người lái đò sông đà
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
Xem lại phần Tiểu dẫn bài Chữ người tử tù, SGK Ngữ văn 11, tập I, tr 107.
2. Tác phẩm Người lái đò sông Đà:
- Bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960).
- Hoàn cảnh sáng tác: trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi.
- Đề tài: Chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và thứ “vàng mười” ở tâm hồn của những con người lao động.
- Cảm hứng chủ đạo: khao khát được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời (không giống với NT trước CM, con người chỉ muốn xê dịch cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”)
- Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của NT: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng nhất.
II. Đọc - hiểu văn bản:
1. Hình tượng con sông Đà hung bạo:
- Quan sát công phu, tìm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo trên nhiều dạng vẻ:
+ Có lúc miêu tả trong phạm vi một lòng sông hẹp, như chiếc yết hầu bị đá bờ sông chẹt cứng:
“Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”
+ Khi thì hiện ra trong khung cảnh mênh mông hàng cây số của một thế giới đầy gió gùn ghè, đá giăng đến chân trời và sóng bọt tung trắng xóa:
“dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gió gùn ghè suốt năm”
+ Lúc lại là những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu:
“Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông”
+ Khi thì là mặt thác với dòng nước như hùm beo lồng lộn:
“Còn xa lắm mới đến cái thác nước. Nhưng đã thấy tiếng nươc réo gần mãi lại réo to mãi lên ... Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn”
+ Âm thanh của sóng thác luôn thay đổi: mới oán trách nỉ non đã chuyển sang khiêu khích, chế nhạo, rồi đột ngột rống lên.
+ Khi thì là những hòn đá sông lập lờ cạm bẫy:
“Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm đã mai phục hết trong lòng sông”
+ Những trùng vi thạch trận sẵn sàng nuốt chết con thuyền và người lái:
“”Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”
- Mượn ở các ngành, các bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm nên hàng loạt so sánh liên tưởng, tưởng tượng kì lạ, bất ngờ:
+ Hình dung một cảnh tượng hoang sơ bằng cách liên tưởng đến hình ảnh của chốn thị thành, có hè phố, có khung cửa sổ trên “cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
+ Tả cái hút nước quãng Tà Mường Vát:
o “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.
o “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.
+ Lấy hình ảnh “ô tô sang số nhấn ga” trên “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” để ví von với cách chèo thuyền …
+ Tưởng tượng về cú lia ngược của chiếc máy quay từ đáy cái hút nước sông Đà, cảm thấy có “một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”.
+ Dùng lửa để tả nước:
“Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá truông rừng lửa”
=> Hình ảnh con sông là biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
Đó cũng là sự phá cách, minh chứng cho kì tài của Nguyễn Tuân trong lĩnh vực sử dụng ngôn từ .
2. Hình tượng con sông Đà trữ tình:
- Viết những câu văn mang dáng dấp mềm mại, yên ả, trải dài như chính dòng nước:
“Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hao ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”
- Dụng công tạo ra một không khí mơ màng, khiến người đọc có cảm giác như được lạc vào một thế giới kì ảo.
+ Quan sát nhiều lần để nhận thấy màu nước sông Đà biến đổi theo mùa:
“Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”
+ Con sông giống như “một cố nhân” lâu ngày gặp lại.
+ Nắng cũng “giòn tan” và cứ hoe hoe vàng mãi cái sắc Đường thi “yên hoa tam nguyệt”
“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”
+ Bờ sông “hoang dại” và “hồn nhiên” như “một bờ tiền sử”, phảng phất “nỗi niềm cổ tích”.
+ Sự im lặng thì tịch mịch đến nỗi con người thèm được giật mình:
“Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một chuyến xe lửa đầu tiên”
+ “Con hươu thơ ngộ” trên áng cỏ sương như biết cất lên câu hỏi không lời:
“Hươu vểnh tai nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”
+ Đàn cá dầm xanh: “quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”
+ Con thuyền: lặng lẽ trôi trên dòng nước lững lờ như thương như nhớ như “một người tình nhân chưa quen biết”.
=> Sự tài hoa đã đem lại cho áng văn những trang tuyệt bút. Nguyễn Tuân đã dựng nên cả một không gian trữ tình khiến người đọc say đắm, ngất ngây, thêm yêu thêm cuộc đời này?
3. Hình tượng người lái đò trong cuộc chiến đấu với con sông Đà:
- Tính chất cuộc chiến: không cân sức
+ Sông Đà:
o Đá trên sông như bầy thuỷ quái dàn trận đợi sẵn:
“Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”
o Khi thuyền đến nơi:
“Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi vật ngửa mình ra”
à sóng nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền, sóng thác tung ra những miếng đòn hiểm quyết bóp chết người lái đò.
+ Thạch trận với đủ 3 lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và nham hiểm:
“”Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”
à Thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh.
+ Con người:
nhỏ bé, không có phép màu, vũ khí trong tay chỉ là chiếc cán chèo trên “một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận điạ sẵn”
- Kết quả:
Thác dữ đã không chặn bắt được con thuyền; con người chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên:
+ Đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung hãn của dòng sông:
“Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh về cửa sinh”
+ Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi thạch trận:
“Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh cửa mở cánh khép.”
+ Những thằng đá tướng:
“đã tiu nghỉu qua bộ mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng cửa sinh mà nó trấn lấy”.
- Nguyên nhân làm nên chiến thắng:
+ Sự ngoan cường, dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua thử thách của cuộc sống
+ Tài trí, sự hiểu biết và nhất là kinh nghiệm nhiều năm gắn bó với nghề sông nước, lên thác xuống ghềnh.
- Cảm hứng của tác giả:
+ Thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, còn con người lao động Tây Bắc là vàng mười của đất nước
à trong cảm xúc thẩm mĩ của tác giả, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả.
+ Con người quý giá ấy lại chỉ là những ông lái, nhà đò nghèo khổ, làm lụng âm thầm, giản dị, vô danh.
+ Những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà trở nên lớn lao, kì vĩ, hiện lên như đại diện của con người.
=> Người lái đò dũng cảm, tài hoa, trí dũng chính là “vàng mười” của vùng Tây Bắc.
III. Tổng kết:
1. Chủ đề:
Tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc
2. Nghệ thuật:
Công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động của con người.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top