Phần 1
Bố con
Nguyễn Khải
Nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ trắng toàn hơi nước, và nổi lên lất phất những ngọn tre lá toẻ ra hai bên như cái chổi lông gà. Chúng tôi có ba người, pha một bình trà đặc nói chuyện với nhau. Đồng chí Nam, tổ trưởng một tổ sản xuất, và Hòa ở trong tổ máy kéo mới đến đây được một tuần để cày mấy chục mẫu đất chuẩn bị cho vụ gieo ngô mùa thu. Lần đầu tiên tôi quen Hòa vào một buổi sáng tôi xin ngồi nhờ đầu máy kéo. Anh nhìn tôi bằng con mắt rất dài và đen:
-Dầu máy giây vào quần áo khó giặt lắm đồng chí ạ. Không hiểu vì lẽ gì tôi thấy mến anh ngay, và thầm nghĩ mình có thể trở thành bạn thân của anh được. Tôi leo phắt lên quàng tay giữ lấy cái lưng ghế bọc da, hỏi nhỏ:
-Đồng chí tên gì ?
-Hòa.
-Đã đến hai mươi tuổi chưa ? Hòa quay nhìn tôi cười, hàm răng to và thưa, trắng bóng:
-Lính nông trường không còn trẻ lắm đâu, hai mươi ba rồi đấy.
-Cũng còn trẻ chán ! Tiếng máy nổ ầm ì nhưng rất vang khiến hai chúng tôi không thể nói chuyện tiếp được. Từ hôm đó hễ có dịp gặp nhau anh chỉ nhìn tôi cười mỉm, rồi lại bận bịu vào công việc, cho mãi tới tối nay. ...Khói thuốc lá, hơi nóng của nước trà, sức nặng của mưa rơi và cái im lặng của chung quanh dễ khêu gợi những kỷ niệm mà thường ngày bị chìm đắm trong những công việc kế tiếp nhau lướt đến. Nhưng chưa ai biết nên bắt đầu câu chuyện như thế nào, tôi lại hỏi Hòa cái câu thường lệ của những người mới làm quen nhau:
-ông cụ bà cụ sinh ra đồng chí còn cả chứ ? Ai ngờ cái câu tưởng như nhạt nhẽo ấy lại là đầu mối của một câu chuyện.
-Bố mẹ tôi còn cả, nhưng hai bố con tôi mới gặp nhau được có vài năm nay. Và cũng nhân cái không khí thuận lợi của một tối mưa, anh bắt đầu kể. "Một tối thứ bảy vào cuối năm 1955 tôi nhận được thư của u tôi nhờ đứa cháu họ viết báo tin bố tôi đã về, hiện ở bộ đội và đề cả địa chỉ đơn vị của bố tôi. Chỉ một buổi tối mà tôi xem đi xem lại mấy dòng chữ đột ngột ấy có đến vài chục lượt, vừa nghi hoặc, vừa lạ lùng, mênh mang một ý nghĩ mơ hồ hình như bức thư này không phải gửi cho tôi, có lẽ của một người nào khác trùng tên họ. Trong đám sương mù của quá khứ thường hay loé lên những tia chớp trong một lúc chiếu sáng nhiều đoạn hình ảnh thuộc về những kỷ niệm đã qua, song chưa bao giờ tôi thấy có một hình ảnh rõ rệt, đậm nét về người bố. Từ năm lớn lên tôi chỉ biết có một bà mẹ, một chị gái và một anh trai.
Đấy là những người thân nhất, người của gia đình. Bà mẹ tôi thương các con, hy sinh vì các con, nể các con. Bóng dáng một người mẹ tần tảo, chịu đựng, hiền hậu xâm chiếm trái tim chúng tôi từ ngày còn thơ ấu, ảnh hưởng đến cả cách sống của gia đình, mẹ bảo ban các con, anh chị khuyên răn em, trìu mến lẫn nhau, thương xót nhau. Nếu đôi lúc có nghĩ tới một người bố xa lạ nào đó, thì tôi tin ngay rằng bố tôi đã chết từ lâu rồi, từ năm tôi mới đẻ. Nào ngờ bố tôi hãy còn sống, đã trở về tìm đến với gia đình, và ông cụ cũng là một quân nhân (tôi vẫn không sao tin ngay được chuyện đó có thật). Sự xúc động lúc đầu thật mạnh mẽ, đến choáng váng, vừa sung sướng, vừa hãnh diện, nhưng liền sau đó một nỗi buồn mông lung, không duyên cớ cứ chập chờn quanh quất như vừa đánh mất một cái gì, nhưng không thể rõ cái gì đã mất. Cái buồn ấy giống như một sự ganh ghét, một nỗi lo âu, vì tôi chưa quen nghĩ rằng mình phải có một người bố, gia đình mình phải có một người đàn ông đứng đầu. Cái tình cảm bố con hầu như chưa bao giờ nảy mầm ở trong tôi. Bao nhiêu lòng yêu thương tôi đã dồn về người mẹ cả. Hơn nữa bố tôi là người như thế nào đây, tính tình có giống như mẹ tôi hay hoàn toàn khác hẳn. Thêm sự có mặt của bố tôi liệu cái không khí đầm ấm của gia đình có bị nhạt loãng, nguội lạnh đi không. "Đêm hôm ấy tôi trằn trọc vì những lời lẽ sẽ viết trong lá thư gửi bố ngày mai, nhưng trong lòng vẫn thấy lạnh lùng, thờ ơ thế nào ấy. Tôi sẽ viết nhiều về công tác của tôi hiện nay, những thành tích mà tôi đã đạt được cốt để cho bố tôi hình dung ra đứa con trai của mình là một thanh niên cứng rắn, một chiến sĩ trong quân đội (bằng cách nào đó tôi phải để cho bố tôi biết tôi đã là tiểu đội phó). Phải dùng những lời văn thật bóng bẩy, nếu cần sẽ có cả một bài thơ chúc mừng tình cha con sum họp. Nhận được thư hẳn ông cụ sẽ phải ngạc nhiên và tự hào vì có một đứa con giỏi giang, sẽ biết nể những ý kiến sau này của tôi, và trong quan hệ cha con ông cụ sẽ đối đãi bình đẳng hơn." "Sáng hôm sau tôi để anh em đi chơi hết, xin một tờ giấy viết thư và một phong bì thật đẹp. Mới đề được hai chữ " Thưa thầy !", mấy ngón tay cứ run bắn hầu như không phụ thuộc vào sự sai khiến của mình nữa. Bao nhiêu ý nghĩ trong đêm qua phút chốc bị xoá sạch, trước mắt cứ nổi lên mãi hai chữ "Thưa thầy !". Thời kỳ đóng quân ở Thái Bình, tôi đã nhận một ông cụ có con hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ làm bố nuôi, tôi đã gọi ông cụ bằng "thầy" rất vui vẻ, hồn nhiên, với ý định làm giảm nỗi đau đớn của một người cha.
Sáng nay cũng viết lại hai chữ quen thuộc ấy, dòng chữ, trang giấy trở nên thiêng liêng, nghiêm trọng. Tôi chỉ viết được hơn mười dòng, câu cú rất lộn xộn, dòng cuối cùng lại là cái câu tôi muốn tránh "Con cảm động quá nên chẳng biết viết gì hơn thầy ạ". "Lá thư được gửi đi với tấm ảnh mới chụp của tôi. Nửa tháng sau tôi nhận được thư của bố từ Hà Tĩnh gửi ra, cũng kèm theo một tấm ảnh. Từ ngày nhận được tin bố, tôi vẫn tưởng tượng ra hình ảnh một ông già rất giống tôi nhưng khắc khổ hơn, từng trải hơn với hõm má sâu, cặp mắt tư lự và nửa đầu bạc trắng. Đến khi cầm bức ảnh tôi hoàn toàn thất vọng vì ông cụ chẳng giống tôi một chút nào, còn quá trẻ, đầu đội mũ, hai má rất đầy, đôi lông mày đen rậm. Nếu so ra thì bà chị cả còn già hơn bố tôi đến vài tuổi. Thế mà người này đã làm bạn với mẹ tôi trên ba chục năm nay, lại là bố của chúng tôi ... Cứ mỗi lần ngắm lại người bố của mình có cặp má rất đầy, đôi lông mày rậm tôi lại thấy bứt rứt, bực dọc. Cuối cùng tôi cất tấm ảnh vào trong ví, không đưa cho một người nào khác xem, tự mình cứ tin rằng người bố chính là cái hình ảnh đã tưởng tượng ban đầu. Tâm trạng của tôi ngày ấy nửa muốn gặp mặt để xem thực hư thế nào, nửa lại muốn kéo dài thời gian xa cách vì lo rằng rồi đây bố con ngồi giáp mặt nhau biết nói với nhau những gì. "Đầu năm 1956 bố tôi báo tin phục viên về làng. Giữa năm ấy anh tôi viết thư kể chuyện đã về phép và gặp bố, mẹ ở nhà đang có mang, anh có giục tôi nên cố gắng về vào dịp cuối năm vì bố ở nhà rất mong. Cuối năm thì tôi được về phép. "Tôi về đến xóm trại thì trời đã xẩm tối. Mấy người gặp tôi chỉ hỏi được về phép bao nhiêu ngày, còn không nói gì đến bố tôi. Tôi cũng nén sự tò mò để khỏi hỏi lại, cố giữ cái phút đầu tiên được gặp bố không bùng ra sớm. Tâm trạng tôi lúc ấy giống như một đứa bé lạc vào nơi hoang vu, vừa muốn hét to lên cho tất cả đều biết sự có mặt của mình để giảm bớt nỗi lo sợ, vừa muốn nín hơi thở, dón dén đi từng bước nhỏ để dò xét sự huyền bí sắp xảy đến. Đấy là lần về phép đầu tiên sau ba năm đi bộ đội." "Bước vào sân ngỡ nhà bỏ hoang, không một ánh đèn, không một tiếng động nhỏ. Lên đến hè, tôi dừng lại khẽ đằng hắng, vẫn không có tiếng ai hỏi lại. Tôi lần theo hàng cột đến mép phản, đặt ba lô xuống, bật diêm châm đèn. Nhìn quanh quẩn thấy đồ đạc vẫn kê như ngày trước, chỗ nằm của mẹ tôi mắc một chiếc màn đôi còn mới, một cái bát điếu để trên cái hòm gian, mấy cái áo đàn ông treo giáp vách buồng.
Trong vầng sáng nhạt mù mờ hơi mông mốc, phảng phất có một cái gì đó hơi xưa cũ, quen thuộc, và cũng có một cái gì khác lạ, lạc lõng." "Hàng xóm thấy tôi về lục tục kéo sang hỏi thăm. Nhà thì hẹp chỉ có hai gian rưỡi, cái nhà cuối cùng tôi cất lên trước khi đi bộ đội (bảy lần trước đều bị địch đốt phá trong các trận càn), nên nhiều người cứ đứng lố nhố ở ngoài hè hỏi vào. Qua câu chuyện tôi mới được biết mẹ tôi đã sinh một đứa em gái, hiện nay vẫn đang ở nhà hộ sinh trên tỉnh. Cách hai mươi năm nay mới sinh nở nên mẹ tôi bị băng huyết và sát dau. Bố tôi ở nhà ba hôm, lại lên tỉnh một hôm, con gái lấy chồng ở tỉnh khác, hai con trai đi bộ đội, ở nhà hai vợ chồng già, một khỏe một ốm nên rất bấn. Người hỏi, người nói, nhưng nhìn nét mặt mọi người tôi thoáng nghĩ có lẽ bà con sang chơi không cốt chỉ để thăm hỏi, mà còn như chờ đợi một cái gì khác. Ngoài thềm hè nhiều tiếng xì xào đan đi đan lại nhưng nghe không rõ. Chợt có tiếng lanh lảnh của đứa con gái ở mé sau nhà tôi vọng ra đồng:
-ông ơi, cậu cháu đã về! Một giọng rất trầm từ trên đê vọng lại:
-Cậu nào?
-Cậu Hòa ấy! "Bố tôi đã về! Tim tôi co hẳn lại, nặng trĩu, mỗi nhịp đập cứ vang lên nghe rõ từng tiếng một, máu dồn lên mặt nóng bừng và đầu óc quay cuồng. Cái phút vừa mong đợi, vừa ngại ngùng từ hơn một năm nay đã đến. Tôi biết xử trí như thế nào đây. Từ phút ấy tôi vẫn nói vẫn cười, nhưng hoàn toàn không hiểu được mình đã nói những gì. Một phút qua, mười phút qua, mười lăm phút trôi qua, không thấy một người nào rẽ đám đông bước vào, tôi đưa mắt nhìn khắp lượt, không thêm một khuôn mặt nào mới. Nhưng không ai hỏi chuyện tôi nữa, tất cả đều im lặng. Tôi chưa hiểu tại sao lại im ắng đến thế, thì ở vòng ngoài cùng có tiếng cười khúc khích, rồi chỉ một loáng ngay cả những người ngồi trước mặt tôi cũng cười. Có lẽ tôi vừa buột nói điều gì lầm lỡ ? Như có linh cảm, tôi quay người lại nhìn vào góc tối cạnh cái hòm gian, một người không quen mặt, mặc cái áo bông bộ đội, đang nhìn tôi chằm chằm. Tôi đứng phắt lên, đi lại hai bước, môi run bắn nhưng cố bật ra mấy tiếng:
-Có phải thầy đấy không ? Người đó không trả lời, vẫn nhìn tôi, còn tôi không đứng nổi trên đôi chân nữa, ngồi ngay xuống mép phản, nước mắt đã trào ra giàn giụa. Bố tôi (đúng người đó là bố tôi) cầm lấy cái bát điếu, đi qua tôi ra góc phản tôi vừa ngồi. Vừa thông điếu, bố tôi hỏi, giọng miền Bắc, nhưng rất nặng:
-Vừa về à?
-Con về nhà được nửa tiếng rồi. Thầy đi đâu về? (Tôi gọi tiếng thầy vẫn ngượng nghịu)
-Tát nước mạ... Anh ăn cơm chưa?
-Con ăn rồi. "Bố tôi bật mảnh đóm vào cạnh bát điếu, rồi đưa đóm châm lửa, nhưng mấy lần đầu đóm cứ trượt ra ngoài vành bóng.
Bố tôi quẳng đóm ra cạnh, rờ rờ lên mặt phản rất nhanh, vơ vội lên hộp thuốc lào, hai tay cứ xoay đi xoay lại cái nắp một cách không tự chủ. Bà con chào hỏi một vài câu rồi kéo về. Tôi mấy lần định nói câu gì đó cho đỡ ngượng, nhưng lưỡi cứ đờ ra như nặn bằng đất sét. Thế là cả hai vẫn ngồi im. Bố tôi cũng không nhìn thẳng vào mặt tôi, cứ nhìn ngang ngang tầm ngực, và như đọng lại nhiều ở cái huy hiệu Điện Biên Phủ tôi đính phía trên nắp túi áo bông. Qua ánh đèn tôi ngắm bố tôi, và giật mình không hiểu vì lẽ gì mà trí tưởng tượng của tôi gần đúng với sự thật đến thế. Thật ra khuôn mặt bố tôi không giống với ảnh chụp mấy. Tóc ngắn sát da đầu, lấp loáng từng mảng trắng, đuôi mắt kéo xuống trông như một mí mòng mọng, lúc nhìn ngang cái màng ngoài rất đục, bắp thịt ở má cũng không tròn căng như trong ảnh mà đã nhẽo, hơi chảy, lớp da ở cổ đã bong ra khỏi thịt, nhăn lại. Mọi nét trên mặt đều mệt mỏi, duá chỉ có đôi vai rất rộng và hai bàn tay to có những ngón hầu như vuông lúc nào cũng động đậy là tỏ ra bố tôi vẫn còn sức gánh vác nhiều công việc, chứ chưa cần phải nghỉ ngơi. "Đêm ấy, hai bố con ngủ với nhau. Ngọn đèn để nhỏ bằng hạt đậu trên cái hòm gian. Khi bố tôi quay mặt về phía tôi nói chuyện, khuôn mặt ấy bỗng dưng trở nên rất thân yêu quen thuộc, như vốn đã ở bên tôi từ ngày bé. Nhưng khi bố tôi nằm ngửa, chỉ thấy nét dồ lên của gò má, sống mũi, tôi lại cảm thấy khác lạ, như mình đang nằm cạnh một người như chưa từng quen biết. Mùi thuốc lào, mùi rượu, mùi dầu xoa, và mùi mồ hôi lâu ngày cứ phảng phất góc này góc nọ. Chốc chốc tôi lại tự hỏi: Mình đã về nhà chưa nhỉ? Mình đã gặp bố chưa nhỉ? Người nằm cạnh là ai vậy? Tiếng bố tôi vẫn thì thầm:
-U anh ở nhà thương đã ba tháng rồi nhưng vẫn còn yếu lắm, mất nhiều máu quá... mà một mình tôi chạy đi chạy về thành thử việc đồng áng phải cậy tổ cả.
-Vụ mùa này nhà thu được bao nhiêu thóc ?
-Nếu có công thì cũng được khá đấy. Năm nay lúa tốt. Nhưng nhà không có người, đến đập cũng phải mượn công nên còn lại chẳng là bao, lại tiền thuốc men, tàu xe... Rồi như sợ mình than vãn nhiều quá ảnh hưởng đến con, bố tôi hỏi lảng sang chuyện khác :
-Anh đi bộ đội đầu năm 1954 à ?
-Trước ở nhà con đã là du kích rồi, đến đầu năm 1954 thì được bổ sung lên mặt trận Điện Biên. Từ năm ấy đến nay con vẫn ở đơn vị.
-Hồi ngoài này đánh Điện Biên thì đại đội chúng tôi lại về hoạt động ở chiến trường Long Châu Hà. "Trong khi trò chuyện với tôi, bố tôi thường hay xưng tôi, chúng tôi, và gọi con bằng anh, từng lời đều có cân nhắc, thận trọng, đối xử với tôi bằng tình đồng chí hơn là tình cha con. Thoạt đầu tôi rất ngượng và thầm nghĩ có lẽ ông cụ còn giữ kẽ, định dò xét thái độ của tôi ra sao đây. Nhưng càng nói bố tôi càng tỏ ra rất tin cậy ở con, nhiều lúc nghẹn ngào bố tôi lại dừng một lúc lâu rồi đưa tay lên dụi mắt, khi tôi nhìn cái gò má nhọn hoắt thấy nhấp nhoáng ướt. Cũng trong đêm ấy lần đầu tiên tôi được biết những câu chuyện trong gia đình thuộc về hai mươi năm trước. "Năm ấy bố tôi trốn con, bỏ vợ (tôi hãy còn nằm trong bụng mẹ) đi Nam chỉ vì cờ bạc nhiều, mang nợ đến vài trăm tiền mặt, sào ruộng cuối cùng đã bán, năm gian nhà gỗ xoan cũng đã dỡ gán cho chủ nợ, cũng tưởng rằng vào trong ấy kiếm ăn dễ dàng, rồi ra cũng có thể chắt chiu, dành dụm được một món trở về quê hương. Nhưng đặt chân đến nơi mới biết ở đâu cũng khó sống, liền rủ một nhóm người cùng tỉnh đang thất nghiệp lập một gánh chèo đi hát ở tỉnh nhỏ và vùng quê. Gánh chèo vỡ, hết kế sinh nhai, cùng đường, bố tôi đành ký giao kèo vào làm phu cho sở cao su Nam Kỳ.
Trong những ngày tủi cực nhất bố tôi được giác ngộ cách mạng, sau khởi nghĩa gia nhập quân đội ngay. Từ bấy đến ngày tập kết, đúng mười năm trời, khi chiến đấu ở chiến trường Đồng Tháp Mười, khi lại về hoạt động ở vùng Vĩnh Trà Bến rồi Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu...". Bố tôi kể tiếp : "- Thầy bỏ nhà ra đi năm ba mươi tuổi, đến nay vừa đúng hai chục năm (từ lúc này bố tôi xưng thầy, và gọi tôi bằng con). Suốt hai mươi năm một nỗi ân hận cứ dằn vặt trong lòng: thầy đã đang tay giết một vợ với ba con. Một mình ra đi lưu lạc nay đây mai đó, hai bàn tay làm đổi lấy miếng cơm, kể ra cũng không sung sướng nỗi gì nhưng thầy nghĩ u con ở nhà còn khổ sở gấp trăm lần: món nợ của thầy còn đó, hai con còn thơ, bụng mang dạ chửa, bố mẹ không còn, họ mạc hai bề xem ra cũng không ai giúp đỡ được, làm sao sống nổi qua những năm đói kém trước cách mạng. Hoặc giả nếu u con có còn sống, thì chắc đã đi bước nữa, các con có lẽ đứa sống, đứa chết hoặc đem cho những nơi có bát ăn làm con nuôi, đứa ở, gia đình tan nát chứ không thể toàn vẹn được. Ngày ở trong ấy, các bà má thấy thầy đã có tuổi mà chưa có vợ con, có lòng thương cứ mai mối giúp. Nhưng thầy đều từ chối, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng nhận cái hạnh phúc mới, mình phải chịu lấy hình phạt ở vậy suốt đời để chuộc lại cái tội ngày xưa. Tháng tám năm ngoái thầy được về Hà Nội dự lễ tuyên dương Anh hùng quân đội vì năm ấy thầy được bầu là chiến sĩ thi đua của sư đoàn. Sau đó tranh thủ về phép mấy ngày thăm quê. Trước sau thầy vẫn đinh ninh rằng gia đình chắc chẳng còn ai, nhưng càng tin thế mối hy vọng được sống lại cảnh đoàn tụ ngày trước càng nung nấu và càng lo sợ nếu sự thực đúng như mình đã phỏng đoán. Ngày xưa đây gọi là xã Kiên Trung thuộc tổng Nhữ Xá, nhưng nay lại đổi là thôn Hữu Trung thuộc xã Hồng Quảng, nên khi đến cống Quải lạc đường hỏi thăm không ai biết. Về đến quán Búc thì gặp chị Duật đi chợ về đang ngồi nghỉ. Sau vài ba câu chuyện biết chị người cùng làng, thầy hỏi dò chi cánh bà Tư Bần có còn ai, rồi lại hỏi thêm bà Hoán có còn sống không. Hỏi song cái câu ghê rợn nhất ấy thầy tưởng như mặt mình mất hết máu. Chị ấy đáp : " Bà thím tôi vẫn khoẻ, chú tôi đi Nam Kỳ hơn hai mươi năm nay chẳng có tin tức gì, các con bây giờ đã lớn, cô gái cả đi lấy chồng bên Hưng Yên, còn hai cậu nó đi bộ đội cả". Thầy định kêu lên: " Chúng nó vẫn còn sống cả ư, tôi là bố chúng nó đây!" nhưng cố kìm lại khoác ba lô đi một mạch. Thầy không ngờ nhà ta vẫn ở khu đất cũ. Bước vào sân, thầy nhận ra u con đang ngồi dạm lại cái rá ở đầu hè. Thấy thầy vào u con nhìn lên nhưng không nhận ra.
Sau thầy bước gần lại, bỏ mũ, nói khẽ: "Nhà còn nhớ tôi không?". U con nhìn thầy một lúc rồi mếu máo gọi tên thầy lúc còn ở nhà: "Anh Chẩn hãy còn sống về với vợ với con đấy ư anh!" Cả hai đều đã trên dưới năm chục tuổi, tóc bạc gần nửa, răng rụng vài ba chiếc, những ngày sống còn lại có thể tính năm được mới lại gặp nhau, mới hiểu hết lòng nhau... Thầy cảm ơn u con đã vì thầy mà chịu đựng mọi tủi cực, thiếu thốn nuôi nấng các con, gây dựng cho các con nên người. Đời thầy vất vả đã nhiều, nhưng u con còn vất vả gấp trăm lần, ơn ấy sống để dạ, chết mang đi... "Bố tôi quay vào trong vách hỉ mũi, mãi một lúc lâu mới quay sang phía tôi. "... Thầy cũng cảm ơn chế độ ta, cảm ơn cách mạng đã đào tạo các con khác hẳn với thầy ngày xưa... Thầy cứ nghĩ ngày thầy bỏ đi đến nhà cũng dỡ gán cho chủ nợ, thước đất cuối cùng cũng phải bán, trong nhà không còn có đến một hào bạc. Còn con mới mười bảy, mười tám tuổi đầu, một tay dựng lại tám lần nhà ở. Ngày đi bộ đội còn để lại cho u con hơn trăm thùng thóc ăn dần. Thầy biết uống rượu, biết đánh bài từ năm mười chín tuổi, còn con mới mười tám tuổi đã thành chiến sĩ Điện Biên Phủ. Mỗi đời một khác là thế đấy con ạ. Đời thầy không thể sánh với đời các con được. Thầy cống hiến cho cách mạng chẳng được bao nhiêu nhưng cách mạng đã đem lại cho thầy cái hạnh phúc lớn nhất mà thầy không bao giờ dám ao ước. Cứ mỗi lần nhận được thư của con, của anh con thầy vừa sung sướng, vừa tủi hổ, tự nghĩ mình không xứng đáng là bố của những người con như thế... Thầy yêu thương các con, thầy kính trọng các con, các con cũng hiểu cho lòng thầy..."
"Tôi nằm sát lại bố tôi, một tay tôi quàng qua ngực nắm lấy vai bố. Bố tôi cũng đưa bàn tay chai sạn nắm lấy tay tôi, khẽ nói:
-Thôi, con ngủ đi không mệt, khuya lắm rồi!" "Hôm sau tôi theo bố lên tỉnh thăm mẹ và em gái. Nhân lúc bố tôi ghé vào nhà người quen chơi, tôi lẻn ra phố bán chiếc đồng hồ mới mua năm trước. Còn một hôm nữa thì phải trả phép, tôi tính lại số tiền dành dụm được cả thảy mười lăm vạn đưa cho bố tôi chi dùng thuốc men cho mẹ và lấy lương ăn cho đến chiêm. Bố tôi cầm gói tiền nhìn tôi rồi oà khóc. Tôi cầm lấy tay bố an ủi: "Con đi bộ đội không cần đến tiền. Thầy đừng nên nghĩ ngợi nhỡ ốm ra đấy thì lấy ai săn sóc, chúng con đi vắng cả". "Sáng hôm tôi đi, bố tôi dậy rất sớm, nấu niêu cơm nếp kho ít tôm gói vào cái mo, cẩn thận như một bà mẹ, và dặn tôi:
-Đi đường lúc nào đói thì ăn, thỉnh thoảng viết thư cho thầy u. "Tôi đã bước sang bên kia phía cầu tre đi vòng lên mé đê, vẫn thấy bố tôi đứng vịn vào thân cây vối nhìn theo, một dáng người cao lớn, hơi cúi về phía trước, cái áo bông bộ đội màu xanh nhạt và chiếc quần nâu..." "Từ ngày ấy bóng dáng người bố, đêm tâm sự đầu tiên đã trở thành những hình ảnh khắc sâu nét trong tâm hồn tôi. Bố tôi bảo đời sau bao giờ cũng hơn đời trước, nhưng tôi nghĩ những người già đều có sự khôn ngoan của mình, cái hạnh phúc lớn nhất mà cách mạng đem đến cho gia đình tôi phải qua câu chuyện của bố tôi, tôi mới hiểu hết được. Cách mạng đã thay đổi những con người và những con người ấy đem lại hạnh phúc đến cho nhau".
Hồng Cúm
16-9-59
Người mơ mộng
Nguyễn Khải
1. Cứ nghĩ đến anh Q. thương thì rất thương nhưng vẫn giận. Thật ra thì thương nhiều hơn giận. Chúng tôi quen biết nhau từ năm 1947. Anh là trung đội trưởng, tôi là chiến sĩ trung đội tự vệ chiến đấu thị xã Hưng Yên. Năm ấy, anh vừa tròn hai mươi tuổi, hăng hái, thông minh, học lực cũng hơn người. Lại là những năm đầu của cách mạng, nhân tài còn hiếm, công việc rất nhiều. Với một người có chí cao xa thì không thiếu gì cơ hội để bay nhảy, để đạt tới cái sở nguyện của mình. Mà anh Q. lại là người rất có chí. Anh vẫn thường nói với bọn tôi rằng, anh muốn trở thành một người chỉ huy quân sự xuất sắc như Nã Phá Luân, hoặc ít ra cũng là một nhà văn có tên tuổi như trong nhóm Tự Lực văn đoàn. Đại khái là muốn trở thành một người có tiếng tăm, một nhân vật được xã hội tôn trọng hơn cả mọi người. Tôi chưa bao giờ tin anh Q. có thể trở thành một nhà chỉ huy quân sự xuất sắc nhưng tôi tin anh có thể trở thành một người viết văn. Vì anh có một tấm lòng, có học vấn và cũng từng trải hơn bọn chúng tôi. Năm ấy, sách báo có ít lại khó kiếm nhưng anh vẫn đọc nhiều, anh đọc sách tiếng Pháp mượn được hoặc xin của những gia đình trong thị xã. Và anh viết. Đêm nào anh cũng ngồi bên cây đèn hí hoáy viết rất khuya. Anh ghi nhật ký, anh viết các mẩu chuyện, đôi lúc anh cũng có đọc cho chúng tôi nghe. Tất nhiên là rất hay rồi. Đó là chuyện của chúng tôi được thuật lại bằng những câu văn hết sức bóng bẩy. Rồi trung đội tôi cũng có một tờ báo tường. Tôi là người nhận bài của anh em và trình bày lại trên một tờ giấy khổ rộng. Anh Q. là người hướng dẫn đề tài, dạy cách viết các thể văn và duyệt chữa các bài báo đó. Nhưng anh không viết. Anh khuyến khích chúng tôi viết nhưng chưa bao giờ anh viết cho tờ báo của trung đội. Ngay đến tòa soạn của tờ báo trên tỉnh đội yêu cầu anh viết bài, anh cũng từ chối. Anh còn đang viết dở một cuốn tiểu thuyết miêu tả những hoạt động bí mật của nhóm thanh niên cứu quốc trước ngày khởi nghĩa.
Một cuốn tiểu thuyết dày khoảng hai trăm trang, anh nói thế. Giấy trắng chúng tôi thu được trong các hòm tủ của nhà đoan(*) tỉnh phải xếp nửa gian nhà, nhiệm vụ của trung đội là bảo vệ một thị xã đã tiêu thổ kháng chiến, không thể nói là khó nhọc, lại có vốn sống, lại biết cách viết, viết mãi cũng được chứ nói gì chỉ viết có hai trăm trang. Dẫu rằng những quan niệm của anh ngày ấy về một cuốn tiểu thuyết hay vừa non nớt vừa buồn cười. Nhưng tước bỏ những cái non nớt và buồn cười đó thì vẫn còn lại một ý định rất tốt đẹp: muốn làm một việc quan trọng mình chưa từng làm, muốn vươn tới một cái đích cao hơn, xa hơn tầm tay khi ấy. Không có một ý định táo bạo, lãng mạn, con người ta khó mà bắt đầu một công việc nào có ý nghĩa quyết định đối với đời mình.
2. Cuối năm 1947, tôi đi học lớp y tá rồi về công tác tại phòng thuốc của tỉnh đội. Anh Q. cũng được điều động về một đại đội khác (*) Tá thương chánh thời Pháp hoạt động trong mấy huyện bám theo quốc lộ 5. Mỗi lần anh về tỉnh họp đều có sang chơi với tôi bên phòng thuốc. Anh phải bỏ dở cuốn tiểu thuyết đang viết vì không có thời giờ, nhưng vẫn ghi chép rất đều đặn. Còn tôi đã là chủ bút của một tờ nội san, mỗi tháng ra một kỳ, chuyền tay cho các bệnh nhân đọc. Anh em chữa bệnh tuy có tham gia viết bài nhưng rất ít. Muốn đảm bảo số báo ra được đều kỳ tôi phải viết gần như hầu hết với các tên ký khác nhau. Từ bài giải đáp và các hướng dẫn cách điều trị các loại bệnh thông thường, cách sơ cứu các vết thương đến truyện ngắn chiến đấu (do anh em bệnh nhân kể lại), mẩu chuyện sinh hoạt và cả mục vui cười. Đại loại trên báo Vui Sống có những mục gì, cách viết ra sao, tôi đều sao chép lại, tất nhiên là có thay đổi ít nhiều cho phù hợp với nội dung và khuôn khổ tờ báo của chúng tôi. Rồi tôi viết bài cho tờ báo của tỉnh đội, cho báo của Tá Thông tin, thoạt đầu là tin tức, sau là các mẩu chuyện ngắn hoặc dài. Cũng có bài được đăng nhưng nhiều bài gửi đi đến thư của toà soạn trả lời cũng không có. Nhưng tôi không nản, không xấu hổ mà cũng chẳng thất vọng. Vì tôi chưa từng đặt ra cho mình một dự định to tát nào.
Có lần anh Q. vừa gặp tôi đã hỏi bài ấy bài nọ có phải do tôi viết không. Khi biết là do tôi viết thật, anh rất ngạc nhiên: "Cậu viết như thế mà người ta cũng in cho nhỉ?" Theo sự nhận xét của anh, bài viết của tôi chưa thể gọi là văn chương được, đọc thì vui nhưng còn đơn giản quá. Rồi anh kết luận: "Kể ra đăng báo thì cũng được, chứ viết thành sách còn phải tốn công phu lắm".
Năm 1949 tôi rời ngành y chuyển về Ban Chính trị của tỉnh đội làm báo. Tôi đã được cấp trên và anh em trong tòa soạn công nhận là người có khả năng viết, dẫu còn non nớt nhưng rồi ra vẫn có thể viết được. Giữa năm đồng chí thư ký toà soạn và cũng là người viết chủ chốt xin ra ngoài để tiếp tục học văn hoá. Thế là tôi trở thành một cây bút quan trọng, tung hoành ngang dọc quá nửa số trang. Cuối năm tôi lại viết được ba truyện ngắn, in thành một tập, dẫu là in đá, nhưng vẫn được in một tập riêng, có tên tôi ở ngoài bìa. Khi anh Q. gặp tôi, anh nói đùa ngay: "Thế là mày đã trở thành nhà văn rồi!" Tôi trả lời ngượng nghịu: "Nhà văn phải là anh chứ, tôi bì sao được". Anh cười rất hồn nhiên: "Còn thời gian, hả? Đời còn dài, hả? Rồi thì..." Năm ấy anh Q. mới hai mươi tuổi.
3. Năm 1952, tình cờ thế nào anh Q. và tôi lại là học viên một khoá học chính trị do trường của Liên khu mở. Chúng tôi đều là cán bộ cấp đại đội, anh cũ tôi mới nhưng vẫn là cùng một cấp. Cán bộ quân sự ở dưới đơn vị chiến đấu mà ba năm chưa lên được một cấp là chậm, là không được xuất sắc, là bình thường, tôi nghĩ thế. Anh Q. vẫn rất trẻ, vẫn hăng hái, khi trò chuyện cùng nhau anh càng không khác trước là mấy. Chúng tôi lại nói chuyện văn chương. Năm nay có khác những năm trước, sách vở, báo chí của Trung ương, của Liên khu in ra rất nhiều. Anh Q. đọc cũng nhiều nhưng anh vẫn chê. Anh chê văn chương kém cỏi, không lôi cuốn người đọc như hồi trước cách mạng. Tất nhiên tôi không thể đồng ý với anh dễ dàng như xưa nữa. Tôi đã trưởng thành còn anh thì vẫn thơ ngây, vẫn nông nổi như ngày nào tôi mới gặp. Nói chuyện quân sự thì tôi chịu, biết là anh nói không đúng nhưng tôi không thể cãi. Còn bàn chuyện văn chương thì khác, tôi có thể tranh luận với anh đến cùng. Đến ngày chia tay, tôi có mời anh viết bài cho tờ báo của Liên khu. Anh ậm ừ chẳng ra nhận chẳng ra không, rồi anh bảo thẳng: "Các cậu viết lách bây giờ theo một kiểu cách khác, mình lại theo một kiểu cách khác, sợ rằng các cậu..." Tôi vội vàng nói để anh yên tâm: "Tôi vẫn biết thưởng thức văn của anh, tôi sẽ biết đánh giá đúng". Cách vài tháng, một cán bộ ở trung đoàn anh Q. lên họp, đưa tận tay tôi một phong bì lớn, nói là của anh Q. gửi. Tôi mừng rỡ bóc vội ra xem. Anh Q. đã giữ lời hứa, anh gửi cho chúng tôi một truyện vừa. Bản thảo viết trên giấy vở học trò, viết một mặt trang, chữ rất đều và rõ, đánh số đến trang bốn mươi sáu. Tôi đem truyện của anh đến ngồi nhờ một gian chùa rất tĩnh mịch, đốt một điếu thuốc, muốn tận hưởng một áng văn của một người bạn tôi vốn tin, tôi vẫn tin có một tài văn chắc cũng hơn người.
Tôi đọc trang đầu, trang thứ hai, rồi trang thứ mười, rồi trang ba mươi, đọc liền một mạch đến tận dòng cuối của trang bốn mươi sáu. Sau đó tôi ngồi im lặng, ngồi rất lâu, đọc lại một lần nữa, đọc thật chậm, nhiều đoạn đọc đến hai ba lượt. Tôi muốn kêu một tiếng thật to, nhưng cuống họng đã nghẹn thắt vì bực dọc, vì đau đớn, vì xấu hổ, vì những gì gì nữa mà tôi chưa thể hiểu hết. Một hy vọng đã tan vỡ, một hình ảnh đã tan vỡ, một tình bạn đã tan vỡ. Rút lại anh Q. chỉ là một anh chàng rất cũ kỹ và tầm thường. Đọc văn anh tôi biết anh đã viết bằng tất cả những gì anh có thể có, chỉ vì những cái anh có vốn rất tầm thường nên hoá ra một áng văn chương quá tầm thường. Anh thuật lại một trận đánh của một đại đội với bao nhiêu tình tiết hồi hộp, rắc rối. Một trận đánh, dầu đọc cho kỹ cũng không thấy bóng dáng người cầm súng dưới tiểu đội, bởi người viết đã dồn hết tâm sức và chữ nghĩa vào sự miêu tả mối tình của một cặp trai gái. Trai là chàng đại đội trưởng. Gái là cô du kích nhưng cũng là em gái tên quận trưởng.
Bên tình nhà, bên nợ nước. Rồi lại bên hiếu bên tình. Cuối trận đánh cô du kích chết. Chàng đại đội trưởng bế xác "nàng" chạy thẳng lên một ngọn đồi trồng đầy thông (xin nói thêm, cả tỉnh tôi không có một ngọn đồi nào, lại càng không thể có một quả đồi trồng đầy thông!) Hoàng hôn ! Vẳng xa có tiếng chuông chiều ! Chàng quỳ xuống bên xác "nàng", đặt đầu "nàng" vào lòng mình, ngước mắt nhìn một bầu trời còn đầy khói lửa và lâm râm cầu nguyện. Đành rằng là một câu chuyện được viết vào thời này, có bộ đội và du kích, có người yêu nước và kẻ bán nước, có súng bắn, có người chết nhưng sao mà giống hệt một cuốn tiểu thuyết nào đó của một thời xa xưa nào đó. Giống ở giọng văn, giống ở dáng dấp nhân vật, giống cả đến cách nghĩ, cách khóc, cách cười. Anh xa cách chúng tôi nhiều quá, anh Q. ơi ! Anh là người cùng thời với bọn tôi mà sao anh đã xa xôi là vậy ! Chỉ trong phạm vi văn chương mà nói, chỉ riêng trong cái phạm vi nhỏ hẹp đó thôi, cái thuở ban đầu của anh đã kéo quá dài, sự thơ ngây, sự lầm lẫn trong anh đã kéo dài. Bởi vì anh không hành động ! Anh chỉ mơ mộng mà không chuẩn bị. Lại không chịu chuẩn bị từ những cái vặt vãnh, nhỏ nhoi và rất dễ buồn cười. Anh ôm ấp một giấc mộng quá lớn, lớn hơn anh nhiều nhưng lại không chịu lớn lên theo trong quá trình tập dượt. Nói cho đúng, anh vẫn chưa ý thức được rằng: dầu một việc dễ như là viết văn cũng vẫn cần có sự tập dượt.
4. Sau cuộc kháng chiến chống Pháp tôi không được gặp anh Q. nữa. Anh đi đâu, làm gì tôi cũng không được biết. Có điều chắc chắn là anh đã từ giã cái mộng văn chương. Bởi nếu anh viết thì tôi đã được đọc. Năm 1973 tôi về công tác tại tỉnh N., đang đạp xe giữa phố bất chợt nghe có tiếng gọi : "K. !" Tôi xuống xe quay mặt lại, một người nào đó đứng sững ở hè đường chăm chú nhìn tôi. Có phải người này vừa gọi tôi không? ông ta là ai? Tôi dắt xe bước lại thong thả, trong bụng càng hồ nghi, rồi bất chợt tôi hét lên : "Anh Q. !" Lúc ấy người kia mới nhếch mép cười. Đúng là nét mặt của anh Q. Anh Q. nắm lấy bàn tay tôi, nói nhỏ: "Tao nghĩ mày phải quên tao rồi". Tóc anh đã bạc cả, nhưng dáng dấp anh còn già hơn cả mớ tóc bạc. Phải hơn năm mươi rồi, tôi thoáng nghĩ. Làm gì đến! Làm gì đến ! Anh hơn tôi có ba tuổi, năm nay mới có bốn mươi sáu. Chao ôi ! Mới bốn mươi sáu tuổi mà sao đã hom hem, mệt mỏi làm vậy ? Tối hôm ấy anh kéo tôi về nhà ăn cơm với vợ chồng anh. Anh chị lấy nhau từ năm 55, đều công tác trong nhà máy, có ba cháu, cô con gái lớn đã mười bảy. Tôi rất mê gian buồng nhỏ mà vợ con dành riêng cho anh đọc sách và làm việc. Trang nhã quá, thoáng mát quá, đến là dễ khêu gợi sự viết lách. Có khi anh vẫn đang viết một cái gì đó cũng nên? Trong bữa cơm, nhân anh Q. giới thiệu tôi với các cháu, cô con gái lớn liền bảo tôi :
-Thế thì chú phải giúp bố cháu với. Bố cháu viết rất nhiều nhưng chưa bao giờ được in cả. Tôi nhìn anh Q. cười:
-Nhưng bố cháu có chịu đưa ai đọc đâu. Anh Q. cũng cười :
-Văn của tao khác, văn của chú mày khác. Chú mày không thích văn tao. Tôi chỉ cười rồi hỏi lảng sang chuyện khác:
-Trong ba cháu có cháu nào thích theo đuổi sự nghiệp văn chương không? Anh Q. phàn nàn ngay:
-Chúng nó thì có biết nghĩ ngợi chuyện gì cho đúng đắn! Ham thích tất cả mà hoá ra chẳng ham thích một cái gì. Bà mẹ bênh con:
-Chuyện! Mới có tí tuổi đầu ! Anh Q. nói rất to:
-Tôi thì sao? Mới lên chín lên mười tôi đã có cái chí của tôi rồi. Cô con gái quay sang chất vấn bố:
-Thì bố đã làm được gì nào? Bà mẹ quát con gái: -Mày không được nói hỗn! Sau bữa cơm, anh Q. ngồi bần thần như bực tức chuyện gì đó. Chị Q. liền phân trần với tôi:
-Anh ấy cứ bảo chúng nó là quân vô dụng, lớn lên rồi chẳng làm được trò nghề gì. Lớn lên thì chưa biết thế nào thật, nhưng trong cái nhà này không việc gì khỏi tay mấy đứa cả. Chú tính, giá sách, bàn học, chạn bát, ghế ngồi ăn cơm, một tay thằng thứ hai đóng lấy hết. Nó chỉ nhìn người ta làm có vài lượt là nó làm theo được ngay. Chẳng đẹp được bằng thợ đóng nhưng được cái không mất tiền mua. Thế cũng là sáng dạ khéo tay lắm, phải không chú ? Còn con chị, cơm nước, giặt giũ, khâu vá, việc này việc kia một mình nó quán xuyến cả. Tôi thì theo ca kíp trong nhà máy. Anh ấy tuy làm việc theo giờ hành chính nhưng về nhà có mó tay vào một việc gì! Đến bảo con cũng không biết đằng bảo. Nói chuyện trong nhà chú đừng cười, chứ đâu lại có người vụng đến thế. Làm gì hỏng nấy, mó đâu đổ vỡ đấy, chỉ được cái chịu khó đọc sách, chịu khó viết. Viết những gì chẳng biết, viết từ cái thuở mới lấy nhau cho đến tận hôm nay vẫn chửa xong. Anh Q. nhìn tôi cười ngượng nghịu:
-Bây giờ đến vợ con cũng chê mình là đần là vụng. Thế là hết cách rồi đấy! Đời anh thế mà sướng, anh Q. ạ! Người khác làm còn anh thì đứng ngoài chê trách. Họ không vì sự chê trách của anh mà không làm. Còn anh không vì biết chê nguời mà làm được hay hơn. Bây giờ anh đã ngót năm chục tuổi đầu rồi, nói một cách bi quan thì đã một chân trong mồ rồi, mà vẫn chưa làm được một việc nào để người khác khen. Vì anh vẫn vụng dại, vẫn ngây thơ như ngày còn non trẻ. Anh có định làm lại cuộc đời anh không? Tôi tin rằng anh không thể làm lại. Bởi muốn làm lại thời phải biết bắt đầu từ những việc làm tầm thường nhất. Phải dám để mọi người cười mình một chút. Thì sự khởi đầu nào mà không gian truân, không khổ ải? Không! Anh không thể làm lại! Anh không có gan phơi bày những chỗ yếu kém, non nớt của mình. Anh không chịu được sự chỉ trích. Thế thì anh cứ tiếp tục mơ mộng đi, anh Q. ạ. Bởi một người mơ mộng vẫn có quyền báo thù thiên hạ bằng sự tự hứa: "Ta mà ra tay thì phải biết! Phải biết!"
1974.
Nắng chiều
Nguyễn Khải
1. Chị Bơ đã đe tôi:
-Nếu cậu lại đem chuyện của chị với anh ra viết văn viết báo thì đừng có vác mặt đến đây chị chị, em em nữa nhá! Khốn nỗi, cái thằng viết văn lại vốn có tật thích lôi công việc của nhà ra viết. Chuyện hay thì giấu đi, chuyện dở thì phóng đại lên, nên anh em họ hàng phải từ bỏ, vợ con phải giận hờn, bè bạn cũng gớm mặt. Nói tốt về mình là người viết hồi ký. Là người bình thường với cái tâm lý thông thường mượn bút mực để tự khoe. Còn kể xấu mình, tự bới móc mọi thói tật của mình thì đích thực là anh nhà văn rồi. Tại sao thế? Tôi cũng không biết nữa. Có thể là cái nghiệp dĩ của những người cầm bút chăng ? Nhưng lần này tôi viết về bà chị tôi với ông anh rể muộn mằn có khác với những chuyện trước. Lần này tôi chỉ có khoe thôi. Tôi khoe cái hay cái đẹp, cái phúc đức của dòng họ nhà tôi, nếu như đây đó thấp thoáng một nụ cười thì cũng là cái mỉm cười hiền lành, vui một chút, nghịch một chút cho câu chuyện được đậm đà.
2. Tức là chị Bơ tôi bằng lòng đi lấy chồng. Lấy chồng lần thứ nhất và chỉ vừa mới năm nọ. Tôi năm nay đã xấp xỉ sáu mươi tức thì chị tôi không còn trẻ nữa. Năm chị tôi vừa nhận lời xuất giá là vừa tròn bảy chục tuổi. Chị Đại, cũng là một bà chị khác của tôi, là em dâu của ông Nguyễn Thế Truyền, đứng ra mai mối. Trong họ nhà tôi, đàn ông thì hiền lành, nhút nhát, làm gì cũng sợ, chỉ cầu được yên thân, còn phần lớn các bà lại hết sức ghê gớm, ăn nói ghê gớm, hành động táo bạo, còn các trò chơi của mấy bà thì vô cùng quái đản. Chị Đại bảo tôi với cái giọng thản nhiên nhất:
-Chúng tao định gả chồng cho bà Bơ, mày thấy thế nào? Tôi hét lên:
-Sắp xuống lỗ còn đi lấy chồng, các bà tính toán rõ hay!
Chị Đại vẫn nói dửng dưng:
-Chúng mày đều là quân ích kỷ. Chỉ nghĩ tới mình mà không nghĩ đến người. Mày sợ xấu hổ à?
-Chứ lại không, thiên hạ họ biết chuyện phải cười đến vỡ bụng.
-Ai cười mặc kệ họ. Là chuyện hay chuyện tốt chứ có phải là chuyện xấu đâu mà sợ họ cười. Tôi vẫn vùng vằng:
-Chị tính lại đi, không phải chuyện đùa đâu. Vỡ lở ra là tai tiếng lắm. Chị Đại đã hơi cười cười:
-Để tao tính lại nhá. Mấy chục năm nay chị Bơ chỉ ở với gia đình cô Hoàng. Nay gia đình cô ấy đi Pháp rồi thì chị Bơ ở với ai? Hay là xuống ở với vợ chồng mày. Tôi lắc đầu:
-Nhà tôi như trại lính, bà Bơ không chịu xuống đâu. ở nhà chị có được không? Chị Đại vẫn cười:
-Ở thế nào được. Một bà già đã đủ để con cháu nó cằn nhằn rồi, hầu thế nào được cả hai. Tôi bắt đầu phân vân:
-Cũng khó nhỉ, tuổi già ở chòm chõm một mình là nguá lắm, lúc đêm hôm... Chị Đại thủng thẳng tính:
-ở một mình cũng vẫn được, nhưng đêm phải có người đến cùng ngủ. Mày hoặc vợ mày, hoặc con mày phải thay nhau mà đến, lúc khỏe không đến cũng được, nhưng lúc ốm đau là phải đến. Sự phản đối của tôi đã bớt hăng hái đến già nửa vì cái viễn cảnh phải cắt phiên nhau xuống ở với bà Bơ. Là mẹ thì buộc phải đến rồi, không thích không vui cũng phải đến. Nhưng là chị, lại là chị họ cũng phiền nhỉ...à, thế mà khó giải quyết đây. Nói gì thì nói, cách tính toán của chị Đại là hết sức thiết thực. Nhân nghĩa hão, sĩ diện dởm, người khổ càng khổ hơn vì có ai chịu đưa tay cho kẻ bất hạnh víu lấy đâu. Trong họ nhà tôi có nhiều bà đẹp đẽ hẳn hoi, làm phu nhân cũng còn được huống hồ làm vợ, làm mẹ như mọi người mà đành chịu cảnh phòng không chỉ vì những tính toán chẳng đâu vào đâu của các bậc cha mẹ. Thời Mỹ lại chỉ đòi gả con cho những gia đình quan lại, môn đăng hộ đối, là dở hơi hết sức. Đi làm dâu những gia đình đã tàn lụi, với những bà mẹ chồng hút thuốc sâu kèn, nói năng đài các nhưng không một xu dính túi, những ông chồng quen thói ăn chơi nhưng chẳng có nghề ngỗng gì, ra thở vào than vì thời thế đã đổi thay, thì còn khổ cực nhục nhã hơn con ở.
Thà ở vậy mà hoá hay. Chị Bơ tôi sở dĩ muộn chồng vì cả một thời son trẻ chả ai để ý đến chị cả. Là con ông bác họ lên ở với chú thím với các em, tiếng là người trong gia đình nhà quan, nhưng cô cháu nghèo làm sao dám so bì với các bà em phú quý. Đã nghèo lại không được đẹp, lại ăn mặc xuềnh xoàng, nói năng rất ít, luôn luôn xuất hiện ở phía sau, là người rất cần thiết cho mọi người nhưng vẫn bị mọi người quên bỏ. Chị bị bỏ quên cũng vì chị không bao giờ đòi, chị cam phận, lại tự khép mình vào cái khuôn khổ lễ giáo đã không còn mấy ai theo nữa. Các bà chị con ông bác tôi vẫn chê chị Bơ là người cổ mà, trời đất ơi, đã nghèo lại còn cổ thì coi như số phận đã được an bài rồi.
3. Cái chuyện vui nhất lúc tuổi đã xế chiều của bà chị tôi được bắt đầu như sau: Cách đây khoảng bảy tám năm, một bà chị khác lập nghiệp ở xứ Bờ Biển Ngà có làm giấy bảo lãnh cho chị Bơ sang ở bên đó. Hai bà vốn hợp tính nhau từ thời con gái, đều là những tín đồ rất nết na của đạo Phật, có ăn ở với nhau ít năm cuối chắc là cũng êm ấm. Đã nghĩ mọi việc xong xuôi chỉ còn đợi ngày đi thì bà bên kia lại viết thư về báo hoãn, vì nghe đâu chính phủ bên ấy sẽ thay đổi, sẽ đỏ hẳn nên vợ chồng phải di chuyển cơ nghiệp sang Pháp. Nói vậy thì biết vậy, chứ cái gì sau đó thì ai mà chả biết. Chị Đại phàn nàn với tôi: "Bà Bơ tuổi Sửu, cái số ấy là vất vả lắm, một đời hầu hạ các ông em bà em, rút lại tay trắng". Xưa nay chị Bơ chỉ biết sống cho các em, dựa dẫm vào các em vui buồn hộ mọi người, nay các em kéo nhau đi tuốt tuột, còn trơ lại có một mình, ăn không ra bữa, ngủ không ra giấc, chẳng có cái gì riêng để mà lo mà buồn, đi lại như cái bóng, va vào góc này, đụng vào góc kia của hai căn buồng vừa ẩm vừa tối nghĩ thật tội. Ai cũng là than thở là thật tội mà không một ai mở miệng mời bà chị nhất họ tới ở nhà mình để tiện bề chăm sóc, vợ chồng tôi cũng thế. Lúc khoẻ đã vậy, lúc ốm thì sao, ốm một trận rồi chết cũng đã vất vả, lại ốm đến vài năm mới thật rầy rà. Cũng may trong họ còn có chị Đại. Chị có quyền la mắng tất cả mà không ai dám giận vì chị ăn ở rất thật lòng, lại rất thạo việc. Việc người sống và người chết của cả một họ mà không có chị dúng tay vào là y như bê bết. Nói cho đúng, chị cũng không dúng tay vào, một ngón tay cũng không đụng đậy, mà chỉ dùng miệng thôi. Tính giùm thôi. Cái việc này thì thủ tục phải như này, sự chi tiêu phải như thế này, và chị cắt đặt luôn, một lũ con cháu và kẻ ăn người làm cứ thế mà chạy.
Và chị đã lặng lẽ đảo ngược cái vận số của chị Bơ bằng một bài toán đến thần tình. Số là, cách đây nửa thế kỷ, có một anh thanh niên con nhà nghèo nhưng rất đẹp trai và học cũng giỏi, vừa đỗ bằng thành chung xong, tới gia đình ông bác tôi làm người kèm học cho mấy ông anh còn nhỏ tuổi. Người ra mở cửa đóng cửa cho thầy giáo trẻ là chị Bơ, năm đó cũng khoảng mười tám đôi mươi. Đi lại được vài năm thì anh giáo trẻ ngỏ lời xin được cưới chị Bơ, vì anh đã tìm được việc làm ở một nhà thương nào đó. Vậy là cả nhà cười, cười lăn cười lộn. Là cười cái táo tợn của một thằng con trai chẳng biết trời cao đất dầy gì, mới dám mở mồm đòi làm rể cụ Thượng. Cháu cũng như con, phải tìm cửa tương xứng để gạ bán chứ. Người con trai vì xấu hổ, vì giận thân không đến nữa. Vậy là thôi.
Theo chị Đại, hình như chỉ có một lần ấy, cái lần duá nhất ấy, có một người đàn ông để ý đến chị Bơ, quý mến cái dịu dàng, cái lặng lẽ, cái đảm đang của chị và mong mỏi được mời chị về sống với nhà mình. Rồi anh ta lấy vợ, đẻ một bầy con, rồi góa vợ và lấy một đời vợ nữa, lại thêm mấy đứa con và góa vợ lần thứ hai. Người đàn ông có cái số phận vất vả ấy là Phúc, cái năm bắt đầu câu chuyện cảm động này đã bảy mươi mốt tuổi, hơn bà chị tôi một tuổi. Tôi cũng chưa rõ, do một tình cờ nào mà chị Đại được biết ông Phúc sắp đi Pháp theo giấy bảo lãnh của con. Cái kế hoạch đầy tính nhân đạo và thực tế của chị lập tức hình thành và lập tức chuyển động. Chị nhờ một cô cháu có quan hệ họ hàng với ông Phúc đến bàn với ông, bằng cách nào đó có thể đưa chị Bơ đi, sang tới Pháp các bà em sẽ đón chị về nhà họ, vì anh em không có quyền đứng ra bảo lãnh nhập cảnh. ông Phúc bằng lòng ngay và nói thêm: "Nhưng tôi phải làm giấy giá thú mới hợp lệ!" Chị Đại trả lời liền, giá thú thì giá thú, sang tới Pháp thì hết giá trị, mà cũng chẳng cần làm giấy lá hôn, còn lấy được ai nữa mà làm giấy lá hôn. Tôi hỏi chị Đại:
-Lần đầu chị bàn với chị Bơ cái chuyện này, chị Bơ bảo sao? Chị Đại cười:
-Giẫy nẩy lên như đỉa phải vôi. Mặt mũi đỏ nhừ đỏ tử. Gái chưa chồng nói chuyện hôn nhân ai chả thế. Tôi cũng phì cười:
-Cái bà này có những sáng kiến đến quái đản! Chị Đại lườm nhẹ tôi, nói đay:
-Nếu mày không thích thì mày mời bà ấy về ở nhà mày. Cho tao được rảnh nợ. Tôi nín lặng. Chị Đại nói tiếp:
-Bà ấy chửi tao một lúc rồi ngồi im. Tao chỉ hỏi lại có một câu: tùy bà, nếu bà không bằng lòng thì bảo tôi để tôi còn có lời nói lại.
-Chị Bơ bảo sao?
-Còn bảo sao nữa? Bảo là tùy cô, cô muốn làm gì thì làm chứ tôi không biết.
-Vậy là xong à?
-Xong chứ, người ta vẫn còn vương vất cái tình cũ mới đưa vai ra gánh lấy, chứ vui vẻ quái gì.
4. Vậy là chị tôi đi lấy chồng, nói cho đúng là giả đò lấy chồng, về danh nghĩa vẫn có giấy giá thú, nhưng ông ở nhà ông, bà ở nhà bà, cơm ai nấy ăn, giường ai nấy nằm, không có gì khác trước. Chị Đại với chị Hoàng là hai bà hay nói tục nhất họ, nói những chuyện đến các em và con cháu ngồi nghe cũng phải đỏ mặt, nên chị Đại cũng có lời bình luận về sự ở riêng này, chị nói tục lắm, tôi không tiện viết ra đây. Tôi có nghe nói bữa hai ông bà dắt tay nhau ra phường đăng ký hôn thú, cô uỷ viên thư ký phường hỏi bà cụ theo đúng thủ tục: "Thưa bác, bác kết hôn lần này là lần thứ mấy?" Bà cụ cúi gằm mặt không dám trả lời, ông cụ phải nói thay: "Lần thứ nhất". Lấy chồng lần thứ nhất mà không có chạm ngõ, không ăn hỏi, không cưới xin gì cả, đến bữa cơm thân mật trong gia đình cũng phải hai tháng sau mới dám làm, nghĩ cũng tội. Mà là con cháu nhà quan hẳn hoi. Tháng đầu chị tôi đi lấy chồng, tôi không dám lại thăm. Sợ chị tôi ngượng. Nhưng tôi vẫn thấp thỏm đợi cái bữa ăn mà bà chị tôi và ông anh sẽ mời. Nói cho thật, không phải vì miếng ăn mà muốn đến "quan sát" một chút. Chắc là bà chị tôi cũng biết thế nên nhất định bà không mời cái thằng em mất nết, chuyện bố mẹ nó nó còn chẳng tha huống hồ chuyện của các bà chị.
Chị Đại gọi bữa cơm đó là bữa cơm đoàn kết, cái từ cách mạng dùng vào trường hợp này thì thật là khéo quá. Chứ còn biết gọi gì khác. Sau bữa cơm hai họ chừng vài ngày, bà Bơ cũng làm một bữa cơm thân mật chỉ mời riêng có ông Phúc và mấy người con của ông lại ăn thôi. Bà lão nấu ngon quá, nghề riêng mà, nên chỉ mấy ngày sau ông lão lại mò đến xin ăn một bữa nữa. Rồi ngày nào cũng đến đòi ăn, ăn bữa trưa. Rồi ăn cả bữa tối. Rồi đòi ngủ lại, vì say quá, vì trời tối quá, thiếu gì lý do xin được ngủ lại của một ông già đang ngất ngây trước hạnh phúc mới. Tôi toét miệng cười. Chị Đại trợn mắt nhìn tôi, quát to: "Thằng mất dạy! Mày nghĩ gì mà lại cười, hả!"
5. Phải hơn hai tháng sau tôi mới được gặp cả hai vợ chồng bà Bơ. Là nhân ngày giỗ của ông nội tôi, tức ông ngoại bà Đại, ông chú bà Bơ, tại nhà ông anh trưởng họ. Bà đến trước đã cả giờ rồi mới thấy ông đến. Chả ai chào ai, cứ như người dưng. Tuy ông Phúc đã ngoài bảy chục tuổi nhưng còn đẹp lão lắm, vóc dáng cân đối, đi lại nhanh nhẹn, cái miệng và con mắt của ông già khi cười nói còn rất là lẳng. Đàn ông như thế nếu muốn lấy một bà trong ngoài bốn mươi chả có gì là khó. Lại có tiền nữa. Quả tình ông ấy đối với bà chị tôi vẫn còn vướng vất phần nào cái hương vị của mối tình đầu. Là vẫn không ngớt nghĩ về nhau, nghĩ về một cô gái nhút nhát, lặng lẽ, có thể làm người vợ hiền, người mẹ đảm không ngờ số phận lại hẩm hưu đến thế. Khi ấy ông chưa đến, chị Đại có hỏi bà Bơ: "Bà đã dặn kỹ địa chỉ chưa? Nhà trong hẻm, lối đi lắt léo khó tìm lắm". Bà Bơ trả lời ngắn gọn: "Đã bảo rồi".
Chị Đại lại nói: "ông ấy vẫn đi xe đạp à? Đừng có ỷ y vào sức khỏe, ngã chết có ngày". Vẫn trả lời rất ngắn gọn: "Nói mãi nhưng không nghe". Tôi nghiêm mặt cười mủm mỉm, vì chợt nghĩ cách xưng hô của những cặp vợ chồng trẻ mới cưới cái thời còn đánh Pháp. Vào bữa ăn tôi được xếp ngồi cạnh bà Bơ và ông chồng. Bà Đại ngồi đối diện với ông trưởng họ. ông trưởng họ là người hết sức thật thà, có nghề xem tử vi và tướng mặt, nghe ông ấy nói về vận số ai cũng vừa lòng, vì mọi cái xui xẻo đã thuộc về năm qua tháng qua, còn tháng tới và năm tới chỉ gặp toàn những may mắn. ông trưởng họ ngắm nhìn bà Bơ rồi tán: "Khí sắc chị Bơ rất vượng, năm tới là nhiều chuyện vui lắm". Bà Đại buông một câu, nghe muốn nổi da gà: "Năm tới bà Bơ có tin vui hả?" Cả mọi người đều cúi mặt, không ai dám nhếch môi.
Mặt bà Bơ tái đi, còn ông chồng quay lại nhòm vợ rồi cười hề hề. Cái giống đàn ông thật tệ quá! ông trưởng họ vẫn tiếp tục tán tụng bà chị hết sức hồn nhiên: "Chị dạo này trông đẹp hẳn ra!". Rõ nỡm! Khen một bà lão đẹp ra, vậy mà cũng đòi làm thầy tướng số! Lại bà Đại bình luận: "Cái đó hẳn rồi khỏi cần cậu phải nói". Tất nhiên tôi phải tế nhị hơn ông trưởng họ, nên tôi không nói gì cả, cũng không nhìn chăm chú vào một ai, chỉ lắng nghe và thoáng nhìn thôi. Tôi để ý thấy chị Bơ vẹo cổ tay cầm đôi đũa của ông chồng lấy giấy bản lau qua một lượt, rồi lại lau qua cái bát ăn. Chị không nói một lời và mắt vẫn nhìn thẳng. Lúc ăn cơm, chị gắp một miếng thịt gà, dùng tay lọc xương ra, lại xé thịt cho nhỏ, rồi gắp vào bát của chồng. Cái ông chồng đến là nhõng nhẽo, chỉ đợi vợ gắp thức ăn, cho gì ăn nấy, không tự đụng đũa vào bất cứ món nào khác. Chị Đại nhận thấy ngay, chị quát lên: "Cái ông này đại lãn nhỉ, mắt bà ấy đã lòa dở, không hầu vợ thì thôi lại bắt vợ phải hầu mình". ông chồng lại há mồm ra cười, hàm răng giả thật đều và thật trắng. Cuối bữa ăn, chủ nhà đưa cho mỗi người một cái khăn tay dấp nước nóng. ông Phúc mở khăn lau mặt rồi đưa cho vợ. Bà vợ cầm lấy khăn lau dở của chồng lau luôn mặt mình. Tôi cúi mặt xuống, sống mũi cay sè, chỉ muốn nhỏ ra mấy giọt nước mắt của yêu thương.
6. Lấy chồng được nửa năm thì chị Bơ phải đi mổ mắt. Một mắt bên phải mờ hẳn đi như có màng kéo, bác sĩ bảo phải mổ. Chị đến nằm ở nhà thương Điện Biên Phủ, cô gái út của ông chồng xách hai túi to vừa quần áo vừa đồ dùng vặt vãnh theo mẹ kế cùng vào bệnh viện. Mẹ nằm trên giường, cô con chồng trải mảnh ni lông nằm dưới chân giường, mà là con gái nhà giàu, là tiểu thư. Anh trai và chị dâu thì phóng xe máy đưa cơm ngày hai buổi, rồi bón cơm cho mẹ, ép mẹ ăn từng thìa, tiền tiêu như nước. Bữa tối tới thăm chị Bơ, chị đã được tháo băng mắt, nhưng phải mang kính, nhìn mọi thứ vẫn còn mờ mịt. Chị em trò chuyện được một lúc thì ông Phúc tới. Bà đi bệnh viện được vài ngày thì ông ở nhà bị vấp ngã. Ngã nhẹ thôi nhưng đi lại đã phải dựa vào cây gậy. ông chống gậy lò dò bước vào, cô con gái vội kéo ghế mời bố ngồi cạnh giường mẹ. ông kẹp cây gậy trong đùi, đưa tay nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà vợ, hỏi nhỏ nhẹ: "Đêm qua bà có ngủ được không? Con mắt mổ còn nhức không?" Bà Bơ trả lời "Thưa, đỡ nhiều ạ, đêm qua chỉ thức có một lần thôi". Con gái nói thêm: "Đêm qua mẹ ngủ say lắm, trưa nay mẹ dùng cơm cũng đã trên lưng bát". Bà Bơ vẫn để ông lão nắm lấy tay mình, than thở: "Thưa, con mắt tuy đã lành, nhưng cái nhìn còn kém lắm, chỉ sợ nó kém mãi thì không làm gì được, ông lại vất vả". Một bà nằm giường bên, cũng ngồi gần đó, bắt chuyện: "Cụ bà cứ sợ con mắt bị hỏng, con cháu phải hầu, thêm bận họ ra". ông Phúc nói rất to: "Bà nhà tôi cứ hay nghĩ quẩn, mình phải hầu hạ chúng nó cả một đời, nay chúng nó phải hầu mình cũng chỉ vài năm chứ mấy. Chả là cái tuổi của chúng tôi cũng sắp được hầu hạ các cụ tôi rồi". Tôi nghe ông anh rể nói chỉ muốn bật kêu lên: "Anh ơi, anh là người đàn ông chung tình nhất. ước gì bọn em được tốt như các anh".
7. Bà Bơ ở bệnh viện về được vài tháng, con mắt bị mổ sáng lại dần, bà lại đi chợ, lại nấu cơm ngày ba bữa hầu ông, thì ông chồng lại ngã lần thứ hai. Là do ông vẫn đi xe đạp, cái chân đau vừa khỏi lại nhảy lên xe liền, rồi vấp té, tuổi già té xe đâu phải là chuyện nhỏ, nhưng ông lão khoẻ chỉ nằm bệnh viện có mấy ngày, các khớp xương đã hết sưng nhưng phải nằm, như người liệt. Tôi đến thăm thấy ông nằm đọc sách, chăn nệm trắng tinh, vẻ mặt thoả mãn như rất bằng lòng với số phận. Chỗ ông nằm cực kỳ sạch sẽ nhưng cái chỗ của bà nằm bừa bộn như cái bếp. Đúng là cái bếp thật với đủ thứ dụng cụ phức tạp để phục vụ cho cái ăn của người nằm ở phòng trong. Mà hầu hạ một cách tươi vui, như được dịp báo đáp một ân nghĩa rất khó trả. Lần nào tôi đến thăm, chị cũng bảo: "Anh vừa nhắc đến cậu, cứ thấp thỏm đã lâu không thấy cậu đến", rồi bắt ở lại dùng cơm với anh, "Anh ăn một mình buồn lắm". Bữa cơm hàng ngày do chị tôi nấu vẫn rất ngon, nấu ngon hơn nhiều bà vợ. Miếng bít tết thật mềm, bát canh cá dưa thật ngọt, đến đĩa dưa đĩa cà muối cũng thơm ngon lạ thường. Lần nào ngồi vào ăn tôi cũng hỏi: "Thế chúng nó đâu cả?". "Chúng nó" không phải là người của gia đình nhà gái. Không có người nào bên họ nhà gái tới hầu hai ông bà những lần ốm đau, đến thăm thì có, mồm mép đỡ tay chân thì có. "Chúng nó" đây là chỉ mấy người con và cháu của ông anh rể tôi thôi, nhưng gọi thế cho nó thân, vừa thân lại vừa khéo, là không phân biệt con ông hay con bà, là con của cả ông và bà. ông anh rể như có biết cái ý tứ ấy nên ông trả lời: "Cậu tính, bây giờ chỉ có hai vợ chồng già hầu nhau chứ trông cậy thế nào được bọn nó. Tôi đau thì bà hầu tôi, bà đau thì tôi hầu bà. Nói dại, bây giờ bà nhà tôi cũng đau nốt, thì tôi phải tự bò ra bếp nấu cháo nấu cơm chứ còn biết gọi ai". Chắc không chỉ là một câu nói nịnh mà còn là cái tình thực.
Bao giờ ông anh tôi nói tôi đều muốn ứa nước mắt cả.
8. Ông anh rể tôi hóa ra phải nằm thật, nằm ở nhà bà vợ vì ông đã quyết định về ở hẳn với bà. Có một lần tôi than thở với chị Đại về cái nghiệp báo nặng nề của chị Bơ một đời người vất vả, đã nghĩ về già được thảnh thơi chút ít lại lẩm cẩm đi rước một người đàn ông xa lạ về hầu, cái số kiếp gì lại đen đủi đến thế. Chị Đại quắc mắt nạt nộ ngay, theo chị hai năm qua là quãng đời đẹp nhất của bà Bơ, được hai năm ấy rồi chết cũng thỏa. Tôi vẫn nhăn răng ra cười, hơn bẩy chục tuổi đầu vẫn phải đi chợ, phải nấu ăn ngày ba bốn bữa, thi thoảng có tạt qua các em, ngồi chưa nóng chỗ đã láo liên đòi về "vì anh ở nhà có một mình", ngày không được nghỉ mà đêm cũng chẳng đẫy giấc, sống như thế lại bảo là rất thoả, có mà điên. Chị Đại nhìn tôi một cách rất khinh bỉ rồi giảng giải:
-Một đời bà Bơ có cái gì là riêng mình đâu, đến một thằng đàn ông của riêng mình cũng không có. Bây giờ bà ấy đã có một ông chồng, là của riêng bà ấy, là mon homme,là ông nhà tôi, ông xã nhà tôi, nó vui lắm, hãnh diện lắm, không nói ra nhưng cứ nhìn mặt là tao biết. Hầu hạ một ông già nửa liệt nửa què mà mặt tươi hơn hớn như người vừa bắt được của, mắt mày mù hay sao mà không nhận ra? Còn tao ấy à, tao lại khác, tao lấy chồng từ năm mới mười bẩy tuổi, ăn ở với nhau trên năm chục năm mới dứt được cái nợ đời. ở với nhau lâu quá tức là nợ, hầu một thằng đàn ông trên nửa thế kỷ lắm lúc muốn phát điên lên, nó chán quá, nhàm quá, ngày nào cũng làm từng ấy việc, nói từng ấy câu, giận hờn nhau cũng là trong bài bản đã quen thuộc. Chán muốn chết! Nên đã có lần tao đi mẹ nó sang Mỹ, ở cả năm với con gái và con rể, trông con cho chúng nó, để cho đời nó khỏi nhàm. ồ, lại ra là thế! Hình như là thế thật vì có thấy chị Bơ tôi phàn nàn gì về những vất vả của chị đâu, mà lại còn vui lắm, lại chẳng ốm đau gì, cứ khoẻ re, mắt như sáng dần, đi lại phăm phăm, nói năng cũng nhiều hơn và hoạt bát tinh tường hẳn. Cái sức mạnh thầm kín nào đã khiến một bà lão trẻ hẳn lại, vui hẳn lại có vẻ ham sống hơn trước, còn dám tính toán cả những chuyện của tương lai? Là tình yêu chăng? Này, các bạn trẻ, các bạn chớ vội cười, các bạn chớ có nghĩ một cách tự phụ rằng chỉ ở lứa tuổi của các bạn mới biết mãnh lực của tình yêu. Không nên chủ quan như thế! Các bà nội cũng vẫn có, nếu như cái ma lực ấy các cụ không tiêu xài quá phung phí lúc thiếu thời.
9. Trong số các bà chị và các ông anh đang sống ở thành phố, tôi rất thích đến thăm và tán chuyện với chị Bơ và ông chồng rất tốt bụng của chị. Cũng như trước đây tôi đã nghiền đến chơi với chị Hoàng, dầu rằng mỗi lần gặp, chị đều trêu trọc tôi, chửi thẳng chửi xéo tôi vì tôi là thằng cộng sản rắn mặt như lời đồn đại trong họ. Chị chửi tôi nhưng chị chửi có duyên quá nên tôi vẫn năng đến. Đến với chị Bơ tôi lại có một nhu cầu khác. Tôi lặng lẽ ngắm nghía ông anh rể ngồi lom khom trên ghế, cây gậy kẹp trong đùi, vừa nhìn vợ làm cơm, vừa kể chuyện Đông Tây kim cổ, chuyện vui mà cả chuyện buồn, giọng kể ngọt ngào, âu yếm, còn bà vợ chạy lui chạy tới, quay trước quay sau, hai bàn tay không lúc nào ngưng nghỉ, chốc chốc lại quay trở lại phía chồng, hỏi một cách ngây thơ, một cách nũng nịu: "Lại ra thế hả ông?", "Con người đẹp thế, tốt thế lại phận bạc ông nhỉ? " ăn cơm xong, ông ngồi hút thuốc lá, bà ngồi sát cạnh, đặt bàn tay gầy guộc nhăn nheo lên đùi chồng, ông chồng nắm chặt lấy bàn tay ấy, nắm bóp các ngón và trò chuyện với tôi, thỉnh thoảng lại hỏi vợ: "Ngón tay bà sao lạnh thế, lòng bàn tay cũng lạnh, bà đưa hộp dầu tôi xoa cho". Lạy trời cho anh chị tôi được sống thêm mươi năm nữa, cho đời thêm ấm áp, thêm đẹp. Và tôi thầm cảm ơn chị Đại, một bà chị hễ mở miệng nói là ai cũng ngán nhưng ai cũng thương vì khẩu xà mà tâm Phật. Chỉ có cái tâm tốt của con người mới làm nẩy nở được những cái mầm yêu thương đang bị thui héo ở đâu đó.
Ngày 27/11/89
Đời khổ
Nguyễn Khải
1. Năm 1961, vợ chồng tôi được quân đội cấp cho một căn nhà hăm mốt mét vuông ở khu tập thể Phúc Xá, là một rẻo đất bãi phía ngoài đê sông Hồng. Tôi sinh ra ở Hà Nội, mãi đến năm mười sáu tuổi mới rời Hà Nội đi kháng chiến, trong từng ấy năm chưa bao giờ tôi bén mảng xuống vùng đất bãi của Hà Nội gồm mấy xã Phúc Tân, Phúc Xá, Nghĩa Dũng, An Dương. Đó là vùng đất của dân nghèo, của trộm cướp và những phần tử bất hảo. Nghe các ông bà sống trong phố đồn đại thế nên cũng sợ. Nào ngờ mình cũng sống ở đó những mấy chục năm, đẻ cả loạt con, viết cả loạt sách, thành dân làng Phúc Xá chính cống. Cái năm tôi về Phúc Xá là hai vợ chồng còn rất trẻ, một bà mẹ chưa già lắm và đứa con trai đầu mới lên ba tuổi. Lối vào khu tập thể là con đường đất nhỏ, một bên là hồ, một bên trồng mía, trời mưa rầm phải tụt dép bấm chân mà đi. Những dãy nhà một tầng xây đối nhau, mười hai gian một dãy, như trại lính, là trại vợ lính. Mỗi nhà có hai cửa ra vào, hai cửa sổ, một cái bếp và một nhà tắm chung cho hai hộ, mùi vôi mùi xi măng còn nồng lên. Mỗi dãy nhà đã có vài bốn gia đình dọn đến ở, chồng xách nước giội, vợ gò người lấy chổi rễ cọ nền, vừa làm vừa cười, rồi gọi mời nhau sang uống nước, hút thuốc, hả hê, khoan khoái vì đã có một mái nhà, đã mất rất nhiều tâm sức để có được một gian nhà. Buổi tối đầu tiên về ở nhà mới lại không có điện, các nhà đều thắp đèn dầu, chúng tôi không có đèn vì không nghĩ rằng còn phải thắp đèn, dọn cơm ra đầu hè ăn nhờ ánh đèn của nhà hàng xóm.
Bữa cơm đầu tiên nấu bằng nồi của mình, củi của mình, và dọn ăn bằng mâm, mẹ ngồi giữa, vợ chồng ngồi hai bên, thằng con vác bát chạy ra chạy vô trong gian nhà của nó, đến vui. Chuyện thường thế mà cũng vui được nhỉ? Một gian nhà trống không, túi quần túi áo rỗng tuếch. Mọi thứ còn là trong tính toán, trong dự định, trong hy vọng, mà lại vui! Nhiều năm sau, cái niềm vui xốn xang, mơ hồ của chờ đợi và hy vọng cái thuở tay trắng không thể có nữa. Nó đã ở phía sau. Nó đã thuộc về một thời. Tôi còn nhớ rõ đúng vào cái tối ấy, cái tối ăn cơm không đèn, một gương mặt nhìn không rõ nghé vào song cửa, một giọng nói lanh lảnh hỏi với vào: "Cô chú nào vừa đến lại đi rồi à?" Người hàng xóm có tính tò mò ấy là chị Vách.
2. Chị Vách hơn tôi một con giáp, răng đen và vấn khăn. Chồng chị là thiếu tá ở một học viện chính trị, hơn tôi khoảng mươi mười lăm tuổi. Cấp thiếu tá ngày ấy là to lắm, là ước mơ gần như viển vông của đám thượng úy lau nhau. Tên ông thiếu tá là gì tôi không rõ, mặt ông tôi cũng quên, chỉ nhớ mang máng một người đàn ông có bộ dạng rất đứng đắn, có thể rất tốt bụng, nhưng không làm một việc gì, nói một lời nào để dãy xóm được nhờ. Mỗi lần gặp tôi ở đường, một năm khoảng đôi ba lần, ông đều chào trước, thân thiện và nhạt nhẽo :"Đồng chí khỏe không? Tốt chứ?" Với gia đình ấy vợ chồng tôi chỉ biết có chị Vách, ông thiếu tá chồng chị là ông Vách, các con chị một lũ lôi thôi, lôi thốc là con bà Vách. Chị Vách rất hợp chuyện với vợ chồng tôi, chị là người dưới quê mới theo chồng lên sống ở tỉnh, vợ tôi cũng thế. Chị là một cán bộ xã vùng địch hậu thời đánh Pháp, vợ tôi là du kích, rồi dân công gùi gạo theo bộ đội suốt mấy chiến dịch. Hai chị em mỗi lần được ngồi với nhau là dứt không ra. Chuyện đàn bà không đầu không cuối nhưng chị Vách đã lên tiếng, mình lại chót dại để tai nghe là cứ phải nghe đến cùng. Hết cả đọc, hết cả viết. Vì nó vui lắm, buồn cười lắm, cười đến đau cả ruột, đến não lòng. Tôi nói:
-Có một bà vợ vui tính như chị chắc ông ấy được cười cả ngày. Chị Vách nói:
-Quân tử ẩn hình, tiểu nhân lộ tướng. ông ấy vẫn phê bình tôi nói năng vô chính trị, không được chín chắn như các bà cán bộ ở tỉnh. Người ta có trình độ cao lỡ lấy phải vợ dại cũng là khổ tâm lắm. Thời trước thì họ đuổi mình ra đường rồi. Giàu vì bạn, sang vì vợ, có một bà vợ như tôi ông chồng cũng hóa hèn, chị nói thế. Nên không bao giờ chị dám đi cùng chồng ra ngoài, đến thăm ai chồng đạp xe tới trước, vợ đi bộ tới sau, không xem hát, không xem chiếu bóng, chưa bao giờ tôi thấy họ đi sóng đôi cả. Mà chị đâu có xấu, là một phụ nữ xinh đẹp của một thời, gương mặt tươi tắn, cái miệng với hàm răng đen đều đặn khi nói khi cười duyên dáng lạ lùng. Tôi hỏi, làm thế nào mà ông ấy vớ được chị nhỉ? Là cái duyên may chú ạ, chị nói, người ta là cán bộ trên tỉnh hoạt động cách mạng từ thời bóng tối, mình chỉ là cô du kích ở làng, cách nhau như trời với đất, lấy được là mừng, có với nhau đã hai mặt con nghĩ lại vẫn còn mừng. Chị nói thêm, huống hồ tôi còn là người có tội, phải người chồng có máu ghen thì họ gọt tóc bôi vôi. Chuyện như sau, làng chị thời đánh Pháp là làng tề, hai đầu hai bốt, lính tây ít, lính dõng nhiều, đĩ điếm là gái làng lên ngủ với Tây còn nhiều hơn. Chị phải đi phu nhưng vì có chút ít nhan sắc nên được giữ lại quét dọn trong đồn. Lính dõng ra đùa một câu, vào ghẹo một câu, chúng nó hát: "Mẹ già khắc khoải đêm ngày Anh đi ai cấy ai cầy ruộng hoang Người ta vì nước vì làng Anh đi theo VM, ai mang tội này" Có một anh cai, người xã dưới, bụng dạ tử tế, biết chị là vợ cán bộ, con lại còn nhỏ liền xui chị giả cách ốm rồi cho về. Lại còn cho tiền và một cân thịt bò nữa. Anh ta đẹp trai, có học, lại mới góa vợ nên trong làng cứ xì xầm chắc anh chị đã có tình ý với nhau, mấy đêm ở lại trong đồn, rơm kề lửa lại bảo không bén là khó tin lắm. Người làng thì khó tin, ông chồng về chỉ cười xòa không nói gì. Chị phục nhất là ông chồng không nói gì, chỉ cười, ăn ở với vợ vẫn như xưa, người có trình độ cao cư xử khác dân thường thật, chị nói thế. Riêng tôi là người hàng xóm chỉ thấy thương chị thêm, và lấy làm sợ cái ông chồng của chị, bụng bảo dạ: "Phải tránh xa ông này ra, ở gần có ngày mất mạng!".
3. Chị Vách không biết chữ, đã là cán bộ phụ nữ xã mà không biết chữ, chỉ vạch được một chữ V thay chữ ký thôi. Một mình chị suốt những năm đánh Pháp vừa nuôi hai con, vừa nuôi mẹ chồng, mẹ ốm một mình chị chăm sóc, lúc chết một mình chị chôn cất ma chay. Mà vẫn không dám coi là có công, làm dâu, làm vợ, làm mẹ ắt phải thế, từ thời xửa thời xưa đã vẫn là thế. Chị đẻ hai đứa con gái đầu, ông chồng vắng nhà vì phải đi đánh giặc. Đẻ hai đứa con trai sau, ông chồng cũng vắng mặt nốt vì phải đi công tác. Chị sanh không được thuận vì đã lớn tuổi, lúc sát dau, lúc băng huyết, chỉ có bạn bè tới thăm hỏi giúp đỡ, nằm dăm bảy ngày lại bò dậy ôm con ra viện, vài ngày sau đã giặt giũ cơm nước, da mặt vàng ủng nhưng nụ cười vẫn tươi tắn. Nghe chị nói nhà chị có sáu người nhưng hai mâm. Chồng một mâm, năm mẹ con một mâm riêng. Tiền nong chia đôi, tiêu cho chồng một nửa, năm mẹ con một nửa. Chị bảo, anh ấy phải làm việc trí óc nhiều, lại cao tuổi, lại lắm thứ bệnh không bồi dưỡng là nguá ngay. Còn năm mẹ con chị sao cũng được, nông dân vốn nuôi dễ. Tôi nói: "Bà cứ bày vẽ, ông ấy không là nông dân thì là cái gì, là trí thức hả?" Chị cười rất tươi: "ông ấy học cao lắm chú ạ, một rương vàng không bằng một nang chữ. Một đời chỉ biết đánh giặc với đọc sách thôi". Tôi hỏi: "ông ấy cũng được đi học à?".
Chị có vẻ giận: "Con địa chủ không được đi học thì ai được học. May mà ông bố đã phá tán hết cơ nghiệp, nếu không cũng bị đấu hồi cải cách rồi". Tôi cũng phải phì cười, thì ra lấy con ông địa chủ để được hầu vẫn vinh hạnh hơn là lấy con ông nông dân để được bình đẳng. Chị Vách không biết chữ nên chị làm cấp dưỡng một bếp ăn tập thể của quân đội. Chị đi làm rất sớm và về rất muộn. Khi đi gánh đôi thùng không, khi về một bên là nước vo gạo, một bên là cơm thừa của bếp ăn tập thể. Cơm nước lợn gà, hầu bố và trông các em trong một ngày chị đều phó mặc cho đứa con gái đầu. Một người vác cái cày, bảy người vác muỗng như chị thường nói. Năm tôi về ở Phúc Xá thì đứa con gái lớn của chị đã mười bốn, mười lăm tuổi. Con bé không được xinh, da đen, tay chân lòng khòng, cả ngày không nghe nó nói một câu, cứ lầm lì làm, không làm thì lầm lì đứng một góc giương mắt nhìn xung quanh. Giống tính bố nó y hệt, nhưng nó không được học giống bố nó, biết đọc biết viết thì thôi vì đông em quá. Tôi hỏi chị Vách: "Tại sao chị không cho cháu đi học?".
Chị nói: "Con gái cần gì học nhiều", "ông ấy không bắt nó đi học à?" Lại thêm một dịp để chị khoe chồng: "Về đến nhà là vùi đầu vào đọc sách đọc báo, không hỏi đến vợ con được một câu". Tôi cười to: "ông ấy cũng sướng nhỉ, sướng nhất khu đấy". Chị cũng cười: "Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại nằm. Tôi mới là người sướng chứ chú". Nói đến thế là hết.Nếp Nhà
Nguyễn Khải
"Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin".
1
Mỗi lần ra Hà Nội việc đầu tiên là tôi phải tới thăm bà cô tôi. Chẳng có quà cáp gì cả, đến tay không, nhưng vẫn cứ phải đến. Vì bà là cái túi khôn của tôi mà. Năm nay các con bà sẽ làm lễ mừng thọ mẹ tám mươi tuổi. Các cụ nói: Năm mươi tuổi hiểu được mệnh trời. Người tám mươi tuổi lại vẫn minh mẫn, khôn ngoan, không chừng hiểu được cả then máy của Tạo hóa. Nói chuyện với bà tôi vẫn chờn chợn như ngày nào được hầu chuyện cụ Nguyễn. Nghĩa là vẫn phải uốn lưỡi trước khi hỏi, trước khi trả lời. Một ngôi nhà đẹp, một cửa hàng tuyệt vời ngay giữa một đại lộ trung tâm trông thẳng ra hồ Hoàn Kiếm mà chỉ bày bán lèo tèo mấy mặt hàng sơn mài, tượng gỗ thì uổng quá, coi khinh thiên hạ quá. Bà cụ cười: "Anh đã bắt đầu có con mắt thương mại rồi đấy nhỉ?" Con mắt thương mại thì chả dám nhưng với con mắt của người bây giờ thì ngôi nhà, nói cho chính xác hơn là miếng đất, của bà cô tôi cũng phải đáng giá một triệu..., tất nhiên là triệu đô. Cũng chả phải do mình đặt giá mà là đại diện các công ty nước ngoài tới trả giá. Ngày nào cũng có vài nhóm người tới hỏi nhưng bà cụ chỉ nhã nhặn trả lời: "Tôi không có ý định bán hoặc cho thuê cái nhà này." Cho thuê cũng nhiều tiền lắm. Đã có người hỏi thuê chỉ mấy chục mét vuông của gian ngoài thôi, mỗi tháng trả năm ngàn đô, trên mười cây vàng. Vẫn là không, không bán mà cũng không cho thuê. Tại sao cụ lại gàn thế? Vì các em anh không muốn thế, cho đến hôm nay chúng nó vẫn đi làm cho nhà nước, không buôn bán gì cả, không mánh mung gì cả. Lương tiêu không đủ thì tôi bù. Bán các mặt hàng vớ vẩn như anh nói nhưng mỗi tháng cũng kiếm được khoảng trên dưới dăm triệu. Này, dăm triệu không phải là ít đâu anh nhá! Theo tôi được biết, từ trẻ đến già cô tôi sống theo một số nguyên tắc, thời thế có thể thay đổi nhưng cách sống của bà dứt khoát không thay đổi. Đó là: sống thẳng thắn, sống lương thiện và sống theo pháp luật hiện hành. Những năm Pháp tạm chiếm Hà Nội, chú tôi vẫn mở trường dạy học tư như thời trước, còn cô tôi ấn hành sách giáo khoa cấp tiểu học do chú tôi soạn. Có một tác giả đưa tập thơ "Đồi thông hai mộ" bán cho bà. In tập thơ đó chắc chắn sẽ thu lãi nhiều, bà biết thế nhưng vẫn từ chối. Vì Nhà xuất bản Nguyễn Du do bà chủ trương chỉ in có sách giáo khoa, đúng như trong giấy phép. Năm 56, cán bộ thuế tới kiểm tra kho giấy của bà để đánh thuế tồn kho, khoảng hai chục triệu. Chú tôi tính vốn nhát, vui vẻ bằng lòng ngay. Cho đỡ phiền. Nhưng bà vợ không chịu vì giấy in sách giáo khoa xưa nay không phải đóng thuế. Đã được miễn thuế thì làm gì có thuế tồn kho. Bà bướng bỉnh đến nguy hiểm, ai cũng sợ nhưng bà vẫn thản nhiên: "Lý của mình đúng, việc gì phải sợ". Quả nhiên bà đúng thật. Bà luôn luôn đúng vì bà rất tỉnh táo trong mọi mối quan hệ, chỉ nhận những gì đáng có, có quyền được có, tuyệt đối không để bị dụ hoặc về tiền bạc cũng như về tình cảm. Một cái đầu hơi lạnh, lắm lúc tôi đã nghĩ về bà như thế. Nói cho ngay, nếu không có cái đầu lạnh làm sao bà giữ nổi một ngôi nhà quá ngon lành, quá quyến rũ trong bấy nhiêu năm, không gặp một chuyện rắc rối nào. Cho đến bây giờ đã sang tuổi tám mươi bà vẫn biết từ chối những đồng tiền rất hợp pháp ắt hẳn phải có một tính toán khôn ngoan nào đó. Cái khôn ngoan cao siêu chứ không phải là khôn vặt.
2
Mùa xuân ở Hà Nội bao giờ cũng đẹp. Với tôi đã nhiều năm không được sống ở Hà Nội vào mùa xuân lại càng thấy đẹp. Một chút lạnh trong hơi gió tạt qua mặt. Một chút mưa bụi bay lây rây như có như không. Trời hơi tối, mặt đường hơi sẫm nhưng mặt người và quần áo rét họ mặc cứ sáng bừng lên những mầu sắc tươi tắn. Đã có mùi son phấn và nước hoa bất chợt thoảng qua ở một góc phố, trong một đám đông. Nói nhỏ đi, cười nhỏ hơn, ít nghe những câu chửi tục, những tiếng đệm tục. Giàu hơn trước nhiều, sang hơn trước nhiều, cứ cho là bề ngoài thì cũng vẫn rất đáng mừng. Chỉ có nhà bà cô tôi là ít thay đổi, hầu như không thay đổi. Vẫn mấy chiếc xe máy đã cũ, và vẫn còn nhiều xe đạp, loại xe đạp cà tàng từ những năm nào. Trời nắng các em đi xe máy, trời mưa đi xe đạp, đỡ phải rửa xe. Ăn mặc của bà cụ, của các em cũng chả có gì sang hơn, như trước đây, ngày trước với Hà Nội đã là sang, bây giờ là quá thường. Bây giờ con gái Hà Nội mặc quần chẽn đen, gót xẻ, có dải buộc dưới bàn chân, mặc măng tô lửng, hoặc đi bít tất đen dài, quần cộc, áo vét trùm qua mông. Đàn ông cũng diện lắm, áo vét tông các kiểu, thắt cà vạt đủ mầu, giầy đen, cứ như họ từ các đại sảnh bước ra. Không phải đâu, chỉ là quần áo thường ngày thôi, cũng giống như trước kia họ mặc áo bông xanh, quần ka ki vàng và đi dép nhựa. Chưa bao giờ tôi thấy người Hà Nội ăn mặc sang trọng như bây giờ. Chưa bao giờ tôi thấy phố xá chói lòa những tủ kính, những bảng hiệu và ánh sáng như bây giờ. Vậy mà một nhà giàu của Hà Nội có dư điều kiện để thay đổi lại không chịu thay đổi. Một đại gia đình gồm hai con trai, hai con dâu, một gái, một rể và những đứa con của họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp ăn. Thiên hạ thì chia ra, bà cụ lại gom vào. Vẫn rất êm thấm mới lạ chứ. Nếp nhà đã thắng được tự do của cá nhân sao? Phải nói thêm, cái nếp nhà này cũng ít ai theo kịp. Người con dâu cả vốn là con gái Hàng Bồ, đỗ đại học, là một cô gái kiêu hãnh, tự tin, không dễ nhân nhượng. Ai cũng nghĩ hai người đàn bà, một già một trẻ, cùng sắc sảo sẽ rất khó chấp nhận nhau. Vậy mà họ ăn ở với nhau đã mười lăm năm chả có điều tiếng gì. Người chị của cô con dâu đến nói với bà cô tôi: "Bác chịu được tính nó thì con cũng phục thật đấy". Bà cải chính: "Đúng là tôi có phần phải chịu nó nhưng nó cũng có phần phải chịu tôi, mỗi bên chịu một nửa". Bà bảo, con dâu là vàng trời cho, mình không có công đẻ ra nó, cũng không nuôi nó ăn học ngày nào, bỗng dưng nó về nhận mình là mẹ, sinh con đẻ cái cho dòng họ, cáng đáng mọi việc từ trẻ đến già, không lễ sống nó thì thôi còn hoạnh họe nỗi gì. Bà chiều quý, và tôn trọng các con dâu thật lòng nên cả hai nàng dâu đều tâm sự với mẹ chồng: "Con ở với mẹ còn thoải mái hơn ở nhà với mẹ con". Con rể và con gái được nhận nhà ở một khu tập thể, nhà chật, lại xa, con còn nhỏ. Nhưng anh con rể không muốn nhờ vả mẹ vợ, tự mình cũng thấy không tiện mà người ngoài nhìn vào càng không tiện. Bà biết thế nên bảo con rể: "Trong cái nhà của tôi có một phòng dành cho vợ anh. Của vợ anh tức là của anh. Cũng như mọi thứ của anh tức là của vợ anh. Chẳng lẽ anh bảo không phải". Năm ngoái khu phố có yêu cầu bà cụ báo cáo về nếp sống gia đình cho hàng phố học tập. Bà từ chối, khi tôi lại thăm, bà nói riêng: "Cái chuyện ấy ai cũng biết cả, chỉ khó học thôi". Tôi cười: "Lại khó đến thế sao?" Bà cụ nói: "Trong nhà này, ba đời nay, không một ai biết tới câu mày, câu tao. Anh có học được không?" À, thế thì khó thật. Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở trong tay mình, nhưng nhận được ra nó, có ý thức vun trồng nó, lại hoàn toàn không dễ.
3
Trở lại câu chuyện cũ, tại sao bà cụ không chịu bán nhà, chia tiền cho các con để họ lập cơ nghiệp riêng? Lớn rồi thì phải ở riêng, nó thuận lợi với sự phát triển. Con cái đã trưởng thành, vẫn bắt ở chung, ăn chung như trại lính, đâu có phải chuyện tính toán khôn ngoan. Bà cụ nghe tôi nói cười tít cả mắt, ra cái vẻ mọi sự bà đã tính cả rồi, đâu có đợi một thằng nhà văn ngây ngô mách nước. Bà nói, hiện nay các con bà vẫn thích đi làm cho nhà nước bằng cái nghề chuyên môn đã được đào tạo của mình. Ngoài giờ đi làm thì bọn nó đọc sách, dạy con học, bù khú với bạn bè. Họ thích sống như thế và có điều kiện để sống nhàn nhã như thế. Họ không có óc kinh doanh, không có nhu cầu phải kinh doanh. Không cần đến tiền thì không nên một lúc cầm quá nhiều tiền. Đồng tiền do may mắn mà có, do thời thế đổi thay mà có rất dễ là mầm mống của nhiều tai họa. Vì người có tiền chưa kịp học cách tôn trọng đồng tiền, sai khiến đồng tiền. Ở cái nhà này, theo tôi biết, chưa bao giờ họ mua vé số. Cũng không thờ cúng ông thần bà thánh nào, ngoại trừ ngày giỗ để anh em con cháu có dịp gặp gỡ nhau. Họ không cầu gặp may mắn, không săn đón may mắn. Họ chỉ nhận những cái đáng nhận. Bà cụ vẫn đi lễ các chùa miếu đền phủ với bạn bè nhưng bà không khấn. Bà cũng chưa từng xem tướng, xem bói, xin xăm. Ngày chú tôi mất mọi việc hậu sự chỉ một mình cô tôi lo liệu, không hỏi han bất cứ ai, không xem giờ xem ngày gì cả. Việc cưới xin của các con cũng thế. Đưa con gái đi, đón con dâu về tuyệt đối không có xem tháng xem ngày. Trong một lần trò chuyện, bà hỏi tôi: "Anh có phân biệt được người giàu lương thiện và kẻ giàu bất lương không?" "Trong bao lâu?" "Trong một lần tiếp xúc" "Thế thì khó!" Bà bảo, bà vẫn phân biệt được. Những đứa giàu lên do cướp đoạt, lừa đảo nói chuyện một lúc là biết. Bọn họ khinh người rẻ của lắm. Họ không tin một ai cả, càng không tin còn có lòng tốt ở đời. Họ chỉ tin có tiền. Tiền là quân của họ. Một đội quân giặc cướp, sẵn sàng tàn phá tất cả, tiêu diệt tất cả để đạt được những cái đích phù phiếm của chủ nó. Bà nói, bà là người biết quý trọng đồng tiền từ trẻ tới già, nhưng mấy năm gần đây bà lại sợ tiền. Nghe chuyện của thiên hạ mà sợ. Càng ít sờ mó tới tiền càng tốt. Nó có độc đấy! Bàn tay thương vợ, bàn tay yêu con, bàn tay nắm bàn tay của bạn bè đếm mãi tiền nhiễm độc lúc nào không hay, sẽ không còn là bàn tay của người nữa. Vì lẽ đó mà bà chưa muốn bán nhà. Các con bà cũng không ỷ eo, nài ép bà phải bán nhà. Thế là may. Nhưng cái may này còn kéo dài được bao lâu? Bà vốn không tin vào sự may rủi. Bà chỉ tin vào sự chuẩn bị của mình, chuẩn bị trong cái khả năng có thể, chứ liệu hết thế nào được những việc của chục năm sau.
4
Bữa tôi sắp trở vào thành phố Hồ Chí Minh, tôi có lại chào bà. Cũng như mọi lần tôi nói nửa vui nửa buồn: "Mong cô khỏe mạnh mãi để mỗi lần ra, cô cháu mình có dịp bàn chuyện thế sự, văn chương". Bà cụ cười rất hồn nhiên! "Nếu được sống thêm mươi năm nữa thì vui lắm đấy. Nhưng mà khó". Vì biết là khó nên ngay từ năm ngoái bà đã làm chúc thư, phòng khi đột nhiên phải ra đi thì các con đã có cẩm nang hành động. Làm chúc thư là khó lắm, sống làm sao chia của làm vậy. Chia khéo thì trai gái dâu rể mãi mãi là con của mình, mãi mãi là anh em ruột thịt của nhau. Chia vụng thì xẻ đàn tan nghé ngay tức khắc, càng đông con cháu càng lắm mối họa. Trước hết bà gặp riêng năm người con của mình vào một buổi, con dâu con rể không được tham dự. Nguyên tắc làm chúc thư của bà là công khai và công bằng, không phân biệt trai gái, trưởng thứ. Tài sản chia làm sáu phần bằng nhau, năm con năm phần, mẹ một phần. Phần của mẹ hoặc gửi ngân hàng, hoặc đem kinh doanh, tùy, số lãi hàng năm lại chia làm sáu. Con trai đầu phải giữ việc hương khói được nhận hai phần. Bốn phần còn lại sẽ bỏ vào một quỹ riêng để chi các việc: Tu bổ nhà thờ, sửa sang phần mộ, góp giỗ tết với các chi khác và cấp đỡ cho bà con nghèo của hai họ nội ngoại. Đồ gỗ và đồ sứ trong nhà thì cho hai con trai. Đồ trang sức của mẹ thì cho ba con gái. Sau buổi họp bà cụ phân công cho con gái lớn viết lại chúc thư làm sáu bản, viết tay không đánh máy, cả sáu người đều ký, mỗi người giữ một bản, có giá trị trước pháp luật. Từ nay bán nhà hay cho thuê nhà bà cụ coi như không biết, đám thừa kế cứ theo nguyên tắc chia sáu mà xử sự. Bà cụ nói xong, nhìn tôi một lúc lâu rồi bà cười rất ý nhị:- Con người ta ai ai cũng có phần thiện phần ác. Muốn dưỡng thiện diệt ác thì trong nhà phải có gia pháp, ngoài xã hội phải có luật pháp. Trong gia pháp có phần truyền thống và danh dự của dòng họ, có phần đạo đức của người trên và nghĩa vụ của kẻ dưới. Gia pháp cũng phải theo thời mà điều chỉnh, quá ngược với thời thế thì con cháu khó theo, quá xu mị thời thế thì bỏ mất gốc rễ. Theo chỗ tôi biết gia pháp của nhiều danh gia vọng tộc ở Hà Nội đang gặp hồi khủng hoảng. Suốt mấy chục năm anh dạy các con anh khinh miệt đồng tiền, lên án tư hữu và những người giàu có đều là phần tử bất hảo. Bây giờ anh tính sao? Bây giờ các con anh đều lao vào kiếm tiền, đều nuôi mộng làm triệu phú tỷ phú trong chớp mắt. Khốn một nỗi chúng lại chưa từng được ai dạy bảo cái cách ăn ở với đồng tiền. Đồng tiền vừa là đày tớ vừa là ông chủ, vừa là bạn đường vừa là giặc cướp, các con anh biết chọn cách nào? Chúng chỉ biết lựa chọn theo trực giác, theo kinh nghiệm tức thì, theo lợi ích trước mắt. Anh nghĩ xem, đã đến thế thì con người và nền văn minh của con người đã bị chúng gạt khỏi mọi sự tính toán rồi.
5
Mấy hôm trước trời ấm nhưng hơi nồm, chỗ nào cũng lép nhép nhầy nhụa đến khó chịu. Đêm như có mưa, hơi nặng hạt thì phải, hạt mưa gõ trên mái ngói nghe rất rõ. Sáng ra tất cả đã ráo khô, mảnh sân trắng toát, hè nhà trắng toát, trời khô và lạnh. Cái lạnh của mùa xuân thật dịu dàng, thở rất dễ, người rất nhẹ, mặc một cái áo len mỏng, khoác thêm một cái áo ngoài, đạp xe ra đường nhìn vào cái gì cũng đẹp. Huống hồ bây giờ Hà Nội lại đang đẹp, mỗi ngày một đẹp ra, trẻ ra. Lắm lúc nghĩ cũng tiếc đã trót đưa vợ con vào sống trong Sài Gòn. Tiếc thì tiếc chứ không thể làm lại được. Một chân đã thõng vào cõi hư vô rồi thì không nên bắt đầu bất cứ việc gì nữa. Không còn cả thì giờ để ganh ghét, để hờn giận. Chỉ còn đủ thời gian để làm lành, có thua thiệt vẫn cứ nên làm lành. Văn chương làm lành cố nhiên là không hay rồi, thôi kệ, vì cũng chả còn hơi sức đâu gây sự, dầu chỉ là gây sự vặt. Tôi đạp xe thong thả dọc đường Phan Đình Phùng bất chợt gặp một ông già khoảng tuổi tôi chạy bộ buổi sáng từ đường Cổ Ngư về. Ông chạy bên kia đường, tôi đạp xe bên này đường, lại có một thằng cha cưỡi xe Dream chạy chậm cùng chiều với tôi. Bỗng thấy hắn hét lên: "Chạy lộn đường rồi! Văn Điển đi lối kia cụ ơi!" Ông già đứng sững lại, thằng cha vừa hét quay mặt lại nhìn tôi nhăn răng cười. Chớ có ngạc nhiên! Rác của Hà Nội đấy! Hàng hóa nhiều tất nhiên rác rưởi phải nhiều chứ nghèo quá, đói quá lấy đâu ra rác.
Đàn bà
Nguyễn Khải
Lưu là đội trưởng đội cảnh sát hình sự tuyến, tức là cảnh sát chống tội phạm hình sự trên các tuyến giao thông. Năm 1982, Lưu 22 tuổi, anh lấy vợ. Vợ chồng bằng tuổi nhau, cùng học với nhau ba năm trung học. Chồng làm công an, vợ làm ở khách sạn, được công ty du lịch phân cho một căn nhà ở trung tâm thành phố. Về đời riêng, bắt đầu như thế cũng là hơn nhiều người. Lưu rất đẹp trai, dáng vóc cao lớn, hao hao giống các diễn viên Hồng Kông trong phim hình sự. Vợ cũng rất xinh gái, đẻ một con lại càng xinh. Vợ chồng bế con đi chơi phố ai cũng phải ngoái cổ lại nhìn. Một cặp vợ chồng thời bình quả nhiên có khác với những cặp vợ chồng thời chiến. Họ là những người may mắn khiến các thế hệ sinh trước phải ghen tị. Chỉ có một trục trặc rất nhỏ không đáng để ý, ấy là lương một trung sĩ công an hơi ít, chỉ có 51 đồng, đóng tiền ăn đã mất 18 đồng. Lương vợ bao nhiêu chồng cũng không hỏi vì biết lương của vợ chỉ là hình thức, còn "bổng" mới là nguồn thu chính. Vì là "bổng" nên số tiền không cố định nhưng trong tủ lúc nào cũng có sẵn từng xấp tiền. Đẻ con, nuôi con, nuôi mẹ từ quê ra trông cháu đều là tiền của vợ. Lưu đi bắt cướp, có khi phải đi vài ngày, tiền công tác rất ít cũng phải ngửa tay xin vợ. Xin mãi cũng ngượng, vợ lại để sẵn tiền trong tủ nên về sau Lưu cứ tự tiện lấy, không mấy khi hỏi. Của vợ như của chồng, đã là vợ chồng ai còn phân bì của tôi với của anh. Nghĩ ngợi lẩm cẩm quá có khi vợ lại ngờ rằng tình yêu của anh với cô không trọn vẹn.
Một tối Lưu về nhà đã rất khuya nhưng vợ anh vẫn chưa về. Bà mẹ ra mở cửa mặt buồn rười rượi, hỏi câu nào trả lời câu ấy, mắt cứ nhìn xuống. Lưu đã vào giường nằm mới nghe bà cụ nói: "Anh thử hỏi vợ anh xem nó có muốn gửi con bé đi nhà trẻ không? Hàng xóm họ đều gửi con ở nhà trẻ cả, nghe nói các cô trông cháu cũng cẩn thận lắm". Lưu hỏi: "Mẹ không thích ở đây nữa à?". Bà cụ nói: "Tôi muốn về quê ít tháng, ở mãi đây cũng nóng ruột ở nhà". Chuyện ở hay về là chuyện thường nhưng giọng nói bà cụ lại không bình thường, cứ như người muốn khóc. Lưu lại hỏi: "Mẹ chồng nàng dâu lại có chuyện gì không vui, phải không mẹ?"." Không, chả có chuyện gì. Bỏ nhà đi cả năm, còn các em anh..." Mấy ngày sau Lưu nói chuyện với chị ở phòng kế bên mới hay, dạo này vợ anh nói hỗn với mẹ chồng nhiều lắm. "Chắc là nó mới đổi tính, trước kia đâu có thế". Chị kia nói: "Lâu lắm rồi chú ơi. Bà cụ rất hiền, cứ bế cháu sang đây khóc lén khóc lút, lại còn dặn tôi phải giấu chú". Lưu lại hỏi: "Cách đây mấy ngày chị có biết đã xảy ra chuyện gì không?". "Mọi ngày giờ trưa cô ấy không về, trưa hôm ấy bỗng nhiên lại xồng xộc về thấy bà cụ ôm cháu ngủ, bát đũa chưa rửa, thế là cô ấy làm ầm lên. Bảo là lấy chồng chứ ai lấy thằng ăn cắp.
Chả biết lấy tiền cho gái hay cho anh cho em mà để tiền bao nhiêu cũng hết bấy nhiêu". Lúc ấy Lưu mới ngớ người ra. Vợ lấy tiền của chồng là chuyện tự nhiên, nhưng chồng không làm ra tiền lại lấy của vợ tiêu lại là chuyện không bình thường. Lấy tiền mà không nói tức là ăn cắp, chứ còn gì nữa.
Bà mẹ chồng về quê. Con gái gửi nhà trẻ rồi gửi mẫu giáo, thỉnh thoảng vợ chồng Lưu vẫn mời bạn bè tới nhà dùng cơm. Thỉnh thoảng họ vẫn cùng nhau đi xem kịch, xem chiếu bóng, đi và cùng uống nước giải khát ở các quán quen.
Họ dắt con đi chơi vẫn có nhiều người ngoái lại nhìn, vẫn là một cặp vợ chồng đẹp đôi và có vẻ thỏa mãn. Người ngoài tưởng thế, bạn bè cũng nghĩ thế nhưng hàng xóm thì biết giữa họ không khéo đã có chuyện to rồi. Vì căn hộ của cặp vợ chồng trẻ ấy không có tiếng cười, không có cả tiếng nói. Chồng về rất khuya cũng chỉ nghe có tiếng mở cửa rồi tiếng giội nước, không thấy bật đèn cũng không nghe có ai hỏi ai. Vợ về muộn cũng thế. Họ chỉ nói với nhau khi có bạn bè tới thăm hoặc trước mặt hàng xóm. Con bé đã lên năm, đi mẫu giáo rất ngoan, đến giờ đón con mà bố mẹ chưa về thì bác hàng xóm đón, thường là ăn cơm tối với các con của bác, nũng nịu với các anh chị, hỏi han, cười đùa như mọi đứa trẻ khỏe mạnh. Nhưng ở với bố mẹ những ngày nghỉ thì cả ngày con bé không nói, cười cũng không, mắt nhìn lấm lét như là sợ.
Lưu cũng biết vợ không còn yêu anh nữa, anh khỏe mạnh, đẹp trai, đàn bà con gái đủ mọi lứa tuổi rất thích được nói chuyện với anh, chọc ghẹo anh và cũng rất muốn được anh nắm tay, nắm chân ghẹo lại. Anh chỉ thiếu có tiền thôi. Chả lẽ một thằng đàn ông thiếu tiền nằm cạnh vợ mà không gây được một xúc động nào ở người đàn bà, dẫu rằng họ không còn là tình nhân nữa? Vô lý!
Nhưng là chuyện có thật. Họ vẫn nằm chung giường, con gái ngủ giường con kê liền cạnh, nhưng rất nhiều đêm họ không hề biết đến nhau. Lưu luôn luôn về muộn và đôi khi mệt mỏi, chán chường, không phải lúc nào cũng chán vợ, mà là chán cái nghề truy lùng, bắt, khám xét. Tới đâu cũng chỉ vấp phải những bộ mặt sợ hãi, dối trá, oán hận. Bất cứ lúc nào cũng có thể nhận một nhát dao đâm từ lưng hoặc một gậy bổ xuống đầu. Cứ hẳn thế anh lại dễ ăn, dễ nói, dễ xử sự. Còn vợ anh thì sao? Từ mấy năm nay chị có một gương mặt rất lạ, không vui, không buồn, cũng không giận, như gương mặt tượng. Vừa là vợ lại vừa là người lạ, vừa là người thân nhất, vừa là người có thể căm ghét anh nhất. Không có mũi dao nào ló ra nhưng đứng cạnh nhau là đau nhói, sau đó là rã rời như đã bị chảy máu từ bên trong. Anh phải xử sự như thế nào, phải nói năng ra sao? Anh không biết, anh lúng túng, vụng về, cau có và càng trở nên đáng ghét hơn.
Cũng có đêm Lưu rất muốn được yêu vợ. Anh nằm cạnh vợ, cười nịnh nọt và đưa tay khẽ vuốt ve một cánh tay của vợ. Chị hất tay anh ra như người ghê tởm, càu nhàu nói: "Ông ngủ đi, tôi mệt quá". Có lần anh nhẫn nại năn nỉ thì chị quay mặt về phía anh, một gương mặt trắng xanh dưới ánh điện đường chiếu vào, nói dửng dưng: "Ông muốn làm gì thì làm nhanh lên". Anh thở dài, nằm lùi lại, nói nhỏ: "Em ngủ đi, anh cũng thấy mệt rồi!". Ai mà tin được một cặp vợ chồng đẹp đôi như thế, nằm cạnh nhau cả năm mà không ai đụng chạm vào da thịt của ai.
Thời gian đầu chỉ có vợ chồng Lưu là biết cái gia đình nhỏ bé của họ có nguy cơ tan vỡ, còn bạn bè và họ hàng vẫn không hay biết gì. Thời gian sau, mọi người đều biết vợ Lưu có ngoại tình, biết rõ cả địa chỉ của người tình nhưng Lưu lại không hề biết. Có thể anh cũng đã lờ mờ biết nhưng anh không muốn tin vì người tình của vợ lại là ông trưởng phòng vật tư của một công ty du lịch. Ông ta đã năm chục tuổi, xấu trai và thô lỗ, chỉ được cái khỏe mạnh và rất lắm tiền. Người như thế làm sao quyến rũ nổi vợ anh. Vợ anh còn trẻ, vẫn đẹp và cũng có tiền. Anh cũng còn rất trẻ, mới ngoài ba mươi, là một sĩ quan cảnh sát có triển vọng, đã được báo Hải Phòng nêu tên và đăng ảnh. Anh chỉ có một khuyết điểm nhỏ là không nghĩ ra được những cử chỉ âu yếm lặt vặt của mỗi ngày để chiều vợ, không luôn luôn có mặt bên cạnh vợ những lúc cô ấy cần. Và đã rất nhiều đêm anh nằm vật bên cạnh vợ như một khúc gỗ sau một ngày bám theo những chiếc xe ca chật như nêm cối để phục bắt bọn cướp giật.
Nhưng Lưu vẫn tin mối quan hệ bất chính kia nếu có thì cũng để trêu anh thôi, cảnh cáo cho biết chứ chưa hẳn đã muốn dứt bỏ thật. Cơ quan vật tư của công ty du lịch gần ngay khu nhà tập thể của công nhân viên. Gia đình trưởng phòng vật tư ở Kiến An nên ông ta chỉ về nhà tối thứ bảy và ngày chủ nhật, còn các ngày làm việc ông ta ăn ở ngay tại cơ quan. Các buổi trưa vợ Lưu cũng không về nhà, đi chợ nấu ăn tại nơi làm việc, cùng ăn với trưởng phòng và ngủ trưa tại phòng ông ta như một cặp vợ chồng. Không ai dám nói đã đành, người vợ ngoại tình cũng không thích giấu giếm nữa, kể cả với ông chồng cảnh sát. Cho tới một buổi trưa, Lưu đã bí mật leo ống máng như cách vây bắt một tội phạm hình sự, đột nhập từ cửa sổ khép hờ vào phòng riêng của trưởng phòng vật tư và bắt gặp vợ mình cùng người nhân tình lớn tuổi chỉ vừa kịp quơ chăn phủ lên người...
Họ đã đưa nhau ra tòa để ly hôn. Lưu thì xấu hổ và đau đớn nhưng vợ anh rất thản nhiên như đang thay mặt ai đó để làm cái việc nghiêm trọng ấy. Khi tòa hỏi ai sẽ nuôi đứa con gái, theo luật thì đứa con duy nhất sẽ theo mẹ, trừ phi... Người đàn bà nói luôn: "Để bố cháu nuôi, lương tôi thấp không đủ khả năng nuôi cháu". Nói rất tự nhiên, không đắn đo, nghĩ ngợi gì cả. Vài tháng sau, Lưu được tin cô vợ cũ đang ăn sáng thì bị bà vợ chính thức của người tình đưa con trai lớn tới đánh ghen, mẹ thì chửi, con thì đánh. Một năm sau, tay trưởng phòng chuyển công tác đi nơi khác và bỏ luôn người đàn bà còn trẻ và đẹp đã vì hắn chịu mất hết những gì cô ta có từ mười năm nay. Rồi có tin cô đi cặp với một người khác, thanh niên mới lớn, kém cô ta cả chục tuổi. Lúc thì cô ta sống với người trẻ tuổi hơn, lúc thì với người bằng tuổi, có lúc lại chạy theo một ông già tóc đã muối tiêu, đạo mạo như một ông bố. Chả hiểu ra sao cả. Như một con điếm. Mà cô ấy vẫn có tiền.
...Lưu gửi con về quê nhờ mẹ nuôi, làm việc vẫn hăng say nhưng cứ nghĩ tới đàn bà là đau nhói. Đàn bà thật khó hiểu mãi mãi anh không thể hiểu. Theo cách đánh giá của anh, họ đều tham tiền, ham vui và cạn nghĩ như nhau cả.
Sau cuộc chia tay với vợ, đưa con gái về quê gửi mẹ và các em. Lưu đã là người hoàn toàn tự do, như thời anh mới đi làm. Anh xin nghỉ hẳn hai ngày để ngủ. Anh ngủ từ sáng đến tối, ra phố ăn cơm bụi rồi lại về ngủ tiếp. Tới trưa ngày hôm sau, anh dậy tắm rửa, cạo râu, lấy xe chạy một vòng quanh thành phố rồi chui vào một quán cà phê tồi tàn gần bến xe Niệm Nghĩa ngồi cho đến tối. Chưa bao giờ Lưu mệt mỏi đến thế và buồn đến thế. Thất bại về gia đình là thất bại đau đớn nhất vì lòng kiêu hãnh của thằng đàn ông bị tổn thương đến tột cùng.
Cũng trong khoảng thời gian ấy Lưu còn phải chịu đựng thêm một thất bại khác là đơn vị anh sau nhiều tháng truy lùng vẫn không thể bắt được tên tội phạm thuộc loại đặc biệt nguy hiểm của thành phố. Tên đó là Tích. Tích "híp", là sói độc, không thuộc một băng nhóm nào, không có lãnh địa riêng, gặp cơ hội là làm, đã làm là chuẩn bị kỹ lưỡng và luôn luôn giữ được sự bất ngờ. Đến vợ con nó cũng sống rất bí mật, khi ở Kiến An, khi ở Thủy Nguyên, có khi lại sống ngay giữa Hải Phòng, không ai biết mặt mũi thị, cũng không ai biết vỏ bọc của thị. Sự thách thức ấy khiến mọi người phát điên lên. Trong đơn vị chỉ có hai người biết rõ mặt Tích "híp" là Đội trưởng Lưu và một chiến sĩ trinh sát. Nó có một gương mặt không có đặc điểm riêng, rất dễ trộn lẫn vào đám đông, ngoại trừ đôi mắt híp. Cách đây đã dăm năm, Tích "híp" còn làm thư ký đội bốc vác của một bến xe khách, đã vài lần Lưu đứng trò chuyện với nó, chuyện bâng quơ thôi, nhưng anh chợt gai người, cũng chỉ một thoáng, vì cái đảo mắt và cái cười không thành tiếng của nó. Vài tháng sau nó biến mất, không để lại một dấu vết nào vì vẫn còn là một tên tuổi vô danh. Sau đó hai năm trong giới giang hồ bắt đầu xì xào cái tên Tích "híp" sau nhiều vụ làm ăn rất mạo hiểm: buôn thuốc phiện, buôn xe hơi, xe máy qua biên giới, buôn người. Rồi cũng vẫn là Tích "híp" đụng độ bằng dao, bằng súng với Công an Móng Cái, Công an Cẩm Phả, Công an thành phố Hạ Long. Đội trưởng Lưu là người đa mưu, chân tay trong giới giang hồ cũng nhiều, xử trí nhanh, đã từng bày nhiều thế trận rất lắt léo để nhử con mồi, nhưng Tích "híp" vẫn lọt qua hết sức ngoạn mục hoặc nhởn nhơ múa nhảy ở vòng ngoài. Một lần, qua một hệ thống truyền tin rất công phu, Lưu biết được Tích "híp" đang náu thân tại nhà người bạn của ông anh nuôi cách Kiến An dăm cây số. Ông này vừa mở quán vừa chăn vịt, quán nhà quê, bán bánh đúc riêu cua, chè xanh, rượu và lạc rang. Lưu và một chiến sĩ trinh sát vào quán uống rượu từ trưa đến ba giờ chiều, rồi Lưu giả vờ đau bụng xin nằm nhờ gian trong của chủ quán. Vẫn không có ai ra vào hoặc thăm hỏi, không có dấu vết nào có người lạ trong nhà. Khoảng 4 giờ chiều Lưu hỏi lối đi đại tiện, nhìn ra cánh đồng thấy một bóng người đội nón đang cất vó tép. Một cái lưng rất quen thuộc. Là nó chăng? Lưu đứng ngắm nghía một lúc rồi xăm xăm bước lại, tới gần lưng người kia anh rút súng quát to: "Tích "híp" mày đã bị bắt!".
Người kia quay từ từ gỡ nón, một gương mặt lạ hoắc, râu quai nón, tóc muối tiêu, một bên mặt có vết nám to bằng nửa bàn tay bầm đỏ. Lưu lúng túng nhét lại súng vào bụng, tự giới thiệu là công an thành phố đi bắt cướp nhưng đã nhận lầm người. Người kia giương mắt nhìn không nói gì lại quay lưng nhấc tiếp các vó tép. Trên đường trở lại thành phố, Lưu mới thoáng ngờ cái bộ mặt râu quai nón của người cất vó tép. Rất ít người ở nông thôn để râu quai nón. Người buôn bán thì có, người đi cất vó tép thì không. Ông ta lại không nói, không hỏi thêm câu nào về cái chuyện bắt cướp, là ông nông dân mà không có tính tò mò sao?
Một gương mặt muốn giấu đi, một giọng nói muốn giấu đi, thì là ai nhỉ? Là "nó" chứ còn ai nữa! Lúc này có quay lại cũng quá muộn. Nó đã cao chạy xa bay từ lâu rồi. Nó biến mất nhưng ông chủ quán, kẻ chứa chấp nó nhiều ngày, nhất định vẫn còn đó. Từ đó...
Sáng hôm sau. Lưu quay trở lại từ rất sớm, ông chủ quán vẫn bán bánh đúc riêu cua cho đám thợ làm đường, nhìn thấy anh vẫn mời chào vồn vã. Nhưng Lưu không cười, anh bước vào kéo ghế ngồi rồi hỏi ngay: "Cái ông cất vó tép còn ở đây không?". Người kia mặt không đổi sắc, hỏi lại rất tự nhiên: "Anh hỏi ông cất vó tép nào? Ông ta ở đâu?". Lưu nói gằn giọng: "Nó ở đây, ở ngay cái nhà này, nó là tội phạm, ông hiểu chưa?". Ông chủ quán quay sang hỏi đám thợ đang ăn: "Các chú có nhìn thấy ông cất vó tép nào lảng vảng quanh đây không?". Một người nói: "Vào trong làng mà hỏi, chứ ở đây làm sao biết". Ông chủ quán nói thêm: "Xin lỗi anh, từ ngày bán đi lứa vịt, tôi chỉ ngồi suốt ngày ở đây, không mấy khi bước chân ra đồng. Anh vào trong làng hỏi công an xã xem". Lưu cười cay đắng, anh vẫn khờ quá, khờ như thế làm sao bắt được một kẻ rất ranh ma là Tích "híp".
Sau ngày li dị vợ được nửa năm, Lưu nhận được tin Tích "híp" đã trở lại Thủy Nguyên, lần này nghe nói có cả vợ con. Cuối cùng Lưu đã mò được ra hang ổ của nó ở một hẻm núi, cách làng chừng nửa cây số. Anh đi một mình, giả làm nhân viên thu mua cây thuốc nam của viện dược liệu. Anh đã nhìn thấy nó một lần đi cùng với vợ và đứa con trai khoảng 13, 14 tuổi. Nó để râu quai nón, mang kính râm nhưng vẫn là cái dáng đi lòng khòng của thằng thư ký đội bốc vác năm nào, rất may nó chưa mập ra, chưa có bụng mặc dầu tuổi cũng đã ngoài bốn chục rồi. Chỉ cần thêm dăm năm sống ngoài vòng pháp luật là nó có thể xóa hẳn hình bóng cái thằng Tích "híp" năm xưa để trở thành một kẻ chỉ có tên chứ không có con người thật.
Một buổi chiều, khoảng năm giờ. Tích "híp" về nhà được hơn nửa tiếng thì Lưu đạp cửa ngoài nhảy vào. Người vợ đang cầm siêu nước bước xuống bếp vội quẳng ấm nước ra sân rồi quay nhanh vào nhà trong. Lưu vẫn bám theo một bóng người đang nằm trên giường nhảy xuống, cúi người lủi dọc vách tường vào sâu trong nữa. "Có cửa sau lên núi chắc?". Lưu vừa thoáng nghĩ, sải chân định bước vọt lên thì bị vấp ngã chúi xuống. Không phải vấp mà bị con vợ Tích quỳ xuống ôm chặt lấy chân của Lưu kéo lại. Lưu thúc thẳng bàn chân bị ôm vào chét ngực teo tóp của người đàn bà, một tay vơ lấy chiếc ghế đẩu ném mạnh vào lưng Tích đang loay hoay trước khuôn cửa gỗ ăn thông lên núi, rồi anh rút súng nhằm vào Tích hét to: "Tích đứng lại! Mày mở cửa là tao bắn!". Thằng Tích hình như cũng sợ quá, hắn không quay người lại, vẫn loay hoay với cái then cửa. Con vợ liền buông chân của Lưu nhảy chồm lên kéo cánh tay cầm súng về phía thị, dồn hết sức mạnh ghì chặt khẩu súng đạn đã lên nòng ép vào ngực thị, nếu súng nổ thì sẽ được chết thay chồng, chồng thị sẽ có cơ hội chạy thoát vì sự lúng túng của kẻ bắt giữ. Cánh cửa phía hông nhà đã mở, Tích lao vào khoảng trống có rất nhiều bụi cây dại ở sườn núi mặc cho Lưu hò hét, chửi rủa cả vợ lẫn chồng. Mấy phút sau vợ Tích mới buông tay, nhìn kẻ thù với ánh mắt mừng rỡ và biết ơn: "Chúng em biết anh đã thương nên không nỡ bắn chết cả hai vợ chồng. Xin anh yên tâm, nhà em đã muốn ra đầu thú từ lâu rồi nhưng đang sợ". Lưu buông người xuống ghế, giắt súng vào người, nhìn chằm chằm người đàn bà nhỏ, ốm yếu vừa giận vừa phục. Chị ta lấy đâu ra cái sức mạnh đến kinh ngạc ấy nhỉ? Một cái thúc của anh vào ngực đến thằng thanh niên cũng phải há miệng buông tay, huống hồ...
Có tiếng gọi cửa của đứa con trai ở phía ngoài, mẹ nó búi vội cuộn tóc vừa bị xổ, nói bằng giọng rất nhẹ nhàng:
- Nhà có khách vào chào chú đi con.
Một thằng bé cao lớn, rất khôi ngô, cầm cặp sách bước vào:
- Thưa chú, thưa mẹ con đi học về.
Mẹ nó quay lại nhìn Lưu, nói to cho cả con nghe:
- Mời chú ở lại ăn cơm với mẹ con tôi rồi chờ anh ấy về luôn thể.
Lưu biết ý tứ của người mẹ trước con cái, anh mỉm cười nói theo:
- Xin chị cho bữa khác. Nhờ chị nói lại với anh, nếu anh tới gặp tôi sớm mai thì mọi chuyện sẽ không xấu lắm đâu.
Vợ Tích với đứa con trai tiễn Lưu ra cổng. Có mấy bà hàng xóm đứng ở đường chào Lưu rồi hỏi vợ Tích:
- Vừa rồi nghe ầm ầm như có đánh nhau to ở đâu thì phải?
Vợ Tích liếc mắt nhìn Lưu trả lời thản nhiên:
- Tôi mải nói chuyện với chú cháu từ thành phố sang chơi nên chả nghe thấy gì.
Rồi chị ta giục con: "Con chào chú đi" và nói với Lưu: "Xin mời chú lại nhà.
Chỉ vài bữa nữa nhà tôi sẽ xin sang gặp chú ngay, mong chú giúp cho". Lời nói dịu dàng, cung cách con nhà gia giáo mà chịu làm vợ một thằng tướng cướp ư? Vợ con như thế, trời ưu đãi đến thế mà không chịu làm người đàng hoàng thật là uổng quá, là một thằng đàn ông ngu quá. Cũng như đã có những con đàn bà hết sức ngu...
Tự bạch
Nguyễn Khải
Cũng như nhiều người viết khác, tôi vào nghề văn bằng một truyện ngắn được đăng trên tạp chí LúA MớI của Chi hội Văn nghệ khu Ba, khoảng cuối năm 1950. Năm sau lại viết một truyện vừa, năm 1955 lại viết một truyện vừa nữa. Cả truyện ngắn lẫn truyện vừa viết trong khoảng thời gian này đều thất bại, không le lói một chút tài năng viết lách nào, như một người không có duyên với văn chương. Không ngờ cuối năm 1956 lại viết được truyện ngắn nằm vạ, năm sau viết được tiểu thuyết xung đột, được bạn bè trong nghề bắt đầu chú ý. Nên tôi coi truyện ngắn nằm vạ là truyện chính thức trình làng, truyện vào nghề của mình. Từ bấy đến nay, trong bốn mươi ba năm, tôi viết được khoảng bảy chục truyện ngắn, nay tuyển lại được non nữa, in làm một tập để bạn đọc tiện theo dõi hành trình sáng tạo của một tác giả.
Trong ba mươi năm làm biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội, tôi được dành hầu hết thời gian cho việc đi và viết, là người viết chuyên nghiệp, không phải làm bất cứ việc nào khác của cơ quan. Nếu phải làm cũng là do bị ép buộc, làm đâu hỏng đấy nên không được anh em tín nhiệm, rút lại vẫn chỉ có một việc làm thông thạo là đi và viết cho tới tận bây giờ. Có những năm tôi vừa viết truyện ngắn cho tạp chí vừa viết tiểu thuyết, lại có những năm chỉ viết tiểu thuyết không viết truyện ngắn và có cả chục năm chỉ viết có truyện ngắn không hề đụng bút đến truyện dài. Đó là tùy sự cảm hứng của từng thời kỳ, tôi không bao giờ tự ép nếu không thấy thích, không thấy cần.
Nhưng tiểu thuyết và truyện vừa, truyện ngắn của tôi không bao giờ bắt đầu từ sự tưởng tượng hoàn toàn, từ sự mộng mơ hoàn toàn. Tôi chỉ có thể đặt bút viết nếu tôi được chạm vào người, vào việc và những cảnh ngộ có thật trong cyộc sống. Tất nhiên không phải nhìn vào đâu, gặp bất cứ ai, nghe bất cứ chuyện gì đều có thể viết thành truyện được cả. Mà chỉ những người, những việc, những cảnh ngộ có dính líu ít nhiều tới tiểu sử của tôi, những kỷ niệm xa gần của tôi hoặc một nguyện vọng, một mơ tưởng đã khao khát từ năm còn trai trẻ. Mỗi lần đi tôi đều ghi chép rất tỉ mỉ như một nhà báo vì tôi có trí nhớ kém. Nhưng đó chỉ là sự bắt đầu, sự gợi ý, cái nháng lửa đầu tiên, còn khi ngòi bút đã lia trên trang giấy thì mọi nhân vật đều là những hóa thân của tôi cả. Tôi chỉ mượn có cái vỏ, cái xác của người này người kia còn cái hồn phải là của chính mình. ở cô Đào (Mùa Lạc), cái Tấm (Đứa con nuôi), Hòa (Bố con) đều có một phần tôi trong đó. Trong truyện ngắn Hai ông già ở đồng tháp mười, phần nào ao ước của tôi là ông già trưởng trạm máy kéo, phần đã có những năm tháng trải qua là ông già thư ký gặp nhiều bất hạnh. Cặp vợ chồng ở chân động từ thức thì tôi chính là anh thương binh mù dẫu rằng chưa bao giờ tôi phải sống trong cảnh ngộ đó. Nhưng cái tính khẳng khái của một người có quá nhiều lòng tự trọng nên phải nhận phần thua thiệt thì chính tôi đã có lúc được nếm trải. Trong LãnG tử, hình ảnh một anh chàng lãng du, thích sống một cuộc đời phiêu lưu, tự do, nhàn tản cũng là tôi nốt, nhưng là cái tôi của ao ước, của mơ mộng bởi cuộc sống hàng ngày của mình quá buồn, quá nhạt. Còn trong ông cháu, có lúc tôi là ông già, có lúc tôi là đứa trẻ, mỗi dòng đều có tâm sự của chính mình.
Nếu một truyện ngắn hoặc một cuốn tiểu thuyết chỉ có chuyện của mình thì mạng sống của nó không thể dài hơn một bài báo. Nó chỉ có thể cho người đọc một số thông tin nào đó, là cái báo chí có thể cung cấp đầy đủ hơn, người đọc biết xong là quên liền chứ không thể tạo được một ám ảnh lâu dài. Mọi truyện ngắn và tiểu thuyết của tôi, nói cho cùng đều là tôi cả hoặc có thể là tôi, nên có những truyện được viết cách đây đã trên dưới bốn chục năm, nay đọc lại vẫn đem lại cho tôi những cảm nghĩ của bây giờ, những xúc động của bây giờ.
Những truyện ngắn in trong tập này xếp theo thứ tự thời gian sáng tác. Những sáng tác lúc trẻ thì tươi hơn nhưng những sáng tác lúc về nhà lại chứa đựng nhiều chiêm nghiệm, nó là một đời người thấm vào từng con chữ.
Người viết có thể viết hay lúc trẻ mà cũng có thể viết hay cả lúc già, miễn là thời nào ra thời ấy, khi trẻ thì văn chớ nên quá già, lúc già đừng nên viết câu văn quá trẻ, phải luôn luôn là chính mình, lúc thơ ngây lúc từng trải, lúc vui lúc buồn, bao giờ cũng tự nhiên, thành thực.
Một tác giả khi tuyển lại những tác phẩm của một đời viết thường nghĩ một cách chủ quan, một cách thơ ngây là những truyện đã chọn đều hay cả, đều xứng đáng giới thiệu với bạn đọc cả. Cho dù người ấy đã rất tỉnh táo cũng khó mà nhận ra những cái dở của văn mình. Thì các cụ đã nói: "văn mình..." Cái thói xấu ấy cũng rất "người", rất mong bạn đọc rộng lượng.
Tháng 12 năm 1998
NGUYỄN KHẢIMá Hồng
Nguyễn Khải
1. Trong số họ hàng bên ngoại tôi yêu nhất cô Dịu. Ông ngoại tôi và cụ thân sinh ra cô là anh em ruột. Mẹ tôi và cô Dịu thân nhau từ thời con gái cho mãi tới năm mẹ tôi mất, một tình bạn kéo dài hơn sáu chục năm. Vì họ có cùng một cảnh ngộ. "Cô Dịu nổi tiếng thế mà cũng khổ như tao", ấy là niềm an ủi lớn nhất của mẹ tôi, vì bà thua kém cô em họ về đủ mọi phương diện. Cô tôi rất đẹp, là cái nhan sắc lộng lẫy của thời bấy giờ nên hơi lạ trong những chục năm đầu thế kỷ. Những người con cái đẹp của thời ấy mặt phải tròn, mắt phải dài, răng đen hạt na, lông mày kẻ nhỏ. Và phải có da có thịt. Lại phải đi đứng khoan thai, nói cười ý tứ, có tướng bà, lợi chồng, lợi con. Cái đẹp của cô Dịu hoàn toàn khác hẳn. Cô đẹp như đầm lai. Mắt hơi sâu với hàng mi dài, mũi cao, miệng nhỏ. Cô lại để răng trắng, búi tóc chứ không vấn khăn. Tóc của cô rất dài, mềm óng như tơ chuốt và quăn tự nhiên như người uốn. Mẹ tôi bảo, đàn bà mà tóc như sóng lượn là vất vả lắm, nằm trên tiền vẫn cứ là vất vả. Tất nhiên là vất vả về đường chồng con. Cô Dịu không chỉ có sắc mà còn có tài. Tài nấu ăn và may vá thì khỏi nói, cô còn có tài kiếm ra tiền bằng nghề nặn con giống và làm hoa giấy. Mỗi dịp tết Trung thu cô lại từ Hưng Yên lên Hà Nội mang theo những bồ hoa giấy và con giống bán cho các cửa hàng quen. Mãi về sau này, khi cô đã già cô vẫn làm hoa bằng vải, cánh lá màu săc phải sờ tay mới biết là giả, bán cho các cơ quan trong tỉnh đã đặt trước. Con gái tỉnh lẻ nhưng mỗi lần lên Hà Nội cô ăn mặc rực rỡ như bà hoàng, quần áo đồng màu, phấn son của Pháp và đeo nhiều đồ nữ trang kiểu dáng rất lạ nhưng cô lại bảo, đồ giả cả, là vàng Mỹ ký cả. Mỗi lần cô Dịu lên Hà Nội đưa hàng, tối nào cả mấy mẹ con tôi cũng phải thức tới quá nửa đêm để nghe cô kể chuyện. Cô kể chuyện rất có duyên và chuyện của cô bao giờ cũng buồn cười. Cười đến tắc thở. Ở thị xã Hưng Yên ngày ấy có bốn anh nhà giàu. Gọi là tứ kiệt: Tín Mỹ, Sùng Long, Đức Phong, Đức Hợp. Một người bán thuốc lào, hai người bán tạp hoá, một người nữa bán và sửa đồng hồ. Cửa hàng vặt ở Hà Nội, vốn liếng dăm bảy ngàn đồng mà cũng thành những nhân vật tai mắt của Hưng Yên, vì cái thị xã ấy giống như một phố huyện, lại không sầm uất bằng phố huyện vì nó ở cuối một con đường cụt, một phía sông Hồng, một phía sông Luộc thì còn đi đâu được nữa. Lại còn có ngũ hung: Phán Tường, Phán Thịnh, Nghị Định, Đình Ba, Lãnh Sáu. Phán Tường mở sòng bạc, Phán Thịnh làm ở dinh quan tuần chuyên ăn của đút, có môn bài mở ti rượu và thuốc phiện, treo bảng RA và RO. Nghị định là nghị viện hàng tỉnh, có cổ phần ở sòng bạc, bàn làm ăn với cẩm Tây Aréttô, sòng bạc có cẩm Tây đỡ đầu là an toàn nhất. Đình Ba là đốc-tờ, con bệnh sẵn sàng chịu mất nhiều tiền để được cái danh đã đến phòng khám của đốc-tờ Ba. Và Lãnh Sáu vừa là lãnh binh vừa là mật thám. Một thị xã bé bằng cái bàn tay, có những chín hung tinh nhưng chỉ có một Hằng Nga là cô dịu nên cô quen biết cả chín gia đình và đều được họ chiều chuộng. Một bàn tiệc, dẫu là bàn tiệc còm ở tỉnh lẻ cũng rất cần có một người đẹp cùng ngồi. Hơn nữa là một người đẹp biết nói chuyện, biết gây cười. Nhưng bà ngoại tôi là bác dâu của cô Dịu thì có ý chê. Mẹ tôi cười thì cười nhưng trong bụng cũng không thích lắm. Cách sống của cô hình như đã vượt ra khỏi khuôn khổ của một gia đình gia giáo. Con gái ngày ấy không được ra đường một mình, đi đâu phải có bố mẹ hoặc anh chị cùng đi. Nhà có cửa hàng, người con gái đứng bán hàng chỉ được phép trả lới những câu khách hỏi về thứ hàng họ muốn mua. Không được nói thêm, không được nói nhiều và nhất là không được cười với cái nhìn lúng liếng. Có một lần cô kể một câu chuyện vui có cả bà ngoại tôi cùng ngồi nghe. Ở thị xã có một địa điểm đẹp và rất nổi tiếng là hồ Bán Nguyệt. Một bên hồ là con đê bao sông Hồng, có dinh quan tuần và dinh quan công sứ Tây, còn một bên là đền Mẫu, đền Đức Thánh Trần và khu biệt thự nguy nga của Phủ Ích. Một con đường chạy giữa rợp bóng cây, vẳng lặng, nghe rõ tiếng lá cọ trên mặt đường vào mùa đông và tiếng kêu inh ỏi của những ngày hè. Mới đây, cô Dịu kể, thị xã xây một cái cầu bắc qua một góc hồ, từ dinh quan tuần đến cổng sau dinh quan sứ, nghe nói, để bà tuần còn trẻ và đẹp tiện sang thăm người có quyền nhất trong một tỉnh. Ông Sứ tên là Vanh-trơ-be goá vợ, lại nghiện, trước làm công sứ ở Bắc Ninh thì ông Lê Đình Chân là tuần phủ Bắc Ninh. Khi ông Sứ được đổi về Hưng Yên liền kéo theo ông quan Nam Triều, bạn nối khố, cùng về một tỉnh. Người Pháp rất quý những ông quan ta biết làm việc nhưng dân chúng lại đồn là bà tuần gần như là vợ không chính thức của quan công sứ. Tất nhiên là chồng phải biết. Biết thì biết nhưng người vợ làm thế cũng là vì công việc của chồng, không tính công thì thôi chứ kể tội sao được! Bà tôi nghe xong nói ngay: "Chuyện trai gái nghe đâu bỏ đó, đừng có nói lại. Mình là con gái phải biết giữ ý". Cô tôi quay mặt về phía mẹ tôi, thè lưỡi ra rồi nói lảng sang chuyện khác.
2. Cô Dịu người đẹp của một thị xã nhỏ, lại là con nhà tử tế nên những gia đình con trai lớn từ lâu đã có ý ngấp nghé. Ngấp nghé chứ chưa nhà nào dám ngỏ lời. Vì cô Dịu đẹp quá, tài hoa quá, lại sắc sảo nữa. Xưa kia các cụ chọn vợ cho con trai thường lấy đức làm dầu, sau mới đến tài đến sắc. Mà tài sắc cũng có tiêu chuẩn rõ ràng: Phúc hậu và đảm đang. Thích Thuý Vân hơn Thuý Kiều. Người đàn bà đẹp từ cổ chí kim thường hay gây hoạ cho chồng và gia đình nhà chồng. Bởi vậy, cô Dịu đã hăm mốt hăm hai vẫn chưa có nhà nào nhờ mối tới đánh tiếng chính thức. Còn cô, cô cũng có cách chọn người tình riêng mình. Năm ấy, tức là những năm Ba mươi, những cô gái tân tiến đã biết ghét, coi thường những anh chàng công tử bột, những thư sinh mặt trắng, những con ông cháu cha. Các cô mơ mộng những chàng trai có học nhưng từng trải và có gương mặt phong trần. Lại có nụ cười buồn và biết nói bóng gió, úp mở về non sông về nòi giống. Là người có lý tưởng, là lý tưởng gì thì các cô không biết, đại khái lá có ấp ủ một cái gì cao hơn, xa hơn cuộc đời một anh viên chức, sáng vác ô đi tối vác về. Cô tôi đã chọn được người đàn ông trong mộng năm cô hăm ba tuổi. Ông này là thông phán toà sứ, bạn của anh trai, đã có vợ và một con đang sống ở Hà Nội, chưa tới ba mươi tuổi. Khi mẹ tôi hỏi vì sao cô lại chọn yêu một người đàn ông đã có vợ, cô trả lời với lối nghĩ hài hước vốn có: "Chị ơi, cỗ lớn đâu đến phần mình, đành ăn thừa thôi". Một cô gái mới lớn sống ở Hà Nội đã khó, còn lại sống ở một thị xã đìu hiu, quanh năm chả có chuyện gì quan trọng để người hàng phố được dịp bàn tán, bình luận cho khỏi buồn thì cái khó gấp trăm lần. Thời ấy con gái chỉ mới thư từ cho bạn trai nếu người ngoài biết chuyện cũng đã tai tiếng lắm, bố mẹ đã khó nhìn thẳng mặt người hàng phố. Huống chi cô tôi còn có mang với người tình và cùng người tình trốn về Hà Nội để sinh con. Cô có vốn liếng riêng, lại có nghề làm hoa giấy và con giống, sống tự lập vẫn được, không gặp khó khăn gì nhiều. Nhưng còn dư luận thì sao? Cô là con mồi mong đợi mà những cái mồm rỗi chuyện tỉnh lẻ muốn cắn xé từ lâu rồi. Tha hồ mà bịa đặt, và sự bịa đặt dẫu vô lý đến đâu vẫn được dư luận ồn ào chấp nhận. Vì con người ấy là rất đáng ghét. "Nó" rất đáng ghét vì "nó" dám coi thường những điều cấm kỵ mà trong thâm tâm họ cũng cho là khắc nghiệt, họ không dám làm chỉ vì họ nhát. Cái táo bạo của kẻ khác khiến họ phải thèm muốn và vì thế mà kẻ kia lại càng đáng ghét, càng đáng giận. Mặc dầu cô Dịu sống ở Hà Nội nhưng phải một năm sau cô mới tới thăm mẹ tôi. Cô mập ra và đẹp rực rỡ. Trời đã cuối thu nên cô mặc áo nhung tím, đi hài cũng bằng nhung tím, cổ tay đeo cái vòng chạm và nơi cổ quấn hai vòng hạt trai nhỏ. Cô vừa cười vừa nói: "Hạt trai là giả nhưng vòng vàng là thật". Cô khoe đã sinh con trai, nặng trên ba ký. Cô làm hoa giấy và thêu khăn chầu áo ngự nên rất có tiền. Vẫn đẹp như xưa, vui như xưa và cô kể lại những chuyện người ta thêu dệt về cô ở tỉnh nhà như chuyện của một người đàn bà bất hạnh nào khác. Chả buồn một tí nào, vì cô đã được sống theo sự lựa chọn của chính mình chứ không giống theo sự lựa chọn của người hàng phố.
3. Cô Dịu sống trong hạnh phúc của mối tình đầu được hai năm thì phải chia tay với người tình. Không phải cái dư luận độc ác đã làm cô nản chí, mà, tội nghiệp thay, lại chính người đàn ông cô yêu đã tỏ ra quá yếu đuối, quá mệt mỏi khi phải đa mang một mối tình thêm và một đứa con thêm. Cô chia tay với ông chồng hờ rất nhẹ nhõm, rất dịu dàng, không đòi hỏi gì, không trách móc gì. Anh mệt quá thì anh nên nghỉ, còn tôi vẫn đủ sức nuôi tôi và con tới ngày nó khôn lớn. Khi trò chuyện với mẹ tôi về sự chia tay của hai người cô đã không hối tiếc một chút nào. Cô đã dám yêu, đã được yêu và có con với người đàn ông mình yêu. Thế là quá đủ! Tất nhiên mẹ tôi không thể hiểu được lý lẽ của cô. Vì cụ chưa từng biết mùi vị của tình yêu. Mẹ tôi có hai đời chồng, nhưng cả hai lần đều do bà ngoại và bác trai tôi quyết định. Là con gái đến thời phải đi lấy chồng. Lấy lần đầu không thành, mình lại còn trẻ thì lấy lần thứ hai. Gia đình bảo thế, phố phường nói thế, xưa nay là thế, thì làm theo thế. Khi con trai cô Dịu đã lên năm cô mới đi bước nữa. Năm ấy cô mới hăm tám tuổi. Vẫn rất đẹp, vẫn mặn mà, ấm áp của một người đẹp đã có một đứa con. Ông này goá vợ, có ba con riêng xấp xỉ tuổi tôi, là nhà kinh doanh có tên tuổi và cũng là tay ăn chơi khét tiếng đất kinh kỳ. Ông giống một chàng Từ Hải tân thời, còn cô Dịu như nàng Kiều muốn nương mình nơi bóng cả. Một ông Từ Hải không đánh nàng Kiều còn ông chú tôi lại hay đánh vợ. Vì ông vẫn không bỏ được cái tật trai gái mà cô tôi thì cả ghen. Có lần hai mẹ con tôi lại thăm cô. Cô từ trong giường vén mùng bước ra hai mắt và một bên má tím bầm vì đòn chồng. Cả hai người đàn ông đều do cô tự chọn, có nhờ ai chọn hộ đâu mà than vãn. Nhiều năm về sau này, mỗi lần nói về cô mẹ tôi lại than thở. Rằng cô tôi tài sắc rực rỡ một thời, lấy những hai đời chồng mà không một lần được mặc áo cưới, được ngồi xe cưới, họ hàng cũng không được ăn miếng trầu mừng. Toàn lấy theo thôi. Mà cả hai người đàn ông nào có ra gì. Chỉ được cái mẽ ngoài. Ông trước là bột nặn, ông sau là giấy bồi. Vò cả! Một ông thì sợ đàm tiếu của thiên hạ đành phải bỏ người mình yêu. Một ông thì đúc ra một bầy con, rồi để các con cho vợ nuôi vợ dạy, còn ông thì đi công tác, lúc ở Bộ, lúc ở tỉnh, quen đủ mọi cấp nhưng thực ra ông đang làm việc gì đến vợ cũng không thể biết.
Năm 1950 tôi từ Khu Ba vào Thanh Hoá thăm cô và các em ở thị trấn Hậu Hiền. Cô không già đi bao nhiêu, vẫn vui vẻ, duyên dáng như ngày còn trẻ. Cô nuôi các con bằng nghề làm thuốc viên chữa các bệnh đường ruột. Nhiều người bệnh viện đã bỏ về uống thuốc của cô lại khỏi. Thuốc gia truyền mà, vì ông chú tôi là một cụ lang rất nổi tiếng của thị xã ngày xưa. Rồi thêu cờ thi đua và làm hoa thi đua. Rồi dạy Bình dân học vụ và hoạt động văn nghệ ở thị trấn. Hỏi bà lang Dịu, cô giáo Dịu, bà Dịu văn nghệ, cả thị trấn ai cũng biết. Tôi hỏi thăm chú tôi, cô nói, chú vẫn công tác trên Việt Bắc, lâu lâu về thăm vợ con một lần, ở nhà lại khoảng dăm ngày để vợ con hầu hạ nuôi nấng, vá quần áo cũ, may thêm bộ mới và lúc đi lại cầm theo một gói tiền. Cô nói: "Chú anh vẫn thế, ông ấy chả chịu khổ một ngày nào". Đàn ông lắm người cũng tốt số nhỉ?
4. Cô tôi hiện vẫn còn khoẻ, mặc dầu đã sang tuổi bảy mươi chín. Nếu mẹ tôi còn sống thì cụ đã ở tuổi chín mươi mốt. Chị em hơn nhau một giáp, chị ở Mão trên, em ở Mão dưới. Đàn bà tuổi Mão thường vất vả về đường chồng con, nếu lấy chồng sớm không mấy ai thoát khỏi qua hai lần đò. Nhưng cô Dịu không bao giờ tự xem là người đàn bà bất hạnh. Cô đã được lấy những người đàn ông cô yêu, tự nguyện hy sinh vì dầu họ chỉ là những ông chồng tầm thường, có nhiều khuyết tật. Năm 1970, chú tôi mất, con cháu về đông đủ, đám ma rất to vì chú là một nhân vật được kính trọng ở xã. Cô lên Hà Nội ở với con trai làm giáo viên trường nghệ thuật sân khấu, sống trong một căn hộ tập thể. Con trai chưa vợ nên người mẹ phải làm mọi việc tạp vặt của một gia đình. Cô vẫn làm thuốc gia truyền và làm hoa giấy, bán cũng có, cho cũng có, làm cho vui, làm cho có bạn. Cô luôn luôn có nhiều bạn đủ mọi lứa tuổi và họ đều mê say được nghe cô nói chuyện. Đủ thứ chuyện, chuyện thời xưa, chuyện bây giờ, toàn chuyện vui thôi, chuyện để cười thôi. Cô không chỉ nói chuyện mà còn dạy nữa. Dạy các cô giáo, các bà chủ gia đình cách nấu một bữa cỗ, may thêu quần áo, cả cách ăn ở với chồng, với họ hàng nhà chồng và với chồng. Châm ngôn của cô, không nên đòi hỏi gì ở người đàn ông cả, mình cứ làm cho hết bổn phận. Nếu là người biết nghĩ thì họ sẽ tự sửa đổi, do họ muốn sửa đổi chứ không do người đàn bà đã buộc họ phải sửa đổi. Đàn ông họ sợ nhất sự bắt buộc. Với những người chồng có tính phóng đãng, cô khuyên các bà vợ nếu muốn buộc chân họ thì nên dùng sợi dây dài, chớ dùng sợi dây ngắn mà hỏng. Cô lại nói thêm, tốt nhất là đừng trói buộc gì cả, cho họ tự do hoàn toàn, còn mình phải tạo ra một gia đình thật ấm áp, là nơi trú ngụ tin cậy nhất của những ông chồng. Về nhà là về với sự yên tĩnh, sự tin cậy, để lấy lại những thứ mà họ đã đánh mất ở nơi này hay nơi kia. Cô khuyên người những điều cô đã một đời làm theo, còn kết quả ra sao thì không dám chắc. Với cô thì hết sức buồn. Chồng buồn đằng chồng, con buồn đằng con. Năm người con của hai đời chồng đều là những người tử tế, hiền lành nhưng vất cả. Vì họ quá vất vả nên họ không còn thì giờ và tiền bạc để quan tâm tới mẹ. Họ chỉ nghĩ tới mẹ khi họ cần có bà ở cạnh để dựa cậy. Một con trai bị lao phổi phải nằm bệnh viện, vợ lại bỏ, không có người hầu hạ liền nghĩ đến mẹ. Một con trai khác hí húi làm giàu quên mất mẹ, tới lúc bị ung thư gan nằm chờ chết bỗng thấy sợ hãi đủ thứ lại gọi mẹ tới để có chỗ nương dựa. Con gái bỏ chồng chưa biết đi đâu, về đâu, làm gì lại kêu cứu mẹ. Và mỗi lần con cái gọi là bà mẹ lập tức lao đến. Sự có mặt của bà có làm chúng dễ thở hơn, bình tâm hơn. Phép lạ của bà rất đơn giản: Không một ai tránh được những bất hạnh này nọ ở đời. Nhưng cách nhận nó như thế nào lại thuộc cái quyền của mình. Nhận nó bằng nụ cười vẫn nhẹ nhõm hơn bằng tiếng rên la.
Cách đây hai năm cô tôi đã bảy mươi bảy tuổi, bất đồ bị bà ném từ trên võng mắc cao xuống nền nhà vì dây cột võng bị tuột. Trai tráng bị cái ném ấy cũng ê ẩm người huống hồ một bà già. Rất có thể bà cụ sẽ bị liệt cho đến chết. Tôi đến thăm cô, bà nằm trên giường mặt mũi lợt lạt nhưng vẫn móm mém cười, bảo tôi: "Từ trẻ đến già chả có cái khổ nào mà tôi không được nếm qua. Đã nghĩ ông trời tha thứ cho lúc tuổi già nào ngờ ông vẫn nhớ". Nói xong lại cười, cười lào phào. Cái khổ lúc còn con gái, lúc đi lấy chồng, lúc có con cái, mỗi đoạn đời có bao nhiêu cái khổ có tên và không tên cô tôi đều có phần của mình cả. Mười ngày sau chú em tôi đến báo bà cụ đã ngồi dậy được. Mấy ngày sau tôi lại thăm bà cụ đã vịn giường, vịn ghế ngồi được vào bàn ăn cháo. Bà bảo: "Tuổi già không để con gái phải hầu những việc bẩn thỉu đã là phúc to rồi. Tôi không dám mong khoẻ lại như ngày xưa". Một tháng sau bà đã đi lại được không phải chống gậy, rồi lại đi chợ, rồi bảo con đèo xe sang nhà tôi chơi. Lại trò chuyện, lại cười đùa với các cháu và dự tính giáp Tết sẽ ra Hà Nội, ăn lại một cái Tết ngoài Bắc dối già. Như chả có chuyện gì đã xảy ra cả. Nghe vợ tôi nhăn nhó, than thở về những bệnh nửa thật nửa giả vào tuổi chớm già, cô tôi vừa cười vừa bảo: "Ai mà chả phải chết, đừng có chết vặt bằng những lo lắng lẩm cẩm mà thiệt". Nói xong lại cười. Vợ chồng tôi cũng phì cười. Cái cười không mất tiền mua mà sao con người ta lại khắt khe với mình đến thế!./.
Mùa lạc
Nguyễn Khải
Sáng, mây bốc mù chân núi vây quanh lấy cánh đồng Điện Biên, nhưng trên đỉnh chóp lại hết sức trong trẻo đến nỗi trông thấy rõ những thân cây đứng trơ trụi, và thấp thoáng một vật trắng của mái nhà người Mèo.
Bãi trồng lạc ở cánh đồng phía Tây Hồng Cúm trải ra từ chân khu nhà ở của đội sản xuất số 2 mênh mông cho mãi tới giáp rừng. Giữa cái màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ, và rút đồng, nổi lên một miếng vàng sẫm của mấy mảng cỏ gianh và lá cót đan lẫn lên nhau. Đấy là điểm sinh động nhất của toàn bãi: tiếng chân đạp lên bàn gỗ rình rịch, tiếng vòng trục quay ù ù của ba cái máy tuốt lạc, tiếng bào cào rê lạo xạo trên mình vỏ lạc thu gọn lại ở khoanh giữa; mùi hăng của thân lạc tươi mới nhổ xếp lớp lớp trên các cáng và mùi ẩm ướt nồng nồng của những cây lạc đã tuốt đánh đống phơi mưa suốt đêm qua. Bụi bốc mờ mờ từ cả mấy phía, và những chấm cánh nâu của con sâu ban miêu bay sè sè vụt qua vụt lại. Mồ hôi đã thấm hết lần áo ngoài những người đạp máy, khuôn lấy hình người hằn rõ những mảng thịt ở ngực, ở bả vai và vế đùi. Chiếc máy giữa và chiếc máy phía tay trái do sáu người đạp, còn chiếc máy bên phải chỉ có Huân tổ viên tổ 1 và Đào tổ viên tổ 4 đứng. Đào thuộc loại người gặp một lần có thể nhớ mãi, rất dễ phân biệt với những chị em khác. Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, và hàm răng trên đen nhờ nhờ hơi nhô ra ngoài môi. Chị bịt đầu bằng chiếc khăn vải kẻ ô vuông một vệt dài phía sau khiến những nét thiếu hoà hợp trên mặt càng trở nên thô, càng đỏng đảnh. Đứng cạnh người đàn bà ít duyên dáng ấy là Huân, một đoàn viên thanh niên chưa tròn hăm nhăm tuổi, rất khoẻ và đẹp trai. Anh đưa cặp mắt màu nâu nhạt ẩn dưới đôi lông mày đen và mịn như nét vẽ sang phía Đào. Mồ hôi đã thấm ướt vành khăn, chảy từng giọt dài xuống kẽ mắt, sống mũi. Cái thân người sồ sề của chị như nở to ra, hổn hển, cặp chân ngắn khoẻ đạp xuống bàn gỗ đã bắt đầu uể oải, nhưng hai bàn tay có những ngón rất to vẫn thoăn thoắt quờ ra phía sau lượm những bó lạc, và bằng một cử chỉ rất nhanh chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục. Huân vứt những thân cây đã tuốt hết củ sang một bên, nói khẽ:
- Xem ra mệt lắm rồi nhỉ?
Đôi mắt dài lóng lánh của Đào liếc sang Huân, phần dưới mắt hếch hẳn lên:
- Hỏi mình ấy. ý chừng muốn nghỉ chứ gì!
Huân cười rất to, hai hàm răng đều trắng loá.
- Trông đây này!
Anh dún mạnh chân trái xuống lập tức nhịp đạp nhanh hẳn lên, vòng trục xiết vào rễ cây xin xít, củ lạc bắn rào rào xuống đống lạc ở khoảnh giữa. Cả người Đào cùng nẩy bật lên theo, thớ thịt trên bả vai khẽ rung rung, hai bàn tay xoay đi xoay lại càng vội vã. Chị đã quá mệt nhưng đôi gò má đầy tàn hương vẫn nhọn hoắt bướng bỉnh và hai con mắt nhỏ tí vẫn ánh lên thách thức. Vừa lúc đến giờ nghỉ mười lăm phút, Huân đã bước ra. Đào vẫn còn dún thêm mấy đạp, rồi hai tay chống vào cạnh sườn chị nhìn mọi người lơ láo:
- Nghỉ hử, tại sao hôm nay lại rức đầu đến thế, chân tay cứ bủn nhủn ra!
Chị quay sang nhìn mái tóc xanh mỡ của Huân cười mỉm:
- Chịu thua thanh niên thôi!
Lâm tổ trưởng tổ một nháy con mắt, nói ướm:
- Chị... à quên, cô cũng còn đang lứa tuổi thanh niên chứ đã già gì... Tương lai chán!
Đấy là câu nói đùa cửa miệng của nhiều người đối với Đào, nhưng lần nào nghe thấy câu ấy chị cũng buồn tủi như được biết lần đầu về mình, người mất hết đà, quay cuồng, và chỉ trong chốc lát nét mặt chị thay đổi khác hẳn. Chị nhìn Lâm hờn dỗi, rồi ngồi tựa lưng vào đống thân lạc, giọng cay chua:
- Trâu qua xá, mạ qua thì, hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân nữa, hử các anh?
Lâm liếc nhìn Huân cười tinh quái:
- Thế mà vẫn cón nhiều người yêu say đắm đấy!
Huân vuốt tóc ra phía sau, cặp mắt hơi nâu rất đẹp của anh lim dim nhìn Đào trìu mến. Đôi gò má cao của chị ửng đỏ, đôi môi định mím lại nhưng không chặt, vừa vui sướng vừa như cưỡng lại sự vui sướng ấy. Chị thở rất mạnh, với lấy một cây lạc bứt từng củ một:
- Các anh đã biết đời em rồi đấy. Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi. Nồi nào vung ấy, em đã có nhà cháu dưới xuôi rồi, nay mai nhà cháu cũng lên đây xây dựng xã hội chủ nghĩa cùng với em đấy.
Rồi như chợt nhận ra cái trò chơi độc ác của mọi người bằng cách đem ghép chị là người xấu nhất của đội sản xuất với Huân, người đẹp trai nhất, chị thấy tiếc sự thành thật của mình, việc gì phải tủi, phải nhún mình, người nào mà chả có cái phần tốt đẹp. Chị nhổm dậy, đi vài bước tới trước mặt Huân, ngâm nga:
- Huê thơm bán một đồng mười
Huê vàng úa giữa giá đôi lạng vàng.
Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ...
Chị còn định nói thêm vài câu nữa, nhưng khi Huân ngẩng lên, nhe hàm răng trắng bóng ra cười thì chị lại muốn quên hết, lại ao ước mình được trẻ lại, như không bao giờ có cuộc đời đã qua, mà chỉ có lúc này, một nữ công nhân trên nông trường Điện Biên Phủ, một người có quyền được hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác.
Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài tết chừng nửa tháng, với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ, đại khái là cũng chẳng hơn gì trước mấy, có thể còn gặp nhiều đau buồn hơn. Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp đã định thế, trước sau vẫn chỉ một con đường ấy, không thể nào tránh được. Chị quê ở Hưng Yên, nhà không có ruộng, vẫn làm nghề đậu phụ, thời địch tạm chiếm lại xoay sang úp men, nấu rượu. Lấy chồng từ năm mười bảy tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều bỏ đi Nam, đến đầu năm 1950 mới trở về quê. ăn ở lại với nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Cách mấy tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị ở một mình. Từ ngày ấy chị không có gia đình nữa, đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, mùa hè vài cái áo cánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông ngắn đã bạc, ngày mưa, ngày nắng, bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại một buổi nào. Cũng có ngày đau ốm, nằm nhờ người nhà quen, bưng bát cơm nóng, nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm. Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi, như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều - Muốn về sống lại ở quê, nhưng quê hương nào còn có ai. Thôi đành cứ đi mãi, ngày khoẻ đã vậy, ngày ốm chưa biết ra sao, muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống. Chị sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, và hờn giận cho thân mình. Chị về đội sản xuất số 3 chưa đầy một tháng đã quen khắp mặt, duy chỉ thân có mỗi Huân, vì tuy anh chưa từng trải bằng chị, nhưng lại tỏ ra rất thông cảm với cuộc đời của chị. Lần đầu tiên hai người quen nhau vào một buổi sáng chị đi qua nhà ban chỉ huy đội, thấy Huân đang hý hoáy pha màu vẽ cho tờ báo tường. Chị đứng khuỳnh tay, ngắm nghía khen: "Anh vẽ khéo tay nhỉ!". Huân nhìn chị cười: "Chị có bài thơ nào đưa lên báo không?". Câu hỏi ấy vừa nói cho vui, vừa hơi châm biếm. Chị gật đầu nhận lời ngay: "Được thôi, thế bao giờ đưa nộp". Huân thầm nghĩ: "Cô này biết đùa đây", nhưng cứ dặn thêm: "Phải là thơ hay đấy!". Chị trả lời ngang ngược: "à, chắc không đến nỗi dở". Chị vốn được học chữ từ ngày nhỏ, lại thuộc lòng nhiều truyện thơ cổ, các câu ca, hát ví xưa, khi nói chuyện chị cũng hay vận thành vần, ví von, nên chỉ có một buổi trưa chị đã làm xong bài thơ "Đường lên nông trường Điện Biên". Ai ngờ bài thơ lại hay, đưa lên báo có vài buổi đã nhiều người ngâm nga đọc thuộc. Anh em thấy một đôi bạn trái ngược nhau cả về hình thức lẫn tính nết liền đem họ ra gán ghép. Song chẳng qua là câu chuyện đặt cho vui để trêu chọc chị thôi. Vì kể về tuổi thì năm nay chị đã hai mươi tám, còn nhìn ngoài mà so sánh thì tưởng chị phải hơn Huân ít ra gần chục tuổi. Hơn nữa Huân đã có người yêu và cặp ấy rất xứng đôi, còn chị là gái goá chồng không hy vọng gì được yêu một người con trai chưa từng có vợ. Những mỗi buổi đi làm cùng nhổ lạc ở một khoảnh, cùng đứng tuốt ở một máy ngắm nhìn hai cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng của Huân chị lại bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời của mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp lánh ở phía trước. Có thể đấy là cuộc đời còn lại của chị chăng?
Mặt trời đã lặn từ lâu. Trời trong xanh như ngọc thạch, những vệt mây màu khói, màu hồng nhạt, màu tím nhạt cứ ưng ửng lên ở bốn phía, đan vào nhau, tô điểm cho nhau rồi lại nhạt dần đi, trong mãi, thành một màu xanh mờ mờ cao tít. Những ngọn đèn nhỏ dờn dợt vàng kéo thành một dãy dọc các khung cửa của khu nhà bộ đội thấp thoáng như một dãy phố nhỏ nào đó ở vùng quê. Khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, cả tiếng la hét. Đào không đi chơi đâu. Một lá thư mới nhận làm chị bàng hoàng. Ông trung đội trưởng già phụ trách lò gạch của nông trường mới gặp chị có vài bận mà đã dám ngỏ lời táo bạo. Mới đọc được mươi dòng chị giận dữ tưởng như có thể xé vụn từng mảnh được, người ta coi thường chị đến thế kia ư. Nhưng khi gập lá thư lại thì một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra, như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ rào rạt không thể nén lại nổi, khiến chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng nhưng trong mí mắt lại như đã mọng đầy nước mắt chỉ định trào ra. Từ ngày goá bụa đến nay chưa ai nói được với chị một câu nào yêu thương, một lần gắn bó, chưa ai khao khát đến chị, coi chị là nguồn hạnh phúc của họ, là niềm an ủi cho họ. Những dòng, những chữ trong bức thư xa lạ ngân vang mãi trong lòng chị, vang dội đến tận những kẽ ngách sâu kín nhất, thức tỉnh nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực từ ngót chục năm nay. Cho đến lúc này chị vẫn chưa có ý định gì rõ ràng với ông trung đội trưởng mới quen biết, nhưng trong cái dòng nghĩ miên man thế nào chị lại hình dung ra cách đối đãi với đứa con riêng của người rồi đây sẽ gọi là chồng. Nó sẽ yêu quý chị hay thù ghét chị? Chị sẽ để nó ở dưới xuôi hay đem lên trên này? Và khi những hình ảnh ấy rõ nét quá chị vội nhỏm dậy, thầm chê trách mình: "Rõ hay chưa, đã ra thế nào mà cứ nghĩ vớ vẩn".
Giường nằm của Đào kê sát giường của Duệ, cách nhau có một cái bàn đóng bằng tre. Duệ, một cô gái ở ngoại thành Hà Nội cũng mới lên nông trường Điện Biên vào dịp ngoài tết, đang ghé mặt vào sát giường vuốt ve một bên mái tóc, rồi quay lại nhìn Đào cười ngượng nghịu:
- Chị không đi chơi à?
Đào nhìn đôi mắt tròn to của Duệ có những sợi lông mi rất thưa và hai cái bím tóc thưa nhỏ có buộc chỉ đỏ ở đầu, khẽ nói:
- Anh ấy sắp xuống chơi đấy.
Duệ đưa mắt nhìn xuống hai bàn tay nhỏ nhắn nhưng các ngón đá vàng sẹm lặng im một lát:
- Mặc người ta chị ạ, em không thích nói chuyện ấy đâu.
Hai bên mép Duệ khẽ nhếch lên, đầu lắc lư rồi Duệ quay đi nhìn phía khác. Từ cánh cửa bên Huân đã bước vào, tay cầm ống tiêu dài, chào mọi người rồi ngồi xuống giường của Đào, nhìn Duệ hỏi gượng gạo:
- Duệ tập nốt bài "Tình ca Tây Bắc" hôm này còn hát chứ!
Hai cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn đưa đi đưa lại trên ngực. Huân nhắc lại:
- Thế nào?
Duệ đáp lí nhí:
- Em không tập đâu.
- Chịu khó một chút.
- Em không biết hát.
- Thì cứ hát như hôm nọ là được, chỉ cần luyện thêm một chút nữa thôi.
Duệ thở dài:
- Nhưng em không thích hát nữa.
Huân đưa tay lên vuốt mái tóc óng mượt, anh định cười thật tự nhiên, nhưng môi đã đờ ra và hàm răng lạnh buốt.
- Cô giận tôi đấy ư?
- Anh có gì mà em giận.
Huân thở dài rất nhỏ, nhìn Đào, đùa gượng một câu:
- Chị không đi chơi đâu một lúc cho đỡ buồn.
Đôi mắt hẹp của Đào loang loáng nhìn sang Duệ, cặp môi như muốn mím chặt lại, gò má càng dồ lên đanh đá:
- à, khi buồn non nước cũng buồn. Khi vui gánh đá lên nguồn vẫn vui.
Lúc chị nhìn Huân định hỏi một thì anh đã chạy ra đến ngoài rồi.
Huân không về thẳng nhà, anh rẽ sang nhà kho, trèo lên cái bệ cao giát nứa, hai chân buông thõng xuống, chống tiêu lên đùi, nhìn ra cánh đồng lạc mờ mờ xanh nhạt ánh sao ở phía trước. Tình yêu giữa anh và Duệ mới nhóm lên đã nguội tắt rồi sao? Ngay buổi nói chuyện đầu với cô gái mảnh khảnh, rụt rè, Huân đã có cảm giác rằng cô ta sống không thể thiếu anh được. Cách sống ào ạt, sôi nổi của anh sẽ bù đắp cho cách sống rút rát lo âu và cô độc của Duệ. Cái khoẻ mạnh về tinh thần và về thể chất của anh sẽ là chỗ dựa tin cậy cho cái vóc mảnh dẻ của một người mới bước vào đời. Anh muốn đem lại nhiều hạnh phúc cho người yêu mà không hề đòi hỏi được trả lại. Nhưng chính cái trách nhiệm với người mình yêu đã đem lại cho anh sự say sưa làm việc chưa từng có, sự sung sướng được đưa tay ra nâng một người khác lên ngang tầm với mình, và lòng tự hào về cái tình yêu rất trong sáng đó.
Trăng đã bồng bềnh nổi lên qua dãy núi Pú Hồng. ánh trăng lọc qua lớp sương mỏng uyển chuyển như khói khiến khung cảnh cứ mờ nhạt một cách huyền ảo. Huân lại thổi bài tiêu ưa thích nhất của mình "Tình ca Tây Bắc". Anh không thích hát, vì những bài mà anh thuộc đều nhạt nhẽo, vô vị, nhưng khi những chấm nhạc không có linh hồn được âm thanh của tiếng tiêu điêu luyện chắp cánh cho bay lên thì cả một thế giới tâm hồn hiển hiện, những kỷ niệm xa xưa tưởng đã quên lãng từ lâu phút chốc lung linh kéo đến, những khao khát, những ước mơ đốt cháy trái tim, hình ảnh này chưa kịp mờ đi, hình ảnh khác đã hiện lên rõ nét, hình ảnh nào cũng kích thích, khêu gợi khiến người anh như tan đi, bay theo tiếng tiêu nhập vào những ngày đã qua đầy luyến tiếc và tới những ngày sắp tới rạo rực say mê... Qua dãy núi này, qua mấy cánh rừng nữa là sang đất Thượng Lào rồi. Đất Lào những ngày kháng chiến, hành quân trong rừng hàng trăm cây số, đêm ngủ lại trên những sườn đồi chon von, phải đào huyệt để giữ người khỏi lăn xuống vực thẳm. Những ngày rét buốt xương, há mồm không nói được, vê điếu thuốc cũng không chặt, cầm que diêm rơi mà không biết, có người đặt lưng nằm xuống là cứ nằm như thế mãi... Cũng chẳng ai ngờ khu pháo binh tây Hồng Cúm của giặc năm xưa lại là bãi trồng lạc của đội sản xuất số 2. Mới mùa xuân năm ngoái đất này còn ngợp lên một rừng cây chó đẻ, dây thép gai, mìn, vỏ đạn đại bác, nhừ nát vì những hố bom, những giao thông hào. Rải rác còn có những đoạn xương người, những mảnh vải nhựa, vài lưỡi xẻng hoen rỉ, một gói tiền bọc vải đã mục nát, những khẩu súng ngắn và tiểu liên, dấu vết còn lại của những người anh hùng Điện Biên ngày trước. Mấy tháng trời liền lưỡi xẻng đi trước, vết chân người theo sau san rừng, đào cây, gỡ mìn. Có người đã hy sinh, có người mang thương tật, dây thép gai chọc nát bàn tay, mồ hôi thấm rách từng loạt quần áo, da thịt héo quắt vì nắng, vì gió Lào, mồm lở, chân phù vì thiếu rau xanh, mùa xuân còn đầy thương tích chiến tranh, cuối hạ, đầu thu nước lũ tràn ngập, mùa đông buốt giá. Một năm đã đi qua. Mùa xuân thứ hai đã đến. Màu xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của ớt chín lấn dần lên các thứ màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang... Một mảnh vải trắng làm rèm che cửa, một giàn liễu leo có những chấm hoa đỏ thắm như nhung ở mé hiên phía trước, bóng lá loáng mướt của dặng chuối, màu vàng ửng của khóm đu đủ, mấy con ngỗng bì bạch ở mé nhà, tiếng guốc đi lẹp kẹp, bóng dáng nặng nề của những chị có mang ở khu gia đình, những ngọn đèn le lói, mảng thuốc bay qua ánh đèn trông rõ từng sợi xanh. Tiếng cười the thé, tiếng thủ thỉ, tiếng la hét, tiếng trẻ con khóc. Người ta làm việc, người ta thân thiết nhau, yêu nhau, và làm cho nhau đau khổ. Những nỗi niềm, những tâm sự, những mong ước. Cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi. Nhìn công việc làm mỗi ngày tưởng như con người bất lực, nhìn lại cả một năm không ngờ sức vóc mình lại có thể thay đổi cuộc sống nhiều đến thế. Mỗi chiều đi làm về ngâm mình xuống dòng sông Nậm Rốm, ngắm bộ ngực dồ cao, những thớ thịt tròn trĩnh, nhẵn nhụi, đỏ rực đầy tia máu, Huân không thể ngờ thân hình mình vẫn giữ mãi được vẻ đẹp ngày trước. Những mũi gai thép đâm, những vệt nứa cứa, những chấm đen ở lỗ chân lông của bệnh sốt rét rừng, màu xanh của thiếu ăn và bệnh tật đều đã được những tế bào mới, những dòng máu mới xoá mờ đi, thay thế, soi mặt mình trong gương anh không thấy đổi khác mấy, có lẽ chỉ thêm vài vết nhăn ở mi dưới mắt, ở cạnh sống mũi, còn thì vẫn mái tóc dày mượt ấy, đôi mắt hơi nâu ấy, và hàm răng đều trắng. Nhưng ngồi nói chuyện với Duệ thì anh cảm thấy ngay rằng anh đã thay đổi nhiều, chiến tranh, gian khổ năm tháng đã luyện cho tâm hồn anh một cái gì rất trong sáng đến nỗi anh soi vào mình mà thấy được cả tâm tư của người khác. Một nghị lực mà chỉ những lúc gặp khó khăn mới thấy được hết sức mạnh của nó, và sự hy sinh hồn nhiên, giản dị cho lý tưởng của mình, cho những người khác cùng đi với mình trên một con đường...
Chợt có tiếng chân giẫm sào sạc lên đống vỏ lạc ở phía sau, Huân giật mình ngừng thổi quay lại. Từ mé trái của đầu nhà kho nhô ra một bóng người thấp lùn, cái áo cánh trắng hớt vạt ra phía trước. Ai nhỉ? Bóng người tiền lại phía anh: Đào. Anh định nhảy xuống, nhưng rồi bối rối tự hỏi: "Chị này ra đây làm gì nhỉ? Định gặp mình hay sao?". Đào đã đứng trước mặt anh, hỏi nhỏ:
- Anh thổi tiêu đấy ư, em thích nghe lắm đấy nhé!
- Chắc vì tiếng tiêu chị mới biết ra đến đây, hỏi gì ỡm ờ thế, lại xưng em, cô này bắt đầu thiếu đứng đắn rồi. Đào đứng tựa người vào cột bương, cả thân người trên bị mái gianh che tối, tiếng nói dịu đi như một hơi thở:
- Anh Huân ạ, em muốn tâm sự với anh một câu chuyện.
Huân hầu như không nghe thấy gì, anh luống cuống vì nỗi lo: "Có người ta bắt gặp thì chết, tình ngay lý gian. Liệu mà về thôi". Nhưng anh vẫn ngồi im. Giọng của Đào thật mềm, thật nhỏ:
- Anh biết anh Dịu chứ?
- Ông thiếu uý lò gạch ấy à? Có biết! Sao?
- Anh ấy viết thư cho em, định xây dựng gia đình với em, em khó nghĩ quá... Anh thấy anh Dịu là người thế nào?
à, ra là một chuyện khác. Anh là người đầu tiên được Đào thổ lộ cái tin vui ấy. Anh phải có trách nhiệm với sự tin cẩn của người bạn gái mà anh vốn mến. Nhưng biết trả lời thế nào?
Đào đứng nhích thêm về phía Huân, chị vắt một tay lên sạp nứa, hơi thở dồn dập dưới cái áo cánh trắng còn thoảng mùi khét của xà phòng.
- Em xem ra anh ấy cũng là người thành thật còn thằng con của anh ấy mình quý nó tất nó phải quý mình... Chẳng ai ở vậy được suốt một đời, chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương. Em nghĩ mãi rồi anh ạ, em định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh. Anh nghĩ xem có được không?
Quê hương thứ nhất của chị ở đất Hưng Yên, quê hương thứ hai của chị ở nông trường Hồng Cúm. Hạnh phúc đã mất đi, ai ngờ chị lại tìm thấy ở một nơi chiến tranh đã xảy ra ác liệt. ở đây trong các buổi lễ cưới người ta tặng nhau một quả mìn nhảy đã tháo kíp làm giá bút, một quả đạn cối tiện đầu, quét lượt sơn trắng làm bình hoa, một ống thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giấy giá thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng. Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy...
Đầu thu với những hơi gió mát dịu bay lướt lên những khóm lá xanh thẫm của cây cỏ nghệ, những cụm ké đồng tiền, những nụ hoa trắng của cây rau tàu bay, và những bông hoa rền tía đỏ thắm hình tháp bút. Mùa thu hoạch lạc đã vào chặng cuối. Những vệt đường mờ ngổn ngang những bụi cỏ bị nhổ đã héo rễ kéo về khu máy tuốt. Đào và Huân phụ trách một cáng. Cái đầu bịt chiếc khăn kẻ ô vuông nhọn hoắt của chị thấp thoáng sau những đống lạc chất cao. Hai bàn tay to và đen choàng lấy từng ôm chuyển lên cáng. Mồ hôi chảy từng giọt dài lên gò má nham nhở vết đất, những thớ thịt như căng ra xé rách mảng áo nâu mỏng mặc ngoài. Lúc nào chị cũng có cái dáng vừa thoăn thoắt vừa lững thững. Huân chạy ra trước cáng, anh quàng đoạn dây máy bằng vải bạt qua vai, cúi rạp xuống, chiếc quần ướt đẫm mồ hôi căng theo thớ thịt, khuôn lấy cặp đùi rất tròn của anh, hai bàn tay đỏ tía bám chắc lấy đầu cáng và anh nhấc bổng người lên, chiếc cáng nhẹ bẫng lao về phía trước, Đào chạy lắc lư ở phía sau, chị kêu to lên:
- Ông mãnh ơi, đi ngắn bước chứ!
Gió vẫn thổi rào rạt khắp cánh bãi. Huân vừa bước những bước dài, vừa nói to:
- Gió mát quá nhỉ. Thế là năm nay ở đất Điện Biên không có gió Lào!
Cái đầu nhọn hoắt của Đào vẫn đưa sang phải, sang trái, chị đắng hắng rồi hát véo von ở phía sau:
... Tháng giêng phay phảy gió may
Tháng hai gió bấc, tháng ba gió nồm
Tháng tư là gió dâng lên
Gió đóng cửa đền, gió động năm cung
Tháng năm cát gió đùng đùng
Bước sang tháng sáu gió rồng phun mưa
Tháng bảy thì gió vừa vừa
Bước sang tháng tám gió đưa đòng đòng...
Giờ nghỉ sáng nay có thêm một rá lạc luộc. Cả mấy tổ cùng kéo lại ăn chung, trò chuyện cho vui. Lâm ngồi dạng chân, tay tách lạc, mắt nhìn Đào nhấm nháy!
- Thế nào cô em, bao giờ cô em về dưới xuôi đấy.
Đào vênh hẳn một bên mặt, môi chúm lại, mắt đưa đẩy:
- Về là về cửa về nhà. Một trăm năm nữa mới đà về quê.
Lâm nói đầy ngụ ý:
- Thay đổi thái độ rồi phải không, cũng mau nhỉ! Huân ơi làm một tiết mục văn nghệ mừng bà chị, mày...
Huân bước ra, lật cái mũ bịt đầu khâu bằng vải trắng như của thầy thuốc, cúi xuống rất thấp chào mọi người.
Đào liếc nhìn Huân tủm tỉm:
- Lại sắp, lại sắp...
Nét mặt Huân nghiêm trang hẳn lên, anh bước lên một bước, một tay chống nạnh, hệt như lối đứng của Đào, một tay uốn éo đưa ra phía trước, một đoạn kịch vui sắp bắt đầu. Duệ cùng với hai cô nữa cắp giành đi mót lạc cũng vừa đến. Chị đặt chiếc giành trắng xoá những mầm lạc tươi vào một góc, khẽ lách người đứng cạnh chiếc máy tuốt. Hai con mắt có những sợi lông mi thưa cứ chớp lia lịa. Lúc bình thường Huân hay có tính thẹn, nhất là trước mặt người mình yêu, nhưng khi đã bước ra một khoảng trống, hàng trăm con mắt dồn vào, anh trở nên bạo dạn, hoạt bát. Tất cả những người đứng trước mặt chỉ là những khán giả ham chuộng tài nghệ của anh. Thấy Duệ nhìn mình Huân khẽ nhún đầu gối xuống, một mảng tóc đen nhánh xoà xuống trước trán. Tất cả vỗ tay coi đó là tiết mục mở màn.
... Tôi lạy ông Cầu, bà Quán
Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi
Nó ăn nó chơi
Nó tươi nó cười
Như con ngựa ngáp
Làm ăn chậm chạp
Có tính nỏ mồm
Đi chợ bao nhiêu khoai lang củ từ cũng chứa
Vớt bèo thì ngứa
Xay thóc rức đầu...
Duệ yêu Huân cũng bắt đầu từ những cuộc biểu diễn văn nghệ trong giờ nghỉ. Cô mê say anh bởi cặp mắt dịu dàng, quyến rũ, cái miệng rất có duyên, một thân hình khoẻ mạnh, cân đối. Đôi khi cô cũng thích âm sự với anh vì anh rất hiểu tâm tình của người khác, biết an ủi và khuyến khích đúng lúc. Nhưng ngoài những nét đáng yêu của Huân mà bất cứ ai mới gặp anh lần đầu đều nhận thấy ngay, Duệ còn nhìn thấy những gì khác? Cô chẳng hiểu thêm được chút nào nữa, vì một người mới bước vào đời như cô chưa thể hiểu được, và cũng chưa thể đánh giá được cái phần cao quý trong tâm hồn một chiến sĩ cách mạng. Tình yêu của Duệ đối với Huân bồng bột và bề ngoài, dễ thay đổi. Có lúc cô thấy yêu Huân tha thiết, có lúc lại lưỡng lự vì câu hỏi: anh ấy có thể đảm bảo cho đời mình được sung sướng không? Mình còn có thể gặp được một người nào hơn thế nữa? Duệ thèm khát hạnh phúc vì từ bé đến lớn sống với chú dượng cô chỉ thấy tủi nhục, vất vả, lo âu, cô sợ cho tương lai, nhưng lại muốn phó thác tương lai của mình cho người khác. Cùng trung đội Huân, Duệ còn có cảm tình với Hào, trẻ hơn Huân vài tuổi, là giáo viên văn hoá của đội, lại sắp được về Hà Nội thi vào đại học Nông lâm.
Hiện nay anh ấy chỉ là một chiến sĩ bình thường nhưng ba năm nữa anh ấy đã trở thành một cán bộ kỹ thuật, một kỹ sư biết đâu. Hai người cùng đi nhổ lạc với nhau nhiều buổi, đã trò chuyện với nhau mấy tối ở mé nhà kho. Nhưng Duệ vẫn lo lắng vì Hào tỏ ra quá khôn ngoan trong tình yêu, anh ta dè dặt trong cả câu nói ngay những lúc tình cảm sôi nổi nhất. Anh khuyên Duệ đừng vội đưa vấn đề này ra công khai, chỉ nên coi anh như người bạn trai thôi, sau này anh tốt nghiệp rồi, có công tác rõ ràng lúc ấy hai người sẽ bàn đến chuyện xây dựng cùng nhau cũng vẫn vừa. Nhưng đến cái ngày xa xôi và mỏng manh ấy liệu anh có còn nhớ đến lời hứa năm trước không? Ba năm nữa anh ấy sẽ quen thêm bao nhiêu cô bạn mới, xinh đẹp hơn Duệ nhiều, học cao hơn Duệ nhiều.
Huân vừa đi quanh theo một đường tròn vừa nói lối hai tay uốn éo, nhưng nét mặt vẫn nghiêm nghị, thật là một tay hề đại tài. Các cô cứ ôm lấy nhau cười rũ ra, nước mắt giàn giụa, còn các người khác thì vỗ tay làm nhịp cho câu nói:
... Nay lần mai lữa
Cô giống tính ai...
Lâm hất đầu về phía Đào gào to: "Giống tính cô Đào". Phải như mọi khi Đào đã bật dậy, tìm một câu thật cay chua để đón lại, nhưng hôm nay chị sẵn sàng tha thứ cho mọi câu đùa tinh nghịch khác. Tất cả đều là những người đáng yêu, tất cả đều vun xới cho hạnh phúc của chị, đấy là anh em, là người làng, là họ nhà gái cả. Vui vẻ nữa đi rồi lại bắt tay vào công việc. Cái mảnh đất này, cái khoảng trời này đối với chị quen thuộc và thân yêu biết bao. Hai người sẽ có con, những đứa con ấy sẽ lớn lên ở nông trường. Chúng có thể đi học ở Hà Nội, ở những nơi xa xôi khác, nhưng những ngày nghỉ chúng lại trở về đây với bố mẹ già, với quê hương, với các chú các thím, và biết bao nhiêu anh chị em cùng tuổi với nó mà hiện nay chưa có mặt. Chúng nó sẽ làm việc ở đây, dựng vợ gả chồng ở đây, sinh con đẻ cái, cứ thế mà tiếp nối mãi đời này qua đời khác. Duệ ngồi ghé lên trên nắp máy tuốt, hai chân đu đưa, cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn ngọ nguậy trước ngực. Chị chẳng chú ý gì đến lời hát, cứ mỗi lần Huân bước chéo sang phía khác, chị lại đưa mắt nhìn anh, nhưng khi Huân quay mặt về phía chị thì chị lại cúi xuống lúng túng và có cảm giác hai tai mình đỏ chín. Cái giọng cố làm ra ẽo ợt của Huân cứ loang loáng bên tai.
... Nhà thì có giỗ
Luộc gà hai mề
Thổi cơm thì khê
Rang vừng thì cháy
Con mắt nhấp nháy...
Tối thứ bảy. Gian nhà của vợ chồng Lâm ở khu gia đình chật ních người. Một ngọn đèn dầu khêu to ngọn hắt sáng lên mấy đĩa kẹo lạc, kẹo vừng, bánh khảo. Nước chè mạn nóng. Người ngồi vây quanh cái bàn nhỏ và trên chiếc giường tre. Huân ngồi ở một góc trịnh trọng uống từng hớp rượu nhỏ. Mỗi một hớp môi anh lại mím lại, đôi lông mày mịn và đen nhánh khẽ nhướn lên. Ngồi cạnh anh là Lộ, tay lái máy cày của nông trường, vừa đến đội sản xuất số 2 sáng nay để cày bãi lạc, chuẩn bị cho vụ gieo trồng. Nét mặt mọi người mờ đi sau màn khói thuốc lá. Có người đề nghị chị chủ nhà hát tặng anh em một khẩu chèo, vì chị ấy trước đã ở trong đội chèo của xã. Vợ Lâm ngồi ở mé sau giường, tóc vấn trần, với rất nhiều cặp tóc lớn nhỏ sáng nhoáng vội vàng kéo cánh màn che lấy mặt mình. Cô em chồng lôi tay chị dâu năn nỉ:
- Kìa, chị Lựu hát đi một bài cho chúng em nghe nào!
Hai con mắt Lựu sáng rực lên lóng lánh, chị co rúm người lại, cười ngặt nghẽo:
- Các anh ơi, em không biết hát đâu!
Cái giọng miền trong ỏn ẻn, lên bổng xuống trầm, mới nói thường đã rất dễ nghe. Lộ nói không cười:
- Cứ hát như câu vừa rồi là được, cũng còn hay hơn giọng chúng tôi nhiều.
Lựu đằng hắng, mím chặt môi để khỏi cười, nhưng các bắp thịt trên mặt chị vẫn động đậy.
- Vậy thì em xin hát hiến dâng các anh một bài.
Chị vừa hát được hai câu cải lương cô em chồng đã chạy vào một góc nhà bưng miệng cười rúc rích. Lựu không hát nữa, gục đầu vào vai người ngồi cạnh, rồi nằm lăn ra giường, hai tay bưng lấy mặt rên rỉ. Cô em chạy lại phát vào mông chị:
- Chị Lựu, chị làm trò hề đấy ư!
Lựu vẫn nức nở trong cơn cười bị nén lại.
- ối giời ôi, em ơi, sao em lại nỡ bảo chị thế!
Vừa lúc ấy Đào và Duệ đứng lấp ló ở ngoài nhìn vào. Lâm đang pha nước vội đặt ấm xuống chạy ra, mồm mời liến thoắng, hai tay kéo hai người. Lựu ngồi phắt dậy, vấn lại tóc.
- Chị Đào ơi, chị vào nhà em chơi, nay mai vợ chồng em lại đến nhà chị.
Đào mặc chiếc áo cán bộ màu xanh nhạt, tóc búi trễ. Duệ mặc chiếc áo màu hồng nhạt, cổ bẻ vạt, hai bím tóc vừa mỏng, vừa ngắn ve vẩy ở phía sau. Đào ghé ngồi xuống cái ghế kê sát vách, mắt nhìn thấy Huân liền bước vội vào ngồi một mé giường quay lại phía bàn nói chuyện với Lựu. Nhưng hai người nói với nhau những gì Duệ chỉ còn nhớ mấy câu đầu. Mọi giác quan của cô hầu như bị tê liệt ở mặt trước, nhưng lại rất thính nhạy ở mặt sau. Cô cảm thấy rất rõ một ánh mắt đang ve vuốt hai cái bím tóc của mình, mơn trớn những sợi tóc tơ ở gáy và chạy lướt trên những thớ thịt ở lưng. Bên tai Duệ chỉ còn lại một tiếng thì thào rất quen thuộc: "Em ơi, em phải tin vào em, em phải tin vào anh, hạnh phúc ở trong tay chúng ta kia mà. Em hãy vui lên đi". Và trong lòng Duệ cũng muốn thủ thỉ: "Em không thể xa anh được, anh đừng để em sống một mình. Đời em bị đầy ải nhiều rồi. Em sợ phải khổ lắm anh ơi!...". Lựu nhìn nét mặt Duệ biến đổi rất lạ lùng, chị mỉm cười tinh quái:
- Cô Duệ người khó chịu phải không?
Tự nhiên nước mắt Duệ chảy giàn giụa cô gục đầu vào cánh tay mình:
- Em về đây, người em làm sao thế này.
Lâm dúi vào tay Duệ mấy cái kẹo:
- Cô lại sợ chúng tôi bắt cô hát chứ gì?
Huân cũng ngước đôi mắt ánh nâu nhìn Duệ, nói dịu dàng:
- Hãy còn sớm Duệ ạ, ngồi chơi một lát đã.
Chỉ một cái nhìn trìu mến ấy, một lời nói thương yêu ấy Duệ đã thấy chân tay mình rời rã. Huân vẫn yêu cô, và cô càng thấy đời mình từ nay gắn bó với anh, cô muốn kêu lên: "Em đến chơi với anh từ lúc nãy sao anh không nói với em một câu nào? Anh giận em hay sao?". Nhưng cô không thể làm theo được ý mình, chỉ đưa mắt nhìn xuống rồi trả lời lúng túng:
- Xin phép các anh, em phải về.
Tuy không ai nói nhưng mọi người đều rõ câu chuyện của hai người. Trông đẹp đôi thế ai ngờ cũng có những trắc trở. Gian nhà đang ồn ào bỗng lắng hẳn đi. Lộ nhìn Đào cất tiếng hỏi trước:
- Chị Đào vẫn giữ lời thề ngày trước đấy chứ?
Đào nghiêm mặt nhìn phía người hỏi, mắt chị lóng lánh:
- Thề gì nào?
Tất cả cười phá lên, Lộ vẫn nói thủng thỉnh:
- Thề ở vậy suốt đời ấy mà?
Lựu hễ có dịp trêu chọc ai lại trở nên hoạt bát hẳn:
- Anh Lộ mà hỏi lần nữa thì chị ấy đã có cháu rồi.
Đào cũng múm mím cười, gò má đỏ ửng. Lộ uống một hớp nước nói tiếp:
- Chuyện ấy bọn tôi đã rõ cả rồi. Thế mới phải. Anh ấy bàn với tôi là định sau mùa lạc đấy. Chị nghĩ thế nào?
Kể ra ở cái cảnh hàn nối cũng chẳng ai muốn kéo dài thời kỳ thư đi mối lại làm gì. Nhưng sau mùa lạc thì vội vã quá. Dạo đi trảy đỗ chị mới gặp đồng chí thiếu uý lò gạch lần đầu hai bên nói chuyện với nhau cũng dửng dưng. Hôm nay bắt tay vào vụ gieo ngô, số phận hai người đã gắn bó làm một. Đoạn đời từ hôm qua trở về trước đã lùi về quá khứ, cái tia hy vọng mỏng manh như không thể có thực sẽ là những ngày sống hiện nay. Chị nhìn mọi người với ánh mắt biết ơn, vì mặc dù họ đùa bỡn họ chế giễu nhưng tất cả đều hoan hỉ vun đắp hạnh phúc cho hai người. Chị nhìn Huân đang ngồi hút thúc lá ở một góc, thầm nghĩ: "Anh Huân ơi, Duệ nó có hạnh phúc hơn tôi nhiều vì nó có được một người chồng như anh. Tôi hiểu lòng anh hơn nó, nhưng tôi không ghen với nó đâu. Nó có quyền được hưởng cái hạnh phúc tốt đẹp ấy. Nó yêu anh lắm, anh hãy bạo dạn lên đi..."./Người ngu
Nguyễn Khải
Cho đến tận bây giờ tôi vẫn còn ấm ức khi nghĩ lại cách xử sự của mình trong cái chuyện vớ vẩn đã xảy ra là đúng hay không đúng, là người rất biết điều hay là một kẻ hết sức ngu. Chắc là ngu thì đúng hơn vì tôi vốn là người nhút nhát, rất sợ người khác to tiếng vì họ phải chịu thua thiệt, chịu uất ức. Nhưng cũng chưa hẳn đã ngu đã dại vì cái mặt của ông ấy là mặt người lương thiện, cách nói năng cũng của người lương thiện. Ông ta lại còn nói : "Vì bác là người có tuổi nên tôi..." Quân lừa đảo, quân lưu manh làm sao có giọng nói nhỏ nhẹ ấy, hắn sẽ làm ầm lên đế đám đông bu đến rồi lấy họ làm áp lực để phân xử phải trái. Nhưng các con tôi không đồng ý với nhận xét của tôi. Chúng nói như đanh đóng cột rằng tôi đã bị lừa, kẻ kia giăng bẫy một cách trắng trợn, một cách hiển nhiên mà con mồi vẫn lao đầu vào không một chút ngờ vực, không một chút phản ứng thì thật lạ. Phải là người ngớ ngẩn lắm, không có một tí thông minh nào mới làm cái việc như tôi đã làm. Người ấm ớ như bố mà còn viết văn viết báo được nhỉ ? Bọn trẻ còn nói thêm thế.
Buổi sáng hôm đó, vào khoảng 9 giờ, tôi nhận được điện thoại của một tờ báo lớn của thành phố mời tôi lại tòa soạn nhận tiền đọc bài và tiền nhuận bút. Tôi đạp xe đi ngay vì tôi cũng đang cần tiền. Tiền ăn và chi tiêu trong gia đình thì luôn luôn đủ vì mọi sự chi tiêu đã có lệ, có khoản, không bao giờ để thiếu nhưng cũng chả bao giờ có dư. Tôi cũng có một khoản tiền tiêu vặt nhưng cách tiêu thì vô chừng nên luôn luôn cảm thấy thiếu. Đã thiếu thì khó chịu lắm. Nhiều thứ lúc có tiền thì dửng dưng, chưa thấy cần mua nhưng hễ thiếu là lập tức khao khát được có, mong đợi được có. Người phát tiền nhuận bút đưa tôi một triệu, hai tệp tiền năm chục ngàn còn mới toanh. Nhận được tiền là về ngay. Có tiền trong túi, với người khác chả là bao, với tôi cũng là nhiều, nhìn thành phố quả nhiên có vui hơn mọi khi thật, vừa đạp xe tôi vừa tính toán những thứ cần mua và sẽ mua trong ngày mai để khỏi thất hứa với con cái. Chỉ tiêu có một triệu mà có thêm một niềm vui mới trong sinh hoạt gia đình, không chỉ một tuần, một tháng mà cái vui này có thể kéo dài thêm nhiều tháng. Cái vui của nhà nghèo cũng rẻ nhỉ ? Xem chừng những anh chàng tỷ phú khó có được cái vui thơ ngây, hồn nhiên của một người chỉ có một triệu, sẽ được chi tiêu trong vòng một triệu. Những người giàu quá và những người no quá làm sao biết vui khi cầm tiền, biết vui khi được ăn một miếng ngon. Họ còn bận lo cái cách tiêu hóa và luôn luôn sợ rằng không thể tiêu hóa nổi. Giàu quá cũng như nghèo quá đều có nỗi khổ riêng của nó. Chỉ có anh thỉnh thoảng có được một chút tiền cầm tay như tôi là sướng, biết ngẫm nghĩ, biết thưởng thức cái sung sướng của mình. Vậy tôi là người đang sung sướng và sẽ còn sung sướng. Lúc đi lãnh tiền tôi đạp hơi nhanh vì có nhiều sự phấp phỏng lắm. Chẳng hạn lúc mình đến nơi thì gần hết giờ làm việc và người phát tiền đã về nhà. Hoặc cô ta lại vừa đi đâu đó không chừng đến giờ làm chiều mới quay lại. Hoặc người báo thì bảo đã có tiền rồi nhưng người phát tiền lại chưa nhận được cái lệnh ấy, hoặc giả số tiền hơi ít không như mình mong đợi, tiêu món lớn thì không đủ, đem tiêu vặt thì hơi phí. Đã trên bốn chục năm tới các nhà xuất bản, tới các tòa soạn báo để nhận đủ thứ tiền mà vẫn cứ phấp phỏng, lo sợ như cái thuở mới vào nghề, mới nhận được những món tiền nhuận bút đầu tiên. Nhưng mọi sự đã diễn ra rất suôn sẻ và số tiền nhận được cũng không ít, những một triệu. Nên lúc đạp xe về tôi đạp rất thong thả, có gì mà phải vội nhỉ ? Một đời người lâu lâu lại có một hai giờ nhàn rỗi, thong thả, không làm gì hết, không nghĩ gì hết, đầu óc trống rỗng một cách khoan khoái cũng có thể xem là một đời đáng sống. Tôi đạp xe đã gần về đến nhà, khoảng non một cây nữa là về đến nhà, vẫn đạp rất thong thả, vẫn trong tâm trạng rất nhẹ nhõm, rất khoan khoái thì có ai đó đạp lướt qua. Rồi nghe tiếng rơi của một vật, tiếng rơi rất nhẹ. Cũng chả để ý nữa, vẫn đạp tiếp, vẫn nghĩ ngợi vẩn vơ tiếp. Rồi chợt có tiếng người nói sát bên cạnh : "Ông đụng vào tôi mà ông vẫn bỏ đi à ?" Cái gì thế nhỉ ? Tôi quay mặt lại. Một ông già khoảng ngoài năm mươi hay hơn một chút, mặt hốc hác, đầu để trần, đạp cái xe Trung Quốc, nhìn tôi và nói nhẹ nhàng như thế. Tôi dừng xe lại, ông ta cũng dừng xe lại. Tôi hỏi ngơ ngác : "Ông vừa nói cái gì ?" Ông ta bảo : "Ta đứng vào trong hè nói chuyện". Tôi dắt xe vào hè ngay, vẫn thắc mắc : "Mình đụng xe vào ông ta à ? Đụng lúc nào ? Mình có thấy gì đâu". Người kia gạt chân chống xe, nhìn tôi rồi nói, giọng vẫn nhẹ nhõm : "Tôi nể ông là người có tuổi nên tôi..." Tôi hỏi lại, giọng hơi gắt : "Thì tôi đã làm gì ông ? Tôi đụng vào xe ông à ?" - "Ông đụng vào xe tôi, đã làm bể hai chai rượu của tôi chứ còn sao nữa !" Tôi càng hoang mang : "Tôi làm đổ xe của ông bao giờ, làm bể rượu của ông bao giờ ?" Ông ta lặng lẽ mở hé cái bị cói rất nhem nhuốc vẫn quàng một bên tay xe để tôi nhìn vào trong. Hai chai rượu hình vuông, hơi lùn với cái nhãn màu vàng nhạt. Hai chai Hennessy ! Ông kia nói tiếp : "Bây giờ tôi yêu cầu ông đi cùng tôi vào Chợ Lớn mua đền tôi hai chai rượu ông vừa làm bể. Đây là rượu tôi mua để mừng cưới thằng cháu". Hình như tôi đã chịu thua ngay thì phải, chịu là người có lỗi ngay thì phải, bởi vậy tôi mới hỏi giá tiền của hai chai rượu. Người kia nói : "Bảy trăm tám chục ngàn, hai chai". Chết cha tôi ! Tôi lấy tiền đâu để đền một cú đụng xe, mà chưa hẳn tôi đã đụng, những gần tám trăm ngàn đồng, ngót nghét một triệu đồng ? Vô lý nhỉ ! Hết sức vô lý ! Tôi vẫn nói rất yếu ớt : "Nhưng tôi lấy tiền đâu để mua đền ông hai chai rượu ?" Người kia nói như vững tin hơn, như dứt khoát hơn : "Tôi không biết, nhưng ông phải đền tôi, ông muốn làm sao thì làm !" Tôi cũng không biết phải làm sao, đầu óc cứ rối mù vì sự việc vừa xảy ra, hết sức bất ngờ, hết sức vô lý. Tôi không thể chấp nhận cái sự vô lý ấy, nhưng cái thái độ không chấp nhận của tôi lại có những biểu hiện của người có lỗi, của người đầu hàng và đang tính toán sẽ phải đền bù như thế nào đây. Là chấp nhận, là bằng lòng nhận đền chứ không phản đối. Mà nào tôi đã làm gì nên lỗi, tôi không có lỗi, tôi không có một chút cảm giác nào tôi đã đụng phải xe người khác, đã làm rơi bể cái gì đó của người khác. Đã tin là thế tại sao tôi không phản đối, không to tiếng, không quát thét ầm ĩ lên để có nhiều người xúm đến rồi nhờ họ phân xử giùm. ít nhất cũng có người biết hai chai Hennessy để trong cái bị cà khổ kia là rượu tây thật hay rượu giả. Nếu là rượu thật thì vỏ hộp nó đâu ? Rượu mua đàng hoàng tại các cửa hàng phải có vỏ hộp chứ ! Nhưng tôi đã không nói gì cả chỉ vì cái mặt của người kia là mặt người lương thiện. Hình như ông ta cũng đang bàng hoàng vì đã làm bể vỡ hai chai rượu đắt tiền mua tặng thằng cháu nhân đám cưới. Cái mặt nhẫn nhục, chịu đựng và hoang mang. áo sơ mi dài tay bỏ ngoài quần, đi dép nhựa và cái xe đạp Trung Quốc là những dấu hiệu hiển nhiên của một ông cán bộ đã nghỉ hưu, lại nói giọng Bắc, chắc là mới vào Nam sống với con cái. Tiền mua rượu là tiền của con cái chứ ông ấy làm gì có tiền. Nên sắc mặt có ý sợ, xem ra đã cầm chắc cái sự mất tiền rồi. Nói thì cứ nói chứ cái ông già kia lấy tiền đâu ra đền. Chả lẽ đưa ông ta ra công an, nhờ anh em công an phân xử ? Ông ta cũng đi xe đạp, chắc cũng là người ăn lương hưu, ăn nhờ con, tiền tiêu còn thiếu lấy đâu ra tiền đền? Lại phải đền những non một triệu! Chắc là đã tính toán tuyệt vọng như vậy nên ông ta mới nói : "Vậy hiện giờ ông có bao nhiêu tiền ?" Tôi có thể nói tôi không có tiền, không có một đồng nào cả, muốn làm gì tôi thì làm chứ tôi không có tiền đền, nếu tôi nói thế chắc ông ta cũng phải chịu, có thể chửi ầm lên vài câu rồi cũng phải chịu. Nếu ông ấy làm to chuyện, có nhiều người ùa đến cùng tham gia xét xử rồi cũng đến xử hòa vì cả bên nguyên lẫn bên bị đều là những người già, lại cùng đi xe đạp, nếu có va chạm nhau là do sơ ý, do vô tình, bảo ai là người có lỗi cũng không phải. Cái lý là như thế. Lý đã là thế thì người bị bể hai chai rượu bị thua thiệt nhiều quá. Nếu ông ta còn làm được ra tiền thì con cái biết chuyện cũng chỉ trách nhẹ, tiếc tiền mà trách. Còn nếu ông ta ăn bám vào con cái thì vụ mất mát này là một tai họa thật sự, khó mà ăn ngon ngủ yên với chúng nó, chúng sẽ dằn vặt, đay nghiến ông không chừng đến hết đời. Nghĩ một thoáng như thế, ngẫm thân mình mà nghĩ liền như thế. Vì nghĩ như thế nên tôi trả lời ngay: "Tôi vừa mới lãnh lương hưu của cả vợ lẫn chồng được triệu bạc. Tôi đền ông một nửa số tiền bảy trăm tám chục ngàn, có được không ?" Hỏi có được không, tức là đã sẵn sàng trả đủ nếu ông kia không chấp nhận. Bởi vậy người kia mới trả lời, giọng hơi lạ một chút, hơi gắt một chút : "Ông cứ sang Chợ Lớn với tôi, mua trả lại tôi hai chai rượu này là xong". Tức là ông già này không chịu bớt cho tôi một đồng nào cả, bắt bí nhau như thế cũng là không biết điều. Ví thử tôi không chịu trả ông một đồng nào thì ông đã làm gì được tôi chửa ? Ví như tôi nói tôi chỉ có vài chục ngàn thì ông cũng phải chịu nhận số tiền tôi đang có chứ còn biết làm gì hơn. Đằng này tôi đã chịu đền đến một nửa, tức là bỗng dưng tôi chịu mất gần bốn trăm ngàn, mất rất vô duyên, rất ngớ ngẩn mà còn chưa lấy làm vừa lòng là nghĩa làm sao ? Chẳng lẽ ông ấy cố tình bắt chẹt tôi, chẳng lẽ ông không phải là người như tôi đã nghĩ một cách thông cảm? Vâng, tôi đã trả đúng bảy trăm ngàn, tức là còn thiếu tám chục ngàn, rất gọn ghẽ, rất nhanh chóng, nhanh chóng đến chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên, cứ như tôi là người rất giàu có. Người giàu có, người có bạc tỷ cũng chưa hẳn họ đã chịu chi một cách hào phóng như thế, một cách vô lý như thế. Ông ta cầm tiền rất cẩn thận, vẻ mặt dửng dưng, không có một chút ái ngại nào với một anh cán bộ già phải chi gần hết đồng lương hưu của hai vợ chồng, như tôi đã nói, cho một cuộc va chạm hết sức mơ hồ. Khi tôi nói, rồi vợ chồng tôi biết lấy gì mà tiêu trong tháng đây, thì ông ta cũng chỉ đưa mắt nhìn tôi một cách lạnh lẽo rồi lại cúi xuống đếm tiền ngoăn ngoắt. Đếm xong ông ta nhét tiền vào túi, dắt xe xuống đường, đạp lộn lại, tức là khi nãy ông ta còn mắc lỗi đi trái đường. Tôi cứ đứng ngẩn tại chỗ mất một lúc, bàng hoàng vì bỗng dưng mất một món tiền to quá. Như bị mất cắp. Mất cắp là một nhẽ. Còn tình nguyện móc tiền cho người khác lấy một cách ngớ ngẩn lại là một nhẽ. Mất tiền đã đau, về kể lại chuyện mất tiền rồi bị vợ con chê là quá ngu mới thật là đau, đau đến gan đến ruột. Đau vì ấm ức, vì không thể trả lời tại sao lại có thể ngu đến thế. Mà nào có phải là người đã quá ngu. Tôi thường vẫn có những việc làm rất ngu, nhưng là người ngu thì chưa hẳn. Nói cho ngay cái cách xử sự ngu ngốc của tôi trong chuyện vừa rồi không phải là lần thứ nhất. Tôi đã từng ngu nhiều lần, bị lừa nhiều lần, chẳng qua là do mình cả tin quá, cứ ngỡ những điều người ta nói là thật, không hề có ẩn ý nào, âm mưu nào. Tới lúc nhận biết đã bị mắc vào cạm bẫy cũng không biết phản ứng một cách gay gắt, một cách quyết liệt, mình đã bị tổn thương thì kẻ kia cũng khó có thể giữ được nguyên vẹn. Muốn tránh bị coi là người ngu, người dễ bị lừa cũng dễ thôi. Chỉ có một cách, phải chơi rắn và không được phép tin một ai cả, phải giữ vững một nguyên tắc sống, thà để kẻ khác chịu thiệt chứ nhất quyết không chịu để mình thiệt, là danh cũng thế, là lợi cũng thế, phải tự bảo vệ tới cùng, có trường hợp mình phải, có trường hợp mình trái, trái thì trái nhưng cứ to tiếng, cứ lấn tới thì trái sẽ thành phải. Thiếu gì người đã từng làm thế để tồn tại, để ngoi lên, để phủ bóng lên người khác mà rồi vẫn được xã hội trọng vọng. Có điều đã dám sống như thế thì phải bỏ nghề viết. Bởi nghề văn đòi hỏi các tín đồ của nó sống theo một nguyên tắc khác. Thà bị thua thiệt đến chín lần để khỏi có một lần xúc phạm tới nhân cách một người lương thiện. Đã là thế thì không chừng ngày mai, tháng tới, năm sau tôi vẫn có một cách xử sự hết sức ngu. Nghề ấy thì sinh ra nghiệp ấy, tránh sao được !Đàn ông
Nguyễn Khải
Nữ nghệ sĩ Xuân Nội tuổi đã lớn nhưng giọng hát của chị vẫn còn được giới trẻ hâm mộ. Một giọng hát quý hiếm, không thay đổi với thời gian, vẫn rất ngọt, rất ấm và hơi lẳng. Chị vốn là cô gái đặc quê, nhờ thanh sắc lại sinh ở một làng chèo nổi tiếng nên được lấy lên đoàn văn công tỉnh từ năm mới 17 tuổi. Ngày còn trẻ, các anh chị trong đoàn gọi chị là "cái Nội", "Cái Nội đâu rồi, sắp đến lượt mày ra hát đấy!" Khi chị đã là một diễn viên hát được quan tỉnh quen mặt, dân chúng thuộc tên thì mọi người đều gọi chị là Xuân Nội. Cũng không rõ ai đã đặt cho nhưng nghe có vẻ tỉnh thành, có vẻ văn nghệ nên chị vui vẻ chấp nhận. Dăm năm gần đây mặc dầu chị đã nghỉ hưu nhưng các liên hoan ca nhạc ở tỉnh nhà hoặc ở các thành phố lớn đều có mời chị với lời lẽ hết sức trân trọng của ban tổ chức chương trình và trên quảng cáo: nữ nghệ sĩ Xuân Nội... Về đường công danh chị thành đạt hơn bạn bè, hơn cả lòng mong muốn. Nhưng về đường tình duyên thì hết sức hẩm hiu. Chị về đoàn mới được nửa năm đã có một anh chàng bên văn phòng ủy ban tỉnh để ý, muốn làm quen. Tối thứ bảy hoặc sáng chủ nhật tuần nào anh cũng đến đoàn tìm cách trò chuyện với Nội. Anh không già cũng không trẻ, khó đoán tuổi nhưng sạch sẽ, nghiêm trang. Nói chuyện với bạn gái nhưng anh ta lại sợ bị hiểu lầm là không đứng đắn nên chỉ ngồi ở chỗ đông người, ngồi có khoảng cách, nói cười đều mực thước. Các chị trong đoàn hỏi Nội: "Thằng cha ấy nó muốn chim mày à?" Nội đáp: "Làm gì có !" - "Vậy nó nói những gì với mày cả buổi thế?" - "Chỉ nói em phải phấn đấu vào Đoàn. Rồi những gỉ những gì. Nói rặt chính trị thôi". Mấy bà chị cười nghiêng ngả rồi phán: "Tội nghiệp cho mày, lần đầu gặp đàn ông lại vớ phải thằng lại cái". Lại một nửa năm nữa cô bé ngây ngô mới gặp người chồng sau này, là đội trưởng đội kịch, cũng là một cán bộ của đoàn. Anh tên là Minh. Lấy vợ từ năm còn chưa mọc lông nách, vợ hơn chồng những mười mấy tuổi, cưới con dâu để có người làm, mà rồi cũng có một mặt con với nhau, bắt đầu đi văn công thì anh bỏ lửng vợ, rồi tuyên bố bỏ hẳn. Mấy năm nay anh đã tán tỉnh nhiều cô chưa chồng trong đoàn và trong đội kịch nhưng hỏng cả, cuối cùng lại vớ được Nội. Những lần đoàn đi biểu diễn luôn luôn Minh tìm được những chỗ kín đáo để rủ Nội đi chơi và tâm sự. Người đàn ông này hoàn toàn khác hẳn với người đàn ông trước. Miệng chưa nói tay chân đã quờ quạng, nắm tay, ôm lưng, vuốt mông. Quen nhau chưa được một tháng hắn đã nói với bạn gái những chuyện nhảm nhí, tục tĩu, mắt long lanh, răng trắng nhởn, lưỡi đỏ chót, hơi thở nồng và hôi như loài thú. Thoạt đầu cô cũng sợ, nhưng càng sợ lại càng thích gặp, vì mỗi lần gặp như đang dấn mình vào một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm. Rồi hắn đòi cưới. Cô không đồng ý thì hắn bảo luôn: "Cưới bây giờ là đẹp mặt cả đôi. Còn khi bụng đã to mới cưới thì anh em làng nước họ sẽ chửi cho". Cô phản đối: "Em không đồng ý thì làm sao có chuyện đó được". Hắn cười nhăn nhở: "Tính em hiền, lại cả nể mà cũng dâm nữa. Anh tấn công vài lần là em đổ ngay". Nghĩ đi nghĩ lại thấy cái thằng nửa quỉ nửa người ấy nói cũng phải nên cô bằng lòng cưới. Năm 19 tuổi cô sinh đứa con trai đầu lòng. Năm sau lại có chửa, chồng bắt phá thai. Cô quỳ khóc, van lạy nhưng hắn vẫn không lay chuyển. Hắn lý lẽ: "Có một con cho vợ chồng gắn bó, có hai con mất cả nghề nghiệp, mất cả tuổi thanh xuân, có mà điên". Cô phải nghe lời. Thai đã lớn, bác sĩ mới ra trường, thuốc men vớ vẩn, đã tưởng chết. Cô không chết nhưng cơ quan sinh nở vĩnh viễn hỏng. Ông chồng tuyên bố: "Từ nay em là một nghệ sĩ hoàn toàn tự do" Chả hiểu ý tứ của hắn ra sao. Sinh đứa đầu được hai tháng thì Minh được về Hà Nội học lớp đạo diễn sân khấu ba năm. Con được bốn tháng, Nội đã phải ôm con theo đoàn đi biểu diễn. Một tay bế con, một tay xách cái túi đựng bếp dầu, bột và đường. Ba lô trên vai nhét toàn tã lót, võng gối của thằng nhỏ. Đêm diễn chả biết gửi con cho ai, mắc võng vào khung sắt gầm sàn diễn, lại che mảnh vải dù lên mặt võng để bụi khỏi rơi vào mặt con. Đến tiết mục kịch, quân ta và quân Mỹ đánh nhau, ném lựu đạn gỗ lăn trên sàn diễn rầm rầm. Thằng nhỏ nằm dưới giật mình khóc thét lên, tiếng khóc bắt vào máy phóng thanh, người xem được một mẻ cười còn người mẹ thì bị phạt suất tiền bồi dưỡng đêm diễn. Tiền là mấy đồng hay mấy hào thì quên rồi, đại khái mua được cái bánh chưng mỏng như lưỡi mèo hoặc nửa bát phở. Ông chồng đi học đạo diễn ba năm chỉ về nhà khoảng bốn lần, có hai lần vào dịp Tết. Về tay không, tiền không có, quà Tết cho vợ con cũng không có, bảo là đã mua sách nghiên cứu hết. Nội chưa bao giờ tin chồng cô có tài làm đạo diễn. Anh sống như kịch, mồm mép như kịch sĩ nhưng chưa có vai diễn nào thành công trong suốt mười năm ở đoàn. Không ai dám giao anh nhận vai chính phái. Nghĩ rằng con người có dáng dấp tà phái sẽ dễ dàng nhập vai Việt gian, mật thám, ma cô, quân gian lận, lừa đảo hoặc cán bộ đã mất phẩm chất. Nào ngờ anh diễn vẫn hỏng. Vai quân tử thất bại, vai tiểu nhân cũng thất bại. Cứ giả giả thế nào. Cũng chả hiểu vì sao ?
Sống trong một đoàn văn công tỉnh, biết gì nhiều những chuyện trên trời dưới biển nhưng có lúc anh lại phàn nàn với vợ bị cấp tỉnh trù ếm vì họ đã xem anh là phần tử xét lại. Có lúc lại bảo bị đám văn nghệ sĩ ở tỉnh thù ghét vì anh thuộc phái bảo thủ, giáo điều. Hình như cũng chả phải, cô vợ nghĩ thế. Cũng là giả cả, anh chả là cái gì, chỉ là chính anh thôi. Mà cái con người thực ấy chỉ sau vài năm lấy nhau là chị biết liền, biết anh lúc đếm tiền, biết anh lúc ái ân với vợ và lúc ghen tuông, và biết anh lúc tính chuyện tương lai với vợ nhân có chuyện vui nào đó. Cái biết ấy buồn lắm. Vì anh chỉ là một thằng đàn ông rất tầm thường. Tầm thường thì đã sao? Cái tầm thường vốn nó không phải là một cái tội để người ta khinh, người ta ghét. Có điều đã tầm thường lại còn thích nổi danh, thích đánh đu với những người nổi danh, thích học đòi cách sống đài các, quái dị của những kẻ nổi danh, muốn đứng lẫn với họ để tự coi là một phần tử trong đám họ. Sống với nhau được mười năm thì anh bỏ đoàn lên một tỉnh mạn ngược làm cán bộ sáng tác kịch của Hội Văn nghệ trên đó. Vì anh được nghe ai đó trong giới sân khấu nói rằng anh có khả năng sáng tác hơn khả năng biểu diễn. Rồi anh lấy một bà góa vào loại giàu có vì bà ta có nghề nuôi ong rừng. Đi là đi, một đi không trở lại, chả nói sao cả, đến một lời nói dối cũng không có. Hơn hai chục năm nghệ sĩ Xuân Nội vừa là gái có chồng vừa là gái không chồng, lại đang thời cả tài lẫn sắc đều vừa độ chín, quyến rũ cả trăm người, trai tân có, trai có vợ có, cả mấy ông quan chức hàng tỉnh cũng muốn bỏ vợ quê để được làm chủ một cái tài sản vừa thơm vừa ngọt, nhưng đêm về người đàn bà nổi danh kia vẫn ngủ rất yên giấc bên cạnh đứa con trai đã lên mười. Vì cô sợ đàn ông quá, thực sự là đã rất sợ đàn ông. Cuối năm 1994 nhân một buổi gặp mặt vui chơi với anh chị em văn nghệ tỉnh H. tôi lại được gặp Xuân Nội sau nhiều chục năm xa cách. Đến tin tức về nhau cũng không có. Chị vẫn rất đẹp, rất đàn bà và hơi lẳng. Cặp mắt dài, hàm răng hơi hô nhưng đều và tròn, cái cằm lẹm một chút là những nét quyến rũ từ thời còn con gái. Chị không được học nhiều nhưng nhạy cảm, thông minh, biết nói chuyện, càng có tuổi xem ra càng đằm thắm. Tôi hỏi:
- Người đàn ông của bà em dạo này ra sao rồi?
Chị nhướn mày, hỏi lại :
- Đàn ông nào?Thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi, chị vừa cười vừa dí ngón tay trỏ vào trán tôi, như ngày xưa, bảo:- Ông này lại nghĩ bậy rồi, phải không? Xưa nay em chỉ có một thằng chồng mà anh đã biết. Hắn bỏ em từ lâu lắm rồi.
Tôi lại hỏi :- Cô sống một mình à?- Một mình thế nào, em đang sống với thằng đàn ông khác. Rồi lại cười, lại ngấm nguýt, lại bảo tôi đừng có nghĩ vớ vẩn vì cái thằng đàn ông này là con trai chị. Nó đã 32 tuổi, trưởng phòng kỹ thuật của Sở Công nghiệp, chưa vợ con gì, là một thằng đàn ông quá đổi tử tế.
Chị kể, thằng con tên là Mẫn, thương mẹ và tháo vát từ ngày còn nhỏ. Năm 12 tuổi nó đã biết đi chợ, nấu cơm, giặt quần áo, đảm đang như con gái. Lớn lên một chút nó là ông chủ nhỏ của gia đình. Nó không có sự thơ ngây, tính ỷ lại, thói làm nũng của trẻ con. Nó đã già sớm, làm người lớn sớm như để chuộc lỗi cho bố nó. Nó không thể nghĩ được thế nhưng người mẹ đã tưởng tượng ra thế để được hy sinh cho nó nhiều hơn nữa. Là một nghệ sĩ có tên tuổi nhưng chị không hề may sắm quần áo và giày dép mới, chưa hề sắm đồ nữ trang. Toàn mua đồ cũ của bạn bè thải ra, về may cắt lại. Đêm biểu diễn chị thường quấn quanh cổ một vòng hạt cực đẹp, lấp lánh nhiều màu như kim cương. Bạn bè hỏi, chị chỉ mỉm cười rất bí mật. Hỏi giá tiền, chị trả lời: "Năm ngàn!" Nói thế là thật chứ không đùa. Các hạt có nhiều cạnh sáng chỉ là những hạt cườm nhỏ của mọi gánh hàng xén, tẩm qua cồn pha loãng để hơi khô rồi lăn tròn trên tay. Chị nói với tôi: "Váy áo và đồ trang sức của em rất hợp thời trang nhưng giá trị chỉ trong vòng trăm ngàn".
Tôi có hỏi, vì sao con trai đã 32 tuổi mà chưa lấy vợ? Nó xấu trai hay bà mẹ nghệ sĩ khó tính không muốn chia xẻ tình yêu của mình với một người đàn bà khác. Chị nói rất buồn bã rằng, chị cũng đã nghĩ thế, chị rất sợ bạn bè chị cũng nghĩ thế. Con trai chị có đầy đủ tiêu chuẩn một người đàn ông được đàn bà thèm muốn. Nó có nhiều bạn gái, thân mật với nhiều người nhưng chưa gắn bó với một ai cả. Chỉ vì nó sợ các cô gái của thời bây giờ sẽ làm mẹ nó buồn vì cách sống phóng túng và ích kỷ của họ. Đã có hai người con gái thường đến với chị gần như người thân mà rồi hỏng cả. Cô đầu tiên tuổi ngoài đôi mươi, không đẹp nhưng hiền. Chị hỏi cô gái: "Cháu có thích nghe ca nhạc không ?" - "Cháu cũng thích nhưng chỉ nghe qua đài" - "Cháu thích bài hát nào và ca sĩ nào?" Con bé cười: "Cháu toàn nghe nửa chừng nên cũng không biết tên bài hát và người hát". Sau lần ấy không thấy cô gái đến chơi nữa. Chị hỏi con trai, nó trả lời: "Mẹ chồng là ca sĩ, con dâu lại điếc đặc âm nhạc, sống với nhau thế nào được". Thế là thôi. Cô thứ hai lớn tuổi hơn, từng trải, sắc sảo, nói chuyện với mẹ chồng tương lai toàn hỏi tiền thu mỗi đêm biểu diễn, tiền thu bài hát qua băng, tiền may gia công mỗi ngày, rồi cô tính toán luôn một chương trình làm ăn rất kinh tế nhờ vào cái giọng vàng trời cho của bà ca sĩ già. Con trai nói với mẹ: "Con lấy nó thì gia đình mình sẽ thành xí nghiệp in tiền, nó là giám đốc còn mẹ con mình thành kẻ làm công. Mẹ chịu chứ?" Cũng lại thôi luôn. Chị đã nói thẳng với con trai: "Con lấy vợ hay chưa muốn lấy vợ là việc riêng của con, việc một đời của con đừng có tính đến mẹ, đừng có hy sinh vì mẹ". Chị thở dài, gương mặt nhìn nghiêng, hơi cúi xuống, trong thoáng chốc như già đi hẳn. Năm tháng chả buông tha cho ai cả, lại là những năm tháng có bao nhiêu lo nghĩ:
- Một đời em chỉ có hai người đàn ông thân thiết, cả hai đều cho em uống mật đắng. Một ông chồng làm khổ em một đời vì những cái mộng hão huyền của ông ta. Một thằng con thì bắt em phải ân hận những năm tháng còn lại vì sự hy sinh vô lý của nó. Nói anh đừng cười, phụ nữ chúng em không thể sống chung với ma quỉ nhưng cũng không thích sống chung với thần thánh. Đằng nào cũng là mất tự do, mà cái phần tự do của bọn em đâu có bao nhiêu. Chị ngồi co chân ôm gối trên cái kỷ dài, vạt váy buông trùm kín bàn chân, vẫn hơi nghiêng đầu để một bên mái tóc cắt ngắn che nửa mặt, một dáng ngồi nũng nịu và quen thuộc từ ngày còn rất trẻ, rồi hát khe khẽ một trổ trèo cũng rất quen thuộc, hình như tôi đã được nghe nó một lần từ mấy chục năm về trước thì phải: Một mình thiếp tôi trằn trọc a...a...á...a ới...ới...a Như bình nấu nung Lửa tiêm kinh càng giập sao thiếp tôi í... ì... i càng nồng Thu phong bát ngát, giấc mòng cô đợi ai Gió thoảng đưa phảng phất ở cửa ngoài...
Tháng 11 năm 1995.
Anh Thanh Tịnh
Nguyễn Khải
Tháng Tám năm 1955, tôi và một số anh làm báo của nhiều quân khu và sư đoàn được Tổng cục Chính trị triệu tập về trại viết truyện anh hùng quân đội. Một buổi chiều chúng tôi được Phòng Văn nghệ quân đội mời họp để phân công những nhân vật anh hùng chúng tôi sẽ chia nhau viết về họ. Tôi ở quân khu Ba được giao viết nữ liệt sĩ anh hùng Mạc Thị Bưởi. Họp xong cả bọn đang đứng ở ngoài hành lang nhìn ngó, bàn tán, lính quân khu mới lên Tổng cục thấy cái gì cũng hay, cũng lạ, cũng muốn hỏi. Những người tôi muốn hỏi, muốn xem mặt nhiều lắm. Họ là những tác giả được bạn đọc trong quân đội ngưỡng mộ từ lâu, nhất là với chúng tôi đang tập làm báo: Vũ Tú Nam, Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm... Nhưng tôi chưa từng nghe tên Thanh Tịnh. Trong kháng chiến anh thường tới các đơn vị thuộc các đại đoàn chủ lực biểu diễn độc tấu, vừa là đọc thơ vừa là kịch độc diễn, là một loại nghệ thuật rất độc đáo, đứng đâu, ngồi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng có thể biểu diễn được, nghe nói được bộ đội rất hoan nghênh. Thơ văn của anh đến với quần chúng không qua chữ in, báo chí mà bằng con người, với tài kể chuyện, tài ứng khẩu nhưng những người ở xa như chúng tôi thì không được biết. Cho nên tôi mới thắc mắc khi thấy một ông bộ đội cao to ngoài bốn chục tuổi, có một chiếc răng vàng ở khóe miệng, lại đi đôi giày săng đá cỡ đại, đang kể chuyện gì đấy chắc là buồn cười lắm vì thấy mấy anh làm báo của sư đoàn 308 và 304 đứng vây quanh cười ầm ầm. Tôi bèn hỏi Phùng Quán, cũng là một nhân vật nổi danh của ngày ấy tôi mới được làm quen mấy bữa trước:
- Ông ấy là ai thế? Cũng là dân văn nghệ à?
Phùng Quán nhìn tôi như cậu phán toà sứ nhìn anh dân quê:
- Cậu thật không biết ấy là ai à? Cậu đã đọc truyện ngắn của Thanh Tịnh chưa?
À, Thanh Tịnh thì biết, hồi nhỏ có đọc mấy cái truyện ngắn Quê Mẹ, Ngậm ngải tìm trầm... và có thuộc mấy đoạn trong bài thơ Trường học làng tôi. Tôi vẫn nói hết sức ngớ ngẩn:
- Ông ấy là Thanh Tịnh à? Thanh Tịnh cũng ở trong quân đội à?
Với tôi ngày ấy một người đã già, đã ngoài bốn chục tuổi mà vẫn là bộ đội thì thật lạ lùng. Mười năm trong quân ngũ tôi chưa gặp một anh bộ đội nào, một cấp trên nào tuổi ngoài bốn chục cả ngoài các vị tướng.
Đầu năm 1957, Tạp chí Văn nghệ quân đội chính thức ra mắt bạn đọc miền Bắc, đặt trụ sở lại nhà số 4 phố Lý Nam Đế. Chúng tôi từ giã cuộc sống doanh trại ra ngoài phố ở, chỉ khi vào Thành họp mới mặc quân phục. Với đám lính trẻ như tôi, mười năm sống theo quân kỷ, đi đâu. Làm gì đều có đồng đội, bỗng chốc được mặc áo sơ mi trắng mùa hè, áo vét tông mùa rét, đạp xe lòng vòng mỗi sáng đi ăn phở, uống cà phê, ngồi bao lâu cũng được nếu như không có cuộc họp nào, cảm thấy sự tự do cho riêng mình là quá nhiều, vừa khoan khoái vừa bâng khuâng, nghĩ lại cuộc sống gò bó trước đây cũng hãi. Còn với Thanh Tịnh thì sao? Anh hơn chúng tôi gần hai chục tuổi, làm nghề tự do trước cách mạng, dạy học, làm báo, hướng dẫn du lịch, đi đâu làm gì cũng theo ý thích của riêng mình, dẫu đã có vợ con vẫn là một người hoàn toàn tự do. Người quen sống theo ý mình, sống tự do lại tình nguyện tòng quân (1949), sống với bộ đội suốt những năm tháng chiến, bây giờ hoà bình rồi vẫn cứ là "ông bộ đội" vẫn nằm giường cá nhân, ăm cơm tập thể là sao?
Đó là một thắc mắc của tôi về anh Thanh Tịnh.
2. Anh Thanh Tịnh là người viết truyện ngắn có tên tuổi trên các báo Phong Hoá, Ngày nay, Thanh Tịnh trước cách mạng, cùng thời với Thạch Lam, Hồ Dzếch nhưng anh viết ít hơn hai người kia. Tôi ngờ rằng văn chương đối với anh chưa phải là niềm say mê duy nhất, anh chưa hết lòng phục vụ nó, sống vì nó. Anh có quá nhiều sự đam mê. Nghề dạy học cũng là một cái mê, nghề hướng dẫn du lịch cũng rất mê, làm báo cũng quê, biểu diễn độc tấu và đóg kịch hình như anh mê hơn cả. Anh không thể sống một mình mà phải luôn có bạn bè, không thể làm việc trong lặng lẽ mà phải luôn đứng trước đám đông, sống trong đàm đông hò hát, nói chuyện vui và biểu diễn độc tấu. Suốt những năm đánh Pháp anh không viết được bao nhiêu mà đi là chính, sáng tạo ra nghệ thuật độc tấu vừa đi vừa viết vừa diễn. Anh nói với tôi bài độc tấu đầu tiên là bài Bắn cả hai, làm ở gần chùa Trầm vào mùa xuân năm 47. Chiến thắng sông Lô thì có bài Ai biết không sông Lô - Nơi nước sông xây mồ - Quân hung tàn tham hô (?) - Sông Lô! Hoan hô! - Ai biết không sông Lô - Nơi lũ quân hung đồ - Trời bập bềnh nhấp nhô - Sông Lô! Hoan hô! - Những bài thơ đọc trước trước đám đông, hiểu được ngay và được hưởng ứng tức thì. Tác giả hoan hô thì bộ đội đứng nghe có thể hô liền theo: hoan hô! người diễn và người nghe lập tức hoà làm một. Chỉ tiếc là đến nay chả còn mấy ai nhớ. Rồi anh diễn kịch, đóng vai đảo phủ trong vở Đề Thám xuất quân của Thế Lữ, rồi đóng vai mật thám trong vở Cụ Đạo và Sư ông do anh gợi ý và Thế Lữ dàn dựng. Thật tội nghiệp, người hiền lành vui vẻ thế toàn nhận các vai sát thủ!. Anh nói vui:
- Chả là người mình cao lớn, giọng nói lại vang to, dễ gây được ấn tượng khủng khiếp.
Thời trước đây đâu phải chỉ có một Nguyễn Tuân là thích xê dịch, giang hồ. Còn có Nguyễn Bính, Thanh Tịnh và mấy người khác nữa. Có điều Nguyễn Tuân đi đâu, ở đâu đều viết, nhất cử nhất động cùng mọi biến thái trong tâm hồn một lãng tử ông đầu dàn ra trên trang giấy, vần vò, mân mê, lộn trái lật phải từng chi tiết, từng cảnh huống trên cái thế giới riêng của cá nhân được mở rộng đến vô cùng. Nhưng văn của Nguyễn Tuân làm sao đọc trước đám đông được, đọc trước bộ đội sắp xuất kích được. Nó là cái thiệt của ông, để bù lại văn ông sống lâu hơn, ngày càng có nhiều bạn đọc hơn. Còn thơ độc tấu của Thanh Tịnh thì phục vụ rất đắc lực trong các chiến dịch, khiến ngừi lính vui thích hơn, hăng hái hơn, nhẹ nhõm hơn trước lúc bước vào trận chiến. Đó là cái được của anh, là sự sáng tạo độc đáo của anh nhưng cho đến nay mấy ai còn nhớ những bài thơ đó? Đến ngay tác giả cũng quên lời thơ của bài độc tấu đầu tiên của anh kia mà. Tôi nghiện ra, trong giới viết lách, anh nào ham nói, tức là lại nói quá hay, tức là cái nghệ thuật nói phát triển thì cái nghệ thuật viết cũng lụi tàn dần. Vì đã ham nói thì sẽ ngại viết lắm. Trong những năm làm chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội, công việc không thể nói là quá bận nhưng anh chỉ làm những bài thơ nhỏ, viết những mẩu chuyện ngắn, đọc thì rất thích nhưng sau lại quên. Làm báo cũng thích hơn ngồi viết vì nó là công việc của một tập thể, một tập thể trong toà soạn và một tập thể lớn hơn giữa tờ báo với bạn viết và bạn đọc. Còn viết luôn luôn là công việc lặng lẽ của một người, phải có thói quen sống một mình, ngẫm nghĩ một mình và dàn dựng, gọt giũa tác phẩm một mình. Có nhiều anh phải làm công việc quản lý trong nhiều năm, để tự trấn an thường nói:
- Để lúc có điều kiện rảnh rổi mình sẽ ngồi viết", tức là vẫn có thể viết chỉ cần có thời gian thôi. Rốt cuộc tới ngày được hoàn toàn rảnh rổi vẫn đạp xe đi chơi dài dài, một năm, hai năm, đã sáu bảy năm vẫn chưa bắt đầu được cái tác phẩm hằng ấp ủ. là do đã mất thói quen sống một mình, làm việc một mình rồi. Anh Thanh Tịnh cũng thế, khi đã thôi làm chủ nhiệm tạp chí để tập trung vào sáng tác anh vẫn thích đi đây đi đó, đến nhà người này người nọ, anh không đến thì bạn bè lại đến, lúc nào cái phòng riêng của anh cũng đầy ắp người, đấy ắp tiếng cười, mù mịt khói thuốc lá, vui như thế thì anh viết vào lúa nào?
3. Cuối năm 56, sau nhiều thất bại trong viết lách tôi đi Thái Bình, lúc về viết được truyện ngắn Nằm vạ. Nếu truyện đó được tạp chí chấp nhận vui vẻ thì tôi ở lại làm người viết chuyên nghiệp. Còn nếu bị trả hoặc bắt sửa thế này, sửa thế kia, phải chiếu có mới có thể dùng thì tôi xin trở về quân khu Ba làm nghề tuyên huấn là nghề cũ và nghề viết văn nghiệp dư. Anh Thanh Tịnh đọc bản thảo rồi nói ngay với tôi:
- Viết được đấy, Khải ạ. Có cái riêng rồi đấy.
Quả nhiên, toà soạn chấp nhận không chỉ vui vẻ làm mà còn khen là truyện viết tốt. Thế là qua được cửa ải ban đầu, từ người viết báo thành người viết văn. Sau đó tôi viết Xung đột cũng đưa anh Thanh Tịnh, anh Vũ Tú Nam đọc trước, vẫn nói là được. Tôi đã tìm ra cái vỉa viết của tôi và tiếp tục mở rộng cái vỉa ấy trong nhiều năm tới. Tôi là người thành công chậm so với bạn viết cùng lứa nhưng khi đã viết được vài cái bạn đọc và bạn nghề khen thì lại quên ngay điểm xuất phát của mình. Trong chuyện trò, trong nói năng nơi này nơi kia đã có chút ngạo khí, hình như vấn đề gì cũng có thể đặt bút viết được và viết cho hay cũng chả có gì là khó. Rồi tụ tập chê bai văn người này với văn người kia. Anh Thanh Tịnh nghe cả nhưng không nói gì, chỉ có một lần anh bảo tôi:
- Viết chưa hay là do chưa tìm được cái mạch riêng của mình, chứ là người cầm bút ai mà chả có một chút tài. Như Khải ấy...
Nghe mà ngượng chín mặt. Có lẽ trong những tật xấu của tôi anh Thanh Tịnh ghét nhất là cái nhận xét vội vã và quyết đoán về nhiều sự ở đời. Vì tôi còn trẻ, chưa từng trải nhiều, vốn hiểu biết xã hội chỉ là cái biết của một nhà văn đã được nhà nước và quân đội nuôi nấng đầy đủ, một năm vài lần vác bút đi tìm hiểu thực tế. Nó khác xa với một người phải tự nuôi mình, nuôi vợ con trong muôn vàn khó khăn, chìm nổi một đời người. Nên trong trang viết, trong chuyện trò thiếu hẳn sự đồng cảm, lòng rộng lượng, hẹp hòi, khe khắt một cách vô lý với đồng loại. Viết thế làm sao hay. Sống thế làm sao có bè bạn. Cho nên anh mới vừa cười vừa hỏi:
- Hình như chưa bao giờ Khải biết buồn là gì nhỉ?
Tôi vội vã trả lời:
- Biết chứ, đời em thuở nhỏ đâu có mấy ngày vui.
- Mình biết, Khải cũng đã từng nói nhưng thấm gì! Đời còn dài mà, rồi cũng sẽ biết thế nào là nỗi buồn của một đời người. Văn chương đích thực bắt đầu từ đó...
4. Vâng, đúng là phải sống nhiều, phải già đi mới biết thế nào là những cái buồn của anh Thanh Tịnh. Anh đã xa cuộc sống gia đình từ tháng 12 năm 46. Đầu tháng 12 anh từ Huế ra Hà nội dự Đại hội Văn hoá toàn quốc rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Từ Hà nội anh theo bạn lên Chèm Vẽ rồi từ làng Vẽ đến núi Trầm, từ đó cứ ngược lên mãi, hoà mình vào dòng người kháng chiến. Cuối năm 54 anh trở về Hà nội, những người có vợ con thì trở về xum họp gia đình, ăm cơm nhà, tới giờ làm việc mới đến cơ quan như những viên chức thời xưa. Riêng anh vẫn ở trong doanh trại, ăn cơm bàn dài, nằm giường dãy. Lũ chúng tôi, kẻ trước người sau cũng rời bỏ anh, rời bỏ cuộc sống tập thể, lấy vợ đẻ con với bao nhiêu lo lắng của đời thường. Anh là người xa vợ con lâu nên rất biết cái giá trị của những ngày được sống với vợ con. Chúng tôi tuổi còn trẻ, coi vợ con là cái nghĩa vụ ở đời, thoát được lúc nào là thoát, lại lăn vào với bạn bè cười đùa hò hét, nhiều đêm bỏ cả vợ con lên cơ quan ngủ cho vui, nói chuyện với vợ, đùa giỡn với con mãi cũng chán, còn trò chuyện với bạn thì mỗi ngày mỗi chuyện, niềm vui là bất tận. Anh Thanh Tịnh thường khuyên tôi:
- Những việc lặt vặt trong nhà cái gì làm được thì làm đừng dồn hết cho vợ, đừng xem đó là nghĩa vụ mà là niềm vui. Nhiều người mong có mà đâu được.
Từ tết năm 47, Tết đầu tiên của toàn quốc kháng chiến, anh Thanh Tịnh chưa bao giờ được ăn tết với gia đình. Một nửa nước được độc lập anh vẫn ăn tết với bạn bè, tối 30 lập bàn thờ trong phòng làm việc, có bánh chưng, hoa quả và một cái lọ cắm nhang, nhang thắp suốt mấy ngày tết. Cả nước độc lập anh vẫn sống một mình ngoài Hà nội, ăn tết một mình với bè bạn và lũ đàn em chúng tôi. Vợ anh đã đi lấy chồng từ nhiều năm trước, con gái định cư ở nước ngoài, con trai cùng vợ con sống ở Nha Trang nhưng anh chỉ về thăm con cháu một năm vài ngày rồi lại đi chứ không ở với con, dầu anh đã nghỉ hưu rồi. Anh đã mất thói quen sống với gia đình, sống với con cháu.
Khi anh đau nặng tôi ở xa, chỉ được nghe kể lại, cùng nằm chung phòng với anh có một đại tá bị xuất huyết não nhẹ. Sáng trưa chiều tối, ngủ lại đêm trông nom là một đại gia đình: nào vợ, con trai, nào dâu rể, cháu nội, cháu ngoại bâu quanh lấy cái giường theo dõi từng nhịp thở, từng tiếng rên của ông chủ gia đình. Còn bên giường anh Thanh Tịnh, lúc có người thăm thì ồn ào một dãy, sau đó là vắng lặng, mọi sinh hoạt của người bệnh đều phải nhờ cậy mấy cô hộ lý và mấy đức cháu con một người bạn. Bạn bè, đồng chí, đồng đội, đồng hương, đàn em đều rất thương rất quý ông thầy, ông anh, người bạn nhưng một tuần đến thăm một lần là đã quý hoá lắm. Làm gì có ai tình nguyện ở lại, là chuyện tự nhiên mà. Vẫn nghe nói trước khi mất anh có đọc một câu thơ với ai đó, một câu thơ nhứt buốt về những ngày cuối của một tuổi già: Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân (Đường nhỏ gió lạnh thổi dồn vào một người).
Anh Thanh Tịnh ơi! Thì ra anh vẫn rất buồn ư? Ngoài mặt thì anh luôn luôn cười, thích nói vui, nói tếu để bạn bè cười, đàn em cười, mình cũng được cười theo nhưng trong lòng thì buồn lắm, buồn đến nẫu ruột.Bạn viết cũ
Nguyễn Khải
Khi ông già đó tới toà báo lần thứ ba thì các nhân viên ở Ban Trị sự của báo đưa mắt nhìn nhau, có ý hỏi: nên nói với ông ấy như thế nào để ông khỏi đến nữa. Nhìn tướng ngoài ai cũng biết ông là một cán bộ Nhà nước đã nghỉ hưu, mặt mũi hiền lành, nhẫn nhục, nhìn ai cũng như hơi mỉm cười, cái cười làm quen, cầu thân của nhiều người già. Tất nhiên không phải là một người già của Hà nội. Ông mặc cái áo dạ đen dài gần chấm gối, đã bạc đã cũ, quần ka-ki mầu xám và đi đôi giầy vải, đế cao su đen, luôn ôm bên người một cái cặp da căng phồng. Lần đầu hỏi, ông đến có việc gì, ông trả lời ấp úng:
- Tôi chờ một người bạn.
Những người như thế đến toà báo chờ một ai đó cũng là thường, ngày nào chả có. Nên không ai hỏi thêm. Ông ta ngồi khoảng chừng một tiếng, nhìn ai cũng như có hơi quen biết, khẽ nghiêng đầu và cười mỉm, những người kia cũng gật đầu chào lại, vẻ mặt thản nhiên vì họ đâu có biết ông là ai. Lần thứ hai cách đó vài ngày, ông cũng vẫn chào mọi người rất lễ phép rồi ngồi vào cái ghế đẩu kê ở góc phòng khách. Nhân viên toà báo tới mời ông ngồi ghế có lót bọc và rót một tách trà mới pha. Ông chỉ hơi nhổm người cảm ơn rồi vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, vẫn nhìn chăm chú tất cả, những bức tranh treo trên tường và những nhân viên mặc sang trọng đang làm việc ở phòng bên qua lớp kính, nhìn chăm chú lắm, nếu không có nụ cười hiền lành thì cái sự chăm chú ấy là rất đáng ngờ. Lần này là lần thứ ba, mấy người của báo còn chưa biết xử trí ra sao thì một anh trong Ban Biên tập đi ngang qua biết chuyện liền bước vào nói với ông già rất lễ phép:
- Thưa bác, bác đến báo đưa bài, hỏi bài hoặc cần gặp ai để cháu giúp?
Ông lão nhìn người hỏi rất thân thiết, nói nhỏ nhẹ:
- Tôi chờ gặp mấy người quen cũ.
- Thưa bác, là những anh nào ạ?
- Anh Vũ Tú Nam còn làm ở đây không?
- Chắc đã lâu lắm bác không đến báo, chú Vũ Tú Nam từ lâu không làm ở báo nữa ạ.
- Thế anh Nguyễn Văn Bổng?
- Bác Bổng cũng về hưu lâu rồi ạ.
Quả thật ông này chả hề biết một tí gì về Hội nhà văn những năm gần đây. Là hội viên thì không phải rồi mà cũng không thể là người Hà nội. Người Hà nội đã là trí thức như gương mặt ông này, dẫu làm những nghề chả liên quan gì đến viết lách vẫn biết mọi sự đã xảy ra ở Hội nhà văn, nhiều người con biết rành rẽ hơn các hội viên ở xa nữa. Ông này là ai nhỉ? Chưa kịp hỏi gì thêm thì người kia đã nói tiếp, thì thào, thủ thỉ, lại như có chút xúc động trong giọng nói thì phải. Anh nhà báo vừa nghe vừa đưa mắt nhìn qua cánh cửa sắt, hình như anh cũng đang chờ ai tới, lỡ bước vào hỏi một câu, không chừng phải ngồi với ông này cả giờ.
- Cách đây đã mấy chục năm tôi còn là cộng tác viên của báo, thỉnh thoảng cũng có một truyện ngắn được đăng. Mỗi lần đến toà soạn các anh ở báo coi như người trong nhà.
Anh nhà báo cười gượng gạo, mắt vẫn đảo nhìn ra ngoài:
- Cái năm ấy chắc bọn cháu còn đang học tiểu học.
Ông già lại nói:
- Một đời người nghĩ cũng nhanh, anh nhỉ? Chỉ mới đây thôi mà đã là một kiếp khác rồi.
Người tiếp chuyện vẫn cười gượng ép, trả lời lấy lệ, mắt vẫn nhìn nhớn nhác nơi khác:
- Vâng, vâng đúng thế.
Người kia lại nói:
- Cũng còn may đường phố này, cái nhà này tuy thay đổi nhưng vẫn là nó, nhìn từ xa tôi vẫn nhận được ra nó. Có điều cái nhà cũ thì thấp và tối, bây giờ thì cao hơn nhiều, nhìn vào đâu cũng sáng.
Anh nhà báo đứng vội lên, cáo lỗi:
- Cháu có việc phải ra ngoài, bác cứ ngồi đây chơi, có ai hỏi bác cứ bảo đợi cháu có việc, cháu là Nhật Vinh.
Ông già cũng đứng lên theo, nắm lấy tay anh nhà báo, chắc cũng là nhà văn, nhà thơ gì đây, đã hiểu rõ nỗi lòng của ông, đã đưa tay ra để ông có cớ trả lời, có cớ ngồi lại, có cớ đến nữa.
2
Truyện ngắn đầu tiên anh viết năm anh mới 35 tuổi. Năm ấy anh là cán bộ tuyên huấn của nông trường Mộc Châu sau 15 năm là lính. Vợ anh là cô giáo dạy văn cấp 3 ở Hà nội. Vợ chồng anh đã có hai con, một trai một gái, trai lên bảy, gái lên năm. Anh về Hà nội học Nghị quyết của Trung ương và dự một số cuộc họp của Bộ Nông trường khoảng nửa tháng. Trong nửa tháng, ngày đi họp, tối về trông con gái đang lên sởi để bà ngoại được nghỉ, vừa đặt bút viết thử một truyện ngắn về một cặp vợ chồng ở nông trường. Mối tình của họ cũng gần giống như mối tình của vợ chồng anh hồi mới quen nhau thời còn đánh Pháp. Họ sống với nhau, thương yêu nhau, cãi cọ nhau, nuôi dạy con cái cũng giống hệt gia đình anh nhưng vui hơn, lắm chuyện hơn và có nhiều chuyện buồn hơn. Viết về người như viết về mình, lại có khoảng cách vừa phải để ngẫm nghĩ, để ngắm nghía nên anh viết rất nhanh, hơi văn tự nhiên, chân thật, có đoạn tự mình bật cười thành tiếng, có đoạn cũng muốn ứa nước mắt. Đêm viết mấy trang cuối thì con bé đã hết sốt, mụn sởi đã mọc xuống chân, đòi ăn cháo và đêm ngủ rất ngoan nên cái mừng của người cha trông con đau sắp khỏi cộng với cái mừng của người viết đã lia bút tới phần kết khiến ngòi bút như bay trên trang giấy, nhìn không còn rõ nét chữ nữa. Vợ anh nằm ôm con trong chăn, lát lát lại mở choàng mắt, hỏi bằng cái giọng ngái ngủ:
- Anh định viết hết đêm à?
- Ừ, viết cho xong để lây nhây sốt ruột lắm.
Vợ cười khẽ sau lưng con:
- Nói cứ như ông nhà văn thực thụ.
Chồng cười nhưng vẫn không ngừng tay:
- Biết đâu đấy! Cô đừng có cười mà rồi hối!
Giọng của vợ đã tỉnh hẳn nhưng vẫn là giọng đùa:
- Thì bố em đã nói em có số lấy chồng là văn nhân mà.
Trước ngày về nông trường anh đèo con trai đến toà báo Văn nghệ để gửi bài. Trong thư ghĩ rõ địa chỉ mà cả tháng sau vẫn chưa nhận được thư trả lời được hay chưa được. Tết được về Hà nội một tuần ăn tết với vợ con, trời rất rét vẫn đèo con trai phía sau lượn lại trước toà báo mà chưa quyết định được dứt khoát là nên vào hỏi hay không nên vào. Vì cũng sợ nếu nhà báo trả lời là chưa đăng được có phải mất vui cả mấy ngày tết không. Hy vọng thêm một ngày vẫn tốt hơn là thất vọng hoàn toàn. Thằng bé lên bảy, học lớp hai nhưng đã rất khôn, nó ngồi phía sau hỏi:
- Tại sao bố không vào hỏi bài của bố? Bố sợ các bác ấy mắng à?
Anh không trả lời, nó lại hỏi:
- Bố buồn à.
Anh phì cười:
- Hai con khỏe và ngoan là bố vui lắm.
Rồi anh nói thêm, chắc thằng bé chưa thể hiểu:
- Bố vui buồn vì các con chứ ai lại buồn vui vì cái chuyện văn chương vớ vẩn.
Truyện ngắn ấy được toà soạn xếp vào loạt truyện dự thi truyện ngắn hay của báo năm 60, khi kết thúc nó được Ban giám khảo tặng giải Nhì. Cô vợ bảo chồng:
- Đọc trên báo hay hơn đọc trên bản viết tay nhiều. Các bạn em phục anh lắm, không chừng anh thành nhà văn thật cũng nên.
Anh chồng vênh bộ mặt đầy râu, nói tỉnh bơ:
- Chồng nói không tin lại thích tin người ngoài.
Trong mười năm hầu như năm nào anh cũng có một hoặc hai truyện ngắn đăng trên báo. Tên anh đã được chờ đợi trong giới văn của Hà nội và những người yêu thích văn học trong ngành giáo dục. Các con lớn dần lên, nghĩ là đã đến lúc nhàn nào ngờ vợ anh mỗi năm một yếu đi vì chứng bệnh nan y của phụ nữ. Dẫu đau yếu chị vẫn không bỏ dạy, vẫn chăm lo mọi việc để người chồng đỡ phải đi về nhiều lần Mộc Châu - Hà nội. Anh đã ngoài bốn chục tuổi, thuở trẻ anh có đủ thứ bệnh, toàn là những bệnh do chiến tranh để lại. Càng có tuổi các bệnh cũ như mất dần, mười năm không ốm một ngày nào, không đi bệnh viện một lần nào, vào bệnh viện chỉ để trông vợ ốm với con đau. Ở nông trường thì việc Nhà nước, việc nhiều người ít, làm đủ mọi việc, không còn thì giờ ngồi ăn ngồi thở. Về nhà thì việc gia đình, vợ vừa bận vừa ốm đau, những công việc lớn trong nhà đều phải đợi người đàn ông về thu xếp. Giọi nhà, quét vôi, làm lại đường dây điện, làm gác xép cho con lớn có chỗ ngồi học, khách đến có chỗ ngủ qua đêm. Đường từ Mộc Châu về Hà nội có lần đi xe của nông trường, nhiều lần chỉ đi xe đạp, cái xe không chắn bùn, không chắn xích, không chuông, không cả phanh, trần trụi, gày guộc như ông già cởi truồng, đèo lặc lè phía sau nào gạo, nào ngô, đỗ, khoai đã xắt mỏng phơi khô, phía trước thì các bị cói lớn nhỏ nhét đầy cà mèn đựng mỡ, thịt rừng đã sấy khô, măng khô và cả ớt đã nghiền thành bột phơi khô. Phần của anh có một ít, phần mua lại của anh em một ít, Hà nội cái gì chả có nhưng đắt; đặc sản của rừng lại càng đắt. Tất cả những nông nỗi ấy, những tính toán ấy đều vào truyện của anh cả. Những nhân vật của anh người nào cũng vất vả, cũng có bao nhiêu lo nghĩ, toàn những lo vặt vãnh của đời thường nhưng không ai buồn, không có ai mất lòng tin vào ngày mai, cái buồn cái khổ và bao nhiêu hy vọng hư có thực có như chảy vào, thấm vào mỗi trang giấy viết, thấp thoáng giữa những dòng chữ, trong từng con chữ nên câu văn, chữ dùng chả có gì là đặc sắc, là hiếm quý mà vẫn quyễn rũ người đọc. Đọc chuyện của người mà như được nhìn lại đời mình, lại là một cái nhìn đã tỉnh táo, đã vượt khỏi cái bề bộn, vật vã của mỗi ngày để nhìn được xa hơn, cao hơn, nhẹ nhõm hơn.
4
Trong 17 năm anh viết được khoảng hai chục truyện ngắn và bút ký. Truyện đầu tiên anh viết trong một đêm có tiếng nói mê của con lớn, tiếng khóc u ơ của đứa nhỏ và cái giọng ngái ngủ của vợ lát lát lại giục anh ngừng viết để vào nằm với hai con. Mười tám năm sau, năm 78 anh viết truyện ngắn "Tiễn con đi xa", chưa nghĩ tới chuyện gác bút không dè lại là cái truyện ngắn cuối cùng. Anh vẫn ngồi viết trong gian nhà cũ, trên cái bàn mộc kê giữa hai cái giường đôi. Cái bàn đã trở lại mặt mộc của tấm ván ép hai góc bàn mép ván đã bật khỏi đinh đóng vênh cong lên. Vẫn là đồ đạc cũ, không thêm một cái gì. Chỉ có thêm cái bàn thờ đóng ở phía trên bàn viết, đặt ba tấm hình lồng trong khung kính, hình giữa là mẹ vợ, hình bên trái là vợ, hình bên phải là con trai. Ba thế hệ đều buồn bã chứng kiến người đàn ông tóc đã bạc sớm sống lủi thủi trong gian nhà trở nên quá rộng, nấu một soong cơm nhỏ, kho một niêu cá nhỏ và ngồi ăn một mình, ngủ một mình và đêm viết một mình. Anh vẫn ngồi viết tới khuya bên cái giường trống vẫn chưa buông màn, không có tiếng động nào ngoài tiếng ngòi bút sắt cạo soàn soạt lên mặt trang giấy xấu.
Năm 70 con trai anh 17 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học phổ thông nhưng không thi vào đại học mà muốn tòng quân làm nghĩa vụ người trai thời chiến. Nhà con trai một, thằng bé lại tháo vát và học giỏi, đã có thể thay bố làm ông chủ nhỏ của gia đình. Đi rồi về lại học cũng chả sao. Chỉ sợ có đi mà không thể về thì cái phần còn lại của gia đình sẽ phải sống như thế nào? Mẹ nó nói thế rồi khóc. Người bố cũng nghĩ thế nhưng anh đã là người lính thời đánh Pháp, anh lại còn là người viết, anh sẽ còn dám viết gì tiếp nếu anh không ủng hộ một nguyện vọng rất đẹp của lứa tuổi nó khi đất nước còn chưa dứt tiếng súng? Nên anh đã nói, hãy để con tự quyết định, nó có danh dự của nó, của thế hệ nó, không một ai có quyền ngăn cản, kể cả bố mẹ. Thằng bé lên đường đầu năm 71, qua thư gửi nó đã có mặt ở nhiều chiến trường, tới tháng 3 năm 1975 thì nó hy sinh ở Plây Cu. Tin thằng bé hy sinh mãi cuối năm 1975 gia đình mới biết. Mẹ nó đã không còn đủ nghị lực để chống chọi với bệnh tật của mình, nằm liệt khoảng hai tháng rồi mất giữa năm 1976. Bà ngoại nó mất vào cuối năm mới 70 tuổi. Cuối năm 1977 con gái đi lấy chồng. Hai đứa yêu nhau từ những năm còn học ở trường trung cấp sư phạm. Khi chúng nó xin với anh được làm hôn lễ vào cuối năm, cũng là cưới chạy vì mẹ chồng đang đau nặng, khó mà sống qua được vụ rét, anh cũng giận. Nhà đang có bao nhiêu là chuyện buồn mà con gái chỉ nghĩ đến cái vui riêng của nó sao? Nghĩ thoáng thế rồi lại tự nhủ, mình là người viết văn, dẫu viết nghiệp dư vẫn là người viết, thì không thể nghĩ nông cạn như mọi ông bố khác được. Mỗi lứa tuổi đều có cái vui cái buồn riêng, không hoàn toàn giống nhau. Những buồn vui của tuổi trẻ đều hướng về tương lai, hướng về đoạn đời còn lại của chúng nó. Con gái chọn chồng còn quan trọng hơn đứa trẻ chọn cửa để sinh ra. Chọn cửa sinh là ông giời chọn, hay giở cũng chỉ trong khoảng mươi lăm năm. Còn chọn chồng là tự mình chọn, hay dở phải chịu suốt một đời người. Mình buồn rồi mình chết, không sao cả. Buộc con gái phải buồn theo mình để lỡ mất vận may, ai sẽ san sẻ với nó những cái đau khổ sau này? Lúc đầu cả hai đứa đều có vẻ sợ vì mặt bố trở nên ngỡ ngàng, căng thẳng. Tự chúng cũng cảm thấy có lỗi vì đã nói cái chuyện riêng của chúng nó vào cái lúc rất không nên nói. Nhưng chỉ một lúc sau các nếp nhăn trên mặt người bố như dãn dần ra, ông nhìn hai đứa rất âu yếm rồi nói nhỏ:
- Bố bằng lòng. Còn một tháng nữa, phải không? Chỉ tiếc nếu mẹ còn sống thì chúng mày cũng đỡ vất vả.
Anh đã viết đúng như thế, không thêm bớt một tí gì, nghĩ là một chuyện buồn nhưng lại không hẳn là buồn, một nhà phê bình đã viết thế. Người sống vẫn phải tiếp tục sống với những công việc của hôm nay, của ngày mai. Trong cái vui lấp ló nhiều cái buồn vì chiến tranh vừa kết thúc, vết thương chưa kịp kín miệng nhưng những người còn sống buộc phải cười, phải vui với cái đang tới.
5
Khoảng vài ngày sau, ông già mang cặp, bạn viết lâu năm của báo, lại lò dò đến. Lần này không đợi ai hỏi, ông đến trước một nhân viên của báo nói thầm thì:
- Xin chị tha lỗi, tôi muốn được gặp anh Nhật Vinh.
Một lát sau Nhật Vinh từ trên lầu chạy xuống, thấy ông già đang ngồi chờ ở phòng khách, anh hỏi mừng rỡ như họ đã quen nhau từ lâu:
- Bác chờ cháu đã lâu chưa?
Ông lão đứng dậy:
- Thưa, tôi cũng vừa tới, tôi đến để chào anh, ngày mai tôi về dưới tỉnh.
Nhật Vinh nói:
- Sáng nay cháu rỗi, hai bác cháu ta ra quán uống ly rượu chia tay.
Nhật Vinh gọi hai ly cô nhắc Pháp và một đĩa gỏi ngó sen. Ông già hớp một chút rượu vẫn cầm ly trên tay, lòng mắt đã bạc nhìn mông lung ra phía đường. Nhà báo trẻ hỏi:
- Lần này bác có gửi cho báo truyện mới nào không?
Ông già đặt ly rượu nói ngậm ngùi:
- Tôi viết không được nữa anh ạ. Xưa kia tôi sống vội vã, căng thẳng với rất nhiều dự tính, nhiều hy vọng, chả là mọi sự mới chỉ bắt đầu. Có ý tưởng gì hay là viết được ra liền, câu chữ đuổi nhau ở đầu ngòi bút, ngăn không nổi, chữ nào cũng tươi, cũng xanh như mới được dùng lần đầu... Còn bây giờ, tôi hoàn toàn tự thả lỏng, dập dềnh nửa thức nửa ngủ, trôi theo con theo cháu, không phải lo bất cứ việc gì, cũng không hy vọng cho riêng mình bất cứ cái gì. Đã nghĩ người không còn gì để lo, không còn việc gì để làm, rỗi rãi cả ngày cả tháng thì ngồi viết bao lâu cũng được, ngồi viết cả năm, cả nhiều năm cũng vẫn được. Nào ngờ không còn chữ để viết, chúng đã trốn đâu mất sạch. Chỉ viết được đoạn mở đầu, chuyện nào cũng chỉ viết được vài dòng mở đầu. Sao thế nhỉ? Mãi lâu về sau tôi mới hiểu, khi mình không còn gì để buồn, để lo, để hy vọng nữa thì chữ nghĩa cũng héo dần, chết dần. Bây giờ thì chúng đã chết cả loạt rồi, chúng chết trước tôi mới đau chứ!
Khi Nhật Vinh hỏi, hai bác cháu còn cơ hội gặp nhau lần nữa không, thì ông già nhấp nháy nhìn anh, trong mắt như có ngấn nước:
- Chắc là không bao giờ. Tôi đã ngoài bẩy chục rồi, dẫu còn sống cũng khó có việc buộc được tôi lên Hà nội lần nữa. Tờ báo của các anh ấy mà, nó gói ghém nhiều đời người nhiều đời văn lắm đấy. Những đời văn thăng trầm, vất vả của một cái nghiệp làm người. Không có những cuộc đời ấy đổ vào cho báo làm sao nó sống được tới tận hôm nay.
Ông lão đã đi được một lúc nhà báo trẻ mới chợt nhớ anh chưa từng hỏi tên ông ta. Ông ta tên gì nhỉ, có bút danh là gì nhỉ, đã viết những truyện ngắn nào nhỉ? Vì anh không hỏi nên ông già cũng không nói. Một bạn viết có một lai lịch hơi đặc biệt đã chạm vào tay nhưng anh đã không nắm giữ lấy nên ông ta lại lặng lẽ chuồi đi vào cõi vô danh.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 2-1998
Bắt đầu từ một câu nói
Nguyễn Khải
Tháng chín năm 1996.
Đầu tháng 5 năm 75 tôi vào Sài gòn vừa được giải phóng sau đó mấy ngày. Ngay trong tuần đầu, nhờ một may mắn rất tình cờ, tôi đã tìm được nơi ở của bố mẹ già. Lúc từ biệt bố mẹ, tôi chỉ là thằng trẻ con mới 15 tuổi, nay gặp lại đã là một trung niên vừa bằng tuổi ông già ngày tôi ra đi. Ba chục năm, hai cuộc kháng chiến, bao nhiêu đổi thay trọng đại của một đất nước, một đời người.
Là một nhà văn được sống, được chứng kiến cái khoảnh khắc sáng chói nhất của lịch sử dân tộc trong gần hai thế kỷ quả là một ân huậ vô song. Huống chi trong cái chuyển đổi mênh mông của lịch sử lại có cái đại gia đình mình trong đó, như cái lăng kính hội tụ những yếu tố khó nắm bắt thành những tình huống, những con người, những câu chuyện có tầm vóc nhỏ hơn nhưng cô đọng hơn; cái có thể hiểu bằng lý trí, bằng phân tích thành những mối quan hệ gia đình, quan hộ tình cảm khiến mình dễ hoà tan trong những xúc động mới lạ, đột ngột. Và chỉ những vui buồn riêng, cái tâm sự riêng với bao nhiêu nỗi niềm chất chứa, dồi nén từ nhiều chục năm mới có cơ hội hoá thân thành Nghệ thuật. Nói thế nhưng mà khó. Trong mấy năm tôi đã thu thập được rất nhiều tư liệu quí hiếm, đã hiểu thêm nhiều người nhiều việc nhưng cái giây phút hoá thân để có thể bắt đầu lia ngòi bút lên trang giấy vẫn chưa tới. Cái giây phút thiêng liêng để một người phàm tục thành một nghệ sĩ, cái nhìn u u minh minh bỗng chốc được chiếu sáng để thấu rõ cái lẽ huyền vi của mọi sự ở đời. Chắc là đạo quả còn non, công tu còn thấp nên chưa tới được cái Ngộ chăng? Không có cái Ngộ nếu cố viết cũng chỉ là một đống tư liệu được tãi ra, rối rắm, mờ mịt, chỉ là người phàm tục kể lể dông dài những chuyện vô nghĩa của đời thường, làm sao tác động tới cái phần bí ẩn, thiêng liêng của bạn đọc. Không có giây phút sáng tạo nhiệm màu ấy thì sẽ không biết bắt đầu từ đâu. Bắt đầu từ chuyện chị Hoàng chăng? Nhưng cách vào chuyện sẽ phải như thế nào, cái lõi, cái hồn của nó là ở đâu? Chịu! Bắt đầu tờ chuyện vợ chồng bà Đại chăng? không thể phát triển được, sẽ bị cuốn tròn trong cái luẩn quẫn. Hoặc từ chính gia đình của tôi chăng? Ôi! Cũ kỹ lắm, thiên hạ viết chuyện gia đình cũng hơi nhiều, rất khó tránh sự lặp lại ở mức độ thấp. Vẫn liều viết. Viết rồi xoá. Nản quá. Hết sức nản. Tài hèn mộng lớn là khổ! Miếng ngon kề miệng mà nuốt không trôi là thế. Mình thì cố nuốt chứ bạn đọc sẽ nhanh chóng nhè ra. Tôi tần thần, vật vã cũng đến mấy năm, viết kịch, viết ký sự, viết truyện ngắn thì được nhưng đặt bút viết cuốn tiểu thuyết mong đợi chỉ được một hai chương là phải bỏ. Chả đâu vào đâu, người và việc cứ rời ra trong sự gắn bó ép buộc, giả tạo. Đến câu văn cũng hẫng hụt vì hình ảnh không gọi nhau, chữ nghĩa không gọi nhau.
Mãi cho đến một chiều rất buồn và hơi lạnh của tháng cuối năm, tôi ngồi gẫu với một bà chị cũng rất thích tán là chị Hoàng, trong cái phòng khách tồi tàn, ngổn ngang như sắp dọn. Chị hơn tôi 16 tuổi, sinh con từ năm 17 nên con trai lớn của chị là tiến sĩ Luật đang sống ở Pháp chỉ kém tôi có một tuổi. Hai chị em đã nói đủ thứ chuyện, cũng là nhắc lại chuyện cũ thôi thì chị chợt bảo:
- Các cậu đừng tưởng có thể thắng được bọn mình hoàn toàn, đừng tưởng chúng tôi rồi cũng phải chịu chung sống với các anh. Tao không chấp nhận, tao sẽ có cách phản đối của tao. Một cách chống đối chỉ có thắng chứ không có thua.
Tôi tủm tỉm cườj, hỏi lại:
- Bà có bản lãnh lớn đến vậy sao?
Chị cười khẩy:
- Đã muốn làm là làm được. Chỉ chưa muốn mà thôi.
Tôi vẫn cười, hỏi tiếp:
- Có thể nói nhỏ với em cái cách chống trả của chị không hay phải giữ bí mật?
Chị cũng cười:
- Một âm mưu có thể nói công khai mà không sợ bọn mày còng tay nhốt khám Chí Hoà.
- Khó hiểu nhỉ!
Thấy vẻ mặt căng thẳng của tôi chị phì cười:
- Mày nghĩ thế nào được, để tao nói cho. Chỉ một vỉ thuốc ngủ thôi, chiến trận diễn ra trong vài giờ, sau đó là kết thúc. Và tao sẽ thắng.
Tôi cười to:
- Sao nà không làm, làm luôn từ năm 75 ấy.
Chị ngồi thừ mặt một lúc lâu rồi nói nhỏ hẳn:
- Vì tao cũng sợ. Tao không sợ cái chết nhưng tao sợ cái xác chết của chính tao.
Chị nói thế là thật lắm, vì chị có tính nhát, đặc biệt là nhát ma. Thuở còn con gái, chị thích nằm một mình nhưng không bao giờ dám quay lưng ra khoảng trống phía ngoài. Lỡ có một cái mặt quái dị nào đó đang cúi xuống nhòm mình lúc ngủ thì sao? hoặc lại đập nhẹ lên lưng thì sao? Cho nên luôn luôn phải có một vú già hay một vú em trải chiếu nằm dưới để lấp kín cái khoảng trống đáng sợ đó. Chị rất thương bố tôi, khi ông cậu mất, chị có mặt ngay lúc ông già vừa tắt thở nhưng chỉ dám đứng ở phòng ngoài liếc nhìn vào trong mà khóc. Bà cụ sinh ra chị mất, chị cũng không dàm lạ gần nhìn mặt mẹ lần cuối, cứ đứng sau lưng các em khóc, vì nhìn mặt người chết thì sợ lắm. Người khác chết còn sợ huống hồ chính mình bỗng chốc biến thành xác chết. Nên đành phải sống vậy. Tôi cường ha há, cười đau cả bụng vì cái âm mưu quyên sinh cùng với nỗi sợ quái gở của chị, cứ như một trò đùa, và bất chơt một vệt sách lóe lên, trong cái ánh sáng hư ảo ấy một hình người, chính là chị Hoàng chít khăn vành dây, mặc áo gấm, đi hài nhung với cặp mắt trống rỗng và nụ cười ngớ ngẩn của người đã chết thấp thoáng bước qua. Lịch sử, đời người, thời gian như cùng một lúc hiện lên với bước chân bập bềnh, trôi nổi của chị. Và nghe rõ cả tiếng cười giễu cợt, hả hê của Con Tạo tiễn đưa một lớp người vào quá khứ. Tất cả hiện ra rõ rệt một cách lạ lùng trong khoảng khắc. Hình như tôi đã ngồi yên lặng khá lâu, mắt nhìn vào vô định, miệng hơi há ra, ngây ngô, thất thần như người bị trúng gió nên chị Hoàng phải hét lên:
- Khải, mày làm sao thế? Cái mặt của mày nhìn ghê quá, nhợt trắng ra kìa!
Tôi còn ngồi lại một lúc lâu nhưng không nói thêm gì rồi lặng lẽ đứng dậy đạp xe về nhà. Ngay đêm đó trong vài giờ tôi đã viết xong được mấy trang đầu của cuốn tiểu thuyết tôi hằng mong đợi, chính là cuốn Gặp gỡ cuối năm hay gặp gỡ sau ba mươi năm mà nhiều bạn đã có dịp đọc.
Bảy đô một đêm
Nguyễn Khải
Đêm đầu tiên
Anh rút từ trong túi du lịch ra cái màn và hai cái chăn len, một để trải thay chiếu, một để đắp. Thoảng một mùi nắng thoáng trong trụ sở đóng kín.
Vừa loay hoay tìm cách mắc màn anh vừa cố nhớ xem lần cuối cùng anh phải tự chuẩn bị chỗ ngủ cho mình là hôm nào.
Nhưng anh không nhớ.
Còn từ đêm nay, anh sẽ phải tự lo chỗ ngủ, lo cho những giấc ngủ không bình thường của mình. Không bình thường vì...
Anh nhớ mãi hôm ấy, khi người ta đề nghị với anh: ngủ trực tối tại trụ sở với giá bảy đô một đêm.
Trước cái giá ấy mẹ anh bảo: "Mẹ có thể ngủ ở đó cả đời". Bà đã từng gần trọn đời tần tảo kiếm từng hào nuôi các con.
Còn bố anh thì định nói gì nhưng lại thôi, chừng như không muốn phật lòng mẹ.
Thằng em buông lơ lửng: "Ngủ ở đâu chẳng là ngủ. Một đô em cũng cân".
Vợ anh là dâu nên chọn sự im lặng. Đêm, anh gặng hỏi mãi, cô mới thì thào: "Em thấy ngài ngại thế nào ấy".
Đêm tiếp theo
Đêm thì đen mà sao cái nhà riêng tương lai của anh lại hiện ra rõ thế. Nó vừa to vừa đẹp... vừa đầy đủ tiện nghi loại "xịn".
Anh nhẩm tính xem bao giờ thì cái biệt thự ấy đậu xuống được đến đất.
Năm nay anh hai bẩy, cộng...
Đêm thứ m
Anh những tưởng sẽ chỉ được lặp đi lặp lại một câu chuyện của hai vợ chồng qua điện thoại từ lâu đã trở thành nhàm chán:
"Anh vẫn thế". Em vẫn lau chùi nhà cửa, đồ đạc cả ngày và đưa đón con đi học".
Nhưng hôm nay câu chuyện qua điện thoại của vợ chồng anh bỗng thay đổi hẳn đề tài: "Em thấy mình như con chó trông nhà. Anh về". "Gắng thêm một thời gian nữa em ạ. Nghỉ là mất suất ngay. Anh cũng thèm ở nhà lắm chứ. Nhưng ta phải tận dụng cơ hội". "Lỡ cơ hội ấy kéo dài cả đời thì sao? Em nghĩ nhà mình thế là đủ lắm rồi. Em sẽ đi làm".
Đủ.
Biết thế nào là đủ? Vớ vẩn.
Tối thứ n
"Cô thật vô ơn, sướng không biết đường sướng". "Hai mẹ con em sẽ về bà ngoại. Em bàn giao luôn đồ đạc cho anh". "Cô đừng doạ tôi. Cô có biết tôi phải mua cái buổi tối cãi nhau này giá bao nhiêu không? Tôi phải thuê thằng bạn mười lăm đô đấy", "Em không quan tâm đến bảng giá của anh", "Còn cô, cô tưởng cô cao giá lắm sao? Không phải đi làm, quần áo muốn gì có nấy, chưa biết thế nào là hết tiền, cô còn muốn gì nữa?", "Em muốn, em muốn...", người phụ nữ bật khóc. "Đàn bà đúng là khó hiểu và không biết điều!".
Đêm đầu tiên ở lại nhà
Ở nhà mình mà anh thấy lạ nhà, khó ngủ quá.
Đệm mút, màn căng chu đáo mà giấc ngủ vẫn không chịu đến. Anh nhỏm dậy, bật đèn tất cả các phòng lên. Rồi anh đi hết phòng này sang phòng khác, hy vọng sau khi tham quan xong sẽ ngủ được.
Kia là chiếc tivi màu đời mới Stereo giá gần sau mươi đêm, cạnh nó là cái đầu video đa hệ ngót nghét bốn mươi đêm, và bao nhiêu thứ nữa... Một con số đêm khổng lồ.
Gần sáng anh thiếp đi trên chiếc đi-văng, theo tư thế nửa nằm nửa ngồi quen thuộc. Anh thấy mình lang thang trong toà lâu đài sang trọng nhưng hoang vắng. Một lâu đài chết như trong cổ tích... giá lúc này có vợ anh ở đây thì tuyệt biết mấy. Đàn bà thật khó hiểu.
Ao ước mãi ra ở riêng, đến lúc có nhà lại đùng đùng bế con về nhà ngoại.
Đêm x+1
Anh đã sắm được một tặng phẩm hết ý. Anh cũng đã chuẩn bị những lời còn hơn hợp tình hợp lý để tạ lỗi cô ấy...
Anh đã huy động hết can đảm... Chắc vợ anh còn giận lắm... mặt cô siêu lầm lì. Anh khẩn khoản, khổ sở đến thất vọng.
Rồi cô ấy bỗng phì cười...
Họ nằm bên nhau ấm áp, an toàn. Mắt vợ anh bỗng ánh lên tinh nghịch: "Chúng mình tiêu một đêm theo cách này thì sang quá phải không anh?" Anh buột miệng: "Anh không quan tâm đến bảng giá của em."
Buổi sớm mai
Nguyễn Khải
Tháng tư năm 96.
1. Viết về những năm tháng đã lùi xa vào dĩ vãng là nhớ lắm, buồn lắm. Nhớ một thời trai trẻ đã qua, những bồn chồn lo lắng, những thắc thỏm mong đợi, nhiều hy vọng và cũng nhiều e ngại nay đã thuộc về một quá khứ đã bắt đầu nhòe lẫn. Ông Tạo cũng trớ trêu, rất nhiều chục năm cứ tưởng ngày vui nhất còn ở phía trước nào ngờ ngày vui luôn luôn là ngày hôm nay, vào đúng lúc mà ta đang ruồng bỏ nó không chút nuối tiếc. Những năm tháng vui, có ý nghĩa tích cực của một đời người, là cái cõi, cái hồn của một đời người bao giờ cũng là những năm tháng tìm kiếm một lối đi cho riêng mình với bao nhiêu là thơ dại, lầm lẫn, đau đớn. Là những năm tháng đang leo lên, trượt ngã lại lập tức bám víu trèo lên tiếp, ăn rất ít, ngủ cũng rất ít, nước mắt chứa chan nhưng vẫn không tắt nụ cười vì thời gian còn dài sức lực còn nhiều, đầu óc chất chứa bao nhiêu là dự kiến, thật có hư có, hư nhiều hơn thật nhưng chính nó là những sợi vàng sợi bạc dệt nên những mộng ảo lấp lánh của lứa tuổi hoa niên. Còn khi cái đích nhắm tới đã đạt thì trước mắt lại là một con đường lớn hơn, nơi đang đứng chỉ là đoạn cuối của một con hẻm hẹp. Nhưng than ôi, thời gian để bước tiếp không còn bao lâu nữa, cái vực hư vô đã thấp thoáng dưới chân rồi.
2. Năm 1949 tôi mới 19 tuổi, là phóng viên tờ báo Dân Quân Hưng Yên, mỗi lần có được tờ báo Quân Bạch Đằng của Liên khu 3 tôi đọc không sót một dòng, chữ nghĩa như có phép thiêng, ám ảnh mình từ cái chấm cái phẩy. Tôi đọc thơ Yên Thao từ ngày ấy. Mấy năm được làm náo Quân khu mỗi lần chúng tôi được tiếp các phóng viên của báo Quân đội nhân dân về đồng bằng công tác, vừa mừng vừa sợ giống hệt các tiểu quỉ ở gò ở đống được thưa chuyện với các bậc thượng tiên từ rừng núi Việt Bắc hạ phàm. Và đêm ngày mong đợi cái cơ hội may mắn được gọi nhập vào cái thế giới vừa sang trọng vừa vui vẻ, từ sáng đến tối chỉ bàn có mỗi chuyện văn chương.
Thoạt đầu báo của Quân khu có mười người, có thư ký toà soạn, có phóng viên, có hoạ sĩ và một cậu khắc gỗ. Về sau người cứ thưa dần, tới thời tôi làm thư ký toà soạn thì báo chỉ còn lại vài người, báo ra tháng có tháng không, một mình tôi viết xã luận, viết tin tức, viết mẫu chuyện, thỉnh thoảng mới nhận được bài của anh Bùi Biên Thuỳ, anh Hoài Giao mừng rở như bắt được vàng, còn thì vắng lặng quá, buồn tẻ quá. Trời rét cả toà soạn nằm ông lấy nhau mới được một phần ba cái sạp nứa của cái lán hẹp. Rồi sốt rét, dứt cơn sốt, miệng đắng ngắt, người hôi sì, nghĩ thèm đủ thứ, nhưng thèm nhất vẫn là được làm nghề, được sống với những người cùng nghề, chỉ bàn có chuyện nghệ. Và luôn luôn ao ước có ngày được khoác bị chân đất hành hương lên Việt Bắc. Mãi đến giữa tháng 8 năm 55, sau ngày đình chiến, kết thúc cuộc chiến chống Pháp đúng một năm, tôi mới được Phòng Văn nghệ gọi về Hà nội viết truyện anh hùng. Đây là đi công tác, đi rồi về chứ không phải là thuyên chuyển công tác, đi rồi ở hẳn. Thôi được, cứ biết là được về Tổng cục mấy tháng, lên đó sẽ tính, biết đâu được trên yêu mà cho ở lại.
Tôi được về Tổng cục Chính trị, được về Hà nội như đang ở ao ngòi được ra sông cái, đầm lớn, việc gì cũng lạ, chuyện nào cũng vui. Hàng ngày tôi đều được cùng ngồi ăn, cùng trò chuyện với anh các Thanh Tịnh, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, Xuân Miễn, Bích Lâm, Vũ Tú Nam, Từ Bích Hoàng, Vũ Cao, Mai Văn Hiến, Doãn Trung, Hà Mậu Nhai, Nguyễn Thuỵ ứng, Ngọc Tự... Cùng lên Tổng cục với tôi đợt ấy có các anh: Hồ Phương, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khắc Thứ, Trần Cẩn, Mạc Phi, Vũ Sắc, Xuân Thiêm, Nguyễn Trọng Oánh, Lý Đăng Cao, Xuân Vũ, Minh Giang, Phác Văn. Ít lâu sau có thêm các anh: Hữu Mai, Hải Hồ, Ngô Thông, Nguyễn Ngọc Tấn. Rồi các anh Hoàng Cầm, Hoàng yến, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện. Và ông Trần Dần. Ngày ấy hình như chỉ có tôi và anh Nguyên Ngọc là ngơ ngác hơn cả, vì chúng tôi là lính quân khu, lính địa phương. Còn các anh khác là lính chủ lực, lính các đại đoàn, họ thường gặp nhau, cùng làm việc với nhau mỗi lần Bộ Tổng mở chiến dịch lớn. Họ là bạn của nhau, xưng hô với nhau là ông tôi, cậu tớ, gọi nhau là thằng này thằng nọ. Còn tôi thì khác. Ai cũng đáng mặt đàn anh mình cả. Kể cả Phùng Quán tuy kém tuổi tôi nhưng là người đang nổi tiếng, người thành đạt, văn thơ nức tiếng đất kinh kỳ vừa được giải phóng. Cũng là lính viết văn thơ, nhưng lính dưới đơn vị khác, lính trên Tổng cục Chính trị khác. Các anh trên Tổng cục đọc nhiều, biết rộng, nói năng viết lách thuộc tầm cỡ quốc gia. Còn mình? thôi chả cần phải nói, chỉ là anh bộ đội hồn nhiên, thơ ngây, nghĩ ngắn, viết hẹp, có nói đủa cũng không biết cách. Nên gặp nhau vẫn chào hỏi nhưng không ngồi lâu với nhau được vì chả có gì để nói. Hình như những người nổi tiếng đã từng ăn ở với nhau suốt thời đánh Pháp cũng không được vui vẻ với nhau cho lắm thì phải. Có nhóm này và nhóm kia và những người chạy qua chạy lại cả hai nhóm vì cộc tranh luận các quan điểm trong văn nghệ đã bắt đầu. Anh Văn Phác và anh Vũ Tú Nam là trưởng phòng và phó phòng Văn nghệ quân đội đã tổ chức nói chuyện mấy lần với anh em mới lên công tác. Nghe thì nghe nhưng tôi chả quan tâm bao nhiêu. Đảng lãnh đạo văn nghệ là tất nhiên rồi. Văn nghệ trong quân đội phải phục vụ các nhiệm vụ chính trị của quân đội, của nhà nước cũng là rất tự nhiên. Chả lẽ lại có thể nghĩ khác, làm khác sao? Với tôi được lên Tổng cục, được về Hà nội đã là toại nguyện lắm, chả còn gì phải thắc mắc. Họ thì ưu tư, buồn bã, mình thì hò hét, cười cợt, xem ra các ông anh cũng có ý khinh bọn tôi ít nhiều thì phải. Một đám trẻ con nhốn nháo, vô tư như thế thì viết văn làm thơ thế nào được! Việc gì cũng có thời có lúc của nó, cái phải đến rồi sẽ đến bao giờ là việc của mình, mình sẽ có cách ứng xử thích hợp, lo trước, tính trước, tranh luận làm gì, mất công. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫm thèm vẫn tiếc mấy năm vô tư, hồn nhiên của buổi đầu vào nghề, buổi đầu được chính thức làm nghề. Sau ba tháng trại viết truyện anh hùng các lực lượng vũ trang kết thúc. Tôi cũng đã viết xong truyện nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi, Bây giờ nhiều anh có ý trách tôi hay tâng bốc những cây bút trẻ, hô hoán rầm rĩ cứ như đã phát hiện được thiên tài. Sự tâng tốc ấy có cái lý riêng của nó. Chả là lúc bắt đầu tôi viết quá dở. Bây giờ những cây bút trẻ không ai viết dở như tôi cả. Lấy mình so với người lúa bắt đầu thế là tôi hô hoán ầm lên vì mừng quá, lạ quá, tài quá. Năm tôi viết Mạc Thị Bưởi, tuổi tôi đã 26, còn trẻ gì nữa. Trần Đăng Khoa viết trường ca Mạc Thị Bưởi năm cậu ta mới mười mấy tuổi hãy còn trẻ con. Một người đã trưởng thành mà văn chương như trẻ con, còn một cậu bé con văn chương đã mênh mông bay lượn. Cho nên tôi luôn luôn sửng sốt, kinh ngạc và thích hô hoán trước những cái tài, dầu là tài nhõ và chỉ lóe lên trong bất chợt vì mình thiếu nó, ngày đêm thèm khát nó.
Sau trại viết tôi là một trong mấy người được Phòng Văn nghệ giữ lại làm phóng viên cho tờ Sinh hoạt Văn nghệ. Tôi được giữ lại không phải vì tôi có tài mà vì tôi sống đúng điều lệnh, là một sĩ quan quân đội trăm phần trăm, chưa bị nhiễm những chứng tật của giới nghệ sĩ. Khốn nỗi một người tốt nhưng bất tài cũng khiến cơ quan rất khó xử, nhất là một cơ quan báo chí. Đuổi anh ta đi thì không nỡ mà giữ lại thì biết dùng vào việc gì? Hai lần tôi đi công tác để viết bài đều hỏng. Anh Từ Bích Hoàng sợ tôi buồn, ai ủi tôi không nên nản chí. Tôi trả lời là tôi không buồn, cũng không nản chí, tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Viết văn mà lại hứa "sẽ cố gắng" thì còn biết nói sao? Lại không biết buồn, vẫn hăng hái đi tiếp, viết tiếp khiến cả mọi người đâm bối rối. Các anh ở toà soạn nhìn tôi rất ngượng, như người có lỗi. Nhưng tôi chả ngượng một tí nào vì tôi đã xem những năm này là tôi đang học nghề. Được học nghề với các bậc đàn anh của nghề còn gì may mắn hơn. Nên vẫn rất vui. Nhưng toà soạn thì không thể vui. Họ đang cần người làm báo chứ không cần người học việc. Nên khi các anh phụ trách yêu cầu tôi về tổ bạn đọc tôi nhận lời ngay. Làm gì cũng được miễn là không phải trở về quân khu. Về quân khu thì tôi mất nghề. Tổ bạn đọc năm ấy kiêm cả đọc loại vòng đầu. Không may cho tôi, tôi đã loại một truyện ngắn của Vinh Tú không đưa ban biên tập đọc vì tôi chưa biết anh ấy là ai. Có biết đâu Vinh Tú ngày ấy được báo trân trọng, nâng niu như Phạm Tiến Duật, như Đỗ Chu mười năm sau này. Rồi tôi lại viết thư trả lời nhiều bạn viết khác, góp ý này ý nọ tưởng đâu như tôi vẫn là thư ký toà soạn một tờ báo của quân khu góp ý với bạn viết của báo mình. Nên các anh ấy phải hỏi lại toà soạn tôi là ai, đã viết được những gì, sự góp ý ấy là của tập thể toà soạn hay của cá nhân? Chắc là anh Từ Bích Hoàng phải viết thư xin lỗi hoặc có lời nói lại nhiều lần nhưng anh không nói với ai về chuyện này nên tôi không biết. Là người trong biên chế của báo mà làm biên tập không được, làm phóng viên không được, làm tổ bạn đọc cũng không xong thì còn biết làm gì? Tôi đã tự nguyện xin giúp việc hành chính củabáo một thời gian, để có dịp ngẫm nghĩ về mình, hoặc là vẫn ở lại Hà nội tiếp tục học nghề, hoặc xin trở lại quân khu vừa làm báo làm tuyên huấn, thỉnh thoảng gửi bài lên trung ương, như thế chả hay hơn ư? Ban ngày tôi làm việc hành chính, tối đến tôi không đi chơi đâu cả, không đàn đúm với ai cả, đến phòng làm việc của cơ quan mượn cả đống sách, chủ yếu là sách Pháp, rồi tuần báo Văn học Pháp so Aragon chủ biên và tạp chí hàng tháng Văn học Xô-viết, đọc thì đọc chứ cũng chả hiểu gì mấy. Chữ khó thì tra từ điển, ý tưởng khó thì hỏi lại các ông anh, rồi cứ vỡ vạc dần, những bí mật của sáng tạo nghệ thuật cũng hé lộ dần và tôi đã lờ mờ nhận ra những cách thẩm thấu khác nhau từ cuộc đời, có khi rất nhạt của nhà văn, thành những trang viết say đắm của họ. Rồi tôi tìm đọc lại nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự của các tác giả Việt nam trước cách mạng với con mắt xoi mói của người học nghề, đã có biết chút ít cái then máy của nghề, nhận ra cái mạnh và cái yếu từng tác giả, cái hay và cái dở của từng câu văn, của từng chương sách. Non chục năm về trước tôi đã viết theo bản năng, cái bản năng của người không có văn tài bẩm sinh nên rất tầm thường, ngô nghê, nông nổi. Tôi tự hứa từ nay tôi sẽ viết bằng sự chuẩn bị, trời không cho mình thì phải tự cho lấy mình. Không phải chuẩn bị lúc thai nghén tác phẩm mà phải chuẩn bị từ trước đó, từ rất lâu trước khi đặt bút lên trang giấy, chuẩn bị từ gốc. Trước hết phải thay đổi cách sống, thay đổi cảm nghĩ, thay đổi tư duy, triệt phá mọi ngăn cách để cái thế giứi đầy màu sắc của xã hội và thiên nhiên thấm thẳng vào mình không bị lọc qua bất cứ một khuôn nhìn nào, một định kiến nào. Nói thế chứ khó. Con người ta chỉ là một thành viên của một cộng đồng, chịu sự chi phối của những tiêu chuẩn giá trị và đạo đức của cộng đồng. Những tiêu chuẩn ấy đều có tính lịch sử, tính thời gian của nó, không thể là vĩnh viễn. Nhưng viết ngược lại sẽ rất khó được những người cùng thời gian tán thưởng. Thôi, đó là chuyện sau, chứ ngày ấy được biết đến thế cũng là hơn thời còn đánh Pháp nhiều lắm.
Tháng 10 năm 56 tôi xin phép toà soạn được "hạ sơn" một chuyến, có thể là chuyến sau cùng, thử xem với pháp thuật mới có thể chế ngự được các đối tượng phản ánh thành những trang văn đọc được không? Tôi về hai huyện Kiến Xương và Tiền Hải của Thái Bình, trong ba lô ngoài quần áo chăn màn còn mang theo Tuyến tập truyện ngắn của Gorki bằng tiếng Pháp. Tôi về thôn Nam Huân thuộc Kiến Xương, viết một loạt truyện nhắn, mỗi truyện khoảng 2.000 chữ. Rồi tôi về Hữu Vi là ột thôn công giáo thuộc Tiền Hải. Và viết một truyện ngắn, truyện đầu tiên được đăng ở tạp chí Văn nghệ quân đội, bộ mới, được phát hành rộng rãi chứ không chỉ lưu hành nội bộ như ờ Sinh hoạt Văn nghệ. Truyện đó có tên là:
- Nằm vạ.
Anh Thanh Tịnh bảo tôi:
- Truyện đó Khải viết được đấy, đã có giọng riêng rồi đấy.
Mới viết có một truyện mà đã có được giọng riêng rồi sao? Tôi chưa biết nhưng đàn anh trong nghề đã nhận ra và có lời khuyến khích. Một lời khuyên, một lời khen hoặc chê đúng lúc quả thật có ý nghĩa sống chết đối với một đời văn.
3. Năm 92, tức 36 năm sau, tôi mới trở về Tiền Hải lần thứ hai. Hỏi anh em có phải thôn Hữu Vi nằm sát mép biển không? Nhiều anh khoảng tuổi bốn mươi bảo không biết, hình như xưa kia là thế chứ từ năm lớn lên thì Hữu Vi đã nằm sâu trong đất liền rồi. Cây đèn biển còn nằm sâu ở một xã phía trong đồng huống hồ thôn Hữu Vi! Nghe mà bâng khuâng quá, buồn bã quá. Chả lẽ mình đã thành đất ruộng, đất cũ với những tên xã thôn mới, với trụ sở Uỷ ban, trường học, trạm xá, các sân phơi của hợp tác xã nông nghiệp. Và tất cả đang sắp sửa đập phá hết vì nó đã cũ quá, xấu quá để xây dựng những công trình mới đẹp hơn, văn minh hơn phù hợp với các cơ cấu kinh tế và xã hội của hôm nay. Mỗi lần Hà nội nằm lại ít ngày ở cơ quan cũ đường Lý Nam Đế, gặp lại bạn bè thân thiết một đời, cười thì cười, đùa thì đùa nhưng trong lòng hết sức thương cảm. Bạn cũng đã già quá, tóc bạc cả, răng rụng cả, đi đứng lòng khòng, là ông nội ông ngoại của những gia đình đông đảo. Mà hồi tôi mới về cái nhà này đến quá nửa trong bọn tôi đều chưa có vợ. Những người được già đi cùng với tờ báo đã trở thành một diễn đàn văn học có uy tín của cả nước, là những người hết sức may mắn. Nói gì thì nói, mỗi chúng tôi ít nhiều đều đã hoàn tất được phần việc của mình, vượt quá những mong đợi khi còn là đám lính tráng làm báo nghiệp dư ở quân khu, ở đại đoàn. Chỉ tiếc cho những anh đi trước, tài năng lớn hơn, được chuẩn bị vào nghề tốt hơn nhưng lại hy sinh khi còn trẻ như Thâm Tân, như Trần Đăng. Và những bạn cùng lứa tuổi, tài lực đều hơn mình đã hy sinh ở chiến trường hoặc mất vì bệnh hiểm nghèo vào lúc tuổi nghề vừa chín như Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu. Nên văn học hiện đại Việt nam thiếu vắng những trang viết của bọn họ những năm này và lạ để làm nên những kiệt tác. Nhưng ở đời không có sự mất mát nào không được đền bù, mọi khoảng trống sẽ được lấp bằng bởi sự phát triển tự nhiên của đời sống. Đời sống văn học cũng thế. Tất nhiên sẽ chậm hơn một chút, sẽ vòng vèo hơn một chút. Không phải nói suông đâu. Thử đọc lại những truyện ngắn được giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 94 mà xem, tài nghệ của những cây bút trẻ hôm nay đã đem lại cho bạn đọc rất nhiều hy vọng, rất nhiều tin tưởng. Mình là người của một thời, một thời rất oanh liệt nhưng còn thơ ngây lắm, còn non dại lắm. Họ lại là người của một thời, rất bề bộn, rất ngổn ngang nhưng những người gánh vác dầu còn nhỏ tuổi đã có cái phong độ của kẻ lịch lãm, từng trải. Thời nào cũng có cái đạo của nó, có văn có nhạc của nó phù hợp với từng giai đoạn phát triển của quốc gia, của dân tộc. Nên tôi rất tin tạp chí Văn nghệ quân đội vào những năm cuối thế kỷ sẽ lại có một thời hoạt động sôi nổi với những văn tài mới. Và văn thơ của anh em ở số 4 Lý Nam Đế vẫn sẽ tiếp tục được thiên hạ yêu mến và nể trọng.
Ước gì tôi được trẻ lại
Nguyễn Khải
Chả cứ gì riêng tôi mà mọi người già ở trên đời này đều có lúc ước thầm như thế dầu biết rằng lời ước ấy vừa tham lam vừa vô lý. Mọi niềm vui ở đời chỉ nhằm phục vụ cho người trẻ. Thấy nhiều bạn trẻ mới có tí tuổi đầu đã làm ra vẻ đau khổ, sầu nảo hoặc tự giam mình trong cảnh tuyệt vọng muốn điên cái đầu. Có tuổi trẻ là có tất cả, nó có thể sửa chữa mọi lầm mỗi, hàn gắn mọi vết thương và cho phép làm lại, bắt đầu lại một đôi lần. Giàu có đến thế, quyền lực đến thế không chịu dùng cho hết lại ngồi chờ đợi, than vãn có phải là rất... ngu không?
Dạo đầu một chút để nói về những bạn viết trẻ. Tất nhiên là họ có những điều kiện mà những thế hệ viết văn trước họ không thể có. Điều quan trọng hơn cả là họ được sống một thừi thông thoáng hơn ngày xưa nhiều, dân chủ hơn ngày xưa nhiều. Chỉ riêng một việc quản lý xã hội bằng pháp luật đã bớt đi bao nhiêu trói buộc phi lý, tuỳ tiện làm bản lòng người, bào mòn con người. Con người với những nhu cầu của nó, những ước mơ của nó đã được tôn trọng. Cái môi trường dân chủ tự do và tôn trọng cá nhân là điều kiện trước hết để những tài năng sáng tạo được đua nở. Mới trong khoảng mươi lăm năm nay nhiều tài năng trẻ trong nghệ thuật, trong khoa học kỹ thuật, trong quản lý kinh doanh đã lần lượt xuất hiện, mới lạ, táo bạo là một bằng chứng về sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên...
Tuy nhiên một nghịch lý mới đã xuất hiện, điều kiện làm việc tốt hơn, môi trường sáng tạo thuận lợi hơn nhưng những thành phẩm của sáng tạo văn chương lại vặt vãnh, thiếu tầm cao, không tạo được những ấn tượng đẹp có sức ám ảnh lâu dài. Có thể tầm nhìn, tầm nghĩ của các tác giả còn hạn hẹp quá, ngắn quá, nông nổi và vội vã, thiếu hẳn sự khao khát cái hoàn mỷ trong nghệ thuật. Tính cách nhân vật đa dạng, phong phú, chuyện đời chân thật, nóng bỏng, hơi văn tự nhiên, mềm mại, nhưng đọc xong cứ như bị ngạt, thiếu hẳn một khoảng trời để mơ mộng, để hy vọng, để bay tới. Văn chương thời chiến tranh và sau chiến trang thì mênh mông, lãng mạn, làm náo nức lòng người nhưng nhân vật đơn điệu, chuyện đời bị câu thúc bởi nhiều quan niệm thủ cựu, hẹp hòi, hơi văn khô khan, giáo huấn. Nói nôm na đọc văn thời trước thừa lý tưởng, thừa lòng tin nhưng thiếu sự từng trải, lúc trẻ đọc thấy hay vì mình với nhân vật là một, về già đọc thấy việc đời không giống mấy với văn chương, nó phức tạp hơn nhiều, khó hiểu hơn nhiều. Niềm tin mạnh nhưng thiếu những số phận sóng gió, từng trải để minh chứng cũng không thể viết được một tác phẩm để đời. Chỉ miêu tả những số phận nghiệt ngã mà thiếu hơi nóng bỏng của niềm tin thì văn chương cũng mất đi lý do để tồn tại. Những người cầm bút từ thời chống Pháp rất biết cái thiếu sót của mỗi thời, rất muốn dung hoà với những cái mạnh của mỗi thời để co được một chất liệu hoàn hảo, vững bền dựng đài tưởng niệm một thế kỷ có nhiều bóng tối nhưng cũng tràn ngập ánh sáng, thơ ngây cũng nhiều mà từng tải, trưởng thành lại càng nhanh. Nhưng, hỡi ôi, đã già rồi, sức viết và sức nghĩ đều yếu nói chi đến việc nhào nặn một sự nghiệp đã định hình.
Ước gì tôi được trẻ lại vài chục năm nhỉ? Cao vọng nghệ thuật của tô sẽ cao xa hơn ngày xưa. Tôi đã có thể nhìn ra thế giới để nhận biết, để so sánh những tiêu chuẩn của một tác phẩm nghệ thuật có sức sống lâu bền. Phương pháp sáng tác hiện thực đã không còn là duy nhất, không còn là đủ với những từng trải, những mơ mộng của hôm nay. Nhưng tôi là người hay lo xa nên phải tự hỏi, nếu trong cuộc phiêu lưu mới mình lại không thành công như đã mong đợi thì sao? Những bằng chứng thất bại của người này người kia buộc mình phải ngờ vực điều đó. Phàm đã viết hoặc vẽ có mẫu thật thì hay hoặc dở biết ngay, có tài hoặc bất tài cũng biết ngay. Còn viết ảo, vẽ ảo thì khó biết lắm, có thể là tuyệt hay, tuyệt đẹp, là siêu nghệ thuật mà cũng có thể là một cách đánh lừa mình, đánh lừa thiên hạ. Mình thì thành thật nhưng tài chưa tới nên hoá ra người đi lừa. Cãi nhau quanh chuyện thật còn dễ phân biệt phải trái chứ cãi nhau quanh chuyện ảo thì càng vuất càng rối, càng viết nhiều chữ nghĩa, chữ nghĩa cũng ảo cả. Cái chuyện này phải đợi thời gian và phải đợi cả công chúng. Có những câu thơ:
- Đáy đĩa mùi đi nhịp hải hà - Nhàn đàn rót nguyệt vú đôi thơm" sau nhiều chục năm vẫn còn nhiều người làm thơ khen là những câu thơ hay dẫu rằng cũng không mấy ai hiểu được nó hay như thế nào. Cái hay của văn thơ là mênh mông lắm, rất khó quy vào những tiêu chuẩn cụ thể. Lý sự quá thì hoá ra người nghiệt, nông nổi quá hoá ra người... ngu. Nếu trong hội hoạ, có nhiều danh hoạ đã chia sự nghiệp sáng tạo của mình làm nhiều thời kỳ, thời xanh, thời hồng, vân vân, thì tại sao người viết văn lại không thể có nhiều thời kỳ trong quá trình sáng tạo của mình: thời hiện thực, thời ấn tượng, thời siêu thực hoặc ngược lại. Thoạt đầu ta nhìn cái nhà là một cái nhà. Rồi tới lúc nhìn cái nhà mà như thấu hiểu cả số phận những người ở trong nhà, số phận một góc phố, một đoạn đường, một thời thế. Màu tím của thời gian, màu đỏ của sương mù là những cái ảo phải trải qua sự từng trải nhiều khi cả một đời người mới có. Với tôi, theo cách nghĩ của tôi, khi chưa vươn tới cõi ảo thì tôi đặt hết mình vào cõi thực. Thời này được viết đúng như thực tế đang diễn ra cũng là đủ mãn nguyện với một tài năng ở mức trung bình. Cứ viết đúng như sự vật vốn có, những điều cấm kỵ đã thành văn bản, thành luật lệ, công khai, đoàng hoàng chứ không còn qua sự thì thầm tuỳ tiện của người này hay người kia, tức lá đã được viết trong tự do một cách nhìn, một cách nghĩ của riêng mình, của một lớp người, dẫu chưa là một tác phẩm nghệ thuật như mình mong đợi thì vẫn cứ là những bằng chứng chả kém giá trị một tí nào về một thời đã sống. Chả hơn cao thì với chưa tới, thấp thì không thèm quan tâm, về già rút lại tay trắng, là một kẻ vô danh với những mộng mơ hão huyền, có hối tiếc cũng đã muộn. Vì tuổi trẻ chỉ có chừng ấy năm. Qua tuổi năm mươi mọi sự coi như đã an bài. Chẳng phải số phận gì, chẳng qua chưa biết dùng cái tài của mình cho đúng mà thôi.
Chị Mai
Nguyễn Khải
Đầu năm 1957, tạp chí Văn nghệ quân đội được dọn ra ở ngoài phố, tức là nhà số 4 phố Lý Nam Đế bây giờ. Cái mặt hè rất rộng góc đường Phùng Hưng - Phan Đình Phùng năm ấy có một dãy quán hàng bán nước giải khát. Quán ngoài trời nhưng có căng bạt che, bàn ghế tươm tất, bán cũng rẻ nên đã thành một thứ câu lạc bộ của đám văn nghệ sĩ quân đội sống dọc phố Lý Nam Đế. Các bà chị bán hàng là dân tiểu thương chính cống của đất Hà nội, răng đen, khăn vấn, áo cánh trắng, cư xử với khách hàng bộ đội thật thà, thân thiết như chị em trong nhà chứ không ra kẻ mua người bán. Có nghĩa là tình cảm quân dân trên hết, lỗ lãi tính sau, có vẻ như là thế nhưng chúng tôi đâu dễ tin là thế. Với cặp mắt ngờ vực, dò xét tôi đã quan sát chị Mai, một bà chủ quán, không chỉ vài tháng mà suốt cả nhiều năm dài, cả chục năm chứ không ít. Chị Mai là vợ một cán bộ hoạt động bí mật ở Hà nội trong những năm ta đánh Pháp. Anh là y tá của nhà máy điện Yên Phụ, bị mật thám Pháp bắt khoảng tháng 5 năm 54, bị tra tấn rất dã man nên anh chỉ sống thêm được có vài tháng sau ngày bộ đội ta vào tiếp quản Hà nội. Họ lấy nhau sớm nên anh chị mới ở tuổi ngoài ba mươi đã có bốn mặt con, hai trai đầu, hai gái sau, thằng con lớn năm tôi biết đã lên mười. Chị có cái nhan sắc đặc tiểu thương Hà nội, người hơi mập, mặt tròn, mắt dài, hàm răng nhuộm đen nhỏ và đều, cười nói dịu dàng, duyên dáng, trò chuyện với chị lần đầu đã muốn thân, đã muốn tin. Chính là anh Thanh Tịnh đã dẫn bọn tôi ra quán hàng của chị. Cũng chỉ một mình anh được chị gọi khi là bác khi là anh, còn lũ chúng tôi hăm lăm hăm sáu tuổi đều được chị gọi là cậu tuốt. Năm ấy tôi chưa biết hút thuốc lá, chưa biết uống cà phê, ngồi vào quán chỉ gọi có bột đậu xanh, thạch trắng hoặc chè sen, chè đỗ đãi, loại giải khát của trẻ con chứ chưa dám nếm các vị đắng cay của mấy ông anh lớn tuổi. Tôi tuy là người Hà nội nhưng đi kháng chiến từ nhỏ, trong tám năm lúc ở rừng lúc ở làng, bao nhiêu thói quen của người thành phố hầu như đã quên hết. Chỉ được cái mặt, cái dáng thì vẫn là người của thành phố. Tuy tôi đã trở lại đất kinh kỳ được hơn một năm nhưng sống với đồng đội là chính, sống trong Thành, ra đụng vào chạm chỉ có lính với lính, nói ngôn ngữ của lính, vui đùa lính, tối tối và các ngày nghỉ kéo nhau đi bộ khắp các phố phường ngắm cảnh, ngắm người, biết được cái bên ngoài còn phía trong những căn nhà, những toà nhà người Hà nội bây giờ sống ra sao, vui buồn ra sao thì tuyệt nhiên không được biết một chút gì. Đi mua hàng thì không biết mặc cả, thăm hỏi họ hàng và bạn bè thuở nhỏ vừa nói vừa dò dẫm, mình nói thế họ có vui không, có lo không, có buồn không? Hoan hô cách mạng từ xa thì dễ nhưng giáp mặt với cách mạng mỗi ngày xem chừng khó. Bởi phải thay đổi nhiều thứ quá, ngày nào cũng có một cái gì đó vừa thay đổi hoặc sẽ thay đổi, những thay đổi lớn ngoài xã hội và cả những thay đổi nhỏ trong các mối quan hệ vốn bất di bất dịch từ nhiều đời người. Trong những thay đổi lớn và nhỏ ấy chị Mai vẫn sống tự nhiên, chân thành, không che đậy, gắng gượng chút nào cả. Có buổi trưa tôi ra ngồi ở hàng của chị chỉ để được uống một tách trà ngon thôi, được ngồi nhìn và nghe mọi hoạt động của chung quanh thôi vì tôi vẫn còn lạ lắm, còn ham được biết lắm, nhìn vào cái cà mèn cơm trưa của chị chỉ thấy có mấy gắp rau muống xào và mấy quả cà pháo. Tôi nói:
- Người thành phố mà ăn uống cũng khem khổ nhỉ?
Chị cười:
- Ngày anh còn sống cả nhà cũng chỉ ăn có thế. Đông con là túng lắm cậu ơi! Các cậu thì sao?
Tôi cũng cười:
- Chị không nên ví với cái khổ của anh bộ đội. Chúng tôi là vô địch.
2.
Tôi đã sống ở Hà nội gần hai năm, đã ra khỏi rừng mà vẫn chưa dứt được bệnh sốt rét. Thỉnh thoảng lại có một cơn sốt kéo dài vài ngày rồi khỏi. Sốt rét nhẹ, nằm ở Hà nội, trong toà nhà lớn phố Lý Nam Đế, thuốc men đủ, quả thật là sướng. Đầu hơi váng vất một chút, người hơi gây gấy một chút, nằm uốn éo trong tấm chăn mỏng, lúc ngủ lúc thức xem chừng còn khoái hơn lúc hoàn toàn khỏe. Dứt cơn sốt, miệng nhạt thếch, nhìn ra ngoài trời vừa tối, khoác áo ra đầu đường Phan Đình Phùng làm bát phở bò gánh, lại uống một ly cà phê sữa nóng, cũng là cà phê gánh, loại cà phê ô - lê (café au lait) nổi tiếng ở các góc phố Hà nội thuở ấy, nghĩ lại những trận sốt rét ở Chi Nê, ở Đầm Đa, sau này là ở Thung Voi mà kinh. Cò lần tôi bị sốt rét phải nằm bẹp đã mấy ngày, không ăn uống được gì thì chị Mai đột ngột bước vào phòng tôi, tay xách một cạp lồng lớn, bảo:
- Bữa nay tôi nấu bún bung, chua chua, ngọt ngọt, dễ ăn lắm!
Tôi hỏi:
- Chị nấu cho riêng em à?
Chị cười:
- Nấu cho cả nhà. Phần của cậu có hậu hĩ hơn.
Nhìn thì thèm nhưng cũng chỉ ăn được hai lưng bát nhỏ vì miệng còn nhạt quá. Chị giũ tung đống quần áo đẫm mồ hôi vứt ở đầu giường đã thay nhưng chưa kịp giặt, buộc thành một bọc cầm về, ngăn không được. Tôi không phải là người duy nhất của cơ quan được chị nuông chiều. Nhiều anh khác cũng thế vì chúng tôi đều chưa có gia đình riêng, chưa có người đàn bà nào chăm sóc những việc vặt vãnh của cuộc sống thời bình, cuộc sống giữa một thành phố lớn. Những việc ấy chúng tôi đều nhờ chị Mai cả, chị nhận giúp rất dễ dàng, rất vui vẻ. Tôi chỉ thắc mắc chị làm giúp chúng tôi vào những lúc nào nhỉ, vì có thấy chị vắng mặt ở quán hàng giờ nào đâu? Khi tôi hỏi, chị nói:
- Các cậu nhờ tôi, tôi lại nhờ người khác, ở Hà nội tôi thiếu gì bạn.
Chị rất ít nhắc tới công việc của chồng thời Hà nội bị tạm chiếm. Chỉ có một lần chị buột nói:
- Một nửa số công việc của tổ chức giao cho anh ấy đều do tôi làm cả, vì tôi đi đâu cũng lọt, không bị chúng nó nghi. Việc nào khó quá lại nhờ bạn bè.
Việc sống chết mà vẫn có nhiều người giúp thì chị cũng tốt bạn thật, tôi đồ chừng, cho tới lúc này chị vẫn phải nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, họ giúp nhau ra sao trong cái giới buôn bán nhỏ thì tôi không thể biết, nếu không làm sao chị nuôi nổi bốn đứa con vào lúc thời thế đang đổi thay.
3.
Trong số bạn bè ở phố Lý Nam Đế hay ra quán chị Mai có anh Tiến, một cán bộ làm công tác quản lý của một cơ quan văn hoá. Anh hơn tôi gần mười tuổi, khoảng băm lăm băm sáu gì đó, người thấp, da ngăm đen, nói chuyện rất có duyên, lại hay nói hài. Chúng tôi thích nghe anh nói chuyện đã đành mà bà chủ quán cũng có ý thắc thỏm chờ cái giờ anh ra ngồi quán. Anh mới ngoài ba mươi mà đã có con trai đầu mười chín, hai mươi tuổi, đã đi bộ đội hải quân được một năm, vậy anh lấy vợ năm nào, sinh con năm nào? Anh kể, vợ anh hơn anh năm tuổi, anh mới mười hai vợ đã mười bảy. Anh đi chăn trâu mải chơi để trâu xổng mất. Vợ tìm được trâu, gọi chồng lại lấy thừng trâu quất vào mông chồng một trận nên thân. Chồng ôm đít, vừa khóc vừa chạy về nhà mách mẹ. Con dâu dắt trâu về đến ngõ, mẹ chồng chạy ra mắng:
- Nó có điều gì không hay không phải thì mày lấy lời bảo nó sao lại đánh nó đau thế?
Con dâu cãi:
- Phải đánh cho nó chừa cái tính ham chơi!
Anh bảo, vợ chồng anh chỉ có ba cách xưng hô với nhau, thoạt đầu là mày tao, lớn lên một chút là ấy ơi, khi có con thì gọi theo con: mẹ mày, bố mày, chưa từng biết có cách gọi nào khác. Anh nói tiếp:
- Chưa biết làm chồng đã nhảy lên làm cha rồi. Với tôi, cái hạnh phúc gia đình như người ta hay nói bây giờ, chỉ có mùi nước đái trẻ con, mùi ngải cứu với cái mặt bà đẻ xoa nghệ vàng khè.
Trong đám chúng tôi chỉ có Tiến là biết cách nói chuyện với phụ nữ. Chúng tôi chỉ là những thằng con trai ích kỷ và vụ lợi, bụng dạ thì tốt nhưng đã cất lời là hết sức vô duyên vì thiếu sự từng trải. Tiến thường kiểm tra bài vở học ở trường của hai đứa con lớn chị Mai, rồi gọi từng đứa lại thì thầm dặn bảo cả giờ. Lúc cười lúc gắt thành thử bọn chúng cũng quấn quít với anh hơn bọn tôi. Ngày chủ nhật anh đi họp phụ huynh học sinh thay cho mẹ chúng nó. Thằng lớn bị xe đụng trật khớp chân, đứa nhỏ bị bệnh quai bị, con bé út lên sởi anh đều đưa chúng về căn buồng riêng của anh trong cơ quan, ăn ở với anh cả mấy tuần để anh tiện chăm sóc cho mẹ chúng khỏi phải bỏ hàng. Mỗi lần đi công tác các quân khu khi về anh đều có quà, những món quà rất thiết thực, vài cân cá khô, tôm khô, vải may quần cho con, lụa may áo cho mẹ, thậm chí còn ôm được cả một vò mắm tôm của đất Hải Hậu để mấy mẹ con ăn dần. Chu đáo, âu yếm như người chồng như người cha của cái gia đình đã từ lâu vắng bóng đàn ông. Nếu anh Tiến còn sống độc thân chắc chắn anh sẽ về ở hẳn với mấy mẹ con chị Mai. Họ gặp nhau cũng muộn nhưng sẽ đối đãi với nhau như người tình như người bạn đến mãn đời, tôi tin thế.
4.
Những năm đầu của thập niên 60 đối với tôi ngày nào cũng vui. Tôi đã lấy vợ, đã có một con rồi hai con, lại có tiền nhuận bút in sách, mỗi năm một cuốn. Tiền lương tiêu cũng không hết nên tiền in sách là tiền để dành. Hàng xóm hỏi vay một đồng, hai đồng nài nỉ nhau tới kỳ lương sẽ trả. Còn một cuốn sách in tiền nhuận bút được từ tám trăm đến một ngàn đồng là nhiều lắm, là rất nhiều. Tôi trở thành người giàu có trong khu tập thể. Nhưng vẫn ăn ở như mọi người vì mua sắm cái gì cũng khó. Vào mậu dịch hàng bày thì đẹp, hàng bán thì xấu hoặc thiếu, có sao mua vậy, không được chê, không được chọn, ăn cũng thế. Các hàng ăn ngon cứ thưa dần, tiều tuỵ, nhem nhuốc dần. Mấy quán cà phê nổi tiếng còn tồn tại được là nhờ cái vẻ tiều tuỵ, nhem nhuốc của nó. Lại thêm cái tâm lý, bạn bè, hàng xóm đều sống vất vả, thiếu thốn, mình sống dư đủ quá cũng khó coi. Người ta không nói nhưng cái nhìn của họ cũng đủ làm mình áy náy, ngượng nghịu. Nên ăn cơm hàng ngày vẫn rau dưa là chính, cái mặc hàng ngày vẫn là dép nhựa, dép cao su, quần đen áo cộc. Chỉ hơn người là có nhiều tiền dư vì chả biết dùng nó để làm gì. Dẫu sao chúng tôi cũng vẫn là những người đang được sống rất sung sướng. Cái khổ của dân đi đây đi đó vẫn có biết nhưng kẻ đứng ngoài với người trong cuộc là khác nhau lắm. Thông cảm nhau hoàn toàn thế nào được. Mấy cái quán giải khát quen thuộc của chúng tôi qua mỗi năm lại tàn lụi đi một chút. Hàng bán ít đi, khách đến thưa dần, rồi thuế má, rồi dư luận xã hội, đại để là một cái nghề không được tôn trọng, không được khuyến khích, lại thêm nhiều thứ phiền nhiễu lặt vặt. Nên chị Tân nghỉ bán hàng, rồi chị Phượng cũng nghỉ. Chỉ còn cái quán của chị Mai, buổi sáng ra hàng cũng giống như buổi chiều sắp dọn, cứ lẻ loi, lạc lõng thế nào. Chị cũng đã chớm già, da mặt như khô đi, có những chấm xám nhỏ như lên mồi mà mới ngoài bốn mươi chứ mấy. Anh Tiến vẫn ra chơi nhưng mối quan hệ giữa họ cứ lửng lơ, chả ra đâu vào đâu cả. vì không thể thay đổi được. Có lần tôi ra quán chị Mai mua mấy điếu thuốc, tình cờ gặp anh Tiến cũng ngồi đó. Cả hai người nhìn tôi rất lúng túng vì mắt họ đều đỏ hoe. Tôi cầm vội thuốc đi ngay, cũng thấy tội nghiệp nhưng vẫn thầm mong họ chớ có phá luật. Phá luật thì rắc rối to. Rồi chị Mai cũng phải dẹp quán, đi làm nhân viên của một cửa hàng ăn của mậu dịch. Các con chị, đứa đi làm công nhân, đứa đi làm phụ lái xe, con gái lớn cũng vào ngành thương nghiệp, chỉ có con út là được đi học. Cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ bắt đầu thì anh Tiến dọn về khu văn công Mai Dịch. Ở đó anh có một căn hộ, anh đã đón đứa con gái út lên học đại học ở Hà nội. Rồi cơ quan chúng tôi phải sơ tán về vùng quê Hà Tây. Các con tôi đứa đi theo trại trẻ của quân đội, đứa theo cơ quan của mẹ. Bọn tôi lúc đi công tác, lúc ở Hà nội, lúc về nơi sơ tán. Mười năm được sống yên vui giữa đất kinh kỳ đã có bao nhiêu ràng buộc và kỷ niệm và dãy quán bán giải khát đầu đường Phùng Hưng của các bà chị tiểu thương thấp thoáng trong nỗi nhớ như một vệt nắng rất dịu dàng.
5.
Đầu năm 1973 Hiệp định Paris được ký kết, cơ quan và gia đình tôi trở lại Hà nội sống đoàn tụ dưới một mái nhà sau tám năm sống phân tán. Lại những vất vả mới để thu xếp cho cuộc sống tạm gọi là thời bình. Tìm nơi học cho con lớn và con nhỏ, mua sắm thứ này và thứ kia. Việc nào cũng cần phải có người quen và tiền. Nên phải chạy đôn chạy đáo, không viết được một dòng nào nhưng rất vui, tất nhiên cái vui không hoàn toàn như những năm đầu mới về Hà nội. Chính trong những ngày ấy tôi đã gặp lại chị Mai, gặp giữa đường và chị mời tôi lại nhà chơi. Biết chị mười mấy năm nhưng tôi chưa lại nhà thăm chị và các cháu bao giờ, kể cả ngày Tết. Còn chị thì năm nào cũng đến với vợ con tôi vài lần. Nhà chị vẫn ở một căn gác phố Hàng Bún. Nhà rất dễ tìm vì căn gác chỉ có một cửa sổ trông ra đường. Chị đã già nhiều, tóc hai bên thái dương đã bạc, vào tuổi năm mươi rồi còn gì. Nhưng chị vẫn đẹp, cái đẹp hiền hậu, trang nghiêm của tuổi về già. Khi tôi hỏi chị về anh Tiến, chị kể rất thật thà, rất tự nhiên xem như một chuyện đã qua hẳn của một thời đã qua hẳn. Những năm có chiến tranh phá hoại các con chị đứa đi công tác xa, đứa theo trường đi sơ tán, chị thường ở nhà một mình. Cũng trong dịp ấy anh Tiến hay lại chơi, họ cùng nấu cơm ăn bữa tối và anh ở lại qua đêm. Chị nói:
- Mấy năm ấy chúng tôi sống với nhau như vợ chồng. Tôi cũng không giấu giếm chuyện đó với các cháu. Chúng thương cả hai người, chỉ hiềm người ta đã có vợ cái con cột rồi.
Chị thú nhận với tôi, vì chị đã coi tôi như em, rằng chị đã phải nạo thai hai lần. Người đưa chị đi bệnh viện và làm mọi thủ tục là cậu em rể, làm nghề đạp xích lô. Không một ai biết chuyện này ngoài vợ chồng người em gái. Tôi hỏi:
- Ông Tiến có biết không?
Chị cười:
- Tôi không nói gì vì anh ấy đang vui. Nói thật người ta sợ.
Tôi lại hỏi:
- Hiện nay thì thế nào?
Chị lại cười nhỏ, cái cười thật buồn nhưng đã tha thứ:
- Mấy đứa con anh ấy có lại đây gặp tôi. Chúng nó lễ phép lắm, là người có học cả. Tôi biết anh ấy có ý muốn chia tay với tôi nhưng không dám nói trước, sợ mang tiếng là kẻ bội nghĩa bạc tình. Nên tôi phải chủ động nói trước cái chuyện khó nói ấy. dẫu sao thì chúng ta cũng đã có được mấy năm sống rất hạnh phúc, tôi có nói với anh ấy như thế.
6.
Nhiều năm tháng đã trôi qua. Anh Tiến đã mất vì bệnh hiểm nghèo. Chị Mai theo vợ chồng thằng con lớn vào sống ở Đà Nẵng trông con cho chúng nó. Tôi đã nghỉ hưu, không còn ở Hà nội, thỉnh thoảng có việc ra thủ đô lại đến nằm nhờ cơ quan cũ ở phố Lý Nam Đế. Sáng tối tha thẩn ra góc đường Phùng Hưng - Phan Đình Phùng, uống một chút, ăn một chút, sống lại với cái thời đã qua trong giây lát. Góc đường có dãy quán giải khát bốn chục năm về trước nay là một khách sạn ba sao, bốn sao gì đó, thảm đỏ trải ra tận vỉa hè và những cậu thanh niên đội mũ đỏ, mặc quần áo đỏ khom mình mở cửa xe, xách va ly cho đám khách trọ già có trẻ có từ Châu Âu, từ Bắc Mỹ tới. Chị Phượng, một bà chủ quán năm xưa, đã ngoài bảy mươi, vẫn ngồi bán trà chén ở ngách nhà bên khách sạn. Tủ kính bày thuốc lá, chai lọ đựng kẹo tây kẹo tầu, cả bia lon, rượu ngoại, ly tách sáng choang. Bà lão chỉ ngồi bán có buổi sáng, trưa chiều con gái bán. Các cô con gái áo len áo lông, môi son má phấn, vòng nhẫn hoa hột, trả lời khách hàng uốn éo, nhõng nhẽo:
- Yét, sơ, ô kê.
Chị Tân cũng là một bà chủ quán của ngày xưa, mỗi sáng ngồi bán xôi lạc cũng liền đó. Tóc bà lão bạc phơ, răng chưa rụng cái nào, nói năng vẫn nhẹ nhàng, lịch thiệp như năm còn trẻ. Không ai thổi xôi rang vừng ngon bằng bà, cũng chỉ bán một thoáng vào lúc sáng sớm trước giờ mọi người đi làm, rồi nghỉ. Con trai con gái cưỡi xe Dream lướt qua, người gửi chìa khoá, người lấy nắm xôi rồi lại vọt đi. Bà Tân bán xôi cũng là bán cho vui, cho đỡ nhớ cái nghề bán hàng từ thời con gái, bán một ngày nghỉ vài ngày cùng bạn bè đi lễ, đi hầu bóng đền này phủ kia, tiền tiêu bạc trăm, bạc triệu.
Bên gốc cây sấu cổ thụ, cây sấu của bốn chục năm trước, của trăm năm trước, có một cái bàn nhỏ xíu bày bán trà chén và thuốc lá. Người bán là một chị trạc tuổi chị Mai ngày xưa, to béo, tóc uốn, răng trắng, mặc áo giắc két đỏ, quần len đen may chẽn, đi giày cao gót. Người bán nói cười luôn miệng, nói rất to, nói rất tục, câu nào cũng văng tục, văng tục bất chấp, văng tục đến vô lý, tục tĩu còn hơn đàn ông, mặt mũi thì dễ coi mà ăn nói quá quân trộm cướp. Chị ta kể với tôi rằng, từ ngày mai chị sẽ dẹp bán nước, đi buôn hoa vì cũng giáp tết rồi. Một vụ hoa năm ngoái chị kiếm lời khoảng mười triệu. Mua ở Nghi Tàm một cây đào hai trăm ngàn, xe chở đến đầu vườn hoa Hàng Đậu đã bán được năm trăm ngàn. Đi một ngày về vứt đống tiền lên bàn rồi lăn ra ngủ, chồng hỏi con hỏi chỉ gật với lắc vì cổ đã khản đặc. Chị nói:
- Đ.m, cái nghề này phải biết ăn nói có nghệ thuật, có tâm lý thì mới kiếm được. Người bán đầy đường mà người ta chỉ mua của mình, lại dám mua đắt là mình phải tâm lý thế nào chứ!
Tôi hỏi:
- Sao bảo dầu là đi buôn vẫn cứ phải thật thà thì làm ăn mới bền?
Chị ta trừng mắt nhìn tôi, má môi thây lẩy, nói ráo hoảnh:
- Nói vô phép bác, đ.m chúng nó, mình thật thà thì thiên hạ nó nhét cứt vào mồm ngay. Nói như rồng như phượng còn chả ăn ai nữa là thật thà!
Tôi thích cái thời này lắm, tôi khoan khoái được sống với cái thời này, chỉ hơi kinh, chỉ không thích cái lối sống bặm trợn, gian trá, tục tằn của hôm nay thôi.
Tháng 3 năm 1997
Đất Mỏ
Nguyễn Khải
1.
Ngôi nhà nhỏ tường xây bằng sỉ than sỉ vôi, mái ngói, nép mình trong khe núi, lối đi vào mỏ Mông Dương, là của một gia đình thợ mỏ. Họ chỉ có ba người. Một ông bố vốn là thợ hầm lò, đã nghỉ hưu hơn chục năm nay, bị bệnh suyễn, nói năng đi lại đều khó khăn. Một bà mẹ buổi sáng tráng bánh cuốn bán cho thợ và trẻ con đi học, trưa chiều nhặt củi, nấu cơm, quẩn quanh, lủi thủi với đàn gà, ổ lợn và mấy con chó, có muốn nói chuyện cũng chả có ai để nói. Và một anh con trai đã 26, 27 tuổi, đẹp trai, khỏe mạnh, đi làm đêm thì ngủ ngày, làm ngày thì bố mẹ ngủ lâu rồi anh mới rón rén mò về, cũng chả thích nói chuyện với ai, ngoài những câu hỏi và trả lời rất ngắn gọn và cộc cằn. Một ngôi nhà im lặng và buồn. Là một gia đình nhưng không có cái vui cái buồn chung, không có sự tính toán chung nên cũng không có câu chuyện chung ngoài sự góp lại thành một món lương hưu của ông bố, lương tháng của người con và tiền lãi buôn bán vặt của người mẹ. Mỗi lần bà lão nói với chồng : "Tháng rồi ngoài ăn tiêu ra còn dư được..." thì ông đã nhăn mặt, xua tay : "Tùy bà, bà muốn làm gì thì làm". Bà lại nói : "Tôi muốn mua một cái áo khoác cho ông, cũng rẻ lắm, trời đã lạnh rồi". Ông chồng vừa thở vừa gắt: "Cả ngày ngồi nhà, có đi đâu mà phải mua áo mới. Mua cho thằng Tùng ấy". Thằng con cười : "Cả năm chui trong hầm lò, cởi trần còn mồ hôi đầm đìa cần gì áo rét". Bà mẹ bảo : "Con trai chưa vợ, lúc hội hè cũng phải có bộ đồ rét cho đàng hoàng..." Thằng con gắt : "Một vụ rét chỉ có vài lần xỏ tay, mua làm gì cho phí tiền". Thế là hết chuyện. Vẫn còn một chuyện khiến cho mọi người đều quan tâm. Âởy là cái nhà này phải có thêm đàn bà, thêm một cô con dâu và một đứa cháu nội. Lắm nhà kiếm được một đồng cũng khó, vợ chồng trẻ lại hay cãi nhau, mấy đứa con ốm đau luôn, quấy khóc nhanh nhách cả ngày mà mỗi lần bà lão đi qua nhấc chân không nổi, vì thèm quá, vì tủi quá. Bà tâm sự với con trai cái nỗi niềm muốn được làm mẹ chồng, làm bà nội của một gia đình đông đảo thì thằng con lại cười khì : "Mẹ dở hơi thật. Nhàn nhã, thảnh thơi không muốn lại muốn chui đầu vào địa ngục". Bà cãi : "Tao thích được sống trong cái địa ngục ấy thì mày bảo sao ?". Thằng con gầm gừ : "Con gái bây giờ không chịu làm vợ một thằng thợ hầm lò đâu. Đừng có mong !". Có lần bà nói chuyện vợ con với Tùng gay gắt quá thì hắn bảo với giọng dửng dưng :
- Thì mẹ tìm đi, một cô gái nào đó chưa lấy chồng bao giờ hoặc đã có một đời chồng, mặt rỗ, mắt lác, chân vòng kiềng, miễn là còn đẻ con được là con lấy. Con không chê đâu.
Bà mẹ không dám nói gì thêm, lẳng lặng xuống bếp chuẩn bị bữa cơm tối, vừa nấu cơm vừa khóc. Con trai bà đẹp đẽ thế, lanh lợi thế lại hẩm hiu chuyện vợ con đến vậy sao ?
2.
Cuối thu trời se lạnh về tối và tảng sáng, đất mỏ nồng nàn những hương vị quen thuộc của cỏ cây, đất đá, than bụi và cả mùi da thịt của người. Nắng và mây của mù thu cũng ngượng ngùng, e ấp, thấp thoáng buồn lại thấp thoáng vui, chả hiểu vì sao ? Vào một chiều cuối thu người anh con ông bác của Tùng, làm bảo vệ của mỏ, dẫn một cô gái tới nhà, bảo bà mẹ: "Con gửi cô này sang ở nhờ nhà thím, có được không ?". Bà mẹ ngước nhìn cô gái đi phía sau, hỏi : "Người quen của anh à ?" Anh kia liếc nhìn cô gái, cười nụ : "Quen, cô ấy muốn xin việc ở Nhà Sàng nhưng chưa có đợt tuyển. Phải đợi một hai tháng. ở nhà con cũng được nhưng không có chỗ nằm". Bà lão đứng dậy, nói vồn vã : "Thế thì cô cứ ở đây, nhà rộng lại vắng người".
Ngay sau khi người giới thiệu ra về cô gái đã vào bếp đổ nồi cám lợn ra cái chậu sành đợi nguội cho lợn ăn, quét dọn trong bếp, quét sân và dọn cơm chiều cùng với bà lão. Bà cụ đi lại nhẹ nhàng, nói cười luôn miệng. Chuyện làng xóm, chuyện làm ăn, chuyện gia cảnh, thiếu gì chuyện vẩn vơ đã nhiều chục năm chưa có ai nghe để nói. Cô gái tên Lượm, là chị đầu của hai đứa em còn nhỏ, bố là bộ đội mới về hưu, cả nhà sống bằng nghề làm ruộng. Chỉ có lúa, tôm cua cá tép của vùng lúa nên mãi mãi nghèo. Một làng nghèo của một huyện nghèo. Nên cô muốn đi làm công nhân để có tiền giúp các em ăn học. Người đâu mà xinh đẹp, mà dịu dàng, lại còn trẻ quá, chỉ khoảng ngoài đôi mươi chứ mấy. Này, cháu có đi làm đâu cứ về đây mà ở. Nhà vắng người có thêm cháu thì vui lắm, bà lão gạ gẫm thế. Lượm chỉ trả lời nhỏ nhẹ "vâng", không ra nhận không ra chối. Sao thế nhỉ ?
Cuối thu đầu đông là khoảng thời gian dễ chịu nhất đối với ông lão. Bệnh suyễn như lui hẳn, ăn uống được, đôi khi có thể uống lưng chén rượu trước bữa ăn. Bữa nay ông lão được bạn đón ra Cao Sơn ăn mừng đầy tháng thằng cháu đích tôn của ông ta. Ông già đã định không đi nhưng người bạn nói, ông đến chia vui với vợ chồng chúng tôi bữa nay thì sang năm chúng tôi lại đến chia vui với ông bà. Thế là ông đi. Nói chơi biết đâu lại thật, nhân nói như thần nói. Tối được một lúc thì ông về. Lượm chạy ra mở cổng. Ông đứng sững, hỏi : "Cháu là bạn của Tùng hả?" Cô gái nói : "Thưa bác, cháu mới tới". Vào trong nhà ông lão hỏi nhỏ vợ : "Bạn gái thằng Tùng đấy à ?" Bà vợ cười : "Người quen của thằng Trí, cô ấy ở đây ít hôm đợi việc làm". Ông già lấm lét nhìn cô gái đi lại thấp thoáng ngoài sân, mắt nhấm nháy : "Không chừng sang năm nhà mình có chuyện vui". Bà vợ thở dài : "Cũng mong thế, trời thương thì được". Vì ông đã ăn cơm nên bà vợ và cô gái muốn đợi ông chủ trẻ đi làm về cùng ăn cho vui. Tùng về sớm hơn mọi ngày, tay chân, mặt mũi, quần áo cứ như vừa từ vũng bùn lăn ra. Một cặp mắt rất to chiếu vào Lượm rồi một vệt sáng trắng từ hai hàm răng của người vừa bước vào : "Nhà có khách à ?" Lượm đứng lên, nói lễ phép : "Em chào anh, em là Lượm". Cái đầu đen sì nghiêng về phía bà lão. Bà mẹ phải giới thiệu lần nữa. Hàm răng như càng sáng hơn : "Chúng tôi xin cảm ơn cô đã đến đây. Có cô thì cái nhà này sẽ vui hơn nhiều". Cô gái cúi mặt, không nói gì. Thằng quỉ mặt đen bước vào nhà trong, nửa giờ sau một chàng trai tuấn tú mặc áo pun trắng, quần bò xanh, đi dép lê bước ra. Là anh sao ? Anh đẹp trai đến vậy sao ? Không có một người thợ mỏ nào giống anh cả. Một bữa cơm có cá kho, đậu rán, canh cải, cả ba người đều rất đói mà không ai ăn thấy ngon. Cứ hồi hộp thế nào, nghẹn ngào thế nào. Tùng uống một chén rượu thuốc, ăn một miếng đậu rán, rồi gắp thức ăn cho mẹ và cho khách. Và anh nhìn ngắm cái mâm cơm gia đình lần đầu có một cô gái cùng ngồi ăn. Lại là một cô gái đẹp. Đẹp chứ không chỉ xinh. Một cổ tay rất tròn. Những ngón tay rất dài. Những sợi tóc xõa rối một bên vai sáng lên trong ánh điện. Lạ quá, đẹp quá, cứ như là chuyện không thể có thật. Mỗi lần Tùng gắp thức ăn cho Lượm, cô ta lại nói nhỏ, rất nhỏ : "Em xin anh". Nhưng cô không ăn, bát cơm đầy thức ăn chả vơi đi được chút nào. Bà mẹ nói : "Cháu ăn đi chứ, người trong nhà đừng làm khách". Cô gái hơi cười: "Anh con gắp cho nhiều thức ăn thế này, con ăn sao hết". "Anh con", em nói lại đi, giọng em nhẹ quá, mảnh quá, như một sợi dây nhỏ sít chặt cổ anh đây này. Anh chỉ muốn òa khóc thôi. Vì cái gì nhỉ ? Vì sung sướng quá hay tủi thân quá? Vì vui quá hay buồn quá ? Anh không biết, đã được trải qua lần nào đâu mà biết !
3.
Như có phép lạ, mùa thu năm nay bệnh suyễn của ông già hình như còn nhẹ hơn các mua thu của mọi năm. Dáng đi của ông thẳng hơn, nhanh nhẹn hơn. Ông cười nói tự nhiên, không bị cụt hơi, cũng không thở gấp và đã bắt đầu hay nói. Như một người vừa được sống lại. Và hay mủm mỉm cười một mình. Bà già thì khỏi nói. Bây giờ người dậy sớm nhất nhà là Lượm, từ ba bốn giờ sáng để xay bột tráng bánh cuốn. Vài cân gạo chỉ xay khoảng một giờ là xong. Rồi cô nhóm lò than. Bà lão dậy thì nồi nước tráng bánh đã bắc lên lò rồi. Những ngày sau cô xay tới mười cân gạo, bà già bán một phần ở nhà, phần còn lại cô đội ra chợ bán. Đã nhiều lần Tùng đứng ở cổng nhìn Lượm đội thúng bánh cuốn trên đầu, tay xách một cái giỏ tre đựng bát đũa và các chai nước chấm, bước đi uyển chuyển, thân người uốn theo mềm mại, một tay khẽ vung vẩy như một điệu múa đẹp. Anh thở dài rất nhỏ, nước mắt như muốn ứa ra, vì đã nhớ rồi, đã lo sợ rồi, hình như cô ấy sẽ không bao giờ trở lại nữa. Cô ấy đến bất thần rồi cũng ra đi bất thần. Một cái gì quá đẹp, quá mọi mong ước rất khó là cái thật bền lâu. Chuyện cổ tích đâu có thật, nó an ủi, nó hứa hẹn chứ không thể là thật. Em ơi, nếu không gặp em anh chỉ buồn ít thôi vì anh chưa từng có gì để tiếc, để so sánh. Còn bây giờ...
Đã nhiều năm, từ ngày Tùng đi làm thợ hầm lò, những ngày làm ca 2, bà mẹ đều thức chờ con về khoảng gần nửa đêm, để đun nước tắm, hâm lại thức ăn và nhặt quần áo bẩn cho vào chậu ngâm. Như xưa kia bà đã chờ chồng về. Đã ba chục năm bà chưa bao giờ được ngủ trọn giấc hai tối liền, trừ những ngày lễ Tết. Bỗng nhiên bà được ngủ từ tối vì Lượm đã tình nguyện thay bà để chăm sóc con trai bà. Cô đi chợ và nấu cơm ngày ba bữa, bữa trưa, bữa tối và bữa nửa đêm cho riêng một người. Vợ trẻ chiều chồng mới cưới cũng không thể nấu cơm vào lúc nửa đêm. Lần đầu, Tùng được ăn bữa cơm đêm bằng cơm nóng xới trong nồi, anh cầm bát cơm lên mũi ngửi buột nói : "Em chiều anh thế này, lỡ nay mai em ở xa thì anh sống làm sao đây". Lượm cười nhẹ : "Thì anh vẫn sống như trước đây có sao". Tùng cũng cười nhưng rất gượng : "Trước ngày em đến và bây giờ đâu còn giống nhau nữa". Rồi Tùng vội nói sang chuyện khác, chuyện những ngày anh còn nhỏ, bố vẫn đi làm, là thợ hầm lò. Những ngày làm ca 2, khoảng nửa đêm, bà vợ vẫn thức chờ chồng về, đun nước tắm, dọn cơm và rót cho ông chén rượu. Trong khi ông ăn thì bà vá quần. Tức là đắp thêm vải vào những chỗ đã đắp vá nhiều lần, không còn là vải nữa vì nó đã cứng như cái mo. Mùa xuân, trời nồm, mưa bụi, những tảng vá không thể khô lại mà phải hong lên bếp lò, lấy tay gõ lên miếng vá như gõ lên miếng gỗ. Lương thợ hầm lò thì cao lắm, cao nhất mỏ, thứ nhất hầm lò, thứ nhì bò tót. Lái xe bò tót lên tầng, rét rất rét, nóng rất nóng nhưng vẫn có đầy đủ khí trời để thở chứ không luôn luôn có cảm giác bị ngạt như dưới hầm lò. Lượm vẫn ngồi nghe chăm chú, lát lát lại gắp thức ăn cho Tùng, nhưng cô chỉ mỉm cười chứ không nói thêm câu gì, cũng không hỏi, hình như cô cũng chả quan tâm gì nhiều tới những vất vả của người thợ mỏ. Khi cô đưa nắm sém cơm cho Tùng lúc cuối bữa, anh thở dài :
- Thời bây giờ thợ mỏ làm ca 2 về nhà dễ tủi thân lắm. Không có ai ngồi đợi anh ta cả, tự tắm giặt, tự dọn cơm, có muốn hỏi chuyện gì cũng phải đợi sáng hôm sau. Vợ con đang ngủ, phá giấc ngủ của nó lại thêm rắc rối.
Rồi Tùng kể một câu chuyện vui. Một anh bạn đi đánh bài về khuya vẫn hiên ngang đập cửa gọi vợ. Cách gọi của anh ta thần tình lắm : Em, em, mở cửa, than ! Cô vợ choàng dậy ngay. Anh chồng nhâng nháo bước vào, nhăn răng cười : Đùa tí thôi, làm gì có than ! Cô vợ chu chéo lên thì thằng chồng đã lăn ra ngủ rồi. Đêm sau hắn ăn cắp được một túi than nặng vác về, lại gọi cửa. Vợ không ra, bảo chồng cứ nằm ngoài hè mà ngủ. Hắn phá cửa nhảy vào, ném túi than lên người vợ, rồi đánh vợ một trận. Tùng kể xong rồi cười. Cô bạn gái của anh không cười chỉ hỏi :
- Các anh ở mỏ hay đánh bạc lắm à ?
- Không đánh bài thì còn biết chơi gì ?
- Các anh cũng hay ăn cắp than của nhà nước à ?
- Tiền lương cuối tháng mới có, có dạo mỏ nợ vài tháng mới trả lương. Nếu không ăn cắp than lấy đâu tiền hàng ngày mua gạo cho người mua cám cho lợn.
- Các anh cũng hay đánh vợ nhỉ ?
- Thi thoảng thôi, chứ không phải ngày nào cũng đánh. Lượm lại cười nhưng mặt lạnh tanh, không hỏi gì nữa.
4.
Lượm sống với gia đình Tùng được hơn một tháng mới dám cùng Tùng đi một đoạn đường trong đêm đến thăm một người bạn của anh suýt chết cách đó vài ngày. Anh ấy đang làm ca 2 được vài giờ thì sập lò, gỗ, than và đá đổ ào xuống, anh chỉ kịp nhoai nửa người ra còn thân dưới đã bị kẹt cứng trong gỗ và đá. Không dám vào đông người để cứu, cũng không dám làm một động tác nào mạnh khi cứu, chỉ một sự bất cẩn nhỏ là tất cả sẽ bị chôn vùi. Anh ta đã nằm chờ chết suốt bảy tiếng, đã ứa nước mắt vì tuyệt vọng, đã nói lời cảm ơn với bạn bè. Nhưng các bạn anh đã nhẫn nại hơn thần chết, đã cứu được anh ra khi trời vừa rạng sáng. Khi đưa anh lên khỏi miệng giếng, anh kêu lên : "Không ngờ đời tôi còn được nhìn lại ánh sáng của ban ngày".
Khi hai người ra về đã gần nửa đêm. Họ vẫn đi theo con đường men núi, đến khúc ngoặt bất chợt một vầng sáng hiện lên ở phía xa. Đó là quầng sáng của Nhà Sàng Cửa Ông, xa hơn là của mỏ Cọc 6, của Đèo Nai. Phía dưới kia là thị xã Cẩm Phả. Bà mẹ Tùng đã nói với cô gái đã hai chục năm nay ông bà không xuống Hòn Gai, ra thị xã Cẩm Phả đâu có hai lần, lúc thì thăm người nhà nằm bệnh viện, lúc thì thăm đứa cháu sinh con đầu lòng. Cũng đã có lần bà đi qua phà Rừng, ấy là cái thời còn con gái theo chị em từ quê ra mỏ tìm việc. Từ bấy đến nay đã non bốn chục năm rồi. Tùng hỏi : "Sao em biết ở đây có tuyển nữ công nhân Nhà Sàng mà ra đất mỏ ?" Lượm cười nhỏ : "Em đâu có biết. Theo bạn bè ra lúc đầu chỉ đi đội than thổ phỉ thôi. Sau ngày có con bạn chết vì bị đá đè, em sợ quá mới đi mót than ở các vỉa. Than ăn cắp ấy mà" - "Có bị bảo vệ bắt bao giờ không ?" - "Có chứ, em bị các anh ấy bắt luôn, cảnh cáo mấy lần nhưng không ăn cắp than thì lấy gì mà sống" - "Có nhớ anh nào bắt không ?" - "Cả mấy anh ở trạm gác Cao Sơn em đều quen nhưng chỉ nhớ tên có anh Trí thôi".
Đứng trước cổng nhà cả hai đều dừng lại và cứ đứng im lặng bên nhau rất lâu. Rồi Tùng nói trước, giọng anh hồn hển, đứt quãng như người suyễn :
- Anh thật lòng không muốn xa em, muốn mãi mãi được sống bên em. Chả biết em nghĩ thế nào ?
Lượm mím chặt môi, sống mũi và vè mắt cay sè. Cô cũng không muốn xa anh, muốn được sống mãi mãi với anh. Nhưng... em không thể, anh ơi. Em chưa yêu ai bao giờ nhưng em vẫn không thể yêu anh, không thể làm vợ anh.
Những ngày sau Lượm dậy từ rất sớm để xay bột, đốt lò và tráng bánh. Rồi cô đội thúng bánh ra chợ gần trưa mới về. Về nhà lại lao vào nắm than, giặt quần áo, nấu cám lợn và làm cơm chiều. Và cô vẫn nấu thêm bữa cơm nửa đêm những ngày Tùng đi làm ca 2, ngồi bên anh xới cơm và gắp thức ăn, vẫn trả lời dịu dàng, ý nhị những câu hỏi của Tùng. Nhưng cô không cười, cũng không nhìn thẳng vào mắt Tùng bao giờ, khi không thể nói rõ được điều gì đó thì cô nín lặng và thở dài rất nhỏ.
....
Anh ơi, anh là người đàn ông đẹp nhất và tốt nhất, nhưng em vẫn không muốn ở lại đây, không muốn mãi mãi phải sống ở đây. Cũng như mãi mãi phải sống ở làng quê thì buồn lắm. Nếu em là vợ anh chắc sẽ là một cặp vợ chồng rất đẹp đôi, em sẽ sinh cho anh vài ba đứa con, sẽ tráng bánh và bán bánh ở chợ, và đêm đêm ngồi đợi anh về để nấu nước tắm, dọn cơm và rót rượu. Còn anh, ngoài giờ đi làm và chơi với vợ con anh sẽ đi đánh bài, đánh bida và uống bia, đôi lúc cũng đánh vợ giống như nhiều người, nhưng vẫn là một gia đình hạnh phúc, có phải thế không, nhưng mà buồn lắm. Vì mọi cái vui cái buồn đều có thể biết trước, giống hệt những người đã đi trước. Và anh về già cũng sẽ bị hen suyễn, bị thấp khớp như mọi người thợ hầm lò tới tuổi nghỉ hưu. Vậy thì em muốn gì, chắc là anh hỏi thế. Chính em cũng không thật rõ em đang muốn gì. Muốn đến một vùng đất mới, sống trong một hoàn cảnh mới, tự mình phải lựa chọn, phải quyết định, không phụ thuộc vào bất cứ ai, có thể cuộc sống sẽ tốt hơn mà cũng có thể còn tệ hơn. Với phụ nữ, sự lựa chọn hình như chỉ được có một lần, lần đầu. Lầm lỡ một lần là cả đời phó mặc cho may rủi, cho số phận. Em không hối tiếc đã rời nhà đi đến đất mỏ. Nhưng em sẽ ân hận suốt đời nếu em bằng lòng ở lại đây mãi mãi. Em đã biết em là ai đâu. Là một con bé tháo vát và can đảm, dám sống theo ý mình hay chỉ là một con nhóc con nhiều mơ mộng, cuối cùng vì yếu đuối lại phải ỷ dựa vào một ai đó, vào một người đàn ông nào đó.
.....
Em phải đi ngay anh Tùng ạ. Nếu em ở lại thêm một tháng nữa thì em sẽ không ra nổi cái nhà này. Anh đừng trách em nhá, đừng giận em nhá. Rồi anh sẽ quên nhanh em thôi. Rồi em cũng sẽ phải quên anh, sẽ cố mà quên. Đưa đầu vào cái cạm bẫy êm ái, ngọt ngào của một tổ ấm hạnh phúc đã được chuẩn bị sẵn là dễ nhắm mắt buông xuôi lắm. Em sợ mọi dự kiến táo bạo sẽ kết thúc quá nhanh chóng nếu em vì cái nhìn buồn bã, tuyệt vọng của anh mà nấn ná ở lại.
Anh đừng nhìn em nữa nhá. Em xin thề sẽ không nhìn thẳng vào mắt anh một lần nào nữa, sẽ không nói thêm với anh một lời nào nữa. Và sẽ không bao giờ cho phép mình đi chung với anh trong đêm như đêm trước.
Tháng 11 năm 1995Đứa con nuôi
Nguyễn Khải
Thế nào, cháu đã mỏi chân chưa ?
Cừ, chủ nhiệm chính trị nông trường dừng lại hỏi rất âu yếm đứa con gái chừng mười ba, mười bốn tuổi đi sau anh vài bước. Đứa bé hai tay xắn lấy quần, chăm chú tránh mấy vũng nước, rồi ngẩng lên, ngước đôi lòng đen rất sáng nhìn người hỏi :
- Mới đi được có mấy bước bác đã sợ cháu mỏi chân... Có bác mỏi chân thì có.
Cừ để cho đứa bé đi trước mình, nhìn cái dáng nhỏ nhắn của nó cứ chao đi chao lại trên mặt đường nhầy nhụa bùn vì cơn mưa đêm trước. Lượt vải chiếc áo sơ mi nâu may quá rộng trườn qua trườn lại trên cái lưng rất ngắn, một mái tóc cắt đến gáy cũn cỡn, hai cái bụng chân rất gầy, tất cả cái vẻ đằng sau của đứa bé sao mà tội nghiệp và trái tim Cừ như bị thắt lại vì những ý nghĩ thương xót. Quê nó ở Hà Đông, bố mẹ đã hy sinh trong kháng chiến, từ đó nó đi ở cho hết nhà này đến nhà khác, cuối cùng theo vợ một đồng chí cán sự ở châu lên Điện Biên, giúp đỡ chị ấy khi sinh nở. Nó đã ở với gia đình nọ được nửa năm, sau không hiểu vì lẽ gì lại bị đuổi, bơ vơ mất mấy ngày ở ngoài phố. Chuyện ấy đến tai Cừ, anh nảy ra ý định nhận đứa bé ấy làm con nuôi. Anh đón nó về ban chính trị trưa hôm qua, và sáng nay nhân ngày chủ nhật anh đưa về chỗ vợ ở đội sản xuất số 6. Đồ đạc của nó vỏn vẹn chỉ có một cái ba lô đã sờn hết mép (không hiểu ai đã cho nó), chăn màn không có. Ngay chiếc ba lô anh đeo trên vai đây cũng rất nhẹ, tuy các cạnh rất vuông vắn. Anh lại hỏi :
- Cháu có áo rét không ?
- Cháu chẳng thấy rét bao giờ bác ạ, có một cái áo trấn thủ nhưng cũng không mấy khi cháu mặc đến.
- Rét Điện Biên không như ở dưới xuôi đâu, mặc phong phanh là dễ ốm lắm đấy.
Hai người đến bờ sông Nậm Rốm thì đã gần trưa. Đứng bên này chiếc cầu bắc bằng những miếng sắt lát sân bay ngày trước, nhìn sang bên kia bờ Cừ ngạc nhiên vì mới có nửa tháng không qua đây mà khung cảnh đã như đổi mới hẳn. Tre măng mọc vút lên, vượt hẳn những lớp lá lăn phăn của bụi tre già. Mo nang ở các đốt tre ôm chặt lấy từng gióng, vàng nượm như bụng rắn, ở các đốt đã chìa ra những nhánh rất nhỏ, mấy chiếc lá non bám vào mỏng mảnh như những nét phảy. Những cụm cỏ nghệ mới đây còn xanh tốt như rừng, bây giờ đã bắt đầu vàng sẹm, chùm hoa ở giữa gốc màu tím điều cũng héo hon, sắp hết mùa cỏ dại rồi.
Bước qua cầu, Cừ đi sát cạnh đứa con nuôi, và bỗng nhiên anh thèm muốn được gọi nó là con, nhưng con bé vẫn coi anh như người xa lạ, nó gọi anh bằng bác với cái vẻ tự nhiên, vốn đã là một cách xưng hô quen thuộc của nó đối với nhiều người. Anh mỉm cười gượng gạo, nói khẽ :
- ở đây hơi xa phố cháu đừng buồn nhé.
Con bé lặng im một lát, mãi nó mới nói, giọng rất đanh như người lớn tuổi :
- Cháu ở đâu cũng được bác ạ.
Trò chuyện với một đứa con gái mới mười bốn tuổi trong một buổi tối và suốt dọc đường từ nông trường bộ về đến đây, Cừ luôn luôn ngạc nhiên vì những câu trả lời bất ngờ của nó. Anh vừa thương hại, vừa khó chịu vì nó đã khôn ngoan quá sớm, nó già hơn tuổi vì những lời lẽ đối đáp rất tinh khôn, và tính toán chi li đến từng câu trả lời. Nhìn những mái nhà nổi lên thành một dải vàng nhạt trên những ngọn me dại, xoan và những cây chó đẻ, con bé khẽ kêu lên :
- Đến rồi hở bác, chóng quá nhỉ, cháu tưởng còn đi xa nữa.
- Ta rẽ ra đồng thăm lúa một chút. Chỉ vài hôm nữa ở đây vào gặt rồi. Bận lắm đấy.
Trèo qua một cái giá tre có bực thang dựng lên trên hàng dây thép gai ngăn trâu bò là khu vực trồng lúa nương của nông trường. Những cây lúa cao ngợp đầu người, ngả ra che kín cả con đường mòn chạy ở giữa. Bông lúa đã sạm vàng, nhiều bông đã gục mặt, đôi bông mới uốn câu. Mép trấu hé mở để lộ ra những bao phấn mỏng mảnh nắng đã se dần màu trắng, ở những chẽ trên mép trấu đã ngậm lại còn lòi ra một chút đầu bao phấn hoe hoe vàng nhạt. Trong gió hanh tiếng lúa cọ vào nhau nghe rất nặng, vừa khô vừa sắc. Cừ lách mình vào giữa rừng lúa, vừa đi vừa cúi xuống nâng những cây ngả gạt sang hai bên. Hai cánh mũi anh co giãn rất nhanh, một thứ hương vị nồng nhạt, thoảng thơm phảng phất khắp mọi chỗ. Đi theo mãi cái vách thành kết bằng những hạt lúa dày kín ấy, hai người chợt bước ra một khoảng đất trồng lạc rộng mênh mông. Lạc ba tháng đã ra hoa, hoa lạc ẩn dưới gốc vàng chói, chập chờn như những cánh bướm, màu lá lạc được mưa xanh mỡ, trông non và ngọt như cốm. Và khu nhà trống để máy kéo cũng đã kề sát ngay phía đầu bãi bên kia.
Ngày chủ nhật, bộ đội và anh chị em công nhân ra chơi phố và đi thăm các đội bạn gần hết. ở mỗi nhà còn chừng mươi người đánh cờ tướng, tu-lơ-khơ, hoặc đẽo cán liềm, gắn lưỡi hái, chuẩn bị cho vụ gặt. Cừ vừa đi ngang sau khu nhà trung đội I, có tiếng gọi giật lại :
- Anh Cừ về chơi đấy ư ?
Cừ ngoảnh lại, Quang tổ trưởng một tổ sản xuất đang nhìn anh cười, trước mặt ngổn ngang đến chục cây giang và một bó lạt đã chẻ.
- Lâu lắm mới lại gặp nhau. Lấy gỗ xong hôm nào thế ? Không đi chơi đâu à ?
- Lại về đội được nửa tháng rồi anh ạ... Cũng định ra phố một tí nhưng các cô tiểu thư lại nhờ chẻ hộ lạt. Mai vào gặt rồi... Cháu nào thế ?
Cừ chưa kịp trả lời thì con bé đã nghiêng đầu nhìn Quang, cười rất tự nhiên :
- Cháu về đây để gặt giúp các chú mấy buổi.
Quang cười to :
- Ra thế, vậy chú xin xung phong cõng cháu ra ruộng nhé... Tối anh có rỗi tôi lại chơi.
- Thì về chơi chứ có về họp đâu mà không rỗi. Tối đến nhé, mình mới mua được gói chè hương.
Chị Lụa mấy hôm nay bị đau bụng nên nghỉ ở nhà. Chị ngồi một mình đang hí hoáy bóc lạc. Cừ đứng sững ngay ở ngưỡng cửa nói to :
- Đến nhà rồi đây !
Chị giật mình quay ra thấy chồng đang nghiêng mặt nhìn về phía sau.
- Ai đến chơi thế !
Vừa lúc ấy một cái đầu nhỏ bé, tóc cúp ngắn ló vào :
- Chào bác ạ.
Cừ đặt ba lô lên giường, giới thiệu :
- Đây là bác gái cháu, còn đây là cháu Tấm.
Chị Lụa ngắm một lượt đứa bé xa lạ mới đến :
- Con ai mà nhớn nhỉ ?... Cháu mới ở quê lên hôm nào đấy?
Cừ gõ gõ điếu thuốc lá xuống bàn, cười :
- Con tôi chứ còn con ai, bố con tôi ngủ nhờ bà chủ đêm nay nhé...
Tấm liếc nhìn cả hai người, rồi nó bưng miệng cười, hai con mắt sáng lên rất ranh mãnh. Bằng một cử chỉ rất nhanh, nó chạy lại đầu giường xách chiếc ba lô để lên một góc cái hòm gỗ, thành thạo như đã từng đến đây vài ba lần. Chị Lụa vẫn còn đang theo dõi nó bằng con mắt dò xét thì nó đã cúi xuống gậm giường, hỏi :
- Nhà còn đôi guốc nào cho cháu mượn rửa chân với. Và không đợi người chủ nhà trả lời, nó đã lôi ra một đôi guốc mộc, quai dù từ góc một chân niễng :
- Đây rồi, quai này là bền lắm nhé. ở trên kia có chú tích trữ đến hai đôi, cháu hỏi xin một đôi chú ấy nhất định không cho... Sao có người độc bụng đến thế.
Mới phút đầu con bé đã ăn nói quá lém lỉnh, chị Lụa đặt giá lạc lên bàn, nét mặt lạnh nhạt hẳn, hỏi chồng :
- Có ăn cơm nếp không để tôi lấy thêm gạo ?
Cừ cởi áo mắc vào chiếc đinh đóng trên tường, anh thấy vợ không vồ vập, ân cần đối với con bé nên lựa lời giới thiệu thêm:
- Con bé thông minh, nhanh nhẹn lắm, tôi nhận nó làm con nuôi đấy. Quê nó ở Hà Đông, bố mẹ chết cả, đi ăn đi ở từ bé. Mình hiếm hoi có nó cũng vui...
Anh định nói thêm thì tiếng Tấm đã léo xéo ở đầu chái :
- Cháu là người nhà bác Cừ đấy ạ. Chốc nữa mời chú sang chơi.
Nó định bước vào trong nhà thì chị Lụa gắt lên rất đột ngột:
- Lại tha đất vào đầy nhà bây giờ...
Nó đứng sững ngay lại, nét mặt đờ ra, nhưng rồi khẽ cúi đầu xuống đập đập đôi guốc vào thềm hè. Từ lúc ấy nó không nói một câu nào, ngồi im lặng trên cái ghế dài kê sát tường, lặng lẽ ngắm bà chủ nhà tính tình không lấy gì làm vui vẻ lắm...
Trong khi Tấm tính toán thầm với riêng nó thì Cừ cũng để ý xem xét thái độ của đứa bé khôn ngoan ấy đối với vợ mình ra sao. Càng nhìn anh càng ngạc nhiên vì cái khuôn mặt kỳ lạ của đứa con nuôi, phía trán hóp lại gần như nhọn, dưới cằm lại bành rộng ra theo hình vuông khiến nét mặt mất hết mọi vẻ thơ ngây, cái miệng rộng, hàm răng to và đều như hàm răng của người con gái dậy thì, hai con mắt đắn đo, dò xét, lấp lánh một vẻ tinh khôn, lanh lẹn đặc biệt.
Đột nhiên chị Lụa hỏi nó :
- Cháu năm nay mười mấy tuổi ?
- Tính cả tuổi mụ là mười bốn, cháu tuổi Sửu đấy. Tuổi Sửu là vất vả lắm.
Cừ mỉm cười :
- Cháu còn bé mà đã tin ở tướng số rồi à ?
Bữa cơm chiều Tấm tranh làm gần hết mọi việc. Mới đầu chị Lụa cũng giữ kẽ với chồng không cho làm. Nhưng sau thấy nó cứ nằn nì, quanh quẩn không chịu đi đâu, hơn nữa cơn đau bụng lại bắt đầu âm ỉ nên chị dặn dò một chút rồi đi nằm. Mâm cơm dọn lên rất ngon lành, rau sào, đậu phụ rán, lại thêm một đĩa rau thơm, hành sống. Vào bàn ăn Tấm cũng dành ngồi ngoài xới cơm. Vừa ăn nó vừa hỏi chị Lụa ở đây có vại muối dưa không, có lọ to để ngâm dấm đu đủ không, có biết cách làm đậu phụ nhự của miền Nam không ?
Cừ nghe nó hỏi cặn kẽ mọi việc như một người nội trợ đảm đang, anh bật cười :
-Có làm được không mà hỏi lắm thế ?
- Cháu vẫn làm mà lại.
- Vậy bác đề nghị bổ sung cháu vào tổ nuôi quân nhé.
- Nhưng lò bếp của các chú ấy đắp cao quá bác ạ.
Trong bữa cơm chị Lụa đã nhìn Tấm bằng con mắt dịu dàng hơn, con bé tuy ít tuổi nhưng làm ăn đâu vào đấy. Dù có phải nuôi mỗi tháng mất vài chục bạc nhưng khi ốm đau đã có người săn sóc, đỡ đần... Chỉ phải tội mặt mũi nó trông láu lỉnh, xảo trá quá. Rồi chị cứ miên man suy tính thiệt hơn, có lúc thấy nó cần thiết cho mình, có lúc lại thấy nó là gánh nặng cho mình, cho nên chị cũng không hẳn tỏ ra cởi mở, dễ dãi, nhưng cũng không đến nỗi lạnh nhạt, cau có như lúc đầu. Còn Tấm không phải chỉ hỏi một cách vô tư, nó cũng nghĩ về nó, về thái độ của hai người chủ nhà, và tự bảo thầm : "Mình ăn mấy vực cơm nhưng đã làm cho bà ấy cả buổi chiều, mình không ăn xin, nay mai bà ấy không thể kể ơn với mình được..."
Lên đèn được một lúc, chị Lụa đã đun sôi ấm nước thì Quang cầm một cây mía bước vào.
- Mía tăng gia của tổ đây, trồng được mấy bụi ăn phí ăn hoài gần hết cả, còn được vài cây phần anh.
- Có ngọt không ?
- Mía Điện Biên còn phải nói... Cháu có ăn mía không hay sợ sún răng ?
- Chú làm cháu như là trẻ con không bằng.
- Aỏi chà, thì người nhớn được với ai.
Cừ liếc nhìn Tấm ngồi thu lu ở một góc giường, định nói : "Nó bé nhưng có khi còn khôn hơn chú đấy", nhưng lại thôi. Chị Lụa đã đắp chăn đi nằm. Cừ lấy một lọ trà đưa ra trước đèn khoe với Quang :
- Cậu thử nhìn xem là nhãn hiệu gì ?
Quang nhìn chăm chú rồi cười ầm :
- Sao lại đựng trà vào lọ thuốc điều kinh của bà ấy ?
- Đấy ông xem, vợ thì thuốc điều kinh, chồng thì trà hương hảo hạng, cái này đựng vào cái nọ, hết lọ nhớn đến lọ bé làm gì mà không tiêu ma cơ nghiệp.
Quang nhìn đồng chí chủ nhiệm, người anh và cũng là người bạn tâm phúc từ ngày anh vào bộ đội đến nay. Sáu, bảy năm rồi, con người ấy hầu như không thay đổi mấy. Vẫn hàm râu quai nón không mấy khi được nhẵn nhụi, cái cười sảng khoái, rộng rãi, chan chứa thương yêu. Vẫn lối nói thẳng thắn, không e nể một ai, không giấu giếm một cái gì. Vẫn cách sống ồn ào, sôi nổi, thích đùa cợt.
Cừ dốc một ít trà vào lòng bàn tay, khẽ nghiêng nghiêng mé tay soi vào ánh đèn, rồi hỏi Quang:
- Uống đặc được chứ ! Hôm nay nói chuyện lâu một tí, cần gì ngủ sớm.
- Anh còn nhớ hồi đi chiến dịch nấu nước trà bằng ống cát cút không ?
- ừ, ừ... thế mà lúc uống vẫn say sưa, thú vị nhỉ. Mình cứ nhớ một cái ống cát cút bọc giấy báo đút vào túi áo ca-pốt, đến chặng nghỉ múc ít nước suối, móc hai quai vào cành cây, ông "con rể" đốt một bó đuốc hơ, chỉ năm phút nước đã sôi ùng ục, cho vào một dúm trà búp, cái thứ trà chiến lợi phẩm ấy mà. Thế là bố con, bạn bè quây lại xuýt xuýt, xoa xoa, đến hay... Nhân nói chuyện xưa lại nhớ đến thằng "con rể", nó hy sinh ở Mường Khoa nhỉ. Thằng ấy còn sống thì không chừng cũng trở thành cán bộ kỹ thuật hạng cừ. Uống đi không nguội... Cháu Tấm có uống được nước trà không... không dám uống à... Cũng phải. Chè chén nên nhường cho bọn già... Thế nào, kỳ về phép vừa rồi có được vui vẻ không ? Kết quả tốt đẹp chứ?... Không khéo cậu lại vượt vợ chồng mình cũng nên... Căn bản là phải trẻ mới ăn thua, chứ má đã răn, gối đã mỏi thì thuốc giời cũng đừng hòng.
Quang hớp một ngụm nước, nét mặt hơi buồn buồn :
- Anh cũng rõ hoàn cảnh gia đình của tôi rồi đấy. Từ ngày con bé cháu mất nhà tôi cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mấy năm nay lại mắc chứng đau bụng, đi khám họ bảo bị viêm tử cung, nhà nghèo bệnh trọng là thế. Thành thử một tháng nằm nhà đến hai chục buổi. Một mình đã vậy, nhưng còn hai đứa em, một đứa lên mười, một lên bảy. Chúng nó là con ông chú ruột tôi, cả bố lẫn mẹ đều hy sinh trong kháng chiến, họ hàng chỉ còn mỗi vợ chồng tôi là gần. Dù rau cháo nhưng anh em đùm bọc lấy nhau vẫn hơn đi ăn đi ở cho người khác... Mỗi lần về trông thấy chúng nó tôi không sao cầm được nước mắt. Thằng nhớn đi học về rời quyển sách là đâm đầu vào bếp đun nấu, thằng em thì đi tha thẩn khắp xóm, mặt mũi lem luốc như thằng quỉ. Tội nghiệp, chúng nó biết là anh chị nghèo nên ăn thế nào cũng được, mặc thế nào cũng xong, được cái cả hai anh em nó đều có sức nên ít đau ốm. Tôi nghiệm ra những đứa bé đã từng nếm mùi cơ cực, lớn lên đều có chí cả, quẳng vào chỗ nào cũng sống nổi... Không hiểu các cậu khác về phép có nhàn nhã không chứ tôi thì vất vả gấp mười lần ở đơn vị. Vợ ốm, em thì bé, không xoay trần ra tranh thủ mấy chục điểm rồi đến mùa thì ăn gì. Kể ra nếu ngày ngày thắng bộ quần áo mới, đi đôi giày vải lấp ló hai cái cổ bít tất trắng, một bao Hoàn Kiếm hoặc Bông Lúa đút túi quần, la cà nhà này nhà khác, thăm hỏi trò chuyện, giảng giải chính sách thì trông ra vẻ anh bộ đội về phép hơn. Đằng này mới từ mờ đất trên giường đã lăn xuống đất rồi, chẳng kịp đánh răng rửa mặt gì, ăn vội vài bát cơm nguội, ngậm điếu thuốc lá là ra đồng ngay. Buổi đầu thì dỡ khoai, buổi thứ hai thì tát nước, từ buổi thứ ba trở đi là cày liệt vị, vì đang dịp cày mùa. Lại nói cái tối tâm sự trước ngày lên đường. Vợ tôi cũng thuộc vào loại cứng rắn, đảm đang, nhưng có điều cô ta chỉ cứng rắn được khi vắng mặt chồng, còn tối hôm ấy thì cứ khóc sướt mướt như trẻ con. Cô ta kể lể ra nhiều nỗi lo lắng lắm, nào vợ chồng ăn ở với nhau đã tám chín năm trời bây giờ một mụn con không có; nào là ốm đau luôn, cảnh nhà lại túng thiếu, anh em kiến giả nhất phận, các em thì bé, gượng được thì khá, rồi ra không gượng được nữa sẽ biết nhờ cậy vào ai. Tôi lại phải kiên nhẫn gỡ ra từng mối một, nhưng cũng là giải quyết quanh thôi, động viên tinh thần là chính, vợ vì thương chồng nên cũng dịu dần... Về nhà được mười lăm hôm tính ra những giờ được ngồi trò chuyện với vợ, với em chẳng được bao nhiêu. Suốt ngày phơi mặt ở ngoài đồng, tối họp hành xong về thì cũng đã khuya, đặt lưng nằm xuống là ngáy bằng sấm... Vợ nó thấy cái cảnh ấy chắc nó cũng chán.
- Nếu đem so với hoàn cảnh của cậu thì vợ chồng mình còn là dễ chịu hơn. Bây giờ định giải quyết ra sao... Mình có thể đóng góp được gì trong cái việc này không ?
- Bây giờ đưa vợ và em lên đây thì cũng dở dang, vợ ốm, hai em dại, có miệng ăn mà không có tay làm, phụ cấp của tôi thì cáng sao nổi. Còn có nên nhờ anh em, nhờ tổ chức hay không thì tôi nghĩ chưa nên, mới bị cái gai đã kêu ầm lên là xổ ruột, người khác không cười thì tự mình cũng khinh mình là thằng nhát gan. Rồi ra đâu vào đấy cả... ở thời buổi này không nên quá lo xa...Nếu tôi có nghĩ ngợi là chỉ lo cho hai đứa em thôi. Nhưng tôi đã dặn dù thế nào chăng nữa nhất định phải cho thằng lớn đi học, và cả hai đều phải được ăn đủ, mặc ấm. Thiếu thốn đâu tôi sẽ trợ cấp thêm.
Câu chuyện về phép của Quang hấp dẫn con bé đặc biệt, mắt nó nhìn người nói không chớp và hình như nó cũng bị xúc động. Khi Quang nói xong nó khẽ thở dài, ngồi dựa vào vách liếp :
- Thế các em không phải làm gì để giúp thím à ?
- Chúng nó còn bé thì đã cất nhắc được gì.
- Bé !... Cháu bằng tuổi chúng nó đã phải làm đủ mọi việc rồi đấy.
Quả nhiên con bé là một tay làm ăn khá, không thua kém người lớn là mấy. Khi đưa Tấm về tổ thanh nữ, đồng chí đội trưởng đã căn dặn Quang, người phụ trách tổ đó, không nên để Tấm làm việc nặng, có thể chỉ nên cho làm nửa ngày còn nửa ngày học văn hóa. Một tháng qua đi, khi phân công hàng ngày, chính Quang cũng đã quên rằng Tấm mới mười bốn tuổi, bất cứ việc nào con bé cũng làm được thành thạo, gọn ghẽ. Nó cũng bắt chước các chị lớn tuổi, lấy một mảnh vải bịt tóc, quấn mùi xoa vào cổ tay lau mồ hôi, sau giờ làm nó kỳ cọ tay chân rất tỉ mỉ, lấy kim băng nạy từng hạt đất nhét vào vết nẻ ở gót, chải chuốt, ngắm nghía, hầu như không có một chút mệt mỏi nào, không cần một sự cố gắng nào, bình thường, tự nhiên như vốn đã là một nếp sống từ ngày bé. Tấm dành một tình cảm rất đặc biệt đối với Quang, vì anh ấy là anh của hai đứa em mồ côi, anh ấy lại là người tốt nhất nó chưa bao giờ được gặp, gia đình neo bấn mà vẫn nuôi nấng hai đứa em được đầy đủ, không bắt chúng nó phải làm lụng vất vả, không hành hạ, đánh mắng. Nó tin anh, thích được tâm sự với anh, và ao ước có được một người anh trai như thế.
Một buổi đứng đạp máy tuốt lúa cùng với Quang, Tấm chợt hỏi :
- Cháu làm như thế này đã được coi là công nhân chính thức chưa hả chú ?
Quang thầm nghĩ chắc con bé này muốn tỏ cho mọi người biết mình đã là người lớn rồi đây, muốn thành nữ công nhân để đi lấy chồng chăng. Anh mỉm cười :
- Nào có ai bảo cháu là bé đâu.
Nét mặt nó vẫn nghiêm trang, nó ngập ngừng một lát rồi hỏi tiếp :
- Như thế thì cháu có được chính phủ cấp lương cho không?
Quang đờ mặt ra không trả lời được, khi phân công anh coi nó như một người lớn, nhưng lúc trò chuyện anh vẫn nghĩ nó còn là một đứa trẻ con, làm được chút nào hay chút ấy, còn ăn uống, may mặc đã có vợ chồng anh Cừ rồi.
- Cháu cần tiền tiêu vặt à, ăn uống đã có nơi rồi còn gì.
- Không, cháu muốn tự kiếm lấy, cháu không thích ăn nhờ vào bác Cừ.
Chắc lại có chuyện gì xích mích giữa chị Lụa và con bé đây. Anh gợi chuyện :
- Bác Lụa là người tốt lắm đấy, chú xem bác ấy cũng rất quý cháu...
Nó lặng im, nhưng rồi khẽ "xì" một tiếng nhỏ :
- Tốt, cháu chẳng tin ai tốt cả. Các cô ấy làm được tiền còn may sắm cái này cái nọ, cháu muốn mua thước vải cũng chẳng biết xin ai.
- Cháu không nên giữ kẽ thế, thiếu gì phải nói các bác ấy mới biết.
- Cháu nói riêng với chú nhé, chú đừng nói lại với ai đấy... ở đây cháu thấy chỉ có chú là tốt thôi. Bác Cừ đưa cháu về cũng là muốn cháu hầu hạ vợ bác ấy. Nói là nhận làm con nuôi nhưng lại làm quá người ở. Cháu đi ở nhiều nơi rồi cháu biết. Bây giờ, cháu còn làm được thì nhận làm bố con, bác cháu, nay mai cháu thử ốm xem là người ta sẽ tìm cách đuổi đi ngay đấy... Chú ơi, chú thử hỏi cấp trên xem như cháu thì có được hưởng tiền lương không. Nếu có tiền cháu sẽ thổi cơm lấy, ăn uống thật tằn tiện, dành dụm được ít nhiều thì đỡ lo những ngày ốm đau...
Vừa nghe Tấm kể lể, Quang vừa nhìn hai cổ tay gầy guộc rám đen của nó xoay đi xoay lại lượm lúa, hai cái bả vai hơi co lên, nhìn qua những kẽ ô thưa của thứ vải mặc đã lâu ngày thấy lờ mờ những chấm trắng của da thịt, tự nhiên mắt anh cay xè, phía trong hai cánh mũi nóng ran xộc lên đến đỉnh óc. Anh định nói thêm một câu gì nhưng không thể nói được nên cứ cắn môi im lặng. Con bé vẫn nói miên man về những lo lắng của nó :
- Ví thử như cháu ốm thì có phải mua thuốc không hả chú, hay là được chú y tá phát? Cháu sợ ốm lắm chú ạ, ốm vừa buồn, lại hay tủi thân, nhưng cháu chẳng khóc bao giờ... Mấy cô ở đây mới đau bụng một tí đã khóc ầm lên để bao nhiêu chú phải đến dỗ, rồi nào thuốc uống, nào thuốc tiêm. Như cháu ấy à... cháu cắn răng lại mà chịu, không phải là cháu không muốn khóc đâu, không muốn rên đâu, nhưng nếu rên khóc người ta sẽ cho là ốm nặng, sẽ đưa cháu đi nhà thương, ở đấy chết không ai biết, cháu cứ nghĩ như thế là lại chịu đựng được, và rồi cháu vẫn không ốm...
Một buổi sáng chủ nhật, hai chú cháu Quang rủ nhau vào rừng đào măng. Đằng đông mặt trời vẫn nằm trong cái túi mây, nền trời trắng nhạt như cái bong bóng lợn. Bỗng nhiên giữa cái màu xám xịt ấy xuất hiện một vệt nắng vàng óng chạy dài suốt các bản dọc chân núi phía tây, và những cái mái nhà hình thang sáng rực lên như tách khỏi nền đất đen sẫm, bay lơ lửng. Quang vừa đi vừa giảng giải những vẻ đẹp mà anh rất mê say ở thung lũng Điện Biên này, buổi sáng như thế nào, vào lúc trưa như thế nào, tối đến khung cảnh lại biến đổi ra sao. Rồi anh hỏi Tấm :
- ở quê cháu có đẹp được bằng đây không ?
Nó ngập ngừng một tí :
- Cháu cũng chẳng biết nữa.
- Thế cháu lên đây có nhớ nhà không ?
- Nhớ mấy cái bà mà cháu ở ấy à. Cháu ghét cay ghét đắng. Đi được là thoát. Toàn những người bóc lột.
- Họ là địa chủ à ?
- Không, không phải là địa chủ đâu chú ạ. Một bà làm bún, một bà gói bánh chưng đem bán các chợ... Nhưng họ ác lắm. Cháu vẫn tức cái bà làm bánh kiếm được nhiều lãi thế nhưng cho cháu ăn uống thật khổ, cơm một phần, sắn trộn vào đến bốn phần. Vậy mà cũng không được ăn no đâu. Thức ăn toàn cà ủng, dưa khú, không sao ăn được. Tính nết bà ta lại quắt quéo, ăn cắp như ranh. Có hôm bà ấy ra ruộng cà chua giả vờ đi ngoài, rồi vừa ngồi vừa vặt cà chua đùm vào váy. Một hôm cháu ốm bà ấy phải đi đưa bánh cho các hàng đặt. Đợi bà ta đi được một lúc, cháu lấy cặp tóc nậy khóa chiếc hòm gian mở ra xem. Chú có biết trong hòm bà ấy cất giấu những gì không? Một thúng gạo dự nhé, một niêu cá kho với thịt nhé, cà chua đi lấy cắp cũng còn rất nhiều xếp đầy một góc hòm. Thì ra bà ấy vẫn ăn giấu cháu, hễ cháu đi chợ là ở nhà bà ấy thổi cơm gạo dự ăn với thịt. Thảo nào lúc ăn với cháu bà ấy và nhỏ nhẹ, chỉ hai lưng xới đã đứng dậy. Cháu thì xanh rớt, còn bà ấy thì béo đỏ... Hôm ấy cháu tức quá, đã định đổ hết niêu cá đi, hay bỏ đất trộn vào cho bõ ghét. Sau lại sợ bà ấy biết sẽ đuổi cháu, nên cháu thôi... Bây giờ cháu chỉ ao ước làm được nhiều tiền, may mấy bộ quần áo thật đẹp như các cô ở đây, rồi cháu sẽ về quê chơi cho các bà ấy biết mặt. Nhất định là cháu không chết đói nhé, cháu lại làm được ra tiền. Lúc ấy rồi lại xun xoe, cháu cháu, thím thím ngay đấy, để xin xỏ, vay mượn mà. Đừng có hòng cháu cho vay, họ vay được là họ nuốt trôi ngay, mình bé cãi lại làm sao được...
- Bây giờ ở quê cháu chắc cũng vào hợp tác xã cả rồi. Đời sống các bà ấy khấm khá lên thì rồi tính nết cũng thay đổi, chứ không đến nỗi như cháu nghĩ đâu.
- úi giời, tính họ ác thì đến chết cũng vẫn ác. Cháu hỏi chú nhé, nhà chú cũng nghèo tại sao chú vẫn nuôi được hai em cháu, chú vẫn cho các em được đi học.
- à, à...
Anh định trả lời vì đó là hai đứa con của những cán bộ đã hy sinh trong kháng chiến, anh phải có trách nhiệm với chúng nó. Là vì anh là một quân nhân không thể giống một bà bán hàng rong, nhưng lại sợ sẽ làm nó tủi thân, nghĩ ngợi thêm... Quang vừa đi vừa chăm chú ngắm nghía những bụi tre rất dày, mo nang rơi đầy ở gốc óng ánh màu trắng ngà. Tấm xách cái túi vải người Xá đi tung tăng phía trước, chốc chốc lại ngoảnh lại hỏi :
- Bụi này có măng không chú !
- Đi sâu vào tí nữa, ở đây họ lấy hết cả rồi.
Đến một bụi rất rậm, anh dừng lại cắm lưỡi thuổng xuống đất, bẻ những cành gai sang hai bên, nghiêng nghiêng ngó ngó một lúc rồi nói to :
- Đưa cái thuổng cho chú !
- Chú cho cháu xem chú lấy như thế nào... Cháu chẳng trông thấy gì cả...
Những mầm măng nhú lên trên mặt đất màu xanh thẫm sát những gốc tre mốc trắng, Quang lách lưỡi thuổng qua những thân tre, luồn vào đúng chỗ có mầm, ướm ướm mấy cái rồi lao mạnh mũi thuổng xuống đất, chiếc măng khẽ nẩy lên, rung rung một chút rồi lại đứng ngay ngắn, anh khẽ lắc lắc tay cán, chiếc măng lùi dần vào phía trong rồi nằm dài dọc theo chiều lưỡi, và rất nhẽ nhàng anh rút thuổng ra qua những kẽ hở, cầm lấy cái măng đưa cho Tấm.
- Đây, măng đây... nhưng phải bóc lượt vỏ ngoài ra, lấy cái nõn trắng ở trong thôi. Để chú bóc thử cháu xem.
Anh rút lưỡi dao ngắn đeo ở sau lưng chặt phía đầu vỏ ngoài bọc kín nhọn như búp sen, rồi lại rạch một đường thẳng nữa, bóc lượt vỏ ngoài. Nõn măng thật đẹp, những sợi lông xếp lại, mịn màng, nhóng nhánh trắng như bọc bằng xa tanh. Cái Tấm không bỏ qua một cử chỉ nào của Quang, nó trầm trồ:
- Đẹp quá chú nhỉ, mà cũng dễ lấy thôi.
Quang vừa luồn lưỡi thuổng đào những chiếc măng khác, vừa giảng giải :
- Cháu có trông thấy những cái vai trâu bằng tre không. Không phải do mình uốn đâu nhé, tự nó uốn nó đấy thôi. Cháu xem, bụi tre dày thế kia, chen chúc nhau thế kia, mầm măng muốn lớn lên là phải lách theo những kẽ hở, cho nên sau này gốc nó mới bị cong queo. Âởy vậy mà đi tìm vai trâu phải mất hàng mấy buổi chưa chắc đã chọn được cái vừa ý. Dùng vai trâu bằng tre thì bền hơn vai gỗ nhiều... Được mấy chiếc rồi?... Thôi, sang bụi bên kia... Chiều nay hai chú cháu ta sẽ ngồi thái mỏng ra xâu dây phơi độ vài nắng là cẩm như măng bán ở Hà Nội ngay.
Con bé vẫn chăm chú theo dõi Quang, còn Quang thì vừa làm vừa kể những câu chuyện thuộc về những kỷ niệm đã qua :
- Ngày cháu lên trên này, cháu có để ý đến những rừng bương ở quãng giữa Mộc Châu với Yên Châu không ?
- Có lẽ có nhưng cháu không để ý. Đến hôm nọ vào bản Cộng cháu mới được trông thấy cây bương đấy, ở quê cháu không có bương.
- ở Yên Châu thì nhiều rừng bương lắm. Ngày mở chiến dịch Tây Bắc cuối năm 1952, đơn vị chú toàn trú quân ở rừng bương. Những cây bương to bằng cái cột cái ấy, cứ đẵn một khúc băm ra làm giát vừa một người nằm, lợp lán cũng lấy mo nang của nó, chứ làm gì có thì giờ đi cắt gianh. Các chú đặt tên cho khu ấy là "khu mo nang". Mùa đông có sương muối thì lá rụng hết, còn trơ lại những chùm quả lủng lẳng bằng cái nón một... Cháu đưa túi chú xách cho, được ngày đi chơi chú bộ đội lại bóc lột sức lao động.
Tấm hơi nghiêng nghiêng đầu, một mảng tóc xòe ra che gần kín nửa mặt, chỉ thấy đuôi mắt nó sáng lên óng ánh :
- Chú Quang này, chú đi bộ đội từ bé à ?...
- Thôi, ta về đi, lấy thế đủ rồi... Đi thong thả chứ, vừa đi vừa nói chuyện cho vui... Chú đi bộ đội từ năm mười tám tuổi, năm nay chú đã hai mươi bảy. Có chắc sống được hai mươi bảy năm nữa không nhỉ ? Tuổi thì mười tám nhưng chú chỉ nhỉnh hơn cháu một tí thôi, thế mà đã vợ con đàng hoàng rồi... cũng tại các cụ cả. Chú nhập ngũ được một tháng thì được đi chiến dịch Tây Bắc lần thứ nhất ngay. Ngày cháu mới lên đây cháu có nhớ đồng bằng không ?... Lại không à ... Cháu thì chẳng nhớ đến ai, chẳng vương vấn một cái gì. Bây giờ tiếng là cháu lên Tây Bắc nhưng lại ở cái đất Điện Biên này thì có khác gì đồng bằng. Còn như ngày ấy sao chú nhớ dưới xuôi đến thế. Bốn mươi lăm ngày toàn hành quân trong rừng, trời mưa tầm tã, chỗ nào hơi có ánh sáng rọi vào trong bụng đã mừng khấp khởi, chắc mẩm sắp được giải phóng con mắt đây, sắp ra đến đồng bằng rồi đây. Chẳng ngờ lại quặt vào những chỗ bóng tối còn dày đặc hơn, núi vây quanh còn cao hơn. Có đêm đồng chí đại đội trưởng đơn vị chú tuyên bố đêm nay chỉ đi mười hai cây thôi, chú đã nghĩ ngay đến giấc ngủ ngon lành khi đến chỗ trú quân mới, vì mười hai cây, chứ ngay đến hai mươi cây nào đã mùi gì, cùng lắm chỉ một hai giờ đêm là đến nơi. Ai ngờ đêm ấy vẫn đi suốt cho đến sáng, chú vừa đi vừa tấm tức, bụng bảo dạ : đã làm đến cấp chỉ huy mà còn nói dối chiến sĩ. Cháu có biết đêm ấy bộ đội đi được bao nhiêu đường đất không, chắc nhiều lắm hả, không đâu, chỉ đi được có sáu cây số thôi. Đường rừng mà. Anh em thì họ biết cả, chỉ riêng chú vì là tân binh, lần đầu sống đất rừng núi nên mới nghĩ khờ khạo như vậy... Đã thế lại phải cái tội hay ngủ, đang sức ngủ mà không được ngủ người nó cứ mụ mẫm đi, chân vẫn bước theo anh em, nhưng tâm trí đã mê man chẳng còn hay biết chuyện gì xảy ra chung quanh nữa. Chú tuy là tân binh nhưng đã láu, hễ bộ đội dừng lại năm mười phút qua cầu, qua suối là chú tranh thủ ngủ ngay, ngủ đứng thôi, nhưng tay vẫn đặt lên ba lô người đi trước, bên trên họ chuyển động là mình thức tỉnh ngay. Một đêm chú cũng làm theo cái mẹo ấy, và cứ yên trí ngủ, ngủ mãi, rồi do linh tính con nhà binh hay sao, tự nhiên mở mắt ra, thấy tay mình hình như vẫn còn bíu lấy một vật gì, nắn lại kỹ... ai ngờ lại hóa ra mấu cây ổi cạnh đường, ngơ ngác nhìn trước nhìn sau cũng chỉ còn lại một cây ổi với một chú... còn anh em thì họ đã đi đâu từ lâu rồi...
- Ngày cháu ở cho nhà bà bún cháu cũng thèm ngủ lắm chú ạ. Làm bún dùng đến là tốn nước. Nhà có hai cái ang rất to, mỗi ang đổ bốn gánh nước chưa đầy. Cháu phải gánh từ tờ mờ sáng cho đến quá trưa mới tạm đủ nước dùng, hai xương vai cứ tê đi. Đến chiều lại vắt bún, đi đưa hàng, tối về nấu cám lợn chẳng được nghỉ một phút nào gọi là có. Lắm tối ngồi băm rau cháu chặt cả vào ngón tay, máu chảy lênh láng. Có buổi cháu đang nấu cám thế mà ngủ thiếp ngay lúc nào không biết, rơm cháy lém cả ra ngoài, đến lúc bà chủ đi qua lấy que cời nện vào giữa đỉnh đầu cháu, cháu mới sực tỉnh, nhưng đau quá không sao há mồm nói được. Đánh lúc đang ngủ là dễ chết lắm đấy chú ạ. Thế mà từ ngày cháu lên đây lại không thấy buồn ngủ nữa, trưa cháu cũng chỉ thích đi chơi, bữa nào ngủ được một tiếng lúc dậy mắt cứ sưng húp như người khóc ấy.
Nó kể cái câu chuyện không lấy gì làm vui ấy với vẻ mặt rất bình thản. Đối với nó những hành động tàn nhẫn của người khác không có gì là lạ lùng, họ vốn là như thế, còn nó, nó sinh ra để mà chịu đựng và chỉ ước ao sao mau lớn lên, khỏe mạnh ra để chịu đựng được bền bỉ hơn. ở đời này làm gì có được mấy người tốt, còn đời nó thì chắc là không thể sung sướng như người khác được.
Không hiểu vào cái hôm nào đó thì Tấm bắt đầu thấy yêu chỗ ở của nó. Hồi nó mới về đây chỉ độc có mỗi cái ba lô đã bạc, dăn dúm, còn ngoài ra không còn đồ đạc nào khác. Nó có thể đặt vào bất cứ cái giường trống nào, hoặc ở nhà bác Cừ nó, hoặc ở văn phòng của đội sản xuất, hoặc ở tổ thanh nữ. Điều đó chẳng có quan hệ gì, và cũng chẳng làm cho nó nghĩ ngợi gì, đâu nằm được là nó có thể yên tâm rồi. Nhưng dần dần đồ đạc của nó cứ nhiều thêm ra. Trước tiên chú Quang đẽo cho nó một đôi guốc bằng gỗ lồng mực, đóng quai dù, đôi guốc trắng mịn, nét đẽo đều đặn, cân đối, thật đẹp. Chú Khôi đội phó đổi cho nó một cái ba lô còn mới, màu xanh biếc, vải rất dày. Chú Tý quản lý cho mượn một cái màn và một mền chăn. Rồi đến chú Khang ở tổ mộc ghép mấy mảnh ván lại đóng cho một chiếc hòm nhỏ, bào nhẵn nhụi, có cả ổ khóa làm bằng vỏ đạn hẳn hoi. Lần đầu tiên trong đời nó có một cái đựng quá rộng và chắc chắn. Cách ít lâu bác Lụa may cho nó một đôi quần láng đen Trung Quốc, hai cái áo sơ mi trắng, một chiếc khăn sợi quàng cổ. Các cô ở tổ thanh nữ cũng tặng nó những chiếc kẹp ba lá không dỉ, vài cái vòng bằng hạt cườm. Tất cả những thứ ấy nó đều cất vào trong hòm, và không quên bỏ vào mấy hạt băng phiến. Bây giờ thì chỗ nằm của nó đã đẹp mắt và giàu có rồi. Một cái chiếu dệt hoa cạp vải, đầu giường chăn, màn, gối thơm tho, sạch sẽ, trên nắp hòm một lọ hoa bằng quả mìn nhảy quét lượt sơn xanh và vẽ chim hòa bình. Hễ lúc nào rỗi nó lại sửa sang chỗ nằm cho đẹp mắt hơn, quét quáy khắp gian buồng cho sáng sủa hơn và mở nắp hòm lôi ra tất cả những đồ vật nhỏ bé nhưng thật đáng quý, xem xét, ngắm nghía. Và cái công việc trẻ con ấy đã gây cho nó sự thích thú rất mới lạ. Nó bắt đầu yêu chỗ ở của nó, yêu cái gian nhà nhỏ bé mà nó chiếm một khoảng giường.
Cho nên buổi trưa hôm ấy khi nó đi gánh cát về thấy ngay trên giường mình để ngổn ngang một cái tay nải rất to bằng vải xanh, một bọc chăn chằng dây ngoài rất kỹ thì không thể không bực mình. Nó treo cái nón lên vách rồi nói to :
- Đồ đạc của ai mà để mất trật tự thế này ? Nó ghé đầu vào gian buồng phía trong thấy một người đàn bà rất lạ mặt đang thì thào nói chuyện với bác gái nó. Nó chào lí nhí rồi quay vội ra. Chị Lụa nói với người đàn bà kia :
- Cháu Tấm đấy, cháu nó ở với vợ chồng tôi được hơn hai tháng rồi. Có nó cũng vui cửa vui nhà.
Người đàn bà kia nhìn theo Tấm bằng đôi mắt buồn rầu, không nói gì cả. Người mới đến chơi là chị Lộc, vợ đồng chí Tề, trung đội trưởng ở tiểu đoàn 3, đơn vị cũ của Cừ. Cả hai vợ chồng đều là người Thổ Lạng Sơn, lấy nhau từ năm khởi nghĩa, nhưng ăn ở với nhau thì chưa đầy vài tháng. Chị lên Điện Biên với chồng đã được nửa năm, nhưng nửa năm ấy chồng lại đi tuyển tân binh ở Hải Dương mất ba tháng, về đơn vị được vài hôm lại đi học văn hóa. Rồi bị phù vì bệnh xưng thận phải về quân y viện ở Hà Nội điều trị. Cách đây vài hôm Hà Nội đánh điện lên báo tin bệnh tình anh ấy trở nên trầm trọng và mong vợ về thăm. Tiền riêng của hai người chỉ có hơn chục bạc, anh em trong đơn vị giúp thêm được hai chục nữa. Đi ô tô thì chậm, đi máy bay thì không đủ tiền. Trong lúc nguy ngập, bối rối chị tìm đến vợ chồng Cừ nhờ sự giúp đỡ. Suốt bữa cơm, Tấm hết sức chú ý đến người khách buồn rầu này. Cô ấy cũng phải trên ba mươi tuổi, răng bịt vàng ba, bốn chiếc, mặc cái áo cánh màu xanh trứng sáo, quần vải thô ruộm bùn, một tay đeo chiếc vòng nhựa màu đỏ. Cô ấy chỉ ăn được có hơn bát đã buông đũa đứng dậy, mắt cứ hoe đỏ, mòng mọng như sắp khóc. Gần tối thì Cừ đạp xe về. Vừa trông thấy Cừ, chị Lộc đã nức nở :
- Anh ơi, nhà em nguy mất anh ạ... Hà Nội họ đánh điện lên.
Rồi chị móc túi lấy ra một mảnh giấy màu xanh đưa cho Cừ. Anh cầm lấy xem rất kỹ, rồi khẽ hỏi :
- Chú ấy về nằm Hà Nội được gần tháng chưa nhỉ ?
- Mới có mười tám ngày.
Chính Cừ cũng ngờ rằng người bạn chiến đấu cũ của mình khó mà qua khỏi, nhưng biết làm thế nào. Chị ấy đang cần những lời khuyến khích, những câu nói tràn đầy hy vọng để lấy thêm sức chịu đựng cho những ngày tới. Anh làm ra vẻ vô tư :
- Họ đánh điện như vậy là thường chứ có phải trường hợp đặc biệt lắm đâu. Tôi cho là chú ấy muốn cô về phục vụ cho tiện đấy thôi.
- Không biết có phải thế không... Chắc anh ấy cũng biết đi về tốn kém như thế nào, làm gì có tiền. Ai lại muốn cho vợ về phục vụ mà lại đánh điện bao giờ. Em khóc suốt mấy ngày hôm nay... Em chỉ lo bơ vơ một thân một mình.
- Đừng có nghĩ vớ vẩn, vậy cô định bao giờ về dưới ấy.
- Nếu chỉ là về phục vụ cho anh ấy thôi thì em sẽ đi ô tô. Chậm vài hôm nhưng đỡ tốn.
Cừ vẫn đi đi lại lại, anh nghĩ ngợi một cách đau đớn nhưng lại phải giấu dưới vẻ mặt bình thản : "Đi máy bay ngày mai thì may ra kịp. Từ hôm nhận được điện đến hôm nay cũng đã ba bốn hôm rồi. Liệu vợ chồng có được nhìn nhau lần cuối không. Tề ơi, nếu cậu mất đi thì cô ấy sẽ sống ra sao đây. Con cái không có..."
- Em đi ô tô vậy anh nhé ?
- Đi ô tô xóc lắm không được đâu, thôi đi máy bay vậy. Ngày mai có chuyến đấy.
Thấy chị ngần ngừ, Cừ hiểu ngay:
- Thiếu tiền phải không, cô không lo, tôi sẽ biếu cô một cái vé máy bay. Còn lượt lên thì hai vợ chồng đi ô tô cũng được rồi.
Mặt người đàn bà tuyệt vọng kia sáng hẳn lên, không phải vì được một cái vé máy bay, mà vì chị nghĩ đến lượt lên của hai vợ chồng.
- Cứ miễn là nhà em còn sống là may - và chị buột nói một câu đầy tin tưởng - nhưng có khi cũng phải hơn nửa tháng nữa chúng em mới lên được.
Khi chị đi ra ngoài rửa chân, Cừ gọi vợ vào gian trong khẽ hỏi (nhưng Tấm vẫn nghe rất rõ):
- Nhà còn tiền không ?
- Còn, cần lấy bao nhiêu ?
- Đủ mua một cái vé máy bay, sáu chục.
- Thế thì thiếu mất hai chục, thôi được... giật tạm chị Vần đến tháng trả, cũng chỉ vài hôm nữa là lĩnh lương rồi.
- à, nếu chị ấy còn tiền thì cứ giật thêm ba chục, còn một chục để cô ấy ăn đường. Chốc nữa sang hỏi ngay đi thôi. Mai cô ấy đi sớm... Sáng mai có gì ăn chưa ?
- Còn cá kho.
Rồi chị Lụa gọi Tấm :
- Tấm ơi, tối nay cô ấy ngủ với cháu nhé... có chật không? Trời rét nằm hà tiện một tí càng ấm.
Tấm mắc màn thì Cừ đẩy cửa bước vào :
- Cô Lộc này... cứ yên trí mà ngủ đi. Tôi đã gọi điện ra sân bay nhờ xếp chỗ rồi. Sáng mai ăn cơm xong, thủng thỉnh lên là vừa. Một giờ máy bay mới cất cánh kia.
- Vâng, em xin cảm ơn anh.
Suốt đêm ấy, hễ lúc nào Tấm thức giấc nó cũng nghe thấy tiếng xụt xịt rất kín đáo của người đàn bà nằm cạnh. Riêng nó cũng thao thức, trằn trọc vì những ý nghĩ lạ lùng. Cuộc sống của nó tuy còn ngắn ngủi, nhưng nó đã được chứng kiến nhiều nỗi thương đau, chỉ duy tình thương yêu, sự chăm sóc thành thực của những người chung quanh đối với kẻ không may mắn là chưa từng được thấy. Nó thường nghĩ đến cách đối xử của những bà chủ mà nó ở, của những người trong cái làng nhỏ bé mà nó đã quen biết. Sao những người ở đây chẳng giống chút nào với những người nó đã từng gặp. Bảy chục bạc đâu có phải ít! Chưa bao giờ nó dám ao ước được có một số tiền lớn như thế. ừ, nếu nó có thật nó sẽ biết dùng làm gì nhỉ ? Nó có thoáng nghĩ đến một số vốn riêng và những chuyện phòng xa. Ô hay, tại sao những tính toán vốn đã rất cụ thể, rất chi li qua nhiều lần tưởng tượng của nó, đã thành một nếp nghĩ rất quen thuộc ở trong nó, trong đêm nay lại hóa ra mờ nhạt đến thế, hầu như không còn gây được sự thích thú như những lần trước nữa... Vậy nó sẽ dùng làm gì nếu có số tiền ấy ? Hay là nó sẽ may mấy bộ quần áo thật đẹp... Thì cũng đến một cặp quần thâm, vài chiếc áo sơ mi trắng. Những thứ ấy bác Lụa nó đã may cả rồi, nó đã mặc rồi và như vậy cũng đã đủ. Rồi những băn khoăn của nó cứ lẫn lộn, vừa như thật vừa như giả, cho đến lúc nó ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau ăn cơm xong, chị Lụa cầm bảy chục đưa cho bạn dặn :
- Về Hà Nội tiêu dè dặt một chút, không thì tốn lắm đấy.
Chị Lộc hai tay đỡ lấy tiền, đầu ngón tay cứ run bắn :
- Em xin anh chị.
Cừ hơi cười, nói một câu cốt để chị yên tâm thêm :
- Hai vợ chồng có lên thì nhớ lại qua đây nhé, tôi có mấy việc muốn nhờ chú ấy.
Nhưng qua một đêm suy nghĩ chị càng thấy hy vọng của mình rất mỏng manh, chị chỉ còn ao ước được gặp mặt chồng lần cuối.
- Em cũng mong thế nhưng chắc chẳng được đâu anh ạ. Lần này em xin chào anh chị thôi. Về Hà Nội chôn cất cho nhà em xong em cũng về Lạng Sơn ngay. Không biết đến ngày nào lại được gặp anh chị.
Cừ ngồi lặng đi, anh khẽ lắc lắc đầu rồi nói nhỏ :
- Cho vợ chồng tôi hỏi thăm chú ấy...
Chị Lộc đứng dậy lấy đòn gánh xóc một đầu vào bọc chăn, và đầu kia tay nải, với lấy cái nón, nước mắt ròng ròng chảy xuống hai bên má :
- Em xin chào anh chị. Anh chị giúp đỡ em lúc này em chẳng bao giờ quên. Cháu Tấm ở nhà nhé...
Thấm thoắt cái Tấm đã ở với vợ chồng Cừ gần bốn tháng. Những ngày đầu tiên chị Lụa không mến con bé lắm. Nó đi làm suốt ngày, tối đến lại học văn hóa, hoặc dự các buổi sinh hoạt chung, về mắc màn một lúc đã ngủ. Nó ít trò chuyện với chị, và nhìn chị bằng con mắt né tránh. Nhưng dần dần cách sống của nó đối với chị cũng trở thành quen thuộc. Một ngày hai bữa nó đi lấy cơm về, hai bác cháu cùng ăn với nhau, nó muối dưa cà, thái đu đủ ngâm dấm, quét quáy nhà cửa, ngày nghỉ lại giặt giũ chiếu chăn, có khi cả quần áo của chị. Có hôm nó xin trên văn phòng được một chồng báo cũ, quấy hồ dán kín những chỗ vách lở, cắt những tranh ảnh ở các tờ họa báo trang trí ở đầu giường. Nhìn chỗ nào cũng thấy có dấu vết của nó, rồi dần dần một cái bóng nhỏ bé ra vào, một mái tóc ngắn đen nhánh thấp thoáng đã trở thành hơi ấm của căn nhà, là hình ảnh không thể thiếu được trong sinh hoạt hàng ngày. Buổi nào nó đi làm về muộn phải chờ cơm, tối nào nó không về sớm, chủ nhật nào nó đi chơi cả ngày, chị bắt đầu thấy nhớ, và khi bóng nó xuất hiện ở khung cửa, chị thấy trong lòng mình rộn rã hẳn lên, muốn bật ra một câu âu yếm : "Con đã về đấy ư ?". Chị ao ước được là mẹ, nhưng chưa bao giờ chị là mẹ, bóng dáng nó đã đánh thức trong lòng chị tình mẫu tử. Chị vá quần áo cho nó, để phần cơm nó, mua cho nó một cái cặp tóc, một cái khăn len với sự cần thiết rất tự nhiên, không gượng gạo, tính toán, và những lúc ấy trong lòng chị trở nên ấm áp, vui sướng lạ lùng.
Cừ thì ít có dịp được gần gũi đứa con nuôi, mỗi tuần anh chỉ về nhà được một hoặc hai lần. Nhưng mỗi lần về anh đều chú ý đến cách sống của con bé. Anh thích được nghe nó nói chuyện, xem xét rất tỉ mỉ quan hệ của nó đối với chung quanh. Ngoài tình bố con mà anh ấp ủ, anh còn thấy mình có trách nhiệm đối với một thế hệ đang lớn lên. Phải gây cho nó có lòng tin yêu, có cách sống thẳng thắn, cởi mở thì sau này nó mới trở nên một công dân tốt của cái xã hội hết sức mới mẻ. Anh là một cán bộ chính trị, lại là người từng trải, nên anh rất am hiểu những nguyên nhân của mọi hành động tội lỗi mà anh đã từng phải giải quyết. Hầu hết những con người đáng thương ấy đã bị những thành kiến xấu xa của cái xã hội đang chết đi đục khoét từ ngày còn thơ ấu. Họ sống và hành động theo những thói quen tai hại mà tự họ đôi lúc cũng nhận thấy nhưng lại không có nghị lực cưỡng nổi. Mỗi lần gặp những trường hợp đau đớn như thế trong lòng anh lại sôi nổi một ý nghĩ : phải chú ý đến trẻ con, phải giáo dục và cải tạo chúng nó, phải làm cho chúng nó được sống trong cái không khí hoàn toàn mới mẻ của thời đại xã hội chủ nghĩa. Đấy là phương pháp tích cực nhất có thể ngăn ngừa những tội lỗi sau này. Đấy là mối lo âu duy nhất hợp lý về hạnh phúc của con cái, giúp chúng nó thoát khỏi những tấn bi kịch thương tâm mà tự chúng sẽ gây ra...
Hôm ấy anh về đến nhà vào khoảng năm giờ chiều. Nhà đi vắng vì đang vụ gieo hạt. Khi anh mắc áo lên chiếc đinh đóng ở đầu giường Tấm, chợt thấy một cái làn mây nhỏ đan rất cầu kỳ chung quanh lại dán những bông hoa cắt bằng giấy xanh đỏ. Anh mở nắp làn giơ ra ngoài ánh sáng thấy ở trong có hai cái kén vàng và một cái kén trắng gài vào búi rơm nếp. Cái trò trẻ con này chắc chỉ là của Tấm. Bỗng dưng trong lòng anh lóe lên một niềm vui sướng lớn lao. Dẫu sao nó vẫn còn là một đứa bé, và cái phần trong trắng, thơ ngây ở trong nó chưa phải đã mất hẳn . Ăn xong bữa cơm chiều, Cừ pha một bình trà đặc, lấy ra một cái bánh nướng, và ít kẹo để trên bàn. Và khi gian buồng nhỏ bé lên đèn anh càng thấy nỗi vui sướng ngấm ngầm trong lòng mình lớn lên mãi.
Cái ước ao thầm kín đã từ lâu trong anh là có một đứa con, hạnh phúc tuy bé nhỏ, nhưng lại gần như hoang đường. Khi nói chuyện với vợ, anh có thói quen tránh những chuyện gì dính líu đến hạnh phúc của hai người, nhưng những cặp vợ chồng đã lấy nhau gần hai chục năm nay mà không nói với nhau về chuyện con cái thì cũng chẳng có gì để nói với nhau nhiều. Những buổi tối bên ngoài gió rét, một ngọn đèn để giữa, vợ ngồi khâu vá, và anh vừa xem sách vừa suy nghĩ mung lung. Đúng cái lúc ấy, lúc hai người im lặng theo đuổi công việc và ý nghĩ của mình, anh thường bắt gặp đôi mắt buồn rầu của vợ, đôi mắt ảo não như người có lỗi, và chính anh, anh cũng phải cố kìm mình lại để khỏi buột ra cái câu : "Nếu chúng ta có một đứa con". Tuy anh không dám nói, và vợ anh cũng không nói, nhưng cả hai lại như đều than thở với nhau rất nhiều. Từ ngày Tấm về ở với vợ chồng anh, thêm sự có mặt của nó ở gian buồng này, mỗi lần anh về cũng thêm những câu chuyện mới. Xen vào những giọng nói trầm lặng, quen thuộc, nổi bật lên giọng nói thanh thanh, ríu rít, tiếng nói của đứa trẻ. Cho nên mặc dầu nó vẫn sống rụt rè, giữ gìn, nó vẫn gọi vợ chồng anh là bác trai, bác gái, nhưng anh vẫn thấy sung sướng mỗi lần nghĩ tới nó, và càng ngày càng thấy gắn bó với đứa con nuôi. Qua mỗi lần về, anh lại thấy mắt con bé nhìn anh như thắm thiết hơn, quyến luyến hơn, và tiếng reo của nó "Bác đã về" cũng hồn nhiên hơn, thành thật hơn. Hình như nó đã bắt đầu yêu anh, tin anh, và hai tháng gần đây sự thay đổi ở nó càng rõ rệt. Nó nói nhiều hơn trước, kể cho anh nghe các thứ chuyện, toàn những chuyện vớ vẩn, những chuyện của trẻ con.
Tối nay sau khi Tấm kể lại rất nhiều chuyện bỗng nhiên nó hỏi Cừ :
- Bác có thích ăn bún không ?
- Cái con bé này, cháu làm như bác là người ăn uống khó khăn lắm đấy hử!
- Nhưng bún ở trên này họ làm xấu lắm, sợi vừa to, vừa cứng lại đen xì. Để hôm nào cháu làm thì phải biết. Hồi ở nhà cháu vẫn làm bún mà... Thế bác đã được tắm nước vắt bún bao giờ chưa? Nó hơi chua chua, thơm thơm, rất bở ghét bác nhá!
Thế rồi nó tính toán ở đây nhà nào có nồi to có thể mượn ngâm gạo được. Nếu không có nồi thì ngâm vào chậu vậy. Nhưng lại không có cối xay bột. Chẳng nhẽ lại vốc từng nắm gạo cho vào cái mũ nhựa giã thì lách cách quá. Có công giã bột thà làm bánh trôi ăn lại thích, trên này đường bánh có rất nhiều. Nếu hai bác nó không thích bánh trôi thì nó quấy bánh đúc. Bánh đúc chan riêu cua thì còn phải nói. Nhưng bây giờ lại chưa phải là mùa có cua... Và cuối cùng nó bắt sang chuyện khác :
- Bác ơi, tháng này cháu được lĩnh lương rồi. Đấy, có bác gái cháu biết, cháu làm có kém các cô ấy đâu, các cô ấy còn đau bụng, nhức đầu nghỉ luôn, chứ cháu thì chỉ nghỉ có mỗi buổi. Hôm ấy cháu bị dây thép gai đâm vào chân sâu đến đốt ngón tay, chảy bao nhiêu là máu. Cháu cứ lo nó sưng tấy lên rồi thì què. Thế mà chỉ đến chiều cháu lại đi làm được. Da cháu lành lắm kia.
- Lương cháu thì được mấy chục ?
- Chú Tý bảo cháu là được ba mươi đồng.
- ừ, bác mừng cho cháu. Cháu đã định dùng số lương tháng làm gì chưa ?
Những tia vui sướng trong mắt con bé bỗng tắt phụt ngay, cái nhìn trở lại dò xét, nghi hoặc. Nó ngắc ngứ một chút rồi đáp :
- Cháu sẽ đưa cả hai bác.
Cừ nhìn vợ, mỉm cười :
- Cháu không để tiêu riêng à ?
Nó nói một cách tiếc rẻ :
- Cháu cũng chả cần tiêu đến cái gì.
- Các bác không lấy tiền của cháu đâu, mua sắm cái gì đã có bác cho, số tiền ấy cứ dành lại mà làm vốn. Cháu bằng lòng không ?... Nhưng bây giờ bác muốn nói với cháu một câu chuyện.
Nó thu người lại, vẻ mặt lo lắng. Chuyện gì thế, bác ấy không muốn mình ở đây nữa ư?
- Cháu làm được ra tiền là rất đáng khen. Cháu hãy còn ít tuổi mà đã có thể sống tự lập được, không cần ăn bám vào ai. Nhưng theo bác thì bác không muốn cháu đi làm, vì ăn mặc của cháu đã có hai bác lo, lớn lên cháu cần gì thì tùy theo khả năng của bác, bác sẽ chu cấp đầy đủ. Bác chỉ muốn cháu được đi học, bây giờ cháu không học thì rồi lớn lên cháu vẫn phải học. Thà rằng học bây giờ có phải chữ nó dễ vào đầu hơn không. Cháu đã nghe ra chưa? Năm nay cháu mới mười bốn tuổi, bác sẽ cho cháu học đến năm hai mươi, nếu cháu còn có sức học nữa thì cứ học cho đến năm hai lăm, hai sáu rồi ra phục vụ xã hội cũng vẫn vừa. Sau này các bác không cung cấp được đủ cho cháu thì đã có chính phủ cung cấp. Cứ lo mà học cho tấn tới, còn ăn đã có người khác lo, có xã hội lo... Thế nào, ý cháu ra sao ?
Thấy con bé cứ cúi gằm mặt xuống, Cừ biết ngay nó đang xúc động, anh nói rất nhẹ nhàng :
- Thế thì chiều mai bác cháu ta lại lên đường về nông trường bộ nhé. Trường ở ngoài châu đến thứ hai thì mở. Giấy bút bác đã sắm cho cháu đủ cả rồi.
Chị Lụa đã hơi ngân ngấn nước mắt vì không ngăn nổi sự nhớ thương của mình đối với đứa con nuôi. Nó ở với chị thấm thoát đã được gần bốn tháng. Nó đã đem lại cho cuộc sống cô quạnh của chị những niềm vui chưa từng có. Bây giờ nó lại đi, và một mình chị ở lại cái gian buồng nhỏ bé này, cái gian buồng mà bất cứ chỗ nào cũng thấy dấu vết của con bé để lại.
Chiều hôm sau, trên con đường cái rộng nằm giữa thung lũng Điện Biên, Cừ đạp xe rất thong thả đi trước, sau yên xe buộc chiếc ba lô của Tấm và một cái mền bông. Tấm đi sau cùng với chú Quang nó. Nó mặc chiếc áo sơ mi trắng, cổ bẻ tròn, một bên mái tóc là chiếc cặp có giát những miếng đá xanh, đỏ, tay cầm cái làn mây dán giấy hoa.
- Đêm nay chú ngủ lại trên ấy chứ ?
- Chú ở chơi với cháu một lúc rồi chú về ngay.
- Đêm mới về đến nhà à ?
- Chân chú có ngắn như chân cháu đâu.
- Cháu với chú bước thi nào.
Rồi nó bước dài chân ra, sau nó bước ngắn lại nhưng đi rất nhanh gần như chạy, và nó đã thấy thích thú ngay cái trò chơi mới mẻ vừa nghĩ ra. Quang chạy vượt lên một quãng rồi dừng lại, cười :
- Đi chậm thôi cháu ạ, có chuyện gì kể cho vui đi.
Những bụi ké đồng tiền ở dọc đường đã rụng hết lá, chỉ còn để lại trên nhành cây mảnh dẻ những nụ hoa vàng nhỏ như cúc áo. Một cây vông vang mọc xen vào giữa bụi tre dại, hoa nở ra mướt vàng, nhị đỏ màu mận chín. Bày sẻ bay từng đàn vụt qua đầu hai người rồi đậu trên những ngọn xoan thẳng tắp và kêu ríu rít trong đám lá xoan non đỏ ửng vì ráng chiều. Xa xa những cánh cò trắng lóa, cánh cong như vòng cung bay rập rờn lướt trên màu tím thẫm của dãy núi. Khung cảnh lặng lẽ và thơ mộng. Và lần đầu tiên, bộ mặt mỹ miều đầy sức quyến rũ của thiên nhiên đã rung động được tâm hồn con bé Tấm. Nó quay lại nhìn Quang bằng đôi mắt đen nhanh nhánh:
- Chú Quang ơi, ở Điện Biên đẹp quá chú nhỉ ?
30-3-1960
Chuyện người tổ trưởng máy kéo
Nguyễn Khải
Khi tổ thanh nữ đập xong đống lúa xếp cao ngút sau lưng như vách hào thì trời vừa tối. Thời gian đi vào phần đêm nhẹ nhàng và rất rụt rè: một mảnh trăng mỏng mảnh như vành móng tay nhờn nhợt trắng, một ngôi sao hôm sáng rực rất lẻ loi, một màu xanh lơ lơ phảng phất như có khói, và dãy núi phía tây chợt nổi rõ lên trên cái đường viền màu mỡ gà.
Mấy chị em ôm néo, bàn cào, bàn trang vào cất ở một góc nhà trống vẫn thấy mấy chiếc phản nằm kê xộc xệch, lạnh lẽo phủ đầy bụi mọt như hàng tháng trước đây, và ở góc đằng kia bóng đen của bốn chiếc máy kéo làm tối cả một nửa gian nhà vẫn xông lên thứ mùi hôi khét của dầu mỡ đóng khô ở cái trục bánh. Tổ máy kéo ra đi từ vụ trồng ngô mùa thu, đến nay đã gặt hết lúa nương vẫn chưa trở lại. Những gương mặt, những câu chuyện, và cả cái không khí tưng bừng của khói thuốc lá, bình trà nóng, ngọn đèn khêu to bỗng chốc trở nên xa xôi, đầy nhớ nhung. Và riêng đối với Thoa thì còn cả những kỷ niệm êm đềm, chỉ mới thoáng nghĩ đến người đã nóng rực vì sung sướng và cả vì lo sợ.
Đêm ngủ một giấc dài chợt tỉnh dậy, Thoa nhìn qua khe cửa thấy trời nhàn nhạt trắng, tưởng như sương muối của đầu đông lọt theo hơi gió đến rắc bụi trên chiếc chăn bông nóng rực hơi người, giữa lúc ấy một tiếng nổ quen thuộc, đều đều, vừa nghe rất rõ, vừa mênh mang như không có thực, như là một tiếng động gì đó trong giấc mơ, cứ rủ rỉ, lênh bênh, khiến người chị như chìm sâu mãi xuống, và giấc ngủ say sưa nửa đêm về sáng xóa mờ đi tất cả. Tờ mờ sáng hôm sau, kẻng báo thức vừa dứt, sương còn đang xuống nhiều như mưa bám trắng cả lông mày, gió châm vào mặt tê buốt, tổ thanh nữ đã mang đòn xóc ra đồng gánh lúa. Khi đi qua nhà trống cả bọn đều ngạc nhiên, không ngờ đêm qua ở đó có người ở, và họ đã đi đâu sớm hơn cả tổ thanh nữ, chỉ còn lại bốn chiếc màn trắng căng trên bốn cái phản đã kê ngay ngắn, những chiếc đệm Thái viền vải đỏ, những cuộn chăn bông lớn ở đầu giường, và những chiếc gối hoa màu sặc sỡ. Có hơi người, khu nhà trống như hẹp lại, ấm cúng hẳn, và ở góc đằng kia bốn chiếc đầu máy kéo cũng mất hút. Thoa không thể nén nổi sự sung sướng, chị kêu to:
- Các anh ấy về đêm qua rồi, thảo nào gần sáng mình nghe thấy tiếng nổ máy!
Tám đi trước ngoảnh ngay lại, mặt tím bầm trong vành khăn len vì rét:
- Thế ông tổ trưởng đã đến trình diện với cô chưa?
***
Tổ máy kéo cờ đỏ của trạm máy kéo nông trường Điện Biên có bốn người, do Doãn làm tổ trưởng. Bốn con người rất trẻ ấy hơn một năm nay được cả mọi người yêu mến, hơn nữa ở đây còn lấy làm hãnh diện với các đội sản xuất bạn vì lẽ tổ máy kéo cừ khôi đó ở đội sản xuất số "6" nhiều ngày hơn cả. Hơn một năm éc-ta cày, bừa, gieo cho bốn năm vụ vừa lúa, vừa màu, quanh đi quẩn lại cũng đã mất già nửa năm. Anh em máy kéo coi đội sản xuất số "6" là gia đình của họ, còn ở đây thì quý mến, nuông chiều họ như con cưng. Họ đi cày nơi khác chưa đầy một tháng đã hàng chục lá thư gửi đến. Ngày chủ nhật các cô chưa chồng gói vào những chiếc khăn len nào lạc, nào mía, ớt, cả rau thơm lặn lội một con suối, và bốn năm cây số đường lầy đi thăm những người yêu quý. Thời gian xa cách vừa qua mới hơn hai tháng, nhưng mỗi lần qua lại gian nhà trống, nhìn những miếng đất đóng khuôn vào vành xích khô trắng, ai cũng nghĩ như đã lâu lắm, như từ ngày mới về đây khai hoang, mấy chiếc đầu máy kia chưa hề dời khỏi chỗ đứng cũ kỹ này. Nhưng đêm qua họ đã trở lại cái gian nhà hoang vắng, và sáng nay đã mang lưỡi cày đến cắm xuống dải đất khô nẻ vì chờ mong ở tận cuối bản ón. Dải đất cày nằm dìa con đường chuyển lúa, nhưng mấy cái đầu máy vẫn lượn lờ trong đám sương dày đặc, tiếng nổ theo hơi gió bay lại, nghe rất tròn và êm ái.
Đến lượt chuyển lúa thứ ba sương mới bắt đầu trong, rạng dần. Thoa đã nhìn thấy thấp thoáng cái đầu máy quen thuộc cách đường có hơn chục thước. Khi chị vác đòn xóc quay trở lại gánh lượt thứ tư thì đầu máy đã kề ngay cạnh đường, chưa kịp nhận ra người lái là ai một giọng nói rất trẻ đã hỏi trước:
- Chào cô Thoa, cô vẫn khỏe chứ!
Chao ôi, anh ấy đây rồi, anh Doãn, con người mà từ hơn hai tháng nay chị chưa gặp mặt, nhưng không lúc nào không nhớ tới. Doãn quấn miếng vải dù trắng quanh cổ, bộ quần áo xanh và chiếc áo trấn thủ mặc ngoài loang lổ những vết đen của dầu máy giặt không sạch, đang nghiêng đầu nhe hàm răng nhỏ và đều nhìn khắp lượt cả mấy chị em.
- Cám ơn anh, em thì bao giờ cũng khỏe. Các anh mới về đêm qua?
Thoa trả lời nhỏ nhẻ, chăm chú đến từng lời nói của mình, nhưng Doãn hình như không chú ý nghe lắm, anh đã bắt đầu nói huyên thiên những chuyện đâu đâu với mấy cô khác. Tám nhảy xuống ruộng bước lại phía đầu máy, một tay ve vảy ra phía sau, tiếng nói rất chua:
- Tưởng các anh vui phố vui phường bỏ chúng em rồi... Cho em lên ngồi một lát nhé!
Doãn đưa tay ra phía Tám:
- Nào, ra đây tôi kéo lên.
Tám liêng liếng con mắt nhìn sang Thoa, một bên má đầy lên rất đanh đá, rồi quay ngoắt trở lại:
- Cám ơn ông anh có lòng tốt, tôi đâu được vinh dự ngồi cạnh ông tổ trưởng máy kéo.
Thoa vẫn nhìn Doãn khao khát, nhưng anh ta không hề nhìn lại một chút nào, vẫn hồn nhiên một cách đáng ghét:
- Các cô đi làm nhé. Tối mời xuống chỗ chúng tôi uống nước chè.
Những vòng bánh bắt đầu lăn trên vành xích, đầu máy nghiêng hẳn về một bên, hai cái vai rộng của Doãn lắc lư rất đáng yêu, một dải khói đen nâu từ ống khói bay cao lên, pha vào bụi sương một màu tím ngan ngát. Nỗi vui sướng rạo rực ở trong Thoa từ lúc sớm, khi đi ngang qua gian nhà trống lại thấy mấy cái màn căng quen thuộc, bị hẫng đi như rơi vào khoảng trống.
Suốt mấy tiếng đồng hồ chị cứ tin một cách vô lý rằng vì chị, chỉ vì riêng có chị nên tổ máy kéo đã trở lại, và gặp được chị, anh tổ trưởng trẻ tuổi sẽ nhảy từ trên đầu máy xuống, lúng túng vì cảm động, sẽ bắt chị dừng lại để hỏi han về sức khỏe, về công tác bằng giọng nói rất ấm áp, bằng cái nhìn rất trìu mến, và tất cả cái thái độ chân thành ấy đều biểu lộ bằng suốt trong thời gian vừa qua anh ta luôn luôn nghĩ đến chị, cũng như chị luôn luôn nghĩ đến anh. Nhưng những điều tưởng tượng thơ mộng ấy đã hoàn toàn không đúng, anh ấy coi chị cũng bình thường như mọi người con gái chưa chồng khác ở tổ thanh nữ, hầu như anh ấy chẳng có lúc nào nghĩ đến một cô Thoa nào đó ở đội sản xuất số "6", may mà còn chưa quên đấy. Một cái gì tấm tức, thù ghét, đau xót cứ lan ra khiến cổ họng chị se lại, và trong lồng ngực buốt nhói.
Nhưng Doãn không hẳn hoàn toàn không nghĩ đến người con gái mà anh chào đầu tiên. Trong tiếng máy mổ đều đều và hơi khói ma-dút thơm khét, một khuôn mặt hiện lên cùng với những mẩu chuyện thú vị. Cô ta quả không được xinh, chỉ được hàm răng đều và tươi, còn khuôn mặt hơn ngắn quá, cặp mắt cũng nhỏ quá. Chỉ vì cô ta năng đến với anh, chịu khó hỏi chuyện, suốt ngày bóng dáng cô ấy cứ thấp thoáng bên cạnh như buộc chặt vào với tổ máy kéo nên anh em trong tổ thường phải nghĩ đến cô ấy nhiều hơn, tìm hiểu về cô ấy kỹ hơn. Hơn nữa về đường tình duyên cô ấy lại gặp nhiều trắc trở. Lần thứ nhất cô yêu anh y tá của Đội, có lẽ vì anh chàng tài hoa và đẹp trai. Lần thứ hai lại yêu một anh ở trung đội 3, tay bóng đá chân giầy xuất sắc của nông trường. Cả hai đều đã có vợ, có con, cô ta tuy biết vậy nhưng vẫn yêu, yêu điên cuồng, cuối cùng không những cô ấy phải chịu đau khổ mà còn làm cho cả hai anh đàn ông cũng bị buồn phiền lây. Còn lần thứ ba này, cô ấy sẽ để ý đến ai? Mấy cô hay có tính thóc mách đã đến nói nhỏ với tổ máy kéo là "con bé thèm đàn ông" ấy đã yêu thầm anh tổ trưởng của họ rồi. Nghĩ đến đấy, Doãn lại thấy mình trở lại cái cảm giác vừa khó chịu vừa êm ái như những lần trước khi thoáng đoán biết người ta đang chăng bẫy đòn anh. Những cô ấy thì không thể yêu được, không thể có cảm tình ngay được, vừa xấu người vừa xấu nết. Anh vẫn ao ước được là người yêu đầu tiên của người khác, được tận hưởng sự rung động trong trắng không một vết nhơ. Trong mọi việc khác anh có thể rộng lượng, nhưng trong tình yêu anh phải tự thú nhận là mình rất ích kỷ, tuy vậy cũng chỉ là thứ ích kỷ không bị lên án, thích hợp với quan niệm của nhiều người.
Tiếng máy vẫn thầm thì trò chuyện với đất, và Doãn vẫn tiếp tục tâm sự với riêng mình. Đến đầu bờ anh cho vòng máy sang luống mới và ngắm lại những đường cày thẳng tít tắp lẫn vào trong sương. Từ giữa những rãnh đất bở tung, nâu xốp, những sợi khói màu tím nhạt ngút ngát bay lên. Những con quạ đen thui như đã bị đốt thành than đứng run rẩy trên các mô đất, chốc chốc lại kêu lên não ruột. Đằng đông cái bàu sương rộng lớn cứ trong mãi và trở nên tím mênh mang, trong cái bóng tím mơ hồ ấy như có cả màu xanh nhạt của nền trời. Ôi, buổi sáng mùa đông ở Điện Biên sao đẹp thế, tâm hồn người ta sao dễ thơ mộng thế. Mỗi lúc được thưởng thức vẻ đẹp kỳ lạ luôn luôn biến đổi của thiên nhiên, Doãn lại thấy công việc của mình tràn đầy thi vị, cuộc đời sao mà đáng yêu, tấm lòng cởi mở như không còn biết đến những tính toán nhơ bẩn, nhỏ nhen thường ngày. Cũng do thói quen thích chú ý đến cái đẹp của chung quanh, một buổi Doãn đã khám phá ra vẻ đẹp rất đột ngột của Thoa, nhưng có lẽ chỉ có một lần ấy, đã xa xôi rồi nhưng vẫn còn in đậm nét.
Lần ấy vào buổi chiều, anh đã bừa xong một vạt đất rộng gần hai éc-ta liền rẽ máy qua khoảng ruộng gieo lạc để về khu nhà trống. Kẻng nghỉ việc từ lâu nhưng ở cuối bãi vẫn thấp thoáng còn một bóng người, một cô nào ở tổ thanh nữ, nhưng trông xa không rõ ai. Cô ta gieo hết luống cuối, quay lại gieo nốt vạt bỏ dở ở đầu bãi đằng này. Doãn chợt nhận ra gọi to:
- Cô Thoa sao về muộn thế?
Thoa nhìn anh mỉm cười:
- Em gieo gọn khoảnh này để mai làm việc khác.
- Tích cực nhỉ?
- Đâu bằng bộ đội được!
ấy, tuy xấu người, nhưng ăn nói bao giờ cũng nhẹ nhõm, dễ nghe. Trời đã xâm xẩm tối, màu đất sẫm lại mênh mông. Phía tây một vầng sáng xanh nhạt pha lẫn với màu vàng của ráng chiều viền lấy dãy núi màu tím sẫm trông rõ như một đường khắc nổi. Trên cái nền cảnh lặng lẽ và dịu dàng ấy bóng dáng Thoa là cái khối duy nhất sinh động. Không biết có phải vì có anh chàng tổ trưởng máy kéo đang chăm chú ngắm mình mà cô ta làm duyên làm dáng thêm lên không. Chiếc khăn len mỏng bịt chặt lấy tóc, một cái áo vải hoa hơi sặc sỡ bó lấy thân mình thon nhỏ thắt lại bằng sợi dây đeo giỏ đựng nhân lạc, quần lụa chấm gót, cô ấy vừa đi rất uyển chuyển vừa đưa tay ra ngang thân người vung vẩy rất nhịp nhàng, những hạt lạc đỏ tươi đầy hai lòng bàn tay lần lượt theo kẽ ngón lọt thứ tự trên rãnh đất. Máy vẫn để nổ, nhưng Doãn thì còn đang say mê theo dõi những động tác đã trở nên tinh thục như một môn nghệ thuật. Chỉ một loáng Thoa đã đi đến rãnh cuối, khi chị cởi giỏ, rũ khăn, bước lại phía Doãn hỏi: "Anh chưa về kia à?" anh mới ngượng nghịu vì thấy mình đã làm một việc dại dột, dễ sinh hiểu lầm. Từ đó mỗi lần có những ý nghĩ khó chịu bực bội về sự săn đón quá lộ liễu của Thoa, cái hình ảnh đẹp đẽ, lạ lùng của buổi chiều hôm nào lại phảng phất len đến như một hơi thở ấm áp làm tê dại mọi tức giận, lại thấy tấm lòng cởi mở, dễ rộng lượng và tha thứ.
***
Tổ máy kéo cày được hai buổi thì vấp phải một trở ngại. Chân rạ lúa nương tốt quá, vừa cao, vừa dày, lưỡi cày vướng phải gốc rạ cứ nổi lên trên đất nhảy tưng tưng, hoặc có cày được cũng chỉ đi chừng một phần ba luống rạ đã quấn chặt lấy lưỡi, lại phải cho máy giật lùi nhảy xuống gỡ. Ăn cơm được một lúc, vừa lên đèn Doãn đã tất tưởi lên nhà văn phòng của đội sản xuất. ở văn phòng chỉ có Khôi, đội phó phụ trách kế hoạch đang hội ý với Tuệ, thư ký thống kê. Doãn chưa bước qua ngưỡng cửa đã nói to:
- Chào đồng chí Khôi, tôi ở tổ máy kéo lên báo cáo đồng chí một việc cần!
Đôi mắt nhỏ của Khôi liếc lên, rồi lại nhìn ngay vào tờ giấy để trước mặt, nói hơi gắt:
- Chờ ít, đang bận!
Doãn ngồi vào ghế dài, lấy tay khẽ bấm vào đùi Tuệ:
- Có thuốc lá xin một điếu.
Tuệ vẫn không ngoảnh lại, móc túi lấy ra một điếu dúi vào tay Doãn và tiếp tục nói:
- Dao ở kho chỉ còn chừng hơn mười chiếc có thể làm được, còn thì mẻ gỉ cả, anh cho ý kiến nên giải quyết như thế nào. Đem lên tổ rèn nông trường nhờ đánh lại thì lâu lắm.Tính ra số dao phải dùng cũng trên dưới năm chục con.
Hai tay Khôi chống lên má, cặp mắt đưa đi đưa lại sắc sảo:
- Ông phải báo cáo cụ thể một chút, hơn mười chiếc là mười một, mười hai hay mười lăm chiếc, số còn lại là bao nhiêu, thống kê không nên dùng chữ: hơn, độ, áng chừng, trừu tượng bỏ mẹ. Năm nay kế hoạch là phải cụ thể đến từng gánh phân đấy...
Tuệ rõ ràng bị lúng túng:
- Anh để tôi đếm lại, nhưng số dùng được thì còn ít lắm.
Đôi ủng dưới chân Khôi cứ cọ vào nhau sào sạo, những thớ thịt trên khuôn mặt rám đen như sắt lại, khẽ rung rung:
- Có cách đấy! Nha, Vừu hình như biết làm nghề rèn thì phải...
Tuệ ngồi thẳng người, ngẫm nghĩ:
- Đồng chí Vừu làm một bễ riêng từ dạo nọ, vẫn đánh dao dùng riêng, còn Nha thì... thằng cha ấy khéo tay lắm. Có thể được.
Khôi đưa ngón tay di di lên mặt tờ giấy:
- Ông ghi tên hai cậu ấy vào đây cho tôi, chốc nữa báo cho trung đội 1 điều người tạm thời sang rèn... Rèn dao có khó quái gì. Cứ nung cho đỏ, lấy búa giọt cho chặt những thớ sắt lại, đem tôi lên, chứ có cái gì phức tạp mà không làm được.
Doãn hút đã quá nửa điếu thuốc vẫn thấy công việc của hai người còn miên man. Anh đằng hắng vài cái, ngồi dịch lại gần đèn như để Khôi biết còn có một người khác đang đợi. Khôi như không để ý, anh lúc lắc cái đầu:
- Anh đã tính khối lượng hai gian nhà kho hộ tôi chưa. Năm nay lúa nhiều lắm đấy, tính sơ ra cũng ngót nghét hai trăm tấn rồi.
Tuệ lại bị lúng túng lần nữa, công tác thống kê cuối năm bận bịu quá, anh lại mới làm, riêng mỗi việc chạy đi chạy về cân kẹo những hoa màu còn lại trong kho cũng đã đủ hết ngày. Cứ mỗi lần ngồi trước mặt đồng chí đội phó, Tuệ lại có cảm giác rằng mình không thể nào trả lời được trót lọt những câu hỏi sắc bén của đồng chí ấy. Cái ấn tượng chết tiệt này đã khiến anh trở nên rụt rè, lo sợ một cách vô lý, rồi đến chính anh cũng tự đánh giá mình là thiếu tích cực, kém tháo vát. Còn Khôi thì rõ ràng là không bằng lòng lắm cái lối làm ăn luộm thuộm của anh thống kê, được một việc, hỏng mười việc, lúc nào cũng lấn cấn, nhăn nhó, rút lại vẫn chẳng nắm được cái gì. Khôi xòe bàn tay ra trước mặt Tuệ:
- Bất cứ việc gì cũng thế, phải nắm được việc nào là chính, việc nào là phụ. Việc nào phải tự tay mình làm, tự tay kiểm soát, việc nào có thể dựa vào các tổ sản xuất được. Ví dụ việc quan trọng nhất hiện nay là anh phải cân kẹo, theo dõi số thóc đã phơi khô, quạt sạch để nhập kho cho tôi. Thứ nữa là số phân các tổ làm, ủ ở những chỗ nào, mỗi chỗ tính được bao nhiêu gánh, phải phân phối chỗ ủ đều khắp các khu đồng để sau này vận chuyển đỡ tốn công... à, còn một việc quan trọng,... nay mai tôi đi họp vắng, nếu ở nhà lạc đã bắt đầu ra hoa hết, đã có củ thì phải cho bấm ngọn ngay để rút nhựa xuống củ. Hôm qua đi kiểm tra lại bãi lạc tôi cũng phát buồn vì cách vun gốc của bộ đội nhà ta, đúng là làm chiếu lệ. Lạc ba tháng tia bao giờ cũng đâm thẳng xuống thì phải vun gốc thật cao. Bảo là phấn đấu thực hiện một éc-ta thu trên ba tấn, nhưng cứ làm ăn như vừa rồi thì thu một tấn cũng khó.
Cách nói của Khôi bao giờ cũng rành rọt, dứt khoát, tính toán đâu vào đấy, những việc phức tạp nhất cũng thành ra giản dị. Tuệ vừa nghe vừa nghĩ thầm: "Dân văn hóa cao có khác, họ giải quyết hàng núi việc vẫn ung dung, còn mình... mai phải xếp sắp lại sổ sách cho thật khoa học mới được, phải kế hoạch hóa đi một chút...". Còn Doãn cũng ngồi ngây người ra nghe, quên cả thời gian chờ đợi. Khôi rút thuốc lá hút, cái mặt xương xương bóng lên bướng bỉnh của anh quay sang Doãn:
- Nào ta làm việc, có cái gì thế?
Tuệ thu xếp sổ sách rất vui vẻ chạy sang gian bên.
Doãn bò một nửa người lên cái bàn tre, nói hấp tấp:
- Rạ tốt quá, mấy thằng máy kéo nửa cười nửa khóc đấy đồng chí ạ...
Khôi hơi cau mặt: "Thằng này ăn nói với ai cũng sống sượng, làm việc cứ như đùa".
- Đồng chí trình bày nghiêm chỉnh lại cho tôi nghe nào.
Trình bày nghiêm chỉnh là thế nào nhỉ? Doãn ngơ ngác một chút, thực ra anh vẫn quen cái lối vừa báo cáo, vừa như nói chuyện thân mật, đôi lúc vui vẻ còn kề cà thêm cả những chuyện râu ria.
- Vâng, gốc rạ nhiều quá, không bập lưỡi cày vào đất được. Thành thử cày được một luống phải nhảy xuống moi rạ quấn đến ba lượt... rồi thì dùng máy mà chậm bằng trâu kéo đấy.
Mỗi lần nói chuyện với Doãn, tự nhiên Khôi thấy trong lòng mình không được thoải mái, anh vốn có ấn tượng là mấy thằng ở tổ máy kéo đi lang thang nay đây mai đó nên không có tính kỷ luật bằng anh em ở đội sản xuất. Đấy, cứ xem như cách ăn nói của nó thì biết. Như đối với bạn chứ không phải là đối với cấp trên nữa.
- Vậy đồng chí đề nghị nên giải quyết như thế nào. Hay là tôi phải điều anh em đi cắt gốc ra, xếp lại từng bó cho phẳng mặt ruộng để dễ cày. Việc gì mà không gặp khó khăn, phải tìm cách khắc phục chứ.
Doãn như không hiểu được thái độ hơi hách dịch của Khôi, anh ta thành kiến gì với tổ máy kéo đây, cặp mắt một mí rất dài, đen nhánh của Doãn liếc sang Khôi gườm gườm:
- Thế đồng chí bảo anh em chúng tôi sợ khó khăn à?
Khôi nhìn cái đầu húi ngắn rất vuông và hai cánh mũi rộng thở mạnh mẽ của người nói chuyện với mình, thầm nghĩ: "Đúng là một thằng bướng bỉnh. Nó đặt vấn đề như là cấp trên của mình". Từ phút ấy anh mất hẳn cái bình tĩnh, khách quan trong khi giải quyết công việc, mà chỉ còn lại sự tức giận, ghen ghét, muốn tạo ra một thế bí cho đối thủ, và buộc cái đứa ngang ngược kia phải chịu phục tùng sự cứng rắn của mình.
- Vậy anh bảo tôi nên giải quyết ra sao. Lúa ở ngoài đồng chưa chuyển hết về. Quản lý, tài vụ, anh nuôi cũng phải rút ra để đập lúa. Để lúa hấp hơi mọc mậm hơn, hay là các anh chịu khó nhọc một chút lùi lại cái đầu máy, nhảy xuống móc nắm rạ rối hơn. Anh phải nhìn vào toàn bộ công việc của một đội sản xuất mà yêu cầu chứ đứng nên chỉ biết có các tổ máy kéo... Phải nắm được việc nào chính, việc nào phụ mà giải quyết.
Những bắp thịt cuộn tròn ở hai bả vai rộng của Doãn khẽ rung rung trong lượt áo xanh mỏng, một màu đỏ nhạt lan ra trên cái cổ trắng mịn và hai gò má nhẵn bóng. à, à, ra thế đấy, thế thì bốn cái máy kéo mỗi ngày chỉ cày được sáu bảy éc-ta thôi à, chậm hơn cày đất hoang ư?
- Cày chậm như thế rồi có ảnh hưởng đến thời vụ đấy. Đồng chí nên...
- Được, được, tôi lại hỏi anh, nếu anh có cày chậm độ mươi hôm thì bảy mươi éc-ta đất vẫn nằm dài ra đó chứ nó có chạy đi đâu mất mà sợ. Còn nếu lúa ngoài đồng không chuyển hết về ư, anh cũng biết đấy, tình hình địa phương không phải là đã ổn thỏa lắm đâu, ví dụ có một thằng phản động nào đó nó châm cho mình một mồi lửa là ôi thôi, đi đời nhà ma hết, nửa năm vất vả, rút lại trắng tay, rồi Nhà nước sẽ cho lũ chúng tôi đi tù vì tội ngờ nghệch, không biết bảo vệ công sức của anh em. Chẳng nhẽ lúc ấy tôi lại xưng xưng viện cớ vì tôi phải bớt một số người đi dọn rạ cho tổ máy kéo... á... à... Anh thử nghe xem có lọt tay không? Họ sẽ cho tôi là thằng ngốc, là thằng cãi liều, anh hiểu chưa? Rồi còn phải đập, phải phơi, phải quạt... Rồi lại phải cử người đi mót lúa nữa kia. Anh tưởng cái khẩu hiệu "thu thanh, gọn, tốt" là nhẹ nhàng, vui vẻ lắm đấy hẳn. Nông trường bộ các anh còn được nghỉ ngày chủ nhật, chứ dưới đội sản xuất thì phải làm tuốt, cứ chiếu luật lao động ra ngày làm tám giờ thì có mà... có mà quay lại ăn cơm nếp mốc với cá mắm thối sớm.
Rồi tự nhiên vì có nhiều lý lẽ đanh thép mà lại rất giản dị một cách bình dân, đượm chút khôi hài nữa, nên Khôi càng nói càng đỡ bực tức, cứ vui vẻ dần, giọng nói càng sôi nổi, đến nỗi Doãn cũng không nhìn anh bằng con mắt gườm gườm nữa. Khi Doãn chào anh ra về thì không khí đã êm dịu hẳn. Khôi nhìn theo bóng anh chàng tổ trưởng máy kéo lẩm bẩm một cách thú vị: "Nó bướng thế nhưng cũng còn biết ra lẽ phải, không dồn cho một trận kịch liệt thì còn là lèo nhèo... Mấy cái thằng cha máy kéo".
***
Quá trưa, Nông Ký Lâm đi họp ở bản về. Chân đi đất, mũ không sao, vành mũ đã buộc chỉ xơ ra những sợi vải, quần áo nhem nhuốc, xốc xếch, một bên túi quần phùng to không biết đựng vật gì. Đến giường nằm anh móc túi lôi ra một chai rượu Thái. Anh để chai rượu vào gậm giường cũng đã ngổn ngang rất nhiều thứ chai. Đầu giường một đống những chăn, màn, áo mưa, quần áo cũ đã thay chưa giặt, tạp chí Quân đội nhân dân, họa báo, và cả sổ sách, giấy má linh tinh. Khôi đang nằm xem báo trên giường ở góc bên kia. Sát vách căng một tấm sô giặt trắng, trên đính ảnh hai cô thiếu nữ, một cô người Trung Quốc, một cô người Liên Xô, cả hai như có điều gì vui vẻ nên cười cả. Thẳng trên đầu một cái mắc treo áo, ngoài bọc giấy báo, có lẽ là một cái áo rét hàng dạ gì đó. Gối rất trắng có dua chung quanh, trên lại phủ một cái mùi xoa màu rất nhã. Lâm bỏ mũ ra giường đến ngồi cạnh Khôi, tay anh đầy vết đất quyện với mồ hôi, từ trong quần áo thoáng bay ra một thứ mùi khen khét. Khôi nằm dịch lại phía trong, hỏi:
- Họp gì mà lâu thế?
Lâm chim chíp miệng, hai con mắt to, bàng bạc của người đã có tuổi vẫn anh ánh lên những tia sáng rất trẻ.
- Ông bố nuôi lại giữ ăn cơm, uống rượu nên về muộn. Này đồng chí Khôi ạ...
- Hử?
- Tổ máy kéo họ cày vất vả quá. Phải cho người ra dọn rạ giúp cho thôi.
Khôi bỏ báo, ngồi dậy, có vẻ khó chịu.
- Cậu Doãn lại báo cáo gì với ông đấy... Tay ấy là hay kêu ca lắm.
Đôi mắt Lâm chơm chớp, anh hơi cười, hàm răng trắng trông rất dễ thương:
- Mình đứng xem một lúc thấy cày gay quá, gốc rạ dạy cứ quấn vào lưỡi, thế thì còn làm ăn gì... đất lại rắn nữa. Đồng chí đã ra ngoài ấy chưa?
- Chưa, cậu ấy có đến xin người, nhưng mình làm gì còn người.
Khôi bắt đầu kể lại câu chuyện bực mình tối qua, và cách giải quyết rất dứt khoát của anh. Có điều qua một đêm và nửa ngày những lý lẽ của anh càng trở nên chín chắn và sắc bén, còn mấy ý kiến của Doãn càng thành ra cộc lốc và vô lý. Cuối cùng anh không quên nói thêm mấy nhận xét của riêng mình về cái tính tự do, ương bướng, hay yêu sách của tổ máy kéo. Lâm không nói thêm gì, hai bàn tay có những ngón hầu như vuông, sù sì, đan vào nhau, vặn vẹo rất bối rối, một bên mép hằn sâu xuống thành một đường nhăn dài. Anh cứ ngồi lặng lẽ như thế một lúc rồi sang giường của mình nằm duỗi thẳng chân, mắt hơi nhắm lại. Những ý nghĩ trong đầu Lâm bắt đầu mờ nhạt và lẫn lộn thì có tiếng Tám the thé ở đầu khu gia đình:
- Chào thủ trởng ạ... Tuần trước sao anh không về. Bà chị em cứ nhắc nhở mãi.
Cả Khôi lẫn Lâm cùng bật dậy một lúc:
- Chắc anh Cừ về!
Lâm chưa kịp chạy ra đã nghe tiếng nói oang oang của Cừ, chủ nhiệm chính trị nông trường:
- Lúa má đã đem về hết chưa đấy?... Trời nắng hanh thế này chỉ cốt để cho nông trường phơi thóc thôi mà!
Cừ bước vào, mặt anh đen ngòm vì hàm râu quai nón chưa cạo. Khôi nói vui một câu:
- Trời rét thế này mà anh nỡ để chị ấy nằm một mình à?
Cừ cười gượng gạo:
- Ôi chào, còn nụ cà hoa mướp đếch gì nữa, gọi nhau bằng ông bằng bà cả rồi!
Cừ ngồi xuống giường, lấy thuốc lá hút, hỏi Lâm:
- Hôm qua mình đến quân y chơi lại gặp cậu Thọ. Sao tay ấy sốt rét luôn thế nhỉ. Cẩn thận đấy, sốt rét ác tính chết người như bỡn... Thọ đi thì ai giữ kho?
Lâm nhìn sang Khôi:
- Tạm thời vẫn để đồng chí Tư tài vụ kiêm cả.
Đôi môi Khôi động đậy như muốn nói, nhưng Cừ đã hỏi trước:
- Chị Tư độ này đã đi làm được chưa? Cặp ấy cũng vất vả giống vợ chồng mình... có lẽ bố mẹ phàm ăn quá nên tranh mất cả phần con.
Lâm xua xua tay:
- Không phải đâu đồng chí ạ... bệnh này thuốc tây chữa không khỏi đây. Trên Lạng Sơn chúng tôi có thứ lá sắc uống khỏi được đấy. Ông cụ tôi ngày xưa chữa được nhiều người lắm. Sau này họ đều có con cái cả. Kỳ này về phép tôi sẽ lấy một ít đem về đây. Nhất định là khỏi.
Cừ giương đôi mắt tròn to nhìn Lâm, đôi môi anh trễ ra, như không tin lắm cái lối chữa bệnh bằng lá lẩu của những người vùng Đông Bắc, nhưng anh vẫn cứ nói:
- ừ, ừ, nếu ông lại tài giỏi thế thì vợ chồng chúng tôi sống tết chết giỗ.
Khôi ngồi xích lại, tay anh gấp đi gấp lại tờ báo, nét mặt trở nên đăm chiêu, và anh nói bằng một giọng trịnh trọng:
- Đồng chí chủ nhiệm ạ, hôm qua chúng tôi đã bàn với nhau (Lâm nghe chăm chú: bàn gì nhỉ?)... để đồng chí Tư kiêm coi kho là một điều hết sức ngờ nghệch (Cừ cũng quay lại: có vấn đề gì mà quan trọng thế?), không đúng những nguyên tắc về tài chính. Tôi lấy ví dụ, đồng bào đến đây mua lạc giống rất nhiều, chốc hai cân, chốc năm cân, cùng một đồng chí Tư mở kho lấy lạc bán, vừa viết hóa đơn thu tiền. Giả thử như đồng chí không viết hóa đơn chẳng hạn thì có ai biết không... tôi nghĩ có mà giời biết. Từ ngày nhập lạc đã cân lại bao giờ đâu mà biết thừa, thiếu, rồi nào những lạc đem biếu phái đoàn, lạc tặng các đơn vị bạn, lạc nộp lên nông trường làm giống, cả lạc lấy ra nấu thức ăn, trăm thứ, cứ nhộm nhoạm linh tinh cả, như thế thì... thì... có tham ô vài chục cân, cứ gọi cho là hàng trăm cân cũng vẫn trôi chảy như thường. Đáng lý anh giữ kho cân kẹo riêng, tài vụ tính toán tiền nong riêng, mỗi anh đều có sổ sách chi thu hẳn hoi, anh nọ kiểm soát anh kia như thế mới là đúng nguyên tắc... Tôi xin hỏi anh là... mặc dù đồng chí Tư ở trong cấp ủy nhưng có ai dám bảo đảm là cấp ủy không tham ô, nhất là khi lại không chịu một sự kiểm soát nào.
Cừ khẽ gật đầu: - Phải biết tin, nhưng cũng phải biết kiểm soát.
Lâm nghe Khôi trình bày mắt anh cứ đờ ra, lòng đen càng bạc đi.
Khôi thấy chủ nhiệm chính trị có vẻ quan tâm đồng tình với sự phát hiện có tính chất nguyên tắc của mình nên càng hồ hởi, cách nói càng rành rọt, trôi chảy. Vừa nói anh vừa lắng nghe tiếng nói của mình, thưởng thức một cách thú vị và hãnh diện những ý kiến táo bạo mà mình đã đề ra, và trong chốc lát anh tưởng như những người ngồi nói chuyện với anh đều ít thông minh hơn, kém từng trải hơn.
- Tôi không nhớ hồi kháng chiến có đồng chí cán bộ cao cấp nào nói "những thằng quản lý cứ ba năm nên đem chém đầu đi một lượt"...
Cừ hơi cười, xen vào:
- Nói hồ đồ như thế không được đâu. Trước hết phải có lòng tin...
- Vâng, câu nói ấy tuy ác một chút, nhưng thật hay. Các anh để ý đến những cuộc họp của quản lý không? Xe đạp cứ xếp thành hàng ở trước nhà, còn cuộc họp của cán bộ đại đội thì... chỉ lủng củng những chân là chân. Anh Cừ ạ, tôi trông lơ mơ thế này mà đã từng ở trong phái đoàn kiểm tra công tác hậu cần của trung đoàn đấy nhé. Chẳng là các ông ấy thấy tính tôi cũng hay sắc mắc nên kéo đi. Lần ấy đến một đại đội, ông chính trị viên cứ cam đoan với chúng tôi rằng cậu quản lý là người rất tốt, toàn đơn vị đều mến, ai tham ô chứ cậu ta thì không đời nào. Tôi không dám cãi gì, chỉ nghĩ bụng: "Đã giữ tiền mà không chấm mút có là người đời". Bắt đầu phải điều tra xem anh ấy ăn tiêu ra sao, thống kê lại, đem so sánh, lòi ra một số lỗ hổng, chất vấn, tiền anh lấy ở đâu ra, ai cho, cho bao giờ... hết nói... Tính ra đến lúc ấy anh ta đã ăn cắp của anh em đến hai mươi vạn rồi. Hôm thanh toán tài chính trước hội đồng quân nhân, mặt các ông thủ trưởng cứ đỏ như gấc... Nhưng tài nhất là cái khoản đánh cắp tiền ăn những cậu hy sinh trong chiến dịch. Thằng nào nghĩ ra cái mẹo ấy phải nói là thánh thật (Cừ nhìn đi chỗ khác, hơi rùng mình). Tiền thì lĩnh đầu tháng, nhưng nhiều anh em chỉ ăn đến mồng năm, mồng sáu thôi, còn lại vào túi quản lý cả. Đánh nhau như Điện Biên, một đại đội chết hàng trăm, rồi lại bổ sung hàng trăm, cứ nhộm nhoạm linh tinh cả, đến sổ nhân sự cũng chưa kịp ghi thì nói gì đến kiểm tra ngày giờ chết của từng người... Nhưng anh Cừ ạ, tôi cam đoan với anh rằng cậu quản lý nào đã ở với tôi thì dù có bảy mươi hai phép biến hóa cũng khó mà lọt qua con mắt của tôi được. Sơn lở từng mặt, ma bắt từng người, cũng tùy thái độ của nhau mà đối xử thôi đấy anh ạ.
Cừ hơi quay nghiêng lại, nhưng không nhìn thẳng mặt Khôi, trong người anh như vừa gợn lên một cái gì tởm lợm. Rồi anh hỏi Lâm về một chuyện khác:
- Thời gian làm việc của tổ máy kéo ở đội này được bao nhiêu lâu đấy?
Lâm nhăn nhó:
- Trạm thì quy định là trong vòng hai mươi hôm, nhưng xem chừng gay lắm đồng chí ạ, toàn gốc rạ, có lẽ phải kéo dài hơn đấy.
Khôi đã quên ngay câu chuyện vừa qua, anh bị lôi vào câu hỏi mới:
- Khó khăn ấy các đồng chí ở tổ máy kéo đã trình bày, tôi đã đề nghị anh em cố gắng khắc phục, vì ở đội nhân công thiếu quá.
Cừ vẫn nhìn chênh chếch sang Lâm:
- Nhưng khắc phục bằng cách nào?
Lâm như sững sờ, họ có bốn người ngồi cả trên bốn cái đầu máy, thì làm cách nào mà khắc phục được. Họ xin đội cho người ra giúp, nhưng đồng chí Khôi đã giải quyết khác hẳn với ý muốn của anh. Anh lắp bắp:
- Tôi... cũng chưa biết là nên khắc phục bằng cách nào?
Khôi lườm Lâm rất kín đáo, anh xen vào hấp tấp:
- Anh Cừ ạ, tôi đề nghị với các đồng chí ấy cứ cày, nếu rạ quấn nhiều quá thì cho máy lùi lại, chịu khó xuống móc rạ ra. Anh cũng biết đấy, kỳ vừa qua lúa chín rũ một loạt, trên lại không điều người về gặt giúp, nhất nhất cái gì cũng đội tự lực cả, công việc cứ mê ra, đành phải tập trung vào giải quyết những công việc chính thôi.
Cừ im lặng như không có ý kiến gì khác. Khôi thoáng mừng: "Cũng đồng ý như cách giải quyết của tôi thôi. Anh em thì đứa nào mà không muốn thêm người cho nhẹ việc".
Cừ lắc đầu, môi anh bĩu ra giống như là một nụ cười gượng gạo:
- Giải quyết thế không ổn đâu các ông ạ, việc ùn là vì mình thiếu kế hoạch (Khôi nghĩ: chỉ thiếu người chứ kế hoạch thì có thừa). Sở dĩ làm sao lúa chín rũ một loạt hàng mấy chục éc-ta, chỉ do là cày bừa chậm nên phải gieo vội, gieo một loạt. Tôi ví dụ nếu như mình tranh thủ cho cày bừa được khắp một lượt bảy mươi éc-ta nội trong tháng một này, thì chỉ đầu giêng tổ máy kéo đã có thể trở lại cày bừa được lượt nữa. Các anh cũng còn phải tính tới đất mềm, đất rắn nữa chứ, gió nắng này chậm một hôm là đất bằng đá rồi, cố cày thì gãy lưỡi không lấy tiền đâu mà đền chính phủ được, hay là gác máy đợi mưa mới cày... Đập chậm một tí thì lúa vẫn còn đấy, còn cày chậm thì ảnh hưởng đến cả vụ sau, ảnh hưởng đến cả vụ sau, ảnh hưởng đến cả các đội bạn.
Cừ đập đập hai bàn tay vào nhau, hỏi cả hai người:
- Đồng ý như vậy chứ, chỉ cần bớt ra một tổ thôi, thanh nữ cũng được, đi đốt rạ ấy mà, người Thái họ làm thế cả đấy... Các anh coi tổ máy kéo như đứa con hoang. Cứ khoán trắng là không được đâu. Anh em người ta mới tập làm cả, mình không động viên thì thôi, chứ ai lại bỏ mặc.
***
Mới chớm tối, gió thổi vào mặt đã tê buốt, trời xanh lạnh lẽo dầy đặc những vầng sao. Từ đầu nhà mùi lá sả bỗng bay lên ngây ngất, say say như mùi tóc đàn bà. Khôi định đứng dậy thắp đèn làm việc chợt thoáng thấy bóng Thoa từ phía nhà ăn đi lướt qua, thân hình tròn lẳn, mỗi bước đi các bắp thịt như nẩy lên trên đôi guốc gót cao. Anh để đèn sang một bên, gọi qua khung cửa sổ:
- Cô Thoa!
Thoa ngơ ngác rồi ngoảnh lại phía gọi:
- Ai đấy?
- Tôi đây! Nhờ cái này một tí.
Thoa ngần ngừ một chút:
- Anh Khôi phải không, em cất bát đã nhé.
Khi Thoa bước qua ngưỡng cửa buồng, in cái bóng mờ lên khung cửa, người Khôi bỗng nóng rực lên, máu như dồn cả lên mặt, một hơi lạnh chạy lướt trên sống lưng, anh nói mà cảm thấy hơi thở của mình đã mất nhịp.
- Nhờ cô đính hộ tôi mấy cái khuy áo.
Thoa ghé ngồi xuống giường. Khôi vẫn im lặng như không nhúc nhích, miệng anh khô lại, và hai thái dương mạch máu giựt mạnh. Một sự thèm khát không thể nén nổi đối với cái thân hình đầy mùi thơm của người con gái ngồi trước mặt. Chỉ cần với tay ra một chút, đầu ngón tay của anh sẽ chạm vào đôi vai căng thịt dưới lần vải mỏng, và tiếp đó sẽ là hai cánh tay rất mềm quấn chặt lấy người anh, cái mớ tóc ngây ngất lá sả sẽ dụi vào lồng ngực nở rộng, đôi môi cháy bỏng vì sung sướng sẽ gắn lên trên cái má như mọng đầy nước ngọt. Có thể thế được chăng? Được lắm chứ! Vì đó là con Thoa, một con bé rất đĩ tính, chỉ cần cái nháy mắt của người đàn ông, nhất là của anh đội phó trẻ tuổi, khỏe mạnh, chưa vợ là nó có thể ngã ngay vào lòng. Biết bao nhiêu lần nó đã nhìn anh bằng đôi mắt quyến rũ, nhiều tình ý, đôi mắt mời mọc, mà chỉ vì nghĩ tới mình là một quân nhân, một người chỉ huy nên anh phải làm ngơ. Biết bao lần nó nắm lấy tay anh như không muốn rời, ngồi sát bên anh hơi thở đã nóng rực vì thèm muốn nhưng anh cũng đã bỏ qua. Còn lần này đây... tối nay đây... có thể nào nhắm mắt trước một cơ hội thuận lợi nữa. Thằng đàn ông có phải là thánh đâu. Miễn sao công việc được êm dịu. Khi cả hai cùng đồng tình thì việc gì mà không trôi chảy. Ngồi lại gần đây, xích lại thêm một chút nữa, đã nghe thấy hơi thở của nó rồi, đã ngửi thấy mùi da thịt của nó rồi. Chao ôi, của quý, của trời cho, thằng đạo đức là thằng ngốc. Mắt anh lóa lên, tai ù đi, miệng càng khô đắng, tim đập nặng trĩu nghe rõ từng nhịp một, đầu ngón tay đã bắt đầu run bắn. Anh xô người lại, một khối thịt mềm nhũn và nóng hổi lả vào hai cánh tay, như điên dại anh vừa ghì chặt lấy, thì... một sức bật gạt anh ra, một cái tát rất mạnh làm tê cả một bên má, loáng thoáng một tiếng hét nhỏ: "Đồ khốn nạn! Tôi kêu lên bây giờ!" Khi anh nhìn lại trước mặt chỉ là cái bóng tối mênh mông, mát lạnh.
Sự thật hay là mê sảng? Việc trước mắt hay trong mộng mị? Cái gì đã xảy ra như thế? Cái gì đó vậy?
Tối hôm ấy Thoa xin nghỉ họp tổ, buông màn đi nằm sớm. Ai hỏi gì chị cũng không trả lời được, khi cầm mép chân rũ ra người chị vẫn còn run lên vì sợ hãi, một thứ hơi người nồng nặc mùi khói thuốc lá dính vào da thịt không sao bay đi được, và chị có cảm giác rằng người nào đứng cạnh chị cũng sẽ ngửi thấy mùi lạ ấy. Một cái gì tủi nhục như kim châm vào da thịt, một nỗi đau đớn dày vò, giằng xé, bỗng nhiên chị thấy mình lẻ loi, cô độc, bị hăm dọa, bị khinh rẽ.
... Chị để mẹ già ở dưới xuôi lên đây xây dựng nông trường cùng với bộ đội đã được già nửa năm rồi. Một cuộc đời lạ lùng, mới mẻ, rộn rịp bao vây lấy chị, kích thích chị từ lúc mờ sáng cho đến tối đêm... Đốt tre măng mọc vót lên với những chiếc mo nang vàng nượm, những giọt sương sớm đọng long lanh ở cọng cây đu đủ, những đốm trắng quay tròn trên cánh bày sáo nghệ, một bông hoa vông vang mướt vàng, mỏng manh, mọc chồi lên giữa bụi ké và me dại. Bất cứ một hình ảnh nào cũng đem lại một nguồn vui mênh mang, một thứ vui chẳng có duyên cớ gì, chỉ muốn được trò chuyện với mọi người, được luôn luôn cất nhắc chân tay, trong giấc ngủ cũng thấy người thổn thức, chưa kẻng đã choàng mắt dậy, nhìn mảng sáng nhạt in vào khe cửa trong lòng lại xôn xao vì một ngày mới bắt đầu với những việc làm mới, những câu chuyện mới, những khung cảnh mới. Khi chị mới đến đây anh em đều coi như một con bé: nước da đen khô, cổ ngẳng, ngực lép và chân tay queo quắt, lóng ngóng. Một nửa năm qua, khí hậu Điện Biên, nước sông Nậm Rốm, cơm gạo bộ đội, và nguồn thu mênh mông của đời sống tập thể đã thay da đổi thịt và thổi vào tâm hồn cô bé những cảm xúc, những ước mơ lạ lùng. Anh em bộ đội bắt đầu chú ý đến chị, đã có những con mắt ngắm nghía thầm kín, những lời khen ngợi đến đỏ mặt, những câu nói bóng gió xa xôi, những chuyện đùa vui sổ sàng, và cả những chuyện gán ghép. Giữa những ngi đó nổi bật lên một con người thương mến, Diễm, anh y tá của đội sản xuất. Hai người quen thân nhau từ ngày cùng đi làm hồ Huổi Phạ, chị bị cảm mấy hôm được Diễm chăm sóc rất tận tình, gần như đặc biệt. Tối nào anh cũng nói chuyện với chị đến khuya, dịu dàng như một người anh trai. Những lúc ấy chị thấy mình hoàn toàn mềm yếu, bé bỏng, chỉ muốn khóc lên để được nghe một giọng nói đầm ấm, một bàn tay vuốt ve. Chị cần có chỗ nương dựa trong lúc xa gia đình, xa mẹ, mà Diễm lại là một anh bộ đội rất tốt. Chị theo dõi, săn sóc từng bước đi, việc làm, lời nói, cho đến cái ăn mặc của người mình yêu, đến nỗi ai cũng nhận thấy sự đổi khác quá lộ liễu. Chị một lời nói thiếu trìu mến, một cái nhìn hơi bàng quan, một cách đối xử quá bình thường của Diễm cũng đủ làm chị hờn tủi, đau đớn hàng mấy ngày. Nhưng anh ấy đã có vợ và anh cũng dự định đón vợ lên Điện Biên để xây dựng cuộc sống lâu dài ở nông trường. Người yêu thứ hai của chị là Lưu, có lẽ bắt đầu bằng tình thương thì đúng hơn, vì anh ấy chẳng có gì đặc sắc, đã ba mươi tuổi, rất ít nói, nhưng thật là một người rất tốt. Người tốt thế mà lại gặp bước không may, hai vợ chồng lấy nhau đã trên mười năm, đã có con sống con chết, nay chị vợ ở nhà mê một anh góa vợ người cùng xóm, nằng nặc xin ly dị với chồng cũ. Lưu tâm sự với Thoa về cách giải quyết của mình, anh sẽ đưa vợ con lên đây, chắc chắn mọi việc sẽ ổn thỏa. Sao có con người đáng yêu đến thế. Chị dành tiền mua vải hoa, may một cái áo bông trẻ em rất đẹp, mua cả mũ, để nay mai anh đem về làm quà cho con. Chị săn sóc đến nỗi chính Lưu cũng ngượng nghịu và tìm cách lẩn tránh. Một buổi đi làm lạc chị đã nói hết nỗi lòng thầm kín của mình: "Nếu việc nhà không giải quyết xong anh cứ đưa con lên, nếu anh bằng lòng em xin nhận làm dì nó". Lưu về phép một tháng khi lên có cả vợ đi theo, anh chàng góa vợ kia đã phụ tình chị ta, lấy một cô khác còn rất trẻ. Cách ít lâu, vợ Lưu dò biết chuyện đã có lần cô Thoa ở tổ thanh nữ định quyến rũ chồng chị, định làm cho gia đình chị tan nát, chị liền tìm cớ gây chuyện đôi co với Thoa, làm ầm ĩ lên để tỏ cho mọi người biết xưa nay chị vốn chung thủy với chồng. Còn Thoa sao vụ hiểu nhầm ấy chị mấy cái vui vốn có, người trầm lặng hẳn đi, chị sống lặng lẽ và gần như cô độc. Trong tình yêu chị là người ít được may mắn, tuy vậy mỗi lần nghĩ đến yêu đương chị vẫn thấy rạo rực sung sướng, như những vệt nắng làm bừng sáng cái tuổi dậy thì, nhưng chị lại rụt rè, lo sợ, vì dấu vết hai lần tan vỡ còn in quá rõ nét. Hình ảnh Doãn, anh tổ trưởng máy kéo, tính nết thẳng thắn gần như sỗ sàng, đến với chị thật bất ngờ. Đầu tiên có lẽ do sự gán ghép đùa cợt của chung quanh. Nhưng rồi bóng dáng anh ta với lối đi nhảy nhót, cái miệng cười hóm hỉnh thoáng nhìn tưởng là châm chọc, đôi mắt hơi xếch sắc sảo, dần dà xâm chiếm toàn bộ đời sống của chị. Chị theo dõi sự biến đổi của mình với trái tim trĩu nặng lo âu. Chị bắt đầu yêu anh ta rồi chăng? Liệu tình yêu giữa hai người lần này có được trọn vẹn? Nhưng Doãn đâu có dễ gần, hình như anh ấy khinh rẻ chị, coi chị là một con người xấu xa gì đó. Anh ấy nhìn chị bằng cặp mắt gườm gườm đầy nghi ngờ, và đối xử với chị không chút ân huệ riêng, gần như nhạt nhẽo. Buổi sáng gặp lại Doãn chị khóc suốt buổi trưa, tự thề rằng sẽ cắt đứt mọi quan hệ với con người bội bạc (tuy rằng Doãn chưa hứa với chị một điều gì), chị tìm mọi nét xấu xa của anh ta để gây mối hằn t
thù, một anh bộ đội kiêu ngạo, một thằng lái máy kéo lỗ mãng, là một con người chẳng ra gì. Nhưng chao ôi, càng tìm bới ra thì những nét đáng yêu càng lộ rõ, càng thu hút, muốn thù ghét anh ta nhưng lại thấy yêu quý vô ngần, muốn cắt đứt nhưng lại tự bảo rằng không thể sống được nếu thiếu bóng dáng anh. Rút lại chỉ càng thêm yêu, càng đau khổ, và càng thèm muốn một chút cảm tình dù bé nhỏ anh ấy sẽ dành cho riêng mình.
Tuy vậy chị vẫn hy vọng, cho mãi tới tối nay cái hành động thô bỉ của anh đội phó bắt buộc chị phải ngẫm nghĩ lại bản thân mình. Có thể người ta đánh giá chị là con người thiếu đứng đắn nên mới có thái độ sỗ sàng, thiếu tôn trọng đến thế. Chị chỉ đáng để đùa cợt, trêu ghẹo, chứ không thể là người yêu, người vợ sau này. Chỉ những người đã có vợ, có con rồi mới đưa tay đón lấy chị, trò chuyện với chị và quý mến chị. Anh Doãn lại quá trẻ, tương lai còn dài rộng, biết bao cô ở tổ thanh nữ đang mơ ước đến anh ấy. Thế mà, chị lại dám dành riêng cho mình cái hạnh phúc hiếm có, lại bắt anh ấy chỉ được chú ý đến có một người, một đứa con gái xấu xí, bị cả mọi người khinh rẻ. Chị vừa rấm rứt khóc, vừa thầm thì với mình: hãy biết làm ăn chăm chỉ như mọi người, anh nào có lòng tốt muốn thương yêu, đùm bọc thì sẽ lấy anh ấy, bằng không thì ở một mình, sống với tập thể, với nông trường, với hai anh nuôi, nay mai dành dụm được ít tiền sẽ về xuôi đón u lên, có mẹ, có con... U ơi, sao đời u vất vả cơ cực thế, đời con rồi cũng giống đời u, con sẽ về đón u lên nhé... Cũng như mỗi lần gặp những uất ức riêng không thể thổ lộ cùng một người nào khác, chị lại cầu cứu đến mẹ, đến hình ảnh một người đàn bà gầy yếu, lo lắng quanh năm, để kể lể, than vãn, tâm sự, để cảm thấy mình bớt lẻ loi, và nỗi buồn được trút vợi.
***
Đêm trước tổ máy kéo làm việc cho mãi tới khuya, nhưng bốn giờ rưỡi sáng hôm sau Doãn và ba anh em trong tổ đã trở dậy phát động máy, khi đầu máy ra đến đồng thì mới vừa kẻng báo thức. Trời tờ mờ sáng, sương kéo thành mộng đè lên đám đất vừa cày, lổn nhổn những cây cỏ khô cháy và gốc rạ bị đảo nhừ. Trong mù sương tiếng quạ kêu rời rạc, nghe ảo não và xa lăng lắc. Trên đám ruộng sắp cày một vệt lửa bỗng bay vút lên, in bóng mấy người cúi lom khom. Vệt lửa lan ra rất chậm chạp, uể oải như đã bị cứng đờ vì cái giá buốt của sương muối. Doãn quấn lại miếng vải dù, bịt kín hai tai, mỉm cười: "Rét thế này mà các cô đốt rạ đi sớm nhỉ". Rồi anh lái đầu máy chạy vòng lại phía có bóng người. Nghe tiếng máy nổ lại gần, mấy bóng người đứng thẳng lên, và một cái bóng thấp thoáng tiến lại gần. Doãn nhìn ra Tám, mặt tím đen trong cái khăn len màu, mặc áo bông vải hoa, ngoài lại thắt thêm một sợi lạt trông sù ra như con ếch. Tám liêng liếng con mắt nhìn lên đầu máy, tiếng nói cứ như nổi bập bềnh trong bụi sương:
- Anh tổ trưởng trẻ tuổi ơi, sao các anh ra muộn thế, chờ sưng cả mắt lên đấy!
Cái con bé chanh chua này, chưa bao giờ nó nói được một câu đứng đắn với người khác.
- Liệu có đốt kịp cho chúng tôi cày không đấy, vài ngọn lửa lèo tèo như trò trẻ.
Tám đưa tay quệt lên mặt, miệng nói như mếu:
- Khốn rạ tốt bỏ mẹ đi đây này, đốt mãi cũng không cháy. Có giỏi xuống đây giúp một tay.
Tám nguây nguẩy quay đi còn nói trở lại:
- Cái Thoa nó đứng ở kia kìa!
Doãn vẫn mĩm cười: "Rõ khéo chuyện mấy cô ả, việc gì đến tôi đấy".
Tổ thanh nữ do Tính làm tổ trưởng có mười cô. Gọi là cô vì họ chưa có chồng, chứ kể tuổi thì non nửa đã ngót nghét ba chục, trong số đó chỉ có Thoa và Duệ là trẻ nhất. Rạ ướt quá nên đốt mãi cũng không thể cháy to, ngọn lửa cứ lèo tèo, bỏ lại phía sau một vết đen ngoằn ngoèo đứt quãng, nham nhở. Nhưng cả tổ máy kéo vẫn có cảm giác rằng đầu máy chạy như nhẹ hơn, lưỡi cày bập vào đất ngọt hơn. Mỗi lần rạ cuốn chặt lấy lưỡi, Doãn lại quay lại, hét lên rất hách dịch:
- Các cô phụ việc ơi, lại đây nhờ một tý!
Sau tiếng gọi lại thấy cái dáng nguây nguẩy của Tám, và bước đi lặng lẽ của Thoa tiến gần lại cái khung kéo.
Gần nửa buổi Thoa không hề nhìn thẳng vào Doãn một lần nào, cũng không hé môi nói một câu. Nước da cứ xanh rờn trong chiếc khăn láng đen, mắt lờ đờ mệt nhọc, và môi mím lại như sắp khóc. Chị làm vẫn nhanh nhẹn, tháo vát, đâu vào đấy, nhưng có lẽ do bản năng nhiều hơn. Doãn mấy lần nghĩ thầm: "Cô này hôm nay lạ nhỉ, lại giận dỗi với ai đây, hay nhớ nhà?".
Đầu máy của Doãn bắt đầu vòng theo sát rìu khu chưa khai hoang ngun ngút những bụi cây chó đẻ, me dại, một thứ mùi hăng hăng nồng nặc bốc lên lẫn với mùi khói ma-dút sộc vào mũi rất nôn nao. Doãn cho dừng máy lại, gọi Tính:
- Đồng chí tổ trưởng ơi, cho tôi hội ý một chút!
Tính bước lại rất chậm chạp, e hè một cái rồi mới hỏi:
- Gì hử?
- Anh có mang theo dao không thế?
- Mang làm gì?
Doãn chỉ vào đám cây sát rìa ruộng:
- Giá phát được vào một quãng cũng tốt đấy ông anh ạ!
Tính đưa con mắt lờ đờ nhìn đám lá cây chó đẻ héo đen vì sương muối, nói đủng đỉnh:
- Trước sau cũng phải phát thôi, mảnh này nằm trong chương trình khai hoang đầu năm nay đấy.
Doãn nhếch mép, môi bĩu ra:
- Thì ta cứ tranh thủ cho phát luôn bây giờ, được chút nào hay chút ấy, tôi sẽ đưa máy vào quần vài vòng cho nhừ đất đi thì ít nữa có dùng trâu cày cũng tốt chán.
- ấy việc nào vào việc ấy chứ, đi gỡ rạ cho các anh còn chưa xong đây.
Doãn nhảy phắt từ trên đầu máy xuống:
- Tôi bàn với ông anh nhé, chỉ cần độ sáu cô phục vụ cho máy kéo thôi, còn năm người ta đi phát cũng được ối đất đấy!
- Trên có phân công đâu mà làm, bôi việc ra rồi các ông ấy lại cự cho.
Đôi mắt một mí hơi xếch của Doãn nhìn Tính gườm gườm:
- Anh máy móc bỏ mẹ, thì nhiệm vụ của tôi là cày đất thuộc chứ có khai hoang đâu mà tôi lại ngửa tay xin việc. Có cái mình ngồi trên máy cày cũng tiếc đất, giá phát lùi vào ít nữa thì trông cái mảnh đất nó vuông vắn, người ngoài họ có đến tham quan cũng dễ nhìn.
Tính ngắm nghía một lát rồi lặng lẽ quay đi, nói lúng búng:
- Vài người phát thì được mấy tí, bôi việc ra...
Doãn trèo lên đầu máy cày gắt to:
- Thì cũng xin mặc kệ các anh, đã làm cái anh lính nông trường mà chỉ sợ thêm việc. Lười bỏ bố!
Trưa về ăn cơm, nghỉ được độ nửa tiếng, cả tổ lại hấp tấp ra đồng. Ngồi nghe tiếng máy nổ đều đều mắt anh nào cũng nhíu lại vì buồn ngủ. Doãn đã nhìn thấy Tính và Thoa đang hì hục phát những bụi cây chó đẻ. Có lẽ họ làm cả buổi trưa, nên khu vực lấn vào đã khá rộng, những cây chó đẻ xếp lại thành từng đống lớn. Mặt Tính đen nhẫy vì mồ hôi, thấy Doãn, Tính ngừng tay e hè một cái:
- Không ngủ một chút à?
Doãn hơi ngượng nghịu vì câu gắt vội vàng của mình sáng, anh nói đùa:
- Thế ông anh không tự ái với tôi nữa chứ?
Giọng nói của Tính vẫn chậm chạp từng tiếng một:
- Phải tranh thủ làm vài buổi trưa thôi, chứ có mấy tiếng đồng hồ mà bôi ra nhiều việc thì chẳng bõ...
- Người đâu cả, mà chỉ có một ông lão với một cô con gái?
Tính hơi cười, răng vàng khè vì ám khói thuốc lào:
- Việc tự giác, ai bắt được.
- Ngừng tay một lúc, có nước chè nóng mang ra đây.
Tính bỏ nóng xuống, đặt quay chuôi dao vào lòng nón, cởi chiếc khăn buộc ở cổ lau mặt, vừa lau vừa hừm hè, đằng hắng rõ ra một người có tuổi. Doãn cầm phích rót vào ca một ít nước chè đưa cho Tính. Tính uống một ngụm nhỏ, rút một đoạn cuống đu đủ nhét thuốc lào đánh diêm hút rồi ngửa cổ thở khói, một mảng gáy rất to đỏ ửng xếp lại trên cái cổ áo đen nhẫy mồ hôi và ghét.
- Đời các cậu thế mà sung sướng, chọn được cái nghề tối tân nên đỡ chân lấm tay bùn. Chúng mình thì thật khổ, mùa mưa bùn ngập đến gối, mùa rét thì da thịt cứ tím bầm lại một nửa ngày vì sương muối. ấy, mình đã viết thư bảo thằng Nhớn, sau này có chọn nghề thì chọn làm cái anh lái máy kéo cho nó vinh quang.
Doãn cười khanh khách, hai cánh mũi rất to cứ phập phồng:
- Nếu trừ cái vinh quang ra, bố bảo chúng tôi có vất vả không?
- Vất vả đếch gì, nếu ngồi trên đệm da còn vất vả thì chỉ trùm chăm nằm nhà là an nhàn nhất.
Doãn vẫn mủm mỉm cười, hàm răng trắng đều của anh điểm một lỗ hà nhỏ ở giữa hai cái răng cửa trông rất hóm và thông minh.
- Nếu được như cái đất đồng Nam Bộ thì khỏi nói, chỉ việc cho nổ máy rồi ngủ luôn một giấc trên ghế cũng chưa chắc đã đến đầu bờ bên kia... Còn ở đây ấy ư? Bố xem, đất thì gồ ghề rắn bằng đá, đường vòng hẹp, cứ vòng luôn, không tinh mắt nhanh tay thì cho máy lao xuống suối có ngày. úi chao, cứ tưởng cách mặt đất có một cái ghế da đã là nhàn lắm đấy... Ông anh có biết chỉ tiêu của tổ cờ đỏ là thế nào không? (Doãn nhay nháy con mắt nhìn Tính)... Không ngon ăn lắm đâu. Một ngày bắt buộc phải mười tiếng cắm lưỡi cày xuống đất. Còn lúc phát động máy, chạy trên đường, chạy không trên ruộng, chăm sóc dầu mỡ, kiểm tra sửa chữa là anh không được tính vào đấy. Tổng cộng ra thì một ngày chỉ phải làm độ chừng mười lăm, mười sáu tiếng thôi... Nói chung thì vẫn là còn nhàn...
Rồi Doãn ôm lấy vai của Tính cười rầm rĩ. Khi anh nhìn lên chợt thấy bóng Thoa đã lùi lại xa tít ở gần đầu bờ bên kia, cô ấy bỏ cả một quãng giữa không phát. Chết, từ nãy hai anh em mải vui chuyện có cô con gái rượu của Đội lại quên không mời uống ngụm nước chè nóng. Anh đứng lên vòng tay làm loa miệng, gọi to:
- Cô Thoa!... Thoa!...
Cái nón trắng vẫn nổi lên giữa những ngọn cây chó đẻ, không thấy quay lại.
Tính nói thầm thì:
- Chẳng biết có ai trêu chọc gì nó không mà rấm rứt khóc cả buổi trưa.
Doãn không trả lời, anh cứ chăm chú nhìn cái bóng nón và lưỡi dao phát kiểu Đông Bắc mũi khoằm lại như mỏ chim đưa lên đưa xuống loang loáng. Lồng ngực anh chợt nổi gai lên vì thương xót, tội nghiệp cô ấy, thật là con người tốt, có điều gì làm cho cô ấy tủi thân đến thế... Hay vì mình?... chẳng có nhẽ... Anh cư xử vẫn niềm nở như đối với mọi người. Anh cho tắt máy rồi chạy lại phía Thoa. Thoa đang cắm cúi xếp lại những thân cây đã phát thành một bó. Anh nói khẽ:
- Sao không lại uống nước?
Thoa giật mình, quay lại: anh Doãn. Chị không biết mình nên trả lời như thế nào, cứ loay hoay bó đi bó lại, mặt gáy nóng ran vì sung sướng và cả vì hờn dỗi. Rồi bỗng nhiên Doãn cũng thấy mình lúng túng, ngượng nghịu, không còn cái thoải mái, tự nhiên như mọi khi vẫn nói chuyện với Thoa. Có lẽ hôm nay lần đầu tiên chỉ có hai người đứng nói chuyện với nhau và bản thân Doãn vừa trải qua một sự xúc động mà từ ngày lớn lên chưa hề có.
- Cô đưa tôi bó giúp cho, tay chân đàn bà có khác.
Cũng là lần đầu Thoa được đứng gần Doãn nhất, và chỉ có một mình chị, không còn sợ những con mắt tò mò, xói móc, những lời nói châm chọc. Anh ấy lại đang làm cái công việc của chị, nên chị có cảm giác rằng cái thân hình chắc nịch đầy sức trẻ đang vụt đi vụt lại trước mắt kia là của riêng mình, chị có quyền được ngắm nghía cho bõ những lúc nhớ trộm, yêu thầm. Nhưng thời gian đi nhanh quá, Doãn đã bó xong, anh phủi quần áo nhìn Thoa định cười, nhưng môi cứ méo đi vì mất tự nhiên. Anh đằng hắng mấy cái rồi chôn chân tại chỗ, còn Thoa vẫn cứ nhìn thẳng vào mặt anh như bị một sức hút kỳ lạ, không còn biết xấu hổ là gì. Mãi anh mới nói được một câu, mà tự mình cũng cảm thấy là nhạt nhẽo:
- Cô xem, đàn ông chúng tôi có được việc không?
Thoa cũng mỉm cười:
- Thế mà cũng có những việc các anh phải chịu chúng em đấy.
Doãn vụt nhớ lại hôm chạy lụt vào đầu mùa thu. Những bao lạc nặng trên dưới một tạ xếp đầy ở hội trường, cả một đại đội ùa vào, cứ hai người khênh một bao mang lên kho còn ì ạch. Doãn và đồng chí Lâm đang loay hoay bê một bao lên thì Thoa đã chít cái khăn vuông láng đen bịt lấy tóc, ghé vai vào: "Các anh đưa lên vai cho em". Lâm đang cuống quýt vì tiếng nước rép đã ào ào gần đến nơi mà các bao lạc còn bề bộn, nên gắt lên: "Không phải lúc đùa!". Thoa vẫn quỳ một gối xuống nói như cũ: "Để lên vai em mau lên!". Doãn vừa buông tay ra thì Thoa đã nhấc người đứng dậy, bao lạc nằm gọn ghẽ lên trên đầu và nửa lưng, mọi người chưa kịp ngạc nhiên thì Thoa đã nhon nhón chạy ra ngoài. Từ hội trường lên nhà kho dài hơn trăm thước, cô ta cứ chạy đi chạy về, mỗi lần một bao trên vai như thế, trông xa cứ tưởng là bao tải đựng vỏ bào chứ không phải là lạc mới dỡ.
Câu chuyện trở nên dễ dàng.
- Cái đầu cô chắc phải rắn bằng người luyện nội công ấy nhỉ?
- Cũng quen cả thôi anh ạ, em người vùng Tiền Hải, con gái đứa nào cũng đội được hàng tạ trên đầu ấy chứ.
- Con gái vùng ấy chắc bướng lắm.
- Cũng tùy với từng người.
Doãn hỏi thành thật:
- Sao tối hôm qua cô không ra chỗ chúng tôi chơi, có chuyện gì buồn thế?
- ở nhà vất vả mới buồn, chứ ở nông trường với các anh vui suốt ngày có gì mà buồn.
Thoa ngừng lại, khẽ hư hứ trong cổ như khé giọng:
- Tính chúng em nó làm sao ấy, vui buồn thất thường, không gan được như các anh đâu.
Rồi giọng chị tự nhiên nhẹ bẫng đi, rung lên:
- Với lại số em nó cũng vất vả, chứ không được nhàn như các chị khác, em cũng hay nghĩ xa xôi lắm, lắm lúc tự bảo: nghĩ nhiều thì có ích gì, hại sức khỏe, ảnh hưởng đến công tác, nhưng rồi thế nào vẫn cứ phải nghĩ, nghĩ đây nghĩ đó, chẳng ra thế nào... Đời phụ nữ thế mà khổ, chẳng mấy khi được sướng.
Thoa cứ kể lung tung, chẳng ra đầu cuối gì, nhưng Doãn chắc rằng đấy là những tiếng nói thốt ra từ một tâm sự u uất, anh nghe rất lặng lẽ và luôn luôn quan sát người nói chuyện.
- Có khi lòng mình ngay thẳng, người khác lại hiểu là oeo, mình đối xử tốt với mọi người, người ta lại bảo là thiếu đứng đắn... ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê...
ở một nửa con mắt Thoa tự nhiên sáng bóng lên, óng ánh như có nước, chị cúi gằm mặt xuống, lấy lòng bàn tay dụi dụi mắt, mấy sợi tóc dính nước mắt bết chặt vào một bên má.
- Có điều gì thắc mắc sao cô không đưa ra tập thể, nhờ chị em góp ý kiến giải quyết có hơn không?
Thoa đưa mắt đỏ lừ lườm Doãn một cái, chị nói giận dữ:
- Tập thể, có phải cái gì tập thể cũng giải quyết được cả đâu... Các anh thì chẳng biết thông cảm gì với phụ nữ cả.
Rồi chị đứng dậy, cầm lấy dao ngoăn ngoắt quay đi.
***
Cừ ở lại đội sản xuất số "6" cả ngày hôm thứ hai để nghe ban chi ủy và cá tổ trưởng Đảng báo cáo về tình hình kết quả chỉnh đốn chi bộ. Ăn cơm tối xong anh đi xuống tổ máy kéo định hỏi về tình hình cày bừa, vì hôm nay họ không cày đêm. Anh em trong tổ đi chơi hết, còn lại có một mình Doãn đang hí hoáy viết thư. Cừ đứng nhìn lơ láo chung quanh, rồi đằng hắng hỏi:
- Đi đâu cả hở ông tổ trưởng?
Doãn quay ra mắt hấp háy nhìn người hỏi, khi biết là đồng chí chủ nhiệm, anh đặt bút xuống trả lời vui vẻ:
- Họ đi làm công tác phụ vận cả đồng chí ạ. Mời đồng chí vào chơi.
Cừ ngồi xuống cạnh phản, lấy bao thuốc mời Doãn một điếu. Doãn cầm điếu thuốc, nhìn Cừ mủm mỉm cười:
- Việc nước sao anh hăng hái thế, mà việc nhà lại uể oải vậy.
- Uể oải thế nào, anh thử lấy vợ đi xem có yêu vợ được bằng tôi không?
- Đã đành, nhưng chị ấy cứ xuống phàn nàn với bọn máy kéo là chung quanh họ chửa đẻ nhiều quá, mà mình thì cứ như cây cau đực.
Cái môi dưới của Cừ nhệch ra:
- à, việc ấy đâu có phải cứ tích cực mà được.
Anh nháy mắt hỏi Doãn:
- Thế còn anh, sao cứ lửng lơ như con cá vàng mãi thế. Xem chừng con bé say anh chàng tổ trưởng lắm rồi đấy.
Mặt Doãn đờ ra, hai mang tai đã nóng ran:
- Họ say mặc họ chứ, nhưng... nhưng tôi thì chưa thấy yêu cô ta.
Đôi mắt thô lố của Cừ nhìn Doãn chòng chọc:
- Chê xấu hả? Đấy, đấy, anh đếch nào mà không thích gái đẹp. Cứ nói thánh mãi đến lúc vận vào thân mới trật khấc ra.
- Không đâu, không đâu... cái xấu đẹp không quan hệ lắm, nhưng mà là cái đức kia.
Cách nói của Cừ vốn sỗ sàng, câu chuyện tình duyên đáng lý chỉ nên nói với nhau rất thầm kín, nhưng giọng anh cứ oang oang khiến người Doãn nhủn ra vì xấu hổ và lo sợ. Anh luôn luôn đưa mắt nhìn trộm ra ngoài.
- Thế nó phản đối xây dựng chủ nghĩa xã hội aà? Trây lười lắm hải? Hay là... phần tử phản cách mạng?
- Đâu đến nỗi thế, là người tốt thôi, làm ăn chăm ra phết, nhưng... tôi muốn nói là cô ta yêu nhiều người quá, tôi là người thứ ba đấy đồng chí ạ... Yêu nhau cũng đứng đắn thôi. Đầu tiên là cậu Diễm y tá, rồi đến Lưu, vợ tay Lưu đánh ghen một trận ầm ĩ cả lên.
Cừ đưa tay lên gãi gãi bộ râu rậm đen:
- Mình là con gái cũng đến phải lòng hai cái thằng cha ấy. Toàn là những tay tốt cả. Cô ấy có con mắt tinh đời đấy chứ.
- Nhưng người ta vợ con cả rồi, lại lăn vào.
- Thế mới nên chuyện, vì thế mới phải đau khổ, nhưng xem ra Thoa nó vẫn đối đãi với hai gia đình ấy rất tốt, đi lại vẫn đầm thắm, coi như anh chị nuôi. Người có thủy chung, có tình nghĩa là như thế đấy. Phải nhận rằng cô ấy là người tốt thật, chỉ phải cái ít gặp được may mắn.
- Tôi vẫn cứ nghĩ rằng một người con gái mà đã yêu đến hai ba người là thiếu trong trắng rồi.
Cừ xì một tiếng rất to, mắt trợn lên, anh đưa một ngón tay trỏ vào mặt Doãn:
- Xem cái mặt nào, thế mà họ nói với tôi rằng anh là một thanh niên rất mới, mới ở chỗ nào. Rõ là cái đồ phong kiến!
Có một điều rất lạ là mặc dù Doãn nói về cái cô Thoa (mà anh đã bắt đầu không thể dửng dưng được nữa) bằng những lời lẽ ruồng bỏ, tìm mọi cái xấu của cô ta để phơi bày ra, nhưng trong thâm tâm anh lại sợ cái lý của mình sẽ thắng. Nỗi vui sướng, lòng hy vọng của anh cứ nhóm lên dần dần từ trong những lời phản đối, từ những câu mạt sát của đồng chí chủ nhiệm đối với anh. Đồng chí ấy càng chê bai, trách móc anh, anh càng thấy nhẹ nhõm, càng thêm tin yêu và muốn tâm sự hết nỗi lòng của mình. Anh bắt đầu rụt rè kể lại buổi gặp gỡ sáng nay, kể rất tỉ mỉ đến từng câu đối đáp. Cừ nghe rất chăm chú, đến đoạn anh thắc mắc tại sao cô ấy lại ngoăn ngoắt bỏ đi trước lời khuyên rất thành thật của anh, thì Cừ cười rũ ra:
- Chao ôi... mày thật là một thằng ngốc, ngốc như con bò thiến ấy... Bao nhiêu thông minh của mày để đâu cả...
Mặt Doãn càng đỏ lên. Anh nhìn Cừ ngơ ngác, rồi khẽ cười ngượng nghịu.
- Chẳng nhẽ nó lại phải nói đến nơi là: anh ơi, em yêu anh lắm. Gái chưa chồng, họ có lòng tự tôn tự trọng của họ chứ. Người ta muốn được riêng anh an ủi, được riêng anh thông cảm và thương yêu, anh lại khuyên là nhờ... nhờ tập thể... Như chuyện tiếu lâm ấy!
Doãn nắm tay thụi vào lưng Cừ một cái, rồi bất chợt anh ôm choàng lấy người chỉ huy giàu hiểu biết, cắn vào một bên vai, mớ tóc óng mượt thơ trẻ của anh cứ dụi vào dưới cái cằm đầy râu của Cừ, anh nói như rên lên:
- Anh Cừ ơi!... khó nói quá anh ạ.
***
Đã hơn một tuần Thoa xuống làm việc dưới bộ phận nấu cơm. Suốt ngày chị bận túi bụi vào cái việc do chị bày ra: nấu nước mắm cá. Đây là lần nấu thứ ba, lần đầu tiên chẳng ai tin chị có cái tài ấy, người ta chế giễu bằng cái câu bóng gió: "mắm cô Thoa". Quản lý vội vàng có ý kiến nên ngừng lại, vì nếu nấu chẳng ra gì số tiền cá sẽ biết tính vào đâu. Thoa phải nói cứng nếu nấu hỏng sẽ tự đền. Người ta chờ đợi, nhưng khi chấm ngọn rau cải xanh vào bát nước vàng sánh như mật loãng, ai cũng khen nước mắm Điện Biên phẩm chất không thua sút nước mắm mua ở Hà Nội là mấy.
Cũng từ một tuần nay Thoa không gặp lại Doãn, thời gian gấp rút, cánh đồng lại xa, anh em máy kéo không có thời giờ về ăn cơm nữa, ngày hai bữa đưa cơm ra đồng, nhiều đêm họ mang chăn, căng bạt ngủ tại chỗ để giảm bớt số dầu mỡ đi về. Cũng có tối thu dọn xong, xách ống nước về nhà ở, Thoa thấy thấp thoáng có ánh đèn và tiếng ồn ào dưới khu nhà trống, chị bỗng rạo rực lên vì nhớ nhung, chỉ thèm được gặp lại khuôn mặt yêu quý trong chốc lát, nhưng vì trời rét ngại tắm rửa, người chị nồng nặc toàn mùi mắm cá, chưa bước đến cửa, trong nhà Tám đã kêu ầm lên: "Sao người con Thoa nặng mùi thế!". Chị nằm trong màn, nhưng vẫn hết sức lắng nghe tiếng cười, nói từ tổ máy kéo vọng lại, tưởng tượng ra giọng nói của Doãn để phân biệt, và cái buổi trưa được gặp nhau, được nói chuyện với nhau lại hiện lên với mọi vẻ thi vị của nó.
Cho đến một tối chị được tổ anh nuôi cử đi mang xôi ăn đêm cho tổ máy kéo. Chị mặc cái áo cánh bông đã hơi cũ, nhưng không cài khuy, cốt để ló ra hai cái vạt áo phin trắng bên trong, và vuốt một ít dầu thơm lên tóc. Trăng cuối tháng chưa lên, đường tối mờ mờ vẫn trắng hơi sương. Gió về đêm, lẫn với hơi thở của khoảng đất rộng bát ngát lùa vào cổ mát lạnh, nhưng người chị vẫn nóng bừng, và tiếng tim đập nghe rất nặng, đau nhói cả một bên ngực. Mấy chiếc máy kéo vẫn gầm gừ từ xa, qua vệt sáng của đèn chiếu, bụi vẩn lên như khói. Nhìn cái đèn chiếu cứ xa lăng lắc, như đâm vào chân núi, cày mãi đến đâu thế, và đến lúc nào mới nghỉ. Chị đặt rá xôi xuống vừa gọi vừa đưa tay với ra phía trước: "Các anh máy kéo ơi! Anh Doãn ơi...". Tiếng gọi của chị vang đi yếu ớt và tắt ngay trong tiếng nổ đều đều. Từ xa chiếc đèn chiếu vẫn rạch bóng đêm mệt nhọc, le lói, vất vưởng. Khoảng cách giữa chị và vệt sáng còn xa, giữa đó là bãi đất cày đen ngòm như cái vực, tưởng như đã đặt chân xuống sẽ bị cái khoảng đen nuốt lấy, và không bao giờ người ta có thể tới cái nơi muốn đến cả. Chị lại gọi, nhưng gió thổi vẫn mạnh hơn, cuối cùng chị cắp rá xôi lao xuống nhằm phía có ánh sáng chạy đến. Gió thổi tung hai vạt cánh áo bông, đánh bạt cả hơi thở, chốc chốc chị lại kêu lên: "Anh Doãn ơi, các anh máy kéo ơi!". Nghe thấy tiếng của mình vọng bên tai, chị tưởng như tiếng của người khác, cảm thấy bớt trống trải và đỡ lo sợ. Nhưng khoảng cách không xa như bóng đêm đã lừa dối. Một vệt sáng chói chiếu thẳng vào mặt chị, một tiếng kêu, tiếng của Doãn:
- Cô nào đấy hử?
Chị nhảy bổ về phía trước hét to vì sung sướng:
- Em đây, Thoa đây, có xôi nóng đây!
Đầu máy ngừng lại, một bóng người nhảy xuống.
- Cô Thoa đấy à, lại cả xôi nữa, cám ơn nhé!
Ba chiếc máy kéo (một cái bị hỏng nằm nhà) mỗi cái cày một góc, cách xa nhau khoảng hơn trăm thước. Giọng Thoa vẫn đứt quãng vì mệt và cảm động.
- Để em đi gọi các anh ấy lại.
Doãn gạt lại:
- Để tôi chạy đi cho. Chân các cô...
Doãn chạy khỏi được một lát thì đèn chiếu hai đầu máy kia tắt, và chỉ mấy phút sau đã thấy thấp thoáng ba bóng người tiến đến. Đầu máy của Doãn vẫn để nổ lấy ánh sáng ăn xôi. Họ ngồi quây xít vào nhau, suýt xoa vì sương muối bắt đầu xuống nhiều. Thoa mở những mảng lá chuối đậy trên đã mềm ỉu đi vì hơi nóng, khói xôi đỗ thơm béo phảng phất bay lên, mới ngửi cũng đủ nhỏ nước miếng. Chợt Doãn hỏi:
- Đũa bát để đâu cả?
- Ăn xôi nắm tay càng ngon các anh ạ.
Doãn cười khanh khách chìa hai bàn tay ra:
- Tay này mà bốc xôi à?
Cả sáu bàn tay cùng đưa ra một lúc đen nhẫy như nhuộm than. Thoa lúc này mới chú ý nhìn mặt họ cũng đều nhem nhuốc như vừa ở một đám cháy chui ra.
- Làm gì mà tay để bẩn thế?
Giọng Doãn sừng sộ như người cãi nhau:
- Làm gì à, tổ thanh nữ các cô đốt rạ đấy, nham nham nhở nhở, chỉ làm khổ chúng tôi. Móc rạ một buổi là thành người châu Phi hết.
- Hay em ở lại đi gỡ rạ cho các anh nhé!
- Không dám, phụ nữ các cô thức đêm không chịu được đâu, ốm ngay.
- Sao các anh chịu được?
- à, bì sao được, chúng tôi là bộ đội, bộ đội thức đêm hàng tháng cũng chưa mùi mèn gì.
Nhưng rồi cả ba vẫn bốc tay ăn, nắm xôi đen lại như bằng gạo nếp cẩm. Ăn xong hút hết một điếu thuốc, trăng đã lên cao. Hai đồng chí lái máy kéo trở lại tiếp tục cày. Chỉ còn có Thoa và Doãn. Chị thu lại những mảnh lá chuối khẽ nói: "Hãy còn nhiều xôi hay em để lại đây lúc nào đói thì ăn". Doãn không trả lời, anh hỏi lại, giọng rất nhẹ và đầy trìu mến, như chưa bao giờ anh có cái giọng ấy.
- Về ngay bây giờ à, nửa đêm rồi...
Với linh tính lạ lùng của người con gái, Thoa cảm thấy như cái phút nghiêm trọng nhất của đời mình sắp đến, và chị lo sợ. Chị cúi đầu xuống, hai tay thu vào lòng, người đã nhũn ra như không còn một sức chống cự nào, chị đợi một bàn tay đỡ lấy là chị sẽ ngã theo. Một giọng nói rất xa xăm thoáng đưa đến:
- Hôm nọ Thoa giận tôi lắm phải không?
- Em chẳng giận anh bao giờ cả.
- Thoa nói dối.
- Em nói thực đấy.
- Thế tại sao không thấy Thoa đến chơi với chúng tôi?
Để thanh minh, không ngờ chị lại buột mồm nói ra cái câu mà hai người cùng chờ đợi:
- Em không ra chơi nhưng lúc nào em cũng nghĩ đến anh.
Người Doãn nóng ran vì cảm động, như do bản năng xui khiến, một bàn tay của anh đưa ra nắm lấy cổ tay Thoa:
- Tôi cũng thế, tôi vẫn nghĩ đến Thoa.
Người Thoa chợt nhẹ bỗng đi như không có thực, chị hơi nhắm mắt lại, toàn thân như tê dại, không cảm thấy gì, không nghĩ được gì... Trên đầu họ là vầng trăng rất trắng, chung quanh là nền mây xanh, xanh trong, ngoài cùng lại viền một vòng mây vàng sẫm y như cái miệng giếng, trong ấy nước trong văn vắt, và tận đáy giếng một cái hình mặt trăng vừa tròn vừa nhỏ in bóng vào đấy thăm thẳm, rất sâu và rất mát... Một cái giếng nào đó ở vùng Tiền Hải vào những đêm có trăng như đêm nay.
***
Tổ máy kéo đã hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn quy định là ba ngày. Buổi chiều họp tổ bầu cá nhân xuất sắc, đến tối Doãn lên báo cáo tình hình với đồng chí đội trưởng. Đang nói chuyện thì Khôi bước vào, da ủng cọ vào nhau soàn soạt, Doãn đứng dậy:
- Báo cáo đồng chí Khôi, sớm mai anh em chúng tôi lên đường sang đội "5" đấy!
Mặt Khôi vẫn đen bóng, anh cười rất khắc khổ:
- Không nghỉ một hai buổi cho khỏe rồi hãy đi, các cậu đi có thể lại kỷ niệm gì ở đây không?
Lâm nhìn Doãn cười rất hồn nhiên, đôi mắt bàng bạc của anh ánh lên vì vui sướng:
- Có đấy, có đấy đồng chí Khôi ạ, với cô Thoa nhà ta đấy. Đẹp đôi lắm!
Mặt Khôi cứng ngay lại, anh à khẽ một tiếng, rồi lại hơi cười:
- Con bé ấy vớ được ông lái máy kéo trẻ tuổi, đẹp trai như thế này còn phải nói. Mình cho cánh phụ nữ dưới xuôi lên Tây Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội đều lãi to cả, một vốn bốn lời.
Lâm trùm bàn tay của mình lên tay Doãn:
- Theo chúng tôi thì cô Thoa là người rất tốt, đồng chí định xây dựng với cô ấy chúng tôi rất đồng ý. Tôi coi cô ấy như em tôi. Nhớ viết thư cho em nó luôn nhé, chủ nhật có rỗi thì về đây chơi... Đừng thắc mắc gì cả.
Khôi hơi ngượng nghịu, anh ngồi xuống cạnh Lâm hỏi sang chuyện khác:
- Trước khi các cậu đi có phải giấy tờ gì không?
Doãn chợt nhớ:
- Có chứ, tôi cũng định nói đấy, một cái giấy chứng nhận tinh thần làm việc của anh em, có bảo đảm kỹ thuật cày bừa không, có đạt được yêu cầu của đội đề ra không... chẳng hạn như thế... à, còn một cái giấy chứng nhận là khi cày năm éc-ta đất ở Pa Pháy thì bị gãy hai lưỡi cày, mất hai mươi cái bù long, và hai cái lò-xo.
Khôi khẽ hất đầu:
- Lý do?
- Lý do ấy à, lý do là vì đất các anh rắn quá.
Lâm tán thành ý kiến của Doãn:
- Đất Pa Pháy rắn thật đấy. Năm ngoái cày cũng bị gãy mất năm, sáu cái lưỡi.
Đôi mắt Khôi vẫn đưa đi đưa lại, anh cảm thấy như có cái gì không đúng nguyên tắc nếu viết giấy chứng nhận bừa bãi như vậy.
- Đáng nhẽ ra khi các anh mới về đây là phải mời chúng tôi xuống kiểm tra máy móc lại một lượt, bộ phận nào tốt, bộ phận nào hư, bộ phận nào có thể bị hỏng. Khi làm xong chúng tôi lại xuống kiểm tra lại lượt nữa thì mới nhận xét được tinh thần bảo quản máy móc của các anh... Trong thời gian ở đây, các anh là người của chúng tôi, chúng tôi có trách nhiệm về các anh (Doãn thoáng nghĩ: nhưng hôm nọ đồng chí lại muốn bỏ mặc chúng tôi tự xoay xỏa lấy). Đằng này cứ như khách trọ, đi không ai biết, về không ai hay, bây giờ lại... gãy lưỡi cày, mất bù-loong. Tôi cứ giả dụ rằng các anh đánh gãy ở đâu chứ không phải ở đây thì các anh nghĩ sao.
Máu trong người Doãn bắt đầu dồn lên mặt.
- Chúng tôi không khi nào lừa dối đồng chí đâu, có gãy thật, mất thật mới báo cáo. Lưỡi gãy vẫn còn đây, may mà tôi tinh tai nghe rắc một cái, dừng ngay máy lại nhảy xuống, chứ nếu không biết, đất rạ vùi đi thì có giời tìm. Còn bù-loong thì tổ rèn rèn được, có hơn một hào một cái nếu đây không nhận thì chúng tôi sẽ góp tiền nhau đền cũng không sao.
- Đây không phải là chuyện ai sẽ đền, mà... mà là vấn đề giám sát chặt chẽ để chống lại cái thói vô trách nhiệm trong việc bảo quản máy móc... Thôi được, chúng tôi sẽ viết giấy chứng nhận nhưng như thế là vô nguyên tắc đấy anh tổ trưởng ạ. Rút kinh nghiệm lần sau vậy... Mình đi xuống tổ thanh nữ họp một chút Lâm nhé!
Còn hai người, câu chuyện trở lại thoải mái, tự nhiên như cũ:
- Này, anh Lâm này, hôm nọ anh em ở đây lên trạm lĩnh được mười phuy dầu, tôi đã ký nhận lấy ba phuy, còn bao nhiêu anh phải cho cất vào kho cẩn thận, lần sau chúng tôi về thiếu đâu anh chịu đấy!
Lâm cười cười:
- Thế là còn lại bảy phải không, được, được.
- à, anh còn phải ký nhận là bộ đội của anh đã lấy trộm của tổ máy kéo ba cân mỡ cho vào máy quạt thóc, không ký nhận không được đâu.
Lâm trợn mắt lên:
- Cái thằng này... mặc kệ các anh, các anh có của sao không giữ, mà có lấy đi chăng nữa thì làm gì đến ba cân.
- Thôi, xí xóa cho các anh, nhưng đúng là ba cân mỡ. Bốn cái trục quay, mỡ ướt suốt ngày ngấm sũng cả chân cột lại không đến ba cân à... Còn việc nữa, chúng tôi mới quây lại thành một gian nằm cho đỡ rét, anh đừng cho ai dỡ nhé. Ra giêng về cày, lại không có chỗ nằm tử tế chúng tôi sẽ đình công cho anh biết tay.
- Được, được, chú cứ yên tâm, tôi sẽ cho làm một gian nhà riêng cho tổ máy kéo. Sang năm cơ giới hóa đến sáu mươi phần trăm kia mà.
- Thật tuyệt! Tin tưởng ở anh đấy!... Năm nay các anh được mùa lớn, có mấy thằng máy kéo cứ để chúng nó vác mồm không đi về, anh nghĩ có tội không?
- Muốn gì nào, có lạc, có ngô, có khoai, định lấy mỗi thứ mấy cân?
- Chỉ xin các anh một ít lạc, thỉnh thoảng rang chén với nhau một bữa thôi.
- Sáng mai tôi sẽ cho dỡ cái luống lạc trồng riêng cho các chú mấy cân.
Ngọn đèn để giữa, một bên là cái đầu húi ngắn của Doãn, hai cái bả vai rất rộng, bàn tay đưa lên đưa xuống, tiếng nói rầm rầm, cười ha hả. Còn một bên là mái tóc lờm xờm lấp loáng nhiều sợi bạc trắng, một nụ cười hồn nhiên, thơ trẻ, và đôi mắt cứ óng ánh lên cái vẻ trìu mến. Đồng chí đội trưởng đội sản xuất và anh tổ trưởng tổ máy kéo, một người giàu từng trải, rất dễ thông cảm và một người mới bước vào đời, háo hức, hăng hái, hai con người ấy thưởng thức rất thú vị những câu chuyện của nhau, ngắm nghía nhau cho mãi tới khi có kẻng ngủ.
***
Sáng hôm sau, tổ máy kéo chuẩn bị lên đường. Thu dọn xong bữa ăn lót dạ cho anh em, Thoa chạy về nhà ngủ đứng ở trong ngó ra chỗ sân phơi. Mấy cái đầu máy đã xếp thành một hàng dọc. Họ đang lúi húi tháo lưỡi cày cho vào một cái hòm nhỏ, và đổ số dầu còn lại vào cái bình chứa. Chiếc đệm Thái viền vải điều của Doãn cuộn lại ngất ngưởng sau lưng dựa, chiếc khăn mặt màu xanh Thoa tặng giắt vàomột bên ba-lô để cạnh chỗ ngồi. Người Thoa cứ bồn chồn, nôn nao, muốn chạy ra ngoài, nhưng lại ngại anh em chế giễu. Chị cứ quanh đi quanh lại bên cái khung cửa. Mấy anh ấy đã lên ngồi trên máy, đã bắt tay đồng chí Lâm, mấy cái đầu máy cùng gầm gừ, rồi rú lên từng đợt và tiếng nổ bắt đầu êm hẳn đi, đều đều. Cái đầu đội chiếc mũ xanh của Doãn nghiêng ngó sang hai bên như tìm kiếm ai. "Em đây kia mà! Em đứng chỗ này kia mà!" rồi Thoa chạy vụt ra. Doãn thấy Thoa, anh gật đầu hơi cười, một bàn tay đưa ra đỏ ửng vì rét. Thoa đặt bàn tay bé nhỏ run lên vì nhớ nhung trong lòng bàn tay to lớn, đầy hơi ấm.
- Em ở nhà đừng buồn... Nấu ăn cho anh em được ngon nhé. Nhớ cơm "xê 6" lắm đấy.
Thoa nghẹn ngào đến không nói được:
- Anh phải chú ý đến sức khỏe đấy... Cày trên ấy chắc đỡ vất vả hơn ở đây.
Đôi con mắt dài rất đen của Doãn óng ánh:
- Máy khỏe, lưỡi cày ngọt thì cày đất nào mà không được.
Đầu máy nhúc nhích, những chiếc bánh nhỏ lăn tròn lên vòng xích, Thoa cứ giữ lấy hai vạt áo bông chạy theo:
- Các anh nhớ viết thư cho chúng em nhé!
Mấy cái đầu máy đã đi xa, Doãn ngoái đầu lại đưa một cánh tay lên, rồi tất cả khuất vào cái bãi ngô rậm rịt. Thoa quay về đi rất chậm, vừa ngắm nghía những miếng đất in hình mắt xích bị cày bật lên trắng xốp, dấu vết còn lại của những người vừa đi, như ở đấy có hơi thở, có tiếng nói, một khuôn mặt, một nụ cười. Chị về nằm vật ra giường, nước mắt ứa ra ướt lạnh hai bên mang tai. Sao xung quanh im lặng đến thế, trống trải đến thế, những cái màn trắng, những chiếc đệm Thái lại cuốn đi rồi, còn trơ mấy cái mặt phản vàng bệch, lạnh lẽo, bụi mọt bắt đầu rơi lấm tấm. ở một góc nhà trống, chiếc đầu máy hỏng để lại nằm im lìm, bốc lên cái thứ mùi hôi khét của dầu máy đang khô lại dần dần ở các đầu trục. Nửa đêm tỉnh giấc không còn nghe thấy tiếng máy nổ êm đềm quen thuộc, tối trước khi đi ngủ nhìn qua kẽ liếp cũng không thấy ánh đèn le lói chiếu thành vệt trên hè nhà... Họ đã đi rồi! Đến mùa xuân họ mới trở lại. Những người thương mến! Các anh đi có còn nhớ đến khu đất vừa cày ở đây không, có còn nhớ đến những con người ở đây không... và anh sẽ có bao giờ quên em không, có bao giờ anh quên được cái đêm tâm tình của đôi ta ở giữa khoảnh đồng.
Khi tổ thanh nữ đập xong đống lúa xếp cao ngút sau lưng như vách hào thì trời vừa tối. Thời gian đi vào phần đêm nhẹ nhàng và rất rụt rè: một mảnh trăng mỏng mảnh như vành móng tay nhờn nhợt trắng, một ngôi sao hôm sáng rực rất lẻ loi, một màu xanh lơ lơ phảng phất như có khói, và dãy núi phía tây chợt nổi rõ lên trên cái đường viền màu mỡ gà.
Mấy chị em ôm néo, bàn cào, bàn trang vào cất ở một góc nhà trống vẫn thấy mấy chiếc phản nằm kê xộc xệch, lạnh lẽo phủ đầy bụi mọt như hàng tháng trước đây, và ở góc đằng kia bóng đen của bốn chiếc máy kéo làm tối cả một nửa gian nhà vẫn xông lên thứ mùi hôi khét của dầu mỡ đóng khô ở cái trục bánh. Tổ máy kéo ra đi từ vụ trồng ngô mùa thu, đến nay đã gặt hết lúa nương vẫn chưa trở lại. Những gương mặt, những câu chuyện, và cả cái không khí tưng bừng của khói thuốc lá, bình trà nóng, ngọn đèn khêu to bỗng chốc trở nên xa xôi, đầy nhớ nhung. Và riêng đối với Thoa thì còn cả những kỷ niệm êm đềm, chỉ mới thoáng nghĩ đến người đã nóng rực vì sung sướng và cả vì lo sợ.
Đêm ngủ một giấc dài chợt tỉnh dậy, Thoa nhìn qua khe cửa thấy trời nhàn nhạt trắng, tưởng như sương muối của đầu đông lọt theo hơi gió đến rắc bụi trên chiếc chăn bông nóng rực hơi người, giữa lúc ấy một tiếng nổ quen thuộc, đều đều, vừa nghe rất rõ, vừa mênh mang như không có thực, như là một tiếng động gì đó trong giấc mơ, cứ rủ rỉ, lênh bênh, khiến người chị như chìm sâu mãi xuống, và giấc ngủ say sưa nửa đêm về sáng xóa mờ đi tất cả. Tờ mờ sáng hôm sau, kẻng báo thức vừa dứt, sương còn đang xuống nhiều như mưa bám trắng cả lông mày, gió châm vào mặt tê buốt, tổ thanh nữ đã mang đòn xóc ra đồng gánh lúa. Khi đi qua nhà trống cả bọn đều ngạc nhiên, không ngờ đêm qua ở đó có người ở, và họ đã đi đâu sớm hơn cả tổ thanh nữ, chỉ còn lại bốn chiếc màn trắng căng trên bốn cái phản đã kê ngay ngắn, những chiếc đệm Thái viền vải đỏ, những cuộn chăn bông lớn ở đầu giường, và những chiếc gối hoa màu sặc sỡ. Có hơi người, khu nhà trống như hẹp lại, ấm cúng hẳn, và ở góc đằng kia bốn chiếc đầu máy kéo cũng mất hút. Thoa không thể nén nổi sự sung sướng, chị kêu to:
- Các anh ấy về đêm qua rồi, thảo nào gần sáng mình nghe thấy tiếng nổ máy!
Tám đi trước ngoảnh ngay lại, mặt tím bầm trong vành khăn len vì rét:
- Thế ông tổ trưởng đã đến trình diện với cô chưa?
***
Tổ máy kéo cờ đỏ của trạm máy kéo nông trường Điện Biên có bốn người, do Doãn làm tổ trưởng. Bốn con người rất trẻ ấy hơn một năm nay được cả mọi người yêu mến, hơn nữa ở đây còn lấy làm hãnh diện với các đội sản xuất bạn vì lẽ tổ máy kéo cừ khôi đó ở đội sản xuất số "6" nhiều ngày hơn cả. Hơn một năm éc-ta cày, bừa, gieo cho bốn năm vụ vừa lúa, vừa màu, quanh đi quẩn lại cũng đã mất già nửa năm. Anh em máy kéo coi đội sản xuất số "6" là gia đình của họ, còn ở đây thì quý mến, nuông chiều họ như con cưng. Họ đi cày nơi khác chưa đầy một tháng đã hàng chục lá thư gửi đến. Ngày chủ nhật các cô chưa chồng gói vào những chiếc khăn len nào lạc, nào mía, ớt, cả rau thơm lặn lội một con suối, và bốn năm cây số đường lầy đi thăm những người yêu quý. Thời gian xa cách vừa qua mới hơn hai tháng, nhưng mỗi lần qua lại gian nhà trống, nhìn những miếng đất đóng khuôn vào vành xích khô trắng, ai cũng nghĩ như đã lâu lắm, như từ ngày mới về đây khai hoang, mấy chiếc đầu máy kia chưa hề dời khỏi chỗ đứng cũ kỹ này. Nhưng đêm qua họ đã trở lại cái gian nhà hoang vắng, và sáng nay đã mang lưỡi cày đến cắm xuống dải đất khô nẻ vì chờ mong ở tận cuối bản ón. Dải đất cày nằm dìa con đường chuyển lúa, nhưng mấy cái đầu máy vẫn lượn lờ trong đám sương dày đặc, tiếng nổ theo hơi gió bay lại, nghe rất tròn và êm ái.
Đến lượt chuyển lúa thứ ba sương mới bắt đầu trong, rạng dần. Thoa đã nhìn thấy thấp thoáng cái đầu máy quen thuộc cách đường có hơn chục thước. Khi chị vác đòn xóc quay trở lại gánh lượt thứ tư thì đầu máy đã kề ngay cạnh đường, chưa kịp nhận ra người lái là ai một giọng nói rất trẻ đã hỏi trước:
- Chào cô Thoa, cô vẫn khỏe chứ!
Chao ôi, anh ấy đây rồi, anh Doãn, con người mà từ hơn hai tháng nay chị chưa gặp mặt, nhưng không lúc nào không nhớ tới. Doãn quấn miếng vải dù trắng quanh cổ, bộ quần áo xanh và chiếc áo trấn thủ mặc ngoài loang lổ những vết đen của dầu máy giặt không sạch, đang nghiêng đầu nhe hàm răng nhỏ và đều nhìn khắp lượt cả mấy chị em.
- Cám ơn anh, em thì bao giờ cũng khỏe. Các anh mới về đêm qua?
Thoa trả lời nhỏ nhẻ, chăm chú đến từng lời nói của mình, nhưng Doãn hình như không chú ý nghe lắm, anh đã bắt đầu nói huyên thiên những chuyện đâu đâu với mấy cô khác. Tám nhảy xuống ruộng bước lại phía đầu máy, một tay ve vảy ra phía sau, tiếng nói rất chua:
- Tưởng các anh vui phố vui phường bỏ chúng em rồi... Cho em lên ngồi một lát nhé!
Doãn đưa tay ra phía Tám:
- Nào, ra đây tôi kéo lên.
Tám liêng liếng con mắt nhìn sang Thoa, một bên má đầy lên rất đanh đá, rồi quay ngoắt trở lại:
- Cám ơn ông anh có lòng tốt, tôi đâu được vinh dự ngồi cạnh ông tổ trưởng máy kéo.
Thoa vẫn nhìn Doãn khao khát, nhưng anh ta không hề nhìn lại một chút nào, vẫn hồn nhiên một cách đáng ghét:
- Các cô đi làm nhé. Tối mời xuống chỗ chúng tôi uống nước chè.
Những vòng bánh bắt đầu lăn trên vành xích, đầu máy nghiêng hẳn về một bên, hai cái vai rộng của Doãn lắc lư rất đáng yêu, một dải khói đen nâu từ ống khói bay cao lên, pha vào bụi sương một màu tím ngan ngát. Nỗi vui sướng rạo rực ở trong Thoa từ lúc sớm, khi đi ngang qua gian nhà trống lại thấy mấy cái màn căng quen thuộc, bị hẫng đi như rơi vào khoảng trống.
Suốt mấy tiếng đồng hồ chị cứ tin một cách vô lý rằng vì chị, chỉ vì riêng có chị nên tổ máy kéo đã trở lại, và gặp được chị, anh tổ trưởng trẻ tuổi sẽ nhảy từ trên đầu máy xuống, lúng túng vì cảm động, sẽ bắt chị dừng lại để hỏi han về sức khỏe, về công tác bằng giọng nói rất ấm áp, bằng cái nhìn rất trìu mến, và tất cả cái thái độ chân thành ấy đều biểu lộ bằng suốt trong thời gian vừa qua anh ta luôn luôn nghĩ đến chị, cũng như chị luôn luôn nghĩ đến anh. Nhưng những điều tưởng tượng thơ mộng ấy đã hoàn toàn không đúng, anh ấy coi chị cũng bình thường như mọi người con gái chưa chồng khác ở tổ thanh nữ, hầu như anh ấy chẳng có lúc nào nghĩ đến một cô Thoa nào đó ở đội sản xuất số "6", may mà còn chưa quên đấy. Một cái gì tấm tức, thù ghét, đau xót cứ lan ra khiến cổ họng chị se lại, và trong lồng ngực buốt nhói.
Nhưng Doãn không hẳn hoàn toàn không nghĩ đến người con gái mà anh chào đầu tiên. Trong tiếng máy mổ đều đều và hơi khói ma-dút thơm khét, một khuôn mặt hiện lên cùng với những mẩu chuyện thú vị. Cô ta quả không được xinh, chỉ được hàm răng đều và tươi, còn khuôn mặt hơn ngắn quá, cặp mắt cũng nhỏ quá. Chỉ vì cô ta năng đến với anh, chịu khó hỏi chuyện, suốt ngày bóng dáng cô ấy cứ thấp thoáng bên cạnh như buộc chặt vào với tổ máy kéo nên anh em trong tổ thường phải nghĩ đến cô ấy nhiều hơn, tìm hiểu về cô ấy kỹ hơn. Hơn nữa về đường tình duyên cô ấy lại gặp nhiều trắc trở. Lần thứ nhất cô yêu anh y tá của Đội, có lẽ vì anh chàng tài hoa và đẹp trai. Lần thứ hai lại yêu một anh ở trung đội 3, tay bóng đá chân giầy xuất sắc của nông trường. Cả hai đều đã có vợ, có con, cô ta tuy biết vậy nhưng vẫn yêu, yêu điên cuồng, cuối cùng không những cô ấy phải chịu đau khổ mà còn làm cho cả hai anh đàn ông cũng bị buồn phiền lây. Còn lần thứ ba này, cô ấy sẽ để ý đến ai? Mấy cô hay có tính thóc mách đã đến nói nhỏ với tổ máy kéo là "con bé thèm đàn ông" ấy đã yêu thầm anh tổ trưởng của họ rồi. Nghĩ đến đấy, Doãn lại thấy mình trở lại cái cảm giác vừa khó chịu vừa êm ái như những lần trước khi thoáng đoán biết người ta đang chăng bẫy đòn anh. Những cô ấy thì không thể yêu được, không thể có cảm tình ngay được, vừa xấu người vừa xấu nết. Anh vẫn ao ước được là người yêu đầu tiên của người khác, được tận hưởng sự rung động trong trắng không một vết nhơ. Trong mọi việc khác anh có thể rộng lượng, nhưng trong tình yêu anh phải tự thú nhận là mình rất ích kỷ, tuy vậy cũng chỉ là thứ ích kỷ không bị lên án, thích hợp với quan niệm của nhiều người.
Tiếng máy vẫn thầm thì trò chuyện với đất, và Doãn vẫn tiếp tục tâm sự với riêng mình. Đến đầu bờ anh cho vòng máy sang luống mới và ngắm lại những đường cày thẳng tít tắp lẫn vào trong sương. Từ giữa những rãnh đất bở tung, nâu xốp, những sợi khói màu tím nhạt ngút ngát bay lên. Những con quạ đen thui như đã bị đốt thành than đứng run rẩy trên các mô đất, chốc chốc lại kêu lên não ruột. Đằng đông cái bàu sương rộng lớn cứ trong mãi và trở nên tím mênh mang, trong cái bóng tím mơ hồ ấy như có cả màu xanh nhạt của nền trời. Ôi, buổi sáng mùa đông ở Điện Biên sao đẹp thế, tâm hồn người ta sao dễ thơ mộng thế. Mỗi lúc được thưởng thức vẻ đẹp kỳ lạ luôn luôn biến đổi của thiên nhiên, Doãn lại thấy công việc của mình tràn đầy thi vị, cuộc đời sao mà đáng yêu, tấm lòng cởi mở như không còn biết đến những tính toán nhơ bẩn, nhỏ nhen thường ngày. Cũng do thói quen thích chú ý đến cái đẹp của chung quanh, một buổi Doãn đã khám phá ra vẻ đẹp rất đột ngột của Thoa, nhưng có lẽ chỉ có một lần ấy, đã xa xôi rồi nhưng vẫn còn in đậm nét.
Lần ấy vào buổi chiều, anh đã bừa xong một vạt đất rộng gần hai éc-ta liền rẽ máy qua khoảng ruộng gieo lạc để về khu nhà trống. Kẻng nghỉ việc từ lâu nhưng ở cuối bãi vẫn thấp thoáng còn một bóng người, một cô nào ở tổ thanh nữ, nhưng trông xa không rõ ai. Cô ta gieo hết luống cuối, quay lại gieo nốt vạt bỏ dở ở đầu bãi đằng này. Doãn chợt nhận ra gọi to:
- Cô Thoa sao về muộn thế?
Thoa nhìn anh mỉm cười:
- Em gieo gọn khoảnh này để mai làm việc khác.
- Tích cực nhỉ?
- Đâu bằng bộ đội được!
ấy, tuy xấu người, nhưng ăn nói bao giờ cũng nhẹ nhõm, dễ nghe. Trời đã xâm xẩm tối, màu đất sẫm lại mênh mông. Phía tây một vầng sáng xanh nhạt pha lẫn với màu vàng của ráng chiều viền lấy dãy núi màu tím sẫm trông rõ như một đường khắc nổi. Trên cái nền cảnh lặng lẽ và dịu dàng ấy bóng dáng Thoa là cái khối duy nhất sinh động. Không biết có phải vì có anh chàng tổ trưởng máy kéo đang chăm chú ngắm mình mà cô ta làm duyên làm dáng thêm lên không. Chiếc khăn len mỏng bịt chặt lấy tóc, một cái áo vải hoa hơi sặc sỡ bó lấy thân mình thon nhỏ thắt lại bằng sợi dây đeo giỏ đựng nhân lạc, quần lụa chấm gót, cô ấy vừa đi rất uyển chuyển vừa đưa tay ra ngang thân người vung vẩy rất nhịp nhàng, những hạt lạc đỏ tươi đầy hai lòng bàn tay lần lượt theo kẽ ngón lọt thứ tự trên rãnh đất. Máy vẫn để nổ, nhưng Doãn thì còn đang say mê theo dõi những động tác đã trở nên tinh thục như một môn nghệ thuật. Chỉ một loáng Thoa đã đi đến rãnh cuối, khi chị cởi giỏ, rũ khăn, bước lại phía Doãn hỏi: "Anh chưa về kia à?" anh mới ngượng nghịu vì thấy mình đã làm một việc dại dột, dễ sinh hiểu lầm. Từ đó mỗi lần có những ý nghĩ khó chịu bực bội về sự săn đón quá lộ liễu của Thoa, cái hình ảnh đẹp đẽ, lạ lùng của buổi chiều hôm nào lại phảng phất len đến như một hơi thở ấm áp làm tê dại mọi tức giận, lại thấy tấm lòng cởi mở, dễ rộng lượng và tha thứ.
***
Tổ máy kéo cày được hai buổi thì vấp phải một trở ngại. Chân rạ lúa nương tốt quá, vừa cao, vừa dày, lưỡi cày vướng phải gốc rạ cứ nổi lên trên đất nhảy tưng tưng, hoặc có cày được cũng chỉ đi chừng một phần ba luống rạ đã quấn chặt lấy lưỡi, lại phải cho máy giật lùi nhảy xuống gỡ. Ăn cơm được một lúc, vừa lên đèn Doãn đã tất tưởi lên nhà văn phòng của đội sản xuất. ở văn phòng chỉ có Khôi, đội phó phụ trách kế hoạch đang hội ý với Tuệ, thư ký thống kê. Doãn chưa bước qua ngưỡng cửa đã nói to:
- Chào đồng chí Khôi, tôi ở tổ máy kéo lên báo cáo đồng chí một việc cần!
Đôi mắt nhỏ của Khôi liếc lên, rồi lại nhìn ngay vào tờ giấy để trước mặt, nói hơi gắt:
- Chờ ít, đang bận!
Doãn ngồi vào ghế dài, lấy tay khẽ bấm vào đùi Tuệ:
- Có thuốc lá xin một điếu.
Tuệ vẫn không ngoảnh lại, móc túi lấy ra một điếu dúi vào tay Doãn và tiếp tục nói:
- Dao ở kho chỉ còn chừng hơn mười chiếc có thể làm được, còn thì mẻ gỉ cả, anh cho ý kiến nên giải quyết như thế nào. Đem lên tổ rèn nông trường nhờ đánh lại thì lâu lắm.Tính ra số dao phải dùng cũng trên dưới năm chục con.
Hai tay Khôi chống lên má, cặp mắt đưa đi đưa lại sắc sảo:
- Ông phải báo cáo cụ thể một chút, hơn mười chiếc là mười một, mười hai hay mười lăm chiếc, số còn lại là bao nhiêu, thống kê không nên dùng chữ: hơn, độ, áng chừng, trừu tượng bỏ mẹ. Năm nay kế hoạch là phải cụ thể đến từng gánh phân đấy...
Tuệ rõ ràng bị lúng túng:
- Anh để tôi đếm lại, nhưng số dùng được thì còn ít lắm.
Đôi ủng dưới chân Khôi cứ cọ vào nhau sào sạo, những thớ thịt trên khuôn mặt rám đen như sắt lại, khẽ rung rung:
- Có cách đấy! Nha, Vừu hình như biết làm nghề rèn thì phải...
Tuệ ngồi thẳng người, ngẫm nghĩ:
- Đồng chí Vừu làm một bễ riêng từ dạo nọ, vẫn đánh dao dùng riêng, còn Nha thì... thằng cha ấy khéo tay lắm. Có thể được.
Khôi đưa ngón tay di di lên mặt tờ giấy:
- Ông ghi tên hai cậu ấy vào đây cho tôi, chốc nữa báo cho trung đội 1 điều người tạm thời sang rèn... Rèn dao có khó quái gì. Cứ nung cho đỏ, lấy búa giọt cho chặt những thớ sắt lại, đem tôi lên, chứ có cái gì phức tạp mà không làm được.
Doãn hút đã quá nửa điếu thuốc vẫn thấy công việc của hai người còn miên man. Anh đằng hắng vài cái, ngồi dịch lại gần đèn như để Khôi biết còn có một người khác đang đợi. Khôi như không để ý, anh lúc lắc cái đầu:
- Anh đã tính khối lượng hai gian nhà kho hộ tôi chưa. Năm nay lúa nhiều lắm đấy, tính sơ ra cũng ngót nghét hai trăm tấn rồi.
Tuệ lại bị lúng túng lần nữa, công tác thống kê cuối năm bận bịu quá, anh lại mới làm, riêng mỗi việc chạy đi chạy về cân kẹo những hoa màu còn lại trong kho cũng đã đủ hết ngày. Cứ mỗi lần ngồi trước mặt đồng chí đội phó, Tuệ lại có cảm giác rằng mình không thể nào trả lời được trót lọt những câu hỏi sắc bén của đồng chí ấy. Cái ấn tượng chết tiệt này đã khiến anh trở nên rụt rè, lo sợ một cách vô lý, rồi đến chính anh cũng tự đánh giá mình là thiếu tích cực, kém tháo vát. Còn Khôi thì rõ ràng là không bằng lòng lắm cái lối làm ăn luộm thuộm của anh thống kê, được một việc, hỏng mười việc, lúc nào cũng lấn cấn, nhăn nhó, rút lại vẫn chẳng nắm được cái gì. Khôi xòe bàn tay ra trước mặt Tuệ:
- Bất cứ việc gì cũng thế, phải nắm được việc nào là chính, việc nào là phụ. Việc nào phải tự tay mình làm, tự tay kiểm soát, việc nào có thể dựa vào các tổ sản xuất được. Ví dụ việc quan trọng nhất hiện nay là anh phải cân kẹo, theo dõi số thóc đã phơi khô, quạt sạch để nhập kho cho tôi. Thứ nữa là số phân các tổ làm, ủ ở những chỗ nào, mỗi chỗ tính được bao nhiêu gánh, phải phân phối chỗ ủ đều khắp các khu đồng để sau này vận chuyển đỡ tốn công... à, còn một việc quan trọng,... nay mai tôi đi họp vắng, nếu ở nhà lạc đã bắt đầu ra hoa hết, đã có củ thì phải cho bấm ngọn ngay để rút nhựa xuống củ. Hôm qua đi kiểm tra lại bãi lạc tôi cũng phát buồn vì cách vun gốc của bộ đội nhà ta, đúng là làm chiếu lệ. Lạc ba tháng tia bao giờ cũng đâm thẳng xuống thì phải vun gốc thật cao. Bảo là phấn đấu thực hiện một éc-ta thu trên ba tấn, nhưng cứ làm ăn như vừa rồi thì thu một tấn cũng khó.
Cách nói của Khôi bao giờ cũng rành rọt, dứt khoát, tính toán đâu vào đấy, những việc phức tạp nhất cũng thành ra giản dị. Tuệ vừa nghe vừa nghĩ thầm: "Dân văn hóa cao có khác, họ giải quyết hàng núi việc vẫn ung dung, còn mình... mai phải xếp sắp lại sổ sách cho thật khoa học mới được, phải kế hoạch hóa đi một chút...". Còn Doãn cũng ngồi ngây người ra nghe, quên cả thời gian chờ đợi. Khôi rút thuốc lá hút, cái mặt xương xương bóng lên bướng bỉnh của anh quay sang Doãn:
- Nào ta làm việc, có cái gì thế?
Tuệ thu xếp sổ sách rất vui vẻ chạy sang gian bên.
Doãn bò một nửa người lên cái bàn tre, nói hấp tấp:
- Rạ tốt quá, mấy thằng máy kéo nửa cười nửa khóc đấy đồng chí ạ...
Khôi hơi cau mặt: "Thằng này ăn nói với ai cũng sống sượng, làm việc cứ như đùa".
- Đồng chí trình bày nghiêm chỉnh lại cho tôi nghe nào.
Trình bày nghiêm chỉnh là thế nào nhỉ? Doãn ngơ ngác một chút, thực ra anh vẫn quen cái lối vừa báo cáo, vừa như nói chuyện thân mật, đôi lúc vui vẻ còn kề cà thêm cả những chuyện râu ria.
- Vâng, gốc rạ nhiều quá, không bập lưỡi cày vào đất được. Thành thử cày được một luống phải nhảy xuống moi rạ quấn đến ba lượt... rồi thì dùng máy mà chậm bằng trâu kéo đấy.
Mỗi lần nói chuyện với Doãn, tự nhiên Khôi thấy trong lòng mình không được thoải mái, anh vốn có ấn tượng là mấy thằng ở tổ máy kéo đi lang thang nay đây mai đó nên không có tính kỷ luật bằng anh em ở đội sản xuất. Đấy, cứ xem như cách ăn nói của nó thì biết. Như đối với bạn chứ không phải là đối với cấp trên nữa.
- Vậy đồng chí đề nghị nên giải quyết như thế nào. Hay là tôi phải điều anh em đi cắt gốc ra, xếp lại từng bó cho phẳng mặt ruộng để dễ cày. Việc gì mà không gặp khó khăn, phải tìm cách khắc phục chứ.
Doãn như không hiểu được thái độ hơi hách dịch của Khôi, anh ta thành kiến gì với tổ máy kéo đây, cặp mắt một mí rất dài, đen nhánh của Doãn liếc sang Khôi gườm gườm:
- Thế đồng chí bảo anh em chúng tôi sợ khó khăn à?
Khôi nhìn cái đầu húi ngắn rất vuông và hai cánh mũi rộng thở mạnh mẽ của người nói chuyện với mình, thầm nghĩ: "Đúng là một thằng bướng bỉnh. Nó đặt vấn đề như là cấp trên của mình". Từ phút ấy anh mất hẳn cái bình tĩnh, khách quan trong khi giải quyết công việc, mà chỉ còn lại sự tức giận, ghen ghét, muốn tạo ra một thế bí cho đối thủ, và buộc cái đứa ngang ngược kia phải chịu phục tùng sự cứng rắn của mình.
- Vậy anh bảo tôi nên giải quyết ra sao. Lúa ở ngoài đồng chưa chuyển hết về. Quản lý, tài vụ, anh nuôi cũng phải rút ra để đập lúa. Để lúa hấp hơi mọc mậm hơn, hay là các anh chịu khó nhọc một chút lùi lại cái đầu máy, nhảy xuống móc nắm rạ rối hơn. Anh phải nhìn vào toàn bộ công việc của một đội sản xuất mà yêu cầu chứ đứng nên chỉ biết có các tổ máy kéo... Phải nắm được việc nào chính, việc nào phụ mà giải quyết.
Những bắp thịt cuộn tròn ở hai bả vai rộng của Doãn khẽ rung rung trong lượt áo xanh mỏng, một màu đỏ nhạt lan ra trên cái cổ trắng mịn và hai gò má nhẵn bóng. à, à, ra thế đấy, thế thì bốn cái máy kéo mỗi ngày chỉ cày được sáu bảy éc-ta thôi à, chậm hơn cày đất hoang ư?
- Cày chậm như thế rồi có ảnh hưởng đến thời vụ đấy. Đồng chí nên...
- Được, được, tôi lại hỏi anh, nếu anh có cày chậm độ mươi hôm thì bảy mươi éc-ta đất vẫn nằm dài ra đó chứ nó có chạy đi đâu mất mà sợ. Còn nếu lúa ngoài đồng không chuyển hết về ư, anh cũng biết đấy, tình hình địa phương không phải là đã ổn thỏa lắm đâu, ví dụ có một thằng phản động nào đó nó châm cho mình một mồi lửa là ôi thôi, đi đời nhà ma hết, nửa năm vất vả, rút lại trắng tay, rồi Nhà nước sẽ cho lũ chúng tôi đi tù vì tội ngờ nghệch, không biết bảo vệ công sức của anh em. Chẳng nhẽ lúc ấy tôi lại xưng xưng viện cớ vì tôi phải bớt một số người đi dọn rạ cho tổ máy kéo... á... à... Anh thử nghe xem có lọt tay không? Họ sẽ cho tôi là thằng ngốc, là thằng cãi liều, anh hiểu chưa? Rồi còn phải đập, phải phơi, phải quạt... Rồi lại phải cử người đi mót lúa nữa kia. Anh tưởng cái khẩu hiệu "thu thanh, gọn, tốt" là nhẹ nhàng, vui vẻ lắm đấy hẳn. Nông trường bộ các anh còn được nghỉ ngày chủ nhật, chứ dưới đội sản xuất thì phải làm tuốt, cứ chiếu luật lao động ra ngày làm tám giờ thì có mà... có mà quay lại ăn cơm nếp mốc với cá mắm thối sớm.
Rồi tự nhiên vì có nhiều lý lẽ đanh thép mà lại rất giản dị một cách bình dân, đượm chút khôi hài nữa, nên Khôi càng nói càng đỡ bực tức, cứ vui vẻ dần, giọng nói càng sôi nổi, đến nỗi Doãn cũng không nhìn anh bằng con mắt gườm gườm nữa. Khi Doãn chào anh ra về thì không khí đã êm dịu hẳn. Khôi nhìn theo bóng anh chàng tổ trưởng máy kéo lẩm bẩm một cách thú vị: "Nó bướng thế nhưng cũng còn biết ra lẽ phải, không dồn cho một trận kịch liệt thì còn là lèo nhèo... Mấy cái thằng cha máy kéo".
***
Quá trưa, Nông Ký Lâm đi họp ở bản về. Chân đi đất, mũ không sao, vành mũ đã buộc chỉ xơ ra những sợi vải, quần áo nhem nhuốc, xốc xếch, một bên túi quần phùng to không biết đựng vật gì. Đến giường nằm anh móc túi lôi ra một chai rượu Thái. Anh để chai rượu vào gậm giường cũng đã ngổn ngang rất nhiều thứ chai. Đầu giường một đống những chăn, màn, áo mưa, quần áo cũ đã thay chưa giặt, tạp chí Quân đội nhân dân, họa báo, và cả sổ sách, giấy má linh tinh. Khôi đang nằm xem báo trên giường ở góc bên kia. Sát vách căng một tấm sô giặt trắng, trên đính ảnh hai cô thiếu nữ, một cô người Trung Quốc, một cô người Liên Xô, cả hai như có điều gì vui vẻ nên cười cả. Thẳng trên đầu một cái mắc treo áo, ngoài bọc giấy báo, có lẽ là một cái áo rét hàng dạ gì đó. Gối rất trắng có dua chung quanh, trên lại phủ một cái mùi xoa màu rất nhã. Lâm bỏ mũ ra giường đến ngồi cạnh Khôi, tay anh đầy vết đất quyện với mồ hôi, từ trong quần áo thoáng bay ra một thứ mùi khen khét. Khôi nằm dịch lại phía trong, hỏi:
- Họp gì mà lâu thế?
Lâm chim chíp miệng, hai con mắt to, bàng bạc của người đã có tuổi vẫn anh ánh lên những tia sáng rất trẻ.
- Ông bố nuôi lại giữ ăn cơm, uống rượu nên về muộn. Này đồng chí Khôi ạ...
- Hử?
- Tổ máy kéo họ cày vất vả quá. Phải cho người ra dọn rạ giúp cho thôi.
Khôi bỏ báo, ngồi dậy, có vẻ khó chịu.
- Cậu Doãn lại báo cáo gì với ông đấy... Tay ấy là hay kêu ca lắm.
Đôi mắt Lâm chơm chớp, anh hơi cười, hàm răng trắng trông rất dễ thương:
- Mình đứng xem một lúc thấy cày gay quá, gốc rạ dạy cứ quấn vào lưỡi, thế thì còn làm ăn gì... đất lại rắn nữa. Đồng chí đã ra ngoài ấy chưa?
- Chưa, cậu ấy có đến xin người, nhưng mình làm gì còn người.
Khôi bắt đầu kể lại câu chuyện bực mình tối qua, và cách giải quyết rất dứt khoát của anh. Có điều qua một đêm và nửa ngày những lý lẽ của anh càng trở nên chín chắn và sắc bén, còn mấy ý kiến của Doãn càng thành ra cộc lốc và vô lý. Cuối cùng anh không quên nói thêm mấy nhận xét của riêng mình về cái tính tự do, ương bướng, hay yêu sách của tổ máy kéo. Lâm không nói thêm gì, hai bàn tay có những ngón hầu như vuông, sù sì, đan vào nhau, vặn vẹo rất bối rối, một bên mép hằn sâu xuống thành một đường nhăn dài. Anh cứ ngồi lặng lẽ như thế một lúc rồi sang giường của mình nằm duỗi thẳng chân, mắt hơi nhắm lại. Những ý nghĩ trong đầu Lâm bắt đầu mờ nhạt và lẫn lộn thì có tiếng Tám the thé ở đầu khu gia đình:
- Chào thủ trởng ạ... Tuần trước sao anh không về. Bà chị em cứ nhắc nhở mãi.
Cả Khôi lẫn Lâm cùng bật dậy một lúc:
- Chắc anh Cừ về!
Lâm chưa kịp chạy ra đã nghe tiếng nói oang oang của Cừ, chủ nhiệm chính trị nông trường:
- Lúa má đã đem về hết chưa đấy?... Trời nắng hanh thế này chỉ cốt để cho nông trường phơi thóc thôi mà!
Cừ bước vào, mặt anh đen ngòm vì hàm râu quai nón chưa cạo. Khôi nói vui một câu:
- Trời rét thế này mà anh nỡ để chị ấy nằm một mình à?
Cừ cười gượng gạo:
- Ôi chào, còn nụ cà hoa mướp đếch gì nữa, gọi nhau bằng ông bằng bà cả rồi!
Cừ ngồi xuống giường, lấy thuốc lá hút, hỏi Lâm:
- Hôm qua mình đến quân y chơi lại gặp cậu Thọ. Sao tay ấy sốt rét luôn thế nhỉ. Cẩn thận đấy, sốt rét ác tính chết người như bỡn... Thọ đi thì ai giữ kho?
Lâm nhìn sang Khôi:
- Tạm thời vẫn để đồng chí Tư tài vụ kiêm cả.
Đôi môi Khôi động đậy như muốn nói, nhưng Cừ đã hỏi trước:
- Chị Tư độ này đã đi làm được chưa? Cặp ấy cũng vất vả giống vợ chồng mình... có lẽ bố mẹ phàm ăn quá nên tranh mất cả phần con.
Lâm xua xua tay:
- Không phải đâu đồng chí ạ... bệnh này thuốc tây chữa không khỏi đây. Trên Lạng Sơn chúng tôi có thứ lá sắc uống khỏi được đấy. Ông cụ tôi ngày xưa chữa được nhiều người lắm. Sau này họ đều có con cái cả. Kỳ này về phép tôi sẽ lấy một ít đem về đây. Nhất định là khỏi.
Cừ giương đôi mắt tròn to nhìn Lâm, đôi môi anh trễ ra, như không tin lắm cái lối chữa bệnh bằng lá lẩu của những người vùng Đông Bắc, nhưng anh vẫn cứ nói:
- ừ, ừ, nếu ông lại tài giỏi thế thì vợ chồng chúng tôi sống tết chết giỗ.
Khôi ngồi xích lại, tay anh gấp đi gấp lại tờ báo, nét mặt trở nên đăm chiêu, và anh nói bằng một giọng trịnh trọng:
- Đồng chí chủ nhiệm ạ, hôm qua chúng tôi đã bàn với nhau (Lâm nghe chăm chú: bàn gì nhỉ?)... để đồng chí Tư kiêm coi kho là một điều hết sức ngờ nghệch (Cừ cũng quay lại: có vấn đề gì mà quan trọng thế?), không đúng những nguyên tắc về tài chính. Tôi lấy ví dụ, đồng bào đến đây mua lạc giống rất nhiều, chốc hai cân, chốc năm cân, cùng một đồng chí Tư mở kho lấy lạc bán, vừa viết hóa đơn thu tiền. Giả thử như đồng chí không viết hóa đơn chẳng hạn thì có ai biết không... tôi nghĩ có mà giời biết. Từ ngày nhập lạc đã cân lại bao giờ đâu mà biết thừa, thiếu, rồi nào những lạc đem biếu phái đoàn, lạc tặng các đơn vị bạn, lạc nộp lên nông trường làm giống, cả lạc lấy ra nấu thức ăn, trăm thứ, cứ nhộm nhoạm linh tinh cả, như thế thì... thì... có tham ô vài chục cân, cứ gọi cho là hàng trăm cân cũng vẫn trôi chảy như thường. Đáng lý anh giữ kho cân kẹo riêng, tài vụ tính toán tiền nong riêng, mỗi anh đều có sổ sách chi thu hẳn hoi, anh nọ kiểm soát anh kia như thế mới là đúng nguyên tắc... Tôi xin hỏi anh là... mặc dù đồng chí Tư ở trong cấp ủy nhưng có ai dám bảo đảm là cấp ủy không tham ô, nhất là khi lại không chịu một sự kiểm soát nào.
Cừ khẽ gật đầu: - Phải biết tin, nhưng cũng phải biết kiểm soát.
Lâm nghe Khôi trình bày mắt anh cứ đờ ra, lòng đen càng bạc đi.
Khôi thấy chủ nhiệm chính trị có vẻ quan tâm đồng tình với sự phát hiện có tính chất nguyên tắc của mình nên càng hồ hởi, cách nói càng rành rọt, trôi chảy. Vừa nói anh vừa lắng nghe tiếng nói của mình, thưởng thức một cách thú vị và hãnh diện những ý kiến táo bạo mà mình đã đề ra, và trong chốc lát anh tưởng như những người ngồi nói chuyện với anh đều ít thông minh hơn, kém từng trải hơn.
- Tôi không nhớ hồi kháng chiến có đồng chí cán bộ cao cấp nào nói "những thằng quản lý cứ ba năm nên đem chém đầu đi một lượt"...
Cừ hơi cười, xen vào:
- Nói hồ đồ như thế không được đâu. Trước hết phải có lòng tin...
- Vâng, câu nói ấy tuy ác một chút, nhưng thật hay. Các anh để ý đến những cuộc họp của quản lý không? Xe đạp cứ xếp thành hàng ở trước nhà, còn cuộc họp của cán bộ đại đội thì... chỉ lủng củng những chân là chân. Anh Cừ ạ, tôi trông lơ mơ thế này mà đã từng ở trong phái đoàn kiểm tra công tác hậu cần của trung đoàn đấy nhé. Chẳng là các ông ấy thấy tính tôi cũng hay sắc mắc nên kéo đi. Lần ấy đến một đại đội, ông chính trị viên cứ cam đoan với chúng tôi rằng cậu quản lý là người rất tốt, toàn đơn vị đều mến, ai tham ô chứ cậu ta thì không đời nào. Tôi không dám cãi gì, chỉ nghĩ bụng: "Đã giữ tiền mà không chấm mút có là người đời". Bắt đầu phải điều tra xem anh ấy ăn tiêu ra sao, thống kê lại, đem so sánh, lòi ra một số lỗ hổng, chất vấn, tiền anh lấy ở đâu ra, ai cho, cho bao giờ... hết nói... Tính ra đến lúc ấy anh ta đã ăn cắp của anh em đến hai mươi vạn rồi. Hôm thanh toán tài chính trước hội đồng quân nhân, mặt các ông thủ trưởng cứ đỏ như gấc... Nhưng tài nhất là cái khoản đánh cắp tiền ăn những cậu hy sinh trong chiến dịch. Thằng nào nghĩ ra cái mẹo ấy phải nói là thánh thật (Cừ nhìn đi chỗ khác, hơi rùng mình). Tiền thì lĩnh đầu tháng, nhưng nhiều anh em chỉ ăn đến mồng năm, mồng sáu thôi, còn lại vào túi quản lý cả. Đánh nhau như Điện Biên, một đại đội chết hàng trăm, rồi lại bổ sung hàng trăm, cứ nhộm nhoạm linh tinh cả, đến sổ nhân sự cũng chưa kịp ghi thì nói gì đến kiểm tra ngày giờ chết của từng người... Nhưng anh Cừ ạ, tôi cam đoan với anh rằng cậu quản lý nào đã ở với tôi thì dù có bảy mươi hai phép biến hóa cũng khó mà lọt qua con mắt của tôi được. Sơn lở từng mặt, ma bắt từng người, cũng tùy thái độ của nhau mà đối xử thôi đấy anh ạ.
Cừ hơi quay nghiêng lại, nhưng không nhìn thẳng mặt Khôi, trong người anh như vừa gợn lên một cái gì tởm lợm. Rồi anh hỏi Lâm về một chuyện khác:
- Thời gian làm việc của tổ máy kéo ở đội này được bao nhiêu lâu đấy?
Lâm nhăn nhó:
- Trạm thì quy định là trong vòng hai mươi hôm, nhưng xem chừng gay lắm đồng chí ạ, toàn gốc rạ, có lẽ phải kéo dài hơn đấy.
Khôi đã quên ngay câu chuyện vừa qua, anh bị lôi vào câu hỏi mới:
- Khó khăn ấy các đồng chí ở tổ máy kéo đã trình bày, tôi đã đề nghị anh em cố gắng khắc phục, vì ở đội nhân công thiếu quá.
Cừ vẫn nhìn chênh chếch sang Lâm:
- Nhưng khắc phục bằng cách nào?
Lâm như sững sờ, họ có bốn người ngồi cả trên bốn cái đầu máy, thì làm cách nào mà khắc phục được. Họ xin đội cho người ra giúp, nhưng đồng chí Khôi đã giải quyết khác hẳn với ý muốn của anh. Anh lắp bắp:
- Tôi... cũng chưa biết là nên khắc phục bằng cách nào?
Khôi lườm Lâm rất kín đáo, anh xen vào hấp tấp:
- Anh Cừ ạ, tôi đề nghị với các đồng chí ấy cứ cày, nếu rạ quấn nhiều quá thì cho máy lùi lại, chịu khó xuống móc rạ ra. Anh cũng biết đấy, kỳ vừa qua lúa chín rũ một loạt, trên lại không điều người về gặt giúp, nhất nhất cái gì cũng đội tự lực cả, công việc cứ mê ra, đành phải tập trung vào giải quyết những công việc chính thôi.
Cừ im lặng như không có ý kiến gì khác. Khôi thoáng mừng: "Cũng đồng ý như cách giải quyết của tôi thôi. Anh em thì đứa nào mà không muốn thêm người cho nhẹ việc".
Cừ lắc đầu, môi anh bĩu ra giống như là một nụ cười gượng gạo:
- Giải quyết thế không ổn đâu các ông ạ, việc ùn là vì mình thiếu kế hoạch (Khôi nghĩ: chỉ thiếu người chứ kế hoạch thì có thừa). Sở dĩ làm sao lúa chín rũ một loạt hàng mấy chục éc-ta, chỉ do là cày bừa chậm nên phải gieo vội, gieo một loạt. Tôi ví dụ nếu như mình tranh thủ cho cày bừa được khắp một lượt bảy mươi éc-ta nội trong tháng một này, thì chỉ đầu giêng tổ máy kéo đã có thể trở lại cày bừa được lượt nữa. Các anh cũng còn phải tính tới đất mềm, đất rắn nữa chứ, gió nắng này chậm một hôm là đất bằng đá rồi, cố cày thì gãy lưỡi không lấy tiền đâu mà đền chính phủ được, hay là gác máy đợi mưa mới cày... Đập chậm một tí thì lúa vẫn còn đấy, còn cày chậm thì ảnh hưởng đến cả vụ sau, ảnh hưởng đến cả vụ sau, ảnh hưởng đến cả các đội bạn.
Cừ đập đập hai bàn tay vào nhau, hỏi cả hai người:
- Đồng ý như vậy chứ, chỉ cần bớt ra một tổ thôi, thanh nữ cũng được, đi đốt rạ ấy mà, người Thái họ làm thế cả đấy... Các anh coi tổ máy kéo như đứa con hoang. Cứ khoán trắng là không được đâu. Anh em người ta mới tập làm cả, mình không động viên thì thôi, chứ ai lại bỏ mặc.
***
Mới chớm tối, gió thổi vào mặt đã tê buốt, trời xanh lạnh lẽo dầy đặc những vầng sao. Từ đầu nhà mùi lá sả bỗng bay lên ngây ngất, say say như mùi tóc đàn bà. Khôi định đứng dậy thắp đèn làm việc chợt thoáng thấy bóng Thoa từ phía nhà ăn đi lướt qua, thân hình tròn lẳn, mỗi bước đi các bắp thịt như nẩy lên trên đôi guốc gót cao. Anh để đèn sang một bên, gọi qua khung cửa sổ:
- Cô Thoa!
Thoa ngơ ngác rồi ngoảnh lại phía gọi:
- Ai đấy?
- Tôi đây! Nhờ cái này một tí.
Thoa ngần ngừ một chút:
- Anh Khôi phải không, em cất bát đã nhé.
Khi Thoa bước qua ngưỡng cửa buồng, in cái bóng mờ lên khung cửa, người Khôi bỗng nóng rực lên, máu như dồn cả lên mặt, một hơi lạnh chạy lướt trên sống lưng, anh nói mà cảm thấy hơi thở của mình đã mất nhịp.
- Nhờ cô đính hộ tôi mấy cái khuy áo.
Thoa ghé ngồi xuống giường. Khôi vẫn im lặng như không nhúc nhích, miệng anh khô lại, và hai thái dương mạch máu giựt mạnh. Một sự thèm khát không thể nén nổi đối với cái thân hình đầy mùi thơm của người con gái ngồi trước mặt. Chỉ cần với tay ra một chút, đầu ngón tay của anh sẽ chạm vào đôi vai căng thịt dưới lần vải mỏng, và tiếp đó sẽ là hai cánh tay rất mềm quấn chặt lấy người anh, cái mớ tóc ngây ngất lá sả sẽ dụi vào lồng ngực nở rộng, đôi môi cháy bỏng vì sung sướng sẽ gắn lên trên cái má như mọng đầy nước ngọt. Có thể thế được chăng? Được lắm chứ! Vì đó là con Thoa, một con bé rất đĩ tính, chỉ cần cái nháy mắt của người đàn ông, nhất là của anh đội phó trẻ tuổi, khỏe mạnh, chưa vợ là nó có thể ngã ngay vào lòng. Biết bao nhiêu lần nó đã nhìn anh bằng đôi mắt quyến rũ, nhiều tình ý, đôi mắt mời mọc, mà chỉ vì nghĩ tới mình là một quân nhân, một người chỉ huy nên anh phải làm ngơ. Biết bao lần nó nắm lấy tay anh như không muốn rời, ngồi sát bên anh hơi thở đã nóng rực vì thèm muốn nhưng anh cũng đã bỏ qua. Còn lần này đây... tối nay đây... có thể nào nhắm mắt trước một cơ hội thuận lợi nữa. Thằng đàn ông có phải là thánh đâu. Miễn sao công việc được êm dịu. Khi cả hai cùng đồng tình thì việc gì mà không trôi chảy. Ngồi lại gần đây, xích lại thêm một chút nữa, đã nghe thấy hơi thở của nó rồi, đã ngửi thấy mùi da thịt của nó rồi. Chao ôi, của quý, của trời cho, thằng đạo đức là thằng ngốc. Mắt anh lóa lên, tai ù đi, miệng càng khô đắng, tim đập nặng trĩu nghe rõ từng nhịp một, đầu ngón tay đã bắt đầu run bắn. Anh xô người lại, một khối thịt mềm nhũn và nóng hổi lả vào hai cánh tay, như điên dại anh vừa ghì chặt lấy, thì... một sức bật gạt anh ra, một cái tát rất mạnh làm tê cả một bên má, loáng thoáng một tiếng hét nhỏ: "Đồ khốn nạn! Tôi kêu lên bây giờ!" Khi anh nhìn lại trước mặt chỉ là cái bóng tối mênh mông, mát lạnh.
Sự thật hay là mê sảng? Việc trước mắt hay trong mộng mị? Cái gì đã xảy ra như thế? Cái gì đó vậy?
Tối hôm ấy Thoa xin nghỉ họp tổ, buông màn đi nằm sớm. Ai hỏi gì chị cũng không trả lời được, khi cầm mép chân rũ ra người chị vẫn còn run lên vì sợ hãi, một thứ hơi người nồng nặc mùi khói thuốc lá dính vào da thịt không sao bay đi được, và chị có cảm giác rằng người nào đứng cạnh chị cũng sẽ ngửi thấy mùi lạ ấy. Một cái gì tủi nhục như kim châm vào da thịt, một nỗi đau đớn dày vò, giằng xé, bỗng nhiên chị thấy mình lẻ loi, cô độc, bị hăm dọa, bị khinh rẽ.
... Chị để mẹ già ở dưới xuôi lên đây xây dựng nông trường cùng với bộ đội đã được già nửa năm rồi. Một cuộc đời lạ lùng, mới mẻ, rộn rịp bao vây lấy chị, kích thích chị từ lúc mờ sáng cho đến tối đêm... Đốt tre măng mọc vót lên với những chiếc mo nang vàng nượm, những giọt sương sớm đọng long lanh ở cọng cây đu đủ, những đốm trắng quay tròn trên cánh bày sáo nghệ, một bông hoa vông vang mướt vàng, mỏng manh, mọc chồi lên giữa bụi ké và me dại. Bất cứ một hình ảnh nào cũng đem lại một nguồn vui mênh mang, một thứ vui chẳng có duyên cớ gì, chỉ muốn được trò chuyện với mọi người, được luôn luôn cất nhắc chân tay, trong giấc ngủ cũng thấy người thổn thức, chưa kẻng đã choàng mắt dậy, nhìn mảng sáng nhạt in vào khe cửa trong lòng lại xôn xao vì một ngày mới bắt đầu với những việc làm mới, những câu chuyện mới, những khung cảnh mới. Khi chị mới đến đây anh em đều coi như một con bé: nước da đen khô, cổ ngẳng, ngực lép và chân tay queo quắt, lóng ngóng. Một nửa năm qua, khí hậu Điện Biên, nước sông Nậm Rốm, cơm gạo bộ đội, và nguồn thu mênh mông của đời sống tập thể đã thay da đổi thịt và thổi vào tâm hồn cô bé những cảm xúc, những ước mơ lạ lùng. Anh em bộ đội bắt đầu chú ý đến chị, đã có những con mắt ngắm nghía thầm kín, những lời khen ngợi đến đỏ mặt, những câu nói bóng gió xa xôi, những chuyện đùa vui sổ sàng, và cả những chuyện gán ghép. Giữa những ngi đó nổi bật lên một con người thương mến, Diễm, anh y tá của đội sản xuất. Hai người quen thân nhau từ ngày cùng đi làm hồ Huổi Phạ, chị bị cảm mấy hôm được Diễm chăm sóc rất tận tình, gần như đặc biệt. Tối nào anh cũng nói chuyện với chị đến khuya, dịu dàng như một người anh trai. Những lúc ấy chị thấy mình hoàn toàn mềm yếu, bé bỏng, chỉ muốn khóc lên để được nghe một giọng nói đầm ấm, một bàn tay vuốt ve. Chị cần có chỗ nương dựa trong lúc xa gia đình, xa mẹ, mà Diễm lại là một anh bộ đội rất tốt. Chị theo dõi, săn sóc từng bước đi, việc làm, lời nói, cho đến cái ăn mặc của người mình yêu, đến nỗi ai cũng nhận thấy sự đổi khác quá lộ liễu. Chị một lời nói thiếu trìu mến, một cái nhìn hơi bàng quan, một cách đối xử quá bình thường của Diễm cũng đủ làm chị hờn tủi, đau đớn hàng mấy ngày. Nhưng anh ấy đã có vợ và anh cũng dự định đón vợ lên Điện Biên để xây dựng cuộc sống lâu dài ở nông trường. Người yêu thứ hai của chị là Lưu, có lẽ bắt đầu bằng tình thương thì đúng hơn, vì anh ấy chẳng có gì đặc sắc, đã ba mươi tuổi, rất ít nói, nhưng thật là một người rất tốt. Người tốt thế mà lại gặp bước không may, hai vợ chồng lấy nhau đã trên mười năm, đã có con sống con chết, nay chị vợ ở nhà mê một anh góa vợ người cùng xóm, nằng nặc xin ly dị với chồng cũ. Lưu tâm sự với Thoa về cách giải quyết của mình, anh sẽ đưa vợ con lên đây, chắc chắn mọi việc sẽ ổn thỏa. Sao có con người đáng yêu đến thế. Chị dành tiền mua vải hoa, may một cái áo bông trẻ em rất đẹp, mua cả mũ, để nay mai anh đem về làm quà cho con. Chị săn sóc đến nỗi chính Lưu cũng ngượng nghịu và tìm cách lẩn tránh. Một buổi đi làm lạc chị đã nói hết nỗi lòng thầm kín của mình: "Nếu việc nhà không giải quyết xong anh cứ đưa con lên, nếu anh bằng lòng em xin nhận làm dì nó". Lưu về phép một tháng khi lên có cả vợ đi theo, anh chàng góa vợ kia đã phụ tình chị ta, lấy một cô khác còn rất trẻ. Cách ít lâu, vợ Lưu dò biết chuyện đã có lần cô Thoa ở tổ thanh nữ định quyến rũ chồng chị, định làm cho gia đình chị tan nát, chị liền tìm cớ gây chuyện đôi co với Thoa, làm ầm ĩ lên để tỏ cho mọi người biết xưa nay chị vốn chung thủy với chồng. Còn Thoa sao vụ hiểu nhầm ấy chị mấy cái vui vốn có, người trầm lặng hẳn đi, chị sống lặng lẽ và gần như cô độc. Trong tình yêu chị là người ít được may mắn, tuy vậy mỗi lần nghĩ đến yêu đương chị vẫn thấy rạo rực sung sướng, như những vệt nắng làm bừng sáng cái tuổi dậy thì, nhưng chị lại rụt rè, lo sợ, vì dấu vết hai lần tan vỡ còn in quá rõ nét. Hình ảnh Doãn, anh tổ trưởng máy kéo, tính nết thẳng thắn gần như sỗ sàng, đến với chị thật bất ngờ. Đầu tiên có lẽ do sự gán ghép đùa cợt của chung quanh. Nhưng rồi bóng dáng anh ta với lối đi nhảy nhót, cái miệng cười hóm hỉnh thoáng nhìn tưởng là châm chọc, đôi mắt hơi xếch sắc sảo, dần dà xâm chiếm toàn bộ đời sống của chị. Chị theo dõi sự biến đổi của mình với trái tim trĩu nặng lo âu. Chị bắt đầu yêu anh ta rồi chăng? Liệu tình yêu giữa hai người lần này có được trọn vẹn? Nhưng Doãn đâu có dễ gần, hình như anh ấy khinh rẻ chị, coi chị là một con người xấu xa gì đó. Anh ấy nhìn chị bằng cặp mắt gườm gườm đầy nghi ngờ, và đối xử với chị không chút ân huệ riêng, gần như nhạt nhẽo. Buổi sáng gặp lại Doãn chị khóc suốt buổi trưa, tự thề rằng sẽ cắt đứt mọi quan hệ với con người bội bạc (tuy rằng Doãn chưa hứa với chị một điều gì), chị tìm mọi nét xấu xa của anh ta để gây mối hằn t
thù, một anh bộ đội kiêu ngạo, một thằng lái máy kéo lỗ mãng, là một con người chẳng ra gì. Nhưng chao ôi, càng tìm bới ra thì những nét đáng yêu càng lộ rõ, càng thu hút, muốn thù ghét anh ta nhưng lại thấy yêu quý vô ngần, muốn cắt đứt nhưng lại tự bảo rằng không thể sống được nếu thiếu bóng dáng anh. Rút lại chỉ càng thêm yêu, càng đau khổ, và càng thèm muốn một chút cảm tình dù bé nhỏ anh ấy sẽ dành cho riêng mình.
Tuy vậy chị vẫn hy vọng, cho mãi tới tối nay cái hành động thô bỉ của anh đội phó bắt buộc chị phải ngẫm nghĩ lại bản thân mình. Có thể người ta đánh giá chị là con người thiếu đứng đắn nên mới có thái độ sỗ sàng, thiếu tôn trọng đến thế. Chị chỉ đáng để đùa cợt, trêu ghẹo, chứ không thể là người yêu, người vợ sau này. Chỉ những người đã có vợ, có con rồi mới đưa tay đón lấy chị, trò chuyện với chị và quý mến chị. Anh Doãn lại quá trẻ, tương lai còn dài rộng, biết bao cô ở tổ thanh nữ đang mơ ước đến anh ấy. Thế mà, chị lại dám dành riêng cho mình cái hạnh phúc hiếm có, lại bắt anh ấy chỉ được chú ý đến có một người, một đứa con gái xấu xí, bị cả mọi người khinh rẻ. Chị vừa rấm rứt khóc, vừa thầm thì với mình: hãy biết làm ăn chăm chỉ như mọi người, anh nào có lòng tốt muốn thương yêu, đùm bọc thì sẽ lấy anh ấy, bằng không thì ở một mình, sống với tập thể, với nông trường, với hai anh nuôi, nay mai dành dụm được ít tiền sẽ về xuôi đón u lên, có mẹ, có con... U ơi, sao đời u vất vả cơ cực thế, đời con rồi cũng giống đời u, con sẽ về đón u lên nhé... Cũng như mỗi lần gặp những uất ức riêng không thể thổ lộ cùng một người nào khác, chị lại cầu cứu đến mẹ, đến hình ảnh một người đàn bà gầy yếu, lo lắng quanh năm, để kể lể, than vãn, tâm sự, để cảm thấy mình bớt lẻ loi, và nỗi buồn được trút vợi.
***
Đêm trước tổ máy kéo làm việc cho mãi tới khuya, nhưng bốn giờ rưỡi sáng hôm sau Doãn và ba anh em trong tổ đã trở dậy phát động máy, khi đầu máy ra đến đồng thì mới vừa kẻng báo thức. Trời tờ mờ sáng, sương kéo thành mộng đè lên đám đất vừa cày, lổn nhổn những cây cỏ khô cháy và gốc rạ bị đảo nhừ. Trong mù sương tiếng quạ kêu rời rạc, nghe ảo não và xa lăng lắc. Trên đám ruộng sắp cày một vệt lửa bỗng bay vút lên, in bóng mấy người cúi lom khom. Vệt lửa lan ra rất chậm chạp, uể oải như đã bị cứng đờ vì cái giá buốt của sương muối. Doãn quấn lại miếng vải dù, bịt kín hai tai, mỉm cười: "Rét thế này mà các cô đốt rạ đi sớm nhỉ". Rồi anh lái đầu máy chạy vòng lại phía có bóng người. Nghe tiếng máy nổ lại gần, mấy bóng người đứng thẳng lên, và một cái bóng thấp thoáng tiến lại gần. Doãn nhìn ra Tám, mặt tím đen trong cái khăn len màu, mặc áo bông vải hoa, ngoài lại thắt thêm một sợi lạt trông sù ra như con ếch. Tám liêng liếng con mắt nhìn lên đầu máy, tiếng nói cứ như nổi bập bềnh trong bụi sương:
- Anh tổ trưởng trẻ tuổi ơi, sao các anh ra muộn thế, chờ sưng cả mắt lên đấy!
Cái con bé chanh chua này, chưa bao giờ nó nói được một câu đứng đắn với người khác.
- Liệu có đốt kịp cho chúng tôi cày không đấy, vài ngọn lửa lèo tèo như trò trẻ.
Tám đưa tay quệt lên mặt, miệng nói như mếu:
- Khốn rạ tốt bỏ mẹ đi đây này, đốt mãi cũng không cháy. Có giỏi xuống đây giúp một tay.
Tám nguây nguẩy quay đi còn nói trở lại:
- Cái Thoa nó đứng ở kia kìa!
Doãn vẫn mĩm cười: "Rõ khéo chuyện mấy cô ả, việc gì đến tôi đấy".
Tổ thanh nữ do Tính làm tổ trưởng có mười cô. Gọi là cô vì họ chưa có chồng, chứ kể tuổi thì non nửa đã ngót nghét ba chục, trong số đó chỉ có Thoa và Duệ là trẻ nhất. Rạ ướt quá nên đốt mãi cũng không thể cháy to, ngọn lửa cứ lèo tèo, bỏ lại phía sau một vết đen ngoằn ngoèo đứt quãng, nham nhở. Nhưng cả tổ máy kéo vẫn có cảm giác rằng đầu máy chạy như nhẹ hơn, lưỡi cày bập vào đất ngọt hơn. Mỗi lần rạ cuốn chặt lấy lưỡi, Doãn lại quay lại, hét lên rất hách dịch:
- Các cô phụ việc ơi, lại đây nhờ một tý!
Sau tiếng gọi lại thấy cái dáng nguây nguẩy của Tám, và bước đi lặng lẽ của Thoa tiến gần lại cái khung kéo.
Gần nửa buổi Thoa không hề nhìn thẳng vào Doãn một lần nào, cũng không hé môi nói một câu. Nước da cứ xanh rờn trong chiếc khăn láng đen, mắt lờ đờ mệt nhọc, và môi mím lại như sắp khóc. Chị làm vẫn nhanh nhẹn, tháo vát, đâu vào đấy, nhưng có lẽ do bản năng nhiều hơn. Doãn mấy lần nghĩ thầm: "Cô này hôm nay lạ nhỉ, lại giận dỗi với ai đây, hay nhớ nhà?".
Đầu máy của Doãn bắt đầu vòng theo sát rìu khu chưa khai hoang ngun ngút những bụi cây chó đẻ, me dại, một thứ mùi hăng hăng nồng nặc bốc lên lẫn với mùi khói ma-dút sộc vào mũi rất nôn nao. Doãn cho dừng máy lại, gọi Tính:
- Đồng chí tổ trưởng ơi, cho tôi hội ý một chút!
Tính bước lại rất chậm chạp, e hè một cái rồi mới hỏi:
- Gì hử?
- Anh có mang theo dao không thế?
- Mang làm gì?
Doãn chỉ vào đám cây sát rìa ruộng:
- Giá phát được vào một quãng cũng tốt đấy ông anh ạ!
Tính đưa con mắt lờ đờ nhìn đám lá cây chó đẻ héo đen vì sương muối, nói đủng đỉnh:
- Trước sau cũng phải phát thôi, mảnh này nằm trong chương trình khai hoang đầu năm nay đấy.
Doãn nhếch mép, môi bĩu ra:
- Thì ta cứ tranh thủ cho phát luôn bây giờ, được chút nào hay chút ấy, tôi sẽ đưa máy vào quần vài vòng cho nhừ đất đi thì ít nữa có dùng trâu cày cũng tốt chán.
- ấy việc nào vào việc ấy chứ, đi gỡ rạ cho các anh còn chưa xong đây.
Doãn nhảy phắt từ trên đầu máy xuống:
- Tôi bàn với ông anh nhé, chỉ cần độ sáu cô phục vụ cho máy kéo thôi, còn năm người ta đi phát cũng được ối đất đấy!
- Trên có phân công đâu mà làm, bôi việc ra rồi các ông ấy lại cự cho.
Đôi mắt một mí hơi xếch của Doãn nhìn Tính gườm gườm:
- Anh máy móc bỏ mẹ, thì nhiệm vụ của tôi là cày đất thuộc chứ có khai hoang đâu mà tôi lại ngửa tay xin việc. Có cái mình ngồi trên máy cày cũng tiếc đất, giá phát lùi vào ít nữa thì trông cái mảnh đất nó vuông vắn, người ngoài họ có đến tham quan cũng dễ nhìn.
Tính ngắm nghía một lát rồi lặng lẽ quay đi, nói lúng búng:
- Vài người phát thì được mấy tí, bôi việc ra...
Doãn trèo lên đầu máy cày gắt to:
- Thì cũng xin mặc kệ các anh, đã làm cái anh lính nông trường mà chỉ sợ thêm việc. Lười bỏ bố!
Trưa về ăn cơm, nghỉ được độ nửa tiếng, cả tổ lại hấp tấp ra đồng. Ngồi nghe tiếng máy nổ đều đều mắt anh nào cũng nhíu lại vì buồn ngủ. Doãn đã nhìn thấy Tính và Thoa đang hì hục phát những bụi cây chó đẻ. Có lẽ họ làm cả buổi trưa, nên khu vực lấn vào đã khá rộng, những cây chó đẻ xếp lại thành từng đống lớn. Mặt Tính đen nhẫy vì mồ hôi, thấy Doãn, Tính ngừng tay e hè một cái:
- Không ngủ một chút à?
Doãn hơi ngượng nghịu vì câu gắt vội vàng của mình sáng, anh nói đùa:
- Thế ông anh không tự ái với tôi nữa chứ?
Giọng nói của Tính vẫn chậm chạp từng tiếng một:
- Phải tranh thủ làm vài buổi trưa thôi, chứ có mấy tiếng đồng hồ mà bôi ra nhiều việc thì chẳng bõ...
- Người đâu cả, mà chỉ có một ông lão với một cô con gái?
Tính hơi cười, răng vàng khè vì ám khói thuốc lào:
- Việc tự giác, ai bắt được.
- Ngừng tay một lúc, có nước chè nóng mang ra đây.
Tính bỏ nóng xuống, đặt quay chuôi dao vào lòng nón, cởi chiếc khăn buộc ở cổ lau mặt, vừa lau vừa hừm hè, đằng hắng rõ ra một người có tuổi. Doãn cầm phích rót vào ca một ít nước chè đưa cho Tính. Tính uống một ngụm nhỏ, rút một đoạn cuống đu đủ nhét thuốc lào đánh diêm hút rồi ngửa cổ thở khói, một mảng gáy rất to đỏ ửng xếp lại trên cái cổ áo đen nhẫy mồ hôi và ghét.
- Đời các cậu thế mà sung sướng, chọn được cái nghề tối tân nên đỡ chân lấm tay bùn. Chúng mình thì thật khổ, mùa mưa bùn ngập đến gối, mùa rét thì da thịt cứ tím bầm lại một nửa ngày vì sương muối. ấy, mình đã viết thư bảo thằng Nhớn, sau này có chọn nghề thì chọn làm cái anh lái máy kéo cho nó vinh quang.
Doãn cười khanh khách, hai cánh mũi rất to cứ phập phồng:
- Nếu trừ cái vinh quang ra, bố bảo chúng tôi có vất vả không?
- Vất vả đếch gì, nếu ngồi trên đệm da còn vất vả thì chỉ trùm chăm nằm nhà là an nhàn nhất.
Doãn vẫn mủm mỉm cười, hàm răng trắng đều của anh điểm một lỗ hà nhỏ ở giữa hai cái răng cửa trông rất hóm và thông minh.
- Nếu được như cái đất đồng Nam Bộ thì khỏi nói, chỉ việc cho nổ máy rồi ngủ luôn một giấc trên ghế cũng chưa chắc đã đến đầu bờ bên kia... Còn ở đây ấy ư? Bố xem, đất thì gồ ghề rắn bằng đá, đường vòng hẹp, cứ vòng luôn, không tinh mắt nhanh tay thì cho máy lao xuống suối có ngày. úi chao, cứ tưởng cách mặt đất có một cái ghế da đã là nhàn lắm đấy... Ông anh có biết chỉ tiêu của tổ cờ đỏ là thế nào không? (Doãn nhay nháy con mắt nhìn Tính)... Không ngon ăn lắm đâu. Một ngày bắt buộc phải mười tiếng cắm lưỡi cày xuống đất. Còn lúc phát động máy, chạy trên đường, chạy không trên ruộng, chăm sóc dầu mỡ, kiểm tra sửa chữa là anh không được tính vào đấy. Tổng cộng ra thì một ngày chỉ phải làm độ chừng mười lăm, mười sáu tiếng thôi... Nói chung thì vẫn là còn nhàn...
Rồi Doãn ôm lấy vai của Tính cười rầm rĩ. Khi anh nhìn lên chợt thấy bóng Thoa đã lùi lại xa tít ở gần đầu bờ bên kia, cô ấy bỏ cả một quãng giữa không phát. Chết, từ nãy hai anh em mải vui chuyện có cô con gái rượu của Đội lại quên không mời uống ngụm nước chè nóng. Anh đứng lên vòng tay làm loa miệng, gọi to:
- Cô Thoa!... Thoa!...
Cái nón trắng vẫn nổi lên giữa những ngọn cây chó đẻ, không thấy quay lại.
Tính nói thầm thì:
- Chẳng biết có ai trêu chọc gì nó không mà rấm rứt khóc cả buổi trưa.
Doãn không trả lời, anh cứ chăm chú nhìn cái bóng nón và lưỡi dao phát kiểu Đông Bắc mũi khoằm lại như mỏ chim đưa lên đưa xuống loang loáng. Lồng ngực anh chợt nổi gai lên vì thương xót, tội nghiệp cô ấy, thật là con người tốt, có điều gì làm cho cô ấy tủi thân đến thế... Hay vì mình?... chẳng có nhẽ... Anh cư xử vẫn niềm nở như đối với mọi người. Anh cho tắt máy rồi chạy lại phía Thoa. Thoa đang cắm cúi xếp lại những thân cây đã phát thành một bó. Anh nói khẽ:
- Sao không lại uống nước?
Thoa giật mình, quay lại: anh Doãn. Chị không biết mình nên trả lời như thế nào, cứ loay hoay bó đi bó lại, mặt gáy nóng ran vì sung sướng và cả vì hờn dỗi. Rồi bỗng nhiên Doãn cũng thấy mình lúng túng, ngượng nghịu, không còn cái thoải mái, tự nhiên như mọi khi vẫn nói chuyện với Thoa. Có lẽ hôm nay lần đầu tiên chỉ có hai người đứng nói chuyện với nhau và bản thân Doãn vừa trải qua một sự xúc động mà từ ngày lớn lên chưa hề có.
- Cô đưa tôi bó giúp cho, tay chân đàn bà có khác.
Cũng là lần đầu Thoa được đứng gần Doãn nhất, và chỉ có một mình chị, không còn sợ những con mắt tò mò, xói móc, những lời nói châm chọc. Anh ấy lại đang làm cái công việc của chị, nên chị có cảm giác rằng cái thân hình chắc nịch đầy sức trẻ đang vụt đi vụt lại trước mắt kia là của riêng mình, chị có quyền được ngắm nghía cho bõ những lúc nhớ trộm, yêu thầm. Nhưng thời gian đi nhanh quá, Doãn đã bó xong, anh phủi quần áo nhìn Thoa định cười, nhưng môi cứ méo đi vì mất tự nhiên. Anh đằng hắng mấy cái rồi chôn chân tại chỗ, còn Thoa vẫn cứ nhìn thẳng vào mặt anh như bị một sức hút kỳ lạ, không còn biết xấu hổ là gì. Mãi anh mới nói được một câu, mà tự mình cũng cảm thấy là nhạt nhẽo:
- Cô xem, đàn ông chúng tôi có được việc không?
Thoa cũng mỉm cười:
- Thế mà cũng có những việc các anh phải chịu chúng em đấy.
Doãn vụt nhớ lại hôm chạy lụt vào đầu mùa thu. Những bao lạc nặng trên dưới một tạ xếp đầy ở hội trường, cả một đại đội ùa vào, cứ hai người khênh một bao mang lên kho còn ì ạch. Doãn và đồng chí Lâm đang loay hoay bê một bao lên thì Thoa đã chít cái khăn vuông láng đen bịt lấy tóc, ghé vai vào: "Các anh đưa lên vai cho em". Lâm đang cuống quýt vì tiếng nước rép đã ào ào gần đến nơi mà các bao lạc còn bề bộn, nên gắt lên: "Không phải lúc đùa!". Thoa vẫn quỳ một gối xuống nói như cũ: "Để lên vai em mau lên!". Doãn vừa buông tay ra thì Thoa đã nhấc người đứng dậy, bao lạc nằm gọn ghẽ lên trên đầu và nửa lưng, mọi người chưa kịp ngạc nhiên thì Thoa đã nhon nhón chạy ra ngoài. Từ hội trường lên nhà kho dài hơn trăm thước, cô ta cứ chạy đi chạy về, mỗi lần một bao trên vai như thế, trông xa cứ tưởng là bao tải đựng vỏ bào chứ không phải là lạc mới dỡ.
Câu chuyện trở nên dễ dàng.
- Cái đầu cô chắc phải rắn bằng người luyện nội công ấy nhỉ?
- Cũng quen cả thôi anh ạ, em người vùng Tiền Hải, con gái đứa nào cũng đội được hàng tạ trên đầu ấy chứ.
- Con gái vùng ấy chắc bướng lắm.
- Cũng tùy với từng người.
Doãn hỏi thành thật:
- Sao tối hôm qua cô không ra chỗ chúng tôi chơi, có chuyện gì buồn thế?
- ở nhà vất vả mới buồn, chứ ở nông trường với các anh vui suốt ngày có gì mà buồn.
Thoa ngừng lại, khẽ hư hứ trong cổ như khé giọng:
- Tính chúng em nó làm sao ấy, vui buồn thất thường, không gan được như các anh đâu.
Rồi giọng chị tự nhiên nhẹ bẫng đi, rung lên:
- Với lại số em nó cũng vất vả, chứ không được nhàn như các chị khác, em cũng hay nghĩ xa xôi lắm, lắm lúc tự bảo: nghĩ nhiều thì có ích gì, hại sức khỏe, ảnh hưởng đến công tác, nhưng rồi thế nào vẫn cứ phải nghĩ, nghĩ đây nghĩ đó, chẳng ra thế nào... Đời phụ nữ thế mà khổ, chẳng mấy khi được sướng.
Thoa cứ kể lung tung, chẳng ra đầu cuối gì, nhưng Doãn chắc rằng đấy là những tiếng nói thốt ra từ một tâm sự u uất, anh nghe rất lặng lẽ và luôn luôn quan sát người nói chuyện.
- Có khi lòng mình ngay thẳng, người khác lại hiểu là oeo, mình đối xử tốt với mọi người, người ta lại bảo là thiếu đứng đắn... ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê...
ở một nửa con mắt Thoa tự nhiên sáng bóng lên, óng ánh như có nước, chị cúi gằm mặt xuống, lấy lòng bàn tay dụi dụi mắt, mấy sợi tóc dính nước mắt bết chặt vào một bên má.
- Có điều gì thắc mắc sao cô không đưa ra tập thể, nhờ chị em góp ý kiến giải quyết có hơn không?
Thoa đưa mắt đỏ lừ lườm Doãn một cái, chị nói giận dữ:
- Tập thể, có phải cái gì tập thể cũng giải quyết được cả đâu... Các anh thì chẳng biết thông cảm gì với phụ nữ cả.
Rồi chị đứng dậy, cầm lấy dao ngoăn ngoắt quay đi.
***
Cừ ở lại đội sản xuất số "6" cả ngày hôm thứ hai để nghe ban chi ủy và cá tổ trưởng Đảng báo cáo về tình hình kết quả chỉnh đốn chi bộ. Ăn cơm tối xong anh đi xuống tổ máy kéo định hỏi về tình hình cày bừa, vì hôm nay họ không cày đêm. Anh em trong tổ đi chơi hết, còn lại có một mình Doãn đang hí hoáy viết thư. Cừ đứng nhìn lơ láo chung quanh, rồi đằng hắng hỏi:
- Đi đâu cả hở ông tổ trưởng?
Doãn quay ra mắt hấp háy nhìn người hỏi, khi biết là đồng chí chủ nhiệm, anh đặt bút xuống trả lời vui vẻ:
- Họ đi làm công tác phụ vận cả đồng chí ạ. Mời đồng chí vào chơi.
Cừ ngồi xuống cạnh phản, lấy bao thuốc mời Doãn một điếu. Doãn cầm điếu thuốc, nhìn Cừ mủm mỉm cười:
- Việc nước sao anh hăng hái thế, mà việc nhà lại uể oải vậy.
- Uể oải thế nào, anh thử lấy vợ đi xem có yêu vợ được bằng tôi không?
- Đã đành, nhưng chị ấy cứ xuống phàn nàn với bọn máy kéo là chung quanh họ chửa đẻ nhiều quá, mà mình thì cứ như cây cau đực.
Cái môi dưới của Cừ nhệch ra:
- à, việc ấy đâu có phải cứ tích cực mà được.
Anh nháy mắt hỏi Doãn:
- Thế còn anh, sao cứ lửng lơ như con cá vàng mãi thế. Xem chừng con bé say anh chàng tổ trưởng lắm rồi đấy.
Mặt Doãn đờ ra, hai mang tai đã nóng ran:
- Họ say mặc họ chứ, nhưng... nhưng tôi thì chưa thấy yêu cô ta.
Đôi mắt thô lố của Cừ nhìn Doãn chòng chọc:
- Chê xấu hả? Đấy, đấy, anh đếch nào mà không thích gái đẹp. Cứ nói thánh mãi đến lúc vận vào thân mới trật khấc ra.
- Không đâu, không đâu... cái xấu đẹp không quan hệ lắm, nhưng mà là cái đức kia.
Cách nói của Cừ vốn sỗ sàng, câu chuyện tình duyên đáng lý chỉ nên nói với nhau rất thầm kín, nhưng giọng anh cứ oang oang khiến người Doãn nhủn ra vì xấu hổ và lo sợ. Anh luôn luôn đưa mắt nhìn trộm ra ngoài.
- Thế nó phản đối xây dựng chủ nghĩa xã hội aà? Trây lười lắm hải? Hay là... phần tử phản cách mạng?
- Đâu đến nỗi thế, là người tốt thôi, làm ăn chăm ra phết, nhưng... tôi muốn nói là cô ta yêu nhiều người quá, tôi là người thứ ba đấy đồng chí ạ... Yêu nhau cũng đứng đắn thôi. Đầu tiên là cậu Diễm y tá, rồi đến Lưu, vợ tay Lưu đánh ghen một trận ầm ĩ cả lên.
Cừ đưa tay lên gãi gãi bộ râu rậm đen:
- Mình là con gái cũng đến phải lòng hai cái thằng cha ấy. Toàn là những tay tốt cả. Cô ấy có con mắt tinh đời đấy chứ.
- Nhưng người ta vợ con cả rồi, lại lăn vào.
- Thế mới nên chuyện, vì thế mới phải đau khổ, nhưng xem ra Thoa nó vẫn đối đãi với hai gia đình ấy rất tốt, đi lại vẫn đầm thắm, coi như anh chị nuôi. Người có thủy chung, có tình nghĩa là như thế đấy. Phải nhận rằng cô ấy là người tốt thật, chỉ phải cái ít gặp được may mắn.
- Tôi vẫn cứ nghĩ rằng một người con gái mà đã yêu đến hai ba người là thiếu trong trắng rồi.
Cừ xì một tiếng rất to, mắt trợn lên, anh đưa một ngón tay trỏ vào mặt Doãn:
- Xem cái mặt nào, thế mà họ nói với tôi rằng anh là một thanh niên rất mới, mới ở chỗ nào. Rõ là cái đồ phong kiến!
Có một điều rất lạ là mặc dù Doãn nói về cái cô Thoa (mà anh đã bắt đầu không thể dửng dưng được nữa) bằng những lời lẽ ruồng bỏ, tìm mọi cái xấu của cô ta để phơi bày ra, nhưng trong thâm tâm anh lại sợ cái lý của mình sẽ thắng. Nỗi vui sướng, lòng hy vọng của anh cứ nhóm lên dần dần từ trong những lời phản đối, từ những câu mạt sát của đồng chí chủ nhiệm đối với anh. Đồng chí ấy càng chê bai, trách móc anh, anh càng thấy nhẹ nhõm, càng thêm tin yêu và muốn tâm sự hết nỗi lòng của mình. Anh bắt đầu rụt rè kể lại buổi gặp gỡ sáng nay, kể rất tỉ mỉ đến từng câu đối đáp. Cừ nghe rất chăm chú, đến đoạn anh thắc mắc tại sao cô ấy lại ngoăn ngoắt bỏ đi trước lời khuyên rất thành thật của anh, thì Cừ cười rũ ra:
- Chao ôi... mày thật là một thằng ngốc, ngốc như con bò thiến ấy... Bao nhiêu thông minh của mày để đâu cả...
Mặt Doãn càng đỏ lên. Anh nhìn Cừ ngơ ngác, rồi khẽ cười ngượng nghịu.
- Chẳng nhẽ nó lại phải nói đến nơi là: anh ơi, em yêu anh lắm. Gái chưa chồng, họ có lòng tự tôn tự trọng của họ chứ. Người ta muốn được riêng anh an ủi, được riêng anh thông cảm và thương yêu, anh lại khuyên là nhờ... nhờ tập thể... Như chuyện tiếu lâm ấy!
Doãn nắm tay thụi vào lưng Cừ một cái, rồi bất chợt anh ôm choàng lấy người chỉ huy giàu hiểu biết, cắn vào một bên vai, mớ tóc óng mượt thơ trẻ của anh cứ dụi vào dưới cái cằm đầy râu của Cừ, anh nói như rên lên:
- Anh Cừ ơi!... khó nói quá anh ạ.
***
Đã hơn một tuần Thoa xuống làm việc dưới bộ phận nấu cơm. Suốt ngày chị bận túi bụi vào cái việc do chị bày ra: nấu nước mắm cá. Đây là lần nấu thứ ba, lần đầu tiên chẳng ai tin chị có cái tài ấy, người ta chế giễu bằng cái câu bóng gió: "mắm cô Thoa". Quản lý vội vàng có ý kiến nên ngừng lại, vì nếu nấu chẳng ra gì số tiền cá sẽ biết tính vào đâu. Thoa phải nói cứng nếu nấu hỏng sẽ tự đền. Người ta chờ đợi, nhưng khi chấm ngọn rau cải xanh vào bát nước vàng sánh như mật loãng, ai cũng khen nước mắm Điện Biên phẩm chất không thua sút nước mắm mua ở Hà Nội là mấy.
Cũng từ một tuần nay Thoa không gặp lại Doãn, thời gian gấp rút, cánh đồng lại xa, anh em máy kéo không có thời giờ về ăn cơm nữa, ngày hai bữa đưa cơm ra đồng, nhiều đêm họ mang chăn, căng bạt ngủ tại chỗ để giảm bớt số dầu mỡ đi về. Cũng có tối thu dọn xong, xách ống nước về nhà ở, Thoa thấy thấp thoáng có ánh đèn và tiếng ồn ào dưới khu nhà trống, chị bỗng rạo rực lên vì nhớ nhung, chỉ thèm được gặp lại khuôn mặt yêu quý trong chốc lát, nhưng vì trời rét ngại tắm rửa, người chị nồng nặc toàn mùi mắm cá, chưa bước đến cửa, trong nhà Tám đã kêu ầm lên: "Sao người con Thoa nặng mùi thế!". Chị nằm trong màn, nhưng vẫn hết sức lắng nghe tiếng cười, nói từ tổ máy kéo vọng lại, tưởng tượng ra giọng nói của Doãn để phân biệt, và cái buổi trưa được gặp nhau, được nói chuyện với nhau lại hiện lên với mọi vẻ thi vị của nó.
Cho đến một tối chị được tổ anh nuôi cử đi mang xôi ăn đêm cho tổ máy kéo. Chị mặc cái áo cánh bông đã hơi cũ, nhưng không cài khuy, cốt để ló ra hai cái vạt áo phin trắng bên trong, và vuốt một ít dầu thơm lên tóc. Trăng cuối tháng chưa lên, đường tối mờ mờ vẫn trắng hơi sương. Gió về đêm, lẫn với hơi thở của khoảng đất rộng bát ngát lùa vào cổ mát lạnh, nhưng người chị vẫn nóng bừng, và tiếng tim đập nghe rất nặng, đau nhói cả một bên ngực. Mấy chiếc máy kéo vẫn gầm gừ từ xa, qua vệt sáng của đèn chiếu, bụi vẩn lên như khói. Nhìn cái đèn chiếu cứ xa lăng lắc, như đâm vào chân núi, cày mãi đến đâu thế, và đến lúc nào mới nghỉ. Chị đặt rá xôi xuống vừa gọi vừa đưa tay với ra phía trước: "Các anh máy kéo ơi! Anh Doãn ơi...". Tiếng gọi của chị vang đi yếu ớt và tắt ngay trong tiếng nổ đều đều. Từ xa chiếc đèn chiếu vẫn rạch bóng đêm mệt nhọc, le lói, vất vưởng. Khoảng cách giữa chị và vệt sáng còn xa, giữa đó là bãi đất cày đen ngòm như cái vực, tưởng như đã đặt chân xuống sẽ bị cái khoảng đen nuốt lấy, và không bao giờ người ta có thể tới cái nơi muốn đến cả. Chị lại gọi, nhưng gió thổi vẫn mạnh hơn, cuối cùng chị cắp rá xôi lao xuống nhằm phía có ánh sáng chạy đến. Gió thổi tung hai vạt cánh áo bông, đánh bạt cả hơi thở, chốc chốc chị lại kêu lên: "Anh Doãn ơi, các anh máy kéo ơi!". Nghe thấy tiếng của mình vọng bên tai, chị tưởng như tiếng của người khác, cảm thấy bớt trống trải và đỡ lo sợ. Nhưng khoảng cách không xa như bóng đêm đã lừa dối. Một vệt sáng chói chiếu thẳng vào mặt chị, một tiếng kêu, tiếng của Doãn:
- Cô nào đấy hử?
Chị nhảy bổ về phía trước hét to vì sung sướng:
- Em đây, Thoa đây, có xôi nóng đây!
Đầu máy ngừng lại, một bóng người nhảy xuống.
- Cô Thoa đấy à, lại cả xôi nữa, cám ơn nhé!
Ba chiếc máy kéo (một cái bị hỏng nằm nhà) mỗi cái cày một góc, cách xa nhau khoảng hơn trăm thước. Giọng Thoa vẫn đứt quãng vì mệt và cảm động.
- Để em đi gọi các anh ấy lại.
Doãn gạt lại:
- Để tôi chạy đi cho. Chân các cô...
Doãn chạy khỏi được một lát thì đèn chiếu hai đầu máy kia tắt, và chỉ mấy phút sau đã thấy thấp thoáng ba bóng người tiến đến. Đầu máy của Doãn vẫn để nổ lấy ánh sáng ăn xôi. Họ ngồi quây xít vào nhau, suýt xoa vì sương muối bắt đầu xuống nhiều. Thoa mở những mảng lá chuối đậy trên đã mềm ỉu đi vì hơi nóng, khói xôi đỗ thơm béo phảng phất bay lên, mới ngửi cũng đủ nhỏ nước miếng. Chợt Doãn hỏi:
- Đũa bát để đâu cả?
- Ăn xôi nắm tay càng ngon các anh ạ.
Doãn cười khanh khách chìa hai bàn tay ra:
- Tay này mà bốc xôi à?
Cả sáu bàn tay cùng đưa ra một lúc đen nhẫy như nhuộm than. Thoa lúc này mới chú ý nhìn mặt họ cũng đều nhem nhuốc như vừa ở một đám cháy chui ra.
- Làm gì mà tay để bẩn thế?
Giọng Doãn sừng sộ như người cãi nhau:
- Làm gì à, tổ thanh nữ các cô đốt rạ đấy, nham nham nhở nhở, chỉ làm khổ chúng tôi. Móc rạ một buổi là thành người châu Phi hết.
- Hay em ở lại đi gỡ rạ cho các anh nhé!
- Không dám, phụ nữ các cô thức đêm không chịu được đâu, ốm ngay.
- Sao các anh chịu được?
- à, bì sao được, chúng tôi là bộ đội, bộ đội thức đêm hàng tháng cũng chưa mùi mèn gì.
Nhưng rồi cả ba vẫn bốc tay ăn, nắm xôi đen lại như bằng gạo nếp cẩm. Ăn xong hút hết một điếu thuốc, trăng đã lên cao. Hai đồng chí lái máy kéo trở lại tiếp tục cày. Chỉ còn có Thoa và Doãn. Chị thu lại những mảnh lá chuối khẽ nói: "Hãy còn nhiều xôi hay em để lại đây lúc nào đói thì ăn". Doãn không trả lời, anh hỏi lại, giọng rất nhẹ và đầy trìu mến, như chưa bao giờ anh có cái giọng ấy.
- Về ngay bây giờ à, nửa đêm rồi...
Với linh tính lạ lùng của người con gái, Thoa cảm thấy như cái phút nghiêm trọng nhất của đời mình sắp đến, và chị lo sợ. Chị cúi đầu xuống, hai tay thu vào lòng, người đã nhũn ra như không còn một sức chống cự nào, chị đợi một bàn tay đỡ lấy là chị sẽ ngã theo. Một giọng nói rất xa xăm thoáng đưa đến:
- Hôm nọ Thoa giận tôi lắm phải không?
- Em chẳng giận anh bao giờ cả.
- Thoa nói dối.
- Em nói thực đấy.
- Thế tại sao không thấy Thoa đến chơi với chúng tôi?
Để thanh minh, không ngờ chị lại buột mồm nói ra cái câu mà hai người cùng chờ đợi:
- Em không ra chơi nhưng lúc nào em cũng nghĩ đến anh.
Người Doãn nóng ran vì cảm động, như do bản năng xui khiến, một bàn tay của anh đưa ra nắm lấy cổ tay Thoa:
- Tôi cũng thế, tôi vẫn nghĩ đến Thoa.
Người Thoa chợt nhẹ bỗng đi như không có thực, chị hơi nhắm mắt lại, toàn thân như tê dại, không cảm thấy gì, không nghĩ được gì... Trên đầu họ là vầng trăng rất trắng, chung quanh là nền mây xanh, xanh trong, ngoài cùng lại viền một vòng mây vàng sẫm y như cái miệng giếng, trong ấy nước trong văn vắt, và tận đáy giếng một cái hình mặt trăng vừa tròn vừa nhỏ in bóng vào đấy thăm thẳm, rất sâu và rất mát... Một cái giếng nào đó ở vùng Tiền Hải vào những đêm có trăng như đêm nay.
***
Tổ máy kéo đã hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn quy định là ba ngày. Buổi chiều họp tổ bầu cá nhân xuất sắc, đến tối Doãn lên báo cáo tình hình với đồng chí đội trưởng. Đang nói chuyện thì Khôi bước vào, da ủng cọ vào nhau soàn soạt, Doãn đứng dậy:
- Báo cáo đồng chí Khôi, sớm mai anh em chúng tôi lên đường sang đội "5" đấy!
Mặt Khôi vẫn đen bóng, anh cười rất khắc khổ:
- Không nghỉ một hai buổi cho khỏe rồi hãy đi, các cậu đi có thể lại kỷ niệm gì ở đây không?
Lâm nhìn Doãn cười rất hồn nhiên, đôi mắt bàng bạc của anh ánh lên vì vui sướng:
- Có đấy, có đấy đồng chí Khôi ạ, với cô Thoa nhà ta đấy. Đẹp đôi lắm!
Mặt Khôi cứng ngay lại, anh à khẽ một tiếng, rồi lại hơi cười:
- Con bé ấy vớ được ông lái máy kéo trẻ tuổi, đẹp trai như thế này còn phải nói. Mình cho cánh phụ nữ dưới xuôi lên Tây Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội đều lãi to cả, một vốn bốn lời.
Lâm trùm bàn tay của mình lên tay Doãn:
- Theo chúng tôi thì cô Thoa là người rất tốt, đồng chí định xây dựng với cô ấy chúng tôi rất đồng ý. Tôi coi cô ấy như em tôi. Nhớ viết thư cho em nó luôn nhé, chủ nhật có rỗi thì về đây chơi... Đừng thắc mắc gì cả.
Khôi hơi ngượng nghịu, anh ngồi xuống cạnh Lâm hỏi sang chuyện khác:
- Trước khi các cậu đi có phải giấy tờ gì không?
Doãn chợt nhớ:
- Có chứ, tôi cũng định nói đấy, một cái giấy chứng nhận tinh thần làm việc của anh em, có bảo đảm kỹ thuật cày bừa không, có đạt được yêu cầu của đội đề ra không... chẳng hạn như thế... à, còn một cái giấy chứng nhận là khi cày năm éc-ta đất ở Pa Pháy thì bị gãy hai lưỡi cày, mất hai mươi cái bù long, và hai cái lò-xo.
Khôi khẽ hất đầu:
- Lý do?
- Lý do ấy à, lý do là vì đất các anh rắn quá.
Lâm tán thành ý kiến của Doãn:
- Đất Pa Pháy rắn thật đấy. Năm ngoái cày cũng bị gãy mất năm, sáu cái lưỡi.
Đôi mắt Khôi vẫn đưa đi đưa lại, anh cảm thấy như có cái gì không đúng nguyên tắc nếu viết giấy chứng nhận bừa bãi như vậy.
- Đáng nhẽ ra khi các anh mới về đây là phải mời chúng tôi xuống kiểm tra máy móc lại một lượt, bộ phận nào tốt, bộ phận nào hư, bộ phận nào có thể bị hỏng. Khi làm xong chúng tôi lại xuống kiểm tra lại lượt nữa thì mới nhận xét được tinh thần bảo quản máy móc của các anh... Trong thời gian ở đây, các anh là người của chúng tôi, chúng tôi có trách nhiệm về các anh (Doãn thoáng nghĩ: nhưng hôm nọ đồng chí lại muốn bỏ mặc chúng tôi tự xoay xỏa lấy). Đằng này cứ như khách trọ, đi không ai biết, về không ai hay, bây giờ lại... gãy lưỡi cày, mất bù-loong. Tôi cứ giả dụ rằng các anh đánh gãy ở đâu chứ không phải ở đây thì các anh nghĩ sao.
Máu trong người Doãn bắt đầu dồn lên mặt.
- Chúng tôi không khi nào lừa dối đồng chí đâu, có gãy thật, mất thật mới báo cáo. Lưỡi gãy vẫn còn đây, may mà tôi tinh tai nghe rắc một cái, dừng ngay máy lại nhảy xuống, chứ nếu không biết, đất rạ vùi đi thì có giời tìm. Còn bù-loong thì tổ rèn rèn được, có hơn một hào một cái nếu đây không nhận thì chúng tôi sẽ góp tiền nhau đền cũng không sao.
- Đây không phải là chuyện ai sẽ đền, mà... mà là vấn đề giám sát chặt chẽ để chống lại cái thói vô trách nhiệm trong việc bảo quản máy móc... Thôi được, chúng tôi sẽ viết giấy chứng nhận nhưng như thế là vô nguyên tắc đấy anh tổ trưởng ạ. Rút kinh nghiệm lần sau vậy... Mình đi xuống tổ thanh nữ họp một chút Lâm nhé!
Còn hai người, câu chuyện trở lại thoải mái, tự nhiên như cũ:
- Này, anh Lâm này, hôm nọ anh em ở đây lên trạm lĩnh được mười phuy dầu, tôi đã ký nhận lấy ba phuy, còn bao nhiêu anh phải cho cất vào kho cẩn thận, lần sau chúng tôi về thiếu đâu anh chịu đấy!
Lâm cười cười:
- Thế là còn lại bảy phải không, được, được.
- à, anh còn phải ký nhận là bộ đội của anh đã lấy trộm của tổ máy kéo ba cân mỡ cho vào máy quạt thóc, không ký nhận không được đâu.
Lâm trợn mắt lên:
- Cái thằng này... mặc kệ các anh, các anh có của sao không giữ, mà có lấy đi chăng nữa thì làm gì đến ba cân.
- Thôi, xí xóa cho các anh, nhưng đúng là ba cân mỡ. Bốn cái trục quay, mỡ ướt suốt ngày ngấm sũng cả chân cột lại không đến ba cân à... Còn việc nữa, chúng tôi mới quây lại thành một gian nằm cho đỡ rét, anh đừng cho ai dỡ nhé. Ra giêng về cày, lại không có chỗ nằm tử tế chúng tôi sẽ đình công cho anh biết tay.
- Được, được, chú cứ yên tâm, tôi sẽ cho làm một gian nhà riêng cho tổ máy kéo. Sang năm cơ giới hóa đến sáu mươi phần trăm kia mà.
- Thật tuyệt! Tin tưởng ở anh đấy!... Năm nay các anh được mùa lớn, có mấy thằng máy kéo cứ để chúng nó vác mồm không đi về, anh nghĩ có tội không?
- Muốn gì nào, có lạc, có ngô, có khoai, định lấy mỗi thứ mấy cân?
- Chỉ xin các anh một ít lạc, thỉnh thoảng rang chén với nhau một bữa thôi.
- Sáng mai tôi sẽ cho dỡ cái luống lạc trồng riêng cho các chú mấy cân.
Ngọn đèn để giữa, một bên là cái đầu húi ngắn của Doãn, hai cái bả vai rất rộng, bàn tay đưa lên đưa xuống, tiếng nói rầm rầm, cười ha hả. Còn một bên là mái tóc lờm xờm lấp loáng nhiều sợi bạc trắng, một nụ cười hồn nhiên, thơ trẻ, và đôi mắt cứ óng ánh lên cái vẻ trìu mến. Đồng chí đội trưởng đội sản xuất và anh tổ trưởng tổ máy kéo, một người giàu từng trải, rất dễ thông cảm và một người mới bước vào đời, háo hức, hăng hái, hai con người ấy thưởng thức rất thú vị những câu chuyện của nhau, ngắm nghía nhau cho mãi tới khi có kẻng ngủ.
***
Sáng hôm sau, tổ máy kéo chuẩn bị lên đường. Thu dọn xong bữa ăn lót dạ cho anh em, Thoa chạy về nhà ngủ đứng ở trong ngó ra chỗ sân phơi. Mấy cái đầu máy đã xếp thành một hàng dọc. Họ đang lúi húi tháo lưỡi cày cho vào một cái hòm nhỏ, và đổ số dầu còn lại vào cái bình chứa. Chiếc đệm Thái viền vải điều của Doãn cuộn lại ngất ngưởng sau lưng dựa, chiếc khăn mặt màu xanh Thoa tặng giắt vàomột bên ba-lô để cạnh chỗ ngồi. Người Thoa cứ bồn chồn, nôn nao, muốn chạy ra ngoài, nhưng lại ngại anh em chế giễu. Chị cứ quanh đi quanh lại bên cái khung cửa. Mấy anh ấy đã lên ngồi trên máy, đã bắt tay đồng chí Lâm, mấy cái đầu máy cùng gầm gừ, rồi rú lên từng đợt và tiếng nổ bắt đầu êm hẳn đi, đều đều. Cái đầu đội chiếc mũ xanh của Doãn nghiêng ngó sang hai bên như tìm kiếm ai. "Em đây kia mà! Em đứng chỗ này kia mà!" rồi Thoa chạy vụt ra. Doãn thấy Thoa, anh gật đầu hơi cười, một bàn tay đưa ra đỏ ửng vì rét. Thoa đặt bàn tay bé nhỏ run lên vì nhớ nhung trong lòng bàn tay to lớn, đầy hơi ấm.
- Em ở nhà đừng buồn... Nấu ăn cho anh em được ngon nhé. Nhớ cơm "xê 6" lắm đấy.
Thoa nghẹn ngào đến không nói được:
- Anh phải chú ý đến sức khỏe đấy... Cày trên ấy chắc đỡ vất vả hơn ở đây.
Đôi con mắt dài rất đen của Doãn óng ánh:
- Máy khỏe, lưỡi cày ngọt thì cày đất nào mà không được.
Đầu máy nhúc nhích, những chiếc bánh nhỏ lăn tròn lên vòng xích, Thoa cứ giữ lấy hai vạt áo bông chạy theo:
- Các anh nhớ viết thư cho chúng em nhé!
Mấy cái đầu máy đã đi xa, Doãn ngoái đầu lại đưa một cánh tay lên, rồi tất cả khuất vào cái bãi ngô rậm rịt. Thoa quay về đi rất chậm, vừa ngắm nghía những miếng đất in hình mắt xích bị cày bật lên trắng xốp, dấu vết còn lại của những người vừa đi, như ở đấy có hơi thở, có tiếng nói, một khuôn mặt, một nụ cười. Chị về nằm vật ra giường, nước mắt ứa ra ướt lạnh hai bên mang tai. Sao xung quanh im lặng đến thế, trống trải đến thế, những cái màn trắng, những chiếc đệm Thái lại cuốn đi rồi, còn trơ mấy cái mặt phản vàng bệch, lạnh lẽo, bụi mọt bắt đầu rơi lấm tấm. ở một góc nhà trống, chiếc đầu máy hỏng để lại nằm im lìm, bốc lên cái thứ mùi hôi khét của dầu máy đang khô lại dần dần ở các đầu trục. Nửa đêm tỉnh giấc không còn nghe thấy tiếng máy nổ êm đềm quen thuộc, tối trước khi đi ngủ nhìn qua kẽ liếp cũng không thấy ánh đèn le lói chiếu thành vệt trên hè nhà... Họ đã đi rồi! Đến mùa xuân họ mới trở lại. Những người thương mến! Các anh đi có còn nhớ đến khu đất vừa cày ở đây không, có còn nhớ đến những con người ở đây không... và anh sẽ có bao giờ quên em không, có bao giờ anh quên được cái đêm tâm tình của đôi ta ở giữa khoảnh đồng.
Đã từng có ngày vui
Nguyễn Khải
Tháng 4 năm 1945, gia đình tôi dọn nhà đến phố Đỗ Hữu Vị, một đường phố của giới viên chức Hà Nội, ở chung với bà chị ruột của mẹ tôi. Cả hai bên đều có lợi. Trả tiền nhà cho chị vừa ít hơn lại được nhờ cậy vào chị và các cháu trong cái thời buổi Nhật Tây hỗn loạn. Chị cho em thuê nhà vẫn cứ yên tâm hơn là cho người ngoài thuê, gặp năm khó khăn thêm đồng nào hay đồng ấy. Riêng tôi thì không lấy gì làm vui lắm vì phải sống trong một ngôi nhà toàn là đàn bà, vừa buồn vừa lạnh. Bà bác tôi vốn tính lạnh lùng, nghiêm khắc, hai người con gái cũng lạnh lùng giống mẹ, lại hay xét nét, riễu cợt. Họ vẫn gọi tôi là thằng ngố vì tôi nhút nhát lại hơi đần. Bác tôi có bốn người con : một trai đầu là bác sĩ đã có vợ con và ở riêng và ba cô con gái kế tiếp. Người con gái thứ hai chết năm hăm nhăm tuổi, chưa chồng, chưa có cả người yêu, hình như thế, cái chết cũng đột ngột. Một đám ma im lặng và trắng toát. Ngựa phủ vải trắng, xe tang sơn trắng, các ngù lông ở bốn góc xe cũng màu trắng và những người đi đưa đều mặc quần áo trắng. Duy có một người đàn ông đi cách xe tang chừng một quãng là mặc âu phục đen, hai tay ôm trước ngực một gói giấy báo. Lúc hạ huyệt người đó vẫn đứng ở xa, khi mọi người đã ra về người ấy mới bước lại trước mộ, mở gói giấy báo đặt lên mộ một bó hoa trắng rồi quì xuống.
Hai người em gái còn lại, một chị tên là Linh đã hăm nhăm tuổi và một chị tên là Nga, hăm hai tuổi. Các chị đều có bằng Cao đẳng tiểu học nhưng không ai chịu đi làm, cũng rất ít bạn bè, sống cô độc và lạnh lẽo. Đàn bà mà thông minh quá, biết rộng quá cũng khổ. Chẳng có người đàn ông nào trên đời khiến họ phải say mê. Bác tôi vẫn than thở với mẹ tôi : "Ai mà dám rước hai con quỉ cái ấy, rồi cũng đến làm bà cô thôi". Bà bác tôi một đời không hề mó tay vào công việc nội trợ, chỉ có đánh bạc và đi lễ. Một người đàn bà vô dụng là thế mà vẫn được chồng rất nể còn con cái thì sợ một phép. Bà đi vắng nhà như cái chợ, bà ở nhà mọi người đi lại như những cái bóng, muốn nói gì cũng chỉ dám thì thào. Mẹ tôi bảo : "Bà ấy sướng từ nhỏ tới già, con người ta đều có số cả."
2.
Đó là chuyện về trước. Từ ngày hai gia đình ở chung thì cách sinh hoạt của gia đình bác tôi đã khác xưa nhiều lắm. Tháng 6 năm 45 bác trai tôi mất. Ông là kỹ sư hóa học tốt nghiệp ở Pháp những năm đầu thế kỷ. Ông bị bệnh kiết l��ã mấy tháng, người cứ gầy rộc và rất hôi. Người con trai bác sĩ làm việc ở Hải Phòng một bữa về nhà lúc trời tối. Anh ta xách cặp thuốc lên thẳng trên gác ngồi nói chuyện với bố tới gần nửa đêm rồi lặng lẽ đi xuống bảo các em : "Để cậu nằm ngủ". Sáng sớm hôm sau anh ta nói với mẹ : "Cậu mất đêm qua rồi". Bác gái tôi ở nhà cả ngày, cả tuần vì cũng không còn tiền đánh bạc, chỉ tới bữa ăn mới xuống. Hai chị tôi cũng thay đổi cả tính nết lẫn cách sống, nói năng mềm mỏng, cư xử với xung quanh nhũn nhặn, dễ dãi. Và rất hay đi chơi, đi một buổi hoặc đi cả ngày. Mỗi lần ra phố hai bà phải mất cả giờ để chọn áo và trang điểm, rồi nhìn ngắm nhau để có dịp bình phẩm, chọc ghẹo nhau trong tiếng cười hồn nhiên, trong trẻo. Mà bác tôi cũng không bảo sao, cũng có thấy sự khác thường nhưng bà xem như không biết.
Chỉ riêng ông bác sĩ, người con trưởng của gia đình, là vẫn giữ nguyên nếp sống cũ. Anh là người sang trong họ, là ông bác sĩ đã sang, lại là con rể một ông tổng đốc càng sang, vừa có danh vừa có tiền, dẫu thời thế có đổi thay cũng không thể xê dịch được cái địa vị đã có. Tôi chỉ không ưa anh gọi mẹ tôi là bà xưng tôi, như người dưng, còn mẹ tôi lại khúm núm gọi cháu là ông, cười nói nịnh nọt. Một lần anh lên Hà Nội rẽ qua về thăm nhà, bảo hai em gái : "Các cô cho tôi ăn cơm chiều nhá !" Lập tức chị Linh nói luôn : "Thôi, mời ông ra hiệu, ở nhà chả có gì" Anh cau mặt có vẻ không bằng lòng nhưng chị Linh vẫn thản nhiên trò chuyện với mẹ tôi. Một lần khác, anh nói gì đó với các em khi họ cùng ngồi ăn bánh ngọt và uống nước trà ở cái bàn nhỏ kê giữa sân. Hai người em gái cũng vừa cười vừa nói lại điều gì đó, rồi nghe anh nói to : "Đừng có nghe mấy thằng VẹM, Nhật nó chém đứt cổ !" Chị Linh cũng to tiếng: "Có là con vật mới chịu ngồi một chỗ đợi chúng nó đến cắt cổ !" Ông anh đứng vọt lên, mặt hằm hằm xách cặp đi thẳng. Chị Nga nhìn theo anh, nói với : "Đàn ông gì mà nhát thế!" Trong bữa cơm tối bác tôi bảo : "Anh chúng mày lại ra Phòng luôn à ?" Mẹ tôi nói : "Anh em to tiếng gì với nhau rồi ông ấy bỏ đi luôn". Bác tôi cau mặt : "Bố chết còn anh, anh không bảo được em thì hóa ra nhà vô phúc à ?" Chị Linh khẽ hích tay em gái, cười gượng gạo : "Ông ấy là trí thức mà không biết gìn giữ phẩm giá, chỉ lăm le muốn làm đầy tớ thôi, không là ông chủ Tây thì là ông chủ Nhật". Bác tôi dằn đũa xuống bàn, mặt đỏ tía : "Quân ngu ! Cả nhà này không ăn cơm của thằng Tây dễ thường húp nước gạo mà sống được đến hôm nay à ?"
3.
Tới tháng 7 bác tôi đã phải gọi người bán cái sập chân quì và tủ chè, cả một lô đôn thống bình lọ nghe nói rất quí, rồi đến áo gấm và áo măng tô lông. Cuối cùng cái xe kéo kiểu Ômic, phương tiện đi lại của cả nhà, cũng bán nốt. Nhưng bữa ăn thì vẫn như xưa, một bàn thức ăn, thịt quay, cá nấu ám, canh nấm, thịt băm nhồi ốc lót lá gừng, ăn như phá núi cũng phải lở. Mẹ con tôi nghĩ thế nhưng bác tôi lại không thể quen ngồi trước một bàn thức ăn chỉ có vài ba món. Bà không ăn nhưng mắc tật ghiền nhìn một bàn thức ăn thật đầy đặn, thật sang trọng. Sau một tuần ăn chung mẹ tôi xin được ăn riêng nhưng bác tôi trừng mắt, bảo : "Dì muốn ăn riêng thì không nên ở chung với tôi. Có hai chị em cũng bày ra hai bếp không sợ thiên hạ họ chửi cho à ?" Mẹ tôi sợ mà phải theo nhưng cả ba mẹ con tôi ăn uống mất cả tự nhiên. Nhưng tối đến thì vui lắm. Cả nhà (trừ bác tôi đã lên gác sau bữa ăn) ngồi súm lại dưới ánh đèn chụp mờ tối nghe chị Linh đọc thì thào báo của Tổng bộ Việt Minh, báo nhỏ bằng cuốn vở học trò, in rất xấu nhưng chỉ có tờ báo ấy mới dám viết : thực dân Pháp, phát xít Nhật, mới dám gọi nội các Trần Trọng Kim là nội các tay sai, bù nhìn. Và một ông vua bù nhìn. Năm ấy tôi nào đã biết gì nhưng rất hãnh diện được tham dự vào một âm mưu phản loạn của người lớn, được sống trong cái không khí bí mật của người lớn, chỉ thế thôi cũng đã hơn lứa bạn cùng tuổi nhiều lắm. Rồi các chị tiếp bạn trai ở nhà, cũng là một chuyện lạ. Thoạt tiên là một chàng trai trẻ, dáng dấp như sinh viên, lúc mặc quần soọc trắng, lúc mặc bộ đũi vàng, chắc hẳn gia đình cũng vào loại giàu của đất Hà thành. Anh thường đến chơi vào buổi chiều, cả ba người trò chuyện rì rầm cho đến lúc lên đèn. Người đàn ông nói nhiều hơn còn hai người đàn bà thì ngồi nghe rất thành kính, gương mặt rạng rỡ, thơ ngây, trở nên xinh đẹp lạ thường. Mẹ tôi bảo : "Cậu ấy là bạn của đứa nào ?" Chị Linh đỏ mặt không nói gì. Chị Nga nói nhỏ: "Anh ấy là cán bộ" Rồi lại thêm một người bạn mới nữa, chắc cũng là cán bộ, có khi còn là cấp trên của người đến đầu tiên. Anh này chừng lớn tuổi nhất bọn, để râu quai nón, lại đeo kính râm, rất ít nói và cũng rất ít cười, con người có vẻ bí hiểm như nhân vật Kỳ Phát trong tiểu thuyết trinh thám của Phạm Cao Củng. Gần như mỗi ngày đều có người mới tới bàn công việc với các chị. Làm việc bí mật ở nhà này là bảo đảm. Nhà ở phố vắng, chỉ có một chủ, gia đình tôi tuy ở chung nhưng ra vào lặng lẽ không có ý tò mò việc riêng của người khác.
Đầu tháng 8 có nhiều người mua đồng nát, lông vịt, ve chai tấp nập tới gõ cửa, kỳ thực chả có mua bán gì, họ lấy từ dưới đáy thúng từng xấp vải gói kỹ trong các bọc giấy đưa cho hai chị. Vải đỏ và vàng may cờ. Nhà có hai cái máy may, các chị và tôi hì hục khiêng vào buồng trong giáp bếp và ngồi may từ sáng sớm đến nửa đêm. Rồi mẹ tôi cũng vào may giúp. Bác tôi hỏi : "Mấy cô may vá gì mà đạp máy suốt ngày thế ?" Mẹ tôi nói : "Có một hội từ thiện nhờ may quần áo vải xấu để phát chẩn" Bà lại hỏi : "Người ta có trả tiền công không ?" Chị Nga nói : "Chuyện phúc đức ai lại ngửa tay lấy tiền công". Bà cũng không hỏi gì thêm. Bà bếp phải tự đi chợ, tự nấu ăn. Bữa cơm nghèo nàn hẳn nhưng bác tôi trở nên rất dễ dãi, có gì ăn nấy, không mắng mỏ, phiền trách ai, chỉ có cái nhìn của bà cứ khinh khỉnh, thỉnh thoảng lại nhếch mép cười nhạt là làm người khác không yên tâm mà thôi.
Rồi cách mạng tới. Một Hà Nội và một Tháng Tám đỏ rực, trẻ trung và cởi mở. Không có tiếng súng nổ, không có một ai chết nên càng vui. Người bị thua thiệt nhất là nhà vua cũng còn cảm thấy vui, thấy tự hào vì được làm công dân một nước Việt Nam đã độc lập. Cách mạng thành công được vài ngày thì hai bà chị tôi được gọi đi làm. Tưởng làm gì hóa ra làm cấp dưỡng cho một cơ quan an ninh của cách mạng đóng ngay tại Sở Liêm phóng cũ. Hai người cùng gầy nhỏ, cùng yếu ớt, từ nhỏ tới lớn chưa từng làm việc nặng, chưa phải hầu hạ ai, bây giờ phải dậy từ mờ sớm để đi chợ, phải nấu cơm ngày hai bữa cho mấy chục người ăn mà vẫn khỏe khoắn, vẫn tươi cười, còn như trẻ ra, đẹp ra. Mới hay cái phép thiêng của một niềm tin, của một tình yêu có thể cải tử hồi sinh là chuyện có thật.
Nhân nói chuyện vui trong một bữa cơm có đông đủ cả nhà, mẹ tôi hỏi bác tôi :
- Bác có biết chúng nó theo Việt Minh từ ngày còn bí mật không ?
Bác tôi cười khẩy :
- Không biết mà tôi chịu để chúng nó chạy rông ngoài đường cả ngày.
Cả mọi người đều không hiểu. Bác tôi lại nói :
- Cái thằng trắng trẻo hay cười tao thấy được. Còn cái thằng để râu mang kính nếu chậm vài tháng không khéo thì bị bắt. Trông như thằng mật thám ai thấy mà chả ngờ.
Ở trên gác có cửa sổ nhìn xuống sân trong, cửa có treo rèm nên không thể biết người đứng sau rèm nhìn xuống.
4.
Cuối năm 1946 gia đình tôi rời Hà Nội về thị xã Hưng Yên là quê ngoại. Rồi kháng chiến toàn quốc. Suốt tám năm đánh Pháp tôi không được biết tin tức gì về gia đình bác tôi. Năm 55 tôi trở về Hà Nội mới tới thăm bác. Bác đã ngoài bảy mươi, sống với con dâu và các cháu. Người con trai cả là bác sĩ trong quân đội Pháp bị mìn chết trên đường 5 vào đầu năm 53. Người chết, của đi theo người, lại đông con, cả mấy mẹ con đều sống cơ cực, ăn cũng không được no, bác tôi cũng phải chịu khổ theo đến tiền mua trầu vỏ cũng không có. Tôi biếu bác ít tiền nhân lấy được tiền nhuận bút sách, bác cầm tiền bằng cả hai tay, nói nịnh nọt : "Tôi cám ơn cậu, thỉnh thoảng cậu lại thăm tôi nhá". Hai chị tôi đều đi theo kháng chiến và đã lấy chồng, đã có con, nghe nói thế, chứ chưa có chị nào đem chồng con về thăm mẹ cả. Năm sau bác tôi mất nhưng tôi đang đi công tác nên cũng không được gặp các chị. Năm 70, tôi có việc phải về huyện Yên Mỹ thuộc tỉnh Hưng Yên. Phố huyện trở lại đông vui vì Mỹ đã ngưng ném bom miền Bắc từ cuối năm 68. Tôi đang đi phất phơ nhòm ngó mấy gian hàng lụp xụp bán dép gọt bằng lốp xe thì có người gọi tên. Tôi quay phắt lại, một bà to mập, mắt má sụng sịu, bèo nhèo, tóc cắt ngắn đã bạc quá nửa đứng ở cửa hiệu chụp ảnh đang nhìn tôi chằm chằm. Một người lạ hoàn toàn nhưng tôi vẫn trả lời : "Vâng, tôi là K. đây". Bà ta bước vội lại cầm lấy tay tôi kéo luôn vào trong nhà : "Vào đây, vào đây, mày là đáng ăn đòn !" Tôi mặc quân phục, đeo quân hàm thiếu tá, cao lớn, oai vệ mà bà ta dám mày tao chắc phải là người thân thiết lắm, nhưng là ai nhỉ ? Bà ấn tôi ngồi xuống ghế, khuỳnh tay đứng trước mặt, cười cười : "Thằng ngố, không nhận ra chị, hả ?" Trời ơi, chị Linh ! Chị Linh ơi, sao chị già nhanh thế, xấu nhanh thế ! Nhưng tôi chỉ kêu trời ơi rồi nước mắt trào ra chứ không dám nói thêm. Một người đàn ông tóc húi ngắn, bạc trắng, cởi trần, mặc quần cộc lừ lừ từ gian trong bước ra. Chị nói : "Anh đấy !" Tôi đứng lên chào, ông ta khẽ gật đầu nhìn vào quân hàm tôi mang trên cổ áo, nói cộc lốc: "Thiếu tá mà trẻ quá nhỉ ?" Chị Linh nói : "Cậu này là em tôi, con bà dì ruột". Ông ngồi ngay trước mặt kéo cái bát điếu nhơ nhớp những bã thuốc, tàn đóm, nói khàn khàn : "Bây giờ chị em mới gặp nhau à ?" Hiệu ảnh gì mà chật quá, bẩn quá, ông ấy làm nghề chụp ảnh sao ? Chị nói, nghề làm ảnh là nghề kiếm cơm của chị, còn anh là y sỹ của bệnh viện huyện đã nghỉ hưu. Tôi hỏi :
- Còn anh gì...
Anh gì tôi cũng không được biết tên, cũng chưa lần nào tôi hỏi tên, biết anh lúc đang còn là bí mật, cách mạng thành công rồi anh không hay đến nhà vì họ đã gặp nhau hàng ngày ở cơ quan nên càng không muốn hỏi. Anh gì nhỉ ? Chị cười rất buồn :
- Cậu muốn hỏi anh Hạnh phải không ? Anh ấy là người chồng trước của chị. Anh chị đã có với nhau được một đứa con gái thì anh mất vì bệnh sốt rét ác tính ở Việt Bắc. Năm 51 chị mới làm bạn với anh Tùng đây, lại có thêm hai cháu nữa. Chả bao giờ chị quên được những ngày ở phố Đỗ Hữu Vị, đẹp quá, vui quá, K. nhỉ ?
Tôi chả nói được gì cứ ngồi ngẩn ra mà nhìn bà chị vừa tìm lại được, lòng dạ nôn nao vì những đổi thay. Chị nói không được tự nhiên lắm :
- Cũng trưa rồi, cậu ở đây ăn cơm với anh chị nhé !
Tôi chưa kịp từ chối thì ông chồng đã nói luôn :
- Cậu cứ ăn ở trong ủy ban huyện rồi ra đây chơi với anh chị. Nhà có hai vợ chồng ăn uống qua quít cho nó xong bữa, mời khách thế nào được.
Trưa ngày hôm sau tôi ra chào anh chị về Hà Nội. Chị Linh dặn, có dịp lên Tuyên Quang thì rẽ vào thăm vợ chồng chị Nga. Ông chồng cũng là người tôi có biết, là cái anh chàng mang kính để râu, bí hiểm như một nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám ấy. Anh ta là liên lạc viên của nhóm, là dân mới nên thích khoe cái bộ dạng "hoạt động bí mật" của mình. May mà cách mạng thành công sớm ! Tôi hỏi địa chỉ chị Nga thì bà vợ quay lại hỏi ông chồng, ông chồng chạy đi lục tìm một lúc rồi quay ra gắt vợ, đã lâu không ai gửi thư cho ai nên cũng quên mất cả địa chỉ.
Tôi buồn bã xách cặp ra bến xe Yên Mỹ không dám ngoái đầu nhìn lại một lần nào. ờ, mà cũng chẳng nên buồn bực làm gì về sự tầm thường của một đời người, nó vẫn là thế, mãi mãi là thế. Có điều, ai ai cũng có những năm tháng đã sống cho một niềm tin, cho một tình yêu, cho những mộng tưởng có nhiều phần hư ảo. Những giấc mộng đẹp, những cách sống đẹp, những mặt người tuyệt đẹp thời nào cũng có xuất hiện nối tiếp nhau cho tới vĩnh viễn.
Tháng 8 năm 1992
Cái thời lãng mạn
Nguyễn Khải
Tôi về xã Đồng Tiến là do sự rủ rê của một người bạn. Tức là anh Biền. Ngày trước Biền là trưởng ban hành chính của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ra quân năm 1958, năm ấy anh mới hai mươi bốn tuổi. Anh trở về làng phải vật lộn với miếng ăn mất vài năm, năm 1961 được bầu vào đảng ủy xã, năm 1962 làm chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp toàn xã và là người có học vấn cao nhất trong số cán bộ xã thời bấy giờ.
Các mối quan hệ giữa tôi với anh, giữa tôi với ban thường vụ đảng ủy xã, với gia đình này gia đình kia trong ít ngày "thâm nhập thực tế?" đã được tôi canh cải chút ít để đưa vào một truyện vừa. Là do cái tài mình kém, cái khả năng tưởng tượng khô cằn, cứ phải bám dựa vào một hình mẫu nhất định nên mới sinh ra lắm chuyện rắc rối. Rắc rối ngay với mấy người lãnh đạo của xã nên tôi chỉ còn một cách là im lặng, vì anh em đang giận mình, có thanh minh gì cũng khó lọt vào tai đương sự. Năm tháng qua đi, nhiều việc lớn ập đến, cái giận của ngày nào, cũng đã nguôi ngoai dần, có thể gặp mặt nhau để bình tĩnh nói lại về mọi sự cho hiểu nhau hơn. Nhưng vẫn chưa có cơ hội trở lại. Mãi tới hăm bốn năm sau. Một khoảng thời gian đủ dài để gói trọn một cuộc chiến tranh, nhiều đời người, nhiều buồn vui và bao nhiêu là thay đổi trong các mối quan hệ. Như đã sang hẳn một kiếp khác. Giờ phút đầu tiên đặt chân lên quê hương của một tác phẩm tôi đã nghĩ đúng như thế. Ngày mới đến xã lần đầu tôi đi xe lửa tuyến đường Hà Nội - Yên Bái, tới ga Tiên Kiên bốc xe đạp xuống, rồi cứ thế đạp, xuống dốc, lên dốc lại xuống dốc, trời rất nắng, hai bên là đồi, đồi trọc nhiều hơn nên càng nắng. Lại phải tìm xã, đạp vượt lên cả ba bốn cây lại đạp vèo vèo lộn lại, mà không thấy mệt, đạp xe cả ngày cũng chưa thấy gì là mệt. Còn bây giờ, thôi, chẳng nên nói một chút gì về cái bây giờ của mình vì nó không được vui. Sức khỏe không vui, cuộc sống cũng chưa vui, đọc lại những gì mình đã viết trong bấy nhiêu năm lại càng không được vui cho lắm.
Lần này tôi về xã Đồng Tiến bằng xe hơi, tất nhiên là đi nhờ xe của tỉnh, nhưng một người viết mà đi xe hơi xuống xã vẫn cứ buồn cười thế nào. Xe chạy thẳng vào ủy ban xã, xuống xe còn hỏi: "Bao giờ thì đến Đồng Tiến?". Dọc đường đến xã tôi không nhận ra một chút gì quen thuộc. Mới lạ hết, kể cả khu nhà máy phân lân. Vì một nhà máy đang hoạt động rất khác với một công trường ngổn ngang xộc xệch những đất đá, những lớp rào, những cần cẩu. Mấy người tôi gặp đầu tiên là bí thư đảng ủy xã và chủ nhiệm hợp tác xã. Người ba mươi tuổi, người ba mươi lăm tuổi, một người vốn là cán bộ chăn nuôi trên huyện, một người là kỹ sư nông nghiệp, nhưng trước đó anh đã là bộ đội ở chiến trường. Cũng mới cả. Cũng không thể quen biết. Hăm bốn năm trước họ là những ai nhỉ? Là một lũ trẻ con làm sao mình có thể biết! Tôi không được biết anh em, nhưng anh em thì có biết tôi. Bí thư đảng ủy xã là con rể ông Tuy Kiền mà. Oan gia lại đối đầu, tôi cười với mình nghĩ thế.
- Ông già năm nay đã tám chục chưa? - Tôi hỏi.
- Kém một tuổi tròn tám mươi, nhưng ông bủ tôi còn khỏe. Năm nọ ốm cả tháng đã tưởng chết.
- Ông già còn giận tôi không?
Bí thư xã nhìn tôi bằng cặp mắt rất dài, gương mặt dài, miệng rộng và tươi.
- Hồi xưa thì có giận nhưng gần đây ông bủ lại hay nhắc đã lâu không thấy anh về chơi.
Tôi nói đùa đùa:
- Tôi với anh coi như đã có quen biết nhau từ trước, từ ngày anh về làm rể ông bủ Kiền. Còn ông chủ nhiệm bây giờ có dính líu gì đến ông chủ nhiệm ngày xưa không?
Chủ nhiệm hợp tác xã gầy, cao, da mặt tái sạm, mười hai năm sau chiến tranh vẫn chưa dứt hẳn cơn sốt rét.
- Có chứ, tôi là em rể cái ông chủ nhiệm anh viết trong sách ấy.
Làng xã của mình là thế. Họ hàng rồi mới đến làng nước. Chỉ trỏ vào mặt nhau nói là tôi là ông, là anh này là thằng nọ, rồi trời xui đất khiến thế nào lại là con rể, là cháu rể, là em rể nhà người ta, nghĩ lại mới ngượng. Các cuộc đấu tranh thì qua đi, còn họ hàng làng xã vẫn nguyên đấy, nên làm gì nói gì cũng phải nghĩ lui nghĩ tới chứ không thể vô tư, xổng xểnh như các nơi chạ người. Cơ quan, xí nghiệp là nơi chạ người. Nơi chạ người nói gì cũng được. Không làm ở đây thì làm ở kia, đâu có buộc được mình cả đời.
Lại một ông nào nữa ria mép râu cằm đen đúa một nửa mặt, lững thững từ sân bước lên hè, từ hè vào phòng tiếp khách, không chào hỏi một ai cả, đứng ngay trước mặt tôi, hỏi sõng sượt:
- Thử xem còn nhớ ra nhau không nào?
Là người quen à? Ai thế nhỉ? Vẫn lạ lắm.
Người kia vẫn tiếp tục thách thức:
- Quên hả? Ông quên tôi thật hả?
Nói rồi há mồm cười. Tôi đứng vụt lên, kêu to:
- Ninh em Khang phải không?
Nin bước vòng qua mép bàn, nắm chặt lấy hai cánh tay tôi lay nhè nhẹ, cái cười như chợt cứng lại vì xúc động.
- Đi lâu thế, đã tưởng không bao giờ trở lại nữa. Năm nay anh bao nhiêu tuổi rồi?
Tôi cười gượng gạo, buồn rầu:
- Đừng hỏi tuổi tôi, còn em, để im mình tính, năm ấy là mười bảy, năm nay bốn mươi mốt phải không?
- Thằng con lớn của tôi năm nay đã mười bảy.
Ninh ngồi kề sát tôi. Tôi cũng tì khuỷu tay lên cánh tay hắn. Hắn cứ nhìn tôi mủm mỉm cười. Râu ria gì mà khiếp. Chốc chốc hắn lại nói nhỏ: "Chóng thế! Chóng thế!" Tôi cũng nói: "Chóng thế! Chóng thế!". Từ lúc này tất cả đối với tôi đã hóa ra quen thuộc, thân thiết. Vì có Ninh ngồi cạnh tôi. Bí thư xã hỏi tôi sẽ làm việc với xã vào buổi nào còn "bố trí thời gian". Làm việc à? Làm việc gì nhỉ? Tôi không có ý định làm việc mà chỉ nhằm trong vài ngày ngắn ngủi tới thăm lại bà con và bạn bè quen thuộc. Tôi trả lời thế nhưng xem chừng cả hai người lãnh đạo của xã đều không muốn tin. Làm sao mà tin ngay được sự vô tư đó, vì tôi đã từng gây rắc rối cho xã một lần rồi. Họ lại hỏi tôi sẽ ăn ở đâu, nghỉ ở đâu. Ninh trả lời liền là tôi sẽ ăn nghỉ tại nhà hắn. Chủ nhiệm nói chúng tôi có nhà tiếp khách, có bếp ăn tập thể, ăn nghỉ tại đó rất tiện. "Chúng tôi sẽ cử người đến làm việc với anh, theo yêu cầu của anh". - "Thì đã bảo tôi không có ý định làm việc. Tôi đi chơi mà". Hai người lãnh đạo lại nhìn nhau. Bí thư xã nói trước: "Hiện nay ở xã đang có mấy chuyện phức tạp...". Chủ nhiệm nói chữa: "Gọi là phức tạp nhưng thật ra cũng không có gì..." Tôi nói: "Trước khi về tỉnh, thể nào tôi cũng xin được gặp các anh một buổi". Hai người lãnh đạo lại nhìn nhau và đồng ý. Ninh ngồi cạnh tôi không nói gì thêm, chỉ mủm mỉm cười. Tại sao hắn lại cười?
Ninh đứng ở sân ủy ban, hỏi tôi: "Anh còn nhớ chỗ này là chỗ nào không?". Một dãy nhà rất dài khoảng mươi gian nhưng chỉ có hai gian mở cửa để làm việc và tiếp khách, còn các gian khác đều khóa ngoài, một dãy nhà ngang cũng khóa. Và cái sân đến là rộng, là sân phơi ngày trước thì phải, lát gạch hẳn hoi nhưng cỏ mọc giữa các vuông gạch đã cao gần đến bụng chân và rất nhiều thanh sắt để ngổn ngang trong đám cỏ. Là nơi nào nhỉ? Cái khu vực nhộn nhịp, vui vẻ của hai chục năm về trước, có phòng truyền thanh của Hiềm, có cái giếng rất trong mỗi tối tôi đến tắm, một lối đi thật đẹp bao ngoài với hàng dừa che rợp một vùng ao, là ở xóm nào nhỉ? Là xóm Đông Chấn, Bái Tỉnh hay Bình Chính?
- Là nó đấy, sân phơi đấy, chỗ anh vừa ngồi là phòng truyền thanh của ông Hiềm đấy.
Tôi bước lướt lên gần như chạy, rẽ đám cỏ đi ngang qua cái sân mênh mông, rồi từ bậc thềm của dãy nhà ngang hoang vắng nhìn ngơ ngác xung quanh, lại cúi đầu đi dọc cái hành lang hôi mốc, tới tận góc sân đầu kia bần thần nhìn ngược lại. Là nó thật sao? Đã xa xôi đến thế ư? Đã hoang phế đến thế này ư?
2.
Tôi vẫn cắm cúi đi trước, đi rất nhanh, như người đã thuộc đường, Ninh phải rảo chân mới theo kịp.
- Không vào nhà bủ Kiền hả? - Ninh hỏi sau lưng tôi.
- Không!
- Đến nhà ông cả tôi chơi một lát. Ông ấy vẫn nhắc anh.
- Thôi, để khi khác.
Một tiếng cười ở phía sau:
- Đến cổng nhà người ta rồi, còn thôi thôi cái gì.
Đúng là quên thật, quên hoàn toàn. Cứ nghĩ cái cổng nhà anh Phúc có hai cây duối hai bên, có những bậc đá đặt xô lệch dễ trượt ngã. Hóa không phải, cảnh trong truyện tôi viết thế, lâu dần lấy cảnh hư thay cho cảnh thật. Nhà không có cổng, không có bậc đá, mảnh sân rất hẹp, nhà ngang vẫn như cũ, nhưng nhà trên hình như có xây lại. Tôi nhận ra ngay vợ anh Phúc, những người đàn bà nhỏ nhắn thường ít thay đổi, nước da vẫn mịn, răng vẫn đen, tóc cũng còn đen.
- Chắc là chị quên tôi rồi? - Tôi hỏi.
Chị nhìn tôi chăm chú:
- Nom mặt thì quen lắm nhưng không nhớ tên.
- Thằng Đa nhà chị năm nay nó hăm mấy?
- Nó sinh năm ta thắng Điện Biên, phải băm mấy chứ. Ông biết nó à?
- Năm tôi đến đây bằng tuổi nó bây giờ. Ba mươi ba phải không?
Thế là chị kêu rộn lên:
- Ông Khải! Nhớ rồi! Dạo trước gầy mà xanh, sao bây giờ to béo thế. Ông Phúc ơi, ông Khải về chơi!
Có tiếng người từ trên nhà hỏi xuống, giọng anh Phúc:
- Ông Khải nào?
Tôi bước lên hè cười cợt:
- Sao bảo lâu lâu vẫn nhắc lại còn hỏi Khải nào.
- Thôi chết! Ông về chơi thật đấy à?
Anh Phúc ngồi bó gối trên giường, mà gầy quá, da mặt trắng bủng, cánh tay bàn tay vừa gầy vừa trắng. Còn mắt chỉ có hai hốc mắt sâu hoắm thôi.
- Tôi hỏng mắt mấy năm nay rồi. Giàu hai con mắt...
- Chắc là ông để muộn quá.
- Bác sĩ trong nhà, muộn thế nào. Thằng Đa đưa tôi lên bệnh viện mắt Hà Nội, chạy chữa một tháng chỉ cứu được một mắt, hai năm sau múc nốt con mắt còn lại. Con người ta tránh được việc chứ không tránh được nghiệp. Với lại, mọi sự đối với tôi tạm gọi cũng là xong.
Là xong chứ, xong đẹp đẽ, chu tất, không thể nói là tạm được. Lần đầu tiên đến cái nhà này, cách đây đã hai chục năm, tôi nghĩ về anh có khác. Năm ấy anh chỉ hơn tôi khoảng vài tuổi mà đã rất chững chạc, chững chạc và đắn đo và thăm dò. Như lấy làm khó hiểu và có phần nào hãi sợ tất cả những gì đang diễn ra xung quanh anh. Gia đình anh vào hợp tác xã nông nghiệp ngay từ đợt đầu, hai đứa em thứ ba và thứ tư lần lượt đi bộ đội (người em thứ hai đi bộ đội từ năm chống Pháp), anh ở trong tổ nuôi cá giống vốn là nghề cũ của làng. Ba đứa em nhỏ ngoài giờ học thì làm ruộng, làm gạch, chăn trâu lấy điểm. Làm ruộng có vụ, những tháng rảnh rỗi vợ anh lại chạy chợ, gặp gì buôn nấy, còn anh vẫn có nghề may, may lối cũ cũng được mà lối mới cũng được. Là một gia đình rất nền nếp, có gia phong, dầu bố mẹ chết sớm, từ năm anh Phúc mới mười bảy tuổi. Nhưng anh luôn luôn giữ một khoảng cách nhất định với mọi cuộc vận động của xã. Cũng tham gia như mọi người nhưng không gắn bó. Là nghĩa vụ chứ không là niềm vui. Tin có ít mà ngờ thì nhiều. Anh cùng một trà tuổi với tôi, là người lao động, người kháng chiến mà cách nhìn nhận thế sự giữa chúng tôi lại còn nhiều khác biệt. Ngày ấy ở xã có chuyện bí thư chi bộ gả chồng cho con gái theo kiểu bán, giá tiền là từng ấy, thuận mua thì đem nhau đi, bất kể cái đứa chồng tiền là thằng nào. Tất cả mọi người đều lấy làm lạ, riêng anh Phúc thì bình luận thản nhiên: "Cái họ nhà ấy tôi biết, xưa nay vẫn coi đồng tiền lớn hơn mả tổ, có lạ là người như thế lại được bầu làm bí thư chi bộ".
Tôi rất mê anh Biền là chủ nhiệm hợp tác xã lúc bấy giờ. Là người có quyền mà không tham là hiếm lắm. Anh Phúc cũng đồng ý như thế nhưng lại bảo: "Lúc này cậu ta đang tham cái lớn hơn nên biết bỏ qua những cái nhỏ". Tôi hỏi: "Cái lớn hơn là cái gì?" Vẫn cái giọng dửng dưng: "Trẻ hám danh, già hám lợi, cái lý là như thế!". "Thế còn ông Tuy Kiền?" Anh Phúc mủm mỉm cười: "Ông này thì hám lợi đứt đuôi rồi, nhưng có đáng là bao, ai chả thế. Có tức là tức cái đứa không làm gì mà lại ăn rất bẫm kia". Khi tôi hỏi anh vì sao nhiều gia đình không dốc hết sức mình vào sản xuất nông nghiệp, lại chạy ngang chạy dọc như một thứ tiểu thương ở nông thôn thì anh đáp: "Không làm thế có mà đói to, anh cứ nhìn mấy thằng em tôi ngồi ăn thì biết". Tôi nói: "Dốc hết sức vào cây lúa tự khắc sẽ đủ ăn. Người trồng lúa không đủ ăn còn ai đủ". Lại cười, cái cười lấp lửng đến là nhiều ý nghĩa: "Cái lý chung là như thế, nhưng trong thực tế chưa hẳn đã là thế" - "Vậy cái thực tế ấy là thế nào?". Anh đắn đo phải một lúc mới trả lời, là do đã tin tôi lắm, đã thân với tôi lắm nên mới trả lời, còn ngồi chỗ khác với người khác dễ gì dám nói. Mà nói làm gì, nói xuôi thì không thể, nói ngược chỉ hại đến thân thôi. Đại để, theo ý anh Phúc, nơi nào ruộng đất có ít, người phải nuôi lại nhiều thì nên để nông dân tự lo lấy miếng ăn của họ. Một nhà người, già trẻ lớn bé, xúm quanh một mảnh ruộng, bóp từng hòn đất, nhổ từ cọng cỏ, mài đến nhẵn bóng mọi góc bờ làm gì mà không đủ ăn. Có mấy thước vườn còn nuôi sống được người huống hồ những mấy sào ruộng! Đất đã ít lại tập thể, lại họp hành, lại đấu tranh, rồi biểu đồ này thống kê nọ, rồi tính rồi toán, cứ rối như canh hẹ, rút lại có cái cốt tử là miếng ruộng thì để nó đứng trơ một mình như con côi con ghẻ. Anh nói: "Cái của ngọc thực vốn bện hơi người, mà phải là hơi người quen chứ không nên là hơi người lạ, mới ra hoa ra quả được. Anh cứ ngẫm mà xem...".
Năm ấy, tôi biết mấy ông xã không thích tôi đi lại quá nhiều với gia đình ông Phúc. Có thể vì nhà ấy đông anh em quá, họ hàng thân sơ của một chi cũng đã chiếm đến góc làng. Lại cũng không phải là những người ngu hoặc quá hiền, việc gì cũng biết, chuyện gì cũng tường, không nói thì thôi, đã nói rất khó bắt bẻ. Lại cũng có thể anh em nhà họ là gia đình kháng chiến, thực hiện các chính sách rất nghiêm chỉnh, nhất là chính sách nghĩa vụ quân sự, đời cha đời ông không làm điều gì phi nhân thất đức, nên họ có quyền chỉ trích, có quyền phản đối, có quyền phát đơn kiện tụng nếu họ muốn mà không một ai dám ngăn trở hoặc đe nẹt. Nên mấy ông làm việc ở xã mới ngại, mới ghét, không muốn một anh nhà văn nhà báo lui tới chơi bời với anh em họ, sợ sinh biến.
Tôi thích lai vãng tới gia đình này chỉ vì một lý do rất đơn giản: Tôi đang mê say người em thứ tư của anh Phúc mới ở bộ đội về, tên là Khang, sẽ là một mẫu người lý tưởng của tôi trong một truyện nào đó, sắp tới. Đã tính thế. Thêm nữa, đến với anh em họ rất vui, những đàn ông là đàn ông, ra vào nguềnh ngoàng, ngồi đâu cũng có người, đứng đâu cũng gặp người, toàn là người thích nói vui nên mình cũng vui lây. Chỉ nói vui thôi chứ không nói xấu một ai, châm chọc một ai, hoặc bàn luận việc này việc nọ của xã mà họ không bằng lòng. Tôi biết là anh em họ không bằng lòng nhiều chuyện nhưng họ chỉ nói nhỏ với nhau thôi, chắc vậy, chứ không để lọt vào tai người ngoài. Chẳng phải vì sợ mà chỉ vì họ không thích thế.
3.
Mấy chục năm sau trở lại, nhà rộng hơn xưa nhiều, mấy đứa em đã có những cơ ngơi riêng, nhưng nhà vẫn chật, vẫn rất là lắm người vì một dãy con trai đã trưởng thành. Rồi hai đứa đi bộ đội mới về. Đứa làm nhà máy đã ở riêng nhưng vợ chồng nó vẫn bế con sang gửi ông bà và xin ăn một bữa cơm trưa. Vẫn là một gia đình rất vui, toàn nói những chuyện vui. Chả biết ông chủ có được vui không, xem chừng ông bằng lòng với số phận, mà đã bằng lòng là lại tìm ra những cái cớ để vui. Nhìn anh Phúc đi đôi guốc mộc cao, lần theo vách nhà bước xuống hiên, rồi từ hiên víu lấy cái má cột thả dò dẫm từng chân xuống mà sợ. Con cái thì ngồi cả đống, chả thấy có đứa nào chạy ra dắt đỡ. Tôi bảo thằng con thứ hai làm ở nhà máy phân lân: "Xem bố mày đi đâu kia!" Nó cười: "Đừng có mó máy vào người ông ấy mà nghe chửi. Ông không thích có người dắt". Tôi nói: "Lỡ ngã thì chết". Nó vẫn cười: "Có mình ngã chứ bố cháu làm sao mà ngã". Mù mà vẫn sạch, chỉ có rửa mặt với chân tay trước lúc ăn cũng phải kỳ cọ cả giờ. Gia đình và tôi ăn cơm ở bàn, còn ông chủ xin phép được ăn riêng, một bát cơm đã có sẵn thức ăn, một đôi đũa bày trên cái khay nhỏ do bà vợ bưng lên để bên cạnh. Ông chủ ngồi co chân một góc giường, bát cơm đặt hờ trên gối, cúi đầu và thong thả từng miếng nhỏ, cái đầu như rất nhẹ, cả thân người vừa bé vừa nhẹ, dầu đã cạn rồi, chỉ còn cháy bằng cái tàn than ở đầu ngọn bấc thôi. Quay lại với mấy đứa con anh Phúc ngồi hầu cơm ông nhà báo, bạn cố tri của gia đình, mà buồn cho mình quá. Vì cái cháy lên của tôi trong trò chuyện với chúng nó đã khó nhọc lắm, cháy lên để tỏ ra mình chưa lụi, chưa thể lụi, kỳ thực cũng đã bắt đầu cháy bằng cái tàn bấc rồi. Cả ba thằng đều cao lớn, đẹp đẽ, lại râu cằm, lại ria mép, cái nhìn từng trải, cách nói lịch thiệp, khôn ngoan hơn các chú nó ngày xưa nhiều, mới biết thời thế đã đổi thay, một đời người là ngắn ngủi. Đã ngắn lại còn những mơ mộng hão huyền, những tham vọng vớ vẩn, những việc làm vô ích và buồn cười nên lại càng ngắn. Lúc khôn ra, tỉnh ra, hiểu ra thì già mất rồi, làm lại không được, nên buồn, buồn và giận, giận mình là chính chứ không dám giận đời, đời vốn nó là thế, mãi mãi là thế, mình muốn cưỡng lại nên mới sinh ra nhiều sự hồ đồ, sinh ra ân hận, sinh ra buồn bực lúc tuổi già. Cái tuổi bắt đầu già...
Năm còn trẻ tôi nhìn các ông già như một đẳng cấp xa lạ, nể sợ và tò mò vì mình không thể biết, đã già bao giờ mà biết! Bây giờ tôi đã được đứng trong cái đẳng cấp cao quý đó rồi, nhìn lại bọn trẻ cũng vẫn nể sợ và tò mò dầu mình đã có nhiều năm là chính họ. Nhưng cái thời mình khác, cái thời họ khác, nghĩ ngợi và hành động không còn giống nhau, tưởng tượng về nhau cũng khó nên rất lạ. Với cái lạ, cái tò mò tôi đã làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng với một trong ba đứa con của anh Phúc, cái thằng theo tôi nghĩ là sắc sảo nhất, tự tin nhất, dám nói những điều mà bạn bè nó chưa dám nói. Tên hắn là Định, đứa con trai thứ tư của anh Phúc, năm nay hăm bốn tuổi, mới xuất ngũ năm ngoái, vừa đúng cái khoảng cách một lần đi và một lần về của tôi ở xã Đồng Tiến. Mắt xếch, cái miệng thật lém, da trắng, lại tóc dài, lại một chút ria loáng thoáng; cái áo pun màu xanh đậm, cái quần nhung nâu đã cũ, đi đôi dép Nhật, là một chàng trai của hôm nay, có thể sống rất thoải mái, rất tự nhiên như ở chính nhà mình bất cứ một thành phố lớn nào trong cả nước.
Tôi hỏi:
- Nhà này được chia mỗi vụ bao nhiêu cân thóc?
Định:
- Hơn hai tạ, một ngày công ở đây có sáu lạng rưỡi. Vụ nào được là cân mốt. Nhà này có mười hai miệng ăn, một ngày thổi bốn cân rưỡi gạo. Ăn được khoảng một tháng, còn lại năm tháng phải sống bằng những nguồn thu khác.
- Là những nguồn thu nào?
- Nuôi cá bột như thời chú mới đến đây ấy.
- Cái thời tao mới đến đây mày còn ở các nước Nam Nứ nào, làm sao mà biết?
Định cười, cái cười gống chú Khang nó hết sức:
- Đọc truyện của chú thấy viết lia lịa về cá con, cứ y như người của cái làng này.
Tôi nói trêu:
- Cái anh quẩy đôi thúng sơn vừa đi vừa lắc chả hợp chút nào với bọn mày hôm nay, bẻo lẻo như thằng bán cá con, hai mươi hăm mốt, con này tốt bốn mốt bốn hai...
Định hơi đỏ mặt nhưng vẫn cười cợt:
- Bây giờ văn minh hơn xưa nhiều rồi. Ví như nhà cháu có hai cái máy cô-le, bơm nước vào hút nước ra ao lớn cũng chỉ trong đêm là xong, mờ sáng cho cá vào sọt lót nilon, đặt lên xe máy mỗi bên một sọt, rú ga chạy vù vù tới các mối mua quen đổ cá, chỉ nửa buổi đã phấp phới lượn xe về. Cũng không phải đếm nữa, mà là cân, cân khô, con nào chết bỏ, làm ăn như thế chứ.
- Một vụ cá nhà mày được bao nhiêu tiền?
- Khoảng vài trăm ngàn.
Tôi kêu khẽ: "a", rồi lại hỏi:
- Còn nguồn nào nữa?
- Bán rau giống, su hào, bắp cải, cà chua, hành, tỏi... Nhưng phải đi xa một chút, ngược tàu lên tận Yên Bái, Phố Lu.
- Một vụ rau có được khá không?
- Như vụ vừa rồi, anh em cháu thu hai trăm ngàn.
Tôi lại kêu nhỏ: "a".
- Còn gì nữa?
- Nuôi lợn.
- Nuôi lợn thì vất vả đấy.
- Chả có gì là vất vả. Nhà cháu toàn bắt lợn từ bảy chục cân về nuôi, có lúc bắt hẳn một con tạ rưỡi. Vỗ thế nhanh, mỗi ngày lên một cân thịt. Gọi là "nuôi phục", khi hợp tác xã cần lúa đổi lấy thịt là mình có ngay. Hiện nay trong chuồng cũng có một con gần hai tạ.
- Lỡ đang nuôi nó chết thì sao? Lỗ to!
- Lỗ thế nào. ở xóm này có một nhà được mổ lợn. Nửa đêm gà gáy nhìn con lợn kém vẻ tươi là gọi ông ta đến bắt liền. Lợn ốm nhưng ông ấy vẫn trả giá như lợn khỏe. Gọi là mối quan hệ hữu nghị, giữa người nuôi lợn với người mổ.
Anh Phúc nói thêm:
- Còn là ngân hàng cho vay vốn của bọn chúng nó nữa đấy.
Tôi giương mắt nhìn Định:
- Là thế nào?
Định lại cười:
- Là bất cứ lúc nào mình cần tiền mặt cứ đến ông ta mà lấy. Lãi suất rất nhẹ.
- Có thể vay được bao nhiêu?
- Trăm ngàn, hai trăm ngàn, tùy người.
Tôi lại "ồ" rồi quay sang hỏi anh Phúc:
- Mức sống bà con bây giờ so với năm nọ có khá hơn không?
- Hơn nhiều chứ, như nhà này cũng hơn, hơn gấp cả chục lần.
Tôi lại "a". Và lại hỏi:
- Đã có tủ lạnh chưa? Có ti vi chưa? Là hỏi khiêu khích chơi chứ cái vùng bán sơn địa này làm gì đã có điện để dùng những thứ sang trọng đó.
Định hỏi lại, rất thản nhiên:
- Chú đã đến thăm nhà ông Biền rồi chứ gì, cái ông chủ nhiệm gương mẫu trong "Tầm nhìn xa" ấy?
- Chưa, nhưng mà sao?
Anh Phúc gắt:
- Mình biết việc nhà mình thôi, nói nhà người khác làm gì.
- Nói tốt thôi, nói về sự hơn hẳn của hôm nay so với hôm qua. Cháu chắc nhà chú ở thành phố Hồ Chí Minh không thể bằng nhà ông Biền ở xã Đồng Tiến được. Cái vỏ ngoài là phải thua đứt rồi, cái ruột trong cũng thua. Nhà chú có tủ gương lớn gỗ lát không? Có tủ ly chén gỗ lát không? Có giường nằm và sa lông đóng kiểu mới cũng bằng gỗ lát không? Nhìn vào trong nhà cứ vàng chóe. Rồi rađiô cát sét, rồi ti vi màu của Nhật. Không có điện hả, cái bình ắc qui dùng để làm gì nhỉ? Một tuần xạc điện một lần, ở thị trấn có đến mấy cửa hàng xạc điện.
Tôi lại "a" nhưng đã tư lự. Rồi tôi lại hỏi:
- Nhà bí thư xã thì sao?
- Cháu không biết.
- Nhà chủ nhiệm hợp tác xã thế nào?
- Cũng chưa đến bao giờ.
- Mày là đảng viên chưa?
- Chưa, nhưng cháu xin làm dân thường thôi, người dân lương thiện và làm tròn mọi nghĩa vụ.
- Có định đi đâu nữa không?
- Không.
- Có đang phấn đấu cho một mục tiêu nào không?
- Có chứ, làm giàu, đã giàu muốn gì cũng được mà không ai dám khinh.
- Mày có thích đọc sách văn học không?
- Có, nhưng là sách tình báo thôi. Bữa nào ra chú nhớ mua giùm cháu một ít sách tình báo... sách dịch, chú nhá, cháu sẽ xin gửi lại tiền chú theo giá mua chứ không theo giá bìa.
- Mày cũng biết nhiều nhỉ. Cho mình hỏi một câu cuối cùng: Mày có nhận xét gì về công việc của xã không? Có thắc mắc gì không? Xưa kia chú Khang mày ở bộ đội về là tìm hiểu ngay tình hình của xã.
Lại cười:
- Chú ấy là nhà cách mạng, muốn cải tạo, muốn thay đổi nhiều thứ lắm, nhưng là hồi xưa thôi, cháu nghe nói lại thế. Còn bây giờ hai chú cháu rất thông cảm nhau, chú ấy cũng đang quyết tâm làm giàu mà.
Tôi hơi cau mặt:
- Người già có quyền đứng ngoài cuộc một chút, nhưng bọn trẻ chúng mày chả lẽ lại thích đứng ngoài?
Nó vẫn cười:
- Muốn nhảy vào cuộc là phải đấu đá nhau, để giành chỗ. Cái chung chả biết có tốt hơn không, chứ riêng mình chắc chắn sẽ nhơ nhớp hơn trước.
4.
Tôi nắm lấy tay Khang mà nước mắt muốn ứa ra. Thời gian chả ủng hộ chúng tôi một tí nào. Chỉ phá phách thôi. Vòng tóc mềm mại đen mướt năm nào đã rụng sạch, chỉ còn lại cái trán rất hói khô nhăn. Mắt vẫn còn lấp lánh cái màu nâu nhạt nhưng đã có túi rồi, đuôi mép cũng chảy rồi, hàm răng còn nguyên nhưng như dài ra vì chân lợi đã co lại. Một ông bủ năm chục tuổi, xấp xỉ với tuổi bủ Sen, bủ Kiền năm tôi mới tới đây. Cũng năm gian nhà ngói, sân gạch, bể nước, giường nằm gỗ lát, salon gỗ lát, đồng hồ treo tường, còn khang trang hơn cả nhà anh Phúc. Và một bầy con, đứng làm hai lớp bịt kín lối xuống nhà ngang để nhìn một ông khách rất lạ đến chơi với bố. Thằng lớn nhất khoảng mười bảy, mười tám tuổi đang cày vỡ mảnh vườn trước nhà cũng bỏ bò đấy chạy nhảo vào đứng cùng với các em, chốc chốc lại đưa mắt nhìn trộm tôi rồi lại nhìn nghiêng đi cười ngượng nghịu. Khang nói:
- Chúng nó biết bác đến từ tối qua. Phải nửa đêm mới về nhà chú Ninh, phải không?
- Tối được một lúc là về. Định sang anh ngay nhưng thấy nhà đã tắt đèn.
- Nhà tôi ngủ sớm, sớm dậy còn làm hàng.
- Làm hàng gì?
- Bánh rán. Dạo này mỡ đắt, đường đắt, đang định thôi.
- Nhà nhiều người, không làm thì ngồi chơi không à?
- Ờ, cũng nghĩ thế nên vẫn phải làm.
Tôi quay người ngắm nhìn bức tranh sống về một gia đình đông vui, những sáu đứa, nhỉnh hơn nhau một chỏm đầu, đám con trai cởi trần trùng trục, hai đứa con gái một lớn một nhỏ ăn mặc cũng lôi thôi. ở làng quê, làm nhà sắm đồ là quan trọng nhất, cho bằng anh bằng em, rồi mới đến ăn, sau ăn mới đến mặc.
- Chắc anh đã biết chuyện chúng tôi rồi chứ gì. Năm đứa là con của cô trước, thằng út là con của cô sau. Tôi đã nghĩ là phải chết trước vợ, mấy năm ấy tôi yếu lắm, toàn thổ huyết thôi, bảo là giãn phế quản. Nào ngờ lại góa vợ để rồi lại lấy thêm một đời vợ nữa.
Nhân vật Khang của tôi vừa kết thúc mọi sự phiêu lưu vặt vãnh trong địa hạt văn chương thì cuộc phiêu lưu thật sự trong đời sống mới bắt đầu. Mà những thử thách của cuộc sống mỗi ngày chả có văn chương nào tả nổi. Anh không ở lại xã mà cũng chẳng đi nông trường như tôi đã dự đoán một cách lãng mạn. Anh lấy vợ ngay năm sau đó rồi lên làm trên công an huyện. Làm cán bộ nhà nước vẫn nhẹ mình hơn làm anh cán bộ xã, có lương, có gạo, lại vẫn gần nhà. Tính như thế cũng được nhưng phải đẻ ít, hai con là vừa đủ. Vì cô vợ làm người của tập thể thì giỏi, làm người của gia đình lại vụng. Không biết xoay xở cho riêng mình là vụng. Đã vụng lại mắn đẻ, đẻ sòn sòn. Đẻ đứa con đầu, tức là cái thằng đang cày, thiếu sữa, phải nuôi con bằng sữa bò. Khổ rồi! Đến đứa thứ tư thì không còn gì để nuôi nhau nữa, khánh kiệt. Cứ mua mì thanh của anh em công nhân nhà máy về nấu với lá bánh tẻ rau khoai, chồng một bát loa, vợ một bát loa, ba đứa con ba bát nhỏ. Đẻ đến đứa thứ năm thì Khang mắc bệnh giãn phế quản, mỗi lần ho ra cả chén máu, đi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác. Vợ ở nhà cứ lầm lũi nuôi một bầy con, mỗi năm một túng thiếu hơn và không có tí chút hy vọng nào vào tương lai. Tương lai là bà góa. Bà góa trẻ với năm đứa con thơ, lại túng thiếu, lại không thể ngửa tay xin anh xin em mãi. Lúc lấy nhau như long như phụng, đẹp đôi đến trời phải ghen, bạn phải tị. Mà hóa ra...
Tôi hỏi:
- Bệnh tình của chị ấy thế nào mà bệnh viện phải bó tay?
Một chuyện đã xảy ra từ năm sáu năm về trước, đã lấy vợ khác, đã có một đứa con thêm mà vẫn ngắc ngứ rất lâu mới nói được, cứ nhìn tránh đi mà nói, vì tôi biết cô ấy, biết lúc họ khủng khỉnh với nhau rồi lại làm lành với nhau, biết lúc họ không nói gì đến cái ăn cái mặc, đến vật chất mà chỉ khắc khoải về tình yêu, về lý tưởng, về chỗ đứng của mình trong xã hội.
- Chả có bệnh gì cả, Khang nói. Cái bữa đó là vào buổi chiều, cô ấy đi lấy phân trâu về đến nhà cứ kêu rát vai. Tôi nhìn vai thấy có một vòng đỏ, như cái mụn, nhỏ thôi. Tôi nói: "Chắc là cái nhọt, đừng để đòn gánh tì lên nó toét ra". Cô ấy ngồi ở thềm hè, lấy nón quạt, định rửa ráy qua loa rồi mới cho con bú. Rồi cứ thấy quài tay lên bóp nặn gì đó cái đầu mụn. Tôi ngồi trong nhà đã bảo tay đang có phân trâu đừng có sờ mó vào mà khốn. Lại còn cãi: "Vẽ, người làm ruộng lăn lộn với phân gio từ sáng đến tối, vệ sinh như dân tỉnh có mà đói dài". Rồi lại tiếp tục xoa xoa nắn nắn. Tôi cũng chả để ý nữa. Hai ba ngày sau vẫn đi làm. Tôi đang nghỉ ở nhà nhưng người yếu chả giúp được gì, chỉ thổi nồi cơm, nồi canh, tắm rửa cho lũ trẻ là đã thở dốc. Rồi cô ấy sốt, cho uống thuốc cảm, đánh gió nhưng không đỡ. Qua một đêm thì đã mê rồi, người nóng như than hồng, co giật từng cơn. Tôi nói có sai đâu, tay dính phân trâu, lại bóp nặn vết loét là khổ. Đến trưa đưa lên bệnh viện huyện, truyền huyết thanh. Tối hôm đó cô ấy tỉnh lại, trò chuyện được với nhau cả giờ. Đã mừng, nghĩ là thoát. Nào ngờ nửa đêm lên một cơn co giật nữa rồi đi hẳn. Cứ như trong chiêm bao. Chôn vợ rồi mà chiều chiều vẫn nhìn ra cổng, ngóng vợ về. Nhỡ cô ấy về thật thì sao? Nghĩ thế. Hoặc là tôi mê. Chính là tôi đang hôn mê, tôi đã chết rồi chứ không phải vợ. Vợ tôi khỏe thế chết sao được. Bữa cơm đơm một bát đặt lên bàn thờ, vẫn xới một bát để ở góc mâm. Không thể quen được chỉ xới cơm cho con mà không có vợ. Vợ không ăn ở nhà thì ăn ở đâu, vẫn ngồi ở góc đó và bao giờ tôi cũng dành cái chỗ quen thuộc ngồi xới cơm mỗi lần ăn cơm nhà. Rồi khóc, đêm khóc, ngày khóc, hễ ai tới thăm hỏi lại khóc. Như đàn bà anh ạ. Có lâm vào cảnh ngộ của tôi mới biết thế nào là cái khổ của thằng đàn ông nửa đời chôn vợ. Năm đứa con, đứa lớn mười hai, đứa nhỏ một tuổi, tôi lại đau ốm, lại không còn gì để ăn, không còn gì để bán, anh em kiến giả nhất phận, nhờ vả mãi thế nào được.
Vợ Khang mất cuối tháng tám ta, tháng chín tháng mười anh vừa nuôi con vừa khóc vợ, đầu óc u ám những ý nghĩ đen tối. Tháng một, anh vay thằng Ninh bốn chục cân thóc, cũng là vay liều rồi chèo thuyền ra bãi giữa tra lúa trên một rẻo đất pha cát, cứ mỗi hốc là năm hạt. Tại sao anh làm thế? Chính anh cũng không hiểu. Bởi đã cùng đường nên phải làm, làm cầu may, làm còn hơn không làm, là nghe có người nói chơi nói bời ở đâu đó rằng tra lúa ở bãi giữa nếu được ăn là ăn gấp mấy lần. Rẻo đất ngoài đó vốn vô chủ, của tập thể không, của cá nhân không, là đất của những người đã tuyệt vọng. Tháng một mực nước thấp nhất thì tra hạt. Đầu tháng ba là phải gặt rồi. Giữa tháng ba, sau Hội Tổ có mưa lớn rửa đền, các rẻo đất đó lại chìm sâu dưới nước. Vụ đó anh được, làm cầu may mà được, được lớn, chỉ mất có bốn chục cân thóc mà thu về một tấn lúa, nhẹ nhàng như chơi. Ngày giỗ đầu anh làm rất to, mời những mười mấy mâm. Bưng mâm cơm cúng lên bàn thờ vợ, thắp mấy nén nhang, chẳng kịp khấn khứa gì cứ đứng xuôi tay mà khóc, khóc cho vợ, khóc cho mình. Phải đến lúc đó anh mới thấy hết cái ranh giới phân chia giữa tuổi trẻ với tuổi già, giữa cái thời sống cho mình, cho xã hội với bao nhiêu là mơ mộng giả thật với cái thời chỉ còn biết sống cho con cái, một lũ con, ngoài ra không còn hy vọng nào khác, niềm vui nào khác.
Nhìn một góc sân thấy úp lổng chổng ba bốn cái nồi to, là nồi đun nước tráng bánh, một loạt giàn phên đã đưa ra xếp gần kín một nửa sân.
Tôi hỏi:
- Đã làm bánh rán lại làm cả bánh đa nữa à?
- Làm mỗi thứ một tí mới đủ ăn đủ tiêu ông ạ. Cái này là làm miến, làm miến lãi hơn.
Nhà đông người làm miến là tính toán sát nhất. Người tráng, người phơi, người cắt, đứa nào có việc của đứa ấy, như một đội quân. Ngay đứa con gái út của bà trước bế thằng con đầu của bà sau, cũng tay bế em tay giặt giặt những sợi miến vừa cắt cho nó rời ra, tơi ra, trên các giàn phơi. Và ông bố mới sáng đã cởi trần, đầu hói, bụng vú nhăn nhúm vừa ngồi nói chuyện với tôi chốc chốc lại nhìn ra sân hò hét con cái. Anh Khang của ngày hôm xưa đấy! Hôm xưa chúng tôi nói chuyện đạo, bữa nay gặp lại toàn nói chuyện đời, một đời người đến là trầm luân, khổ ải, nhưng không thể chết được, vì cái gan góc của con người ta cũng không cùng. Có điều, được cái gan góc thì mất cái mộng mơ, được cái trải đời lại hóa ra lì lợm. Khôn lên tức là ít tin đi. Vẫn là mất. Mất to.
5.
Tôi cũng phải kể lại một chút về ông Tuy Kiền hay bủ Kiền cho trọn vẹn một chuyến trở về cái nơi đã từng đến. Tôi đến thăm nhà ông lần thứ nhất chỉ gặp bà bủ và một đám con cháu, chả rõ con dâu hay con gái, con trai hay cháu nội. Người con trai lớn của ông bủ chỉ kém tôi có dăm sáu tuổi, con của anh đã đi bộ đội về, trạc tuổi thằng Định, ông bủ năm nay đã bảy chín rồi mà. Tôi bước vào cổng nhà ông vừa mừng vừa ngại, rất mong được gặp ông, lại vẫn khấn thầm ông đã đi đâu đó không có nhà. Viết về người ta như thế gặp lại cũng ngượng. ờ, thì anh là nhà văn nhà báo của Đảng của Chính phủ, khen ai chả được, chê ai chả được, quyền của anh mà, chúng tôi thấp cổ bé miệng, thân phận con ong cái kiến làm sao dám cãi. Nghĩ thế là ngượng. Ngượng với mình, ngượng với người, có những trang viết thời này là đúng, thời khác chưa hẳn đã đúng, khen nhau trên báo trên đài là hay, là tốt, đêm nằm vắt tay lên trán nghĩ ngợi xa gần lại thấy chưa phải đã tốt đã hay. Viết sao thì viết, cho thuận lòng mình cho thuận lòng người, lúc gác bút nghĩ lại một đời viết không đến nỗi xấu hổ. Tôi đi với Ninh, không tự giới thiệu là ai, như là một cán bộ trên huyện trên tỉnh gì đó đi theo ông trưởng ban kiểm soát (Ninh là trưởng ban kiểm soát của hợp tác xã nông nghiệp) rồi nhân anh ta có việc phải hỏi bủ Kiền nên cũng theo vào. Bà bủ cũng đã già, kém ông lão chừng dăm sáu tuổi, nhưng đi lại còn nhanh nhẹn, tóc chưa bạc, răng chưa rụng, nhìn tôi một thoáng, không hỏi han gì, chỉ bảo Ninh:
- Ông lão đi đâu từ sớm, anh có việc gì hỏi?
Ninh nhìn tôi, miệng hắn như hơi cười trong hàm râu đen nhánh:
- À, vẫn cái chuyện gỗ lạt ấy mà. Nếu ông bủ định mua thì phải báo trước để cháu còn nhắn.
Bà lão rót nước mời, mắt vẫn nhìn tôi không ra quen không ra lạ.
- Ông ấy muốn đóng bộ bàn ghế theo kiểu bây giờ, nay nhắc mai nhắc sốt cả ruột, đi cả ngày có lúc nào ở nhà mà ngồi ghế.
Ninh lại nhìn tôi cười, cười về cái gì tôi không rõ.
- Nhà người ta có mà nhà ông bủ chưa có là ông chưa chịu. Người già nhưng tính trẻ là thế.
Một thanh niên khoảng ba mươi tuổi, người mập lùn, trán ngắn, mắt nhỏ, có ria mép bước lên hè lừ lừ nhìn tôi, rồi hỏi Ninh:
- Anh phải bàn với nhà máy thế nào, mấy bữa nay họ xả khói khiếp quá, sặc sụa mùi lưu huỳnh. Cá đến chết hết vì khói thải thôi.
- Ờ, thì vẫn nói, nói hàng ngày.
- Còn cái vụ mua bán phân lân kín hở ra sao cũng phải cho xã viên chúng tôi được biết chứ.
Ninh lại quay sang cười với tôi, nói tỉnh khô:
- Cái đó mày phải hỏi ông anh rể của mày, tao làm sao có ý kiến!
Chúng tôi ra về, tôi lúng túng chào bà bủ và anh con trai có cái nhìn lừ lừ nhưng không ai chào lại tôi cả. Tức là có biết, biết hết và còn giận lắm. Vì một bài báo mà cả gia đình người ta hóa thành trò lạ để thiên hạ dòm dỏ, đàm tiếu không giận sao được. Lần thứ hai tôi đến một mình, định bụng phải gặp mặt ông bủ một lần để hai ông con có dịp trò chuyện với nhau thật thẳng thắn. Vẫn không gặp, ông lão đi chăn bò. Hỏi chăn chỗ nào, cái anh có cặp mắt lừ lừ bảo không biết. Trả lời mà không thèm nhìn mặt người hỏi là đã tỏ thái độ rồi. Chừng như anh chàng này là cậu út năm nào, đã lên bảy lên tám vẫn còn nằm ườn trên giường mỗi sáng để bà mẹ đeo đôi khuyên vàng lủng lẳng bưng bát xôi đến dỗ ăn thì phải?
Lần thứ ba thì tôi gặp ông bủ thật, gặp rất tình cờ ngay ở lối vào trụ sở ủy ban. Ông lão vốn đã gầy nhỏ nay càng gầy nhỏ hơn, như đứa trẻ, mặc cái áo xanh cộc tay, cái quần nâu lửng đang đứng trông bò. Ông đội nón lại còn quay nghiêng mặt đi khi thoáng thấy tôi bước tới nhưng tôi vẫn nhận ra, tôi nhận ra ông từ xa kia, vì cái dáng vẻ của ông dầu chỉ nhìn cái lưng cũng vẫn khác người.
- Chào bủ ạ, bủ còn nhớ em không?
Ông già bỏ nón, quay lại nhìn tôi, miệng như cười, cặp mắt nhỏ tí nhấp nháy.
- Không dám, ông mới về công tác?
- Thế bủ còn nhớ tên em không?
- Không biết, mới đến lần đầu làm sao mà biết.
- Lần đầu thế nào! Lần đầu là cái năm bủ bằng tuổi em bây giờ.
- Thế hả, là ai thế!
Tôi bỏ mũ cầm tay, nhìn vào tận mặt ông lão, cười nhỏ:
- Bủ không muốn nhận em chứ gì? Vẫn còn giận em lắm phải không?
Ông già không cười nữa, cặp mắt tinh khôn nhìn tôi chăm chú, định nói gì đó nhưng lại thôi. Tôi lấy bao thuốc Du lịch mời ông. Ông cầm điếu thuốc, nói khẽ:
- Dạo này lại hút thuốc có đầu lọc kia à?
Tôi bắt ngay lấy câu nói thân thiết ấy hỏi lại liền:
- Tức là bủ biết em có một dạo chỉ hút thuốc cuốn tay thôi, đúng thế không?
Ông lão lại nín lặng, nhìn xuống điếu thuốc vẫn cầm ở tay.
- Tối nay em đến thăm bủ nhá?
- Tối nay tôi bận.
- Mai nhé?
- Mai tôi đi ăn giỗ, đi cả ngày.
- Cho em đi theo với.
- Người ta không mời mà mình cũng đến hử?
Rồi ông lại nhìn tôi, vẫn cái nhìn rất chăm chú nhưng nín lặng. Tôi chẳng còn gì để nói thêm, lúng búng vài lời nửa như chào nửa như xin lỗi rồi bước vội đi.
Bữa ra về, tôi có đến gặp bí thư đảng ủy xã và chủ nhiệm hợp tác xã, có cả Ninh là trưởng ban kiểm soát cùng ngồi đó. Tôi ngỏ lời cảm ơn xã đã cho phép tôi trở lại vùng đất cũ, để thăm hỏi bà con và bạn bè của một thời viết và một thời còn rất trẻ. Trở lại với những kỷ niệm tức là trở lại với những gì đã vĩnh viễn mất nên bao giờ cũng buồn dẫu sự đời chẳng có gì đáng để phải buồn. Nếu nay mai viết một cái gì đó buồn buồn mong các anh cũng hiểu cho cái tâm lý ấy mà thứ lỗi cho. Bí thư xã đưa mắt nhìn chủ nhiệm hợp tác xã, hơi mỉm cười, rồi nói với tôi:
- Ông bủ Kiền có nhắn tôi gửi lời tạ lỗi với anh. Ông không giận anh đâu, có gì mà phải giận, nhưng ông không dám mời anh lại chơi nhà là sợ trẻ con nó nghĩ cạn dễ nói hỗn.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top