hp

Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.

Hạnh phúc một tang gia là một đoạn trích nằm trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, là tác phẩm mang giá trị cả về nội dung và nghệ thuật trong kho tàng văn học Việt Nam. Tác phẩm đã tái hiện lại một cách chân thực xã hội nửa Tây nửa ta, làm tha hóa nhân cách của con người, xã hội vì đồng tiền mà dẫm đạp lên cả tình thân.

Nếu coi Số đỏ là một vở đại hài kịch nhằm phủ nhận triệt để cái xã hội thượng lưu giả dối, lố lăng trước Cách mạng tháng Tám, thì mỗi chương trong tác phẩm như một màn hài kịch sắc sảo. Trong chương XV này, tài năng của Vũ Trọng Phụng thể hiện ở cách xây dựng mâu thuẫn trào phúng và những tính cách trào phúng mang ý nghĩa xã hội, nhân sinh sâu sắc. Tiếng cười Vũ Trọng Phụng là tiếng cười ra nước mắt, sau chuỗi cười hả hê sảng khoái, người đọc lắng vào một nỗi xót xa trước tình trạng phi nhân tính đang hủy hoại cuộc sống.

Hạnh phúc một tang gia thể hiện sự trào phúng ở ngay trong tiêu để của đoạn trích. Mâu thuẫn của văn chương trào phúng là một kiểu tình huống tạo cười thông qua sự phóng đại những cái ngược đời, trái lẽ tự nhiên, phạm chuẩn mực đời sống. Mâu thuẫn trào phúng thích khía vào những hoàn cảnh trớ trêu, nực cười để lật ngửa ra cái hài hước của tính cách trào phúng. Hạnh phúc vốn là khái niệm của niềm vui sướng, sự mãn nguyện của con người vì được đáp ứng một nhu cầu, ước muốn nào đó. Tang gia nghĩa là gia đình có tang, gợi không khí buồn đau ảm đạm trước cái chết của người thân yêu, ruột thịt. Điều bất ngờ là tác giả đặt hạnh phúc cạnh tang gia, biến chuyện buồn đau thành niềm vui, tạo ra một mệnh đề trái ngược, làm đảo lộn cả luân thường đạo lí trong cái gia đình tư sản giàu có và đại bất hiếu này.

Người chết vốn là cụ cố Tổ có một gia tài kếch xù. Nhưng ông già quái ác này lại ghi trong di chúc: chỉ chia gia tài cho con cháu khi cụ đã qua đời. Thật là sốt ruột, vì viết xong di chúc mà cụ không chịu chết ngay. Thế là cả nhà đều mong ngóng chờ đợi cái chết của cụ như chờ đợi... hạnh phúc (!). Và hạnh phúc đã đến. Cái chết không gây nỗi buồn đau thường thấy mà ngược lại “đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Người ta “tưng bừng vui vẻ” đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma...

Qua cách miêu tả khung cảnh bên trọng của đám rước, Vũ Trọng Phụng đã lột ra động lực bên trong của sự kiện đám ma - đám rước lạ đời này: con người quay cuồng bởi dục vọng, bởi mối lợi. Mối lợi đè chết tình nghĩa, đồng tiền khuynh đảo cả đạo lí ở đời. Đây là tình huống trào phúng sắc sảo, góp phần bộc lộ sâu sắc những tính cách trào phúng.

Xây dựng được một tình huống trào phúng chắc chắn như trên, Vũ Trọng Phụng vững vàng triển khai thể truyện, dựng lên hình ảnh đám ma và những tính cách trào phúng bằng thủ pháp của điện ảnh: vừa quay toàn cảnh, vừa quay cận cảnh hình ảnh của một tang gia, tạo những bức tranh biếm họa hết sức đặc sắc. Đám ma khoác một cái vỏ ngoài thật “trang trọng”, “to tát”: Có đủ mọi điều kiện vật chất tối ưu, đúng phong tục (có kiệu, lọng, kèn, thanh la, quần áo tang, chụp ảnh, có vài ba trăm câu đối, vòng hoa và vài trăm người đi đưa...). Có một điệp khúc tấu lên từ cảnh đưa đám ấy: “Đám cứ đi”, nghe trang nghiêm, “tận trung tận hiếu” như đoàn người đáng chuyển động để đưa người đã khuất đến tận huyệt. Nhưng cái vỏ ngoài trang trọng bỗng thành mỉa mai, hài hước khi tác giả cố để lộ ra cối thực chất bát nháo bên trong. Té ra đây .đâu còn là đám ma, mà là một đám rước, đám hội hổ lốn. Cái chi tiết lợn quay... đi lọng mới đầy thâm ý làm sao. Lọng là dụng cụ che, giống như ô, dù nhưng cỡ lớn và sang trọng hơn nhiều, chỉ để che thân cho các đấng bậc quyền quý hoặc đón rước thánh thần, ở đây, cái thiêng liêng được đánh tráo bằng... lợn quay. Thật thú vị! Hệ thống bát âm của đám ma còn “phong phú”, “độc đáo” hơn cả về số lượng lẫn loại hình: có kèn ta pha trộn với kèn Tây, kèn Tàu, và mùi vị hổ lốn càng đậm đặc với “lốc bốc xoảng và bú dích”. Ngoài ra, vợ chồng Văn Minh lăng xê các loại quần áo tang như đặc sản của đám ma, cậu tú Tân biến việc chụp ảnh thành trò chơi ngày hội... Thật là một đám ma đầy cảm hứng, khiến hàng phố “nhốn nháo cả lên khen đám ma to”, cụ Phán bà ngây ngất hãnh diện vì có được một đám ma “danh giá nhất tất cả”. Đặc biệt độc đáo là chi tiết người chết cảm động đến mức “nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”. Chao ôi là cái “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” ở cả trong nhà ngoài phố, ở cả cõi dương đến cõi âm. Thật mỉa mai, đau xót!

Với cách miêu tả từng chi tiết đến tỉ mỉ của Vũ Trọng Phụng, đám ma thành đám rước lòe loẹt, hợm hĩnh, om sòm đến nhếch nhác, vô văn hóa. Thực chất, đây là sự phô trương giả dối, lộ liễu đến nhố nhăng, chà đạp lên cả đạo lí của gia đình đại bất hiếu này. Hạnh phúc chung của cả tang gia đến niềm vui riêng len lỏi vào tận từng người hay từng nhóm người rất sinh động. Đó là cụ cố Hồng háo danh đến quái gở, chỉ mong cha chết để được “mặc áo xô gai, chống gậy lụ khụ vừa ho khạc vừa khóc mếu” để thiên hạ khen “úi kìa, con giai nhớn mà đã già đến thế kia ư ” Đó là cô Tuyết lấy dám tang làm cơ hội khoe bộ y phục hở hang cùng bộ mặt buồn “lãng mạn rất đúng mốt”. Vợ chồng Văn Minh xăng xái, hăm hở mở một cuộc “trình diễn thời trang” biến nỗi đau thương thành dịp may quảng cáo cho tiệm may Âu hóa. Những người ngoài gia đình cụ cố Hồng cũng sung sướng làm sao: cảnh sát Min Đơ, Min Toa bỗng có việc làm, các quan khách sang trọng có dịp phô các loại huân chương và râu ria đủ kiểu, đặc biệt sự “cảm động” của các vị không phải vì niềm xót đau người chết mà vì “trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Còn đám giai thanh gái lịch Hà thành thì mãi trình diễn phong cách “Âu hóa” trong dám tang bằng cách đú đởn chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau... Rồi những tiếng thì thầm của đám người đưa ma, chỉ hau háu xỉa vào những chuyện đại loại như con bé ấy kháu thế, con bé kia đẹp hơn, thằng ấy bạc tình bỏ mẹ, mỏ vàng hay mỏ chì, gớm cái ngực đầm quá đi mất, vợ béo thế chồng gầy thế thì mọc sừng mất... tóm lại là toàn những chuyện nhảm nhí, đồi bại hàng ngày, những kẻ đi đưa ma hoàn toàn dửng dưng với người chết. Cái đám ma gương mẫu ấy đúng là có đủ mọi thứ mà vẫn thiếu một thứ: lòng xót thương người nằm xuống. Thiếu lòng thương tức là thiếu tất cả. Sự băng giá của lòng người khiến mọi thứ còn lại hóa ra vờ vĩnh, giả dối một cách tàn nhẫn, độc ác. Cái điệp khúc “đám cứ đi” hóa ra đầy mỉa mai. Đám ma hóa trò hề không hơn không kém.

Cảnh hạ huyệt, báo hiệu cụ già thật sự biến mất khỏi cõi đời mới chua xót. Thằng cháu quý tử Tú Tân, lúc hạ huyệt, bắt bẻ từng người chống gậy, gục đầu thế nọ, cong lưng hoặc lau nước mắt thế kia... để cậu chụp ảnh, còn lũ bạn thì “rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau”. Rõ là kịch, đại hài kịch, mỗi con người mải mê với kĩ thuật diễn xuất, do nhà đạo diễn Tú Tân chỉ huy. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã tạc nên từ đống người bất hiếu ấy một diễn viên kì tài của màn kịch tang gia: Đó là ông Phán mọc sừng. Kể ra ông ta rất giỏi diễn một vẻ ngoài quá ư bi thảm: lả oặt di, khóc rống lên: “Hứt! ... Hứt!... Hứt!”, khiến “ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy”. Cái âm thanh “hứt hứt” mà họ Vũ chọn đặt vào miệng ông Phán mới kì quái làm sao. Nhất là khi nó được lặp lại, nhai lại, nghe cứ rống lên một âm điệu đầy giả tạo đến trơ trẽn. Để rồi đột ngột, tác giả lật ngửa bản chất nhân vật ra bằng chi tiết “độc”: ông Phán dúi vội vào tay thằng Xuân “một cái giấy bạc năm đồng gấp tư” để trả công cho Xuân Tóc Đỏ đã... làm cụ cố Tổ chết (!). Chi tiết nàyđã đẩy tấn đại hài kịch đến điểm đỉnh, đẩy sự giả dối bịp bợm đến trình độ vô liêm sỉ một cách quá ghê tởm.

Hạnh phúc một tang gia đã cho người đọc một cái nhìn chân thực về xã hội lúc bấy giờ, cái xã hội ấy toàn bọn người hợm hĩnh háo danh háo lợi, bóp chết những tình cảm ruột thịt thiêng liêng nhất của con người. Một xã hội học đòi đáng phê phán, một xã hội đểu cáng khiến con người không thể nhận ra đâu là thật đâu là giả .

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: