TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN!!-Lenghiabk05

Ngày xưa thời bao cấp thì ít khi có khái niệm giàu nghèo, thằng đẹp cũng như thằng xấu, thằng khôn cũng như thằng ngu, ấy thế mà đùng 1 phát xã hội thay đổi vl. 
Ngày xưa đẹp zai, thông minh, khéo ăn nói thì tha hồ tung hoành làng trên xóm dưới trêu hoa ghẹo nguyện, hủy diệt hết bông hoa này đến nụ hoa kia. Bây h đẹp zai với tài giỏi mà đi xe đạp thì ngoác mồm ra cũng chỉ lừa lọc được mấy em đầu thừa đuôi thẹo, thằng nào tài giỏi thì tán được mấy em tàm tạm nhưng lục lại gia phả nhà nó kiểu gì cũng có vài người trong họ bị mắc mấy bệnh nan y, nhẹ thì hôi nách mà nặng thì cũng tầm ung thư "ví". Thằng giàu thì đời nó giàu, đời con nó cũng giàu. Cứ tưởng tượng 1 thằng ku đang nằm trong bầu của 1 con mẹ nào đấy, vài tháng tuổi nó đã được nghe nhạc giao hưởng, trí não phát triển vù vù, ra đời 1 cái nặng 5 kg thì cái não nó cũng phải nặng 3kg, chưa kịp cất tiếng khóc đá đểu đời thì sữa mẹ, sữa bò, sữa bột bú chùn chụt, bao nhiêu chất bổ dưỡng bay vào mồm như thiêu thân lao vào lửa, lớn lên tí nữa thì đồ chơi đầy nhà, đến lúc ngủ ôm 1 con gấu bông to như cái bồn cầu thì làm gì đêm nó chả mơ thấy đang cười lên đầu lên cổ chị bạch tuyết, cắt tiết chị lọ lem và vén váy lên xem hàng cô tấm... Đến tuổi đi học thì xe đưa xe đón, gia sư nọ gia sư kia. Lên cấp 2 1 cái bố mẹ đầu tư cho đi du học. Mà học nước ngoài tất nhiên là phải khác trong nước rồi, lên trung học 1 cái thì gái gú đầy đủ, nó ăn uống sướng thế kiểu gì chả cao to đẹp zai. Nó sẵn tiền vung ra vào bar, vào party thì làm gì chả quen biết, gặp gỡ, quan hệ này nọ với mấy con nhỏ dâm dục trong trường. Cuối cùng nó nhảy vào Harvard học rồi cầm cái bằng về nước, các công ty thi nhau mời mọc vào nhưng chắc gì nó đã cần? Bố mẹ nó tiền tấn mà, thích 1 cái thì cho con vài triệu đô làm ăn, chẳng may có thất bại thì cũng chỉ mắng nó mấy câu rồi cho nó thêm ít nữa, vài lần như thế kiểu gì nó chả thành công, chả giàu? Những thằng thì ăn uống kham khổ từ đời bố mẹ nên thể chất cũng như trí não có dám đú với bọn nó không? Cấp 1 thì ghen tị với bạn bè vì không có đồ chơi đẹp, cấp 2 thì đi bộ đi học về nhà ăn ngày 3 bữa cơm rau toàn thuốc sâu với nước mắm có phân đạm.có mà thông minh vào mắt. Lên cấp 3 thì tiền ko có, nhìn bạn bè đứa nào cũng gái gú khắp người kiểu gì chả sinh ra mặc cảm, học hành làm sao được khi đầu óc lúc nào cũng nghĩ về những bộ ngực căng phồng, những cái mông tròn mẩy và thèm khát những cái chống đẩy nhiệt tình. Tâm lí như thế thi ĐH trượt là cái chắc, bố mẹ cũng thương con nhưng chả làm thế nào được cũng cố cho con thi vào mấy cái trường cao đẳng, trung cấp ất ơ rồi nhắm mắt nhắm mũi nuôi mấy năm ăn học. Học xong cầm cái bằng của mấy trường đó đi xin việc kiểu gì chả nhận được những câu như : "Mày không mang cái bằng vip này đi thì may ra cty nhận mày làm tạp vụ, cút". Xin dăm 3 chỗ không được thì cũng đến phải kiếm cái xe mà hành nghề xe ôm. Cậu nào mặt mũi sáng sủa 1 tí thì may ra được mấy thằng sếp gay nó nhận. Nhiệm vụ chỉ có đến cty rồi chui vào phòng cho nó thông ass, may mắn nữa thì có mấy cty vớ vẩn nó nhận rồi nó điều lên mấy vùng Ninh Bình, Lào Cai, Yên Bái an phận tha hồ mà ngắm trăng sao cùng mấy em thôn nữ tóc trắng như tuyết,da đen như gỗ mun,lưỡi đỏ như máu... đấy mới là nói chuyện học hành. Chuyện sinh hoạt thì càng đau lòng hơn.
Thằng thì lao động quần quật cả ngày mệt mỏi, lê xác về nhà định tắm rửa 1 cái cho mát mẻ, vui vẻ với con vợ xấu xí đang nằm vật vã thở hổn hển cho 3 đứa con bú ở nhà, thì 1 thằng đi BMW đi qua vũng nước tạt cho đánh ào 1 cái ướt từ đầu đến gót chân. Thằng thì cả tuần chắt bóp mới dám ra vỉa hè uống cốc nước, hút điếu thuốc với đầy ặt vẻ mãn nguyện phì ra 2 lỗ mũi nhưng đâu biết có những thằng đang hò hét trong bar với 1 tá những em nóng bỏng bâu kín từ đùi đến thắng lưng. Thằng thì cứ đợi đến chiều để nghe ké tiếng nhạc bên nhà hàng xóm trong khi những thằng đang lắc lư, gật gù, giãy giụa trong những sàn nhảy. Mùa hè nóng bức lắm anh cũng cố tiết kiệm để đi bể bơi vài lần để khoe body, khoe lông chân lông nách với các em thiếu nhi 3-4 tuổi. Những thằng giàu bé thì nó có bể bơi ở nhà, lớn tí nữa Nha Trang Vũng Tàu, Hạ Long Mũi Né nó đếm được từng hạt cát. Chán trong nước thì nài nỉ 1 tí làm gì bố mẹ chả cho đi Hawaii, Malibu... hay Caribbeen. Chết đuối ở mấy chỗ đó cũng sướng hơn uống mấy ngụm nước đầy clo trong mấy cái bể bơi chỉ to gấp đôi gấp 3 cái bể phốt.

Chuyện quan hệ cũng bức xúc không kém. 
Những cậu thì chỉ biết loanh quanh trong ngõ tâm sự, bàn chuyện làm ăn với mấy đứa trẻ con hay mấy ông trung niên thất nghiệp. Ra khỏi ngõ 1 cái là cái xã hội tiêu tiền ầm ầm nó đập vỡ mặt ngay chứ chả cần nói đến đầu gấu hay bọn thanh niên hay ngứa mắt nó tẩm quất. Các anh con nhà điều kiện thì cũng nhờ bố mẹ mà quen hết nhà trí thức này đến nhà nho học kia. Bạn bè thì cũng toàn loại IQ cao ngút ngàn, thích thì rủ bạn đi ăn, đi nhảy đi hát đi hò. Ra đường thằng nào cà khịa nó bực lên nó mang tiền đến đốt nhà, thằng nào hiền lành nó cũng mang Ferrari húc cho tan cổng.

Những chuyện vớ vẩn nhỏ nhặt nữa thì càng điên. 
Những người ko có tiền thì hút thuốc lá,thuốc lào,được khoảng 3 mấy tuổi thì phổi như 1 cái rổ.ko có điều kiện chạy chữa thì vài tháng là lên bàn thờ.bọn tiền đút toát mồ hôi đít thì nó hút thuốc phiện,hút tài mà,tiêm chích nên phổi cứ gọi là trắng hồng tự nhiên,hơi ốm yếu 1 cái thì nó chạy chữa từ a đến z nên tuổi thọ cứ gọi là cao như cây tre trăm đốt.mà tuổi thọ cao thì nó càng kiếm được nhiều tiền,càng giàu,xã hội lại phân hóa vl hơn.thằng nào đú đỡn đua xe chẳng may tai nạn giao thông thì nó cũng nằm cười khì khì trong mấy nghĩa trang vip hay được hỏa táng thành 1 bình tro nho nhỏ được bố mẹ treo lủng lẳng ở đũng quần để tưởng nhớ.ko có tiền có mang về quê chôn cất tạm bợ vớ vẩn trâu bò thả rông nó húc cho tan bia mộ ra ấy chứ !

Chuyện vai vế xã hội thì khỏi phải bàn làm gì cho mệt.
Mấy chú đi làm cả ngày mệt đến lúc về gặp tắc đường,mấy anh công an giao thông đang điều khiển mệt lại thấy 1 thằng đi xe ghẻ,ăn mặc tồi tàn thì rất dễ bị tóm vào nộp phạt,đã nghèo lại gặp cái eo cũng tội. Bọn đi SH,PS thì nó không đội mũ BH phóng hết phố nọ đến phố kia,có gặp công an nó cũng lạnh lùng làm ngơ.biển xe bọn nó cũng toàn tứ quý với phát tài phát lộc nên cũng chả ai nỡ bắt .bắt để bố nó gọi điện cho sếp 1 cái hôm sau phải mang xe đến tận nhà nó mà xin lỗi à ? Chả dại.

Đấy là liệt kê được 1 số mặt mạnh của giàu có,sang trọng nhưng ai bảo nghèo mà không có cái hay, cái thú của nó ?

Thằng giàu đi PS chở bạn gái ra bờ hồ hay đến hẳn nhà ả ta chơi, cứ 5 phút lại phải ngoái ra xem xe còn hay mất hoặc thằng bỏ mẹ nào nó nghịch nó làm xước sơn xe của mình. Ngồi nói chuyện với bố vợ tương lai mà cứ lo đến xe thế này thì tình cảm sứt mẻ cực kì, thằng ít tiền đi wave tàu hay đi xe đạp cũng được, ra bờ hồ tâm sự thích thì nó đạp bay xe xuống hồ rồi nằm vật nhau trên ghế đá xong xuôi thì vớt xe lên.tình cảm ko tăng lên vùn vụt mới gọi là lạ. Bố mẹ vợ nhìn thấy thằng ku này tuy nghèo nhưng thực lòng thương con gái mình thì dễ xúc động lắm, chết 1 cái là các cụ đã ưng ai thì cứ ép con cái mình lấy bằng được thằng đó.


Đời sống tinh thần thì nghèo cũng có rất nhiều cái hay. 
Những cậu ở quê nhà có sân, có vườn và 1 mảnh ruộng nho nhỏ, tối đến trăng thanh gió mát nhảy tót qua hàng rào là đến nhà người yêu rồi hàm huyên tâm sự trên nóc chuồng xí, quanh năm cũng chỉ có 2 vụ cấy hái và gặt, làm vất vả mấy hôm rồi chơi thoải mái cả năm. Cần thì làm, đói thì ăn, thích thì chơi mà mệt thì bố lăn quay ra ngủ đến 10 giờ sáng mới dậy. Khái niệm giờ hành chính cũng coi như không biết, thiếu thốn 1 tí nhưng được cái thoải mái về thời gian, mấy thằng giàu thì sao ? Suốt ngày rúc đầu vào các cuộc gặp nọ rồi cuộc họp kia rồi đi nốc rượu với đối tác rồi bò về nhà với 1 bãi chè thập cẩm trên nền phòng khách, có kiếm được nhiều tiền thì cũng để cho con cái nó tiêu là chính chứ mình đào đâu thời gian mà xài ? Mà con cái nó tiêu tiền của mình nó cũng quý mến quái gì mình ? Vì thức dậy 1 cái là bố đã đi làm, đến tối 11-12 h mới mò về trong khi trẻ con nó đâu thức được khuya ? Cứ vài tuần ko được nhìn mặt bố 1 lần bảo sao con nó ko yêu ko quý. Những thành phần này luôn luôn mong ước cho 1 ngày có 50 hoặc 60 tiếng để đủ thời gian làm những việc mà họ ít khi dám làm hoặc đơn giản là họ luôn luôn thiếu ngủ và cần nghỉ ngơi.

Đời sống vật chất cũng na ná như thế, những người 1 ngày chỉ làm làm được khoảng 30 nghìn thì họ tiêu 25 nghìn thôi còn 5 nghìn để lúc nhức đầu xổ mũi còn B1 mà uống, ỉa chảy đái trôi thì becberin cũng chỉ có vài nghìn 1 lọ. Giàu thì vô vàn, người thì ngày kiếm vài triệu, vài chục triệu hoặc hơn, tiền càng nhiều họ càng muốn nhiều thêm bằng cách gửi ngân hàng, chứng khoán hay bất động sản hoặc đơn giản là lô đề. Tiền càng ngày càng sinh sôi nảy nở nhưng cũng đồng nghĩa với việc quý thời gian và các hoạt động gia đình xã hội bị bóp chặt lại (đây là nói những người đi làm chứ ko phải nói mấy thằng con nhà giàu vừa thừa tiền vừa thừa thời gian) Nói ngay bà chị ruột mình làm ví dụ. : khá xinh đẹp, biết 3 ngoại ngữ, làm tổng biên tập 1 tờ báo và dính dáng đến vài chỗ khác nữa. 1 tháng kiếm vài chục triệu như trở bàn tay nhưng 32tuổi rồi mà chồng con chưa có. Cứ bao h về nhà mình chỉ cần nói dạo này em nhìn chị hơi già đi 1 cái là mặt mũi tái mét, trong khi mình chỉ làm cộng tác viên vớ vẩn mấy chỗ. 1 ngày làm việc nhiều thì cũng 3 tiếng đồng hồ mà chả cần đến cơ quan nào cả. Hôm nào cũng lên 4rum nói phét cả đêm rồi ngủ đến 12h trưa mới dậy, thích thì viết 1-2 bài mang nộp mà không thích thì để hôm sau hay tuần sau, thậm chí là tháng sau. Tiền ko đủ mua xe đẹp, quần áo hàng hiệu nhưng cũng đủ rủ bạn bè đi ăn, rủ vợ đi xem phim và mua tặng cô ta 1 vài cái áo nịt ngực vào ngày sinh nhật. Nhà có 3 chị em, tớ thuộc loại kém nhất nhà nhưng ở 1 phương diện nào đấy tớ thấy tớ là người hạnh phúc nhất.

Nhưng như thế vẫn chưa đủ, tớ luôn luôn muốn chả cần phải làm gì ngoài việc hít thở 40 nhịp 1 phút và cuối tháng có 1 người tốt bụng nào đó gửi vào tài khoản cho vài chục triệu xài chơi hoặc nhiều hơn cũng không sao

Lão Mạc


Mạc quê ở làng Thự.
Làng cách bốt Cổ Gia hai cây số.
Trước khi Nhật vào, bốt chỉ có một tiểu đội lính Tây đen và hai tiểu đội lính dõng trú đóng. Lúc Nhật đảo chính Pháp, bốt bị bỏ hoang. Năm bốn lăm, Việt Minh cắm cờ đỏ sao vàng trên nóc bốt.
Tháng mười năm ấy rét đậm. Bố Mạc bảo nhà neo người, Mạc phải lấy vợ để có thêm một người làm. Bởi thế cô Sen, người hơn Mạc tới mười tuổi, trước đó cũng chưa hề có tình ngang ý dọc gì với anh, đã được bố Mạc nhờ người mai mối rồi bưng trầu cau đến dạm hỏi, xin cưới cho con trai.
Sau hôm rước dâu một ngày, cô Sen chê Mạc miệng hô mắt trố, thân hình thấp bé, bảo đâu ngồi đấy, chẳng nên cơm cháo gì, bèn bỏ về nhà mẹ đẻ. Bố mẹ cô gặng hỏi thêm, cô lại ví von cái anh chàng Mạc ấy chả khác gì một cái nồi đất đựng nước sôi. Nghe rõ là đồ con gái huyên thuyên, chả biết mình cũng chỉ là chum là vại!
Mạc nghe lời bố xui, mặc độc một chiếc quần đùi, sấn sổ đến trước cổng nhà Sen, tay năm tay mười ném gạch, liệng đá vào sân, miệng liên hồi réo chửi Sen là đồ lộn chồng.
Sen tức lộn ruột, xua chó ra đuổi.
Thấy ba con chó dữ nhe răng, nhẩy chồm chồm lên mặt mình, Mạc bỏ chạy. Dây rút quần đứt cái phựt, chiếc quần đùi tụt hẳn khỏi bụng, khỏi chân Mạc rơi xuống đất. Ba con chó xúm lại, tranh nhau cắn xé chiếc quần nát thành từng mảnh nhỏ. Hú vía! Mạc không nhanh chân chạy thoát, chả biết cái con cúi có còn ở đúng vị trí của nó không đây? Thế là từ đấy, cứ trông thấy chó, bất kể chó nhà ai, chó lớn hay chó bé, chó vàng hay chó mực là Mạc lủi. Ngay cả thịt chó, món đưa cay khoái khẩu đối với nhiều người, anh cũng không dám động đũa. Thì ra Mạc vẫn sợ nó cắn!
Năm bốn bảy, Tây đen Tây trắng lại nườm nượp kéo về bốt Cổ Gia. Chúng giăng dây thép gai vòng trong vòng ngoài. Mười khẩu súng đại bác hướng nòng về tứ phía, cứ ngứa tay là chúng hò nhau bắn, không kể ngày đêm. Thi thoảng, chúng còn bất ngờ càn quét vào những làng mà chúng nghi là có du kích hoạt động. Tới đâu chúng cũng châm lửa đốt nhà, cướp của và cưỡng hiếp phụ nữ. Có lần càn vào làng Thự,  một thằng Tây đen ba vạch đã lôi ông Chấn ra đồng, chả biết nó làm gì mà từ đấy về sau ông lão bị mắc bệnh lòi rom, khi bước lưng cứ  phải cúi lom khom.
Thấy cảnh giặc giã khó yên, bố Mạc giục Mạc đến nhà ông bà thông gia gọi vợ về, nếu ở làng không được thì vợ chồng tính chuyện tản cư vào vùng tự do trong mạn Thanh Hóa.
Mạc không làm theo lời bố. Nó là vợ mình, nó tự ý bỏ về nhà, mình phải đến bắt về, việc gì phải gọi? Vậy là anh bỏ ra mấy buổi tối liền, trèo lên một cây xoan nhà bên cạnh, ngó nghiêng cô Sen giờ nào đi ngủ, bố mẹ vợ anh ngủ ở chỗ nào, bắt được vợ rồi thì vác chạy theo ngả nào để khỏi bị chó đuổi.
Tính toán mọi việc sẽ đầu xuôi đuôi lọt, tối hôm ấy Mạc leo lên mái nhà cô Sen nằm dán bụng xuống rạ nghe ngóng động tĩnh. Nhìn xuống vườn chuối, Mạc thấy ba bốn cái bóng người lúc ẩn lúc hiện. Tai Mạc thi thoảng lại nghe thấy những tiếng bước chân bước nhẹ trên lá, phát ra những âm thanh loạt xoạt khe khẽ…
Đêm đã khuya. Lúc này trăng đã ló ra khỏi những đám mây đen. Mạc cười thầm, bụng bảo dạ rõ là mình thần hồn nát thần tính, những cây chuối đứng thẳng tắp lại ngỡ là người, lá chuối lay động xào xạc lại tưởng tiếng bước chân…
Lấy hết can đảm, Mạc từ từ trườn theo cái tường gạch, leo sang cây xoan rồi từ đó tụt xuống đất. Men theo tường, Mạc tới được chái nhà. Ở phía ngoài, bên cạnh cái cổng gỗ cài then ngang to tướng, ba con chó dữ như sói đang hếch mũi lên trời, gừ gừ dọa con mèo đang rón rén bước qua trước mặt chúng. Mạc ngồi thụp xuống, kiễng chân đi xổm về phía buồng cô Sen.  Chàng trai trẻ mừng rơn khi thấy cửa buồng không khép. Sen kia rồi, cô ta đang nằm quay mặt vào phía trong. Mạc chỉ cần xông đến, vác cô lên vai và chạy. Chó sẽ sủa vang lên. Cả nhà sẽ thức dậy, người đòn gánh, kẻ cầm dao lao theo. Và họ sẽ được một trận cười vỡ bụng nhưng hể hả khi thấy Mạc vác vợ chạy cho mà xem! Nhưng chính lúc ấy, cô Sen bỗng nhỏm dậy, la làng: “Trộm, trộm…”. Mạc sợ hết hồn, lao ra ngoài, nhảy vọt qua bức tường cắm đầy mảnh chai vỡ.
Thoát nạn, anh đứng thần người ra trong bóng tối, lắc đầu chán ngán.
Về tới nhà, thấy bố khóa trái cửa, Mạc lẳng lặng xuống bếp, nằm lăn trên đống rơm ngủ thẳng một mạch. Đêm ấy, con trâu nhà Mạc khua gióng lộc cộc tới sáng; nó vừa thiếp đi đã bị tiếng ngáy pho pho của Mạc đánh thức trở lại.
Chuyện Mạc rình bắt vợ không ai biết. Nhưng những lời đồn đại cô Sen chê chồng nên đã lén rủ trai về nhà bố mẹ ngủ thì nghe chướng tai lắm. Mạc trong lòng lấy làm tức mà há miệng mắc quai, thành thử anh cũng không dám nói ra sự thật. Dưng mà trong rủi có may, bố mẹ Sen sợ muối mặt với làng trên xóm dưới, liền dắt cô sang tận nhà ông thông gia, đẩy cô vào buồng Mạc rồi đóng cửa lại.
Tối hôm ấy, quá nửa đêm Mạc mới dám về nhà. Anh cắp manh chiếu rách vào buồng, trải xuống đất nằm. Chỉ một lát sau tiếng ngáy của Mạc đã vang lên như sấm. Cô Sen tủi thân khóc đỏ cả mắt. Nhưng cô lại cười thầm, dạo này Mạc to con ra phết! Cái lưng bè bè như  lưng gấu kia khỏe phải biết!
Sáng sớm, Sen dậy nấu cơm. Mạc lò dò xuống bếp, thấy rơm bén lửa cháy đùng đùng bèn nháy mắt, bảo:
- Khéo cháy nhà đấy!
Nói xong, ngồi xuống bên cạnh Sen, vơ một nắm rơm to cho vào bếp. Nhựa nồi cơm đang sôi sùng sục trào lên, tràn xuống bếp khiến ngọn lửa tắt rụi.
- Nóng quá!
Mạc kêu nghèn nghẹn trong họng, rồi bất thình lình anh quơ  tay ôm ngang lấy thắt lưng vợ.
Sen vờ đẩy chồng ra nhưng lại bị mất đà, cô ngã dúi xuống đống rơm.
- Cơm sôi, cơm sôi… Kìa, buông tôi ra! Phải gió cái nhà anh này...
- Hì hì… Khẽ cái mồm cho tôi nhờ. Bố xuống thì bẽ mặt!
- Dơ! Ban ngày ban mặt, ai lại…
Mạc ngớ người. Anh ngạc nhiên khi thấy Sen chạy lên nhà.
Rồi Mạc hiểu ra, a, là như thế, như thế…
Anh vùi vội nồi cơm vào đống than rồi ra khỏi bếp, nhón chân bước nhẹ vào buồng, khẽ hắng giọng:
- E hèm…
Thấy Sen nằm quay lưng vào tường, hai tay ôm lấy mặt, Mạc đưa cả hai bàn tay hộ pháp lật mạnh cô xoay ngược về phía mình... Cái giường dát tre đến là dễ ghét, cứ cót ca cót két.
- Khéo nó sập thì … chui xuống đớt đới…
- Mặc kệ…
- Hi hi… Qủy sứ!
Ngoài nhà, tiếng điếu bát của bố Mạc rít lên sòng sọc. Đôi vợ chồng trẻ tạm nằm im, rồi lại cùng hi hi cười khi nghe tiếng guốc của ông bố loẹt quẹt đi ra ngõ. Hẳn là ông ấy cũng đang tủm tỉm …
Đúng vào thời điểm Sen cảm thấy rủn cả sống lưng, người lơ lửng như đang bay trong không trung, miệng tự nhiên bật ra tiếng kêu: “ Úi giời, úi giời ơi!” khe khẽ thì những tiếng nổ lớn bỗng vang lên từ tứ phía. Mặt đất chao qua chao lại như đưa võng. Từng đụn khói lớn đùn vào buồng, mùi khét lẹt của khói súng xộc vào mũi.
- Mẹ thằng Tây, bắn lúc nào không bắn lại bắn vào lúc chết người này!
Mạc buông vợ ra. Sen sợ quá, bò xuống đất, chui vào nấp trong gầm giường. Còn Mạc, anh vừa xốc quần vừa tất tả chạy ra sân. Trước đôi mắt trợn tròn của anh, cái sân đã biến thành một cái ao cạn. Chạy tiếp ra đầu ngõ, Mạc sững lại, miệng tu tu khóc. Bố anh bị đạn đại bác đẩy ngã sấp xuống đất, lưng ông bị mảnh đạn chém ngang, máu tươi chảy đỏ cả một vạt cỏ xanh…
Chôn cất bố xong, Mạc mang con dao mã tấu bố anh vẫn dùng để phát bờ ruộng ra mài, rồi anh bảo Sen anh sẽ đi theo bộ đội đang đóng ở làng Hạ để trả thù cho bố. Sen lẳng lặng bỏ quần áo của Mạc vào một cái tay nải và đưa cho chồng.  
Mạc được phiên chế về tiểu đội ba, trung đội trinh sát thuộc trung đoàn 48. Tiểu đội trưởng của Mạc tên là Bố. Ai gọi tên Bố cũng ngại nên chỉ gọi tiểu đội trưởng hay Tiểu, anh Tiểu. Riêng Mạc, anh gọi tiểu đội trưởng là anh Trưởng, bởi vì Trưởng hay hơn Tiểu chớ! Vậy là Bố có một cái tên mới. Bù lại, Mạc được tiểu đội trưởng qúy ra mặt. Cho dù kém Mạc một tuổi, Bố vẫn cứ gọi Mạc là Út, em út của tiểu đội ấy mà! Mạc chỉ cười, bảo đúng quá đi chứ lị, về tuổi quân, so với mười một anh em khác Mạc là em út ai mà chẳng biết!
Các đàn anh trong tiểu đội cũng muốn tỏ cho Mạc biết họ xứng đáng là đàn anh thực sự. Bởi thế, lúc hành quân, có thứ gì nặng, họ chia nhau mang vác để Mạc đi theo kịp mọi người. Mạc đào công sự chậm, cả tiểu đội xúm vào đào giúp, thành ra công sự của Mạc bao giờ cũng sâu nhất. Bữa cơm, Bố có gắp cho Mạc miếng thịt, con cá to nhất, ngon nhất cũng không ai thắc mắc. Mạc đi ngủ, có người rèm màn; sáng sớm có người lay đánh thức.
Rồi ai cũng để tâm đến cái bệnh ngủ ngáy vang như sấm của Mạc. Người thì khuyên Mạc nằm nghiêng. Người lại chỉ dẫn Mạc các cách chữa ngáy bằng mẹo dân gian, lúc ngủ cứ đưa tay nắm thật chặt cái của qúy là ngủ hết ngáy ngay! Không ít người rủ nhau đi tìm các loại thân, rễ, lá, củ, quả của các loài cây nghe đồn là có công hiệu chế ngự bệnh ngủ ngáy đem về phơi khô, sao tẩm và sắc cho Mạc uống…
Đúng là em út, được chiều quá hoá hư, cái bệnh ngủ ngáy của Mạc không những không thuyên giảm mà ngày càng tăng nặng thêm, chẳng mấy chốc đã phát thành bệnh ngủ ngày. Nghĩa là Mạc ngủ bất cứ lúc nào.
Khi ăn cơm, Mạc hay ngáp vặt.
Anh có thể ngủ cả trong lúc đi, cái dáng anh cứ ngật ngà ngật ngưỡng, nửa ngủ nửa thức.
Có lần cùng sáu anh em khác trong tiểu đội đi gài mìn trên con đường rẽ vào làng Hạ, Mạc loay hoay mãi mới làm xong. Rồi anh gục ngủ. Anh em chẳng ai dám lại gần, phải chờ anh tỉnh ngủ hẳn mới dám gọi.
Sợ nhất là lúc lau súng, hai mắt Mạc cứ nheo nheo, cái đầu thì gật lên gật xuống. Bố bực mình giật phắt lấy khẩu súng từ tay Mạc, nhận lau giúp. Chấp với em út làm gì, cứ để cho nó tự nhiên tựa lưng vào tường mà ngáy cho đã đời. Ngủ chán ngủ chê ắt nó sẽ khỏi bệnh!
Mạc không khỏi bệnh. Tai hại nhất là đúng vào đêm Tây trên bốt Cổ Gia tập kích vào làng Hạ, nơi đơn vị trú quân,  Mạc vẫn ngủ say như chết. Tổ trưởng tổ tam tam nghe lệnh báo động đã cấu rất mạnh vào đùi Mạc, dựng anh ta dậy, hét vào tai rằng Tây nó đến, phải rút nhanh ra đồng. Vậy mà, lúc kiểm lại quân số vẫn thấy không có Mạc!
Thực ra thì Mạc đã nghe thấy tiếng tổ trưởng gọi. Nhưng nghĩ tổ trưởng hù, Mạc chạy tới đống rơm và ngã nhào vào đó; không đầy một giây sau tiếng ngáy pho pho của anh đã vang lên…
Bọn Tây bốt Cổ Gia bắn đì đòm trong làng, rồi chúng châm lửa đốt nhà. Lửa cháy đỏ cả một góc trời, tàn than bay tứ tung, bén vào đống rơm Mạc đang tựa lưng vào ngủ. Gặp gió, ngọn lửa bùng lên. Mạc bỗng cảm thấy nóng, nóng quá. Anh dụi mắt, hốt hoảng khi thấy lửa lem lém liếm vào quần áo mình, vội ôm súng, lăn một vòng xuống ao bèo.
Ngâm mình trong nước nghĩ ngợi một lát, Mạc run cầm cập bò lên bờ. Trông thấy mấy thằng Tây súng lăm lăm trong tay, anh vụt chạy. Trong ánh lửa bập bùng, bọn Tây thấy một người vác súng chạy bán sống bán chết, chúng bèn hò nhau đuổi theo để bắt sống bằng được. 
Mạc chạy qua chỗ quả mìn anh gài mấy hôm trước. Khi bọn Tây đã tới sát sau lưng, Mạc vướng chân vào sợi dây gài, ngã sấp mặt xuống đất. Một tiếng nổ long trời vang lên. Trong khói đen mù mịt, xác mấy tên lính Tây tung lên …
Mạc định thần, chạy một mạch tới cây đa giữa đồng. Lúc ấy trời đã tang tảng sáng.
Tiểu đội trưởng Bố mặt nhăn như bị, giơ thẳng cánh tay tát Mạc một cái đau điếng…
Mấy hôm sau, Mạc được thưởng Huân chương chiến công hạng ba! Cuống huy chương nền đỏ, phía trên đỉnh trái hai cái vạch màu xanh dương song song nhau là một ngôi sao bạc lấp lánh. Huy chương đúc bằng kẽm, mặt trước rập nổi hình một người lính tay cầm bom ba càng trong tư thế lao về phía trước. Đương nhiên đây là phần thưởng cao qúy dành cho những người có hành động gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu.
Mặc cho cả trung đội vỗ tay rào rào hoan hô, Mạc vẫn cứ gật gật, nói một câu chả ra đâu vào đâu:
- Công của anh em hết. Tôi chỉ gặp may…
Anh em cho Mạc là người khiêm tốn, càng vỗ tay  to hơn.
Chuyện trên xảy ra vào năm 1948.
Hai mươi năm sau, vào thời kỳ Mỹ ném bom oanh tạc miền Bắc, ông Mạc được xã đội cử làm tiểu đội trưởng tiểu đội lão dân quân làng Thự. Tiểu đội được trang bị ba khẩu súng trường và một khẩu mười hai ly bảy. Ông Mạc tham gia trực chiến cùng anh em hai mươi bốn tiếng một ngày.
Có người thắc mắc, hỏi ông lấy sức đâu mà trực như thế, ông bảo:
- Hỏi gì mà ngốc thế, trực chiến để lấy mỗi ngày mười lăm điểm công nhật thì ngày có ba mươi tiếng chúng tôi cũng trực! Thằng Mỹ nó thay nhau cỡi tàu bay đi ném bom thì mình cũng phải chờ mà bắn nó chứ !
Những lúc không ngủ thì ông Mạc nghe đài. Đài mở, tức là ông thức.
Song cũng như khẩu mười hai ly bảy được ngụy trang bằng những cành lá, thằng Mỹ có mắt thần cũng không phát hiện nổi, cái đài quả là phương tiện tốt nhất để ông Mạc giấu người khác tật ngủ ngáy vang trời vang đất của mình. Bởi thế, khó ai biết lúc đài nói ông Mạc thức hay ngủ. 
Vả lại, tuổi càng cao, tai ông càng thính. Đang ngủ, nghe một tiếng động nhỏ là ông đã mở mắt ngay tắp lự. Người ta hỏi ông ngủ hả, ông đáp ngủ đâu mà ngủ, tôi đang nghe đài. Hỏi đài vừa nói gì, ông chỉ cười xòa, bảo lắm chuyện.
Nhưng cũng nhờ cái đài mà ông Mạc lập được công to.
Số là đêm ấy, ông mở đài rồi ngủ quên mất, tiếng ngáy lẫn vào tiếng o, o phát ra từ cái đài. Gần sáng, cái đài đánh thức ông Mạc dậy.
Vừa ngửa mặt lên trời, vươn vai làm một động tác thể dục, ông Mạc bỗng thấy những chấm đen từ phía chân trời xa đang lao vun vút về phía trận địa.
Máy bay Mỹ!
Không kịp gõ kẻng báo động, ông vội vồ lấy khẩu súng máy, hướng nòng súng về phía mục tiêu. Những chiếc máy bay lao vút qua đầu ông Mạc, phơi ra những cái bụng trắng lóa. Tiếc quá!
Rồi vào đúng lúc cả tiểu đội lồm cồm bò dậy, còn đang ngơ ngác hỏi nhau có chuyện gì thế thì tốp máy bay thứ hai nhào tới. Lần này chúng bay thấp hơn, trông rõ cả thằng cầm lái.
Lão dân quân Mạc nhắm một cái, xiết cò. Chiếc máy bay khựng lại, bụng nó lóe những chấm lửa, nó gượng vọt lên, loạng choạng như mất đà rồi đâm thẳng xuống dòng sông Ngọ. Một cột nước cao tới hai ba chục thước tung lên trắng xoá…
Ông lão được thưởng Huân chương vào đúng hôm đài truyền thanh tỉnh đọc bài tường thuật về chiến công của tiểu đội lão dân quân làng Thự  do ông chỉ huy.
Nghe cô phát thanh viên đọc tới đoạn ông Mạc và đồng đội thức suốt đêm trực chiến, khi máy bay giặc tới, ông phất cờ ra lệnh cho cả tiểu đội đồng loạt nổ súng, ông Mạc vừa lắc đầu vừa cười ha hả, bảo:
- Khéo vẽ chuyện! Chúng tôi ngáy khò khò cả đêm thì có! Sao không kể chuyện ấy nghe cho vui nhỉ?! 

Đất vuông tròn

 Giờ thì đại đội trưởng Ngoạn đang nằm kia, dáng hộ pháp, làn da đã răn rúm, sạm đen màu gốm sống. Đau đớn quá!
Nhìn đôi mắt mở trừng trừng, phần toát ra vẻ căm giận, phần như còn ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước một điều chưa biết trước, lòng chúng tôi đau thắt lại.
Chúng tôi thay nhau vuốt mắt cho anh. Những người đã có vợ ấp tay lên mi mắt, xoa nhẹ theo chiều ngang; cánh trai tân thì xoa theo vòng tròn hoặc theo chiều dọc. Đủ mọi cách. Theo kinh nghiệm. Theo chỉ dẫn của sách vở đã từng đọc trước đây. Nhưng vô hiệu, Ngoạn vẫn không sao nhắm được mắt!
 Chính trị viên Quánh là một trong những người cuối cùng đến vuốt mắt cho Ngoạn. Quánh nổi tiếng là một người sắt đá. Nhưng lần này, anh không kìm được, hai hàng nước mắt cứ ứa ra, lăn dài xuống má và đọng lại thành giọt, nhểu xuống khuôn mặt sạm đen của Ngoạn. Quánh vừa xoa mu bàn tay đã mất hai ngón cuối trong một lần gỡ mìn lá lên mắt Ngoạn vừa thì thầm:
 - Sống khôn chết thiêng Ngoạn ơi! Anh ngủ đi cho anh em yên lòng!
 Lúc ấy, tôi có cảm giác như đôi mắt của người con trai làng gốm đang chiếu thẳng về phía mình. Tôi bàng hoàng cảm thấy có một đốm lửa nhay nháy cháy dọc theo sống lưng mình và bừng tỉnh. Những sự kiện xảy ra trong mấy ngày qua khiến tôi chợt nhớ tới câu chuyện về đôi mắt của người chiến sĩ Điện Biên mà bố tôi đã kể cho nghe từ lâu lắm rồi...
 Sớm mùng bảy tháng hai năm 1972, sau lúc B52 Mỹ trút bom xuống khu rừng cạnh con suối A Koi, một con vượn bạc má bị thương vào đầu, mất phương hướng, loạng choạng chạy từ đỉnh 654 xuống nơi chúng tôi đang ém quân thì kiệt sức. Không bỏ lỡ dịp may hiếm hoi này, trung đội trưởng Đễ hò cánh lính làng gốm Bát Tràng cùng xúm vào làm một bữa tươi.
 Do vội vã, lại phải tắt lửa nhiều lần để tránh bị máy bay trinh sát của địch phát hiện, món thịt mà chúng tôi đã chia nhau nhai ngấu nhai nghiến một cách ngon lành trong khi đói hình như còn nửa sống nửa chín thì phải. Trông chúng chẳng khác gì thứ đất gan gà qua lò gốm tắt lửa giữa chừng vậy. Thâm sì và tanh ngắt!
 Sau bữa liên hoan trời cho, ngồi bên cạnh tôi, thằng Giới cứ khụt khịt mũi. Hỏi, Giới nói nó ngờ tôi  chính là thủ phạm của cái mùi tanh ngóm tanh ngòm đang lởn vởn tỏa ra từ đâu đây. Tôi đưa tay lên mũi. Mùi tanh từ các lỗ chân lông rịn mồ hôi chua lòm. Lại thấy cả hơi thở của mình cũng có vẻ nằng nặng, lờm lợm. Thằng Giới bắt chước điệu bộ của tôi, nó nhăn mặt, kêu toáng lên là người nó bị bốc mùi. Mùi vượn chết! Hoi, hoi quá! Mới thoảng qua đã thấy ớn!
 Hai chúng tôi chạy đi tìm trung đội trưởng Đễ và bắt gặp anh đang lặn ngụp dưới suối. Từ dưới nước, Đễ vẫy tay rối rít ra hiệu cho tôi và Giới chạy lại. Vừa lồm cồm bò lên tới bờ Đễ đã dồn :
 - Hai thằng mày thế nào? Có thấy gì lạ không?
  Tôi trả lời:
 - Có, tự  nhiên hóa ra một lũ chua lòm lòm anh ạ!
 - Làm sao bây giờ? Giới lo lắng, hỏi.
  Đễ cười phô cả hàm răng trắng bóng:
 - Ha ha, xuống đây, xuống mau! Ha, ha, nước sẽ gột hết trơn mọi thứ cho mà xem!
 Cả ba nhảy tùm xuống suối A Koi, ra sức kì cọ. Lại ngậm cả nước, xúc miệng òng ọc, phun ra phì phì nữa. Hình như mùi tanh có bớt đi một chút. Nhưng khi về tới nơi ém quân, mồ hôi ai nấy lại túa ra. Và cái mùi quái ác kia lại xuất hiện, lởn vởn, thoang thoảng bay ...
 Ba giờ chiều, đại đội trưởng Ngoạn và chính trị viên Quánh đến kiểm tra lại quân số và vũ khí của trung đội trước khi cả đại đội lên đường tập kích cứ điểm 671. Xem xong dây thủ pháo cài trên thắt lưng tôi, đại đội trưởng bỗng nheo nheo mắt, hất hàm hỏi:
 - Mấy ngày rồi đồng chí chưa tắm?
 Tôi dập chân đứng theo tư thế nghiêm, dõng dạc trả lời người đồng hương xứ gốm Bát Tràng của mình:
 - Báo cáo thủ trưởng! Tôi vừa tắm hồi nãy ạ!
  Nghe tôi trả lời, Ngoạn khẽ lắc đầu, sải bước xuôi theo hướng gió đi về phía cuối hàng quân. Mặt anh sa sầm, cặp lông mày rậm nhíu xệch về một bên.
 Trong khi đó, chính trị viên Quánh dừng lại trước mặt thằng Giới, hỏi khẽ:
 - Còn anh?
  Giới không hiểu thủ trưởng định hỏi mình về điều gì, nó lúng búng trong miệng:  
 - Báo cáo, tôi, tôi...đã sẵn sàng!
  Chính trị viên cười:
 - Tôi hỏi cậu tắm cách nay mấy ngày rồi kia?
 - Sao lại mấy ngày? Em cũng mới tắm lúc trưa mà. Nhưng sao các thủ trưởng chỉ xoáy vào chuyện tắm giặt thế ạ?
 Quánh không trả lời câu hỏi của Giới. Anh quay sang hội ý với Ngoạn và ra lệnh kiểm tra tư trang toàn trung đội. Những chiếc ba lô được mở tung. Chăn, màn, quần, áo, bát, đũa lần lượt được xếp ngay ngắn trên những tấm ni lon xanh thẫm.
 Đúng lúc Đễ đang nháy nháy mắt, ra ý không ai được tiết lộ bí mật của trung đội làng gốm, Quánh bỗng đưa cái bát sắt của thằng Giới lên ngang mặt. Mùi tanh lợm giọng của mỡ vượn còn sót lại nơi đáy bát xộc vào mũi anh. Chính trị viên ho sặc sụa, chảy cả nước mắt. Anh vừa khạc nước bọt vừa la lên:
 - Thịt vượn! Đúng là thịt vượn chết rồi! Thảo nào...
 Biết không thể giấu được nữa, Đễ vội chạy tới trước mặt đại đội trưởng và chính trị viên, giơ tay lên ngang trán, thành thật:
 - Báo cáo các thủ trưởng, đúng là mùi thịt vượn chúng tôi chén lúc trưa đấy ạ. Bây giờ...
  Ngoạn nghiêm mặt nhìn Đễ, chì chiết:
 - Bây giờ ư ? Bây giờ có cách nào giải quyết hậu quả không ư ? Với cái mùi vượn chết này, các đồng chí tưởng có thể luồn sâu vào cứ điểm mà không bị chó bẹc giê của địch phát hiện ra sao?
 Đễ tái mặt nhìn chính trị viên cầu cứu. Quánh không nói, hướng về phía Ngoạn như có ý chờ đợi anh trả lời.
 - Thôi được, tôi có cách chữa rồi đây! Ngoạn nói ngay.
 Cả trung đội thở phào nhẹ nhõm.
 Theo lệnh của Ngoạn, chúng tôi úp tất cả xoong, chảo và bát sắt xuống đất. Cũng vậy, chúng tôi cởi hết quần áo ném xuống cỏ, lấy đất phủ lên trên một lớp mỏng. Cả trung đội trần truồng như nhộng, vừa khúc khích cười vừa trườn, lăn trên mặt đất theo khẩu lệnh của Ngoạn. Cho tới lúc mồ hôi chúng tôi vã ra như tắm, toàn thân bị đất nhuộm đỏ au, anh mới cho ngừng công việc. Ngoạn bảo mỗi người hãy nhào cho mình một nắm đất thật nhuyễn. Sau đó, đập bẹt thành hình những cái bánh dày, úp vào miệng, hả hơi ra, hít hơi vào thật mạnh.
 Chúng tôi hà hít tới cái thứ năm mươi thì Ngoạn giơ tay ra ý dừng lại và quay sang nói với Quánh:
 - Giờ thì ta có thể bịt được những cái mũi ướt của lũ bẹc giê trong cứ  điểm rồi đấy!
 Chính trị viên ngược từ phía cuối lên đầu hàng quân, vừa đi vừa hít mạnh.
 Anh dừng lại trước mặt tôi, nở một nụ cười hiền lành :
 - May mà đất đã át hết mùi thịt vượn. Không thì...
 Ngoạn nhìn mọi người khắp lượt, gằn giọng ra lệnh:
 - Trung đội chuẩn bị hành quân. Đúng giờ X tập kết cách hàng rào thứ nhất của cứ điểm 671 năm chục mét. Giờ Y bắt đầu tổ chức tiền nhập. Nổ súng vào giờ Z. Rõ chưa?
 Thay vì phải đứng nghiêm và hô: “Rõ!” theo quân lệnh, chúng tôi lại hích hích vào hông nhau, cùng một lúc nhìn xuống và phá lên cười...
 Trận tập kích vào cứ điểm 671 diễn ra hoàn toàn trái ngược với kế hoạch tác chiến của đơn vị tôi. Ngay từ những phút đầu tiên, chúng tôi đã làm chủ được trận địa. Nhưng trớ trêu thay, đó là một trận địa không có địch. Trước đó, chúng đã gian ngoan bí mật rút ra phục kích ở những công sự ngoại vi. Chờ cho chúng tôi tung hết số thủ pháo và quét AK tảo trừ vào các ụ súng, các nhà ngủ dã chiến, chúng mới cho gọi pháo bầy bắn hàng mấy trăm quả đạn vào khu trung tâm rồi tổ chức phản kích, xiết chặt vòng vây, quyết đánh bật chúng tôi khỏi trận địa. Do tính chất của trận đánh, nhận ra sự chênh lệch quá lớn về quân số và vũ khí giữa ta và địch, Ngoạn đành cắn răng ra lệnh cho đơn vị vừa chống trả vừa rút lui. Anh dẫm phải một trái mìn và hi sinh tại hàng rào bùng nhùng thứ  hai.
 Ngày mùng tám, trinh sát ta báo tin địch ở cứ điểm 671 đã cho một tốp lính đi tua quanh các hàng rào dây thép gai. Nhưng không rõ vì lí do gì mà chúng không chịu dời xác Ngoạn đi chỗ khác. Có thể vì chúng sợ vấp phải mìn gài trong hàng rào dây thép gai? Hay chúng đoán thế nào chúng tôi cũng quay trở lại lấy xác đồng đội nên đã ngầm giăng bẫy đón sẵn?
 Đêm mùng mười, tôi và Giới nhận được lệnh bằng bất cứ  giá nào cũng phải đưa được Ngoạn về với đơn vị. Trong đêm tối, sau khi gỡ được bốn quả mìn chân voi, chúng tôi đã bí mật trườn tới được chỗ Ngoạn hi sinh. Hầu như không biết tới mùi hôi rợn tóc gáy ọc vào mũi, Giới khẽ khàng đặt cái xác đã ri rỉ nước vàng lên lưng tôi. Giới trườn phía trước, tôi nắm chặt lấy chân anh cùng nhích dần từng phân ra khỏi cõi chết. Mỗi lần địch bắn pháo sáng hoặc la hét, nổ súng bừa bãi vào các hàng rào xung quanh, tôi lại phải nghiêng người đặt Ngoạn xuống cỏ. Tôi không muốn anh trúng đạn của quân thù một lần nữa! Lạ thay, như có một phép màu vừa xảy ra, mùi hôi từ  thân thể người đại đội trưởng cứ mỗi lúc một vơi dần đi. Tới hàng rào cuối cùng thì cái mùi khó chịu ấy đã phần nào được thay thế bằng vị ngai ngái của cây cỏ và đất đai.
 Tảng sáng, hai chúng tôi cáng Ngoạn về tới cửa rừng. Lúc đặt cái cáng xuống đất, tôi đưa mắt nhìn Ngoạn và Giới. Trời ơi, cả người sống và người đã khuất đều lấm lem như vừa chui lên từ bùn đất vậy! Chính điều này đã làm tôi không kìm được lòng và bật khóc thành tiếng...
 Thấy Quánh cứ lặng người đi bên thi thể Ngoạn, tôi bèn ngồi xuống bên cạnh anh và trình bày ý định của mình. Nghe giọng nói hơi nghẹn lại vì xúc động của tôi, Quánh gật đầu, bảo:
 - Cậu cứ  làm thử xem! May ra...
 Tôi chạy nhanh ra bờ suối và trở lại với một nắm đất đỏ mịn như đất dùng để nặn đồ gốm trên tay. Lặp lại trình tự từng việc theo câu chuyện mà bố đã kể, tôi chia nắm đất làm đôi, nhẹ nhàng cúi xuống đặt lên hai mí mắt Ngoạn, miệng lầm rầm đọc một câu hát ru của người làng gốm:
   Vuông bên này nâng chân kẻ dẫm
   Tròn bên kia dẫn lối người đi...
  Chim trời đậu nhánh chanh quê
  Bàn xoay thương đất tay vê nhớ người ...
  Dứt lời hát, tôi nghiêng mình nhìn Ngoạn lần cuối rồi quay ra, nhường chỗ cho anh em trong đơn vị lần lượt tới vĩnh biệt đại đội trưởng.
 Do phải đi làm nhiệm vụ theo dõi quy luật hoạt động của bọn địch ở cứ điểm 671 gấp, tôi không được cùng anh em làng gốm tắm rửa và quàn thi thể cho Ngoạn. Nhưng về sau, nghe Giới kể lại, tôi mới hay rằng: nhờ có hai nắm đất thiêng kia, đôi mắt trân trối của đại đội trưởng Ngoạn đã từ từ khép lại...
 Hình như linh hồn anh đã đến được với giấc mơ mà anh em chúng tôi thường khao khát - giấc mơ trở lại quê nhà, tự tay nhóm lên những lò gốm rừng rực lửa đỏ...

Miếng bánh
Mới đầu tháng bảy, trường THPT Sơn Hà đã nhóm họp hội đồng sư phạm.
 Mục đích cuộc họp giữa hè này đã được thầy hiệu trưởng nêu rõ trong lời phát biểu mở đầu rất ngắn gọn. Một, thông báo kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT. Hai, thành lập hội đồng xét tuyển học sinh vào lớp 10 năm học mới. Và cuối cùng, vâng, ba là, phân công giảng dạy ôn tập hè và học kỳ một.
 Tôi xin lưu ý thêm, thầy hiệu trưởng nhấn mạnh, thu nhập của cả trường ta có thể ví như một cái bánh vậy. Nếu công bằng mà nói, nó phải được chia đều cho tất cả mọi thành viên, tùy theo số tiết thực dạy tại các lớp. Vậy nên, trong thời gian tiến tới loại bỏ hoàn toàn các giờ dạy thêm sai quy định trong nhà trường, để việc chia đảm bảo tương đối đều, các anh chị trong tổ đều phải đảm nhận dạy ít nhất ở hai khối lớp. Cụ thể là, thầy cô nào dạy các lớp 11, 12 sẽ phải có nghĩa vụ dạy ở một vài lớp 10. Ban giám hiệu chúng tôi sẽ căn cứ vào kết quả thỏa thuận ở tổ để xếp thời khóa biểu. Mọi đề xuất, thắc mắc của cá nhân, nếu chưa thông qua tập thể, sẽ không được lãnh đạo trường chấp nhận...
 Cuộc họp hội đồng diễn ra trong vòng mười lăm phút. Nói ít hiểu nhiều, cả trường đều biết nội dung quan trọng nhất là mục thứ ba trong lời phát biểu của thầy hiệu trưởng. Và đương nhiên, người đứng đầu trường đã chỉ đạo, việc phân công giảng dạy sẽ tiến hành tại các tổ chuyên môn.
 Từ phòng họp hội đồng, các thành viên tổ toán ùa ra, vừa cười nói vui vẻ vừa đi về phòng học số mười ba. Họ hỏi thăm nhau đủ chuyện. Nào là sau khi chấm thi tốt nghiệp, coi thi vào lớp 10 THPT chuyên, thầy đã kịp đi đâu chưa; sắp tới cô đăng ký coi thi và chấm thi cho trường đại học, cao đẳng nào? Phần lớn kêu ca chưa có thời gian đi nghỉ mát, thăm hỏi bà con, bạn bè ở xa. Mà còn đi đâu được nữa khi lại sắp phải dạy hè. Nhà trường đã đồng tâm nhất trí tất cả vì học sinh thân yêu, mình đứng ngoài cuộc sao được?
 Được xếp họp ở phòng 13, con số mà người ta cho là xui xẻo, tổ toán bắt đầu không mấy suôn sẻ. Vấn đề đầu tiên mà tổ bàn bạc giải quyết là những ai sẽ đứng các lớp 12.
 Thầy San dạy lớp 11 năm rồi đề nghị nên hoán đổi những người từ các khối 10 và 11 lên. Phải luân chuyển để hoàn thiện đội ngũ cho toàn diện chứ. Về ý kiến này,  cô Xuân tổ trưởng tế nhị nói, các thầy cô đứng lớp 12 năm ngoái đều là thứ dữ có cỡ cả. Nhờ họ ốp học sinh đi học phụ đạo gắt gao mà trường ta đạt tỉ lệ tốt nghiệp từ 92 đến 95% đấy. E rằng những người mới, do chưa có nhiều kinh nghiệm, sẽ khó mà giữ được thành tích trường đã đạt được.
 Tiếp lời cho cô Xuân, cô Vân thỏ thẻ, thôi, không hoán đổi giáo viên giữa các khối thì ta bốc thăm vậy. Vì sao phải bốc thăm ư ? Tôi có thể trả lời thẳng thắn ngay là, ở khối 12 có 5 giáo viên mà số lớp để dạy chỉ có 17. Làm một phép tính chia đơn giản, ta thấy có ba người chỉ được dạy có ba lớp, còn hai người sẽ được dạy tới bốn lớp lận.
 Thì bốc thăm, cô Xuân miễn cưỡng nói, cho khách quan.
 Thầy San được phân công làm năm cái thăm, trong đó ba cái ghi số 3, hai cái ghi số 4.
 Kết quả là cô Xuân vẫn  dạy bốn lớp 12. Không phải do cô bắt được cái thăm có ghi số 4 mà bởi cô Vân cứ khăng khăng sẻ cho cô một lớp. Cô Vân cố thanh minh rằng, vì đang phải điều trị gan ngoại trú, cô chỉ đảm đương được ba lớp 12 và xin dạy một lớp 10. Thôi cũng được, cả tổ cho qua... 
 Tiếp theo đó, tổ lại phải chia mười bẩy lớp 11 cho sáu người. Khó quá! Vì ai sẽ là người chịu nhận dạy hai lớp đây? Bởi vậy, khi thấy cô Xuân hí hoáy chuẩn bị sáu cái thăm, các thầy cô dạy khối 11 đều lặng lẽ quay mặt về hướng khác.
 Riêng thầy Hội, thầy cảm thấy rất bức xúc mỗi khi tổ phải họp để phân công khối lớp. Lúc này, cũng như mọi người, thầy càng hiểu rõ hơn, thủ phạm tạo ra cái không khí nặng nề kia chính là các giờ phụ đạo buổi chiều.
 Năm kia, thầy Hội dạy bốn lớp 10, thu nhập của thầy là một triệu hai trăm năm chục ngàn đồng, bao gồm cả lương chính và tiền phúc lợi. Còn năm ngoái, thầy được ưu tiên dạy bốn lớp 11. Nhờ có ba mươi hai tiết phụ đạo, thu nhập của thầy tăng vọt lên tới hai triệu một trăm ba chục ngàn. Cho dù Hội đã cố bao biện rằng có làm thì có hưởng, nhưng mỗi tháng đứng trước quầy thủ qũy lãnh tiền, thầy vẫn không sao xoá được cảm giác mình đang mắc lỗi với ai đó. Hội biết, vì sĩ diện mà chẳng ai dám nói toạc ra sự thật về miếng bánh to, miếng bánh nhỏ kia. Cái lớn, cái nhỏ, tức là sự chênh lệch trong phân phối thành quả lao động trong một tập thể, chính là nguyên nhân dẫn tới sự đố kị, ganh ghét, bè phái và cả những điều tiếng không hay về người này người kia nữa.
 Nhìn lướt qua phòng họp, thầy Hội biết người ta đang trông chờ ở mình một điều gì đó, thật khó nói. Ừ, hoàn cảnh kinh tế nhà thầy cũng tàm tạm. Là người cao tuổi nhất trong tổ, thầy thấy mình không còn đủ dũng khí để đưa tay ra bốc một cái thăm? Vả lại, theo nguyên tắc chia khối lớp của thầy hiệu trưởng, nếu như thầy chỉ nhận dạy ở khối 10, chắc chắn nhà trường cũng không chấp nhận cơ mà. Người ta sẽ điều chỉnh lại, phân công thầy dạy hai lớp 11.
 Không rõ vì muốn làm cho không khí cuộc họp bớt căng thẳng hay vì một ý tưởng táo bạo khó đoán trước, thầy Hội khoan thai đứng dậy, phẩy tay nói, thôi, không phải bốc thăm nữa, vì một lý do chưa tiện nói, năm nay tôi lại xin dạy ở khối 10.
 Cô Xuân chỉ chờ có thế, không đợi thầy Hội kịp ngồi xuống ghế, cô đã bật dậy xác nhận, cả tổ nghe rõ thầy Hội vừa nhận dạy ở khối 10 rồi nhé. Vậy nên tôi đề nghị cô Lan, cô Hồng dạy bốn lớp 11, bốn anh chị còn lại dạy ba lớp. Vui vẻ cả nhé! Ơ kìa, Vân ơi, em ghi vào biên bản họp tổ cho giấy trắng mực đen đi chứ!
 Nghe cô Xuân nửa đùa nửa thật như thế, cả tổ ồ lên cười vui vẻ.
Thầy Hội cũng tủm tỉm cười.  
Nhưng ngay sau đó, một nỗi lo âu mơ hồ bất chợt xuất hiện, len vào tâm hồn thầy. Giả sử ban giám hiệu cứ xếp thời khóa biểu y như biên bản họp tổ thì sao? Rồi ai đó có thể vu vơ tưởng rằng, thầy Hội không dạy được các lớp 11, 12 nên đã tự nguyện xuống dạy ở lớp 10? Hay ông này bắt đầu mát tính rồi, tiền chia cho mà còn sĩ, tự bỏ qua túi người khác là cớ làm sao? Những câu hỏi dồn dập khiến cho sống mũi thầy Hội cay cay, lấm tấm mồ hôi.
Cũng may, tới đó thì buổi họp kết thúc. Thầy Hội không ngoái đầu nhìn lại, vội vã bước như chạy ra khỏi phòng.
 Giữa bữa cơm trưa, nhận ra vẻ mặt tư lự của chồng, vợ thầy hỏi, năm nay ông thầy dạy mấy lớp phụ đạo, thu nhập liệu có khá hơn năm ngoái không? Hội thở dài, bảo chả có giờ dạy thêm giờ nào hết.
Người vợ tròn mắt, chết, chết thật, thế thì đói to à! Không có thực làm sao ông vực được đạo? Sao ông không đề nghị người ta chia cho? Con không khóc mẹ nào cho bú? Hay là ông cao ngạo, ra vẻ ta đây, nhường hết cho người ta rồi? Thời buổi bây giờ vật giá cái gì cũng tăng vọt. Tiền gạo, thịt, mắm, muối, tiền điện nước, xăng xe, tiền học phí, vui cũng tiền mà khóc cũng tiền! Có cả hàng trăm khoản cần tiêu mà ông lại dám coi thường tiền ư? Người ngợm gì mà cứ lớ nga lớ ngớ như rơi từ trên trời xuống vậy! Chỉ khổ cái thân tôi...
 Thầy Hội buông đũa, bỏ vào buồng nằm. Ruột gan thầy xót như bào, cứ sốc lên từng đợt. Đầu óc thầy ong ong, quay cuồng như bị trúng gió đột ngột. Mồ hôi trên trán thầy vã ra như tắm.
 Tiên trách kỉ, hậu trách nhân. Hơn lúc nào hết, thầy Hội tự thấy mình hèn quá, ích kỉ quá! Thầy là người ý thức rất rõ rằng, người ta phải sống rồi mới làm thầy, mới nói những chuyện cao siêu được. Thế mà, khi thầy hiệu trưởng thân mật vỗ vai hỏi, theo ý thầy, có nên dũng cảm bỏ việc dạy thêm trá hình đi không, nên làm như thế nào để thu nhập của anh em trong trường bớt chênh lệch nhau; thay vì góp ý ban giám hiệu nên giải quyết theo hướng lấy tổng số tiền thu được từ các giờ dạy phụ đạo chia đều cho tổng số tiết thực dạy, trong trường ai dạy nhiều hưởng nhiều, dạy ít hưởng ít, thầy lại tìm cách né tránh câu trả lời bằng cách lảng qua chuyện khác. Hèn? Hay cái khoản thu nhập hai triệu tư kia nó làm thầy lúng búng? Ai lại đi vạch áo cho người xem lưng, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của những người được phân công dạy các lớp phụ đạo? Ờ, sao lúc đó thầy không đặt bản thân mình vào vị trí của các thầy cô không dạy phụ đạo mà suy nghĩ, trăn trở và nói lên tâm tư của họ nhỉ? Chả lẽ trường chỉ ưu ái các thầy dạy văn, toán, lý, hóa, ngoại ngữ ở các khối 11, 12 - khối có giờ phụ đạo? Còn các thầy cô dạy khối 10 hay  các bộ môn sử, địa, công dân, kĩ thuật, thể dục, phụ trách thư viện, phòng bộ môn, phòng thí nghiệm,...không phải là giáo viên trong trường?
 Nghĩ tới đây, thầy Hội nhỏm dậy, với điện thoại. Thầy định gọi cho thầy hiệu trưởng, mong muốn ông có thể chia sẻ và làm vơi đi nỗi tâm sự đang rối bời trong lòng mình.
 Song cũng vào thời điểm đó, bên tai thầy bỗng vẳng lên những lời chì chiết của người vợ. Thầy rụt tay lại, nằm vật xuống giường. Phải gọi ngay cho Xuân thôi, bây giờ vẫn còn kịp, Hội nghĩ. Và thầy nhấc cái điện thoại lên. A lô, Hội đây. Ừ, ừ, mình đã nghĩ lại, mình muốn...Cứ thử xem. Ừ, thế nhé. Cảm ơn nhiều…
 Chiều tối cô Xuân mới gọi điện lại cho Hội. Vâng, không thể thay đổi được anh ạ. Ngay sau lúc anh báo lại, em đã gọi cho thầy hiệu trưởng. Nhưng xui cho anh là máy của thầy ấy lại ngoài vùng phủ sóng. Dạ, thời khóa biểu hè thì đã xếp xong từ lúc năm giờ chiều rồi. Cô hiệu phó chuyên môn nói tổ đã thống nhất thế, dứt khoát không chiều theo ý của cá nhân nào nữa. Vâng, nguyên tắc một người dạy hai khối lớp chỉ là tương đối thôi mà. Khó cho em lắm. Anh thông cảm nghe anh. Riêng cái đề nghị thêm của anh, em đã báo ban giám hiệu, họ hứa sẽ xem xét lại sau khi hết ôn tập hè. Nhưng em biết là khó đấy! Quyền lợi của số đông mà. Một mình thầy hiệu trưởng, thêm anh nữa cũng vẫn chỉ là số ít...
 Thầy Hội bỏ máy, khẽ thở dài. Chả lẽ dứt bỏ những giờ phụ đạo, nói thẳng ra là những giờ học tăng tiết bắt buộc, lại khó khăn đến thế sao? 
 Ừ nhỉ, một tháng rưỡi hè! Học phí cho năm môn học phụ đạo là ba trăm ngàn. Kết quả học sinh được những gì? Được học trước chương trình! Và mất đi những ngày hè vui vẻ ?
 Còn thầy Hội, thầy sẽ được nghỉ hè tiếp.
Điều quan trọng hơn, thầy được ít nhất hai bài học.
 Ở đời, ăn bánh phải trả tiền! Vì thế, đừng ai tưởng rằng thầy Hội không phải đóng học phí. Đắt lắm! Đó chính là cuộc đời, với những quãng lội đã qua, đang qua và sắp tới !
                                                                          ***
 Cho tới đầu năm học.
Lệnh của Sở giáo dục cấm việc dạy thêm trong trường được ban ra.
Ông hiệu trưởng họp hội đồng sư phạm lại và nói:
- Chúng ta sẽ thành lập Trung tâm giáo dục thường xuyên. Đây không phải là các lớp phụ đạo cũ. Có điều, các thầy cô nhớ cho các trò làm đơn. Không bắt buộc. Trò nào  tự nguyện mới được học! Vì như vậy mới hợp lệ. Sở, Bộ không thể khiển trách, còn quyền lợi của các thầy cô thì vẫn như trước! Được chưa?
Hội cúi gằm mặt xuống, tai đỏ rực…Lão Nhân Nghĩa
 Cái tên Công Tôn Nhân Nghĩa được được kẻ rõ đến từng nét, trang trọng ngự trên tấm biển màu vàng cam treo ở phía trước cửa ra vào trại. Thế mà, bọn người làm công lười biếng và rỗi miệng cứ thở ra với nhau rằng ông chủ là Lưỡi Hái. Láo khoét thật! Nhưng mặc xác chúng! Những kẻ hôi mồm hôi miệng ở đời này nhiều nhan nhản! Chấp với chúng thì suốt ngày phải đi mà đôi co sao?
 Riêng tôi, thấy lão tuổi đã cao, lại rất biết điều, tôi coi lão thuộc hàng như cha như chú và bao giờ cũng một điều thưa chú Công Tôn, hai điều thưa ông Nhân Nghĩa đàng hoàng.
 - Hay lắm! Ông bạn trẻ đúng là người có học! Giọng nói, dáng đi trí thức lắm lắm!
 Lão nheo nheo mắt nhìn tôi, đưa ra lời khen rồi từ tốn bộc lộ:
 - Tôi rất thích cách xưng hô lịch thiệp của người Bắc ta! Nhưng biết tạ ơn ông bằng cái gì cho xứng đây?
 Tôi bảo chẳng phải khách khí thế.
 - Ông không muốn tôi tạ ơn, nhưng tôi thì không thể thất lễ, tôi sẽ ban cho ông một ân huệ.
 Tôi chưa kịp từ chối cái ân huệ mà một chủ trại hòm như lão Công Tôn Nhân Nghĩa có thể ban cho thì lão đã tiếp:
  - Ông sẽ được làm bạn tôi! Đơn giản vì y phục của ông rất giống tôi!
 Từ  hôm ấy, thi thoảng lão lại tới thăm nhà tôi và nhỏ to tâm sự với tôi.
 Chuyện của lão không có mở đầu, cũng chẳng bao giờ có kết thúc, đoạn sau có thể mâu thuẫn với đoạn trước. Lão bảo lão thành tâm thuật hết mọi sự rồi đấy, còn tin hay không, thì tùy. Lão chẳng ép. Rằng, ở đời, lão chỉ có thể làm bạn được với ba loại người. Đó là trẻ con, những tên tội phạm và người già.
 - Tôi coi trẻ con hư hỗn là những thiên thần, ông ạ. Thời trẻ, lấy xong bằng đíp lôm ở Nam Định, tôi giã quê vào Nam làm thầy giáo. Tôi là một công chức ưa làm những việc khó. Nhưng nghề dạy học là một nghề đơn điệu. Để trổ tài, tôi thường chọn bài thật khó để giao về nhà cho học trò, lên lớp tôi cứ nhè vào những chỗ bữa trước mình giảng sơ sài nhất mà hỏi chúng. Cho tới khi trò cảm thấy mình không hơn gì những đứa dốt nát nhất, tôi sẽ đưa tay ra. Nào, cố lên các con, thầy trò ta phải chạy như ngựa lồng mới mong đạt được học lực trung bình. Chúng chạy vã mồ hôi. Dĩ nhiên, những đứa trò dốt nào chịu nổi những trò nhiêu khê của tôi  về sau đều nên người cả; ông nghe và thấy chuyện có kì không?
 Một lần khác, nhân xem trên ti vi, thấy tường thuật toà xử một vụ tham ô công quỹ lớn, lão tỏ ra rất bất bình, chê các vị trong hội đồng xử án nghiêm khắc qúa. Lão nói thời lão còn giữ ghế chủ toạ các phiên toà, lão chưa bao giờ làm như thế cả. Thấy tôi lộ vẻ ngạc nhiên, lão bảo:
 - Ông chưa biết tôi đã từng làm ở toà án ư? Cũng đúng thôi. Vì tôi đã kể duyên cớ gì đã khiến tôi bỏ nghề gõ đầu trẻ để đi học luật cho ông nghe đâu. Thôi, đại loại có hai sự kiện. Thứ nhất là sự học càng ngày càng mạt. Lão hiệu trưởng của tôi thủ đoạn lắm. Dạy thêm cho học trò, lão thu tiền đủ cả “ cua” ba tháng. Thầy dạy buổi nào ăn tiền theo tỉ lệ thầy sáu chủ trường ba. Nhưng lão cứ cho trò nghỉ khi hứng lên, cũng chẳng cần dạy bù. Trò được nghỉ học thì sướng quá trời rồi. Còn lão hiệu trưởng, hưởng trọn tiền những ngày nghỉ đó. Có một khóa luyện thi, lão bảo tôi dạy bốn buổi cấp tốc. Tôi lại được giao soạn ngay một đề thi kiểm tra như thế nào đấy để trò đi học thêm được thỏa mãn với kết quả của mình. Dĩ nhiên là người khác gác thi nhưng tôi vẫn phải làm việc chót là chấm bài. Khốn khổ, đề tôi ra dễ như chơi mà chỉ có một nửa lớp làm được. Làm thế nào bây giờ? Cái khó ló cái khôn, tôi nghĩ ngay ra cách sửa lại thang điểm, câu nào khó thì cho thật ít điểm, câu dễ thì nâng nhiều điểm lên. Kết quả chín mươi chín phần trăm thí sinh dự thi đạt khá giỏi. Phụ huynh học sinh nghe tiếng cho con đến học ùn ùn. Rồi cũng chẳng rõ bằng cách nào đám học trò ấy đỗ ở các kì thi tiếp theo cũng rất cao. Về sau tôi mới vỡ lẽ ra rằng lão hiệu trưởng trường tôi đã thậm thụt mua đề của mấy người làm khảo thí. Thứ hai là lúc Mỹ vào đất này, tôi rất ghét cái lũ mũi lõ. Tôi muốn học luật để bênh người Việt. Nhưng tôi đã vỡ mộng...
 Tôi hỏi:
 - Vậy là ông phản kháng Mỹ - ngụy bằng cách bênh tội phạm chống lại chế độ ấy?
 Lão Nhân Nghĩa cười mỉm:
 - Không hoàn toàn như vậy. Nếu tôi làm được như ông nói, có thể tôi đã là người của các ông...
 - Có nghĩa là ông không bênh những người lương thiện?
 - Tôi chỉ bênh tiền! Những kẻ buôn ma túy, trộm cắp, ma cô...đều có tiền. Dĩ nhiên còn có cả các quan chức nặng túi nữa. Lũ học trò tôi dạy trước đây khi ấy đã có rất nhiều đứa thành ông này bà nọ. Chúng có thế lực và giàu có. Nhưng lá mặt lá trái, giả nhân giả nghĩa, lừa thầy phản bạn, tham nhũng, dối trên lừa dưới thì trên cả cơ lão hiệu trưởng của tôi. Nhờ bênh vực chạy tội cho chúng, tôi đã có rất nhiều tiền, nhiều xe cộ và nhà cửa. Rồi khi các ông vào tới đây, tôi đã phải bỏ hết, tôi phải giấu tung tích. Nên tôi chọn cái nghề hòm. Nghĩa tử là nghĩa tận, chẳng ai thèm để ý tới một người chuyên lo cho những người chết. Và, tôi hi vọng cái nghề hèn này sẽ tạo cho tôi cơ hội  làm bạn với người già...
  Quả thật, lão Nhân Nghĩa là bạn tốt của tất cả những người già trong khu phố tôi. Được tín nhiệm bầu làm tổ trưởng, lão có nhiều dịp đi đến từng nhà. Khi thì thu tiền dân phòng, ủng hộ đồng bào các vùng gặp thiên tai, hoả hoạn, lúc thì tới mời họp tổ, vận động đi bầu cử... Những lần như thế, lão thường dừng lại ở những gia đình có ông già bà cả để hỏi thăm con cháu cụ làm ăn ra sao, sức khoẻ cụ thế nào, hiện nay cụ quan tâm đến chuyện gì nhất. Lâu lâu không thấy lão ghé chơi, có những ông già đã lần ra quán cà phê gần trại hòm, nơi lão hay ngồi đọc báo, để tìm và nghe lão triết lí cái chết chính là mầm mống của sự sống...
 Việc làm ăn của trại khá suôn sẻ nên lão Nhân Nghĩa tỏ ra hài lòng lắm. Lão công khai nói, tuổi tác đã làm cho những bậc cao tuổi một đời bon chen kia trở nên khoan dung, đại lượng. Họ ít ghen ghét, thù oán do những thành công hay thất bại chẳng còn là mối quan tâm nữa. Điều họ muốn chia sẻ nhất là sự cảm thông và kinh nghiệm. Con cái họ, do mải lao vào các cuộc làm ăn, cảm thấy cha mẹ mình vừa khó tính vừa lắm đòi hỏi nhiêu khê. Họ ít khi trò chuyện tâm tình với thế hệ mà họ cho là đã lạc thời. Chúng quên mất rằng người già là một kho báu! Nhờ họ, người ta có thể biết trước nhiều thứ mà vào tuổi này tuổi kia chưa biết được. Lão Nhân Nghĩa thì khác hẳn. Lão bảo trong cái khu phố này có bao nhiêu người già thì lão có bấy nhiêu bài học. Nhưng chơi với người già cũng rờn rợn. Họ như nhìn thấu hết những gì mình đang dự  tính trong đầu. Lại nữa, lòng hay có cảm giác bâng khuâng, nhất là những lúc nghe báo người này người kia tạ thế. Trong các đám tang, ví như lúc người ta thống thiết đọc điếu văn chẳng hạn, lão Nhân Nghĩa thường ứa nước mắt. Người già thấy thế dạy con cháu là ông Nghĩa giàu lòng nhân. Chỉ có bọn làm công cho trại hòm là bậy bạ, chúng rỉ tai nhau nước mắt của lão chẳng qua chỉ  là thứ nước để người ta mài những chiếc lưỡi hái mà thôi.
                                                               ***
 Lão Nhân Nghĩa nhẩm tính, đã mười hai vòng tua rồi lão chỉ cắt việc cho những kẻ làm công. Mười hai tua nhân với mười hai phu kiệu, vị chi đã có một trăm bốn tư cái hòm được dùng vào việc. Một trăm bốn tư chia đều cho ba mươi ngày, là bốn tháng, tám ngày. Trong vòng nửa năm, có tới ngần ấy ngày tất bật, lúc mới mở trại hòm, lão có nằm mơ cũng không thể thấy được. Quả là chơi với ngươi già, được người ta chỉ vẽ cho chóng khôn thật! Dĩ nhiên phải cộng thêm máu liều lĩnh của bọn trẻ nữa mới có thể thành công được.
 Sau đám bà lão Cò, lão Nhân Nghĩa đãi đám đám phu đòn một bữa nhậu. Cuối bữa, lão kêu thằng Bụi ra ngoài, ghé sát tai hắn, nói khẽ:
 - Bữa nay tới phiên chú mày coi trại đó!
  Bụi giãy nảy người:
 - Con vợ con đương bịnh. Xin thầy cắt người khác!
 - Hừ! Chú mày sợ, hay kiếm cớ lẩn việc?
 - Con sợ! Con van thầy! Thầy cắt việc trâu bò con cũng ráng gánh. Nhưng việc ấy, quả thật con không dám!
 Lão Nghĩa dọa:
 - Chú mày không dám thì mai chú mày phải nghỉ việc!
 Câu cuối cùng của lão làm tay chân thằng Bụi bủn rủn. Như bị chích một liều thuốc cực mạnh, hắn lắp bắp:
 - Thôi thì con xin vâng. Anh em làm được, con cũng làm được.
 Buổi tối, lão Nghĩa đưa Bụi đến trại hòm. Ngơ ngác nhìn những cái hòm ánh lên màu vàng chói, sực nức mùi vẹc ni và cồn, Bụi hỏi:
 - Thưa, không có giường nệm, chăn chiếu, con ngủ ở đâu ạ?
  Lão Nghĩa nheo mắt, chỉ tay vào một cái hòm đã mở nắp sẵn, nói như giỡn:
 - Thử  vào trong đó nằm vài lần xem.
 Rồi dặn:
 - Nhớ vận hồn nghĩ đến một ai đó, nghe!
 - Muỗi nhiều quá ! Không vào đó cũng chết!
  Nói xong, Bụi chui tọt vào cái hòm, đưa hai tay lên, tự  hạ nắp xuống.
 - Được đấy!
 Lão Nghĩa tỏ vẻ hài lòng, dặn tiếp:
 - Lấy cái dép kê cho kênh nắp lên. Nghe rõ chưa? Hay là chú mày muốn chết ngạt?
 Mấy ngày sau, chẳng hiểu vì lẽ gì, Bụi bị lão Nghĩa phạt phải coi trại tiếp. Sợ bị đuổi việc, tối tối Bụi đến nằm trong chiếc quan tài rỗng, sau một hồi oán trách lão chủ trại nhẫn tâm “cấm vận”vợ chồng hắn, mắt díu lại, hắn đánh một giấc tới sáng.
 Tới ngày thứ  tám, lão Nghĩa gọi Bụi lại, thở dài :
 - Chú mày cao số qúa! Cao số thật vô tích sự, chẳng gọi được ma nào. Thôi, bắt đầu từ  tối hôm nay, ta sẽ thế chỗ thay nhà ngươi...  
 Buổi chiều, lão ghé thăm mẹ tôi, tiện thể rủ tôi đi uống rượu thịt chó ở chân cầu Thị Nghè. Lãng đãng trong hơi men, lão lại lấy triết lí về cuộc đời ra để làm chuyện vãn. Lão bảo:
 - Tôi rất khoái những hình chữ  nhật, những khối hình hộp. Ông có muốn biết vì sao tôi lại mê chúng đến như thế không? Theo thiển ý của tôi, chúng là tượng của tiền, của vàng khối và nhà cửa, đất đai. Nói rộng ra chúng là trời và đất, và...
 Lão Nhân Nghĩa nói nhiều điều lạ quá, tôi không hiểu và cũng không thể nhớ hết được. Tôi đã say mềm. May còn  kêu được xích lô về nhà.
 Sáng sớm, tôi tỉnh dậy, đầu vẫn còn nhức như bị buá bổ. Tuy vậy, khi đến gần phòng mẹ tôi, tai tôi vẫn đủ thính để nghe rõ câu chuyện mà bà đang thì thầm với một người bạn già. Họ sợ hãi nói với nhau rằng đêm qua lão Nhân Nghĩa đã đi về cõi mơ rồi.
 - Khổ, ông ấy nằm duỗi thẳng chân trong một cái hòm bà ạ...
 - Tôi còn nghe kể miệng ông ấy hơi há ra! Có lẽ lúc ấy ông đang lẩm bẩm cầu nguyện cho các chúng sinh đang ở thời lão bệnh như chúng ta được yên ổn chăng?
 - Ôi, sự việc đã ba năm rõ mười như vậy mà sao mấy anh công an cứ nhiêu khê mãi thế nhỉ?
 - Bà bảo mấy anh công an nhiêu khê cái gì? Có phải chuyện họ yêu cầu tang chủ phải giữ nguyên đôi dép mà ông lão đã xếp rất ngay ngắn ở dưới sàn, mũi hướng về phía tây không?
 - Phải! Họ bảo đó là vật chứng gì gì đó. Chả hiểu ra làm sao nữa!
 - A di đà Phật!
 Mẹ tôi nhắm nghiền mắt, chắp hai tay hướng lên trời cầu nguyện.
 Lúc ấy tôi bất chợt nhìn xuống và thấy một cái dép lạ trong đôi dép mà mình đang đi. Trời ơi, nó chính là cái dép bên trái của lão Nhân Nghĩa ! Mắt tôi hoa lên. Chân tôi khuỵu xuống...
 Trong cõi bồng bềnh, tai tôi vẫn nghe thấy tiếng ai đó văng vẳng từ một nơi rất xa vọng về: “ Xin các anh hiểu cho! Tôi xin cam đoan đây là một người bạn tốt. Xin các anh đừng bắt oan anh ấy!”.

Món nợ
Trước lúc đưa vợ con vào Nam sinh sống, Hoàn có ghé về thăm quê nhà.
Trong lúc dọn dẹp bàn thờ gia tiên, anh lỡ tay làm rớt cái bài vị của ông tổ xuống nền gạch. Giữa hai lớp ván mỏng được dán bằng sơn nam bị bong ra, anh nhặt được hai tờ giấy dó gói trong một mảnh lụa trắng. Một tờ chi chít chữ Nôm. Tờ kia hình như là một tấm địa đồ.
Hoàn không nói với ai về chuyện ấy, lẳng lặng giấu những vật thiêng liêng ấy đi.
Vào Nam được ít lâu, anh nổi hứng theo học một lớp Hán Nôm vào các buổi tối. Thông minh như anh mà cũng phải mất mấy năm mới hiểu được ý nghĩa của vật qúy. Và cũng chỉ tới lúc ấy, không hiểu vì lẽ gì, ngày đêm anh chỉ mong thằng Cún bỏ quê vào Nam quấy quả mình.
Hoàn còn nhớ lần thằng Cún xuất ngũ, nó khoác ba lô thẳng một mạch từ  đơn vị đến nơi anh đang làm việc. Được bảo vệ báo có người nhà tới tìm, anh lật đật chạy xuống phòng khách. Thằng Cún đang ôm chiếc ba lô lộn ngược trong lòng, gõ gõ đế giày xuống sàn nhà; thấy Hoàn, nó thay lời chào bằng một câu hỏi:
 - Anh có biết vì sao tôi chưa về nhà mà đến gặp anh ngay không?
  Hoàn nén giận, bảo:
 - Chắc là tiện xe chú mày rẽ qua?
  Thằng Cún cười khẽ:
 - Sao anh không nghĩ là tôi sẽ về ở hẳn với anh chị cho có anh có em?
 - Thôi được! Hoàn nói- Chìa khoá đây, bây giờ  chú mày cứ về nhà đã. Anh em ta sẽ nói chuyện sau.
  Thằng Cún dạ dạ vâng vâng rồi ra cổng gọi xích lô chở nó về nhà anh. Chiều hôm ấy, khi rượu ngà ngà say, nó khoe:
 - Anh chị biết đấy, nghe anh, tôi đã phấn đấu và mấp mé được đứng trong hàng ngũ của anh chị. Nhưng tôi ngắn học, cấp trên bảo không phát triển lên sĩ quan được!  
 Hoàn nói:
 - Thì về xây dựng quê hương cũng tốt chứ sao? Quê ta đang rất cần những người như chú mày.
  Thằng Cún dằn cái li uống bàn cái cộc:
 - Không được, anh phải giúp tôi. Tôi không muốn về quê làm một anh xã xệ!
 -Vậy thì- Hoàn nhìn thằng em thăm dò- Chú mày có thể làm được gì nhỉ? Khi mà trong tay không có lấy một nghề ngỗng nào?
 Thằng Cún hạ giọng:
 - Anh không thấy bao nhiêu người như tôi mà vẫn làm nên được tới ông này bà nọ thật à? Chẳng lẽ tài trí như anh mà không nổi cho em một chân thư kí phụ việc giấy tờ, điếu đóm đỡ cho một vị quan chức nào?
 Hoàn ngán ngẩm lắc đầu :
 - Muốn ngồi ở cái ghế đó chí ít cũng phải mài nát đũng quần ở một trường đại học chú em ạ.
 Thằng Cún cười khẩy:
 - Ở bộ đội, tôi được dạy cuộc sống là trường đại học lớn nhất. Nếu đúng thế, vừa ở nhà quê, vừa ở bộ đội, tôi chẳng đã có tới hai cái bằng đại học đấy ư?
  Sau hai tháng tá túc ở nhà Hoàn, cùng anh trai mình gõ hết cửa này tới cửa kia vẫn không kiếm được việc làm thích hợp, thằng Cún mới chịu xách ba lô về quê. Dĩ nhiên là có điều kiện. Như, Hoàn phải bỏ tiền ra xây lại nhà cho bố mẹ. Rồi đứng ra lo trọn đám cưới cho thằng Cún lấy một cô giáo trường làng. Thỏa hai điểm đó nó mới chịu. Bằng không, nó dọa sẽ bỏ quê đi biệt xứ. Mà đi đâu? Biết không? Ra Hà Nội hoặc vào Sài Gòn làm cái bang chơi! Cún này mà đi ăn mày thì xấu mặt cả làng Yên Hàn khoa bảng đã lỡ đẻ ra nó, khác nào bôi gio trát trấu vào cái họ Hoàng nổi tiếng nhờ đời nào cũng lắm người đỗ đạt và giàu có kia! Những điều kiện thằng Cún đưa ra đã được thỏa và mọi chuyện tưởng như đã yên. Sau sự kiện ấy, Hoàn vô tình được hai tờ giấy cổ và chuyển vào sống tại thành phố. Nhờ làm ăn tấn tới, ngoài căn nhà ba tầng lầu toạ lạc trên đường Cộng Hòa dùng để ở, vợ chồng Hoàn còn có một căn nhà khác ở đường Phổ Quang để cho thuê. Mới rồi người thuê nhà có đến nài nỉ xin Hoàn đồng ý để ông ta cho một người bạn cũ được phép tới ở tạm vài tháng. Vợ chồng Hoàn đã đồng ý và dự  tính sẽ đến tận nơi để xem xét xem người ở nhờ là người như thế nào vào một dịp thuận lợi. Nhưng bận việc liên miên, anh chưa thu xếp được thời gian.
 Cách đây mấy hôm, có một chuyện xảy ra ngoài dự tính của Hoàn. Nhờ trời xui đất khiến như thế nào đấy, vào đúng lúc Hoàn đang mong gặp em trai cháy gan cháy ruột thì thằng Cún đã đột ngột vào thành phố. Nó tìm đến nhà anh mà không hề báo trước một câu. Ngồi chưa nóng chỗ, Cún bảo:
 - Trước đây tôi nghe lời anh chị nên đã tình nguyện về quê chăm nom bố mẹ già. Anh chị làm ăn ngày càng tấn tới cũng là do phúc ấm mà cha mẹ để lại cho. Vậy nên, tôi đề nghị...
 - Đưa cho chú mày một số tiền để phụng dưỡng bố mẹ phải không? Vợ Hoàn nhanh nhẩu nói.
 Thằng Cún  lạnh băng:
 - Sao chuyện gì anh chị cũng quy ra tiền bạc nhỉ?
 Hoàn thấy lạ bèn gặng:
 - Sao chú mày không huỵch toẹt ra cho khỏi mất thì giờ?
  Thằng Cún cười:
 - Anh chị nhầm rồi. Tôi không nói chuyện tiền. Tôi chỉ nói chuyện tình!
 - Thôi được! Hoàn nói- Đầu đuôi ra làm sao nào?
 - Chuyện là thế này, bố mẹ giờ đã già yếu, lại chán cảnh quê mùa. Ý bố mẹ muốn vào trong này với anh chị.
 - Việc ấy đâu khó khăn gì! Vợ Hoàn chặn trước - Bố mẹ chỉ nói một tiếng là tôi ra đón ngay!
  Thằng Cún cười tủm tỉm:
 - Giả tỉ bây giờ bố mẹ đang ở trong này rồi, chị có đi đón ngay không?
 Người chị dâu giật mình:
 - Chú đã đưa bố mẹ vào?
 - Dĩ nhiên. Mà đang trọ ngay trong cái nhà anh chị cho ông Ba bún bò thuê ấy. Mỗi tháng đỡ cho ông ấy tám trăm tiền mướn nhà.
  Mới nghe nói tới đó, mặt vợ Hoàn đã tái mét, cổ chị như bị nghẹn lại, đắng ngắt. Riêng Hoàn vẫn tỏ ra bình tĩnh, cứ như là chẳng hề có chuyện gì làm anh phải lo lắng hay bận tâm cả. Thằng Cún liếc nhanh về phía anh chị để thăm dò, rồi thủng thẳng bồi tiếp:
 - Nói anh chị đừng nổi giận, vì gạo đã nấu thành cơm rồi, tôi đã tạm cầm hết nhà cửa, ruộng vườn ở quê và  đưa bố mẹ vào đây trả anh chị. Dĩ nhiên về phần vợ chồng tôi, tôi đến đây không phải để xin anh chị mà để đòi nợ.
  Hoàn đập tay xuống bàn:
 - Tao nợ mày cái gì? Nói mau, tao nợ mày cái gì?
 Thằng Cún xua tay:
 - Anh nổi giận vô lí qúa. Nổi giận làm người ta mất khôn. Anh thử bình tĩnh nghĩ thử xem!
 - Tao không nợ nần gì mày, nghe chưa? Hoàn quát lên.
 - Có đấy! Thằng Cún xoa xoa hai bàn tay vào nhau - Mà nợ hơi bị  nhiều đấy...
  Hoàn nóng mặt:
 - Mày bảo tao nợ mày những gì? Kể ra đi !
 Thằng Cún vênh mặt lên, bảo:
 - Món anh nợ tôi chính là quá khứ và trí tuệ. Là anh em ruột, có bao nhiêu trí thông minh anh đã lấy hết của tôi. Anh không thèm để lại cho tôi một chút cho gọi là có! Hồi trước, nhà ta nghèo, nhưng bố mẹ còn cố lo cho anh được đi học. Đến lượt tôi thì bố mẹ bảo hết lực rồi. Giả sử lúc đó tôi không chịu tự nguyện bỏ học để anh được học tiếp, liệu bây giờ anh có hơn gì tôi không? Vậy mà anh dám bảo là anh không nợ gì tôi ư?
 - Còn gì nữa không? Hoàn đã hơi run nhưng anh cố dằn giọng- Nói tiếp đi!
 - Ai đã phải viết đơn tình nguyện đi bộ đội để anh trai mình được ở lại trường đại học? Có phải là tôi không?
 Hoàn buông:
 - Nói nữa đi!
  Thằng Cún xoa xoa hai tay vào nhau, cười khẩy:
 - Và ai đã thay anh ở với bố mẹ để anh có thời gian và yên tâm nghĩ cách làm giàu bấy lâu nay? Những cái đó không phải là món nợ mà anh sẽ phải trả cả đời cũng không thể hết được sao?
 - Thôi được! Hoàn tỏ ra đuối lý, bất ngờ hạ giọng và vỗ vào vai em trai- Anh chấp nhận sẽ sòng phẳng, coi như cái nhà của anh chị sẽ thuộc về chú mày. Còn cái nhà ở quê, do các món anh chị nợ mà chú đã kể ra, anh sẽ bỏ tiền ra chuộc lại và nó thuộc quyền anh chị sở hữu. Dĩ nhiên phải có điều kiện. Giấy tờ đây, chú mày tự tay viết ra rồi cùng ký vào, mai ta sẽ ra công chứng!
  Thằng Cún tưởng mình nghe lầm, hỏi lại một lần nữa. Nghe Hoàn nhắc lại, nó còn cố nài thêm:
 - Còn việc phụng dưỡng bố mẹ già, anh chị có điều kiện hơn tôi, mong anh chị đừng từ chối cho trọn chữ hiếu.
  Hoàn nói như đanh đóng cột:
 - Được!
 Rồi  giục:
 - Viết giấy đi!
 Thằng Cún không ngờ tình thế lại diễn ra thuận lợi đến thế. Sợ anh trai mình đổi ý, Cún viết lia lịa và ký toẹt vào tờ giấy.
 Hoàn nhận tờ giấy, thản nhiên đút vào túi áo và lạnh lùng bảo vợ đưa cho em trai mình một triệu đồng. Rồi lấy cớ mệt phải đi nghỉ sớm, anh quay vào phòng riêng.  
 Đứng trước gương, lòng lâng lâng như bay, Hoàn sung sướng ngắm mãi những nét thanh tú trên khuôn mặt vốn rất sáng sủa của anh. Anh biết rằng, nay mai vợ chồng anh sẽ giàu hơn bây giờ nhiều lần. Bởi khi đã có trong tay hai tờ giấy, một là tờ giấy nói về kho báu, một là bản đồ chỉ dẫn cùng với căn nhà mà bố mẹ và em trai đã đồng ý để cho vợ chồng Hoàn toàn quyền định đoạt, việc lấy kho báu trong lòng đất dưới bục thờ tiên tổ đối với anh chỉ còn là vấn đề thời gian.
Giao nhà cho em trai xong, vợ chồng Hoàn lấy vé máy bay về quê.
Trưa hôm sau Hoàn làm một mâm cơm cúng, mời các chú các bác đến họp. Anh nói:
- Anh em cháu bỏ quê đi kiếm ăn xa. Ấy cũng là có lỗi với dòng họ. Thôi thì các bác, các chú cho vợ chồng cháu bù lại bằng cách đứng ra xây lại cái bục thờ trong từ đường họ ta...
Các ông chú bà bác vỗ tay tán thưởng, khen vợ chồng Hoàn hiếu nghĩa.
Hôm sau, lấy cớ phải chọn giờ động thổ tượng trưng, vào nửa đêm, Hoàn xắn tay áo, hì hục đào một cái hố nhỏ dưới bục bàn thờ.
Mới chừng nửa mét, Hoàn đã moi được một cái hộp gỗ. Bật nắp hộp, hai vợ chồng anh mừng phát khóc khi thấy bên trong có một pho tượng. Đúng là vàng ròng thật rồi! Vợ Hoàn giữ khư khư cái hộp trên tay. Trống ngực chị đập thình thịch. Mắt chị hoa lên…
Chị chợt thấy thằng Cún đứng lù lù bên cạnh, nhăn nhở cười, rồi đưa tay giật phắt lấy cái hộp. Pho tượng văng ra khỏi hộp, rơi xuống nền gạch cái cạch và bị gẫy làm đôi. Thằng Cún cúi xuống vồ lấy pho tượng. Nó tròn mắt, lạc giọng kêu lên:
- Đá! Chỉ có đá!
Rồi ném ngay pho tượng xuống đất, quay mặt bỏ đi thẳng.
Có lẽ thằng Cún đã lờ mờ nhận ra điều uẩn khúc đằng sau việc Hoàn lấy lại cái nhà tồi tàn ở quê kia? Nên nó đã theo anh chị về tận đây để biết rõ hư thực? Nhưng nó đã không biết khối đá lạnh ngắt kia còn qúy hơn cả vàng ròng?
Cái rủi, cái may ở đời thực ra chỉ có trời mới biết trước! Xây từ đường xong, vợ chồng Hoàn đem pho tượng về thành phố, trang trọng đặt ở phòng tiếp khách; bạn bè Hoàn đến chơi, ai cũng khen đẹp. Chuyện lọt tới tai một tay buôn đồ cổ ở đường Lê Công Kiều. Hắn tìm tới thăm Hoàn và bỏ ra mười ngàn đô la để mua pho tượng đá. Hoàn chưa hết mừng thì thằng Cún lại đã lù lù xuất hiện. Nó đứng giữa cửa, dọa sẽ kiện anh nếu không chia cho nó một nửa pho tượng...
Nhớ tới đây, Hoàn chặc lưỡi:
- Ở đời ai cũng phải gánh một nỗi khổ riêng! Người thì khổ vì sướng. Kẻ lại khổ vì cực. Còn ta, ta khổ vì cái gì đây?
Lúc ấy, có thấy tiếng xe máy rồ ngoài cửa. Đoán là vợ đã về nhưng Hoàn vẫn không ngẩng mặt lên. Anh đã đau đầu lắm rồi, dù có phải chịu đựng thêm vài giờ bị vợ chì chiết nữa cũng chẳng hề hấn gì. Nhưng bên tai anh lại loáng thoáng tiếng thằng Cún:
- Tôi lói ... cho anh hay...Anh mà...thì anh sẽ ...
Mắt Hoàn bỗng tối sầm lại.
Anh lâng lâng bay vào một giấc mơ vô tận...

Nếp nhà
 Cả nhà nhốn nháo. Bà Tư và hai cô con dâu khóc như ri vỡ tổ.
 Cậu hai nhấc máy điện thoại, quát vô ống nghe, gọi bác sĩ.
 Cậu ba lạnh lùng chạy ra cửa, móc mô bai, chẳng rõ  đang gọi đến cơ quan hay ngoắc tắc xi ngoài đường.
 Riêng cậu út ấm đầu thì ngồi bên cạnh ông Tư, tay khẽ day day lên ngực người bệnh, miệng mếu máo :
 - Ba ơi ư ư ...Ba đừng bỏ chúng con...ư ư...
 Khi út lần tới túi áo ba, cậu bỗng kêu lên: “Cái gì thế này?” và móc ra một cái nhẫn.
 - Bằng đồng đuôi các tút đạn súng trường! Cậu hai nghiêng ngó nhìn, rồi tỏ ra thông hiểu về các loại nhẫn, nói.
 Cậu ba đoán:
 - Chắc ba làm để cho tụi con nít chơi...
 Lúc ấy, ông bác sĩ ở cuối phố đã lạch bạch chạy tới, phều phào nói:
 - Tránh hê...hết r..ra. Bộ các người không muốn cho ổng thở nữa sao?
  Mọi người dạt ra một chút. Vẫn đủ để nghe thấy ông bác sĩ lẩm bẩm:
 - Hê...hết cách! Ổng thất lộc rồi! Nhưng...
 Cậu hai hét vô tai ông bác sĩ già:
 - Nhưng làm sao, hả? Ông nói nhanh lên! Để chúng tôi còn liệu, nào!
 - Nhưng ... Còn nước còn tát! Chở ông ấy đi cấp cứu ngay!
 -  Đồ rởm! Cậu ba văng tục.
 Một người đàn bà hùa theo:
 - Vậy mà cứ há mồm ra tự  khen giỏi, giỏi...
  Cậu hai cắt ngang:
 - Trách cứ bây giờ chưa phải lúc! Ô, đã có ai kêu xe chưa?
 - Rồi! Nào, xúm tay đưa ba ra xe, nghe!
 - Thằng út ở lại trông nhà. Dạo này lắm bọn chôm vặt lắm đó út à!
   Út nghe không rõ, hoạnh:
 - Ai biểu tui chôm vặt? Tui giựt  công khai chớ sá kẻ nào mà phải lén?
 Ba cái tắc xi cùng lúc trờ tới, thắng kít trước cửa. Ông Tư được hai người con trai khiêng lên cái tắc xi màu đỏ. Cậu ba làu nhàu:
 - Tệ thiệt! Ba vừa mới hưu, đã hắt ngay nhỡn tiền. Chẳng có ma nào dòm, chết bỏ luôn!
  Cậu hai dằn mặt:
 - Im đi!
 Những người đàn bà lục tục leo lên hai chiếc xe màu trắng còn lại, miệng nheo nhéo giục tài xế:
 - Cứ  theo xe đỏ mà chạy!
 Cậu út ấm đầu nhướng mắt về phía anh hai, hất hàm:
 - Chở ba tới Thống Nhất, phải không?
  Hai người anh cùng gật đầu. Thế là anh lái xe rồ máy, cho xe vọt đi.
  Cậu út trở vô phòng. Một lát sau, cậu quay ra, tay cắp tấm bảng đen ba cậu vẫn dùng để ghi lịch công tác  hoặc những lời dặn dò đại loại “ Ba ăn tiệc ở nhà hàng”, “ Không phải chờ cơm”, hoặc “ Tiền cho út để ở chỗ cũ”, “ Khuya ba mới về”. Treo tấm bảng ở góc phòng khách xong, út lục tìm được cây bút lông màu đen, vẽ nguệch ngoạc vô giữa bảng một dòng chữ. Lướt nhìn cái sáng kiến độc đáo của mình, út dậm dậm chân xuống nền nhà, miệng huýt sáo, óc nghĩ thầm: “ Độc thiệt! Không rõ vì can cớ gì mà những kẻ độc mồm độc miệng cứ  biểu ta là hâm nhỉ?” .
 Nghe tiếng bước chân người, út quay trở ra. Một ông lão hom hem vừa bước từ xích lô xuống đã hỏi ngay:
 - Ba con bịnh đang nằm đâu?
 - Ở kia kìa!
 Nhìn tay út chỉ, vị khách ngớ người:
 - Thế này là thế nào?
 - Ông không nhìn thấy sao?
 - Ta...ta thật không ngờ...
 - Điều gì?
 - Lẽ ra ta đã không trả lời con nữa. Nhưng vì anh Tư, ta yêu cầu con bỏ tấm bảng kia xuống. Và nên học ăn học nói cho đúng cách...
 - Xin lỗi, ba tui có ở nhà thì cỡ ông cũng chỉ đáng được nhìn  dòng chữ “ Đi công tác vắng” mà thôi. Chẳng lẽ tôi đã không lịch sự  khi cho ông hay ổng đang nằm viện?
 Lão Vận mở to mắt. Đúng là nó đã viết dòng chữ “ Ông Tư hiện đang nằm tại Thống Nhât” trên bảng! Tuy nhiên, lão đã không nổi giận vì chợt nhớ ra rằng thằng út còn có biệt hiệu là út ấm đầu. Và chỉ ít phút sau đó, lão Vận đã thấy ngay được giá trị của hành hành vi hâm hấp kia. Nhờ nó mà  lão đã kịp tới bệnh viện Thống Nhất để nắm lấy bàn tay đang lạnh giá dần của ông bạn già. May mắn nhất là trong phút lâm chung của ông Tư, lão đã nhận được cái gật đầu đầy ẩn ý của bạn và cảm thấy hơi bị sốc khi buộc phải xác nhận cái chuyện nghe như đùa năm xưa là chuyện thiệt trăm phần trăm. Là cán bộ lâu năm, bụng chứa cả một kho luật pháp, chẳng lẽ ông làm ẩu đến cỡ ấy? Trước đây, do không được hay những chuyện riêng của bạn, có lúc lão Vận cũng đã nghĩ: “ Người ta bịa chuyện bậy bạ để kiếm cớ hạ bệ ông Tư đấy thôi”. Nghe nói thì ngoài bà vợ cơ quan cưới cho hồi tập kết ngoài bắc, sau giải phóng, ông Tư còn có tới hai bà vợ bí mật nữa. Một bà vốn là vợ goá của một công chức cũ. Bà có với ông một đứa con trai. Sợ ông bị liên lụy, bà bồng con xuất cảnh theo gia đình. Nghe nói ông có trao cho bà một kỉ vật. Một viên ngọc qúy lắm thì phải. Một bà nữa buôn bán ở chợ Cầu Muối. Bà này cũng có hai mặt con với ông Tư. Khác chăng, tiếng là già nhân ngãi non vợ chồng thật đấy, nhưng kể từ sau lần sinh thứ hai, năm thì mười hoạ bà mới cho người nhắn ông Tư  tới thăm con một bận. Người ta đồn rằng hai đứa trẻ kia cũng được ông Tư trao cho một kỉ vật. Vẫn là những viên ngọc qúy. “Chắc ông phải còn nhiều ngọc nữa”, ai cũng biểu thế. Họ cho rằng, hồi tiếp quản, ông Tư ở cả tháng ròng trong tòa biệt thự của một viên chức cao cấp của chế độ cũ vốn  nổi tiếng là kẻ tham những; ở đấy chắc chẳng thiếu gì ngọc?
 Trong đám tang, chỉ có bà Tư là người đàn bà duy nhất khóc ông Tư. Nhưng bà cũng chỉ hờ. Hờ cho mọi người hay rằng ông đã sống một cuộc đời thủy chung như nhất với bà. Đi sau quan tài ông Tư còn có hai người đàn bà nữa; nhưng họ không khóc. Không phải vì họ không muốn khóc mà là không dám khóc. Bởi họ sẽ khóc ông theo quan hệ nào? Nếu vì nước mắt của những người đàn bà mà thanh danh ông bị hư hoại thì họ cũng chẳng nên khóc? Bởi vậy, lão Vận chỉ nghe được những tiếng hự hự ấm ức. Mấy người trai trẻ ăn mặc lịch sự đi sau những người mẹ của họ cũng không khóc, chỉ lấy khăn mù soa che lấy miệng.
 Cậu hai ghé miệng sát tai cậu ba nói thầm:
 - Bữa nay má mình là người sung sướng nhứt. Bả được khóc thiệt đã!
 - Ừ, nhưng mà tội cho những người khác quá, họ sẽ chết vì không chảy được nước mắt!
 Cậu út từ phía dưới vượt lên, cấu vô tay anh hai:
 - Vì sao mấy ảnh ai cũng mang một cái nhẫn đuôi các tút súng trường nhỉ? Họ có phải là anh em của chúng ta không?
  Cậu ba quay sang phía thằng em, lừ mắt:
 - Không! Đấy không phải là bằng chứng để họ đến đây nhận một phần tài sản của chú mày! Nghe rõ chưa, đồ mát?
 Cậu ba định nói nữa. Nhưng bắt gặp ánh mắt sắc như dao của người vợ, cậu nín thinh ngay. Cậu rùng mình tưởng tượng ra cảnh  ba mươi năm sau. Ngày ấy, vợ cậu sẽ xử trí như thế nào khi cô ta rơi vô hoàn cảnh y hệt của má cậu hôm nay?

Trúng số
 Bữa nay, trong lúc vắng khách, đậu xe dưới tán bàng mát rượi nhà bà Tư, Bụi cứ ngậm ngùi ngẫm mãi về sự may rủi của một vài người trúng số. Nhà ông Bảy cà phê cây mận vô bạc tỉ, đi lãnh tiền thưởng mừng quá hoá chủ quan nên mất xe; vừa mới có tiền đã coi tình như cỏ rác, ép con gái phải bỏ người yêu nghèo lấy một tay trọc phú giàu có, đẩy cô bé vô đường cùng tự giận. Hay như bà Tám trong hẻm, từ khi xênh xang vàng bạc, chỉ lo đề đóm, gặp người quen không thèm chào hỏi, giờ phải đi mua ve chai đắp đổi qua ngày... Rặt những chuyện buồn quá trời quá đất à! Mà Bụi nào có hơn gì họ? Cũng là cái số ăn mày, dù thế nào cũng chỉ là một thằng ăn mày! Biết làm sao với cái số? May mà vẫn còn cái xích lô chung thủy! Dù Bụi đã từng hắt hủi nó...
 Chuyện của Bụi bắt đầu từ hôm chở một bà khách qua bến đò Tân Thuận. Còn nhớ bữa ấy, Bụi đã phì cười khi thấy bà lão Tư mé sông tay cầm một chiếc roi mây, quất đen đét xuống đất, ngay trước bàn thờ  ông Thần Đất và ông Thần Tài. Thấy ông Địa bằng đất nung vẫn nhăn ra cười, bà lão rên rỉ:
 - Ông còn cười cái nỗi gì mà cười nào? Ông ăn ở thế mà công bình a ông Địa? Cả ông thần Tài râu trắng kia nữa! Sáng nào tui cũng mua cà phê cho các ông uống, mua thuốc lá ba số năm cho các ông hút, chỉ mong các ông cho trúng số đổi đời mà các ông cứ ngoảnh mặt làm ngơ là cớ làm sao?
 Hai vị thần bằng đất nung sơn mầu sặc sỡ, vẫn im lặng. Sự im lặng đáng sợ ấy làm bà Tư càng thêm tức khí. Run lẩy bẩy, bà nhấc từng ông một ra khỏi ban thờ, dọa mai mốt mà vẫn không chịu phù hộ cho người thành tâm dâng cúng, thì, dù có thiêng tới cỡ thần thánh, các ông cũng khó mà thoát khỏi đòn bà!
 - Lúc đó tui không kiêng dè nữa đâu nha. Tui oánh thiệt đó nha!
 Bụi hỏi thêm chị điện thoại công cộng gần đó mới rõ nguyên do bà lão buồn. Cũng tại vé số mà thôi! Bữa nào bà Tư cũng có năm, hoặc bảy ngàn. Tiền ấy, do cô con gái út nghèo nhưng hiếu thảo chắt bóp biếu vào mỗi buổi sớm để má ăn quà. Bà lão bóp mồm bóp miệng, chỉ mua một ngàn xôi bắp ăn cho đỡ đói. Bà bớt tiền ra mua một ly cà phê đen, một điếu thuốc lá ngoại để cúng thần, cầu mong các ngài phù hộ cho mình và con cháu. Còn bao nhiêu, bà đem mua vé số ráo trọi! Đủ mọi số ứng với các loài: chuột, trâu, hổ, mèo, rắn, dê, gà, chó, heo, ốc, gián, nhện,... ngày nối ngày, tháng tiếp tháng, năm cũ qua, năm mới tới, mong mòn cả mắt mà bà chưa hề gặp hên. Hỏi như thế làm sao không giận, không dám đem cả ông thần Đất, ông thần Tài ra đánh đòn?
 Bụi kêu lên, ngao ngán:
 - Trời ơi! Bà lão lẩn thẩn rồi? Ai lại đi mơ đổi đời nhờ trúng vé số?
 Biết vậy mà mấy bữa trước, Bụi vẫn mắc vào lưới của một giấc mơ hão huyền của số phận mới kì chớ! 
 Bữa ấy, mới sáng sớm, thằng bé vé số đã có vẻ mệt mỏi, ngồi phệt xuống hè phố, ngay trước cửa nhà má vợ Bụi. Thấy thằng bé, bà Chín vừa múc cháo đầu heo cho khách vừa bâng quơ:
 - Đêm qua tui nằm mớ thấy con gà. Gà bươi đất kiếm mồi, được con giun dài ơi là dài! Điềm này linh với số nào đây?
 - Số hai tám - Liên, vợ Bụi nói.
 Chen ngang lời vợ, Bụi cười hề hề:
 - Vậy tui mua cho má một cặp nguyên nghe!
 - Mày nói lạ ha! Ấy là tao giỡn vậy, chớ tao mõi đâu ra tiền?
 - Thôi được! Tui liều thử theo số má mớ một phen coi hên cỡ nào!
 Bụi vừa nói,  vừa móc tay vô túi cái quần jean cũ kỹ đã cắt cụt tới gần đầu gối, lấy tiền ra kiểm. Vừa vặn sáu ngàn. Đủ mua ba tờ vé số...
 Thằng bé bán vé số không gặp hên. Tập vé của nó không có số nào ứng với con gà trong mơ. Nó gãi đầu gãi tai, biểu:
 - Con gà còn nhỏ, con thấy người ta biểu bữa nay số về con heo kia. Chú cứ thử vận một lần coi! Con cũng chỉ còn một số con heo thôi chú. Mua giúp con đi, chú!
 Bụi chép miệng:
 - Chưa sáng đã gặp xui! Thôi thì mua cho chú mày một con heo. Chiều tao vô cửa độc đắc, nhớ tới mà lãnh thưởng, nghe con! Còn bây giờ ấy à, xéo!
 Thằng bé không xéo. Nó nhăn răng ra cười:
 - Chú nhớ nha! Số bốn bảy hên cực đó! Chiều con sẽ còn quay lại cho chú coi!
  Liền sau lúc thằng bé bán vé số đi khỏi, Bụi phải chạy một cuốc xuống Chợ Lớn. Rồi ba cuốc tiếp theo tới các điạ điểm cách xa nhau hàng chục cây số như chợ Bà Chiểu, bến xe miền Đông, sân bay Tân Sơn Nhứt. Mệt tưởng đứt hơi! Vì thế, Bụi không về nhà ngay. Anh mua hai xị rượu, một dĩa gỏi vịt, đánh xe ra bến đò ngang, định bụng  rủ  ông lái cùng nhậu chơi. Ai ngờ, Bụi vừa đậu xe, đã thấy thằng bé bán vé số chạy lên phía trước, nhăn nhở cười. Thằng quỷ ám! Phải mắng cho nó một trận mới hả dạ được...
 Nhưng kìa, Bụi có nghe lầm không đây? Mà anh cảm thấy rủn cả người? Miệng há hốc, tai âm u tiếng  thằng bé léo nhéo:
 - Chú gì ơi, chú trúng số rồi! Số ...số ...cận ... độc đắc!
 - Đâu? Để tao coi !
 Thằng bé chưa kịp nói hết câu, Bụi đã giằng nghiến lấy cuốn sổ dò số nhàu nát từ  trên tay nó; mắt anh hoa lên, tay lật loang loáng,  lần theo từng dãy số.
 - Trúng! Tui trúng con bốn bảy rồi! Độc đắc! Ba má ơi...
 Rồi, như bị hút mất hồn, không kìm được mình, Bụi nhảy cẫng lên:
 - Hết khổ, hết nghèo rồi! Ha, ha, ha.... Này thì nghèo...
 Cùng với tiếng “này” hả hê,  Bụi đẩy mạnh chiếc xe xích lô thân thuộc về phía trước. Bị hất mạnh đột ngột, chiếc xe chổng hai bánh lên trời, lật ngược, rối lăn tùm xuống kinh Tẻ. Sau đấy, anh quay đầu, chạy một mạch về nhà, đưa tấm vé số cho vợ. Sung sướng tột độ, anh ngửa cổ, dốc ngược  xị rượu vô miệng...
 Liên chạy ra phố, đi đọ vé. Chừng mười phút sau, chị lử khử trở về, mặt cau có, miệng xì xì:
 - Rõ là trông gà hoá cuốc? Chỉ trúng an ủi thôi ông mãnh ạ. Vậy mà đã rầm rầm cả lên! Người ta đang tới đầy nhà xin tiền kia kìa!
 Đúng vậy. Trong chuếnh choáng hơi men, Bụi vẫn nhìn rõ những gương mặt của những người thân. Đông nhất là lũ cháu...
 Cầm tấm vé số Liên vừa trao lại, Bụi vụt chạy ra quầy số ông Ba Tam ở đường Xóm Chiếu đổi lấy tiền. Những ba trăm ngàn! Dẫu chưa đổi đời, nhưng cũng là một món tiền to! Đối với anh, đó quả là  một món tiền trong mơ...
 Không chần chừ một giây, Bụi xỉa tiền, đưa cho Liên một trăm ngàn, biểu sắm lấy một đôi bông tai vàng mười tám.  Số còn lại, anh biếu bà ngoại, má vợ, cho các em, các cháu mỗi người năm ngàn ăn quà vặt! Ăn khoai, ăn hủ tiếu, chẳng dư một chầu no sao!
 Hôm sau, Bụi biểu Liên nghỉ một buổi hàng, đưa cả nhà đi ăn cơm tiệm bình dân cho bõ tiếng vừa trúng số. Tới bữa chiều, do hứng khởi, Bụi kêu quá số tiền mình có ba chục ngàn. Không có tiền trả, Liên đành bấm bụng, đến tiệm vàng Kim Hiếu bán đôi bông mới sắm, lỗ mất mười lăm ngàn. Bụi chắc lưỡi:
 - Thôi thì cho hết luôn!
 Vậy là vợ chồng, con cái được hưởng thêm một ngày vui vẻ nữa!
 Ngày huy hoàng vụt qua như bóng nắng. Phải quay lại với đời thường thôi! Ngao ngán, Bụi thất thểu lội xuống kinh Tẻ, lặn hụp một hồi, vớt chiếc xích lô lên. Hên quá, chiếc xe tuy bị bám đầy bùn nhưng vẫn còn nguyên! Nước lạnh khiến Bụi nổi cả da gà; anh rùng mình, chợt nghĩ:
 - Giả tỉ có kẻ nào đó đã vớt cái xe lên đem bán đi rồi, không biết vợ chồng, con cái mình sẽ sinh nhai bằng cách nào a?
Ờ, mà trong cuộc đời cát bụi này có bao nhiêu kẻ ngu nhỉ? Bụi ngu hay khôn? Liệu từ cái ngu này, có cái khôn nào đang lấp ló nảy mầm không?

Mười Khoan
Anh tên là Mười Khoan. Dáng hộ pháp, nặng tám chục kí lô. Bắp tay, bắp chân anh cuồn cuộn, loang loáng mồ hôi. Trông anh bổ củi đã cả con mắt. Cây búa tạ vung lên, phập xuống nhịp nhàng, củi tóe ra thành đống xung quanh.
Ngày nào cũng vậy, mới tám giờ sáng Mười Khoan đã vội vã gom củi, bó lại, chất vô đống rồi phủi tay vô quần, hất hàm nói với đứa con gái lớn trông vựa một câu muôn thủa:
- Trông hàng cho ngon nghe! Ba về nhà uống nước!
 Con bé nguýt ba nó một cái dài:
- Uống nước? Uống mà phải đóng cửa?
 Mười Khoan cười hề hề, vừa đi vừa vắt cái áo bạc phếch lên vai:
- Chuyện nhỏ!
Những lúc vui, gặp bạn bè, Mười Khoan thường nháy nháy mắt, giỡn:
- Khoan này hổng phải tạm ngưng đâu nghe. Là mũi khoan đó!
Chà chà, khoan mười mũi một lúc thì đến tường bê tông cũng sập…
Khác với chồng, chị Tư Ốm, vợ Mười Khoan, thiệt là ba má đặt tên đâu trúng đó, có tới bốn cái ốm. Mặt chị hóp lại, hai mắt lỗ đáo, lúc nào cũng lờ đờ như người thiếu ngủ. Thân hình chị cứng nhắc, phía trước ngực cũng như sau lưng đều thẳng đuột. Mười Khoan biểu khỏi lo, đã có hãng Trump phụ giúp, khiếm khuyết của vợ anh cũng chẳng đến nỗi nào. Chân tay chị có vẻ như hơi dài, nổi đầy gân xanh. Nhưng người gầy là thầy mọi thứ đó nghe, năm trước mới nghe chị sanh, bẵng đi một thời gian lại đã nghe chị đang có bầu. Cây khế, cây ổi, cây me quanh nhà chả mấy khi đủ trái cho chị Tư đỡ bị ói khan…
Trời cho vợ chồng anh Mười tới mười đứa con. Tuy ít học nhưng bù lại, đứa nào đứa nấy tròn trùng trục như cối đá lỗ, lăn ra đâu là ngủ đó, ăn chỉ thấy ngán chứ chẳng mấy khi biết no. Anh Mười mê mải bổ củi, đến cái quán nhậu cách nhà có mấy căn anh cũng chẳng chịu hạ cố ghé qua nâng lên đặt xuống dăm ba ly cùng bè bạn. Anh chỉ mê nước chanh nóng chị Tư chế mỗi khi anh bỏ vựa về nhà giải khát. Ồ, cũng chả tốn kém là bao, ngày anh Mười về nhà sáu bảy lượt mà cũng chỉ xài bốn năm trái chanh, một trăm gam đường trắng…
Anh Mười cưng vợ, không chịu cho chị Tư đi làm. Mà anh có cho chị cũng không đi nổi. Đứa con này của chị vừa mới ráo máu đầu, đứa kia lại đã ló ra. Chúng mè nheo, quanh quẩn níu áo, đòi cho ăn, đòi tắm rửa, đòi đi ị khiến chị Tư tối mặt tối mũi. Dĩ nhiên, đối với một người đàn bà ít nhan sắc như chị, như vậy cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Vậy mà bỗng nhiên chị Tư không chịu yên phận, một mực nằng nặc đòi ly dị chồng. Anh Mười Khoan há hốc mồm, ú ớ không nói được câu nào vì quá kinh ngạc. Bà con chòm xóm thì biểu chị khùng. Không khùng sao lại chê chồng? Mà chê chồng thế nào? Chê người chỉ biết say mê bổ củi kiếm tiền! Chê người bắt chị phải ăn nhiều, uống nhiều: “ Uống thật nhiều thuốc bổ vô nghe em, cho nó khoẻ”. Nghĩa là chê người thương mình hết mực! Chà, lòng người nông sâu ai dò cho hết? Hay là chị phải thằng cha nào? “Trời ơi, đừng có đặt điều oan cho vợ tui”, anh Mười thề, “Nó hổng phải lòng ai hết, có lẽ nó đoạ chết à? Cho nên nó mới đòi bỏ tui. Mà nó học ở đâu cái thói đó chớ? Nó hổng học ở đâu hết, chắc nó nghe đứa nào xúi khôn xúi dại thôi. Rằng người ta có cả trăm con vẫn còn chia tay vì không hợp kia kìa. Ở đâu à? Ở trong sách tập đọc của con Út Sáu nhà mình chớ ở đâu! Đấy, nó có một mớ lý này lý kia, nghe lạ huơ lạ hoắc à. Nghe tối cả tai”…
Rồi đến ngày Tòa kêu hai vợ chồng anh Mười Khoan đến hòa giải. Trên đường đi anh Mười biểu vợ:
- Làm thế khó coi quá, khó coi quá, ta về đi.
Chị Tư hặc:
- Về là về thế nào, ý tui đã quyết, búa đã chém vô củi, có trời cản. Nói hoài, nói hoài, anh có chịu nghe tui đâu. Tại anh cả đó chớ…
Tòa hỏi chị Tư lấy anh Mười Khoan có được hạnh phúc không?
 Chị trả lời:
- Dạ thưa, tụi tui có tới mười đứa lận…
Tòa hỏi tiếp:
- Chị Tư còn thương ảnh không?
Chị Tư nói:
- Thương! Thương dữ lắm chớ! Không thương mà…
Tòa lại hỏi anh chị có hay cãi nhau, đánh nhau, có gì trái ý nhau không?
Chị Tư hạ giọng:
- Dạ, thưa Tòa, ngày nào tụi tui cũng tự dưng đánh nhau vài trận. Còn cãi nhau thì không, vì cứ mỗi lần tui định cãi, hay định kêu lên cho lũ trẻ tới cứu, ảnh đã đưa bàn tay hộ pháp ra bịt vô miệng tui rồi. Mà không kêu được thì lại thấy cái không hợp, không thích tự dưng biến ráo trọi hết. Xong rồi mới thấy ấm ức. Ấm ức lắm, bị bắt buộc, bị ăn hiếp, làm sao không ấm ức. Ức thế nhưng lúc thấy ảnh cười hề hề tự dưng tui lại bỏ qua cho luôn…
Tòa gặng:
- Chị Tư đã bỏ qua sao còn khăng khăng đòi bỏ anh Mười?
Chị Tư bỗng hét lên:
- Không, ảnh cứ vậy, cứ vậy! Tui hết chịu nổi rồi! Tui dứt khoát …
Tòa hỏi anh Mười có đúng thế không?
Anh Mười chỉ gãi đầu, biểu:
- Nhà tui nó chỉ nói đúng trở lên. Tui thấy tui sai nhưng hổng biết sai đâu. Mong Tòa chỉ giùm đâu sai để tui sửa. Sai đâu sửa đó. Còn sai đó sửa đâu thì Tòa lại chỉ. Tui chỉ  mong Tòa chớ có cho vợ tui nó bỏ tui…
- Vậy thì - Tòa lại hỏi chị Tư- Ảnh đã nói thế, chị có chịu ly dị nữa không?
Chị Tư  mếu như cười:
- Sao Tòa lại vừa nói vừa cười, như vậy là có ý gì. Tòa bênh anh Mười phải không? Tòa mà bênh ảnh thì tui sao qua mặt được Tòa? Tòa nói sao tui cũng theo Tòa. Nhưng mà- chị Tư  tiếp- Tui đòi Tòa phải bắt anh Mười…
Tòa ngạc nhiên:
- Anh ấy có tội gì mà bắt? Luật pháp ta bắt người đâu dễ thế. Mà Tòa bắt anh Mười, chị Tư ở với ai, ai nuôi con cho ảnh?
- Không- Chị Tư bẽn lẽn- Tui nói là bắt ảnh không được tự ý bỏ vựa củi về nhà ngày mấy lượt thôi. Ảnh đâu có uống nước…
Tòa hỏi anh Mười có chịu làm theo ý chị Tư không. Anh Mười lại gãi đầu, biểu:
- Dạ thưa, được, được, tui làm được…
Sau lần được Tòa hoà giải thành, chị Tư rút đơn. Anh Mười Khoan thì cứ vô tư  cười hề hề, biểu nhứt định sẽ tự kềm chế không về nhà uống nước nữa. Dành hết thời gian để làm việc, ngày anh bổ tới năm tạ củi. Nhà đã dư dả, con cái học hành tấn tới nên chị Tư mừng lắm.
Bây giờ, ban ngày bổ củi ở vựa đã đời, tối về nhà, ăn cơm xong là anh Mười lên giường lăn ra ngủ. Trời ơi, người đâu mà vô tâm vô tính, cứ ngủ như chưa bao giờ được ngủ vậy! Ngủ lắm thế khác chi bỏ mất nửa cuộc đời?
Thương chồng, chị Tư lại lay lay đánh thức anh dậy. Cực quá mình hà, cả ngày mình không được uống nước. Hay là tui đi mua cho mình tô phở nha! Có tí nước tí cái cho dễ nuốt. Hồi này mình có vẻ xuống sức. Tội nghiệp, tội nghiệp thiệt, chị chép miệng..

Tro bụi

Hương đồng nội


Trường cấp hai xã tôi cất trên nền cũ ngôi chùa làng Thượng nổi tiếng linh thiêng. Chùa đã bị giặc Pháp bắn sập vào đúng ngày u tôi bỏ anh em tôi vào hai cái thúng, gánh đi tản cư. Chỉ có cây đa cổ thụ trước cửa chùa là không chịu ngã...
Năm 1965, tôi học lớp năm, cùng lớp với thằng Cao. Gọi là thằng vì chúng tôi là hai thằng trẻ trâu. Hơn tôi bốn tuổi, tên là Cao nhưng thằng bạn cuả tôi lại rất thấp và bé. Tạng hạt tiêu như Cao, người quê tôi gọi là còi.
Nhà Cao quanh năm đói quay đói quắt. Nghĩ cũng khổ, u Cao đau ốm kinh niên, nhà có mớ rau, con cá cũng phải đem đổ vào tiền thuốc men. Qua vụ gặt, bố Cao đã phải đi vay đi dạm. Ngày chỉ có bữa cháo bưã cơm mà lãi mẹ đẻ lãi con, cả đời ông cũng không thể nào trả hết được công nợ. Cho Cao đi học, ông những mong sau này đời nó sẽ khá hơn...
Ước mong cuả người cha nghèo quả là mong manh. Vì Cao học vốn đã dốt lại nổi tiếng là đứa ngỗ nghịch. Nó suýt bị nhà trường đuổi học vì dám trèo lên tận ngọn đa và thả một quả trứng quạ xuống đầu thầy giáo Bình. May mà ông giáo già không để bụng, xin thầy hiệu trưởng bỏ quá cho...
Thầy Bình dậy chúng tôi môn Sử. Năm ấy, nghe nói thầy mới ngoài năm mươi mà mắt đã mờ, tóc đã bạc trắng như cước. Chỉ có hàm răng thầy là vẫn đều và đẹp lắm! Có lẽ vì thế mà thầy Bình hay cười chăng?
Thầy ăn mặc tuềnh toàng nhất trường. Lúc lên lớp, thầy hay khoác một cái áo ka ki gụ có tới bốn cái túi. Chúng tôi rất mê cái túi trái phía dưới, nhất là hôm nào trông thấy nó có vẻ phồng phồng...
Thấy thầy từ xa, Cao xui bọn con gái cúi rạp xuống đất, đồng thanh :
- Chúng con lạy thầy ạ! Chúng con...
- Đứng cả dậy... Thầy biết rồi. Thầy có cái này cho các con đây...
Chúng tôi xúm quanh thầy, tranh nhau xoè những bàn tay còn ngai ngái mùi đất cát quê. Thầy chớp chớp mắt, tủm tỉm cười:
- Tay có sạch không?
Rồi, không chờ chúng tôi trả lời, thầy móc trong túi ra khi thì nắm ngô rang, khi thì dăm củ lạc luộc, chia đều cho đám trò nhỏ...Thằng Cao vỗ cả nắm ngô vào miệng, nhai rau ráu. Nó nuốt vội nuốt vàng để còn kịp xin mấy đứa con gái thêm vài hạt...
Hôm thầy Bình kể chuyện về nạn đói năm 1945, cả lớp rơm rớm nước mắt. Chỉ có thằng Cao là không khóc. Mắt nó hau háu nhìn vào cái túi traí phía dưới hơi phồng phồng cuả thầy. Cao đang đói; nó ngửi thấy mùi ngô rang nụ thơm phưng phức mà không biết làm thế nào. Thật may cho nó, một lát sau,
có lẽ do nóng quá, thầy Bình cởi cái áo khoác vắt lên thành ghế.
Giờ chơi, chờ cho cả lớp đã chạy ra sân hết, Cao lẻn trở lại, thò tay vào túi áo thầy. Khi ra chỗ tôi và các bạn khác đang chơi đá cầu, đoán là tôi biết chuyện, mặt Cao cứ đỏ rần lên.
Hết giờ chơi, thầy Bình vừa cười cười, vừa lắc lắc đầu, hỏi:
- Lúc nãy có trò nào nghịch ngợm cái áo cuả thầy không?
Cả lớp nhao nhao trả lời không có ai. Cao đưa tay che lấy miệng. Mặc dầu thế, hơi thở gấp gáp vì quá sợ hãi đã tố cáo nó. Miệng Cao còn thơm mùi ngô rang nụ...
Lần ấy, thầy Bình chỉ hỏi chứ không tra đứa nào tắt mắt. Nhưng cũng từ hôm ấy, trong các giờ ra chơi, thầy hay gọi Cao ra một chỗ, lặng lẽ giúi vào tay nó củ khoai, nắm ngô...
Học xong lớp mười, tôi và Cao nhập ngũ. Xã tổ chức giao quân cho huyện ngay dưới gốc đa trường cấp hai. Trong không khí lưu luyến cuả buổi tiễn đưa, Cao cứ ôm chặt lấy thầy Bình, rơm rớm nước mắt, xin được thầy thứ lỗi...
Cho đến năm 1975, khi trở về quê, tôi mới biết tin Cao đã hy sinh tại mặt trận Quảng Trị. Dù chưa đưa được hài cốt anh về nơi quê cha đất tổ, nhưng trong nghĩa trang liệt sĩ xã tôi vẫn có phần mộ cuả Cao.
Nghe tin trò còn sống trở về, thầy Bình mừng lắm, bắt anh con rể chở ngay đến nhà tôi. Buổi chiều, hai thầy trò rủ nhau ra nghĩa trang viếng Cao.
Trên đường đi, lúc qua chợ Thượng, tôi ghé vào một cửa hiệu mua mấy nắm nhang. Quay ra đã thấy thầy lọ mọ trở lại chỗ hẹn từ một hàng quà cho trẻ con, tay cầm một gói giấy nhỏ.
Sau khi lần lượt thắp nhang cho các liệt sĩ, tôi và thầy Bình dừng lại khá lâu trước nấm mộ tượng trưng cuả Cao.
Bảo tôi thắp cho bạn ba nén nhang, thầy chậm rãi mở gói giấy, đổ xoè lên nấm cỏ những hạt ngô rang nụ.
Mùi ngô rang man mác khiến tôi bất giác rủn người, chợt hiểu hôm chúng tôi ra mặt trận, dưới gốc đa già, Cao đã nói những gì với thầy Bình...

Tro bụi

Những món lộc trời


Tóc tai lởm chởm, mắt trũng xuống, anh len lỏi trong con hẻm tối tăm. Dù dáng dấp rất bụi, anh vẫn cảm thấy rờn rợn trước những cặp mắt sắc lẻm như dao dõi theo mình. Túi còn mười ngàn, anh tấp vô một cái quán èo uột, kêu :
- Làm ơn cho một cô ca, một Khánh Hội, nghe.
- Ơn với huệ cái chi! Có tiền mua tiên cũng được...
- Ơ, cái nhà anh kia...
Một gã to béo, ục ịch tiến lại phía anh, hất hàm, hỏi:
- Nhà báo?
Anh chưa kịp trả lời, một gã gầy nhom ngồi đối diện đã nheo mắt, nói giọng xiên xỏ:
- Báo chí hay báo hại?
Anh cười nhăn nhở:
- Dĩ nhiên là báo chí!
Anh trả lời và lấy làm lạ rằng, bằng cách nào họ biết anh là nhà báo? Anh đã ăn mặc y hệt một kẻ bụi đời: Quần jean cắt ống cào cho te tua, áo phông loè loẹt, chân lại xỏ một đôi giày đúng mốt. Thế mà...
- Ở đây không bán cô ca, cấm hút loại thuốc lông chuột! Nghe chưa? Cũng không cần phải "làm ơn". Nghe chưa?
Gã to béo vừa nói vừa nháy mắt vừa quăng gói ba số năm về phía bàn anh. Rồi gã ngồi xuống bên cạnh, gọi với vô phía trong:
- Các em! Lè lẹ cho anh Hai mười "ve" đập phá chơi nào...
Anh còn chưa hết ngỡ ngàng thì mấy cô gái bán hàng đã nhanh nhảu mang ra một két bia. Gã to béo khui bôm bốp. Bia xủi bọt, tràn cả ra ngoài các miệng ly.
- Tuị này bao mà - Gã gầy nhom đẩy một cái ly về phía anh - Trăm phần trăm! Nào, zdô...
Anh nốc cạn ly bia như một cái máy.
- Chẳng nói giấu gì ông anh - Gã to béo vỗ vai anh - Tuị này làm "chuột". Ở nhà tổ chuột thì làm chuột có gì xấu? Nghĩa là đục kho khoét hầm, lấy trộm hàng của nhà nuớc ấy mà. Cũng chẳng được là bao mà vào tù ra tội như chơi. Nhục chứ sướng cái chi! Nhưng mà tức...
Gã gầy nhom gật gù, chen vô:
- Anh Hai tức lũ "chuột lớn" lọt lưới! Thôi đi cha nội ơi, mèo nhỏ bắt chuột nhỏ chớ! Mặc kệ nó đời... Uống đi nào, uống...
Gã to béo quắc mắt, nhìn xoáy vô mắt kẻ đàn em, hạ giọng :
-Tuị này biết ông anh là một nhà báo tốt. Ông viết bài nên khu này mới có con hẻm láng xi măng này, lại sắp có máy nước, có điện... Nghĩa là ông còn thương cánh áo rách. Giá ông kiếm cho tụi này một cái việc gì đó, có lẽ ông đỡ phải chui rúc vô đây viết về lũ "chuột con". Bọn này đã phục ông ở đây vì biết thế nào ông cũng còn quay lại. Dĩ nhiên, mai phục không phải để hại ông, vì ông viết về tội lỗi của bọn này. Mà để thưởng công ông, xúi cây viết còn thơm thảo của ông hướng về lũ "chuột lớn" kia...
- Ê, mấy em! Gã gầy nhom kêu.
Mấy khuôn mặt loè loẹt phấn, dở cười dở khóc, lấp ló sau tấm phên lá dừa.
Anh liếc nhìn họ, tỏ vẻ ái ngại.
Như đo được lòng anh qua ánh mắt, gã to béo khoát tay:
- Cho lui! Ông anh đây còn sạch sẽ, đừng nhúng ông vô bùn.
Rót thêm bia vô ly cho anh, gã bảo:
- Thực ra thì tụi này không xấu như người ta vẫn tưởng. Chỉ nghèo thôi! Nghèo nên khổ, nên cực, nên cùng! Nghèo nên ngu, nên hèn, nên rồ dại! Nhưng tụi này cũng rất giầu ! Đấy, ông coi, anh em dám bao cả chục em bơ vơ từ miệt vườn lên. Em nào lớ xớ đi kiếm tiền là ăn dao liền à. Hà, hà...Đói cho sạch...
Cũng là một kiểu sạch! Ly bia chảy qua cổ họng anh bỏng rát. Thứ lộc trời này, lần đầu tiên anh được nếm...
***
- Nhà báo, anh nói cho chú biết, chú thua rồi. Hôm nay anh đã bắt được một tên trộm cỡ bự.
- Tình tiết này có ý nghĩa gì? Khi mà anh và đồng bọn đã bán cả kho hàng?
- Sao lại không có ý nghĩa? A ha, bọn trộm này đúng là ân nhân của bọn anh. Nhờ chúng mà anh sẽ vô tội. Và chú mày, chú mày cũng chẳng còn chi mà viết nữa nhỉ - Ông ta hài hước.
Anh cười:
- Không dễ thế đâu. Trời giăng lưới cả rồi đấy, anh chớ có vội mừng !
Vị giám đốc đổi giọng, tâm sự:
- Thì anh vẫn đợi đấy chứ! Có điều, anh khuyên chú đừng có dã tràng xe cát. Anh vốn sòng phẳng nên đến đây không chỉ mang theo lời khuyên. Bây giờ ván bài đã lật ngửa, anh không chơi đẹp thì chú mày cũng đành bó tay thôi. Hơn nữa, việc điều tra là của công an, can hệ gì đến chú mà chú cứ xía vô? Thôi, cầm lấy chút đỉnh này để lấy hơi mà viết cái tác phẩm nhớn nhớn một chút. Cho nó ra hồn cái anh nhà văn ! Hay là chú chỉ muốn làm một anh viết nhựt trình nhãi nhép mãi?
Anh gắt:
- Anh cầm tiền về đi! Tôi không thể...
Vị giám đốc sẵng:
- Được! Tôi chẳng còn điều gì để nói thêm với chú nữa. Xem chú làm được cái gì nào?
Rồi ông ta bỗng hét lên:
- Thế là ngu! Ngu! Chú hiểu chưa?
Vị giám đốc tím mặt, đùng đùng ra về. Nhưng chỉ một lát sau, ông ta đã sai người mang đến cho anh một bức thư. Thư viết: "Đừng giận anh! Lúc nóng anh đã thô lỗ với em. Là người lính cũ, anh rất thông cảm với chất lính và cái tâm của em. Anh mong em nghĩ đến cái tình. Chẳng gì thì trong chiến tranh anh cũng là đại đội trưởng của em..."
Anh đọc thư, thở dài.
Điều này anh không bao giờ quên: Cách đây hơn hai mươi năm, vào cái mùa hè đỏ lửa và máu ở Quảng Trị, sau một trận bom B52, chính đại đội trưởng đã bới đất moi anh lên. Anh ấy đã cưu mang anh hơn cả một đứa em.
Còn bây giờ ?
Đau xót và buồn rầu, anh lang thang ra phố.
***
- Anh nhà báo! Vô đây, anh.
Giật mình, anh nhìn lên và biết mình đang ngang qua cái quán nghèo trong hẻm. Ai xui khiến anh tới đây?
Quán vắng teo.
Hai cô gái miệng nói, tay dắt, kéo anh vô quán.
- Làm ơn cho một chai cô ca ! Anh nói.
- Có gì nữa không ? Một cô tiếp lời.
Anh nửa như gật đầu. Cô kia xà vô lòng, anh cũng để mặc. Lần đầu tiên anh để mặc ai làm gì mình thì làm.
- Anh cứu anh Hai, anh Ba tụi em đi anh !
- Ơờ, ờ...
- Tội nghiệp anh Hai lắm nghe anh. Ảnh bị bắt lúc đang trong kho. Bảo vệ cứ nhằm cái bụng bự của anh ấy mà đấm, mà đá túi buị... Còn anh Ba, nghe nói mất tích luôn. Chắc họ đánh chết rồi...Hu hu...
- Ảnh chưa chết đâu - Một gã mặt đen đúa, tay chạm rồng nham nhở, nở một nụ cười méo xệch, buồn nản - Vừa bị bắt rồi!
- Ở đâu?
- Trong công-ten-nơ ! Kho số 5.
- Ơ...Thế là thế nào?
- Khi anh Hai và anh Ba chui vô kho, em ở ngoài canh chừng, chờ hai ảnh tuồn hàng ra. Chờ mãi, em tò mò ghé mắt vô coi, thì trời ơi, hai cha nội đang loáy hoáy bên một cái máy thu băng. Đúng lúc ấy...
Thấy mắt anh bất ngờ sáng lên, một cô giục :
- Kể tiếp đi, Tư !
- Bảo vệ ùa vào. Họ tóm ngay được anh Hai. Bụng ảnh to quá, chạy không nổi. Anh Ba ôm cái ra-đi-ô chui tọt vô một cái công-ten-nơ rỗng... Em thì chạy...cắm đầu chạy... Đạn bắn vèo vèo bên tai thế này này... Hết cả hồn!
- Kể như toi! Cô gái đang ngồi trong lòng anh kêu lên - Anh nhà báo ơi, anh cố cứu anh Hai, anh Ba tụi em với nha anh!
Không biết vì lẽ gì, anh gật đầu.
Ô hay! Sao anh lại dám hứa cứu cả đám trộm?
***
Khi anh đến kho số năm trên đường Ổ Gà, bảo vệ đang lập biên bản về một công-ten-nơ đã bị kẻ gian moi hết hàng hóa, nhưng bên trong lại có một gã đàn ông gày nhom đang nằm ngủ. Hỏi gì gã cũng chỉ ú ớ...
Anh nhận ngay ra gã "chuột nhỏ". Hai tay gã cứ khư khư ôm lấy bụng khiến anh nghĩ gã vừa bị đánh đau lắm. Thật không ngờ, lựa lúc mọi người đang hút mắt vô một mũi khoan quý còn sót lại ở một góc công-ten-nơ, nhanh như chớp, "chuột nhỏ" đã kịp nhét vô túi áo anh một cuộn băng ca-sét. Rồi gã nói nhỏ : "Đi đi... Mau lên! Trong đó có cái anh đang cần tìm đấy..."
Như một kẻ đồng loã, anh bỏ mặc tên trộm, quay ra. Phỏng vấn mấy người bảo vệ cho có lệ, anh kêu xe ôm chạy về toà soạn, lấy cái ca-sét ra và lắp băng vô để nghe...
"Hai thằng chui vô kho mà!". "Ờ, sao chỉ tóm được thằng phệ?". "Thằng ốm nhỏ con bỏ chạy, tụi em nhằm chân nó bắn, nhưng không trúng". "Thế là yên tâm về cái hòm mũi khoan kim cương". "Sếp hết lo nhá". "Tụi em sẽ nện cho nó lòi ruột ra. Phải kí vô biên bản nhận lấy một hòm đồ đã. Lúc đó hãy giải nó lên công an". "Ừ, cứ thế mà làm". "Đừng để bọn nhà báo biết. Rách chuyện lắm..."
Vẫn giọng giám đốc. Có điều ông ta đang nói với đàn em, những kẻ giữ kho cho ông.
Xen vào lời ông ta còn có cả những tiếng thô tục phía xa, tiếng đấm đá bùm bụp, tiếng "hự hự" yếu ớt của một kẻ nào đó bị đánh...
Khi cuốn băng vừa đuợc sang xong, cũng là lúc anh có điện thoại.
"Alô! Chú mày hả. Nhanh chân thật! Thôi, chỗ anh em cả. Anh mong chú đem trả lại cuốn băng mà tên "chuột nhỏ" đã lén trao được cho chú. Đây là tang vật của vụ trộm. Công an đang tìm chú đấy, chú nhà báo ạ. À, mà anh giỡn cho vui thôi. Cứ giữ lấy, chiều anh lại nhé..."
Điện của vị giám đốc. Giọng của đại đội trưởng.
***
Suốt cả buổi, anh ở lỳ toà soạn.Viết. Xoá. Lại viết. Lại xóa... Có đến nửa xọt giấy. Cái sọt há hốc miệng như giễu cợt anh. Hình như anh chưa ăn gì...
Rồi cũng xong. Anh nộp bài. Ngáp. Thở dài. "Thôi đi về !".
Anh lê bước về nhà. Đầu đau như sắp vỡ tung ra.
Vợ anh đang ôm con ngồi trên giường. Chị gắt:
- Mau về mà đưa con đến bệnh viện! Sốt cao lắm!
- Ờ , ờ...
Nhìn nhanh vô đôi mắt thất thần của chồng, chị bỗng hỏi khẽ:
- Anh còn tiền nhuận bút bài hôm chủ nhật không? Tủi quá, con bệnh mà em chẳng còn lấy một đồng...

HỒI KÝ SƠN NAM (T I)

TỪ U MINH ÐẾN CẦN THƠ

......


     Có những người nói tới nói lui có một chuyện,mãi đến khi người nghe lộ vẽ nhàm chán thì người nói vẩn nói ,vì là “vốn quí” của mình.Thấy trẻ con trèo lên cây me để hái trái thì quát tháo: “Tụi bây là lũ bất hiếu,rủi té gãy tay,lọi chân,cha mẹ tốn kém tiền thuốc men.”Rồi dạy miên man rằng trong các loại cây thì “ chùm ruột là thứ nhánh giòn nhất,dễ gãy.” Rồi cứ nói thêm rằng cây trứng cá một thời đã được mọi người ưa chuộng vì tăng trưởng nhanh ,nhiều lá để tạo bóng mát ,trái màu đỏ,trẻ con ưa thích nhưng coi chừng...rắn lục loại rắn con,vảy màu xanh dễ tiệp với màu lá cây lắm khi rình rập trẻ con ,rắn lục có nọc độc,nếu có chữa.
 Có ai nghe thì nói ,lắm khi như nói một mình.Giới trẻ đứng giây lát rồi bỏ đi,gọi lão đó ăn nói nghe cũng hay nhưng dường như lẩm cẩm.Nhưng không nên cãi vã,lão ta rất tự ái,tự tôn.
  Có ai nghe thì nói ,lắm khi như nói một mình.Giới trẻ đứng giây lát rồi bỏ đi,gọi lão đó ăn nói nghe cũng hay nhưng dường như lẩm cẩm.Nhưng không nên cãi vã,lảo ta rất tự ái, tự tôn.
 Tự ái là phải.Vì lão ta không nói láo.Gần đất xa trời rồi ! Nói láo làm chi cho mang tội.Chẳng qua là kinh nghiệm trường đời có giới hạn,muốn truyền lại,già trẻ ai muốn nghe thì nghe.Và dường như ít ai nghe.Họa chăng khi lão mất ,người trẻ trở thành người già,nhớ lại bóng dáng lão,rồi đánh giá là người có tư cách.Theo ngôn ngữ xưa trước 1945,có tư cách là có đầu óc là người quan tâm ít nhiều đến chính trị,là người biết vinh biết nhục,có trách nhiệm.
 Thời bắt đầu kháng Pháp,khoảng 1946-1947,chúng tôi đóng cơ quan ở phía ranh giới giữa Bạc Liêu và Kiên Giang ngày nay, đất thấp và phèn,xa biển,phía Ngan Dừa,Ninh Thạnh Lợi gì đó.Người dân làm chút ruộng và lập vườn ổi.Vườn lần hồi suy thoái,phải chặt bỏ,trồng lứa khác để có trái to, ít hột hơn.Nhà cửa lưa thưa, đồng bào nghèo rất tốt,cười vui khi gặp anh em cán bộ.Hôm ấy ,một ông lão cho biết trong ngọn rạch còn một ngôi chùa, đúng ra là một cái am nhỏ với ông thầy trẻ và đôi ba đệ tử.Chùa lợp lá,nhưng thầy trò đều siêng năng tụng kinh,gõ mõ,tu hành kiểu quái lạ: “Ông thầy thỉnh thoảng uống rượu và làm “kinh tế tự túc”,tôi chưa rành,mình tới coi thử”.Tôi nhận lời,vì tò mò. Ðến cho biết,với tâm trạng vô tư. Ðược giới thiệu trước là “cán bộ tới thăm”,thầy đón chào và mời vào căn nhà nhỏ bên hông chùa. Ðôi ba chục con quốc(cuốc)bị trói chân,nằm chật chội trong cái rộng bằng tre,thỏn mỏn.Thầy giải thích đó là của đám đệ tử gài bẩy mấy ngày qua,chờ đủ trăm con mới đem ra chợ bán lấy tiền mua gạo cho chùa ăn qua ngày, đồng thời để tiếp tế cho “Xưởng”.Hỏi thì biết rỏ hơn:Gần đó,hơn hai ngàn mét có một xưởng nhỏ chế tạo lựu đạn nội địa,cung cấp cho du kích.Bán hàng trăm con quốc, được thêm tiền mua chuối, đu đủ cho anh em công nhân xưởng.Anh em sống bí mật lắm,không được phép đi dạo trong xóm,nói chi ra chợ làng.
 Tu hành,không sát sanh,nhưng gài bẫy bán chim cho người khác mua về ăn thịt,rồi lấy tiền làm việc nghĩa.Cử chỉ ấy nói chung ai cũng khen,sát sinh nhưng nhà sư và số đệ tử đã làm điều phải,nhập thế,còn hơn là mãi tụng kinh sớm chiều.Lại nhớ năm xưa đó,lúc cơ quan đóng nơi heo hút,trời chuyển mưa nhanh chóng,sấm sét nổ lên,ai nấy giựt mình.Lát sau một thằng bé chạy hơ hải báo tin có đúa bé bị sét đánh chết,dường như nó là người của cơ quan.Anh em chạy ra ruộng,khiêng đứa bé vào,tên nó là X.,cha mẹ xin cho nó từ hơn tháng qua làm liên lạc,chèo xuồng,nấu cơm và học chữ quốc ngữ.Một mặt,anh em báo tin cho cha nó biết,mặt khác cứ làm hô hấp nhân tạo,xoa bóp tay chân.Trạm y tế ở quá xa và ai cũng đoán chắc là nó đã chết,rồi cha nó đến,mặt mày hơ hải,khóc không ra nước mắt, ôm con giây lát nói nghẹn ngào:Anh em,thôi, được rồi.Tôi biết chắc con tôi hết phần phước rồi.Anh em cho tôi đem nó về.ai nạn nầy,anh em không có gì đáng quở trách.Buồn là buồn cho thằng con tôi chưa làm được gì giúp đất nước”.
 Anh em cử người tới dự buổi tống táng đứa bé.Rồi hôm sau,lại dời nơi khác,ai nấy buồn và như hối hận.
   Cha đứa bé đứng nhìn theo,nói nghe tỏ rõ: “Phải chi ngày hôm qua tôi chết thế cho con tôi.Tôi già rồi.Nó còn trẻ.”
  Nhìn lại ông,rồi anh em cán bộ cúi mặt. Ông đang ở trần,dưới cơn mưa lất phất .Bấy giờ,ai cũng thiếu áo.Thằng bé mất hôm qua mình mẩy ướt mem, áo rách.Nghi ngờ gì nữa, ông đã cởi chiếc áo của mình ra mà đắp cho thằng bé được ấm áp hơn,khi nó từ giã cuộc đời nầy.
 Mới đây, đọc báo thấy tả những cái khạp, được neo lại không xa nhà cho lắm.Nạn nhân vụ lũ lụt to lớn của đồng bằng .Chết giữa cảnh trời nước bao la,trong phạm vi đôi ba cây số ngàn mới gặp mươi căn chòi hoặc năm bảy cây gáo cổ thụ,rải rác vác chòm cây điên điển tạp nhạp chỉ dùng làm chất đốt,nhưng được ca ngợi vì gần như không trồng mà cứ mọc lan tràn,trái khô rụng xuống là mọc trổ bông tươi ăn khá ngon,màu vàng rực rỡ trong khoảng thời gian ngắn.Vài đưá bé vô ý rơi xuống,nước đang ngập vào nhà ,lập tức bị cuốn trôi giữa khu vực trước kia là đồng ruộng nhưng lũ đã phủ lên đôi ba mét,chảy cuồn cuộn.Chọn cái khạp đựng gạo hoặc cái lu (chum,vại to)liệm với quần áo,chiếu.Nạn nhân dĩ nhiên gần như ngồi trong khạp,co chân lại ,hai tay khó thẳng.Rồi đậy nắp lại trét xi măng. Ðặt cái khạp ấy không xa nhà cho lắm để dễ bề canh chừng,sợ nó trôi mất,và cha mẹ cũng chẳng muốn rời đứa con đã mất nhưng còn đó.Tìm bốn năm cây tràm nhỏ cắm chung quanh để rào cái khạp với mớ dây kẽm,nhờ vậy cái quan tài tròn,ngộ nghĩnh nổi lên rồi hạ thấp xuống tuỳ theo mưa nhiều ít từ thượng nguồn không bao giờ chao đảo lắc lư,hy vọng rằng đứa bé được yên thân,không trăn trở, “nghiên mình”tức là không giữ được “tư cách” vì người chết vẫn là người sống. “Lòng đây tưởng đó mất như còn”( Ðồ Chiểu),mặc dầu lúc sống chưa làm được điều gì đáng kể.Nạn nhân của lũ lụt nếu lớn tuổi hơn thì chôn trong cái quan tài,gọi là như vậy cho khỏi tủi thân,chỉ là mấy tấm ván mỏng ghép lại.Người chết mặc nhiên được lau chùi sạch sẽ,khô ráo,mặc quần áo tươm tất,nằm với tư thế đứng đắn nhất là xuôi tay,xuôi chân,mặt nhìn ngửa lên trời,phải phun rượu để uốn nắn lại trong trường hợp tay chân co quắp.Ngày có những loại bao ny-lông to và dài theo ni tấc của người lớn,bỏ vào bao,gìn giữ được mùi hôi rữa, đặt vào quan tài,thêm nhiều mảnh ni-lông rồi đưa ra khỏi nhà ,không quá xa để canh chừng.Giữa trời nước bao la,sóng trào nước xoáy,cứ xốc bón cây chổi như hình chữ X,treo lên cao;bên dưới,làm thêm một cái sàn để quan tài dứ vào, để phòng khi giông gió khiến quan tài rơi xuống đáy nước.Trên nóc quan tài,làm kiểu mái nhà,bằng vải nhựa dẻo.Chưa hết.Ngày nay lắm nơi bố trí hai cái ống tre,hoặc ống nhựa cắm bên quan tài, đựng gạo và muối,tượng trưng cho lương thực,thực phẩm cần yếu cho người quá cố,vì còn bối rối,thân nhân không thể nào cúng dường dịp cho tuần đầu,hai tuần đầu và cúng 100 ngày.Như việc tống táng với lương thực của người dân tộc trên Cao nguyên.
   Nhắc lại dông dài để nhớ mãi “tư cách” của con người.Sống hay chết,già hay trẻ đều là con người,phải giữ tư cách.
 Xác cháu bé khi nước giựt xuống,cha mẹ sẽ đem chôn kín dưới đất.Rồi mùa nắng,rồi mùa nước lụt năm sau,bông điên điển hoang dã sẽ trổ vàng ngời soi bóng nước từ đầu nguồn tuôn về. “Chúc hồn em mãi tiêu dao.Về trần tìm lại chiêm bao thuở nào”.(Kiên Giang)

HỒI KÝ SƠN NAM (T I)

TỪ U MINH ÐẾN CẦN THƠ

Chương 02


              Sau 3 năm học bổng ở trường tỉnh,lớp nhì1,lớp nhì 2 rồi lớp nhất,tôi thi đậu bằng Sơ học (CEPFI).Rất mừng và rất lo.Nhà nghèo,không thể tự túc đi học tiếp theo ở tận Cần Thơ,cách xa Rạch Giá 120 cây số,nơi xa lạ,chẳng bà con quen thuộc.Chuyện nầy do cha mẹ tôi quyết định,hai vị đáng kính ấy tin tưởng rằng tôi là đứa học trò giỏi.Dầu gì đi nữa,tôi cũng phải rời bỏ cái tỉnh lỵ nầy để ra đi,về đâu thì chưa biết.Tỉnh lỵ cô đơn ở ven biển nầy là nơi anh hùng Nguyễn Trung Trực bị đưa ra pháp trường,hằng ngày đi học sớm chiều tôi qua lại 4 lần.Người địa phương cử tên,quen gọi là ông Nguyễn.Trước khi tạm biệt chợ,tôi thấy nôn nao khó tả. Ở đây mấy năm qua cũng buồn mà chỉ nhớ cái vui.Và cái buồn cũng thành cái vui. Ði ngang qua tiệm Nguyễn Ngọc Thái,cứ khen ngợi vì ông chủ nầy nấu loại xà bông thơm ,giá rẻ,có chất lượng nhưng không phát triển cơ ngơi được,thất bại rồi tàn lụi về sau vì kém tiếp thị qua các tỉnh lân cận.Lại có một hiệu thuốc Tân dược,(gọi tiệm thuốc Tây)do một dược sĩ người Huế là Nguyễn Khoa Dai làm chủ,cô vợ đầm trông mạnh khỏe và sang trọng.Trong tiệm chưng loại cân hễ có người lên đứng trên bàn thì cây kim chạy,ghi rõ sức nặng.Nhiều lần qua lại,tôi tò mò nhưng không dám vào,e bị rầy rà. Ở sát nội thành là khu vực nghĩa địa,dành cho người Hoa,nhiều kiểu trông rất đẹp mắt,nấm mộ là mô đất,trồng cỏ xinh xắn,dịp Thanh minh,người Hoa đến bày toệc trước mộ.So với vùng U Minh,sinh quán của tôi,quả thật chợ Rạch Giá có nhiều điều lạ.
              Lại phải đi thi tuyển để vào trường Trung học công lập duy nhất phía Hậu Giang.Khó thi lắm,các tỉnh miền Tây kể luôn vài tỉnh phía Sa Ðéc,Vĩnh Long cũng kéo đến dự thi,thí sinh non 500 nhưng chỉ chấp nhận học bổng khoảng 10 đứa.Tôi thi đậu hạng 25. Ðáng ghi nhớ là khi đi thi,lại được dịp biết sơ qua tỉnh lỵ Cần Thơ,xem như thủ đô của miền Tây.Phố lầu hai tầng thêm tầng trệt cất san sát...Sông Hậu to rộng mát rượi.Lại có nhà máy điện khá to,cung cấp cho vài tỉnh,thêm nhà máy nước đá,rượu bia  và các tổng đại lý về thuốc lá diêm quẹt.Chi nhánh của Ðông Dương ngân hàng to rộng,với cái mặt tiền đầy vẻ bí hiểm.Thực dân là đây chăng?Lại thấy vài văn phòng luật sư của người Pháp.Lại thấy trụ sở của Ðồn điền Hậu Giang.Vào quán ăn bình dân ở mé sông,cứ mải mê xem cái bồn nhỏ, nuôi con cá tai tượng khá to.Lại còn hiệu sách Vân Nhiều chưng bày báo Tiểu thuyết thứ bảy,Phổ thông bán nguyệt san,thêm sách của Tự Lực Văn Ðoàn.Thêm hiệu sách khá to của Trần Ðắt Nghĩa chuyên sách báo chữ Pháp,bấy giờ chương trình trung học dành cho người Việt vẫn nặng về Pháp ngữ nên đọc được sách giải trí phổ thông,hoặc sách văn học cổ điển trong chương trình giáo khoa.Các bài giảng trong lớp đều dùng tiếng Pháp.Người anh chú bác ruột của tôi đã tận tình giúp đỡ,dẫn dắt tôi đi chơi,lần do địa chỉ những người nấu cơm tháng cho học sinh ngoại trú.Bấy giờ, ở Cần Thơ ngoài trường trung học tư Nam Hưng,vừa mở ra thêm trường Bassac,do ông Phạm Văn Bạch làm hiệu trưởng.Nhiều điểm dành cho học sinh ở tỉnh khác đến ở,nhà trọ mở ra,cạnh tranh nhau về giá cả.Gặp một địa chỉ giá rẻ,thật may mắn cho tôi. Ðó là ông Lư Bảo Mỹ,chuyên nấu bếp cho học sinh nội trú,vì vậy hằng ngày ông được ưu tiên đem thức ăn dư về nhà,nuôi thêm học sinh nghèo.Nhà lợp lá,trong con hẻm lầy lội nhưng đối với tôi là đầy đủ tiện nghi.Thấy tôi ốm yếu,hiền lành, ông nhận nửa giá,so với học sinh lớn sứ vóc.Thế là cha mẹ tôi đành cố gắng vay nợ,sắm cho tôi hai bộ quần áo bà ba vải trắng,tạm gọi là đồng phục,thêm hai đôi guốc bằng cây vông cho nhẹ.Lại mua một cái rương đan bằng mây.
              Quần áo được mẹ tôi may tay cho rẻ hơn mướn may bằng máy.Trước khi đi học xa,mỗi năm về được có mấy tháng hè,mẹ tôi buồn buồn nhìn đứa con yêu quí là tôi,căn dặn nhiều lần.Bấy giờ đâu vào khoảng 1937, đại khái tôi còn nhớ như sau:
              -Ráng mà học cho vẻ vang dòng họ,mình là dân U Minh,ai cũng chê là dốt nát,quê mùa, áo mốc,chân phèn. Áo đen giặt vài lần thi bay màu,chân đi đất thì phèn đóng đen thui ở móng chân.Người An Nam mình sao lạ quá,bày đặt phân chia...giai cấp(?),cho rằng dân xứ U Minh nầy là hạng “trôi sông lạc chợ”.Quê nội của con, đời ông cố ở cù lao Ông Chưởng,bên Long Xuyên,kêu là xứ Hai Huyện. Ông cố ngoại của con xứ Bò Hút,gần xứ Ô Môn,bên kia bờ sông Lớn.Xứ đó “dinh” lắm,ai dám nói là quê.
              -Thêm một điều mẹ muốn nhắc con là hồi mới sanh con,mẹ đau nặng,không sữa cho bú,trong xóm có một người đàn bà Miên,mới chết chồng,có con nỏ đang bú.Người nầy thấy mẹ bịnh,liền nhận lãnh trách nhiệm cho con bú mấy tháng trời.Sau đó,mẹ hết bịnh,bà ta cũng tới thăm và tập cho con ăn cơm.Bà ta đưa cơm vô miệng nhai,sau đó nhả trên tay mà đút cho con.Con ăn coi bộ ngon lắm.Rồi bà ta lấy chồng khác mà vẫn lui tới bồng con đi chơi.Hồi học lớp Năm(lớp một),bà ta đưa con đi học,qua cầu khỉ,hoặc chỗ nào thì bồng qua.Năm đó, ở chùa Khơme xứ Sóc Xoài,chùa linh lắm,bày ra lễ Chô Thơ Mo,trước bệ Phật,tại chánh điện,người ta đào một lỗ khá to,nói là trẻ con muốn điều gì thì cha mẹ nên bỏ xuống lỗ những món có ý nghĩa,như cây kim,sợi chỉ để con gái may vá giỏi,khi lớn lên.Người giàu sang thì bỏ xuống đó vài lượng vàng,vài chiếc cà rá,kiếp sau sẽ giàu hơn kiếp nầy.Bữa đó má bắt chước,nhờ con Cà Xúc,(tên của bà ta)mua cây viết,bình đựng mực,cái tập giấy để cho con tới đó bỏ xuống,trước bàn Phật,lấy phước trong cõi đời nầy.Người ta đi chùa, đông lắm,ai tin trời Phật thì má cũng tin.
              Lời dặn sau cùng mà mẹ tôi nhắc đôi ba lần là nên nhường nhịn bất cứ ai.Mình yếu đuối, ốm o thì nên tránh chuyện nổi nóng,chửi thề, đánh đấm. Ði học nơi xứ lạ quê người,rủi xảy ra bề gì,không ai bênh vực.
              Xứ Cần Thơ vui lắm,vui gấp mươi lần xứ Rạch Giá. Ðường phố to rộng, đèn điện sáng choang,người ăn uống tấp nập.Có hai hãng xe đò đưa khách đi Sài Gòn do người Việt làm chủ. Ðôi ba ngày một lần,tàu Nam Vang chạy ngang,ghé lại khá lâu,hành khách,hàng hóa lên xuống rộn rịp,thêm người trên bờ xuống tàu rao thức ăn uống...Tàu của công ty người Pháp ờ Sài Gòn,chạy khỏi Nông Pênh,quẹo qua Biển Hồ.Chợ Cần Thơ nằm ở ngã ba sông,con rạch ăn từ sông lớn(Hậu Giang) chảy về phía Tây gọi Rạch Cần Thơ,khá rộng, đưa nước ngọt về phía vịnh Xiêm La,xưa kia ách tắc,chảy vào vùng đầm lầy.Hồi đầu thế kỷ 20,người Pháp cho đào con kinh chiến lược(kinh Xà No) nối ngọn rạch Cần Thơ qua sông Cái Lớn,thông tới biển.Nhờ vậy mà có nguồn nước ngọt rửa sạch phèn vùng đất rộng lớn,trung tâm của vùng là chợ Vị Thanh, điền chủ Pháp và Việt tha hồ giành nhau phần đất hai bên kinh xáng nầy.Có câu hát:
             
                   -Cái Răng,Ba Láng,Vàm Xáng,Phong Ðiền,
                   Anh có thương em thì cho bạc cho tiền.
                   Ðừng cho lúa gạo,xóm riềng họ hay.
               
              Hay,tức là hay biết,kinh tế thị trường phát triển,có tiền mặt mang theo,nhẹ nhàng,gọn gàng,thì sẽ mua được tất cả.
                   -Cái Răng,Ba Láng,Vàm Xáng Xà No,
                   Anh thương em,sắm một chiếc đò.
                   Ðể anh qua lại mua cò gởi thơ.
                   -Xứ đâu thị tứ bằng xứ Kinh Cùng,
                   Tràm xanh cũi lụt,anh hùng thiếu chi?
              Ca dao mô tả đi khẩn hoang,nhưng khẩn chưa xong là phần đất ấy thuộc về chủ quyền của người khác.Biết vậy nhưng cứ chịu cực.
                   -Ra đi gặp vịt cũng lùa,
                   Gặp duyên cũng kết,gặp chùa cũng tu.
           
              Ði khẩn hoang là theo nếp sống tùy tiện.Thấy bầy vịt của ai đó lội trên sông,cứ bắt một con mà ăn thịt,nếu chủ hay được thì cứ xin lỗi là yên vui.Gặp ai yêu mình,mình cứ yêu trở lại,muốn kết nghĩa vợ chồng thì tùy hoàn cảnh.Gặp ai rao giảng đạo lý nào thì cũng noi theo,gẫm lại có từ bi bác ái,làm lành lánh dữ là được.
              Chợ Cần Thơ quả là thành tựu về kinh tế thị trường,hồi đầu thế kỷ.Lúa gạo,sản phẩm gom về để phân phối cho các vùng lân cận,lên Sài Gòn.Ngã Bảy - Phụng Hiệp là trục giao thông lớn của các tỉnh phía Nam vùng Hậu Giang,nơi đất thịt (hiểu là phù sa tương đối định hình,pha ít nhiều đất sét).Nước ngọt thì do sông rạch cung cấp hoặc nhờ “nước trời”.Khoai lang,lò nấu bếp,củi,bắp, đậu,trái cây chở tới lui trên sông rạch.Tại Ngã Bảy nầy ghe thuyền,tàu thủy ngày đêm rộn rịp.Có bán đủ thức ăn,thức uống cho ghe thuyền,bán không sợ ế,vì giới tiểu thương dám ăn xài,tương lai đang mỡ rộng trước mắt,sung sướng hơn người nông dân dãi nắng dầm mưa,trực tiếp sản xuất.
       
                   -Ðạo nào vui cho bằng cái đạo đi buôn,
                   Xuống biển lên nguồn,gạo chợ nước sông.
              Lần hồi,làm quen với sông Cửu Long,tôi thấy nó khác hẳn những con sông nhỏ bé nhưng hung tợn của phía Cà Mau, đổ ra vịnh Xiêm La.Mặt nước như chảy chậm,nhưng kỳ thật chảy mạnh ở dưới đáy sông,những cây sào cắm gần bờ vẫn rung rinh khi nước như đứng lại.Cá ở sông lớn nầy được gọi là “cá trắng”,trong khi cá ở rừng tràm Cà Mau,U Minh gọi là “cá đen”,dựa vào màu sắc bên ngoài.Cá tra,cá vồ,cá bông đều to con và bụng có mỡ,nấu canh chua khá ngon.Lại còn loại cá nóc,nhiều thứ cá nóc,tôi bắt chước các bạn xuống tắm ở sông lớn,tắm nước ngọt mát mẻ không như ở nước mặn nước phèn,nước lợ phía U Minh...Tôi mặc quần cụt,tắm rồi lên bờ chợt đứa bạn phát hiện: “Cá nóc đó,tỉnh táo, đừng sợ”.Trong lúc tôi ngơ ngác, đứa bạn chỉ ngay đầu gối tôi.Máu chảy ròng ròng,xem lại thì quả là một vết thương lạ lùng.Nơi cá cắn,một màu trắng,màu trắng của mỡ,rồi thì lắt sau máu chảy ra,không biết làm thế nào ngăn lại, điều ấy chứng tỏ bộ răng cá nóc quá bén,bị nó khoét mà mình chưa hay biết gì cả.Vết thương ấy ở gần đầu gối,hơn 60 mươi năm sau mà sẹo vẫn còn.Gọi vùng Hậu Giang,nhưng gồm nhiều tiểu hình thế,từng mảng khác nhau.Gần ven sông,ven biển,nhiều gân đất cao ráo,người Hoa kiều từ lâu rồi biết khai thác để trồng nhãn.Dịp tựu trường tha hồ ăn nhãn,bây giờ chỉ có loại nhãn lớn hột.Thơm tho ngọt ngào, đối với người ở U Minh,xứ không bao giờ thấy cây nhãn.Lại còn các loại chim ở đồng lúa vùng nước ngọt,nay hãy còn như ốc cao,vỏ vẻ,chằng nghịt,cuốc.Dân miền quê dùng lưới mà chụp,vặt lông,chiên,gọi món “chim rô ti”.Theo thời trang,giàu nghèo gì đều vừa đi vừa ăn,hãnh diện đến các điểm thụt bi da,vừa xem vừa ăn...Bấy giờ rộ lên phong trào thụt bi da,mỗi hiệu chứa chấp một tay thụt nhà nghề.Họ trình diễn những kiểu đánh đẹp mắt.Loại bi da Pháp,lắm khi họ thụt đụng trái banh thứ nhất,dội qua cạnh thứ nhì,tạt qua cạnh thứ ba,dội lại, đụng vào mé của trái banh còn lại.Tôi hiểu họ quen tay,dùng trực giác mà suy luận.Vài người bạn bảo đó là lượng giác học.Và thụt bi da là môn thể thao,suốt buổi,họ đi quanh bàn hàng đôi ba kilômét,khi thẳng lưng khi khom lưng,xem yểu điệu.
              So với thị xã Rạch Giá thì Cần Thơ sang trọng vượt bực.Dâu từ năm 1920 về sau, đã có rạp chiếu bóng,chiếu hàng đêm,phần lớn là phim Pháp,mỗi ngày có chiếc xe ngựa đánh trống rao mời,hai bên hông xe treo bảng quảng cáo với ảnh tài tử,có đứa bé phân phát chương trình,in chữ Pháp,chữ Việt.Bấy giờ nhiều ngườighiền xi nê lo sưu tập các chương trình nầy, đóng từng xấp,lâu ngày thấy đẹp mắt và quí giá.Bấy giờ là phong trào của loại phim lực sĩ Tạc dăn người tình xinh đẹp,cũng ăn mặt hở hang nhưng so với ngày nay thì ít khiêu gợi,tương đối lành mạnh.Nhưng bối cảnh buổi ấy quả là táo bạo,làm cho nhiều khán giả mất ăn,mất ngủ.Lại còn cô đào trẻ Shirley Temple, đâu cỡ 10 tuổi lanh lẹn,vuit tươi. Ðôi ba tháng lại xuất hiện một bộ phim màu,xem như đỉnh cao về kỹ thuật.Bấy giờ không có thuyết minh hoặc phụ đề Việt ngữ gì cả.
              Nhiều thanh niên dạo phố cao hứng;rút trong túi cây kèn thổi,nay gọi là khẩu cầm,thổi giọng cao,giọng thấp lại có đánh nhịp.Câu lạc bộ đi trợt trên kiểu giày có bánh xe (patins)uốn lượn,trai gái dìu tay nhau,khá đẹp.Lại còn nơi biểu diễn thiết hài,kiểu giày ở gót có bộ phận bằng sắt gõ nhịp.Vài ba quán nhậu trổi lên những bản nhạc thời thượng bên Pháp, đại khái “Nếu bạn trở lại” như lời hứa (si tu reviens) hoặc “Bài tặng em Nina”(Chanson pour Nina),hoặc “Tôi có hai mối tình”,thứ nhất là quê xứ của tôi,còn mối tình thứ nhì là thành phố Pari ! Nói chung,khu vực nầy tụ tập con ông cháu cha,cụ thể là con cháu của giới điền chủ lớn nhỏ,lúa vẫn bán có giá trên thị trường quốc tế.Một số cô cậu đang đòi đi học ở Sài Gòn,Huế Hà Nội,nếu không có hoàn cảnh sang Pháp.Nhiều cậu ở tỉnh gần,thỉnh thoảng cha anh lái ô tô nhỏ lên thăm,sắm cho giày da,hoặc bộ Âu phục bằng tuýt so,hiểu là tơ đũi,loại tơ kéo từng sợi to.
              Hằng đêm vì ở ngoại trú,lại có trí nhớ nên tôi học bài rất nhanh,sau đó,lại dạo chơi xứ người,kiểu dạo chơi không tốn tiền.Thích nhất là đến bến xe đò.Từng đoàn người ngồi tràn lề đường thích thú với việc đàn ca Vọng cổ,phần lớn là dân lao động,thêm số người lanh lẹn là lơ xe đò (phụ xế ),họ đi về tận Sài Gòn,Cà Mau,Sóc Trăng. Ðàn kìm (nguyệt),thêm đàn ghita,loại đan Tây Ban Nha nầy cải tiến chút ít,khoét phím,lên dây lại,dường như “hội nhập” được với hơi hướm,hò,xự,xang,xê,cống,nghe khá du dương;Trong giới mộ điệu,có vài người ăn mặc sang trọng,nghe giới thiệu thì đó là vị Mạnh Thường Quân,sẳn sàng chi ti-én cho anh em phát triển “nhạc tài tử”,thí dụ như mua gà vịt,thêm chút ít rượu.Anh em đàn ca bảo rằng “cái nghề nầy rất ít lợi”,chứng tỏ nhạc tài tử của người Việt dễ lọt vào lòng người hơn là nhạc Tây.Và bảo rằng ngoài việc “chơi cho vui”,ai giỏi nghề thì cả nước ái mộ,kẻ xuất sắc đi theo gánh hát cải lương,quần áo sang trọng, đến đâu cũng có người đón rước,lương bổng cao hơn công chức,lại được phụ nữ...mến chuộng ! Kẻ khác cải lại rằng phải có tài và có thời,bằng không thì hát ở nhà lồng chợ,rồi ngủ ở đình làng.Sớm chiều rảnh rang dạo phố.Phải lấy cái biệt danh nghe cho hay...Rồi vài bạn đờn ca đứng lên hát,mặt đỏ ké,phải chăng rượu đem cho con người sức tự tin và tâm trạng lãng mạn?Lại tạm nghỉ để tranh luận về nguồn gốc bản Vọng cổ.Từ Huế là bản Hành Vân nhưng nhưng ông Sáu Lầu ở Bạc Liêu đưạ theo mà đặt bài ca mới,tả nỗi buồn của người đi làm ăn xa xứ.Vài năm trước,bản Vọng cổ được Năm Nghĩa ở Bạc Liêu cải cách,nâng thêm nhịp,từ nhịp tư lên nhịp tám.Thấy còn hạn chế nên Mộng Vân cũng ở Bạc Liêu mở thêm nhịp cho câu hát ngân nga và dài hơn,mội câu 16 nhịp.Gánh hát Cải Lương rước đào kép ca Vọng cổ thì khán giả mới mua vé vào xem, ở Sài Gòn và đâu đâu cũng thế.Phải mùi mẫn hơn,lừng lẫy hơn cho thiên hạ nghe,chớ không còn hát co ro,cúm rúm.
              Như vậy là giữ nguyên gốc thì...làm ăn không khá,lỗi thời ! Tôi mừng thầm,cám ơn cha mẹ đã chịu cực cho tôi đi xa để thấy chuyện đời.Nếu cứ ở U Minh đá cá thia thia, ăn cá lóc nướng thì vui nhưng u mê,sống ngoài thời cuộc.Rốt lại,gần mãn năm học ở trường Bassac,tôi thuộc vào hạng khá,nhờ... nhớ dai,giỏi về Việt văn và Pháp ngữ.Bây giờ,Việt văn không được chú ý,nhưng tôi mải mê vì ông thầy Phan Quốc Quang (biệt hiệu Thượng Tân Thị )quả là giàu tâm huyết.Dạy bực trung học,trong khi các giáo sư mặc Âu phục,mang giày,thắt cà vạt thì ông thủ phận khăn đen áo dài,nói ròng tiếng Việt,không xen tiếng Pháp nào hết (vì ông không rành).Riêng về Hán học,dường như ông chẳng đậu tú tài,cử nhân gì cả.Học trò nhiều đứa đã vắng mặt liên tục,lắm khi ngồi nghe,vụt đứng dậy ra sân mà nô đùa ! Người thích văn chương,ngoài đời,mến mộ ông qua 10 bài Khuê phụ thán.Dạo ấy vài người viết bài cho rằng Thượng Tân Thị là kẻ đạo văn,chẳng bao giờ ông đủ tài năng để làm 10 bài ấy.Khuê phụ thán là tâm sự của bà hoàng hậu,vợ vua Thành Thái,qua lời thơ đã than thở “Chồng hỡi chồng,con hỡi con”,chồng và con đều bị đày.Có vài câu tuyệt diệu như:
                   -Con ơi,ruột mẹ ngướu như tương,
                   Bảy nổi ba chìm rất thảm thương.
                   Khô héo lá gan,cây đỉnh Ngự,
                   Ðầy vơi giọt lệ,nước sông Hương.
                   Quê người đành gởi thân trăm tuổi,
                   Cuộc thế mong gì nợ bốn phương...
              Thượng Tân Thị đã can đảm ca ngợi hai vị vua nhà Nguyễn.Về sau có người bênh vực Thượng Tân Thị,cho rằng ông không đạo văn của ai hết,bằng cớ là trong bài Thập thủ liên hoàn Khuê phụ thán ấy có vài câu trùng ý,thí dụ như:
           
                   -Mộng điệp khéo vì ai lẽo đẽo
              Rồi lại cũng ý ấy:
          
                   -Chiêm bao lẩn quẩn theo hồn bướm...
              Sự việc ấy chứng tỏ tác giả là một thi sĩ đuối hơi,và tầm cỡ của Thương Tân Thị chỉ như vậy thôi.
              Thượng Tân Thị không buồn,ung dung dạy chữ Việt.
              Chưa hết chuyện mới lạ ở Cần Thơ.
              Ven bờ sông,mỗi buổi sáng,vài thanh niên say mê tập thể dục theo phương pháp Tây Âu,họ cử những quả tạ gồm hai cụt sắt nặng như nhau,khoảng 5 kilô...bụng họ thon lại,nổi lên 6 cục thịt,vai thì u lên,ngực to,vừa tập vừa đếm.Họ hít bằng phổi,nhưng thở ra bằng miệng,nghe khá to.Hỏi lại thì đó là tập để trở thành “ắc-lét” (athlète ) tức là lực sĩ.Chuyện lạ, đối với tôi bấy lâu chỉ thấy biểu diễn võ Việt Nam.Hừng sáng,vài thanh niên xuống sông,bơi lội chuyến đi và về suốt 10 kilômét,tận chợ Cái Răng,tư thế nằm thẳng,hai tay quạt đều và chân đạp theo một động tác như máy chạy.Họ bảo đó là kiểu bơi lội quốc tế.Tôi nghĩ rằng cứ mỗi sáng mình ra ven sông,hít không khí trong lành và ngắm xem mấy người vãi chài bắt cá cũng đủ rồi.Một thanh niên đen đúa, ốm tong,cao ráo đã bơi lội,nhưng lội theo kiểu người Việt từ xưa,theo tư thế dân chài Việt Nam,ngực và đầu nổi lên,thân như hơi nghiêng nghiêng,chỉ thấy hai tay quạt nước.Chàng thanh niên nầy mặt quần cụt dài,vải đen,trông thô sơ,không có quần cụt bó sát mộng kiểu Tây.Khi lên bờ chàng ta đến gần tôi mà phân trần:
  -Mình là dân nghèo,cha mẹ chài lưới ở tận Ngã Bảy - Phụng Hiệp,ráng lên đây học,sáng ăn xôi.Chán quá ! Nhưng lên Cần Tho nầy cũng có nhiều điều hay.Thích đọc sách báo không?Tôi có quen một người tốt lắm,cho tôi ở trọ gần như miễn phí.Nghèo,anh chủ nầy làm thợ máy ở bắc (phà )Cần thơ,qua bên kia bờ sông Hậu.
  “Phải qua bên kía sông Hậu,rồi qua sông Tiền để lên Sài Gòn”?Nghĩ thầm như vậy,tôi hẹn với anh bạn trong như mộcạc nầy, đến căn nhà ở ngoại ô, đường vào quanh co,lầy lội vì bấy giờ là mùa mưa.Từng xấp báo,cắt ra những bài quan trọng,dán lại,thoạt trông qua,tôi mừng rỡ,vì chỉ cắt ra những bài liên quan đến lịch sử Việt Nam,Nam Bộ và văn học.Nằm trên võng,gần vũng nước,bất chấp bầy muỗi bao quanh,tôi đọc một trích đoạn của Ðạo Nam Kinh.Anh bạn nầy tự giới thiệu là Hai,bảo là cùng học với tôi,khác lớp bên A,bên B.
   Ðạo Nam Kinh có lẽ là kinh do vì tiên,vì Phật nào đó hiện về trần gian,qua việc cầu cơ bút ở ngoài Bắc Kỳ từ lâu rồi,khuyên dạy người dân nên giữ lòng yêu nước,so sánh tổ quốc ta như cái đòn gánh,miền Trung là dãy Trường Sơn,hai đầu là hai gánh lúa của đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
  -Ðạo Nam ơi, Ðạo Nam ơi,
  Trăn năm còn lại mấy lời thơ đây
  Ai đưa mình đến chốn nầy?
  Cho đêm mỏi hạc,cho ngày mệt loan.
  Xót thân vơ vẩn canh tàn.
  Máu đông nên chữ,lệ tràn ra thơ.
  Rồi anh bạn giải thích đó là kinh của đạo Minh Sư,do chư tiên truyền xuống trần gian,ngày đêm, đau xót.Hồi mấy năm xưa,chùa Nam Nhã tại Bình Thủy,ngoại ô Cần Thơ, đã xuất bản tập Ðạo Nam Kinh,phổ biến tận các tỉnh,sau đó thực dân ra lịnh tịch thâu.Trong mớ bài báo cắt dán,gặp bài thơ của J.Leiba,chưa ngâm nga lên mà đã thấy thích thú,nhớ ngay,không cần học cũng thuộc.Bài nhan đề Thụy Hoa Lầu:
   -Sân quạnh rêu phong sầu liễu úa,
   Lầu không người vắng bóng hoa sầu.
   Hoa xưa ngủ lệ năm canh nguyệt,
   Người trước mơ hồ một nấm khâu.
  -Ngây ngất gió hiu lùa bốn mặt,
  Mịt mờ mây trắng cuốn ngan thâu
  Cỏ non đâu vết giày du tử?
  Ánh lạt Tà dương dãi góc lâu.
 
  Lời lẽ khách sáo,theo công thức xưa  nhưng nhạc điệu ở đâu đó,từ chân trời xa và từ trong lòng mình ngân lên,hoà điệu.Cái đẹp Á Ðông,của thơ ca đời Ðường.J.Leiba chợt hứng,mô phỏng khéo léo,gợi không khí đẹp,ngàn xưa.Trong phút giây,tôi như quên cả thực tế nghèo túng của mình,của cha mẹ.Nếu không đi Cần Thơ,lòng yêu Tổ quốc của tôi chỉ là mong manh,quanh quẩn mấy gốc tràm với con cá lóc nướng trui và vài câu hát.Phải đi xa. “Thượng phải chí.Hạ phải đáo”.Trong mấy bài báo cắt dán,tôi chú ý bài của Nguyễn Vỹ,lúc còn trẻ đã đến Bến NGự ở Huế để phỏng vấn một chí sĩ bị thực dân lên án tử hình,rồi ân xá,bị quản thúc,nghèo,sống trong chiếc thuyền bé,có mui.Sự gíup đỡ của điạ phương bị giới hạn.Ong đang ăn cơm với mắm ruốc,chuối chát,trong tuổi già. Ðâu phải ai ở xứ Huế cũng thỉnh thoảng được nếm món ăn thanh cảnh.Lúc gẵp nhà văn,cụ Phan Bội Châu ung dung ngâm nga:
 
  -Râu mài trơ trẽn với non sông,
  Thật phải mình chăng,lòng hỡi lòng,
 
  Bấy giờ, đứa con của cụ đang giã gạo.Cụ Phan còn gợi hòan cảnh giam lỏng của mình qua câu ca dao đã có từ xưa:
 
  -Ăn sung nằm gốc cây sung,
  Lấy anh thì lấy,nằm chung không nằm !
 
  Quả là một phương châm để sống và tranh đấu trong lòng địch.Bài báo cũ dán trong nhiều tập.Nôn nóng nhất,lúc bấy giờ tôi ao ước được qua phà,bên bờ là tả ngọn sông Hậu,về phía Sài Gòn hằng mơ ước;U Minh là đất mới,theo nghĩa là chưa khai khẩn đúng mức,xóm làng chưa thành hình,nhiều người đến vài năm rồi dời đi xứ khác.Trên nầy,có đình làng,có chùa.Nhà nghèo ở ngoại ô Cần Thơ cũng trồng cây cảnh,tạo hòn non bộ, định hình htôn xóm.
  Nhờ anh bạn giới thiệu sơ qua, ông thợ máy dưới phà Cần Thơ –ông Bảy Ngân đưa tôi xuống ,khỏi mua vé,cứ ở dưới phà mà ngắm cảnh,chiều về,hoặc ở tối cũng được,họ chỉ soát vé người xuống phà chớ người đi lên thì tự do. Ðến bờ sông,ngay bến phà,tôi chú ý ngôi miếu nhỏ,thờ THủy Long.Người coi lái phà ngồi trên mui cao,còn ông Bảy thì xuống hầm máy,chật chội,tối om om,bóng đèn đỏ soi mờ mờ cũng một trang thờ nhỏ,ghi chự Thủy Long.Thời đại khoa học mà con người vẫn tin sốn mạng mau rủi,sợ tai nạn? Ông Bảy Ngân giải thích từ hồi nào đã thấy bàn thờ,mình nên để vậy,ai tin thì tin,nhưng riêng ông thì tin.Bảy năm trước,một lần nọ chiếc ghe to chở củi đụng vào phà, đụng bên hông,phà suýt chìm,ban sáng. Ông Bảy lắng tai nghe tiếng kẻng hiệu lệnh do người tài công (hoa tiêu ) trên nóc phà ban xuống. Ðoạn sông Hậu nầy dài hơn 1 kilômét,ra gần giữa sông,phà chạy ngon trớn, êm đềm. Ông Bảy vụt nắm cây cần điều khiển,giảm tốc độ trước khi nghe hiệu lệnh,gần vào bờ.Hai bên là lộ xe,nhà cửa san sát,nhiều quán,tiệm bán trái cây ngon,thêm cơm ,cá kho tộ,canh chua; Ðất quá tốt,chuối mọc bên nhà xanh tươi,mấy giàn khổ qua,bầu mướp tươi tốt,nước dưới rạch dâng lên,không cao không thấp,rõ ràng cây cỏ mạnh khỏe,không cần chăm sóc.Trời đổ bóng chiều, ăn khúc bánh mì dồn thịt,uống thêm ly nước hột é khá ngọt,tôi thấy xứ nầy mát mẻ,người dân vui vẻ,ham sống theo một kiểu khắc hơn ở rừng U Minh,quê tồi.Trong quán,có giăng võng,một phụ nữ luống tuổi hát ru, đứa con đang thức,trố mắt:
 
  -Ðèn tạ đăng để trước bàn thờ,
  Vặn lên nó tỏ,
  Vặn xuống nó lờ...
  Xuống sông hỏi cá,lên bờ hỏi chim.
  Trách ai làm cho thố nọ xa tiềm,
 Em xa người nghĩa mà nằm điềm chiêm bao...
 Rất tiếc là không mang giấy bút để ghi lại,câu nầy ở quê tôi làm sao có được.Tôi bèn yêu cầu bà nọ hát trở lại,bà tươi cười:
 -Nhớ làm gì?Cậu nghe vài lần nữa,có người khác hát thì nhớ.Câu hát là để hát chớ không phải để ghi vô cuốn sổ mà học thuộc lòng.Muốn học thì nhờ người nào hát lại.Cậu là học trò?
 -Dạ,phải.Muốn ghi lại để nhớ mà làm bài sau này.
 -Thì nhớ thêm câu nầy,nghe ngộ lắm ! Tôi chưa hiểu hết.Nghe đâu của xứ Huế:
 
  Cầu cao ba mươi sáu nhịp,
  Em theo không kịp
  Nhắn lại cùng chàng.
  Cái nợ tào khang,sao chàng vội dứt?
  Ðê nằm thao thức,tưởng đó với đây.
  Biết khi nao cho phượng gặp bầy
  Cho le gặp nhạn.
  Ruột đau từng đoạn,
  Gan thắt chín tầng.
  Anh với em như chanh với khế,NHư Quế với gừng,
  Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi...
  Bóng chiều đổ xuống,tôi vội kiếu từ.Một quảng đường,một sàng khôn.Dường như dân mình chuộng ca hát,làm thơ hơn chuộng đọc sách,tiểu thuyết. Ðến mé sông,ai nấy xôn xao,chờ lên,xuống.Lục bình trôi phăng phăng từng giề to lớn. Ðến mé bãi,tôi xăn quần cho khỏi ướt,lấy hai bàn tay vốc nước,rửa mặt,lẩm bẩm:Nước Hậu Giang ngọt và mát hơn nước U Minh,nước sôn Cái Lớn.Vốc nước thứ nhì sóng sánh giữa hai bàn tay,tôi thử nhìn,không thấy chút gì dơ dáy,những hạt bụi hạt cát mà mãi về sau nầy các người làm thơ làm văn ở phía Tây Nam gọi là phù sa.Rặng bần theo bờ sông khá dài,vài chiếc xuồng câu buộc dây vào,chờ ăn cơm.Có sóng gió,nhưng lăn tăn,bình thường.Nhìn lên thượng nguồn phía Bác,phía Long Xuyên- Châu Ðốc,tôi bền vận dụng mớ kiến thức sơ đẳng,học ơỏ nhà trường và trong sách báo.Trên kia là Nam Vang,trên nữa,giáp nước Cam Bốt là Lào,Thái Lan,rồi Miến Ðiện,Trung Hoa,nguồn sông ở tận Tây Tạng,cách nơi nầy đâu cũng hơn 4 ngàn kilômét.Tây Tạng được xem là “mái nhà của cả thế gian nầy”.
  Ông Bảy Ngân cười tươi hỏi tôi vui không,thấy cái gì lạ không,tôi lại hỏi:
  -Ông ơi,Tây Tạng là nguồn của sông Hậu Giang nầy,xa lắm, đọc báo tôi thấy kể lại rằng...trên đó nhiều vị Phật sống,huyền bí,bùa phép rất giỏi,nhiều thầy tu đắc đạo,không sống,không chết,tín đồ đặt trong quan tài,thỉnh thoảng dở nắp ra thấy thân xác còn nguyên vẹn,da thịt khô ran,lỗ mũi thì dường như còn thở nhè nhẹ.
  -Ðó là chuyện mình chưa thấy nhưng người ta kể lại thì nó cũng có “cái gì đó”.Xa xôi quá,cao nguyên Tây Tạng dính vào dãy Hy mã Lạp Sơn,cao nhất thế giới.Chuyện hoang đường nhiều lắm nhưng cũng ảnh hưởng đến vùng Hậu Giang nầy.Pháp gọi nước VIệt nam là khu vực Indochine,chịu ảnh hưởng lớn của Trung Hoa và của ấn Ðộ.Mình nên học cho rõ hơn.Mình là người Việt khôn lanh và vui vẻ với mọi thứ văn minh.
  Lên bờ về nhà trọ,lại nhớ đến một ý kiến mà lúc nảy chưa dám bàn bạc vì mình còn nhỏ tuổi?Nam Bộ là đất sôi động,ngoài những loại phong tục của người Hoa,người Khơme còn thêm của người Pháp mà mình phải hứng chịu.Pháp mở trường học lộ xe nhưng ch&ung giết bao nhiêu người lương thiện,người yêu nước.
  Về nhà,lại thao thức khi nhìn tờ lịch thấy năm học gần chấm dứt.Muốn mở rộng kiến thức,phải học thêm theo chương trình giáo khoa.Có vài môn má tôi thấy dị ứng,hấp thụ không dược, đó là hình học,số học,hoá học.Về địa dư (điạ lý ),tạm dùng bản đồ thế giới.Nhưng hóa học thì cần phòng thí nghiệm,kiếng hiển vi...vì nhà trường không có đủ.Phải học,phải thi đậu để lên Sài Gòn tìm việc làm,mở rộng chân trời.Nhà nghèo,học một năm trường tư như thế nầy cũng đuối sức cha mẹ rồi,tiền ở trọ thiếu trước hụt sau,tóc để dài không tiền hớt. Ðôi guốc bằng cây vông đi mãi,mỏng manh tưởng chừng có thể tét làm hai.
  Phải đậu những hàng đầu ! Thi tuyển vào trường,khoảng 500 đứa mà đậu hạng thứ 20 mươi thì xem như không hy vọng nào được học bổng.
  Nếu ngoan ngoã học hành thì dễ quá.Nước mất,xã hội quá nhiều bất công.Là người của xứ U Minh,tôi nhớ mãi lời mẹ.Làm sao cho thiên hạ đừng khinh người đi khẩn hoang, ở vùng đất mới.Nhìn lại mấy xã lân cận ở quê,nhà dường như chẳng ai có hoàn cảnh may mắn như tôi.
  Phải thi đậu,hạng cao thì đỡ tốn tiền cha mẹ.Tôi quyết định: “Nên ở Cần Thơ,dường như người nuôi trọ không khó tánh cho lắm.Tôi ăn rất ít. Ðể luyện thi chung với các bạn”.Nhưng bối cảnh xã hội không như hồi năm ngoái. Ðệ nhị thế chiến đã bùng nổ.Báo chí từ Sài Gòn đưa xuống Cần Thơ bán chạy hơn.Giới công chức qui tụ vào buổi chiều ở mấy quán bia đã thưa thớt,trông thấy.Vài người công chức già vẫn uống,mãi đến khuya.Ai nấy loan tin rằng tất cả các loại hàng tiêu dùng đều lên giá,nên mua để tích trử.Nhưng thế chiến dường như chỉ bùng nổ bên Ba lan.Những tên Hítle,Mútxôlini được nhắc nhở trên trang báo với chữ in lớn.Riêng ở nước ta,cụ thể là Sài Gòn,vài tờ báo tiến bộ bị đóng cửa và một số người yêu nước bị bắt, đày ra Côn Ðảo và Bà Rá (đâu ở Tây Ninh).Nhớ chuyện học ôn để dự thi tuyển,tôi chưa được yên tâm.Học tài thi mạng.Thi đậu cao vẫn là hay hơn thi rớt. Ðể được học bổng, để được bám chặt đất Cần Thơ nầy,vùng đất nhạy cảm.Theo chân người bạn học,tôi đi Bình Thủy rồi tò mò qua cù lao Khương BÌnh Tịnh. Ông nầy có hiệu thuốc Tây sang trọng nhất mà khi đi học,tôi chỉ dám nhìn qua.Uống thuốc tây là chuyện quá tốn kém,chẳng lẽ vào cửa hiệu của ông ta,nhìn quanh quẩn các tủ kiếng rồi trở ra.Có cây cân tự động,bước lên bàn là cây kim quây,chỉ rỏ mình nặng mấy kílô,nhưng tôi cứ ngại.Trước cửa hiệu thuốc,nhà nước dựng cây trụ cao,xinh đẹp,nhằm kỷ niệm các chiến sĩ trận vong giặc 1914-1919,chưa đầy 20 năm mà dường như chẳng ai còn nhớ.Những người Việt vô phước bị bắt lính đưa sang trời Âu,mất xác,gia đình chắc cũng còn giữ kỷ niệm mơ hồ.Vài người bạn bảo rằng: “Học thêm nữa, chưa chắc được làm quan to quan nhỏ,hoạ chăng là làm thấy giáo làng,thầy giáo tỉnh.” Ðối với tôi,làm sao giải thích với cha mẹ về tình hình thế giới. Ở Cần Thơ nầy,nạn thất nghiệp lan tràn, đạp xích lô còn khó sống.Phải đi học,có học mới yêu quê hương đúng mức được,về U Minh thì làm sao gặp được bạn tri âm như anh Hai,như ông Bảy Ngân.Và nhiều người khác nữa.
  Anh Hai nói khi cùng đi bách bộ:
 -Tụi thực dân rối rắm tới mức rồi,nhiều người theo cộng sản mà chúng cho rằng không nguy hiểm cho lắm,hoặc chưa nắm được bằng cớ.Từ miền khác bị đưa về đây quản thúc lỏng,kêu là “chỉ địng nơi cư trú”.Phải trình diện hằng tuần hoặc hằng tháng.Còn người nào có tiền án;bị tình nghi ở đây thì đưa qua tỉnh khác.
  Ðến nhà một nhân vật mà tôi nhớ mãi, ở trọ căn nhà lá, đầu to,mắt lộ,tóc hớt ngắn, ăn nói nghiêm nghị nhưng thân mật, đó là ông quản Bồ, ở Ðức Hoà,Tân An.
  Ông quản ung dung nấu loại trà xanh,trong cái siêu sắc thuốc.Rót nước, ông mời,bình đẳng,mặc dầu khác xa tuối đời và tôi là kẻ chưa có trình độ chính trị gì cả. Ông nói về cuộc Ðệ nhị thế chiến mà thực dân Pháp ở chính quốc và ở Việt Nam phải vướng vào.Trục phát-xít Ðức-Ý-Nhật đánh phe Ðồng Minh.Người yêu nước Việt Nam đứng về phe Ðồng Minh vơí Mỹ,Anh,Pháp vì phe nầy đứng về phía dân chủ,không độc tài. Ông khuyên tôi nên đọc qua mấy bài báo cũ,cái gì không rõ cứ hỏi.

TỪ U MINH ÐẾN CẦN THƠ

Chương 03


Sau khi thi đậu vào trường công lập Cần Thơ,tôi phải về U Minh.Khó xử cho tôi và cũng là sự hoang mang cho cha mẹ.Tôi được đứng vào hạng 19 hoặc 20 gì đó,qua cuộc thi tuyển. Ðược học bổng hay không?Trên lý thuyết,chỉ 10 người đứng đầu hưởng học bổng,thêm đôi người được phân nữa học bổng.Như vậy là đã thua cuộc.Vài người lớn tuổi bảo rằng còn điều tra lại,những đứa đậu cao có thể là con nhà giàu 12 hoặc 13 thì có thể hy vọng,nhưng hạng 20 thì quá xa. Ðành trở về quê chờ xem,cho khỏi tốn tiền ở trọ.Cha mẹ cho tôi học để lấy bằng cấp làm sinh kế,chớ đâu phải học để bàn chuyện chính trị,hoặc quan sát “thiên văn địa lý”.Dè đâu,hơn thng sau,nhà trường gởi về quê tôi cư ngụ một tập hồ sơ,hỏi về gia cảnh giàu nghèo và đồng thời yêu cầu ngày tựu trường,tôi phải chuẩn bị sẵn 6 bộ quần áo bà ba trắng,mền,2 bộ Âu phục,2 cà vạt,2 đôi giày bố kiểu Bata,4 khăn lau mặt,6 khăn mù soa,vân vân...thêm nào bàn chải đánh răng,khăn tắm.Thật là quá mức,tìm đâu ra tiền? Bấy giờ,một giạ lúa (20 kílô)tương đương một mét vải dệt với bông vải;nhập từ Singapo.Cái hồ sơ học bổng của tôi gởi về quận An Biên đã gây dư luận tốt,các viên thư ký gặp hương chức làng cho rằng tôi là một “nhân tài hiếm có” của vùng U Minh nầy.Tôi nhớ mãi bầu không khí của chợ Cần Thơ sống cực mà làm mở rộng tầm nhìn.Lại xảy ra chuyện bực dọc cho cha mẹ.Sau khi đi tận tỉnh lỵ để dọ hỏi giá cả của hai đôi giày bố trắng,thêm cái rương,cái mền,cha tôi về,không chần chừ gì cả:
  -Phải đem cần bộ lư và chân đèn trên bàn htờ ông bà ! Sau nầy chuộc lại,tiền lời khá rể vì là tiệm của nhà nước lập ra.
  Bà con dòng họ nhốn nháo lên. Ðó là món thờ cúng do ông nội tôo đã mất, để lại.Cha tôi là người giữ phần hương hoả,chớ không được xem đó là của riêng để đem cầm cố.Cha tôi,từ lâu được anh em uỷ quyền giữ hương hoả,cứ lặng thinh,hồi lâu mới trả lời:
  -Ðâu phải tôi uống rượu,cờ bạc. Ðây là người dòng họ được hưởng của ông bà.Con tôi là đứa cháu nội.Chẳn glẻ giữ bộ lư hương nầy để rồi con cháu phải sống với cây tràm,cây trâm bầu,lặn hụp bắt cá lóc?Hơn nữa bà con mình có nghe gì chưa?Bộ lư ở đình làng X mới đây bị ăn trộm rinh mất.Chẳng lẽ dân làng đó bất hiếu với ông thần.Thời buổi nầy rồi !
  Mấy tiếng “thời buổi nầy rồ”mà tôi chẵng rõ hết nghĩa gợi lại chuyện qua sông Hậu,trên phà và lời của bạn bè ở Cần Thơ.Chẳng lẽ ba tôi lúc nầy lại tham gia vào chuyện “quốc sự”,nhận ra một viễn cảnh nào đó,khác hẳn với lúc thực dân còn mạnh mà giấc mơ của đại đa số thanh niên trung lưu là đậu bằng cấp để làm công chức?Tôi chống chiếc xuồng nhỏ,quanh khu rừng tràm,nói là dạo quanh nhưng kỳ thật là du ngọan theo bề dài khu rừng,gọi  “rừng cấm”vì nhà nước đang bảo quản vì “quyền lợi nhà nước”.Rừng có nhiều con kinh nhỏ chảy xuyên qua, đi quanh về tắt,rải rác nhiều căn chòi của những người mang lý lịch mơ hồ từ phía Cần Thơ,Long Xuyên đến tạm trú để bắt cá, đốn củi lậu thuế.Nơi ven rừng phía Nam,chổ cây xoài rừng và đìa lạn,hiểu là ao nuôi cá,lâu ngày không nạo vét lên đã cạn,hai ba chàng trai đang đào xới mô đất bỗng gọi tôi:
  -Cậu ba,xin chào cậu ba!
  Tôi đến gần,họ là người chòm xóm,sống với nghề bắt rắn,bắt trăn.Họ khen ngợi tôi đã đi học xa,tận Cần Thơ,làm hãnh diện cho khu rừng nầy.Tôi hỏi thì họ rỉ tai:
  -Bòn vàng của vua chúa thời xưa để lại.Hy vọng tràn trề.
  Quả thật,họ đã khai quật mộ mô đất khá cao,cuốc xẻng dựng vào gốc cây xoài.Nhìn xuống hồ,thấy nước đen lỏng bỏng, đất vừa xới lên còn xông mùi ẩm ướt,nồng nặc.Họ giải thích rằng những đất cao ráo khác thường ở rừng nầy thường là mồ mã của người vô danh từ ngàn năm ,nào Chà Và,Mã Lai,Khơme,hoặc Việt Nam.Bằng cớ là dưới lỗ hổng mà họ vừa đào thấy có mớ tóc dài và bầy cá trê vây quanh.Cá trê ăn thịt người.Hoặc là tóc của con người,chôn lâu đời lại hóa ra cá trê như lời đồn đại?
  Tôi thấy chưa tin,một cậu nói:
  -Cậu ba đi học xa xứ,biết nhiều chuyện đời,vậy xin hỏi cậu biết Thiên linh chuỗi?
  Dĩ nhiên,tôi biết.Lâu lắm rồi,thỉnh thoảng người nào đó nhận được lá thư,ghi vài câu cách ngôn,hoặc chuyện thất thiệt nào đó.Người nhận được phải sao y bản chánh khoảng 20 bản,rồi gởi cho người quen hoặc chưa quen.Cuối thư,bảo là ai không chịu sao y thì bị Thượng đế trừng phạt,còn như sao y thì sẽ được hưởng phước,tai qua nạn khỏi.
  Tôi đáp:
  -Thiên linh chuỗi mà người ta gởi đến nói chuyện gì?
  Chàng trai nọ,nói giọng thật thà:
  -Không biết đọc,không nhà cửa thì ai gởi cho,tôi không được biết.Một người trong xóm nói rằng trong đó chỉ ghi một câu thôi: “Ở núi Bà Ðen,Tây Ninh,ngày mùng 7 tháng giêng,có một con heo bị trời đánh,hoá ra cục đá. “Ai tin thì tin,không tin thì thôi.
  Chuyện đào đất tìm kho tàng,mớ tóc trong quan tài lâu ngày hoá ra cá trê,con heo hoá đá...phải chăng là kiểu loan tin của nhóm nào đó.Tôi cười thầm.Về nhà,chợt nghe tiếng heo kêu eng éc, đúng là con heo tơ mà mẹ tôi đang nuôi đã bị nhốt trong cái giỏ tre,người lái heo khiêng nhẹ nhàng,mẹ tôi đi theo sau,lấy tay chùi nước mắt.
  Ghe heo đã đi ,tôi ngậm ngùi hỏi:
  -Má buồn làm chi dữ vậy?
  -Thà rằng nuôi đúng tạ mà bán, ít buồn hơn.Con heo nầy mới bốn tháng, đang mập,nuôi thêm vài tháng nữa thì giá cao hơn.Tội nghiệp nó cũng tội nghiệp cho má.
  Phải bán con heo tơ để lo đồ đạc cho tôi đi học,gần ngày tựu trường rồi...Một hôm,ba tôi ngồi hút thuốc một mình tới nữa khuya.Tôi thức giấc, đến uống nước trà.Ba tôi nói,bình thản:
  -Ba thấy cuộc đời không phải như vầy hoài.Tụi Nhật Bổn lên phía U Minh Thượng,xa lắm, đưa tiền cho dân phá rừng để trồng đu đủ dầu,nói rằng để lấy hột đu đủ chế biến dầu nhớt dùng cho máy bay.Ba hồ nghi tụi nó dọ thám rồi làm cái sân máy bay.Nghe nói hai ba thằng lính Nhật,thêm đứa làm quan Hai đi tới đi li,chụp hình.Tụi mật thám của Tây đi theo,xua đuổi không cho dân mình lại gần.
  Nghe nói còn nhiều người đi theo nó,mặt mày hung tợn lắm.Nó hưá sẽ đưa tiền để phá rừng.
  Nên đi Cần Thơ gấp.Tôi mong đến ngày tựu trường.Cha tôi ra tận chợ Rạch Giá,vác cái rương bằng mây,sợ tốn tiền đi xe kéo.Thái độ tư tin khiến tôi mạnh dạn hơn,dầu sao đi nữa;mình cũng đã ở Cần Thơ được gần một năm rồi.Ba tôi hãnh diện,nói chuyện với số học sinh cùng lên xe đò.Nhiều năm,cả tỉnh Rạch Giá không một ai đậu vào trường công,huống chi lại được học bổng ! Phần lớn học sinh cùng đi chuyến xe với tôi là con nhà khá giả,họ học trường tư thục.Tỉnh Hà Tiên nhỏ bé,nhiều năm liên tục không một đứa nào đậu vào trường công.
  Ðến Cần Thơ ngủ tại nhà mà tôi đã trọ,tôi vẫn chưa yên tâm. Ðến hôm sau,khi nạp cái hồ sơ được học bổng cho văn phòng,tôi như bị sét đánh.Chỉ được cấp phân nữa học bổng mà thôi ! Sáng,tự lo ăn sáng, đến trường vào lớp,trưa được ở lại ăn cơm,tan buổi học chiều là phải về nhà ở ngoài.Viên thư ký của nhà trường mĩm cười:
  -Ráng học,rồi sẽ được ở nội trú “trăm phần trăm”.Mấy đứa đậu cao lắm khi là con nhà giàu,không nhận chế độ học bổng.Chừng đó sẽ “đôn” lên.Chờ 6 thắng.
  Học vời nhiều giáo sư,chia ra bộ môn rõ rệt,bài giảng toàn bằng tiếng Pháp.MỘt hai “bà đầm” trực tiếp dạy Pháp văn cho mấy lớp dệ tam, đệ tứ,hai năm chót v=chuẩn bị thi lấy bằng Trung học,gọi nôm na là bằng “đíp lôm”.Khôi hài nhất là giờ ôn bài tự do,lại cấm đọc sách chữ việt,hễ muốn thì phải trình với vị giáo sư Việt văn để xin duyệt cho phép đọc.Tôi hiểu là muốn cấm các tực sách mang tính chính trị,trực tiếp hoặc gián tiếp chống thực dân.Thỉnh thoảng,các vị giám thị cũng bắt gặp vài quyển,cảnh cáo hoặc đưa lên hội đồng kỷ luật,học sinh có thể bị đuổi,mặc dầu các sách ấy đã bán tự do ở hiệu sách ngoài chợ.
  Học được một tháng,tôi được vị giáo sư Pháp văn gọi lên bục giảng để khen ngợi về bài luận văn, đại khái lấy đầu đề là Mùa gặt lúa.Tuần trước vị nầy khuyên học sinh nên tả thật,ghi lại sự kiện và tình cảm thật.Tôi đã tả vụ gặt lúa ở ven rừng,gần nhà,hồi ở U Minh.Phá rừng cấy lúa,vì vậy trong thưả ruộng còn lởm chởm những gốc cây chừa lại,cao khoảng 50 xăngtimét,trên đó sẽ treo những bó lúa vừa gặt xong gom nhóp lại.Chim trời bay lượn, đủ loại vì gần biển,dưới chân người gặt thỉnh thoảng gặp rùa,rắn,lươn đang cựa quậy.Muỗi vo ve,mặc dầu đang giữ ban ngày.Người gặt đứng cô đơn,rải rác phía xa,vài người cũng gặt với tiếng ca Vọng cổ nghe thoáng hơi buồn.Tùy ý,ai thấy mệt thì về.Cảnh tượng nầy khác với ruộng vùng Cần Thơ,nơi dân đông,năm bảy người gom lại, đứng gần mà ggặt,trông vui vẻ,tha hồ trò chuyện,kiểu vần công, đổi công. Ðể kết luận tôi cho người làm ruộng ở xứ U Minh là những “anh hùng vô danh”.
  Về sử học,dạy lịch sử Pháp và Việt,nhờ đọc sách báo ngoài lớp,tôi ghi vào bài học những tình tiết rườm rà,vị giắo sư dạy sử ngạc nhiên,khen ngợi.Vị nầy đáng kính, ông Nguyễn Thượng Tư.Lúc giảng bài về Nguyễn Tri Phương nhịn ăn,không chịu cho thực dân băng bó thương tích, ông như rơm rớm nước mắt.Cũng như trường hợp Hoàng Diệu thắt cổ tự tử.
  Buổi chiều,học sinh được giải trí, đá banh (bóng) trong sân to rộng của nhà trường,lại còn nơi dành cho bóng chuyền,bóng rổ.Nhưng một số đông thích âm nhạc,tập đàn hát những bản ăn Pháp phần lớn ca ngợi tình yêu trai gái của nhạc sĩ đang ăn khách là Tino Rossi.Nhiều học sinh dạo đàn măngđôlin hoặc ghita.Trong khi ấy,nhiều cậu mang đàn ghita,kiểu phím lõm để đàn Vọng cổ,có bạn tâm giao ca nghe mùi mẫn.Tên tổng giám thị,người Ấn Ðộ quốc tịch Pháp nổi danh nghiêm khắc đứng nghe,trên nguyên tắc,hắn không được quyền cấm,nhưng lời lẽ bài hát nói lên những gì hắn không hiểu;Hắn cười mỉa mai,cho đó là thứ nhạc du dương lạc hậu,yêu cầu người chơi dịch ra tiếng Pháp vài đoạn.Một học sinh nghiêm giọng:
 -Ðây là nhạc dân tộc,lời lẽ lãng mạn,không dịch được rõ nghĩa vì Ðông phương khác với Tây phương.Thí dụ như Tây phương ôm nhau khiêu vũ trước đám đông,còn Ðông phương thì nhìn mây bay,nghe gío thổi mà nhớ ông bà xưa, đời vua Tự Ðức,khi chưa mất nước.
  Tên giám thị hơi giận:
  -Nên cẩn thận !
  Anh bạn đang đàn Vọng cổ trợn mắt:
  -Cha tôi là đại điền chủ,là hội đồng quản hạt của nhà nước thuộc địa Pháp, được phép sắm súng đề phòng ăn cướp,có huy chương canh nông của Pháp,huy chương Vàng của vua Bảo Ðại,huy chương Ðồng của vua Sovath Monivong nước Cam bốt.
  Khi tên giám thị bẽn lẽn đi khuất,anh bạn cười giòn:
  -Nó là thằng dân mất nước, ở cảng Bom Bay, Ấn Ðộ,nịnh Tây rồi qua đây làm trời.Tao nói dóc cho nó ngán chơi.
  Ngồi chơi buổi chiều,tôi còn nghe chuyện vài người bạn ở lớp trên đang bí mật ra báo,làm báo bí mật thì nhất định bị đuổi.Mấy anh học cấp trên chuyền báo cho nhau,in xu xoa (thạch),chưa dám cho tụi con nít mới vô trường như bọn tôi xem.Sợ đổ bể.
  Cuối niên học, được cấp học bổng trọn vẹn,tôi về quê,cha mẹ vui mừng khôn xiết.Quần áo khỏi sắm thêm.Tuy khiêm tốn nhưng mẹ tôi hăng hái bơi xuồng,xuống xóm đình,nơi quần cư quan trọng nhất của làng,khoe rằng tôi được hoạc bổng,vài năm nữa nhất định sẽ được làm thấy thông,thầy ký.Về nhà,má tôi nói trong bữa ăn:
  -Nó còn nhỏ tuổi, đang đi học vậy mà bà hương chủ nói giởn rằng nếu đồng ý thì bà sẽ gả con gái cho.
  Ba tôi cứ khẳng định rằng phải học “ba cái chữ nghĩa” rồi tính sau.Cỡ nầy ở đâu coi cũng “nhộn”
  Nhộn là tiếng mơ hồ,khó hiểu,nhưng tôi hiểu rằng “nhộn” trong bối cảnh xã hội bấy giờ là sắp xảy ra biến cố,cũng như đời sống đang yên lành chợt xảy ra dịch tễ,như thổ tả,giết chục người trong đôi ngày,không thầy nào trị được. Ðến ven rừng dạo chơi,gặp mấy đứa thanh niên lớn tuổi hơn mời uống rượu đế,chúng nó bảo với tôi:
  -Sớm muộn gì,tụi nầy cũng...làm ăn cướp !
  -Súng đạn đâu?Coi chừng Tây bắt !
  -Con ông cai tổng B. đứng ra lập đảng cướp,ai dám đụng. Ðó là cậu Bảy,tính chuyện ăn cướp “làm nghiã hiệp”,lất tài sản nhà giàu chia cho nhà nghèo... Ông cai tổng có súng,bọn lính kín tới đây muốn bắt ai cũng phải hỏi ổng. Ổng đi Sài Gòn thăm bà con rồi trở về,mặt mày nhăn nhó,gom vàng  bạc,lớp thì đem chôn sau vườn dưà,lớp thì gởi ngoài chợ Rạch Giá.Cậu Bảy,con trai ông cai tổng đã lanh tay ăn cắp khẩu súng trường của nhà nước phát cho,giấu trên ngọn cây dừa. Ði theo cậu Bảy làm ăn cướp thì ai dám đụng tới mình.Vả lại cậu Bảy thề chỉ ăn cướp ở quận khác chớ tuyệt nhiên không khuấy phá làng mình. Ðã đánh một trận rồi,bên Giồng Riềng.Tụi nầy ăn nhậu no nê,say sưa be bét,muốn mang bịnh.
  Không bao giờ đời nay mà còn những người khờ khạo đi làm nghĩa hiệp.Bằng cớ là không nghe bọn trẻ nầy nói tài sản cướp giựt được đã đem phân phát cho ai.
  Về nhà,tôi đọc mấy tờ báo rách,dường như là Tiểu thuyết thứ Bảy hoặc báo chí chi đó lượm lặt từ Cần Thơ.Tôi thích và khâm phục tài năng của nhà văn Nguy-en Hồng,trong truyện ngắn nọ mô tả cảnh gia đình nghèo,ban chiều mẹ đem cái nồi ra,rang mấy hột bắp,bắp nổ tung vỏ trắng như bông,mẹ con quây quần lại mà ăn,vui vẻ lạ thường.Lại còn chuyện anh đánh xe ngựa chở khách,vất vả nhưng lạc quan,hành khách ít,nhưng đành lên xe,anh quất roi,xe lăn bánh trong cảnh hoáng hôn, “Chuyến xe cuối cùng về Ðồ Sơn.”Tiếp cận với truyện Kiều, đọc qua:
 
  -Rằng nghe nổi trên cầm đài,
  Nước non luống những lắng tai Chung kỳ
  Ðon giản mà sâu sắc,14 chữ vượt lên cao, đến nơi cao nhất của tâm linh,bao quát cả không gian,thời gian.
  Câu thơ thì hay,nhưng không khuây khỏa được tâm hồn tôi.Linh tính như báo trước một cơn giông tố sắp đến,một cơn giông tố cần thiết.Phải tìm một trật tự mới kiểu khác.Rừng U Minh mà ông bà cư gụ bấy lâu nay chẳng lẽ cứ mờ mịt,buổi chiều, ăn cơm tạm no rồi thì đốt lên bếp un cho tan muỗi,chờ lát nữa ngủ.Thiếu thông tin chính xác,thiếu sách báo,nếu có thì chẳng mấy ai đọc,chưa nói đến hiểu,muốn hiểu ít ra cũng biết mơ hồ về bản đồ thế giới.Giá sinh hoạt mỗi lúc mỗi cao,thêm đồng tiền càng ngày càng khó kiếm khiến ai nấy lo quanh quẩn. Ðến như dịch sốt rét đã giảm từ lâu lại bộc phát,thuốc kí ninh nếu dám mua với giá cao cũng chẳng thấy bán.
  Ngày tựu trường,tôi không tha thiết cho lắm,các giáo sư như mặc xuề xòa hơn,thích nói chuyện, đôi khi, đến giờ dạy mà vẫn còn nói chuyện,riêng với bạn đồng nghiệp.
  Tham ông quản Bồ, ông mừng rỡ lắm,cứ khuyên:
  -Thuận lợi để chống thực dân,nhưng ngày càng khó.Em còn nhỏ quá,chưa làm gì đợc.Thấy dễ mà khó lắm.
  Năm ấy,bỗng dưng mặt bằng của trường trung học Cần Thơ bị giải tỏa hết phân nửa,dời qua dãy nhà dành cho trường tiểu học nữ.Phần lớn trường trung học dành làm trại lính tập,hiểu là lính chính qui người Việt, đủ súng đạn,tập dượt đàng hoàng,do vài sĩ quan Pháp và một số sĩ quan người Việt (thường mang quốc tịch Pháp chỉ huy ).Hằng tuần,họ diễu hành một buổi sáng,trông uy nghi lắm.MỘt sĩ quan Pháp cấp tá cưỡi ngựa,cầm gươm dẫn đầu,lính đi rập ràng theo tiếng kèn đồng.Theo sau,có vài khẩu trọng pháo.Quả là thực dân Pháp còn mạnh,họ muốn thị uy tại Cần Thơ,thủ phủ miền Tây Nam Bộ.Học sinh mãi mê nhìn xem diễu binh,quên chuyện học hành.
  Nữ học sinh tiểu học (ở ngoại trú )học ở dãy sát bên.Hôm nọ,học sinh tiểu học ra chơinxếp hàng hai,trông thơ mộng lắm. Ði chân đất, áo bà ba trắng,quần đen.Vừa đi ra khỏi lớp,vừa đọc bài thơ rập ràng,ngân nga như bài dân ca:
  -Gió mây đuổi giấc mơ màng,
  Tỉnh ra thấy ánh trăng vàng bên chăn.
  Trước cửa sổ đầy sân những bóng,
  Cành lá đen lay động dật dờ,
  Một cơn gió vội vàng qua,
  Hương bay ngào ngạt mấy tờ chuối xanh.
  Gió lay động bức mành vắng vẻ,
  Muỗi bên màn se sẽ than thân.
  Sâu tường rủ rỉ âm thầm,
  Nối muôn đêm,một tiếng ân hận dài.
  Dế chân cỏ xiết mài bóng tối,
  Bờ lau xa quốc gọi buồn theo,
  Trời khuya rạng rỡ, đìu hiu
  Thoáng nghe lọt tiếng sáo diều trong trăng !
  Nghe hàng chục lần,tôi nhớ mãi,mỗi lần nghe càng thấy ấm áp,tự tin.Mô tả cảnh đồng quê đâu ở miền đồng bằng sông Hồng nhưng quá thân thuộc,không xa lạ cho lắm mà lại giới thiệu được bối cảnh thơ mộng của Việt Nam cũng như của Ðông Nam Á nhiệt đới.Có mặt đủ loại côn trùng vô ích như muỗi ,dế ,ssâu.Cách diễn đạt như khó hiểu “sâu tường”, “dế siết mài bóng tối” nhưng cần gì thắc mắc để phân tích,hơi thở của thơ bàng bạc trong môi trường, ăn trực tiếp qua da thịt,vào xương máu,buồn buồn như nổi “ân hận dài”.Các cô học sinh,giáo viên vào giờ ấy chắc không lý luận như tôi để hiểu,thả hồn vào thơ Việt Nam là đủ rồi. Ðến nay tôi còn nhớ,chắc sai lệch vài chữ nhưng các cô đã 70 tuổi hơn,nếu còn sống chắc cũng nhớ thấp thoáng như tàu lá chuối khô còn vương vấn mấy giọt mưa đầu mùa,lúc còn xanh non.Sau nầy, được biết là thơ của Thế Lữ,trong Mấy vần thơ.Dạo ấy để mị dân,Nha Học chính Ðông Pháp bày việc cải cách chương trình Việt văn.Nhưng trễ quá rồi,cũng như để tác động chính trị cho dân Việt và giới học sinh, đặt thêm môn học Văn hoá Việt Nam,dịp cho học giả Ðào Duy Anh biên soạn quyển Việt Nam văn hoá sử cương, đến nay vẫn còn gia trị,về cơ bản.
  Vào lớp,tôi ngồi học cầm chừng,cứ chờ ngày chủ nhật xin phép ra chơi, ăn cơm ngoài cho đến 8 giờ tối mới vào trường. Ði thăm ông Bảy Ngân dưới phà,rồi thăm ông quản Bồ người bị quản thúc.Dường như vì bệnh già, ông tránh tiếp chuyện một cách khó hiểu.
  Lại đọc báo lén,trong trường cấm đọc báo.Hay tin cụ Phan Bội Châu đã mất,tin tức đăng vài hàng nhưng may thay,có kèm bài thơ chót của ông,nhiều hạc sinh chép chuyền nhau, đọc tới lui đến thuộc lòng: “Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ.Thiên hạ tùy nhân bất thức quân?Bảy mươi tư tuổi trót phong trần...Nay đang lúc tử thần chờ trước cửa.Có vài ghi nhớ về sau.CHúc phường hậu tử tiến mau.”Phường hậu tử gồm người trẻ,trong đó có học sinh.Lại còn lời cụ Phan phúng điếu lấy mình: “Thiên hổ nhiên, địa hồ nhiên,tử dĩ đồ hư...tích hung trung mai Khổng Mạnh”.Trời làm sao, đất làm sao,chết luống đã phần,dưới đất tiếc vùi lòng Khổng Mạnh ! Nghe qua,thì hiểu,nhưng làm sao hiểu hết tấm lòng của người chí sĩ quá cố.Mãn cuộc đời bôn ba,còn được mấy lời.Không ai đọc lớn,chỉ đọc thầm hoặc lẩm bẩm cho mình nghe.Nét chữ in đen đúa,thẩm thấu vào tâm chức của một thanh niên gầy yếu mới 14 tuổi là tôi.Quên làm sao được !
  Nếu tôi không lầm thì năm ấy bên Pháp thống chế Pête đã được Ðức phát xít dựng lên,tiêu biểu cho nhóm đầu hàng. Ở Ðông Dương,phe đầu hàng Nhật cũng thắng thế.Lại có phong trào Quốc Gia phục hưng,Pháp Việt phục hưng,nhằm đề cao tinh thần “quốc gia thuần túy” mà tán thành mạnh nhất là giới điền chủ lớn tuổi,công chức, đốc phủ sứ.Nói ra dông dài,làm phiền lòng giới trẻ “sống vội”.Gương Nguyễn Ánh cầu viện Pháp hồi cuối thế kỷ thứ 18 được nêu lên.Tội nghiệp cho ông Phan Thanh Giản.Trường trung học Cần Thơ được đổi là phan Thanh Giảng (có chữ G)với buổi lễ tổ chức long trọng tại sân trường,với những bài diễn văn,giả như nước Việt Nam sắp sửa được ban bố độc lập.Những màn trình diễn thể dục trở thành thời thượng.Quần cụt xanh, Áo sơ mi trắng,giày bố trắng như một kiểu dân chủ bình đẳng,không phân biệt giàu nghèo. Ðến như ông Á-lịch-sơn Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes)bày ra chữ quốc ngữ,La tinh hóa,cũng đề cao là kẻ đồng loã với bọn phát-xít ! Nhưng che giấu làm sao được.Thực dân tự lột trần,còn hơn lột mặt nạ,với cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa tháng 11 năm1940.Líng cảnh sát đi đầy đường,tuần tiểu gắt gao nhât& là về đêm,cũng về đêm,các giám thị theo dõi học sinh nội trú,khuyên nên đi ngủ sớm, đóng cửa sổ kín,không nên nhìn xuống đường phố.Chuyện gì xảy ra đây?Vài hôm sau,vừa thức dậynhọc sinh được khuyến cáo là không nên dụm lại trò chuyện,cứ tập thể dục, đá bóng,tắm rửa sơ sài, ăn buổi sáng.Vài học sinh đi cầu vệ sinh (bố trí sát tường rào) vội vã đến bên tường nhặt và đọc những mảnh giấy in nét mực khá rõ,kiểu in phức  bản với mực tím đậm viết trên lớp xu xoa (thạch).Lính cảnh sát từ ngoài đường vào đến lớp học, đứng sát cửa lớp trông vào,dáo dác.Viên hiệu trưởng đi tơi lui,lanh lẹ.Các giáo sư thì dụm năm dụm ba,nét mặt nghiêm nghị.Cảnh sát và giám thị ra lệnh:
  -Ai thấy giấy gì khổ nhỏ,có in chữ thì đe nộp ngay cho văn phòng ! Dường như vài học sinh đã nộp.Một giáo sư người Việt nói với đồng nghiệp rằng đã thấy truyền đơn của Ðảng Cộng sản rải trước phòng hiệu trưởng.
  Vào lớp,học trò im lặng,lát sau,viên chức “chạy giấy”(phanton,lonton) đến từng lớp, đưa tờ châu tri mà giáo sư đọc riêng rồi tóm tắt rằng:Ai lưu trữ truey-én đơn thì bị đuổi,với hậu quả không đo lường trước được.
  Nghe giảng bài lấy lệ,học trò nhìn ra cửa sổ,lính tập người Việt từng tập dượt hồi mấy tháng trước ngồi đầy xe ôtô.TRường trung học đã trở thành một trại lính,bây giờ mới thấy rõ nét.Buổi chiều,học sinh cũng đá bóng, đánh bóng chuyền nhưng uể oải.Tại sao không cho học sinh nghỉ học cho yên ổn? Ðến ngày chủ nhật,phần lớn xin ra ngoài,trọn ngày,8 giờ tối trở vào trường.Dân chợ phố cũng ăn uống,nhưng dụm lại từng bàn,có lẽ để thông báo với nhau chuyện,gì đã xảy ra.Ngồi ăn gói xôi một mình trong quán,tôi thèm cà phê đen.Không thấy mùi vị gì cả. Ðến thăm mấy “đàn anh” để hỏi han tình hình chăng?quá nguy hiểm cho các vị ấy. Ði rảo xem mấu bàn bida,thấy trống vắng,chờ một anh bạn học rủ ren.
  Ngôi nhà việc Tân An là kiểu ủy ban thị xã,có lầu và rộng.Dân chúng qui tụ khá đông,nhưng không được đến gần phía mặt tiền.Hai chiếc xe nhà binh đậu từ bao giờ,trên xe nào heo,gà,vịt,những món mà bọn lính cướp giựt lúc đàn áp.Cậy mình là học sinh trường trung học,mặc đồng phục trắng,thêm phù hiệu thêu 2 chữ C.C (collège de Cần Thơ),hai đứa tôi bước chậm rãi qua bên đường,sát mấy chiếc xe nhà binh.Mấy bánh xe quả thật đã cán trên máu thịt của người khởi nghĩa,còn mấy sợi dây khá dài cũng dính từng khúc,máu đông lại,trổ ra màu đen;Hàng chục tên lính nai nịt gọn gàng,súng gom lại dựng đứng, đang ăn bánh mì.Anh bạn tôi hỏi vu vơ mấy chú lính:
 -Bắn được chừng mấy người?
  Một người lính mang quân hàm ở cánh tay cằn nhằn:
  -Hỏi chi vậy?Mệt thấy mẹ.Hai đêm rồi không ngủ được.
  -Tại sao bắn dân mình?
  -Hỏi chi vậy?Mấy ông xáp vô, đốt dinh chủ quận,giết lính mã tà.Bắn chỉ thiên mấy lần mà họ cứ ào tới.Diễn thuyết tại chợ,có một cô gái đứng trên cái ghế cao kêu gọi “tiêu diệt thực dân”.Dân đang nhóm chợ đã tản lạc nhưng cô ta diễn thưyết hoài,không còn ai nghe mà cứ rống cổ kêu gọi nầy nọ.Bắn mấy phát không biết chết cô ta hay không?
  Bạn tôi nhìn mấy viên hạ sĩ Pháp đang hút thuốc:
  -Ô- là-la !
  Bọn Pháp khoát tay xua đuổi.Nhưng bạn tôi vẫn ung dung:
  -Très bien.Très bien ! (Tốt lắm.Giỏi lắm )
  Tối đến,vào phòng ngủ công cộng của bọn học sinh nội trú,,tôi thấy ai nấy như trầm lặng,nói chuyện khẽ.Còn chừng mươi phút nữa đến giờ tắt đèn ngủ,tôi hỏi một người bạn,kỳ kèo mượn cho bằng được tờ truyền đơn mà hôm trước tôi đọc quá nhanh.
  Vào cầu vệ sinh,có đèn sáng. Ở gốc tờ truyền đơn,vẽ sơ sài một đóa hoa,vài chiếc lá. “Hởi các bạn học sinh,những đóa hoa của dân tộc !” Lại phân tích tình hình thế giới,khó hiểu quá.Có nhắc đến tinh thần tranh đấu đời bà Trưng,bà Triệu...Kết thúc lại,kêu gọi toàn thể đồng bào nổi dậy với lời chào quyết thắng;Rồi một thời gian ngắn,lại nghe tin,do các bạn ngoại trú bảo là sẽ xử tử công khai vụ Hòn Khoai ở mũi Cà Mau. Ðã giết được tên quản đốc ngọn Hải Ðăng.Người cầm đầu khởi nghĩa là thầy giáo Phan Ngọc Hiển bị bắt,sẽ xử tử,cho dân chúng xem.Hòn Khoai thuộc về cực Nam,liên quan về khu vực an ninh với Cần Thơ.Hôm ấy,như là ngày chủ nhật,một số học sinh nội trú xin ra trường chơi.Tôi và vài người bạn đến chứng kiến.Vào lúc hừng sáng, đồng bào qui tụ khắ đông.Tôi nhớ là pháp trường dựng ở sân vận động tỉnh.Ráng chen vào nhưng khó chen.Thấy phía trước khá đông người,có đàn bà, ông lão, đoán chừng là thân nhân của tử tội.Lát sau,xe ôtô đưa tới ba người,bị còng tay,dường như đã bịt mắt sẵn.Buộc vào ba cây trụ.Các tội nhân đi chậm rãi,tỉnh táo.Lính sắp hàng,bồng súng lên.Một sĩ quan Pháp rút gươm hô khẩu lệnh.Súng nổ,tội nhân ngã gục,họ được hưởng thêm phát súng lục “ân huệ”. Ðồng bào từ từ về,nói chuyện rì rào.Có người bảo thầy giáo Phan Ngọc HIển là người đứng giữa,tại pháp trường.Người khác cằn nhằn – đa số là vậy – nói khẻ và chửi nhanh,mơ hồ với hai tiếng Ð.m : “Tụi nó giết dân mình.”Quả thật,suốt ngày ấy, đi dạo phố,vào quán cơm bình dân,toàn  là tiếng cằn nhằn,than phiền.Chẳng nghe ai nói tiếng nào nhìn nhận thực dân đã làm một chuyện “công bình”.Một số người khác thì thủ phận, ở nhà với vợ con và thường ngăn cản không cho con cái đi xem,e gặp chuyện bất trắc. Ở bót Hình cảnh lưu động, đặc trách về an ninh chính trị miền Tây Nam Bộ,nhiều chuyến xe bít bùng chở người để điều tra,từ khám Cần Thơ đưa đến. “Lời chào khởi nghĩa” trong tờ truyền đơn đã là hiện thực,là bài học lớn cho tôi.Bấy lâu,tận nơi xa xôi của Tổ quốc ta,lòng yêu nước của người dân quê, đa số thất học,chỉ dựa vào thần tượng Nguyễn Trung Trực,nay có thần tượng cụ thể là Phan Ngọc Hiền.Yêu nước nào phải là đọc sách nghiên cứu suông.Không thể dựa vào tư liệu mà chê khen.Không thể lý luận khô khan,khen ba điều,chê bảy điều,kiểu “chánh khách xa-lông”.Phải hội nhập.
  Một anh bạn cùng lớp với tôi đã “hãnh diện”hôm vị giáo sư Pháp văn ra đầu bài đại khái: “Lớn lên,anh sẽ chọn nghề gì?”.Phần lớn theo kiểu sáo mòn,cho qua buổi,làm bài với sự lựa chọn hợp ý vị giáo sư,sẽ làm thợ mộc để xây nhà cửa,sẽ làm ruộng,nước Việt Nam sẽ trở thành khu vực nhiều lúa nhất thế giới,ao ước làm y tá để trị bịnh cho người nghèo ở chốn rừng sâu nước độc...Nhưng anh bạn của tôi lại viết một bài gây sửng sốt cho cả lớp học.Anh bảo rằng mình là con nhà giàu,tuy kém hơn giới “công tử Bạc liêu”nhưng muốn gì thì làm được nấy ! Lớn lên,không cần bằng cấp,học vị,anh sẽ đi chơi,với chiếc ô-tô và anh tài xế.Anh đã biết hút thuốc thấy vui và ngày chủ nhật,anh cũng uống rượu bia.Anh sẽ trở thành điền chủ lớn,thừa hưởng gia tài của cha mẹ.Sẽ dạo chơi ra Huế, đi Hà Nội,xem điện Ăng-co rồi qua Pháp cưới vợ người Pháp,một cô tài tử điện ảnh,rồi ăn chơi,làm chủ một tờ nhật báo lớn bên Pháp để hưởng cái tự do dân chủ ở xứ đã phá ngục Bátti năm 1789.
  Anh bạn cũng khen ngợi bọn lính Pháp,khi thấy mấy chiếc xe quân đội đi đàn áp ở Tam Bình về,với gà vịt ,heo !
  Vị giáo sư tóm tắt bài làm của bạn tôi,giọng mỉa mai.Học sinh lúc đầu còn che miệng,nhưng đến phần chót thì cười ầm lên và vị giáo sư Pháp văn cũng cười,lắc đầu.Lúc ấy,tình cờ viên hiệu trưởng đi ngang,ghé lại.Giáo sư ra sát cửa,nói qua lại vài câu rồi cười.Vào lớp vị giáo sư tuyên bố,giọng khá to:
  -Gần như lạc đề ! Nhiều điều tưởng tượng điên khùng ! Nam Kỳ thuộc địa của Pháp chứ không phải là nước Pháp.
  Anh bạn của tôi cười.Giáo sư trả lại bài tác văn đã làm.Anh bạn như không chú ý,về chỗ ngồi với bàn tay không.
  Lễ Nôen năm ấy,tôi nhớ rõ,nhà trường ra lệnh cho học sinh nội trú không được về nhà nghĩ dài hạn.Họ phải ở lại nhà trường?Lệnh nầy áp dụng gắt gao cho những ai quê quán ở Vĩnh Long,Cần Thơ (Cầu Kè,Trà Ôn ),chợ mới (Long Xuyên ),Cao Lãnh (Sa Ðéc ).Ai cũng hiểu đó là những khu vực đã xảy ra khởi nghĩa,dân chúng bị giết,nhà cửa bị đốt quá nhiều.Cũng có nghĩa là những nơi mà quân khởi nghĩa đã đạt vài thắng lợi,công sở bị đốt cháy, đường sá,cầu cống bị hư hỏng.Rồi lại có tin vùng chợ Giữa (Vĩnh Kim) thuộc Mỹ Tho bị máy bay oanh tạc,lúc đang nhóm.Học sinh nhìn nhau,bàn tán.Nghỉ học nhưng vẫn vào lớp riêng để ôn bài vở.Tha hồ đọc tiểu thuyết,sách báo,các giám thị đi tới lui cầm chừng.Buổi chiều,ra khỏi lớp,lại rộ lên phong trào đàn ca.Bản vọng cổ trổi lên,nhiều học sinh tập dượtnhòa tấu.Bản Vọng cổ quả là hợp thời,với nổi buồn sâu lắng .Buồn mà không làm ai rơi nước mắt.
  Thầy giáo Phan Ngọc HIển,người lãnh đạo khởi nghĩa ở Hòn Khoai bị xử tại Cần Thơ.Hình ảnh ấy,tên tuổi ấy lần hồi trở thành trừu tượng,khái quát. Ðầu đội trời ,chân đạp đất là vậy.Rồi với Cách mạng Tháng Tám năm 1945,trở thành biểu tượng cao cả,trở thành một nhân cách lớn mà những người không biết chủ nghĩa cộng sản cũng nhìn nhận trong thâm tâm,lắm khi không nói ra,là có tư cách,có nhân cách.Sau ngày giải phóng 1975,cán bộ ta cố sưu tầm tư liệu, phát hiện thêm cho thế hệ sau biết lúc sinh thời,thầy giáo Phan Ngọc Hiển đã hăng hái viết báo,bênh vực quyền lợi của người dân mất nước.
  Kháng Pháp rồi chống Mỹ,bao nhiêu chiến sĩ xuất hiện với tầm vóc ngày càng rộng lớn nhưng chuyện thầy giáo Phan Ngọc Hiển vẫn còn âm ỉ trong tâm tư người địa phương  với nhiều chi tiết dễ gây xúc động.Mới đây,cuối năm 2000,trong cuộc thi truyện ngắn,tiểu thuyết(do NXB Trẻ và Hội Nhà Văn TP.HCM tổ chức),một tập truyện nhan đề Ngọn Ðèn Không Tắt của nhà văn nữ Nguyễn Ngọc Tư đoạt giải nhất.Ngọn đèn không tắt kể lại chuyện của thầy giáo ở Hòn do một nữ sĩ trẻ thuộc thế hệ sau ngày giải phóng 1975.Cô kể một cách hồn nhiên,như đứa cháu nội nhắc nhở kỷ niệm xưa,gọi thầy giáo là Thầy,không có tên Phan Ngọc Hiển kèm theo,vì kính nể,vì chẳng lầm lẩn với ai khác,vào bối cảnh xưa.Không phải tất cả dân dự buổi nói chuyện kỷ niệm khởi nghĩa,nhưng có đủ lứa tuổi tham dự.Người trong cuộc đã chết,người nghe trực tiếp thời ấy cũng chết vì quá già.Thế hệ trẻ chỉ mò mẫm,ráp nối với đôi chi tiết sống động,gây bâng khuâng.Khi khởi nghĩa thành công trên đảo mà Pháp đặt ngọn hải đăng,Thầy rút lui và căn dặn mấy người Việt làm công ở đảo phải giữ ngọn hải đăng, đừng cho tắt.Về kỷ thuật bạo động,tôi suy luận,giữ cho hải đăng còn cháy để quân Pháp khi nhìn ra biển,ngỡ rằng ngoài đảo không có gì xảy ra.Nhưng ánh sáng của ngọn đèn ấy không bao giờ tắt lại là niềm tin mãnh liệt mãi đến mai sau.
  Vài anh bạn lúc rảnh rang lại thích ca tài tử và có sáng kiến đem bài Tựa truyện Kiều chuyển ra lời Vọng cổ,hát nghêu ngao.Trong Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm đã trích bài tực nầy,Chu Mạnh Trinh đặt ra, Ðoàn quì dịch:
 -Than ôi,một bước phong trần,mấy phen chìm nổi,trời tình mờ mịt,biển hận mênh mông...Hỡi ôi,hồn còn biết hay chăng,bóng hoàn bội tưởng ra vào nơi Lạc phố.Hiểu là Thúy Kiều,người đẹp đeo ngọc đã lên cõi tiên,bất hủ.
  Buổi sáng nọ,trước giờ tập thể dục,viên hiệu trưởng ra lịnh tập hộp học sinh tại sân lớn.Giới thiệu vài sinh viên Ðại học Hà Nội vào,phổ biến bài hát mới,lời tiếng Pháp,(sau này dịch là Sinh viên hành khúc hoặc Tiếng gọi sinh viên rồi hỡi ôi,trở thành quốc ca của thời Diệm, đổi lời ca chút ít).Trong số sinh viên Hà Nội đến trường Phan Thanh GIản,tôi nghe giới thiệu nhạc sĩ Lưu Hữu Phước,sinh quán Ô Môn,tỉnh Cần Thơ, đã học trường Cần Thơ nầy, đang học Ðại Học Hà NỘi.Ngoài ra còn đôi người nữa,tôi không nhớ.Lại nói thêm rằng Lư Hữu Phước là học sinh ưu tú nay về thăm trường cũ.Lưu Hữu Phước hát, đánh nhịp cho học sinh hát theo.Bài nầy gây phấn khởi lạ lùng,học sinh được phân phát một người một bản để sau nầy sử dụng.
  Một sự kiện lịch sử đối với tôi là đón tiếp vua Bảo Ðại,do chánh quyền Pháp ở Cần Thơ tổ chức.Học sinh đóng vai chủ động,múa điệu thể dục nhịp nhàng,cầm cây gậy tròn,sơn màu cờ tam sắc,quơ qua quơ lại,nghiêng mình,quì gối, đại khái kiểu thể dục nhịp điệu của thiếu nữ ngày nay.Vua và Hoàng hậu đến,ai nấy phấn khởi,như dành cho thiên cảm vì tự trong tiềm thức,mình là nước mấy ngàn năm văn hiến mà không có ông vua thì vô duyên quá! Lính mã tà xếp hàng rào danh dự chờ sẵn.Dân ngoài đường,ngoài cổng ung dung đứng xem,chắp hai tay sau mông.Vài cụ già khăn đen áo dài,che dù đến,chắp tay xá khi vua đi ngang nhưng động tác ấy xem như lạ.Vua còn trẻ,mập mạp,mặc hoàng phục màu vàng,khăn vàng.Nam Phương hoàng hậu theo sau,bén gót.Cả hai ngồi xuống hàng ghế đầu,bên cạnh quan Pháp.Lại có người mặc áo xanh,khăn xếp,có lẽ là Phạm Quỳnh.Vua không nói gì cả,mĩm cười,nhìn thẳng.Hoàng hậu cầm cây quạt,xoè ra che miệng,nghiêm nghị nhưng trông như vui.Nói chung,dư luận cho rằng bà Nam Phương mặt mày trông “phúc hậu”,xứng đáng hơn... ông vua.Dụng ý của thực dân và của bọn quân nhân Nhật đang lộng hành là muốn tạo dư luận về kỷ cương của “quốc gia”.Dân đứng phía xa cứ dùng tay chỉ chỏ,phải chăng nhà vua như thấy bực bội?Quả thật,vua chỉ là khách,xứ nầy là thuộc địa Pháp, đến xem vì tò mò. Ðọc báo thấy nước An Nam buổi ấy có bản Ðăng đàn cung,một kiểu quốc thiều nhưng nhạc ấy có trổi lên hay không,chẳng ai biết ! Vài huấn luyện viên thể thao,do Pháp đào tạo ở Phan Thiết đưa về đã trình diễn,sắp hình Kim tự tháp,lớp dưới tám người, đứng trên vai họ là 6,là 4,là 2 người. Ðến những thanh nữ mặc quần ngắn,sơ mi ngắn,diễu hành rập ràng,rồi thiếu nhi.Thực dân đang suy đồi,cố đàn áp cuộc khởi nghĩa,dường như bỗng dưng còn dạt dào sức sống ! Hằng tuần,học sinh diễu hành trên đường phố Cần Thơ,ca ngợi thống chế Pête (Pétain),Thống chế nầy thắng Ðức hồi Ðệ nhất thế chiến (1914-1918)với trận vécđon lừng danh lại chịu đầu hàng quân Ðức qua trận chiến vừa rồi,ngoan ngoãn làm tay sai.Nhưng cố giữ thể diện qua lời ăn tiếng nói:Nước Pháp cũng như nước Việt,thuộc địa Pháp,cần thức tỉnh,phục hưng luân lý quốc gia để cầu mong giữ được nước.Thanh niên nam nữ diễu hành khắp đường phố, đi rập ràng,phô bày thể lực.Hát rằng: “Ngài thống chế ơi,chúng con có mặt đây,trước mặt ngài là người đang cứu vãn nước Pháp.Xin thề theo chân ngài để phục vụ Tổ quốc”.Lại còn bài tưới trẻ hơn:Một đóa hoa tươi cài trên nón,một bài hát nở trên môi.Một con tim vui vẻ và thành thật.Với bao nhiêu điều kiện cơ bản ấy,chúng ta có thể tiến tới nơi xa vời nhấtcủa địa cầu nầy.
  Lại còn sự động viên khéo léo, đánh vào bản năng hiếu chiến như thời còn là bộ lạc,chưa văn minh.Thanh niên lực lưỡng xếp hàng chừng mười chàng,viên trưởng toán chợt la lớn bằng hai tiếng Pháp: “Chú ý.Chuẩn bị xông trận !” Ðoàn thanh niên lập tức rùng hai gối cho thấp,hai bàn tay nắm chặt,như hạ quyết tâm;Rồi cả bọn la lớn,rập ràng:
  -Pi,Ha,Hi,
  -Pi,Sơmi,Ladam...
  Phải chăng đây là tiếng động viên của bộ lạc nào ở châu Phi,thời tiền sử.Mãi đến nay, đọc sơ qua vài quyển sách về văn minh cổ,tôi vẫn không hiểu.Muốn hỏi,hỏi ai bây giờ?
  Lại còn những cuộc thi khá ngoạn mục,gọi chạy Việt dã (cross country).Họ chạy tắt theo một lộ trình mơ hồ,chỉ biết nơi xuất phát và điểm đến.Ai đến trước thì thắng giải.Gay go lắm.Chạy băng ngang qua vùng đất hoang,nơi có đường sá,nơi sình lầy,vượt chướng ngại vật,lắm khi phải băng qua vũng bùn đầy gai góc,bụi rậm.Kẻ thắng cũng như kẻ bại khi đến đích được reo hò,nhưng mình mẩy họ ướt mem,lem luốc.
  Kiểu tập dượt quân sự chăng? Ðể khi hữu sự thì đánh giặc. Ðánh cho ai,vì mục đích gì? Ðáng chú ý là phong trào nầy khá hấp dẫn đối với dân thành thị đang có khoảng trống tâm hồn.Người xem như thích thú.Nhưng cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ năm trước còn đó,với những chiếc xe lấm máu,với người bị bắt,xỏ nhượng, đưa lên Sài Gòn,nhốt dưới hầm xà lan,chờ đưa ra Côn Ðảo.Những thường dân bị bắn giết,tra tấn dã man.Khám đường chật chội.Sau nầy được biết thêm ở Cao Lãnh, ở Cai Lậy xảy ra sự đàn áp bắt bớ khôn tả xiết,nhất là Cai Lậy với đốc phủ Tâm người “quốc gia”cũng ghê tởm,vượt mức tưởng tượng,gọi hắn là “con hùm xám”.Nhộn nhịp ở học đường và cơ quan là phong trào “khỏe để phụng sự”, “Ðoàn kết và mạnh khỏe về thể chất để phụng sự”?.Nhưng ai đoàn kết với ai? Mạnh khỏe để đi lính,phụng sự cái gì?Phải chăng là cho thực dân Pháp đã lừng khừng, đầu hàng Nhật.Singapo một cửa khẩu và căn cứ hải quân,không quân của Anh từ lâu đã lọt vào tay Nhật,Nhật thảo kế hoạch lập khối Ðại Ðông Á,ra báo chữ Việt,lại có bài ca đại khái với lời lẽ “Ta là người Việt Nam... Á TẾ Á”. Á Tế Á là Á châu,Anh gọi là Asia,viết theo chữ Hán.Lại có Nghĩa sĩ đảng do người Nhật thành lập,thủ lãnh ở Cần Thơ là người Việt với người đẹp luôn luôn đi bên cạnh.Vài người Nhật mang gươm,với quân hàm,theo sau là mươi người Việt và một vài lính Nhật mà thiên hạ bảo đó là người Trung Hoa bị bắt đi lính ở Mãn Châu,hoặc người Mông Cổ (?).Lại đồn rằng mấy người nầy thuộc đảng HắcLong có quyền tiền trảm hậu tấu (?).Thanh niên cứ hát, đi đều bước,thêm số thanh nữ đẹp và khỏe. Ảnh thống chế Pêtain biểu tượng của nước Pháp “phục hưng” được trưng bày khắp nơi.Về mặt nổi,bức tranh xã hội như sôi động,nam nữ đang tuổi dậy thì say sưa với lối suy nghĩ mới;phải đẹp,mạnh khỏe về thể xác,giỏi về thể thao,những chuyện lớn lao của cả nước thì đã có các bực lão thành,các vị chính khách lo rồi.Nên tuân thủ, đừng bày ra lý luận viễn vông.Nhưng hỡi ôi,ai cũng thấy đó chỉ là bề mặt giả tạo,mỏng manh,lòe loẹt như bó hoa chưng bày trong bình đã nứt trong căn nhà đang phá sản.Ai nấy lo toan,nhưng chưa biết lo toan chuyện gì?Nhất định sắp có việc lớn xảy ra,không tránh được.Dưới biển,có những tảng băng chìm,to tướng đang trôi lờ đờ.Trên mặt biển,chim hải âu bay lượn nhưng sự yên lặng rõ ràng là giả tạo.Thối nát từ cốt lõi.Trong vở kịch của Sếchpia,dường như nhan đề là Hămlét,một nhân vật đã thốt câu lừng danh: “Có mùi gì thối rữa đang bốc lên từ vương quốc Ðan mạch nầy”. ÐẾn như thơ Lục Vân Tiên cũng được đề cao:Trung hiếu và tiết hạnh được nhìn qua khía cặnh là ngoan ngoãn,sống bám theo hình thức cổ truyền.Trung với nước Pháp,nghe lời nước Pháp đang đầu hàng; ÐẾn như ca dao,ngạn ngữ của Pháp và Việt cũng được gom góp,tuyển chọn,chứng minh rằng văn hoá Việt và Pháp rất tương đồng,siêng năng,ngoan ngoãn,an phận,tin vào luật quả báo.NHưng lớp vỏ quảng cáo ấy quá mong manh.Bối cảnh lịch sử đã khác hẳn.Bản Vọng cổ xem như thôn dã,chữ nghĩa mơ hồ,xa thực tế nhưng chứng minh sự trong sáng của văn hoá Việt.Kinh nghiệm nầy,tôi thấm nhuần được nhờ xem qua Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân.Văn nghệ là sản phẩm đa dạng.Trong lúc bầu không khí nóng bỏng,nếu khó tánh ta sẽ đánh giá đây là sản phẩm vọ tích sự,cầu an,thậm chí gây tác động tiêu cực,ru ngủ...NHưng nghệ thuật,cụ thể là quyển Thi Nhân Việt Nam theo tôi thấy,lúc bấy giờ quả thật là cần thiết,với mặt chìm,tiềm ẩn của nó.Nó chứng minh rằng người Việt Nam, đã triển khai tài năng của người xưa để lại,qua ca dao,qua chuyện Kiều.Thi Nhân của thề hệ mới chịu khó,chịu vấp váp để cạnh tranh nhau,theo kiểu cạnh tranh lành mạnh;Thử đọc lại vài tuyển tập thơ ca của cuối thế kỷ 19 , đầu thế kỷ 20,ta gặp nào thơ Ðường luật,ca trù,kiểu văn chương thù tạc,lời lẽ công phu,nắn nót, đời sau chỉ nhớ đôi mươi bài hay.Thế kỷ 20 là thời kỳ mở tung với ảnh hưởng sâu đậm của Tây Phương, đẵc biệt là văn hoá Pháp,không rei-ng về thơ ca mà cả về kiến trúc, âm nhạc,hội họa.
 -Ngập ngừng mép núi quanh co,
 Lưng đèo quán dựng,mưa lò mái ngang.
 Vi vu gió hút nẻo vàng,
 Một trời thu rộng,mấy hàng mây nao.
  Nghe man mác,sâu láng,dễ hiểu,rất Việt Nam.
 -Lớp lớp mây nao đùng núi bạc,
 Chim nghiêng cánh nhỏ,bóng chiều sa.(Huy Cận)
 Hoặc:
 Lời kỹ nữ:
 Xao xác tiếng gà
 Tiếng ngà lạnh buốt
 Mắt run mờ,kỹ nữ thấy sông trôi.
 -Du khách đi,
 Du khách đã đi rồi.(Xuân Diệu)
 Phải hội nhậpvới trào lưu mới,thời đại của phi cơ, điện thoại,tàu chiến.
 Tôi đã hiểu tại sao lúc gạo châu củi quế mà Thi Nhân Việt Nam bán giá cao đã thu hút độc giả.Một cuộc tính sổ của giai đoạn thực dân.Tôi nhớ ở trường Trung học Cần Thơ học sinh chỉ mua chừng mưoi cuốn,chuyền tay nhau mà đọc. Ðọc rồi chép.Lứa trẻ luôn luôn lãng mạng,hâm mộ cả người làm thơ.Trong Thi nhân Việt Nam ghi tiểu sử,với ảnh, địa chỉ các nhà thơ,vài bạn thử gởi thơ làm quen,nói chung các thi nhân trả lời rất nhã nhặn.
 Thơ Chế Lan Viên khóc số phận người Chăm,mới lạ mà quen thân:
 -Chiều hôm nay ngồi đây trên bờ biển,
 Ta lặng đếm thử bao nhiêu thế kỷ,
 Ðã trôi trong một phút vội vàng qua.
 Ta lặng nghe cả thế giới bao la,
 Tụ họp lại trong lòng muôn hột cát.
  Hàn Mặc Tử được lưu ý và mến mộ với vài câu đơn giản mà trước ông dường như không ai nghĩ đến:
 -Nhìn nắng hàng cau,nắng mới lên...
 -Gió theo lối gió,mây đường mây,
 Cành trúc buồn thiu,hoa bắp lay,
 Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
 Có chở trăng về kịp tối nay.
Rất tiếc là trong tuyển tập nầy,chỗ dành cho Thâm Tâm và Trần HUyền Trân gần như không có.Tại sao vậy? Ðó là hai nhà thơ đắng cay với thế sự,nhưng là điệu thảm não tích cực.Thí dụ như trong Ðộc hành ca, đăng báo xuân năm ấy,phải chăng đã nhắc đến Nam Ký khởi nghĩa 1940 qua hai câu:
 -Ngẩng đầu,núi quấn mây tang,
 Ngó đông lửa cháy,nhòm Nam khói mù...
 ...Cố nhân ai hỡi người xưa,
 Dọn đi tâm sự, đây mưa về rừng !
 Cần Thơ là trung tâm văn hoá - hiểu theo nghĩa văn nghệ.Những năm ấy,sẵn cơ chế về pháp lý,bèn lập Hội khuyến học Cần Thơ với thành phần sáng lập viên là những người đáng cho nhà nước tin cậy:bác sĩ Lê Văn Ngôn (em học giả Lê Thọ Xuân ),giáo sư Nguyễn Văn Kiết dạy trung học Phan Thanh Giản,thi sĩ Trực Thần (thơ ký sở Trước bạ )...Tổ chức buổi nói chuyện về Bùi Hữu Nghĩa,về Cử Trị là những nhà thơ có phần mộ ở Cần Thơ.Bùi Hữu Nghĩa gốc ở Bình Thủy.Hai vị nầy là sĩ phu yêu nước thời Pháp đến.Họ Bùi gốc nhà nghèo,gia đình chài lưới,tới lui vùng rạch Cái Khế,său đi Biên Hòa học ở trọ nhà bà con,vợ ở Biên Hòa là bà Nguyễn Thị Tồn.Bà nổi danh với thành tích lớn:dám ra tận Huế kêu nài cho chồng khỏi án tử hình vì bị viên bố chánh Trà Vinh buộc vào tội xúi giục người dân tộc Khơme nổi loạn.Bùi Hữu Nghĩa đã bênh vực quyền lợi khai thác cá tôm (gọi thủy lợi )của người Khơme địa phương. Ông Bùi làm tuồng cải lương ra đời,Kim Thạch Kỳ Duyên như chẳng còn tiếng vang. Ông về hưu khi Pháp đến,giữ tiết tháo,hoạ vận bài thơ của Tôn Thọ Tường (theo giặc),ca ngợi nghĩa quân ở chiến khu,xem bọn theo giặc là loài cáo.
 -Hùm nương non rậm,toan chờ thuở,
 Cáo loại vườn hoang thác có ngày.
 Một góc cảm thương dân nước lửa
 Ðền Nam trụ cả dễ lung lay.
  MỘt chi tiết:Khi lâm bệnh nặng, ông khuyên người nhà sờ vào chân,thấy chân bắt đầu lạnh thì báo cho ông biết.Khi người nhà bảo đã lạnh, ông nói bình thản: “Thôi,ta đi”.Rồi tắt thở, êm ái.Hiểu rằng ông đã tu tiên từ lâu,không chủ động được trước tình thế nước mất nhà tan thì ít ra khi nhắm mắt,cũng chủ động trước số phận của cá nhân mình.Nhớ lại trường hợp Tiên Ðiền Nguyễn Du.Thích tiêu dao đó đây,câu cá ở biển Nam,săn bắn trên núi Hồng, đầu đội khăn màu vàng.Bất đắc chí vì Trịnh -Nguyễn phân tranh,khi gần hấp hối cũng căn dặn người nhà sờ thử cho biết đôi chân đã lạnh chưa.Bùi Hữu Nghĩa có bài vị tại chùa Nam Nhã,chùa Ðạo Minh Sư do ông lão (cũng như vị đại lão hoà thượng trụ trì)nổi danh là Nguyễn Giác Nguyên,một trong những lãnh tụ lừng danh của Nam Bộ hồi phong trào Minh Tân (Duy Tân ).Minh Sư là dạng tu tiên khổ hạnh,cơ ngơ tu hành không gọi là Tự nhưng là Ðường.Ngoài những buổi trình diễn thuyết về văn hoá dân tộc,hội còn mở cuộc thi văn học.Giải nhất thuộc về Phi Vân,với tác phẩm Ðồng quê,gồm nhiều truyện ngắn gây ấn tượng sâu đậm (mãi đến nay,vẫn còn độc giả ).Những chuyện vui tươi,gọn gàng.Bấy lâu,nhiều người nhận định ở Nam Bộ chỉ là “văn nói”.Với Ðồng quê của Phi Vân,ta thấy  “văn nói” nào phải lấy cái máy ghi âm để “thâu băng” rồi phát ra,viên thơ ký đánh máy lại là xong. Ðó là một kỹ thuật riêng, đòi hỏi tay nghề,câu nào phải cải biên,nói theo người viết nhạc là “biến tấu”lại,tóm gọn hoặc kéo dài ra.Chữ nghĩa trên trang sách khó diễn đạt lại giọng điệu hoặc bộ tịch của người nói.Về mặt nầy,tôi thấy Phi Vân lúc bấy giờ đâu khoảng 30 tuổi đã thành công.So với văn phong của Trương vĩnh Ký,Huỳnh Tịnh Của,luôn cả Hồ Biểu Chánh, ông đã cải tiến một bước dài với “văn nói”.
  Phi Vân (nếu tôi không lầm) là người lai Hoa,làm xã trưởng, đã chịu thâm nhập vào dân vùng Cà Mau, đúc kết những nét điển hình,ghi lại những kiểu ăn nói duyên dáng của người Việt từ miền Nam Trung Bộ,người Hoa lai Việt đi khẩn hoang tận vùng Cà Mau.Họ góp phần vào giọng ăn nói đượm vẻ vui tươi nhất là hài hước,khi khẩn hoang,cực khổ,bế tắc những lạc quan.Thí dụ như câu hò dài,mỗi câu đâu cũng 50 tiếng,nói bắt vần,chắc là từ vùng Tiền Giang do dân khẩn hoang đem tới.
  Lúc Hội khuyến học hoạt động,tôi buồn phiền vì ở Rạch Giá quê tôi có Huỳnh Mẫn Ðạt giỏi về thơ ca.Có người trưng bằng cớ về sự giao du thân mật giữa Huỳnh Mẫn Ðạt và Bùi Hữu Nghĩa,và chứng minh rằng bổn tuồng hát bội Kim Thạch Kỳ Duyên có phần đóng góp đáng kể của họ Huỳnh.Huỳnh Mẫn Ðạt quê Cái Bè (tỉnh Tiền Giang ),làm chức tuần vũ ở Hà Tiên,Pháp đánh chiếm, ông về dưỡng nhàn ở Rạch Giá,bấy giờ tỉnh Hà Tiên gồm luôn Rạch Giá, ăn luôn vùng mũi Cà Mau.Bên vợ họ Huỳnh là điền chủ,nhờ vậy mà khi hưu trí ông thỉnh thoảng đi Sài Gòn tham quan cho biết sự đổi mới của “tân trào”.Bấy giờ,chỉ dùng đường thủy,sắm chiếc tam bản có mui,với ít nhất hai người chèo,ngày đêm cực khổ, đường thủy khoảng non 300 kilômét.Theo giai thoại phổ biến,thì khi đến Sài Gòn dạo chơi,họ Huỳnh tình cờ gặp Tôn Thọ Tường.Bấy giờ thắng thế là “Việt gian”nhưng Tôn Thọ Tường vội vã xuống xe song mã,với ít nhiều mặc cảm tội lỗi,xấu hổ.Huỳnh Mẫn Ðạt làm bài bát cú,với những câu:
 -Ðã cam bít mặt cùng trời đất,
 Ðâu dám nghiêng mày với ngựa xe.
 Hớn hỡ trẻ giong đường dặm liễu,
 Lơ thơ già núp cội cây hòe.
 Núp nom cũng hổ,chào thêm hổ.
 Thà ẩn non cao chẳng muốn nghe.
  Tôn Thọ Tường vội phân trần:
 -Thế cuộc đổi dời đà lắm lắm,
 Thiên cơ mầu nhiệm hãy còn nhiều;
 Nước non dường ấy, tình dường ấy.
 Xe ngựa bao nhiêu,bụi bấy nhiêu.
 Hăm hở nhạc Tây hơi trổi mạnh,
 Nghe qua ngùi nhớ giọng Tiêu thiều.
  Bấy giờ,chưa mở đường xe lửa Sài Gòn -Mỹ Tho,những kiểu tàu cuốc (xáng) chưa đưa qua Nam Bộ hòng mở mang kênh đào nhưng Tôn Thọ Tường dự đoán rất đúng rằng sức mạnh của thực dân nào phải chỉ có bao nhiêu,như đã thấy.Còn nữa và còn nữa.Năm xưa,khi Pháp mới đến,chiếm gò Cây mai,họ Tôn bắt đầu hợp tác với giặc,thấy xốn xang: “Tò le kèn lạ mặt trời chiều”.Nhưng giờ đây,họ Tôn thấy mình quả là có lý khi theo giặc,vì giặc quả là thật mạnh.Cũng là tiếng kèn đồng của quân đội Pháp nhưng nó không phải là “tò le”tro trẻn nhưng là tiếng kèn mạnh khỏe của thế lực đang lên ! Người theo giặc vẫn nhớ,qua tiếng kèn ấy,những bản Tiêu thiều với 3 hồi 9 chặp,dạng quốc ca của triều đình xưa.
  Lũ học sinh trung học chúng tôi bấy giờ quả là cô đơn và rối rắm,chẳng biết nên làm gì.Học thêm quả là vô ích,xa vời,còn về tình hình thế giới và trong nước thì quả là mù tịt.Làm cách mạng kiểu nào đây?Gặp anh bạn bơi lội giỏi từng giới thiệu tôi qua phà Cần Thơ thì biết rằng các người chống Pháp,theo cộng sản đáng tin cậy dường như lần hồi dời chỗ ở vì một đôi người ở Cầu Kè,Tam Bình bị bắt,có thể cung khai.Anh bạn của tôi kết luận,buồn buồn:
 -Tụi mình nhỏ quá,chưa được 15,16 tuổi,không đủ trí tuệ và bản lĩng cho anh em tin cậy,lúc khó khăn nầy.Dường như Pháp và Nhật đang bắt tay nhau đàn áp.Thậm chí,người theo đạo Cao Ðài cũng bị tình nghi.Thôi thì cứ chờ.
  Thôi thử đi xem một phiên xử án ở Tòa đại hình Cần Thơ,cấp cao của miền Tây Nam Bộ,còn gọi Tòa áo đỏ.Không gặp buổi xử tội nhân chính trị,vì nghe đâu tội chính trị thì do tòa án Quân sự xử lý sao đó.Buổi ấy,xử tội sát nhân.Tội nghiệp vô cùng.Sát nhân với tang vật là phảng phát cỏ,cán không uốn 90 độ so với lưỡi,tội nhân đã “kéo cỗ”,tức là kéo lại cho lưỡi và cán nằm theo một đường thăng,trông như lưỡi gườm dài.Chuông reo,chánh án,chưởng lý,toàn người Pháp,luật sư là người Ấn mang quốc tịch Pháp.Cáo trạng dài dòng, đọc lên toàn tiếng Pháp.Can phạm bị còng tay, đứng cúi đầu,buồn bã, ở hàng khángiả,dường như có thân nhân.Hơn một giờ sau,chánh án hỏi vài câu,qua thông dịch viên.Và can phạm trả lời,có thông dịch viên.Như vậy là công lý à?Can phạm chẳng hiểu gì ráo để vào giờ chót,có thể tự bào chữa.
  Lúc gọi phạm nhân đến trước vành móng ngựa,nói rõ tên họ và quốc tịch,nói tiếng Pháp,xin tạm dịch là người nước An Nam nhưng không phải đạt dưới sự cai trị của vua nước An Nam ở xứ bảo hộ Trung Kỳ.Mà là con dân tay sai của nước Pháp ở xứ Nam Kỳ! Tôi thấy nản,nói theo ngày nay là kiểu “buồn nôn”.Bèn đi tìm anh bạn đồng môn để bàn tán bâng quơ về Tôn Thọ Tường khi gặp Huỳnh Mẫn Ðạt tại Sài Gòn.Tôi chê họ Tôn nhưng khen sơ sài.Anh bạn ngắt lời:
 -Không thể so sánh chê khen người của thế kỷ trước,hồi Tạy mới đến.Hoàn cảnh bây giờ đây có khác.Ai cũng sống với thực dân Pháp đâu từ hồi ông nội,chẳng lẽ mọi người đều đầu hàng giặc?Nên suy nghĩ lại trước tình hình mới.Thực dân bắc cầu,bồi lộ,mở trường trung học...với thuế má và mồ hôi của dân mình.NHưng tụi học trò như mình kém cỏi quá.
 Tôi lại buồn.Học không ra học. Ðánh thực dân là chuyện ôi thôi,khó quá.Nam Kỳ khởi nghĩa năm trước bị dập tắt quá nhanh,thêm người hy sinh.
  Bạn tôi nói:
 -Ðọc báo thấy kể chuyện Nhật Bổn đang chiếm nước Tàu.Bên ấy kêu gọi “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”hoặc “Cởi áo cà sa khoác áo chiến bào”,hoàn cảnh đó chắc còn lâu mới xảy ra ở Cần Thơ !
  Tôi rất yêu thơ vì thơ là sức mạnh âm thầm nhưng bền bỉ,vương vấn nhiều năm.Lòng yêu nước của tôi dính dấp cvới htơ,môn glung,lắm khi tiêu cực.KHó đoán về con người qua lời thơ do họ sáng tác hoặc thơ mà họ yêu thích.MỘt người bạn bỗng thử nghiệm dạng thơ tắc tị,khó hiểu,có lẽ ảnh hưởng của Xuân Thu Nhã Tập đã bỏ ra một tháng để làm mấy câu sau đây:
-Lạnh nhạt mai chiều duyên cỏ sương
 Rót niềm cô tịch,mộng cô đơn.
 Mắt xanh lãnh đạm người tay trắng.
 Dú ép bên lòng quả nhớ thương.
 Tình ngại sang sông đuối giữa dòng.
 Ðành cam lấp hận dưới chờ mong.
 Ngày xanh đêm trắng buồn tơ đỏ
 Hờ hững sông trong nắng rải hồng !
 Siết tay cho chết niềm sương cỏ
 Nuốt hết muôn đời lệ cỏ sương.
 Xây nốt trường thành muôn bóng đỏ,
 Ngăn hồn bướm dại mộng yêu đương.
 Tôi nhớ mãi vì người làm thơ nầy nhà rất nghèo, đi học mặc áo vá nhưng học quá giỏi,nhớ dai các bài học.Về sau,khi Cách mạng Tháng tám nổi lên,anh ta gia nhập quân đội Vệ quốc đoàn,chỉ huy một trung đội đánh trận Vàm Nhon (Cần Thơ ),hy sinh oanh liệt, đơn vị của anh đâu chừng năm cây súng lửa,kiểu súng bắn chim tịch thâu từ mấy vị điền chủ,vì họ được phép sắm súng.Trong khi ấy,không ít anh bạn đồng lớp với tôi làm thơ nghe tràn “khẩu khí”nhưng chưa chi đã vội theo giặc, đánh phá cách mạng rất hung hăng.Học hành cầm chừng,chờ bã trường,sáng chủ nhật nọ,vì không tiền dằn túi,tôi ở lại trường để “đọc sách ngâm thơ”. Ðột nhiên vào khoảng 7 giờ sáng,viên giám thị báo tin rằng cha tôi đến thăm và giám thị cho phép tôi ra ngoài chơi,trọn ngày chủ nhật.Tôi mừng thầm.Cha tôi còn mạnh khỏe nhưng ốm yếu hơn mọi khi,phải chăng vì ông mặc chiếc áo lãnh màu đen,mềm mại mà khi ở nhà tôi chưa bao giờ thấy. Áo hơi cũ,chắc là mượn của ai để khi lên thủ phủ miền Tây nầy thiên hạ không chê khen. Ở môi trường nầy,kiểu áo ấy rõ ràng là trơ trẽn,chưa hài hòa, đúng ra,phải mặc áo sơ mi trắng,như bao nhiêu phụ huynh khác..Một ý nghĩ thoáng qua giây phút.Cũng hài hòa,còn hơn là vài phụ huynh giữ cái búi tó.Một truyện ngắn nào đó khá cảm động đã kể lại,người viết truyện tỏ ra tự tin và hãnh diện.
  Tình thế đất nước như vầy mà còn xúc động,tủi thân à?Phải hãnh diện chứ.Trung nông ở rừng U Minh xa lơ xa lắc,nghe cái tên đất nhưng mấy ai đã đi đến?.
 Cha tôi và tôi đi bên cạnh,sát lề đường.Cha tôi bảo là tìm trường học nầy không khó vì Cần Thơ chỉ có một trường Phan Thanh Giản mà thôi.Cha tôi bảo  là có chút ít tiền,muốn đi dạo một vòng chợ .Nó rộng rãi, đâu có khúm núm như chợ Rạch Giá,Long Xuyên.Trường học nầy Tây xây cất lớn quá,hồi năm nào?
 Vì Cần Thơ quá rộng,tôi bèn gọi chiếc xe kéo,hai cha con ngồi lên.Tôi chỉ dẫn vài dinh thự ,nhà lồng chợ,ngân hàng canh nông rồi dừng lại để uống cà phê, ăn hủ tíu.Bên cạnh  quán cóc nầy là con rạch Cần Thơ, đổ ra sông Hậu.Tôi giải thích rằng sông Hậu nầy đổ ra biển,phía Sóc Trăng,nhưng nếu đi ngược lên phía tay trai của mình là phía Bắc thì nước đổ xuống từ nước Cao Miên,Lào.Một bên là Lào,bên kia bờ là Xiêm, ăn lên nữa tới ranh Miến Ðiện,gặp Trung Quốc rồi lên Tây Tạng cao ráo và to rộng,nơi có dãy Hy Mã Lạp Sơn.
 -Chừng bao nhiêu cây số?
 -Tới Hy Mã Lạp Sơn hơn 4 ngàn cây số.
 -Xa quá chừng,như vậy sao?Từ đây tới nhà mình ở U Minh đã xa rồi,nhưng mới được 160 cây số.Tao nghe nói ở Tây Tạng còn nhiều điều bí mật lắm.Thiên cơ bất khả lậu.Nhiều người tu luyện ở xứ đó sống vài trăm năm ,nhịn đói mà mạnh khỏe,nhờ bùa phép,thần chú.
 Rồi cha tôi nói tóm tắt rằng từ mấy tháng qua,nhiều người ăn mặc kỳ lạ,bới tóc,mái tóc quá dài,lắm khi quấn chung quanh cổ, đội nón vải màu ngũ sắc,tự xưng là dân Tây Tạng,truyền rao sắp đến lúc tận thế,muốn được cứu rỗi thìcứ tụng câu thần chú: Úm-ma-ni bắt-mi-hồng,tụng mỗi đêm trước khi ngủ chừng mươi lần...Năm nay, ít người chịu làm ruộng,phần lớn già trẻ đều mang bịnh sốt rét,thêm bịnh ghẻ hờm ,lở lói.
  Ăn điểm tâm rồi,cha tôi đi theo mé sông,như buồn rầu,cho biết gia đình dạo nầy túng bấn.Tôi nghĩ mình đã lớn khôn,buột miệng hỏi:
 -Thưa cha,như vậy là nhà túng bấn,chắc cái bộ lư thờ không bao giờ chuộc nổi.Bộ lư đem cầm ở tiệm ngoài Rạch Giá hồi năm trước.
 Cha nói tỉnh táo:
 -Món thờ cúng,của ông bà để lại.Làm sao đủ tiền chuộc,cứ đôi ba tháng,mấy năm rồi ,ba tới đóng tiền lời.Riết rồi ba xin bán rẻ cho tiệm cầm đồ,lấy mấy đồng bạc, ăn xài cũng hết.
 Thấy tôi lặng thinh hồi lâu,ba tôi gật gù:
 -Con là đứa có hiếu,còn nhớ chuyện bộ lư.Học hành dở dang là do thời cuộc.Thí dụ như thi đậu thì đi làm công chức cho ai?Tụi Tây coi bộ không còn lâu ! “Thần suy quỉ lộng”Hương quản là người giữ trật tự,bắt trộm cướp vậy mà từ mấy tháng nay lại chứa chấp bọn trộm cướp, đành rằng không phá phách làng mình nhưng lại đi phá làng khác,bày tiệc ăn mừng ,om xòm trong xóm.
 Ðối với tôi,ba tội khi gọi con,khi bằng mầy,trong tình thân mật:
 -Mầy tính chuyện nghĩ học là vừa.Muốn học thêm nữa,ba cũng không có tiền gởi hàng tháng.Ba thấy đi học không ích lợi gì hết,mấy năm nay.
 Tôi đáp thật tình:
 -Coi vậy cũng ích lợi về văn chương Việt Nam và thế giới.Mình biết nhiều điều hơn hồi ở bậc tiểu học.chữ Pháp giúp cho mình thấy chân trời quá rộng,tùy theo quyển sách mình đọc và mình hiểu.
 -Mầy thí dụ cho tao nghe.
 Thật là khó tìm một vài thí dụ..Hồi lâu,tôi cố trả lời:
 -Nhà văn Pháp nọ,Anatol France, được trích văn làm bài học trong lớp ghi lại rằng con đường mà học trò mỗi buổi sáng đi trước khi đến trường là bài học về cuộc sống.Học trò thấy nào xe cộ,người bán thức ăn,những món quà vặt...ai ai cũng góp phần cho xã hội.Và học trò đã đi tung tăng ngang qua công viên cây xanh to rộng,nơi chưng bày nhiều pho tượng đá xinh đẹp.Lớn lên,người học trò năm xưa trở thành nhà văn Anatol France.Hai chục năm qua,tác giả đã đi được phân nửa đường đời,trời vẫn như xưa, đất cũng như xưa,chỉ thiếu bóng dáng cậu học sinh là mình đây tươi trẻ,thuở nào.Tác giả ao ước đứa con trai của mình cũng hiền lành,lạc quan như cha nó ngày nào.
  Nghĩ đến đó,tôi giựt mình,cúi mặt.Cha tôi mỉm cười,nụ cười hiền lành của một người lão thành:
 -Tao có đi học hồi nào đâu mà viết văn tả lại cho mầy đọc.Họa chăng mầy viết lại cho con mầy .Hồi đó,rừng rậm vùng U Minh,không bao nhiêu căn chòi.
 KHông muốn xin lỗi cha,tôi nhớ,theo lời kể lại thì cha đã tự học chữ quốc ngữ rất khó khăn.Mãi đến sau nầy, ông viết chữ khá to,bỏ dấu kỷ lưỡng,quanh quẩn viết vài chữ như tỉnh Rạch Giá,làng Sóc Sơn,làng Ðông Thái,giấy còn dư thì ông cứ ký tên nhiều kiểu,chữ tháo,gạch đít ngắn hoặc dài,xem chữ ký như là tín hiệu biểu lộ nhân cách của mình.
  Thế là xong cuộc đời nhà trường,nhà nước còn nuội cơm,ngu dại gì mình không ăn.Về nhà sớm, ích lợi gì. Ở Cần Thơ,nhiều người bạn tốt,có sách báo đọc.Sách từ Hà Nội đưa vào khá nhiều,in trên giấy bản đen đúa,giá khá cao.Mấy đứa bạn yêu sách,nhờ gia đình khá giả đã chịu khó mua.Những người bạn mà chắc không bao giờ mình còn gặp được trên cõi đời.
 Ngỡ rằng thực dân Pháp chừng vài tháng nữa sẽ bị lật đổ nhưng không phải vậy.
 
Mùa khô  2001

Hồn người trong ly rượu


Trong gian phòng hơi tối, hùng chăm chú nhìn mấy con số thâu xuất trong quyển số “công nho” làng Tây Yên:
- Đinh Văn Mão đóng thuế điền 2 đồng, biên lai số 00217.
- Quách Yến đóng thuế thủy lợi Kinh Dài 65 đồng, biên lai số 00218.
- Tu bổ trường làng ngày 21-1-1937, xuất 6 đồng 8 cắc 6 xu...
Chàng buông viết xuống, đi nhanh đến vách để tìm cái bàn toán. Từ hồi nhận chức vụ biện làng, làm việc tại nhà ông Tư đến nay chàng mới sáng mắt: người Trung Hoa bày ra cái bàn toán thật tiện lợi, để sử dụng, khi lắc mấy con toán, âm thanh vang lên đều đều, vui vui.
Cái bàn toán treo hơi cao, kế bên tấm lịch. Chàng vói tay lên chợt rùng mình vì từ trong phòng, một bàn tay trắng muốt đưa ra, nắm chặt bàn tay chàng. Chàng suýt kêu to vì ngạc nhiên, vì sợ hãi:
- Ai... vậy?
Người chủ của cái bàn toán ngà vẫn chưa chịu xuất hiện. Nàng nói lanh lảnh:
- Anh này giả ngộ hoài! Hổm rày tôi biết... anh mê tôi lắm nhưng anh sợ, anh không dám nói ra. Phải vậy không?
Hùng định thần, tìm cách gỡ rối. Cô Huệ, người vợ mơn mởn của ông xã Tư đang trêu ghẹo, thử thách chàng. Huệ là người ở cùng xóm. Năm mười bảy tuổi, hồi năm ngoái, nàng vâng lịnh cha mẹ để làm lễ vu qui, làm vợ ông xã Tư. Ông xã tuổi hơn năm mươi, lớn hơn nàng những bốn chục cái xuân xanh, và ông ta cũng giàu có hơn gia đình nàng gấp trăm lần! Hùng lẩm bẩm:
- Trời! Tội nghiệp tôi, bà ơi.
Huệ cười giòn, lú mặt ra, bàn tay nàng vẫn bám chặt cổ tay Hùng:
- Hễ anh kêu tôi bằng bà thì nắm chặt như vầy hoài.
Hùng lắc đầu, mấy giọt mồ hôi tươm ra như sương trên vầng trán đau khổ:
- Rủi ông xã về thình lình, chắc ông giết tôi quá!
- Bây giờ anh muốn chết hay muốn sống?
- Dạ, muốn sống.
Mấy ngón tay Huệ như bắt đầu mở vòng vây.
Nàng nói:
- Sống để làm gì?
- Dạ, sống để... làm biện làng, giúp việc cho ông xã.
Huệ buông tay xuống cười khanh khách rồi tát yêu vào má Hùng:
- Anh này nói dóc quá. Tôi nói cho anh mừng, sáng nay nhà tôi đi hầu quan chủ quận, tới chiều mới về. Trong nhà, chẳng còn ai. Con nhỏ ở dưới bếp là đứa thân tín.
Dứt lời, Huệ bước ra khỏi phòng. Hùng cầm cái bàn toán, đặt trên bàn rồi ngồi ghế giả bộ như say sưa làm việc. Ngoài hiên, cơn gió nhẹ thổi qua, vô tình đẩy cánh cửa khép lại he hé. Ấm áp quá. Nhưng Hùng vẫn chưa yên tâm. Mấy năm trước, chàng gặp Huệ nhiều lần qua mấy dịp cúng đình làng, hai người cùng nhau trao đồi những cái liếc tình tứ. Thế thôi. Rồi nàng ngoan ngoãn vâng lịnh cha mẹ, làm vợ lão xã Tư. Xã Tư vốn nổi danh gian ác, giết người không gớm tay. Cuộc hôn nhân trái cựa ấy khiến dân làng bàn tán không ngớt. Đa số cho rằng Huệ ham tiền, muốn chiếm đoạt gia tài ông xã Tư trong mai hậu. Nhưng lại còn giả thuyết:
- Ông xã Tư có bùa, có ngải, Huệ đã uống nhằm bùa của lão ta chuộc từ núi Tà Lơn huyền bí.
Huệ đứng dậy, bước khoan thai đến bàn giữa, rót tách nước đem lại dâng cho Hùng với dáng điệu trịnh trọng:
- Mời anh... Anh nhát quá.
Bấy giờ, Hùng bắt đầu tỉnh táo. Bao nhiêu khí phách bừng sôi mạnh trong huyết quản của chàng trai yêu đời. Huệ là gái có chồng, đang sống trong vòng áp bức của ông chồng già, nghiêm khắc mà nàng còn đủ can đảm huống chi chàng... Nếu ông xã đuổi, chàng đi tìm sanh kế nơi khác và rủ Huệ trốn theo.
Chàng nâng tách nước uống một hơi. Nàng cười:
- Thủng thẳng mà uống. Coi chừng phỏng miệng.
Chàng đáp:
- Chết cũng không sợ, miễn là...
Rồi hai người tha hồ trò chuyện, kể lể cho nhau bao nỗi nhớ nhung uất hận. Nàng an ủi Hùng:
- Em nói với ba má gả Lan cho anh.
Lan là em gái của Huệ, siêng năng hơn Huệ nhưng kém lộng lẫy hơn. Hùng cau mày:
- Anh chỉ yêu Huệ mà thôi.
Huệ đáp:
- Anh này bướng quá, lì quá. Em hiểu lòng anh từ mấy tháng nay. Nhưng từ rày về sau, anh nên cẩn thận. Hôm trước, anh vô tình vẽ lại mái tóc của em trên tấm giấy chậm. Chồng em đã chú ý rồi đó...
Từ đó về sau, mỗi dịp ông xã Tư đi hầu quan chủ quận “mỗi tháng hai lần, để nạp thuế”, hai người tha hồ ân ái. Hùng đánh bạo, vào phòng của Huệ, nằm trên chiếc gối thêu rồng thêu phụng bấy lâu chỉ dành cho ông xã Tư.
Huệ càng đẹp, càng xinh thêm.
Hùng thỉnh thoảng ca vọng cổ trước mặt ông xã Tư. Ông xã cười gằn, liếc lên vách, nhìn cái bàn toán treo sát cửa phòng. Và cách cái bàn toán chừng vài tấc là thanh đoản đao bén ngót, mua từ miền cao nguyên.
Hôm ấy, sau khi rảnh việc, Hùng về nhà trọ ở xóm vàm. Chàng đang sờ vào túi, đếm thử mấy đồng bạc chợt nghe tiếng gọi to, phía sau:
- Chú biện!
Đó là ông xã Tư. Ông ta gọi lần nữa, giọng rắn rỏi hơn:
- Hùng! Mày đứng lại.
Nghĩ rằng xã Tư là kẻ đa mưu, chẳng lẽ ông ta dám giết mình lúc ban ngày, gần xóm đông đúc nên Hùng mạnh dạn đứng lại:
- Thưa ông...
- Mày đi đâu vậy?
- Dạ về nhà.
- Tao hỏi mày đi về... âm phủ hay muốn ở lại dương gian. Mày nghe rõ chưa?
Hai người bước chậm rãi bên cạnh nhau. Hùng chú ý một điều: ông xã không mang khí giới... gương mặt cau có chứng tỏ ông ta ghen bóng ghen gió chứ chưa nắm được bằng cớ nào cụ thể. Để tỏ rằng ta đây là... anh hùng, chàng nói thẳng:
- Tôi đã nói chuyện riêng với... bà nhiều lần, lúc ông vắng mặt.
- Tại sao mày không nói lúc tao có mặt? Chuyện riêng là chuyện gì? Nói thật đi, tao tha tội cho. Tao biết mày quen với gia đình bên vợ tao, từ lâu...
Mấy tiếng “gia đình bên vợ” giúp Hùng tỉnh táo, sáng trí. Chàng xoay sang vấn đề khác:
- Thưa ông, tôi quen với gia đình bên ông... Xóm giềng ai cũng biết...
Rồi chàng cố tình ngưng câu nói, chờ ông xã Tư thúc hối:
- Mày muốn làm rể hả? Tao cưới con Huệ, mày tức hả?
Thấy ông xã Tư đã lọt vào quỉ kế của mình. Hùng nói:
- Xin ông đừng nóng giận. Tôi muốn làm rể và khi ông cưới cô Huệ, tôi tức giận thiệt đó...
Rồi chàng dang xa vài bước, thủ thế:
- Nhưng... tôi muốn cưới Lan, em cô Huệ. Tôi tức giận vì mình nghèo túng. Phải chi tôi có chức phận làm được hương thân, hương hào thì đâu đến nỗi thất vọng vì tình.
Ông xã Tư gật đầu từng chập, bán tín bán nghi. Có lẽ thằng Hùng thổ lộ tâm tình chân thành của nó vì Huệ còn đứa em gái khá đẹp mà ông xã toan đem về làm... tỳ thiếp trong mai hậu. Tuy nhiên, câu trả lời của Hùng vẫn chưa đánh tan sự ghen tương:
- Mày nói với vợ tao chuyện gì? Nói mấy lần? Nói tại đâu?
- Dạ, nói nhiều lần. Tôi nhờ cô Huệ trình bày hoàn cảnh tôi với ba má cổ. Tôi muốn nhờ ông giúp giùm, nói vô vài tiếng ngặt tôi chưa dám.
- Ờ... Để tao coi lại.
Đến xóm trên, ông xã Tư ghé vào quán, uống rượu liên miên, tìm cách ứng phó. Hùng nhanh trí, bơi xuồng thẳng về phía Kinh Dài, nơi trú ngụ của gia đình Huệ. Chàng thuật đầu đuôi tai nạn đã xảy ra rồi quì xuống lạy.
Ông hương kiểm Lưu, cha của Huệ ban đầu tức giận nhưng ông nghĩ đến tương lai Huệ, thở dài. Hùng nài nỉ thống thiết:
- Ông xã Tư đa mưu túc trí, dám giết tôi để trả thù, giết cách này hoặc cách khác... Xin bác bình tĩnh giúp đỡ cháu. Cháu hiểu phận mình chưa xứng đáng làm con rể trong gia đình.
Ông Hương kiểm Lưu bỗng giật mình:
- Xã Tư bây giờ ở đâu?
- Dạ, ổng uống rượu ở quán, tại xóm vàm.
- Nguy lắm. Lan ơi!
Lan bước tới, khép nép cúi chào Hùng. Ông hương kiểm day lại Hùng:
- Mày đi cho khuất, kẻo thiên hạ sanh nghi.
Hùng trố mắt, bước ra về, nghe ông hương kiểm căn dặn Lan:
- Con tới nhà chị Huệ, nói như vầy, như vầy... kẻo người nói một đàng, người cung khai một nẻo. Đi cho gấp kẻo.... xã Tư về trước. À! Đem nải chuối cau này, gọi là mượn cớ thăm viếng.
Năm ba hôm sau, Hùng cúi đầu làm việc, chẳng dám nhìn Huệ hoặc ông xã Tư. Thái độ ông ta thật khó hiểu, thỉnh thoảng vào phòng nói chuyện rù rì với Huệ rồi trở ra. Hùng mừng thầm hy vọng tai qua nạn khỏi vì chàng đã đánh lạc hướng xã Tư một cách khéo léo.
Xã Tư mở tủ, trao cho Hùng mười đồng bạc. Hùng trố mắt:
- Thưa ông, chưa tới ngày lãnh lương.
- Tao cho mày mượn.
- Dạ, làm sao tôi có tiền trả lại.
Xã Tư nói:
- Tao biểu điều gì, mày đừng cãi. Ngày mốt, mày cưới vợ.
- Dạ, cưới ai?
Câu hỏi vặn ngược khiến ông Tư càng nghi ngờ. Tại sao biện Hùng thú thật rằng nó yêu Lan nhưng nó lại không biết... cưới ai làm vợ? Ông ta nói:
- Cưới con Lan. Tao nói với con Lan rồi. Ông hương kiểm Lưu đồng ý. Mày cầm số tiền này may sắm quần áo. Ngày mốt ông hương kiểm Lưu làm đám nói cho mày có thể xuống nhà ổng ăn cơm, ở tại đó để làm rể. Hàng ngày, mày được quyền nói chuyện tình với con Lan. Ban đêm mày... tự do ra vào phòng của nó.
Quả thật ông xã Tư là đối thủ lợi hại. Ông ta xuất ra số tiền ấy để làm kế ly gián khiến cô vợ trẻ nghi ngờ mối tình son sắt của Hùng. Hùng đau xót nhưng chẳng biết nói sao... Đôi mắt chàng long lanh ngấn lệ:
- Tôi chưa muốn cưới vợ.
Xã Tư cười, đắc chí:
- Thằng này lạ quá. Muốn cưới vợ lại không muốn. Mày giỡn với tao hả? Người ta cưới vợ rồi cười, mày lại khóc hận. Mua sắm quần áo đi. Từ giờ phút này, tao cấm mày nói chuyện riêng với vợ tao, hiểu chưa. Nếu bắt gặp, tao giết mày. Xứ này, thiên hạ nghe oai danh tao quá nhiều. Tao giết bất cứ ai, nếu tao muốn. Tao không sợ ở tù đâu... Và hễ giết kẻ gian thì lương tâm tao không bao giờ ăn năn hối hận gì ráo.
Hùng ngoan ngoãn cúi đầu. Bơ vơ quá. Bỗng dưng, chàng yêu Huệ hơn bao giờ hết. Ngày mốt, chàng làm lễ hỏi Lan. Vô lý quá. Chẳng biết khi hay tin này, thái độ của Huệ ra sao? Xã Tư độc ác thật. Hắn ghen tương, trả thù, bày kế ly gián để giết lần giết mòn cuộc đời Hùng và Huệ.
Nhưng khối óc non nớt của Hùng chưa suy luận, tiên đoán nổi những chuyện sắp xảy tới.
Ngày mười lăm dương lịch, xã Tư đi hầu quan chủ quận như thường lệ. Huệ nằm rũ rượi trong phòng. Từ khi làm lễ hỏi Lan tới giờ, xã Tư bắt buộc Hùng nghỉ việc mười hôm. Ông ta bảo với vợ:
- Em đừng hiểu lầm. Anh cho thằng Hùng nghỉ tạm để vợ chồng nó hưởng tuần trăng mật. Sau đó, nó về đây làm sổ sách như trước.
Huệ ngơ ngác:
- Mình nói sao? Hùng hưởng tuần trăng mật?
- Nó ngủ chung một phòng với con Lan.
Huệ đập tay xuống bàn, giận dữ. Xã Tư liếc thấy sự ghen tương đang hiện rõ trên mặt vợ. Huệ còn yêu Hùng. Huệ không muốn Hùng... nhập phòng với Lan.
Ông ta cười gằn:
- Em giận ai?
Huệ lanh trí, tìm được câu trả lời:
- Em giận tất cả mọi người. Mới làm đám hỏi mà nhập phòng à? Tục lệ nào cho phép chuyện bất lương đó?
Ông ta đáp:
- Tôi muốn như vậy để thằng Hùng khỏi làm chuyện bất lương khác.
Nói xong, ông ta xuống ghe, ra lịnh cho mấy thằng trạo chèo đi dinh quan chủ quận ở tận chợ Gò Quao.
Gian nhà trống trải lạ thường. Hồi lâu, nàng thấy Hùng và Lan bước vào. Lan rưng rưng nước mắt khi gặp chị:
- Chị đừng hiểu lầm.
Huệ vội đóng cửa phòng:
- Về đi! Về hết đi! Tao muốn chết.
Hùng chạy tới, xô cửa phòng, nói nhanh:
- Huệ, em đừng dại dột. Hễ anh nói, chắc em không tin. Hôm nay, anh dẫn Lan tới đây. Lan sẽ trình bày cho em biết tất cả sự thật.
Bây giờ, Huệ mới bắt đầu yên tâm. Hai chị em Huệ và Lan ôm nhau khóc nức nở. Lan nói nghẹn ngào:
- Ông xã bắt buộc Hùng và em phải ngủ chung một phòng để gây dư luận xấu. Thiệt ra anh Hùng là người tốt. Đêm đó, anh Hùng ngủ dưới đất, em thì ngủ một mình trên giường.
Huệ nghiến răng:
- Khổ quá. Tại sao ba má không cản ngăn.
- Dạ, ông xã hăm he. Nếu ba má từ chối thì ông xã sẽ làm lớn chuyện, giết chị lập tức. Ông nói chị tư tình với anh Hùng...
- Chị hiểu rồi... Vợ chồng em về đi!
Hùng và Lan vô cùng bối rối. Cuộc thăm viếng này sẽ làm cho Huệ uất ức đến mức tự tử. Chàng nài nỉ Huệ:
- Lan đến thăm để nói sự thật. Huệ à, anh thề chung thủy, sống chết với Huệ. Anh chỉ sợ Huệ thay lòng đổi dạ thôi.
Rồi chàng lau nước mắt cho Huệ. Nàng nắm tay chàng:
- Anh nhớ giữ lời hứa. Em sợ rằng...
- Thôi, em đừng nói nhảm! Lan cứ về một mình. Anh ở lại đây làm sổ sách....
Khi xã Tư trở về nhà, Huệ và Hùng đều sợ sệt.
Mọi khi ông ta về vào khoảng bảy giờ tối. Phen này, mười hai giờ trưa, ông ta về để làm gì? Phải chăng Hùng và Huệ vừa sa vào cạm bẫy ông ta?
Hùng đứng dậy chào:
- Ủa! Ông không đi dinh quận sao?
Xã Tư vỗ vai Hùng:
- Đừng gọi tôi bằng ông! Hai đứa mình là bạn rể với nhau. Cứ gọi tôi bằng anh.
Rồi ông ta hạ giọng:
- Hay gọi thân mật... bằng thằng, thằng xã Tư cũng được.
Huệ đỡ lời:
- Mình nói khó nghe quá. Hay là bữa nay mình uống rượu nhiều?
- Mới uống rượu chút ít. Tôi mới mua được một con khỉ nên lật đật trở về làm tiệc. Mình ăn thịt khỉ chớ. Để Hùng xuống ghe, đem con khỉ lên.
Nói xong, ông xã Tư nắm tay, dắt vợ vào phòng.
Ngoài này, Hùng bước lững thững ra sân, xuống ghe với hai thằng trạo thân tín của ông xã. Chiếc ghe rời bến, vào mương nhỏ khuất lá um tùm.
Xã Tư đem cái ly to lớn để trên bàn nói rối rít với Huệ:
- Máu khỉ uống bổ lắm. Hổm rày, em xanh xao...
Huệ trợn mắt. Linh cảm như báo trước điềm không may:
- Ừ? Uống bổ lắm.
Cánh cửa hé mở. Một thằng trạo bước vào, nâng một tô rượu đỏ ngầu. Xã Tư cười hề hề:
- Em uống đi.
Huệ nâng tô rượu lên... Trong đáy tô rượu đỏ ngầu, tanh tanh, dường như ẩn hiện một dáng người... Nàng run rẩy, buông tay. Tô rượu đổ xuống bàn, văng vào áo ông xã.
Xã Tư hỏi:
- Em chóng mặt hả?
Huệ nói gắt:
- Em muốn mửa. Uống rượu như vầy, dã man quá! Dã man!
Xã Tư hiểu rằng Huệ đang chửi mắng mình. Ông ta nắm tay vợ:
- Em buồn mửa thì ra ngoài này... Mửa ở đây, dơ dáy nhà cửa.
Ông ta đưa Huệ đến cái mương sau vườn rồi dắt nàng xuống chiếc ghe, nơi Hùng nằm sóng sượt tắt thở trong vũng máu linh láng.
Huệ chạy trở vào nhà, rút thanh đoản đao - thanh đoản đao treo gần cái bàn toán, ngay cửa phòng. Nàng chờ đợi, đứng nép bên cửa.
Nàng đâm ngay bụng xã Tư rồi đâm vào ngực mình, ngã gục.
Từ đó về sau, thiên hạ đồn rằng Huệ trở thành ma quỉ linh thiêng, gọi là cô Huê, cô Huê ở cây dương đình làng Tây Yên. Huê chính là Huệ, nói theo giọng kỵ húy.

Bác vật xà bông


So với các rạch khác ở ven vịnh Xiêm La, vùng Xẽo Bần thuộc vào hàng tương đối sung túc. Dân ở đấy sanh sống bằng hai nghề: phá rừng lấy củi và khi tiết trời thuận tiện, họ ra biển đánh lưới tôm. Tiền bán củi vừa đủ cho họ mua gạo ăn, thuốc hút; nghề đi lưới thì chỉ đem lợi riêng cho một số người có ghe, có lưới. Người đi bạn thường lãnh tiền buổi, tùy theo lưới trúng hoặc thất – tay làm hàm nhai. Ðôi mươi mái nhà lá, vài ba gốc dừa không trái: ngọn Xẽo Bần xơ rơ như vậy đó. Chung quanh là cánh đồng cò bay thẳng cánh nhưng đầy năn kim, ô rô, cỏ ống. Cò lông bông, trích, cúm núm bay lượn tối ngày.
Dân làng nào tha thiết đến vùng đất phù sa nê địa! Vì vậy, khi ông bác vật X, đến xây nền đúc, cất nhà ngói, tự xưng là chủ đất thì không một ai xao xuyến cảm thấy quyền lợi mình bị đụng chạm.
Trái lại, họ rất vui mừng.
Trước tiên, ông bác vật đích thân đến thăm từng nhà trong xóm. Hễ gặp ai chào hỏi quá khúm núm, ông can gián:
- Bà con cứ bình đẳng, đừng nên gọi tôi bằng ông, tôi còn nhỏ tuổi lắm. Cứ gọi tôi bằng dượng Hai. Ðất này của bên vợ; vợ tôi thứ hai.

Hỏi qua vấn đề nền nhà, ông bác vật trả lời:
- Ai lỡ cất nhà nơi đâu, cứ yên lòng ở đó. Tôi không bao giờ có ý đuổi bà con. Tôi còn muốn kêu gọi bà con đến thêm, ở đông chừng nào vui chừng nấy,  thỉnh thoảng mời bà con vô nhà tôi chơi.  Lúc nào tôi cũng ở nhà để lo việc khoa học. Tánh tôi bình dân lắm, ai có chuyện gì khó hiểu tôi sẵn sàng giải thích.
Kể từ đó, buổi trưa hoặc buổi tối, nhà ông bác vật luôn luôn tấp nập. Ði rừng bắt được rùa, săn được heo rừng là bà con nghĩ đến ông, đem lại tặng. Ðáp tạ thạnh tình ấy, ông bác vật dắt từng người vào phòng làm việc của mình. Trên vách, hai hàng kệ đầy sách mỗi quyển dầy hơn tấc tây, lưng da mạ chữ vàng lấp lánh. Một cái bàn tròn chiếm giữa phòng. Trên đó đủ kiểu ly, hũ, bầu... Toàn bằng pha lê trong vắt: cái thì méo miệng, cái thì tròn như trái dừa, có cổ dài uốn éo như cổ cò. Lại thêm chiếc đủa bằng pha lê dụng đúng trong ống, dài theo ống có lằn đỏ như vạch đo từng phân, từng ly tỉ mỉ.
- Thứ gì ngộ quá vậy, dượng Hai.

Ðáp:
- Ðồ dùng để thí nghiệm hóa học.
- Hóa học là chi vậy, thưa dượng.
ông bác vật mỉm cười:
- Khó cắt nghĩa lắm. Thủng thỉnh, bà con sẽ rõ. Hóa là biến hóa... Các chất hóa học hiện nay còn thiếu mới mua được chút ít. E nguy hiểm, tôi chưa dám cho bà con xem.
Mãn buổi thăm viếng, bà con xóm ngọn Xẽo Bần vô cùng thắc mắc. Ban nãy, còn biết bao nhiêu câu hỏi mà họ không dám hở môi thố lộ rạ Giờ đây, họ xúm xít lại bàn tán cho hả hơi:
- Bà con biết không? Nghe tới hóa học tôi điếng hồn. Rủi ro nó nổ bất tử. Nội mấy cái ly, cái bầu của ổng cũng đủ ghim miểng nát bấy thi thể bà con mình.
- Ðừng nói bậy! Người ta dùng nó được nên mới dám chứa chấp. Tôi nghi dượng Hai mình làm... Quốc sự. Nhè ổng chế tạo bom đạn, dân chúng ở đây, ắt phải liên can.
- Ừ, tôi coi ổng là người có kỳ tài.
- Kỳ tài gì? Thực lộc chi thệ Chắc ổng có bằng cấp bên Tâỵ Nhờ vậỵ.
- Bằng cấp gì? Có thì ổng nói rồi.  Chắc là “nhảy đầm” ở bển rồi về đâụ Năm ngoái tôi đi Trà Vinh gặp ông nọ xưng là bác vật canh nông. Ổng trồng mười cây đu đủ; lớn lên toàn là đu đủ đực...
- Nói xấu thiên hạ đi! Biết đâu ổng muốn trồng đu đủ đực để thí nghiệm.
- Ối thôi! Hơi đâu mà cãi.  Xứ mình không bao giờ có nhơn tài được. Ði qua học bên Tây, nếu người Việt Nam nào trổ tài thì Tây ám sát hết. Tụi nó “muối nước đá” bắt nhơn tài của mình đem ướp cho chết, không cần đâm chém hoặc chích thuốc cho loạn óc, tê bại... Dầu sao Dượng Hai mình cũng là người dễ thương biết chữ nghĩa nhiều hơn mình.
Rồi thì ai về nhà nầy, sáng thì đi lưới, tối lại phá rừng. Công việc sanh nhai của họ ngày thêm đình trệ. Làm ra được, ngặt bán không ai muạ Vải bô giá càng mắc, kiếm không ra. Có điều lạ là dạo ấy thuốc ký ninh mua rất rẻ, thứ ký ninh bọc đường uống ngọt ngọt. Thiên hạ bảo đó là phát minh của Nhựt Bổn, thuộc dòng giống da vàng như người Việt Nam mình, nhưng họ biết chế thứ máy bay có mặt trời đỏ sau đuôi, thường bay lượn dài theo ven biển nầy.
o0o
Dượng Hai bỗng trở nên vui vẻ lạ thường, kể từ ngày đi Bến Tre về.
Trước mặt bà con chòm xóm, dượng tuyên bố:
- Mình ở đây sống trên kho vàng mà không hay. Nay mai, ai nấy đều có công ăn chuyện làm. Tôi sẽ cất một cái xưởng lớn. Thời Trời giúp tôi.
Có người hỏi:
- Mình dùng hóa học để chế tạo ra vàng, phải không?
Dượng im lặng mỉm cười rồi mở tủ, lấy cho mọi người xem một khối vuông, màu vàng như đất sét:
- Ðây là xà bông của tôi mới chế tạo như ở Bến Tre.  Cỡ này, nó lên giá gấp ba vì không nhập cảng nguyên liệu hóa học được. Tôi hy vọng giúp bà con công ăn việc làm, xưởng xà bông của tôi sẽ cất tại đây thật gấp, cần dùng hàng trăm nhân công.
Họ trố mắt nhìn cho biết thứ xà bông mới lạ đó. Hồi nào tới giờ, ở đâu ít ai cần dùng đến xà bông nên không mua về. Họ dùng cám hoặc vỏ trái khóm chà vào bàn tay là bao nhiêu bụi bặm, dầu mỡ đều trôi hết.
Dượng Hai nói tiếp:
- Lúc này Nhựt Bổn đánh giặc với Ðồng Minh. Ðường giao thông tiếp tế bị ngăn cản. Vì vậy, thiếu xà bông. Giá xà bông từ hai cắc một kí lô đến sáu cắc. Nay mình chế tạo xà bông bổn xứ, bán chừng bốn cắc thì thiên hạ xúm lại giành mua như tôm tươi, mặc dầu xấu hơn chút ít!
- Ở Xẽo Bần nầy, làm sao đủ vật dụng?
- Sao không đủ! Mình cần dùng có hai món: dầu dừa với nước tro. Dầu dừa đã sẵn sàng: Ra Hòn Tre mua dừa khô về thắng lại. Nước tro thì nào là tro than đước, tro bẹ dừa, tro cây mắm. Nhứt là câu mắm, mọc đầy bãi biển, tro nó mặn hơn hết và rẻ vốn hơn hết.
- Nấu cách nào vậy dượng? Ðể tụi tôi về nấu thử.
“Ðể tụi tôi về nấu thử”. Mấy tiếng đó khiến cho vầng trán của dượng Hai nhăn lên, thoáng qua chút gì lo ngạị Nhưng chỉ thoáng qua thôi! Dượng cười to, lấy trong tủ đem ra một cái ống thiếc.
Mở ống, bên trong ló ra một vật khác bằng thủy tinh nhỏ hơn chiếc đũa, bề dài cũng ngắn hơn, một đầu thì tròn vo. Dượng nói:
- Ðây là... Cái ống thủy. Phải có nó mới nấu xà bông được. Dùng để cân nước tro.
- Cân là làm sao dượng?
- Cân là đo lường sức nặng của nước. Thí dụ như chén nước tro này: muốn biết mặn hay lạt, phải thả cái ống thủy vô coi thử nó mặn tới mấy độ.
Nói xong, dượng bỏ ống thủy vào nước tro. Lạ thay! Ống thủy dựng đứng. Dượng nói:
- Số 32, bà con thấy chưa. Bây giờ tôi đổ nước lạnh từ từ. Nước tro bớt mặn, ống thủy nổi không phải ngay số 32 mà thấp hơn: con số 31, 30, 29. Phải mặn đủ chữ nước tro mới hiệp với dầu dừa để thành xà bông. Bằng không hai thứ ấy cứ lỏng bỏng. Ống thủy này bây giờ mắc lắm, bên Tây không còn gởi qua được. Bí mật của nghề làm xà bông là vậy... Thôi, mai này bà con lại đây, tôi nấu thử cho coi.

Buổi gặp gỡ khi nãy mở đầu cho bao nhiêu hậu quả tai hại mà dượng Hai không đoán trước được. Dân chúng ở ngọn Xẽo Bần suy nghĩ: nếu mình chế tạo được xà bông thì tội gì đi làm mướn cho dượng Hai. Bà con lối xóm có thể tự ý mở ra mỗi người một xưởng nhỏ. Điều quan trọng là nấu một lần coi nó có đặc không, thay vì dùng ống thủy để cân nước tro, họ dùng lưỡi mà nếm thử.
Trong khi Dượng Hai thí nghiệm xà bông tại nhà, đằng này bà con xóm Ngọn cũng bỏ hết công việc làm để... “nấu” với kiến thức tối thiểu của mình. Nước tro cây mắm, dầu dừa và nước lạnh trộn trong chảo, bắc lên bếp. Họ ngóng xem kết quả. Nhắm chừng xà bông có thể đặc, họ cho nhiễu vài giọt trên giấy hút thuốc. Nhưng lạ thay! khi đổ ra khuôn, xà bông chỉ đặc trên mặt, lớp dưới lỏng bỏng toàn nước tro mặn đắng.
- Tại mình thiếu cái ống thủy để cân nước tro - Một người nói.

- Phải đó! Tro cây mắm mặn không đồng đều, cây già mặn hơn cây non, khúc gốc mặn hơn khúc ngọn, tôi chắc như vậy.

Có người thỏ thẻ:
- Hay là... để tôi lại đẳng lén ăn cắp cái ống thủy đem về đây cho bà con mình xài.

Người khác can gián:
- Ở tù chết. Hơn nữa, đem về đây mình biết xài nó theo cách nào.  Ai biết số, biết chữ? Tôi tưởng mình nên ăn cắp một chút nước tro, thứ nước tro mà ổng đã thí nghiệm, được coi là đúng chữ. Ðem chén nước đó về đây, mình cứ chế tạo một cái ống thủy khác, không cần mua ở bên Tây như ổng.
- Làm cách nào?
- Mình kiếm cái chai dầu gió cũ, bỏ dằn vào đó một hột chì rồi đậy nút lại, để chai nọ không nằm ngang khi nổi trên mặt nước. Ðó là ống thủy của mình tạm chế tạo. Bấy giờ mình thả chai dầu gió nọ vô nước tro, thứ nước tro mà dượng Hai đã cân rồi, đúng chữ. Hễ chai dầu gió chìm xuống đến mức nào, mình ghi lằn mặt nước ấy vào hông chai.
Ý kiến đó được hoan nghinh và thi hành.
Thế là vài ngày sau mỗi người đều có một ống thủy riêng biệt. Dượng Hai nào hay biết chuyện gì, ngày hai buổi, dượng đinh ninh rằng với một kế hoạch châu đáo, theo qui mô to lớn, xóm ngọn Xẽo Bần sẽ trở thành một trung tâm quan trọng.
Nhưng có điều khiến dượng khó hiểu: Từ nửa tháng qua, bà con lối xóm ít lại đây để nói chuyện như mọi lần.
o0o
Một buổi sáng, chú Xồi bơi chiếc xuồng “tạp hóa” đến bến, mời dượng:
- Dượng Hai mua xà bông không? Xóm mình chế tạo thứ này nhiều quá rồi. Ðem giặt quần áo bọt cũng nhiều như xà bông bên Tây.

Dượng Hai thất sắc :
- Ai chế tạo vậy?
Chú Xồi đáp:
- Nhà nào cũng có nấu.  Không tin dượng đi dạo coi thử.
Ðến bây giờ, dượng Hai mới hiểu tại sao hổm rày mấy người trong xóm khi gặp dượng là họ chào hỏi sơ qua rồi kiếu từ lập tức, sắc mặt không được tự nhiên.
Dượng thở dài:
- Trách ai bây giờ! Tại mình “sanh bất phùng thời”
Bao nhiêu xà bông sản xuất ở ngọn Xẽo Bần được tung ra khắp thị trường miền Hậu Giang. Cạnh tranh có hiệu quả với loại xà bông chế tạo bằng tro dừa ở Bến Tre vì tro cây mắm ở đây mặn hơn. Mỗi khi đi bán từ xa trở về, họ không quên mua tặng cho dượng vài gói trà Kỳ Chưởng.
- Trăm sự cũng nhờ khoa học của dượng đó, dượng ạ!
Dượng Hai đáp:
- Tôi mừng dùm bà con. Bà con đi dọc đường có gặp ai nấu xà bông như xóm mình đây không? Phải thận trọng, giấu nghề...
- Có. Nhưng xấu hơn xà bông mình nhiều. Họ bán chạy nhờ có hiệu.  Kỳ này tôi tính khắc con dấu Việt Tân, Việt Hưng gì đó để đóng vô, kèm theo hình mặt trời cho cục xà bông nó “mạnh” một chút.
...Năm 1945, cả xóm ngọn Xẽo Bần không nấu xà bông nữa. Họ phải lo những chuyện khác cao cả hơn. Nhưng ý nghĩa của cuộc chiến đấu mới nào có gì lạ hơn là làm cho dân giàu nước mạnh, phát triển nội hóa. Có lẽ vì lý do đó mà họ hăng hái hơn ai hết. Vì họ đã thấy rõ một lần rồi.

ĐỪNG GIỞ NHỮNG NGÓN ẤY RA NỮA

TÔI CAN MẤY ÔNG NGÀY NAY


Từ khi còn là đời báo Phong hóa cho đến bây giờ đổi sang đời  báo Ngày nay, chưa ai từng thấy mấy ông trưởng giả ở hai cơ quan  ngôn luận ấy sốt sắng với một việc gì, ngoài cái việc dùng môn giáo  dục "đánh phấn, xoa nước hoa, lựa màu quần áo" để câu nhử bạn  đọc phụ nữ. Chẳng những không sốt sắng, có khi mấy ông ấy còn  dùng nhiều ngón gian quyết phá thối công việc chính đáng của người khác nữa. Đem giọng trào phúng pha vào những chuyện quan hệ, khiến cho trong óc độc giả, chuyện quan hệ hóa ra chuyện khôi hài, cố nói sai lạc sự thực, khiến cho trong óc Chỉ việc  họa sĩ Nguyễn Cát Tường (thường ký Lơ muya) cổ động phong trào  "vui vẻ trẻ trung", vẽ các kiểu quần áo, dạy cách trang điểm cho  phụ nữ. độc giả không thể phân biệt phải trái. Ấy là những ngón  sở trường của mấy ông ấy. Người ta vẫn tưởng đối với những việc  không quan trọng mấy, thì mấy ông đó mới dùng ngón ấy, cho nên  không ai chỉ trích làm chi. Chẳng ngờ đến việc quan hệ tới vận  mệnh dân nước, mấy ông đó cũng cứ giở những ngón ấy ra...!
Cái việc lựa chọn đại biểu, thảo tập nguyện vọng để chờ đưa  cho ủy ban điều tra đối với óc người Việt Nam, ai chẳng coi là việc  quan trọng, dù rằng chưa chắc ủy ban đó có sang hay không. Sống  trong hoàn cảnh eo hẹp đã mấy đời nay, bây giờ bỗng có một dịp,  có thể mong rằng may ra quốc dân được khỏi cảnh ấy, việc như vậy, chẳng là quan trọng, thế nào nữa mới là quan trọng? Hiện  nay, hầu hết cả nước, nhất là anh em trong Nam, đương sốt sắng  lo lắng cho cái việc ấy được có kết quả tốt đẹp, người thì tự xuất  tiền nhà sang tận Pariạ để vận động cho Đông Dương Đại hội,  người thì vì việc hô hào Đông Dương Đại hội mà không quản đến  những chuyện bị bắt, bị giam. Thế mà mấy ông đồng nghiệp ở  đường Quan Thánh lại định làm cho việc quan trọng thành ra việc  "lùng tùng xòe". Cái đó mới nhẫn tâm chứ! Chúng ta hãy giở tập  tuyển báo Ngày nay số 28 coi thử cái nhẫn tâm của mấy ông ấy  như thế nào? Trang trào phúng, dưới cái đầu đề "Trung thu thỉnh  cầu" mấy ông Ngày nay vẽ mấy cái hình một đứa con nít xin với ủy  ban điều tra cho mình ông trăng trên trời, thế mà mấy ông bảo  rằng "Ai thảo tập nguyện vọng nên xin những điều vừa vừa chứ  thôi! Nếu xin những việc to lớn thì cũng như những đứa con nít  muốn xin mặt trăng". Phải vậy không? Thử hỏi trong vụ thỉnh cầu  này, xin những chuyện gì là to lớn? Chưa thấy ai bàn xin cho nước  Nam độc lập. Người ta chỉ nói nên xin đổi lại chính phủ hiện thời,  hoặc trực trị, hoặc tự trị, to lớn đến thế là Phong trào Đông Dương  Đại hội (1936) phát động phong trào lấy nguyện vọng dân chúng  để đưa cho ủy ban điều tra của Gô-đa sắp sang Đông Dương. cùng.  Cũng thừa biết rằng xin vậy, chưa chắc đã được, nếu như ủy ban  điều tra có sang đến đây. Nhưng dù không được đi nữa, thì xin vậy  cũng có thể tỏ cho bên Pháp biết rằng: dân Nam đã muốn như vậy.  Cái "xin" lần này tức là bậc thang cho cái "xin" lần sau:
Cái xin ấy thật không con nít, và có hão huyền cũng không  đến nỗi khôi hài như xin mặt trăng. Mấy ông bảo là con nít, mấy  ông bảo là xin mặt trăng, không những là khinh mạn người ta, lại  còn hiểm độc là khác. Bởi vì những bức vẽ ấy có thể khiến cho  nhiều người tưởng những việc kia là trò khôi hài của con nít mà  nhụt mấy cái chí hăng hái hành động. Đó là tranh vẽ, còn lý luận  nữa. Trong bài Dân nguyện mấy ông nói rằng:
"... Miệng nói vì dân vì nước, mà họ chỉ vì đảng phái, hơn nữa  vì người". Sao lại cố nói ra ngoài sự thực như vậy? Bảo rằng đảng  phái thì đúng. Hiện trọng vụ này, Bắc kỳ quả có hai phái: phái ông  Phạm Huy Lục và một phái nữa không hợp tác với phái ấy. Vì sao  lại có phái không muốn hợp tác với phái ông Lục trong bài "Dân  chúng không "hoan nghênh việc làm của bọn ông Lục đăng ở Tương Lai số 1 đã nói kỹ rồi. Điều nên nói thêm là, một đằng chủ  trương đưa tập Dân nguyện lên phủ thống sứ, một đằng chủ trương đưa thẳng tập ấy cho ủy ban điều tra. Chưa nói đến ý kiến  khác nhau, nhưng một chỗ chủ trương không giống nhau đó, phái  nọ cũng không thể nào hợp tác với phái kia được. Còn bảo người ta  chỉ vì đảng phái, vì người, thì không đúng. Những người không  hợp tác với phái ông Lục, là vì việc làm của phái ấy có những tính  cách chuyên quyền, độc đoán, lén lút, mờ ám v.v... Không phải họ  vì đảng phái hay cá nhân nào. Sao lại nói nộm như thế? Cũng trong bài ấy, mấy ông Ngày nay viết rằng:
"Chỉ đệ những bản thỉnh cầu lên phái bộ điều tra. Chẳng lẽ  ai lại đi thỉnh cầu những điều khốn nạn. Mà ai để cho làm như  thế!". Câu nói vô lý làm sao! Những người có óc khốn nạn, họ sẽ  thỉnh cầu những điều khốn nạn, chứ ai? Mấy ông chưa đọc sử  Nam nên mới có gan nói liều đến thế. Nếu mấy ông có đọc sử Nam,  mấy ông biết rằng nước Nam có Trần ích Tắc, thì chắc không dám  nói như vậy. Hạng người như Trần ích Tắc thì đời nào mà không  có. Sau hồi âu chiến, Wilạon sáng lập ra thuyết "dân tộc tự quyết,  bấy giờ An Nam cũng đã có người bày mưu tự quyết thay cho nước  Nam đây mà! ấy là một hạng khốn nạn. Còn một hạng nữa - cái  khốn nạn sau đó chính ở trong óc mấy ông mà ra. Cũng trong bài  ấy, mấy ông khuyên hạng trí thức và các nhà báo nên để ý tìm hộ  nguyện vọng cho dân quê để đưa vào tập dân nguyện. Mấy ông  trưng ra năm sáu vấn đề, có cả vấn đề tuần phòng. Mấy ông nói  rằng:
"Dân quê có được ngủ yên hay không, những phương pháp  hiện thời thi hành để giữ sự yên ổn nơi thôn quê có hiệu nghiệm  hay không tưởng không phải là những điều không đáng để ý đến".  Thấy mấy ông lo cho thôn quê mà buồn. Ở thôn quê, tuần phòng là  việc thiết thân của họ, và họ có toàn quyền tự do, nên họ làm việc  được rất hoàn toàn, chẳng cần mấy ông phải để mắt đến. Vả, giá  cho việc ấy không được hoàn toàn đi nữa, cũng không có ai điên rồ  mà đem sự dân quê ngủ không yên vào tập dân nguyện. Nếu như  mấy ông đưa cả việc ấy vào tập dân nguyện, nay mai phái bộ điều  tra sang đây ngó thấy, thì người ta sẽ tưởng tượng ra sao? Tôi chắc  người ta sẽ bật cười mà nói với nhau rằng: "khốn nạn". Cái lối  thỉnh cầu khốn nạn ấy, chẳng phải chỉ riêng mấy ông mới có. Còn  nữa. Còn có người muốn xin ấn định tiền thuế cho phu xe. Còn có  người muốn xin cho dân An Nam lại học chữ Hán. Còn có người  muốn xin đừng thi hành luật tuần lễ 40 giờ. Những người ấy cũng  như mấy ông đều trực tiếp hoặc gián tiếp thuộc về bọn ông Lục tất cả. Như thế, khốn nạn hay không khốn nạn? "Ai để cho làm như  thế", mấy ông tự mắng là phải. Nhưng "ai" đó là ai? Chắc không  phải bọn ông Nguyễn Tường Tam, những người về phái ông Lục, vì  các ngài đều là xuất sản gia của những điều thỉnh cầu khốn nạn  kia rồi. "Ai", đó hẳn là những người phản đối lại phái ông Lục.  Không cho phái ông Lục được làm như thế, phải dùng cách gì? Nếu  hợp tác với phái ông Lục đến khi quyết nghị việc gì tất bị thiểu số,  không thể ngăn nổi những việc độc đoán kia, thế thì ai đứng vào  địa vị ấy, mà không phải lập riêng một phái? Cớ sao mấy ông lại  nói nộm là "họ chỉ vì đảng phái, vì người". Tóm lại một câu: mấy  ông Ngày nay thật là đủ ngón gian quáệt, nhưng mà những ngón  ấy bây giờ đã bại lộ rồi! Tôi can mấy ông không nên giở lại nữa.  Đối với việc thảo tập dân nguyện, mấy ông đừng cổ động người ta  đưa những điều vụn vặt khốn nạn vào tập ấy.

BÃI NƯỚC BỌT

TRÊN MẶT MỘT ÔNG TUẦN PHỦ


Đây là mặt ông Nguyễn Doãn T... tuần phủ hưu trí, hiện đương làm việc thả lãi và vẫn vui cảnh "cố viên tùng cúc" ở làng  Du Lâm. Bãi nước bọt ở trên mặt ngài không phải nước bọt của các  cô nhỏ, cậu nhỏ nhà ngài, mà là nước bọt của ông Nguyễn Phương  Đ... nguyên thông phán phủ toàn quyền, cùng họ với ngài và đương làm chánh hội làng Du Lâm. Lịch sử bãi nước bọt ấy hơi  dài. Số là ở làng Du Lâm, họ Nguyễn của ông T... và ông Đ... thuần  túy là một quý tộc, đã lắm quan, lại đông người hơn hết các họ  bách tính. Xưa nay quyền chánh trong làng đều ở họ này, mấy họ  khác chỉ là bọn phục tùng mệnh lệnh. Đối với họ Nguyễn, dân làng  Du Lâm quen gọi bằng tiếng "quan họ".
Vậy mà từ ngày nhận chức chánh hội, ông Đ... lại không trị  dân bằng chế độ phong kiến. Nghĩa là ông ấy không muốn cách  biệt với bọn bách tính, cho họ được ngồi ngang với mình khi bàn  các việc của làng. Hơn nữa, ông ta còn làm mấy việc chỉ có lợi cho  bình dân, không lợi cho quý tộc. Một người đại thần phong thể như  ông T... cố nhiên không thể vui lòng với những chứng bệnh lạ lùng  ấy của ông Đ... Mích lòng cụ lớn hơn hết là việc quân cấp công điền mà ông Đ... cố ý muốn làm. Làng Du Lâm chẳng phải là xóm Hoa  Lâm của nhà Lý à? Công điền làng ấy đã chiếm một phần rất lớn  trong địa giới! Nhưng mà đến hồi gần đây, số ruộng công ấy bị hóa  thành ruộng tư rất nhiều, những ruộng chia cho trai làng chỉ có độ  hơn một nửa. Thình lình có lệnh của ông công sứ Bắc Ninh bắt  phải chia lại số ruộng công ấy. Nếu là người không muốn lôi thôi  mất công, thì thôi, ruộng công còn bao nhiêu, chia cho dân đinh  bấy nhiêu, miễn là công bằng, dân cũng nhớ ơn lắm rồi. Ông Đ...  không thế, cứ muốn theo đúng địa bạ Gia Long, móc hết những số  ruộng công đã bị hóa làm ruộng tư mà chia luôn thể. Cái khó chịu  của ông T... là ở chỗ đó. Bởi vì trong những ruộng tư của ông tuần  này lại có một thửa hay nhiều thửa đã bị ông Đ... và dân làng Du  Lâm giở đến căn cước của nó mà bảo nó là ruộng công ngày xưa.  Việc đó tuy rằng đích thực, không thể chối cãi, nhưng ông T... vẫn  có quyền xích mích với ông Đ... Cách đây không lâu, bỗng có lá đơn  của mấy ông tộc biểu đệ lên tòa sứ Bắc Ninh kiện ông Đ... về mười  sáu khoản hà lạm. Theo sự dò la của ông Đ... thì vụ kiện ấy do ông  T... cầm đầu cho lũ nguyên đơn. Với một người đã có bộ mặt Châu  Xương như ông Nguyễn Phương Đ..., vụ kiện không có sự thực kia  chính là mớ lửa đốt cho cơn giận bùng lên. Một hôm, giữa đám cỗ  của người trưởng họ, ông Đ... hỏi thẳng ông T...:
- Có phải anh đã sai lũ tộc biểu đi kiện tôi không? Lẽ tự  nhiên là ông T... phải chối. Ông Đ... chỉ mặt ông T... nói tiếp:
- Thế thì anh là kẻ hèn nhát, không có can đảm tự nhận cái  việc mà mình đã làm, tôi phải nhổ vào cái mặt hèn nhát của anh.  Rồi một bãi nước bọt từ miệng ông Đ... nhẩy luôn sang mặt ông  T... Chuyện vẫn chưa hết. Ông T... còn lấy nhiều người làm chứng  mà kiện ông Đ... Ở tòa sứ Bắc Ninh. Khi ấy, ở tỉnh Bắc Ninh người  ta đã xét ra rằng mười mấy khoản của bọn tộc biểu đã kiện ông  Đ... đều là vu khống. Đến lúc nhận được đơn kiện của ông T..., ông  sứ nói với ông tổng đốc Bắc Ninh như vầy:
"Nếu ông tuần phủ Nguyễn Doãn T... cũng có công tâm lo  lắng việc dân như ông chánh hội Nguyễn Phương Đ... thì chúng ta  không phải mất công xét xử những chuyện lặt vặt như thế này".  Vụ kiện còn đương xét hỏi chưa xong, thì ông T... theo lời điều đình của người trong họ, lên tỉnh xin rút đơn ra. Ngài không kiện  ông Đ... nữa. Bấy giờ việc mới kết liễu. Chuyện này xảy ra, những  người trong tỉnh Bắc Ninh đều biết. Họ đã thì thầm hỏi nhau:
"Không biết lúc ấy ông T... có rửa mặt không?". Chắc không,  vì cụ lớn là một viên quan thâm nho, mà trong sách nho đã chép  một chuyện rất hợp với chuyện của cụ. Ấy là chuyện Lâu Sư Đức.  Lâu Sư Đức nhà Đường có người em được cử làm thái thú châu  Đại, khi hắn sắp sửa tới nhậm, ông ta có dặn cần phải tốt nhịn.  Hắn nói:
"Từ nay nếu ai nhổ vào mặt tôi, tôi cũng chùi đi mà thôi". Sư  Đức chưa cho là phải, và bảo thêm rằng:
"Người ta nhổ vào mặt mày là giận mày đó. Nếu mày chùi đi  càng khích cho họ giận thêm. Phải để cho nó tự nhiên khô đi". Thiên quan châm ấy có ghi trong bộ Đường thư. Ông T... khi mới  xuất chính ắt đã đọc rồi. Thế thì trong lúc làm quan, ông T... chắc  biết trước mình sẽ có ngày phải thực hành câu nói của Lâu Sư  Đức. Bây giờ hưu rồi, việc mới xảy ra, đó cũng là may mắn lắm.  Rửa chi cho tốn nước và hại xà phòng!

NGƯỜI CÓ DANH VỌNG TRONG LÀNG

Tôi về thăm quê một người bạn cũ. Sau những câu chuyện  hàn huyên, tôi bèn hỏi:
- Ở dân ta thì ai là bậc danh vọng nhất trong làng? Bạn tôi mỉm cười mà hỏi lại:
- Bác hỏi người có đức độ hay người có thế lực? Nếu người có  đức độ thì làng tôi hiếm lắm, nhưng hạng người có thế lực không  ai bằng ông lý bá Khánh. Ông tục danh là thằng Bòi, con một nhà  giàu nhất làng. Từ lên một tới lên bảy thì ông vào hàng con cưng,  cha mẹ sợ ông yếu, nên không dám cho đi học. Năm lên tám tuổi,  ông đã vớ một cô vợ kếch xù, con gái họ Đào, người rất đảm đang,  xinh xắn, tuổi mười bảy, trước đã hứa gả cho con trai họ Tạ, tuy  con nhà nền nếp thi thư, nhưng phải tội nghèo, nhà ông Khánh chỉ  dẫn hơn hai trăm bạc mà đắc thắng một cách dễ dàng. Năm 16  tuổi, ông đã có con rồi từ đấy vợ cứ sinh năm một cho tới chẵn hai  cỗ bốn trai bốn gái. Tuy không biết chữ, nhưng sinh vào con nhà  giàu, theo thói đặt lãi cho vay, ông rất thông thạo những văn tự  cầm, văn tự đợ, gốc lãi tính phân minh không nhầm lẫn. Trong  làng cũng nhiều kẻ khinh ông vô học, năm 20 tuổi, ông tức khí bỏ  tiền ra mua cái khóa sinh, chẳng phải ôn nhuần học tập, cứ ngồi  nhà đợi giấy sức lĩnh bằng, khao một bữa lên ngay ông khóa, vọng  tư văn sánh với bọn văn thân.
Được bên thân, chẳng chịu kém bên hào, năm 25 tuổi, thấy  miếng lý trưởng ngon lành, ông vứt mấy trăm mua cho bằng được,  chẳng lên phủ xuống huyện, chẳng lạy quan van dân, nhưng chức  lý trưởng chẳng ai dám cãi. Ông vọng đủ các ngôi các món, những  năm ông chịu đăng cai chứa đám, thì danh tiếng lừng lẫy khắp  vùng. Năm 29 tuổi, nhân cuộc âu chiến, nhà nước cần tiền, ông vứt  ngót nghìn bạc ra quyên, được thưởng ngay bá hộ, những Bên thân bên hào: bên văn thân bao gồm những người có học và bên  hào bao gồm bọn tổng lý. ngày rước sắc cùng mấy ngày khao của  ông, phí tổn mấy nghìn đồng, trâu bò lợn gà chết về tay ông như  chết dịch. Năm ông 39 tuổi, làng có tiệc khánh thành đình, ông viện thế quan tỉnh quan huyện về làng quyết tranh cho được chức  mạnh bái với ông kép Viên.
Liền sang năm ông 40 tuổi, ông khao ngôi trùm cả để nhòm  ngôi tiên chỉ, phí tổn cũng chẳng phải vừa. Năm ông 48 tuổi, làng  khuyết chân thứ chỉ, ông lại ra tranh, mỗi lần ông tranh là mỗi lần  ông thắng, mỗi lần ông thắng là mỗi lần ruộng đất của ông phải  đổi chủ sang tên cho người khác. Hiện nay ông định vượt lên ngôi  tiên chỉ, cho nên ông cố cầu thân với quan trên quan dưới, để hòng  cái chương mỹ bội tinh, thì cái hàn lâm ông nắm chắc, cái thủ lợn  béo phính của làng, ông cụ Kép tất có ngày phải rời ra. Đấy cái lý  lịch của một người có danh vọng trong làng tôi rực rỡ vẻ vang là  thế. Ông hết sức báo hiếu cha mẹ trong những ngày ma chay giỗ  tết, ông hết lòng sùng phụng đức thượng thần trong những ngày  đản, ngày hội, ông hết sức kính trọng dân làng bằng những tiệc  khao tiệc vọng, ông hết sức theo đuổi công danh một cách hăng  hái, dù bán gia tài mua lấy danh phận ông cũng chẳng từ, ông hết  lòng mến phục các quan trên, từ ngày giỗ mọn cho chí ngày tết to,  trong các quan trên tỉnh dưới huyện, không bao giờ vắng được mặt  ông, mà những đồ lễ của ông đưa đến bao giờ cũng được hơn người,  ai cũng phải khen là một người lịch sự, phúc hậu, không cái kiện  nào là cái kiện ông chịu thua ai, dù ông trái mười mươi cũng vậy.  Bước công danh của ông thoăn thoắt tựa bậc thang, không bao giờ  vấp vảy, từ ông khóa mãi (khóa sinh mua) tới ông lý quyên (quyên  tiền cho làng mà được) rồi tới ông bá quốc (quốc trái), rồi đến chức  Hàn lâm ông đương cày cục thực dễ dàng, đó là nhờ ở sức đồng  tiền mồ hôi nước mắt của người trong dân, nhân lúc cha mẹ lâm  chung hay buổi sưu thuế cập kỳ, ông lèn một vốn bốn lời cho đẫy  túi.
Bạn tôi kể xong, rồi chép miệng mà rằng:
- Trong lúc nhá nhem này, dân làm sao thì nước làm vậy,  những kẻ mà ta thấy họ tâng bốc nhau là thượng lưu trong nước  hiện nay thì thiếu chi những kẻ có cái dĩ vãng xấu xa đê tiện, họ  làm mặt cao sang, huênh hoang yêu nước thương nòi, lại có kẻ  tung tiền ra mua chuộc lấy những tiếng hư vinh, gây thế lực để  mong lũng đoạn những kẻ bần cùng khốn khó, thế mà họ không  biết thẹn với lương tâm, dơ với thực giả, thực cũng đáng buồn thay.

TÉ RA ÔNG BÙI TIẾN M...

TRÚNG SỐ KHÔNG VÌ VẬN ĐỎ

Thời vụ số trước có nói đến vụ ông Bùi Tiến M... trúng số 4  nghìn. Chúng tôi cho rằng: sự phát tài ấy của ông M... là nhờ ở  vận đỏ mà ra. Một người trước đây 10 năm còn là thừa phái bị  cách chỉ vì có dự vào bộ trọng yếu của đảng Việt Nam Quốc dân  mà biết nhiều sự bí mật của đảng ấy... rồi không biết làm sao trong khi bảy tám đồng chí và ông nhạc mình đi Côn Lôn, thì mình đặc cách làm ông tri châu, rồi tri huyện, rồi tri phủ, bây giờ  lại trúng cả số độc đắc, như thế ai không bảo là vận đỏ. Kỳ thực  không phải! Sự trúng số đó cũng nhờ công lao khó nhọc của ông  M... mà có, chẳng phải là sự ngẫu nhiên. Theo lời ông M... đã nói với phóng viên Việt báo thì ít lâu nay, ngoài việc chăn dân Yên  Sơn, ông ấy còn bị quan tỉnh Tuyên Quang cử ra trông nom công  cuộc tu bổ mấy ngôi đền ở Tam Cờ nữa. Công cuộc thứ hai đó tuy  có vất vả nhưng ông ấy không hề quản ngại. Các đền chữa xong,  theo ý ông M... đâu đâu cũng đẹp cả, chỉ hiềm có lớp mái hiên quá  hẹp nó không đủ sức che chở mưa nắng làm lạt màu vàng son, ông  rất lấy làm áy náy trong lòng. Thế rồi, một hôm ông ấy khấn đầu  trước bóng Thánh mẫu, khấn rằng:
Nếu được "mẫu" run rủi cho một dịp phát tài thì ông sẽ bày  tỏ với quan tỉnh sửa lại cái mái hiên ấy cho rộng thêm và đẹp thêm. Cố nhiên những câu khấn ấy đều là những sự thành tâm.  Nó cũng thành tâm như khi các quan nhỏ dâng cái "vi thiềng" lên  các quan lớn, chứ nó không giống những lời thề nhảm ở trước bàn  thờ tổ quốc của đảng Việt Nam Quốc dân. Bởi thế, sau khi trúng  số, ông M... mới thành thực nhận là công hiệu của mấy câu khấn.  Nghĩa là mấy câu khấn ấy lọt đến tai "mẫu", nên "mẫu" phù hộ  ông M... được 4 nghìn đồng. Có thể thế được lắm. Thánh mẫu tuy  là thần thánh song cũng ở trong đất An Nam, lẽ dâu lại không  thích những cái "vi thiềng" của người ta khấn? Nghe nói ông M...  đã sắp sửa thực hành những lời khấn đó. Bằng món tiền 4 nghìn  đồng, ông ấy đương định sửa lại cái mái hiên của đền Hiệp Thành  và cứu giúp cho kẻ nghèo khổ, còn nữa thì để làm vốn cho các con,  chứ không làm chay siêu độ cho những đám u hồn đương vẩn vơ  ngoài Côn Đảo.
Như thế cũng phúc đức lắm rồi. Với cái công đức lớn lao ấy  chắc thánh mẫu lần này sẽ phù hộ cho ông M... bằng hai lần trước.  Không phải tôi nói kỳ sau "mẫu" sẽ run rủi cho ông M... trúng số 8  nghìn. Đường đường một ông tri phủ có thiếu gì của? Cái cần của  ông M... ngày nay có lẽ là con. Vì khi tiếp phóng viên Việt báo ông  ấy mới kể Ngô Tất Tố phê phán Bùi Tiến M... đã thề trung thành  vói Việt Nam Quốc dân đảng (Nguyễn Thái Học) nhưng sau đó lại  phản bội. tên hai cô con gái do hai bà phủ đẻ ra và một cậu con  nuôi của ai đẻ hộ thì không biết, chứ không thấy nói đến tên con  trai. Nếu như ông ấy chưa có con trai thì là trời không có mắt.  Chắc rằng chuyến này "mẫu" sẽ phù hộ ông ấy cố đẻ lấy năm, bảy  người con trai để cho có kẻ thừa nhận những cái phú quý mà ông  ấy đã lập lên từ viên thừa phái bị cách đến chức tri phủ! Nhưng đó  còn là câu chuyện về sau. Bây giờ chỉ nên nhớ rằng: nhờ sự trúng  số của ông M... mà cụ Khổng lại được lòi ra một vị tín đồ. Phải, khi tiếp phóng viên Việt báo, ông M... có tự phô mình là tín đồ của cụ  Khổng thật. Không biết ông ấy đã đi theo cụ Khổng hồi nào? Có lẽ  là lúc còn làm thừa phái. Dù sao mặc lòng, trong khi thánh đạo  suy vi mà được có một ông phủ tự nhận làm tín đồ, cụ Khổng chắc  lấy làm hả! Điều đáng nói là nếu ông M... mà là tín đồ cụ Khổng,  thì ông Nhiễm Cầu chắc phải ghen đến hộc máu. Ông này không  phản đảng, chỉ có cái tội làm giàu cho kẻ quyền thần họ Quý! Thế  mà cụ Khổng còn sai học trò thúc trống đuổi đi, không cho là môn  đệ mình nữa. Ấy, cụ Khổng ngày xưa nghiệt như thế đấy. Không  rõ quan phủ Bùi Tiến M... có biết hay không?

PHẢI HỎI NGÔI ĐỀN ẤY THỜ ÔNG NÀO ĐÃ

Có lẽ dân làm muối ở Thái Bình hôm nay hãy còn mất vía về  vụ đền làng Ngải Châu bị đốt. Người đã đốt ngôi đền ấy không  phải là gặp cướp, chính là ông Dauret, nhân viên của sở thương  chính. Bữa đó nhằm ngày 11 Aout, chừng ba giờ chiều, ông Dauret  có đem một bọn tùy tùng đến làng Ngải Châu để khám muối lậu.  Nhưng cái làng vô lễ, không biết chiều ý nhân viên nhà đoan trong  khi ông này đến khám, họ "dám" không có một hột muối lậu nào  cả. Chừng cũng cáu về tội đã làm cho mình phải lặn ngòi ngoi nước  tới nơi, mà không kiếm được chút tang vật gì có thể xin bắt phạt  họ để lấy hoa hồng, ông Dauret liền sai lũ người tùy tùng phóng  hỏa đốt ngôi đền của làng ấy. Thế là ngôi đền ấy đã phải chịu cái  số phận của chùa Hồng Liên trong chuyện kiếm hiệp Tàu. Nghe  nói dân làng Ngải Châu đã phái người đi trình quan sở tại, và  quan sở tại đã về tận nơi làm biên bản để ghi lại cuộc "hỏa thiêu"  ấy. Việc này chắc còn lôi thôi. Chưa ai có thể đoán trước nó sẽ lôi  thôi như thế nào. Người ta chỉ biết dư luận vùng bể rất cay cú về  cái hành động lạ lùng ấy của một ông nhân viên nhà đoan. Một  bạn đồng nghiệp trong khi đăng cái tin đó đã phải cho là một việc  đáng than phiền, vì nó phạm đến sự tín ngưỡng của người An Nam. Rồi bạn đồng nghiệp ấy xin chính phủ răn bảo những viên chức nhà Thương chính từ nay không được làm như thế nữa. Cố  nhiên lời nghị luận của bạn đồng nghiệp vẫn là chính đáng. Nhân  viên sở Thương chính chỉ có trách nhiệm đi khám những nhân vật  lậu thuế, sao lại kiêm cả việc đốt đình đốt chùa của người An Nam?
Nhưng nếu nghĩ lại cho kỹ, chúng ta... phải hỏi xem cái đền  ấy thờ ông nào đã. Phải! An Nam vốn là một nước nhiều Thần  nhất thế giới. Cái vạ "thần mãn" kéo dài mấy trăm, mấy nghìn  năm nay, làm hại bao nhiêu trâu bò, gà lợn của chúng ta. Đành  rằng cũng nhiều ông thần có công với dân, đáng để cho dân kỷ  niệm, song cũng vô số ông thần cực kỳ bẩn thỉu, dơ dáy; thí dụ như  ông thần Cường bạo đại vương chẳng hạn, nếu còn sống chắc phải  đi đày... Thế mà chúng ta cứ thờ bừa đi, lễ bừa đi, há chẳng oan  cho cái đầu, cái cổ! Bao nhiêu năm nay chúng ta chẳng hô hào trừ  sự mê tín đấy ư? Nhưng có được đâu? Nó vẫn bám vào hai chữ tôn  giáo mà được trơ như đá vững như đồng vậy!

TỘI TRẠNG CÔ VŨ THỊ CÚC


Hỡi ôi thương thay, ông huyện Trường Bắc Giang đã theo ông huyện Toán Yên Bái mà há sinh tính mệnh cho nghề đào mỏ  mất rồi. Thế là trong một năm trời, cái nghề tai hại đã giết chết  của dân Bắc Kỳ hai ông "phụ mẫu". Thật là "sinh ư nghệ, tử ư  nghệ", tôi xin trịnh trọng có lời chia buồn cùng các tang quyến. Chỉ  tiếc nghề đào mỏ này không giống nghề đào khác, người ta không  thể vin luật lao động mà đòi tiền tuất của chủ. Tội nghiệp! Với ông  huyện Trường cũng như ông huyện Toán tôi phải kính trọng vong  linh những người đã quá cố (dù là quá cố về nạn đào mỏ cũng không dám động đến). Và nếu có cần, tôi cũng kính trọng cả cái  nghề nghiệp của các ông ấy luôn thể. Bởi vì nhân sinh bách nghệ,  ai thích nghề gì làm nghề ấy, miễn là nhất nghệ tinh, thì nhất  thân vinh. Hai ông ấy đã làm tri huyện lại kiêm cả nghề đào mỏ  chẳng qua cũng muốn vinh thân như mọi người vậy. Chẳng may  gặp phải cái "mỏ dữ", các ngài đã lỗ đến thân thể, thì nó chỉ thiệt  cho đời các ngài chứ có hại gì đến ai mà nói. Không nói ông huyện  Trường. Nhưng không thể nể cô Vũ Thị Cúc, cái cô hàng gạo đã có  mỏ để ông Trường đào và đã vừa đâm vừa chém ông Trường đến  34 nhát. Người ta đồn rằng: cô ấy có biết võ nghệ. Trong lúc mở  cửa hàng gạo, cô ấy tuy lượt thượt với bộ quần áo tân thời, nhưng  có lần đã một mình đẩy một chiếc xe gạo từ Hà Đông lên Hà Nội  không quản ngại. Có thật vậy không? Nếu quả như vậy thì cô Cúc cũng là một hạng đàn ông trong đám đàn bà. Vả lại, trong khi sắp  giết ông Trường, mà gặp ông ấy đương ngủ, cô ta còn đánh thức  dậy để bảo cho biết sự hành động của mình, không thèm giết vụng,  giết trộm.
Như vậy, cô ấy vẫn không tránh khỏi tội lỗi. Tôi không nói  cái tội giết người. Là vì việc đó phần của Tòa án. Tha bổng hay  làm án cô ấy do ở quyền các quan tòa, phúc đức nhà tôi được bao  mà dám buộc tội cho người? Tôi chỉ ghép cô ấy vào cái tội dốt,  không đọc Cung oán ngâm khúc. Các ngài hẳn không ai mà không  nhớ ở trong Cung oán ngâm khúc, tác giả đã nói nhiều câu chí lý,  đáng làm gương cho các cô gái kén chồng. Thí dụ:
Mỗi phú quí dử làng xa mã, Bả vinh hoa lừa gã công khanh  Giấc Nam kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay  không Hay là Miếng chung đỉnh phong lưu nhưng lợm Mùi hoắc lê  thanh đạm mà ngon Cùng nhau một giấc hành môn Lau nhau ríu  rít có con cũng tình Giả sử cô Cúc mà đọc những câu đó, tất nhiên  không phải mang tội sát nhân. Bởi không chịu đọc những bài học  đó, nên cô ấy mới say mồi phú quí, thèm bả vinh hoa, mà đem mỏ  của mình dâng cho ông Trường, để hòng mua lấy chức bà huyện.  Rồi vì thích làm bà huyện, cô ấy mới bị ông Trường hắt hủi trong  khi quặng mỏ đã hết. Lâm đến nước ấy, cô gái táo bạo kia nếu  không làm kẻ giết người, thì chỉ còn cách tự tử, chứ biết ăn làm  sao nói làm sao cho khỏi nhục với cha mẹ chị em! Thôi thế cũng  xong! Từ nay trở đi xã hội An Nam có lẽ sẽ ít người nghiệm làm bà  và cũng đỡ sản xuất những ông kỹ sư đào mỏ.

LÀM NO

HAY CÁI ĂN TRONG NHỮNG NGÀY NƯỚC NGẬP

Qua những rặng tre bị ngâm đã lâu, cành lá úa rực, xiêu đổ,  chiếc thuyền nan của chúng tôi phải len lỏi, chỗ thì phải cúi đầu  để chui qua những cây sắn đổ, chỗ thì phải đè một cành cây cổ thụ  xuống nước, chỗ thì phải gạt những trà rào trôi nhấp nhô trên mặt  nước đỏ ngầu và phải đẩy cong con sào mới vượt được cụm bèo tây  ứ lại. Chiếc thuyền mỗi chốc chòng chành làm cho tôi lảo đảo, nhưng cái ý muốn mục kích cảnh điêu linh cùng khổ của dân lụt  đã làm cho tôi quên cả nhọc nhằn. Một vùng nước mông mênh bát  ngát, bao nhiêu những nhà tranh vách đất chỉ còn trông thấy những mái úp sập sè hình như những quần đảo ẩn hiện chập chùng theo làn nước bạc mà rập rờn như phao. Những thuyền nan,  những mảng chuối nhấp nhô chen chúc tựa lá tre dưới những rặng  cây lả lướt. Đàng xa kia, trên những gò, đống mấp mô thấy lố nhố  những sừng trâu cong vắt; con đứng, con nằm, thỉnh thoảng lại  nghe tiếng rống lên như báo cho chủ biết nỗi thèm rơm đói cỏ của  nó Người ta bảo trận vỡ đê Đồn Vàng nước to hơn năm Quý Tị.  Thằng bé chở thuyền cho tôi ngoảnh lên hỏi:
- Cậu định đi đâu?
Tôi thẫn thờ đáp:
- Đi đâu cũng được!
Thuyền qua một rặng trúc, nhìn vào bên trong thấy có ba  gian nhà tranh xiêu lật lại đằng sau. Trước nhà, biệt ra một khu  vuông vắn như một cái ao, tôi đoán chừng đó là cái sân. Trước sân  đóng bốn cái cọc tre, trên bắc cái chõng, chiếc rổ đeo lủng lẳng một  bên, chiếc sào vó ghệch lên thành chõng. Phía dưới là một cái  mảng ghép bằng bốn cây chuối. Từ cái chõng đi vào trong nhà, có  một cái cầu tre vắt ngang. Một người đàn ông, vóc rạc hom hem,  đầu trọc tếu, ngồi thu hình trong chiếc áo bành tô rách mướp, nét  mặt đăm đăm nhìn xuống tăm nước đục lờ. Tôi hỏi:
- Nhà ai đây?
- Đây là nhà bác ba Tụy.
- Rẽ vào chơi đã.
Thằng bé khom lưng lái mũi thuyền vào trước sân, len qua  những cụm bèo tây đóng chuồng trong những chiếc vành nong kìm  bằng chiếc nạnh tre có những bè muống, bè ngổ, bè dừa quấn quýt  xung quanh. Bác Tụy trông thấy tôi, vồn vã hỏi:
- Kìa ông Ký đã về chơi đây ư? Các ông ở tỉnh về được dịp bơi  thuyền chở mảng thế này thì thích lắm nhỉ. Mời ông lên đây, cái  chõng này còn chắc chắn, ông ngồi chơi xem tôi kéo vó cho vui.
Tôi ghé thuyền sát cái mảng chuối, rồi bước lên. Bác khúm  núm với cái điếu cày treo trên cọc, mời tôi hút thuốc, tôi không  biết hút. Bác bèn lấy thuốc giắt trên kẽ tai, đặt vào nõ điếu, thổi cái mồi rơm, rụi than vào điếu, rúc một hơi thật dài, cái điếu rít  lên như tiếng chim sẻ, một làn khói xanh từ miệng bác đưa lên  khét lẹt, những cái xương sườn theo nhịp thở mà vươn lên rụt  xuống trước cái bộ ngực gầy nhom. Mấy đứa trẻ lau nhau, nghe  tiếng người lạ chen chúc nhau thò cổ ra trước mái tranh mà nhìn.  Những cái bộ mặt gầy còm hốc hác ấy như thiếp một màu vàng lợt,  làm nổi những cặp mắt trõm lờ đờ, đần độn. Tôi đưa đà hỏi:
- Thế nào, bác kéo cá có được khá không, cho tôi mua một  bữa nào, có con nào to không? Ngồi kéo vó giữa sân cũng thú nhỉ.
Câu nói của tôi như nhắc bác chưa cất vó. Bác nhoẻn mép  nhìn tôi, rồi vui vẻ pha trò, gạn bán mẻ vó bác sắp cất. Nói rồi  khom lưng, bãi càng, kẹp đầu sào xuống dưới háng, hai tay giương  thang, cất vó lên, giọt nước theo bốn gọng thánh thót chạy xuống,  dưới lòng vó thấy hơi động, dần dần lên khỏi mặt nước, mấy cặp  mắt nhìn cả vào, thấy mẻ vó được hai con cua kềnh và bốn con giếc  con. Bác vơ vó vào để bắt, ngoảnh lại hỏi tôi:
- Ông trả cháu bao nhiêu?
- Độ một hào chứ mấy!
Bác cười khanh khách và nói:
- Nếu thế thì nhà cháu phong lưu chán!
Bác nói rồi ngoái tay với cái giỏ bỏ vào. Tôi điểm một câu  chúc của phường hội tát:
"Sí sốc một chốc đầy giỏ" rồi nhổm lên nhìn vào trong giỏ thì  mới có độ một vốc tay tép mại, hai con ốc nhồi và một mẻ vó bác  mới bỏ vào sau. Bác khôi hài:
- Thế là nhà cháu đã được một niêu hai tay bưng rồi đấy ông
ạ!
Thoảng tiếng trẻ con trong mái tranh đưa ra:
- Bố ơi, bố làm bánh đa cho con ăn.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Bác lại có cả nghề làm bánh đa nữa ư?
Bác ngặt nghẽo cười:
- Vâng, bánh đa nhà cháu là thứ bánh đa mới chế, chưa ai  biết làm cơ. Ông ngồi đây, cháu làm cho ông xem.
Bác nói rồi chui vào trong nhà, một lát đem ra một nắm đất  sét trắng, một cái mê rổ, một cái khăn vuông. Bác dúng cả khăn  lẫn đất xuống nước cho ướt, rồi đặt lên chõng, căng thẳng chiếc  khăn vuông, phiết một lần đất lên thật mỏng, đoạn đặt vào mê rổ,  lại chui vào nhà, thổi lửa nướng. Chỉ trong chớp mắt, bác đã bưng  ra, trông trong mê rổ thấy một lượt đất khô cong, lũ con bác kéo  nhau ra xúm xít chung quanh rổ. Bác mời tôi thử nếm bánh đa bác  mới chế, tôi ngẩn người chưa hiểu bác nói thật hay bỡn, thì bác  tách ra một miếng bỏ vào miệng, nhai giòn khau kháu, lũ con bác  cũng xô nhau bẻ lấy mà ăn một cách ngon lành. Bác bảo:
- Đấy là thứ quà vặt của các cháu, nếu ông biết thứ ăn thay  cơm của nhà cháu thì cháu xin đưa ra để ông xem.
Bác nói rồi chui vào lấy ra một cái nồi đất to chìa cho tôi  xem, và đố tôi biết là cái gì. Tôi thấy bác gạt một lần tép vụn ở  trên, dưới lộ ra một lớp đen đen, xếp từng miếng mỏng như miếng  bánh dầy. Nhìn gần lại, thì thoáng ngửi một mùi nằng nặng, khăn  khẳn, như mùi thối tai. Tôi nín thở, lắc đầu xin chịu để bác giảng  cho tôi nghe thức ăn quái gở ấy. Bác đắc chí cười rũ ra bảo tôi:
- Cũng đất đấy! Người ta bảo chết thì ăn đất, nhưng chính  nhà cháu sống về đất đấy ông ạ! Món này là một thứ cơm nắm của  nhà cháu, làm công trình hơn một tí. Mới đầu là lấy đất sét trắng  về, vật đi vật lại như ta nặn đầu rau, rồi thái từng miếng mỏng  như ta thái bánh dầy, đặt vào mủng, mẹt đem phơi khô. Khi dùng  nó thì phải có nõn sắn lót thật dầy xuống đáy nồi, rồi mỗi lượt đất lại một lượt cá tép, rồi cho vài duộc tương. Bắc lên đun thì tra thêm tí nước cho khỏi khê, cứ nhỏ lửa đun mãi cho tương cạn cá  chín, những cái béo của tương của cá ngấm vào đất sét đỏ như  miếng hồng tầu thế là được. Tôi hỏi:
- Ăn như thế mùi mẽ ra làm sao?
Bác bảo:
- Nó quanh quánh như ta nhai miếng bánh dày, lại đậm vì có  tương có cá đưa đi, không phải ăn đồ ngoài.
- Thế ăn vào có thấy gì không? 
- Việc quái gì! Nó chỉ phải cái nặng bụng hơn các thứ rau cỏ  khác. Lần đầu cháu ăn rặt đất thì thấy tanh tanh và chán lắm, ăn  vào rồi hôm sau thấy mền mệt, chắc là không có béo bổ gì, cho nên  cháu nghĩ ra cách om với cá thì ăn ra chiều dễ chịu hơn. Tôi hỏi:
- Ai bảo bác rằng đất sét ăn được?
Bác nói:
- Nào có ai bảo đâu, cũng là một cách ăn liều của cháu. Hôm  nước vào đã già nửa tháng, trong nhà hết ăn, mẹ cháu phải ra tỉnh  kiếm việc làm. Bữa sáng hôm ấy chỉ có mấy củ khoai lang đủ cho  cháu ăn thôi, cháu đành nhịn đói, để anh em nó trông nhau ở nhà,  một mình chở mảng ra cái ao trước cửa đình để lặn xuống đánh củ  súng. Lặn ngụp mãi chưa dò thấy cụm củ súng nào cả, mà lòng  không dạ đói, lặn mãi mệt quá. Cháu cố lặn một hơi thật dài, mò  mãi chẳng thấy gì, bèn xắn vội nắm đất sét ngoi lên. Thấy chất đất  vừa dẻo, vừa trắng, ngửi thấy tanh tanh, nhân lúc đói ngoạm chơi  một miếng, nhai rồi nuốt đi, không thấy gì, ăn hết nắm đất, thấy  đỡ cồn cào. Cháu liền bỏ cả củ súng, hãy xắn mấy cục đất đem về  đã. Đương lềnh bềnh trên mảng chuối trở về, bỗng thấy mập mờ  cái vó trôi, cháu mừng quá đuổi theo vớt được cả vó lẫn gọng là cái  vó này đây. Cả nhà cháu mới ăn đất được dăm hôm nay, các cháu  cũng chịu khó ăn cả, nhưng mới đầu chưa biết cách chế biến, ăn  chóng chán lắm, cách om đất với cá này nhờ có cái vó nên cháu  mới nghĩ ra. Tuy vậy, cũng cần phải đổi bữa luôn.
- Đổi bữa bằng gì?
Bác chỉ tay ra mấy đám trước sân:
- Kìa ngổ dừa, bèo tây, còn cụm rau muống là của quí nhất,  hiếm nhất, cháu còn đương gây chưa dám ăn đến, vì chưa biết bao giờ nước ra khỏi làng. Trong những thứ rau ấy thì ngổ với dừa dễ  ăn hơn, nhưng sợ ăn mãi nó cụt đi, cháu phải ăn độn thêm bèo tây.
- Bác làm thế nào mà ăn?
- Muối dưa cụm sen kia, vặt lá vặt rễ, chỉ để cái vú, phơi hơi  tái đi rồi muối như ta muối dưa cải, lấy vỉ nén cho chặt. Giá không  có muối mặn thì ăn nó chẳng khác gì nhai cái ngọn mía nhạt, mà  lại lăn tăn ngứa! Thứ ấy là thứ đồ ăn, ăn kèm với cháo cám thì  ngon tuyệt! Đã nửa tháng nay, cả nhà cháu không biết một hột  cơm, hột gạo là gì cả, mà cám cũng ít có, vì chỉ hôm nào kéo cá  được một vài con to, bán được dăm ba xu thì mới dám mua cám ăn,  cám là thứ quý nhất, chỉ ăn cho có hơi gạo đó mà thôi, chứ ăn nó  thì lấy đâu. Một hôm, cháu nghĩ buồn cười quá ông ạ. Đong được  cám về, thằng bé lớn nhà cháu lấy nồi đổ nước lên đun, lóng cóng  thế nào nồi vỡ, không đun được nữa. Cháu bèn vớt cám ra, nắm lại  một nắm, ngoài trát một lần đất sét bỏ vào bếp nung. Thế mà ăn  ngon hơn bánh khảo phục linh đấy ông ạ. Giá được rặt cám mà ăn  thì còn nói gì nữa, khốn nỗi họ lại pha mùn cưa vào cho được nhiều  lãi, thì ăn chẳng còn lý thú gì cả, chỉ thấy ráp sì thôi.
Tôi chợt trông thấy cây cau, cây nào cũng cụt cả, vội hỏi:
- Sao cau cụt cả thế kia?
Bác nói:
- Nó cũng đã chui vào mồm cả rồi đấy.
- Cau mà cũng ăn được ư?
- Ông tính cái gì vào lửa mà chẳng ăn được. Ôi chà, nghĩ cái  nguồn cơn ăn cổ cau mà sợ. Lần đầu, cháu chặt một cái, bóc hết bẹ  xanh rồi thái như thái măng phơi, cứ thế luộc rồi đem ra ăn: ăn  rồi, bố con rạo rực nằm mất một ngày, chân tay cứ rời rã ra, bọt  mép phèo ra, bụng vẫn tỉnh mà không sao cựa được, sau hỏi ra  mới biết phải luộc bỏ nước đi, ngâm hết nửa ngày nữa mới ăn được. Ăn hết cau rồi, thấy làng nước họ đua nhau đi tìm củ chuối  để ăn, cháu cũng vớ được vài cái đem về bung. Ăn nó có phần mát  ruột mà chắc dạ hơn ăn bèo tây, rau ngổ, hơn cả ăn đất sét, đất sét  phải cái nặng, làm rỗng cả ruột ra, về sau ăn cái gì cũng mãi mới  no!
Nhưng củ chuối đâu mà ăn được hàng tháng trên mặt nước,  chỉ được ít lâu là nó thối nhũn ra thì còn ăn gì được nữa. Cháu cứ  ăn liều mà nhiều cái cả làng phải bắt chước cháu. Cháu còn nhớ một năm trời không làm lụt, nhưng phải năm đói kém quá, làng  nước nhao cả lên. Mẹ cháu năm ấy lại vừa ở cữ, thành ra lúng  túng với nhau, chẳng đi làm đâu được, ở làng chẳng ai mướn làm  gì cả, cháu chỉ nghĩ cách ăn trừ bữa cái ni lại ăn trừ bữa cái kia.  Lần đầu cháu đi qua nền Văn chỉ thấy một đám cải rừng, xanh tốt  lắm, cháu nhấm thấy thơm thơm, liền hái một chét đem về ăn thử,  thế mà luộc chấm tương ăn thú lạ; nhà cháu ăn ba bốn ngày làng  nước mới biết thì chẳng còn gì cả. Cháu lại xoay ra tìm cách khác  xem ra lợn ăn được cái gì thì người ăn được cái ấy. Một lần cháu  ăn liều mà ngon. Đương mùa nhãn, cháu thấy ở chợ người ta vứt  rất nhiều hột, cháu mới quét lấy được trên lưng thúng đem về. Lấy  dao gọt hết vỏ đen đi, đổ vào ngâm một đêm cho hết chát, rồi tra  vào nồi, bung như ta bung ngô, thế mà đem ra ăn cứ bùi nghìn  nghịt như hạt sen, đã ngon lại chắc dạ; thế là cháu cứ tìm đi các  chợ, để nhặt hết hạt nhãn đem về tích lại một gánh, vợ chồng ăn  uống no nê mà chẳng ai biết cách ăn của cháu thế nào. Rồi sau họ  biết, họ đặt vè để chế cháu, cho nên làng ta bây giờ đã có câu Nói  dối thằng Trà, ăn ma thằng Tụy. ông tính thế có tức không, mình  có ăn cắp ăn trộm của ai đâu, không có, ăn xằng ăn bậy cho qua  ngày đoạn tháng, họ cũng chế, họ bảo là ăn ma ăn mãnh. Cháu  thấy họ chế; tức mình giấu biệt những cách ăn độn ăn lót của nhà  cháu cho bõ ghét. Cháu còn nhiều cách ăn giản tiện mà ngon, cháu chế biến cũng khéo, cho nên họ lo đói, cháu chẳng biết đói là  cái gì, chỉ có ngon hay không mà thôi, làm thế nào cháu cũng có  cái ăn, không chịu đói bao giờ. ông tính con sâu con bọ, con giun  con dế nó còn chẳng lo đói huống nữa là mình, phải thế không ông?
- Phải, sống qua trong nạn đói mà vẫn giữ được lòng ngay  thẳng, thật thà thì còn gì quý hóa bằng. Giá bác tài nấu nướng thế  mà ra Hà Nội mở hiệu thì...
Bác phá lên cười, rồi tiếp câu nói của tôi: - Thì... cho chó nó ăn!... ông nhỉ?
Ánh nắng chiếu xiên qua nan chõng, chiếu xuống làn nước đỏ  ngầu, gặp trận gió rung rinh trên mặt nước thành những đàn rắn  ngoằn ngoèo. Một tảng vỏ mít lềnh bềnh trôi vào gọng vó, bác Tụy  chỉ tay mà bảo:
- Kìa, tảng vỏ mít kia đã cứu sống vợ chồng con cái nhà cháu  ba ngày đấy ông ạ!
Nói đoạn, lấy sào kều ngửi, lắc đầu:
- Hỏng, thối cả.
Vứt tõm xuống nước rồi kể tiếp:
- Thằng bé lớn nhà cháu năm nay lên tám. Ấy chính năm đẻ  nó thì gặp trận đói to, vì hai năm mất mùa liền, nhân dân lại xao  xuyến về dịch lệ. Nhà cháu quanh năm ăn độn, ăn lót, ăn thường,  nhưng bu cháu mới đẻ, nếu cho ăn xằng xịt vào thì sợ ốm đau khổ  cả mẹ lẫn con, cho nên dù sao cháu cũng cố kiếm cho mẹ cháu mỗi  bữa một niêu cơm riêng để lấy sữa cho con bú, còn cháu thì ăn thế  nào cũng được. Gặp nạn đói mới biết cái khổ của hạng sức dài vai  rộng như chúng cháu, đi xin không ai cho, làm mướn không ai thuê, thế mà lại lâm vào cảnh vợ mọn con thơ thì lại càng khổ nữa!  Hôm ấy trong nhà chỉ còn đủ gạo để thổi bữa sáng cho mẹ cháu,  còn cháu thì có hai bát ngô bung. Ăn xong, cháu vác thuổng, bủa  sang chợ, đón công xem ai mượn đánh gốc bổ củi thì cháu làm.
Ngồi từ sáng tới non trưa, chẳng ai hỏi tới, chợ thì vãn, bụng  thì đói, mà chắc mẹ con nhà cháu cũng đang mong chờ bữa. Cái  nông nỗi mong chờ vơ vẩn làm cho cháu nóng ruột bội phần. Tần  ngần ngồi bên đống vỏ mít, ruồi nhặng bậu đen ngòm, cháu nghĩ  cách ăn tranh chúng nó, bèn ngả nón bốc đem về, đổ vào rổ sề đem  ra ao rửa sạch, gọt hết gai đi, rồi thái cả sơ lẫn cùi, cho vào nồi  đun thật dừ. Tra mắm muối cho vừa vặn. Còn mấy chục bát hột  tìm trong đống vỏ vẫn định luộc riêng, rồi nấu cháo cho bu cháu  ăn, nhưng nó thấy cháu nhường nhịn chẳng đành lòng, nên cùng  ăn cả. Cháu bèn giã cả hột cho vào thành một thứ canh vừa bùi  vừa ngọt, ăn thú quá! Một điều sung sướng nữa là ăn vào, sáng  hôm sau hai bầu sữa của bu cháu thẳng căng, thằng cháu bú no  nê, không cằn nhằn như mấy bữa trước. Thế là mấy hôm sau cháu  cứ việc đi chợ khuân vỏ mít về làm bữa, ăn rồi lại kỳ cạch thái  phơi bỏ lọ, thứ thì lựa rặt cùi để kho ăn với cơm. Nhưng mà mít nó  là giống có mùa, không thể trông vào đấy mà ăn mãi được. Cháu  nghĩ ngay ra cách ăn bã đậu.
- Bã đậu chắc ăn chóng chán lắm thì phải, vì tôi ngửi mùi nó  ngang ngang khó chịu lắm, nhất là khi nó đã ôi.
- Làm cho không có mùi ngang ngang, mà không bao giờ ôi  được mới tài chứ! Cháu tìm ra cách ăn được, nhất định bí truyền,  thành ra các tướng cũng bắt chước cháu ăn, rồi bỏ cả đấy ông ạ!
- Làm cách nào mà ăn?
- Khó gì đâu! Chỉ có mẹo một tý thì bã đậu đã thành một thứ  xôi vò thượng hảo hạng! Mới đầu hãy tãi ra cái nia, phơi trong  râm, nhưng đừng để cho ruồi nhặng đậu vào, thỉnh thoảng lấy đũa  cả đánh đi đánh lại cho rời ra rồi cho vào chõ đồ, rắc thìa muối cho  đậm, hơi bốc lên là bạt hết mùi chua, mùi ngái mà ông bảo là  ngang ngang, muốn kỹ đem đồ hai lượt thì tốt lắm. Ăn bã đậu béo  người, tuy mất tiền mua nhưng cũng rẻ, cứ bốn bố con nhà cháu,  một ngày chỉ hai xu bã đậu là no phính!
- Mỗi năm bác phải ăn độn lót thế độ mấy tháng? - Quanh năm ấy ông ạ! Có chăng chỉ những ngày giỗ tết thì  dù túng kiết thế nào cũng cố dành dụm kiếm lưng cơm quả trứng,  thoi vàng nén hương cho tinh sạch. Những ngày ấy mới là ngày ăn  uống sang trọng của nhà cháu, tưởng ăn một bữa hết hai hào chỉ,  giá cứ quanh năm ăn thế thì núi cũng phải lở, ông nhỉ?
- Nhưng ăn rồi lại kiếm ra thì sợ gì ?
- Kiếm như chúng cháu nghĩ mà buồn! Chỉ mong một ngày  được ba xu với hai bữa cơm no cũng còn khó thay, ấy bu cháu ra  tỉnh chuyến này nếu ở được mỗi tháng một đồng kia đấy, nhưng  mà...
Thoáng một vẻ buồn hiện trên nét mặt bác, tôi mỉm cười nói  giỡn:
- Thôi lại nhớ mẹ đĩ rồi!
Bác cũng gượng cười nói chữa:
- Không, giá cháu nhớ thì cháu đã chẳng bảo đi, nhưng cháu  chỉ lo nước Hà Nội chóng ngay xương lắm! Đi làm đỡ nạn mấy  tháng khi về lại quen đi, không gồng gánh nặng nhẹ được thì khổ,  ấy cũng nhiều người thế đấy, rồi sau vợ chồng sinh chán nhau hoặc bỏ chồng theo những anh bồi bếp để ăn trắng mặc trơn, nhiều  anh mất vợ vì thế đấy.
- Có "tâm" là lòng, "ý" là lòng chứ, ai cũng thế thì còn ai dám  đi làm lụng gì nữa. Vả lại bác gái nhà bác bồ chề xốc xếch thế thì  việc gì!...
Bác nghe câu khuyên giải của tôi, nét mặt lại bình tĩnh như  thường. Tôi bỗng nhắc bác:
- Kìa từ nãy tới giờ, mải nói chuyện mà quên cả cất vó? Dễ vợ  chồng con sộp nó đem nhau vào ở cữ trong vó của bác rồi cũng nên!
Bác khanh khách cười, tay nâng sào vó, khom lưng rút khung gọng vó, nước sóng sánh chuyển động chiếc bèo tây đang  đủng đỉnh trôi xuôi. Mẻ vó suông! Bác khoan khoan cho vó xuống, tôi thẫn thờ nhìn ánh nước rập rờn trên bức vách.

Ái tình tiểu thuyết

(Thuật theo lời của B.)


   Sợ các ngài tẩy chay tôi, hôm nay tôi xin hiến các ngài một thiên ái tình tiểu thuyết. Nhưng ái tìnhtiểu thuyết tôi vốn không quen viết, nên tôi chỉ dám coi nó như câu chuyện chó chết mà thôi.
Ông hàng xóm tôi mới đem ở Hà Nội về một con chó trắng. Ông đặt tên cho nó là Tớp. Cơn Tớp, tôi chẳng biết có cái gì đáng quý, nhưng mà, trời ơi, gớm, ông ấy làm bộ như một bà mẹ có con gái đến thì? Ông ấy khoe khoe những đức tính nó thế nọ thế kia, nghĩa là con chó ấy chẳng may chó đến nỗi phải làm kiếp chó, chứ giá được làm người, thì tất cũng phải làm đến gì gì chứ chẳng vừa?
Thế nhưng tôi tưởng làm cái giống chó An-nam mình, thì dù có tài xuất chúng đến đâu cũng vậy, sự nghiệp bất quá cũng chỉ đến giữ nhà cho chủ là hết; mà có hơn chó thiên hạ về cái thỉnh thoảng được phát tài vì có bổng ngoại, nhưng dăm ba bãi tiệc ấy, bất quá cũng chỉ là cái bã giả của người ta mà thôi, ngon gì!
Ấy là nói những giống chó khôn, biết thân phận làm kiếp chó, chứ nếu lại có tính ngông nghênh mà cắn trộm, bặng nhặng mà ẳng sằng, hoặc dại dột mà vục đầu vào chĩnh tương hay niêu cá chẳng hạn, thì đeo riềng vào cổ lúc nào không biết đấy.
Vậy mà chó nhà quê thì mới thế, chứ nếu chẳng may ở các thành phố lớn, luật pháp nghiêm ngặt, mà quá giờ tiên sinh cứ tự do ngôn luận oang oang lên, hoặc ban ngày, tơ-lơ-mơ đi ra đường chơi phiếm, thì có mà tù sớm. Chính con chó Tớp của ông hàng xóm tôi, sở dĩ bị trục xuất cảnh ngoại, cũng chỉ vì tội nhiều khi đang đêm, không biết cao hứng cái gì, cứ diễn thuyết rầm lên, hô hào dữ đến nỗi cả nhà mất ngủ; lại mới đây giữa ban ngày ban mặt, nó dám công nhiên - nói vô phép các ngài, - nó dám công nhiên hiếp dâm ngay con chó con mới mua buổi sáng. Vô đạo thật? Chẳng biết rằng nó đoán là chủ nó định tống cổ nó, nên nó mới giở thói cẩu-trệ định làm hại cho mà làm ăn xúi quẩy, hay nó cố tình làm mất trinh chị đồng nghiệp sắp hớt cẳng nó. Nhưng cứ xem cái đời tư của nó như thế, thì dù ông hàng xóm tôi có làm trạng sư bênh vực nó kỳ cùng, tôi cũng kết luận rằng ở nhà quê này mà con Tớp cứ giở cái thủ đoạn ấy ra, thì có ngày chết mất mạng. Con chó Tớp được về nơi rộng cẳng, lấy làm khoái lắm. Ngay lúc mới được thả xích ra, nó loăng quăng chạy hết đằng sau ra đằng trước, nhà dưới lên nhà trên, hễ động có ai qua ngõ, là anh chàng chạy ngay ra chất vấn. Chẳng bù với khi còn ở ngoài tỉnh, cả ngày phải khoá miệng, có cất lên một vài tiếng để làm chầu chay cho đờ buồn, thì đã bị mắng chửi rầm rĩ.
Ở nhà quê được hít không khí trong sạch, được vận động luôn chân, lại được ông chủ cho ăn uống tử tế, nên Tớp ta mập mạp, trắng nõn, trông ra phết anh chị?
Ngày mới ở tỉnh về, nó hay hống hách, thấy ai lạ cũng định gây sự. Nhưng từ hôm bị cái gậy đầu tiên của thằng Mõ giáng vào lưng thì nó cũng lịch duyệt hơn một chút, không chơi dại nữa, bớt sự bắng nhắng.
Thấy ai qua ngõ, nó chỉ gâu một tiếng xoàng gọi là tác oai, rồi cúp đuôi nhanh nhẩu chui tọt vào hàng rào, giữ thế thủ cẩn thận, mới dám thò đầu ra, trợn mắt, giơ nanh, gầm gừ cho đến khi người ta đi khuất.
Nhưng ở nơi thôn dã này, thì sự canh gác của nó chỉ cần có trong khi đêm tối, nên rồi nó cũng bắt chước ngay các đồng nghiệp nó, cả ngày nằm cuộn tròn ở cồng, gọi là chiếu lệ, rồi đánh một giấc ngủ dài cho tiêu thì giờ.
Nghề thế, nhàn cư vi bất thiện, nếu cứ ngày đánh hai bữa no phình bụng rồi “la siết” suốt cả buổi trưa thì cuộc đời tẻ ngắt, mà cái thanh niên cũng đến mòn mỏi đi mà thôi. Cho nên được độ nửa tháng, người ta đã thấy con Tớp đứng tụ họp ở ngã ba, với dăm bảy con chó quanh đấy.
Cái tính chơi bời của nó nẩy nòi ra từ khi nó còn ở chốn ngàn năm văn vật, nay nó thấy một nơi mà bất cứ đức hay cái tụ bạ để làm chỗ hẹn hò, như bờ hồ Hoàn Kiếm, như trong cuộc chợ phiên của chúng ta, thì muốn chừng nó cũng chệnh nông nỗi riêng nên cứ đúng giờ giấc là nó lững thững ra đó, để gạ gẫm giở trò trai gái. Mà trong cánh ấy, trông nó bột nhất! Ngày nào cũng vậy bộ lông trắng nuột như quần áo mới giặt là? Rành là nó ăn đứt tụi con cộc, con sồm, con vằn, con vện, trông nhà quê quá. Khoa tán gái chẳng hay nó học ai, mà nghe chừng mả lắm, chẳng thế những tiểu thư mực khoác bộ áo nhung, tiểu thư đốm mặc hàng bom-bay, nó điều nước non được cả. Thì ra có bộ mã tốt bao giờ cũng vẫn dễ làm si tình, cho nên cái số đào hoa của anh công tứ Tớp đã làm cho trong làng êu, nhiều tay phải phát tức!
Rồi chẳng bao lâu, con Tớp một tay chôn biết bao cành Phù-dung. Nhà nào có những chị mới nứt mắt ra là nó cũng đâm vào cho kỳ được. Dù lần đầu có cự tuyệt, nhưng đến lần thứ hai, hay lần thứ ba là cùng chị ả phải cảm ngay chàng có duyên ấy. Thế rồi nó rủ rê ngay ý trung nhân ra luỹ tre để chỉ non thề biển!
Nhiều người bắt gặp nó giở cái mặt chó, ở ngoài đường lấy làm chướng mắt, đã giọt cho nó bao nhiêu phen nhưng chó đen giữ mực, nào nó có chừa. Đến nỗi chỉ một mình nó, mà trong ngót một tháng trời, bao nhiêu bạn gái trong xã hội mõm nhọn, nhất là bọn cấp-tiến đều bị hư, hoặc chửa hoang vó nó cả? Bợm thế đấy!
Cậu phong lưu công tử nổi tiếng trong áng nguyệt hoa hồi ấy, trác táng lắm mà không có sâm nhưng quế phụ để tẩm bổ, cho nên đâm ra yếu ớt gầy gò.
Đã nhiều bận, vì sự ghen tuông, nó bị những tình địch trong êu giới đồng minh nhau cắn nó kịch liệt, có khi toạc đầu xẻ tai xuýt thành án mạng to. Nhưng giá như độ trước, hẳn nó lăn lưng vào một phen sống mái để giữ thể diện với gái. Nhưng độ này thì người anh em đành chịu tho, dằn lòng tạm ly biệt mấy cô nhân ngãi mà cúp đuôi cắm cổ chạy một mạch về nhà, chui tọt vào gầm phản!
Nhưng mà đã có thói đa tình, thì dù có mắc bệnh gần chết cũng vẫn ngứa, cái đó chó cũng như người.
Kìa, vết thương hồ lành, người ta đã bắt gặp nó đi mò gái; mà lần này quái làm sao, nó đánh hơi biết ngay là trong nhà kia, mới có cô chó tây rất sộp!
Con Tớp vừa thoạt trộm liếc dung nhan của cô bạn mẫu quốc đã đâm ra mê đặc, chờn vờn ngay đến gần.
Muốn chừng nó cũng như ta, thấy món lạ thì thích nếm cho rộng kiến-văn, nên ngày nào nó cũng đến tán tỉnh hai ba dạo? Chẳng biết mắt xanh nàng có lọt chàng anh-đi-dền hay không nhưng dù có chim được mà cứ phải phó-mát hão huyền như thế thì thá gì, cho nên xin. chàng trước hết nghĩ đến vấn đề phụ nữ giải phóng.
Cô ả chó tây đây thật đáng gọi là một trang thiếu nữ tân thời, đủ làm cho chim sa cá lặn. Này, hươu cốt cách, vượn tinh thần, mà gấu ghen thua mõm, cọp hờn kém nanh, mỗi khi hoa gầu ngọc ẳng, tiếng oanh như rung động, dây đàn tim của Tớp như oán như thanh. Không những thế, chiếc vòng da đeo quanh cổ, bộ lông nhẫy chét vào mình trông đặc Lemur, lại như tăng cái nét yêu kiều của tấm thân mơn mởn. Nói tóm lại, con chó tây đáng gọi là một đoá hoa khôi, một ngôi sao sáng, khiến cho mỗi khi chàng Tớp loanh quanh ngửi ngửi bên chốn khuê cũi, cũng không muôn về nhà nữa. Rồi thế quái nào, chẳng biết ngôn ngữ của hai giống chó ấy có đồng hay không, nhưng chắc Tớp ta sinh trưởng ở đất Hà Nội, thì cũng nói được dăm ba tiếng bồi, nên đông tây gặp nhau ngay.
Có một hôm, con Tớp cũng diện bộ cánh mọi khi đương bắt chước hệt như cái mốt ngoáy ba-toong công tử bột mà ngoe nguẩy cái đuôi, lượn xung quanh cũi nàng, thì có một đứa bé con ra phang cho một que củi vào lưng. Sợ xấu hổ với nhân ngãi, vả tức vì bị ngăn trở trong cuộc vui vẻ trẻ trung, Tớp ta ngoạm ngay cho một miếng vào đùi thằng bé, rồi đi bài tẩu-mã.
Đứa bé kêu rầm, cả nhà xô ra đuổi Tớp, nhưng không kịp. Thế là con Tớp có một một bọn thù nhân.
Họ bàn với nhau, rồi sẽ đánh Tớp chết, mà người anh em thì kệch, ba bốn hôm không dám thò mõm ra ngoài.
Nhưng ngọn lửa dục bao giờ cũng cướp hết ánh sáng của sự suy xét; người cũng vậy mà chó cũng vậy. Rồi chắc rằng Tớp ta nhớ người yêu ở nơi cao tương kín cổng, suốt ngày bị cấm cung trong cửa buồng khuê. Ừ tội gì không lẽ cá đã cắn câu lại chịu vứt cần đó để phí hoài mất cái bò lạc, rồi đứa khác nó nước trước bẻ hoa thì dại hơn cầy, cho nên anh ta lại mon men đến đứng ở bờ giậu nhìn vào để thăm tin tức. Khi tít mù nào thấy bóng hồng vào ra, anh ta mới lách qua hàng rào, có lẽ định bàn với cô em cái chước xổ lồng tháo cũi.
Nhưng mà khốn nạn cho con Tớp. Người ta biết tính quan viên mê gái hay liều, nên đã quyết với nhau rằng thể nào rồi Tớp ta cũng còn đến nữa: Vì vậy họ không thả con chó cái ra vội, để dùng kế mỹ-nhân, thì mới dử được con Tớp vào tròng để đánh chết.
Cái số con Tớp đến ngày hôm nay là hết, hẳn các ngài cũng đoán như vậy chứ gì! Phải, nhưng nó chết một cách thảm thiết, một cách đau đớn, khiến cho ai được mắt trông thấy cái phứt sau cùng của đời nó, cũng phải rùng mình ghê sợ cái bả tình, cũng phải thương xót những con người đương đắm đuối trong bể ái.
Con Tớp nhìn trước nhìn sau, lững thững đến bên cạnh cũi. Khi nó tưởng rằng được bình yên như mọi ngày, nó bèn ngoe nguẩy đuôi như phất cờ thắng trận chạy xung quanh cũi như điên như cuồng, rít ầm lên rồi thò mõm vào hít lấy hít để. Nó hôn chán như thế rồi nó thè lười ra liếm, liếm mặt, liếm lưng, liếm cả chỗ không đáng liếm. Con chó cái thây tình lang ân ái hình như sóng tình cũng xiêu xiêu nên nằm yên. Con Tớp thừa cơ, tiến đến gần, cố chui lách cái đầu vào khe cũi Giữa lúc ấy, người ta thò dây thưng thòng lọng vào cổ nó và dòng buộc vào cột.
Nó không biết rằng đã mắc vào tròng, nó cứ tuân theo mệnh lệnh của nữ thần Vénus. Lách đầu vào khe không ăn thua, nó mới nhẩy hai chân trước lên mặt cũi như lối mọi khi của nó. Nhưng cũng không thấy công hiệu gì, nó lại đành nằm ẹp xuống đất, liếm lấp liếm để, rồi lại cố lấy đầu, muốn hẩy cho đổ cái cũi.
Rành là nó muốn đạp tiêu phòng để vớt người trầm luân. Nhưng sức nó không sao làm chuyển được cả cái cũi nặng trong nhốt một con chó phốp pháp, nó đành chịu phép. Lúc này người ta thò dây vào hai chân trước nó, thiết chặt lại, và trói ghì ra đắng lưng. Lạ cho con Tớp chẳng thấy cái tình thế nghiêm trọng, hình như nó chỉ nghĩ làm sao cho đạt tới mục đích là được cọ xát vào người yêu, còn ngoài ra, nó chẳng trông thấy, chẳng để ý cái gì cả.
Con chó cái ở trong cũi, thấy sự nguy hiểm, cắn rống lên mấy tiếng để ra hiệu cho bạn biết vụ bắt bớ quan trọng, nhưng con Tớp thì như bị mù mắt, cứ rít, cứ liếm, cứ cố nhắc đầu lên cho vừa tầm. Thỉnh thoảng nó thấy vướng víu khó chịu, thì cũng hục hặc cựa cạy nhưng hễ cái lưỡi nó còn được gần bên mông con chó cái, thì nó lại yên ngay. Ấy thế rồi người ta cột nốt hai chân sau nó lại.
Bây giờ thì nó chỉ còn cựa cạy được cái đuôi và cái lưỡi mà thôi, mà thật là nó mê gái đến nỗi chết đến đít mà không biết? Chẳng thế, bị trói mất cựa mà đầu nó còn hục vào bẹn con kia, đuôi còn ve vẩy ra dáng khoái trí lắm. Con chó cái thấy tấn bi kịch bên cạnh, lồng lên và cắn rầm rầm, rồi cựa mình sang chỗ khác. Con Tớp cũng lăn lộn theo đến gần, nhưng chân bị trói không đi được vậy mà nó mặc kệ, nó cố lê bằng bụng để được đến gần chỗ la liếm cho thoả dục tình, rồi nó rít lên mấy tiếng đắc thắng!
Nếu ai chú ý nhìn cái chết của con Tớp mới thấy động tâm! Trói xong, người ta dốc ngược nó lên xà nhà nhưng ác quá, họ tinh nghịch để cho cái, mõm nó vừa đúng với bạn gái nó...
Bị đau đớn, nó cũng cựa cạy, cũng giẫy giụa. Nhưng khi mắt nó trông thấy con chó cái, thì như nó lại quên hết mọi sự để cố chịu đựng nỗi khổ thống về vật chất mà ngoe nguẩy đuôi và thè dài lưỡi ra, làm cái việc sung sướng về tinh thần.
Lúc ấy, người ta bắt đầu xử tội nó. Người ta chằng hai đầu dây buộc cổ nó, thiết thật chặt lại cho nó mất cựa, rồi thò đao nhọn vào họng nó, cứa mấy nhát. Con Tớp ặc ặc kêu rú lên vài tiếng, tia máu vọt ra. Không hiểu nó có biết là sắp chết hay không, nhưng sau khi không còn hơi sức mà giẫy nữa, mà mắt nó vẫn chăm chắm vào con chó tây, lưỡi nó vẫn thè lè ra để liếm la liếm liệt, đuôi nó vẫn vẫy nhanh nhẩu như thường.
Nhưng chỉ được vài phút như thế, rồi mắt nó đờ đi đuôi nó yếu đi, lưỡi nó cố thò dài ra mà liếm cả vào thanh cũi. Rồi dần dần, như chiếc đồng hồ hết giây đuôi nó không vẫy được nữa, oặt lả xuống, mắt nó hết tinh thần, nhưng chỉ còn có cái lưỡi là vẫn còn ít tinh lực sau cùng, thấy đưa đi đưa lại được đến năm sáu cái nữa mới im hẳn.
- Thế là con Tớp hy sinh tính mệnh để thờ phụng ái tình, vậy mà đã chắc gì nó biết là nó đã chết. Nhưng chó chết hết truyện...
17 Aout 1993

Biểu tình


     Ông huyện nghe nói thế, nên vừa và được một miếng cơm, ông giật mình, vội bỏ bát xuống bàn, hỏi dồn:
- Đích thực à?
Thám tử chắp tay, đáp:
- Lạy quan lớn, đích lắm. Con phải giả dạng làm người buôn cau, luẩn quẩn trong làng mất bốn hôm, khôn khéo lắm mới dò nổi tin này, mới dám về trình quan lớn.
- Thế lý trưởng không biết một tý gì về làng nó sắp có cuộc tụ họp khả nghi à?
- Dạ, chắc rằng thế. Mà dễ thường nó còn về hùa với dân nữa.
Ông huyện ngẫm nghĩ, nói một mình:
- Quái, bây giờ thì làm gì mà cũng nhũng nhiễu thế nhỉ.
- Lạy quan lớn, con không rõ, nhưng đích rằng ba giờ chiều nay, thế nào ở làng Cao Hạ cũng có ít ra là hai trăm người, có cả khí giới.
Ông huyện không nói gì, ông liếc mắt lên tường, nhìn đồng hồ. Rồi ăn nốt bát ấy, ông đứng dậy, vừa đi rửa mặt, vừa bảo người lính hầu cơm:
- Gọi tài-xế sắp xe, tao ra tỉnh mau?

Người thám tử biết tính quan thầy vốn nhanh nhảu, bèn rót sẵn chén nước và đặt cái tăm ngang đĩa, để ở bàn.
Ông huyện rửa mặt xong, uống quàng chén nước, rồi mặc áo, chụp khăn. Và trong khi ông ngồi trên ghế để gài khuy và cạo râu, thì thám tử lom khom xỏ đôi giầy tây vào chân ông và buộc dây hộ.
Mọi việc làm rất nhanh nhẹn, ông huyện ngậm tăm, bước ra hè, để lên xe ô-tô.

Bữa sáng nay, ông chỉ ăn có mỗi một bát cơm. Ông vất vả như vậy, vì thì giờ cấp bách quá. Ba giờ chiều nay, dân làng Cao Hạ làm biểu tình, ông phải lên ngay tỉnh trình quan sứ. Trách nhiệm của ông bắt ông phải làm thế, tuy ông chưa rõ nguyên nhân vì đâu có vụ làm rối cuộc trị an này. Ông tin những thám tử của ông. Xưa nay họ đã giúp ông rất đắc lực.
Chiếc ô-tô tung bụi đi khỏi khúc đường đá hẹp thì đến quãng đường nhựa. Nó chạy hết tốc lực, để cho ông huyện được giáp quan chủ tỉnh trước khi ông này nghỉ giấc trưa.
Thì may quá, lúc xe đến cổng toà, tuy đã hơn mười hai giờ, nhưng ông Sứ vẫn còn ngồi ở buồng giấy.
                                               ***

Được lệnh trên, ông huyện ở toà sứ ra, tức tốc sang trại lính khố xanh. Ông đưa danh thiếp và phong thư của ông Sứ cho người nhà ông Giám binh. Lập tức, ông này mời ông vào buồng khách để bàn việc.
- Tôi sẽ cho ngay mười tay súng về làng Cao Hạ.
Ông Giám binh nói xong, lấy giấy bút để viết.
Nhưng ông huyện lo lắng, hỏi:
- Vậy ông không về tận nơi?
Ngần ngừ, ông Giám binh đáp:
- Chiều hôm nay, tôi bận tuyển lính mới, chắc rằng không có thì giờ đi được. Mười người lính của tôi sẽ dưới quyền chỉ huy của ông, tuỳ ông sai bảo họ.
- Nhưng ông nên đến tận nơi, vì cuộc biểu tình này có lẽ to. Làng Cao Hạ vốn xưa nay là một làng có nhiều dân bướng bỉnh. Vả lại quan Sứ có hẹn tôi rằng chính ngài sẽ thân hành về.
- Ngài thân hành về?
- Phải, vào độ khoảng 4 giờ chiều. Vì chắc lúc ấy cuộc đàn áp đã xong. Ngài sẽ hiểu dụ cho dân rằng sự làm rối trật tự chỉ có hại cho công cuộc mở mang của Nhà nước.
Ông Giám binh nghĩ ngợi, rồi đáp:
- Vậy thì tôi cũng phải về, mà về trước ngài mới được. Lính tôi sẽ đi xe đạp ngay bây giờ, chừng độ hơn hai giờ thì tới. Còn tôi, độ khoảng ba giờ, tôi sẽ có mặt tại đó
Ông huyện vui vẻ:
- Vâng, thực là may cho tôi. Vì tôi chỉ quen cai trị dân trong lúc bình yên, chứ chưa hề sai lính tráng khi có những việc nghiêm trọng như thế này bao giờ.
- Nhưng ông cũng phái cả mười tên lính cơ của ông, đến giờ ấy về làng Cao Hạ hợp sức với lính của tôi.
- Vâng, việc ấy dĩ nhiên. Chúng nó sẽ chờ lệnh ông.

                                       ***

Từ lúc ấy, ông huyện mới được yên tâm. Ngồi trên xe về nhà, ông mỉm cười, bảo thám tử:
- Đấy đứng ngoài vòng, chúng nó tưởng làm ông quan thì chỉ việc ngồi một chỗ để ăn tiền dân, chứ chúng nó biết đâu những lúc này, cơm chả kịp ăn, mà lại lo sốt vó. Nếu không được quan Sứ và quan Giám giúp tao, thì tao không biết xoay ra làm sao.
- Lạy quan lớn, con sợ việc này quan Giám lại chia công với quan lớn.
Ông huyện lắc đầu, cười:
- Không đời nào. Tao trình quan Sứ, tức là công của tao đầu tiên. Quan Giám đến đấy, chẳng qua chỉ là vì tuân lệnh quan Sứ, đi giúp việc tao mà thôi. Vì nếu không có tao đi báo, thì quan Giám tự nhiên có biết làng Cao Hạ có cuộc biểu tình mà cho lính về hay không? Vả lại chính tao phải giục, thì ông ấy mới thân hành về, chứ bỗng không, người ta thiết đếch gì.
Người thám tử gãi tai, xun xoe nói:
- Lạy quan lớn, con hầu hạ quan lớn...
Ông huyện hiểu ý, gật đầu:
- Đã tao đã trình quan Sứ rằng tin này là do mày báo cho tao. Tao đã bẩm chuyện mày với ngài, ngài có hẹn sẽ tư thưởng cho mày.
Thám tử vui sướng:
- Lạy quan lớn, quan lớn thương xin chò con cái cửu phẩm.
- Được. Tao đã bẩm với quan Sứ rồi. Ngài hứa thế nào cũng lưu tâm đến mày. Nghĩa là khi ngài định tư cho tao, tất thế nào cũng hỏi tao xem những ai cũng có công trong việc này. Lúc ấy, tao sẽ bẩm cho.
- Dạ, đội ơn quan lớn.
Một lát, ông huyện hỏi:
- Đi xe đạp hết sức từ tỉnh về Cao Hạ hết độ bao nhiêu lâu?
- Bẩm chừng hai giờ đồng hồ.
Ông huyện lẩm bẩm:
- Bây giờ đã một giờ. Vậy đến ba giờ họ mới tới. Thế thì chúng nó đang biểu tình. Chậm quá nhỉ.
- Bẩm ai ạ.
- Lính khố xanh của ông Giám binh.
- Lay quan lớn, như thế càng may. Con sợ các quan và lính về trước lúc ba giờ thì dân họ sợ, không dám tụ họp nữa. Con thiết nghĩ việc đàn áp đã có quan Giám binh và lính tỉnh, thì sự khó nhọc về phần họ chịu cả cho quan lớn rồi. Vậy dù có gây ra cuộc đổ máu, quan lớn cũng không phải khó nhọc. Cứ như con, con chỉ mong cho việc to thêm ra, vì việc càng to bao nhiêu, công quan lớn càng lớn bấy nhiêu.
Ông huyện gật gù, mỉm cười:
- Có lẽ!
Thám tử thấy đắc lực, bàn thêm:
- Bẩm quan lớn, xin phép quan lớn cho con đi về Cao Hạ trước, đứng đón lính tỉnh ở đường đồng, không cho họ vào làng vội. Vì con sợ người làng biết, thì họ tan, không dám tụ họp mất.
- Được, tao sai lính cơ huyện đứng đón họ ở ngay đầu cánh đồng.
- Dạ, nhưng lính cơ nhà, xin quan lớn bắt ăn mặc quần áo nâu cả. Nếu dân trông thấy quần áo vàng, họ cũng có thể đoán được. Nếu lính vụng, để tan mất cuộc biểu tình, thực là công quan lớn là công không.
- Được tao dặn cai cơ cẩn thận. Mà tao bảo cai cơ dẫn lính đi quành lên làng Đa Văn rồi hãy về làng Cao Hạ. Như vậy thực là kín đáo.
- Lạy quan lớn, độ mấy giờ thì quan lớn vào làng Cao Hạ?
- Chừng nào quan giám tới. Tao cùng vào với quan Giám và hai đội lính.
- Vâng, quan lớn cứ đóng ở đình làng Đa Văn, đã có chúng con đi do thám và trình báo.
- Mày phải làm thế nào cứ độ mười lăm phút, cho tao một tin mới.
- Dạ, con xin tuân lệnh. Làng Cao Hạ họ quen mặt con, nhưng họ vẫn cứ tưởng con đi buôn cau, không ai ngờ con cả. Con xin quan lớn cho con ba người lính phụ, cũng ăn mặc giả vờ như phường buôn, đi với con, để rồi đem tin về hầu quan lớn cho tiện.
- Được, cốt mày làm được việc.
Xe ô-tô quành vào cổng huyện, và đỗ trước công đường.

Ông huyện vào buồng giấy, lập tức sai gọi cai cơ, đội lệ cắt đặt công việc. Rồi nhìn giờ, ông thấy vẫn còn sớm, bèn để cả khăn áo lẫn giầy tây, ngả lưng trên giường nằm yên một lát.
Làng Cao Hạ là một làng đông dân cư. Nó ở vào một khoảng đất rộng rãi, theo dọc bờ một khúc sông khá to, nước trong vắt. Một con đường thênh thang nối với những làng bên cạnh. Con đường ấy, cả ngày tấp nập kẻ qua người lại, vì nó lại ăn thông với một bên chợ Đống Đa và một bên là chợ Mối. Hai chợ ấy ngày nào cũng có phiên.
Nhân dân cả một vùng gần đó, hàng ngày đến họp chợ, đều phải qua làng Cao Hạ mới đi tới được.

Bởi ở vào một nơi có địa thế dễ làm ăn, nên ba phần tư dân Cao Hạ sống về nghề buôn bán. Bến sông ngay trước cửa đình, mà mùa hè, hoa phượng đỏ ối nặng trĩu đầu cảnh rủ xuống soi gương trên làn nước xanh biếc, lúc nào cũng có giăm ba con thuyền tử các nơi xa đến cắm sào, bán những hàng hoá họ có thừa và buôn những thức họ chưa có. Các bà đàn bà trong làng, ngày nào cũng vậy, dậy từ lúc tinh sương. Mùa hè nóng như thiêu, cũng như mùa đông rét như cắt, khi mõ điếm tan canh đổ hồi, trong các bếp đã thấy ngọn lửa vàng lập loè và trên mái đã tia ra những dòng khói lam ẻo lả. Họ thổi cơm, nấu nước, và ăn xong, người nào người nấy gánh vội đôi bồ đi chợ kẻo trưa. Và trong khi ấy, đàn ông đã vai vác cày, tay xách mồi, lững thững theo trâu ra đồng đổi mồ hôi lấy bát cơm.
Họ đi vắng như vậy, đến tận lúc mặt trời bắt đầu ngả về tây mới trở về. Vợ đến nhà trước thì chạy quành ra đồng dắt trâu cho chồng. Chồng đến nhà trước thì đón gánh hàng cho vợ. Từ lúc ấy, trong làng Cao Hạ, sự hoạt động mới trở về cùng với người. Ngọn lửa lại bắt đầu cháy trong bếp và tia khói lại bắt đầu ủ ấp lấy mái rơm. Người ta thổi cơm, tắm giặt cho con cái, rồi làm nốt công việc đồng áng ở sân gạch, hoặc đi đòi nợ hay lấy lại một vài thứ hàng cần bán ngày hôm sau.
Từ hai ba giờ chiều trở đi, đường làng Cao Hạ đã đông lại càng đông. Và độ bốn năm giờ, người ta ra sân đình, ngồi chơi mát. Họ đem những chuyện đồn đến tai hoặc có lý hoặc vô lý đã nhặt được đó đây, để nói, làm dậy lên những tiếng cười rộn ràng. Cho mãi tới lúc nhọ mặt người, họ mới đứng dậy về nhà, đánh một giấc ngủ ngon, để sáng hôm sau dậy, lại làm công việc như những hôm trước.
Cả một làng, từ người lớn đến trẻ con, từ đàn ông đến đàn bà, quanh năm chỉ biết một việc mưu sống, thì bỗng nay đến tai quan trên có một cuộc tụ họp lớn, dân làm biểu tình, có cả khí giới. Thế thì làng ấy sẽ trông thấy sự trừng phạt gớm ghê của hai mươi tay lính súng, của quan Giám binh và quan Huyện có trách nhiêm coi giữ cuộc trị an.

                                               ***
- Lạy quan lớn, chẳng có biểu tình gì cả.
Nghe người thám tử nói, ông Huyện tái mét mặt, hỏi dồn:
- Không có biểu tình, thế thì làm thế nào?
Người thám tử gãi tai, ấp úng:
- Lạy quan lớn tha tội cho con, không phải con dám trình bậy, nhưng thực ra là con phải lừa. Người ta thấy con được việc nên thù mà nghĩ kế này để quan lớn không tin gì con nữa.
Ông huyện không đáp. Ông lo hơn là giận. Ông mở đồng hồ ra coi: đã quá hai giờ rưỡi. Người thám tử thấy ông không nói năng gì thì càng sợ. Nhất là hắn lại thấy cách ông ăn mặc gọn gàng, lối quan binh. Ông đã bỏ lối y phục bệ vệ ngày thường. Khăn nhiễu, áo sa, thẻ bài, giầy ban, tất cả những thứ chỉ lợi cho ông quan khi được bình tĩnh ngồi giữa ông đường để hứng lấy sự khúm núm của dân đen. Chứ đến khi trong hạt phải lúc đa sự như hôm nay, thì ông phải đội mũ, mặc áo vàng, quần cụt ống và giầy da dầu, bụng thắt dây súng lục và vai đem súng trường. Ông ăn mặc như một vị quan võ vì công việc ông phải dùng võ lực bên cạnh hai chục người nhà binh, bên cạnh một ông quan binh, và bên cạnh một ông chủ tỉnh chắc rằng không thích ông lượt thượt. Ông Huyện đã nghĩ cách thay đổi về hình thức để người trên vừa lòng và yên trí ông sẵn sàng chịu đựng sự vất vả để cố làm tốt bổn phận trị an. Sự mẫn cán ấy hẳn đem cho ông một phần thưởng xứng đáng. Thế mà nay vì không do thám kỹ lưỡng, người thám tử báo cho ông một tin bậy hẳn tội anh ta tày đình. Vì vậy, anh ta sợ:
- Lạy quan lớn, con trăm tội với quan lớn.
Ông Huyện phát cáu:
- Bây giờ ông Giám binh gần đến nơi rồi.
- Dạ, lạy quan lớn.
- Mà chốc nữa quan Sứ cũng đến.
Người thám tử run lẩy bẩy. Ông Huyện nghiến răng, nói tiếp:
- Mày hại tao. Mày giết tao. Tao biết nói thế nào bây giờ?
Người thám tử nhăn nhó như sắp mếu:
- Lạy quan lớn, con nào dám có bụng hại quan lớn. Con mà phản thầy như thế, xin quan lớn cứ cho con một phát đạn, con chết không dám oán hận một điều gì. Quan lớn thương hại con. Thực là con phải lừa người ta.
- Thành ra tao mang tiếng lừa quan Sứ, lừa quan Giám binh. Chốc nữa tao nói thế nào được.
Người thám tử chỉ gãi tai và quả quyết thưa:
- Bẩm xin quan lớn cứ đổ cả cho con, con xin chịu quở phạt tù tội với quan Sứ.
Ông Huyện cười gằn:
- Nhưng tao cũng không phải vô tội. Thành ra từ trước đến giờ tao tin mày, quan Sứ cho là tao chỉ nhắm mắt nghe bậy và làm bậy. Thế sao mày dám bảo dân Cao Hạ là biểu tình?
Người thám tử chắp tay:
- Lạy quan lớn, con có ngờ đâu phải lừa người ta.
- Thế không có một tí gì gọi là biểu tình cả à?
- Dạ, đâu chỉ có mấy người có gà chọi, đến ba giờ, định đem ra sân đình cho đấu chơi mà thôi.
Ông Huyện thở dài, giậm chân:
- Chết mẹ người ta mất? Chọi gà mà dám nói biểu tình.
Nghĩ ngợi một lát, ông hỏi:
- Thế nhưng lính tỉnh với lính huyện ở đâu cả?
- Bẩm họ vẫn lảng vảng cả ở các nơi quan lớn đã cắt đặt.
- Chúng nó đa biết tin này chưa?
- Lạy quan lớn chưa.
Ông Huyện móc túi lấy thuốc lá, bật điếm châm để hút, rồi ông vắt tay ra sau, đi đi lại lại, chốc chốc lại mở đồng hồ ra coi.
Người thám tử ngắm dáng dấp anh hùng ở cách ăn mặc của quan thầy mà càng thấy tội mình to bội phần.
Một lát, ông đứng dừng lại, nói:
- Mày đi gọi thầy đội lính tỉnh với cai cơ huyện lại ngay đây, có việc cần.
Người thám tử chạy ba chân bốn cẳng.

                                                   ***
Lúc bấy giờ chừng ba giờ. Trước sân đình, trong bóng râm sáu bẩy ngườỉ đương mắt chăm chắm nhìn đôi gà trụi lông, da đỏ hỏn, hăng hái mổ và đạp nhau. Nhưng hai đầu làng bỗng có hai toán lính súng đứng.
Một bọn người ở chợ Đống Đa qua làng Cao Hạ để về nhà vừa nói chuyện vừa cười. Nhưng bỗng:
- Ê ê đi lộn lại.
- Các thầy cho chúng cháu đi, kẻo đến nhà thì chiều cả mất.
- Không biết, đó là lệnh quan.
Một bọn người ở chợ Mối, qua làng Cao Hạ để về nhà, hả hê tính toán tiền nong với nhau.
- Ê ê đi lộn lại.
- Làng chúng cháu ở đằng kia, các thầy cho chúng cháu về, chứ còn lộn lại thì đi lối nào?
- Mặc kệ, lối này quan cấm.
Chẳng mấy chốc, làng Cao Hạ chỉ có thu người vào mà không có chi ra thành thử suốt dọc đường làng, người cứ ùn lại. Mà những người bị giữ, ai cũng ngơ ngác hỏi nhau. Song, đố ai giải nghĩa được, vì chẳng ai hiểu cớ gì hết.
Nhưng duy có người nào yên trí rằng làng Cao Hạ có cuộc biểu tình mới có thể giảng rằng đám đông người đứng tụ họp đấy nghĩa là gì. Khốn nỗi người ấy giảng theo sự yên trí của mình, cho nên đám đông đó là ngay đám dân biểu tình.

Làng Cao Hạ có biểu tỉnh.

Trăm phần trăm là đúng rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa.
Đến lúc ông Sứ và ông Giám binh xuống xe ô-tô, ông Huyện trình ngay sự quan trọng của cuộc rối loạn trật tự này. Và được lệnh, bọn lính bắt đầu giải tán.
Người ta càng không hiểu làm sao. Nhưng biết rằng cứ đứng trong ngoài đường để chờ quan cho phép đi về nhà thì thế nào cũng bị đánh đập nên họ chạy tán loạn và tìm lối trốn tránh. Trong khoảng từ ba giờ rưỡi đến bốn giờ, làng Cao Hạ bỗng diễn ra một cảnh ghê sợ. Ai nấy mặt cắt không được một hột máu. May người nào có nhà quen đề ẩn núp, ấy là phúc. Nếu không, họ cũng quẳng gồng gánh để chạy thoát thân. Họ nấp sau đống rơm, trong bụi rậm, nhịn thở đề chờ cho đến lúc yên yên mới dám lộ mặt ra để nghe ngóng tình hình.
Cho mãi đến năm giờ, bọn đàn anh trong làng khăn áo ra nghe quan Sứ hiểu dụ. Họ mới ngã ngửa ra là làng họ có một cuộc biểu tình lớn.
1938

Cái nạn ô-tô


      Về việc mở số cái xe ô-tô của quan Huyện mà bác phó lý sở tại được trúng, thì ai cũng phải buồn cười:
- Thật là xẩm vớ miếng gan!
Quái thật? Hai mươi người đánh số, nào ông thừa, nào cụ lục, nào quan nghị viên, nào các thầy chánh phó tổng, chánh phó ly, biết bao người ước mong, thấp thỏm, mà rút cục, cái xe ấy lại vào tay bác phó lý là người không đáng có! Thế mà bác ta chỉ vì sợ quan mà bỏ ra mười lăm đồng để mua một số, chứ nào bác có dám hám gì đến ô-tô.
Cái xe ấy hãy còn tốt lắm, quan bảo thế. Đáng lẽ ngài đưa lên Hà Nội để bán, thì rẻ ra cũng được bốn trăm. Nhưng ngài muốn bầy ra cuộc đánh số ở trong hạt cho vui, để mọi người cùng được hy vọng có ô-tô bằng một món tiền rẻ đặc biệt.

Cho nên, mười lăm đồng được cái xe, giá vào địa vị chúng mình, thì hẳn mừng quýnh lên mà mua phăng dầu xăng, rồi vặn máy đi diện phố. Nhưng bác phó lý tôi thì cứ băn khoăn từ hôm trúng số đến nay.
Bác đâm lo. Mà lo nhất là món tiền khao xe. Bởi vì những người thua, ai cũng cho bác là may, ép bác sửa một bữa chén mừng. Bác nể, nên phải méo mặt mà mừng vậy?

Tiệc xong, họ quây quang bàn đèn. Ông thừa đang nạo xái, gọi bác và bảo nhỏ:
- À này, bác phó, bác cũng nên mua cái gì vào tạ quan, mới nghe được. Nhờ ơn ngài, nên bác mới mất ít tiền mà được cái sang trọng như thế này. Nay bác đã thết chúng tôi linh đình, mà bác lờ ngài đi, coi không tiện.
Rồi người xui mua cái nọ, kẻ bàn nên lễ thứ lùa. Kết cục bác phó lý lại phải tạ quan. Vì ngài đã cho bác cái ơn trời biển ấy.
Nhưng mỗi bận bác ra vào huyện, mà trông thấy cái xe của bác để ở sân trại lệ, thì bác lại phát phiền! Nhất là cái mũi xe, trông đằng trước, có đủ cả mắt, mũi miệng, sao mà nó giống cái mặt người thế? Thôi thì chắc nó còn ngoạm của bác không biết bao nhiêu tiền đây Nào tiền sốpphơ, nào tiền dầu xăng, nào tiền chưa lại máy, mới đi được. Vì quan bảo:
- Xe này vẫn tốt. Nếu cứ thay cái bộ máy, thì lại như mới ngay.
Nhưng bác rước nó về làm gì? Ai lại phó lý mà dám chơi ngông thế bao giờ! Dùng nó thì bác chẳng đáng, cái đó đã hẳn đi rồi. Song, bán thì biết bán cho ai được?
Thành ra bác cứ vớ vẩn mãi. Thế mà chưa chi người nọ đã gạ mượn, người kia đã tán xin cho đi nhờ. Gớm khó chịu quá?
Bây giờ bác đã có tiền nào đâu? Vụ gặt vừa rồi, được bao nhiêu thóc bác đem bán rẻ để nộp quan, tạ quan và chi tiêu về bữa khao xe hết cả rồi, còn gì?
Thôi cũng đành. Bác cứ để xe trong huyện, chứ đem về làm gì? Mà đem về bằng cách nào? Không cồ tiền mua xăng, không thuê ai vặn máy, chẳng lẽ lại sai lũ tuần nó trói lại mà gánh đi hay sao?
Phiền quá thực? Vợ bác thấy bác tốn kém, cứ giầy vò bác mãi. Rõ đàn bà hay lôi thôi. Nó có biết đâu rằng vì cái số bác chẳng may - thôi cũng là thất tài nên bác mới trúng xổ số cái ô-tô như thế. Thì thà cứ chịu đi, để được lòng quan, được lòng các ngài tai mắt trong hàng huyện. Chứ nay nó nhiếc móc, mai nỏ đay nghiến - mà việc đã lỡ ra như thế mất rồi - thì thật oan bác quá.
Chán thật! ô-tô ô tiếc làm gì cho rầy rà! Bác có vào địa vị dùng được nó đâu, mà sao ông trời khéo oái oăm quá thế?
Ai thấy bác bỏ lăn bô lóc cái xe, cũng bảo bác dại bác phí của. Nhưng có biết đâu là bác đâm ra khốn quẫn vì nó mất rồi?
Thỉnh thoảng, gặp ở đường cái chiếc ô-tô nào đương chạy, bác nhác trông lên, thấy anh tài xế, thì bác phải xấu hổ. Anh ấy mặc quần tây, áo tây, đội mũ tây, trông oai vệ cứ như ông Tây. Trái lại, bác đi đất, quần áo thì lượt thượt.
Chẳng phải bác không có giầy và áo xống đẹp đẽ để mặc đâu. Nhưng ăn mặc làm quái gì? Công việc của bác có cho bác được sắm những thứ sang trọng đâu?
Đến ngay như lý trưởng, lên quan, còn phải tụt giầy bỏ bố đi nữa là phó lý? Thì chẳng lẽ ông chủ thế này, mà người làm công lại thế kia hay sao?
Thôi thì đành liều. Cứ để cái xe ở trong huyện. Dù quan có giục, cô quở, cũng cứ khất lần. Chẳng lẽ ngài chôn chân, bỏ tù hoặc doạ cách cổ đê bắt mang xe về hay sao? Làm gì ngài chẳng hiểu? Thật ra bác đã bị quan huyện đòi lên hai ba lượt để ngài hỏi về việc xe ô-tô Nhưng lần nào bác cũng bẩm:
- Bẩm quan lớn, cho phép con thư thư vài ngày nữa con xin mang về.
Ấy là nói đỡ đòn, chứ bác đã định ngày nào mang về đâu. Không biết quan huyện có ái ngại cho tình cảnh nhà bác hay không, mà bác vẫn thấy ngài bảo:
- Anh có của mà không biết dùng? Mấy trăm đồng bạc mà cứ để phí để hoài như thế?
Bác cũng tiếc của lắm chứ có phải không đâu?
Nhưng biết làm thế nào? Giá ngài ban cho ít dầu xăng và cho mượn cậu tài xế, thì chả phải bảo, bác quyết chẳng từ mà ngồi phắt lên cái đệm lò xo êm êm, và cho cả vợ cả con đi quần một vài vòng cho hả cái vong linh. Nhưng mà túi nhẹ thì chớ hòng cảnh sung sướng!
Thế là bác cứ kệ cái xe ô-tô của bác cầu vơ cầu vất ở sân trại. Ai trông thấy cũng phải tiếc hộ bác. Quan huyện lại giục, thì bác lại khất lần.

Nhưng ngài thấy bác lúng túng mãi, thì hẳn ngài cũng thương. Một hôm, ngài truyền bác vào nhà tư, và hỏi khẽ, giọng thân mật:
- Tôi hỏi thực anh, thế anh có muốn dùng cái xe này không?
Bác phó gãi tai, không dám giấu:
- Bẩm lạy quan lớn, cảnh nhà con thực bần bách con không thể dùng được ạ.
- Thế thì sao anh mua số làm gì?
Bác phó thấy quan phàn nàn hộ mình thế, biết là vì bận nhiều việc, nên ngài quên bẵng ngay câu ngài đã bảo bác độ nọ: “Anh nhà khá, phải lấy một số” Nhưng nhắc lại câu đó làm gì? Bác thưa:
- Dạ!
Ngài dịu dàng nói:
- Thế thì anh để xe không cũng vậy, mà nó đến han đến gỉ, rối hỏng đi, thì tôi cũng tiếc. Vây tôi cho lại anh năm đồng. Chứ chẳng lẽ anh mất tiền khoảng không, mà không được dùng xe, thì tôi không đang tâm, hiểu chưa?
Câu nói nhân từ ấy có gì là khó hiểu. Bác phó mừng như nơ nang khúc ruột, đáp:
- Dạ.
Quan nói:
- Nhưng mà anh để cái xe này tôi dùng hiểu chưa?
Câu nói ấy cũng rõ ràng như câu trên, nên bác phó hiểu ngay, bèn gãi tai đáp:
- Dạ.

Bác mừng quá. Rũ được cái nợ ra, bác thấy nhẹ cả mình. Muốn tạ lòng thương người của quan phụ mẫu, bác cảm động, vái dài một cái, rồi hớn hở ra về.
Đi đường, gặp người quen, bác khoe cái việc may mắn này, và nói:
- Nếu quan không thương tình, thì tôi bị cái nạn ấy những hơn sáu chục bạc?
1-1934

Chính sách thân dân


Từ chánh phó tổng đến thư ký, thủ quỹ trong hạt X.X. ai ai cũng lấy làm nghi kỵ tờ thông sức số 57, ngày 2 tháng giêng, của quan huyện Lê Thăng. Người ta bàn tán mãi, song, không ai rõ ý quan ra làm sao.
Người ta hỏi dò ông thừa, cậu nho, nhưng bọn này cũng trả lời một cách rất mập mờ:
- Thế là chính sách thân dân của ngài chứ gì! Mặt trận Bình dân mà lị.
Giấy sức ấy như thế này:
X.X. ngày 29 tháng giêng 193...
Quan Tri huyện huyện X.X., thông sức
các chánh phó tổng cùng hương lý các xã tuân cứ.
Từ ngày bản chức về trị nhậm hạt X.X., thấy các thầy hết lòng cùng bản chức trông nom sự trị an, đê điều thuế má, v. v. bản chức lấy làm cảm động lắm. Vậy bản chức thành thực có lời khen ngợi và mong rằng từ nay các thầy cứ tận tâm về nghĩa vụ thế mãi.
Nhưng muốn cho tình quan dân được khăng khít thêm nhiều, và muốn thi hành chính sách thân dân mà bản chức vẫn theo đuổi từ ngày xuất chính, bản chức không những phải quý nể người sống, mà nên thương tiếc đến cả người chẳng may quá cố, trong khi đang làm việc cho dân.
Vậy từ nay trong hạt các thầy, mỗi khi có ai bất hạnh qua đời, trên từ hàng chánh phó tổng, dưới đến thư ký, thủ quỹ không cứ là tạ thế vì bổn phận hay vì bệnh già, các thầy đều phải cáo phó cho bản chức biết để bản chức được dự đưa người thuộc hạ đến chỗ ở cuối cùng.
Bản chức thiên nghĩ khi sinh thời, mỗi người gánh vác một việc dân, việc nước, thì mỗi người có một nhiệm vụ khác nhau. Người nhiệm vụ to, người nhiệm vụ nhỏ. Cho nên bản chức là người trên mà các thầy là phần dưới.
Nhưng một khi đã không ở cõi đời nữa, thì bổn phận người sống là phải kính trọng linh hồn người chết, cho nên bản chức cần phải chào biệt một người giúp việc đã qua đời, đó là bổn phận riêng của bản chức.
Vậy các thầy nên đọc kỹ tờ sức này để hiểu ý bản chức và từ nay cứ thế mà thi hành.
Nay sức
LÊ THĂNG

Vậy có gì là khó hiểu? Bao nhiêu ý kiến thân dân sống, trọng dân chết, nó rõ nét cả ra trên từng ấy dòng, việc chi phải ngờ mà bàn với tán?
Nhưng khốn thay, dân chẳng tin như thế cho. Đối với lời ngọt ngào của quan phụ mẫu này, người ta sợ như gà phải cáo. Trước kia, người ta bị nhiều vố cay đắng vì những lời ngọt ngào như thế rồi. Cho nên bây giờ người ta phải chờ cơ hội xảy ra, một cơ hội chẳng ai mong có, vì nó là sự chết, để xem việc làm, mới có thể chứng thực cho lời nói được.
***
Dịp tốt để thí nghiệm chẳng phải chờ lâu.
Và dân chẳng phải nghĩ ngợi nữa.
Ông thủ quỹ làng An Đạo đã thở hơi cuối cùng.
Lập tức, không những chức dịch ấy đi trình quan, mà đến chánh phó tổng cũng lên tận huyện đề cáo phó.
Và quan hẹn sẽ về An Đạo từ chiều hôm trước để sáng hôm sau, kịp đưa người thiệt phận ra đồng. Ngài ngại dậy sớm. Đường đất từ huyện về An Đạo thì xa. Vả tang gia đã ấn định đúng bẩy giờ thì chuyển cữu.
Lúc ấy, trong nhà ông thủ quỹ, tiếng khóc cạnh linh sàng đương xen lẫn với tiếng cãi lý nhau quanh mâm rượu, thì bỗng có người báo quan đến.
Chà chà! Một tin quan trọng làm sao.
Hiếu chủ vội vàng mũ gậy ra đón tận đầu ngõ, cúi rạp xuống để chào. Và trong nhà, khách ăn chạy tản mát, đứng ngấp ngó ở sau tấm giại. Những mâm cỗ ăn dở bị khênh đi, tẩu thoát xuống dưới bếp. Người nhà quét tước và thu xếp vội vàng các chỗ cho sạch mắt.
Quan xuống xe, thong thả tiến vào. Ngài đứng ở sân, ôn tồn nói vài câu chia buồn. Hiếu chủ cảm tạ, mời ngài đến nghỉ ở nhà ông lý cho tĩnh mịch. Tang gia đã điều đình trước với ông lý dọn dẹp sẵn căn buồng và bầy biện cho lịch sự. Ông lý vừa được cảm tình với hiếu chủ, vừa được hân hạnh đón quan mà không phi tốn gì, nên bằng lòng ngay.
Đến chỗ nghỉ chân, quan rửa mặt, uống nước xong, thì vừa vào lúc lên đèn.
Một mâm cỗ chững chạc đã từ nhà đám khênh đến, đặt ở phản giữa. Hiếu chủ cung kính rước quan chứng giám tấm lòng thành. Quan gật, tụt giày ban ra, lên giường, ngồi xếp bằng tròn chính giữa.
Những ai có diễm phúc ngồi hầu cơm quan, đã được xếp đặt trước cả rồi. Quan rất vừa lòng, trò chuyện rất vui vẻ thân mật.
Ăn xong, theo thường lệ, phải có cuộc mua vui.
Chẳng lẽ quan ngồi chuyện suông với chức dịch cho đến khi ngài buồn ngủ? Cho nên, ông chánh tống đứng dậy, gãi tai nói:
- Bẩm quan lớn, xin phép quan lớn cho chúng con được hầu canh tổ tôm.
Quan cười, đáp dở đùa dở thực:
- Tôi không mang tiền đi.
- Bẩm xin có ạ.
- Ừ thế thì đánh một lát cho đỡ buồn, chứ bây giờ thì ai ngủ được.
Canh bài ấy đánh ba hội. Quan ít ù lắm. Bởi vậy, ông chánh tống phải giữ lời hứa. Vả nếu ông không biết điều mà góp cho quan, thì quan cũng đã hất hàm để giao hẹn rồi:
- Thật nhé, thầy góp cho tôi nhé.
***
Sáng hôm sau, quan dậy sớm, khăn áo chỉnh tề, đi bộ đến nhà tang. Ngài trịnh trọng theo cữu. Cạnh ngài, có người che ô hầu. Và xung quanh ngài, tuần làng nghiêm chỉnh cầm roi dẹp đường. Bất cứ ai, dù trẻ con đi xem, hay người quen kẻ thuộc, hay cả đến họ hàng bà con người chết, mà vô ý sán lại gần, là bị vụt liền.
Nhờ có quan đám ma thêm vẻ long trọng. Các chức địch hàng tổng và những làng gần An Đạo, không thiếu một mặt nào. Mà người ta đến đây để quan trông thấy hơn là để đưa người bạn đến chỗ ngủ ngàn năm.
Cả vùng, ai thấy quan đi đám một người thuộc hạ quèn, cũng lấy làm cảm động. Người ta khen ông thủ quỹ tốt số. Mà thực, giá ông này có khôn thiêng mà nhìn thấy sau linh cữu mình, một vị đeo thẻ bài ngà lững thững đi một cách nghiêm trang, thì có lẽ sung sướng quá đến nỗi sống lại mất.
Đám ma đến huyệt. Tiếng khóc nổi lên như ri, cầm lòng cho đậu, trong những phút đau đớn này. Đàn bà lăn xả vào quan tài, vật mình mấy. Đàn ông mếu máo, còng lưng xuống mà khóc. Nhưng trước khi giòng áo quan xuống hố, quan bảo thầy chánh tống bắt mọi người phải im.
Lệnh trên đưa ra, mấy anh tuần giơ roi vào vợ con người chết, quát:
- Im, không được khóc, quan truyền thế.
Mọi người không dám thút thít.
Quan bước đến trước huyệt, ngài móc túi lấy mảnh giấy giơ lên và đọc.
Nhưng buồn quá, ngài đọc tiếng Pháp. Cho nên, cố nhiên cả người chết lẫn người sống, không ai hiểu ngài nói gì.
Người thông minh, bảo đó là ngài đọc đít-cua. Người mê tín, bảo đó là ngài tụng kinh. Những người dốt đặc, còn phải nghe con cháu khấn bằng chữ nho, thì biết đâu, ông thủ quỹ chẳng nghe hiểu điếu văn tiếng Pháp?
Đọc xong, ngài lăm đăm đứng lặng, rồi cúi đầu một cái đoạn lui ra. Cả nhà tang chủ đổ xô lại, lễ tạ. Rồi ngài lên xe để về huyện. Ngài vẫy thầy chánh tổng lại gần, dặn nhỏ:
- Này, xe này tôi thuê khứ hồi một đồng, thầy liệu bảo họ trang trải mà trả nhé.
Rồi tặc lưỡi, ngài nói thêm:
- Mà tiền góp tồ tôm cho tôi hôm qua, thầy cũng nên bảo họ biết, tội gì mình chịu?
Chuyện này chỉ nhạt có thế. Nhưng hình như nó là chuyện thực. Bởi nó là chuyện thực, nên ông huyện Lê Thăng phải chịu trách nhiệm về phương diện nghệ thuật của văn chương.
Song, ta cũng nên phục ông Lê đã khéo nghĩ được những hành vi cho có vẻ tiểu thuyết. Ông là nhà tiểu thuyết rất tự nhiên và rất có tài.
Bây giờ, ở vùng ông cai trị, người ta còn đợi mua vui bằng nhiều tác phẩm sống của ông. Nhưng có một điều buồn cho thuộc hạ ông, là không những họ sợ sống, mà họ cũng sợ cả chết nữa. Họ sợ để khổ cho con cháu, vì quan lại cứ về đưa ma!
1938

Đàn bà là giống yếu


Sau năm năm chuyên môn khao cứu các thớ thịt đàn ông, cái Bống đã biết đặt cái sắc đẹp của mình vào những công cuộc khai mỏ.
Quả tim nó chẳng phải là cái bắp thịt đỏ hỏn, thoi thóp, cảm động nữa. Quả tim nó đã biến thành một gian buồng nhỏ, bọc sắt, có ống thu lôi trong đó chứa chất biết bao nhiêu hy vọng của nhùng anh chàng dại dột, nhìn đời qua cứa số nhà trường, tay cắp sách miệng lầm nhấm, nhắc lại câu: Đàn bà là giống yếu.

Một hôm, trong rạp hát, giữa chốn tối tăm, nó đã mỉm cười, đem quả tim quý hoá đó, nùng nịu đặt vào lòng một quan phu goá vợ, mà một bước lên chức bà lớn nghênh ngang.
Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc nặn các người làm bà lớn. Nên chăng mấy chốc, bà phủ đã được đúng kiểu mẫu, chỉ riêng bộ mặt cũng đã long trọng. Người ta tương chiếc bánh dầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự, và ngay đầu quả chuối, nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào chốn nát-bàn, thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thẳm sâu như bụng dạ một người đàn bà. Song, quan ông lại có cái hình thể kháng hẳn. Vì ở người ngài cái gì cũng cong, từ cái sống mũi đên cái lương tâm, từ cái lưng đến cách sử kiện. Tuổi đã già mà ái tình còn trẻ. Ngài mua được người ngọc ở chốn thành thị về để hầu hạ sớm khuya, thì thoả chí lắm. Ngài quyêt từ nay không chê bai những món lê nhỏ quá, để làm sao có đủ tiền cho người yêu tiêu xài vung phí.
Thường, những buổi chiều tà, khi bức màn đen lóng lánh kim cương rủ xuồng để che kín vũ trụ, trong vườn hoa, trước tư thất quan ông quan bà nhỏ to trò chuyện như một cặp nhân tình.
- Thế nào? Mai là rằm rồi, bà đã sửa soạn ra đền chưa?
- Đã đem đầu vào làm tôi con Thánh thì tôi quên làm sao được. A, ông này, tháng hai Chính, tôi tống cố nó đi rồi. Ai lại cung văn mà toét mắt, bẩn như ma. Lắm khi nửa giá chầu, chán quá, tôi phải thăng ngay lập tức.
- Đuối nó đi, đến mai, lấy ai hát cho bà?
- Đã hơn nửa tháng nay, vợ lý trưởng sở tại đã cho gọi nhà phó Bái thay rồi. Thế mới gọi là cung văn chứ. Đàn ngọt, hát hay, lại nhanh nhầu, sáng sủa. Thằng này khoẻ mạnh, vạm vở, ăn nói có duyên, chứ chẳng hom hem như thằng chết giẫm trước đâu.
- Dễ thường tôi hom hem thế này, cũng là tuồng chết giẫm nhỉ?
- Chết nỗi! Ví mình với thằng cung văn! Sao ông dại dột thế! Thật từ ngày hầu hạ ông, tôi như người đi xa về được đến nhà. Chẳng cần phải lầu son, gác tía, tôi mới được mãn nguyện. Đời tôi chỉ mong có hai điều: Một quả tim và một túp lều tranh.
- Còn thiêu một cuộn giấy bạc nữa là ba mới đủ?
Quan ông vừa nói tiếp, vừa lả lơi cười, rồi ôm chầm lấy quan bà: Một con nhái bén bám vào một quả dưa chuột?
- Bà đừng giận nhé. Thế bà có yêu tôi không?
- Gớm nữa? Lẩn thẩn lắm? Đàn ông chỉ hay bịa ra những câu hỏi để đàn bà chúng tôi phải bịa ra những câu trả lời! Có! Rồi sao nữa?
Quan ông đứng dậy, cầm tay quan bà, dắt vào nhà, đóng cửa lại, qua bậc cửa buồng, gài then kỹ lưỡng. Rồi, dưới bộ ria mép như một cái mũ nồi úp chụp lấy cái miệng chúm chím, quan để nở ra một nụ cười móm.
- Rồi thì... Bà còn đợi gì nữa.
Quan bà õng ẹo, đưa cặp mắt lườm yêu chồng thỏ thẻ:
- Nhưng mà thế thì rét lắm.
Năm phút sau, dưới ánh đền treo trong phòng, hiện nguyên hình bộ phận một người như hồi sơ sinh của các bà mụ nặn.
Cứ thế, những cảnh nồng nàn yêu dấu của hai linh hồn sắp nguội, mỗi buổi chiều lại diễn ra, đến nỗi mấy con thạch sùng cũng phải đánh ghen mà tặc lưỡi.

Cứ thế, ngày giờ trôi qua đi, quan phủ say tít, không còn nghĩ lại quãng đời dĩ vãng vấy bùn của vợ nữa. Thời gian cùng một tay vẽ những vết nhăn trên trán người đời, lại đem khăn lau xoá hết những sự xấu xa ô uế trên mặt họ, để cho ai, tới lúc chết, cũng được anh em đọc điếu văn kể công trạng và đức tính lúc còn sống.
Đến một hôm giông tố.
Mưa đổ. Gió gào. Trời lạnh buốt. Quan lớn đi bắt xóc đĩa, mãi khuya bì bõm mới về tới dinh. Bước chân vào hiên nhà tư, quan sung sướng nghĩ tới cái giường đệm bông, cái lồng ấp thịt, thì lại quên hết nỗi khó nhọc xông pha. Mưa vẫn đổ. Gió vẫn gào.
Cơn dông mỗi lúc một dữ.
Bỗng một luồng gió đánh bật cánh cửa, tung ra ngoài một cái bóng đen, xô cái bóng nhanh tít ra phía vườn, bắn nó lần vào quãng tối tăm mờ mịt.

Hồn vía chưa đến nỗi lên mây, nên quan lên còn có can đảm chạy ngay vào trong nhà.
Buồng bà lớn còn hé mở, có ánh sáng chiếu ra. Quan vội vã đẩy cửa vào thì chao ôi! Cơn gió bên ngoài không ngờ mạnh đến thế. Nó chui khe cửa, làm tung cả chăn đệm trên giường, làm xổ cả tóc bà lớn, làm tốc cả áo quần bà lớn, để lại trên tấm thân ngà ngực có một chiếc áo sơ mi.

Bên ngoài, mưa vẫn đổ. Gió vần gào.

Dầu người đần độn đến đâu cũng đoán được tấn kịch vừa xảy ra trong buồng ấm cúng này, nữa là quan lớn “đèn trời soi xét”.
Quan chẳng còn nghĩ nỗi quần áo ướt, khuỳnh hai tay vào háng, trừng mắt nhìn vợ.
Khác hẳn những kẻ có tội, bà điềm nhiên, lên giường quấn chăn nằm ngủ.
Quan không sao ghìm được cơn thịnh nộ, áp lại gần chỉ ngón tay dăn deo, rít lên:
- A, ra con này giỏi thực. Mày không coi ông ra gì. Vắng mặt ông một tý, mày đã rước trai vào!
Bà đưa mắt nhìn ông một cách ngạo ngược, ngắt lời.
- Tiếc thay, ông biết chậm quá rồi, ông ạ. Bây giờ ông mới bắt được thì ông ngu quá. Đã hơn nửa tháng rồi kia mà!
- Mày trêu gan ông! Ông thì cho mày vào tù?
Bà ngồi nhổm dây, nhìn chính giữa mặt ông, cười rũ rượi:
- Úi chà! Dễ nhỉ! Xin quan lớn đừng lôi đình. Khỉ lắm!
- Ông thì bắt cả nhà mày cho mà xem. Nuôi ăn cho béo để giở quẻ.
- Ông nuôi tôi béo? Thế tôi có trả công ông không? Bên mua, bên bán, ông có quyền gì mà hạch? Ông nên biết, cái quyền tự do của tôi, ông đã cướp mất...
- Quyền tự do của mày? To nhỉ, ông có nhôt mày không cho mày ra ngoài đâu mà mày báo mất tự do?
- Phải, ông chẳng đóng cửa cấm tôi đi lại, song cái thân tôi, ông đã nhét nó vào trong bốn bức tường trát bằng giấy bạc trộn với cơm, ông có biết không?
- Ai bảo mày đâm đầu vào?
- Thế ra ông không cám ơn tôi đã cho ông biết những khoái lạc mãn kiếp ông cũng không biết à? Tôi đã mở đường mở lối cho ông đi, ông không biết còn toan giở mặt. Đồ vô ơn!
- Con bé này thực không coi ai ra gì nữa!
- Tôi đã bảo ông rằng, tôi cho ông lợi dụng tôi để chóng được thăng, ông không hiểu, thế thì tôi cũng phải lợi dụng ông. Ở đời này, ai không thừa cơ lợi dụng là khờ.
- Gớm thật! Mày dạy ông luân lý thế phải không?
- Tôi còn dạy ông hơn nữa. Ông đừng có lôi thôi vào tôi. Này, ngay bây giờ, tôi chạy ra trại cơ, trại lệ, ngoài phố, gõ cứa nhà từng đứa mà bảo: Dậy mà xem, bà phủ ngủ với trai ngay bên cạnh mũi quan phủ.
- Ông cấm mày nói!
- Cấm thế nào được? Tôi chỉ bán cho ông cái phiến thịt của tôi, chứ có bán đâu cái tự do?
Câu nói bướng bỉnh làm tắc cơn thịnh llộ của quan ông. Cái búi tóc bí mật sau gáy, giá biết cử động, chắc cũng phải xổ ra mà ngỏng lên trời, làm thành một cái dấu ngạc nhiên.
Bà lớn được thể nói tiếp:
- Cái sung sướng của tôi chi là cái vỏ, cũng như chiếc áo lụa mầu này, ai biết đâu gói chặt một tấm thân nát bét. Chữ “tử tế” của ông nêu lên cho mọi người, giá viết nó là “bắt bí”, mà đọc là “bóp nặn” thì đúng hơn. Tôi có nói. Rồi tôi đi khắp chỗ quen thuộc, bạn bè với ông, báo với họ rằng: Mười mấy lần, bà phủ ngủ với trai, ngay trong buồng quan phủ.
Câu sau cùng, bà thong thả dằn từng tiếng nghe chừng đã có công hiệu. Ông thì như bị từng ấy nhát búa nện vào chỗ yếu, vội vã sấn lại, lấy tay bịt miệng bà:
- Có khẽ chứ không?
- Việc gì phải nói khẽ? Người ta chỉ nói khẽ những điều nói dối, những câu ân ái thôi. Chứ những lời nói thực, phũ phàng, thì việc gì phải nói khẽ.
- Những bọn người nhà nó biết thì sao?
- Thì nó sẽ bảo ông là thằng mù, thằng ngốc.
- Nỡ nào bà để chúng nó chửi tôi?
- Tại ai? Ai giở mặt trước?
Quan ông đấu dịu:
- Trong lúc nóng nẩy, nghĩ càn, bà chấp làm gì!
- Ông đã biết lỗi rồi chứ?
- Vâng, thì biết lỗi.
- Chưa xong: ông phải chuộc lỗi mới được. Lấp mồm tôi ông phải kiếm cái nút.
- Bằng gì nào! Bằng giấy “đỉnh” nhé?
- Không thèm?
- Bằng kim cương nhé?
- Tôi thừa rồi.
- Bằng ngọc thạch nhé?
- Tôi chẳng thiếu!
- Thế biết bằng gì bây gìờ?
- Ông không đoán ra à? Ông không nhớ chủ nhật trước, đi chơi Hà Nội, tôi trỏ cho ông cái ô-tô “Fo” mà chê: “Vợ chồng lão phủ xoàng lắm” đấy à? Ấy, nút mồm đấy!
- Chết chửa? Bà điên rồi sao? Mong những cái ấy đào đâu ra?
- Đào trong ruột những thằng dân của ông, chứ còn ở đâu nữa? Ông quên rằng ô-tô của bọn các ông chẳng phải chạy bằng ét-xăng, mà chạy bằng mồ hôi nước mắt của dân đen à. Ông ngu lắm, hèn lắm?
- Chả hèn lại thua?
Nói xong, ông toan ôm lấy bà, nhưng lại bị hất ra:
- Gớm chết? Ướt như chuột thế này. Ông có ừ không đã?
- Thì ừ chứ sao!
- Được rồi. Nhưng hôm nay tôi hãy phạt ông đã. Ông để tôi một mình đêm nay. Thằng ranh ban nãy làm mình mệt lử ra... Chứ như ông ấy...
Nói xong, bà cầm tay quan ông dắt ra ngoài, đóng sập cửa lại. Bà còn văng vẳng nghe quan ông hỏi câu sau cùng:
- Gượm đã. Ban nãy bà bảo mười mấy lần?
- Mười bẩy lần.

Bà trả lời liều vậy. Chứ bà còn đương tưởng tượng đến cái xe hòm nó nhe bộ răng kền sáng nhoáng ở đằng mũi, để cười, cười ông sẽ đưa bà đến chỗ phú quý vinh hoa hơn...

2-1934

Đồng hào có ma

Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khỏe mạnh, béo tốt. thuyết ấy sai. trăm lần sai! nghìn lần sai! vì tôi thấy sự thực, ở đời này, bao nhiêu những anh béo, khỏe, đều là những anh thích ăn bẩn cả. thì đấy, các ngài cứ hãy nhìn ông huyện hinh, hẳn các ngài phải chịu ngay rằng tôi không nói đùa.
chà! chà! béo ơi là béo! béo đến nỗi giá có thằng dân nào vô ý, buột mồm ra nói một câu sáo rằng: "nhờ bóng quan lớn", là ông tưởng ngay nó nói xỏ ông. tức thì, mặt bàn là một, mặt nó là hai, bị vả đôm đốp. mà rồi thằng khốn nạn ấy, ông truy cho đến kỳ cùng, không còn có thể làm ăn mở mày mở mặt ra được. bởi vì ông có sẵn trong tay hàng mớ pháp luật, thì ông ngại gì không khép thằng bảo quan béo vào tội "làm rối cuộc trị an". thế là việc công việc tư, ông đều được trọn vẹn. vì không những ông được hả giận, lại còn được tiếng mẫn cán là khác nữa.
nhưng cớ sao từ ngày xuất chính tới nay, hai mươi năm trời rồi, ông vẫn còn lẹt đẹt tri huyện mãi. cái đó không quan hệ. các bạn học cùng ông, họ đều thăng đường quan cả, vẫn thường phàn nàn hoạn lộ quá chậm chạp của ông. trước mặt họ, nghe câu nói thành thực ấy, ông chắp tay, cúi đầu, làm ra vẻ buồn rầu. nhưng lúc quay lưng đi, ông bĩu môi, chửi thầm một câu, bụng bảo dạ:
- làm bố chánh có vặn xỉ ra mà ăn!
lý lịch của ông huyện hinh cũng xấu thật. bởi vì ngồi huyện nào, ông cũng bị dân kiện. mà quan trên xét ra ông lại trễ nải việc quan. Đời làm quan của ông chỉ có hai việc chính: đánh bạc và chơi gái.
năm nay, ông đã ngoại tứ tuần. Ông vẫn lấy cái tuổi của ông để lên mặt tiền bối, khinh những ông huyện trẻ khác, nếu tụi này dám chỉ coi ông là bậc ngang hàng. Ông liền khoe thằng cả nhà ông đã hai mươi nhăm, rồi ông cặp ngón tay trỏ và ngón tay cái với nhau, vê vê trên mép. trên mép ông, ông đã bao công trình mới cấy được từng ấy râu. Ông để râu, cho khác hẳn với tụi huyện trẻ nhãi. nguyên cái da mặt ông nhỏ, mà có lẽ vì ông béo quá, nên lỗ chân lông căng ra, căng thẳng quá, đến nỗi râu không có chỗ nào lách ra ngoài được. Đến nỗi năm bốn mươi tuổi, mà mặt ông nó cứ nhẵn thín như thường. Ông bực mình, bèn ra lệnh cấm thợ cạo lia lưỡi dao lên môi ông một dao, để ông nuôi râu. thì sau hết, những lông tơ nó cũng dài ra, và trông rõ hơn. và đến bây giờ, đứng ở hai bên miệng ông, nó thành hai cái dấu chua nghĩa (...).
buổi hầu sáng hôm ấy.
con mẹ nuôi, tay cầm lá đơn, đứng ở sân công đường. nó hớt hơ hớt hải qua cổng chòi, rồi sợ sệt bỡ ngỡ, không biết quan ngồi buồng nào. bỗng một người mặc áo cánh nái nhuộm vỏ già chạy xồng xộc đến trước mặt nó, và hỏi:
- Đi đâu?
con mẹ biết ngay rằng đó là cậu lính lệ. và như hiểu rõ phép vào quan, nó giúi đưa cậu lệ hai hào đã cầm sẵn ở trong tay, rồi nói nhỏ:
- nhờ cậu bẩm quan cho tôi vào hầu.
cậu lệ tuy đã cầm tiền, nhưng làm như ta không để ý đến việc nhỏ nhen ấy, bèn vừa thò tay, vừa nói to:
- Đưa xem đơn, việc gì?
rồi trong khi nhà nuôi kể lể, thì cậu lệ đánh vần để đọc lá đơn. Đoạn cậu lắc đầu, nhăn mặt bảo:
- vào kia, nhờ bác nho quý bác ấy làm hộ cho. Đơn này không được.
con mẹ tái mặt, hỏi:
- không được thế nào, thưa cậu?
cậu lệ giơ hai tay ra giảng:
- nghĩa là nếu nhà chị muốn việc chóng xong, nghe chưa?
- thưa cậu, cậu cứ vào trình quan hộ. chả nói giấu gì cậu, nhà tôi bị mất trộm hết sạch cả đồ đạc lẫn tiền nong. sáng nay, vay mãi mới được đống hai bạc, để đi trình quan, cậu làm ơn thương hộ cho.
cậu lệ nhìn nét mặt nằn nì của nhà nuôi, song vẫn thản nhiên:
- tôi bảo nhà chị không nghe thì tôi mặc kệ. tôi thấy nhà chị ăn mặc thế này, lại bị lúc vận hạn đen đủi, tôi lại chẳng động lòng hay sao? nhưng ở đây, cái lệ nó thế. tôi tử tế, nên bảo trước. nếu nhà chị không theo, thì quan quở, chớ có trách tôi đấy.
muốn chứng thực lời nói của mình, mẹ nuôi cởi nút dải yếm ra, rồi xỉa năm đồng hào đôi còn lại lên gan bàn tay, và nói:
- Đây này, chẳng tin, cậu đếm mà xem, chỉ còn vừa vặn tiền trình thôi.
cậu lệ lắc đầu. con mẹ vừa buộc lại tiền, vừa nhăn nhó, van lơn:
- lạy cậu, thương cháu, cho cháu được nhờ. cậu cứ vào bẩm quan hộ. hễ quan bắt làm lại đơn, thì cháu xin ra nhờ bác nho quý ngay.
bỗng một tiếng chuông gọi. cậu lệ dạ giật một tiếng, rồi ù té chạy. con mẹ nuôi nhìn theo, biết rằng buồng quan ngồi ở chỗ ấy. nó đánh liều tiến đến, vừa tiến, vừa lo. nó bước chân lên thềm, trống ngực bắt đầu nổi mạnh. nó đã trông thấy quan. nó lại sợ nữa. vì lo sợ quá, nên quên đứt rằng chính nó đi trình việc mất trộm. nó lại tưởng như nó là đứa trộm vậy. nó rón rén, đứng nép vào cạnh cửa, thập thò, ghé vào trong, và lắng tai nghe. nó thấy quan đang dặn cậu lệ xuống bảo nhà bếp ninh cho thật dừ cái chân giò.
và đến khi cậu lệ dạ tiếng cuối cùng và đi vào sân sau, mé cửa trong, thì nó hiểu ngay rằng đã mất toi hai hào cho thằng xỏ lá nó chẳng bẩm cho mình một tiếng nào.
bỗng hai con gà tây béo sù quàng quạc kêu ở sân trước. nó thốt giật nảy mình. quan đang ngồi, choàng một cái, ngài đứng dậy, chạy vội ra hiên, đứng ngay cạnh nhà nuôi, và gọi váng:
- có đứa nào đấy, lừa hai con gà vào cho tao!
tức thì, người ta chạy tán loạn để xua gà, và nhà nuôi thì chắp hai tay, quỳ ngay xuống gạch, và nâng ngang đầu cái lá đơn.
khi đôi gà đã chạy về, quan bèn nhìn con mẹ và bảo:
- vào đây.
nó mừng quá, lóp ngóp đứng dậy, vội vã theo vào trong buồng giấy.
nó đứng ở cạnh bàn, run lên bần bật. nó liếc nhìn quan. ngài oai vệ quá. nó lại sợ hơn nữa. nhưng dù run hay sợ, nó cũng không quên được việc vi thiềng quan.
nhưng tiền trình diện quan, nó lại buộc vào trong dải yếm. nó cởi ra mới lấy được.
nó mới lúi húi rút cái nút buộc ra. nó sợ quan chờ lâu, nên phải vội vàng. mà vì vội vàng, lại lo quan gắt, nên nó lóng cóng. cái nút vừa xổ ra, thì loẻng xoẻng, cả món tiền rơi tiệt cả xuống gạch.
năm đồng hào đôi nảy lên mấy cái, và từng ấy tiếng kêu làm nó giật mình. tự nhiên, nó choáng cả người và hoa cả mắt. nó cúi nhìn chỗ nhiều hào rơi nhất, ngay bên cạnh nó. Đồng thì chui nằm ẹp gần chân nó, đồng thì xoay tít mấy vòng, đồng thì bắn ra góc buồng. mấy đồng nữa thì thi nhau lăn ra tận chỗ xa.
nó không thấy quan nói gì, nên cũng hơi tĩnh tâm. nó bèn cúi xuống để nhặt tiền. một đồng, hai đồng. Đồng thứ ba nghiêng ở mé tường. nó tìm đồng thứ tư. mãi nó mới thấy ở tận gần chân bàn giấy của quan. nó tìm đồng thứ năm. quái, nó tìm mãi, mà không thấy đâu cả.
nó phải có năm hào đôi. năm hào đôi mới thành đồng bạc được. vừa ban nãy, nó giở ra cho cậu lệ xem, và lại buộc cẩn thận vào dải yếm. không lẽ đồng hào ấy có ma, đã biến đi đâu mất chóng thế được. vậy chỉ quanh quẩn ở trong buồng này mà thôi. nhưng nó đã tìm kỹ lắm rồi. mà trình đơn tám hào, tất nó bị quan chửi. không biết làm thế nào được, nó tần ngần chắp hai tay, vái:
- lạy quan lớn ạ.
rồi nó lùi lùi bước ra cửa. rồi nó đi về...
Ông huyện hinh cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ khốn nạn. rồi khi thấy nó đã đi khuất, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc giầy ra một tý. và vẫn tự nhiên như không, ông cúi xuống thò tay, nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở đế giầy bám vào, rồi bỏ tọt vào túi.

Người vợ lẽ bạn tôi

Cái lần tôi đến thăm anh Quý ở Bắc Ninh, vào hồi sáu tháng trước đây, là lần tôi thấy anh ấy đối với tôi nhạt nhẽo và ngượng nghịu nhất.
Tôi không ngờ và cũng không để ý đến thái độ ấy. Vì hai chúng tôi thân với nhau từ thuở để chỏm. Có thể nói theo lối thiếu vệ sinh nhưng đầy thi vị, là "con chấy cắn đôi".
Vì chúng tôi đã lâu mới gặp nhau, nên bao nhiêu chuyện để trong bụng bấy nay, tôi lôi hết ra để nói. Và cố nhiên, khi chuyện đã hết, tôi thấy đói. Tôi ngồi yên, ngáp vặt, đợi cơm trong buồng khách tranh tối tranh sáng. Bỗng anh Quý ngập ngừng, rồi cười và bảo:
- Này, anh ạ, cái "trống cà rùng" hồi ấy, tôi mới cho về ở đây.
Nói xong, anh lại cười, bằng cái cười chữa thẹn. Mà tôi thì sực nhớ ra.
Nguyên từ ngày Quý đổi về Bắc Ninh, anh không đem vợ đi theo nữa. Anh thường phàn nàn ở bên quê lắm việc, mà cha mẹ thì già, nên vợ anh phải ở lại để trông nom cửa nhà và đồng áng.
Bởi vậy, nghề thế, được thả lỏng, anh đâm ra chơi bời. Và không hiểu tí toáy thế nào, mà cô đầu Huệ có mang với anh.
Hồi ấy, anh có cho tôi biết. Và trong thư, anh gọi Huệ là "Trống cà rùng".
Cho nên vừa nghe ba tiếng "Trống cà rùng", tôi vội nói:
- Thế à? Đã đẻ rồi kia à?
Quý thấy tôi không tỏ ý gì, cười rõ to, vui vẻ đáp:
- ồ, đã hơn hai tháng nay.
- Con trai hay con gái?
- Con trai. Tôi mới cho mẹ con nó về đây hôm qua.
Rồi bùi ngùi, anh tiếp:
- Bởi vì dưới ấy, nhà ở thiếu vệ sinh, mình trông thấy đứa bé mà không yên tâm chút nào. Gia dĩ, con mẹ chủ nó cứ doạ đuổi.
- Phải, làm cô đầu lại có con, thì ai người ta nuôi báo cô.
- Không phải thế. Từ ngày nó có mang, tôi vẫn phải cấp tiền. Nhưng mình thì tốn kém mà nó phải chịu rúc trong cái chái nhà ẩm thấp, tối tăm, cửa giả chả có. Nhất là từ ngày nó đẻ, tôi càng không đang tâm cho thằng bé con ở đấy.
- Thế chị ấy đã biết tin này chưa?
Quý thở dài:
- Chưa. Nhưng tôi giấu sao nổi. Nhà tôi chẳng bằng lòng cũng chẳng được.
Nói đoạn, anh đứng dậy, rủ tôi:
- Anh vào mà xem mặt thằng bé. Nó giống tôi lắm.
Tôi theo Quý. Đến buồng ngủ, tôi nhìn vào trong giường, nhưng Quý cười, bảo:
- Huệ nó len lét, cả ngày chẳng dám lên nhà trên.
Qua sân xong, chúng tôi cúi đầu cho khỏi đụng mái bếp. Đứng trong nhà mà ngọn lửa lập loè của mấy thanh củi cháy lom dom không đủ làm cho đỡ tối, tôi bị khói làm cay cả mắt, và rất khó thở.
Tôi dừng lại để nhận kỹ. Cạnh lò, người bếp đương thổi cơm, và tận góc phản ngả mâm, một người quần áo thâm đen ngòm, ngồi bế con. Quý đến gần, đánh diêm soi vào mắt thằng bé đang ngủ say. Tôi nhìn nó, nhân tiện liếc trộm vào mặt Huệ. Người đàn bà thấy có khách lạ, lại bị ánh sáng chiếu gần, thì bẽn lẽn, cúi gầm xuống, và cũng không dám nhếch mép để chào nữa. Vì chắc người ấy không rõ tôi là bạn hay họ với Quý, và biết chào là gì.
Không muốn đứng đó để Huệ thẹn lâu, tôi quay gót đi lên. Và bảo Quý:
- Trong bếp khói quá, thở rất độc. Anh nên cho thằng cháu lên nhà trên.
Quý chán nản đáp:
- Mặc kệ, bảo mãi chẳng nghe. Biết thế, tôi không cho về đây lại xong. Vì về đây, mà cứ cả ngày chúi xuống bếp, thì cũng thế.
Tôi nói nhỏ:
- Thì buổi đầu về nhà lạ, ai chả ngượng?
- Anh bảo ngượng với ai? Cả nhà chỉ có tôi với thằng Hương, với thằng bếp, còn thẹn thò quái gì nữa?
Viết đến đây, tôi cần ngoặc dấu chua nghĩa để nói rõ rằng thằng Hương là con trai anh Quý, đã lên năm, và người làm bếp là cháu họ xa của anh, theo anh gần mười năm nay để giúp việc thổi nấu. Anh rất tin cẩn hắn, vì hắn thật thà có một. Nội tiền nong, và thìa khóa hòm, tủ, anh vẫn giao cho hắn giữ. Anh coi hắn như cánh tay phải, như người nội tướng đảm đang vậy.
Tôi hỏi:
- Thằng Hương đối với Huệ ra làm sao?
- Nó bé, đã biết quái gì.
- Thế Huệ đối với nó?
Quý tự đắc đáp:
- Huệ sợ cả từ thằng bếp sợ đi!
Vừa lúc ấy, người bếp dọn cơm lên bàn, Quý cười, chỉ vào hắn và nói:
- Chẳng tin, anh cứ hỏi nó mà xem.
Người bếp vui sướng, khoe:
- Thật đấy, thưa cậu. Cô ấy vâng cả với con. Con bảo mãi mà cô ấy vẫn cứ quen mồm. Cô ấy chả dám nhờ con làm việc gì cả. Lắm lúc con rỗi, thấy cô ấy vừa bế em vừa đun nước pha sữa, con tranh làm hộ, nhưng cô ấy nhất định không nghe. Bất đắc dĩ, muốn bảo con làm việc gì, thì cô ấy đến tận nơi, khẽ nói: "Anh làm phúc chịu rầu hộ tôi việc này, việc nọ". Ăn cơm, cô ấy cũng mời con một cách lễ phép.
Tôi cười nói đùa:
- Phải, bởi vì anh là một nhân vật quan trọng trong nhà này.
Bữa ăn ấy, Huệ không dám ngồi với chúng tôi. Người đàn bà địa vị kém cỏi ấy không rời ra khỏi xó bếp. Vì chắc chị ta tự xét chỉ xứng đáng với nơi thấp hèn ấy mà thôi.
+
+ +
Cách đó hai tháng, một hôm tôi có việc phải qua Bắc Ninh. Nhân tiện, tôi vào thăm anh Quý.
Nhưng lúc ấy, cả Quý lẫn Huệ và người bếp cùng không có nhà. Tôi hỏi thằng Hương về em bé nó, thì nói nói:
- Vú em bế sang chơi nhà bên cạnh.
Tôi chờ trong chốc lát. Bỗng có chiếc xe đỗ phịch trước cửa. Một người đàn bà mở ví tay lấy tiền trả xong, thoăn thoắt mở cửa bước vào. Tôi biết ngay là Huệ, vì còn nhớ mặt, dù lần trước mới thoáng trông trong bóng tối.
Huệ hôm nay không phải là Huệ hai tháng về trước. Huệ hôm nay hoàn toàn là một thiếu phụ tân thời, vợ ông phán trẻ.
Chị ta thấy tôi, cúi đầu xuống chào, và nói một cách bạo dạn:
- Bác mới sang chơi? Nhà em cũng sắp về.
Đoạn Huệ vào buồng ngủ. Tôi để ý, thấy tiếng loẻng xoẻng chùm thìa khoá, và tiếng cánh cửa tủ kẹt mở và đóng đánh sình. Đoạn Huệ gọi bằng tiếng lanh lảnh:
- Vú em ơi!
Không thấy ai đáp, chị ta gọi:
- Hương! Vú em đâu?
- Thưa dì, vú ấy ở bên bà đốc ạ.
- Gọi vú ấy về đun nước bác xơi chứ? Con nhà, chẳng biết gì cả?
Rồi Huệ vui vẻ chạy ra nói với tôi:
- Thưa bác, chúng nó đoảng quá. Bác miễn trách cho. Cả thằng bếp nữa, đi tám nhăm trống canh chưa về!
Hôm ấy, thật tôi rất ngạc nhiên về sự thay đổi từ cử chỉ cho đến cách ăn nói của Huệ. Tôi không thấy tăm bóng người đàn bà sợ sệt, len lét ngồi dưới bếp nữa. Tôi chỉ thấy một người hợm hĩnh, cố khoe tài nội trợ. Người ấy mắng vú em không coi nhà, sai đầy tớ quạt than để là quần áo, và xuống bếp làm giúp đồ ăn. Rồi khi người bếp bưng cơm ra buồng khách, thấy tôi, anh ta ngó cổ vào trong nhà. Khi yên trí rằng không có ai, anh ta mới đứng cạnh tôi, thở dài, bĩu môi, thì thầm than thở:
- Động có khách lạ đến, là làm ra dáng chăm chỉ lắm. Còn lúc không, cả ngày chỉ nằm ăn vạ trên giường để nhổ vặt. Đến nỗi con cũng không nuôi nổi, phải thuê vú em. ấy thế mà còn đài các, lắm lúc mắng vú em như tát nước vào mặt. Thưa cậu, cậu con bây giờ ăn ở khác lắm, không được như trước nữa. Cậu con cả nghe cô ấy lắm, nhiều lần mắng cả anh Hương lẫn con. Ngày trước, nói đến cô ấy, cậu con vẫn gọi là nó, và dặn con nên trông nom cửa nhà cẩn thận, kẻo cậu con không tin cô ấy đâu. Thế mà bây giờ đã giao thìa khoá tủ cho rồi. Con tính nay mai cậu con đưa nốt lương tháng cho cô ấy chi tiêu nữa, là cửa nhà tan nát.
- Thế mợ phán đã biết cậu có vợ lẽ chưa?
- Cũng đã có người nói đến tai. Mà từ lúc cô ấy hỏi dò, biết mợ con hiền lành, thì lại càng giở ra nhiều cái nực cười. Cô ấy làm nũng cậu con, có ý giữ cậu con, chẳng muốn cho đi lại chơi bời với ai. Thỉnh thoảng, đối với con, cô ấy cũng không coi vào đâu. Tưởng chừng như cô ấy muốn coi con như hạng đầy tớ khác. Từ ngày cô ấy về, cậu con không tin cậy con như trước nữa. Mà con làm việc gì, có cô ấy xen vào, con thấy khó chịu lắm. Hình như cô ấy tước cả cái tự do của con vậy.
- Cô ấy thay đổi chóng lắm nhỉ.
- Vâng. Trước kia ai chẳng tưởng cô ấy chỉ cả ngày loanh quanh dưới bếp, sợ hãi từ con trở đi. Chứ có ngờ đâu. Nhưng độ một tuần, cô ấy đã mon men hay lên nhà trên. Rồi đi đứng, nói năng quen đi, không ngượng nghịu nữa. Và đã mấy lần có bạn đến, cô ấy tiếp, nhưng chỉ thì thầm với nhau trong buồng trong. Cô ấy có dám ló mặt ra đến phố đâu. Mà động thấy có ai lạ vào nhà, là thụt cho mau xuống bếp. Nhưng dần dần, độ ngoài một tháng, thì khi vắng cậu con, cô ấy đã mời khách ngồi ở xa lông, nói năng, cười đùa rầm rầm. Song cô ấy sợ con mách, nên nói lót, ngọt ngào lắm. Bây giờ thì bà ấy công nhiên mời khách ngồi ghế bành thả cửa, dù cậu con có nhà cũng vậy. Và thỉnh thoảng lại sĩ diện, quai mồm ra gọi "Bếp ơi!". Con hầu cậu con, chứ con việc gì phải làm đầy tớ đồ đĩ ấy. Con chẳng ra gì cũng là cháu cậu con. Con gọi cô ấy là cô đã là quá đáng. Vì con sợ cậu con mà nhận cô ấy là vợ lẽ, chứ bất quá cô ấy chỉ ngang hàng với con là cùng!
Bữa cơm hôm ấy, Huệ cùng ngồi ăn với chúng tôi. Nàng cử chỉ lễ phép, không dám nói chuyện, chỉ thỉnh thoảng săn sóc cơm nước, sai bảo người bếp một cách ngọt ngào mà thôi.
+
+ +
Nhưng hôm nay thì không thế nữa.
Hôm nay, vì anh Quý viết giấy mời tôi về Bắc Ninh để anh hỏi ý kiến về chuyện gia đình, nên tôi đến thăm anh.
Anh nhờ tôi nuôi thằng Hương để dạy dỗ nó, nói thác rằng nó mến tôi, chỉ đòi được ở với tôi. Nhưng tôi biết thừa là thằng bé khốn nạn đã nhiều lần bị vợ lẽ của cha đánh đập tàn nhẫn.
Khi tôi hỏi sao người bếp không ở với anh nữa, thì Quý còn tức giận, đáp:
- Anh tính, bạc ác đến nó là cùng. Nó đi theo tôi từng ấy năm. Trước kia tôi giao cả tiền nong cho nó, mà có một lần, nó nỡ ăn cắp của tôi.
- Anh bắt được?
- Bà cụ nhà tôi, à, bà đẻ ra Huệ ấy mà, rình bắt được. Chứ tôi tin nó quá, nên không ngờ.
Lúc ấy, Huệ ở nhà trong, chạy ra, nói xen vào:
- Vâng, nó lấy của nhà tôi hai chục, giấu trong hòm. Thì ra trước kia, giá nhà tôi có bị nó rút ruột rút gan bao nhiêu cũng không biết.
Quý nhìn vợ, cười nhạt, rồi nói với tôi:
- Cho nên tôi phải giao tiền nong cho nhà tôi giữ. Mình thì bận, còn có lúc nào để mắt đến hết mọi việc được.
Huệ nói:
- Rồi, thưa bác, muốn chừng biết từ nay không thể xơ múi gì nữa, nó mới chán cảnh, và cứ sinh sự với tôi. ấy, đi ăn đi ở mà cứ hỗn với chủ nhà, thì bác tính còn trời đất nào nữa. Tôi mới bảo nhà tôi đánh cho một trận và tống đi.
Thấy Huệ nói giọng lên bộ quá, tôi hiểu tất cả ẩn tình. Đầy tớ trung thành bị đuổi, con rứt ruột phải xa lìa, không rõ Quý có hiểu hiện gia đình anh đương bị một cuộc ngoại xâm ghê gớm hay không? Nhưng vẫn không thấy tình thế nghiêm trọng, anh còn khoe thêm rất tự đắc:
- Bây giờ tôi nuôi thằng bé này, cũng như thằng bếp trước, vì nó là người làng nhà tôi đây. Nó ngoan lắm.
Tôi cười nhạt, không trả lời.
Tôi muốn nói cho Quý rõ về thực trạng gia đình anh. Muốn chừng Huệ hiểu ý. Cho nên, khi ăn cơm xong, như mọi lần, tôi rủ Quý đi chơi phố. Song, thoáng thấy Huệ đưa mắt cho chồng, thì Quý ra ý ngần ngừ, khó chịu. Nhưng đồng thời, người thiếu phụ kêu khó ở, vào buồng nằm.
Quý theo Huệ vào một lát, rồi lúc ra, anh cố tươi cười để lấy lòng tôi, và nói:
- Nhà tôi nó mệt, anh cho đến khi khác.
+
+ +
Tôi biết Quý không còn khi nào để có thể đi chơi với tôi. Vì cả đến cái tự do của anh cũng bị cô vợ lẽ chiếm nốt. Hẳn từ nay, tự nhiên hoàn toàn anh bị tước quyền làm chủ nhân ông.
Thì ra ở đời, mỗi khi nước nọ xâm chiếm nước kia, cuộc chinh phục về mặt kinh tế, về mặt chính trị, cũng đi dần dần từng bước nguy hiểm như vậy.
Tôi đã thấy bao nhiêu ca thế rồi.
PTBNS số 48; 1-12-1939

Người thứ ba

Nhưng còn người thứ ba nữa, cũng quan tâm đến cái chết của mẹ chồng chị cu Sứt, chẳng kém gì cụ thư ký.
Vậy mà chúng ta cứ quên.
Suýt nữa thì hoài của!
Nguyên là chị cu Sứt cũng khá thông minh - mà làm gì chẳng thông minh, khi thấy người trên bẻ họe một việc rất vô lý - chị hiểu ngay công dụng của cái miệng. Cái miệng, trước khi để khóc mẹ, hãy phải dùng để trình nhà chức trách biên vào sổ tử cho, thì mới đúng là trong nhà có người chết. Nếu không, thành ra mình khóc lậu à? Mà trình nhà chức trách, đố ai làm nổi việc ấy bằng lời nói suông. Cho nên, vừa bị kéo tới thềm nhà, chị cu đã lạy van cụ thư ký bằng một món tiền. Thiên chúa ơi, bằng một món tiền... hai hào!
Tức thì, cụ thư ký nguôi giận, và không lôi xềnh xệch chị ra đình nữa. Chị được "tự do ngôn luận" trước cái thây ma.
Tin ấy cũng truyền ngay đi khắp làng. Cụ lý gật gù, khen:
- Lão ta thế mà đa mưu, giỏi!
Nhưng cụ chánh hội chê:
- Lão ta thế mà khờ. Phải tay tôi, không năm hào, tôi còn dọa.
Còn báo "phụ nữ" - thế nào các bà chả bênh vực quyền lợi cho đoàn thể - buông lời phê bình bằng những giọng văn ít chải chuốt:
- Cha con đẻ ra mẹ nó, bà thì bà kiện đến tam toà, chứ bà chịu à!
Do sự công phẫn, các bà xui chồng đến nhà chị cu, mỗi người giúp một tay.
Bởi thế, chẳng mấy chốc, mẹ chồng chị được hoàn toàn là người chết hợp pháp. Bà được người ta khênh nằm trong áo quan bày ở giữa nhà, trên thắp hương nghi ngút. Bà được một ông hơi biết địa lý, nhanh nhẩu đi mượn la kinh, ra bãi tha ma đầu làng, ngắm hướng, rồi đào sẵn huyệt. Và ông bảo giờ dần sáng mai, rước bà cụ ra đồng.
Người thứ ba, tức là ông quản lộ. Chức này, chỉ có tỉnh này mới đặt ra. Nhiệm vụ của ông quản lộ là phải coi đường làng, từ ngày xây gạch. Công việc ấy chẳng nhẹ nhàng và dễ dàng gì đâu. Hai bên bờ đất lở ư? Ông phải cho người đắp lại. Mặt đường vì mưa, bùn đất phủ lên ư? Ông phải bảo những nhà ở cạnh đường lấy xẻng giẫy đi. Vô phúc con trâu nào không đi sang hai bên cạnh, mà bén cẳng lên chỗ gạch lát ư? Ông làm biên bản. Tức thì, chủ bị phạt.
Kể trong làng có đặt chức ấy cũng tốt lắm đấy chứ? Đường làng lúc nào cũng sạch, bền, ai chẳng muốn ngắm?
Song, đó là về lý thuyết, chứ không phải về thực hành. Sự thật, người ta ít được gặp ông quản lộ ở ngoài đường. Bởi vậy, đường được rất ít hân hạnh để sạch và bền. Và những con trâu, cả trâu của ông quản lộ nữa, được nhiều hân hạnh đi lên nền gạch, thỉnh thoảng lẹt bẹt vào đó những đống gì kha khá to để làm duyên.
+
+ +
Sáng sớm hôm sau.
Bốn người hảo tâm đã sửa soạn đòn, khênh đến đầu ngõ nhà chị cu, bày sẵn trên đường, và vào trong nhà giục tới tấp.
Chỉ từng ấy người cũng đủ nhấc nổi chiếc quan tài, vì nó mỏng, và vật chứa ở trong cũng chẳng nặng nề gì.
Chỉ là một bộ xương nhỏ nhắn, bọc bằng lần da mỏng manh.
Trong phút chuyển cữu, chị cu Sứt đứt ruột đứt gan. Chị gò lưng, cố níu cỗ ván lại. Nhưng mặc kệ, nó cứ theo tám cẳng chân, tiến nhanh thoăn thoắt.
Người ta nâng đều tay để xuống thềm và ra ngõ. Người ta đặt trên đòn, úp mái vào, thắp nến, thắp hương, rồi buộc lại bốn chiếc mành bốn bên cho chắc chắn.
- ối mẹ ơi là mẹ ơi, rồi đây một ngày một xa, biết bao giờ cho mẹ con ta lại gặp nhau! ới giời cao đất dày ơi! Giường cao chiếu sạch mẹ chẳng nằm, mẹ ra nằm ngoài giữa đồng, mẹ ơi là mẹ ơi!
Nhưng có ai để ý đến sự kể lể thảm thiết ấy?
- Nào? Bắt tay vào! Xong ba hồi chín tiếng thì anh em lên cho đều nhé.
Tiếng phèng rè nổi lên như run, như khóc. Chiếc nhà táng vừa nâng cao, chị cu thương tâm quá, đứng không vững, ngã khuỵu xuống đất.
Nhưng mà:
- Này! Hãy dậy đã.
Chị mở mắt ra, nhìn.
Ông quản cố cầm roi mây, phì hơi rượu vào mặt chị, nói:
- Mày dậy đã, không có phép thế.
Chị cu vừa khóc, vừa rên rỉ:
- Phép thế nào, ông ơi.
Ông quản lộ cau mặt, gõ đầu roi vào nhà táng:
- Nghĩa là nó là phép thế. Đường là đường làng. Làng cắt tôi ra trông nom. Chị có tư cách gì mà dám đưa ma bà cụ lại không nói với tôi một tiếng? Bốn người này khiêng áo quan vào trong nhà giả chị ấy!
Chị cu choáng váng, vội đứng dậy. Chị thấy ông quản lộ giẫm một chân lên đầu đòn để ghì xuống. Chị khóc:
- Thôi, tôi lạy ông, tủi vong linh mẹ tôi lắm, ông ơi!
Ông quản cố xua tay cho mạnh, cố lắc đầu cho nhanh, cố nhăn mặt cho ra vẻ tức giận, nói:
- Chẳng có thì tôi đưa chị lên quan, chứ đường là đường làng hay đường riêng nhà chị mà chị dám mục đích rắc vàng bừa bãi ra đây? Ai quét hầu chị? Mà tử khí xông lên, ngộ người làng chết lây thì tôi biết nói sao?
Người xúm quanh, mỗi người một điều:
- Thôi, bác quản, giời sinh ra thế, bác ngơ cho chị ấy, chị ấy không biết phép.
- Không được, nghĩa là không biết phép thì tôi làm cho biết phép. Tôi có tư cách coi đường làng. Nếu tôi dễ dãi, ngộ rồi trên các cụ "trách nhiệm" tôi, thì ai ra chịu tội cho tôi.
Chị cu Sứt thấy ông quản lộ dùng những chữ việc quan để tỏ ra mình khó tính và hăng hái như vậy, thì sự thông minh bỗng vụt ngay vào trong óc chị.
Chị không khóc nữa, lấy vạt áo chùi đôi mắt đỏ hoe, rồi từ từ cởi nút giải yếm.
Liếc mắt thấy phát tài đến nơi, ông quản dịu mặt:
- Tôi vẫn biết chỗ người làng người nước, làm ra sinh mất lòng mất bề nhau, nhưng nghĩa là việc quan anh cứ phép công anh làm, ai oán thì oán.
Nói đoạn, ông lại liếc mắt lượt nữa, thấy chị cu đã nắm cái gì ở trong tay. Ông biết rằng không phải nói thêm gì. Ông đứng yên, để nhường lời cho chị. Mặt ông, lúc đó, tuy trơ trẽn, nhưng tươi lắm.
Chị nhờ người vào nhà lấy cái đĩa, rồi để đánh cạch hai mươi trinh vào, dịu dàng thưa:
- Gọi là thế, có cơi giầu biếu ông, thôi thì ông cho các bác ấy khênh bà cháu ra đồng.
Ông quản để năm đầu ngón tay vào lòng đĩa, vét một cái rất anh hùng, rồi gật đầu, hất roi:
- Thôi được!
Tiểu thuyết thứ bảy số 307; 1940

Phành phạch

Nghe thấy chiếc đồng hồ treo thong thả điểm mười tiếng, bà uể oải sờ trên đầu giường, ấn ngón tay cái vào núm quả lê bấm chuông, rồi lại uể oải đặt phịch cánh tay xuống. Trời oi bức làm cho người ta mệt nhọc, chán nản và lười biếng.
Mấy hôm nay, nhờ trời, dân Việt Nam ta không phải phàn nàn rằng nước ta kém nực. Gớm ghiếc! Nóng đâu lại có nóng thế! Suốt ngày, ánh nắng rọi xuống, làm cho đất trắng xoá, nẻ kẽ, lá cây gục lả như sắp chết khát. Thỉnh thoảng, trận gió tây nổi lên, hắt hơi lửa vào mặt. Buổi tối thì im gió, nên khí nóng cứ lẩn quất một nơi. Quạt đến rã cánh tay, chẳng qua chỉ đổi hơi bức chỗ này lấy hơi bức chỗ khác.
Bởi vậy, ai kia, chứ bà thì thấy khổ lắm. Bà bứt rứt, khó chịu, nhiều lúc muốn vứt phăng cả chân tay đi, tưởng chừng như thế thì đỡ vướng víu. Bà rửa mặt, lau mình cả ngày, mà da vẫn nóng hầm hập. Bà bới tóc ngỏng lên tận đỉnh đầu, ngồi ngửa bụng ra, chống hai tay lại đằng sau mà thở. Nhiều lúc, ngó thấy trời xanh ngăn ngắt, bà phịu cả đôi môi dày và ướt, cau có nói:
- Lạy bố, thế này thì đến chảy mỡ ra mất!
Buổi tối, bà không thích đi đến những nơi thoáng khí để hóng mát. Phải vạ mà đánh phấn, mà bôi môi, mà đóng áo dài vào! Nực lắm và phiền lắm! Vả trời này, chắc gì kiếm được một nơi có tí gió để đứng? Chi bằng nằm trong buồng, tắt đèn đi cho nó có vẻ dịu mát, mở tung hai cánh cửa chớp, rồi vặn quạt máy vù vù. Như thế, may bà còn chợp ngủ được tị nào chăng. Mấy hôm nay, bà lủng củng suốt đêm.
Vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông đố ai dám bảo là một người. Nếu người ta chưa nom rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc, và bốn chân tay ngắn chùn chùn, thì phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem cất đi. Thật thế, bà béo lắm, một cái béo rất hùng vĩ, ít ai có thể tưởng tượng được. Mùa hè, ai trông thấy bà mà không phát ngấy thì tôi không phải là người.
Bà bấm chuông để gọi con Đỏ con, vì đã mười giờ rồi.
Quả nhiên, con Đỏ con chưa dám ngủ. Nó thức để chờ bà gọi. Xong việc, nó mới được yên thân. Nó lừng lững lên, tay phe phẩy chiếc quạt giấy. Nó lên quạt hầu bà.
Bà cắt cho nó việc ấy, thật là bà đủ lòng nhân đạo đối với một con bé ở mười hai, mười ba tuổi đầu. Phải, còn gì nhẹ nhàng cho bằng việc ngồi yên một chỗ, cầm chiếc quạt khẽ đưa đi đưa lại. Bà đã vì thương người mà nuôi cơm không cho nó là tốt. Chứ ngữ ấy, cơm chẳng biết thổi, nước chẳng biết gánh, quần áo chẳng biết giặt, nếu chẳng xin ở công không để kiếm miếng ăn, tất chỉ có đi ăn mày. Con Đỏ con, cả ngày, chỉ có việc bế anh, rồi làm phụ dưới bếp. Rồi đến khi anh ngủ, có chuông bà gọi, thì lên quạt hầu bà. Bà có khiến nó làm việc gì nặng nhọc quá sức nó nữa đâu?
Con Đỏ con mới được bà nuôi ngót một tháng, nên nó vẫn còn gầy còm lắm.
Nó đến mé tường, rút cái núm truyền điện để tắt quạt đi. Nó thuộc chỗ và làm thạo lắm. Bà dạy nó và bắt nó thử đi thử lại hai ba lượt cho quen tay. Bà lại dạy nó rằng gió quạt điện chí độc, lỡ ra ngủ quên ở trước quạt máy, có khi thành bán thân bất toại, chứ chẳng chơi đâu. Vả bà cũng sợ để lâu thì hại quạt và tốn tiền điện.
Con Đỏ con cuộn dây quạt, đặt lên mặt bàn. Rồi nó khẽ nâng chiếc ghế đẩu, đặt thật nhẹ xuống gạch, ngay bên giường bà nằm. Nó ngồi lên, và mở to chiếc quạt giấy, phẩy phành phạch vào phía bà.
Bà nằm sấp, chân co, chân duỗi, úp mặt xuống, nhắm mắt sẵn, thỉnh thoảng giục:
- Mạnh vào một tí.
Con Đỏ con ngồi thẳng lại như để lấy hết gân sức, để quạt phành phạch vào bà. Lưng áo lụa của bà phồng lên như cánh buồm. Nhưng nó thì nực lắm.
Trong buồng im phăng phắc. ánh đèn phố lẳng lặng chiếu qua hai chiếc cửa sổ có chấn song sắt. Người đi ngoài đường vãn dần. Sự tĩnh mịch của đêm khuya ru người ta vào cõi mộng.
Dần dần, con Đỏ thấy mỏi tay và buồn ngủ. Nó tựa lưng vào tường và quạt yếu đi. Lúc ấy, bà cũng đã thiu thiu.
Nhưng bỗng bà giật mạnh chân và giãy luôn mấy cái. Bà kêu:
- Trời, sao mà nóng khổ nóng sở thế này!
Con bé giật mình, sực tỉnh. Nó lấy hết gân sức để quạt phành phạch.
Bà xoay nằm ngửa, dang cả hai tay lẫn hai chân cho thoáng. áo và quần bà phần phật, bay như sóng gợn.
Một lát, bà thở đều đều. Cánh tay con Đỏ con đưa đi đưa lại mỗi lúc một yếu. Nó gật giúi giụi. Mấy lần suýt ngã.
Bỗng đồng hồ nổi tiếng chuông. Trong lúc ngủ gà ngủ vịt, nó đếm một, hai ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một. Nó ngẩng đầu dậy, mở to mắt ra, nhìn bà. Nó thấy bụng bà phập phồng. Nó đổi tay để quạt cho mạnh. Nó nhìn cái tủ gương, ngọn đèn điện, chiếc quạt máy cho vui mắt, đỡ buồn ngủ.
Nhưng không buồn ngủ sao được? Ngồi luôn một chỗ và làm một việc trong lúc đêm khuya thanh vắng lại tối đèn, đố ai mà không chán, không mệt, không buồn ngủ? Bởi thế, con Đỏ con như thấy chiếc quạt và đôi mi mắt nặng trĩu. Nó phe phẩy chậm, chậm dần... chậm dần. Rồi nó ngoẹo đầu, cánh tay lả xuống, không cử động nữa. Vậy mà nó vẫn mê thấy nó quạt luôn luôn.
Thấy tiếng bà gọi, nó choàng dậy, và phành phạch rõ mạnh. Mồ hôi nhễ nhại, đầm cả áo nó. Bà cựa. Bà nghiêng mình, quay mặt vào tường, nên thỉnh thoảng nó quạt trộm vào nó một cái.
Đồng hồ điểm mười hai tiếng. Con Đỏ con cựa mình, ngồi lại cho đỡ mỏi, rồi quạt phành phạch thật mạnh.
Nó mong mãi bà không cho nó đi ngủ.
Nhưng bà nực, bà không ngủ được. Bà chỉ chợp mắt được độ dăm phút là cùng. Vừa thấy ngọn quạt phảy không đều tay, bà đã cựa, và giục:
- Mạnh lên, mày!
Con Đỏ con mỏi lắm rồi. Nó ê ẩm cả người. Nó cố mở mắt ra, mà hai mí cứ muốn cặp díu lấy nhau. Tay nọ đổi tay kia, nhưng rút cục hai tay cùng rã rời. Nó cứ phải quạt mãi.
Nhưng rồi chẳng đủ sức để chống được giấc ngủ, nó gục đầu, đánh rơi tay, đánh rơi quạt. Nó ngủ...
Lúc ấy, đang được thiu thiu, bỗng bà thấy mồ hôi chảy ra, bà biết con ranh con đã ngủ. Bà ngóc dậy, quệt dòng nước dãi chảy ròng ròng xuống má, bà nhìn vào tận mặt nó. Rồi đưa tay ra, bà giúi cho nó một cái thực mạnh. Rồi lại nằm xuống. Con bé bàng hoàng, mở mắt, luống cuống. Nó cúi nhặt quạt, vội vàng phảy phành phạch vào mặt bà. Bà cởi một khuy áo ngực ra để hưởng lấy gió mát.
Tiếng gà xa xa gáy theo nhau. Rồi một lát, đồng hồ đánh một tiếng. Nó vẫn phải quạt. Chưa xong việc, nó chưa được nghỉ tay. Nhưng nó buồn ngủ lắm rồi. Bởi vậy, mỗi khi nó thấy sắp ngủ, nó phải cố sức tự đánh thức nó, và quạt rõ mạnh: Phành phạch! Phành phạch!
Giọng mệt nhọc, bà khen:
- ừ, con này giỏi.
Rồi bà cựa mình, quay mặt lại nó. Bà duỗi cánh tay đến gần nó, để mỗi khi thấy nó uể oải, thì đập vào nó một cái.
Hình như khí trời đã bắt đầu dịu.
Nó quạt luôn luôn trong độ mười lăm phút thật mạnh và thật đều tay.
Bà mát, dễ chịu lắm. Nó mệt, khó chịu lắm. Bà mơ mơ màng màng. Lần này có lẽ bà ngủ được yên. Nó cũng mơ mơ màng màng. Lần này nó không thể thức hơn được nữa. Quả nhiên bà ngáy hơi to. Nó không biết bà ngủ, song, tự nhiên tay nó đưa thong thả dần, rồi như chiếc đồng hồ hết dây, tay nó không phe phẩy nữa.
Bà ngủ say, quên cả nực, đánh một giấc đến sáng.
Nó cũng thiếp đi... Đầu gục, hai cánh tay đờ ra, nó ngủ ngồi trên ghế cho đến khi ánh nắng gay gắt bắt đầu rọi vào buồng.
PTBNS số 48; 1-12-1939

Sáu mạng người

Thôi, cái quan bằng lòng vậy, để bận khác tôi bảo chúng nó đến chọ Cái quan cứ ngủ lại đây, sáng mai hãy về, kẻo đêm đã khuya rồi, từ đây lên châu, đi đã xa, lại qua nhiều rừng, tôi không yên tâm đâu mà.
Nghe lý trưởng Tưởng thành thực nằn nì, nói bằng giọng kéo dài và ngô nghê như thế, ông châu Phiên lấy đồng hồ ra coi rồi nhìn ra ngoàị Rừng, núi và trời lẫn lộn màu đen. ông hơi nản lòng. Nhưng thử xem còn hy vọng gì nữa không, một lần nữa, ông làm ra dáng giận dỗi, vỗ vai lý trưởng và nói theo lối người Thổ.
- Này, cái quan không bằng lòng thầy lý đâu nhé. Thầy lý không biết làm việc. Thầy lý nói dối quan. Thầy lý hứa nếu quan đến xem hội thì thầy lý gọi cho quan những cô gì cô gì kia mà. Thế mà chẳng cô nào đến cả. Để đêm khuya thế này, quan phải về không. ở vùng xuôi, những lý dịch đối với các quan tốt hơn kìạ Nếu làng mời quan ngủ lại mà không gọi được cô nào ra hầu chuyện, thì thầy lý hoặc thầy chánh phải đem người nhà thay vào kia đấỵ
Nói đoạn, ông châu yên một lát, để thì giờ cho lý trưởng Tưởng hiểu thấu cái phong tục đẹp đẽ dưới trung châu, và ngẫm nghĩ cái bổn phận chu đáo của nhà chức dịch đối với quan phụ mẫụ Rồi ông tươi cười, hỏi nửa đùa nửa thật:
- Quan nghe nói thầy lý có em gái mà?
Lý trưởng lắc đầu, đáp rất tự nhiên:
- Cho nó ra tiếp cái quan cũng không làm sao, nhưng rồi sợ nó quen đi, quan ạ.
Biết rằng không còn nước non gì, ông châu Phiên bảo thắng ngựa, nhất định về.
Đường lên châu lỵ khúc khuỷu, qua những cánh rừng rậm, nhiều đoạn chênh vênh trên khe sâu thẳm. Song, ông tin ở con ngựa ô của ông rất khôn và rất thuộc lối, và ở hai tên lính cơ lực lưỡng, can đảm, lại có đem cả súng lẫn đạn đi theo hầụ Tuy lần này về Bản Sing, ông chỉ có mục đích xem hội, nhưng ông cũng định tối đến, theo tục lệ, ông sẽ nô đùa với bọn con gái dậy thì lũ lượt kéo nhau ra đường giỡn hát bên ngọn đuốc.
+
+ +
Lúc bấy giờ, độ mười giờ đêm, ba thầy trò đã bắt đầu phải chui qua cánh rừng rậm. Lối đi ban nãy còn hơi lờ mờ rõ, bây giờ thì thật đen như mực. Không ai có thể trông thấy gì, dù đã quen làm những việc lén lút. Người ta có một cảm giác khó chịu là bị quây vào giữa một cái màn rùng rợn, chật hẹp, mà tai, mắt, chân tay hoạt động một cách sợ sệt, song vô công hiệụ
Ba con ngựa bổ móng vào những phiến đá, kêu lộp cộp. Thỉnh thoảng, một chiếc lá khô rơi, xào xạc, đụng bốn năm bận vào cành. Và xa xa, tiếng tí tách của một dòng nước uể oải chảy từ kẽ đá rạ ông châu, một tay nắm cương, một tay víu yên, gò người về đằng trước và nhấp nhổm theo nhịp kiệụ
Những cuộc đi đêm vất vả, ông đã từng trải nhiều bận, nên đã quen. Làm chức tri châu, ông tránh sao được nơi rừng xanh núi đỏ, nước độc, ma thiêng. Song, ông chỉ cố đợi vài tháng nữa, đến kỳ thăng thưởng cuối năm, ông sẽ vận động thăng tri phủ và xoay về một huyện nào tôn tốt ở trung châụ Lúc bấy giờ, ông mới có thể nghĩ đến chuyện làm giàu và sung sướng được. Chứ ở đây, tiếng là quan cai trị, mà quanh năm, ông chẳng sơ múi gì. Dân sự họ sợ uy quyền lý trưởng hoặc chánh tổng người địa phương hơn là quan phụ mẫụ Vả ở vào một nơi giáp biên thuỳ, công việc canh phòng còn khó nhọc và nguy hiểm gấp bội lần.
Rong ruổi trong khoảng tịch mịch, ông châu Phiên bỗng nhớ đến cái chức vụ tịch mịch của mình. Một hơi lạnh thoảng qua, làm ông rùng mình. ông móc túi, lấy điếu thuốc lá và bật bùi nhùi để hút.
Bỗng ngựa ông đứng dừng lạị Rồi lưng ông bị đầu con ngựa sau húc phảị ông giật nảy mình, tự nhiên ghê rợn, như có cái gì nó báo trước cho ông một điềm chẳng lành. Trong người ông nóng ran. ông vội vàng lắng tai và giơ tay trong khoảng tối đen, làm hiệu cho lính, và khẽ nói:
- Đứng lạị
Ba con ngựa cùng dừng bước, thở, vẫy đuôi xoàn xoạt, và giậm chân xuống đường đất rắn cấc để đuổi muỗị
Quan quay lại, hỏi lính:
- Có ngườỉ
Tức thì hai ngọn súng đã chĩa ngang ra đằng trước.
Mọi người yên lặng để nghe ngóng và chờ đợị Tiếng xôn xao mỗi lúc một gần. ông châu ra lệnh khẽ:
- Nạp đạn sẵn.
Gót chân nện xuống đất nghe rõ dần. Một người lính nói thầm:
- Họ nói tiếng Thổ hay tiếng khách? Đông đấỵ
ông châu ngăn:
- Thôi, im. Xuống ngựa cả, mau!
Rồi ông hỏi to:
- Ai, đi đâủ
Những tiếng xôn xao ở xa tức khắc im bặt. Thấy khác ý, ông châu ngờ vực. Trong bóng tối, ông nhận ra năm sáu cái bóng đen kịt.
Một người lính hỏi lại:
- Aỉ Đi đâủ Lấy cả thẻ ra để quan khám!
Lời vừa dứt thì không hiểu làm sao, bọn người đằng trước chạy tán loạn.
Đoán là việc nguy hiểm, ông châu hăng hái, thét:
- Bắn!
Đoành! Ngọn lửa sáng lòe, tiếng vang inh vào các khe núi, kêu vọng dài rạ Tức khắc, một cái bóng đen ngã vật xuống, giãy đành đạch, rên rỉ.
Hai người lính càng phấn chấn, đem hết sức lực, chạy đuổi bọn người gian.
Lại một tiếng đoành, rồi tiếng đoành nữạ
ông châu nắm chặt lưng ba con ngựa, trống ngực đã bớt rộn, ông lên tiếng hỏi:
- Thế nàỏ
- Bẩm trúng ạ.
Thấy người ngã đầu tiên còn phì phì thở ngay gần đó, ông châu bấm bùi nhùị Đá lửa bật ra những tia sáng lóe, rọi rõ lối đị ông tiến mấy bước, rồi dồn dập hỏi:
- Bọn mày mấy đứả
- Đau lắm, tôi làm gì mà bắn tôỉ
Chẳng để vào tai những tiếng nói thảm thiết vô ích, ông lại hỏị Tiếng trả lời:
- Sáu đứạ
ông nói to, bảo lính:
- Tất cả là sáu đứa!
Ngay lúc ấy, một tiếng súng lại nổ to, vang động cả bốn phíạ Rồi tiếng reo:
- Ngã rồị
Mừng rỡ, ông châu hô:
- Còn hai nữạ Bắt cho kỳ được!
Rồi cúi xuống, ông toan hỏi thêm. Song, người khốn nạn đã ằng ặc giãy, rồi nằm im lịm.
Trời tối quá, nên cuộc săn người rất gian nan. Bởi vậy, trong sáu kẻ gian, bốn người chẳng may bị đạn thì chịu gục xuống, còn hai người lẩn lút được. Lính đã hết sức tìm sục mọi nơi, song, không tài nào thấy được. Thực ra, họ trốn không khó gì. Chỉ cần cho người đuổi không trông thấy hút được, là họ nép vào bụi rậm nào đó, thế là thoát. Họ nằm đó cho thật yên. Bởi vậy, hai người lính đã mất công chui rúc cho đến tận tang tảng sáng.
Như khi tầng lá xanh đen đã hơi nổi ra ngoài nền trời màu sữa, thì ông châu bắt đầu hơi ngạc nhiên. Cách người chết nằm không xa, có những đống gì to lù lù. Muốn khỏi ngợ, ông buộc ngựa vào cành cây, đến tận nơi, nhìn cho kỹ.
Bỗng ông nhủn người, run lên, mặt tái mét. Đó là những bó thuốc lá, mà sáu người này có lẽ chỉ là bọn buôn thuốc.
Lương tâm ai chẳng có? Dù làm quan cũng vậỵ Thỉnh thoảng, người ta có đôi phút vụt thấy lương tâm hiện ra, mỗi khi biết rằng mình làm bậỵ Bởi vậy, ông châu Phiên hối hận việc đã giết oan bốn mạng lương dân.
Nhưng biết làm thế nào bây giờ?
ông châu vốn là người có óc thực tế. Hạng người này ít thiên về tình cảm. Nên khi một việc lỡ xảy ra, họ không xoa xuýt, than tiếc, mà phải cương quyết tính ngay đến cách đối phó sau nàỵ Vì vậy, trong giây phút, ông lanh trí, nghĩ ngay được cách làm thế nào để tránh lỗi với quan trên.
Thì ông làm thế nàỵ
ông đến tận nơi từng người bị đạn để tra hỏị Khi biết đích bọn đó chỉ là người Thổ đi kiếm thuốc lá để sáng sớm mai bán tại chợ Bản Sinh, ông bèn đốt thẻ của họ đi, và bắt lính trói chặt lại, cho khỏi có người nào còn sức lê đi và trốn thoát. Như vậy, ông có thể kệ họ nằm rên rỉ một mình, không phải bận về canh gác nữạ
Đoạn ông cùng hai tên lính cơ, chia nhau đi các ngả để sục nốt hai người hiện đương trốn.
ông cao đoán lắm, bảo lính:
- Chúng nó chưa ra khỏi cánh rừng nàỵ Chúng mày cứ trông kỹ vào những chỗ rậm rạp. Tao sẽ thưởng to cho thằng nào có công.
Lúc ấy đã sáng rõ. Ba thầy trò vừa lắng tai, vừa trố mắt, dò từng bước để tìm tòị Không một bụi rậm nào họ không khua ngọn súng vàọ Không một khe đá nào họ không lách lưỡi lê vàọ May thay, trời không phụ kẻ có công bao giò. Chẳng bao lâu, chính ông châu tóm được một người nằm ẹp như con nhái bén dưới một gốc cây đổ. Và một tên lính vồ được người nữa, đương cắm cổ chạy bán sống bán chết trong khóm lau caọ
Bắt sống được hai người cuối cùng, mà hai người này không có thẻ, ông châu mới thực mừng. ông sai trói gô họ vào gốc câỵ
Rồi ông làm gì?
Rồi... đoành! đoành! ông chia cho mỗi người một phát đạn, không hơn không kém, để họ đỡ tị với bạn. Rồi... còn ba người đương ngắc ngoải, ông cũng sinh phúc cho thêm mỗi người một phát, để họ được thoát khổ, mà rủ nhau cả một lượt về suối vàng.
Rồi... khi đã làm cỏ đủ sáu mạng người, ông sai cởi dây trói ra, và phi ngựa về châụ ông làm tờ khẩn bẩm với quan trên, kể công là đã đi tuần đêm, và ba thầy trò đã giết nổi một toán những sáu đứa... giặc khách.
Và như thế, ông yên trí rằng về công trạng trị an oanh liệt này, ông sẽ được đặc cách thăng tri phủ hạng nhì...
Truyện ngắn chọn lọc - Tập II -
Nxb. Hội nhà văn - 1985

Tôi cũng không hiểu tại làm sao

Lên khỏi bực thềm và qua hàng hiên nhìn vào, Sinh thấy cảnh "chúa vắng nhà" hiện ra trong các buồng giấỵ
Phải, bao giờ ông Sếp không có mặt tại sở, thì suốt cả, từ ông Phán sắp về hưu cho chí bác loong toong tập sự, ai nấy tự do tán gẫu cùng nhau, mặc kệ những ai có việc phải ngấp ngó ở ngoài hè chờ đợị
Sinh thì không ưa cái lối làm việc giả dối như thế. Nhất là đối với ông Sếp hay hục hặc nàỵ Từ ngày được bổ đi làm tới nay, bao giờ anh cũng nghĩ tới bổn phận trước hết. Anh không sợ ông Sếp bằng dư luận. Mà không sợ dư luận bằng lương tâm. Anh muốn tự trọng, không chịu để người trên nói động đến mình. Người trên đã không thể trách mắng anh về một lẽ gì, hẳn anh không phải lấy lòng và xu nịnh ai nữạ Anh muốn làm việc một cách thẳng thắn, tự dọ
Bởi vậy, ông Sếp ở cạnh anh, hay đi vắng, anh coi cũng thế thôị Cho nên, thấy các bạn đồng nghiệp cặm cụi - có lẽ là vờ - khi có mặt người trên, và trây lười khi khác, anh vẫn bỉ ngầm là họ thiếu nhân cách. Anh cho là những cái quắt quéo này nó đẻ ra cái quắt quéo khác. Nó là nguyên nhân những sự luồn lọt, ton hót, bôi gio trát trấu vào thanh danh của cả một đoàn thể.
Sinh đi thẳng vào buồng mình. Đồng hồ đã chỉ bảy giờ hai mươi nhăm. Anh cởi áo, khoác vào lưng ghế, và tìm sổ sách giấy má hôm trước làm dở.
Mọi ngày, cũng lúc này, bàn máy chữ buồng cạnh đã bắt đầu lách tách, có khi rào rào như mưạ Thế mà bây giờ chỉ những tiếng chuyện, tiếng cười nôn nao, loạn cả óc, làm anh khó lòng làm việc bình tĩnh được.
Liếc mắt nhìn xung quanh, anh thấy chỗ này, Tâm và Sức ngồi cả lên bàn, khoa chân múa tay, nói chuyện với tham Trí. Chỗ kia, Ban mặc áo cộc cặp cái điếu vào hai đùi, sắp hút thuốc; Chính thì lom khom châm diêm, và Bắc thì chỉ rình thổi tắt.
Thấy các bạn đồng nghiệp đùa nhảm, Sinh mỉm cười, quay đị Bỗng thình lình anh nghe thấy đánh bốp. Rõ là tiếng bàn tay tát vào má. Anh đoán ngay là bác loong toong Thảo xưa nay vẫn hay có thói đánh người, vừa ra oai với một anh dân nào vô phúc. Anh toan để ý nhìn, thì chính Thảo đã nói rất to, giọng gắt gỏng:
- Muốn ở tù thì nheo nhéo cái mồm lên, các quan còn đang bận. Chưa đến giờ!
Ngay lúc đó, đồng hồ buông một tiếng. Bảy giờ rưỡị Nhưng hiệu báo ấy không có nghĩa gì đối với trong sở khi vắng mặt ông Sếp.
Bỗng cửa buồng mở phanh ra, rồi lại tự đóng. Nghĩa vàọ Đó là một bạn đồng nghiệp của Sinh, cùng làm một buồng giấỵ
Cũng vì luôn luôn ngồi gần nhau và tuổi sàn sàn ngang nhau, nên Sinh thân với Nghĩa hơn với các bạn khác.
Thoạt vào, Nghĩa đã vui vẻ nói ngay:
- Có lẽ đến tám chín giờ nó mới ra sở, tội gì không hưởng lấy vài phút tự dỏ Này Sinh, bảo cái đã...
Sinh nhếch mép, cười lấy lòng bạn, nhưng tay vẫn cầm bút. Anh hỏi:
- Anh bảo gì?
- Hôm qua nhật trình đăng Tàu Nhật đánh nhau thế nàỏ
Sinh cười, không đáp, hỏi lảng:
- Cái giấy tôi đánh máy dở, loong toong có để bàn bên ấy không?1
- Thôi, đốt cái chăm chỉ của anh đị Này, cuối tháng này, "mó" lương xong, vào cổ phần với đằng này để xuống xóm nhé. Con Nhật nó vẫn hỏi thăm đấỵ
Sinh vẫn cúi viết, không đáp. Nghĩa chạy lại, giằng bút ra, nói:
- Tôi không bắt anh ăn cắp được dăm phút hay sao!
Rồi chõ mồm sang buồng bên cạnh, Nghĩa kêu:
- ối làng nước ơi! Sao mà nó điên dại đến thế. Có ai bắt thằng Sinh nói chuyện được không?
Nghĩa cười sằng sặc. Một ông già cúi gầm mặt để đưa nhỡn tuyến lên trên đôi kính trắng, nói:
- ông Sinh còn trẻ, chưa lịch duyệt việc đờị
Sinh vẫn mỉm cườị Anh không muốn mất lòng ai, nhưng cũng không muốn để ai ngăn trở công việc mình. Anh nói khẽ với Nghĩa:
- Cho tôi làm xong việc này đã.
Nghĩa bĩu môi:
- Việc nhà nước, cần gì hấp tấp. Vả bao giờ hết được? Anh chỉ biết làm việc như một con bò, không dám nghỉ một phút. Thì nhân nó không có đây, hãy nghe người ta nói câu chuyện này đã nàọ
Sinh cười:
- Thì cứ nói đi, tôi vừa làm vừa nghe cũng được mà.
- Không, hãy bỏ bút xuống đã.
Rồi Nghĩa trỏ tay sang buồng cạnh:
- Kìa, anh trông, bô Hạnh ngủ gật kìa, chừng đêm qua bô đã bù khú với cô hai đến sáng. Chúa ăn cắp thì giờ là bô Hạnh đấỵ
Sinh thở dài:
- Mình không làm việc, họ kêu chết.
- Aỉ Anh bảo họ là aỉ
- Là những người đứng chờ ta ngoài kia chứ aỉ
- Kệ xác chúng nó! Chúng nó cần ta, chứ ta cần chúng nó à?
Sinh dở đùa dở thật, đáp:
- Nói thế này, anh đừng giận nhé, chúng nó sẽ bảo chúng ta là. ..
Sinh ngừng, nhìn bạn. Nghĩa tiếp ngay:
- Là ăn cắp là cùng chứ gì!
Sinh phá lên cườị Nghĩa bĩu môi:
- Anh tính ở đời này, thiếu gì thằng ăn cắp. Mà triệt sao được tính ăn cắp của người tạ Anh chẳng thấy bao nhiêu thằng to đầu mà vẫn công nhiên ăn cắp à? Mà suy ra cho cùng, nếu không có những việc có thể ăn cắp được, thì người ta còn vẽ ra những sự công ích công lợi để làm gì? Vẻ khả quan của xã hội hiện thời, chẳng là do những tư tưởng muốn ăn cắp mà ra hay saỏ
Nói đoạn, Nghĩa về bàn giấy mình, và tiếp:
- Thôi được, anh chẳng ăn cắp thì tôi ăn cắp vậỵ
Sinh nhìn theo bạn. Hai người yên lặng, không ai nói chuyện nữạ
Bỗng Nghĩa giơ hai tay lên, ngáp, bảo Sinh:
- Tao cũng muốn bắt chước mày, đạo đức một lát, nhưng Sếp đi vắng mà cứ làm việc, thật tao không yên với lương tâm. Hôm nay tao dậy trưa, vội đi làm, chửa kịp ăn sáng. Sinh, mày có ăn bánh tây chả, tao mua chọ
Sinh lắc đầu:
- Ăn rồị
- Thế tao ăn một mình cấm nuốt nước dãi nhé!
Sinh gật đầu, rồi lại cúi xuống, loay hoay làm tính cộng.
Nghĩa sai loong toong đi mua thức ăn, rồi mở to quyển sổ, và để lọ mực ở trước mặt. Anh cầm bút, như người đang dở bận việc vậỵ
Một lát, bánh tây mua về, Nghĩa cắn một miếng, rồi cất vào ngăn kéọ Vừa thong thả nhai, anh vừa nhìn ra ngoài cửa sổ, nghĩ ngợị
Lúc ấy, Sinh mải việc, không để ý đến những tiếng động quanh mình.
Bỗng một tiếng nói làm Sinh ngẩng đầu lên.
ông Sếp lù lù đứng trước bàn giấy Nghĩạ
Sinh trông thấy, biết ngay rằng Nghĩa bị bắt chộp trong lúc đang ăn. ông Sếp, cả hai vế đùi, hai cánh tay, lẫn mặt, đỏ ngầu ngầu, hất hàm hỏi Nghĩa:
- ông nói cho tôi biết, ông đã làm những gì từ sáng đến giờ?
Nghĩa lúng túng, tay cầm bút, trỏ vào quyển sổ. ông Sếp gật đầu:
- ông nói dối tôị ông đang ăn gì?
Nghĩa mặt tái xanh, chối:
- Không, tôi có ăn gì đâủ
ông Sếp càng tức, trừng trừng nhìn Nghĩa:
- Sao ông lại nói dối tôị ông ăn cái gì giấu ở ngăn kéo đó?
Nghĩa lắc đầu, làm bộ ngơ ngác, rút ngăn bàn ra, đáp:
- Không, đây ông xem, có gì đâủ
ông Sếp cúi nhìn, quả không có gì thực. ông càng giận. Sinh rất khó chịụ Anh thấy ông Sếp quá sắc mắc, lại thấy bạn cứ chối hoàị Hẳn là chính mắt ông ta đã bắt được Nghĩa đang nhai, nên mới dám hỏi thế. Vả chỉ nghe giọng Nghĩa nói lúng búng, cũng có thể đoán được trong miệng chưa nuốt trôi miếng bánh.
- ông có ăn, tôi không nói saị
Nghĩa vẫn cãi:
- Tôi không ăn gì cả.
ông Sếp trợn mắt:
- Có thực ông không ăn không?
- Phải, tôi không ăn.
ông Sếp ôn tồn nói:
- Vậy ông há mồm ra tôi xem.
Sinh rùng mình, liếc nhìn bạn. Nghĩa không há, nhưng rất lúng túng. ông Sếp lại giục:
- ông bảo ông không ăn, thì ông cứ há mồm ra... Há!... ông có há hay không?
Nghĩa không thể làm thế nào được, đành phải mở rộng hai hàm. ông Sếp nhìn thẳng vào miệng Nghĩa... ông ta nhún vai, bĩu môị Rồi không nói thêm gì, ông ta chắp tay sau lưng, lẳng lặng đi rạ ông đã quẳng sự khinh bỉ thấm thía vào mặt người có lỗị
Sinh căm tức lạ lùng. Anh nhịn thở dài, để cắm mặt xuống mảnh giấỵ Anh giận bạn đã để cho người ta làm nhục. Rồi càng nghĩ ngấm nghía, anh càng thấy chán nản, lắm lúc hăng máu, anh run bắn người lên.
ở mấy buồng cạnh, Sinh liếc mắt, thấy ai nấy cũng làm việc rất hăng háị Tiếng máy chữ, tiếng chuông, tiếng gắt gỏng, tiếng gót giầy tây chạy, làm tôn vẻ uy nghi của ông Sếp muốn uy nghị
Trước mặt mình, Sinh lại thấy Nghĩa không lúc nào rời tay cái quản bút. Anh thở dàị Cái cột tính cộng anh làm từ sáng đến giờ chưa xong một nửạ
+
+ +
Đúng mười một giờ bốn nhăm. Sinh khoác áo, đứng dậỵ Anh đến cạnh Nghĩa, để tay vào vai bạn, nói dịu dàng:
- Đến giờ rồi, đi về, anh!
Nghĩa ngẩng cái mặt buồn thỉu, sợ sệt, nói:
- Anh cứ đi trước. Tôi sợ nó còn gọi gì tôi chăng.
Sinh cương quyết:
- Đến giờ thì ta về cần gì!
- Nhưng tôi nên ở lạị
Sinh cười thương hại:
- Các buồng kia, họ về cả rồị
Nghĩa ngó cổ nhìn, rồi rụt rè với lấy cái áọ Anh khoác vào mình, gài khuy, rồi hỏi khẽ người loong toong:
- ông ấy đâủ
- Bẩm về đã lâu rồi ạ.
Nghĩa yên tâm, cùng Sinh lững thững ra cửạ Đôi bạn xuống mấy bực thềm. Mấy người phu xe mời vồn vã, kính cẩn:
- Mời quan lên xe ạ.
Sinh xua tay, bảo Nghĩa:
- Đi bộ, tôi muốn hỏi anh cái nàỵ
Khi ra cổng, đến ngoài phố, Sinh thở dài, trách:
- Gớm, ban nãy anh quá lắm. Anh đã ăn thì anh chối làm gì. Nó giết được anh hay sao!
Nghĩa cười, không đáp. Sinh tiếp:
- Rồi đến khi nó bắt anh há mồm, sao anh không nhận là có ăn, lại cứ há rả Tôi thấy ê chệ quá! Nào cái mồm há ra nó có đẹp đẽ gì, nhất là trong đó lại có miếng bánh tây to, nhoét những nước dãị Tôi trông thương tâm quá.
Nghĩa thở dàị Sinh nhăn nhó:
- Thì giá anh không há đã làm saỏ Mà tôi không hiểu anh nghĩ thế nào anh lại há mồm ra cho nó xem thế?
Nghĩa cảm động, long lanh nhìn bạn như chợt hiểu cái phút đê tiện. Rồi hai dòng nước mắt chảy ra, anh run run, đáp:
- ừ nhỉ, thật tôi cũng không hiểu tại làm sao tôi lại há ra như thế!
PTBNS số 48, 1-12-1939.

Một vụ bắt rượu lậu

Truyện ngắn "Một vụ bắt rượu lậu" về nội dung cũng như hình thức, không quen thuộc lắm với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Chúng tôi chọn in truyện này vì nó tiêu biểu cho thời kỳ sáng tác đầu tiên của ông, với một loạt truyện ngắn trào phúng có khuynh hướng hiện thực phê phán.
*
* *

Dân cày ở làng Phong Cốc, bây giờ thực không còn lấy cớ gì để phàn nàn với nhau trong lũy tre xanh và với người ngoài, ở giữa đường chợ đông, rằng quan trên không săn sóc tới.
Đấng phụ mẫu của họ là quan phủ Thiệu Hóa - làng Phong Cốc thuộc về Thiệu Hóa phủ, Thanh Hóa tỉnh - những khi hành hạt qua đó thường vẫn không quên bảo với thầy Đề rằng nên tạt vào đấy mươi lăm phút để xem cái "dân khí" vùng đó lâu nay ra sao?
ở đình làng, trong những ngày này, hương chức kỳ cựu đều được quan Phủ khuyến khích họ nên giảng giải cho lũ đàn em về cái đức làm dân đối với bề trên không được tỏ vẻ kháng cự, và cái đạo làm dân trong một nước thái bình, ở một thời yên lặng, phải đóng sưu thuế, theo tạp dịch cho đều đều. Nếu sự phục thiện của dân đã kết quả được một phần thì càng nên gắng nữa cho được mười phần, càng nên cố sức nữa lên mãi mãi. Rồi nhà nước sẽ thương tới, và quan Phủ hứa thêm rằng ngài đã bẩm tỉnh cho, thì tha hồ mà được nhờ...
Nhưng lúc quan phủ gần trẩy đi sang làng khác, ngài vẫn không quên bảo thầy lý mới, như mấy lần trước:
- Thầy nên coi chừng đến công việc của thầy và sự hành động phi pháp của dân làng. Trách nhiệm của thầy nặng lắm đó! Thầy giữ việc làng thay thầy lý trước (bị chết một cách rất thê thảm và chẳng vinh dự gì) trong khi thừa hành công vụ, chắc thầy rõ phận sự của thầy trong lúc này, hơn ai hết thảy.
Thầy Lý run lẩy bẩy, chỉ biết mồm "dạ dạ" đưa mãi hai bàn tay chắp lên khỏi ngực. Thầy không dám nhìn thẳng vào quan và thứ nhất là nhìn vào ông Đề ngồi gần ngang hàng với quan; trong một lúc nhốn nháo ở đình lúc quan mới tới làng, thầy Lý đã dám liếc trộm ông Đề khi ngài này sai bác Cửu châm đóm để ngài hút thuốc lào vào điếu dóng của quan phủ, có cái xe trúc uốn cầu vồng dài đến gần bốn thước ta. Ông Đề cặp mắt sáng như tia lửa, những lúc nheo nheo mí mắt lại, thì không khác gì mắt con vọ lúc ở trên cành gạo chú mục nhìn đống thịt chết ở mặt đất. Thầy Lý tin rằng nếu ngấc mắt lên mà đụng gặp phải nhỡn tuyến của ông Đề già thì sẽ bị thôi miên mất: và thôi miên thuật kia sẽ bắt thầy phải tường tận cung khai gia sản nhà mình ra xem của chìm là bao nhiêu và của nổi là bao nhiêu để ông Đề vui vẻ trả lời bằng ý nghĩ rằng có một ngày rất gần đây, chúng nó sẽ phải thay đổi chủ và thầy thì cố nhiên là sẽ mất quyền sở hữu ấy.
Nghĩ đến đấy, thầy Lý càng không dám giữ đầu mình cho thẳng thắn, chỉ biết cúi mặt xuống đất hết nhìn đôi ủng da tây của quan Phủ, đôi guốc kinh của ông Đề và đôi bàn chân lấm của mình. Thầy Lý lúc này thật là một ông hóa thân của sự sợ hãi. Thầy chỉ biết dạ, dạ mãi, để đáp lại những lời đanh thép mà thầy chỉ hiểu một cách mang máng. Bỗng thầy giật mình khi nghe thấy quan gắt:
- Cái anh Lý này "chướng" quá. Người ta hỏi thầy xem số rượu dân làng uống trung bình trong những ngày thường chênh lệch với những ngày tế lễ như xuân tế, thu tế, hoặc vào đám ăn chạ là độ bao nhiêu, mà thầy cứ dạ là nghĩa lý chi? Vô lý quá!
- Dạ bẩm ông Lớn, về việc dân làng con uống rượu, con cũng không lấy gì cho tường lắm. Dạ, con mới được dân cho con ra thay anh Lý bất hạnh của con được độ mấy tháng.
Câu trả lời của thầy Lý có vẻ đần độn một cách lừng khừng gần giống như lời bướng bỉnh thốt ra ở cửa miệng những dân cứng đầu cứng cổ. Tuy rằng là thật thà, nhưng thầy lý cũng vẫn đủ trí khôn nhận rằng có lẽ nó sẽ làm cho quan Phủ đến phải nổi trận lôi đình. Mà quả nhiên thế thực. Thầy Lý hiền lành kia nghĩ đúng đấy. Vì quan Phủ đã biến sắc mặt, làm om cả đình làng:
- Thầy làm việc quan như thế hỏng, hỏng to. Đừng nói chi đến chuyện nay mai thầy mong được nhà nước cho tưởng lục hay mong điền vào chân chánh phó tổng khuyết. Nếu anh không thay đổi cách làm việc thì cái triện lý trưởng của anh cũng khó lòng mà giắt được lâu đâu. Việc dân trong làng uống rượu mà thầy mù tịt như vậy thì chết thật. Thầy làm việc không được mẫn tiệp rõ quá rồi. Nếu ta không thương anh, đem một việc này mà bẩm tỉnh thì liệu anh có còn giữ được đồng triện không?
ấy thế rồi quan và ông Đề và lính tráng trẩy đi để một lũ kỳ cựu hương chức làng Phong Cốc đưa mắt nhìn nhau và nhìn ông Lý vừa bị quan quở. Thầy Lý đâm mê và toát mồ hôi. Mồ hôi thấm qua cái áo lụa nâu già và làm đẫm cả lưng chiếc áo the dài mầu nước dưa.
Thầy Lý ra khỏi đình làng. Trận gió bấc thổi rụng lá vàng, thổi bay tà áo thầy và lớp mồ hôi gặp gió lạnh càng se đến đâu càng làm cho thầy lạnh "trông thấy" đến đấy. Với không khí lạnh lẽo ở ngoài trời, thầy thấy trong mình bớt bừng bừng và lúc về tới nhà, thì thầy đã lấy lại được sự trật tự hoàn toàn cho bộ óc vừa bị kích thích mạnh.
Vào đến nhà, bỏ khăn áo, thầy nằm vắt tay suy nghĩ. Thầy bỏ bữa cơm ngon có rượu ngâm thuốc, có món nhắm tốt. Trông thấy rượu, thầy sực nhớ ra vì câu chuyện ban nãy mà thầy bị quở ở giữa làng. Thầy điên tiết lên muốn đem lẳng "mẹ nó" cả chai cả nậm ra ngoài ao.
Bà vợ thấy chồng có thái độ lạ lùng khác mọi ngày, dám chê cả món dê bóp tái và bánh tráng vừng bà công phu mua tận chợ bên sông gặp ngày phiên, vội đón hỏi:
- Làm sao thế? Nghe nói quan về làng ta định bắt dân mở trường và khai giếng thêm phải không? Sao lại bỏ bữa rượu? Thằng Kha nhà theo tôi sang chợ ngoan lắm.
- Mở trường, khơi giếng! Ai bảo thế? Đình với giếng gì? Việc triều đình nhà nước, u mày biết gì mà hỏi! Cất rượu đi! Thầy Lý bỏ mặc vợ tưng hửng đang lủi thủi lấy lồng bàn đậy mâm cơm để dành. Thầy đang lo đến cái tiền trình của tên lý trưởng vừa bị quan hạch là không đầy đủ bổn phận. Thầy càng ngẫm kỹ mấy câu quan vừa nói ban nãy thì ra cái chân lý trưởng của thầy là bấp bênh. Nó như cái thế quả trứng bị để ở đầu đẳng sớm tối vỡ lúc nào không hay. Rồi thầy lại lẩn thẩn nghĩ đến chuyện những chức phận ti tiểu lúc quên tạ ơn những vị đỡ đầu thì bị quan thầy báo thù lại như thế nào... Nhưng không, thầy Lý nhớ rõ ràng rằng, thầy đã được quan Phủ ban cho thầy cái vinh dự bắc chiếc ghế đẩu ngồi gần quan trong tư thất, sau khi quan đã rủ lòng thương nhận cho thầy cái phong bì "lễ mọn" mà thầy khom khom cúi dâng lên bề trên bằng sự thành kính của kẻ biết ơn và tạ được ơn. Thầy còn nhớ như in vào ruột những câu của quan giảng dụ hôm đó vồn vã ôn tồn và những cảnh quan coi thầy như là đầy tớ tay chân... Thầy Lý đưa tay qua trán, nhắm mắt lại, tưởng lại những phút ấy mà thầy rạo rực cả người. Sướng quá, thầy tự hỏi mình rằng cái số phận tầm thường của một người lý trưởng được hưởng những phút như phút ấy độ mấy lần trong một đời? Thầy so sánh quan Phủ hôm ấy và quan Phủ hôm nay sao khác hẳn đi? Không, có lẽ quan nhiều việc đến nỗi quên hẳn là mình đã tạ lễ? Phải, phải, không có thể như thế được. Thầy lại cho rằng hay tại mình tạ thiếu. Nhưng không, vì hôm đó, quan đã khen thầy một câu: "Anh Lý người linh lợi lắm. Anh đưa túc số như thế này, tôi tiêu nó được thành món". Nếu thế thì là nghĩa lý gì, và nguy hiểm quá nhỉ! Vì ai còn biết mạch mối đằng nào mà tìm, mà hiểu. Trong ba, bốn ngày liền, thầy Lý cứ ăn kém đi vài bát cơm, ngủ kém đi vài canh dài, với những ý nghĩ ấy nó không tha ám ảnh thầy.
Rồi một buổi trưa già, thầy vừa bỏ mẩu triện đồng vào tráp đen thì thấy lũ trẻ làng đang reo ầm lên ngoài cổng:
- A... a... a... Tây về!... Có Tây về làng ta!
Thầy Lý thấy khác trong người, vì không biết tại sao thầy nghĩ ngay tới sự chẳng lành sẽ xảy ra. Thầy đang sửa lại khăn áo, sắp ra xem là chuyện gì thì con chó mực ở sân gân cổ lên trời sủa váng cả nhà lên. Một tốp người, quần, áo, mũ, giầy vàng khè một màu kaki đã tiến vào nhà, đứng đầy cả sân. Thầy Lý nhìn họ: người nào cũng oai phong lẫm liệt, người cầm thuốn sắt, kẻ đeo túi da đựng súng lục liên. Thầy lẩm bẩm: "Thôi bỏ mẹ, lại lính đoan", và tiến ra sân.
Lính đoan thấy ông Lý ra vội xúm cả lại xung quanh cứ đặc cả lại như là đàn muông săn lúc vây được con sói rừng, đều một loạt nói bô bô:
- Trong làng có rượu lậu! Ông đi ngay! Có cả quan Đoan về đấy!
Bấy giờ thầy Lý mới biết là có cả quan Tây Thương Chính về nữa. Thầy vội vàng chạy ra vái dài quan Đoan. Người Tây tay cầm ba toong song, đứng ở gần cổng; rồi cả bọn kéo đi rất nhanh theo một ông Đội đoan có bộ râu "củ ấu" là người dẫn đường xem có vẻ thông thạo đường lối trong làng lắm. Đến ngõ đình, cả bọn ập vào nhà bác nhiêu Tìn. Thầy Lý trong bụng phấp phỏng vì từ lúc đi đến giờ, thầy chỉ biết theo nhà đoan thôi. Lúc đến nhà nhiêu Tìn, thầy mới hiểu rằng quan Đoan về bắt rượu lậu ở nhà tên nhiêu Tìn, một người mà thỉnh thoảng vẫn đưa lại nhà thầy những chai rượu rất ngon trong những ngày nhà ông Lý có kỵ dùng thứ rượu cúng rất tinh khiết. Thầy Lý than thầm cho nhiêu Tìn đã gặp sự chẳng lành... Cảnh náo nhiệt bầy ra trong nhà người bị Đoan vào khám xét đã chiếm hết cả giác quan thầy Lý. Lính đoan gọi ầm ĩ:
- Chủ nhà là nhiêu Tìn đâu? Nhiêu Tìn đâu?
Bỗng ông đội Đoan vừa reo, vừa chạy:
- Nó đây rồi! Các thầy mau theo bắt lấy! Kia kìa nó đang mang vò cơm chạy! Nó vừa mới vọt ra cổng ngang!
Lính đoan chạy, cả quan Đoan, cả thầy Lý cũng chạy theo một người nhà quê đang ôm một cái chĩnh chạy miết ra phía bờ ao gần đình làng, cách họ độ ba chục bước.
Trẻ con khóc. Chó sủa. Đàn bà kêu, và các ông già bà lão trố mắt chống gậy "càng cua" đứng nhìn theo đám bụi mù bay.
Lúc thầy Lý theo kịp được nhà Đoan đến bờ ao thì thấy thằng cha nhiêu Tìn đang lõm bõm ở giữa ao, hai tay bưng một cái chĩnh có nắp. Chung quanh bờ ao, người đứng vây đen ngòm. Quan Đoan vừa nhìn thầy Lý vừa nhìn ông đội nói một hồi tiếng Tây dài, mặt đầy vẻ tức giận, dẫm chân, múa tay, trông đáng ghê sợ lắm. Ông đội Đoan chỉ thuốn xuống phía ao bèo, nói chõ xuống người bưng chĩnh:
- Mày có muốn sống không? Nhiêu Tìn, mày có chịu lên không? Chúng ông mà xuống tóm được mày thì mày bỏ đời!
Nhiêu Tìn ở giữa ao mếu máo nói lên:
- Con lạy các quan, các quan tha cho con. Các quan đừng giết con.
- Ai giết mày? Mày cứ đưa cái vò lên đây!
- Lạy các quan, con trót dại có làm ít tương để ăn. Lạy các quan, thật con có dám đem bán đâu!
- Tương với mắm gì? Mày không lên, ông mà phải lội xuống thì... thì...
- Con khổ lắm. Các quan tha cho con! ối, mẹ thằng Tìn đâu, tao khổ lắm! Các quan làm tội tao, thì tao đổ tương xuống ao đây này!...
- Này thằng kia, nếu mày đổ vò cơm kia xuống ao, thì quan Đoan sẽ bắn mày! Mày định làm phi tang đi hở?
Quan Đoan đứng ở trên bờ vừa chửi rủa bằng tiếng Tây vừa rút súng lục, tay trỏ bấm sẵn cò, chĩa vào nhiêu Tìn. Ông Đội đoan đứng nói với về phía thầy Lý.
- Này ông Lý, nếu nó dìm chĩnh cơm để mất tang chứng rượu lậu, ông phải chịu một phần trách nhiệm đấy.
Thầy Lý hoảng cả người. Thầy lại càng hoảng nữa khi thấy quan Đoan chĩa súng về phía mình. Rồi liên tưởng, thầy nhớ đến vụ đổ máu vừa xảy ra trong làng cách đây mấy tháng: trong một vụ bắt bớ hàng lậu do quan Đoan Bécnắcđê chỉ huy, ông Lý trước mà mình thế chân bây giờ đã bị đạn Nhà nước nổ chết trong giây lát, giữa một lúc mà người ta bảo rằng nhà Đoan cần phải chân chính tự vệ. Thấy quan Đoan mắt đỏ ngầu, mồm sùi bọt, quát tháo rầm cả góc ao, thầy càng cuống cả lên. Mà dưới ao, thằng cha nhiêu Tìn vẫn cứ mếu máo và van lơn các quan đừng xuống ao, và nếu xuống hắn dọa sẽ đánh chìm cái chĩnh tương mất!
- Thế thì muốn sống mày phải lên ngay!
Tiếp lời ông Đội, thầy Lý cũng bảo nhiêu Tìn:
- Thế mày lên đi! Tao xin mày đấy! Mày làm chuyện phi pháp để lụy cả đến lý trưởng làng này! Mày định cho tao theo ông Lý trước hay sao? Mày không nhớ đấy à?
- Con lạy ông, ông xin cho con, không có các quan giết con mất.
- Thì mày cứ lên đi, tao sẽ xin cho. Mày cầm cho khéo cái vò kia, rồi lên ngay đi! ừ, lên đằng phía quan Đội ấy.
Bao nhiêu cặp mắt đều nhìn vào nhiêu Tìn đang lõm bõm bưng cái vò bước lên bờ ao.
Hắn run lập cập, vì ngâm nước lạnh thì ít mà vì sợ nhà Đoan thì nhiều. Ông Đội giằng lấy tay hắn lôi lại trước mặt quan Tây Đoan, và truyền cho hắn mở ngay nắp chĩnh ra. Hắn sợ khi nhìn quan Tây Đoan, nhìn ông đội, nhìn ông Lý và lập cập mở nắp chĩnh. Thấy quan Tây Đoan đã bớt giận, ông Đội cũng tươi tỉnh được nét mặt, bảo nhiêu Tìn:
- Ông tưởng mày ở cả ngày ở dưới ấy!
Ông lấy làm khoái trá khi nhìn vào trong lòng chiếc chĩnh. Nhưng sao ông lại cau mặt lại và mũi hít mạnh, đánh hơi. Ông sấn sổ hỏi nhiêu Tìn:
- Cái gì ở trong chĩnh?
- Dạ bẩm tương. Con có dám nói bậy đâu, con làm có một ít để kho cá ăn ở nhà chứ thực không dám đem ra chợ bán; ông Đội tỏ vẻ khó chịu trình với quan Tây Đoan rằng đây là một thứ nước chấm của nhà chùa thường ăn chay và người An Nam dùng với cơm. Quan Tây đoan bắt ông Đội nếm và hỏi ông có dám cả quyết như thế không. Ông Đội trả lời nhất định rằng trong chĩnh đó không có chất gì để làm rượu. Thầy Lý thấy câu chuyện khám xét kết cấu một cách ngộ nghĩnh không ngờ như vậy, phải hỏi nhiêu Tìn:
- Thế sao lại bưng vò tương mà chạy? Các quan khám rượu lậu kia mà! Ai bắt tương? Cái lý của anh gian lắm! Anh phải khai cho rõ ràng ra kẻo phiền đến cho tôi lắm đấy!
Nhiêu Tìn hoàn hồn, khai với thầy Lý:
- Con thấy người làng đi chợ về, dạo này đồn rằng Nhà nước đánh thuế cả tương và nước mắm, con thấy tương con làm không có giấy phép nên con sợ, con phải chạy đem vứt đi...
*
* *
Lúc sự yên lặng đã trở lại trong làng và mọi người đã ngặt nghẽo cười khi giải tán - trừ nhà Đoan rời làng Phong Cốc với nỗi tức bực - thì trời đã xế bóng. Bác nhiêu Tìn cũng mỉm cười bưng chĩnh tương về nhà, trong bụng nghĩ thương vợ phải một phen chạy rượu lậu vất vả, và không biết vợ đã đem giấu kín vò cơm ở nơi nào đây. Bác tự nghĩ nếu không có chĩnh tương này thì chỉ có Trời mới gỡ nổi cho bác khỏi ở tù.
Đông Dương tạp chí, số 29 ra ngày 27-11-1937

Một đám bất đắc chí

ít bữa nay, Lý Văn buồn bực ra mặt, bỏ nhà ra đi đến hai ba hôm. Nhiều người lạ mặt đến hỏi, vợ con Lý Văn đều không biết thế nào mà trả lời. Những người khách dữ tợn ấy có khi trở lại đến hai ba lần. Không được gặp chủ nhân, họ không lấy thế làm hậm hực. Vợ Lý Văn có hỏi gặng, họ chỉ trả lời nhiều câu nghe rất ngang tai.
- à, anh em chúng tôi cũng chơi bời như ông Lý nhà ta đây. Hễ ông Lý có về, bà nói giùm cho là có bọn Huần ở Kim Sơn ra thăm. Bá Huần, bà nhớ thế cho. Và có tin gì hay, xin ông Lý nhà cho anh em biết sớm.
Bọn Bá Huần Kim Sơn đi chưa khỏi thì lũ chó mẹo ở ngoài cổng lại sủa vang lên một hồi. Lại ba bốn người nữa đến hỏi thăm ông Lý. Người nào cũng quấn khăn đầu rìu, trông rất dị thường.
- Chúng tôi là người Tam Tổng. ở nhà lâu ngày tù chân quá, nhân đi qua đây, ghé thăm ông Lý và hỏi ông xem có công việc gì đáng để anh em đỡ tay hộ không.
Bà Lý Văn chỉ biết dạ và thưa và luôn miệng mời khách hãy ngồi chơi để cho cháu nó đi đun nước.
- Thầy cháu đi lên tỉnh vắng - bà Lý nói.
Mấy ông khách người hạt Tam Tổng không chịu ngồi yên một chỗ để xơi một khẩu trầu. Họ cũng không chịu ngồi yên để chờ đợi ấm nước trà đun sắp sủi. Họ chắp tay ra đằng sau lưng, lững thững dạo quanh nhà một vòng. Đàn chó mẹo tha hồ mà sủa, mà rộ; có lúc chúng chờm vồ lên lưng khách. Khách vẫn thản nhiên để cho đàn chó nhà bà Lý gậm bắp chân. Bà Lý vừa quát lũ chó một cách vô hiệu, vừa để ý ngắm đến những bắp chân tròn trĩnh của mấy ông khách lạ. Thì ở đấy, có cần gì đợi lũ chó nhà bà Lý cắn, trên lần da chân bóng như đồng đen kia, đã loang lổ nhiều vết sẹo rất to, cái thì trắng nõn nước da non đang lên, cái thì đen thẫm màu thịt thối thâm đã lâu ngày.
Đàn chó xem chừng cũng chán mấy người lạ kia nghênh ngang trong nhà chủ mình và có ý coi cái khoảnh sân vườn này như là của họ. Trái với những lần khách thấy những người lạ qua đây có cầm que hay gậy tre gai với sự rụt rè kiêng nể là chúng cắn vồ và đuổi nhiều, lần này đàn chó mẹo, sau một hồi thị oai suông đã lảng xa mấy ông khách người Tam Tổng.
Sau một hồi "nhỏ to" ở giữa sân, họ nói chõ vào trong nhà:
- Thế ông Lý có nói bao giờ về không?
Từ trong nhà thấp, tiếng bà Lý đưa ra:
- Dạ, thầy cháu hôm đi, không thấy dặn gì cả. Xin mời các ông vào xơi nước kẻo nguội.
Ngoài sân mấy ông khách vẫn thì thầm bàn tán. Họ không trả lời mời nước của bà Lý. Trong một lúc gắt gỏng, bà Lý chỉ nghe được một mẩu chuyện lúc họ nói to: "... Chả có nhẽ lão Lý lại đi đánh một tiếng bạc bất thình lình như vậy. Bao giờ lão đi, cũng có anh em mình tả phù hữu bật". Thế rồi họ kéo nhau đi, sau mấy mồi thuốc lào rít đến tụt nõ và sau mấy câu chào hỏi kệch cỡm ngô nghê. Bên chiếc điếu cày dài đến thước rưỡi ta, họ còn để lại một cái hộp tròn đựng thuốc lào. Nắp hộp làm bằng vỏ cam khô. Lúc vỏ cam còn tươi, ở trong khuôn ép, người ta đã tỉ mỉ trổ lên đấy một cái mặt hổ phù.
Cai Xanh - người khách có hộp thuốc lào này và vừa ở đây ra - Cai Xanh là một tay chơi nổi tiếng ở mấy vùng Thanh nội và Thanh ngoại. Những tay anh chị trong đám giang hồ phóng khoáng thường được biết đến tiếng Cai Xanh. Và những tay chơi chưa được gần y thì chỉ thèm muốn có một dịp nào nhập vào đảng y để được biết rõ đến nghệ thuật của một bậc đàn anh. Có mấy lần, Cai Xanh hay bàn với những người thân tín về việc Ông Thám ngoài Yên Thế.
Người ta biết đến Cai Xanh, người ta biết luôn cả đến những đồ vật mà Cai Xanh hay giắt luôn trong mình. Như con dao hai lưỡi, cái hộp thuốc lào, v.v... Con dao hai lưỡi ấy, ít khi cai Xanh phải dùng đến. Khi đã dùng đến thì thế nào cũng có chuyện. Trong những phút rất nguy nan, phải giết kẻ khác để gỡ lấy mạng mình, chưa bao giờ Cai Xanh chịu phóng dao và bỏ dao lại trên chiến địa. Hóa cho nên con dao đó, sau những khi cắm ngập vào thớ thịt còn nóng hổi dòng máu của bao nhiêu tử thi, dao đó lại trở lại nằm trong hầu bao của Cai Xanh. Chung quanh con dao thép sáng ngời, một huyền sử đã bao trùm, cũng như một huyền sử khác đã chạy chung quanh cái hộp đựng thuốc lào của Cai Xanh.
Những lúc nhàn tản, không dự một đám cướp to nào, những lúc nhỡ độ đường không có tiền trả những hàng quán hẻo lánh trên con đường Thanh nội Thanh ngoại, Cai Xanh đã lễ phép nói với bao nhiêu là nhà hàng:
- Tôi lỡ quên không giắt theo tiền trong người, nhà hàng cho tôi gửi tạm vật này làm tin, mai mốt tôi sẽ cho người nhà tới chuộc nó về.
"Nó" đây là cái hộp thuốc lào ở trên nắp vỏ cam có khắc cái mặt hổ phù. Những chủ quán ở rải rác đường Điền Hộ phần nhiều cũng là đầu trộm đuôi cướp cả. Khi nào họ không đi ăn cướp được thì họ là người lương thiện, mỗi ngày rót vào bát đàn vài lượt nước trà xanh nóng hổi cho người đi đường giải khát. Họ vừa rót nước, vừa nheo cặp mắt lại như muốn đếm tách bạch ra từng đồng tiền trong tay nải khách qua đường nghỉ chân. Không biết ai đã nói chuyện cho họ nghe từ bao giờ về cái hộp thuốc lào của Cai Xanh mà mỗi lần thấy người khách ngang tàng kia gửi vật mọn đó làm tin thay cho món tiền thiếu, chủ quán nào cũng đều xoa tay, không dám nhận: "Dạ không dám. Khi nào ông anh sẵn thì cho đàn em xin. Cái đó có là bao mà dám phiền lòng ông anh".
Hôm nay, cùng một vài bạn lợi hại đến thăm Lý Văn mà không được gặp, Cai Xanh có ý vờ bỏ quên lại hộp thuốc lào, để nhắc cho chủ nhân biết y đến không phải là việc phiếm và khi nào về nhà, chủ nhân nên triệu y đến ngay. Vì có việc cần phải bàn. Cái việc lơ đễnh rất hữu ý đó, cái chuyện bỏ quên hộp thuốc lào vẫn là một ám hiệu của Cai Xanh dùng tới mỗi lúc đi tìm bạn để "đánh một tiếng bạc lớn" nghĩa là cướp một đám to.
Thế mà, không hiểu rõ một tí gì, bà Lý Văn cứ phàn nàn cho mấy ông khách Tam Tổng đến chơi đã không được gặp chồng mình lại còn bỏ quên đồ vật. Xa xôi hàng mấy ngày đường, đến bao giờ các ông ấy mới lại trở lại đây để nhận vật bỏ quên. Mà bây giờ các ông ấy đi hẳn đã xa lắm, biết đuổi theo thế nào cho kịp.
Một ngày nữa lại hết.
Vào một sớm thứ hai, một thôi tiếng chó sủa ngoài cổng, mở đầu cho cái ồn ào hàng ngày trong gia đình nhà Lý Văn. Bà Lý ngừng tay dưới bếp, đã tưởng chồng mình về. Té ra chỉ là một ông khách lạ mặt nữa, đến hỏi thăm chồng với sự nóng nảy của một người quen vội vàng. Y tỏ vẻ thất vọng, xin đi ngay. Bà Lý muốn ông khách hấp tấp kia cho mình biết tên. Khách cười. Trên khuôn mặt đen như cột nhà cháy, nẻ ra hai đường răng trắng nhởn. Ông khách chạy vội ra phía đầu chái nhà, vơ lấy cái mai dựng ở tường, móc túi lấy con dao găm, khắc vào cán mai một đường tròn đều như tiện, trao mai cho bà Lý:
- Bà cứ đưa cán mai này cho ông Lý nhà, tự khắc ông sẽ biết. Độ chiều mai tôi lại sang chơi.
Bà Lý Văn cũng chỉ biết vâng dạ cho qua chuyện. Từ ngày bà làm bạn cùng với ông Lý Văn, đến bây giờ đã mấy mụn con, bà chưa từng được biết chồng bà có những người bạn lạ lùng như thế bao giờ.
Lý Văn đã về. Không kịp bỏ khăn áo, Lý Văn đã nằm ềnh ra giữa phản. Từ chối hết cả những lời mời mọc ân cần của vợ hỏi ăn cơm hay là ăn cháo hay là dọn rượu, Lý Văn chỉ nằm ngửa nhìn thượng lương nhà, tay trái vắt lên trán. Trên mặt y, chốc chốc những đường gân lại dăn dúm lại vì giày vò của suy nghĩ.
Bà Lý mon men lại gần chồng.
- Mấy hôm thầy nó đi vắng, có đến dăm bảy ông khách lạ đến hỏi thăm. Các ông ấy đều không nói tên. Có một ông khắc cái gì vào cán mai này và dặn đưa ngay cho thầy nó xem.
Bà đưa cho chồng cái cán mai có tiện một nấc ở đầu cán.
- A, Phó Kình! Thế người ta đến từ bao giờ?
- Sáng qua. Theo lời ông ta hẹn, có lẽ chiều nay ông ta lại trở lại đây.
Lý Văn tự nói một mình: "Mình đang tìm Phó Kình. Thôi, được rồi, có cây "bút chì" này giúp sức, ta không lo gì nữa".
Bỗng Lý Văn ngồi nhỏm dậy. Y vừa nhìn thấy ở mép bàn thờ cái hộp đựng thuốc lào con con. Y vội quờ lấy cái hộp có in mặt hổ phù.
- ấy, của cái bọn ông khách gì nói là người vùng Tam Tổng đấy. Ông ta lúc đi bỏ quên. Tôi bận trẻ không kịp chạy theo để trao trả cho ông ta.
Lý Văn không để ý đến nhời vợ, ngắm nghía hộp thuốc lào sung sướng, lim dim mắt, nói như người mơ ngủ: "Cai Xanh!" "Tiếng bạc" này, thế nào cũng ăn to. Một cây "bút chì" của Phó Kình và một cái lá chắn của Cai Xanh, thế nào đám này cũng lọt. Ta đang lo thiếu hai tay này. Chắc thế nào Phó Kình cũng tới tìm Cai Xanh. Và có lẽ họ đã gặp nhau ở giữa đường rồi cũng nên. Tất thế nào chiều nay hai người cũng có mặt ở đây một lúc.
Thế là Lý Văn đã truyền cho vợ đi lấy độ chục chai rượu ngon và quát tháo người nhà bắc ngay nước sôi để làm lợn. Bà Lý Văn chỉ biết làm theo. Từ những ngày nào, trong cái gia đình này, mỗi một lời nói to của ông Lý là một mệnh lệnh. Một mặt, người nhà chọc tiết lợn, tiếng con vật bị đâm dao bầu vào cuống họng kêu eng éc. Một mặt bà Lý đi ra đầu làng để liệu cho xong cái khoản rượu.
Lý Văn chạy tới tấp như một kẻ chức sắc gặp ngày phải đương cai. Ngồi ở nhà được một chút, y nghĩ thêm được một điều gì, y lại vụt chạy đi rất lâu. Y chạy đi chạy về như thế, tính ra đã được ba lần. Đến lần thứ tư thì y dắt luôn đến năm sáu người cùng về, trong số đó cả Cai Xanh và Phó Kình.
Người ta nói cười oang oang. Lý Văn vào nhà trước, trải vội chiếc chiếu cạp điều phủ mặt ván ngựa.
- Mời các chú vào trong này.
Cả bọn kéo lên giường sau khi rửa chân cạn, hai bàn chân bẩn vỗ vào nhau mươi lượt. Cũng như từ bao giờ, bà Lý đã lẩn đi đâu mất. Ông Lý đã dặn vợ hễ khi nào ông có đông bạn lạ đến uống rượu thì bà nên vắng nhà. Vì thế, dọn xong rượu, lần nào bà cũng đi biệt.
Người ta ngồi vào mâm rượu với sự uể oải của người không đói ăn, với sự nghiêm trọng của một người biết trước bữa rượu này là khơi mào cho một việc quan hệ cần phải giải quyết trong hơi men nồng. Thực khách đều giữ một vẻ mặt bí mật.
Trong số mười chai rượu, thì đến bốn năm cái đã là vỏ thủy tinh không. Chiếc mâm đồng thước rưỡi có lót lá chuối tươi, đựng thịt thủ thái dối đầy tú hụ lên thế, lòng mâm thịt đã vợi đến một phần ba. Một vài người dặng hắng. Đôi ba kẻ vê sẵn những mối thuốc lào, mắt nhìn trừng trừng vào người đang rít điếu cày. Lý Văn khạc mạnh. Y giả vờ gọi đầy tớ thực to. Không có đứa nào thưa, y tủm tỉm:
- Thưa các quan, nhà vắng cả, xin các quan bàn qua lại việc đó. Rồi để phân phát ngay công việc cho anh em và định ngày làm.
- Còn định gì nữa - Cai Xanh ngắt câu chuyện - Nếu có làm thì làm ngay đêm nay đi. Nhân thể đêm nay lại tối trời. "Tiếng bạc" này, em xin thưa để bác Lý biết: nếu đêm nay không mở ngay đi thì "tiếng bạc" đến vỡ mất.
- Cũng được. Vậy thì anh em cắt và nhận công việc luôn đi - Phó Kình bây giờ mới lên tiếng.
- Cứ như lệ cũ mà theo, vẽ vời cắt đặt lại làm chi cho thêm phiền ra. Thì cũng lại cầm lá chắn là anh Cai và đánh "bút chì" là em chứ còn ai vào đây. Nếu có neo người thì anh Lý nhà đỡ cho một cây "bút chùng" kèm sát bên cạnh em cho em vững tay ở những con đường độc đạo. Còn các chú nó đây - Phó Kình xòe tay chỉ mấy người ngồi ăn từ nãy chưa nói gì - thì chia nhau ra mà đỡ lấy việc vặt như thả chông, bật hồng, vân vân. Còn thì mới đến người ngoài. Các ông anh nghe đàn em bàn thế đã tạm ổn chưa?
Phó Kình tu một hớp rượu đánh ực. Cả bọn đều nhao nhao:
- Thôi, thông lắm rồi. Vậy thì nhất định đêm nay hết trống canh hai bắt đầu cất quân. Sang đúng đất bên ấy, vừa vào giữa canh ba.
Cả bọn đều một loạt đánh ngã vài chai lớn nữa. Rồi trong không khí ồn ào, người ta đọc đi đọc lại cái câu: "ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi". Cả bọn đều lấy làm thưởng thức câu đó và mỗi người đều tự đặt ngay mình vào địa vị người dám nghĩ dám làm. Nghèo, cực, khái. Lấy chỗ tiền bạc của bọn bất nghĩa, đem chia cho anh em khác nghèo như mình .
Phó Kình đã nóng mặt, xắn tay áo, ngồi chửi đổng:*
- Này phải biết, một cây "bút chì" của em, em dám chấp cả một ấp người chúng nó.
Nói xong, Phó Kình nhảy xuống đất, quơ trong gầm giường lấy cái mai, tháo cuộn dây thừng quấn trong người thay thắt lưng, buộc một đầu mối dây vào cán mai có tiện đường rãnh từ hôm nọ. Cả bọn đang vui câu chuyện, đều ùa theo Phó Kình ra mặt sau nhà, đứng một loạt đối diện với bụi chuối tiêu phất phơ tàu lá ở bờ rào xa. Phó Kình cuộn mấy vòng dây thừng dài đến mấy sải vào cánh tay trái. Bàn tay trái y nắm chắc cổ cán mai, bàn tay phải y giữ vững đốc ngọn mai, nói to: "Đàn anh thử xem em hạ cây chuối phía bên trái".
Bỗng sau một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gục xuống mặt đất, kêu đánh roạt. Và Phó Kình đang cười hề hề, cuốn vòng dây thừng vào cánh tay trái. Được giật về từ lúc nào, cái mai đã ở gọn trong hai bàn tay y.
- Bây giờ đàn anh lại xem em lấy buồng chuối chín cây xuống để chút nữa lễ thánh.
Lưỡi mai xén qua cuống buồng chuối, đi quá đích, chạm cả vào đến quá nửa thân cây chuối. Cả bọn cười vang. Lý Văn dè dặt lời khen:
- Ngón "bút chì" của chú hay đấy. Nhưng cũng còn nặng tay. Chưa được ngọt đòn lắm. Nhiều khi mình chỉ nên đánh dọa người ta thôi. Nếu không cần đến, thì chớ nên làm tổn hại đến nhân mạng.
Sẵn có đàn gà đang đi trong luống khoai lang, Lý Văn mượn Phó Kình đưa cho mình cây "bút chì", buộc thòng lọng múi dây vào cổ tay trái và bảo: "Chú nào ném hộ anh hòn đất đi!".
Tiếng hòn đất đụng đất kêu đánh bộp. Mấy con gà bay tà tà khỏi mặt vườn, đập cánh bồm bộp. Tiếng lưỡi mai ở tay Lý Văn phóng ra kêu đánh vụt. Một tiếng gà kêu oác.
Cả bọn chạy ra luống khoai, giơ cao con gà gãy mất hai chân. Vết thương gọn gàng vừa đúng quãng đầu gối và cặp giò chưa lìa hẳn, vẫn còn dính vào đùi bởi lần da hoen máu.
Lý Văn gác mai, nói với tất cả bọn:
- Nếu mình ném mạnh tay quá và không biết tính sức đi của "bút chì" thì nát mất gà. Các chú không phải đánh những tiếng bạc vào sinh ra tử, các chú không biết, chứ đòn "bút chì" khó khiến lắm. Và một cây "bút chì" ngang tàng như thế mà lại phải lụy một cành tre đấy. Chú nào hay xử cây "bút chùng", ở các đường độc đạo, nên cẩn thận khi thấy bên địch tung cành tre ra để phá "bút chì". Để hôm nào rảnh, anh sẽ dạy cho các chú tập đánh cái lối đòn bơi chèo bằng gỗ cau. Đánh đến đòn hỗn chiến ấy thì đầu người rụng cứ như sung.
Rút từ tập truyện ngắn Vang bóng một thời,
Nxb. Mai Lĩnh, Hà Nội, 1940

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: