TUYỂN TẬP TRUYỆN HAY-Lenghiabk05

Thằng Thoả.

          Nhớ ngày bé những năm 1974-1975, mình chẳng có bạn chơi. Chỉ toàn chơi với mấy đứa ranh con ít tuổi hơn mình. Thằng Thoả cũng nằm trong danh mục ấy. Nó ngu hơn mình nhiều, cả nhà nó, các anh các chị nó toàn một lũ học dốt. Chưa ai qua được lớp 7 trường làng. Nhưng được cái là nhà nó dễ tính, chơi thoải mái, Thày U nó không có đè he, đè hét như Thày U mình. 

           Nhà nó anh em đông, cả tá người. Đi ngủ phải điểm danh, ăn cũng phải xếp hàng. Ngày giáp hạt, đói kém, củ khoai củ sắn qua ngày, miếng cơm tươi chỉ là mơ ước. Anh em nó hay tranh nhau ăn lắm. Nhiều khi đến chơi nhà nó, gặp bữa ăn mình hay níu lại để xem nhà nó ăn thế nào. Chẳng phải mình là thằng hay chầu mồm đâu nhưng chỉ là tò mò xem nhà nó ăn có giống nhà mình không thôi. 

          Thật lạ.

           Hồi đó nhà nó khi ăn rất ngộ. Ai cũng chỉ được ăn đúng tiêu chuẩn như bao cấp. Mỗi người được hai bát cơm độn cũng như cơm trắng. Ai lớn hơn thì được ăn thêm miếng cháy. Nhiều lần mình thấy anh chị nó tỵ nạnh nhau cũng chỉ vì miếng cháy. 

           Có lần cả nhà nó bị say sắn. Chả biết U nó đào ở ngoài hàng rào một bụi sắn, được mấy củ sắn rất chi là to. Khổ nỗi là bụi sắn lại ở gần cái gốc xoan. U nó mang về luộc cho cả nhà ăn. Ăn chán ra chẳng sao. Chỉ còn lại một củ duy nhất để phần cho U nó ăn sau. Thằng Thoả, cái Thuận và thằng Cùng thấy U nó ăn thì thèm cứ đòi xin U nó một miếng. U nó bẻ củ sắn làm ba khúc, chia đều cho mỗi đứa. Một hồi, cả ba đứa đều hộc ra mật xanh mật vàng, ngắc ngư gần chết. Hàng xóm thấy thế vội vàng đi gọi bác sỹ là bố vợ mình bây giờ vào cấp cứu. Bố mình chạy vào tiêm thuốc trợ tim và cho uống mùn thớt. Ba anh em nó mửa ra ồng ộng, sắn khoai gì cũng tuôn ra hết, cả mật xanh mạt vàng cũng đồng loã theo ra. 

          Hú hồn. 

          U nó bảo nếu u nó tương luôn củ sắn ấy thì có lẽ đi toi luôn rồi. 

          Nhà nó còn có phúc. 

          Hôm rồi đi công tác, mình ghé nhà chơi một ngày, thấy Thày U nó giờ già yếu lắm, phều phào lắm. Còn nó thì đã lấy vợ, sinh con đẻ cái. Con nó đã đi lao động xuất khẩu ở Malaysia, thỉnh thoảng cũng gửi về cho nó một ít đô la. Nó lấy vợ từ năm nó 20 tuổi. Vợ nó là con bé Hà cùng làng, tóc xoăn như lò so chuyên đi tát vét ở đầm làng. Hồi ấy cùng chung nhóm thầu đầm. Chả biết gán ghép thế nào mà chúng nó tự dưng thành chồng thành vợ. 

          Trai làng mình thường thế. 

           Thông gia ở gần nhau chửi nhau cũng nhiều, cãi nhau cũng lắm. Được cái dân quê nên không ai để bụng, cãi nhau, chửi nhau đấy nhưng giỗ chạp thì vẫn rượu bia cười nói bình thường mặc dù trong lòng thì còn ấm ức lắm. 

            Hôm rồi gặp thằng Thoả mà chả nhận ra nó. Nó già, râu tóc xồm xoàm, điếu cày rít sòng sọc. Gặp mình nó cười hiền lành. Nó hỏi con mình nhớn chưa. Mình nói còn nhỏ.

            Nó bảo mình thua hết nó. 

            Ừ mình thua nó thật.

            Thua nó ở cái vô tư trong giấc ngủ và bon chen đời thường. Nó vẫn nhớ chuyện củ sắn.

            Nó bảo nghèo đói khổ lắm.

            Ở đời sống mà ăn sắn rồi cũng chết nên nó phải thoát nghèo.... 

             Thoả ơi!!!

Ngày xưa cũ !!!

Hồi ấy! Nhà nó nghèo!

            Quê nó nghèo, nghèo lắm. Quê nó nằm ngay con đê sông Hồng bên bờ lở. Ngày chưa xây thủy điện Sông Đà. Mùa nước lũ năm nào quê nó cũng sợ vỡ đê. Cái con đê quai sông Hồng dưới mắt nó như cái con rắn khổng lồ, to lớn, đồ sộ là thế mà cứ mùa nước lũ về là sợ vỡ đê. Đêm về, đang ngủ mà nghe thấy kẻng báo động là y như rằng cả làng nó như ong vỡ tổ, người lớn, người bé nháo nhác trong đêm, nhà nào cũng gánh gồng chuẩn bị để chạy lên đê đi lánh nạn đê vỡ. Thày U nó cũng gồng gánh. U nó dặn nó: nếu U không ẵm được em thì con cứ dắt em chạy lên đê, rồi ngược lên phía Cửa sông, qua khỏi đê quai thì sẽ không bị chết trôi, rồi U sẽ tìm sau nhé! Nó rất sợ và cứ lẩm bẩm.. dạ...dạ mà trong lòng lo lắm. Thế nên mỗi khi có kẻng của hợp tác xã báo liên hồi là nó lại dắt tay đứa em gái kém nó 4 tuổi còn đang ngái ngủ bập báo bập bổ chạy theo Thày U nó đang lo gồng gánh lao vào trong đêm đen vượt lên trên đê chạy nước lũ. Đấy là những ngày mưa lũ.

            Những ngày giáp hạt thì củ sắn, củ khoai thay nhau qua bữa. Nhà nào khá giả thì mới được ăn cơm. Mà là ăn cơm độn. Một bơ gạo cõng cả rổ khoai. Miễn sao có cái ăn để qua ngày. Nhà nó các anh chị nó đi công nhân, bộ đội hết nên cũng có tem phiếu, có sổ gạo, thỉnh thoảng cũng chu cấp về nhà nên đôi khi anh em nó cũng được cải thiện đôi chút. Mà cũng chỉ có ba ngày tết mới được ăn cơm không. Còn lại toàn phải ăn độn quanh năm. U nó lúc nông nhàn cũng quay ra gói bánh nếp, bánh chưng để theo tàu thủy ngược sông Hồng lên Hà Nội bán lấy tiền đong gạo. Ngày mưa cũng như nắng, đều đều như thế. Nhà nó dễ chịu hẳn đi. Ít ra anh em nó cũng kiêu hãnh hơn hẳn lũ trẻ cùng làng vì được sở hữu cái bánh nho nhỏ mẹ nó cho ăn khi đi học, trước con mắt thèm thuồng, nhìn nó một cách khâm phục của đám bạn.  

            Hôm ấy, U nó lên chỗ chị gái thứ ba của nó đi công nhân ở Sơn Tây. Chả là chị nó đánh điện về  bảo U lên để mang mì sợi về chống đói. U nó mừng lắm chuẩn bị đi ngay. U nó bảo chỉ đi ngày hôm trước, hôm sau về ngay, ở nhà mấy cha con cứ gói bánh rồi U nó về mang đi bán. Anh em nó ở nhà cũng ngâm gạo, xay bột gói bánh. Bánh đã luộc xong và cột lại tử tế, xếp ra cái nia để nguội. Chờ sáng hôm sau U nó chỉ việc mang lên tàu thủy bán lấy tiền mua gạo.

  Chờ mãi đến khuya mà chẳng thấy U nó về. Anh em nó chìm vào giấc ngủ. Sáng dậy, như mọi ngày nó sẽ chuẩn bị đi học. Nhưng sáng nay mưa lớn, mưa suốt từ đêm do ảnh hưởng bão. Sắp đến giờ tàu thủy rời bến mà U nó vẫn chưa về. Nó ngồi nhìn đống bánh đã được xếp vào bao tải chờ U nó về mang đi bán mà nó hoảng. Nếu không bán được bao bánh này thì mất hết vốn, nhà nó sẽ chết đói. Thế là nó liều. Nó quyết định nghỉ học. Nó nói với cha nó là nó khoác bao bánh ra tàu thủy, ngược Hà Nội bán bánh. Nói rồi nó lấy miếng ni lông cũ khoác lên người, lao vào trong mưa hun hút dưới con mắt ái ngại và lời dặn nho nhỏ của cha nó: Đi tàu xe cẩn thận con nhé. Đó là ngày đầu tiên nó ý thức, chủ động bỏ học để lao vào cuộc sống kiếm miếng cơm cho cả nhà bằng trách nhiệm của sự lo toan.

            Lên tàu thủy, nó không có tiền mua vé. Người soát vé kiểm tra nó, nó bảo nó không có tiền mua, chỉ có bánh. Người kiểm soát mua vé cho nó bằng ba cái bánh. Nó cũng gật và thấy hay hay. Nó không biết rao bán, chào mời, nó cứ khoác trên vai bao tải bánh và tòng teng ở tay một túm dăm cái. Len lỏi đi  khắp ngõ ngách chiếc tàu thủy lớn như cái nhà ba tầng. Thế mà cũng ối người mua. Nó bán cơ chừng được một phần ba bao bánh thì đến bến đò Mễ Sở. Tàu dừng lại đón khách, và nó nhận ra rằng nó có đối thủ cạnh tranh thị trường. Thằng bé bán bánh bến Mễ Sở này thật chuyên nghiệp. Nó rao mới vang làm sao. Mọi người xúm lại mua của thằng bé kia mà quên phắt những chiếc bánh trên tay của nó. Nó nghiệm ra rằng trong buôn bán, tiếng rao thật giá trị. Nó muốn rao lắm nhưng nó không thể nào há được miệng ra rao được vì nó chưa quen rao. Và nó cứ đi lanh quanh chỉ hỏi cô ơi, chị ơi mua bánh ăn đi. Người ta hỏi bánh Mễ Sở à. Nó cũng ừ đại đi và còn nói dối là mới mang ở bến Mễ Sở lên tàu. Và nó lại hiểu, muốn bán được bánh phải rao to, như con ve sầu, bánh phải có thương hiệu. Muốn vậy nó phải nói dối. Trong đầu nó đã chuẩn bị những tiếng rao và lời nói dối cho ngày mai.

            Tàu cặp Bến Phà Đen. Cảm giác của nó nhìn thành phố mới nguy nga và đông đúc  làm sao. Nó chưa được lên phố bao giờ. Ngoại trừ có vài lần được cha nó đèo xe đạp lên phố huyện đi thi học sinh giỏi. Nhưng phố huyện cũng lèo tèo chứ không đông đúc và nhiều nhà cao tầng như ở đây. Trời vẫn mưa nặng hạt. Mọi người lên bờ tỏa ra đi mỗi người mỗi ngả trong mưa. Nó chẳng biết đi đâu nhưng cũng lên bờ. Nó vào nhà chờ ngồi trú mưa mà trong lòng lo ngay ngáy cái bao tải bánh có nguy cơ bị ế. Nó rũ nước mưa, ngồi tỉ mẩn gói lại những chiếc bánh đã bị rúm ró. Đôi ba người thấy thế cũng hỏi mua. Nó bán ngay, nó đã thấm mệt nhưng nó mừng lắm. Trời vẫn mưa như trút và nó nhận ra rằng phố đã lên đèn. Nó lấy cái áo mưa cũ, khoác lên người chống rét. Bụng nó đói, nó bóc một chiếc bánh xấu nhất để ăn. Nó nhai một cách uể oải trong sự lo lắng và cô đơn lạc lõng giữa đám người đông đúc và xa lạ nơi phố phường chan hòa ánh điện trong mưa gió. Nó thu lu trên băng ghế chờ ở bến tàu.

            Nó nhận thấy có một người phụ nữ khá xinh đẹp bế đứa con nhỏ đang đứng nhìn ra mưa như trông ngóng ai. Đứa nhỏ trên tay thi thoảng lại khóc ré lên. Trong lòng nó thấy thương thương. Nhưng nó không đủ tự tin để hỏi chuyện. Khi đêm xuống hẳn, nó bỗng thấy một anh bộ đội đeo quân hàm đỏ chói. Nó chẳng biết anh cấp bậc, chức vụ gì. Nhưng nó thấy anh đội chiếc mũ cối có gắn ngôi sao, thế là oai lắm rồi. Nó nhìn anh, thầm mơ ước và ngưỡng mộ vô cùng. Nó thích! Anh khoác áo mưa, đi xe đạp thống nhất nữ đến trước mặt hai mẹ con người phụ nữ. Thì ra anh bộ đội này đi đón vợ con. Anh đưa cho chị vợ khoác chiếc áo mưa mang theo. Chị vợ nhìn anh với cái nhìn chứa đầy mãn nguyện. Đứa bé bị lạnh, lại khóc ré lên. Anh cởi chiếc áo bộ đội anh đang mặc ra ủ cho đứa bé. Anh chỉ còn mặc chiếc áo may ô màu trắng. Khoác chiếc áo mưa và cả nhà anh lên xe đạp, trôi vào trong mưa loang loáng ánh đèn đêm. Nó dõi mắt nhìn theo hạnh phúc của gia đình anh bộ đội. Nó thầm mơ ước. Ngày sau lớn lên nó sẽ đi bộ đội, nó sẽ lấy một cô giáo viên, rồi đẻ con. Nếu gặp trời mưa, nó sẽ cởi áo, ủ cho con nó ấm, nó khoác áo mưa cho vợ nó. Và một điều nữa, rất khoát nó sẽ không mặc đồ lót màu gì ngoài màu trắng.

CHÚT LƯU LẠI

Tách khỏi đường dây 559. đoàn 1137 chúng tôi xuống Đồng bằng. Từ đây tên binh trạm không gọi theo số nữa mà gọi theo tên của trưởng trạm. Như trạm Dân, trạm Lập…Hay như trạm 6 cô ( vì trạm này do 6 nữ giao liên đảm nhiệm )… Nó là hệ thống đường nhánh ngang giao liên về phía đông, dọc theo trục đường huyền thoại HCM.

Cung đường giải phóng chỉ bằng một nửa cung đường Binh trạm. Do vậy một ngày hành quân lúc này thường chúng tôi vượt hai trạm.

Về Đông đường, nghĩa là chấm dứt chuỗi ngày hành quân liên miên 8 ngày đi, 1 ngày nghĩ … là cái nóng thiêu đốt cháy cổ của tây dãy Trường Sơn, Là cả tháng mưa rừng lê thê, tầm tã lạnh đói qua mảnh đất Quảng Nam…Thèm mái nhà ấm cúng, bếp lửa quây quần sum họp cả gia đình…

Trải qua những năm tháng đời lính tôi mới nghiệm ra : Nó là Trường Đại học đời. Một khi đã trải nghiêm qua nó. Tin chắc không một khó khăn trở ngại nào có thể làm chùng bước chân đi tới của bạn. Nói vậy thôi vì có thể bạn lại bị “ hòa tan trong ly nước đường ” ???

Đời lính là gian khổ, nhưng những gì mà người lính chúng tôi đã trải nghiệm qua năm tháng chiến tranh ấy nhiều khi nghĩ lại không biết vì lí gì mà chúng tôi lại vượt qua được…

Những ngày đầu tiên “…xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ ” mình có cảm giác rảnh rỗi ngồi kể cả tháng không hết truyện, hơn 3 tháng hành quân gian khổ chồng lên gian khổ liên miên, bất tận…thì viết cả năm không hết chuyện. Chỉ hành quân gần 4 tháng vào chiến trường đã đánh gục hơn một nữa quân số đơn vị. Những lính cậu Hải Phòng. Tiểu đội 7 chúng tôi khi bàn giao cho quân giải phóng còn đúng 4 tên....

Lính tráng rất sòng phẳng

Tôi có 4 năm.11 tháng, 25 ngày mặc áo lính. Từng không tập trung theo mệnh lệnh động viên của khu đội. Tổ dân phố vác loa kêu mấy lần. Ba tôi nói tùy con quyết định.

Má và các em tôi sơ tán lên Hà Bắc nơi XN dược phẩm làm việc. Hai bố con ở lại Hải phòng đi làm, chăm sóc, nương tựa nhau dưới bầu trời lửa đạn. Mình đi rồi còn một mình Ba, lúc đau ốm…sao đây? Sau thấy phiền quá, nhất là cho ông già, Tôi quyết định nhập ngũ.

Ba tôi căn dặn: Không mong con làm vương, thành tướng gì, miễn mang được cái “ cái gáo ” về là mừng. Lần chia tay Em kề tôi lên đường không biết Ông có dặn vậy mà ra đi tận ngày ấy, chừ vẫn chưa về. Thêm vết thương đau mãi cắt lòng.

Tập trung khu đội làm lễ chia tay. Tân binh lần lượt lên ký tên vào lá cờ Giải phóng trải to như cái chiếu. Kiểu như khách ký lưu niệm bỏ tiền mừng đám cưới bây giờ. Còn chúng tôi ký : những giọt máu đời mình

Mấy tháng huấn luyện trên Yên Tử, bắn đến bài lỗ châu mai, ném lựu đạn thật…là lên đường vào Chiến trường

Ở lính có một đơn vị mang mật danh 19 – là nơi thu gom lính không ra trận. Vào đường dây XHCN cũng có đơn vị này. Đạị khái là đơn vị cải tạo lính. Mỗi sáng tập trung trước ngày lao động tất cả phải đồng thanh hô to : Ai cũng đào ngũ như tôi thì mất nước.

Kể cũng lạ. Năm 74 được cho: “ ra Bắc điều trị lâu dài ”. Ở Đoàn an dưỡng có nghị quyết – Nghi quyết Đảng hẳn hoi : Không ra quân, ở lại là ăn bám xã hội, là có tội với… Tổ quốc. Một chỉ tiêu xây dựng : sau mấy tháng An dưỡng, điều trị, lính tráng tự liên hệ tìm việc làm.. phải chuyển ngành, phục viên … Nghĩa là phải ra quân.

Thế đấy. Không nhập ngũ có tội với Tổ quốc. Thương tật ...không ra quân lại cũng: có tội với Tổ Quốc. Sao mà lắm tội thế ?.....

Hành quân theo: … Cái nồi

Biên chế đủ xoong nồi cho tiểu đội hành quân vào chiến trường là một bộ 3 cái xoong nhôm. Lớn nhất xoong 12, chuyên nấu cơm, nước uống. gọi xoong 12 vì nó nấu hết 12 bát B52 gạo- cỡ 24 bơ sữa bò.( Bát B52 là loại bát sắt tráng men nhôm... Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi ).

Vào Nam loại bát này bị lính tẩy chay không ngồi cùng mâm. Cơm độn mì lát , khoai phơi khô.. mỗi bữa hai sét chén nhỏ. Gặp phải đứa tham ăn, chén đầu tiên nó ém đầy cái bát nớ thì những đứa sau...chỉ còn ngó cái đáy thau. Nói vui vậy thôi chứ chung chiến hào, máu sương còn chia sớt xá gì miếng ăn. Quăng bát B52, chẳng thà ăn gáo dừa hòa chung đời lính

Xoong 5 dùng để nấu canh. Xoong 3 để kho…

Bài bản như vậy xong cũng chỉ được mươi ngày đầu.

Chúng tôi bắt đầu lội bộ từ trạm 5 Trường Sơn( quê Bọ thì phải!). Quân tư trang, súng đạn.. trên người thường khoảng 30 kg. Nặng nhất là những ngày đầu nhận gao. Hai tay khoanh trước ngực, Ba lô như thớt đá kéo ngược người lại phía sau, đầu cổ rướn tới trước như cái cổ rùa lầm lũi bước…

Càng đi càng rơi rụng. Đầu tiên còn khiêng vô trạm làm thủ tục bàn giao gửi lại Giao liên, sau đuối quá chiều thu quân thiếu lính thì tin chắc nó đã nằm lại .Thu dung tiểu đoàn. Thu dung Đại đội, thậm chí Trung đội cũng thu không xuể.

Chưa chết đâu! Nó đuối sức nằm lại đâu đó thôi.

Đuối về sức cũng có. Đuối về tinh thần cũng có.

Năm năm có lẻ đời lính… một trong nhiều nỗi lo, sợ đối với tôi là lạc đơn vị.

Một rừng trắng truyền đơn, máy bay gọi loa chiêu hồi:

Các bạn cán binh Bắc Việt xuôi về phía đông theo dòng sông này sẽ..…

Lính nằm lại. Xoong nồi cũng nằm lại ..theo lính

Có Tiểu đội chiều gom quân không còn có đến một cái xoong để nấu ăn

Tiểu đội chúng tôi còn lại Định, Đức, tôi a trưởng và Thắng a phó giữ được một cái xoong. Kết nạp thêm Tâm tiểu đội 8, Anh Mão B phó là 6 người.

Không nhập ngũ thì thôi. Đã là lính rồi thì quyết không thua kém ai. Quyết tâm như vậy nên chỉ mấy tháng huấn luyện, từ binh nhất tôi được phong dần lên hạ sĩ – Tiểu đội trưởng, Kết nạp Đảng trên đường ra chiến trường. Nhưng rồi cũng bị gọi lên khiển trách vì: ..không đảm bảo được quân số tiểu đội. Mang cái thân mình thôi nhiều khi còn không nổi. Làm sao kéo cả một tiểu đội - 12 con người. Chỉ biết tự nhủ trong lòng một câu điệp khúc : Cố lên. Cố lên đừng gục xuống nhé

Rung rinh… vai trò đảng viên dự bị trong thử thách.

Nói thêm một chút về : Đảng viên dự bị.

Khi vào lính, mình đang là Công nhân cơ điện của XN Z21. Cục VT Đường biển Hải Phòng. Mình vào Đảng ngay tại trạm đầu tiên của Binh trạm 559. thời gian dự bị 12 tháng. Tuổi Đảng bây giờ tính để cấp huy hiệu 30 – 40 năm tuổi Đảng lại trừ 12 tháng dự bị này ra !

Gãi đầu tự hỏi.

- Ừ nhỉ. Mười hai tháng dự bị ấy mình thuộc loại vô chính phủ răng ? Vì nỏ đoàn mà cụng can Đảng ?! ?!

Chiến trường thiếu lính nên bộ khung huấn luyện phải san sẻ. Hay phép dùng binh : dùng lính Hải phòng trị lính Hải phòng không biết nữa ?

Sáu người chia ra hai nhóm. Nhóm đi trước chon những anh khỏe , lanh lợi hơn chút… Thực ra vào đến được đây đứa nào cũng đứt hơi cả rồi. Nhóm này có nhiệm vụ theo đội hình hành quân đơn vị , đến bãi khách nhận vị trí, căng tăng mắc võng, lúc khó khăn này càng phải nương tựa vào nhau. Phải dựng được hai khung mắc võng đủ cho 6 người. quây quần lại với nhau tìm hơi ấm. Một công việc cực kỳ quan trọng là phải tìm cho được củi nấu ăn. Khiêng nước…Củi như rừng, nhưng bãi khách ngày nào cũng có đoàn ra vào, năm này qua năm khác thì củi mãi rồi cũng thành của hiếm. Có những bữa cơm nấu hầu như bằng quai dép cao su, mặt nạ phòng độc.. Vung cơm mở ra bay toàn mùi cau su cháy, mặt trên nồi cơm khói ám vàng màu nghệ. Không sao ăn tuốt, có được cơm ăn đã là quý lắm rồi. Nhóm đi sau yếu hơn một chút có nhiệm vụ “ tụt tạt ” vệ đường, ven suối kiếm rau củ cải thiện cho bữa ăn… một nắm rau nấm rừng, vài con ốc suối, thân hoa chuối…Nghĩa là tươi một chút cho đỡ sót ruột, độn thêm vào bao tử….

Dì dì thì tất cả công việc ấy… phải hoàn thành trước tối. Đêm rừng đen kịt còn hơn đêm 30 Tết, chỉ còn ánh lân tinh xanh lét của củi mục…giun dế, ỉ on. Muốn đi đâu phải lấy khúc củi cháy dở quơ quơ tìm lối

Thường đến bãi khách trời đã chạng vạng chiều. Kinh nghiệm hành quân, cứ ngửi thấy mùi c..t là biết bãi khách gần lắm rồi. Mệt đứt hơi chỉ muốn quăng ba lô nằm lăn ra nghỉ. Nhưng không được, cứ theo nhiệm vụ, biết ý nhau chia ra hối hả mà làm. Trong vòng một tiếng phải xong cơm vắt, nước cho ngày mai hành quân tiếp…rồi mới đến bữa cơm chiều. Chiều nay ai được trút gạo trước… cũng là việc cân nhắc, ưu tiên người yếu trước, khỏe sau và… mình thường trút gạo sau cùng. Đầu tầu gương mẫu thì anh em mới phục, nghe theo.

Đảng viên ngày nay yếu mục này dù vẫn được thường xuyên kiểm điểm phê – tự phê. he he

Vài bát gạo hơn kg chứ mấy nhưng đối với chúng tôi lúc này nặng như hàng yến, hàng tạ. Mỗi lần nghĩ nhận gạo là lục lại ba lô. Cái gì không thiết thực là quăng . Đâu tiên là áo đông xuân, chăn chiên,sổ lưu niệm… đến ngay cả thư người yêu cũng phải tần ngần trôi theo dòng suối. Võng bạt rộng 1,2m rọc bớt còn sao vừa lưng không rớt xuống đất là được....Gạo nhận theo bao tịnh 50 kg, vận chuyển từ Bắc vào. Những cung đường máu lửa, đạn bom thấm máu anh em vận tải nên hư hao không đủ. Trải nilon ra lường xem thực nhận lần này bao nhiêu bát? Chia cho tám ngày , lại phải dành ra 1 bát gói kỹ dưới đáy balo phòng khi tắc đường,lũ suối...nhỡ gạo.

Năng lượng nạp vào chỉ có cơm và ruốc mặn. Cơm cũng không no, bữa sống bữa nhão

nên người háo lắm...

Nước đóng bình ton, cơm vắt ngày mai nấu trước. Xong mới đến cơm ăn. Lính tráng đói cứ đòi ăn trước. Vắt sau. Chớ dại. Lưng bụng lính lỉnh, tham gia cơm vắt hơi bị khó…mình lại vất vả. Kiên định nập trường thôi dù bụng mình cũng réo gọi, nước miếng tứa ra khi khói cơm bốc lên. Dễ bị chiêu hồi lắm.

Một khi đã lửng bụng, Chỉ muốn lăn ra ngủ. Vả lại: một bụng cơm cộng nước hơi sức đâu mà thổi lửa...Củi đuốc lem nhem, nấu được bữa cơm mất bao nhiêu phần công lực ra sức thổi quạt

Gạo bọc thép.

Những ai đã từng đứng chân trên đất Ba tơ – Quãng Ngữa những năm tháng gian khổ đánh Mỹ chắc không bao nào quên loại gạo “ bọc thép “ của đồng bào dân tộc Hre nuôi bộ đội Giải phóng. Nó là loại lúa rẫy, hạt thóc tròn to như hạt lúa nếp ngoài Bắc nhưng hạt gạo màu tim tím như nếp cẩm.

…Ề ê ê . Cắc cùm cum . Đến rồi đây mắc võng đùng đưa. Giã gạo ban đêm ngày còn chạy “ Tầu gầy ”…

( Lính nhại lời bài : Tiếng chày trên sóc Bombo. Tầu gầy là loại máy bay trực thăng vũ trang từng gây nhiều nhiều khó khăn cho Ta những năm đó).

Đất rẫy hồi đó còn màu mỡ lắm, khi nào vắng máy bay ta tranh thủ sản xuất tăng gia. Lúa rẫy khi già thường suốt tay bỏ thẳng vô gùi chứ không gặt hái như ngoài Bắc, có lẽ vì ít và luôn linh hoạt trốn tránh máy bay. Thu hoạch như vậy, lại không có điều kiện phơi phong nên muốn làm ra gạo phải rang lúa lên rồi bỏ vô cối gỗ choọc, hai ba cô gái Hre vây quanh cối lúa lấy sức xuống chày, đặc biệt ngực lại để trần. Bụng đói nhưng trước cái cảnh hữa tình ấy khiến lính cũng thấy nao lòng. Trồng chĩa như vậy, làm ra hạt gạo cực như vậy nhưng được bao nhiêu là góp gạo nuôi quân. Thế mới biết lòng dân khi ấy tin tưởng Cách mạng, tin tưởng Cụ Hồ lớn đến thế nào !

Bộ đội cực khổ. Đồng bào cũng cứ…t kh…ô ( nói nhại tiếng đồng bào dân tộc )

Thứ gạo làm ra từ cách rang thóc lên giã nấu cơm ít nở, phải già lửa sôi lâu lâu một chút, củi rừng thiếu chi. Cơm gạo nớ nhai với muối mè ngon tứa nước miếng luôn. Hiềm một nỗi khi …thải ra còn nguyên cái vỏ lụa không tan được, dạng vỏ lụa kitin như bắp hầm chưa đãi ấy .

Đó chính là lý do quân giải phóng đặt tên cho loại gạo này : Gạo bọc thép

Ngôi nhà giữa phố

Bà Chi rờ rẫm lần theo bức tường đang xây dở. Mùi vôi vữa còn hắc nồng. Đôi chân bà run run. Bà ngước nhìn lên mái nhà đang tháo dỡ. Những chiếc đòn tay đã được cưa cắt. Bức tường mới xây như một lưỡi dao chém giữa căn nhà. Ngôi nhà được xẻ làm hai phần to nhỏ. Quyền sở hữu của bà bây giờ chỉ còn một gian trái và một mẩu của gian nhà ngoài.

    Bà Chi lập cập đi về phía đặt bàn thờ. Bức ảnh bố mẹ chồng và ảnh chồng bà vẫn chưa gỡ xuống. Bà Chi ngồi thụp xuống kéo vạt áo chùi nước mắt. Cuộc đời thật chớ trêu. Bà có ngờ đâu lúc đã sắp "về với đất” lại phải chịu một nỗi đau lớn thế.

*

    Hơn năm mươi năm trước bà Chi về làm dâu nhà này. Khi ấy bà mười chín tuổi. Ông Luân chồng bà mới mười bảy tuổi, còn đang tuổi chơi, tuổi nghịch. Ngày đó vùng này là ngoại thành, nhà cửa chưa nhiều, người chưa đông đúc, chen chúc như bây giờ. Bà lấy ông Luân hoàn toàn do mối mai, gá nghĩa. Bố bà và bố ông Luân là bạn học với nhau. Thời buổi loạn lạc nên hai người đâm ra lỡ làng con đường công danh, hoạn lộ. Hai cụ chung vốn xuôi ngược buôn bán, đói no, thất bát có nhau. Nhà bà hồi ấy ở nội đô. Khi còn nhỏ bà hay theo cha ra ngoại thành chơi. Bà nhiều tuổi hơn ông Luân nên hai người coi nhau như chị em. Lớn lên do sự sắp đặt của cha mẹ, họ thành vợ chồng.

    Bà Chi làm dâu chưa đầy năm thì ông Luân, chồng bà lên đường đi bộ đội. Bà một buổi tối, bà đang ngồi sàng gạo thì ông Luân từ đâu chạy về. Quần áo ông ướt sũng. Ông bảo:

    - Sáng sớm mai tôi đi bộ đội!

    Bà Chi hốt hoảng:

    - Đi... đi thế nào! Sao lại đi?

    - Đi là đi chứ còn làm sao nữa. Mà cấm được hé răng cho bố biết đấy. Gà gáy sáng mai, tôi và thằng Đồng ở làng bên cùng trốn nhà đi sớm.

    - Sao mình không nói trước để tôi còn chuẩn bị cho vài thứ?

    - Không cần! Đời chiến sĩ sa trường da ngựa bọc thây cần gì tư trang, hành lý cho vướng bận.

    Sáng hôm sau chỉ một bộ quần áo nhét trong tay nải, mo cơm nếp vợ đưa cho, ông Luân cùng bạn vượt đường số 6, ngược lên Hoà Bình, sang Phú Thọ tìm theo bộ đội. Bà Chi bị ông bố chồng cho một trận đòn vì tội giấu giếm việc chồng đi bộ đội. Trận đòn ấy suýt làm bị xẩy mất cái thai đang làm tổ trong bụng bà.

    Ông Luân đi biền biệt. Bà mẹ chồng ốm yếu lại cũng bụng mang dạ chửa, các em chồng thì còn nhỏ nên mọi việc nặng nhọc đều dồn lên đôi vai bà Chi. Tuy sức vóc đang tuổi thanh niên song cũng chỉ là đàn bà con gái. Bà Chi- cô Chi ngày ấy- vốn xuất thân từ gia đình buôn bán ở phố Hàng Đào. Lấy chồng ngoại thành mới biết đến cái liềm, cái cuốc, mới nhìn thấy con trâu, con bò. Nhà chồng nghèo, lại gặp buổi loạn lạc, thân sức nữ nhi sao chịu xiết. Rồi tai ương dồn dập ập đến, bố chồng bị ngã bệnh liệt nửa người. Bà mẹ chồng sinh đẻ muộn, vượt cạn không nổi, chỉ cứu được đứa con. Mẹ chồng chết vừa chôn xong thì bà Chi cũng trở dạ. Đứa con gái chưa kịp đầy tuổi thì lại được tin chồng hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

    Bà Chi tưởng mình không thể sống nổi. Bà bỏ cơm ngồi phệt giữa nhà khóc hờ không thành tiếng. Ba đứa em chồng- thằng Thường, cái Đạo- đang tuổi ăn, tuổi lớn ngơ ngác. Cái Lý và cái Thanh con bà thì suốt ngày khóc ngằn ngặt vì thiếu sữa. Ông bố chồng thì lầm rầm không rõ là than vãn hay chửi rủa suốt ngày. Nhà hết gạo, mấy cái nồi rỗng chỏng trơ trong gian bếp nguội lạnh.

    Có lẽ khi bị đẩy đến tận cùng nỗi thương đau, sự mất mát thì trong con người ta sẽ bật ra một ý chí, một nghị lực mới mà nếu ở điều kiện bình thường sẽ không thể có được. Bà Chi chùi nước mắt, thắt gọn lại hai chiếc khăn tang trên đầu. Bà cắt đặt, chỉ bảo công việc cho hai đứa em chồng. Thằng Thường, con Đạo khi thấy chị dâu bình tĩnh trở lại mới hoàn hồn. Theo lời chỉ bảo của chị, hai đứa cầm liềm ra ruộng cắt rau muống gánh lên phố bán lấy tiền đong gạo.

    Bà Chi tắm rửa cho hai đứa trẻ, cho chúng bú. Đúng là cảnh em bú chị, cháu bú bà. Nhưng nào còn bà mà cho cháu bú nữa. Cái Lý lớn lên, trong dòng máu của nó tuyệt nhiên không có một giọt sữa nào mẹ mà chỉ có nguồn sữa của người chị dâu. Ăn uống kham khổ, thiếu chất nên ít sữa, hai đứa trẻ không đủ no. Nhiều lúc thấy cái Lý cứ khóc ngằn ngặt bà Chi lại vội kéo núm vú ra khỏi miệng con để cho em bú.

    Bà Chi cũng không quên những lúc tản cư, chạy giặc, chiếc đòn gánh nghiến trèo trẹo trên vai. Một bên quang gánh là con, một bên là em chồng. Nhiều bữa hết gạo, nồi cơm vơi, bà nhịn ăn, nhường cho các em và con đủ no. Hoà bình lập lại, bố chồng chết, các em đến tuổi đi học, đi làm. Bà Chi lo lắng cho các em học chữ, học nghề. Chú Thường lấy vợ, bà đứng ra lo toan, mai mối. Hai vợ chồng chú ra ở riêng, bà xẻ cho một phần thóc, một con trâu. Theo tiếng gọi của Đảng, Nhà nước, chú Thường đưa vợ con lên Tây Bắc khai hoang, lập nghiệp. Cô Đạo học hết cấp 3 xin đi làm công nhân. Cô làm việc ở một nhà máy cơ khí mãi bên Gia Lâm rồi lấy chồng cùng xưởng. Cái Lý và cái Thanh cùng học một lớp. Bà Chi cố chắt chiu nuôi hai đứa học hành đến nơi, đến chốn. Tính cái Lý hay đành hanh, cái gì cũng giành phần hơn với cháu, công việc thì hay đùn đẩy. Bé Thanh thì tính tình nhu mì, giống mẹ. Nó ít khi tranh giành với cô. Nó biết mẹ nhiều khi không công bằng, hay thiên vị cô Lý nhưng không tị. Nó thương mẹ nghèo nên ít vòi vĩnh. Vào năm học mới, bao giờ cô Lý cũng có quần áo mới, cặp sách mới. Bà Chi thương em mồ côi cả cha lẫn mẹ, còn bé Thanh dù sao vẫn còn có mẹ.

    Những lo toan, gánh vác việc nhà chồng, bà Chi quên mất cả bản thân mình. Cũng có vài người ướm lời, muốn cùng bà gá nghĩa, hàn duyên. Nhưng nhìn đàn em chồng côi cút, bà lại không nỡ dứt áo mà đi bước nữa. Khi hai đứa em lớn đã thành gia thất thì tóc bà đã nhiều sợi bạc. Một bữa bà đang cặm cụi nhổ cỏ ở ruộng cà chua thì có tiếng xích xe đạp lạch xạch trên bờ ruộng:

    - Cô Chi! Có phải là cô Chi không?

    Bà giật mình ngẩng đầu lên. Một người đàn ông dừng xe đạp trên bờ. Bà chưa nhận ra ai, thì người đàn ông ấy lại lên tiếng:

    - Tôi là Đồng, ở làng Vị Xuyên, người cùng với anh Luân trốn nhà theo bộ đội ngày ấy đây!

    - Ôi trời! Anh Đồng...

    Bà Chi buông nắm cỏ, thả ống quần xuống, bước lên bờ. Bà đưa ông Đồng về nhà. Hai người nói với nhau nhiều chuyện. Ông Đồng kể lại chuyện ông Luân trước lúc hy sinh còn trăn trối dặn lại người bạn cùng quê nếu còn sống trở về nhớ chăm lo cho người vợ trẻ của mình.

    Chuyện bà với ông Đồng ngày ấy suýt thành nếu không có mấy đứa em chồng làm mặt nặng mày nhẹ cản phá.

    Bà Chi còn nhớ ở căn nhà năm gian này chị em, mẹ con bao bận gian lao, đói no vất vả. Nhưng cũng có những niềm vui xẻ chia, đùm bọc. Chiến tranh phá hoại xảy ra, ngôi nhà này thành nơi các chiến sĩ phòng không đóng quân. Mỗi lần từ nơi sơ tán trở về mua gạo, muối, thực phẩm bà lại giúp các chiến sĩ thổi cơm, vá áo. Mái nhà ngày xưa lợp lá cọ. Mất nhiều năm bà chắt chiu gom góp, mua từng viên ngói, thay từng cái đòn tay lợp lại. Mái ngói rồi cũng xỉn dần cùng năm tháng. Ngôi nhà như trống trải, rộng dần ra khi đứa em út và con gái rời nhà đi học. Là gia đình liệt sĩ, trên giành cho một chỉ tiêu đi học ở Liên Xô. Bà suy nghĩ đắn đo rồi quyết định để cho em Lý được đi nước ngoài học. Mặc dù kết quả học tập của nó kém thua cái Thanh. Nhìn nét mặt thoáng buồn của đứa con gái quen cam chịu thiệt thòi, bà thấy thương nó quá.

*

    Chuyện tưởng vừa mới hôm qua thế mà cũng đã mấy chục năm. Mái tóc bà Chi giờ bạc trắng. Chỉ có ngôi nhà gỗ năm gian mái vẫn màu xỉn như xưa dù đã bao lần bà phải thay rui mè, đảo ngói.

    Ngôi nhà của bà bây giờ lọt thỏm giữa những vi-la, những khối hộp của nhà cao tầng. Một đại lộ mở ngay trước cửa nhà bà. Cái xóm ngoại ô dần dần chuyển lên thành phố xá. Đầu tiên là những bụi tre của ngàn đời biến mất. Rồi mất dần những ao cá, ruộng rau. Người ta cũng dần thôi mặc áo nâu, áo gụ nhuộm bùn. Những ngôi nhà truyền thống xưa thay bằng kiểu nhà ống hun hút như hang động. Điện đóm sáng choang. Tiếng nhạc rền rĩ như động đất. Ếch nhái, chim cò mất vía, biệt tăm.

    Xóm bà nay gọi là phường lại gần trung tâm văn hóa thể thao và khu đô thị mới nên đất hóa thành vàng. Nhà nào cũng lấp ao, xẻ vườn bán bớt lấy tiền xây dựng, mua sắm tiện nghi sinh hoạt hiện đại, ăn chơi xả láng. Ngôi nhà năm gian với mảnh sân nhỏ tuy chỉ độ năm sáu chục mét vuông nằm ở vị trí đắc địa nên nhiều người nhòm ngó. Nhiều công ty, doanh nghiệp tìm đến gạ gẫm, mua bán, đổi chác để xây văn phòng nhưng bà chỉ lắc đầu. Bà không thể rời bỏ được nơi thờ phụng tổ tiên nhà chồng, nơi đặt di ảnh ảnh thờ chồng bà. Nơi các em, con và các cháu bà đi về sum họp.

    Nhưng tiền và vàng bao giờ cũng có sức hút kỳ lạ. Đầu tiên là cô em út chồng trở về. Cô Lý bây giờ là một tiến sĩ khoa học, cán bộ đầu ngành của một bộ lớn. Con cái cô cũng đã trưởng thành. Vợ chồng cô được Nhà nước phân một căn hộ loại sang ở trung tâm thành phố. Cô Lý về bàn với chị dâu bán nhà lấy tiền chia nhau nhưng bà không đồng ý. Bà bảo:

    - Nhà này là nơi thờ tự ông bà, bố mẹ, anh Luân... bán là bán thế nào?

    - Thì bán đi lấy tiền ra vùng ven mua đất làm một cái nhà to, đặt bàn thờ các cụ càng mát mặt.- Không thể làm thế được! Bà Chi dứt khoát. Cô Lý đùng đùng bỏ đi. Mấy ngày sau, ông Thường từ Tây Bắc xa xôi cũng tàu xe lặn lội trở về, cô Đạo từ Gia Lâm kéo sang. Họ đã nhận được điện khẩn của cô Lý. Họ họp gia đình ngay dưới bàn thờ của ông bà, bố mẹ và anh cả để bàn việc bán nhà, chia tiền. Bà Chi giận tím mặt nhìn mấy đứa em chồng ồn ào tính toán về những cây, những chỉ, những đô-la... Những ánh mắt sáng rực lên khi biết thời giá đất khu vực này những hai lăm triệu một mét vuông. Ông Thường dùng gang tay đo thử một gian thềm nhà. Ông há hốc mồm thốt lên kinh ngạc: "Trời ơi! Chỉ bằng một chiếc chiếu đơn thế này mà tính ra tiền những hơn năm mươi triệu, chả hoá bằng cả toàn bộ cái cơ nghiệp mấy chục năm tôi gây dựng trên Tây Bắc ư!”. Cô Đạo vốn cũng đã biết giá cả đất đai ở Hà Nội nhưng cũng thấy ngốt cả người khi nhẩm tính sơ sơ căn nhà nhỏ thế này mà giá đến mấy tỷ đồng. Sau khi tính toán, thì thào to nhỏ với hai em, ông Thường ngập ngừng lên tiếng trước:

    - Thôi thế này chị ạ! Chị em mình bán căn nhà này đi, san xẻ cho nhau mỗi người một ít, đỡ khó khăn...

    - Đúng đấy chị ạ!- Cô Đạo phụ họa:- Bác Thường mãi trên rừng núi xa xôi khó khăn, chúng em thì ở nhà tập thể chật chội, các cháu đều đã lớn, ăn ở càng khó. Chị thì chỉ có một mình, cháu Thanh thì theo đằng nhà chồng, chị thương chúng em...

    Bà Chi nhìn các em lắc đầu:

    - Tôi đã nói rồi nhà này khi tôi còn sống thì không bán mua gì hết, các cô chú đừng bàn bạc gì nữa mà mất thời gian.

    Đến nước này thì cô Lý không còn giữ được bình tĩnh nữa. Cô bật dậy nói vẻ dứt khoát:

    - Thế ra chị định chiếm toàn bộ tài sản bố mẹ chúng tôi để lại chứ gì? Mà tôi nói cho chị biết, chị cũng chỉ là dâu của nhà này thôi. Chị không có quyền hành gì cả!

    - Tôi... tôi…- Bà Chi chưa nghĩ ra được lời đối đáp thoả đáng với các em chồng thì cô Lý đã gào lên:

    - Chị đừng hòng mà chiếm nổi căn nhà này nhé! Theo luật thừa kế thì giỏi lắm chị cũng chỉ được một phần tư. Mà phần ấy danh nghĩa cũng chính là phần của anh cả chúng tôi đã hy sinh...

    Nói đến luật thì bà Chi càng lúng túng. Bà chả hiểu tý gì về những điều bờ, phần vờ, điểm gờ trong cái luật thừa kế nào đó nó là thế nào. Bà chỉ giữ một lý lẽ dễ hiểu là nhà của ông cha, đặt bàn thờ gia tiên thì không thể xẻ chia, bổ bán. Bà dứt khoát bảo vệ cái lý lẽ ấy của mình. Bà không tranh cãi lằng nhằng với nhưng người em chồng nữa. Chuyện tưởng đến thế là thôi. Nhưng khi có giấy triệu tập của toà án quận, bà Chi mới thấy hoảng hốt thực sự. Không phải bà sợ mất đất, mất nhà, mà sợ là đã làm gì sai pháp luật. Cả đời bà chăm chỉ, làm lụng nuôi em, nuôi con, chẳng bao giờ dám cãi lại ai, giờ phải ra trước toà thì còn ra làm sao nữa.

    Những đứa em chồng bà đã phải nhờ đến pháp luật để đòi phần thừa kế. Tại toà án cấp quận nguyên đơn và luật sư bên nguyên dùng luật thừa kế để đòi nhà. Nhưng luật sư bên bị lại dùng luật đất đai để bảo vệ quyền sở hữu thổ cư có sổ đỏ cho bà, một người vợ liệt sĩ. Họ tranh cãi khá căng thẳng, lý lẽ cứ chan chát khiến bà ù cả tai. Trong thâm tâm ông chánh toà và những người làm chứng cùng đại diện chính quyền cũng ủng hộ quyền sở hữu nhà đất của bà Chi. Cuối cùng, nhờ sự mâu thuẫn, phân lập, thiếu quan hệ biện chứng giữa hai đạo luật kể trên mà ông chủ toạ mới tuyên được: "Tòa công nhận quyền sở hữu hợp pháp của bà Chi đối với ngôi nhà hiện tại!”.

Mọi người dự phiên toà hôm ấy ai cùng bất bình với vẻ trơ chẽn và vô ơn của mấy người em chồng bà Chi. Khi nghe tòa tuyên án tất cả mọi người đều hả dạ. Tiếng vỗ tay rầm rầm tán đồng.

    Song, chuyện không dừng ở đó. Dưới sự dẫn dắt, chỉ đạo của tiến sĩ Lý, mấy người em chồng bà Chi kháng án, đâm đơn lên toà phúc thẩm. Ở toà phúc thẩm tình hình lại khác. Vợ chồng tiến sĩ Lý vốn là người quan hệ rộng, có ảnh hưởng nhất định đối với nhiều người. Toà phúc thẩm bác bỏ bản án sơ thẩm, xử lại rồi phán quyết chia tư ngôi nhà. Bà Chi bây giờ chỉ còn một phần ngôi nhà, hơn chục mét vuông. Ba đứa em chồng mỗi người một phần ngôi nhà. Họ nhận ba phần liền nhau phía hai mặt đường. Đúng thời gian quy định tại luật, bản án được thi hành. Một bức tường xây thẳng từ ngoài đường, đâm xuyên qua ngôi nhà. Ba đứa em chồng nhanh chóng phá dỡ phần nhà của mình, giải phóng mặt bằng, bán hơn năm mươi mét vuông đất cho một công ty liên doanh lấy tiền chia nhau. Xong việc, ông Thường đeo khư khư bọc tiền trước bụng ra ga để ngược lên Tây Bắc. Cô Đạo ôm chặt cái túi lập cập leo lên xe máy của thằng con sang Gia Lâm. Tiến sĩ Lý xách chiếc cặp căng phồng gọi tắc-xi về trung tâm thành phố.

    Bà Chi gỡ những tấm ảnh thờ chuyển về phần nhà của mình để cho cánh thợ xây lấp kín bức tường. Khi bà đang dùng tấm khăn bông ướt lau các khung ảnh thì thằng cháu ngoại phóng xe máy đến. Nó giúp bà treo ba tấm ảnh lên, kê một chiếc hòm khiên để làm bàn thờ. Đoạn nó trèo qua bức tường đang xây dở sang bên kia tìm mấy cái bát nhang cánh thợ xây bỏ lăn lóc ở góc sân đem về cho bà ngoại cắm hương.

    Đặt đĩa cam, quýt vừa hái vỏ còn xanh rờn lên cái bàn thờ thằng cháu vừa làm, bà Chi châm ba nén hương. Mùi hương nhang thơm dìu dịu, khiến lòng bà nguôi nguôi. Bà Chi chợt giật mình nhìn tấm ảnh của chồng. Ảnh ông chụp khi mười tám tuổi. Thành thử ông cứ trẻ mãi với thời gian. Hình như ông đang khóc. Có vệt nước chảy ra từ hai khoé mắt. Bà lập cập rút tấm khăn khô lau lau bức ảnh. Những vệt nước sạch hẳn. Ông lại như đang cười với bà. Bà như còn nghe tiếng ông vừa mới dặn dò: " Mình ở nhà chăm sóc bố mẹ, lo cho các em, kháng chiến thành công tôi sẽ trở về...".

Ngõ nhỏ

Tung nắm thóc cho đàn gà xong, bà Cần chống gậy đi ra đầu ngõ. Cái ngõ nhỏ sâu hun hút. Hai bức tường đá ong cao quá đầu người. Mưa gió, thời gian làm những viên đá ong lát đường, xây tường mòn lõm đi. Cái ngõ nhỏ này thuở bé bà vẫn nhảy tưng tưng mỗi khi đi về. Thế mà bây giờ, bà phải lần từng bước, tiếng gậy khua lọc cọc, lọc cọc. Qua cổng nhà bà Miên, bà Cần nhắc cây gậy lên tránh tiếng. Bàn chân bà bấm xuống mặt đường, hai tay hơi giang ra, bước đi như người làm xiếc trên giây để giữ thăng bằng.

    Bà Cần không muốn người bạn già biết mình đang đi ra đầu ngõ. Bà Miên đang ốm. Hôm qua bà Cần đã nấu cho người bạn già một nồi lá xông nên bà ấy đã đỡ. Hôm nay, bà ra đầu ngõ mua nửa cân đường. Người già khi ốm thường nhạt miệng, có một thìa đường cho vào bát cháo dễ ăn hơn là với muối.

    Thấy bà hỏi mua đường, anh phó chủ tịch xã đang ngồi uống bia hơi trong quán ngạc nhiên:

    - Nhà hết đường rồi hay sao mà cụ phải đi mua thế này?

    - Còn khối ra đấy ăn làm sao mà hết được!

    - Thế sao...?

    Bà Cần vừa gỡ cái kim băng mở túi lấy tiền vừa trả lời anh phó chủ tịch:

    - Bà Miên bà ấy ốm! Mua nửa cân đường cho bà ấy ăn cháo. Đường nhà còn cả mấy chum nhưng có mang sang lại mang về thôi, bà ấy không chịu nhận.

    Anh phó chủ tịch xã vẫn không hiểu. Bà Cần cũng không nói thêm nữa. Bà mua thêm hai cái bánh giò rồi lọc cọc chống gậy quay vào trong ngõ.

    Bà Cần rất hiểu tính tình của người bạn già. Bởi họ đã sinh ra và lớn lên cùng nhau ở cái ngõ nhỏ này. Thuở ấy, hai người như hình với bóng. Đi đâu, làm gì cũng có nhau, chăn trâu, nhảy dây, bắt cào cào, châu chấu, củ khoai, củ sắn chia đôi, quả khế, quả me mỗi người một nửa, đi cấy, đi cắt cỏ, lấy củi cứ ríu ran ngõ nhỏ. Hai người mặt mũi lấm lem bùn đất, áo vá, nón mê thế mà thấp thoáng cả hai đã thành thiếu nữ. Có anh giáo học trên tỉnh về quê si tình đã viết cả một bài thơ dài về hai người mà bà còn nhớ được một câu: "Ai về làng Vũ, thôn Đoài, trông trong ngõ nhỏ có hai nàng Kiều...”. Hai người ngày ấy đẹp nhất làng mà cũng chăm chỉ, nết na nhất làng. Hai dáng Kiều đã làm cho anh giáo si tình ngày ngày dạy chữ, đêm đêm làm thơ, ngơ ngơ ngẩn ngẩn đi trên con đường làng đầy rơm rạ.

    Nhưng, cuộc đời người con gái ở quê ngắn lắm. Bà Miên lấy chồng khi chưa đầy mười tám. Anh chồng trông lù đù thế mà khi cách mạng tháng Tám nổ ra dám ôm mã tấu xông vào nhà công sứ trên tỉnh treo cờ đỏ sao vàng, rồi tham gia du kích suốt chín năm kháng chiến. Còn bà Cần, ai ngờ lại bén duyên anh giáo si tình. Đám cưới của bà vui nhất làng. Anh giáo tứ cố vô thân. ông chủ tịch uỷ ban hành chính kháng chiến đứng ra đại diện nhà trai. Nước nhà độc lập, làng xóm suốt ngày mít tinh, hội họp, có thêm một đám cưới càng thêm vui, tiếng cười nói, hát hò rộn trong ngõ nhỏ.

    Song, ngày vui thường chẳng tày gang. Cuộc kháng Pháp nổ ra. Anh giáo lên rừng theo bộ đội để lại cho bà Cần đứa con chưa đầy hai tuổi. Bà Miên cũng đã hai mặt con. Thằng Thông con cả sinh thiếu tháng quặt quẹo mãi. Thằng Thái là thứ hai cũng mới hơn một tuổi. Hai bà vẫn thường đổi nhau. Người này đi chợ, người kia ở nhà cho cả hai thằng bé bú luôn. Bà Cần vẫn nhớ cái lần thằng Tây từ vùng Tề càn lên. Bà Miên đi chợ vắng, một mình bà đưa cả ba thằng bé chạy vào trong núi. Một đôi quang gánh hai thằng bé hai bên thúng, thằng lớn thì dắt chạy dưới làm đạn của giặc. Khi bà Miên bỏ chợ chạy về thì bọn giặc đã rút. Bà dáo dác đổ đi tìm, khi thấy con, thấy bạn mới hết lo. Cứ thế, lũ trẻ lớn lên trong vòng tay của hai bà mẹ. Thằng Thái và thằng Quốc- con bà cùng tuổi nên chơi thân với nhau hơn cũng như mẹ của chúng ngày trước.

    Hòa bình lập lại, cả ba đứa đều được đi học. Anh giáo làng hy sinh ở thượng Lào, bà Cần ở vậy nuôi con. Cái ngõ nhỏ có ba thằng bé đi về, hò hét. Chúng cưỡi trâu, đánh trận giả ngoài đồi. Khi đã lớn lộc ngộc thì thằng Thái và thằng Quốc đều đi bộ đội, vào chiến trường đánh Mỹ. Thằng Thông lên huyện học tiếp cấp 3. Ông chồng bà Miên thì lênh đênh trên con thuyền ngoài sông kiếm cá. Thỉnh thoảng ông lại đáo về lấy thêm gạo muối, để lại mớ tép khô cho cả hai nhà.

    Rồi tin thằng Quốc hy sinh báo về làng. Bà Cần khóc ngất đi mấy lần. Bà Miên cũng khóc cạn cả nước mắt. Bởi từ lâu hai bà đã coi thằng Quốc và thằng Thái là con chung của cả hai người. Trong dòng máu mỗi đứa có cả dòng sữa và sự lam lũ, tảo tần của cả hai bà mẹ. Chiến tranh chưa kết thúc. Nỗi đau của hai người đàn bà chưa nguôi thì lại có tin đồn bay về làng như sét đánh ngang tai. Đó là tin Thằng Thái chạy theo giặc, phản bội Tổ quốc. Bà Miên suy sụp hẳn. Bà Cần cũng đâm ra ngơ ngơ, ngác ngác. Chuyện có con bỏ quân ngũ đi theo giặc khiến hai vợ chồng bà Miên lúc nào cũng phải cúi gằm mặt xuống đất, không dám nhìn bà con xóm giềng nữa.

    Nhưng sống thì vẫn cứ phải làm ăn. Không ai muốn làm chung với bà Miên. Ngày ấy làm ăn tập thể mà không được làm chung với mọi người thì thật khốn khổ, khốn nạn. Suốt vụ cấy bà phải lầm lũi cắm từng cây mạ ở một góc ruộng. Mùa gặt, bà thui thủi bó lúa ở cuối cánh đồng. Bà thấy như xát muối trong lòng mỗi lần nghe trẻ con rêu rao:

          "Bà ăn cơm ta,

          Bà ở đất ta

          Con bà theo giặc!

          Tắc đùng... tắc tắc...

          Tắc tắc đùng đùng,

          Súng bắn lung tung,

          Vào làng, vào xóm...”.

    Bà Cần thương bà Miên lắm. Thấy bạn lủi thủi là rất muốn sang chia xẻ như hồi trước nhưng anh công an xóm đe: "Bà là mẹ liệt sĩ không được sang nhà có người theo giặc!”. Khổ thân bà cho Miên. Ông Được, chồng bà ấy nghe tin con trai theo giặc thì ở tịt luôn trên con thuyền giữa sông chẳng mấy khi về làng. Thằng Thông làm cán bộ ở trên tỉnh đang vào "nguồn lãnh đạo” liền làm đơn xin từ cả bố mẹ và em trai để lý lịch sạch sẽ thơm tho còn thăng tiến.

    Bà Miên cứ lủi thủi qua năm tháng mà sống. Trong sâu thẳm trái tim người mẹ, bà vẫn không tin là thằng con mình rứt ruột đẻ ra đã phản bội Tổ quốc đi theo giặc. Mỗi sáng thức dậy bà thường phải dọn những gói phân trâu, phân bò lũ trẻ con đêm qua ném vào sân. Ông lão Được sa vào rượu chè vì chán cảnh gia đình, con cái. Ông thường chèo thuyền ngược lên phía thượng nguồn, bắt được con tôm, con cá nào là đổi ngay lấy rượu uống cho khuây khỏa. Một sáng, người ta thấy con thuyền rách của ông trôi về bến sông đầu làng. Trên thuyền không thấy bóng ông lão đâu. Hai ngày sau người ta mới vớt được xác ông lập lờ nổi lên cạnh đám lau sậy bên bãi bồi. Ông lão ngồi uống rượu trên mũi thuyền say ngã lộn cổ xuống sông. Ông chết mà bụng vẫn lép kẹp không có một hột cơm. Đám ma ông chỉ có cánh công nhân khai thác cát sỏi và hai người đàn bà đi đưa. Bất chấp lời can ngăn của anh công an xóm, bà Cần cứ chống gậy ra tận cánh đồng, tiễn người quá cố về nơi chín suối.

    Ông lão Được chết được vài hôm thì máy bay Mỹ ném bom vào làng. Thực ra đó chỉ là một quả bom máy bay Mỹ định ném xuống cây cầu sắt nhưng quá đà. Quả bom lạc rơi trúng nhà mụ Thiết. Mụ Thiết là dân buôn bán, phe phẩy. Mụ chuyên buôn tem phiếu, là đường dây móc ngoặc tuồn hàng trong mậu dịch quốc doanh ra ngoài bán ăn chênh lệch giá. May mà cả làng đã đi sơ tán vào trong núi nên không ai việc gì. Căn nhà gỗ lim năm gian cùng những thứ của chìm, của nổi của mụ Thiết tan tành. Giữa nhà là một cái hố sâu hoắm tưởng tới tận âm phủ.

    Mụ Thiết đi chợ về tiếc của gào khóc inh ỏi. Gào khóc chán, mụ ta bắt đầu tru tréo, xỉa xói:

    - Cha tiên nhân quân bán…. nước… hại…. dân… theo giặc, chỉ điểm máy bay ném bom vào nhà... bà... à... Bà thì… móc mắt… moi gan… xé xác cái quân tay sai ấy ra... Cha… tiên… nhân… bố… nhà… mày... Sao này không bỏ làng, bỏ xóm mà đi cho mất tăm, mất tích, mất tông, mất giống nhà mày đi… Mày ở đây để làm hại cả làng à?

    Bà Miên nuốt nước mắt. Bà biết mụ Thiết gào thét, ám chỉ, chửi rủa mình nhưng vẫn im lặng. Bà đã phải chịu đựng quá nhiều những lời chưởi đổng, nói xa, nói gần như vậy rồi.

    Một hôm, khi bà đang lụi cụi cấy lúa ở mảnh ruộng đầu thừa đuôi thẹo gần cây cầu sắt bắc qua sông thì chợt giật nảy mình bởi tiếng quát:

    - Này! Bà kia... bà kia...! Bà định làm ám hiệu cho máy bay Mỹ ném bom xuống cầu hả?

    Bà Miên giật mình thảng thốt ngẩng lên. Anh công an xóm vứt "oạch” cái xe Phượng hoàng xuống vệ đường rồi xăm xăm lội xuống ruộng. Anh ta giật cái nón bà Miên đang đội trên đầu. Cái quai nón vướng vào cằm khiến bà ngã dúi dụi xuống ruộng bùn. Anh công an ném cái nón của bà xuống bờ ruộng rồi dẫm mạnh cho bẹp rúm. Vừa dẫm đạp cái nón vô tội, anh ta vừa gầm gừ:

    - Này thì... làm ám hiệu cho máy bay ném bom này...

    Khi anh công an đạp xe đi xa rồi, bà Miên mới lần lên bờ ruộng. Bà nhặt cái nón bẹp lên cố nắn lại. Cái nón bị gẫy vành nên méo mó. Trước khi úp lên dầu, bà vốc bùn non xoa lên nón. Bà lại cắm mặt xuống ruộng cấy lúa. Nước bùn, nước mắt và mồ hôi bà chảy ròng ròng trên mặt. Bà khóc cho đời bà, khóc cho con bà. Dù có theo giặc thì thằng Thái vẫn là đứa con bà rứt ruột đẻ ra. Bà nhớ khi còn bé, mỗi lần bú no nó đều cắn mạnh vào núm vú bà một cái đau điếng rồi mới chịu nhả. Lúc vừa biết đi nó đã lon ton đòi chạy theo mẹ ra đồng. Khi cu cậu biết chăn trâu, cắt cỏ thì xốc vác chăm chỉ, đỡ đần cho bố mẹ hơn hẳn thằng anh lười biếng, lẩn việc. Đang học lớp cuối cấp 2, nó bảo bà: "Con phải đi bộ đội đánh Mỹ xong về lại học tiếp mẹ ạ!”. Nó rủ thằng Quốc làm đơn xung phong tòng quân. Hai thằng bảo nhau: "Nhất xanh cỏ, nhì đỏ ngực”. Rồi hai thằng ra đi. "Thế mà tại sao mày lại đi theo giặc Thái ơi!”. Bà Miên thầm gọi tên con và kéo vạt áo chùi mặt, nước mắt, nước bùn chảy ròng ròng xuống ngực áo.

*  *

*

    Bà Cần về đến cổng nhà bà Miên. Một cơn gió chợt ào đến khiến khóm tre xô nghiêng sàn sạt. Chợt nghe như có tiếng trẻ con nhao nhao: "Mẹ ơi! Mẹ ơi...”. Bà giật mình, ngỡ như vừa mới ngày nào mỗi lần đi chợ về đến đầu ngõ là thằng Quốc và thằng Thái đã reo lên gọi mẹ rồi ùa ra lục tung cả mấy mớ rau trong thúng tìm kẹo vừng, gióng mía. Thế mà... Bà thở dài, hai đứa đã đi mất cả rồi. Những tiếng gọi mẹ giờ như tiếng gió, tiếng mưa, hư hư, ảo ảo.

    Nghe tiếng kẹt cổng, bà Miên nhỏm dậy, quơ chân tìm dép.

    Bà Cần vào đến sân. Vừa nhìn thấy bà Miên, bà Cần đã nói vẻ thanh minh:

    - Tôi mua cho bà gói đường với hai cái bánh giò.

    - Bà cứ hay bày vẽ...

    - Thôi bà ăn cái bánh đi, còn nóng đấy.

    Bà Cần ngồi xuống bậu cửa. Bà Miên cầm hai cái bánh, gỡ lạt đưa lại cho bà Cần một cái. Hai người cùng ăn. Bà Miên bảo:

    - Còn nắm đỗ đen đấy, ta nấu bát chè ăn cho mát bà ạ!

    - Phải đấy! Sắp đến ngày hai bảy tháng bảy rồi, ta thắp hương cho các con luôn.

    Bà Miên lọ mọ xuống bếp tìm cái lọ đựng đỗ đen. Đỗ đen được trộn lẫn với tro bếp cho khỏi mọt. Bà đổ đỗ ra sàng bỏ tro bếp, đem ngâm rồi xả nước cho sạch. Khi nồi chè đã chín, bà Miên bảo: "Để tôi múc vài bát bà đem về thắp hương cho cu Quốc”. Bà Cần gạt đi: Chúng nó ở đây cả rồi bà ạ!”. Bà Miên nhìn lên bàn thờ. ảnh hai đứa chụp chung khi mới nhập ngũ đặt trong khung viền tang đen mà vẫn cười toe toét.

    Bà Miên đặt mấy bát chè đỗ đen lên bàn thờ. Bà thầm gọi tên hai đứa con. Một cơn gió thổi bùng làm lửa cháy chân nhang. Như có tiếng trẻ con reo hò văng vẳng ngoài ngõ. Bà Miên chợt nhớ lại cái ngày bà được đặt tấm ảnh của đứa con lên bàn thờ. Đó là một ngày cuối thu. Hôm ấy, có một chiếc xe quân sự rẽ vào làng. Nghe tiếng ồn ào đầu ngõ, bà Miên ra khép cổng. Bà nghĩ chắc lại có đoàn đại biểu nào đó đến thăm bà Cần. Từ ngày bà Cần được phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng thì thường có khách đến thăm luôn. Bà ấy còn được đón đưa đi tận Hà Nội viếng Lăng cụ Hồ, thăm nhà sàn, ao cá của Cụ và lên tận Hoà Bình xem cái nhà máy thuỷ điện to nhất nước.

    Nhưng đoàn người lại rẽ vào nhà bà. Có cả ông bí thư, ông chủ tịch xã đi cùng. Bà đang ngồi thái rau lợn ở góc sân. Bà lập cập đứng dậy lùi lại. Bà thoáng lo sợ khi nghĩ đến con mình- "cái thằng theo giặc”- chắc lại phạm thêm tội gì đây nên hôm nay họ về bắt bà. Anh bộ đội có mái tóc đốm bạc bước lại cầm tay bà nói: "Chúng tôi ở đơn vị đồng chí Thái. Hôm nay về thăm gia đình...”. Bà hốt hoảng: "Thế nó lại gây ra tội lỗi gì thế...”. Anh bộ đội già nói tiếp: "Không… không phải... Đồng chí Thái là một chiến sĩ tình báo, chiến đấu, lập được nhiều chiến công và hy sinh rất dũng cảm”. Bà Miên buột miệng: "Thế sao người ta vẫn bảo là nó đi theo giặc?”. Anh bộ đội trẻ giờ mới lên tiếng: "Không phải theo giặc mà chui vào hàng ngũ của giặc hoạt động, nắm tin tức để đánh thắng nó mẹ ạ! Hôm nay chúng con đến báo tin anh ấy hy sinh...”.

    Mọi người vỡ lẽ, ồn ào.

Có người chạy vội ra ngõ loan tin, kẻ từ ngoài cổng háo chuyện kéo vào. Chả mấy chốc nhà bà Miên đã chật cứng người. Lễ truy điệu cho liệt sĩ tình báo Lê Nguyên Thái được tổ chức. Cả làng bây giờ mới biết chuyện anh Thái không đi theo giặc mà là một chiến sĩ tình báo, hoạt động và hy sinh trong lòng địch.

    Bà Miên cứ như tỉnh, như mê. Mọi người xúm lại dọn dẹp bàn thờ. Người đem chuối, bưởi, hương nhang đến. Kẻ đưa xôi oản, bánh kẹo vào. Lão Hoàn chuyên nghề giết mổ ngoài chợ đem đến cả một cái thủ lợn vừa luộc chín còn đang bốc khói đặt lên bàn thờ. Hương khói nghi ngút. Trong đám người đến lễ vái trước bàn thờ liệt sĩ có cả những kẻ đã từng ném phân trâu vào nhà bà, hoặc từng vạch than đen lên cánh cổng nhà bà dòng chữ: "Đả đảo quân theo giặc, bán nước, ôm đít Mỹ ngụy”.

    Mụ Thiết cầm thẻ hương len lén đi vào. Thời nào cũng vậy, dân buôn gian bán lận bao giờ cũng giàu. Chỗ căn nhà gỗ lim của mụ trúng bom Mỹ tan tành đã mọc lên ngôi nhà ba tầng đúc bê tông to nhất làng. Mụ Thiết vừa cắm nén hương vào bát nhang thì có một cơn gió thổi thốc vào nhà. Bát nhang nhỏ lại cắm quá nhiều nên những nén hương bung ra rơi xuống lả tả. Một nén hương phóng vèo qua mặt mụ Thiết. Tóc mụ cháy xèo xèo. Mụ Thiết hoảng quá vái lạy như tế sao.

    Anh công an xóm, người đã từng bao năm theo dõi, quản lý mẹ của "kẻ theo giặc”, từng dẫm bẹp cái nón trắng của bà ngày nào để bà khỏi sử dụng làm ám hiệu cho máy bay Mỹ ném bom thì không đến được nữa. Hơn chục năm trước, xã mở một con đường mới. Đường làm đến đầu làng Vũ thì vướng phải một ngôi miếu nhỏ. Ngôi miếu này chẳng biết có tự bao giờ. Gia tự mấy dòng họ trong làng cũng không thấy ghi chép gì. Nhiều người bảo ngôi miếu này thờ thực thần, tức là người có công với nước, với làng. Có người lại nói cái miếu chỉ thờ hư thần, tức là yêu tinh, ma quỷ. Lão Hoàn mổ lợn thì khăng khăng khẳng định có một người ăn mày bị chết ở đây, qua một đêm kiến mối đã đùn lên thành mộ. Đời sau người ta lập thành miếu thờ. Thờ gì cũng mặc, vướng vào con đường đang mở thẳng băng là không được. Đám thanh niên sợ không dám vào phá cái miếu. Anh công an xóm hò hét mãi không được cáu tiết xông vào túm pho tượng nhỏ trên ban thờ ném xuống mương nước còn dọa đái vào bát nhang nữa. Đám thanh niên bấy giờ mới dám đập phá miếu.

    Khi con đường khánh thành thì anh công an xóm ngã bệnh, ốm liệt giường, chạy chữa ba bốn tháng mới khỏi. Nhưng lạ thay từ ấy hạ bộ của anh ta cứ to dần lên như cái ấm tích, không đau, không nhức, nhưng không kiểm soát được việc tiểu tiện, thải ra quần lúc nào cũng không hay. Giờ thì anh ta đã thành ông, có cháu nội, cháu ngoại. Nhưng lúc nào ông ta cũng phải đeo một cái gáo dừa để hứng nước tiểu nên chẳng dám ló mặt ra khỏi nhà.

    Đoạn đường đi qua nền cái miếu cổ ấy thường hay xảy ra tai nạn. Con gái thấy tháng đi qua về thế nào cũng ốm. Đàn bà có thai dè chừng bị xẩy. Đám đàn bà con gái sợ không dám đi qua đoạn đường này, toàn phải lội vòng con mương mỗi lần ra đồng. Có thằng cướp giật đồ, giết người ở đâu phóng xe máy chạy qua, đường trống trơn mà tự dưng ngã oạch một cái, nằm há mồm ra chờ người đến bắt.

*  *

*

    Buổi lễ truy điệu liệt sĩ Thái kết thúc. Chị cán bộ thương binh xã hội đưa cho bà Miên một cục tiền tuất. Hai anh bộ đội trước khi trở về đơn vị cũng trao tặng bà cuốn sổ tiết kiệm ba trăm nghìn đồng đồng. Có ai đó nói: "Bà Miên phải được phong là bà mẹ anh hùng mới đúng!”. Một người vặn lại: "Danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng chỉ tặng cho các mẹ có ba con liệt sĩ trở lên hoặc có một con duy nhất nhưng là liệt sĩ thôi...”. Lại một người nữa cãi: "Thì bà Miên cũng chỉ có một con duy nhất đã hy sinh”. "Thế còn ông Thông không tính à?”. "Ông ấy đã từ bỏ gia đình, bố mẹ và em rồi, coi như không tính!”. Thêm một người tranh luận lại: "Mấy lần ông ấy vẫn gửi tiền cho bà Miên đấy!”. "Nhưng bà ấy đều không nhận”. Có ai đó chêm vào: "Mấy hôm trước, tôi thấy ông ta đi chiếc xe con bóng lộn về sân vận động huyện ta phát biểu, động viên cánh thanh niên xung phong tình nguyện mùa hè xanh đấy! Nói năng hùng hồn lắm…”.

    Cuối chiều, mọi người đến dự lễ truy điệu đều về cả, chỉ còn lại bà Cần. Lúc này, hai bà mới đốt một nắm nhang cắm lên bàn thờ. Và cũng đến lúc này hai người mới khóc. Suốt buổi lễ truy điệu, mắt họ ráo hoảnh. Vịn tay lên mép bàn thờ, nhìn tấm bằng "Tổ quốc ghi công” và cái khung kính gài đỏ những huân, huy chương của con, bà Miên chợt kêu lên:

    - Thôi chết! Chả còn giữ được cái ảnh nào của thằng Thái cả!

    Bà Cần lập cập:

    - Còn… vẫn còn đây! Bà rút từ túi áo ra một tấm ảnh tày ba ngón tay. Thằng Thái chụp chung với thằng Quốc khi mới nhập ngũ. Hai thằng mặc quần áo bộ đội rộng thùng thình, miệng cười toe toét. Bà Cần bảo:

    - Mai bà đem lên phố truyền thần riêng ảnh cu Thái ra để đặt lên bàn thờ. Cái ảnh này tôi tìm thấy trong ba lô di vật của cu Quốc khi báo tử đơn vị họ đem về đấy.

    Bà Miên biết ngày trước cu Thái hay chụp ảnh, trước khi đi B cũng gửi về mấy cái. Khi có tin đồn em "theo giặc”, thằng anh đã về lấy hết cả ảnh, thư từ của em đem đi đốt để khỏi dính dáng gì tới kẻ phản bội nữa.

Run run đỡ lấy tấm ảnh, bà Miên nói:

    - Mai tôi sẽ đem đi thuê chụp lại. Mà cứ để nguyên hai đứa chúng nó đứng với nhau, phóng lấy hai cái đặt cả bàn thờ bên tôi và bàn thờ bên nhà bà. Để chúng nó luôn có nhau và khi đói khát nhớ mẹ về đến nhà nào cũng có cơm ăn, nước uống...

*  *

*

    Câu chuyện tôi ghi lại được về hai bà mẹ ở cái ngõ nhỏ làng tôi là như thế đấy. Có người nói: \"Đời còn có luật nhân quả\". Có kẻ lại bảo quá khứ nhắc lại mãi làm gì, bơn bớt ôn nghèo, kể khổ đi, cuộc đời ai biết trước rồi sẽ ra sao, sông cũng có bên bồi, bên lở, nhân vô thập toàn. Còn tôi thì cứ suy nghĩ mãi về câu chuyện của hai bà mẹ liệt sĩ và những gì họ đã phải trải qua, nghĩ về những điều còn trăn trở, khuất khúc của chiến tranh. Người làng tôi từ lâu vẫn nổi tiếng khái tính. Bà Cần là Bà mẹ Việt Nam anh hùng được thường xuyên thăm hỏi, tặng quà. Đường sữa, quà bánh cứ để đấy ăn thế nào được hết, đem cho, đem biếu người ta cũng ngại nhận. Còn bà Miên, kể từ khi có tin đồn "nuôi con theo giặc” đã sống co mình lại như một con sâu, cái kiến. Bà từ chối mọi sự thương hại, ban ơn cũng như chai sạn dần với sự khinh ghét của xóm giềng. Khi trở thành mẹ liệt sĩ, bà cũng bình thường như hàng ngàn vạn bà mẹ khác có con hy sinh trong các cuộc kháng chiến mà thôi. Có lần bà Cần được người ta biếu nhiều quà cáp mang sang cho, bà cũng không nhận, không muốn ăn ké vào phần của bạn. Đọc đến đây chắc bạn đọc đã hết thắc mắc vì sao trong nhà có cả mấy chum đường, hàng chục hộp sữa mà bà Cần vẫn phải ra đầu ngõ để mua nửa cân đường để đi thăm bạn ốm.

    Đó là câu chuyện trong cái ngõ nhỏ làng tôi. Cái làng với những con người nổi tiếng là khái tính...

Mưa lúc tan tầm

Vừa tan tầm thì mưa. Cơn mưa đổ xuống sầm sập như trời đang hờn dỗi.

Đường phố kẹt cứng những người là người. Tất cả cùng chịu trận mưa to. Ai nấy vội vã trùm áo mưa lên người. Dòng người đang trôi trên đường trông đủ loại hình thù, đủ loại màu sắc nhạt nhoà trong mưa. Những chiếc xe ngược xuôi, đan chéo nhau. Ai cũng muốn mau thoát khỏi cơn mưa chiều xối xả. Nhưng dòng người thường chậm hơn dòng nước.

    Khi những hạt mưa đầu tiên ném vào người, vào mặt như sỏi thì Hân vội phanh kít xe lại. Cô bật yên xe. Bàn tay cô quờ vào khoảng rỗng của cốp xe. Buổi sáng, trước lúc đi làm Hân đã quên không bỏ cái áo mưa vào trong cốp. Và cũng sáng nay lần đầu tiên Đoàn- chồng Hân không dắt chiếc xe @ nặng nề của cô ra tận cổng như mọi khi. Thường thường là mỗi sáng Hân đi làm, Đoàn đều nhanh nhẹn dắt chiếc xe ra cho vợ. Rồi anh săm sắm hỏi han, kiểm tra xem Hân đã đem đủ các thứ cần thiết chưa. Nào là túi sách, son phấn, khăn giấy lau mặt, điện thoại di động, chìa khoá nhà và nhất là áo mưa. Trời nắng trang trang anh cũng lo Hân quên áo mưa.

    Thế mà sáng nay, Đoàn không dắt xe ra cửa cho Hân như mọi sáng. Từ tối hôm qua, hai người giận nhau. Nguyên nhân phải kể đến là từ khi cơ quan của Hân xuất hiện một anh chàng kẻng trai, ga lăng. Đó là một tiến sĩ mới tu nghiệp ở nước ngoài về. Hắn tên là Khải được đề bạt là thủ trưởng cơ quan. Việc đầu tiên hắn đề nghị với mọi người trong cơ quan là ngay thứ bảy tuần này tổ chức buổi gặp ra mắt tại khu du lịch Ao Vua. Mọi chi phí xe cộ đi lại, ăn uống, dịch vụ hắn bao tuốt. Hắn còn mở ngoặc thêm là các nhân viên đều được đem theo phu nhân hoặc phu quân. Hắn ta vừa ra khỏi phòng, đám nhân viên nữ đã oà lên choe choé:

    - Ghê quá nhỉ! Định tỏ vẻ anh hùng nhất khoảnh hả.

    - Hắn là con đại gia đấy...

    - Đại gì thì đại, kéo nhau đi cả đống cho hắn biết tay... Mà nhớ mỗi tên phải kèm một xuất ăn theo nữa nhé!

    Đám con gái ngoắc tay nhau. Cánh nhân viên nam cũng hứa sẽ đi đủ cả đôi. Nếu cần sẽ kèm theo một nhóc con nữa cho biết Ao Vua thế nào.

    Hân về nói với chồng chuyện cơ quan. Đoàn gạt phắt đi:

    - Em không nhớ là đã hẹn thứ bảy tuần này về quê thăm mẹ cơ mà!

    Hân cụt hứng nhưng cố vớt vát:

    - Hay mình để tuần sau hẵng về quê đi anh...

    - Không được! Mẹ bảo tuần này về còn sang nhà chú Vĩnh bàn việc xây mộ cho ông nội...

    - Nhưng việc của cơ quan em...

    - Việc gì mà việc. Kéo nhau đi chơi bời thì có. Họp hành gì gì mà ở tận mãi cái nơi chuyên ăn chơi du hí thế!

    Hân vùng vằng. Hai vợ chồng giận nhau. Suốt buổi tối Hân lầm lì. Lúc đi ngủ mỗi người quay mặt về một phía. Hai người nằm yên giả tảng như đã ngủ. Nhưng chả ai ngủ được. Hân giận chồng. Người gì mà suốt ngày chỉ biết chúi mũi vào công việc, ăn mặc thì lôi thôi. Hai vợ chồng đi với nhau ngoài phố ai cũng tưởng là anh chạy xe ôm chở tiểu thư con nhà giàu đi chợ. Đã thế mỗi khi cơ quan gặp mặt dâu rể cũng cứ ăn mặc xoàng xĩnh như khi đi làm khiến đám bạn cứ trêu chọc mãi.

    Hân là con út một gia đình gốc Hà Nội, được bố mẹ nuông chiều từ bé. Hân quen và yêu Đoàn khi cô là sinh viên xuống nhà máy anh thực tập. Đoàn được giao nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ Hân. Hai người chú chú, cháu cháu rồi chuyển sang anh anh em em từ lúc nào cũng chẳng hay. Rồi yêu nhau. Bố mẹ Hân cũng rất quý Đoàn. Hai người thành vợ thành chồng sau khi Hân tốt nghiệp đại học. Đoàn chăm sóc Hân như là một người chồng và cả như một người anh.

    Hai vợ chồng gần như suốt đêm không ngủ. Đoàn cũng thấy ân hận vì chưa chi đã gạt ngay chuyện Hân vừa nói. Lẽ ra anh phải lựa lời phân tích để Hân hiểu. Đoàn tính sáng ra sẽ gọi điện về quê khất mẹ tuần sau. Anh nghĩ chắc mẹ cũng sẽ cảm thông cho anh và Hân. Anh quay lại nằm sát Hân. Bàn tay anh đặt lên ngực Hân. Thường là suốt đêm bàn tay anh đều giữ chặt bầu vú tròn trịa của Hân. Hân cũng rất thích như vậy. Nhưng đêm nay Đoàn vừa đặt tay lên ngực mình Hân đã gạt phắt ngay đi. Cô trở mình nằm úp xuống gối, hai vai rung rung.

    Đoàn thấy hơi phật ý. Anh cũng nằm thẳng đuỗn người ngửa mặt nhìn lên trần nhà tối mờ mờ trong ánh đèn ngủ.

Buổi sáng, khi Đoàn còn đang trong nhà vệ sinh thì Hân đã dắt xe đi làm mà không chờ chồng như những bữa trước. Cũng vì thế mà tan tầm buổi chiều khi cơn mưa ập xuống Hân không có áo mưa.

    Cơn mưa xối xả khiến đường phố nhanh chóng biến thành những dòng sông. Nước chảy ào ạt. Bánh xe ngập dần trong nước. Chết máy. Hân đành lội bộ dắt xe. Chiếc xe @ lúc đi thì êm re, dắt thì thật nặng nề. Mỗi khi có một chiếc ô tô phóng qua, sóng nước mạnh như sóng biển khiến cả người Hân và xe chao đảo.

    Nước dâng nhanh. Mọi thứ dềnh lên. Rác rưởi từ các ngõ ngách trôi ra đường phố. Mọi thứ chất thải của con người, con vật lăn ra đường. Hân hét lên khi một con chuột chết từ đâu dạt đến cứ lẩn vẩn quanh chân. Hân mặc cái váy mỏng. Con chuột chết bị nước đẩy chạm vào đùi khiến Hân buông cái xe hốt hoảng chạy lên hè đường. Cái xe @ đổ kềnh. Hân sợ đến phát khiếp. Con chuột chết trôi đi. Hân không làm sao dựng được chiếc xe lên. Không ai giúp cô vì mọi người đều không thể dừng lại. Xe của họ ngập lút trong nước dừng lại sẽ bị chết máy ngay. Cô bật khóc. Nhưng cũng không ai biết cô khóc. Mưa ướt đẫm mái tóc bồng bềnh kiểu mỳ tôm của Hân. Cái váy Hân đang mặc ướt sũng, dính sát vào người.

    Giữa lúc Hân đang đứng lúng túng với chiếc xe đổ chìm trong nước giữa đường thì cửa ngôi nhà bên đường bật mở. Một người đàn ông đội mưa đi ra. Anh ta nâng dựng chiếc xe cho Hân. Hân giật mình nhận ra Khải- người mới về nhận chức tại cơ quan. Anh ta bảo:

    - Nhà tôi ở đây! Hân tạm vào trú, ngớt mưa, nước rút hãy về...

    Cũng không còn cách nào khác. Hân đi theo Khải. Hắn dắt chiếc xe của Hân vào trong khuôn viên. Trời vẫn mưa to. Nước tràn cả lên hè đường. Khải mở cửa đẩy chiếc xe của Hân vào giữa phòng khách. Hân ngập ngừng theo hắn vào nhà. Nước từ cái váy của cô rỏ xuống ướt cả nền gạch hoa.

Khải mở tủ lấy đưa cho Hân một bộ đồ phụ nữ thơm mùi nước hoa ngoại. Hắn bảo:

    - Hân thay đồ đi kẻo nước mưa ngấm vào người ốm đấy...

    Hân như một cái máy làm theo lời hắn.

    Cô vào nhà tắm. Nước nóng và bộ quần áo khô ấm làm cho Hân tỉnh táo hẳn. Khi Hân bước ra phòng khách thì Khải cũng từ trên gác đi xuống. Hắn cũng đã thay bộ quần áo ướt lúc ra dắt xe giúp Hân. Khải pha cho Hân một cốc sữa nóng. Hân uống cốc sữa thấy người ấm hẳn lên.

    Hai người ngồi nói chuyện với nhau. Qua câu chuyện Hân biết đây là ngôi nhà Khải mua sau khi từ nước ngoài về. Khải đang ở một mình. Bà giúp việc về quê có giỗ. Mưa vẫn chưa ngớt. Trời bắt đầu tối. Câu chuyện của hai người mỗi lúc một thêm sôi nổi. Hân kể chuyện cơ quan. Khải quan tâm đến mọi chuyện của Hân. Vừa nói chuyện Khải vừa đứng dậy lúc thì lấy hoa quả, khi thì đi tìm thứ bánh kẹo gì Hân ăn đỡ đói. Mỗi lần đứng lên, ngồi xuống hình như khoảng cách giữa hai người lại gần nhau hơn.

    Một tiếng sét nổ vang khiến Hân giật mình co rúm người lại. Điện vụt tắt. Phòng khách tối om. Khải quờ tay tìm cây nến. Bàn tay hắn túm vào tay Hân. Hân không rụt tay lại. Tiếng thở hổn hển của hai người rất rõ. Rồi còn nhanh hơn tiếng sét lúc nãy Khải ôm xiết lấy Hân. Hân hơi tỏ vẻ kháng cự. Nhưng mọi việc trong bóng tối thường diễn ra nhanh hơn rất nhiều. Vội vã. Hối hả. Hân cong người lên trước sức nặng và sự mạnh mẽ của Khải. Khi sự dồn dập khám phá vừa kết thúc thì điện bỗng bật sáng. Tất cả trần trụi. Hân vội lấy tay che ngực. Cô thấy hoảng hốt vì sự việc diễn ra nhanh quá.

    Mưa tạnh hẳn. Khải loay hoay tìm cách nổ máy chiếc @ của Hân rồi dắt ra cổng. Nhìn Khải cẩn thận dắt xe cho mình, Hân chợt nghĩ đến Đoàn. Cô cúi gằm mặt ngồi lên yên xe, né cái hôn nhẹ của Khải.

Hân về đến nhà đã hơn tám giờ tối. Không thấy Đoàn đâu. Cô lục túi tìm chìa khoá cửa. Khi vừa đẩy được chiếc xe vào nhà thì Đoàn về. Đầu tóc quần áo Đoàn bê bết, ướt sũng. Nhìn thấy Hân, Đoàn gần như reo lên vì mừng:

    - Anh đem áo mưa đến cơ quan em thì em đã về. Anh phóng xe đi khắp các lối em thường hay đi tìm nhưng không gặp, lại đến cả nhà mấy chị cùng cơ quan em nữa...

    Nghe Đoàn nói vậy bao nhiêu giận dỗi từ sáng trong Hân tan biến. Tự dưng Hân thấy ngượng ngập. Cúi nhìn bộ đồ đang mặc thơm phức trên người, Hân chợt thấy nóng ran cả mặt. Tim Hân đập thình thịch hoang mang.

    Buổi tối hôm đó Hân không bỏ vào phòng ngủ sớm như mọi khi. Hân cùng Đoàn ngồi xen ti vi. Đài truyền hình đang chiếu bộ phim "Tự dưng muốn khóc". Mãi Hân mới ngập ngừng bảo:

    - Thứ bảy này mình về quê anh nhé

Đội ơn trận lũ

Tiểu phẩm củaTrọng Bảo

    Trời mưa to. Cơn mưa trút nước xuống ào ào như trời bị thủng. Nước ngập lênh láng. Lũ bắt đầu tràn về. Ông cán bộ phụ trách xây dựng công trình nhà văn hoá huyện W. đang ngồi trong nhà hàng kiểu "nhà sàn dân tộc" uống rượu ngâm tắc kè với một cô sơn nữ thì nhận được điện khẩn. Anh kỹ sư đội trưởng đội thi công công trình hốt hoảng thông báo:

    - Báo cáo thủ trưởng! Nước đã bắt đầu tràn vào công trường rồi ạ!

    - Bình tĩnh! Không sao đâu. Bây giờ cậu huy động toàn bộ anh em công nhân nhanh chóng cơ động ra ngoài thị trấn cứu hộ, cứu nạn, giúp bà con sơ tán người già, trẻ em và tài sản nhé!

    - Báo cáo... báo cáo... công trường xây dựng của ta cũng sắp bị lũ tràn đến, phải cho đắp bờ bao, vận chuyển số vật liệu xây dựng là xi măng lên chỗ cao chứ ạ!

    - Không cần! Cứ cho anh em đi giúp dân đã hiểu không?

    - Nhưng... nhưng ...

    - Không nhưng gì cả! Tính tiền phong gương mẫu, tinh thần xung kích cách mạng giai cấp công nhân của cậu để ở đâu rồi hả? Phải cứu dân trước rồi mới cứu mình chứ. Cậu cứ chấp hành mệnh lệnh đi, mọi việc tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm...

    - Vâng... vâng...

    Cúp máy. Ông thủ trưởng nọ lại rót rượu ra ly. Cái món rượu ngâm tắc kè và món dái dê tươi sào khiến ông thấy lâng lâng cả người. Ngoài trời vẫn mưa to như trút. Từ mãi ngôi nhà hàng trên đỉnh đồi cao mà vẫn nghe thấy tiếng nước lũ réo ầm ầm dưới suối. Ánh nến chập chờn càng làm tôn lên vẻ đẹp và quyến rũ mê hồn của cô sơn nữ. Bữa tiệc vẫn tiếp tục. Các món ăn đặc sản liên tục được mang ra. Giữa lúc bàn tay của ông đang xoa xoa đùi sơn nữ thì tiếng chuông điện thoại lại réo lên. Tiếng anh kỹ sư:

    - Báo cáo! Toàn bộ anh em công nhân rất nỗ lực giúp bà con chống lũ. Đồng chí chủ tịch tỉnh đang có mặt ở hiện trường đã biểu dương chúng ta ạ!

    - Tốt... tốt quá! Cậu động viên anh em tiếp tục tích cực giúp dân nhé!

    - Nhưng... nước lũ đã tràn vào công trường, phá huỷ các chỗ đã xây, ngập kho chứa xi măng và cuốn trôi mất cả khu nhà điều hành rồi ạ...

    - Tốt... à quên... không tốt! Cậu cho một số anh em về cứu hộ tại công trường nhé!

    - Vâng... vâng...

    Ông vừa trả lời vừa mừng thầm nghĩ: "Mẹ kiếp, thế là thoát rồi! Phen này nước lũ giúp ta xoá sạch cái công trình chất lượng kém ấy, cuốn luôn cả hoá đơn chứng từ không hợp lệ ở phòng tài chính. Thanh tra, kiểm toán đừng hòng mà kiểm toán, kiểm tra nữa nhé... Đội ơn trận lũ... vô cùng đội ơn trận lũ". Tiếng anh kỹ sư vẫn nheo nhéo:

    - Thế thủ trưởng đang ở đâu? Thủ trưởng sắp về chưa ạ. Em lo công trường ta sẽ bị thiệt hại lớn...

    Bàn tay của ông đã nhích sâu hơn lên phía trên đùi cô sơn nữ, lần đến được cái nơi quan trọng nhất rồi. Ông ậm è trả lời anh kỹ sư:

    - Thì...thì...tôi cũng đang chống...lụt đây... sắp ướt hết đến nơi rồi hiểu không. Thôi...tắt...tắt máy nhé, tôi bắt đầu phải làm...việc ngay đây...

Cứ phải "tình nguyện!"

Tiểu phẩm củaTrọng Bảo

    Thằng con đang học lớp 6 phóng vội về nhà hớt hải gọi bố:

    - Bố ơi! Nhà ta đăng ký "tình nguyện" đóng góp mấy khoản ạ?

    - Tình nguyện cái gì! Tại sao phải đóng góp?

    - Dạ! Trường con có các loại "tình nguyện" đóng góp là các khoản: Phí chăm sóc cây xanh trong sân trường 15 nghìn đồng một tháng, phí chống vẽ viết bậy trên bàn 20 nghìn đồng một tháng, phí giảm tiếng ồn khi ra chơi 10 nghìn đồng, phí...

    Ông bố cắt lời thằng con:

    - Thôi... thôi...! Các khoản ấy nhà ta xin không đăng ký "tình nguyện" có được không?

    - Ấy, không được bố ạ! Nhà ta cứ phải hăng hái tham gia "tình nguyện" đóng góp một số khoản, nhà các bạn khác cũng vậy. Nhà ta mà không "tình nguyện" đóng góp một khoản nào con đi học thấy xấu hổ lắm...

Ông bố ngần ngừ:

    - Thôi được, nhà ta đành "tình nguyện" đóng góp các khoản phí chăm sóc cây xanh và phí chống viết vẽ bậy lên bàn...

    - Hoan... hô... bố... Vậy xin bố ký ngay vào lá đơn "tình nguyện" đã in sẵn này để con nộp luôn cho cô giáo.

    Ông bố vừa ký xong lá đơn của thằng con lớn thì con bé học lớp 2 đi học về reo lên:

    - Bố ơi! Lớp con đề nghị phụ huynh vui vẻ "tình nguyện" đóng góp vào các khoản vận động học sinh viết chữ đẹp, giữ quần áo, sách vở sạch sẽ và không nói chuyện riêng trong lớp. Mỗi khoản là 10 nghìn đồng... bố đăng ký "tình nguyện" luôn cho con nhé!

    Vừa nói, nó vừa lấy trong cặp ra mấy cái đơn đã được đánh máy vi tính để bố chỉ việc ký là xong.

    Ông bố há hốc mồm và đành lại rút bút ra. Vừa ký ông vừa lẩm bẩm: "Quả là các thầy cô ngày nay lắm sáng kiến độc đáo thật!"

Sợ sai luật!

Tiểu phẩm củaTrọng Bảo

    Ông nọ tính hay cờ bạc, đề đóm. Ông chỉ chịu về nhà mỗi khi đã "cháy” túi và say xỉn. Bà vợ ông bực lắm. Bà vợ ông khuyên ngăn ông mãi nhưng không ăn thua. Ông vẫn cứ chứng nào tật nấy. Một hôm thấy ông lảo đảo về nhà, bà liền đóng sập cửa, chốt chặt lại và bảo:

    - Ông thích số đề thì ra đê mà ở!

    Ông bực bội vì bà không cho vào nhà. Đẩy cửa mấy lần không được, ông lầu bầu:

    - Ra đê thì ra... sợ đếch gì chứ! Phen nay ông ra ở hẳn ngoài đê ở càng mát, cho mụ sư tử này biết tay…

    Nói xong, ông ta lảo đảo đi luôn, không thèm ngoái cổ lại lấy một lần.

    Nửa đêm, bà vợ bỗng nghe tiếng gõ cửa "cộc... cộc... cộc”, rồi tiếng ông chồng khẩn khoản:

    - Bà ơi! Mở cửa cho tôi vào nhà ngay đi!

    - Tôi tưởng ông cứ ở luôn ngoài đê cho tiện đánh đề và uống rượu, còn về nhà làm gì nữa?

    Ông chồng vẫn nói cứng:

    - Tôi... tôi cũng định thế! Nhưng có ông công an xóm thấy tôi nằm ngủ ngoài đê bảo là tôi vi phạm luật đê điều. Chính vì sợ... sai luật nên tôi mới phải về nhà đấy chứ! Với lại tôi cũng thấy rất thương bà lắm…

    Bà vợ có vẻ mềm lòng hỏi lại:

    - Ông thương tôi thế nào hả?

    - Tôi thương là bà sẽ phải đi… tù!

    - Tôi làm gì mà phải đi tù hả… hả… hả?

    - Vì bà không cho tôi vào nhà là bà đã vi phạm nghiêm trọng luật cư trú. Bà đã dám tự ý đuổi một công dân là tôi đi khỏi chỗ ở hợp pháp của mình. Thêm nữa, bà không cho tôi vào ngủ cùng là bà còn vi phạm thêm luật hôn nhân và gia đình nữa… Phạm luật thì chả phải đi tù là gì?

Chắc họ bệnh nặng hơn!

Tiểu phẩm củaTrọng Bảo

    Một cô gái trẻ đưa ông bố bị ốm nặng vào bệnh viện. Ông bác sĩ ở phòng cấp cứu khám xong liền kê một đơn thuốc đưa cho cô và giục:

    - Cô ra ngay quầy bán thuốc ngoài bệnh viện mua thuốc về để tôi tiêm cho cụ đỡ đau! Nhanh lên…

    Cô con gái cầm đơn chạy đi mua thuốc mãi mới thấy quay về. Ông bác sĩ gắt:

    - Sao đi mua thuốc gì mà lâu thế! Cô định để bố đau đớn mãi thế hả?

    - Dạ thưa bác sĩ tại hôm nay có nhiều người phải cấp cứu quá, em cứ phải nhường cho họ mua trước ạ!

    - Ai phải cấp cứu! Tôi trực ở phòng cấp cứu này từ sáng đến tối có cấp cứu và kê đơn thuốc cho ai ngoài bố của cô đâu?

    - Thì em xếp hàng mua thuốc ở hiệu thuốc cổng bệnh viện, sắp đến lượt mua thuốc thì có một anh chen ngang len lên luôn mồm kêu: "Khẩn cấp… khẩn cấp… nhà tôi đang nằm đợi, xin cho mua trước”. Nghĩ là anh ta có người nhà bị bệnh nặng hơn đang nằm chờ thuốc nên em và mọi người liền bảo nhau nhường cho anh ta mua trước. Một lát sau lại thấy có một chị nhoi lên khẩn khoản: "Chồng em đang… /"căng thẳng/" lắm rồi… xin cho em mua trước…”, thế là em và mọi người lại nhường tiếp cho chị ta nên mãi em mới mua được thuốc cho bố ạ!

    Ông bác sĩ ngạc nhiên:

    - Thế cô có nhìn thấy họ mua loại thuốc gì không hả?

    - Em chỉ thấy họ mua mỗi người một bao… cao su rồi chạy biến ngay đi! Vậy người nhà họ bị bệnh gì thế ạ?

    Ông bác sĩ ấp úng không trả lời mà chỉ bảo:

    - Thôi chết! Nghe chuyện cô nói tôi mới nhớ hôm nay là Valentine. Cô đưa thuốc cho tôi tiêm cho cụ, tôi cũng phải về ngay nhà đây chắc vợ tôi cũng đang... đợi!

Thủ trưởng tập thể dục

Tiểu phẩm củaTrọng Bảo

    Mấy ngày nay cả cơ quan M. xôn xao vì một chuyện lạ. Đó là chuyện sếp trưởng cơ quan đột nhiên hăng hái tham gia tập… thể dục. Sáng nào cũng thấy sếp chạy bộ mấy vòng trong sân cơ quan rồi tập vặn mình, nâng tạ… rồi hô to: "Khoẻ… khoẻ để phục vụ Tổ quốc!”

    Hai anh nhân viên thì thào với nhau:

    - Sếp tích cực tập thể dục thế này là để nâng cao sức khoẻ đấy!

    - Chắc là sếp có tín hiệu sẽ tiếp tục được tại vị nên mới tích cực tập…

    - Nhưng sếp đã ngoại sáu mươi rồi cơ mà… lẽ ra sếp phải hưu từ năm ngoái rồi chứ?

    - Ôi dào! Tuổi tác quan trọng gì chỉ cần điều chỉnh lại lý lịch là sếp lại trẻ măng ấy mà. Ở cơ quan thằng em tớ sếp trưởng khai đi, khai lại lý lịch thế nào mà tuổi lại thấp hơn cả ông em ruột ở quê.

    - Thế đã là gì, cơ quan con em gái tớ có ông lãnh đạo điều chỉnh thế quái nào mà tuổi mình hơn tuổi thằng con đẻ có chín tuổi. Thế chả hoá ra là ông ấy lấy vợ từ khi mới mười tuổi à?

    - Hay ngày xưa họ cưới tảo hôn?

    - Chả biết! Nhưng mấy ngày nay nghe tin sếp trưởng cơ quan ta tập thể dục thì sếp phó buồn bã, chán nản hẳn đi…

    - Tại sao lại thế?

    - Thì… sếp phó suốt ngày có việc gì đâu ngoài việc chỉ mong sếp trưởng nghỉ hưu hoặc… đột tử để thay thế… hi hi…

    - Đừng nói bừa các sếp nghe được thì mất việc như chơi đấy hiểu không!

    - Hiểu… hiểu… Thôi sếp tích cực tập thể dục thì cánh ta cũng phải tập theo kẻo sếp thấy nhân viên không học tập lãnh đạo rèn luyện thân thể để phục vụ tốt hơn mà tự ái thì chết…

    Có lẽ đó cũng là nguyên nhân phong trào tập thể dục của cơ quan M. đột nhiên sôi nổi hẳn lên.

Trọng Bảo

"Gia đình văn hóa"

Tiểu phẩm củaTrọng Bảo

    Ông chồng lảo đảo từ quán rượu trở về, nách cắp cái vỏ chai rỗng. Vừa đến cổng ông đã phấn khởi gọi vợ:

    - Hôm nay nhà ta phải tổ chức ăn mừng thật to bà nhé!

    - Ăn mừng vì cái gì?- Bà vợ bực bội khi thấy mặt mũi chồng đỏ căng, miệng thở ra toàn mùi rượu. Ông chồng giơ cái vỏ chai rỗng lên hể hả:

    - Ăn... ăn... mừng nhà ta đã được công nhận là "Gia đình văn hóa" hiểu không?

    - Văn... văn hóa cái gì! Văn hoá mà ông cứ suốt ngày say xỉn thế này hả?

    - Thế... mà nhà ta vẫn được công nhận "văn hóa" mới... oai chứ! Ông trưởng thôn nói nhà ta là gia đình cuối cùng của thôn được công nhận danh hiệu này đấy. Nhờ vậy mà thôn ta 100% đạt tiêu chuẩn "gia đình văn hóa". Vì thế nhất định phải ăn mừng thật hoành tráng mới được. Bà ra chuồng bắt ngay con gà mái đang dọn ổ đẻ làm thịt đi...

    - Ông đừng có mà mơ! Con gà ấy tôi để nuôi cho nó đẻ lấy trứng cho thằng cu Tít đấy!

    - Thế... thế... nhà ta biết ăn mừng bằng cái gì hả?

    Ông chồng hỏi lại. Bà vợ mặt mũi lầm lì bảo:

    - Để tôi gọi thằng lớn về bảo nó chui rào lẻn sang nhà bà hàng xóm vặt trộm cho ông mấy quả chuối xanh mà nhắm rượu ăn mừng vậy!

    Ông chồng cáu:

    - Chuối xanh chát xít nhắm rượu thế quái nào được?

    Bà vợ bảo:

    - Thì... thằng Chí Phèo ngày xưa nó vẫn nhắm rượu bằng chuối xanh đấy thôi...

    Ông chồng quát:

    - Nhưng tôi không phải là thằng Chí Phèo mà uống rượu với chuối xanh... tôi nhắm rượu với thịt gà mái tơ cơ. Đi bắt gà giết thịt ngay đi, nhanh lên, trưa rồi. Vợ viếc gì mà chồng mới nói một câu, cãi lại đến ba bốn câu, thế còn ra cái thể thống gì nữa. Bà nên nhớ từ hôm nay trở đi gia đình ta là "gia đình văn hóa" đấy! Hiểu không?

    Đến nước này thì bà vợ không chịu được nữa quát lại:

    - Có mà là vô văn hóa! Cứ như ông thì nhà ta nên đổi lấy danh hiệu "gia đình vô văn hóa" cho rồi...

    Ông chồng cáu tiết đập cái vỏ chai xuống sàn nhà "choang" một cái vỡ tan làm thằng cu Tít hoảng sợ khóc thét lên. Hai vợ chồng cãi nhau ầm ĩ cả xóm. Giữa lúc đó, thằng con lớn từ đâu chạy về. Nó vội đóng sập ngay cửa lại rồi bảo bố mẹ:

    - Bác trưởng thôn bảo con chạy ngay về nói với bố mẹ cãi nhau thì cũng nho nhỏ thôi! Đóng cửa lại mà cãi nhau. Tức giận có đập cái gì thì cho vào bao mà đập cho nó khỏi có tiếng vang ầm ĩ. Nhà ta vừa mới được công nhận là "gia đình văn hóa" đấy bố mẹ ạ!

Người thổi tù và trên bến sông

Lão Vận bước vào chợ. Đàn nhặng xanh thấy động vù vù tạo nên những âm thanh u u u... Buổi chiều chợ không họp, chỉ có mấy phản thịt phía ngoài cổng của những tay chuyên giết mổ là bán cả ngày. Lão Vận ném cái chổi và cái xẻng cùn xuống đất. Việc đầu tiên của lão là cầm cái bao tải rách đi thu hồi "chiến lợi phẩm”. Đó là những thứ mà những người mua bán buổi sáng còn bỏ lại. Lão nhặt những cái túi ni lông còn lành đem ra bến sông giặt sạch bán lại cho những người chuyên bán cá, bán cua đựng cua cá cho khách hàng. Hạt bí, hạt mít lão để riêng đem rửa sạch, phơi khô, tích lũy phòng khi giáp hạt hết gạo. Hạt nhãn, hạt vải lão nhặt đem lên đồi hoặc ngoài bãi hoang vùi xuống đất mong sẽ có hạt nảy thành cây, đơm hoa, cho quả.

          Sau khi nhặt nhạnh khắp chợ, lão bắt đầu quét dọn. Lão quét kỹ từng dãy lều quán, đùn rác về phía cuối chợ. Chợ quê nghèo, chỉ là những cái lán che bằng rơm rạ, thấp lè tè. Cách nhật chợ mới họp một phiên. Người ta gánh hàng đến, trải một mảnh ni lông ra bày bán. Những thứ thải loại, rác, vỏ dưa, vỏ dừa vứt ngay tại chỗ. Lão Vận quét dọn cật lực hơn một ngày chợ mới sạch sẽ. Rồi chợ lại họp, rác rưởi lại ngập ngụa, lão lại dọn dẹp vào buổi chiều và cả hôm sau ngày chợ không họp. Cứ như thế, lặp đi, lặp lại công việc của đời người quét chợ.

          Thực ra, lão Vận mới chỉ làm người quét chợ được độ bảy, tám năm nay. Trước kia, lão là người chở đò ngang sông Đáy. Dòng sông Đáy mỏng manh như một sợi chỉ nằm dưới chân núi Tam Đảo. Nhưng khi mùa mưa, nước lũ từ thượng nguồn đổ về, dòng sông phình ra, cuồn cuộn. Lúc mùa khô, những tháng cuối năm thì nước lại trong veo, sâu chỉ săm sắp bắp chân nhìn rõ cả cá, tôm và đá sỏi dưới đáy. Ngày ấy, lão Vận cũng chỉ chèo đò theo mùa nước. Mùa khô, lão lôi con thuyền lên bãi rồi vào rừng chặt củi bán kiếm tiền đong gạo. Khi người ta bắc một cây cầu to sừng sững ngang sông thì lão Vận thành người thất nghiệp. Lão bán con thuyền nhỏ cho những người nuôi cá bè, rồi lang thang đi làm thuê, gánh nước thuê cho mấy bà bán bún phở trong chợ. Chợ quê ngày ấy không có người quét "chuyên nghiệp” như bây giờ nên rác rưởi ngập ngụa. Mấy bà bán hàng thường phải thuê lão quét dọn quán của mình. Rồi gần như cả chợ mọi người đều thuê lão quét tước chỗ ngồi bán hàng.

Dần dà, lão trở thành người quét chợ thuê. Tiếng là thuê, nhưng không phải ai cũng trả tiền cho lão, mà có cũng chẳng đáng kể. Bà bán cá thường trả công lão cái đầu cá mè. Anh hàng thịt đưa lão mẩu xương, hôm nào hứng lên cắt cho một đoạn dồi dài độ gang tay. Thường là người ta cho lão hai, ba trăm đồng. Nhưng phần lớn là làm ngơ, mặc dù buổi chợ, họ vẫn nhìn thấy lão gánh nước thuê vào các hàng quán. Lão Vận cũng chẳng đòi hỏi. Trước đây, lão quét thuê từng chỗ bán hàng cho các chủ sạp thì họ dứt khoát phải trả tiền. Bây giờ lão quét cả chợ thì lại như làm không công. Gần đây, chắc nhiều người có ý kiến, ông chủ tịch xã cân nhắc, nâng lên đặt xuống mãi mới quyết định "trả lương” cho lão bằng mười ki-lô-gam gạo một tháng. Nghe ra thì có vẻ to nhưng kỳ thực cũng chỉ bằng ba mươi nghìn đồng. Thôi thế cũng tốt, lão Vận có một khoản thu ổn định, đủ ăn, đỡ lận đận khi giáp hạt. Đời lão cũng đã xế chiều rồi, cần gì hơn nữa đâu.

          Quét xong tất cả các dãy quán trong chợ thì trời đã sập tối, lão Vận thu các thứ "chiến lợi phẩm” ra về. Đống rác góc chợ ngày mai lão mới đốt hoặc gánh ra đổ ngoài bờ sông. Lão xách cái đầu cá lần bước về nhà. Lão thôi chở đò nhưng túp lều của lão vẫn ở trên bến sông.

          Về đến gần nhà, lão huýt sáo và gọi:

          - Anh Cún đâu rồi!

          - Hực...- Một con chó to từ trong nhà phóng ra vẫy đuôi mừng rối rít. Nó ngoạm lấy ống quần lão kêu ư ử. Lão Vận vỗ về:

          - Đói lắm rồi hả! Để yên, tao nấu cơm cho mà ăn. Hôm nay có cái đầu cá trắm của bà Thơm cho đây này!

          Con chó phóng lên hè. Nó chồm hai chân trước đẩy cánh cửa mở ra rồi quay lại cào cào xuống đất ý mời lão vào nhà. Lão Vận châm đèn, tìm nồi nấu cơm. Con Cún cứ luẩn quẩn quanh lão. Thấy lão nhặt rau, nó cũng ngoạm một cọng rau muống cắn ra làm mấy đoạn. Lão vỗ vỗ vào đầu nó an ủi:

          - Yên nào! Mày không làm được đâu!

          Lão quay lại đun củi vào bếp. Con chó nhổm dậy. Nó dùng miệng ngoạm một cành củi đủn vào bếp. Đôi mắt nó sáng long lanh nhìn lão Vận như muốn hỏi làm như vậy có được không. Lão Vận gật gật đầu. Con Cún rên lên ăng ẳng vẻ phấn khởi lắm.

          Cơm chín, lão Vận chia ra làm hai phần. Một loa cơm của lão. Phần còn lại lão đổ vào cái lon sành cho con Cún. Cái đầu cá nấu canh lão chỉ gỡ được một chút thịt còn lại cho con chó cả. Con Cún vừa ăn vừa gừ gừ trong miệng. Nó có vẻ đói lắm. Cả ngày nó chỉ được ăn một bữa. Buổi sáng trước khi ra chợ, lão dặn nó: "Trông nhà nhé!” rồi đi. Buổi trưa lão ở luôn ngoài chợ. Ai cho gì, lão ăn nấy, khi thì bắp ngô, lúc khúc sắn luộc. Con Cún ở nhà, nó loanh quanh chui ra, chui vào túp lều. Đói quá thì nó lại lôi mấy khúc xương trâu, xương lợn khô khốc ra gặp suông để đánh lừa cái bụng. Biết thế nhưng lão Vận không thể đưa con chó ra chợ được. Nó to lớn chạy lông nhông ai cũng khiếp, với lại lão sợ nhất là bọn chuyên bắt trộm chó. Bữa tối, bao giờ lão cũng dành phần cơm nhiều hơn cho nó. Vài năm gần đây lão mới được ăn cơm. Trước kia khẩu phần của lão chủ yếu là sắn. Nồi cơm chỉ lơ thơ vài hạt gạo bám vào miếng sắn. Tàn tật, ốm yếu như lão có cái mà ăn là may lắm rồi. Con chó hình như cũng hiểu lão nghèo nên cho gì nó ăn nấy. Nồi cơm, nồi canh lão để ngay dưới đất nhưng dù có đói đến mấy nhưng không bao giờ nó lén ăn vụng. Nó là con vật trung thành. Lão Vận bảo nó coi nhà- mặc dù nhà lão chẳng có thứ gì đáng coi- thì đố ai dám lại gần túp lều của lão. Ngày chợ không có phiên, lão Vận mới cho nó đi theo. Trong khi lão dọn dẹp, quét tước thì con Cún lùng sục khắp chợ đuổi chuột hoặc tìm kiếm những khúc xương mà cánh giết mổ quăng ra đâu đó.

Lão Vận chẳng còn vợ con. Vợ con lão chết trong trận bom bọn Mỹ rải xuống bến sông khi lão đang chặt củi trên rừng. Lão sống thui thủi một mình. Cạnh hố bom, lão chỉ đủ sức dựng lên một căn nhà nhỏ, gọi là túp lều cũng đúng. Con Cún là bạn thân thiết duy nhất của lão Vận. Lão sống gần như cô độc ngay cái làng mà thời mở cửa đang dần dần chuyển thành thị trấn này. Xung quanh túp lều của lão, những ngôi nhà cao tầng thi nhau mọc lên. Người ta bắt đầu ở sang, ăn sang và chơi sang nên càng ít người muốn gần với kẻ lam lũ, bần cùng. Trông lão lại có vẻ hơi dị dạng nên người ta càng ngại tiếp xúc. Chân phải lão không biết bị tật hay bị thương nên đi lại tập tễnh, khó khăn. Khi gánh nước thuê, thùng nước sóng sánh trào ra gần hết, nhưng khi quét chợ thì cái bước thấp, bước cao của lão lại làm cho nhát chổi dài hơn. Cùng trang lứa với lão bây giờ đều khá giả. Tuy họ không coi thường nhưng cũng chẳng ai muốn chuyện trò với lão. May mà lão còn có con chó làm bạn.

Con chó là do lão nhặt được từ mấy năm trước. Hôm ấy, trời đã sâm sẩm tối, lão vẫn lội xuống sông giặt mấy cái túi ni-lông. Mưa ở thượng nguồn nên nước sông đang lên. Lúc lão đang chuẩn bị về thì chợt có một cái bao tải buộc túm miệng từ đâu trôi đến rạt vào chân lão. Lão giật bắn người vì trong đó có cái gì ngọ nguậy. Lão loạng choạng bước vội lên bờ, thở dốc. Ngày xưa bên kia sông là vùng tề, bọn giặc bắt được cán bộ du kích thường đưa lên phía đập nước tra tấn dã man. Có khi người bị đánh còn ngắc ngoải chúng cũng nhét vào bao tải thả trôi sông. Những xác người lập lờ dạt vào bến nước. Nhưng bây giờ là thời khác rồi. Lão Vận trấn tĩnh lại. Lão nhặt cành cây khều cái bọc vào lôi lên mở dây buộc dốc ngược. Lẫn trong đám giẻ rách tuột ra một con chó nhỏ. Nó ướt sũng nhưng vẫn còn ngọ nguậy. Lão đem nó về nhà đặt cạnh bếp lửa. Một lúc sau nó bắt đầu rên ư ử rồi ngóc cổ dậy. Nó nhìn lão, mắt chớp chớp vẻ biết ơn. Nhìn thân hình con chó còm nhom, sần sùi ghẻ lở, lão hiểu vì sao họ đã nhét nó vào bao vứt xuống sông. Lão Vận vét cơm nguội cho nó ăn. Hôm sau, lão xin diêm sinh về bôi trị ghẻ cho nó. Con chó ở với lão Vận từ đó. Mặc dù cũng bữa đói, bữa no, miếng được, miếng mất như lão nhưng con chó vẫn hồi sức và lớn nhanh. Sau một thời gian nó đã to lớn lộc ngộc. Nó khôn lắm. Có lần bọn trộm chó đem bả ném đợi nó ăn ngã xuống là tuồn vào bao tải đem đi. Nhưng nó chỉ ngửi mà không ăn. Ai cho cái gì nếu không được sự đồng ý của chủ thì nó không bao giờ tự ý ăn cả. Thấy con chó khôn, có người muốn mua, nhưng lão không chịu.

          Một đêm đầu mùa hạ, trăng sáng nhàn nhạt. Sau những cơn mưa liên tiếp, nước sông Đáy bắt đầu dâng lên cao ngập dần những bãi bồi ven bờ nơi mà khi mùa cạn người ta thường trồng ngô. Từng đàn cá trôi, cá chép bắt đầu kéo lên bãi bồi vật đẻ. Tiếng cá quẫy đành đạch. Chỗ nước nông, những con cá to hở cả lưng hoặc nằm nghiêng trắng lốp dưới ánh trăng mờ. Lão Vận gỡ cái nơm treo ở đầu nhà xuống, tìm một sợi dây để xâu cá. Trước khi ra bãi sông, lão còn rút chiếc tù và cài trên vách rúc lên mấy hồi báo cho dân làng biết có cá lên bãi.

          Lão Vận tay cầm đuốc, tay cầm nơm tập tễnh đuổi theo những con cá đang rạch phành phạch vào bãi bồi ngập nước. Lão chụp luôn được mấy con cá chép cỡ độ bàn tay. Xâu vội mấy con cá buộc vào thắt lưng, lão xách nơm đuổi theo một con cá khá to đang rạch ra phía sông. Lão giơ nơm chụp mạnh. Bỗng lão thấy hẫng một cái, nước ngập lút đầu. Lão bị trượt xuống một cái hố sâu mà khi sông cạn người ta đào moi lấy sỏi. Lão chới với buông cái nơm, bó đuốc tắt ngấm. Dòng nước xoáy cuốn ngay lấy lão. Lão cố ngoi lên, ú ớ kêu cứu. Bãi sông vắng làm gì có người mà kêu. Lão cố vùng vẫy. Nhưng cái chân dị tật của lão bỗng nhói lên thẳng đơ. Lão bị dòng nước xiết lôi dần ra xa bờ.

          Giữa lúc đó thì nghe "ùm” một tiếng như có người lao xuống nước. Con Cún đã đi theo lão từ lúc nãy, thấy chủ bị nạn nó liền lao xuống cứu. Nó bơi ngay đến chỗ lão. Nó ngoạm vào áo lão, cố kéo lão về phía bờ sông. Lão Vận ôm lấy con chó. Nó bơi rất khoẻ. Vào gần bờ, lão Vận túm được một cành cây mọc là là mặt nước. Con chó cũng vùng vẫy cố bơi vào bờ. Nhưng nó không có tay để túm lấy ngọn cây như lão Vận. Xoáy nước đẩy nó ra giữa sông.

          Lão Vận lóp ngóp bò được lên bờ ngồi thở rốc. Sực nhớ đến con Cún, lão hốt hoảng gào lên: "Cún... ơi! Cún... ơi...”. Hình như có tiếng con chó kêu "ăng ẳng” mãi giữa sông, lẫn trong tiếng nước chảy ào ào. Lão Vận tập tễnh lần theo mép nước, xuôi phía hạ lưu. Vừa đi lão vừa gọi: "Cún ơi... mày đâu rồi... Cún ơi...”. Tiếng lão nấc lên, yếu dần. Lão đau đớn thất thểu đi dọc bờ sông. Vừa đi lão vừa khóc. Lão khóc không thành tiếng. Đây có lẽ là lần thứ hai trong đời lão khóc. Lần thứ nhất là khi nhà bị bom, lão bới đất, tìm gom từng mảnh thi thể của vợ con. Lão đi đến mỏi chân theo dòng nước chảy. Dòng sông Đáy mỏng manh giữa những lũy tre xanh khi mùa cạn bây giờ đục ngầu, sôi sùng sục, hung dữ. Lão Vận ngồi phệt xuống sát mép nước. Lão cởi xâu cá vẫn đeo lủng lẳng bên hông ném xuống sông. Chưa bao giờ lão thấy căm thù dòng sông như thế.

Trời đã sáng hẳn, không hy vọng tìm thấy con chó, lão Vận đành quay về. Lão bước thập thõm trên con đê gồ ghề. Quần áo lão tả tơi, ướt sũng. Lão vừa đi vừa lầm rầm gọi con Cún. Nước mắt lão giàn giụa. Lão giơ tay chùi mặt. Lũ trẻ con chăn trâu trên đê rồng rắn chạy theo lão í ới:

          - Ê... Ê... có một ông điên chúng mày ơi!

          Mặc lũ trẻ ném bùn đất vào lưng, lão Vận cứ lầm lũi đi. Vừa về đến nhà lão ngã dụi xuống thềm. Lão lập cập cố cởi bộ quần áo ướt sũng và lấm lem bùn đất rồi lết lên giường.

          Lão ốm mấy ngày, bỏ cả quét chợ.

          Lão thương tiếc con chó. Lão cứ tự trách mình ham cá mà đã hại chết nó. Bữa bữa lão vẫn nấu nồi cơm nhỏ rồi xẻ làm đôi. Lão nhai trệu trạo vài miếng. Lon cơm phần của con chó sáng nào lão cũng phải bưng ra bến sông đổ xuống nước cho đàn cá mương đang lau nhau tìm mồi. Đêm chợt có tiếng chó kêu là lão lại bật dậy dỏng tai lắng nghe, chờ đợi. Một lần nhặt được khúc xương còn dính nhiều thịt lão đã bật khóc giữa chợ vì xót thương con chó. Lão như người mất hồn. Bà hàng bún mắng: "Lão này mắt mũi để đâu mà gánh nước đổ tràn cả bể, ướt hết chỗ ngồi thế này!”. Bà hàng cá lại bảo: "Lão hồi này sang gớm nhỉ, cho đầu cá không thèm lấy!”. Gã bán thịt thì vô tâm: "Bố cứ đưa con Cún ra đây, con mà làm món nhựa mận thì hết ý...”.

          Buổi chiều quét xong chợ, lão Vận thấy chân tay rã rời. Lão chẳng buồn  thu nhặt các thứ "chiến lợi phẩm” như trước nữa. Lão đùn tất cả rác ra cuối chợ châm lửa đốt. Khi lão vừa về đến nhà thì có tiếng kẻng báo động gõ nhịp ba dồn dập "keng keng keng... keng keng keng... keng keng keng...”. Tiếng người kêu dáo dác khắp thị trấn:

- Cháy chợ... cháy chợ rồi!...

          Mọi người lao ra phía chợ. Lão Vận hốt hoảng vứt rá gạo tập tễnh chạy theo. Lửa đang cháy ngùn ngụt. Ngọn lửa hả hê tung hoành trên những mái lều quán lợp bằng tranh cỏ khô nỏ. Tiếng tre nứa nổ đôm đốp. Nguyên nhân cháy là do gió xoáy thốc vào đống rác lão Vận đốt ở cuối chợ đưa tàn lửa lên mái lều quán.

Mọi người xông vào chữa cháy. Nhưng gió to, lại không tiện nước nên mấy dãy quán liền kề nhau cháy trụi. Những dãy hàng quán xa hơn chưa bén lửa thì quá trình chữa cháy người ta rút lấy cây để dập lửa hoặc đạp đổ để tránh cháy lan. Thành thử đến khi dập tắt được lửa thì các quán chợ cũng tan tành hết.

          Trong đám người chữa cháy nhốn nháo, chợt có tiếng ai đó hét to:

          - Phải lập biên bản, bắt đền lão Vận!

          - Đúng đúng! Lôi cổ lão ấy ra đây! Lão làm ăn thế à!

          Lão Vận bị túm cổ lôi xềnh xệch ra bãi trống giữa chợ. Lão run cầm cập, mặt mũi tái nhợt.

          Giữa lúc nhiều người đang xúm xít xung quanh lão Vận giằng xé, xỉa xói, mắng chửi, dọa đánh thì có tiếng quát to:

          - Buông... ngay... ông… ấy… ra!

          Gã bán thịt gạt đám đông xông vào. Đầu gã tóc đang cắt dở nham nhở, tay gã lăm lăm con dao chọc tiết lợn nhọn hoắt. Gã bợp tai thằng đang túm giữ lão Vận. Thằng này kêu "á” một tiếng rồi lủi mất. Gã bán thịt giằn giọng:

          - Muốn bắt đền hả? Lên xã mà bắt đền! Bao năm nay các ông ấy thu đủ loại thuế, lệ phí, bao nhiêu lần hứa xây dựng chợ, nhưng đến giờ đã thấy động tĩnh gì chưa. Chợ với chiếc, mấy túp lều rơm rạ xiêu vẹo mưa gió táp mặt,  mấy lần tôi định phóng một mồi lửa cho đỡ bẩn mắt. May mà lần này nó cháy! Càng tốt.

          Nhiều người nhao nhao hưởng ứng theo gã bán thịt. Ông chủ tịch và anh trưởng công an xã vừa đến thấy thế liền quay xe máy đi luôn.

          Sau vụ cháy chợ, lão Vận cũng thất nghiệp luôn. Người ta không thuê lão quét chợ, gánh nước nữa. Lão mò cua, kiếm cá, mót khoai, mót lúa kiếm bữa qua ngày. Rồi lão ốm nặng. Mấy bà hay buôn bán ở chợ nghe tin cũng gửi cho lão vài cái bánh cuốn, mấy quả chuối.

Có lẽ lão Vận chết phải đến nửa ngày dân làng mới biết do lũ trẻ con gọi không thấy lão trả lời đã báo cho ông trưởng thôn. Lúc chuẩn bị khâm liệm, người ta thu dọn cái quan tài gỗ tạp đóng sẵn kê giữa nhà thì phát hiện có một gói giấy nhỏ. Đó là một gói tiền. Đếm được hai triệu ba trăm nghìn đồng. Toàn là bạc lẻ. Ai đó nói: "Lão này thế mà giàu và kín tiếng quá!”. Rồi lại có người kêu lên: "ối! Còn có cả thư lão để lại đây này!”.

          Ông trưởng thôn cầm lá thư tìm thấy trong quan tài lên đọc. Chữ lão Vận viết ngoệch ngoạc, xiêu vẹo:

Kính thưa bà con!

Tôi ngàn lần xin bà con đại xá cho tội làm cháy chợ.

Tôi gom góp được ít tiền, năm trăm nghìn gọi là có chén rượu nhạt cho anh em đào huyệt và vài miếng trầu chay để bà con đưa tôi ra đồng. Còn một triệu tám trăm nghìn đồng, là tiền xã trả công quét chợ năm năm qua, tôi không dùng đến, xin được góp vào xây dựng lớp mẫu giáo thôn ta.

          Vô cùng đội ơn bà con, làng xóm.

                                                                       Kính thư

                                                               Nguyễn Văn Vận

          Đám ma lão Vận khá đông. Nghĩa tử là nghĩa tận. Nhiều người bỏ cả buổi chợ để đi đưa đám lão.

          Lão Vận chết được ba hôm thì con Cún đột nhiên trở về.

Đêm ấy bị nước lũ cuốn ra giữa sông, nó cố vùng vẫy, may bám vào được một đoạn cây chuối. Dòng nước đưa nó về mãi phía hạ lưu cho đến khi dạt vào một bãi cát bồi. Con Cún lết lên bờ, thoát chết. Nó liền tìm đường quay trở về. Có lẽ nó đã phải vượt đến cả trăm cây số qua bao nhiêu thành phố, thị xã, làng mạc. Vừa đi vừa kiếm ăn, mấy phen nó suýt bỏ mạng vì bọn săn trộm chó. Nó bị bọn chúng đánh què một chân, nên bước đi tập tễnh.

          Cứ lần hồi ngược dòng sông, con Cún về được đến nhà. Vừa tới cửa, nó đã rên lên ư ử sung sướng, đuôi vẫy rối rít. Chắc nó nghĩ lão Vận đang chờ nó trong nhà. Nhưng rồi nó chợt nhận ra có điều gì khác lạ. Nó dùng mõm ẩy cánh cửa lao vào nhà. Nó khịt khịt sục mũi vào đống tro lạnh trong bếp, ngửi mấy cái quần áo cũ của lão Vận treo trên vách. Rồi nó chạy ra giữa nhà. Nó chợt nhận ra chiếc áo quan không còn kê ở đấy nữa. Dưới gầm chiếc quan tài ấy là chỗ nó vẫn nằm coi nhà mỗi khi ông chủ ra chợ.

          Con Cún hộc lên một tiếng, co rúm lại. Rồi nó tru lên đau đớn.

          Mấy đêm liền nghe tiếng con chó tru lên rên ri trong căn nhà lão Vận, đám thanh niên bảo nhau: "Con chó điên rồi! Đập chết đi kẻo nó đớp vào ai thì khốn”. Thế là chúng hò nhau vác gậy gộc, xẻng cuốc bao vây nhà lão Vận. Con chó đứng trên thềm nhe răng, mắt gườm gườm nhìn đám thanh niên. Nó có vẻ gầy hơn nhưng đôi mắt thì sáng quắc. Khi đám thanh niên ập vào thì nó phóng vút xuống sân, làm một thằng hoảng quá vứt gậy ù té chạy. Con chó lao lên bờ đê. Bọn thanh niên hò hét, rầm rập đuổi theo. Con chó hình như quên hẳn cái chân đau, nó phóng vun vút về hướng đồi cây, nơi xã dành làm nơi yên nghỉ cho những người quá cố. Vào trong nghĩa trang, nó vừa ngửi vừa chạy và đến đúng mộ lão Vận. Nó nằm phục xuống cạnh ngôi mộ mới. Đám thanh niên hò hét xông đến. Con chó vẫn nằm yên mặc mọi người áp sát hầm hè, vây quanh. Đám thanh niên dừng lại, gậy gộc lăm lăm trong tay. Giữa lúc đó thì ông già quản trang từ đâu hớt hải chạy đến. Ông hổn hển gọi:

          - Đừng đánh nó các cháu ơi! Nó không bị điên đâu. Nó là con vật có tình, có nghĩa với con người đấy các cháu ạ, đừng giết nó mà phải tội...

          Nghe người quản trang năn nỉ, can ngăn mãi, đám thanh niên mới chịu rời khỏi nghĩa trang. Lúc này con Cún mới đứng lên. Nó đi quanh mộ lão Vận mấy vòng, vừa đi vừa rên ư ử. Có lẽ nó khóc.

          Mấy ngày sau, vẫn thấy con chó quanh quẩn chỗ mộ lão Vận. Người quản trang để ít cơm trên miếng lá chuối nhưng nó không ăn. Nó chỉ liếm chút nước đọng trong mảnh bát vỡ. Đêm đêm, người ta nghe tiếng kêu rền rĩ của nó trong nghĩa trang.

          Con Cún nhịn ăn mà chết.

Người quản trang đào một cái hố phía dưới mộ lão Vận rồi trải miếng ni lông rách đặt xác nó xuống lấp đất. Ông đắp cho con vật trung thành một nấm mộ nhỏ.

                Đoạn kết

          Sau vụ cháy, xã đã đầu tư mấy trăm triệu đồng xây lại chợ. Các dãy hàng quán bây giờ đều xây trát, vôi ve, lợp ngói khang trang. Người ta cũng thành lập một tổ thu gom rác thải và quy định các hộ kinh doanh phải nộp lệ phí vệ sinh hẳn hoi, không có chuyện thù lao được chăng hay chớ như thời lão Vận còn quét chợ.

          Một hôm, có chiếc xe du lịch sang trọng rẽ vào trụ sở uỷ ban nhân dân xã. Bước xuống xe là một ông cán bộ tóc bạc trắng. Có cả ông bí thư huyện uỷ đi cùng. Ông ta là một vị bí thư tỉnh uỷ một tỉnh phía Nam. Ông ra thăm Đền Hùng. Sực nhớ lại những ngày xưa hoạt động ở vùng Sơn Dương, Vĩnh Yên nên ông bảo lái xe ghé qua Lập Thạch. Câu chuyện của ông lớp cán bộ xã bây giờ không ai biết. Ông kể chuyện ngày ấy hoạt động trong lòng địch. Từ Hà Nội ông được lệnh lên Việt Bắc nhận nhiệm vụ mới. Ông qua đò sông Đáy và nghỉ lại một cơ sở bên này sông. Bọn chỉ điểm đã phát hiện nơi ông đang ở. Tên quan ba Pháp dẫn một tiểu đội biệt kích đóng giả làm một hiệp thợ mộc. Chúng bọc súng vào bao tải, gọi đò sang sông định tập kích bất ngờ.

Phát hiện ra vẻ đáng ngờ của toán người, nhất là tên mà chúng gọi là thợ cả trùm khăn kín đầu nhưng vẫn thòi ra cái mũi lõ, anh lái đò vẫn bình tĩnh chở chúng qua sông. Khi bọn chúng lên bờ, lách cách cởi các bao đựng súng thì anh đẩy thuyền ra giữa sông. Anh rút chiếc tù và cài trong mui thuyền ra rúc lên liên hồi báo động. Dân làng vốn rất cảnh giác vì ở sát vùng Tề nên biết là có biến. Ông cán bộ kịp chạy thoát. Bọn địch bị lộ, chúng điên cuồng xả đạn vào làng và bắn ra sông chỗ con thuyền làm anh lái đò bị trúng đạn gẫy chân. Sau đận ấy, ông lên chiến khu an toàn. Giải phóng Điện Biên Phủ, ông vào miền Nam chiến đấu, rồi làm cán bộ lên đến chức bí thư tỉnh uỷ. Sắp nghỉ hưu, ông ra thăm lại miền Bắc. Chợt nhớ lại tiếng tù và của người lái đò, ông tìm về bến sông xưa.

          Nghe câu chuyện của ông bí thư tỉnh uỷ, mọi người đều đoan chắc người lái đò dũng cảm thổi tù và ngày ấy đích thị là lão Vận quét chợ.

Ông bí thư tỉnh uỷ cùng mọi người đến nhà lão Vận. Trên cái bàn thờ tàn lạnh hương nhang, họ tìm thấy chiếc tù và bằng sừng trâu. Ông bí thư tỉnh uỷ trân trọng cầm chiếc tù và cũ kỹ lên xem. Anh cán bộ văn hoá huyện nói: "Xin bác cho chuyển về phòng truyền thống của huyện”. Ông bí thư tỉnh uỷ gật đầu. Ông bảo anh thư ký mua hoa quả, hương nhang ra nghĩa trang viếng mộ lão Vận. Nghe nói trước khi ra đi, ông còn gửi lại xã mấy triệu đồng để hương khói và sau ba năm cải táng, xây mộ cho lão.

Hôm ấy là đúng một trăm ngày mất của lão Vận...

Phản phê bình

Truyện vui của Trọng Bảo

          Kết thúc buổi diễn tập phòng thủ khu vực, trung đội trưởng dân quân cơ động nhận xét, đánh giá kết quả buổi tập. Đến phần đảm bảo hậu cần, anh nghiêm khắc phê phán:

- Đồng chí Hoa phụ trách hậu cần cho đơn vị nhưng rất thiếu trách nhiệm! Cơm nấu thì sống khê, toàn trấu sạn, thức ăn không thể nào nuốt nổi, canh mặn chát, nước chấm thì lại nhạt thếch, thái độ phục vụ thì kém nhiệt tình... Đồng chí cần nghiêm khắc tự phê bình, kiểm điểm để... sửa chữa và không ngừng tiến bộ!

          Nghe vậy, một dân quân ở xóm bên được cử sang phối thuộc ngạc nhiên hỏi nhỏ người bên cạnh:

          - Quái! Sao ông ấy lại phê bình cô Hoa gay gắt thế nhỉ? Mình thấy cơm canh cô ấy nấu hôm nay ăn cũng ngon, cô ấy cũng rất vui vẻ với anh em trong đơn vị đấy chứ...

          - Ồ! Cậu không biết đâu! Cô Hoa chính là vợ của trung đội trưởng đấy. Ở nhà bị vợ bắt nạt mãi, hôm nay ông ấy mới được dịp nói cho hả cơn ấy mà...

          Giữa lúc đó thì ở hàng bên cạnh có tiếng nghiến răng kèn kẹt và tiếng phụ nữ lẩm bẩm:

          - Cứ phê bình mạnh nữa đi! Tối nay về nhà sẽ biết thế nào là "phản... phê bình...".

Tự  hào

Truyện vui của Trọng Bảo

          Buổi hội trường, mấy cô gái ríu rít khoe với nhau. Một cô nói:

          - Này! Bố mình vừa được phong danh hiệu là "Nghệ sĩ nhân dân" đấy nhé!

          - Bố mình thì là "Nhà giáo nhân dân" đấy! 

- Còn bố mình đang được đề nghị nhà nước phong danh hiệu "Thầy thuốc nhân dân".

          Đến lúc này, các cô mới để ý đến một cô gái nhỏ bé từ nãy đến giờ chỉ im lặng nghe các bạn nói chuyện, họ liền hỏi:

          - Này Lan! Thế bố cậu là gì vậy?

          - À! - Lan nói không kém vẻ tự hào: - Bố mình rồi cả anh và chị gái mình thì từ lâu đã mang danh hiệu... "Quân đội nhân dân" rồi! 

Quả nhiên

Truyện vui của Trọng Bảo

Hai tên trộm rủ nhau đi "hành nghề". Chúng dẫn nhau đi tìm nhà nào sơ hở để đột nhập. Một tên chỉ vào một ngôi nhà hỏi:

- Tại sao chúng ta lại không vào nhà này nhỉ?

- Vì con trai nhà ấy là bộ đội mới về phép!

- Thế thì đã sao?

- Tao nghe nói cậu ta là lính trinh sát, vừa đoạt loại giỏi trong kiểm tra môn võ thuật. Vào đấy nguy hiểm lắm, tao sợ, thôi ta cứ thật cẩn thận vẫn hơn! 

Dẫn nhau đi một lúc, chúng lại bàn nhau:

- Vào nhà này chứ? - Một thằng nói, thằng kia gàn:

- Ồ! Không được đâu, nguy hiểm lắm!

- Vì sao thế?

- Vì nhà này hôm nọ họ vừa mới được công an khen thưởng về thành tích bảo vệ an ninh, đấu tranh phòng chống bọn tội phạm đấy...

- Nếu thế thì tốt quá rồi, vào được đấy! Nhất định họ sẽ chủ quan, ta sẽ khoắng được một mẻ thật lớn và ngon lành cho mà xem!

Quả nhiên bọn chúng tính toán đúng.

Thích nhất

Truyện vui của Trọng Bảo

Chú bé hỏi mẹ:

- Sao lần nào về phép, bố cũng đưa mẹ con mình đi chơi Hồ Tây nhỉ?

- À... à... có lẽ bố là lính hải quân nên đi Hồ Tây cho đỡ nhớ biển ấy mà!

Bà mẹ giải thích. Chú bé lại hỏi:

- Thế còn bố bạn Hải đưa bạn ấy đi xem cầu Thăng Long vì sao ạ?

- Có thể bố bạn ấy là lính ở đơn vị... công binh!

- Thế thì thích nhất là bố bạn Tuấn rồi, vì bố bạn ấy ở đơn vị hậu cần!

- Sao con biết?

- Vì lần nào bố bạn ấy về, bạn ấy cũng được đi ăn... kem thoải mái! Giá bố nhà mình cũng ở đơn vị hậu cần thì tốt quá mẹ nhỉ?

Chú bé nói vẻ tiếc rẻ.

Nghi binh

Đến kiểm tra công tác vệ sinh ở một nhà ăn, thủ trưởng liền gọi anh nuôi trưởng đến phê bình nhắc nhở:

- Tại sao ngay bên ngoài nhà ăn mà các cậu lại để một đống rác to lù lù, có cả xác chuột chết ruồi nhặng bu đầy thế này Công tác vệ sinh phòng bệnh kém thế hả?

Anh nuôi trưởng ấp úng chống chế:

- Dạ... dạ... đây là sáng kiến... nghi binh của chúng em đấy ạ!

- Nghi... nghi cái gì... vệ sinh kém lại còn khoẻ bao biện à!

- Không phải ạ! Là... là... mấy lần chúng em đề nghị cho mua lồng bàn để đậy cơm canh trong nhà ăn nhưng thủ trưởng vẫn chưa duyệt cho mua... Đống rác này nhằm... nghi binh... thu hút toàn bộ bọn ruồi nhặng đến để chúng quên... những mâm cơm không có lồng bàn trong nhà ăn đấy ạ!

Thủ trưởng trố mắt kinh ngạc trước lý lẽ của anh nuôi trưởng.

Vào văn công hải quân

Truyện vui của Trọng Bảo

Tại một buổi tuyển diễn viên thanh nhạc cho các đoàn văn công, một thí sinh được gọi vào thử giọng nữ cao. Hát xong, cô gái rụt rè hỏi lại ban giám khảo:

- Giọng hát của em như vậy liệu có đủ tiêu chuẩn để được trúng tuyển vào đoàn nghệ thuật nào không ạ?

- Tốt lắm, có thể được! Cô đến gặp ngay đồng chí trưởng đoàn nghệ thuật của Bộ đội Hải quân nhé!

Cô gái reo to: 

- Ôi thế thì thích quá! Em sẽ được ra biển biểu diễn phục vụ các anh bộ đội hải quân trên tàu và trên các hải đảo xa xôi.

Ông trưởng ban giám khảo gật gù:

- Đúng... đúng! Nhưng trước mắt cô sẽ được biên chế ngay vào bộ phận làm công tác... cứu hộ, cứu nạn. Khi cần cô sẽ gào to gọi... cấp cứu!

"Chiến tranh"

Truyện vui của Trọng Bảo

          Gặp nhau ngoài đường, anh hàng xóm hỏi bạn:

          - Hôm qua, bên nhà cậu làm gì mà ầm ĩ, bát đĩa vỡ loảng xoảng thế! Vợ chồng cãi nhau hả?

          - Chiến tranh... ấy mà!

          Hôm sau gặp lại bạn, anh ta lại hỏi:

          - Làm lành rồi à?

          - Chưa... vẫn còn đang "chiến tranh"!

          - Sao mình thấy nhà cậu có vẻ yên ả, im ắng rồi cơ mà?

          - À! Hôm trước là "chiến tranh nóng", còn hôm nay thì là "chiến tranh lạnh", mà cũng không kém phần ác liệt cậu ạ!

Tả cảnh

          Bố là bộ đội về phép, thằng con nhờ:

          - Ngày mai, bố ở nhà giúp con với nhé!

          - Giúp làm việc gì?

          - Con phải làm bài văn tả chú bộ đội luyện tập, hành quân, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu, bố làm thử để con quan sát...

          - Ồ! Thế thì không được rồi, bố làm sao có thể làm được những việc ấy ở nhà hả?

          Thằng con ngẫm nghĩ một lát rồi nó reo lên:

          - Thôi được! Con sẽ tả cảnh bộ đội giúp dân vậy!

          Bố ngơ ngác chưa hiểu ra sao thì nó bảo:

- Ngày mai bố sẽ quét nhà, nấu cơm, rửa bát rồi giặt quần áo cho mẹ. Con sẽ quan sát để tả cảnh "bộ đội giúp dân" bố ạ!?

          Bố: ?!

            Bổ sung thêm truyện này:                                           

Ngu... ngu quá!

Giữa hai trận đánh, có hai người lính ngồi trong chiến hào lau súng, lắp đạn, chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới. Anh lính trẻ ao ước:

- Em mong hòa bình quá! Ngay trong ngày hòa bình đầu tiên em sẽ lập tức cưới vợ...

Người lính già (đã có vợ) cáu:

- Sao mày ngu thế! Đánh nhau mãi mới giành được hòa bình thế mà ngay trong ngày hòa bình đầu tiên mày lại lao đầu luôn vào một cuộc... "chiến tranh" khác ác liệt hơn thế hả? Sao mà ngu... ngu...quá con ơi!

Sau lễ đón cờ

Truyện vui của Trọng Bảo

          Đến thăm, chúc Tết một đơn vị điển hình về công tác hậu cần, thấy bữa ăn của chiến sĩ lại quá đạm bạc, chỉ có rau với đậu phụ, xoong canh trong veo nhìn thấy cả đáy, đồng chí cán bộ cấp trên liền hỏi các chiến sĩ trẻ:

          - Tại sao ở nơi có điều kiện tốt thế mà các bạn không chăn nuôi, tăng gia để cải thiện đời sống?

          - Có chứ ạ! Chúng em tăng gia mạnh ấy chứ...

          - Thế sao tết nhất đến nơi rồi mà chuồng trại chỉ lơ thơ vài con lợn còi, vườn rau thì tiêu điều xơ xác còn suất ăn thì "khiêm tốn" thế này?

          - Báo cáo thủ trưởng! Tổng kết cuối năm vừa qua, đơn vị chúng em đã tập trung tất cả lợn, bò, dê, gà, vịt, ngan, ngỗng phục vụ cho việc đón cờ thưởng "Đơn vị hậu cần giỏi 2008" rồi ạ!

Thử  thách

Truyện vui của Trọng Bảo

          thôn Đoài có một cô gái rất đẹp đang học trung cấp nên rất nhiều chàng trai tìm đến, nhất là các anh lính trẻ. Ông bố cô gái từng ở bộ đội muốn để con mình yên tâm học hành nên nghĩ ra một cách thử thách độc đáo. Một hôm, có anh lính trẻ đến tìm cô gái. Ông bố cô nheo mắt hỏi:

          - Cậu ở binh chủng nào?

          - Dạ... bác hỏi để làm gì ạ?

          - À! Để nhờ giúp cho một việc đúng "chuyên ngành" của cậu.

          Chàng lính trẻ vẫn chưa hiểu thì ông giải thích:

          - Đã có một anh ở đơn vị công binh đến đây, bố nhờ vận dụng kiến thức "chuyên ngành" binh chủng bắc cho một cái cầu ao, một cậu ở thông tin hữu tuyến căng một cái dây... phơi quần áo. Mới hôm trước, có anh sĩ quan đặc công đến, bố nhờ "thiết kế" cho cái bờ... rào chống trẻ con "đột nhập" hái trộm táo. Nhưng, tất cả các "công trình" ấy đều không đạt yêu cầu. Thế còn cậu?

          - Dạ! Cháu ở đơn vị cứu hỏa của kho xăng dầu ạ! Nếu nhà ta mà bị... cháy thì cháu nhất định sẽ vận dụng tốt "chuyên ngành" của mình, xin bác cứ yên tâm!!!

Đời lươn chạch

Truyện thiếu nhi của Trọng Bảo

          Tại khu đầm lầy ngập nước có rất nhiều loại cá hoang. Nổi tiếng ngang tàng hay quậy phá là hai anh em nhà lươn chạch. Bọn chúng cậy có thân hình dài và nhẵn như một mũi tên nên bơi nhanh vun vút. Trong đầm có việc gì xảy ra bao giờ chúng cũng có mặt trước tiên. Phát hiện ra nơi nào có thức ăn là chúng liền lao ngay đến xí phần trước. Do nhiều lần đoạt giải nhất các cuộc thi bơi nên chúng lên mặt coi thường các loại cá khác. Lúc nào chúng cũng khoe khoang tự phụ, cho mình là thông minh, tài giỏi nhất.

          Một hôm trong khu đầm lầy xuất hiện một mụ cá sấu. Mụ này bị con người săn lùng lấy da làm ví đựng tiền đâm trượt nên chột mất một mắt. Mụ ta phải đeo một mảnh lá sen che bên mắt chột nên trông như một tên cướp biển. Mọi loài cá trong đầm lầy đều cảnh giác vì mụ cá sấu rất thâm hiểm, gian giảo. Mụ ta đi đến đâu các loài đều lảng tránh, đề phòng. Một bữa mụ đang lừ lừ bơi giữa đầm thì gặp anh em nhà lươn chạch. Mụ ta khích:

          - Chúng mày cứ khoe là bơi nhanh nhưng tao thấy bọn cá trôi, cá chép, cá chuối còn bơi nhanh hơn rất nhiều!

          Hai anh em lươn chạch sửng cồ:

          - Chúng cháu bơi nhanh nhất... nhanh nhất...

          - Chưa chắc! Tao không tin!

          - Bà không tin thì xem chúng cháu bơi nhé!

          - Tao sẽ tin nếu chúng mày dám thi bơi với các bọn cá khác đủ tám vòng quanh hồ.

          - Thi thì thi... chúng cháu sợ gì? Chúng cháu sẽ chấp các loài cá khác một vòng đầm.

          Lươn và chạch nói và đi tìm các loại cá khác để thách đấu thi bơi. Chúng lên giọng chê bai, dè bửu khiến nhiều loài cá thấy rất tự ái vì bị xúc phạm. Họ đều ghét lươn và chạch nên gọi nhau đi thi rất đông quyết làm cho hai thằng này một phen bẽ mặt. Lão rùa có kinh nghiệm sau lần thi chạy với thỏ nên hăng hái nhận làm trọng tài.

          Bọn cá sẽ thi bơi việt dã tám vòng quanh đầm lầy. Toàn những con cá béo khoẻ dự thi. Lão rùa phất cờ lệnh. Bọn cá ào ào lao vào đường bơi trong khi lươn chạch thì đủng đỉnh. Bởi với thân hình nhọn như mũi tên chúng chỉ cần co người bắn một phát là vượt tất cả bọn cá khác. Khi bọn cá đã bơi được một vòng lươn chạch mới bắt đầu xuất phát. Sau ba vòng đầm lầy lươn và chạch đã bơi kịp bọn kia rồi vượt lên dẫn đầu. Đến vòng thứ bảy thì bọn cá đã thấm mệt. Nhiều con bơi lờ đờ miệng thở ra toàn bong bóng. Ở khu vực đích rất nhiều bố mẹ bọn cá đang háo hức chờ để đón đoàn thi bơi về đích. Không ai để ý mụ cá sấu lặng lẽ lùi lại phía sau và bơi lảng đi. Mụ ta vòng sang bên kia bờ đầm đón đoàn cá thi bơi về vòng cuối cùng. Mụ nấp sau một bụi cỏ rậm. Mỗi khi có con cá nào bơi qua chỉ cần ngoác mồm ra đớp một cái mụ đã nuốt gọn vào bụng. Gần như cả đoàn cá thi bơi đến vòng cuối cùng đều lọt vào cái miệng há ngoác to của mụ cá sấu chột mắt.

          Chờ mãi không thấy con cá nào bơi cán đích ngoài hai thằng lươn chạch đoạt giải nhất và giải nhì bố mẹ bọn cá tham dự thi mới đổ đi tìm. Lũ cá hốt hoảng khi gặp những cái vây, cái vảy cá trôi rải rác dọc đường bơi. Nhưng tiếng gọi con thảng thốt sủi bong bóng lên khắp đầm lầy. Mụ cá sấu chột mắt bụng no tròn đang nằm phơi nắng trên bờ cười sằng sặc bảo:

          - Đừng gọi nữa, lũ nó đã nằm trong bụng tao cả rồi. Hãy nhớ lấy hôm nay chính là ngày giỗ của bọn chúng... hi... hi... hi...

          Mụ cá sấu nói thêm:

          - Cám ơn hai thằng lươn chạch đã tổ chức cuộc thi này giúp tao có một bữa ngon. Tao công nhận là chúng mày bơi nhanh nhất... he... he... he...

          Đám cá bố mẹ kêu khóc rồi quay lại đuổi đánh lươn và chạch. Lươn chạch lao về nhà gọi bố mẹ chạy trốn. Nhưng biết chạy đi đâu. Cả nhà lươn chạch vội chui sâu xuống bùn để trốn tránh. Sau vụ thảm sát kinh hoàng ở đầm lầy ấy, bọn cá quyết định khai trừ lươn chạch ra khỏi cộng đồng.

  Kể từ đó loài lươn chạch phải sống chui rúc dưới bùn. Thi thoảng khi các loài cá khác không để ý chúng mới dám nhoáng nhoàng ngoi lên đớp vội một chút không khí rồi lại chui ngay xuống lớp bùn bẩn thỉu ẩn náu. Sống chui lủi mãi dưới bùn đen thiếu ánh sáng nên đôi mắt của lươn và chạch trở nên ti hí lờ đờ. Chuyện đời lươn chạch là như vậy. Và đến nay thì chúng không thể bơi nhanh được nữa.

Lời thề chó sói

Truyện thiếu nhi của Trọng Bảo

          Trong khu rừng nọ có nhiều loài chung sống. Bọn chúng sống hoà hợp, thương yêu nhau. Duy chỉ có thằng chó sói là cả rừng ai cũng ghét vì nhà nào sơ hở là nó lẻn vào ăn cắp ngay. Chó sói bị cô lập, thui thủi một mình, chả ai thèm chơi với nó.

          Một hôm, chó sói đi lang thang trong rừng tìm bạn. Nhưng các loài vừa nhìn thấy nó là lảng tránh ngay. Nhiều loài còn ném theo ánh mắt khinh bỉ và những lời dè bửu khiến nó vừa nhục lại vừa tức. Đến cuối khu rừng nó chợt gặp lão cáo già ốm yếu hom hem đang ngồi gặm một khúc xương khô. Lão này cũng là một tên gian manh, thủ đoạn nhất ở trong rừng. Nhìn điệu bộ của sói, lão biết ngay là nó đang bị các loài khinh ghét, cô lập. Lão bèn ậm è hắng giọng rồi bảo:

          - Đi kiếm cho tao cái gì ăn được rồi tao bày cách cho...

          - Bác bày cách gì ạ?

          - Cách để mày được mọi loài trong rừng kính nể, tôn trọng!

          - Thế ạ! Có đúng là bác giúp cháu được như vậy không ạ!

          - Được chứ! Mày không tin tao à?

          - Tin... cháu tin... tin...

          Thằng chó sói đáp rồi phóng đi luôn. Chỉ một lát sau nó đã xoáy được của gà rừng một ổ trứng, của lũ khỉ vài nải chuối, của đàn ong mấy bầu mật ngọt đem về cho lão cáo già. Lão cáo cười tít cả mắt vồ ngay lấy những thứ thằng chó sói vừa ăn cắp được. Ăn uống ngon lành, no nê xong lão mới bảo:

          - Để được mọi loài tôn trọng dứt khoát chú mày phải lên làm lãnh đạo...

          Thằng sói vừa nghe đã giãy nảy kêu lên:

          - Cháu... cháu làm sao mà lên làm lãnh đạo được! Mà có muốn thì các loài trong rừng cũng chả ai tín nhiệm cháu đâu!

          - Vấn đề là ở chỗ đó! Mày quen ăn cắp vặt nên mới mất uy tín. Mày đã biết câu chuyện về con mèo cắp miếng thịt và con hổ tha con lợn chưa?

          - Có, cháu có biết ạ!

          - Thế đấy! Làm quan lấy cả con lợn chả sao, làm dân ăn vụng một miếng thịt thì bị đập chết ngay. Hiểu không?

          - Vâng...

          - Vậy nên... bây giờ tao bày cho mày cách thế này. Tại buổi họp toàn khu rừng sắp tới mày phải kiểm điểm nghiêm túc và xin thề sẽ tu tỉnh lại mình, không bao giờ trộm cắp nữa. Sau đó mày phải làm đúng như thế. Từ từ rồi tao sẽ tìm cách giới thiệu để mày làm trợ lý cho ngài sư tử chúa rừng.

          Tại buổi kiểm điểm, thằng sói khóc lóc vẻ ân hận và luôn miệng xin thề sẽ sửa chữa khuyết điểm khiến muôn loài đều thương cảm. Riêng mụ cá sấu thì bữu môi cười nhạo. Quả đúng như lão cáo già tính toán, một thời gian sau không còn ai ghét và xa lánh chó sói nữa. Muôn loài đã cả tin vào lời thề chó sói. Lão cáo già tìm cách tiếp cận giới thiệu, thuyết phục chúa sơn lâm thu nhận nó làm trợ lý. Chó sói oai hẳn. Nó cung phụng chúa sơn lâm rất chu đáo nên ngày càng được tin dùng. Bây giờ thì nó chẳng thèm ăn cắp vặt nữa. Dựa thế sư tử nó làm toàn những phi vụ lớn. Mọi loài đều biết nhưng không làm gì được chó sói vì chứng cứ không đầy đủ và cũng sợ uy của chúa sơn lâm nữa. Đánh chó phải ngó mặt chủ. Mụ cá sấu vốn liều lĩnh mấy lần phục kích định trị cho nó một trận. Nhưng chó sói biết và tránh được. Nó nghĩ cách xúi bẩy để chúa sơn lâm điều cả nhà cá sấu đi canh đê ở mãi tận dưới đồng bằng nên bị con người săn lùng đến gần tiệt chủng.

          Tình hình khu rừng ngày càng thêm xấu đi. Chúa rừng bị che mắt bởi thằng sói gian manh thao túng. Nó tranh thủ vơ vét nhiều khoản đóng góp của các loài nói là để phục vụ chúa rừng, nhưng sư tử được một thì nó ăn hai. Trước tình hình ấy, chú sóc thông minh bèn hiến kế:

  - Hiện nay loài người đang chống tham nhũng. Họ có rất nhiều kinh nghiệm tốt, chúng ta nên cử chuyên gia đi gặp loài người để học hỏi kinh nghiệm.

  Muôn loài trong rừng đều cho đó là ý kiến hay. Bọn chúng quyết định cử một số loài thông minh nhất khu rừng như hổ, báo, khỉ, thỏ, rắn, rùa đi học tập kinh nghiệm chống tham nhũng. Chú vẹt biết ngoại ngữ, nói được tiếng người nên được giao nhiệm vụ làm phiên dịch.

  Không biết đoàn đi học chống tham nhũng của loài vật kết quả thế nào thì phải đến hồi sau mới rõ.

Dòng sông chảy ngược

Truyện thiếu nhi của Trọng Bảo

        Cái túi ni lông đựng rác bung ra. Hai mắt của cái Nhiên sáng lên khi nhìn thấy một con vịt bằng nhựa to bằng nắm tay trẻ con rơi xuống rãnh nước. Con bé vội đặt cái bao tải xuống lề đường cầm lấy con vịt nhựa. Con vịt bằng nhựa màu vàng nhạt còn khá mới. Hai cánh nó dang ra như muốn bay lên. Con vịt bị sứt mất một mẩu ở mỏ. Có lẽ vì thế nên một đứa trẻ con nhà giàu nào đó đã vứt nó vào bao rác và bị ném ra lề đường.

Nâng niu con vịt nhựa trên tay cái Nhiên đi dọc phố. Bây giờ là buổi chiều. Lúc mà người ta bắt đầu ném các bịch đựng rác ra đường. Con bé gói cẩn thận con vịt nhựa vào mảnh giấy báo cũ cho vào bao tải. Với một cái que sắt, nó tiếp tục móc các túi ni lông tìm những thứ có thể thu gom để bán cho những người chuyên thu mua phế liệu. Từ ngày bố mất vì tai nạn khi chuyển vật liệu lên giàn giáo nhà cao tầng, nó phải bỏ học để giúp mẹ. Mẹ nó ốm yếu bán hàng nước ở đầu ngõ phố bờ sông, chả đủ tiền nuôi cả hai chị em nó đi học cùng một lúc. Em gái nó mới vào lớp một. Nếu không phải bỏ học thì năm tới nó đã là học sinh lớp bốn rồi.

      Cái Nhiên thấy chợt thấy vui vui. Cái bao tải nó khoác trên vai nặng chĩu. Hôm nay nó nhặt được nhiều thứ. Ở khu phố sang trọng này những cái túi đựng rác để bên hè phố có nhiều vỏ bia hộp, chai rượu ngoại, sách báo, túi ni lông. Hôm trước cũng tại đây, nó nhặt được một cuốn sách gì đã cũ, giấy ố vàng, ông già cửa hàng sách báo cũ nhìn thấy cầm lên xem rồi đưa đưa luôn cho nó hai trăm nghìn đồng, gần bằng cả tháng đi nhặt rác của nó. Hôm nay cái Nhiên thấy vui vì nó nhặt được con vịt nhựa. Lát nữa về qua nhà chú Vạn chuyên hàn yếm xe máy, nó sẽ nhờ chú ấy hàn lại cho cái mỏ bị sứt của con vịt. Hai chị em nó sẽ cùng chơi chung. Cứ nghĩ đến cảnh em Liên thả con vịt vào chậu nước rồi cười tít mắt lại là nó lại thấy hân hoan trong lòng.

      Cái Nhiên kéo lê bao tải phế liệu xuống bến sông. Sau khi xếp riêng những tờ giấy, báo, nó bắt đầu giặt rửa những thứ nhặt được như túi ni lông, chai lọ nhặt được. Đem các thứ phế thải lên bờ, chợt nhớ, nó lôi con vịt nhựa ra. Có một vết bùn bẩn trên lưng con vịt nhựa. Nó lại lội xuống sông.

      - Ối! - Cái Nhiên kêu lên. Nó trượt chân chới với tuột xuống sông. Nó hốt hoảng buông rơi con vịt nhựa, hai tay cào vào bờ đất nhẵn cố níu người để khỏi bị nước cuốn lôi ra xa.

      Khi đã ép người được vào bờ đất, nó mới nhớn nhác nhìn quanh. Con vịt nhựa trôi lềnh bềnh ra xa. Nó lội ra, cố với tay nhưng thấy nước lún sâu, nó hốt hoảng lùi vào bờ. "Mất con vịt rồi Liên ơi!" - Nó buột miệng gọi tên em. Nước mắt nó ứa ra lăn trên gò má gầy nhem nhuốc. Vừa thút thít khóc vì tiếc con vịt nhựa, nó vừa cắm cúi gột rửa nốt mất cái bao ni lông và một mảnh vải bạt rách. Trời đã sâm sẩm tối. Chợt cái Nhiên thấy một vật gì trăng trắng rạt vào tay nó. Ôi! Chính là con vịt nhựa. Nó đã trôi đi rồi sao quay lại được nhỉ. Hình như nước sông đang chảy ngược.

      Cái Nhiên đang sung sướng cầm con vịt nhựa thì có tiếng quát:

      - Đứa nào kia! Lên bờ ngay, nước lũ đang tràn về đấy!

      Cái Nhiên hốt hoảng leo lên bờ. Nó ôm vội mấy thứ đồ nhặt được đang để sát mép nước rồi chạy ngược lên bờ đê. Thì ra mải làm, nó không biết nước lũ từ trên nguồn đang đổ về. Nước sông dâng lên cao. Dòng nước va vào mỏm đá nhô ra phía dưới bến bật chảy ngược trở lại, tạo thành một vùng xoáy nước lớn. Dòng sông chảy ngược đã đem con vịt nhựa trả lại cho cái Nhiên.

     Cầm con vịt nhựa trong tay, nhìn dòng sông đang cuồn cuộn chảy cái Nhiên lẩm nhẩm: "Cảm ơn dòng sông... cảm ơn dòng sông...".

Bông hồng không gai

                                   Truyện ngắn của Trọng Bảo

           Nàng là người rụt rè, nhút nhát. Đó chính là bản tính của nàng. Khi còn đi học, nàng thường chọn chỗ ngồi ở góc lớp. Trong giờ học, bài toán nào nàng cũng giải được nhưng không dám giơ tay lên bảng. Giờ ra chơi, nàng thường đứng nép mình ở gốc bàng nhìn lũ bạn tung tăng chạy nhảy, nô đùa. Thấy nàng hiền lành, yếu ớt, lũ bạn thường hay bắt nạt. Đi học mười ngày thì chín ngày nàng trở về nhà với đôi mắt sưng húp, nước mắt vòng quanh, quần áo lấm lem bùn đất.

           Nhà nàng ở phía sau làng, hơi xa hàng xóm. Trước cửa nhà có một con kênh nhỏ. Mỗi khi người ta đóng cánh cửa cống phía thượng nguồn, con kênh cạn nước, nàng thường bì bõm bắt những con cua, con cá nhỏ. Đoạn đường rẽ vào nhà nàng phải đi qua một bãi tha ma. Mỗi lần đi học, mẹ nàng thường phải đưa nàng ra tận con đường lớn.

            Mẹ nàng không phải là người vùng này.

 Một buổi kia, có một người đàn bà nằm gục ở bến sông. Dân làng xúm vào cứu chữa. Thì ra, chị bị đói nên kiệt sức. Cái thai to vượt mặt sắp đến tháng sinh. Chị được ông lão quét chợ cho ở nhờ. Người ta chỉ biết loáng thoáng hình như chị bị một thằng Sở Khanh nào đó lừa. Tuyệt vọng, chị bỏ thành phố lên rừng. Tại túp lều nhỏ của ông lão quét chợ nàng đã chào đời. Ông lão quét chợ chết, mẹ nàng bỗng nhiên trở thành người quét chợ. Cái vất vả, lam lũ, cuộc sống khốn khó nơi thôn quê cũng không làm tàn phai được vẻ đẹp của mẹ nàng. "Gái một con trông mòn còn mắt". Dù mẹ nàng có mặc quần áo vá chằng vá đụp, đội nón mê, chân tay, mặt mũi lấm lem cũng không giấu nổi những nét đẹp kiêu sa của người con gái thị thành. Nàng nhớ như in cảnh đêm đêm, những gã đàn ông quê mùa, cục súc, dâm dục say rượu lượn lờ quanh ngôi nhà của mẹ con nàng, buông những lời ve vãn tục tĩu. Rồi những mụ đàn bà quần xắn móng lợn, tay cầm dao bầu, hết gào thét, chửi bới mẹ con nàng hút hồn chồng họ và lùa những ông chồng chạy tả tơi lên sườn đồi.

           Những lúc ấy mẹ thường im lặng, chốt chặt cửa, ôm chặt lấy nàng. Hai mẹ con ngồi im trong bóng tối. Trong tâm trí nàng ngày ấy luôn có cái cảm giác sợ hãi, khiếp đảm. Nàng hay nghĩ đến những câu truyện cổ tích có những lão phù thuỷ, những mụ yêu tinh rình rập để ăn thịt người. Mẹ nàng nhẫn nhịn để sống và nuôi con. Cũng có người tử tế đến, nhưng duyên chẳng thành.

            Nàng lớn lên trong tình thương, che chở của mẹ.

  Bản tính rụt rè của nàng có thể bắt nguồn từ đấy.

            Khi nàng vào đại học vẫn cái tính rụt rè, nhút nhát như thế. Chính nàng cũng nhiều lần tự nhủ phải vượt lên chính mình để hoà đồng với bè bạn. Nhưng không hiểu sao ý chí không thắng nổi tình cảm trong nàng. Nàng nhút nhát, yếu đuối nhưng xinh đẹp. Cái đẹp ngày càng lồ lộ ra không giấu nổi. Mặc dù nhà nghèo, so với đám chúng bạn cùng lớp thì nàng quá kém cỏi. Vài bộ quần áo lỗi mốt, một chiếc xe đạp cũ kỹ tróc sơn cũng không làm cho nàng xấu đi được.

Nàng như một bông hồng chớm nở mà càng ngắm nhìn càng thích. Bạn bè cùng khóa thường trêu gọi nàng là "bông hồng không gai".

           Không chú ý đến sắc đẹp của mình, nàng chỉ chuyên tâm vào việc học hành. Mẹ nàng tần tảo ở quê nhặt nhạnh từng đồng, nhịn ăn, nhịn mặc gửi cho con ăn học. Mỗi lần nhận gói tiền phần nhiều là những đồng lẻ mẹ gửi bác lái xe ca từ quê ra, nàng lại rưng rưng nước mắt. Thương mẹ, nàng chăm chỉ hơn. Rồi nàng tự vượt lên sự rụt rè, nhút nhát xin đi dạy kèm tiếng Anh cho trẻ em kiếm tiền ăn học.

           Thằng bé mà nàng dạy kèm là con nhà giàu. Một hôm nàng đang luyện phát âm cho nó thì có tiếng cười nhạo:

           - Ê! Nói tiếng Anh như thế có mà... Tây nó nghe được à!

           Nàng quay phắt lại sững sờ. Một anh chàng cao to, điển trai, vai khoác ba lô đang đứng ở cửa phòng. Thằng bé reo lên:

           - A! Chú Bân... - Chợt nhận ra sự lúng túng của cô giáo dạy kèm, nó liến thoắng: - Đây là cô giáo tiếng Anh của con. Mà con cũng đang học là để nói cho... Tây nghe đấy chú ạ!

           Anh chàng lúng túng: "Xin... xin lỗi cô giáo! Tôi... tôi cứ ngỡ là hai đứa trẻ nhà này...". Vẻ lúng túng của Bân khiến nàng lấy lại sự tự tin sau câu nói vừa rồi của anh. Anh ta chính là em trai của chị chủ nhà, mới du học ở Ôxtrâylia về. Hiện anh đang làm trưởng đại diện cho một công ty nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh. Anh ra Hà Nội làm việc và ghé thăm chị gái. Cuộc gặp gỡ bất ngờ tưởng như một trận gió thoảng qua đâu ngờ lại là bước ngoặt của đời nàng. Mà nàng cũng chẳng thể nào biết cuộc đời mình sẽ được dẫn đi đến tận đâu sau khúc ngoặt bất ngờ ấy.

           Chuyện tình cờ thường khó tránh. Nàng và Bân hay chạm gặp nhau. Khi Bân được cử ra thành lập phòng giao dịch ở Hà Nội thì hai người đã "bén" nhau. Cái vẻ kẻ cả ga lăng, che chở của Bân đối với một cô gái yếu đuối như nàng, khiến lũ bạn bè của nàng bất bình. Cái Thu đe: "Không được để hắn bắt nạt nghe!". Cái Hà thì lại nói: "Hắn mà giở trò gì thì liệu hồn với bọn này". Cái Dung thì cảnh cáo: "Không khéo ở gần hắn mày bị "cớm nắng" mất". Ấy là lũ bạn thời sinh viên ồn ào, lắm chuyện. Ngày mãn khóa, mỗi đứa một nơi. Nàng được Bân xin cho dạy tại một trường nội ô. Những buổi hẹn hò, đón đưa, tình yêu với nàng như một giấc mơ, cái gì cũng đẹp. Trong vầng hào quang ấy con người nàng mụ mị, khó mà nhìn xa được.

           Đám cưới của nàng với Bân tổ chức ở một khách sạn sang trọng. Người dự chủ yếu là các ông chủ và đối tác của Bân, còn lũ bạn bè "me sấu" thời sinh viên của nàng thì vắng cả. Đám cưới sang trọng nhưng lạnh. Mùa đông năm ấy trời lạnh lắm. Nàng run rẩy trong bộ váy cưới mỏng tang khi ra ngoài tiền sảnh để chụp ảnh. Cái cảm giác lạnh lẽo ấy theo nàng vào phòng tân hôn. Nhất là khi nàng lần đầu tiên được cầm những tờ 100 đô-la lành lạnh trong đống phong bì mừng. Đêm tân hôn, sau khi đã thoả mãn, Bân lăn ra ngủ, miệng há ra ngáy khò khò. Còn nàng thì thao thức mãi. Mắt nàng mở to chong chong nhìn lên trần nhà suốt đêm. Ngọn đèn ngủ đỏ nọc, độc nhãn chăm chăm soi xuống ngực nàng. Bất giác, nàng úp hai bàn tay che lên cặp vú tròn vo và chợt thảng thốt bởi sự trần trụi, không một sự chở che tự vệ của mình.

           Cuộc sống của nàng bình lặng trôi đi. Một bé gái ra đời. Tiếng khóc oe oe của nó chỉ xao động đôi chút sự bình lặng ấy. Bân thì vẫn ồn ào, lúc ở trong Nam, khi bay ra Bắc. Cuộc vật lộn tranh giành trên thương trường quyết liệt, tính toán từng giây, từng phút. Bân được bổ nhiệm làm giám đốc chi nhánh công ty tại Hà Nội. Bân thường xuyên vắng nhà. Anh ăn ở nhà hàng, dự chiêu đãi nhiều hơn là số bữa ngỗi ăn chung với vợ con. Nàng cảm thấy căn hộ sang trọng của nàng và Bân ngày càng lạnh hơn.

           Một hôm, Bân bảo:

           - Hết năm học này, em xin nghỉ việc đi. Có con cái rồi nghỉ lo việc nhà.

           - Nhưng...

           - Không nhưng gì hết! - Bân nói vẻ kẻ cả: - Lương của em vài trăm nghìn đồng, chả đủ tiền ăn sáng.

           Thế là nàng nghỉ dạy học. Suốt ngày nàng quanh quẩn trong nhà, lo cơm nước, giặt giũ. Tiền Bân xếp trong ngăn tủ, cứ lấy mà tiêu. Tiêu chưa hết đã có bổ sung. Nàng an phận, coi như một lẽ thường tình. Giang sơn của nàng bây giờ gói gọn trong căn hộ. Nàng như một cái cây đặt trong bóng râm lâu ngày, cớm nắng. Xã hội mà nàng tiếp xúc chủ yếu là cái chợ nhỏ gần nhà. Nơi hàng ngày, nàng vẫn ra đó mua thức ăn, nghe vài câu chuyện của các bà hàng tôm, hàng cá.

           Cuộc sống phẳng lặng của nàng tưởng cứ thế mãi trôi đi. Nhưng sóng ngầm thường xuất hiện khi trời trong, biển lặng. Dân đi biển gọi đó là sóng lừng. Nó thường bất ngờ từ lòng biển trỗi lên lật úp con thuyền. Một buổi sáng, nàng vừa đi chợ về thì gặp một người đàn bà đứng chờ trước cổng. Một trận đòn bất ngờ xảy ra khiến thịt, bún, rau trong cái làn của nàng đổ vãi tung toé. Nàng chẳng hiểu vì sao và không chống đỡ nổi những cái tát nảy lửa của mụ đàn bà. Khi những người đi đường xô vào can ngăn, kéo mỗi người ra một góc, mụ đàn bà gào lên, mọi việc giờ mới tỏ.

           Thì ra khi còn du học ở nước ngoài, Bân và mụ ta đã sống với nhau như vợ chồng, tuy chẳng cưới hỏi gì. Họ đã có một đứa con trai, thề non hẹn bể với nhau khi về nước sẽ tổ chức đám cưới thật linh đình. Nhưng rỗi Bân về nước trước không một lần hồi âm. Mụ ta về nước sau đó vài năm. Mụ ta truy tìm Bân khắp Sài Gòn nhưng không thấy. Tình cờ qua một quảng cáo trên báo có đăng cả ảnh Bân, thế là mụ ta bay ngay ra Bắc. Một trận đòn ghen ngược. Bởi vì mụ ta dù danh nghĩa nào cũng đâu phải là vợ của Bân. Thế nhưng sự đời vẫn vậy. Những kẻ trơ chẽn, tráo trở nhiều khi lại được thế. Nhất là đối với một người như nàng thì ai bắt nạt chả được. Mụ ta suốt ngày lởn vởn trước cửa nhà nàng như một bóng ma ám ảnh. Mụ ta không gây gổ, gào thét thêm nữa chỉ chặn đường trừng trừng nhìn nàng mỗi khi nàng ra cổng. Rồi Bân về, họ gặp lại nhau. Không hiểu Bân và mụ ta nói gì với nhau mà từ hôm ấy, nàng không còn thấy mụ lượn lờ trước cổng nhà mình nữa.

          Cũng từ ấy, nàng nhận thấy sự lạnh nhạt của Bân đối với mình. Trước kia, mỗi lần gặp nhau, nhất là khi đi công tác xa về là Bân xô ngay lại với nàng. Bất kể ban ngày, hay đêm Bân đều bế xốc nàng lên phòng ngủ bóc quần áo khỏi người nàng như bóc một cái bánh mà tận hưởng. Nhiều khi vội thì chuyện ấy diễn ra ngay ở cổng, trong nhà bếp, buồng tắm, kể cả tại phòng khách. Nàng đáp ứng lại sự cuồng nhiệt của Bân một cách cam chịu, nhẫn nhịn.

           Bây giờ thì khác. Bân thường về nhà muộn và mệt mỏi. Có khi chẳng kịp ăn đã lăn ra ngủ. Suốt đêm Bân nằm im thẳng đuột như một xác chết, để mặc nàng thao thức, đợi chờ...

           Chuyện chẳng dừng lại đó. Khi nàng biết được Bân và mụ đàn bà kia đã mua một căn hộ riêng sống với nhau thì cũng là lúc Bân đưa cho nàng một lá đơn xin ly hôn. Nàng không bất ngờ. Từ nhiều tháng nay, nàng mơ hồ nhận thấy việc này rồi sẽ xảy ra. Nàng cầm bút ký vào đơn như một việc phải làm, không suy nghĩ gì thêm.

           Không thèm nhận một phần căn hộ được toà án chia cho, nàng thu gom mấy cuốn giáo án cũ, gói ghém quần áo rồi đưa con về quê. Thực ra cũng chẳng phải là cố hương. Nàng nào biết quê gốc của mình ở đâu. Nàng đưa con về lại nơi ngày xưa mẹ con nàng đã ở.

           Vẫn bến sông xưa, nơi con đò cũ kỹ đón khách sang sông.

*

           Hoà một tý vôi vào xô nước, khoắng đều, nàng tìm nắm rơm bó làm cái chổi quét lại bức tường căn nhà ẩm mốc. Từ ngày mẹ nàng mất, căn nhà trở thành nơi tụ tập của lũ trẻ chăn trâu. Cánh cửa mọt chi chít những chữ a, chữ ơ viết bằng than.

           - Mẹ ơi! Có một thằng bé điên...

           Tiếng gọi thảng thốt của con gái làm nàng giật mình. Nàng vội chạy ra. Con bé từ trên đồi chạy ào xuống! Một thằng bé khoảng hơn mười tuổi, tay cầm một bó hoa mua đuổi theo, miệng: "Huơ... huơ..." không ngớt.

           Con bé núp vào sau lưng làng. Thằng bé như chẳng sợ ai. Nó tiến đến gần, tay cầm bó hoa rừng vẫy vẫy. Rồi nó đứng lại nhìn nàng, nhoẻn miệng cười. Một chú bé xinh xắn nhưng nét mặt và nụ cười thì ngây ngô.

           - Cháu tên là gì? - Nàng hỏi.

           - Tên... tên... là... gì...- Nó lắp bắp nhắc lại.

           Một người đàn ông mặc bộ quần áo bộ đội bạc màu hớt hải đi vào. Anh nói:

           - Cô và cháu đừng sợ. Nó hiền lắm, nó chỉ muốn tặng hoa cho cô và cháu thôi.

           - Anh là...

           - Tôi là bố nó! Cô có phải là con gái bà Thùy?

           - Vâng!

           - Thế thì tôi là hàng xóm đấy! - Đoạn anh chỉ sang bên kia mương nước, nơi có mấy ngôi nhà lợp ngói xỉn màu. Con bé không còn sợ thằng bé điên nữa. Mà nó đâu có điên, chắc chỉ thiểu năng não. Hai đứa "huơ...huơ" nói chuyện với nhau, cười như nắc nẻ.

           - Cô để tôi làm giúp cho!

Anh láng giềng bảo. Chẳng đợi nàng đồng ý, anh xách xô vôi và cái chổi vào nhà. Nàng cầm cái giẻ ướt lau cánh cửa. Vừa làm họ vừa nói chuyện với nhau. Nàng biết anh tên là Đông. Anh là con của một người lính, bản thân cũng là bộ đội. Hết nghĩa vụ quân sự, Đông về quê cưới vợ. Đứa con đầu lòng của họ bụ bẫm, đẹp như  tranh vẽ. Nhưng nó càng lớn lên càng ngây ngô và không biết nói chỉ huơ... huơ hoặc nhắc lại vài từ khi người ta hỏi nó. Chữa chạy mãi không khỏi. Đó là di chứng của chất độc da cam từ đời ông nội nó là bộ đội Trường Sơn truyền lại.

           - Cô về đây dạy học à? - Anh hỏi.

           - Em đang xin dạy hợp đồng tại trường trung học phổ thông cơ sở xã...

           - Nếu được... tôi nhờ cô dạy cho thằng bé nhà tôi...

           - Nhưng...

           - Nó không nói được nhưng nhìn bạn cũng biết bắt chước viết được vài chữ đấy.

           Nàng nhận thằng bé vào lớp học. Nó là trường hợp đặc biệt nên ông hiệu trưởng cũng đồng ý. Nàng xếp cho nó ngồi cuối lớp. Khi cả lớp làm toán lớp 5 thì nàng dạy nó tập viết, tập đánh vần. Con gái nàng cũng rất thích được thay mẹ làm "cô giáo" cho thằng bé hàng xóm.

            Một lần, nàng dẫn học sinh đi dã ngoại, lên rừng tìm hiểu thiên nhiên cây cỏ. Lúc về, nàng và tốp học sinh đều thấm mệt. Chiếc xe đạp cọc cạch của nàng bị tuột xích. Lúc sửa được xe nàng vội đuổi theo các em học sinh. Đến chỗ cua đường vắng, nàng giật mình nghe tiếng học sinh kêu cứu. Một gã đàn ông mặt mũi dữ tộn đầu óc bù xù đang giằng chiếc xe mi-ni Nhật của một em học sinh. Hắn là một tên nghiện hút, đói thuốc làm liều. Nàng buông vội chiếc xe đạp của mình xuống mặt đường lao đến. Nàng vật lộn giằng lại chiếc xe đạp trong tay tên cướp. Hắn khoẻ hơn nàng. Nàng cắn mạnh vào cánh tay hắn. Tên cướp buông chiếc xe đạp. Hắn vả một cái đánh "bốp" vào mặt nàng. Nàng giật lại được chiếc xe và gạt đám học sinh ra phía sau mình. Hai tay nàng giang ra che chở cho các em. Mắt nàng long lên, đầu óc rũ rượi. Trông nàng như một chị gà mái xù lông che chở cho đàn gà con trước móng vuốt của mụ diều hâu hung dữ.

Lũ trẻ sợ đến tái người. Mặt đứa nào đứa ấy cắt không còn giọt máu. Duy chỉ cò thằng bé con Đông là chẳng sợ sệt gì. Nhìn cảnh giằng xé nó lại cứ tưởng là trò chơi rồng rắn. Nó túm lấy áo nấp sau lưng nàng, ngó bên này, nghiêng bên kia, miệng huơ... huơ không ngớt vẻ rất thích thú.

           Tên cướp vừa nắm chỗ tay đang cháy máu vừa gườm gườm nhìn nàng. Đoạn hắn rút cái lưỡi lê ra. Nàng gạt mái tóc rũ rượi ra sẵn sàng đối phó. Chợt tên cướp sững lại Hắn bối rối lùi lại rồi quay đầu chạy và lẩn nhanh vào rừng. Nàng nghĩ có lẽ hắn nghe thấy tiếng xe máy dưới chân dốc nên bỏ chạy. Nàng đâu biết hắn đã nhận ra nàng là bạn học cũ từ thời cấp I. Hắn chính là đứa hay bắt nạt nàng, bôi bẩn lên áo nàng, làm nàng khóc hết nước mắt ngày còn thơ bé. Ngày ấy hắn là con nhà giàu, học ít, chơi nhiều. Lớn lên vẫn quen thói chơi nhiều, làm ít, sa vào nghiện ngập nên hắn trở thành kẻ cướp.

Tên cướp chạy rồi, nàng mới thấy sợ. Nàng cùng đám học sinh rúm ró, nhớn nhác đạp xe loạng quạng về trường.

           Chỉ hôm sau, cả trường, cả xã đều biết và ca ngợi sự dũng cảm dám đương dầu, đối diện với cái ác để bảo vệ học sinh của nàng. Còn nàng thì rất ngại mỗi khi có ai hỏi han, khen ngợi mình. Nàng chỉ chuyên tâm vào công việc dạy dỗ học sinh, luôn là giáo viên dạy giỏi. Cuối năm học, nàng được nhận vào biên chế là giáo viên chính thức của trường.

           Riêng Đông thì rất biết ơn hai mẹ con nàng. Thằng bé con anh suốt ngày nếu không ở lớp thì lại ở nhà nàng. Gặp bữa nó ăn cơm luôn với mẹ con nàng. Con bé rất thích khi nhìn nó ăn ỏn ẻn như con gái. Mẹ thằng bé đã bỏ bố con nó đi mất tích ngay sau khi biết đứa con bị nhiễm chất độc da cam. Nghe nói chị ta sang tận Trung Quốc lấy chồng.

           Nàng và Đông từ chỗ láng giềng thành thân nhau. Hình như số phận đã làm họ xích lại gần nhau. Những lần thằng bé ốm, nàng thức suốt đêm cùng anh chăm sóc nó ở bệnh viện. Lần nhà nàng bị trúng luồng gió xoáy, anh dầm mưa trèo lên nóc che lợp, chằng buộc. Tình yêu đích thực nhiều khi đến rất chậm chạp, chớ trêu. Hai cuộc đời như đã thuộc về nhau từ trước nhưng bây giờ mới gặp. Họ định ngày báo cáo gia đình và tổ chức, kiếm mâm cơm cúng gia tiên chứng giám cho về sum họp một nhà.

           Hôm ấy trời quang mây tạnh, nàng lên thị trấn may một cái áo mới, định dành cho ngày vui. Quần áo của nàng đã cũ hết rồi. Nàng vừa về đến gần nhà thì nghe tiếng người kêu cứu lao xao. Người ta mở cánh cống phía thượng nguồn con kênh. Con gái nàng và thắng bé hàng xóm đang bì bõm mò cua thì nước dâng lên quá nhanh, chảy xiết. Thành kênh dẫn nước người ta láng xi măng, rêu trơn nên thằng bé cứ bò lên lại bị tụt xuống. Con bé đã trèo lên được bờ rồi lại chạy xuống kéo em. Cả hai đứa bị trượt chân ngã nhào xuống dòng nước xiết.

Đang rẫy cỏ gần đấy nghe tiếng kêu cứu, Đông vội chạy đến. Anh lao về phía cửa cống ngầm. Đông nhào xuống kênh túm được hai đứa bé đẩy chúng rạt vào bờ. Nước xiết, anh phải vật lộn cố hết sức mình mới đẩy được hai đứa trồi lên khỏi luồng nước mạnh. Kiệt sức, anh vẫn cố vùng vẫy một lúc rồi mới chịu bất lực để mặc cho dòng nước xiết cuốn vào miệng cái cống ngầm đen ngòm.

            Dòng nước cuốn ngay lấy anh nhồi đẩy sang bên kia cửa cống ngầm. Mất hồi lâu mọi người mới đưa được anh lên bờ. Người Đông bầm dập, thâm tím, quần áo rách tướp.

            Nàng xô lại ôm lấy hai đứa bé. Thằng bé con Đông như chả biết sợ là gì, cũng không hiểu rằng bố nó đã chết, cứ huơ... huơ... luôn miệng. Nàng thảng thốt quỳ xuống trước thi thể Đông. Đôi mắt tròn to của nàng cụp xuống. Ánh sáng trong mắt nàng vụt tắt. Hai bàn tay nàng bải hoải, tuột rời khỏi vai hai đứa trẻ, thõng xuống. Một ai đó nói:

            - Đưa chú ấy về nhà đi!

            Đám người khênh Đông về làng. Nàng nắm chặt tay kéo hai đứa trẻ chới với bước theo. Họ đi xa dần con kênh đang sôi ùng ục...

Nấm mộ không mã số

Truyện ngắn của Trọng Bảo

        Chuẩn bị thi đại học thì chúng tôi nhận lệnh nhập ngũ. Tôi tống luôn những tập sách giáo khoa và những cuốn vở viết dở cho con em họ đang học lớp dưới. Con bé mừng hú, năm học tới nó có sẵn sách giáo khoa và tha hồ xé những trang vở tôi viết dở làm giấy kiểm tra 15 phút và làm nháp.

Hôm lên huyện tập trung để làm lễ giao nhận quân tôi chỉ có một bộ quần áo mặc trên người và cái túi đựng cuốn sổ ghi lưu bút của bạn bè. Trong khi đó thằng Đan đeo một cái bọc to kềnh càng sau lưng. Tôi hỏi:

        - Mày mang theo đồ đạc gì mà nhiều thế?

        - Tao mang theo sách vở để lúc nào rỗi thì học thêm! Hoàn thành nghĩa vụ trở về tao lại thi đại học.

        - Mày viển vông quá! Đang chiến tranh thế này biết bao giờ mới trở về đi học được?

        - Chiến tranh rồi cũng phải kết thúc chứ!

        - Nhưng hành quân súng đạn gạo củi nặng bỏ mẹ mày còn đeo thêm sách vở  thế nào được.

        - Tao sẽ cố...

        - Thôi mặc xác mày!

         Nhận quân trang xong, lại được cấp thêm 7 ki-lô-gam gạo nữa nên ba lô của chúng tôi căng phồng. Tôi cứ tưởng là sẽ leo ngay lên ô tô rầm rập phóng ra mặt trận ngay. Nhưng không, chúng tôi được biên chế vào một đơn vị thuộc tỉnh đội. Và việc đầu tiên là hành quân bộ vượt sông Lô sang huyện Lâm Thao huấn luyện. Đoạn đường năm mươi cây số không xa nhưng lần đầu tiên cuốc bộ lại không quen với đôi dép cao su mới phát nên chân tôi chầy chật rớm máu. Tôi để ý thấy thằng Đan vẫn lặng lẽ bước đi phía trước. Trong nó vóc dáng đã bé nhỏ nên như bị cái ba lô đè gập người xuống. Tôi nghĩ: "Cứ đà này thì qua phà nó ném bọc sách vở cho trôi sông luôn!". 

         Nhưng Đan vẫn đeo được bọc sách vở về đến đơn vị. Suốt thời gian huấn luyện chiến sĩ mới thời gian được nghỉ tôi thường thấy Đan chúi đầu vào mấy cuốn sách. Mặc cho tôi và mấy thằng cùng tiểu đội khích bác nhưng Đan vẫn bỏ ngoài tai. Nhiều lần gặp tôi nó khoe vừa giải được một bài toán khó trong tuyển tập đề thi đại học. Tôi bảo:

        - Biết bao giờ mới được ra quân mà thi, mày học làm gì cho tốn công tốn sức?

        - Thì rồi cũng phải ra quân chứ! Chiến tranh chống Mỹ kết thúc rồi, họ sẽ cho tụi mình về thôi!

        Nhưng chúng tôi không được xuất ngũ như Đan nói. Đơn vị chúng tôi nhận lệnh hành quân lên Hà Giang làm kinh tế. Chúng tôi nhận nhiệm vụ mở con đường lâm nghiệp giữa rừng sâu. Đó là những ngày gian khổ nhất của cuộc đời chiến sĩ chúng tôi. Sống giữa rừng sâu ăn uống thiếu thốn, làm việc vất vả. Tôi và Đan mỗi người về một đơn vị khác nhau. Hôm đi công tác qua tiểu đoàn 1, tạt vào thăm Đan, tôi vẫn thấy trên giá ba lô chỗ nó nằm những cuốn sách ôn thi địa học đã sờn gáy. Thì ra nó vẫn không quên việc học tập. Hình như đối với nó học là một niềm vui, hy vọng của cuộc sống.

        Niềm hy vọng vào đại học của thằng Đan lại không thể thực hiện được. Chiến tranh biên giới đang có nguy cơ nổ ra bất cứ lúc nào. Khi đơn vị biên chế lại, từ đội hình làm kinh tế sang đội hình chiến đấu thì tôi và Đan lại về cùng một trung đội thông tin. Từ những người lính chuyên cuốc đất, đặt mìn phá đá mở đường, chúng tôi quay về nghề cũ từ ngày mới nhập ngũ là lính thông tin. Tôi là tiểu đội trưởng tiểu đội vô tuyến 2W còn Đan là tiểu đội trưởng tiểu đội truyền đạt của trung đội thông tin tiểu đoàn. 

         Đơn vị chúng tôi lật cánh sang hướng Cao Bằng. Hôm gặp nhau ở vùng đồi núi cỏ tranh thuộc huyện Ngân Sơn để cùng dự lớp tập huấn cán bộ tiểu đội tôi vẫn thấy Đan đeo một cái ba lô đầy sách vở. Sau gần một tháng tập huấn, đại đội tập huấn thông tin gồm toàn những cán bộ tiểu đội, trung đội chúng tôi được lệnh hành quân bộ lên biên giới để nhận quân. Vốn toàn là lính cũ nên việc hành quân bộ đường dài đối với chúng tôi là chuyện bình thường. Chúng tôi vượt qua đèo Mây, đèo Cao Bắc, dốc Sìn Hồ về Hoà An. Con đường gập ghềnh dốc cao hun hút. Tôi còn nhớ mãi chuyện anh Lộc, đại đội trưởng vốn là một giáo viên vừa ở trường về có lẽ chưa quen đi bộ nên hai chân anh bị phỏng rộp chảy máu ròng ròng, thấm đẫm ra cả lớp băng trắng. Thế mà anh ấy vẫn luôn luôn đi trước hàng quân. Tôi để ý thấy Đan vẫn lặng lẽ đi ở phía sau hàng quân. Tôi biết trong cái ba lô nặng trĩu của nó vẫn có những cuốn sách giáo khoa.

        Tới Hoà An, đại đội tập huấn của chúng tôi giải thể. Mỗi người về một hướng. Tôi và Đan cùng nhau lên Hà Quảng. Trung đội thông tin lúc này đang đóng quân trong nhà dân ở sát đường biên giới. Chiến tranh chắc chắn sẽ nổ ra. Mọi công tác chuẩn bị cho cuộc chiến diễn ra rất khẩn trương. Dọc con đường độc đạo từ biên giới xuống thị trấn huyện lỵ nằm chênh vênh trên miệng vực đơn vị xây dựng các trận địa chặn giặc. Chúng tôi đào các hố tại các vị trí mà có thể đổ hàng trăm cân thuốc nổ đánh sập cả đoạn đường xuống vực sâu khi cần thiết để chặn xe tăng và bộ binh địch. 

        Một buổi tối tôi đang nằm nghỉ sau một ngày đào hầm, xây dựng trận địa thì Đan ở đâu về đưa cho tôi hơn chục miếng bìa cứng có những ký hiệu bằng chữ và số, được ép platstic cẩn thận bảo:

        - Đây là mã số của từng người trong tiểu đội của ông. Nhớ dặn mọi người luôn luôn để trong túi ngực, phòng khi...

        Nghe Đan nói, tôi hiểu. Đây là mã số của từng người để khi ai hy sinh thì chôn theo sau này còn biết danh tính liệt sĩ. (Nếu tôi nhớ không nhầm thì mã số của tôi ngày ấy là JA-301).

        Đưa cho tôi những miếng mã số để đánh dấu mộ chí khi cần thiết xong, Đan thần mặt ra một lúc rồi hỏi:

        - Không biết sau trận này mình có được ra quân về đi học tiếp không nhỉ?

        - Chắc chắn rồi! Cứ yên tâm...

        Nói vậy nhưng tôi cũng không tin lời mình lắm. Đan cũng lặng lẽ không nói gì thêm. Hai đứa cùng nhìn ra ngoài trời. Ánh trăng mờ nhạt trong hơi sương lạnh lẽo. Rừng núi âm u. Cuộc chiến tranh vẫn lẩn khuất ở đâu đó bên kia biên giới.

*

        Tôi cũng thấy ngạc nhiên là khi chiến tranh nổ ra mình lại bình tĩnh thế. Chập tối có lệnh triển khai các tổ đài về các vị trí đảm bảo liên lạc đến hơn 12 giờ đêm mới xong. Tôi vừa chợp mắt thì nghe tiếng súng nổ. Giật mình giấc, nghĩ là bọn địch đánh bộc phá lấy đá làm công sự như mọi bữa, tôi kéo chăn kín đầu định ngủ tiếp thì nghe tiếng trung đội trưởng quát:

        - Tất cả ra hang chỉ huy của tiểu đoàn ngay! Bọn địch bắt đầu tấn công rồi đấy!

        Tôi bật ngay dậy vớ khẩu súng AK và chiếc ba lô lao ra ngoài sàn nhà. Bầu trời sáng rực những luồng đạn pháo của bọn giặc từ bên kia biên giới bắn sang. Tôi nhảy xuống đất. Mấy anh em trong tiểu đội chạy theo. Chúng tôi men theo chiến hào chạy ra vị trí chỉ huy của tiểu đoàn. 

        Chạy ra đến giữa cánh đồng thì đạn địch bắn vào bản. Tiếng đạn pháo va vào vách đá nổ chát chúa, lộng óc. Những ánh lửa bùng lên. Chớp đạn lằng nhằng như sấm sét dọc ngang trên bầu trời. Khói bụi mù mịt. Ngôi nhà sàn tôi vừa ở lửa cháy bùng lên. Trong bản tiếng người kêu khóc, trâu bò rống, tiếng gà vịt, tiếng chó sủa hoảng loạn. Đạn súng 12li7 của bọn địch từ trên cao quét sàn sạt xuống mặt ruộng. Chúng tôi phải bò ép người sau những bờ ruộng cao để tránh đạn. Đến gần sở chỉ huy của tiểu đoàn thì tôi gặp Đan đang chạy ngược trở lại. Nhận ra tôi, nó bảo:

        - Lên ngay hang đi, pháo bọn địch sắp bắn tới đây đấy!

        - Thế mày còn đi đâu đấy?

        - Đường dây hữu tuyến lên 11 đứt rồi, tao lên truyền đạt mệnh lệnh của tiểu đoàn trưởng.

        Nói xong nó lao đi về phía súng đang nổ dữ dội. Lên đến vị trí chỉ huy của tiểu đoàn, chúng tôi nhanh chóng mắc ăng-ten máy vô tuyến điện, nối thông liên lạc. Mệnh lệnh chiến đấu được truyền đi thông suốt, chỉ huy tiểu đoàn bớt gào thét, quát mắng. Lúc này tôi mới nghĩ đến chiến tranh. Thế là nó đã xảy ra thật rồi. Và thế là mình cũng được chứng kiến giờ phút đầu tiên một cuộc chiến tranh đã nổ ra như thế nào, còn sự ác liệt, sự chết chóc và nỗi kinh hoàng của nó thì những ngày sau tôi mới hiểu hết. 

        Tảng sáng, xe tăng và bộ binh địch bắt đầu tấn công. Cuộc chiến đấu ở điểm tựa cây đa sát cửa khẩu rất ác liệt. Sau một ngày chặn địch, 11 tổn hao gần hết quân số, điểm chốt khó có thể trụ thêm một ngày nữa. Sang ngày thứ hai, tiểu đoàn trưởng quyết định chặt đứt đoạn đường phía bên trái chốt cây đa để chặn xe tăng quân giặc tràn về phía sau. Trung đội thông tin chúng tôi nhận được lệnh chi viện cho tổ công binh phá đường. Đã gần sáng. Anh nuôi vừa đem cơm nắm lên. Đang ăn thì có lệnh, Đan vội đưa cho tôi nắm cơm vừa cắn được một miếng bảo:

        - Cầm lấy cất cho tao, lát nữa về ăn! Tao nhận được lệnh dẫn mấy anh em gùi thuốc nổ lên cho công binh phá đường chặn địch.

        - Nhớ thật cẩn thận nhé!

        Đan đi rồi, tôi nhét nắm cơm ăn dở vào cóc ba lô để nó về còn có cái mà ăn. Cả ngày chiến đấu có khi chỉ có mỗi một nắm cơm nhỏ này thôi. Đan đi được một lúc thì tôi cũng nhận được lệnh dẫn một tổ lên chi viện cho bộ phận phá đường. Chúng tôi đeo trên lưng mỗi người hơn ba mươi ki-lô-gam thuốc nổ và mấy hộp kíp mìn. Khi chạy, lúc bò dưới làn đạn địch tôi cũng hơi hoảng. Lỡ mà đạn địch bắn trúng khối thuốc nổ trên lưng thì... Tuy vậy, chúng tôi cũng đem được thuốc nổ đến vị trí đặt bộc phá. Hơn hai trăm cân thuốc nổ mạnh cùng hàng trăm cái kíp kích nổ được nhồi xuống một cái hố đã đào sẵn. Việc chắp nối dây cháy chậm và khối bộc phá được bộ phận công binh hoàn thành nhanh gọn. Trời đã sáng hẳn. Đạn pháo của bọn giặc bắn dữ dội. Xe tăng và bộ binh địch đánh lướt qua trận địa của 11 tràn xuống phía thị trấn. Anh Tâm - tiểu đội trưởng tiểu đội công binh giật chiếc nụ xoè lắp ở đầu một đoạn dây cháy chậm khá dài để điểm hoả khối thuốc nổ. Chúng tôi đã rút được về phía sau an toàn. 

        Nhưng mãi không thấy tiếng nổ, anh Tâm lấy ông nhòm quan sát rồi kêu lên:

       - Hỏng rồi! Có lẽ mảnh pháo địch cắt đứt mất dây cháy chậm rồi.

       Anh Tâm lăn ngay xuống vệ đường tiến lên phía trước tiếp cận khối bộc phá để kiểm tra. Nhưng anh vừa nhô lên khỏi rãnh nước ven đường thì gục xuống. Tôi lo lắng nhìn mãi không thấy anh động đậy gì. Có lẽ anh ấy trúng đạn hy sinh rồi. Đan đang nằm ép bên cạnh tôi nói:

        - Để tôi lên kiểm tra lại khối thuốc nổ.

        Nói xong, Nó lăn xuống con mương toài người bò lên phía trước. Tôi hồi hộp nhìn theo Đan. Một chiếc xe tăng của địch đã nhô ra ở quãng đường ngoặt, cách khối bộc phá không xa. Đạn bắn thẳng của bọn địch cày trên mặt đường. Đan vẫn theo con mương bên đường bò lên. Khi Đan chỉ còn cách khối bộc phá vài mét thì chới với ngã sấp xuống lòng mương cạn. Một quả đạn pháo nổ gần chỗ chúng tôi đang nằm, khói bụi mù mịt. Tôi vẫn cố căng mắt quan sát, vẫn không thấy Đan động đậy. Khi chúng tôi chuẩn bị lên tiếp ứng thì thấy Đan nhỏm dậy lết lên phía trước. Qua ống nhòm, tôi thấy một bên chân anh đẫm máu và hình như không còn cử động được nữa. Chiếc xe tăng của bọn đich chồm tới rất nhanh trong khi Đan vẫn nhích lên từng đoạn một. Khi Đan đến được chỗ đặt khối bộc phá thì chiếc xe tăng địch chỉ cách nó một đoạn. Chiếc xe tăng dừng lại rê nòng pháo bắn thẳng vào vách núi chỗ chúng tôi đang ém quân. Tôi vẫn quan sát Đan. Đan nằm nghiêng người rút dao găm ra kê đoạn dây cháy chậm lên báng súng xiết mạnh. Khi thấy anh lắp nụ xoè vào đoạn dây cháy chậm ngay phía trên khối thuốc nổ hàng trăm cân, tôi chợt hiểu và thấy lạnh cả xương sống. Đan định cho khối thuốc nổ nổ tức thì. Đúng như tôi dự đoán. Sau khi lắp xong nụ xoè, Đan nằm im như chết dưới lòng con mương bên đường.

        Khi chiếc xe tăng và bộ binh địch tiến sát khối thuốc nổ thì Đan nhỏm dậy. Nó nhoài người dậy nằm đè lên phía trên khối thuốc nổ và giật nụ xoè, điểm hoả. Gần như đồng thời với hành động của Đan là một tiếng nổ rung trời chuyển đất dội tới. Cả một đoạn đường mù mịt khói bụi, đất đá văng rào rào. Tiếng súng của ta và địch đều lặng đi. Khi khói lửa dần tan tôi nhìn thấy cả một một đoạn đường đã bị hất xuống vực. Chiếc xe tăng và những tên lính giặc hung hăng biến mất.

*

         Chúng tôi đắp cho Đan một nấm mộ ở ven rừng trước khi rút lui khỏi thị trấn. Nấm mộ không có hài cốt. Hình hài và hồn phách của Đan đã tan hoà cùng sông núi. Tôi đặt xuống xuống lòng cái hố đào vội nông choèn nắm cơm Đan cắn dở và một cuốn sách giáo khoa nó vẫn đem theo từ ngày mới nhập ngũ. Nấm mộ nơi biên ải không có mã số nhưng mãi mãi sẽ chẳng vô danh.

         Đó là cái chết của một người bạn mà tôi xin kể trong một ngày kỷ niệm trọng đại này.

Chuyện của Hùng

Truyện ngắn của Trọng Bảo

          Chuyến xe khách cuối cùng về đến thị xã thì trời đã xẩm tối. Mưa phùn như rây bột. Từng đợt gió lạnh đang tràn về. Tôi và Hùng khoác ba lô đứng lên, nhường cho mọi người xuống trước. Bến xe ồn ào, tiếng người gọi nhau í ới. Bỗng dưới bến có tiếng người giằng co, cãi cọ ầm ĩ. Mấy thanh niên mặt còn non choẹt đang giữ chiếc xe đạp của một người đàn ông đứng tuổi đòi tiền công đưa từ trên nóc ô tô xuống là hai mươi ngàn đồng. Lại gặp "dân" cửu vạn rồi. Tôi nghĩ như vậy. Tiếng người đàn ông có xe đạp nói to vẻ bực tức.

          - Tôi không trả! Tôi không yêu cầu các anh đưa xe đạp của tôi xuống.

          - Không yêu cầu, chúng tôi cũng "vẫn" đưa xuống! Vì chúng tôi có "trách nhiệm phục vụ" ở bến xe này... Bác cứ phải trả tiền cho chúng tôi.

          - Nhưng không có cái giá công nào quá đắt như thế cả!

          - Không chịu trả tiền công hả! - Một thắng tóc tai bù xù rút phắt con dao nhọn ra gí vào lốp chiếc xe đạp hất hàm nói: - Phạt thêm mười ngàn đồng nữa là ba mươi ngàn, nếu không chịu sẽ xuyên thủng lốp...

          Thấy vậy, Hùng đặt ba lô, gạt tôi ra nhảy xuống quát:

          - Thôi! Để cho người ta đi, không được làm thế!

          Mấy tay "cửu vạn" và mấy người còn đang đứng ở bến đều giật mình nhìn quanh xem ai vừa quát. Thắng tóc tai bù xù đang cầm con dao nhọn quay phắt lại. Nhưng nó bỗng reo lên:

          - A! Anh Hùng... Đại ca Hùng "gấu" về rồi anh em ơi!

          Thế là cánh "cửu vạn" bỏ người đàn ông, quây quanh lấy Hùng rối rít:

          - Chào anh Hùng... Ái chà! Chào binh nhất quân đội nhân dân!

          Một thằng choai choai len vào nắm tay Hùng hỏi:

          - "Đào tẩu" về luôn hả anh Hùng? Từ mai, lại ra đây "làm ăn" với tụi em nhé. Có anh, tụi em mới có thể "làm ăn lớn" được.

          - Không! Bây giờ tao khác trước rồi. - Hùng nói vẻ dứt khoát và quay sang chỉ tôi nói: - Có nhận ra ai đây không?

          Cánh "cửu vạn" còn đang ngơ ngác chưa hiểu thì Hùng nói tiếp, giọng dịu lại:

          - Đây là anh Cương, người mà có lần tao và chúng mày đã xuyên thủng lốp xe đạp để đòi tiền công bốc dỡ đấy. Bây giờ, anh ấy là tiểu đội trưởng của tao. Anh giúp đỡ tao rất nhiều. Hôm nay, tao với anh Cương được thưởng phép về thăm nhà do thành tích huấn luyện, chứ không phải đào ngũ đâu.

          Cả bọn há hốc miệng ngạc nhiên. Hùng mở ba lô lấy ra một bọc to đưa cho cánh "cửu vạn" bảo:

          - Thuốc lá Lạng Sơn chính hiệu đây, bọn chúng mày cầm lấy mà hút. Làm ăn thì cũng phải sao cho lương thiện một chút, đừng để vì đồng tiền mà đánh mất tất cả thì không nên đâu. Thôi, tao về kẻo tối.

          Nói đoạn, Hùng kéo tôi đi. Chúng tôi khoác ba lô đi theo con đường ra ngoại ô thị xã. Nhà Hùng ở khu sát bờ sông. Từ nhà Hùng về đến nhà tôi gần hai cây số nữa. Hùng sẽ mượn xe đạp đèo tôi về nhà. Câu chuyện xảy ra ở bến xe lúc này khiến cả tôi và Hùng đều im lặng đi bên nhau cùng nghĩ về một quãng thời gian đã qua...

          Tôi và Hùng cùng nhập ngũ hồi đầu năm.

          Ngày mới đến đơn vị, có lẽ thấy tôi nhanh nhẹn hoặc do cần có người lo lĩnh quân trang, dụng cụ huấn luyện nên đại đội tạm thời chỉ định tôi làm tiểu đội phó. Lúc đại đội trưởng đọc biên chế các tiểu đội, trung đội, tôi nhận ra Hùng chính là một "cửu vạn" ở bến xe thị xã. Hình như Hùng cũng đã nhận ra tôi. Mà không nhận ra sao được bởi vì chính Hùng đã dùng dao xiên thủng lốp xe đạp của tôi khi tôi đi thi đại học ở Hà Nội về không có tiền nộp cho cánh "cửu vạn" đã "phục vụ" bốc dỡ xe đạp, hàng hoá từ nóc ô tô xuống. Hôm ấy, tôi đã phải dắt chiếc xe đạp xịt lốp từ bến xe về nhà gần ba cây số. Thế mà giờ đây, tôi và Hùng lại được biên chế vào cùng một tiểu đội.

          Cả hai chúng tôi đều im lặng thăm dò lẫn nhau.

          Hùng tỏ ra là người có lúc thì chịu khó học tập, rèn luyện nhưng cũng nhiều khi lơ là trong các công việc chung. Là tiểu đội phó, tôi rất ngại khi phân công công tác cho cậu ta. Một thời gian sau, anh tiểu đội trưởng được cử đi học ở trường quân chính quân đoàn, tôi được đề bạt lên thay thế. Tiểu đội tôi luôn hoàn thành nhiệm vụ của trung đội, đại đội giao nhưng vẫn bị xếp vào loại yếu vì Hùng thỉnh thoảng lại gây ra một vụ vi phạm kỷ luật. Mấy lần báo động, Hùng đều ra chậm, rồi ăn mặc không đúng còn cãi nhau với cảnh vệ...

          Trước tình hình như vậy, tôi quyết định phải báo cáo cho đại đội biết cái quá khứ của Hùng. Nghe tôi trình bày xong, đại đội trưởng Hướng mới nói:

          - Về cậu Hùng, chỉ huy đại đội cũng đã biết rõ rồi. Cậu ấy có hoàn cảnh gia đình khó khăn lắm. Nhưng, cậu ấy đã dám chấp nhận cuộc sống rèn luyện trong quân đội là đáng mừng rồi. Anh em trong tiểu đội không nên mặc cảm với quá khứ của Hùng mà nên gần gũi, giúp đỡ, nhất định cậu ấy sẽ tiến bộ.

          - Vâng ạ! - Tôi đáp.

          Đại đội trưởng Hướng tiễn tôi ra cửa và dặn thêm:

          - Tiểu đội trưởng phải thường xuyên động viên, khuyến khích từng việc làm tốt dù rất nhỏ của Hùng. Có như vậy mới gúp cho cậu ta vươn lên được...

          Sau lần trao đổi với đại đội trưởng, tôi chú ý đến Hùng nhiều hơn. Cánh lính trẻ chúng tôi bao giờ cũng vậy, luyện tập thì hăng say, tối về sinh hoạt hò hát quên mệt mỏi. Cái không khí sôi động ấy dần dần lôi cuốn Hùng. Cậu ta luyện tập, lao động cũng cố gắng không kém gì mọi người nhưng vẫn có điều gì đó luôn lo lắng, phiền muộn. Rồi, một chủ nhật được nghỉ, cậu ta biến mất. Cả tiểu đội bổ đi tìm nhưng không thấy.

          Đến tối mịt, khi tất cả mọi người đều cho rằng Hùng đã đào ngũ thì cậu ta từ đâu mò về với dáng vẻ rất mệt mỏi. Chúng tôi gặng hỏi nhưng Hùng chỉ ừ ào cho qua chuyện. Chủ nhật sau, Hùng cũng lại xin đi suốt cả ngày.

          Sáng thứ hai, với dáng vẻ mệt mỏi, Hùng vẫn ra bãi tập. Hôm ấy, đại đội tiến hành kiểm tra môn thuốc nổ. Gần trưa mới đến lượt Hùng, Hùng tiến vào vị trí thực hành chắp nối, chuẩn bị lượng thuốc nổ và tiến hành điểm hoả. Hùng cứ lóng ngóng quẹt diêm đến mấy lần vẫn chưa châm được dây cháy chậm. Sinh nghi, tôi vội chạy lên kiểm tra. Nhận thấy dây cháy chậm đã bắt lửa rồi mà Hùng vẫn còn đang xoè diêm, tôi vội kéo bật cậu ta ra ngã về phía sau và nhoài người đẩy khối thuốc nổ xuống cái hố đào sẵn ở phía trước ụ đất. Tôi hét to:

       - Hùng! Nằm xuống... 

       Gần như ngay lập tức, một tiếng nổ dội lên, đất cát bay mù mịt. Sau khi quả bộc phá nổ, anh em ào lên. Tôi và Hùng lồm cồm đứng dậy. Mặt Hùng tái mét. Mặt tôi lúc đó chắc cũng như vậy. Lượng nổ nhỏ, lại phát nổ ở dưới hố sâu nên không ai việc gì.

          Nguyên nhân đã rõ. Đã gần trưa, mặt trời lên cao, khi châm lửa Hùng đã quên lấy bóng của mình che đầu dây cháy chậm, nên dây cháy chậm bén lửa bốc lên làn khói mỏng mà không biết. May mà tôi kịp chạy lên... Nhưng cũng vì sự việc xảy ra này mà thành tích của tiểu đội tôi bị hạ xuống, ai cũng buồn. Có nhiều ý kiến của anh em chê trách, xì xào nhưng Hùng vẫn im lặng. Tối hôm đó trong buổi họp rút kinh nghiệm, Hùng đứng dậy xin nhận khuyết điểm lơ là trong luyện tập suýt gây ra tai nạn của mình. Nhưng, tôi nhận thấy hình như Hùng chưa nói hết mọi điều...

          Sau buổi sinh hoạt, Hùng rủ tôi ra ngoài sườn đồi ngồi nói chuyện. Chúng tôi lặng lẽ bước bên nhau. Trăng giữa tháng lên cao, toả ánh sáng xuống một vùng đồi mát dịu, thanh khiết.

          - Cương ơi! - Sau một hồi lâu lặng lẽ ngồi bên nhau, Hùng nắm lấy tay tôi nói: - Cậu có tin mình không?

          - Tin chứ! - Tôi đáp lại: - Có chuyện gì Hùng cứ nói cho mình nghe đi...

          - Thế này Cương ạ...

          Hùng bắt đầu kể...

          Câu chuyện về cuộc đời của Hùng khiến tôi phải suy nghĩ, xúc động. Bố mẹ Hùng bỏ nhau khi Hùng mới hơn mười tuổi, đứa em gái mới năm tuổi. Hai anh em ở với mẹ. Rồi mẹ Hùng đi bước nữa. Không chịu nổi đòn roi của ông bố dượng nát rượu, Hùng dẫn em về ở với bà ngoại. Bà ngoại nghèo, già yếu. Hùng sớm phải lăn lộn với cuộc sống để kiếm tiền giúp bà ngoại nuôi em. Cậu ta lang bạt khắp các bến xe, bến tàu, bến sông để bốc vác, gánh nước thuê, bưng bê, rửa bát đĩa cho các quán ăn và làm "cửu vạn" bắt ép khách qua đường. Cuộc sống khó khăn nhưng Hùng quyết kiếm đủ tiền để nuôi đứa em gái ăn học đến nơi, đến chốn. Trong con người Hùng xuất hiện hai tính cách trái ngược hẳn nhau, lúc ở bến xe, bến tàu thì cục cắn, thô bạo, cầm đầu một nhóm "cửu vạn" hung hăng khiến nhiều người lo ngại. Khi ở nhà thì Hùng là một người anh luôn lo lắng, chăm sóc đứa em gái một cách chu đáo... Hùng kể có đêm mưa bão, em ốm nặng, cõng em tới bệnh viện mà trong túi không có một đồng nào, may nhờ bà con giúp đỡ mới qua được. Khi em gái khỏi bệnh, Hùng mới có thời gian suy nghĩ lại. Cậu ta nhận thấy có nhiều người xung quanh mà thường ngày mình thường gây gổ, lừa gạt vẫn tận tình giúp đỡ anh em Hùng lúc hoạn nạn. Từ đó trong con người Hùng đã có những thay đổi. Những đức tính tốt đẹp trong con người cậu ta dẫn trỗi dậy. Bà con xung quanh nhìn Hùng cởi mở, bớt phần đề phòng hơn.

          Rồi Hùng xung phong đi bộ đội. Đứa em gái vẫn ở với bà ngoại, được bà con chòm xóm đùm bọc giúp đỡ. Tuy vậy, Hùng vẫn không khỏi lo lắng. Chủ nhật nào được nghỉ Hùng cũng lẻn đi chặt nứa, lấy củi bán kiếm thêm ít tiền gửi về cho em gái mua sách bút, nộp học phí. Việc làm của Hùng chúng tôi không hề biết. Vì cả ngày chủ nhật làm việc mệt nhọc nên sáng thứ hai nào cậu ta cũng tỏ ra mệt mỏi. Cũng vì vậy đã xảy ra sự cố suýt nữa thì nguy hiểm đến tính mạng trong buổi kiểm tra môn thuốc nổ cuối giai đoạn huấn luyện.

          Chuyện của Hùng rồi tất cả anh em trong tiểu đội tôi đều biết, ai cũng cảm thông và không còn trách cứ cậu ta nữa. Chúng tôi tìm cách lao động ngoài giờ để có thêm chút tiền giúp đỡ Hùng. Trung đội, đại đội cũng giúp đỡ, trợ cấp thêm. Hùng càng yêu tâm hăng hái rèn luyện và tiến bộ. Sau một năm tại ngũ, Hùng và tôi đều được trung đoàn tặng giấy khen và được một tuần phép thưởng. Chúng tôi cùng về thăm nhà. Câu chuyện ở bến xe lúc nãy chắc cũng làm cho Hùng phải suy nghĩ rất nhiều.

          Chợt Hùng nắm chặt lấy tay tôi giọng run run, xúc động:

          - Cương ơi! Nếu không có quân đội, không có những người như đại đội trưởng hướng và anh em trong đơn vị thì mình không được như bây giờ đâu.

          Tôi nắm chặt tay Hùng. Những đợt gió lạnh thổi sàn sạt dọc bờ đê nhưng tôi vẫn thấy ấm áp trong lòng.

Chiếc lá

Truyện ngắn của Trọng Bảo

           Cuộc đời người con gái

           Như chiếc lá trôi sông

           Lá không trôi ra biển

           Lá chìm trong nước giong,

           Cuộc đời người con gái

           Như nước chảy giữa dòng

           Nước thì về đến biển

           Còn đời người thì không...

        Những câu thơ này chị đọc được từ khi mới mười bảy tuổi.

 Mười bảy năm sau không ngờ những câu thơ vu vơ ngày ấy như đã vận vào cuộc đời của chị.

*

        Chị Thường ra sông giặt giũ. Bến sông làng mùa này nước trong xanh, nhìn thấu đáy. Đã hết những cơn mưa làm dòng sông bên lở, bên bồi. Bờ sông mờ dần những dấu tích sự phá huỷ của tự nhiên bởi cỏ cây, lau lách. Khoai ngô xanh mướt những bãi bồi hai bên bờ. Chiều muộn. Sương giá cùng khói đốt đồng bay là là mặt nước.

  Năm nay rét sớm. Hai bàn tay chị Thường tê tê vì lạnh. Nhìn chậu quần áo đang giặt, chị chạnh lòng xa xót. Toàn là đồ người lớn. Liếc nhìn trộm chậu quần áo của cô bé đang ngồi giặt bên cạnh. Chị thấy thèm muốn trong chậu quần áo của mình cũng có những cái tã vàng màu cứt su hay những bộ quần áo lấm lem bùn đất của trẻ con. Chị vẫn chưa có chồng. Ngoài ba lăm tuổi ở quê đã là quá lứa, lỡ thì rồi. Chị đâu phải là một người xấu xí, hay tính tình khó chịu, đành hanh. Chị là một người con gái đẹp. Khi tuổi chớm đôi mươi chị là hoa khôi của làng. Mái tóc của chị dài chấm gót chân. Các bà, các chị ai cũng tấm tắc khen chị đẹp. Nhưng không ai lường trước được sắc đẹp sẽ là phúc hay là họa. Nhưng họ thường thở dài sau lưng chị. Bởi họ thấy một điều như là tiền định "con gái có mái tóc dài thường là chuyện tình duyên hay trắc trở". Ngày ấy có lẽ chị chỉ cần có lời là chả thiếu những kẻ si tình tranh nhau đi tìm lá diêu bông. Dù họ biết đó là một thứ lá chẳng bao giờ có ở trên đời.

        Nhưng chị Thường đã thầm yêu một người con trai làng bên kia sông. Họ gặp và bén duyên nhau trong một lần cùng đi tham gia hội thao quân sự trên huyện. Lời chưa ai ngỏ nhưng tình trong như đã. Chàng trai ấy tên là Lân. Lân hơn chị hai tuổi. Lân đẹp trai, cao lớn nhưng tính tình hiền lành. Hai người hẹn hò. Họ tìm gặp nhau ngày một nhiều hơn nhưng cố làm ra vẻ tình cờ. Chị hiểu cái ngập ngừng, ấp úng của Lân. Chị cười thầm chàng trai si tình nhưng nhút nhát.

        Một hôm Lân đắn đo mãi mới ấp úng nói:

        - Tối hôm nay anh sẽ sang...

        - Sang để... làm gì...?

        Chị cố tình vặn vẹo, truy hỏi làm Lân càng cuống. Anh cứ vặn vẹo mãi mấy ngón tay kêu lục cục. Chị thương anh nên không truy nữa. Chị nói nhỏ dặn:

         - Em sẽ đợi anh ở bến sông...

         Chị nhớ như in ngày hôm ấy. Mưa ở thượng nguồn. Nước lũ đổ về bến sông làng réo sôi, ngầu đỏ. Con sông nhỏ hiền hòa trở nên hung dữ. Mặt sông rộng hoác ra mênh mông.

         Lân qua đò sang sông. Chị đón anh ở đầu bãi. Khi chị đưa anh về ra mắt mẹ. Bà vui lắm. Bà chỉ có mỗi một mình chị. Bố chị mất khi chị vừa mới ba tuổi. Mẹ chị tảo tần nuôi con khôn lớn, lo cho chị học hành bằng bè bạn cùng trang lứa. Hai mẹ con nương tựa vào nhau qua những năm dài của cuộc đời đầy biến động. Chị giống hệt mẹ ở cái tính hay lam hay làm, chịu thương, chịu khó. Càng lớn, mái tóc của chị càng dài giống như tóc mẹ. Hai mẹ con cùng gội đầu ở bến sông, mái tóc dài đen sẫm cả dòng nước chảy.

         Thấy con gái có người yêu là một chàng trai khoẻ mạnh, tuấn tú, người mẹ rất mừng và thấy yên lòng. Những năm tháng vất vả, khó khăn như phút chốc tan biến trong tâm thức của bà.

         Đêm ấy chị và anh ngồi bên nhau trên triền con đê làng cỏ xanh mướt mịn màng. Bàn tay chị nằm trong bàn tay ấm áp của anh. Họ thì thầm nói với nhau về tương lai. Chưa bao giờ chị thấy hạnh phúc như vậy. Trong lòng chị như có sóng. Sóng ở trong lòng cũng dữ dội như sóng ở trên sông. Hơi thở ấm áp của anh quyện vào mái tóc của chị. Anh sung sướng vuốt ve mãi mái tóc dài, mát như một dòng sông ấy. Bàn tay anh chạm vào bờ vai tròn của chị. Chị rùng mình. Một cơn gió đem theo hơi nước từ mặt sông thổi ngược lên khiến chị thấy lạnh. Chị ngả người vào vai anh. Mái tóc chị đổ dài xuống lòng anh. Chị không bao giờ quên cái cảm giác khi bàn tay anh chạm vào khuôn ngực của mình. Như một luồng điện mạnh trái dấu đầy sức hút. Cả hai người run lên cầm cập nhưng mỗi lúc một xoắn chặt vào nhau, xiết cho đến vỡ vụn và tan chảy tất cả như dòng nước lũ mạnh phá huỷ tất cả khi nó băng chảy qua những bờ bãi cản dòng...

         Gần sáng Lân mới chia tay chị để về bên kia sông. Hai người đã thức với nhau trọn vẹn một đêm đầy viên mãn. Chị tiễn anh xuống bãi sông. Phía đông trời đã rạng. Lân vươn vai, buộc cái áo dài ngang bụng. Anh phóng xuống dòng nước sải tay bơi ra xa. Bóng anh mờ dần trong sóng. Chị mỉm cười nghe tiếng anh gọi ở gần bên kia bờ.

         Đang rắc nắm gạo tấm cho đàn gà con mới nở thì chị nghe thấy tiếng kêu thất thanh từ phía bờ sông: "Ới làng nước ơi... có người chết đuối... chết đuối...". Chị chợt thảng thốt. Một cơn gió lạnh bỗng tạt qua mặt chị. Tiếng chân người rầm rập từ các ngõ xóm chạy ra phía bến sông. Chị vội buông nắm gạo tấm chạy theo. Nắm gạo tung toé khiến đàn gà con nháo nhác.

         Chỗ bến sông lố nhố những người.

         Chị chạy tắt qua bãi ngô vừa bẻ bắp. Lá ngô khô cứa rát mặt. Có một bóng người đen trùi trũi chạy ngược về phía làng. Hai người suýt đâm sầm vào nhau. Chị nhận ra đó là thằng Hoán. Một thằng chuyên cờ bạc, lêu lổng, suốt ngày bám theo chị gạ gẫm, tán tỉnh. Hoán là một thằng rất giỏi bơi lội. Hắn đi dưới nước như đi trên cạn, bắt cá dễ hơn bắt gà, bắt vịt trong chuồng. Hắn chạy như ma đuổi. Chợt nhìn thấy chị, đôi mắt hắn tuy có vẻ hoảng loạn nhưng đầy vẻ đắc ý. Hắn ngoác miệng định nói điều gì nhưng lại thôi.

         Ra đến chỗ đám người đang xúm đen, xúm đỏ ở bến sông, chị cố lách người vào xem. Xác người chết đuối được đặt trên một manh chiếu rách. Chị giật mình bàng hoàng nhận ra đó là Lân. Lân vừa chia tay với chị lúc nãy sao lại thế này. Mà anh đã bơi sang gần bờ bên kia rồi cơ mà.

 Chị thấy trời đất quay cuồng, dòng sông như lật ngược lên phía trời cao mà đỉnh núi thì đâm ngược xuống đất.

 Không hiểu bằng cách nào mà chị chạy được về đến nhà. Chị kêu lên được mấy tiếng: "Mẹ ơi! Anh Lân đã..." thì ngã xuống ngất đi...

 Công an khám nghiệm tử thi một cách chiếu lệ rồi cho gia đình Lân đem anh về mai táng. Mọi người đều cho rằng Lân bị chết đuối nên không chú ý đến dấu vết bầm đỏ ở cổ chân anh.

Đám ma Lân giữa một chiều lặng gió. Mặt sông mênh mang nên phản âm, nghe rõ cả tiếng kèn trống văng vẳng vọng từ bên kia bờ sang. Chị Thường thẫn thờ chống tay ngồi dậy. Chị lảo đảo với tay lên ban thờ rút một thẻ nhang. Tìm mãi mới thấy một bao diêm còn mấy que. Chị đi như vô định. Bàn chân chị thập thõm bước lên sườn đê. Mặt sông vẫn binh binh vọng lên tiếng trống đám ma. Những xoáy nước quằn quại cuốn theo những chiếc lá cây còn xanh roi rói từ thượng nguồn trôi về rạt vào bãi bồi rợn đỏ phù sa trông như màu máu.

Chị Thường quỳ xuống bãi cỏ nhàu nát. Nơi mà suốt đêm trước chị và Lân đã ngồi với nhau. Nơi họ đã trao cho nhau nụ hôn đầu tiên và sự tiết trinh của đời người. Bàn tay chị run run rút ra ba nén nhang rồi lần túi tìm bao diêm. Mấy lần những que diêm chỉ xẹt lên một tia lửa rồi tắt lịm. Chỉ còn một que diêm cuối cùng. Chị lập cập xiết mạnh que diêm vào vỏ. Một ngọn lửa loé lên cháy rần rật. Chị châm mấy nén nhang rồi cắm xuống bãi cỏ sườn đê. Một làn gió nhè nhẹ thổi kéo khói nhang lởn vởn bay về hướng bên kia sông.

Ngày nào chị cũng đem hương nhang ra đê. Có hôm còn có thêm hoa quả. Hết bốn chín ngày, chỗ bãi cỏ chi chít những dấu chân nhang.

Một hôm, gặp chị ở bãi sông vắng, thằng Hoán sán đến tán tỉnh. Chị cảnh giác gạt bàn tay của hắn không cho chạm vào người mình. Hắn trắng trợn nói: "Em không lấy anh thì cũng chả lấy được ai đâu!". Chị nhổ xuống đất: "Đồ khốn nạn! Chính mày làm hại anh Lân phải không?". Hắn bảo: "Nó chơi trội, dám sang cướp gái làng Vực này... cho chết!". Chị định tát vào mặt hắn nhưng không kịp. Hắn nhao người một cái phóng tõm xuống sông mất hút. Chị cũng bỏ dở mấy luống ngô đang nhổ cỏ về làng.

Thời gian trôi đi, tưởng mọi chuyện rồi sẽ phôi phai, đi vào quên lãng. Nhưng sự thể lại không như vậy. Thằng Hoán luôn theo đuổi, ám ảnh chị. Nó công khai nhờ cả người đến mai mối nhưng chị không thèm tiếp chuyện. Thằng Hoán bẽ mặt. Nó có vẻ cay cú lắm. Nó không sán đến gần chị mỗi lần chị đi chợ, ra đình nghe hát đêm hội làng nữa. Nhưng trong làng lại xảy ra lắm chuyện. Anh Hội nhà trên thị trấn là bạn học đạp xe về làng ghé nhà chị chơi. Hai người có vẻ tâm đầu ý hợp lắm. Lúc anh ra về thì trời sẩm tối. Anh vừa đạp xe vừa huýt sáo vui vẻ. Trời không gió gì mà một cây tre ở bụi tre bên đường bất ngờ gãy gập xuống ngáng ngang lối đi. Anh Hội không kịp phanh xe va luôn mặt vào cây tre gẫy mất một cái răng cửa. Từ đó anh cạch không về làng Vực nữa. Anh Giang ở làng bên có dáng thư sinh. Anh rất mê chị. Chị cũng thấy mên mến anh. Hai người hay trao đổi với nhau về văn thơ. Họ cùng ở đội văn nghệ của xã. Một hôm sau buổi biểu diễn phục vụ tân binh ngày hôm sau lên đường nhập ngũ, anh đưa chị về tận nhà. Hai người líu ríu vừa đi vừa nói chuyện. Lúc anh Giang ra về thì trời đã rất khuya. Đêm cuối tháng không trăng sao nên trời tối om. Anh Giang vừa đi qua dốc đê, nơi có cái miếu hoang cạnh gốc cây duối thì nghe tiếng lạo xạo sau lưng. Anh giật mình nhìn lại hốt hoảng rợn tóc gáy, sởn gai ốc khi nhìn thấy một vật tròn tròn bằng nắm tay sáng lấp lánh cứ bò theo mình. Anh hốt hoảng hét lên: "Ma... ma... ma..." rồi đâm đầu bỏ chạy. May anh gặp đám người đang chạy gạch mộc tránh mưa trên bờ đê nên mới đỡ sợ. Anh phải ngồi chờ họ làm xong việc rồi theo về làng.

Chuyện ma ở cổng nhà chị bắt đầu có từ đó...

Lão Bủng là người chuyên đặt đó bẫy lươn, toàn đi đêm về hôm bữu môi cười khuẩy:

- Làm đếch gì có ma! Thời đại này là thời đại nào rồi mà bọn thanh niên chúng mày còn tin là có ma quỷ?

Bọn thanh niên nhao nhao kể lại chuyện anh Giang gặp ma ở cổng nhà chị Thường cho lão nghe. Lão lại cười ha hả và bảo:

- Cho tao một chai cuốc lủi tối nay tao ngủ ở chỗ dốc cây duối chân đê chờ ma cho mà xem!

Bọn thanh niên móc túi góp tiền ra quán mua ngay cho lão một chai rượu. Lão Bủng cầm chai rượu mừng rỡ tu luôn một ngụm.

Buổi tối đám thanh niên đứng ở đầu làng để giám sát việc lão Bủng đi qua cổng nhà chị Thường ra phía ngôi miếu hoang. Lão Bủng tay cầm chai rượu, tay xách con dao quắm ngật ngưỡng đi lên dốc đê. Trời tối om. Những cây dứa ma khua lá lạo xạo nghe cảm giác gai gai cả người. Lão Bủng ngồi dựa lưng vào gốc cây duối nhìn lên phía dốc đê. Trong miếu có tiếng chuột đuổi cắn nhau chít chít. Đêm càng về khuya càng lạnh. Lão khép vạt áo, hai tay ôm lấy vai. Chai rượu còn một nửa. Nhưng trời lạnh càng uống rượu thì lại càng lạnh. Lão bắt đầu thấy buồn ngủ. Đôi mắt lão lơ mơ. Chợt lão giật mình nghe tiếng lạo xạo. Lão mở to mắt sững sờ. Lão cấu vào tay mình một cái xem tỉnh hay mơ. Ngay trước mặt lão là ba đốm sáng loạng choạng to bằng nắm tay đang lăn đi, lăn lại và mỗi lúc một tiến gần lại phía lão. Lão Bủng bật dậy, tóc gáy dựng lên. Tay lão nắm chặt con dao quắm, lưng dựa vào gốc cây. Bỗng "rào... rào...", cát từ trên ngọn cây quãi xuống như mưa. Lão rú lên khi nhớ tới chuyện ma quãi cát vẫn nghe kể lại. Vứt cả dao, bỏ cả chai rượu lão phá chạy bươn bả về làng. Bàn chân không dép guốc của lão vấp đá đau điếng mà không dám dừng lại. Do quá sợ hãi và vội tháo chạy nên lão không nghe thấy tiếng cười khùng khục ở trong ngôi miếu hoang.

Thằng Hoán bước ra nhặt ba "con ma" vẫn còn đang lăn đi lăn lại cạnh gốc duối. Đó là ba cái chung phong đèn dầu hoả được bịt kín bằng giấy bản. Bên trong mỗi cái chung phong thuỷ tinh có một con cua kềnh và những con đom đóm. Chính những con cua bị nhốt này đã bò làm cho cái chung phong đèn chứa đầy đom đóm chuyển động trông như những "con ma" đang lăn trên đường. Còn cát từ trên cây ném xuống cũng do thằng Hoán đã chuẩn bị từ chiều. Khi biết có chuyện thách đố giữa đám thanh niên và lão Bủng, nó đã bí mật buộc sẵn một túi cát trên cây, ròng một sợi dây cước trong suốt ra phía sau miếu. Chờ khi lão Bủng nửa tỉnh, nửa ngủ thằng Hoán mới lăn ba "con ma" ra và giật dây cho túi cát trút xuống đầu lão.

Sau đêm ấy cả làng càng thêm xôn xao chuyện cổng nhà chị có ma. Cũng từ đó những đêm tối trời không thấy lão Bủng đi đơm đó nữa. Chuyện ma gắn liền với những lời đồn thổi chị Thường cao số, sát chồng khiến ngày càng ít khách nam tìm đến nhà chị.

Một bận trời mưa to, lụt lớn. Chị phải đưa mẹ vào ở nhờ bà con trên xóm Thượng không bị ngập. Một mình chị ở nhà chạy lụt. Giữa lúc chị đang đưa mấy bao thóc lên gác nhà thì Hoán đến. Hắn hì hục giúp chị vác từng bao thóc, bao ngô lên gác xếp cẩn thận rồi giúp chị chằng chống nhà cửa mặc dù chị chẳng hề nhờ vả. Chị và hắn chẳng nói với nhau một câu nào, cứ hì hục ai nấy làm.

        Đến chiều tối hai người mới đưa hết đồ đạc, thóc lúa lên căn gác xép. Nước cũng đã dâng mấp mé bậc thềm. Chị nói vẻ khô khan:

- Anh ở lại ăn cơm...

Rồi chẳng chờ hắn có đồng ý hay không, chị bưng rá gạo ra giếng vo. Căn bếp chưa bị ngập. Chị nhặt mấy cành củi khô chụm bếp, nhóm lửa. Ánh lửa bập bùng. Bóng chị chập chờn trên vách nhà bếp. Nồi cơm bắt đầu sôi òng ọc. Cả buổi mệt và lạnh vì lội nước, ngọn lửa làm đôi má chị dần lấy lại màu hồng hào. Chợt chị thấy như có hơi thở nhẹ phía sau lưng. Chị quay ngoắt lại thấy Hoán đang nhìn mình với đôi mắt rất lạ. Chị chưa kịp phản ứng gì thì Hoán lao đến. Hắn ôm riết lấy chị, xô chị ngã ngửa ra nên nhà bếp. Chị vùng vẫy kháng cự quyết liệt. Không một tiếng kêu la vì chị biết cả làng đã chạy lụt, người ở lại còn lo giữ của nhà mình có kêu cứu cũng vô ích. Chị đạp mạnh vào bụng Hoán, cố thoát khỏi hắn nhưng không nổi. Hắn đã đè được chị xuống hè nhà bếp. Nước lũ đã ngập săm sắp ướt lưng áo của chị. Chị bất lực trong đôi chân to khỏe khoá chặt của hắn. Hắn đã xé toang được hai vạt áo của chị. Hai bầu vú tròn căng bật ra run rẩy. Chị đành buông xuôi. Chị bật khóc nức nở: "Đồ khốn nạn... đồ khốn nạn...". Chị nằm im, buông tay mặc kệ hắn muốn làm gì mình thì làm... Hoán ngồi trên bụng chị. Thấy chị khóc hắn đột nhiên sững lại. Rồi hắn lặng lẽ đứng lên lội ngược dòng nước lầm lũi đi ra phía cổng.

Chị ngồi dậy kéo vạt áo đã đứt hết cúc lại che ngực. Bếp đã tắt ngấm. Nồi cơm vừa mới sôi đã bị hai người trong lúc vật lộn đạp đổ, gạo vung vãi khắp nền nhà bếp. Chị không châm lại bếp lửa nữa. Gần như cả đêm ấy chị ôm ngực ngồi co ro trong gian bếp. Chị chỉ rời bếp leo lên gác khi nước lũ đã ngập tràn vào trong nhà... Sau trận lụt ấy thằng Hoán bỏ làng ra đi. Hắn làm nghề chuyên chở bè trên sông. Có lần chị đang giặt chợt thấy hình như có con gì chạm vào đùi mình. Chị hốt hoảng bỏ cái áo chạy lên bờ thì hắn nhô đầu lên khỏi mặt nước nhìn chị cười nhăn nhở. Những chuyến bè tre nứa của hắn chỉ là để che mắt kiểm lâm. Bên dưới những chiếc bè ấy là những khúc gỗ lim, gỗ nghiến buôn lậu bằng đường sông. Sau bận chém trọng thương một kiểm lâm viên, hắn bị đi tù ba năm. Chị nghe nói ra tù hắn chuyển sang làm cai thầu đào đãi vàng. Chuyện của hắn người làng kể mỗi người mỗi phách. Thời gian hắn bỏ đi cũng không còn có chuyện ma quỷ gì xảy ra ở làng nữa.

*

Giặt xong chậu quần áo trời đã tối hẳn, chị đi tắt qua vạt ngô về làng. Đến gần nhà, chị chợt thấy có một bóng người bé nhỏ thấp thoáng ở cổng. Từ ngày mẹ mất, chị làm thêm cái cổng. Chị hơi rùng mình khi nghĩ tới chuyện ma. Có tiếng chân người và tiếng sột soạt bên con đường làng rậm những bụi cây. Chị định thần tiến lại gần. Đúng là có một đứa trẻ con. Một bé gái độ bốn năm tuổi xinh xắn đeo cái ba lô bé xíu đang đứng ở cổng nhà chị. Vừa nhìn thấy chị nó đã gọi:

- Cô... cô Thường ơi!

- Cháu là ai... tại sao cháu biết tên cô?

- Cháu là Loan... bố... bố cháu gửi thư cho cô đây ạ!

Chị Thường vội đưa con bé vào nhà. Chị bật điện (bây giờ làng đã có điện). Chị bảo con bé ngồi xuống ghế, rót cho nó cốc nước rồi bóc lá thư.  Đó là thư của Hoán. Hắn viết: "Tôi viết thư này trước hết xin Thường tha thứ cho những lỗi lầm và hành động của tôi. Tôi có tội là đã làm Thường lỡ dở cuộc đời, tôi không cố ý nhưng đã gây nên cái chết của anh Lân. Hôm đó tôi kéo Lân ngược ra giữa sông. Tôi chỉ định dọa anh ấy thôi. Tôi biết anh ấy cũng là một người bơi lội rất giỏi. Không hiểu vì sao hôm đó anh ấy lại kiệt sức mà chìm xuống. Khi không thấy anh ấy ngoi lên, tôi đã lặn tìm nhưng không được. Khi Thường đọc thư này cũng là lúc tôi đã gặp anh ấy rồi. Tôi sẽ cầu xin anh ấy tha thứ. Tôi bị một căn bệnh vô phương cứu chữa đã đến giai đoạn cuối. Âu cũng là quy luật nhân quả. Tôi ngàn lần cúi đầu xin Thường hãy nhận và giúp tôi nuôi nấng bé Loan. Đó là đứa con của tôi với một người đàn bà cũng đã chết vì căn bệnh thế kỷ...".

Chị Thường giật mình buông lá thư rơi xuống đất khi nghe ngoài bến sông có tiếng kêu: "Bà con làng nước ơi! Có người chết đuối... có người chết đuối...".

Ôm chặt lấy bé Loan, chị chợt thảng thốt khi thấy mái tóc của con bé buông dài chấm gót.

Cái áo trẻ con

Truyện ngắn của Trọng Bảo

Tôi và Giang dắt nhau từ trại ăn dưỡng về quê của trung đội trưởng Bính ở huyện Hiệp Hoà, Hà Bắc. Giang bị thương mù cả hai mắt nên đi đường khá vất vả. Lúc ngồi trên xe ô tô Giang bỗng bảo tôi:

- Lân ạ! Khi gặp chị Thanh, vợ anh Bính và cháu Hoa chúng mình biết nói thế nào nhỉ?

Tôi như sực tỉnh:

- Ờ... ờ... Tao cũng đang nghĩ, không biết nói thế nào được đây!

- Hay là chúng mình cứ kể hết mọi chuyện cho gia đình anh ấy biết.

- Kể hết? - Tôi hỏi lại.

- Ừ! Có lẽ như vậy là tốt nhất Lân ạ! Có như vậy chị Thanh và cháu sẽ hiểu anh ấy hơn và thông cảm với chúng mình hơn.

Tôi im lặng suy nghĩ, đắn đo... Có lẽ Giang nói đúng, mình phải kể lại cho chị Thanh vợ anh Bính và cháu Hoa về những phút giây cuối cùng của anh trên điểm tựa trước lúc hy sinh. Nhưng tôi cứ đắn đo suy nghĩ, tôi bảo Giang:

- Như thế liệu có ổn không? Gia đình anh ấy có lẽ đến bây giờ đã nguôi ngoai sự mất mát rồi. Chúng mình kể như vậy vô tình sợ khơi lại nỗi đau của vợ và con anh ấy cũng nên?

Nghe tôi nói như vậy, Giang cũng băn khoăn. Nhưng bàn đi, tính lại mãi chúng tôi đều nhất trí đành phải kể lại cho vợ, con anh Bính tất cả mọi chuyện, kể cả về cái chết và nhất là những lời anh dặn trước lúc ngã xuống. 

Hình ảnh ấy tôi không bao giờ quên được. Đó là một ngày tháng hai. Sau năm ngày chiến đấu ác liệt, đương đầu với hàng trăm tên giặc. Trung đội tôi chỉ con có bảy tay súng. Hơn mười người đã ngã xuống, một số bị thương được đưa về tuyến sau. Trung đội trưởng Bính cũng bị thương. Đầu anh cuốn băng, máu vẫn rỉ ra. Anh gọi chúng tôi đến và nói:

- Các đồng chí! Năm ngày qua chúng ta đã chiến đấu vô cùng anh dũng. Bọn địch đã bị thiệt hại nặng, hàng trăm tên phải bỏ mạng và hai xe tăng bị tiêu diệt. Chúng ta tuy chỉ còn lại có bảy người nhưng trận địa vẫn được giữ vững. Ngày hôm nay nhất định bọn địch sẽ tấn công ác liệt hơn. Đạn dược sắp hết, liên lạc với đại đội bị mất từ hôm qua. Vì vậy bây giờ tôi phân công thế này. Đồng chí Lân và hai đồng chí chặn địch ở phía sau tràn lên. Tôi và hai đồng chí còn lại chịu trách nhiệm đánh địch ở phía núi đá tràn xuống. Chúng ta dựa lưng vào nhau mà đánh.

Dừng một lát anh nói tiếp:

- Còn Giang, quen đường lại là chiến sĩ trinh sát tìm cách vượt vòng vây về thị trấn bắt liên lạc với đại đội rõ chưa?

Giang nghe vậy liền giãy nảy lên:

- Không... không! Em ở lại chiến đấu với các anh thôi.

Trung đội trưởng Bính ôn tồn nói:

- Cậu phải đi Giang ạ! Đường đi nguy hiểm lắm. Cậu biết đường lại trẻ nhất, nhanh nhẹn, cậu đi còn khó khăn, nguy hiểm hơn chúng mình ở lại, chúng mình tin ở cậu lắm!

Thấy Giang còn chần chừ, anh nói tiếp:

- Cậu đi nhanh rồi dẫn đơn vị lên chi viện cho chúng mình nhé.

Giang im lặng một lát rồi lặng lẽ xách súng đứng dậy chuẩn bị. Anh Bính mở cái ba lô lép kẹp của mình rút ra một cái gói nhỏ đưa cho Giang rồi nói:

- Mình có cái áo hoa mua cho con gái, cậu cầm giúp mình với nhé! - Đoạn anh quay lại bảo chúng tôi: - Thằng nào có cái gì không cần thiết cho trận đánh thì đưa cho Giang nó cầm đi luôn một thể.

Chúng tôi lắc đầu, bởi vì chúng tôi còn rất trẻ, vợ con chưa có, có đứa còn chưa có cả người yêu nữa là khác nên chẳng đứa nào có gì phải gửi về cả. Chỉ có thằng Kha nhờ Giang giữ hộ tập ảnh lưu niệm của bạn bè.

Giang cầm cái gói của anh Bính lặng lẽ nhìn chúng tôi rồi tụt xuống chân đồi. Giang đi rồi anh Bính chia cho chúng tôi mỗi người thêm hai quả lựu đạn, bảo chúng tôi về vị trí chiến đấu. Ba tiếng sau, địch lại tổ chức tiến công dữ dội. Hàng trăm tên lính giặc xông lên. Anh Bính vừa bắn vừa gọi chúng tôi:

- Lân ơi! Kha ơi! Chiến ơi... đánh đến cùng nghe không. Dù chết cũng không để lọt vào tay địch rõ chưa?

- Vâng! Anh cứ yên tâm. - Chúng tôi gào lên đáp lại và nổ súng bắn chặn bọn địch. Hàng chục tên địch ngã gục xuống sườn đồi, có thằng lăn lông lốc xuống chân dốc kêu thảm thiết. Nhưng chúng ỉ đông tiếp tục xông lên. Ở phía anh Bính thì chúng lăn xuống như những khúc gỗ. Đạn pháo, đạn ĐK2, đạn cối 60, đạn bộ binh nổ rền rĩ, khói bụi mù mịt cả mỏm đồi. Hoả lực của chúng tôi yếu dần. Những giây phút cuối cùng đã đến. Chúng tôi đang bắn đến những viên đạn cuối cùng. Kha, Thắng, Sinh, Việt lần lượt ngã xuống. Tôi bị thương nặng vào đùi và vào ngực. Nghe anh Bính gọi, tôi cố lết về phía anh. Lợi dụng địch tạm dừng, anh Bính nhanh chóng băng bó cho tôi, đưa tôi vào hầm rồi lại chạy ra vị trí chiến đấu. Ngồi trong hầm tôi vẫn nhìn rõ anh Bình đầu cuốn băng trắng, lưng áo rách toạc đầm đìa mồ hôi và máu. Anh đang gì súng quét về hướng quân địch. Bọn địch ào lên sát vị trí của anh. Đang bắn đột nhiên hết đạn, anh bật lê lên. Hàng chục tên giặc xúm quanh anh. Có tên bị trúng ngọn lê của anh ré lên thảm thiết. Nhưng anh đã buông khẩu súng xuống. Những tên giặc xông vào định bắt sống anh bỗng cùng thét lên kinh hoàng khi chúng nhìn thấy trên tay anh quả lựu đạn đang xì khói. Một tiếng nổ cùng chớp lửa bùng lên. Anh Bính đã ngã xuống xung quanh xác quân thù tơi tả. Thịt xương anh tan cùng đất đá biên cương.

Tôi cũng vội rút một quả lựu đạn cuối cùng của mình ra chờ bọn địch xông vào hầm. Một quả quả pháo rơi trúng cửa hầm, tôi bị ngất đi vì ngạt khói trong khi cửa hầm cũng bị lấp kín. Khi tôi tỉnh dậy đã thấy mình đang nằm trên cáng thương. Các chiến sĩ trong đại đội đã lên chiếm lại điểm tựa, họ bới tìm thấy tôi còn đang thoi thóp trong hầm. Tôi được đưa về tuyến sau cấp cứu.

Thời gian trôi đi. Đã hơn năm năm. Một hôm, tôi đang ngồi tán gẫu với mấy thương binh ở sân trại an dưỡng thì có một số thương binh từ viện quân y chuyển về trại an dưỡng. Nhìn một thương binh dang người nhỏ bé, mắt đeo kính râm, đang được một nữ y tá dắt xuống xe tôi bỗng ngờ ngợ rồi hét toáng lên:

- Trời ơi! Giang... Mày đấy phải không?

Người thương binh đeo kính râm ngơ ngác ngó quanh. Tôi vội bỏ đám bạn bè vọt đến nắm lấy tay Giang...

- Đúng là Giang rồi, mày vẫn còn sống hả! Tao Lân, Lân "tồ" đây...

Lúc này Giang mới reo lên:

- Lân à! Mày cũng vẫn còn sống hả! Cứ tưởng hy sinh cùng với anh Bính rồi. Nói đến đây, như chợt nhớ ra điều gì, Giang lập cập mở cái túi vẫn đeo trên người, rút ra một cái gói nhỏ, miệng lắp bắp...

- Cái áo... cái áo... của anh Bính gửi cho con, tao chưa đem đến nhà anh ấy được, cũng không nhờ ai đem đến được... Mày giở ra xem, nó còn nguyên vẹn không? Nó có bị rách, bị bẩn hay dính máu của tao khi bị trúng đạn không? Năm năm nay, tao luôn giữ nó bên mình mà không biết nó còn nguyên vẹn không. Tao bị mù cả hai mắt rồi. Hôm ấy, sau khi rời khỏi trân địa, tìm được đại đội, rồi tiếp tục chiến đấu. Tao bị thương hỏng cả hai mắt. Mày kiểm tra lại cái áo rồi chúng mình tìm cách đem đến cho con anh ấy.

Tôi lập cập run run mở cái áo ra. Cái áo vẫn được gấp cẩn thận nhưng bị ố và có một vết rách nhỏ. Tôi ngần ngữ một lát rồi nói cho Giang yên tâm:

- Vẫn còn mới nguyên, chỉ có tay áo bên trái bị rách một tý thôi Giang ạ!

- Thế hả? Vết rách ấy là mảnh đạn nó cứa đấy. Thế là yên tâm rồi. Mấy lần mình giở ra hỏi các cô y tá, ai cũng bảo là vẫn còn mới, mình chỉ sợ nó đã bị cũ bẩn, Các cô ấy sợ mình buồn nên nói như vậy. Trại an dưỡng này chỉ cách quê anh Bính gần ba mươi cây số, tao với mày phải mang đến tận nhà trao cho con anh ấy mới được.

Cầm cái áo tôi sực nhớ ra:

- Nhưng hỏng rồi ông ơi. Cái áo này anh Bính mua cho con gái lúc nó mới sáu tuổi. Năm năm rồi, con gái anh ấy đã mười một, mười hai tuổi làm sao mặc được nữa.

Giang ngẩn người ra:

- Ừ nhỉ? - Rồi Giang ngồi bệt xuống sân cỏ, mặt thừ ra, hai tay ôm đầu miệng lẩm nhẩm tự trách mình. Thế mà tại sao năm năm rồi giữ cái áo của anh ấy gửi cho con ở bên mình mà tao lại không nghĩ ra điều ấy nhỉ. Tao lúc nào cũng chỉ nghĩ, dù có bị mù cả mắt, gay chân nhưng còn sống, còn phải gìn giữ cái áo này và mang đến đưa tận tay cho vợ con anh ấy... Ai ngờ...

Tôi an rủi Giang:

- Thôi đừng buồn nữa, Giang ạ! Chúng mình sẽ mua tấm vải hoa giống hệt cái áo này may cho con anh ấy một cái áo khác. Còn cái áo này chị ấy và con anh giữ làm kỷ niệm.

Giang đồng ý với phương án của tôi. Hôm sau, tôi và Giang dồn tiền phụ cấp và số tiền dành dụm được lại, kéo nhau lên tận chợ thị xã Bắc Ninh tìm mua vải. Đến chợ, tôi dắt Giang đi khắp các dãy hàng tìm vải, mỗi khi tôi nói có loại vải giống như cái áo, Giang lại bảo tôi đưa cho Giang cầm rờ xem thử. Loại thì Giang chê thô, loại thì Giang bảo vải mỏng quả. Gần trưa chúng tôi mới mua được tấm vải vừa ý. Còn tiền Giang bàn với tôi mua hai mét vải lon xanh làm quà cho chị Thanh vợ anh Bính.

Mua được vải, tôi với Giang lại lần đi hàng chục hiệu may, hỏi cặn kẻ mấy bà, mấy chị đi chợ xem cái áo của em bé gái mười một, mười hai tuổi dài rộng như thế nào. Cẩn thận hơn, Giang còn bắt tôi phải vào tận cửa hàng bách hoá nơi có quần bán quần áo trẻ em may sẵn để hỏi cho kỹ lưỡng.

Khi chiếc áo may xong, tôi và Giang xin phép chỉ huy trạm an dưỡng lên đường về nhà anh Bính. Chúng tôi quyết định sẽ kể lại cho chị Thanh vợ anh Bính và cháu Hoa hết mọi chuyện. Tôi tin rằng khi thấy lại cái áo của bố may cho cháu Hoa ngoan hơn, sẽ sống và học tập tốt hơn.

*

Viết lại câu chuyện này, tôi muốn tưởng nhớ lại những đồng đội đã hy sinh. Những người như anh Bính. Họ đã ra đi như thế. Họ còn sống mãi trong lòng chúng ta. Anh Bính không chỉ để lại cho đứa con gái một cái áo hoa, mà anh và những người ngã xuống đã để lại cho chúng ta tất cả những gì thiêng liêng cao quý về cuộc sống và trách nhiệm đối với nhân dân và Tổ quốc thân yêu.

Người bạn đường

Truyện ngắn của Trọng Bảo

         Chiều thứ bảy, Lập ra bến xe đi chuyến cuối cùng về huyện. Từ chỗ xuống xe, anh còn phải cuốc bộ gần 5 cây số nữa mới tới nhà. Trời mùa đông chóng tối. Mới có hơn 5 giờ chiều mà con đường rải đá dọc sườn núi Tam Đảo đã lẫn trong sương. Đơn vị đóng quân gần nhà nhưng sau mấy tháng huấn luyện, Lập mới được thủ trưởng cho về tranh thủ ngày chủ nhật.

        Giữa lúc Lập đang sải chân bước vội thì chợt nghe tiếng gọi của một cô gái:

        - Anh bộ đội ơi! Anh bộ đội...

        Lập ngoảnh mặt về tiếng người gọi và nhận ra một cô gái ăn mặc khá diện đang đứng ở bên đường, cạnh chiếc xe máy. Lập bước lại gần hỏi:

- Bạn gọi tôi?

        - Vâng ạ! - Cô gái lúng túng với hai bàn tay lấm lem dầu mỡ, giọng nói đầy vẻ lo lắng:

        - Xe của em bị hỏng, đường về nhà còn xa... Anh có biết sửa xe giúp em với... 

       Bây giờ thì đến lượt Lập lúng túng vì xe máy anh còn chưa đi thạo chứ đừng nói đến sửa chữa. Hồi ở nhà, bố mẹ làm ruộng, có được chiếc xe đạp để đi học là may lắm rồi. Vào bộ đội, tuy là lính ở đơn vị xe tăng đấy nhưng mới nhập ngũ, vừa huấn luyện xong chương trình bộ binh, Lập đã biết gì đến xe pháo đâu. 

        Thấy Lập lúng túng, cô gái càng lo, giọng cô như sắp khóc:

        - Xe máy em cũng đi mượn lại hỏng giữa đường thế này... Lúc nãy có mấy người thấy em hỏng xe cứ xán lại xin chữa giúp, nhìn cách ăn mặc của họ, em sợ quá, không dám nhờ...

       - Tôi cũng không biết sửa chữa xe máy. Trên phố huyện mới có nơi sửa nhưng phải gần 4 cây số nữa, hay là bạn đưa xe lên đó chữa...

        Thấy cô gái có vẻ lo lắng nhìn con đường rải đá lổm ngổm đang chìm dần vào bóng tối. Lập bảo:

        - Bạn đừng sợ! Tôi sẽ đi cùng bạn quay lại phố huyện.

        Thấy không còn cách nào khác, cô gái đành nghe theo. Vừa định dắt xe đi, cô lại hỏi:

        - Thế anh về đâu ạ?

        - À! Nhà tôi cách đây một đoạn ngắn thôi, tôi được về tranh thủ ngày nghỉ... À! Hay là thế này, nếu không ngại thì bạn cứ về nhà tôi nghỉ, ngày mai chủ nhật hãy quay lên phố huyện sửa xe. Bây giờ có sửa được xe, trời tối rồi, con gái cũng không nên đi xe máy trên đường vắng. Mà bạn còn về tận đâu?

        - Em về Hà Nội...

        Thế rồi, cô gái đành phải đồng ý về nhà Lập. Lập giúp cô dắt chiếc xe máy hỏng. Lúc này anh mới dám nhìn kỹ cô gái. Quả là một người con gái rất đẹp. Đôi mắt to sáng vẻ thông minh, đôi môi mọng đỏ và cách ăn mặc hợp mốt của cô. Lập thầm đoán có lẽ cô là một sinh viên. Quả đúng vậy, trên đường về nhà mình, Lập đã biết tên cô gái là Thúy, sinh viên Trường cao đẳng Sư phạm.

        Về đến nhà thì trời đã tối. Cô em gái Lập chạy ra mở rổng. Rồi chưa rõ nếp tẻ thế nào, con bé chạy vụt vào nhà gọi toáng lên:

        - Mẹ ơi! Anh Lập về phép, đưa cả người yêu về nữa! Xinh đẹp hết ý mẹ nhé!

        Nghe cô em gái nói vậy cả Lập và Thúy đều ngượng ngập, lúng túng. Dưới ánh điện, mặt Thúy đỏ bừng trông cô càng đẹp hơn. Bà mẹ từ trong bếp bước ra. Thúy ấp úng cùng chào. Bà gật đầu. Còn cô em gái chưa chi đã rối rít túm lấy tay Thúy kéo ra giếng rửa mặt vẻ như đã thân tình từ lâu. Lập vội giải thích:

        - Mẹ ạ! Đây là Thúy, người Hà Nội, là sinh viên, bạn ấy lên vùng ta có việc, bị hỏng xe nên...

        Bà gật đầu bảo:

        - Mẹ hiểu rồi! Thôi các con cứ đi rửa mặt rồi ăn cơm kẻo đói.

        Trong bữa cơm tối, Thúy kể rằng ngày trước bố cô là bộ đội đóng quân ở vùng này, quen cụ lang Thảo ở Sơn Dương có bài thuốc chữa khớp hay lắm, hôm nay cô lên lấy thuốc cho bố, dọc đường về bị hỏng xe.

        Nghe vậy, bà hỏi:

        - Thế bố cháu đóng quân ở đây hồi nào?     

        - Bố cháu bảo... - Thúy cố nhớ lại: - Hồi ấy là chiến tranh phá hoại của Mỹ, khoảng những năm 71, 72, bố cháu là bộ đội cao xạ. Lúc ấy cháu còn chưa đẻ bác ạ!

        Bà cười chỉ tay vào Lập bảo:

        - Nếu hồi ấy thì cu Lập này cũng còn chưa đẻ... Mà bố cháu tên là gì nhỉ?

        - Dạ! Bố cháu tên là Hải ạ!

        - Hải à! - Bà nhíu mày suy nghĩ rồi bảo: - Có phải bố cháu người cao to, chỗ đuôi lông mày bên phải có một vết sẹo phải không?

        - Đúng rồi ạ! Thúy reo lên: - Thế ra bác cũng biết bố cháu ạ!

        Bà chậm rãi kể:

        - Hồi đại đội cao xạ đóng quân ở đây xây dựng trận địa để bảo vệ cầu Việt Trì có hai người tên là Hải, một chú trẻ hơn thì đã hy sinh trong trận đánh B52, còn bố cháu khi ấy là đại đội trưởng cũng bị thương...

        Nói đến đây, bà đứng dậy đi vào trong buồng, có tiếng mở khóa tủ lách cách. Một lúc sau bà đi ra, tay cầm một cái gói ni-lông nhỏ. Bà mở gói đưa cho Thúy xem một tấm ảnh đen trắng nhỏ đã ố vàng. Trong ảnh là một chiến sĩ đeo quân hàm binh nhất, khuôn mặt tròn bầu bĩnh như con gái. Bà nói:

        - Đây là chú Hải "con". Chú ấy đã hy sinh rồi. Khi về đây đóng quân, chú ấy suốt này hát hò hát vui vẻ, chạy khắp xóm, nhà nào có việc gì chú ấy cũng giúp, chú ấy lợp nhà cho ông Đông, gánh lúa giúp bà Nghĩa, nửa đêm cõng cụ Ngát bị cảm nặng đi viện Ai cũng quý, cũng thương vì chú ấy nhỏ nhất đơn vị nhưng chăm làm, chịu khó, khi chú ấy hy sinh ai cũng khóc. Lúc tắm rửa, khâm liệm cho chú ấy, thấy trong túi áo của chú có đến bốn, năm tấm ảnh nhỏ như thế này, chắc là mới chụp xong chưa kịp gửi về nhà và cho bạn bè, bác đã xin được giữ một tấm, các anh ấy đồng ý.

        Bà rút ra một tấm ảnh to hơn đưa cho Thúy:

        - Còn đây là tấm ảnh chụp chung giữa trung đội dân quân và đơn vị cao xạ. Cháu thử nhìn xem có thấy bố không?

        Thúy đưa hai tay đón tấm ảnh chăm chú xem rồi reo lên:

        - Đúng là bố cháu đây rồi! - Thúy chỉ vào một người đeo xà cột đứng giữa ảnh và hỏi bà: - Có phải bác đeo súng đứng bên trái bố cháu phải không ạ ?

        Bà gật đầu và kể tiếp:

        - Đây là tấm ảnh anh phóng viên nhà báo chụp giữa hôm trung đội dân quân lên giúp đơn vị xây dựng trận địa... Hồi ấy, bác cũng ở trong trung đội dân quân, ngày nào cũng giúp đơn vị thổi cơm, gánh nước lên trận địa trực chiến, tối đến thì giúp anh em giặt giũ, khâu vá hoặc lấy lá nguỵ trang, đào công sự. Bố cháu nói: "Chị mới sinh cháu - chả là hồi ấy bác mới đẻ anh Lâm, anh trai cu Lập - nên thỉnh thoảng chị hãy lên trận địa và làm việc nhẹ thôi. Ban ngày chị đừng có lên nguy hiểm lắm!". Mặc cho bố cháu nói như vậy, bác và trung đội dân quân vẫn thường xuyên có mặt trên trận địa cao xạ cùng đào công sự, xây dựng hầm hố, vận chuyển đạn dược, sẵn sàng chiến đấu. Một buổi tối, bác và mấy cô vừa đem lá nguỵ trang lên thì bố cháu chạy đến bảo: "Chị và các cô để lá ngụy trang lại rồi về ngay, không nên ở lại nguy hiểm lắm, trên thông báo đêm nay khả năng địch sẽ đưa B52 ra đánh phá miền Bắc đấy!". "Mặc xác nó anh ạ!" - Các cô dân quân đáp rồi chạy ra chiến hào, tiếng cười nói, hò hát vui vẻ khắp trận địa. Giữa lúc đó thì báo động, có tiếng người hô to: "Có máy bay địch, các khẩu đội sẵn sàng chiến đấu!".

        Máy bay địch ập đến. Chúng đánh phá ác liệt lắm. Bom đạn đổ xuống cầu Việt Trì và khu vực xung quanh. Đơn vị của bố cháu chiến đấu dũng cảm, đánh trả máy bay địch có chiếc bị bốc cháy sáng rực cả bầu trời, tiếng reo hò của bộ đội, dân quân và nhân dân vang lên. Nhưng rồi B52 đến, trận địa bị đánh phá, các làng mạc xung quanh nhà cháy, cây cối, những bụi tre bật gốc. Nhân dân đã sơ tán triệt để nên ít thiệt hại về người. Đơn vị cao xạ của bố cháu, có khẩu đội bị bom địch vùi lấp, hỏng cả pháo. Chú Hải "con" bị thương rất nặng cần phải được tiếp máu, bác và nhiều anh chị em trong trung đội dân quân xin được cho máu. Sau khi thử máu, chỉ có bác cùng nhóm máu với chú Hải "con". Giữa lúc đó thì bố cháu đến, đầu quấn băng kín do một mảnh bom chém sượt đuôi lông mày bên phải. Bố cháu gạt bác ra bảo: "Chị đang nuôi cháu nhỏ không cho máu được. Tôi cùng nhóm máu với cậu Hải, để tôi cho máu". Bác không chịu vì bố cháu cũng đang bị thương. Bác sĩ đành lấy của mỗi người một ít. Nhưng rồi cũng không cứu được chú Hải "con"...

        Bà kể đến đây thì lặng đi. Thúy lên tiếng:

        - Thế mà bố cháu chả kể lại chuyện này bao giờ cả. Bố cháu chỉ bảo trước  đóng quân ở vùng này, có cụ lang bốc thuốc hay lắm. Gần đây, sau khi về hưu, bố cháu hay bị đau các khớp nên cháu mấy lần lên trên này lấy thuốc cho bố.

        Bà bảo:

          - Bố cháu là bộ đội, đóng quân ở nhiều nơi, đánh bao nhiêu trận, kể làm sao xiết được.

        Lập nhìn mẹ. Quả đúng như lời Thúy nói, ngay như chuyện của mẹ, bây giờ Lập cũng mới được nghe. Khi lớp anh sinh ra, quê hương không còn bom đạn. Những hố bom cũng  dần biến mất, nhường chỗ cho đồng lúa, nhà cửa mọc lên. Lập vẫn biết có một thời đất nước chiến tranh, bom rơi, đạn nổ và bao nhiêu người đã ngã xuống... Song, bây giờ nghe mẹ kể, Lập mới hiểu về những ác liệt của chiến tranh và về những con người đã máu hy sinh để bảo vệ Tổ quốc ngày ấy. Họ vẫn đang ở xung quanh ta, bình thường, giản dị như mẹ thế thôi.

        Lập cứ suy nghĩ miên man như vậy nên mãi không ngủ được. Trong buồng, tiếng cô em gái và Thúy cũng cứ rúc rích mãi.

        Sáng hôm sau, khi đang chuẩn bị dắt xe giúp Thúy lên thị trấn sửa chữa thì có anh Tuấn sang mượn trâu đi bừa - anh vốn là một chiến sĩ lái xe về phục viên. Anh Tuấn xem giúp chiếc xe máy của Thuý. Anh hì hục một lúc thì tiếng máy xe vang lên ròn tan. Thúy mừng quá cám ơn và chào mọi người để về Hà Nội. Cô em gái Lập chợt nảy ra "sáng kiến" bảo:

        - Hay là, anh Lập đi sớm một chút cùng chị Thúy. Tiện đường, sẵn xe máy, chị ấy đưa anh về đơn vị, lát nữa em khỏi phải đèo lên thị trấn đón ô tô khách.

        Bà mẹ và anh Tuấn đều nói: "Phải đấy!". Còn Thúy thì nhìn Lập có vẻ chờ. Lập cũng muốn đi cùng với Thuý nhưng hơi ngượng là vì đi xe máy chưa thạo, phải để Thúy đèo thì ngại quá.

        Nhưng rồi, Lập cũng cùng đi với Thúy. Dọc đường Thúy bảo về đến nhà sẽ kể lại chuyện với bố và nhất định sẽ đưa bố lên thăm lại vùng quê này...

Chị Xuyến

Truyện ngắn của Trọng Bảo

1- Mỗi lần về quê tôi thường mong gặp lại những người bạn thuở còn trẻ. Nhưng thường là ít. Bạn bè bây giờ mỗi người một phương lập nghiệp. Những đứa ở quê thì đầu tắt mặt tối. Có đứa đã lên ông, lên bà. Gặp nhau ngoài đường chào hỏi dăm câu cho phải lẽ. Tôi là cán bộ nhà nước, quan chẳng ra quan, quân chẳng ra quân nhưng đám bạn bè ở quê cũng ngại ngồi lâu, chuyện gẫu, sợ tôi mất việc. Đã về quê thì là để nghỉ ngơi cho thư giãn đỡ căng thẳng với đám giấy tờ văn bản ở cơ quan còn có việc gì đâu mà lo mất. Thực ra tôi biết cũng chả phải thế. Tôi về quê giờ cứ như người chân không tới đất, cật chẳng tới trời. Nhiều việc ngu ngơ không hiểu nổi, ngồi với bạn nhà nông chỉ dăm ba câu là hết chuyện.

  Làng quê bây giờ đã khác. Không còn cảnh dầu đèn mù lù, không có chuyện ngõ đường thông thống như trước nữa. Làng xóm bây giờ như một pháo đài. Nhà nào cũng quây kín bằng những bờ tường rào cao quá đầu người, mảnh chai cắm tua tủa như lông nhím. Mới chập tối mà nhà ai nhà nấy đã cổng đóng then cài. Điện đóm sáng choang, tiếng nhạc xập xình nhà này át tiếng loa đang ca cải lương nhà khác. Buổi tối, trẻ con ít chạy ra nô đùa ngoài đường. Chúng mải chúi đầu vào những phim chưởng hay trò chơi đuổi hình bắt chữ, mơ thành triệu phú trên ti vi. Đám trung niên hay các cụ già cả chẳng còn mời gọi nhau đến uống bát nước chè xanh. Họ cũng ngại ra đường lỡ xe máy Trung Quốc mòn phanh cán phải hay vô phúc vớ phải thằng nghiện, thằng say gây gổ. 

        Làng quê thời cơ chế thị trường nhà nào cũng đầy đủ các phương tiện nghe nhìn, video, điện thoại, internet, cứ ở tại gia là đã đủ mọi thứ trò giải trí rồi. Ngỡ tưởng giàu có sung túc lên thì sẽ vui hơn, ấm áp hơn. Nào ngờ ngược lại. Mỗi lần về quê hết nghe chuyện nhà này con đánh bố, ngõ kia vợ cãi chồng, lại chuyện trẻ con học dốt bỏ nhà đi bụi. Chuyện nghiện hút, tự tử cũng đã xảy ra. Làng quê không còn cảnh ánh trăng la đà, sương đêm cuối thu đẫm lạnh trên đường cỏ. Làng bây giờ là những ngõ sâu hun hút bê tông hoặc lát gạch, nhấp nháy xanh xanh, đỏ đỏ những quán cà phê đèn mờ.

        2- Một buổi tối, tôi tha thẩn đi trên đường làng. Ánh điện phản quang qua những bức tường cắm mảnh chai chi chít tạo nên những tia sáng sắc lạnh như cứa vào da thịt. Tần ngần đứng trước khu vực trước đây là sân kho hợp tác xã, tôi cố kiếm tìm trong ký ức những chuyện xưa. Có lẽ hình ảnh sâu đậm nhất của thời bao cấp ở nông thôn là những cái sân kho hợp tác xã. Đó là nơi phơi thóc, phơi rơm, nơi chia phần thóc lúa, mít tinh, hội hè, là nơi đội thiếu nhi ca hát với tiếng trống ếch bập bùng những đêm trung thu. Sân kho cũng là nơi chúng tôi tập trung nhập ngũ ra mặt trận. Tôi còn nhớ khi còn bé không buổi tối nào bọn trẻ con chúng tôi không có mặt ở sân kho hợp tác xã để chơi trò ú tim hay đánh trận giả. Khi tôi mười bảy, mười tám tuổi thì là những đêm trục lúa ở sân kho mệt lả người bởi thức khuya nhưng rất vui vì có nam, có nữ, có những ánh mắt tuổi chớm yêu đương liếc nhau, hò hẹn.

        Chiều nay vừa về đến nhà, tôi đã có khách hỏi thăm. Một cô gái bước vào cổng. Tôi hơi giật mình nhận ra những nét quen quen. Có phải là chị ấy không nhỉ! Nhưng tôi kịp định thần và tự cười mình. Không thể thế. Vì nếu là chị ấy thì chị cũng đã hơn năm mươi tuổi rồi sao còn trẻ thế này được.

Cô gái chào tôi và nói:

       - Nghe tin chú về, mẹ cháu dặn sang nhờ chú...

       - Thế mẹ cháu là...

       - Mẹ cháu tên là Xuyến... mẹ nói ngày xưa chú là người rất thích đọc sách!

       - Đúng... đúng rồi...- Tôi chợt nghĩ. Cô gái này quả là rất giống mẹ. Thảo nào lúc vừa mới nhìn thấy tôi cứ ngờ ngợ. Nét đẹp duyên dáng của người thôn nữ ấy đã ba mươi năm rồi vẫn còn đọng lại trong tâm trí tôi. Tôi mời cô bé vào nhà. Cô gái vừa mở cái túi vừa tự giới thiệu:

       - Tên cháu là Hoà!

       - Mẹ cháu có khoẻ không?

       - Mẹ cháu bị tiền đình, hôm nay kêu chóng mặt quá không ngồi xe máy được nên bảo cháu đến xem chú có về quê không và nhờ chú giúp cho một việc.

        - Có việc gì vậy?

        Cô gái mở cái phong bì cũ lấy ra hai tấm ảnh đen trắng đã vàng ố. Đó là ảnh chụp hai người lính còn rất trẻ. Tôi cầm lên xem và giật mình. Họ đều là những người quen. Tuy nước  ảnh đã nhạt mờ nhưng tôi vẫn nhận ra họ bởi những nét trẻ trung còn mãi với thời gian. Cô gái khẽ hỏi:

        - Chắc chú nhận ra bố cháu?

Tôi gật đầu nhưng do dự, không dám cầm cái ảnh nào lên. Cô gái bảo:

       - Mẹ cháu dặn là nhờ chú đem về Hà Nội gửi đài truyền hình nhờ nhắn tin tìm mộ liệt sĩ.

       - Cả hai à?

       - Vâng ạ! Bố cháu và bạn của bố cháu... - Hoà cầm cái ảnh người đeo quân hàm thiếu uý lên đưa cho tôi và nói: - Ai cũng bảo cháu không giống bố lắm, chú có thấy thế không?

Tôi miễn cưỡng gật đầu và lén nhìn ảnh người lính đeo quân hàm binh nhì. Hoà về rồi tôi vẫn ngồi với những tấm ảnh đồng đội. Tâm trí tôi hiện về những ngày trai trẻ. Mới đó mà đã ba mươi năm có lẻ.

Học hết cấp ba, tôi thi vào khoa ngữ văn trường đại học tổng hợp. Tôi học giỏi môn văn, lại rất ham đọc sách. Mọi sách truyện đông tây kim cổ ai có cho mượn tôi đều đọc một cách say mê. Trong làng, ngoài xóm nghe tin ai có sách là tôi lân la tìm mượn bằng được để đọc. Tôi hay đến nhà chị Xuyến vì chị là bí thư chi đoàn lại quản lý tủ sách thanh niên. Có sách hay, sách mới chị đều nhắn tôi đến cho mượn xem trước. Khi thư viện quốc gia sơ tán về làng, tủ sách thanh niên của chị thêm phong phú vì được họ cho mượn luân chuyển rất nhiều sách quý và hay. Một lần chị Xuyến nói đùa: "Kiếm cho ta một bó lúa nếp để làm cốm thì tha hồ mà đọc sách". Con gái ngày ấy rất thích cắn chắt. Họ thường lấy những bông lúa nếp non lùi trong tro nóng quay cho chín đều rồi tuốt lèn đầy túi áo để cắn dần. Sau mỗi buổi sinh hoạt chi đoàn nền nhà đầy những trấu là trấu.

Buổi chiều hôm đó đi chăn trâu, tôi lân la gần khu ruộng cấy lúa nếp của hợp tác xã. Và chả khó khăn gì buổi tối tôi về đã túm vào trong áo một bó lúa nếp rõ to đem sang nhà chị Xuyến. Chị cốc vào đầu tôi một cái khá đau và đe: "Lần sau mi không được ăn trộm lúa của hợp tác xã nữa nhé!". Tôi bảo: "Chị cứ cắn chắt thoải mái đi! Hết, ới em một tiếng".

Chị Xuyến hơn tôi gần mười tuổi. Chị rất đẹp lại hát hay nên nhà chị lúc nào cũng có khách nam. Tôi biết có anh cả đời chẳng cầm đến cuốn sách cũng gỉả vờ đến mượn sách báo rồi ngồi lì ngay tại nhà chị để đọc. Tay lật trang sách nhưng ánh mắt họ lại nhìn như bị hút vào khuôn ngực tròn căng của người nữ thủ thư. Chị Xuyến là nông dân chân lấm, tay bùn nhưng nước da cứ trắng hồng như con gái thị thành. Đôi mắt chị thăm thẳm đa tình. Có một anh chàng kỹ sư giảng viên trường đại học nông nghiệp đưa sinh viên về thực tập, mắt thì cận lòi, kính chả biết mấy đi-ốp mà dày như đít chai thế mà cứ lượn lờ ngõ nhà chị ngày mấy bận. Chúng tôi ghét bèn phịa ra câu chuyện có hôm anh ta quên kính, lần mãi mới đến được ngõ nhà chị. Anh ta sờ trúng con bò cái đang buộc ở cổng rồi cứ thế vuốt ve mãi và khen nước da của chị mịn quá. Câu chuyện ấy thành trò cười cho cả làng, tay kỹ sư nông nghiệp ghét cay ghét đắng chúng tôi.

        Nhưng rồi chị Xuyến lấy chống. Chồng chị là anh Phán người cùng làng. Lấy nhau chưa được nửa năm thì anh Phán nhập ngũ. Tôi còn nhớ, anh chỉ về phép đúng có một lần rồi đi B. Sau lần anh về phép, chị Xuyến có mang. Ai cũng bảo chị "chửa trâu", gần mười tháng mới sinh con gái. Bé Hoà thừa kế được nhiều nhiều nét đẹp của chị Xuyến nên ban chiều vừa gặp tôi đã ngờ ngợ.               

        3- Sân kho hợp tác xã bây giờ đã nhượng bán cho tư nhân chia ô làm cửa hàng buôn bán vật liệu xây dựng, phân bón và mở quán cà phê, bi-a. Tôi cố hình dung ra cái sân kho rộng mênh mông ngày ấy. Nhớ những đêm đám thanh niên xung kích đảm nhận việc trục lúa. Lúa gặt về xếp ngồn ngộn. Chúng tôi xếp lúa thành một vòng tròn lớn gần kín sân. Bốn năm con trâu kéo những chiếc trục lúa bằng gỗ lim nặng trịnh lịch kịch vòng quanh sân. Khi những hạt lúa rụng hết, lớp rơm sẽ bong lên, chúng tôi dùng cào răng cào vào giữa sân, rũ sạch rồi mới đem rơm chia thành từng đống phía ngoài. Ngày ấy thóc lúa là của hợp tác xã, phơi khô, quạt sạch, nộp thuế, nộp nghĩa vụ đóng góp với nhà nước xong, còn lại mới cân đối chia cho xã viên. Ngày công của nông dân giá trị chỉ dăm bảy lạng thóc. Năm nào mùa màng thu hoạch khá ngày công được một cân thóc là đã mừng lắm rồi. Người nông dân vì thu nhập thấp, thiếu đói sinh ra làm ăn gian dối. Khi đập lúa, trục lúa họ đập, đạp qua loa, rũ chưa sạch, rơm còn dính đầy thóc đã chia ra, mỗi nhà một đống, đem về phơi đập lại kiếm chút thóc lửng, thóc lép, tuy gạo kém nhưng lúc giáp hạt có nồi cháo cũng còn hơn không.

        Nhiều người nhất là các bà sồn sồn rất ghét tôi vì thường hay nhắc nhở đám thanh niên khi rơm thật sạch mới được đem chia (chả là khi nghỉ học về sinh hoạt tại chi đoàn thôn Hạ, tôi được bầu là phó bí thư chi đoàn, nhận nhiệm vụ làm tổ trưởng tổ trục lúa). Khi lúa đã trục xong, thóc được cào đánh đống ở giữa sân kho, rơm thì được chia đủ ba mươi sáu phần cho ba mươi hai hộ và bốn phần "bồi dưỡng" cho bốn con trâu kéo trục lúa. Nhà nào đêm trước có trâu kéo trục lúa thì sáng ra cứ việc lấy hai đống rơm, đem về rê đập lại cũng kiếm được non thúng thóc ướt. Vì thế việc điều trâu của các gia đình đi trục lúa đêm cũng phải luân phiên thật công bằng không sẽ bị chửi là thiên vị. Trâu là của hợp tác xã giao cho từng hộ chăn dắt còn rơm và thóc vương, thóc vãi dính trong rơm là của riêng từng nhà. Chả thế mà có con trâu bị ốm bệnh nhưng đến lượt, gia chủ vẫn cứ đem giao cho đám thanh niên mắc kéo trục lúa. Báo hại chúng tôi đêm ấy nó đuối sức gục xuống giữa sân kho, không làm sao đứng dậy được nữa phải báo cáo chủ nhiệm hợp tác xã đến xem xét, lập biên bản và ra quyết định cho giết thịt chia cho xã viên mỗi nhà vài lạng.

        Ngày ấy, làng quê chưa có điện lại luôn có báo động phòng không, đang yên, đang lành một chiếc máy bay Mỹ xoèn xoẹt vút qua ngay trên đầu. Thành thử những đêm trục lúa chúng tôi chỉ dám thắp một chiếc đèn bão tù mù. Hôm nào có trăng thì còn đỡ. Đầu tháng, cuối tháng thì khốn khổ. Đám con gái xong buổi làm đêm thì líu díu kéo nhau ra về, xách theo luôn cả cái đèn bão để khỏi sợ ma. Mà ngày trước ở làng quê sao lắm ma đến thế. Chuyện ma chơi đổ đó, ma cây quãi cát, rồi đi đêm gặp ma thường vẫn xảy ra với người này, người nọ. Họ kể lại làm đám trẻ con sợ xanh lè cả mắt, những hôm tối trời đố dám chạy ra ngoài đường.

Nhà tôi gần sân kho nên thường lãnh trách nhiệm ra về sau cùng. Tôi phải đếm đủ ba mươi sáu đống rơm, lỡ thiếu thì sáng hôm sau nhà nào mất xuất sẽ loạn cả sân kho. Hôm nào trời có thể mưa thì tìm lá cọ che đậy đống lúa vừa mới trục xong cho khỏi ướt.

       4- Vào một đêm trời tối như mực, tôi phải căng mắt ra để kiểm đếm lại số đống rơm đã chia. Đến góc sân kho, gần chỗ cây thị già bên góc vườn nhà bà Cần mà người ta vẫn bảo là có ma thì nghe những tiếng rì rầm, tiếng cười khúc khích. Nghĩ đến chuyện ma tôi lạnh cả xương sống. Theo phản xạ tự nhiên, tôi ngồi thụp xuống, hai tay ôm lấy ngực, nín thở. Tiếng động phát ra từ ngay đống rơm to lù lù trước mặt. Tôi nghe rõ tiếng xuýt xoa:

       - N...h...è... n...h...ẹ... thôi... kẻo... đau... em...

       Vẫn chỉ có tiếng của con "ma nữ":

       - Thôi... đừng... đừng... em sợ lắm!

       - Sợ gì? - Con "ma nam" giờ mới lên tiếng.

       - Lỡ... lỡ... em... bị thì sao?

       - Phán vừa về phép phải không?

       - Vâng... anh ấy mới đi được hai tuần...

       - Thế thì còn sợ gì nữa, nếu lỡ thì... cũng chẳng ai biết đâu...

       - Ô...ôi... trời...- Tiếng con "ma nữ" hổn hển.

Tôi định thần. Thì ra chẳng phải là ma. Tôi nhận ra tiếng chị Xuyến và tay Thoảng, đội phó đội sản xuất. Thoảng là một gã kẻng trai, chưa vợ, đầu tóc lúc nào cũng rẽ đường ngôi chải mượt. Tay này chịu trách nhiệm giám sát bộ phận trục lúa chúng tôi và ngủ đêm canh gác nhà kho. Lúc nãy tôi thấy hắn cứ lảng vảng gần chỗ chị Xuyến rũ rơm. Thì ra hai người đã có tình ý với nhau từ trước.

Hồi lâu khi đống rm góc sân không còn dập dình nữa, tôi lại nghe tiếng thì thào:

       - Anh đưa em về nhé... em sợ ma lắm!

       - Ừ...- Tay đội phó vừa thở vừa hỏi: - Sáng mai em chịu khó đi lấy rơm sớm nhé!

       - Làm gì vậy?

       - Anh sẽ giấu cho em mấy lượm lúa nếp làm cốm. Nhớ lấy đúng đống rơm này nhé.

         Tiếng lào thào xa dần lẫn vào đêm.

Tôi nằm ngửa ra thảm rơm nhìn lên bầu trời. Những ngôi sao li ti nhấp nháy. Tự dưng tôi thấy giận chị Xuyến, căm ghét tay đội phó và thương cho anh Phán quá. Anh Phán cưới chị Xuyến từ hồi đầu năm. Anh là người xấu xí nhưng tốt tính, hay giúp đỡ mọi người. Khi còn ở nhà anh hay gọi tôi cùng đi tát cá, bẫy chim. Anh là người sát cá, chỉ cần lội xuống đầm rửa chân cũng vớ được cá ném lên bờ cho tôi nhặt. Bắt được cua cá, bao giờ anh cũng cho tôi phần hơn. Anh Phán lấy được chị Xuyến là do hứa hôn giữa hai ông bố cùng một thời là dân công hoả tuyến đi chiến dịch Điện Biên Phủ. Chị chê anh Phán xấu trai ngúng nguẩy mãi nhưng cuối cùng cũng phải nghe theo sự sắp đặt của ông bố. Vậy nên người làng mới nói sau lưng anh Phán "mèo mù vớ cá rán". Họ cũng cười cười sau lưng chị Xuyến "như bông hoà nhài cắm bãi cứt trâu". Người đời bao giờ cũng lắm chuyện dù ai chả biết con gái đẹp như tiên sa thường vớ phải thằng chồng cóc cáy. Mà khối anh đẹp giai lồng lộng lại cứ hay bén duyên những cô nàng "ma chê quỷ hờn" rứt mãi không ra, sau có ân hận lại đổ tại ông tơ bà nguyệt vụng xe.

        Tôi vừa thập thõm bước về nhà vừa ngẫm nghĩ: "À đã thế thì phải cho hai anh chị này biết tay". Tôi lập tức lộn lại lẻn vào sân kho hợp tác xã. Tay đội phó còn lâu mới quay về, nhà chị Xuyến ở mãi tận cuối thôn. Tôi dò dẫm ra góc sân, nơi khi trục lúa con trâu nào ỉa chúng tôi đều hót phân đổ ra đấy. Tôi kéo tàu lá cọ đầy phân trâu đem vùi vào đống rơm chị Xuyến và tay đội phó vừa nằm Sáng sớm mai chị mà thục tay vào rút rơm thì khắc biết. Xong việc, tôi khoái chí trèo qua tường rào sân kho nhảy ra đường làng, vừa đi vừa huýt sáo.

        Sáng hôm sau, tôi vừa mắt nhắm, mắt mở ra sân kho để phơi thóc thì mấy thằng bạn đã nhao nhao hỏi:

        - Còn dư một đống rơm không ai lấy! Hôm qua mày đếm thừa hả?

        Nhận ra đó là đống rơm gần gốc cây thị nhà bà Cần tôi nói:

        - Thừa đâu mà thừa! Hôm qua tao đếm đi, đếm lại mấy lần... - Tôi liếc nhìn chị Xuyến. Chị đang cúi gằm mặt sàng thóc lép, cái nón úp sùm sụp trên đầu dù mới bảnh mắt trời chưa có nắng... - À!... tao nghĩ ra rồi! Chắc là đống rơm gần gốc cây thị sợ ma nên không ai dám lấy.

        Cả bọn nhao nhao phản đối. Tôi bảo: "Thôi lỡ chia thừa rồi thì gọi bà Cần, bảo bà ấy gánh về rũ kiếm đấu thóc lép cho gà. Buổi tối vào xin nước bà ấy còn cho mà uống!". Một thằng chạy đi gọi bà Cần. Bà Cần goá chồng ở một mình trong căn nhà tre nhỏ cạnh sân kho hợp tác xã. Anh con trai độc nhất của bà đang làm công nhân địa chất mãi tận trên Yên Bái. Hết tuổi lao động, lại không nhận chăn nuôi trâu bò nên thỉnh thoảng nhà bà mới được chia một xuất rơm lấy cái cho gà bới. Bà Cần gánh hết đống rơm về nhà. Buổi chiều tôi vào xin nước uống thấy bà phơi riêng một nong lúa nếp đầy.         

5- Sau đêm ấy, tôi để ý thấy tay đội phó ít lượn lờ quanh chị Xuyến. Cũng từ bữa đó, chả bao giờ chị Xuyến còn nhắn tôi đến cho mượn sách nữa. Rồi cả tôi và tay đội phó đều lên đường nhập ngũ. Tôi nghe tin anh Phán chồng chị Xuyến hy sinh trong lần về phép trước khi vào miền Nam chiến đấu. Sau ngày giải phóng Sài gòn về thăm nhà lại biết chuyện làng vừa tổ chức lễ truy điệu cho anh Thoảng. Thế là cả hai người đàn ông của chị ra đi không ai trở về.

Chị ở vậy thờ chồng nuôi con. Chị nhận khoán một khu đồi hoang, đầm lầy sát chân núi Mồ làm trang trại. Chị trồng rừng và thuê người đắp đập thả cá. Con gái chị cũng đã lấy chồng. Chị đã thành bà ngoại. Chị dặn con gái mời tôi vào thăm trang trại.

Cầm hai tấm ảnh chị nhờ đem đi nhắn tìm mộ liệt sĩ, tôi hiểu ý của chị. Quá khứ bây giờ đã trở thành hư vô. Có những chuyện hãy nhớ mãi để sống và có những việc hãy quên cho đời nhân ái, vị tha hơn. Tôi nghĩ như vậy có đúng không chị nhỉ!   

Chuyện của một thời

  Nhận được lệnh đi công tác đột xuất, Sang vội phóng xe máy về nhà lấy thêm vài thứ đồ dùng cá nhân. Anh nhìn đồng hồ. Giờ này chắc bé Mai sắp ra quán cơm đầu ngõ ăn trưa để chuẩn bị tới trường. Con bé học buổi chiều. Trường của nó chưa có chế độ bán trú. Nếu về kịp, anh sẽ cùng con đi ăn cơm.

       Từ ngày vợ anh để lại một tờ giấy ly hôn ký sẵn rồi ra đi thì cái gia đình nhỏ bé, mong manh chỉ còn có hai bố con. Bé Mai nhớ mẹ ngơ ngác. Nó trở nên lầm lỳ ít nói. Anh phải dỗ dành, động viên mãi nó mới dần dần lấy lại được tinh thần, ổn định tâm trí để học tập. Một hôm nó xin tiền anh ra chợ mua về một con lợn đất. Tiền lì xì mừng tuổi năm mới, tiền thưởng học sinh giỏi, tiền nhuận bút bài thơ đăng báo Nhi đồng nó đều để dành nuôi lợn đất. Thấy con có tính tiết kiệm anh rất mừng. Nhưng rồi, bất ngờ anh phát hiện ra chuyện con bé trưa nào cũng bớt lại tiền ăn để dành nuôi lợn đất.

       Cơ quan anh làm việc cách nhà gần mười cây số. Bữa trưa thường là hai bố con tự túc. Anh ăn ở bếp cơ quan. Anh cho con bé năm nghìn đồng, nó ra quán mua cơm ăn rồi đi học. Buổi chiều trên đường về, anh rẽ qua chợ mua thức ăn, nấu cơm. Hai bố con thường là chỉ ăn chung với nhau bữa tối. Năm nghìn bố cho để ăn trưa, bé Mai chỉ mua một gói mỳ tôm, bớt ba nghìn đồng để nuôi lợn đất. Hôm nào không ăn mỳ tôm, ra quán nó cũng chỉ mua một bát cơm, một miếng thịt, một miếng đậu, một gắp rau hết khoảng ba nghìn, để ra được hai nghìn đồng. Ăn uống kham khổ, thiếu chất, học hành lại căng thẳng, nên con bé bị ngất xỉu ngay tại lớp. Bác sỹ khám, nhà trường thông báo lại, anh mới biết chuyện. Anh hỏi con: "Con dành tiền để làm gì?". Con bé bảo dành tiền để lớn lên đi tìm mẹ. Anh thấy thương con và thầm trách người vợ bạc tình, đua đòi ham hố quá nhiều những phù phiếm của cuộc đời, đang tâm bỏ lại cả đứa con rứt ruột đẻ ra để đi theo một kẻ lắm tiền. Anh cũng tự trách mình kém cỏi, không đáp ứng nổi những nhu cầu của vợ con. Thực ra Trinh, vợ anh cũng có đòi hỏi gì quá nhiều đâu. Một căn hộ, vài thứ vật dụng gia đình đắt tiền, cái xe máy đời mới. Thời buổi kinh tế thị trường, nhiều người cầm bạc tỷ trong tay cứ như không. Thế nhưng cánh công chức như anh lương ba cọc ba đồng cũng chỉ đành chờ nước nổi, bèo nổi theo. Cũng may xe máy Trung Quốc nhập vào Việt Nam giá rẻ, nên cuối những năm chín mươi, anh cũng có được cái xe máy để đi làm.

       Khi Trinh bỏ đi, bé Mai đang học lớp một, giờ nó đã lên lớp bốn. Nó đã hiểu nỗi buồn không có mẹ. Nó muốn đi tìm mẹ. Mặc dù nó cũng không biết bây giờ mẹ đang ở phương trời nào. Từ khi phát hiện ra con bớt tiền bữa trưa để nuôi lợn đất, Sang cấm con không được làm như vậy nữa. Anh còn dặn bà hàng cơm đầu ngõ khi nào con bé mua đủ xuất cơm năm nghìn mới bán, mua ít hơn dứt khoát không bán.

       Sang về đến ngõ. Anh liếc vào quán cơm, không thấy bé Mai. Anh nghĩ nó đã ăn sớm để đến lớp. Nhưng vừa đẩy cửa bước vào nhà, anh bắt gặp ngay con bé đang rướn người cầm phích nước sôi đổ vào cái tô đựng mỳ tôm. Thấy anh về đột ngột, con bé hốt hoảng như vừa bị bắt quả tang việc làm vụng trộm, lén lút. Nó lúng túng làm nước đổ toé ra mặt bàn. Anh giằng cái phích nước trên tay con, bực bội:

     - Bố đã nói bao nhiêu lần rồi! Con phải ăn uống đầy đủ mới có sức khoẻ để học tập chứ!

     - Nhưng... - Con bé vừa xoa xoa những chỗ nước sôi bắn vào tay vừa ấp úng. Anh cắt lời nó:

     - Nhưng... nhưng... gì! Con không vâng lời bố. Con nhịn ăn, bớt tiền bao nhiều lần thế này rồi?

      - Con...con...

      Con bé định thanh minh nhưng anh mắng át đi. Anh nói một thôi một hồi khiến nó im hẳn. Hình như cả những nỗi trục trặc công việc ở cơ quan cũng được anh tuôn ra trong lúc mắng mỏ con. Bé Mai sầm mặt. Nó ngồi lặng lẽ khóc. Thấy con bé tức tưởi, anh lại ân hận. Anh dỗ dành nó:

     - Thôi! Con cất mỳ tôm đi, hai bố con cùng đi ăn cơm. ăn xong, bố đưa đến trường. Bố phải đi công tác, mấy hôm mới về. Bố sẽ gọi điện dặn cô Xuân buổi tối sang ngủ với con.

      Con bé vẫn im lặng. Nó giận bố. Nó vùng vằng giật tay khỏi tay anh. Anh lại phải mất thời gian dỗ dành mãi, con bé mới nguôi nguôi. Anh vừa rửa mặt, thay quần áo cho nó vừa hỏi han chuyện học tập tại trường cốt để nó quên đi việc lúc nãy. Nghe con bé kể anh mới biết. Thì ra lớp nó có một bạn mồ côi bố, mẹ đi bán xôi sáng bị bọn đua xe máy quyệt phải bị thương rất nặng. Cô giáo đề nghị cả lớp quyên góp để mua quà đi thăm. Vì quên xin tiền bố, bé Mai lôi con lợn đất ra dùng que khều mãi nhưng không được. Nó chợt nhớ còn một gói mỳ tôm trong tủ. Vì thế nó quyết định bữa trưa nay ăn mỳ tôm để dành tiền góp với lớp giúp bạn.

      Hiểu rõ mọi chuyện, anh ân hận vì mắng oan con bé. Anh đưa con ra quán cơm. Anh gọi nhiều món, ép con ăn. Nhìn con bé ăn ngon lành, anh chợt nhớ những đận gian nan nuôi con. Lúc nhỏ, con bé hay ốm đau, quặt quẹo, khóc không thành tiếng. Anh bao lần ôm con thức trắng đêm ở bệnh viện. Đúng là cảnh gà trống nuôi con, cha già con cọc. Bằng tuổi anh nhiều người đã có dâu, có rể thậm chí cháu nội, cháu ngoại. Anh lấy vợ muộn. Trinh trẻ hơn anh cả một giáp. Tưởng là may, ai ngờ vợ đẹp thường khó giữ.

      Ăn xong, Sang cho con mười nghìn đồng để quyên góp với lớp. Con bé rụt rè đề nghị: "Năm nghìn bữa trưa nay bố cũng cho con góp luôn với các bạn trong lớp bố nhé!" Anh gật đầu. Nét mặt con bé vẻ tươi tỉnh hẳn lên.

      Đưa bé Mai đến trường xong, anh phóng xe về cơ quan. Số anh em cùng đi công tác đã tề tựu đầy đủ. Anh vội gọi điện thoại cho em gái. Không có người nhấc máy. Anh sực nhớ hôm trước, cô Xuân nói cuối tháng về quê chồng tận Thanh Hoá để góp tiền xây nhà thờ họ. Giữa lúc anh đang lo lắng thì Tuấn, cán bộ cùng phòng nói:

     - Anh đừng lo! Tối nay em sẽ bảo chị giúp việc sang ngủ với bé Mai. Yên tâm! chị ấy tốt lắm. Hay là em đưa cháu về ngủ với con bé nhà em. Hai đứa thích nhau lắm đấy.

     - Thế cũng được! Tuỳ chú lo liệu giúp cho.

     - Nhà đóng cửa để đấy, anh có sợ trộm nó khuân hết không?

     - Có gì mà sợ mất! Có cái xe máy Tàu thì để tại cơ quan rồi.

     - Mà này! Sao hoàn cảnh anh thế không thuê lấy một người giúp việc?

      Sang im lặng. Nhà chỉ có hai bố con thì cần gì phải người giúp việc. Với lại anh cũng chẳng khá giả, dư dật gì. ở Hà Nội bây giờ nhiều nhà thuê người giúp việc chuyên lo việc nấu nướng, giặt giũ, trông trẻ. Bố mẹ già ốm đau cũng thuê người chăm nom, nâng giấc. Lỡ bệnh quá nặng phải đi bệnh viện cũng mướn luôn người trông coi phục vụ suốt đêm ngày, đổ bô, bón sữa. Con cháu có đến thăm cũng chỉ khoanh tay đứng nhìn, hỏi han dăm ba câu cho phải lẽ rồi về. Ngày nghỉ, vợ chồng, con cái nhàn nhã gọi tắc-xi diễu phố mua sắm hay lên tận Khoang Xanh, Đồng Mô nghỉ ngơi, ăn thịt gà ri, vịt cỏ. Nhà Tuấn cũng vậy. Cậu ta vốn đã giàu nhờ những năm học tập và kiếm tiền bên Đức. Vợ Tuấn lại là con một ông lớn. Khi đi lấy chồng, bố cho một xuất đất ngót nghét trăm mét vuông, bán đi non nửa đã cầm bạc tỷ trong tay rồi. Tuấn thuê người giúp việc nhà, mỗi tháng trả "lương" bốn trăm nghìn đồng, ăn uống hai bữa cũng chỉ thêm bát đũa, giải quyết những món dư thừa. Trong cơ quan, Tuấn cũng là người làm được việc được cấp trên tin cậy, lại ỉ thế bố vợ nên thường khinh khỉnh với mọi người. Duy chỉ có Sang là Tuấn nể.

      Chuyện bắt nguồn từ một lần Tuấn đèo vợ đi chơi ở ngoại thành, gặp một bọn côn đồ, háo sắc. Chúng thấy vợ Tuấn xinh đẹp bèn chặn xe lại trêu chọc. Tuấn bênh vợ, bị chúng tống luôn cho mấy thụi vào mặt ngã dúi dụi xuống bờ đê. Vợ Tuấn hoảng hồn kêu cứu.  Nhiều người nghe thấy nhưng sợ, giả tảng bỏ đi. May đúng lúc đó, Sang có việc đạp xe ngang qua. Giữa đường thấy sự bất bình, Sang vứt xe lao đến. Mấy thằng côn đồ quây lấy anh, tay dao, tay gậy hằm hè. Nhưng chúng cũng chỉ hung hăng được một lúc rồi phải tháo chạy. Sau hôm ấy, Tuấn mới biết cái người vẫn ngồi cạnh mình đã từng là một chiến sỹ trinh sát. Tuấn phục và thân với Sang từ đó.

     Gửi được bé Mai cho Tuấn, Sang yên tâm đi công tác. Tưởng mọi việc giải quyết nhanh nào ngờ trục trặc. Mãi gần một tuần sau đoàn công tác mới xong việc. Vừa thấy anh về, bé Mai đã khoe ngay:

     - Bố xem này, cô Thuỳ tết tóc đuôi sam cho con đẹp không?

     Sang nhìn bé Mai. Nó ăn mặc sạch sẽ gọn gàng. Hai cái đuôi sam buộc nơ hồng vung vẩy. Con bé có mái tóc dài và xanh. Anh chỉ biết mỗi một kiểu là dùng giây chun buộc túm lại mỗi khi chuẩn bị cho con đến lớp. Bé Mai thủ thỉ kể tiếp:

     - Mà cô Thuỳ nấu ăn ngon lắm bố nhé! Từ hôm bố đi công tác, con không phải ra quán ăn cơm bụi nữa.

     - Thế cô Thuỳ đâu rồi?

     - Cô ấy ở bên nhà chú Tuấn cơ mà!

      Rồi con bé lại băn khoăn:

     - Không biết bố về rồi, cô ấy còn sang nhà mình nấu cơm nữa không nhỉ?

     Chiều hôm sau khi anh ở cơ quan về, bé Mai mặt mũi tươi tỉnh nói:

     - Trưa nay cô Thuỳ vẫn đến bố ạ!

     - Thế hả! Để hôm nào bố gặp cảm ơn cô ấy mới được!

      Nói vậy nhưng chả có dịp nào anh thực hiện được ý định ấy. Công việc cơ quan bù đầu. Anh nhờ Tuấn gửi tiền mua thức ăn cho chị giúp việc. Tuấn gạt đi bảo: "Anh cứ yên tâm! Tiền ấy là em đưa chị Thuỳ, mấy đồng bạc lẻ ấy mà". Rồi anh quên hẳn cả việc gặp cảm ơn người mà trưa nào cũng tranh thủ sang nhà anh lo bữa và giặt giũ, tắm táp, thay quần áo cho bé Mai trước khi đến lớp.

      Một bữa, Tuấn bảo:

    - Anh về đón bé Mai sang nhà em ăn cơm. Con Thuý nhà em được giải nhì cuộc thi học sinh giỏi môn văn toàn quận. Em tổ chức liên hoan để động viên cháu.

      Sang nhận lời. Hết giờ làm việc, anh phóng xe đến trường đón bé Mai tới thẳng nhà Tuấn. Con bé vui lắm. Sang cũng chợt nhớ là nhân dịp này gặp, cảm ơn chị giúp việc ở nhà Tuấn. Suốt tháng nay, bé Mai được chăm lo ăn uống chu đáo, quần áo sạch sẽ tinh tươm, mặt mũi lúc nào cũng tươi tỉnh. Nó học hành tiến bộ hẳn lên, bài kiểm tra thường xuyên được điểm giỏi.

      Đến nhà Tuấn, bữa liên hoan đã chuẩn bị xong. Có nhiều món ăn thịnh soạn nhưng bé Mai cứ ngong ngóng nhìn xuống bếp. Sang đoán nó mong gặp cô Thuỳ. Ngày nào nó cũng nhắc đến cô Thuỳ. Khi Sang và Tuấn đang mải chuyện thì bé Mai reo lên: "Cháu chào cô Thuỳ ạ!". Sang ngoảnh lại nhìn. Người đàn bà đang bưng thức ăn từ bếp lên. Hai đôi mắt của họ chợt gặp nhau. Sang buột miệng: "Thuỳ! Thuỳ "bê" vận tải phải không?". Người đàn bà cũng luống cuống vì bất ngờ nhận ra người quen. Chị lập cập đặt bát canh xuống bàn rồi khẽ chào: "Anh Sang!". Thuỳ thay đổi nhiều quá. Tuấn ngạc nhiên rồi vui mừng bảo:

     - Thì ra là hai người đã quen nhau từ trước. Chị Thuỳ! Ngồi xuống đi, ta vừa ăn vừa trò chuyện.

     - Tôi... tôi ... xin phép! Tôi còn bận làm mấy món nữa.

     Thuỳ nói rồi lật đật quay xuống bếp. Suốt bữa, chị bưng thêm thức ăn lên rồi ra ngay. Sau bữa liên hoan, Tuấn mời Sang ra phòng khách uống nước để vợ, hai đứa bé và chị giúp việc dọn dẹp. Lúc ra về, Sang định tìm Thuỳ thì bé Mai nói:

      - Cô Thuỳ nói ra phố có việc rồi bố ạ!

      Hôm sau, Sang vừa đến cơ quan thì Tuấn kéo anh ra ngoài hành lang hỏi:

      - Này! Hôm trước đến nhà em, anh nói gì mà chị Thùy tự dưng xin thôi việc về quê mất rồi!

      - Mình có nói gì đâu!

      - Sao chị ấy lại bỏ việc nhỉ?

      - Làm sao mình biết được!

      Nói vậy nhưng Sang cũng thấy băn khoăn, Anh nghĩ, hay là Thuỳ muốn tránh gặp lại anh. Có lẽ Thuỳ vẫn còn chưa quên chuyện ngày xưa và mặc cảm về mình hiện nay. Nhưng cũng đã hơn hai mươi năm rồi còn gì...

      Suốt buổi sáng hôm ấy, Sang không tài nào tập trung được vào công việc. Trong đầu anh lúc nào cũng thấp thoáng hình ảnh về một cánh rừng biên giới thời chiến tranh. Ngày ấy, anh và Thuỳ đều mới nhập ngũ. Thuỳ ở đơn vị vận tải. Sang ở trung đội trinh sát. Hai người quen nhau từ một lần hội diễn văn nghệ. Thuỳ hát hay lại chịu khó học tập, rèn luyện. Thùy được đề bạt tiểu đội trưởng và được cử đi dự lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng. Tình cảm giữa hai người mỗi ngày một sâu sắc hơn. Họ yêu nhau say đắm. Có những lần họ vượt qua cả chục cây số đường rừng, suối lũ để tìm nhau và cũng chỉ để nhìn thấy nhau thôi.

      Sang cứ nghĩ Thùy đã thuộc về mình. Bởi vì Thuỳ cũng rất yêu anh. Chính bởi suy nghĩ chủ quan dơn phương ấy, anh đã phạm một sai lầm không sửa chữa nổi.

      Hôm đó, đơn vị trinh sát của Sang thực hành huấn luyện môn cá nhân vận động xác định mục tiêu theo góc phương vị. Lúc cắt qua một cánh rừng già, bất ngờ anh gặp Thuỳ đang đi gùi gạo về kho tiểu đoàn. Mùa hè nắng nóng. Thuỳ mặc cái áo lót trắng, quai ba lô gạo kéo về phía sau càng làm căng bộ ngực tròn trịa của người con gái. Thùy nhìn Sang cười cười. Anh đỡ chiếc ba lô nặng cho Thuỳ đặt xuống một hòn đá bằng phẳng. Hai người ngồi nghỉ bên bờ suối vắng. Thuỳ lội xuống rửa mặt. Đôi bắp chân tròn của cô trắng ngần giữa làn nước trong xanh. Sang cũng lội theo. Anh không kiềm chế được mình. Khi Thuỳ đang lau mặt thì anh vòng tay ra phía trước ôm lấy ngực cô.

     Thuỳ giật nảy mình. Cô quay ngoắt lại, mặt tái mét đi. Thuỳ ném chiếc khăn mặt xuống suối giơ tay lên. Thấy Thùy phản ứng quyết liệt, Sang sợ hãi luống cuống. Anh chờ một cái tát nảy lửa. Nhưng không. Thuỳ buông thõng cánh tay xuống, vẻ mặt cô thất vọng. Nước mắt Thuỳ lăn xuống gò má. Giọng Thuỳ nấc lên vẻ giận dữ, thất vọng:

      - Tại sao anh lại dám làm như thế! Anh tồi lắm...

      Sang càng lúng túng. Thuỳ bước nhanh lên bờ suối vừa khóc vừa khoác ba lô gạo lầm lũi bước đi. Sang cứ đứng chôn chân như Từ Hải giữa dòng nước. Anh không ngờ Thuỳ lại có phản ứng quyết liệt như thế. Tính chủ quan khiến anh đã lâm vào thế khó xử. Dù anh biết ngày ấy trai gái yêu đương cũng chỉ dám cầm tay nhau là cùng. Tình yêu nhiều lúc còn bị coi là quan hệ bất chính. Có những đôi yêu nhau lỡ "ăn cơm trước kẻng" trở thành chuyện tày đình. Khối người tan tành sự nghiệp cũng chỉ vì yêu đương quá mù ra mưa. Thùy đang là chiến sĩ thi đua, sắp được trao chức vụ "bê" phó, đang rèn luyện phấn đấu để được kết nạp vào Đảng, làm sao lại có chuyện yêu đương thiếu trong sáng như thế.

      Sau sự việc ấy, tình cảm của hai người cứ nhàn nhạt dần đi. Thực ra tình yêu của Sang đối với Thuỳ vẫn vẹn nguyên. Chỉ có Thuỳ là luôn tránh gặp anh. Sang tự ti nghĩ, có lẽ mình đã biến thành vật cản của Thuỳ rồi cũng nên. Anh chẳng tìm gặp cô để xin tha thứ. Sang buồn. Anh đau khổ vì mối tình đầu tan vỡ chỉ bởi một lý do vớ vẩn. Chiến tranh biên giới nổ ra. Mỗi người ở một hướng. Trung đội vận tải của Thuỳ bị địch tập kích bất ngờ. Thuỳ bị thương nặng. Vết thương cướp mất khả năng làm mẹ của cô. Biết tin Thuỳ bị thương, Sang tìm đến trạm phẫu tiền phương thăm nhưng không gặp. Thuỳ đã được chuyển về bệnh viện quân y tuyến sau chữa trị. Hơn hai mươi năm rồi, Sang không ngờ gặp lại Thuỳ trong hoàn cảnh thế này.

       Bé Mai thì phụng phịu với bố:

      - Trưa nay, cô Thuỳ ứ nấu cơm cho con!

      Thôi chết! Sang giật mình chợt nhớ ra. Cả tháng nay anh không phải lo bữa trưa cho bé Mai. Thuỳ đã về quê, không biết trưa nay con bé ăn uống thế nào.  Anh hỏi:

      - Thế trưa nay con nhịn đói đi học à?

      Con bé lắc đầu:

     - Không bố ạ! Sáng nay cô Thuỳ đến tìm con nói là sẽ về quê. Cô cho con năm nghìn mua cơm. Từ mai, bố nhớ là lại đưa tiền ăn trưa cho con đấy nhé.

      Bé Mai nói. Nét mặt nó buồn thiu.

      Giữa lúc anh đang an ủi con gái thì Tuấn phóng xe đến. Tuấn nói ngay:

      - Anh còn nhớ quê quán của chị Thuỳ không?

      - Cũng không nhớ rõ lắm! Hình như ở mãi trên vùng Hạ Hoà, Phú Thọ.

      - Anh nên đi tìm chị ấy!

      - Nhưng tìm...

      - Không phải là tìm chị ấy về để tiếp tục làm việc cho nhà em mà là...

      Tuấn nhìn thẳng vào mắt Sang hạ giọng:

     - Em biết chuyện của anh và chị Thuỳ rồi. Chị ấy đã từng tâm sự với vợ em. Nghe vợ em kể lại mới biết cuộc đời chị ấy khổ lắm. Không chồng, không con, chị ấy còn phải tần tảo nuôi mẹ già đau ốm. Chuyện anh và chị ngày xưa là chuyện của một thời đã qua. Cái thời mà hết thảy mọi người đều phải kìm nén, quên thân, gồng mình lên để phấn đấu, hy sinh cho những điều cao cả, lớn lao hơn. Những điều tốt đẹp của ngày ấy là đáng trân trọng nhưng bây giờ đã là thời khác rồi. Em nghĩ, anh chị cũng chẳng nên cứ giữ mãi trong lòng chuyện cũ. Anh nên đi tìm chị Thuỳ, nói chuyện với chị ấy không chỉ vì anh, mà còn vì bé Mai nữa...

      Tuấn nói liền một mạch, vẻ xúc động. Sang thấy phân vân quá. Bé Mai từ nãy giờ vẫn lắng nghe chuyện của bố và chú Tuấn. Nó lặng lẽ vào trong nhà bê con lợn đất ra. Sang hỏi:

      - Con định làm gì thế?

      - Con lấy tiền để đưa bố đi tìm cô Thuỳ!

      Con bé nói. Đôi mắt nó chăm chăm nhìn anh chờ đợi.

Đêm sao sa

  Truyện ngắn của Trọng Bảo

          Từ ngày mẹ mất, con bé Chuyên đâm ra ít nói hẳn. Vẻ mặt nó càng tỏ ra lì lợm hơn. Còn cu Cần em nó thì ngược lại. Ngày nào nó cũng khóc gọi mẹ. Cu Cần còn bé quá. Nó mới hơn hai tuổi. Nó vẫn cứ nghĩ mẹ đang đi chợ hay trốn núp ở sau cánh cửa để "ú oà" với nó. Nó chưa hiểu rằng sau cái tai nạn giao thông hôm ấy mẹ nó không bao giờ về nhà để còn chơi trốn tìm với nó được nữa.

                 Hôm ấy, có tiền thưởng mẹ đèo cái Chuyên ra chợ. Mẹ định sẽ mua xong thức ăn và quà cho cả hai đứa sẽ vòng về nhà mẫu giáo đón cu Cần rồi đưa cả hai đứa đi ăn kem. Cái Chuyên còn nhớ giữa lúc hai mẹ con đang ríu rít trò chuyện, nó đang khoe với mẹ vừa được điểm 8 bài tập làm văn tả bầu trời đầy sao thì xảy ra tai nạn. Một chiếc xe máy của hai thanh niên từ phía sau tông mạnh vào đuôi xe của hai mẹ con. Mẹ nó mất tay lái. Chiếc xe của hai mẹ con văng mạnh ra bên lề đường. Phản xạ cuối cùng của mẹ là ôm choàng lấy con gái đang ngồi ở phía trước, rướn người lên cố che chở cho nó trước khi cả hai mẹ con bắn văng ra lao đầu xuống mặt đường. Mẹ nó đã ra đi sau mấy ngày nằm im không nói được câu nào.

Cái Chuyên cũng bị thương ở đầu. Bác sĩ phải cạo cả một mảng tóc để khâu vết thương và bôi thuốc sát trùng cho nó. Cu Cần theo bố đến bệnh viện. Nó líu lo hỏi bố tại sao hai cô kia lại mặc quần áo trắng thế, không sợ bị mực giây vào bẩn à! Bố chưa kịp trả lời, nó lại hỏi tiếp: "Sao lại có xe còi ủi của công an của chú công an lại chạy vào bệnh viện, chắc có bác sĩ nào hư bố nhỉ?". Nó chưa phân biệt được xe cấp cứu với xe của công an. Khi thấy mẹ nằm im phăng phắc trên giường, nó cứ đòi lôi tay gọi mẹ dậy. Nó tỏ vẻ giận dỗi khi thấy mẹ không cười với nó, không bẹo vào đôi má phinh phính của nó. Nó còn định khóc thật to để bắt đền mẹ hôm qua không đến đón nó ở lớp mẫu giáo và đã nó đi ăn kem như đã hứa, phải để cô giáo đưa về tận nhà. Nhưng chưa kịp khóc thì nó nhìn thấy cô y tá lấy cái bơm tiêm ra. Nó vội im bặt và lùi lại núp vào sau lưng bố. Nhưng rồi nó lại bật cười khanh khách khi nhìn thấy chị Chuyên bị cạo trắng mất một mảng tóc trên đầu. Nó bảo: "Chị hư rồi nên bị ông ba bị liếm mất tóc..."

Nghe em nói, cái Chuyên cắn chặt môi. Nó cố nén để không khóc.

*

          Từ ngày không còn mẹ, cái Chuyên trở thành một người khác hẳn. Mới mười một tuổi đầu nhưng nó đã ý thức được mọi chuyện. Nó trở thành người chăm lo cho cả gia đình. Nó biết đi chợ mua thức ăn, biết vo gạo nấu cơm và nấu vài món ăn đơn giản mà khi còn sống mẹ đã  dạy. Buổi sáng khi còn mẹ, mẹ thường phải gọi mãi nó mới dậy để ăn sáng rồi đi học. Bây giờ thì nó biết tự dậy sớm, đun nước sôi pha mỳ tôm cho cả nhà. Những hôm bố bận nó đảm nhận luôn cả việc đưa đón cu Cần đi mẫu giáo. Rồi cả chuyện bố buồn uống rượu say nửa đêm mới về, nôn mửa cả ra sàn nhà, nó hì hụi lau chùi. Việc này khi trước là việc của mẹ nó.

          Nó lo cho bố và em ra dáng một người con gái đảm đang.

          Một hôm cái Chuyên vừa đón em từ lớp mẫu giáo về thì thấy trong nhà có một người phụ nữ lạ. Bố nó bảo: "Đây là cô Oanh! Các con chào cô đi". Nó chào lý nhí chả rõ tiếng gì. Cô Oanh chìa ra một gói bánh và cái ô tô nhựa. Cu Cần nhìn thấy định sà đến nhưng nó nắm chặt tay em giữ lại. Cô Oanh cụt hứng. Cái Chuyên kéo em vào trong bếp. Cu Cần ngoay ngoảy trực khóc đòi lấy quà. Cái Chuyên bảo: "Hôm nào chị sẽ mua cho cái ô tô đẹp hơn!". Cu Cần không chịu, muốn có ngay cái ô tô. Cái Chuyên buột miệng dọa: "Tự ý nhận quà, chị sẽ mách với mẹ!". Cu Cần nghe nhắc đến mẹ thì ngồi phệt xuống đất gào to: "Mẹ ơi... mẹ ơi...". Cái Chuyên vừa khóc vừa dỗ dành em: "Cu Cần ngoan, hôm nào mẹ về sẽ mua cho nhiều quà...". Cu Cần không chịu. Nó đòi gặp mẹ ngay. Cái Chuyên hứa: "Cu Cần ngoan chị sẽ đưa đi gặp mẹ nhé!". Cu Cần nín khóc gật đầu.

         Bữa cơm hôm ấy cu Cần ăn nhiều hơn. Chiếc ô tô cô Oanh để lại trên nóc tủ lạnh nó lén nhìn mấy lần nhưng không động đến.

Vừa ăn cơm xong là cu Cần kéo chị ra sân. Từ ngày mẹ mất, tối nào trước khi đi ngủ, khi cu Cần gọi đòi mẹ cái Chuyên cũng đưa em ra sân chỉ lên bầu trời nói mẹ ở trên đó. Hai chị em cãi nhau một hồi. Cái Chuyên bảo mẹ là ngôi sao sáng màu xanh dịu. Cu Cần lại bảo mẹ là ngôi sao màu đỏ nhấp nháy liên tục kia kìa vì mẹ đang cười với nó. Ngển cổ nhìn sao một lúc mỏi mắt là cu Cần buồn ngủ. Cái Chuyên đưa cu Cần vào nhà xoa lưng cho em ngủ rồi ra đứng tựa cửa chờ bố. Có đêm bố nó cũng không về.

Mỗi lần cùng em nhìn lên bầu trời sao nó tin rằng mẹ đang ở trên đó. Nó mong mẹ nó sẽ trở về. Nó nghe người ta kể chuyện khi có sao băng là người đã chết từ trên trời sẽ theo ánh sao về trái đất.

          Hôm sau trên đường từ lớp mẫu giáo về cu Cần chợt giật giật tay chị bảo:

          - Hôm nay chị phải đưa em đi gặp mẹ nhé!

          Cái Chuyên giật mình. Tưởng cu Cần đã quên chuyện hôm qua rồi, không ngờ nó vẫn nhớ. Cái Chuyên bảo:

          - Nhưng em hay buồn ngủ sớm làm thế nào mà gặp mẹ được!

         - Hôm nay em sẽ thức.

Nó nói vẻ quả quyết. Cái Chuyên cũng đã quyết tâm. Hai chị em về đến nhà, bố vẫn chưa về. Cái Chuyên nấu mỳ tôm làm bữa tối cho hai chị. Ăn xong nó mở tủ tìm lọ chè của bố. Nó nghe người lớn thường nói với nhau uống chè đặc tỉnh ngủ. Nó cho chè vào ấm rồi rót nước sôi. Chờ một lát nó rót nước chè đặc sánh ra hai cái cốc. Khi nước đã nguội, nó nhắm mắt nhăn mũi uống một hơi hết một cốc nước. Nó bảo cu Cần uống cốc nước chè còn lại. Cu Cần vừa uống một ngụm nhỏ đã nhổ phụt ra nhăn mặt kêu:

         - Đắng lắm, em không uống đâu! Em uống sữa cơ...

         - Em không uống thì lại buồn ngủ không chờ mẹ được đâu.

         Cái Chuyên hết dỗ dành lại dọa, nhưng cu Cần cứ lắc đầu không chịu uống. "Thôi kệ em, cốt mình thức là được" - Cái Chuyên nghĩ.

          Hai chị em ra sân chờ. Khi trời đã tối hẳn vẫn không thấy các vì sao mọc lên. Hôm nay trời nhiều mây quá. Thấy cu Cần lại sắp khóc gọi mẹ, cái Chuyên đã đi đến một quyết định. Nó khoá cửa lại, giấu chìa khoá  dưới chậu cây cảnh cho bố về lấy. Rồi nó dẫn em đi. Hai chị em leo lên ngọn đồi sau nhà. Trên đỉnh đồi cao nhất định chị em nó sẽ nhìn thấy nhiều ngôi sao hơn, sẽ được gần mẹ hơn. Cu Cần lon ton chạy theo chị. Nó có vẻ háo hức mong sẽ nhanh được gặp mẹ. Nhưng khi vừa leo lên dốc nó bắt đầu kêu mỏi chân đòi chị cõng. Cái Chuyên cõng em vất vả leo lên từng đoạn. Cứ được vài bước nó đặt em xuống ngồi nghỉ một lát rồi lại cõng em lên dốc. Hai chị em cứ leo lên mãi, lên mãi.

Khi lên tới đỉnh đồi thì cu Cần đã buồn ngủ lắm rồi. Hai mắt nó ríu lại. Nó cố dặn: "Khi nào mẹ đến chị gọi em dậy nhé!". Nói xong nó dựa đầu vào vai chị ngủ ngay. Cái Chuyên ôm chặt em. Lúc này nó mới thấy sợ. Đỉnh đồi tối mờ mờ. Ánh điện từ thị trấn hắt lên không đủ sáng nên những lùm cây cứ dính liền với nhau như những bóng quái vật rập rờn xung quanh. Bầu trời đã quang quẻ hơn. Hàng trăm triệu ngôi sao lấp lánh như rất gần ngay trên đầu. Sương bắt đầu rơi. Trời lành lạnh. Cái Chuyên cởi áo đắp cho em trong khi mắt nó vẫn mở to theo dõi bầu trời. Có những ngôi sao băng chạy chéo trên bầu trời kéo theo những vệt sáng. Nhưng cứ mỗi lần nó định lay gọi em thì ngôi sao băng lại đã tắt mất.

         Chắc đã nửa đêm. Cái Chuyên quyết định gọi em dậy để về. Cu Cần cứ chằn ra không tỉnh. Cái Chuyên bực quá. Cu Cần mà không tỉnh ngủ thì không thể đưa em về được. Nó véo mạnh má cu Cần một cái. Không ngờ, cu Cần tỉnh ngay. Nó reo lên: "Mẹ...mẹ... ơi...". Thì ra nó vẫn nhớ những lần mẹ véo má. Nhưng khi không thấy mẹ nó lại khóc. Chợt cái Chuyên kêu lên: "Kia kìa sao băng đấy, mẹ đấy...". Cu Cần đứng bật dậy nhìn. Một chùm sao băng từ trên bầu trời đang sa xuống. Ánh sao rơi kéo dài như sẻ đôi bầu trời.

Cu Cần nhìn ánh sao băng mong mẹ sẽ trở về.

Chùm sao đã tắt, cu Cần thất vọng vì không thấy mẹ. Đôi mắt nó mở to nhìn về phía chân trời. Đột nhiên nó vỗ tay reo to: 

        - Chị ơi! Sao... sao...sa... nhiều quá!

        Cái Chuyên nhìn theo tay cu Cần. Phía chân đồi đèn đuốc sáng rực. Có nhiều tiếng gọi tên hai chị em nó. Đó là bố và bà con trong xóm đang đi tìm hai chị em nó. Cái Chuyên bật dậy gào to: "Bố... ơi... bố... ơi... chúng... con... ở... đây...".

   Gió núi

 Phải đến hơn hai mươi năm rồi, tôi mới lại có dịp trở lại Cao Bằng. Cái thị xã đổ nát, lập loè ánh đèn dầu sau chiến tranh biên giới nay chỉ còn trong ký ức. Tôi nhớ in những đêm chuyển quân, cái rét miền biên ải cắt thịt, cắt da. Tôi cũng không quên cái đói, cái khát của những ngày chiến trận năm nào. 

        Thị xã Cao Bằng bây giờ đường xá dọc ngang, hàng quần đầy ắp, người bán, kẻ mua nhộn nhịp, xe máy phóng ào ào, gầm rú phun khói mù mịt, không còn thấy cảnh những cô gái cưỡi ngựa xuống chợ Nước Hai. Tiếng nhạc Tây xập xình, không còn nghe tiếng sáo Mông réo rắt lối về Quý Quân, Mỏ Sắt, Thông Nông...        

         Hỏi thăm mãi rồi tôi cũng tìm được xe về Hà Quảng. Làm việc với cơ quan quân sự xong, tôi ngỏ ý muốn lên thị trấn Sóc Gang cũ. Anh Tài - trợ lý chính sách chợt nhớ ra:

         - Ồ! May quá, cậu Ngọc - chiến sĩ của ban là người trên đó. Cậu ấy được nghỉ phép về nhà hỏi vợ. Cậu ấy có xe máy, tiện thể đưa anh đi luôn.

         - Thế thì tốt quá!

         Anh Tài buông bút nhỏm dậy te tái đi về phía nhà tập thể. Một lát sau, anh quay lại cùng một chiến sĩ độ tuổi đôi mươi dắt chiếc xe máy Trung Quốc mới tinh. Anh bảo:

        - May tóm được ở cổng. Suýt thì cu cậu chuồn mất. Đúng là về hỏi vợ có khác...

         Người chiến sĩ đỏ mặt ngượng nghiụ. Cậu ta còn rất trẻ, đẹp trai. Cậu ta tháo gói đồ ra buộc lại lấy chỗ cho tôi ngồi.

         Chúng tôi ngược lên biên giới. Trời đã về chiều, gió thu lành lạnh. Ngọc ít nói. Dọc đường hỏi chuyện tôi mới biết nhà Ngọc chỉ có hai mẹ con. Mẹ Ngọc ốm luôn. Vùng cao người ta thường dựng vợ, gả chồng sớm. Ngọc cũng muốn chiều ý để mẹ yên tâm, hỏi xong để hai nhà đi lại, còn lâu mới cưới. Ngọc sắp hết nghĩa vụ quân sự, được cử đi học một lớp trung cấp quân đội để chuyển quân nhân chuyên nghiệp.

        Về đến đầu thị trấn Sóc Giang cũ, Ngọc hỏi:

        - Chú định xuống chỗ nào? Hay là về nhà cháu đã, trời sắp tối rồi...

         Tôi vỗ vai Ngọc:

        - Yên tâm! Đây là địa bàn hoạt động cũ của chú, nhà nào cũng là nhà quen cả mà!

        - Thế chú có biết mẹ cháu không ạ?

        - Nhà cháu ở bản nào?

        - Ở bản Nà Sao ạ!

        - Nà Sao! Ở sát biên giới?

        - Vâng ạ! Mẹ cháu tên là Ngân, Hoàng Thị Ngân...

        Tôi giật mình, lờ mờ nhớ lại một điều gì đó. Tôi quyết định theo Ngọc về nhà. Tôi chủ quan, cứ nghĩ đến đầu bản sẽ nhớ được mọi chuyện. Bản Nà Sao bây giờ thay đổi rồi. Nhiều ngôi nhà tầng mới xen lẫn nhà sàn, đường đi lối lại cũng khác. Nhưng khi chiếc xe máy của Ngọc chở tôi ngoặt vào một hõm núi thì tôi mới chợt giật mình nhớ dần ra mọi chuyện.

*

         Biên cương ngày ấy có biến.

         Đơn vị chúng tôi lật cánh từ Hà Giang sang Cao Bằng. Trung đội thông tin chúng tôi đóng quân ở bản Nà Liền đảm bảo các hướng thông tin hữu tuyến và vô tuyến cho các điểm chốt phục vụ chỉ huy tác chiến.

         Để chuẩn bị sẵn sàng các hướng thông tin, trung đội trưởng Mùi và tôi đi trinh sát địa hình khi cần thiết triển khai được ngay.

        Chúng tôi thường cắt cơm nhà bếp, thanh toán lấy tiêu chuẩn tiền ăn và gạo đem đi trinh sát. Dọc đường tiện đâu chúng tôi sẽ ghé nhà dân nghỉ chân nấu nhờ cơm. Đồng bào dân tộc ở biên giới rất tốt, thịt bán cho bộ đội thường với giá rẻ hơn, rau thì ra vườn nhổ lên, anh em cần bao nhiêu cũng cho luôn, chẳng lấy tiền.

        Bản Nà Sao sát đường biên nên khi tình hình căng thẳng, nhiều nhà đã đi sơ tán. Lúc dừng chuẩn bị bữa trưa, chúng tôi phải vào một nhà ở cách biệt tận trong hõm núi mới có người còn ở lại để nhờ nấu cơm. Nhà chỉ có hai cô gái. Cô chị tên là Kim chưa đầy hai mươi, cô em tên là Ngân mới mười bảy tuổi. Trung đội trưởng Mùi chắc đã biết rõ về gia đình này. Anh ra hiệu cho tôi không được hỏi thăm gia cảnh của họ. Hai chị em giành việc nấu cơm giúp chúng tôi. Tôi gỡ nắp ba lô đưa cho họ bao gạo và túi thức ăn gồm hộp thịt và bó rau.

        Bữa cơm dọn ra, cơm gạo mới thơm phức, lại có cả thịt gà nữa. Hai chị em cùng ăn với chúng tôi. Họ ngồi ở đầu nồi xới cơm. Quả là hai cô gái rất đẹp. Con gái Tày đã đẹp lại thường có nước da rất trắng và đôi mắt sáng long lanh như ngọc. Suốt bữa, chị em Kim, Ngân ăn rất ít, họ lo tiếp thức ăn cho chúng tôi. Chúng tôi vui vẻ nói chuyện. Nhưng tôi vẫn nhận ra nét mặt, nhất là trong đôi mắt của hai chị em họ phảng phất ẩn chứa một nỗi buồn sâu thẳm.

        Ăn cơm xong, chúng tôi lại tiếp tục lên đường.

        Hai chị em Kim, Ngân khoác ba lô của chúng tôi tiễn ra tận đầu dốc. Nhận chiếc ba lô của mình từ tay bé Ngân tôi nhận thấy bao gạo buộc tên nắp ba lô vẫn còn nguyên.

        Dọc đường, Mùi mới kể lại cho tôi nghe câu chuyện về hai chị em họ. Đó là một gia đình có những khoảng thời gian tràn ngập hạnh phúc. Nhà họ ngày xưa ở giữa bản, trâu ngựa, lợn gà đầy sân, thóc lúa đầy sàn. Hai cô con gái càng lớn, càng xinh đẹp. Đêm đêm bóng trai bản rập rình ngoài ngõ. Chẳng phải bỏ bùa yêu mà mãi tận những bản xa cũng có lũ con trai kéo đến thổi kèn lá gọi bạn thâu đêm ngoài bờ rào. ông bố của hai nàng phải đốt đuốc, gõ ống bương lốp cốp để xua bọn con trai si tình. Ông muốn để hai con học hành đến nơi, đến chốn.

        Nhưng rồi tai hoạ đổ xuống đầu họ. Sau một lần khám bệnh, đoàn y tế trên tỉnh về phát hiện ông bố có triệu chứng của bệnh phong. ở vùng nũi xa xôi hẻo lánh này tin đó như một tiếng sét đánh gãy thân cây cổ thụ. Dân bản xa lánh dần, trai tráng không còn dập dìu trước ngõ nữa. Khi người ta xác định đúng là ông bố bị bệnh phong thì hai chị em Kim, Ngân không còn dám đến lớp nữa. Bệnh hủi khiến nhiều người ghê tởm, xua đuổi. Đêm đêm, người ta ném gà chết, chó mèo chết vào nhà. Gia đình họ phải dỡ nhà, khênh từng cây cột, cái kèo vào hẻm núi. Ông bố cố gắng dựng lại ngôi nhà cho vợ và hai con gái trước khi được gọi đi tập trung chữa bệnh ở một trại phong mãi dưới xuôi.

        - Chuyện là như vậy đấy! - Mùi vừa xốc lại ba lô vừa hỏi tôi: - Ông có thấy ghê không?

        Biết là bệnh phong không lây, không di truyền nhưng vốn là người yếu bóng vía nên tôi cũng thấy hơi sờ sợ. ở quê tôi người ta thường rất sợ căn bệnh này. Bố tôi đã hơn trăm tuổi. Ông thường kể cho tôi nghe chuyện ngày trước ở làng bên có một người bị bệnh hủi. Dân làng phát hiện xa lánh, họ muốn đuổi cả nhà người có bệnh đi khỏi làng. Nhất là khi người bệnh đã phát nặng mặt mũi sù sì, chân tay co quắp phá mủ chảy nước vàng hôi thối. Trước cảnh ngày nào dân làng cũng xua đuổi, lý trưởng, chánh tổng phạt vạ, uy hiếp, những người con của người bệnh đã phải đi đến một quyết định khủng khiếp nhất. Họ mổ gà, giết lợn làm cơm cho ông ăn. Sau bữa cơm li biệt ấy, người con cả chủ trì lễ tế sống bố. Họ để ông ngồi trên sập rồi vái lạy. Đến tối, cả nhà gạt nước mắt đưa ông lên chiếc thuyền nan nhỏ. Nước lũ từ thượng nguồn sông Đáy đang đổ về cuồn cuộn. Con thuyền nhỏ của những đứa con trong lòng rỉ máu ấy đưa ông bố tật bệnh ra một chiếc chòi nhỏ trên bãi bồi giữa sông. Họ để ông bố ở đấy rồi thả thuyền xuôi về phía hạ lưu chờ. Nước  dâng ngập bãi bồi, dìm chết người cha bị bệnh hủi. Dân chài lưới phía hạ lưu giúp những người con tìm xác ông bố bị lũ cuốn trôi xuôi. Khi còn nhỏ tôi cũng thường nghe chuyện người hủi chết huyệt phải đào sâu 5 mét đổ vôi bột sống xuống rồi mới hạ quan tài, rắc thêm vôi bột lên trên xong mới lấp. Mả hủi thường phải ở xa những ngôi mộ khác.

        Mùi còn kể cho tôi nhiều chuyện buồn của hai chị em Kim. Ngân. Họ không còn bạn bè, xóm giềng. Hai chị em lớn lên như hai bông hoa tươi tắn, xinh đẹp nhưng không một chàng trai nào đến tìm nữa. Họ phải lên núi cao tìm chỗ làm nương trỉa ngô. Nỗi đau cô đơn của họ thật là khủng khiếp. Người mẹ của họ đau buồn rồi ốm chết.

        Một buổi tối, hai chị em vừa chuẩn bị đi ngủ thì có tiếng chân bước lên sàn. Hai chị em hoảng sợ ôm chặt lấy nhau. Bởi vì đã rất lâu không còn có ai dám vào nhà họ nữa. Có tiếng gọi nhỏ: "Các con ơi!". Bé Ngân reo lên: "Bố! Bố về...". Họ mở cửa đón bố. Biết tin vợ chết, ông trốn trại phong tìm về nhà. Hai đứa con vừa khóc vừa nấu cơm nếp, làm thịt gà cho bố ăn, gói cho bố đem đi đường. Họ van xin: "Bố phải ra đi ngay trong đêm, ngày mai sáng ra dân bản mà nhìn thấy sẽ xua đuổi, sẽ hắt hủi chúng con...". Ông nhìn hai đứa con gái nước mắt ròng ròng. Ông ra đi rồi biết tích từ đó. Có tin đồn ông đã chết đuối ở sông Bằng khi trèo mảng qua sông giữa đêm. Lại có người bảo ông đã lấy một người đàn bà cùng cảnh ngộ rồi được trợ giúp làm nhà chữa khỏi bệnh và ở ngay trong khu trại phong.

 Khi chiến tranh biên giới xảy ra, hai chị em Kim, Ngân vẫn ở lại. Họ vác đạn lên trận địa, đưa thương binh về tuyến sau. Hơn chục ngày giao chiến với kẻ địch đông và mạnh ở thị trấn, chúng tôi rút lui lên núi. Đơn vị chia làm nhiều mũi đột phá vòng vây để rút đi. Về đến Lũng Mật, bất ngờ tôi gặp Ngân. Cô bé súng khoác trên vai chững chạc, dày dặn hẳn. Tôi hỏi ngay:

        - Hai chị em thế nào rồi?

        Ngân oà khóc:

        - Chị Kim em chết rồi! Bọn địch phát hiện chị ấy chạy ra bờ suối đánh lạc hướng. Khi chúng xông đến định bắt sống thì chị ấy cho nổ lựu đạn...

        Tôi cầm tay Ngân, muốn an ủi cô nhưng chẳng biết nói thế nào.

        Một đêm, chúng tôi tổ chức một bộ phận bí mật xuống bản Nà Liền tìm lương thực. Ngân và một số anh chị em dân quân, thanh niên xung phong cũng cùng đi. Trong đêm trăng mờ đục chúng tôi phải đi từng tốp nhỏ để đề phòng bị địch phục kích. Tìm được thứ gì lấy thứ nấy, gạo, ngô, đậu tượng, lúa của đồng bào bó để trên gác bếp. Lúc quay trở về, tôi được giao đi sau cùng bảo vệ cho bộ đội và dân quân lên hết dốc mới rút theo. Tôi ôm súng nép vào hốc đá sát mép nước cảnh giới.

        Mọi người lội qua con suối nhỏ, bắt đầu lên dốc. Chờ một lát, ước chừng mọi người đã vượt đoạn dốc trống trải, tôi mới nhấc ba lô lên vai, xách súng rời khỏi hốc đá. Giữa lúc đó thì có tiếng gọi nho nhỏ ngay sau một mô đá, sát chỗ tôi đứng:

 - Anh Hà ơi!

        Nhận ra tiếng người gọi, tôi quay lại:

        - Ngân hả! Sao vẫn còn ở đây, mau vượt lên núi đi, nặng đưa tôi mang bớt cho...

        - Không đâu! Nhưng anh... anh ... chờ em một tý.

        - Có việc gì vậy! Rút nhanh không nó bắn pháo sang nguy hiểm lắm.

        Tôi vừa nói vừa nhìn sang phía thị trấn, nơi những căn nhà đang cháy rừng rực, thỉnh thoảng ánh lửa đầu nòng pháo của địch lại lóe lên.

        Ngân thì thào:

        - Anh... cảnh giới, gác cho em... tắm một tý nhé, đã gần một tuần nay rồi... trên núi làm gì có nước ...

        Đúng là trên núi đá vôi nước uống còn chả đủ làm gì có nước mà tắm. Có chỗ, trận địa phòng ngự rất tốt, chúng tôi đánh bật hàng chục lượt xung phong của địch nhưng hết nước đành phải rút đi chỗ khác. Tôi gàn:

        - Đi thôi! Nước suối lạnh lắm.

        - Mặc kệ!

        Ngân trút hết quần áo, lội xuống suối ngay cạnh chỗ tôi đứng. Bất ngờ mặt trăng ló ra chỗ mây thưa. Cơ thể ngọc ngà của Ngân lồ lộ dưới ánh trăng. Ngân đưa hai bàn tay bưng lấy ngực rồi từ từ dìm mình xuống dòng nước lạnh. ánh trăng lấp loá trên đôi vai trần của em.

        Một lát sau Ngân bước lên bờ, cô lặng lẽ mặc quần áo. Đoạn cô khẽ hích vào vai tôi:

        - Chúng mình đi thôi!

        Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng trước vẻ đẹp thanh khiết, tròn đầy của cô gái giữa một đêm chiến tranh nơi góc rừng biên giới. Tiếng súng bên kia cánh đồng bỗng rộ lên. Tôi kéo Ngân hối hả vượt lên đỉnh dốc núi, lẩn vào những mô đá nhấp nhô như hình người nơi biên ải.

        Tối hôm sau chúng tôi được lệnh rút sang Nguyên Bình. Chúng tôi chia làm hai hướng rút quân. Tôi đi một hướng, Ngân đi hướng kia Từ đó, tôi không còn gặp lại Ngân nữa. Sau chiến tranh tôi về xuôi, đi học rồi chuyển về Hà Nội công tác. Đường tuy chẳng xa thế mà hai mươi mấy năm rồi, giờ tôi mới lại lên Cao Bằng.   

 Tôi và Ngọc bước lên sàn, một người đàn bà ra đón.

 Tôi nhận ra Ngân ngay phần vì đã biết trước, phần vì Ngân vẫn đẹp như xưa. Ngân cũng sững lại, miệng hơi há ra muốn gọi nhưng chưa nhớ ra được tên tôi. Ngọc giới thiệu:

        - Đây là chú Hà ở trên Bộ về công tác mẹ ạ!

        - Đúng rồi! Anh Hà... sao mãi tận bây giờ anh mới về Nà Sao?

        Tôi lúng túng. Ngân túm tay tôi chẳng ra cầm, chẳng phải bắt. Ngọc hơi ngạc nhiên:

        - Thế mẹ cũng biết chú Hà ạ?

        - Con phải gọi là bác! - Ngân sửa lại.

        Mùa thu nhưng nhà gần núi đá nên lành lạnh. Khi đã ngồi yên bên bếp lửa rồi, thấy tôi cứ nhìn hai mẹ con vẻ thắc mắc, Ngân bảo con:

        - Con xuống chuồng bắt  con gà để mẹ làm thịt, sẵn xe xuống chở bác trưởng bản lên uống rượu luôn.

        Ngọc đi rồi, Ngân mới bảo:

        - Nó là con nuôi của em đấy!

        - Vậy hả? - Tôi buột miệng: - Thế Ngân vẫn...

        Ngân kể: Cái hôm rút sang Nguyên Bình, Ngân đi cùng hướng có nhiều bà con đồng bào các bản. Ngân đi phía sau đoàn người gồng gánh, bế bồng con cái vượt đường quốc lộ. Giữa lúc đoàn người đang âm thầm đi dưới chân điểm chốt của địch thì có tiếng trẻ con bật lên khóc. Người mẹ ấy sợ lộ địch phát hiện sẽ dẫn đến cái chết của hàng trăm người nên vội lấy khăn bịt miệng con không cho khóc. Lúc sang đến bên kia cánh đồng thì đứa bé ngừng thở. Tưởng đứa con chưa đầy tháng tuổi đã chết, người mẹ đặt con vào hốc đá rồi vội dắt hai đứa lớn chạy theo đoàn người. Đứa trẻ số không chết. Khi được đặt xuống đất lạnh, nó dần tỉnh lại. Ngân chợt nghe tiếng trẻ con khóc bèn quay lại tìm. Cô cởi áo bọc đứa trẻ ôm chạy theo bộ đội. Ngọc chính là đứa trẻ ngày ấy. Ngân đã nuôi nó gian nan, vất vả biết bao. Sau chiến tranh, Kim được công nhận là liệt sĩ. Dân bản không còn sợ và xa lánh ngôi nhà trong hẻm núi nữa Người ta đã được tuyên truyền, hiểu biết hơn về bệnh phong. Nhưng Ngân cũng chẳng lấy chồng, cô nuôi Ngọc lớn lên trở thành một người lính.

*

       Đêm ấy, chúng tôi ngồi bên bếp lửa ôn lại chuyện cũ. Chén rượu vùng cao sóng sánh ánh trăng rừng. Ông trưởng bản vốn cũng là lính thời chống Mỹ nên càng đậm chuyện.

       Sáng hôm sau, tôi chia tay mẹ con Ngân để theo tuyến biên phòng tiếp tục chuyến công tác. Ngân xách túi, tiễn tôi ra tận đầu dốc. Gió núi ào ào như ngàn đời nay vẫn thổi ở nơi biên ải này.

Người gác cổng

Đúng 7 giờ 30 sáng, ông Lục đóng hai cánh cổng chính vào cơ quan. Những ai đi làm muộn sẽ phải xuống xe dắt qua cái cửa nách hẹp lại đắp gồ lên sát cửa phòng thường trực để ghi tên và lý do trễ. Cuốn sổ phòng thường trực nhàu nát, quăn góc, bìa cáu những mồ hôi thế mà ai nhìn thấy nó cũng sợ. Bởi vì nếu bị ghi tên vào cuốn sổ ấy, dù chỉ một lần thôi thì tháng ấy coi như mất toi tiền thưởng, hai lần thì bị khấu trừ lương, ba lần thì bị nhắc nhở trước cơ quan, tới bốn lần coi chừng mất việc.

Cánh công nhân thì gọi nó là cuốn sổ Nam. Tào Mấy tay nhân viên hành chính chuyên ngồi tán gẫu, uống chè, ngủ gật trong giờ hành chính thì lén bảo đó là "hồ sơ thần chết".

Thực ra cuốn sổ của ông Lục ở phòng thường trực mới có uy lực từ mấy tháng nay, kể từ khi giám đốc mới về nhậm chức. Đời ông giám đốc trước, phòng thường trực cũng có một cuốn sổ như thế này. Nó được dùng để ghi tên khách đến làm việc với cơ quan, ghi điện của trên gọi xuống. Nó viết lăn lóc ở góc bàn. Có mấy đôi vợ chồng cùng làm ở cơ quan qua cổng thường nhắn ông Lục việc này, việc nọ. Rồi sau sợ ông quên thường cứ vớ cuốn sổ ghi luôn vào "Về sớm đón con", "Nhớ qua chợ mua mớ rau muống, 5 lạng thịt". Mấy tay hay đàn đúm thì viết loằng ngoằng mấy chữ hết cả trang giấy "Tối nay sang nhà tao nhậu". Nhiều người thành thói cứ quen qua cổng là vớ luôn lấy cuốn sổ mở ra xem có ai nhắn gì không Ông Lục cũng vô tâm, mặc ai muốn ghi gì vào đó thì ghi. Hết giấy ông lại vào xin cô văn thư một tập đóng cuốn mới. Trong cơ quan ai cũng quý ông ở cái tính cởi mở dễ dãi, hay giúp đỡ người khác.

Thế nhưng, từ khi ông giám đốc mới về nhậm chức thì tình hình khác hẳn. Ông ta chấn chỉnh lại cơ quan, tổ chức lại các phân xưởng sản xuất, biển bảng chấm công rõ ràng. Đúng giờ làm việc ai còn chưa đến cơ quan thì phải ghi tên vào sổ phòng thường trực, cuối tháng cứ thế mà trừ lương, trừ thưởng. Cuốn sổ của ông Lục thường trực bỗng trở nên ghê gớm. Ông được mọi người nể sợ hẳn lên. Nhưng đồng thời với sự nể sợ đó là sự xa lánh. Nhất là khi nhiều người bị trừ lương, có người bị chấm dứt hợp đồng, thôi việc vì hay đi sớm về muộn.

Ông Lục là thường trực kiêm bảo vệ cơ quan, thực ra chỉ là người gác cổng bỗng trở nên quan trọng. Đang từ  là một người luôn xuề xoà, bỗ bã, vui vẻ với hết thảy cán bộ, nhân viên, ông trở thành một người nghiêm túc. Nhưng từ đó, ít người gần ông, nhất là những ai hay đi làm muộn. Mà trong cuộc đời thì mấy ai là người luôn đến đúng hẹn bao giờ, dù đó chỉ là thời gian làm việc. Phòng thường trực cơ quan bây giờ nghiêm như một đồn cảnh sát, không còn ai dám bén mảng vào xin chén nước chè, hút nhờ điếu thuốc lào nữa.

Thực ra, trong thâm tâm ông Lục cũng không muốn vậy. Ông muốn cơ quan làm việc có giờ giấc, nghiêm túc, "quân lệnh như sơn" giống như khi ông còn ở bộ đội, nhưng cũng ấm áp tình người chứ đâu phải dè chừng, trù dập lẫn nhau, hơi tí là cắt lương, cắt thưởng thế này. Nhưng thực tế là vậy, thời cơ chế thị trường này cứ sòng phẳng mà làm, ít còn những buổi sinh hoạt, giáo dục, tuyên truyền cổ động nữa. Cơ quan kinh tế là kinh tế, ai hơi đâu mà giáo huấn nhiều. Đồng tiền để đầu tư kinh doanh, cũng trở thành phương tiện hữu hiệu để duy trì kỷ luật. Vi phạm cứ tiền mà trừ, lương tháng không được nhận đủ ai chả khiếp. Cuốn sổ của ông Lục trở thành một vật chứng quan trọng để giám đốc trừng trị những nhân viên vi phạm, hay bỏ cơ quan đi làm việc riêng. Ông Lục được lệnh phải ghi chép đầy đủ, tỉ mỉ tên từng người vi phạm giờ giấc làm việc để giám đốc nghiên cứu xử phạt. Nhiều người từ chỗ thân quen đâm ra oán hận ông và cuốn sổ "hồ sơ thần chết" của phòng thường trực cơ quan. Họ có biết đâu chính ông cũng là nạn nhân của cuốn sổ ấy.

Ông Lục phục viên về làng. Ngày ấy dễ phải đến hơn hai chục năm rồi. Sau chiến tranh, ông được người ta giải quyết cho ra quân. Ông trở về nhà với chiếc ba lô nhẹ tênh trên vai. Cô con gái ba tuổi của ông sợ khóc thét khi ông đưa cho nó con búp bê tóc vàng lại biết nói, biết cười khanh khách.

Trở lại làm một anh nông dân, hằng ngày ông vác cày bừa rong trâu ra đồng. Trưa ông ngả lưng trên bờ ruộng sau khi chén mấy củ khoai lang với một bát nước chè xanh. Cuộc đời ông ngỡ cứ như thế là an bài. Cũng như cái làng ven đô của ông cứ bình yên và nghèo mãi. Nhưng rồi khi khu công nghiệp mới liên doanh với nước ngoài mở ra thì làng ông bỗng trở nên náo động, ồn ào. Đất cày cấy bán cho liên doanh, trâu bò bán cho lò mổ. Tiền bán đất quy đổi từ đô-la ra tiền Việt khiến nhiều nhà sửng sốt, lâng lâng cả tháng trời như  trúng xổ số giải đặc biệt. Bởi người làng ông kể từ đời ông là ông vải đến giờ chưa ai có trong tay một số tiền lớn đến như thế. Tha hồ ăn uống, mua sắm ti vi, xe máy, làm nhà, xây cổng. Phởn chí, có người còn kéo cả nhà đi du lịch tắm biển mãi tận Đồ Sơn, Hạ Long cho biết. Thế nhưng, "miệng ăn, núi lở", tiền tấn rồi cũng cạn. Dân làng ông bỗng trở nên thất nghiệp thất nghiệp trên chính quê hương mình. Làm ruộng nhưng họ đâu còn ruộng để làm. Đám thanh niên lao vào khu công nghiệp tìm việc làm, kiếm vài chục đô một tháng. Đám trung niên, hoặc các bà sồn sồn thì mở quán, làm dịch vụ ngay cổng khu công nghiệp. Làng ông bỗng chốc trở thành một trung tâm ăn uống giải khát, karaokê, đèn xanh, đèn đỏ nhấp nháy suốt ngày đêm.

Ông Lục cũng bàn với vợ mở quán. Nhưng nhà ông ở mãi phía sau làng nên chả có ma nào vào để ăn uống, giải khát. Cô con gái duy nhất của ông là giáo viên cấp 2, lấy chồng ở làng bên. Ngày nào trên đường đi dạy, nó cũng ghé qua gửi con cho bà ngoại. Một hôm nó bảo bố:

- Hay bố thử xin vào làm ở khu liên doanh xem sao!

- Hừ... tao gần sáu chục tuổi rồi có mà vào làm ở khu... nghĩa trang thì có.

Cô con gái cười nắc nẻ rồi nói:

- Con sẽ tìm việc cho bố, bố nhất định phải đi làm đấy nhé!

Tưởng nó đùa, hoá ra thật. Trong số học sinh nó dạy có một đứa bố làm giám đốc một liên doanh trong khu công nghiệp đang cần tìm một người làm bảo vệ và thường trực ở cổng. Ông giám đốc ấy chú ý đến ông Lục vì ông vốn là chiến sĩ đặc công, từng có những năm tháng chiến đấu ở mặt trận. Thế là tự dung ông Lục trở thành một cán bộ thoát ly ở ngay quê nhà. Cơ quan ông Lục chỉ cách nhà có non cây số mà cả tuần ông chẳng về nhà. Ông phải thường trực gần như 24/24 giờ. Bà vợ ngày ngày phải đem cặp lồng cơm canh tiếp tế cho ông, khi mưa cũng như ngày nắng. Những ngày đầu, ông Lục thấy bức bối, tù túng, khó chịu. Ông nghĩ hay thôi quách cái chân gác cổng về chăn nuôi năm vài lứa lợn cũng đủ sống, là cái thằng gác cổng chứ danh giá quái gì đâu. Nhưng thôi việc tức là tự ý phá hợp đồng lao động, mất tiền triệu bồi thường như chơi. Thế là ông không dám. Sau một thời gian rồi cũng quen. Cái mặc cảm làm thuê, giữ cổng cho Tây trong ông dần dần cũng nguôi ngoai. Được cái ông giám đốc cũ là người dễ tính. Ông là giám đốc từ thời quan liêu bao cấp, còn có tâm ấm áp, chưa bị quá nhiều cái lạnh lùng của đồng tiền chi phối. Ngày nào ông cũng đến cơ quan sớm, giữ thói quen đi một vòng các phòng, ban thăm hỏi, động viên các bộ phận chấp hành nền nếp, kỷ luật làm việc rồi ghé vào phòng thường trực nói dăm ba câu chuyện với ông Lục, uống chén nước chè đặc, rít một hơi thuốc lào rồi mới trở về phòng điều hành bàn việc với Tây.

Khi liên doanh hoàn thành việc xây dựng hạ tầng cơ sở, bước vào sản xuất thì ông giám đốc nghỉ hưu. Một ông giám đốc mới tu nghiệp bên Tây về thay. Mọi việc từ hôm ấy cũng thay đổi.

Ông Lục không bao giờ quên buổi sáng hôm đó. Cô con gái phóng xe qua gửi con cho bố trông giùm để đưa mẹ lên thị xã khám bệnh. Những ngày lớp mẫu giáo nghỉ, cô thường gửi cháu cho ông bà ngoại trông giùm. Con bé đang học lớp mẫu giáo lớn vẫn được mẹ cho vào cơ quan chơi với ông ngoại. Sáng nay cũng vậy. Nó vừa cầm que kem mẹ mua cho tụt xuống xe chạy vào cổng gọi ông rối rít, khoe tuần qua được 6 phiếu bé ngoan. Ông hứa sẽ mua quà thưởng cho nó. Giữa lúc con bé vừa ngồi mút kem vừa leo lẻo kể chuyện thì có tiếng quát:

- Tại sao lại đưa trẻ con vào phòng thường trực thế này! Làm ăn bậy bạ thế hả?

Ông Lục giật mình nhìn lên. Ông giám đốc mới đang đứng trước cửa phòng. Ông Lục hơi luống cuống. Ông Lục càng giật mình, sửng sốt hơn khi nhận ra ông giám đốc mới là ai. Còn con bé thấy một người lạ bỗng dưng đến quát mắng ông mình thì sợ quá. Nó cố mím môi rồi bật khóc nức nở. Que kem nó cầm chảy nước rớt bẩn cả chiếc váy mẹ nó mới thay.

Ông Lục cứ đứng sững ra giữa phòng thường trực. Một lúc sau, khi ông giám đốc bỏ đi rồi, ông mới định thần và nghe thấy tiếng nấc nghẹn ngào của đứa cháu ngoại. Ông vừa dỗ dành nó vừa lúng túng tìm khăn lau nước mắt, nước mũi và vết kem trên mặt, trên váy áo con bé. Con bé đã nín, mặt nó đỏ hoe ngỡ ngàng nhìn ông. Tại sao ông đã lớn như thế mà vẫn còn bị người ta trách mắng. Nó không hiểu. Còn ông thì bị bất ngờ. Có lẽ, cả ông giám đốc mới vừa đứng ở đây cũng vậy... Trong lòng ông Lục ngổn ngang những hình ảnh cũ hiện lên.

Đó là những năm sau cuộc tổng tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân 68. Nhiều cơ sở cách mạng bị địch đánh bật rễ khỏi dân. Nhiều đơn vị mất chỗ đứng chân ở đồng bằng bị dồn đuổi rút lên vùng rừng núi. Đơn vị trinh sát của ông Lục hoạt động ở chiến trường Quảng Đà gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Đường tiếp tế từ tuyến sau lên bị cắt đứt. Những cơn mưa miền Trung tưởng như không bao giờ dứt khiến cho trung đội đặc công của ông Lục hoạt động càng thêm khó khăn hơn. Cái đói, cái rét, bệnh tật và cái chết luôn thường trực xung quanh. Trung đội đặc công giảm dần quân sau mỗi lần chạm địch, bệnh tật. Họ chỉ còn có mười ba người. Mười ba người lẩn khuất trong hốc đá, bụi cây, khe núi tìm cách bám dân, tìm lương thực và đánh địch. Nhưng những mũi trinh sát xuống núi tìm dân đều trở về thất bại. 

       Là người chỉ huy, ông Lục lo lắng khi bao gạo cuối cùng đã cạn, những củ sắn mốc meo để dành trong hốc đá cũng không còn. Cái chết lúc ấy không sợ bằng cái đói. Cái đói như là tiền trạm của cái chết. Nhìn các chiến sĩ của mình đói lả, cầm khẩu AK báng gập run rẩy, ông Lục quyết định bằng mọi cách phải tổ chức cho anh em tiềm nhập vào ấp chiến lược móc nối lại với cơ sở cũ, tìm kiếm tiếp tế. Tổ thứ nhất gồm hai người lên đường không thấy quay trở lại. Quân số của họ giảm xuống còn mười một người. Tổ thứ hai lên đường được ba ngày thì có một chiếc L19 bay là là ngọn cây gào lên lải nhải: "Hỡi anh em Việt cộng hãy nghe đây! Quân đội quốc gia vừa tiêu diệt 2 tên cộng sản ở ấp Hoài Nhơn... Anh em hãy mau buông súng trở về với chính nghĩa quốc gia...".

Thế là họ chỉ còn chín người.

Tình huống bắt buộc ông Lục phải xem xét lại. Một tổ được giao nhiệm vụ vượt vòng vây trở về hậu cứ. Họ có hai người. Một chiến sĩ tên là Hồng, một người là Vĩnh. Vĩnh là một chiến sĩ mới được bổ sung về đơn vị ông trước tổng tiến công. Họ vừa ra đến bìa rừng thì chạm địch phục kích. Chỉ có Vĩnh là chạy quay trở lại được. Ông Lục nhận thấy ánh mắt Vĩnh thoáng vẻ hoảng loạn. Ông vội dẫn mấy chiến sĩ lao đi tìm Hồng. Tại nơi chạm súng, họ không tìm thấy gì ngoài một vài vết đạn còn mới trên vách đá. Ông giật lấy khẩu súng trên tay Vĩnh, ngoáy ngón tay vào miệng nòng súng, không có vết khói đạn. Vĩnh đã bỏ đồng đội chạy không dám bắn lại địch một viên đạn nào. Ông túm lấy ngực áo của Vĩnh xoáy mạnh. Đôi mắt ông nảy lửa. Vĩnh cúi mặt xuống. Nhưng rồi ông buông tay ra. Hai ngày sau, họ tìm thấy Hồng nằm chết ở trong khe suối, vết thương trên đùi bị mất quá nhiều máu không được cấp cứu kịp thời. Việc Vĩnh bỏ đồng đội để thoát thân khiến anh em rất căm giận.

Khi tình hình tưởng như đã tuyệt vọng thì tiểu đoàn tìm được họ. Trung đội đặc công của ông Lục được tiếp tế lương thực, đạn dược, củng cố lực lượng chuẩn bị tổ chức các trận đánh mới.

Một buổi trưa, khi ông Lục đang kiểm tra lại các khối bộc phá, chuẩn bị cho trận đánh đêm thì có tiếng một chiến sĩ gọi gấp:

- Anh Lục ơi, thằng Vĩnh đào ngũ rồi!

- Nó chạy về hướng nào? - Ông Lục vớ khẩu súng chạy theo người chiến sĩ. Họ chạy ra đến bờ suối thì nhìn thấy Vĩnh thấp thoáng ở bìa rừng bên kia dòng nước. Không kịp nữa rồi. Một chiếc trực thăng của địch chao xuống bay dọc theo dòng suối. Người chiến sĩ nâng khẩu súng lên nhằm vào cái bóng tên đào ngũ. Ông Lục đè khẩu súng của anh xuống:

- Không được bắn!

- Sao thế ạ! Sao anh để thằng hèn nhát nó chạy thoát hả?

- Cậu bắn, bọn địch phát hiện vị trí ém quân mất.

- Nhưng lỡ nó chạy theo giặc thì còn nguy hiểm hơn.

- Đã hèn nhát như nó thì còn hồn vía đâu mà dám chạy theo giặc nữa!

*

Chuyện hơn ba mươi năm trước tưởng mãi nằm yên trong lòng ông cùng những ký ức về chiến tranh ác liệt và đói khát, gian lao. Ngờ đâu bây giờ nó lại được cày xới lên trong ông khi người đứng trước mặt ông, bệ bệ, trịch thượng lại chính là người đã bỏ chạy khỏi đội ngũ năm nào. Ông Lục vừa dỗ dành cháu gái vừa suy nghĩ mông lung. Con bé đôi mắt còn ngấn nước ôm lấy cổ ông.

Thời thế xoay vần, chớ trêu. Ông Lục không ngờ gặp lại Vĩnh trong hoàn cảnh này. Ông cũng chẳng hiểu làm thế nào mà một người như Vĩnh lại trở thành một giám đốc một công ty liên doanh lớn như thế. Trong tư duy của ông vẫn theo lối mòn xưa, tuần tự, có trước có sau, nhân nào quả nấy. Ai ngờ...

Giám đốc Vĩnh chấn chỉnh lại nội bộ cơ quan. Phòng ban nào cũng phải rà soát lại đội ngũ nhân viên, ai dư thừa thì phải điều xuống phân xưởng sản xuất. Lương thưởng đều khoán, có làm, có ăn, thời gian giờ giấc sít sao. Ông Lục được giám đốc gọi lên nhắc nhở về việc quản lý người ra vào cơ quan. Ông có trách nhiệm giúp giám đốc ghi chép, theo dõi những người hay đi làm muộn, bỏ việc. Cuốn sổ ghi chép ở phòng thường trực của ông trở nên quan trọng và có "giá" hẳn lên vì thế. Chính bản thân ông Lục cũng phải tự ghi vào sổ mấy lần đóng cổng chính không đúng giờ, kiểm tra không kỹ để công nhân dấu trong người mang vật tư ra ngoài bán. Hầu như chả tháng nào ông không bị trừ  tiền lương, tiền thưởng. Lời hứa khi nào có tiền thưởng sẽ mua cho con cháu ngoại một món quà mà mãi ông chưa thực hiện được.

Ông Lục cảm thấy bức bối. Bởi từ khi ông giám đốc mới về, ông trở thành đối tượng để anh em trong cơ quan đề phòng. Họ sợ ông và cuốn sổ ghi chép ở phòng thường trực. Hàng ngày theo lệnh của giám đốc, ông Lục phải nộp cuốn sổ ghi chép về phòng hành chính tổng hợp những trường hợp vi phạm để giám đốc xử lý. Ông Lục bắt đầu nhận thấy mình đang bị sử dụng để đối diện với mọi người.  Sáng sáng, chiếc xe Nhật xịn lăn qua cửa kính phản quang phủ đen kịt. Ông Lục biết có một đôi mắt theo dõi mỗi khi ông lật đật chạy ra mở đóng cổng. Ông Lục buồn vì bị mọi người xa lánh dần. Có người còn coi ông như một tên Gia-ve của giám đốc Vĩnh nữa.

Ông Lục quyết định xin thôi việc. Ông viết đơn nộp lên phòng hành chính để chuyển cho giám đốc Vĩnh xem xét nhưng đã mấy tháng rồi chưa thấy có ý kiến gì. Ông muốn thôi việc không phải vì sợ giám đốc Vĩnh trù úm, trả thù vặt vì việc ngày xưa. Chuyện đó đã lâu rồi. Con tạo xoay vần, cuộc đời thay đổi. Đối với ông, những biến cố, khó khăn, sự từng trải, chai sạn trong cuộc đời đủ để đương đầu với những trò thù vặt, nhỏ nhen. Ông biết Vĩnh còn "gơm" ông, nhưng ông không ngại. Ông chỉ không muốn mình trở thành người để chính Vĩnh sai khiến. Cái "máu đặc công" trong ông réo sôi trở lại, bất chấp tất cả. Tựa như khi xưa ông từng áp khối bộc phá mấy chục ki lô gam vào thành bể kho xăng địch điểm hoả, chờ xem dây cháy chậm xì khói một lát mới chịu chạy ra khỏi vùng nguy hiểm.

Ông Lục bàn giao ca trực xong vào phòng hành chính lĩnh lương. Ông được báo cuối giờ lên gặp giám đốc. Ông nghĩ: "Chắc cái đơn xin thôi việc đã được duyệt. Thế là tốt rồi, ra ngoài cổng chén cái đã!".

Buổi trưa trời nắng nóng. Khu liên doanh toàn mái tôn với sân xi măng nên càng nóng. Ông Lục từ ngoài cổng vào đã thấy xe ô tô đậu kín sân. Có nhiều tiếng người lao xao. Không để ý, ông lững thững lên phòng giám đốc Vĩnh. Hành lang tầng hai thấp thoáng mấy bóng áo vàng cảnh sát.

Cửa phòng giám đốc Vĩnh bỗng bật mở. Ông ta bước ra hai tay chụm ở phía trước trong chiếc còng số 8 Mặt mũi Vĩnh phờ phạc, tái dại. Hai anh công an kèm hai bên. Ông Lục sửng sốt, đứng sững lại. Giám đốc Vĩnh bị bắt vì dính líu vào một vụ tham nhũng, gian lận thương mại gây thiệt hại lớn. Hai người nhìn nhau. Giám đốc Vĩnh định nói câu gì những lại thôi, mồ hôi túa ra trên mặt. Ông ta đưa hai tay bị còng lên gạt mồ hôi. Ông Lục cũng sực tỉnh. Ông rút trong túi áo ra cái khăn tay có thêu hình hai con thỏ vừa mua để làm quà sinh nhật cho cháu ngoại. Ông Lục  bóc vỏ giấy bóng kính bọc bên ngoài rồi đặt chiếc khăn vào tay giám đốc Vĩnh. Anh công an cầm lên xem xét rồi mới đưa lại cho ông ta. Giám đốc Vĩnh bụm tay trong còng cầm chiếc khăn đưa lên lau mồ hôi trên mặt. Hai người nhìn nhau. Ông Lục nhận ra ánh mắt hoảng loạn mà hơn hai mươi năm trước ông đã từng thấy ở Vĩnh.

Khi công an giải giám đốc Vĩnh đi rồi, ông Lục mới bước thấp bước cao về phòng thường trực. Cuốn sổ ghi chép vẫn đặt ngay ngắn ở góc bàn. Ông ngồi thừ ra. Một nỗi buồn từ sâu thẳm trong ông từ từ dâng lên.

Chợt có tiếng trẻ con reo hò ngoài cổng, ông Lục mới sực nhớ ra là phải đi mua một món quà khác mừng sinh nhật cho con bé cháu ngoại.

Đầm Hạc

           Truyện ngắn của Trọng Bảo

        Thế là lão Sỏi trúng thầu đầm Hạc với số tiền phát giá gần gấp đôi người khác. Máu mặt nhất nhì xã như anh Hải cũng chỉ dám phát giá mười hai triệu. Thế mà lão Sỏi đặt giá những hai mươi triệu đồng. Hai mươi triệu đồng một năm! Nhiều người thè lưỡi, rụt cổ, cứ nghĩ tới đã sợ. Cái đầm rộng chưa đầy ba mẫu, thả cá, nuôi tôm gì để thu hoạch và nộp sản lượng khoán hai mươi triệu đồng mỗi năm.

       Sau cuộc đấu thầu, mọi người ra về. Nhiều người lo cho lão Sỏi phá sản, vỡ nợ. Lại có người chợt hỏi:

       - Lão ấy lấy tiền ở đâu mà nhiều thế nhỉ?

      - Nghe nói hồi làm cán bộ trên tỉnh, lão ấy ở ban kinh tế, kinh toi gì ấy, kiếm được khá phết.

       Một ngưòi nói vẻ khẳng định:

       - Lão ấy là dân buôn thuốc phiện "giải nghệ" đấy!

       - Tôi nghe đồn hình như lão ấy đào được vàng khi làm vườn...

       Mỗi người một chuyện. Thực thực, hư hư mà vẫn chẳng biết lão Sỏi ấy đào đâu ra số tiền lớn để đặt cọc ngay tại buổi đấu thầu đầm Hạc. Trong tâm trí mọi người hình ảnh lão Sỏi bắng nhắng khi còn là cán bộ thanh niên, lưng đeo xà cột hô hào thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang ngày nào. Ngày ấy, có lẽ là những năm sáu mươi. Lão làm phó bí thư đoàn xã rồi được "cơ cấu" vào đảng uỷ. Chân đất, quần nâu thế mà chả biết tự lúc nào lão đã là cán bộ huyện. Mỗi lần lão về làng, cái xà cột đều căng phồng, cái đài Xiêng-mao hát xoe xóe bên hông khiến lũ trẻ con rồng rắn chạy theo cái xe đạp phượng hoàng của lão reo hò ầm ĩ vẻ khâm phục. Rồi sau đó lại nghe tin lão được đề bạt lên làm cán bộ cấp tỉnh. Lão làm cán bộ đoàn chuyên trách, rồi khi đã hết cái tuổi hăng hái thì được chuyển sang ngành nông nghiệp, rồi là cán bộ chỉ đạo kinh tế. Đấy là chuyện lão tự nói ra. Nhưng có người còn nghe nói lão hay bồ bịch bị vợ bỏ, rồi tham ô công quỹ bị kỷ luật nữa. Nghỉ hưu, lão Sỏi về làng. Lão xây nhà trên cái nền đất của bố mẹ để lại. Con cái chẳng thấy đứa nào về ở với lão. Nghe nói, chúng đều đã định cư cả ở bên Tây rồi.

       Khi hợp tác xã có chủ trương khoán quản, giao đất, giao hồ ao cho người lao động, lão nhảy ra đấu thầu đầm Hạc thả cá. Thấy lão bỏ thầu với giá cao ai cũng khiếp. Có người bảo đầm Hạc nước trong leo lẻo thả cá chậm lớn khéo mà lỗ vốn, nhưng lão bỏ ngoài tai.

       Sau hôm thắng thầu, lão Sỏi đi một vòng quanh đầm Hạc xem xét, tính toán. Cũng chả biết tự bao giờ người ta đã gọi cái đầm này là đầm Hạc. Hình dáng của nó trông hao hao như con hạc đang bay. Có lẽ vì thế mới gọi như vậy. Các cụ kể rằng ngày xửa, ngày xưa, đây chính là một khúc sông Hồng nước rất sâu và trong veo, thường có một đàn hạc từ trên trời bay xuống tắm. Đó chính là những nàng tiên nữ hoá thân. Một chàng trai nghèo làm nghề chài lưới bất ngờ chứng kiến cảnh những nàng tiên đẹp tuyệt trần khoả thân trong dòng nước như ngọc ngà. Chàng bèn bí mật giấu đôi cánh hạc của nàng tiên đẹp nhất vào bụi cây. Mất đôi cánh để trở về trời, nàng tiên ở lại cùng chàng trai trần thế thành vợ, thành chồng. Chuyện đến tai Ngọc Hoàng. Ngài nổi giận liền giáng họa lên đầu họ. Và, một cú sét đánh rền vang giữa ban trưa khi trời nắng chang chang, giết chết đôi uyên ương khi họ đang kéo lưới trên sông. Máu của họ làm cho nước sông Hồng còn đỏ đến ngày nay. Dòng sông bị sét đánh đứt đoạn đổi dòng. Nơi nàng tiên ngã xuống còn in hình con Hạc, trở thành đầm Hạc bây giờ.

       Nghĩ đến câu chuyện truyền thuyết, lão Sỏi chợt bật cười sằng sặc. Lão thì cần đếch gì những câu chuyện hoang đường ấy. Lão chỉ thấy cái nguồn lợi lớn sẽ thu từ cái đầm này. Lão sẽ thả cá, nuôi trai nước ngọt lấy ngọc. Những chân ruộng ngập nông ven bờ lão sẽ cấy lúa, thu hoạch một năm cũng vài tấn thóc, đủ lương ăn và cả tiền công thuê người trông coi đầm cá.

       Quả là những toan tính của lão không sai. Ngay năm đầu tiên lão đã thu hoạch được hơn bốn tấn cá gần một tấn rưỡi thóc. Suýt soát thành tiền cũng gần năm mươi triệu, trừ chi phí và tiền công thuê hai lao động đi, lão cũng lãi được hơn hai mươi triệu đồng. Năm thứ hai rút kinh nghiệm, lão thuê hẳn một cậu kỹ sư chăn nuôi mới ra trường chưa có việc làm chuyên lo việc chăn thả cá, nên năng suất tăng vọt lên thu hoạch hơn sáu, bảy tấn cá một năm.

       Thế rồi vận may lại đến tiếp. Trung ương quyết định cho tách tỉnh. Tỉnh lỵ mới xây dựng ngay ở thị trấn huyện, gần đầm Hạc. Đường xá mở rộng, dân cư tăng vọt. Đầm Hạc của lão trở thành một trung tâm cung cấp thực phẩm cá tươi, rau muống bè cho các cơ quan tỉnh. Cũng có một vài cơ quan nhòm ngó, quan tâm đến cái đầm của lão.

       Một hôm, lão từ ngoài đầm về thì anh kỹ sư giúp việc hớt hải chạy về gọi:

       - Bác ra ngay ngoài đầm có người hỏi.

       - Ai vậy! Sao không dẫn họ vào đây?

       - Dạ! Họ nói ở sở thương mại của tỉnh ạ! Họ muốn bàn với ta việc đầu tư để giúp phát triển khu đầm Hạc trở thành nơi cung cấp thực phẩm chủ yếu cho cơ quan tỉnh ạ!

       - Thế hả?

       Lão tong tả ra gặp đoàn cán bộ tỉnh. Nhưng cái "kế hoạch đầu tư" ấy bất thành. Vì lão nhận ra vị trưởng đoàn thương mại lại chính là người đã từng kiểm điểm, kỷ luật lão hồi đương vị vì tội bớt xén của công. Thực ra hồi ấy vì ăn chia không đều nên hắn ta mới hại lão, chứ hắn cũng chẳng tốt đẹp gì. Thôi, cũng đếch cần, lão tự nhủ. Thời buổi kinh tế thị trường này làm ăn tự do vẫn rộng cẳng hơn, trói buộc vào những cơ sở liên doanh nhiều khi bất lợi.

       Thời gian sau, sự tính toán của lão lại đúng. Khi tỉnh lỵ mới hình thành, các cơ quan đã yên vị. Nhà cửa xây xong thì mới thấy cả cái thị xã đồ sộ toàn bê tông là bê tông nằm trơ trụi ở nơi không một bóng cây, ngọn cỏ. Mùa hè tới chẳng khác nào giữa sa mạc. Khu đầm Hạc của lão ở cuối thị xã cây cối quanh bờ um tùm trở thành nơi chiều chiều trai gái, kể các gia đình cán bộ, vợ chồng, con cái đèo nhau phóng xe máy xuống ngồi hứng gió...

       Quan sát cảnh ấy lão Sỏi nảy ra một hướng làm ăn mới.

       Lão bỏ tiền mua lá cọ, tre nứa làm một loạt lều câu cá xung quanh bờ ao cho đám người rỗi việc, thừa tiền đến giải trí, hóng mát. Quả đúng như lão tính toán, hơn ba chục cái lều của lão lúc nào cũng có người ngồi câu. Trai gái, bồ bịch vào đấy "câu nhau" là chính chứ còn thiết gì đến câu cá. Lão vừa không mất cá lại được tiền thuê lều câu và bán đồ giải khát với giá cắt cổ. Thế là tiền của cứ tự nhiên đổ vào túi lão. Giàu thì sang. Cái vẻ tất bật ở lão mất dần. Bây giờ thì lão khác hẳn. Lão mặc quần soóc, giày thể thao trắng, chiều chiều đi bộ dọc bờ đầm Hạc vẻ thư thái. Thỉnh thoảng lại thấy chiếc xe con bóng lộn của một đại gia nào đó đến đón lão đi đánh quần vợt. Tất cả mọi công việc kinh doanh, chăn thả ở khu vực đầm Hạc, lão đều giao cho anh kỹ sư chăn nuôi. Anh kỹ sư ngày nào còn đi chiếc xe đạp lọc cọc bây giờ cũng đã xe máy vè vè. Mấy cô làm thuê cắt cỏ cho cá sau vài năm cũng thấy quần hoa, váy ngắn phơi phới.

       Nắm bắt được xu hướng phát triển, lão Sỏi tiếp tục suy nghĩ, tính toán. Lão đi đi, lại lại ngắm nghía mãi đoạn vệt nước hình cổ Hạc sát con đường vào thị xã. Đôi mắt ti hí của lão nheo nheo, cái sẹo giữa trán giãn ra như kẻ đôi khuôn mặt. Có tiếng con gái eo éo:

       - Anh Sỏi ơi! Có đi đánh quần vợt không?

       - Sỏi với đá cái gì! Hôm nay bận...

       - Bận thì bận cũng đừng có quên tụi em nhé!

       Tiếng cười phe phé. Rồi tiếng xe máy rồ lên phóng đi. Lão Sỏi nhìn kéo theo hai cái váy hồng lat lướt vẻ ngẫm nghĩ. Cái đầu hói tròn như quả bí của lão gật gù, gật gù tưởng sắp rơi xuống.

       Hôm sau, lão bảo anh kỹ sư chăn nuôi:

       - Từ hôm nay, cậu giao tất cả việc cá mú cho cô Mận rõ chưa...

       - Thế...thế... cháu làm gì ạ, sao bác nỡ...- Anh kỹ sư tái mặt.

       - Làm gì mà cậu hoảng thế! Ai đuổi việc cậu đâu mà sợ. Từ hôm nay, cậu chuyển sang phụ trách công trường rõ chưa?

       - Công trường gì ạ?

       - Xây dựng...

       Lão Sỏi lấp lửng. Anh kỹ sư chăn nuôi thấp thỏm theo lão ra ngoài bờ đầm Hạc. Rồi anh cũng hiểu ý định của lão. Đó là cái công trình lấp một phần đầm Hạc sát mé đường để xây dựng một loạt các ki-ốt, hàng quán cho ngưòi thuê kinh doanh.

       Khi những chiếc xe ben ào ào trút đất đá xuống hồ thì dân làng mới sửng sốt bảo nhau: "Lão Sỏi lấp đầm Hạc rồi, lão ấy làm hại cả làng ta rồi!". Các cụ già thì chép miệng: "Tiếc quá! Cái đầm nước trong mát thế mà lấp đi". Có kẻ độc miệng còn bảo: "Lão ấy trêu trời khéo mà sét đánh". Những lời ấy đều đến tai lão Sỏi. Lão nhổ toẹt một cái đứng trên bờ vạch quần xả một bãi xuống nước rồi lẩm bẩm: "Mẹ kiếp! ông cứ làm đấy sợ gì! Nếu có người thuê nhà, thuê đất, ông còn lấp luôn cả cái đầm này nữa chứ".

       Dải đất lão lấp xây được cả một dãy ki-ốt, nhà hàng cho thuê hết. Những quán ăn, quán Karaôkê nhô ra ngoài mặt hồ trông sơn thủy hữu tình ra phết. Quả là lão Sỏi tính toán như thần. ở khu ngoại vi thị xã cây cối xum xuê, mát mẻ lại nằm trên trục đường quốc lộ nên các nhà hàng lúc nào cũng đông khách. Các ông chủ từ trong thị xã ra thuê nhà kinh doanh đều thu hoạch khá. Thấy vậy, lão Sỏi dựng thêm một số quán nữa theo kiểu nhà sàn của người dân tộc, cắm cọc bê tông xuống đầm, làm nhà lên trên để cho thuê. Lão cũng rời luôn ra ở tại một căn nhà nổi như thế, vừa gần thị xã, tiện giao lưu. Đêm đêm khu đầm Hạc sôi động hẳn lên, trở thành một trung tâm thư giãn, giải trí, ánh đèn xanh, đỏ nhấp nháy, khuyến rũ. Những đoàn xe tải đậu dài hai bên đường, cánh lái xe Bắc-Nam có chỗ xả hơi sau những ngày gian khổ trên đường trường.

       Đầm Hạc bây giờ bị thu lại, con Hạc như bị thắt ở cổ...

       Lão Sỏi thu từ hồ cá đã bộn tiền, giờ lại thêm nguồn lợi kếch xù từ lều câu, quán xá, nhà hàng cho thuê nữa, thật chả để đâu hết tiền. Lão ăn tiêu, chơi bời thoải mãi. Cao hứng lên lão tài trợ cho các giải thể thao của tỉnh, cho các trường trẻ em nghèo, khuyết tật nên tên tuổi lão được ghi trong nhiều "sổ vàng" các loại. Đến hội nghị, hội thao nào lão cũng được mời lên hàng ghế danh dự.

       Nhưng rồi hình như vẫn còn có luật "nhân - quả" ở trên đời.

       Đột nhiên, tất cả cá của lão đem bán ở các chợ thị xã và trong vùng không ai mua nữa. Có một tin đồn lan nhanh rằng nhiều người mua cá đầm Hạc, khi mổ ra đã thấy những chiếc bao cao su sử dụng rồi ở trong bụng cá. Từ lâu, người ta đã biết trong những dãy quán bia ôm, cà phê đèn mờ bên bờ đầm Hạc có nhiều chuyện mờ ám. Đầm Hạc ngày xưa nước trong xanh leo lẻo là thế mà bây giờ đục lờ lờ, bao ni lông, vỏ côcacôla, rác rưởi trôi lềnh phềnh khắp mặt hồ. Rồi cái mùi hôi hôi bốc lên mỗi khi trời nắng to, khiến lượng người đến hóng mát bên bờ hồ giảm hẳn.

*

       Lão Sỏi ngồi trầm ngâm trong căn nhà sàn nhô ra giữa đầm ngẫm nghĩ. Lão vẫn tự hào là cuộc đời lão những lúc "bĩ" nhất thì lại tìm thấy sự "thái lai". Đận này làm ăn sa sút có khi lại là tiền đề cho đận sau.

       Màn đêm đã buông xuống. Những trận mưa rền rĩ suốt mấy ngày đã ngớt hẳn. Mới đầu mùa hạ sao năm nay mưa nhiều thế.

       Tiếng ếch nhái sau mưa râm ran khắp mặt đầm nước. Điện mất nên dãy quán hàng ven hồ mập mờ bởi ánh nến leo lét. Có tiếng lảm nhảm của mấy gã say rượu ngoài đường.

       Lão Sỏi ngả người, hai ngón tay nhón ly rượu.

       Đêm dần về khuya. Bỗng "ùm" một tiếng. Rồi tiếng thét gào thất thanh:

       - Cứu...cứu... nhà...  sập... rồi!

       Lão Sỏi mở cửa lao ra. Có tiếng người lao xao: "Sập nhà ở đâu vậy". Ánh đèn pin loang loáng. Lão Sỏi kinh hoàng khi nhìn thấy cái nhà sàn bên cạnh đang từ từ chìm xuống dưới mặt nước đầm Hạc. Giữa đám hỗn độn của vôi vữa, tôn, gỗ ấy chồi lên một đôi trai gái trần như nhộng. Thì ra họ đang vào đoạn "cao trào" thì nhà bị sập.

       Mọi người vội vã kéo hai người lên. Vớ được cái quần ai đưa cho, họ che người rồi vội lủi mất. Giữa lúc đó lại "ùm" một tiếng, căn nhà sàn mà lão Sỏi vừa ngồi uống rượu cũng lộn xuống đầm Hạc. Lão Sỏi gào lên:

       - Cứu...c...ứ...u... với...

      - Cứu cái gì! Đấy là nhà của ông, còn có ai trên đó không mà cứu?

      - Cứu...cứu...- Lão vẫn gào lên và định lao xuống nước. Một anh túm lấy tay lão kéo lại quát:

       - Ông muốn chết à! Nhà đang sập lại lao vào làm gì!

       - Trời ơi... - Lão Sỏi rên rỉ, chân tay lão run run. Lão khụy xuống, mặt trắng bệch, mồm há ra, tiếng kêu ú ớ, tắt dần.

       Hai cái nhà làm thò ra giữa đầm như hai chiếc thuyền bị đánh đắm, chìm dần xuống đáy nước sâu. Đầm Hạc nước rất trong. Đáy hồ là một lớp bùn lầy bùng nhùng "thụt chó". Khi mới nhận thầu đầm Hạc, lão Sỏi đã có ý định bơm hết nước để vét bùn, trước khi thả cá. Nhưng bốn máy bơm công suất lớn chạy suốt ngày đêm cạn được bao nhiêu thì nước lại đùn lên bấy nhiêu. Lão đành bỏ ý định vét đầm mà cứ cho thả cá giống xuống. Cá thả lớn nhanh, kéo lưới đánh bắt rất dễ. Đầm Hạc có rất nhiều các loại cá tự nhiên. Có người khẳng định nhiều đêm đi soi ếch còn nhìn thấy cả đàn cá to như người nổi lên vờn nhau giữa đầm, ánh vảy loang loáng. Thế nhưng lạ thay, cánh kéo lưới thuê cho lão dùng đến cả lưới vây, lưới vét cũng không bắt được con cá nào ngoài các loại cá thả và mấy con cua, con tép lẫn vào.

*

       Sau cái đêm bị chìm mất hai căn nhà nổi xuống đáy đầm Hạc, lão Sỏi đâm ra ngơ ngẩn. Lão thuê cánh thợ chuyên lặn ở cảng Phà Đen ngoài sông Hồng đến đeo cả bình ô-xy lặn xuống trục vớt đồ đạc. Nhưng bọn họ lặn xuống ngoi lên ngay, lắc đầu bảo dưới lòng đầm sạch trơn chẳng thấy có nhà cửa hay gạch ngói gì. Lạ nhỉ? Chả lẽ cả hai cái nhà nổi to như hai toa tàu hoả mà bị hút xuống lớp bùn sâu đáy đầm Hạc.

       Dân làng đồn lão Sỏi đóng hòm cả chục ki-lô-gam vàng và két tiền chứa đầy đô-la để ở căn nhà nổi bị chìm mất nên tiếc của quá đâm ra ngớ ngẩn, điên điên, khùng khùng. Lại có người bảo đầm Hạc là do ông trời đào. Nó chính là cái huyệt dùng để mai táng nàng tiên dám bỏ cả thiên đàng để lấy người trần tục. Thế mà lão Sỏi dám lấp cái huyệt ấy xây nhà hàng bia ôm, quán Karaokê, để vỏ chai, túi ni lông, bao cao su vứt đầy mặt đầm chả trách trời nổi giận là phải.

       Lão Sỏi hóa điên thật. Bây giờ thì lão chẳng còn biết ngày, đêm là gì. Lão cứ đi vòng quanh hồ, hết vòng này đến vòng khác, mắt đăm đăm nhìn xoáy xuống mặt nước. Mỏi chân, lão lại ngồi xuống gốc cây phượng vĩ già, rút từ trong cái túi áo cáu bẩn ra ổ bánh mỳ nhai ngấu nghiến. Những người làm thuê cho lão đều đã bỏ đi. Anh kỹ sư chăn nuôi tếch vào tận Lâm Đồng. Cô cháu gái họ xa vẫn cắt cỏ cho cá ăn thương lão, nấn ná ở lại chăm sóc lão và trông coi đầm cá cũng hoảng hồn bỏ đi nốt. Trước khi đi cô ấy còn kể lại cho dân làng nghe chuyện đang trưa lội xuống đầm vớt bèo thì bỗng có một bàn tay túm lấy chân mãi mới gỡ ra được để chạy lên bờ.

       Chuyện đầm Hạc cứ hư hư, thực thực, kẻ tin, người ngờ...

       Còn chuyện lão Sỏi suốt ngày cười, nói vô thức đi vòng quanh đầm Hạc thì ngày nào ai cũng thấy. Đêm đêm còn nghe cả tiếng lão hú lên ở bên kia đầm, nơi có cái miếu cô hồn bỏ hoang. Dân làng có người thương lão, ơn lão từng cưu mang, gặp lão tồng ngồng chỉ khoác mỗi cái chăn chiên rách thì khuyên lão về làng. Nghe xong, lão cười sằng sặc bảo: "Ta sắp được làm vua, sắp có ngai vàng, phải ở triều đình chứ, về làng làm gì!". Mấy hôm sau, lão lại bảo lão là nô lệ. Mà nô lệ thì cũng không thể về làng, còn mặt mũi nào mà gặp bà con nữa.

       Thế rồi lão Sỏi bỗng biến mất từ sau một buổi trưa có đám mây đen bay qua đầm và một tiếng sét nổ vang ngang trời. Có người nói lão vào tận Lâm Đồng để tìm anh kỹ sư chăn nuôi. Vì chính anh này đã cuỗm toàn bộ số vàng, đô-la lão tích cóp cả đời chứ chẳng phải nó bị chìm xuống nước. Lại có người thì khẳng định lão lặn xuống đầm tìm của bị hút luôn xuống đáy bùn...

       Thời gian sau, hợp tác xã ra quyết định thu hồi lại đầm Hạc. Các hàng quán bị dỡ bỏ. Chi đoàn thanh niên nhận thầu thả cá gây quỹ hoạt động và làm học bổng cho các cháu học sinh nghèo vượt khó, học giỏi. Cánh thanh niên đào vét chỗ đất lão Sỏi lấp đầm làm hàng quán, trả lại hình dáng xưa của cánh Hạc đang bay. Họ trồng nhiều loại cây ăn quả và hoa xung quanh đầm.

   Nước đầm Hạc dần trong trở lại.                                                                        

Chuyện ở làng

     Truyện ngắn của Trọng Bảo

      Về đến nhà, vợ con đi vắng cả, tôi chưa kịp tháo chiếc ba lô lộn buộc ở xe đạp ra thì có một cô gái xuất hiện ở cổng.

     - Cháu chào chú!

     Tôi chưa kịp nhận ra con cái nhà ai thì cô bé nói tiếp:

     - Bố mẹ cháu cho cháu sang mời cô chú và em đến dự đám cưới của cháu...

     - Cháu là... - Tôi ngập ngừng, cô bé nói ngay:

     - Cháu là con gái mẹ Phương ạ!

     - Thế à?

     Tôi nhìn cô bé. Cô bé này thừa kế được nhiều nét đẹp của Phương thế mà tôi không nhận ra. Với lại trẻ con làng tôi tuy vất vả lam lũ nhưng chúng lớn nhanh lắm. Vừa ngày nào tôi còn thấy chúng đen nhẻm, vắt vẻo trên lưng trâu mà thoáng đã thành vợ, thành chồng trong khi mình vẫn cứ nghĩ chúng còn là trẻ con. Tôi bảo cô bé:

     - Vừa mới hôm nào chú còn dựng rạp đám cưới mẹ cháu thế mà thấp thoáng nay lại đến lượt cháu, nhanh thật!

     Cô bé đỏ mặt, ngượng nghịu chào rồi xin phép đi.

     Giữa lúc đó thì thằng Quân - con tôi, từ đâu phóng về. Nó vừa chào tôi vừa hổn hển nói:

     - Đánh nhau ác liệt lắm bố nhé!

     - Đánh nhau ở đâu?

     - Ở… ở video bên đám cưới chị Lan nhà cô Phương ấy!

     - Ờ... có thế mà... thôi nấu cơm đi. Tối nay, hai bố con mình còn sang bên ấy chơi.

      Thằng bé vâng dạ rồi chạy đi. Tiếng nó múa võ huỳnh huỵch dưới bếp. 

                    *

         Buổi tối, tôi và thằng Quân sang nhà Phương.

     Rạp dựng che kín cả cái sân rộng. Đèn điện sáng choang. Tiếng nhạc xập xình. Bàn ghế được kê theo hình chữ U, để trống ở giữa lấy chỗ cho đám thanh niên nhảy nhót. Trong nhà, video đang chiếu một bộ phim trưởng đánh đấm loạn xị.

     Nhận ra tôi, Phương đon đả chạy ra đón. Chờ tôi chào mọi người xong, Phương kéo tôi ra góc rạp chỉ vào một người và hỏi:

     - Nhận ra ai không?

     - Ngọc!

     Tôi buột miệng kêu lên. Ngọc mỉm cười gật đầu chào lại tôi. Tôi ngồi xuống ghế bên cạnh. Ngọc thay đổi nhiều quá. Nhìn dáng người mỏng mảnh với nước da sốt rét xanh mướt của Ngọc thêm tái đi dưới ánh đèn nê-ông, tôi không thể hình dung nổi đó là một cô Ngọc căng đầy sức sống của hai mươi năm trước. Tôi khẽ hỏi:

     - Ngọc có khỏe không?

     - Khỏe! - Ngọc gật đầu cố khẳng định cái điều không có ấy ở mình. 

     Phương bưng nước, trầu thuốc và đĩa kẹo đến mời chúng tôi và bảo:

     - Ngày mai hai người phải đến uống rượu mừng cho cháu nhé, đừng như đám cưới của mình ngày xưa...

     Nói đến đây, nét mặt Phương xịu đi. Ngọc mắng át ngay:

     - Cái con này... Thôi không nhắc lại mãi chuyện ngày xưa nữa...

     Phương định nói thêm câu gì nữa thì lại có khách đến nên vội ra đón. Cái dáng người gầy yếu nghiêng nghiêng của một người mẹ năm con như chao đi giữa đám thanh niên đang nhảy nhót loạn xị trên sân.  

                 *

         Mới đấy mà đã hơn hai mươi năm.

     Ngày ấy, tôi, Ngọc, Phương và Hùng-bốn học sinh duy nhất cùng khóa ở xóm Hạ này đủ điểm vào học cấp 3. Tình bạn giữa chúng tôi thêm gắn bó với nhau những ngày đi sơ tán, lớp học giữa rừng sâu. Những ngày tới trường, khi một chiếc xe đạp thủng săm cả bốn đều lo cuống cả lên, có củ sắn nướng cũng để phần nhau... Tất cả những kỷ niệm ấy còn in trong tâm trí tôi.

     Cuối năm 1972, giặc Mỹ ném bom bắn phá ác liệt miền Bắc. Lớp học của chúng tôi có lúc phải nghỉ. Tôi nhớ một buổi chiều đông giá lạnh, trên bãi cỏ ven rừng, bọn học sinh cấp 3 chúng tôi ngồi im phăng phắc nghe một anh cán bộ huyện đội nói chuyện chiến sự. Anh đội một cái mũ cối, xà cột, quai súng ngắn đeo chéo qua vai, miếng vải dù ngụy trang bay phơ phất trong gió bắc. Tiếng anh dõng dạc, hùng hồn: “Các bạn trẻ! Chúng ta phải quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Lúc này đây tất cả tuổi trẻ chúng ta phải lao ra phía trước, xông ra chiến trường, vì miền Nam thân yêu... Nơi đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù...”.

     Sau lần nghe diễn thuyết ấy gần như cả lớp chúng tôi con trai thì đăng ký tình nguyện nhập ngũ, con gái ghi tên vào thanh niên xung phong. Sách vở xếp lại, ra trận trước đã. Bốn đứa chúng tôi lúc nào cũng chỉ bàn đến chuyện ra chiến trường, đi chiến đấu. Mọi công việc đều được chuẩn bị chờ lệnh lên đường. Nào là đóng sổ để ghi nhật ký, mua sẵn hàng xấp phong bì, tem thư, giấy pơ-luya rồi viết lưu bút cho nhau.    

      Nhưng một buổi sáng, Phương tìm gặp chúng tôi. Cô buồn bã thông báo:

     - Mình không đi cùng các bạn được nữa đâu!

     - Sao thế?

     Tôi hỏi. Phương ấp úng:

     - Bố mẹ mình không cho đi! Bố mình đã lên xã rút đơn xin đi thanh niên xung phong của mình rồi... bắt phải ở nhà... lấy chồng, vài hôm nữa là cưới rồi…

     Ba chúng tôi lặng đi với cái tin ấy. Lúc này tôi mới nhìn kỹ Phương. Đôi mắt cô sưng húp, má cũng sưng tím. Thì ra hôm qua, Phương bị một trận đòn chí tử vì tội tự ý viết đơn vào thanh niên xung phong.

     Việc Phương không được ra trận khiến khí thế của chúng tôi xẹp hẳn đi. Ngọc thì xị mặt không nói gì. Hùng ngập ngừng mãi mới bảo:

     - Sao cưới nhanh thế! Cưới chạy... giặc à?

     Câu nói của Hùng như một ngọn roi quất ngang mặt, Phương ngẩng lên đau đớn, nước mắt chảy dài xuống má. Rồi, cô ôm mặt chạy đi.

     Phương bị ép gả cho một anh chàng lùn tịt, chân lại thọt, hơn cô những gần chục tuổi nhưng là con nhà khá giả. Cô khóc như mưa như gió mong ông bố nghĩ lại. Ông bố sau khi ra đòn làm con gái gãy mất hai cái răng cửa thản nhiên ngồi hút thuốc lào rồi bảo:

     - Ngu! Mày ngu lắm con ạ! Nó lùn, nó thọt nhưng nhờ vậy mà nó không phải đi bộ đội. Lấy nó nhà cửa đàng hoàng, có vợ, có chồng lo mà làm ăn chả hơn à?

     Hôm cưới Phương, Hùng và Ngọc dứt khoát không đến. Tôi sang giúp dựng rạp, khênh bàn ghế suốt buổi chiều hôm trước. Hôm sau, đúng ngày cưới của Phương thì tôi phải lên thị trấn huyện tập trung nhập ngũ. Chúng tôi ra trận. Năm tháng chiến tranh qua đi, Hùng hy sinh ở Tây Nguyên cuối năm bảy tư. Ngọc vào thanh niên xung phong mở đường Trường Sơn. Chỉ sau vài năm gian khổ vất vả, ngã nước, sốt rét đã cướp mất vẻ đẹp và sức sống tràn căng của người con gái.

     Hết chiến tranh, Ngọc chuyển về một xí nghiệp cầu đường miền Trung. Rồi bệnh tật, giảm biên chế đã đưa cô trở về làng cô đơn, lẻ loi.

     Tôi lặng người không biết hỏi thêm Ngọc câu gì nữa. Gặp nhau ở chỗ vui chả lẽ chỉ nói chuyện buồn. Giữa lúc ấy, thằng Quân chui qua bàn trồi lên giữa tôi và Ngọc, tay nó cầm một nắm kẹo và hạt hướng dương. Tôi nhắc:

     - Quân! Không chào cô Ngọc à?

     - Cháu chào cô Ngọc!

      Nó láu táu thật nhanh rồi phồng mồm nhai kẹo. Ngọc xoa đầu nó bảo:

     - Sao lâu rồi không thấy cu Quân ra nhà cô chơi?

     - Ra nhà cô sợ lắm! 

      Thằng Quân trợn mắt lắc đầu rụt cổ lại nói tiếp:

     - Bọn nó bảo, nhà cô có rất nhiều ma. Lũ ma kêu khóc u... u... u... suốt ngày...

     - Bậy nào!

     Tôi mắng và cốc cho nó một cái. Thằng Quân vội buông nắm hạt hướng dương xoa đầu. Ngọc cũng xoa xoa mãi lên chỗ đầu thằng Quân vừa bị cốc. Tôi chợt nhận thấy trong ánh mắt cô chứa đầy một nỗi buồn xa vắng... 

                  *

         Mấy hôm sau, tôi và thằng Quân ra thăm Ngọc. Ngọc sống một mình trong ngôi nhà nhỏ của bố mẹ để lại ở ngoài rìa làng. Thằng Quân réo gọi: “Cô Ngọc ơi!” từ mãi ngoài cổng. Ngọc từ trong vườn chạy ra đón. Cô đang xới cỏ, tay áo sắn cao, mồ hôi lấm tấm trên má nên trông có vẻ khoẻ khoắn hơn.

       Ngọc đưa bố con tôi vào nhà. Chợt nhớ ra điều gì, Ngọc lại quay ra vườn. Một lát sau cô trở vào bưng một lưng nón táo vừa hái. Những quả táo to tròn vàng ươm. Mắt thằng Quân sáng lên. Ngọc mời chưa dứt lời thì trong tay nó đã có hai quả to nhất.

      Tôi nhìn ngôi nhà của Ngọc. Mái ngói vênh lên do đòn tay bằng tre cong nứt. Hai đầu đốc nhà trát bằng vôi cát bị bung ra, gió lùa vào nhà thổi qua những đòn tay tre nứt vỡ tạo nên nhưng âm thanh u u không dứt, thỉnh thoảng lại rú lên khi gió mạnh.

      Thằng Quân vừa ăn táo vừa nghển cổ lên nhìn mái nhà vẻ suy nghĩ. Ngọc vừa pha nước vừa bảo tôi:

     - Mình ốm mãi, sốt rét vừa dứt cơn thì cái gối bị khớp lại sưng lên. Thành thử, đã mua được mấy tấm cót ép và vài thanh gỗ định che chắn hai đầu đốc cho đỡ gió nhưng chưa làm được.

     - Để bố con mình làm cho, một loáng là xong chứ mấy!

      Tôi nói và giúp Ngọc lôi mấy tấm cót ra. Ngọc sang nhà hàng xóm mượn dụng cụ và nhờ thêm một cậu thanh niên đến giúp. Chúng tôi hì hục đo cắt, làm đến trưa thì xong hai tấm phên hình tam giác đưa lên buộc chặt vào hai đầu đốc nhà. Căn nhà được che kín, tối hẳn đi nhưng gió không lùa vào được nữa, những tiếng u u  mất hẳn.

      Khi bố con tôi ra về, thằng Quân đến bên cô Ngọc thì thào vẻ bí mật:

     - Cô Ngọc ơi! Cháu sẽ không nói chuyện này cho bọn chúng nó biết đâu!

     - Cháu không nói chuyện gì nào? - Ngọc bẹo má nó rồi hỏi lại.

     - Chuyện không phải là nhà cô có... ma! Vì... nếu biết là nhà cô không có ma, bọn chúng nó sẽ lẻn vào vườn vặt trụi hết táo của cô mất...

      Ngọc nắm tay thằng Quân lặng đi. Đoạn, cô nói với thằng Quân giọng run run:

     - Cháu cứ nói với các bạn điều ấy cũng được nhưng phải hứa là thỉnh thoảng đến chơi với cô nhé!

      Thằng Quân ngạc nhiên nhìn cô Ngọc rồi gật đầu.

      Ngọc tiễn bố con tôi ra tận cổng. Nhìn Ngọc nhỏ nhoi, mỏng mảnh giữa chiều gió bắc, lại nhớ đến cái dáng xơ xác của Phương hôm làm đám cưới cho con gái, tôi chợt nhận ra một điều: Thì ra chiến tranh đã đi qua trên đất này lâu rồi nhưng nó vẫn ở lại trong cuộc đời bao người phụ nữ, cho dù họ đã ở bất cứ đâu khi cuộc chiến ấy diễn ra...                     

Ngọn gió sân chùa

 Từ khi chuyển đổi cơ chế, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân khá hơn. Cứ nghĩ lại cái thời bao cấp sau chiến tranh ai cũng vẫn còn thấy sởn gai ốc. Ngày ấy, có được miếng thịt là may. Cầm tem phiếu đi mua thịt, chỉ mong cô bán hàng thực phẩm cắt cho miếng có tý mỡ để còn rán sào được cả tuần, cả tháng.    

       Bây giờ thì khác. Ai cũng ngán ăn nhiều thịt sợ coletron, máu nhiễm mỡ, khó tiêu hoá. Ngày xưa còn có cả loại “phở không người lái” (không thịt). Còn bây giờ thì nhan nhản những nhà hàng đặc sản. Quỹ  phúc lợi cũng tăng lên. Vì vậy, năm nào cơ quan tôi cũng tổ chức cho công nhân viên chức đi du lịch tham quan danh lam thắng cảnh. Thôi thì Chùa Hương, Tam Cốc, Bích Động, Hạ Long, Yên Tử đủ cả.   

      - Năm nay cơ quan ta sẽ đi thăm Huế! - Ông cán bộ công đoàn tuyên bố: - Thế nhưng phải tổ chức bình xét cẩn thật. Ưu tiên các cá nhân là chiến sĩ thi đua, bằng khen, giấy khen trước đã...    

      - Tôi đề nghị thế này! - Thằng Hùng nêu ý kiến: - Chúng tôi chẳng là cá nhân tiên tiến, xuất sắc, chiến sĩ thi đua gì cả nhưng xin cơ quan cứ cho đi. Chúng tôi xin nộp một trăm phần trăm chi  phí, cho cả vợ con đi luôn.    

      - Đồ hợm của, cậy tiền... - Thằng Quang ghé tai tôi nói nhỏ: - Nó cậy có tay nghề cao, chân ngoài dài hơn chân trong, kiếm tiền như nước đấy anh ạ!

      - Thây kệ nó kẻo mất đoàn kết. - Tôi bảo. Thằng Quang im lặng nhưng vẫn hậm hực.     

     Thế là chuyến đi Huế được tổ chức. Chúng tôi sẽ vừa đi, vừa tham quan dọc đường vào, cũng như lúc quay ra. Khi đến Ninh Bình, thằng Hùng chợt bảo:    

      - Ở đây có một ngôi chùa đẹp và linh thiêng lắm nhé, ta vào thắp hương cầu cho thượng lộ bình an...    

      Cũng đã tới lúc nghỉ ăn trưa nên ông trưởng đoàn đồng ý dừng lại. Chúng tôi theo Hùng vào một khu cây cối um tùm, thấp thoáng những mái cong của am tự.    

      - Mô Phật! Thí chủ vào nơi cửa thiền xin chớ nói to.    

       Một vị sư nữ ra đón và nhắc vì thằng Hùng cứ oang oang khi đã vào tới sân chùa. Tôi nhìn nhà sư và giật mình những nét quen quen trên khuôn mặt. Nhà sư quay đi và dẫn đoàn vào chùa chính. Tôi len lên phía trước cố đến gần để nhìn kỹ nhà sư. Nhưng trong chùa ánh nến mờ ảo, khói nhang nghi ngút, nhà sư lại trùm khăn, chỉ hở khuôn mặt thật khó nhận ra là có phải người quen không.    

      Cắm nén nhang trước Phật đài, tôi cũng chắp tay thầm khấn cho vạn sự như ý. Khi cả đoàn kéo đi tham quan hang động, tôi nấn ná chờ. Lúc nhà sư bước ra tiễn khách, dưới ánh sáng tự nhiên, tôi bật lên thảng thốt: “Đúng là Thảo rồi!”.    

      - Thảo! Có  phải là Thảo không?    

      - Mô Phật...     

      Tiếng niệm Phật như một tiếng thở dài của gió tan biến vào không gian tĩnh mịch của cõi thiền.   

       Lưỡng lự vài giây, nhà sư quay lại mặt hơi cúi xuống khẽ nói:    

      - Anh Trung!    

      - Sao Thảo lại ở đây? - Tôi hấp tấp, muốn biết ngay mọi việc, tôi nói thêm: - Lâm vẫn đi tìm thảo đấy!    

      - Bây giờ Thảo đã là người của nhà chùa rồi!     

      - Vì sao lại như vậy! Lâm đã mấy lần về Thái Bình tìm Thảo, lặn lội cả lên đơn vị cũ ở tận Tây Nguyên nữa.    

       Nén một tiếng thở dài nhè nhẹ, Thảo bảo:    

      - Tìm làm chi, chuyện cũ bây giờ còn gì đâu.    

      - Nhưng... nhưng... - Tôi cố giãi bày khi nét mặt và đôi mắt của Thảo như đã trở về với cõi hư không của một thế giới tâm linh: - Nhưng Lâm vẫn đi tìm và đợi Thảo đấy!    

      - Mô Phật! Nhờ anh Trung nhắn với anh Lâm là Thảo bây giờ không còn là... Thảo của ngày trước nữa. Lâm đừng tìm, đừng chờ đợi vô ích, hãy quên Thảo đi mà lo chuyện của riêng mình.    

       Nói xong, Thảo lui vào phía sau những pho tượng phật đang trầm tư trên bệ. Tôi định đi theo để hỏi cho rõ mọi chuyện thì mọi người gọi ra xe vì cả đoàn đang chờ.    

       Bất ngờ gặp Thảo nên tôi đột ngột quyết định bỏ dở chuyến đi quay về Hà Nội tìm Lâm. Lúc leo lên chiếc xe khách để quay lại, tôi còn nghe tiếng thằng Hùng léo nhéo: 

      - Hâm... hâm... mấy ông cựu binh là hâm bỏ mẹ. 

*

       Về đến cơ quan, tôi vứt vội đồ đạc vào phòng rồi vớ xe phóng đi tìm Lâm. Leo lên tận tầng năm mệt bở hơi tai mà phòng cậu ta lại khoá ngoài im ỉm. Tôi đến chỗ Lâm làm việc, gặp bác thường trực thì biết cậu ta đang cùng đoàn khảo sát thực tế để thiết kế cây cầu ở Phú Thọ, ngày mai mới về Hà Nội.   

       Đành quay về. Đêm ấy, tôi trằn trọc mãi không sao ngủ được, mong cho trời mau sáng và Lâm trở về nhanh để đi tìm Thảo. Tôi nghĩ đến cảnh họ gặp lại nhau mà thấy lo lo. Không hiểu họ sẽ ra sao khi bây giờ Thảo và Lâm đã ở hai thế giới khác nhau. Bất giác tôi nhớ lại cái đêm trăng non mờ ảo ấy khi chiếc xe của chúng tôi vượt qua ngầm Ma Trơi gập ghềnh, nước xiết.    

       Không hiểu từ bao giờ cánh lái xe vận tải quân sự vượt Trường Sơn ngày ấy lại gọi đó là cái ngầm “Ma Trơi”. Lần đầu tiên chạy tuyến đường này, tôi ghì chặt vô lăng và bảo Lâm:    

      - Này! Cẩn thận, sắp đến ngầm Ma Trơi rồi đấy.    

      - Sao lại gọi là ngầm Ma Trơi hả anh?   

      - Chả biết! Chắc là có ma...     

      - Úi trời! - Lâm khẽ kêu và ngồi thu lại. Cậu ta còn rất trẻ, vừa học mấy tháng lái xe là vào Trường Sơn ngay. Làm phụ lái cho tôi, Lâm rất chịu khó, chỉ phải cái hơi dát. Có hôm xe bị sa lầy cạnh bãi tha ma giữa cánh đồng, tôi bảo cậu ta chạy vào xóm nhờ dân quân ra giúp. Lâm sợ không dám đi. Bảo cậu ta coi xe để tôi đi thì cậu ta càng hoảng vì một mình ở cạnh bãi tha ma. Bực quá, tôi phải quát lên cậu ta mới dám ù chạy vào xóm tìm người.    

       Đến ngầm Ma Trơi, tôi cho xe chạy chậm lại. Dưới ánh tăng non mờ ảo, tôi nhận ra những cô gái thanh niên xung phong mặc áo lót trắng đứng thành hàng làm cọc tiêu sống cho xe qua ngầm.     

      Gần vượt qua ngầm thì bị bom. Lâm nhoài người ra cửa xe rồi kêu lên:

      - Anh Trung ơi dừng lại đi! Có một cô thanh niên xung phong bị nước cuốn trôi rồi!

      Tôi quát:     

      - Không dừng lại được! Xe đạn trúng bom nổ chết hết bây giờ, cậu nhảy xuống cứu cô ấy, nhanh lên.    

      - Vâng! - Lâm đáp rồi mở cửa xe lao xuống dòng nước.    

      Tôi cho xe vượt lên tạt vào vị trí an toàn. Kiểm tra xe, ngụy trang cẩn thận rồi tôi chạy quay lại. Đến lưng dốc thì gặp Lâm đang chạy lên. Tôi hỏi:    

      - Cô ấy thế nào rồi?   

      - Cô...cô...cô...cô...    

      - Cô cô cái gì ? - Tôi quát: - Làm gì mà lập bà lập bập run như cầy sấy thế hả?

      - Cô... cô... - Lâm vẫn chưa trấn tĩnh lại được. Tôi cáu:    

      - Cô ấy chết rồi à?    

      - Không ạ! Chỉ bị thương thôi anh ạ!    

      - Đồ hèn! Mới thế mà đã khiếp sợ rồi hả?

      - Không  phải thế mà... mà là vì... cô bị... trôi hết cả quần áo...

      Tôi phá lên cười:    

      - Có thế mà đã sợ! Tưởng là ma hay đười ươi chứ gì?   

       Lâm vẫn chưa hết run. Cậu ta lập bập kể:   

      - Em nhìn thấy cô ấy bị bắn tung lên rồi bị nước cuốn đi. Biết cô ấy bị bom. Em nhảy xuống lao theo. Lúc ôm được cô ấy, em mới biết là cô ấy chẳng mặc gì trên người cả. Em sợ quá nhưng thấy cô ấy còn thở nên...   

      - Thế bị thương có nặng không?   

      - Chỉ bị sức ép nhẹ, choáng chút thôi. Khi em đưa được cô ấy lên bờ, chị em thanh niên xung phong ào đến đưa đi cấp cứu rồi.    

      - Thế là ổn rồi! Thôi ta đi tiếp. Tưởng cậu sợ vì bom thì tớ tống cổ về phía sau ngay, còn sợ ma thì được.    

       Lâm làu bàu:    

      - Chỉ tại bà em đấy, hồi em bé cứ hay kể chuyện ma biến thành con gái đẹp lừa người nên mới sợ.    

       Lúc đã ngồi yên trong ca bin rồi Lâm lại hỏi:    

      - Sao cô ấy lại không mặc gì nhỉ?    

      - Thì...có khi cô ấy đang tắm thì thấy xe qua nên lao ra làm “cọc tiêu sống” hoặc quần áo bị nước cuốn trôi... Mà lần đầu tiên nhìn thấy con gái khoả thân hả?   

       Lâm gật đầu. 

*

       Sau cái lần bế nàng E-va từ suối lên ấy, Lâm đỡ nhát hơn, lại hay tủm tỉm cưới một mình. Một lần dừng lại nghỉ ở gần ngầm Ma Trơi, chúng tôi đang nấu cơm thì có một cô gái xách mấy ngọn măng rừng đến. Lâm ấp úng giới thiệu:

      - Đây là Thảo... cô gái bị bom ở ngầm Ma Trơi...

      - A! Ghê thật... đã quen nhau rồi cơ à?

      Cô gái bẽn lẽn. Tôi trêu:

      - Hay là hôm ấy giả vờ thế để được người ta cứu đấy!

      Thảo đỏ bừng mặt, liếc nhanh về phía Lâm. Cô gái dáng mảnh mai, khuôn mặt trái xoan xinh đẹp. Lâm và Thảo thật đẹp đôi. Từ ấy mỗi lần qua khu vực đơn vị thanh niên xung phong của Thảo, tôi đều viện lý do dừng lại để hai người có dịp gặp nhau. Tình yêu đến với họ trong sáng và vô tư quá. Chắc là hai người đã hò hẹn với nhau nhiều chuyện của ngày mai.

       Chiến tranh vẫn diễn ra tàn khốc. Máy bay B52 của Mỹ rải thảm triệt hạ những cánh rừng già dọc tuyến được ra trận. Một đêm sau khi trả hàng xong, chúng tôi quay ra thì cả khu vực ngầm Ma Trơi chỉ còn là một bãi đất đá lẫn cây cối hoang tàn. ánh lửa còn cháy trên những thân cây lập loè như những bóng ma. Lâm hốt hoảng sục sạo khắp mọi chỗ nơi đơn vị thanh niên xung phong trú quân để tìm kiếm. Tịnh không có một bóng người. Chỉ có những hố bom sâu hút vào lòng đất. Một cái áo lót con gái vương trên cành cây máu vẫn chưa khô. Tôi bảo Lâm:

      - Tìm nữa cững vô ích. Ta cứ đi tiếp, biết đâu họ đã lùi về phía sau rồi.

      Lâm thẫn thờ bước lên xe. Vừa chạy được một đoạn thì có tiếng người quát:

      - Dừng lại! Có bom nổ chậm đấy!

      Tôi nhảy xuống hỏi:

      - Ai đấy ?

      Vẫn tiếng người lúc nãy:

      - Chúng tôi là lính đơn vị công binh...

      - Thế đơn vị nữ thanh niên xung phong ở đây đâu rồi?

      - Hình như họ hy sinh hết trong trận bom lúc chiều rồi. Đơn vị chúng tôi được điều đến để thông đường.

      - Hy sinh hết rồi à? - Tiếng Lâm thảng thốt:

      - Có mấy người bị thương nặng đã được chuyển về phía sau cứu chữa rồi.

      - Nhưng đường còn đi được không? - Tôi hỏi.

      - Vẫn đi được nhưng chưa tìm hết bom nổ chậm!

      - Thế thì cứ cho chúng tôi qua.

      - Cẩn thận đấy! Đến đoạn cua trước mặt phải bám vào phía núi kẻo lăn xuống vực!

      Tôi và Lâm thay nhau lái xe quay về phía hậu cứ. Gặp xe nào đi vào cũng hỏi thăm. Nhưng chẳng ai biết về số phận những cô gái thanh niên xung phong ở ngầm Ma Trơi cả.

       Những chuyến tiếp theo, mỗi lần qua khu vực ngầm Ma Trơi, chúng tôi đều dừng lại tìm kiếm, dò hỏi nhưng cũng chẳng ai biết gì hơn. Khi bọn Mỹ rút đi, ngầm Ma Trơi được gia cố, bắc cầu phao cho xe pháo ra trận chuẩn bị tổng tiến công, không còn những hàng “cọc tiêu sống” nữa.

       Chiến tranh kết thúc, tôi và Lâm đều chuyển ngành. Lâm vào học tiếp đại học giao thông vận tải tốt nghiệp thành kỹ sư thiết kế cầu đường. Cậu ta vẫn không ngừng tìm kiếm, nhiều lần tìm về quê Thảo nghe ngóng tin tức. Gặp nhau lần nào, Lâm cũng bảo:

       - Em vẫn tin là Thảo không thể chết. Cô ấy có địa chỉ của em nhất định cô ấy sẽ tìm em.

       Tôi an ủi Lâm vài câu chứ cũng không tin lắm.

       Lâm là một kỹ sư giỏi, được đề bạt làm trưởng phòng. Nhiều cô gái sắc nước, hương trời tìm đến nhưng cậu ta cứ dửng dưng. Có một cô sinh viên thực tập do cậu ta giúp làm luận án tốt nghiệp rất thuỳ mị, luôn quan tâm chăm sóc, thầm yêu nhưng Lâm chỉ coi như bạn, thậm chí chỉ coi như là em gái khiến cô ta giận lắm. Vợ tôi cũng giở trò mai mối, hết đám này đến đám khác nhưng Lâm chỉ ậm ừ cho qua chuyện... 

*

       Mãi xế chiều hôm sau, Lâm mới về đến Hà Nội. Nghe bác thường trực cơ quan nhắn, Lâm bổ đến tìm tôi. Nghe tôi thuật lại việc bất ngờ gặp Thảo, Lâm há hốc mồm vừa mừng, vừa lo. Tôi bảo:

      - Sáng mai mình sẽ đưa cậu vào gặp cô ấy!

      - Sao lại sáng mai! Đi ngay bây giờ anh ạ.

      - Trời tối đến nơi rồi, mà mãi tận Ninh Bình cơ mà!

      - Tối cũng đi! Ngày xưa anh em mình lái xe vượt Trường Sơn toàn đi ban đêm đấy thôi, hay anh sợ?

       Nói đoạn, Lâm dắt chiếc xe máy cọc cạch ra cổng. Thì đi. Tôi cũng nổ máy. Ra khỏi Hà Nội thì trời mưa tầm tã. Lâm tạt vào một quán ven đường mua hai cái áo ni lông mỏng tang đưa cho tôi một chiếc. 

       Trời sụp tối. Lạc đường loanh quanh mãi, gần chín giờ đêm chúng tôi mới tìm được ngôi chùa định đến.

       Đêm vùng quê cô tịch, chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả. Tạnh mưa, đom đóm bay ra lập loè. Tiếng mõ niệm kinh đều đều như tiền định khắc vào không gian.

       Nghe tiếng đập cổng, chú tiểu ra mở cửa rồi dẫn chúng tôi vào gặp sư cụ. Sau khi nghe chúng tôi trình bày mọi chuyện, sư cụ chắp tay:

      - Mô Phật! Các thí chủ đến chậm mất rồi!

      - Sao thế ạ?

       Sư cụ không trả lời. Người với tay mở cái hộp lấy ra một phong thư đưa cho chúng tôi. 

       Lâm lập cập mãi mới mở được và ghé vào ngọn nến đọc. Càng đọc, nét mặt cậu ta càng tái đi vẻ thất vọng... Lâm đưa bức thư cho tôi.

      Thảo viết: “Anh Lâm! Thảo biết thế nào rồi anh và anh Trung sẽ đến tìm nên để lại bức thư này trước lúc ra đi. Xin anh Lâm tha thứ cho Thảo bởi những lời ước hẹn khi xưa. Thảo cũng đã đi tìm và biết anh Lâm đã học hành thành đạt, lại có nhiều người con gái khác mong muốn thành thân. Vậy là Thảo mừng. Thảo bây giờ không thể gặp anh Lâm được nữa, bởi vì Thảo đã là người của nhà chùa, thoát khỏi cõi trần tục rồi. Thảo chỉ xin các anh đừng đi tìm nữa, hãy làm việc và sống hạnh phúc. Đó cũng là điều mà Thảo mong muốn và mãn nguyện lắm rồi”.

       Nhìn những dòng chữ xiêu xiêu và nhòe ướt, tôi hiểu Thảo đã khóc khi viết bức thư này. Lâm thẫn thờ nhìn ngọn nến leo lét cháy, trực tắt mỗi khi có gió. Sư cụ vừa lần tràng hạt vừa chậm rãi kể:

      - Sư Thảo bị bom Mỹ ở Trường Sơn phải cắt bỏ dạ con, mất cả chức năng của con người do tạo hoá ban cho nên không muốn gặp lại con vì không thể làm vợ, làm mẹ được nữa. Khi về quê lại chẳng còn họ hàng thân thích nên đã xuống tóc vào chùa đi tu. Sư Thảo cũng đã nhiều lần tìm và dõi con từ xa, biết con công thành, danh toại nên yên lòng lắm.

      - Thế sư cụ có biết bây giờ cô ấy đi đâu không?

      - Khi rời chùa này ra đi, sư Thảo có đến lạy ta và nói: “Lần này con xin đức trụ trì xá tội, con không thể nói sẽ đi đâu vì con biết người có tấm lòng đại đức, đại bi sẽ động tâm khi họ hỏi”. Vì thế, ta cũng không rõ sư Thảo đã đi về phương nào.

      Lâm vẻ bức bối, thất vọng:

      - Giá như em không la cà ăn uống với mấy thằng bạn ở Việt Trì mà về ngay Hà Nội từ hôm qua có phải kịp đến gặp Thảo không?

      Tôi bảo:

      - Thảo đã quyết như vậy rồi dù có gặp được cũng thế thôi.

      - Nhất định em sẽ tiếp tục đi tìm bằng được cô ấy!

      Tôi lắc đầu nhìn Lâm. Ngoài sân có tiếng lá khô lăn nhè nhẹ như tiếng bước chân người. Một ngọn gió cô đơn nào đã thổi qua sân chùa... 

Thanh minh

Truyện ngắn của Trọng Bảo

        Thanh minh trong tiết tháng ba

        Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.  

                              (Truyện Kiều)    

       quê tôi người ta thường đi tảo mộ vào những ngày trước Tết nguyên đán. Sau lễ cúng cung tiễn ông Táo về trời ngày hai ba tháng Chạp, nhà nhà bắt đầu quét tước bàn thờ, lau chùi bàn ghế, nhà cửa, chuẩn bị đón năm mới. Cũng là lúc người ta vác cuốc, cầm hương nhang ra đồng tảo mộ, mời các cụ kỵ, ông bà, ông vải về ăn Tết. Ngày trước, quê tôi chưa có quy hoạch khu nghĩa địa, mồ mả thường tuỳ tiện chôn giữa cánh đồng. Thửa ruộng nào cũng có dăm, ba cái mộ. Khi cải táng, lỗ huyệt cũ lấp đi, đất hẩu, lúa cấy tốt vọt hẳn lên toàn lá là lá, bông lốp, chẳng thu được hạt thóc nào. Mồ mả cải táng cũng cứ giữa đồng mà chôn. Lúc lúa chín, cánh đồng vàng rực. Sau vụ gặt, cả cánh đồng lô nhô những mộ là mộ. Ngày trước quê tôi nghèo lắm, mồ mả chỉ đắp bằng đất lại chẳng có bia ghi tên tuổi của người quá cố như bây giờ. 

       Bố tôi thường hay sai tôi đi tảo mộ, mời ông bà, ông vải về nhà ăn Tết. Ông dặn tôi đồng trên, cánh dưới có mấy cái mộ phải đắp, nằm ở những thửa nào, góc nào của từng thửa ấy. Tôi “vâng, vâng, dạ, dạ” làm ra bộ đã nhớ rõ rồi nhưng thực ra thì chỉ láng máng.   

       Tôi ra cây rơm cạnh chuồng trâu, thục tay vào sâu bên trong rút những sợi khô nỏ bện một cái nọn rơm dài để giữ lửa. Rút một thẻ hương trên bàn thờ, tôi vác cái cuốc đi ra cổng. Thằng em út lấp ló ở cửa bếp nài nỉ:   

      - Anh cho em đi với nhé!  

      - Hừ... hừ... đi theo mỏi chân, vấp ngã cấm khóc! Hiểu không?    

      - Vâng ạ! - Nó gật đầu lia lịa. Tôi giao cho nó cầm cái nọn rơm đang cháy ngun ngún, khói mù mịt. Thằng em tôi mặt mũi hớn hở. Nó sướng rơn cầm cái nọn rơm quay vù vù rồi chạy trước. Chiều đông, trời u ám. Ngoài đồng lập loè ánh lửa, phảng phất mùi hương nhang.   

        Đến đồng Chằm, tôi dừng chân ở thửa ruộng chéo góc của bà Cần. Đấy có ngôi mộ của ông nội. Trước ở thửa này chỉ có ba ngôi mộ, ai mới để thêm một cái nữa. Tôi không nhớ ngôi nào là mộ của ông nội, ngôi nào là của người khác. Tôi hỏi thằng em:     

      - Lúc nãy bố bảo ngôi thứ mấy nhỉ?   

      - Em... em không biết ạ!   

      - Sao lại không biết? - Tôi quát: - Lúc bố dặn, mày cũng ở đấy cơ mà!  

      - Nhưng em... em quên mất rồi... - Nó mếu máo chực bật khóc. Tôi bảo:  

      - Thôi được rồi! Mày châm luôn bốn nén hương đi.   

      Trong khi thằng em phùng mồm thổi cái nọn rơm lấy lửa thì tôi cuốc bốn tảng đất to đặt lên bốn ngôi mộ. Tôi bảo nó mỗi ngôi mộ cắm một nén hương. Nó thắc mắc:  

      - Nhưng... đâu phải tất cả là mộ của nhà mình?    

      - Ngốc! Cứ cắm hương lên cả bốn ngôi mộ, nhầm còn hơn không. Tao khấn các cụ rồi!  

      - Anh khấn như thế... nào ạ?

      - Thì khấn: “Năm hết, Tết đến! Các cụ ở nhà nào thì cứ về đúng nhà nấy mà ăn cỗ”.

      - Thế thì không còn phải lo các cụ về nhầm nhà anh nhỉ?

       Thằng em nói vẻ rất yên tâm. Tôi suýt bật cười vì sự ngây thơ, cả tin của nó.   

       Đến cánh đồng Riềng có mộ bà nội và cô ruột tôi cũng làm như thế. Thằng em vừa cắm hương lên mộ vừa mải chộp những con cào cào, châu chấu vặt cẳng nhét vào túi áo đem về làm thức ăn cho con sáo đá của nó. Làm xong công việc tảo mộ thì đã xế chiều, tôi bảo thằng em chạy về nhà trước. Đoạn, tôi tạt vào một ngôi nhà nhỏ bên đầm nước cuối làng.   

       Lão Thống, chủ nhà đang ngồi phệt ngoài thềm. Thấy tôi đến, lão tợp nốt ngụm rượu rồi đặt “cạch” cái chén xuống nền gạch phủi quần đứng dậy. Gần như đã thành lệ năm nào gần Tết, lão cũng dặn tôi đến cùng đi tảo mộ. Tôi thích đi tảo mộ với lão, phần vì tò mò muốn nghe những chuyện lão kể, phần vì mỗi lần đi tảo mộ, bao giờ lão cũng đem theo đồ cúng. Đó là một xâu bánh gai, một mo cơm nếp trong có một cái đùi gà. Sau khi cúng xong, lão thường cho tôi cái đùi gà và mấy cái bánh gai.   

       Tôi theo lão Thống trèo qua đê ra phía sông Phó Đáy. Lão Thống chúi đầu đi lùi lũi qua bãi bồi. Tôi phải chạy gằn mới kịp. Đến cây gạo già giữa bãi, lão bỗng khựng lại. Tôi suýt đâm sầm vào cái cuốc lão đang vác trên vai. Lão lầm rầm trong miệng câu gì, tôi không nghe rõ. Cây gạo già mùa đông rụng tiệt lá khẳng khiu như một bộ xương khô. Bọn trẻ con trong xóm thường kháo nhau vào những đêm trăng sáng mờ mờ vẫn nhìn thấy có bóng hai con ma mặc áo trắng toát ngồi trên ngọn cây kêu khóc nỉ non. Một cơn gió bấc ào đến, khiến tôi thấy lành lạnh sau lưng. Tôi rùng mình đi sát vào lão Thống, trong lòng cảm thấy hơi sờ sợ. Bãi sông cuối chiều vắng người.Tôi và lão Thống lội qua dòng nước sang bên kia sông.   

       Sông Phó Đáy mùa đông rất cạn. Người ta lại thường đóng các cửa cống  công trình đầu mối thủy lợi lấy nước vào kênh nên sông càng cạn, lội qua chỉ săm sắp bắp chân.   

       Sang sông, vượt qua một đám đất rộng toàn lau sậy, chúng tôi trèo lên cái gò đất nhỏ. ở đó có hai ngôi mộ nằm ở hướng đông, chênh chếch nhìn về phía làng tôi. Tôi đoán đó là mộ của hai vợ chồng, hoặc đôi tình nhân nào đó. Lão Thống bảo tôi dùng dao rựa phạt bỏ những cây cứt lợn mọc lung tung xung quanh, rẫy sạch cỏ, đắp lại những chỗ mộ bị sạt lở. Lão run run mở cái túi lấy ra một miếng ni-lông nhỏ, trải giữa hai ngôi mộ. Lão bày bánh gai, cơm nếp, lấy trong túi ra một chai rượu nhỏ cùng ba cái chén bé xíu. Lão rót rượu ra chén, thắp hương cắm lên hai ngôi mộ. Đoạn lão quỳ xuống lầm rầm khấn vái. Tôi ngồi sát sau lưng lão, dỏng tai lên nghe xem lão khấn khứa những gì. Gió bắc thổi ù ù. Tôi chỉ nghe lõm bõm, tiếng được, tiếng mất. Hình như lão đang khấn gọi hai em, mời dặn họ về nhà lão ăn Tết. Khấn vái xong, lão cầm một chén rượu uống cạn. Hai chén rượu còn lại lão tưới lên hai mộ phần. Trong khi chờ tàn hương nhang, lão Thống lấy tay vốc từng nắm đất vụn đắp thêm lên hai nấm mộ.  

       Trời sụp tối, gió càng lạnh hơn. Lão Thống bảo tôi thu lễ vật ra về.    

       Trên đường về tôi gặng hỏi, lão chỉ ậm ừ, chẳng nói thêm một tí gì về gốc tích của hai ngôi mộ ấy cả. Đến đầu làng, lão đưa cho tôi cái đùi gà, gói cơm nếp và mấy cái bánh gai. Tôi chào lão, phóng về nhà, chuẩn bị sẵn sàng đón nhận một trận đòn của ông bố vì tội la cà. Nhưng thấy tôi về, ông chỉ hỏi:   

      - Lại đi tảo mộ với lão Thống hử?

      - Vâng ạ... - Tôi đáp lại giọng hơi run run. Bố tôi bảo: - Thôi, rửa chân tay vào mà ăn cơm! 

       Bố tôi quay đi. Ông lẩm bẩm như chỉ nói riêng với mình: “Lão ấy thế mà số khổ!”. Tôi dúi phần quà của lão Thống cho thằng em rồi ra giếng. Lúc ngồi vào mâm cơm, tôi rất muốn hỏi bố về lão Thống và những bí mật của hai ngôi mộ bên kia sông nhưng không dám. Bố tôi và lão Thống tuổi tác xấp xỉ nhau nhưng không chơi thân cũng chẳng thấy khi nào ngồi nói chuyện hay uống rượu cùng nhau. Nhà tôi có cái ao to, thả nhiều cá. Mỗi lần kéo vó, được mớ cá, bố tôi thường chọn một con mè to bảo tôi cầm sang cho lão Thống nấu dấm. Lão Thống cất được nồi rượu nào ngon cũng nhớ gửi cho bố tôi một chai uống thử...    

       Rồi bí mật về hai ngôi mộ bên sông dần dần hé mở.    

       Ấy là đầu những năm chín mươi. Khi kinh tế khá dần lên, công tác xã hội được quan tâm hơn. Người ta bắt đầu nghĩ đến cần phải làm nhiều hơn việc “đền ơn, đáp nghĩa”, trợ giúp những người có công với cách mạng, người từng tham gia kháng chiến.   

       Một hôm, tôi đang ngồi chơi ở nhà lão Thống, xem lão vót nan đan lờ bắt cá rô thì anh phó chủ tịch uỷ ban phụ trách văn xã dẫn một người đàn bà lạ đến. Lão Thống bỏ dở công việc, pha nước tiếp khách. Ba người ngồi ngay ở thềm  nói chuyện. Chắp nối những trình bày, đối thoại, tranh luận của họ lại, tôi dần dần hiểu rằng họ đang nói về hai ngôi mộ bên sông. Và, điều bất ngờ hơn là lần đầu tiên tôi biết thêm về cuộc đời xưa kia của lão Thống, một con người lầm lũi, lành hiền, không bà con, họ hàng thân thích, quanh năm lặn lội kiếm ăn ở trong đầm, ngoài bãi.   

        Mấy chục năm trước, làng tôi nằm trong vùng Tề. Bên kia sông Phó Đáy là vùng tự do. Lão Thống ngày ấy là người chỉ huy đội du kích bí mật làng tôi. Đội du kích phần đông là nữ. Cánh trai làng đua nhau vượt sông sang vùng tự do ra nhập bộ đội chủ lực. Trong đội du kích có một cô gái rất đẹp. Khuôn mặt trái xoan, mái tóc dài, đôi môi mọng đỏ của cô khiến bao chàng trai xao xuyến, tương tư. Mấy thằng lính dại gái ở đồn Và kháo nhau về một mỹ nữ thôn Hoàng Đan kéo nhau đi lùng sục. Bọn chúng sa vào ổ phục kích của du kích. Có thằng thoát chết, vứt cả súng chạy về đến bốt còn hoảng hồn, mặt mày tái dại.   

       Cô du kích xinh đẹp ấy tên là Thắm. Thắm yêu một anh bộ đội chủ lực quê ở làng bên. Họ biết nhau trong một lần đi hội cướp phết đầu Xuân. Chàng trai mình lấm lem bùn đất, quần áo tả tơi nhưng đã giành phần thắng, cướp được quả phết ấy tên là Đại. Họ yêu nhau từ hội mùa xuân năm ấy. Tình yêu của họ đang mặn thì kháng chiến bùng nổ, Đại vào bộ đội lên chiến khu, Thắm tham gia đội du kích bí mật.   

       Làng Tề sát vùng tự do nên địch thường càn quét, ruồng bố, Việt gian, gián điệp rình mò suốt ngày đêm, nhưng du kích cũng hoạt động mạnh. Đội du kích của lão Thống suốt đêm quấy nhiễu đồn Và, khiến bọn Pháp và lũ ngụy binh mất ăn, mất ngủ phải co cụm lại trong các lô cốt, thỉnh thoảng lại xổ đạn qua lỗ châu mai ra xung quanh. Đội trưởng Thống mấy lần đề nghị cấp trên nhổ quách cái bốt đầu đê để cho dân yên nhưng chưa được chấp thuận. Việc nhổ bốt, phá tề nằm trong một kế hoạch lớn hơn mà ông bí thư chi bộ dặn phải giữ bí mật tuyệt đối, không được phổ biến cho bất cứ ai trong đội du kích biết.   

       Giữa lúc ấy thì xảy ra một chuyện.   

       Vào một đêm tối trời, chàng lính chủ lực nửa đêm lội qua sông Phó Đáy về thăm người yêu. Mãi gần sáng, anh đội trưởng du kích mới biết chuyện. Khi đến nhà Thắm, đội trưởng Thống nghe tiếng hai người đang rúc rích dưới bếp. Mùi cơm nếp thoang thoảng. Đội trưởng Thống đẩy cánh liếp bước vào. Đôi trai gái vội buông nhau ra. Giọng người đội trưởng đội du kích bí mật khẽ rít lên:   

       - Đồng chí Đại! Chỉ huy đơn vị có cho phép về thăm người yêu không?  

       - Anh... anh ạ! - Đại ấp úng chào.

       - Có được phép của chỉ huy không?

       Đội trưởng Thống nhắc lại, Đại ấp úng:  

       - Dạ không! Em... em trốn về thăm Thắm ạ!  

       - Trốn... - Đội trưởng Thống nén giận: - Đồng chí vô kỷ luật thế hả?  

       Đại im lặng. Thắm giờ mới lập cập lên tiếng van vỉ:  

       - Chúng em xin anh... Đêm mai anh Đại sẽ trở lại đơn vị anh ạ!   

       - Không được... - Đội trưởng Thống dịu giọng nhưng vẫn dứt khoát:

       - Cậu phải trở lại bên kia sông ngay đêm nay. Nếu không, tôi sẽ cho du kích bắt cậu dẫn giải trở về đơn vị đấy.  

       Mặc cho đội uyên ương khóc lóc nài nỉ, thái độ cương quyết của người chỉ huy du kích không thay đổi. Biết không lay chuyển được người đội trưởng, Thắm vội vã gói mo cơm nếp, nhét cái đùi gà vào trong rồi trao cho Đại. Anh lính chủ lực khoác súng cùng người yêu lần ra bãi sông.  

       Trời đã tang tảng sáng. Đội trưởng Thống vừa vùi giấu khẩu súng vào đống tro bếp thì những tiếng súng ngoài bãi sông chợt rộ lên. Đội trưởng Thống buột miệng thốt lên: “Thôi chết rồi!”. Lôi vội khẩu súng khỏi chỗ cất giấu, ông lên đạn lao ra phía dòng sông. Nhưng tất cả đã muộn. Thắm và Đại đã bị bọn địch bắt.  

        Tiễn người yêu ra tận mép nước, Thắm quay lại thì lọt vào ổ phục kích của bọn lính đồn. Nghe tiếng súng nổ, đã vượt sang đến bên kia bờ, Đại vội băng qua sông lộn trở lại, nổ súng vào bọn giặc để giải cứu người yêu. Nhưng rồi cả hai đều trúng đạn bị thương và lọt vào tay chúng. Bọn chúng lôi hai người lên chỗ cây gạo giữa bãi sông tra tấn. Chúng nghi Đại là quân chủ lực của Việt Minh nên đánh anh rất dã man hòng tìm hiểu ý định tác chiến của quân ta.  

       Đội trưởng Thống tìm cách giải thoát cho hai người. Ông lo không chịu nổi tra tấn Đại khai ra thì bại lộ hết kế hoạch chuẩn bị mở chiến dịch trung du của ta. Trong lúc tình hình khẩn trương, bức bách, đội du kích đi đến một quyết định táo bạo. Họ tổ chức tập kích vào đồn Và giữa ban ngày với mục đích làm cho bọn địch ngoài bãi sông hoang mang phải rút chạy, thừa cơ giải thoát cho Thắm và Đại. Nhưng trận tập kích chỉ làm cho bọn địch tốn thêm đạn bắn vung vãi vào làng. Thêm ba du kích bị thương phải rút xuống hầm bí mật. Ngoài bãi sông, bọn địch cũng đã kịp giết chết Thắm và Đại. Chúng treo xác hai người lên cành cây gạo rồi rút chạy.   

       Đội trưởng du kích tìm cách tiếp cận nơi hai người bị giết. Nhìn thi thể hai hai người treo lủng lẳng trên cành cây, không một mảnh vải che thân, máu còn chảy nhỏ giọt xuống cát mà lòng người đội trưởng du kích quặn lên. Từ trên cái lô cốt đầu đê, bọn địch vẫn điên cuồng xả súng ra bãi sông, những bông hoa gạo rơi xuống lả tả như máu. Mãi đến tối, du kích mới gỡ được Thắm và Đại từ trên cây xuống. Họ đưa hai người sang bên kia sông, chôn cất trên một gò đất, mộ hướng về phía làng. Anh em du kích cũng tìm thấy bọc quần áo và gói cơm nếp của Đại. Đại đã cởi quân phục giấu ở bên kia sông khỏi bị lộ mình là quân chủ lực rồi mới quay lại cứu Thắm. Khi bị địch tra tấn dã man, anh cắn răng chịu đựng, kiên quyết không khai báo.    

       Sau việc ấy, đội trưởng Thống trở nên lầm lì ít nói.  

       Có lẽ suốt cuộc đời còn lại, lão luôn tự trách mình quá nghiêm khắc. Lẽ ra, cứ để yên cho Đại ở lại làng, ban ngày rút xuống hầm bí mật, đến đêm trở về đơn vị thì có thể hai người đã không bị chết thê thảm như thế. Nhưng ở làng Tề tai vách, mạch rừng, Đại ở lại lộ ra là quân chủ lực đã về, địch biết đề phòng thì chiến dịch phá Tề, diệt bốt của ta sẽ thêm nhiều tổn thất. Chiến tranh mọi tình huống đều có thể xảy ra, mọi giả thiết đều có thể thế này, hoặc thế khác, duy chỉ có lòng người là day rứt, đau đớn mãi không nguôi.

       Sau ngót năm chục năm, chuyện cũ lại được xới lên khi một người đàn bà lạ vẻ quý phái cùng anh phó chủ tịch xã tìm đến nhà lão Thống. Bà ta chính là em gái út của Đại - người chiến sĩ đơn vị bộ đội chủ lực năm xưa bị địch giết hại trên bãi sông.   

        Lúc tôi xách ấm nước sôi lên nhà thì lão Thống đang nói:   

       - Không thể được bà ạ! Chú Đại và cô Thắm chết không phải là do đang thực hiện nhiệm vụ thâm nhập vùng Tề trinh sát như trong giấy đề nghị xác minh bà đã viết đâu! Tôi không thể ký xác nhận được.  

       - Ôi dào! Sao ông nguyên tắc và khắt khe với đồng chí, đồng đội thế? Ai tham gia kháng chiến mà chả có công lao, chết ốm hay hy sinh cũng là vì cách mạng, vì dân, vì nước cả. Đằng này bác Đại nhà tôi rõ ràng là do bọn địch bắn chết cơ mà!  

       - Nhưng...  

       - Còn nhưng gì nữa! Ông thấy đấy, bây giờ khối người có tham gia chiến đấu một ngày nào đâu, có tham gia thanh niên xung phong gì đâu. Thế mà họ kê khai tự dựng lên thành tích, vẫn cứ được công nhận là có công, được hưởng chế độ chính sách Nhà nước đấy thôi.   

        Lão Thống lặng thinh. Bà khách vẫn thao thao:   

       - Làng tôi có người chẳng công cán gì, đi buôn qua phà, máy bay bắn cụt chân được bộ đội băng bó, đưa vào viện cấp cứu, bây giờ khai là bị thương do vác đạn lên trận địa, thế là trở thành thương binh, tháng tháng vẫn nhận đều đều tiền trợ cấp...   

        Bà khách uống một ngụm nước, liếc mắt thăm dò thái độ và phản ứng của lão Thống rồi mới nói tiếp:  

       - Tôi đọc báo thấy ở tỉnh gì đó trong miền Nam, ngụy binh nó còn khai gian lý lịch để trở thành người có công, được cả huân chương nữa đấy. 

       Đến lúc này thì lão Thống hết chịu nổi. Lão đứng dậy, gằn giọng vẻ bức bối:   

       - Thế thì... bà... bà… đi mà nhờ lũ ấy nó chứng nhận cho!  

       Bà khách cũng bật dậy như một cái lò so. Biết không thể thuyết phục được lão Thống, bà ta liền giở mặt. Bà ta lia thia xỉa xói, nhiếc móc lão Thống một hồi bằng những lời lẽ không còn gì là thân thiện và lịch thiệp nữa. Rồi bà ta đùng đùng cầm tờ giấy bước ra ngoài cổng. Anh phó chủ tịch xã lật đật chạy theo.   

       Chuyện sau đó tôi cũng chẳng rõ thế nào nữa.  

       Trúng tuyển đại học, tôi về Hà Nội học tập thường là sát ngày tất niên tôi mới đoảng về nhà, sau Tết xong là vội vàng đeo theo vài cái bánh chưng lên trường. Tôi chẳng còn có dịp nào cùng lão Thống đi tảo mộ cuối năm. Ra trường, tôi nhận công tác ở tận trên Tây Bắc. Mãi đến năm ngoái, tôi mới có điều kiện về nghỉ Tết dài dài. Chợt gặp tôi ở đầu đê, lão Thống móm mém bảo:  

       - Chiều mai rỗi sang ông đi tảo mộ nhé!   

       - Vâng ạ! Nhất định cháu sẽ sang.   

       Tôi đáp và nắm bàn tay sần sùi, khô đét, lủng củng những xương của lão Thống. Trong ký ức tôi hiện lên những kỷ niệm tuổi học trò với những nỗi mong chờ mỗi khi Tết đến được đốt pháo, ăn bánh chưng, tranh nhau cái đuôi lợn và nhất là được đi tảo mộ với ông lão Thống ngày tất niên.  

       Hôm ấy, tôi và lão Thống lại cắt qua cánh bãi sang sông. Đến gốc gạo già, lão Thống dừng lại bảo tôi đốt ba nén hương cắm vào gốc cây. Lão chắp tay đứng lầm rầm khấn vái. Dáng lão liêu xiêu, tay áo nâu sờn rách bay phơ phất. Cây gạo cũng đã già lắm rồi, gốc nó sù sì, thân sùi ra những cái bướu to, những cái cành trụi lá như một bộ xương khô kêu lục cục trong trời chiều gió bấc. Tôi chợt cảm thấy lành lạnh bởi mùi hương trầm thơm quá.  

       Sang đến bên sông, tôi giật mình ngỡ ngàng. Hai ngôi mộ đã không còn ở trên gò đất nữa. Chỗ hai ngôi mộ chỉ còn là hai hốc đất lõm xuống đầy cỏ dại. Lão Thống bảo:   

       - Họ đã di dời, quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ rồi!  

       - Thế sao ông vẫn sang đây tảo mộ?  

       - Sang đây thì mới thắp được cho chúng nó một nén hương chung. Hai đứa bây giờ người về mãi dưới nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh, người thì lên tận nghĩa trang liệt sĩ trên huyện, muốn đi tảo mộ cũng chẳng đến được nữa...   

       Giọng lão Thống vẻ bùi ngùi. Lão bảo tôi chặt cây, phạt cỏ chỗ dấu tích hai ngôi mộ. Đoạn, lão lấy đồ cúng từ trong túi ra. Vẫn đầy đủ các thứ như ngày nào, mo cơm nếp, cái đùi gà và mấy cái bánh gai - những thứ mà trong cái đêm bi thương năm nào người con gái đã trao cho cho người con trai. Lão Thống xòe diêm thắp nến, châm hương. Hai ngọn nến nhỏ run rẩy trong hai hố đất như hai hốc mắt người mù. Lão Thống ngồi bệt xuống đất. Hai tay lão rờ rẫm trên mặt cỏ dường như muốn kiếm tìm lại chút hơi ấm của người đã khuất.

        Đó là lần cuối cùng tôi đi tảo mộ với lão Thống.

        Sau này tôi mới biết mặc dù lão Thống cương quyết không chịu xác nhận Đại và Thắm hy sinh khi đang làm nhiệm vụ mà chỉ khăng khăng nói là chết do vô kỷ luật. Nhưng rồi, họ vẫn làm được đầy đủ thủ tục để đề nghị công nhận liệt sĩ cho hai người. Bà khách hồi nào tôi gặp ở nhà lão Thống sau khi đưa mộ anh ruột về nghĩa trang liệt sĩ tỉnh đã tài trợ cho quê tôi kinh phí để xây một trạm bưu điện văn hoá xã khá đẹp.   

       - Số lão Thống thế mà khổ! - Bố tôi bảo: - Lão ấy đánh giặc thì gan lỳ liều lĩnh, dũng cảm, chết chẳng sợ, từng vật nhau với một thằng Tây dại gái ngoài bãi dâu, bắt sống được nó. Đội du kích do lão chỉ huy đánh thắng nhiều trận, đốt cháy đồn Và, đánh mìn đổ xe cam-nhông chở đầy lính Tây trên quốc lộ số 2. Có trận thắng lớn còn được ghi vào cả sử sách của tỉnh, của huyện. ấy thế mà cải cách ruộng đất, chẳng hiểu vì sao tự dưng lão ấy lại bị quy là quốc dân đảng, là địa chủ, bị truy bức đấu tố, khai trừ khỏi Đảng. Địa chủ gì lão ấy, ba sào ruộng, một con trâu còn phải gán nợ. Sửa sai, khối người được phục hồi nhưng lão ấy thì không. Lão sống đến hết đời vẫn nghèo khổ, không vợ, không con, đói no, đứt bữa nhưng được cái chẳng bao giờ ác tâm, làm hại đến một ai.  

        Bố tôi cũng thường nhắc mãi một cái ơn đối với lão Thống. Trong một trận Tây càn vào làng bất ngờ. Khi chỉ huy đội du kích rút lui ngang qua nhà tôi tuy tình huống rất gấp, lão vẫn nhớ tháo then chuồng xua hai con trâu của nhà tôi phóng ra bãi nên không bị bọn giặc vào bắn chết. Con trâu là đầu cơ nghiệp. Tài sản duy nhất có giá trị của nhà tôi dạo ấy là hai con trâu ấy, bố tôi vẫn thường vẫn bảo thế.Bây giờ thì cả lão Thống và bố tôi đều đã là người thiên cổ. Cây gạo già nua ngoài bãi cũng không còn nữa. Cái gò đất bên sông, nơi dấu tích hai ngôi mộ cũng đã bị san lấp. Tại nơi ấy, người ta đang xây dựng một nhà máy chuyên chế biến rau quả xuất khẩu.Trước Tết này, thấy tôi cùng thằng cháu chuẩn bị đi tảo mộ, mẹ tôi dặn:   

       - Qua cánh bãi, con nhớ đắp vài hòn đất lên mộ, thắp cho lão Thống một nén hương và nhớ khấn gọi, dặn lão về nhà ta mà ăn Tết, kẻo năm cùng tháng tân, đêm tất niên giao thừa chỉ còn một mình bơ vơ ngoài đồng thì tội lắm!     

Chợ chiều  

                              Truyện ngắn của Trọng Bảo  

                            Chợ chiều ai bán, ai mua!                       

                           Người đi hết chợ mà chưa hết chiều.  

          Hai bố con tôi về đến đầu làng thì chiều đã xế bóng. Thằng con tôi bàn: “Mình vào chợ xem có con cá nào mua về làm nồi lẩu bố ạ”. Tôi gàn: “Chợ chiều làm gì có cá. Mà có thì cũng toàn là cá ươn thôi!”. Thằng con bảo: “Bố chẳng đi chợ bao giờ nên không biết. Cuối buổi chiều dân vạn chài trên sông mới ghé bến đưa cá tươi lên chợ”.    

          Bố con tôi vào chợ. Thằng con nhao lên đi trước. Nó đang là học viên một trường sĩ quan quân đội nên dáng vẻ chững chạc. Nó hay được mẹ giao cho nhiệm vụ đi chợ nên có vẻ thông thạo việc mua bán hơn tôi.    

         Chợ là một bãi đất nhỏ ngay trên bến sông. Mấy cái quán lợp rơm rạ liêu xiêu. Người bán, kẻ mua lèo tèo. Hàng hoá cũng chẳng có gì nhiều, chủ yếu là nông sản, gạo ngô, khoai, sắn, gà, vịt, vài hàng rau dưa và mấy sạp tạp hoá. Hôm nào có thuyền bè dưới xuôi ngược lên thì chợ còn có bán cả vôi sống và xi măng, sắt thép nữa. Chợ chiều nhưng lại có những thứ hàng tươi. Ngô non mới bẻ ở bãi đem lên, cá cua vừa bắt ngoài đồng đưa thẳng ra chợ. Những người đi chợ thật thà, chất phác, tay chân còn lấm lem những vết bùn đất. Thằng con tôi đến thẳng phía cuối dãy hàng quán, nơi đám dân chài trên sông vừa ghé bến. Trong mấy cái giỏ to tướng của họ là những con cá chép, cá bống, cá trôi. Có con còn sống ngoay ngoảy. Thằng con tôi chọn mua một con cá chép cỡ độ hơn cân rồi bảo:    

         - Đến chỗ hàng rau mua ít rau sống, rau thơm nữa là được nồi lẩu cá ngon rồi bố ạ!    

         - Ừ! Nhanh lên còn về, sắp tối rồi.    

         Tôi và thằng con ra chỗ hàng rau. Nó chọn cà chua và mua rau sống. Người đàn bà bán rau giúp nó lựa những quả cà chua ngon nhất. Khi chị ngẩng lên đưa túi ni lông đựng rau cho nó thì tôi giật mình thốt lên:   

         - Chị Thân!   

         - Ơ…ơ… có phải là…   

         - Tôi là Vinh…. "Vinh còi" làng Hạ đây!   

         - Anh Vinh! - Nhìn thằng con tôi, chị lại hỏi: - Con trai đây à? Cao lớn quá nhỉ! Cũng là bộ đội như bố à?   

         - Cháu đang học sỹ quan, được nghỉ hè. Thế còn chị, tình hình gia đình, các cháu thế nào?   

         - Tôi…- Chị định nói nhưng rồi lại thôi. Mãi sau chị mới bảo: - Làm gì có gia đình, chuyện của mình buồn lắm. Thôi bố con về đi, mình cũng dọn hàng đây. Trời tối rồi!   

         Nói xong, chị úp cái nón cũ lên đầu, xếp tất cả các loại rau quả vào đôi quang gánh. Vài thứ rau nhẹ tênh, gánh hàng của chị chỉ đáng chục ngàn đồng. Nhìn chị lầm lũi đi ra phía cổng chợ, tôi cứ băn khoăn mãi. Không hiểu cuộc sống của chị hiện ra sao. Bao nhiêu năm gặp lại nhưng hình ảnh của chị thì vẫn in trong tâm trí tôi.

*   

          Ngày ấy, cũng đã hơn ba mươi năm. Tôi đang học năm cuối phổ thông thì giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc rất ác liệt. Chúng tôi tạm nghỉ học. Là đoàn viên, cũng là chiến sỹ dân quân, tôi được phân công vào trung đội trực chiến. Chúng tôi thay nhau canh gác máy bay trên một mỏm đồi sát cây cầu sắt bắc qua sông. Khi có máy bay địch thì chúng tôi gõ kẻng báo động cho nhân dân xuống hầm trú ẩn và sẵn sàng dùng súng bộ binh bắn máy bay, góp lửa cùng bộ đội phòng không bảo vệ cầu.   

         Trung đội dân quân trực chiến gồm lực lượng của làng Thượng và làng Hạ. Trung đội trưởng là chị Thân. Chị hơn tôi ba tuổi, người làng Thượng. Hôm đầu tiên đến nhận nhiệm vụ ở trung đội dân quân tôi mới biết chị. Tôi ngỡ ngàng, sao lại có một người con gái đẹp đến thế. Chị mặc bộ quần áo màu tối, thắt lưng to bản xiết chặt quanh bụng, khẩu súng trường đeo chéo ngang vai. Chị dẫn tôi đến chỗ trung đội dân quân đang tập bắn súng ở ven rừng. Chị nói vẻ nửa đùa nửa thật:   

         - Từ hôm nay trung đội ta được bổ sung thêm một chiến sĩ. à quên, một “cậu bé liên lạc” này nhé!   

         Tôi rất bực vì bị chị gọi tôi là "cậu bé". Chị thì lại có vẻ thích thú vì câu nói của mình. Cái biệt danh "Vinh còi” chính là chị đặt cho tôi. Chị cứ tự nhiên coi tôi như một thằng em út, còn trẻ con, sai toàn việc vặt: “Này! Trưa nay có canh cua, Vinh còi để súng đấy, phóng xuống làng kiếm vài quả khế chua nhanh lên!". Hoặc thì : "Thôi ! Vinh còi ở lại trận địa nhóm lửa luộc nồi khoai còn tất cả đi vác đạn”. Thậm chí có lần tôi với chị cùng gác phiên buổi tối, lúc đang ngồi trong nhà hầm chị còn bảo: “Ra ngoài một tý để mình thay áo. Nếu sợ ma thì cứ quay mặt đi, nhắm mắt lại là được!”.    

         Tuy ấm ức nhưng việc gì chị phân công tôi đều cố gắng làm thật tốt. Tôi mong được biên chế ở mãi trung đội trực chiến phòng không của chị. Vất vả, nguy hiểm đấy nhưng tôi không sợ. Chúng tôi ngày đêm thay nhau canh gác, sẵn sàng chiến đấu và tuần tra bảo vệ an ninh các thôn xóm. Một lần máy bay Mỹ bị bắn rơi. Tên phi công nhảy dù xuống núi Sáng. Trung đội dân quân tham gia cùng bộ đội công an vây bắt. Đó cũng là lần đầu tiên tôi cãi lại mệnh lệnh của chị. Khi chiếc máy bay Mỹ bốc cháy như bó đuốc giữa trời, một cái dù màu đỏ bật ra. Chị Thân lập tức thổi còi báo động tập họp toàn trung đội hạ lệnh:   

         - Tất cả theo tôi đi bắt giặc lái! Đồng chí Vinh ở lại gác phòng không!    

         Tôi phản ứng ngay:   

         - Không! Tôi xung phong đi bắt phi công Mỹ.   

         - Đồng chí Vinh có chấp hành mệnh lệnh không?

        Chị quát. Tôi cãi:   

         - Dứt khoát tôi cứ đi! Tôi đề nghị cử đồng chí Na ở lại. Sáng nay đào công sự, đồng chí ấy cuốc vào chân còn rất đau không đi xa được đâu.   

         - Đồng chí Na! Tại sao bị thương không báo cáo!    

         - Em… em… cũng xin đi ạ!   

         - Thôi! Na ở lại canh gác trận địa, còn tất cả lên đường!    

         Chúng tôi nhanh chóng vận động về phía núi Sáng, nơi tên phi công Mỹ đang lẩn trốn. Máy bay địch quần đảo trên bầu trời. Chắc chúng tìm tín hiệu của đồng bọn để đưa máy bay trực thăng đến giải cứu. Chúng tôi được phổ biến sẵn sàng đánh trả khi xuất hiện máy bay lên thẳng tầm thấp. Sau hơn một ngày,  hàng trăm người gồm cả bộ đội, công an và dân quân bao vây, lùng sục trên núi mới tìm thấy tên phi công Mỹ đang đói lả chui trong một hốc cây. Nó được dẫn giải ngay về huyện đội. Tuy không trực tiếp bắt sống được tên giặc lái nhưng trung đội dân quân chúng tôi cũng phấn khởi lắm, quên cả đói và mệt. Lúc về đến gần trận địa, chị Thân ra lệnh:   

         - Vinh còi! Đưa ngay khẩu súng đây!   

         Tôi giật mình sửng sốt. Nhớ lại việc cãi lại lệnh trung đội trưởng, tôi hoảng:   

         - Sao lại thu súng của tôi? Tôi không nộp súng đâu!   

         Tôi cãi và giữ chặt khẩu K44. Chị Thân phá lên cười và bảo:   

         - Ai thèm thu súng của cậu! Đưa súng anh em vác cho rồi phóng ngay về làng kiếm mấy quả khế chua. Hợp tác xã tát ao thưởng cho trung đội trực chiến mấy cân cá tươi đấy! Trưa nay ta làm một nồi canh chua khao quân!   

         Tôi thở phào nhẹ nhõm, giao khẩu súng lại cho đồng đội rồi phóng về làng.   

         Những ngày ấy gian khổ nhưng vui. Trung đội dân quân thường trực của chúng tôi như một tổ ấm. Khó khăn chia xẻ, chuyện vui, chuyện buồn có nhau. Nhưng rồi chiến tranh ác liệt, miền Nam cần nhiều sinh lực. Thỉnh thoảng trung đội dân quân lại có một hai người được gọi nhập ngũ.   

          Nhưng rồi xảy ra một chuyện. Có một cơ quan ở thủ đô sơ tán về làng tôi. Đó là một cơ quan bảo tồn, bảo tàng. Họ đem về toàn là những mũ mão, quần áo, long bào, ấn kiếm từ thời xưa. Cả những hòm đầy các loại sách chữ Nôm, chữ Hán. Chúng tôi giúp họ làm nhà kho để bảo quản những thứ đồ cổ đó. Trong số cán bộ, nhân viên cơ quan sơ tán về có một anh chàng rất đẹp mã. Chẳng hiểu là có chuyện tình yêu sét đánh hay không mà chỉ sau một buổi giúp họ dựng lán trại, chị Thân và anh chàng đẹp cán bộ bảo tàng đẹp mã ấy đã có vẻ quyến luyến nhau.

        Tôi ghét cái tay vừa sơ tán về đã bám ngay lấy người trung đội trưởng xinh đẹp của mình. Kể ra thì họ trông cũng thật đẹp đôi. Nhưng đấy là bề ngoài. Chị Thân đảm đang dũng cảm là thế, máy bay địch bổ nhào cắt bom chị vẫn đứng thẳng phất cờ lệnh cho khẩu đội 12 li 7 bắn trả. Còn tay cán bộ bảo tàng thì hôm tham gia đào công sự lên trận địa xúc được ba xẻng đất đã thở không ra hơi, máy bay Mỹ mới bay thấp một tý mà mặt cắt không còn hột máu, chui tọt ngay vào hầm. Thế mà họ lại có thể yêu nhau dược nhỉ! Mà cũng lạ, sao chị Thân lại không nhận ra tay Hạnh kia là một người không đáng để yêu! Trai tráng như anh ta mà lại đi sơ tán. Đành rằng là cán bộ cơ quan nhà nước, anh ta đi theo để gìn giữ, bảo vệ tài sản của nhà nước. Nhưng cả mấy chục người cơ quan bảo tàng sơ tán về đây đều cao tuổi hoặc là phụ nữ, chỉ có anh ta là thanh niên. Lẽ ra anh ta phải ở lại thành phố tham gia lực lượng tự vệ hay xung phong đi bộ đội vào Nam chiến đấu chứ. Tôi giận chị Thân tại sao không nhận ra điều ấy. Có lần tôi lựa lời nói với chị thì chị gạt đi: “Ôi dào! Chiến tranh mỗi người một nhiệm vụ, ra mặt trận hay ở hậu phương đều cần thiết cả. Mà anh ấy lại là phó tiến sĩ ngành bảo tàng, chuyên nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hoá của dân tộc, nhiệm vụ chả quan trọng à?”. Tôi lắc đầu buồn bã. 

       Tình yêu thường làm cho con người ta mờ mắt. Đấy cũng là một thứ ma tuý của con người, nó làm cho trai gái mê mẩn, quên hết. Khi trái tim đã đập loạn nhịp thì cái đầu cũng thường kém sự tỉnh táo, suy xét. Tình yêu nhiều lúc đã làm được cái việc là nhào trộn cái tốt và cái xấu, cái hay, cái dở với nhau mà những người trong cuộc không thể nhận biết. Tôi cứ tự nghĩ ra những luận điểm như vậy mỗi khi ôm súng một mình trên chòi gác phòng không. Còn chị Thân thì ngày càng tươi tắn, đẹp hơn. Chị chú ý nhiều đến cách ăn mặc, mái tóc luôn mượt mà, thoảng thơm mùi bồ kết. Trong đôi mắt trong sáng của chị như có ánh lửa long lanh. Thấy chị vui mà lòng tôi cứ nao nao một nỗi buồn vô cớ.   

          Một buổi tối, gần hết phiên gác, chị bảo tôi:    

         - Mình lên xã đội nhận nhiệm vụ! Vinh gác đến hết giờ nhớ bàn giao cẩn thận nhé!    

         - Vâng…! - Tôi đáp một cách hờ hững và nghĩ: “Nhiệm vụ gì! Từ lúc nãy đã nghe tiếng huýt sáo dưới chân đồi. Chắc là lại hẹn hò với tay cán bộ bảo tàng đẹp mã ấy chứ gì?”. Chị Thân chui vào trong hầm thay áo. Chị mặc một cái áo màu hồng. Dưới ánh trăng non màu áo của chị như một ngọn lửa rập rờn, mờ ảo khuất dần vào những bụi sim lúp xúp dưới chân đồi. Không kiềm chế được mình, tôi nhỏm dậy xách khẩu súng bám theo chị. Họ ngồi với nhau sau một lùm cây. Tiếng cười rúc rích và tiếng nói nhỏ dần. Tôi chợt thoáng một sự lo lắng, bực bội ập đến. Tôi vội vơ những cục đất ném tới tấp vào bụi cây rồi bỏ chạy về phía chòi gác.    

         Tôi phải kiểm điểm vì tự ý bỏ vị trí trực chiến. Các đồng chí trong ca gác mới lên thay không thấy có ai ở vị trí trực chiến đã lập tức báo cáo với chỉ huy xã đội. Sau buổi họp  rút kinh nghiệm, chị Thân kéo tôi ra ngoài khẽ bảo:    

         - Lần sau đừng làm như thế nữa Vinh nhé!    

         Tôi định nói với chị một câu nhưng thấy nghẹn vướng ở cổ.

        Mấy hôm sau, tôi nhận được lệnh gọi nhập ngũ. Chị Thân và mấy anh em trong trung đội dân quân tiễn tôi lên tận địa điểm giao quân. Lúc xe ô tô chở tân binh chuẩn bị chuyển bánh, tôi lại thoáng nhìn thấy bóng tay phó tiến sĩ bảo tàng lởn vởn gần chỗ chị Thân đang đứng.  

         Sau mấy tháng huấn luyện, đơn vị tôi hành quân vào miền Nam chiến đấu. Tôi viết cho trung đội dân quân một lá thư chung. Vì đơn vị cơ động nên tôi không nhận được lá thư nào của họ. Mãi sau chiến thắng năm bảy lăm, bất ngờ tôi gặp Tiến, một người cùng trung đội dân quân năm xưa ngay giữa Sài Gòn. Tiến nhập ngũ sau tôi mấy tháng. Khi tôi hỏi chuyện chị Thân, Tiến bực bội bảo:   

         - Cái tay phó tiến sĩ ấy đúng là đồ Sở Khanh!    

         Tôi cáu:   

         - Sao các cậu không nện cho nó một trận?    

         - Nện sao được! Nó là con một ông to, giả vờ yếu sức khoẻ để khỏi phải đi bộ đội. Sau khi chuyện với chị Thân vị vỡ lở, nó được ông bố cho ngay ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh tiến sĩ. Biết nó ở đâu mà nện!     

         - Thế còn chị Thân?   

         - Chị ấy buồn và chán nản lắm, xin từ chức trung đội trưởng, rồi ra nhập thanh niên xung phong. Chị ấy cũng vào trong này rồi đấy.    

        Đó là những thông tin cuối cùng tôi được biết về chị Thân cho đến hôm nay gặp lại chị ở phiên chợ chiều.

*  

           Hôm sau, tôi quyết định đi thăm chị Thân. Chị không còn ở làng Thượng nữa. Nhà chị bây giờ ở mãi tận chân núi Sáng. Tôi rủ thằng Tiến, người đã gặp ở Sài Gòn dạo nào cùng đi. Tiến đã về phục viên. Chúng tôi đèo nhau bằng cái xe máy 81 chuyên chạy chợ của nó. Khi tôi bảo dừng lại mua ít bánh kẹo làm quà, Tiến ngăn lại nói:   

          - Đừng mua!   

          - Sao lại không mua! Con cái chị ấy lớn rồi thì còn có các cháu!   

          - Mua lấy một cân đường, hộp sữa là được!   

          - Sao thế?    

          - Chị ấy làm gì còn con cái! Nhà chị ấy còn bà mẹ già đang ốm yếu thôi.   

          - Thế chồng con chị ấy đâu?   

          - Chuyện dài lắm, vừa đi mình vừa kể chuyện nghe!   

          Chuyện của chị Thân thật buồn. Người con gái đẹp ấy có thai với tay phó tiến sĩ bảo tàng. Khi chuyện vỡ lở thì nó chạy làng. Một lần vác đạn trượt chân ngã, chị bị sẩy thai. Quá mệt mỏi với những lời chê trách, chị viết đơn từ chức trung đội trưởng dân quân và xin đi thanh niên xung phong. Ban chỉ huy xã đội và chi bộ chấp thuận ngay. Họ cũng mong chị đi cho nhẹ gánh, đỡ ảnh hưởng thành tích của đơn vị nhiều năm quyết thắng. Họ hủy bỏ quyết định kết nạp chị vào Đảng và trao cho chị tờ giấy gọi vào lực lượng thanh niên xung phong. Đất nước thống nhất, chị về quê lấy chồng. Chồng chị là một chiến sĩ công binh Trường Sơn. Khi chị có mang, nhà chồng vui lắm. Họ chờ đợi một đứa cháu đích tôn để nối dõi tông đường.

         Nhưng đứa con chị sinh ra đã khiến bà mẹ chồng ngất đi. Ngày ấy, người ta chưa biết nhiều về di chứng chất độc da cam, chỉ nghĩ đích thị nó là loài yêu quái lộn kiếp thành người. Thằng con của chị đầu to hơn cả thân người, không có tai, con ngươi lồi ra khỏi hốc mắt, tay chân thì co quắp, thiếu ngón. Nó vẫn ăn, vẫn cười, nhưng không biết nói, biết đi, chỉ biết ngửa mặt nhìn trời. Rồi gần chục năm sau chị không có thai lại. Anh chồng chán nản, sa vào rượu chè, cờ bạc. Bà mẹ chồng thì suốt ngày rủa chị đem ma quỷ đến nhà bà. Mà đứa con dị tật ấy chưa chắc chỉ là lỗi của riêng chị. Chị cắn răng chịu đựng lầm lũi làm lụng nuôi con. Nỗi đau bất hạnh biến chị thành một cái bóng đi về vô cảm. Vào một ngày cuối năm, bà mẹ chồng gọi chị đến trước bàn thờ tổ tiên. Bà khóc. Vừa run rẩy kéo vạt áo lau nước mắt, bà vừa nghẹn ngào nói:    

         - Thôi thì mẹ xin cắn rơm, cắn cỏ lạy con! Chồng con là độc đinh, trưởng họ. Con hãy buông tha cho nó!. Để nó cưới vợ khác, lấy người nối dõi tông đường, hương khói cho tổ tiên con ơi…   

          Chị gạt nước mắt đưa con về ở với mẹ đẻ. Mẹ con, bà cháu dắt díu nhau bỏ làng ra đi. Họ dựng túp lều nhỏ gần chân núi Sáng, đói no nhờ vào nương sắn và gánh hàng rau mua đầu chợ, bán cuối chợ của chị. Mãi gần đây người ta mới trợ cấp cho đứa con nhiễm chất độc da cam của chị mỗi tháng vài chục nghìn đồng. Khi nó chết thì số tiến ít ỏi ấy cũng bị cắt.    

          Tiến ngậm ngùi kể về cuộc đời của chị Thân, tôi thấy thương chị quá. Tôi hỏi:   

          - Chị ấy là thanh niên xung phong phải có chế độ gì chứ?   

          - Hình như xã họ đang xem xét để đề nghị lên trên. à! Mà tôi bàn với ông thế này! Ta tìm số anh em trung đội dân quân trực chiến ngày xưa, vận động mỗi đứa góp một ít, xây cho chị ấy lấy hai gian nhà nhỏ. Ngôi nhà lợp cỏ tranh, tường đắp vắt của mẹ con chị ấy nát lắm rồi.    

          - Phải đấy! Ông đi gặp bọn ở quê, tôi tìm những đứa đang công tác ở Hà Nội. Biết chuyện của chị Thân, chúng nó sẽ nhao cả về cho mà xem.   

          - Nhất định thế nhé!   

          -Ừ! - Tôi đáp và nói thêm: - Làm xong nhà cho chị ấy, chúng mình phải tổ chức một buổi gặp mặt, tập hợp tất cả anh em trung đội dân quân trực chiến ngày xưa lại để khi cần còn ới nhau một tiếng!   

Chân trời xa    

                               Truyện ngắn của Trọng Bảo

       Thằng Mẫn len lén quay vào nhà. Nó đứng lặng hồi lâu nhìn em gái đang nằm co quắp trên giường. Con em vừa ngủ thiếp đi, vệt nước mắt còn hằn trên má. Ba gian nhà trống toang, trống toàng, quạnh quẽ. Mẹ nó vẫn đang lầm lũi nấu cám lợn dưới bếp. Còn bố nó giờ này chắc lại đang la cà ngoài quán rượu sau khi hất đổ mâm cơm của mấy mẹ con nó.    

      Thằng Mẫn lần trong túi áo lấy ra một tờ giấy bạc năm nghìn đồng. Nó gấp lại thật nhỏ đặt vào tay bé Mận rồi khẽ khẽ gập mấy ngón tay của em nắm lại giữ chặt để tờ giấy bạc khỏi rơi và đề phòng bố nhìn thấy. Bé Mận mơ ngủ gọi mẹ. Thằng Mẫn khe khẽ vuốt má em gái một cái rồi lách cửa đi ra.     

      Trời vẫn còn se lạnh. Bàn chân trần của thằng Mẫn giẫm vào những hạt cơm rơi vãi trên sân nhem nhép. Trong căn bếp nhỏ, bóng mẹ nó chập chờn méo mó in trên vách liếp. Nó muốn gọi mẹ một tiếng trước khi ra đi nhưng không dám. Nó sợ mẹ sẽ không cho nó bỏ nhà đi như thế.    

      Thằng Mẫn quyết rời quê ra thành phố kiếm tiền. Nó không thể chịu đựng được mãi cái cảnh bố nó suốt ngày say rượu, hành hạ mẹ và anh em nó. Trận đòn chiều nay của bố càng thôi thúc nó phải ra đi. Nó biết khi không tìm thấy nó, mẹ và em chắc sẽ hoảng sợ lắm. Nhưng ý chí của nó đã quyết. Nó cắn chặt môi lầm lũi bước ra cổng.   

*

      Chiều nay, đội dịch vụ thủy nông bơm hút nước hồ Chằm đổ lên đồng chống hạn. Khi nước hồ gần cạn, cả làng ào xuống hôi cá. Cá thả nuôi thì người ta đã vớt hết, hồ chỉ còn lại một ít cá hoang. Đám đông quần thảo mò cá làm bùn sục ngầu lên. Lũ cá rô, cá trạch, cá trê ngoan cố chui sâu dưới bùn cũng phải ngoi cả lên. Thỉnh thoảng, một con cá bị dồn đuổi giẫy đành đạch là cả đám đông lại hò hét ào đến tranh cướp nhau. Ai nấy đều lấm lem bùn đất. Thằng Mẫn bất ngờ tóm được một con cá quả to. Con cá giẫy đành đạch. Đám người xông đến. Thằng Mẫn bị xô đẩy, đạp ngã dúi dụi úp mặt xuống bùn. Nhưng nó kiên quyết không chịu buông con cá. Ngón tay cái của thằng Mẫn thọc vào miệng con cá quả, ngón chỏ móc vào mang nó giữ chặt. Răng con cá nghiến vào ngón tay nó đau điếng. Có tiếng người quát:    

      - Thằng Mẫn bắt được con cá rồi! Để cho nó đem lên bờ.   

        Mọi người bấy giờ mới chịu tản ra tiếp tục mò cá. Thằng Mẫn như vừa chui lên từ bùn đất. Quần áo nó sũng bùn. Nó ôm con cá quả lao lên bờ. Con cá có dễ phải đến hai cân. Nó giẫy giụa làm ngón tay thằng Mẫn bật máu.    

       Con cá ấy thằng Mẫn bán được năm mươi nghìn đồng. Nó vui lắm. Thế là ngày mai sinh nhật bé Mận, nó sẽ có tiền mua cho em một bộ quần áo mới. Mai lại đúng là phiên chợ, nó sẽ dẫn em gái ra thị trấn. Bé Mận thích bộ quần áo nào, Mẫn sẽ mua cho em bộ đó. Bộ quần áo trẻ con chỉ khoảng ba, bốn chục nghìn. Nếu còn thừa tiền nó sẽ mua kem hai anh em cùng ăn. Hay là sẽ mua cho em một cái váy. Bé Mận đang học mẫu giáo. Hôm trước, đi học về nó phụng phịu nói với anh: “Em không có váy, nên cô giáo ứ cho vào tốp múa!”. Thằng Mẫn thương em lắm. Từ khi mới sinh ra em đã chịu khổ. Mẹ đau ốm thiếu sữa. Bố thì mất việc lại ra vào rượu chè, nghiện ngập lấy đâu tiền mua quần áo đẹp cho các con. Bé Mận chưa được một ngày sung sướng. Còn nó - thằng Mẫn nghĩ - nó dù sao thì cũng có những ngày vui vẻ, đủ đầy. ấy là khi bố nó đang còn là công nhân kỹ thuật cao của một công ty liên doanh với nước ngoài. Cái công ty ấy có một nhà máy to ở ngay đầu làng, chuyên sản xuất các loại ti-vi, tủ lạnh. Bó nó lương cao. Mẹ nó là giáo viên trường tiểu học. Thằng Mẫn được chiều chuộng, nâng niu. Quần áo chưa cũ đã bỏ. Giầy dép chưa mòn đã cho. Khi còn học lớp mẫu giáo nó muốn gì được nấy. Học lên cấp một, nó được bố mẹ đón đưa, mỗi lần đạt điểm giỏi đều được thưởng tiền.    

       Nhưng rồi nhà nó dần dần sa sút. Sa sút ấy lại bắt nguồn chính từ sự đủ đầy, tăng trưởng. Cái công ty liên doanh sản xuất ti-vi, tủ lạnh càng làm ăn phát đạt, doanh thu, lãi xuất ngày càng cao. Tất nhiên, lương thưởng của công nhân cũng tăng lên. Dần dần người ta quên đi những đồng tiền Việt lẻ. Những tờ trăm, tờ chục USD cũng trở thành quen quen trong ví người Việt Nam. Khi đời sống kinh tế phát triển ắt xuất hiện các loại dịch vụ. Dịch vụ từ thị trường công cộng tiến dần vào tư gia. Dịch vụ thường là tốt. Nó làm cho cuộc sống con người khá hơn, tốt hơn, nhàn hạ hơn, hoàn thiện hơn. Nhưng cũng có những loại “dịch vụ” thì lại làm cho con người ta suy đốn, đời sống xã hội lụi tàn đi.    

      Chung quanh cái nhà máy nửa xã hội chủ nghĩa, nửa tư bản chủ nghĩa đầu làng xuất hiện nhiều loại dịch vụ mà người nông dân lần đầu tiên mới được biết. Đó là các loại dịch vụ mát xa, karaokê, tắm nóng lạnh, cà phê… đen - tức là nơi người ta ngồi uống cà phê với gái trong bóng tối.    

       Sẵn tiền trong tay, nhiều người dần quen với các loại dịch vụ. Là công nhân kỹ thuật bậc cao, bố thằng Mẫn luôn rủng rỉnh tiền trong túi. Bố nó cũng thử rồi đâm ra nghiện các loại dịch vụ. Từ tắm nóng lạnh sau ca đến mát xa, karaokê. Thường là vậy. Dịch vụ là một ngành công nghiệp không sản sinh ra vật chất mà chỉ tiêu tốn vật chất. Nó chuyển hóa tiền bạc của tầng lớp người này sang những người khác. Đừng vội khoe lương cao, bổng hậu, hãy cứ thử qua các loại “dịch vụ” rồi sau hãy nói.   

       Số tiền hàng tháng bố đưa cho mẹ ít dần. áo quần của thằng Mẫn cũ dần. Bữa sáng trước kia nó đòi phở là có phở, muốn trứng vịt lộn là có trứng, giờ thì cơm rang cũng nhạt mỡ. Mẹ nó có bầu cũng chẳng còn tiền để bồi dưỡng thêm. Bố nó chỉ đưa đủ tiền ăn hàng tháng. Chút tiền ăn ấy rồi cũng không còn. Mẹ nó hỏi mới biết bố nó ham các loại dịch vụ quá nên tiêu tốn sạch lương, thưởng. Bố nó ăn cắp linh kiện vật tư của nhà máy đem bán để có tiền bao các cô trong quán đèn mờ. Bảo vệ nhà máy phát hiện, bố nó bị đuổi việc. Thế là nguồn sống nhà nó chỉ còn trông vào mấy trăm nghìn đồng tiền lương giáo viên bậc tiểu học của mẹ. Khi sinh bé Mận, mẹ nó ốm hậu sản tưởng chết. Bố nó đã không giúp được gì lại còn sinh ra nghiện ngập, rượu chè. Cả ngày bố la cà ngoài quán. Suốt ngày bố nó say. Lúc nào bố về nhà cũng chỉ là để tróc nã vợ con tiền uống rượu. Các thứ đồ đạc trong nhà dần dần đội nón ra đi hết. Mẹ nó khổ lắm. Ăn uống thiếu thốn chả đủ sữa cho con bé Mận bú. Nhiều lần mẹ nhịn đói đi dạy, thiểu lực, ngã khụy xuống ngay trên bục giảng. Bé Mận năm tuổi mà bé loắt choắt. Nó chưa một lần có được manh áo đẹp. Ít khi thấy nó cười. Cứ mỗi khi nhìn thấy bố về nhà là nó sợ chết khiếp. Nhiều lần nó chứng kiến cảnh bố mẹ giằng xé nhau, hất đổ mâm cơm đang ăn. Có lần sợ quá, nó chui vào đống rơm trốn rồi thiếp đi, mẹ và anh tìm mãi mới thấy.    

       Ngày mai là bé Mận tròn sáu tuổi. Thằng Mẫn thương em lắm. Năm mươi nghìn đồng bán cá nằm trong túi áo nó. Nghĩ đến lúc bé Mận mặc cái váy mới cong tay múa, thằng Mẫn lại thấy rộn rực trong lòng. Nó co chân nhảy tưng tưng vào ngõ.

      Chợt có tiếng quát:     

      - Thằng kia đứng lại!     

       Thằng Mẫn giật bắn người nhận ra tiếng bố. Nó ấp úng:    

      - Bố gọi con có việc gì ạ?     

      - Việc gì à? Đưa ngay tiền cho tao!     

      - Tiền nào ạ?    

      - Tiền… tiền… mày vừa bán con cá lúc chiều cho bà Nụ hiểu không?     

      - Nhưng đấy là tiền của con chứ!    

      - Của mày à?    

      Bố nó sấn lại túm lấy cổ nó. Thằng Mẫn giẫy giụa. Nó cố giữ chặt túi áo. Bố nó nghiến răng giật tay nó ra. "Xoạc", vạt áo nó rách toạc.

      Thằng Mẫn vẫn nắm chặt tờ giấy bạc. Bố nó thì cố bẻ, cạy mấy ngón tay nó ra.     

      - A… thằng này láo… Dám cắn tao hả?     

      - Bốp! - Một cái tát khiến thằng Mẫn loạng choạng, mắt nổ đom đóm. Nó ngã dúi dụi xuống rãnh nước. Tờ năm mươi nghìn rơi ra. Bố nó nhặt tờ bạc giơ lên nhìn rồi cười ha hả. Thằng Mẫn van vỉ:    

      - Bố ơi! Con xin bố! Bố đừng lấy tiền của con… Tiền ấy con dành mua cho em Mận bộ quần áo mới. Ngày mai là sinh nhật em sáu tuổi…     

      - Sinh nhật với chả sinh nhiệc! Vẽ chuyện, vớ vẩn mãi quen…    

       Bố nó vừa lẩm bẩm, vừa khật khưỡng đi ra cổng. Thằng Mẫn ngồi thẫn thờ bên vệ đường. Cái tát của bố còn đau ê ẩm nhưng nó không khóc. Nhưng nghĩ đến em gái thì nước mắt nó ứa ra giàn giụa. Thế là ngày mai bé Mận không có quần áo mới rồi.     

       Thằng Mẫn uể oải chống tay đứng dậy. Nó thất thểu bước về nhà. Nhìn  mảnh bát và những hạt cơm vương vãi khắp sân, nó biết bố nó vừa mới về nhà xong. Thằng Mẫn vội đi tìm em. Bé Mận đang ngồi thu lu ở góc thềm vẻ mặt hoảng sợ. Mẹ nó thì đang thái rau lợn dưới bếp. Thằng Mẫn bế em vào nhà. Nó lau nước mắt cho em rồi hỏi:    

      - Em đói không?    

       Con bé gật đầu rồi thỏ thẻ:    

      - Bố hất đổ nồi cơm rồi anh ạ.    

      - Anh đi mua bánh mỳ cho em ăn nhé!     

      - Anh cho em đi với nhé!.     

      Thằng Mẫn dắt em ra ngoài đầu làng mua cho em cái bánh mỳ một nghìn. May còn sáu nghìn đồng bán mớ cua, cá vụn thằng Mẫn lận ở tay áo xắn lên nên bố nó không biết. Bé Mận ăn hết cái bánh mỳ thì hai mắt díu lại buồn ngủ. Thằng Mẫn bế em lên giường, vỗ vỗ vào lưng dỗ dành nó ngủ. Con bé cứ nắm chặt tay anh. Chờ em ngủ hẳn, thằng Mẫn mới gỡ tay mình ra. Nó lặng lẽ nhìn em gái. Ước mơ mua cho em một bộ quần áo mới đã không thành, nhưng ý chí, quyết tâm bỏ nhà ra đi của thằng Mẫn đã chín. Nó nhè nhẹ xoa má em một cái rồi quả quyết bước ra cửa. Nhưng ra đến sân, giẫm vào những hạt cơm nhem nhép, sực nhớ ra còn năm nghìn đồng trong túi, nó liền quay lại. Ngày mai là sinh nhật của bé Mận...

*

      Thằng Mẫn ra đến đầu làng thì trời bắt đầu mưa phùn. Có lẽ là mưa xuân. Đường làng láng ướt. ánh điện nhạt nhòa hắt ra từ những ngôi nhà ven đường. Trời còn lạnh. Thằng Mẫn cố khép vạt áo lại. Cái áo bị bố giật rách toạc không đủ ấm. Thằng Mẫn rảo bước. Chợt có tiếng gọi:     

      - Mẫn ơi đứng lại… dì bảo!    

      Thằng Mẫn ngạc nhiên dừng lại. Nó nhận ra bóng dì Miên đang đuổi theo. Thằng Mẫn và dì Miên cùng tuổi, cùng học lớp 5. Hai đứa cứ mày, tao quen rồi. Đây là lần đầu tiên Miên xưng "dì" với nó. Thằng Mẫn ấp úng:    

      - Dì ạ!     

      - Định… đi hả Mẫn?    

      - Vâng… cháu…    

      - Này cầm lấy! Có tiền mà đi tàu hoả.   

       Dì Miên vừa nói vừa dúi vào tay thằng Mẫn tờ mười nghìn. Dì Miên cởi cái áo ấm cũ đang mặc khoác lên người thằng Mẫn nói thêm: “Trời vẫn còn lạnh  lắm đấy!". Thằng Mẫn “vâng” một tiếng rồi lý nhí: “Chào dì… cháu đi!”. Nó biết dì Miên cũng khổ lắm. Ông trẻ bên ngoại mất, dì còn nhỏ mà đã phải lao động, tần tảo như người lớn.     

      Thằng Mẫn bước qua cái cổng làng có cây đa cổ thụ, rễ rủ loà xòa. Nó nhìn về hướng thành phố xa xa. Một quầng sáng đùng đục hắt lên bầu trời. Nó cũng chưa biết mình sẽ làm việc, kiếm tiền ra sao ở cái nơi đô hội ấy. Nó sẽ làm nghề nhặt rác, đánh giầy, hay bán báo. Làm gì cũng được. Nhưng nhất định nó sẽ phải có đủ tiền để mua cho bé Mận một bộ quần áo mới. Ý nghĩ ấy thôi thúc nó đi tới một chân trời

Chuyện đời hắn

Truyện của Trọng Bảo

        Hắn và tốp thanh niên đi làm thuê vừa chui qua lỗ hổng ra ngoài ga thì có tiếng quát:

         - Tất cả đứng im!

         Hắn và mấy thằng định bỏ chạy thì thằng Đang ngăn lại:

         - Bình tĩnh! Đó là các anh bộ đội đấy!

         Lúc này hắn mới nhìn kỹ ba người súng AK lăm lăm trong tay chặn đường bọn hắn lại. Ba người lính tay đeo băng “Kiểm soát quân sự”. Một người hỏi:

         - Tại sao các anh lại chui qua lối này mà không qua cửa soát vé?

         - Ch… ú… n… g… t… ô… i…

         Thằng Đang ấp úng. Lúc này mấy chiến sĩ kiểm soát quân sự mới chợt nhận ra thằng Đang mặc bộ quân phục cũ, lưng đeo ba-lô, cái mũ cối bộ đội vẫn còn có một ngôi sao vặn ngược vào bên trong. Trông nó chẳng khác gì một người lính. Người nhóm trưởng kiểm soát quân sự nghiêm mặt hỏi thằng Đang:

         - Đồng chí ở đơn vị nào! Yêu cầu xuất trình giấy tờ!

         Thằng Đang đặt cái bao tải đựng mấy lưỡi cuốc, cái xẻng xuống đất. Nó bĩnh tĩnh nói:

         - Tôi không ở đơn vị nào cả! Tôi đã phục viên, là cựu chiến binh đã mấy năm rồi.

         - Vậy giấy tờ của anh đâu?

         - Không có giấy tờ! Đi làm thuê thì còn có giấy tờ gì đâu?

         - Anh cũng phải có chứng minh thư nhân dân chứ!

         - Cũng không có! Phục viên là lo làm ăn, chưa kịp làm chứng minh nhân dân!

         - Thế anh không có giấy tờ gì khác hay sao?

         - Không…

         - Vậy thì, yêu cầu anh về trạm kiểm soát quân sự để chúng tôi xác minh!

         - Xác minh cái cóc khô gì?

         Thằng Đang bắt đầu bực. Người tổ trưởng kiểm soát quân sự giằn giọng:

         - Chúng tôi nghi anh là quân nhân đào ngũ nên phải đưa về trạm kiểm soát quân sự thị xã để xác minh!

         Đến lúc này thì hắn không nhịn được nữa. Mặt hắn hằm hằm:

         - Đảo ngũ cái con cặc! Một thương binh, một dũng sĩ đánh Mỹ đấy, hiểu không?

         Người tổ trưởng kiểm soát quân sự nghiêm khắc cảnh cáo:

         - Anh kia! Không được nói bậy, nếu không chúng tôi sẽ bắt luôn cả anh giao cho công an thị xã xử lý đấy!

         - Có mà bắt cái đầu… - Hắn lại định văng tục. Thằng Đang vội ngăn hắn lại và dặn:

         - Anh đưa mấy anh em vào nhà ga ngồi chờ em. Em vào làm việc với các anh ấy một lát rồi ra. Chắc là chả có vấn đề gì đâu, chỉ tại bộ quần áo chiến binh em đang mặc này thôi, chứ các anh ấy không bắt giữ mình vì cái tội trốn vé tàu đâu mà sợ.

         Hắn hậm hực theo mấy thằng thanh niên vào trong nhà ga. Thằng Đang đi theo ba chiến sĩ kiểm soát quân sự ra phía ngoài đường.

         Sau chiến tranh, biên giới tràn ngập màu áo lính. Trong nhà ga cũng ngổn ngang toàn là cánh lính tráng đứng ngồi lố nhố, súng đạn, ba-lô lỉnh kỉnh. Hậu chiến tranh nhìn những người lính, người dân hết thảy đều khắc khổ, lầm than. Cái đói, cái thiếu thốn hành hạ con người không loại trừ một ai. Thời đánh Mỹ có hậu phương vững mạnh, lại có cả phe xã hội chủ nghĩa hùng hậu chi viện, trang bị đầy đủ nên người lính quần áo luôn mới, lương khô súng đạn đầy đủ. Chiến tranh biên giới nổ ra, hai nước nghèo đánh nhau, cả hai cùng khổ. Lính đã khổ, dân lại càng khổ. Thị xã Lạng Sơn bị tàn phá đang được xây dựng lại, chỗ nào cũng ngổn ngang. Hắn nhìn quanh trong nhà ga, có mấy toán chắc cũng dân miền xuôi lên biên giới làm thuê nên lỉnh kỉnh những cưa đục, bao tải vẻ nhếch nhác. Còn chỗ góc sân nhà ga là mấy anh bộ đội đang ngồi đứng ngổn ngang chắc là đợi tàu để chuyển quân. Nghe nói vẫn đang còn đánh nhau ở hướng bình độ 400, Cao Lộc và hướng Bản Chắt, Đình Lập. Có mấy anh thương binh băng quấn kín cánh tay đang ngồi chia nhau chút thuốc lá quấn gói trong mảnh giấy báo. Tình hình biên giới vẫn đang căng thẳng nhưng dòng người từ miền xuôi vẫn đổ lên biên giới. Chiến tranh chưa qua nhưng con người thì vẫn phải sống. Người địa phương đã lục tục kéo về dựng lại nhà, cày lại ruộng. Vì thế nên họ mới cần nhân công, nhất là bọn làm thuê như hắn từ miền xuôi lên.

         Thằng Đang bị dẫn giải vào trạm kiểm soát quân sự ngay cạnh nhà ga. Không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nó chẳng có một loại giấy tờ tuỳ thân gì không khéo lại lằng nhằng, phức tạp. Mà ngay như hắn trong người cũng chỉ có một cái giấy tha tù nhỡ bị công an kiểm tra thì lằng nhằng vì hắn chưa hết thời gian quản thúc tại địa phương.

         - Anh Đang ra rồi kìa!

         Một thằng trong bọn chợt kêu lên. Hắn ngoảnh cổ lại nhìn. Thằng Đang tay xách ba-lô đi cùng một anh sĩ quan đeo quân hàm thiếu uý. “Chết bỏ mẹ! Khéo có việc gì xảy ra rồi!” - Hắn nghĩ. Lập tức hắn thủ thế, sẵn sàng vọt chạy ngay khi cần. Nhưng nhìn thấy vẻ bình thản của thằng Đang, hắn hơi yên tâm. Thằng Đang dẫn anh thiếu uý đến trước mặt mọi người. Nó giới thiệu:

         - Đây là anh Tuyến, cùng đơn vị với mình ngày ở miền Nam đánh Mỹ!

         - Thế hả! - Hắn thở phào. Anh thiếu uý quân đội bắt tay mọi người rồi khẽ lắc đầu thở dài nói với thằng Đang:

         - Thật không ngờ mày lại thành kẻ làm thuê khốn nạn thế này…

         Thằng Đang ngắt lời anh ta:

         - Thôi… mày đừng suy nghĩ nhiều quá thế! Chiến tranh mà lại…

         Anh thiếu uý dặn:

         - Lên đây làm nếu có việc gì cần thì gọi tao nhé!

         - Không cần đâu! Bọn mày còn bao nhiêu nhiệm vụ quân sự quan trọng, bọn tao là dân đi làm thuê thì có việc gì ghê gớm đâu nên không dám quấy quả, chỉ mong nếu có bị kiểm soát quân sự nghi là lính đào ngũ thì mày giải thích giúp một câu… hì… (thằng Đang không biết rằng chỉ một thời gian ngắn sau thôi nó đã phải nhờ đến anh thiếu uý này để trở về quê trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Nhưng đó là câu chuyện của phần tiếp theo).

         - Nhưng lên trên này phải thật cẩn thận đấy! Khi có tình huống gì thì rút ngay về phía sau nhé!

         - Yên tâm! Bọn tao bây giờ là dân thường rồi, chả có trách nhiệm, nghĩa vụ gì nữa. Thấy tình hình nguy hiểm là chúng tao chuồn luôn…

          Anh thiếu uý chào tạm biệt mọi người rồi đi. Thằng Đang giờ mới bảo:

         - Hoá ra nó chính là trưởng trạm kiểm soát quân sự ở ga. Nó nhận ra em ngay. Cũng may gặp nó nên đỡ phải giải thích lằng nhằng, mất thời gian. Bây giờ bọn ta đi thôi…

          Nó nói và xách ba-lô đứng dậy. Hắn và mọi người cũng đứng lên. Sau này hắn mới biết thằng Đang và anh thiếu uý nọ cùng tiểu đội công binh với nhau thời mở đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Chính thằng Đang đã cứu sống anh thiếu uý trong một trận chạm trán với bọn thám báo. Thằng Đang đã bình tĩnh nổ súng để anh thiếu uý rút lui an toàn. Vết thương của thằng Đang khiến nó phải về phục viên chính là bị trong trận đánh ấy. Cả hai không ngờ gặp lại nhau ở nơi biên giới này trong tình huống một thằng là thương binh đi làm thuê kiếm tiền nuôi thân, một thằng là sĩ quan và vẫn còn phải tiếp tục chiến đấu chặn giặc bảo vệ đất nước. Anh thiếu uý ái ngại cho thằng Đang là một thương binh mất sức đến gần 60% mà vẫn phải bôn ba tha hương, kiếm sống, vợ ốm con đau, đói khát, nheo nhóc. Thằng Đang thì lại băn khoăn khi biết chuyện anh thiếu uý ngày trở về thì người yêu từng thêu tặng tấm khăn tay có hai con chim bồ câu ngậm mỏ vào nhau và dòng chữ “mãi mãi yêu anh” đã đi lấy chồng, đến bây giờ vẫn là một anh “lính phòng không”. Nhưng hoàn cảnh đất nước thời chiến là như vậy. Chiến tranh thật có ý nghĩa lớn lao nhưng cũng thật là vô nghĩa đến tận cùng trong mỗi số phận con người của cuộc chiến ấy.

         Thằng Đang dẫn hắn và mấy người vượt qua sông Kỳ Cùng. Họ bắt đầu cuộc mưu sinh bằng việc san nền nhà, đào giếng thuê và vào rừng chặt củi khô gánh ra chợ bán. Họ nhặt gom từng đồng, từng hào kiếm được đợi ngày về quê.

   Ban ngày hắn và bọn thằng Đang đi đào giếng, san nền nhà, vận chuyển gỗ thuê. Buổi tối sau khi ăn cơm xong cả bọn kéo nhau ra chợ Kỳ Lừa tìm chỗ nào ấm áp trong các quán ở chợ lăn ra ngủ. Hôm nào trời ấm, không mưa thì cả bọn rải rơm rạ nằm ngủ luôn tại chỗ làm đỡ phải đi lại.

           Đào xong hai cái giếng và san xong cái nền nhà, năm thằng chia nhau mỗi thằng được hơn hai trăm đồng. Gia chủ cho thêm mỗi thằng vài cân ngô hạt làm lương ăn. Cả bọn chia nhau đi tìm việc tiếp tục làm thuê. Thằng Đang là người linh hoạt nó kiếm được việc là làm một cái chuồng trâu cho ông người dân tộc ở trong bản. Làm xong cái chuồng trâu cả bọn quyết định trong khi tiếp tục tìm kiếm việc làm thuê thì cứ tạm lên rừng chặt củi đem ra đường quốc lộ bán cho cánh xe tải chở về xuôi. Kiếm được gánh củi từ trong rừng ra cũng khá gian khổ, vất vả. Trong khi đó thì người mua cứ chê ỏng chê eo củi tươi trả giá rẻ mạt. Vừa chặt cành củi khô hắn bực tức nghĩ: “Mẹ kiếp! Kiếm được đồng tiền nuôi mỗi miệng mình đã thật khốn khổ, khốn nạn. Thế mà bọn thằng Đang còn phải kiếm tiền để chữa bệnh cho vợ, đóng học phí cho con nữa thì biết đến bao giờ mới đủ!”.

           Buổi sáng sớm, rừng núi âm u. Tiếng suối chảy rỉ rả buồn như chấu cắn. Thỉnh thoảng hắn lại hú lên một tiếng, đó là tín hiệu để thông tin cho bọn thằng Đang, cũng là để xua tan bớt cái im ắng, tĩnh mịch trong rừng. Cả bọn đang chặt củi khô trong cánh rừng biên giới. Những tiếng hú vọng vào vách đá âm vang không dứt nghe như thời tiền sử mông muội con người gọi nhau đi săn bắt hái lượm vậy. Mà cuộc đời hắn thì cũng chả khác gì đang sống ở thời tiền sử vậy. Hắn nhớ ngày còn trong trại tù cũng vào rừng chặt củi như thế này, có mấy thằng lợi dụng sơ hở của quản giáo rủ nhau bỏ trốn. Bọn chúng chạy mãi vào rừng sâu trốn tránh sự truy lùng. Nhưng rồi bọn chúng không tìm thấy đường đi, cứ lẩn trốn mãi trong hang đá. Đói quá chúng đành trở về trại giam đầu thú. Thằng nào thằng ấy trông chẳng khác gì lũ đười ươi, người rừng, mặt mũi hốc hác, râu tóc dài rũ rượi. Hoá ra mấy tháng sống tự do cũng chẳng để cho chúng làm người. Bọn chúng đã phải ăn cả thằn lằn sống, cá sống khi trốn chạy. Thì ra tự do mà đói khát thì cũng chả để làm gì, thà rằng cứ ở trong tù có khi còn hơn.

           Có một tiếng chim hót véo von xua tan cái tĩnh mịch, âm u của khu rừng. Hắn hứng khởi huýt sáo bắt chước tiếng chim hót. Từ phía ven rừng tiếng thằng Đang goi to:

           - Chuẩn… bị… về… thôi…

           - Hú… hú… hú…

           Mọi người đáp lại và nhanh chóng gom số củi đã chặt được bó lại thành gánh. Thằng Đang chia cho mỗi người mấy quả vả chín vặt được ở ven suối. Đoạn nó cất gánh củi nặng lặc lè lên vai. Nó đi trước theo lối mòn cắt ra phía đường quốc lộ. Giờ này các xe vận tải chở vật liệu xây dựng lên biên giới đã trả hàng xong. Khi quay về cánh lái xe sẽ mua củi của họ chở về xuôi vừa đỡ chạy xe không vừa bán kiếm chút chênh lệch giá. Thời buổi khó khăn ai cũng phải nghĩ cách làm ăn, kiếm tiền. Người có vốn làm ăn lớn, kẻ không có tiền như bọn hắn thì kiếm sống theo kiểu cò con, bán sức khoẻ làm thuê để mưu sinh.

           Hắn chợt thấy vui vui. Gần một tháng làm thuê, chặt củi hắn cũng kiến được vài ngàn đồng rồi. Ăn uống mỗi ngày mất vài chục đồng, cố đến giữa năm hắn cũng sẽ mua được cái khung xe đạp. Góp dần từng loại phụ tùng thì đến cuối năm hắn sẽ lắp được hoàn chỉnh cái xe đạp để đi. Có cái xe đạp hắn sẽ chở củi, thồ hàng thuê đỡ gánh gồng vất vả.

          Hắn đang phấn khởi với những dự tính của mình thì giật nảy người bởi một tiếng nổ “oành” rất đanh ở phía trước. Đất dưới chân hắn rung lên. Đất đá văng rào rào, lá cây rụng lả tả. Hắn vội ném gánh củi rồi nằm lăn ra đất. Khói bụi chưa tan hắn đã gào lên:

          - Đang ơi! Có chuyện gì thế?

          - Mìn… có lẽ thằng Đang đạp phải mìn rồi…

          Thằng Tuân đang nằm rạp ở ngay trước mặt hắn lên tiếng. Giọng nó run cầm cập vẻ hoảng loạn. Hắn lồm cồm bò lên phía trước xem xét. Khói bụi đã tan. Hắn nhìn thấy thằng Đang nằm gục ngay ở ven lối mòn. Gánh củi bị hất văng tuột dây tung toé xung quanh. Hắn gọi to:

           - Đang ơi! Mày có làm sao không?

           Thằng Đang cố ngồi nhỏm dậy, giọng nó yếu ớt:

           - Anh cẩn thận đấy! Lỡ còn một quả mìn khác…

           - Mặc mẹ nó! Tao hỏi mày có việc gì không?

           - Em bị thương rồi…

           - Để tao lên băng bó cho mày…

           - Anh cẩn thận đấy…

           Hắn quát bảo thằng Tuân và cả bọn nằm yên tại chỗ rồi lồm cồm bò đến chỗ thằng Đang đang nằm. Thằng Đang gánh củi đi trước không may đạp trúng một quả mìn chống bộ binh do Trung Quốc chế tạo còn sót lại sau chiến tranh biên giới năm 1979. Bàn chân phải của thằng Đang bị quả mìn xé nát bét, đẫm máu. Loại mìn này rất nguy hiểm vì trong thuốc nổ của nó có một loại hoá chất gì đó gây hoại tử rất nhanh. Khi đạp trúng mìn nổ bàn chân bị thương rất khó cầm máu vì nó làm nát nhừ xương thịt, phá vỡ hết động mạch, tĩnh mạch. Thường là người bị trúng loại mìn này phải cấp cứu rất nhanh mới cứu được tính mạng. Cách tốt nhất là phải lập tức tháo khớp gối để ngăn chặn sự hoại tử lan lên phía bàn chân lên đùi. Trong chiến tranh có trường hợp cấp cứu chậm khi đưa đến trạm phẫu các bác sĩ phải tiến hành cưa ngay đùi đến sát háng để cứu lấy mạng sống cho thương binh. Là một chiến sĩ công binh từng lăn lộn ở Trường Sơn bao nhiêu năm rồi lại chiến đấu ở biên giới Tây Nam nên thằng Đang hiểu rất rõ về sự nguy hiểm của loại mìn này.

           Hắn thì chả hiểu gì về vũ khí, bom mìn cả. Khi nhìn thấy bàn chân bị mìn xé nát của thằng Đang hắn cũng sợ. Hắn vội xé cái áo đang mặc băng bó cho thằng Đang. Nhưng máu vẫn chảy ra ướt đẫm. Thằng Đang bình tĩnh bảo:

           - Anh tìm đoạn lấy dây rừng buộc chặt phía trên vết thương sát gối để cầm máu cho em.

           Hắn nhớn nhác ngó xung quanh tìm kiếm. Lúc này thì thằng Tuân, thằng Công và thằng Hạ cũng đã líu ríu chạy lên. Thằng Hạ rút ngay cái thắt lưng da ra đưa cho hắn. Hắn làm theo sự chỉ dẫn của thằng Đang. Băng bó cầm máu cho thằng Đang xong hắn bảo:

          - Tao sẽ cõng thằng Đang! Những thằng khác đỡ chân cho nó. Một thằng trong bọn chúng mày chạy ra đường trước xem có cái xe ô tô nào đi qua không. Nếu có chặn lại, nói với họ là có người bị nạn xin họ cho đi nhờ về thị xã để đưa vào bệnh viện cấp cứu! Nhanh lên nhé! Mà cẩn thận, đi giữa lối mòn kẻo vấp phải quả mìn khác thì nguy đấy!

          - Vâng!

          Thằng Hạ liền nhao lên phía trước. Nó co cả vai vì gánh củi khá nặng. Hắn cáu tiết quát:

          - Vứt mẹ nó hết củi với kiếc đi. Cứu lấy người cái đã. Người còn chả tiếc, tiếc đéo gì mấy que củi…

          - Vâng… vâng…

          Theo lệnh hắn, cả bọn ném bỏ những gánh củi xuống cạnh lối đi. Khốn nạn những thằng nhà nghèo đi làm thuê đến lúc chết vẫn cứ tiếc công, tiếc của, dù đó chỉ là mấy gánh củi giá bán rẻ mạt. Thằng Công mặt cắt không còn giọt máu, người nó run lập cập. Lần đầu nhìn thấy người bị thương, thấy máu nó sợ quá bật khóc. Nó mới mười sáu tuổi, nhà nghèo, phải bỏ học, bỏ quê đi theo các đàn anh làm thuê kiếm tiền giúp đỡ bố mẹ. Hắn lại phải quát lên:

           - Mày có câm ngay đi không! Khóc gì mà khóc hả! Làm tao rối hết cả lên…

           Thằng Công im bặt nhưng nước mắt vẫn chảy dài trên má nó. Mấy thằng xúm vào đỡ thằng Đang lên vai hắn. Hắn cõng thằng Đang lập cập chạy ra phía đường quốc lộ. Thằng Đang khe khẽ rên vì đau. Vốn là một thằng lính chiến từng bao lần lâm trận nên nó hiểu rất rõ hoàn cảnh của mình lúc này.

           Hắn cõng thằng Đang chạy gằn ra phía đường. Máu từ bàn chân của thằng Đang vẫn rớt tong tỏng xuống đường. Cả bọn chạy ra ngoài bìa rừng. Vượt qua một mỏm đồi thấp nữa là sẽ đến con đường quốc lộ chạy từ cửa khẩu về thị xã Lạng Sơn. Hắn thở hồng hộc vì mệt và cũng vì lo lắng. Thằng Đang khẽ lúc lắc cái đầu rồi bảo:

           - Anh đặt em xuống nghỉ một lúc đã. Cũng chưa có xe xuôi đâu anh ạ!

           Hắn cố nhẹ nhàng đặt thằng Đang ngồi xuống cạnh một mô đá. Đỡ cho nó dựa lưng vào mô đá rồi kiểm tra vết của nó. Thằng Đang bị mất nhiều máu, mặt nó trắng bệch. Nó vẫn cố làm ra vẻ không sao rồi nói với hắn:

           - Anh cố đưa em về quê nhé!

           - Nhất định rồi! Mày yên tâm, tao sẽ đưa mày về tận nhà!

           - Anh nói với các anh của em là chôn em cạnh mộ mẹ em! Mẹ em thương em nhất, thế mà em chưa giúp được mẹ việc gì. Lúc nhỏ đi học, lớn lên đi bộ đội biền biệt chiến đấu ở miền Nam, hoà bình trở về thì mẹ đã mất. Bây giờ em chỉ muốn được chôn cạnh mẹ để có gặp lại mẹ thì giã cho mẹ miếng trầu…

           - Mày nói cái gì mà vớ vẩn, lạ thế! Mày không được chết. Tao sẽ đưa mày đi bệnh viện, mày không việc gì đâu…

           Tiếng thằng Đang vẫn bình thản, giọng nó có vẻ yếu nhưng rất rành rõ:

           - Em làm thuê giành dụm được mấy nghìn đồng đang để ở trong túi áo ngực. Anh cầm về đưa cho vợ em. Bảo cô ấy mua ngay cho con gái cái áo hoa và cái váy để nó được vào đội múa của lớp. Hôm trước nó đi học về mặt mũi buồn thiu. Hỏi thì nó nói không có váy áo đẹp nên cô giáo không cho vào đội múa của lớp…

           Hắn gắt:

           - Thôi! Mày không được nói gở nữa. Vết thương của mày sẽ khỏi. Mà mày phải cố lên, chúng tao sẽ đưa mày đi cấp cứu!

           Thằng Đang không nói nữa. Nó nhắm mắt lại, hơi thở có vẻ mệt nhọc, khó khăn. Hắn lại xốc thằng Đang lên vai cố bước đi thật nhanh. Phía đường quốc lộ có tiếng xe ô tô. Mấy thằng chạy lên chặn giữa đường. Chiếc xe tải đã dừng lại. Đó là một chiếc xe biển số quân sự. Nghe mấy thằng kiếm củi trình bày, ba bốn anh bộ đội đang ngồi trên thùng xe vội nhảy xuống chạy về phía hắn. Một người trong số họ đeo túi cứu thương. “Tốt rồi! - Hắn nghĩ: - Họ sẽ băng bó, tiêm thuốc cho thằng Đang. Xe chạy về đến thị xã chỉ nửa tiếng, chỉ cần nó cố chịu đựng được là ổn”.

Các anh bộ đội giúp đưa thằng Đang lên thùng chiếc xe tải quân sự. Chiến sĩ y tá băng bó lại vết thương và tiêm cho nó một mũi kháng sinh. Hắn ôm thằng Đang ngồi dựa vào thành xe. Chiếc xe ô tô chuyển bánh. Người lái xe cố tránh những ổ gà trên đường để xe đỡ xóc.

         Thằng Đang lả đi. Mắt nó vẫn nhắm nghiền, hơi thở khó khăn. Tay nó bấu chặt tay hắn. Chắc nó đau lắm. Gần đến bệnh viện thị xã thì bàn tay nó chợt lỏng buông khỏi tay hắn. Hắn gào lên lạc cả giọng:

         - Đang ơi! Mày làm sao thế này?

         Chiến sĩ y tá vội nhoài người sang nắm lấy cổ tay thằng Đang tìm mạch. Một lúc sau chiến sĩ y tá khẽ nói:

         - Anh ấy đi rồi!

         Mấy anh bộ đội liền xúm đến. Người động viên, người hỏi han rồi góp ý cách xử trí cho mấy anh em đi làm thuê gặp nạn. Mặc dù xe không qua thị xã nhưng một anh có vẻ là chỉ huy quyết định đưa bọn làm thuê đến tận ga tàu để tìm cách đưa thằng Đang về xuôi.

         Hắn lo cuống lên vì thằng Đang chết rồi sẽ rất khó mang xác nó lên tàu mà thuê xe về tận quê thì cả bọn góp lại cũng không đủ tiền. Khi quẫn bách ắt sinh mưu kế. Hắn đã nghĩ ra một cách. Đó là phải làm như thằng Đang chưa chết, làm như là nó đang ốm. Hắn cõng cái xác thằng Đang ra ga tàu. Cả bọn giả như không có việc gì. Hắn để thằng Đang ngồi dựa vào bờ tường mé ngoài góc sân nhà ga, trùm cái chăn chiên rách lên người nó như là nó đang nằm ngủ. Hắn chụp cái mũ cối bộ đội che mặt cho thằng Đang. Xong xuôi hắn bảo:

         - Bọn mày để đồ đạc cạnh chỗ thằng Đang rồi thằng Công ở lại trông coi, thằng Hạ vào ga xếp hàng mua vé, thằng Tuân đi hỏi dò xem sắp có chuyến tàu hàng nào xuôi không còn tao thử vào trạm kiểm soát quân sự xem tay thiếu uý bạn chiến trường của thằng Đang xem nó có cách gì giúp chúng ta không.

         Hắn chưa nói hết câu thằng Công mặt đã tái xanh giãy nảy lên:

         - Em không ở đây đâu! Để em đi xếp hàng mua vé cho…

         Nhìn thằng nhóc run cầm cập vì sợ hãi, hắn nhân nhượng:

         - Thôi được! Thằng Hạ ở lại, mày vào xếp hàng mua vé!

         - Vâng… vâng… vâng…

         Thằng Công lập cập đáp rồi đi ngay. Thằng Hạ cũng không dám ngồi xuống cạnh xác thằng Đang. Nó cứ đứng lảng vảng ở góc sân ga. Hắn dặn thằng Hạ:

         - Khi có công an, phòng thuế đến kiểm tra mày phải bảo họ có anh bạn bị ốm nặng, bệnh lây để họ khỏi soi mói, hiểu không?

         - Em hiểu rồi! Anh cứ… cứ đi đi…

          Hắn ra đi ngoài cổng nhà ga nhưng trong lòng vẫn chưa yên tâm. Hắn tính toán mọi việc phải giải quyết thật nhanh. Trời đã bắt đầu oi nóng, nếu không đưa được thằng Đang lên tàu về xuôi ngay trong đêm nay thì đến ngày mai sẽ rất nguy. Cái xác nhất là bàn chân nát bét của thằng Đang sẽ bắt đầu phân huỷ, mùi hôi thối sẽ toả ra, đưa nó lên tàu sẽ bị phát hiện ra và tống cổ xuống ngay.

          Đến ngôi nhà cấp bốn có tấm biển “Trạm kiểm soát quân sự” hắn lại ngập ngừng không muốn vào. Hắn nghĩ tay thiếu uý này cũng chưa chắc giúp được gì và sợ nhất là khi rõ mọi chuyện nó sẽ ngại mà từ chối và nói không quen biết thì càng thêm bực mình và tủi cho thằng Đang. Ở đời thiếu gì chuyện khi vui thì vỗ tay vào, lúc buồn thì lảng ra ngay, làm gì có chuyện bạn bè, chiến hữu sống chết có nhau như người ta vẫn ca tụng. Đời hắn chỉ thấy toàn là những chuyện bạn bè phản nhau, cấp trên cấp dưới hãm hại lẫn nhau, bố con bất hiếu, anh em tranh giành nhau… Thôi chả vào là hơn. Hắn quay ngoắt lại thì chạm ngay một anh bộ đội đang đi về. Đó là người chiến sĩ trong tổ kiểm soát quân sự từng chặn bọn hắn bữa trốn vé chui qua rào hôm mới lên. Anh ta chắc vừa đi tắm về, tay còn bưng một chậu quần áo vừa giặt. Nhận ra hắn, anh ta hỏi:

         - Anh có việc gì mà vào trạm kiểm soát quân sự hả?

         - Tôi… tôi muốn gặp thiếu úy trạm trưởng!

         - Thiếu uý Tuyến trạm trưởng đi họp vắng rồi!

         - Thế khi nào thì thiếu uý về?

         - Theo kế hoạch thì đến chiều mai mới về! Anh có nhắn gì không?

          - Không… không… không nhắn gì! Bạn cũ cùng đơn vị anh ấy bị ốm, đang ở ngoài nhà ga, tưởng anh ấy có ở nhà nên tôi tìm vào báo tin… Thôi thế thì tôi đi đây!

          Nói xong hắn bước đi luôn. Qua cửa hàng tạp hoá hắn hỏi mua mấy cái túi ni lông to đựng hàng. Hắn nghĩ đến chuyện phải dùng ni-lông quấn bọc thật kín cái chân nát bét của thằng Đang để nó khỏi bốc mùi và nếu cần phải bó gọn thi thể nó lại như một bao tải đựng hàng hoá để đưa lên tàu. Dọc đường công an, phòng thuế, quản lý thị trường rồi cả kiểm soát quân sự nữa. Họ mà kiểm tra thì biết làm thế nào! Mẹ kiếp, cuộc đời có lúc lại chó má thế này, chết cũng chả được yên thân. Đem thi hài một thằng chết, một thương binh chống Mỹ hẳn hoi về quê mà phải lén lút không khác gì đem theo hàng buôn lậu, hàng quốc cấm. Mà cũng thật khốn nạn cho cái thằng Đang- một thằng lính công binh bao năm lăn lộn trên dãy Trường Sơn, ở biên giới Tây Nam. Nó đã từng tháo bao nhiêu quả bom nổ chậm, vô hiệu hoá bao nhiêu quả mìn để thông đường cho quân qua, xe qua mà vẫn bình yên vô sự nay lại ngã xuống vì một quả mìn bé nhỏ trong cuộc mưu sinh. Trước số phận của thằng Đang khiến hắn cứ nghĩ mãi đến sự vô nghĩa của cuộc đời như một cái vòng luẩn quẩn mà con người bị cuốn vào rồi bật ra tã tượi rách nát.

         Về đến sân ga trời đã sắp tối. Hắn bảo thằng Hạ canh chừng để hắn buộc túm, quấn cái túi ni-lông vào bên chân bị thương của thằng Đang. Đang lúi húi bên cái xác thì có bóng một anh công an đi tới, hắn vội trùm lại cái chăn cho thằng Đang. Đoạn hắn ngồi sát bên thằng Đang kéo đầu nó dựa vào vai mình như đang ngủ. Thằng Công vẫn xếp hàng chưa mua được vé tàu xuôi. Thằng Tuân chạy ra thông báo khoảng nửa đêm sẽ có một chuyến tàu hàng chở than từ Na Dương về Yên Viên. Hắn quyết định:

         - Nếu không mua được vé tàu thì chúng ta sẽ tìm cách chui vào trong nhà ga chờ chuyến tàu hàng dừng lại đưa thằng Đang lên toa vừa đỡ tốn tiền vé, vừa yên tâm không bị phát hiện. Phải chuẩn bị thật cẩn thận. Bây giờ thằng Hạ với thằng Tuân ngồi đây trông chừng, tao vào xem thằng Công xếp hàng thế nào rồi đi xem chỗ nào có thể chui vào ga không đến đêm lại lúng túng…

          - Vâng, anh cứ đi đi…

          Hắn vừa đứng dậy thì phía cổng xuất hiện hai anh bộ đội đeo băng đỏ. Hắn hơi lo lo sợ họ mà kiểm tra như hôm trước thì phiền phức. Nhưng khi hai người lính lại gần thì hắn thấy yên tâm vì nhận ra người đeo quân hàm thiếu uý chính là bạn của thằng Đang. Anh ta cùng một chiến sĩ đi đến vẻ rất vội. Hắn liền tiến ra phía cổng nhà ga có ý đón. Anh thiếu uý cũng nhận ra hắn. Anh ta hỏi ngay:

          - Thằng Đang bị ốm thế nào hả anh?

          - Nó… nó… chết rồi!

          Anh thiếu uý giật mình sững sờ, miệng anh ta há ra mà không nói được thêm câu nào. Hai khoé mắt anh nước mắt ứa ra chảy xuống má. Hồi lâu anh ta hỏi giọng vẫn lạc đi:

          - Thế… thế… nó… nó đang ở đâu?

          Hắn không trả lời mà túm tay kéo anh thiếu uý lại chỗ góc sân nhà ga. Thiếu uý Tuyến quỳ xuống mở cái chăn chiên đang đắp trên người thằng Đang, lật cái mũ cối ra nhìn mặt bạn. Sau một lát, anh ta chùi mắt đứng lên hỏi:

          - Bây giờ các anh tính thế nào?

          Hắn nói tóm tắt lại kế hoạch đưa xác thằng Đang xuôi tàu về quê. Thiếu uý Tuyến lặng người trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi bảo:

          - Các anh cứ chuẩn bị đi! Bây giờ em về trạm một lát. Hôm nay có một đoàn xe vận tải của Tổng cục Hậu cần chở vật liệu xây dựng lên các điểm chốt. Một số xe đã trả hàng xong quay về xuôi, những xe đi hướng Lộc Bình thì chưa thấy về qua trạm. Em sẽ bảo anh em đón xe và cố nói khó, nhờ họ đưa các anh và thằng Đang về xuôi. Nếu không được thì các anh hãy đi tàu…

          - Nếu được thế thì may! Cảm ơn anh quá!

          - Cảm ơn gì! Thằng Đang nó chết rồi… thương nó quá, vợ con ốm yếu, nheo nhóc… May mà hôm nay họp xong em về ngay không ở lại ăn liên hoan, xem văn công. Về đến trạm nghe anh em nói lại em ngạc nhiên vì thằng Đang rất khái tính, nó chả bao giờ­­ nhờ­ vả ai gì đâu. Nghe anh vào tìm mà không phải là nó, em biết ngay có chuyện rồi nên ra ga luôn. Nhờ­ anh mà em mới gặp được thằng bạn thân lần cuối… Thôi em về trạm xem có xe nào qua không! Em sẽ để cậu chiến sĩ ở lại đây giúp các anh.

           Hắn nhìn theo anh thiếu uý vừa chùi mắt vừa hớt hải đi ra phía cổng nhà ga. Nhờ có anh thiếu uý nên người chỉ huy đoàn xe vận tải, cũng là một sĩ quan từng lái xe trên đường Trường Sơn đồng ý cho bọn hắn đi nhờ về xuôi. Anh còn nói sẽ đưa xác thằng Đang về tận quê. Bởi vì dù sao thằng Đang cũng là một cựu chiến binh, một thương binh cơ mà. Thiếu uý Tuyến đem ra một tấm vải liệm. Những người lính biên giới và cánh lái xe quân đội tiến hành gói buộc thi hài thằng Đang cẩn thận rồi đưa lên nằm trên thùng một chiếc xe biển đỏ. Lúc xe chuẩn bị chuyển bánh, thiếu uý Tuyến rút trong túi ra mấy tờ giấy bạc đưa cho hắn:

         - Lương tháng này em vừa lĩnh! Anh cầm về đưa cho vợ Đang giúp em. Khi nào có dịp về phép em sẽ đến thăm nhà nó…

         Hắn cầm số tiền của anh thiếu uý đưa và gộp vào số tiền công làm thuê của thằng Đang để lại. Hắn cũng lần túi tìm số tiền làm thuê, chặt củi bán của mình gộp thêm vào chỗ tiền của thằng Đang nhờ gửi cho vợ nó.

         Chiếc xe quân sự từ từ chuyển bánh chạy ra khỏi thị xã Lạng Sơn. Cả bọn ngồi xung quanh xác thằng Đang. Trời sụp tối rất nhanh. Chiếc xe lặn vào bóng đêm và bụi đất mịt mùng của con đường lở loét. Ánh đèn pha của nó vẽ thành hai vệt sáng chòng chọc giống như hai con mắt cú. Những hạt mưa lất phất quất ngang mặt hắn bỏng rát. Bầu trời đêm đen thui. Hắn nghĩ: “Nếu xe đi suốt đêm thì đến sáng mai xe sẽ về đến quê. Đang ơi tao sẽ đưa mày về tận nhà nhưng tao biết nói với vợ con, gia đình mày thế nào đây!”.

Sáng sớm hôm sau thì chiếc xe quân sự về đến làng hắn.

         Nhà thằng Đang ở tận cuối làng, sát cánh đồng đang đổ ải, bừa cấy. Trời đầu mùa hè đã nóng như nung. Vợ con thằng Đang gần chết ngất ngay đi vì tai họa đến bất ngờ phải gọi y sĩ tiêm thuốc trợ tim cấp cứu. Cả làng nhốn nháo như bất ngờ có loạn lạc, đạo tặc hay hỏa hoạn. Nhưng rồi kẻ khóc cứ gào khóc, người chuẩn bị tang lễ cứ chuẩn bị. Ông trưởng thôn vốn là người có kinh nghiệm lo chuyện tang ma lập tức cắt đặt công việc cho mọi người. Ở làng xã Việt Nam bao đời vẫn thế. Khi có tai hoạ, bất trắc thì sau những giây phút bàng hoàng họ đã biết làm việc gì ngay để chia sẻ, giúp đỡ nhau trong cơn bĩ cực.

          Ngõ nhà thằng Đang kẻ ra, người vào nhốn nháo, hớt hải lo đám tang. Do thằng Đang bị thương nặng, chết từ hôm trước lại đem từ nơi khác về nên phải đưa nó ra đồng ngay trong ngày theo đúng phong tục của làng. Theo sự chỉ huy của ông trưởng thôn, đám thanh niên bọn thì đi đào huyệt, bọn thì hối hả dựng rạp che nắng khoảnh sân nhỏ. Mấy tay thợ mộc xoèn xoẹt cắt ván ghép quan tài ở góc vườn. Trong căn nhà gỗ cũ kỹ là tiếng kêu khóc ầm ĩ của vợ con thằng Đang khi họ vừa tỉnh lại.

          Từ lúc về đến làng hắn chả biết làm gì. Dân làng nhìn thấy hắn có người thì chào hỏi, có kẻ thì trợn mắt nhìn vẻ khinh bỉ. Hắn cũng chả buồn quan tâm. Vợ con thằng Đang đầu tóc rũ rượi vật vã giữa nhà. Hắn chờ mãi vợ thằng Đang mới hơi trấn tĩnh lại để chuyển số tiền và nói lại những lời thằng Đang căn dặn vợ con. Xong xuôi, hắn len lại chỗ người ta lau chùi cát bụi rồi tắm rửa cho thằng Đang. Nó được đặt nằm ngay ngắn trên giường. Người ta mặc cho nó một bộ quân phục còn mới nhất, có đủ cả cầu vai, quân hàm hẳn hoi. Trên ngực áo thằng Đang lủng củng những huân, huy chương, huy hiệu, kỷ niệm chương. Nhìn nó ai cũng ngỡ như nó vừa tham gia một cuộc diễu binh, diễu hành về đang nằm nghỉ chứ không phải là vừa mới đi làm thuê đào giếng, đốn củi kiếm ăn lam lũ ở nơi rừng sâu biên giới.

          Hắn đứng lặng nhìn thằng Đang. Nét mặt nó đã trở lại vô ưu. Có lẽ chỉ có cái chết mới khiến người ta thôi khỏi phải suy tư. Hai bàn tay nó đặt yên trên bụng. Đôi bàn tay ấy đã cầm súng đi mấy chiến trường, từng đào đất, làm đường, xây hầm hào, công sự, từng vặn kíp, tháo bom nơi mặt trận và mới vừa đây còn cầm xẻng, cầm cuốc, cầm dao làm thuê, chặt củi.

          Đám tang thằng Đang khá đông.

          Trời sang chiều càng ong ong bức bối. Cái nắng đầu mùa hạ khiến con người cảm thấy bứt dứt, khó chịu. Thời tiết nóng vậy mà các cựu chiến binh trong làng, trong xã vẫn mặc lễ phục chỉnh tề để tiễn người đồng đội về nơi cực lạc. Vợ con thằng Đang khóc hờ không còn rõ tiếng nữa. Ai cũng tỏ vẻ tiếc thương một con người thật thà, tốt bụng. Ông phó chủ tịch xã đọc một bài điếu văn ngắn ca ngợi chiến tích vẻ vang của người lính công binh Trường Sơn năm xưa. Giọng ông phó chủ tịch ngắc ngứ, vấp mấy lần vì chưa kịp tập đọc trước bài điếu do anh chủ tịch hội cựu chiến binh xã suốt buổi trưa vò đầu bứt tai soạn thảo. Hắn cố len vào chỗ đám người gào khóc nhốn nháo để thả một hòn đất xuống huyệt mộ của người đã khuất. Đám thanh niên bắt đầu hối hả xúc đất hất xuống hố. Tiếng đất cát rơi lục cục trên ván thiên. Vợ con thằng Đang lăn lộn kêu khóc lăn cả xuống huyệt mộ khiến đám thanh niên chốc chốc lại phải dừng xúc đất nhảy xuống lôi lên. Trông hai mẹ con họ chả khác gì hai túm rẻ rách bẩn thỉu.

          Mây mù chợt kéo đến. Bầu trời tối sấp lại. Một tiếng sét nổ vang trên cánh đồng. Cơn mưa rào sầm sập đổ xuống. Mưa to quá. Những hạt mưa ném ràn rạt trắng cả cánh đồng. Đất ruộng trồng khoai lang bở tơi rồi nhão nhoẹt. Đám thanh niên chẳng quản mưa gió gào thét quát tháo nhau cố xúc đất đắp nấm cho cao lên. Nhưng nấm mộ của thằng Đang vun mãi cũng chẳng tròn. Mấy bà, mấy chị cố che mưa đốt một nắm nhang để cắm lên mộ. Những nén nhang vừa cắm đã xèo xèo rồi tắt ngấm vì mưa. Ông anh thằng Đang nói vài câu cảm ơn cả làng. Tiếng ông khản đặc lẫn chìm trong tiếng mưa, tiếng gió ào ào.

         Những người đi đưa ma đội mưa trở về làng. Có nhiều người bảo thôi thế là xong một kiếp người, anh Đang ra đi vậy là mát mẻ, thanh thản. Nhưng riêng hắn lại cứ vẩn vơ với một suy nghĩ khác...  

          Ngay khi vừa tan đám tang thằng Đang ông phó chủ tịch xã đã gặp và cảnh cáo hắn:

          - Anh đi làm ăn ở đâu thì hàng tháng cũng đều phải về gặp chính quyền xã để trình diện hiểu không!

          Hắn gườm nhìn ông phó chủ tịch không nói gì. Ông ta đe thêm:

          - Mà hình như vừa mới ra tù anh đã lại gây ra một vụ đánh nhau ở ngoài nhà ga phải không? Công an họ đang điều tra chuyện ấy đấy, cứ liệu hồn…

          Mắt hắn trợn lên. Hắn chỉ muốn tống ngay vào cái mõm của ông phó chủ tịch xã một quả. Nhưng hắn đành cố nín nhịn. Hắn nuốt ực một cái rồi quay đít đi. Hắn cởi phắt cái áo ra vắt bớt nước mưa. Nhìn cái mặt hổ gớm ghiếc xăm trên ngực hắn, mấy người đi đưa ma vội rạt ra tránh đường cho hắn. Nhưng vẫn có một người tả tơi hớt hải cố đuổi theo hắn. Đó là vợ thằng Đang. Chị ta mếu máo nói với hắn:

          - Em xin… xin… đa tạ bác! Mời bác quay về nhà em ăn bát cơm rồi hẵng đi…

          - Thôi, tôi không ăn đâu! Tôi đi cho kịp xe khách lên tỉnh. Cô nhớ lời chú ấy dặn, cố mà lo cho con bé học hành đến nơi, đến chốn, hiểu phông!

          - Vâng… vâng… em đội ơn bác...

          Hắn lầm rầm trong miệng: “Mẹ kiếp! Cuộc đời sao mà khốn nạn đến thế, mang về cho vợ con nó một xác chết mà còn được cám ơn!”. Người đàn bà đứng rúm ró ven đường kéo vạt áo xô lau nước mắt. Hắn nhảng qua con mương nhỏ lên đường cái. Dáng hắn chúi đầu về phía trước. Chợt có ai đó cất tiếng hỏi:

          - Chú Lỗi lâu quá rồi mới về làng đấy nhẻ?

          - Ờ… ờ…

          Đúng là cũng phải đến ngót chục năm hắn mới về làng. Trước khi tiếp tục kiếp sống tha hương, tự dưng hắn lại muốn nhìn ngắm làng mình một chút. Hắn có linh cảm lần này ra đi sẽ lâu lắm nữa mới lại trở về làng. Hắn liền mặc cái áo ướt lên người để dân làng đỡ ngại khi hắn đi vào làng. Hắn bỏ con đường tỉnh lộ rẽ vào đi cắt con đường qua làng ra phía thị trấn, nơi xe ca sẽ dừng lại đón khách.

           Làng hắn nằm trải dài ngay dưới chân một dãy núi đất thấp. Hồi còn nhỏ hắn thường nghe ông từ già trông coi đền Thượng nói thì đó đó chính là một trong bốn con rồng đang vờn ngọc. Viên ngọc là cái hồ nước xanh trong ở giữa cánh đồng. Dãy núi phía sau nhà hắn nằm trải dài uốn lượn giống như một con rồng đất với những cái chân xoãi ra hai bên. Mào của con rồng chính là ngôi đền cổ ngay sau nhà hắn. Ngôi đền này thờ một vị nữ tướng của Hai Bà Trưng. Truyền thuyết còn lưu lại rằng khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, vị nữ tướng này còn tiếp tục cầm cự, chiến đấu thêm một thời gian nữa. Khi bị giặc truy đuổi đến đây, tướng sĩ quanh mình đã tử trận hết chỉ còn lại một mình, vị nữ tướng ấy đã bắn những mũi tên cuối cùng về phía giặc rồi nhảy xuống sông Đáy con tuẫn tiết. Trên cành cây gạo già phía Bắc, hướng tháp Bình Sơn vẫn còn lại ba mũi tên ấy. Những buổi chiều đông trời u ám, nhìn cây gạo già nghêng nghiêng, cành cây có ba mũi tên đồng giơ lên như một cánh tay bị thương của người chiến binh sắp ngã xuống. Người ta lập đền thờ bà. Ngôi đền lợp ngói nhở trên mỏm núi ngẫu nhiên tạo nên chiếc mào con rồng làng hắn.

           Con rồng làng hắn có hai mắt là hai cái giếng cổ không biết đào tự bao giờ. Con mắt dương là cái giếng Núi. Giếng đào trên một mỏm đá cao hơn ngọn tre làng mà mùa nào cũng có nước. Con mắt âm là cái giếng Chằm. Giếng đào giữa bài lầy, váng phèn chua vàng như nghệ mà nước cứ trong leo lẻo, ngọt mát, chẳng bao giờ cạn. Ngày xưa, cả làng hắn lấy nước ăn từ hai cái giếng ấy. Từ khi ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa phong trào "3 công trình vệ sinh nông thôn" ra đời, nhà nào cũng đào giếng, xây nhà tắm, làm hố xí hai ngăn thì hai cái giếng này bị bỏ quên, không người thau rửa. Trẻ con ném gạch đá, cây cối, vỏ dứa, vỏ thị xuống giếng. Vì thế nên giếng núi cạn dần, giếng chằm đục dần. Năm tháng qua đi, người ta dỡ gạch, phá hỏng mất hai cái giếng cổ ấy. Trên dãy núi lưng rồng thì cây cối bị chặt phá loang lổ, tựa như những chiếc vảy rồng bị tróc gần hết.

          Có phải vì bị chọc thủng hai con mắt, bị tróc mất vảy mà con rồng làng hắn không bay lên được, nên làng hắn nghèo, người làng không có ai làm quan, thanh niên làng hắn kẻ thì lận đận, tù tội như hắn, nhiều người ra trận chiến đấu, đánh nam dẹp bắc như bọn thằng Đang nhưng rút cục vẫn chỉ là "lính quèn", suốt đời nghèo hèn, khốn khổ, khốn nạn...          

  Lên được xe khách hắn cũng chưa biết mình sẽ đi đâu. Hắn nghĩ có lẽ lại phải ra ga kiếm việc làm thuê như trước vậy. Nhưng hắn chợt giật mình nhớ lại những lời ông phó chủ tịch xã cảnh cáo là công an đang điều tra vụ hắn đánh nhau ở ga đã vặn gãy tay cái thằng lưu manh bữa trước. Có lẽ không làm ăn gì ở đây được rồi, hắn phải đi thật xa mới ổn.

          Đến bến xe thị xã, hắn kéo cái cổ áo cố che bớt mặt để không ai nhận diện được rồi bước ra phía ngoài đường phố. Trời đã tối. Thị xã nhỏ lập loè ánh điện trong các nhà hàng hắt ra. Phố núi về đêm thưa người qua lại. Chỉ có những nơi như bến xe, ga tàu là luôn luôn ồn ào, nhốn nháo cả đêm. Hắn đi lang thang qua những con đường của thị xã.  Đèn đường chỉ có trên các phố chính. Đến một con đường nhỏ tối tăm có nhiều cây to gần công viên thị xã hắn giật nảy mình khi có tiếng người nói sát ngay bên tai:

          - Anh trai đi không?

          Một cô gái ăn mặc hở hang đứng nép ngay gốc cây sát đường chìa ngực ra sát ngay tầm tay hắn. Hắn nhác nhìn thấy mấy gốc cây bên cạnh cũng có các cô gái đang đứng nép sẵn. Mùi nước hoa rẻ tiền phảng phất làm hắn suýt hắt hơi. Hắn lủng bủng trong miệng:

          - Thì cũng đang đi đây…

          - Đi chơi với em cơ mà… giá rẻ thôi… hôm nay em… khuyến mại cho…

          À thì ra là bọn gái đứng đường đón khách. Hắn bực bội nghĩ thầm: “Mẹ kiếp! Đang chả có đồng mẹ nào dính túi lấy đâu mà đi chơi gái…”. Cô gái điếm vẫn cố nài nỉ chèo kéo:

          - Giá cả đặc biệt anh ơi!

          - Thôi đi mà bán cho các ông chủ ở trong nhà cao cửa rộng ánh đèn lấp lánh kia kìa…

          - Anh trai làm cái gì mà… kiêu thế?

          - Kiêu cái con khẹc! Đang thất nghiệp đây! Mả mẹ nó chứ sao mà cuộc đời với điếc toàn chuyện sui xẻo đen như con chó mực!

          - Thế thì càng phải đi với em làm một cái để giải sui anh nhé!

          - Có mà sui thêm thì có…

          Hắn vừa nhấm nhẳng trả lời vừa rảo bước tránh xa những cái gốc cây biết nói ấy. Cô gái lại thụt vào ẩn mất sau gốc cây như tan biến trong bóng đêm mờ ảo.  Đi chán rồi hắn lại quành về chỗ cổng nhà ga, nơi đám dân làm thuê, bốc vác ngồi nằm ngổn ngang chờ việc. Hắn chợt thấy bụng đói cồn cào. Từ trưa đến giờ hắn chưa có cái gì bỏ bụng. Lục tìm trong túi áo còn mấy chục đồng tiền lẻ, hắn mua một cái bánh mỳ. Toàn bộ số tiền tích cóp được khi làm thuê ở Lạng Sơn hắn đã gộp vào với số tiền của thằng Đang và đưa cho vợ con nó rồi.

          Chệu chạo nhai mẩu bánh mỳ khô không khốc hắn vừa dỏng tai nghe bọn làm thuê buôn chuyện. Chúng đang kháo nhau chuyện có thằng làm thuê vừa gặp may, giàu sụ lên bất ngờ. Một người kể:

          - Một thằng ở làng tao đi đào đãi vàng trên Bắc Cạn. Nó đãi cả tháng cũng chỉ được vài phân. Nó đã tính chuyện bỏ về quê. Hôm đó nó ngồi bên bờ suối chờ nước rút để lội sang bên kia ra đường mòn về xuôi. Ngồi buồn nó nhặt đá ném xuống suối. Vô tình nó cầm một hòn đá sần sùi lên định ném đi. Thấy nặng nặng nó liền chà sát hòn đá xuống cát thấy có ánh vàng lấp lánh. Hoá ra đó chính là một cục vàng sa khoáng nặng đến hai cân ki-lô-gam. Biết là gặp vận may, nó liền giấu ngay cục vàng vào cái bao tải rách lần ra cửa rừng bắt xe về quê. Nó phải ỉa một bãi bôi vào cái bao tải thối hoắc để che mắt bọn cướp chặn đường. Cục vàng ấy nó chặt ra thành từng mẩu đem bán dần lấy tiền. Bây giờ nó làm một cái nhà to nhất làng, lại mua cả một khu trang trại trồng cây cảnh, bon sai, lấy một con vợ đẹp nhất xã…

          Một thằng khác thì bảo:

          - Ăn thua gì! Thằng ở làng tao đi làm thuê ở mỏ đá quý trên Yên Bái còn may mắn hơn. Thằng này tính lười biếng, làm thì ít, chơi thì nhiều bị bọn chủ thầu đuổi việc. Thiếu tiền trả nợ bị bọn “cai” ở mỏ tẩn cho một trận lên bờ, xuống ruộng hất ngã lăn xuống đống đất bẩn thỉu. Nó bị ngất đi. Lúc tỉnh lại nó thấy quai hàm đau ê ẩm, mồm thì ngậm đầy bùn đất. Nó liền nhổ ra tay xem có cái răng nào bị đánh gãy không. Bất ngờ trong lòng bàn tay nó là một viên hồng ngọc loại quý hiếm nhất sáng long lanh. Thì ra khi bị bọn chủ nợ gí mặt xuống đống bùn bẩn mồm nó ngoạm trúng một viên hồng ngọc lẫn trong bùn đất. Nó vội nuốt luôn viên hồng ngọc vào bụng và tìm đường trốn về quê ngay. Viên hồng ngọc ấy đúng là loại quý hiếm vào loại “bảo vật quốc gia”, nó bán được mấy tỷ đồng, làm nhà, mua được cả ô-tô. Bây giờ nó là người giàu nhất huyện đấy.

          Nghe bọn làm thuê nói chuyện với nhau hắn thấy hấp dẫn quá. Hắn mong sao cho đời mình cũng có một lần vận may như thế. Hắn lân la bắt chuyện làm quen. Bọn này biết hắn cũng là dân làm thuê đang đi tìm việc, bọn này rủ hắn ngược lên Lai Châu đào đãi vàng. Hắn đồng ý và đi theo bọn chúng luôn.

          Một thằng có vẻ nhanh nhảu giới thiệu:

          - Em là Bất, kia là chú Cần còn anh này tên là Lân, lính chiến ở chiến trường Campuchia yếu sức khoẻ vừa phục viên đi kiếm tiền để về cưới vợ. Bọn em đều là dân “cầu tõm” Hà Nam cả. Còn anh tên gì?

          - Tôi tên là Lỗi, quê Vĩnh Phú!

          - Dân "Vĩnh toét" hả! Sao lại tên là Lỗi, lạ nhỉ?

          - Chả biết! Mẹ tôi đặt thế thì tên nó là thế thôi!

          - Thôi! Tên tuổi không quan trọng… - Thằng lính chiến từ Campuchia về bảo: - Bọn mình đều là bọn dân nghèo đói chuyên làm thuê đi ra thiên hạ kiếm cơm quan trọng nhất là phải luôn coi nhau như anh em hiểu không?

          - Vâng… đúng thế!

          Thằng Lân nói tiếp:

          - Trong “bè lũ bốn tên” chúng mình xem chừng có lẽ anh Lỗi là nhiều tuổi nhất, anh ấy sẽ là anh cả, là đại ca. Bọn chúng ta khi có việc gì đều phải nghe lời anh ấy hiểu không?

          Hắn nhăn mặt bảo:

          - Đại ca làm quái gì! Có phải băng đảng gì đâu, cốt anh em ta có gì thì giúp đỡ nhau, lúc khó khăn, khi hoạn nạn đừng bỏ nhau là được.

          - Đúng thế!

          Thằng Lân rút trong bao ra một cái gói, bẻ đưa cho hắn một nửa nắm xôi sắn:

          - Anh ăn đi, nhai bánh mỳ suông xót ruột lắm…

          Hắn cầm miếng xôi sắn thằng Lân đưa cho. Cả bọn vừa nhồm nhoàm ăn vừa nháo nhác đứng dậy vơ đồ đoàn lao vào ga vì có tiếng loa rè thông báo tàu ngược Lào Cai đang chuẩn bị đón khách.

          Leo lên được nóc toa tàu rồi “bè lũ bốn tên” cũng ăn xong bữa tối. Hắn chợt thấy khát khô cả họng. Thằng Lân lại lục mở cái túi. Nó lôi ra một cái bi-đông bộ đội méo mó. Mỗi thằng làm một ngụm nước rồi nằm ngửa trên nóc toa tàu. Con tàu từ từ chuyển bánh. Hắn dặn cả bọn:

          - Nằm cho cẩn thận kẻo ngủ quên tàu xóc lăn xuống đường ray đấy!

          Thằng Lân thì nói:

          - Lẽ ra có tiền chúng mình đi xe ca lên Điện Biên Phủ rồi sang Lại Châu cho nhanh. Nhưng thôi ta đi tàu lên Lào Cai rồi bắt xe tải chở gỗ sang Phong Thổ, Lai Châu cũng được…

          - Mỏ vàng ở chỗ nào?

          - Hết đường xe lâm nghiệp chúng ta còn phải đi bộ độ một ngày đường nữa thì sẽ tới địa điểm đào đãi vàng.

           Hắn nghĩ: “Cái thằng lính loại ngũ từ Campuchia về này có vẻ thông thạo đường đất vùng Tây Bắc này gớm nhỉ!”. Hắn không biết là khi còn nhỏ thằng Lân đã theo ông bố nó đi buôn trâu khắp vùng Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu rồi.

           Vòng hai tay lên đầu làm gối, hắn nằm ngước nhìn lên bầu trời đầy sao. Vũ trụ là vô hạn nhưng sự hiểu biết và khả năng của con người là hữu hạn. Thế là hắn lại bắt đầu một chuyến đi mới. Hắn đã mấy lần bỏ quê ra đi. Hoá ra để kiếm ăn, để tồn tại con người ta cũng phải có những chuyến ra đi như thế này. Những chuyến đi vô định. Lần trước lên Lạng Sơn gặp bọn thằng Đang đi kiếm củi kết cục thật là khốn nạn, lần này thì theo bọn thằng Lân đi đào vàng chẳng biết có khá hơn không, có đổi đời nổi không hay lại rơi xuống tận đáy như những lần trước. Đời đúng là một vòng xoáy vô định, con người bị cuốn vào cái vòng xoáy ấy rủi may thật không thể nào lường trước!

  Đi bộ hơn một ngày đường mệt bở hơi tai, mỏi rã rời cả chân cẳng bọn hắn mới đến được một điểm đào đãi vàng tận trong rừng sâu. Trước khi vào bãi, cả bọn ngồi nghỉ ở bên bờ con suối đục ngầu đỏ vì hoạt động đào đãi, sàng lọc vàng ở phía thượng nguồn. Những con suối thế này chảy ra sông làm dòng nước cũng đục ngầu như máu. Thằng Lân vừa gỡ một con vắt bám trên bắp chân vừa căn dặn cả bọn. Nó có vẻ khá thông thạo mọi chuyện về đào đãi vàng.

         - Những bãi khai thác vàng vùng này đều do bọn chủ bưởng cai quản. Chúng gọi khu bãi vàng do mình bảo kê quản lý là “doanh trại”. Muốn đào đãi vàng ở đây đều phải tuân thủ quy định của các “chỉ huy” từng “doanh trại”. Phải được bọn này cho phép thì dân “phu vàng” mới có thể đến làm thuê cho các chủ hầm vàng hoặc đãi tự do, mót vảy vàng, cám vàng sa khoáng ở ngoài sông suối.

          - Thế bọn mình phải xin phép chúng nó hả?

          Hắn bực bội hỏi. Thằng Lân gật đầu:

          - Bây giờ chúng mình phải đi tìm bọn “lính gác”, chúng là những thằng tay chân của tên “chỉ huy”. Bọn “lính gác” sẽ dẫn đi gặp các “sĩ quan”, và những thằng cai thầu hầm vàng. Bọn “sĩ quan” và lũ cai thầu sẽ quyết định sẽ tuyển chọn hoặc không chọn thêm nhân công làm vàng.

          - Mẹ kiếp! Thế nếu chúng nó không nhận thì cánh ta mất toi công trèo đèo lội suối mò đến tận cái xứ khỉ ho cò gáy này à?

          - Anh đừng có lo! Dân làm phu vàng ở đây thiếu lắm, chỉ lo thiếu người chứ không lo thiếu việc. Nếu không được bọn chủ các hầm vàng thu nhận thì chúng ta hãy tạm đãi vàng tự do ngoài sông suối vậy.

          - Thế thì cứ đi đãi vàng tự do cho sướng, đếch phải phụ thuộc vào thằng nào!

          - Cũng không hẳn thế! Đào đãi tự do phải tự mua sắm lấy dụng cụ lao động, thu nhập rất thấp và cũng vẫn phải “nộp thuế” đầy đủ mới được làm vàng ở đây!

          - Ở giữa rừng sâu núi thẳm thế này còn phải nộp thuế cho ai?

          - Thì cho bọn “chỉ huy”, bọn bảo kê bãi vàng chứ còn ai nữa!

          - Tại sao lại phải nộp cho bọn chúng nó! Mỏ vàng sa khoáng là của tự nhiên, nhà nước không quản lý được thì thôi, ai đãi được thì lấy chứ của riêng bố con nhà chúng nó đâu mà chúng đòi “thu thuế” hả?

          - Chúng nó xưng hùng, xưng bá ở bãi vàng này, tự cho mình là chủ, có quyền cai quản, cho ai khai thác mới được khai thác, không nộp chúng nó không cho đào đãi, lôi thôi chúng nó xua đuổi, đánh chém, trấn cướp sạch hết tiền công làm được…

          - Mẹ kiếp cái bọn ăn chặn này…

          Hắn bắt đầu thấy nóng mặt. Thằng Lân bảo:

          - Đành phải thế thôi anh ạ! Bọn chủ bưởng, bọn “chỉ huy” bãi vàng này toàn là quân đầu trộm đuôi cướp, lưu manh, bọn trốn tù, tiền án, tiền sự đầy người nên anh em chúng ta phải hết sức cẩn thận, nhẫn nhịn, nhất định càng không được có ý định chống đối lại chúng nó sẽ không thể làm ăn gì được mà còn rất nguy hiểm đến tính mạng…

           Càng nghe thằng Lân nói, hắn càng thấy vô cùng ấm ức, tứ­c anh ách trong bụng. Nhưng thôi cố nén nhịn xem sao đã! Hắn nhủ thầm.

           Chặn bọn hắn lại ở cửa rừng là hai thằng trông đúng là những con nghiện có thâm niên. Đây chính là những tên “lính gác” bãi, là tay chân của bọn “chỉ huy” bảo kê bãi vàng này. Thằng Lân rút từ trong túi ra hai bao thuốc lá ba số đưa cho bọn chúng. Thì ra nó đã chuẩn bị từ bao giờ rồi. Hai thằng “lính gác” mắt sáng lên. Chúng vồ ngay lấy hai bao thuốc. Sau khi châm lửa hút điếu thuốc cho đã chúng mới bảo:

           - Chưa có hầm nào cần tuyển phu đâu! Bọn chúng mày hẵng cứ tạm thời­ đi đào đãi vàng tự do đã. Khi nào có chỗ cần phu chúng tao sẽ gọi ngay. “Thuế” nộp mỗi tuần là hai phân hiểu không!

           - Sao thu cao thế?

           Thằng Lân hỏi lại. Một thằng “lính gác” nhăn nhở:

           - Mỗi ngày kiếm được những mấy chỉ, nộp có hai phân bọ thì thấm tháp vào đâu mà cao với chả thấp!

           - Ở đây kiếm được khá thế cơ à?

           - Chúng mày cứ làm đi rồi sẽ biết! Ở đây vàng nhiều hơn cát ấy chứ! Hôm qua có thằng đã nhặt được một cục vàng to gần bằng củ khoai lang đấy!

           “Mẹ kiếp! Thế sao bọn chúng mày không đi bốc lấy vàng mà nhét đầy mồm việc gì phải thu thuế của chúng ông?” - Hắn làu bàu trong miệng. Thằng Lân khoát tay:

          - Bây giờ bọn ta vào chỗ nào hạ trại làm lán nghỉ đã rồi một người theo tôi đi tìm mua máng gỗ để ra bãi sông đãi vàng.

          Bốn thằng tạt vào một gờ núi đá vôi chìa ra như mái hiên ven suối để đồ dạc xuống. Hắn quan sát, xung quanh có rất nhiều lán trại của dân “phu vàng”. Những mái lều che bằng ni-lông, lợp cỏ gianh, lá cọ lụp sụp, nhếch nhác bẩn thỉu. Mọi người chắc đang đi làm trong hầm vàng hay đãi tự do dưới suối, ngoài bãi sông nên khu lán trại vắng người.

          Thằng Lân phân công:

          - Anh Lỗi và thằng Bất ở lại căng ni-lông làm lán, em và chú Cần đi tìm mua xẻng cuốc và máng gỗ để đãi vàng!

          Hắn băn khoăn hỏi lại:

          - Giữa chốn rừng núi âm u thế này mua cuốc xẻng và máng đãi ở đâu được?

          - Anh yên trí! Có “cầu” là sẽ có “cung”, cứ ra ngoài bãi vàng là có hết! Rồi anh sẽ thấy, ở bãi vàng nơi “thâm sơn tùng cốc” này cái gì cũng có, đem đến tận miệng, phục vụ tận nơi chẳng khác gì như đang ở giữa thành phố ấy! Hi…

          Nó nháy mắt cười cười vẻ rất thông thạo. Hai thằng đi rồi, hắn và thằng Bất bắt đầu chặt cây để làm lán trú chân. Hắn chọn một bãi đất khá bằng phẳng đủ chỗ cho bốn thằng nằm ngủ để hạ trại. Vừa làm hắn vừa nghĩ: “Phen này may mắn chỉ cần ông vớ được một cục vàng bằng nắm tay thôi thì đã hơn cả trăm, cả ngàn gánh củi ở Lạng Sơn”. Hắn chợt thấy vui vui trong lòng. Hắn huýt sáo một điệu chèo cổ. Thằng Bất cười hiền lành:

          - Anh có chuyện gì vui thế? Chắc nhớ bà xã ở nhà hả?

          - Tao tứ cố vô thân, làm quái gì có gia đình vợ con mà nhớ với chả nhung!

          - Thế chắc là nhớ người yêu! Thôi anh đào hố chôn cột lán, em xuống suối múc ít nước về đun để uống nhé!

          - Ừ! Mày cứ đi đi…

          Thằng Bất vớ cái can nhựa rồi tụt xuống dốc. Hắn ôm mấy đoạn cây lên chỗ nền lán và dùng con dao tông đào lỗ chôn cột. Vừa cúi xuống moi đất trong cái lỗ đang đào ngẩng lên hắn giật mình sửng sốt thấy một cặp giò con gái trắng nhởn ngay trước mặt. Hắn ngạc nhiên ngước lên nhìn. Một đứa con gái mặc cái quần soóc màu trắng ngà, áo ba lỗ đứng sát ngay trước mặt hắn. Hắn thấy hơi lạnh sống lưng tưởng là có con ma rừng bất ngờ xuất hiện. Hắn bật ngay dậy, tay nắm chặt con dao. Cô gái nhìn hắn chăm chăm mấy giây rồi hỏi:

          - Anh là bọn mới từ xuôi lên hả?

          - Cô… cô là ai?

          Hắn không trả lời mà hỏi lại. Cô gái hơi nhếc mép:

          - Đúng là anh mới lên chưa biết rồi! Em là nhân viên… “phục vụ” cho cánh dân phu vàng ở đây đấy!

          - Phục vụ cái gì?

          Hắn hỏi vẻ rất ngu ngơ. Đúng là hắn vốn từng trải trong cuộc đời nhưng nhiều khi còn rất ngu ngơ trước thực tại. Cô gái phì cười:

          - Thì phục vụ cánh “phu vàng” các anh giải trí mỗi khi­ nhớ­ vợ­ ấy mà!

          Hắn chợt vỡ lẽ. Thì ra lại là dân bán chôn nuôi miệng. Nhưng sao giữa chốn sơn cùng thuỷ tận mà cũng có bọn bươm bướm này nhỉ. Hắn chợt nhớ tới lời thằng Lân nói lúc nãy. Thì ra bất cứ ở đâu mà có vàng thì ở đó ắt sẽ có gái.

          Cô gái điếm khoanh tay ôm xiết lấy ngực ẩy chồi cặp vú to tròn bật gần hết ra khỏi cái cổ áo ba lỗ khoét rộng rồi bảo:

          - Bây giờ anh đi với em ngay chứ! Về lán của em hay vào ngay chỗ bụi cây bên kia đồi cũng được. Phu mới đến mỏ muốn kiếm được nhiều vàng thì nhất định phải làm một cái để lấy vận may anh ạ!

          Hắn liếc nhìn bộ ngực căng phồng của cô gái nuốt ực một cái. Nhưng chợt nhớ đến lời dặn của thằng Lân, hắn liền xua xua tay:

          - Vừa mới lên làm đếch gì có tiền mà…

          - Không cần! Lần đầu anh mới lên em sẽ cho… ghi sổ nợ. Khi nào có tiền hoặc đãi được vàng sa khoáng thanh toán trả sau cho em cũng được.

          Hắn khéo léo nhưng kiên quyết:

          - Thôi để hôm khác em ạ! Anh còn ở đây lâu…

          Chợt có tiếng thằng Bất ho húng hắng dưới chân dốc. Hắn bảo cô gái:

          - Cô đi đi để tôi còn làm lán ở tạm, các anh em của tôi sắp về rồi!

          Biết không thể dụ được hắn đi theo, cô gái liền dấn đến ấn cặp vú tròn c­ăng nây nẩy day day vào cánh tay trần của hắn. Bàn tay phải của cô ta hạ xuống rất nhanh xoa xát mạnh vào chỗ kín của hắn. Hắn giật mình co rúm người lại. Giọng cô gái lả lơi:

          - Nhớ là khi nào cần thì cứ đến tìm em nhé! Bất cứ­ lúc nào cũng được. Lán của em ở bên kia suối, chỗ gốc cây sung già sù sì rất nhiều quả ấy!

          Cô gái bán hoa vừa đi khỏi thì thằng Bất xách can nước leo lên. Nó vừa lau mồ hôi vừa thở hổn hển hỏi:

          - Em vừa nhác thấy có bóng con gái ở đây phải không anh?

          - Gái điếm đến tận nơi phục vụ đấy, mày có dám chơi một cái cho biết l... sơ­n nữ thế nào không?

          - Eo ôi em sợ lắm! Bọn này toàn là bệnh tật, si-đa đầy mình đấy anh ạ!

          - Ừ…

          - Anh cẩn thận đấy! Bọn này nó ghê lắm, không khéo làm được đồng nào cống cho nó hết!

          - Ừ…

          Nóng quá, hắn cởi cái áo ném lên bụi cây lúp súp. Thằng Bất trố mắt hoảng sợ khi nhìn thấy cái mặt hổ xăm gớm ghiếc trên ngực và cái đầu lâu xương chéo xăm trên lưng hắn. Nó sợ hãi lùi lại mặt cắt không còn giọt máu, hai chân run lẩy bẩy. Giữa lúc ấy chú Cần và thằng Lân đi mua sắm dụng cụ cũng vừa về đến nơi. Cả ba đứng túm tó lại bên nhau và cùng sững sờ nhìn hắn, không ai thốt lên lời.

           Như chợt hiểu rõ mọi chuyện hắn bảo:

           - Chúng mày đừng sợ! Tao vì cuộc đời xô đẩy nên từng là một thằng tù, từng đánh nhau,  từng đâm chém. Nhưng tao chỉ đánh những thằng đáng đánh. Và, tao cũng chỉ là một thằng khố rách áo ôm, đi làm thuê, làm mướn kiếm ăn như chúng mày thôi. Rồi tao sẽ kể cho chúng mày biết mọi chuyện…

           Thằng Lân lấy lại bình tĩnh bảo:

           - Qua mấy ngày đi cùng nhau, bọn em tin anh! - Nó nhặt cái áo đưa cho hắn và nói tiếp: - Nhưng ở chốn này anh phải hết sức cẩn thận. Anh mặc ngay áo vào đi, đừng để ai nhìn thấy…

           Hắn nghe lời thằng Lân khoác cái áo lên người.

           Buổi tối hôm ấy sau bữa cơm đạm bạc giữa rừng sâu hắn đã kể lại cho ba thằng làm thuê nghe về chuyện của đời hắn…

   Sáng hôm sau, thằng Lân đưa cho mỗi người một cái máng gỗ, một cái cào để cào có muôi rộng cỡ bàn tay để cào múc cát dưới lòng sông và một cái lọ pênêxlin buộc một vòng dây tương tự như sợi dây chuyền. Đó là những thứ hôm qua nó và chú Cần đi tìm mua khi hắn và thằng Bất ở lại làm lán. Hắn ngạc nhiên cầm cái lọ thủy tinh nhỏ xíu giơ lên hỏi:

          - Cái này là dùng để làm gì vậy?

          - Hì… đây là cái lọ để đựng vàng sa khoáng đãi được chứ còn để làm gì nữa!

          - Đựng vàng vào cái lọ bé tý này á! Thế thì được mấy nả?

          - Chỉ cần mỗi ngày mỗi người được đầy một lọ thì chả mấy chốc bọn ta đã trở thành giàu sụ đấy anh ạ!

          - Tao tưởng mỗi ngày phải đãi được một vốc to vàng chứ nếu chỉ đựng đầy cái lọ con con này thì ăn thua mẹ gì!

          - Vàng mà anh cứ làm như là cát ấy! - Thằng Lân cười hì hì rồi dặn: - Mọi người nhớ là đeo vòng dây này vào cổ, nhét cái lọ vào trong ngực áo. Khi đãi được cám vàng, nhặt được các vảy vàng, các hạt vàng sa khoáng thì bỏ luôn vào lọ, nút thật chặt rồi giấu ngay vào trong áo, đừng để ai nhìn thấy! Hiểu không?

          Hắn chưa biết đào đãi vàng là thế nào nên cảm thấy rất háo hức. Hắn hình dung sau mỗi ngày sẽ kiếm được đầy một lọ pênêxilin vàng. Ồ! Thằng Lân nói đúng, chỉ cần đầy cái lọ này thì cũng phải đến hai chỉ chứ chẳng phải là ít ỏi đâu. Mẹ hắn lúc còn sống cũng chỉ tích cóp được hai chỉ vàng để phòng thân. Khi bà chết thì hắn còn đang ở trong tù. Nhờ có hai chỉ vàng ấy mà đám ma của mẹ hắn đỡ phần lạnh lẽo khói nhang.

          Cả bọn ra đến bãi sông thì đã thấy đông đặc người. Giữa chốn rừng già heo hút mà sao lại có lắm người mò đến thế! Sức hút của vàng quả là mạnh hơn nam châm rất nhiều. Nam châm hút sắt, còn vàng hút người.

          Thằng Lân bày cho ba người biết cách thức đãi vàng. Dạo trước, khi chuyển từ biên giới Tây Nam ra biên giới phía Bắc đánh nhau với bọn Tàu hồi đầu năm 1979, đóng quân ở một vùng rừng núi nó đã từng đi xem dân đào đãi vàng. Thằng Lân dùng xẻng ấn sâu xuống đáy sông xúc cát đổ vào máng gỗ rồi lắc gạn cho đất cát trôi đi. Lắc đi, lắc lại một lúc trong nước cho đến khi đất cát trong cái máng gỗ trôi đi hết nó mới giơ cái máng lên nhìn. Nó chỉ cho hắn và hai thằng xem rồi nói:

          - Có một ít vàng trong máng đây này!

          Hắn ngạc nhiên. Nhìn cái máng trên tay thằng Lân sạch bong, thấy quái cái gì đâu mà nó bảo có vàng. Thằng Lân hơi nghiêng cái máng gỗ về hướng mặt trời. Có loáng thoáng những đốm sáng phản quang li ti ánh vàng lấp lánh trong máng. Đó là những phân tử vàng nhỏ bé. Thằng Lân khéo léo dùng đầu ngón tay miết vào chỗ những hạt li ti lấp lánh gạn lấy những hạt vàng cho vào lọ. Hắn trố mắt. Vàng mà thế a! Đãi vàng như thế này thì biết đến đời mục thất nào mới có được một chỉ. Hắn liền nhảy ùm xuống sông. Dìm người xuống dòng nước hắn dùng hai tay quờ quạng dưới lòng sông vớ lấy những cục đá, những hòn sỏi to giơ lên xem xét. Đoạn hắn chà sát, đập mạnh chúng vào nhau để xem có cục nào là vàng không. Nhưng chỉ thấy toàn đá là đá. Hắn liền vứt đi rồi lại mò tiếp.

          Thằng Bất thấy thế hỏi:

          - Anh đang làm cái gì thế?

          - Tao xem có vớ được cục vàng nào không chứ đãi nhặt từng hạt nhỏ hơn cả hạt bụi thế này thì biết bao giờ mới được vài phân!

          Thằng Lân phì cười bảo:

          - Anh đừng mò vàng như thế mà mất công! Hãy kiên trì mà đãi cát đi biết đâu vận may cũng sẽ đến…

          Hắn nghe lời thằng Lân cào xúc cát dưới đáy sông đổ vào cái máng gỗ.

          Vừa đãi cát tìm vàng hắn vừa nghe đám “phu vàng” trên sông nói về chuyện đào đãi vàng về những vận may bất ngờ của người làm vàng. Tại bãi vàng này có các hầm đào dọc theo hai bên bờ con sông nhỏ và trên sườn núi. Những cái hầm tựa như những cái hang chuột chui sâu vào lòng đất đi theo các vỉa vàng sa khoáng. Những hầm vàng sâu hun hút, tối tăm và nguy hiểm vì có thể sập bất cứ lúc nào. Từ trong những đường hầm ấy đất đá được moi chuyển ra ngoài để xử lý. Trước hết, những mảnh quặng đá có chứa vàng được cho vào các máy nghiền nhỏ như cám. Đất cát sau đó được đưa qua hệ thống máng sàng lọc loại bỏ đất cát, vàng có trọng lượng nặng hơn sẽ ở lại. Vàng sa khoáng được tách ra nhờ có hệ thống máng thủy ngân. Từ  bột vàng sa khoáng người ta sẽ tiến hành phân kim tiếp tục loại bỏ các tạp chất rồi cô đúc thành những thỏi vàng ba, bốn số chín thực sự. Phu vàng làm việc ở các mỏ thường có thu nhập cao và ổn định hơn hẳn bọn đi đào đãi tự do trên sông suối. Lượng vàng thu được trong đất đá lấy từ lòng đất lên cao gấp hàng trăm lần vàng lẫn trong cát sỏi ngoài sông suối cho nên họ được trả công rất cao. Nhưng làm việc dưới hầm khai thác quặng vàng là đánh đu với cái chết. Bởi vì hầm đào sâu vào lòng đất mà chẳng có cây chống gì, có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Trong hầm sâu tối tăm còn thiếu cả không khí để thở nữa. Chỉ mới tuần trước thôi ở khu khai thác này đã có hai “phu vàng” do lở đất sập hầm bị vùi lấp. Hiện mới đào bới tìm thấy một người còn một chưa tìm thấy xác. Có lẽ anh ta sẽ vĩnh viễn nằm lại dưới lòng đất sâu. Rồi giữa chốn rừng sâu này còn bao nhiêu là những chuyện rủi ro, bệnh tật, tai nạn luôn luôn rình rập bọn người đang dấn thân đi tìm kiếm vận may để mong có sự đổi đời như hắn.

          Nhìn kỹ trong cái máng gỗ của mình sau mấy lần đãi lọc loại bỏ đất cát, hắn cũng thấy có những hạt vàng li ti bé nhỏ vô cùng bám vào thớ gỗ. Phải rất khó khăn và rất kiên trì hắn mới gạn, nhặt được những hạt cám vàng sa khoáng cho vào cái lọ thủy tinh nhỏ đeo trên cổ. Thằng Bất đang bì bõm bên cạnh chợt khẽ reo lên vui mừng. Hắn vội ghé mắt sang nhìn. Trong cái máng của nó có một vài hạt vàng to gần bằng hạt vừng. Có lẽ nó là thằng may mắn nhất trong “bè lũ bốn tên” ngày đầu tiên đi đãi vàng.

          Bãi sông cạn mỗi lúc một đông. Đám người đãi vàng tự do ngụp lặn sùng sục trong dòng nước, sàng đãi ồn ào, quát tháo gọi nhau ầm ĩ. Ai cũng cầu mong sẽ gặp một vận may bất ngờ vớ được một cục vàng sa khoáng to bằng củ khoai như tin đồn đại. Nhưng rồi thì họ vẫn cặm cụi kiên nhẫn kiếm tìm nhặt từng hạt vàng, vảy vàng bé xíu. Nước dòng sông ngầu đục. Mùi hôi của hóa chất do dây truyền sang lọc bằng máy bốc lên khiến nhiều người hắt hơi. Hắn thấy da thịt ngứa ngáy, bức bối rất khó chịu.

          Chợt có tiếng mấy người bên cạnh hắn khẽ bảo nhau:

          - Bọn “thu thuế” đến đấy!

          - Mẹ cha chúng nó, đã mót được tý cám nào đâu mà đòi thu!

          Hắn ngước nhìn lên phía bờ sông. Mấy thằng đầu tóc bù xù, tay cầm gậy, tay xách mã tấu đang nghêng ngang đi xuống bãi sông. Đó chính là bọn “lính gác” và bọn “sĩ quan” đi đôn đốc “thuế”. Đến chỗ các toán người đang cặm cụi đãi vàng bọn chúng quát tháo, nhắc nhở việc nộp thuế bảo kê, bảo vệ. Thằng Lân bảo hắn:

          - Cứ mặc kệ bọn chúng, Cánh ta vừa mới đến chúng nó chưa đòi “thu thuế” ngay đâu!

          Hắn bực:

          - Có mà thu cái con… củ cặc tao ấy!

          - Đừng gây gổ với bọn chúng anh ạ!

          Hắn im lặng không nói thêm nữa. Hắn thấy vui khi vớ được một hạt vàng to bằng hạt kê. Hắn cẩn thận bỏ hạt vàng vào cái lọ thuỷ tinh.

          Chợt có tiếng kêu khóc nhốn nháo phía trên bãi đãi vàng. Mọi người đứng cả dậy nghển cổ lên nhìn. Có ai đó nói:

          - Bọn chúng đánh cảnh cáo cái thằng còn nợ “thuế” và tiền thuốc đấy!

          - Kệ chúng nó! Cứ tiếp tục làm việc đi!

          Mọi người bảo nhau. Phần lớn là nín nhịn, câm lặng, không ai muốn giây vào lũ côn đồ, lưu manh. Ai cũng muốn kiếm được thật nhiều vàng cám để dù có bị ăn chặn, bị “thu thuế” thì vẫn còn dư dả chút ít đem về nhà.

          Sau một hồi đe nẹt, đấm đá, bọn “thu thuế” bỏ đi. Bãi sông lại râm ran tiếng cười nói. Một chốc lại có tiếng người kêu lên thảng thốt:

          - Bọn “thu nợ” đến rồi!

          - Lại là bọn nào nữa thế?

          Hắn hỏi mấy người xung quanh. Không ai trả lời hắn. Mọi người còn đang mải làm. Tuy thế hắn thấy có mấy anh chàng và cả một ông đầu tóc đã bạc vội vàng vứt cả máng đãi vàng hớt hải chạy vọt về phía dưới hạ lưu. Họ chui lủi ngay vào nơi có những bụi cây rậm rạp nhanh như những con chó bị săn đưổi. Hắn ngạc nhiên không hiểu tại làm sao họ lại sợ hãi bọn này đến thế! Hắn đứng hẳn dậy để nhìn toán người đang đi đến. Hắn nhận ngay ra cô gái điếm chiều hôm qua đã đến chỗ bọn hắn làm lán. Vẫn bộ ngực căng phồng chỉ muốn trồi ra khỏi cái cổ áo khoét rộng. Đi cạnh cô gái điếm là hai thằng đầu gấu với vẻ mặt dữ tợn tay dao tay côn lăm lăm. Hắn chợt hiểu thì ra cô gái điếm này đang đi chỉ điểm những kẻ “mua dâm” ghi sổ không chịu trả tiền vàng đúng kỳ hạn cho bọn đầu gấu được thuê đòi nợ giùm xử lý.

          Đám “thu nợ” lùng sục làm huyên náo cả bãi vàng.

          Hai thằng đầu gấu lôi một thanh niên từ dưới sông lên. Chắc anh này “chơi chịu” nhiều quá nhưng không chịu thanh toán đầy đủ đúng hạn nên bị bọn chúng tẩn cho một trận lên bờ xuống ruộng, máu me toé ra đỏ nhòe đầy mặt mũi. Bọn chúng lột ngay cái áo còn mới anh ta đang mặc trên người, thu luôn cả bộ đồ dùng đào đãi vàng đem đi. Một bác già phải vội vàng rút tiền ra trả ngay cho cô gái để tránh trận đòn của bọn đòi nợ. Một người đàn bà gào khóc lăn lóc trên bãi cát khi biết ông chồng thiếu nợ đến tiền triệu trong sổ nợ của cô gái bán hoa…

          Tiếng kêu khóc. Màu máu đỏ. Màu vàng non lấp lánh. Đó là cảm nhận của hắn trong ngày đầu tiên ở bãi vàng.

          Và, cũng ngay ngày đầu tiên đến nơi vương quốc của vàng ấy giúp hắn rút ra được một điều là để có được vàng thật vô cùng khó khăn, nguy hiểm, là nước mắt và máu. Vàng là một thứ luôn luôn đồng hành cùng với máu và nước mắt...

  Cuộc sống giữa bãi vàng chốn núi rừng với hắn rồi cũng quen dần.

          “Bè lũ bốn tên” cũng đã kiếm được chút ít sau một thời gian đãi vàng tự do trên sông. Bây giờ thì cả bốn thằng đều đã được tuyển dụng làm “phu vàng” tại các hầm vàng khác nhau của bọn chủ bưởng. Thu nhập có khá hơn nhưng lao động cũng vất vả cực nhọc hơn. Hắn và thằng Lân làm phu ở mỏ vàng cạnh bờ sông. Chú Cần và thằng Bất làm ở một hầm vàng tít trong rừng sâu. Họ chỉ gặp nhau vào buổi tối khi đã mệt mỏi bơ phờ tìm lối lần về lán. Nhiều bữa chẳng kịp trò chuyện hỏi han nhau cả bốn đã lăn ra ngủ. Cũng có hôm bọn chúng không về mà ở lại mỏ giúp chủ mỏ canh gác cửa hầm và bảo vệ máy móc làm vàng.

          Một hôm hắn và thằng Lân nghỉ làm sớm về lán đang hì hụi nấu cơm thì chú Cần chạy về hớt hải bảo:

          - Thằng Bất hỏng thật rồi chúng mày ạ!

          - Nó bị làm sao! Bị sập hầm à?

          Thằng Lân buông nắm rau rừng đứng phắt dậy vẻ mặt nhớn nhác. Chú Cần lắc đầu:

          - Không... mà hỏng là... là... vì nó đã dính vào gái gủng mất rồi!

          Hắn phì cười bảo:

          - Mặc xác nó! Nó lớn rồi, năm nay cũng đã hai mươi, hai mốt tuổi rồi còn gì, cũng phải để cho nó biết tý chút “mùi đời” ra làm sao chứ! Hi hi...

          Hắn nói và chợt nghĩ đến chuyện của mình. Khi chỉ mới tròn mười bảy tuổi mà hắn đã được nếm hương vị ngọt ngào đàn bà rồi. Chú Cần nghe hắn nói vậy liền xua xua tay:

          - Nhưng nó mà dính vào chuyện gái gủng ở đây thì làm ra được đồng nào dâng nộp cho gái đồng ấy có khi còn dính bệnh tật thân tàn ma dại không về được quê đấy chứ! Mọi người phải nhanh chóng khuyên ngăn nó ngay đi. Chứ nó đi suốt đêm sáng ra mới thấy vật vờ mò về, lúc đi làm không cầm nổi cái xẻng thế này tôi thấy lo lắm!

          - Hay là nó vẫn ngủ lại trông coi máy móc cho chủ mỏ?

          - Coi gì mà coi! Nó đi xem phim con heo rồi chơi gái đấy!

          - Thôi để tao đi tìm tẩn cho nó một trận để nó sáng mắt ra...

          Hắn lại nhấm nhẳng lên tiếng. Thằng Lân vội ngăn:

          - Anh đừng đánh nó! Để em gặp khuyên bảo nó xem sao.

          Chú Cần lắc đầu:

          - Chắc là nó không nghe đâu! Tao nói mãi rồi mà nó cứ như thằng câm điếc. Nó làm vàng không biết kiếm được bao nhiêu mà thấy đến lán của con bé ở chỗ gốc sung đều đều. Tao còn nghe có đứa nói là nó đang tính bỏ nghề phu vàng xin làm tay chân bảo vệ cho “Ông Cụt” đấy!

          - Ông Cụt... Ông Cụt là thằng quái nào thế? - Hắn hỏi.

          - Đó là một ông trùm cai quản bảo kê tất cả các hầm vàng trong khu vực rừng núi này đấy! Chỉ nghe đến tên nó thôi là dân “phu vàng” đã khiếp đảm. Không riêng gì dân phu mà cả bọn chủ bưởng, cai thầu, bọn “sĩ quan”, bọn “lính gác” ở các mỏ đều phải dè chừng, quy phục và ngoan ngoãn cống nạp cho nó. Ai chống lại chỉ có nước chết hoặc bán xới khỏi chỗ này ngay. Nghe nói khi nó mới đến có ông chủ hầm vàng không chịu nộp thuế bị nó cho tay chân lôi xuóng hầm rồi đánh sập cửa chết mất xác đấy…

          Thằng Lân giải thích. Hắn ngạc nhiên :

          - Thằng cụt chết tiệt này ở đâu mò đến thế?

          - Không rõ nó từ đâu đến, chỉ nghe nói nó là một tên khát máu. Nó có một bọn chân tay đông đảo, toàn là đám côn đồ, tội phạm, trốn tù, chuyên đâm chém, giết người không ghê tay. Chúng sẵn sàng đánh đập, phá phách các mỏ vàng, hầm vàng nếu một chủ hầm nào không chịu cống nạp cho bọn chúng.

          - Nó ghê gớm thế cơ à?

          - Nó hoành hành làm mưa làm gió ở khu vực Lao Cai, mới vươn sang đến vùng này! Nghe đồn nó từng nổi tiếng tung hoành trên giang hồ, có nhiều chiến tích khiến bọn đàn em nể phục. Có lần một mình đấu với bảy thằng côn đồ khác, đánh cho bọn kia tơi tả. Tuy vậy do bị phục kích bất ngờ thân cô, thế cô nó bị dính một nhát kiếm của bọn kia bay mất một mảng đầu tóc, cụt một tai nhưng vẫn triệt hạ được cả bảy thằng kia đấy! Đám dân giang hồ gọi nó là “Ông Cụt” vì thế. Bọn chúng suy tôn nó là một người “bất tử” trong đám đầu gấu vùng biên chuyên cướp bóc ở các bãi vàng hoặc bảo kê đường dây buôn lậu hàng quốc cấm, kể cả vận chuyển thuốc phiện qua biên giới. Các bọn khác chỉ cần nghe đến cái tên “Ông Cụt” là đã sợ vãi đái cả ra quần rồi.  

          - Thế hả! Vậy thì nhất định tao phải gặp bằng được cái thằng “Ông Cụt” này một lần xem nó ra sao!

          Chú Cần vội can ngăn :

          - Anh phải hết sức cẩn thận đấy! Giây vào loại người này là không hay ho gì đâu anh ạ.

          Hắn hừ hữ trong cổ họng chẳng rõ ý tứ ra sao. Chú Cần lại hỏi :

          - Vậy còn chuyện của thằng Bất anh em ta tính thế nào ! Nó mà có bị làm sao thì chắc mẹ nó ở nhà không sống được. Hôm nó theo chúng mình đi làm ăn xa, mẹ nó cứ sụt sịt dặn nhớ là phải giúp đỡ, kèm cặp, bảo ban nó…

          Thằng Lân nhíu mày suy nghĩ. Đoạn nó nói, giọng có vẻ buồn bã và lo lắng:

          - Thôi được! Ăn cơm xong tôi sẽ đi tìm nó để nói chuyện. Hy vọng là nó chưa đến nỗi quá sa đà, đam mê dấn quá sâu vào chuyện gái gủng hao tiền, tốn sức này!

          Hắn chợt thấy bực bội trong lòng khi nhớ lại chuyện hôm làm lán thằng Bất còn rất sợ sệt khi nói đến chuyện chơi gái. Thế mà bây giờ nó lại máu mê đến thế. Thì ra ở vương quốc của vàng này mọi chuyện đều có thể xảy ra và sự thay đổi thật không thể lường trước. Nhưng rồi chuyện chơi gái của thằng Bất thoáng qua trong hắn. Hắn chỉ nghĩ đến việc phải đi tìm gặp cái thằng “Ông Cụt” vớ vẩn nào đó xem mặt mũi, đầu cua tai nheo nó ra sao mà khiến cho đám dân “phu vàng” khiếp đảm đến thế.

*

          Đại bản doanh của đầu trùm thống lĩnh bãi vàng có biệt danh là “Ông Cụt” nằm trên một quả đồi ngay cạnh bờ suối, cách các hầm khai thác vàng không xa. Đó là một căn nhà sàn làm bằng gỗ khá đẹp. Xung quanh ngôi nhà lúc nào cũng có các “sĩ quan” cùng bọn “lính gác” tuần tra bảo vệ. Trong căn nhà sàn ấy luôn có các cô gái phục vụ, hầu hạ “Ông Cụt”. Bọn gái làm tiền muốn được hành nghề hoạt động ở khu vực bãi vàng này dứt khoát phải đến trình diện và phục vụ miễn phí cho “Ông Cụt” và đám tay chân. Đám gái điếm này còn phải nộp khoản “thuế thân” - theo cách gọi của bọn chúng, tức là nộp một phần thu nhập từ việc “bán thân” cho cánh phu vàng.

          Chiều nay, Ông Cụt ở nhà. Ông đang nửa ngồi, nửa nằm giữa hai nữ nhân viên phục vụ xinh đẹp ăn mặc hở hang. Với những bộ đồ mỏng tang như cánh chuồn chuồn, họ gần như khỏa thân. Một cô bé ngồi trong lòng ông. Bàn tay đầy sẹo do đánh nhau, đâm chém của Ông Cụt đang vuốt ve bầu vú nhòn nhọn như một búp măng mới nhú của con bé có lẽ chỉ bằng tuổi con mình. Cô gái lớn tuổi hơn thì đấm bóp vai cho ông. Cặp vú nở nang của cô này phè ra làm bệ cho ông tựa đầu. Hai mắt Ông Cụt lim dim. Ông đang tận hưởng lộc trời hay đang suy nghĩ sự đời. Có lẽ là cả hai. Ông ta đang nhớ lại chặng đường đời mà mình đã đi qua để có sự giàu có, sự hưởng thụ sung sướng đến ngập mặt như hôm nay. Ông đã phải chiến đấu với bao nhiêu băng đảng khác giành giật các mỏ vàng trong khu vực, để có thể “thu thuế” của bọn phu vàng, của bọn chủ hầm và của cả đám con gái bán thân như hai cô bé này. Cuộc sống giúp ông rút ra một điều căn cốt là: “Lý tưởng chẳng là cái cóc khô gì nếu lý tưởng ấy không làm ra vàng”. Có vàng là có tất cả. Ông nhớ lại ngày còn đi học phổ thông răsc phấn đấu theo lý tưởng của thanh niên thời đại mãi mà vẫn không được kết nạp vào đoàn vì học dốt, hạnh kiểm trung bình. Ngày ấy những cái gì mà cứ trung bình là vứt đi. Học hết cấp ba ông về làng làm ruộng. Ông đã phải cố gắng phấn đấu lắm mới được vào đoàn. Trong khi hầu như tất cả thanh niên trong làng, ngoài xã đều hăng hái ghi tên xung phong đi bộ đội vào Nam chiến đấu, có người còn viết đơn bằng máu thì ông được ông chú là cán bộ trên tỉnh xin cho vào học tại một trường trung cấp. Bây giờ mỗi khi nghĩ lại chuyện cũ ông lại nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất dùng chân di nhoe nhoét. Ông tự thấy xấu hổ cho mình khi nghĩ đến chuyện từng phải ra sức đi cắt thật nhiều lá cây về làm phân xanh cho hợp tác xã bón ruộng để lập thành tích viết vào đơn xin ra nhập đoàn thanh niên Lao động. Rồi ông thức cả đêm để học bằng thuộc điều lệ đoàn. Mỗi khi nghĩ đến cảnh giơ tay xin thề suốt đời phấn đấu vì lý tưởng của đoàn ông lại tự cười mình sao hồi ấy ấu trĩ, ngu si đến thế! Cái lý tưởng ấy mà suốt đời đi theo thì bây giờ ông cũng chỉ là một tên dở hơi nghèo kiết xác, làm gì có vàng và có gái đẹp thế này. Ông chợt nhớ đến con mẹ bí thư chi đoàn ngày ấy, người thì xấu mà lúc nào cũng ra vẻ ta đây. Hôm nào sinh hoạt cũng cao giọng ra rả nói về lý tưởng của thanh niên thời đại, cũng phê phán chủ nghĩa trung bình, cũng kêu gọi ra sức thi đua, "thanh niên ba sẵn sàng", "phụ nữ ba đảm đang", hăng hái lên đường nhập ngũ, giết giặc lập công, “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Ông vẫn nhớ như in cái lần có một anh sàm sỡ “lỡ tay” chạm vào cái ngực lép kẹp của con mẹ này bị mụ ta đưa ra trước chi đoàn kiểm điểm lên kiểm điểm xuống vì đã có hành vi đồi trụy, thật khốn khổ, khốn nạn. Mẹ kiếp! Cái đồ gái già như thế có mời ông cũng chả thèm. Bây giờ thì ông thiếu gì con gái đẹp như tiên. Như con bé đang ngồi trong lòng ông đây là gái trinh hẳn hoi nhé, vú nó còn rắn tưng. Tối nay ông sẽ phá trinh nó. Đã bao nhiêu đứa con gái như thế này đã qua tay ông rồi…

          Đang mơ màng nhớ về chuyện của một thời trai trẻ thì nghe có tiếng hô hoán ồn ào dưới chân đồi, Ông Cụt rời tay khỏi ngực cô gái quát hỏi:

          - Có chuyện gì thế?

          Một thằng thò cổ vào nhà nói :

          - Thưa ông! Có một thằng lảng vảng rình mò bị phát hiện nên tháo chạy. Mấy anh em đang đuổi theo nó ạ!

          - Cẩn thận đấy! Không khéo là bọn công an cải trang tập kích vào bãi  như lần trước thì toi cả lũ!

          - Không phải công an đâu ạ! Thằng này có vẻ là dân phu vàng…

          - Phu vàng mà dám lên tận đây hả! Xỉa luôn cho nó một nhát hiểu không!

          - Vâng ạ!

          Tên tay chân đáp và lui ra. Ông Cụt đứng dậy. Ông chỉ cô gái ông vừa ôm ấp lúc nãy bảo :

          - Con này ở lại còn con kia về lán, mai lại lên !

          - Vâng ạ!

          Cô gái nhiều tuổi hơn cài khuy áo bước ra ngoài. Cô bé phải ở lại mặt mũi tái nhợt. Khi đến bãi vàng này nó đã nghe kể về Ông Cụt với những thú vui chơi gái theo kiểu quái đản khủng khiếp nhất. Ông ta là một kẻ bạo dâm.

          Ông Cụt để cô gái ở lại rồi bước ra ngoài. Ông vốn là một người luôn cảnh giác. Thực tế đã dạy cho ông là sự cảnh giác không bao giờ thừa. Việc có một thằng phu vàng lảng vảng quanh đại bản doanh của ông khiến ông thấy khó hiểu. Ông muốn biết nó là thằng nào mà bạo gan thế.

          Nhưng ông ta không biết rằng cái tên phu vàng đã cả gan ấy chính là hắn. Hắn chưa kịp tiếp cận ngôi nhà sàn của Ông Cụt thì bị bọn tay chân phát hiện truy đuổi ráo riết. Hắn đã phải chạy thục mạng từ trên đồi xuống thung lũng nơi có những bụi cây rậm rạp để lẩn trốn…

Bọn tay chân hung hãn của Ông Cụt truy sát, đuổi theo hắn xuống tận thung lũng bãi vàng. Hắn nhanh nhẹn như một con vượn nhưng bọn lính của Ông Cụt cũng nhanh không kém. Chúng bám rất sát hắn. Qua chỗ ngoặt hẻm núi, hắn liền đổ người nằm ép xuống chui ngay vào trong một bụi cây rậm rạp và đầy gai. Bọn côn đồ hò hét nhau bám sát để khỏi mất dấu hắn. Có tiếng súng lên đạn lách cách. Bọn chúng thọc gậy, xỉa mã tấu vào từng bụi cây, đám cỏ. Hắn phải lăn ra nằm bẹp gí dưới cái rãnh nước thải bẩn thỉu. Hắn vơ vội đám lau sậy cỏ rác phủ lên người để ngụy trang, trốn sự truy lùng của bọn tay chân của Ông Cụt.

          Lùng sục chán, không tìm thấy hắn, bọn tay chân của Ông Cụt tức tối kéo nhau quay về đại bản doanh. Dọc đường chúng ngứa tay, ngứa chân đấm đá làm đám “phu vàng” kêu khóc ỏm tỏi dọc bờ suối.

          Chờ bọn chúng đi xa hắn mới lóp ngóp gạt lớp cỏ lau phủ trên người ngoi lên. Toàn thân hắn ngứa ngáy, thối hoắc vì mùi bùn bẩn do có các hoá chất thải ra trong quy trình sàng lọc vàng. Hắn làu bàu chửi đổng:

          - Đ… mẹ cái thằng Ông Cụt! Có giỏi thì mày đến gặp tao đấu tay bo một trận xem thằng nào thắng thua mới đáng mặt anh hùng hảo hán. Cái đồ chuyên núp bóng côn đồ như mày tao coi khinh vạn dặm…

          Hắn nhảy ùm xuống đoạn suối trong để tắm. Dìm người ngập sâu xuống nước vừa kỳ cọ, hắn vừa tụt quần, cởi áo ra giặt. Nhớ lời thằng Lân căn dặn, hắn mặc ngay bộ quần áo ướt lên người để che cái mặt hổ và cái đầu lâu xương chéo xăm trên ngực, trên lưng. Đoạn, hắn lần theo bờ suối đi về lán. Vừa đi hắn vừa huýt sáo. Có một con chim đột nhiên cất tiếng hót líu lo trên cành cây như hoà theo. Hắn nghển cổ lên nhìn. Hắn sững sờ khi trông thấy trên cái chạc cây có một bụi phong lan với những chùm hoa đang chớm nở rủ xuống rất đẹp. Hắn che mắt quan sát, đúng là loài kiều tím rồi. Hắn liền bám vào gốc cây thoăn thoắt leo lên. Vừa gỡ được bụi phong lan định tụt xuống thì hắn nghe có tiếng chân người và tiếng húng hắng ho. Cúi xuống nhìn, hắn nhận ngay ra là thằng Bất. Nó đi đâu vào giờ này nhỉ! Chờ thằng Bất đi qua chỗ gốc cây, hắn tụt nhanh xuống đất. Giấu vội giò phong lan vào lùm cây bên lối đi hắn lập tức bám theo chân thằng Bất.

          Thằng Bất lùi lũi đi về phía bên kia bờ con suối. Trông nó có vẻ tiều tụy. Hắn chợt hiểu, nó đang đi về chỗ gốc cây sung già, nơi có lán trại của mấy đứa con gái bán hàng tạp phẩm và bán dâm. Trời đã sâm sẩm tối. Ở giữa rừng sâu khi mặt trời khuất núi, ánh nắng vừa tắt thì bóng tối thường ập đến rất nhanh. Thung lũng bãi vàng giữa chốn rừng già mà khi đêm đến cũng nên thơ ra phết. Các máy phát điện mi-ni bắt đầu khởi động. Ánh điện lung linh dọc bờ suối. Những khu lán của phu vàng không có điện chỉ có ánh sáng đốt bằng vỏ cây rừng có nhựa trông mờ ảo trên sườn núi như những đốm lửa của ma chơi. Hắn không dám lội ngay sang bên kia suối sợ thằng Bất nhận ra. Hắn phải đi vòng lên phía trên một đoạn mới vượt sang. Đến gần chỗ quán của đám con gái, hắn nghe thấy tiếng rúc rích ngay chỗ lùm cây ven bờ suối.

          Tiếng con gái:

          - Anh trai hôm nay chơi số mấy! Số một, số hai, hay là số ba?

          Tiếng thằng Bất:

          - Thế nghĩa là thế nào?

          - Là làm chuyện ấy bằng tay, bằng miệng hay bằng… bướm! Từ bây giờ bọn em gọi các cấp độ phục vụ theo số thế cho nó lịch sự, có văn hóa… he… he… he…

          Hắn suýt nữa thì bật lên tiếng cười sằng sặc. Mẹ kiếp cái đồ gái điếm bán chôn nuôi miệng mà cũng lịch sự, văn hóa gớm nhỉ. Hắn định lao ra túm cổ thằng Bất cho nó mấy cái bạt tai thì lại nghe thấy tiếng nó thì thào:

          - Cứ phải là loại số cao nhất!

          Tiếng con gái:

          - Liệu anh có còn tiền và vàng không?

          - Bao nhiêu?

          - Số một hai phân, số hai ba phân, số ba bốn phân!

          - Sao cao thế?

          - Giá cả tăng lên rồi mà…

          - Giá cả tăng nhưng vàng kiếm được ngày càng ít hơn, có hôm đãi mỏi rã cả cánh tay suốt ngày chả nổi một phân bọ đấy.

          - Vậy thì hôm nay thôi nhé! Mà anh vẫn còn ghi trong sổ nợ chưa thanh toán hơn bảy chỉ đấy!

          - Rồi sẽ thanh toán đầy đủ, sòng phẳng cho bọn em hết, còn bo thêm nữa! Ông Cụt đã đồng ý nhận anh làm bảo vệ rồi. Lúc đó thì tiền vàng sẽ không thiếu. Nhưng thôi hôm nay làm việc ở mức “số một” cũng được! Nhớ vẫn ghi sổ nợ nhé!

          Tiếng thì thào im hẳn, chỉ còn nghe tiếng lọc xọc, hổn hển.

          Hắn lặng lẽ lùi lại quay về. Về đến lán gặp thằng Lân và chú Cần đang ngồi đợi cơm, hắn bảo:

          - Đúng là thằng Bất hỏng hẳn rồi!

          - Anh đã gặp nó rồi à? - Thằng Lân hỏi.

          - Vừa gặp xong, trông nó gầy yếu xơ xác lắm mà vẫn mò mẫm tìm đến chỗ bọn gái điếm…

          Chú Cần và thằng Lân cùng thở dài vẻ chán nản, họ còn nghe nói là hình như nó đã dính cả vào ma tuý rồi. Hai người cũng đã nhiều lần gặp nó để khuyên bảo. Họ mong nó hãy tránh xa cái bọn gái điếm và ma tuý vừa mất tiền vừa mất sức. Họ khuyên nó cố giữ mình ở chốn đầy rẫy những điều bất trắc, đĩ điếm và bệnh tật này. Họ đã nói hết nhẽ. Nhưng thằng Bất không những không nghe mà có lần nó còn chửi bới lại hai người nữa. Hắn cũng cảm thấy bất lực. Hắn hiểu khi con người đã sa vào một sự đam mê gì thì thật khó mà dứt bỏ. Gái cũng hấp dẫn như vàng. Khi đã có vàng người ta thường nghĩ ngay đến gái. Vàng đã tôn vinh con người lên tận đỉnh, nhưng rồi vàng cũng sẽ đẩy con người xuống tận đáy như thế.

          Ba người ngồi ăn cơm trong ánh lửa bập bùng của mấy gốc củi chụm lại. Họ không có nến, không có đèn. Mà họ cũng chả cần. Mỗi người có một tô cơm trộn lẫn rau rừng. Hôm nay họ có thêm vài miếng thịt mỡ lèo bèo. Đang ăn thì có tiếng kêu khóc nhốn nháo ở dãy lán bên cạnh. Hắn đặt tô cơm xuống đất đứng dậy nghe ngóng. Có nhiều tiếng gào khóc thảm thiết vọng đến:

          - Sập… hầm… vàng… Khe… Giát… rồi… ối… giời… ơi… là… giời…

          - Đi giúp họ cứ­u người ngay!

          Thằng Lân quát và lao xuống dốc. Hắn và chú Cần vội bỏ tô cơm đang ăn dở vớ lấy xẻng cuốc lao theo thằng Lân. Các khu lán trại nhốn nháo. Đèn đuốc sáng rực. Đám phu vàng rầm rập chạy về hướng Khe Giát. Mấy ngày trước trời mưa to nên đất đá trên cao bất ngờ trụt xuống lấp kín một hầm khai thác vàng dưới chân núi. Mấy phu vàng tham việc chưa kịp chui ra thì bị bít kín cửa hầm. May có một người ở phía ngoài thoát chết chạy về báo tin.

          Đám phu vàng ra sức đào bới tìm cửa hầm. Nhưng lượng đất đá sạt lở xuống khá lớn khiến họ khó xác định chính xác cửa hầm. Đào bới gần như suốt đêm đến gần sáng họ mới tìm thấy hai người bị vùi lấp. Đám phu vàng đưa hai thi thể xuống suối tắm rửa rồi bó buộc cho họ.

          Đám ma của phu vàng giữa rừng sâu không khăn tang, không kèn trống, cũng không có điếu văn cũng chẳng hương nhang, bát cơm quả trứng, chỉ có mấy bó hoa rừng đặt lên nấm đất đắp vội. Cuộc đời người phu vàng là thế, phải chấp nhận như thế. Hắn chợt thấy ngậm ngùi, cuộc sống của phu vàng thật là mỏng manh, nguy hiểm. Hắn nhớ hôm trước suýt nữa không có thằng Lân thì hắn cũng bỏ mạng vì sập hầm.

          Đó là ngày còn đang đãi vàng tự do trên sông. Hắn chui vào một cái hầm đám phu vàng moi sát bờ sông xúc đất cát đem ra để đãi. Trong những cái hầm ếch như thế này lượng vàng sa khoáng thường nhiều hơn là cát ngoài bãi sông. Đang lúi húi trong cái hầm ếch sâu hoắm ở chỗ bờ sông bên lở dựng đứng thì thằng Lân trông thấy vội thò cổ vào gọi:

          - Ra ngay đi anh! Moi cát kiểu này rất nguy hiểm lắm!

          - Không việc gì đâu! Mày đừng sợ, mọi người vẫn làm như thế cả mà!

          - Nhưng cứ moi sâu vào bờ thành một cái hầm ếch như thế này, bờ sông mà bất ngờ sụp xuống nguy hiểm lắm!

          - Mày yên tâm! Khi nào sắp sập thì nó phải kêu răng rắc chứ, lúc đó tao chạy ra vẫn kịp!

          Nhưng đất sập thì làm quái gì có chuyện kêu "răng rắc" như cây sắp đổ chứ! Giữa lúc hắn đang lúi húi đào moi đất cát dồn vào cái bao tải nên không để ý những mẩu đất vụn từ trên nóc hầm đột nhiên lả tả rơi xuống. Thằng Lân thấy thế hét to:

          - Đất sập đấy... chạy ra ngay!

          Vừa gào lên lạc cả giọng với vẻ hoảng hốt, thằng Lân vừa lao vào đẩy hắn ra khỏi cái hầm ếch. Hắn bỏ bao đất toài người ra trước. Một tảng đất to trụt đổ ụp xuống. Thằng Lân đang lồm cồm bò phía sau bị đất đè chẹn lấp ngang người. Nó ngã sấp mặt úp xuống nước. Nó cố vùng vẫy nhưng không thể thoát ra khỏi đám đất cát lổn nhổn. Hắn vội quay lại  cửa hầm cố nâng đầu thằng Lân lên khỏi mặt nước cho khỏi bị ngạt thở. Đám phu vàng thấy thế lao đến hối hả moi đất để lôi nó ra khỏi nơi nguy hiểm. Khi cả bọn chạy được ra xa thì một đoạn bờ sông đổ ầm xuống. Thật hú vía. Sau bận ấy mỗi khi chui vào hầm moi đất đá, đào quặng vàng nhất nhất hắn đều nghe theo lời chỉ dẫn của thằng Lân.

  Sau hôm mỏ vàng Khe Giát bị sập đất làm hai người chết, các hầm vàng đều tạm đóng cửa vì mưa vẫn chưa dứt hẳn, đất trên núi ngậm nhiều nước rất dễ sạt lở. Công an cũng đã bắt đầu truy quét mạnh đám “vàng tặc” trong khu vực nên các chủ hầm tiết giảm sản xuất. Thằng Lân đã tính đến chuyện trở về quê. Sau mấy tháng làm phu cả bọn cũng chỉ đủ vặt mũi đút miệng, chả kiếm được bao nhiêu. Ở giữa rừng sâu, giá cả cắt cổ, làm được đồng nào cơ bản là ăn hết đồng ấy. Chú Cần cũng muốn về, vợ chú ở nhà nhắn lên nói bà mẹ đang ốm nặng. Tuy thế thằng Lân lừng khừng chưa muốn về ngay vì nó muốn đưa cả thằng Bất cùng về. Nhưng việc tìm gặp được thằng Bất bây giờ quả là rất khó khăn. Nó đã trở thành tay chân thân tín của Ông Cụt rồi, rất khó biết nó đang ở đâu. Tuy nhiên thằng Lân vẫn hy vọng.

          Còn hắn thì cũng chưa muốn về xuôi. Không phải vì hắn còn nuôi hy vọng đổi đời khi vận may bất ngờ xuất hiện vớ được một cục vàng sa khoáng to bằng quả bưởi. Hắn chưa muốn về xuôi là bởi vì có một lý do khác. Đó là hắn muốn gặp và nếu có dịp đánh nhau với thằng Ông Cụt một trận. Mấy lần hắn tìm cách tiếp cận chỗ thằng Ông Cụt ở nhưng đều chạm phải bọn tay chân canh gác cẩn mật xung quanh. Không thể tiếp cận nhưng hắn đã nghĩ ra một cách rất hay để trị cho thằng Ông Cụt một trận. Đó là sau mấy bận phát hiện ra có kẻ rình mò, Ông Cụt đã lệnh cho tay chân chặt trụi hết cây cối, phát quang xung quanh đại bản doanh cho dễ quan sát. Nhìn đám cây cối bị chặt hạ đã khô, hắn nảy ra một mưu kế mà hắn đọc được trong các loại sách dã sử kiếm hiệp của bọn Tàu. Đó là dùng “kế hoả công”. Hắn sẽ tìm cách phóng hỏa khu đại bản doanh của thằng Ông Cụt. Nhưng hắn chưa thể thực hiện được “kế hoả công” vì trời mưa cứ liên tục, rừng núi ướt sũng.

          Chưa thể về xuôi nên thằng Lân rủ hắn và chú Cần vác máng gỗ ra bãi sông đãi vàng tự do. Sau mấy ngày nước lũ lớn tràn qua, bùn đất trên bãi sông trôi đi làm lộ ra những đám đất có nhiều hạt vàng, vảy vàng sáng lấp lánh. Đám phu vàng kéo nhau ra bãi sông cạn rất đông hy vọng kiếm thêm được chút nào hay chút nấy. Mỗi ngày ở rừng không có việc làm là mỗi ngày phải ăn vào số tiền đã dành dụm được và hy vọng đổi đời ngày càng teo tóp đi.

          Đang cặm cụi moi cát, lọc đãi thì hắn nghe có tiếng ồn ào, hốt hoảng:

          - “Ông Cụt” đang đến đấy!

          Hắn ngẩng đầu lên nhìn. Từ phía đầu con dốc trên bờ một toán người đang lố nhố đi xuống bãi sông. Trông bọn chúng rất nghênh ngang dữ tợn. Đi giữa bọn chúng là một thằng tóc dài trùm đầu như một mụ đàn bà. Đó chính là Ông Cụt. Ông Cụt để tóc dài là để che cái tai bị chém đứt. Hắn đang định đứng hẳn lên nhìn cho rõ thì thằng Lân nhoài đến vít vai hắn ngồi xuống. Nó chụp cái mũ lá rách vành của mình lên đầu hắn và khẽ nói:

          - Anh không được lộ mặt ra nhé!

          - Sợ đếch gì chúng nó!

          - Chúng nó đông, lại có súng, không đấu lại được đâu!

          - Hừm… hừm… hừm…

          Hắn gầm gừ trong cổ họng. Thằng Lân ngồi đãi cát sát ngay bên cạnh hắn. Đám côn đồ hung hổ đi xuống bãi sông. Bọn chúng đến gần chỗ hắn đang ngồi đãi cát. Ông Cụt hỏi đám tay chân:

          - Bọn đãi vàng ở khu vực này “nộp thuế” đầy đủ chứ?

          - Cũng có vài thằng kêu không đãi được gì nên không chịu nộp ạ!

          Ông Cụt quát:

          - Thế thì tống cổ mẹ chúng nó đi nơi khác! Thằng nào chống lại cho nó mất bàn tay khỏi cầm đũa và cơm luôn…

          Nghe tiếng thằng đầu đảng quát, hắn khẽ đảo người quay lại nhìn. Qua cái vành mũ rách hắn giật mình sửng sốt khi nhận ra Ông Cụt chính là một người quen cũ. Nhưng mà sao nó lại làm vua ở đây nhỉ! Đó chính là cái thằng đại ca “quản lý thị trường” ở nhà giam Trại Chuối dưới chân núi Tam Đảo dạo trước. Cái thằng đã bị hắn cắt mất một tai trong cái đêm đầu tiên hắn vào trại. Hoá ra cái tai bị cắt ấy lại trở thành chiến tích vang dội của nó trên giang hồ, giúp nó trở thành một Ông Cụt khiến mọi người khiếp đảm. Hắn cố nén để khỏi bật lên cười sằng sặc vì cái thằng “đại ca quản lý thị trường” thật có tài lừa đảo. Hắn chỉ muốn hét thật to lên rằng: “Chính tao đã cắt cái tai của cái thằng Ông Cụt này đấy!”.

          Một thằng trong đám tay chân Ông Cụt chợt kêu lên:

          - Cái thằng đội mũ lá kia mặc cái áo rất giống áo của thằng hôm nọ rình mò bị chúng ta đuổi bắt trượt…

          - Đúng đúng…

          Mấy thằng khác cũng kêu lên như vậy. Ông Cụt trừng mắt bảo bọn tay chân:

          - Hai đứa xuống lôi cổ nó lên đây xem nó là thằng nào!

          Nghe bọn chúng trao đổi với nhau, hắn khẽ buông cái máng gỗ đưa tay vớ một hòn đá dài dài như cái dùi cui để ngay cạnh chân mình. Đưa mắt nhìn sang hắn thấy thằng Lân cũng đang làm như vậy. Hắn biết thằng Lân vốn là một chiến sĩ đặc công đã từng tham gia những trận đánh thọc sâu vào tận sào huyệt của bọn Pôn-pốt ở biên giới Campuchia-Thái lan. Khi gặp tình huống nguy hiểm thằng Lân cũng không phải là tay xoàng. Thằng Lân khe khẽ dặn:

          - Anh cứ bình tĩnh! Nhưng nhớ là ta sẽ vừa đánh vừa lùi về phía thác nước rồi cùng nhảy xuống thoát thân nhé! Cẩn thận chúng nó có súng đấy!

          - Mày đừng có ra mặt! Để một mình tao đối phó với chúng nó thôi…

          Hắn dặn lại thằng Lân. Nhưng hắn cũng hiểu là nó sẽ không bao giờ bỏ mặc anh em bạn bè trong lúc nguy hiểm.

          Hai thằng côn đồ xăm xăm đi xuống. Hắn và thằng Lân cầm lấy hòn đá sẵn sàng. Khi chúng gần đến chỗ hắn thì trên phía đầu sông có nhiều tiếng ầm ĩ. Lại có cả tiếng súng nổ. Một thằng chắc là đám tay chân của bọn Ông Cụt kêu to: “Công an đến đấy!”. Ông Cụt liền phẩy tay. Cả bọn lập tức hộ tống Ông Cụt lao lên bờ sông. Bọn chúng biến mất rất nhanh giữ­a đám cây cối rậm rạp. Hắn đứng bật dậy. Hai thằng định xuống tóm hắn cũng vội quay lại chuồn ngay.

          Thằng Lân đứng dậy run run. Nó nói răng va vào nhau lập cập:

          - Về… về… lán thôi anh!

          Nhìn thấy nó run cầm cập, mặt mũi tái nhợt đi hắn hỏi:

          - Mày sợ bọn chúng nó đến  thế cơ à?

          - Không… không… em… em… rét… rét… quá…

          Chú Cần thấy thế vội lao lại đỡ thằng Lân và bảo hắn:

          - Nó bị cơn sốt rét đột phát rồi!

          Hắn nhào đến giúp chú Cần đỡ thằng Lân. Thằng Lân không thể đi được nữa. Người nó run rẩy chỉ chực khụy xuống, răng va vào nhau côm cốp. Hắn lập tức ghé lưng cõng nó chạy về lán.

          Đặt thằng Lân nằm xuống sạp nứa, hắn bảo chú Cần lấy ngay cái chăn chiên rách đắp cho nó. Thằng Lân vẫn kêu rét quá. Hắn phải lôi cả mấy cái bao tải vẫn dùng để đựng quặng vàng đắp thêm lên người thằng Lân. Thằng Lân vẫn rên lên vì rét. Không còn cái gì để đắp thêm cho nó nữa. Hắn bảo:

          - Chú ở đây với nó! Tôi sẽ sang bên kia suối mua thêm cho nó một cái chăn và xem có kiếm được viên thuốc ký ninh nào không!

          - Anh đi rồi về ngay nhé! Cẩn thận kẻo lại gặp bọn tay chân Ông Cụt đấy!

          Hắn đi hồi lâu. Khi hắn mang về một cái chăn và mấy viên thuốc thì thằng Lân đã mê man chả còn biết gì nữa. Hắn bảo chú Cần mài thuốc ra hoà nước cạy răng đổ thuốc vào miệng cho nó. Thằng Lân không đỡ nhưng đến gần sáng hôm sau thì nó có vẻ hơi tỉnh. Nó cố nói với hắn và chú Cần là hãy bỏ bãi vàng mà về quê ngay đừng cố nấn ná ở đây nữa. Chú Cần bảo: “Khi nào mày đỡ thì chúng ta về luôn!”. Thằng Lân nghe vậy khẽ lắc đầu rồi nhắm mắt. Từ lúc đó trở đi nó không tỉnh lại lần nào nữa.

          Thằng Lân nằm ốm li bì hai ngày thì chết. Căn bệnh sốt rét ác tính thằng Lân mang về từ chiến trường bất ngờ tái phát đã quật ngã nó ngay tại bãi vàng nơi chốn rừng sâu Tây Bắ­c. Hắn và chú Cần phải nhờ cánh phu vàng giúp đào hố chôn  thằng Lân ở ven rừng. Hắn tìm một hòn đá trắng phẳng phiu dùng dao khắc tên thằng Lân vùi xuống cuối nấm mộ để đánh dấu.

 *

          Hôm sau, hắn và chú Cần quyết định về xuôi. Sau cái chết của thằng Lân, hắn cũng chả thiết gì việc dạy cho thằng Ông Cụt một bài học nữa. Nhất là khi hắn biết thằng Ông Cụt danh tiếng lẫy lừng ấy lại chính là cái thằng “đại ca quản lý thị trường”, thằng đã bị hắn cắt mất một tai ngày trước khi còn cùng ở trong nhà tù.

          Hắn và chú Cần lần ra đến cửa rừng. Hai thằng “lính gác” đang nằm ở trong một cái lều cạnh lối mòn chạy ra chặn lại hỏi:

          - Hai ông anh đi đâu đấy?

          - Về quê làm ruộng, đếch thèm làm phu vàng nữa!

          - Thế hả? Vậy xin hai ông anh “nộp thuế” cho nhé!

          - Khi làm vàng trong mỏ chúng tôi đã nộp đủ rồi!

          Chú Cần nhã nhặn nói. Một thằng cười hềnh hệch:

          - Đấy là thuế thu đào đãi vàng tại bãi. Còn bây giờ là loại thuế khác!

          - Thuế gì?

          - Là “thuế xuất”! Ai muốn ra khỏi rừng đều phải nộp “thuế xuất”, tức là xuất ra khỏi bãi vàng ấy mà. Mỗi người hai chỉ. Đây là quy định của Ông Cụt…

          Vừa nghe thấy chúng nhắc đến tên Ông Cụt, hắn nổi điên lên ngay:

          - Về bảo cái thằng Ông Cụt nhà chúng mày có ăn cứt tao thì đến đây tao ị cho một bãi mà lấy nhé!

          Hai thằng “lính gác” nghe thấy thế biết là gặp phải người không dễ bắt nạt, chúng liền rút phắt mã tấu và côn gỗ ra. Hắn gạt chú Cần lùi lại rồi tiến lên. Hai thằng côn đồ múa côn, vung mã tấu xông đến. Chỉ với tay không hắn lựa thế đối phó lại hai thằng lính gác. Không khó khăn gì hắn đã tước được cái côn của một thằng. Với cây côn trên tay hắn đánh bật cây mã tấu của thằng kia chả khó khăn gì. Hai thằng bị mất vũ khí định chạy nhưng không thể thoát. Hắn nện cho hai thằng một trận thừa sống thiếu chết hộc cả máu mồm, máu mũi ra. Hai thằng phải quỳ mọp xuống đất vái lạy như tế sao xin hắn tha mạng. Hắn rút phắt cây mã tấu lúc nãy bị hắn đánh văng đi đang cắm ở gốc cây rồi nói:

          - Bây giờ, tao sẽ cắt của mỗi thằng một cái tai để chúng mày nhớ và chừa cái thói theo đóm ăn tàn, bắt nạt, ức hiếp phu vàng đi.

          Hai thằng "lính gác" khiếp hãi quá! Chúng vừa vái lạy vừa cuống quýt  lôi từ trong túi ra nào là tiền, nào là vàng đưa lên nộp để xin hắn tha mạng. Chú Cần cũng vội can ngăn, xin hắn tha cho bọn chúng.

          Hắn ném thanh mã tấu xuống đất và bảo:

          - Chúng mày cất tiền và vàng đi! Thằng tao dù chết đói cũng không thèm lấy thứ tiền và vàng bẩn thỉu ấy! Hãy về bảo với thằng chủ Ông Cụt của chúng mày là: “Tao, Trần Đại Lỗi, số tù 5351… từng ở nhà giam Trại Chuối. Tao chính là người đã cắt cái tai của thằng Ông Cụt vứt cho chó ăn. Bảo nó còn lại một cái tai liệu cố mà giữ lấy, hiểu không!”.

          - Vâng… vâng…

          - Cút…

          Hai thằng "lính gác" lồm cồm đứng dậy ôm đầu chạy tháo thân vào rừng.

Mất hơn hai ngày vừa đi bộ vừa đi nhờ xe chở gỗ của lâm nghiêp hắn và chú Cần mới về đến ga Lào Cai. Hai anh em tìm cách trèo lên một toa chuyến tàu hàng chở Apatít về xuôi để đỡ mất tiền vé đi tàu chợ. Nhưng chuyến tàu hàng chỉ về đến ga Yên Viên.

          Hắn và chú Cần chui rào ra cổng nhà ga. Chú Cần tìm cách bắt xe về Hà Nam hoặc sang ga Hà Nội bắt tàu về Hà Nam. Còn hắn thì chưa biết sẽ đi đâu, làm gì. Chú Cần do dự một lúc rồi bảo:

          - Hay anh về quê Hà Nam với tôi. Anh có sức khỏe có thể đi làm thuê đóng gạch hoặc vác đất đào ao, vượt nền nhà!

          Hắn lắc đầu:

          - Thôi chú cứ về quê đi! Anh em ta chia tay nhau ở đây nhé!

          Chú Cần khoác cái túi lên vai lầm lũi đi ra phía cổng nhà ga. Hắn chợt nhớ và gọi giật lại. Hắn lục túi tìm mãi trong các túi mới thấy mấy tờ giấy bạc nhàu nát. Hắn đưa cho chú Cần tờ một trăm đồng dặn:

          - Chú về đến quê thì mua giúp thẻ hương sang nhà thằng Lân thắp vài nén trên bàn thờ nó giúp tôi. Chắc là nó đã về đến nhà trước cả anh em mình rồi đấy! 

          Chú Cần cầm tờ giấy bạc dụi mắt quay đi. Trời bắt đầu nổi cơn giông. Gió cuốn lá khô bay lên loạn xạ khắp sân ga. Cái dáng gầy yếu của chú Cần liêu xiêu đi trong gió bụi. Chú Cần đi rồi hắn lững thững đi vào trong nhà chờ. Hắn chợt nhó hôm nào ở chính cái nhà ga này “bè lũ bốn tên” hăm hở ngược lên rừng tìm vàng mong sẽ đổi đời, bây giờ chỉ còn hai thằng lủi thủi trong ngày trở về. Thằng Lân thì vùi xác nơi rừng thẳm. Thằng Bất hiền lành trở thành một tên nghiện ngập, lưu manh. Chú Cần thì ốm yếu trắng tay trở về quê. Còn hắn thì cũng chả khá hơn, tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Thôi số kiếp nó là thế. Hắn tự an ủi mình. May mà hắn còn có sức khoẻ. Có sức khoẻ là còn có cơ làm việc, kiếm tiền và hy vọng sẽ có sự đổi đời. Thôi cứ vào trong nhà ga tìm chỗ nào ngả lưng cái đã. Suốt đêm qua nằm trên cái toa tàu chở đất đá chạy ầm ầm ngủ cũng chẳng yên.

          Hắn vào nhà chờ, các ghế đều có người ngồi nên không thể nằm. Hắn đành ngồi xuống cái ghế trống cho đỡ mỏi chân. Nhà ga ồn ào. Ngồi đối diện với hắn ở băng ghế trước mặt có hai ông có vẻ là cán bộ nhà nước. Họ mặc quần áo com-lê tuy không sang trọng nhưng sạch sẽ thẳng nếp. Hai người sôi nổi trao đổi, trò chuyện với nhau. Qua câu chuyện của họ hắn biết họ đang chờ tàu lên Vĩnh Phú tham dự một cuộc hội thảo về “đổi mới” cách làm ăn. Câu chuyện của họ nghe thật khó hiểu. Họ nói về những “hạch toán kinh tế”, những “hộp đen”, “khoán hộ, khoán sản phẩm trong nông nghiệp”. Hắn nghe ù cả tai, nhưng hắn hiểu lõm bõm là cách làm ăn cũ không còn phù hợp nữa. Hai ông này chê bai cách quản lý của hợp tác xã nông nghiệp, phê phán về cung cách làm ăn mà cái thời còn ở quê hắn từng biết. Hắn vô cùng sửng sốt, nói như hai ông này nếu ở quê hắn thì đi tù là cái chắc. Nhưng tại sao giữa chốn đông người thế này, lại có cả mấy anh công an, mấy ông phòng thuế, quản lý thị trường nữa mà chẳng ai nói gì. Có mấy anh bộ đội, một anh công an còn ngồi sán lại nghe hai ông này nói chuyện. Một ông đạp xích lô ngồi cạnh hắn chợt hỏi:

          - Chú là người đi kiếm việc làm thuê à?

          - Vâng!

          - Thế thì chú nên về quê đi! Về nhận lấy vài sào ruộng mà làm khoán, vượt mức khoán thì ăn, đỡ phải làm thuê, làm mướn cho khổ!

          - Nhưng ruộng là của hợp tác xã cơ mà! Ai người ta giao cho mình?

          - Chú chả hiểu gì cả! Bây giờ hợp tác xã giao ruộng cho xã viên rồi! Ai làm năng xuất cao thì được hưởng!

          - Giống địa chủ ngày xưa “phát canh thu tô” phải không ạ?

          - Không hẳn thế! Đây là khoán, hợp tác xã khoán cho nông dân, nông dân làm chủ ruộng đất, thoải mái cày cấy, chăm sóc cây lúa, hoa màu…

          Hắn nghe cũng lờ mờ hiểu. Hắn thấy thinh thích. Nhưng hắn cũng không có ý định về quê. Vì hắn có về thì cũng chả ai giao ruộng đất cho hắn cả. Hắn là thằng tù thì ai tin chứ. Nhớ lại vẻ mặt của ông phó chủ tịch xã hôm đám tang thằng Đang hắn lại càng không muốn về làng. Hai ông cán bộ còn nói thêm về “mở cửa”, “hội nhập kinh tế”. Hắn không hiểu lắm nhưng ông đạp xích lô thì có vẻ hiểu. Ông bảo: “Nếu chú không về quê thì lên biên giới mà kiếm việc làm. Khi mở cửa biên giới, tự do thông thương, buôn bán thì thiếu gì việc làm”. Nghĩ đến việc đào giếng và kiếm củi dạo trước, hắn lại thấy do dự. Hắn ngồi gục đầu vào thành ghế nhưng không ngủ nghe hết mọi chuyện và bình luận của mọi người xung quanh. Hai ông cán bộ đã ra ga lên tàu đi Vĩnh Phúc. Mấy người ngồi trong nhà ga vẫn sôi nổi bàn chuyện “đổi mới”. Một bà nói với anh bộ đội đeo quân hàm thượng uý:

          - Nói chú đừng giận nhá! Ở làng tôi bọn trẻ con vẫn hát nghêu ngao: “một gạch ba sao không bằng một sào ruộng khoán” đấy… hí hí hí…

          - Đúng thế! - Anh sĩ quan nói: - Có lẽ cháu cũng phải xin phục viên về quê làm ruộng thôi bà ạ!

          Hắn cảm thấy hơi bức bối. Mẹ kiếp! Lính tráng đánh nhau bục mặt, sống chết chẳng sợ, đối mặt hòn tên, mũi đạn mất mạng như chơi thế mà hoà bình đeo quân hàm sĩ quan hẳn hoi đời sống quá khó khăn, vợ con nheo nhóc, lương bổng không bằng một sào lúa thì ai còn muốn đi bộ đội để nhận phần chịu chết, chịu thiệt thòi cơ chứ! Hắn chợt bùi ngùi nhớ đến thằng Đang, thằng Lân - những thằng lính chiến số phận thật hầm hiu, chúng nó đã không chết nơi trận mạc mà bỏ xác ở rừng sâu vì miếng cơm, manh áo. Hoá ra để tồn tại còn khó khăn hơn là cái chết. Tuy vậy con người vẫn phải vật lộn bằng mọi cách để tồn tại chứ không phải bó tay chịu chết. Hắn chợt nhớ cái bận cắt tai thằng “đại ca quản lý thị trường” bị tuyên thêm hai năm tù và chuyển sang một trại cải tạo khác ở Phú Thọ. Tại đây hắn lại bị bọn “đại bàng” khống chế. Vẫn lại chuyện “tù cũ bắt nạt tù mới”. Bọn chúng đổ cả phân, nước giải vào mặt hắn, bắt hắn khom lưng làm ghế cho thằng đầu gấu ngồi. Hắn nghiến răng chịu nhục. Một hôm bọn tù đi làm trong thung lũng, đào hố trồng cây. Lừa khi thằng đầu gấu đứng đái cạnh một gốc cây không đề phòng, hắn gí luôn cái thuổng vào hai ngón chân của nó ấn thật mạnh. Hai ngón chân của nó đứt rời. Nó rú lên kinh hoàng. Hắn nén một tiếng gầm trong cổ họng bảo:

          - Mày mà khai ra tao thì không những hai ngón chứ mười ngón chân, mười ngón tay của mày cũng không còn một ngón…

          Thằng đầu gấu vẫn kêu nhưng khi quản giáo và bọn tù xô đến thì nó ấp úng nói là sơ ý đâm xẻng vào chân làm đứt hai ngón. Nó được băng bó, cầm máu và đưa vào trạm xã trại tù tiêm phòng uốn ván. Hắn luôn đề phòng, nhưng sau lần ấy không thấy thằng này có hành động gì. Hắn cũng đỡ bị bọn tù ức hiếp, đày ải. Nhưng hắn vẫn luôn cảnh giác. May sau đó hắn được chuyển sang buồng giam khác. Từ chuyện này hắn rút ra một điều rằng “phải ác với cái ác thì mới mong tồn tại được ở chốn giang hồ”. Hắn chỉ lấy làm tiếc là không giằn mặt được thằng Ông Cụt ở bãi vàng thêm một lần nữa.

          Ông đạp xích lô lại hỏi:

          - Thế chú có định về quê nhận ruộng khoán không?

          - Nhưng tôi có là xã viên của hợp tác xã đâu mà họ giao ruộng!

          - Thế à! Vậy thì nếu chú không muốn về quê làm ruộng thì ngày mai đi theo tôi!

          - Theo bác làm việc gì được, tôi có xích lô đâu mà đi đón khách?

          - Theo tôi xuống chỗ bờ sông Đuống! Ở đấy tôi quen một ông chủ chuyên cung cấp than tổ ong cho dân trong thành phố. Ông ấy đang cần nhân công, tôi đưa chú đến giới thiệu với ông ấy!

          - Thế thì may quá! Cám ơn bác!

          - Cám ơn gì, cùng bọn dân đen với nhau cả…

          Hắn đắn đo khi quyết định trở thành một tên đóng than tổ ong. Vì không biết cuộc đời hắn rồi có sáng sủa hơn những viên than đen sì kia không. Nhưng, biết đâu than thì đen mà cuộc đời thì đỏ. Hắn chợt nhớ đến câu chuyện về “Gã đốt than” mà hắn đọc được khi xem nhờ tờ báo văn nghệ của bà bán xôi sáng. Câu chuyện ấy hắn nhớ mãi. Cái gã đốt than ấy tên là Hoàng Đại Ngu, cũng là đồng hương với hắn.

           Chuyện rằng: Gã Đại Ngu vốn xuất thân từ một gia đình ba đời làm nghề đốt than. Quê gã ngày xưa là một miền rừng núi nhiều cây cối. Những cây gỗ lim, gỗ de, gỗ rùa mấy người ôm không xuể. Thời Pháp thuộc khi làm con đường tàu hoả lên Lao Cai người ta về quê gã khai thác gỗ làm tà vẹt. Họ chỉ lấy những đoạn gỗ thẳng còn bìa ván và cành cây vứt ngổn ngang. Ông nội và bố gã cưa cắt những đoạn cành cây ấy rồi đốt lấy than bán cho các lò rèn chuyên làm nông cụ, giáo mác ở chợ. Nghe nói ông nội gã từng được cụ Đề Thám ban khen, tặng cho một cái áo lụa vì có công cung cấp than cho các lò rèn vũ khí khi nghĩa quân Yên Thế về lập căn cứ tại khu vực núi Sáng, núi Tam Đảo đánh Pháp.

           Bố gã Đại Ngu ngày ấy thường ăn ngủ luôn trên rừng bên cạnh lò than. Đốt than cũng không phải là việc đơn giản. Gỗ dùng để đốt than phải là thứ gỗ tốt, rắn, khi cháy thành than rồi vẫn còn chứa một hàm lượng các-bon cao để tiếp tục cho nhiệt lượng khi dùng đốt nung sắt thép. Lò đốt than chính là một cái hố vuông đào sâu độ một mét. Những cành cây cưa cắt ngắn được xếp xuống hố chụm khít vào nhau vồng lên khỏi mặt đất. Sau khi nổi lửa đốt than là phải luôn luôn canh chừng. Lúc những khúc gỗ vừa cháy hết phải tưới nước và lấp lò lại ngay. Đốt lò rồi mà lỡ mà ngủ quên than cháy tàn thành tro hết. Bố gã kể lại có một lần những khúc gỗ vừa cháy hết ông định rẩy nước để lấp lò thì nghe có tiếng động lạ và mùi hôi hám xộc tới. Ông ngó ra xung quanh. Trong ánh lửa nhập nhoạng ông nhìn thấy một con hổ to lớn đang lởn vởn xung quanh, đôi mắt sáng rực của nó trừng trừng nhìn mình. Ông sợ hãi lùi lại ngồi sát vào lò than. Lửa bỏng rát cả lưng nhưng ông không dám lấp lò. Vì nếu để lửa tàn thì ông cũng mất mạng ngay. Con hổ không dám lao vào ông vì nó còn sợ đống lửa cháy rần rật. Nó ngồi phục đến sáng bạch mới chịu bỏ đi. Lần ấy ông mất đứt một lò than to sau mấy ngày cắt cành cây, đào hố, đốt lò.

           Gã Đại Ngu mới mười tuổi đã theo bố lên rừng đốt than. Có phải vì thế nên gã có nước da đen nhẻm như than hay không. Gã giúp bố khuân những khúc gỗ xếp xuống lò, chặt lá tươi để ủ lên khi lấp đất om than. Lớn hơn một chút gã có thể ngồi kéo cưa cắt cành cây với bố. Gã lớn lên trong rừng. Học hành bữa đực bữa cái. Khi thành một thằng thanh niên to lộc ngộc gã bỏ học suốt ngày hì hục bên cái lò than.

           Lúc gã Đại Ngu một mình tự đảm nhiệm được việc đốt lò than thì bố gã đã già yếu. Ông không làm được những việc nặng nhọc nữa. Một đời làm nghề đốt than, cái vất vả, khói than đã làm cho ông xuống sức nhanh. Nhiều bữa lên rừng ông chỉ ngồi thở dốc nhìn con làm. Tuy vậy làm nghề đốt than cũng có lúc nhàn. Đó là khi lò đã lấp kín chờ than nguội. Những lúc ấy, ông lại lôi từ cái bao tải rách ra một cuốn sách để đọc. Ông rất thích đọc truyện kiếm hiệp, truyện cổ tích. Mấy cuốn sách truyện của Trung Quốc đóng bìa cứng ông đã mua được trên phố bằng tiền bán than. Những cuốn sách ấy đã theo ông bao năm trên rừng, làm bạn với ông khi nằm canh chờ lấy than. Những trang sách nhọ nhem màu than củi. Ông đọc mấy cuốn truyện Tàu gần như thuộc làu. Ông thích nhất là chuyện "Ngu công rời núi".

           Có lẽ vì mê câu chuyện cổ tích này của Tàu nên ông bố đặt tên cho bốn đứa con là: "Ngu-Công-Rời-Núi". Gã con cả tên là Ngu. Lớn lên chỉ có mình gã Đại Ngu nối nghiệp đốt than của ông nội và của bố. Thằng Công em kế gã vào bộ đội, con Rời đi làm công nhân đào đất vá đường. Thằng Núi là em út gã đang học trường cao đẳng sư phạm tỉnh. Thằng em út được học hành đến nơi đến chốn cũng là nhờ những gánh than của bố và anh nó. Gã là thằng thua thiệt nhất nhà. Nhưng gã không ganh tỵ với các em. Gã Đại Ngu này nghĩ mình là anh cả thì phải chịu hy sinh, thiệt thòi. Có lẽ đời gã sẽ vĩnh viễn là một thằng đốt than.

          Một hôm, gã Đại Ngu từ lò than về đến nhà thì trời đã tối. Từ ngoài sân gã ấy đã nghe thấy tiếng nói chuyện hể hả trong nhà. Nhà đang có khách. Gã vừa định đi luôn xuống bếp xem cơm nước thế nào thì bố gã gọi giật lại:

          - Thằng Ngu vào đây tao bảo!

          Gã Đại Ngu bước vào nhà. Một ông khách vẻ bệ vệ đang ngồi đối diện nói chuyện với bố gã. Gã chào ông khách. Bố gã nói:

          - Nó là thằng Ngu đấy bác ạ!

          - Sao lại là thằng Ngu?

          - Ấy quên chưa nói với bác, tôi có bốn đứa con, ba trai, một gái. Tôi đặt tên theo đầu đề câu chuyện cổ tích của Trung Quốc là "Ngu công rời núi". Con Rời thoát ly đi làm công nhân đổi tên là Tuyết Lan, làm khổ tôi một lần lên thăm nó hỏi đến hết cả hơi mãi chả ai biết con Rời là ai. Thằng này ở nhà theo bố làm nghề đốt than nên vẫn gọi là thằng Ngu.

           - Nó theo tôi cũng phải đổi tên khác! À... đúng rồi, chỉ cần thêm một dấu ngã là xong. Tên là Ngũ, Hoàng Đại Ngũ, hay lắm.

           - Vâng! Bác cho thằng Ngu nó đi theo hầu bác chứ làm nghề đốt than như ông và bố nó thì muôn đời cũng chả khá lên được đâu.

           - Ông cứ chuẩn bị đi, tuần sau tôi sẽ cho người về đón nó đi.

           - Vâng, trăm sự nhờ bác! Có cái gì mà phải chuẩn bị đâu ạ! Bác gọi là thằng Ngu nó đi luôn!

           Gã Đại Ngu nghe mà không hiểu. Suốt bữa cơm hôm ấy gã ngồi tiếp thức ăn, chạy đi mua thêm rượu cho hai người. Nghe họ chuyện trò gã mới dần dần hiểu rõ ngọn ngành. Thì ra là chuyện từ thời kháng chiến chống Pháp. Hôm ấy mẹ gã đi chợ bán than bố gã đưa gã theo lên rừng. Khi đó gã mới lẫm chẫm biết đi. Vừa vào đến nơi gã ngáp ngủ. Ông đặt gã nằm ngủ trên manh chiếu rách trong lều rồi chuẩn bị nhóm lửa đốt lò than. Đang hì hục làm thì nghe có tiếng súng nổ ngoài bìa rừng. Một lúc sau lại nghe có tiếng người kêu rên đâu đây gần chỗ lò than. Bố gã vội bỏ lò than tìm đến chỗ có tiếng người kêu. Nhận ra đó là một anh cán bộ bị thương đang cố lết đi. Anh bị bọn địch phục kích bắn bị thương. Anh chạy thoát được vào rừng. Không thể đưa anh lên chỗ lò than sợ bọn địch ập đến, ông vội cõng anh chạy vào tận một khe sâu trong núi. Ông băng bó cho anh và để anh ở đó. Khi ông quay lại chỗ lò than tìm con thì gã đã thức giấc. Không thấy bố đâu, gã chui ra khỏi lều vừa đi tìm bố vừa khóc. Bố gã tìm mãi mới thấy gã ở gần bờ suối. May mà gã không ngã xuống nước và không gặp thú dữ. Anh cán bộ được bố gã chăm sóc tiếp tế khỏi vết thương tìm đường trở về đơn vị. Bây giờ anh đã là một ông cán bộ đầu ngành của tỉnh. Nhớ lại chuyện ngày xưa, ông tìm hỏi mãi mới lần ra nhà người đốt than đã cứu mạng mình trong chiển tranh. Biết gia cảnh người đốt than, ông ta muốn đưa gã đi theo làm cán bộ. Thế là nhờ­ có quý nhân phù trợ­, cuộc đời gã Đại Ngu thay đổi từ ngày ấy. Sau này gã còn làm đến chức giám đốc sở Văn hoá thông tin tỉnh, tiền bạc đầy túi, muốn gái là có gái, muốn nhà thì có nhà, chả thiếu thứ gì…

           Nhớ lại câu chuyện về gã đồng hương Hoàng Đại Ngu hắn quyết định theo ông đạp xích lô đến xưởng làm than tổ ong bên bờ con sông Đuống.

Hắn được lão chủ cơ sở sản xuất than tổ ong trên bến sông Đuống nhận vào làm việc. Lão chủ này tên là Thủ, có biệt danh mọi người thường vẫn thường gọi là “Thủ đen”. Lão ta dáng người đậm thấp và đen như than thật tương ứng với nghề nghiệp của mình. Nghe nói hồi còn trẻ lão này hát hay, tính tình lại phong lưu nên có một cô gái trắng trẻo, xinh đẹp con ông hàng chài vẫn ghé neo thuyền ở bến sông mê như điếu đổ. Cô mê tiếng hát của anh Thủ đến bần thần tâm trí. Anh Thủ hát bài “Giọt mưa thu” nghe cứ nao nao trong lòng trinh nữ. Có hôm ngồi rửa bát trên thuyền mải nghe tiếng hát trên bến cô mê mẩn thả hết cả bát đĩa xuống sông. Một hôm, trời sẩm tối khi con thuyền chài vừa neo, cô gái đã tuồi xuống nước lẻn lên bờ tìm người hát “Giọt mưa thu”. Đêm ấy sau khi nghe bài hát mê hồn về chàng Trương Chi trên bãi sông vắng vẻ cô gái đã dâng hiến cho anh Thủ sự trinh trắng của mình.

          Ông thuyền chài tuy rất tức tối nhưng vẫn phải gả cô con gái xinh đẹp của mình cho thằng đóng than vì cái bụng của con đã kênh vạt áo. Họ sống với nhau thật hạnh phúc, có với nhau ba đứa con. Nhưng trận bom năm 1972 ném xuống cầu Đuống đã giết chết vợ lão và đứa con gái út. Cô con gái lớn đang học đại học, cậu con trai kế sắp hết cấp ba. Bằng nghề nặn than, lão nuôi hai con ăn học. Từ khi người ta phát minh ra loại than tổ ong thì cơ sở làm than đun bếp của ông càng thêm phát triển và trở nên nổi tiếng. Rất nhiều hàng quán trong nội thành và ngoại thành là khách hàng của lão Thủ. Cơ sở sản xuất than của lão ngày càng phát triển nhưng lão thì ngày một hom hem, già yếu đi. Nghề làm than vất vả và độc hại. Lão rất muốn truyền nghề cho ai đó kế tục. Lão đang nghiên cứu chính sách kinh tế mới của nhà nước, nghiền ngẫm nội dung luật thành lập doanh nghiệp tư nhân. Lão nghĩ đến việc phải thành lập “Công ty TNHH Than tổ ong Sông Đuống” để phát triển sản xuất lớn hơn. Lão sẽ làm giám đốc hẳn hoi. Hiện tại thì cơ sở sản xuất của lão bán than tổ ong cho nhiều cơ quan, hàng quán, hộ gia đình. Cơ sở của lão Thủ có bộ phận chuyên môn đóng than và một đội quân phân phối đến tận nơi tiêu thụ, hầu như đến từng bếp nấu than trong khu vực.

          Khi hắn được ông đạp xích-lô dẫn đến giớ­i thiệu, lão Thủ lập tức nhận ngay vào làm việc. Lão Thủ lờ mờ nhận thấy ở hắn một người kế tục sự nghiệp đóng than tổ ong trên bến sông Đuống. Tuy vậy, do hắn vừa mới đến, lại chưa nắm được kỹ thuật đóng than tổ ong nên hắn được giao làm việc ở bộ phận phân phối sản phẩm. Hắn được cấp một chiếc xe đạp thồ có gia công gắn các phụ kiện để xếp than tổ ong chờ vào trong phố. Hắn cũng được bàn giao cho một bản danh sách khách hàng ở khu vực Hàng Đậu, Hòe Nhai cho đến phía bắc Hồ Tây. Thế là ngày ngày hắn làm công việc chở than vào phố đến các địa điểm giao hàng. Hắn có sức khỏe nên đẩy xe than đi băng băng. Khi bán hết than quay về hắn đạp xe vù vù. Buổi tối vì vô gia cư nên hắn được lão chủ cho ngủ lại ngay nơi làm than. Hắn được lão chủ chi thêm cho một ít tiền công trông coi bảo vệ nhà xưởng sản xuất. Thế là lợi cả đôi đường.

          Một hôm, giao hết xe than tổ ong, đang chuẩn bị quay về thì có tiếng gọi:

          - Này chú! Vận chuyển cho tôi hai bao hàng này nhé!

          Đó là một bà buôn đứng ở cổng chợ Long Biên. Hắn hỏi lại:

          - Chở đi đâu ạ?

          - Sang chợ Gia Lâm! Có phải chú là công nhân của lão Thủ đen không?

          - Đúng thế ạ!

          - Vậy tốt rồi! Thế thì từ nay buổi chiều sau khi bán hết than chú về qua cổng chợ chở hàng về Gia Lâm cho tôi nhé!

          Bà ta căn dặn hắn địa chỉ giao hàng. Hắn chở cho bà hai bao hàng vải và quần áo may sẵn. Bà ta trả cho hắn mấy chục đồng tiền công. Từ đó hắn có hàng để vận chuyển cả hai chiều. Lúc đi thì hắn phải gò lưng đẩy xe đi bộ vì than nặng, lúc về hai bao hàng vải nhẹ tênh hắn đạp xe vùn vụt. Hắn có thêm thu nhập. Nhưng tính hắn vốn sòng phẳng, hắn đề nghị chia một phần tiền công cho lão Thủ vì cái xe đạp là tài sản của lão ta. Lão Thủ xua tay bảo hắn giữ cả lấy số tiền ấy, khi nào cần thì sửa xe, mua săm lốp mà thay thế.

          Những ngày bán than tổ ong ở Hà Nội giúp hắn hiểu được nhiều điều, biết được nhiều chuyện ở chốn thị thành. Hóa ra người thành phố không phải ai cũng sung sướng. Cũng có những nghịch cảnh, những số phận éo le. Hắn còn nhớ và ấm ức mãi một chuyện. Đó là bữa hắn chở than qua một khu biệt thự khá sang trọng. Có một ông chủ biệt thự nhìn thấy hắn bèn gọi vào thuê phá dỡ gian nhà cấp bốn ở góc vườn. Đây là gian nhà ông này làm cho mẹ ở. Khi bà cụ mất, ông ta muốn phá đi, giải phóng mặt bằng lấy để làm nơi treo hoa phong lan, bày cây cảnh, kê cái ghế ngồi ngắm hoa, đọc báo.

          Hắn về nói lại với lão Thủ. Lão chủ cơ sở đóng than tổ ong bảo mấy ngày tới dừng đóng than thủ công để sửa chữa lại nhà xưởng, mua sắm máy đóng than tổ ong chạy điện nên cho công nhân tạm nghỉ, hắn có thể đi làm thêm mà kiếm tiền. Vì thế, hắn đến nhà ông chủ biệt thự ấy nhận việc phá dỡ căn nhà cấp bốn.

          Hắn được biết, ông này là một cán bộ loại bự. Làm quan to nên ông ta  đưa mẹ từ quê lên Hà Nội. Bà mẹ già mắt đã mờ, chân đã chậm, lại vốn dĩ là nông dân tần tảo vất vả cả đời nên về già ốm yếu, bệnh tật. Bà cụ sinh hạ được mỗi ông ta là con duy nhất. Chồng chết, cụ ở vậy nuôi con, lần hồi sới đất lật cỏ kiếm từng xu, từng hào cho ông ăn học nên người, trở thành vị quan chức to nhất vùng. Dân làng thấy ông ta đánh ô tô con bóng lộn về quê đón mẹ về thủ đô phụng dưỡng, ai cũng trầm trồ khen ngợi ông ta có hiếu. Bà hàng xóm cạnh nhà thì cứ nức nở mãi: “Con thế mới đáng là con chứ! Đúng là đẻ con khôn mát L... rười rượi, chả bù mấy thằng giặc nhà tôi phá gia chi tử!”. Ông ta bán sạch nhà cửa, ruộng vườn rồi đưa mẹ ra đi trong sự thán phục của cả làng.

          Khi lên Hà Nội, bà cụ vẫn quen lối sống tùy tiện thoải mái như ở quê. Bà cụ nhai trầu bỏm bẻm suốt ngày. Nước cốt trầu vương vãi trên sa-lon và nền phòng khách được lát bằng gỗ quý khiến vợ ông rất khó chịu. Bà vợ ông càng bực bội mặt nặng, mày nhẹ mỗi khi ăn uống cụ làm cơm rơi vung vãi, đổ cả canh ra bàn ăn. Ông cán bộ nọ cũng nhiều phen phát bực với mẹ. Nhiều lần có khách hỏi thăm, cụ cứ rỉ rả kể lại mãi chuyện quê, chuyện ngày xửa ngày xưa nuôi con vất vả, chuyện ông biếng học hay chơi bời lêu lổng khiến ông phát ngượng. Có lần ông đã quát mẹ khi khách vừa mới ra khỏi cửa khiến bà cụ tủi thân cứ sụt sịt mãi. Còn bà con dâu và thằng cháu đích tôn thì thường xuyên trì triết, cằn nhằn mỗi khi cụ làm đổ nước hay rớt bã trầu ra sàn nhà. Bà cụ buồn lắm. Suốt ngày cụ lầm lì như cái bóng trong căn biệt thự sang trọng. Khi con cháu đi vắng, cụ muốn mở tivi nghe dân ca cho đỡ buồn khi nhớ quê. Nhưng con dâu sợ bà cụ làm hỏng tivi nên đã rút mất phích điện. Giá như còn ở quê, cụ sẽ sang nhà bà hàng xóm cùng nhau giã trầu hay tuốt rơm nếp để tết chổi. Còn ở đây giữa chốn nhà cao cửa rộng nhưng cổng khóa, then cài im ỉm cụ thấy mình như người bị giam lỏng.

          Bà cụ rất muốn trở về quê. Một lần cụ bảo con trai và con dâu: “Hay là vợ chồng anh cho mẹ về quê! Ở đây mẹ thấy không hợp!”. Ông con trai gạt phắt đi: “Mẹ về quê thì ở vào đâu! Nhà đã bán mất rồi!”. Còn bà con dâu nói mát: “Sướng lại chả muốn!”. Thằng cháu đích tôn thì lấc cấc: “Cụ bô mà về quê lấy ai khuya sớm nâng giấc, phụng dưỡng tuổi già!”.

          Dù là từ ngày đón mẹ ra ở cùng bao nhiêu phiền nhiễu nhưng con trai, con dâu chẳng bao giờ muốn cho mẹ về quê. Không phải vì đã trót bán mất ngôi nhà của tổ tiên để lại. Chỉ cần bỏ tra vài ba triệu là họ thừa sức mua miếng đất ở quê và làm cho mẹ căn nhà khác. Nhưng họ chẳng còn mặt mũi nào. Đã được tíếng là hiếu thuận thì phải giữ chứ với lại còn uy tín của ông, của bà trước cơ quan nữa. Thời buổi này cái ghế của ông không ít kẻ nhòm ngó, sơ sảy một tý dễ sụt giảm uy tín hỏng ngay. Hơn nữa để bà cụ ở Hà Nội cũng có thêm một nguồn thu đáng kể. Ấy là mỗi khi tổ chức mừng thọ cho cụ, dịp tết nhất và nhất là những khi cụ trái gió trở trời ốm đau (mà bà cụ thì lại rất hay ốm đau), anh em trong cơ quan, những người được ông bà nâng đỡ sẽ đến chúc mừng, hoặc thăm hỏi rồi đều có quà cáp. Quà thì đâu chỉ có cân đường, hộp sữa, nải chuối hay chục trứng gà như ở quê mà là phong bì dày cộp trong để toàn tiền mệnh giá lớn hoặc đô-la. Quà này thực ra chả phải dành cho người ốm.

          Thấy để mẹ ở nhà trên gây nhiều phiền phức, ông bàn với vợ làm một gian nhà cấp bốn ra chỗ góc vườn đưa bà xuống đấy ở. Bà vợ ông sốt sắng đồng ý ngay. Thế là bà cụ chỉ còn được lên nhà trên mỗi khi mừng thọ hoặc ngày tết và lúc nào đau ốm để cho mọi người trong cơ quan của con đến chúc mừng, hoặc thăm hỏi. Những người đến thăm hỏi, chúc mừng bà cụ chẳng qua chỉ là cái cớ. Đây là một dịp thuận lợi để họ đến cống nộp.

          Vào một đêm mưa gió trong ngôi nhà cấp bốn ẩm thấp nơi góc vườn bà cụ đã trút hơi thở cuối cùng sau nhiều ngày ốm nặng. Cũng ngay trong đêm, thi hài cụ đã được di chuyển đến quàn trong phòng lạnh của một nhà tang lễ lớn nhất thành phố. Tại đây cụ được tổ chức lễ tang thật trọng thể. Có rất nhiều đoàn đến viếng. Người làng trong đoàn của địa phương lên dự lễ tang ai cũng sửng sốt, nể phục. Vòng hoa nhiều vô kể, không thể đếm nổi. Chẳng có kèn trống như ở quê. Không có các vị sư sãi, các vãi già đến đọc kinh, chèo đò để người chết được siêu thoát được sang Tây Thiên với phật. Quan tài cụ được xe tang đưa thẳng ra đài hóa thân hoàn vũ, ấn nhẹ công tắc điện một cái là thành mây khói, chút tro cốt còn lại được cho vào cái lọ bé xíu. Thế là xong. Chuyện này chắc khi con sống bà cụ đã từng suy nghĩ đến. Cụ sợ lắm. Cụ chỉ muốn được trở về quê nếu có chết thì về với ông bà ông vải, gặp lại mấy bà bạn cùng tuổi đã đi trước mình. Nhưng điều mong muốn cuối cùng trong đời ấy của cụ đã không thành.

         Sau đám tang mẹ, ông con trai nghĩ ngay đến số tiền phúng viếng, nhẩm tính sơ sơ cũng đủ mua một cái xe ô tô mới tương đối xịn. Và việc ông phải làm đầu tiên là cho phá ngay căn nhà cấp bốn góc vườn.

          Biết rõ về “sự tích” của căn nhà cấp bốn góc vườn trong ngôi biệt thự, hắn cảm thấy bùi ngùi, thương cho bà cụ vừa mới qua đời. 

*

          Hắn bắt đầu phá dỡ căn nhà cấp bốn. Hắn cố chừa để lại một góc để ở tạm mấy hôm. Buổi tối hắn mới có thể thu dọn đống vôi vữa, gạch vụn rồi dùng xe đạp thồ chở ra đổ trộm ngoài bờ đê. Ban ngày mà chuyên chở những thứ này thì sẽ bị công an tóm ngay, với lại muốn đổ trộm những thứ phế thải ra bất cứ chỗ nào cũng đều phải đợi khi đêm đến. Ông chủ nhà dặn hắn làm ăn phải cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến ông ta. Hắn vâng vâng dạ dạ để ông ta yên tâm. Sau khi phá nốt góc căn nhà cấp bốn, nơi mấy đêm vừa rồi để lại lấy chỗ ngả lưng sau những chuyến chở phế thải đi đổ trộm ngoài bờ đê, hắn rụt rè lên phòng khách ngôi căn biệt thự gặp ông chủ. Nhìn nền lát gạch hoa và gỗ bóng loáng hắn ngại ngần không dám bước vào. Ông chủ nhà hất hàm hỏi:

          - Đã xong xuôi cả rồi chứ?

          - Chỉ còn một xe đất thải cuối cùng, tối nay tôi sẽ chở ra rồi đi luôn!

          - Vậy là thanh toán tiền công hả?

          - Vâng! Nhưng tôi cũng có việc xin báo lại với bác...

          Hắn vừa nói vừa móc trong túi quần ra một gói ni-lông được chằng buộc bằng những cái dây chun rất kỹ trông bẩn thỉu đưa cho ông chủ nhà. Ông ta vội rụt ngay tay lại trừng mắt hỏi:

          - Cái gì đây?

          - Những thứ này tôi đã tìm thấy nó khi phá nốt chỗ góc nhà lúc chiều. Chắc là của bà cụ nhà ta cất giấu. Là tiền và vàng ạ...

          - Là... vàng…hả...?

          Ông ta gần như giật phắt cái gói từ tay hắn, nhanh như một con chim cắt chộp mồi. Chẳng nề hà cái gói ni lông đầy bụi bẩn và dính bết nước cốt trầu đen xỉn. Ông lập cập mở ra. Trong gói có một đôi hoa tai, một cái nhẫn vàng và một cuộn tiền. Toàn là toàn tiền lẻ độ vài trăm nghìn đồng. Nhưng lại có hai tờ một trăm đô-la bọc ở bên ngoài. Đây chắc là của người nào đó “mừng tuổi” bà cụ từ hôm tết mà ông ta không biết để thu hồi. Ông ta hất hàm hỏi hắn:

          - Chỉ có thế này thôi à?

          - Vâng… vâng…!

          - Có đúng như thế không?

          Câu hỏi của ông cán bộ làm hắn tái mặt đi vì thấy mình bị xúc phạm ghê gớm. Hắn khinh bỉ nhìn ông chủ nhà. Hắn đã quá thật thà đem trả lại toàn bộ số tài sản tìm thấy thế mà không được một lời cảm ơn lại còn bị nghi ngờ. Hắn quay mặt định bỏ đi nhưng ông cán bộ gọi giật lại:

          - Thằng kia đứng lại! Tại sao mày không trả lời tao hả?

          Nghe tiếng ồn ào ngoài phòng khách bà chủ nhà và thằng con ở phòng phía sau cùng chạy ra. Biết chuyện bà ta chu chéo:

          - Ối giời ơi là giời! Chết tôi rồi! Cho bà ấy ăn sung, mặc sướng, đầy đủ thế mà bà ấy còn lén lút cất giấu bao nhiêu là tiền vàng thế này!

          Chỉ tay vào mặt hắn, bà ta nghiến răng kèn kẹt:

          - Cái thằng kia, mày còn giấu giếm cái gì không hả... Mày đã chở bao nhiêu chuyến đi rồi hả?

          Chỉ tay vào mặt ông chồng, bà ta rên rỉ:

          - Ông phải gọi cho công an đến khám xét, tra hỏi thằng này ngay! Mấy đêm vừa rồi nó đã đem những cái gì ra ngoài ông có biết không?

          Ông cán bộ cáu kỉnh:

          - Bà im đi! Gọi công an có mà...

          Thằng con thì cầm cái nhẫn vàng của bà nội giơ lên lật đi, lật lại xem xét. Rồi nó gật gật cái đầu nói nhỏ với bố: “Bố cứ để thằng này cho con xử lý!”.

*

          Lẽ ngay sau khi bị ông cán bộ nghi ngờ xúc phạm hắn đã rời khỏi ngôi biệt thự ngay tức khắc. Nhưng vì chưa được thanh toán tiền công nên hắn còn chần trừ chưa đi. Lúc hắn đang đang chuẩn bị ăn cơm thì thằng con ông chủ dẫn theo một thằng nữa mặt mũi vẻ hung hãn ra chỗ góc vườn. Hai thằng đạp đổ nồi canh đầu cá của hắn đang nấu. Thằng con ông chủ túm áo dí dao vào cổ hắn. Giọng nó sực mùi rượu:

          - Mày… giấu… tiền… và… vàng… của… nhà… tao… ở… đâu…?

          Hắn coi thường nhìn hai thằng côn đồ. Chỉ cần một cái vung tay thì hai thằng oắt con này sặc gạch, chết không kịp ngáp. Nhưng không thèm chấp lũ vô lương, hắn giằn giọng bảo:

          - Có bao nhiêu tao đã đưa cho ông chủ rồi!

          - Vẫn còn! Muốn sống khôn hồn thì hãy nôn ra ngay! 

          - Đã đưa hết rồi!

          - Hết... rồi... à...?

          Mũi dao trong tay thằng con ông chủ nhích thêm một tý. Máu từ cổ hắn ứa ra rơi thành giọt xuống ngực áo. Đã thế thì tao sẽ cho chúng mày hiểu thế nào là lễ độ! Bằng một động tác quét chân và động tay của hắn hai thằng côn đồ đã văng ra xa mấy mét. Chúng lồm cồm bò dậy vung dao lên tiếp tục xông vào. Mẹ kiếp! Bọn này muốn chết thật rồi. Hắn chợt nhớ lại chuyện hai “lính gác” bữa trước ở bãi vàng cũng cầm côn và mã tấu lao vào hắn như thế này. Hai thằng oắt con khốn kiếp này chắc cũng phải nện cho một trận lên bờ xuống ruộng giống như hai tên “lính gác” bãi vàng hôm nào đây. Hai bàn tay gân guốc của hắn vo lại thành hai nắm đấm.

          Giữa lúc ấy thì ông cán bộ xuất hiện. Ông ta vội vã ngăn hai thằng lại. Thực ra ông ta đã theo dõi vụ việc “xin tý tiết” của thằng con ngay từ đầu. Thấy tình hình có vẻ không ổn, ông ta vội lên tiếng:

          - Thôi, chúng mày để nó biến đi!

          Hắn ném ánh mắt nhìn khinh miệt vào cái bản mặt phì phị của ông cán bộ nọ. Hắn nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất. Hất trả lại mấy bao vôi vữa phế thải, hắn dắt chiếc xe đạp ra khỏi ngôi biệt thự sang trọng.

  Sau cái bận bị ông cán bộ vu cho lấy trộm tiền và vàng, hắn rất cẩn trọng mỗi khi vào các khu nhà biệt thự sang trọng. Thực ra thì làm cái nghề bán than như hắn thì có việc quái gì mà vào các khu biệt thự của các vị cán bộ nhà nước hay các đại gia giàu có. Vậy mà có lúc hắn vẫn phải vào. Vì thế mà hắn thấy cũng lạ là có ông nhà cửa rất to, rất sang trọng song mà vẫn dùng than tổ ong để đun nấu hàng ngày. Họ xây hẳn một cái bếp ngoài vườn để sử dụng bếp than. Qua những lần tiếp xúc với bọn giúp việc ở các nhà ấy hắn mới hiểu. Thì ra nhiều người càng giàu càng keo kiệt. Họ thuê người làm vườn, nấu ăn, họ dùng than tổ ong cho đỡ tốn kém hơn là đun nấu bằng ga, bằng điện. Mà thôi đó là chuyện của nhà giàu, hắn chả bận tâm.

          Một lần giao than tổ ong cho quán phở quen, có một người đàn bà đang ngồi ăn phở cứ chăm chú nhìn hắn mãi. Đó là một người đàn bà đẹp và quý phái. Khi hắn đang định đi tiếp thì chị ta cũng đứng lên bước ra theo. Chị ta bảo hắn:

          - Đem đến nhà tôi một chục viên than nhé!

          - Nhà chị ở đâu ạ?

          - Chú cứ đạp xe đi theo tôi!

          Nói xong, chị ta lấy xe máy giong đi trước dẫn đường. Hắn đạp xe chở than đi theo người đàn bà. Số lượng than đã gần hết nên hắn đạp xe rất nhanh. Họ đi vòng vèo qua mấy cái ngõ ra gần phía bờ Hồ Tây. Người đàn bà dừng lại mở cổng một ngôi nhà không lớn lắm nhưng có cả vườn cây sát bờ hồ. Đó là một ngôi nhà rất đẹp. Có một khoảng sân nhỏ rợp bóng cây với những khóm tường vi trồng sát tường đang nở hoa. Chị ta bảo:

          - Chú để cho tôi mười viên than cạnh chỗ gốc cây nhãn góc sân kia nhé!

          Hắn xếp những viên than tổ ong vào chỗ chị ta chỉ. Người đàn bà trả tiền than cho hắn, thừa những hơn chục đồng. Hắn lục túi tìm tiền trả lại nhưng chị bảo không lấy coi như thêm chút thù lao chuyên chở đi xa và dặn:

          - Từ ngày mai, nhớ là mỗi ngày đưa đến cho tôi mười viên than nhé!

          - Vâng…

          - Nhớ là tôi chỉ ở nhà từ lúc mười giờ đến mười một giờ thôi đấy!

          - Vâng… xin quý khách cứ yên tâm! Công ty than tổ ong chúng tôi sẽ phục vụ quý khách thật chu đáo…

          Hắn đùa và mừng thầm. Thế này tức là hắn đã phát triển thêm được một khách hàng tương đối ổn định cho cơ sở sản xuất than tổ ong rồi. Chắc khi biết chuyện lão Thủ sẽ vui lắm. Lão Thủ vẫn căn dặn bọn hắn khách hàng bây giờ chính là “Thượng đế”. Khi khách hàng cần đến là phải hết sức tận tình phục vụ, có như vậy mới phát triển sản xuất, nâng cao doanh thu, cải thiện được thu nhập cho công nhân. Gần trưa hôm sau, hắn lại mang than đến cho chị chủ nhà xinh đẹp và quý phái. Chị ta bảo hắn xếp than vào chỗ gốc cây nhãn góc sân. Hắn cẩn thận bê những viên than vào chỗ chị ta vừa chỉ. Vừa làm hắn vừa ngạc nhiên khi thấy mười viên than hôm qua vẫn còn nguyên. Chị ấy không đun than hàng ngày thì mua để làm gì nhỉ! Thắc mắc nhưng hắn cũng không hỏi lại. Chị chủ nhà trả tiền cho hắn và vẫn thừa lên vài chục đồng. Xong việc, bà chủ xinh đẹp còn pha mời hắn một cốc nước cam có đá cho đỡ khát. Hắn uống xong cốc nước mát cảm thấy hào hứng tiếp tục đạp xe đi giao than.

          Hôm sau nữa hắn mang than đến bấm chuông mãi không thấy chủ nhà ra mở cổng. Nghĩ là chị ta đi vắng, hắn toan quay xe đi thì chị phóng xe máy về. Người đàn bà mở cổng và bảo:

          - Chú xếp than vào chỗ gốc cây rồi vào nhà giúp tôi một việc nhé!

          - Việc gì thế ạ?

          Chị ta cầm cái bóng đèn điện từ giỏ xe giơ lên nói:

          - Thay giúp tôi cái bóng điện bị cháy!

          Hắn theo người đàn bà vào nhà. Chị ta dẫn hắn vào một gian kho nhỏ đầy bụi và mạng nhện phía bên nách trái của ngôi nhà. Chị thắp một cây nến soi cho hắn thay cái bóng đèn điện bị cháy. Gian kho chứa đầy những thứ đồ cũ. Khi ánh điện bật lên chị chủ lại nhờ hắn dọn dẹp cho gọn các thứ lại. Hắn làm một lát là xong. Chị chủ nhà xinh đẹp bảo hắn ra phòng khách uống nước. Hắn ngại ngần vì người đen nhẻm vì than và bám đầy bụi. Chị chủ nhà lục tủ đưa cho hắn một bộ quần áo đàn ông tuy hơi cũ nhưng còn lành lặn và thơm tho. Chị bảo hắn vào buồng tắm cho sạch rồi uống cốc nước mát xong hẵng đi. Hắn chần chừ nhưng chị ta cứ dứt khoát đẩy hắn vào nhà tắm. Hắn tắm thật thoả thích. Lần đầu tiên trong đời hắn được tắm bằng vòi hoa sen, nước tắm nóng lạnh. Hắn nhớ cái thời đi đào đãi vàng tắm suối, dòng nước đục lờ lờ, sặc sụa mùi hoá chất lọc vàng. Ở chỗ cơ sở làm than thì bọn công nhân phóng luôn xuống dòng sông Đuống mà tắm. Khốn khổ nhất là lúc trong tù nước tắm ít hơn cả nước giải, bọn tù đều bẩn như những con cầy hôi, đầy ghẻ lở.

          Tắm xong, hắn ra phòng khách. Chị chủ nhà xinh đẹp tủm tỉm nhìn hắn. Ánh mắt chị long lanh. Chị chỉ cốc nước cam đặt trên bàn bảo hắn uống. Rồi chị nói lên tầng lấy tiền than trả cho hắn. Trước khi lên cầu thang chị còn nhoài người vớ cái điều khiển bật máy mở phim Video cho hắn xem.

          Hắn vừa uống nước vừa xem phim. Đó là một bộ phim tình cảm. Hắn thấy trong người nóng dần lên khi trong phim có những cảnh rất ướt át giống hệt như những bộ phim hắn đã từng xem trong bãi vàng. Hắn gần như không dám thở mạnh khi nhìn thấy cảnh một đôi trai gái trần như nhộng quần nhau trong phim. Khi tình huống đôi trai gái trên phim đến lúc chuẩn bị để thâm nhập vào nhau thì hắn nghe có tiếng động phía sau lưng. Hắn giật mình quay lại. Chị chủ nhà xinh đẹp đang đứng sát ngay sau lưng hắn. Chị ta mặc một cái áo dài mỏng và gần như trong suốt nhìn rõ cả thân thể. Hai bầu vú của chị tròn căng nhô hẳn lên kênh cả vạt áo mỏng, rõ cả hai cái núm nhỏ màu nâu sẫm. Chỗ ngã ba phía dưới thấp thoáng, ẩn hiện một mảng màu đen hình tam giác ngược. Hắn hốt hoảng đứng bật lên. Người đàn bà nhoài đến vít vai ấn hắn ngồi xuống ghế sa-lon. Chị ta ngồi xuống cạnh hắn. Mùi nước hoa thơm ngát khiến hắn suýt hắt hơi. Hắn không quen với những điều mới lạ, xa xỉ. Hai bàn tay của chị giữ chặt tay hắn, chà sát bầu ngực nở nang vào cánh tay hắn. Hắn lúng túng nửa muốn thoát ra khỏi vòng tay của ngưòi đàn bà xinh đẹp, nửa muốn cứ như thế này mãi. Hắn cảm thấy sờ sợ vì chị ta tuy chỉ mới quen mà táo bạo quá. Trên màn hình đôi trai gái trong phim đã thâm nhập vào nhau. Những hành động giao hoan rất mạnh mẽ liên tục và hấp dẫn. Tiếng rên rỉ hổn hển trong phim lẫn vào tiếng rên rỉ hổn hển của người đàn bà. Hắn thấy người như mê đi, mụ mị hết đầu óc khi bàn tay trắng trẻo, với những ngón tay thon dài như búp măng của người đàn bà lần tìm đến chỗ quan trọng nhất của hắn. Người đàn bà kéo mạnh cái phecmơtuya. Khi hắn còn chưa kịp phản ứng thì những ngón tay thon như búp măng của người đàn bà quý phái đã nắm chặt được hắn. Cả hai đều thấy ngộp thở. Người đàn bà hất lật bỏ cái áo mỏng manh ra phía sau. Chị ta ưỡn bộ ngực to và căng tròn lên vẻ đầy kiêu hãnh và khao khát. Cơ thể chị ta trắng mịn như một cục bột và nóng rừng rực. Người đàn bà kéo hắn úp mặt vào ngực mình. Trên màn hình máy Video đôi trai gái đã đến lúc kết thúc. Một màu trắng như sữa bung ra. Toàn thân hắn co rúm lại khi người đàn bà cúi xuống đặt môi lên của hắn. Và cũng là lần đầu tiên có một người đàn bà làm như thế với hắn. Sau hồi lâu chị ta như hút hết cả tinh lực trong người hắn. Hắn cảm thấy toàn thân rã rời như đang tan chảy ra thành nước. Song hắn thấy thật thoả mãn vô cùng…

          Hắn dắt cái xe đạp chở than tổ ong ra khỏi ngôi nhà của người đàn bà xinh đẹp và quyến rũ đến mê hồn. Hắn vẫn còn thấy bàng hoàng, thảng thốt vì những điều mới lạ mà người đàn bà đã giành cho hắn. Hoá ra ở đời luôn luôn có những điều mới lạ, hấp dẫn mà ta chưa bao giờ biết hết.

          Khi hắn về đến xưởng đóng than thì đã ngang chiều. Lão Thủ vừa nhìn thấy đã gọi hắn vào hớn hở báo tin mọi thủ tục để xúc tiến thành lập “Công ty TNHH Than tổ ong Sông Đuống” đã hoàn tất, chỉ còn chờ sở công nghiêp của thành phố cấp giấy phép là xong. Lão muốn hắn sẽ làm phó giám đốc công ty. Hắn vội xua tay từ chối nói không có vốn để góp cho công ty. Lão Thủ cười phe phé:

          - Yên trí! Rồi cậu sẽ có vốn, mà còn có cả những cái khác nữa đấy!

          Hắn không hiểu. Nhưng lão Thủ thì có chủ ý. Trong thâm tâm lão rất muốn vun cho hắn với đứa con gái lớn của mình sắp tốt nghiệp đại học. Hắn không thể biết ý tứ sâu xa của lão Thủ. Bây giờ thì trong tâm trí hắn chỉ có hình ảnh của người đàn bà chủ ngôi nhà xinh đẹp mỗi ngày hẹn hắn đến để mua mười viên than tổ ong xếp chỗ gốc cây nhãn góc sân…

   Vậy là liên tục gần hai tháng, ngày nào hắn cũng đem mười viên than tổ ong đến ngôi nhà ven hồ. Khi đống than tổ ong đã chất cao xung quanh gốc cây nhãn thì người đàn bà không mua nữa. Nhưng hắn vẫn cứ đến trừ những ngày nào bận việc ở xưởng hoặc ốm, mệt mỏi. Bây giờ họ gặp nhau không phải vì mua bán mà vì cho và nhận. Người đàn bà thật là mạnh mẽ và khao khát. Chị ta ở một mình trong ngôi nhà ven hồ. Chồng của chị đang đi dự một khóa nghiên cứu chuyên ngành khoa học ở Ôtrâylia. Cậu con trai duy nhất thì đang du học bên Pháp. Ông chồng chị hơn vợ những mười lăm tuổi. Ông này say mê sự nghiệp nghiên cứu khoa học nên rất ít quan tâm đến việc khác trong đó có cả nhu cầu của người vợ. Nhiều đêm chị thao thức chờ đợi nhưng cũng nhiều đêm ông làm việc thư phòng cho đến sáng. Tình cờ một lần xem tờ lịch để bàn chị phát hiện ra ông chồng có cả một bảng kẻ ghi lịch về ngày, giờ nào sẽ ngủ với vợ. Có hôm chị rất muốn nhưng không đúng lịch thì dù có ve vuốt, kích thích đến thế nào ông ta cũng vẫn cứ dửng dưng tựa như một khúc gỗ, vô cảm. Phải hôm chị chán nản chuyện cơ quan, hay mệt mỏi không muốn nhưng đến lịch ông chồng vẫn đè vợ ra để làm việc. Về chuyện ấy ông ta cũng rất khoa học. Bước một mấy phút, bước hai mấy phút, để trong vợ bao lâu thì thôi... Ông ta đúng là một nhà khoa học nghiêm túc.

          Đoạn tiếp theo sau đây là do tác giả viết thêm, không hề có trong truyện: Ngày ấy máy vi tính chưa trang bị rộng rãi nên nhà khoa học, chồng người đàn bà xinh đẹp ấy phải ghi chép lịch giao hợp với vợ ra giấy. Bây giờ có máy vi tính thì lại khác. Có một câu chuyện thế này: Ông lãnh đạo nọ vốn rất nghiêm khắc, mẫu mực trong công việc. Ở cơ quan ông yêu cầu mọi cán bộ phải lập và  làm việc thật đúng kế hoạch đã đề ra. Dù khó khăn gian khổ đến mấy cũng phải cố gắng mà hoàn thành. Ông là một người rất gương mẫu và nghiêm túc để nêu gương cho mọi người. Ở nhà ông cũng vậy. Ông luôn giáo dục con cái đức tính khoa học, làm việc phải luôn luôn có kế hoạch. Một hôm chồng đi vắng, bà vợ tò mò mở máy vi tính của ông ra xem. Bà chợt thấy có một file lưu trữ tài liệu có tiêu đề là: “Kế hoạch MZ x.x.x - tuyệt mật”. Bà liền mở ngay file này ra xem. Trong đó, bà thấy một bảng quy định thời gian hành động, có ghi “giờ hành động là: 23giờ 30phút” và đánh dấu nhân (X) vào một số ngày trong tháng. Bà vợ hoảng hốt nghĩ có lẽ ông chồng đã tham gia vào một tổ chức phản động nên mới có một bản kế hoạch mang mật danh khó hiểu và ghi chú “tuyệt mật” thế này. Bà lo lắng mất ăn mất ngủ theo dõi chồng. Buổi tối hôm đến ngày có đánh dấu trong bản kế hoạch bà bồn chồn thao thức không làm sao mà ngủ được. Bà phải thức để theo dõi xem ông chồng có hành động gì sai trái để can ngăn ngay. Nhưng bà ngạc nhiên là tối hôm ấy ông chồng chẳng đi đâu, ông tắm rửa sạch sẽ và liên tục xem đồng hồ. Đúng mười một giờ ba mươi ông vào giường làm chuyện ấy với bà. Bà để ý thấy các ngày ông đánh dấu tiếp theo đều xảy ra đúng như thế. Thì ra đây chính là bản kế hoạch… ngủ với vợ của ông ấy. Ông lập kế hoạch, lưu vào máy tính và đặt chế độ nhắn tin. Đến đúng ngày, giờ quy định máy tính nối mạng Internet sẽ bắn tin vào điện thoại di động thông báo cho ông đã đến giờ "hành động". Hôm sau, lừa khi ông đi vắng, bà liền mở file “Kế hoạch MZ x.x.x - tuyệt mật” của chồng ra điền thêm một loạt dấu nhân vào các ngày khác trong tháng. Quả nhiên, ông chồng cứ chiểu theo dấu đã đánh trong bản kế hoạch lưu trong máy vi tính mà vào “làm việc” với bà. Phải làm việc ấy nhiều nên ông kiệt sức, sức khoẻ sa sút, trông thiểu não, bơ phờ như một người ốm nặng. Bà thương tình xoá bớt đi một số dấu nhân (X) trong kế hoạch để ông chồng lấy lại sức. Và, kể từ khi phát hiện ra file kế hoạch bí mật này, bà đã điều hành được ông chồng theo ý mình.

          Quay lại chuyện nhà khoa học và vợ là người đàn bà xinh đẹp vẫn mua mười viên than tổ ong của hắn...

          Chính vì ông chồng mải mê công việc nghiên cứu khoa học, luôn luôn chấp hành đúng lịch nên chị vợ, một người hoạt động ở ngành nghệ thuật thấy luôn luôn thiếu hụt và bức bối. Khi ông chồng đi nghiên cứu khoa học và hội thảo ở nước ngoài thì chị gặp được hắn. Giống như trời hạn gặp mưa. Họ quan hệ với nhau bất cứ lúc nào. Trong căn nhà nhỏ ven hồ, bốn bề tường xây kín ấy chỗ nào cũng là nơi họ gặp nhau. Có lần vội, không kìm nén được chị đã kéo của hắn ra hút hết tinh khí trong khi hắn còn đang chưa xếp xong mười viên than tổ ong xung quanh gốc cây nhãn góc sân.

          Một hôm đến cổng ngôi nhà ven hồ, thấy cổng khép hò theo thói quen hắn đẩy chiếc xe chở than tổ ong vào. Hắn giật mình thấy một chiếc ô tô màu sữa đỗ ngay ở sân.

         - Anh kia vào nhà tôi có việc gì? Sao lại tự nhiên thế!

         Một người đàn ông to béo, trông rất bệ vệ đang đứng trên hè ngạc nhiên hỏi khi thấy hắn tự tiện đẩy cổng đi vào. Hắn giật mình ú ớ:

         - Tôi... tôi...

         Chị chủ nhà vội chạy ra nhanh nhẹn đỡ lời:

         - Chú ấy vào lấy than đấy!

         - Than nào! Sao nhà ta lại có than?

         Người đàn bà chỉ tay về phía góc sân:

         - Than ở chỗ gốc cây nhãn kia kìa… Chả là hôm trước chú ấy chở than tổ ong qua đây thì cái xe bị hỏng nên em cho chú ấy gửi nhờ số than ở góc sân. Hôm nay, chú ấy đến để chở đem đi bán đấy!

          Chị ta quả là nhanh trí. Người đàn ông không nghi ngờ, tra hỏi gì thêm khi nhìn thấy những viên than tổ ong xếp gọn gàng quanh gốc cây nhãn chỗ góc sân. Ông ta nói:

          - Em bảo anh ta đem hết đi ngay, để ở đấy mưa xuống bẩn lắm! Bây giờ anh đi tắm. Lát nữa vợ chồng mình cùng đi dự buổi chiêu đãi do lãnh đạo Viện nghiên cứu tổ chức để chúc mừng các học viên vừa hoàn thành tốt chương trình nghiên cứu khoa học và hội thảo ở Ổtrâylia về.

          - Vâng... vâng...

          Người đàn bà đáp. Ông chồng đi vào trong nhà để mặc chị vợ ở lại với thằng bán than. Ông ta thấy yên tâm không một chút mảy may nghi ngờ gì tên bán than đen nhem nhẻm. Như vậy là trong lĩnh vực nghiên cứu, sáng chế các nhà khoa học thật sáng suốt, nhưng trong cuộc sống thì họ có rất nhiều sự lầm lẫn tai hại.

          Người đàn bà ngồi xuống cạnh hắn. Chị ta khẽ bảo:

          - Chồng em về rồi! Từ ngày mai qua khi qua đây thì cứ chờ em ở chỗ quán phở đầu ngõ. Hôm nào có thể được thì em sẽ thông báo nhé!

          Hắn ừ hữ trong cổ họng. Người đàn bà xỏ găng tay giúp hắn chất than lên chiếc xe thồ. Chị ta mặc cái áo rộng cổ lại không mang đồ “phụ tùng” bên trong nên mỗi khi cúi xuống hắn đều nhìn thấy hết, rõ cả hai cái nhũ hoa quen thuộc màu nâu sậm. Người đàn bà cũng cố ý để cho hắn luôn nhìn thấy rõ sự tuyệt vời ấy trên cơ thể mình. "Giá như hôm nay mà nhà khoa học chưa về thì tốt biết mấy!" - Hắn nghĩ thầm và nuốt nước bọt.

           Trước khi giúp hắn đẩy cái xe qua cổng người đàn bà nhớn nhác nhìn vào trong nhà rồi lén tóm mạnh một cái vào chỗ ấy của hắn.

          Sau bận ấy hắn thôi không đem mười viên than tổ ong đến ngôi nhà ven hồ nữa. Hắn và người đàn bà cũng ít gặp nhau, ít có điều kiện để làm cái việc mà cả hai đều rất muốn làm. Nhiều hôm có điều kiện thì họ lại không thể liên lạc được với nhau…

          Đoạn sau đây cũng là của tác giả viết thêm, không có trong truyện: Nếu thế thì thật là khổ thân hai kẻ si tình. Giá mà ngày ấy có điện thoại di động phủ sóng khắp nơi như bây giờ thì thuận tiện biết bao nhiêu, người đàn bà và hắn đỡ phải bồn chồn chờ đợi, hò hẹn nơi quán phở, chỗ hàng nước vỉa hè nhiều khi rất mất thời gian, sốt hết cả ruột mà người mong sẽ đến lại cứ như cánh chim bay khắp bốn phương trời, cá lặn đáy sông, biệt tăm, biệt tích, trông hoài sao chẳng thấy đâu...

          Chồng chị ta về rồi nên hắn cảm thấy rất sợ. Nhà khoa học này có tình hay ghen tuông vì cô vợ quá trẻ đẹp, lắm người vây quanh tán tỉnh. Trong khi đó thì ông ta đã già, công việc nghiên cứu khoa học làm trượt tiêu dần sự hứng thú, không đáp ứng được nhu cầu của vợ. Còn hắn dù vẫn muốn tiếp tục với người đàn bà nhưng cũng rất sợ. Hắn không dám thường xuyên đi qua cổng ngôi nhà ven hồ nữa. Rồi hắn xin lão Thủ thay đổi hành trình giao than. Hắn chuyển sang đảm nhiệm việc đưa than tổ ong cho các quán hàng và người tiêu dùng theo tuyến về phía làng gốm Bát Tràng. Tuyến này xa lại chủ yếu đi trên đường đê, khi mưa gió thì xiêu đổ cả người, khi trời nắng thì nóng bức. Tuy vậy đi bán than ở Bát Tràng cũng có cái hay. Lúc đi thồ than, lúc về chở đồ gốm sứ. Có một cửa hàng gốm sứ đầu cầu Đuống thuê hắn chở hàng từ làng gốm ra với mức tiền công khá cao, hơn hẳn cả dạo nào hắn chở hàng vải và quần áo may sẵn cho bà buôn ở cổng chợ Long Biên.

Hắn hơi ngả người về phía sau, xoạc chân để ghìm cái xe thồ chở nặng xuôi xuống một đoạn dốc đê thoai thoải. Hai cái sọt xe thồ chất toàn đồ gốm sứ là những chiếc chậu hoa, lọ hoa khá đẹp.

          Sắp đến chân dốc thì “rầm” một cái, một chiếc xe máy đâm mạnh vào phía sau cái xe chở đầy đồ gốm sứ của hắn. Chiếc xe được tiếp thêm một lực đẩy đột ngột nên chồm lên phóng rất nhanh xuống dốc. Hắn mất đà chới với ngã sấp xuống mặt đường. Tay hắn buông rời ghi-đông của cái xe đạp thồ. Chiếc xe thồ chở nặng không có người ghìm giữ nên phóng ầm ầm xuống chân đê. Hắn chồm ngay dậy cố đuổi theo để cứu chiếc xe đầy gốm sứ dễ vỡ. Nhưng chiếc xe lao nhanh xuống dốc rồi đổ chổng kềnh ra khi đâm mạnh phải bờ của con mương nước xây bê-tông. Những cái chậu hoa, lọ hoa bằng gốm sứ văng ra vỡ tung toé. Hắn cáu tiết quay lại định bụng sẽ cho kẻ chạy xe máy ẩu một trận nên thân rồi bắt phải bồi thường thiệt hại thật nặng. Đường vắng và hắn đã rất cẩn thận dắt chiếc xe thồ đi sát bên lề đường thế mà vẫn bị đâm vào phía sau thì thật là bực quá.

          Người đã đâm xe máy vào phía sau cái xe thồ của hắn vẫn dừng xe đứng lại ở giữa đoạn dốc đê. Đó là một phụ nữ. Hắn giơ bàn tay lên che ánh nắng ngược chiều nheo mắt nhìn. Hắn giật mình khi nhận ra đó chính là người đàn bà, vợ của nhà khoa học trong ngôi nhà ven hồ mà hắn vẫn đem đến bán mười viên than tổ ong mỗi ngày dạo trước. Hắn lúng túng, chân tay cảm thấy như thừa thãi. Người đàn bà gạt chân chống dựng chiếc xe máy giữa con dốc. Đoạn, chị ta chả nói chả rằng đùng đùng đi đến chỗ chiếc xe thồ của hắn vừa bị đổ. Chị ta lôi những thứ đồ gốm sứ còn lành lặn ra đập cho vỡ tan tành nốt rồi bảo:

          - Anh đem cái xe thồ vào chỗ quán nước kia gửi rồi đi theo em!

          - Đi đâu! Mà vỡ hết cả xe hàng thế này lấy gì mà đền cho chủ hàng?

          - Em sẽ đền gấp mười… - Lúc này chị ta mới tủm tỉm cười: - Mà lại còn “đền” thêm cả những thứ khác nữa đấy… hi hi…

          Hắn gửi chiếc xe thồ rồi ngồi lên xe máy của người đàn bà. Chị ta vừa tăng ga vừa nhấm nhẳng bảo:

          - Định chạy trốn hả! Để người ta tìm mãi mới thấy. Nhớ khiếp…

          Hắn ậm ừ trong cổ họng. Trong lòng hắn rối tinh rất nhiều tâm trạng, suy nghĩ trái ngược. Không phải là hắn có tình chạy trốn. Mà hắn không muốn tiếp tục quan hệ với chị ta. Cũng không phải là hắn quá sợ nhà khoa học, cái lão béo ị chồng của chị ta. Mà là hắn thương, lo sợ chị sẽ gặp phải rắc rối nếu ông chồng khoa học biết chuyện. Nhưng chị ta thì lại khác. Chị ta như một kẻ đang ăn kiêng, ăn dè, nhịn mãi, lúc đã được thoả thuê rồi thì lại càng khó chịu hơn khi lại phải ăn dè. Chị thấy mình không thể chịu nổi thêm nữa cái chế độ hưởng thụ “theo lịch” mà ông  chồng tiến sĩ khoa học dành cho như trước nữa. Chị ta đã phải bỏ việc ở đoàn nghệ thuật cất công bám theo bọn bán rong than tổ ong trên phố không biết bao nhiêu ngày mới tìm ra nơi sản xuất than rồi từ đó dò la và biết tuyến phân phối mới mà hắn đang đảm nhiệm.

           Người đàn bà đưa hắn vào nhà nghỉ. Vừa vào đến phòng đóng sập cánh cửa lại, người đàn bà liền lột hết các thứ quần áo bám đầy muội than của hắn và váy áo dính đầy bụi đường của mình. Hai người cùng ngâm mình trong bồn tắm ấm áp. Trông hắn với những hình xăm kỳ quái trên người giống như một con hổ đang quặt chặt một nàng tiên xinh đẹp. Nhưng người đàn bà không thấy sợ những hình xăm trên người hắn. Chị thích sự mạnh mẽ và hào phóng của hắn. Họ làm luôn chuyện ấy ngay dưới nước. Họ ở với nhau đến tối mịt. Người đàn bà vẫn chưa muốn về nếu không có chuyện cảnh sát bất ngờ ập đến vây ráp, bắt được mấy cặp mua bán dâm ở một nhà nghỉ khác ngay bên cạnh.

           Chở hắn ra đến bờ đê, người đàn bà dặn:

           - Thỉnh thoảng em sẽ sang bên Gia Lâm tìm anh. Đừng bao giờ trốn em nữa nhé!

           Hắn ậm ừ không trả lời.

           Người đàn bà cho hắn xuống xe gần chỗ cái quán đã gửi cái xe thồ lúc trưa. Rồi chị ta quay xe máy phóng ngược về hướng cầu Chương Dương. Hắn lấy cái xe đạp thồ đạp về cửa hàng gốm sứ trả tiền bồi thường hàng hóa bị vỡ cho chủ hàng. Đoạn, hắn giong xe sang xưởng làm than tổ ong. Có lẽ đã hơn tám giờ tối. Chợt thấy bụng đói cồn cào. Hắn đã dồn hết tinh lực cho người đàn bà rồi. Hắn lững thững đi bộ ra đường, nơi có các hàng quán hoạt động gần như suốt đêm. Thấy hắn đi ra cổng xưởng sản xuất, lão Thủ dặn với theo:

          - Ăn xong nhớ về ngay để ta cùng bàn bạc việc ngày mai tổ chức lễ ra mắt “Công ty TNHH Than tổ ong Sông Đuống” nhé! Mà nhất định cậu phải đảm nhiệm cái chức phó giám đốc maketing và điều hành phân phối sản phẩm đấy!

           Hắn thấy lo lo khi biết tin cô con gái của lão Thủ cũng đã về giúp bố chuẩn bị cho ngày thành lập, ra mắt công ty. Hắn không muốn làm cho lão Thủ và cô con gái của lão thất vọng. Cô con gái lão hình như cũng đã hơi mê hắn thì phải. Hắn càng không muốn làm lãnh đạo, vì hắn số hắn không thể làm lãnh đạo.

           Ăn xong, lẽ ra phải về ngay chỗ nhà xưởng thì hắn lại lững thững đi ra hướng nhà ga. Hắn theo bọn phu khuân vác lên một chuyến tàu ngược. Hắn quyết định bỏ cái nghề đóng than, bán than tổ ong.

           Việc hắn bỏ đi đột ngột khiến lão chủ vựa than tổ ong tiếc mãi. Lão Thủ đã nhìn thấy cái tố chất và năng lực quản lý kinh tế ở hắn. Cô con gái lão thì cũng thấy hơi bâng khuâng. Chưa có gì sâu sắc với nhau nên cô chỉ hơi thoáng buồn. Tương lai của cô bé còn đang ở phía trước. Tuy vậy, việc hắn biến mất đã gây sốc mạnh cho người đàn bà ở ngôi nhà ven hồ, nơi mà hắn nhiều lần đem đến mười viên than tổ ong xếp vào chỗ gốc nhãn góc sân. Chị ta đâm ngơ ngẩn mất một thời gian dài. Ngày nào chị ta cũng phóng xe lang thang trên các đường phố Hà Nội. Mỗi khi nhìn thấy một gã bán than tổ ong người đen nhẻm đang gò người đẩy xe than đi ở phía trước là đôi mắt rất đẹp của chị lại sáng lên ngời ngời niềm hy vọng. Khi chà xe tới thấy không phải là người cần tìm thì chị lại buồn thiu. Rồi chị phát bệnh. Căn bệnh “rồ tình” như có, như không. Nguời mắc phải cứ điên loạn quằn quại trong lòng không giải toả được. Nó bức bối, nó kìm hãm, nó căng cứng như sắp nổ tung toé lên. Tuy vậy, có lúc chị trở nên dịu dàng, thăm thẳm mặn mà. Chị trở thành một người hay thay đổi đột ngột, lúc sôi sùng sục nồng nàn, lúc nguội lạnh nhạt nhẽo. Ông chồng là một nhà khoa học nhưng cũng chịu, không hiểu nguyên nhân làm sao vợ mình lại lúc nắng, lúc mưa như thế. Ông vẫn duy trì nghiêm túc cái kế hoạch thực hiện nghiã vụ của người chồng đối với người vợ như một con rô-bôt đã lập trình rất chính xác, văn minh đến tuyệt đối.

           Một lần, người đàn bà do vội nghển cổ nhìn một gã bán than tổ ong trên đường phố nên cái xe @ bất ngờ đâm luôn vào một cục gạch. Chiếc xe mất lái đổ lăn giữa đường. Chị bị văng ra, đầu đập vào vỉa hè, ngất lịm. Chị được đưa vào bệnh viện cấp cứu, mấy ngày mới tỉnh lại. Tự dưng sau cú ngã ấy, chị bỗng trở nên khác hẳn. Chị bình tĩnh và chín chắn hơn. Có thể do chấn động của vụ tai nạn nên làm cho tài năng trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật của chị bỗng tự dưng phát tiết. Từ câu chuyện đời mình, chị viết được một kịch bản phim truyền hình nhiều tập khá hay với tiêu đề là “Chuyện tình đường phố”. Phim quay dựng xong phát sóng. Dư luận khán giả sôi lên bởi sự hấp dẫn, mới mẻ trong phim. Họ chờ đợi từng buổi tối để xem tiếp các tập phim. Báo chí bình luận, chủ yếu là khen. Đã lâu lắm khán giả mới được xem bộ bộ phim nội, chất lượng ngoại như thế. Chị trở thành một người nổi tiếng trong giới phim trường. Sau đó bộ phim “Chuyện tình đường phố” còn đoạt giải “Cây tre vàng” liên hoan phim truyền hình toàn quốc. Mỗi ngày, chị nhận được hàng trăm thư, tin nhắn, điện thoại của khán giả gửi đến bày tỏ tình cảm tốt với bộ phim và ngưỡng mộ sự thành công rực rỡ của chị. Và, ngày nào chị cũng bới tìm trong đống thư từ gửi đến mong có một lá thư của một người. Nhưng không lần nào chị tìm thấy. Chị mong hắn xem bộ phim chiếu trên truyền hình sẽ nhớ đến mình.

            Nhưng trong khi người đàn bà mỏi mắt trông chờ thì hắn lại đã bắt đầu một công việc mới, một cuộc sống mới. Cuộc đời hắn hình như luôn luôn là những chuyến đi, và là một nghề nghiệp mới. Chẳng biết công việc mới này của hắn có hơn cái nghề tiều phu đốn củi, phu đào đãi vàng hoặc thằng bán than tổ ong hay không thì có lẽ phải đến phần tiếp theo mới rõ…

Hắn trở lại nơi “chiến trường xưa”, đó là vùng biên giới Lạng Sơn.

          Nhưng lần này hắn không phải đi đào giếng và làm tiều phu đốn củi trên rừng để bán nữa. Biên giới đã mở cửa, thông thương. Hàng hoá nhãn hiệu “made in China” tràn qua các nẻo đường mòn biên giới sang nước ta như thác lũ. Một đội quân “cửu vạn” vô cùng hùng hậu đã giúp cho dòng hàng hoá giá rẻ đủ chủng loại ấy tràn vào Việt Nam. Bọn buôn lậu không mang hàng nhập cảnh qua các cửa khẩu. Bọn chúng thuê “cửu vạn” vận chuyển qua các lối mòn hai bên cánh gà cửa khẩu để trốn thuế. Do vậy mà hàng hoá nhập khẩu vào đến thị trường Việt Nam bán ra rất rẻ, tràn ngập các hang cùng, ngõ hẻm và đủ các loại mẫu mã vô cùng phong phú. Tự dưng chỉ trong vòng vài năm biến mất hẳn cái cảnh xếp hàng rồng rắn ở các cửa hàng bách hóa nghèo nàn. Trung Quốc cung cấp cho nước ta đủ loại hàng hoá từ que tăm, cái kim, sợi chỉ đến quạt trần, quạt điện xe đạp, máy cát-xét nghe nhạc, tivi, tủ lạnh, phích nước, bát đĩa, ấm chén, quần áo, hàng tạp hoá... Đặc biệt là xe máy Trung Quốc giá rẻ đến kinh ngạc. Trung Quốc đã trang bị xe máy cho toàn dân, nhất là nông dân Việt Nam, những người mà chỉ trước đó dăm năm nằm mơ có một cái xe đạp tốt cũng còn thấy là chuyện hão huyền, xa xỉ. Vậy mà chỉ sau vài năm họ đã cưỡi trên những chiếc xe máy mới tinh của nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”. Xe máy Trung Quốc góp phần to lớn làm cho tai nạn giao thông ở nước ta tăng lên vòn vọt. Nói chung, trước đó mười năm họ mang súng đạn sang nước ta, thì sau mười năm họ mang hàng hoá giá rẻ như bèo sang. Hai cuộc xâm lăng trong thời chiến và trong thời bình với hai loại vũ khí khác nhau nhưng đều không kém phần khốc liệt.

          Hắn nhập vào đội quân cửu vạn tự do chuyên gánh hàng, gùi hàng thuê qua biên giới cho đám dân buôn. Nhưng muốn được làm “cửu vạn” chuyên nghiệp cho các đường dây buôn lậu lớn, có tiền công cao và việc làm ổn định thì phải có tiền đóng bảo đảm và phải được bọn “trùm cửu” thu nhận. May mà hắn còn có ít tiền tích cóp được từ thời đào đãi vàng và bán than tổ ong. Hắn muốn tham gia vào các nhóm “cửu vạn” lớn nhưng chưa tiếp cận được tên “trùm cửu” nổi tiếng ở vùng biên này. Hắn đành ngày ngày qua lại biên giới nhận gùi hàng thuê cho mấy bà buôn bán nhỏ lẻ, vốn hẻo, chuyên mua toàn đồ giá rẻ.

           Một hôm, hắn qua bên kia biên giới gùi hàng thuê cho một bà buôn. Khi trở về đến khu vực an toàn, không còn lo công an, thuế vụ, biên phòng truy đuổi nữa, hắn liền dừng lại nghỉ. Trời mùa hè nắng nóng, hắn ngồi ở một mô đá cạnh con đường mòn cầm chai bia Wan-li (vạn lực) loại nửa lít ngửa cổ tu ừng ực một hơi dài cho đỡ khát. Nhưng càng uống hắn lại càng thấy nóng. Hắn liền cởi phăng cái áo ném ra bên cạnh cho mát.

           Lúc hắn vừa khoác lại cái áo chuẩn bị đi tiếp về nơi giao hàng thì có tiếng cười hô hố và tiếng người nói to ở phía sau lưng:

           - Xin chào anh bạn “đồng nghiệp”!

           Hắn giật mình quay lại. Một tên mặt choắt, râu ria xồm xoàm, trên mình khoác một cái áo rằn ri, lưng đeo một cái túi thổ cẩm, tay cầm cái gậy chống bằng gỗ đen nhánh nhe răng cười cười đi lại chỗ hắn. Hắn gật đầu có ý chào lại nhưng trong bụng hắn thì nghĩ: “Mẹ kiếp, “đồng nghiệp” cái con khỉ gì. Toàn bọn làm thuê cũng đồng với chả nghiệp, chỉ vẽ chuyện!”.

           Tên mặt choắt nhảy qua một gộp đá đi đến gần giơ tay phải về phía hắn. Hắn cũng chìa tay ra. Nhưng chả ai chịu nắm tay ai nên đành gượng cười và cùng rụt tay lại. Tên mặt choắt bảo:

           - Anh bạn “đồng nghiệp” có muốn tham gia “đóng cổ phần”, làm cổ đông của doanh nghiệp chúng tôi không?

           - Doanh nghiệp nào! Mà tôi chỉ là dân đen đi gánh hàng thuê thì vào “doanh nghiệp” để làm cái quái gì chứ?

           Tên mặt choắt cười ngặt nghẽo:

           - Thì là doanh nghiệp vận chuyển chứ còn gì nữa! Trong quân đội họ gọi là “bộ đội vận tải quân sự”, chuyên vận tải bộ đấy!

           - Hừ…

           - “Doanh nghiệp vận tải” của chúng tôi có quy mô rất lớn. Chúng tôi bao thầu toàn bộ các tuyến vận chuyển hàng hoá vượt qua biên giới ở hai bên cánh gà cửa khẩu Tân Thanh này. Các chủ hàng lớn đều phải tìm đến thuê doanh nghiệp vận tải bộ của chúng tôi. Nếu ông tham gia vào doanh nghiệp dần dần sẽ được giao phụ trách một đội vận chuyển, lương sẽ rất cao.

           Lúc nãy, tên mặt choắt này đã nhìn thấy hắn cởi trần với những hình xăm gớm ghiếc trên người khi hắn cởi cái áo ra cho mát. Nó đoán hắn phải là một tay anh chị, nếu không cũng là một kẻ giang hồ từng trải có võ nghệ. Nhưng nó ngạc nhiên khi thấy hắn chỉ gùi một ít hàng lèo tèo giá rẻ qua biên giới. Như vậy thì đúng là một tên “lính cửu” mới toanh rồi. Nó muốn thu nhận hắn vào đội quân cửu vạn - mà nó gọi là “doanh nghiệp vận chuyển” ấy. Biên giới mở cửa lắm kẻ mò đến. Người làm ăn chân chính có, bọn lưu manh trộm cướp cũng có. Vận chuyển hàng cho dân buôn có lúc phải cạnh tranh nguồn hàng với những bọn khác. Rồi còn phải đánh lại bọn trấn lột, cướp bóc hàng hoá, chặn đường xin đểu. Cũng có lúc phải tấn công hải quan, thuế vụ, quản lý thị trường và kể cả công an, biên phòng nữa để cướp lại hàng hoá bị tịch thu. Vì thế, rất cần những người như hắn trong đội hình cửu vạn.

           Tên mặt choắt tự giới thiệu:

           - Tôi tên là Phú, anh em vẫn gọi là “Phú chéc”! Tôi có thể giới thiệu anh với ông “trùm cửu” của bọn tôi và thuyết phục để ông ấy quyết định thu nhận vào bộ phận của chúng tôi.

           - Thế có phải nộp khoản tiền bảo đảm gì gì ấy không?

           - Cứ gặp ông trùm đã! Ông ấy xem người rồi quyết định. Nếu tin tưởng thì chả cần gì hết…  

           - Tôi đồng ý!

           Hắn đáp. Tên mặt choắt vẻ vui mừng. Nó dặn:

           - Ngày mai cũng giờ này, gặp bọn tôi ở quán thịt chó của mụ Béo cuối thị trấn Tân Thanh làm “thủ tục” nhập môn nhé!

           - Được rồi! Nhất định là tôi sẽ đến. Tôi cũng đang rất cần có công ăn việc làm kiếm tiền đây!

           Nói xong, bỏ mặc thằng mặt choắt trên đầu lối mòn, hắn đeo gùi hàng lên vai rồi tụt xuống dốc núi.

           Chiều hôm sau, hắn tìm đến quán đặc sản thịt chó của mụ Béo nằm ở cuối thị trấn Tân Thanh. Bước vào quán hắn nhận ra ngay thằng mặt choắt đang ngồi cùng một tên to lớn lưng hơi gù. Tên này mặc một cái áo phông có những sọc xanh to trông như lính hải quân. Vừa nhác thấy hắn, tên Phú mặt choắt đã vẫy vẫy tay. Hắn đi đến bàn của hai người kéo ghế ngồi đối diện với thằng lưng gù to lớn. Tên này đặt cốc bia xuống bàn rồi chăm chú nhìn hắn. Lúc này hắn cũng mới nhìn rõ mặt tên có vẻ là một “trùm cửu”. Bộ mặt tên này xương xẩu. Đôi mắt gã hõm sâu vẻ bí hiểm, u tối. Tên trùm gật gật đầu có vẻ hài lòng. Nó bảo:

           - Tôi đồng ý thu nhận anh vào đơn vị vận tải bộ của doanh nghiệp! Biên chế vào bộ phận của chú Phú đây. Có điều tôi dặn trước là đã tham gia vào làm ăn với bọn chúng tôi thì nhất nhất phải phục tùng mệnh lệnh của người chỉ huy “quân lệnh như sơn” không cãi, không bàn! Hiểu không?

           - Vâng… tôi hiểu!

           Thằng Phú nói thêm:

           - Anh Thổ đây từng là một sĩ quan ngành công an đấy! Mệnh lệnh là cứ phải răm rắp chấp hành!

           Hắn gật đầu. Tên “trùm cửu” chỉ một cốc bia đã rót sẵn để trên bàn bảo hắn:

           - Thôi nào! Nâng cốc mừng hội ngộ cái đã! Mà tên gì nhỉ?

           - Lỗi… tên tôi là Lỗi...

           - Lỗi hả! Lỗi cũng chả­ sao, nào chạm cốc…

           Hắn cầm cốc bia lên chạm cốc với hai tên cửu vạn. Bà chủ quán cùng nhân viên bưng các món nhậu lên. Mùi thịt chó nướng thơm lựng khiến hắn tứa nước miếng. Tên “trùm cửu” bảo: “Hôm nay cuối tháng, ăn thịt chó được, chén mạnh đi!”. Hắn cầm đũa. Đã lâu lắm rồi hắn không được ăn miếng thịt chó. Không ngờ ở cái chốn biên ải xa xôi này lại có một cái quán “cầy tơ bảy món” nấu nướng ngon đến thế…

          Vậy là hắn tham gia vào đội quân “cửu vạn” hùng hậu nơi biên giới. Từ hôm nay cuộc đời hắn lại bắt đầu một trang mới. Tuy vậy, cũng chưa có thể đoan chắc là sẽ tốt đẹp hay không!

    Đoàn quân “cửu vạn” của hắn “xuất, nhập cảnh” liên tục qua lại biên giới. Gọi là “xuất, nhập cảnh” cho oai, thực chất là đám cửu vạn vượt biên tự do theo lối đường mòn nối giữa hai nước. Lúc “xuất cảnh” sang Trung Quốc họ gùi thồ đủ các loại hàng hóa nông sản như vải, nhãn khô, hoa hồi, rắn rùa, ba ba, tê tê, tắc kè, chim muông đủ loại. Có lúc Trung Quốc họ mua cả những thứ oái oăm như râu ngô non, rễ cây quế, cây hồi. Lúc “nhập cảnh” trở lại Việt Nam thì bọn cửu vạn chuyên chở các loại hàng hóa tiêu dùng cao cấp, thấp cấp, đủ cả. Những loại hàng hoá nặng nhọc, số lượng lớn như dưa hấu, vải thiều tươi, quặng thiếc bắt buộc phải chờ bằng ô tô qua cửa khẩu, kê khai hải quan cẩn thận, nộp thuế đầy đủ thì không cần đến bọn “cửu vạn”.

          Cùng bộ phận với hắn còn có bảy thằng thanh niên và ba người con gái. Thằng Phú mặt choắt cầm đầu cả bọn. Mỗi lần vận chuyển hàng qua biên giới, nó chỉ gùi một ít hàng hoá gọi là có. Nhiệm vụ của nó là đi trước trinh sát đường, giao nhận hàng, thu tiền và trả tiền công hàng ngày cho cả bọn. Ba cô gái thì có hai cô còn rất trẻ, có lẽ chưa đầy hai mươi. Còn một cô thì có lẽ đã xuýt soát ba mươi tuổi. Cả ba đều chưa ai có chồng. Hắn tự nhận xét: Trong ba người con gái, cô lớn tuổi là xinh đẹp nhất. Nàng có nước da trắng ngần, hai mắt to và sáng long lanh. Khuôn mặt nàng thanh tú nhưng vương vấn một nỗi niềm sâu kín. Có lẽ đó là một nỗi buồn đang giấu kín. Mái tóc nàng dài óng ả. Hắn rất ngạc nhiên không hiểu tại sao một người con gái đẹp như thế lại phải đi làm nghề “cửu vạn” vất vả cõng hàng lậu qua lại biên giới vừa vất vả, vừa nguy hiểm. Hắn tò mò dò hỏi. Nhưng cả bọn cũng chả ai biết.

          Cũng chỉ sau một ngày, hắn đã biết hết tên của cả bọn cửu vạn làm cùng. Hai cô gái trẻ hơn một tên là Nhạn, một đứa tên là Lụa. Còn nàng tên là Thu. “Một cái tên đẹp và thật dễ nhớ” - Hắn nghĩ.

          Bọn chúng vận chuyển hàng cho một mụ buôn lậu nổi tiếng. Mụ này có vốn lớn, chuyên đánh hàng điện tử. Đường dây của mụ gom hàng từ bên kia biên giới, giao cho đám cửu vạn gùi hàng luồn lách, tránh các trạm kiểm tra liên ngành của công an, thuế vụ, quản lý thị trường, biên phòng. Khi hàng đã về sâu trong nội địa thì có xe ô tô chuyên chở về tận Hà Nội tiêu thụ. Mỗi lần chuyển hàng qua lối mòn hai bên cánh gà cửa khẩu, thằng Phú đều đi trước dẫn đường, nghe ngóng đề phòng công an, biên phòng, lực lượng chống buôn lậu phục kích. Hắn được phân công đi cuối đội hình để bảo vệ, hỗ trợ cho cả bọn.

          Hắn để ý mấy chuyến gùi cõng hàng qua lại biên giới Thu đều cố tình tụt lại phía sau đội hình. Thu đi ngay phía trước hắn. Thu hay hỏi hắn mọi chuyện, từ quê quán, gia đình, vợ con, tại sao lại phải đi làm cửu vạn. Hắn trả lời mọi câu hỏi của nàng mà không cảm thấy chút khó chịu nào. Hắn cũng không ngại ngần kể cho nàng nghe cả chuyện từng phải đi tù, từng phiêu lưu nơi bãi vàng Tây Bắc, từng bán than trên đường phố Hà Nội. Chỉ có chuyện với hai người đàn bà ở nhà ga hồi trước chiến tranh và người đàn bà trong căn nhà ven hồ Tây là hắn giấu biệt, không hé răng nửa lời. Tuy vậy, Thu lại tủm tỉm bảo hắn:

         - Trông anh là biết, số đào hoa lắm đấy!

         - Ớ…

         Hắn lúng túng. Trong khi hắn bộc bạch nhiều chuyện về hắn thì thì nàng lại rất ít nói về mình. Sau nhiều ngày mà hắn chỉ biết mỗi cái tên và quê nàng ở vùng rừng núi Thái Nguyên. Một hôm cõng hàng qua biên giới lúc cùng nhau ngồi nghỉ ven bờ suối, Thu đột nhiên hỏi hắn:

         - Anh có sợ ma không?

         - Ma nó sợ tôi thì có, chứ tôi sợ đếch gì ma! Tôi còn ngủ cả với ma rồi đấy…

          Nói đến đây hắn chợt im bặt. Tự dưng hắn nhớ lại mấy năm trước cũng chính tại nơi biên giới này hắn đã ngồi cạnh xác thằng Đang ở sân ga Lạng Sơn cái hôm tìm cách đưa nó về quê. Còn Thu thì khi nghe hắn nói như vậy bật cười ngặt nghẽo. Hắn cũng chả hiểu nàng cười vì điều gì. Mãi sau này khi nghĩ lại hắn mới chợt hiểu là vì sao lúc ấy Thu lại cười.

          Thu rất hay quan tâm đến hắn. Tự dưng giữa hai người có một tình cảm thân thiết, tin cậy. Thu luôn luôn chăm lo cho hắn giống như một người em gái đối với anh trai. Thu đơm cúc áo bị đứt, vá áo cho hắn. Khi về đến nơi nghỉ trọ Thu và hai cô gái nấu cơm cho hắn và cả bọn. Buổi sáng, trước lúc đi cõng hàng, Thu đun nước sôi pha cho hắn gói mỳ tôm. Nếu không là hắn sẽ nhai mỳ tôm sống hoặc kiếm một cái bánh mỳ ăn tạm. Ngược lại, hắn cũng coi Thu như một người em gái. Số hắn cô đơn. Mẹ hắn chỉ sinh được duy nhất một mình hắn. Hắn rất mong có một người thân để chia sẻ. Trên đường gùi cõng hàng, hắn giúp cô mỗi lần phải đưa bao hàng nặng trèo qua những đoạn dốc đá tai mèo treo leo. Có lần Thu bị đau chân hắn còn xẻ bớt hàng của cô sang gùi hàng của mình. Một bữa bị lực lượng phòng chống buôn lậu truy đuổi ráo riết hắn đã đeo cả hai gùi hàng của hắn và của Thu chạy thoát trong khi những đứa khác bị thu giữ mất toàn bộ hàng hoá phải méo mặt móc tiền túi ra đền cho chủ hàng. Tuy rất thân thiết như thế nhưng Thu cũng vẫn không chịu hé lộ thêm một tý nào thông tin về mình.

          Thu sống có vẻ hơi khép kín. Buổi tối cô thường ngồi trong nhà trọ nghe tin tức và ca nhạc từ chiếc đài chạy pin hoặc xem tivi từ chiếc máy thu hình của Trung Quốc chỉ nhỏ bằng quyển sổ tay. Trong khi đó hai cô gái kia đi chơi thâu đêm. Họ ngủ với cánh con trai ở ngoài rừng đến sáng mới về, tóc tai rối bù. Có hôm cõng hàng leo dốc mệt thế mà vừa trả hàng xong trên đường về nhà trọ hắn đã bắt gặp cái Lụa đang nhấp nhổm với thằng Tài ở trong một hốc đá ngay ven lối mòn. Hắn mặc kệ bọn chúng nó. Hắn chỉ lo Thu cũng giống như hai đứa con gái kia. Hắn thấy ngứa mắt và rất tức tối mỗi khi thằng Phú mặt choắt cứ le ve, tán tỉnh gạ gẫm bên cạnh Thu. Một hôm nó còn nói với hắn:

          - Đại ca Thổ rất thích em Thu đấy!

          - Chúng mày để cho cô ấy yên…

          Hắn gầm gừ. Thằng Phú cười đĩ thõa:

          - Có phải là vợ hay em gái của ông quái đâu mà ông giữ! Nhìn em Thu ngon lành thế, mông ra mông, vú ra vú, cái nào cái nấy tròn trịa nây nẩy thế, bố ai mà chịu được cơ chứ!

          Hắn im lặng. Thằng Phú nói tiếp:

          - Lần trước, em Thu đi cõng hàng lớ ngớ thế nào mà để bọn quản lý thị trường tịch thu mất một bao hàng, toàn là đồ cao cấp, đắt tiền. Đại ca đang cho em ký nợ tiền bồi thưòng đấy! Mất thêm hàng một lần nữa thì chả phải bảo em cũng tự mà tìm đến hiến thân cho “Thổ đại ca”  để trừ nợ thôi! Bọn cái Lụa, cái Nhạn đều đã phải làm như thế đấy… hí hí…  

          Thằng Phú cười khoái chí. Răng nó nhe ra như răng chó. Suýt nữa thì hắn đã tống ngay một quả vào cái mõm của thằng choắt cho nó rụng hết mấy cái răng cửa. Nhưng hắn cố kìm lại được. Với lại thằng này nói cũng có lý đúng. Thời buổi đồng tiền ngự trị tất cả này mọi điều đều có thể xảy ra. Hai cô bé cửu vạn đi suốt đêm không phải là để cho bọn con trai chơi miễn phí. Ban ngày cõng hàng, ban đêm cõng người đều có tiền cả đấy. Hắn chợt thấy buồn. Một nỗi buồn xâm chiếm, âm ỉ trong lòng khiến hắn thấy cứ bồn chồn không yên. Thời bao cấp đói khổ thiếu thốn như thế nhưng có những giá trị của cuộc sống vẫn còn gìn giữ được. Thời kinh tế thị trường đầy đủ cái gì cũng có, đời sống khá giả hơn hẳn nhưng những giá trị ấy lại không thể giữ nổi. Đồng tiền lấp loá. Đồng tiền đã làm mờ mắt nhiều người mất rồi. Đồng tiền làm thoái hóa con người mất rồi. Một hôm, tình cờ đi ngang qua hắn chợt nghe lỏm được cái Lụa và con Nhạn đang nói chuyện với nhau ở khi ngồi giặt ở bờ suối. Cái Lụa bảo:

          - Tao ngủ với bọn con trai mỗi thằng mấy lần rồi nhưng chưa lần nào với cái tay mới đến. Hắn có vẻ cao đạo mày ạ!

          - Tao cũng thế! Chán thật…

          - Hay là tao với mày đánh cược với nhau xem đứa nào sẽ… ấy trước được với hắn ta nhé?

          - OK! Hí… hí… nhưng mà cược cái gì nào?

          - Một cái máy nghe nhạc Nhật xịn nhé!

          - Ở đây toàn là đồ của Tàu nhái giả nhãn hiệu của Nhật, đào đâu ra đồ xịn?

          - Thì cược cái khác vậy!

          - Thôi, nếu đứa nào làm được việc ấy với hắn ta trước thì muốn lấy cái gì của nhau cứ lấy hoặc là cược tiền cũng được. Nửa tháng lương cửu vạn nhé!

          - OK! Ngoắc tay nhau cái nào!

          - Ngoắc thì ngoắc!

          Tiếng cười rúc rich. Lại vẫn là tiếng xuýt xoa của cái Lụa:

          - Ôi mày ơi! Nếu mà được một lần thôi với hắn thì tao chả cần lấy cái gì của mày cũng được…

          - Hí hí… tao cũng vậy! Trông hắn ta to khỏe thế chắc là sẽ hay lắm mày nhỉ?

          - Chắc chắn rồi… chứ cứ như mấy thằng kia thì chán chết, nhấp nhổm vài cái đã hết sạch, ỉu sìu như bánh mỳ nhúng nước, mồm miệng thì thở không ra hơi…

          - Hí… hí… hí… thằng Chương hôm qua khi xong còn ngã lăn ra đất nằm im, gọi mãi không thưa làm tao sợ hết cả hồn, tưởng là nó chết…

          - He… he… he…

          - Hi… hi… hi…

          Từ hôm nghe lỏm được câu chuyện của hai đứa con gái cùng cánh cửu vạn hắn đâm ra sợ. Lúc nào cũng cẩn thận đề phòng. Tự dưng hắn thấy khinh thường và thương hại hai con bé này hơn là thích. Có lần con Lụa còn cố tình đè cả bầu vú to và mềm mại vào tay hắn lúc nhờ hắn nhấc giúp gùi hàng lên vai. Còn con Nhạn thì làm như vô tình vén quần thật cao đến sát bẹn để lộ cặp đùi trắng nõn khi lội qua suối ngay bên cạnh hắn. Hai đứa thi nhau khiêu khích, chào mời hắn. Nhiều lần hai đứa đi phía dưới dốc kéo cả cái cổ áo rộng hoác ra rồi giả vờ kêu bị vấp lừa hắn quay lại nhìn xuống nhằm khoe bộ ngực nở nang. Nhưng hắn vẫn như một người vô cảm. Lúc nào hắn cũng chỉ nghĩ đến Thu, lo sợ cô cũng sẽ giống như hai con bé kia…

Thằng Phú bị hắn dìm cho một trận uống no nước suối, sặc sụa gần chết. Sau bận này nó sợ hắn một phép. Lúc nào nó cũng anh anh em em, không dám lên mặt chỉ huy nhóm cửu vạn nữa. Nhưng hắn biết rõ tâm địa của nó. Khi thất thế thì nhũn như con chi chi, khí đắc chí thì nó sẽ lập tức lên mặt vênh vang ngay. Con người nó có cái tướng nhỏ nhen, sẵn sàng lừa thầy, phản bạn. Nguyên nhân thằng Phú bị hắn dìm xuống suối là nó dám giở trò khốn ra với em Thu. Hôm đó cả bọn đi gùi hàng. Nó lằng nhằng bám theo Thu ngay từ khi nhận hàng trên đất Trung Quốc. Hắn nuốt nước bọt thèm thuồng khi nhìn thấy hai bầu vú của Thu căng lên, vươn ra phía trước đầy hấp dẫn khi cô khoác dây đeo bao hàng.

          Lúc dừng lại nghỉ giải lao bên bờ suối, Thu xuống suối rửa mặt. Nó lập tức bám theo cô ngay. Thu xuống suối. Cô lội ra xa bờ một chút nơi nước trong hơn. Cô nhúng cái khăn mặt xuống dòng nước. Khi Thu đang lau mặt thì thằng Phú lặng lẽ tiến đến sát phía sau lưng. Nó đưa hai tay vòng ra phía trước tóm lấy hai vú của cô gái bóp mạnh. Bị bất ngờ, Thu giật mình hốt hoảng quay lại. Cô gạt phắt hai tay nó ra. Thằng Phú bị phản ứng quyết liệt nhưng nó vẫn lấn tới. Hai tay nó tiếp tục quờ quạng trên ngực cô gái. Thu vừa chống cự vừa lùi dần ra giữa dòng suối chảy xiết. Nước ngập đến lưng Thu. Trong khi đó thì thằng Phú vẫn cứ dấn tới. Nó nhăn nhở:

          - Cho… cho… anh sờ tý ti thôi… hi hi…

          - Đồ khốn nạn…

          Thu nấc lên uất ức. Cô ném cái khăn vào mặt nó và tiếp tục lùi ra phía giữa dòng nước đang chảy rất xiết. Bất ngờ, Thu vấp vào một hòn đá rêu trơn trượt chân chới với ngã ngửa người ra giữa dòng suối đang cuồn cuộn chảy. Đêm qua trời mới mưa to, lũ từ đầu nguồn đang tràn về. Thu bị dòng nước xiết cuốn đi ngay. Cô chới với giữa dòng, cố gắng ngoi lên khỏi mặt nước kêu cứu. Nhưng tiếng của Thu bị tiếng nước chảy ào ào át mất.

          Giữa lúc đó thì hắn vác bao hàng đi đến. Nhìn thấy bao hàng của Thu để trên bờ hắn đoán là cô đang xuống suối rửa mặt nên có ý dừng lại chờ. Đang huýt sáo một điệu nhạc vui thì hắn chợt giật mình thấy thằng Phú vẻ hốt hoảng từ dưới suối đang chạy ngược lên. Hắn quát hỏi:

          - Cô Thu đâu rồi! Mày đã làm gì cô ấy hả?

          - Cô… cô… ấy…

          Hắn lao đến túm cổ áo thằng Phú hét lên:

          - Cô ấy ở đâu? Mày đã làm gì cô ấy rồi hả?

          - Cô… cô ấy bị… bị… ngã xuống suối rồi…

          Hắn ném thằng Phú sang bên lối mòn rồi lao ngay xuống bờ suối. Hắn chạy men theo doi cát ven bờ về phía hạ lưu. Hắn chợt nhìn thấy một cánh tay đang cố giơ lên vùng vẫy giữa dòng nước. Hắn liền lao ngay ra giữa dòng nước đang chảy rất xiết. Dòng nước lập tức cuốn ngay lấy hắn xô đi. “Nguy quá! Phải thật nhanh mới kịp… - Hắn nghĩ: - Nếu chậm một chút thôi thì Thu sẽ bị cuốn rơi xuống thác nước cao mấy chục mét, phía dưới lại là một cái vực rất sâu khó mà thoát chết!”. Hắn đạp mạnh chân vào một mô đá nhao người sải tay bơi theo hướng cánh tay của Thu vừa giơ lên. Khi hắn túm được mái tóc dài của Thu thì hai người đã đến rất gần đỉnh thác nước. Hắn cố sức trằn người ngược dòng chảy để thắng lại sức đẩy của nước. Bàn tay hắn quờ quạng bấu được vào một mỏm đá sắc cạnh. Sức nặng của hai người và sức mạnh của dòng nước khiến cánh tay của hắn căng ra. Lòng bàn tay và năm ngón tay của hắn bị cạnh sắc của mỏm đá cứa sâu, máu chảy loang ra. Hắn cảm thấy sẽ rất khó mà chống chọi được thêm nữa trước sức mạnh của dòng nước lũ đang lên. Hắn nghĩ đến phương án sẽ ôm chặt lấy Thu khi hai người bị dòng nước lũ cuốn trôi rơi xuống thác để cô không bị chìm sâu xuống đáy vực.

           May mắn đúng lúc ấy mọi người kịp chạy đến. Thằng Chương tung được đoạn dây dù vẫn dùng buộc hàng cho hắn nắm chặt lấy để ghìm hai người lại. Khi hắn túm được một đầu dây, thằng Chương liền cột nhanh đầu dây kia vào một gốc cây trên bờ, buộc lại. Hai thằng khác lập tức nhào ngay xuống vật lộn với dòng nước xiết giúp hắn đưa Thu lên.

           Hắn bế Thu lên bãi cát ven bờ suối. Thu bị ngạt thở lâu và uống khá nhiều nước nên người nhợt nhạt rũ ra như cọng rau héo. Hắn nhanh chóng thực hiện ngay các động tác hô hấp nhân tạo để cứu Thu. Hắn đặt hai tay lên ngực Thu ấn mạnh rồi ghé miệng mình vào miệng Thu hà hơi, thổi ngạt cho cô. Nhưng nhiều lần hô hấp liên tục vẫn không có kết quả. Mấy thằng đứng chôn chân giữa bãi  nhìn gã cấp cứu, có ai đó khẽ kêu lên: “Có lẽ hỏng mất rồi!”. Cái Lụa và cái Nhạn nghe thấy thế bật khóc ầm lên. Hắn quát: “Câm mồm ngay…!”. Đoạn, hắn tiếp tục làm các động tác hô hấp nhân tạo cho Thu một cách gần như tuyệt vọng. Đột nhiên, Thu gồng người lên ho rồi nôn thốc ra toàn nước là nước. Mọi người cùng ồ reo lên vui mừng. Thu từ từ mở mắt, đôi môi bợt bạt của cô khẽ mấp máy. Hắn bảo cái Lụa và cái Nhạn đưa Thu lên bờ, kiếm quần áo khô thay cho cô.     

          Đoạn, hắn đứng dậy nghển cổ ngó nghiêng xung quanh. Thằng Phú mặt mày tái nhợt đang đứng rúm ró ở phía sau lưng thằng Chương. Bắt gặp ánh mắt của hắn, nó sợ hãi run cầm cập, mặt cắt không còn giọt máu. Hắn rẽ mọi người ra rồi lừ lừ tiến đến chỗ thằng Phú. Thằng Phú liền đổ sụp người xuống rối rít van xin:

          - Tha… tha cho em… Em chỉ định đùa cô ấy một tý thôi, không ngờ…

          - Chỉ đùa thôi à?

          Một cái tát như trời giáng khiến thằng Phú ngã dúi dụi xuống bãi cát. Mồm nó đầy máu và cát. Hắn túm cố áo thằng Phú kéo đứng dậy và lôi sềnh xệch xuống suối. Thằng Phú vẫn không ngừng gào lên xin hắn tha mạng. Hắn một tay túm tóc, một tay túm cổ dìm đầu thằng Phú xuống nước mấy lần. Nó vùng vẫy giẫy giụa. Nó uống no nước ho sặc sụa, miệng ngớp ngớp như một con cá sắp chết. Tuy thế, nó vẫn cố kêu khóc xin tha. Nhưng tiếng nó không còn rõ nữa. Song hắn vẫn chưa chịu tha cho thằng mặt choắt. Hắn còn định lôi nó đẩy ra giữa dòng suối đang chảy xiết cho nó biết thế nào là bị nước cuốn đi. Cả bọn thấy thế vội vã chạy xuống suối can ngăn, năn nỉ xin hắn tha cho thằng Phú. Ngồi trên bờ suối, Thu cũng gắng sức cố giơ cánh tay lên xua xua ra hiệu cho hắn đừng hành hạ thằng Phú nữa. Hắn buông thằng Phú ra. Nó cố bò lết lên bãi cát ngồi thở dốc. Nét mặt nó chưa vẫn còn hết sức hoảng sợ.

          Hai cô gái dìu đưa Thu về nhà trọ. Số hàng hóa của họ được san ra để cả bọn mang giúp. Thằng Phú bị một phen ngạt thở bị hắn dìm dưới nước gần chết vẫn phải lặc lè đeo một bao hàng nặng. Nó chệch choạng bước đi từng bước theo sau bọn cửu vạn.

          Thu bị ốm mấy ngày phải bỏ việc. Hắn cũng bỏ luôn mấy ngày không đi cõng hàng qua biên giới để ở nhà chăm sóc cô. Hắn nấu cháo ép Thu ăn. Nhưng hắn vốn là người vụng về trong việc nấu nướng. Thu bưng bát cháo thoảng mùi khê lên nhưng cô vẫn mỉm cười làm ra bộ ăn ngon lành để hắn yên tâm.

           Sau vụ này thằng Phú mặt choắt bị cả bọn căm ghét, cô lập. Nó không còn dám lên mặt vênh vang với mọi người nữa. Nó vẫn đi đầu đội hình mỗi khi cả bọn cõng hàng lậu vượt biên nhưng mất cái dáng vẻ chỉ huy lúc nào cũng làm ra vẻ ta đây như trước. Cũng từ đó nó bớt quanh quẩn săn đón, chân tay khua khoắng loanh quanh ba cô gái trong nhóm cửu vạn. Một lần hắn còn nghe thấy cái Lụa từ chối không đi chơi đêm với nó.

 *

           Thị xã Lạng Sơn ngày càng sôi động. Khắp các nẻo đường hàng hóa đổ về chính ngạch có, tiểu ngạch có và cả hàng vận chuyển qua các lối mòn hai bên cánh gà biên giới. Bọn “cửu vạn” ngày càng có giá nhất là những tên có kinh nghiệm như hắn. Nhiều tên trùm buôn lậu đã tìm đến hắn thuê vận chuyển hàng, hoặc thuê làm bảo vệ hàng hóa lưu thông trên đường. Hắn và nhiều người đã góp phần giúp cho cái “doanh nghiệp vận chuyển quá cảnh” của lão Thổ phát triển mạnh mẽ. Hắn đã nghĩ đến lúc sẽ tách hẳn ra tập hợp lập bạn bè thành một tốp cửu vạn riêng, thiết lập một đường vận chuyển độc lập, không làm thuê cho lão trùm Thổ nữa, vì vừa phụ thuộc, vừa bị gánh thêm một lần bị bóc lột sức lao động. Tuy nhiên, dự định trở thành một “trùm cửu” của hắn chưa kịp thực hiện thì xảy ra một chuyện đã làm đảo lộn tất cả.

          Đó là chuyện xảy ra vào một đêm trăng suông…

Sau bận bị hắn dìm uống no nước suối, thằng Phú đâm ra rất sợ nước. Cứ nhìn thấy nước là nó đã sợ vãi đái. Thường là thế, khi con người ta quá sợ cái gì thì rất cực đoan với cái nấy. Nó sợ đến nỗi nó tránh cả việc chan canh lúc ăn, rất ít uống nước cho đỡ khát hàng ngày. Nó chỉ thích ăn các loại thức ăn gì không có nước. Hàng ngày nó ngại rửa mặt, tắm giặt cũng hạn chế. Không bao giờ nó dám lội xuống suối tắm nữa. Khi tắm nó chỉ dùng một chút nước trong cái chậu nhỏ dùng khăn lau người qua loa. Do đó, người nó cáu bẩn, hôi hám tựa như một con chồn hôi. Không ai dám ngồi gần hắn lâu. Vì thế cánh cửu vạn đặt cho nó cái biệt danh mới là Phú “hôi”.  

         Đoạn sau đây là do tác giả viết thêm, không có trong chuyện.

         Hình như ở con người và cả con vật nữa, con nào càng hôi thường là càng dâm. Con dê nổi tiếng là hôi cho nên cho đến khi chết nó cũng rất khổ. Thường là khi làm thịt dê người ta phải trói hai chân sau nó lại, treo ngược lên một cành cây thấp vừa tầm tay người. Ở chỗ con dê bị trói để sẵn một cái gậy, thỉnh thoảng lại choảng cho nó vài gậy thật đau. Con dê bị đánh đau kêu khóc “be… be… be…” rất thảm thiết. Khi nó đã hơi hơi đỡ đau thì người ta lại vụt tiếp cho một trận thừa sống thiếu chết nữa để nó tiếp tục kêu ầm ĩ. Cứ như thế cả buổi con dê cứ bị đánh, cứ phải kêu mãi cho đến lúc kiệt sức kêu không thành tiếng nữa thì thôi. Người ta làm như vậy để con dê đau đớn, giẫy giụa toát hết mùi hôi đi. Tuy thế, con dê chưa phải là đã hết khổ. Sau khi cắt tiết dùng để pha rượu uống nhằm tăng cường thể lực và khả năng sinh dục như loài dê, người ta liền đào hố chôn con dê vừa giết ấy xuống đất độ vài tiếng rồi mới lôi lên cạo lông, lột da, làm thịt. Thịt dê lúc ấy tiệt nhiên không còn mùi hôi nữa và trở thành một món ngon bổ đặc biệt.

         Thịt dê, còn gọi là “dương nhục” có vị ngọt, tính nóng. Thịt dê không độc, rất có tác dụng trợ dương, bổ huyết, chữa lao phổi. Người gầy yếu nếu ăn liên tục từ ba mươi ngày trở lên các món ăn chế biến từ thịt dê, có thể khỏi ốm mệt, đau lưng, dương sự kém, giảm khí huyết hư tổn, ra nhiều mồ hôi. Phụ nữ nhạt chuyện chăn gối, gầy mòn, ít sữa sau khi sinh nở cũng nên ăn chút thịt dê để điều hòa ổn định sinh khí, tăng sự ham muốn bản năng. Dạ dày con dê thường dùng chữa bệnh kém tiêu hoá, chứng hay buồn nôn sau bữa ăn. Gan dê, còn gọi là “dương can” có thể điều trị những trường hợp bị hoa, mờ mắt sau cơn ốm bệnh dài ngày. Tiết dê pha với rượu trắng bốn mươi độ chữa bổ huyết, đau đầu, mỏi lưng, chóng mặt. Cật dê (thận dê) chế biến thành nhiều món như cật lợn, thường là được nướng hoặc hấp với hành tây, chưng cách thuỷ, có tác dụng trị suy nhược, lãng tai, đổ mồ hôi. Ngay cả xương dê, gọi là “cốt dê” nấu thành cao ngâm rượu uống sẽ chắc gân, rắn cốt phải biết… Hầu như tất các bộ phận của dê đều có thể sử dụng để làm thuốc. Đặc biệt là tinh hoàn dê, còn gọi “ngọc dương”, là thứ quý giá nhất của con dê đực. Nó có tác dụng trị thận suy, liệt dương, hoạt tinh. Người ta thường dùng ngọc dương hấp rượu, ngâm rượu thuốc để sử dụng, có giá trị như những viên Viagra thực sự.

          Giống như con dê, từ ngày “sợ nước”, người toả ra mùi hôi, thằng Phú đâm ra nghiện món đàn bà. Không thể lợi dụng được ba cô gái trong cùng nhóm cửu vạn nên nó thường phải đi chơi gái điếm ngoài thị trấn sau mỗi buổi đi cõng hàng về hoặc những hôm nào rỗi việc. Thằng này có thói quen “hành sự” với gái giống như loài dê rừng. Nó thường đưa gái lên sườn núi đá để làm việc. Nó bắt con gái cúi gập người xuống và làm việc ấy từ phía sau.

          Một hôm thằng Phú “hôi” đưa một cô gái lên núi. Cô bé này chắc là dân cửu vạn mới từ dưới xuôi lên chưa có việc. Con bé người nhỏ thó, là dân một vùng quê nghèo khổ nên trông đen nhẻm, còi cọc. Con bé đau đớn kêu thét lên nhưng thằng Phú vẫn không tha. Nó thúc mạnh vào từ phía sau làm con bé chới với lao bắn ra khỏi một hốc đá toài người trượt ngã lăn luôn xuống sườn núi. Con bé cửu vạn bị ngã vỡ đầu, gãy tay nằm rên rỉ ở một khe đá hẹp. Thằng Phú hốt hoảng mặc vội quần áo tụt xuống chân núi bỏ chạy về nhà trọ. Thằng Chương, thằng Tài, thằng Đán phát hiện ra chuyện con bé cửu vạn ngã bị thương vội về nói lại với hắn. Hắn đang giúp Thu vặt rau nấu cơm chiều. Hắn buông nắm rau sang ngay chỗ thằng Phú. Nó đang nằm trùm chăn trên giường. Khi nghe mọi người hỏi, nó cãi bay cãi biến chuyện đưa gái lên sườn núi. Hắn bảo:

         - Thôi được! Nếu thế thì bây giờ mày cứ theo chúng tao ra chỗ cô gái bị thương để cô ấy nhận mặt, nếu không phải là mày thì thôi. Bọn tao sẽ đưa cô ấy đi bệnh viện!

         Thằng Phú hốt hoảng:

         - Tôi... tôi... đang ốm, tôi không đi đâu!

         Hắn lột cái chăn, túm cổ áo thằng hôi lôi nó dậy. Cả bọn đi ra chỗ sườn núi chỗ cô gái bị thương đang nằm. Thu và cái Lụa đã mặc quần áo và băng bó tạm cho cô bé. May mà cô bé chỉ bị toạc chút da đầu chảy máu và gãy cánh tay phải. Thằng Phú “hôi” không dám cãi chày cãi cối nữa. Nó ghé vai cõng cô gái đi xuống lối mòn chân núi. Hắn và mấy thằng cửu vạn giúp nó đưa cô bé vào bệnh viện. Cô gái được khám và băng bó sát trùng vết thương, cố định rồi bó bột cánh tay bị gãy. Hắn bảo thằng Phú:

         - Mày phải chịu trách nhiệm chi phí chữa chạy cho cô ấy! Mày mà tìm cách thoái thác hay bỏ trốn thì đừng quên là tao sẽ không bao giờ để cho mày thoát đâu...

          - Vâng... vâng... - Thằng Phú ấp úng.

          Tuy nói vậy nhưng hắn vẫn rút ví và bảo mọi người mỗi người góp một ít tiền giúp đỡ cô gái khốn khổ vừa bị nạn.

          Sau vụ này, thằng Phú bị cháy túi. Nó vốn là thằng ăn chơi, thích ngủ với gái đã tốn tiền nay lại phải chi thêm viện phí cho cô bé cửu vạn này nên càng thêm cạn túi, túng bấn. Thói thường là vậy. Túng bấn, đói khổ thường sinh ra những chuyện liều lĩnh, làm càn.

*

          Chập tối hôm đó thằng Phú “hôi” thông báo cho cả bọn:

          - Có một lượng hàng hóa cần vận chuyển gấp từ bên kia biên giới về nước ngay trong đêm nay! Ăn cơm tối xong chúng ta sẽ lên đường.

          - Hàng hóa quái gì mà cần chuyển gấp thế nhỉ?

          - Không cần biết! Đâu có tiền là ta cứ đi... - Một thằng bảo.

          Đêm trăng suông. Núi rừng biên giới phủ một màu bàng bạc. Dưới ánh trăng huyền ảo rừng núi có vẻ âm u, bí hiểm và mênh mông hơn. Mới ngày nào thôi việc vượt qua biên giới là cả một chuyện vô cùng khó khăn. Bây giờ qua lại biên giới cứ như là đi chợ, cả ngày lẫn đêm. Hàng hóa thông thương giữa hai nước thế này thì ai còn muốn chiến tranh làm gì nữa. Tuy vậy, hòa bình cũng có cái giá không rẻ của nó.

          Bọn cửu vạn bám sát nhau đi theo lối mòn vượt sang bên kia biên giới. Thu đi sát ngay phía sau hắn. Sau bận thoát chết đuối ở dòng suối Thu và hắn thân nhau hơn. Thu công khai tự nhận hắn là “anh trai”. Hắn ậm ừ, chả rõ ý tứ ra sao. Nhưng tự trong sâu thẳm lòng mình hắn cũng thấy bâng khuâng. Là một thằng mồ côi, tứ cố vô thân, không người thân thiết nay có một cô em gái thì thật thích và sung sướng biết bao. Nhưng mỗi khi không có mặt Thu, bọn thằng Tài, thằng Chương cười cười bảo hắn:

          - Thì anh cứ nhận chị Thu là em nuôi đi! Con gì nuôi rồi mà chả để thịt hả anh!

          Hắn lừ mắt bảo:

          - Chúng mày cứ liều liệu cái mồm đấy!

          Mấy thằng cười ngặt nghẽo. Bọn trong cùng nhóm cửu vạn, trừ thằng Phú “hôi” rất thương nhau. Chúng nó mỗi đứa một quê vì nghèo đói nên phải lên biên giới làm thuê kiếm tiền, cũng chả khác gì cái bọn thằng Lân, thằng Bất, chú Cần ở bãi vàng Tây Bắc dạo trước.

          Đến địa điểm nhận hàng thì đã nửa đêm. Bọn cửu vạn nhanh chóng gói buộc hàng hóa để đeo cõng, vận chuyển về nước. Toàn là hàng điện tử. Hắn ngạc nhiên vì số lượng hàng hóa không lớn, không quá nặng mà cũng không quý hiếm lắm tại sao lại phải vận chuyển ngay ban đêm và như thằng Phú “hôi” nói phải đi vòng tránh theo một con đường mòn treo leo vách đá rất khó đi. Lúc chuẩn bị lên đường lại thấy có mấy thằng vẻ mặt lầm lì, hung hãn đi theo áp tải bảo vệ hàng. Thu khẽ kéo tay ghé tai hắn nói nhỏ:

          - Em nghi ngờ bên trong các đồ điện tử này còn có những thứ khác nữa anh ạ!

          - Là thứ gì vậy?

          - Có thể là ma túy hoặc tiền Việt Nam giả…

          Hắn há hốc mồm kinh hãi. Suýt nữa thì hắn hét lên vì tức tối. Bọn này dám lợi dụng cánh cửu vạn làm thuê để làm những việc đen tối thế này hả. Thu vội giơ tay bịt miệng hắn. Cô thì thào:

          - Cứ bình tĩnh anh ạ!

          Hắn gật đầu và dặn lại:

          - Nhớ là trên đường đi bám sát nhau nhé!

          Thu nắm chặt lấy bàn tay hắn như muốn nói cứ yên tâm. Bàn tay nhỏ nhắn của Thu thật ấm áp.

          Bọn chúng bắt đầu leo lên dốc. Người này tiếp chân người kia. Họ đi theo còn đường nhỏ đầy ánh trăng. Ánh trăng trên quê người sao có vẻ lạnh lẽo hơn trên đất nước mình. Đã chớm mùa hạ rồi nhưng trời đêm vẫn lành lạnh. Đám cửu vạn đeo những bao hàng cồng kềnh đi dưới ánh trăng khuya lấp lóa. Họ vượt qua dãy núi ngăn cách là đường biên giới của hai nước. Họ phải dò dẫm đi từng bước rất thận trọng vì ngay bên mép lối mòn là vực sâu. Trượt chân ngã xuống thì coi như xong cả cuộc đời. Bọn cửu vạn chỉ biết là mình đang đi trên một con đường rất nguy hiểm mà không biết đang lọt vào ổ phục kích của lực lượng phòng chống buôn lậu và tội phạm qua biên giới.

          Bất ngờ nghe có tiếng quát rất to: “Tất cả đứng im… Các anh chị đã bị bắt!”. Ánh đèn lóe lên. Tất cả nhốn nháo. Có tiếng thằng Phú ở phía trước đội hình hét to: “Mọi người chạy đi… không ai được để mất hàng hóa…”. Hắn vội quay lại bảo Thu: “Bám sát anh nhé!”. Bọn cửu vạn phá chạy tán loạn. Có nhiều tiếng quát tháo ầm ĩ, cả tiếng súng nổ ở phía sau đội hình. Hắn giữ thật chặt cái dây đeo bao hàng rồi tụt xuống dốc.

          Chợt nghe tiếng Thu kêu “ối” ở phía sau. Hắn vội ngoảnh lại. Thu bị vấp ngã. Dây đeo bao hàng lật ra khỏi một bên vai văng ra phía vực. Một bên dây đeo vẫn vướng vào vai kéo lê cô trượt theo bao hàng nặng. Cô vẫn cố giữ bao hàng. Hắn quát:

          - Buông bao hàng ra…

          - Nhưng…

          Thu vẫn cố trằn người níu giữ bao hàng lại nhưng không được. Khi hắn chạy đến được chỗ của Thu thì cũng chỉ kịp nắm lấy tay cô kéo lại khỏi rơi theo bao hàng xuống vực. Thu vừa thở hổn hển vừa nói:

          - Anh chạy ngay đi… cố đừng để mất hàng! Mất hàng là mất mạng với bọn chúng nó đấy!

          - Thế còn em thì sao!

          - Mặc em… anh cứ đi đi…

          - Không được! Để anh dìu em…

          - Chân em bị trẹo khớp rồi… em không đi được nữa đâu…

          - Để anh cõng em!

          - Thế còn bao hàng…

          - Này thì hàng với chả họ này…

          Hắn nói và gỡ luôn bao hàng điện tử ra thẳng tay ném xuống vực sâu. Đoạn hắn xốc Thu lên vai. Giữa lúc đó thì thằng Phú “hôi” lao đến. Nó hằm hè:

          - Mày có biết là mày vừa ném đi mấy trăm triệu đồng và mấy nghìn viên thuốc… thuốc… rồi không?

          - Tiền nào, thuốc nào? Tao chỉ vứt đi mấy thứ đồ điện tử Trung Quốc rẻ tiền để cứu lấy người cái đã…

          - Hai đứa chúng mày vừa làm mất năm trăm triệu đồng tiền giả và ba ngàn viên thuốc lắc của ông trùm và của tao và đấy! Ha… ha… ha… Thế này thì cũng tốt. Con Thu sẽ phải làm nô lệ tình dục suốt đời phục vụ cho ông trùm. Còn mày cũng sẽ mạt kiếp làm nghề cửu vạn cũng chưa trả hết nợ… ha… ha…

          - A! Thì ra lũ khốn chúng mày lợi dụng anh em để vận chuyển hàng quốc cấm qua biên giới hả? Hôm nay mà không bị truy đuổi thì tao sẽ cho mày một trận nhừ đòn như cái hôm ở bờ suốt dạo trước! Tránh ra để tao đi…

           Hắn gạt thằng Phú ra lề đường rồi cõng Thu chạy vượt lên. Phía sau đội hình cửu vạn có nhiều tiếng kêu khóc nhốn nháo. Công an, biên phòng đã bắt được mấy đứa đi sau. Thằng Phú nhìn hắn và Thu rồi nghiến răng lao theo. Nó rút từ trong người ra một con dao nhọn sắc như lá lúa. Khi đã áp sát  được hai người đang tụt xuống dốc thằng Phú liền vung tay xỉa mạnh mũi con dao nhọn vào tấm lưng tròn của Thu.

           Bằng một phản xạ tuyệt vời mà sau này hắn cũng không hiểu là tại sao lúc ấy hắn lại nhanh đến thế. Hắn quay ngoắt người lại tránh được nhát dao của thằng Phú xỉa vào lưng Thu. Hắn vung cánh tay trái lên đỡ. Mũi dao của thằng khốn xiên thẳng vào cánh tay hắn. Khi nó rút được con dao lại để tiếp tục tấn công hai người cũng là lúc hắn gạt được Thu về phía sau mình và che cho cô. Mặc cho cánh tay đang chảy máu đầm đìa hắn lao vào thằng Phú như một con thú bị thương. Hắn lựa thế tránh mũi dao của thằng Phú và vòng tay choảng luôn vào mang tai nó một phát như trời đánh. Thằng Phú lảo đảo đập mặt vào vách đá. Hắn lao đến lôi thằng Phú đẩy ra phía bờ vực sâu. Hắn định xô nó xuống vực nhưng Thu ngăn lại. Hắn dí đầu thằng Phú xuống mặt đường tống thêm cho hai quả nữa rồi mới tiếp tục cõng Thu lao xuống dốc. Hai người chạy thoát được vào một khu rừng biên giới rậm rạp. Sau này hắn mới biết, thằng Phú cũng bị bắt ngay sau đó. Nó và tên Thổ “trùm cửu” phải đi tù vì phạm tội buôn bán tiền giả và ma túy. Đám cửu vạn bị vạ lây vì vướng vào tội tham gia vận chuyển ma túy và tiền giả qua biên giới. Có đứa cũng phải ngồi tù nhưng với mức án nhẹ hơn bọn buôn lậu. Hắn và Thu chạy thoát. Nhưng kể từ cái đêm trăng suông nơi biên giới ấy họ cũng chấm dứt luôn cuộc đời cửu vạn đầy gian khổ và trắc trở…

           Đến đây, theo cách viết tiểu thuyết chương hồi của bọn Tàu thì có một câu là: “Đêm trăng suông ấy còn có chuyện gì đã xảy ra và “Chuyện đời hắn” tiếp diễn ra sao xin đợi xem tiếp hồi sau sẽ rõ!”.

Hai người chạy sâu mãi trong cánh rừng già nơi biên giới. Đến nơi an toàn, Thu bảo hắn để mình tự đi. Tuy còn rất đau nhưng cô cắn răng cố chịu đựng. Hắn dìu Thu đi về hướng thị trấn Tân Thanh. Hai người vẫn phải lẩn tránh ngoài rừng chưa dám mò về nhà trọ. Họ đoán có thể công an sau khi bắt được bọn cửu vạn và số hàng hoá có chứa chất mà tuý và tiền giả sẽ lập tức tiến hành lục soát nơi bọn chúng tá túc để tìm kiếm thêm chứng cứ phạm tội. Họ cũng không thể trở về được còn bởi vì đã làm mất số tiền giả và ma tuý khá lớn. Bọn buôn lậu hàng cấm cũng sẽ không tha cho hai người.

          Đến một khoảng trống trong rừng, hắn và Thu dừng lại ngồi nghỉ. Đêm đã gần về sáng, ánh trăng lạnh hơn nhưng trong trẻo hơn. Cánh rừng bồng bềnh trong ánh sáng huyền ảo như mơ. Đâu đó có những tiếng kêu của con nai, con hoẵng đi ăn đêm tha thiết gọi bạn tình.

          Thu bảo hắn đưa cánh tay để cô kiểm tra và buộc lại vết thương. Lúc nãy vội, cô chỉ kịp lấy cái khăn quàng cổ của mình quấn chặt vào vết thương cho hắn. Hắn móc túi áo lôi ra một cái đèn pin Trung Quốc nhỏ xíu bằng ngón tay cái. Thu soi đèn xem kỹ vết thương. Nhát dao của thằng Phú đâm vào giữa cánh tay của hắn. Vết đâm khá sâu nhưng may không trúng vào gân nên hắn vẫn co ruỗi cánh tay lên bình thường. Thu băng lại vết thương cho hắn. Đoạn, cô ngồi bó gối nhìn mặt trăng mười sáu đang dần trôi xuống phía cuối rừng. Chợt Thu hỏi hắn:

          - Bây giờ anh định tính thế nào?

          - Còn tính gì nữa! Chờ yên yên ta lại tiếp tục đi làm cửu vạn!

          - Không ổn anh ạ! Bọn buôn ma tuý, tiền giả và cả công an nữa sẽ tìm ra chúng ta ngay!

          - Hay là ta chuyển hướng lên phía cửa khẩu Văn Lãng hay xuôi hướng Chi Ma, Lộc Bình hoặc về thị xã làm cửu vạn nội địa ở chợ, ở nhà ga.

          - Cũng khó mà thoát được bọn chúng nó!

          - Anh không sợ bọn khốn ấy!

          Thu im lặng. Hắn cũng thấy bối rối. Bởi vì hắn thì chẳng sợ bố con thằng nào. Nếu cần sẽ tỉ thí với chúng một trận sống mái. Nhưng hắn lo cho Thu. Hắn còn chưa biết tính toán ra sao thì Thu nói vẻ thăm dò:

          - Hay là về Thái Nguyên quê em!

          - Về quê em thì biết làm việc gì để kiếm sống?

          - Thì cấy lúa, trồng chè…

          - Ơ…

          Hắn ngơ ngác chưa hiểu. Thu lại thủ thỉ:

          - Quê em đất đai tuy khô cằn, cấy lúa thì năng xuất thấp, trồng chè thì cho loại chè cũng không ngon và đặc biệt như chè ở vùng Đại Từ, Tân Cương nhưng vẫn bán được. Làm ruộng, trồng chè vẫn có thể sống được…

          - Thế sao em không ở nhà cấy lúa, trồng chè mà lại phải thân gái lên tận đây làm cửu vạn vất vả?

          - Chuyện này thì… - Thu ngập ngừng rồi im lặng không nói tiếp nữa. Hình như cô đang suy nghĩ rất lung về một chuyện gì đó. Cô ngẩng mặt lên nhìn chăm chăm mặt trăng đang treo ngay trước mặt. Hắn thì lại nhìn Thu. Dưới ánh trăng khuôn mặt Thu thật trong sáng và xinh đẹp. Vẻ đẹp thuần khiết của một người con gái vùng cao. Chợt Thu lại hỏi hắn:

          - Anh có sợ… ma không?

          Hắn ngạc nhiên và chợt nhớ là đã có lần Thu từng hỏi hắn câu hỏi này rồi. Hắn phì cười:

          - Anh chả sợ ma, chỉ sợ người thôi! Người mới thật là đáng sợ hơn cả ma quỷ em ạ! Mà trên đời này làm gì có ma mà em lại hỏi thế?

          - Thì… thì em chính là một… “con ma” đấy!

          Hắn phì cười:

          - Ma gì mà lại xinh đẹp như thế này hả trời! Mà sao lạ nhỉ, ma cũng phải vất vả, gian khổ đi làm cửu vạn để kiếm tiền à! Ma thì chỉ cần hóa phép là muốn cái cái gì chả có? 

          Thu nói tiếp, giọng có vẻ nghiêm túc và buồn buồn:

          - Chính vì bị coi là ma nên em mới phải bỏ cả nhà cửa bản làng quê hương lên biên giới làm cửu vạn đấy! Anh yên lặng để em kể cho mà nghe nhé!

          Thấy vẻ nghiêm trang của Thu hắn không dám đùa nữa.

 *

          Câu chuyện của cô gái đưa hắn về với một miền rừng núi có những bản người Tày còn mông muội và có rất nhiều hủ tục lạc hậu. Một trong những hủ tục khiến người ta kinh hãi và khốn khổ nhất là chuyện ma gà nhập vào người ám hại đồng loại. 

           Thực ra cho tới tận bây giờ người ta cũng chưa biết ma gà là gì, nó như thế nào và tại sao nó lại cứ hành người ta lâu dài đến thế? Những nơi có chuyện ma gà, không chỉ những người trong bản, mà cả vùng đều luôn luôn xuất hiện những thông tin mới hàng ngày đồn đại xung quanh chuyện về ma. Chuyện ma ghê rợn ấy cứ rì rầm từ miệng người này sang miệng người khác, từ tai nọ sang tai kia, loang ra rất nhanh như giọt dầu rơi trên mặt nước. Thực hư chả rõ ra sao. Người lớn nghe chuyện đã thấy sợ hãi, không dám đi đêm, trẻ con lại càng thêm khiếp đảm, không dám khóc to.

           Những nhà có con gái, nhất là con gái xinh đẹp thường là rất lo lắng. Bởi con gái xinh đẹp thế nào cũng bị con ma gà ám vào để ẩn thân. (Mà cũng lạ! Ma gà chỉ thích con gái đẹp, chỉ hiện thân trong con gái đẹp thôi). Thu cũng lâm vào hoàn cảnh khốn khổ ấy. Cô càng lớn lên càng xinh đẹp khiến bố mẹ lại càng lo lắng. Nhà Thu ở cuối bản heo hút, xung quanh cây cối um tùm lại càng tạo nên sự huyền bí của ma quỷ. Khi cô tròn mười bảy tuổi xinh đẹp nhất bản, nhất vùng thì xuất hiện những tin đồn vu vơ về chuyện bị ma gà ám.

           Một hôm lão thầy cúng Hoàng Văn Dử từ trong bản mò đến nhà Thu. Lão ngó nghiêng xem xét một lúc rồi bảo bố mẹ cô:

           - Cái con ma gà nó đang quanh quẩn quanh nhà này tìm con gái đẹp để ẩn thân! Phải cúng để đuổi nó đi thôi.

           Cả nhà Thu hoảng sợ. Bố mẹ Thu bàn nhau giết gà, làm thịt con lợn để lão thầy cúng Dử giúp việc trừ ma, đuổi tà. Cúng suốt hai ngày hai đêm chập cheng hú hét, bắt quyết, đâm chém, yểm bùa, tung muối, vãi gạo chán chê, lão thầy cúng mới bảo:

           - Bây giờ cả nhà ra rừng đợi để ta bắt đầu làm phép bắt cái con ma gà!

           Trời đang mưa mà cả nhà phải lục tục gọi nhau kéo ra ngoài rừng. Lão Dử lại nói:

           - Ma gà đã nhập vào con gái. Cho nên con gái lớn phải ở lại để ta còn lấy cái con ma ra khỏi người cho...

           Thu đành ở lại. Lão thầy cúng dặn bà và bố mẹ Thu cứ đi ra ngoài rừng ngồi đợi. Khi mà lão chưa gọi thì không được trở về nhà, nghe thấy tiếng con gái kêu cứu, khóc lóc cũng đừng sợ hãi. Đó chính là lúc con ma đã bị lão khống chế, đuổi đi. Chờ khi mọi người rời khỏi nhà, lão thầy cúng bảo Thu cầm ba nén hương đang cháy bằng cả hai tay rồi giơ lên giữ ở trên đầu quỳ ở giữa nhà để lão tiến hành việc bắt ma. Thu làm theo lời lão. Lão thầy cúng múa may quay cuồng vờn quanh cô gái. Ánh mắt lão sáng lên khi nhìn thấy thân hình tròn đầy của một người con gái mới lớn xinh đẹp. Lão thầy cúng ngồi xuống sát ngay phía sau lưng cô để làm phép trục xuất con ma. Một mùi hôi hám từ người lão tỏa ra lẫn vào mùi thơm của hương nhang thật kinh khủng. Nhìn chăm chăm vào khuôn ngực nhô cao của cô gái trẻ, lão thầy cúng nuốt nước bọt. Cái yết hầu của lão nhô ra, chạy lên chạy xuống trên cái cổ gầy nhẳng. Bất ngờ, lão ném chùm lục lạc và nắm bùa ngải để yểm ma, trừ tà lao vào vật đè ngửa cô gái ra giữa nhà. Thu sợ hãi hét lên giẫy giụa. Lão thầy cúng vừa cởi khuy áo của cô vừa gầm gừ:

           - Nằm yên, nằm yên, để ta còn diệt trừ con ma gà cho nào!

           Thu càng khiếp đảm khi lão thầy cúng kéo xoạc hai chân cô ra và chồm lên người mình. Cô cố sức co hai chân lại rồi đạp thật mạnh vào bụng lão ta. Gã thầy cúng nghiện ngập lẻo khẻo không thể thắng được sức mạnh một người con gái mười bảy. Lão chới với bật ngã ngửa ra phía mâm cỗ cúng. Tấm lưng trần bẩn thỉu của lão đè luôn vào cái bát nhang đang ngun ngút. Thịt da lão cháy xèo xèo. Lão rú lên như bị ma nhập. Thu vùng dậy chạy thoát được ra ngoài rừng.

            Không làm gì được cô gái, lão thầy cúng vô cùng bực bội hậm hực. Lão thu dọn đồ nghề bỏ ra về. Trước lúc bỏ đi lão không quên vơ nắm tiền lẻ và xách luôn cái thủ lợn cúng đang đặt trên mâm cỗ. Sau đó thì lời đồn ma gà đã nhập vào cô bé Thu lan rộng ra khắp bản và cả các làng bản xung quanh. Lời đồn đại khủng khiếp ấy đã làm cho Thu và cả nhà cô lâm vào cảnh khốn đốn. Bà, bố mẹ và Thu ra đường không dám mở miệng chào ai. Đi qua bản không dám nhìn con trâu, con bò, lợn gà, không dám khen trẻ nhỏ, không dám hỏi thăm người già, người ốm đau, tai nạn. Khi đi làm ruộng hay lên rừng đốt nương, kiếm củi, thường là chỉ lẽo đẽo một thân, một mình. Không có ai trong bản dám đi cùng. Đang đi giữa đường gặp mưa to gió lớn, những người có ma gà như cô không dám dừng lại trú chân ở gốc cây, đứng tránh mưa đầu nhà hàng xóm, láng giềng vì sợ có ai đó bất ngờ nhìn thấy. Khi nhìn thấy họ sẽ gõ ống bương, réo tên lên báo cho ông trời biết. Ông trời nghe tiếng kêu sẽ lập tức sai thần sét vung búa đánh chết tươi người có ma gà. Lời đồn thổi rằng người có ma gà nhìn vào đồ vật sẽ làm cho vật đó bị hư hỏng, nhìn vào cây, cây chết, nhìn vào lá, lá khô, nhìn vào quả, quả thối, nhìn vào hoa, hoa tàn. Lời nói của người có ma gà như phun ra chất độc, hơi thở ra toàn là âm khí làm héo úa hoa màu, cây cối, làm tiêu tan khí huyết đang chảy trong người. Khi gặp người có ma gà trẻ con thì sinh biếng ăn, ốm bệnh, hay khóc đêm ngằn ngặt, người già thì phát tác chứng đau lưng, nhức xương, mỏi nhừ gân cốt, mất ngủ. Mỗi khi trong bản có trâu bò lợn gà bỗng dưng lăn đùng ra chết, hay bị hỏa hoạn, tai nạn, dân bản lại bảo đó là lúc con ma gà thoát xác đi kiếm ăn giết hại gia súc, gia cầm, gây nên hỏa hoạn, tai nạn.

            Từ khi có những lời đồn đại, mà chắc chắn từ mồm lão Dử thầy cúng, ít người còn dám lai vãng đến gần ngôi nhà cuối bản của gia đình Thu nữa. Nhà Thu bị cô lập. Bà Thu buồn bã sinh bệnh ốm chết. Hôm đưa bà đi chôn chỉ có vài người thân trong họ. Sau đám ma cùa bà, bố Thu quyết định đưa hai mẹ con vào thung lũng sâu trong núi dựng lán, vỡ đất hoang làm ruộng cấy lúa, phát cây làm nương trồng ngô, trồng sắn. Bố mẹ và Thu phải đi đến những cái chợ thật xa, nơi không ai biết họ là ai để bán những bao ngô, bao sắn khô và tìm mua muối, mua dầu hoả...

           Thu càng ngày càng xinh đẹp nhưng chẳng có chàng trai nào dám lại gần tán tỉnh. Họ sợ ma. Họ cũng không dám bén mảng đến cái thung lũng gia đình cô đang ở. Cái thung lũng ấy dần dà rồi cũng lại mang một cái tên đáng sợ “thung lũng Ma Gà”. Thung lũng Ma Gà được bố mẹ và Thu cần cù khai khẩn, chăm bón nên ngày càng màu mỡ tươi tốt, lúa ngô khoai sắn luôn xanh. Nhưng rồi tai họa lại ập xuống gia đình cô. Bố mẹ Thu đi rừng. Mẹ lội qua suối bị nước lũ cuốn trôi, bố nhảy xuống cứu, nhưng cả hai đều không thoát khỏi dòng nước oan nghiệt sau cơn mưa rừng đổ về chảy rất xiết. Sau khi bố mẹ chết thảm, tin đồn về cô là ma gà đã thành tinh ăn cả thịt bố mẹ đẻ lại rộ lên.

            Lo xong đám tang cha mẹ, Thu gần như kiệt sức. May là thời thế đã thay đổi, chính quyền, đoàn thể giúp sức. Tuy thế, miệng lưỡi thế gian còn độc địa, dân bản vẫn còn dè dặt. Quan niệm cũ ăn sâu vào tiềm thức thường rất khó xóa, người ta vẫn cứ cẩn thận là hơn. Một hôm, trang trại Ma Gà có khách. Một lão già đi vào trang trại. Trông lão giống như một kẻ hành khất. Lão ta nhấc cái cổng bằng phên nứa để sang một bên rồi đi vào. Con chó đang xích ở đầu nhà lồng lộn kéo căng sợi xích tru lên và sủa ầm ĩ như chợt nhìn thấy ma. Đang lúi húi rẫy cỏ ngoài vườn chè Thu vội cầm cái cuốc chạy ra. Hóa ra đó chính là lão Dử thầy cúng. Nhìn thấy Thu, lão nhe hàm răng ám khói cáu bẩn ra cười nhăn nhở. Thu trừng mắt hỏi :

           - Ông mò đến đây để làm gì! Ông đã hại gia đình tôi bao nhiêu năm nay còn chưa đủ à? Ông cút ngay đi!

           - Hôm nay ta đến để giúp em! Sao lại đuổi ta đi...

           - Giúp cái gì! Đồ rắn độc...

           - He... he... he... - Lão cười như tiếng kêu be be của một con dê đực: - Ta đến để giúp em trông coi cái cơ nghiệp này đấy! Vợ ta chết rồi, hãy nhận ta làm chồng nhé! Ta sẽ đuổi con ma gà đi ngay cho... he... he... he...

           - Đồ khốn...

           Thu giận dữ quát to. Cô vung cái cuốc đang cầm ở tay lên dọa đánh. Tên thầy cúng già luống cuống giơ cái gậy lên đỡ rồi lùi dần ra phía cổng. Vừa đi, lão vừa lẩm bẩm: “Không chịu lấy ta thì chỉ có nước là ế chồng thôi!”. Con chó chồm lên cào cào hai chân trước xuống đất. Nó chỉ mong Thu tháo cái móc xích thả ra để lao đến đớp cho lão thầy cúng dâm đãng một miếng thật đau.

            Sau bận ấy, lão thầy cúng còn nhiều lần mò vào thung lũng Ma Gà. Có lần đang trưa nghe tiếng gọi cổng, khi Thu chạy ra xem là ai thì thấy lão đứng bên ngoài hàng rào vạch quần thò cái “của quý” đen chùi chũi của mình ra vung vẩy khiêu khích. Những lần sau nghe tiếng động ngoài cổng cô liền thả con chó ra. Con chó trung thành đã mấy lần giải nguy cho Thu khi bất ngờ gặp lão thầy cúng và đám thanh niên định cưỡng bức cô ngoài rừng. Con chó bị bọn người xấu đánh bả. Ăn phải chất độc song nó gắng lết chạy về đến cửa nhà thì ngã gục. Mồm nó sùi ra đầy bọt trắng. Đôi mắt nó cố mở ra nhìn Thu vẻ đau đớn. Con chó chết, Thu khóc mãi. Nó là một người bạn thân thiết nhất của cô. Chôn cất con chó trung thành xong, cô quyết định bỏ nhà ra đi. Thu lên biên giới dấn thân làm một nữ cửu vạn gùi cõng hàng thuê cho những người đi buôn.

           Hắn bùi ngùi khi nghe câu chuyện của Thu kể. Thì ra ở trên đời này vẫn còn có biết bao nhiêu số phận khổ ải như thế. Hắn khẽ đặt nhẹ bàn tay lên vai Thu như muốn an ủi cô. Thu lại bảo:

           - Nghe chuyện rồi anh có còn dám về thung lũng Ma Gà không?

           - Về chứ! Ngày mai chúng ta sẽ cùng về quê em!

           - Nhỡ có… ma thật anh không sợ à?

           Hắn bóp nhẹ vai Thu cười:

           - Ma xinh đẹp thế này thì chả ai thèm sợ đâu!

           Thu cười khúc khích. Cô se sẽ ngả đầu dựa vào vai hắn, tin cậy. Một bàn tay của cô tìm bàn tay thô ráp của hắn nắm chặt, bàn tay còn lại đưa lên ôm lấy ngực. Đoạn, Thu lặng lẽ lần mở từng cái cúc trên ngực áo của mình.

Hắn tỉnh giấc trước.

         Đêm qua sau khi dâng hiến tất cả cho nhau hai người ngủ thiếp đi giữa cánh rừng khuya ngập tràn ánh trăng. Trời đã sáng rồi. Khu rừng râm ran tiếng chim. Thu vẫn còn đang ngủ rất ngon lành. Hắn se sẽ nhấc bàn tay của mình ra khỏi ngực cô gái. Thu khẽ cựa mình, ngực cô vồng lên tròn căng và đầy kiêu hãnh. Đôi mắt của hắn không thể nào rời được khoảng ngực trần như có một sức hút đầy ma lực của Thu. Đắn đo, rụt rè mãi hắn mới lại dám úp bàn tay của mình lên mỏm núi lửa nhỏ nóng rừng rực bên ngực trái của Thu. Trái tim trẻ trung của người con gái đang đập nhoi nhói trong lòng bàn tay của hắn.

          Thu chợt mở mắt nhìn hắn. Hắn hơi hốt hoảng như người bị bắt quả tang đang làm chuyện mờ ám. Hắn định rụt tay lại, nhưng Thu nhanh hơn. Cô ngồi dậy và túm lấy tay hắn giữ chặt trên ngực mình. Họ ngồi với nhau một lát như thế trước khi Thu kéo hắn nằm xuống. Hai người lại thâm nhập vào nhau thêm một lần nữa, rất sâu, rất lâu.

          Hai người mặc quần áo. Chân của Thu đã hơi đỡ đau. Cô vịn vào vai hắn rồi cố làm ra vẻ bình thường để hắn khỏi lo lắng. Hai người lần theo lối mòn tìm ra đường quốc lộ. Trong túi mỗi người đều có tiền. Tiền công làm cửu vạn họ luôn đem theo mình. Nhưng họ không dám đón xe chở khách vì lo sẽ bị công an bắt hoặc gặp phải bọn chủ hàng. Hai người đi nhờ được một chiếc xe chở củi xuôi thị xã Lạng Sơn. Hai người lên được một chuyến tàu chợ xuôi về Gia Lâm. Họ quyết định bỏ nghề cửu vạn để về trang trại Ma Gà của Thu.

          Hai người về đến thung lũng trang trại Ma Gà vào buổi chiều hôm sau.

          Thu tháo cái dây buộc cánh cổng đã mục nát. Hắn theo cô đi vào trong khu trang trại. Con đường đất đỏ lâu không có người đi rêu mọc lên xanh và ngập đầy lá cây. Những luống chè không người chăm sóc cỏ ngập cả rãnh. Ngôi nhà nhỏ lợp lá cọ, vách đắp bằng đất bị mưa gió táp vào làm sạt cả mảng tường bên trái. Sân nhà cũng mọc rậm cỏ dại và đầy phân bò, cứt người. Thu tần ngần đứng giữa sân nhìn ngôi nhà của mình. Một cảm giác tự nhiên trào dâng trong cô vừa thân thương vừa bùi ngùi hoang vắng. Thu rưng rưng nhớ đến bà, đến bố mẹ - những con người cả đời khốn khổ vì sự u mê của chính con người.

           Một lúc sau, cô như sực tỉnh nói với hắn:

           - Nhà em đây rồi!

           - Ừ.

           - Ôi! Về đến nhà rồi, thích thật!

          Cô khe khẽ reo và tự dưng phẩn chấn hoạt bát hẳn lên. Trở về căn nhà của mình nên cô thấy tự tin hơn. “Dọn nhà thôi!” - Thu nói và  đặt cái túi xuống bậc thềm đẩy cửa căn nhà bếp tìm con dao quắm vẫn giấu dưới đống tro tàn. Hắn cũng vớ được một cái xẻng cùn ở phía sau trái nhà. Hai người bắt đầu dọn dẹp nhà cửa. Thu tìm mãi mới thấy một cái xoong nhôm méo lăn lóc ở góc bếp. Cô kỳ cọ sạch sẽ để đun nước sôi pha mỳ tôm.

          Hai người ngồi trên bậc thềm ăn mỳ tôm. Bát mỳ tôm có vài ngọn rau rừng sao mà ngon thế. Lần đầu tiên nhìn Thu lúi húi trong bếp chuẩn bị bữa tối mà hắn thấy nao nao trong lòng cái cảm giác gia đình. Hắn nhớ hồi còn bé mỗi lần mẹ nấu cơm xong rồi ngồi chờ hắn về. Hắn thì mải chơi đến bữa không về để mẹ ngồi chờ cơm. Lúc ngồi xuống mâm ánh mắt mẹ thật vui khi có hai người ngồi ăn. Bây giờ hắn chợt bắt gặp ánh mắt của Thu cũng lấp lánh như ánh mắt của mẹ ngày nào khi hắn ngồi vào mâm. Dù cái “mâm” của hai người lúc này chỉ là tờ báo trải ra thềm nhà.

          Phải mất mấy ngày, hai người mới dọn dẹp xong nhà cửa, dọi lại cái mái nhà lợp bằng lá cọ thủng lỗ chỗ. Thu đi chợ đong gạo, mua mắm muối và vài thứ đồ dùng nhà bếp để nấu nướng. Khi cô đi vắng bọn trẻ con chăn trâu chui vào nhà tìm kiếm, lấy  trộm hết các thứ đồ đạc đem đổi kẹo, hoặc bán sắt vụn.

          Một buổi chiều chợt nghe có tiếng ho húng hắng ngoài cổng, Thu chạy ra. Lão Dử thầy cúng chống gậy đi vào. Lão nhìn Thu cười nhăn nhở:

          - Em đã về rồi à! Hay quá, hay quá...

          - Ông lại đến đây làm gì?

          - Ồ! Ta vẫn đến để trông coi nhà cửa, vườn tược cho em khi em đi vắng đấy! Lần này em về phải nhớ mà trả công đã trông coi bảo vệ trang trại cho ta đấy nhé!

          Nói xong lão thấy cúng dấn tới. Thu vội lùi lại. Biết là không còn con chó dữ nữa nên lão không sợ. Lão vừa giơ hai tay định ôm choàng lấy Thu thì bị kéo khựng lại. Hắn túm cổ lão thầy cúng nhấc lên như nhấc một con chó rồi thả xuống. Lão thầy cúng ngã dụi xuống góc sân. Hắn gầm lên:

          - Liệu hồn! Muốn sống thì đừng có bao giờ bén mảng đến đây nữa, hiểu không?

          Lão thầy cúng ngẩng mặt lên nhìn. Mồm lão há hốc, mặt tái dại đi khi nhìn thấy những hình xăm gớm ghiếc trên bộ ngực trần của hắn. Lão lồm cồm đứng dậy rồi vừa tập tễnh chạy ra cổng. Vừa chạy lão vừa kêu cứu:

          - Cứu… cướp... cướp... có... kẻ... cướp... 

          Tiếng của lão thầy cúng ú ớ, lập bập vì sợ hãi.

          Lão thầy cúng Hoảng Văn Dử chạy đi được một lúc lâu thì ngoài cổng trang trại lại có tiếng ồn ào. Cánh cổng làm bằng nứa bị phá tung bởi mấy cái xe máy Trung Quốc ầm ầm lao qua. Bốn người đeo băng đỏ, mang súng và công cụ hỗ trợ an ninh phóng xe máy thẳng vào tận sân nhà. Họ nhảy xuống xe và nhanh chóng triển khai việc bắt giữ tội phạm. Súng ống, dùi cui, roi điện lăm lăm. Chắc là họ đã nhận được tin của lão thầy cúng thông báo khẩn cấp có cướp xuất hiện ở thung lũng Ma Gà.

          Thu và hắn từ trong nhà bước ra. Một ông có vẻ là lãnh đạo chỉ cái dùi cui vào mặt hắn hỏi hất hàm:

          - Anh kia từ đâu đến đây?

          Trong khi ông ta hỏi thì những người còn lại nhanh chóng khép vòng vây xung quanh hai người sẵn sàng hành động nếu xảy ra chuyện chống lại người thi hành công vụ. Hắn hơi lúng túng. Thu gạt hắn ra rồi tiến lên trước nói, giọng cô dứt khoát:

          - Đây là anh Lỗi, chồng tôi!

          - Có giấy tờ gì không?

          Ông ta hỏi cộc lốc, không có chủ ngữ. Hắn lục túi áo tìm cái ví. Hắn rút từ trong ví ra một tờ giấy gấp nhỏ để trong một cái túi giấy bóng cho khỏi ướt đưa cho ông vừa hỏi. Ông này mở ra xem. Đó là tờ quyết định tha tù, thứ giấy tờ tùy thân duy nhất mà hắn có. Sau khi xem xét rất kỹ, đọc đi, đọc lại mấy lần, ông cám bộ kia đưa trả lại cho hắn tờ giấy rồi hất hàm hỏi:

          - Có thẻ căn cước hay loại giấy tờ gì khác nữa không?

          - Không có!

          Hắn đáp. Ông này nói tiếp:

          - Anh tuy đã hết thời gian quản chế ở địa phương rồi, theo luật anh có quyền tự do đi lại, tự do định cư ở địa phương khác. Nhưng về đây ở thì anh phải ra ủy ban xã để trình diện, xin đăng ký tạm trú, thường trú, làm chứng minh thư nhân dân và nếu là chồng của cô Thu thì phải có giấy đăng ký kết hôn, hiểu không?

          - Vâng...

          Hắn ậm ừ trong cổ họng. Ông này tự giới thiệu ông ta là phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã, mấy người đi cùng đều là công an viên trong đơn vị an ninh thường trực cơ động của xã. Ông ta giáo huấn thêm một chập nữa về pháp luật, về tình hình trật tự an ninh của địa phương và nhắc nhở hắn phải nghiêm chỉnh chấp hành tốt đường lối, chính sách, tích cực ủng hộ địa phương, hăng hái thi đua lao động sản xuất, tham gia bảo vệ trật tự an ninh, xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, văn minh…

           Hắn cố làm ra vẻ chăm chú lắng nghe ông phó chủ tịch xã thuyết giảng. Mấy lần hắn cục cựa chân tay tỏ vẻ khó chịu thì bắt gặp ánh mắt và cái lắc đầu nhè nhẹ của Thu nên đành cứ phải đứng im chịu trận. Sau một hồi nói như súng liên thanh, ông phó chủ tịch và những người cùng đi cùng lên xe rời khỏi khu trang trại. Khi ông phó chủ tịch và ba công an viên ào ào phóng xe máy đi rồi hắn và Thu lại bắt tay vào công việc dọn dẹp nhà cửa, củng cố trang trại, đào mương đưa nước suối về ruộng và rẫy cỏ cho mấy luống chè còi cọc. Thu dặn hắn phải bình tĩnh nín nhịn, mọi chuyện xảy ra cứ để cô lo.

           Sau bận hoang báo là có cướp, lão thầy cúng cũng biệt tăm. Không thấy lão lần mò vào khu trang trại Ma Gà thêm lần nào nữa. Nghe nói sau vụ triển khai lực lượng cơ động đi bắt cướp trượt ông phó chủ tịch xã rất bực. Ông cho gọi lão thầy cúng Hoàng Văn Dử lên cảnh cáo lão ta và nhắc nhở về tội mê tín dị đoan, tổ chức cúng bái trừ ma tà suýt nữa gây chết người do không đưa bệnh nhân đi bệnh viện cấp cứu, chữa chạy kịp thời.

          Nhưng một thời gian sau lần lão thầy cúng bị hắn đuổi khỏi thung lũng Ma Gà thì trong bản lại xuất hiện chuyện ma gà. Một gia đình có một người con gái rất xinh đẹp bị ma gà nhập vào ẩn thân để làm hại mọi người trong bản. Lão thầy cúng Hoàng Văn Dử đã cúng để giúp gia đình ấy lấy “con ma” ra khỏi người cô con gái mới mười ba tuổi. Nhưng lão ta lại làm cho cô bé ấy có một thằng người ở trong bụng. Kết cục, lão ta phải đi tù vì tội giao cấu với trẻ vị thành niên.

           Từ khi lão Dử vào tù thì trong bản, trong vùng không còn thấy có ma gà xuất hiện nữa. Con gái đẹp ra đường không còn phải ăn mặc lôi thôi, rũ cho tóc rối, lo bôi nhọ nồi, cám lợn vào mặt cho xấu xí để tránh ma nhập nữa. Hóa ra ma quỷ đều là ở con người ta mà sinh ra cả. Biết bao nhiêu người con gái xinh đẹp bị vu là bị ma nhập để rồi lại được lão thầy cúng giúp việc “trục xuất” ma ra khỏi người nhưng lại đưa thứ khác vào cơ thể. (Đoạn sau là do tác giả viết thêm, không có trong truyện: Chuyện về ma gà thì có lẽ viết mãi cũng sẽ không hết. Hồi chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, tác giả có thấy một gia đình sống biệt lập mãi ngoài bìa rừng, rất xa các làng bản. Hỏi ra mới biết hai cô con gái của nhà này bị nghi là ma gà nên gia đình họ phải chuyển nhà ra khỏi bản. Tác giả từng vào gia đình này chơi vì nhà họ ở gần trận địa chiến đấu phòng thủ của đơn vị. Bà mẹ hai cô gái khi ngồi tiếp chuyện anh em bộ đội nước mắt cứ chảy giàn giụa trên khuôn mặt đầy đau khổ. Hai cô gái nhà nọ quả là rất xinh đẹp, nước da của hai người trắng hồng, cặp mắt ướt, tròn to và sáng long lanh. Vì bị nghi là có ma gà nên hai cô gái chẳng ai lấy được chồng. Khi cuộc chiến tranh biên giới xảy ra, tác giả còn gặp hai cô ấy đem cơm, vác đạn lên chốt cho bộ đội, băng bó, chuyển thương binh về tuyến sau. Sau đó do tuyến phòng ngự của ta bị bọn địch chọc thủng, bộ đội bị thương vong nhiều, hết đạn phải rút lui, dân bản phải chạy tứ tán khắp nơi. Hết chiến tranh không gặp lại gia đình ma gà ấy nữa. Chẳng biết rồi hai cô gái nhà ấy ra sao. Thật thương xót cho những người con gái xinh đẹp mà số phận tăm tối, phải chịu hậu quả bất công của các hủ tục mê tín dị đoan).

           Lại nói về cái trang trại trong thung lũng nhỏ của Thu và hắn đang ở ấy bỗng nhiên nổi tiếng bởi được mang cái tên “Thung lũng trang trại Ma Gà”, là một nơi luôn có nhiều người lui tới. Nhưng đó là câu chuyện của những năm sau này.

Thung lũng Ma Gà dần dần thay đổi. Có bàn tay lao động cần mẫn của con người thì tất sẽ có sự đổi thay. Cho dù là sự thay đổi chậm chạp. Hắn và Thu suốt ngày hì hục ngoài đồi, dưới ruộng. Hắn cũng không ngờ một cô gái mảnh khảnh và xinh đẹp như Thu lại có sức khoẻ dẻo dai và nghị lực lớn như thế. Ở con người cô hình như có một sức mạnh tiềm ẩn to lớn. Có lẽ đó là những ẩn ức của những năm tháng bị coi là ma gà không được sống như một con người bây giờ mới được giải tỏa. Hắn giao toàn bộ số tiền mình đã tích cóp được cho Thu mua công cụ lao động, cây giống, hạt giống để sản xuất. Họ tính việc sẽ cấy lúa ở chỗ những khoảnh ngập nước, trồng chè trên đồi và đào hố đặt thử mấy chục cây vải thiều dọc lối đi trong trang trại, vừa thử xem nó có phù hợp chất đất và cũng để lấy bóng mát.

          Nhưng thay đổi của thung lũng Ma Gà cũng chỉ là nhỏ bé. Muốn trở thành một trang trại sinh thái hoặc sản xuất làm ăn lớn thì phải có vốn đầu tư. Mà hai người thì không có tiền. Một ít tiền công làm cửu vạn của họ chỉ là chút muối bỏ biển và chỉ đủ tiền ăn cho hai người vài tháng. Hoá ra làm ăn kinh tế không phải là dễ. Hắn nghĩ đến việc đi vay vốn. Nhưng khu trang trại chưa có sổ đỏ không thể thế chấp để vay vốn. Còn tín chấp thì họ cũng không thể đem cái giấy quyết định tha tù của hắn ra ngân hàng. Thế là bế tắc. Hắn chợt nhớ lại cái ngày đào vàng trên Tây Bắc. Giá mà hồi ấy hắn vớ được một cục vàng bằng quả bưởi có phải bây giờ tha hồ mà đầu tư phát triển kinh tế trang trại! Nhưng hắn lại phì cười với ý nghĩ dại dột ấy của mình. Vì nếu có một cục vàng bằng quả bưởi thì việc đếch gì hắn phải đi làm cửu vạn nữa. Mà nếu không đi làm cửu vạn thì làm sao hắn gặp được em Thu và đến với cái trang trại Ma Gà này! Trong đầu hắn cũng thoáng nhớ đến người đàn bà giàu có xinh đẹp ở ngôi nhà ven hồ và lão chủ cơ sở sản xuất than tổ ong Sông Đuống. Song đó là những chuyện đã qua rồi. Hắn từng đã chả phải “bỏ của chạy lấy người” đấy thôi.

          Thôi đành bắt đầu theo kiểu cò con vậy. Hắn nghĩ. Còn Thu thì lại tính toán, suy nghĩ khác hắn. Với cô việc thoát khỏi cái “nghi án” ma gà rồi lại có chồng thì đã là một hạnh phúc lớn nhất của đời mình rồi. Bây giờ đối với Thu chỉ cần có một ngôi nhà tương đối khang trang, một khu ruộng vườn cây cối xanh tươi, có chút vốn phòng khi ốm đau, mưa nắng nữa thôi là đủ.

          Một buổi sáng, hắn đang đào hố trồng cây trên quả đồi nhỏ trước nhà thì có một toán người mặc áo công nhân đi vào. Vài tháng nay con đường nhỏ phía đầu thung lũng xuất hiện nhiều người qua lại đo đạc, phát tuyến. Một người có vẻ nhiều tuổi nhất trong toán công nhân chào hắn rồi nói:

          - Bọn chúng tôi về đây để làm đường. Chúng tôi đến xin ở nhờ vài hôm để tiến hành làm lán trại trú chân!

          - Được thôi! Nhưng nhà hẹp và ẩm thấp lắm! - Hắn nói.

          - Không sao! Bọn chúng tôi là công nhân cầu đường, nay đây mai đó, có chỗ trú chân tránh mưa nắng là quá tốt rồi…

          Rồi anh ta tự giới thiệu:

          - Tôi là Toàn, tổ trưởng, còn các anh em đây là cùng trong tổ lái máy xúc, máy ủi. Bọn chúng tôi đi tiền trạm trước chuẩn bị chỗ ăn ở để nay mai đưa máy móc vào làm nền con đường chạy qua thung lũng này!

          Qua câu chuyện với toán công nhân, hắn mới biết có một con đường sẽ  được mở qua khu rừng núi hoang vu này. Con đường ấy sẽ chạy qua ngay phía nam thung lũng Mà Gà. Hắn đồng ý cho đám công nhân làm lán trại ở sườn quả đồi ngay lối vào trang trại. Thu đi chợ về, cô vui vẻ giúp bọn họ nấu cơm. Anh Toàn tổ trưởng lại bảo:

          - Hai vợ chồng cậu còn son rỗi hay là làm hợp đồng thời vụ cho bọn chúng tôi nhé! Chú Lỗi làm việc ở bộ phận máy ủi nền đường, cô Thu làm phục vụ, đi chợ, nấu cơm, đun nước uống cho anh em!

          Hắn sửng sốt:

          - Tôi có biết quái gì về máy móc đâu mà làm ở bộ phận máy ủi! Lỡ tôi lái máy ủi phóng luôn xuống suối thì chết cả lũ à?

          Mấy thằng công nhân trẻ phá lên cười ngặt nghẽo. Cười chán, một thằng mới giải thích:

          - Bộ phận máy ủi thi công nền đường cần có một số người lao động thủ công để phát rừng, dọn tuyến, đánh gốc cây, đục lỗ nổ mìn phá đá và nhất là cứu hộ xe máy bị sự cố khi thi công anh ạ!

          - Thế thì được! Nhưng tôi chỉ làm một thời gian khi trang trại đang ít việc thôi đấy nhé!

          Anh Toàn tổ trưởng lại nói:

          - Thì chúng tôi cũng chỉ cần cô chú làm hợp đồng thời vụ trong thời gian bọn tôi ở đây thôi. Thi công xong nền đường là chúng tôi di chuyển đi cung đoạn khác ngay. Nếu hai người đồng ý thì ngày mai tôi sẽ báo lên ban chỉ huy đội để họ cử người đến ký kết hợp đồng lao động…

          Thế là hắn và Thu trở thành “công nhân” làm đường. Đúng như anh Toàn tổ trưởng tổ máy ủi đã nói. Công việc của hắn thật đơn giản. Hàng ngày theo sự hướng dẫn của các kỹ thuật viên, những người công nhân lao động thủ công xác định các cọc tim đường, các cọc tiêu tiếp đầu, tiếp cuối của đoạn đường đã được thiết kế rồi tiến hành việc phát tuyến, dọn sạch cây cối cho xe máy tiến vào thi công đào đắp nền đường. Hắn còn được giao thêm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ máy móc khi cánh lái xe nghỉ ngơi, ăn cơm trưa. Thu đảm nhiệm công tác hậu cần cho cả bọn. Thu nấu ăn rất ngon nên đám công nhân thích lắm.

          Tuyến đường bắt đầu được thi công. Tiếng xe máy ầm ầm, tiếng nổ mìn phá đá dội vào vách núi. Giả sử thung lũng Ma Gà có ma thật thì ma quỷ cũng kinh hồn bạt vía. Những chiếc máy ủi, máy xúc ngoạm đất đá gạ­m vào vách núi. Con đường dần hình thành. Những gốc cây to bị ủi bật lên cả rễ. Có cái gốc cây chết từ bao nhiêu năm trước lấp vùi dưới lòng đất sâu cũng bị máy xúc, máy ủi moi bật cả gốc rễ lên hất xuống suối. Hàng ngày đi làm về, hắn đều tranh thủ mượn xe cải tiến của đội nhặt nhạnh, chở các gốc cây, có cái đã thành lũa ấy về chất đầy ở một bãi đất trống trong khu trang trại. Hắn đã có một dự định khác trong tương lai.

          Một hôm, đắn đo mãi hắn mới dám đề nghị với anh tổ trưởng:

          - Các anh chắc cũng sắp chuyển đi nơi khác thi công! Tôi muốn thuê máy móc của tổ đào một cái ao thả cá trong thung lũng Ma Gà có được không ạ?

          - Ồ… được… được… nhưng mà thuê mướn quái gì! Chỉ cần cậu chi tiền dầu máy là được! Mà thôi, để tôi bảo thằng Hạnh nó kiểm tra lại xem số dầu máy tiết kiệm được có còn nhiều không! Anh em trong tổ sẽ đào cho nhà cậu một cái ao thả cá thật đẹp để làm kỷ niệm! Chủ nhật này ta làm luôn nhé. - Anh Toàn bảo.

          Thế là ngay trong ngày chủ nhật cuối tuần ấy, đám công nhân huy động máy móc đào giúp hắn một cái ao giữa thung lũng Ma Gà, nơi vẫn thường bị ngập nước có những cái gốc cây lộc vừng cổ thụ lù sù. Thu thịt gà làm cơm thiết đãi và cũng là để chia tay với đám công nhân làm đường. Đầu tuần tới bọn họ đã rời đi nơi khác rồi. Anh tổ trưởng đề nghị hai vợ chồng hắn đi theo tiếp tục làm công nhân hợp đồng và có thể một thời gian sau nữa sẽ trở thành biên chế chính thức của đội thi công nền đường, ăn lương nhà nước hẳn hoi. Nhưng hắn và Thu từ chối. Họ muốn trở về với cái trang trại của mình. Bữa cơm hôm ấy thật vui. Trang trại Ma Gà chưa bao giờ vui đến thế. Bọn công nhân ăn uống thoải mái, hò hát ầm ĩ. Có lẽ trong cuộc đời hắn những ngày làm công nhân thời vụ cho đội thi công mặt đường tuy vất vả nhưng thật vui. Và tuy chỉ có mấy tháng làm đường, hắn còn được họ tặng cả giấy khen nữa.

 *

          Đó là câu chuyện xảy ra ở đoạn đường qua suối giữa rừng. Chính ở con suối này mẹ và bố Thu đã bị nước lũ cuốn trôi. Hôm đó, trời cũng mưa rất to. Khi chiếc máy ủi đang làm việc thì bị sự cố sa xuống sát mép nước. Nước lũ lại đang tràn về. Đám công nhân phải rất khẩn trương tìm cách kéo ngay chiếc máy ủi lên cao nếu không nó bị lăn xuống suối thì thôi rồi. Đây lại là một chiếc máy mới vừa được đưa vào thi công.

          Giữa lúc cả bọn hối hả đào đất và móc dây tời để kéo chiếc máy ủi lên thì một thằng đang moi đất  ở phía đầu máy bỗng hốt hoảng kêu to:

          - Có một quả bom…

          - Ồi… giời ơi… nguy hiểm quá… tất cả chạy đi…

          Cả bọn hốt hoảng chạy rạt ra. Có một quả bom nằm ngay dưới bánh xích của chiếc xe ủi. Quả bom này chắc là từ chiến tranh phá hoại bọn Mỹ ném xuống, hoặc có khi là bom từ thời kháng chiến chống Pháp cũng nên. Đám công nhân hốt hoảng chạy rạt ra rất xa, không ai dám đến gần. Nước lũ dưới dòng suối vẫn tiếp tục dâng lên. Nếu không nhanh thì chiếc máy ủi sẽ bị dòng nước nhấn chìm, thiệt hại sẽ rất lớn. Trong khi cả bọn run cầm cập vì sợ hãi thì hắn rời khỏi chỗ ẩn nấp bình tĩnh đi xuống chỗ chiếc máy ủi. Có tiếng quát:

          - Chú Lỗi cẩn thận đấy!    

          Hắn nhận ra tiếng anh tổ trưởng. Hắn thận trọng tiến đến gần chiếc máy ủi xem xét. Quả bom nằm ngay dưới bánh xích phía đầu xe. Một phần quả bom lòi nhô hẳn ra nhìn rõ cả kíp nổ. Chỉ cần moi đất phía dưới sẽ lôi được quả bom ra khỏi xích xe. Hắn nghển cổ gọi mọi người vào giúp nhưng không ai dám tiến đến. Họ đều biết quả bom đã bị máy xúc ngoạm lên rồi máy ủi lại gạt đẩy ra, ngòi nổ bị va chạm nên nguy cơ phát nổ sẽ rất cao. Không ai hỗ trợ hắn. Hắn cẩn thận dùng tay moi đất bên dưới để lôi quả bom ra khỏi dải xích của chiếc xe ủi. Quả bom độ năm mươi cân. Nó không quá nặng nhưng vì mưa ướt trơn tuột nên rất khó lôi ra. Nhưng hắn không bỏ cuộc. Cả người hắn ướt sũng vì nước mưa và bê bết bùn đất. Phải mất một hồi lâu hắn mới lôi được quả bom ra. Hắn vác quả bom lên vai. Đám công nhân rú lên hốt hoảng hô nhau chạy tán loạn khi thấy hắn vác quả bom lừ lừ đi về phía họ. Hắn không thể đưa quả bom sang bên kia bờ suối vì nước lũ đã dâng cao ngập quá đầu người. Hắn đành đi ngược lên phía đỉnh dốc. Nền đường mới làm mưa xuống trơn tuột. Quả bom cũng trơn tuột chỉ chực tuội khỏi vai hắn lao xuống đất. Hai tay hắn phải cố ghìm để giữ chặt quả bom trên vai. Các  công nhân nằm ép sau các mô đá, gốc cây theo dõi từng bước chân của hắn. Họ hét lên kinh hãi mỗi khi hắn loạng choạng suýt trượt chân. Thời gian trôi đi rất chậm. Mưa vẫn rơi ào ào. Đường trơn tuột. Hắn phải bấm chân xuống mặt đường thận trọng từng bước đi. Hắn vác quả bom đi ngược lên phía đỉnh dốc. Lúc này biết chuyện Thu cũng đã chạy ra mặt đường. Thu nép sau một gốc cây to lo lắng theo dõi hắn vác quả bom đi. Tim cô như ngừng đập.

          Hắn vác quả bom rẽ vào một khe núi ở lưng chừng dốc. Quả bom đã được để vào một chỗ an toàn mà nếu nó có phát nổ thì cũng không gây ra ảnh hưởng gì cho con đường đang mở. Mãi mấy hôm sau bộ đội công binh của tỉnh đội mới đến xem xét rồi ép thuốc nổ phá huỷ quả bom.

           Khi quả bom đã được chuyển đi, bọn công nhân mới dám lao xuống tiếp tục cứu máy. Chiếc máy ủi được kéo lên nơi an toàn trước khi lũ lớn tràn về nhấn chìm cả đoạn đường đang thi công. Sau vụ việc này, hắn được cấp trên trao tặng một cái giấy khen và hai trăm ngàn đồng đúng theo quy chế khen thưởng của nhà nước.

Khi các công nhân làm nền đường rời đi rồi hắn và Thu lại tiếp tục quay về với cái trang trại của mình. Số tiền lương ít ỏi mấy tháng làm công nhân  hợp đồng họ đầu tư vào mua cây vải thiều giống, phân bón cho lúa và chè. Con đường hình thành nên bắt đầu có nhiều người qua lại thung lũng Ma Gà. Dọc theo tuyến đường có các cụm dân cư mới hình thành.

          Một hôm, đào hố trồng cây trên bờ cái ao mới đào, hắn chợt thấy cái gốc cây sù sì mà máy xúc nhấc lên bỏ ở một góc ruộng ẩm ướt đang nảy ra những cái chồi non. Đó là một gốc lộc vừng. Hoá ra cái cây không chết. Nhìn cái gốc cây có dáng vẻ kỳ dị, hắn nảy ra một ý. Hắn nhờ mấy người giúp di chuyển về góc sân nhà. Hắn trồng cái gốc cây ngay góc sân lối cổng đi vào. Cái cây hồi sức đâm rễ, vươn cành lộc non. Nó tuy già cỗi nhưng vẫn còn chứa chất nhựa sống ở bên trong.  Nhân dịp làm sân và xây hai cái trụ cổng, hắn cho làm luôn một cái bể chứa nước quanh gốc cây. Giống lộc vừng phải ở gần nước mới tốt và ra hoa. Hắn tỉa tót uốn cành đẽo gọt cái gốc cây lộc vừng theo ý thích ngẫu hứng của mình. Cái gốc bây giờ trông như một pho tượng di lặc tọa ở góc sân nhà. Hắn rất thích khi cành lá lên xanh trên cái gốc cây tưởng như đã khô ấy. Hắn đặt tên cho nó là “Phật Di lặc”.

          Một hôm có ông khách lái một chiếc xe ô tô con ghé vào nhà hắn xin nước uống và hỏi đường. Ông này có vẻ là một nhà doanh nghiệp. Ông ta rất vui thích và ngạc nhiên trước một cái trang trại nơi sơn thuỷ hữu tình này. Đặc biệt ông ta rất chú ý và vô cùng thích thú với cái gốc lộc vừng trồng nơi góc sân nhà hắn. Cái cây đang ra hoa. Những chùm hoa lộc vừng buông dài xuống như những sợi râu của phật.

          Ngắm nghía gật gù chán, ông khách đột nhiên hỏi:

          - Anh bán cho tôi cây lộc vừng này và cây si gần lối cổng vào nhé!

          Tưởng ông ta đùa, hắn cười bảo:

          - Cái cây lộc vừng “Phật Di lặc” cổ thụ này có trả đến tiền triệu chưa chắc tôi đã bán đâu nhé!

          - Tiền triệu cơ à?

          Ông ta hỏi lại và vớ lấy cái cặp khoá số vẫn xách theo bật “tách” một cái rồi lôi ra một tập tiền mới cứng đặt vào tay hắn nói:

          - Năm chục triệu đây! Ngày mai tôi sẽ cho xe đến đào cây!

          - Ơ… ơ…

          Hắn ngơ ngác. Ông khách lại mở cái cặp lấy tiếp ra một cọc tiền loại năm mươi nghìn đồng đưa cho hắn và nói thêm:

          - Còn đây là năm triệu! Tiền bồi thường để anh xây lại cái cổng nhà và đào bỏ mấy cây vải thiều lấy lối cho xe ô tô tải vào đào, chở cây. Ngày mai, tôi sẽ phải phá cái cổng để cho xe cẩu vào đào hai cái cây đấy! Mà anh gọi cái cây lộc vừng này tên là gì nhỉ! Là “Phật Di lặc” à? Hay… hay quá, nhìn đúng là thật giống ông Phật Di lặc lắm… ha… ha… ha…

          Hắn càng ngạc nhiên. Một cái gốc cây vứt đi mà lại bán được nhiều tiền đến thế này cơ à! Cả đời hắn chưa bao giờ lại có một số tiền lớn đến thế. Ông khách phóng xe đi rồi thì Thu đi chợ về. Biết chuyện, Thu cũng hết sức ngạc nhiên. Cầm tập tiền trong tay cô chợt hốt hoảng kêu lên:

          - Thôi chết! Hay là tiền giả, khéo mà anh bị ông ta lừa rồi!

          - Nhưng mà ông ta lừa mình cái gì cơ chứ?

          - Ừ nhỉ! Ông ta cũng đã đào hai cái cây đem đi đâu mà bảo là bị lừa!

          Thu cẩn thận giở tập tiền ra xem kỹ lại từng tờ năm trăm nghìn đồng mới tinh còn thơm mùi mực in rồi lại lẩm bẩm:

          - Đúng là tiền thật rồi anh ạ!

          Hai vợ chồng gần như suốt đêm không ngủ vì bất ngờ có một số tiền lớn đến thế. Họ cũng chưa nghĩ ra sẽ làm gì với số tiền lớn này. Năm mươi triệu đồng với họ bằng cả một gia tài đấy.

          Sáng hôm sau, ông khách mua cây hôm trước lại đến. Theo sau chiếc xe con do ông ta tự lái còn có một chiếc xe vận tải lớn và một chiếc xe công trình có gầu ngoạm. Họ sẽ cẩu gốc lộc vừng và đào cây si đưa lên xe tải chở đi. Khi người lái xe cẩu và mấy người đi theo tiến hành phá cái cổng và đào cây si thì anh lái xe tải nhảy xuống đi đến chỗ hắn. Hắn nhận ngay ra đó là thằng Hạnh, lái xe ủi ở bộ phận thi công làm nền đường dạo trước. Hạnh bảo bây giờ làm lái xe cho doanh nghiệp tư nhân của ông chủ là người đã mua cây của nhà hắn. Hạnh ngó nghiêng có ý dè chừng ông chủ rồi túm tay kéo hắn ra chỗ khuất nơi đầu nhà và hỏi nhỏ:

          - Sao anh bán hai cái cây rẻ quá thế?

          - Năm mươi triệu đồng, cả một đống tiền đấy!

          - Đúng là anh không hiểu gì rồi! Anh bán rẻ quá, mất ít nhất một nửa số tiền rồi. Hai cái cây này ông ấy mua năm mươi triệu đem về chỉ cần uốn nắn, sửa sang thêm một chút rồi bán lại, thấp nhất cũng phải trên một trăm triệu đồng đấy!

          - Làm gì ghê gớm đến thế! Mày vẫn cứ cái tính hay huếnh lên…

          - Đúng là anh chả biết mẹ gì về bon sai, cây cảnh rồi! Em đi theo ông chủ này mua bán cây cảnh mãi rồi nên em biết rất rõ! Cái cây si và gốc lộc vừng tuyệt đẹp thế này giá cả không phải là vừa đâu nhé!

          Thằng Hạnh lắc đầu rồi dặn thêm:

          - Lần sau nếu định bán cây gì anh nhớ là phải phôn cho em biết trước để em lên xem rồi tư vấn cho nhé, không thì lại hố to với họ đấy! Số điện thoại của em đây.

          Nói xong, nó nhét vào tay hắn một mẩu giấy nhỏ rồi chạy đi. Ông chủ đang kêu nó đánh lùi chiếc xe tải vào để đưa hai cái cây lên xe. Khi bọn họ đem hai cái cây đi rồi hắn vẫn còn ngỡ ngàng trước những điều thằng Hạnh vừa nói. Hắn không tin là hai cái cây cổ thụ hoang dại mà lại có giá cao đến thế. Nhưng có lẽ nó nói thật. Hắn chợt nhớ chuyện hôm qua ông khách chả thèm mặc cả một câu nào đã đưa luôn cho hắn năm chục triệu đồng mà không cần ghi hoá đơn, giấy biên nhận gì. Rồi ông ta lại còn chi thêm những năm triệu nữa để hắn xây lại cái cổng và di chuyển mấy hom vải thiều. Cái cổng chỉ là hai trụ gạch, mua một túi xi-măng rồi tự hắn xây lại cũng chả hết một trăm ngàn đồng. Hắn kể lại cho Thu nghe những điều thằng Hạnh đã nói, Thu cũng ngớ người ra rồi bảo:

          - Thảo nào mà ông ta đưa tiền cho anh nhanh đến thế!

          Hắn bảo:

          - Chỗ bờ ao còn gần chục gốc lộc vừng và mấy gốc si già nữa, nếu như thế này thì là cả một gia tài rất lớn đấy!

          Thu gật đầu dặn hắn phải chú ý bảo vệ mấy gốc lộc vừng, cây si trong trang trại. Cô bàn với hắn dùng số tiền hơn năm mươi triệu như vừa từ trên trời rơi xuống ấy mở một cửa hàng nhỏ bán vật liệu xây dựng. Hắn đồng ý với Thu vì từ khi con đường mở ra nhu cầu vật liệu xây dựng ở đây rất cao. Nhiều nhà dân, công trình dân sinh, công trình công cộng đang khởi công dọc hai bên đường. Hắn cũng nghĩ ngay đến mấy cây lộc vừng còn lại chỗ bờ ao và đám ruộng ngập nước. Có ba cái cây gần nhau rất giống ba ông tam đa mà hắn vẫn gọi là “Phúc-Lộc-Thọ”. Ba cây ấy mà bán thì chắc cũng bội tiền. Nhưng hắn nghĩ sẽ không bao giờ mình bán thêm một cái cây nào nữa mà hắn sẽ trồng thêm nhiều cây để làm cho cái thung lũng Ma Gà này ngày một xanh tươi hơn.

Cửa hàng buôn bán vật liệu xây dựng của nhà hắn thế mà đông khách. Thu đúng là người có duyên bán hàng. Hoá ra, hắn và Thu chỉ phải bỏ một chút vốn ban đầu làm ba gian nhà cấp bốn ở cổng trang trại sát mặt đường để lấy chỗ chứa hàng hóa là sắt thép, xi-măng. Gạch ngói thì xếp luôn ngay ra vườn. Hàng hoá thì đã có các nhà cung cấp đem tới ký gửi, khi nào bán gần hết hàng thì họ mới đến lấy tiền rồi lại tiếp tục rót thêm hàng mới. Có chủ hàng gọi mãi họ mới đến nhận tiền. Thành thử kho hàng trị giá đến cả tỷ đồng nhưng toàn là của các chủ hàng đem đến chưa thanh toán.

          Việc buôn bán vật liệu xây dựng ngày càng phát đạt. Cửa hàng của nhà hắn đảm bảo vật liệu xây dựng cho cả vùng. Hắn thuê hẳn một chiếc xe vận tải nhẹ để chở xi-măng, sắt thép, gạch ngói đến tận chân công trình theo yêu cầu của khách hàng. Đơn vị thi công mặt đường đặt hàng hắn cả trăm tấn xi-măng, sắt thép để xây cầu, cống, rãnh thoát nước. Cửa hàng của hắn đều cung ứng đầy đủ. Thực ra có lúc cửa hàng của hắn gần như một trạm trung chuyển vật liệu xây dựng cho các công trình đang thi công. Nhiều xe chở vật liệu đến không kịp nhập kho đã chạy thẳng ngay đến nơi khách hàng  đang yêu cầu. Việc buôn bán phát triển nên việc ghi chép sổ sách, làm hóa đơn chứng từ nhiều nên hắn phải thuê thêm người phụ việc. Đầu tiên là có thêm một cô bé vừa tốt nghiệp trung cấp kế toán chưa có việc về làm kế toán cho cửa hàng, chịu trách nhiệm quản lý sổ sách và phụ việc bán hàng cùng với Thu.

          Mọi chuyện tưởng như đang xuôi chèo, mát mái thì lại xảy ra sự cố.

          Hôm đó, cửa hàng đang nhập một xe hai mươi tấn xi-măng Hoàng Thạch thì có một toán người ập đến. Đó là đoàn kiểm tra liên ngành. Dẫn đầu lại là ông phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã, người đã dẫn các cán bộ an ninh đến nhà hắn bắt cướp dạo trước. Họ gồm công an, thuế vụ và quản lý thị trường. Cửa hàng buôn bán vật liệu xây dựng của hắn bị họ đòi lập biên bản phạt hành chính vì kinh doanh không đăng ký, không mở mã thuế, không nộp thuế cho nhà nước… Họ đọc lên một loạt những quy định về buôn bán, kinh doanh, về việc mở công ty tư nhân. Mà chiểu theo bất cứ quy định nào hắn cũng vi phạm cả. Hắn nghe ù cả tai mà chả hiểu ngô khoai ra sao. Họ thông báo là sẽ đóng cửa cửa hàng, niêm phong cả kho hàng hóa. Hắn nổi xung lên định quát tháo, tống cổ đám người này ra khỏi cửa hàng thì cái Hà-con bé vừa được vợ chồng hắn thuê về làm kế toán kéo tay hắn vào phía trong bảo:

          - Họ nói đúng đấy chú ạ!

          - Thế thì chúng ta sai à?

          - Vâng! Cửa hàng của ta không có giấy phép kinh doanh, không có mã số, không nộp thuế là trái với các quy định của nhà nước.

          - Tao tưởng cứ có tiền thì muốn làm gì thì làm chứ! Tiền của mình chứ tiền của họ đâu?

          Con bé mỉm cười:

          - Kinh doanh buôn bán thì cũng đều phải xin phép chú ạ! Cháu thấy cô chú nên xin phép thành lập hẳn một công ty tư nhân chú ạ! Khi đó thì mình buôn bán thoải mái, hóa đơn giá trị gia tăng do chính ta phát hành, không phải mua hóa đơn khống rồi mượn danh của các công ty khác để đưa cho khách hàng nữa, không còn lo ai kiểm tra, kiểm soát, hạch sách nữa. Về việc làm hồ sơ thủ tục xin phép thành lập công ty chú cứ để cháu sẽ lo.

          - Thế à… nhưng còn việc hôm nay thì tính sao bây giờ?

          - Việc này cũng cứ để cháu lo… nhưng…

          - Nhưng gì nữa?

          - Chú cho phép cháu “chi nóng” một ít tiền và để ngoài sổ sách nhé!

          - Chi vào việc gì?

          - Dạ! Thì chi vài trăm ngàn “bồi dưỡng” cho “đoàn kiểm tra liên ngành đột xuất” này để họ vui vẻ ra về chú ạ!

          Hắn cũng chưa hiểu ra sao. Còn con bé Hà thì lại có vẻ rất thành thạo việc này. Nó mở cặp lấy ra bốn cái phong bì. Mỗi cái phong bì nó nhét vào hai trăm nghìn đồng. Bốn ông gồm phó chủ tịch xã, công an, quản lý thị trường, thuế vụ với nét mặt khó đăm đăm vẫn đang ngồi chờ để lập biên bản. Cái Hà kẹp mấy cái phong bì vào tờ báo rồi ra tiếp họ. Con bé khéo léo trấn an các nhà hành pháp rằng cửa hàng này chỉ vừa mới mở, đang thăm dò thị trường để xác định mặt hàng, nhóm hàng ưu thế nên chưa xin cấp phép kinh doanh. Khi đã định hình được mặt hàng chủ yếu sẽ lập tức xin cấp giấy phép ngay. Nó nói một thôi, một hồi. Giọng nó dẻo kẹo. Cứ theo lời nó nói thì cái cửa hàng này đang thua lỗ nặng, nguy cơ sắp phá sản đến nơi rồi. Ông phó chủ tịch xã và mấy tay phòng thuế, quản lý thị trường cũng thấy xiêu xiêu trong lòng… Họ làm ra vẻ hết sức thông cảm, chia xẻ với những người kinh doanh buôn bán nhỏ trong cơ chế thị trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Rồi họ nhận tờ báo có kèm theo mấy cái phong bì bồi dưỡng và kéo nhau ra về. Ra đến sân, ông phó chủ tịch xã còn cố quay lại đe:

          - Phải xin phép cẩn thận rồi hẵng tiếp tục kinh doanh nhé! Nếu không là phạm luật đấy!

          - Vâng… vâng…

          Cái Hà đáp. Vừa tiễn đoàn cán bộ hành pháp ra đến đường quay vào nó đã nhéo nhéo điện thoại: “Họ biến hết rồi! Tiếp tục cho xe đến lấy hàng nhé!”. Hắn nhìn con bé nghĩ nó đúng là một nhân tài đây. Và cũng nhờ có cái Hà mà công ty TNHH Hoàng Thu được thành lập. Tự nhiên hắn trở thành giám đốc, Thu là phó giám đốc và cái Hà làm kế toán trưởng. Công ty vẫn chuyên kinh doanh ngành vật liệu xây dựng nhưng hắn thì đã nghĩ đến một tương lai khác.

          Từ khi công ty TNHH Hoàng Thu được thành lập việc buôn bán, kinh doanh càng phát đạt, nộp thuế đầy đủ. Một hôm, ông phó chủ tịch xã lại đến. Lần này ông không dẫn theo công an, quản lý thì trường và cán bộ thuế nữa. Một anh cán bộ văn hoá xã đi cùng với ông. Họ bước vào cửa hàng. Hắn gọi con bé Hà pha nước mời khách. Sau khi vui vẻ khen ngợi việc làm ăn của công ty phát triển và tinh thần chấp hành nghiêm túc pháp luật, nộp thuế đầy đủ, đúng hạn của công ty, ông phó chủ tịch xã thông báo việc xã đang xây dựng công trình nhà văn hoá và kêu gọi các cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn đóng góp vì sự nghiệp mở mang văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống tinh thần nhân dân địa phương. Thế là lại phải đóng góp. Hắn quyết định trích lợi nhuận ủng hộ mười triệu đồng. Ông phó chủ tịch xã và anh cán bộ văn hoá vô cùng vui vẻ ra về. Mấy hôm sau bà chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ xã đến, lại thêm hai triệu ủng hộ hội phụ nữ xã để xây dựng quỹ góp phần phát triển kinh tế gia đình cho hội viên. Tiếp mấy hôm sau nữa là ông cán bộ mặt trận tổ quốc đến. Lần này là quyên góp ủng hộ đồng bào bị lũ lụt. Về việc này thì hắn sốt sắng đóng góp ngay. Hắn nghĩ đến cảnh người dân, trẻ em vùng lũ ngồi vắt vẻo trên nóc nhà giữa biển nước mênh mông chờ tiếp tế. Nhưng hắn rất bực chuyện cứ phải liên tục đóng góp vào nhiều loại quỹ vớ vẩn của xã. Cái Hà bảo hắn:

          - Không tránh được đâu chú ạ! Mình phải coi đây là một phần trong chi phí sản xuất thôi.

          - Nhưng tao chỉ bực những bọn chuyên “há miệng chờ sung” lúc người ta  khó khăn, làm ăn thất bát thì chả thấy mặt mũi ở đâu, lúc có được tý ti lợi nhuận thì lập tức nhâu nhâu bu đến kiếm ăn! Ngày trước ở bãi vàng có bọn chủ bưởng, bọn đầu gấu bóc lột “phu vàng” cũng không nhiều khoản phải nộp như thế này. Mà ngày ấy đừng hòng thằng nào thu được của tao nhé, còn bây giờ thì ai đến thu cũng được!

          Tuy vậy hắn lại bảo:

          - Khi no nhớ đến lúc đói, khi có của ăn, của để phải nghĩ đến lúc cơ hàn cháu ạ!

          - Cháu nhớ rồi ạ!

          Còn hắn thì không quên một bữa đang ngồi phụ vợ bán hàng thì có một người khách đi vào. Đó là một người đàn bà trông dáng vẻ là người lầm than khốn khổ. Nét mặt chị tiều tụy như vừa trải qua một sự cố gì nghiêm trọng trong gia đình. Thấy chị ta cứ thẫn thờ rờ rẫm bên đống tấm lợp prô-xi-măng, hắn buột miệng hỏi:

          - Chị định mua tấm lợp prô-xi-măng để về để lợp chuồng lợn à?

          Nghe hắn hỏi người đàn bà sững người rồi ngồi sụp xuống ôm mặt khóc nức nở. Hắn lúng túng không hiểu vì sao. May đúng lúc ấy Thu và cái Hà vừa đi giao hàng về. Hai người xúm lại hỏi han, an ủi người đàn bà. Khi người đàn bà nguôi nguôi, chị ta kể lại câu chuyện về cuộc đời cực khổ của mình. Chị có chồng và hai người con gái. Do không sinh được con trai nỗi dõi tông đường nên chị bị gia đình nhà chồng khinh rẻ, miệt thị. Anh chồng suốt ngày say xỉn, đồ đạc trong nhà bán hết và thường xuyên đánh đập ba mẹ con. Người mẹ không được ngồi ăn cùng gia đình. Mỗi bữa chị chỉ có lưng bát cơm cháy còn bỏ thừa trong nồi. Đã thế chị phải làm lụng quần quật suốt ngày nên người  trông gầy yếu xơ xác. Đứa con gái lớn mới mười lăm tuổi bị bố đánh mắng liên miên đã bỏ nhà ra đi, bây giờ không biết sống chết ra sao. Nghe nói nó bị bọn buôn người lừa đem bán sang Trung Quốc. Đứa con gái nhỏ đang học lớp một cũng bị bố đánh gãy tay phải bỏ học. Khi anh chồng đưa một người đàn bà khác về thì hai mẹ con họ bị đuổi ra khỏi nhà. Hai mẹ con không tiền, không chỗ nương thân. Chị đưa con chui vào một hốc đá ở tạm. Hai mẹ con nhịn đói nằm ôm nhau. Sáng ra, chị tìm đến cửa hàng bán vật liệu xây dựng định mua chịu bốn tấm prô-xi-măng để về làm một cái lán nhỏ ven đường lấy chỗ trú thân cho hai mẹ con. Chính vì nghe câu hỏi vô tình của hắn là có phải mua prô-xi-măng về để lợp chuồng lợn hay không nên người đàn bà khốn khổ đã bật khóc vì tủi thân.

          Nghe câu chuyện của người đàn bà mọi người đều ngậm ngùi. Hắn thấy căm ghét thằng chồng vô lương của chị ta. Hắn chỉ muốn đi tìm và nện cho nó một trận. Hắn bàn với Thu và cái Hà đem vật liệu giúp chị ta dựng lấy một gian nhà nhỏ, lại cho hai mẹ con ba chục cân gạo để có chút lương thực ăn qua lúc khó khăn. Câu chuyện của người đàn bà khốn khổ khiến hắn nhớ lại quãng đời trôi dạt, khốn khó của mình trước đây. Nhưng hắn là đàn ông, lại một thân, một mình nên bất cần đời, tự kiếm sống cũng dễ. Còn những người đàn bà ốm yếu, con nhỏ thì để tồn tại được không phải là đơn giản gì.

   Đúng là số hắn không thể làm người lãnh đạo. Công ty TNHH Hoàng Thu đều do Thu và cái Hà điều hành. Việc kinh doanh, buôn bán ngày càng phát triển, lợi nhuận ngày càng tăng. Bây giờ thì suốt ngày đêm Thu ở ngoài cửa hàng. Hắn thì trông coi trang trại. Có tiền, hắn bắt đầu mua hàng loạt nhiều loại phôi cây cảnh về trồng và tiến hành uốn tỉa. Các tràn ruộng khô chỉ cấy được một vụ bây giờ đều ươm các gốc cây đủ loại. Sẵn có xi-măng, cát hắn mày mò học cách quay, đóng chậu để trồng cây cảnh, cây thế và bán cho dân chơi cây cảnh. Khu trang trại cũng phải thuê thêm người làm. Ba người khác đều là thanh niên trai tráng để làm các công việc nặng nhọc, uốn tỉa, chăm sóc cây, vận chuyển cây và khay chậu trồng cây cảnh. Trong số đó có một kỹ sư ngành nông nghiệp. Người đàn bà khốn khổ không đẻ được con trai bị nhà chồng hắt hủi cũng được hắn thuê làm công. Chị làm các công việc như cắt cỏ nuôi cá, tưới cây và buổi trưa thì nấu cơm cho cánh làm trong trang trại và các nhân viên ngoài cửa hàng vật liệu xây dựng.

          Trang trại Ma Gà bây giờ trở thành một khu cây cảnh, cây thế, bon sai lớn nhất vùng. Cái tên Ma Gà tự dưng tạo nên sự thu hút của giới tầm cây cảnh, bon sai trong và ngoài tỉnh. Hắn bắt đầu cho bán các loại cây cảnh, cây thế để thăm dò thị trường, thị hiếu của khách hàng. Những loại cây thế được uốn tỉa theo ý thích của hắn lại được nhiều ông chủ để mắt tới. Hắn đặt cho cây những cái tên rất lạ như “đại bàng vô mồi”, “rồng vờn ngọc”, “châu chấu đá voi”…  Khách hàng rất thích những cái cây thế được uốn tỉa theo ngẫu hứng ấy của hắn. Họ trả giá khá cao để mua cây.

          Một hôm đi rừng về hắn gọi thằng Tâm- kỹ sư nông nghiệp đến bảo:

          - Cậu thiết kế cho tôi một khu nhà lưới để trồng phong lan!

          - Trồng phong lan công nghiệp thì phải làm nhà kính chú ạ!

          - Chúng ta không trồng lan công nghiệp mà nuôi trồng lan rừng!

          - Trồng lan công nghiệp thì mới thu hồi được vốn nhanh và phát triển làm ăn lớn được. Còn trồng lan rừng thì việc nuôi trồng rất khó. Lan rừng ghép vào giá thể sống được đã khó, nuôi nó lớn và ra hoa lại càng khó…

          - Chính vì vậy mới quý!

          - Nhưng cháu vẫn không hiểu tại sao chú lại chỉ định trồng lan rừng mà không trồng lan công nghiệp vừa nhanh, vừa ít vốn…

          - Vì trang trại chúng ta ở xa thành phố, trồng lan công nghiệp đem đi bán xa lại không cạnh tranh được với các vườn lan ở dưới xuôi. Hơn nữa, ta ở rừng làm được lan rừng mới quý, mới hấp dẫn được khách hàng chứ. Không ai từ dưới xuôi lại lên rừng để mua hoa lan công nghiệp cả…

          - Cháu hiểu rồi! - Thằng Tâm đáp.

          Hắn nói tiếp:

          - Hôm nay vào rừng tao gặp đám dân bản đang đi tầm lan rừng đưa ra ngoài đường quốc lộ bán cho đám dân dưới xuôi lên du lịch về mua. Một số vườn lan dưới xuôi còn lên tận đây đặt mua hàng tạ phong lan chở đi đấy. Tao thấy xót cho rừng đã bị chảy máu gỗ rồi lại bị chảy máu cả các loài phong lan quý thế này quá. Vì thế tao quyết định làm một khu nuôi trồng phong lan rừng. Mục đích chính không phải là để kinh doanh mà muốn để gìn giữ những giống phong lan quý của rừng… Có lẽ mày phải đi học thêm kiến thức về loài phong lan đi!

          - Vâng! Ở trường đại học nông nghiệp, cháu có ông thầy chuyên nghiên cứ­u về hoa phong lan! Ở chỗ thầy cháu cũng có một vườn thí nghiệm nuôi và nhân giống phong lan rừng đấy ạ!

          - Thế thì hay quá! Làm xong khu nhà lưới trồng phong lan mày thu xếp để đi học luôn! Kinh phí đi tham quan, học tập đã có tao lo!

          - Vâng!

          Thế là trang trại Ma Gà phát triển thêm một ngành nghề kinh doanh mới là nuôi trồng phong lan rừng. Một nghề mà hắn rất say mê. Hắn nhớ những ngày đào đãi vàng trên vùng rừng núi Tây Bắc có rất nhiều loài hoa phong lan đẹp và quý. Hắn chỉ tiếc là không đem về được những cây phong lan đã sưu tầm được. Nhưng ở vùng rừng núi thung lũng Ma Gà này cũng có nhiều loại lan rừng. Bọn trẻ con hàng ngày lên rừng chăn trâu hái củi tìm được cây phong lan nào chúng đều đem về trang trại bán cho Công ty Hoàng Thu. Hắn cho mua các loại lan rừng và tiến hành việc nuôi ghép. Những cây phong lan rừng bắt đầu nảy rễ. Khu trang trại Ma Gà bây giờ như một khu thí nghiệm và sản xuất. Hàng ngày những chiếc ô tô vào đem cây cảnh, cây thế và phong lan đi. Cũng có những chiếc xe con xịn đến. Đó là những đại gia đến tham quan trang trại. Một số người từ xa kéo đến học tập kinh nghiệm trồng hoa, cây cảnh. Và cũng vì thế mà ông phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã lại phải đến trang trại Ma Gà. Lần này ông ta chỉ đến có một mình. Sau khi đi tham quan khu ươm trồng các loại cây cảnh và khu nhà lưới trồng ghép lan rừng, ông ta nhắc nhở Công ty TNHH Hoàng Thu phải đăng ký bổ sung thêm mã hàng kinh doanh. Hắn chẳng hiểu ra sao nhưng cái Hà thì biết ngay. Nó lại phải “chi nóng” mấy trăm nghìn đồng cho vị phó chủ tịch xã để ông ta yên tâm ra về.

 *

           Khu nhà chính trong trang trại bây giờ đã được xây dựng khá khang trang làm nơi tiếp khách và nơi nghỉ cho đám người làm việc tại vườn ươm cây cảnh và nhà lưới trồng phong lan. Nhiều loại cây cảnh quý hiếm được đặt xung quanh khu nhà vừa để trang trí và cũng là để bảo vệ. Có những cái cây trị giá cả chục, cả trăm triệu đồng.

           Một đêm, hắn đang nửa nằm, nửa ngồi ở sa-lon trong phòng khách của trang trại thì có tiếng động lạ ngoài hành lang. Hắn nhìn ra ngoài cửa sổ. Mất điện nên chỉ có ánh trăng thanh đầu tháng soi mọi vật vừa rõ lại vừa mờ ảo. Hắn chợt thấy hình như có một bóng người mặc áo trắng đi lướt qua ngoài hiên. Hắn vội rời ghế sa-lon bước ra cửa nhìn theo. Đúng là có một người con gái. Hắn chỉ kịp thoáng nhận thấy một khuôn mặt trái xoan, một đôi mắt sáng long lanh và một mái tóc rất dài của cô gái. Cô gái đi như lướt trên mặt cỏ hướng về phía khu nhà trồng hoa phong lan rừng. Hắn vội vã lật đật chạy theo. Có một mùi hương thơm ngan ngát khiến hắn cảm thấy như bị mê man đi. Hắn chợt giật mình chợt nghĩ: “Ma… đúng là mình gặp ma rồi…”. Hắn cố bước thật nhanh để theo kịp người con gái. Nhưng hình như hắn càng bước nhanh thì người con gái lại càng đi nhanh hơn. Hắn cất tiếng hỏi:

           - Nàng là ai?

           - Em là Lan Hương!

           - Nàng là người hay là ma?

           - Em không phải là ma nhưng cũng không phải là người!

           - Vậy thì đúng nàng là yêu tinh rồi…

           Có một tiếng cười khe khẽ nghe như tiếng gió, tiếng rì rầm của cây. Hắn cố căng mắt ra nhìn. Cô gái đã đứng ngay trước mặt hắn. Hai tay nàng giơ lên. Những mảnh áo mong manh tuột khỏi người nàng bay vút lên lấp loá ánh trăng. Nàng khoả thân hoàn toàn trước mặt hắn. Ngực nàng tròn trịa ưỡn lên kiêu hãnh. Hắn vô cùng hoảng sợ khi nhìn thấy một thân hình trắng ngần lồ lộ của người con gái đang đứng trước mặt. Hắn vội lùi lại. Người con gái khoả thân không trốn chạy nữa mà lại rấn bước về phía hắn. Hắn càng lùi lại thì nàng càng tiến đến rất gần. Bộ ngực của nàng dập dềnh như sắp chạm vào hắn. “Đúng là ma rồi” - Hắn hốt hoảng nghĩ. Hắn dùng tay cấu mạnh vào má mình một cái xem là thật hay mơ. Rõ ràng không phải là mơ rồi vì hắn thấy má rất đau. Hắn hét lên:

           - Ma… có ma…

           - Ma đâu mà ma?

           Hắn giật mình choàng tỉnh. Thu đang đứng trước mặt hắn. Cô hỏi:

           - Anh mê ngủ gì mà hét to thế. Em gọi mãi không được phải véo vào má anh thật mạnh anh mới tỉnh đấy! Mà sao anh lại nằm ở ghế phòng khách mà ngủ thế này?

           - Em mới đi nhận hàng về à? Anh… anh vừa ngủ mê thấy gặp một con ma nữ…

           - Thảo nào mà anh hoảng hốt la hét to thế! Vậy mà anh cứ nói là không hề sợ ma! - Thu mỉm cười: - Chắc là com ma nữ ấy đẹp lắm anh nhỉ! Nó mặc quần áo màu gì? Hay… là nó không mặc quần áo gì phải không?

           - Em chỉ được cái hay suy diễn lung tung…

            Hắn lấp liếm, không dám thú nhận là cô gái mà hắn vừa gặp trong mơ ấy đã khỏa thân. Tuy chỉ là một giắc mơ thôi nhưng sao hắn vẫn nhớ như in bộ ngực của cô ấy rất đẹp, trắng tinh và vươn cao lấp loá dưới ánh trăng. Thu vẫn chưa tha. Cô gật gật đầu như trả lời thay hắn:

            - Chắc chắn là cô ấy rất đẹp rồi…

            - Nhưng con ma này lạ lắm! - Hắn thú nhận: - Người nó có mùi hương rất thơm… - Hắn hít hít mấy cái rồi nói tiếp: - Mùi thơm của nó lạ lắm… đấy… đấy… em có ngửi thấy vẫn có mùi thơm thoang thoảng quanh quẩn không?

            Thu phì cười nhưng cô cũng chun mũi hít nhè nhẹ. Đúng là có một mùi hương thơm thoang thoảng ngan ngát như lẫn vào ánh trăng đang tràn ngập trong thung lũng. Hắn bật dậy vớ cái đèn pin rồi kéo tay Thu cùng đi ra phía trái hiên nhà. Thu ngạc nhiên nhưng cũng đi theo hắn. Hai người ra đến đầu nhà. Dưới ánh trăng, mùi hương thơm càng thêm ngan ngát khiến người ta cảm thấy vô cùng khoan khoái. Hắn chợt nhớ trong giấc mơ cô gái có mùi hương thơm ấy đã đi về phía khu nhà lưới trồng phong lan rừng. Hắn cùng Thu cùng đi về phía nhà lưới. Đã chớm sang thu. Trăng sáng trong nhưng hơi lạnh. Thu đi sát bên hắn. Nghe hắn nói có ma cô cũng thấy hơi sờ sợ. Hai người bước vào khu nhà lưới. Khu nhà bị che bởi những tấm lưới màu sẫm nên hơi tối. Những cây phong lan rừng ghép vào gốc cây, cành cây sù sì, cong queo treo lủng lẳng trông toàn là những hình thù kỳ quái. Mùi hương càng thêm ngan ngát. Hắn bật đèn pin. Những chùm hoa phong lan màu trắng buông dài lấp loá ánh đèn. Hắn và Thu chợt hiểu, mùi thơm ngan ngát chính là từ những chùm hoa phong lan vừa mới nở này. Đó là loài quế lan hương-loài phong lan quý của núi rừng. Hắn lại giật mình khi nhớ lại trong giấc mơ khi hắn hỏi, cô gái khoả thân đã nói tên mình là “Lan Hương”. Phải chăng cô gái đó chính là hồn hoa.

            - Loài quế lan hương này thơm thật anh nhỉ!

            Thu nói. Hắn “ừ… ừ…” rồi kéo Thu đi xem hoa. Thu và hắn đều thấy mê mẩn khi nhìn những chùm hoa phong lan trắng tinh vừa chớm nở toả hương thơm ngan ngát trong đêm trăng trong. Tự dưng hắn thấy rạo rực trong lòng. Có cái gì cứ dâng dâng lên mãi trong hắn không dừng lại. Hắn chợt nhớ đến cái đêm trăng hai người chạy thoát khỏi sự truy đuổi của công an, biên phòng và cả bọn buôn lậu sau khi để mất gùi hàng mà bên trong toàn là tiền giả và thuốc lắc. Hắn kéo Thu đi ra phía sau khu nhà lưới. Hai người ngồi xuống đống cỏ khô. Trăng càng về khuya càng sáng. Thu khe khẽ lắc người. Chiếc váy ngủ mỏng manh cô đang mặc trên người tụt xuống. Thu khỏa thân. Cô chống hai tay ra phía sau hơi ưỡn người lên. Bộ ngực cô chĩa lên lấp loá ánh trăng, phảng phất mùi hương hoa phong lan. Hắn chợt giật mình khi thấy Thu sao mà giống người con gái hắn đã gặp trong giấc mơ lúc nãy đến thế. Hắn nhoài người kéo Thu nằm xuống đống cỏ. Tiếng con dế ri rỉ kêu trong đống cỏ khô chợt im bặt bởi tiếng rên xuýt xoa sung sướng của con người…

            Hơn chín tháng sau cái đêm ở khu nhà lưới trồng phong lan ấy có một bé gái ra đời tại trang trại Ma Gà. Nhớ đến giấc mơ kỳ lạ đêm ấy, hắn đặt tên cho con gái là Lan Hương-tên của một loài hoa phong lan có mùi hương thơm ngan ngát đắm say lòng người…

Hữu xạ tự nhiên hương. Trang trại Ma Gà ngày càng thêm nổi tiếng bởi là nơi có nhiều loại cây cảnh, cây thế, bon-sai dáng lạ, quý hiếm và rất phong phú các giống loài phong lan rừng đặc biệt. Lại thêm ông bà chủ là những người lởi xởi, tính tình phóng khoáng, rộng rãi. Khách đến tham quan, mua bán hàng ngày rất đông. Tự dưng hắn được mọi người tôn trọng và thán phục bởi cái đầu giàu trí tưởng tượng, sáng tạo và đôi bàn tay tài hoa. Nhiều loại phôi cây cảnh mua về với giá rất thấp qua bàn tay hắn tỉa tót, uốn nắn chỉ một thời gian sau trở nên có giá trị tăng vọt. Có một chuyện tưởng như không thể tin. Đó là một gốc cây hóc cá mà khi làm nên đường dạo trước đám công nhân đã dùng máy ủi xô xuống khe núi hắn nhìn thấy gọi người đào đem về trồng và chăm sóc. Khi gốc cây hóc cá chắc chắn sống khoẻ, hắn bắt đầu tạo dáng cho nó. Sau vài năm cây hóc cá được hắn đặt cho cái tên là “mãnh thú” ấy được đưa trồng vào một chiếc chậu khá lớn đặt ngay giữa sân. Ai đến tham quan trang trại cũng ngạc nhiên và trầm trồ bởi cái dáng lạ của nó, trông giống hệt như một con sư tử đực đang tung bờm vồ mồi.

          Bữa nọ, có một ông tự lái chiếc xe con bóng lộn đến trang trại xem cây. Hắn nhận ra ngay chính là cái lão đã mua cây lộc vừng “Phật Di lặc” và cây si cổ thụ dạo nào.

          Sau khi gật gù ngắm nghía khá lâu cái cây hóc cá cổ thụ mang tên “mãnh thú” lão ta liền lân la gạ hắn bán. Nhớ tới lời thằng Hạnh lái xe đã dặn, để khỏi bị hớ và cũng vì không muốn bán đi một cái cây mà mình rất thích nên hắn bèn nói vống lên:

          - Thằng hóc cá mang dáng “mãnh thú” này có giá không thường đâu nhé! Hơn 500 triệu đồng đấy!

          Lão ta trợn tròn mắt thè lưỡi, lắc đầu ra vẻ kinh ngạc rồi bảo:

          - Làm quái gì mà ông “hét” kinh khủng thế!

          Nghe lão ta lủng bủng như vậy, hắn đắc ý cười thầm trong bụng và nghĩ: “Mình quát giá cao gấp cả trăm lần thế này chắc lão sẽ sợ chết khiếp luôn!”. Không ngờ, lão ta rút ví moi ra mấy tờ giấy và bảo:

          - Cái xe ô tô này của tôi vừa mới mua 520 triệu đấy! Đây là giấy tờ xe. Bây giờ tôi sẽ viết giấy sang tên, gán chiếc xe cho ông để đổi lấy cái cây “mãnh thú” này. Xong việc, tôi sẽ theo xe tải chở cây đi luôn.

           Đến lượt hắn há hốc mồm vì kinh ngạc. Sao lại có một chuyện kinh thiên động địa thế nhỉ! Hay là lão này bị thần kinh. Đến khi lão ta leo lên chiếc xe vận tải chở cây hóc cá “mãnh thú” đi rồi mà hắn vẫn còn bán tín, bán nghi. Hắn cứ sờ mó mãi chiếc xe con của lão mua cây để lại mà vẫn chưa tin hẳn đó là chuyện thật. Mãi mấy hôm sau, thằng Hạnh mới gọi điện về. Nó thông báo cho hắn biết là lão mua cái cây hóc cá “mãnh thú” rồi bán sang tay ngay cho người khác được gần bảy trăm triệu đồng. Khi ấy thì hắn mới thôi nghĩ lão mua cây bị bệnh thần kinh, chập mạch. Và, cũng mãi đến khi được kết nạp vào hội cây cảnh của tỉnh, được đi tham quan đây đó hắn mới hiểu còn có những cái cây cảnh, cây thế trị giá cả tỷ đồng, thậm chí hàng chục tỷ đồng. Mà những cái cây ấy có cây hắn thấy không hơn gì những cây hắn đang có trong trang trại của mình.

           Đoạn này tác giả viết thêm, không có trong truyện: Cũng phải mãi thời gian sau này hắn mới biết trong thế giới cây cảnh Việt Nam còn có những cái cây trị giá bằng tổng thu nhập một năm của cả một huyện giàu có. Cây sanh “mâm xôi con gà” của ông Nam Thành, một đại gia buôn vàng bạc, đá quý tại thành phố Việt Trì, Phú Thọ đem đến trưng bày ở bảo tàng Hà Nội có giá là 5 triệu đô-la xấp xỉ khoảng 100 tỷ Việt Nam đồng. Bộ bốn cây thế có tên "chiến thắng Bạch Đằng" của hội sinh vật cảnh thành phố Hải Phòng cũng có giá khoảng 40 tỷ đồng. Cây sanh có dáng rồng bay của một ông tên là Hoàng Quân ở Thái Bình có người trả tới 60 tỷ đồng nhưng ông ấy không bán. Không thuộc dạng “đỉnh nhất” nhưng nhắc đến tốp những cây cảnh đẹp và đắt nhất Việt Nam, không một tay chơi cây cảnh nào ở thủ đô Hà Nội dám bỏ qua cây sanh trên một trăm năm tuổi của ông Nguyễn Gia Hiền ở Triều Khúc, Hà Nội. Đã có người trả giá đến 10 tỷ đồng nhưng ông không bán. Cây sanh này đã trải qua bốn đời và được gia chủ chăm sóc như một con người. Đồn rằng khi nhà có tang cây cũng được quệt vôi chịu tang cùng gia chủ. Theo ông Hiền vì vậy khi chuyển bán cho ai không hẳn chỉ là chuyện tiền nong mà phải có “duyên” mới “gả bán”. Hắn đã lần mò đến tận nơi để xem những cái cây trị giá bạc tỷ ấy.

          Thế là tự dưng nhờ một cái gốc cây già cỗi tình cờ nhặt dưới bờ suối khe núi đem về mà hắn có hẳn một chiếc ô tô con của riêng mình. Cái xe vẫn còn rất mới. Thằng Tâm kỹ sư có bằng lái xe ô tô khi cần trở thành tài xế riêng chở hắn, đưa Thu đi đây đi đó tham quan, giao dịch, ký kết hợp đồng rất oai. Hắn không phải suốt ngày cưỡi trên cái xe máy Trung Quốc giá rẻ kêu phành phạch đến nhức óc và rất tốn xăng nữa.

 *

           Một ngày đầu mùa hạ, đột nhiên trang trại Ma Gà có đoàn khách đặc biệt đến thăm. Đó là đoàn cán bộ từ quê hương hắn. Thì ra danh tiếng của hắn cũng đã bay về đến tận quê hương. Ngày xưa hắn khi làm thuê bốc vác ở ga có công liều mình lao vào đám cháy tham gia cứu toa xe chở đạn và quân trang đã được chỉ huy đơn vị quân đội về tận quê trao tặng giấy khen chung cho thanh niên toàn xã. Lúc hắn vướng vào chuyện thuốc phiện của thằng oắt con ở nhà ga cũng có công an hình sự về tận làng để thu thập tài liệu, hoàn chỉnh hồ sơ để truy tố bị can. Nhờ vậy mà cán bộ xã biết đến hắn. Bây giờ hắn làm ăn kinh tế giỏi thì chẳng cần ai về quê thông báo mà tin tức cũng đến tận tai lãnh đạo của xã rất đầy đủ, chi tiết. Đoàn cán bộ do anh chủ tịch xã dẫn đầu. Họ thuê một chiếc xe du lịch mười bốn chỗ ngồi hành trình qua một đoạn đường khá dài lên thăm trang trại của hắn. Hắn hơi ngạc nhiên. Hơn mười năm không về thăm quê hương nên khi có người từ quê đến hắn chợt thấy xốn xang trong lòng. Các cán bộ xã bây giờ toàn là lớp trẻ nên hắn không biết ai. Hắn chỉ mang máng nhận ra chị chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ xã chính là cái con bé Tèo hay khóc nhè khi bị hắn véo mũi những lần sán đến để nghe hóng hắn kể chuyện kiếm hiệp nhưng không bao giờ nộp đủ cỏ non cho con bò mộng của hắn. Hắn vui vẻ dẫn mọi người đi thăm trang trại và cửa hàng kinh doanh vật liệu xây dựng của mình. Đoàn cán bộ xã nhà rất thích thú với mô hình làm ăn kinh tế khác đặc biệt của hắn. Họ kinh ngạc khi thấy những cái cây cảnh, cây thế đẹp và nghe anh kỹ sư nông nghiệp nói giá trị mỗi cây hàng chục đến cả trăm triệu đồng. Đến tham quan khu nhà lưới trồng phong lan họ càng thích thú với những giò phong lan rừng đang nở hoa rất đẹp, rất thơm.

          Sau khi dẫn đoàn cán bộ quê hương đi tham quan khắp khu trang trại rộng lớn, xem đủ các loại cây cảnh và phong lan, hắn đưa họ trở về phòng khách. Hắn gọi người đem nước mát giải khát và đưa vải thiều đầu vụ hái từ những cây trồng được trong trang trại ra mời khách. Xong xuôi, hắn lẻn ra phía đầu nhà nháy máy điện thoại gọi Thu từ cửa hàng về lo cơm trưa đãi khách.

          Anh chủ tịch xã sau khi trịnh trọng phát biểu nhiệt liệt chúc mừng mô hình làm ăn kinh tế rất thành công của hắn liền chuyển sang thông báo về tình hình của quê hương và mục đích của việc đoàn đến thăm trang trại. Thực ra, ngay từ khi đoàn khách này mới đến hắn đã phần nào đoán được mục đích của họ. Anh chủ tịch cho biết xã Quang Lâm-cũng tức là quê hắn vừa mới được phong tặng danh hiệu anh hùng thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Xã đang chuẩn bị đón nhận danh hiệu cao quý này. Để tiến tới ngày hội lớn của toàn thể nhân dân trong xã, chính quyền đang gấp rút xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa, công trình dân sinh để chào mừng. Anh chủ tịch trải ra bàn một bản sơ đồ quy hoạch của xã Quang Lâm và mời hắn xem. Anh chuyển cho hắn tờ giấy màu hồng in lời kêu gọi của cấp ủy, chính quyền và mặt trận tổ quốc xã gửi đến những người con ở xa quê hương lời kêu gọi đóng góp xây dựng “nơi chôn rau cắt rốn” ngày càng giàu đẹp.

          Hắn nhận tờ giấy in “Lời kêu gọi” có đóng dấu đỏ chót cẩn thận cất vào tủ rồi nói:

          - Tôi xin hứa sẽ xem xét đóng góp kinh phí để góp xây dựng nhà thư viện của xã và ủng hộ một số sách cho thư viện. Riêng về buổi lễ đón anh hùng tôi xin góp mười triệu đồng vào kinh phí tổ chức. Còn bây giờ, xin mời đoàn ăn bữa cơm rau với anh em công nhân trong công ty chúng tôi.

          - Thế thì quý hóa quá!

          Anh chủ tịch và đoàn cán bộ xã Quang Lâm vô cùng hỉ hả ngồi vào bàn tiệc. Bữa “cơm rau” có lợn mán, gà nuôi thả đồi, ba ba nấu chuối, đặc sản măng rừng, khoai môn lệ phố, bia chai Hà Nội và rượu ngô núi đá. Cả khách và chủ vừa chẵn hai mâm. Mọi người ăn uống chúc tụng vui vẻ. Bữa tiệc càng vui, hào hứng hơn sau khi hắn tranh thủ “hội ý” nhanh với phó giám đốc và công bố quyết định số tiền sẽ ủng hộ quê hương. Công ty TNHH Hoàng Thu sẽ “tài trợ không hoàn lại” cho xã Quang Lâm 300 triệu đồng để xây nhà thư viện và thêm 100 triệu đồng tiền mua sách cho phòng đọc của thư viện.

          Anh chủ tịch xã vô cùng phấn khởi và xúc động, tay run run nâng cốc bia lên:

          - Em xin thay mặt toàn xã chân thành cảm ơn anh chị và công ty đã nhiệt tình ủng hộ xây dựng quê hương. Chúng em sẽ ghi tên công ty ta vào trang nhất cuốn sổ vàng của xã. Trân trọng kính mời anh chị về thăm quê và dự lễ động thổ khởi công xây dựng nhà thư viện của xã. Mong anh chị sẽ nhận lời…

          - Nhất định chúng tôi sẽ về… - Hắn đáp.

          - Vậy thì xin mọi người cùng chạm cốc chúc mừng xã ta anh hùng…

          - Anh hùng… anh… hùng… Nào… một… hai… ba… zô…

          - 100%... 100%... 100%...

          - Zô… zô… z…ô… ô… ô…

          Hắn và mọi người trong công ty liên tục chạm cốc với anh chủ tịch và các cán bộ xã nhà. Hắn vừa tiếp khách vừa nghĩ đến chuyện sẽ thu xếp đưa cả nhà về thăm quê hương. Từ khi lấy Thu hắn cũng chưa đưa cô về thăm quê và thắp hương ở mộ mẹ. Khi đoàn cán bộ chuẩn bị ra về, phó giám đốc Thu cho chuyển lên xe sáu túi quà. Mỗi túi có dăm lạng chè, một cân măng khô, một thang thuốc bổ để ngâm rượu và một chiếc phong bì nho nhỏ xinh xinh.

Đường về quê hắn còn rất gập ghềnh. Con đường làm bằng đất đỏ, mưa thì lầy lội, nắng lại bụi mù, lỗ chỗ những ổ trâu, ổ gà. Người ta chú ý đầu tư các tuyến đường ở vùng xuôi theo phương thức BOT để nhanh chóng thu hồi vốn. Còn các tuyến đường liên tỉnh, liên huyện ở vùng sâu, vùng xa thì chưa được nâng cấp do người ta ngại đầu tư vì lâu thu hồi được vốn đã bỏ ra. Sống trong thời kinh tế thị trường người ta thường trông vào đồng tiền để làm việc nhiều hơn là nhìn vào những câu khẩu hiệu để hành động. Mặt trái, mặt phải của cơ chế như thế nào thì không biết, chỉ biết có tiền là có tất cả. Bây giờ mà cứ hô khẩu hiệu suông mãi thì chả làm được việc gì. Con người ta có thể trở nên nhân ái hay bạc bẽo đều từ đồng tiền mà ra cả.

         Mỗi khi chiếc xe xóc nảy lên chồm chồm bé Lan Hương lại reo to:

         - Phi ngựa, phi ngựa mẹ ơi!

         Nó nhớ đến chuyện cưỡi ngựa gỗ ở lớp mẫu giáo. Nó ngó ra ngoài đường rồi hỏi bố:

         - Bố ơi, cả nhà mình cưỡi ngựa đi đâu đấy ạ?

         Hắn phì cười bảo:

         - Nhà ta về quê con ạ!

         - Sao lại phải về quê hả bố?

         Hắn bí quá, không biết trả lời con gái thế nào. Thu liền giải thích:

         - Mình về thăm bà nội con ạ!

         Con bé phụng phịu:

         - Con ứ về thăm bà nội đâu! Bà nội chả bao giờ đến đón con ở lớp mẫu giáo cả. Bà nội bạn Linh, bạn Mai í ngày nào cũng đến đón rồi đưa các bạn ấy đi ăn kem đấy bố mẹ ạ.

         Hắn thấy cay cay trong khoé mắt. Con bé còn nhỏ quá nên chưa biết gì. Còn hắn thì chợt nhớ lại quãng đời khốn khổ của hai mẹ con khi hắn còn nhỏ. Bây giờ khi hắn có thể báo hiếu thì mẹ hắn đã nằm sâu dưới lớp cỏ rồi. Về thăm quê lần này hắn cũng chỉ có thể xây cho mẹ một nấm mộ thật đẹp thôi. Ngày còn sống mẹ chỉ thèm một bữa ăn ngon thôi mà chả bao giờ hai mẹ con có được. Hắn nhớ một lần câu trộm ở ao của hợp tác xã được một con cá trắm to phải đến hơn hai cân. Khi mẹ hắn đang mổ cá thì mấy ông bảo vệ và công an xóm ập vào. Mẹ con hắn bị lập biên bản để khi đến vụ phạt trừ vào mức ăn chia 5 cân thóc vì đã xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, câu trộm cá trong ao của hợp tác xã. Con cá đã xắt thành khúc lập tức bị tịch thu đưa về sử dụng làm thực phẩm bữa ăn đêm cho bộ phận công an bảo vệ thường trực. Còn sót lại một bộ lòng và nửa cái đầu cá đang rửa ở chậu nước đỏ lòm máu cá nên cánh công an, bảo vệ không biết. Bữa tối hôm ấy mẹ ra vườn cắt mấy quả chuối tiêu tước vỏ thái miếng nấu với bộ lòng và mảnh đầu cá để lấy chút chất tanh. Mảnh đầu cá còn sót chút thịt mẹ gắp cho hắn. Hắn không bao giờ quên được bữa cơm hôm ấy. Sau đó mẹ con hắn còn bị phạt trừ thêm ba cân thóc nữa. Nguyên nhân là hắn phát hiện ra tại thằng con ông đội trưởng chính là người đã hớt lẻo chạy đi báo cho bảo vệ biết chuyện hắn đã câu được con cá để họ ập vào bắt quả tang. Thằng này là một học sinh ngoan, hạnh kiểm tốt. Nó bị hắn tống cho một quả hộc cả máu mồm, máu mũi. Công an, bảo vệ lại kéo đến nhà hắn để lập biên bản phạt mẹ hắn tội để con hành hung người khác.

         Trên đường về quê trong ký ức hắn những chuyện của ngày xưa cứ hiện lên như thế. Chuyện buồn nhiều hơn chuyện vui…

         Anh chủ tịch xã ra tận cổng trụ sở đón vợ chồng hắn. Mấy người hôm trước trong đoàn đại biểu lên thăm trang trại và công ty TNHH Hoàng Thu cũng đều có mặt nghênh tiếp. Họ mời hắn đi “thị sát” công trình nhà thư viện đang xây dựng. Hắn tỏ vẻ hài lòng vì vốn đầu tư của mình đã được sử dụng có hiệu quả. Anh chủ tịch xã cho biết công trình nhà thư viện sẽ được khánh thành vào đúng dịp tổ chức lễ đón danh hiệu anh hùng của xã. Hắn hứa sẽ mang về khoảng một nghìn cuốn sách để đưa vào thư viện trước khi khánh thành. Anh chủ tịch và các cán bộ xã phấn khởi lắm. Trong lúc chờ đám phục vụ làm cơm, họ dẫn hắn sang xem nhà truyền thống của xã. Nhà truyền thống cũng đã được nâng cấp, quét vôi ve chuẩn bị cho ngày lễ trọng. Anh chủ tịch hào hứng giới thiệu:

         - Xã ta có nhiều thành tích trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thanh niên hăng hái lên đường vào vệ quốc quân, tham gia lực lượng chủ lực ra mặt trận, nhân dân tích cực đóng góp lương thực nuôi bộ đội, đi dân công hỏa tuyến. Đặc biệt là đội du kích của xã đã phối hợp với bộ đội chủ lực dũng cảm chiến đấu trong trận càn “Chim giẽ giun” của bọn giặc Pháp lên vùng an toàn khu kháng chiến, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, thu được nhiều vũ khí. Trong trận càn này có bốn du kích của xã hy sinh, sáu người bị thương…

         Anh chủ tich xã vẫn thao thao bất tuyệt. Về những chuyện này hồi nhỏ còn ở nhà hắn đã nghe kể và biết còn rõ hơn cả anh chủ tịch này. Nhưng hắn vẫn im lặng nghe anh ta nói.

         - Không những trong kháng chiến chống Pháp có nhiều chiến công mà trong chống Mỹ xã ta cũng có rất nhiều thành tích, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, là hậu phương của bao nhiêu chiến sĩ ra mặt trận. Hơn ba trăm thanh niên xã ta đã lên đường nhập ngũ “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đấy… Có mười bảy liệt sĩ, bốn hai thương, bệnh binh, năm Bà mẹ Việt Nam anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước… Và, đặc biệt là ngay tại hậu phương, thanh niên xã ta cũng góp phần làm nên chiến công hiển hách… Đây, xin mời anh chị xem!

          Anh chủ tịch kéo hắn lại một cái tủ kính đặt trang trọng ở gian bên phải. Trong tủ có một bộ quân phục Tô Châu còn mới, một miếng vải dù và một tấm giấy khen. Anh chủ tịch chỉ cho hắn xem rồi nói:

          - Một lần, khi giặc Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc trúng một toa tàu quân sự chở  đầy đạn dược, quân trang ra mặt trận. Hàng trăm thanh niên xã ta không sợ đổ máu hy sinh, họ đã dũng cảm kịp thời lao vào đám cháy cùng bộ đội cứu đạn, đưa những người bị thương đi cấp cứu. Sau trận ấy, chỉ huy đơn vị bộ đội đã về tận xã ta trao giấy khen và những tặng phẩm này đấy.

          Hắn ngạc nhiên:

          - Chuyện đó xảy ra vào thời gian nào vậy?

          - Vào khoảng giữa năm 1972… Anh chủ tịch đáp và sực nhớ ra liền gọi to: - À… à…! Thầy Tuấn, thầy Tuấn đâu rồi, mau đem ngay bản thảo cuốn lịch sử xã ta ra đây!

          - Vâng ạ!

          Một thanh niên còn rất trẻ và nhanh nhẹn, khuôn mặt sáng sủa, thông minh cầm một tập giấy in vi tính chạy đến. Anh chủ tịch xã giới thiệu:

          - Đây là thầy Tuấn, giáo viên dạy môn lịch sử được hiệu trưởng trường phổ thông trung học tăng cường cho xã để giúp đỡ thiết kế trưng bày nhà truyền thống và chắp bút biên soạn cuốn lịch sử của xã chuẩn bị cho ngày lễ đón danh hiệu anh hùng.

           Đoạn anh chủ tịch quay sang hỏi thầy Tuấn:

           - Sự kiện thanh niên xã ta dũng cảm tham gia cứu toa tàu quân sự chở đạn xảy ra vào thời gian nào nhỉ?

           - Dạ! Vào tháng 6 năm 1972 ạ!

           Hắn càng ngạc nhiên. Giữa năm 1972 khi làm thuê ở nhà ga chính hắn cũng tham gia vào việc cứu một toa tàu hoả chở đạn bị trúng bom Mỹ. Hắn đã cùng các chiến sĩ không sợ nguy hiểm lăn xả vào chỗ toa tàu bị trúng bom vác những hòm đạn có nguy cơ phát nổ bất cứ lúc nào ra khỏi đám cháy đem ra phía ngoài cánh đồng. Hắn còn cõng một anh bộ đội bị thương đưa về trạm cấp cứu.

           Nhớ lại chuyện cũ, hắn chợt ớ người ra rồi hỏi lại:

           - Nhưng… nhưng xã Quang Lâm ta cách nhà ga tàu hoả gần nhất cũng hơn hai mươi cây số, làm sao mà ngay sau khi bom Mỹ ném xuống trúng đoàn tàu quân sự đã có ngay “hàng trăm thanh niên của xã” đã không sợ hy sinh, dũng cảm kịp thời lao vào đám cháy cùng bộ đội cứu toa tàu chở đạn được?

            Anh chủ tịch xã cũng bày tỏ sự băn khoăn:

           - Về sự kiện này bọn chúng tôi sinh sau, đẻ muộn, khi chiến tranh vẫn còn rất bé nên cũng không biết, cũng chả có tư liệu nào ghi chép lại, chỉ có mỗi cái giấy khen này và nghe bác phó chủ tịch huyện nguyên là chủ tịch xã ta thời ấy kể lại thôi.

           Anh chủ tịch xã nói thêm:

           - Bác phó chủ tịch huyện nguyên là chủ tịch xã mình ngày ấy giờ cũng đã nghỉ hưu. Hiện bác ấy là trưởng ban biên soạn cuốn lịch sử của xã ta đấy anh ạ! Khi thảo luận về việc này tôi cũng đã hỏi. Bác ấy nói ngày ấy đúng là cũng “có một số” thanh niên của xã ta đã tham gia cứu toa tàu chở đạn ở nhà ga. Sau đó, đơn vị quân đội đã cử cán bộ tìm về tận xã ta làm việc. Chính bác ấy đã gặp và trao đổi các cán bộ đơn vị quân đội. Rồi họ mới quyết định khen thưởng cho thanh niên xã ta đấy.

           Thì ra chuyện là như vậy. Hắn chợt thấy buồn. Hắn đã bị người ta cướp mất công lao ngay từ ngày ấy rồi nhưng mãi đến tận bây giờ, sau hơn hai mươi năm hắn mới biết…

           Xem qua một lượt trưng bày trong nhà truyền thống của xã, hắn chào mọi người rồi kêu Thu và bé Lan Hương ra xe đi thăm mộ mẹ. Anh chủ tịch xã xin đi cùng. Họ đến khu nghĩa địa của xã. Trời đã quá trưa, một cơn giông đang dậy phía chân trời. Mộ mẹ hắn đã được xã cho người phạt sạch cây cỏ, đắp điếm cẩn thận. Một tấm bia đá mỏng còn mới khắc tên mẹ hắn chôn ở đầu nấm mộ. Hắn và Thu bày hoa quả và thắp hương cúng mẹ.

*

          Rời khỏi trụ sở ủy ban xã, hắn bảo lái xe đưa về làng. Họ đến chỗ từng là ngôi nhà thuở nhỏ hắn sống cùng với mẹ. Căn nhà đã đổ nát từ lâu. Bây giờ nền nhà là một bãi hoang đầy cỏ và cây xấu hổ đầy gai. Hắn đứng lặng bên cây bưởi già mà khi vẫn còn ở nhà nó mới cho lứa quả đầu tiên chua loét. Cây bưởi bây giờ thân khòng khèo, lá quăn queo, quả sần sùi bằng nắm tay. Nó cũng đã từng trải qua thời gian và sương gió.

          Bé Hương kêu buồn ngủ. Hắn bảo Thu lên xe. Chiếc xe chạy về phía cuối làng. Hắn ngạc nhiên thấy chỗ căn nhà gỗ xoan nhỏ của thằng Đang, nơi mà ngày xưa khi hắn đưa xác nó từ biên giới về bây giờ là một ngôi nhà hai tầng trông rất to và hoành tráng. Hắn bảo thằng Tâm dừng xe lại để hỏi thăm. Một ông nông dân vác cày, giong trâu đi qua bảo:

          - Vợ con thằng Đang chuyển vào tít hút trong xóm Mới ở từ lâu rồi!

          - Là ở chỗ nào ạ?

          - Thì chính là cái khu đồi bãi bỏ hoang ngày xưa mà khi còn ờ nhà chú vẫn chăn bò ở ấy đấy!

          - Cám ơn bác!

          Hắn đã biết chỗ nhà mới của vợ con thằng Đang rồi. Nhưng hắn chỉ băn khoăn thắc mắc là tại sao vợ con thằng Đang lại phải bỏ làng ra ngoài rừng ở như thế. Hắn hỏi thì bác nông dân chỉ tặc lưỡi nói: “Chuyện này lằng nhằng lắm, chú cứ ra ngoài ấy mà hỏi vợ thằng Đang thì khắc rõ...”.

Bất ngờ thấy có một chiếc xe ô tô con tiến vào cổng, đang rẫy cỏ ngoài vườn, vợ và con gái thằng Đang vội buông cái cuốc chạy về nhà. Hai mẹ con đứng rúm ró trên thềm mà không dám ra đón khách. Có lẽ họ sợ và ái ngại điều gì chăng. Nhìn người đàn bà và đứa con gái hắn chợt thấy chạnh lòng. Hắn nhớ ngày nào cả hai tả tơi trong đám ma của chồng, của bố. Bây giờ sau bao nhiêu năm mà họ vẫn tơi tả như thế. Đứa con gái đã lớn rồi mà vẫn phải mặc quần áo cũ kỹ, vá vai.  

         Vợ thằng Đang vẫn chưa nhận ra hắn là ai. Vì hắn diện com-lê lại đi bằng xe ô-tô con đến họ không thể ngờ. Hắn lừ lừ bước vào cổng nhà. Vợ thằng Đang ớ người khi chợt nhận ra người quen. Chị ta chào:

         - Bác mới về làng ạ!

         - Ừ! Cô và cháu vẫn khoẻ chứ?

         - Vâng… - Vợ thằng Đang đáp nhưng lại húng hắng ho.

         Hắn lại hỏi:

         - Tại sao cô và cháu lại chuyển ra ở ngoài rừng… À mà bây giờ họ gọi đây là xóm Mới à?

         - Chuyện lâu lắm rồi bác ạ! Mời hai bác và cháu vào nhà đã!

         Người đàn bà mở cánh cửa gỗ mộc cũ kỹ. Khi chị ta đẩy cánh cửa thì bụi mọt bay rơi trắng cả nền nhà. Hắn và Thu bước vào căn nhà thấp lè tè lợp bằng lá cọ, thoang thoảng mùi phân gà. Đứa con gái chủ nhà khẽ vẫy vẫy bé Lan Hương bảo:

         - Em ra vườn với chị không! Chị sẽ hái cho em một quả khế ngọt rất to!

         Con bé có vẻ thích, nó hỏi:

         - Chị có bắt được con bươm bướm trắng không! Lúc nãy em nhìn thấy nó bay vút qua sân… - Đoạn nó quay sang mẹ: - Mẹ cho con ra vườn với chị nhé!

         Thu gật đầu, con bé hớn hở đi theo người chị mà nó vừa quen. Người đàn bà chủ nhà dặn với theo:

         - Đừng để em bị muỗi đốt Giang nhé!

         - Vâng ạ! - Từ ngoài sân, tiếng đứa con gái đáp lại.

         Vợ thằng Đang mời hai vợ chồng hắn ngồi xuống một cái phản ghép bằng mấy tấm ván kê ở giữa nhà. Hắn đảo mắt nhìn xung quanh. Ba gian nhà trống huếch, chả có thứ tài sản gì đáng giá cả. Góc nhà bên trái còn có cả một cái cày, cái bừa và mấy cái cuốc, xẻng để ở đấy nữa. Thấy hắn cứ nhìn vào chỗ mấy thứ nông cụ cũ kỹ, vợ thằng Đang bảo:

         - Nhà em ở ngoài này nên mọi thứ đều phải để trong nhà không thì mất hết. Tối đến khi mấy con gà đi ăn ở ngoài vườn về cũng phải nhốt vào bu đưa vào trong nhà đấy bác ạ!

         - Ngôi nhà hai tầng chỗ nhà cô cũ là nhà ai vậy?

         - Đó là nhà bác cả của cái Giang đấy!

         - Thế tại sao cô và cháu lại chuyển ra đây? - Hắn nhắc lại câu hỏi lúc nãy.

         - Chuyện dài lắm bác ạ… - Vợ thằng Đang giơ tay lên chùi mặt. Chị ta có vẻ ngần ngừ không muốn nói. Còn hắn thì lại rất muốn biết tại sao vợ con của một thằng lính chiến mà đã bao nhiêu năm sau chiến tranh rồi vẫn phải lầm than, khốn khổ thế này.

*

         Ngày ấy, sau đám ma thằng Đang mấy tháng thì xảy ra một chuyện.

         Có một anh bộ đội khoác ba-lô vào làng hỏi thăm đến nhà thằng Đang. Anh ta tên là Tuyến, đồng đội cũ của Đang đóng quân ở Lạng Sơn. Anh ta cũng chính là người đã giúp đưa xác của người chiến hữu cũ về quê. Nhân dịp được nghỉ phép, anh về thăm gia đình thằng Đang và ra viếng mộ người bạn chiến đấu năm xư­a.

         Việc anh bộ đội cùng đơn vị cũ của thằng Đang về thăm nhà và viếng mộ nó khiến mấy ông anh, bà chị của thằng Đang suy nghĩ. Nhất là khi biết anh sĩ quan ấy vẫn chưa có vợ. Ông anh cả thằng Đang quyết định triệu tập gấp ngay một cuộc “họp kín” với mấy ông em trai và mấy bà em gái. Khi mọi người đến đầy đủ, ông ậm è hắng giọng rồi nói:

         - Hôm nay, tôi mời các cô chú đến đây vì một việc rất hệ trọng! - Quan sát một lượt nét mặt chú ý lắng nghe của các em rồi ông nói tiếp: - Chú Đang là con út. Khi còn sống chú ấy đi bộ đội. Lúc về phục viên chú ấy lấy vợ và ở với bố mẹ tại ngôi nhà và mảnh đất hương hoả, có bàn thờ của tổ tiên, họ tộc. Bây giờ bố mẹ đã mất rồi, chú ấy cũng đã chết. Chú ấy lại chỉ sinh con một bề, có mỗi một mống con gái. Nếu mà thím ấy lấy chồng, đưa chồng về ở đây có phải cả chi họ ta mất chỗ thờ tiên tổ không?

         - Đúng vậy! - Một bà lên tiếng: - Tôi thấy cái chú bộ đội hôm nọ về đây có vẻ quyến luyến thím Hiên lắm. Mà cái con Giang cũng suốt ngày lẵng nhẵng đi theo chú ấy trông cứ như hai bố con ấy…

         - Thế thì không được rồi! - Ông anh kế trên thằng Đang là một cán bộ ngành văn hoá trên huyện lên tiếng: - Thím ấy mà tái giá, chồng mới về đây ở thì chi họ nhà ta mất chỗ thờ tổ tiên thì chết cả nút. Động mồ động mả không bằng động đến bát nhang. Bàn thờ tổ tiên ông bà, bố mẹ mà không yên thì em là người “chết” đầu tiên đấy. Em đã được đưa vào nguồn cán bộ lãnh đạo, sắp sửa bỏ phiếu tín nhiệm chức phó chủ tịch huyện, sơ xuất một tý là hỏng bét hết!

          Một bà chị gái trên thằng Đang một đốt thì nói, giọng thảng thốt:

          - Chết! Em lấy chồng xa không biết rõ mọi chuyện ở nhà. Nhưng chuyện này là hệ trọng lắm. Các bác bá và chú Đãng phải tính toán cho chu đáo. Không được để mất hương hoả của tổ tiên, ông bà kẻo mà lụn bại cả họ đấy… Thôi đúng rồi, sắp có chuyện thế này xảy ra thảo nào mà dạo này em làm ăn buôn bán không được thuận lợi gì cả, buôn chuyến nào lỗ chuyến ấy…

          Sáu người mỗi người một ý kiến, ai cũng lo lắng sẽ bị lụn bại sự nghiệp, tan hoang cơ đồ, tiệt con đường làm ăn, buôn bán thất thiệt khi bàn thờ tổ tiên có nguy cơ bị chuyển rời, chấn động. Ông anh cả thằng Đang sốt ruột:

          - Vậy thì bây giờ các cô chú định tính toán thế nào đây?

          - Tính toán gì nữa! - Bà chị gái cả của thằng Đang lên tiếng: - Thím ấy muốn đi lấy chồng thì dứt khoát phải đi theo về nhà chồng. Thuyền theo lái, gái theo chồng. Việc ấy chả phải tính toán gì cả!

          - Chị tính thế nhưng mà chưa thấu đáo! - Ông Đáng, anh trên thằng Đang ba đốt giờ mới lên tiếng: - Giả thử thím ấy theo chồng, nhưng con gái thím ấy vẫn ở đây. Sau này nó lấy chồng, đưa chồng về ở tại căn nhà của bố mẹ để lại thì có phải chi họ nhà ta vẫn cứ mất chỗ thờ cúng tổ tiên không?

          - Đúng! Bác tính toán xa xôi thật! Bây giờ em có ý kiến thế này! - Lại bà chị gái trên thằng Đang một đốt phát biểu: - Theo em, bác cả phải chuyển về ở chỗ ngôi nhà của bố mẹ để lại giữ hương hoả của tổ tiên. Sau này bác chết thằng con cả nhà bác nó sẽ kế tục bác thắp hương cho ông bà. Thằng cả nhà bác cả nó cũng đã có con trai rồi nên không phải lo gì nữa…

           Ông anh cả thằng Đang nhăn mặt khi bà em gái tính toán xa đến cả sau khi ông ta bị… chết nữa. Ông nói có vẻ bực:

           - Tôi làm sao mà tự dưng chuyển về ở ngôi nhà của bố mẹ được?

           - Hay là bác đổi nhà cho thím Hiên!

           - Đổi là đổi thế nào! - Ông anh cả cắt lời cô em gái: - Đất nhà tôi đang ở rộng gấp hơn hai lần mảnh đất cũ của bố mẹ. Với lại nhà tôi làm bê-tông, mái bằng, móng chắc, chuẩn bị lên tầng hai. Căn nhà gỗ cũ kỹ của bố mẹ chả bằng cái nhà bếp của nhà tôi. Đổi là đổi thế nào!

           Bà chị gái cả thằng của Đang bảo:

           - Hay là chú Đáng đổi nhà cho thím Hiên vợ thằng Đang?

           - Không được! - Bà chị trên thằng Đang một đốt lên tiếng gạt phắt ngay đi: - Nhà bác Đáng cũng toàn là bọn thị mẹt. Sau này chúng nó lấy chồng có phải cũng mất luôn chỗ thờ cúng tổ tiên không!

           - Cô câm ngay cái mồm đi! - Ông anh trên thằng Đang ba đốt đùng đùng nổi cáu: - Nhà cô đấy, có một thằng con trai quý tử­ thì dính vào đề đóm, cờ bạc, nghiện hút, liệu có còn giữ nổi hương hoả hay không hả?

           - Bác không phải nhiếc móc em…- Bà chị gái trên thằng Đang một đốt gào lên: - Bác về mà xem con gái bác ấy, tý tuổi đầu đã mắt xanh, mỏ đỏ, cặp kè với đám con trai ngoài bờ, ngoài bụi cả đêm…

           - Câm ngay!

           Ông Đáng bật dậy giơ tay định tát cô em gái. Ông anh cả thằng Đang bực quá đập bàn quát tháo ầm ĩ:

           - Các cô, các chú có yên đi không! Tôi mời các cô, các chú đến đây để bàn việc gìn giữ hương hoả, bảo vệ nền nếp gia phong dòng tộc, không phải là mời các cô chú đến đây để cãi nhau, đánh nhau hiểu không!

           Mọi người im lặng, hạ hỏa. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. Các cụ ngày xưa đã dạy thế rồi. Một lúc sau bà chị cả thằng Đang mới lại lên tiếng hỏi ông anh cả:

           - Vậy thì theo ý bác thế nào?

           Ông anh cả:

           - Tôi tính thế này! Khu nhà đất của bố mẹ để lại ta chia đều cho bảy anh em, mỗi người một phần!

           - Sao lại chia làm bảy phần! Chúng ta còn có sáu anh em thôi mà?

           Bà chị gái trên thằng Đang một đốt lại lên tiếng. Ông anh kế trên thằng Đang là cán bộ văn hoá huyện nói:

           - Thằng Đang tuy chết rồi nhưng nó vẫn phải có xuất chứ! Nó cũng là con của bố mẹ mà!

           - Đúng! - Ông anh trên thằng Đang hai đốt nói: - Thằng Đang vẫn phải có xuất. Xuất đất ấy chúng ta phải chia cho vợ con nó, không được cạn tàu ráo máng với người đã chết!

           Ông anh cả quyết định:

           - Thôi được! Chúng ta sẽ chia làm bảy xuất. Nhưng, khoảnh đất nhà bố mẹ ở cũ đã có sổ đỏ mang tên thằng Đang, bây giờ vợ nó đang giữ, làm sao mà anh em ta chia được?

           Ông anh thứ hai:

           - Việc này đề nghị chú Đãng là cán bộ huyện, chú hiểu rõ các quy định của luật thừa kế, luật đất đai, chú lại quen tuốt tuột các cán bộ từ xã đến huyện và cán bộ địa chính. Chú ấy mà ra tay thì mọi việc sẽ xong xuôi hết, đúng quy định hết, không ai cãi lại được!

           Thế là việc đảm bảo tính pháp lý của việc chia tài sản thừa kế được giao cho ông anh kế trên của thằng Đang. Sáu anh chị em ruột vui vẻ, hoà thuận lại sau những phút tranh cãi, xô xát, suýt nữa choảng nhau. Giữa lúc đó thì ông Đảng, anh trên thằng Đang hai đốt, là người lành hiền nhất chợt kêu lên:

           - Ơ… ơ… dưng mà hôm nay chúng ta bàn việc giữ lại mảnh đất và căn nhà hương hỏa làm nơi thờ phụng tổ tiên, thế mà lại đem chia mỗi người một phần thì làm chỗ thờ cúng thế nào được cơ chứ!

           - Ờ! Đúng vậy! - Ông Đáng, anh trên thằng Đang ba đốt cũng chợt nhớ ra: - Miếng đất của bố mẹ chiều ngang chỉ có hơn chục mét, chia làm bảy phần, mỗi phần chiều rộng chỉ chưa đầy hai mét thì làm nhà thế quái nào được?

           Ông anh cả lúc này mới cười và bảo rằng:

           - Đúng là các cô chú chỉ biết cãi nhau và tính chuyện chia phần thôi. Việc này tôi đã bàn kỹ trước với chú Đãng rồi (chú Đãng là anh kế trên của thằng Đang, người sắp lên chức phó chủ tịch huyện)! Chia ra như thế thì mới đúng luật, đúng cả lệ nữa và mới có thể giữ lại được mảnh đất hương hỏa của cha ông. Sau khi mỗi người nhận một phần rồi thì phải có nghĩa vụ đóng góp trở lại để xây dựng nhà thờ họ! Tôi tính vậy có đúng không?

           - Đúng… đúng… bác cả và chú Đãng tính toán kín nhẽ thật!

           Sau cuộc “họp kín” là một cuộc họp công khai có cả vợ thằng Đang tham dự. Tranh cãi. Giải thích. Khóc lóc. Rồi người hả hê, kẻ buồn bã. Cuối cùng, mảnh đất có ngôi nhà vợ con thằng Đang đang ở được chia ra làm bảy phần. Vợ thằng Đang đành đưa con ra ngoài đồi hoang ở, góp phần đất của mình được chia để xây nhà thờ họ. Phần đất ấy thực ra đó là phần của thằng Đang-nguời đã chết. Bác cả nhận trách nhiệm thờ cúng tổ tiên đã chi thêm tiền phá ngôi nhà gỗ nhỏ của bố mẹ xây hẳn một ngôi nhà hai tầng, thỉnh bát hương lên trên tum cao, các cụ ngồi trên bàn thờ tha hồ mát. Dân làng góp cây que, lá cọ giúp mẹ con thằng Đang làm một căn nhà nhỏ tường đắp bằng đất ngoài khu đồi hoang. Lâu dần trong làng cũng có nhiều gia đình tách hộ ra làm nhà ở gần nhà hai mẹ con. Xã đầu tư làm một con đường vào khu đồi hoang. Một cụm dân cư được hình thành mang tên xóm Mới.

*

          Câu chuyện của vợ thằng Đang tuy xảy ra cả chục năm rồi nhưng hắn vẫn thấy ấm ức trong bụng. Thu thì cứ cầm mãi hai bàn tay chai sạn và gầy nhẳng của người đàn bà quê chồng. Cô chợt thấy nỗi buồn xót xa dâng dâng lên trong lòng. Thì ra kiếp đàn bà ở đâu cũng luôn luôn phải chịu muôn nỗi thống khổ. Ba người ngồi im lặng lúc lâu trong căn nhà nhỏ.

          Có tiếng cười trong trẻo của hai cô bé ngoài vườn.

          Hắn chợt nhớ hỏi:

          - Con bé nhà cô học hành thế nào?

          - Cháu tuy vất vả, thiếu thốn nhưng vẫn học giỏi lắm. Cháu vừa thi đại học xong. Nó đã có giấy gọi vào đại học rồi nhưng hoàn cảnh em thế này không biết có nuôi nổi cho cháu đi học không!

          - Cô cứ cho cháu đi nhập học! Vợ chồng tôi sẽ giúp đỡ để cháu học hành đến nơi đến chốn. Mà cháu thi vào trường đại học nào nhỉ?

          - Trường đại học nông nghiệp ở Phúc Yên. Cháu bảo đi học nông nghiệp để sau này về giúp mẹ!

          - Thế thì tốt rồi! Công ty của tôi cũng có một kỹ sư từng học đại học nông nghiệp, quen biết nhiều thầy cô giáo của trường. Cậu ấy đang lái xe cho tôi. Để tôi ra cổng gọi cậu ấy vào đây dặn cậu ấy nhờ các thầy cô giáo ở trường quan tâm giúp thêm cho cháu…  

           Hắn bước ra sân. Trời đã về chiều. Khu xóm Mới phảng phất mùi khói đốt nương, hun cỏ. Hắn cố nhìn xem nơi ngày xưa mình vẫn chăn bò, đánh trận giả ở đâu nhưng quang cảnh đã thay đổi nhiều quá. Người ta xẻ đồi, xây dựng nhà cửa, mở đường làm biến dạng cả một vùng đồi núi ngày xưa.

           Khi hắn và kỹ sư Tâm kiêm lái xe vào nhà thì Thu và vợ thằng Đang đang ngồi bóc sắn để luộc. Thu kéo hắn ra ngoài góc sân bàn việc phải hỗ trợ xây cho vợ con thằng Đang một căn nhà thay cho ngôi nhà vách đất, lợp lá cọ đã xiêu xiêu muốn đổ này. Hắn gật đầu đồng tình.

           Mấy hôm sau, anh chủ tịch xã ngạc nhiên thấy có chiếc xe vận tải chở gạch, xi-măng, cát sỏi liên tục chạy về hướng làng hắn. Từ làng hắn có con đường độc đạo vào xóm Mới. Anh chủ tịch xã nghĩ: “Sao lão này chở nhiều vật liệu thế nhỉ. Lão định xây mộ mẹ thật hoành tráng à!”. Anh chủ tịch xã không biết ở khu xóm Mới còn có một căn nhà nhỏ liêu xiêu sắp đổ.

  Hắn không dự buổi lễ đón nhận danh hiệu anh hùng của xã Quang Lâm. Sau lần đưa cả nhà về xây mộ mẹ hắn được chính quyền xã biệt đãi. Việc hắn giúp vợ con thằng Đang làm một căn nhà kiên cố cũng được chính quyền xã biểu dương nhiệt liệt. Tuy nhiên cũng có người vẫn chưa quên được “lý lịch” và những trang “đen tối” của hắn. Tại buổi lễ khánh thành nhà thư viện của xã, ông phó chủ tịch huyện về hưu làm trưởng ban viết sử đã phản ứng quyết liệt khi ban tổ chức xếp ông ta ngồi cạnh hắn. Tình cờ, hắn đã nghe được đoạn đối thoại sau giữa anh chủ tịch xã với ông cựu phó chủ tịch-trưởng ban viết sử xã Quang Lâm.

          Ông cựu phó chủ tịch nói vẻ gay gắt:

          - Tôi thật không ngờ cơ chế thị trường, đồng tiền đã làm các anh thay đổi nhiều quá! Nhạt phai… nhạt phai hết lý tưởng rồi!

          Anh chủ tịch xã lúng túng:

          - Bác nói vậy nghĩa là sao ạ?

          - Thì đấy! Một thằng tù, nó góp cho vài đồng bạc xây thư viện mà các anh trọng vọng nó như là một ông vua, hơn cả cấp trên của mình!

          - Nhưng chú Lỗi bị tù oan! Sau này xã ta cũng đã nhận được công văn thông báo của toà án và viện kiểm sát rồi mà!

            Tiếng ông cựu phó chủ tịch huyện khuyến cáo:

          - Nhưng nó vẫn cứ là một thằng không có bố, là thằng tù, hiểu không. Trong tù chắc chắn nó cũng đã trở thành một đại ca đầu gấu rồi!

          - Chuyện ấy là quá khứ rồi bác ạ! Trong chiến tranh, chính chú ấy là người đã có công giúp cùng bộ đội cứu toa tàu quân sự chở đạn trúng bom. Nhờ vậy mà thanh niên xã ta đã được quân đội ghi công, khen thưởng. Bây giờ chú ấy đã thay đổi, là nhà doanh nghiệp làm ăn chân chính, chấp hàng nghiêm pháp luật…

          - Hừ… hừ… - Ông cựu phó chủ tịch huyện có vẻ hơi lúng túng. Nhưng ông ta vẫn rất quyết liệt: - Các anh làm lãnh đạo bây giờ đã xoá nhòa hết ranh giới cái tốt - cái xấu, địch - ta, đen - trắng. Muốn thế nào thì thế, trong buổi lễ khánh thành nhà thư viện chiều nay và cả buổi lễ đón anh hùng ngày mai nữa, tôi dứt khoát không ngồi gần cái thằng tù ấy đâu nhé. Nếu mà các cậu không sửa lại vị trí ngồi dự lễ là tôi sẽ bỏ về luôn đấy!

          Anh chủ tịch xã đành giảng hòa:

          - Để cháu nói ban tổ chức sắp xếp lại ngay! Bác là người có công lao rất lớn xây dựng phong trào xã nhà trong những năm chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Bác mà không có mặt trong buổi lễ là không ổn bác ạ!

          Lại là tiếng ông cựu phó chủ tịch huyện vặn hỏi:

          - Mà các cậu xây dựng thư viện để làm gì thế?

          - Báo cáo bác là để nâng cao đời sống tinh thần cho bà con nhân dân trong xã. Thư viện cũng là nơi để bà con nông dân đến đọc sách báo, tìm hiểu đường lối, chủ trương chính sách, cách thức làm ăn và kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi, phát triển kinh tế gia đình của các địa phương trong cả nước!

            Ông cựu phó chủ tịch huyện nhắc nhở:

          - Vậy mà hôm nay các anh lại để cái thằng tù nó đem đến toàn là tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện tranh, sách kiếm hiệp. Chỉ xem những cái tên sách thôi đã thấy không ổn rồi, nào là những “Bước đường cùng”, “Tắt đèn”, “Làm đĩ”, “Lục xì”, “Chí Phèo”, “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, “Bến không chồng”, “Nỗi buồn chiến tranh”, “Hồ sơ một tử tù”, “Chuyện làng Cuội”, “Tôtem Sói”, “Tình yêu thời thổ tả”... Rồi một loạt toàn là các sách chưởng của bọn Tàu nữa. Cấm thấy có lấy một cuốn sách nào về lý luận, triết học, kinh tế chính trị, văn kiện nghị quyết hoặc các loại sách phổ biến pháp luật, giáo dục truyền thống cả?

          Anh chủ tịch xã cố thanh minh:

          - Vâng! Cháu cũng biết thế! Sau này xã sẽ cho mua bổ sung đầy đủ các loại sách chính trị, kinh tế, triết học, sách văn kiện nghị quyết và giáo dục truyền thống bác ạ!

            Giọng ông cựu phó chủ tịch huyện tỏ vẻ không bằng lòng:

          - Không được! Ngày mai các đại biểu về dự lễ đón anh hùng sẽ tham quan thư viện. Thiếu các loại sách này là không ổn. Ngay trong chiều nay anh chủ tịch xã phải cho người lên thư viện huyện mượn ngay các loại sách chính trị, các loại sách văn kiện nghị quyết đem về xếp vào cái giá sách ở trung tâm nhà thư viện. Nhớ là phải có đầy đủ toàn tập, tuyển tập của các lãnh tụ nhé! Tôi sẽ viết thư lên cho tay giám đốc thư viện huyện đề nghị tạo điều kiện giúp đỡ xã ta. Xong buổi lễ mình lại đem trả cho họ ngay!

          - Vâng ạ! Cháu sẽ nói anh phó chủ tịch phụ trách văn xã thực hiện ngay việc này! Bây giờ kính mời bác ra để ta tiến hành buổi lễ khánh thành nhà thư viện.

          Ông cựu phó chủ tịch huyện có vẻ yên tâm:

          - Ừ… Thế thì tốt. Bây giờ ta ra để cắt băng khánh thành nhà thư viện!

          Vậy là do tình cờ đi đái qua phía sau phòng làm việc của chủ tịch xã nên hắn đã nghe được đoạn đối thoại trên của anh chủ tịch xã với ông cựu phó chủ tịch huyện. Hắn thấy hơi tự ái. Vì thế lúc tiến hành buổi lễ, hắn từ chối lên cùng cắt băng khánh thành thoái thác nói là ngón tay bị đau. Vậy nên chỉ có anh chủ tịch xã và ông cựu chủ tịch huyện trịnh trọng cắt băng để khai trương nhà thư viện. Sau buổi lễ khánh thành thư viện, hắn lại bảo có chuyện đột xuất ở công ty phải về ngay. Mặc cho anh chủ tịch xã cố năn nỉ, hắn vẫn gọi thằng Tâm kỹ sư đánh chiếc xe con ra đường chờ. Hắn chia tay anh chủ tịch xã.

           Đã cuối buổi chiều. Trên sân nhà văn hóa đoàn chèo của tỉnh đang chuẩn bị cho đêm biểu diễn mừng ngày hội lớn của nhân dân xã Quang Lâm. Tiếng trống chèo nghe ấm áp cả một vùng quê vẫn còn nghèo khó.

   Sau bận về quê trở lại trang trại hắn luôn nung nấu một ý định trong lòng. Hắn càng quyết tâm làm giàu. Cửa hàng bán vật liệu xây dựng ngày một phát triển, trở thành một đại lý lớn nhất khu vực. Doanh thu hàng năm không ngừng tăng lên. Khu sản xuất của trang trại Ma Gà cũng ăn nên làm ra. Thu nhập từ các loại cây cảnh, cây thế bon-sai và nhất là phong lan rừng cũng tăng vọt. Công ty Hoàng Thu cũng mua sắm được nhiều loại phương tiện chuyên chở vật liệu xây dựng và máy nông cụ. Việc tưới tiêu trong trang trại đều tự động hóa. Công nhân công ty và những người làm hợp đồng đều có thu nhập khá.

          Một hôm, hắn nói với vợ:

          - Có lẽ anh phải đi Hà Nam một chuyến!

          - Có việc gì ở Hà Nam thế anh?

          Thu hỏi. Hắn im lặng một lát rồi đáp :

          - Anh phải về quê thằng Lân. Cái thằng cùng tốp đào đãi vàng với anh ngày trước. Nó bị chết ở mỏ vàng. Không biết gia đình nó đã đem được xương cốt về quê chưa. Anh không bao giờ quên chuyện nó vì anh mà sẵn sàng chuẩn bị liều mạng đánh nhau với thằng đại ca Ông Cụt ở mỏ vàng. Anh muốn giúp gia đình nó đưa nó về quê!

          Thu đồng tình:

          - Cũng nên làm như thế anh ạ!

          Hắn nhìn vợ. Thu đúng là một người con gái tốt. Chưa bao giờ cô ngăn cản việc hắn giúp đỡ, trợ giúp những người khốn khổ. Hắn thấy mình thật là may mắn đã gặp được Thu. Với hắn đó là điều hạnh phúc nhất ở đời. Nhớ lại quãng thời gian phiêu bạt giang hồ, hắn chợt hiểu cuộc đời hình như vẫn luôn có quy luật nhân quả. Cay đắng qua đi sẽ đến ngọt ngào. Đói khát mãi rồi sẽ đến lúc ấm no. Trời không tiệt đường sinh tồn với bất cứ ai. Sông có lúc, người có khúc. Hắn chỉ thương những người như thằng Đang, thằng Lân chưa đi hết được đoạn đời khó khăn đã gục ngã bởi những lý do khách quan như thế. Vợ con thằng Đang thôi thế cũng đã xong, còn nhà thằng Lân thì hắn chưa biết ra sao. Vì thế hắn muốn về Hà Nam một chuyến. Chỉ có điều là hôm chia tay với chú Cần ở nhà ga, hắn không hỏi kỹ quê quán của chú Cần và thằng Lân. Hắn chỉ nhớ mang máng là có lần nghe thằng Lân nói nhà nó ở gần phố huyện Bình Lục.

          Lần mò thăm hỏi mãi, hắn và thằng Tâm lái xe cũng tìm được đến làng của chú Cần và thằng Lân. Hai bố con chú Cần đang vác đất đào ao ở đầu làng. Họ vô cùng ngạc nhiên thấy một chiếc xe con bóng lộn rẽ vào đúng cổng nhà mình. Họ vội vã chạy về. Cả hai bố con chú Cần quần áo ướt sũng, bùn đất bê bết, mặt mũi lấm lem. Chú Cần rúm ró đứng bên lối đi nhìn một ông mặc com-lê bệ vệ bước xuống xe.

          Hắn mỉm cười hỏi:

          - Chú không nhận ra tôi à?

          - Thủ trưởng… thủ trưởng…

          Chắc chú nghĩ đây là thủ trưởng của thằng con cả đang làm cán bộ trên tỉnh. Hắn phì cười:

          - Thủ trưởng quái gì! Tao là thằng Lỗi, “phu vàng” đây!

          Chú Cần reo lên :

          - Ôi… bác Lỗi! Sao bây giờ trông bác oách thế làm em không nhận ra?

          - Oách gì! Cũng chỉ là “dân đen” thôi!

          Chú Cần xoa xoa bàn tay vào cái áo ướt cho sạch bùn rồi giơ ra. Hắn nắm chặt bàn tay của chú Cần. Hai bố con chú Cần đưa hắn vào nhà. Đoạn họ chạy ra giếng dội ào mấy gầu nước qua loa rồi thay quần áo khô. Hắn quan sát căn nhà tuềnh toàng của bố con chú Cần. Vừa tìm lọ chè, chú Cần vừa giãi bày :

          - Dân vùng chiêm trũng chúng em quanh năm “sống ngâm da, chết ngâm xương”, đủ ăn là đã mừng lắm rồi, nhà cửa chỉ là chỗ trú thân, chả có tài sản gì đáng giá đâu.

          - Nhà thằng Lân ở thôn nào?

          - Nhà nó ở xóm trong. Cũng như thế cả thôi. Nhưng nhà nó còn khốn nạn hơn nhà em vì chỉ còn có mẹ già còng lưng nuôi thằng cháu vô công rồi nghề.

          - Thế vợ nó đâu?

          - Vợ nó đi lấy chồng rồi. Thằng con ở với bà, học hành chẳng đến nơi đến chốn, không nghề ngỗng gì, suốt ngày lêu lổng. À! Báo tin cho bác biết gia đình nó và em cũng đã đưa được nó về quê rồi.

          - Vậy là tốt rồi! Tao chuyến này về đây cũng định hỏi về chuyện ấy đấy!

          Chú Cần kể :

          - Năm kia em đưa vợ và anh trai thằng Lân lên chỗ đào vàng tìm mộ nó. Khổ quá! Sau bảy tám năm, họ đào bới tìm vàng lung tung làm biến dạng cả khu vực nên mãi mới xác định được chỗ anh em mình chôn thằng Lân. Lại có thêm mấy ngôi mộ nữa chôn vào khu vực ấy. May là em tìm thấy hòn đá bác khắc tên nó vùi ở cuối ngôi mộ nên chắc chắn không bị đào sai. Lúc lấy hài cốt còn thấy cả con dao găm bộ đội khắc tên nó mình chôn theo anh ạ! Đưa mộ nó về xong vợ nó đi lấy chồng…

          - Cô ấy còn trẻ mà… - Hắn nói : - Vậy là yên tâm rồi! Chú đưa tao ra viếng mộ nó nhé! Mà thôi vào nhà thăm mẹ nó trước.

          - Vâng! Nhưng ăn cơm xong hẵng đi bác ạ!

          Nghe chú Cần nói hắn mới chợt nhớ là đã quá trưa. Thằng con chú Cần đang lúi húi vặt lông con vịt ở ngoài góc sân. Hắn gọi kỹ sư kiêm lái xe Tâm mang vào két bia và những thứ đồ ăn nguội đem theo. Lúc vào mâm chú Cần lại sực nhớ :

          - À! Bác ơi, thằng Bất cũng về rồi đấy!

          - Nó bây giờ thế nào?

          - Nó sắp chết rồi!

          - Sao thế?

          - Hồi ấy nó là lính bảo vệ, tay chân của thằng Ông Cụt, ăn chơi đĩ điếm khét tiếng ở khu mỏ vàng. Khi thằng Ông Cụt bị bọn khác cạnh tranh bảo kê, quản lý dân phu vàng phục kích bắn chết thì thằng Bất và bọn tay chân như rắn mất đầu. Thằng Bất vật vờ ở bãi vàng. Nó vì gái và nghiện hút nên ăn cắp bị phu vàng tẩn cho một trận gần chết. Sau đó nó lại dính vào bệnh tật nữa. Không hiểu làm thế nào nó cũng lần mò được về làng. Bây giờ thì nó sống nhờ ông bố già cả. Ông bố nghèo khổ cũng thật là khốn nạn vì nó. Mấy tháng nay nó phát bệnh gần chết rồi.

          - Thăm nhà thằng Lân và viếng mộ nó xong chú đưa tôi đến nhà thằng Bất nhé!

          Chú Cần ngạc nhiên nhìn hắn rồi gật đầu. Ăn cơm xong chú Cần đưa hắn đi. Chú Cần lúng túng khi đặt bàn chân lấm láp bùn đất của mình bước lên chiếc xe con sang trọng.

          Bà mẹ thằng Lân ngạc nhiên khi có người lạ đến thăm. Còn thằng Bất thì khóc nức nở khi nhận ra hắn. Có lẽ nó hối hận khi nghĩ lại quãng đời sa ngã của mình. Nó đã không nghe lời anh em trong bọn cùng đi đào vàng khuyên bảo. Hắn thấy thương thằng Bất. Nó bị căn bệnh si-đa đến giai đoạn cuối rồi. Ông bố nó hom hem lụi cụi lo cho con. Nhà nó cả làng không ai dám bén mảng đến. Họ sợ lây bệnh. Hắn giúp bố con nó một ít tiền để chữa bệnh. Khi về đến nhà chú Cần hắn cứ suy nghĩ trầm ngâm mãi rồi đi đến quyết định.

          Hắn bảo chú Cần:

          - Chú nên thu xếp rồi đưa thằng bé con thằng Lân lên trang trại với tôi. Tôi sẽ bố trí công việc cho mà làm, có thu nhập rồi mới khá lên được. Còn thằng con thứ hai của chú đang đi học thì phải cho nó tiếp tục đi học. Có học thì mới nên người. Thất học như tôi với chú thì khổ cả đời.

          - Vâng! Nhưng bác để em thu xếp việc nhà đã rồi sẽ đưa đứa con thằng Lân lên. Nhưng mà nó đi thì bà nó sống với ai?

          - Bà nó nói sẽ về sống với anh con cả. Với lại chú đừng lo, tôi sẽ có cách giúp đỡ bà mẹ thằng Lân. Điều quan trọng là cố đừng để thằng con duy nhất của nó hư hỏng.

          Một thời gian sau chuyến đi Hà Nam ấy, trang trại Ma Gà có thêm hai “công nhân” làm vườn. Chú Cần quả là một người có bàn tay khéo léo. Chú có thể thay thế hắn “động dao kéo” vào uốn tỉa những cây cảnh, cây thế có giá trị cao của trang trại.

  Hắn được mời tham dự một cuộc trưng bày cây cảnh, cây thế, bon-sai tại thủ đô Hà Nội. Cây sanh mang cái tên “cuồng phong” của hắn đem trưng bày được “hét” với giá cả tỷ đồng. Ấy là hắn tự định giá thế chứ chả có căn cứ, tiêu chí nào. Nhiều cái cây cảnh khác ở triển lãm cũng như vậy. Cái cây nào cũng cứ như bảo vật quốc gia không bằng. Thực ra đây cũng là dịp để dân chơi cây cảnh gặp nhau giao lưu, trao đổi kinh nghiệm. Hắn quen được mấy tay chơi cây cảnh “khét tiếng” ở Nam Định, Hải Phòng, Phú Thọ. Cả bọn kéo nhau đi ăn uống, du hí, tham quan khá nhiều nơi, nhất là những trang trại sinh thái ở Hà Tây, Vĩnh Phúc.

          Một bữa hắn được một đại gia cây cảnh đất Cảng chiêu đãi ở một khách sạn khá sang trọng. Có lẽ lần đầu tiên hắn bước chân vào một nơi sang trọng như thế. Và cũng là lần đầu tiên hắn được thưởng thức những món ăn khá tốn tiền và uống những ly rượu ngoại giá bằng cả mấy ngày làm cửu vạn trên biên giới dạo trước. Hắn cũng đã giàu, cũng đã có lúc cầm tiền tỷ trong tay nhưng vốn bản tính con nhà nghèo nên hắn tiêu pha khá tằn tiện để dành tiền lãi tăng lương cho người làm và trợ giúp những người nghèo khổ.

          Uống đến ngà ngà say cả bọn lảo đảo kéo nhau lên phòng nghỉ đã đặt sẵn ngay tại khách sạn. Mỗi người vào một phòng. Vào được đến phòng là hắn lăn ngay ra giường ngủ luôn. Không biết mình đã ngủ được bao lâu. Khi hắn tỉnh dậy thì có lẽ đã quá nửa đêm. Khát quá. Hắn ngồi dậy tìm nước uống. Hắn vớ một chai nước trong tủ lạnh và cái cốc thuỷ tinh trên bàn. Tiếng nước lọc rót ra cốc thủy tinh mà sao lại róc rách kêu to thế. Hắn ngạc nhiên đặt chai nước xuống bàn. Vẫn có tiếng nước chảy. Đó là tiếng nước vọng ra từ trong nhà tắm. “Ai vậy nhỉ? Lúc nãy tay đại gia cây cảnh đất Cảng nói là mỗi người ở riêng một phòng khách sạn cơ mà!” - Hắn nghĩ và toan bước xuống khỏi giường.

           Cánh cửa phòng tắm đột nhiên bật mở.

           Một cô gái từ trong phòng tắm bước ra. Cô bé chỉ cuốn độc một cái khăn tắm che vừa kín tý chút phần trên và chút phần dưới quan trọng nhất của cơ thể. Cơ thể cô bé  trắng ngần gần như lòa lồ. Hắn vội co chân ngồi lên đầu giường rồi hỏi:

           - Cô là ai mà lại vào phòng của tôi?

           Cô gái hơi run run đáp:

           - Em là… là… của anh đêm nay đấy mà!

           - Sao lại là của tôi… tôi… tôi có gọi… gọi cô đến đâu?

           - Có người đã gọi em cho anh đấy! Anh cứ yên tâm…

           Hắn chợt sực nhớ ra là lúc sắp tàn tiệc, tay đại gia đất Cảng nháy nháy mắt rồi bảo mọi người:

           - Còn có “một món” rất đặc biệt nữa mà tối nay tôi sẽ chiêu đãi các huynh ở trên phòng đấy nhé!

           Thì ra là vậy. Hắn chợt hiểu. Cô bé tiến đến gần giường ngủ. Hắn hơi hoảng vì chuyện bất ngờ. Cô khẽ hất cái khăn tắm đang choàng trên người rơi xuống sàn nhà. Thân hình tuyệt đẹp của cô lộ hẳn ra dưới ánh đèn ngủ màu hồng. Hắn thấy mình như sắp tắc thở. Hắn liền nhắm mắt lại định tâm. Cô gái sà xuống ngồi cạnh hắn. Hơi thở của cô bé hổn hển và rất gần. Hắn vội mở mắt ra nhìn. Khi ngực cô bé chìa ra gần chạm vào cánh tay hắn thì hắn chợt trố mắt nhìn trừng trừng rồi hét lên một tiếng vô cùng kinh hãi. Cô bé giật nảy mình sững lại. Cô vội đưa tay lên che ngực.

           Hắn lập bập chỉ tay vào sợi dây chuyền trên ngực cô bé hỏi:

           - Tại sao cô lại có sợi dây chuyền này?

           - Là của mẹ em để lại đấy ạ!

           Hắn vẫn nhìn chăm chăm cái mặt của sợi dây chuyền đang đậu giữa chỗ khe lõm trên ngực cô bé. Giữa mặt của chiếc dây chuyền có một chữ “M”. Hai chân chữ "M" uốn lại thành hình một trái tim. Đó là sợi dây chuyền rất quen thuộc mà hắn đã từng biết. Hắn lập bập hỏi:

           - Có phải mẹ cô tên là… là…

           Cô bé vội cắt ngang lời hắn :

           - Mẹ em tên là Miến!

           Hắn càng kinh hãi. Hắn vội lột ngay tấm ga trải giường choàng lên che kín người cô bé. Cô bé ngạc nhiên không hiểu vì sao nhưng cũng cuốn chặt tấm ga vào người. Cô bé càng ngạc nhiên khi thấy hắn mặt mũi cứ tái nhợt đi vì hoảng hốt. Cô bé ngập ngừng hỏi:

           - Anh... anh bị làm sao thế ạ?

           - Tôi… tôi… không làm sao! Nhưng có đúng là mẹ cô tên là Miến không?

           - Đúng ạ! Bà em nói mẹ em ngày xưa là dân buôn chuyến trên tàu hỏa. Khi mẹ chết đã để lại cho em sợi dây chuyền này đấy!

           - Thế sao… sao cô phải đi làm… chuyện này?

           Cô bé im lặng rồi rơm rớm nước mắt:

           - Bà em già yếu lắm rồi lại đang ốm nặng! Em thì không có việc làm… nên phải đi… Hôm nay là lần đầu tiên em đi làm… đấy ạ…

           - Nhà cô ở đâu?

           - Cũng ở gần đây thôi ạ!

           - Bà cô đang ở nhà à?

           - Vâng!

           - Cô mặc quần áo vào rồi đưa tôi về nhà ngay!

           - Để làm gì ạ?

           - Tôi muốn đến thăm bà của cô!

           Cô bé có vẻ lo lắng ngần ngừ. Hắn lại bảo:

           - Cô cứ yên tâm đưa tôi về nhà! Mọi chuyện xảy ra đã có tôi lo! Tôi sẽ không nói chuyện này với bà cô đâu!

            Cô bé vào phòng tắm mặc quần áo. Hắn cũng vội vùng dậy tìm cái cặp khoá số ném dưới sàn nhà. Vã vội vốc nước lạnh vào mặt cho tỉnh táo hắn dẫn cô bé ra trước cửa khách sạn gọi xe tắc-xi. Chiếc tắc-xi chạy vòng vèo qua mấy dãy phố nhỏ rồi rẽ vào một ngôi nhà lợp tôn thấp lè tè phía sau khu nhà ga. Hắn theo cô bé đến trước cửa căn nhà nhỏ. Trong nhà vẫn có ánh điện sáng lờ mờ bởi cái bóng đèn ngủ công suất nhỏ. Cô bé gọi cửa. Có tiếng ho rúc lên một hồi rồi tiếng dép lê lẹt xẹt. Tiếng người trong nhà hỏi, giọng mệt mỏi, hổn hển:

            - Cái Miên về đấy hả con?

            - Vâng! Cháu đây bà ạ!

            Ánh điện bật lên. Ánh sáng chui qua những kẽ hở trên vách, trên nóc nhà thò ra xung quanh như những cái vòi của con bạch tuộc. Tiếng lạch xạch mở chốt cửa. Cánh cửa bật ra. Hắn theo cái Miên bước vào nhà. Mùi hôi mốc, ẩm ướt sực lên. Bà cụ che mắt nhìn hắn rồi chợt kêu lên vẻ sung sướng:

            - Ôi cái Miên, mày... mày... đã tìm thấy bố ở đâu thế?

            Hắn và cô bé đều vô cùng sửng sốt khi nghe bà cụ nói như vậy. Lúc này hắn mới nhận ra bà cụ chủ nhà chính là bà lão bán nước chè xanh ở nhà ga dạo trước. Cũng chính bà cụ đã giục hắn chạy trốn công an khi hắn đánh nhau với mấy thằng lưu manh ở ga hôm mới ra tù. Bà cụ tuy đã già nhưng hai mắt vẫn rất tỏng. Bà bảo hắn ngồi xuống cái ghế băng cũ kỹ rồi kéo cô bé lại trước mặt hắn. Vừa ôm ngực ho bà cụ vừa nói:

            - Đây là cái Miên! Nó là con gái của anh đấy! Nó tìm được anh thế này thì mừng quá rồi. Bây giờ tôi có chết cũng yên tâm là đã giữ được lời hứa với con Miến…

            Hắn vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Cái Miên cũng sợ hãi đến tái cả mặt đi. Nó chưa hiểu tại sao bà nó lại nói như thế. Nó chăm chăm nhìn hắn đầy vẻ nghi ngờ. Bà cụ đành phải vừa ho và thở dốc vì mệt vừa cố kể lại mọi chuyện một cách có đầu có đũa. Thì ra dạo đó khi người đàn bà buôn chuyến tên là Miến ấy đi Nam Định cất hàng thì hắn bị bắt do tại thằng oắt con nhét thuốc phiện vào cái gối đầu để cạnh chỗ hắn ngủ. Khi về thì người đàn bà không biết hắn bị bắt đưa đi đâu. Chị không thể báo tin cho hắn biết là mình đã có thai. Chị sinh ra bé Miên lúc chiến tranh đã kết thúc và trong lúc hắn vẫn trong tù. Khi bé Miên hơn bảy tuổi thì chị bị mắc phải căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình khó qua khỏi, chị đành gửi con lại cho bà cụ bán nước chè xanh ở nhà ga. Trước lúc chết, chị ta cũng kể cho bà nghe về bố đẻ của bé Miên. Chị để lại một lá thư để bà cụ chuyển cho hắn. Hai bà cháu bán nước chè xanh lần hồi kiếm sống ở nhà ga mong gặp lại hắn. Tuy vất vả nhưng bà vẫn ngày ngày đi bán nước, nhặt nhạnh đồ phế thải và nuôi được bé Miên học hết cao đẳng. Hai người cứ chờ mãi, chờ mãi nhưng càng chờ càng vô vọng. Sau bận đánh nhau với mấy thằng lưu manh ở nhà ga hắn biệt tăm luôn. Hai bà cháu sống trong thiếu thốn, khốn khổ. Không xin được việc, Miên đành nhắm mặt đưa chân đi làm tiếp viên trong khách sạn. Bà chủ khách sạn gạ gẫm mồi chài. Suýt nữa thì cô bé sa vào con đường lầm lạc. Và cũng chỉ tý nữa thôi nếu tối hôm nay con bé mà không đeo cái dây chuyền của mẹ thì đã xảy ra một chuyện tày đình rồi.

            Đọc lá thư của người đàn bà năm xưa để lại, hắn vẫn còn chưa hết bàng hoàng. Hoá ra từ lâu hắn đã có một đứa con gái. Bây giờ nó đã lớn và xinh đẹp thế này. Cũng đã gần ba mươi năm rồi còn gì. Cứ nghĩ lại chuyện ở khách sạn lúc nãy hắn lại giật mình thon thót vì sợ hãi.

Trên đường đưa cái Miên về trang trại Ma Gà hắn rất lo lắng. Hắn không hiểu Thu sẽ phản ứng ra sao khi đột nhiên hắn đưa một cô bé lớn tướng về giới thiệu là con gái của mình. Cái Miên cũng tỏ ý không muốn theo bố ngay về nhà. Một phần là do nó bất ngờ quá. Với lại nó rất thương bà cụ gần hai mươi năm thương yêu, đùm bọc, chăm lo cho nó như là ruột thịt. Biết tính khí của nó bà cụ phải khuyên nhủ, dỗ dành mấy ngày liền. Hắn cũng phải thuyết phục con gái mãi. Để cái Miên yên tâm, trước khi đưa con đi, hắn đã thuê bọn thợ xây sửa chữa lại căn nhà cho bà cụ. Hắn còn sắm sửa cho cụ một số đồ dùng trong nhà. Hắn còn bảo hàng tháng sẽ đưa con gái về chăm nom, tiếp tế cho bà cụ. Cái Miên hết lo lắng, nó bằng lòng đi theo bố.

          Thu im lặng khi nghe hắn kể lại mọi chuyện.

          Chỉ riêng tình tiết gặp con gái trong phòng ngủ thì hắn lờ tịt. Hắn ngại. Hắn chỉ nói là đã nhận ra con trong bữa tiệc tại khách sạn. Mọi người trong công ty và trang trại ai cũng đều vui mừng cho hắn đã tình cờ tìm được một đứa con sau bao năm lưu lạc. Đám con trai lập tức bật nắp bia. Tiếng hô: “Zô... zô... zô… 100%... 100%...” ầm ĩ cả trang trại. Trong khi đó thì Thu vẫn lặng lẽ. Hắn càng thêm lo lắng. Khác với mẹ, bé Lan Hương thì cứ vui hớn hở. Nó rất thích vì tự dưng lại có một người chị gái lớn tướng xuất hiện trong nhà. Nó sẽ nhờ chị dạy tập viết, dạy múa hát. Năm nay con bé vừa mới lên lớp một. Nó sốt sắng xin đảm nhận việc đưa chị Miên đi xem vườn cây cảnh và nhà lưới trồng phong lan. Vừa nắm chặt tay chị kéo đi nó vừa leo lẻo kể chuyện ở lớp có bạn trai lớn tướng mà ngủ trưa vẫn tè dầm ra quần cô giáo phải gọi điện cho mẹ đến đón về sớm.

          Sau những phút hồ hởi tập trung đón khách, đám nhân viên cửa hàng vật liệu xây dựng và những người làm vườn ai về việc nấy. Cũng đã gần trưa. Thu xuống bếp phụ giúp nhà bếp nấu nướng. Chỉ còn một mình hắn ngồi lại phòng khách. Thấy thái độ im lặng của Thu, hắn băn khoăn không hiểu cô đang suy nghĩ gì. Hắn đoán là Thu giận về việc hắn có con riêng. Hắn thấy lo lắng cho Miên nếu không được Thu chấp nhận nó sẽ rất tủi thân và đòi về với bà cụ ở sau nhà ga.

          Hắn vòng tay ra phía sau đầu ngả người xuống ghế sa-lon.

          Chợt có tiếng dép lẹt xẹt phía sau. Thu bảo hắn:

          - Anh vẫn còn ngồi ở đấy à?

          - Thì… chả ngồi ở đây thì ngồi ở đâu!

          Hắn đáp có vẻ hơi bực. Thu giục:

          - Thì anh đi gọi hai con về ăn cơm đi! Trưa lắm rồi…

          Hắn vội ngồi thẳng người dậy quay lại nhìn Thu. Cô hơi mỉm cười nhìn vẻ mặt vui mừng của hắn. Hắn nhìn Thu như muốn nói một câu gì đó hàm ý cảm ơn nhưng không thốt nên lời. Thu thấy thích thú khi nhìn dáng bộ hắn vội vã quýnh quáng chạy đi tìm hai đứa con gái.

          Vĩ thanh hay vài lời cuối chuyện

          Ông chủ tịch xã vừa gập cuốn sổ lại vừa bảo tôi:

          - Mời nhà báo đi thăm một hộ làm kinh tế trang trại giỏi để “mục sở thị” nhé! Dọc đường nếu có còn gì hỏi, tôi sẽ trình bày thêm!

          - Vâng! Thế cũng được ạ!

          Tôi đồng ý. Ông chủ tịch xã dẫn tôi vượt qua một dốc núi cao sang bên kia dãy núi. Chiếc xe U-oát gầm gừ bò lên dốc. Con đường qua núi hẹp, gồ ghề. Chiếc xe chung chiêng như đi trên dây. Ra đến con đường mới mở, chiếc xe chạy êm ro. Ông chủ tịch xã hào hứng nói với tôi:

          - Tay chủ trang trại Ma Gà này vốn là một người từ nơi khác đến lấy vợ ở đây. Lý lịch hắn cũng có chút tỳ vết từ thời trai trẻ. Bây giờ thì hắn ta là một con người tốt. Hắn đóng góp xây dựng nhiều công trình công ích, dân sinh, các nhà tình nghĩa, nhà tình thương khắp trong, ngoài xã này đấy!

          - Thế ạ! Vậy thì lần này tôi may quá, gặp được một “điển hình tiên tiến”  để viết rồi!

          - Đúng là một điển hình tiên tiến thực sự đấy!

          Qua khỏi đoạn cua gập ghềnh đến một thung lũng tương đối bằng phẳng. Đó là thung lũng Ma Gà. Đầy khắp trong thung là những cây vải thiều vừa tròn tán. Cành cây trĩu những trùm quả bắt đầu sẫm vỏ. Những luống chè thẳng tắp, vườn cam quýt xanh tươi. Đặc biệt la liệt khắp nơi trong trang trại là những chậu cây cảnh, bon-sai có dáng thế rất đẹp. Một ngôi nhà hai tầng thấp thoáng giữa tán cây. Ông chủ trang trại lởi sởi ra đón và bắt tay từng người. Tôi đưa máy ảnh lên  ngắm chụp một kiểu ảnh. Qua ống kính máy ảnh tôi chợt nhận ra một nét mặt quen quen. Tôi buông máy ảnh bắt tay ông chủ trang trại. Cả hai chúng tôi cùng "ồ" lên một tiếng. Và, hai chúng tôi đều đã nhận ra nhau. 

          Hắn bắt tay tôi nói:     

          - Chào ông nhà báo!

          Tôi ngạc nhiên vì ông chủ tịch xã chưa giới thiệu mà sao hắn đã biết tôi là nhà báo mà chào như vậy. Tôi hỏi:

          - Sao anh lại biết tôi là nhà báo?

          - Thì hồi lâu lắm rồi còn trong… tù, một hôm vớ được tờ báo gói đồ cũ, đọc thấy có đăng bài ông viết về quê ta!

          Thì ra là thế.

          Tôi với hắn là người cùng quê. Hắn học trên tôi ba lớp. Khi tôi vào lớp một thì hắn đang học lớp bốn. Đến khi lên cấp 2, hắn đã có tên trong danh sách gọi khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Nhưng ngày ấy tôi không hiểu vì sao hắn không được gọi đi bộ đội. Tôi còn nhớ mười bảy tuổi, hắn đã cao to lộc ngộc. Cái đầu hắn luôn cắt trọc lốc nên chúng tôi thường gọi hắn là “sư phụ”. Hắn học ngổ ngáo, ngỗ nghịch nhất trường. Các thầy cô giáo cũng ngại hắn, nhất là các nữ giáo sinh về thực tập ở trường. Những năm sáu mươi của thế kỷ trước ở miền rừng núi như quê tôi học sinh to lớn hơn cả thầy cô giáo là chuyện bình thường. Nhiều anh đã có vợ con rồi mà vẫn đang học cấp hai.

           Hắn thường hay bắt nạt chúng tôi. Có cái gì ăn chúng tôi đều phải cống nạp cho hắn. Đứa nào lơ lơ cố ý giấu giếm là coi chừng bị hắn vặn tưởng đứt tai. Bọn con gái nhiều đứa khóc hết nước mắt vì thường xuyên bị hắn bôi bẩn lên áo. Có đứa con gái bị hắn cắt xoẹt mất nửa chiếc đuôi sam gào tưởng sắp vỡ cả trường. Thầy Thức, hiệu trưởng trường cấp hai Quang Lâm hồi ấy nghiêm lắm. Nhiều lần hắn bị thầy phạt đứng nắng dưới chân cột cờ giữa sân trường. Nhưng hắn vẫn cứ tính nào, tật nấy.

           Ngày ấy đám trẻ chăn trâu chúng tôi rất thích hắn. Bởi lẽ hắn có tài kể chuyện. Những bộ trường thiên tiểu thuyết như: Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ hử, Hồng lâu mộng, Chinh đông chinh tây hắn đều thuộc làu làu. Những buổi chiều đi chăn thả trâu bò trong thung lũng lũ chúng tôi ai cũng hong hóng chờ được nghe hắn đọc chuyện. Để được nghe chuyện, mỗi đứa chúng tôi thường phải nộp một bó cỏ thật non để cho con bò mộng của hắn ăn. Chỉ khi con bò mộng của hắn đã đứng ngập giữa đống cỏ, hắn mới bắt đầu kể chuyện. Giọng hắn lúc trầm, lúc bổng, lúc ngân nga. Chúng tôi há mồm ra nghe chuyện. Hắn đọc cho chúng tôi nghe từng chương, hồi trong Tam quốc diễn nghĩa mà chẳng cần mở sách. Hôm nào cũng vậy, hắn chỉ đọc đúng ba chương. Chúng tôi đứa nào cũng xuýt xoa, tiếc rẻ, mỗi khi hắn kết thúc buổi đọc chuyện bằng câu "Muốn biết chuyện ra sao, chờ đến hồi sau sẽ rõ!".

           Sau bận cùng ông chủ tịch xã vào thăm trang trại Ma Gà, tôi viết một bài báo khá sinh động về mô hình làm kinh tế trang trại. Có lẽ cũng do bài báo ấy của tôi mà đoàn cán bộ của xã Quang Lâm - quê hương của tôi và hắn -  đã tìm đến tham quan trang trại Ma Gà. Sau lần ấy, hắn đã ủng hộ quê hương xây dựng nhà thư viện xã. Hôm xã Quang Lâm tổ chức lễ hội đón danh hiệu anh hùng tôi cũng về dự. Tôi để ý nhưng không thấy hắn. Tôi hỏi thì anh chủ tịch xã nói hắn bảo có việc bận đã đi từ hôm trước, ngay sau buổi lễ cắt băng khánh thành thư viện.

           Tôi quyết định lên trang trại Ma Gà thêm một lần nữa.

           Lần này tôi không đến để viết báo. Mấy ngày ở trang trại Ma Gà tôi đã được nghe hắn tâm sự về cuộc đời chìm nổi của mình. Câu chuyện của hắn khiến tôi nảy ra ý định viết thành một truyện ngắn. Nhưng khi truyện ngắn dài đến sáu phần rồi mà chuyện về hắn thì vẫn chưa hết. Vậy nên, tôi quyết định kéo thành một truyện dài - một tiểu thuyết. Sau chuyện hắn tình cờ gặp được đứa con gái, tôi hỏi hắn có gặp lại hai bố con lão đóng than tổ ong bên bờ sông Đuống và ngưòi đàn bà có ngôi nhà xinh xắn ven hồ Tây không thì hắn ậm ừ không kể tiếp nữa. Hắn chỉ nói qua loa là lão đóng than tổ ong bên sông Đuống đã chết, cô con gái thì bỏ nghề làm than đi làm họa sĩ công nghiệp. Còn người đàn bà có ngôi nhà ven hồ mỗi ngày mua mười viên than tổ ong của hắn ngày trước nay đã là một giám đốc một hãng sản xuất phim truyện truyền hình khá nổi tiếng. Chắc là người đàn bà ấy vẫn còn rất đẹp nhưng sẽ vẫn luôn buồn vì sống cùng ông chồng là nhà khoa học máy móc như một con rô-bốt đã được lập trình cài đặt sẵn…

           Vì hắn không chịu kể tiếp nữa nên “Chuyện đời hắn” đành phải dừng lại ở đây. Xin cảm ơn các độc giả đã đồng hành cùng tác giả qua một chặng đường khá dài.

Chuyện lính: Chuyện tiếu lâm có thật (Quang Việt)

          Tôi chơi với Nguyễn Tấn Định k9 từ mấy chục năm nay. Thỉnh thoảng mới gặp nhau nhưng cứ gặp nhau lúc nào là vui như Tết. Bao nhiêu chuyện cũ được lôi ra nhắc lại để cười. Lần nào cũng thấy buồn chười, chưa bao giờ thấy chán. Có một chuyện thế này:

          Dịp Tết năm 1977 (hay 78?), tôi và Tấn Định cùng trực Tết. Hôm ấy, chúng tôi cùng ăn trưa ở nhà ăn tập thể. Thuở đó, chỉ mấy ngày Tết là thức ăn còn kha khá hơn ngày thường một tí. Một trong những cái “hơn ngày thường ấy” là nồi canh. Ngày thường thì lấy đâu ra xương mà hầm? Có tí mì chính đã là may lắm rồi. Ngày Tết, nồi canh có chất hơn. Nếu đi ăn sớm, có khi còn có thể vớt được một vài cục xương để gặm lấy tí thịt còn dính (thông thường xương được lọc rất kỹ nên có dính cũng ít thôi). 

Tôi và Tấn Định ngồi ở hai bàn khác nhau. Khi tôi đi về phía nồi canh định chan canh thì thấy ở đó đang có một hiện tượng lạ: Tấn Định đang cúi nhìn vào nồi canh, hết nhe răng ra lại ngậm vào mấy lần. Tôi lấy làm lạ, trố mắt ra nhìn thì thấy Tấn Định lẩm bẩm: "Hóa ra không phải”. Nghe vậy, tôi lại càng chẳng hiểu gì. Nói xong câu đó, Tấn Định chan canh và về chỗ. 

Tôi tò mò nhìn vào nồi canh, vừa chan canh vừa cố giải mã hiện tượng vừa rồi và đã giải được. Tôi liền tới chỗ Tấn Định để hỏi xem chuyện có đúng như vậy không. Tấn Định chỉ đỏ mặt cười và buông một từ: "Bịa”.

          Chuyện là thế này: Nồi canh đã gần đến đáy, dưới đáy nồi là cái xương quai hàm con lợn vẫn còn cả răng. Tấn Định nhìn vào, tưởng bóng mình soi xuống đó liền nhe răng ra, ngậm vào mấy lần để kiểm tra và đi đến kết luận như trên tôi đã kể. Sau đó, do thấy cục xương cũng chẳng còn gì bám nên cũng không vớt mang về mâm nữa. Ai không tin, cứ trực tiếp hỏi Tấn Định mà xem.

          Mới đấy mà đã gần 40 năm. Thời gian trôi thật nhanh.

Tôi đi ăn trộm ( Chuyện lính )

Hắn tên là Hỷ ,người Huế , hơn tôi 3 -4 tuổi gì đó . Ở trong lính rất ít người biết tuổi thật của tôi , ai cũng đoán tôi 25- 26 tuổi trong khi tôi mới 20 tuổi , sống với người tứ xứ người nhỏ tuổi dễ bị lạm dụng chuyện sai vặt , điếu đóm .

Vóc người hắn xương xương , dáng đi hơi gù , tính hắn khá lởi xởi , hình như hắn mà ngưng nói khoảng 5 phút là hắn thấy khó chịu , hắn cũng hơi bị tưng tưng , đúng ra người Nam thường dùng từ ” Man hay mát " để chỉ những ngươi hơi tưng tửng , còn người Bắc mới dùng từ "Hâm " hay "Hấp " nhưng có lẽ để cho thuận miệng do tên hắn là Hỷ nên mọi người tặng hắn cái biệt danh " Hỷ hâm" . Hắn có tật hay khìa người khác , nên nhiều người cũng không ưa hắn lắm . Lần này tôi là đối tượng của hắn .

Sau bữa cơm chiều , đang đứng dưới hiên nhà trước cửa tiểu đội , phì phèo từng hơi thuốc , lơ đãng nhìn sang lán chị em thì tôi thấy hắn tiến lại gần nở nụ cười cầu tài .

- trông ông ngon quá hen , có cả thuốc hút ...cho ké vài hơi đây .

Tôi đưa điếu thuốc đang hút dở cho hắn . Làm vài hơi xong , hắn cất giọng khề khà :

- Tụi tôi nghe nói nhiều về người Hà nội , nói thật ngó băng Hà nội các ông ở đây tôi chỉ thấy mỗi ông là còn được được .

Tôi hiểu lý do hắn nói , nguyên băng Huế tụi hắn toàn con nhà nếu không buôn bán thì cũng là viên chức hoặc sĩ quan quân đội cũ , đa phần là học hết 12 , người Huế vốn dĩ gia giáo , còn băng Hà nội toàn là thằng xuất thân từ công nhân xây dựng đi lính , chỉ vài thằng như tôi là học hết phổ thông , băng Hà nội ngoài cái ngông nghênh , bất cần , nhìn đời bằng nửa con mắt , làm thiên hạ hơi ngán chứ còn văn hoá ứng xử thì nói chung là thô .

Cầm điếu thuốc hắn đưa lại , tôi đưa mắt nhìn hắn giọng giễu :

- Chuyện gì nữa đây , hết người khịa rồi giờ định nhằm thằng này hả .

Hắn cười hềnh hệch :

- Ông chỉ được mỗi cái văn , chứ võ dở ẹc , đéo có gan , ông phải văn võ toàn tài tụi tôi mới nể .

Biết tính hắn nên tôi chỉ cười trừ , hít mấy hơi tôi lại đưa thuốc cho hắn cười nói :

- Làm lẹ mấy hơi rồi biến cho tôi nhờ , không chơi trò kiếm chuyện để ké thuốc đâu nghe .

Bị tôi chọc quê , rít xong mấy hơi thuốc hắn vừa quay lưng đi vừa nói : " Gan ông như gan thỏ ...".

Nói chung tôi cũng chẳng để ý gì ba cái lời hắn nói . Thế nhưng hắn chẳng chịu buông tha tôi cứ có dịp là hắn lại khìa một câu " Gan ông là gan thỏ " , có lần vui miệng tôi hỏi : " Thế theo ông võ là phải như thế nào , hay là tôi với ông đập lộn một bữa cho vui " . Hắn khoát khoát tay hề hề : " Tôi với ông đánh nhau thì làm mẹ gì ,ông có gan ông phải đi ăn trộm có thế tôi mới phục ".

- Khùng..! Đây là Lào chứ đâu phải Việt nam , nó bắt được đền trâu , đền bạc thấy mẹ...ông ăn nói linh tinh - Vừa nói tôi vừa bĩu môi nhìn hắn .

- Hề ..hề ..có thế mới thách ông ..ông ngon tôi mới chịu .

- Đúng là Hỷ ...nhưng tôi hỏi thật ..cái vụ tưng tưng này đâu phải bẩm sinh đâu .

Hắn thật thà kể nguyên nhân nhưng tôi không còn nhớ rõ chỉ mang máng là hắn bị một chấn thương nào đó hồi thiếu niên .

Nhưng câu chuyện không dừng ở đấy , nhân một bữa tụi Huế có thằng mới lên phép , trong lúc trà nước có thêm ít mè xủng và dĩ nhiên là khói thuốc bay mù nhà, tự nhiên hắn nhìn tôi nói rõ to : " Ông Nhã mà dám đi ăn trộm thì tôi quì xuống lạy ông ba lạy ! "

- Quên mẹ chuyện vớ vẩn ấy đi..đừng giở trò khích bác - Tôi gạt ngang .

Cả bọn biết tính hắn nên cũng chẳng lưu tâm gì , lai chuyến phiếm một lúc .

Thế nhưng hắn tiếp tục nổi máu tửng :

- Ông đéo dám thì tôi đéo coi trọng ông .

Lần này thì tôi nhăn mặt :

- Ông nói hơi quá rồi đấy ...cà khịa thì cũng phải lựa lời .

- Nhưng phải dám đi ăn trộm thì tôi mới phục - Nói xong hắn cười hề hề khoả lấp .

Tôi nghĩ bụng ,phải cho thằng dở hơi này một bài học :

-Ông nói ông giữ lời chứ ..nhưng trộm đồ là tôi không chơi .

- Trộm gì cũng được ..miễn là trộm .

Tôi làm bộ ngần ngừ :

- Trộm cái gì mà anh em ở đây cùng hưởng ...ớt được không ?

- Được - Hắn nhấn giọng .

- Ok ..nếu vậy thứ 7 này tôi với ông đi rẫy trộm ớt , có trái gì khác chơi luôn ..ông dám không - lần này thì tôi có phần khích hắn .

- Chơi - Hắn đáp .

Do đang chuẩn bị công tác đổ bê tông cho dầm cầu nên thứ 7 công việc bọn tôi cũng xong sớm , ngó chiều nắng cũng không còn gắt, tôi liền gáy hắn đi .

- Ông không mang theo cái gì à – Vừa đi hắn vừa hỏi .

- Đi ăn trộm chủ yếu là chuồn cho nhanh mang cái khác đi làm gì – Tôi đáp .

Tôi hiểu ý hắn nói , đã đi rừng tối thiếu cũng phải mang dao quắm bên người, ít nhất thì cũng để phát hoang , sau nữa là để phòng thân , nhưng vì xác định đi ăn trộm có sự lo chạy cho nhanh nên tôi chỉ mang theo con dao 5 tác dụng trong người , nhưng tôi không muốn cho hắn biết .

Mới đi được chừng 1 km , thấy một con đường cắt ngang hắn muốn tạt vào nhưng tôi lắc đầu :

- Trong phạm vi này rẫy chưa chắc đã còn thứ muốn kiếm, vả lại hơi gần bản theo tôi là không nên .

- Tuỳ ông thôi – Hắn cười nói .

Đi thêm chừng 2 cây nữa lại có một con con đường cắt ngang , tôi nói hắn đứng trên lộ chờ còn tôi đi về cả hai phía để ngắm nghía địa thế , khảo sát xong tôi quay lại nói với hắn : “ Chỗ này chơi được “.

Tụi tôi rẽ vào con đường cát ngang đó , đi thêm gần 1 cây , thấy một lối mòn lên rẫy .

- Ông có vào không – Tôi dừng lại hỏi hắn .

Ngập ngừng một chút hắn nói :

Tôi ở ngoài này canh chừng .

- Ok nếu có người ông nhớ nói cái gì đó to lên để đánh tiếng .

- Nói cái gì ?

- Cái chó gì mà chẳng được , đại loại một lời chào gì đó hay ông rống lên một câu hát , miễn là tôi nghe tiếng ông là được .

Hắn gật đầu .

Tôi nhìn ngó xung quanh để chọn một vật mốc , kia rồi có một cái cây rất cao . Tôi đi theo đường mòn chừng 200 m rồi quay lại nhìn , vật mốc của tôi nhìn khá rõ . “ Tốt rồi “ tôi thầm nghĩ và gọi với ra bảo hắn hãy ê ê lên mấy tiếng . Hắn nghe và làm theo .Chiều rừng hoang nên âm thanh nghe khá rõ , tôi an tâm tiến vào rẫy , ớt khá nhiều , tôi chọn những cây nằm sâu bên trong và bắt đầu ngồi xuống hái .

Mải mê , tôi cũng quên bẵng thời gian , nắng cũng đã gần tắt , do ngồi nên hai túi quần tôi cũng chỉ chứa được lưng lưng , tôi đã có thể về nhưng nghĩ đã một lần thôi thì một công đôi việc , tôi bỏ áo vào trong quần rồi tiếp tục thả ớt vào trong người .

Đột nhiên tôi giật bắn người khi nghe tiếng chó sửa rất gần , rồi tiếng người gọi chó .

“ Chó chết thật ! không biết thằng Hỷ đâu sao lại để xảy ra chuyện này “ , vừa nghĩ tôi vừa

nép chặt người xuống đất , vốc ra một nắm ớt , bốc một nắm đất vụn trộn vào , vò nát chúng rồi xoa lên quần áo . Sau đó như một con rắn mối tôi trườn nhanh xuống sườn dốc phí trong , ước chừng 100 m tôi ngồi nhỏm dậy quan sát . Có tiếng nước chảy , mừng quá , tôi luồn nhanh về phía đó , một lạch nước nhỏ rộng chừng 2 m . Tôi mang cả giày lội ngược dòng khá xa rồi bằng lên bờ tìm một chỗ cao ngồi nghỉ . Tôi nghe loáng thoáng tiếng chó sủa rồi lại tiếng người suỵt chó , nhưng ở vị trí này thì tôi an tâm rồi .

Trời đã xâm xẩm , vấn đề của tôi bây giờ là phải tìm đường để không bị lạc và rắn . Leo lên đỉnh đồi đưa mắt tìm vật mốc của mình . Nó kia rồi ! Tôi ngồi xuống ,vẽ một hình tam giác mà 3 đỉnh là tôi , vật mốc và vị trí mà tôi ước lượng chỗ mà minh sẽ phải đi đến , sử dụng kiến thức hình học phổ thông để tính toan quãng đường mình phải đi , ước khoảng 2 km . Lấy con dao 5 tác dụng ra tôi chặt một cành cây dài 2 thước , nó có tác dụng để khua động rắn . Tôi chặt thêm một đoản cây to bằng cổ tay dài khoảng 5 tấc dắt vô người . Gài chặt ống quần , tay áo , dựng cổ áo đứng rồi kéo sát mũ xuống , cả người tôi gần như kín mít, lỡ rắn có ở cành cao hơn đầu bổ xuống cũng khó . Xong xuôi tôi bắt đầu cắt rừng .

Tôi gặp may mới đi chừng hơn 1 km tôi nhìn thấy một lối mòn , ngắm nghía định vị một lúc , tôi thấy nó không phải là con đường mòn mà tôi rẽ vào rẫy ban đầu ,thế là tôi cứ đi theo nó , vòng vèo một hồi tôi cũng ra đến con đường mà tôi rẽ vào nó lúc chiều nhưng cách vị trí mà tôi rẽ vào rẫy dến cả nửa cây số , nó nằm giữa vị trí của đường lớn và chỗ mà tôi rẽ vào trước , lối này hơi bị khuất nên lúc chiều tôi đã lướt qua nó mà không để ý .

Tôi thở phào , quăng hết gậy , rồi sửa lại quần áo như lúc thường tôi vẫn mặc , vừa đi vừa vu vơ huýt sáo .

Về đến đơn vị cũng gần 8 giờ tối , đang giờ sinh hoạt đọc báo , tiểu đội tôi chỉ còn mỗi thằng Diễn đang nằm trên giường . Vừa thấy tôi nó bật dậy nói :

- Ơ anh Nhã ..sao anh trốn về được .

Hơi ngạc nhiên tôi hỏi :

- Tao bị làm sao mà mày bảo tao trốn .

- Ông Hỷ về đây nói anh với ổng đi rẫy hái ớt anh bị bọn Lào bắt rồi .

- Đ. mẹ cái thằng , đã hèn lại còn nói năng lung tung...thế nó còn nói thêm gì nữa .

- Ổng còn bảo ngày mai chắc tiểu đoàn phải đi chuộc anh về...mọi người ai cũng khiếp , tụi em lo cho anh quá .

Nghe vậy người tôi bốc hoả , văng tục một câu rồi tôi nói với thằng Diễn lấy mấy cái bát sắt đựng ớt . Cũng được gần bốn bát đầy. Xong xuôi tôi dặn nó :

- Tao phải đi tắm đây ..mày không được nói gì về vụ tao về đó nghe...cứ để đấy để tao xử đẹp thằng " Hâm " này...nhớ đó .

Thằng Diễn cười gật đầu .

Buổi tối nước suối lạnh cóng nên tôi cũng dần dần hạ hoả .

Buổi sinh hoạt đại đội đã xong , cả băng Huế đang tụ tập uống nước trà trong lán , tôi nghe tiếng thằng Hỷ đang nói cái gì đó , sau đó là tiếng cười hô hố của hắn .

Tôi bước vào .

Cả bọn trố mắt nhìn tôi , thằng nào đó lên tiếng :

- Ủa ..ông Nhã ..sao thằng Hỷ nói ông bị bọn Lào tóm rồi, cả bọn còn đang nói không hiểu tiểu đoàn phải mất mấy con bò để chuộc ông đấy .

Tôi gật đầu, hơi nhếch miệng cười , rồi đưa ánh mắt sang thằng Hỷ .

Hắn cười cười, cất giọng khoả lấp :

- Ôi giời...thế mà tôi tưởng ông bị tóm rồi ?

Tôi lạnh tanh :

- Đ. mẹ...tôi phải khen ông giỏi...giờ này mà ông vẫn còn ngồi đây cười được .

Không khí như bị đông lại , biết là có chuyện , cả bọn lặng im , hết ngó tôi rồi lại ngó thằng Hỷ .

- Tại sao ông ra ám hiệu như tôi đã dặn - Tôi gằn giọng .

Hắn nhìn quanh , rồi cúi mặt xuống , giọng ấp úng :

- Tại nó nhìn tôi lom lom nên tôi sợ .

- Hừm ..rồi sao nữa cứ cho là trước mặt nó ông không nói được nhưng ông biết cách nào đó để lên tiếng à .

- Nó nhìn dữ quá nên tôi hoảng quá , tôi bỏ đi ?

- Hừ ..thế sao lúc ông quay người đi sao ông không ê a hát , tụi nó biết cái mẹ gì . Thế rồi ông về luôn à ?

Hắn gật đầu .

Tôi quay lại nói với băng lính : " Hắn không dám vào rẫy, tôi bảo hắn đứng ngoài canh nếu gặp ai thì tìm cách nói to hay hát hiếc gì đó báo hiệu cho tôi biết , thế mà hắn xử sự như vậy đấy , tôi mà không lanh thì dính rồi, thế mà về đây hắn còn cười cợt được các ông nghĩ thế nào "

- Hỷ mày chơi thế coi sao được , mày làm bỉ mặt dân Huế quá mày - Một thằng trong đám lên tiếng .

Lần này thì hắn gục mặt xuống , trông thật thiểu não .

Tôi chắp tay giống như giới võ lâm :

- Xin lỗi tất cả mọi người ở đây , đây là điều tôi không muốn làm nhưng tôi buộc phải làm .

Nói xong tôi nhìn thẳng vào hắn gằn giọng :

- Tất cả những chuyện này là do ông bày trò khích bác bày vẽ mà ra , đúng ra nếu không có chuyện gì xảy ra thì tôi chỉ bắt ông vái rồi thôi , nhưng ông đã xử sự quá tệ nên tôi buộc ông phải thực hiện những gì ông đã nói .

Hắn lúng búng trong miệng :

- Ý ông bảo tôi lạy ông .

- Phải ?

Hắn lộ vẻ bối rối tần ngần . Giọng tôi lạnh tanh .

- Ông không làm điều đó tôi sẽ đập ông ngay tại đây, rồi muốn ra sao thì ra ... chui vào boong ke vác củi cũng xong .

Hắn nghênh mặt :

- Ông dám làm diều đó không .

- Tôi mà không làm điều đó ngay tại đây thì tôi sẽ lạy tất cả anh em ở đây - Tôi làm mặt dữ .

Hắn im lặng .

- Tôi sẽ đếm đến 3 ,ông mà không làm , dứt chữ là tôi tới đấy đấy - Nói xong tôi đếm 1 liền .

Thái độ hắn thấp thỏm , sợ hãi .

" Hai " tôi sấn tới sát hắn . Hắn cuống quít khua tay :

- Thôi thôi ...để tôi làm .

Cả bọn bật cười nên không khí cũng dịu đi .

Lạy xong cái thứ 3 , hắn ngẩng lên hỏi tôi :

- Có cần thêm cái nữa tạ lỗi không .

Tôi lắc đầu , chờ hắn đứng dậy, tôi vỗ vai hắn toét miệng cười :

- Thôi xong...giờ ngồi uống chè ..cha nào có thuốc cho xin mấy hơi đây ?

- Có đây cha nội - Hắn rút túi lấy ra điếu thuốc đưa tôi, rồi cầm bật lửa châm thuốc cho tôi , một nụ cười cầu tài trên miệng hắn : " Ông làm tôi hết cả hồn , tôi tưởng ông làm thiệt ".

Rít một hơi thuốc cho thật đã, tôi nhìn hắn cười cười :

- Thiệt hay giả là do ông thôi ...chuyện này coi như xong không nhắc đến nữa nhưng tôi nói thật ông phải kiểm soát cái máu " hâm " của mình, chứ ông chọc người ta họ lại lôi chuyện này chọc lại ông...ông thấy sao ".

Hắn cười trừ

Nói vậy thôi chứ cái máu " hâm ' của hắn bố ai mà biết được .

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: