vai trò FDI

1.2. Vai trò của khu vực FDI với nền kinh tế Việt Nam 

Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng 

trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu 

tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Các nghiên 

cứu gần đây của Freeman (2000), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Nguyễn Mại (2004) đều 

rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào 

GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và 

đổi mới công nghệ  của nhiều ngành kinh tế,  khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là 

trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo 

việc làm  cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công 

nghệ và các doanh nghiệp có vốn  đầu tư  nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp 

trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có 

tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ  của người lao động làm 

việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu. Phần dưới 

đây sẽ khái quát vai trò của FDI đến tổng thể nền kinh tế.   

1.2.1. FDI đối với vốn dầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế

Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về

nhu cầu vốn, FDI  được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn  đầu tư trong 

nước, nhằm đáp nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến 

động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này như đã phân tích ở

trên, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư  của các thành phần kinh tế trong nước. 

Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31 %, là mức 

cao nhất cho đến nay. Tỷ  lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm 

15,5 % trong tổng đầu tư toàn xã hội (Đồ thị  4).  

   6,4% của khu vực này năm 1994 Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc 

độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động 

nhất. Tốc  độ  tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả

nước

1.2.2. FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu 

 Như trên đã đề cập, FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp. 

Nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan 

trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng v.v.  

Năm 2004, khu vực có vốn FDI đóng góp tới 35,68% (giá so sánh năm 1994) tổng giá trị

sản xuất công nghiệp cả  nước, trong khi tỷ  lệ này chỉ là 25,1% năm 1995. Đến nay, khu 

vực có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, 

ô tô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy 

móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng 

da giày; 25% thực phẩm đồ uống.. Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 

của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở  mức cao, cao hơn tốc độ  tăng trưởng chung toàn 

ngành trong suốt giai  đoạn 1995-2003, trừ  năm 2001. Năm 2004, giá trị  sản xuất công 

nghiệp của khu vực này tuy cao, đạt 15,7% nhưng thấp hơn mức chung của toàn ngành, 

chủ yếu do tốc độ tăng rất cao của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước (22,8%).  

Trong một thập kỷ trở  lại đây, tốc độ  tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI 

luôn cao hơn so với tốc độ  tăng trung bình của cả  nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu 

của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong khi đó năm 2004 con số này đã là 26,5 tỷ đô la, tăng 

gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng giá 

trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6 % năm 2004. Cần lưu ý rằng, mặc dù FDI có tỷ

trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ

như vậy vì các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp 

có qui mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính.      

                      1.2.3. FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực 

 Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam  đang sử  dụng khoảng 730 ngàn lao 

động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao  động có việc làm tại Việt Nam so với tỷ trọng này năm 

1996 là 0,7%. Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các ngành tập trung vốn 

và sử  dụng lao  động có trình  độ  kỹ  năng cao. Đó cũng là một cách lý giải cho mức thu 

nhập trung bình của lao  động trong khu vực này cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp 

khác cùng ngành

. Hơn nữa, số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, có kỷ

luật lao  động tốt, học hỏi  được các phương thức lao  động tiên tiến.   Đặc biệt, một số

chuyên gia Việt Nam  làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể thay thế dần các chuyên 

gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm những chức vụ quản lý doanh nghiệp và điều khiển 

các qui trình công nghệ hiện đại

Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo 

thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ  và  có  thể  tạo thêm lao động trong các ngành công 

nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc 

hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có số liệu 

thống kê chính thức về số lao động gián tiếp được tạo ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam. 

1.2.4. FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô 

 Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn 

thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục Thuế, năm 2002, khu vực FDI 

đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà nước, tăng 4,2 lần so với năm 1994. 

Tính riêng giai  đoạn 1996-2002, khu vực này  đóng góp (trực tiếp) vào ngân sách trung 

bình ở mức khoảng 6%

. Tỷ trọng đóng góp nhỏ là do các doanh nghiệp FDI được hưởng 

chính sách khuyến khích của Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong những năm 

đầu hoạt động. Tuy nhiên, nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này ước khoảng 20%. 

 Bên cạnh  đó, FDI  đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư  của tài khoản 

vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Động thái của cán cân vốn trongthời kỳ 1994-2002 cho thấy có mối quan hệ khá rõ giữa số dư tài khoản vốn và dòng vốn 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: