PHÂN TÍCH CẢNH CHO CHỮ
Xuất hiện trên văn đàn vào đầu thế kỷ XX, Nguyễn Tuân là một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại, một nhà văn bậc thầy, một nhân cách văn hóa mẫu mực. Ông đã khẳng định ngay lập tức tên tuổi của mình ở một văn phẩm gần như thâu tóm và kết tinh mọi tinh hoa làm nên sự hoàn thiện và hoàn mỹ của một phong cách viết “Vang bóng một thời". “ Chữ người tử tù” là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tác phẩm, trong đó, cảnh cho chữ của nhân vật Huấn Cao là điểm sáng nhất truyện được thắp lên bằng tài năng và nhân phẩm của các nhân vật.
Tác phẩm “Chữ người tử tù” xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục. Huấn Cao là người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nên bị kết án tử hình. Trước khi chịu án chém, ông bị đưa đến giam tại một nhà tù. Khi trát gửi đến nhà tù, biết trong danh sách có ông Huấn Cao, người nổi tiếng viết chữ đẹp, viên quản ngục – người cai tù trông coi Huấn Cao, đã cho thầy thơ lại bảo người quét dọn phòng giam nơi Huấn Cao và những người tử tù sẽ ở. Trong những ngày Huấn Cao ở tù, viên quản ngục đã biệt đãi ông và những người đồng chí của ông. Sở nguyện của viên quản ngục là xin được chữ viết của Huấn Cao. Lúc đầu, Huấn Cao tỏ ý khinh miệt viên quản ngục, nhưng khi hiểu được tấm lòng ngục quan, ông đã quyết định cho chữ ngay đêm trước ngày mình bị xử chém.
Cho chữ là một điều rất thiêng liêng, thường diễn ra trong không gian trang nghiêm, nơi thơm mùi giấy mực, nơi đầy tính học thuật, không phải là phủ lớn trang trọng thì cũng là trong một khung cảnh nên thơ, quý phái. Nhưng cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Hoàn cảnh cho chữ được tác giả miêu tả một cách thật đặc biệt: “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đó là một đêm khuya vắng lặng chỉ có “tiếng mõ vọng canh”. Quang cảnh nhà tù, buồng giam dưới ngòi bút của nhà văn thật ảm đạm và nhơ bẩn. Không dừng lại ở đó, không gian ấy còn bị thu hẹp dần trở nên thật bé nhỏ, tù túng, chật hẹp. “Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên lân hồ. Khói bốc toả cay mắt”. Nhà tù lạnh lẽo, ẩm thấp bỗng dưng được sưởi ấm bằng “ánh sáng đỏ rực” của bó đuốc tẩm dầu. Nhà văn đã dùng thủ pháp tương phản để tạo ấn tượng về hoàn cảnh cho chữ. Nguyễn Tuân thật không hổ danh là một người nghệ sĩ tài hoa có con mắt tinh đời và tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy.
Người nghệ sĩ tài hoa không phải ở trong tư thế tự do mà phải mang vác nào gông, nào xiềng và đội cả án tử trên đầu. Một con người ngang tàng tung hoành trong xã hội dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn say mê sáng tạo cái đẹp, bất kể ngày mai, khi trời sáng, cái chết đã cận kề. Huấn Cao dường như không phải đang viết mà là đang vẽ chữ, ông “dậm tô nét chữ” một cách ung dung, đĩnh đạc, không màng tất cả. Thông thường, sáng tạo nghệ thuật là một việc thanh cao cần được diễn ra ở những nơi trang trọng, thiêng liêng; nhưng không, lúc này đây, Huấn Cao lại đang viết chữ, cho chữ trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, nhơ nhớp. Qua đó, ta có thể thấy sự độc lạ trong cảnh cho chữ dưới nét bút của Nguyễn Tuân.
Trong cảnh cho chữ, ta nhận thấy có sự hoán đổi địa vị giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Một bên là tử tù uy nghi, lồng lộng “dậm tô nét chữ”, một bên là quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực”. Những con người mâu thuẫn về giai cấp, lý tưởng lại bỗng dưng trở thành tri âm tri kỉ về tinh thần. Họ chụm đầu lại, cùng nhau say sưa sáng tạo cái đẹp và thưởng thức cái đẹp. Ngay trong chốn ngục tù đầy tội ác, con người hướng tới cái đẹp một cách tuyệt đối. Chính lúc này đây, cái đẹp đã thực sự toả ánh hào quang rực rỡ làm bừng sáng cả không gian. Thiên lương đang lấn dần, đẩy lùi bóng tối, vươn lên làm kim chỉ nam soi sáng cho những con người lầm đường, lạc bước.
Huấn Cao rất trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của viên quản ngục. Ông sử dụng hàng loạt những hình ảnh mang tính biểu tượng “bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”, “thoi mực thầy mua ở đâu mà thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?”. Đó chính là biểu tượng cho tấm lòng sáng và đẹp, đầy hoài bão, ngay thẳng như vậy. Từ đó, Huấn Cao muốn nói rằng một người biết trân trọng cái đẹp như ngục quan không nên ở một nơi đầy rẫy những cái xấu và cái ác. Ông khuyên viên quản ngục “nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ”, ông muốn viên quản ngục giữ gìn và bảo vệ sự lương thiện đó, không để nó bị “nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Qua lời khuyên của Huấn Cao, ta thấy được quan điểm về cái đẹp của Nguyễn Tuân. Cái đẹp không thể hòa đồng, thỏa hiệp và sống chung với cái xấu và ác. Đây là chi tiết thực tế hiếm hoi trong một tác phẩm lãng mạn. Sau nghi nghe lời khuyên, ngục quan “cảm động vái người tù một vái”, “nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào”, chắp tay nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Viên quản ngục tự nhận mình là một kẻ mê muội, vì mình không nhận rõ ra hiện thực, cảm thấy biết ơn Huấn Cao đã kịp thức tỉnh ông, giúp ông nhận ra rằng nếu muốn tiếp tục sống với cái thiên lương thì phải mau chóng thoát khỏi nơi đầy rẫy cái ác. Từ đó, nó nói lên một quan điểm về cái đẹp của Nguyễn Tuân, rằng cái đẹp có khả năng cảm hóa và cứu rỗi con người khỏi cái xấu.
Để dựng nên cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã thể hiện tài năng ngôn ngữ của mình một cách sắc sảo, tuyệt đỉnh. Những lớp ngôn từ dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân thật đa dạng, phong phú tạo nên nét cổ kính, trang trọng, ngôn ngữ đậm màu cổ trang, tạo không khí truyện cổ xưa, vừa sống động, vừa tinh tế. Ngoài ra, nhà văn còn sử dụng rất thành công thủ pháp tương phản, đối lập. Bút pháp lí tưởng hóa của tác giả cũng đạt đến một đỉnh cao nhất định. Cảnh cho chữ được tác giả miêu tả vừa ảm đạm, vừa hùng hồn khiến cả ba con người xuất hiện ở đó: Huấn Cao, viên quản ngục, thầy thơ lại bỗng trở thành những hình tượng độc đáo, nổi bật.
Qua cảnh cho chữ, ta nhận ra những quan điểm về cái đẹp đáng trân trọng của Nguyễn Tuân. Cái đẹp, cái thiện sẽ luôn có khả năng chiến thắng cái xấu, cái ác, cho dù chỉ cần có thể cảm hóa cái xấu. Cái đẹp không thể nào cùng tồn tại với cái xấu. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Huấn Cao đại diện cho những con người tài hoa trong cuộc đời với tấm lòng trong sáng của người biết quý trọng cái tài, cái đẹp.
Cảnh cho chữ đã làm bật nồi được chủ đề của toàn bộ tác phẩm, khẳng định chân lý “cái đẹp cứu rỗi nhân loại” và tinh thần dân tộc, lòng yêu nước kín đáo của tác giả, góp phần vào sự thành công của văn phẩm “Chữ người tử tù” và tác phẩm “Vang bóng một thời”. Bên cạnh đó, “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” còn cho thấy tài năng văn chương kiệt xuất của Nguyễn Tuân – một nhà văn có phong cách rất độc đáo, tài hoa và uyên bác. Trong cuộc sống, ta phải biết trân trọng cái đẹp, sống có ích cho cuộc đời, đồng thời tự nuôi dưỡng cái đẹp trong mình để trong lúc tối tăm sẽ có kim chỉ nam soi sáng đãn lối ta đến con đường thiện lương.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top