Tuyển tập tiểu thuyết Lỗ Tấn

Khổng ất Kỷ

Cách thức các tiệm rượu ở Lỗ Trấn không giống với những nơi khác: tiệm nào cũng có một cái quày lớn hình thước thợ đối ngay đường phố, trong quày chứa sẵn nước sôi có thể hâm rượu lúc nào cũng được. Những người thợ, trưa và chiều tan sở, thường cứ bỏ ra bốn đồng chinh mua một chén rượu, - đó là chuyện hơn hai mươi năm về trước, bây giờ thì mỗi chén lên giá đến mười đồng chinh, - đứng tựa phía ngoài quày, uống sốt dẻo ngay về nghỉ. Nếu bỏ thêm ra một đồng chinh nữa, có thể mua một đĩa măng nấu mẵn hoặc đậu hồi hương làm đồ nhấm. Lại nếu bỏ ra đến mười đồng, tức nhiên mua được một món xào. Song le những khách hàng ấy phần nhiều là bạn áo cộc, đại khái không có tiêu rộng như vậy đâu. Duy có những người mặc áo dài mới vào đến trong cái phòng có phên ngăn cách gian ngoài, gọi rượu món nhấm, khề khà ngồi uống.

Tôi bắt đầu từ mười hai tuổi, đã đứng làm hầu xáng trong tiệm rượu Hàm Hanh ở đầu đường đi vào Lỗ Trấn. Người chủ quày bảo rằng bộ tướng tôi khù khờ quá, e chầu hầu khách áo dài không nổi, thôi thì ở gian ngoài làm viẹc qua loa vậy. Khách áo cộc ở gian ngoài tuy dễ nói chuyện hơn, song cũng chẳng thiếu gì kẻ lai nhai lải nhải làm lôi thôi rất khó chịu. Họ hay đòi xem tận mắt khi múc rượu ở trong chum ra, đòi xem trong cái ấm có nước lã hay không có, lại đòi xem khi thả cái ấm vào nước sôi, như thế mới yên lòng: ở dưới sự tra xét nghiêm ngặt ấy, thật khó lòng mà pha nước vào. Bởi vậy chỉ được mấy ngày, người chủ quày lại nói tôi không đương nổi việc ấy. May nhờ cái người đưa tôi đến là chỗ quen thân quá, tiệm không thể thải tôi ra, bèn đổi sang một công tác tẻ ngắt là chuyên giữ một việc hâm rượu.

Tôi từ đó cả người đứng ở phía trong quày chăm làm chức vụ của mình. Tuy chẳng có gì đến nỗi không tròn phận sự, nhưng cứ mải miết có một việc, thấy chơi chán nán. Người chủ quày thì vẻ mặt lằm lằm, khách hàng thì chẳng hề có tình đằm thắm, làm cho mình không sao phới phở được; chỉ có khi nào Khổng ất Kỷ đến tiệm, mới cười lên được mấy tiếng, cho nên còn nhớ mãi đến bây giờ.

Khổng ất Kỷ là người có một, đứng uống rượu mà lại mặc áo dài. Ông ta, vóc giạc rất cao lớn, sắc mặt trắng xanh, giữa những nét nhăn thường hay đèo thêm ít vết sẹo; một bộ râu xồm rối như bòng bong. Tuy mặc áo dài, nhưng vừa bẩn vừa rách, hình như hơn mười năm không vá cũng không giặt. Nói chuyện với ai, ông cũng nói huyên thiên những là chi hồ giả dã, làm cho người nghe nửa hiểu nữa không hiểu. Nhân vì ông họ Khổng, người ta bèn từ trong câu "thượng đại nhân khổng ất kỷ" thường in son trên giấy tập đồ là câu nửa hiểu nửa không hiểu ấy, lấy ra cho ông một cái biểu hiện tên là Khổng ất Kỷ. Khổng ất Kỷ vào đến tiệm một cái là bao nhiêu người uống rượu đều nhìn ông mà cười, có kẻ lêu lên rằng: "Khổng ất Kỷ, trên mặt ông hôm nay đã lại thêm một vết thương mới rồi!". Ông ta không trả lời, ngó vào trong quày nói: "Hâm cho hai chén rượu, lại cho một đĩa đậu hồi hương đây". Nói thế rồi xỉa ra chín đồng tiền. Những người kia lại cố ý nói to lên rằng: "Nhất định ông lại ăn trộm cái gì của nhà người ta rồi chứ gì!" Khổng ất Kỷ trợn to mắt lên nói: "Các người làm sao lại đặt điều ra bôi nhọ người ta như thế ?" - "Chính mắt tôi đây hôm kia thấy ông ăn trộm sách nhà họ Hà, bị treo lên đánh, còn bôi nhọ gì nữa ?" Khổng ất Kỷ bèn đỏ mặt, gân xanh trên trán nổi lên từng sợi, cãi lại rằng: "Lấy cắp sách không thể kể là ăn trộm được... Lấy cắp sách!... ấy là việc của người đọc sách, thế nào kể là ăn trộm được ?" Tiếp lấy đó bèn là những câu khó hiểu, như là "quân tử cố cùng" gì gì "giả hồ" gì gì, làm cho mọi người cười rộ lên, trong và ngoài tiệm đầy dẫy cái không khí vui vẻ.

Nghe người ta bàn tán riêng với nhau, Khổng ất Kỷ vốn có đi học, nhưng trọn đời không đỗ đạt gì, lại không biết nghề làm ăn cho nên càng ngày càng cùng túng đến nỗi rắp đi ăn mày. Còn may được cái viết chữ tốt, bèn đi chép sách mượn cho người ta để kiếm cơm ăn. Khốn thay ông ta lại có tính bướng, siêng ăn nhác làm. Ngồi chép được mấy hôm, cả người luôn với sách giấy bút mực thảy đều mất tích. Như thế mấy lần, rồi thì không còn có ai thuê ông ta chép sách nữa. Khổng ất Kỷ không có cách gì, cực chẳng đã đôi khi phải làm cái việc trộm cắp. Nhưng đối với tiệm chúng tôi, ông là người có phẩm hạnh tốt hơn những người khác, nghĩa là không hề thiếu chịu; tuy cũng có khi không có tiền mặt, tạm ghi trên bảng đen, song trong một tháng thế nào cũng trả hết, trên bảng đen đã xóa bỏ họ tên Khổng ất Kỷ rồi.

Khổng ất Kỷ uống xong nửa chén rượu, cái sắc mặt ửng đỏ dần dần trở lại nguyên như cũ, có người lại hỏi: "Khổng ất Kỷ, có thật ông biết chữ không ?" Khổng ất Kỷ nhìn cái người hỏi mình đó, tỏ ra dáng chẳng thèm cãi vã. Những người khác lại tiếp lời: "Vì lẽ gì đến nửa cái tú tài mà ông cũng mò không được ư ?" Khổng ất Kỷ lập tức tỏ vẻ áy náy khó chịu, trên mặt phủ một lớp màu xám tro, trong mồm nói lẵm bẵm, lần này thôi thì rặt những là chi hồ giả dã, chẳng hiểu được chút nào. Đương lúc ấy, mọi người đều cười rộ lên, trong và ngoài tiệm đầy dẫy cái không khí vui vẻ.

Ở những lúc như thế, tôi có thể cười về hùa với họ, người chủ quày chẳng hề quở mắng đâu. Vả lại người chủ quày mỗi khi thấy Khổng ất Kỷ cũng thường hỏi đùa như thế, gợi người khác bật cười. Khổng ất Kỷ biết mình không thể nào gẫu chuyện với họ được, bèn quay đi nói với trẻ con. Có một lần hỏi tôi rằng: "Em đã đi học chưa ?" Tôi khẽ khẽ gật đầu. Ông ta nói: "Đã đi học rồi... tôi hạch hỏi em thử nào. Chữ hồi trong đậu hồi hương kia viết thế nào nhỉ ?" Tôi nghĩ, con người như ăn mày một thứ ấy mà cũng đòi hạch hỏi mình ư ? Bèn quay mặt đi, không đếm xỉa đến. Khổng ất Kỷ đợi một chặp lâu rồi tha thiết nói rằng: "Không viết được phỏng ?... Tôi sẽ bày cho. Nhớ lấy! Những chữ ấy phải nên nhớ lấy, ngày sau khi làm chủ quày biên sổ sẽ dùng". Tôi nghĩ bụng, tôi cùng chủ quày thứ bậc cách xa lắm, vả lại người chủ quày của chúng tôi cũng chẳng biên đậu hồi hương vào sổ bao giờ, vừa tức cười, vừa khó chịu, uể oải trả lời rằng: "Ai cầu ông dạy, chẳng phải thảo đầu ở trên rồi chữ hồi là về ở dưới là gì ?" Khổng ất Kỷ tỏ ra vẻ khoăn khoái, lấy hai móng tay dài gõ trên ván quày, gật đầu nói: "Đúng đấy! Đúng đấy!... Chữ hồi là về có bốn lối viết, em biết chứ ?" Tôi càng khó chịu, bĩu môi đi khỏi đó. Khổng ất Kỷ bưa vừa lấy móng tay chấm rượu toan viết chữ trên quày, thấy tôi không có ý sốt sắng gì cả, bèn lại thở dài một cái, tỏ vẻ lấy làm buồn tiếc lắm.

Có mấy lần, trẻ con hàng xóm nghe tiếng cười, cũng chầu vui chạy sang, vây lấy Khổng ất Kỷ. Ông ta cho chúng ăn đậu hồi hương, mỗi đứa một hột. Trẻ con ăn xong, vẫn cứ không đi, mắt đăm đăm nhìn cái đĩa. Khổng ất Kỷ lúng túng, thò năm ngón tay bấu vào cái đĩa lên, khom lưng xuống, nói rằng: "Chẳng có nhiều, tôi chẳng có nhiều đâu". Lại đứng thẳng lên ngó vào đĩa đậu, lắc đầu nói: "Chẳng nhiều, chẳng nhiều! Nhiều ôi thay ? Chẳng nhiều vậy"[2]. Thế rồi một đàn trẻ con kia tản đi trong tiếng cười vang.

Khổng ất Kỷ làm cho người ta vui vẻ đại khái như vậy, song le nếu không có ông ta, người ta cũng lại như vậy thôi.

Có một hôm, chừng là hai ba ngày trước tết trung thu, người chủ quày đương thư thả tính sổ, lấy cái bảng đen xuống, bỗng dưng nói: "Đã lâu rồi không thấy Khổng ất Kỷ đến, hắn còn thiếu mười chín đồng chinh đây!" Tôi mới nhớ sực ra quả thực đã lâu ông ta không đến. Một người đang uống rượu nói rằng: "Hắn làm thế nào đến được ?... Bị đánh què chân rồi". Người chủ quày nói: "Thế à R!" - "Hắn vẫn cứ ăn trộm như cũ. Lần này lại dại dột, nhè nhà cụ Cử Đinh mà ăn trộm. Của nhà ấy mà lại ăn trộm được à ?" - "Sau rồi làm sao ?" - "Làm sao ? Trước viết tờ thú lỗi, sau là đánh, đánh đến già nửa đêm và đánh què chân". - "Sau rồi sao nữa ?" - "Sau rồi đã đánh què chân thật". - "Đánh què rồi làm sao ?" - "Làm sao ?... Ai biết được ? Chết rồi cũng nên". Người chủ quày không hỏi nữa, vẫn thư thả tính sổ.

Qua cái tết trung thu, gió may càng ngày càng heo hắt, xem chừng gần sang mùa đông; tôi suốt ngày đứng gần bên lửa cũng còn phải mặc áo cộc bông mới chịu được. Một buổi chiều, chẳng có một người khách hàng nào cả, tôi đang nhắm mắt ngồi. Thình lình nghe có tiếng: "Hâm một chén rượu đây". Tiếng tuy rất nhỏ, nhưng mà nghe quen lắm. Trong ra lại không có ai hết. Tôi đứng dậy nhìn phía ngoài, thì ra Khổng ất Kỷ ngồi ở dưới quày chỗ ngay ngạch cửa. Ông ta mặt đen mà gầy, không còn ra hồn người nữa, mặc một cái áo cộc kép rách, xấp bằng hai chân, dưới đít lót một tấm bao lác, dùng dây rơm buộc treo lên vai; thấy tôi, lại nói: "Hâm cho một chén rượu đây". Người chủ quày cũng thò đầu ra, lên tiếng: "Khổng ất Kỷ đó à ? Ông còn thiếu mười chín đồng chinh nhé!" Khổng ất Kỷ bộ rất dã dượi, ngước mắt trả lời: "Món ấy... lần sau sẽ trả thôi. Lần này tiền mặt, rượu phải ngon mới được". Người chủ quày vẫn cứ làm như mọi khi, nhìn ông ta cười và nói rằng: "Khổng ất Kỷ, ông lại ăn trộm cái gì nữa rồi!". Nhưng ông ta lần này lại không chối cãi hẳn, chỉ nói một câu: "Thôi đừng có trêu". - "Lại còn trêu ? Nếu không ăn trộm, việc gì bị đánh què chân chứ ?" Khổng ất Kỷ nói khẽ: "Ngã què, ngã, ngã..." Xem chiều con mắt ông ta, như muốn van lơn người chủ quày đừng nhắc đến nữa. Lúc đó đã có mấy người nhóm lại, họ cùng người chủ quày đều cười lên một loạt. Tôi hâm xong rượu, bưng ra, đặt trên ngạch cửa. Ông ta mò trong túi áo rách lấy ra bốn đồng tiền thả vào tay tôi. Tôi thấy cái tay đầy những bùn, thì ra ông ta đã dùng tay mà đi đến. Một lát, ông uống cạn rượu, lại cứ ngồi mà đủng đỉnh nhích đi bằng tay trong tiếng nói cười của những người chung quanh.

Từ đó về sau, lâu lắm không hề thấy Khổng ất Kỷ. Đến ngày cuối năm, người chủ quày lấy cái bảng đen xuống, nói: "Khổng ất Kỷ còn thiếu mười chín đồng chinh đây!" Đến tết mồng năm năm sau, lại nói: "Khổng ất Kỷ còn thiếu mười chín đồng chinh đây!" Song le đến trung thu thì không nói, và đến cuối năm cũng không hề thấy ông ta.

Cho đến bây giờ tôi cũng không hề thấy - ước chừng Khổng ất Kỷ chắc chết rồi.

Chuyện cái đầu tóc

Sớm mai ngày chủ nhật, tôi bóc bỏ tờ lịch về ngày hôm qua, xem đi xem lại cái tờ mới bày ra, nói:

"À, mùng mười tháng mười - té ra hôm nay là ngày tết Song thập, thế mà ở đây lại không ghi gì hết!"

Ông N., một bậc tiền bối của tôi, vừa ưa đến chơi nhà trọ tôi nói chuyện phiếm, thoạt nghe câu ấy, tỏ vẻ lạnh lạt nói cùng tôi rằng:

"Họ làm đúng đấy! Họ không ghi, anh làm gì họ; còn anh nhớ, lại làm gì ư?"

Ông N. vốn là người dở hơi ít nhiều, thường hay nổi giận bâng quơ nói những câu gàn dở. Trong lúc đó, tôi cứ để mặc ông nói gì thì nói, chẳng góp một lời; một mình ông bô bô lên một lúc, thế là xong chuyện.

Ông nói:

"Tôi rất phục cái tình hình tết Song thập ở Bắc Kinh. Sáng sớm, cảnh sát đến cửa, nhắc bảo "treo cờ!" - "Vâng, treo cờ!" Thế rồi mỗi nhà uể oải đi ra một vị quốc dân, kéo lên một mảnh vải tây rằn rực sặc sỡ. Như thế cho đến đêm, - hạ cờ xuống, đóng cửa lại; có mấy nhà quên bẵng đi, treo đến buổi sáng hôm sau.

"Họ quên bẵng ngày kỷ niệm, ngày kỷ niệm cũng quên bẵng họ đi!

Tôi đây cũng là một người quên bẵng kỷ niệm. Nếu nhớ đến một cái, bao nhiêu việc trước và sau cái tết Song thập lần thứ nhất nó đều dựng ngược dậy trong lòng tôi, làm tôi ngồi đứng chẳng yên.

"Bao nhiêu khuôn mặt người bạn cũ đều nổi bật lên trước mắt tôi. Bao kẻ thiếu niên chạy vạy cực khổ mười mấy năm, bị một viên đạn trong tối cướp mất tính mệnh; bao kẻ thiếu niên tránh khỏi viên đạn ấy thì lại chịu lấy một thứ khổ hình nhiều tháng ở trong nhà lao; bao kẻ thiếu niên ôm ấp chí lớn, thình lình mất tăm biệt tích, cả đến cái đầu ở đâu cũng không ai biết.

"Bọn họ đều đã trải qua một đời người trong những sự cười gằn, rủa độc, bức bách, hãm hại của xã hội; bây giờ thì mồ mả của họ cũng đã ở trong cái quên bẵng từ lâu mà dần dần trịt lít xuống rồi.

"Tôi không thể nào kỷ niệm được những việc ấy.

"Hay hơn là chúng ta cố nhớ ra một ít việc đắc ý đem kể lại cho nhau nghe chơi".

Ông N. vụt nở một nụ cười, giơ tay vo đầu mình một cái, cao giọng nói:

"Điều mà tôi rất lấy làm đắc ý là từ sau cái tết Song thập lần thứ nhất, tôi đi trên đường, không bị người ta chế nhạo mắng chửi nữa.

"Anh bạn, chắc anh cũng biết cái đầu tóc là đồ bửu bối cũng là của oan gia của người Trung Quốc chúng ta, xưa nay bao nhiêu người đã vì nó chịu những cái thống khổ mà không có giá trị chút nào!

"Những người đời xưa rất xưa của chúng ta hình như còn coi nhẹ cái đầu tóc. Xem như hình pháp quý trọng nhất là cái đầu, cho nên chém đầu là hình bậc thượng; thứ đến là sinh thực khí, cho nên "thiến" và "đóng nõ" cũng là một thứ hình rợn người; đến "cạo trọc"[1], thôi thì nhẹ lắm, nhưng mà thử nghĩ xem, thật chẳng biết đã có bao nhiêu lớp người vì trọc cái đầu mà bị xã hội giày đạp lên cả một đời.

Khi chúng ta còn đi tuyên truyền cách mạng, hay oang oang kể những chuyện mười ngày ở Dương Châu, làm thịt cả thành Gia Định[2] gì gì đó, đó chẳng qua là một thứ thủ đoạn của chúng ta; chứ thực ra thì: sự phản kháng của người Trung Quốc thuở bấy giờ có phải đâu là vì mất nước, chỉ vì để đuôi sam đấy thôi.

Bọn ngoan dân bị giết cả rồi, các ông già sót[3] đều qua đời rồi, cái đuôi sam để đã nhất định rồi, đảng Hồng Dương[4] lại nổi dậy. Bà nội tôi từng nói với tôi, thuở đó làm dân thật khó quá, hễ để cả đầu tóc thì bị quan quân giết, còn để đuôi sam thì bị bọn "dài tóc" giết!

"Tôi chẳng biết có bao nhiêu người Trung Quốc chỉ vì cái đầu tóc không ăn thua gì ấy mà chịu khổ, chịu nạn cho đến diệt vong".

Ông N. hai mắt trông lên xà nhà, hình như nghĩ ngợi việc gì, vẫn cứ nói:

"Ai ngờ cái khổ của cái đầu tóc lại đến phiên tôi phải chịu.

"Hồi tôi đi ra ngoài lưu học, bèn cắt quách cái đuôi sam. Làm như vậy chẳng phải có cái lẽ kín nhiệm gì khác cả, chỉ vì nó không tiện quá đó thôi. Chẳng dè có mấy người đồng học quấn bín trên đỉnh đầu nhơn đó chán ghét tôi dữ lắm, ông giám đốc cũng cả giận, nói sẽ đình cấp học bổng phần tôi, tống cổ về nước nhà.

"Chưa được mấy hôm, chính mình ông giám đốc ấy lại bị người khác cắt trộm đuôi sam rồi đi trốn. Một người trong bọn cắt trộm đó là Trâu Dung, tác giả sách Cách mạng quân, anh này vì cớ đó không lưu học được nữa, trở về Thượng Hải, về sau chết ở khám Tây Lao. Anh bạn đã quên bẵng đi từ lâu rồi hẳn?

"Sau đó mấy năm, tình cảnh nhà tôi sa sút không bằng trước, không kiếm việc làm sẽ phải chết đói, tôi bèn cũng trở về nước. Tôi về đến Thượng Hải liền mua một cái đuôi sam giả, bấy giờ giá chợ là hai đồng, đeo về nhà. Mẹ tôi cũng không nói gì, nhưng mà những người chung quanh thấy mặt tôi một cái là đều trước tiên ngắm nghía cái đuôi sám ấy. Đến khi họ biết là giả, cười gằn một tiếng, lên án tôi bị chém đầu. Có người trong bọn họ còn tính đi cáo giá với quan trên nữa, song về sau vì nghĩ sợ cuộc "làm giặc" của đảng cách mạng có lẽ thành công chăng, mới thôi, không đi cáo giác.

"Tôi nghĩ, cái gì giả không bằng cái thật nó thẳng thắn và khỏe khoắn hơn, tôi bèn bỏ phăng cái đuôi sam giả, mặc quách quân áo tây đi trên đường phố.

"Suốt con đường nào mình đi, là có tiếng nhạo cười mắng chửi suốt con đường ấy. Có kẻ còn cứ đi mãi theo sau lưng xỉ vả: "Đồ ma lem!" "Đồ tây giả hiệu!"

"Tôi khi ấy không mặc đồ tây nữa, đổi mặc áo dài, họ lại mắng mỏ càng hơn.

"Giữa lúc chuột chạy cùng sào ấy, trong tay tôi mới thêm ra một chiếc ba-toong, cứ đánh văng mạnh mấy chuyến là họ dần dần không mắng nữa. Chỉ khi nào đi đến chỗ chưa từng có đánh qua thì vẫn còn mắng.

"Việc này làm cho tôi rất buồn rầu, đến bây giờ lắm khi tôi còn cứ nhớ mãi. Trong lúc tôi lưu học, có xem báo thấy chuyện một người đi du lịch Nam Dương và Trung Quốc là bác sĩ Bông-tô: vị bác sĩ này không hiểu tiếng Trung Quốc và tiếng Mã Lai, có người hỏi ông, không hiểu tiếng thì đi đường thế nào được? Bác sĩ đưa cái ba-toong lên, nói này là tiếng của chúng, chúng đều hiểu cả! Câu chuyện ấy làm tôi tính chất giận đến mấy ngày, ai ngờ chính mình tôi cũng làm như thế mà không tự biết, vả lại những người kia cũng đều hiểu cả đi...

"Mấy năm đầu niên hiệu Tuyên Thống, tôi làm kiểm học ở một trường trung học tỉnh nhà, các bạn đồng sự lánh mặt tôi càng xa càng lấy làm hay, đám quan liêu phòng bị tôi càng nghiêm càng lấy làm được việc, tôi cả ngày như ngồi trong hầm nước đá, như đứng bên cạnh pháp trường, sự thực chẳng bởi gì khác, chỉ bởi thiếu một cái đuôi sam!

"Một ngày kia, có mấy tên học sinh thình lình đi vào phòng của tôi, nói: "Thưa thầy, chúng tôi muốn cắt quách đuôi sam đi". Tôi nói: "Không được!" - "Có đuôi sam phải hơn, hay không có đuôi sam phải hơn?" - "Không có đuôi sam phải hơn". - "Thế thì sao thầy lại bảo là không được?" - "ấy không nên, các anh khoan cắt đã là hơn... hãy đợi đã". Bọn họ không nói gì, bĩu môi đi ra khỏi phòng; nhưng mà rốt lại họ cũng cứ cắt.

"A! Không xong rồi, người ta nói nhiều quá lắm rồi. Tôi chỉ tảng lờ như không biết, cứ để mặc bọn họ đưa cái đầu trọc cùng với bao nhiêu cái đuôi sam một loạt vào lớp học.

"Song le sự cắt bín ấy đã thành ra bệnh truyền nhiễm: ngày hôm sau nữa, bọn học sinh trường sư phạm thình lình cũng cắt mất sáu cái, đến chiều, có sáu học sinh bị đuổi. Sáu tên ấy, ở trường không được, về nhà cũng không được, đợi mãi cho đến hơn một tháng sau cái tết Song thập lần thứ nhất mới xóa được cái vết dấu lửa đóng trên kẻ phạm tội.

"Còn tôi? Cũng thế. Chỉ có mùa đông Dân quốc nguyên niên đến Bắc Kinh còn bị người ta mắng mấy lần, sau rồi những người mắng tôi cũng bị cảnh sát cắt mất đuôi sam, tôi mới không được mắng nữa; song tôi chưa hề đi đến trong những vùng nhà quê".

"Ông N. tỏ ra vẻ đắc ý lạ thường, bỗng dưng lại sầm mặt xuống:

"Hiện nay các anh là những nhà lý tưởng kia lại còn ở chốn này kêu gào phụ nữ hớt tóc gì gì nữa, lại muốn tạo nên bao nhiêu người chỉ chịu thống khổ mà chẳng được một chút gì!

"Hiện nay chẳng đã có những cô con gái cắt mất cái đầu tóc rồi, vì đó thi vào trường không được hay là bị trường đuổi ra đó ư? "Cách mạng à, võ khí ở đâu? Vừa làm công vừa học à, công xưởng ở đâu?

"Cứ để cái đầu tóc, gả về làm dâu nhà người ta đi. Quên bẵng tất cả, còn là hạnh phúc, nếu để họ nhớ lấy ít nhiều câu tự do bình đẳng, ấy là sẽ phải chịu thống khổ suốt một đời!

"Tôi phải mượn câu nói của Artzybashev hỏi các anh: Các anh hứa hẹn sẽ ban cái thời đại hoàng kim cho lũ con cháu của bọn người hiện thời, song có cái gì ban cho chính mình bọn người hiện thời ấy chăng?

"A! Khi cái roi da của tạo vật chưa hề đến trên sống lưng của Trung Quốc thì Trung Quốc cứ mãi mãi là cái Trung Quốc mức ấy thôi, chính mình nó quyết không chịu thay đổi một mảy lông nào!

"Trong mồm các anh đã không hề có nọc độc, thì sao lại nhè dán hai chữ "rắn lục" to tướng lên trán, rước ăn mày đến đánh chết?..."

Ông N. càng nói càng thêm quái gở, nhưng thoạt thấy tôi tỏ vẻ không buồn nghe nữa, tức thì ngậm miệng đứng dậy lấy cái mũ.

Tôi nói: "Đi về à?".

Ông trả lời: "Phải, trời sắp đổ mưa rồi".

Tôi lằm lằm lụi lụi đưa ông ta ra đến cửa.

Ông N. đội mũ lên, nói:

"Lần khác! Xin anh bạn tha thứ tôi đã đến khuấy rầy. Được cái là ngày mai không còn là tết Song thập nữa, chúng ta có thể quên bẵng đi tuốt cả".

(Tháng 10, năm 1920, trước tết Song thập)

Nêu đại ý

Sau Cách mạng Tân Hợi, Dân quốc Trung Hoa bị bọn quân phiệt giày xéo, từ Viên Thế Khải đến Đoàn Kỳ Thụy, luôn luôn sát hại thanh niên, đày ải dân chúng, làm cho những người đặt hy vọng vào cách mạng trở nên thất vọng, Lỗ Tấn là một trong đám người thất vọng ấy.

Trong truyện ngắn này, ông tỏ ra lòng phẫn uất đối với thời cuộc và căm giận đối với bọn quân phiệt mà mượn cửa miệng ông N. nào đó. Thực ra, những điều ông N. nói đó toàn là những thực sự chính mình Lỗ Tấn đã từng trải mà ông có thuật lại ở những nơi khác, tức là cắt bín trong khi lưu học; dùng bín giả trong khi về nước; chỉ vì không có bín mà bị nghi kỵ đề phòng trong khi làm kiểm học.

Lỗ Tấn có thất vọng về Cách mạng Tân Hợi, nhưng không hề tiêu cực như những người khác thất vọng. Ngẫm mấy câu ông N. nói cuối cùng, thấy tác giả có ý vì muốn "ban cái gì cho chính mình bọn người hiện thời" mà chủ trương dùng "roi da" quật vào thời cuộc, lấy "nọc độc" chích vào kẻ phản cách mạng, tức là nhóm lại phong trào cách mạng và đưa nó lên cao độ hơn.

Trong bài Đời Lỗ Tấn và những nét lớn về phát triển tư tưởng của ông, Phùng Tuyết Phong nói: "Lỗ Tấn dùng tiểu thuyết giải phẫu xã hội Trung Quốc... Trong đó cũng phản ánh mối tình nhớ lại mà đau xót của mình về sự thất bại Cách mạng Tân Hợi và về sự dạy dỗ của cái kinh nghiệm ấy..." ấy là chỉ vào mấy thiên tiểu thuyết như thiên này.

Sóng gió

Trên vạt đất kề sông, mặt trời đã dần dần thu về những tia ánh sáng vàng. Những cây ô bách dựa sông trên vạt đất, lá nó vừa mới khô khan thở ra hơi, mấy con muỗi vằn chân đang vo ve bay lượn ở dưới. Trong ống khói bếp của những nhà nông ngó mặt ra sông mỗi lúc một nhạt bớt khói nấu ăn, bọn đàn bà trẻ con đều xối nước trên vạt đất trước cửa nhà mình, đem đặt bàn nhỏ và ghế đẩu thấp ; người ta biết ấy là đã đến bữa cơm chiều rồi.

Người già, đàn ông ngồi trên ghế đẩu thấp, phẩy quạt lá và nói chuyện gẫu, trẻ con chạy lăng xăng, hay là ngồi xổm dưới cây ô bách đánh chắt. Người đàn bà bưng ra món dưa bung đen sẫm và cơm gạo hoa khế hơi lên nghi ngút. Chiếc thuyền rượu của nhà văn chạy dưới sông, các văn hào thấy thế, hứng thơ lai láng, nói rằng: Vô tư vô lự, đó thật là cái vui nhà nông!.

Nhưng câu nói của văn hào có hơi không đúng sự thực, là vì họ không nghe thấy bà cụ Chín cân nói. Lúc đó, bà cụ Chín cân đang giận dữ, cầm cây quạt lá vả rách đập dưới cẳng ghế nói:

Tao sống đến bảy mươi chín tuổi rồi, sống chán rồi, tao không muốn trông thấy những của phá gia ấy, chết đi cho rảnh. Đã đến bữa cơm rồi, còn ăn đậu rang, ăn cho tận tiệt cả nhà đi!.

Con bé Sáu cân, chắt nội gái của bà cụ, nắm một nắm đậu, đang ở trước mặt chạy lại, thấy thế, bèn chạy thẳng đến mé sông, nấp đằng sau cây ô bách, thò ra cái đầu nhỏ có hai quả đào, lớn tiếng nói: Cái đồ già chẳng chết đi kia!.

Bà cụ Chín cân tuy cao tuổi, lỗ tai vẫn không điếc lắm, có điều cũng không nghe thấy câu nói của con bé, bà vẫn cứ tiếp theo lời mình: Thật là một đời chẳng bằng một đời!

Thói tục làng này có hơi khác. Đàn bà trẻ con ra, phần nhiều ưa dùng cân cân xem nặng nhẹ, bèn lấy cái số cân được ấy đặt tên quai nôi. Bà cụ Chín cân từ sau khi làm lễ mừng thọ năm mươi, thì dần dần hóa ra người bất bình, thường nói hồi bà còn trẻ, khí trời không có nóng như bây giờ, hột đậu cũng không có cứng như bây giờ ; tóm lại thời buổi bây giờ là không tốt. Huống nữa con bé Sáu cân so với ông cố nó thiếu mất ba cân, so với bố nó Bảy cân, lại thiếu mất một cân, đó thật là một cái chứng chắc chắn không đánh đổ được, cho nên bà lại rắn rỏi nói: Thật là một đời chẳng bằng một đời!.

Mụ Bảy cân, con dâu bà, đang bưng rá cơm đến bên bàn, bèn ném rá cơm xuống trên bàn, tức tưởi nói: Cụ đã lại nói thế. Lúc con Sáu cân đẻ ra, chẳng phải sáu cân năm lạng là gì? Cân nhà cụ lại là cân non, cho già lên, kể mười tám lạng là một cân ; đem đọ với cân mười sáu lạng, con Sáu cân nhà ta hẳn là hơn bảy cân đấy. Tôi tưởng dù là ông cố và ông nhà ta, cũng không chắc đủ chín cân tám cân đâu, cái cân đã dùng có lẽ là thứ cân mười bốn lạng....

Một đời chẳng bằng một đời!

Mụ Bảy cân còn chưa đáp lại, bỗng thấy Bảy cân từ trong ngõ hẻm đi ra, bèn day hướng, quát lên với hắn rằng: Cái thây thối này sao đến giờ này mới dẫn thân về, chết đi đằng nào hử! Không màng đến ở nhà người ta đợi về mới giở cơm!.

Bảy cân tuy ở trong nông thôn, chứ vốn có ý bay nhảy. Từ ông nội hắn đến hắn, đã ba đời không cầm cày ; hắn cũng noi gương giúp người ta đi lái thuyền, mỗi ngày một chuyến, sáng sớm từ Lỗ trấn lên thành, chiều tối lại trở về Lỗ trấn, nhân đó hắn biết ít nhiều thời sự: như ở nơi nào đó thiên lôi đánh chết con tinh rết ; ở nơi nào đó cô con gái đồng trinh đẻ ra con quỷ dạ xoa, v.v... Kế trong đám người làng, hắn đã là một vai trò trên sân khấu. Nhưng mùa hè ăn cơm không thắp đèn, cái lề lối ấy của nhà nông vẫn còn giữ, cho nên về đến nhà trễ quá, là điều đáng mắng.

Bảy cân tay cầm cái ống điếu dọc bằng trúc Tương phi[1] dài hơn sáu thước, mõm bịt ngà, tẩu bằng đồng bạch, cúi đầu thủng thẳng đi đến, ngồi trên cái ghế đẩu thấp. Sáu cân cũng thừa dịp lủi ra, ngồi cạnh hắn, kêu cha cha. Bảy cân không trả lời.

Một đời chẳng bằng một đời! Bà cụ Chín cân nói.

Bảy cân chậm rãi ngước đầu lên, thở ra nói: Hoàng đế đã lại ngự ngai vàng rồi[2].

Mụ Bảy cân ngây người ra một lúc, bỗng như sực tỉnh nói: Thế thì tốt lắm, thế chẳng lại sắp có ban ơn đại xá là gì!

Bảy cân lại thở ra, nói: Tôi không có cái bín.

Hoàng đế bắt phải có cái bín sao?

Hoàng đế bắt phải có cái bín.

Sao mình biết? Mụ Bảy cân hơi hốt hoảng, vội vàng hỏi.

Những người trong tiệm rượu Hàm Hanh đều nói như thế.

Mụ Bảy cân lúc đó không phải suy nghĩ, thấy ngay rằng sự tình có hơi không ổn rồi, bởi vì tiệm rượu Hàm Hanh là nơi nhạy tin tức. Mụ liếc mắt thấy cái đầu Bảy cân trơ trụi, thì nổi giận không cầm được, kìa quái hắn, căm hờn hắn ; bỗng lại đâm ra tuyệt vọng, bới một bát cơm vứt ở trước mặt Bảy cân, nói: Thôi thì ăn nhanh cho xong bữa cơm đi! Cứ khóc bù lu bù loa rồi nó dài cái bín ra được sao?.

Mặt trời thu về hết những tia sáng cuối cùng, hơi mát ngấm ngầm trở lại trên mặt nước ; tiếng bát đũa khua động trên vạt đất, mọi người đều đổ mồ hôi giọt trên sống lưng. Mụ Bảy cân ăn xong ba bát cơm, tình cờ ngước đầu lên, trong buồng tim bỗng thấy đập mạnh không cầm được. Mụ trông qua lá cây ô bách, thấy cụ Bảy Triệu vừa lùn vừa mập đang từ trên chiếc cầu độc mộc đi đến, mà lại mặc áo dài trúc bâu màu bửu lam.

Cụ Bảy Triệu là chủ tiệm rượu Mậu nguyên làng bên, lại là nhân vật xuất sắc vả là nhà học vấn có một trong vòng tư vuông ba mươi dặm vùng ấy ; vì có học vấn nên lại có ít nhiều khí vị già sót[3]. Cụ có hơn mười thứ Tam quốc chí của Kim Thánh thán phê bình, thường ngày cứ ngồi đọc từng chữ từng chữ ; chẳng những nói ra được tên họ của năm Hổ tướng, rất đỗi còn biết được Hoàng Trung biểu tự là Hán thăng, Mã Siêu biểu tự là Mạch khởi. Sau cách mạng, cụ quấn bín trên đỉnh đầu, như một đạo sĩ ; thường thường than thở nói, nếu Triệu Tử Long còn sống, thiên hạ chắc không loạn đến thế này. Mụ Bảy cân nhanh mắt, thấy cụ Bảy Triệu hôm nay đã không phải là đạo sĩ, cái đầu cạo láng trơn, bín tóc đen nhánh, khắc biết rằng nhất định hoàng đế đã lại ngự ngai vàng, vả lại nhất định cần phải có cái bín, vả lại nhất định Bảy cân sẽ có sự nguy hiểm phi thường. Bởi vì chiếc áo dài trúc bâu ấy của cụ Bảy Triệu không phải dễ dàng lúc nào cũng thường mặc, ba năm nay, chỉ mặc có hai lần ; một lần là Lão Tư Rỗ người giận nhau với cụ lâm bệnh, một lần là khi ông Cả Lỗ người phá phách tiệm rượu của cụ chết đi ; nay là lần thứ ba, nhất định lại là việc vui mừng cho cụ, tai họa cho kẻ thù của cụ.

Mụ Bảy cân nhớ lại, hai năm trước, Bảy cân say rượu, từng mắng cụ Bảy Triệu là đồ khốn, cho nên giờ này tức khắc thấy ngay chỗ nguy hiểm của Bảy cân, trong buồng tim nổi lên đập mạnh.

Cụ Bảy Triệu đi thẳng tới, những người ngồi ăn cơm đều đứng dậy, cầm đũa gõ trên bát cơm của mình nói: Cụ Bảy, mời cụ xơi cơm với chúng tôi!. Cụ Bảy cũng gật đầu thẳng một mạch, nói xin mời, lại đi ngay đến bên bàn ăn nhà Bảy cân. Cả nhà Bảy cân vội vàng chào mời, cụ Bảy cũng mỉm cười nói xin mời, một mặt để ý xem xét cơm và thức ăn của họ.

Món dưa bung thơm quá, - đã có nghe tin đồn gì chứ?. Cụ Bảy Triệu đứng sau lưng Bảy cân, trước mặt mụ Bảy cân, nói thế. Hoàng đế đã lại ngự ngai vàng rồi. Bảy cân nói.

Mụ Bảy cân cứ nhìn trên mặt cụ Bảy, hết sức vồn vã nói: Hoàng đế đã ngự ngai vàng rồi, bao giờ mới ban ơn đại xá ư?.

Ban ơn đại xá à? - Đại xá thì thư thả rồi thế nào cũng đại xá đấy. Cụ Bảy nói đến đó, tiếng nói và nét mặt bỗng trở nên nghiêm xẳng. Nhưng mà cái bín của Bảy cân nhà chị đâu, cái bín? Đó lại là việc cần thiết. Các người phải biết: thời buổi Trường Mao, hễ để tóc thì không để đầu, mà để đầu thì không để tóc...[4]

Bảy cân và vợ hắn chưa hề đọc sách, không hiểu được sự màu nhiệm của cái cổ điển ấy cho lắm, nhưng thấy rằng cụ Bảy nhà học vấn đã nói như thế, thì cái sự không có bín tự nhiên là to chuyện, không có cách chạy chữa được, bèn mường tượng như là bị tuyên án xử tử, ù tai một cái, chẳng nói gì được nửa lời.

Một đời chẳng bằng một đời, bà cụ Chín cân đang bất bình, thừa dịp ấy, bèn nói với cụ Bảy Triệu, Bọn Trường Mao hiện giờ, chỉ việc cắt bín người khác, thầy tu chẳng ra thầy tu, đạo sĩ chẳng ra đạo sĩ. Bọn Trường Mao trước kia có như thế đâu? Tôi sống đến bảy mươi chín tuổi rồi, sống chán rồi. Bọn Trường Mao trước kia là - nguyên cả súc đoạn đỏ bịt đầu, thả thòng xuống, thả thòng xuống, thòng thẳng đến gót chân ; các đức ông tước vương là đoạn vàng, thả thòng xuống, đoạn vàng ; đoạn đỏ, đoạn vàng, - tôi sống chán rồi, bảy mươi chín tuổi rồi.

Mụ Bảy cân đứng dậy, nói một mình: Thế mới làm thế nào được? Con người ấy, cả nhà từ già đến trẻ đều nhờ nó nuôi sống...

Cụ Bảy Triệu lắc đầu nói: Cái đó cũng chịu phép. Không có bín, phải mắc tội gì, trong sách đều chép từng điều từng điều rõ ràng lắm. Mặc kệ nhà mình có những người thế nào.

Mụ Bảy cân nghe nói có chép trong sách, thật đã không còn trong mong mảy may nào nữa ; chính mình bối rối, bỗng lại đâm giận Bảy cân. Mụ lấy chiếc đũa chỉ vào sống mũi chồng và nói: Thằng chết vằm này mình làm thì mình chịu! Lúc làm giặc[5], tôi đã bảo, không nên chống thuyền, không nên lên thành. Nó lại cứ liều lĩnh lên thành, xông xáo lên thành, lên thành mới bị người ta cắt mất bín đi. Trước kia là cái bín đen lánh có ngời, bây giờ hóa nên thầy tu chẳng ra thầy tu, đạo sĩ chẳng ra đạo sĩ. Thằng tù này mình làm thì mình chịu, làm hại lây đến cả nhà chúng tôi là nghĩa làm sao? Cái thằng tù chết vằm kia...

Người làng thấy cụ Bảy Triệu vào làng, đều ăn vội cho xong bữa cơm, đến nhóm ở chung quanh bàn ăn nhà Bảy cân. Bảy cân biết mình là vai trò trên sân khấu, mà bị vợ mắng tàn nhẫn như thế trước mặt đông người, rất là bẽ mặt, bèn gượng ngước đầu lên, chậm rãi nói:

Hôm nay mình thấy việc xảy ra mới nói thế, chứ hồi đó mình...

Mầy, cái thằng tù chết vằm kia...

Trong những kẻ đứng xem, có chị Tám là người có lòng tốt, bế đứa con mồ côi từ trong bụng giáp hai năm của mình đứng bên mụ Bảy cân ; lúc đó cầm lòng không đậu, vội vàng khuyên giải nói: Chị Bảy cân, thôi được rồi. Người ta không phải thần tiên, ai biết được việc về sau? Dù cho chính mình chị, lúc đó chẳng cũng đã nói, không có bín cũng chẳng xấu gì hay sao? Huống chi các cụ lớn nhà quan cũng không hề rao bảo....

Mụ Bảy cân chưa nghe hết lời, hai cái tai đã đỏ ửng lên, bèn day chiếc đũa qua, chỉ vào sống mũi chị Tám, nói: ối già, sao lại nói thế! Chị Tám nè, tôi xem tôi vẫn còn là một con người, có thể nào thốt ra lời ngu muội hồ đồ như thế? Lúc đó tôi khóc suốt ba ngày, ai ai cũng thấy, cả đến con bé Sáu cân này cũng khóc.... Con bé Sáu cân vừa ăn xong một bát cơm lớn, cầm cái bát không giơ tay đòi bới thêm. Mụ Bảy cân đang tức tối, bèn lấy chiếc đũa xỉa xuống giữa hai quả đào của nó, nạt to rằng: Ai mượn mầy lắm mồm, mấy cái con mụ góa lấy trai kia!.

Bỗng một tiếng chảng, cái bát không của con bé Sáu cân rơi xuống đất, rủi chạm phải hòn gạch vỡ, mẻ một miếng rất lớn. Bảy cân đứng phắt dậy, lượm cái bát vỡ lên, gằm miếng mẻ lại săm soi một lúc, cũng thét lên, đéo mẹ mầy! đánh cho Sáu cân một cái tát. Sáu cân nằm xuống khóc, bà cụ Chín cân nắm lấy tay nó, nói liên thanh một đời chẳng bằng một đời, rồi kéo nhau đi.

Chị Tám cũng nổi giận, to tiếng nói: Chị Bảy cân, chị giận cá chém thớt.

Cụ Bảy Triệu nãy giờ cứ cười cười đứng cạnh xem ; song từ sau khi chị Tám nói câu các cụ lớn nhà quan cũng không rao bảo, lại có hơi tức giận. Lúc này cụ đã đi quanh ra cạnh bàn, nói tiếp theo: Giận cá chém thớt mà đáng kể vào đâu. Đại binh rồi sẽ kéo đến. Mụ phải biết, người bảo giá lần này là Trương đại súy[6]. Trương đại súy là dòng dõi của Trương Dực Đức người Yên, một thanh xà mâu trượng tám của ông có cái sức mạnh muôn người không địch nổi, ai có thể chống lại ông?. Đồng thời cụ thu hai tay không, tuồng như nắm thanh xà mâu vô hình, nhằm chị Tám xông tới mấy bước nói: Mụ có thể chống lại ông không?.

Chị Tám giận đến nỗi ôm đứa con phát run, bỗng thấy cụ Bảy Triệu mặt mướt mồ hôi mỡ, trợn mắt, nhằm chị xông tới, chị sợ quá, không dám nói hết câu, quay mình đi. Cụ Bảy Triệu cũng đi theo, mọi người một mặt quát chị Tám nhiều chuyện, một mặt dãn ra tránh đường, mấy kẻ từng cắt bín rồi để tóc lại bèn vội vàng nấp ở sau đám người, sợ cụ trông thấy. Cụ Bảy Triệu cũng chẳng để ý xét hỏi, lách qua đám người, bỗng rẽ vào sau cây ô bách, nói: Mụ có thể chống lại ông không? rồi dằm lên cầu độc mộc, đi thẳng một hơi.

Bọn người làng đứng ngơ ngác, trong lòng so tính, đều thấy mình không thể chống lại Trương Dực Đức, nhân đó cũng kể chắc Bảy cân sẽ phải chết. Bảy cân đã là kẻ phạm phép vua, họ nghĩ đến hắn trước kia, khi nói chuyện với người khác về tin tức trong thành, không nên ngậm ống, điếu dài làm ra dáng kiêu ngạo thế ấy, cho nên đối với sự Bảy cân phạm phép, họ cũng thấy có hơi hả dạ. Họ hình như muốn phát ra một vài lời nghị luận, song lại thấy không có lời nghị luận nào đáng phát ra. Lũ muỗi kêu vo ve om sòm một trận, chạm vào những cái mình mẩy ở trần, vụt đến họp chợ dưới cây ô bách ; bọn người làng cũng thư thả trở về nhà, đóng cửa đi ngủ. Mụ Bảy cân cứ cằn rằn, rồi cũng thu dọn mâm bát bàn ghế vào nhà, đóng cửa đi ngủ.

Bảy cân đem cái bát vỡ về nhà, ngồi ở bực cửa hút thuốc ; song buồn rầu quá, quên bẵng hút, lửa trong cái tẩu đồng bạch của cái ống điếu trúc Tương phi mõm bít ngà dài sáu thước dần dần tối đen đi. Trong lòng hắn chỉ thấy như sự tình mười phần nguy cấp, cũng muốn nghĩ ra cách gì, tìm ra phương kế gì, song trong trí cứ là mập mờ, không nẻ nóc được: Bín hỡi bín? Cái xà mâu trượng tám. Một đời chẳng bằng một đời! Hoàng đế ngự ngai vàng. Cái bát vỡ phải đem lên thành bịt lại. Ai có thể chống lại ông ấy? Trong sách đều có chép từng điều từng điều. Đéo mẹ mầy!.

Sáng sớm hôm sau, Bảy cân theo thói quen chống thuyền từ Lỗ trấn lên thành, chiều tối lại trở về Lỗ trấn, cầm cái ống điếu trúc Tương phi, hắn nói với bà cụ Chín cân, cái bát này gắn lại ở trong thành, vì miếng mẻ lớn nên cần tới mười sáu cái đinh, ba đồng điếu một cái, cả thảy tốn hết bốn mươi tám đồng điếu.

Bà cụ Chín cân buồn rầu nói: Một đời chẳng bằng một đời! Tao sống chán rồi. Ba đồng điếu một cái đinh ; đinh ngày xưa thế này ư? Đinh ngày xưa là... Tao sống bảy mươi chín tuổi rồi...

Đó về sau Bảy cân tuy chiếu lệ hàng ngày lên thành, song cảnh nhà hơi mờ sẫm, người làng đều có ý tránh mặt, không đến nghe những tin tức nhặt được từ trong thành nữa. Mụ Bảy cân cũng không đối đãi tử tế, vẫn thường kêu hắn là thằng tù.

Trải qua hơn mười ngày, Bảy cân từ trong thành về nhà, thấy vợ hắn vui vẻ lắm, hỏi hắn rằng: Mình ở trong thành có nghe gì không?

Không có nghe gì cả.

Hoàng đế có lại ngự ngai vàng không?

Họ không nói.

Trong tiệm rượu Hàm hanh cũng không ai nói sao?

Cũng không ai nói.

Tôi tưởng nhất định hoàng đế không ngự ngai vàng rồi. Hôm nay tôi đi ngang qua trước tiệm cụ Bảy Triệu, thấy cụ lại ngồi nhẫm sách, bín lại quấn trên đỉnh đầu, cũng không mặc áo dài.

......

Mình nghĩ, không ngự ngai vàng rồi chứ?

Tôi tưởng, không ngự nữa rồi.

Bảy cân hiện nay lại đã được mụ Bảy cân và người làng tôn kính vừa phải, đối đãi vừa phải. Đến mùa hè, họ vẫn ăn cơm ở trên vạt đất trước cửa nhà mình ; mọi người thấy nhau, đều cười hì hì chào hỏi. Bà cụ Chín cân đã làm lễ mừng thọ tám mươi rồi, vẫn cứ bất bình mà lại mạnh giỏi. Đôi quả đào của con bé Sáu cân đã biến thành một cái bín lớn ; nó tuy mới bó chân[7], nhưng vẫn làm việc giúp mẹ nó được, bưng cái bát cơm đóng mười tám cái đinh đi nhót nhắc qua lại trên vạt đất.

Tháng 10 năm 1920

Nêu đại ý

Năm 1917, tức là Dân quốc năm thứ 6, tháng 7, ngày I, Trương Huân, đốc quân tỉnh An Huy, kéo quân vào Bắc Kinh, đuổi tổng thống Dân quốc Lê Nguyên Hồng, lập lại phế đế Phổ Nghi lên làm vua. Chưa được 2 tuần lễ, ngày 12 tháng ấy, Thảo nghịch quân của Đoàn Kỳ Thụy vào Bắc Kinh, Trương Huân chạy trốn, Phổ Nghi lại bị truất.

Truyện ngắn này phản ánh lại cả cuộc chính biến ấy đã có ảnh hưởng đến dân gian như thế nào.

Một việc lớn đã xảy ra trong nước: cái chính thể dân chủ bị lật đổ, cái chính thể quân chủ được lập lại, thế mà ảnh hưởng đến người dân chỉ có là sự lo sợ về có bín hay không có bín mà thôi. Khi nghe tin hoàng đế ngự ngai vàng thì vợ chồng đâm ra cau cú nhau, khi nghe tin hoàng đế không ngự ngai vàng thì cả nhà cho đến hàng xóm nữa lại sống nhung nhúc với nhau như cũ.

Đó không phải là tác giả bộc lộ cái vô tri vô thức của dân chúng mà chính là bộc lộ cái sở dĩ thất bại của Cách mạng Tân Hợi. Cuộc cách mạng này không cậy lực lượng dân chúng, không lãnh đạo được dân chúng, cho nên đến lúc nó thất bại, dân chúng không ai để ý đến.

Muốn hiểu truyện này, nên đọc kèm với Chuyện cái đầu tóc và A Q. chính truyện chương VII, chương VIII.

Làng quê

Tôi xông pha trong những ngày giá rét, trở về làng quê của tôi, nơi cách xa hơn hai ngàn dặm, biệt đi hơn hai mươi năm.

Thời tiết đã là giữa mùa đông ; khi gần đến làng quê, màu trời lại sầm tối, gió lạnh thổi vào trong khoang thuyền, vù vù vụt vụt, từ khe hở mui thuyền dòm ra, dưới nền trời vàng xám, nằm in những làng mạc xơ xác gần đến xa, không có lấy một tí hơi sống. Lòng tôi đâm ra buồn bã không cầm nổi.

A! Đó chẳng phải là làng quê mà ta lúc nào cũng nhớ đến trong hai mươi năm nay?

Cái làng quê mà tôi nhớ không phải như thế đâu. Làng quê của tôi tốt hơn lắm cơ. Song le nếu tôi muốn ghi lấy cái đẹp đẽ của nó, nói ra chỗ hay của nó, thì lại không có bóng dáng nào, không có lời nào. Mường tượng đâu cũng là như thế. Thế rồi tôi tự giải thích cho mình rằng: làng quê vốn nó như thế - tuy không có tiến bộ gì, chứ cũng không đến nỗi có sự buồn bã như ta cảm thấy, đó chỉ bởi tâm tình ta thay đổi mà thôi, vì lần này tôi về quê, trong lòng vốn chẳng có vui vẻ gì.

Tôi về lần này chỉ có một việc để mà biệt hẳn nó. Cái nhà cũ ở cả bà con chúng tôi trong bao nhiêu năm, đã đồng ưng bán cho người khác rồi, nội trong năm nay thì giao nhà, cho nên cần phải kịp trước ngày mồng một tháng giêng, chúng tôi biệt hẳn cái nhà cũ quen thuộc, vả lại biệt hẳn cái làng quê quen thuộc, dời đến một nơi khác mà tôi đang kiếm ăn ở đó.

Sáng sớm hôm sau tôi đã đến cửa ngõ nhà tôi rồi. Bao nhiêu cộng cỏ khô trên kẽ ngói cứ run rẩy giữa gió, nó đang cắt nghĩa cái nhà lâu đời này tại làm sao phải bán. Mấy phòng bà con chừng đã dời đi hết, cho nên rất vắng vẻ. Tôi đến ngoài cửa phòng chúng tôi ở, mẹ tôi đã ra đón tiếp đến là thằng cháu Hoành tám tuổi chạy ra.

Mẹ tôi vui mừng lắm, song cũng giấu ít nhiều vẻ thiểu não, bảo tôi ngồi xuống nghỉ, uống trà, hẵng khoan nói đến chuyện dời nhà. Thằng cháu Hoành chưa hề thấy tôi, cứ đứng xa xa mải nhìn tôi.

Nhưng cuối cùng chúng tôi bàn đến chuyện dời nhà. Tôi nói chỗ trọ ở ngoài kia đã thuê được rồi, lại đã mua sắm đồ vặt một ít, bây giờ nên bán tất cả đồ gỗ ở nhà để sau mua thêm. Mẹ tôi đồng ý, vả lại hành lý cũng đã xếp dọn qua loa rồi, những đồ gỗ không thể chở đi được cũng đã bán đi một số rồi, có điều không thu tiền về được.

Anh nghỉ ngơi một vài hôm, đi thăm bà con họ hàng một bận, rồi thì chúng ta đi ngay tôi. Mẹ tôi bảo tôi.

Thưa vâng.

Còn có Nhuận Thổ, mỗi khi hắn đến nhà ta đều hỏi đến anh, hắn rất muốn gặp mặt anh một lần. Mẹ đã bảo cho hắn biết ước chừng cái ngày anh về tới nhà, có lẽ hắn cũng sẽ đến.

Lúc đó, trong đầu tôi thoáng thấy một bức vẽ kỳ lạ: Giữa nền trời màu chàm thẫm treo một vừng trăng tròn màu vàng, dưới là đất cát bờ biển, trồng những đám dưa hấu xanh lật lìa, giai giai ngàn ngạn trong đó có một chú bé mười một mười hai tuổi, cổ đeo kiềng bạc, tay cầm cái chỉa ba, ráng sức đâm một con tra, con tra xoay mình một cái, rúc qua dưới háng chú bé chạy trốn mất.

Chú bé ấy tức là Nhuận Thổ. Tôi khi biết hắn, chỉ mới hơn mười tuổi, cách nay hầu ba mươi năm, bấy giờ cha tôi còn sống, cảnh nhà cũng khá, tôi chính là một cậu cả. Năm nọ, nhà tôi đương cai một lễ tế lớn. Lễ tế ấy, thấy nói hơn ba mươi năm mới luân đến một phiên, cho nên rất trọng thể. Trong tháng giêng cúng tổ, của cúng rất nhiều, đồ trần thiết rất chọn lọc, người hầu tế cũng rất đông, cũng rất nên phòng ngừa những đồ ấy bị mất cắp. Nhà tôi chỉ có một người làm tháng (những người làm thuê miền tôi chia ba hạng: ai chuyên làm cho một nhà nào cả năm gọi là làm năm ; làm mỗi ngày gọi là làm ngày ; chính mình cũng làm ruộng, chỉ gặp tết nhất và lúc mùa màng đi làm cho một nhà nào gọi là làm tháng), ban ạ không xuể, người ấy bèn nói với cha tôi, gọi thằng Nhuận Thổ con của mình đến trông nom đồ trần thiết.

Cha tôi khứng chịu ; tôi cũng rất vui lòng, vì từ lâu đã nghe cái tên Nhuận Thổ, vả lại biết hắn cùng trạc tuổi với tôi, đẻ tháng nhuận, ngũ hành thiếu thổ, cho nên cha hắn đặt tên là Nhuận Thổ. Hắn có tài gài bẫy bắt những chim nhỏ.

Thế rồi, tôi ngày ngày ngóng trông năm mới, năm mới đến, thì Nhuận Thổ cũng đến. Mãi mới tới cuối năm, một ngày kia, mẹ tôi bảo tôi, Nhuận Thổ đến rồi, tôi bèn đâm bổ xuống xem. Hắn đang ở trong nhà bếp, mặt tròn màu da dâu, đầu đội mũ nỉ nhỏ, cổ đeo kiềng bạc sáng ửng, đủ biết cha hắn yêu hắn lắm, sợ hắn chết đi, nên mới hứa nguyện trước thần phật, dùng cái kiềng xích hắn lại. Hắn thấy ai cũng sợ xấu hổ, chỉ không sợ tôi, khi không có người khác, hắn nói chuyện với tôi, thế rồi không đến nửa ngày, chúng tôi đã quen nhau.

Hồi đó, chúng tôi chẳng biết nói những gì, chỉ nhớ rằng Nhuận Thổ vui vẻ lắm, hắn nói sau khi lên thành, thấy được nhiều cái mà hắn chưa từng thấy.

Ngày hôm sau, tôi yêu cầu hắn bắt chim, hắn nói:

Không được. Phải đợi có sa tuyết lớn mới được. ở miền chúng tôi, khi sa tuyết rồi, tôi quét lấy một chỗ trống trên bãi cát, dùng cái que chống một cái mẹt lớn, vãi gạo và tấm, hễ thấy chim chóc đến ăn, tôi ở đằng xa giật cái dây buộc ở que, những chim chóc ấy liền bị chụp lại trong cái mẹt. Chim gì cũng có: sáo, cưởng, chim gâu, chim sả...

Thế rồi tôi lại rất ngóng trông sa tuyết.

Nhuận Thổ lại nói với tôi:

Bây giờ lạnh quá, mùa hè anh hãy đến nơi chúng tôi. Ban ngày chúng ta đến bãi biển nhặt đủ thứ vỏ sò, đỏ có, xanh có, trùng trục cũng có, móng tay cũng có, ban đêm tôi và cha tôi đi giữ dưa, anh cũng đi.

Giữ ăn trộm phải không?

Không phải. Người đi đường khát nước bẻ một quả dưa ăn, chúng tôi không kể là ăn trộm. Giữ là giữ con lợn lòi, con nhung, con tra. Dưới ánh sáng, anh nghe thấy tiếng sàn sạt, đó là con tra đang ăn dưa. Anh hãy xách cái chỉa ba, đi khe khẽ...

Lúc đó, tôi không biết cái con gọi bằng con tra ấy giống gì, đến bây giờ tôi cũng vẫn không biết, chỉ thấy không đâu rằng nó giống như con chó nhỏ mà rất hung dữ.

Nó chẳng cắn người sao?

Có cái chỉa ba chứ. Đi đến rồi, thấy con tra rồi, anh cứ đâm. Con vật ấy rất nhanh nhẹn, nó xông tới anh, trở rúc qua háng anh mà chạy trốn. Lông da của nó mướt như mỡ....

Tôi vốn không biết trong thiên hạ có bao nhiêu việc mới lạ ấy, bãi biển có vỏ sò ngũ sắc như vậy ; dưa hấu có sự từng trải nguy hiểm như kia, trước tôi chỉ biết nó có bán trong mấy tiệm đồ trái mà thôi.

Trong bãi cát chúng tôi, khi nước lên, có nhiều con cá nhảy, nó chỉ nhảy, con nào cũng có hai cái chân như chân ếch....

A! Trong lòng Nhuận Thổ có không biết bao nhiêu việc lạ lùng, đều là việc mà các bạn trường ngày của tôi chưa hề biết. Cá bạn ấy chẳng biết bấy nhiêu việc, khi Nhuận Thổ ở bãi biển, các bạn ấy cũng như tôi, chỉ xem thấy quãng trời bốn góc trên bức tường cao trong sân.

Tiếc thay tháng giêng hết rồi, Nhuận Thổ phải về nhà, tôi quẫn đến khóc òa lên, hắn cũng nấp trong nhà bếp, cứ khóc không chịu ra cửa, nhưng cuối cùng bị cha hắn dẫn đi. Đến sau hắn còn nhờ cha hắn gửi cho tôi một gói vỏ sò và mấy cái lông chim đẹp, tôi cũng có gửi quà cho hắn một vài lần, nhưng từ đó không hề lại thấy mặt nhau.

Hôm nay, mẹ tôi nhắc đến hắn, cái ký ức hồi bé của tôi bỗng dưng đều sống lại như chớp nhoáng, hình như thấy được cái làng quê tốt đẹp của tôi. Tôi tiếp lời:

Thế thì tốt lắm! Hắn, - ra thế nào?...

Hắn ấy à?... Cái tình cảnh của hắn cũng chẳng ra chi.... Mẹ tôi vừa nói vừa nhìn ra ngoài cửa, những người kia lại đến rồi. Nói là mua đồ gỗ, sẵn giằm cứ việc mang đi, ta phải đi xem xem.

Mẹ tôi đứng dậy, đi ra. Ngoài cửa có tiếng mấy người đàn bà, tôi bèn vẫy thằng cháu Hoành đến trước mặt, nói chuyện gẫu với hắn: hỏi hắn có biết viết không, có muốn đi ra khỏi nhà không.

Chúng ta đi xe hỏa chứ?

Chúng ta đi xe hỏa.

Có đi thuyền không?

Trước tiên đi thuyền.

Ha! Dáng người đã như thế đấy! Râu đã dài như thế đấy! Một thứ tiếng oái oăm sắc nhọn thình lình kêu oang oang lên.

Tôi giựt mình một cái, vội ngước đầu lên, thấy một người đàn bà chừng trên dưới năm mươi tuổi, gò má cao, môi mỏng, đứng trước mặt tôi, hai tay cắp đít, không có thắt lưng, dạng hai chân ra, giống như cái nhíp quây nhỏ chân khà khêu trong bộ đồ vẽ.

Tôi sửng sốt.

Không nhận ra được à? Tôi vẫn bế anh đấy!

Tôi càng sửng sốt hơn. May mà mẹ tôi cũng chạy lại, nói xen vào:

Hắn ra khỏi nhà bao nhiêu năm, mọi sự đều quên tất cả. Anh còn nhớ chứ, quay nói với tôi: Đó là chị Hai Dương ở xế cửa, người bán tiệm đậu phụ ấy mà.

à, tôi nhớ rồi. Hồi tôi còn bé, ở cái tiệm đậu phụ xế cửa quả có chị Hai Dương ngồi suốt ngày, người ta đều gọi là nàng Tây Thi đậu phụ. Nhưng là chát phấn trắng, gò má không có cao thế này, môi không có mỏng thế này. Vả lại cả ngày cứ ngồi mãi, tôi không hề thấy cái dáng bộ kiểu nhíp quây kia. Lúc đó người ta nói: vì có nàng, cái tiệm đậu phụ ấy đắt hàng lạ. Nhưng, chừng là vì lứa tuổi xa cách nhau, tôi chưa từng có một mảy may thông cảm, cho nên quên tuốt tuột cả. Thế mà nhíp quây rất bất bình, tỏ ra bộ khinh khỉnh, như tuồng chê cười người nước Pháp không biết Napoleon, người nước Mỹ không biết Oasinhton vậy, cười gằn nói:

Quên rồi nhỉ? Thật là người sang chỉ nhìn lên...

Có đâu thế... Tôi... Tôi hốt hoảng, đứng dậy nói.

Vậy thì, anh Tấn, tôi nói với anh. Anh sang rồi, anh cần gì những thứ đồ gỗ mục nát ấy, mang theo lại nặng nề, thôi thì cho tôi quách đi, nhà dân giã chúng tôi, dùng cứ được.

Tôi cũng chẳng sang gì đâu. Tôi phải bán đi những thứ ấy, rồi lại....

Ối già già, anh đã được bổ đạo đài[1], còn nói chẳng sang nữa? Hiện giờ anh có ba phòng nàng hầu, ra cửa là đi kiệu tám người khiêng, còn nói chẳng sang nữa? Hứ, cái gì cũng chẳng giấu được tôi đâu.

Tôi biết rằng không nói thế nào được, bèn ngậm miệng đứng im.

Ối già, ối già, thật hễ càng có tiền, càng một ly không chịu nới, mà càng một ly không chịu nới, lại càng có tiền.... Nhíp quây một mặt gằm gằm quay mặt đi, một mặt nói lải nhải, chậm rãi bước ra ngoài, sẵn giằm lấy đôi bao tay của mẹ tôi nhét vào cặp quần, đi một mạch.

Sau đó lại có những họ hàng bà con ở gần đến thăm tôi. Tôi một mặt lo tiếp đãi, hở ra thì thu xếp đồ hành lý, như thế qua ba ngày. Một hôm vào buổi chiều khí trời rất lạnh, sau khi ăn cơm trưa, tôi ngồi uống trà, thấy phía ngoài có người đi vào, quay đầu lại xem. Khi tôi xem thấy, sửng sốt lạ thường không cầm được, vội vàng đứng dậy, đi ra đón.

Người đi vào ấy là Nhuận Thổ. Tuy tôi thấy thì biết ngay là Nhuận Thổ, nhưng lại không phải Nhuận Thổ trong trí nhớ của tôi. Khổ người hắn cao lớn gấp đôi ; cái mặt tròn màu da dâu trước kia đã đổi ra màu vàng xám, lại còn thêm những đường nhăn rất rõ ; con mắt cũng giống mắt cha hắn, vành mí đều húp và đỏ lên, điều đó tôi biết, những người làm ruộng ở bờ biển, cả ngày bị gió biển thổi, đại khái đều như thế cả. Trên đầu hắn đội cái mũ nỉ rách, mình mặc chỉ một cái áo bông rất mỏng, người cứ run lên ; tay cầm một cái gói bằng giấy và một cái ống điếu dài, cái tay ấy cũng không phải cái tay múp míp mướt dịu mà tôi nhớ, nó vừa cồ kịch, vừa ô chề, lại còn nứt ra, như thể vỏ cây thông.

Tôi lúc đó rất phấn khởi, nhưng không biết nói thế nào cho phải, chỉ nói:

A! Anh Nhuận Thổ, - anh đã đến à?...

Tiếp đó, tôi có bao nhiêu câu chuyện muốn xổ ra hàng tràng, những là: con cưởng, con cá nhảy, vỏ sò, con tra,... nhưng lại thấy như bị cái gì gàn lại. Chỉ lanh quanh trong đầu óc, không nói ra miệng được.

Hắn đứng yên, trên mặt hiện ra dáng vui mừng và ủ dột ; mấp máy môi, nhưng không thốt ra tiếng. Cuối cùng thái độ của hắn đâm ra cung kính, rõ ràng kêu lên rằng:

Ông lớn!...

Tôi như rùng mình một cái, biết rằng giữa chúng tôi đã cách một lớp vách dày đáng buồn rồi, tôi cũng nói chẳng nên lời.

Hắn quay lại nói: Thủy Sinh, lạy ông lớn đi. Bèn kéo thằng bé nấp sau lưng hắn ra, đó chính là Nhuận Thổ hai mươi năm trước, chỉ hơi vàng và gầy, trên cổ không có cái kiềng bạc. Đây là thằng bé thứ năm, chưa hề bước ra khỏi nhà, rụt rụt rè rè...

Mẹ tôi và thằng cháu Hoành ở trên gác xuống, đại khái cũng nghe thấy tiếng nói mà xuống.

Bà cụ. Thư tôi tiếp được rồi. Biết rằng ông lớn về, tôi mừng quá lắm.... Nhuận Thổ nói.

A, sao anh lại làm ra lễ phép quá như thế. Giữa các anh trước kia chẳng là gọi nhau bằng anh em đó ư? Cứ gọi như cũ đi: Anh Tấn. Mẹ tôi vui vẻ nói.

Ối già, bà cụ thật là... thế còn thành ra thể thống gì. Trước kia là trẻ con, không biết điều.... Nhuận Thổ nói, và gọi Thủy Sinh tiến lên vái chào, thằng bé lại cứ thẹn, tựa sát sau lưng cha nó.

Nó là thằng Thủy Sinh? Thằng bé thứ năm? Đây đều là người lạ, nó sợ lạ là phải lắm ; thôi thì thằng cháu Hoành rủ nó đi chơi đi. Mẹ tôi nói.

Thằng cháu Hoành nghe thấy thế, bèn đến rủ Thủy Sinh, Thủy Sinh sỗ sàng phới phở đi với nó. Mẹ tôi bảo Nhuận Thổ ngồi, hắn ké né một lúc, rồi cũng ngồi, dựng cái ống điếu dài bên cạnh bàn, đưa cái gói bằng giấy ra, nói:

Trời mùa đông chẳng có cái gì cả. Đây là một ít đỗ xanh của nhà phơi, xin ông lớn...

Tôi hỏi tình cảnh hắn, hắn chỉ lắc đầu.

Khó quá lắm. Đứa bé thứ sáu cũng đã đỡ tay đỡ chân được rồi, nhưng cũng vẫn không đủ ăn... Lại không thái bình... Cựa ra chỗ nào cũng phải mất tiền, chẳng có luật lệ nhất định... Mùa màng lại hỏng. Trồng trọt ra cái gì, gánh đi bán, đều phải nộp mấy lớp thuế, lỗ vốn ; không đem đi bán, lại mục thối ra...

Hắn cứ lắc đầu ; trên mặt tuy có nhiều đường nhăn, mà đờ ra không nhúc nhích, giống như pho tượng đá. Ước chừng hắn chỉ thấy rằng mình khổ, nhưng không hình dung cái khổ ra được, im lặng một lát, rồi cầm ống điếu lên dửng dưng hút thuốc.

Mẹ tôi hỏi hắn, biết hắn việc nhà bận lắm, ngày mai phải đi về ; lại hưa ăn cơm trưa, bèn bảo hắn vào bếp rang cơm lấy mà ăn.

Hắn đi ra rồi, mẹ tôi và tôi đều ngậm ngùi cho tình cảnh hắn: đông con, đói kém, thuế nặng, lính, quan, kẻ cướp, cường hào, đều làm khổ hắn đến nỗi giống con người gỗ. Mẹ tôi nói với tôi, hết thảy những đồ chi không cần mang đi, có thể để cho hắn tất, có thể để mặc chính mình hắn chọn lấy.

Chiều lại, hắn chọn được mấy thứ đồ: hai cái bàn dài, bốn chiếc ghế dựa, một bộ lư hương và chân đèn, một cái cân đòn. Hắn lại xin tất cả đống tro rạ (chỗ chúng tôi thổi cơm bằng cộng rạ, tro nó có thể làm phân bón cho đất cát), đợi đến khi chúng tôi lên đường, hắn sẽ đem thuyền đến chở đi.

Ban đêm, chúng tôi lại nói chuyện phiếm, đều là chuyện không cần thiết. Sáng sớm hôm sau thì hắn dẫn thằng Thủy Sinh đi về.

Lại qua chín ngày nữa, là ngày chúng tôi lên đường. Sáng sớm Nhuận Thổ thổ, không có Thủy Sinh cùng đi, chỉ đem theo đứa con gái năm tuổi coi thuyền. Chúng tôi suốt ngày bận rộn, không có thì giờ trò chuyện. Khách đến cũng không ít, có người đến đưa đường, có người đến lấy đồ, có người đến để vừa đưa đường vừa lấy đồ. Đến lúc gần tối chúng tôi xuống thuyền, bao nhiêu những đồ đạc cũ kỹ, lớn nhỏ, thô diển trong cái nhà lâu đời ấy đều quơ sạch cả.

Thuyền chúng tôi nhằm đằng trước đi tới, núi xanh hai bên bờ sông trong nhá nhem tối đều trỗ màu xanh đen sẫm, liên tiếp đi lùi về đằng sau lái thuyền.

Thằng cháu Hoành và tôi cùng tựa cửa sổ thuyền cùng xem phong cảnh tờ mờ bên ngoài, thình lình hắn hỏi:

Bác cả! Bao giờ chúng ta trở về?

Trở về? Sao cháu chưa đi mà đã nghĩ đến về?

Nhưng mà Thủy Sinh nó hẹn tôi đến nhà nó chơi.... Cháu Hoành mở đôi con mắt to mà đen, đờ người ra nghĩ.

Tôi và mẹ tôi cũng có hơi bùi ngùi, thế rồi lại nhắc đến chuyện Nhuận Thổ. Mẹ tôi nói: Mụ Hai Dương, nàng Tây Thi đậu phụ kia, từ hôm nhà ta thu xếp hành lý, ngày nào hắn cũng đến, hôm qua hắn moi trong đống tro ra hơn mười cái vừa bát vừa đĩa, sau khi bàn tán, nói quyết là của Nhuận Thổ chôn, để khi bốc tro đi, lấy đem luôn về nhà. Mụ Hai Dương phát giác việc ấy rồi, kể lấy làm công mình, bèn xách cái chó tức chết (cái này là đồ nuôi gà ở miền chúng tôi, trên tấm ván có đóng song kín, trong đựng đồ ăn, con gà có thể thò đầu vào mổ lấy, con chó thì không thể, chỉ thấy mà tức chết), chạy thẳng một mạch, con mụ bó chân nhỏ gót cao thế ấy, vậy mà chạy đến nhanh.

Cái nhà cũ lìa tôi càng xa ; núi sông của làng quê cũng đều dần dần lìa xa tôi, song tôi lại chẳng hề cảm thấy lưu luyến gì cả. Tôi chỉ thấy như chung quanh tôi có bức tường cao xem không thấy, chắn tôi thành ra cô độc, làm tôi ngột thở lạ ; cái bóng dáng của người tiểu anh hùng đeo kiềng bạc trên đám ruộng dưa kia, tôi vốn nhớ rành mạch, thế mà bây giờ bỗng dưng lu mờ đi, lại làm tôi hết sức buồn rầu.

Mẹ tôi và thằng cháu Hoành đều ngủ yên.

Tôi vẫn nằm, nghe tiếng nước róc rách dưới đáy thuyền, biết rằng mình đang đi đường của mình, tôi nghĩ: tôi trót đã cùng Nhuận Thổ cách dứt đến quãng ấy rồi, nhưng lớp sau chúng tôi vẫn là một mạch, thằng cháu Hoành chẳng phải đang nghĩ đến Thủy Sinh là gì. Tôi trông mong rằng chúng nó chẳng còn giống tôi, lại mọi người cách biệt nhau... nhưng mà tôi lại chẳng muốn chúng nó vì cần có một mạch mà đều sống cay đắng lăn lóc như tôi, cũng chẳng muốn chúng nó đều sống cay đắng tê điếng như Nhuận Thổ, cũng chẳng muốn đều sống cay đắng trừng trộ như những người khác. Chúng nó phải có sự sống mới, sự sống mà chúng tôi chưa từng trải qua.

Tôi nghĩ đến sự trông mong, thình lình đâm ra sợ. Khi Nhuận Thổ chọn lấy lư hương và chân đèn, tôi vẫn cười ngầm hắn, cho rằng hắn cứ thờ lạy tượng nộm, lúc nào cũng không quên. Bây giờ đây, cái tôi gọi bằng trông mong, chẳng cũng là cái tượng nộm tự tay tôi chế tạo ra ư? Có điều cái nguyện vọng của hắn gần sát, nguyện vọng của tôi xa xôi đó thôi.

Trong mơ màng, trước mắt tôi mở ra một miếng đất cát xanh lật lìa ở bãi biển, trên đó, giữa nền trời màu chàm thẫm treo một vừng trăng tròn màu vàng. Tôi nghĩ: cái trông mong vốn là cái không gì gọi là có, không gì gọi là không. Nó cũng như con đường trên đất, thực ra thì trên đất vốn không có đường, có nhiều người đi thì thành ra đường.

Chúc phước

Mặc dầu thế nào cái cuối năm của âm lịch cũng vẫn ra về cuối năm hơn. ở giữa làng mạc không phải nói, cho đến ở trên thinh không cũng nổi bật ra cái khí tượng hầu sang năm mới. Trong đám mây chiều trắng xám và nặng nề chốc chốc lại có nhoáng sáng, tiếp tới một tiếng đẹt, ấy là pháo đưa ông Táo về trời; nếu đót gàn thì nghe lại mạnh xẳng hơn, những tiếng đùng đùng làm ù tai còn chưa dứt, trong không khí đã lan khắp mùi thuốc pháo thầm thoảng. Chính là trong cái đêm ấy tôi về đến Lỗ Trấn, làng quê của tôi. Nói rằng làng quê, nhưng thật ra tôi đã không có nhà ở đó, cho nên phải tạm trọ trong nhà ông cụ Tư. Ông cụ, người trong họ tôi, theo thế thứ, lớn hơn tôi một bậc, đáng lẽ tôi phải gọi bằng "chú Tư", là một vị cựu giám sinh theo phái lý học. Ông ta so với trước kia chẳng có thay đổi gì mấy, chỉ già thêm một ít, song le còn chưa để râu. Thấy tôi, ông liền hỏi thăm sức khỏe; sau khi hỏi thăm sức khỏe rồi ông nói tôi "mập ra"; sau khi nói tôi mập ra rồi ông liền chửi bọn tân đảng. Nhưng tôi biết rằng đó không phải là ông chửi cạnh chửi khóe tôi: vì cái kẻ ông chửi vẫn còn là Khương Hữu Vi. Có điều, câu chuyện thế nào cũng không ăn nhịp nhau, bởi vậy chẳng bao lâu, chỉ lưu lại trơ trọi một người là tôi ở trong phòng sách.

Ngày hôm sau tôi trỗi dậy rất trễ. Sau bữa cơm trưa, tôi đi thăm mấy người bà con và bạn bè. Ngày hôm sau nữa cũng thế. Họ thảy đều chẳng có thay đổi gì mấy, chỉ già thêm một ít; nhưng nhà nào cũng bận rộn, đều đương sắm sửa lễ "chúc phước". Lễ này là lễ lớn cuối năm ở Lỗ Trấn, bày biện lễ phẩm, đón rước các vị phúc thần, khấn cầu sự may mắn cả một năm cho năm mới. Họ giết gà, làm thịt ngỗng, mua thịt lợn, cẩn thận rửa từng tí, những cánh tay của đàn bà đều đầm trong nước ửng đỏ lên, có cái còn đeo neo bạc. Sau khi nấu chín các vật ấy, bừa bãi giặt những chiếc đũa lên trên, thế gọi là "phước lễ" dó. Hồi canh năm bưng đặt lên bàn, thắp hương, thắp đèn, cung thỉnh các vị phúc thần về hâm hưởng. Chỉ có đàn ông con trai mới được cúng lạy; cúng lạy xong, vẫn cứ đốt pháo. Năm nào cũng thế, nhà nào cũng thế - miễn là sắm được phước lễ và pháo - tự nhiên năm nay cũng lại thế. Màu trời càng râm tối, buổi chiều tuyết bắt đầu sa, những hoa tuyết lớn bằng hoa mai, bay múa đầy trời, xen với khói mùa và tình hình tấp nập, làm Lỗ Trấn thành ra một vùng hỗn độn. Khi tôi về đến trong phòng sách chú tư, trên kẽ ngói đã đầy tuyết trắng; ánh sáng rọi vào trong phòng, rõ ràng thấy được bức liễn cái chữ "thọ" đập son, chữ của Trần Đoàn lão tổ viết, treo trên vách; hai bức liễn con thì một đã rơi xuống, cuốn lại phồng phồng để trên chiếc bàn dài, một thì còn treo, nó là sự lý thông đạt tâm khí hòa bình. Tôi lại chán nản đi đến cái bàn để sách bên cửa sổ lục lạo một hồi, chỉ thấy có một đống Khang Hy tự điển chưa chắc đủ trọn bộ, một bộ Cận tư lục tập chú và một bộ Tứ thư thấn. Không luận thế nào, tôi nhất định ngày mai phải đi đi thôi.

Thêm nữa, cứ nhớ đến chuyện gặp mụ Tường Lâm hôm qua một cái là làm tôi không thể nào ở yên được. Bấy giờ vào buổi chiều, tôi đến xóm phía đông Lỗ Trấn thăm một người bạn. Khi ra về, bắt gặp mụ bên bờ sông; vả lại thấy cặp mắt mụ đăm đăm nhìn tôi, biết rằng mụ thấy tôi mà cố ý đón để gặp. Trong bao nhiêu người tôi đã thấy lần này ở Lỗ Trấn, người thay đổi nhiều hơn cả, có thể nói không ai bằng mụ: cái đầu hoa râm năm năm về trước, bây giờ đã bạc phau, không còn ra vẻ người trên dưới bốn mươi nữa; cái mặt gầy tóp, vàng mà đen, đến nỗi mất cả cái dáng bộ buồn rầu trước kia, hình như là con người gỗ; chỉ có đôi tròng con mắt thỉnh thoảng luân qua luân lại, còn có thể tỏ ra mụ là một vật sống mà thôi. Mụ một tay xách cái giỏ bằng tre, trong đó một cái bát mẻ không đựng gì cả; một tay cầm một cành tre dài hơn người mụ, đầu dưới đã nứt ra: rõ ràng là một kẻ ăn mày trăm phần trăm.

Tôi đứng dừng lại, sẵn sàng chờ mụ đến xin tiền.

"Thưa ông đã về?" Mụ chào hỏi trước.

"Phải".

"Thế thì tốt lắm. Ông có học, lại là người đi ra, thấy biết được nhiều. Tôi muốn hỏi ông một việc..." Cặp mắt không có tinh thần của mụ bỗng dưng nẩy sáng ra.

Tôi tuyệt nhiên không ngờ đến mụ lại nói được những lời như thế, sững sờ đứng im.

"ấy là..." Mụ nhích gần lại hai bước, hạ giọng khe khẽ, nói thì thầm như là chuyện rất bí mật, "sau khi một con người chết rồi, thực ra còn có linh hồn hay là không có?"

Bấy giờ tôi đờ người ra, thấy mụ nhìn giắt mắt vào mình, trên lưng tôi như phải gai chích, lúng túng còn hơn khi ở trong trường học gặp sự hạch hỏi thình lình, không kịp ngừa trước, thầy giáo lại đứng bên cạnh mình. Về sự có linh hồn hay không, chính mình tôi thuở nay không hề để ý đến; song le ở giờ phút này, nên trả lời mụ thế nào cho ổn đây? Tôi ngần ngừ trong giây lát, nghĩ ngay ra rằng người miền này đều tin có ma, mà mụ lại ngờ vực, - thế thì có lẽ nói hy vọng là hơn: hy vọng rằng có, lại hy vọng rằng không có... Nhưng mà mình sao lại đệm thêm sự khổ não cho con người cùng đường làm chi; muốn được việc cho mụ, chi bằng nói quách đi rằng có. Thế rồi tôi trả lời cách nửa nạc nửa mỡ:

"Theo tôi tưởng, cũng có lẽ có đấy."

"Vậy thì, cũng phải có địa ngục chứ?"

"à, địa ngục à?" Tôi rất bối rối, chỉ có việc chống chỏi: "Địa ngục à? - Theo lẽ, cũng phải có. - Nhưng mà chưa chắc... ai lại đi để ý đến những việc như thế!..."

"Vậy thì, những người cùng trong một nhà chết đi có thể gặp mặt nhau chứ?"

"ờ ờ, gặp mặt hay là chẳng gặp mặt ư?" Khi ấy tôi đã biết mình còn là một người ngu trọn vẹn, ngần ngừ thế nào, tính toán thế nào, cũng không đương nổi ba câu hỏi ấy. Tức thì tôi đâm ra rè rụt, định xí xóa cả bao nhiêu câu trả lời trước kia: "Điều đó... thật ra thì tôi không nói dứt khoát được... Sự thật, có linh hồn hay không có, tôi cũng không nói dứt khoát được."

Tôi thừa lúc mụ không hỏi dồn nữa, tháo bước ra đi, vội vàng trốn về trong nhà chú Tư, thấy lòng mình rất không yên ổn. Cứ nghĩ bụng, mình trả lời như thế e có điều nguy hiểm cho mụ chăng. Chừng như mụ vì gặp lúc nhà người ta chúc phước, cảm thấy riêng thân mình bơ vơ hiu quạnh, nhưng cũng có thể giấu trong câu hỏi cái ý gì khác nữa chăng? Hoặc là mụ đã có linh cảm thế nào rồi? Ví phỏng mụ có ý gì khác, lại nhân đó xảy ra việc gì khác, thì những câu trả lời của tôi ắt phải có chịu trách nhiệm một phần nào... Song le, liền đó tôi cũng bật cười cho mình, việc là việc tình cờ, vốn chẳng có ý nghĩa gì sâu sắc cả, mà mình lại cứ nắn nót mãi ra, hèn chi có nhà giáo dục bảo là đau thần kinh bệnh[1]; huống chi đã nói phân minh rằng "tôi không nói dứt khoát được", đã xí xóa cả bấy nhiêu câu trả lời, thế thì dầu có xảy ra việc gì, cũng chẳng mảy may dính dấp đến tôi.

"Không nói dứt khoát được", thật là một câu nói rất hữu dụng. Có những kẻ thiếu niên hăng hái chưa từng trải việc đời, thường hay bạo gan giải quyết sự nghi ngờ, chọn lấy thầy thuốc cho người khác, rủi ra không được kết quả tốt, trở chuốc lấy oán vào mình; nhưng khi đã dùng câu "không nói dứt khoát được" làm kết luận, thì bao giờ mình cũng thoát nợ cả. Lúc bấy giờ, tôi càng cảm thấy câu ấy là rất cần dùng, dầu cho khi nói chuyện với một mụ ăn mày cũng không lấy lẽ gì mà vứt bỏ đi được.

Song le thế nào tôi cũng không yên tâm; qua một đêm rồi, cũng vẫn cứ chốc chốc lại nhớ đến, hình như có một thứ linh cảm báo hiệu chẳng lành; ở dưới trời tuyết âm thầm, trong phòng sách chán nản, cái sự không yên tâm lại càng thêm dữ dội. Thôi, chi bằng đi là hơn, sáng mai đi vào thành đi. Món vây thả của Phúc Hưng lâu cứ một đồng một bát lớn, ngon mà rẻ, hiện giờ chẳng biết có lên giá chăng? Các bạn cùng đi chơi ngày trước tuy đã mỗi người một nơi nhưng mà món vây thả phải ăn mới được, dầu chỉ độc có một mình tôi cũng vậy... Không luận thế nào, tôi nhất định ngày mai phải đi đi thôi.

Tôi nhân vì thường thấy ít nhiều việc mình không muốn xảy ra như mình đoán, cho rằng chưa chắc xảy ra như mình đoán, lại cứ hay xảy ra như mình đoán, cho nên rất lo âu cho cái việc này rồi cũng thế. Thì quả thế, cái tình hình đặc biệt đã bắt đầu. Xế chiều, tôi nghe có mấy người nói chuyện ở nhà trong, giống như bàn tán việc gì ấy, một chốc tiếng trò chuyện cũng bặt, chỉ có chú Tư vừa đi vừa nói to rằng: "Chẳng sớm chẳng muộn, lại nhè chính vào giữa lúc này, - thế đủ biết nó là đồ tầm bậy!"

Tôi trước còn lấy làm lạ, sau thấy rất không yên tâm, hình như câu nói đó có dính dấp tới mình. Trông ra ngoài cửa, không có ai hết. Vơ vẩn chờ đến trước bữa cơm tối, người làm trong nhà đến chế trà, tôi mới có dịp tìm nghe được tin tức.

"Vừa rồi cụ Tư gắt ai thế nhỉ?" Tôi hỏi.

"Mụ Tường Lâm chứ còn ai?" Người ấy trả lời thon lỏn.

"Mụ Tường Lâm à? Vì lẽ gì thế?" Tôi lại hỏi dồn.

"Chết rồi."

"Chết rồi?" - Quả tim tôi vụt se lại, gần như muốn đập mạnh,sắc mặt chừng cũng tái đi, có điều người kia không hề ngước đầu lên, cho nên trọn không thấy. Tôi cũng liền làm tỉnh, hỏi tiếp:

"Chết vào lúc nào thế?"

"Lúc nào? - Đêm qua hay sáng nay gì đó. - Tôi không nói dứt khoát được."

"Vì lẽ gì mụ chết?"

"Vì lẽ gì? - Cùng quá đi thì chết, chứ còn vì lẽ gì?" Hắn lạnh nhạt trả lời, vẫn cứ không ngước đầu nhìn tôi, đi ra.

Nhưng mà sự kinh hãi của tôi chẳng qua chỉ trong giây lát, sau thấy cái việc phải đến thì đã qua rồi, cũng không cần nhờ những câu "không nói dứt khoát được" của tôi và "cùng quá thì chết" của người kia làm yên ủi mà cõi lòng đã dần dần nhẹ nhõm; chỉ trong lúc tình cờ còn thấy như bị cắn rứt ít nhiều. Cơm tối dọn ra, chú Tư nghiêm nghị ngồi tiếp. Tôi cũng còn muốn gợi nghe tin tức về mụ Tường Lâm, song biết rằng ông ta tuy đã đọc qua câu "quỷ thần là lương năng của hai khí"[2] nhưng vẫn còn kiêng kị rất nhiều; trong khi gần làm lễ chúc phước rất không nên đem những chuyện đau ốm chết chóc ra mà nói; nếu cực chẳng đã, phải dùng một thứ tiếng lóng, tiếc tôi lại không biết, vì vậy nhiều lần toan hỏi lại thôi. Tôi dò ở sắc mặt nghiêm nghị của ông, lại đâm ngờ rằng ông cho tôi chẳng sớm chẳng muộn, nhè chính vào lúc này đến khuấy rầy ông, cũng là đồ tầm bậy, bèn lập tức xin kiếu ông ngày mai tôi sẽ rời Lỗ Trấn, đi vào thành, để lòng ông sớm được khoăn khoái. Ông cũng không cầm hẳn, cứ tẻ ngắt như thế ăn xong một bữa cơm.

Mùa đông ngày ngắn, lại là trời tuyết, cái màn đêm vội đã che phủ cả thị trấn. Mọi người đều bận rộn ở dưới đèn, nhưng ngoài cửa sổ rất lặng lẽ. Những hoa tuyết, sa trên đệm tuyết khá dày, nghe như có tiếng tách tách, khiến người cảm thấy sự lặng lẽ càng hơn. Tôi một mình ngồi dưới ngọn đèn dầu lạc trỗ ánh sáng vàng, nghĩ rằng cái mụ Tường Lâm cầu bơ cầu bất kia, là kẻ bị mọi người hất hủi trong đống bụi rác, là một thứ đồ chơi cũ kỹ xem đã chán, trước còn lộ hình trong bụi rác, thì dưới mắt những người sống sung sống sướng chắc lấy làm quái sao mụ cứ còn mãi, mà bây giờ thì cũng kể được là đã bị thần chết quét dọn sạch sẽ đi rồi đấy. Linh hồn có hay không, tôi không biết; nhưng mà bây giờ đây thì kẻ không thể sống không sống nữa, để cho kẻ không muốn thấy không thấy nữa, thật cũng là được việc cho cả người lẫn mình. Tôi lắng nghe tiếng hoa tuyết hình như kêu tách tách ngoài cửa sổ, vừa nghe vừa nghĩ ngợi, dần dần trở thấy trong người thư thái hẳn.

Song le, những mảnh vụn sự tích về nửa đời người của mụ mà tôi đã thấy và nghe được trước kia, đến đây cũng liền lại, thành ra nguyên một tấm.

Mụ Tường Lâm không phải người Lỗ Trấn. Có một năm, đầu mùa đông, trong nhà chú Tư muốn thay đứa ở gái, người mối là bà Vệ già đưa mụ đến: đầu vấn cái dây trắng, quần đen, áo cộc kép màu chàm, ngoài phủ áo lá mùa xanh non, tuổi chừng hâm sáu hâm bảy, sắc mặt vàng xanh nhưng hai gò má còn đỏ. Bà Vệ già gọi mụ là mụ Tường Lâm, nói là hàng xóm của nhà mẹ mình, chết mất người đàn ông, cho nên ra đi ở mướn. Chú Tư cau mày. Thím Tư biết ngay ý chồng ghét mụ là một mụ góa. Song le thấy mụ dáng dấp cũng hẳn hoi, tay chân đều vạm vỡ, lại chỉ nhìn xuống, chẳng nói một câu, rõ ra là một người yên phận và chịu khó, bèn bất chấp cái cau mày của chú Tư, để mụ ở lại. Trong kỳ ở thử, mụ làm việc cả ngày, hình như hở tay ra thì buồn, lại có sức, chẳng khác một anh trai tráng, vì vậy ngày thứ ba liền dứt giá, mỗi tháng năm quan tiền công.

Người ta đều gọi mụ là mụ Tường Lâm; chẳng hề hỏi mụ họ gì, cứ người mối là người Vệ gia sơn đã nói là hàng xóm, thế cũng cho là mụ họ Vệ đi. Mụ không thích nói chuyện lắm, có ai hỏi mới trả lời, trả lời cũng vắn tắt. Đến sau mười mấy ngày mới biết thêm rằng trong nhà mụ còn có bà mẹ chồng gay gắt, một thằng em chồng còn nhỏ mười mấy tuổi, đã đi hái củi được; mụ chết chồng vào khoảng mùa xuân, chồng mụ vốn cũng sống bằng nghề hái củi, kém mụ mười tuổi: người ta biết về mụ chỉ có thế thôi.

Ngày qua rất chóng, công việc mụ chẳng bê trễ chút nào, ăn thế nào cũng xong, làm chẳng hề dưỡng sức. Mọi người đều nói nhà ông cụ Tư thuê được đứa ở gái thật siêng năng còn hơn người trai tráng siêng năng. Đến cuối năm, quét dọn, rửa nhà, giết gà, làm thịt ngỗng, nấu "phước lễ" thâu đêm, một người gánh làm lấy cả, không phải thuê thêm người làm ngày. Vậy mà mụ lại hả hê, khóe miệng dần dần có vẻ cười, mặt cũng béo trắng ra.

Vừa qua năm mới, khi mụ đi vo gạo ở bờ sông về, bỗng tái mặt đi, nói vừa mới trông thấy xa xa một người đàn ông đứng vơ vẩn bờ bên kia, giống người bác họ nhà chồng mụ lắm, e rằng người ấy đi đến đây cốt vì tìm mụ. Thím Tư rất nghi ngại, căn vặn đến điều, mụ lại không nói chi. Chú Tư biết được, liền cau mày một cái, nói:

"Thế là không xong đấy, e nó trốn nhà mà đi đấy."

Quả mụ trốn nhà thật, chẳng bao lâu câu nói đè chừng ấy liền được chứng thực.

Sau đó chừng mười mấy ngày, người ta đang dần dần quên lửng câu chuyện trước, bà Vệ già bỗng đưa một người đàn bà ngoài năm mươi tuổi đến, nói là mẹ chồng của mụ Tường Lâm. Người đàn bà tuy có dáng bộ người miền núi, nhưng thù ứng rất thong dong, nói năng cũng hoạt bát, vài lời hàn huyên rồi xin lỗi, nói đến để bảo con dâu mình về nhà, vì đầu năm bận việc, mà trong nhà chỉ có một già một trẻ, không đủ tay làm.

"Đã là bà gia nó gọi nó về, còn nói gì được nữa?" chú Tư nói.

Thế rồi tính tiền công, cộng là mười bảy quan năm, mụ vốn gởi cả ở nhà chủ, không tiêu một đồng, đều đem giao giả cho mẹ chồng mụ. Người đàn bà lại lấy áo xống, cảm ơn rồi đi ra. Lúc đó đã đứng trưa.

"ối già, nào gạo đâu? Có phải mụ Tường Lâm đi vo gạo rồi chăng?" Được một lúc, thím Tư mới vùng la lên như thế. Chừng như bà ta có hơi đói bụng, nhớ đến cơm trưa.

Người nhà bèn mới chia nhau đi tìm cái rổ rá. Thím Tư bước vào nhà bếp, sau lên nhà lớn, sau nữa đến trong buồng, đều không thấy bóng cái rổ rá đâu. Chú Tư dạo ra ngoài cửa ngõ, cũng không thấy, thẳng đến bờ sông, mới thấy để chững chạc trên bờ, cạnh cái rổ rá còn có một cây cải.

Người xem thấy, học lại rằng: Hồi chưa trưa ở bến sông có đậu một chiếc thuyền mui trắng, mui che kín cả, không biết những người nào ở trong, mà khi việc chưa xảy ra cũng chẳng ai để ý đến. Đến chừng mụ Tường Lâm ra đó vo gạo, mới vừa quỳ xuống, trong thuyền vụt nhảy ra hai người đàn ông, giống người miền núi, một người ôm xoác mụ, một người giúp tay kéo vào trong thuyền. Bấy giờ mụ Tường Lâm còn khóc la được mấy tiếng, về sau rồi không có tiếng tăm gì nữa, chừng như bị nhét gì vào mồm rồi. Rồi đó liền bước lên hai người đàn bà, một không biết mặt, còn một là bà Vệ già. Dòm xem trong khoang, thấy không rõ ràng lắm, hình như mụ bị trói để nằm trên ván thuyền thì phải.

"Khả ố! Nhưng mà..." Chú Tư nói.

Cả ngày hôm ấy chính mình thím Tư nấu cơm lấy. A Ngưu, con trai của ông bà thì chụm lửa.

Sau bữa cơm trưa, bà Vệ già lại đến.

"Khả ố!" Chú Tư nói.

"Thế là chị có ý gì? khá là chị còn lại đến đây thấy mặt chúng tôi." Thím Tư đang rửa bát, vừa thấy người đàn bà là hằn học nói, "Chính mình chị đưa nó đến, lại họp bè họp lũ cướp nó đi, gây nên việc sôi nổi ầm ĩ, người ta xem vào còn thành ra cái bề thế gì? Chị đem nhà chúng tôi ra làm trò đùa ư?"

"ối già, ối già, thật tôi bị lừa. Chính vì điều ấy mà lần này tôi lại đến để nói cho rành mạch. Mụ ấy đến nhờ tôi kiếm chỗ làm, tôi làm thế nào liệu trước được rằng mụ đã lừa dối mẹ chồng mụ ư? Thưa cụ ông, cụ bà, tôi chịu không phải. Chỉ vì tôi già cả lú lẫn, không cẩn thận, xin chịu không phải với hai cụ. May mà gặp nhà cụ đây thuở nay vẫn rộng lượng bao dong, không thèm so hơn tính thiệt với kẻ dưới. Tôi nhất định rồi đây sẽ đưa đến một đứa đứng đắn để chuộc tội..."

"Nhưng mà..." Chú Tư nói.

Thế rồi cái việc mụ Tường Lâm tới đó là dứt, chẳng bao lâu người ta cũng quên đứt đi.

Duy có thím Tư nhân sau đó thuê đứa ở gái, đại khái đứa không lười thì háu ăn, hoặc có đứa đã háu ăn còn lười nữa, đăm chiêu chẳng vừa ý, cho nên cũng hay nhắc đến mụ Tường Lâm. Mỗi khi như thế, bà ta thường nói một mình rằng: "Chẳng biết bây giờ mụ ấy ra thế nào?" ý chừng là mong mụ lại đến. Song le qua cái tết năm thứ hai, bà cũng không còn mong nữa.

Hôm tết gần hết, bà Vệ già đến mừng tuổi, đã uống say ngà ngày, nói rằng nhân có về qua nhà mẹ ở Vệ gia sơn, ở lại mấy ngày cho nên về trễ. Giữa khi trò chuyện tự nhiên họ nói đến mụ Tường Lâm.

"Mụ ấy à?" Bà Vệ già cao hứng nói: "Hiện giờ thì mụ đã bước sang vận đỏ rồi. Cái lúc mẹ chồng mụ bắt mụ về, vốn đã hứa gả cho lão Hạ Sáu ở Hạ gia úc, cho nên sau khi về nhà, chẳng mấy hôm là đã bỏ vào kiệu hoa khiêng đi."

"ối già, lại có thứ mẹ chồng thế kia!..." Thím Tư bài hãi nói.

"ối già, cụ bà của tôi ơi! Thật là một bà cụ nhà đại gia nói có khác. Chúng tôi người miền núi, nhà dân dã, như thế có kể vào đâu? Mụ có một đứa em chồng nhỏ, cũng phải cưới vợ cho nó. Chẳng gả mụ đi, thì lấy tiền đâu cưới vợ cho thằng kia? Mẹ chồng mụ thế mà là người sáng suốt, giỏi giang đáo để, tính toán hay lắm, cho nên mới đem mụ gả về miền núi bên trong nữa. Nếu gả cho người cùng làn, của lễ chẳng được nhiều; chỉ vì ít người nữ nào chịu gả về chốn rừng sâu hóc thẳm, cho nên mẹ chồng mụ mới nhận vào tay được một trăm quan chẵn. Nay thì đứa con dâu, vợ thằng thứ hai, cũng cưới được rồi, chỉ tốn có năm chục quan của lễ, trừ tiền tiêu phí làm đám, còn thừa được mấy chục quan. Hừ, cụ xem, tính toán như thế còn hay đến nước nào?..."

"Thế mà mụ Tường Lâm dành chịu cho?..."

"Cái đó có gì mà chịu với chẳng chịu? - Làm ồn thì ai cũng cứ làm ồn lên một trận, rồi thì lấy dây trói lại, nhét vào kiệu hoa, khiêng đến nhà trai, tròng cái mũ đàu lên, lạy họ, đóng cửa buồng lại, thế là yên việc. Thế nhưng mụ Tường Lâm thật có khác. Thấy nói lúc đó thật tình mụ làm rầy rà dữ lắm, người ta đều nói chừng là mụ ở làm việc nhà người có học cho nên không giống với người thường. Thưa cụ bà, chúng tôi thấy được nhiều rồi. Những kẻ bước đi bước nữa, khóc la có, nói đi trầm mình thắt cổ có, khiêng đến nhà trai dằn mình vật mẩy lạy không nên thân có, cho đến dụt tắt đèn động phòng đi cũng có. Nhưng mụ Tường Lâm thì thật khác hẳn người thường: họ nói mụ suốt khi đi đường chỉ việc la, chửi, khiêng đến Hạ gia úc, cuống họng đã tắt hẳn tiếng. Kéo ra khỏi kiệu, hai người đàn ông và thằng em chồng mụ cố sức kìm giữ, mụ cũng còn lạy không nên thân. Bọn họ sơ ý, nới tay ra một cái, ối già, ai di đà Phật! Mụ liền dộng đầu vào cái cạnh hương án, trên đầu thủng thành một cái hục, máu chảy dầm dề, tra cho hai nắm tàn nhang, buộc cho hai miếng vải điều mà máu còn chưa cầm nổi. Cho đến lúc xúm nhau mỗi người một tay đem mụ cùng người đàn ông nhốt trong buồng cưới, khóa trái lại, mà mụ cũng còn cứ chửi, ối già già, rõ thật là..." Bà Vệ già lắc đầu một cái, nhìn xuống không nói nốt.

"Sau rồi làm sao?" Thím Tư còn hỏi.

"Thấy nói ngày thứ hai cũng không chỗi dậy." Bà kia ngước mắt lên trả lời.

"Sau rồi sao nữa?"

"Sau rồi?... chỗi dậy. Cuối năm mụ sinh được một đứa bé trai, sang năm mới này nó hai tuổi. Tôi ở nhà đẻ tôi mấy hôm nay, có người ở Hạ gia úc về, nói hai mẹ con mụ mẹ tròn con vuông; bên trên lại không có mẹ chồng; người đàn ông mụ được cái sức mạnh, biết làm ăn; nhà thì ở nhà của mình. - ồ! Mụ thật đã bước sang vận đỏ rồi."

Đó về sau, thím Tư không nhắc đến mụ Tường Lâm nữa.

Song le có một mùa thu năm nọ, ước chừng sau khi được tin mụ Tường Lâm bước sang vận đỏ lại qua hai cái tết, mụ lại đã đứng ở trước nhà chú Tư rồi. Trên ghế đặt một cái giỏ tròn hình củ mã thầy, dưới thầm một bó hành lý nhỏ. Mụ vẫn đầu vấn cái dây trắng, quần đen, áo cộc kép màu chàm ngoài phủ áo lá màu xanh non, sắc mặt vàng xanh, chỉ trên hai gò má đã mất máu, nhìn xuống, trên khóe mắt có ngấn lệ, cặp mắt cũng không có tinh thần bằng trước kia. Vả lại cũng vẫn do bà Vệ già đưa đến, làm ra vẻ từ bi, lãi nhãi nói cùng thím Tư rằng:

"... Thế này thật đúng như người ta nói: Thiên hữu bất trắc phong vân! Người đàn ông mụ chắc nịch đi chứ phải, ai dè tuổi xanh hơ hớ, đau có một trận thương hàn liền chết.

Thực thì đã đỡ rồi đấy, chỉ ăn vào có một bát cơm nguội, lại hát lại. May mà có con trai; mụ lại hay lam hay làm, đốn củi, hái chè, nuôi tằm đều được cả; vốn tình có thể ở vậy lắm, ai dè thằng bé lại bị chó sói tha đi ư? Mùa xuân sắp qua rồi, chó sói còn xuống tới làng, ai ngờ đến? Hiện giờ mụ chỉ còn một mình trơ trọi. Người anh chồng đến choán lấy nhà, lại đuổi mụ đi. Mụ thật hết chỗ dung thân rồi, chỉ xin đến nhờ hai cụ. Được một cái là mụ hiện giờ không còn vướng víu gì nữa; nhà cụ đây lại vừa ưa muốn thay người làm, cho nên tôi mới đưa mụ đến. - Tôi tưởng quen nhà quen cửa, tốt hơn thuê người lạ nhiều..."

"Tôi thật khờ, khờ quá." Mụ Tường Lâm ngước cặp mứt thất thần lên nói tiếp theo, "Tôi chỉ biết lúc sa tuyết, những thú rừng ở trong hóc núi không có gì ăn, nó mới xuống đến làng. Tôi có ngờ đâu qua mùa xuân rồi nó cũng vẫn xuống. Một buổi mai sớm, tôi dậy mở cửa, xách chiếc giỏ nhỏ đựng đầy một giỏ đậu, gọi thằng A Mao nhà tôi đem ngồi ở ngạch cửa bóc vỏ. Nó biết vâng lời lắm, tôi bảo gì nó cũng vâng. Nó đi ra. Tôi bèn ở sau nhà bổ củi, vo gạo, trút gạo vào nồi toan ghế đậu. Tôi gọi A Mao, không thấy thưa, đi ra xem, chỉ thấy đậu vung vãi trên đất, không có A Mao nhà tôi. Nó có hề đi chơi nhà khác đâu; đi hỏi mấy nơi, quả thật không có. Tôi sửng sốt, mượn người đi tìm. Cho đến xế chiều, tìm quanh quẩn đến trong hóc núi, thấy trên cành gai mắc một chiếc giầy nhỏ của nó. Người ta đều nói, thôi hỏng rồi, e bị chó sói rồi. Đi tới nữa, quả nhiên nó nằm trong đám cỏ, ruột gan trong bụng đã bị moi ăn tất cả, ở tay còn khư khư nắm lấy chiếc giỏ con..." Kế đó mụ nghẹn ngào, nói không thành câu nữa.

Thím Tư ban đầu còn ngần ngừ, đến khi nghe mụ nói xong, quầng con mắt có hơi đỏ. Bà ta suy nghĩ một lát rồi bảo mụ xách cái giỏ và đồ hành lý xuống nhà dưới. Bà Vệ già hình như thoát gánh nặng thở ra một cái; còn mụ Tường Lâm dáng người hơi thư thái hơn hồi mới vào, chẳng đợi ai chỉ dẫn, tự mình nhanh nhẩu cất đồ hành lý. Từ đó mụ ở lại Lỗ Trấn làm công.

Người ta vãn gọi mụ là mụ Tường Lâm.

Nhưng mà lần này, cảnh ngộ của mụ sẽ thay đổi nhiều lắm. Sau khi nhận việc vài ba hôm, những người nhà chủ đã thấy ra mụ không còn nhanh tay nhanh chân như trước, trí nhớ cũng hỏng đi nhiều, trên cái mặt như mặt ma lại cả ngày chẳng hề có dáng cười; theo giọng nói của thím Tư, đã có hơi bất mãn. Lúc mụ mới đến, chú Tư tuy cứ theo lệ cau mày, nhưng vì thấy lâu nay thuê được đứa ở gái khó lắm, nen cũng không phản đối hẳn, chỉ dặn riêng thím Tư rằng thứ người ấy ngó như là đáng thương, có điều làm bại hoại phong tục, dùng nó đỡ bận thì được, chứ khi cúng tế không nên để nó mó tay vào, mọi sự nấu nướng chính mình phải làm lấy; chẳng thế, dơ dáy bẩn thịu, ông bà ông vải chẳng ăn đâu.

Việc lớn trong nhà chú Tư là việc cúng tế; mụ Tường Lâm trước kia, khi bận rộn lắm cũng vì việc cúng tế, lần này thì mụ lại rảnh tay. Cái bàn đặt giữa nhà, treo cái màn lên, mụ còn nhớ làm như hồi xưa đi sắp chén rượu và đũa.

"Mụ Tường Lâm, mụ buông ra thôi! Để tôi soạn cho." Thím Tư vội vàng nói.

Mụ thụt tay không kịp, lại đi lấy cái đài cắm nến.

"Mụ Tường Lâm, mụ buông ra thôi! Để tôi lấy cho." Thím Tư lại vội vàng nói.

Mụ xây quanh mấy vòng, rốt lại không có việc gì làm, chỉ ngơ ngẩn đi khỏi đó. Trong một ngày ấy cái việc mụ có thể làm được chỉ là ngồi dưới bếp chụm lửa.

Mọi người ở Lỗ Trấn cũng vẫn gọi mụ là mụ Tường Lâm, nhưng cái giọng gọi không giống với trước kia. Họ cũng có nói chuyện cùng mụ, nhưng cái dáng cười đã trở nên lạnh lùng rồi. Mụ toan không để ý đến những sự ấy, cứ nhìn thẳng tới, đăm đăm kể lể với người ta cái chuyện mà chính mụ ngày đêm chẳng quên.

"Tôi thật khờ, khờ quá." Mụ nói, "Tôi chỉ biết lúc sa tuyết những thú rừng ở trong hóc núi không có gì ăn, nó mới xuống đến làng, tôi có ngờ đâu qua mùa xuân rồi nó cũng vẫn xuống. Một buổi sớm mai, tôi dậy mở cưa, xách chiếc giỏ nhỏ đựng đầy một giỏ đậu, tôi gọi thằng A Mao nhà tôi đem ngồi ở ngạch cửa bóc vỏ. Tôi bèn ở sau nhà bổ củi, vo gạo, trút gạo vào nồi, toan ghế đậu. Tôi gọi: "A Mao", không thấy thưa. Đi ra xem, chỉ thấy đậu vung vãi trên đất, không có A Mao nhà tôi. Đi tìm hỏi mấy nơi, đều không có. Tôi sửng sốt, mượn người đi tìm. Cho đến xế chiều, mấy người đi tìm đến trong hóc núi, thấy trên cành gai mắc một chiếc giày nhỏ của nó. Người ta đều nói, thôi hỏng rồi, e bị chó sói rồi. Đi tới nữa, quả nhiên nó nằm trong đám cỏ, ruột gan trong bung đã bị moi ăn tất cả, thương hại trong tay nó còn khư khư nắm lấy chiếc giỏ con..." Thế rồi mụ chảy nướ mắt ra, tiếng cũng nghẹn ngào đi.

Câu chuyện thế mà cũng có hiệu quả. Bọn đàn ông nghe đến đó, thường thường là thôi cười, tiu nghỉu bỏ đi; bọn đàn bà lại chẳng những như là tha thứ cho mụ, trên mặt còn đổi ngay cái bộ khinh bỉ, còn chảy giùm mấy dòng nước mắt. Có mấy bà già không có ở đầu đường nghe chuyện mụ, bèn cố đi tìm cho được, để mụ kể mẩu chuyện bi thảm ấy cho nghe. Khi mụ kể đến nghẹn ngào, họ thảy đều chảy những giọt nước mắt đọng ở khóe, than thở một hồi, hả hê đi trớt, vừa đi lại còn vừa bàn tán nhao nhao.

Mụ dầu chỉ kể đi kể lại có ngần ấy, nó là mẩu chuyện bi thảm, cũng thường thường kéo được năm ba người đến nghe mụ. Song le chẳng bao lâu, người ta nghe đã thuộc làu, dầu cho đến các bà cụ rất từ bi hay niệm phật, khóe mắt cũng ráo hơ. Sau lại, mọi người ở vùng Lỗ Trấn đều có thể đọc trầm câu chuyện mụ, nghe qua một cái là họ chán ngán đến nhức đầu.

"Tôi thật khờ, khờ quá." Mụ bắt đầu nói.

"Phải, chị chỉ biết lúc sa tuyết, những thú rừng ở trong hóc núi không có gì ăn, nó mới xuống đến làng." Bọn họ lập tức cắt đứt câu chuyện của mụ, bỏ đi trớt.

Mụ đứng sững há hốc miệng ra, đăm đăm nhìn bọn họ, rồi cũng bước đi, hình như chính mụ cũng thấy là vô vị. Song le, mụ còn hay nghĩ bâng quơ, mong từ những việc đâu đâu, như cái giỏ nhỏ, đậu, đứa bé của người khác, gợi ra câu chuyện thằng A Mao của mụ. Nếu thấy được đứa bé hai ba tuổi một cái, mụ sẽ nói:

"ờ, thằng A Mao nhà tôi nếu còn sống, cũng đã lớn bằng này rồi."

Đứa bé thấy bộ tướng cặp mắt của mụ liền sợ hãi, níu vạt áo mẹ nó, giục đi đi. Khi ấy còn lưa lại chỉ một mình mụ, mụ cũng tiu nghỉu bỏ đi nốt. Về sau người ta lại đều biết cái dở hơi của mụ, mỗi khi có đứa bé nào ở trước mặt, họ nửa bỡn nửa thực hỏi trước mụ rằng:

"Chị Tường Lâm nè, thằng A Mao nhà chị nếu còn sống, cũng đã lớn bằng này rồi chứ gì?"

Mụ chưa chắc biết rằng câu chuyện bi ai của mụ đã được người ta nhấm nháp ngấu nghiến bấy lâu nay, nó đã thành ra cặn bã, chẳng bõ chán nhàm và phỉ nhổ; nhưng theo dáng cười của mọi người, mụ cũng hơi thấy được là lạnh lùng chua chát, thôi thì mình chẳng cần còn nói nữa làm chi. Mụ chỉ liếc nhìn bọn họ một cái, không trả lời nửa câu.

Lỗ Trấn cứ luôn luôn bước sang năm mới, hai mươi tháng chạp về sau là bận rối lên. Trong nhà chú Tư lần này phải thuê trai làm ngày, còn chưa hết bận, gọi thêm u Liễu làm giúp: giết gà, làm thịt ngỗng. Song le, u Liễu lại là tu tại gia, ăn chay trường, không chịu sát sinh, chỉ việc rửa bát đĩa. Mụ Tường Lâm ngoài việc chụm lửa chẳng có việc gì làm, rỗi lắm, chỉ ngồi xem u Liễu rửa bát đĩa. Tuyết lớt phớt sa.

"Chao ôi, tôi thật khờ!..." Mụ Tường Lâm nhìn trời than thở, như nói một mình.

"Chị Tường Lâm, chị lại bắt đầu rồi." U Liễu trắng trợn nhìn mặt mụ, nói. "Tôi hỏi chị: Cái sẹo trên khóe trán chị có phải bởi hồi đó động đầu mà thành ra không?"

"ờ..." mụ trả lời ấp úng.

"Tôi hỏi chị: Hồi đó vì lẽ gì về sau chị cũng thuận đi?"

"Tôi ấy à?..."

"Chị nè, tôi tưởng: việc ấy cũng bởi chính mình chị đã bằng lòng rồi, chứ không thì..."

"ồ! Chị không biết sức họ khỏe là dường nào..."

"Tôi không tin, không tin chị sức khỏe như thế mà lại chống cự không nổi. Chắc chị về sau chính mình khứng chịu rồi, lại đổ tại sức họ khỏe."

"ồ, chị... Rồi chính mình chị thử xem." Mụ cười.

U Liễu cũng bật cười lên, làm lớp da nhăn trên mặt túm tíu lại như trái hồ dào. Cặp mắt nhỏ và ráo hơ của u liếc nhìn khóe trán mụ Tường Lâm một cái, rồi giắt mắt vào đó. Mụ Tường Lâm hình như rất ké né, tức thì không cười nữa, xoay chiều mắt, đứng nhìn tuyết sa.

"Chị Tường Lâm, thực ra thì chị tính không gọn." U Liễu lại bắt đầu nói thả ví. "Cứ làm già nữa, hay là văng mạnh động đầu đến chết đi một cái, chẳng đã xong rồi. Bây giờ đây, chị cùng người chồng của chị ở với nhau chưa đầy hai năm, trở mắc phải một cái tội lớn. Chị nghĩ xem, về sau chị xuống đến âm phủ, hai con ma đàn ông ấy còn phải giành nhau, chị sẽ về tay ai cho ổn ư? Vua Diêm La chỉ có đem chị cưa hai ra, cho mỗi đằng một nửa. Tôi nghĩ thật là..."

Trên mặt mụ liền hiện ra vẻ sợ hĩ, điều ấy ở trong làng rừng thật chưa hề biết đến.

"Tôi nghĩ, chi bằng chị kíp tính cách đền bù đi. Chị hãy đến trong miếu thổ địa quyên cúng một cái ngạch cửa sau, coi là cái thân chị đấy, để cho ngàn người xéo lên, muôn người bước qua, chuộc cái tội của một đời người, ngõ khỏi phải chịu khổ hình sau khi chết."

Mụ bấy giờ cũng chẳng trả lời ra làm sao, song chừng là buồn rầu quá đỗi. Sáng hôm sau chỗi dậy, trên đôi con mắt vầy hai cái quầng đen to tướng. Ăn cơm sáng xong, mụ bèn đi đến cái miếu thổ địa ở xóm tây Lỗ Trấn quyên cúng một ái ngạch cửa. Lão từ ban đầu còn làm dày chẳng khứng cho; mụ van thiết đến chảy nước mắt, mới gắng gượng nhận lời. Giá cái ngạch là mười hai đồng bạc.

Mụ từ lâu không nói chuyện với ai được, vì câu chuyện thằng A Mao đã bị người ta chán phè rồi; nhưng từ khi trò chuyện với u Liễu, hình như lại đồn đại ra, bao nhiêu người nảy ra một cái thú vị mới, lại tìm đến mụ gạ chuyện. Đến như đầu đề, tự nhiên là đổi một mẩu mới, băm vào cái sẹo ở trên trán mụ kia.

"Chị Tường Lâm! Tôi hỏi chị, lúc đó vì lẽ gì sau lại chị cũng chịu quách?" Một người nói thế.

"ờ, đáng tiếc thật, động đầu một cái toi." Người khác nhìn cái sẹo mụ, phụ họa theo.

Mụ cứ ở dán cười giọng nói của bọn họ, chừng cũng biết là đang chế nhạo mình, nên chi chỉ cứ trừng mắt, chẳng nói một lời, sau đến không quay đầu lại nữa. Mụ cả ngày ngậm chặt mồm, trên đầu đeo mãi cái sẹo mà người ta cho là cái dấu hiệu nhơ nhuốc, cứ lẳng lặng đi đường phố, quét nhà, rửa rau, vo gạo. Vừa đầy một năm, mụ mới nhận lấy ở tay thím Tư món tiền công bấy lâu còn gửi lại, đổi lấy mười hai đồng bạc, xin phép đi đến xóm tây Lỗ Trấn. Chưa đến ăn xong bữa cơm, mụ đã trở về, sắc mặt rất tươi tỉnh, mắt cũng sáng lên, nói với thím Tư như tuồng đắc ý lắm, rằng mình đã quyên cúng cái ngạch cửa ở miếu thổ địa rồi.

Sang đông chí, ngày tế tổ, mụ ra sức làm việc. Thấy thím Tư soạn sửa cúng xong, cùng A Ngưu khiêng cái bàn đến giữa nhà, mụ liền quày quả đi lây chén rượu và đũa.

"Mụ buông ra thôi, mụ Tường Lâm!" Thím Tư lại giật giọng nói.

Mụ thụt tay lại như là bị bỏng, tức thì sắc mặt đổi ra đen xám, cũng chẳng đi lấy đài cắm nến nữa, chỉ đứng sững thất thần. Cho đến lúc chú Tư thượng hương, bảo mụ đi, mụ mới đi. Lần này mụ thay đổi hơn lần nào cả: ngày hôm sau, chẳng những mắt sâu vào, đến cả tinh thần cũng càng kém. Lại thêm nhát gan quá, chẳng những sợ đêm tối, sợ bóng đen, đến thấy người ta, dầu người chủ mình, cũng nơm nớp chẳng khác con chuột nhắt đi ra khỏi hang giữa ban ngày. Chẳng thế thì ngồi đực ra như con người gỗ. Không tới nửa năm, tóc cũng bắt đầu bạc hoa râm, trí nhớ đến hỏng, rất đỗi thường thường quên lửng đi vo gạo.

"Mụ Tường Lâm ra làm sao ấy, biết vậy hồi đó không để mụ ở lại mà hơn." Thím Tư có lúc đã nói như thế trước mặt mụ hình như muốn cảnh cáo.

Nhưng mà mụ vẫn cứ thế, không còn mong gì lanh lợi hơn lên. Bấy giờ họ mới tính cho mụ ra, bảo mụ về với bà Vệ già. Song le, đang lúc tôi còn ở Lỗ Trấn, họ chỉ nói thế thôi; mà xem như tình trạng hiện giờ, biết rằng sau lại đã thực hành điều ấy. Tuy vậy, mụ trở nên ân mỳ ngay khi ra khỏi nhà chú Tư, hay là trước đến nhà bà Vệ già rồi sau mới đi ăn mày thì tôi không biết.

Tôi bị những tiếng pháo đốt gần nổ rất to đánh thức, thấy ngọn đèn sáng vàng bằng hột đậu, kế đó lại nghe pháo tràng rẹt rẹt, ấy là nhà chú Tư đang làm lễ "chúc phước", biết rằng đã sang canh năm rồi. Trong mơ màng, tôi lại mường tượng nghe những tiếng pháo xa xa liên miên chẳng dứt, như họp lại thành đám mây đặc có tiếng vang giậy trời, cùng với hoa tuyết quây quần bay múa, ôm ấp cả một thị trấn. Tôi ở trong sự ôm ấp xôn xao ấy cũng thấy phờ người ra mà khoăn khoái, bao nhiêu sự lo ngại từ ban ngày đến hồi đầu hôm đều nhờ cái không khí chúc phước quét sạch cả, chỉ cảm thấy trời đất quỷ thần đã hâm hưởng những rượu thịt và hương khói, đều say gật gù đi khệnh khạng giữa khoảng không, sẵn sàng ban phát cho mọi người ở Lỗ Trấn những hạnh phúc vô ngần.

Tựa lấy

Tôi lúc còn trai trẻ cũng từng có nhiều thứ chiêm bao, sau rồi quên bẵng hết già nửa, nhưng tự tôi cũng chẳng lấy làm đáng tiếc. Cái gọi bằng hồi ức, tuy có thể làm cho người ta vui thích, cũng có khi không khỏi làm cho người ta lạnh lùng. Bắt cái sợi tơ tinh thần cứ mắc míu lấy cái ánh sáng mặt trời lạnh lùng đã đi đứt, thì còn có thú vị gì đâu. Khổ cho tôi là không quên bẵng được hết thảy, cái một phần tôi không quên bẵng được ấy đến hôm nay thành ra cái nguồn của tập Nột hám[1] này.

Hơn bốn năm, tôi đã từng thường thường - hầu như là hàng ngày, ra vào trong tiệm cầm đồ và tiệm thuốc. Bấy giờ tôi mấy tuổi tôi quên bẵng, tóm lại là cái quày của tiệm thuốc cao ngang tôi, của tiệm cầm đồ cao gấp đôi tôi. Tôi từ dưới cái quày cao gấp đôi đưa lên áo xống hoặc đồ nữ trang, nhận lấy đồng tiền trong sự khinh dể, rồi lại đến chỗ cái quày cao ngang mình mua thuốc cho cha tôi, người mang bệnh đã lâu năm. Sau khi về nhà, lại phải bận vì việc khác, bởi ông thầy thuốc cho đơn là thầy rất có danh tiếng, cho nên thứ dùng để dẫn thuốc[2] cũng rất lạ lùng: rễ cây lau mùa đông, mía chịu sương ba năm, con dế nguyên cả cặp, cây bình địa đã có trái... phần nhiều là thứ không dễ gì kiếm ra. Nhưng mà rốt lại bệnh cha tôi cứ một ngày càng nặng một ngày cho đến chết.

Có ai từ nhà khá giả mà sa sút đến cùng khốn không ư, tôi cho rằng ở trên con đường ấy đại khái có thể nhìn thấy bộ mặt thật của người đời. Tôi phải đến N xin vào trường học K[3], hình như là toan rẽ con đường khác, trốn đến xứ khác, đi tìm hạng người xa lạ nào khác. Mẹ tôi không có cách gì, chạy cho tám đồng bạc làm tiền ăn đường, bảo rằng tôi đi đâu tùy ý. Nhưng mà bà khóc, đó là sự tất nhiên, bởi vì lúc bấy giờ học để đi thi là đường chính, cái gọi bằng học tây, thì xã hội cho đó là kẻ hết đường đi rồi, chỉ phải đem linh hồn bán cho người ngoại quốc, sẽ chế nhạo càng hơn và còn hắt hủi nữa, huống nữa bà lại không thấy đứa con của mình. Nhưng mà tôi cũng không thể đoái hoài đến những việc ấy, rốt lại đi đến N và vào trường học K. ở trong trường học ấy, tôi mới biết trên đời còn có những cái gọi bằng cách trí, toán học, địa lý, lịch sử, họa đồ và thể thao. Người ta không dạy sinh lý học, có điều chúng tôi lại đã được xem những sách khắc bản gỗ như là Toàn thể tâu luận và Hóa học vệ sinh luận[4]. Tôi còn nhớ lời bàn luận và phương thang của ông thầy thuốc trước kia, đem so sánh với những cái hiện giờ mà tôi biết, dần dần vỡ ra rằng thầy thuốc ta chẳng qua là một thứ người lừa bịp vô tình hoặc cố ý, cùng một lúc lại hăng hái biểu đồng tình với những người ốm bị lừa bịp và người nhà của họ. Vả lại, trên lịch sử bằng bản dịch, tôi lại biết những cái sự thực trong cuộc duy tân Nhật Bản già nửa là bắt nguồn từ y học phương Tây.

Cũng bởi cái trí thức non nớt ấy, khiến cho tôi về sau ghi tên trong sổ một trường học thuốc chuyên môn ở vùng nhà quê Nhật Bản. Tôi rất mãn nguyện, định bụng sau khi tốt nghiệp về nước sẽ chữa cho những người đau ốm bị lừa dối giống như cha tôi, lúc có chiến tranh thì đi làm thầy thuốc quân y, một mặt khác lại giục giã người nước đối với cuộc duy tân thêm lòng tin tưởng. Tôi không biết hiện giờ cái cách dạy về vi trùng học có tiến bộ thế nào không, chứ lúc bấy giờ thì dùng chiếu bóng để chiếu rõ hình trạng con vi trùng, vì vậy có khi một bài giảng nghĩa đã xong mà còn có thì giờ, giáo sư bèn chiếu những phim phong cảnh hoặc thời sự cho học sinh xem để khỏi phí những phút thừa ấy. Lúc đó nhằm lúc chiến tranh Nhật Nga, những phim về chiến sự tự nhiên cũng có khá nhiều, tôi ở trong lớp học ất, thường thường phải vào hùa với các bạn đồng học vỗ tay và reo lên. Có một lần, ở trong phim, tôi thình lình gặp mặt bao nhiêu người Trung Quốc mà tôi lâu ngày xa cách, một người bị trói ở giữa, bao nhiêu người đứng chung quanh, hết thảy đều mạnh mẽ mà phơi ra cái vẻ mặt tê điếng. Theo lời giải thì người bị trói là người làm trinh thánh quân sự cho nước Nga, đang bị quân Nhật sắp sửa chặt đầu thị chúng, còn những người vây chung quanh đó là những người đến giám thưởng cuộc thị chúng rầm rộ ấy.

Chưa mãn một năm học ấy, tôi đã đi đến Đông Kinh rồi, bởi vì từ lần ấy về sau, tôi thấy học thuốc cũng không phải là việc cần kíp: Hễ là thứ quốc dân hèn yếu, thì dù cho thân thể có mạnh mẽ đến đâu, vặm vỡ đến đâu, cũng chỉ có thể làm tài liệu và khán giả của cuộc thị chúng không có ý nghĩa gì hết, đau và chết đi bao nhiêu kẻ, cũng không cần cho đó là sự đáng buồn. Thế thì cái điều cần kíp thứ nhất của chúng ta là ở sự biến đổi tinh thần của họ, mà muốn biến đổi được tinh thần, bấy giờ tôi nghĩ không gì bằng dùng văn nghệ. Trong đám lưu học sinh ở Đông Kinh bấy giờ có nhiều người học pháp chánh, lý hóa, cả đến cảnh sát, công nghiệp nữa, nhưng không có ai chuyên trị về văn học và mỹ thuật ; tuy vậy, trong không khí lạnh nhạt, cũng may mà tìm được mấy kẻ đồng chí, ngoài ra còn rủ được mấy người cần phải có, sau khi bàn tính, bước thứ nhất là phải ra một cái tạp chí, tên tạp chí lấy ý nghĩa là "sự sống mới", mà vì chúng tôi lúc đó có mang ít nhiều cái khuynh hướng phục cổ, cho nên gọi là "Tân sinh".

Gần đến ngày xuất bản tờ Tân sinh, thì trước tiên là mấy người chịu miệng viết bài lẩn đi đâu mất, rồi tiếp đến người chịu bỏ tiền cũng đi trốn, rốt chỉ còn lại ba anh chàng không có một đồng dính tay. Bắt đầu xây dựng đã trái mùa, thì khi nó thất bại phải bặm miệng mà chịu, vả lại sau đó cả đến ba anh chàng còn lại cũng đều bị số mạng của mỗi người dong duổi, không thể cùng ở một chỗ nói khoác lác với nhau về cái mộng đẹp tương lai, thế là cái kết cục tờ Tân sinh chưa hề ra đời của chúng tôi đó.

Từ đó về sau, tôi cảm thấy s buồn nản mà trước kia chưa từng trải qua. Lúc đầu tôi không biết cái cớ tại làm sao ; sau rồi nghĩ thấy: Hễ có người nào chủ trương cái gì, nếu được tán đồng, là giục cho tiến hành, nếu bị phản đối, là giục cho phấn đấu, chỉ có kêu gào giữa đám người sống, mà người sống tịnh không hề phản ứng, đã chẳng tán đồng cũng chẳng phản đối, dường như đặt mình giữa đồng không mông quạnh, không biết mó tay vào đâu, ấy là điều đáng buồn thương đến mức nào, thế rồi tôi lấy cái điều mình cảm thấy làm lạnh lùng.

Cái lạnh lùng ấy lại càng ngày càng lớn phình mãi lên, như con rắn độc to, quấn lấy linh hồn tôi.

Nhưng mà tôi tuy có buồn thương bâng quơ, chứ cũng không hề tức tối, bởi vì cái kinh nghiệm ấy làm cho tôi xét lại mình, thấy mình là gì rồi: ấy là tôi quyết không phải một đấng anh hùng giang tay hô một tiếng mà mọi người đều phụ họa.

Có điều cái lạnh lùng của chính mình tôi thì không thể không xua đuổi nó đi được, bởi vì nó làm tôi đau khổ quá. Thế rồi tôi dùng mọi cách dể làm tê điếng linh hồn mình đi, khiến tôi ngập trong đám quốc dân, khiến tôi trở về với đời cổ, sau đó cũng từng chính mình nếm lấy hoặc đứng cạnh xem qua mấy việc càng lạnh lùng buồn thương hơn, mà tôi đều không muốn nhớ lại, đành cho chúng nó với trí khôn của tôi cùng tiêu diệt trong bùn đất một thể, song le cái cách làm tê điếng của tôi lại hình như đã kiến hiệu, tôi không còn có cái lòng dạ hăng hái và bốc đồng như hồi còn thanh niên.

*

* *

Trong hội quán S[5] có ba gian nhà, truyền rằng thuở xưa trên cây hòe trước sân từng có một người nữ thắt cổ chết, hiện giờ htì cây hòe đã cao quá với, mà cái nhà ấy vẫn không có ai ở ; tôi bèn trọ trong cái nhà ấy chép bia xưa đã bao nhiêu năm. Trong cảnh đùm đậu ít có người đến chơi, trong bia xưa cũng không gặp thấy vấn đề hay chủ nghĩa nào, mà sinh mạng của tôi thì lại cứ âm thầm tiêu hao đi, ấy cũng là điều mong muốn độc nhất của tôi. Đêm mùa hè, nhiều muỗi, bèn phẩy cái quạt lác ngồi dưới cây hòe, từ trong những kẽ lá dày xem một tý một tỵ trời xanh, những con sâu hòe ban đêm ra lại cứ từng con từng con như giá lạnh rơi trên cổ.

Lúc đó, người năm khi mười họa đến gẫu chuyện là Kim Tâm Dị[6], một anh bạn cũ. Anh ta cầm cái cặp da to tướng đặt trên cái bàn xệ xạc xong, cởi áo dài ra, ngồi đối mặt nhau, mà vì sợ chó, hình như trong buồng tim anh còn đang đập mạnh.

"Anh chép những cái này có dùng làm gì không?". Một đêm nọ, anh ta giở từng cái bổn chép bia xưa của tôi, phát ra câu hỏi như dò xét ấy.

"Chẳng có dùng làm gì cả."

"Thế thì, anh chép nó có ý gì?"

"Chẳng có ý gì cả."

"Tôi tưởng, anh nên viết cái gì chứ..."

Tôi biết ý anh ta rồi. Bọn họ đang làm báo Tân thanh niên[7], mà bấy giờ hình như không có ai tán đồng, cũng không có ai phản đối, tôi tưởng, bọn họ có lẽ cũng cảm thấy lạnh lùng chăng, nhưng tôi nói:

"Giá như có một căn nhà bằng sắt, không có cửa ngõ nào hết mà dứt không có thể phá tung được, trong đó có bọn người đang ngủ ngon, không bao lâu họ sẽ chết ngạt, nhưng là từ ngủ mê đến chết rấp, không hề cảm thấy sự buồn thương của cái chết. Nay anh la to lên, làm thức dậy mấy kẻ còn khá tỉnh ngủ, khiến một ít người xấu số ấy phải chịu đau khổ lúc gần chết không thể cứu được, mà anh lại cho thế là xử tốt với họ ư?".

"Nhưng mà đã có mấy người tỉnh dậy, anh không thể cầm chắc rằng không có hy vọng phá tung được cái nhà bằng sắt ấy."

Phải đấy, tôi tuy có sự tin chắc của tôi, nhưng nói đến hy vọng, thì lại không thể sổ toẹt được, bởi vì hy vọng về tương lai, quyết không thể lấy cái điều tôi chứng minh rằng chắc không có để mà bác bỏ cái điều anh ta cho rằng có thể có, thế rồi tôi nhận lời anh ta và viết bài, tức là cái truyện ngắn Nhật ký người điên đầu tay[8]. Sau đó, đã buông ra không thể cầm lại, thường hay viết những bài có vẻ như tiểu thuyết, gọi là có để đáp lại sự đòi hỏi của bạn bè, lâu ngày dồn lại có được hơn mười bài.

Về phần riêng tôi hiện nay, vẫn tự thấy rằng mình đã không phải là người có điều gì bách thiết cần phải nói ra mới được, nhưng hoặc giả còn chưa quên cái sự buồn thương lạnh lùng của mình ngày nọ, cho nên có khi không khỏi la ó lên mấy tiếng, để yên ủi những kẻ mãnh sĩ đang chạy vạy trong sự lạnh lùng, cho họ không ngại tiến lên trước. Còn như tiếng la của tôi là mạnh dạn hoặc buồn thương, là đáng ghét hoặc đáng buồn cười, đó lại là điều không rồi đâu nghĩ đến. Song đã la ó lên, thì vẫn phải nghe theo tướng lệnh, cho nên tôi có khi không quản dùng lệch ngòi bút, như ở truyện ngắn Thuốc, trên mả Dunhi thình lình thêm một vòng hoa, trong truyện ngắn Ngày mai cũng không kể chuyện mụ Tư Đơn rốt lại không chiêm bao thấy đứa con của mụ, bởi vì vị chủ tướng bấy giờ không chủ trương tiêu cực. Đến như chính mình tôi, lại cũng không muốn đem cái lạnh lùng tự lấy làm khổ truyền nhiễm cho lớp thanh niên đang ở trong mộng đẹp cũng như tôi hồi còn tuổi xanh.

Theo như đã nói đó, thì đủ biết tiểu thuyết của tôi còn cách xa với nghệ thuật lắm, thế mà cho đến nay vẫn còn mang được cái danh tiểu thuyết, đến nỗi còn có dịp làm thành tập, không luận thế nào, không thể không kể đó là một điều may mắn, sự may mắn ấy tuy làm cho tôi không yên tâm, song tưởng trong đời tạm thời còn có người đọc, thì rốt lại tôi cũng vẫn thấy thỏa lòng.

Bởi vậy tôi trót đem những truyện ngắn của tôi dồn lại thành tập, vả in ra nữa, lại bởi cớ nói trên, đặt tên là Nột hám.

Ngày mai

Không có tiếng tăm gì hết. - Thằng bé thế nào rồi?

Lão Củng mũi đỏ tay nâng chén rượu vàng[1] vừa nói, vừa nhằm bên kia vách bỉu môi. Năm da chàm bèn để chén rượu xuống, ra sức nện một đấm trên sống lưng hắn, ấp úng gào lên rằng:

Mầy... mầy mầy lại đang tơ tưởng gì đây....

Lỗ Trấn vốn là nơi hẻo lánh, còn có ít nhiều thói tục cổ: chưa hết canh một, mọi người đã đóng cửa đi ngủ. Đêm khuya mà còn chưa ngủ chỉ có hai nhà: một là tiệm rượu Hàm Hanh, mấy tay rượu thịt còn cứ vây lấy cái quày, tưng bừng ăn uống ; một là nhà mụ Tư Đơn ở cách vách, từ năm ngoái chồng chết rồi ở vậy, phải chuyên nghề kéo sợi, nhờ hai bàn tay nuôi sống chính mình với đứa con trai ba tuổi, cho nên cũng thức khuya.

Mấy hôm nay, quả thật không có tiếng kéo sợi. Song le, đã chỉ có hai nhà thức khuya, thì bên nhà mụ Tư Đơn có tiếng gì, tự nhiên chỉ có bọn lão Củng nghe thấy, mà không có tiếng gì, cũng chỉ có bọn lão Củng nghe thấy.

Lão Củng bị đấm xong, hình như lấy làm khoan khoái nốc một ngụm rượu lớn, giọng ồ ồ hát những câu hát vặt.

Lúc đó, mụ Tư Đơn đang ẵm thằng Báu của mụ, ngồi ở cạnh giường, cái xa kéo lặng lẽ đứng trên đất. ánh đèn mờ nặng nề soi trên mặt thằng Báu, trong màu đỏ nhạt có một chút xanh. Mụ Tư Đơn thầm tính: xăm cũng đã xin rồi, khấn nguyện cũng đã khấn rồi, thuốc thang cũng đã uống rồi, vẫn không thấy đỡ, làm thế nào bây giờ? - Chỉ có đi nhờ thầy Hà Tiểu Tiên bắt mạch thôi. Nhưng bệnh thằng Báu cũng có lẽ là nhẹ ngày nặng đêm, đến ngày mai, mặt trời mọc một cái là sốt cũng có thể lui, thở dốc cũng có thể đỡ: thực sự, người bệnh cũng thường có như thế.

Mụ Tư Đơn là một người đàn bà quê kệch, không biết cái chữ nhưng ấy là đáng sợ. Bao nhiêu việc xấu vẫn nhờ có nó biến nên tốt, bao nhiêu việc tốt lại cũng vì có nó mà hóa ra hư hỏng. Mùa hè đêm ngắn, giọng hát ồ ồ của bọn lão Củng vừa dứt chưa lâu, phương đông đã hừng sáng ; một chốc chi đó, khe cửa sổ đã dọi vào ánh ban mai.

*

* *

Mụ Tư Đơn chờ cho trời sáng, không phải dễ dàng như người khác, mụ thấy sao mà chậm quá, một cái thở ra thở vào của thằng Báu hầu như dài hơn một năm. Bây giờ thì đã sáng rồi ; ánh sáng trời xóa mất ánh sáng đèn, thấy rõ hai cánh mũi của thằng Báu cứ phồng ra núng vào theo hơi thở.

Mụ Tư Đơn coi mòi không khá, ngầm kêu một tiếng chao ôi!. Trong lòng lo tính: bây giờ làm thế nào? Chỉ có một con đường đi nhờ thầy Hà Tiểu Tiên thăm mạch. Mụ tuy là một người đàn bà quê kệch, chứ đã nghĩ được thì quyết làm, bèn đứng dậy, mò trong túi lấy ra 13 đồng hào và 180 đồng tiền dè dặt để dành hằng ngày, cho vào túi áo, khóa cửa, ẵm thằng Báu đi bươn bả đến nhà họ Hà.

Mới sáng sớm mà nhà họ hà đã có bốn con bệnh ngồi đó rồi. Mụ móc ra bốn hào mua một cái thẻ, thẻ thứ năm là đến phiên thằng Báu. Hà Tiểu Tiên thò hai ngón tay bắt mạch, móng tay dài có đến bốn tấc, mụ Tư Đơn ngầm lấy làm lạ, nghĩ bụng: số thằng Báu chắc phải sống. Có điều thế nào cũng không khỏi nóng ruột, phải hỏi mới được, mụ bèn rè rè rụt rụt nói:

Thưa thầy, thằng con tôi mắc bệnh gì?

Nó bị nghẹt ở trung tiêu[2].

Có hề chi không? Nó....

Trước hãy uống hai chén đã.

Nó thở dữ quá, hai cánh mũi cứ phồng ra núng vào.

Đó là hỏa khắc kim...[3]

Hà Tiểu Tiên nói mới nửa câu, liền nhắm mắt lại ; mụ Tư Đơn cũng e thẹn không khỏi nữa. Một người chừng hơn ba mươi tuổi ngồi đối ngang Hà Tiểu Tiên, lúc đó đã khai xong cái đơn thuốc, lấy tay chỉ mấy chữ ở góc giấy nói:

"Cái vị thứ nhất là Bảo-anh-hoạt-mạng-hoàn này phải là tiệm Tế Thế nhà họ Giả mới có."

Mụ Tư Đơn cầm lấy cái đơn thuốc, vừa đi vừa nghĩa. Mụ tuy là người đàn bà quê kệch, chứ cũng biết rằng nhà họ Hà với tiệm Tế Thế với nhà mình cách nhau như cái hình tam giác, đi mua thuốc rồi về nhà tự nhiên lợi đường hơn. Thế rồi đi thẳng tới tiệm Tế Thế. Người bán tiệm cũng nhón móng tay dài từ từ xem đơn và từ từ gói thuốc. Mụ Tư Đơn bồng thằng Báu đứng đợi ; thình lình thằng Báu giơ tay lên, cố sức bứt một chòm tóc xơ rơ trên đầu nó, đó là cái cử động bấy nay chưa hề có, mụ Tư Đơn sợ đến sửng sốt.

Mặt trời mọc đã lâu. Mụ Tư Đơn ẵm đứa bé, đèo theo gói thuốc, càng đi càng thấy nặng ; thằng bé lại cứ cựa quậy mãi, đường lại thấy càng dài. Không đừng được, mụ ngồi nghỉ trên ngạch cửa của cái công quán bên đường một lúc, thấy áo dính lấy da hơi lạnh, mới biết cả người mình toát mồ hôi ; còn thằng Báu thì hình như ngủ yên. Mụ lại đứng dậy đi chậm rãi, cũng vẫn thấy không gắng gượng được nữa, bên tai bỗng nghe có người nói:

"Chị Tư Đơn, tôi bồng thế em cho chị!" Tiếng nói giống như là tiếng của Năm da chàm.

Mụ ngước lên nhìn, quả thật là Năm da chàm, con mắt ngái ngủ đang đi theo mụ.

Bấy giờ, mụ Tư Đơn tuy rất mong có một viên thiên tướng nào giáng xống, giúp mụ một tay, nhưng lại không muốn là Năm da chàm. Nhưng, Năm da chàm vốn có tánh hào hiệp, không luận thế nào, cốt giúp mụ cho kỳ được, cho nên sửa kho từ chối một lúc, rốt lại được nhận lời. Năm da chàm bèn chìa cánh tay ra, luồn ở giữa đứa bé và vú của mụ, luồn thẳng xuống, ẵm lấy đứa bé. Mụ Tư Đơn liền thấy trên vú mình phát nóng, tức khắc nóng thẳng lên đến mặt và tai.

Hai người cùng đi, cách nhau một quãng chừng hai thước năm. Năm da chàm nói những gì gì, song hết già nửa mụ Tư Đơn không trả lời. Đi một lát, Năm da chàm trả thằng bé cho mụ, nói rằng hôm qua có hẹn với người bạn đi ăn cơm mà bây giờ đã đến giờ rồi ; mụ Tư Đơn bèn ẵm lấy thằng bé. May sao đi không xa mấy thì tới nhà, đã thấy bà Chín Vương trước cửa ngồi ở đường, xa xa nói với:

"Chị Tư Đơn, thằng bé thế nào? - Thầy đã xem chưa?"

"Xem thì đã xem xong. - Bà Vương, bà tuổi tác, thông thạo, chi bằng nhờ bà tinh mắt xem qua một chút, thế nào..."

"Hừm..."

"Thế nào?..."

"Hừm..." Bà Chín Cương nhìn kỹ một bận, rồi gật đầu hai cái, lại lắc đầu hai cái.

Đến xế, thằng Báu mới uống thuốc. Mụ Tư Đơn để ý xem thần thái nó, hình như cũng có tỉnh táo phần nào ; đến chiều, bỗng nó trợn mắt lên kêu một tiếng "má!" rồi lại vẫn nhắm mắt, như là ngủ đi. Ngủ đi một lát, trên trán và chót mũi nó đều đẵm mồ hôi từng giọt từng giọt, mụ sờ qua nhè nhẹ, như keo dính ở tay ; vội vàng sờ ở ngực, cầm lòng không đậu, bật lên tiếng thút thít.

Hơi thở của thằng Báu từ êm dịu biến đến mất hẳn, tiếng của mụ Tư Đơn cũng từ thút thít biến thành kêu gào. Lúc đó có mấy khóm người nhóm lại: trong cửa là hạng người như bà Chín Vương, Năm da chàm, ngoài cửa là hạng người như chủ quày tiệm Hàm Hanh và lão Củng đỏ mũi. Bà Chín Vương bèn ra lệnh, đốt một lề giấy tiền ; lại nhơn danh mụ Tư Đơn, đem cầm hai cái ghế ngựa và năm chiếc áo lấy hai đồng bạc để dọn cơm cho những người giúp việc ăn.

Vấn đề thứ nhất là cái săng. Mụ Tư Đơn còn có một đôi hoa tai bạc và một cái trâm bạc mạ vàng, đều đem giao cho chủ quày tiệm Hàm Hanh, nhờ hắn ta làm người bảo lãnh, mua một cái săng nửa mặt nửa chịu. Năm da chàm cũng giơ tay lên, tình nguyện mủng lấy việc, nhưng bà Chín Vương không chịu, chỉ cắt hắn vào việc ngày mai khiêng quan tài. Năm da chàm vọt miệng mắng "con chó già", rồi cứ hằm hằm bỉu môi đứng đó. Người chủ quày bèn đi một chắc ; đến chiều trở về, nói cái săng phải đóng mới có, gần sáng mới đóng xong.

Khi người chủ quày trở về, những người giúp việc đã ăn cơm xong, bởi vì Lỗ Trấn còn có thói tục cổ, cho nên chưa hết canh một, họ đã về nhà đi ngủ cả. Chỉ có Năm da chàm còn đứng tựa quày tiệm Hàm Hanh uống rượu, lão Củng cũng hát giọng ồ ồ.

Lúc bấy giờ, mụ Tư Đơn ngồi khóc ở ven giường, thằng Báu nằm ở trên giường, cái xa kéo lặng lẽ đứng trên đất. Một chặp lâu, mụ hết nước mắt, con mắt sưng lên, nhìn tình hình chung quanh, lấy làm lạ: những việc đã xảy ra đều là không thể xảy ra. Mụ nghĩ: chẳng qua là chiêm bao thôi, những việc ấy đều là chiêm bao. Ngày mai thức dậy, mình vẫn bình thường ngủ trên giường, thằng Báu cũng vẫn bình thường nằm ngủ bên cạnh mình. Khi nó thức dậy, cũng vẫn kêu một tiếng "má" rồi tinh nghịch nhảy xuống đi chơi.

Tiếng hát của lão Củng đã dứt đi lâu rồi, cái đèn bên tiệm Hàm Hanh cũng đã tắt. Mụ Tư Đơn mở mắt, cũng không tin có những việc đã xảy ra. - Gà gáy, phương đông dần dần hửng sáng, khe cửa sổ dọi vào ánh sáng ban mai.

Ánh sáng trắng ban mai lại dần dần trở màu đỏ nhạt, rồi mặt trời dọi ngay lên nóc nhà. Mụ Tư Đơn trố mắt, ngồi như người hóa dại, nghe tiếng gõ cửa, mới giật mình ra mở cửa. Ngoài cửa có một người lạ mặt, vác một cái gì, đằng sau là bà Chín Vương.

Ồ, họ đem quan tài đến.

*

* *

Đến chiều, cái săng mới đậy nắp được: Bởi vì mụ Tư Đơn khóc một lúc, lại đòi nhìn một lúc, thế nào cũng không chịu hấp tấp đậy nắp ngay. May nhờ có bà Chín Vương không đợi dai dẳng được, tức mình chạy lại nắm mụ kéo ra, rồi mới mỗi người một tay đậy nắp lên. Song le, mụ Tư Đơn lo liệu cho thằng Báu của mụ như thế, thật đã hết lòng, không còn có gì thiếu sót đáng ân hận. Thì ngày hôm qua đã đốt một lề giấy tiền, buổi sáng hôm nay lại đốt bốn mươi chín quyển "Đại bi trú"[4] ; trong lúc nhập liệm, đã mặc quần áo mới cho nó, những đồ chơi mà thường ngày nó ưa thích - một con búp bê, hai cái bát nhỏ bằng gỗ, hai cái bình bằng pha lê - đều đã đem theo cho nó, để ở cạnh cái gối đầu. Sau cùng, bà Chín Vương bấm đốt ngón tay tính kỹ, cũng chẳng thấy có chút gì thiếu sót đáng ân hận.

Trong một ngày ấy, cả ngày mất mặt Năm da chàm ; chủ quày Hàm Hanh bèn thuê cho mụ Tư Đơn hai người khiêng, mỗi người là hai quan mốt, khiêng cái quan tài đến đặt ở cồn mả nghĩa trủng. Bà Chín Vương lại giúp mụ nấu cơm, hễ là người có mó tay vào việc gì, có mở miệng nói câu nào, đều ăn cơm tất. Mặt trời dần dần tỏ vẻ muốn chen núi, những người ăn cơm xong cũng tỏ vẻ muốn về nhà, - thế rồi rốt cuộc họ đều về nhà.

Mụ Tư Đơn thấy trong người choáng váng, nghỉ một lúc, lại có hơi bình tĩnh ngay. Song le, mụ cứ luôn luôn lấy làm lạ lùng quá: gặp cái việc mà cả đời chưa hề gặp, cái việc hình như không thể xảy ra, thế mà quả thật đã xảy ra. Mụ càng nghĩ càng sững sờ, lại cảm thấy một sự lạ lùng nữa: cái nhà này sao bỗng dưng vắng ngắt thế.

Mụ đứng dậy, thắp đèn lên, cái nhà càng thấy vắng ngắt. Mụ lừ đừ đi đóng cửa lại, trở vào ngồi trên ven giường, cái xa kéo lặng lẽ đứng trên đất. Bình tĩnh lại, xem bốn phía, mụ lại thấy ngồi đứng không yên, cái nhà chẳng những vắng quá, mà lại lớn quá, vật gì trong nhà cũng không có cả, trống trải quá. Cái nhà quá lớn bao vây lấy mụ, những đồ đạc không có, trống trải đè lên mụ, mụ thở không ra hơi.

Bây giờ mụ mới biết chắc chắn thằng Báu của mụ chết hẳn rồi, mụ không muốn thấy cái nhà, thổi tắt đèn, đi nằm. Mụ vừa khóc vừa suy nghĩ: nhớ lại hồi nào, chính mình thì kéo sợi, thằng Báu htì ngồi bên cạnh ăn đậu hồi hương, nó trợn cặp mắt nhỏ mà đen nghĩ một lát, rồi thỏ thẻ: "Má! Cha đi bán bánh rán, con lớn rồi cũng đi bán bánh rán, bán được nhiều nhiều tiền, con đều đưa cho má". Lúc đó, thật cả đến những sợi chỉ kéo ra, mỗi tấc đều có ý nghĩa, mỗi tấc đều sống. Nhưng bây giờ thì thế nào? Cái việc bây giờ, thật tình mụ Tư Đơn lại chẳng nghĩ thế nào cả. - Tôi đã nói rồi, mụ là người đàn bà quê kệch. Mụ nào có nghĩ ra thế nào đâu? Mụ chỉ thấy cái nhà vắng quá, lớn quá, trống trải quá mà thôi.

Song le, mụ Tư Đơn tuy quê kệch, chứ cũng biết rằng hễ chết thì không thể sống lại, thằng Báu của mụ không thể lại thấy nữa rồi. Thở dài một cái, mụ lẩm bẩm một mình: "Báu của má ơi, con còn vơ vưởng đâu đây, cho má thấy chiêm bao đi". Thế rồi mụ nhắm mắt, toan ngủ nhanh lên cho gặp thằng Báu, chính mụ nghe mồn một hơi thở khó khăn của mình thông qua cái vắng ngắt, cái lớn và cái trống trải.

Rốt lại mụ Tư Đơn lơ mơ ngủ lúc nào không biết, cả cái nhà đều rất lặng lẽ. Lúc đó lão Củng đỏ mũi cũng đã hát xong câu hát vặn rồi, đi loạng choạng ra khỏi tiệm Hàm Hanh, lại nhu mỏ lên hát:

"Của nợ ta ơi! - Đáng thương thay - trùm trũm một mình..."

Năm da chàm bèn giơ tay níu lấy bả vai lão Củng, hai người vừa cười vừa ngả qua ngả lại chèn nhau đi.

Mụ Tư Đơn ngủ đã lâu rồi, bọn lão Củng cũng đã đi rồi, cửa tiệm Hàm Hanh cũng đã đóng rồi. Cả Lỗ Trấn lúc đó bèn rơi trụm trong vắng lặng. Chỉ có cái đêm tối tăm kia vì muốn biến thàng ngày mai thì còn cứ bôn ba trong cái vắng lặng ấy ; ngoài ra có mấy con chó cũng núp trong tối gâu gâu sủa.

Một việc nhỏ

Tôi từ nhà quê chạy đến kinh thành, thấm thoắt đã qua sáu năm rồi. Trong đó, những việc gọi là việc lớn nước nhà mà mình tai nghe mắt thấy, kể cũng không ít ; song nó đều không để lại một tý dấu vết trong lòng tôi, bây giờ nếu bảo tôi tìm vang bóng của những việc ấy ra để mà nói, thì chỉ làm cho tôi thêm ác cảm, - thật thà mà nói, chỉ làm cho tôi coi người ta không ra chi càng ngày càng hơn.

Song le có một việc nhỏ, đối với tôi lại có ý nghĩa, nó kéo tôi ra khỏi ác cảm, làm cho tôi không quên được đến bây giờ.

Mùa đông năm thứ sáu Dân quốc, gió bấc đang thổi mạnh, tôi vì việc sinh kế, một buổi sớm phải ra đi trên đường. Dọc đường hầu như không gặp người ta, khó khăn lắm mới thuê được một chiếc xe kéo, bảo kéo đến cửa S. Một lát, gió bấc dịu đi, bụi trên đường đã quét sạch, còn lưu lại con đường lớn làu làu, người phu xe chạy càng nhanh hơn. Vừa đến gần cửa S, bỗng dưng trên càng xe vướng phải một con người, chậm chậm ngã xuống.

Người ngã đó là một người đàn bà, đầu tóc hoa râm, áo quần rách rưới. Bà ta từ bên kia đường vụt chạy ngang qua trước cái xe, người phu xe đã tránh, song cái áo lá lót bông của bà không cài cúc, có gió nhẹ làm nó phất phơ, cho nên mắc vào càng xe. May mà người phu xe hơi ngừng kịp, không thì bà ta đã phải lộn nhào một keo nặng, đến nỗi vỡ đầu chảy máu.

Bà ta chum hum trên đất ; người phu xe cũng dừng chân đứng hẳn. Tôi chắc rằng bà già ấy không bị thương tích gì, lại không có ai thấy cả, bèn lấy làm quái cho người phu xe sao mà đa sự, tự mình chác lấy sự lôi thôi, cũng làm nhỡ chặng đường của tôi.

Tôi bèn nói với hắn: Không có việc gì đâu. Anh cứ chạy đi!.

Người phu xe chẳng thèm đếm xỉa, hay là cũng chẳng nghe thấy nữa, lại nhè buông cái xe ra, đỡ bà già chậm chậm đứng dậy, cầm cánh tay cho đứng vững, hỏi rằng:

Bà thế nào đấy?

Tôi ngã hỏng rồi.

Tôi nghĩ, chính mắt tôi thấy bà chậm chậm ngã xuống, thế nào lại đến ngã hỏng được, chỉ làm bộ thôi, thật đáng ghét. Còn anh phu xe cũng đa sự, tự chác lấy khổ cho mình, bây giờ thì tự anh xoay xở lấy đi.

Người phu xe nghe bà già nói xong, chẳng chần chờ tí nào cả, vẫn cầm lấy cánh tay bà, đi bước một tới đằng trước. Tôi hơi lấy làm lạ, vội nhìn đằng trước, thì là một cái đòn cảnh sát, sau cơn gió lớn, bên ngoài cũng không thấy có người. Người phu xe dìu bà già đi, chính là nhằm đi tới cái cổng đồn ấy.

Lúc đó tôi vụt cảm thấy một thứ cảm giác lạ thường, thấy cái bóng phía sau của anh phu xe đầy người bụi bặm kia, tức khắc cao lớn lên, vả lại càng đi càng lớn, phải ngước nhìn mới thấy. Lại nữa, anh đối với tôi, dần dần hầu như biến thành một thứ uy lực đè lên người tôi, đến nỗi muốn ép cho lòi ra cái nhỏ giấu trong lớp áo da.

Sức sống của tôi lúc đó chừng như có hơi ngừng lại, cứ ngồi không động đậy, cũng không nghĩ ngợi, cho đến khi thấy trong đồn đi ra một người cảnh sát, mới xuống khỏi xe.

Người cảnh sát đến gần tôi, nói: Anh thuê xe khác mà đi, anh ấy không kéo được nữa đâu.

Tôi chẳng có suy nghĩ gì hết, vốc trong túi áo ngoài ra một vốc lớn xu đồng, đưa cho người cảnh sát, và nói: Nhờ anh đưa cho anh ấy.

Gió lặng hẳn rồi, đường vẫn rất vắng. Tôi vừa đi vừa nghĩ, hầu như e sợ không dám nghĩ đến chính mình. Thôi thì hẵng gác cái việc về trước lại, một vốc lớn xu đồng ấy lại là có ý gì? Để thưởng anh ta phỏng? Tôi mà lại còn phán đoán anh phu xe được à? Tôi không thể tự trả lời cho mình được.

Việc ấy đến bây giờ, vẫn cứ mỗi lúc lại nhớ đến. Nhân đó tôi cũng mỗi lúc chịu đau khổ, rán sức để nghĩ đến chính mình tôi. Những văn trị võ công[1] mấy năm nay, ở tôi cũng đã giống như những Tử viết Thi vân[2]mà hồi nhỏ mình đã học trầm chẳng được nửa câu. Chỉ có một việc nhỏ này, lại cứ vờn trước con mắt tôi, có lúc càng rõ ràng lắm, làm cho tôi xấu hổ, giục cho tôi tự mình đổi mới, mà còn giúp cho cái dũng khí và cái hy vọng của tôi thêm nẩy nở.

Tấn kịch vui về con vịt

Ông Êrôsenkô[1], thi nhân mù nước Nga, sau khi mang cái đàn sáu dây của ông đến Bắc Kinh không lâu mấy, thì kêu khổ với tôi rằng: Vắng vẻ quá đi, vắng vẻ quá đi, vắng vẻ như ở trong sa mạc thế này!.

Đó có lẽ là sự thật, song ở tôi lại chưa từng cảm thấy ; tôi ở đã lâu rồi, vào cái nhà chi lan, lâu mà chẳng nghe mùi thơm[2], cứ cho là ồn ào quá đi mất. Nhưng, cái mà tôi gọi là ồn ào đó hoặc tức là cái mà ông gọi là vắng vẻ, chưa biết chừng.

Có điều tôi thấy ở Bắc Kinh hình như không có mùa xuân và mùa thu. Những người ở Bắc Kinh già đời thì nói, khí đất chuyển sang phương bắc rồi, ở đây trước kia không có đâu đằm ấm thế này. Tuy vậy, tôi thì cứ cho là không có mùa xuân và mùa thu ; cuối đông và đầu hè liên tiếp nhau, mùa hè vừa qua, mùa đông đã lại bắt đầu rồi.

Một ngày nọ, trong lúc cuối đông đầu hè ấy, vả lại là ban đêm, tôi tình cờ được rỗi, đi thăm ông Êrôsenkô. Ông từ trước đến giờ trọ ở nhà ông Trọng Mật, lúc đó cả nhà đã ngủ hết, thiên hạ rất im lìm. Ông một mình ngả người trên giường riêng, đôi chang mày rất cao hơi nhíu lại ở giữa những sợi tóc vàng đậm, đó là ông đang nhớ lại cái nơi ông đã đi chơi trước, xứ Diến Điện, mùa hè của xứ Diến điện.

Ban đêm thế này, ông nói, ở Diến điện khắp nơi là âm nhạc. Trong nhà, giữa cỏ, trên cây, đều có côn trùng ngâm hát đủ các thứ tiếng, thành ra hợp tấu, rất lạ lùng. Trong đó chốc chốc lại kèm thêm tiếng rắn gáy: te te, mà cũng ăn nhịp với côn trùng. Ông nói vậy rồi lặng thinh ngẫm nghĩ, như muốn đuổi theo cái tình cảnh lúc bấy giờ.

Tôi không mở miệng được. Cái thứ âm nhạc kỳ diệu ấy, quả thật tôi ở Bắc Kinh chưa hề nghe qua, cho nên dù có yêu nước đến đâu cũng không binh vực được, bởi vì ông ta tuy con mắt không thấy, chứ lỗ tai vẫn không điếc.

Bắc Kinh thì cả ếch kêu cũng không có.... Ông lại than thở nói thêm.

Ếch kêu thì có chứ!. Cái than thở ấy lại làm cho tôi hăm hở lên, cãi lại: Đến mùa hè, sau cơn mưa lớn, ông có thể nghe được nhiều con ễnh ương kêu, chúng đều ở trong đường cống, vì Bắc Kinh chỗ nào cũng có đường cống.

À à...

*

* *

Sau đó mấy ngày, lời nói của tôi quả được chứng thực, vì ông Êrôsenkô đã mua được mười mấy con nòng nọc. Ông mua rồi thả trong cái ao nhỏ giữa sân trước cửa sổ. Cái ao dài ba thước, rộng hai thước, là cái ao sen Trọng Mật đào để trồng sen. Trong cái ao sen ấy, tuy từ hồi nào đến giờ chưa thấy có nở ra nửa cái hoa sen nào, song để nuôi ễnh ương thì lại là một chỗ rất đúng chỗ.

Lũ nòng nọc kết đàn nhau lội trên mặt nước, ông Êrôsenkô cũng thường thường bước đến thăm chúng nó. Có lúc, trẻ con nói với ông: Ông Êrôsenkô ơi, chúng nó đã mọc chân rồi. Thì ông vui vẻ mỉm cười mà rằng: Thế à!.

Nhưng mà, cái việc đào tạo ra nhà âm nhạc ở ao cũng chỉ là một việc của ông Êrôsenkô. Ông vốn là người chủ trương cái thuyết làm lấy mà ăn, thường nói người đàn bà có thể chăn nuôi, người đàn ông thì nên cày ruộng. Bởi vậy, khi gặp được người bạn quen thân thì ông khuyên nên trồng cải bắp ở sân ; lại cũng nhiều lần khuyên bà Trọng Mật nên nuôi ong, nuôi gà, nuôi lợn, nuôi bò, nuôi lạc đà. Sau rồi trong nhà Trọng Mật quả nhiên có nhiều gà con, bay nhảy đầy sân, mổ tiệt những lá non như gấm giải đất, chừng như tức là cái kết quả của lời khuyên ấy.

Từ đó những người nhà quê đi bán gà con cũng thường hay đến, mỗi lần đến lại mua mấy con. Vì gà con dễ bị tích thực, hay toi, ít có con được sống lâu ; mà lại có một con còn thành ra vai chính trong cái tiểu thuyết Tấn kịch buồn về gà con, cái tiểu thuyết độc nhất của ông Êrôsenkô viết ở Bắc Kinh. Có một buổi mai, người nhà quê kia bất thình lình mang vịt con đến, nó kêu chíp chíp ; nhưng mà bà Trọng Mật nói không cần mua. Ông Êrôsenkô cũng chạy tới, họ mới đặt một con lên hai bàn tay ông, con vịt bèn ở trên hai bàn tay ông chíp chíp kêu. Ông Êrôsenkô cho là cũng rất đáng yêu, rồi không thể không mua được, mua tất cả bốn con, mỗi con tám chục đồng tiền.

Vịt con cũng đáng yêu thật, cả mình màu vàng lợt, thả ra, đi cáng náng trên đất, bao giờ cũng kêu gọi nhau, cùng nhóm lại một chỗ. Ai nấy đều khen là tốt ; ngày mai sẽ đi mua cá nhét cho chúng nó ăn. Ông Êrôsenkô tuyên bố rằng: Món tiền mua vịt đó về phần tôi chịu.

Thế rồi ông đi dạy học ; ai về nhà nấy. Một chốc chi đó, khi bà Trọng Mật đem cơm nguội cho chúng nó ăn, thì từ xa đã nghe tiếng quậy nước lên, chạy đến xem, thấy bốn con vịt đã tắm trong ao sen rồi, vả lại còn lộn nhào, ăn cái này cái nọ. Đến khi khua cho chúng lên bờ, thì cả ao nước đã đục ngầu, một chặp, nước đứng lại, chỉ thấy trong bùn lòi ra mấy cái ngó nhỏ ; vả lại tìm mãi không ra một con nòng nọc đã mọc chân nào hết.

Yhôhikhô ông ơi[3], con nhỏ của ễnh ương mất cả rồi. Lúc chiều, lũ trẻ thấy ông về một cái, đứa trẻ nhất vội vàng mách ông như thế.

Ễnh ương à?

Bà Trọng Mật cũng ra đến, báo cho ông biết cái tin vịt con đã ăn hết nòng nọc.

Ông Êrôsenkô bài hãi: ối chao!

*

* *

Đến chừng lũ vịt con thay lông vàng, ông Êrôsenkô lại thình lình cứ ngậm ngùi nhớ bà mẹ Ngalatư của ông[4]. Bèn vội vã đi sang Xích tháp[5].

Đến chừng tư bề có ếch kêu, lũ vịt con cũng đã lớn, hai con trắng, hai con đốm hoa, vả lại không kêu chíp chíp nữa mà kêu cặp cặp. Cái ao sen cũng không đủ cho chúng xây quanh, may mà chỗ đất nhà Trọng Mật ở rất thấp, mưa hè xuống một cái là nước ngập đầy sân, chúng bèn hớn hở, lội, hụp, đập cánh, kêu cặp cặp.

Hiện giờ lại từ cuối hè sang đầu đông, mà ông Êrôsenkô vẫn không có tin tức gì hết, chẳng biết rốt lại ông ở đâu rồi.

Chỉ có bốn con vịt lại vẫn cứ ở trên sa mạc kêu cặp cặp.

Xã hí

Trong hai mươi năm kể ngược lên, tôi chỉ xem có hai lần bát tuồng Trung Quốc, mười năm trước dứt khoát không xem lần nào, vì không có ý và cũng không có dịp đi xem, còn hai lần đi xem đều ở về mười năm sau, nhưng mà rốt cuộc đều không xem được cái gì hết thì đi ra khỏi rạp.

Lần thứ nhất là khi tôi mới đến Bắc Kinh, vào Dân quốc nguyên niên[2], bấy giờ một người bạn nói với tôi, hát tuồng Bắc Kinh hay lắm, sao anh không đi xem cho biết mùi đời? Tôi nghĩ, xem hát tuồng thú lắm, huống chi là ở Bắc Kinh. Thế rồi cùng nhau hăm hở đi đến cái rạp gì đó, tuồng đã giáo đầu rồi, bên ngoài cũng đã nghe tiếng trống thùng thùng. Chúng tôi chen vào cửa, trước mắt tôi vừa nhấp nhoáng những màu hồng màu lục, thì lại thấy dưới sân khấu lúc nhúc những cái đầu, để ý nhìn bốn phía, thấy ở giữa còn có mấy chỗ trống. Khi lấn mà vào cho được để mà ngồi, thì lại có người nói gì đó với tôi, tôi vì đã ù tai từ trước rồi, nên c trí lắm mới nghe ra hắn nói là có người rồi, không được!.

Chúng tôi lùi lại đằng sau, một người có đuôi sam láng bóng[3] lại dẫn chúng tôi đến gian bên, chỉ cho một chỗ ngồi. Cái chỗ gọi là chỗ ngồi ấy, vốn là một cái ghế dài, nhưng mà cái mặt ván để ngồi của nó so với cái đùi cảu tôi lại hẹp đến ba phần tư, cái chân của nó so với cái chân của tôi lại cao quá hai phần ba. Tôi trước tiên không có gan dám trèo lên, chợt lại liên tưởng đến thứ hình cụ tra tấn ngoài luật lệ, tự dưng bắt rởn ốc rùng mình tháo ra ngay.

Đi một đỗi đường, bỗng nghe tiếng người bạn tôi hỏi: Chứ sao thế?. Tôi quay mặt lại, thì té ra anh ta cũng bị lôi ra rồi. Rất lấy làm lạ, anh hỏi: Sao cứ đi một mạch, không trả lời?. Tôi nói: Xin lỗi bạn, lỗ tai tôi đang bị tiếng thùng thùng xòe xòe làm ù đây, không nghe được câu nói của anh.

Về sau, mỗi khi nghĩ đến, tôi rất lấy làm quái lạ, hình như lối hát tuồng ấy chẳng hay tí nào, nếu không thì là tôi gần nay không thích hợp sống còn[4] dưới sân khấu.

Lần thứ hai quên là năm nào, tóm lại là khi quyên tiền giúp nạn lụt Hồ Bắc và Đàm Kiếu Thiên[5] chưa chết. Quyên bằng cách mua cái vé xem hát hai đồng bạc, được đến xem hát ở Đệ nhất võ đài, ở đó đóng tuồng phần nhiều là kép nhất, mà Tiểu Kiếu Thiên là một. Tôi có mua một vé, vốn là làm cho có đối với người đi quyên, nhưng rồi hình như có kẻ hiếu sự, nhân dịp bảo cho tôi biết cái lẽ quan trọng rằng đã có Kiếu Thiên thì thế nào cũng phải đi xem mới được. Thế rồi tôi quên hẳn cái nạn thùng thùng xòe xòe năm trước trót đi đến Đệ nhất võ đài, song chừng như nửa phần cũng vì đã mua cái vé báu quý kia bằng giá đắt thì phải sdj nó mới thỏa mãn. Tôi biết tin Kiếu Thiên lên sân khấu muộn, mà Đệ nhất võ đài là rạp hát kiểu mới, không cần giành chỗ ngồi, bèn lơ đễnh, chần chờ đến chín giờ mới ra đi. Ai ngờ người ta vẫn cứ đầy rạp, cả đến kiếm chỗ đứng cũng khó, tôi chỉ phải chen trong đám người đứng xa xem một vai đàu già đang hát trên sân khấu. Vai đàu già nọ ở khóe miệng cắm hai cái que quấn giấy châm lửa, bên cạnh có một thằng quỷ sứ, tôi nghĩ mãi, mới ngờ đó hoặc là bà mẹ của Mục Liên[6], vì về sau lại ra một vị hòa thượng nữa. Nhưng tôi không biết cái người đóng vai ấy là ai, bèn hỏi một vị thân sĩ mập bị lấn bẹp bên trái tôi. Ông ta ra dáng không thèm đếm xỉa, liếc tôi nửa mắt, nói: Củng Vân phủ![7]. Tôi hổ mình đã quê mùa lại thô vụng, trên mặt thấy nóng, đồng thời trong óc cũng đặt ra một điều luật là nhất định từ đây không hỏi nữa. Thế rồi xem đàu tơ hát, xem đàu điên hát, xem kép già hát, xem vai gì đó hát, xem một đám người đánh nhau, xem hai ba người đánh nhau, từ chín giờ hơn đến mười giờ, từ mười giờ đến mười một giờ, từ mười một giờ đến mười một giờ rưỡi, từ mười một giờ rưỡi đến mười hai giờ, nhưng mà Kiếu Thiên vẫn còn chưa thấy.

Từ hồi nào đến giờ tôi chưa hề nhịn nhục chầu chực một cái gì lâu như vậy, thêm nữa, cái hơi thở phù phù của ông thân sĩ mập bên cạnh mình, cái tiếng đánh thùng thùng xòe xòe trên sân khấu, cái vờn lượn của vô số màu hồng màu lục, lại thêm mười hai giờ, bỗng làm tôi nghĩ thấy mình không thích hợp sống còn ở chỗ này. Đồng thời tôi bèn xoay mình như cái máy, cố sức chen một cái ra ngoài, thì thấy sau lưng đã lại kíp cả rồi, đại khái cái ông thân sĩ mập hay co hay giãn ấy đã giãn nửa người ra lấp chỗ trống của tôi. Tôi không đường quay lại, cố nhiên phải chen và chen, cuối cùng thoát được ra cổng. Trên đường phố, ngoài những chiếc xe đậu để chờ khách, hầu như không có người đi, song chỗ cổng lại có mấy người ngửng đầu xem chương trình buổi hát, còn một đống người đứng mà không xem gì hết, tôi tưởng, có lẽ họ đứng để xem phụ nữ đi ra sau khi tan rạp, thế mà Kiếu Thiên cũng vẫn còn chưa thấy...

Song le khi trời ban đêm rất trong sáng, thật như ta quen nói ngấm vào lòng người, tôi ở Bắc Kinh gặp phải cái không khí tốt lành ấy, lần này chừng như là lần thứ nhất.

Đêm ấy tức là đêm tôi từ giã hát tuồng Trung Quốc, sau đó không hề nghĩ đến nó nữa, dù có đi ngang qua rạp hát, nó với tôi cũng phớt nhau, về mặt tinh thần, đã là một ở trời nam, một ở đất bắc rồi.

Nhưng mấy hôm trước đây, tôi tình cờ xem một cuốn sách chữ Nhật, đáng tiếc là quên mất tên sách và tên tác giả, tóm lại là sách ấy nói về hát tuồng Trung Quốc. Trong đó có một thiên, đại ý nói, hát tuồng Trung Quốc đánh thổi rộn, la to, nhảy múa nhiều, khiến người xem nhức đầu long óc, rất không thích hợp với sân khấu, song nếu ở chỗ lanh lan ngoài đồng trống, đứng xa xa mà xem, thì nó lại có phong thú riêng của nó. Khi đọc đó, tôi thấy sách ấy đã nói cái điều sẵn có trong ý tôi mà chưa hề nghĩ đến, bởi vì tôi nhớ chắc chắn rằng mình từng xem hát tuồng rất hay ngoài đồng trống, sau khi đến Bắc Kinh, luôn hai lần vào rạp hát, có lẽ cũng vì chịu ảnh hưởng của lần xem này. Tiếc cho không biết thế nào tôi nhè quên khuấy tên sách.

Đến như cái buổi tôi xem hát hay ấy, thực ra đã cách lâu lắm rồi, lúc đó ước chừng tôi mới mười một mười hai tuổi. Theo thói quen Lỗ Trấn chúng tôi, hễ con gái xuất giá rồi, mà chưa coi việc nhà, thì đến mùa hè đại để đều về nghỉ hè ở nhà mẹ. Bấy giờ bà nội tôi tuy còn mạnh, mẹ tôi cũng đã gánh đỡ việc nhà, cho nên cả mùa hè không về thăm lâu được, chỉ phải đợi khi dẫy mã xong rồi, thừa lúc rỗi về ở mấy ngày. Hàng năm vào dịp ấy, tôi bèn theo mẹ tôi về ở nhà bà ngoại tôi. Nơi đó gọi là làng Bình Kiều, là một làng nhỏ gần sông, cách bờ biển không xa, rất hẻo lánh. Cả làng không đầy ba chục nhà, đều làm ruộng, đánh cá, chỉ có một tiệm hàng xén rất nhỏ. Song đối với tôi thì là đất vui, vì tôi ở đó chẳng những được chiều chuộng mà còn khỏi phải đọc "Trật trật tư can, u u man man"[8].

Có nhiều người bạn nhỏ cùng đi chơi với tôi. Nhân vì có khách đường xa, nên họ đều được cha mẹ cho phép bớt giờ làm việc, đến cùng tôi chơi nhởi. Ở làng nhỏ, khách của một nhà hầu như là khách chung của mọi nhà. Tuổi chúng tôi xuýt xoát nhau, song kể về thế thứ thì lại ít nhất cũng là vai chú, có mấy người còn là vai ông, bởi vì cả làng cùng một họ, bà con với nhau cả. Nhưng mà chúng tôi là bạn, ví phỏng tình cờ đâm ra rầy lộn, cháu đánh ông, cả làng từ già đến trẻ cũng quyết chẳng có một ai có thể nghĩ được ra hai chữ "phạm thượng", vả lại chín mươi chính phần trăm giữa bọn họ đều là không biết chữ.

Việc chúng tôi làm hằng ngày là đi đào con giun, đem móc vào lưỡi câu uốn bằng sợi chỉ đồng, rồi ngồi ở bờ sông câu tôm. Tôm là thứ đồ khờ dại trong thế giới nước, nó không ngại lấy hai cái càng bợ lấy lưỡi câu đưa vào trong mồm, cho nên không đầy nửa buổi có thể câu được một bát lớn. Những tôm ấy, theo lệ là về phần tôi ăn. Thứ đến là cùng đi thả trâu, song có lẽ vì nó là động vật bậc cao, cho nên trâu hay bò đều dể người kẻ lạ, nó dám khinh nhờn tôi, thành tôi cũng không dám đến gần nó, cứ phải đi theo hay là đứng cách xa nó. Những khi ấy, các bạn nhỏ chẳng còn vì tôi biết đọc "Trật trật tư can" mà nể nang tôi, cả bọn lại đâm ra cười nhạo tôi.

Đến như cái điều tôi trông mong nhất trong khi ở đó, lại là điều đi xem hát ở làng Triệu. Làng Triệu là làng khá lớn cách làng Bình Kiều năm dặm ; làng Bình Kiều nhỏ quá, tự mình không sắm nổi một chầu hát, nên hằng năm cứ đụng với làng Triệu một số tiền, kể như là hát chung. Bấy giờ tôi cũng không hề nghĩ đến vì lẽ gì mà họ cứ mỗi năm mỗi hát. Bây giờ nghĩ thấy, hoặc giả đó là hát mừng mùa xuân, tức gọi là "xã hí".

Cái năm mà tôi mười một mười hai tuổi đó, ngày hát lệ ấy trông chừng đã đến. Không ngờ cái năm ấy thật đáng tiếc, buổi sáng thuê không được thuyền. Làng Bình Kiều chỉ có một chiếc đò dọc sáng đi chiều về là thuyền lớn, không lẽ nào choán lấy mà dùng riêng. Còn bao nhiêu đều là thuyền nhỏ, không dùng được ; cậy người đi thuê ở làng khác, cũng không có, đều cho người khác thuê trước cả rồi. Bà ngoại tôi giận lắm, cằn rằn người nhà sao không thuê trước. Mẹ tôi bèn khuyên giải bà, nói hát tuồng ở Lỗ Trấn chúng tôi hay hơn ở làng nhỏ nhiều, đã xem mấy lần, hôm nay không xem cũng được. Chỉ có tôi bực tức muốn khóc, mẹ tôi hết sức dỗ dành tôi, nói không nên làm nũng, sợ làm cho bà ngoại giận, lại không chịu để tôi đi với người khác, nói vì sợ bà ngoại không an tâm.

Thế là hết chuyện. Đến buổi chiều, các bạn tôi đều đi cả, tuồng hát đã giáo đầu, tôi mường tượng nghe thấy tiếng đồng là trống chiến, vả lại biết các bạn tôi đang mua sữa đậu nành ăn dưới sân khấu.

Cả ngày hôm ấy tôi không đi câu tôm, cũng ít ăn cái gì. Mẹ tôi lo lắm, không biết nghĩ làm sao. Đến lúc ăn cơm chiều, bà ngoại tôi cũng biết được, bà nói tôi buồn là phải lắm, chúng nó dể duôi quá, thuở nay trong phép đãi khách không có đâu bất lịch sự như thế. Sau bữa cơm, các bạn nhỏ đi xem hát về cũng rủ nhau đến, say sưa kể lại những lớp tuồng. Chỉ có tôi không nói năng gì ; bọn họ đều than thở và tỏ ý bất bình hộ tôi. Thình lình, Song Hỉ, một người rất thông minh trong bọn, như sực nhớ ra, đưa ra một đề nghị. Hắn nói: "Cần phải có thuyền lớn à? Chiếc đò dọc của Chú Tám chẳng đã về rồi là gì?". Mười mấy người bạn nhỏ khác cũng sực nhớ ra, mỗi người xúi vào một tiếng, nói có thể cùng đi với tôi bằng chiếc đò dọc ấy. Tôi thấy vui lên. Nhưng bà ngoại tôi sợ cả lũ đều trẻ con, không tin cậy được ; mẹ tôi lại nói nếu bảo một người lớn cùng đi, ai nấy ban ngày đều có công việc làm, bắt họ thức đêm là không hợp lẽ. Trong lúc dùng dằng ấy, Song Hỉ thấy ngay được chỗ mấu chốt, bèn lớn tiếng nói rằng: "Tôi xin viết tờ cam đoan! Thuyền đã lớn, anh Tấn lại không hề chạy lung tung, chúng tôi đây lại đều là tay dạn nước!".

Thật thế! Mười mấy người bạn nhỏ đó thật ra không có một người nào là không biết lội lặn, vả lại có vài ba kẻ còn là thiện nghệ nữa kia.

Bà ngoại và mẹ tôi có ý tin, không bẻ bác nữa, đều mỉm cười. Tức thì chúng tôi ồn ào kéo nhau ra khỏi cổng.

Quả tim nặng nề của tôi bỗng thấy nhẹ nhõm, cả người tôi cũng như là vươn lớn lên đến không hình dung ra được. Vừa ra khỏi cổng, thấy chiếc đò dọc mui trắng đậu ở gầm cầu Bình Kiều dưới ánh trăng. Mọi người nhảy xuống thuyền, Song Hỉ nhổ sào mũi, A Phát nhổ sào lái, những đứa nhỏ nhất ngồi với tôi ở trong khoang, những đứa lớn hơn ngồi ở sau lái. Khi mẹ tôi đưa ra đến nơi, dặn "phải cẩn thận", thì chúng tôi đã bắt đầu cho thuyền đi, nống trên hòn đá cầu một cái, lùi lại mấy thước, liền trồi tới đằng trước ra khỏi cầu. Thế rồi gác hai cái chèo lên, mỗi cái hai người, cứ một dặm đường thay tay một lần. Trong thuyền có nói cười, có la ó, kèm theo tiếng rạch nước róc rách ở mũi thuyền, dọc theo giữa dòng sông mà hai bên đều là ruộng lúa và đậu xanh nghít, chiếc thuyền nhằm làng Triệu tiến lên như bay.

Mùi thơm dịu dàng của lúa đậu hai bên bờ và của rong cỏ dưới sông, lẩn trong hơi nước thoáng đưa vào mặt ; ánh trăng lờ mờ ở trong cái hơi nước ấy. Những dãy núi màu đen nhạt chỗ trồi chỗ sụt, giống như cái lưng con thú bằng sắt đang nhảy, đều xa xa nhằm phía lái thuyền nhảy đi mất, thế mà tôi còn cho là thuyền đi chậm. Họ thay tay chèo bốn lần, dần dần như trông thấy làng Triệu, lại như nghe được tiếng trống hát, còn có mấy đốm lửa, đó là đèn của rạp hát, song cũng có thể là đèn của thuyền đánh cá.

Tiếng kia đại khái là tiếng sáo, trầm bổng, véo von, làm cho quả tim tôi cũng chìm lặng, song lại tự quên mình đi mất, thấy như mình cùng với nó tan ra trong hơi đêm ngấm mùi thơm của lúa đậu và rong cỏ.

Đến gần đốm lửa, quả nhiên là đèn của thuyền đánh cá ; tôi mới nhớ ra cái chỗ hồi nãy trông thấy cũng không phải là làng Triệu. Đó là một cụm rừng thông ngay trước mũi thuyền, năm ngoái tôi từng đi chơi qua đó, còn xem thấy con ngựa đá sứt mẻ nằm dưới đất, con dê đá ngồi trong cỏ. Qua khỏi cái rừng ấy, thuyền rẽ vào ngã ba sông, đây mới thật nhìn thấy làng Triệu rồi.

Chọc vào mắt trước hết là cái đài sân khấu[9] đứng sựng trên đất trống ven sông bên ngoài làng, nó mường tượng ở trong đêm trăng xa tắp, hầu như không nhìn ra được là ở chỗ nào trong không gian, tôi đã ngờ rằng cái cảnh tiên mình từng thấy trong tranh vẽ, chính nó xuất hiện ở đây rồi. Lúc đó thuyền đi càng nhanh hơn, chẳng bao lâu, thấy rõ các vai trò trên sân khấu, nhúc nhích những màu hồng màu lục ; và giữa sông gần sân khấu, trông một đám đen ngòm, đó là mui thuyền của những người đi xem.

"Gần sân khấu không có chỗ nào trống rồi, chúng ta đậu thuyền xa xa mà xem." A Phát nói.

Lúc này thuyền đã đi chậm, một lát thì đến, quả thật không đến gần sân khấu được, chỉ phải cắm sào ở chỗ so với cái bàn thơ thần[10] ngay sân khấu còn xa hơn. Thực ra tì cũng bởi thuyền của chúng tôi mui trắng, không muốn đậu chung một chỗ vói những thuyền mui đen, huống chi là không còn có chỗ trống nào...

Trong khi vội vã cắm thuyền, thấy trên sân khấu có một người râu dài mà đen, trên lưng giắt bốn lá cờ lệnh, cầm giáo dài, đang đánh trận với một tốp người ở trần. Theo lời Song Hỉ, đó là kép đầu sắt nổi tiếng, có thể lộn nhào luôn tám mươi bốn keo một lúc, chính hắn lúc ban ngày đã đếm.

Chúng tôi bèn chen nhau ngồi ở đầu mui thuyền xem đánh trận, nhưng anh kép đầu sắt kia không lộn nhào, chỉ có mấy người ở trần lộn nhào thôi, lộn nhào một mẻ rồi đi vào hết. Tiếp đó là một vai đàu tơ ra, ê ê a a hát. Song Hỉ nói: "Ban đêm người xem có ít, kép đầu sắt cũng mệt rồi, ai lại chịu trổ tài để chẳng có ma nào thưởng thức?". Tôi cho nói thế là đúng, vì khi đó dưới sân khấu đã thưa người, người nhà quê ngày mai phải làm việc, không thức đêm được, đã đi ngủ hết, những người còn đứng rải rác chẳng qua mấy chục kẻ vô công rồi nghề ở làng đó và làng bên ; còn những vợ con của bọn phú ông trong những thuyền mui đen thì vẫn có đó, nhưng chúng không thiết gì xem hát ; phần nhiều là đến đây để ăn bánh ngọt, trái cây, và cắn hột dưa. Cho nên có thể nói gọn là không có ma nào.

Nhưng mà trong ý tôi lại cũng không thiết gì xem lộn nhào. Vai trò tôi thích xem là vai tinh rắn do một người lợp vải trắng, hai tay bưng cái đầu rắn giống một cái gậy trên đầu mình, thứ đến là vai cọp nhảy do một người đội lốt vải vàng đóng. Song le đợi đã lâu mà đều chẳng thấy, vai đàu tơ tuy vào rồi, tức khắc lại ra một vai kép rất già. Tôi thấy hơi mệt, nhờ Quế Sinh đi mua sữa đậu nành. Hắn đi một lát, rồi trở về nói: "Không có, cái anh điếc bán sữa đậu nành cũng đi về rồi. Ban ngày thì có, tôi có ăn hai bát. Bây giờ thì tôi đi múc một bầu nước cho cậu uống nhỉ."

Tôi không uống nước, cứ cố rán để xem, nhưng cũng không xem hẳn ra được cái gì, chỉ thấy những cái mặt của vai tuồng dần dần có hơi kỳ quái, miệng mũi tai mắt lu mờ đi, như là nhào thành một khối không có gì cao thấp. Mấy đứa nhỏ thì ngáp, mấy đứa lớn thì chăm nói chuyện với nhau. Thình lình một vai hề mặc áo đỏ bị trói ở cây cột trên sân khấu, để cho một ông râu bạc đánh bằng roi ngựa, mọi người mới lại hăng hái lên vừa cười vừa xem. Theo tôi, đó là một lớp tuồng rất hay trong một đêm hát ấy.

Nhưng mà rốt lại, vai đàu già lại ra. Đàu già là thứ mà tôi rất sợ, sợ nhất là khi ngồi xuống và hát. Lúc đó, thấy mọi người đều cụt hứng, mới biết họ cũng cùng có một ý kiến với tôi. Ban đầu đàu già còn đi qua đi lại hát, đến sau, quả đã ngồi xuống trên ghế bành ở chính giữa. Tôi lo lắm. Bọn Song Hỉ thì lại vọt miệng rầm rì chửi. Tôi cố rán chờ xem, đã bao lâu mới thấy đàu già đưa tay lên một cái, tôi tưởng là hắn sẽ đứng dậy. Té ra không phải, hắn lại từ từ thả tay xuống, vẫn cứ hát. Trong thuyền, có mấy đứa cứ thở ra mãi, còn mấy đứa cũng cứ ngáp. Cuối cùng Song Hỉ chịu không nổi nữa, nói rằng e nó còn hát mãi cho đến sáng, thôi thì chúng ta đi về là hơn. Mọi người liền đồng ý, hăng hái cũng như hồi bắt đầu đi, ba bốn người chạy ra đằng lái, nhổ sào, lùi một ít, quay mũi thuyền lại, gác chèo lên, cứ vừa chửi đàu già, vừa cho thuyền nhằm rừng thông thẳng tới.

Trăng vẫn chưa lặn, thấy như xem hát cũng không lâu mấy, và, vừa đi khỏi làng Triệu, ánh trăng lại càng tỏ rạng mười phần. Quay nhìn đài sân khấu ở trong ánh sáng đèn, cũng như hồi mới đến, mường tượng một tòa lâu đài trên non tiên, bị ráng đỏ vây bọc, tiếng sáo lại thổi đến bên tai rất véo von ; tôi nghĩ rằng bây giờ đàu già đã đi vào rồi, song cũng không buồn nói trở lại xem.

Một chốc chi đó, thuyền đã bỏ rừng thông rồi, nó đi cũng không chậm, có điều bốn phía bóng đen dày đặc, biết rằng đêm đã khuya lắm. Bọn họ một mặt bàn luận các vai tuồng, kẻ thì cười, người thì chửi, một mặt gấp sức lên chèo thuyền. Lần này tiếng mũi thuyền rạch nước lại càng vang dội, chiếc đò dọc khác nào một con cá trắng lớn cõng một bầy trẻ con vượt trên hoa sóng, cả đến mấy ông chài chài đêm cũng ngừng xuồng lại xem và vỗ tay reo mừng.

Cách làng Bình Kiều còn có chừng một dặm. Thuyền lại đi chậm rồi. Những tay chèo đều kêu mệt quá, vì dùng sức nhiều quá. Mà lại từ tối đến giờ không có gì ăn. Lần này do Quế Sinh nghĩ ra một kế, hắn nói đậu la hán[11] đã no hột, củi lửa lại có sẵn, chúng ta có thể đi lấy trộm một ít luộc đi mà ăn. Ai nấy đều tán thành, tức khắc cắm thuyền gần bờ ; những đám ruộng trên bờ hiện ra màu đen mơn mởn, đều là đậu la hán sai trái.

Này A Phát này, bên kia là đậu của nhà mầy, bên kia là của nhà Già Sáu, chúng ta nên lấy của bên nào?. Song Hỉ nhảy xuống nước, đứng trên bờ hỏi như thế.

Chúng tôi cũng nhảy lên bờ. A Phát vừa nhảy lên, vừa nói: Khoan đã, để tôi xem thử xem. Thế rồi hắn đi qua đi lại sờ soạng một lúc, rồi đứng thẳng lên nói rằng: Lấy của cto đi, đậu của chúng tôi to hơn nhiều. Một tiếng ừ, mọi người di tản ra trong đám đậu nhà A Phát, mỗi người hái một nạm lớn, ném vào trong khoang thuyền. Song Hỉ bàn rằng nếu lấy nhiều nữa và nếu mẹ A Phát biết được thì sẽ khóc và chửi cho, thế rồi ai nấy tạt sang ruộng ông cụ Sáu, mỗi người lại lấy một nạm lớn nữa.

Mấy đứa lớn tuổi trong chúng tôi vẫn chèo thuyền chậm chậm, mấy đứa nữa đến khoang lái nhen lửa, còn mấy đứa nhỏ và tôi thì bóc đậu. Một lát đậu chín, bèn thả thuyền lềnh bềnh trên mặt nước, xúm lại lấy tay bốc đậu ăn. Ăn xong, lại chèo đi, một mặt dọn rửa đồ đạc, ném cả vỏ đậu dưới sông, không còn có tang tích gì cả. Song Hỉ lo nhất là đã dùng muối và củi trong chiếc đò dọc của ông cụ Tám, ông cụ này tinh lắm, thế nào cũng sẽ biết, sẽ mắng cho. Nhưng mà sau khi mọi người bàn luận rồi, rốt câu lại không sợ. Ông cụ nếu mắng thật, thì chúng ta sẽ đòi ông trả lại cành cây bách khô bên bờ sông mà năm ngoái ông đã nhặt đi, lại còn ngay trước mặt gọi ông là thằng Tám hủi.

Về cả đây rồi! Nói có sai đâu? Tôi đã nói viết tờ cam đoan kia mà?. Song Hỉ đứng ở mũi thuyền bỗng dưng nói to lên.

Tôi nhìn phía mũi thuyền, đằng trước đã là cầu Bình Kiều rồi. Một người đứng ở gầm cầu, thì ra chính là mẹ tôi. Song Hỉ nói là đối với mẹ tôi mà nói. Tôi chạy ra khoang mũi, thuyền cũng đã tới sát cầu, cắm sào rồi, chúng tôi rộn rịp kéo lên bờ. Mẹ tôi có ý không ưng, nói đã quá canh ba rồi, sao mà về trễ thế, nhưng rồi cũng vui lên, cười và mời hết thảy về nhà ăn ngô rang.

Ai nấy đều nói đã ăn lót lòng rồi, lại buồn ngủ, tốt hơn là đi ngủ sớm, thế rồi ai về nhà nấy.

Ngày hôm sau, đến trưa tôi mới thức dậy, không nghe thấy có chuyện lôi thôi gì với ông cụ Tám về muối và củi, buổi chiều vẫn đi câu tôm.

Song Hỉ, chúng bay đồ tiểu yêu, tối hôm qua ăn trộm đậu của tao chứ gì? Lại không chịu hái cho tử tế, đạp dập đi hết một mớ. Tôi ngước đầu lên, thì là ông cụ Sáu đang chèo chiếc thuyền con đi bán đậu về, trong thuyền còn có một đống đậu không bán hết.

Phải đấy. Chúng tôi đãi khách đấy. Ban đầu chúng tôi cũng không nghĩ đến lấy của ông đâu. - ủa hay, ông đuổi tôm của tôi chạy mất cả rồi!. Song Hỉ nói.

Ông cụ Sáu thấy tôi, liền ngừng chèo, cười và nói: Đãi khách đấy à? - Thế thì nên lắm. Rồi nói với tôi: Cậu Tấn, hôm qua hát có hay không?

Tôi gật đầu một cái, nói: Hay.

Đậu ăn có khá không?

Tôi lại gật đầu, nói: Ngon lắm.

Không ngờ ông cụ Sáu ra dáng cảm động khác thường, giơ ngón tay cái lên, hể hả nói: Thật là người có học ở thành phố lớn có khác, biết người biết của! Đậu của tôi chọn từng hột giống đấy, người nhà quê không biết thế nào là tốt thế nào là xấu, lại nói đậu của tôi không bằng đậu người ta. Hôm nay tôi phải đem biếu một ít cho cô nhà ta[12] ăn thử xem.... Thế rồi ông cụ chèo thuyền đi.

Đến khi mẹ tôi gọi tôi về ăn cơm chiều, trên bàn có một bát đậu la hán nấu chín, tức là của ông cụ Sáu biếu mẹ tôi và tôi ăn đấy. Nghe nói ông còn đối với mẹ tôi khen tôi hết lời mà rằng: Chưa mấy tuổi mà có kiến thức, thế nào sau cũng đỗ trạng nguyên. Cô nè, có thể cầm chắc mười mươi rằng cô sẽ được sung sướng. Song le tôi ăn đậu thì lại thấy không ngon bằng đêm hôm qua.

Thật đấy, cho đến bây giờ, tôi chưa được ăn đậu nào ngon như đêm hôm ấy, - cũng chưa hề được xem hát nào hay như đêm hôm ấy.

Trên lầu tiệm rượu

Tôi từ đất bắc đi đường xuống đông nam, nhân tạt về thăm quê nhà, bèn đến thành S[1]. Thành này cách làng quê tôi chỉ độ ba mươi dặm, đi thuyền nhỏ, non nửa ngày thì đến được, tôi từng làm thầy giáo trong một trường học ở đó một năm. Giữa mùa đông, sau cơn tuyết, phong cảnh đìu hiu, cái mối tình bơ phờ và nhớ cũ cùng xoắn xuýt lên một lúc, làm tôi phải tạm nghỉ lại trong phòng nghỉ Lạc Tư ở thành S ; phòng nghỉ này trước kia vốn chưa có. Trong thành không rộng mấy, đi tìm thăm mấy người đồng sự cũ mà mình tưởng là có thể gặp được, thì không gặp một người nào, chẳng biết họ đã tan tác đi đâu ; đi ngang qua cửa trường học, tên trường và bộ dạng cũng đều thay đổi, đối với tôi rất xa lạ. Trong không đầy hai giờ, tôi thấy không còn có hứng thú gì hết, hơi ăn năn cái sự mình đến đây là thừa.

Cái phòng nghỉ tôi trọ chỉ cho thuê buồng mà không bán cơm, phải mua cơm và thức ăn ở ngoài, nhưng dở lắm, cho vào miệng phát chối. Ngoài cửa sổ chỉ có vách tường loang lổ vết nước mưa, dán những rêu meo chết đứng ; bên trên là trời màu chì, trắng ngà ngà không có vẻ sáng trời, hoa tuyết lại bay lác đác. Bữa cơm trưa tôi ăn không no, vả lại không có món gì để tiêu khiển, tự nhiên nhớ đến cái tiệm rượu rất quen trước kia tên là Nhất thạch cư, kể thì cách phòng nghỉ cũng chẳng bao xa. Thế rồi tôi liền khóa cửa buồng, ra đường phố đi đến tiệm rượu ấy. Thực thì cũng chỉ muốn chạy trốn cái buồn tẻ trong khi tác khách, chứ không cốt mua một bữa say. Nhất thạch cư vẫn còn đó, cái tiệm chật hẹp ẩm thấp và cái bảng chiêu hàng cũ kỹ vẫn y như trước, có điều từ chủ quày đến phổ ky lại đều không có một người nào quen, trong tiệm Nhất thạch cư tôi cũng thành ra một người khách lạ hoàn toàn. Nhưng mà tôi cũng cứ bước lên cái thang gác đã đi quen ở góc nhà mà đến thẳng trên lầu. Trên đó cũng vẫn là năm cái bàn nhỏ ; chỉ có cái cửa sổ phía sau nguyên là song gỗ thì đã đổi bằng cửa kính.

Một cân rượu Thiệu[2]. Còn thức nhắm? Mười cái đậu rán, tương ớt phải cho nhiều!.

Tôi một mặt bảo người phổ ky đang theo tôi lên lầu, một mặt đi ngay đến cửa sổ phía sau, ngồi ở cạnh một cái bàn kề cửa sổ. Trên lầu vắng tanh vắng ngắt, tha hồ tôi chọn được chỗ ngồi rất tốt, có thể dòm xuống cái vườn hoang dưới lầu. Cái vườn này chừng là không thuộc về tiệm rượu, tôi trước kia từng dòm qua bao lần, có lần cũng ở trong trời tuyết. Nhưng hiện giờ lấy con mắt quen với phương bắc mà xem, lại rất đáng lấy làm lạ: mấy gốc mai già hợm hĩnh ganh đua với tuyết cứ nở đầy hoa, hình như bất chấp cả mùa đông lạnh lẽo ; cạnh cái chòi sập đổ ; còn có một cây sơn trà, từ trong những chòm lá xanh sẫm ló ra mười mấy bông hoa đỏ, sáng dọi trong tuyết như màu lửa, coi bộ tức giận mà ngạo nghễ, dường muốn coi khinh người du khách cam chịu đi xa. Tôi khi ấy thình lình nghĩ đến tuyết đọng ở đây nhuần đẫm, dính vào vật gì thì bám lấy, sáng có ngời, không như tuyết phương bắc khô rời như bột, một cơn gió mạnh là bay đầy trời như khói ngút...

Ông khách rượu đây...

Chú phổ ky lơ lửng nói, đặt chén, đũa, ve rượu và bát đĩa xuống bàn, thế là rượu đã đến. Tôi quay mặt lại cái bàn, sắp dọn các thứ, rót rượu ra. Nghĩ thấy phương bắc vốn chẳng phải quê hương của mình, mà về phương nam lại chỉ kể được là một người khách, mặc dầu tuyết khô ở bên đó bay rối rít như thế nào, tuyết nhủn ở đây đọng lại đặm đà như thế nào, với tôi cũng đều không có quan hệ gì cả. Tôi có vẻ hơi buồn rầu, nhưng lại uống một ngụm rượu rất khoan khoái. Giọng rượu thật đúng[3] ; đậu rán rán cũng khéo mười phần ; chỉ tiếc tương ớt nhạt quá, vốn tính người thành S không biết ăn cay.

Có lẽ là vì đang giữa buổi chiều, ở đây tuy nói là tiệm rượu mà không có màu tiệm rượu chút nào, tôi đã uống hết ba chén rồi mà ngoài tôi ra vẫn còn là bốn cái bàn không. Tôi mải nhìn cái vườn hoang dần dần cảm thấy mình cô độc, song lại không muốn có người khách rượu nào khác. Tình cờ nghe thấy tiếng bước lên thang gác, tự dưng có hơi bực mình, đến khi thấy là chú phổ ky, mới lại yên lòng, thế rồi lại uống hai chén nữa.

Lần này nghe tiếng bước đi chậm hơn tiếng của phổ ky, tôi nghĩ chắc chắn là khách rượu rồi. Liệu chừng khi đi lên khỏi thang gác, tôi dường như sợ sệt ngước nhìn kẻ đồng bạn không can cập gì tới mình, và đồng thời cũng giật mình đứng dậy. Tôi có ngờ đâu ở chốn này thình lình gặp lại người bạn - giá phỏng người ấy hiện giờ vẫn cho phép tôi gọi mình là bạn. Cái người đi lên kia rõ ràng là bạn đồng học của tôi, cũng là bạn đồng sự cũ khi tôi làm thầy giáo, tuồng mặt tuy có hơi đổi khác, song thấy thì nhìn ra được ngay, chỉ có cất nhắc lại chậm chạp thế nào ấy, thật không giống với Lã Vĩ phủ là người nhanh nhẹn tinh ranh thuở nọ.

A, - Vĩ phủ, là anh đấy à? Tôi không ngờ đâu lại gặp anh ở đây.

A a, té ra là anh? Tôi cũng không ngờ đâu....

Tôi mời anh ta cùng ngồi, song anh hình như ngần ngừ một chút rồi mới ngồi xuống. Trước tiên tôi rất lấy làm lạ, tiếp đó có hơi buồn thương và đâm nản. Xem kỹ dáng bộ anh ta, cũng vẫn là râu tóc bờm xờm, cái mặt vuông mà dài và trắng xanh, nhưng đã gầy tóp. Tinh thần anh ta rất trầm tĩnh, hay lại là đồi đường ; cặp con mắt dưới chang mày vừa rậm vừa đen không còn có vẻ sáng sủa, nhưng khi chậm rãi nhìn quanh bốn phía, nhìn đến cái vườn hoang, bỗng lòe ra cái tia sáng bắn vào người mà tôi thường thấy trong lúc còn ở trường học.

Chúng mình, tôi vui lên, nói, nhưng mà không được tự nhiên, chúng mình biệt nhau lần ấy, e có đến mười năm rồi. Tôi vốn đã biết anh ở Tế Nam, có điều tổ làm biếng, không hề viết cho nhau một bức thư....

Ai thì cũng thế. Song hiện giờ tôi đã ở Thái Nguyên rồi, ở đó hơn hai năm nay với mẹ tôi. Khi tôi về đón mẹ tôi, mới biết anh đã dọn đi rồi, dọn sạch hết cả.

Anh ở Thái Nguyên làm gì?. Tôi hỏi.

Dạy học, ở nhà một người đồng hương.

Trước đó anh làm gì?

Trước đó à?. Anh ta móc trong túi áo ra một điếu thuốc châm lửa ngậm vào mồm, nhìn tia khói phì ra, hình như suy nghĩ gì, nói: Cũng lại chỉ làm những việc tẻ ngắt, cầm như chẳng có làm gì hết.

Anh ta cũng hỏi về tình hình tôi sau khi biệt nhau ; tôi một mặt bảo cho biết qua loa, một mặt gọi phổ ky lấy thêm chén đũa, để anh uống trước rượu của tôi, rồi mới gọi thêm hai cân nữa. Còn có việc chấm thức ăn: trước kia giữa chúng tôi vốn không có khách tình gì cả, nhưng bây giờ thì đâm ra nhường nhau, rốt lại không biết thức ăn nào là do người nào chấm, cứ theo miệng chú phổ ky kể ra bốn món đã được chấm là đậu hồi hương, thịt đông, đậu rán và khô cá.

Tôi trở về đây một cái, liền nghĩ thấy mình đáng buồn cười. Anh ta một tay cầm điếu thuốc, một tay nâng chén rượu giống như cười mà không phải cười, nói với tôi: Tôi hồi còn nhỏ, thấy con ong hoặc con ruồi đậu ở một chỗ nào đó, bị cái gì làm kinh động, liền bay đi, nhưng bay quanh một vòng không xa mấy, rồi lại trở về đậu ở chỗ cũ, thì lấy làm rất đáng buồn cười, cũng đáng thương hại. Không ngờ hiện nay chính mình tôi cũng chỉ bay quanh một vòng nho nhỏ rồi lại trở về đây. Lại không ngờ anh cũng trở về nữa. Anh không thể bay xa hơn một chút nữa sao?.

Điều đó khó cắt nghĩa, đại khái cũng chỉ bay quanh một vòng nho nhỏ thôi. Tôi cũng giống như cười mà không phải cười, nói thế. Nhưng mà anh vì làm sao lại bay trở về.

Cũng chỉ vì cái việc tẻ ngắt. Anh ta uống một hơi cạn chén rượu, hút mấy khói thuốc, mắt hơi mở to ra. Thật là tẻ ngắt. - Có điều chúng ta cứ nói.

Chú phổ ky đem thêm lên rượu và thức ăn, bày đầy một bàn, trên lầu thêm hơi nóng của khói thuốc và đậu rán, hình như có vẻ tấp nập ; ở ngoài lầu tuyết cũng càng tơi bời sa.

Anh vốn cũng có biết, hắn ta nói nốt, tôi từng có một đứa em trai, chết lúc mới ba tuổi, chôn ở làng này. Tôi bây giờ, cả đến cái dáng dấp của nó cũng không còn nhớ rõ, nhưng nghe mẹ tôi nói, nó là thằng bé đáng thương nhớ, rất ăn ý với tôi, mỗi khi mẹ tôi nhắc đến còn như muốn rơi nước mắt. Mùa xuân năm nay, một người anh họ gửi đến một phong thư, nói nấm mồ nó đã bị nước xoi dần dần tới, e chẳng bao lâu nữa sẽ lở xuống sông, phải tính cách nào gấp đi. Mẹ tôi biết được liền sốt ruột, hầu không ngủ được luôn mấy đêm, - chính mình mẹ tôi lại xem được thư. Song le, tôi mà có cách nào được? Không có tiền, không có thì giờ, lúc bấy giờ tôi chẳng có một cách nào.

Lần lữa đến nay, nhân dịp nghỉ Tết rỗi rãi, tôi mới về nam được mà dời mà cho nó. Anh ta lại uống cạn một chén rượu, nhìn ra cửa sổ, nói: ở trên kia đâu được thế này? Giữa trời tuyết mà lại có hoa, dưới đất tuyết mà lại không giá. Thì hôm kia đây, tôi ở trong thành mua một chiếc quan nhỏ, - vì tôi đoán chắc cái săng dưới đất đã mục rồi, - đem theo bông gòn và chăn nệm, thuê bốn người làm đất, xuống làng dời mả. Tôi lúc đó bỗng cao hứng lên, muốn bới nấm mồ ra, muốn thấy cái bộ xương của đứa em từng hòa thuận với tôi một cái: những việc như thế đời tôi chưa hề trải qua. Khi đến chỗ mả rồi, thấy thật thế, nước sông cứ khoét tới mãi, cách cái nấm còn không đầy hai thước. Tội nghiệp cái nấm mả, hai năm nay không đáp, cũng đã trịt xuống rồi. Tôi đứng trong tuyết, chỉ nấm mả nói chăm bẳm với những người làm đất: Bới ra đi! Tôi vốn là một người thường, lúc đó tôi thấy tiếng nói của mình có hơi lạ, cái mệnh lệnh ấy cũng là cái mệnh lệnh rất vĩ đại trong đời tôi. Song le những người làm đất lại không lấy làm quái gì cả, liền bắt tay đào xuống. Khi đào đến chỗ huyệt, tôi bèn đến xem, quả thật cái săng đã mục nát hầu hết, chỉ còn lưu lại một đống dăm và những mảnh gỗ vụn. Lòng tôi rung động, chính mình đi vạch những cái ấy ra, rất cẩn thận, cốt muốn xem thử đứa em tôi một cái. Nhưng mà không ngờ! Chăn nệm, áo quần, xương xẩu, cái gì cũng không có. Tôi nghĩ, những cái ấy tiêu hết rồi, từ trước nghe nói tóc khó tiêu, hoặc giả còn chăng. Tôi bèn cúi xuống, kỹ càng xem trong đất bùn chỗ đặt cái thủ cấp, cũng không có. Thật là không có gì cả!.

Tôi bỗng thấy cái quầng mắt anh ta hơi đỏ, song liền biết ngay đó là có hơi rượu. Anh ta không ăn gì mấy, chỉ cất chén uống mãi, uống hơn một cân, rồi thần sắc và cử động đều sấn sướt lên, gần giống như Lã Vĩ phủ trước kia mà tôi thấy. Tôi gọi phổ ky lấy thêm hai cân rượu, rồi quay mặt lại, cầm chén rượu nhìn anh ta lẳng lặng nghe.

Thực ra, đã như thế thì không cần dời nữa cũng được, chỉ phải lấp đất lại, bán quách chiếc quan đi, là xong chuyện. Tôi mà đi bán cái quan coi cũng có hơi kỳ đó chúc, song nếu hạ giá rất rẻ, cửa hàng sũ chắc sẽ lấy lại cho, ít nữa cũng vớt về được ít đồng tiền rượu. Nhưng tôi không làm thế, tôi vẫn trải chăn nệm ra, dùng bông bọc lấy những đất bùn chỗ cái xác nó nằm hồi trước rồi gói lại, đặt vào cái săng mới, khiêng đến đám đất mả ông thân tôi, chôn kề một bên. Nhân vì ngoài cái săng còn dùng cái quách sành, nên hôm qua tôi còn phải bận mất già nửa ngày: coi thợ làm. Có đều thế đó cũng kể được là xong đi một việc, có thể trở về nói phỉnh mẹ tôi, làm cho bà yên lòng. - A a, anh nhìn tôi như thế, anh lấy làm quái tôi sao khác với ngày trước quá phải không? Phải đấy, tôi còn nhớ khi chúng ta vào nhổ râu pho tượng thần trong miếu Thần hoàng, còn nhớ khi bàn cãi về phương pháp cải cách Trung Quốc đến nỗi đánh nhau. Nhưng bây giờ thì tôi là thế ấy đấy, bôi bôi trét trét, vờ vờ vĩnh vĩnh. Chính tôi có lúc cũng nghĩ rằng nếu bạn bè trước kia gặp lại tôi, e khỉ không nhận tôi là bạn nữa. - Nhưng mà tôi bây giờ thì là thế ấy đấy.

Anh ta lại móc ra một điếu thuốc, ngậm ở mồm, châm lửa.

Xem ý anh, hình như anh còn có chút ít ước mong cho tôi, - tôi bây giờ vốn là tê liệt quá rồi, tuy vậy cũng còn có những điều tôi thấy ra được. Điều đó làm tôi rất cảm kích, nhưng cũng làm tôi rất không an tâm: e tôi rốt cuộc chỉ phụ lòng bạn cũ đến nay còn có ý tốt đối với tôi.... Anh ta bỗng ngừng lại, hút mấy khói thuốc, rồi mới chậm rãi nói tiếp: Ngay hôm nay, trước khi đến tiệm Nhất Thạch Cư này, tôi cũng đã làm một việc tẻ ngắt, nhưng cũng là việc tôi vui lòng làm. Tên Trường Phú, người láng giềng phía đông nhà tôi trước kia, là một người lái thuyền, hắn có một đứa con gái gọi A Thuận, bấy giờ anh đến nhà tôi, chắc cũng có thấy nó, có đều anh không để ý làm gì, vì lúc đó nó còn nhỏ. Sau nó lớn lên coi cũng không ngộ mấy, chẳng qua là hạng thường, mặt trái xoan gầy gầy, nước da vàng, chỉ có cặp mắt rất to, lông nheo rất dài, tròng trắng con mắt lại xanh như trời tạnh ban đêm, mà là trời tạnh không có gió của phương bắc, chứ ở đây thì không có cái trong sáng ấy. Nó giỏi giang lắm, hơn mười tuổi mất mẹ, một mình săn sóc hai đứa em gái và trai ; hầu hạ cha nó, việc gì cũng tới nơi tới chốn ; lại biết tiện tặn, cảnh nhà dần dần khá lên. Hàng xóm hầu như không ai không khen ngợi nó, cả đến lão Trường Phú cũng thường ngỏ lời cảm khích. Lần này, khi tôi cất thân đi về đây, mẹ tôi lại nhớ đến nó, người già thật hay nhớ dai. Mẹ tôi nói trước kia có biết A Thuận vì thấy ai đó trên đầu tết cái hoa nhung đỏ, nó cũng muốn có một cái mà không sao có được, nó khóc, khóc đến non nửa đêm, bị cha nó đánh cho một trận, sau lại mí mắt còn húp đỏ đôi ba ngày. Thứ hoa nhung ấy là đồ của tỉnh ngoài, trong thành S còn tìm chẳng ra mà mua thay, nó muốn có thì làm sao cho có được? Nhân tiện chuyến này tôi về nam, mẹ tôi bảo tôi mua làm quà nó hai cái.

Đối với sự sai bảo đó tôi chẳng những không lấy làm phiền mà lại lấy làm thích ; thực ra, với A Thuận, tôi còn có ý vui lòng giúp nó nữa kia. Năm kia, khi tôi về đón mẹ tôi, có một hôm, Trường Phú ở nhà, tình cờ tôi gẫu chuyện với hắn. Hắn bèn mời tôi ăn lót lòng, bột kiều mạch[4]khuấy đường, vả lại bảo cho tôi biết là đường trắng. Anh nghĩ, nhà lái thuyền mà có đường trắng, đủ biết không phải nhà nghèo, cho nên mới ăn được sang. Tôi bị nài ép mãi, nhận lời, chỉ xin dùng cái bát nhỏ. Hắn cũng rất thạo đời, bèn dặn bảo A Thuận rằng: Các ổng người văn nho, không hay ăn uống mấy, mầy hãy dùng cái bát nhỏ, cho đường nhiều vào!. Thế nhưng đến khi khuấy xong bưng lên, vẫn còn làm tôi phát sợ, nó là cái bát lớn, đủ cho tôi ăn một ngày. Có điều đem so với cái bát của Trường Phú thì cái của tôi đúng là cái bát nhỏ. Tôi từ trước chưa hề ăn bột kiều mạch, lần này nếm qua, thấy không vừa miệng, lại ngọt quá. Tôi ăn qua loa mấy miếng định không ăn nữa, nhưng trong lúc bất ngờ, bỗng thấy A Thuận đứng xa xa ở góc nhà, làm cho tôi tức thì mất cái mạnh dạn bỏ bát đũa xong. Tôi xem nó có ý sợ và mong, giạc chừng sợ mình khuấy không khéo, mong chúng tôi ăn thấy ngon. Tôi biết nếu mình bỏ lại già nửa, chắc sẽ làm nó buồn và tủi. Thế rồi tôi quyết ý, hả họng ra trút vào, ăn gần nhanh bằng Trường Phú. Do đó tôi mới biết sự ăn ép là khổ thân, nhớ lại chỉ có hồi nhỏ tôi phải ăn hêté một bát thuốc sán khuấy với đường thì mới khó khăn như thế. Nhưng mà tôi chẳng cưu hờn chút nào, vì cái dáng đắc ý mà nhịn cười của A Thuận tỏ ra trong khi đến dọn dẹp bát không, đã đủ bù lại sự khổ thân của tôi mà có thừa rồi. Cho nên đêm hôm ấy, tôi tuy no kềnh đến ngủ không yên, lại thấy một tràng chiêm bao quái ác, tôi cũng cứ cầu chúc cho nó sung sướng một đời, nguyền cho thế giới vì nó trở nên tốt đẹp. Song cái ý ấy cũng chẳng qua là dấu vết của những chiêm bao của tôi ngày trước, liền đó tự cười lấy mình và rồi cũng quên bẵng đi.

Tôi từ trước vốn không biết chuyện A Thuận từng vì cái hoa nhung mà bị đánh, chỉ nhân mẹ tôi nhắc đến, bèn cũng nhớ lại chuyện ăn bột kiều mạch, đâm ra vồn vập bất ngờ. Tôi đi tìm trước trong thành Thái Nguyên khắp một lượt mà không có, cho tới khi đến Tế Nam....

Ngoài cửa sổ có một loạt tiếng lợt đợt, bao nhiêu hoa tuyết đọng đè oằn một cành cây sơn trà đang tuột xuống, cành cây vươn thẳng lên, làm nổi bật những lá xanh sẩm mươn mướt và những hoa đỏ như tiết. Màu trắng đục giữa quãng không càng đậm hơn ; những chim chóc nhỏ kêu chin chít, chừng là vì gần chạng vạng rồi, tuyết lại phủ cả mặt đất, chẳng kiếm được cái gì ăn, đều về tổ sớm để nghỉ.

Cho tới khi đến Tế Nam, anh ta dòm ra cửa sổ một chốc, quay lại uống cạn một chén rượu, lại hút mấy khói thuốc, rồi nói tiếp, tôi mới mua được hoa nhung. Tôi cũng không biết thứ hoa nhung làm nó bị đánh có phải là thứ nầy chăng, cứ hễ làm bằng nhung là được rồi. Tôi cũng không biết nó thích màu đậm hay màu nhạt, thì mua cả một bông hoa đỏ sặm, một bông hoa đỏ phớt đem về đây.

Thế là sau buổi trưa hôm nay, ăn cơm xong một cái, tôi liền đi thăm Trường Phú, chỉ vì việc ấy mà tôi nấn ná lại đây mất một ngày. Nhà hắn ta vẫn còn đó, chỉ trông có vẻ mờ sẩm, song đó có lẽ là cái cảm giác riêng của tôi. Thằng bé của hắn và đứa con gái thứ hai, A Chiêu, đều đứng ở cửa, đã lớn rồi. A Chiêu không giống chị nó chút nào cả, xấu như ma lem, nhưng khi thấy tôi đi vào nhà, nó liền tất tưởi chạy trốn trong buồng. Tôi hỏi thằng bé, biết Trường Phú không có ở nhà. Nào chị cả mầy đâu?. Nó lập tức trợn mắt lên, hỏi dặp tôi tìm chị nó có việc gì, vả lại bộ tướng hung hăng như muốn vồ tới cắn tôi. Tôi giữ mánh rút lui, tôi bây giờ là bôi bôi trét trét...

Anh không biết đấy, tôi thế mà còn sợ gặp người ta hơn so với trước kia. Bởi tôi đã biết kỹ mình là đáng chán ghét, cả đến mình cũng chán ghét lấy mình, thế thì sao lại còn cứ chứng nào tật ấy, làm cho người ta ngấm ngầm khó chịu? Nhưng mà cái việc sai bảo lần này phải làm cho xong mới được, cho nên ngẫm nghĩ một lúc, rốt lại tôi tạt sang cái tiệm bán củi ở xế cửa. Bà mẹ của chủ tiệm, bà cụ Phát, vẫn còn sống, vả lại vẫn còn nhìn biết tôi, vồn vã mời tôi vào ngồi trong tiệm. Sau khi hỏi thăm nhau mạnh giỏi, tôi bèn nói rõ cái sở dĩ về thành S tìm Trường Phú để làm gì. Không ngờ bà cụ than thở nói:

Tiếc cho A Thuận bạc phúc kjc ài được cái hoa nhung ấy rồi.

Thế rồi bà cụ cặn kẽ bảo tôi, nói rằng ước chừng từ mùa xuân năm ngoái về sau, thấy A Thuận vàng vọt đi, rồi lại thường hay rơi nước mắt, hỏi cớ gì thì nó lại không nói, có khi nó khóc cả đêm, khóc đến nỗi Trường Phú đâm tức mình không nhịn được, mắng nó lớn tuổi rồi hóa điên. Nhưng bước sang mùa thu, mới đầu chỉ cảm gió sơ sài, sau rồi nằm liệt xuống, từ đó không dậy được nữa. Thẳng đến mấy ngày trước khi hấp hối, mới chịu nói với Trường Phú rằng nó lâu nay thỉnh thoảng khạc ra máu, và đổ mồ hôi đêm giống mẹ nó hồi trước, có điều sợ cha nó đâm lo, nó cứ giấu đi. Có một đêm, bác nó là Trường Canh[5] lại đến khảo điền. - Đó là việc thường có, - nó không cho, thì Trường Canh cười gằng nói: Mầy đừng làm bộ, thằng đàn ông của mầy còn không bằng tao! A Thuận từ đó phát rầu, lại xấu hổ, không buồn hỏi, chỉ việc khóc. Trường Phú vội vàng đem chuyện thằng chồng chưa cưới của nó giỏi trai như thế nào kể cho nó nghe, nhưng nào có kịp? Vả lại nó cũng không tin, trở nói rằng: Thật tình tôi đã là thế này rồi, có gì đi nữa cũng không cần.

Bà cụ lại nói: Nếu quả thằng đàn ông của nó không bằng Trường Canh, thì thật cũng đáng tởm nhỉ! Không bằng một đứa ăn trộm gà, thì còn ra cái thá gì? Nhưng khi hắn đến xem nhập liệm, chính mắt tôi thấy hắn, ăn mặc rất sạch sẽ, người cũng ra bề ; còn đẫm nước mắt nói: Nửa đời người đi chở thuyền, chịu khó, hà tiện, dồn tiện lại để cưới một con vợ, thế mà lại chết quách đi. Đủ biết hắn là một người tốt, lời Trường Canh toàn là lời nói dối, chỉ tiếc cho A Thuận lại tin lời nói dối của thằng kẻ cắp ấy mà chết phí cái đời. - Nhưng mà điều đó cũng không có thể trách ai được, chỉ trách chính mình A Thuận úao không có số tốt.

Thế thì thôi, công việc của tôi cũng lại xong rồi. Có đều xử trí làm sao hai cái hoa nhung đem theo bên mình tôi đây? Được rồi, tôi nhờ bà cụ đưa nó cho A Chiêu. Con A Chiêu thấy tôi một cái liền chạy trốn, chừng như nó coi tôi là một con chó sói hay là gì đấy, thực tình tôi không muốn đưa cho nó. - Nhưng rồi tôi cũng đưa cho nó, chỉ sẽ nói với mẹ tôi rằng A Thuận thấy thì vui mừng quá lắm là được rồi. Những chuyện tẻ ngắt ấy có đáng kể gì? Chỉ phải vờ vờ vĩnh vĩnh. Vờ vờ vĩnh vĩnh qua năm mới xong, rồi tôi lại cứ đi dạy tử viết thi vân như cũ.

Anh là lại dạy tử viết thi văn hay sao?. Tôi lấy làm lạ, hỏi:

Cố nhiên. Anh vẫn tưởng là còn dạy a, b, c, d, hay sao? Tôi trước kia có hai đứa học trò, một đứa học Kinh Thi, một đứa học Mạnh Tử. Mới rồi lại thêm một đứa, con gái, học Nữ nhi kinh[6]. Cả đến toán cũng không dạy, không phải tôi không dạy, chúng nó không cần dạy.

Tôi thật không ngờ anh mà lại đi dạy những thứ sách ấy...

Cha chúng nó muốn chúng nó học những thứ sách ấy, tôi là người ngoài, sư tùy chủ. Những chuyện tẻ ngắt ấy có đáng kể gì? Miễn cho thế nào xong thôi....

Cả cái mặt anh ta đã đỏ gay, giống như có hơi say lắm, song cặp mắt lại lờ đờ không còn có tia sáng. Tôi ngậm ngùi kín đáo, một lúc không biết nói gì. Thang lầu có tiếng ầm ầm, kéo nhau lên mấy người khách rượu: Đi đầu là anh chàng lùn, mặt tròn mà bì sị ; rồi đến một người cao, trên mặt lộ ra cái sống mũi đỏ đập vào mắt ; đằng sau còn có nữa, đi cả một dui làm cho cái lầu nhỏ phát run. Tôi liếc mắt nhìn Vĩ phủ, anh ta cũng vừa liếc mắt nhìn tôi, tôi bèn kêu phổ ky tính tiền rượu.

Anh cứ dạy học như thế, vẫn có thể nuôi sống được chứ?. Tôi một mặt sửa soạn đi, một mặt hỏi.

Phải đấy. - Tôi mỗi tháng kiếm được hai chục đồng, cũng không đủ xài cho lắm.

Vậy thì, sau này anh tính xoay xở làm sao?

Sau này à? - Tôi không biết. Anh xem những việc chúng ta tính trước kia có một việc nào vừa ý chúng ta? Tôi bây giờ không biết một cái gì hết, cả đến ngày mai thế nào tôi cũng không biết, cả đến một phút...

Phổ ky đem toa tính tiền lên, đưa cho tôi. Anh ta bây giờ không khiêm nhường giống như hồi mới vào nữa, chỉ nhìn tôi một cái, rồi cứ hút thuốc, để mặc tôi trả tiền.

Chúng tôi cùng ra cửa tiệm. Cái phòng nghỉ của anh và của tôi ở trái hướng nhau, bèn chia tay nhau từ chỗ cửa. Tôi một mình đi về phòng nghỉ của tôi, gió lạnh và hoa tuyết tạt vào mặt, lại thấy trong người rất khoan khoái. Màu trời đã nhá nhem tối, cả nhà cửa và đường sá đều như dệt ở trong tấm lưới tuyết dày, trắng nõn mà chờn vờn.

Ối tình ôi

Nếu tôi có thể, tôi sẽ viết ra cái ăn năn và đau xót của tôi, vì Tử Quân, vì chính mình tôi.

Cái nhà đổ nát ở nơi khuất vắng bị quên đi trong hội quán[2], nó là vắng vẻ và trống hổng như thế này. Thời giờ qua đi vùn vụt, tôi yêu Tử Quân, nhờ nàng trốn ra khỏi nơi vắng vẻ và trống hổng ấy, đã đầy một năm rồi. Rủi làm sao, khi tôi trở lại, lại bưa vừa chỉ có căn nhà ấy bỏ trống, vẫn y nguyên cái cửa sổ như thế ấy, cây hòe khô nửa thân và dây đằng tía[3]ngoài cửa sổ thế ấy, cái bàn vuông trước cửa sổ thế ấy, cái vách nát thế ấy, cái giường ván kê sát vách thế ấy. Đêm khuya một mình nằm trên giường, chẳng khác nào lúc chưa ở chung với Tử Quân, cái thời gian trong một năm vừa qua bị tiêu diệt tất cả, không có gì tất cả, tôi chưa có hề dọn ra khỏi cái nhà nát này, ở đường hẻm Cát Triệu gây dựng nên cái gia đình nho nhỏ đầy hy vọng.

Chẳng những thế thôi. Trước đây một năm, cái vắng vẻ và trống hổng cũng chẳng đến thế này, nó thường cứ mang sự mong đợi, mong đợi Tử Quân sẽ đến. Trong khi đợi lâu sốt ruột, nghe được tiếng mũi giày cao gót chạm trên đường gạch một cái, làm cho tôi sấn sướt lên biết ngần nào! Thế rồi liều xem thấy cái mặt tròn trắng xanh với cái má lúm đồng tiền, cái cánh tay trắng xanh mà gầy, cái áo dài bằng vải sọc, cái váy màu huyền. Nàng lại đem vào cho tôi thấy cái lá mới của cây hòe khô nửa thân ngoài cửa sổ, lại với từng chùm hoa đằng tía và trắng của cái gốc già giống như sắt.

Nhưng mà bây giờ đây, chỉ có cái vắng vẻ và trống hổng y nguyên như cũ, còn Tử Quân quyết không đến nữa, vả lại không đến mãi mãi, mãi mãi!

*

* *

Khi Tử Quân không ở trong cái nhà nát này, bất cứ cái gì tôi cũng xem không thấy. Trong cơn chán ngắt, thò tay vớ bậy một cuốn sách, khoa học cũng được, văn học cũng được, sách nào thì cũng thế, cứ xem, cứ xem, bỗng tự mình thấy ra, đã lật qua mười mấy tờ rồi, song le chẳng nhớ được trong sách nói chuyện gì. Duy có lỗ tai thính đặc biệt, mường tượng nghe thấy mọi tiếng giày qua lại ngoài cổng, trong đó có tiếng giày của Tử Quân, vả lại cộp cộp càng đến càng gần, - nhưng lại thường thường càng mờ loãng, cuối cùng hút mất trong những tiếng bước đi rộn rịp khác. Tôi chúa ghét đứa con trai của người tùy phái đi đôi giày đế vải không giống tiếng giày của Tử Quân, tôi cũng chúa ghét cái thằng nhỏ chát bự kem ở phòng bên cạnh, thường thường đi giày da mới mà giống tiếng giày của Tử Quân quá.

Có lẽ nàng bị đổ xe chăng? Hay là nàng bị xe điện chẹt rồi chăng?...

Tôi liền muốn lấy cái mũ đi thăm nàng, nhưng mà người chú ruột nàng đã từng chửi tôi ngay trước mặt.

Thình lình, tiếng giày của nàng tới gần, mỗi bước càng vang thêm, khi tôi ra đón, thì nàng đã đi khỏi dưới giàn hoa đằng tía, cười tủm tỉm lộ đồng tiền trên má. Tôi đồ rằng chắc nàng không bị giày vò gì ở nhà người chú nàng, lòng tôi thấy thơ thái. Sau khi lẳng lặng nhìn nhau một chốc, trong căn nhà nát dần dần vang dầy tiếng nói của tôi, nói về chuyên chế trong gia đình, nói về phá bỏ thói tục cũ, nói về trai gái bình đẳng, nói về Ípsen, nói về Tagore, nói về Silây...[4]. Nàng cứ một mực mỉm cười gật đầu, đôi mắt đầy ánh sáng thơ ngây và tọc mạch. Trên vách có dán bức tượng nửa người của Silây in bản đồng, cắt trong tạp chí ra, là bức tượng đẹp nhất của ông. Khi tôi chỉ cho nàng xem bức tượng ấy, nàng chỉ nhìn sơ qua, bèn cúi đầu xuống, hình như có ý thẹn. Chỗ đó thấy ra Tử Quân như còn chưa thoát khỏi trói buộc của tư tưởng cũ, về sau tôi cũng nghĩ, chi bằng đổi bức tượng kỉ niệm Silây chết đuối ở biển hay là bức tượng của Ípsen thì hơn ; nhưng rồi cũng không đổi, đến bây giờ thì cả đến cái bức ấy mất đi đâu cũng không biết.

*

* *

Con người tôi là của tôi, bọn họ bất kỳ ai cũng không có quyền can thiệp đến tôi được!.

Đó là câu nói của nàng, khi chúng tôi gần gụi nhau được nửa năm, lại bàn đến chuyện người chú ruột nàng ở đây và người cha nàng ở nhà, nàng ngẫm nghĩ một lúc rồi đằm thắm, dứt khoát, kiên quyết nói như thế. Lúc đó thì tôi đã tỏ bày hết ý kiến của tôi, thân thế của tôi, khuyết điểm của tôi, ít có giấu giếm gì, nàng cũng đã hiểu rõ tất cả. Mấy lời đó rất làm cho linh hồn tôi rung động, sau bao nhiêu ngày còn vang dội bên tai, vả lại mừng hết chỗ nói, biết rằng đàn bà con gái Trung Quốc không phải là nan hóa như mấy ông chán đời đã tưởng, mà một ngày mai không xa, sẽ có ánh sáng hừng đông rực rỡ cho mà xem.

Đưa nàng ra cửa, cứ thường lệ là đi cách nhau mười bước xa ; cứ thường lệ là cái thằng cha già râu cá chốt kia lại dán mặt trên tấm cửa kính bẩn, cả đến sống mũi cũng bẹp dí đi ; đến nhà ngoài, lại cứ thường lệ là trong tấm cửa kính sáng choang, ló cái mặt thằng nhỏ nọ chát kem càng bự. Nàng đi một cách kiêu ngạo, mắt không nhìn nghiêng nên không thấy gì cả ; còn tôi cũng đi một cách kiêu ngạo mà trở về.

Con người tôi là của tôi, bọn họ bất kỳ ai cũng không có quyền can thiệp đến tôi được!. Cái tư tưởng dứt khoát ấy ở trong óc nàng kể còn thấu suốt mạnh mẽ hơn tôi nhiều. Thứ đồ nửa lọ kem và cái sống mũi bẹp dí kia, đối với nàng mà có kể được là cái thá gì?

*

* *

Lúc đó tôi đã đem tình yêu chân thật nồng nàn mà bày tỏ cho nàng bằng cách nào, đến bây giờ tôi không còn nhớ rõ. Mà chẳng những bây giờ, lúc đó việc xong rồi thì đã xao lãng, ban đêm nhớ lại, cũng chỉ còn sót từng mảnh vụn ; sau khi ở chung một vài tháng, cả đến những mảnh vụn ấy cũng lại hóa ra cái bóng không đuổi bắt được trong chiêm bao. Tôi chỉ nhờ rằng trước đó mười mấy ngày, từng đã nghiên cứu rất kỹ càng về cái thái độ bắt tình, về sự sắp đặt thứ lớp lời nói, cho đến cái tình hình sau khi nếu bị cự tuyệt. Song le đến lúc rồi hầu như đều vô dụng, trong cơn hoảng hốt, không tự chủ được, tôi trót đã dùng cái phương pháp từng thấy trên màn chiếu bóng. Về sau nghĩ đến, làm tôi rất xấu hổ, nhưng trong trí nhớ lại chỉ có một chút đó còn mãi không phai, đến nay vẫn như là ánh đèn trong buồng tối rọi thấy tôi rưng nước mắt cầm lấy tay nàng, một đầu gối riu ríu quỳ xuống...

Chẳng những chính mình tôi, cả đến nói năng cất nhắc của Tử Quân, lúc bấy giờ tôi cũng không thấy rõ, chỉ biết nàng đã nhận lời tôi rồi. Song cũng còn mường tượng nhớ rằng sắc mặt nàng đổi ra trắng xanh, sau dần dần trở nên ửng đỏ, - cái ửng đỏ mà trước chưa từng thấy, và về sau cũng không thấy nữa, như trẻ con một thứ, cặp mắt nàng lộ ra vẻ vừa buồn vừa mừng, lại đèo thêm sợ sệt, dù vậy hết sức tránh tầm mắt của tôi, và hốt hoảng như muốn phá tung cửa sổ bay đi. Nhưng mà tôi biết nàng đã nhận lời tôi rồi, chứ không biết nàng có nói thế nào hay là không có nói gì hết.

Nàng thì lại cái gì cũng nhớ được cả: Những lời tôi nói, nàng như đã đọc thuộc làu, có thể nhẩm lại hàng tràng ; những cái cử chỉ của tôi, thì như có một phim ảnh mà tôi không thấy, phơi ra dưới mắt nàng, nàng kể lại như là thực, rất tỉ mỉ, cả đến cái trò trong chiếu bóng mà tôi không buồn nhớ lại. Đêm khuya người vắng, là lúc cùng nhau ôn lại, tôi thường bị gạn hỏi, bị thử thách, và bị bảo nhắc lại những câu nói lúc bấy giờ, nhưng mà thường phải nhờ nàng bổ túc cho, nhờ nàng đính chính cho, tôi chỉ giống một anh học sinh lớp bét.

Sự ôn lại ấy về sau cũng thưa dần đi. Có điều, hễ khi tôi thấy nàng đôi mắt đăm đăm nhìn quãng không, đờ người ra ngẫm nghĩ, thế rồi nết mặt càng nhu mì, má đồng tiền càng lúm xuống, thì tôi biết rằng chính mình nàng đang ôn lại, chỉ sợ nàng thấy đến cái trò trong chiếu bóng đáng buồn cười của tôi. Song tôi lại biết rằng thế nào nàng cũng thấy đến, vả lại không thấy không được.

Nhưng mà nàng cũng không thấy là đáng buồn cười đâu. Dù cho tự tôi cho là đáng buồn cười, thậm chí đáng khinh bỉ nữa, là nàng cũng chẳng cho là đáng buồn cười chút nào. Việc đó tôi biết rạch ròi lắm, bởi vì nàng yêu tôi, yêu đến nồng nàn thế kia, đến chân thật thế kia.

*

* *

Cuối xuân năm ngoái là một thời gian rất có hạnh phúc mà cũng rất bận rộn. Lòng tôi đã yên tĩnh lắm rồi, nhưng lại có một bộ phận khác và cả thân thể bắt đầu cùng bận rộn lên. Lúc đó chúng tôi mới cùng đi với nhau ngoài đường, cũng có mấy lần cùng dạo vườn hoa, nhiều nhất là khi đi tìm thuê nhà trọ. Tôi thấy ở lúc đi đường, chốc chốc lại gặp những con mắt tò mò, chế nhạo, trơi lờn và khinh rẻ, lơ đễnh một cái là làm cho tôi cả người co rúm lại, chỉ phải tức khắc làm ra vẻ kiêu ngạo và phản kháng để mà chống chỏi. Nhưng nàng thì lại bất chấp tất cả, không thèm bận lòng với những điều ấy, cứ lẳng lặng thư thả đi, thênh thang như vào chỗ không có người.

Tìm nhà trọ thật không phải việc dễ, có nhiều nơi bị cự tuyệt bằng cớ này hay cớ khác, một ít nơi thì chúng tôi cho là không thích hợp với mình. Đầu tiên chúng tôi chọn lựa rất gắt, - cũng không phải gắt, vì xem qua thì thấy không phải chỗ chúng tôi có thể an thân ; đến sau, miễn chỗ nào họ cho ở là được rồi. Đi xem hơn hai mươi chỗ, mới thuê được một nơi khả dĩ ở tạm, là hai căn phía nam của một sở nhà nhỏ ở đường hẻm Cát Triệu ; chủ nhà là một viên quan nhỏ, song là người sòng phẳng, chính mình ở nhà giữa và phòng bên. Hắn có vợ và một đứa con gái chưa đầy tuổi tôi, thuê một cô gái nhà quê giúp việc, khi đứa bé không khóc, thì thật là thảnh thơi vắng lặng.

Đồ đạc của chúng tôi không có gì mấy, thế mà cũng đã tiêu hết già nửa món tiền tôi đã chạy được ; Tử Quân còn phải bán mất cái nhẫn vàng và đôi hoa tai vàng mà nàng vẻn vẹn có. Tôi ngăn nàng, nàng cũng cứ nhất định bán, thì tôi không ngăn nữa, vì biết rằng nếu không để nàng chung đụng một phần tiền, chắc nàng ở không được thoải mái.

Nàng đã làm rầy rà với chú nàng, đến nỗi hắn tức giận không chịu nhìn nàng là cháu gái nữa. Tôi cũng lần lượt tuyệt giao với mấy người bạn tự cho là lấy lòng thành khuyên bảo tôi, mà thật ra là non gan sợ ch tôi, hay là chỉ vì ghen với tôi. Nhưng mà như thế lại hóa ra rất yên tĩnh. Mỗi ngày sau khi tan sở, tuy đã nhá nhem tối, anh phu xe lại cứ chạy chậm, nhưng rốt lại còn có lúc hai người giáp mặt nhau. Trước tiên chúng tôi lẳng lặng nhìn nhau, kế đó là cởi mở và nói chuyện với nhau thân mật, sau cùng lại là lẳng lặng. Mỗi người cúi đầu ngẫm nghĩ, song lại chưa hề ngẫm nghĩ việc gì. Tôi cũng dần dần sáng suốt đọc khắp cả thân thể nàng, linh hồn nàng, chỉ trong ba tuần lễ, hầu như tôi đã hiểu thêm về nàng, bao nhiêu điều trước kia cho rằng đã hiểu, bây giờ mới vỡ ra, thấy còn cách vách, mà là cách vách thật.

Tử Quân cũng mỗi ngày càng hoạt bát hẳn lên. Song nàng không yêu hoa, hai chậu hoa nhỏ tôi mua ở hội chùa về, trải bốn ngày không tưới, chết khô ở góc tường, tôi lại không có giờ rỗi để chăm sóc mọi sự. Vậy mà nàng lại yêu động vật, cái này có lẽ là lây bà quan nọ, không đầy một tháng, gia quyến chúng tôi thoạt thêm nhiều ra bốn con gà với mười mấy con của nhà chủ cũng lảng vảng trước sân. Có điều họ khéo nhận mặt từng con gà, mỗi người đều nhìn biết con nào là của mình. Lại có một con chó nhỏ đốm trắng, mua ở hội chùa, nguyên nó có tên gì đó, Tử Quân lại đặt cho nó cái tên khác là con Tùy. Tôi cũng cứ gọi nó là con Tùy, nhưng tôi không thích cái tên ấy.

Thật thế, tình yêu cần phải mỗi lúc đổi mới, sinh sôi, gây dựng. Tôi đem cái lẽ đó nói với Tử Quân, nàng cũng hiểu ý, gật gật đầu. Ôi, đó là cái đêm êm ả mà có hạnh phúc biết ngần nào!

*

* *

Êm ả và hạnh phúc, cái đó phải vững bền, cứ phải mãi mãi là êm ả và hạnh phúc như thế. Khi chúng tôi ở trong hội quán, còn tình cờ có xô xát nhau về lời nói và hiểu lầm nhau về ý nghĩ, từ lúc đến ở đường hẻm Cát Triệu, không hề có như thế nữa ; chỉ khi đối mặt nhau dưới đèn, chúng tôi nhớ lại chuyện cũ, nhấm nháp lại cái thú vui nẩy sinh bởi cuộc hòa giải sau cơn xô xát nhau lúc bấy giờ.

Tử Quân đâm béo ra, nét mặt cũng hồng hào lên ; chỉ đáng tiếc là nàng bận. Coi sóc việc nhà cả đến không có thời giờ nói chuyện gẫu, huống chi là đọc sách và đi chơi phiếm. Chúng tôi thường bàn với nhau, thế nào cũng phải thuê một đứa ở gái.

Điều này làm cho tôi cũng không khoan khoái, chiều tối về tới nhà, thường thấy nàng có vẻ không khoan khoái ; điều làm cho tôi càng buồn hơn, là nàng phải giả tảng cười gắng gượng. May mà dò biết ra được, đó là bởi lục đục với bà quan nhỏ nọ, đầu đuôi chỉ vì những con gà con của hai nhà. Nhưng sao lại cứ phải một mực giấu tôi? Người ta thế nào cũng phải có gia đình riêng biệt mới được. Không thể ở cái chỗ như chỗ này.

Con đường tôi đi cứ là một chiều, sáu ngày trong mỗi tuần lễ, ngày nào cũng đi từ nhà đến sở, rồi lại từ sở về nhà. ở trong sở thì ngồi nơi bàn giấy sao chép, sao chép công văn và thư tín ; ở nhà thì đối nhau với nàng, hay là giúp nàng nhen bếp lửa, nấu cơm, hấp bánh bao. Tôi mà biết nấu cơm là từ lúc đó.

Nhưng thức ăn của tôi lại khá nhiều hơn hồi ở trong hội quán. Tử Quân tuy không rành nghề làm bếp, nhưng nàng hết lòng hết sức về việc ấy ; đối với việc mà nàng ngày đêm lo lắng, khiến tôi cũng không thể không lo lắng cùng nàng, để gọi là xẻ đắng chia cay. Huống chi nàng suốt ngày mồ hôi mồ kê thế kia, những sợi tóc ngắn dính trên trán, hai bàn tay còn cứ đâm ra xô xảm thế ấy nữa.

Hơn nữa, còn phải cho con Tùy ăn, cho gà con ăn... đều là việc chính tay nàng phải làm.

Tôi từng bảo thật nàng: Tôi không ăn thì thôi cũng được ; chứ không có thể nào để nàng nhọc nhằn như vậy. Nàng chỉ liếc nhìn tôi một cái, không nói gì, dáng mặt có hơi buồn ; rồi tôi cũng không nói gì. Nhưng mà nàng vẫn cứ chịu nhọc nhằn như vậy. Nàng chỉ liếc nhìn tôi một cái, không nói gì, dáng mặt có hơi buồn ; rồi tôi cũng không nói gì. Nhưng mà nàng vẫn cứ chịu nhọc nhằn như thế.

*

* *

Cái đòn đánh mạnh vào tôi mà tôi cầm chắc sẽ xảy ra thì quả đã xảy đến. Một buổi chiều trước tết Song thập[5] một hôm, tôi ngồi đờ ra, còn nàng đang rửa bát. Nghe tiếng gõ cửa, tôi ra mở cửa, thì một tên chạy thư của sở đưa cho tôi một mảnh giấy in thạch. Tôi đã có hơi đoán trước rồi, đem lại dưới đèn xem, thì quả nhiên, mảnh giấy in thế này:

Theo mệnh lệnh vị thủ trưởng của sở, ông Sử Quyên sinh không phải đến làm việc ở sở nữa.

Phòng bí thư

Ngày 9 tháng 10

Việc này, khi ở trong hội quán, tôi đã liệu đến rồi. Cái thằng bự kem kia là bạn cờ bạc với con trai của viên chủ sở, chắc nó đã thêm thắt dèm pha, bịa đặt lời báo cáo. Đến hôm nay mới vỡ việc, kể là đã muộn lắm rồi. Thực ra thì với tôi, việc đó cũng không kể được là đòn đánh mạnh, vì tôi đã quyết định trước, tôi có thể làm kẻ sao chép ở nơi khác, hay là dạy học, hay là chịu khó dịch sách cũng nên, vả lại ông chủ bút tờ báo Bạn của tự do là người quen có gặp mấy lần, còn thư từ cho nhau cách hai tháng trước. Tuy vậy, quả tim của tôi vẫn cứ đập mạnh. Mà cái người bất chấp tất cả là Tử Quân cũng đổi ngay sắc mặt đi, làm cho tôi càng đau lòng ; nàng gần nay hình như cũng hóa ra khiếp nhược không bằng hồi trước.

"Không hề gì. Hừ, chúng ta đổi làm nghề mới. Chúng ta...". Nàng nói như thế.

Nàng không nói hết câu. Chẳng biết thế nào, tiếng nói kia tôi nghe ra nó vông vông thế nào ấy ; ánh sáng đèn cũng thấy là leo lét khác thường. Người ta thật là thứ động vật đáng buồn cười, một việc nhỏ xíu cũng có thể làm cho day động mạnh. Chúng tôi trước còn lẳng lặng nhìn nhau, dần đến bàn luận, cuối cùng quyết định còn bao nhiêu tiền tiêu xẻn lại, một mặt đăng quảng cáo tìm nơi sao chép hoặc dạy học, một mặt viết thư cho ông chủ bút Bạn của tự do nói rõ cảnh ngộ của tôi, nhờ ông nhận đăng những bài dịch, giúp tôi chút đỉnh trong cơn túng ngặt.

"Đã nói làm thì làm đi! Để mở một con đường mới!".

Tôi lập tức quay mặt vào bàn viết, đẩy cái lọ đựng dầu thơm và cái bình đựng dấm, Tử Quân đưa cái đèn lù mù bên kia sang. Trước hết tôi nghĩ viết lời quảng cáo ; rồi đến chọn sách nào nên dịch, là những sách từ hồi dời nhà đến nay chưa hề mở xem, trên đầu cuốn nào cũng đầy tro bụi ; cuối cùng viết bức thư.

Tôi ngần ngừ mãi, chẳng biết nên nói thế nào, giữa lúc ngừng bút ngẫm nghĩ, liếc mắt nhìn qua mặt nàng, trước ánh đèn tờ mờ, lại thấy vẻ buồn thiu. Tôi thật không ngờ cái việc nhỏ mọn dường kia mà lại làm cho Tử Quân, con người kiên quyết, bất chấp tất cả, thay đổi hẳn đi đến thế được. Thật ra, nàng gần đây đã hóa ra khiếp nhược, chứ không phải bắt đầu từ đêm nay. Lòng tôi vì đó thêm rối loạn, bỗng dưng trước mắt thoáng hiện ra cái bóng sự sống êm đềm - cái thanh vắng của căn nhà nát trong hội quán, mới vừa toan trố mắt nhìn, thì lại thấy ánh đèn tờ mờ.

Một chặp lâu, bức thư cũng viết xong, là một bức thư hơi dài. Thấy mỏi mệt lắm, hình như gần nay chính tôi cũng hóa ra khiếp nhược hơn trước. Thế rồi chúng tôi quyết định, nội trong ngày mai thì đăng quảng cáo và gửi bức thư ngay. Hai chúng tôi không hẹn mà rập nhau vươn thẳng lưng lên, không nói ra, chứ mỗi người như đều cảm thấy mình có cái tinh thần bền dẻo và mạnh mẽ, và còn nhìn xem cái hy vọng tương lai mới nứt mầm.

*

* *

Cái đòn đánh từ ngoài đến, thật ra lại làm cho cái tinh thần mới của chúng tôi hăng hái lên. Làm việc ở sở, chẳng khác nào cũng con chim trong tay người lái bán chim, chỉ có một ít gạo tấm ăn cầm hơi, không thế nào cho béo mập được ; mà hễ lâu ngày thì lông cánh tê dại đi, dù cho thả ra khỏi lồng cũng đã không bay nổi. Hiện giờ thì cũng kể được là ra khỏi lồng đấy, tôi còn kịp khi chưa quên đập cánh, từ đây phải bay lượn trong quãng trời mới rộng rãi mênh mông.

*

* *

Quảng cáo mới vừa đăng, không phải một lúc mà có hiệu nghiệm ngay được. Còn dịch sách cũng không phải việc dễ, những chỗ trước kia xem qua, cho là hiểu được rồi, đến lúc bắt tay dịch, lại thấy khó khăn trăm bề, cho nên công việc làm rất chậm. Nhưng tôi quyết chí rán sức làm, một cuốn tự điển còn khá mới, không đầy nửa tháng, dựa triêng đã đầy dấu ngón tay làm đen hoen, đủ biết là tôi làm việc chăm chỉ. Ông chủ bút Bạn của tự do từng nói với tôi, tờ báo của ông nhất định không bỏ qua những bài dịch hay mà không đăng.

Đáng tiếc là tôi không có được một gian phòng vắng vẻ, Tử Quân lại không đằm thắm khéo chiều như trước, trong nhà cứ là bừa bãi những bát đĩa, tràn ngập những khói than đá, khiến người ta không thể yên lòng làm việc, song cái đó chỉ nên trách lấy bản thân tôi không đủ sức sắm một thư phòng riêng. Thế mà lại còn thêm con Tùy, còn thêm bầy gà con nữa. Còn thêm bầy gà con càng ngày càng lớn, dễ dàng làm đầu dây mối nhợ cho hai nhà rầy rà nhau.

Còn thêm mỗi ngày cứ phải ăn cơm ; công lao của Tử Quân hình như ở cả trong sự ăn cơm ấy. Ăn xong đi chạy tiền, chạy tiền được lại ăn, còn phải cho con Tùy ăn, cho gà ăn ; nàng hầu quên tất cả cái gì trước kia đã biết, cũng chẳng nghĩ đến mỗi khi hối giục ăn cơm như thế thường thường làm cho tứ văn trong óc tôi đứt mạch. Trong bữa cơm, dù có tỏ cho thấy một vài nét giận dỗi, nàng cũng không cải nết, vẫn cứ việc ăn lấy ăn để, như không hề cảm thấy tí gì.

Mất hết năm tuần lễ tôi mới làm cho nàng hiểu rõ rằng công việc của tôi không thể bị bó buộc bởi sự ăn cơm đúng giờ. Sau khi hiểu rõ rồi, dáng chừng nàng rất không vui, song không nói ra. Việc làm của tôi từ đó quả được nhanh chóng hơn trước, không mấy nỗi mà dịch được năm vạn chữ, chỉ phải trau tria một ít, có thể luôn với hai bài văn ngắn đã viết xong gửi cho Bạn của tự do cùng một thể. Có điều cái sự ăn cơm lại vân cứ làm cho tôi chịu khổ. Đồ ăn nguội, cái đó không can chi, ngặt vì đến nỗi không đủ ; có khi cả đến cơm cũng không đủ, mặc dầu tôi vì cả ngày ngồi ở nhà dùng sức óc, mức ăn cơm so với trước đã giảm đi nhiều. Đó là tại đã cho con Tùy ăn trước đi, có khi lại còn cho nó ăn cả đến món thịt dê là món chính tôi cũng không dễ gì ăn. Nàng nói, thật con Tùy nó gầy đến thảm hại, bà chủ nhà còn nhân đó chê cười chúng tôi, nàng không chịu được cái sự chế nhạo như thế.

Thế là chỉ có bầy gà ăn cơm thừa của tôi. Điều đó lâu ngày tôi mới thấy ra được, song đồng thời tôi cũng tự thấy, như Huít-lây luận định về "vị trí loài người ở trong vũ trụ"[6], vị trí của tôi chẳng qua là ở giữa con chó nhỏ và bầy gà.

*

* *

Đến sau, trải qua nhiều lần chống cự và thúc giục, bầy gà cũng lần lượt bị giết thịt, chúng tôi và con Tùy đều hưởng được chất béo hơn mười ngày. Có điều thật ra chúng nó gầy quá, vì lâu nay mỗi ngày chỉ ăn được mấy hột lúa ngô. Từ đây trong nhà được yên tĩnh hơn. Chỉ có Tử Quân trông uể oải quá, thường có dáng bộ buồn nản và tẻ ngắt, đến nỗi không muốn nói năng gì. Tôi nghĩ, người ta sao mà dễ dàng thay đổi đến thế này!

Đến ngày con Tùy cũng sẽ không nuôi được nữa rồi. Chúng tôi đã chẳng còn trông mong từ đâu có thư gửi đến, Tử Quân cũng không còn có chút gì ăn được để có thể bắt nó cúi chào hoặc đứng thẳng lên. Mùa đông lại sắp đến rồi, lò sưởi sẽ là một vấn đề lớn ; mức ăn của nó, không nói cũng biết, thật đã là cái gánh nặng cho chúng tôi. Thế rồi cả đến con vật ấy cũng không để được.

Giá như dắt nó ra chợ bán đi, có lẽ cũng được mấy đồng tiền đấy, nhưng mà chúng tôi không có thể và cũng không muốn làm như thế. Rốt lại là lấy khăn gói trùm đầu nó lại, do tôi mang đi thả ở ngoại ô phía tây, nó còn chạy theo, thì xô nó xuống một cái hầm đất không sâu mấy.

Tôi trở về nhà, thấy càng yên tĩnh hơn nhiều. Song cái nét mặt sầu thảm của Tử Quân lại làm cho tôi phát sợ. Cái nét mặt ấy từ trước chưa từng thấy, chắc là vì con Tùy. Nhưng mà việc gì lại đến nỗi phải thế? Tôi còn chưa thuật chuyện xô nó xuống hầm đất.

Đến đêm, trên cái nét mặt sầu thảm của nàng, lại phủ thêm một lớp giá lạnh nữa.

"Quái lạ. - Tử Quân, em hôm nay sao mà như thế?". Tôi cầm lòng không đâu, hỏi.

"Cái gì?". Nàng nói mà không hề nhìn tôi.

"Nét mặt của em...".

"Không có gì, - có gì đâu".

Cuối cùng, theo lời lẽ dáng điệu của nàng, tôi biết đại khái nàng đã nhận định tôi là một đứa nhẫn tâm. Thực ra, một mình tôi thì sự sống cũng dễ dàng, dầu vì kiêu ngạo, lâu nay không tới lui với bạn cũ, sau khi dời nhà, lại tránh xa những người quen, chứ hễ xa chạy cao bay được thì con đường sống cũng còn rộng rãi lắm. Hiện giờ bấm bụng chịu đau khổ bởi sự sống đè nén, phần lớn lại là vì nàng, cho đến đem con Tùy vứt bỏ, cũng chỉ như thế. Song le cái kiến thức của Tử Quân hình như đâm ra thấp kém, đến nỗi cả đến một chút đó mà cũng không nghĩ tới.

Tôi chọn một dịp tốt, đem những lẽ ấy ngỏ ý cho nàng biết ; nàng gật đầu dáng chừng có hiểu. Nhưng mà xem tình hình nàng về sau, thì ra nàng không hiểu, hay là còn không tin tôi nữa.

*

* *

Cái lạnh của khí trời và cái lạnh của dáng người bức tôi không thể yên thân trong gia đình được. Nhưng đi đâu bây giờ? Trên đường phố, trong vườn hoa, tuy không có cái dáng người giá lạnh, chứ gió lạnh cũng đến cắt da. Rốt lại tôi tìm được chỗ thiên đường của tôi ở trong Thư viện Thông tục.

Vào đó không phải mua vé, trong phòng đọc sách lại đặt sẵn hai cái lò sưởi bằng sắt. Mặc dầu đốt trong lò sưởi chẳng qua là thứ than đá tồi, miễn thấy có lò sưởi, trên tinh thần cũng thấy có hơi ấm áp. Sách thì lại không có gì xem được: sách cũ thì cổ hủ, sách mới hầu như không có cuốn nào.

May mà tôi đến đây cốt không phải vì xem sách. Ngoài tôi ra lúc nào cũng có mấy người, lúc nhiều đến mười mấy người, đều là áo quần mỏng manh như tôi, mỗi người xem sách của mình, mượn cớ để lấy nhờ hơi ấm. Cái đó với tôi càng thích hợp lắm. Trên đường phố thế nào cũng gặp những người quen, thế nào cũng bị một cái liếc mắt khinh miệt, chứ ở đây thì chắc khỏi cái chua chát ấy, bởi vì bọn họ luôn luôn vây chung quanh thứ lò sưởi khác, hay là tựa cạnh cái lồng ấp của mình.

Ở đó tuy không có sách cho tôi xem, nhưng còn có yên tĩnh để cho tôi suy nghĩ. Đợi đến lúc một mình ngồi thừ, nhớ lại về trước, mới thấy rằng hơn nửa năm nay, chỉ vì yêu - cái yêu mù quáng - mà xao nhãng mất cả những cái cần yếu khác của đời người. Thứ nhất là sự sống. Người ta phải sống đã, rồi cái yêu mới có chỗ nương tựa. Trên đời không phải là không có con đường sống mở ra cho kẻ hay phấn đấu ; tôi cũng chưa quên đập cánh, tuy có đồi đường hơn trước kia phần nào.

Cái nhà và những người đọc sách dần dần mất đi, tôi xem thấy người đánh cá trong sóng cồn, người lính đánh trận trong hầm núp, người sang trọng trong xe hơi, tay buôn bán đầu cơ trên dương trường[7], đấng hào kiệt giữa rừng sâu núi thẳm, vị giáo sư trên giảng đàn, kẻ đi vận động ban tối và thằng ăn trộm đêm khuya... Tử Quân - không có ở đây. Cái dũng khí của nàng đã mất hết, chỉ cứ vì con Tùy mà buồn bực, vì nấu cơm mà đờ người ra, nhưng mà lạ một điều là lại không gầy ốm chi cả...

Trời lạnh, mấy cục than đá tồi trong lò sưởi cuối cùng cũng cháy hết, đã là lúc đóng cửa thư viện rồi. Bây giờ lại phải về đường hẻm Cát Triệu, chịu đựng lấy cái bộ mặt giá lạnh rồi đây. Mấy lâu nay thỉnh thoảng cũng có chộ cái dáng điệu đằm ấm, song như thế lại làm cho tôi thêm đau khổ. Nhớ có một đêm, từ cặp mắt Tử Quân bỗng phát ra cái tia sáng ngây thơ mà lâu nay không thấy, nàng cười và nhắc lại với tôi cái tình hình khi còn ở trong hội quán, chốc chốc lại lộ cái vẻ hơi sợ hãi. Tôi biết rằng tôi gần nay còn lạnh lùng quá nàng nữa, đã làm cho nàng đâm lo ngại, nên chi cũng gắng gượng nói cười, muốn cho nàng khuây khỏa một vài. Nhưng mà nụ cười tôi vừa nở trên môi, lời nói tôi vừa ra khỏi miệng, tức thì lại biến thành trống hổng, cái trống hổng lại tức thì biến thành tiếng dội, dội vào tai mắt tôi, ban cho tôi một sự nhạo ngầm cay độc khó chịu.

Tử Quân hình như cũng biết được, từ đó mất hẳn cái dáng đằm lặng như tê dại trước kia thường có, mặc dầu hết sức che đậy, chốc chốc cái nét mặt lo ngại cũng vẫn cứ lộ ra, nhưng đối với tôi thì lại ôn hòa hơn nhiều.

Tôi muốn nói rõ cho nàng biết, song còn chưa dám, khi quyết ý muốn nói ra, trông thấy cặp mắt như trẻ con của nàng, liền phải gắng gượng làm bộ vui vẻ. Song cái bộ vui vẻ ấy lại tức thì hóa ra nhạo ngầm tôi, vả còn làm cho tôi mất hẳn cái dáng đằm lặng lạnh lùng.

*

* *

Từ đó nàng lại bắt đầu ôn lại việc cũ và mở cuộc thử thách mới, bắt buộc tôi phải bịa ra bao nhiêu câu trả lời đậm đà mà giả dối, cái đậm đà đem tỏ cho nàng, còn cái bản thảo giả dối thì chép ngay ở trong lòng tôi. Lòng tôi dần dần bị những bản thảo ấy lấp đầy, luôn luôn thấy khó thở. Trong cơn khổ não tôi thường hay nghĩ thấy, nói sự thực, tự nhiên cần phải có cái dũng khí rất lớn ; ví thử không có cái dũng khí ấy, mà cứ chịu giả dối cho qua ngày, thì người ấy là người không có thể mở một con đường sống mới. Chẳng những chẳng có việc ấy, mà cả đến con người ấy cũng chưa hề có!

Tử Quân có vẻ oán hận, ở một buổi sáng sớm, buổi sáng sớm rất lạnh, đó là điều chưa từng thấy qua, song cũng có lẽ là cái vẻ oán hận mà tự tôi nhìn thấy. Lúc bấy giờ tôi giận mát và cười thầm: cái tư tưởng rèn luyện và cái ngôn luận khoáng đạt bất chấp tất cả của nàng, rốt cuộc cũng hoàn là trống hổng, mà đối với cái trống hổng ấy nàng lại không tự biết. Lâu nay bất cứ sách gì nàng cũng không đọc, không biết cái điều thứ nhất của đời sống người ta là phải tìm cách sống, mà muốn nhằm tới con đường tìm cách sống ấy thì cần phải nắm tay cùng đi, hay là một mình sấn bước, nếu chỉ biết níu lấy chéo áo của một người nào, thì dầu cho người ấy là chiến sĩ cũng khó mà chiến đấu, rốt lại cả hai phải cùng chết mất mà thôi.

Tôi thấy rằng cái hy vọng mới chỉ ở sự chúng tôi lìa nhau ra ; nàng phải quả quyết dứt bỏ, tôi cũng vụt nghĩ đến cái chết của nàng, song le tức khắc trách mình, ăn năn ngay. May mà là buổi sáng sớm, thời giờ còn dài, tôi có thể nói hết sự thực của tôi. Mở con đường mới cho chúng tôi, là ở một lần này.

Tôi cùng nàng gẫu chuyện, cố ý gợi ra việc cũ của chúng tôi, giở đến văn nghệ, thế rồi đụng đến nhà văn ngoại quốc, tác phẩm của nhà văn: Nara, người đàn bà của biển[8]. Khen ngợi cái quả quyết của Nara... Cũng vẫn là những câu chuyện đã nói trong căn nhà nát của hội quán, có điều hiện giờ đã biến thành trống hổng, từ mồm tôi truyền vào trong tai tôi, mỗi lúc ngờ rằng có một đứa bé tinh nghịch tàng hình, ở đằng sau lưng nhại theo một cách ranh mãnh và cay độc.

Nàng vẫn cứ gật đầu chịu lắng nghe, sau rồi lặng thinh. Tôi cũng chắp nối nói xong câu chuyện của tôi, cả đến những tiếng rớt lại đều tiêu mất đi trong quãng trống.

"Phải đấy". Nàng lại lặng thinh một hồi rồi mới nói: "Nhưng mà... Quyên sinh, tôi thấy anh mấy lâu nay thay đổi nhiều. Có phải thế không? Anh, - anh bảo thật tôi đi".

Tôi thấy như đó là một vố đánh vào tôi, song cũng liền tỉnh táo, nói rõ ý kiến và chủ trương của tôi ; về sự mở đường mới, gây dựng lại sự sống mới, có thế thì mới khỏi cả hai cùng chết mất.

Gần rốt, tôi lấy lòng quả quyết mười phần, nói thêm mấy lời này:

"... Huống chi em đã có thể không cần lo về sau, cứ hăm hở đi tới. Em muốn tôi nói thật ; phải đấy, người ta không nên giả dối. Thì tôi nói thật đây: bởi vì, bởi vì tôi đã không yêu em nữa rồi! Nhưng như thế là tốt cho em lắm, bởi vì em càng có thể làm việc mà không bận lòng gì cả...".

Cùng một lúc ấy, tôi chắc mẩm rằng có biến cố gì lớn sẽ đến, nhưng mà không, chỉ có im lặng. Nét mặt nàng vụt đổi ra vàng xám, gần như chết ; trong nháy mắt lại sống lại, đôi mắt nẩy ra tia sáng nhấp nhoáng và ngây thơ. Tia sáng đó dọi ra bốn bề, giống như đứa trẻ đang đói khát tìm mẹ lành, song chỉ tìm trong quãng không, sợ sệt tránh tầm mắt của tôi.

Tôi không thể thấy thế nữa, may mà là lúc sáng sớm, tôi xông pha gió lạnh chạy đến Thư viện Thông tục.

Ở đó thấy tờ báo Bạn của tự do, hai bài văn ngắn của tôi đã đăng rồi. Điều đó làm tôi giật mình, hình như được một chút hơi sống. Tôi nghĩ, con đường sống vẫn còn rất nhiều - có điều hiện nay như thế này cũng còn là chẳng ăn thua vào đâu.

*

* *

Tôi bắt đầu đi thăm những người quen mà lâu nay không tới lui nhau, song cũng chỉ có một vài lần ; nhà của họ tự nhiên là ấm cúng, trong xương tủy tôi lại thấy lạnh buốt. Đến đêm, bèn nằm co trong cái nhà lạnh so với giá còn lạnh hơn.

Giá lạnh như kim chích vào linh hồn tôi, khiến tôi mãi chịu khổ với cái đau đớn tê dại. Con đường sống còn rất nhiều, tôi cũng còn chưa quên đập cánh, tôi nghĩ thế. - Tôi vụt nghĩ đến cái chết của nàng, song le tức khắc trách mình, ăn năn ngay.

Trong Thư viện Thông tục thường thường nhác thấy một tia nhoáng sáng, con đường sống nằm ngang trước mặt. Nàng đã mạnh mẽ giác ngộ rồi, quả quyết đi ra khỏi cái nhà giá lạnh ấy, vả lại, không có vẻ oán hận chút nào. Tôi bèn nhẹ như mây bay, trôi nổi giữa quãng không, trên có trời xanh, dưới là núi sâu biển lớn, nhà rộng lầu cao, chiến trường, xe hơi, dương trường, công quán, giữa thành thị ồn ào nắng ráo, trong đêm tối tăm...

Vả lại, thật đấy, tôi cảm thấy cái quang cảnh mới ấy sẽ đến ngay.

*

* *

Như thế, chúng tôi cũng kể được là đã qua khỏi mùa đông khó chịu ; mùa đông của Bắc Kinh ; khác nào con chuồn chuồn rơi trong tay đứa bé nghịch ngợm, bị buộc bằng sợi chỉ nhỏ, mặc tình đùa bỡn, hành hạ, tuy may mà khỏi chết, chứ rốt cuộc vẫn phải nằm trên đất, chỉ một sớm một chầy.

Viết cho ông chủ bút báo Bạn của tự do kể có ba bức thư, mới được trả lời, trong phong thư trả lời chỉ có hai cái vé mua sách, một cái hai hào và một cái ba hào[9]. Thế mà tôi lại cứ viết thư giục, tốn hết chín xu tem cả thảy, chịu đói một ngày, để ném qua cửa sổ mà chẳng được gì cho mình.

Nhưng mà cái việc đồ rằng sẽ đến, thì nó đã đến.

*

* *

Đây là việc xảy ra giữa khoảng đông và xuân. Bấy giờ gió không còn lạnh lắm, tôi cũng bê tha ở ngoài lâu hơn, mỗi khi về nhà, trời đã tối sẫm. ở một đêm tối sẫm ấy, tôi cứ thường lệ uể oải đi về, về đến cổng, lại cứ thường lệ càng thêm xuôi lơ, bước đi càng chậm. Song cuối cùng vào đến nhà mình, không có đèn lửa, mò được bao diêm đánh lên, thì là cái quạnh hiu trống hổng lạ thường!

Trong cơn sửng sốt, bà quan đến ngoài cửa sổ gọi tôi ra.

"Hôm nay người cha của Tử Quân đến đây, dẫn nàng về rồi". Bà ta nói vẻn vẹn có thế.

Đó hình như là việc bất ngờ, tôi khác nào bị đánh một vố đằng sau gáy, đứng im không nói chi.

"Nàng đi rồi sao?". Được một lát, tôi chỉ hỏi một câu như thế.

"Nàng đi rồi".

"Nàng ; - nàng có nói gì không?".

"Không nói gì cả. Chỉ dặn tôi hễ thấy ông về thì bảo cho ông biết nàng đi rồi".

Tôi không tin, có điều trong nhà quạnh hiu trống hổng khác thường. Tôi lục lọi các chỗ, tìm Tử Quân ; chỉ thấy mấy cái đồ đạc cũ nát mà bơ thờ, đều rõ ra mồn một, đủ biết chúng nó không có sức che giấu một người nào hay một vật nào. Tôi xoay nghĩ đi tìm bức thư hoặc dấu chữ của nàng để lại, cũng không có ; chỉ có muối và ớt khô, bột mì, nửa bắp cải, để dồn lại một chỗ, bên cạnh còn có mấy chục đồng xu. Đó là toàn bộ vật liệu nuôi sống hai người chúng tôi, nay nàng trịnh trọng để lại cho một người là tôi, không nói cũng biết là bảo tôi nhờ đó mà cầm giữ sự sống cho được lâu dài hơn.

Tôi như bị chung quanh chèn ép, chạy ra giữa sân, chung quanh tôi lại tối đen ; cửa sổ giấy của nhà giữa dọi ra ánh đèn, bọn họ đang đùa cười với đứa bé. Lòng tôi cũng chìm lặng xuống, thấy trong cái đè ép nặng nề, dần dần thoáng hiện ra con đường chạy thoát: núi sâu chằm lớn, dương trường, bữa tiệc linh đình dưới đèn điện, hầm hố, đêm khuya tối thui tối thủi, một mũi dao đánh phặp, bàn chân bước không có tiếng tăm...

Cõi lòng có hơi nhẹ nhõm, cởi mở, nghĩ đến món tiền đi đường, nhân thể thở một hơi ra.

*

* *

Nằm xuống. Những bước tương lai tưởng tượng trước khi nhắm mắt, chưa tới nửa đêm đã hiện ra tất cả. Trong tối bỗng mường tượng thấy một đống thức ăn, sau đó, cái mặt vàng xám của Tử Quân liền nổi bật lên, trợn cặp mắt thơ ngây, nhìn tôi như tuồng van khấn. Định thần lại, không có gì cả.

Nhưng lòng tôi lại thấy nặng nề. Tại sao tôi không rán chịu mấy ngày, mà lại vội vàng lấy lời thật bảo cho nàng? Hiện giờ nàng biết rằng từ nay về sau, cái mà nàng có được chỉ là cái oai nghiêm như mặt trời gắt của người cha - tức là chủ nợ của con cái - và những cặp mắt lạnh lùng của bà con làng xóm. Ngoài ra bèn là trống hổng. Mang cái gánh nặng trống hổng ấy, ở dưới cái oai nghiêm và mắt lạnh lùng, đi con đường gọi là con đường sống, đó là việc đáng ái ngại dường nào! Huống chi cuối cùng con đường ấy, lại chẳng qua là - cái mồ mà cả đến bia mồ cũng không có.

Tôi không nên đem lời thật nói với Tử Quân, chúng tôi đã yêu nhau, tôi nên mãi mãi dâng cho nàng cái nói dối của tôi. Nếu cái chân thật quả là báu quý, thì ở Tử Quân đã chẳng là một cái trống hổng nặng nề. Nói dối vẫn là một thứ trống hổng, nhưng đến cuối cùng, quá lắm cũng chỉ nặng nề đến thế.

Tôi tưởng rằng đem sự thực nói với Tử Quân, nàng có thể không lo ngại gì cả, kiên quyết mạnh dạn đi tới, cũng như khi chúng tôi sắp sửa ở chung. Song đó có lẽ là tôi lầm. Khi bấy giờ nàng dũng cảm và bất chấp tất cả là vì tình yêu.

Tôi không có cái dũng khí mang lấy gánh nặng trống hổng, mà lại cởi cái gánh nặng chân thật phó cho nàng. Sau khi nàng yêu tôi, thì phải mang lấy cái gánh nặng ấy, ở dưới oai nghiêm và mắt lạnh lùng, đi con đường gọi là con đường sống.

Tôi nghĩ đến cái chết của nàng... Tôi thấy tôi là một kẻ khiếp nhược, đáng bị bẩy ra ngoài những người mạnh mẽ có sức, không cứ là người chân thật hay người giả dối. Nhưng mà nàng thì lại từ trước đến sau, vẫn trông mong cho tôi cầm giữ sự sống lâu dài hơn...

*

* *

Tôi phải rời bỏ đường hẻm Cát Triệu, ở đó trống hổng và quạnh hiu lạ thường. Tôi nghĩ, chỉ có rời bỏ chỗ này, thì Tử Quân như còn ở bên mình tôi ; ít nhất là cũng như còn ở trong thành, rồi một ngày kia, sẽ bất thình lình tới thăm tôi, giống như hồi ở trong hội quán.

Nhưng mà, hết thảy mọi sự nhờ cậy và gửi thư, đều không có hiệu quả gì cả, tôi cực chẳng đã phải đi đến một người quen vai trên mà lâu nay không hề tới thăm. Người này là bạn học hồi nhỏ với bác tôi, một vị bạt cống[10] có tiếng đứng đắn ở Bắc Kinh đã lâu, giao du cũng rộng rãi.

Chừng cũng vì áo quần lùi xùi, vừa tới cổng đã bị người gác cổng nhìn bằng nửa mắt. Khó khăn lắm mới giáp mặt được, ông ấy vẫn nhận ra tôi, có điều lạnh lạt lắm. Việc vừa qua của chúng tôi, ông ta đều rõ cả.

"Hẳn thế, anh cũng chẳng ở đây được nữa đâu". Sau khi nghe tôi nói nhờ ông tìm việc cho ở nơi khác, ông lạnh lùng bảo thế, và tiếp: "Có điều đi đâu bây giờ? Rất khó. - à gì đây, gì của anh đây, à, bạn của anh là Tử Quân, anh có biết chứ, nàng đã chết rồi".

Tôi sửng sốt không nói gì.

"Thật đấy chứ?". Rốt lại tôi buột mồm hỏi.

"Ha ha, còn gì nữa mà không thật. Vương Thăng người nhà tôi ở cùng làng với nàng".

"Nhưng mà, - chết thế nào mới được chứ?".

"Còn ai biết thế nào. Tóm lại, chết rồi là chết rồi".

Tôi đã quên khuấy lúc đó từ giã ông ta bằng cách nào rồi đi về nhà trọ mình. Tôi biết ông ta là người không nói dối ; thế nào Tử Quân cũng không lại đến nữa như thể năm ngoái. Nàng tuy muốn ở dưới cái oai nghiêm và con mắt lạnh lùng, mang cái gánh nặng trống hổng để mà đi con đường gọi là con đường sống, cũng đã không có thể được rồi. Số mạng của nàng đã quyết định cho nàng phải chết mất trong cái chân thật tôi bảo cho nàng, cái chân thật ấy là giữa người ta với người ta không có tình yêu.

Hẳn thế, tôi không thể ở đây được nữa rồi. Nhưng mà, "đi đâu bây giờ?".

Chung quanh là cái trống hổng mênh mông, còn có cái chết hiu quạnh. Tôi mường tượng thấy được mồn một cái bóng tối của cái chết ở trước mắt đám người không có tình yêu, lại còn nghe được hết thảy những tiếng quằn quại đau khổ và tuyệt vọng.

Tôi còn cứ mong đợi cái gì mới sẽ đến, là cái không gọi tên được và bất ngờ. Song hết ngày nọ đến ngày khác, chỉ là cái chết hiu quạnh.

Tôi đã không ra khỏi cửa như trước nữa, chỉ ngồi nằm trong cái trống hổng mênh mông, mặc cho cái chết hiu quạnh nó đục mòn linh hồn tôi. Chính mình cái chết hiu quạnh có lúc cũng run rẩy, ẩn núp, thế rồi trong dịp đứt nối ấy, chợt thấy có sự mong đợi mới, không gọi tên được và bất ngờ.

Một hôm, vào buổi sáng oi ả, mặt trời không chen ra được khỏi đám mây, cả đến không khí đều mệt mỏi. Tai nghe tiếng bước tủn mủn và hơi thở lỗ mũi hừ hừ, làm tôi mở bừng mắt. Xem qua một cái, trong nhà vẫn trống hổng ; song tình cờ nhìn trên đất, thấy đang quanh quẩn một con vật nhỏ, gầy yếu, giở chết, tro bụi đầy mình...

Tôi xem kỹ, quả tim tôi bỗng ngừng lại, kế đó lại nhảy mạnh lên.

Đó là con Tùy, nó lại trở về rồi.

*

* *

Tôi đi khỏi đường hẻm Cát Triệu, cũng chẳng phải chỉ vì sự khinh miệt của chủ nhà và đứa ở gái họ, song phần lớn là vì con Tùy. Nhưng mà, "đi đâu bây giờ?". Con đường sống mới tự nhiên còn rất nhiều, tôi có biết sơ qua, hoặc cũng mập mờ trông thấy, thấy như ở trước mặt tôi, nhưng bằng cách nào ở bước thứ nhất để đi đến đó thì tôi không biết.

Trải qua nhiều phen nghĩ ngợi và đo đắn, thấy cũng chỉ còn có hội quán, là chỗ có thể dung thân được. Vẫn y nguyên cái nhà nát thế ấy, cái giường ván thế ấy, cây hòe khô nửa thân và dây đằng tía thế ấy, có điều sự sống làm cho tôi trông mong, vui sướng, yêu đường lúc bấy giờ, thì lại đã đi mất hết thảy, chỉ còn có một cái trống hổng, cái trống hổng tôi đã dùng sự chân thật mà đổi lấy.

Con đường sống mới còn rất nhiều, tôi cần phải tiến lên, bởi vì tôi còn đang sống. Song tôi vẫn không biết bước thứ nhất tiến lên bằng cách nào. Có lúc, hình như thấy con đường sống ấy giống một con rắn dài mà trắng xám, nó uốn lượn bò đến tôi, tôi chờ đợi lại chờ đợi, song xem chừng gần đến, bỗng lại tiêu mất trong bóng tối.

Cái đêm đầu xuân vẫn còn dài thế này. Trong khi ngồi thừ người đã lâu, nhớ đến đám ma thấy ở đầu đường phố buổi sáng, đằng trước là người giấy ngựa giấy, đằng sau là tiếng khóc giống như hát. Tôi bây giờ đã biết cái thông minh của bọn họ rồi, đó là việc nhẹ nhõm và dứt khoát biết bao.

Nhưng mà đám ma của Tử Quân lại ở trước mắt tôi, ấy là một mình mang lấy cái gánh nặng trống hổng, tiến lên trên con đường dài trắng xám, mà lại lập tức tiêu mất dưới cái oai nghiêm và con mắt lạnh lùng ở chung quanh.

Tôi muốn thật có cái gọi là hồn ma, thật có cái gọi là địa ngục, vậy thì, dầu cho ở trong gió dữ gầm thét, tôi cũng sẽ tìm kiếm Tử Quân, trước mặt nàng thốt ra cái điều ăn năn và đau xót của tôi, xin nàng tha thứ ; nếu không thì, lửa độc của địa ngục sẽ bao vây tôi, bừng bừng đốt cháy hết cái điều ăn năn và đau xót của tôi.

Tôi sẽ ở trong gió dữ và lửa độc ôm lấy Tử Quân, xin nàng khoan dung cho, hoặc làm cho nàng khoái ý...

*

* *

Song le, thế lại càng trống hổng hơn con đường sống mới. Hiện giờ cái đang có chỉ là đêm đầu xuân, mà nó còn dài thế này. Tôi đang sống, thế nào tôi cũng phải nhằm con đường sống mới tiến lên, cái bước thứ nhất, lại chẳng qua là viết ra cái điều ăn năn và đau xót của tôi, vì Tử Quân, vì chính mình tôi.

Tôi vẫn cứ chỉ có tiếng khóc như hát, để đưa đám chôn Tử Quân, chôn trong sự quên khuấy.

Mà tôi phải quên ; tôi vì chính mình tôi, vả lại không nên nghĩ đến sự dùng cái quên để chôn Tử Quân ấy nữa.

Tôi phải nhằm con đường sống mới tiến lên bước thứ nhất, tôi phải đem sự chân thật giấu kín vào trong vết thương lòng, lẳng lặng đi tới, dùng quên khuấy và nói dối làm kẻ dẫn đường cho tôi...

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: