Độc Tiểu Thanh kí - 4 câu thơ cuối

     Số phận người phụ nữ từ lâu đã là một đề tài xuyên suốt trong văn học trung đại Việt Nam, trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao tác giả. Họ viết lên những lời văn, những vần thơ về cuộc đời, số phận bị chà đạp bất công. Nổi bật trong số những người thi sĩ ấy là đại thi hào Nguyễn Du. Với tấm lòng nhân đạo cao cả, tình yêu thiết tha với cái đẹp, ông đã viết lên những bài thơ về thân phận tài hoa bạc mệnh. Đó là nàng Kiều, là người ca nữ đất Long Thành. Trong đó, ta không thể không nhắc đến nàng Tiểu Thanh trong bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí". Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc.

"Độc Tiểu Thanh kí" gắn liền với những với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. vì gia cảnh nghèo khó, nàng được gả vào một gia đình giàu có, làm vợ lẽ. Tuy nhiên vợ cả ghen tuông nên đã cho nàng ở tách biệt trong ngôi nhà ở núi Côn Sơn. Trong những năm tháng cô độc, nàng Tiểu Thanh đã gửi gắm tâm hơn vào những áng văn chương tài hoa. Tố Như khi đọc những tác phẩm về cuộc đời nàng đã động lòng sót thương cho thân phận "hồng nhan bạc mệnh". Nguyễn Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sự của nhà thơ trước thời cuộc. Đặc biệt là bốn câu thơ cuối, từ sự cảm thưởng và đồng cảm với Tiểu Thanh, ông đã bày tỏ những tâm sự, băn khoăn của mình. Hai câu luận chính là cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến của ông:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)

Câu thơ được cất lên đầy sự tuyệt vọng, ai oán, u sầu. Từ cái hận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã nghĩ tới cái hận muôn đời, triền mien không bao giờ chấm dứt. Đó là cái hận vì sự bất công phi lí của xã hội. Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến, loạn lạc thời bấy giờ, "tài hoa bạch mệnh" đã trở thành hiện tượng phổ biến. Nỗi hận "tự cổ chí kim" ấy đã được dồn nén lại, trở thành một câu hỏi muôn đời không có lời đáp "thiên nan vấn". Nguyễn Du đã thốt lên đầy đau xót, như muốn hướng đến trời cao vì một câu trả lời. Qua đó, ta có thể cảm nhận lòng đồng cảm, xót xa cho những con người tài hoa nhưng đoản mệnh. Câu hỏi ấy không chỉ là lời cảm thương xót xa, mà cũng chính là sự tố cáo của ông dành cho xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái. Bên cạnh cái hận là cái án phong lưu:

Phong vận kỳ oan ngã tự cư

"Thiên" đối với "ngã" – trời đối với người. Câu thơ như them một phần oan trai, vấn với trời xanh nhưng cũng như them một lần rung cảm. "Phong vận", tức "lưu phong dư vận" nghĩa là gió thổi nước trôi, biểu hiện sự hài hòa rất mực, sự tài hoa, đẹp đẽ. "Kì oán" hay nỗi oan lạ lùng, thể hiện một nghịch lí nhức nhối của cuộc đời. Những con người "phong vân" đáng ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, may mắn. Thế nhưng ở đây, họ phải chịu cảnh khốn khổ, bị chà đạp, bất công. Đó là quy luật nghiệt ngã "tài mệnh tương đố", "hồng nhan bạc phận" Để rồi, Nguyễn Du đã nghĩ đến chính mình: "ngã tự cư". Ông cũng sống trong hoàn cảnh của nàng, cũng là nạn nhân của nỗi oan khiên lạ lùng. Ông đau nỗi đau của nàng Tiểu Thanh như đau nỗi đau của chính bản thân mình. Lời oán trách không chỉ thể hiện sự bất bình, sự đau khổ và bất lực của nhà thơ trước những bất công của xã hội đã chà đạp lên giá trị cuộc sống. Trời vốn vô tình với những con người tài hoa, hiện tại là Nguyễn Du và trước đó 300 năm là nàng Tiểu Thanh còn về sau hậu thế cũng sẽ có những con người phải chịu nỗi ấm ức này. Để rồi đến hai câu kết, Nguyễn Du đã bộc lộ khát vọng được tri âm đồng cảm mãnh liệt:

"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như".

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng)

Người xưa cho rằng, những người cùng cảnh ngộ sẽ có sự thấu hiểu và cảm thương cho nhau sâu sắc hơn bất kỳ ai. Giống như Thúy Kiều đã từng khóc than trước mộ Đạm Tiên, Nguyễn Du đã cảm thương số phận nàng Tiểu Thanh. Dù cách Tiểu Thanh tới 300 năm, nhưng trước cuộc đời, trước số phận của nàng Nguyễn Du không tránh khỏi sự đồng cảm, lời khóc than. Và rồi, chính Nguyễn Du nghĩ đến cuộc đời của minh. Ông tự hỏi rằng: liệu hậu thế về sau, liệu 300 năm có lẻ nữa, người đời có ai cảm thương cho số phận của chính ông không. Từ đó, ta như nhận thấy nỗi cô đơn tột cùng, nỗi đau thiếu vắng tri âm ở hiện tại. Bên cạnh đó còn là khát khao được đồng cảm ở hậu thế. Nguyễn Du là con người bế tắc, mong được giải thoát mà vẫn không tìm thấy đường ra. " Khấp" là đến tận cùng của sự đau thương. Khấp là khóc cho Nguyễn Du cũng như bao người tài hoa như ông. Có thể nói, hai câu kết là tiếng lòng khao khát tri âm của Nguyễn Du. Khóc Tiểu Thanh, Nguyễn Du "trông người lại nghĩ đến ta" và hướng về hậu thế bày tỏ nỗi lòng cùng hi vọng mong manh vào tương lai những người tài năng sẽ được trân trọng.

Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ thể hiện nỗi lòng, sự cảm thông của đại thi hào Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh. Cũng qua đó, Nguyễn Du cảm thán cuộc đời, cảm thán cuộc đời mình dường như cũng giống nàng Tiểu Thanh. Giống như truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top