thì phải biết gắn bó và san sẻ. Khi gắn kết với cộng đồng cũng là đang san sẻ với chính mình. Mọi người sẽ gắn bó trong sự chia sẻ. Từ đây ta nhận ra nhân sinh quan của con người cách mạng ở thời đại chúng ta. Sau Nguyễn Khoa Điềm, Tố Hữu cũng khẳng định quan niệm gắn bó và san sẻ, cống hiến và hưởng thụ sâu sắc ấy:
Nếu là con chim, chiếc lá
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Nguyễn Khoa Điềm còn đưa ra quan niệm về sự hóa thân của những con người bình dị làm nên danh lam thắng cảnh, sự tích sông núi để sống mãi muôn đời cùng đất nước:
Những người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Tóm lại, với những xúc cảm, suy tư nồng thắm sâu sắc về đất nước, về nhân dân, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong thời đại mới. Với lời thơ dung dị mà truyền cảm, đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đề tài đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất Nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết và thiêng liêng. Đọc Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mồi con người Việt Nam trong mọi thời đại. Những vần thơ ấy sẽ vượt qua thử thách của thời gian và sống mãi trong lòng người đọc.
Cảm nhận đất nước có trong mỗi gia đình là cách cảm nhận của nhà thơ viết trong những năm tháng đánh Mĩ. Đó cũng là cảm nhận về đất nước của Chế Lan Viên:
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu tươi
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.
Con người nêu cao tinh thần ý thức trách nhiệm cá nhân đối với đất nước là nét đặc sắc trong cảm nhận về đất nước. Nói về tư tưởng đất nước của nhân dân, tác giả đã sử dụng rộng rãi chất liệu dân gian văn hóa dân gian với thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ. Những câu ca dao là nguồn gốc, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm sáng tác thơ. Câu thơ "Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn" gợi về sự tích "trầu cau" để giải thích một phong tục tập quán đã có từ thời xa xưa, thời các vua Hùng. Từ truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân, tác giả đã viết nên câu thơ: "Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại" và từ câu ca dao "Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công tìm vàng", Nguyễn Khoa Điềm đã viết thành câu thơ: "Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội". Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để nói về đất nước không đơn thuần là thủ pháp nghệ thuật mà con là sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân \ Bởi lẽ viết về đất nước của nhân dân thì không gì hay hơn là sử dụng ngay lời ăn tiếng nói của nhân dân, sử dụng những sáng tạo của nhân dân.
Không gian địa lí, thời gian lịch sử, nền văn hóa dân tộc đều được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận trong sự gắn bó với nhân dân, là sáng tạo của nhân dân.
Xuất phát từ tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân", nhà thơ đã có những cái nhìn kì thu về những danh lam thắng cảnh của đất nước. Những danh lam thắng cảnh của vịnh Hạ Long như núi Bút, non Nghiên, hòn Trống Mái... đâu chỉ là món quà của thiên nhiên ban tặng cho con người mà còn là sự hóa thân của cuộc sống, là mơ ước của bao người dân binh dị:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những hòn Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con sông nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Nếu không có bao người vợ thủy chung mòn mỏi đợi chờ chồng qua bao cuộc chiến tranh thì làm sao có sự tích về hòn Vọng Phu trên cả ba miền đất nước. Nếu không có truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước thì làm sao có cách cảm nhận về đồi núi Phong Châu như chín mươi chín con voi cùng quy đầu về đất Tổ. Nếu không có những người học trò nghèo bền gan, quyết chí theo nghiệp bút nghiên thì làm sao có sự tích về núi Bút, non Nghiên. Qua sự cảm nhận của nhà thơ thì chính nhân dân đã hóa thân làm nên hình hài đất nước.
Trên đất nước Việt Nam, những tên đất, tên làng cũng mang tên những con người thật, bình dị vô cùng: ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm. Chính những con người vô danh này đã góp công làm nên đất nước và được nhân dân mãi mãi lưu truyền.
Với Nguyễn Khoa Điềm, lịch sử cũng do nhân dân tạo ra. Vì vậy, khi nói về lịch sử dân tộc, nhà thơ không nhắc đến những triều đại nổi danh, những anh hùng xuất chúng mà ghi nhận công lao của những anh hùng vô danh. Những anh hùng vô danh ấy chính là nhân dân trong mọi thời đại. Họ là những con người sống hay chết đều "giản dị", "bình tâm", không ai "nhớ mặt đặt tên" nhưng họ là những người đã làm nên đất nước. Những anh hùng vô danh, hi sinh cho đất nước mà không hê nghĩ tới bảng vàng, bia đá, nhưng tên Tuổi họ vẫn được lưu giữ đến muôn đời, công lao của họ còn Sống mãi trong lòng nhân dân đất nước. Khẳng định vai trò của nhân dân đối với lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm đã trả lại cho đất nước chủ nhân chân chính, đó là nhân dân.
Nền văn hóa dân tộc cũng là sáng tạo của nhân dân, gắn bó với nhân dân. Nhân dân không những là người sáng tạo ra những giá trị vật chất mà còn là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần. Nhân dân tạo ra từ ngọn lửa, hạt lúa, sáng tạo ra cả ngôn ngữ. "Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói/Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân". Nhà thơ đã sử dụng những động từ: giữ, truyền, gánh... đem lại sự cảm nhận lịch sử tiên hóa là một quá trình lao động của nhân dân, sự tiến hóa của lịch sử như cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ để ngọn đuốc của truyền thống văn hóa không bao giờ tắt.
Khi khẳng định vai trò sáng tạo văn hóa của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm lại trở về với kho tàng văn hóa dân gian, trở về với ca dao, tục ngữ. Bởi lẽ, văn hóa dân gian, ca dao tục ngữ vừa là sáng tạo của nhân dân, vừa là nơi gửi gắm tâm hồn nhân dân, đất nước. Trong rất nhiều câu ca dao, tục ngữ, tác giả chỉ chọn ra ý của ba câu ca dao để nói về hai truyền thống lớn của dân tộc. Đó là truyền
thống nhân ái, nghĩa tình: "Dạy em biết yêu anh từ thuở trong nôi", lấy từ trong câu ca dao: "Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru", "Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội". Đó là truyền thống yêu nước bất khuất "Biết trồng tre đợi ngày thành cây/Đi trả thù mà không sợ dài lâu" lấy từ câu ca dao "Thù này ắt hẳn còn lâu/Trông tre thành gậy, gặp đâu đánh què".
Nếu như ở bài thơ Bên kia sông Đuống, nhà thơ Hoàng cầm tự hào về truyền tống văn hóa của quê hương; ở bài Đất nước, Nguyễn Đình Thi tự hào về truyền thống kiên cường, bất khuất; ở bài Việt Bắc của Tố Hữu là niềm tự hào về truyền thống nhân ái, nghĩa tình của người Việt Nam thì ở Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là niềm tự hào về nhân dân. Nhân dân là người sáng tạo, giữ gìn và phát triển đất nước về mọi phương diện, nhân dân hóa thân vào đất nước:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Có nhân dân, đất nước mãi trường tồn:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân.
Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" là tư tưởng đã từng xuất hiện trong lịch sử. ở Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm:
Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới.
Với Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một tượng đài bi tráng về người anh hùng nông dân nghĩa sĩ. Nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu cũng đã khẳng định sự gắn bó giữa nhân dân và đất nước:
Dân là dân nước, nước là nước dân
(Hài ngoại huyết thư)
Trong bài Đất nước, Nguyễn Đình Thi cũng khẳng định sự gắn bó với đất nước của những người lao động bình dị:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Những người áo vải, những người lao động khi đứng lên bảo vệ Tổ quốc mình thì chính họ trở thành những anh hùng của thời đại mới.
Tiếp tục tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân", Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích Đất Nước đã nâng tư tưởng này lên một tâm cao mới. Đất Nước được cảm nhận từ nhiều phương diện và tất cả đều do nhân dân sáng tạo ra. Nhân dân là chủ nhân của đất nước. Tác phẩm đã góp một tiếng nói mới mẻ và sâu sắc về chủ đề đất nước.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top