Tùy đường diễn nghĩa 41-60

Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt

Bước cùng, Lý Huyền Thúy lo bề hôn thú,

 Thoát hiểm, Tần Thúc Bảo tiện dịp vinh quy.

 Từ rằng: 

 Đời người chi khác cánh bồng 

 Dùng dằng vì sợi chỉ hồng buộc chân 

 Oán cừu là quả là nhân 

 Mà qui đặt bẫy, giật giàm thế nao? 

 Suy đi tính lại thấp cao 

 Chớ nên cậy chữ hùng hào mà nguy. 

 Theo điệu "Nhu mộng lệnh" 

 Xưa nay việc kết nghĩa bè bạn, rồi chuyện lấy vợ lấy chồng, đều là do nhân duyên từ kiếp trước. Còn nếu lấy chuyện phú quý, bần tiện để mà định đoạt tình nghĩa, thì sao có thể nói đó là tình bạn bè chân thành, nghĩa vợ chồng đằm thắm cho được, mà chẳng qua là oan gia, đường hẹp khôn tránh, thù nước khó khuây, lòng luôn day dứt, sẵn sàng tuốt gươm khỏi vỏ. Những chuyện lớn như vậy, trời xanh đã bày đặt sẵn chậm một ngày không xong, sớm một ngày chẳng nổi một giờ một khắc mà nên, mà thành chuyện cả vậy. 

 * * * 

 Nay lại nói chuyện Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy cùng Bính Nguyên Chân, ba người từ biệt Tôn An Tổ, đi suốt ngày đêm, chỉ còn cách Ngõa Cương hơn hai trăm dặm. Sáng hôm ấy, mọi người đã đi suốt đêm, vừa đói vừa khát, thấy trước mặt một thung lũng hẹp, có một khu nhà, trước cửa, trúc trồng thành rừng, mé bên suối chảy róc rách, lóng lánh nắng trời, quang cảnh thật mười phần thanh tĩnh. Bá Đương lên tiếng: 

 - Phía trước quán trọ còn xa. Chúng ta sao không vào đây, kiếm cái gì ăn, rồi hãy di tiếp cũng chưa muộn. 

 Huyền Thúy, Nguyên Chân tán đồng: 

 - Đúng rồi! 

 Huyền Thúy định rảo bước vào cổng hỏi trước, thì thấy một cô gái khoảng mười bảy mười tám tuổi, tay xách giỏ dâu, mặc một áo dài màu xanh sạch sẽ, quần lụa trắng, ngẩng nhìn thấy khách lạ, nhưng vẫn giữ được dáng vẻ bình tĩnh, đi đứng vẫn khoan thai, mặc nhiên như không, như có. Có bài từ "Yết kim môn" làm chứng: 

 Thật vô giá, 

 Ai khéo tô mây vẽ nguyệt 

 Trắng trắng xanh xanh lồng hoa đẹp 

 Con én sợ con oanh khiếp 

 Không những nàng Ban hờn, ả Tạ ghét 

 Tình ai dìu dặt, lời ai dặt dìu 

 Gặp nhau yêu ít, giận nhiều 

 Thôi đừng nhắc chữ hùng hào mà chi! 

 Cô gái vẫn lặng lẽ nâng gót sen vàng đi về phía cửa. Huyền Thúy kinh ngạc thốt lên. 

 - Thật hiếm thấy! Nơi này chẳng phải thôn Trữ La (l), sao lại có người đẹp đến thế! 

 1 Tây Thi, người ở phía tây suối Nhược Da, thôn Trữ La, sắc đẹp nổi tiếng. Câu Tiễn đem dâng Phù Sai, Phù Sai say đắm Tây Thi, bỏ chính sự bị Câu Tiễn đánh thua... (Điển cố văn học). 

 Bá Đương đáp: 

 - Người đẹp trong thiên hạ đâu cũng có. Nhưng không hợp bọn chúng ta lúc này. 

 Đang nói dở, trong cửa một ông già đi ra, thấy ba người chắp tay đứng trước cửa, cũng chắp tay lên hỏi: 

 - Các ngài ở đâu đến? 

 Bá Đương đáp: 

 - Chúng cháu mãi lo đường xa, chưa kịp ăn buổi sáng, đến đây bụng đã cồn cào, định vào quấy quá lão trượng một bữa ăn chay, sẽ xin trả tiền bạc sòng phẳng tạ ơn. 

 Ông già đáp: 

 - Nếu như thế, xin mời vào trong này! 

 Mọi người vào nhà cỏ, chào hỏi xong xuôi, ông già khiêm tốn: 

 - Nhà quê, chỉ có rau muối, sợ không đáng để đãi quý khách! 

 Nói xong, ông già vào nhà trong bưng bình trà cùng ấm chén, mời mọi người ra ngồi ở thủy đình, Huyền Thúy lễ phép hỏi: 

 - Xin được rõ quý tính, lão trượng được mấy lệnh lang? 

 Ông già đáp: 

 - Già này họ Vương, trước kia ở Trường An, nhận thấy thời cuộc đảo điên, nên rời về Thái Bình trang này đã được bốn năm. Chỉ được hai thằng con trai, một cô gái vậy. 

 Nguyên Chân nói: 

 - Lệnh lang làm nghề gì, hiện có nhà không thưa lão trượng? 

 Vương ông lại đáp: 

 - Cũng chẳng muốn nhắc đến nữa. Hôn quân mê đào sông, say xây thành, cả hai thằng con đều bị bắt đi phu dịch, hai ba năm nay không thấy về, chẳng biết còn mất, sống chết ra sao. 

 Vương ông vừa nói, vừa nước mắt giọt dài, giọt ngắn. Ai nấy đang góp lời than thở, thì thấy bên kia bờ suối, một chàng trai đi lại. Vương ông trông thấy, vội ngẩng nhìn rồi hỏi: 

 - May quá, mày đã về rồi sao? 

 Mọi người vội hỏi: 

 - Có phải lệnh lang chăng? 

 Vương ông đáp: 

 - Không phải? Thằng cháu đấy mà! 

 Chàng trai bước vào thủy đình, lạy chào Vương ông, dáng người cao khoảng chín thước, tóc đỏ, râu đỏ, mặt như con giải, đầu hổ lưng lang, oai phong lẫm lẫm. Bá Đương nhìn kỹ bèn nhận: 

 - Thì ra là hiền huynh! 

 Chàng trai cũng vui mừng: 

 - Sao đại huynh lại ở đây? 

 Huyền Thúy vội hỏi: 

 - Hai bên biết nhau sao? 

 Bá Đương đáp: 

 - Anh bạn trẻ tên gọi là Vương Đương Nhân, mấy năm trước đây tiểu đệ cũng có buôn bán ít nhiều trên chốn giang hồ, nhận ra là cùng họ, đi lại cũng thân thiết. Không ngờ xa cách mấy năm, nay lại gặp đây. 

 Đương Nhân hỏi họ tên Huyền Thúy cùng Nguyên Chân, Bá Đương nói rõ, Đương Nhân hớn hở vái lạy Huyền Thúy: 

 - Tiểu đệ từ lâu đã hâm mộ tên tuổi đại huynh nhưng chưa có duyên gặp gỡ, nay mới được thấy mặt, chẳng phải là ý trời sao? 

 Huyền Thúy đáp lễ: 

 - Tiểu đệ may được còn sống ở đời, đâu dám đủ để hiền huynh ngưỡng mộ! 

 Vương ông gọi Đương Nhân vào nhà trong, bưng ra một mâm đầy thức nhắm, còn mình thì cầm một chai rượu đầy: 

 - Thôn vắng đường mòn, chẳng có gì đáng để đãi các bậc anh hùng. 

 Ai nấy đỡ lời: 

 - Thế này thì còn gì bằng. Lão trượng quá nhún nhường, chúng cháu thật không dám! 

 Ngồi yên chỗ, Bá Đương lên tiếng: 

 - Đương Nhân hiền huynh, lâu nay làm ăn ra sao, đi lại vùng nào? 

 Đương Nhân đáp: 

 - Cái thân tiểu đệ, khác gì cánh bèo, đi khắp chân trời góc biển, tìm kiếm khắp nơi, mà vẫn không được một chỗ gửi gắm hy vọng. 

 Huyền Thúy hỏi: 

 - Hiền huynh đi những đâu rồi? 

 Đương Nhân đáp: 

 - Gần đây là Trương Kim Xứng, Cao Sĩ Đạt, xa là Tôn Nghi Nhã, Lư Minh Nguyệt. Chỗ nào cũng xây thành đắp lũy, nhưng rồi gặp đối thủ, đều nát tan chạy trốn. Chẳng biết chư huynh từ đâu lại đây nay định đi đâu vậy? 

 Lúc này Bá Đương mới đem chuyện Huyền Thúy cùng các bọn phạm tội, bị bắt giải về kinh, thoát khỏi hiểm nguy trong quán rượu kể lại một lượt. Đương Nhân nói: 

 - Tiểu đệ mấy hôm nay có nghe chuyện lạ lùng. Quán rượu Trần gia ở Bạch Tửu thôn, vùng Lương Quận, có bọn công sai bảy tám tên, uống phải rượu có thuốc mê, bốn tên tội phạm nặng trốn thoát. Cả chủ quán cũng chẳng thấy đâu. Hiện đang đưa công văn đi các nơi tầm nã, thì ra chính là các vị. Nay các vị định đi đâu? 

 Bá Đương lại đem chuyện Địch Nhượng tụ nghĩa ở Ngõa Cương, muốn mời Huyền Thúy cùng hiệp sức. Đương Nhân nói: 

 - Nếu các vị định tìm nơi khởi sự, tiểu đệ tuy bất tài, cũng xin được theo gót. 

 Vương ông cũng nâng chén: 

 - Xin các vị hào kiệt cạn chén. Già này có câu chuyện muốn thưa! 

 Mọi người vội đáp: 

 - Xin lão trượng cho nghe! 

 Vương ông nói: 

 - Già này có một mụn con gái, tên gọi Tuyết Nhi, tuổi vừa mười bảy. Từ nhỏ dã không thích việc nữ công, chỉ ham việc văn thơ, thông tuệ khác thường, lại tinh thông âm nhạc. Nay già này muốn cho theo Lý công tử để được nâng khăn sửa túi. Không biết ý Lý công tử thế nào? 

 Huyền Thúy thưa: 

 - Ơn lão trượng thương đến, nhưng Lý Mật này thân chẳng khác gì cỏ bồng, bốn biển không nhà, lấy gì để mà làm nơi nương náu cho được! 

 Vương ông đáp: 

 - Nói như vậy có chỗ không nên, bậc anh hùng hào kiệt từ xưa, không có ai là không nhà không cửa. Xưa Tấn Văn Công với Địch Thị giữ lời ước hẹn mười năm, lại xa cách Tề Thị đến năm năm, về sau mới cùng nhau sum họp, trở thành tấm gương một đời. Con gái lão vốn không phải bậc nhẹ dạ đâu, vừa rồi đi hái dâu về, thoáng thấy các ngài, vào nhà có nói với già này, có vị mặc áo màu xanh nghi dung khác thường, già này biết ý, cho nên mới nói thế này! 

 Mọi người nghe nói, mới biết chính là cô gái đã gặp ngoài cổng nhà, tất cả đều hùn vào: 

 - Lão trượng đã có ý tốt, Lý đại huynh không nên chối từ. 

 Đương Nhân còn bày: 

 - Chỉ cần Lý đại huynh trao lại một vật làm tin là xong, còn đến bao giờ đến đón dâu cũng không câu thúc, không quản ngại gì cả. 

 Huyền Thúy bất đắc dĩ phải mở khăn gói, lấy ra một vòng xuyến ngọc, nâng đưa Vương ông. Vương ông cầm lấy, đem ra một cành trâm vàng nhỏ mà Tuyết Nhi vừa rút trên mái tóc, trao lại cho Huyền Thúy, rồi nói: 

 - Thế là chuyện suốt đời của con gái già này gửi nhờ công tử, già này không dám dặn dò nhiều: Đêm nay hãy ở lại đây một đêm, sáng ngày mai sẽ lên đường. 

 Đương Nhân nói với Huyền Thúy: 

 - Tiểu đệ đáng ra nên đi cùng với đại huynh, nhưng vì hai em trai đều chưa về, chỉ cần một đứa về được, tiểu đệ sẽ ngày đêm lên ngay Ngõa Cương để tụ nghĩa. 

 Ai nấy chia tay. 

 Chính là: 

 Trượng phu bất đắc chí 

 Trôi dạt như tuyết bùn. 

 * * * 

 Nay hãy khoan nói chuyện Huyền Thúy về Ngõa Cương tụ nghĩa, hãy kể chuyện Tần Thúc Bảo làm tướng tiên phong cho Lai Tổng quản, dùng mưu lấy được Bối Thủy, cho từng đội thám binh nhỏ âm thầm vượt qua Liệu Hà, vào tận Bình Nhưỡng, ám sát được cả Đại tướng Ất Chi Văn Lễ. Lai Tổng quản làm biểu tâu về triều đình, chờ dịp kéo đại binh chiếm Bình Nhưỡng, đạp bằng Cao Ly. Dượng Đế vui mừng, ban sắc chỉ tuyên dương, phong cho Lai Hoạch Nhi tước quốc công. Thúc Bảo do đó cũng được khen thưởng. Lại giục Nguyên soái Vũ Văn Thuật, cùng Vu Trọng Văn, hỏa tốc tiến binh vào Áp Lục giang, hiệp đồng cùng Lai Tổng quản. 

 Mưu thần của Cao Ly là Ất Chi Văn Đức, dò biết bọn Vũ Văn Thuật cùng Vu Trọng Văn đều là bọn hám lợi, liền tìm cách đút lót ngọc châu phương bắc, nhân sâm, ngựa tốt, da điêu hắc thử... cho cả hai để được xin hàng. Vũ Văn Thuật vội tin là thật lòng, bàn chuyện làm lễ, cho phép Quốc vương Cao Ly tự trói mình, đi theo xe, đem theo bản đồ quốc gia, làm lễ ăn thề trước doanh quân. Ai ngờ Ất Chi Văn Đức vừa ra khỏi mạc trướng, liền tụ quân đóng ngay giữa vùng, khiến cho thủy lục hai cánh quân, không tiếp viện được cho nhau. 

 Vũ Văn Khải lúc này mới thấy ra gian kế của Ất Chi Văn Đức, vội sai hai con là Vũ Văn Hóa Cập, Trí Cập, lĩnh quân tiên phong, đuổi theo Ất Chi Văn Đức, lại bị Ất Chi Văn Đức giả thua, dụ vào vùng núi hiểm trở Bạch Thạch sơn, binh tướng mai phục cả bốn bên kéo ra, chém giết một hồi. Giữa lúc một còn mất chín, bỗng thấy chuông trống nổi lên rộn rã, từ cánh rừng bên, một lá cờ đỏ, trên có chữ "Tần" rất to kéo ra, đi đầu là một đại tướng cao lớn, mặc áo bào trắng, khoác đài bạc, sử dụng hai thanh giản, cứ thế kéo cả đoàn quân của mình, xông vào đám quân Cao Ly, tả xung hữu đột, binh lính Cao Ly vội tìm hốc núi, bụi cây chạy trốn. Ất Chi Văn Đức vội bỏ Vũ Văn Hóa Cập, quay ra đón đánh Thúc Bảo, nhưng vốn chẳng hiểu gì võ nghệ, địch sao nổi Thúc Bảo, đành quăng cả kim khôi mũ mãng, trốn trong đám loạn quân mà chạy. 

 Thúc Bảo nhặt được kim khôi, chém được vô số đầu giặc, đem về báo công trước dinh Lai Tổng quản. Vũ Văn Hóa Cập cũng hết lời ca ngợi tướng tiên phong họ Tần của Lai Tổng quản, đã có công giải vây cho mình thì thấy một viên gia tướng thưa: 

 - Thưa tiểu chủ, viên tướng này chính là kẻ thù của nhà ta đó! 

 Hóa Cập thất kinh hỏi: 

 - Sao lại là cừu thù cho được? 

 Gia tướng thưa: 

 - Dạo trước, trong hội đèn đêm nguyên tiêu, giết chết công tử Huệ Cập chính là viên tướng này. 

 Trí Cập nghĩ ngợi: 

 - Hà hà! Nơi đánh, cách đánh dẫu có khác. Nhưng diện mạo thì cũng hao hao giống tranh vẽ năm xưa, lại nữa khí giới là một. Chẳng cần phải bàn cãi gì nữa. 

 Hai người quay về doanh trại, kể lại mọi chuyện cho Vũ Văn Thuật nghe. Vũ Vãn Thuật hỏi: 

 - Nay nó là danh tướng Lai Tổng quản, thì hại làm sao được. 

 Trí Cập thưa: 

 - Con có kế này: ngày mai cha hãy ban một trăm lạng bạc, sai gia tướng đem đến thưởng công cho nó. Nhất định nó sẽ tới để tạ ơn. Nó trong trận vừa rồi, có cướp được kim khôi của giặc, nay cứ vu cho tội tư thông với giặc, được mũ rồi mà còn tha giặc, lập tức chém đầu. Đến khi Lai Hoạch Nhi biết ra, thì với cha cùng là bậc đại thần, chẳng còn cách gì để tranh cãi về một kẻ đã chết rồi. 

 Vũ Văn Thuật gật đầu tán thưởng: 

 - Hợp lý lắm! 

 Ngày hôm sau sai kỳ bài quan, đem tiền bạc đến gọi là thưởng cho Thúc Bảo một trăm lạng. Thúc Bảo chỉ lấy bảy tám lạng gọi là, còn bao nhiêu sai bày rượu thịt, chia đều cho mọi người, lại cảm tạ kỳ bài quan khó nhọc nữa. Thúc Bảo chưa quên sự thù hằn giữa mình và cha con họ Vũ Văn, nhưng vẫn nghĩ rằng chưa chắc nhà Vũ Văn đã nhận ra mình, hơn nữa đã có ban thường thì nhất định phải đến tạ ơn. Cho nên ngày hôm sau. Thúc Bảo giao cho Mãnh giữ trại, còn mình cùng với Triệu Vũ, Trần Ký đến tận trướng phủ của Vũ Văn Thuật để tạ ơn. Lúc này doanh trại quân Tùy đang đóng trong vùng núi Bạch Thạch, để chờ đánh vào Bình Nhưỡng. 

 Thúc Bảo đến ngay chỗ ở của Vũ Văn Thuật, lính canh cửa vào báo, thấy kỳ bài quan chạy ra truyền lệnh: 

 - Nguyên soái quân lệnh, Tần tiên phong không cần phải mặc nhung phục, vào trong tương kiến. 

 Vũ Văn Thuật sợ Thúc Bảo mặc nhung phục, đeo giáp cầm kiếm, thì khó mà gần được, nên phải liệu ra lệnh này. Thúc Bảo vốn ngay thẳng, lại nghĩ rằng Vũ Văn Thuật lấy lễ hậu đãi mình, bèn cởi bỏ cân đai võ phục, vũ khí, tiến vào trong trướng. 

 Vũ Văn Thuật ngồi trên cao, hai con đứng hầu hai bên, phía dưới gia tướng xếp hàng rất nhiều đều võ phục nghiêm trang. Thúc Bảo cùng với bọn Triệu Vũ quỳ lạy trước án, Vũ Vãn Thuật không thèm đáp lễ, lên tiếng hỏi: 

 - Nghe nói người xử đôi giản là Tần Quỳnh phải không? 

 Thúc Bảo lên tiếng tự nhận. Vũ Văn Thuật liền quát: 

 - Bắt lấy cho ta! 

 Lập tức phía sau, một bọn cầm dây dợ kéo ùa ra, trói gô ngay Thúc Bảo lại. Thúc Bảo dẫu khỏe đến đâu nữa thì "quả bất địch chúng", lại toàn bọn khỏe mạnh, nên chẳng mấy chốc đã bị bọn chúng trói lại ba bốn vòng, nằm lăn quay ra đất, lớn tiếng gào: 

 - Ta có tội gì? 

 Trần Ký, Triệu Vũ cũng quỳ xuống thưa: 

 - Có nguyên soái bên trên. Tần tiên phong mấy lần lập kỳ công, là cánh tay đắc lực của Lai Tổng quản, chẳng hiểu có tội gì với nguyên soái, xin nguyên soái lượng thứ cho. 

 Vũ Văn Thuật hỏi: 

 - Tần Quỳnh đóng binh lâu ngày ở đất giặc, cùng với giặc giao thông. Trận vừa rồi lấy được kim khôi rồi còn tha cho Ất Chi Văn Đức chạy thoát, tội không thể tha vậy. 

 Triệu Vũ thưa: 

 - Ra trận cướp được kim khôi, chém đầu giặc, hiện đã báo công, nếu chỉ vì nghi ngờ mà hại mất hổ tướng, sợ sẽ làm mất lòng quân. Ngửa mong nguyên soái còn nể mặt Lai Tổng quản! 

 Vũ văn Trí Cập quát: 

 - Chuyện không đính gì đến Triệu Vũ, tạm tha tội cho, Triệu Vũ hãy ra ngay khỏi trướng! 

 Liền sai gia tướng, kéo cả Triệu Vũ, Trần Ký ra ngoài. Triệu Vũ vội quay ngay về doanh trại, định gọi thêm lính, kéo ra cướp pháp trường, nên nói với Trần Ký: 

 - Tướng quân hãy ở đây theo dõi thực hư, ta về sẽ quay lại ngay. 

 Rồi phi ngựa đi ngay. Lúc này ở bên trong, Thúc Bảo không chịu yên, vẫn lớn tiếng chất vấn: 

 - Vô cớ sát hại lương thần, các ngươi không coi phép nước vào đâu cả! 

 Kéo ra kéo vào, lôi thôi mãi gần hai giờ vẫn không xong. Vũ Văn Trí Cập tức mình quát: 

 - Cứ lấy đại đao mà băm nó ra là xong tất! 

 Vũ Văn Thuật lên tiếng: 

 - Cũng cần có văn thư nói rõ tội hình, rồi lôi ra chém ngay đi! 

 Liền gọi quân chính ty, viết tội trạng: 

 "Giao thông giặc ngoài, thất lỡ quân cơ. Phạm nhân Tần Quỳnh đáng tội xử chém. . .” 

 Lôi ngay Thúc Bảo ra khỏi trướng, nhưng Thúc Bảo nhất định không chịu phục. Vũ Văn Hóa Cập liền quát: 

 - Tần Quỳnh! Ngươi là một kẻ trượng phu, ngươi còn nhớ đêm nguyên tiêu năm Nhân Thọ thứ tư chăng? Nay ngươi gặp lại cha con ta, còn kêu ca nỗi gì. 

 Thúc Bảo nghe những lời này, khảng khái lớn tiếng: 

 - Thế thì rõ cả rồi, ra là thế đấy! Ta lúc ấy chính vì dân mà trừ hại. Còn ngươi giờ thì vì con mà báo thù. Nay ta đem đầu ra trả nợ là xong. Chỉ tiếc rằng ơn cha mẹ chưa kịp báo, Cao Ly chưa dẹp được. Thôi thì đi! Tha hồ cho các ngươi băm chém vậy! 

 Liền ngang nhiên đứng dậy, đường hoàng ra khỏi doanh quân. Không ngờ lúc này Triệu Vũ về doanh trại gọi quân lính, đi mới được hai ba dặm, gặp toán quân của hai vị tổng quản họ Lai, họ Chu, đưa hai tổng quản tới dinh Vũ Văn hội họp gì đó, liền vội vàng đón ngay giữa đường, cúi mình bên yên ngựa thưa: 

 - Tần tiên phong bị Vũ Văn Nguyên soái lừa gọi đến, rồi định chém đầu ngay, xin Lai tướng quân đến ngay may ra mới cứu được tính mạng Tần tiên phong. 

 Lai Tổng quản vội hỏi: 

 - Thế là tại làm sao? Ngươi mau đi trước dẫn đường, ta theo ngay! 

 Triệu Vũ giục ngựa chạy trước, Lai Tổng quản đuổi sát theo, tùy tướng cùng binh lính cũng vội đuổi theo như một đàn ong bay theo chúa vậy. Vừa may gặp lúc Thúc Bảo đang ngang nhiên bước ra khỏi quân doanh, Trần Kỳ theo sau. Triệu Vũ vội vàng gào lớn: 

 - Đừng đi nữa! Lai Đại nhân đến rồi? 

 Gọi chưa dứt, ngựa Lai Tổng quản chồm đến, Tổng quản biến sắc mặt quát: 

 - Hà cớ hà do chi mà định hại tướng tiên phong của ta? 

 Rồi sai thủ hạ: 

 - Mau cởi trói cho ta! 

 Lúc này Triệu Vũ, Trần Kỳ, có Lai Tổng quản chủ trương, liền xúm lại cởi trói cho Thúc Bảo. Tay chân của Vũ Văn Thuật thấy Lai Tổng quản nổi giận, cũng không dám ngăn cản. Lúc nãy thì Thúc Bảo khẳng khái chịu chết, nhưng đến lúc này thì lại chẳng còn lẽ nào để cứ cam tâm đòi chết. Lai Tổng quản liền sai Triệu Vũ dẫn ba trăm tinh binh, hộ tống Thúc Bảo trở về doanh trại, rồi kéo lính hộ tống vào quân doanh của Vũ Văn Thuật bàn cãi. Vu Trọng Văn nghe tin với gia tướng kéo đến, cùng Lai Tổng quản, Chu Tổng quản chuyện trò. 

 Vũ Văn Thuật biết Thúc Bảo đã được Lai Tổng quản thả cho về, đành phải mở miệng nói lấp liếm đôi câu: 

 - Lão tướng này mới đến đây, nghe nói Tiền bộ tiên phong sai quân vào Bình Nhưỡng, tư thông với giặc, lão tướng này chưa dám tin. Hôm qua hai tiểu tướng nhà đuổi theo Ất Chi Văn Đức, mấy lần suýt bắt được, thì Tiền bộ tiên phong lấy được kim khôi rồi tha cho Văn Đức chạy mất. Lão tướng này nghĩ: Trước mặt cả đại quân kéo đến, doanh lũy chưa xong, nếu mà Tiền bộ tiên phong tư thông với Cao Ly đến cướp ngay trại, thì họa quả không nhỏ. Cho nên trộm nghĩ, trừ ngay họa lớn bên nách, cũng là nghĩ đến toàn cục làm trọng, mà chưa kịp báo lại cho Lai Tướng quân vậy thôi. 

 Lai Tổng quản cười đáp: 

 - Vũ Văn đại nhân, người nói Tần Quỳnh án binh bất động, nhưng Tần tiên phong đã từng đánh thắng Cao Ly nhiều trận. Lại nói rằng Tần tiên phong giao thông với giặc, thì thử hỏi chứng cớ đâu ra? Còn nói tha cho giặc thì nếu thế, Tần tiên phong đã tha từ lúc ở Áp Lục giang, cần gì phải đợi mãi đến Bạch Thạch sơn kia. Chuyện mũ kim khôi, thì Tần tiên phong đã đem về nộp báo công, không hề lấy làm của riêng mình. Suốt một đời làm quan, hao phí bao nhiêu tâm lực, liệu làm được mấy việc có ích, tìm được mấy người tài, để cùng tận tâm lực giúp nước. Nếu nay mà lại giết Tần Quỳnh, sợ có mang tiếng là đố kỵ, ganh ghét bậc tài năng chăng? Ta và ngài mỗi người cai quản một đội quân khác nhau, nếu ngài giết tướng tiên phong của ta, sợ có phải là ngài đã vượt cả sang quyền hạn của ta chăng? 

 Vũ Văn Thuật chẳng biết trả lời ra sao, đành ngồi yên không nói một lời. Vu Trọng Văn cùng mọi người phải xúm vào khuyên giải: 

 - Vũ Văn đại nhân trong một lúc cũng có quá nóng giận, cho nên chưa kịp hỏi qua Lai đại nhân. Nhưng cũng còn may, chuyện chưa có gì phương hại. Nay là lúc cần phải đồng tâm diệt giặc, đừng nên để xảy ra chuyện mất hòa khí giữa hai bậc đại thần. 

 Chu Tổng quản cũng góp vài lời vun vào, rồi đặt tiệc rượu giải hòa. Lai Tổng quản cũng nể mặt mọi người xung quanh, miễn cưỡng uống mấy chén, rồi cùng Chu Tổng quản ra về. 

 Thúc Bảo ra đón, bái tạ ơn cứu mạng của Lai Tổng quản cùng Chu Tổng quản. Lai Tổng quản sợ Vũ Văn Thuật còn kiếm chuyện hại, liền đưa Vũ Mậu Công thay làm tiên phong, điều Thúc Bảo ra đồn trú ngoài cửa biển. Vũ Văn Thuật, Vu Trọng Văn, bởi lương thực tiếp tế không kịp, lại mắc phải chuyện trá hàng của Ất Chi Văn Đức, nên cũng chẳng thèm báo cho cánh quân Lai Tổng quản biết, rút quân qua sông Tát Thủy, bị quân Cao Ly khắp các thành, các trấn, đem binh đuổi theo, giết chết dược cả Tả đồn vệ đại tướng quân Mạch Thiết Trượng, còn quân lính bản bộ của Vương Nhân Cung, Tiết Thế Hùng đều chỉ còn một nửa. 

 Chỉ riêng quân của Vệ Văn Thăng người ngựa không mất một, các cánh quân còn lại, mười phần không còn một, đại quân kéo nhau chạy về Liêu Đông. Tùy Dượng Đế nghe tin, nổi giận đùng dùng chém đầu giám quân Lưu Sĩ Long, bỏ tù Vu Trọng Văn, bọn Vũ Văn Thuật đều bị cách chức, chỉ riêng Vệ Văn Thăng là được khen thưởng, cùng là hậu tuất cho Mạch Thiết Trượng. Cũng bởi Vũ Văn Thuật chẳng lập được công lao gì gọi là, không dám giở chuyện hại Thúc Bảo nữa. 

 Mãi về sau này, khi ở Giang Đô, Vũ Văn Hóa Cập giết vua Tùy, mới kiếm cách giết hại cả nhà Lai Tổng quản, cũng là do chuyện thâm thù với Tần Thúc Bảo mà có vậy. Nhưng đó lại là chuyện sau này... 

 Quân bộ của nhà Tùy rút về rồi. Lai tổng quản liền ra lệnh lấy hậu quân làm tiền quân. Chu Tổng quân dẫn đầu, Lai Tổng quản đi giữa, Tần Thúc Bảo đi cuối. Cờ dong, trống dóng, pháo nổ, buồm căng. Quân Cao Ly đã từng bị Thúc Bảo đánh thua hai trận, không dám đuổi theo, nên cánh quân này trở về vô sự. về đến Đăng Châu, Thúc Bảo tìm đến Lai Tổng quản xin từ chức. Lai Tổng quản nói: 

 - Tướng quân đã lập được công rất lớn ở Bối Thủy, đã tâu trình được tạm nhận chức Lang Tướng. Nay đem quân về, kiểm điểm mọi chuyện, có thể sẽ được cất nhắc cao hơn. Xin tướng quân đừng đi vội thế! 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Tiểu tướng vốn chỉ muốn ở nhà chăm lo mẹ già, chẳng muốn nghĩ đến chuyện công danh, bởi nguyên soái quá yêu, nên gia sức đền đáp ơn tri ngộ, chứ bản ý không phải chỗ thưởng phạt. Nếu nguyên soái tưởng lệ quá cao, sợ rằng càng làm Vũ Văn Thuật thêm tức tối. Huống chi hiện nay suốt một dải Sơn Đông, giặc cướp hoành hành, ngày đêm lo lắng đến quê nhà, xin nguyên soái rộng ơn, cho Tần Quỳnh này được trở về. 

 Lai Tổng quản không thể thay đổi được ý Thúc Bảo, liền tạm phong cho Thúc Bảo chức Triết xung đô úy Tế Châu, rồi cho vinh quy, nhận việc gần nhà. Lại sai quân trung lấy ra tám mươi lạng bạc, làm tiền rượu, tiền để vinh quy, lấy của riêng hai trăm lạng, đoạn hoa tám tấm để thưởng công. Các tướng quen thuộc trong quân đều có quà tặng, Thúc Bảo bái tạ từ biệt. 

 Chính là: 

 Khi đi con khóc vợ buồn 

 Khi về sáo thổi, trống dồn xênh xang. 

 Thúc Bảo ngày đêm trở về gặp mẫu thân, Trương Thị cùng con trai nhỏ Tần Hoài Ngọc đều mừng rỡ, cả La Sĩ Tín cũng vậy. Thúc Bảo kể lại những chiến công ở Cao Ly, chuyện cha con Vũ Văn Thuật định hại, Lai Tổng quản cứu thoát, nay nhờ ơn Lai Tổng quản trở về làm quan ở Tế Châu, phủ Ủng Dương. Cả nhà nghe kể, đều mừng rỡ không để đâu cho hết. Ngày hôm sau vào thành, bái tạ Trương Quận thừa, bởi những ngày Thúc Bảo đi xa, Quận thừa vẫn thường đem quà cáp đến thăm Tần mẫu, nay thấy Thúc Bảo trở về, có thể cùng hiệp sức dẹp bọn giặc cỏ, giữ yên vùng Tề, Lỗ, tri kỷ gặp nhau, mừng mừng rỡ rỡ. 

 Thúc Bảo chọn ngày tốt, lên đường đi phủ Ủng Dương nhận việc đem theo cả mẹ già, vợ con vào trong phủ đường. Trương Quận thừa lại cũng biết La Sĩ Tín nổi tiếng dũng cảm, liền cho Sĩ Tín làm hiệu úy, sớm tối cùng thao luyện quân sĩ. Từ đó cả ba đồng tâm hiệp lực thêm đô đầu Đường Vạn Nhẫn, Phàn Kiến Uy, giúp đỡ thêm, giết được giặc cướp Vương Bạc ở Trường Bạch Sơn, Hách Hiếu Đức, Tôn Nghi Nhã, Bùi Trưởng Tài ở Bình Nguyên. Bọn này tuy ô hợp, nhưng cộng tất cả cũng lên tới hơn hai mươi vạn tên, vì vậy bọn Thúc Bảo cũng phải gắng hết tài sức mới diệt nổi. Sau nữa có bọn Lư Minh Nguyệt ở Trác Quận, hơn một vạn lâu la, cũng bị Thúc Bảo, Tu Đà cùng Sĩ Tín, bày mưu quét sạch. 

 Từ đó vùng Sơn Đông, Hà Bắc, Hoài Tây, bọn giặc cướp cứ nghe tên Thúc Bảo, Tu Đà đều thất đảm kinh hồn. Tin thắng lợi mấy lần báo về triều đình, vua Tùy thăng Trương Quận thừa làm Tế Châu thông thú, bổ thảo đại sứ ở khắp mười hai đạo của Sơn Đông, Hà Bắc, Thúc Bảo thăng Tả vệ tướng quân, hiệp quản Tế Châu, Ủng Dương phủ sự; La Sĩ Tín thăng Triết xung lang tướng, chuyên trông coi việc tiễu trừ giặc cỏ. 

 Có thể nói là: 

 Một trận, muôn thù khiếp vía 

 Nghìn năm, bốn biển lừng danh. 

 *** 

 Chuyện chia hai mối. Nay nói chuyện Lý Huyền Thúy, Vương Bá Đương, Bính Nguyên Chân, ba người, từ lúc chia tay chú cháu Vương Đương Nhân. Trên đường đi, Huyền Thúy nói với Bá Đương: 

 - Ở chỗ Địch Nhượng binh mã tuy nhiều, nhưng kẻ có thể làm chuyện xung phong phá giặc thì còn ít. Tiểu đệ nghĩ Thúc Bảo cùng Hùng Tín vốn là anh em cốt nhục khác họ của chúng ta, nguyện cùng sinh tử, nay chúng ta tới đây tụ nghĩa, sao lại không báo cho họ một tiếng, mời họ cùng tới nhập bọn thì hay biết bao! 

 Bá Đương đáp: 

 - Thúc Bảo hiện nay đang ở ngoài biên, chỉ có Hùng Tín đại ca là hiện đang ở nhà, nhưng làm sao có thể khuyên đại ca bỏ gia tư điền sản để cùng nhập bọn cho được? 

 Huyền Thúy chắc chắn: 

 - Tiểu đệ đã biết rõ đất này, quen rất nhiều người, cũng chẳng tìm đâu ra bậc hào kiệt đâu. Chi bằng hiền huynh cùng với Nguyên Chân về Ngõa Cương trước, tiểu đệ quay lại gặp Hùng Tín một chuyến, trông vào ba tấc lưỠcủa tiểu đệ, một đêm đàm đạo, nhất định sẽ kéo được Đơn nhị ca cùng tới đây tụ nghĩa, cho thỏa nguyện đi lại lâu nay. 

 Bá Đương đáp: 

 - Nếu đã như vậy, tiểu đệ cùng hiền huynh lấy mười ngày làm hẹn, sau mười ngày mà vẫn không thấy hiền huynh trở về, tiểu đệ sẽ lên đường đi Lộ Châu tìm. Trên đường đi, hiền đệ phải thật cẩn thận, đừng có sinh chuyện, mà lỡ cả việc lớn? 

 Huyền Thúy đáp: 

 - Chẳng cần hiền huynh dặn dò. Tiểu đệ hiểu lắm rồi! 

 Nói rồi, lại vẫn cải trang làm Toàn Chân đạo sĩ, Huyền Thúy quay lại đường cũ. 

 Bá Đương cùng với Nguyên Chân đi hai ba ngày nữa thì về đến Ngõa Cương, gặp lúc Địch Nhượng dẫn quân ra khỏi sơn trại, chỉ còn Từ Mậu Công cùng Lý Như Khuê giữ trại, đón tiếp Bá Đương cùng Nguyên Chân, rồi hỏi: 

 - Lý Huyền Thúy có đến không? 

 Bá Đương liền đem chuyện ở quán rượu Trần gia, Bạch Tửu thôn, đánh thuốc mê cho bọn công sai, bốn người thoát khỏi lưới đầy, Vi Phúc Tự, Dương Tích Thiện chia đường đi lối khác, sau đó Huyền Thúy đi mời Đơn viên ngoại cùng đến tụ nghĩa như thế nào, kể lại đuôi đầu. Mậu Công nghe xong, đập bàn mà rằng: 

 - Không xong rồi! Khéo Huyền Thúy lại rơi vào tay người mất thôi! 

 Bá Đương kinh ngạc hỏi: 

 - Làm sao lại có chuyện thế được? 

 Mậu Công đáp: 

 - Ở nhà Đơn viên ngoại, gần đây tiểu đệ có sai người tới đưa thư của Thúc Bảo, Địch đại ca cũng gửi luôn thư mời Đơn viên ngoại lên Ngõa Cương cùng tụ nghĩa. Không ngờ viên ngoại đã lên đường đưa con gái Đậu Kiến Đức tới Nhiêu Dương, chỉ gửi thư trả lời thôi. Kẻ được sai đi, nói với tiểu đệ rằng: "Tới Nhiêu Dương xong, sẽ về ngay Ngõa Cương, cùng nhau gặp gỡ". Thế là bây giờ, chẳng còn ai ở Nhị Hiền trang. Nay một mình Huyền Thúy tới đó, ngỡ ngỡ ngàng ngàng, làm sao mà không đáng lo cho được? 

 Đang bàn luận, thì thấy Tề Quốc Viễn áp tải lương thảo trở về, mọi người cùng chào hỏi, Mậu Công lên tiếng: 

 - Đêm nay hãy nghỉ ngơi đã, canh năm sáng mai, xin phiền Bá Đương, Như Khuê cùng Quốc Viễn hiền đệ, kén lấy bốn năm viên tiểu hiệu lanh lợi, giả làm khách thương, giấu theo khí giới, đi gấp về Nhị Hiền trang ở Lộ Châu một chuyến. Nếu tìm thấy Huyền Thúy vô sự thì thôi, nếu có chuyện gì, thì phải cứu được Huyền Thúy. Tiểu đệ xin lĩnh người ngựa tiếp ứng. 

 Chẳng biết mọi chuyện ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi Hai

Ham thưởng to, Chiêm Khí Tiên bỏ mạng,

 Bày kế lạ, Đơn Hùng Tín không nhà.

 Thơ rằng: 

 Bạch lang nghìn dậm phất cao cờ (1) 

 Bốn cõi ba kỳ cánh xác xơ 

 Bắt lính trẻ già hoang ruộng đất 

 Thừa cơ trộm cướp loạn nhà mồ 

 Chận đường rắn rết tha hồ béo 

 Dựa núi hùm beo mặc sức vồ miễn cứ non Yên ghi chiến tích (2) 

 Mặc thây trăm họ sống bơ vơ. 

 1 Đường Thi: "Bạch lang Hà Bắc âm thư đoạn". Nhà vua đánh rợ Bắc, bắt được sáu con sói có lông trắng, nhưng binh lính ra đi thì không có tin tức gì về gia đình. 

 2 Non Yên: ở phía Bắc Trung Quốc, vùng Mông Cổ hiện nay. Đời Hán, Đậu Hiến đánh Hung Nô, rồi khắc đá ghi công ở núi này. "Non Yên dù chẳng tới miền (Chinh phụ ngâm). 

 Lại nói Lý Huyền Thúy từ biệt Vương Bá Đương, Bính Nguyên Chân, đi luôn ba bốn ngày, đã tới đất Lộ Châu. Chỉ còn cách Nhị Hiền trang khoảng ba bốn mươi dặm, trên đường bỗng gặp một người, nai nịt gọn gàng, võ khí đầy người, xăm xăm bước lại trước mặt. Người này nhìn Huyền Thúy chăm chú rồi hỏi: 

 - Lý đại huynh, đại huynh ở đâu lại đây? 

 Huyền Thúy giật mình, nhận ra là đô úy dưới trướng Dương Huyền Cảm, họ Chiêm, tên Khí Tiên, Huyền Thúy không thể chối được đành phải trả lời: 

 - Tiểu đệ tới đây tìm một người bạn. 

 Khí Tiên lên tiếng dò hỏi: 

 - Xin có lời mừng Lý đại huynh! 

 Huyền Thúy đáp: 

 - May gặp bạn cũ họ Vương giải cứu cho, nên thoát khỏi nạn lớn. Không biết đại ca tới đây có việc gì? 

 Khí Tiên cũng đáp: 

 - Tiểu đệ tới vùng này thăm một người bạn. 

 Rồi mời Huyền Thúy vào quán uống dăm chén rượu. Huyền Thúy cố từ, hai người chia tay. 

 Vốn Khí Tiên, lúc bọn Huyền Thúy thua chạy, thì ra quy thuận triều đình, được đưa về phủ Lộ Châu làm tay chân thám sát cho đô đầu bắt giặc cỏ: Thấy Huyền Thúy đã đi khỏi. Khí Tiên nghĩ ngợi: "Thằng này lúc còn trong trướng Dương Huyền Cảm, làm mưa làm gió một thời, thế mà vẫn còn có ngày nay, thấy ta là người cùng bọn với nhau cả, mà chuyện trò vẫn cứ gượng gạo, giữ gìn thật đáng ghét. Ta định lừa y vào quán tìm cách trói lại, nhưng y hình như đánh hơi ra nên khôn tránh mất. Ta phải ngầm sai người theo sát, xem y vào hang ổ nào, rồi về phủ đường trình báo, cho lính tráng kéo đến bắt nạp quan, nhất định ta lập công đầu, lại được cả tiền thưởng nữa. Chuyện mua bán có lời như thế này, quyết không thể rơi vào tay người khác được". Tính toán đâu đó, liền gọi thêm một kẻ tay chân vẫn lảng vảng gần đó, rồi cả hai kín đáo theo sau Huyền Thúy. 

 Huyền Thúy sau khi gặp Khí Tiên, tuy đã mỗi người một đường, nhưng vẫn thấy hốt hoảng, vội vàng đi nhanh tới Nhị Hiền trang. Lúc này đã hoàng hôn, cổng trang trại đã đóng kín, lặng lẽ không một bóng người. Huyền Thúy lên tiếng gọi nhiều lần, mới thấy bên trong có tiếng người đáp, rồi ánh đèn chiếu sáng, cửa mở. Huyền Thúy lâu nay vẫn thường qua lại Nhị Hiền trang, nên bọn người nhà đều biết rõ mặt, thấy Huyền Thúy, người đầy tớ lên tiếng chào: 

 - Thì ra Lý đại nhân, xin mời đại nhân vào! 

 Rồi đóng ngay cửa lại, dẫn Huyền Thúy vào nhà. Huyền Thúy hỏi: 

 - Viên ngoại có nhà, phiền bác vào thưa hộ! 

 Người đầy tớ đáp: 

 - Đơn đại nhân không có nhà, đã đi Nhiêu Dương rồi. Xin Lý đại nhân chờ cho, tiểu nhân sẽ báo Tổng quản ra tiếp. 

 Nói xong liền vào nhà trong. 

 Trong Nhị Hiền trang, Hùng Tín có một viên tổng quản, cũng họ Đơn, tên Toàn, khoảng hơn bốn mươi tuổi, vốn là người thành thực lại nhanh nhẹn, tháo vát, từ nhỏ đã theo hầu phụ thân Hùng Tín, nên Hùng Tín cũng coi Đơn Toàn như anh em vậy, công việc lớn nhỏ trong nhà đều do Đơn Toàn sắp đặt. Một lát sau, thấy một dứa trẻ, cầm đèn soi cho Đơn Toàn đi ra, đặt chiếc đèn lên bàn, lấy chiếc đèn cũ đem vào trong. Đơn Toàn thấy Huyền Thúy liền lên tiếng: 

 - Nghe nói Lý đại nhân cùng theo khởi sự với Dương đại nhân, việc chẳng như ý. Đâu đâu cũng thấy vẽ hình đại nhân, treo cao trên bảng, để nơi nơi tìm bắt đại nhân. Thế mà sao đại nhân lại một thân một mình tới đây cho được! 

 Huyền Thúy liền đem mọi chuyện trước sau kể một lượt, rồi hỏi: 

 - Viên ngoại đi Nhiêu Dương có việc gì? 

 Đơn Toàn thưa: 

 - Bởi Đậu Kiến Đức sai người đến đón con gái, lúc đầu viên ngoại hứa sẽ tự đưa đi, cho nên cùng Đậu tiểu thư đi Nhiêu Dương rồi. 

 Huyền Thúy hỏi tiếp: 

 - Chẳng biết bao giờ trở về? 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Viên ngoại tới Nhiêu Dương xong, lại còn đến chỗ Địch Nhượng ở Ngõa Cương nữa kia. Chẳng là Địch đại nhân mới đây đã có thư mời viên ngoại. Viên ngoại cũng có đáp lời, sau khi tới Nhiêu Dương, sẽ Tìm ngay đến Ngõa Cương gặp gỡ. 

 Huyền Thúy lại hỏi: 

 - Địch Nhượng cùng với viên ngoại đây là chỗ quen cũ hay cũng chỉ mới quen gần đây? 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Trước đây Địch đại nhân cũng có nhiều việc phiền toái, đều được viên ngoại chu toàn, nên cũng bạn bè từng giao bái. 

 Huyền Thúy nói: 

 - Thì ra là thế. Ta tìm đến đây, cũng chỉ là để rủ viên ngoại cùng đi Ngõa Cương tụ nghĩa, chỉ tiếc là đến quá chậm. 

 Đơn Toàn hỏi: 

 - Lý đại nhân về Lộ Châu lần này, có gặp ai người quen trên đường không? 

 Huyền Thúy đáp: 

 - Suốt dọc dường chẳng gặp ai cả. Chỉ gần đây có gặp người cùng chỗ trước đây với Dương Huyền Cảm là đô úy Chiêm Khí Tiên, tay này nhân Huyền Cảm thất bại, đã quy phục triều đình. Không hiểu nó tới đây làm gì, chỉ mới nói vài câu, nhưng có vẻ đáng ngờ lắm! 

 Đơn Toàn nghe xong, nhíu đôi lông mày: 

 - Nếu có chuyện như vậy, xin mời đại nhân vào thư phòng bên trong này, ta bàn một chút mới được! 

 Hai người cầm đèn, lần theo khắp lối ngang lối dọc vào thư phòng phía sau. Lúc Hùng Tín ở nhà, rất ưu ái bạn bè, nên thường dẫn tới phòng này nghỉ ngơi. Huyền Thúy vào, đã thấy hai người đầy tớ bày tiệc rượu ra bàn. Đơn Toàn lên tiếng: 

 - Đại nhân cứ uống thong thả, tiểu nhân có chuyện muốn thưa. 

 Nói rồi rót rượu ra chén, quay lại nói với hai người đầy tớ: 

 - Một người hãy vào ngay nhà trong, thưa với bà chủ, lấy cái khóa cổng sau, thắp đèn lên gọi tất cả những người làm công trong trang trại lại, ta có chuyện cần nói. 

 Vừa nói, Đơn Toàn vừa đi vào nhà trong. Nếu ở trong một nhà khác Huyền Thúy còn có thể ít nhiều nghi ngại, nhưng ở đây, tuy Hùng Tín không có nhà, lại biết rõ Đơn Toàn vốn là viên quản gia tháo vát, tin cẩn, nên cũng yên tâm như ở nhà mình. Bụng vừa đói vừa khát, nên mặc kệ mọi chuyện, ăn uống thật no say, đang định đứng dậy, thì thấy Đơn Toàn vào nói: 

 - Viên ngoại không có nhà. Xin Lý đại nhân cứ tự nhiên, ngủ ngay ở trong phòng này cho tiện có câu chuyện muốn thưa: cái người mà đại nhân mới gặp họ Chiêm kia, nếu là người tốt, thì thật là ơn trời đất, mọi chuyện đều yên ổn cả, nhưng nếu là người xấu, thì đêm nay chẳng được ngủ yên, nhất định có cuộc chạm trán gay go chứ chẳng không đâu! 

 Huyền Thúy chưa kịp đáp, người đầy tớ lúc nãy quay lại thưa: 

 - Tổng quản, ngoài cổng có người gọi rồi! 

 Đơn Toàn vội chạy ra, trèo lên chòi cao nhìn ra, thấy đến gần hai chục người lố nhố, trong đó thấy cả bóng ngựa, lại có cả bóng viên tuần kiểm, còn một viên dáng quan nha nhưng không nhận ra, liền gọi đầy tớ mở cổng, cho cả bọn ùa vào. Đơn Toàn cũng vừa kịp gọi gần hai chục gia đinh ra tiếp. Viên tuần kiểm nhận ra Đơn Toàn, liền hỏi: 

 - Viên ngoại có nhà không? 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Viên ngoại đã về Tây Hương thu tô vụ này rồi. Chẳng hiểu ngài tuần kiểm có việc gì, mà đêm hôm cũng "giáng hạ" thế này? 

 Tuần kiểm chỉ tay đáp: 

 - Đây là đô đầu Chiêm đại nhân, đô đầu nói có tên trọng phạm là Lý Mật, hiện đang trốn trong trang trại, vốn triều đình đang có lệnh tróc nã, cho nên chúng ta cùng đến bắt. Quan bác vốn là tổng quản, phải biết những chuyện này, có giấu cũng chẳng được đâu, hãy nói cho thực! 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Sao lại có chuyện này dược, chủ nhân chúng tôi không quen biết ai là Lý Mật cả, huống chi chủ nhân chúng tôi lại đã ra đi ba bốn ngày hôm nay rồi. Chúng tôi phải giữ gìn trang trại theo như lời dặn, sao lại dám giấu kẻ phạm tội, gây họa cho viên ngoại! 

 Khí Tiên căn dặn: 

 - Vừa mới ngày hôm nay, Lý Mật tới Lộ Châu này, chính ta đã gặp, sai anh bạn họ Vương này theo sau, thấy vào đây, gọi cổng rồi vào nhà hẳn hoi, nhất định là ẩn trốn ở trong trang trại này thôi! 

 Đơn Toàn nghe nói vậy, hai mắt long sòng sọc lớn tiếng: 

 - Ngài lại nói chuyện không có rồi. Ngày hôm nay ngài gặp Lý Mật, tại sao ngay lúc ấy ngài không trói ngay đem lên quan mà lĩnh thưởng, sao lại để Lý Mật chạy mất vào đây gọi cổng, cho nên cùng kéo đến bắt, thì bằng chứng đâu ra. Nay vô ảnh vô bằng, lại định kéo vào phá nhà, chủ nhân đây cũng bậc anh hùng hảo hán, chẳng sợ phường vu oan giá họa đâu! 

 Khí Tiên còn định đôi co nữa, thì thấy trong nhà lại kéo ra đến hơn chục trai tráng to cao khỏe mạnh, mặt mày dữ tợn. Viên tuần kiểm lại nghe Đơn Toàn nói thế, nghĩ ngay tới Hùng Tín không phải là kẻ tầm thường, hàng ngày vẫn có đi lại, quà cáp thường xuyên, tội gì mà dây vào chuyện này, nên đổi giọng phân bua: 

 - Chúng ta cũng chỉ vì chuyện quan hệ đến bản phủ, nên lại hỏi cho rõ ràng, nếu không có, thì chẳng có gì phải kinh động cả. 

 Viên tuần kiểm định quay ra, Đơn Toàn nói: 

 - Ngài tuần kiểm nói thế thật có lý có tình, xin chờ chủ nhân chúng tôi về, nhất định sẽ tới hậu tạ ngay. 

 Rồi đưa tiễn ra cổng, ai nấy lên ngựa. Đơn Toàn sai đầy tớ khóa chặt cổng lại. Huyền Thúy vẫn chưa an tâm, chạy ra nhìn theo qua chỗ tường hoa, thấy bọn quan quân đã kéo nhau đi, mới thư thả quay vào tạ ơn Đơn Toàn: 

 - Tổng quản, nhờ có Tổng quản cứng lý, mà ta lại thoát khỏi nạn này nữa, nếu rơi vào tay người khác, thì có khi lại bị bắt trói rồi. 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Chỉ có mấy câu mà bọn chúng chịu đi, chỉ sợ chúng lại còn kéo đến cũng chưa biết chừng. 

 Ngoài cổng lại có tiếng người gọi, Huyền Thúy vội vàng lẻn vào bên trong. Đơn Toàn vội chạy ra phía sau cổng xem xét, nghe tiếng người bên ngoài, nhận ra tiếng Vương Bá Đương ở Tế Dương, Đơn 

 Toàn lên giọng can đảm, hỏi: 

 - Canh ba nửa đêm, ai còn đứng đó gọi cửa? 

 Bá Đương ở ngoài liền đáp: 

 - Ta là Vương Bá Đương đây. Tổng quản mở cổng ngay ra đi! 

 Đơn Toàn chạy lại mở cổng, thì thấy Bá Đương, Lý Như Khuê, Tề Quốc Viễn cùng năm sáu tiểu hiệu ùa vào, tất cả đều giả trang khách thương. Đơn Toàn cất tiếng hỏi: 

 - Ba vị sao lại tới vào lúc khuya khoắt như thế này? 

 Bá Đương cũng hỏi: 

 - Viên ngoại không có nhà phải không? Ta cần biết ngay Lý Huyền Thúy có đến đây không? 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Lý đại nhân hiện đang ở đây. Xin mời các vị vào trong này ngay. 

 Rồi soi đèn đưa vào thư phòng phía sau. Huyền Thúy trông thấy, kinh ngạc hỏi: 

 - Sao đến cả vào lúc nửa đêm thế này? 

 Bá Đương đem chuyện đến Ngõa Cương, gặp Từ Mậu Công, bàn bạc ra sao, Mậu Công xếp đặt thế nào kể một lượt. Còn Huyền Thúy lại đem chuyện gặp Chiêm Khí Tiên, chuyện tuần kiểm đến khám xét thế nào cũng kể rõ. Quốc Viễn nghe xong gầm lên: 

 - Cái thằng giặc già này, liệu đầu nó bọc sắt hay sao mà dám tới đây tìm bắt người? 

 Đơn Toàn dẫn một loạt tôi tớ bưng rượu thịt cơm nước bày ra bàn, mời bốn vị ngồi vào, lại nói với mấy viên tiểu hiệu: 

 - Còn các anh em, xin mời ra nhà ngoài uống rượu thật tình. 

 Rồi gọi đấy tớ dẫn bọn tiểu hiệu ra. Đơn Toàn liền nói với bốn người: 

 - Có bốn vị ở trên, vừa rồi họ Chiêm sát khí đằng đằng, nhất định chưa chịu bỏ cuộc, sớm muộn gì cũng sẽ quay lại, chúng ta phải đối phó ra sao bây giờ? 

 Bá Đương đáp: 

 - Giờ khoảng canh ba canh tư gì đó, chúng ta hãy chờ tới sáng, nếu không có người tới làm rầy, thì sẽ cùng Huyền Thúy quay về Ngõa Cương. Nếu vẫn có người tới thăm, xem họ nhiều ít ra sao, đối phó mới hiệu quả. 

 Đơn Toàn thưa: 

 - Thế cũng được! 

 Bá Đương cùng mọi người mời Đơn Toàn lấy thêm ghế cùng ngồi uống rượu, chẳng mấy chốc đã nghe gà gáy sáng. Như Khuê nói: 

 - Đến giờ mà chẳng thấy thằng nào đến sách nhiễu, thì có lẽ chẳng có chuyện gì đâu. Mau mau đem cơm rượu ăn no rồi lên đường là xong. 

 Ai nấy vừa cơm nước xong, nai nịt để lên đường, đầy tớ canh cửa hoảng hốt vào thưa: 

 - Bên ngoài tiếng ngựa hý vang, như có người ngựa đang kéo về phía cổng trang trại ta. Xin mời các đại nhân ra xem sao! 

 Đơn Toàn nghe nói, cùng Bá Đương trèo lên chòi cao, cẩn thận nhìn ra, có đến ba bốn chục người ngựa, bốn năm chục bộ binh, đang kéo vào cổng trại. 

 Thì ra Khí Tiên thấy viên tuần kiểm rút lui, trong lòng tức tối, về ngay thành Lộ Châu báo cho Tiết Tri phủ, tri phủ liền sai ngay phủ thừa cùng đến lục soát Nhị Hiền trang. Viên phủ thừa này họ Bàng, tên Hiếu Thiện, còn có tên là Bàng Tam Hiệp. Phàm tội nhân mà đến tay Hiếu Thiện, chẳng luận đúng sai, phải trái, đều đánh cho ba hiệp côn đã. Vốn cũng là xuất thân khoa bảng, từng đậu tam giáp tiến sĩ, vì vậy mọi người xung quanh mới đặt cho tước hiệu Bàng Tam Hiệp, cũng hám lợi một phường. Mới nghe lệnh lên đường bắt trọng phạm, ngay đêm điểm binh mã, ra khỏi thành, kéo về Nhị Hiền trang. 

 Bá Đương cùng Đơn Toàn xuống chòi cao, đi vào nhà sau, Huyền Thúy hỏi Đơn Toàn: 

 - Tổng quản, trang trại có bao nhiêu tráng đinh? 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Cầm được khí giới, chỉ hơn hai chục người. 

 Huyền Thúy bàn: 

 - Như Khuê cùng với Quốc Viễn, hai hiền đệ dẫn số tráng đinh này, ra khỏi trang trại bằng cửa sau, chờ cho binh lính xuống ngựa, nhân lúc sơ ý hoặc hỗn loạn, hãy giấu số ngựa này đi. 

 Rồi quay lại nói với Đơn Toàn: 

 - Tổng quản, ta biết trong trang trại này có một hầm lớn đến ba bốn gian, tổng quản hãy vào ngay đặt ván sàn xuống, lắp các bộ phận máy móc cho cẩn thận, chờ cho chúng nó vào đây, dẫn vào mấy gian đó, lật nhào tất cả xuống hầm này là gọn nhất. 

 Đơn Toàn theo lệnh vội vào xếp sắp bên trong, Huyền Thúy cùng Bá Đương nai nịt gọn gàng, cầm đoản côn, đoản đao trong tay, những thứ này thì trong Nhị Hiền trang có rất nhiều. Lát sau, Đơn Toàn lại mang thêm khí giới, ai nấy tự trang bị thêm cho mình. 

 Huyền Thúy lên tiếng: 

 - Thế là sẵn sàng cả rồi. Giờ chỉ cần một người nào lanh lợi chạy ra mở cổng dụ chúng nó vào nữa là xong. 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Việc này tiểu nhân xin nhận là hợp hơn cả! 

 Đơn Toàn nai nịt gọn gàng, khoác thêm một áo thun xanh, rảo bước ra cổng, mở cửa lớn. Bọn lính tráng ùa vào, theo sau là Bàng Tam Hiệp, vào nhà, ngồi ngay vào chiếc ghế dựa, rồi lớn tiếng quát: 

 - Gọi ngay quản gia tới đây? 

 Bọn tay chân lôi Đơn Toàn tới, chỉ cho Đơn Toàn quỳ xuống, Tam Hiệp nạt: 

 - Trang trại sao dám giấu kẻ trọng phạm Lý Mật, mau đem ra đây nạp cho bản quan! 

 Đơn Toàn thưa: 

 - Người thì có thật, tối hôm qua có ngủ ở đây, nhưng có phải Lý Mật hay không phải Lý Mật, thì tiểu nhân quả không biết. Hiện nhốt ở trong phòng phía tây kia. Nhưng chẳng làm gì được hắn cả, ai lay cũng chẳng động. Xin quan lớn dẫn theo lính tráng, vào trói chặt hắn lại mà lôi ra, đừng để hắn chạy mất. 

 Tam Hiệp lại vặn: 

 - Chủ ngươi đâu, sao không thấy mặt? 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Chủ nhân trong nhà sau, vẫn còn chưa dậy. 

 Tam Hiệp liền quát bọn bộ binh: 

 - Các ngươi mấy đứa, theo quản gia vào bắt trói phạm nhân lôi ra đây. Rồi gọi chủ trại ra gặp ta. 

 Tụi lính tráng, thấy quan phủ quát vào bắt người, chẳng kể nhiều ít, xăn tay áo, sùng sục tiến vào, khác gì một bầy ong dữ, có đến hơn hai mươi đứa, theo sau Đơn Toàn tiến vào phòng phía tây. Vào đến phòng có ván lát, cả bọn xúm lại đông đủ. 

 Đơn Toàn lên tiếng: 

 - Xin các vị nhẹ nhàng cho, đến nơi rồi! 

 Bỗng phía trước có kẻ la lối: 

 - Không xong rồi! Làm sao mà sàn nhà lại như muốn lật thế này? 

 Nói chưa hết câu, chỉ nghe những tiếng động mạnh liên tiếp, cả người, cả vật dụng đều theo nhau lăn xuống hầm sâu, bọn đi sau cũng đều lăn nhào xuống hầm nốt. Ngoài nhà chỉ còn lại phủ thừa cùng bọn mã binh, đang xem xét trong ngoài, nhìn nhìn ngó ngó bỗng nghe một tiếng mõ lớn, hai cánh cửa nhà kho mở rộng, mười sáu mười bảy trai tráng to cao dữ tợn xông ra, thương dài, búa lớn, cứ thế chém bừa. Tam Hiệp vội vàng bỏ chạy ra cổng, bốn năm chục mã binh vội rút dao nghênh chiế, nhưng không đánh nổi bọn Bá Đương. Bọn này thấy yếu thế, đều bỏ chạy ra cổng, mong nhảy lên ngựa bỏ chạy, nhưng ngựa nào còn, mà lại gặp một toán dữ tợn khác, búa lớn trong tay, có đến hơn chục người, xông vào đâm chém. Quan quân trước sau đều bị đánh, liệu thế chẳng xong, thằng nào còn sống đều quỳ gối chịu trói. Huyền Thúy lớn tiếng: 

 - Các ngươi chẳng có can hệ gì đến chuyện này. Chúng ta tha cho cả bọn, hãy tìm đường mà cút ngay. Nhưng còn vị quan phủ, cùng với thằng giặc họ Chiêm sao lại không thấy đâu cả? 

 Một gia đinh mách: 

 - Vừa rồi bị một vị đại nhân chém cho một búa rồi? 

 Thì ra Quốc Viễn cùng Như Khuê đem bọn gia đinh ra phục ở ngoài rừng trúc, thấy Khí Tiên cưỡi ngựa, dẫn bọn lính giữ cửa, thì một gia đinh chỉ: 

 - Chính thằng giặc này đây, cầm đầu một bọn, tối qua cùng với tuần kiểm đã tới một lần rồi. 

 Quốc Viễn thấy nói thế, chẳng nhịn được, từ trong rừng trúc rậm rạp nhảy ra hét lớn một tiếng, Khí Tiên giật mình hoảng sợ, ngã lăn quay xuống ngựa. Quốc Viễn cho ngay một búa, tính mạng đi đời. 

 Huyền Thúy sợ còn có tên lính nào trốn trong trại, cùng mọi người tra xét một vòng, lại thấy được một người mặc áo bào màu hồng, đang nấp kín dưới rãnh nước. Đơn Toàn chỉ tay nói: 

 - Đây đúng là quan phủ thừa Bàng Tam Hiệp rồi! 

 Quốc Viễn lôi Tam Hiệp lại, cười nói: 

 - Mày có phải là Bàng Tam Hiệp không? Nay các bố già của mày đổi tên là Bàng Nhất Đao cho mày nhé! 

 Rồi búa giơ lên, bổ làm hai đoạn. Đơn Toàn gọi tráng đinh, đem hai ba chục con ngựa, dắt vào chuồng. Còn bao nhiêu xác chết thì khiêng ra ruộng, đào một hố lớn, vứt xuống, lấp đất lại sơ sài. Huyền 

 Thúy gọi gia đinh, trói tất cả bọn lính tráng còn sống, đẩy cả bọn xuống hầm sâu, vứt đất đá lấp kín. Mọi thứ thu thập xong xuôi, đóng chặt cổng trang trại lại. 

 Mọi người đều tụ tập ở nhà lớn. Huyền Thúy liền nói với Đơn Toàn: 

 - Tổng quản, ta đến đây gặp viên ngoại, lại làm nên chuyện tầy đình thế này. Nay các ngươi không thể nào yên thân ở đây được rồi, cuối cùng thì viên ngoại cũng sẽ về Ngõa Cương. Tốt nhất, ngươi nên nói với bà chủ trang trại biết rõ. Rồi tức tốc thu thập tế nhuyễn, cùng chúng ta tới Ngõa Cương, tạm náu ít lâu, xem tình hình sau này ra sao sẽ định đoạt. Trong trại của Địch đại nhân có rất nhiều các gia quyến kéo đến, cũng chẳng sợ lẻ loi đâu, không biết ý của tổng quản thế nào? 

 Đơn Toàn cũng không biết nói thế nào, đành vào nhà trong bàn bạc một hồi. Đơn Hùng Tín lại còn người chị dâu góa chồng, là vợ của Đơn Thông, cũng ở trong trang trại. Còn vợ của Hùng Tín là Thôi Thị, cùng con gái là Ái Liên, cộng chỉ có ba người, tính cả các bà già, các cô gái hầu, thì cũng khoảng hơn hai mươi người, đều lên các xe ngồi. Sắp xếp đâu đó, Đơn Toàn lại gọi tráng đinh, đem sáu bảy con ngựa tốt của trang trại, cộng với hơn hai chục ngựa của bọn lính tráng Lộ Châu, cho ăn uống no nê rồi chia cho tráng đinh, cùng là các loại khí giới tùy thân. Huyền Thúy chia cho Đơn Toàn cùng Lý Như Khuê đi sát bảo vệ bảy tám xe ngựa, làm hậu đội. Tự mình cùng Bá Đương, Quốc Viễn và bọn tiểu hiệu làm tiền đội. Rồi đóng chặt các cửa cổng trong trang trại lại, tất cả lên ngựa khởi hành, nhằm Ngõa Cương mà tới. 

 Chính gọi là: 

 Biết rằng không bạn chẳng bầu 

 Trong cơn nước lửa, cầm đầu bước theo. 

 *** 

 Lại nói chuyện Hùng Tín đưa con gái của Đậu Kiến Đức là Tuyến Nương lên đến Nhiêu Dương, Kiến Đức vô cùng mừng rỡ. Lúc này Kiến Đức đã có trong tay bảy tám quận huyện, binh mã dưới trướng cũng ở số dư vạn, lại rất được lòng dân chúng, quy mô ngày một lớn, nên cố sống cố chết giữ Hùng Tín lại cùng hành sự với mình. Hùng Tín cũng bởi Địch Nhượng là chỗ bạn bè rất thân cũ, đã viết thơ mời, lại nữa ở Ngõa Cương bạn bè tâm đầu ý hợp rất nhiều, thứ ba là Ngõa Cương gần Lộ Châu hơn, nên dễ bề nhìn ngó Nhị Hiền trang, ý đã định thế, nên ở lại hai ba ngày, lấy cớ ở nhà có việc cần, liền từ biệt Kiến Đức. Kiến Đức thành tâm lưu lại khoản đãi, nhưng thấy Hùng Tín vẫn giữ ý, liền đem lại nghìn lạng vàng tặng. Hùng Tín tạ biệt Kiến Đức, cùng ba bốn tên người nhà, rời khỏi Nhiêu Dương, đi về Ngõa Cương. 

 Đi được mấy ngày, vì giặc cướp như ong, dân chúng phu dịch nặng nề, làng xóm tan hoang, nhà cửa đóng im ỉm, đến một quán cơm cũng chẳng tìm ra. Hôm ấy, cả đoàn Hùng Tín đi đã được sáu bảy mươi đậm, nhìn mặt trời đã sát núi tây, chẳng sáng nữa mà cũng chưa tối, Hùng Tín ngồi trên ngựa nói với bọn người nhà: 

 - Phải tìm ngay một nơi nào nghỉ ngơi mới xong. 

 Người nhà, tên là Tiểu Nhị, tuổi cũng chỉ mới mười bẩy, chỉ tay mà nói: 

 - Hình như trong lùm cây rậm rạp kia có nhà, xin để tiểu nhân đến xem sao! 

 Tiểu Nhị phi ngựa lên phía trước, thì quả là có nhà, men theo dãy đê dương liễu dài thấy có hai ba gian nhà ngói, phía sau là một rừng trúc, thấp thoáng là một thủy đình, cửa ngoài khép kín. Tiểu Nhị gõ liên tiếp, cửa mở ra, thì thấy một bà già, nhìn kỹ Tiểu Nhị, liền cất tiếng: 

 - Cháu có phải là Kim Tiểu Nhị không? Nghe nói lâu nay cháu đi giúp việc cho Đơn viên ngoại ở Lộ Châu, sao lại ở đây? 

 Tiểu Nhị cũng nhìn một hồi lâu rồi mừng rỡ: 

 - Thì ra là bà ngoại. Cháu cùng Đơn viên ngoại đi đến đây, trời đã tối sợ phía trước tìm không ra nhà ở, nên mới tìm đến đây xin trọ một đêm, ai ngờ lại gặp được bà. 

 Đang nói, mọi người đã kéo đến cổng, Hùng Tín xuống ngựa, ngồi ngay xuống phiến đá lớn trước cổng. Bà già vào bên trong không lâu thì một người trai tráng cao lớn đi ra, thấy Hùng Tín dung mạo khác thường, cử chỉ hiên ngang, thì lấy làm ngạc nhiên, liền chắp hai tay, lễ phép hỏi: 

 - Lộ Châu có Đơn viên ngoại, có phải là ngài chăng? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Không dám! Chính là Hùng Tín này đây! 

 Chàng trai liền mời vào thảo đường, rước ngồi đâu đấy rồi nói: 

 - Ngưỡng mộ đại danh viên ngoại đã lâu, nay mới gặp. Không biết có việc gì mà viên ngoại lại qua vùng này? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Hùng Tín này nhân đi thăm một người bạn, chỉ sợ phía trước không hàng quán, cho nên làm phiền đến gia quyến, xin ngủ nhờ một đêm, không biết có được chăng? 

 Chàng trai đáp: 

 - Chuyện này thì có gì đáng ngại, chỉ ngại nhà cỏ vách đất, chẳng xứng nơi cho viên ngoại đặt giường thôi! 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Nói chuyện mãi mà quên hỏi. Xin được biết qu tính cao danh bậc hảo hán? 

 Chàng trai liền đáp: 

 - Kẻ bất tài này họ Vương, tên Đương Nhân. 

 Hùng Tín tiếp: 

 - Chúng tôi có một người bạn, gọi Vương Bá Đương, hiền huynh lại có tên Vương Đương Nhân. Hình dáng trông giống nhau như anh em. 

 Đương Nhân hỏi: 

 - Có phải Vương Bá Đương ở Tế Dương không? Thế thì cũng là chỗ quen biết cả. Cách đây không lâu cũng có ghé vào tệ gia vậy. 

 Hùng Tín nói: 

 - Thì ra cũng là chỗ họ hàng cả. Bá Đương đi một mình hay đi với nhiều người? 

 Đương Nhân đáp: 

 - Cùng đi với Lý Huyền Thúy, còn một người nữa, họ Bính. 

 Hùng Tín vui mừng nói: 

 - Hùng Tín này cũng đang tới Ngõa Cương để gặp bọn họ đây. 

 Đương Nhân cũng vui không kém: 

 - Viên ngoại cũng đi Ngõa Cương sao? Thật hay quá, hiện đang có chuyện muốn nói, xin đợi tiểu đệ mời Vương bá ra ngoài này đã. 

 Chẳng mấy chốc đã thấy Vương ông ra, tay cầm bình trà, cùng chào lạy rồi mời Hùng Tín ngồi. Uống dăm chén trà xong. Vương ông đem việc Bá Đương, Huyền Thúy đến nhà, ngủ một đêm, rồi Huyền 

 Thúy định sẽ nhân duyên ra sao, kể suốt một lượt. Hùng Tín nói: 

 - Huyền Thúy nhiều năm lưu lạc giang hồ, không ngờ lại đến Vương lão đây định duyên Tần Tấn, thế là toại nguyện chuyện gia thất. 

 Vương ông thấy nói thế, liền thở dài: 

 - Cháu gái được hứa hôn với Lý công tử, sự vinh nhục một đời đều gửi cả vào công tử. Nhưng nay lại xảy ra chuyện đáng lo khác. Chẳng là đầu lĩnh Chu Xán ở Hào Châu bất ngờ qua đây, cháu gái đang quét tước trước cổng, đầu lĩnh nhìn thấy, đưa vàng ngọc ra làm lễ vật đòi lấy bằng được cháu đem về làm áp trại phu nhân, hẹn đầu tháng sau sẽ tới rước dâu. Nay già này lại phải sai cháu đến báo với Lý công tử, vừa đi vừa về cũng mất bảy tám ngày. Nếu cả nhà đi Ngõa Cương cả, lại sợ xảy ra chuyện lôi thôi ở dọc dường. Thật hai ngã đều rầy rà vậy? 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Gia quyến lão trượng hiện có mấy người? 

 Vương ông đáp: 

 - Hai thằng con trai, mấy năm trước bị quan bắt đi đào sông, đến nay một đứa cũng chẳng thấy về, vợ hèn thì đã mất từ lâu, chi còn mỗi đứa con gái với thằng cháu gọi bằng bác vừa rồi thôi! Ngoài ra có hai bà già giúp việc cơm nước, cả thảy chỉ năm người thôi mà! 

 Hùng Tín bảo: 

 - Nếu như thế, lão trượng vào nói với lệnh ái thu thập của cải riêng tư, sáng mai tất cả đi sớm. Hùng Tín này sẽ đảm đương việc đưa cả gia quyến lão trượng tới Ngõa Cương gặp Huyền Thúy có được không? 

 Vương ông nghe nói thế, mừng rỡ vô hạn: 

 - Nhờ tình sâu, ý tốt của viên ngoại, xin để già này gọi con gái ra bái chào! 

 Lúc này Đương Nhân cùng Tiểu Nhị đã lục đục bày biện cơm rượu ra bàn, sắp nâng chén, Vương ông dẫn Vương Tuyết Nhi ra chào Hùng Tín: 

 - Cháu gái ra chào viên ngoại. 

 Hùng Tín đưa mắt nhìn, thì quả là mày thanh mắt sáng, khuôn trăng đầy đặn, tuy mặc quần áo thôn nữ, nhưng khiến khách anh hùng hồn xiêu phách lạc. Hùng Tín đáp lễ, Vương ông cùng Đương Nhân nào dám thế, cũng phải để Hùng Tín trả bốn vái. Vương ông để Đương Nhân ngồi tiếp Hùng Tín, tự mình ngồi cạnh, thỉnh thoảng mời Hùng Tín thêm một chén, hoặc sai bảo người nhà. 

 Sáng hôm sau, tất cả dậy sớm, thu thập đồ đạc, quần áo, chất lên xe, đến sáng rõ thì lên đường. Vương ông dành một xe trâu lớn, để Tuyết Nhi cùng hai bà già giúp việc ngồi. Còn mình thì ngồi một xe nhỏ hơn, đôn đốc mọi người. Đương Nhân đi bộ cho tự do. Hùng Tín sai tay chân xây bịt kín cổng, thấy Đương Nhân đi bộ, cũng không chịu lên ngựa. Đương Nhân nói: 

 - Xin viên ngoại đừng câu nệ, tiểu đệ đi bộ đã quen, lại càng thêm khỏe chân vậy. 

 Cả hai nhường nhịn một hồi, Hùng Tín liền lên ngựa đi trước. 

 Đi được ba bốn ngày, tới đất Ngõa Cương, Hùng Tín sai hai người nhà: 

 - Hãy lên trước xem xét sự thể ra sao, Địch Nhượng, Bá Đương cùng Huyền Thúy ở chỗ nào, chúng ta sẽ từ từ theo sau, chờ các người quay lại đón nhé! 

 Không bao lâu, thấy hai người nhà quay lại thưa: 

 - Các vị đầu lĩnh đều đang ở trại lớn, nghe nói viên ngoại tới, đều lên ngựa ra đón. 

 Từ đường xa, đã thấy Huyền Thúy, Bá Đương, Nguyên Chân, Quốc Viễn, Như Khuê, bảy tám hảo hán cưỡi ngựa tiến lại. Hùng Tín dừng ngựa, nói với Đương Nhân: 

 - Hiền đệ hãy cứ để xe lùi phía sau, Hùng Tín này lên trước, thưa rõ mọi chuyện, rồi sẽ cho người ra đón đàng hoàng phải phép. 

 Đương Nhân gật đầu ưng thuận. 

 Hùng Tín nhảy xuống ngựa, cùng mọi người chào hỏi, ai nấy cùng đi bộ vào "Chấn Nghĩa Đường". Lễ chào xong xuôi, Địch Nhượng lên tiếng trước: 

 - Lâu nay vẫn mong chờ, sao mãi đến nay Đơn nhị ca mới tới? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Kiến Đức đại huynh cứ dùng dằng không cho đi, nên cũng nấn ná mất mấy ngày, phải nói quấy quá mãi mới đi được. Trên đường lại nhân tiện đem theo cả gia quyến Huyền Thúy hiền đệ, lại chậm thêm một ngày, vì vậy mãi hôm nay mới được gặp đông đủ chư huynh. 

 Huyền Thúy ngạc nhiên vội hỏi: 

 - Tiểu đệ nào có gia quyến, mà phiền đến đại huynh phải hộ tống đến đây? 

 Hùng Tín đáp. 

 - Thế thì Hùng Tín này nói đùa sao. Hiện nay lệnh nhạc phụ, cùng Vương Đương Nhân, đang dừng xe phía sau, đợi hiền đệ ra đón. 

 Huyền Thúy lạ lùng: 

 - Thế cũng là chuyện ít có xưa nay. Đó là chuyện gần đây tiểu đệ ngẫu nhiên mà gặp, mà hứa hôn. Tại sao đại huynh lại biết được? 

 Hùng Tín kể chuyện tìm nơi ngủ trọ, chuyện Vương ông bị Chu Xán đòi lấy Tuyết Nhi làm áp trại phu nhân thế nào, kể ra một lượt. 

 Bá Đương cười lớn: 

 - Thế thì hòa cả làng rồi. Đơn nhị ca thay Lý hiền đệ đem cô dâu mới tới đây. Còn Lý hiền đệ thì lại giúp Đơn nhị ca hộ tống gia quyến lên đây. Thế là sòng phẳng. 

 Hùng Tín nghe kinh ngạc hỏi: 

 - Vì sao chuyết thê lại đến đây? 

 Bá Đương đáp: 

 - Cả gia quyến đều đang ở trại sau, xin nhị ca cứ lại hỏi sẽ biết rõ ngay. 

 Bá Đương liền dẫn Hùng Tín cùng đi, Huyền Thúy cũng vội chạy ra đón gia quyến Vương ông vào trại chào hỏi. Địch Nhượng sai tay chân, mổ lợn thui dê, vừa là làm lễ cưới cho Huyền Thúy, hai là mừng đón Hùng Tín. 

 Chính là: 

 Người được điều mừng, tình dễ đậm 

 Cười mà có bạn, giọng thêm rôm. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi Ba

Liên Cự Chân bày mưu lừa Giả Liễu,

 Trương Tu Đà dâng sớ cứu Tần Quỳnh.

 Từ rằng: 

 Vận nước đang nghiêng ngửa 

 Trời khiến anh hùng tháo gỡ 

 Nhiệt tâm dường bỡ ngỡ 

 Khăn đẫm mồ hôi 

 Áo hoen máu đỏ 

 Bạn bè mái tóc pha sương 

 Cùng lo chống đỡ sửa sang mối giường 

 Gian hùng chật ngõ đầy đường 

 Ghét ghen nham hiểm, trăm phương bạo tàn . 

 Trương Lộc sang Tần(1) 

 Ngũ Viên bỏ Sở (2) 

 Điện các sạch bóng yêu ma 

 Ruộng vườn xanh tốt, cỏ hoa tươi màu. 

 Theo điệu “Phẩm lệnh" 

 1 Trương Lộc: Phạm Tuy thời Xuân Thu, giúp việc cho Tu Giả ở nước Ngụy, bị Tu Giả làm nhục đuổi đi, Phạm Tuy đổi tên là Trương Lộc bỏ sang Tần, làm đến chức tướng quốc nước Tần, là một nước lớn nhất lúc ấy... (Sử Ký). 

 2 Ngũ Viên: xem chú thích hồi thử chín, hồi ba mươi sáu. 

 Chuyện oan cừu thế gian, nếu gặp được sự đại lượng của người quân tử, hoặc tấm lòng của bậc hào kiệt, thù hằn thanh toán, ân oán rõ ràng, chỉ cần một lời. Nhưng nếu ở kẻ tiểu nhân, thì dẫu trăm lời nghìn lẽ, cách này phương khác, hiềm khích vẫn còn. Trừ khi vàng nhiều bạc lớn, sắc đẹp khuynh quốc, may ra yên được ngoài mặt, bởi vậy Vũ Văn Thuật chẳng bao giờ nghĩ trách con mình dâm ô ác độc, mà chỉ ghi xương khắc cốt mối thù với Tần Thúc Bảo. 

 *** 

 Nay hãy kể tiếp chuyện Đơn Hùng Tín, về hậu trại cùng chị dâu, vợ con gặp gỡ. Thôi Thị đem những chuyện vừa qua, kể lại tĩ mĩ, Hùng Tín thấy cả gia quyến đều có mặt ở Ngõa Cương yên ổn, nên cũng chẳng biết nói gì hơn, liền tìm Lý Huyền Thúy nói: 

 - Hiền huynh thi hành tuyệt kế, thật là hay, là giỏi, nhưng chỉ có điều khiến cho Hùng Tín này chẳng còn nhà nữa mà về thôi! 

 Từ Mậu Công nói: 

 - Đơn nhị ca chẳng cần phải nói diều ấy làm gì. Đã lo việc thiên hạ thì phải quên việc nhà thôi. Giờ nhị ca còn nói đến gia quyến của mình, mai kia có cả nhà lớn, thì làm sao lại nói là không nhà được? 

 Tiệc rượu đã dọn xong đâu đấy. Địch Nhượng nâng chén mời Hùng Tín ngồi ghế chủ trì, Hùng Tín đáp lời: 

 - Địch dại huynh nói sai rồi. Nay Hùng Tín này đã tới đây cùng các vị cùng là người một nhà cả rồi, thì phải tuân theo trật tự tôn ty vốn đã sẵn của trại, để khỏi phải bàn luận lôi thôi. Hùng Tín này dẫu là một lão già quê mùa đi nữa, nhưng cũng ít nhiều hiểu biết văn lễ đấy chứ! 

 Địch Nhượng lên tiếng tiếp: 

 - Sao Đơn nhị ca lại nói thế. Nay anh em đây may nhị ca không bỏ, đến cùng tụ nghĩa, ở nơi "Chấn Nghĩa hảo đường” này, nhị ca chủ trì là xứng đáng lắm. Ghế thứ hai, xin mời Lý Huyền Thúy đại huynh. 

 Huyền Thú cười lớn: 

 - Đại huynh nói điều này hơi lạ đấy. Tại sao lại xếp như thế? 

 Địch Nhượng đáp: 

 - Xin các vị nghe tiểu đệ nói đây. Hôm nay là ngày tốt, chúng ta làm lễ cưới cho Lý đại huynh, đây chính là tiệc mừng, cho nên Lý đại huynh lẽ nên ngồi ghế thứ hai. 

 Quốc Viễn cũng góp vào: 

 - Địch đại huynh nói rất đúng. Hôm nay là tiệc mừng Lý đại huynh, tiệc gặp gỡ của Đơn viên ngoại, xin hai vị đừng chối từ nữa. 

 Mậu Công cũng nói: 

 - Cũng chẳng nên nói thế. Nếu đã là tiệc mừng Lý đại huynh, thì nên mời Vương lão trượng ra ngồi ghế chủ trì là hợp hơn cả. 

 Địch Nhượng nghe ra, bèn nói: 

 - Từ đại huynh nói đúng lắm, tiểu đệ vốn quê mùa, thật thiếu sót. 

 Rồi sai thủ hạ vào hậu trại mời Vương ông cùng Đương Nhân. 

 Vương ông cùng Đương Nhân ra. Địch Nhượng nâng chén mời Vương ông ngồi vào ghế chủ trì, Vương ông ba bốn lần chối từ không được, đành ngồi vào ghế thứ nhất. Ghế thứ hai định mời Đương Nhân, nhưng Bá Đương cất tiếng: 

 - Như thế không được. Vương lão trượng ngồi trên, sao Đương Nhân lại có thể ngồi kề được. Lại thêm Đương Nhân vốn lên đây tụ nghĩa với chúng ta, sao lại có thể vượt lên ngồi trên các vị cho được! 

 Mậu Công lên tiếng hỏi: 

 - Tiểu đệ xin có ý như thế này, các vị nghe xem có được hay không? 

 Mọi người đồng thanh: 

 - Từ đại huynh phân xử, đều rất hợp lý, xin cứ nói ngay cho. 

 Mậu Công nói: 

 - Vừa rồi Bá Đương đại huynh có nói, hiền huynh Đương Nhân không thể vượt lên cũng đúng. Nay anh em chúng ta tụ tập ở đây, đều để giương cao việc nghĩa khí. Nhưng muốn làm được việc lớn này, thì lại không thể nói đến chuyện ai khách ai chủ cho được, mà trước tiên cần phải định rõ thứ tự tôn ty, để rồi từ nay về sau còn ra lệnh, nghe lệnh, đâu ra đấy, nào phải là cuộc tiệc rượu bình thường, ai muốn ngồi đâu thì ngồi. 

 Nghe nói thế, mọi người đều đồng thanh: 

 - Nói đúng lắm! 

 Mậu Công tiếp: 

 - Cứ như ngu kiến của tiểu đệ. Ghế thứ hai nên là Địch đại huynh. Tại sao lại như thế. Địch đại huynh vốn là chủ trại, anh em chúng ta phần lớn đều do Địch đại huynh mời lên đây, chằng ai là không phải nghe theo sự điều khiển của Địch đại huynh, cho nên ngồi ghế thứ hai là hợp lý rồi. Ghế thứ ba thì xin mời Lý đại huynh. 

 Huyền Thúy vội thưa: 

 - Có mặt Đơn nhị ca ở đây, tiểu đệ đâu dám ngồi lên trước. 

 Mậu Công đáp: 

 - Địch đại huynh ghế chánh, Lý đại huynh ghế phó, diều đó thì chẳng nên thay đổi nữa, ghế thứ tư sẽ là Đơn nhị ca. 

 Hùng Tín nói: 

 - Xin cho Hùng Tín này nói một lời. Người khác thì không hiểu hết được tài trí của Từ hiền huynh, Hùng Tín này đi lại thân thiết, nên hiểu rất rõ. Đặt Địch hiền huynh cùng Lý hiền huynh trông coi mọi việc là đúng rồi. Nhưng cai quản công việc trong trại chu đáo, cẩn thận, thì phải trông cậy vào tài tính toán, trù liệu của Từ hiền huynh. Việc tùy cơ ứng biến, trù hoạch cơ mưu, không thể thoát tay Từ hiền huynh được đâu. Hùng Tín này mà ngồi trên thì thực không xứng, nên xin cáo thoái, tìm nơi thiên nhai hải giác nào đó mà lập nghiệp thôi. 

 Bá Đương lên tiếng: 

 - Mậu Công hiền huynh, Đơn nhị ca vốn rất thẳng tính,nói như thế, hiền huynh cũng chẳng cần phải quá khiêm nhường, mà nghe theo lời nhị ca là hay hơn cả. 

 Mậu Công không còn cách nào, đành lên ngồi ghế thứ tư, ghế thứ năm là Hùng Tín, ghế thứ sáu là Bá Đương, ghế thứ bảy là Nguyên Chân, ghế thứ tám là Như Khuê, ghế thứ chín là Quốc Viễn, Đương Nhân ngồi ghế thứ mười. Trừ Vương ông ra, thế là còn chín đầu lĩnh. Yên vị rồi, pháo lớn nổ hàng loạt, nâng chén say sưa. Hùng Tín hỏi Mậu Công: 

 - Trong trại hiện nay binh mã được bao nhiêu, lương thực nhiều 

 Mậu Công đáp: 

 - Binh mã chỉ khoảng bảy tám nghìn, nhưng không đáng lo ít, chỉ cần chiếm được nơi nào đó, thì lập tức sẽ có rất nhiều người ngựa theo ngay, lương thực thì theo đất mà lấy. Nhưng chỉ vì anh em ta còn ít, chưa thể phá được các quận huyện, mà vẫn còn phải cố thủ một nơi, nếu chiếm giữ quận huyện cần phải có nhiều tay hào kiệt cự địch. Nay mới chín mười anh em đây, thật vẫn chưa đủ. Cho nên mấy hôm trước đây, tiểu đệ đã nhờ Liên Cự Chân, đến Đoái Châu phủ, tìm mời hai hào kiệt họ Vưu, họ Trình ở Vũ Nam trang, khoảng mai mốt cũng sẽ về thôi. 

 Thì ra Cự Chân cũng phạm tội buôn muối lậu, sợ bị bắt nên cũng tìm đến Ngõa Cương với Địch Nhượng từ trước. 

 Bỗng thấy tiểu hiệu vào thưa: 

 - Liên đầu lĩnh đã về! 

 Địch Nhượng nói: 

 - Mau mời vào trong này. 

 Cự Chân vào, cùng mọi người hỏi chào, rồi ngồi vào ghế sau Bá Đương. Mậu Công hỏi: 

 - Liên hiền đệ! Hai vị Vưu, Trình có bằng lòng không? 

 Cự Chân đáp: 

 - Tiểu đệ đến Vũ Nam trang, trước tiên tìm bái yết Vưu viên ngoại, thấy cửa đóng mấy lần, chẳng một bóng người. Hỏi láng giềng, mới biết vì việc ở rừng Trường Diệp, có vẻ khó giữ yên, quan lại sở tại đòi viên ngoại phải chi năm nghìn lạng, cho nên viên ngoại cùng với gia quyến bỏ trốn sang huyện Đông A. Tiểu đệ lại vội sang Đông A, tìm Trình Giảo Kim, thì Giảo Kim cùng Vưu viên ngoại chiếm hang Đậu Tử ở Thất Lý cương làm sào huyệt, Tiểu đệ lại tìm đến cùng hai người chuyện trò trọng tại, đem thư của Địch đại huynh cho hai vị xem, Giảo Kim hỏi: "Đơn viên ngoại đã lên tụ nghĩa chưa?". Tiểu đệ trả lời là Địch đại huynh cũng đã viết thư mời Đơn viên ngoại, nhưng viên ngoại còn bận hộ tống con gái Đậu Kiến Đức về Nhiêu Dương, lúc trở về sẽ đến Ngõa Cương ngay. Vưu viên ngoại bèn nói: "Chuyện này sợ chưa chắc đã nên. Đậu Kiến Đức cũng đang thiếu bạn bè giúp đỡ, đời nào chịu để Đơn viên ngoại về Ngõa Cương!".Giảo Kim lại hỏi đã đi mời Tần Thúc Bảo chưa. Tiểu đệ đáp, bao giờ Đơn viên ngoại tới, thì lẽ đương nhiên là sẽ đi mời Thúc Bảo, Vưu viên ngoại liền nói: "Thúc Bảo đại huynh hiện cùng Trương Thông Thủ đem sức tài phò tá triều Tùy, chẳng chịu lên Ngõa Cương để làm cường đạo đâu . Giảo Kim liền tiếp: "Nếu Đơn viên ngoại cùng Thúc Báo đại huynh đều không có ở Ngõa Cương, thì chúng ta lên đó làm gì?”. Rồi Vưu viên ngoại viết thư phúc đáp. Tiểu đệ tức tốc trở về. 

 Cự Chân lấy thư đưa cho Mậu Công, Mậu Công xem xong rồi nói: 

 - Không tới cũng xong! Ta sẽ tìm cách khác vậy. 

 Cự Chân tiếp: 

 - Tuy không đưa được hai vị họ Vưu, họ Trình về, nhưng trên đường đi, tiểu đệ nghe được một tin, xin nói để các vị nghe. 

 Ai nấy đều hỏi: 

 - Tin gì thế, nói ngay xem nào? 

 Cự Chân đáp: 

 - Trước hôm về, tiểu đệ vào trọ một đêm ở hàng cơm thôn Hạnh Hoa, thấy một viên quan cùng hai gã công sai đã vào quán từ trước. Một gã công sai, nghe giọng nói như cùng quê với tiểu đệ, vì vậy ngồi trò chuyện hỏi đi đâu. Nó trả lời ở Đông Kinh đến, hiện đang về Tế Dương để bắt người. Tiểu đệ bèn để ý. Đêm đó mua rượu thịt cùng hai gã chén chú chén anh. Hai gã rượu vào rồi, mới thực kể: 

 "Vụ án Dương Huyền Cảm, có bốn trọng phạm trốn thoát, một người họ Lý, một người họ Bính, một họ Vi, một họ Dương. Hai ngươi họ Lý, họ Bính không biết đi đường nào, còn hai người họ Vi, họ Dương thì mới bị bắt lại hôm trước. Hình quan tra tấn, liền xưng ra có một người là Bá Đương quê ở Vương Gia tập, thuộc Tế Dương dùng thuốc mê bỏ vào rượu để lừa công sai ở quán rượu Trần gia ở thôn Bạch Tửu, để cứu thoát cả bốn tên trọng phạm. Vì vậy mới sai hai chúng tôi theo quan nhân đây đến Vương Gia tập Tế Dương, lệnh cho quan nha sở tại, bắt kỳ được Bá Đương. Thực chính vì chuyện này, mà tiểu đệ phải ngày đêm về trại ngay. 

 Mậu Công hỏi Bá Đương: 

 - Gia quyến của Vương hiền huynh hiện có ở quê không? 

 Bá Đương đáp: 

 - Dạo tiểu đệ ở nhà ra đi, thì tiện nội ở nhà người em vợ họ Bùi, giờ không biết đã quay về nhà chưa. Tối nay, tiểu đệ sẽ xin về xem sao. 

 Mậu Công nói: 

 - Không cần hiền huynh phải đi. 

 Rồi nói với Cự Chân: 

 - Hiền huynh hãy vì anh em, phải chịu khó nhọc một phen nữa thôi. Chờ Vương hiền huynh viết cho gia quyến một lá thư, xin luôn một vài chữ của Đơn viên ngoại nữa, cùng Đương Nhân, Quốc Viễn hai người, giả đóng làm người bán hàng tạp hóa, về cửa Tây thành Tế Châu, tìm đến cửa hàng yên cương ngựa của Giả Nhuận Phủ nghỉ ngơi, nhờ Nhuận Phủ tùy cơ ứng biến, để đưa được gia quyến Bá Đương lên Ngõa Cương. Nếu hiền huynh thuyết phục được Nhuận Phủ cùng lên tụ nghĩa thì càng hay, con người như Nhuận Phủ cũng không phải dễ kiếm đâu. Địch đại huynh, Đơn viên ngoại cùng Nguyên Chân lĩnh ba nghìn quân, đến Lộ Châu vào phủ đường vay một ít lương thực, xem lại nhà cửa ở Nhị Hiền trang ra sao, cũng là để trị cho bọn quan nha tham lam, gian ác một chuyến. Tiểu đệ sẽ cùng Bá Đương, Như Khuê lĩnh binh theo sau tiếp ứng. 

 Huyền Thúy hỏi: 

 - Còn tiểu đệ? 

 Mậu Công cười đáp: 

 - Đại huynh tuy không phải là phường hiếu sắc như Lã Phụng Tiên (1), nhưng đêm nay là đêm hợp cẩn, chỉ còn đại huynh thay Địch đại huynh coi giữ trang trại, rồi về sau mới dám phiền đến đại huynh. 

 1 Tức Lã Bố, một võ tướng nổi tiếng thời Hán, nhưng hám tài, hám sắc. Bị Vương Doãn dùng Điêu Thuyền, khiến Lã Bố giết bố nuôi là Đổng trác, để được Điêu Thuyền ... (Tam Quốc diễn nghĩa) 

 Mọi người đều đứng lên lo sắp xếp công việc, sáng hôm sau, Cự Chân cùng Đương Nhân, Quốc Viễn canh năm đã lên đường, theo đường tắt, chẳng mấy ngày, đã tới cửa Tây thành Tế Châu. 

 * * * 

 Lâu nay Nhuận Phủ cũng vì thời cuộc nhiễu nhương, cũng chẳng mở hàng buôn bán. Cự Chân gõ cửa, Nhuận Phủ đỡ hành lý đón vào nhà, cùng ba người chào hỏi xong xuôi. Cự Chân giở thư của Hùng Tín ra, đưa cho Nhuận Phủ xem, Nhuận Phủ mới dẫn vào gian phòng kín phía trong, mời ngồi đâu đó, lấy trà nước cùng uống, Nhuận Phủ mới hỏi Cự Chân: 

 - Hiền huynh có biết đường tắt về Vương Gia tập ở Tế Dương chăng? 

 Cự Chân đáp: 

 - Đường tắt này thì tiểu đệ đã từng di, nhưng chưa từng đến nhà Bá Đương bao giờ cả. Tuy đã có thư, nhưng sợ gia quyến Bá Đương vẫn lưỡng lự, nên phải cần cả Giả Liễu hiền huynh cùng đi cho, thì mới yên ổn. Nhưng chẳng biết bọn công sai đến lúc nào, cho nên phải nhanh chóng lên đường ngay, thì mới khỏi lỡ mọi chuyện. 

 Nhuận Phủ nói: 

 - Cũng không cần vội vàng. Nếu đi đường lớn mất ba ngày. Nếu đi theo đường Điệp Tử cương, xuyên qua Tà Mai lĩnh, qua bãi Tiểu Hà, thì chỉ mất một ngày, đã đến Vương Gia tập rồi. 

 Vừa nói vừa sai dọn cơm rượu. Nhuận Phủ hỏi anh em trên trại có những ai, người ngựa nhiều ít. Ba người kể lại tỉ mỉ. Cự Chân cũng hỏi: 

 - Hiền huynh nay không mở cửa hàng nữa, ngày tháng rỗi rãi, sợ tiêu ma cả tráng khí của bậc trượng phu chăng? 

 Nhuận Phủ thở dài: 

 - Làm gì có chuyện thanh nhàn tự tại, thôi thì chuyện củi đuốc, chuyện cơm gạo cho từng ấy miệng ăn, lấy đâu ra cho đủ bây giờ. Vừa rồi Tấn đại huynh viết thư về, cũng có nói tới chuyện ra giúp đỡ đần Tần đại huynh ít nhiều, vừa là nêu danh phận cho mình. Nhưng tiểu đệ nghĩ có đến hai ba chục nơi nổi dậy như hiện nay, làm thế nào mà dẹp cho hết. Mà dẫu có làm nên chuyện gì, thì nhà vua hôn ám đến thế, bọn gian thần cầm quyền, có công cũng chẳng được thưởng, có vinh cũng chẳng được hường đâu. Cứ xem như lão tướng họ Dương, thì đáng là tấm gương cho người đời sau vậy thôi! 

 Cự Chân xác nhận: 

 - Đúng lắm! 

 Đương Nhân tiếp: 

 - Sao đại huynh không đến quách chỗ chúng tôi, mai kia Địch đại ca, Lý đại ca khởi sự, thì sẽ hơn hẳn mọi nơi ngay. 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Địch đại ca thì chưa biết như thế nào. Còn Lý đại ca thì đúng là người biết tiếng, lại nhún mình thờ kẻ sĩ, sự nghiệp sau này, nhất định khác người. Tiểu đệ muốn chờ đợi ít lâu, xem xét kỹ càng rồi cũng sẽ lên với anh em thôi. 

 Cự Chân hỏi: 

 - Ngày mai lúc nào thì đi Vương Gia tập? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Canh năm thì vừa! 

 Rồi tất cả dọn dẹp đi nằm. 

 Canh năm, cả bốn người dậy, ăn uống xong xuôi, lên đường đi Tế Dương. Đến ngày thứ ba, chiều tối đã tới Vương Gia tập. Nơi đây vốn là một phố nhỏ, khoảng gần ba chục nóc nhà. Nhuận Phủ cùng các bạn tìm gặp ngay người em vợ họ Bùi, họ Bùi vốn là tay anh chị, võ vẽ vài đường thương bổng. Cự Chân đưa thư của Bá Đương ra cho họ Bùi, nhờ cầm sang cho chị. Cũng may nhà Bá Đương không có người già, không trẻ nhỏ, chỉ có vợ con Bá Đương, cùng hai vợ chồng người đầy tớ. Bùi Tự Phượng cũng tình nguyện đưa chị, cháu đi. Cơm rượu dọn ra, giục chị xếp đặt hành trang, thuê một chiếc xe nhỏ cho hai người đàn bà ngồi, rồi lặng lẽ đóng chặt cửa nhà, lên đường. 

 Nhuận Phủ nói với Cự Chân: 

 - Tiểu đệ không thể đi được, các vị lên đường cẩn thận! 

 Mọi người nhằm hướng tây mà đi, riêng Nhuận Phủ đi về hướng đông. 

 Cự Chân mới đi được một đoạn, nói với Đương Nhân: 

 - Tiểu đệ quên một cái này rồi, các vị cứ đi trước, tiểu đệ sẽ đuổi kịp. 

 Nói rồi đi mau về hướng đông, ai nấy đều lấy làm nghi ngờ, thì lại đã thấy Cự Chân quay lại. Quốc Viễn hỏi: 

 - Hiền huynh quên cái gì thế? 

 Cự Chân cười: 

 - Tiểu đệ chẳng quên cái gì cả, tiểu đệ quay lại nhà Bá Đương, cứ làm thế này... thế này... chư huynh bảo có hay không? 

 Đương Nhân đáp: 

 - Hay thì có hay. Nhưng cũng phải có một người, đi theo Nhuận Phủ mà giúp một tay, thì mới xong việc. 

 Cự Chân nói: 

 - Chưa cần vội đến phía trước, có chỗ nào tốt, gửi tạm gia quyến Vương hiền huynh, chúng ta sẽ đi xem sao. 

 Chính là: 

 Đùng lo tung tích khó dò 

 Cánh bèo dạt, lại có cơ trùng phùng 

 * * * 

 Lại nói Vũ Văn Thuật, vì bị mất chức quan, bèn cầu cứu Hà Điều Vũ làm một chiếc xe "Như ý", lắp tới ba mươi sáu bức bình phong bằng đồng đem dâng lên Dượng Đế. Giữa lúc Dượng Đế vừa cho xây xong lầu ngắm trăng "Mê lâu nguyệt quan", nên rất vừa ý, lập tức Thuật lại được phục hồi nguyên chức. Vi Phúc Tự cùng Dương Tích Đức rơi vào tay Thuật. Thuật liền lệnh dùng cực hình tra tấn, phải khai ra Vương Bá Đương ở Vương Gia tập, Tế Dương liền sai quan đem công văn tới Tế Quận, cho Trương Thông thủ lệnh đi bắt. 

 Hôm ấy, Trương Thông thủ đang làm việc trên công đường, thấy môn lại vào thưa: 

 - Có công văn của Viện cơ mật Đông Kinh, sai quan mang đến. 

 Sai quan tiến lên công đường, cùng Trương Thông thủ chào hỏi, đưa công văn. Thông thủ mở ra xem, sai quan nói: 

 - Việc này là việc của Viện cơ mật, xin lưu ý đại nhân bắt ngay cho. 

 Thông thủ đáp: 

 - Ta biết rồi! 

 Rồi quay sang hỏi môn lại: 

 - Từ đây đi Vương Gia tập đường xa gần ra sao? 

 Môn lại thưa: 

 - Hơn hai trăm dậm! 

 Thông thủ sai phái tay chân, điểm ba trăm quân, đem theo bốn năm ngày lương thực, lập tức lên đường. Vốn công đường của Trương Thông thủ cách phủ Ung Dương của Thúc Bảo không xa. Thúc Bảo đang cùng Sĩ Tín chuyện trò, thì nghe có sai quan ở Đông Kinh tới, đem theo lệnh bắt người ở Vương Gia tập, Thúc Bảo kinh sợ nghĩ thầm: "Vương Bá Đương vốn quê ở Vương Gia tập, chẳng lẽ chuyện của Bá Đương ở Bạch Tửu thôn phát giác rồi sau?". Đang lo nghĩ vẩn vơ thì thấy bên ngoài có lính canh vào báo bạn cũ họ Liên đến thăm. 

 Thúc Bảo chạy ngay ra đón, thì ra là Cự Chân, chào hỏi xong, kéo Cự Chân vào thư phòng phía sau, hỏi ngay: 

 - Lâu nay hiền đệ đi biệt những đâu. Đã được tha chưa, sao lại tới đây có việc gì? 

 Cự Chân lặng lẽ đáp: 

 - Tiểu đệ đã về Ngõa Cương với Địch Nhượng lâu nay. Nghe theo lệnh của Đơn viên ngoại, mang thư gửi Nhuận Phủ, nhờ Nhuận Phủ đem gia quyến Bá Đương lên sơn trại. Nay quan sai sẽ về tìm bắt phạm nhân, nhưng làm sao tìm ra ai nữa. Chỉ sợ có kẻ nào lỡ mồm lỡ miệng, Trương Thông thủ trở về, tìm đến Nhuận Phủ, vì vậy tiểu đệ phải đến đây báo tin. Đại huynh nghĩ lại tình thân lâu nay giữa bạn bè, tức tốc sai người báo tin này cho Nhuận Phủ, khuyên Nhuận Phủ phải trốn ngay, làm được thế, tiểu đệ phải đi Lộ Châu có việc khác. 

 Thúc Bảo hỏi kỹ chuyện anh em trên trại. Cự Chân trả lời đâu đó, rồi đứng dậy cáo từ. Thúc Bảo lưu lại không ở, liền đưa ra cửa, rồi quay vào bàn bạc với Sĩ Tín, bảo Sĩ Tín cưỡi ngựa ngay vào thành, báo cho Nhuận Phủ biết. 

 Sĩ Tín vốn biết cửa hàng yên cương của họ Giả, nhưng lại chưa biết mặt, xuống ngựa trước cửa rồi, Sĩ Tín vào gõ cửa. Thấy Sĩ Tín, Nhuận Phủ kinh ngạc. Sĩ Tín vội hỏi: 

 - Đại huynh có phải Giả Nhuận Phủ chăng? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Đúng vậy! 

 Nhuận Phủ nhận ra Sĩ Tín, liền hỏi: 

 - La hiền huynh tới đây, có điều gì mách bảo? 

 Sĩ Tín kéo Nhuận Phủ ra phía sau, rồi ghé tai nói nhỏ: 

 - Đại huynh đem gia quyến tên phản nghịch Vương Bá Đương đi trốn, giờ mà quan Thông thủ trở về, thế nào cũng sẽ đến bắt đại huynh. Đại huynh phải trốn cho mau. 

 Nói xong ra cửa lên ngựa phóng như bay. Nhuận Phủ đóng chặt cửa nghĩ ngợi: "Đêm ấy ở Vương Gia tập ra đi, đến ma quỷ cũng chẳng biết, thì ai là người tiết lộ mọi chuyện cho được. Việc Sĩ Tín đến đây báo tin, nhất định là do Tần đại huynh sai đi, rõ ràng là xác thực rối. Nay mà không lo chạy, còn chờ đến bao giờ. Thôi thì tất cả cơ ngơi này cũng đành bỏ vậy, chỉ còn mỗi một con người, đành phải đi ngay thôi?" Vội nói với vợ, thu thập tế nhuyễn, sai hai người làm công cho năm sáu con ngựa trong tàu ăn thật no rồi dắt ra, đàn ông, đàn bà, cùng kéo nhau lên Ngõa Cương. 

 Đi đến địa đầu Tế Châu, có hai đường đều về Ngõa Cương, một đường lớn, một đường nhỏ, Nhuận Phủ tính toán: "Theo đường lớn, dễ gặp quan quân đuổi bắt. Theo đường nhỏ, thì sợ gặp cướp núi". Đang trù trừ, thì thấy ở gốc cây lớn bên đường, trên một tảng đá, hai người đàn ông khỏe mạnh nằm ngủ. Bỗng thấy một người vùng dậy, la lớn: 

 - Hay lắm! Tới rồi! 

 Nhuận Phủ ngồi trên yên ngựa, hoảng hồn, chăm chú, nhìn kỹ, nhận ra Quốc Viễn, vội nói: 

 - Các vị kéo tới đây để định đưa Nhuận Phủ này vào cũi lớn chăng? 

 Đương Nhân gạt đi: 

 - Thôi không nói chuyện linh tinh nữa, gia quyến Bá Đương đều ở quán rượu phía trước, nhanh lên chúng ta hợp thành một đoàn cùng đi cho tiện. 

 Quán rượu phía trước, vốn của một đầu mục Ngõa Cương trông coi, tên họ Triệu Đại Bàng, mở quán rượu này, để làm tai mắt xem xét người qua lại cho sơn trại. Nhuận phủ nghe thấy thế, mừng rỡ giục mọi người đi nhanh, theo Đương Nhân đến quán rượu Đại Bàng, cùng đi với gia quyến Bá Đương về Ngõa Cương. Đúng như lời: 

 Đời loạn dân không chúa 

 Ải xa khách nặng sầu. 

 *** 

 Lại nói Trương Thông thủ đem lính tráng cùng sai quan tới Vương gia tập bắt gia quyến Vương Bá Đương, đi suốt ba ngày, đến tận nơi xem xét, thì thấy cửa lớn đóng chặt, sai tay chân phá vào lục lọi thì chỉ còn một ít đồ đạc nhà bếp, chẳng một bóng người. Tra hỏi bốn bên láng giềng, đều khai là canh năm đêm trước đã ra đi. Trương Thông Thủ liền phát niêm phong, sai nha lại tới đóng chặt cửa nhà Bá Đương, dán niêm phong cẩn thận, bắt bốn bên láng giềng về phủ đường, dùng cực hình tra tấn. Trong số này có một người họ Triệu thưa: 

 - Đêm ấy, lúc tiểu nhân mở cửa đi giải, nghe ngoài cửa có người nói: "Giả Nhuận Phủ, hiền huynh về nhé. Chúng tôi đi đây!". Vợ con Bá Đương đi về thường xuyên, nên tiểu nhân đâu biết được đó là lũ tội phạm. 

 Trương Thông thủ hỏi nha lại, có biết ai là Giả Nhuận Phủ, tất cả đều chối không biết, chỉ có một người thưa: 

 - Ở cửa Tây, có người mở cửa hàng yên cương ngựa, tên là Giả Nhuận Phủ, chẳng biết có phải người này không? 

 Người họ Triệu vội thưa: 

 - Thế thì đúng rồi, tối hôm ấy, tiểu nhân nghe ra là về cửa Tây nữa kia! 

 Trương Thông thủ vội dẫn lính đi bắt, thì thấy viên lại trực ngoài cổng đường vào thưa: 

 - Lưu Vũ Chu cùng Tống Kim Cương dẫn mấy nghìn lâu la, kéo qua gò Bác Vọng vào huyện Bình Nguyên, xin đại nhân đem quân cùng tiễu trừ bọn này. 

 Trương Thông thủ cho người mời Thúc Bảo đến. Chẳng mấy chốc đã thấy Thúc Bảo vào chào. Trương Thông thủ đem văn thư của Viện cơ mật, kể lại lời khai của họ Triệu, rồi nói: 

 - Ta phải ra quân ngay để cùng diệt bọn Lưu Vũ Chu, phiền Tần tướng quân đi bắt ngay Giả Nhuận Phủ, đem về tra khảo thật sự vào thì sẽ biết ngay họ Vương hiện đang ở đâu. 

 Thúc Bảo trong lòng nghĩ ngợi: "Nhuận Phủ thì ta đã sai Sĩ Tín báo cho biết tin, tất nhiên là đã chạy thoát rồi. Nhưng nếu còn ở nhà, thì làm thế nào bây giờ". Liền thưa với Trương Thông Thủ: 

 - Bọn giặc kéo tới cướp phá sở tại, xin để hạ quan dẫn binh tiễu trừ. Còn việc này là việc trọng đại, đại nhân nên thân hành trông coi thì hơn! 

 Trương Thông Thủ đáp: 

 - Tướng quân không nên từ chối, hãy đi ngay kẻo lại lỡ việc? 

 Thúc Bảo không còn cách nào, đành lên ngựa, cùng mấy tên gia đinh và bọn sai quan, rầm rộ kéo đến cửa hàng họ Giả, thấy cửa đã đóng chặt, sai người phá cửa vào, trong nhà tịnh không bóng người. Tra hỏi hàng xóm, họ đều khai rằng: 

 - Cửa nhà đã đóng từ ngày hôm trước, nhưng chẳng rõ người thì đi từ bao giờ. 

 Sai quan bèn thưa: 

 - Giả Nhuận Phủ đem cả nhà đi trốn, thế thì nhất định là cùng một bọn với Bá Đương rồi. Nhưng rõ ràng chạy chưa xa được, xin Tần tướng quân mau đuổi theo bắt ngay cho. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Ta biết đường nào mà đuổi bây giờ, hơn nữa; ta còn phải đi tiễu trừ bọn giặc cỏ với Trương Thông Thủ nữa kia. 

 Nói rồi lên ngựa đi mất, sai quan chẳng còn cách nào khác chỉ còn cách về trướng Trương Thông Thủ xin văn thư, trở về Đông Kinh. 

 Vũ Văn Thuật xem văn thư, đến đoạn hàng xóm khai ra tên Giả Nhuận Phủ, sai quan lại trình rõ chuyện cùng Thúc Bảo đi bắt Nhuận Phủ ra sao, lập tức Vũ Văn Thuật nghĩ đến thù xưa, liền nói với Hóa Cập: 

 - Tần Quỳnh hiện vẫn còn ở đây. Dạo ấy ta chưa hại được nó, cũng bởi Lai Hoạch Nhi quấy rối. Nay hãy làm đủ giấy tờ, ghép vào cùng một bè đảng với Dương Huyền Cảm. Rồi thương lượng với Vi Phúc Từ bảo y khai tội cho Tần Quỳnh, đi lại với bọn Bá Đương, Huyền Thúy, nay lại vẫn còn núp dưới chức quan ở Sơn Đông để mưu tiếp điều phản nghịch. Một mặt lại làm công văn, cho người đem đi giao tận tay Trương Tu Đà, lệnh cho bắt Tần Quỳnh giải về kinh, thì thù kia đã báo xong. 

 Hóa Cập thưa: 

 - Kế của cha tuy hay thật, nhưng Trương Tu Đà vừa dũng vừa mưu, Tần Quỳnh hung hãn khác thường. Lỡ may mà không bắt được nó, nó sẽ bỏ ngay theo bọn cường đạo, hay một mình đứng ra khởi sự, thì họa không nhỏ. Chi bằng bắt giam gia quyến, giải từ Tế Châu về kinh, nó thấy người thân trong tay ta, nhất định không dám làm dữ, có như thế mới khỏi lo mọi chuyện. 

 Vũ Văn Thuật khen: 

 - Con bày mưu tính kế thật chu toàn. 

 Bàn luận xong xuôi, Vũ Văn Thuật làm đầy đủ mọi giấy tờ, vu cho Thúc Bảo cùng bè đảng với Huyền Thúy, rồi sai hai gia tướng, một tới Trương Thông thủ, một tới phủ đường Tế Châu, lệnh bắt kỳ được phạm nhân cùng gia quyến, không được chậm trễ. Lúc này Sĩ Tín thì ở Tế Quận phòng ngừa giặc cướp, còn Trương Tu Đà cùng Thúc Bảo vẫn còn ở Bình Nguyên để tiễu trừ giặc cướp. Nhưng cũng bởi binh thì ít, giặc thì nhiều, nên chúng bỏ chạy, rồi lại nhóm lại, tụ lại tan, bên này dấn lên thì bên kia rút về, chẳng thể nào trừ cho thật hết, cho nên cả ba đều lao đao vất vả. 

 Ở Bình Nguyên, hôm ấy Trương Thông thủ đang cho mời Thúc Bảo bàn chuyện chiêu tập dân lưu tán để tìm cách giữ đất, thì thấy một sai quan đến trình, có văn thư của Cơ mật viện bộ Binh. Trương Thông thủ mở ra, xem bỏ ngay vào bao đặt lên bàn. Sai quan thưa: 

 - Vũ Văn đại nhân có dặn hạ quan trước khi đi, nhắc tướng quân thi hành ngay cho, sợ phạm nhân có thì giờ trốn mất. 

 Trương Thông thủ đáp: 

 - Ta biết rồi, ngày mai sẽ có đủ giấy tờ để nhà ngươi về phúc trình. 

 Trương Thông Thủ về hậu dinh, dưới đèn viết một tờ trình, thanh minh cho Thúc Bảo, không hề có dính dáng gì đến bọn Huyền Thúy, không thể nào nghe theo tụi gian nịnh, hãm hại kẻ trung thần, rồi sai một thư lại tin cẩn sao lại, kèm theo với văn thư trả về Viện Cơ mật. 

 Hôm sau, đang lúc xếp đặt để sai quan về kinh, thì Thúc Bảo cũng di phủ dụ dân lưu tán trở về, vào giao lại cờ xí. Sai quan thấy Thúc Bảo về, vào giục thấy Trương Thông Thủ ngồi nói chuyện rất vui vẻ với Thúc Bảo. Thúc Bảo vừa đứng dậy, sai quan sợ Thúc Bảo đi mất, vội chạy vào thưa: 

 - Xin cho lĩnh giấy tờ về trình lại Viện Cơ mật! 

 Trương Thông Thủ đáp: 

 - Không việc gì phải vội vã! 

 Rồi sai thư lại đem giấy tờ giao lại. Thấy vậy, sai quan vội hỏi: 

 - Hạ quan được lệnh tới đây để bắt giải phạm nhân, xin tướng quân hãy cho trói ngay để kịp giải về kinh đô. 

 Trương Thông Thủ đáp: 

 - Mọi chuyện ta đã nói rõ trong văn thư, ngươi cứ việc cầm về trình là được rồi? 

 Sai quan thưa: 

 - Lúc ra đi Vũ Văn đại nhân có dặn cẩn thận, nếu chưa bắt được phạm nhân, thì chưa được trở về. Nay phạm nhân đang còn kia xin tướng quân ra lệnh bắt ngay cho, để hạ quan còn về trình lại. 

 Trương Thông Thủ to tiếng: 

 - Ngươi thật là một sai quan đa sự, ta đã nói rõ trong văn thư, ngươi cứ thế cầm về là tốt hơn cả ! 

 Sai quan cũng là kẻ táo tợn, vẫn cứ khăng khăng: 

 - Có tướng công ở trên, việc này quan hệ đến sự phản loạn, hạ quan đã trình hết mọi nhẽ, không phải như những chuyện bình thường khác. Nếu không bắt phạm nhân, sợ rằng không chỉ tội ở hạ quan che chở cho đảng nghịch, mà còn liên lụy đến cả tướng công nữa kia? 

 Thúc Bảo thấy vậy, chẳng rõ chuyện gì, nhưng thấy sai quan có vẻ giận dữ, vội tới khuyên giải: 

 - Sứ quan phản loạn ra sao, nếu đúng sự thực, thì xin sẵn sàng giúp sứ quan một tay. 

 Trương Thông thủ cười gạt đi: 

 - Chẳng có chuyện gì đâu! 

 Sai quan chẳng biết làm thế nào, cực chẳng đã, liền nói tuột: 

 - Được lệnh bắt phạm nhân là Tần Quỳnh, mà lại cùng Tần Quỳnh ngồi chuyện trò vui vẻ. Thế là dám chống lại nghiêm lệnh tróc nã trọng phạm. 

 Thúc Bảo nghe xong, vội lùi mấy bước, quay về phía Trương Thông Thủ hỏi gấp: 

 - Đại nhân! Tần Quỳnh có tội gì với triều đình, mà lại có lệnh bắt, nếu đúng như vậy, Tần Quỳnh này xin đi, không dám để liên lụy đến đại nhân. 

 Trương Thông Thủ vốn chỉ muốn tự mình yên lặng dàn xếp, không muốn cho Thúc Bảo biết, đến giờ thì không thể giữ kín nữa, đành nói: 

 - Hôm vừa rồi, binh Bộ gửi văn thư tới, nói có một trọng phạm thuộc bè đảng Dương Huyền Cảm bỏ trốn là Vi Phúc Tự, khai ra là tướng quân cùng Vương Bá Đương tìm cách đánh tháo, che giấu cho Lý Mật, cho nên sai bắt giải về Đông Kinh ngay. Viên sai quan này, ỷ thế Cơ mật viện, nên định lớn tiếng hạch sách vậy thôi? 

 Thúc Bảo thưa: 

 - Thật giả rồi sẽ rõ ràng, xin cứ giải Tần Quỳnh này về kinh, sẽ tự mình tìm cách minh oan. Rõ ràng là do không tìm bắt được Lý Mật nhân đem chuyện này khoác lên cổ Tần Quỳnh, nếu như Tần Quỳnh này không đi, chỉ sợ tội lỗi đại nhân lại phải gánh chịu vậy. 

 Thúc Bảo gọi gia đinh chuẩn bị hành lý, cởi bỏ y quan để về kinh. Trương Thông Thủ can: 

 - Tướng quân chẳng nên làm thế. Nay một dải Sơn Đông, Hà Bắc, đều dựa vào sức tướng quân với ta, nếu không có tướng quân, ta cũng chẳng đứng nổi một mình. Kẻ trượng phu ở đời, không chết thì thôi, chết cũng phải có ích gì cho giang sơn, làm nên sự nghiệp oanh liệt nêu danh sử sách. Đừng cố chấp tiểu tiết, chỉ vì bọn cai ngục hạ độc thủ, dựng chuyện để làm hại kẻ trung thần cho được? 

 Nói xong sai thư lại, đem tờ trình cho Thúc Bảo xem, rồi ngay trước mặt Thúc Bảo dán kín, niêm phong cẩn thận. Sai một kỳ bài quan bày hương án, bái lạy kính cẩn. Cấp lộ phí cho kỳ bài quan, lại thưởng cho sai quan mười lạng bạc. Sai quan thấy làm dữ cũng không xong, đành phải trở về không. 

 Thúc Bảo vái tạ ơn Trương Thông Thủ, họ Trương đáp: 

 - Tướng quân không phải tạ ơn, việc này chẳng qua ta làm là vì quốc gia, vì vùng này, chứ đâu phải chỉ vì tướng quân. Chỉ cần ta với tướng quân, cùng lòng cùng sức, trừ sạch lũ giặc cỏ, vỗ yên trăm họ, vì quốc gia mà gắng sức hết lòng là hơn cả. 

 Từ đó Thúc Bảo nặng ơn Trương Thông Thủ, một lòng gây dựng công nghiệp, một là để báo quốc, hai là để đền đáp tri kỷ. Nhưng không ngờ được rằng ở nhà lại xảy ra chuyện rắc rối khác. 

 Chính là: 

 Cũng bởi gian hùng trò hiểm độc 

 Cho nên trung nghĩa nổi phong ba. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi Bốn

Ninh ph giữa đường thoát nạn,

 La Sĩ Tín đêm tối báo thù.

 Thơ rằng: 

 Trời già kia thật đấng tri tâm, 

 Thương tiếc anh hùng lại giận thầm 

 Ông chỉ sống thêm chừng ít nữa 

 Giặc sao dài được tám mươi năm (1) 

 Dung nhan rạng rỡ đài mây vẽ 

 Cát bụi miên man ánh nguyệt đầm 

 Sớm biết Phong Ba xương trắng gửi 

 Ngũ Hồ một lái nhẹ tay cầm. (2) 

 1 Nhà Nguyên tồn tại được tám mươi năm, thì đã bị Chu Nguyên Chương diệt, lập nên nhà Minh. 

 2 Nhạc Phi bị Tần Cối giết ở Phong Ba đình thuộc Hàng Châu, có Tây Hồ, Ngũ Hồ là nơi Phạm Lãi bỏ đi chu du, nên không bị Câu Tiễn giết như Văn Chủng thời Chiến Quốc. 

 Bài thơ trên đây là do Diệp Tĩnh Dật, người đời Nguyên làm, để diễn tả tấm lòng trung sáng chói của Nhạc Phi Trung Vũ Vương đời Tống, vì bị thừa tướng Tần Cối ganh ghét hãm hại. Tuy có Hàn Thế Trung, Hà Chú... hết lòng cứu giúp, nhưng cũng chẳng xong, vẫn phải chết, giặc Kim được thể ngang ngược, không người chống cự. Đời sau bao nhiêu kẻ tiếc thương, nếu lúc ấy có một bậc đại thần có thế lực đứng ra bênh vực kẻ anh hùng, chu toàn cho Nhạc Phi, thì giặc Kim có thể dẹp yên. Nếu có thể giảng hòa hiềm khích của thừa tướng với tướng quân, khiến cho bao công sức của cả hai bên đều dốc vào lo việc nhà vua, đừng có bức bách nhau đến cùng cực như thế. Bọn người này chẳng những không vì quốc gia mà dẹp loạn, mà lại chính là kẻ sinh loạn vậy.

 *** 

 Nay hãy nói tiếp chuyện Trương Tu Đà, được thăng thông thủ, cho nên chức Tế Châu quận thừa phần một người họ Chu, tên Chí, quê ở huyện Bình Dương thuộc Sơn Tây. Một hôm Chu Quận thừa đang ngồi trên công đường, thì có sai quan đem văn thư của bộ Binh tới, lệnh bắt cả gia quyến Tần Thúc Bảo, Chu Quận thừa liền phái mấy công sai, đem trát bắt người, đến tận Ủng Dương phủ, gặp La Sĩ Tín, trình giấy tờ. Sĩ Tín giận dữ: 

 - Đại huynh ta hết trận này đến trận khác mới được một chút công danh, sao lại có chuyện ghép tội phản nghịch bẩn thỉu thế này cho được. Ta không nghe đâu! 

 Công sai nói: 

 - Nếu ngài nói như thế, tiểu nhân sao dám kháng lệnh trên. Ngay cả đến Chu Quận thừa cũng không dám nói năng rõ ràng là văn thư của bộ Binh, chữ đề của Vũ Văn đại nhân hiện đây, tiểu nhân chỉ làm theo lệnh thôi, xin ngài nghĩ kỹ cho! 

 Sĩ Tín trừng mắt quát: 

 - Khôn hồn thì cút đi cho mau, còn nói lôi thôi thì ta băm nhỏ ra bây giờ! 

 Công sai thấy Sĩ Tín nổi giận, chỉ còn cách quay ra về trình lại với Chu Quận thừa, quận thừa cũng chẳng còn cách nào khác, đành lên kiệu, tìm đến Sĩ Tín. Sĩ Tín ra cửa vái chào, Quận thừa thấy ngay Sĩ Tín là bậc anh hùng tuổi trẻ, không chịu khuất ai, nên đành phải lên tiếng ra vẻ hối lỗi: 

 - Vừa rồi tiểu đệ cũng có điều không phải. Tần Đô úy tuy là quan võ, nhưng cũng cùng là quan lại triều đình với nhau, cũng phải nể mặt nhau ít nhiều. Nhưng đây lại là công văn của Binh Bộ, vâng theo thánh chỉ, để lùng bắt gian đảng nghịch tặc, chuyện thật quan thiết, sai quan luôn thúc giục, tiểu đệ lại ngu tối không nghĩ hết mọi điều ên phải tự thân tới để tạ lỗi. 

 Sĩ Tín nói: 

 - Hạ quan này với Tần Đô úy vốn là anh em khác họ, lúc ra đi, đô úy đã đem mẹ, vợ con phó thác cho hạ quan, sao hạ quan lại có thể để người ta lăng nhục đô úy cho được. Xin quận thừa hiểu cho điều này. 

 Chu Quận thừa đáp: 

 - Tiểu đệ đâu dám không hiểu chuyện đó, nhưng khó là ở chỗ bây giờ trả lời Viện Cơ mật ra sao? 

 Sĩ Tín nói: 

 - Chẳng có chuyện gì lớn, cũng chẳng có chuyện gì nhỏ, nếu quận thừa đứng ra đảm đương cho. Còn phải bắt ai, thì theo hạ quan hiểu, trước tiên lại phải bắt Tần Đô úy, chứ đâu có chuyện chưa bắt đương sự đã đi bắt gia quyến cho được? 

 Chu Quận thừa đáp: 

 - Tiểu đệ đến đây, cũng chỉ vì tình thân của bạn đồng liêu với nhau, mà nghĩ rằng chẳng gì hơn là hối lộ cho bọn sai quan này ít nhiều, rồi nói khó với chúng nó, làm văn thư cho trở về kinh, nói rằng mẹ cùng vợ con Tần Quỳnh đều đã giải lên quan, nhưng đang mắc bệnh nặng, chưa thể đi được, xin đợi cho bệnh bớt ít nhiều, sẽ cho người giải ngay về kinh. Làm được kế hoãn binh này rồi, thì sai người về ngay kinh đô, lo lót mọi chuyện, là yên ổn ngay thôi mà! 

 Sĩ Tín dẫu sao cũng còn ít tuổi, chưa hiểu hết những chuyện mờ ám của đời người, nên đáp ngay: 

 - Anh em hạ quan xưa nay chưa từng lấy tiền bạc của người khác, làm sao có tiền mà làm thế được. Cứ như ý hạ quan, thì đem quách mẹ vợ con đô úy đi chỗ khác, thế là hết bắt bớ. 

 Quận thừa thấy có nói cũng chẳng được, bèn ra kiệu về phủ. Sai quan cứ ngày đêm thôi thúc. Quận thừa không biết làm thế nào, bèn đem ra bàn bạc với bọn thư lại. Có một tay thư lại già, giảo hoạt thưa: 

 - Theo lệnh bắt người, nếu không nghe thì làm sao mà trả lời được với quan trên. Nay Sĩ Tín có binh mã trong tay, dùng sức lực mà bắt, e không xong. Giờ phải làm thế nào mà đối phó được với Sĩ Tín, thì gia quyến Tần Quỳnh chẳng khó gì mà không bắt được. Huống chi Sĩ Tín với Tần Quỳnh cùng ở một nhà, lại đã tự nhận là anh em khác họ, thì cũng thuộc gia quyến rồi, dẫu có bắt giải đi chăng nữa, thì càng thêm đỡ họa sau này. 

 Quận thừa nói: 

 - Sĩ Tín dữ tợn như hổ, làm sao mà bắt được, lỡ ra có chuyện gì, thì đối phó ra sao? 

 Tay thư lại già đáp: 

 - Quan lớn quá lo xa, chỉ cần bắt được Sĩ Tín cùng gia quyến Tần Quỳnh là xong, giao ngay cho sai quan, trên đường có xảy ra chuyện gì, thì kẻ chịu tội là bọn sai quan cùng quan lại sở tại, chẳng can hệ gì đến chúng ta cả. 

 Quận thừa gật đầu: 

 - Thế thì làm thế nào mà bắt y được? 

 Viên thư lại già ghé tại quận thừa, nói nhỏ mấy câu, Quận thừa mặt mày rạng rỡ, sai người đi mời Sĩ Tín, nói là để bàn chuyện viết văn thư trả lời Viện Cơ mật ra sao. Sĩ Tín sốt sắng trả lời: 

 - Việc này thì ta sẵn sàng ngay, cứ về nói với Chu Quận thừa làm trước đi thì vừa. 

 Tên sai dịch đáp: 

 - Thì rõ ràng là Chu Quận thừa sẽ đứng ra viết, nhưng Quận thừa sợ sai gì chăng, nên muốn được ngài xem qua cho một lần, để thấy Quận thừa lo lắng công việc cho anh em ngài ra sao. 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Thật là một tên tay chân bẻm mép, ngươi tên là gì? 

 Sai dịch đáp: 

 - Tiểu nhân họ Kế, tên Thành, ở ngay trong hậu đường của Chu Quận thừa. 

 Sĩ Tín tin là chuyện thực thà, lên ngựa tới công đường. Chu Quận thừa vội ra đón: 

 - Thật là tình đồng liêu, sao lại không cùng nhau bàn luận, nhưng chỉ sợ việc lớn khó lo xong, nên vẫn trù trừ không dám quyết đoán. Nay tiểu đệ đã sắp đặt đâu vào đó, vì hai vị anh hùng lo tròn mọi sự, đợi cho lũ sai quan này đi xong, ta sẽ nói chuyện với nhau. 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Thôi thì mọi chuyện, đều nhờ cậy Chu Quận thừa lo lắng cả cho. 

 Thư lại đem văn thư phúc đáp ra, kể rõ Tần mẫu, Trương Thị bệnh tình ra sao, hiện nay đang bắt giữ ở phủ đường, khi nào đỡ sẽ giải ngay về kinh sư. Sĩ Tín nói: 

 - Hạ quan vốn là kẻ vũ biền thô lỗ, không hiểu rõ việc văn thư, giấy tờ, chỉ cần sao cho sai quan trở về yên ổn là được! 

 Chu Quận thừa vẫn cố ý nói thêm: 

 - Trong này sợ có chỗ chưa thật thỏa đáng. 

 Rồi sai thư lại đóng ấn cẩn thận, lời qua tiếng lại, dùng dằng mãi thì cũng đã nửa ngày, sai quan vào lĩnh công văn, Chu Quận thừa mời Sĩ Tín ở lại dùng cơm trưa, Sĩ Tín cố hai ba lần chối từ. Chu Quận thừa nói: 

 - La Tướng quân cười tiểu đệ nghèo, đến nỗi không có cơm rượu để mời khách chăng? 

 Rồi kéo Sĩ Tín vào hậu đường, chia ghế chủ khách mời ngồi, cùng nhau nâng chén. Sĩ Tín mới uống khoảng vài chén, thì đã choáng váng, thấy như trời đất chuyển, đầu váng mắt hoa, ngã lăn khỏi ghế. Chu Quận thừa đã sắp sẵn lính tráng, đem Sĩ Tín trói lại, ra công đường, nói với tay chân: 

 - La Sĩ Tín cùng Tần Quỳnh thông đồng với bọn phản nghịch, phụng thánh chỉ bắt giải về kinh, mọi người không được nhốn nháo. 

 Thủ hạ nghe xong, không dám nói một lời, ai lo việc nấy. Sĩ Tín đã bị bắt, phủ đường Ủng Dương vô chủ. Tần mẫu cùng Trương Thị, Tần Hoài Ngọc, không người che chở đều bị bắt giải đến công đường quận thừa, hai tay đều còng chặt, cho lên xe ngồi. Sĩ Tín cũng bị còng hai tay, nhưng phải nhốt trong xe tù bịt kín, cùng với văn thư, giao cả cho sai quan, lại phái thêm bốn mươi tên lính hộ tống, ngay đêm hôm ấy rời thành Tế Châu về kinh sư. 

 Canh năm hôm đó, Sĩ Tín dần tỉnh thuốc mê, nghe có tiếng đàn bà khóc lóc bên tai, mình thì lại không cựa quậy được chân tay, mở mắt nhìn ra, thấy đang bị nhốt trong xe tù, bên ngoài thì Trương Thị cùng Hoài Ngọc đều bị còng tay, khóc lóc trong chiếc xe nhỏ ngay cạnh. Thấy thế, Sĩ Tín nổi cơn giận dữ: "Chỉ vì ta vụng tính toán, trúng kế của lũ giặc già, để đến nỗi người già, trẻ con chịu khổ thế đây!" Đầu óc ngày càng tỉnh táo, nhưng vẫn chẳng thế nào cựa quậy, chỉ đành chờ đợi vậy thôi. Sang giờ thìn, tinh thần đã hoàn toàn bình thường, Sĩ Tín bèn hét to một tiếng, hai vai xoay thật mạnh, làm cái nắp trên xe tù bật tung, tay giằng mạnh, còng cũng gãy nốt, chân đạp liên tiếp, còng chân cũng chẳng còn, sàn xe cũng gãy nát rồi vặn hai càng xe đuổi đánh sai quan. Bọn sai quan vốn biết Sĩ Tín lập tức mở còng cho Tần mẫu, Trương Thị cùng Hoài Ngọc, chẳng đếm xỉa gì đến chuyện tụi phu xe đã bỏ chạy cả. 

 Sĩ Tín tự mình kéo xe, nghĩ ngợi: "Bên mình chẳng ai đỡ đần, nếu bọn này kéo lính tráng đuổi theo bắt, thì biết làm thế nào?" Cứ vừa đẩy xe, vừa tính toán cách này, kế khác, nhưng chẳng thấy được mưu ẹo nào hoàn hảo, lại thấy trong cánh rừng rậm rạp phía trước, khoảng chục người kéo ra, Sĩ Tín vội hạ xe xuống, với một gốc táo bên đường, định xông vào đánh hai người đi đầu, một người hét lớn: 

 - La tướng quân đừng ra tay nữa, Giả Nhuận Phủ đây. 

 Sĩ Tín đã từng đến nhà gặp Nhuận Phủ một lần, nên nhìn kỹ, cũng còn nhận ra, bèn hỏi: 

 - Đại huynh đã đem gia quyến gửi được ở đâu rồi, mà lại nhàn rỗi có thể tới đây gặp tiểu đệ thế này? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Đã cùng đi với gia quyến của Vương đại huynh về Ngõa Cương yên ổn cả. Huyền Thúy đã tính toán chu đáo mọi chuyện, thấy rõ thế nào cũng dính líu đến Tần đại huynh, vì vậy sai hai chúng tôi, ngày đêm xuống núi, về tận thành Tế Châu nghe ngóng mọi chuyện. Thì đúng như dự tính, biết rõ chúng có giải gia quyến Tần đại huynh về kinh, tất phải đi qua đường này, vì vậy mới cùng với Đơn chủ quản dẫn lâu la phục sẵn ở đây, đợi chúng tới, sẽ giải tháo cho mọi người, không ngờ La tướng quân đã tự mình đảm đương được mọi chuyện rồi! 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Tuy đã thoát được thân tù, đánh tan được bọn quan binh áp giải, nhưng tiểu đệ đang lo một thân một mình, vừa phải kéo xe, vừa phải ngó trước nhìn sau, chỉ sợ lính tráng đuổi theo sau, thì khó mà trông coi cả hai phía chu toàn. Nay may gặp hai vị ở đây, thì chẳng sợ gì nữa. 

 Đơn Toàn lên tiếng: 

 - Chúng ta có ngựa tốt, có vũ khí, dẫu chúng có đuổi theo, cũng chẳng có gì đáng sợ. 

 Nhuận Phủ tiếp: 

 - Đúng thế, phía trước lại là hang Đậu Tử, ở đó chúng ta sẽ có bạn bè giúp thêm một tay. 

 Chưa trò chuyện xong, thì đã thấy quận thừa cùng sai quan, kéo năm sáu trăm quân tới. Đơn Toàn nói với Nhuận Phủ. 

 - Hiền đệ hộ tống Tần mẫu, Tần phu nhân, chạy nhanh lên phía trước, Đơn Toàn này sẽ cùng Sĩ Tín cho bọn giặc già này biết tay. 

 Nói rồi chọn một con ngựa, cho Sĩ Tín cưỡi, Sĩ Tín lại kiếm một cây thương, đứng nép bên vách núi, lớn tiếng quát: 

 - Anh em chúng ta nào có phụ gì triều đình mà chúng bay dám bày mưu tính kế hãm hại. Nay ta sẽ trừ tận gốc lũ giặc tham tàn này, nếu còn một đứa sống sót trở về, thì La Sĩ Tín này không đáng mặt hảo hán! 

 Bọn quan binh, chỉ riêng Sĩ Tín cũng đã địch chẳng nổi, nay lại thấy thêm một hảo hán dữ tợn, đen như quỷ đói, chẳng một kẻ nào dám đương đầu, đều thi nhau quay ngựa bỏ chạy. Đơn Toàn thấy thế, cười ha hả. 

 - Thật đáng thương, thế mà cũng là quan là lính triều đình. 

 Sĩ Tín đang định đuổi theo, Đơn Toàn liền giữ lại, quay ngựa trở về. Nhuận Phủ đem theo mấy lâu la, hộ tống Tần mẫu đi nhanh về hướng Ngõa Cương, thấy ngã ba Tam Soa phía trước, một đội người ngựa kéo ra. Người đi đầu hét lớn: 

 - Lũ trẻ con kia! Hãy xem ta túm gọn tất cả đây! 

 Nhuận Phủ vội nhìn, nhận ra là Trình Giảo Kim, liền cố ý đáp: 

 - Hà, thằng cướp đường kia, không nhận ra ta là Tần Thúc Bảo sao? 

 Giảo Kim cười đáp: 

 - Thằng điên kia! Lại dám giả mạo cả tên họ đại huynh ta để hòng nạt ta sao? 

 Rồi giơ cao búa xông tới, Nhuận Phủ to tiếng: 

 - Trình Giảo Kim, đây chính là gia quyến Tần Thúc Bảo, cùng với hành lý, hiền đệ có dám cướp không nào? 

 Xe của Tần mẫu kịp tới. Sĩ Tín cùng ơn Toàn nghe thủ hạ báo phía trước có cướp đón đường, cũng vội ruổi ngựa đuổi theo. Giảo Kim lúc này đã đến trước xe Tần mẫu, cùng mọi người gặp gỡ, lại thăm hỏi Tần mẫu. Nhuận Phủ vội kể lại mọi chuyện, Giảo Kim nói: 

 - Xin bá mẫu hãy vào trại của Giảo Kim này để cùng mẫu thân 

 Giảo Kim gặp gỡ. Nay Giảo Kim này không còn nghèo đói như xưa đâu, đủ sức để phụng dưỡng bá mẫu. Bọn quan lính cũng chẳng dám bén mảng tới đây đâu! 

 Vì vậy mọi người đều kéo vào trại của Giảo Kim, cũng gặp gỡ Vưu viên ngoại. Giảo Kim không quên mời Tần mẫu vào trại sau gặp mẫu thân. Tần mẫu bảo Sĩ Tín: 

 - Chúng ta ở đây, chẳng biết Thúc Bảo đang ở ngoài chỗ giặc giã, có biết được những việc này chưa, sống chết ra sao, khiến lòng ta không lúc nào khỏi lo lắng. 

 Rồi xụt xịt hai hàng lệ. Giảo Kim khuyên giải: 

 - Bá mẫu yên lòng. Đợi đêm nay cháu dẫn vài trăm lâu la, sẽ đón được đại ca về đây, cùng nhau đoàn tụ, chẳng sợ gì lính trước, lính sau của triều đình. 

 Nhuận Phủ nói: 

 - Tần đại huynh cùng Trương Thông Thủ dẫn sáu bảy ngàn binh mã, hiền đệ dẫu có định đến quấy rối, thì cũng vô ích thôi, mà còn làm lụy đến công việc của Tần đại huynh nữa kia. 

 Sĩ Tín bỗng nói: 

 - Xin để tiểu đệ đi một phen! 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Cũng không được! 

 Đơn Toàn nói: 

 - Nếu Đơn Toàn này đi thì sao? 

 Nhuận Phủ lại đáp: 

 - Hiền huynh đi thì quá là tốt. Chỉ sợ Tần đại huynh không nhận ra hiền huynh, sẽ không tin. 

 Đơn Toàn cãi: 

 - Sao lại có chuyện ấy được. Trước đây Tần tướng quân mắc bệnh, tại Nhị Hiền trang ở hơn năm trời, sao lại không biết Đơn Toàn này? 

 Giảo Kim hỏi: 

 - Vị này là ai? 

 Nhận Phủ đáp: 

 - Đây chính là vị chủ quản tháo vát của Đơn viên ngoại, nay theo viên ngoại lên Ngõa Cương, nổi tiếng là bậc hào kiệt nghĩa khí. 

 Giảo Kim nói: 

 - Xứng đáng là tay chân thân tín của Đơn viên ngoại vậy? 

 Tần mẫu mừng rỡ: 

 - Nếu được vị chủ quản bằng lòng đến chỗ Tần Quỳnh của già này thì thật quý hóa quá. Xin đợi già này viết mấy chữ, kiếm chút tiền đi đường. Rồi phiền vị chủ quản đi ngay cho. 

 Giảo Kim gạt ngay: 

 - Bá mẫu đừng làm thế mọi người cười cho. Có bá mẫu ở trên, mọi chuyện cháu phải chu tất, việc gì bá mẫu phải lo lắng. 

 Rồi gọi ngay lâu la, lấy ra một đĩnh bạc lớn, Giảo Kim cầm lấy đưa cho Đơn Toàn: 

 - Xin cầm mười lạng này làm lộ phí vậy. 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Tiền đi đường thì trong người Đơn Toàn này lúc nào chẳng sẵn, không đáng để Tần mẫu cùng Trình Tri Tiết phải lo lắng... Xin Tần mẫu viết ngay thư, để Đơn Toàn này lên đường ngay cho kịp. 

 Tần mẫu viết xong thư, đưa cho Đơn Toàn, rồi ra trại sau gặp Trình mẫu. 

 *** 

 Không nói chuyện Đơn Toàn đến quân doanh báo tin cho Thúc Bảo, hãy kể chuyện Giảo Kim. Nhuận Phủ, cùng Sĩ Tín, Hoài Ngọc cùng uống rượu với nhau xong thì đi nằm nghỉ sớm. Riêng Sĩ Tín vẫn không sao ngủ được, nghĩ ngợi mông lung: "Sĩ Tín này lâu nay chưa từng bị ai đè nén, coi thường, ai ngờ lại bị thằng giặc già cùng lão thư lại giảo hoạt, bày mưu thiết kế trói ta lại rồi nhốt trong xe tù, mất đúng nửa ngày với một đêm tròn. Lại còn làm lụy đến mẹ già, với vợ con của Tần đại ca. Người đời vẫn thường nói: giận lặt vặt thì không phải hạng quân tử, nhưng không dám làm những chuyện tầy trời thì lại không đáng mặt trượng phu. Sĩ Tín này mà không giết được vợ chồng thằng chó già này, thì thật không đáng đứng trong trời đất nữa". Trằn trọc nghĩ ngợi suốt đêm, vừa canh năm, đã chồm ngay dậy, ăn mặc vội vàng cho xong rồi vào ngay chuồng ngựa, chọn một con tốt nhất, nhảy lên phi ra khỏi trại. Bọn lâu la gác cửa trại hỏi: 

 - Đầu lĩnh đi đâu bây giờ? 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Chủ trại của các ngươi sai ta đi công cán một phen. 

 Nói rồi gia roi phóng thẳng một mạch một trăm dặm đường, đến cửa thành Tế Châu, vào ngay một cửa hàng cơm, chén một bụng no, rồi nói với chủ quán: 

 - Ta gửi con ngựa này cho tiểu nhị, hãy cho nó ăn cho no. Ta vào thành trình công văn, nếu quay ra mà cửa thành đã đóng, thì ta sẽ ngủ tạm đêm nay ở trong thành. 

 Chủ quán vội vàng đáp: 

 - Xin ngài cứ yên tâm, ngựa của ngài sẽ được chăm sóc chu đáo. 

 Sĩ Tín vào thành, trời cũng bắt đầu tối, Sĩ Tín tìm một ngôi miếu hoang, ngồi chờ một hồi, cho mãi đến lúc hết canh một, mới lặng lẽ vào cửa sau của phủ đường Ủng Dương, chỉ thấy hai hàng nhà, các phòng đều đã đóng chặt cửa, thì thấy một tên tay chân bưng một bình rượu đi lại, Sĩ Tín đón hỏi: 

 - Xin cho hỏi, vị thư lại già ở chỗ nào? 

 Người này đáp: 

 - Ngay dãy nhà trước mặt kia, phòng trước cửa có giếng nước là đúng. 

 Sĩ Tín đi ngay theo lời chỉ, nhìn vào thấy phòng trống, không một bóng người. Nghe có tiếng đàn thánh thót từ phòng bên, rồi tiếng người hỏi: 

 - Ai đó? 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Tiểu nhân tìm gặp vị thư lại già ở đây! 

 Người đánh đàn đáp: 

 - Không có nhà đâu. Vừa ra miếu thổ địa nói chuyện với ngài Lang Thẩm rồi. 

 Sĩ Tín vội quay ra, rảo bước đến miếu thổ địa, thấy một bóng người đi phía trước, vừa đi vừa lẩm nhẩm một mình, Sĩ Tín nhìn kỹ, đúng là viên thư lại rồi. Sĩ Tín vội lần lên phía trước, chạy nép sau cổng miếu thổ địa, giả giọng Giang Tây hỏi ra: 

 - A, ngài thư lại đến đây rồi! 

 Viên thư lại nhìn trong tối chẳng rõ, lại nhận ra viên sai quan của bộ Binh, liền cất tiếng: 

 - Chào Hùng đại nhân? 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Không dám! 

 Thư lại xăm xăm bước vào. Sĩ Tín bước nhanh ra đón, thư lại nhìn kỹ, nhận ra Sĩ Tín, ba hồn bảy vía đâu mất cả, cả người run bắn, khụy ngay xuống mặt đất, Sĩ Tín đặt ngay một chân lên ngực thư lại, rút đoản đao sáng loáng ra. Thư lại van lạy: 

 - Không dính dáng gì đến tiểu nhân cả, xin tha cho mạng chó già này. 

 Sĩ Tín nạt: 

 - Con chó săn kia, không được mở miệng, mày hãy khai cho thực thằng quan chó của mày hiện đang ở đâu? 

 Thư lại thưa: 

 - Vừa xếp đặt xong mọi chuyện, rồi về hậu đường rồi ạ! 

 Sĩ Tín sợ người qua lại bắt gặp sinh chuyện lôi thôi, vội hạ ngay dao xuống, gọn một nhát, đầu đã lìa khỏi cổ. Sĩ Tín cởi áo trên người thư lại, gói thủ cấp lại, vứt ngay góc thềm miếu. Biết rõ tường sau cửa miếu, chính là phủ đường, Sĩ Tín nhảy ngay lên tường, vừa may phía trong có một cây liễu kề ngay tường, liền bám lấy mà xuống. Thì ra là nhà Chu Quận thừa đãi cơm rượu hôm trước, lần vào, cửa trong đã đóng kín cả, may còn thấy cuối tường cầu thang lên gác. 

 Sĩ Tín nhảy lên cửa sổ, nghiễm nhiên đã đứng ở cầu thang trong nhà, rồi từng bậc một lặng lẽ lên gác. Nhìn vào trong phòng chỉ thấy một mình Chu Quận thừa, vì không mang gia quyến đi theo, chỉ có một vài thằng nhỏ, hầu hạ hàng ngày, thì giờ đều đang ở dưới bếp cả. Sĩ Tín khẽ đẩy cửa sổ thấy Chu Quận thừa đang ngồi trước bàn với một ngọn nến, trên bàn la liệt những thỏi bạc to nhỏ nhiều loại đang dùng bút tính toán rõ ràng để gửi về quê. Sĩ Tín đẩy tiếp hai cánh cửa lớn, Chu quận thừa nhận ra có người vào, vội lấy thân mình che kín đống bạc, đang định mở miệng la cướp, thì Sĩ Tín tay cầm đoản dao, tay nắm chặt tóc quát: 

 - Thằng chó chết, mày có nhận ra ta chăng? 

 Lúc này Chu Quận thừa một lời cũng không nói được, chỉ cúi sát đất mà lạy. Sĩ Tín cúi xuống cắt lấy thủ cấp, quay sang giường, lấy chăn gói kín lại, rồi buộc ngang lưng mình, bao nhiêu bạc trên bàn, cứ nhặt từng thỏi bỏ cả vào ngực áo. Thấy trên bàn, sẵn bút mực, cầm ngay viết lên tường: 

 Mắc oan đêm trước 

 Trả thù đêm nay 

 Oan thù tương báo 

 Mới thỏa dạ này. 

 Viết xong vứt bút, theo lối cũ vượt tường mà ra, về đến miếu thổ địa, lấy thủ cấp của thư lại, gói vào cùng một gói với thủ cấp của Chu Quận thừa. Ra khỏi miếu, đi về cửa thành. Lúc này mới đầu canh năm, cửa thành vẫn chưa mở, bèn trèo lên mặt thành, chọn chỗ tường thấp nhảy xuống. Đi thẳng tới tửu điếm, tìm một chỗ kín đáo, giấu hai thủ cấp lại, gõ cửa. Chủ quán mở cửa ra nói ngay: 

 - Ngài về sớm quá! Cửa thành đã mở rồi sao? 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Ta có việc phải đưa văn thư hỏa tốc, sợ gì chúng nó đóng cửa thành. Có cho ngựa của ta ăn no không? 

 Chủ quán đáp: 

 - Ngài đã dặn, tiểu nhân đâu dám quên? 

 Sĩ Tín lấy trong người ra một thỏi bạc khoảng bốn năm lạng, đưa cho chủ quán: 

 - Thưởng cho tiểu nhị đây! Mau dắt ngựa ra đây cho ta! 

 Chủ quán dắt ngựa ra. Sĩ Tín nhảy ngay lên yên, cho đi thong thả. Khi đã nghe tiếng chủ quán đóng cửa, Sĩ Tín mới cho ngựa đi nhanh hơn, tới lấy hai cái thủ cấp, buộc ở sau yên ngựa, phi một mạch đến bốn năm mươi dặm. Đến khi thấy vừa đói vừa khát, tìm vào một thôn cạnh đường, thấy một ông già ngồi ngay trước cửa nhà, bán trứng gà, rượu hâm nóng. Sĩ Tín nhảy xuống ngựa, gọi ông già mang rượu ra, rồi hỏi: 

 - Sao thôn xóm của lão trông thảm thương đến thế hở! 

 Ông già đáp: 

 - Dân chúng khốn khổ vì phu dịch. Ruộng vườn bỏ hoang, làm sao không thê lương, cùng khổ cho được? 

 Sĩ Tín nghĩ ngợi: "Trong người ta còn ít bạc đây, ở tay thằng giặc chó chết này mà ra, thì đều là máu mỡ của dân đen cả đấy thôi. Nó những hòng gửi về cho vợ con hoang phí, ai ngờ bị ta lấy mất. Ta đem cái này về sơn trại làm gì?". Bèn hỏi tiếp: 

 - Thôn của lão đây có bao nhiêu nhà? 

 Ông già đáp: 

 - Không nhiều, chỉ khoảng mười nhà. Đàn ông đều phải đi phu cả rồi, vứt lại toàn đàn bà, trẻ con. Khó mà sống nổi! 

 Sĩ Tín tiếp: 

 - Lão hãy gọi mọi người lại đây, họ La này sẽ cấp cho ai nấy một ít mà qua ngày vậy. 

 Ông già nghe thấy nói thế, liền gọi ngay mấy người đàn bà tới. 

 Thật đáng thương, tất cả đều áo chẳng đủ che thân, hình thể gầy gò như con cò, con chim cu vậy, Sĩ Tín hỏi: 

 - Tất cả có bao nhiêu nhà? 

 Ông già đáp: 

 - Cộng cả có mười một nhà. 

 Sĩ Tín đem tất cả số bạc trong người đổ ra, ước chừng chia ra làm mười một phần, thỏi nào cũng óng ánh như hoa tuyết. Sĩ Tín nói với những người đàn bà đáng thương: 

 - Mỗi người mỗi nhà, nhận lấy một phần, may ra sống được đến lúc đàn ông trở về. 

 Mấy người đàn bà này, mừng không thốt được một lời, quỳ sát đất lạy tạ rồi ai lấy phần người ấy. Ông già cất tiếng: 

 - Cũng muốn làm một mâm cơm, tạ ơn hảo hán, để thấy được lòng biết ơn của thôn nghèo, nhưng khổ một nỗi, hiện chẳng có một thứ gì trong nhà, ngay đến một hạt gạo cũng không. Chỉ có mấy cái bánh bao bột to, nếu hảo hán không chê, già này xin mang ra, mời hảo hán ăn đỡ lòng vậy. 

 Sĩ Tín nói ngay: 

 - Thế cũng được! 

 Ông già vội chạy vào bếp, lấy ra một đĩa trứng gà, một đĩa bánh bao. Chẳng mấy chốc, các nhà xung quanh, đều đem bánh bao, trứng gà, dưa hành, rượu nóng, bày ra đủ mười mâm, người này một chén, người kia một chén, mời Sĩ Tín, Sĩ Tín bất giác khoan khoái, ăn thật no rồi chắp tay lạy chào, lên ngựa, phi như bay về phía trước. 

 *** 

 Lại nói Giảo Kim sáng hôm ấy dậy sớm, thấy Sĩ Tín đi đâu mất, vội chạy đi thưa với Tần mẫu, lại đoán rằng Sĩ Tín không muốn lên sơn trại, nên bỏ trốn mất rồi. Nhưng Tần mẫu vẫn không tin, vì biết Sĩ Tín vốn thật thà: 

 - Sĩ Tín vốn là một đứa thẳng thắn, chẳng bao giờ bỏ lại chúng ta đi đâu? 

 Lúc này Sĩ Tín đang trên ngựa ruổi nhanh, sực nhìn lại, chẳng thấy hai cái thủ cấp đâu nữa, thì ra do buộc ở sau yên không chặt, ngựa lại phi cố sống cố chết, nút buộc ngày một lỏng dần, rồi rơi quách. Sĩ Tín liền quay ngựa lại, đi chậm chậm để tìm. Đến mấy dặm, thì thấy trong khe núi, một đội người ngựa kéo ra, phía trước là hơn mười xe chở lương thảo, theo sau là bốn năm chục người ngựa hùng dũng, với hai ba đầu lĩnh dẫn dầu, người nào cũng chít khăn đầu rìu ống tay áo bó gọn gàng, cầm trường thương hoặc búa rộng bản. Sĩ Tín biết ngay là các vị hảo hán, nên nép sát ngựa bên đường tránh cho ngựa đi qua. Mấy đầu lĩnh từ trên yên ngựa, chăm chú nhìn Sĩ Tín, Sĩ Tín cũng trừng mắt nhìn lại. Đầu lĩnh đi sau cùng, dừng ngựa hỏi: 

 - Anh là ai? 

 Sĩ Tín vốn vừa gan vừa bướng, cũng hỏi lại: 

 - Anh là ai mà hỏi ta? 

 Người này cười: 

 - Anh trông giống như La Sĩ Tín, người nhà Tần đại huynh thì phải? 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Ta chính là La Sĩ Tín? 

 Người này xuống ngựa, tiến lên trước nói: 

 - Tiểu đệ là Liên Minh! 

 Sĩ Tín nói: 

 - Có phải là người tới phủ, nhờ Tần đại ca báo tin cho Giả Nhuận Phủ, bảo Nhuận Phủ trốn ngay đi phải không? 

 Cự Chân đáp: 

 - Đúng như thế. 

 Sĩ Tín nghe nói thế, cũng xuống ngựa, cùng Cự Chân vái chào. 

 Cũng bởi Từ Mậu Công phái bọn này đi mượn lương thảo ở Lộ Châu về đến đây, nghe thấy thế, các đầu lĩnh đều xuống ngựa, cùng chào hỏi Sĩ Tín, Cự Chân nói: 

 - Nhuận Phủ gia quyến, tiểu đệ đã đưa về Ngõa Cương yên ổn, nhưng không biết tình trạng Tần Thúc Bảo cùng gia quyến ra sao? 

 Sĩ Tín đem chuyện Tần mẫu bị bắt kể đầu đuôi. Đơn viên ngoại nói: 

 - Nếu Tần mẫu đang ở chỗ Trình mẫu, thì Hùng Tín này phải đến thăm mới được! 

 Nguyên Chân nói: 

 - Nếu đã như vậy, thì chẳng bao lâu sẽ cùng gặp gỡ. Hiện nay đang phải trông coi lương thảo trên đường đi thế này, lâu la thì đông. Chi bằng, ta mời Sĩ Tín cùng về Ngõa Cương, cùng gặp Từ, Lý hai vị bàn cách giải cứu cho Tần đại huynh, mới là kế chu toàn lâu dài. Nhưng không biết ý La hiền đệ, hiện nay định đi đâu? 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Tiểu đệ đang trên đường về hang Đậu Tử, nhân vì rơi mất một thứ này nên phải quay lại tìm. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Rơi cái gì? 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Hai cái thủ cấp! 

 Địch Nhượng vội hỏi: 

 - Thủ cấp ai thế? 

 Sĩ Tín đem chuyện đang đêm tìm kẻ thù, cắt đầu hai mạng, đem tiền chia cho dân thôn kể lại một lượt. Địch Nhượng kêu trời. 

 - Hiền đệ thật đáng mặt hảo hán, chi bằng cùng lên Ngõa Cương tụ nghĩa vậy? 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Tiểu đệ vẫn có ý lên Ngõa Cương lạy chào chư vị, nhưng sợ Tần mẫu không thấy tiểu đệ, lại thêm lo nghĩ, chi bằng để tiểu đệ về trình lại Tần mẫu rồi sẽ lên sơn trại cũng chưa muộn. 

 Hùng Tín nói: 

 - Nếu vậy, hiền đệ gặp Tần mẫu, xin thay mặt Hùng Tín này, thưa hộ vì phải lo liệu công việc sơn trại, nên chưa thể đến thăm được? 

 Sĩ Tín đỡ lời: 

 - Tiểu đệ xin nhớ! 

 Ai nấy chào từ biệt, lên ngựa. 

 *** 

 Khoan nói chuyện Sĩ Tín về hang Đậu Tử, mà hãy theo đoàn Địch Nhượng trên đường về Ngõa Cương đã. Đi chưa được mấy dặm, thì thấy lâu la thưa: 

 - Chúng tiểu nhân nhặt được một cái gói bên đường, trong đó có hai thủ cấp, chẳng biết có phải của La tướng quân đánh rơi không? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Đem đây xem sao! 

 Lâu la đem lại, thì vẫn là hai đầu lâu máu đã đông tím đen. 

 Địch Nhượng ra lệnh: 

 - Hãy sai người đem trả lại cho Sĩ Tín? 

 Hùng Tín can: 

 - Chẳng cần phải trả làm gì. Hai người này cũng vì dính líu đến công việc của anh em ta, một phần cũng vì nghe theo lệnh trên, ai ngờ tiền mất, mạng vong. Nếu cứ đem thủ cấp mà quăng đi ném lại, thì cũng quá nhẫn tâm, các ngươi hãy mau làm tạm lấy hai hộp gỗ, đem bỏ hai thủ cấp này vào, đào hai hố sâu, đắp thành mồ mả cẩn thận. 

 Sau đó cả bọn lại lên ngựa về trại. 

 Chính là: 

 Từ tâm vốn lẽ thường 

 Tàn nhẫn thật ít thấy! 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi Lăm

Huyện Bình Nguyên, Thúc Bảo gặp may thoát chết,

 Chùa Đại Hải, Vạn Nhẫn vì nghĩa quên mình.

 Từ rằng: 

 Gặp may mới biết lòng trời 

 Khéo dun dủi cứu lấy người thất cơ 

 Trí tâm đâu dám lọc lừa 

 Gian hùng hiểm độc, mưu mô hại đời 

 Mắt xanh, máu lệ tuôn rơi 

 Anh hùng tụ nghĩa, đầy vơi rừng tùng 

 Kiên trinh một tấc cô trung 

 Ngư Dương trận ấy anh hùng chưa nguôi(1) 

 Mắt còn than thở đôi lời 

 Ân ân, oán oán, ngược xuôi tình người. 

 Theo điệu "Lâm giang tiên" 

 1 Nể Hành, tức Nể Chính Bình thời Tam Quốc, nổi tiếng đức hạnh. Tào Tháo mời đến làm nhục. Nể Hành cởi truồng đánh trống theo điệu Ngư Dương, "nhịp nhàng nghe hay lắm, ầm ầm như có cả tiếng chuông tiếng khánh đua theo. Khách ngồi ăn yến ai nghe cũng phải bi thương rỏ nước mắt". (Tam Quốc diễn nghĩa). 

 Nói cho cùng ra, ở trên đời này, chẳng ai chết hai lần, đó chính là cách nghĩ của bậc trung thần khí tiết, anh hùng hào kiệt. Nhưng còn bọn đố hiền tật năng, đem cả lợi ích quốc gia làm lợi cho riêng mình, chỉ cần thỏa mãn sở thích cá nhân, chẳng cần nghĩ đến giang sơn dân chúng, như Phạm Thư chạy trốn sang Tần, mượn quân Tần đánh Ngụy để báo thù riêng, rồi Ngũ Viên chạy sang Ngô, làm cho Sở điên đảo để trả oán xưa, nếu bàn đến mục đích của hạng người này, thì cũng thế cả thôi. Hãy khoan nói chuyện người đời, khiến họ không đất dung thân, nên họ phải tìm cách đối phó với cách làm, cùng mục đích, hai chuyện khác nhau. 

 *** 

 Nói chuyện Đơn Toàn, cầm thư của Tần mẫu rời khỏi hang Đậu Tử của Giảo Kim, đi suốt ngày đêm tìm tới quân doanh, vừa may lúc Thúc Bảo đang ở trong trại, nghe tay chân vào thưa: 

 - Tần phu nhân sai người đưa thư đến. 

 Thúc Bảo nghĩ ngay đến chuyện mẫu thân bệnh tật gì chăng, giật mình kinh hãi, vội nói: 

 - Dẫn ngay người đưa thư vào đây! 

 Thúc Bảo nhìn kỹ, liền nhận ra Đơn Toàn, viên chủ quản quen biết của Đơn Hùng Tín, liền nghĩ: “Nhất định là Đơn nhị ca sai Đơn Toàn đến thăm ta đây mà?". Liền đon đả chào hỏi: 

 - Hay lắm! Cố nhân đâu rồi, ta cứ băn khoăn không hiểu khách nào, mời vào trong này! 

 Thúc Bảo dẫn Đơn Toàn vào thư phòng. Đơn Toàn vái chào xong xuôi, Thúc Bảo bèn tiếp: 

 - Hiền huynh không phải ai xa lạ, ta được gặp hiền huynh cũng như được thấy Đơn viên ngoại vậy thôi. 

 Rồi sai tay chân lấy ghế dựa, ân cần mời Đơn Toàn ngồi, Đơn Toàn từ chối: 

 - Xin đứng nói vài câu, còn phải đi ngay! 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Có phải Đơn viên ngoại có thư gửi thăm ta chăng? 

 Đơn Toàn đáp: 

 - Không phải! 

 Thấy Đơn Toàn đáp thế, Thúc Bảo đã thấy có chuyện khác thường, liền nói ngay với tay chân: 

 - Các ngươi hãy mau đi làm cơm rượu lên đây! 

 Đơn Toàn thấy chung quanh không còn ai khác mới lấy thư của Tần mẫu gói kỹ trong miếng giấy dầu để trong ngực ra, đưa cho Thúc Bảo. Thúc Bảo thấy ngoài viết: "Tần mẫu gửi cho con là Thúc Bảo tự tay mở". Thì hai mắt đã thấy nặng, càng xem càng ngẩn người. Đơn 

 Toàn nói: 

 - Phu nhân có nói rằng gia quyến đã bị bắt bớ như thế thì Tần tướng quân tất cũng không tài nào tránh khỏi vạ, không ngờ đến giờ vẫn được yên ổn. Nhưng sợ rằng ngay trước mắt, bọn nha lại Tế Quận, nhất định sẽ làm văn thư, trình rõ chuyện Sĩ Tín giữa đường trốn thoát, đánh bại quan quân, đem gia quyến theo Bá Đương, Huyền Thúy, đều là phường phản nghịch, chuyện càng ngày càng lớn, thì dẫu Trương Thông Thủ có bênh vực nữa, thì cũng khó mà cãi lại trăm người đều nói như một. 

 Thúc Bảo nghe nói thế, lòng ngổn ngang trăm mối, chưa biết nên đối phó ra sao, thì lại thấy tay chân vào thưa: 

 - Có người nhà là Lã Minh đang đứng chờ bên ngoài. 

 Thúc Bảo vội giục: 

 - Dẫn ngay vào đây. 

 Lã Minh vào, thấy Thúc Bảo, vừa quỳ lạy vừa khóc. Thúc Bảo nóng lòng: 

 - Ta biết rồi, ngươi hãy kể lại rõ ràng xem nào. 

 Lã Minh đứng dậy thưa: 

 - Ban đầu Chu Quận thừa đến bắt gia quyến. La tướng quân không cho. Chu Quận thừa bèn lập kế, bắt trói La tướng quân, tối đến nhà bắt cả gia quyến. Ngay đêm hôm đó, tiểu nhân trốn đi báo cho đại nhân, nhưng cửa thành không cho ai ra, chỉ để bọn quan quân giải ngay La tướng quân cùng gia quyến đi. Mãi đến gần trưa, bọn quan quân này trở về, trình La tướng quân đã trốn được, lấy đá lớn đánh chết bảy tám đứa cả lính cả quan. Cửa thành càng được canh giữ nghiêm ngặt. Chẳng ngờ đến sáng ngày hôm sau, thì Chu Quận thừa bị giết ngay tại phủ đường, một viên thư lại già bị giết ngay ở cổng miếu thổ địa, lúc này cửa thành rộng mở, tiểu nhân mới ra được để đi tìm đại nhân. Chỉ sợ ngay chiều nay sẽ có văn thư đến soái phủ của Trương Thông Thủ rồi. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Bây giờ ta phải làm gì đây! Ta cũng muốn đem thân này đền nợ nước, sau đó báo ơn tri kỷ, chẳng ngờ xảy chuyện tày trời. Tấm lòng của ta giờ chỉ có thể giãi bày với trời cao nữa thôi. 

 Đơn Toàn bàn: 

 - Tướng quân đừng nói chi việc giãi bày. Bọn thù oán với tướng quân còn ở triều đình, dẫu có hàng trăm Trương Thông Thủ, cũng chẳng gỡ nổi cho tướng quân. Thêm chuyện đang đêm giết quan, cắt cổ lại đâu chỉ liên lụy riêng gì La tiểu tướng. Nếu cứ do dự, chuyện đến chân rồi, thì ngay cả Trương Thông Thủ giữ cho riêng ngài cũng khó. Tính mạng của tướng quân thật nguy khốn không chừng, nói gì đến chuyện cảm tạ tri kỷ cho được. Nay nhân lúc sự chưa vỡ lỡ, chi bàng dẫn quân bản bộ của tướng quân cùng về sơn trại. Với võ nghệ tuyệt luân của tướng quân, lại có thêm anh em phò trợ, lớn thì thành vương, nhỏ thì thành bá. Sao lại chịu ngồi ngậm miệng để chờ bị giết sao? 

 Thúc Bảo nghe ra, thở dài mà than: 

 - Ta nay bất hạnh mà gặp chuyện tang thương dâu bể này, kéo cả nhà đi làm phản, còn lòng nào mà kéo cả binh lính cùng làm giặc nữa. Ta chỉ viết một lá thư, từ biệt Trương Thông Thủ, đêm nay cùng hiền huynh trốn đi, chỉ cốt sao mẹ con cùng đoàn tụ là tốt rồi. 

 Một mặt bày rượu khoản đãi Đơn Toàn, còn mình thì ngồi cạnh viết thư để lại cho Trương Thông thủ, thư viết rằng: 

 Xin trình dưới trướng ân chủ Trương Thông Thủ đại nhân: 

 Quỳnh này đội ơn mắt xanh đại nhân thương đến đã hơn năm nay, cứu Quỳnh này khỏi vạ chết trước mắt. Nhưng mong lấy da ngựa bọc thây để báo ơn riêng đó, nhưng lúc tuổi trẻ nghĩa hiệp, giết kẻ quyền thế dâm ác ở Trường An, nên kết oán ngày càng sâu với Vũ Văn Thuật. Gần đây định khép Quỳnh này vào cùng một bọn với nghịch đảng, may được ân chủ chiêu tuyết đỡ cho, nhưng khổ thay, bọn cừu thù lại bắt cả gia quyến, trói giải trên đường về kinh, thế cũng đủ thấy lũ này thật hiểm độc khôn lường, chưa được Quỳnh này, chưa chịu thôi. Nghĩa đệ Sĩ Tín không cam chịu, phá cũi sổ lồng, trốn theo thảo dã. Việc tuy chẳng có tay Quỳnh này, nhưng thực lại chồng thêm tội cho Quỳnh vậy! Quyền gian tại triều, biết được việc này, tất không thoát khỏi tử tội, lại thêm lão mẫu lưu lạc, lòng không thể nào yên. Cũng là cẩn thận học theo Từ Thứ về Tào (1) nhưng ngửa trông thì phụ ơn sâu của ân chủ, lòng những thẹn thùng. 

 Mong rằng nước bèo trôi dạt, vẫn còn có lúc, dẫu đầu lìa khỏi cổ, cũng mong được báo ơn này. 

 Cũng là chuyện bất đắc dĩ phải làm, xin được ân chủ xét soi cho. 

 Mạt tướng Tần Quỳnh cúi đầu lạy. " 

 1 Từ Thứ làm quân sư cho Lưu Bị đánh thắng Tào Tháo, Tháo bắt Tử Mẫu dọa giết. Từ Thứ phải bỏ Lưu Bị để về hàng Tháo mong cứu mẹ. Nhưng Từ Mẫu tức giận, thắt cổ chết. Từ Thứ thề không bao giờ bày mưu kế gì cho Tào Tháo. (Tam Quốc diễn nghĩa). 

 Thúc Bảo viết xong, dán kín lại, ngoài đề: "Trình dưới trướng Trương đại nhân", rồi đặt ngay trên án, chận kỹ, đem những vàng bạc mà mình được thưởng lâu nay, bỏ vào khăn gói, xách đôi giản, cùng Đơn Toàn, Lã Minh với tay chân thân tín bốn năm người, lên ngựa, ra khỏi quân doanh, nói với bọn quản doanh: 

 - Trương đại nhân có văn thư, lệnh cho ta đi xem xét địch tình, hai ngày sau mới về, phải để tâm xem xét quân doanh cẩn thận, không được náo động. 

 Rồi cả bọn cưỡi ngựa đi ngay. 

 Chính là: 

 Thân này mày thoát lưới giăng 

 Lòng vương mây trắng mấy tầng xa xa. 

 *** 

 Lại nói chuyện đoàn lâu la của Địch Nhượng, Hùng Tín về đến Ngõa Cương, gặp Huyền Thúy, Mậu Công. Hùng Tín đem chuyện Tần mẫu bị bắt, Sĩ Tín thoát khỏi xe tù, gặp Vưu Thông, Giảo Kim về hang Đậu Tử... kể lại. Huyền Thúy nói: 

 - Cứ từ những chuyện này mà luận ra, thì Thúc Bảo đại huynh sớm muộn gì rồi cũng phải nhập bọn với chúng ta. Nhưng còn Tần mẫu ở chỗ Giảo Kim, lẽ nên đón lên Ngõa Cương này để mẹ con sớm được đoàn tụ. 

 Mậu Công bàn thêm: 

 - Việc này chưa vội lắm, vì chưa chắc Vưu Thông, Giảo Kim đã chịu để Tần mẫu đi. Hãy cứ đợi Thúc Bảo đến đã, ta sẽ bàn cũng chưa muộn, Gần đây có người đến mách, ở Vinh Dương thuộc Lương Quận, buôn bán thịnh vượng. Ta người ngày càng nhiều, lương thảo dự trữ cũng phải lớn hơn, ai có thể tới đó kiếm ít nhiều, làm giàu thêm cho sơn trại. 

 Địch Nhượng đáp: 

 - Tiểu đệ đi có được chăng? 

 Mậu Công đáp: 

 - Đại huynh mà đi, thì nên để Huyền Thúy, cùng với Bá Đương, Đương Nhân, dẫn hai nghìn người ngựa đi trước, đại huynh cùng Nguyên Chân, Như Khuê, dẫn hai nghìn người ngựa theo sau tiếp ứng, thế mới là kế vạn toàn. 

 Lại nói với Hùng Tín: 

 - Xin nhị ca ở lại sơn trại, còn có chuyện phải bàn, Hai cánh người ngựa lục tục lên đường. Mậu Công sai người dò thăm tin tức Thúc Bảo, thì thấy Đơn Toàn trở về thưa: 

 - Tần đại huynh viết thư từ biệt Trương Thông Thủ, bỏ quân doanh, về hang Đậu Tử, gặp Tần mẫu rồi. 

 Hùng Tín hỏi: 

 - Sao không mời Tần hiền huynh về đây đã rồi hãy cùng đến đón Tần mẫu. 

 Mậu Công lên tiếng: 

 - Thúc Bảo nóng lòng gặp mẫu thân, so sao được với chuyện bạn bè, nên trước tìm đến đó là phải lễ. Giờ xin nhờ Đơn viên ngoại cùng Nhuận Phủ tới hang Đậu Tử một phen. 

 Rồi ghé tai Hùng Tín, nói nhỏ mấy câu, Hùng Tín gật đầu rồi cùng Nhuận Phủ lên đường. 

 *** 

 Lại nói Thúc Bảo chia tay với Đơn Toàn, cùng với Lã Minh và mấy tay chân thân tín, sợ đi đường lớn gặp người quen, cho nên cứ theo đường mòn mà đi, qua Trường Gia phố, chuyển sang Độc Thụ Cương, bỗng nghe có tiếng người gọi đằng sau: 

 - Có phải Tần đại huynh phía trước không? 

 Thúc Bảo dừng ngựa, quay lại nhìn, thì thấy Hùng Tín cùng Nhuận Phủ, đem theo hai ba chục lâu la, đang ruổi ngựa đi tới. Thúc Bảo vội vàng xuống ngựa, Hùng Tín, Nhuận Phủ cùng xuống ngựa. 

 Hùng Tín cầm tay Thúc Bảo hỏi: 

 - Hiền huynh lập được nhiều công lớn cho nhà Tùy lắm phải không? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Cũng chẳng buồn nói tới chuyện này nữa. Xin tới sơn trại của Trình Giảo Kim sẽ kể tỉ mỉ. Đơn nhị ca định đi đâu bây giờ? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Cũng chẳng có việc gì khác, Đơn Toàn quay về, nói rõ mọi chuyện, Hùng Tín này tìm tới đây để chờ hiền huynh vậy thôi. 

 Mọi người đều lên ngựa, thấy một người trên sườn núi phi ngựa bay xuống, trông thấy Thúc Bảo, liền lớn tiếng: 

 - Hay lắm! Đại ca đến rồi! 

 Thúc Bảo nhận ra Sĩ Tín liền vội hỏi: 

 - Hiền đệ, mẫu thân sức khỏe ra sao? 

 Sĩ Tín đáp: 

 - Sức khỏe bá mẫu nay vẫn bình thường, chỉ có quá lo cho đại ca, ngày bắt tiểu đệ ra đường trông ngóng ba lần. Nay thì tha hồ mà mừng, tiểu đệ xin chạy về báo trước, đại ca cùng mọi người cứ thong thả về sau. 

 Nói rồi, quay ngựa phi về sơn trại. Tần mẫu được tin, muốn trông thấy mặt Thúc Bảo ngay bèn dắt cháu Hoài Ngọc, Trương Thị, Trình mẫu cùng đi ra tận Nghi Đường đón Thúc Bảo. Trương Thị thấy trên Nghi Đường đông người, vội nép sau mọi người cùng vào. 

 Vưu Thông cùng Giảo Kim ra đón Thúc Bảo, Hùng Tín, chào hỏi xong xuôi, Thúc Bảo mới thấy mẫu thân ra vội vàng bái lạy, thấy Trình mẫu lại lạy chào. Trình mẫu cầm tay Thúc Bảo mà xuýt xoa: 

 - Thái Bình Lang, về sớm một ngày là đỡ một ngày, nếu chậm vài hôm nữa, thì cháu làm cho mẫu thân đến héo mòn vì trông đợi. 

 Tần mẫu thấy được con về quỳ lạy dưới gối, mắt nhỏ giọt ngắn dài, nói với Thúc Bảo: 

 - Con đứng dậy đi? Người đứng ở kia, có phải là Đơn viên ngoại không? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Đúng rồi? 

 Hùng Tín cùng Nhuận Phủ thấy Thúc Bảo đã đứng dậy, cả hai liền lại chào Tần mẫu, thăm hỏi Trình mẫu. Tần mẫu gọi Hoài Ngọc lại, bái nhận Hùng Tín là bác, hỏi Hùng Tín: 

 - Lệnh ái có lẽ đã lớn nhiều rồi? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Cháu tên là ái Liên, lớn hơn Hoài Ngọc này một tuổi. Tuy cũng còn nhỏ, nhưng cùng đã hiểu biết ít nhiều. 

 Tần mẫu tiếp: 

 - Nhất định là xinh đẹp, nết na lắm! 

 Trình mẫu cười nói với Tần mẫu: 

 - Ngày tháng trôi mau, mới lúc nào Thái Bình Lang cùng Giảo Kim còn nhỏ xíu mà nay đã vợ con. Cả cháu Hoài Ngọc này nữa cũng đã lớn từng này rồi! 

 Giảo Kim gắt: 

 - Mẫu thân, nay Tần đại ca đã làm quan rồi, sao mẫu thân vẫn còn gọi cái tên thời để tóc trái đào ấy? 

 Trình mẫu cười: 

 - Chỗ đi lại thân thiết, dẫu Thái Bình Lang có làm tới hoàng đế chăng nữa, thì ta cũng chẳng sợ, cũng chỉ gọi thế đấy thôi. 

 Ai nấy cả cười, Tần mẫu nói với Thúc Bảo: 

 - Con hãy vào trong kia gọi Trương Thị ra đây, rồi chúng ta cùng về trại sau. 

 Rồi cùng Trương Thị chuyện trò một lát, thì đã thấy trong Nghi Đường đã bày cơm rượu sẵn sàng. Vưu Thông mời mọi người ngồi vào, nâng chén chúc mừng gặp gỡ. Vưu Thông hỏi Thúc Bảo về chuyện chinh Liêu đã qua, Thúc Bảo kể qua một lượt, ai nấy đều ngậm ngùi phàn nàn, Thúc Bảo hỏi Vưu Thông: 

 - Vưu viên ngoại đang sống yên ổn ở Vũ Nam trang, sao lại bỏ lên đây? 

 Giảo Kim vội đáp: 

 - Cũng bởi chuyện ở rừng Trường Điệp rối tung lên, nên Vưu viên ngoại mới phải lên đây, nếu không đời nào viên ngoại chịu đi, để cùng chúng tiểu đệ làm những chuyện này. 

 Vưu Thông cãi: 

 - Cũng không phải thế, Đơn nhị ca có Nhị Hiền trang còn đường hoàng hơn nhiều, nay thấy bọn Huyền Thúy như vậy, cũng kéo lên Ngõa Cương cả. Thì cũng là anh em chúng ta tìm cách gây dựng nghiệp cho mỗi người chứ? 

 Nhuận Phủ tiếp: 

 - Thời thế như thế này, chẳng cần sơn trại, mà ngay ở miếu đường cũng vậy thôi, phải cùng nhau đồng tâm góp sức, thì mới có thể làm nên. Vì vậy, anh em chúng ta cũng nên dồn về một nơi mới là kế lâu dài. 

 Giảo Kim đáp: 

 - Nay đã có Tần đại ca, lại có thêm cả Đơn viên ngoại, cùng họp mặt ở đây, vốn là anh em tâm phúc cả, ta hãy cùng nhau gây dựng thật lớn, thua gì Ngõa Cương nào. Địch đại huynh làm được hoàng đế, thì Tần đại ca, Đơn viên ngoại sao lại không làm được hoàng đế? 

 Mọi người được dịp cười vang, rồi cùng nhau nâng chén say sưa mãi cho tới trăng lên đầu ngọn cây. 

 Sáng ngày hôm sau, ai nấy đang ngồi ở Nghi Đường chuyện trò, thì thấy lâu la vào báo: 

 - Ở Ngõa Cương sai người tới, cần gặp Đơn đại vương. 

 Hùng Tín vội sai tay chân ra dẫn vào. Chẳng bao lâu, một tên lâu la vào thưa: 

 - Từ đại vương có một phong thư mật, sai tiểu nhân đưa tận tay Đơn đại vương: 

 Hùng Tín cầm, xé ra xem thì thấy trong thư viết: 

 "Vừa ngày hôm kia do thám kỹ lưỡng, nghe nói Đông Đô có cho lệnh cho Hà Bắc Thảo bộ đại sứ Bùi Nhân Cơ, lãnh hai vạn binh mã, hiệp đồng cùng Sơn Đông Thảo bộ đại sứ Trương Tu Đà, để tiễu phạt lũ phản nghịch Lý Mật, Vương Bá Đương, cùng là truy bắt bọn Tần Quỳnh vì tội giết quan, sát lại, tóm hết gia quyến cùng quét sạch sào huyệt. Sắp tới thế nào hai viên tướng này cũng kéo đến. Đơn nhị ca tức tốc hồi trại để bàn kế cự địch. Hai vị Vưu, Trình cũng phải định sẵn mưu sách. Thúc Bảo đại huynh, lâu nay khát khao gặp gỡ, chưa được bái chào, nếu cùng về càng hay, rất mong, rất mong!" 

 Hùng Tín đọc to một lượt, mọi người đều kinh ngạc. Giảo Kim cất tiếng: 

 - Việc gì phải lo nghĩ nhiều, chờ chúng nó tới đây, cứ vác hai lưỡi búa sắt này, cho chúng nó một trận biết tay nhau. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Giảo Kim hiền đệ không nên bàn đại khái cho xong việc. Trương Tu Đà vừa hữu dũng hữu mưu. Bùi Nhân Cơ lại là một viên túc tướng, cả hai đều kéo theo hai vạn binh mã, sức có thể lật núi lấp biển. Giờ ở sơn trại này, nếu tính cả anh em Sĩ Tín này nữa, chỉ có bốn người. Gia quyến Đơn nhị ca cùng Nhuận Phủ lại đều ở Ngõa Cương, nên nhất định còn về Ngõa Cương trông coi. Mấy người như thế này, xếp đặt ra sao? 

 Vưu Thông bàn: 

 - Trước đây Địch đại huynh cũng có gửi thư tới, mời anh em chúng tôi, nhân lúc ấy cả hai vị Tần, Đơn đều chưa lên sơn trại, nên chúng tôi không nghe. Nay Đơn viên ngoại gia quyến đã ở Ngõa Cương. Tần đại huynh cùng gia quyến lại hiện đang ở dây, sao không nghĩ tới chuyện hai nơi dồn một, lâu chóng thế nào, xin tùy anh em bàn bạc. 

 Thúc Bảo tán đồng: 

 - Như thế thì tốt rồi? Nhưng không hiểu nhà ở trên Ngõa Cương, liệu có đủ chăng? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Hùng Tín này mới tới sơn trại, thì đã thấy mọi người dựng liền một lúc ở hậu trại bốn năm chục gian nhà, phía trước còn xây thêm cả bờ đập, gác cao, các nhà kho, rào tường, đều được tu bổ thường xuyên. Chẳng nói gì ba bốn nhà, mỗi nhà mấy gian liền cũng vẫn đủ chán. 

 Giảo Kim giục ngay: 

 - Nếu đã như vậy, chúng ta mau thu thập đi thôi! 

 Hùng Tín nói với Nhuận Phủ: 

 - Hiền đệ về ngay Ngõa Cương, báo cho Từ Mậu Công biết trước, ba vị ở đây cùng gia quyến sẽ cùng về sơn trại sau. 

 Nhuận Phủ vội lên ngựa đi ngay. Vưu Thông, Giảo Kim cùng Thúc Bảo sai phái gia đinh, thu thập tế nhuyễn riêng tư, cắt đặt lâu la đóng gói lương thảo, rồi cả đoàn khoảng hơn hai nghìn người, cùng kéo về nhập với anh em ở Ngõa Cương. 

 Chính là: 

 Cọp mạnh thêm nanh vuốt 

 Rồng thiêng gặp gió mây. 

 * * *

 Lại nói chuyện Địch Nhượng, Lý Mật kéo hai cánh người ngựa, đi cướp lương thảo của bọn khách thương, đồng thời chiếm thành, lấy đất nên thanh thế ở Ngõa Cương càng ngày càng mạnh mẽ, rộng lớn. Lúc này Trương Thông Thủ vẫn còn ở Bình Nguyên, nhân ba bốn ngày không thấy mặt Thúc Bảo, nghĩ rằng Thúc Bảo ốm đau ra sao, liền sai Phàn Kiến Uy tìm đến quân doanh Thúc Bảo xem sao. Quản doanh thưa: 

 - Hai ngày trước đây, Trương đại nhân sai Tần tướng quân đi do thám địch tình chưa về. 

 Kiến Uy vội quay về thưa với Trương Thông Thủ, Thông Thủ băn khoăn: 

 - Ta có sai đi đâu bao giờ? Có chuyện gì khác thường đây! 

 Đang bàn luận, Tế Châu sai người đưa công văn tới, mở ngay ra xem. Thông Thủ kinh hoàng vội nhảy lên ngựa, cùng Kiến Uy, Vạn Nhẫn phi ngay đến quân doanh Thúc Bảo, vào thư phòng thấy phong thư trên án. Trương Thông Thủ vội xé ra xem, kinh ngạc nói: 

 - Thì ra Thúc Bảo oán cừu với Vũ Văn Thuật, nên bị họ Vũ Văn mấy lần tìm cách hãm hại, cuối cùng phải bỏ ra đi. Khá tiếc cho con người này, vừa có dũng vừa có mưu, một kẻ giúp việc đắc lực cho ta. Nay Thúc Bảo đã đi rồi, ta làm thế nào đây? 

 Về đến soái phủ, làm công văn phúc đáp phủ Tế Châu, lại thấy thánh chỉ điều sang làm thông thủ Vinh Dương, lệnh tiễu trừ bọn Địch Nhượng. Trương Tu Đà đành đem theo bọn Kiến Uy, Vạn Nhẫn cùng bộ hạ người ngựa, về Vinh Dương nhận chức. Kiến Uy, Vạn Nhẫn tuy xuất thân ở chốn công môn, nhưng bản lĩnh sao bằng Thúc Bảo. Cả hai cùng đều là bậc trượng phu nghĩa khí, vốn thân thiết cùng Thúc Bảo, thuở Trương Tu Đà đang còn làm quận thừa, cũng đã nhiều lần giúp đỡ tận tâm, nên giờ nghiễm nhiên trở thành tay chân tin cẩn của Trương, cùng nhau bàn cách tấn công Địch Nhượng. Nhưng không ngờ anh em Ngõa Cương cũng không phải kém cạnh gì ai, chỉ riêng một cánh quân của Huyền Thúy, chỉ gồm hơn một nghìn người ngựa, đánh phá cửa Kim Đề xong, kéo tới tiếp viện cho Vinh Dương. Giữa lúc Địch Nhượng đang coi sóc lâu la bao vây thành, bất ngờ Trương Thông thủ, theo sau là Kiến Uy, Vạn Nhẫn, cùng năm trăm tinh binh, mở cửa thành xông ra. 

 Địch Nhượng tuy dũng cảm, cũng không địch nổi ngọn thần thương của Trương Thông thủ, thần xuất quỷ một, Nguyên Chân, Như Khuê cũng đành bỏ chạy. Địch Nhượng bị cả hai Kiến Uy cùng Vạn Nhẫn hiệp sức đánh, phải ruổi ngựa chạy dài. Trương Thông thủ đuổi theo đến hơn mười dặm, may được đội quân của Huyền Thúy, Bá Đương kéo đến tiếp viện, Trương Thông thủ mới rút quân quay về. 

 Ngày hôm sau, Huyền Thúy bày mưu: xếp người ngựa mai phục bốn phía. Địch Nhượng dẫn quân dụ Trương Thông thủ đến chùa Đại Hải, thì thấy hai bên rừng hò hét xông ra, Huyền Thúy, Bá Đương, Đương Nhân cầm đầu. Kiến Uy cùng Vạn Nhẫn đã biết Huyền Thúy, Bá Đương ở lần chúc thọ Tần mẫu nhưng đến lúc quan hệ đến tính mạng cũng chẳng còn cách nào khác, phải cùng Trương Thông thủ phá vòng vây mà thoát, thì không thấy Vạn Nhẫn đâu cả. Trương Thông thủ ra lệnh: 

 - Phải đợi ta vào tìm Vạn Nhẫn đã! 

 Kiến Uy cùng Trương Thông thủ lại phải xông vào vòng vây, thấy Vạn Nhẫn bị bọn lâu la bắt trói chặt, rồi chập mấy cây trường thương lại khiêng đi. Trương Thông thủ vội xông tới, giơ thương đâm ngã mấy lâu la, khỏi vòng vây lại chẳng thấy Kiến Uy đâu. Trương Thông thủ lệnh cho bộ hạ: 

 - Hãy đưa Đường Vạn Nhẫn về thành, ta phải quay vào tìm Kiến Uy đã, chứ không thể về một mình được! 

 Lúc này Trương Thông thủ đã mỏi mệt lắm rồi, nhưng cũng vì thương tiếc kẻ dưới trướng tận tụy, nên lại cố quay vào vòng vây lần nữa, không ngờ trước đó Kiến Uy ngã ngựa, bị ngựa xéo chết, tìm sao cho được. Huyền Thúy lúc đầu thấy Kiến Uy cùng Vạn Nhẫn ở bên phía Trương Thông thủ, cũng đã có ý "ném chuột tránh đừng vỡ đồ quý", đã có nghiêm lệnh không được dùng cung tên. Nay thấy Trương Thông thủ chỉ một người một ngựa, lập tức lệnh bốn phía cùng chĩa cung tên vào, kín đặc như một đàn ong, dù Trương Tu Đà có kín người khôi giáp đi nữa, cũng chằng thể nào che hết được. Khá thương cho Trương Thông thủ, một lòng vì nước vì dân, một mực dũng cảm trung trinh, cũng đành bỏ mạng nơi chiến địa? 

 Chính là: 

 Sông Vị ánh sao chìm 

 Đài mây việc đành hỏng. 

 Địch Nhượng, Huyền Thúy bắn chết được Trương Thông thủ, đại thắng trở về. Từ Nội Hoàng, Vi Thành cho đến Ung Khâu, giờ thuộc bọn anh em Ngõa Cương, Huyền Thúy sai người về sơn trại báo tin thắng trận, hào kiệt nghe tin, đều vỗ tay vui mừng. Chỉ riêng Thúc Bảo, nghe tin Trương Thông thủ tử trận, không ngăn được nước mắt mà nghĩ: Thông thủ đãi ta vừa có tình vừa có lễ, những mong mình cùng họ Trương hoạn nạn cùng chịu, vinh hoa cùng chia. Khó khăn thì họ Trương đã đứng ta cáng đáng thay mình, ơn nghĩa bao nhiêu. Không ngờ xảy ra chuyện này, mình lại bỏ đi tìm lấy riêng đường sống, để đến nỗi họ Trương bị người khác giết chết. Thế là thây phơi chiến địa, xương cốt không biết giờ ra sao? Liền đứng dậy nói với Hùng Tín: 

 - Đơn nhị ca, tiểu đệ từ khi về đây, chưa một lần ra mắt Địch đại huynh, tưởng cũng có chỗ không tiện. Xin cho tiểu đệ đi Vinh Dương, để gặp Địch đại huynh, cũng là chào hai hiền đệ họ Lý họ Vương một lần, liệu có nên chăng? 

 Mậu Công thay lời: 

 - Xin đại huynh cứ đi. Cả chúng tiểu đệ cũng xin theo, nay nhiều quận huyện quy thuận, ở đấy Địch đại huynh không đủ người lo liệu, chúng ta cần phải theo giúp một tay. Ở đây thành quách kiên cố chỉ cần một hai vị trông coi là đủ rồi. Vưu Thông viên ngoại, vốn là một điền chủ giàu có, xin ở lại giữ trại cùng với Cự Chân, cũng là trông coi gia quyến mọi người. Lại cử thêm Đơn Toàn làm tổng lãnh cho viên ngoại, trông coi lũ lâu la trên sơn trại, ngày đêm tuần tiễu sau trước, lo việc xuất nhập lương thực, khí giới. 

 Xếp đặt xong xuôi, Mậu Công, Quốc Viễn, Giảo Kim, Nhuận Phủ làm tiền đội, Hùng Tín, Thúc Bảo, Sĩ Tín làm hậu đội, đều trang bị cung tên nhẹ nhàng, lên ngựa, dẫn lâu la rời khỏi Ngõa Cương. 

 Đến địa phận Trinh Châu, thì thấy tiêu mã báo người ngựa của Địch Nhượng đang đi tới. Thì ra Địch Nhượng cùng Huyền Thúy, sau khi tiến công Dĩ Thủy, Trung Mâu, thu được rất nhiều ngọc lụa, đàn bà con gái, đang muốn quay về Ngõa Cương say sưa một chuyến, nên Địch Nhượng liền chia quân cho Huyền Thúy rồi lên đường về sơn trại trước. Hai cánh quân gặp gỡ. Địch Nhượng lâu nay đã nghe danh Thúc Bảo nên chào hỏi rất thân thiết, Hùng Tín hỏi sự tình, biết Địch Nhượng có ý quay về Ngõa Cương, bèn nói: 

 - Địch đại huynh này, nếu chúng ta chỉ nghĩ tới việc làm cường đạo để cả đời ít ngọc lụa cùng mấy cô gái đẹp, thì đúng là chỉ cần đóng giữ ở Ngõa Cương cũng được. Nhưng định mưu đồ vương bá, thì phải cùng với Huyền Thúy, bàn cách chiếm cứ lấy châu huyện đã hàng phục mới xong. 

 Địch Nhượng nghe thế, nhưng cũng chưa ưng thuận ngay, lại thấy tiêu mã thưa tiếp: 

 - Lý đại vương đã thu phục được vùng Hàn Thành, được rất nhiều kho tàng, Lý đại vương nghe tin các đầu lĩnh kéo binh mã xuống núi, sai tiểu nhân thưa cùng Đơn đại vương, nếu có Tần Quỳnh cùng đi, thì xin dẫn ngay binh mã tới cùng Lý đại vương gặp gỡ. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Biết rồi! 

 Vì vậy Địch Nhượng cũng đành thôi hẳn ý định về Ngõa Cương mà cùng kéo quân đi gặp Huyền Thúy. Qua đường Vinh Dương, Tần Thúc Bảo liền nhờ Liên Minh tìm thi thể Trương Tu Đà, thì biết rằng bọn bộ hạ bởi cảm ơn nghĩa Thông thủ họ Trương đã khâm liệm đâu đấy cùng với quan tài của Phàn Kiến Uy, đều đang được quàn trong chùa Đại Hải. Thúc Bảo bèn nói với Hùng Tín: 

 - Phiền nhị ca nói với Địch đại huynh, xin chư vị cứ dẫn quân đi trước, tiểu đệ xin ở lại đây một hai ngày. 

 Hùng Tín biết ý, nói ngay với Địch Nhượng, mọi người tiếp tục lên đường, còn lại mỗi Hùng Tín, Thúc Bảo cùng Sĩ Tín. Ngày hôm sau, sai tay chân bày biện đủ lợn dê cùng các thứ đồ lễ khác trong chùa Đại Hải, chính giữa hương án là bài vị, ghi rõ: "Tùy triều, cố Thông thủ Vinh Dương Trương Công chi vị". ở bên cạnh cũng thêm một bài vị viết: "Tùy triều, tử tiết thiên tướng Tế Châu Phàn Hổ chi cữu" Thúc Bảo cùng Sĩ Tín không ngăn nổi thương cảm, ngay cả Hùng Tín cũng không giữ nổi thổn thức. 

 Ba người đương lúc than vãn, thấy bên ngoài có đến bốn năm chục người khoác mũ áo tang trắng, tiến vào. Sĩ Tín trông ra, chưa rõ người xấu người tốt ra sao, tuốt ngay kiếm quát lớn: 

 - Các người kéo đến đây làm gì? 

 Bọn người này đáp: 

 - Chúng tôi cảm ơn sâu của ân tướng, rủ nhau đến đây trông coi linh cữu, sau lễ một trăm ngày, sẽ mỗi người đi mỗi nơi. Hôm nay biết được Tần tướng quân tới tế lễ, vì vậy tới để gặp mặt. 

 Thúc Bảo mời mọi người vào, thầm nghĩ: "Binh lính là phường dân đen nghèo khổ, mà hãy còn nghĩa khí như thế, ta là loại người gì mà dám vong ân bội nghĩa?" Liền mặc áo tang, đồ lễ cũng đã bày biện tươm tất, Thúc Bảo cùng Sĩ Tín vào tế, khóc lóc một hồi, bọn lính tráng đứng sau cũng dậm chân, lăn lộn ra đất khóc than, tiếng vang cả ra bên ngoài. Hùng Tín cũng ăn mặc chỉnh tề bước vào vái lạy. Đang lúc lộn xộn như thế, thấy bên ngoài một người đi vào, đầu đội mũ gai, nước mắt ngắn dài, theo sau là mấy người bạn bè, tiến vào trước linh cữu. Bọn lính mặc áo tang đứng đó, nhận ra, bảo nhau: 

 - Đường tướng quân đến! 

 Thúc Bảo lúc này mới nhận ra Đường Vạn Nhẫn, liền cầm tay Vạn Nhẫn nói: 

 - Hiền đệ tới đúng lúc lắm! 

 Vạn Nhẫn như không trông thấy, cũng không nghe thấy, điềm nhiên tới trước linh sàng khóc lớn, vừa gõ vào hương án vừa kể: 

 - Tướng công lúc sống chính trực, lúc mất thần minh. Đường Vạn Nhẫn này vốn bậc tiểu nhân. Ơn được tướng công lấy vào dưới trướng, đặt trên những người khác. Mấy năm gần đây, cùng nhau chia đắng xẻ bùi, nhường cơm cởi áo, ơn nghĩa của tướng công đến thế là cùng cực. Vẫn biết người tướng công yêu dấu hơn còn lắm kẻ, nhưng vì chúng tôi hai người mà rút kiếm dấn thân, để đem lại cái sống chúng tôi, nhưng tướng công thì lại mất giữa trận tiền, Đường Vạn Nhẫn này đâu dám yên tâm trộm sống, khi mà tướng công đã không còn ở đời! 

 Thúc Bảo đứng ở bên cạnh, thấy Vạn Nhẫn vừa khóc vừa than đến mấy câu cuối, như người mất hồn, điệu bộ ngơ ngẩn, không ai dám lại can để khuyên nhủ một lời. Hùng Tín cùng bộ hạ cũng nước mắt ngắn dài, thấy dáng điệu Thúc Bảo đầy vẻ thảm thương, nên đang định tiến lên an ủi Vạn Nhẫn, thì thấy Vạn Nhẫn gõ mạnh vào hương án mà tiếp: 

 - Ân tướng! Ngài vốn là thần, tất linh thiêng, Đường Vạn Nhẫn này đã không được cùng chết ở chiến trường, hôm nay xin được theo ngài về nơi địa phủ. 

 Nói xong, chỉ thấy ánh kiếm sáng loáng, người đã ngã lăn ra phía sau, kiếm văng một nơi, máu phun đầy đất. Thúc Bảo vội ôm lấy thi thể mà gào lớn: 

 - Đường Vạn Nhẫn hiền huynh, hiền huynh tìm được một cái chết thật xứng đáng! Hiền huynh đã cùng ân tướng về tuyền đài cả. Tần Quỳnh này cũng xin được học theo gương hiền huynh! 

 Nói rồi nhặt ngay thanh kiếm của Vạn Nhẫn vừa rơi, định đâm vào cổ, phía sau Sĩ Tín vội ôm lấy mà hét lớn: 

 - Đại ca ơi! Đại ca quên mẹ già rồi sao? 

 Sĩ Tín giằng ngay lấy kiếm, đưa cho thủ hạ mang đi chỗ khác, Thúc Bảo khóc lóc một hồi, xếp đặt lính tráng, lo liệu việc tống táng. Sau đó phân phát đồ tế, rồi cùng với Hùng Tín, Sĩ Tín, lên đường đuổi theo bọn Mậu Công. 

 Chính là: 

 Nào đòi đáp nghĩa bụi lau (*1) 

 Kia danh Phiếu mẫu phải nào hư danh. 

 *1 Ngũ Viên bỏ trốn khỏi nước Sở, được ông già chống thuyền nấp trong bụi lau, chở trộm cho sang sông. Ngũ Viên xin ông già giữ kín chuyện cho. ông già liền nhảy xuống sông tự tử để Ngũ Viên khỏi nghi hoặc, lo lắng. 

 (Đông Chu Liệt Quốc) 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi Sáu

Giết Địch Nhượng, Lý Mật phụ bạn,

 Loạn cung phi, Đường Công dấy binh.

 Từ rằng: 

 Bã vinh hoa miệng mồi ngon ngọt 

 Nhử đứa tham, được mất nịnh ghen 

 Hại sừng ốc nhỏ đua chen (1) 

 Chẳng bao giờ hết đê hèn nhiễu nhương 

 Cơ duyên lại đưa đường dẫn lối 

 Rượu cừu thù miệng lưỡi gươm đao 

 Công danh ấy, công danh nào 

 Cao gò xương trắng, đầy hào máu đen. 

 Theo điệu "Thanh sam thấp" 

 1 "Nam hoa kinh": Ở hai đầu sừng của con sên, có hai nước, đánh nhau suốt năm này sang năm khác, gieo vạ không cùng cho dân chúng. 

 * * * 

 Lại nói Tần Thúc Bảo ở chùa Đại Hải lo chuyện chôn cất Trương Thông thủ cùng Kiến Uy, Vạn Nhẫn, lại làm thêm mấy ngày lễ cầu siêu chu tất, rồi mới cùng Đơn Hùng Tín, La Sĩ Tín lên đường tới Khang Thành hội họp với Huyền Thúy, Bá Đương, hỏi chuyện cũ, bàn việc mới, thật là đằm thắm. Thúc Bảo khuyên Huyền Thúy dùng lính khinh kỵ đánh úp Đông Đô, để lấy làm nơi cơ bản, rồi từ đó mà yên định bốn phương. Địch Nhượng nghe được kế này, liền làm ngay, lệnh cho đầu mục Bùi Tự Phương, đem theo một số tay chân lanh lợi, đi trước thăm dò đường lối, chỗ nào sông sâu chỗ nào núi cao cửa ải, cầu cống ra sao, binh mã triều đình thế nào. Không ngờ bị quân triều đình phát hiện, bắt được ba bốn người, biết rõ là gian tế của Địch Nhượng, liền giải ngay về phủ Binh Bộ của Vũ Văn Thuật để tra khảo, rồi đem chém đầu. Chỉ còn Tư Phương cùng ba bốn người khác trốn được về. Sau việc này, Đông Đô tăng cường phòng bị. 

 Còn Huyền Thúy cử ngay Thúc Bảo, đem theo Giảo Kim, Sĩ Tín, dẫn khinh binh lặng lẽ tập kích Dương Thành, lẻn qua Phương Sơn, thắng chiếm Thương Thành, Địch Nhượng, Huyền Thúy mới lục đục kéo đến sau. Cả một vùng Lạc Khẩu, chẳng mất một mũi tên, rơi vào tay Địch Nhượng. Huyền Thúy mở kho lương phát không cho trăm họ bốn phương, vì vậy xung quanh vùng, dân chúng đều đua theo về. Bọn sĩ đại phu Thời Đức Duệ, huyện lệnh Túc Thành Tổ Quân Ngạn cũng bỏ theo. 

 Đông Đô nghe báo chuyện này, Việt Vương Đồng liền sai Hổ bôn lang tướng Lưu Nhân Cung, Quang lộc thiếu khanh Phòng Tắc, dẫn hai vạn năm nghìn binh mã, cùng Hà Nam thảo bổ đại sứ Bùi Nhân Cơ trước sau tiến công, hội quân ở Thương Thành. Không ngờ mọi sự đã được Huyền Thúy định liệu từ trước, điều năm cánh tinh binh, đánh cho quân Tùy thua to. Lưu Nhân Cung, Phòng Tắc bỏ chạy thoát thân. Bùi Nhân Cung nghe tin cánh quân Đông Đô thua trận, cũng án binh bất động. Tiếng tăm Huyền Thúy càng ngày càng lớn rộng. 

 Địch Nhượng có một viên quân sư là Giả Hùng, thấy Huyền Thúy yêu người đãi sĩ, liền ngầm liên kết với Huyền Thúy. Khi Địch Nhượng muốn tự tập làm vua. Giả Hùng được sai gieo quẻ bói mấy lần, đều nhìn cách nói dối là quẻ không tốt, chỉ nên làm tay chân cho Huyền Thúy, lại viện cớ rằng: 

 - Huyền Thúy vốn đã được tước phong Bồ Sơn Công, còn tướng quân họ Địch, Địch cũng là đầm lầy, cỏ bồ gặp đầm lầy thì sinh (1). Số mệnh đã an bài thế rồi! Huống chi gần đây thấy có câu đồng dao: 

 1 chữ "Địch”, cũng đọc là "trạch", đồng âm với chữ "trạch" là đầm lầy. Bồ là một loại cỏ mọc ở đầm lầy, gần giống lác ở ta vậy. 

 Đào lý tử 

 Hoàng hậu lạc Lạc Dương 

 Quanh quẩn giữa vườn hoa 

 Đừng nhiều lời 

 Ai không nói! 

 "Đào Lý tử” nghĩa là "chạy về với con cái họ Lý", hai câu tiếp chỉ triều Tùy xuống Dương Châu rồi không còn về bắc nữa. Hai câu cuối chính là chỉ chữ "mật", tên riêng của Huyền Thúy (1). 

 1 “Đào" là cây đào, đồng âm với "đào" là trốn là theo. Chữ "mật" có nghĩa là bí mật, giữ kín không nói cho ai biết, vì thế hai câu cuối hàm ý chữ "mật" vậy! 

 Vì vậy Địch Nhượng bàn với chúng hào kiệt, tôn Huyền Thúy lên làm Ngụy Công, lập đàn lên ngôi, xưng hiệu là Vĩnh Bình nguyên niên, ban lệnh đại xá thiên hạ, tuyên cáo khắp cõi, đặt Nguyên soái phủ, bái Địch Nhượng làm Thượng trụ quốc tư đồ Đông Quận công, Từ Mậu Công làm Tả phiên vệ đại tướng quân, Đơn Hùng Tín làm Hữu phiên vệ đại tướng quân, Tần Thúc Bảo làm Tả vũ hầu đại tướng quân; Vương Bá Đương làm Hữu vũ hầu đại tướng quân; Trình Giảo Kim làm Hậu vệ tướng quân; La Sĩ Tín làm Phiêu ký tướng quân; Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê, Vương Đương Nhân đều làm Hổ bôn lang tướng, Phòng Ngạn Tháo làm Nguyên soái phủ Hữu trưởng sử; Giả Nhuận Phủ làm Tả tư mã; Liên Cự Chân làm Hữu tư mã, quan Tùy theo về, huyện lệnh Củng Huyện làm giám sát ngự sử. 

 Bùi Nhân Cơ tuy đóng ở Hà Nam nhưng lại không hòa thuận với giám sát ngự sử Tiêu Hoài Tĩnh. Hoài Tĩnh tìm đủ mọi cách để chèn ép Nhân Cơ, đến nỗi Nhân Cơ không thể nào chịu nổi. Nhuận Phủ vốn có quen biết cũ với Nhân Cơ, thường vẫn lén đến quân doanh thuyết phục Nhân Cơ cùng với con là Bùi Hằng Nghiễm giết Hoài Tĩnh, kéo toàn quân theo Nhuận Phủ đến hàng Ngụy Công. Ngụy Công lấy lễ đối xử rất ưu ái, phong cho Nhân Cơ làm Thượng trụ quốc, Hà Đông Công, Hằng Nghiễm làm Thượng trụ quốc, Giáng Quận công. Huyền Thúy dẫn quân lấy được Lạc Thương, Đông Đô vội làm văn thư cáo cấp về Giang Đô. Vua Tùy sai Giang Đô thông thủ Vương Thế Sung, kéo tinh binh vùng Giang Hoài về giữ Đông Đô, Huyền Thúy liền rút quân về, Thúc Bảo kéo quân đánh Vũ Dương. Vũ Dương quận thừa là Nguyên Bảo Tạng, nghe tin binh Thúc Bảo đến, vội gọi ngay ký thất Ngụy Trưng để bàn cách đối phó. Ngụy Trưng chính là Ngụy Huyền Thành, đạo sĩ ở Hoa Sơn vật. Ngụy Trưng thấy thiên hạ đại loạn, chính là lúc anh hùng đắc ý, bèn hoàn tục đến làm dưới trướng Bảo Tạng. Bảo Tạng hỏi: 

 - Huyền Thúy đang lúc tướng mạnh binh hùng, Thúc Bảo lừng tiếng. Bản quận đây có bao tinh binh thì đã phái đi cứu viện cho Đông Đô, làm thế nào mà chống giặc giờ? 

 Ngụy Trưng bàn: 

 - Huyền Thúy thế mạnh, Thúc Bảo anh hùng, lại thêm có tiếng hiền đức. Vũ Dương ta mà đối địch với họ, cũng chẳng khác gì lấy một hòn đất mà định ngăn dòng sông lớn vậy. Minh công nên chọn lấy kế hay, để bảo toàn lấy dân chúng, quan binh, thành quách. 

 Bảo Tạng đáp: 

 - Còn kế gì hay nữa bây giờ, chỉ có cách là theo hàng quách, giữ được yên ổn cả thành. Túc hạ hãy mau viết thư hàng, rồi thân đến quân doanh của họ một chuyến vậy. 

 Quân Thúc Bảo kéo đến, Ngụy Trưng đến gặp. Ba bạn cũ gặp nhau, mười phần hoan hỉ, Thúc Bảo cười nói với Ngụy Trưng: 

 - Tiểu đệ từ trước đã đoán tiên sinh chẳng mặc được bộ áo vàng của đạo sĩ suốt đời, nay quả nhiên như vậy. 

 Nhân hỏi đến tình trạng hiện thời của Vũ Dương, Ngụy Trưng đáp: 

 - Quận thừa Nguyên Bảo Tạng có đức độ biết thuận mệnh trời, nguyện đem toàn thành quy phục chẳng phiền cố nhân phải binh đao khó nhọc. 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Đó chính là nhờ công dàn xếp của tiên sinh, xin hãy đến dưới trướng của Ngụy Công, trình hàng thư cho hợp lễ nghi vậy. 

 Rồi giữ lại trong quân doanh chuyện trò cho bõ những ngày xa cách: Thúc Bảo lại làm tờ trình, nói rõ Ngụy Trưng có tài giúp dựng nghiệp vương bá, trù liệu nơi màn trướng, Ngụy Công nên trọng dụng. Thấy được Thúc Bảo hết lòng tiến cử, Huyền Thúy liền cử Ngụy Trưng làm Nguyên soái phủ văn học tham quân ký thất, còn Bảo Tạng được giữ chức Ngụy Châu tổng quản. 

 *** 

 Nay nói chuyện Địch Nhượng, lúc đầu vốn là một tay vũ dũng vô mưu, cho nên khi còn ở giữa đám lục lâm nổi bật vẻ anh hùng, đến khi có bọn Huyền Thúy đều thuộc loại túc trí đa mưu, đánh thành chiếm đất, hoạch định mưu lược, thì sao theo nổi, lại nghe theo lời bọn Giả Hùng, Lý Từ Anh, nhường cho Huyền Thúy lên ngôi Ngụy Công, còn mình cam chịu phận dưới. Về sau nhiều người về theo, Huyền Thúy càng quyền thế, trong lòng càng sinh lòng không cam chịu. Lại có thêm người anh là Địch Hoàng, được phong là Thượng trụ quốc Vinh Dương Công, vốn cũng một phường thô lỗ, Địch Hoàng nói: 

 - Quyền bính của nhà ta, cớ gì lại rơi vào tay kẻ khác, để rồi lại phải đi hầu hạ dưới trướng bọn chúng nó. 

 Lại thêm bọn tay chân cũ, nay thấy tâm phúc Huyền Thúy quyền hành ngang dọc, còn mình bị bỏ rơi, nên càng bày vẽ, xúi giục nhiều chuyện càn rỡ. Người xưa đã từng nói: "Vật tiên hủ dã, nhi hậu trùng sinh", vật trước tiên phải thối nát đã, sau ròi bọ mới theo đó mà sinh. Lúc này mà có kẻ đứng ra dàn xếp, thì cũng chẳng có chuyện gì lớn. Hùng Tín dẫu có thân thiết cả hai bên, nhưng vốn là người thẳng tính. Bá Đương, Thúc Bảo, Giảo Kim vốn chỉ thân thiết với Huyền Thúy, Mậu Công thì dẫu có tài thao lược, nhưng lại sợ đứng ra đương đầu chẳng xong, chỉ tổ mang họa. 

 Một hôm, Địch Nhượng vòi tiền bạc của thứ sử Yên Long Thôi Thế Khu vừa mới quy hàng, rồi dọa bỏ giam ngục tối, Huyền Thúy sai người đến đòi Thế Khu, nhưng Địch Nhượng vẫn không chịu thả. Ký thất nguyên soái phủ là Hình Nghĩa Kỳ, được Địch Nhượng gọi đến đánh cờ, đến chậm, bị Nhượng đánh cho tám mươi roi. Phòng Ngạn Tháo đánh Nhữ Nam về, Nhượng đòi chia vàng lụa, nói: 

 - Tại sao ngươi dâng cho Ngụy Công mà không chịu dâng cho ta. Ngụy Công là do ta lập nên, còn chuyện sau này ra sao thì ta không thèm biết. 

 Do những việc này, Phòng Ngạn Tháo, Hình Nghĩa Kỳ, cùng tư mã Trịnh Đinh khuyên Huyền Thúy trừ Nhượng. Huyền Thúy nói: 

 - Nghĩ đến ban đầu tới đây, nhờ Nhượng mà thoát khỏi họa lớn, thực là công lớn. Nay định bức hại Nhượng, người ngoài nào biết ngang ngược, mà đổ cho ta bội nghĩa ghét tài, rồi đem lòng đố kị, không thể nào làm được. 

 Nhưng lại thầm nghĩ: "Nhượng là kẻ hảo hán, chỉ sợ lâu ngày bị bọn thủ hạ lôi kéo làm bậy, thì đúng là nuôi họa ngay bên nách vậy", Trịnh Đinh thưa: 

 - Rắn cắn, chất độc lan cả cánh tay. Tráng sĩ ngang dọc, anh hùng hành sự, không thể để ý đến hết những chuyện tiếng danh, nghĩa khí lặt vặt. Nay chỉ sợ chạm đến hư danh, mai kia sẽ thực chịu vạ chu di, lúc ấy thì dẫu có hối cũng quá muộn vậy. 

 Phòng Ngạn Tháo tiếp: 

 - Địch tư đồ là người hồ nghi, không quyết đoán, minh công có được ngày nay, mà cũng lại trù trừ như vậy, thì sợ rằng theo vết của tư đồ mất thôi. Minh công phải biết rằng, đã là một kẻ vô mưu, không thể nào bày mưu tính kế cho người, thì lại có gan làm những thủ đoạn tàn ngược. 

 Huyền Thúy đáp: 

 - Các ngài vì ta mà bày mưu hay, kế lạ, nhưng phải làm sao cho chu tất. 

 Ngày hôm sau, Huyền Thúy đặt tiệc rượu, mời Địch Nhượng, Địch Hoàng cùng Bùi Nhân Cơ, Hách Hiếu Đức. Huyền Thúy lệnh cho tướng sĩ phải ra ngoài cửa doanh chờ, chỉ giữ mấy kẻ tâm phúc của mình ở lại phục dịch. Tiệc rượu đã bày, Tư mã phủ Vương Nhu Tín cùng tay chân của Địch Nhượng vẫn chưa chịu ra. Phòng Ngạn Tháo tâu: 

 - Trời lạnh, những người theo hầu tư đồ, cũng xin mời tiệc rượu khao thưởng. 

 Huyền Thúy đáp: 

 - Hãy bày thêm rượu thịt ra! 

 Bọn này vẫn chưa chịu đi, Địch Nhượng lên tiếng: 

 - Nguyên soái đã khao thưởng, các ngươi cứ ra mà nhận phần của mình. 

 Bọn này mới lạy tạ đi ra, còn lại một tráng sĩ dưới trướng của Huyền Thúy, tên gọi Sái Kiến Đức, cầm đao đứng hầu bên. Huyền Thúy lên tiếng: 

 - Gần đây có kiếm được một cái cung rất tốt, bách phát bách trúng, xin được đưa ra để các vị xem thử. 

 Đầu tiên đưa cho Địch Nhượng xem, nói rằng nặng tám thạch, 

 Địch Nhượng cãi: 

 - Chỉ độ sáu thạch là cùng? Để ta thử xem? 

 Rồi rời ghế đứng dậy, giương cung như vành trăng, bị ngay Sái Kiến Đức chém một đao vào sau gáy, ngã lăn ra tức khắc, nhưng vẫn còn kịp rống lên một tiếng như trâu vậy. Thương thay, bậc anh hùng trăm trận, khoảnh khắc mạng gửi ba thước đất. 

 Lúc này Hùng Tín, Mậu Công, Quốc Viễn, Như Khuê, Nguyên Chân, năm người đang ngồi tiệc rượu ở dinh Giả Tử mã, đang đưa rượu lên miệng, thì thấy tiểu hiệu vào báo: 

 - Địch tư đồ bị nguyên soái chém chết rồi! 

 Hùng Tín nghe nói hoảng hồn, chén rượu dang cầm trên tay, rơi ngay xuống đất, than: 

 - Như thế là tại sao? Dẫu cho họ Địch có ngang ngược ít nhiều, cũng nên tha thứ, mà nghĩ đến buổi đầu cùng tụ hội ở Ngõa Cương này, mới có được ngày nay chứ! 

 Nguyên Chân tiếp: 

 - Tự xưa đã nói rồi: hai anh hùng khó chung đứng một nhà. Việc này tiểu đệ nghĩ thế nào cũng không tránh khỏi. 

 Mậu Công nhận xét: 

 - Trước mắt hành sự, ai là người có thể tự nhận thua kém người khác. Chỉ đáng tiếc... 

 Như Khuê hỏi: 

 - Đáng tiếc cái gì? 

 Mậu Công đáp: 

 - Không phải tiếc cho Địch Nhượng đâu, mà chỉ tiếc cho Lý đại ca thôi! 

 Nhuận Phủ gật đầu hiểu ý. 

 Đang lúc bàn luận, thấy thủ hạ vào thưa: 

 - Ngoài kia có người xưng là bạn cũ, xin gặp Lý tướng quân. 

 Như Khuê chạy ra đón, dắt tay một người vào, nói rằng: 

 - Đơn viên ngoại, xem Viên ngoại có nhận ra người này không? 

 Hùng Tín đứng lên nhìn kỹ, thì ra là Đỗ Như Hối, liền cùng mọi người chào hỏi. Như Hối nói với Mậu Công: 

 - Từ lâu đã nghe tiếng anh tài của Từ đại huynh, nhưng chưa được gặp, nay mới được thấy mặt, thật thỏa ước bình sinh. 

 Mậu Công đáp lời: 

 - Tiểu đệ trước khi lên Ngõa Cương này, gặp Lưu Văn Tĩnh, có nói tới tài văn chương, tế thế, thông minh mẫn tiệp, thiên hạ ít có của hiền huynh, tiểu đệ đáng ra phải lùi lại phía sau mà vái đúng ba vái vậy. 

 Hùng Tín nói: 

 - Đỗ đại huynh, từ chỗ Trương Công Cẩn ở Trác Châu lên thẳng đây sao? Lâu nay không được gặp mặt khiến bọn Hùng Tín này vẫn thường nhắc tới luôn. Không biết ngọn gió nào thổi được đại huynh tới đây? 

 Như Hối đáp: 

 - Tiểu đệ ngẫu nhiên có việc qua đây, muốn gặp Thúc Bảo đại huynh, không ngờ Thúc Bảo đã dẫn quân đi Lê Dương rồi, nhân thế biết Lý hiền huynh ở đây, nên tìm gặp nhau trò chuyện một phen. Không ngờ Đơn viên ngoại, cùng các vị hào kiệt, đều ở đây cả, cũng bởi thế mà Ngụy Công chẳng cần lâu la gì đã làm được nghiệp lớn như thế này. Quả là việc tên ghi gác khói, tượng truyền đài lân, các vị chiếm mất cả rồi! 

 Hùng Tín thở dài: 

 - Đời người ta lúc thịnh lúc suy chẳng thể nào mà lường trước được nói gì đến chuyện đài lân, gác khói ghi công nghiệp. Nghe nói đại huynh ra với triều đình, làm hiệu úy Ôn Thành, sao bị đuổi về vậy? 

 Như Hối đáp: 

 - Giữa buổi bốn phương loạn lạc, dính vào chuyện đấu gạo quan tiền, bị bọn nha lại làm trò chó ngựa, sao có thể nên nghiệp lớn cho được? 

 Cùng nhau chuyện vãn một hồi, rồi đứng dậy từ biệt. Như Khuê, Quốc Viễn kéo Như Hối về chỗ ở của mình, bày tiệc rượu khoản đãi. 

 Như Hối hỏi: 

 - Vừa rồi tiểu đệ có đi qua soái phủ, thấy tiếng người la hét ầm ĩ không hiểu có chuyện gì? 

 Quốc Viễn vốn thẳng tình, đáp luôn: 

 - Chẳng có chuyện gì lớn, chẳng qua là ở đó giết một người thôi mà! 

 Như Hối hỏi tiếp: 

 - Giết ai thế? 

 Như Khuê đành phải đem chuyện bất hòa giữa Huyền Thúy và Địch Nhượng dẫn đến việc vừa rồi kể lại, rồi tiếp: 

 - Ban đầu, ở Ngõa Cương này, Huyền Thúy, Đơn viên ngoại, Quốc Viễn cùng tiểu đệ đều được Địch đại huynh mời về, làm thành một bọn với nhau cả, nay có sự như thế này, ai nấy trong lòng đều có đôi chút ngần ngại. 

 Như Hối nói: 

 - Vừa rồi tiểu đệ xem Đơn viên ngoại có vẻ rầu rĩ, chán chường, thấy tiểu đệ có vẻ lạnh nhạt, tiểu đệ nghĩ viên ngoại đã làm quan rồi, thay đổi tâm tính cũng là chuyện thường, không ngờ là bởi tại có việc này vậy. Huyền Thúy mà đối đãi như vậy, càng thấy nhẫn tâm. Các vị khác nghĩ đến thân phận của mình, cũng đều như cá trên thớt cả hay sao? 

 Quốc Viễn đáp: 

 - Hai anh em chúng tôi ở đây, chẳng có gia quyến để trói buộc, trơ trọi một thân, thân thiết thì ở, chẳng ra sao thì lại đi, xem họ làm được gì mình nào! 

 Như Hối nói: 

 - Có một nơi rất dễ dung thân, chỉ sợ hai vị không bằng lòng đi mà thôi! 

 Cả hai đều hỏi: 

 - Ở đâu thế? 

 Như Hối đáp: 

 - Mùa xuân vừa rồi, tiểu đệ đến công đường của Lưu Văn Tĩnh ở Tấn Dương, gặp Sài Tự Xương, vốn quen thân với tiểu đệ. Tự Xương nói chuyện về Thúc Bảo cùng hai vị, dạo ở Trường An xem hội đèn nguyên tiêu, anh hùng hào kiệt thế nào, rất là khen ngợi, lại biết các vị đã quy tụ về đây liền nhờ tiểu đệ ngầm tới thăm, nhắn rằng mai kia lệnh nhạc Đường Công sẽ khởi đại sự, rất cần đến sự giúp đỡ của các vị. Không ngờ Thúc Bảo đã được phái đi công cán. Hai vị chẳng vừa lòng lắm với nơi này, hãy cùng tiểu đệ tìm đến Tự Xương, nghiệp lớn may thành, phú quý cùng hưởng. Lại thêm người em, con lệnh nhạc Đường Công là Lý Thế Dân, vấn khoan nhân đại độ, kính hiền, đãi kẻ sĩ, các vị vốn là chỗ quen biết cũ, nhất định được đối đãi đặc biệt. 

 Quốc Viễn đáp: 

 - Tiểu đệ cũng định đi quách, ở dưới tay người khác, chẳng bằng riêng mình làm đầu lĩnh một sơn trại. 

 Đang nói, một người từ bên ngoài đột nhiên chạy vào, túm chặt lấy ngực áo Như Hối, quát lớn: 

 - To gan thật? Người dám tới dây để làm thuyết khách cho kẻ khác sao? Ta phải lôi ngay tới soái phủ mới xong? 

 Như Hối sợ hãi, mặt mày xanh xám, Quốc Viễn nhận ra Hách Hiếu Đức, bèn nói: 

 - Nguy to rồi! Tất cả hãy rút kiếm ra! 

 Rồi rút ngay kiếm xông vào. Hiếu Đức vội bỏ tay, cười lớn, nói: 

 - Xin hai vị khoan khoan đã? Những điều các vị bàn bạc, tiểu đệ đã nghe rõ ràng cả. Ý tiểu đệ cũng chẳng khác gì hai vị ở đây. Nếu được cùng đi, sống chết cũng không dám nài. Tiểu đệ trước đây đã được nghe Ngụy Trưng dạy, trên đường lại gặp Từ Hồng Khách, đều nói chân chúa đã xuất hiện ở Thái Nguyên. Huyền Thúy khó mà làm nên công trạng gì. Việc vừa rồi, đối với Địch đại huynh còn như vậy, chúng ta nào khác gì đồ bỏ đi thôi! 

 Như Khuê tiếp: 

 - Hách hiền đệ bàn thật thẳng thắn, nhưng chúng ta đi như thế nào bây giờ? 

 Hiền Đức đáp: 

 - Cái này thì không có gì khó cả. Vừa rồi tiêu mã về báo, Vương Thế Sung vừa kéo quân lên Lạc Bắc, ngày mai Ngụy Công thế nào cũng phát binh, hai vị mặc chuyện thành bại, cứ lĩnh một cánh quân, theo lối Hộ Huyện mà đi, ai ra đó mà đuổi theo các vị. 

 Như Khuê khen: 

 - Hay lắm! 

 Hiếu Đức hỏi Như Hối: 

 - Đại huynh ở đây xong thì đi đâu? 

 Như Hối đáp: 

 - Giờ thì về chỗ nghỉ. Sang canh năm sẠlên đường sớm để về Cảnh Dương! 

 Hiếu Đức lại hỏi: 

 - Đêm nay đại huynh nghỉ ở đâu? 

 Như Hối đáp: 

 - Nhà từ Hàm Huy ngoài cửa Nam. 

 Hiếu Đức liền vái chào đi ra. Như Hối thấy thế, trong lòng không khỏi nghi ngại, vội thêm vài câu dặn dò rồi cũng từ biệt ra cửa. Về đến nhà Hàm Huy, thì đã thấy Hiếu Đức cùng hai tay chân, yên cương, hành lý đầy đủ chờ sẵn, lấy làm kinh ngạc hỏi: 

 - Sao hiền huynh vội vàng thế? 

 Hiếu Đức đáp: 

 - Ngụy Công tính hay nghi ngờ, dùng dằng chỉ tổ sinh biến. Tiểu đệ biết soái phủ đã có lệnh, sang canh năm sẽ xuất binh, cho nên phải đi ngay lúc này mới hòng yên ổn! 

 Cả bọn sai chủ quán dọn ăn bữa tối, rồi thu thập hành lý lên đường đi ngay Cảnh Dương. 

 Đi được vài ngày, đến thôn Vũ Dương thuộc Sóc Châu, vào giữa một thôn lớn, gặp tiết trọng đông (l), hoa tuyết phơi phới bay, thấy trước mắt, lá cờ hiệu của quán rượu khẽ lay nhẹ. Hiếu Đức lên tiếng: 

 - Đỗ đại huynh. Chúng ta hãy vào quán rượu này làm vài chén, rồi hãy đi tiếp có nên không? 

 1 Tiết trọng đông: giữa mùa đông, tháng theo âm lịch, là tháng mười một. 

 Như Hối đáp: 

 - Hay lắm, ta vào thôi! 

 Cả hai xuống ngựa, vào quán ngồi. Chủ quán bày rượu, thức nhắm ra. Ăn được mấy cái bánh bao, uống vài chén rượu nóng, thì bên tai vang tiếng búa đập đe chói tai, cả hai nghiêng đầu nhìn qua cửa sổ thì thấy cạnh quán, dưới gốc cây cổ thụ, có một lò rèn, ba bốn người đang xúm quay bể than đỏ rực, thay nhau giương búa tạ đập chí chát. Cạnh đó kê một cái bàn lớn, trên bàn bày một đĩa thịt bò, một đĩa ngỗng quay, một đĩa bánh bao lớn. Ngồi ngoảnh mặt về hướng nam là một người đàn ông to lớn, cao tới chín thước, hai vai rộng, râu đâm tua tủa, mặt đen như sắt, hai mắt sáng như sao, oai phong lẫm lẫm, khí phách hiên ngang. Hai bên là hai người nữa. Một người cầm bình rượu, một người nâng bát, rót rượu đầy đưa mời người to lớn ngồi giữa. Người này không từ chối, cầm lấy dốc cạn, xem như xung quanh không còn ai khác, cứ thế một mạch uống cạn mười bát, rồi vuốt râu cười lớn mà rằng: 

 - Người ta đi vay, đến nhà giàu mà vay, hai vị lại đòi kẻ cùng này phải đứng lên viết văn tự, thì thật là kỳ quặc. 

 Người ngồi ở bên phải lên tiếng: 

 - Không phải sợ đại huynh trả một hai ly bạc đâu, chỉ cần đại huynh viết cho mấy chữ, chính là đã cứu tính mạng chúng tôi rồi đấy! 

 Rồi lại vội vàng rót rượu tiếp. Người to lớn đáp: 

 - Nếu nói như thế, thì mau mang giấy mực ra, đặt trên bàn kia. Đợi ta viết xong sẽ uống tiếp. Nếu không, ta uống say, viết chẳng ra sao đâu! 

 Hai người này nghe nói, một người rút ngay trong ngực áo một mảnh giấy hoa tiên màu hồng, một người vào trong nhà đem nghiên bút ra bày cẩn thận trên bàn. Người ngồi bên trái vội vàng cúi lạy vị to lớn vội nói: 

 - Khoan hãy bái lạy, khoan hãy bái lạy! Đợi ta viết xong đã. 

 Rồi cầm lấy bút, giục: 

 - Bảo ta viết cái gì nào? Đọc to lên! 

 Người bên phải đáp: 

 - Chỉ cần viết: "Uất Trì Cung lấy ở kho bạc năm trăm lạng chẵn. Phiếu này làm ngày mùng hai, tháng giêng, năm thứ mười hai, niên hiệu Đại Nghiệp". (1) 

 1 Năm cuối của nhà Tùy, tức năm 616. Việt Nam đang thời Bắc, thuộc Tùy. 

 Người to lớn viết theo đúng như lời xong, vứt bút lên bàn, cười khà khà, rồi lại nâng bát rượu uống một hơi cạn sạch, cũng chẳng một lời cảm ơn, đi lại chỗ lò rèn cùng làm với mọi người. Chẳng bao lâu, thu thập mọi thứ linh tinh của mình, người to lớn bỏ đi về phía đông. Như Hối lúc này mới bước ra, chào hỏi hai người kia: 

 - Thưa hai vị, vị hảo hán vừa rồi là ai, tài đức ra sao, mà hai vị có kẻ kính trọng vậy? 

 Một người đáp: 

 - Ông ta họ Uất Trì, tên Cung, hiệu là Kính Đức, người ở Mã Ấp. Đôi tay của ông ta có thể nâng nổi hai ba nghìn cân, rất thạo dùng một cây roi sắt gọi là "Hỗn thiết đơn tiên", cũng đã từng học chữ nghĩa, đọc thi thư, từng đi thi, nhưng không muốn ra làm quan, tổ tiên lại vốn làm nghề thợ rèn, nhân nhàn rỗi, mở lò rèn ở đây làm qua ngày. 

 Như Hối lại hỏi: 

 - Vừa rồi hai vị nhờ họ Uất Trì viết mấy chữ để làm gì vậy? 

 Một người đáp: 

 - Việc này dài dòng lắm, không tiện nói ra, xin từ biệt thôi! 

 Như Hối thấy Uất Trì Cung đường đường hào kiệt anh hùng, mà vẫn chẳng ai dùng đến, nên định ở lại đây vài ngày, làm quen với Uất Trì, rồi tiến cử với Đường Công. Nhưng Hiếu Đức không chịu, cứ giục lên đường, Như Hối đành phải lên ngựa ra đi, trong lòng vẫn đinh ninh chuyện Uất Trì Cung. 

 Chính là: 

 Nhũng mong gặp mặt anh hùng 

 Rồi ra cách trở muôn trùng nước non! 

 *** 

 Lại nói chuyện Đường Công Lý Uyên từ ngày bị vua Tùy hắt hủi, kén được Sài Tự Xương làm rể, không tiếc ngọc vàng của quý, đi lại với bọn nịnh thần của Dượng Đế, để được về Thái Nguyên, tránh khỏi mọi tai họa, chẳng hề có ý tranh đoạt thiên hạ. Lý Uyên có bốn người con trai, con trưởng là Kiến Thành, là một công tử tầm thường, chỉ ham ăn mặc đẹp, cưỡi ngựa hay đắm say tửu sắc, con thứ ba là Huyền Bá, chết sớm, con thứ tư là Nguyên Cát, rất mực cơ mưu, giảo hoạt, nhưng cũng chẳng có tài vương bá gì cả. Chỉ có con thứ hai là Thế Dân, sinh ở chùa Vĩnh Phúc dạo nọ, lúc mới bốn tuổi, có một thư sinh trông thấy, lấy làm lạ nói rằng: 

 - Dáng vẻ rồng phượng, uy nghi thiên tử, chỉ cần đến lúc làm lễ đội mũ (l) là có thể "tế thế an dân". 

 1 Lễ đội mũ: lễ "gia quan", thời xưa, ở Trung Quốc, con trai nhà giàu, hai mươi tuổi thì làm lễ đội mũ. 

 Nói xong đi mất. Lý Uyên sợ những lời này truyền rộng, mới sai người đuổi theo thư sinh để giết đi, thì không tìm thấy đâu nữa, bèn nghĩ là bậc thần nhân, nên mới bớt câu "tế thế an dân" mà đặt tên là Thế Dân. Từ nhỏ đã thông minh như trời phú sẵn, kiến thức khác hẳn người thường, đúng bậc "tướng môn chi tử". Binh thư võ nghệ, là chuyện hàng ngày, lại thích đọc cả thư sử, ham kết giao bạn bè, con nhà đại gia, tiêu vàng như bùn, chỉ cần chiêu đãi khách khứa, bạn bè xa gần đều nức tiếng. Rất thân với một người có võ nghệ, thao lược họ Lưu, tên Văn Tĩnh, hiện làm huyện lệnh Tấn Dương, người này đầy một bụng mưu trí, tài kiêm văn võ. Lại thêm một người là Lưu Hoàng Cơ ở Trì Dương, lấy vợ là Trường Tôn Thuận Đức, cũng đều võ nghệ tuyệt luân, không phải như con cái phường khố lụa ngày nay, mà thấy chín châu đại loạn, cũng mong tìm được bậc chân chúa, vâng chịu mệnh trời như Hán Cao Tổ ngày xưa. 

 Lưu Văn Tĩnh từng quen thuộc với Huyền Thúy, nên khi Huyền Thúy khởi sự, Văn Tĩnh bị bắt bỏ ngục Thái Nguyên. Thế Dân một lần lẻn vào nhà ngục gặp, Văn Tĩnh mới nói để gợi chuyện: 

 - Nay thiên hạ đại loạn, phi tài của Vũ Thang Cao Quang, thì không dẹp nổi! 

 Thế Dân đáp: 

 - Không phải là không có những bậc đó, chứ khổ là không biết họ ở đâu thôi. Ta trông dáng nhà ngươi, không phải là hạng tầm thường, hãy nói cách thay đổi thời cuộc, bàn đại sự xem sao nào? 

 Văn Tĩnh thưa: 

 - Nay vua Tùy ngự du Giang Hoài, binh lính trấn giữ dọc sông, Lý Mật vây Đông Đô, các đám giặc cỏ khác chiếm giữ châu huyện, cát cứ các vùng đầm núi, kể có hàng vạn. Giữa lúc này, có một vị chân chúa xuất hiện, chỉ cần hô lên một tiếng, thì bốn biển sẽ yên ổn ngay. Nay ở Thái Nguyên, trăm họ đều chạy vào thành để trốn tránh giặc giã. Văn Tĩnh này đã làm huyện lệnh mấy năm, biết khá rõ các bậc hào kiệt anh hùng, một sớm mà thu nạp, sẽ được vài chục vạn trong tay, lúc ấy tôn Đường Công lên nắm giữ binh quyền, thêm vài vạn tinh binh nữa, một lệnh ban xuống, ai mà chẳng theo, rồi nhằm chỗ trống mà vào trung nguyên, ban lệnh khắp thiên hạ. Chỉ cần khoảng nửa năm, nghiệp đế dựng xong vậy. 

 Thế Dân cười đáp: 

 - Ngươi nói chính hợp ý ta? 

 Bèn tìm cách đưa vào hàng tân khách, giúp cho việc huấn luyện binh sĩ, chờ dịp sẽ cất nhắc cao hơn. Hơn tháng sau, Văn Tĩnh đàng hoàng ra khỏi ngục. Thế Dân định khởi sự, chỉ sợ phụ thân không nghe, bèn bàn với Văn Tĩnh. Văn Tĩnh bày kế: 

 - Đường Công vốn rất thân thiết với phó cung giám Tấn Dương cung Bùi Tịch, Bùi Tịch bày gì cũng nghe theo. Muốn Đường Công bằng lòng khởi sự, không có người này không xong đâu! 

 Thế Dân cũng biết chuyện này không thể dùng miệng mà nói không với Bùi Tịch. Vì biết rõ Bùi Tịch vốn nghiện rượu, hám tiền, có thế mới hết lòng lo việc cho mình, Thế Dân liền đem hàng vạn quan tiền, sai Cao Vũ Liêm, huyện lệnh Long Sơn cùng Bùi Tịch đánh bạc, giả vờ thua luôn mấy ván. Sau Bùi Tịch biết rõ ý định của Thế Dân, cả mừng, kết thân với Thế Dân. Thế Dân bèn đem chuyện nói rõ đầu đuôi Bùi Tịch sẵn sàng đứng ra làm, nói: 

 - Việc này cứ giao cả cho ta? 

 Ngày đêm nghĩ ngợi, tính toán, bỗng nảy ra một kế, vào thẳng cung Tấn Dương, gặp ngay Trương Phi cùng Doãn Phi đang ở dinh Khánh Vân thưởng ngoạn hoa mai tháng giêng. Thấy Bùi Tịch đến, cả hai đều cất tiếng hỏi: 

 - Ngươi tới có việc gì? 

 Bùi Tịch đáp: 

 - Thì cũng muốn bẻ hoa cho thêm vui vẻ. 

 Trương phu nhân cười: 

 - Hoa này là của các phu nhân trồng, có can hệ gì đến ngươi đâu? 

 Bùi Tịch đáp: 

 - Phu nhân nghĩ rằng đàn ông không biết trồng sao, lòng yêu thích, ham muốn ai mà không có. Nhưng hoa dẫu đẹp bao nhiêu, mà chỉ ngắm suông thì chỉ trang sức thêm ít nhiều, chẳng thể nào thay đổi được cảnh cô đơn của con người, lại cũng chẳng thể ngăn được sự hoạn nạn đang đến. 

 Doãn phu nhân cười: 

 - Người hãy nói cách chữa bệnh cô đơn ngăn được tai họa như thế nào. 

 Bùi Tịch đáp: 

 - Nhà Tùy hoang loạn, chúa thượng thì mãi ngự du Giang Đô, vui đến quên cả quay về. Thay vua coi sóc công việc, toàn một lũ tiểu nhân, trong nước vô chủ, bốn phương anh hùng nổi dậy như ong, kẻ xưng cô, người xưng quả rất nhiều. Gần đây có tin hiệu úy Chu Vũ ở Mã Ấp chiếm cứ Phần Dương cung, xưng làm Khả hãn, rất có lợi hại. Phần Dương cách Thái Nguyên chẳng bao xa, nếu đao binh lan tới đây thì ai ra mà ngăn. Thần dẫu có nhiệm vụ coi sóc nhưng tài hèn sức mọn, đến thân mình còn khó giữ, các phu nhân thì lấy đâu chỗ yên ổn mà tránh? 

 Hai phu nhân hoảng hốt: 

 - Thế thì làm sao bây giờ? Nếu đúng như lời, chị em chúng ta đều chết cả sao? 

 Bùi Tịch bàn: 

 - Nay thần có cách này, cùng xin bàn với hai phu nhân, không những có thể giữ mình, mà lại có thể mang lại phú quý nữa. 

 Doãn Phu nhân đáp: 

 - Phú quý thì sao còn dám mong, chỉ cần tránh được tai họa là đủ rồi! 

 Bùi Tịch chậm rãi: 

 - Lưu thú Lý Uyên ở Thái Nguyên này, trong tay có mười vạn binh mã, con trai là Thế Dân, anh hùng vô địch, chiêu nạp hào kiệt chín châu, khởi lo việc lớn, chỉ sợ Lý Uyên không nghe theo, cho nên không dám tự quyết. Thần tin rằng thiên hạ chẳng sớm thì muộn sẽ vào tay người này. Nay hai phu nhân suốt đời bị đày ra ly cung, sống buồn tẻ đã có hơn năm nay rồi, sao không nhân cơ hội này, tìm cách thờ Lý Uyên, thì có thể chuyển họa thành phúc, chẳng bậc tần phi, cũng bậc hoàng hậu, phú quý khôn người sánh, có phải hay biết bao nhiêu không? 

 Trương phu nhân nói: 

 - Chúng ta từ lâu cũng muốn gặp Đường Công một lần, nhưng phận đàn bà thật khó mà mở miệng như các ngươi. Chỉ sợ Đường Công vẫn ôm lòng trung nghĩa mà cự tuyệt chăng, rồi việc vỡ lở, thì còn gì là tính mạng? 

 Bùi Tịch đáp: 

 - Chỉ sợ hai phu nhân trong lòng chưa định hẳn, nếu dã quyết chí thì chẳng sợ gì việc không thành. 

 Hai Phu nhân nghe nói thế, lập tức mặt mày rạng rỡ: 

 - Nếu việc mà thành, ơn sâu của người, chị em chúng ta suốt đời không dám quên, nhưng không biết mưu kế tính sao cho tốt? 

 Bùi Tịch ghé tai hai phu nhân nói nhỏ: 

 - Chỉ cần như thế... như thế... chẳng thể nào lo Lý Uyên không mắc! 

 Hai phu nhân gật đầu bằng lòng. 

 Ngày hôm sau, Bùi Tịch bày tiệc rượu trong cung Tấn Dương, sai người mời Lý Uyên. Chẳng mấy chốc, Lý Uyên đến, vái chào xong xuôi, vào ngồi bàn tiệc. Bùi Tịch không một lời nói đến chuyện Thế Dân định khởi sự, chỉ một mực rót rượu mời Lý Uyên say khướt, Bùi Tịch tiếp: 

 - Rượu buồn khó cạn, có hai mỹ nhân muốn ra mời minh công một chén, liệu có được chăng? 

 Lý Uyên cười đáp: 

 - Cùng ngồi với tri kỷ, chỉ còn thiếu chuyện này nữa thôi, sao lại không được! 

 Bùi Tịch sai tả hữu đi gọi. Chẳng bao lâu, tiếng ngọc ngập ngừng, hương bay sực nức, hai mỹ nhân khoan thai bước vào, mười phần kiều diễm, Lý Uyên nhìn kỹ, chỉ thấy: 

 Liễu cợt hoa cười, xuân ghẹo xuân 

 Thâm cung kiều mị khéo ần khăn 

 Trần ai, ai đoán, ai thiên tử 

 Vân vũ Tương Vương, nợ đỉnh Thần. 

 Hai mỹ nhân đến trước tiệc rượu, ra mắt Lý Uyên, Lý Uyên đáp lễ. Bùi Tịch sai bày hai ghế nhỏ, ngồi hai bên. Lý Uyên lúc này rượu đã say mềm, cũng chẳng hỏi lai lịch, chỉ thấy mỹ nhân nghiêng thành, khoái chí uống mãi. Hai mỹ nhân lại biết cách chiều chuộng. Bùi Tịch giúp thêm một tay, Lý Uyên chẳng mấy chốc đã nghiêng ngửa. Bùi Tịch lặng lẽ đi ra, Lý Uyên vẫn còn uống mấy chén nữa, chân đã không vững, hai mỹ nhân dìu vào giường ngủ, tai mơ màng, cũng chẳng nhận ra là cung cấm hay phủ đường. 

 Chính là: 

 Hoa dễ lây cười, rượu dễ thân 

 Đôi mày uốn éo lại gần gần 

 Đừng chê lơ lẳng Tùy Dượng Đế 

 Thiên tử anh minh cũng chán lần! 

 Lý Uyên tỉnh dậy, nhớ lại chuyện đêm qua, trong lòng băn khoăn, lại thấy nằm trên long sàng, mình khoác hoàng bào, kinh hoàng hỏi: 

 - Hai người là ai? 

 Hai phu nhân cười thưa: 

 - Đại nhân đừng sợ, chúng thiếp chẳng ai khác lạ, vốn là Trương Phi cùng Doãn Phi vậy. 

 Lý Uyên hoảng hốt: 

 - Bậc quý nhân trong cung cấm, sao lại có thể cùng chăn gối cho được. 

 Vội vàng khoác áo ngồi dậy, hai phu nhân quỳ thưa: 

 - Chúa thượng ngự giá xuống miền Nam chẳng thấy về, anh hùng nổi dậy khắp nới. Bùi Tịch phó giám trông vào đại nhân, nên khuyên chúng thiếp lo thờ đại nhân, để mưu chuyện lâu dài sau này. 

 Lý Uyên cất tiếng than: 

 - Bùi Tịch làm lỡ việc ta rồi! 

 Rồi đứng dậy, bước ra tiền điện, Bùi Tịch ra đón, hỏi vờ: 

 - Trong cung vắng không có ai, việc gì phải dậy sớm vậy? 

 Lý Uyên đáp: 

 - Dẫu không người biết, nhưng thực trong lòng không khỏi hoảng sợ. 

 Bùi Tịch nói: 

 - Anh hùng vì cả thiên hạ mà làm, hơi đâu mà để ý đến những chuyện lặt vặt. 

 Rồi gọi tả hữu hầu Lý Uyên rửa ráy, chải dầu. Bùi Tịch lại sai bày tiệc rượu. Uống được vài chén, Bùi Tịch mới nói: 

 - Hiện nay, vua Tùy vô dạo, trăm họ khốn cùng, anh hào đều nổi dậy, ngoài thành Tấn Dương này đều là chiến trường. Minh công tay nắm quyền lớn, lệnh lang thì ngầm chiêu binh mãi mã, sao không nghĩ chuyện khởi binh phạt Nam cứu dân, xây dựng nghiệp vạn đời. 

 Lý Uyên hoảng sợ đáp: 

 - Ngài sao lại nói những lời như vậy, để đổ cái vạ tru di ba họ lên đầu ta hay sao! Lý Uyên này vốn một lòng với nước, chịu ơn sâu của triều đình, không có lòng nào khác? 

 Bùi Tịch nói. 

 - Nay kim thượng hình phạt hà khắc, phía dưới thì giặc giã như ong như kiến, minh công cứ lo giữ cái tiểu tiết, thì cái nguy lớn sẽ có ngày đến. Chi bằng theo lòng dân mà khởi binh, chuyển họa thành phúc, đó chính là trời trao mệnh cho minh công, xin đừng để lỡ. 

 Lý Uyên đáp: 

 - Xin ngài hãy cẩn trọng cho, mọi sự tiết lộ thì tội không lường được 

 Bùi Tịch cười: 

 - Hôm qua việc hai người riêng hầu minh công, những sợ minh công không nghe, nên phải cùng lệnh lang bàn bạc. Cũng chẳng qua vì sợ lỡ dịp tốt, để mọi chuyện vỡ lở thì đúng là không tránh khỏi vạ lớn cả bọn vậy. 

 Lý Uyên đáp: 

 - Con ta đâu có tính chuyện này, ngài sao lại bức người vào chuyện bất nghĩa này? 

 Nói chưa dứt lời, thì thấy cửa bên, một người bước ra, đội mũ kinh khôi, mặc áo bào hoa tròn lớn, cất tiếng: 

 - Bùi Công thực là biết rõ thời cuộc, phụ thân nên theo vậy! 

 Lý Uyên nhìn ra, thì là Thế Dân, sợ to tiếng thêm họa, đành nén giận mà nói: 

 - Phải trói mày lại để tránh cái họa này mới xong. 

 Thế Dân không chút sợ hãi: 

 - Dẫu có bắt trói con giải đi, chết cũng không dám từ. Nhưng rồi tội của phụ thân cũng không vì thế mà khỏi. Nếu không khởi sự, thì làm sao bây giờ? 

 Lý Uyên than: 

 - Tan nhà nát cửa, không giữ được toàn thân cũng là do mày, biến nhà thành nước cũng là do mày! 

 Lý Uyên bèn sai người ngầm đi Hà Đông, gọi Kiến Thành, Nguyên Cát về Thái Nguyên hội họp, để có thể yên tâm lo việc lớn. Lấy tiếng phế hôn quân, lập minh chúa, tôn đại vương Dương Hựu trấn thủ Trường An hiện nay làm Tùy Cung Đế, ít lâu sau làm lễ nhường ngôi cho Lý Uyên. Lý Uyên xưng hoàng đế, lên ngôi ở Thái Nguyên, lấy quốc hiệu Đường, cải niên hiệu là Vũ Đức nguyên niên, lập Kiến Thành làm Thái tử, phong Thế Dân làm Tần Vương, Nguyên Cát làm Tề Vương. Lệnh cho Tần Vương hưng binh diệt giặc, rồi tự mình kéo quân vào cửa ải. 

 Chính là: 

 Bóng nước ánh cờ lồng rực đỏ 

 Tuyết rọi gươm, thương chĩa sáng ngời 

 Cầu vồng dựng suốt một trời 

 Thiên binh thần tướng phơi phơi xuống trần. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi Bảy

Xem hoa quỳnh, vui tàn, Tùy hết,

 Chết tiết nghĩa, trâm gãy bình rơi.

 Từ rằng: 

 Hưng vong quay tít, 

 Tháng ngày thoi dệt 

 Xuân thu chẳng dừng 

 Đánh đông dẹp Bắc, anh hùng là đâu 

 Phương Nam tươi ấm 

 Cột ngà buồm gấm 

 Khắp chốn rong chơi 

 Chiều tà quạ kêu rời rạc 

 Bờ liễu gió thu nhớn nhác 

 Hồi tưởng năm xưa 

 Nhớ quên việc trước 

 Mộng đẹp qua rồi, một giấc Dương Châu 

 Khá thương thuở ấy thuở nào 

 Men hoa ủ rượu, chuốc sầu nghìn năm 

 Nửa đời hưởng thụ chưa cam 

 Xương tan vía bạt trong hầm truy hoan 

 Dễ nhen, dễ bén, dễ tàn 

 Sầu này, sau nữa, mấy lần cho nguôi 

 Nhắn ai, ai có tin lời 

 Thử nhìn dải lụa bên vai... dạ đài. 

 Theo điệu “Phong lưu tử" 

 Họa phúc thịnh suy, là chuyện nối theo nhau mà thay đổi, thật đáng nực cười cho kẻ nghĩ rằng do ơn mưa móc của tổ tiên nhà mình mà giữ mãi được giang sơn, chỉ lo đến việc “triêu hoan mộ vũ” hưởng lạc ở nơi nhà quỳnh lầu dao, để cuối cùng ngày khổ bỉ tới, thân mình cũng chẳng toàn, làm bia cười cho nghìn đời. 

 *** 

 Nay hãy khoan nói chuyện Lý Uyên phát binh khởi đại sự ra một bên, hãy nói chuyện Tùy Dượng Đế ở Vũ Thành, Giang Đô, lại mới xây thêm một cung điện nữa, chẳng kém phần hoa lệ, có thêm hẳn Mê lâu quan nguyệt, với chín khúc hồ uốn quanh, dựng một cầu đá lớn ngay bên lầu. Dượng Đế suốt ngày ở trong Mê lâu quan nguyệt, nếu không ở trên xe rồng, ở sau bình phong, mặc ý dâm đãng, chẳng khác gì một gốc cây lớn, mặc cho cành lá đã xơ xác, nhưng vì gốc sâu rễ chắc, mặc cho mọi người lay chuyển, búa đao thay nhau bổ chặt, cũng chưa dễ đã đổ ngay. Lại nghĩ sức lực người ta phỏng được nhiêu, lúc nào cũng biếc đón hồng đưa, phi tần mỹ nỬ thời thời khắc khắc dâm loạn, Dượng Đế dẫu thế nào, cũng phải đến lúc tinh lực hao gầy, mệt mỏi vậy. 

 Một sáng mới ngủ dậy, ngồi bên cửa sổ, nhìn ra bên ngoài, Nguyệt Tân, Giáng Tiên đang đuổi bắt bướm, thì Dượng Đế thấy một nội giám vào thưa: 

 - Tâu chúa thượng, Phiên Ly quán hoa quỳnh nở rộ, mời chúa thượng ra thưởng ngoạn. 

 Dượng Đế cả mừng, ra lệnh bày yến tiệc ở Phiên Ly quán, mời Tiêu Hậu cùng mười sáu viện phu nhân cùng tới thưởng ngoạn hoa quỳnh. Chẳng bao lâu, Tiêu Hậu cùng các phu nhân đều có mặt, chỉ riêng Viên Tử Yên ốm nằm ở viện Bảo Lâm không đến. Dượng Đế phán: 

 - Hoa quỳnh là loại hoa đặc biệt ở Giang Đô này, thiên hạ không có nơi nào có, trẫm xưa nay chưa từng thấy. Nay nghe nói hoa nở rộ, nên đặc biệt mời hoàng hậu cùng các phu nhân đến xem cho biết. Sao Sa phu nhân không thấy đến? 

 Chu Quý Nhi thưa: 

 - Lúc thiếp ở viện ra đi, thấy Sa phu nhân nói Triệu Vương bị cảm gió, có lẽ vì thế nên không đến được chăng? 

 Tần phu nhân ở Thanh Tu viện gật gật đầu, Dượng Đế nói: 

 - Cảm gió thì có hề gì, hoa quỳnh ít được thấy, sao lại không đến xem. 

 Quý Nhi thưa: 

 - Vạn tuế không hiểu được đâu. Trong người Triệu Vương chỉ cần một chút khó chịu, Sa phu nhân cũng trăm phần lo lắng, không làm gì khác đâu. 

 Dượng Đế vui mừng nói: 

 - Triệu Vương được Sa phu nhân thương yêu chăm sóc đến thế, thực là không phụ sự ký thác của trẫm vậy. 

 Liền ra lệnh lên xe, rồi cùng Tiêu Hậu bước lên xe rồng, mười lăm phu nhân cùng các mỹ nhân lên hương xa kéo tới Phiên Ly quán. Bước lên thì thấy trên điện lớn bày đủ Tam Thanh thánh tượng, điện các cao rộng, nhưng phía đông đổ nát, phía tây hư hại, tượng thánh cũng cũ kỹ. Tiêu Hậu dù sao cũng là phụ nữ, thấy quang cảnh đền thánh như thế vẫn cúi xuống bái lạy, Dượng Đế vội ngăn: 

 - Trẫm cùng khanh đường đường bậc hoàng đế, hoàng hậu, sao lại đi bái lạy các pho tượng gỗ này? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Thần thánh uy nghiêm hiển ứng, người người đều nhờ cậy che chở, bệ hạ cũng nên kính phục mới phải. 

 Dượng Đế hỏi tả hữu: 

 - Hoa quỳnh ở đâu? 

 Tả Hữu thưa: 

 - Tâu chúa thượng, ở đường sau điện kia ạ! 

 Vốn cây hoa quỳnh này, do một đạo sĩ có đạo hiệu là Phiên Ly, nhân nói các thứ hoa cỏ của đạo giáo là đẹp hơn tất cả, người xung quanh không tin. Phiên Ly liền lấy một viên bạch ngọc, vùi xuống đất, chẳng mấy chốc, mọc ngay một cây cao, rồi nở hoa chẳng khác gì viên ngọc quỳnh dao. 

 Cũng bởi vì trồng ngọc mà thành như thế, nên mới gọi là hoa quỳnh. Về sau đạo sĩ bỏ đi mất, xóm thôn thấy giống hoa đẹp, liền dựng ngay Phiên Ly quán ở bên, để ghi nhớ câu chuyện lạ. Gần đây, cây quỳnh này có một cành rất cao, hoa nở như tuyết, phô nhụy tròn trặn, đầy vẻ trinh trắng của bậc tiên phong đạo cốt, hương thơm sực nức, so với các loài hoa hoàn toàn khác xa, vì vậy trở nên nổi tiếng khắp vùng Giang Đô. 

 Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ra sau điện, đã thấy trên cành cao, một đám trắng tinh khiết, hương đưa từng đợt, tỏa khắp người thơm ngát. Dượng Đế hoan hỉ phán: 

 - Thật là danh bất hư truyền, nay mới thực là thấy cái chưa từng thấy. 

 Lại gần cây để xem cho rõ, nào ngờ có chuyện không thể lường trước, vừa mới bước xuống thềm sau, bỗng thấy một trận gió hương thơm rất mạnh, Thái giám cung nữ thấy gió lớn nổi, vội vàng lấy quạt che, rồi vây kín lấy Dượng Đế cùng Tiêu Hậu vào giữa, chờ cho trận gió qua đi, mới lại tản ra. Dượng Đế ngẩng đầu nhìn hoa, thì chỉ thấy cánh bay, nhị rụng, từng điểm trắng tinh rơi đầy đất, trên cành am một cánh hoa sót lại cũng khó. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu thấy thế, kinh ngạc ngây người. Dượng Đế bỗng nổi giận: 

 - Trẫm chưa thấy cho rõ ràng, đã rơi rụng cả thế này, có đáng tức giận hay không? 

 Quay vào trong điện, tiệc yến thưởng hoa đã bày xong hàng hàng lối lối chỉnh tề, hai bên là bọn nhạc công với những đàn sáo sênh phách, thật là đầy đủ, như chẳng biết đến hoa quỳnh đã tan tác hết, cuốn theo cả nỗi vui thưởng ngoạn của mọi người. 

 Dượng Đế thấy quang cảnh này, lòng càng giận dữ quát: 

 - Nào có phải gió thổi rụng đâu, mà chính là yêu quái càn rỡ, không muốn cho trẫm xem. Hãy đem chặt ngay đi, để làm gì cho thêm tức tối trong lòng. 

 Liền truyền chỉ đốn cây. Các phu nhân đều khuyên can: 

 - Hoa quỳnh khắp trong thiên hạ chỉ có mỗi một cây này, xin giữ lại, sang năm có hoa sẽ lại ngự lãm , nếu đốn đi sợ mất giống. 

 Dượng Đế vẫn chưa nguôi: 

 - Trẫm đường đường ở ngôi thiên tử, mà còn không được xem, thì giữ lại cho ai xem. Năm nay mà còn thế, trông mong gì sang năm, nếu dẫu có tuyệt chủng đi nữa, cũng chẳng can gì. 

 Rồi cứ truyền chặt cây. Bọn thái giám không dám trái mệnh, vội dùng kim qua phủ việt nhất loạt chém đổ cây, bởi vậy sau này thế gian hết giống hoa này, một cành, một mầm nhỏ cũng chẳng còn. 

 Dượng Đế chẳng buồn dự tiệc rượu, lập tức cùng Tiêu Hậu lên xe rồng, cùng các phu nhân trở về ngự uyển ngay. Dượng Đế nói với Tiêu Hậu: 

 - Trẫm cùng hoàng hậu xuống thuyền rồng, ngự chơi chín khúc hồ đã, có nên chăng? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Cảnh trời trong xanh, mặt hồ sắc núi, thật đáng nên xem lắm. 

 Dượng Đế liền sai tả hữu bày yến tiệc trên thuyền rồng, dạo chơi trên chín đoạn hồ mới đào, còn bọn cung nữ đi theo đều cho trở về ngự uyển trước. Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng các phu nhân xuống thuyền rồng, vừa uống rượu vừa ngắm cảnh, bên chèo bên chống, chơi đến nửa ngày trời, mới nguôi hứng thú. Dượng Đế lệnh ghé thuyền lên bờ, tất cả lại lên kiệu, lên xe rồng, đi về phía cầu đá lớn, lúc này là thượng tuần tháng tư, đã thấy trăng nhú nửa vành long lanh trên mặt nước. Xe lên tới mặt cầu, cầu vừa cao vừa rộng, đều lát bằng đá trắng vừa bóng vừa sạch như luôn được lau chùi, hai bên đại thụ rủ bóng, dưới cầu cá vàng đủ màu nhởn nhơ bơi thấp thoáng dưới ánh trăng. 

 Dượng Đế bởi chuyện hoa quỳnh rụng sạch, trong lòng vẫn phiền muộn chưa nguôi, nay thấy cảnh này như được uống một liều thuốc mát mẻ, trong lòng cũng thư thái ít nhiều, lệnh dừng xe rồng, sai đem tới hai cái đôn gấm, cùng Tiêu Hậu ngồi, trải đệm gấm khắp mặt cầu cho các phu nhân ngồi, yến tiệc lại bày ngay ra. Dượng Đế dựa vào lan can cầu, cùng các phu nhân vừa cười nói vừa uống rượu, Tần phu nhân cất tiếng: 

 - Chỗ này thật đẹp, đúng là cảnh cầu đá liễu rũ, hơn hẳn cảnh buổi ngày. 

 Tiêu Hậu hỏi: 

 - Cầu này tên là cầu gì? 

 Dượng Đế đáp: 

 - Chưa có tên! 

 Hạ phu nhân thưa: 

 - Bệ hạ sao không nhân đêm nay, đặt cho cầu này một cái tên, lưu lại cho đời sau một chuyện lý thú. 

 Dượng Đế đáp: 

 - Việc này cũng hay đấy? 

 Rồi cúi đầu nghĩ ngợi, nhìn quanh đếm xem bao nhiêu người, nói: 

 - cảnh vật vì có người mà càng đẹp, cổ nhân có Thất Hiền hương, Ngũ Lão đường, đều là lấy số người mà đặt tên. Nay trẫm cùng hoàng hậu, với mười lăm phu nhân, cộng thêm Quý Nhi, Bảo Nhi, Giáng Tiên, Dã Nhi, Hạnh Nương, Thỏa Nương, Nguyệt Tân bảy người nữa, là có hai mươi tư người đây, vậy nên đặt cho cầu này tên là "Nhị thập tứ kiều”, chẳng phải không hay sao! 

 Mọi người đều hân hoan thưa: 

 - "Nhị thập tứ kiều", hay quá? Thế cũng đủ biết bệ hạ nghĩ thật sâu xa, thật rộng lớn! 

 Rót rượu dâng mời, Dượng Đế vô cùng khoan khoái, uống liền mấy chén, rồi phán: 

 - Trước đây ở viện Ảnh Văn, trẫm được nghe Hoa phu nhân thổi địch rất là réo rắt, khiến người nghe như ôm sầu ngậm tủi, sao không thổi trẫm nghe. 

 Lương phu nhân thưa: 

 - Tiếng địch nên nghe từ xa, mới thấy hết vẻ du dương, uyển chuyển. 

 Địch phu nhân tiếp: 

 - Đêm vừa rồi, ngồi ở viện Hạ phu nhân, thiếp nhìn lên Điệp lâu nghe Lý phu nhân cùng Hoa phu nhân, một người hát, một người thổi địch, cả hai đều tuyệt diệu, càng về cuối lúc thì nghe khắp nơi đều vang tiếng địch, lúc lại như chốn chốn vang tiếng ca, thật là lòng say dạ túy, khoan khoái vô cùng! 

 Tiêu Hậu nói: 

 - Có những chuyện hay như thế, sao các phu nhân không rủ ta với? 

 Dượng Đế lại hỏi: 

 - Các khanh hát khúc gì vậy, lời cũ hay lời mới? 

 Hạ phu nhân thưa: 

 - Đó là do Sa phu nhân gần đây một mình lên cầu nhỏ Ngọc Lang, nhân đó mà làm, nên từ lời đến ý đều rất hay. 

 Dượng Đế vui mừng hỏi: 

 - Các khanh ai nhớ không? Đọc cho trẫm nghe xem có thông không nào? 

 Hạ phu nhân bèn đọc: 

 Ngày xuân cung vắng, vẳng tiếng đàn. 

 Lơ đểnh kìa ai tóc sỗ sàng 

 Lạnh buốt tiếng sênh lầu gác ấy 

 Thì thào, dứt nối, tiếng bay sang 

 Tơ liễu dài dễ vịn 

 Vươn tay cuốn bức màn tiên 

 Gió đông đâu bỗng nổi lên 

 Lòng vơ vẩn 

 Lần lữa đổi khác dung nhan 

 Tin vời không thấy 

 Lệ khô tràn 

 Thần ngọc y nguyên, điện các này 

 Trăng kia còn đó bóng còn đây 

 Hết dãy núi này, còn dãy khác 

 Xuân đã về, xuân có tỉnh say? 

 Trời hè, hè chẳng đổi thay 

 Tơ trời không rối, sầu nay vẫn sầu 

 Sông xuân kéo ngược cách nào... 

 Dượng Đế nghe xong, xuýt xoa khen: 

 - Sa phu nhân thật đúng là một nữ học sĩ, làm được những tác phẩm toàn bích đến như thế. Chúng ta rót ra hai chén rượu, mời Lý phu nhân cùng Hoa phu nhân uống, rồi nhờ hai phu nhân ra Nguyệt đình ở phía đông cầu này, chúng ta ngồi đây để nghe lời ca tiếng nhạc vậy! 

 Hai phu nhân thấy ý vua đã như vậy, liệu có chối cũng chẳng xong nào, nên uống cạn ngay hai chén rượu, đứng dậy. Lý phu nhân đưa mắt liếc Địch phu nhân mà rằng: 

 - Cũng chỉ tại mồm mép nhanh nhẩu của phu nhân mà khiến người khác đứt từng khúc ruột vậy thôi! 

 Rồi cùng Hoa phu nhân trèo lên xe đi về phía Nguyệt đình. Đình này vừa cao lại vừa được che loáng thoáng bóng cổ thụ, hai phu nhân giở ngọc địch, phách gõ ra, giọng ca trong trẻo cất lên, tiếng địch hòa theo, thật khiến mây quang trời sáng gió lay hoa thẹn, Dượng Đế vừa nghe vừa tán thưởng không ngớt lời. 

 Tối hôm ấy, mới khoảng mùng bảy, mùng tám, ánh trăng chỉ có một chốc buổi đầu canh. Dượng Đế phán: 

 - Cây trùm tối um, chúng ta hãy chuyển tiệc rượu vào Nguyệt đình có phải tốt hơn không? 

 Bèn cùng Tiêu Hậu, các phu nhân chậm rãi lần theo tiếng địch, tiếng ca mà đi tới, gần tới Nguyệt đình, thì bài ca cũng vừa xong. Hai phu nhân trông thấy vội ra khỏi Nguyệt đình đón vào, Dượng Đế nói với Hoa phu nhân cùng Lý phu nhân: 

 - Lời ca tiếng nhạc từ miệng người đẹp mà ra, khiến người nghe cũng hồn tiêu phách lạc, hai khanh thật là một đôi tuyệt mỹ vậy? 

 Cung nữ vội vàng xếp dọn, Dượng Đế giục rót rượu mời hai phu nhân, rồi nói với Tiêu Hậu. 

 - Hôm nay tuy bị yêu nghiệt của hoa quỳnh làm cho mất hứng, nhưng giờ lại được hưởng những cảnh vui vẻ như thế này, mai kia có nghĩ lại cũng còn thấy thú vị. 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Nhờ có tài tuyệt diệu của các phu nhân cả. 

 Dượng Đế tiếp: 

 - Trăng lặn rồi, đèn đóm thì chẳng có, làm thế nào bây giờ? 

 Lý phu nhân khẽ cười thưa: 

 - Bây giờ mà mang một cây đèn "Huỳnh phượng đăng" của Địch phu nhân tới đây, thì cũng đủ sáng mà lại chẳng cần thắp lửa, thắp đóm gì cả. 

 Tiêu Hậu vội hỏi: 

 - "Huỳnh phượng đăng" là cái gì thế? 

 Địch phu nhân thưa: 

 - Chỉ là trò chơi thôi mà, có ra cái gì đâu, xin đừng nghe cái miệng hớt lẻo của Lý phu nhân. Trước mặt bệ hạ cùng hoàng hậu mà dám nói bậy, có gì thì tháng sáu may ra mới dùng được. 

 Dượng Đế cười nói: 

 - Tốt hay xấu cũng cứ đem ra đây xem sao! 

 Địch phu nhân nghe nói thế, đành phải sai bọn cung nữ của viện mình: 

 - Ngươi hãy về viện, ngay trong phòng trang điểm, đem tất cả những "Huyền phượng đăng” đã làm xong ra đây. Rồi bảo cung nữ ở viện bắt được bao nhiêu đom đóm cũng đổ tất vào hộp mang tới đây ngay. 

 Chẳng bao lâu, cung nữ bưng đến một cái hộp, chăng bằng sợi tơ vàng, đưa cho Địch phụ nhân. Địch phu nhân lấy một cái cần hình mỏ chim Phượng treo lên, rồi bỏ vào đến hai ba chục con đom đóm, đưa trình Tiêu Hậu. Tiêu Hậu cùng Dượng Đế nhìn kỹ, thì thấy bên ngoài được che bằng những cánh con ve mỏng, gần giống hình chim Phượng, phía trên đậy bằng những lớp the mỏng có thêu rất đẹp, đầu chim Phượng được đẽo gọt từ san hô, miệng ngậm một hạt ngọc minh châu, Trông chẳng khác gì đóm sáng của ngọn đèn, tỏa ánh ra bên ngoài, đem treo lên. Hai cánh con chim Phượng kết bằng những cánh ve nhỏ cứ theo gió nhẹ mà khẽ lay động. Dượng Đế nhìn kỹ hồi lâu, khen: 

 - Địch phu nhân thật khéo nghĩ khéo làm, đúng là đến mức "xuất thần nhập hóa" vậy. 

 Tiêu Hậu tiếp: 

 - Đúng là thật khéo tay! 

 Đưa cho cung nhân, treo cả lên. Ngoài ra lại còn đến bảy tám cái nữa, Địch phu nhân lần lượt bỏ đom đóm vào, đưa cho các phu nhân, cùng treo cả lên, thế là mấy cái "Huỳnh phượng đăng” chiếu sáng cả tiệc rượu. Dượng Đế vỗ tay cười: 

 - Thật lạ lùng, mấy con đom đóm này đêm nay thật có công. Sao không sai người bắt thêm ít nữa, đem vào trong ngự uyển, tuy chẳng bằng ánh trăng, nhưng cũng có thể sánh được bốn năm phần... 

 Tiêu Hậu hùa theo: 

 - Thế thì thật là kỳ quan! 

 Dượng Đế lại truyền chỉ: phàm các cung nữ cùng nội giám, bắt được một túi đom đóm thưởng cho một tấm lụa. Chẳng mấy chốc, cung nữ, nội giám, cả trăm họ nữa bắt được đến sáu bảy chục túi đom đóm, Dượng Đế sai lấy ngay lụa ra thưởng, sai người ra trước đình, sau đình, trong vườn, trước núi thả tất cả đom đóm ra, trông ra chốc lát chẳng khác gì hàng vạn vì sao sáng xanh rơi xuống, chiếu sáng cả bốn chung quanh. Dượng Đế cùng mọi người say sưa nhìn, vỗ tay tán thường, lại nâng chén chúc mừng mãi tới canh ba mới về cung. 

 *** 

 Nay hãy thôi nói chuyện Dượng Đế ở trong cung đêm ngày dâm loạn, hãy nói chuyện Vũ Văn Hóa Cập, là con của Vũ Văn Thuật, làm tới chức Tả đồn vệ tướng quân, vốn cũng là phường tục tử. Em ruột là Tri Cập, lại là một tay giảo hoạt, đang vào lúc Dượng Đế vô đạo, cũng phường theo nước giỡn sóng, đập phá cho qua ngày, chạy đông ngó tây rồi lại viễn chinh Cao Ly, hết xây nhà chỗ này, làm phủ chỗ kia, lại làm cả lầu gác riêng ở Đơn Dương. Đến khi giặc giã bốn bề, đáng lẽ phải ra sức đánh dẹp, thì chẳng bao giờ làm cả việc cung cấp cho binh lính lương thực, khí giới, cũng chẳng hề lo lắng, vua quan ngồi cả ở Giang Đô, mặc cho một ngày kia mất một huyện, ngày qua mất một thành, hôm nay thêm một kho bị cướp, ngày mai lại mất những gì, những gì nữa... vua chẳng hề biết đến, thần chẳng hề nói đến, tất cả chỉ ngày nào biết ngày ấy. 

 Cho đến khi có tin báo Lý Uyên đã làm phản, đang kéo quân vào cửa quan, các quan tùy giá của Dượng Đế đều chẳng có chủ ý gì cả. Trước tiên là Lang tướng Đậu Hiền, lãnh quân bản bộ bỏ chạy vào cửa quan trước, vua Tùy nghe tin, sai quân chém đầu, nhưng rồi lại thôi, mà đưa về Giang Đô giam cho chết đói. Nhưng rồi trong cảnh cái chết đến chân, cũng phải tìm cho mình một đường sống, nên Hổ bôn lang tướng Tư Mã Đức Kham, Nguyên lễ trực các Bùi Kiến Thông, Nội sử xá nhân Nguyên Kính, Hổ nha lang tướng Triệu Hằng Khu, Ủng dương lang tướng Mạnh Bính, Huân thị Dương Sĩ Lâm cùng nhau thương nghị: 

 - Chúng ta đều phải lo mà thoát thân, chẳng có lính tráng nào đuổi theo bọn ta làm gì, dẫu có đuổi theo nữa, thì ta cũng chẳng có gì để mà sợ. 

 Bọn này chẳng có kế sách gì lạ, chẳng qua là bàn để chạy thoát lấy thân. Trong số này chỉ mỗi Vũ Văn Hóa Cập là khôn ngoan hơn cả thì nói: 

 - Chúa thượng vô đạo, nhưng uy lệnh vẫn còn, cho nên dẫu có bỏ chạy, chưa chắc đã thoát. Ta xem trời định làm mất nhà Tùy, anh hùng đua nhau nổi dậy. Hiện nay Vũ Văn này cũng có vạn người, chi bằng cùng nhau xúm lại lo việc lớn, đây là chuyện mưu đồ vương bá, nếu mọi chuyện thành công, phú quý ta cùng hưởng vậy. 

 Ai nấy nhất tề đáp: 

 - Hay lắm! 

 Rồi bầu Hóa Cập làm minh chủ, Tư Mã Đức Kham có công chiêu tập mọi người thì làm thủ lãnh, cả hai xếp đặt công việc, ai nấy nghe theo. Trước tiên là lấy trộm ngựa trong chungựa của Dượng Đế, tìm kiếm khí giới. Hóa Cập lại tìm cách lôi kéo cả Tư không Ngụy Thị, phạm vi càng ngày càng rộng, lời đồn càng ngày càng loang, ngay cả trong cung cấm cũng nhiều người biết. Hôm ấy Hạnh Nương đứng hầu yến tiệc, tâu mọi chuyện cho Dượng Đế rõ. Dượng Đế nghe xong liền lệnh cho Hạnh Nương nói chiết tự chữ "Tùy" để tìm cách tránh tai họa, Hạnh Nương thưa rằng: 

 - Chữ "Tùy" vốn là quốc hiệu, chỉ có một bên tai, mà lại bịt kín, ở giữa có chữ "công”, chữ "công" này gần giống chữ "vương", nhưng không phải chữ "vương", ngoài ra chẳng có chữ nào nữa, cho nên có trốn cũng chẳng thoát. 

 Lại lệnh cho đoán chữ "trẫm". Hạnh Nương thưa: 

 - Chuyển phấn bên phải sang bên trái, thì giống chữ "Uyên", chỉ vào việc hiện này Lý Uyên đang khởi loạn. Giờ chỉ còn có người xưng trẫm là ngu tối, chẳng chịu thấy gì. Nếu nói thẳng với bệ hạ, thì tháng này rồi chỉ còn tám ngày nữa thôi? 

 Dượng Đế nổi giận quát: 

 - Ngươi sẽ chết vào lúc nào? 

 Rồi lệnh cho đoán chữ "Hạnh", Hạnh Nương đáp: 

 - Thiếp sợ chết ngày hôm nay! 

 Dượng Đế vặn: 

 - Làm sao ngươi biết? 

 Hạnh Nương đáp: 

 - Chữ "Hạnh" gồm các chữ "thập, bát, nhật" chẳng còn cách nào khác, hôm nay chính là ngày ấy, ngày mười tám? (1) 

 1 Hạnh Nương dùng cách "chiết tự" để đoán việc các chữ "Tùy", "Hạnh", đã giải thích ngay trên, riêng chữ "trẫm”, thì phải hiểu đó là chỉ chữ "Quang", tên của Dượng Đế, trong số chữ "Quang", có chữ có bộ "ấp" ở bên phải gần như chữ "Quảng" của Dương Quảng! 

 Dượng Đế nổi giận dùng đùng, sai chém, từ đó trở đi, chẳng ai dám nói. Dượng Đế thường soi gương, rồi tự hỏi. 

 - Cái đầu đẹp thế này, đứa nào dám chém? 

 Rồi lại ngửa nhìn trời sao, nói với Tiêu Hậu: 

 - Bên ngoài có kẻ đang muốn giết trẫm, nhưng trẫm thì chưa mất Trường Thành Công, hoàng hậu thì vẫn không làm Thẩm hoàng hậu mà! (1) 

 1 Trường Thành: Lâu dài, mãi mãi, Thẩm: chìm đắm, ý nói cả hai đều còn được lâu dài. Dượng Đế cố tự huyễn hoặc! 

 ** 

 Nay lại hãy nói chuyện Vương Nghĩa, từ lâu đã biết mọi việc thế xong, lại ân hận mình là người nước ngoài, chằng có cách nào cứu vớt chỉ có cách đem gia tài giấu giếm. Làm thân với thủ uyển thái giám Trịnh Lý cùng các viên túc vệ giữ cửa cung, đều là tay chân của họ Vũ Văn, để dò la xem bao giờ thì bọn này hành sự. Khi đã biết tin chắc chắn, liền sai ngay Khương Đình Đình, cùng một a hoàn nhỏ tuổi đi một chiếc xe nhẹ vào trong ngự uyển. Bởi Đình Đình ngày ngày vẫn thường ra vào, nên chẳng ai ngăn cản. Đình Đình xuống xe, cùng a hoàn vào thẳng Bảo Lâm viện, thấy cả Tần phu nhân ở Thanh Tu viện, Địch phu nhân ở Văn An Viện, Hạ phu nhân ở Ỷ Âm viện, Lý phu nhân ở Nghi Phương viện đều đang ở đây, lại thêm cả Viên Bảo Nhi, Sa phu nhân cùng Triệu Vương là bảy người cả thảy, đang xúm lại chơi cờ. Sa phu nhân thấy Đình Đình vào, vội hỏi: 

 - Ngươi hãy ngồi đi! Tin tức ở bên ngoài ra sao rồi! 

 Đình Đình thưa: 

 - Xin các phu nhân thứ lỗi, sự thể bên ngoài chỉ chẳng sớm thì chiều, thế mà các phu nhân vẫn ở đây ngồi nhàn cho được. Vương Nghĩa sai thiếp vào đây, hỏi xem ý Sa phu nhân như thế nào? 

 Các phu nhân nghe thấy thế chỉ ôm mặt khóc, chỉ riêng Sa phu nhân cùng Bảo Nhi là không. Sa phu nhân nói: 

 - Khóc cũng vô ích! Chị em chúng ta giờ tính chuyện đi đứng ra sao đây? 

 Tần phu nhân đáp: 

 - Trước mắt ta đây đều là chị em tâm phúc cả, xin được nghe chỉ vẽ. Mọi người mấy tối trước có nói: "Năm đầu thánh thượng đưa cung nữ vào cung còn vừa phải, cho nên ân tình còn sâu nặng. Giờ thì phía đông cũng là Phật, trời tây cũng là Phật, thánh thượng chẳng còn biết đi đâu nữa?" Chỉ riêng câu này cũng đủ biết ta phải làm gì rồi, chẳng trông mong được vào ai nữa đâu! 

 Sa phu nhân đáp: 

 - Ta cũng chẳng có ý gì cả đâu. Ta mà không có Triệu Vương, thì sống cũng có cách sống, chết cũng có cách chết, nhưng nay thánh thượng đem Triệu Vương phó thác cho ta, ta đành chỉ có cách... 

 Rồi chỉ Đình Đình, nói tiếp: 

 - Đành chỉ có cách dựa vào vợ chồng họ Vương này thôi. Các phu nhân nếu đã quyết chí xin hãy về ngay viện mình, thu thập mọi thứ rồi đến đây ngay đi! 

 Các phu nhân nghe nói thế, liền chạy như bay về viện. Duy chỉ có Viên Tử Yên, do biết xem thiên văn, hiểu rõ số nhà Tùy đã hết, từ lâu đã thác bệnh, thu thập tế nhuyễn riêng tư, nằm ở viện Bảo Lâm. 

 Ba người đang ở đấy tính chuyện thoát thân, thì thấy Tiết Dã Nhi đi thẳng vào, thấy Đình Đình, liền nói: 

 - Tốt lắm rồi! Ngươi đang ở đây rồi! Vừa rồi Chu Quý Nhi bảo ta đến gặp Sa phu nhân, bên ngoài mọi chuyện gấp lắm rồi, kiếp này thì chẳng còn được gặp nhau đâu. Triệu Vương là ý thánh chúa đã thác gửi, vạn lần xin đừng phụ lòng thánh chúa. Ta cũng chịu ơn dày của chúa thượng, đáng ra cũng nên chết theo chúa thượng mới phải, nhưng rồi Chu Quý Nhi ba bốn lần đinh ninh dặn dò, nên đành phải trộm sống mà theo hộ giá Triệu Vương vậy. 

 Sa phu nhân nói: 

 - Ta đang cùng Đình Đình tính toán, bảy tám người như thế này, thì đi làm sao cho được? 

 Dã Nhi đáp: 

 - Chuyện này thì không sợ, Quý Nhi cùng với Dã Nhi này đã lo liệu đầy đủ. 

 Rồi lấy ở trong tay áo ra một đạo thánh chỉ: 

 - Đây chính là do trước kia định sai người đi Phúc Kiến để tìm hoa lan, tuy viết rồi, nhưng rồi chúa thượng ngày đêm tiệc rượu, cho nên lại chưa làm. Quý Nhi nhân chuyện bảo toàn Triệu Vương, nên lặng lẽ lấy trộm, giao cho Dã Nhi này cùng các phu nhân, tùy đó mà hành sự vậy thôi. 

 Sa phu nhân rơi nước mắt đáp: 

 - Quý Nhi đúng là hai lần đều trung trinh, thật đáng phục vậy. 

 Đang nói thế thì thấy bốn vị Phu nhân, đem theo hành lý bước vào, Sa phu nhân đưa thánh chỉ ra cho các phu nhân xem. Tần phu nhân nói: 

 - Có được đạo bùa này, chẳng còn lo không đi được nữa rồi. 

 Tử Yên nói: 

 - Cứ như ý của Tử Yên này, nên đi làm hai lần thì tốt hơn. 

 Đình Đình thưa: 

 - Đã dự liệu cả rồi đây. Mau giả trang cho Triệu Vương thành con gái, đổi quần áo cho con a hoàn này để Triệu Vương mặc, còn a hoàn thì giả làm một tiểu thái giám. Thiếp cùng Triệu Vương ra trước. Còn a hoàn dẫn các phu nhân cải trang theo sau, từ từ ra khỏi cung đến nhà thiếp. Cứ thế này thì chỉ có quỷ thần mới nhận ra được. 

 Hạ phu nhân nói: 

 - Chỉ sợ trong lúc gấp gáp như thế này, lấy đâu ra sáu bảy bộ áo thái giám? 

 Sa phu nhân đáp: 

 - Chẳng cần các phu nhân phải lo. Ta từ lâu đã trữ sẵn cả đây rồi? 

 Sa phu nhân mở ngay rương, lấy ra một loạt quần áo thái giám, mới có, cũ có, đủ cả mũ, cả khăn. Các phu nhân vui mừng, lập tức mặc ngay vào. Sa phu nhân đang cải trang cho Triệu Vương, nhìn bốn phu nhân, nói: 

 - Thật xấu hổ, các phu nhân trên mặt còn đầy những phấn những sáp, sao đã vội ăn mặc ngay vào thế kia. 

 Các phu nhân đều rũ rượi. Đình Đình thấy Triệu Vương đã cải trang xong, trời đã về chiều, Sa phu nhân lấy một cái hộp vàng, bày rất nhiều hoa vào, đưa cho Triệu Vương bưng, Đình Đình nói với a hoàn: 

 - Chờ một lát, mày hãy dẫn các phu nhân về nhà! 

 Rồi cùng Triệu Vương, lặng lẽ ra khỏi viện, lên xe về nhà. 

 Vương Nghĩa ở nhà, sau khi Đình Đình vào viện, liền chạy ngay đến tìm Trịnh Lý, mời về nhà, chuốc rượu cho đến kỳ say mới cho về. Trịnh Lý say khướt về trông cửa cung, thấy tiểu thái giám bưng quả hoa, lại thấy xe của Đình Đình liền nói: 

 - Khương nương nương ở trong viện về đây à? Ta vừa ở đường nhà làm một tiệc say với Vương Nghĩa xong! 

 Đình Đình đáp: 

 - Đúng rồi! Nhưng cũng còn sớm chán! 

 Trịnh Lý tiếp: 

 - Lại thêm cả con a hoàn này để lấy phần hoa quả về sao? 

 Đình Đình đỡ lời: 

 - Đấy chính là ơn huệ của các phu nhân ban cho! 

 Nói rồi, ung dung rời khỏi cửa cung, chưa đầy một dặm, đã về đến nhà. Vương Nghĩa thấy Triệu Vương liền dặn Đình Đình đừng thay quần áo Triệu Vương làm gì, đưa vào giấu ở phòng kín bên trong, rồi chạy ngay khỏi nhà, vào cửa cung nghe ngóng, đã thấy sáu bảy nội giám, suýt soát như nhau, trong đó nhận ra cả a hoàn nhà mình, liền cùng quay về nhà cho nhanh. Các cửa thành, Vương Nghĩa đã giải tiền kết thân từ trước, chẳng ai ra mà bị ngăn trở. Cho nên đến lúc lên đèn, Vũ Văn Hóa Cập kéo lính tráng khởi sự, vào đến cửa cung, thì Vương Nghĩa đã dẫn Triệu Vương cùng các phu nhân ra khỏi cửa thành rồi. 

 Dượng Đế thường ngày rất sợ mọi người nói chuyện xấu, ai nói ra đều bị giết, nhưng đến lúc này, thì dù ở địa vị Dượng Đế nữa, cùng đã thấy rõ thảm cảnh trước mắt, chỉ đành cùng Tiêu Hậu ngồi ở gác Tây, nhìn nhau mà lo sợ suốt đêm, nghe bên ngoài ồn ào chấn động, tiếng la hét chuyển vang trời đất. Nội giám lúc một lại vào báo: 

 - Đánh đến nội điện rồi? 

 - Đồn vệ tướng quân Độc Cô Thịnh chết rồi! 

 - Thiên ngưu Độc Cô Khai Viễn bị giết rồi! 

 Bọn lính tràn vào cung, một toán tóm lấy một cung nữ, quát hỏi Dượng Đế ở đâu. Cung nữ khai là đang ở gác Tây, Bùi Kiền Thông cùng Nguyên Lễ chạy thẳng tới gác Tây. Nghe thấy trên gác có tiếng người, biết là Dượng Đế. Mã Văn Cử rút kiếm chạy lên, mọi người ùa theo sau, chỉ thấy Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đang ngồi khóc. Thấy mọi người, Dượng Đế nói: 

 - Các khanh đều là quan thần của trẫm, năm này sang năm khác lộc trọng quyền cao ban cho các khanh, nào có phụ gì, sao lại oán nghịch như vậy? 

 Kiền Thông đáp: 

 - Bệ hạ chỉ nghĩ tới hưởng lạc, chẳng nghĩ gì đến kẻ dưới, nên mới có biến hôm nay vậy. 

 Lại thấy phía sau lưng, Chu Quý Nhi bước ra, chỉ tay vào mặt bọn KThông: 

 - Thánh ơn rộng khắp, thế vẫn chưa thỏa lòng sao. Đừng nói tới chuyện bổng lộc quanh năm, chỉ nói tới việc lo lắng cho bọn thị vệ các ngươi ở Đông Đô này, ở đất khách lâu nhớ quê nhà, tình người cô độc truyền chỉ cho cả vùng Giang Đô này, những đàn bà cô quả đều tới cung, để các ngươi tùy ý chọn lựa. Thánh ân đến thế, sao lại bảo không chăm sóc thương yêu, mà nghĩ chuyện loạn nghịch cho đặng? 

 Dượng Đế tiếp: 

 - Trẫm không phụ các khanh, chính các khanh đang phụ trẫm! 

 Mã Đức Kham nói: 

 - Đúng là chúng thần phụ bệ hạ, nhưng hiện nay cả thiên hạ đều nổi dậy làm phản, hai kinh giặc đều chiếm, bệ hạ chẳng còn chỗ mà về, chúng thần cũng chẳng còn đường sống. Hôm nay đạo nghĩa chúng thần đã đến thế này, có hối cũng chẳng kịp nữa, chỉ xin dược cái đầu bệ hạ để tạ trời đất thôi! 

 Quý Nhi nghe thế liền lớn tiếng quát: 

 - Lũ nghịch tặc sao dám nói điên cuồng. Dẫu chúa thượng có thất đức đi nữa, cũng vẫn là đấng thiên tử chí tôn, làm cha trăm họ, mũ áo đường đường danh phận. Các ngươi chẳng qua là lũ thị vệ tiểu quan, sao dám ức hiếp thánh chúa, vọng tướng phú quý, để rồi chịu tiếng phỉ báng loạn thần, nghịch tử của nghìn năm sau? 

 Kiền Thông thấy nói thế, nổi giận quát: 

 - Ngươi là con hầu ở bếp, sao dám dẻo miệng báng bổ? 

 Quý Nhi vẫn lớn tiếng chửi: 

 - Phản vua, hại chúa chúng bây, cậy có binh quyền trong tay muốn làm gì thì làm sao! Nhà Tùy ơn nghĩa khắp thiên hạ. Chín châu không khỏi có một kẻ trung thần nghĩa sĩ, vì thiên tử mà báo thù quân cần vương sẽ kéo về, lúc ấy thì các ngươi sẽ bị băm làm vạn mảnh, có hối cũng muộn rồi? 

 Văn Cử cũng đùng đùng nổi giận: 

 - Con tiện tỳ điên khùng, ngày thường thì mày chau mắt nguýt mê hoặc nhà vua, đến lúc thiên hạ nát tan, cũng nên giết chết tiện tỳ để tạ trời đất! 

 Kiếm giơ cao, nhằm giữa mặt Quý Nhi mà chém, Quý Nhi vẫn chửi không ngớt, rồi ngã lăn ra nền nhà. Khá thương mình vàng, vóc ngọc thành một đám máu thịt nát tan. 

 Văn Cử giết Quý Nhi rồi tay cầm kiếm, tay lôi Dượng Đế xuống dưới gác, thì thấy Phong Đức Di đi lên, nói với Đức Kham: 

 - Hứa Công có lệnh, không cần phải giải hôn quân tới gặp Đức Công làm gì, hãy mau hạ thủ đi. 

 Tiêu Hậu thấy nói thế, vội lạy van xin mọi người: 

 - Thưa các vị tướng quân, chúa thượng đúng là vô đạo, nhưng xin hãy nghĩ đến tước lộc lâu nay để chúa thượng xin nhường ngôi lại cho các vị tướng quân, giao lại tất cả ấn tín, cung khuyết, xin các vị giáng làm tam công, cho sống nốt kiếp sống thừa, như thế liệu các vị tướng quân có chấp nhận cho không? 

 Lại thấy Viên Bảo Nhi hầm hầm giận dữ chạy tới, thấy Tiêu Hậu khóc lóc, một điều tướng quân hai điều tướng quân, liền cười nói với Tiêu Hậu: 

 - Hoàng hậu việc gì phải khổ sở thế? Đối với lũ giặc này, chúng chẳng có một chút trung quân ái chúa gì cả đâu. Đời nào chúng bằng lòng cho chúa thượng yên ổn nhường ngôi, để rồi lại vẫn cùng hoàng hậu hành lạc cho được? 

 Lại nói với Dượng Đế: 

 - Bệ hạ thường cho mình là bậc anh hùng, đến nước này thì còn lưu luyến tấm thân làm gì nữa mà phải cầu xin lũ phản thần này? Người ta ai không chết? Thiếp giờ đây cũng xin chết trước mặt bệ hạ, cũng coi như là một cái chết xứng đáng. Thiếp xin đi trước, bệ hạ hãy mau mau đi theo? 

 Văn Cử vội vàng ngăn Bảo Nhi lại, nhưng Bảo Nhi trừng mắt nhìn, lớn tiếng quát: 

 - Lũ phản thần! Không được lại gần ta? 

 Vừa nói, vừa rút đoản đao đâm vào cổ, đầu ngửa cao, từ cổ một dòng máu đỏ tươi phun ra như mưa, rồi cả thân hình đẹp như thần tiên ngã vật xuống lan can. Tiêu Hậu thấy thế hoảng sợ chạy vội xuống gác. Dượng Đế thì hồn bay phách lạc, Kiền Thông xốc kiếm định giết. Dượng Đế gào lớn: 

 - Hãy khoan động thủ, thiên tử có cách chết của thiên tử, hãy đem thuốc độc ra dây! 

 Kiền Thông đáp: 

 - Thuốc độc không bằng mũi kiếm, nhanh hơn nhiều. Cái gì mà chẳng xong! 

 Dượng Đế rót nước mắt nói: 

 - Trẫm là thiên tử một đời, xin được giữ toàn thân mà chết? 

 Văn Cử đưa ra một tấm lụa trắng, Dượng Đế khóc mà rằng: 

 - Trước đây Lý Khánh Nhi ở Phượng Nghi viện nằm mộng thấy trẫm bị rồng trắng quấn cổ, đến nay mới nghiệm đây! 

 Bọn này liền gọi vũ sĩ tới, nhất tề ra tay, lôi Dượng Đế ra, dùng lụa trắng thắt cổ cho chết. Lúc này, Dượng Đế mới hai mươi chín tuổi. 

 Người đời sau có thơ điếu rằng: 

 Tùy gia thiên tử giống đa tình, 

 Chẳng sống lâu, cốt sướng lấy mình 

 Hoa lệ mười ba năm mãn thế 

 Dâm ô nghìn vạn thuở lưu danh 

 Mê trăng đắm rượu: dân không gốc 

 Cợt phấn đùa hương: mệnh hết tinh 

 Còn giận loạn thần tham phú quý 

 Máu rồng tung tóe khắp cung đình. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi Tám

Nhờ diệu kế, một bạn về đường,

 Hủy dung nhan, bốn nàng bền chí.

 Từ rằng: 

 Khéo thay đất, lạ thay trời 

 Tri âm lại trả nghĩa người tri âm 

 Những như ân nổi oán chìm 

 Trong mây nghe sấm, đen rầm xa xăm 

 Hận ly biệt, âm thầm nhiều ít 

 Trống chín châu hò hét dập dìu 

 Cô trung níu lấy Tùy triều 

 Sợi chỉ mảnh, đứt sớm chiều, hoa rơi! 

 Trùng hưng may lại tốt tươi... 

 Theo điệu "Vũ trung hoa" 

 Từ xưa biết người thì sẽ có người biết mình, đã là bậc tri âm tất gặp người tri âm, đã là khách chung tình sẽ có khách chung tình báo đáp. Cả đời Tùy Dượng Đế chỉ mỗi chăm chú là phụ nữ, tất cả chỉ vì phụ nữ mà hành động, đem cả giang sơn gấm vóc vứt phí vứt hoài, cũng bởi thế nên có được những phụ nữ đột xuất vì cảm ân đó mà quên thân mình để báo bậc tri kỷ, báo quốc gia, xả thân thủ tiết, hủy hoại dung nhan báo đáp kẻ chung tình, danh thơm lưu sử sách. 

 *** 

 Lại nói chuyện Tư Mã Đức Kham sau khi đã sai thắt cổ Dượng Đế liền sai người đi báo cho Vũ Văn Hóa Cập. Hóa Cập lệnh cho Bùi Kiền Thông, dẫn lính tráng kéo đi giết chóc một loạt tôn thất, thân vương: Thục Vương Dương Tư, Tề Vương Dương Giản, Yên Vương Dương Đạm, không kể già trẻ, lớn bé, đều giết tuốt. Duy chỉ có Tần Vương Dương Hạo, vốn chơi thân với Trí Cập nên được Trí Cập cứu cho, thì may sống sót. Tiêu Hậu ở trong cung, lấy ván giường tủ đóng quan tài, rồi chôn cất cho Chu Quý Nhi, cùng Viên Bảo Nhi ở Lưu Châu đường thuộc Tây Viện. 

 Chính là: 

 Một gương châu gấm riêng còn mất 

 Ba thước mồ ma đắp thấp cao? 

 Hóa Cập giết xong các thân vương, tự mình đem theo giáp binh vào nội cung, định giết nốt hoàng hậu, các phi tần, để tuyệt tận gốc rễ. Đang trên đường vào chính cung, thấy một người đàn bà cùng với rất nhiều cung nữ theo sau khóc lóc, Hóa Cập lên tiếng quát: 

 - Ngươi là ai? Mà lại vào đây khóc lóc? 

 Người đàn bà này vội vàng quỳ xuống thưa: 

 - Thiếp chính là hoàng hậu họ Tiêu, xin tướng quân tha mạng! 

 Hóa Cập thấy Tiêu Hậu mặt hoa da phấn, dáng điệu thanh cao, trong lòng mười phần xứng ý, nên không đang tâm hạ sát, bèn nói: 

 - Chúa thượng vô đạo, ngược đãi trăm họ, kẻ có công không được thưởng, cho nên mọi người giết đi, nhưng chẳng can hệ gì đến ngươi, không việc gì phải sợ hãi. Ta tuy là hạng vũ tướng, nhưng cũng bởi vì dân mà trừ hại, thực không có lòng nào khác. Nếu không có lòng tỵ hiềm, xin cùng hưởng phú quý. 

 Rồi đưa tay đỡ Tiêu Hậu dậy. Tiêu Hậu thấy Hóa Cập nói năng nhẹ nhàng, nên cố lấy giọng thỏ thẻ, vừa sụt sùi: 

 - Chúa thượng vô đạo, lẽ nên chịu tội chết. Còn sự sống chết của thiếp xin hoàn toàn nhờ cậy ở tướng quân cả? 

 Hóa Cập đáp: 

 - Ngươi hãy cứ yên lòng. Chuyện này chủ trương là ở ta cả, không sợ mất giàu sang đâu! 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Tướng quân đã nói thế, sao không lập con cháu nối ngôi để tỏ rõ việc làm đại nghĩa? 

 Hóa Cập đáp: 

 - Ta cũng nghĩ như vậy! 

 Rồi ban lệnh: theo ý chỉ của hoàng hậu, lập Tấn Vương Dương Hạo làm vua, rồi tự mình lập làm Đại thừa tướng, cầm đầu trăm quan phong em trai là Vũ Văn Trí Cập làm Tả bộc xạ, phong em trai khác mẹ là Vũ Văn Sĩ Cập làm Hữu bộc xạ, phong con trưởng là Vũ Văn Thừa Cơ, con thứ là Vũ Văn Thừa Chỉ cùng làm tướng, coi giữ binh quyền, còn ngoài ra thì bọn tâm phúc đều được thưởng công, được trọng dụng. Nhưng bọn quan lại lâu nay có oán cừu với Vũ Văn Hóa Cập như Nội sử thị là Ngô Thế Cơ, Ngự sử đại phu Bùi Ôn, bí thư giám Viên Khắc, Tả phiên vệ tướng quân Lai Hoạch Nhi, Hữu phiên vệ tướng quân Vũ Văn Hiệp, Thiên ngưu Vũ Văn Xương, Lương Công Bùi Cử, kể cả gia quyến con cháu đều đem ra chém tất. Cấp sự lang Hứa Thiện Tâm chưa kịp đến triều dường để chúc mừng, Hóa Cập cho người tới tận nhà gọi đến, lúc được tha về, Thiện Tâm ra thẳng không tạ ơn, Hóa Cập nổi giận giết ngay. Mẹ Thiện Tâm là Phạm Thị, tuổi đã chín mươi hai, lúc làm tang không hề khóc, có người hỏi tại sao. Phạm Thị đáp: 

 - Nó chết vì nạn nước, ta có đứa con như thế, thì việc gì mà phải khóc? 

 Rồi nằm liệt, không chịu ăn mà chết. 

 Hóa Cập nhân tướng sĩ đều muốn về tây, liền đưa hoàng hậu cùng vua mới trở về Trường An, đem theo tất cả những mỹ nhân để hưởng lạc, bắt hết cả thuyền bè, theo đường thủy từ Bành Thành mà đi đến Hiển Phúc cung. Bọn Tư Mã Đức Kham cùng Triệu Hằng Khu, ghét Hóa Cập dâm loạn với bọn cung phi, không nghĩ gì đến tướng sĩ, mới dẫn hậu quân ập bắt Hóa Cập, không ngờ không giữ được kín, lại bị Hóa Cập giết chết. Đi đến Hoạt Đài, Hóa Cập giao cho Vương Quỹ trông coi mọi việc, còn mình thì thẳng đến Lê Dương, đánh vào Thương Thành. 

 *** 

 Lại nói chuyện vợ chồng Vương Nghĩa, dẫn Triệu Vương cùng các phu nhân, đi cách Vu Thành khoảng hai ba chục dặm, nhờ một nhà dân nghỉ lại qua đêm, thì nghe phía sau tiếng pháo nổ, tiếng hò hét vang trời, tin tức người đi lại đều nói trong thành có biến lớn. Vương Nghĩa vẫn để Triệu Vương đóng giả gái như cũ, còn sấp xếp để Đình Đình, Tử Yên, cùng Dã Nhi đều cải dạng nam trang. Năm phu nhân Sa, Địch, Tần, Lý cùng với con a hoàn vẫn mặc áo quần phụ nữ cũ. Tử Yên nói: 

 - Ta tối qua xem thiên văn, biết rằng chúa thượng đã bị giết hại rồi, chúng ta tuy thoát khỏi lồng vây, nhưng không biết đi đâu bây giờ cho yên? 

 Vương Nghĩa đáp: 

 - Chẳng nơi nào có thể đi được cả, trừ một nơi. 

 Mọi người vội hỏi: 

 - Nơi nào thế? 

 Vương Nghĩa đáp: 

 - Thái bộc Dương Nghĩa Thần, năm trước lo chúa thượng nghe lời bọn nịnh thần, thu hết binh quyền, vì vậy Dương Thái bộc trở về quê Thái bộc biết rõ số nhà Tùy đã hết, thay tên đổi họ, ẩn cư ở vùng đầm hồ Lôi Hạ thuộc Bộc Châu. Người này trí dũng kiêm toàn, trung quân ái chúa. Chúng ta nên đến quê thái bộc, thấy ấu chúa đây, thái bộc tất sẽ có phương cách. 

 Tử Yên vui mừng nói: 

 - Thái bộc chính là cậu của ta, ta vẫn hàng ngày hay nói chuyện cùng Sa phu nhân, tìm về đấy thì yên ổn rồi, chỉ sợ không biết ý của các phu nhân ra sao? 

 Bàn bạc xong, mọi người thuê thuyền đi Bộc Châu. 

 Lại nói Nghĩa Thần, từ năm Đại Nghiệp thứ bảy bị dèm pha nên phải nạp lại ấn kiếm, phòng xa lỡ tai họa đến thân, nên thay tên đổi họ, vào ở Lôi Hạ, hàng ngày làm bạn với ông ngư ông tiều. 

 Hôm ấy, nghe tin ở Giang Đô, Hóa Cập giết vua loạn cung, Nghĩa Thần buồn rầu than: 

 - Hóa Cập là loại thất phu ngu dốt, nên mới dám ngông cuồng như thế. Khá tiếc cho người em Sĩ Cập, vốn đi lại với ta khá thân thiết, mai kia có chuyện thiên hạ cùng hợp sức đánh dẹp bọn này, ta nỡ nào ngồi yên, nhìn dòng họ Vũ Văn phải cái nạn tuyệt hậu. Phải mau mau tìm cách khiến cho Sĩ Cập có thể giữ được thân mình, tránh khỏi họa này. 

 Liền sai người nhà là Dương Phương, đem theo một cái bình, Nghĩa Thần tự tay lấy giấy bút niêm phong thật kín miệng, theo đường tắt đến Lê Dương, đưa cho Sĩ Cập. Sĩ Cập thấy Dương Phương, vui mừng nói: 

 - Ta đang ngày đêm trông ngóng tin tức, không rõ hiện thái bộc đang ở đâu, thì nhà ngươi đến! 

 Liền dẫn vào thư phòng, cho tả hữu ra ngoài cả, rồi hỏi: 

 - Thái bộc hiện đang ở đâu? Gần đây làm những gì? 

 Dương Phương đáp: 

 - Thái bộc tiểu nhân từ ngày bị điều tiếng đến nay, thay tên đổi họ, về vùng Lôi Hạ, vui với chuyện kiếm củi, câu cá. 

 Sĩ Cập hỏi: 

 - Có thư của thái bộc không? 

 Dương Phương thưa: 

 - Thư thì thái bộc không đưa gì cả, chỉ có tự tay nêm phong vật này để làm tin mà thôi! 

 Sĩ Cập vội mở ra xem, thì thấy bên trong chỉ có hai quả táo cùng một miếng đường hình con rùa, Sĩ Cập nhìn hồi lâu, vẫn chẳng hiểu ý nghĩa ra sao, liền gọi tả hữu dẫn Dương Phương ra hậu dinh cơm rượu, rồi lại trầm ngâm nghĩ ngợi. Bỗng bình phong vén lên, một mỹ nhân xuất hiện, đó là người em gái rất thân thiết của Sĩ Cập tên gọi Thục Cơ, tuổi vừa mười bảy, vẫn còn chưa chịu tính gia thất, tuy chẳng phải bậc khuynh quốc khuynh thành, nhưng cũng thông minh, sáng sủa. Thấy Sĩ Cập trầm ngâm không nói, liền hỏi: 

 - Xin hỏi anh, cái này ai đưa đến, mà anh nghĩ ngợi, băn khoăn quá thế? 

 Sĩ Cập đáp: 

 - Cái này là một người bạn cũ, thái bộc nhà Tùy Dương Nghĩa Thần gửi đến. Thái bộc rất tinh thông binh pháp, biết rõ thiên văn, nhân bị tước cả binh quyền, bỏ quan đi ở ẩn. Nay sai người gửi đến cho ta một cái bình, niêm phong cẩn thận, ở bên trong chỉ hai thứ. Thật đúng là một câu đố khó giải. 

 Thục Cơ xem xét một hồi, rồi nói: 

 - Cũng chẳng có gì là hiểm hóc đâu. Chẳng qua khuyên anh nên mau mau theo về nhà Đường, thì may thoát khỏi họa thí nghịch vậy (1) 

 1 Con rùa làm bằng đường, là "quy đường" nhưng "quy" là rùa, tại đồng âm với “quy" là về, theo, hàng. Nên hiểu ra là "theo về nhà Đường". Quả táo là "tảo”, hai quả táo là “tảo tảo", gần âm với "tốc tốc" là mau mau. Vì vậy Thục Cơ giải là: "Mau mau theo về với nhà Đường đi!" 

 Sĩ Cập cả mừng: 

 - Em gái ta thật thông minh tài trí, nhưng ta cũng không tiện viết thư trả lời, mà cũng cần lấy một vật gì đó gửi cho thái bộc, để thái bộc hiểu được ý định của ta mới được. 

 Thục Cơ đáp: 

 - Nhưng không biết chủ ý của anh đã thật quyết chưa, nếu đã quyết thì có gì khó trả lời. 

 Sĩ Cập đáp: 

 - Hóa Cập làm những việc này, ta đứng xem cũng biết sẽ thất bại, đến lúc bị đánh lại, sẽ không thể nào chống đỡ kịp nữa rồi! 

 Thục Cơ liền nói: 

 - Thế là ý anh đã quyết, em sẽ sang bên này, tìm mấy thứ nhỏ, gửi cho thái bộc là xong. 

 Thục Cơ đi một lúc, quay lại, thấy tay cầm một cái hộp sơn đen, Sĩ Cập mở ra xem, thì thấy một con ngỗng làm bằng giấy cho trẻ con chơi, cổ con ngỗng lại đeo một cái thìa nhỏ tí, trên thìa lại có dính một lá bùa tính số mệnh nho nhỏ, tất cả đều được xếp gọn ghẽ. Sĩ Cập ngạc nhiên hỏi: 

 - Như thế nghĩa là gì? 

 Thúc Cơ ghé tai Sĩ Cập nói nhỏ mấy câu. Sĩ Cập khen hay, rồi đóng hộp lại, cũng niêm phong cẩn thận, rồi đưa ngay cho Dương Phương cầm về. 

 Ngày hôm sau Sĩ Cập vào gặp Hóa Cập, nói: 

 - Tần Vương Lý Thế Dân hội họp binh mã các nơi để chinh phạt, thần ý muốn dẫn một vài gia đinh, giả làm dân chạy loạn, lên trước xem xét hư thực ra sao, vài ngày xin quay về thưa kỹ. 

 Hóa Cập bằng lòng, Sĩ Cập liền gọi vợ con, cùng với Thúc Cơ giả dạng nam trang, thu thập tế nhuyễn, rời khỏi Lê Dương, đến thẳng Trường An. Lúc này Cung Đế đã nhường ngôi cho Lý Uyên, vua Đường Lý Uyên lên ngôi, cải hiệu Vũ Đức, Sĩ Cập đem em dâng cho vua Đường làm chiêu nghi. Vua Đường phong cho Sĩ Cập làm thượng nghi cai quản công việc tam ty quân sự. 

 Lại nói Dương Phương, cầm cái hộp sơn đen của Sĩ Cập về Bối Châu gặp chủ tâu trình, Nghĩa Thần mở ra xem, thấy thế vui mừng nói: 

 - Thế là bạn ta có nơi chốn yên ổn rồi! 

 Dương Phương hỏi: 

 - Thưa thái bộc, như thế nghĩa là làm sao? 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Sĩ Cập chẳng nói gì cả, xin nhắn: Tôi xin kính cẩn vâng mệnh mà thôi! (1) 

 1 con ngỗng là "nga" gần âm với “ngã” là tối, cái thìa là "cẩn" đồng âm với "cẩn” là kính cẩn, lá bùa tính toán số mệnh gọi là “toán mệnh" đọc chệch là "tuân mệnh". Vậy là "ngã cẩn tuân mệnh”. 

 Nhân đó hỏi Dương Phương: 

 - Người ở Lê Dương, thấy được những chuyện gì? Dòng dõi tiên đế có ai thoát nạn không, các quan trong triều, ai là người giữ được tiết nghĩa? 

 Dương Phương thưa: 

 - Tiêu Hoàng hậu thì đã thất tiết, các bậc phu nhân, phi tần cũng chạy trốn được ít nhiều, chỉ có Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi mắng giặc mà chết. Hoa phu nhân ở viện Thúy Hoa, Tạ phu nhân ở viện Ảnh Văn, Khương phu nhân ở viện Nhân Trí, đều tự thắt cổ chết. Hóa Cập thấy Lương phu nhân ở viện Cảnh Minh dung mạo thần tiên ý muốn giữ cho mình, nhưng phu nhân không chịu, chửi mắng thậm tệ, Hóa Cập tìm mọi cách dụ dỗ, phu nhân vẫn không theo, cuối cùng cũng bị giết. Viên Quý nhân nhà ta không hiểu đi đường nào, tiểu nhân hỏi kỹ mà vẫn không ai biết. Tôn thất, hoàng thân bị giết mất cả, chỉ có Tần Vương Hạo, thân thiết với Trí Cập, nên phải miễn cưỡng tôn lên làm vua, không ngờ gần đây đã bị Hóa Cập cho uống rượu độc giết chết. Nghe nói còn con nhỏ Triệu Vương Cảo trốn được, đang cho người lùng khắp nơi để bắt. 

 Nghĩa Thần nghe xong, đập bàn, rơi nước mắt: 

 - Nghịch tặc dám ngang ngược tàn ác đến thế, bá quan văn võ phần lớn lại là phường hám vị sợ chết, nhưng các vị đại thần ở các phiên trấn há không còn ai trung nghĩa nghĩ tới chuyện trừ diệt lũ nghịch tặc này hay sao? 

 Khóc than một hồi, đêm ấy trong lòng buồn bực thắp một cây nến lớn, ngồi trong thư phòng, cúi đầu xem sách, lúc lúc lại than thở. 

 Mãi tới canh hai thấy trong người mệt mỏi, lên giường nằm nhưng vẫn không ngủ được, ngoài cửa trăng sáng như ban ngày. Trong lúc trằn trọc chẳng yên, liền ngồi dậy ra sân, bước đi vẫn còn nghiêng ngửa, thì thấy một người đội mũ, áo bào đỏ, hoảng hốt tiến lại. Nghĩa Thần nhìn kỹ, nhưng trong lúc tâm thần bất định, ánh trăng lại chiếu từ phía sau, nên đành cất tiếng hỏi: 

 - Hứa Công đến đây sao? 

 Người này đáp: 

 - Thật vừa may gặp tướng công ở ngoài này, xin tướng công mau ra tiếp ngự giá. 

 Lúc này Nghĩa Thần quên cả chuyện Dượng Đế đã chết, vội bước ra phía cổng, thì thấy Dượng Đế đội khăn the mỏng, áo long cổn thêu rồng lúc ẩn lúc hiện, cổ lại quấn một dải lụa trắng, theo sau là hai cung nữ mà trên mặt đầy máu me, đỡ Dượng Đế. Nghĩa Thần hoảng hốt quỳ lạy, chỉ thấy Dượng Đế lấy hai tay bưng mặt, rồi nghe một cung nữ lên tiếng: 

 - Lão tướng quân, bệ hạ dặn lão tướng quân thế này, mẹ con Triệu Vương tới, phiền lão tướng quân giữ gìn cho. Chỉ có mỗi việc đó thôi, xin lão tướng quân hãy bình thân. 

 Nghĩa Thần đang định hỏi Triệu Vương ở đâu, ngẩng đầu lên nhìn, thì chẳng thấy nữa, trấn tỉnh lại, thì trăng đã lặn về Tây, tiếng gà xao xác báo sáng, phương đông đã thấy sáng mờ mờ. Nghĩa Thần trong lòng nghi hoặc, lấy làm lạ kỳ, ngồi dậy xuống giường, gọi tiểu đồng mở rộng cửa lớn, rồi dạo khắp trong sân ngoài ngõ, trông bên đông, ngó phía tây, vẫn chẳng thấy sự gì lạ. Bỗng thấy dưới suối có tiếng lao xao, rồi một chiếc thuyền ghé vào bờ. Nghĩa Thần cùng tiểu đồng núp sau gốc cây nhìn xuống, thấy một người chống thuyền, lên bờ buộc thuyền lại. Từ trên thuyền, một người đi xuống, đứng lại trên bờ cao, nhìn ngó xung quanh. Lúc này trời vẫn chưa sáng hẳn, người trong nhà vẫn chưa dậy. Nghĩa Thần không chờ được nữa, bước ra hỏi người này: 

 - Ngài ở đâu đến đây, định tìm nhà ai bây giờ? 

 Người này vội chắp tay vái chào rồi đáp: 

 - Chúng tôi là người Giang Đô chạy nạn đến đây! 

 Vừa nói vừa nhìn kỹ Nghĩa Thần từ đầu đến chân. Nghĩa Thần cũng nhìn lại một lần nữa: 

 - Ngài có phải họ Vương chăng? 

 Người này lại liếc nhìn, rồi nâng hai tay Nghĩa Thần, khẽ hỏi: 

 - Lão tiên sinh có phải họ Dương chăng? 

 Nghĩa Thần thấy nói thế, cũng nắm lấy tay người này vội hỏi: 

 - Ngài có phải là Tuần hà Vương đại phu chăng? 

 Người này đáp: 

 - Tiểu nhân chính là viễn thần Vương Nghĩa! 

 Nghĩa Thần nghe thấy thế liền kéo tay vào trong cổng. Vương Nghĩa vội ghé tai Nghĩa Thần nói nhỏ: 

 - Xin hãy khoan đã! Hiện còn Triệu Vương cùng các phu nhân dưới thuyền kia? 

 Nghĩa Thần thấy nói thế, vội giục: 

 - Trời sắp sáng rồi! Mau mời Triệu Vương vào nhà ngay cho! 

 Nghĩa Thần gọi tiểu đồng, mở rộng cửa chính, rồi vào nhà mặc đủ áo mũ cân dai, đứng chầu ngay bên cửa, để đón mọi người. Vương Nghĩa cũng đứng ngay bên giới thiệu từng người. 

 Viên Tử Yên, lúc này đang đóng giả đàn ông, bước tới cổng, thấy Nghĩa Thần, vội vàng thưa: 

 - Cậu ơi! Cháu gái cậu về đây! 

 Nói rồi, không ngăn được nước mắt, bái lạy đi vào, Nghĩa Thần giơ hai tay kéo lại nhìn cho rõ: 

 - Thì ra là con nhà họ Viên đây! Ta mấy hôm trước cũng có sai người đi hỏi thăm tin tức, nhưng chẳng ai biết, nay thì về đây rồi. Tốt lắm? Hãy khoan chào lễ vội, cứ vào trong nhà đi đã, giúp Triệu Vương cùng các phu nhân thay hành trang ngay đi. 

 Nghĩa Thần lấy La phu nhân, họ La mất sớm, mới lấy Vương phu nhân hiện nay, sinh chỉ một người con, mới năm tuổi tròn, tên là Hình Nhi, lúc này Vương phu nhân cũng ra tiếp đón mọi người. Nghĩa Thần cùng Vương Nghĩa ngồi trong thảo đường, Vương Nghĩa đem những chuyện vào cung, ra thành thế nào, kể lại một lượt. Sau đó Triệu Vương bước ra, tuy mới chín tuổi, nhưng hiểu biết hơn người, rồi cả Sa phu nhân, cùng các phu nhân khác cũng lần lượt kéo ra. 

 Nghĩa Thần thấy Triệu Vương đã thay quần áo, rõ ràng mặt vuông chữ điền, hai tai lớn, mắt sáng mi thanh, nghiễm nhiên một vị Thái tử cành vàng lá ngọc, bất giác trong lòng cũng thấy kính phục, gọi ngay tiểu đồng trải thảm, kê ghế dựa, rồi làm lễ vua tôi. Triệu Vương kéo tay Sa phu nhân mà rằng: 

 - Mẫu thân? Lúc này là lúc nào, mà lão tướng quân còn định làm lễ thế này? Nếu cứ lấy chuyện lễ tiết ra mà đãi như vậy, thì mẹ con ta thật không dám đến đây! 

 Rồi nhất định không chỵ ngồi lên ghế dựa mới kê, Tử Yên nói: 

 - Thưa cậu! Triệu Vương ít tuổi, chẳng cần phải thế, xin cậu làm lễ vái chào bình thường là được rồi! 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Nếu đã như thế, cũng không dám cưỡng ép, xin mời ngồi lên đệm đây, để lão thần vái chào vậy? 

 Triệu Vương nói: 

 - Xin cứ lạy chào mẫu thân trước, sau đó mới đến ta chứ! 

 Sa phu nhân đáp: 

 - Nếu bàn đến chuyện lễ nghĩa chính thống, thì trước tiên là Triệu Vương! 

 Triệu Vương nói: 

 - Mẫu thân, lúc này đang trong thảo đường như thế này, nói gì đến chính thống. Huống chi nếu ta không được tiên đế ký thác cho mẫu thân che chở cho, thì cũng đã cùng Thục Vương Tư, Tề Vương Giản đều thành hồn oan dưới dạ đài cả rồi! 

 Nghĩa Thần thấy Triệu Vương nói năng đâu ra đó, nặng nghĩa đầy tình, lấy làm kinh ngạc. Tử Yên cùng Dã Nhi liền đỡ Sa phu nhân lên, rồi kéo Triệu Vương ngồi ngay bên vai phu nhân, Nghĩa Thần liền làm lễ vái lạy. Sa phu nhân rơi nước mắt mà rằng: 

 - Nhà Tùy giờ chỉ còn mỗi một chút này, xin được lão tiên sinh giữ gìn cho. Trời đất có linh thiêng, cũng phải cảm ơn đó! 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Lão thần này đâu dám không hết lòng trung nghĩa? 

 Rồi lạy bốn lạy, tiếp đó lạy chào các phu nhân cùng Dã Nhi. Đình Đình vội lui lại phía sau. Tử Yên cũng không dám nhận lễ. Nghĩa Thần nói với Vương Nghĩa: 

 - Viên Quý nhân là cháu gái của ta, đứng ở hàng phu nhân như vậy thì có gì là không phải đâu. Huống chi Triệu Vương mà không có Vương đại phu cùng mọi người đây, thì làm sao chúng ta có dịp quân thần hội họp ở đây. Trước mắt, công việc còn nhiều chuyện, phải làm 

 Vương đại phu còn phải khó nhọc nhiều. Xin để ta lòng thành vái một vái vậy! 

 Tử Yên vội kéo Đình Đình đến bên cạnh Vương Nghĩa, cùng làm lễ. Sau đó Tử Yên bước ra lạy Nghĩa Thần bốn lạy. Nghĩa Thần sai người nhà bày ra bốn bàn tiệc rượu, rồi lên tiếng: 

 - Đáng ra cũng muốn xin mời các phu nhân vào trong để khoản đãi, nhưng ở đây chỉ là cảnh rừng núi dân dã, cơm rau rượu quê, nào phải sang trọng gì. Phương chi cũng còn có chuyện muốn nói, nên xin hãy ngồi tạm ở thảo đường này cả, để mọi người được nâng chén cùng nhau. 

 Sa phu nhân cùng Triệu Vương ngồi một bàn, các phu nhân Tần, Địch, Hạ, Lý, cùng Dã Nhi, Đình Đình với Tử Yên ngồi hai bàn, Vương Nghĩa cùng Nghĩa Thần ngồi một bàn. Rượu được ba tuần, Vương Nghĩa nói với Nghĩa Thần: 

 - Lão tướng quân tuổi đã cao, mà vẫn còn thích dậy sớm, để may mắn tiểu nhân gặp được, khỏi phải hỏi thăm lôi thôi! 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Cũng chẳng phải ta thường dậy sớm đâu, mà chính tiên đế dã tới trước để báo tin, cho nên vội trở dậy ra cửa chờ đón vậy thôi! 

 Triệu Vương vội hỏi: 

 - Tiên đế báo tin ra sao? 

 Nghĩa Thần đem chuyện tối qua kể lại tỉ mĩ, các phu nhân khóc sướt mướt. Nghĩa Thần nói với Triệu Vương: 

 - Lão thần từ ngày bị đuổi về, làm một ông già thôn quê, chẳng hề ngó nhìn đến việc ngoài cửa, không ngờ tiên đế linh hiển, chẳng khác được giao phó công việc trước điện rồng. Thừa ơn Triệu Vương cùng các phu nhân giáng lâm nơi lều cỏ này, không phải lão thần này dám phụ tiên đế cùng Triệu Vương, nhưng ở nơi lều cỏ nhà tranh này, tường thấp mái dột, không phải là nơi cho rồng phượng ẩn náu, lỡ có chuyện gì sai sót, làm thế nào mà cứu chữa, mà chỉ có thể trú chân ba bốn ngày. Lâu hơn nữa thì sợ sinh biến vậy. 

 Sa phu nhân cất lời: 

 - Thế thì bây giờ nên chọn nơi nào? 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Chỗ ở thì cũng không phải là hiếm. Cha con Lý Huyền Thúy, đều là bậc đại thần nhà Tùy, nay nắm trong tay hai ba mươi vạn binh mã, đóng giữ Kim Dung thành; Đông bộ Việt Vương, Tả bộc xạ Vương Thế Sung, cũng có mấy vạn binh mã, đóng giữ Lạc Thương. Lý Uyên ở Tây Kinh, đã lập hoàng tôn đại vương Hưu làm vua, hưng binh thảo phạt, lúc này đang còn giả mượn danh nghĩa, lúc đã thành công, nhất định sẽ bỏ danh đó đi để tự lập, còn nếu bại thì cùng nhau chịu diệt vong, không thể tính chuyện suốt đời cho được. Vì vậy mà lão thần này vẫn trù trừ không dám quyết, chỉ có hai nơi này là có thể tin được: một là tổng quản U Châu, người này họ La tên Nghệ, tuổi tuy đã cao, nhưng vẫn dạ trung thành, vẫn còn kiên dũng, tiên đế giao cho La Nghệ trấn giữ U Châu, thủ hạ rất nhiều tay tài giỏi, bốn phương trộm cướp không dám đụng đến bờ cõi U Châu. Nếu nay Triệu Vương cùng phu nhân đến, thế nào cũng được tiếp đón chu đáo, săn sóc như một nhà, nhưng còn ngại nỗi lũ Đậu Kiến Đức, thanh thế cũng rất lớn, thường hay qua lại xung quanh, cho nên đường đi cũng có phần nguy hiểm. Tốt hơn cả có lẽ là nơi thứ hai này, chỗ Nghĩa Thành công chúa, tuy ở nước ngoài xa xôi, thuộc đất của Khả hãn, vẫn còn giữ được thói tục thuần phác trung hậu, không thể nào so sánh được với dân Trung Quốc chúng ta, tâm địa hiểm độc. Lão thần lại rõ công chúa thuộc dòng tôn thất đã suy tàn, chỉ còn mỗi dòng này là có thế lực hơn cả, nhưng lại không người nối dõi, trước đây trong dịp công chúa ở xa về chầu tiên đế, tiên đế đã đối đãi rất thân thiết, huống chi đều là bậc vua, bậc hoàng hậu của một nước láng giềng, trong tay cai quản mọi sự. Nếu Triệu Vương bằng lòng đi, công chúa nhất định sẽ lấy lễ mà tiếp đón thật lòng, có thể là nơi yên ổn lâu dài. Chỉ có chỗ này mới thật chắc chắn, còn ngoài ra, lão thần thật không dám nói tới. 

 - Triệu Vương cùng mọi người gật đầu ưng thuận. Sa phu nhân nói: 

 - Những lời vàng đá của lão tướng, đủ thấy dạ trung kiên, nhưng núi dài sông rộng, không biết đi bằng cách nào? 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Nếu ý của Triệu Vương đã định, lão thần này sẽ có cách chắc chắn. Nhưng chỉ nên đễ Triệu Vương, Sa phu nhân, cùng Vương đại phu. Ngoài ra nghe nói Tiết Mỹ nhân thạo nghề cung kiếm, cũng nên đi theo, còn bốn vị phu nhân đây và cháu gái lão thần đi thì có nhiều điều không tiện. 

 Bốn vị phu nhân, nghe đến đây, đều rơi nước mắt mà rằng: 

 - Chị em chúng tôi năm người thề cùng sinh tử, xin nhờ lão tướng quân nghĩ cách chu toàn cho. 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Xin đừng ngại, lão thần này hỏi thật bốn vị phu nhân đây, có thật cảm ơn sâu nặng của tiên đế, quyết lòng thủ tiết, hay là chẳng qua chỉ đợi thời, rồi tìm cách để sống nốt quãng đời còn lại? 

 Tần phu nhân đáp: 

 - Lão tướng quân nói ra điều ấy sao? Xin đừng nhận nhầm bốn chị em chúng tôi với hạng phụ nữ tầm thường. Cũng xin được lại lão tướng quân, lão tướng quân có định lại ra cửa theo lũ nghịch chăng? Nếu lão tướng quân còn tiếc rẻ không muốn bày cho chúng tôi kế hay chước lạ, chị em chúng tôi đến bờ sông, theo Tam Lư dại phu (1), thì cũng chẳng có gì khó. 

 1Tam Lư đại phu: chức quan của Khuất Nguyên, quan nước Sở, bi bọn gian lận nói xấu. vua Sở đuổi đi không dùng, bèn nhảy xuống sông Mịch La tự tử (Điển cố văn học) 

 Nghĩa Thần nói: 

 - Không phải lão thần tiếc một kế sách nhỏ, lúc này một khắc một quý, nhưng rồi ra tháng rộng ngày dài, liệu có qua được không? 

 Địch phu nhân lên tiếng: 

 - Lão tướng quân lấy địa vị của một bậc trung thần nghĩa sĩ, một kẻ trượng phu mà nhìn nhận phụ nữ chỉ là kẻ dập dờn theo sóng nước, chẳng việc gì phải tính kế lâu dài. Nhưng gần đây lão tướng quân đã được nghe chuyện Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi cùng Lương phu nhân mắng lũ nghịch tặc, nêu gương tiết nghĩa, thay nhau tuẫn nạn khiến cho quân thần triều Tùy đủ thẹn với mình. Phương chi, chị em chúng tôi sống trong cảnh phồn hoa, chịu ơn dày của chúa thượng, mà lão tướng quân vẫn còn ngờ chị em chúng tôi có lòng khác. Nếu không nói rõ được chí mình, thì làm sao mà mọi người tin được? 

 Địch phu nhân rút ngay một lưỡi đoản đao giắt ở giải quần, rạch lên khắp má phải má trái khuôn mặt đẹp như hoa của mình. Tần, Hạ, Lý, ba phu nhân thấy Địch phu nhân làm thế, người nào cũng đều rút ra mỗi đoạn đao. Sa phu nhân, Đình Đình, Dã Nhi, Tử Yên đều hoảng hồn, vội vàng túm tay ngăn lại, nhưng trên gương mặt người nào cũng đã có mấy vết rạch cả, máu chảy loang khắp mặt. Nghĩa Thần vội đứng dậy bái lạy mà rằng: 

 - Thật là lão thần lỡ lời bất kính, cũng thật là không uổng tiên đế suốt một đời chung tình, nhưng cũng xin các vị phu nhân hãy tự thương lấy thân mình nữa! 

 Triệu Vương đứng dậy khỏi ghế, kéo Nghĩa Thần dậy. Nghĩa Thần nói với bốn vị phu nhân: 

 - Cách đây khoảng hai ba dặm, có thôn Đoạn Nhai, cả thôn chỉ khoảng mười nhà, tất cả đều thật thà, hiền lành, có một cái am nhỏ là am Nữ Trinh. Một lão ni cô coi sóc ở đó, vốn là mẫu thân Cao Khai Đạo người Thương Châu, chồng chết từ lúc còn ít tuổi, ở vậy thờ chồng. Ni cô hiểu biết hơn người, sáng suốt, thấy ra con mình đi làm giặc, chẳng thể nên công chuyện gì, nên cố tình rời về đây, tìm đến am này làm chỗ gửi thân suốt đời, là nơi khó thấy được vết ngựa xe qua lại. Nếu các phu nhân bằng lòng vào đây tu đạo, thì chắc chắn là có thể yên ổn suốt đời. Còn như những thứ chi dụng hàng ngày, lão thần xin cung đốn đầy đủ không thiếu một ngày, các phu nhân không cần phải lo lắng gì cả! 

 Bốn phu nhân đều nói: 

 - Thế thì thật tốt quá rồi! Đủ để sống nốt quãng đời thừa này, nhưng liệu đến ngày nào có thể đi được? 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Cần phải xem ngày nào tốt, sai người đến nói trước với lão ni rồi hãy đi sau. 

 Hạ phu nhân đáp: 

 - Sự đời đến như thế này, còn gì phải chọn ngày, xin lão tướng quân sai người đi bàn trước với lão ni ngay cho là hơn cả! 

 Nghĩa Thần sai tiểu đồng lấy lịch thư lại xem ngày, vừa may ngày mai lại là ngày tốt. Tất cả ăn uống xong, các phu nhân cùng Triệu Vương vào bên trong, Nghĩa Thần sai tiểu đồng dắt ra hai con la, dặn người nhà đóng cửa cẩn thận, tiểu đồng theo hầu rồi cùng Vương Nghĩa đến am Nữ Trinh ở thôn Đoạn Nhai, để bàn bạc với lão ni. Lão ni vốn nghe tiếng Nghĩa Thần là bậc trung thần nghĩa sĩ, lại vốn là người trụ trì, liền ưng thuận ngay, cả hai lên đường về. 

 Vương Nghĩa nói lại cho các phu nhân biết, am Nữ Trinh phòng ốc sạch sẽ, quang cảnh u nhàn thế nào. Các phu nhân nghe ra, cũng lấy làm vui mừng. Tử Yên nói với Nghĩa Thần: 

 - Thưa cậu? Cháu cũng muốn được xuất gia cùng các phu nhân, vào am sống nốt quãng đời còn lại vậy. 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Cháu cứ ở lại đây đã. Ta hãy còn có chuyện muốn nói. 

 Tử Yên lặng lẽ lui vào. Qua một đêm, canh năm hôm sau, Nghĩa Thần mới mời bốn phu nhân xuống thuyền, Sa phu nhân cùng Triệu Vương, Dã Nhi, Đình Đình đều nói: 

 - Giờ thì mỗi người mỗi nơi, chẳng biết rồi còn có ngày gặp nhau nữa không. May mà trời còn thương, còn có dịp trở về trung nguyên, cũng nên biết chỗ ở của nhau để mà tìm nhau, nên phải được tiễn đưa lần này! 

 Nghĩa Thần thấy tình cảnh như vậy, cũng không nỡ cản ngăn, đành để mọi người đưa tiễn, rồi dẫn theo Tử Yên, vợ chồng Vương Nghĩa xuống thuyền. Đến am, lão ni ra đón, cùng với hai ni cô giúp việc một người là Trinh Đình, một người là Trinh Tĩnh tuổi đều mới mười bốn, mười lăm. Lão ni cùng các phu nhân làm lễ chào hỏi họ tên, rồi sai hai ni cô cùng đưa mọi người đi lễ các điện, Nghĩa Thần đưa ra hai mươi lạng bạc gửi lão ni. Lão ni nói: 

 - Cháu gái lão tướng quân chưa phải lúc tu hành đâu, sau này hãy còn nhiều gặp gỡ lạ lùng dấy! 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Đúng thế, ta cũng không bảo Tử Yên ở am đây đâu, đưa tiễn các phu nhân đến đây rồi lại sẽ quay về đã. 

 Lão ni giữ mọi người lại dùng cơm chay. Mãi chiều, Sa phu nhân, Dã Nhi, Đình Đình cùng bốn vị phu nhân khóc lóc thảm thiết chia tay, bọn Sa phu nhân cùng Triệu Vương xuống thuyền quay về nhà Nghĩa Thần. Nghĩa Thần sau đó sai Dương Phương nghe ngóng tin tức, chờ dược thuyền lớn đến, liền đưa Triệu Vương, Sa phu nhân, Dã Nhi cùng vợ chồng Vương Nghĩa lên thuyền đến tận chỗ Nghĩa Thành công chúa: 

 Chính là: 

 Ở đời lắm nỗi khổ đau 

 Sinh ly, tử biệt, khổ nào khổ hơn? 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi Chín

Thuyền câu cất tiếng hát, cừu địch tạm nhận quân thần,

 Trước trận trao lời thề, Ngô Việt gá duyên Tần Tấn.

 Từ rằng: 

 Nhọc mình khấp khểnh ba đào 

 Tận trung trăm mối nghìn mưu 

 Nửa vừng trăng sáng 

 Một lá chèo mau 

 Ai tri tâm đó, hảo cầu đừng quên. 

 Giáo gươm chan chát trên yên 

 Oán thù gác lại một bên 

 Đường cùng ngõ hẻm chớ nên chuốc hờn 

 Nhớ lời hẹn nước thề non 

 Đầu mày cuối một, ắt son từ rày. 

 Theo điệu "Lãnh đào sa" 

 Phàm chuyện gặp gỡ lạ lùng, đều có số mệnh, dằng dặc là cừu thù bỗng nhiên trở thành tri kỷ, yêu kính lẫn nhau, ví như Tề Hoàn Công với Quản Trọng chẳng hạn. Cũng có lúc đang là hai nước đối địch, bỗng trở nên khăng khít gắn bó, như Tấn Văn Công cùng Tần Mục Công vậy. Nói cho cùng ra, thì trời đã sinh ra hạng người phi thường, tất cũng đã xếp đặt sẵn những cuộc gặp gỡ kỳ lạ chẳng thể lường trước được, khiến người ta không thể lấy thành bại thịnh suy mà định đoạt cho được. Huống chi lại là chuyện yêu đương chồng vợ, một khi dã có sợi chỉ hồng của nguyệt lão buộc chân thì nghìn dặm xa cách, cũng có lúc hội họp nên vợ nên chồng. 

 *** 

 Nay hãy khoan nói chuyện Vương Nghĩa cùng Triệu Vương đến chỗ Nghĩa Thành Công chúa xa xôi, hãy nói chuyện Đậu Kiến Đức, lúc đầu xưng Trường Lạc Vương ở Hà Bắc, sai Tế tửu Lăng Kính vào thành Hà Gian chiêu hàng được quận thừa Vương Tôn, Kiến Đức cho Tôn làm thứ sử quận Hà Gian. Quận thừa Hà Bắc thấy thế, cũng viết thư xin hàng. 

 Mùa đông năm ấy, có một con chim lớn đến đậu ở Lạc Thọ, hàng mấy vạn chim nhỏ bay theo, một ngày sau mới bay chỗ khác, dân gian truyền rằng chim phượng đến như thế là điềm lành xưa nay. 

 Lại thêm một người tiều phu, tên gọi Trương Hanh, ở Tôn Thành, vào rừng đốn củi, nhặt được một viên ngọc đen huyền khuê, lẻn vào trong cung Lạc Thọ dâng hiến Kiến Đức. 

 Vì vậy Kiến Đức chọn lên ngôi ở Lạc Thọ, cải niên hiệu làm Ngũ Phượng nguyên niên, lấy quốc hiệu là Đại Hạ, lập Tào Thị làm hoàng hậu. Trước kia Kiến Đức đã lấy Tần Thị, chỉ sinh được một con gái, tức là Tuyến Nương. Tần Thị mất đã lâu, đến lúc khởi sự rồi, Tào Đán dẫn thủ hạ theo về, Kiến Đức biết Tào Đán có con gái, đã quá tuổi phiếu mai (1) mà vẫn chưa lấy ai, mới cưới làm kế thất. Kiến Đức thấy Tào Thị trầm tĩnh, đoan trang, cười nói khoan dung, nên mười phần kính trọng, công việc trong quân, việc gì cũng được dự bàn, thật đáng bậc bạn tốt trong phòng khuê. Lại phong Tuyến Nương làm Dũng An Công chúa. 

 1 phiếu mai: tên một bài thơ trong Kinh Thi, nói về người con gái đã luống tuổi nhưng nếu kịp lấy chồng vẫn còn được: "Cây mai rụng, mười phần quả còn bảy, mười phần quả còn ba”, “Quả mất ba bảy đang vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì”. (Truyện Kiều) 

 Ra trận Tuyến Nương thường xử thiên phương kích, thật là thần xuất quỷ một, lại luyện được phép kim hoàn đạn, ném trăm trúng, tuổi đã mười chín, giắt hai lông chim ngũ sắc trên mũ, mười phần xinh đẹp. Kiến Đức giục Tuyến Nương về chuyện gia thất, Tuyến Nương thường nói, phải chọn được người ngang tài ngang sức mới chịu. Mỗi lần ra quân, Kiến Đức thường sai Tuyến Nương chỉ huy hậu quân, lại rèn luyện được một đội quân bản bộ, gồm ba trăm nữ binh, theo sát bên mình, so với phụ thân thì kỷ luật hiệu lệnh còn nghiêm ngặt hơn nhiều. Nhưng cũng rất yêu thương binh lính, cho nên được xung quanh rất kính phục. 

 Kiến Đức lại phong Dương Chính Đạo làm Huân Quốc Công, Tề Thiện Hằng làm bộc xạ, Tống Chính Mộc làm nạp ngôn, Lăng Kính làm tẠtử, Lưu Hắc Thát, Cao Nhã Hiền làm tổng quản, Tôn An Tổ làm lãnh quân tướng quân, những kẻ còn lại cũng đều được gia phong quan tước. Lúc này, dưới trướng Kiến Đức, binh mã cũng đã hơn một vạn, đang định cất quân đánh Lý Mật, thì được tin Vũ Văn Hóa Cập giết vua tự xưng đế, nên nổi giận, định tiễu trừ Hóa Cập một phen đã. Tế tửu Lăng Kính thưa: 

 - Phản thần Hóa Cập, tội thật đáng ghét, nhưng y trong tay hơn mười vạn binh mã, khó thể coi thường, cần phải có một viên đại tướng túc trí đa mưu mới diệt trừ được. Thần xin tiến một người như thế để giúp chúa công. 

 Kiến Đức hỏi: 

 - Ai thế? 

 Lăng Kính thưa: 

 - Người này gồm tài thao lược, ôm đủ cơ mưu, làm thái bộc triều nhà Tùy, về sau bị nịnh thần ganh ghét, lui về vườn ruộng, thực là bậc tướng tài, người ở Hoài Đông, họ Dương, tên Nghĩa Thần. 

 Kiến Đức vui mừng phán: 

 - Ngươi không nói, cô (1) cũng cơ hồ quên mất, trước đây cô cũng đã từng đọ sức với Nghĩa Thần vài trận, đúng là bậc lương đống chi tài còn về việc chiến trận, thì thiên hạ ít người theo kịp. Ngươi hãy vì cô mang lễ mời cho được. 

 1 Cô: quê mùa, thấp kém, trơ trọi. Tiếng tự xưng nhún mình của các vua chư hầu ngày xưa, cũng như "quả nhân". "Thiếu gì cô quả, kém gì bá vương” (Truyện Kiểu). 

 Lăng Kính lĩnh mệnh, từ biệt Kiến Đức lên đường. Chưa đến một ngày, đã tới Bối Châu. Lãng Kính vào nhà trọ nghỉ ngơi, hỏi thăm nơi ở của Nghĩa Thần. Dân địa phương đáp: 

 - Cách thành này khoảng vài dặm, trong vùng đầm hồ Lôi Hạ, có một ông già, tự xưng họ Trương, ai nấy đều gọi là Trương Công, chỉ suốt ngày trên bờ hồ câu cá làm vui, có người nói ông già vốn họ Dương. 

 Lăng Kính liền thuê người dẫn đường, tìm đến Lôi Hạ. Thật là núi không cao nhưng đẹp, nước không sâu nhưng trong, tùng bách giao cành tươi biếc, vượn hạc nối đuôi nhau, trên bờ thỉnh thoảng một vài gian nhà ngói xinh xắn, bóng cây che mát, vài con thuyền lớn có, nhỏ có, cái giương buồm chạy, cái nằm ven bờ cỏ, soi bóng dập dờn. Người dẫn đường đứng lại chỉ tay mà rằng: 

 - Ngôi nhà ngói phía trước, chính là nơi ở của Trương Công, ông già đang ngồi bên con thuyền nhỏ kia, có lẽ chính là Trương Công đấy! 

 Lăng Kính đưa mắt nhìn theo, thì thấy một người đầu tóc đã bạc trắng, nhưng vẫn còn quắc thước, đang dựa vào mạn thuyền, một mình ngồi nâng chén uống rượu, mũi thuyền là bốn năm đứa bé nhà quê cùng nhau ca hát đùa rỡn. Lăng Kính bảo chủ thuyền neo thuyền từ xa, rồi tự mình lên bờ, đi vào con đường, núp dưới rừng cây để lại gần, thì nghe mấy trẻ mục đồng vừa hát xong, cất tiếng hỏi ông già: 

 - Trương Thái Công! Hôm qua thái công hát một khúc, nghe rất hay, hôm nay sao thái công không hát lại nghe cho vui nào? 

 Ông già nhắm đôi mắt say mà rằng: 

 - Lũ bay muốn nghe ta hát, thì hãy ngồi cho yên. 

 Rồi cất tiếng hát khúc "Túy tam tinh" sau dây: 

 Giận là giận trong chậu cá rồng quẫy lộn 

 Cười những cười cùng chuồng hươu lợn chạy đua 

 Mặc lòng ta trăng ngầm sóng đùa 

 Tay ôm cần, tay quăng tơ giữa dòng 

 Ta dám hỏi, bao giờ. 

 Gió khe lặng 

 Mưa núi dừng 

 Để cho ta 

 Mà xa say tỉnh Ly tao (1) ngâm vần 

 Khóc viếng Sở thần. 

 1 Ly tao: tên một bài thơ dài, cảm khái thời thế, thân phận không may của Khuất Nguyên, bề tôi nước Sở - Sở thần. Xem chú thích hồi bốn mươi tám. 

 Lăng Kính nghe xong, than: 

 - Thật là khúc ca cảm khái thời thế của bậc đại ẩn vậy thay! 

 Rồi lại xuống thuyền, bảo chống lại gần. Mấy trẻ mục đồng trông thấy vội lên bờ theo đàn bò của mình, Lăng Kính sang thuyền, chắp tay chào Nghĩa Thần: 

 - Từ dạo xa nhau đến nay lão tướng quân vẫn được mạnh khỏe chứ? 

 Nghĩa Thần ngước mắt nhìn, thấy một người mặc áo bào, đội khăn Gia Cát, bèn hỏi: 

 - Ngài là ai vậy? 

 Lăng Kính đáp: 

 - Lăng Kính này xa thái bộc đã lâu, không ngờ thái bộc râu tóc đã bạc trắng cả. Nhớ lại thuở ở cùng nhau, được thái bộc dạy dỗ, nay vẫn nhớ đức, giờ mới được gặp lại, khác gì quang mây lại thấy mặt trời. 

 Nghĩa Thần thấy nói thế liền đáp: 

 - Thì ra Lăng Tử Tiêu, đã lâu không gặp, nay sao lại rỗi rãi tới đây, xin mời vào tệ xá! 

 Rồi kéo tay Lăng Kính xuống thuyền, gọi tiểu đồng chống thuyền về bến, cùng Lăng Kính vào thảo dương làm lễ, chia ngôi chủ khách mà ngồi. Nghĩa Thần hỏi: 

 - Không biết hiền huynh lâu nay ở đâu? 

 Lăng Kính đáp: 

 - Từ ngày chia tay, thân chẳng biết về đâu. Nhân thấy Đậu Kiến Đức có lượng bao dung, cho nên tiểu đệ theo về với nhà Hạ, được phong chức tế tửu, nhân nhớ tới huynh đài, tìm tới thăm vậy! 

 Nghĩa Thần bày tiệc rượu khoản đãi, chén cạn vài tuần. Lăng Kính sai thủ hạ đem vàng bạc, lụa là bày ra trước mặt Nghĩa Thần, Nghĩa Thần kinh ngạc hỏi: 

 - Những cái này ở đâu ra? 

 Lăng Kính đáp: 

 - Hạ Vương lâu nay vẫn mến tài huynh đài, nên đặc sai tiểu đệ đem những thứ này đến biếu huynh đài. 

 Nghĩa Thần nói: 

 - Đậu Kiến Đức với ta từng có chuyện đọ sức đọ tài, nay lại đem quà đến thế này, tất phải có duyên cớ chứ? 

 Lăng Kính đáp: 

 - Mới đây chúa thượng bị giết, anh hùng khắp nơi nổi dậy, nơi nơi chiếm cứ quận huyện, xưng vương, xưng bá, ai cũng dương dương vì trăm họ mà trừ hại, yên thiên hạ. Ai là người có tài, có võ nghệ trong tay, đều muốn thi thố một phen. Thái bộc ôm mưu lược kinh bang tế thế, sánh ngang tài giỏi Tôn Vũ, Ngô Khởi, sao nỡ gửi thân nơi đầm lầy, núi hoang, làm một ông già không tên tuổi ở chốn lâm tuyền, vui với cảnh cây cỏ, thì thật là đáng tiếc. Nay Hạ Vương làm điều nghĩa, nói điều nhân, cải xưng vương hiệu, bốn phương cùng hưởng ứng, từ lâu biết thái bộc có tài lương đống, nên sai tiểu đệ đem lễ đến mời, để cùng cứu dân ra khỏi chốn nước lửa, mong theo được bậc minh quân như Nghiêu như Thuấn. Vạn lần xin huynh đài chớ khước từ mà làm cho Hạ Vương mất cả chỗ trông cậy vậy. 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - "Trung thần bất sự nhị quân, liệt nữ bất canh nhị phu". Ta là bề tôi của nhà Tùy, chẳng có thể cứu giúp nạn quân vương, để đến nỗi bị bị bọn nghịch thần giết hại, cũng không thể báo thù, nay lại đi thờ chủ khác, thì còn mặt mũi nào mà đứng trong cõi thế? 

 Lăng Kính nói: 

 - Thái bộc nói sai rồi. Nay anh hùng trong thiên hạ, người nào lập nước ấy, nhà Tùy thế là đã hết vận thật rồi, còn nhớ đến mà làm gì nữa. Mà dẫu có muốn báo thù cho Tùy Nhị Đế, chẳng gì bằng theo Hạ Vương, mượn binh, mượn thế, kéo tới mà diệt lũ nghịch thần, có phải là vừa hả lòng vừa thỏa nguyện thái bộc không! 

 Nghĩa Thần bị Lăng Kính khơi dậy nguyện ước lâu nay, bèn đáp: 

 - Ngẫm kỹ lời hiền đệ nói, thì hình như cũng có lý, nghe Kiến Đức có thể hạ mình để thờ kẻ sĩ, lại không mang tiếng là phường oán nghịch. Nhưng nếu ưng thuận ba điều này của ta, thì lập tức ta theo về còn nếu không, thì quyết không thể vâng mệnh. 

 Lăng Kính hỏi: 

 - Ba điều gì? 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Một là không làm bề tôi nhà Hạ. Hai là không nêu tên tuổi ra. Ba là bắt được Hóa Cập rồi, báo được thù của Nhị Đế rồi, thì lập tức phải thả ta về với vườn ruộng, lâm tuyền. 

 Lăng Kính đáp: 

 - Chỉ có ba điều này, thì Hạ Vương chẳng ngại ngần gì mà không chiều lòng huynh đài. 

 Nghĩa Thần nghe thế, liền gọi người nhà ra nhận lễ vật. Lăng Kính liền cáo biệt. Nghĩa Thần còn dặn: 

 - Đi qua Tào Bộc sơn, bọn cường đạo Phạm Nguyện rất là thanh thế, có đến vài ngàn lâu la, sào huyệt mãi tận Thái Sơn, thường hay cướp bóc ở vùng Phùng Châu, hiện nay sơn trại không còn lương thực, bốn phía trống không. Hiền đệ nếu thu phục dược Phạm Nguyện cùng về với nhà Hạ, cũng đủ để diệt họ Vũ Văn. 

 Nghĩa Thần ghé tai Lăng Kính nôi mấy câu, Lăng Kính gật đầu, từ biệt xuống thuyền. 

 *** 

 Đậu Kiến Đức ngày đêm luyện tập tướng sĩ, để hòng chinh phạt Hóa Cập, bỗng nghe nhà Đường sai quan nạp ngôn là Lưu Văn Tĩnh, đem thư ước hẹn cùng họp binh để đánh Hóa Cập. Kiến Đức xem thư, thấy hẹn cùng kéo binh đến Lê Dương, liền nói với Văn Tĩnh: 

 - Bọn giặc này, cô đã có ý chinh phạt từ lâu, đang định xuất binh. Phiền quan nạp ngôn về thưa lại với Tần Vương, chỉ cần phái một phó tướng, dẫn binh đến trước, cùng cô diệt hết bọn này để tạ trời đất. 

 Văn Tĩnh thưa: 

 - Lúc thần vâng mệnh lên đường, thì Tần Vương đã kéo quân ra khỏi Trường An rồi! 

 Văn Tĩnh cáo từ trở về, Kiến Đức vào cung, Dũng An Công chúa hỏi: 

 - Sứ nhà Đường tới có việc gì, thưa phụ hoàng? 

 Kiến Đức đáp: 

 - Tần Vương đưa thư đến hẹn, cùng hội binh tiễu trừ Hóa Cập. Ta cùng chúng thần bàn bạc, hẹn với Tần Vương ngày kia sẽ xuất quân. 

 Dũng An Công chúa tiếp: 

 - Cứ như ngu kiến của con, phụ hoàng hà tất phải xuất binh vội. Nay tổng quản phương Bắc là La Nghệ vừa mới về hàng phục nhà Đường, đang nghẽn lối sau của ta. Ngụy Điệu Nhi cũng có vài vạn quân, đang đóng giữ vùng Thâm Trạch, tự xưng là Ngụy Vương, cướp bóc vùng Dực Định, mấy năm nay cùng ta dựa dẫm lẫn nhau, nhưng chẳng phải là kế lâu dài. Chi bằng thừa lúc họ không phòng bị, kéo quân đánh úp một chuyến, trừ được hậu quả. Đợi lúc nào Lăng Kính trở về, rồi hãy bàn chuyện này, có phải chu toàn hơn không? 

 Tòa Hậu cũng tán thưởng lời bàn của Dũng An Công chúa, Kiến Đức phán: 

 - Ta đã có kế sách cả. Các người đừng nhiều lời. 

 Ngày hôm sau, Kiến Đức điều mười vạn binh, cho Lưu Hắc Thát làm Chinh Nam đại tướng quân, Cao Nhã Hiện làm tiên phong, Kiến Đức cùng Tào Đán lãnh trung quân. Dũng An công chúa làm hậu đội. 

 Tôn An Tổ cùng Tào Hậu ở lại giữ Lạc Thọ. Lại tuyển một đội nữ nhạc gồm hai mươi người, sai người đem biếu Ngụy Điêu Nhi, nhờ Điêu Nhi cất binh đánh La Nghệ, đề phòng Di Địch ở phía đông, hứa với Điêu Nhi, sau khi diệt Hóa Cập xong, đem những phi tần mỹ nữ cùng vàng ngọc thu được trả công. Điêu Nhi cả mừng, nhận lời, tin vào lời hứa của Kiến Đức, ngày đêm đắm chìm trong tửu sắc, không chút nghi ngờ gì. Nào hay Kiến Đức thống lãnh tinh binh, cuốn cờ im trống, đêm đi ngày trốn, tới thẳng Thâm Trạch, kéo quân vây kín thành. Điêu Nhi vẫn trong cơn say, bị bộ tướng Hà Gian cũ là Quan Đào, vẫn căm Điêu Nhi ngạo mạn khinh người, không chịu dùng. Quan Đào chém giết, dâng thành đầu hàng. 

 Kiến Đức lấy cớ ở đất người, nhưng lại lấy đất người đem hiến, thật là phường bất nghĩa, định chém chết. Vương Tôn cố khuyên can mãi, liền cho Quan Đào làm bộ tướng của chức cũ, những đàn bà con gái bị bắt, đều tha cho về, bao nhiêu vàng bạc thu được đều chia cho tướng sĩ. Xa gần nghe tin Hạ Vương không có bụng hiếu sát đều một lòng kính phục, các cháu vùng Dực Định đều tới quy hàng. Kiến Đức gộp thêm được mấy cánh quân luôn, uy danh ngày càng lớn, đánh luôn Dực Châu. Thứ sử Dực Châu là Khúc Lăng, dũng cảm lại chí khí, lúc đầu cũng tìm trăm cách để phòng giữ, về sau thành bị phá, nên cuối cùng cũng theo về Hạ Vương. 

 Lại nói La Nghệ, vốn là một viên túc tướng, tuổi đã ngoài sáu mươi, nhưng tinh thần vẫn sáng suốt bội phần, vốn cùng Tần phu nhân rất mức hòa thuận, khác gì họ Mạnh "tay nâng ngang mày" (*1). 

 *1 Tay nâng ngang mày: Theo "Hán sử:", nàng Mạnh Quang rất kính trọng chồng, mỗi lần dọn cơm cho chồng là Lương Hồng đều nâng khay lên tận ngang mày. 

 Dưới trướng La Nghệ có tới hai vạn tinh binh, nhưng rồi dần dần bị vua Tùy điều hết sang đông lại về tây, nên giờ cũng chỉ còn hơn một vạn, lính kỵ mã cũng chỉ còn sáu bảy nghìn người. May nhờ có La Thành, thiếu niên anh tuấn, sức khỏe trăm người khôn đương, lại được thân phụ truyền cho thương pháp bí truyền của dòng họ La, đến mức quỷ khóc thần sầu. Nhiều lần định tính chuyện hôn nhân, La Thành đều chối rằng đại sự cả đời, tuy có cha mẹ làm chủ, nhưng cũng phải để tự mình lựa chọn, cho nên việc nhân duyên vẫn chưa định xong. 

 La Thành nghe tiêu mã về báo, Kiến Đức dẫn đại binh kéo đến, liền thưa với phụ thân: 

 - Đậu Kiến Đức chưa biết lợi hại ra sao, kéo đại binh đến xâm phạm đất ta, ý con muốn nhân lúc binh tướng mới kéo đến, chưa đóng xong trại, dẫn hai nghìn binh mã đánh ngay một trận, làm nhụt nhuệ khí của chúng, cho chúng biết sự lợi hại ra sao, mà rút quân về cũng chưa biết chừng! 

 La lão tướng đáp: 

 - Con là bậc niên thiếu, thường cậy vào sức mạnh, đừng nên nóng vội làm càn, đó chính là điều tối kỵ trong đạo làm tướng. Ta tự có cách đánh lui bọn này. 

 Liền tập họp chúng tướng, sai Tả doanh tổng soái Trương Công Cẩn, dẫn một nghìn tinh binh, mai phục phía phải núi Cao Sơn ở ngoài thành, nghe bao giờ trong thành tử mẫu pháo nổ vang, dẫn tinh binh xông vào tiền quân của Kiến Đức. Lại sai hữu doanh tổng soái Sử Đại Nại, dẫn một nghìn tinh binh, mai phục phía trái núi Cao Sơn, chờ tử mẫu pháo trong thành nổ, cho tinh binh xông vào trung quân của Kiến Đức. Sai con La Thành, cũng đem một nghìn tinh binh, cách thành ba mươi dặm, mai phục ở Độc Long Cương, thấy binh tướng Kiến Đức bỏ chạy, thì xông ra đánh vào hậu đội. Còn mình cùng với Tiết Vạn Triệt, Tiết Vạn Nhẫn, ngồi giữ thành. Hai tướng cùng La Thành nhận lệnh, lãnh binh ra khỏi thành. 

 *** 

 Lại nói Kiến Đức kéo đại binh thẳng tới U Châu, tướng tiên phong Lưu Hắc Thát hạ trại xong xuôi, thấy cửa thành đóng chặt, không chịu ra nghênh chiến, chỉ đành ở ngoài thành chửi bới. Tiếp theo đại binh của Kiến Đức kéo đến, trong thành vẫn yên lặng, liền làm thang mây, trèo lên thành tấn công. Bỗng nhiên trong thành, pháo mẹ pháo con nổ vang, thang mây cháy rụi, đành phải rút ra. Kiến Đức lại làm mấy trăm xe xung trận, trống mõ nhất tề ầm ĩ xông vào. Trong thành ném tạ sắt, thiết trùy xuống, giăng khắp mặt thành, xung xa đều gãy nát, xoay đủ trăm kế, chẳng làm gì hạ được thành. Ròng rã mấy ngày, tướng sĩ mỏi mệt. 

 Đêm ấy, khoảng canh ba La Nghệ bí mật truyền lệnh, sai Tiết Vạn Triệt, Tiết Vạn Nhẫn, hai anh em, dẫn ba quân ăn thật no, rồi ai nấy ngậm tăm, mở cửa thành xông vào trại quân Hạ. Lính tráng đều đang ngủ say, chỉ nghe một tiếng khác nào núi lở biển trào. Kiến Đức bàng hoàng tỉnh giấc, vội khoác giáp lên ngựa, tùy tướng Đặng Văn Tín theo sát, gặp ngay Tiết Vạn Triệt xông vào trung quân, chém cho Văn Tín một đao ngay trước cửa trướng. Kiến Đức vội xông vào đánh với Vạn Triệt, Cao Nhã Hiền thì chống đỡ Triết Vạn Nhẫn, Lưu Hắc Thát thì đánh với La Nghệ. 

 Cả sáu cùng đang ham chiến lại nghe tử mẫu pháo nổ vang, phía trái, phía phải núi, quân mai phục nhất tề kéo ra. Kiến Đức biết là trúng kế, bỏ trại mà chạy như bay, được khoảng hai ba chục dặm quân sĩ vẫn chưa hoàn hồn. Bỗng nghe ở sườn núi, thanh la rộn ràng, một viên niên thiếu dũng tướng, dẫn quân kéo ra, Tiên phong Cao Nhã Hiền coi thường ít tuổi, giơ cao đại đao chém xuống, bị La Thành đâm cho một thương, trúng ngay vào đùi trái Nhã Hiền. Nhã Hiền đau quá, suýt ngã ngựa, may được Lưu Hắc Thát tới kịp đỡ cho. Đánh khoảng hơn mười hiệp, không đỡ nổi cây thương dũng mãnh của La Thành lúc nào cũng như rồng múa nước dâng, mười phần tài nghệ. Kiến Đức thấy thế, sợ xảy chuyện không hay, xông vào cứu viện. 

 La Thành càng phấn chấn tinh thần, nhằm mặt Hắc Thát đâm một thương quát to một tiếng, rồi quay nhanh mũi thương đâm thẳng vào ngực Kiến Đức, Kiến Đức thất kinh vội vàng bỏ chạy. Đánh mãi đến gần sáng lại thấy một đội nữ binh từ phía sau kéo tới, bày thành thế trận, giữa trận là một viên nữ tướng, đầu đội mũ bàn long, trên cắm hai lông chim phượng xanh biếc, gắn hạt châu óng ánh. Mình mặc áo cẩm chiến bào màu trắng có thêu hoa, cấm thiên phương họa kích, cưỡi ngựa thanh tông. La Thành thấy thế, vội thu thương về, cất tiếng hỏi: 

 - Nhà ngươi là ai? 

 Tuyến Nương đáp: 

 - Người là ai mà dám hỏi ta? 

 La Thành đáp: 

 - Ngươi không trông thấy chữ trên cờ của ta sao? 

 Tuyến Nương nhìn lên, lá cờ gấm màu đỏ, có thêu chữ "La" ở phía dưới, thêu hai hàng chữ nhỏ hơn: "The đại danh gia tướng, thần thương thiên hạ văn", (1) Tuyến Nương hỏi: 

 - Thế ra là con trai La Tổng quản sao? 

 La Thành lại cùng nhìn lá cờ gấm của Tuyến Nương, chính giữa thêu một chữ lớn: "Hạ", dưới cũng có thêu hai hàng chữ nhỏ hơn: “Kết trận lan khuê đình tú, thôi trang tiên tướng đàm binh". (2) 

 1 Nhà nối đời làm tướng nổi danh dùng thương như thần, khắp thiên hạ đều nghe tiếng. 

 2 Bày thế trận, khách phòng lan tạm ngưng việc thêu thùa, trang điểm vội cho xong, để trong trướng hoa sen còn bàn việc binh. 

 Thấy thế, La Thành trong lòng ngầm nghĩ: "Ta nghe con gái Đậu Kiến Đức rất là tài giỏi, nhất định là người này chứ chẳng sai. Đáng tiếc cho cô gái đẹp dường này, mà chẳng chịu làm cái việc đánh phấn tô son, để ta khỏi phải giết mất. Hãy để ta thử nói xấu cho mấy câu khiến cho cô ta phải hổ thẹn mà rút quân thì hơn!". Bèn cất lời khiêu khích: 

 - Ta tưởng phụ thân ngươi cũng là bậc anh hùng nơi đầm lầy đồng cỏ, nhưng sao dưới trướng chẳng có lấy một viên tướng liều chết, đến nỗi phải cho con gái ra mà chịu nhục sao? 

 Tuyến Nương cũng trả miếng: 

 - Ta cũng tưởng như vậy, phụ thân nhà ngươi vốn là một viên túc tướng, mà trong thành đến nỗi không có một viên thủ hạ dũng cảm không sợ chết, để đến nỗi phải sai cả con chó con ra sủa người sao? 

 Bọn nữ binh đứng chung quanh cười ầm ĩ, La Thành tức giận đùng đùng, giơ cao thương xông tới. Tuyến Nương cũng chuyển động thiên phương họa kích một vòng để đỡ, vòng vèo vấn vít, đến hơn hai mươi hiệp vẫn bất phân thắng bại. La Thành thấy Tuyến Nương múa cây phương họa kích thật thần xuất quỷ một, một giọt mưa cũng không lọt trong lòng thầm nghĩ: "Khá tiếc một cô gái bản lĩnh dường này, mà lại rơi vào dám cỏ rậm rừng xanh. Nay ta hãy giả quay chạy, rồi bắn mũi tên, dọa một chút, xem cô ta đối phó ra sao?”. La Thành liền giơ thương đâm dứ một cái, rồi quay ngựa chạy, Tuyến Nương vội đuổi theo, chỉ nghe tiếng dây cung bật một tiếng khẽ, nhưng Tuyến Nương rất nhanh mắt, vội giơ tay trái ra, bắt ngay được mũi tên, nhưng nhìn lại thì là tên không có mũi sắt nhọn, mặt cánh có ghi bốn chữ "Tiểu tướng La Thành". 

 Tuyến Nương bỏ mũi tên vào túi đựng tên, rồi cau mày mà than thầm: "La lang! Rõ là chàng không nỡ lòng nào!". Rồi gác ngang cây thiên phương họa kích lên yên ngựa, rồi lấy ở trong túi gấm ra một viên hoàng kim đạn, thấy La Thành đang vừa cười vừa quay ngựa chạy. Tuyến Nương liền kéo cong cây nỏ, La Thành đang định bắn thêm một phát tên nữa, không nghĩ tới việc viên đạn bắn tới, thì viên đạn đã bay trúng ngay cán thương, suýt nữa làm cho La Thành đánh rơi cả thương. La Thành lệnh tả hữu nhặt viên đạn rơi, thì ra đó là một viên đạn tròn to hơn mắt rồng ít nhiều, trên mặt có khắc hai chữ "Tuyến Nương". 

 La Thành liền nghĩ: "Cừu thù mà lại có bản lĩnh đến thế này, giá mà ta được cùng Tuyến Nương này gá nghĩa vợ chồng, thì cũng thật là thỏa nguyện một đời vậy!" Mặt mày rạng rỡ. La Thành đưa mắt liếc nhìn Tuyến Nương, càng nhìn lại càng thấy lòng thêm yêu thương. Tuyến Nương ngồi trên mình ngựa, thấy La Thành tài mạo xuất chúng, phong thái hiên ngang, trong lòng cũng thấy rᯠrực, thầm nghĩ: "Thật đáng hổ thẹn cho phận gái, mãi hôm nay mới dược gặp một chàng trai thế này. Đậu Tuyến Nương đây, mà lấy dược người chồng như La Thành, cũng không uổng một đời má phấn!" Hai người, bốn mắt nhìn nhau long lanh, cùng trên ngựa chẳng thể nào nói được lời nào khác, họ La nhìn họ Đậu, họ Đậu nhìn họ La, cứ thế một lúc lâu. Bọn nữ binh của quân Hạ, thấy thế cũng chẳng giữ gìn gì cười trêu La Thành: 

 - Cái vị tiểu tướng này, kể cũng ít thấy, đánh cũng chẳng đánh, rút cũng chẳng rút, cứ đứng nhìn ngắm mãi công chúa cành vàng lá ngọc của chúng ta. Nếu cần chiêm ngưỡng đến thế, hãy về vẽ lấy một bức tranh, rồi hàng ngày mà phụng dưỡng. 

 La Thành cười đáp: 

 - Ta xem công chúa của các ngươi cũng chỉ mười chín hai mươi là cùng chứ gì? 

 Tuyến Nương chỉ cúi đầu không đáp. Mấy nữ binh nhanh miệng lại ồn lên: 

 - Mũi tên lần này cũng trúng rồi. Nhưng công chúa không bắt cho! 

 Khiến Tuyến Nương cũng phải mỉm cười, khẽ hỏi La Thành: 

 - La công tử năm nay bao nhiêu tuổi rồi? 

 La Thành đáp: 

 - Chỉ hơn hai mươi mùa xuân! 

 Tuyến Nương lại hỏi: 

 - Phụ mẫu còn mạnh khỏe cả phải không? 

 La Thành lại đáp: 

 - Gia từ năm nay mới năm mươi chín tuổi, gia nghiêm thì sáu mươi mốt tuổi! Xin hỏi việc nhân duyên của công chúa ra sao, đã làm lễ vu quy chưa? 

 Tuyến Nương xấu hổ, cúi đầu không nói, lại mấy nữ binh vừa rồi đáp thay: 

 - Công chúa của chúng tôi quả chưa nghĩ đến chuyện nghi thất nghi gia, chỉ có một lời thề rằng... 

 Đang nói nữa, thì thấy Tuyến Nương đưa mặt nhìn giận dữ, nữ binh vội vàng im bặt. Lấn này đến lượt gia tướng của La Thành lên tiếng: 

 - Thế công chúa của các người, cùng với tiểu tướng của chúng ta hãy cùng gá nghĩa, làm thành một nhà, cho mọi người ngày này sang ngày khác khỏi phải đánh giết mãi. 

 La Thành giục ngựa lên mấy bước, nói: 

 - Công chúa nếu không chê bai, chối bỏ, xin được tìm người mối mai để đến tận quý gia làm lễ cầu hôn có được chăng? 

 Tuyến Nương đáp: 

 - Hôn nhân là chuyện đại sự, không phải là chuyện của nhi nữ. Trong chốn quân doanh, đâu có thể nói cho xong được. La công tử nếu quyết chí, thiếp xin giữ mình chờ, nhưng chỉ sợ lòng dạ La công tử chưa thật chắc chắn thôi! 

 La Thành đáp: 

 - Có trời xanh trên cao, nếu La Thành này không cùng Đậu Thị... 

 Lại vội hỏi: 

 - Xin phép hỏi quý danh công chúa? 

 Tuyến Nương đáp: 

 - Có khắc trên đạn kim hoàn vừa rồi La công tử không thấy sao? 

 La Thành lại mới nói tiếp: 

 - Ta là La Thành, kiếp này mà không được cùng Đậu Tuyến Nương nên duyên chồng vợ thì chết không có đất chôn. 

 Tuyến Nương thấy La Thành thề nguyền chân thật, bất giác rơi nước mắt mà tiếp: 

 - La công tử nếu đã có lòng nghĩ đến thiếp, thiếp cũng xin hứa sống chết cũng lấy lòng chân thật mà chờ đợi. Nhưng chỉ sợ gia nghiêm La công tử cho người đến mà phụ hoàng thiếp không bằng lòng thì làm sao bây giờ? 

 La Thành đáp: 

 - Nếu như thế, sẽ xin tìm thêm người đến thuyết phục Hạ Vương! 

 Tuyến Nương nghĩ một hồi, rồi nói: 

 - La công tử có biết thái bộc nhà Tùy Dương Nghĩa Thần không? 

 La Thành đáp: 

 - Dương Thái bộc là bạn thân của gia nghiêma. 

 Tuyến Nương tiếp: 

 - Người này được phụ hoàng vừa kính vừa sợ. Xin đợi Hạ Vương diệt họ Vũ Văn trở về, La công tử tới nhờ Dương Thái bộc đứng ra làm mối, thì mọi sự sẽ yên ổn. 

 Đang nói, thấy phía sau bụi cuốn mịt mù, nữ binh vội thưa: 

 - Quân ta kéo tới rồi! 

 Tuyến Nương gạt nước mắt thưa: 

 - Thế là mọi việc xong xuôi! Xin La công tử quay ngựa cho? 

 Tất cả đều nghe theo, cách nhau được khoảng một tầm tên bắn, Tuyến Nương ruổi ngựa đuổi theo hỏi: 

 - La công tử đi rồi, bao giờ sẽ trở lại? 

 La Thành đáp: 

 - Tuy đã được công chúa chân thành hứa lời, nhưng cũng xin cho La Thành này một vật làm tin, để sau này gặp nhau có cái mà nhận nhau chứ. 

 Tuyến Nương đáp: 

 - Chả cần có thêm làm gì. Mũi tên của La công tử thiếp xin giữ gìn cẩn thận. Viên kim hoàn của thiếp. La công tử hãy giữ kỹ cho, coi như vật làm tín rồi còn gì! 

 La Thành cho ngựa tới gần, quyến luyến chẳng muốn rời, Tuyến Nương đành lên tiếng: 

 - La công tử đi thôi! Thiếp không thể chiều lòng La công tử hơn được! 

 Rồi lấy hai tay ôm mặt quay ngựa đi, theo toán nữ binh, dặn không được lộ chuyện vừa rồi. Được vài chục bước, đã thấy Kiến Đức vì chẳng thấy Tuyến Nương đâu, không thể không lo lắng, sai Tào Đán lãnh binh quay lại cứu viện, tất cả gặp nhau cùng hợp thành một đoàn mà quay về. La Thành thấy phía trước có binh mã kéo đến, đành thở dài một tiếng, rồi ruổi ngựa cùng binh lính quay về U Châu. 

 Chính là: 

 Tương tư xa cách nghìn trùng 

 Núi xa, sông cách, tương phùng . . . kiếp sau. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi

Mượn tay giặc, nghĩa thần diệt phản thần,

 Bày tiệc hoa, Tào hậu nhiếc Tiêu hậu.

 Từ rằng: 

 1 . Thời loạn hùm beo nhảy tứ tung 

 Họa đâu phúc đó nghĩ khôn cùng 

 Khen ai mưu trí, công danh toại một lá thuyền câu đậu bến sông. 

 2. Đêm trước yêu đương, 

 Đêm nay thẹn thùng 

 Chén vàng lệ rơi 

 Củi đậu nấu đậu 

 Nhiếc chi đanh đá? 

 Theo điệu “Triệu trung thố” 

 Họa phúc, thịnh, suy trên đời này chẳng khác gì trong giấc mộng, trong cõi mờ mịt mênh mông, có người mộng thấy mình gặp phải cảnh thảm thương, buồn nản, rõ ràng là trong giấc mộng, nhưng rồi lại tới cảnh mộng khác, gặp lúc đắc ý hiển vinh, đến nỗi quên cả những cảnh mộng cũ, lúc nào cũng thấy vênh vang tự đắc, cho mình là thông minh tài bộ, thả cửa làm đủ điều tham gian ngang ngược, mãi tới lúc bước lừa khập khiễng, gà đồng xao xác, lại mới nhận ra thân phận. Phần nhiều các bậc anh hùng hảo hán, ai mà ít nhiều chẳng có bệnh này. 

 *** 

 Bây giờ hãy nói tiếp chuyện Hạ Vương Đậu Kiến Đức, thấy Tuyến Nương trở về, nghĩ rằng công chúa Dũng An con mình đánh bại được cả La Thành, trong lòng vui mừng, kiểm lại binh mã, vừa chết vừa bị thương đến hơn một nửa, đành phải quay về Lạc Thọ, chỉnh đốn lại giáp binh, mới có thể bàn chuyện đánh họ Vũ Văn. Tào Hậu đón Kiến Đức cùng Tuyến Nương, hỏi tới chuyện ra binh vừa rồi, Tuyến Nương thuật lại tỉ mỉ suốt lượt. Kiến Đức nói tiếp: 

 - Bại thắng chưa thể bàn luận ngay, nhưng lần bại trận này, là lỗi ở cô khinh địch, nên đến nỗi dẫn đến binh bại. Chỉ tiếc thương Đặng Văn Tín một lòng trung nghĩa, vốn chẳng đáng chết. Nếu sớm biết nghe lời Tào Đán. Văn Tín, thì đâu đến nỗi thua như vậy. 

 Tào Hậu hỏi: 

 - Hai người nói những gì? 

 Tuyến Nương đáp: 

 - Khi kéo binh vây thành U Châu của La Nghệ, Tào tướng quân đã mật tâu với phụ hoàng, "Đại quân ở ngoài thành lâu ngày, chỉ sợ quân địch thấy lính tráng mỏi mệt, thừa cơ đêm đến ra khỏi thành cướp trại, một lúc không phòng bị, sợ gặp phải tay không vừa, xin cẩn trọng mới xong". Đặng Văn Tín cũng can ngăn: "Thắng luôn mấy trận, tướng sinh kiêu, lính sinh nhác, thì sợ rằng lại sẽ bại. Nay tướng sĩ, binh lính lâu ngày mỏi mệt, huống nữa La Nghệ vốn rất giỏi dùng binh, dẫu có bị chúng ta vây khốn, nhưng người ngựa trong thành đều cường tráng, quen chiến trận, xin đừng coi những lời này. là lời bàn suông". Nhưng rồi phụ hoàng đều chẳng nghe. 

 Tào Hậu nói: 

 - Bệ hạ thường có thể lấy yếu chống mạnh, mà vẫn giành phần thắng. Nhưng lại hay nổi thói kiêu căng, để đến nỗi ba quân tổn thất, nếu chẳng lấy chuyện này làm điều, thì chúng thiếp biết gửi thân phận vào đâu! 

 Kiến Đức nói: 

 - Hoàng hậu nói đúng lắm! Từ nay trở đi cô sẽ cẩn thận. 

 Tào Hậu thưa: 

 - Cứ như ý thiếp, bệ hạ nên hạ chiếu nhận lỗi lầm của mình, tự bỏ tôn hiệu, giảm thức ăn, mặc áo trắng, cởi ngựa trắng, làm lễ tang cho tướng sĩ, binh lính đã chết, chu cấp cho gia quyến của họ, thưởng công định tội rõ ràng, yên lòng kẻ dưới, nuôi dưỡng được nhuệ khí, để còn nghĩ chuyện đánh họ Vũ Văn. Có như thế, thì lo gì không thắng. 

 Hạ Vương nghe theo. Ngay ngày hôm sau, thưởng công phạt tội, thân đứng ra tế lễ những kẻ chết vì nhà vua, thăm hỏi chu cấp cho gia quyến. Xa gần biết chuyện, không ai là không thán phục. 

 Lại nghe báo Lăng Kính đã về, Hạ Vương vui mừng mà rằng: 

 - Tử Tiêu về rồi! Công việc của cô thế nào cũng chu tất! 

 Rồi gọi ngay Lăng Kính vào ngự điện, vừa an ủi vừa hỏi: 

 - Quan tế tửu đi đường xa vất vả. Không biết việc chiêu hiền đến đâu rồi? 

 Lăng Kính thưa: 

 - Thần vâng theo nghiêm lệnh của chúa công, tìm gặp Dương Nghĩa Thần, nói rõ ý chúa công. Nghĩa Thần lúc đầu hai ba lần từ chối. Thần mới đem chuyện Tùy Nhị Đế bị giết thảm khốc ra sao, tướng quân nên tìm cách báo thù mới phải. Nghĩa Thần liền khẳng khái bằng lòng. Nhưng vẫn xin chúa công nghe cho ba điều. 

 Hạ Vương hỏi. 

 - Là những điều gì? 

 Lăng Kính kể lại, Hạ Vương đáp: 

 - Nếu đã theo cô đi chinh phạt, thì thế nào cũng là quan thần của cô. Chỉ cần hết lòng giúp cô diệt giặc, sao lại không nghe. 

 Lăng Kính thưa: 

 - Lúc thần từ biệt Nghĩa Thần, có dặn thần thêm mấy câu bí quyết để tìm thêm ch chúa công một người giúp đỡ, chắc chắn là sẽ diệt được Hóa Cập. 

 Lăng Kính bèn ghé tai Kiến Đức, nói nhỏ mấy câu, Hạ Vương than rằng: 

 - Dẫu có Tôn Vũ, Ngô Khởi thời Chiến Quốc, thì cũng đến thế là cùng. 

 Ngày hôm sau thiết triều, quán thần lạy chào xong xuôi, Hạ Vương truyền cho Lưu Hắc Thát: 

 - Hôm trước Tần Vương nhà Đường có thư lại, xin vay hai nghìn thạch lương, cung cấp cho quân dự bị, sau khi đánh Vũ Văn về, sẽ trả cả gốc lẫn lãi. Nay cô cùng với Tần Vương hợp binh đi diệt giặc, hai nước cũng như anh em, không thể không cho vay. Người hãy cùng Lăng Kính xếp sẵn hai trăm xe lớn, đổ đầy lương thực, dẫn theo binh lính hộ tống, đem giao cho Tần Vương, không được để lỡ việc. 

 Hai người lĩnh mệnh lên đường. Lăng Kính dặn dò quân sĩ: 

 - Trên đường giặc cướp rất nhiều, các ngươi nên giả trang làm dân phu, che đậy cho kỹ lương thực. Quân trang, khí giới mang theo, phải luôn đầy đủ, ai không tuân ta sẽ trị tội. 

 Thế là cả đoàn hộ tống lên đường, chẳng mấy ngày, đã tới địa giới Tào Châu, Bối Châu. 

 *** 

 Hãy nói chuyện ở Thái Hàng Sơn có một đầu lĩnh tên là Phạm Nguyện, tự xưng là Phi Hổ Đại vương, dưới trướng có khoảng ba nghìn lâu la, đều là những tên dũng cảm, chọn ngay vùng giữa Bối Châu, Tào Châu này dựa vào sườn núi mà lập trại, chuyên cướp đoạt của bọn khách buôn. Gần đây đang lo lương thảo không đủ, bỗng nghe lâu la về báo, phía bắc kéo xuống hai trăm xe tải lương của Hạ Vương, đem giúp quân nhà Đường, không có lính hộ tống, cướp rất dễ. Phạm Nguyện vỗ tay mừng rỡ. 

 - Đến đúng lúc lắm, ta đang thiếu ăn đây! 

 Liền dẫn hai nghìn lâu la xuống núi, lúc này mới chập choạng tối. Bọn tiền thám quay lại báo: 

 - Xe lương dồn thành vòng để làm thành trại, bọn dân phu quần áo lam lũ, chẳng thấy hiệu lệnh, canh gác gì cả, tất cả đều như ngủ cả rồi. 

 Phạm Nguyện cả mừng, kéo thẳng đến chỗ xa doanh, thì thấy bốn bề yên lặng, chẳng một tiếng người. Bỗng một tiếng pháo nổ, bọn dân phu đều chồm cả dậy, bỏ chạy toán loạn, lâu la vội lại cướp xe, thì thấy toàn xe không, chẳng hề một hạt lương thực nào cả, Phạm Nguyện lúc này mới biết trúng kế, quất ngựa bỏ chạy, thì nghe tiếng pháo rầm trời, binh lính nhà Hạ từng từng lớp lớp bốn năm nghìn người kéo ra, vây lấy Phạm Nguyện vào giữa. Rồi đuốc đốt sáng trưng như ban ngày, phía quân Hạ tiến tới trước mặt một viên tướng, mũ kim khôi lấp lánh, tay cầm búa lớn, thét như sấm: 

 - Thằng giặc cỏ Phạm Nguyện kia, mau mau xuống ngựa đầu hàng đi! 

 Phạm Nguyện hỏi: 

 - Nhà ngươi là ai? 

 Lưu Hắc Thát đáp: 

 - Ta là đại tướng nhà Hạ Lưu Hắc Thát? 

 Phạm Nguyện nói: 

 - Ta nghĩ là ai, thì ra Hắc Thát sao? Ta nghĩ ngươi trước kia cũng đã từng làm lục lâm ở đoạn đường này, nay sao lại vì nhà Hạ mà đem hết sức khó nhọc. Hãy nghĩ lại dạo còn làm lục lâm, ai là kẻ không đón đường đòi tiền mãi lộ. Hãy mau thả chúng ta ra, mai kia có bị người khác đánh bại, quay về nghề cũ, thì cũng còn chỗ thể tình. 

 Hắc Thát nổi giận quát: 

 - Thằng giặc cỏ lại dám bôi nhọ ta sao? 

 Rồi giương cao búa xông vào, Phạm Nguyện vội đỡ. Đánh khoảng hơn ba mươi hiệp, bất phân thắng bại..Bỗng thấy trong trận quân Hạ, một người cưỡi ngựa tiến ra gọi lớn: 

 - Hai vị tướng quân, xin hãy dừng ngựa, ta có lời giảng hòa hai vị có được không? 

 Phạm Nguyện hỏi: 

 - Lại còn ai nữa đây? 

 Lăng Kính đáp: 

 - Ta là quan tế tửu Lăng Kính nhà Hạ. 

 Phạm Nguyện lại hỏi: 

 - Tế tửu nói những gì nào? 

 Lăng Kính đáp: 

 - Nhà ngươi hiện nay như hổ bị nhốt trong hầm rồi, dẫu có cánh nữa, cũng chẳng bay nổi. Sao không bỏ tà quy chính, theo hàng Hạ Vương, cùng đi diệt Hóa Cập, báo thù cho Tùy Dượng Đế, quan sẽ được phong cực phẩm, thụ hưởng tước lộc, lại không hơn ở đây làm giặc cướp hay sao? 

 Phạm Nguyện đáp: 

 - Tế tửu nói tuy đúng, nhưng chỉ sợ Hạ Vương có dung cho không? 

 - Hạ Vương lâu nay vẫn nổi tiếng chiêu hiền nạp sĩ, chẳng hề nhớ oán thù cũ, có gì mà lại không dung nổi. 

 Phạm Nguyện nghe thế cả mừng, liền vứt giáo xuống ngựa đầu hàng. Hai nghìn lâu la cũng cởi giáp lạy theo. Phạm Nguyện mời hai người lên sơn trại nghỉ ngơi, rồi hãy dẫn binh đi tiếp. Lăng Kính đáp: 

 - Lưu tướng quân cùng túc hạ hãy cứ ở sơn trại nghĩ ngơi, ta còn phải đi vùng hồ Lôi Hạ, mời Lương Thái bộc tới rồi cùng đi một thể. 

 Nói rồi từ biệt hai người, dẫn tay chân lên đường. 

 *** 

 Lại nói Dương Nghĩa Thần, từ lúc Lăng Kính đi khỏi, có đêm xem thiên văn, nhìn về góc tây bắc, thấy chòm thái ất lạc hẳn vào góc, mà ánh sáng mờ tối như muốn tắt, trong lòng vui mừng, nói với Dương Phương: 

 - Hóa Cập chết đến nơi rồi, ngươi hãy mau thu xếp hành trang khí giới, chờ Lăng Đại phu tới, cùng ta lên đường, giết lũ phản thần này, báo thù cho tiên đế. 

 Ngày hôm sau, Lăng Kính vừa đến, Nghĩa Thần mời vào nhà, Lăng Kính nói ngay: 

 - Vâng mệnh Hạ Vương, riêng tới mời lão tướng. Ba điều mà thái bộc cần, Hạ Vương hoàn toàn ưng thuận, Phạm Nguyện cũng đã trúng tuyệt kế của thái bộc mà về hàng, hiện đang chờ ở ngay sơn trại. 

 Nghĩa Thần vui mừng, bày tiệc rượu khoản đãi, rồi dặn dò gia nhân, công việc nông trang. Nghĩa Thần hẹn đi trong vòng một tháng lại sẽ trở về, rồi cùng Lăng Kính lên đường, rời Lôi Hạ, đến 

 Thái Hàng Sơn đã thấy Hắc Thát, Phạm Nguyện, người ngựa xuống đón, mời lên sơn trại. Phạm Nguyện đã được nghe kể Nghĩa Thần bày cách chiêu hàng mình như thế nào, nên vội bái lạy Nghĩa Thần mà rằng: 

 - Nguyện này vốn là kẻ lỗ mãng, may được lão tướng quân nhìn đến, chỉ xin được cầm roi theo hầu, đem hết sức khuyển mã, để tận tình đền đáp lão tướng quân. 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Túc hạ đã quyết cải tà quy chính, thì quả là không phụ lòng mong ngóng của ta. Nhưng còn những đàn bà con gái trên sơn trại bị bắt về, hãy nên cấp tiền đi đường cho họ, rồi thả cho về nhà. Mai kia công thành danh toại, cái gì mà chẳng có. 

 Phạm Nguyện nghe theo, thả cho tất cả đàn bà con gái về, đốt cả sơn trại, cùng một người với sáu bảy nghìn lâu la kẻo nhau về Lạc Thọ. Lăng Kính mời Nghĩa Thân vào quán dịch, rồi cùng Hắc Thái, Phạm Nguyện vào trình Hạ Vương. Phạm Nguyện đem bảo vật làm lễ ra mất Hạ Vương. Hạ Vương phán: 

 - Khanh đã bằng lòng tới đây để giúp cô, lo việc quốc gia, thế đã là vật quý của nước nhà rồi. Cô còn lấy những và ngọc vô dụng ấy làm gì. Khanh hãy cứ giữ lấy, về sau mà thưởng cho tướng sĩ. 

 Phạm Nguyện càng kính phục, Hạ Vương bây giờ mới hỏi Lăng Kính: 

 - Tế tửu có mời được Nghĩa Thần không? 

 Lăng Kính thưa: 

 - Dương tướng quân hiện đang ở ngoài trạm dịch. Theo như thần nghĩ, người này trước kia đã từng đối địch với chúa công, chẳng ai chịu nhường ai. Nay nếu chúa công không thân hành ra đón, chào hỏi thật trịnh trọng, thì sợ ra người này vẫn giữ vẻ khách khí, không chịu đem hết tài năng ra để giúp chúa công chăng? 

 Hạ Vương phán: 

 - Khanh bàn luận thật sáng suốt. 

 Sai sắp sẵn xe rồng, dẫn trăm quan ra tận ngoài thành nghênh tiếp vào đến trạm dịch, Nghĩa Thần lạy chào. Hạ Vương thấy Nghĩa Thần mày thanh tóc bạc trắng, dáng tiên phong đạo cốt, thật đáng bậc định quốc an dân, phò nguy cứu khốn, liền vội vái trả một nửa. 

 Nghĩa Thần thưa: 

 - Làm tôi của một nước đã mất, thật chịu ơn nặng của đại vương mời đến, đâu dám nhận lễ của đại vương. 

 Hạ Vương phán: 

 - Cô vẫn kính trọng thái bộc bởi lẽ trung thần nghĩa sĩ, nên cúi mình mời thái bộc tới để cùng diệt trừ lũ phản nghịch vậy. 

 Nghĩa Thần đáp: 

 - Lũ nghịch Hóa Cập, chỉ hận không thể trả ngay cừu thù để tạ đất trời. Những điều bàn bạc với tế tửu đều đã xong xuôi, chỉ xin đại vương, sau khi đã diệt xong Hóa Cập, lại cho vong thần này trở về vườn cũ. 

 Hạ Vương phán: 

 - Cô đã nói là phải giữ chữ tín với thiên hạ, nỡ lòng nào mà nuốt lời cho được. 

 Rồi cùng vào thành, mời Nghĩa Thần vào nhà công quán nghỉ ngơi, sai bày yến tiệc, lấy lễ chủ khách ra đãi. Hai bên luận bàn, mãi tới khi mặt trời sắp lặn về tây, Hạ Vương mới trở về cung. Chọn ngày tốt để xuất sư, phong Lưu Hắc Thát làm đại tướng quân, đeo ấn nguyên soái, Phạm Nguyện làm tiên phong, Cao Nhã Hiền lãnh tiền quân, Tôn An Tổ, Tề Thiện Hằng lãnh hậu quân, Tào Đán làm tham quân nạp ngôn, Bùi Cử, Tống Chính Bản làm vận lương nạp ngôn, Dũng An công chúa làm giám quân chánh sứ. Lăng Kính cùng Khổng Đức Thiệu ở lại giữ Lạc Thọ, giúp Tào Hậu giám quốc, Nghĩa Thần cùng ngồi trong trướng với Hạ Vương, trù mưu tính kế. Cắt mười vạn tinh binh, rầm rộ nhằm thẳng Ngụy Huyện. 

 Lúc này Tần Vương Lý Thế Dân, cùng với Hoài An Vương Thần Thông, đã dẫn binh tới Ngụy Huyện từ trước. Lưu Văn Tĩnh xem thư từ các nơi gửi đến xong, tâu với Tần Vương: 

 - Ngụy Công Lý Mật sẽ kéo quân tới, còn Vương Thế Sung chưa dám nghĩ đến việc bắc phạt. Hạ chủ Kiến Đức khuyên đại vương chẳng phải khó nhọc, chỉ cần sai một hai phó tướng, dẫn binh lính cùng tới là đủ. 

 Tần Vương đáp: 

 - Điều này vừa hợp ý ta. Hôm qua, phụ hoàng vừa có chỉ tới, nói rõ Khả hãn Lưu Vũ Chu ở Định Dương kéo binh đánh Tĩnh Châu, Vương Thế Sung ở Lạc Dương xâm phạm Doãn Châu, Lương Tiêu Tiên nhòm ngó Hiệp Châu, cả ba cánh đều rất ngang ngạnh, đòi ta phải về lo việc đối phó. Khanh hãy cùng Hoài An Vương Lý Tĩnh, cùng nhau lo việc tiễu trừ Hóa Cập. 

 Tần Vương liền đem ấn kiếm giao cho Thần Thông, còn mình thì theo đường tắt về Trường An. 

 Vốn là Lý Tĩnh từ ngày đem theo Trương Xuất Trần về vùng Thái Nguyên, tìm đến Trương Trọng Kiên, Từ Hồng Khách, gặp Lưu Văn Tĩnh, đúng lúc Tần Vương mở Chiêu Hiền Quán. Văn Tĩnh dẫn cả ba người đến gặp Tần Vương, Tần Vương thấy phong độ hiên ngang, biết ngay là hạng khác thường, lấy lễ mời về. Hồng Khách thấy Tần Vương mặt rồng mắt phượng, biết ngay là bậc chân chúa, lại thấy Tần Vương nắm tay Trọng Kiên, khiến hai tay Trọng Kiên đau không chịu nổi, lui về một góc phòng. Tần Vương lại đưa mắt liếc nhìn, Trọng Kiên phải thưa: 

 - Đại vương làm gì mà chiếm cứ tất cả như vậy, hãy nhường cho kẻ khác một góc chứ? 

 Tần Vương mỉm cười buông tay, nhân chuyện này, Hồng Khách nói với Trọng Kiên: 

 - Việc lớn trong thiên hạ đã xếp đặt xong rồi, hiền huynh còn cố tìm kiếm làm gì nữa? 

 Bọn Trọng Kiên từ biệt Tần Vương, đem cả gia tài cho Trương Xuất Trần, rồi cùng Hồng Khách bỏ đi chu du hải ngoại, tận nước Phù Dư, lập nên một sự nghiệp khác. Lý Tĩnh lại dưới trướng Tần vương, tâm đầu ý hợp, nên mới giao cho việc cùng Hạ Vương diệt Vũ Văn, nắm quyền quân cơ đại sự với Hoài An Vương Thần Thông. 

 *** 

 Lại nói chuyện Vũ Văn Hóa Cập, được báo có ba cánh quân kéo đến, thế mạnh khôn đương, liền đem tất cả châu báu vàng lụa trong kho, chiêu nạp bọn cướp biển, để mong dùng chúng đánh lại chư hầu. 

 Từ Mậu Công biết rõ Hóa Cập binh ít, tướng đơn, liền mật sai tướng tâm phúc Vương Bộ, dẫn ba nghìn người ngựa, giấu theo hơn ba trăm cân thuốc độc, giả danh Ân Đại Dụng vào thành hàng Hóa Cập. Hóa Cập cả mừng, phong ngay làm Điện tiền độ ngu hầu. 

 Hoài An Vương Lý Thần Thông, được Tần Vương giao cho ấn kiếm, kéo quân đánh Hóa Cập, cách thành khoảng bốn mươi dặm dừng quân hạ trại. Hóa Cập từ trước đã rõ Tần Vương phải quay về cứu mặt tây bắc của nhà Đường, bụng khinh thường bọn Thần Thông vô mưu, dẫn ngay tướng sĩ ra ngoài thành nghênh địch. Nào ngờ Lý Tĩnh túc trí đa mưu, ngầm đem tinh binh mai phục chu đáo, chờ cho quân Hóa Cập lập trại, bày thành thế trận xong xuôi, sai Lưu Hoằng Cơ từ góc trận xông ra đánh Hóa Cập. 

 Thủ hạ của Hóa Cập là đại tướng Đỗ Vinh, Mã Hoa, cả hai vác họa kích, phi ngựa ra ngăn lại, hai cây họa kích đều nhằm đầu ngựa Hoằng Cơ mà đánh bừa, bị Hoằng Cơ chém một đao bên phải, một đao bên trái, kích đều gãy đôi. Đỗ Vinh, Mã Hoa đành chỉ cầm cán kích quay ngựa chạy, Hoằng Cơ cũng phi ngựa về trận mình. Đỗ Vinh giật một cây thương trong tay lính, Lý Tĩnh thấy thế, đặt một mũi tên, nhằm giữa cổ Đỗ Vinh mà bắn, dây vừa buông, Đỗ Vinh đã lăn ngay khỏi ngựa. Quân Vũ Văn đại bại, may được con cả Thừa Cơ đem quân cứu viện. 

 Hóa Cập bỏ Ngụy Huyện, đương đêm cùng Tiêu Hậu trốn về Liêu Thành. Quân nhà Đường dò biết, Lý Tĩnh nói: 

 - Quân giặc tuy thua chạy về Liêu Thành nhưng thế vẫn còn lớn, một lúc chưa thể đánh ngay. Ý Lý Tĩnh này muốn xem động tĩnh ra sao, dò thật thực hư, tìm kế lạ rồi hãy tiến công. 

 Thần Thông đáp: 

 - Đúng như ý ta vậy? 

 Rồi cả hai dẫn vài tùy tướng cưỡi ngựa, đang đêm ra ngoài doanh trại tới hai mươi dặm, thả ngựa trên gò cao, ngửa mặt nhìn mây gió. Lý Tĩnh nói: 

 - Hóa Cập là phường phản nghịch, sắp mất nước, diệt thân nay mai. 

 Các tướng thưa: 

 - Thế giặc còn mạnh lắm, sao đã chịu thua. 

 Lý Tĩnh đáp: 

 - Khí sắc trên Liêu Thành trông như đã tuyệt rồi, làm sao Hóa Cập không chết cho được. Nhưng trông khí sắc của quân doanh cả nhà Đường lẫn nhà Ngụy cũng không có điềm thắng trận, chẳng hiểu thằng giặc này sẽ chết về tay ai đây? 

 Nói chưa dứt lời, một đám mây đầy sát khí, xông vào giữa phận sao Ngưu, sao Đẩu, như sắp che kín cả bầu trời, nhưng rồi gió từ phương Nam tới, thổi mây như khói, như lửa của một màu. Lý Tĩnh ngửa mặt mà than: 

 - Thì ra đánh thắng tụi giặc này lại là binh tướng của phương Bắc vậy? 

 Trời đã về tối hẳn, tiếng quạ kêu rát họng, kéo nhau từng đàn về tổ. Lý Tĩnh lên tiếng bảo mọi người. 

 - Ta đã nghĩ được diệu kế rồi đây? 

 Rồi cả bọn lên ngựa trở về quân doanh, Hoài An Vương mới hỏi Lý Tĩnh : 

 - Diệu kế ra sao? 

 Lý Tĩnh ghé tai Hoài An Vương nói nhỏ mấy câu, Thần Thông gật đầu khen hay, liền ngầm sai tướng Khuất Đột Thông, chọn lấy năm trăm lính giỏi săn bắn, đem theo khí giới, lưới võng, lảng vảng ngoài thành, xem có chim nào từ thành bay ra, bắt cho kỳ hết, được con sống, tính con mà thưởng. Khuất Đột Thông theo lệnh mà làm. 

 *** 

 Lại nói Hạ Vương bàn chuyện diệt Vũ Văn với Nghĩa Thần, Nghĩa Thần thưa: 

 - Mới vào đất giặc, chưa rõ thực hư, hãy sai Phạm Nguyện dẫn ba nghìn người ngựa, đi trước khiêu chiến, xem giặc động tĩnh ra sao, rồi sau mới định kế được thật toàn vẹn. 

 Hạ Vương nghe theo, Nghĩa Thần liền sai Phạm Nguyện dẫn binh mà đi. 

 - Chỉ cần ngươi thua, không cần ngươi thắng! 

 Phạm Nguyện kéo quân tới thẳng Liêu Thành. Hóa Cập sai con trai đầu Vũ Văn Thừa Cơ ra địch, hai bên giao chiến tới hơn năm mươi hiệp, Phạm Nguyện giả thua, quay ngựa chạy khoảng hai mươi dặm, Thừa Cơ cũng không đuổi, hai bên khua chiêng thu quân. Nghĩa Thần cùng lệnh cho Hắc Thát lui quân hai mươi dặm hạ trại. Chỉ riêng có Lý Tĩnh là hiểu rõ kế dụ giặc của Nghĩa Thần, liền đem tất cả quạ yến, tước, tu hú... của Khuất Đột Thông bắt được, kể không biết mấy, lấy những hạt hồ đào, hạt mận, đập ra lấy nhân, bỏ thuốc pháo vào bên trong, dùng dây buộc những thứ đó vào đuôi chim, nhất tề sai lính tráng thả chúng vào thành. Hôm ấy, Thừa Cơ đánh bại Phạm Nguyện, dẫn binh trở về thành, vào trình Hóa Cập rằng binh Kiến Đức không đáng lo, ngày mai sẽ xin lĩnh năm vạn tinh binh, kéo ra quyết chiến một lần nữa, thừa thắng lên bắc bắt sống Kiến Đức, sang Tây phá tan Lý Uyên. Vũ Văn Trí Cập khuyên: 

 - Cả ba cánh quân đều rất mạnh, đâu phải chỉ đánh một mặt mà xong, phải chia các tướng ra mà mai phục các cửa, bốn phía tiếp ứng lẫn nhau, thì mới không bị bất ngờ. 

 Hóa Cập khen phải, rồi sai đại tướng Dương Sĩ Lăm, Trịnh Thiện Quả, Tư Mã Hùng, Ninh Hổ, nhận kế sách, mai phục bốn phía. Thái tử Thừa Cơ làm tiền quán, ngự đệ Trí Cập lãnh trung quân. Hóa Cập tự lãnh hậu quân. Xếp đặt xong xuôi, tất, cả kéo ra khỏi Liêu Thành sáu mươi dặm hạ trại, lấy hiệu pháo làm lệnh ra quân, giữ Ân Khai Dụng, cùng Vũ Văn Thừa chỉ ở lại hộ giá trong thành. Các tướng lĩnh mệnh kéo quân ra khỏi thành, chỉ riêng Hóa Cập là chưa khởi hành, mà vẫn còn ngủ say trong cung với Tiêu Hậu. 

 Bỗng nghe báo trong thành khắp nơi phát hỏa, Hóa Cập vội vàng trở dậy tuần sát thì đã thấy khói lửa mù mịt, khắp trời, thì ra đó là diệu kế của Lý Tĩnh, chỉ trong phút chốc, cả thành đỏ rực, từ lâu đài nhà cửa cho đến kho tàng đều bị thiêu cháy. Ân Đại Dụng lại giả danh cứu hỏa, lấy số nước còn lại khoảng ba ngày, sai ngầm bỏ thuốc độc vào tất cả. Hóa Cập thấy quân sĩ lúc đầu mắt hoa đầu váng, sau ra thượng thổ hạ tả, bệnh ùn ùn kéo đến kêu khóc ầm trời đất, cho rằng thiên địa giáng tai ương, mong trừ diệt dòng họ Vũ Văn, ngày đêm kinh hoàng. Quân Hạ Vương dò biết, về báo tường tận cho Kiến Đức. 

 Nghĩa Thần biết ngay là mưu kế của Từ Mậu Công nhà Ngụy và Lý Tĩnh nhà Đường, bèn sai ngay Phạm Nguyện dẫn một vạn tinh binh, đóng giả lính họ Vũ Văn, nhưng có làm dấu hiệu riêng, nhân đêm tối lẻn vào đại trại của Trí Cập cách đó hai mươi dặm đợi sáng, lại điều Lưu Hắc Thát, Tào Đán, Vương Tôn lĩnh năm vạn quân đương đầu với Trí Cập, Nghĩa Thần thân dẫn hai vạn quân cướp trại, còn Cao Nhã Hiền, Tôn An Tổ, Tống Chính Bản lãnh bốn vạn binh lính, mai phục dọc đường, để sẵn sàng cứu ứng cho mọi nơi. Lại giữ lại hai vạn quân, giao cho Bùi Cử trông coi doanh trại, hộ giá công chúa Dũng An. Xếp đặt xong xuôi không quên cho quân sĩ ăn thật no, rồi ba phát pháo nổ ran. Hạ Vương dẫn quân kéo thẳng vào Liêu Thành. 

 Quân nhà Đường, nhà Ngụy biết rõ việc này, cũng nổ pháo giúp oai, bốn cửa đều vang động. Hóa Cập đốc thúc tướng sĩ, cùng với Ân Đại Dụng ra thành nghênh địch. Hạ Vương nhận ra Hóa Cập, không nói một lời, vác thanh nguyệt yến đao xông tới. Hóa Cập cũng cho ngựa chồm lên đỡ, đánh hơn hai mươi hiệp, nào ngờ Đại Dụng quay lại thành, mở cổng cửa, quân Hạ Vương ùa vào thành như nước. Hóa Cập nhân có Trí Cập giấu quân hai bên đường, nên vừa đánh vừa lui. Lại thấy Nghĩa Thần, sau khi đã cướp được trại quân của Trí Cập, cũng kéo quân tới tiếp ứng, nói với Hạ Vương: 

 - Chúa công mau vào thành phủ dụ trăm họ, thu thập lấy quốc bảo, thư tịch, để lão vong thần này chém đầu tên giặc này cho. 

 Hạ Vương quay ngựa dẫn binh vào thành, Nghĩa Thần xông vào đánh nhau với Hóa Cập. Được khoảng ba bốn chục hiệp, Dũng An công chúa sợ Nghĩa Thần sơ xuất gì chăng, vội lôi trong túi gấm ra một viên kim đạn, giương cung bắn viên đạn đi, trúng ngay miệng Hóa Cập. Bốn năm nữ binh cầm đoản đao, xông thẳng lên trước ngựa Hóa Cập, cứ chân ngựa mà chém, Nghĩa Thần lại bồi thêm một thương, Hóa Cập ngã lăn xuống ngựa, Nghĩa Thần sai thủ hạ trói lại, nhốt vào xe tù. Lại thấy Tào Đán đã chém được Dương Sĩ Lãm, còn Lưu Hắc Thát cùng với Trí Cập, hai ba tướng nữa vẫn còn ham đánh chưa phân thắng bại. Nghĩa Thần rẽ quân lính ra, cho đẩy xe tù nhốt Hóa Cập lên trước hướng về quân Vũ Văn, gào lớn: 

 - Các ngươi đều là binh sĩ nhà Tùy cũ, chỉ vì nghịch tặc ép buộc. 

 Gia quyến các ngươi đều ở Quan Trung. Nay nghịch tặc đã bị nhốt trong cũi này rồi, các người muốn được về Quan Trung, thì hãy quy thuận Hạ Vương, sẽ được thăng quan thưởng cấp, nếu như không hàng, sẽ chôn sống kỳ hết! 

 Quân Vũ Văn nghe thế, đều vứt binh khí, giáp trụ ra hàng. Trí Cập thấy anh đã bị ốt trong xe, mình bị vây kín, lòng dạ hoang mang, lại thấy binh sĩ quay giáo, cởi áo hàng cả, liền dẫn mấy tên lính kỵ chạy trốn vào doanh trại của Vũ Văn Thừa Cơ. Không ngờ Tôn An Tổ phi ngựa lại như bay, đâm một thương vào sau lưng, ngã lăn khỏi ngựa. Nghĩa Thần quát binh lính, quàng ngay gông vào cổ Trí Cập, nhốt luôn vào xe tù, rồi kéo cả đại quân lại đánh Vũ Văn Thừa Cơ. 

 *** 

 Lại nói Hạ Vương dẫn quân vào Liêu Thành, đã thấy cửa thành mở rộng, một viên tướng xách một thủ cấp, đến trước ngựa Hạ Vương mà thưa: 

 - Thần là bộ hạ của Ngụy Công, tùy tướng của Tả dực vệ đại tướng quân Từ Mậu Công, Vương Bộ, vâng lệnh chủ tướng giả danh Ân Đại Dụng, lãnh ba ngàn quân, giả làm cướp biển, về hàng Hóa Cập Hóa Cập cho làm Đô Ngu hầu. Hôm qua bỏ thuốc độc xuống các giếng nước, gây bệnh cho quân sĩ, hôm nay mở rộng cửa thành để đón quân của đại vương. Đây là thủ cấp con thứ của Hóa Cập là Vũ Văn Thừa Chỉ, thần xin dâng đại vương, mời đại vương vào điện, thần xin được cáo từ. 

 Hạ Vương đáp: 

 - Khanh đã có công phá thành, hãy lưu lại vài ngày, đợi có khao thưởng quân sĩ, rồi trở về cũng chưa muộn đâu? 

 Vương Bộ thưa: 

 - Từ tướng quân hiệu lệnh nghiêm túc, thật không dám ham khao thưởng, sợ lỡ hẹn của tướng quân. 

 Nói rồi từ biệt. Hạ Vương than: 

 - Vương Bộ thật là bậc trượng phu. Riêng việc này cũng đủ biết Từ Mậu Công làm chủ soái nghiêm minh đến chừng nào! 

 Hạ Vương kéo quân vào, mời Tiêu Hậu ra chính điện, Kiến Đức làm lễ triều kiến, lập thần vị Tùy Dượng Đế, dẫn bách quan đều mặc quần áo trắng, làm lễ phát ai. Lúc này Dũng An công chúa cũng dẫn các tướng lục tục kéo vào, đem Hóa Cập, Trí Cập đặt ngay trước điện. Tào Đán xách thủ cấp Dương Sĩ Lãm, Phạm Nguyện xách thủ cấp Vũ Văn Thừa Cơ, Lưu Hắc Thát, Tôn An Tổ giải theo các tướng của Vũ Văn đều vào báo công. Hạ Vương sai quân sĩ đem Hóa Cập, Sĩ Cập trói vào cột, lấy dao mổ bụng để hiến tế Tùy Dượng Đế, lại bắt các tướng Vũ Văn quỳ ngay trước thần vị, ai nguyện hàng đều tha cho, kẻ nào không phục đều giết cả. Bỗng thấy Bùi Cử, được coi giữ đại trại, cho một tướng vào báo: 

 - Dương lão tướng có thiếp đưa trình, nên phải sai mạt tướng vào tâu ngay đại vương rõ. 

 Hạ Vương giở thiếp ra xem, thấy thiếp viết rằng: 

 "Kính trình Hạ Vương: 

 Phản thần Hóa Cập đã bị bắt, chí nguyện của thần đã toại, mong Hạ Vương nhớ lại lời hứa buổi đầu, mở lòng nhân đức, cho vong thần này được trở về với vườn ruộng. " 

 Mũ treo huyền vũ sớm quay về 

 Chẳng mến gì hơn mến núi khe 

 Một lá thuyền con trôi ngơ ngác 

 Động Đình mây nước gió thu vèo. 

 Hạ Vương xem hết, thở dài: 

 - Nghĩa Thần đi rồi? Cô mất một cánh tay! 

 Lưu Hắc Thát, Tào Đán xin kéo quân đuổi theo, Hạ Vương phán: 

 - Cô đã hứa như vậy, nay nếu đuổi theo thì ra bội ước. Thôi thì cô cũng vun đắp thêm danh tiếng cho vị cựu thần trung nghĩa vậy! 

 Rồi đem châu báu, báu vật trong cung chia thưởng cho quân sĩ, đem quốc bảo, sổ sách giao cho Dũng An công chúa cất giữ, rồi nhân hỏi Tiêu Hậu: 

 - Nay hoàng hậu muốn về đâu? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Thiếp nay nước mất, nhà tan, chuyện sống chết, vinh nhục, xin nghe theo lệnh đại vương. 

 Hạ Vương cười không nói gì. Dũng An công chúa đứng cạnh, sợ phụ hoàng lại theo vết xe của Hóa Cập, vội vàng trả lời: 

 - Nếu như thế, xin để con cùng nương nương đây về Lạc Thọ trước. Một là để mẫu thân đỡ trông ngóng, hai để đại quân dẫu có chậm về ít nhiều cũng không sao. 

 Hạ Vương vui mừng bằng lòng: 

 - Công chúa bàn đúng lắm! Ngày mai hãy dẫn hai vạn binh mã, cùng với Tào Nạp ngôn về Lạc Thọ trước. 

 Tối hôm ấy Tiêu Hậu mời Dũng An công chúa nghỉ lại trong cung. Sáng sớm hôm sau, Tào Đán đã lĩnh binh mã chờ sẵn, Tiêu Hậu thì đã theo Hàn Tuấn Nga, Nhã Nương, La La, Tiểu Hỉ, bốn cung nữ vừa ý nhất, lên kiệu vàng, còn Dũng An công chúa cũng tuyển trong đám cung nữ khoảng hai ba chục nữ binh khỏe mạnh, năm sáu mỹ nhân lanh lợi, rồi lên đường. 

 Chính là: 

 Bụi mịt mùa ngựa hí vang 

 Đoàn quân chiến thắng, rộn ràng khai ca. 

 Chỉ một ngày đã về tới Lạc Thọ, tiêu mã vội báo công chúa về triều, Tào Hậu sai Lăng Kính ra ngoài thành đón rước. Lăng Kính để Tiêu Hậu ở ngay quán dịch, Dũng An công chúa cùng Tào Đán vào thành ra mắt Tào Hậu. Công chúa đem quốc bảo, giấy tờ của nhà Tùy trình lên Tào Hậu, lại gọi cả bọn cung nô, mỹ nữ vào bái lạy, Tào Hậu cả mừng. Công chúa lại nói thêm: 

 - Tiêu Hậu hiện đang để ở ngoài quán dịch, xin để mẫu thân tùy ý định đoạt. 

 Tào Hậu phán: 

 - Cái con hồ ly già ấy làm cho nhà Tùy mất cả thiên hạ, đi làm vợ khắp người ta, còn mang về đây làm gì? 

 Lăng Kính thưa: 

 - Chúa công chẳng bao giờ lại làm như Hóa Cập, cho nên mới đưa về đây Hoàng hậu nên lấy lễ mà tiếp, đợi chúa công về, thần đã có chỗ đưa Tiêu Hậu đi vậy. 

 Công chúa nói: 

 - Lăng đại phu nói đúng lắm! 

 Tào Hậu tiếp: 

 - Nếu đã như thế, bày yến tiệc ở trong cung rồi nói rằng ta bị đau chân vẫn chưa khỏi, không thể ra đón, chờ Tiêu Hậu vào cung. 

 Lăng Kính nghe xong, liền ra trạm dịch thưa với Tiêu Hậu: 

 - Quốc mẫu vẫn định ra nghênh tiếp nương nương, nhưng vì chân đau chưa khỏi, sai thần ra trình rõ, xin loan giá vào cung gặp gỡ. 

 Tiêu Hậu lên xe loan, nghĩ lại buổi sinh thời Dượng Đế, trăm quan cung nữ theo hầu, nay trơ trọi mấy người, không ngăn nổi thương tâm. Chẳng mấy chốc, đã vào tới cung. Dũng An công chúa thay mặt mẫu hậu ra cửa đón. Tào Hậu đội mũ phượng, tóc tết hình rồng, áo phượng cổn, diện mạo đường đường, đoan trang chững chạc, chẳng chút yểu điệu thướt tha, cũng chẳng lưng ong thắt đáy, bốn cung nữ theo hầu xuống thềm đón Tiêu Hậu lên điện. Tào Hậu mời Tiêu Hậu ngồi lên trên, làm lễ lạy chào, nhưng đời nào Tiêu Hậu dám nhận, chối từ ba bốn bận, rồi lấy lẽ chủ khách mà chào hỏi, tả hữu mời vào chỗ ngồi. Tiêu Hậu cùng Tào Hậu, Dũng An công chúa vào cung Long An, đã thấy tiệc rượu bày đầy vẻ hoa mỹ. Tào Hậu nâng chén, nói với Tiêu Hậu: 

 - Ở chốn lều tranh cỏ rậm, khác nhiều so với nơi xe loan lầu ngọc, may được lưu xe phượng, thực là vinh hạnh. 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Gặp bước thảm thương, đành theo đuổi kẻ khác, được thượng quốc đưa về đây thực đã là may mắn, lại được khoản đãi thế này, thực đã nở nang mày mặt. 

 Mọi người ngồi yên chỗ, rượu được ba tuần, Tào Hậu hỏi Tiêu Hậu: 

 - Giữa Đông Kinh với Tây Kinh, nơi nào đẹp hơn nơi nào? 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Tây Kinh thì được cái quy mô to rộng, nhưng cảnh không tao nhã. Đông Kinh không những cung các hoa lệ, mà lại hơn có Tây Uyển, hồ, biển, núi đều có. Mười sáu viện quanh co uốn lượn lầu các liên tiếp, bốn mùa lúc nào phong cảnh cũng đẹp. 

 Tào Hậu nói: 

 - Được nghe những chuyện nhã nhạc, ca múa, cắt lụa làm hoa, có lẽ vì thế mà nương nương đây có làm nhiều thơ từ tuyệt diệu chăng? 

 Tiêu Hậu thưa: 

 - Phần lớn đều do các phu nhân ở mười sáu viện làm, thiếp cùng tiên hoàng chẳng qua chỉ bình duyệt vậy thôi. 

 Tào Hậu lại phán: 

 - Đã từng được nghe kể về khúc "Thanh dạ du" trên ngựa đàn hát, đóng giả Chiêu Quân, Quan âm, dưới nguyệt đài đua ngựa, thật đúng là hàng nghìn năm cũng không có được vị đế vương nào được vui chơi sung sướng đến thế. 

 Hàn Tuấn Nga đứng ở phía sau đỡ lời thưa: 

 - Đêm ấy nhân nương nương thích ý, tiên hoàng sai chọn ngựa đưa vào cung rất nhiều, làm một cuộc du ngoạn đê trăng, thật là lần vui chơi ít có. 

 Tào Hậu lại hỏi: 

 - Người này là ai? 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Người này là Hàn Tuấn Nga, người này là Nhã Nương, nguyên đã từng được ban hiệu mỹ nhân, còn đây là La La, Tiểu Hỉ, đều theo hầu từ thuở nhỏ. 

 Tào Hậu hỏi Tuấn Nga: 

 - Các người dạo ấy có bao nhiêu mỹ nhân? 

 Tuấn Nga đáp: 

 - Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi, Tiết Dã Nhi, Hạnh Nương, Thỏa Nương, với tiện thiếp cùng Nhã Nương đây, về sau thêm Giáng Tiên, cùng Nguyệt Tân. 

 Tào Hậu lại hỏi: 

 - Hạnh Nương vì việc đoán chữ mà bị giết chết, Chu, Viên vì mắng giặc mà quên thân, còn những người khác? 

 Nhã Nương thưa: 

 - Thỏa Nương thì bị Vũ Văn Trí Cập bức bách, nhảy xuống hồ mà chết. 

 Tào Hậu cười: 

 - Người này cùng với Chu, Viên, có lẽ quá ngu si chăng. Sống ở trên đời, như cỏ chỉ có một mùa, sao không như hai người, cứ theo nương nương đây, mặc sa vào đâu cũng được, miễn là sung sướng, việc gì khổ sở đến quên thân như thế? 

 Tiêu Hậu vẫn nghĩ rằng Tào Hậu cùng địa vị với mình nên không chú ý. Dũng An công chúa mới cất tiếng hỏi: 

 - Còn có một mỹ nhân biết múa kiếm thì đi đâu? 

 Tuấn Nga thưa: 

 - Đó là Tiết Dã Nhi. Dã Nhi cùng năm vị phu nhân, thêm cả Triệu Vương, đã bỏ trốn trước một ngày, vẫn không biết là theo hướng nào. 

 Tào Hậu gật đầu: 

 - Năm vị phu nhân này dẫn theo Triệu Vương, đúng là những người hiểu biết vậy. 

 Lại hỏi Tiêu Hậu: 

 -- Thuở tiên đế còn trong ngự uyển, nghe nói tuy cùng phu nhân mười sáu viện rất yêu thương, nhưng đêm đến bao giờ cũng về với chính cung hoàng hậu phải không? Nếu đúng thế thì thật là phu phụ gắn bó keo sơn vậy! 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Trong một tháng, bao giờ cũng có khoảng bốn năm đêm ở lại trong các viện. 

 Tào Hậu lại hỏi: 

 - Nương nương quả là đã lấy sợi gấm mà buộc chân tiên đế vậy, ép tiên đế phải đem Ngô Giáng Tiên đày ra Nguyệt Quan, Viên Bảo Nhi vào Mê Lâu, chuyện này có không? 

 Tiêu Hậu trong lòng thầm nghĩ: "Đây là những chuyện trong cung cấm ngày xưa, làm sao mà mãi tận đây cũng biết rõ ràng đến thế. Chi bằng cứ chối phắt đi là hơn cả". Rồi đáp: 

 - Thiếp đối đãi với cung nữ rất rộng rãi, làm gì có những chuyện đó. 

 Tào Hậu cười: 

 - Hiện có người làm chứng, hãy để ta gọi ra, xem đúng hay sai nào. 

 Rồi sai cung nữ vào gọi, lát sau, một cung nữ khoảng mười lăm mười sáu lạy chào Tiêu Hậu, Tiêu Hậu nhìn kỹ, thì ra là Thanh Cầm, cung nữ của Viên Tử Yên, vội gọi ngay lại gần mà hỏi: 

 - Ta đã sai ngươi theo hầu Viên Tử Yên, sao ngươi lại ở đây? 

 Công chúa đỡ lời: 

 - Thanh Cầm vốn người phương Nam, một lần Tuyến Nương này đang ruổi ngựa trên đường bắt gặp, biết là cung nữ nhà Tùy, lại thấy lanh lợi, cho nên đem về theo. 

 Tào Hậu lại cười chỉ La La hỏi: 

 - Chỉ có con bé này là giữ đúng phép tắc của nương nương thôi. Tiên đế định ân ái, nó nhất định từ chối. Tiên đế phải làm thơ ban cho nó, mấy câu thơ tuyệt diệu này, nương nương còn nhớ chăng? 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Thiếp vẫn nhớ! 

 Nhân đó liền đọc: 

 Đong đưa đôi mắt sóng lao xao 

 Phấn sáp tô nên nét diễm kiều 

 Những muốn dẫn khanh vào mộng đẹp 

 Tần ngần khanh chối, ý là sao 

 Tào Hậu nghe xong liền than: 

 - Lời cùng ý đều đẹp, tiên đế rõ thật là giống đa tình vậy? 

 Dũng An công chúa nói: 

 - Thế còn Ngô Giáng Tiên nữa, bây giờ ở đâu? 

 Tuấn Nga thưa: 

 - Giáng Tiên nghe tin tiên đế bị nạn, liền cùng Nguyệt Tân thắt cổ tự tử ở trong Nguyệt Quan. 

 Dũng An công chúa lại hỏi: 

 - Mười sáu vị phu nhân, mới đi được năm vị, còn các vị khác ở đâu cả? 

 Nhã Nương thưa: 

 - Hoa phu nhân, Tạ phu nhân, Khương phu nhân đều thắt cổ tự tử. Lương phu nhân cùng Tiết phu nhân không chịu theo Hóa Cập nên bị giết chết. Giang phu nhân ở Hòa Minh viện, La phu nhân ở Nghênh Huy viện, Giả phu nhân ở Giáng Dương viện, sau loạn cũng chẳng biết đi đâu. Nay chỉ còn lại Phàn phu nhân ở Tích Chân viện, Dương phu nhân ở Minh Hà viện, Chu phu nhân ở Thần Quang viện, đều hiện ở cung Liêu Thành. 

 Tào Hậu cảm khái than: 

 - Cả một tòa giang sơn gấm vóc như thế, mà bị mấy con ở này làm hỏng nát cả. Cũng còn may, có kẻ tử tiết, có kẻ quyên sinh, để báo đền tri kỷ, cũng an ủi được phần nào vong linh tiên đế ở dưới dạ đài. 

 Lại hỏi Tiêu Hậu: 

 - Ba vị phu nhân ở lại Liêu Thành, sao không cùng nương nương đi chuyến này luôn? 

 Tuấn Nga đỡ lời: 

 - Không hiểu vì sao các phu nhân không chịu đi? 

 Dũng An công chúa cười đáp: 

 - Mỗi người ôm một cây tì bà, cần gì phải một cây đàn ba người hát theo nữa? 

 Lúc này Tiêu Hậu bị hai mẹ con Tào Hậu, câu nhanh câu chậm, câu xoa câu chém, khích bác hết lời này sang chuyện khác, chẳng biết chống đỡ thế nào cho được, chỉ đành ngồi trơ mặt, cãi liều vài câu: 

 - Hoàng hậu cùng công chúa ở chỗ không thấu hiểu hết. Thiếp đây cũng không phải phường tham sống sợ chết, chỉ bởi đêm ấy, nghịch tặc xông vào cung, thình lình sinh biến lớn, thây chất máu loang đầy đất, tiên đế nằm ngang trên giường đệm, Chu, Viên thì thây dựa vào lan can. Nếu không có thiếp chủ trì, lấy ván trầm hương của mấy giường chạm, đóng tạm làm quan tài, trước tiên là khâm liệm tiên đế, thu dọn tươm tất, nếu không thì làm sao tránh khỏi cảnh vương vãi thối rữa, rồi cũng chẳng thể tưởng cuối cùng ra sao! 

 Tào Hậu nói: 

 - Đó chính là việc của mẫu hậu triều đình vậy, ta cũng hiểu được chủ ý này của nương nương, không thèm học theo bọn thất phu, thất phụ, chết vùi nơi ngòi rãnh, mà vẫn còn mong giữ được sự tế tự của nhà Tùy, lập người nối nghiệp để nhà Tùy không đến nỗi tuyệt diệt. 

 Tiêu Hậu thấy Tào Hậu nói thế, liền thêm. 

 - Lời của hoàng hậu, thật là thấu hiểu lòng cho thiếp vậy! 

 Tào Hậu lại tiếp: 

 - Nghĩ như vậy thì thật đúng quá. Nhưng không hiểu tại sao, khi bọn phản thần đã lập Tần Vương Dương Hạo làm vua, chẳng được bao lâu lại còn đánh thuốc độc cho chết. Lúc bấy giờ, nương nương với phản thần tình sâu ý dậm, sao không nói cho một lời giải cứu, là duyên cớ làm sao? 

 Tiêu Hậu đáp: 

 - Lúc ấy thì kẻ vị vong này tính mệnh trong tay bọn giặc, dẫu có nói cũng chẳng cứu được ai nào! 

 Tào Hậu cười! 

 - Ba chữ "vị vong nhân" đáng ra không nên nói. Là "vị vong nhân" của họ Tùy, hay "vị vong nhân" của họ Vũ Văn? (1) 

 1 “Vị vong nhân": người chưa chết, người đàn bà thủ tiết với chồng tự xưng. "Bỗng dưng mà lại ra người vị vong” (Cung oán ngâm khúc). Họ Vũ Văn: Họ kép, cũng có lúc gọi Hứa, nhà Hứa, vì được phong Hứa Quốc Công. 

 Nói đến đây, Tiêu Hậu chỉ còn cách ôm mặt mà khóc, khiến Tuấn Nga, Nhã Nương cũng không ngăn nổi buồn thổn thức. Giữa lúc không biết nên như thế nào, thì thấy cung nhân vào thưa: 

 - Chúa công đã về tới nơi, xin mời hoàng hậu ra nghênh giá. 

 Tào Hậu nói với Tiêu Hậu: 

 - Vốn muốn giữ nương nương lại cùng trò chuyện, nhưng vì chúa công đã về, mời nương nương tạm nghỉ ở nhà riêng Lăng đại phu, ngày mai xin lại được gặp mặt. 

 Lệnh tiễn Tiêu Hậu lên loan, về nhà Lăng Kính. Chưa biết sự việc về sau ra sao, hãy chờ hồi sau phân giải. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Mốt

Chúa chân mệnh nhà lao thân hãm,

 Gái kỳ tài mẹo giúp rồng bay.

 Từ rằng: 

 Ấy cũng bởi cậy tài lỡ bước, 

 Dữu Lý kia cửa ngục hãm thân 

 Vua tôi trông mặt lệ tràn 

 Chờ cho vận hạn quá lần mới hay 

 Mộng giai nhân chuyên xoay thời thế 

 Chúng anh hùng đảm trí mưu cao 

 Ruổi tuấn mã, khoác chiến bào 

 Sông sau núi thẳm biến sầu thành vui. 

 Theo điệu “cầm đường xuân” 

 Bậc triết nhân thường có thuật tiên tri mọi sự, có thể chủ động tìm đến điều lành, tránh điều họa, nhưng rồi cuối cùng cũng không thể tránh khỏi số mệnh. Thời trước có Quách Phác cùng Bốc Hủ (l), đều tinh thông dịch lý, Một hôm, Quách Phác than với Bốc Hủ: 

 - Đệ cũng không hơn gì, nhưng huynh thì không thể nào tránh nổi họa binh đao? 

 1 Quách Phác: Người đời Tần, làm thư lại cho Vương Đôn, Vương Đôn định làm phản, sai Phác bói, Phác nói quẻ bói xấu lắm. Đôn nổi giận, giết Phác. Cùng với bạn là Bốc Hủ, nổi tiếng giỏi về tướng số, bói toán, riêng Phác còn là một nhà văn tên tuổi thời này. (Từ Hải). 

 Bốc Hủ đáp: 

 - Đệ năm nay đã bốn mươi mốt tuổi rồi, làm khanh làm tướng, mắc phải vạ này cũng đành, nhưng sao huynh cũng chưa có cách gì để tránh được tai ương của mình sao? 

 Quách Phác than: 

 - Mệnh của đệ sẽ hết ở Giang Nam, từ lâu đã biết chẳng sao tránh nổi. 

 Bốc Hủ khuyên: 

 - Huynh đừng làm thư lại nữa thì may ra có thể tránh được chăng? 

 Quách Phác đáp: 

 - Đệ không tránh được cái họa khi làm thư lại cũng như huynh không trốn được cái vạ khi làm khanh tướng vậy thôi. 

 Về sau, Bốc Hủ làm tướng cho Lưu Thông, thua trận, chết ở Tấn Dương, còn Quách Phác vẫn phải ra làm thư lại, rồi bị Vương Đôn giết chết. Thế mới biết số mệnh là chuyện đã định sẵn, ngay đến bậc đế vương xưa nay cũng không thể tránh khỏi, đến cả kẻ tinh thông lý số, biết trước mọi sự cũng không trốn được. 

 *** 

 Nay nói tiếp chuyện Hạ Vương Đậu Kiến Đức, về đến Lạc Thọ, Tào Hậu ra đón vào cung. Lạy chào xong, Tào Hậu thưa: 

 - Bệ hạ lâu nay việc quân khó nhọc, nhưng mừng vì lũ nghịch thần đã diệt hết, danh phận đã đường hoàng. Từ nay danh tiếng bệ hạ cao hơn nhà Đường, nhà Ngụy nhiều lắm. Nhưng hiện nay cung cũ nhà Tùy là ở Đông Đô. Bệ hạ đã liệu lý công việc ở đó ra sao? 

 Hạ Vương đáp: 

 - Cô đã sai Dương Thế Hùng đi rồi. Tất cả vàng ngọc, lụa là trong cung, cho đến phi tần cung nữ, đều được chia làm bốn phần, hai phần để thưởng công cho quân sĩ, hai phần đem cho nhà Đường, nhà Ngụy đã có công cùng cô mưu diệt họ Vũ Văn. Cô chỉ còn giữ mấy đồ quốc bảo cùng giấy tờ quan thiết mà thôi. 

 Tào Hậu thưa: 

 - Bệ hạ xử như vậy thì thật là công bằng. Nhưng còn một của quý sống hẳn hoi, không biết bệ hạ giữ lại làm gì đây. 

 Hạ Vương phán: 

 - Hoàng hậu đừng nhận nhầm cô cũng như bọn Hóa Cập. Cô từ ngày khởi binh đến nay, đánh đông dẹp bắc, chín châu bao la, đâu chỉ có một chỗ đáng dừng chân thôi sao, nếu như cô nghĩ đến chuyện hoan lạc như thế thì thiếu gì cơ hội. Cô sở dĩ cho đưa Tiêu Hậu về đây vì sợ để lại Trung nguyên sẽ bị người khác làm nhục, nên cố tình cho về cùng với công chúa, đã có chỗ xếp đặt chu đáo cả. 

 Tào Hậu thưa: 

 - Không phải vì thiếp ghen ghét, chẳng qua là để bàn kế sách cho quốc gia. Nếu được như vậy, thì thật là phúc lớn cho tôn miếu vậy. 

 Sáng hôm sau, Hạ Vương sai Lăng Kính đưa bọn Tiêu Hậu tới, đưa sang Đột Quyết với Nghĩa Thành công chúa. Tiêu Hậu vốn là người thích động, không thích tĩnh, mới đến đã chịu bao lời sĩ nhục của mẹ con Tào Hậu, biết rằng Tào Hậu khó mà dung mình, nay thấy nói sẽ được sang với Nghĩa Thành công chúa bên Đột Quyết, trong lòng vui sướng thầm nghĩ: "Ra nước ngoài chơi bời vài năm, còn hơn là ở lại đây để chịu cạnh khóe, mắng nhiếc của lũ người này". Liền giục Lăng Kính lên đường, thuyền lớn đi biển sắp sẵn, buồm giương cao đưa ngay sang nước Đột Quyết. 

 Lăng Kính sai người đem thư vào trình công chúa Nghĩa Thành, cũng vì Khả hãn Khải Thị đi mừng thọ Cao Xương Vương Khúc Bá Nha không có ở trong nước, Nghĩa Thành liền sai ngay Vương Nghĩa, đem theo ngựa, lạc đà đón tiếp Tiêu Hậu, lại sai văn thần ra mời Lăng Kính về trạm dịch khoản đãi. 

 Tiêu Hậu ở trong thuyền, thấy Vương Nghĩa xuống thuyền chào lạy đúng là "thiên lý tha hương ngộ cố tri", bất giác nước mắt ngắn dài hỏi: 

 - Vương Nghĩa, sao ngươi lại ở đây? 

 Vương Nghĩa thưa: 

 - Thần là người nước ngoài, chịu ơn sâu của tiên đế, chẳng có lòng nào mà đi thờ chủ mới nên gắng bảo hộ Triệu Vương cùng Sa phu nhân tới đây. Tiên đế chẳng nghe can gián của thần, đem cả tòa giang sơn mà vứt cho kẻ khác, nay nương nương tới đây, vốn cũng là tình cốt nhục, tất có thể yên thân qua ngày. Công chúa sai thần ra đón nương nương mau vào cung gặp gỡ. 

 Tiêu Hậu lên bờ, cưỡi một con ngựa tiêu dao rất đẹp, về cung. Nghĩa Thành công chúa cùng Sa phu nhân ra tận cửa đón vào, chào hỏi xong, tất cả ôm nhau mà khóc. Tiêu Hậu nói với Sa phu nhân: 

 - Các ngươi dẫn Triệu Vương lánh ở đây, bỏ ta lại chịu trăm nghìn khổ não. 

 Sa phu nhân đáp: 

 - Chúng tôi được nghe nương nương đã được trở về ngôi chính cung ở Chiêu Dương, chỉ còn trông trừ được lũ phản thần, lại sẽ gọi chúng tôi về lại đất cũ. Chẳng ai ngờ được lại có biến này trong biến kia vậy. 

 Đang chuyện trò, thấy Tiết Dã Nhi cùng Khương Đình Đình cùng vào lạy chào. Tiêu Hậu hỏi Sa phu nhân: 

 - Còn mấy vị phu nhân nữa, tưởng rằng đều ở đây cả? 

 Dã Nhi đáp: 

 - Cùng chạy theo còn có Địch, Tần, Lý cùng Hạ phu nhân, nhưng đã cắt tóc, vào cửa Phật, làm ni cô rồi! 

 Tiêu Hậu lại thở than một hồi, rồi nói với Sa phu nhân: 

 - Phu nhân ở đây, còn Triệu Vương sao không thấy? 

 Sa phu nhân đáp: 

 - Triệu Vương mới cùng lũ trẻ đi săn rồi! 

 Tiêu Hậu tiếp: 

 - Ta cũng thường hay nhớ tới Triệu Vương. 

 Sa Phu Nhân đáp lời: 

 - Chốc nữa trở về, thấy mẫu hậu, nhất định tha hồ mà mừng. 

 Yến tiệc bày ra, toàn là chim núi, thú hoang, nem hươu, bướu lạc đà. Lúc này Vương Nghĩa đã được làm thị lang của Đột Quyết, Đình Đình đã được phong phu nhân, Dã Nhi làm bảo mẫu của Triệu Vương, tất cả cùng ngồi vào, kể lể chuyện xưa sau. 

 Trời đã về chiều, thấy tiểu nội thị vào thưa: 

 - Tiểu vương phụ đã về ! 

 Tiêu Hậu hai năm nay không thấy Triệu Vương, nay thấy đã ra dáng vẻ trượng phu tuấn tú, thân hình cao lớn, lại săn được rất nhiều chim thú đem về vào thưa: 

 - Mẫu thân, con đã về ! 

 Thấy yến tiệc đang bày, Triệu Vương vội vàng quay ra, Sa phu nhân bảo: 

 - Quốc mẫu đang ở đây, mau vào lạy chào! 

 Triệu Vương vẫn đứng yên, Dã Nhi cùng Đình Đình vội thay nhau giảng giải: 

 - Nương nương đây là Tiêu Hoàng hậu, chính cung của phụ hoàng, là quốc mẫu của Triệu Vương, lẽ tự nhiên phải vào bái kiến chứ! 

 Triệu Vương thấy nói thế vội chạy tới, vái hai vái. Tiêu Hậu vội khen: 

 - Mới chỉ hai năm không gặp, mà nay đã trưởng thành thế này rồi! 

 Triệu Vương lạy xong hai lạy, bỏ chạy ra ngoài mất. Sa phu nhân bảo. 

 - Phải quỳ lạy cẩn thận chứ, sao đã bỏ đi? 

 Dã Nhi vội chạy ra kéo Triệu Vương vào. Triệu Vương cãi: 

 - Bảo nương, Bảo nương cũng biết lúc còn ở Tùy cung, thì Tiểu Nương nương chính là quốc mẫu của ta thật, tất nhiên phải làm đại lễ hẳn hoi, nhưng nay nghe nói nương nương đã đi với họ Vũ Văn. Mẹ đã đi lấy chồng, thì chẳng còn quan hệ gì với tôn miếu, tình mẹ con cũng hết, huống chi nương nương là người đàn bà đã thất tiết, cho nên lạy hai lạy cũng đã là quá rồi, chẳng qua vì sợ mệnh của Sa mẫu thân mà thôi!

 Nói xong, rút khỏi tay Dã Nhi, bỏ chạy ra ngoài. Tiêu Hậu nghe thấy hết, bất giác thấy hổ thẹn trong lòng, cất tiếng khóc lớn, nhớ lại thuở sinh thời Dượng Đế, ân tình ra sao, sau theo Vũ Văn Hóa Cập nhục nhã ra sao, nay hết chạy đông, đuổi tây, đến nỗi con không nhận mẹ, tiết chẳng nên tiết, vui chẳng ra vui, đến thân thích cũng còn thế, càng nghĩ lại càng sùi sụt, càng sùi sụt lại càng nghĩ ngợi, chẳng khác gì vợ Chu Kỷ Lương khóc đổ cả một đoạn Vạn lý Trường thành. May có Nghĩa Thành công chúa, cùng Sa phu nhân thật tình an ủi. Từ đó Tiêu Hậu ở hẳn đây với Nghĩa Thành công chúa. Chuyện không nói nữa. 

 *** 

 Lại nói Tần Vương trở về Trường An, triều kiến phụ hoàng Lý Uyên. Lý Uyên nói rõ ba cánh quân lợi hại ra sao, Tần Vương thưa: 

 - Lợi hại cũng chưa đáng sợ. Chỉ có Lưu Vũ Chu cùng Tiêu Tiên ở Tây Bắc, Vương Thế Sung ở giữa trung nguyên, thần sai người đưa thư đến, trước tiên là kết thân với Vương Thế Sung, để không phải lo trước sợ sau, sau đó cất binh chiếm lấy đất của Lưu Vũ Chu, Tiêu Tiên hai nơi, chẳng có gì mà không thắng được bọn này. Như vậy phụ hoàng thấy có nên không? 

 Vua Đường khen hay, liền viết ngay thư, sai Dương Thông cùng Trương Can đi Lạc Dương gặp Vương Thế Sung. Hai người lĩnh mệnh lên đường. Không ngờ Thế Sung xem xong nổi giận xé nát thư, lôi ngay Dương Thông chém dưới thềm, còn Trương Can thì cắt hai tai rồi đuổi về. Trương Can ôm đầu trở về Trường An khóc lóc kể với vua Đường. Lý Uyên nổi giận, định tự mình dẫn binh đánh Thế Sung, Tần Vương liền can: 

 - Phụ hoàng chẳng cần nổi giận rồi ra quân làm gì, con đã có cách xếp đặt đâu vào đấy. Hãy sai Lý Tĩnh làm Hành quân đại nguyên soái, dẫn mười vạn quân đi tiễu trừ Lưu Vũ Chu, con xin dẫn một cánh quân khác, thề quyết diệt kỳ được Vương Thế Sung thắng trận trở về yết kiến phụ hoàng. 

 Vua Đường cả mừng, liền cho Tần Vương kéo mười vạn quân, nhằm Lạc Dương mà tiến. Mỗi lần Tần Vương xuất binh, bọn tân khách của Tây phủ như Viên Thiên Cơ, Lý Thuần Phong, Hầu Quân Tập, Đào Tư Khiêm, Đỗ Như Hải, Hoàng Phủ Vô Dật, thường ngày vẫn được Tần Vương lấy lễ thầy trò mà đãi, nên bọn này đều được đi theo sát nơi màn trướng nguyên soái, trù liệu mưu kế. Tần Vương sai Ân Khai Sơn mang ấn tiên phong, Sử Nhạc, Vương Thường làm tả hữu hộ vệ, Lưu Hoàng Cơ làm trung quân chánh sự, Đoàn Chí Huyền, Bạch Hiển Đạo làm tả hữu hộ vệ, tự mình dẫn trung quân đi sau. Trưởng Tôn Vô Kỵ, Mã Tam Bảo lo việc bảo vệ thuyền bè, xe ngựa, thủy lục cùng tiến xuống Lạc Dương. 

 Vương Thế Sung nghe tin, liền dẫn quân ra Tuy Thủy, dàn thành trận thế nghênh địch. Tần Vương lập trại ở bờ bắc sông Tuy Thủy, hai quân đối diện, nhưng quân nhà Đường thì lính khỏe, tướng mạnh nên quân Thế Sung thua to, kéo chạy vào thành, đóng chặt cửa không chịu ra nữa. 

 Ngày hôm sau, trong trại quân nhà Đường, bày yến tiệc, khao thưởng ba quân, Tần Vương nhân rượu say hỏi người địa phương: 

 - Ở đây có nơi nào cảnh đẹp, có thể du ngoạn? 

 Thổ nhân đáp: 

 - Phía ngoài cửa bắc khoảng mười dặm, có núi Bắc Mang, chu vi có khoảng một trăm dặm, là nơi lăng mộ của các bậc vua chúa ngày xưa, cùng là mồ mả của các bậc trung thần liệt sĩ, rải rác như sao trời, như cờ trận, ở bên trong đủ các loại chim quý, thú lạ, thông xanh bách rợp, thật là một cảnh đẹp xưa nay vậy. 

 Tần Vương nghe nói vui mừng. 

 - Ta phải đến đó đi săn mới được. 

 Lý Thuần Phong can: 

 - Thần vừa xem quẻ xong, điện hạ vẫn còn cái họa một trăm ngày, hãy khoan giương cung, cưỡi ngựa, đi săn vội. Huống chi trên sắc mặt điện hạ thấy hiện rõ màu xanh thế kia, thì không đi đâu cả là hơn! 

 Tần Vương đáp: 

 - Ta sớm tối lúc nào cũng trong cảnh cung tên, xa ngựa, vẫn tâm thần sảng khoái, nào có thấy hoạn nạn gì đâu? 

 Rồi mặc áo giáp mỏng, áo bào nhẹ bên ngoài cùng với Mã Tam Bảo, đem theo cung tên, với khoảng mười lính kỵ, kéo lên Bắc Mang Sơn. Đến nơi Tần Vương nhìn bốn phía, cảm khái mà than rằng: 

 - Ta tưởng các vị vua đời trước, cai quản đất Trung Hoa này, cầm hàng trăm vạn quân trong tay, có biết bao anh hùng hào kiệt, nay may được mấy con ngựa đá bày bên, phủ đầy gai góc, làm bạn với thỏ với cáo thật là chán ngán. Mai sau có làm đến thiên tử nhà Đường, cũng đến thế này thôi sao! 

 Đang cảm thán đôi câu như thế, thì thấy phía tây bắc, có một con hươu trắng, nghểnh cổ đi lại, Tần Vương liền giương thẳng cung, bắn một mũi tên, trúng ngay lưng hươu, hươu mang cả tên cứ hướng tây mà chạy. Tần Vương quất ngựa đuổi theo, được đến mấy dặm, men theo sườn núi, thì con hươu lạ lùng không thấy đâu nữa, Tần Vương tìm khắp bốn phía mênh mông bãi cỏ rừng rậm, nhìn xa bỗng thấy cờ quạt rợp một góc trời, gươm giáo sáng loáng, một tòa thành mới sừng sững trước mặt, biển đề rõ ba chữ lớn: "Kim Dung thành", ánh vàng lóa mắt, Tần Vương nói: 

 - Thành này phải chăng là nơi của Lý Mật? 

 Mã Tam Bảo thưa: 

 - Đúng rồi! Điện hạ mau quay về, nếu bọn chúng biết thì khó mà thoát thân. 

 Không ngờ quân sĩ trong thành đã trông thấy, báo ngay cho Ngụy Vương, Lý Mật phán: 

 - Đây chính là kế dụ địch của Lý Thế Dân, không nên đuổi bắt. 

 Trình Giảo Kim dậm chân mà thét: 

 - Chúa công, không bắt lúc này thì còn đợi lúc nào nữa? 

 Nói rồi, cầm búa lớn, cưỡi ngựa thanh tông, phi như bay khỏi thành. Tần Thúc Bảo sợ Giảo Kim sơ xuất gì, vội đuổi theo sau. Tần Vương đang định quay ngựa, thì thấy một người một ngựa đuổi tới, miệng thét lớn: 

 - Lý Thế Dân đừng chạy nữa! 

 Tần Vương đặt ngang giáo trên lưng ngựa, rồi hỏi: 

 - Ngươi là ai! 

 Giảo Kim đáp: 

 - Ta là Trình Giảo Kim, riêng đến đây bắt ngươi. 

 Tần Vương cười: 

 - Thử xem sức ngươi có đủ làm ai sợ không? 

 Giảo Kim giơ cao hai búa, xông lên đánh, Tần Vương giơ thương ra đỡ, được khoảng ba mươi hiệp, vì Mã Tam Bảo đã bị Thúc Bảo đón đánh, Tần Vương đành phải bỏ chạy, Tam Bảo cũng không ánh nổi Thúc Bảo, nên chạy theo nốt. Giảo Kim đuổi theo Tần Vương gần kịp, Tần Vương rút tên, giương cung, bắn một phát, trúng ngay giải mũ Giảo Kim. Tần Vương thấy bắn không trúng, trong lòng hoảng sợ, quất roi ôm ngựa chạy dài, gặp ngay một tòa miếu cổ, có mấy chữ: "Lão Quân đường". Tần Vương nghĩ bụng: "Gặp được miếu này, sao không vào đây trốn quách xem sao". Rồi vội vào miếu, đóng ngay cửa lại lấy một viên đá lớn chẹn kỹ, còn ngựa thì buộc ngay ở bên thềm, nhìn lên tượng Lão Quân, cũng chẳng kịp chào, chỉ bái một vái mà khấn: 

 - Thánh thần tại thượng, nếu cứu được Lý Thế Dân này thoát được nạn trước mắt, xin sẽ trùng tu đền miếu đắp lại tượng vàng. 

 Khấn xong, liền nấp ngay dưới khám thờ. 

 Lão Quân ở "Lão Quân đường" vốn rất linh ứng, nên được hưởng cúng bái một vùng, nay thấy Lý Thế Dân có số mệnh hoàng đế anh minh, lúc tử vi còn cơn hoạn nạn, lẽ nào không hiển thánh, nên một trận cuồng phong bỗng nổi, xóa nhòa cả vết chân ngựa đưa Tần Vương tới, rồi lại thổi mấy chú nhện tới giăng đầy cửa miếu. 

 Giảo Kim đuổi Tần Vương đến ngã ba, bỗng không thấy đâu nữa, nhìn bốn chung quanh, chỉ thấy phía trước cây cối rậm rì, dây leo chằng chịt, liền cứ thế giục ngựa chạy tiếp, trèo lên sườn núi cao, thấy phía sau núi có một tòa miếu cổ, Giảo Kim vội vã phi ngựa tới trước cửa miếu, đập cửa thình thình vẫn chẳng thấy động tĩnh. Lại thấy mạng nhện giăng đầy, xung quanh bụi bám khắp trên cổng, khắp dưới đất, rõ ràng chẳng ai vào đây. Giảo Kim đành quay ngựa bước ra, lại trèo tiếp lên sườn núi, quay lại nhìn tòa miếu lần nữa, Giảo Kim giật mình kinh sợ, thấy một con mãng xà lớn màu vàng, đang nằm dọc theo nóc miếu. 

 Giảo Kim thầm nghĩ: "Ta nghe kể chuyện: Lưu Bang nhà Hán, chém rắn lớn ở núi Mang Đãng, về sau làm đến hoàng đế. Ta cũng đường đường một bậc trượng phu, lại không trừ nổi con nghiệt súc này sao?" Lại quay ra trước miếu, xuống ngựa, bê một hòn đá lớn, đập rầm rầm vào cửa, rồi trèo lên nhìn nóc miếu, thì chẳng thấy mãng xà đâu nữa. Giảo Kim nghĩ: "Có lẽ mãng xà này chui vào trốn trong miếu". Ra trước sân miếu thấy ngay con ngựa đang buộc ngay ở gốc cột, Giảo Kim gào lên: 

 - Thì ra Lý Thế Dân trốn ở trong này! 

 Nhìn khắp nóc nhà, vẫn chẳng thấy mãng xà đâu, lại thấy tấm rèm trước cửa khám lay động, vẻ như có đuôi mãng xà đang ngoe nguẩy ở bên trong. Thì ra Tần Vương thấy có người vào dò xét từng nơi, nên ngồi trong khám nhẹ nhàng rút kiếm ra. Lúc này Thúc Bảo cũng vừa kịp đến miếu, thấy Giảo Kim đang cuốn rèm trước khám lên, miệng quát: 

 - Thằng giặc! Nấp ở đâu? 

 Rồi giơ cao búa, cứ nhằm khám tối mà bửa, Thúc Bảo bỗng thấy hiện ra năm móng chân rồng vàng bíu chặt lấy lưỡi búa. Thúc Bảo biết ngay đó là chân mệnh hoàng đế, liền bước vội tới, giơ đôi giản, đỡ lấy lưỡi búa, nói: 

 - Hiền đệ, hiền đệ không biết rằng, Đường với Ngụy vốn là cùng họ, vẫn thường có thư từ qua lại, nếu mà giết chết thì không những không có công mà còn có tội nữa kia đấy! 

 Giảo Kim đáp: 

 - Đại huynh, đại huynh không biết, vừa rồi tiểu đệ thấy Thế Dân hóa thành con mãng xà vàng, nay nếu không giết, sợ lại hóa thành mãng xà mà trốn mất thôi! 

 Thúc Bảo lặng lẽ cười, rồi nhẹ nhàng đỡ Tần Vương từ trong khám ra, sai tả hữu dẫn ra khỏi cửa miếu. Bọn này dắt theo ngựa của Thế Dân, Thúc Bảo, Giảo Kim cưỡi ngựa kèm phía sau, kéo một hàng về Kim Dung thành. Lúc này dân hàng phố chẳng biết tốt xấu, thay nhau to nhỏ rằng: 

 - Ra dáng bậc trượng phu như vậy, mặt vuông, tai lớn, chẳng biết phạm phải tội gì, mà lại bị cả hai vị tướng quân phải theo giải về thành thế kia! 

 Mấy tên tay chân, có kẻ mau miệng nói: 

 - Các người đừng coi thường, đấy chính là Thái tử con của vua Đường, tự nhiên đi qua đây, bị hai tướng quân đây bắt được. 

 Trăm họ trầm trồ: 

 - Đúng là tướng mạo khác thường, thật dòng cành vàng lá ngọc. Tiếc thay! Thương thay! 

 Thúc Bảo trên ngựa, nghe những lời này, những muốn thả ngay Thế Dân ra, nhưng nhiều mắt, nhiều tai, không thể làm được, nên đành cứ thế, giải Thế Dân về. 

 Ngụy Công sai lực sĩ giải Thế Dân ra trước thềm, lớn tiếng trách mắng: 

 - Ngươi quả là phường gian tham, tự mình tìm đến cái chết. Cha ngươi trấn thủ Trường An, đất rộng người đông. Ta ở Dung Thành này, bất quá mấy vạn dân, mới đây lấy Hà Nam, nay lại nghe chuyện đánh úp thành này nữa sao? Thế thì còn đạo lý nào nữa? 

 Tần Vương đáp: 

 - Xin thúc phụ hãy nguôi cơn thịnh nộ, cháu xin có lời thưa, nhân vì Vương Thế Sung ở Lạc Dương, giết sứ thần của phụ thân, nên mới sai cháu lãnh binh tiễu trừ, sau một trận thua, Thế Sung đóng cửa không chịu ra khỏi thành, cháu phải lui binh về chân núi Thiên Thu Lãnh, nhân say rượu rồi đi săn. Chẳng có lòng nào mà nhìn ngó Kim Dung thành của thúc phụ, xin thúc phụ đừng nghi oan. 

 Ngụy Công giận dữ: 

 - Ngươi đừng giở giọng giảo hoạt, ta với ngươi nào có thân thích gì mà mượn tiếng gọi chú xưng cháu, chẳng qua ngươi cậy mình tài cán coi thường kẻ khác nên tới đây, nhòm ngó thực hư, để lựa kế mà hành động, nay lại lấy lời ngon ngọt lừa ta sao nổi. 

 Quát võ sĩ lôi ra chém đầu. Ngụy Trưng lên tiếng khuyên giải. 

 - Chúa công mà giết Thế Dân, thì không phải là kế an định xã tắc, mà Kim Dung thành này sẽ gặp tai họa đến nơi. 

 Huyền Thúy hỏi: 

 - Tại sao? 

 Ngụy Trưng thưa: 

 - Người này đã từng đông chinh tây thảo, giành được Trường An, cùng với cha lên ngôi trấn giữ một phương, binh tinh lương nhiều, thủ hạ nhiều như mây trời, mưu thần tài giỏi như mưa sớm. 

 Đường Công nếu nghe tin con yêu bị giết, tất dốc binh cả nước, trước là báo thù, sau là tàn sát kỳ hết, chẳng còn điều gì mà họ không dám làm. 

 Huyền Thúy liền hỏi: 

 - Nếu nói như thế, thì chẳng nhẽ ta thả Thế Dân ra sao? 

 Ngụy Trưng đáp: 

 - Chi bằng đem Thế Dân giam vào ngục thất, sai người báo cho Lý Uyên, nếu có thư sang triều cống, thì thả cho về, nếu không nghe theo, cứ giữ Thế Dân lại đó, thế là Đường Công suốt đời chẳng dám phạm vào đất ta, lại không tốt hơn sao! 

 Huyền Thúy khen: 

 - Khanh nói có lý lắm? 

 Liền sai ngục tốt dẫn vào nhốt ở Nam lao. Lúc này Đường Công ở Trường An, nghe Mã Tam Bảo thưa trình, định tự mình dẫn người ngựa đánh Lý Huyền Thúy để cứu Tần Vương, nhân Lưu Văn Tĩnh cùng Huyền Thy là anh em con cô con cậu, khuyên Đường Công viết thư, sắp lễ vật, đến gặp Huyền Thúy. Không ngờ Huyền Thúy chẳng nhận họ hàng, đòi lôi ra chém đầu, may có Từ Mậu Công khuyên can mãi, nên mới được giam luôn vào Nam lao. 

 Khá thương: 

 Thanh long, bạch hổ ngồi tù 

 Anh hùng gặp nạn, thẫn thờ nhìn nhau. 

 Ngụy Công ra lệnh xong, đã thấy thám mã về tâu trình: 

 - Hiệu úy Khải Công ở Khai Châu, giết thứ sử Phó Sao, cướp ấn tín, cùng với tham quân Từ Vân, câu kết với thứ sử Ninh Lăng, đóng giữ Ung Thành làm phản, kéo người ngựa tới xâm phạm đất ta. Lại phao lên rằng: thứ sử Hà Đinh ở Hồng Châu dâng thành trì cho chúng. Lấy người ngựa của cả hai quận, cùng với Khải Công đánh vào Yển Sư, Mạnh Tân, trăm họ của hai nơi này, không người gìn giữ, thật muôn nghìn nguy cấp. 

 Huyền Thúy nghe thế cả sợ mà rằng: 

 - Yển Sư là cuống họng của ta, lương thực kho tàng đều ở đó cả, nếu bằng mất, thì thật là họa lớn cho nhà Ngụy. Ta phải tự thân dẫn đại quân đi mới xong. 

 Liền lệnh Trình Giảo Kim đi tiên phong, Đơn Hùng Tín, Vương Bá Đương làm tả hữu hộ vệ. Giữ Từ Mậu Công, Ngụy trưng, Thúc Bảo cùng trông coi việc nước, còn mình dẫn quân kéo thẳng tới Khai Châu. 

 *** 

 Lại nói Tần Vương cùng với Văn Tĩnh bị giam ở Nam lao, may có Thúc Bảo hàng ngày vẫn đưa thêm cơm rượu, nên cũng không đến nỗi khổ sở. Cũng may là ngục quan Từ Lập Bản, tự Nghĩa Phù, vợ mất sớm, chỉ có mỗi một người con gái, tên gọi Huệ Anh, tuổi đã mười tám, vẫn chưa có nơi chốn. Tuy là quan nhỏ, nhưng Nghĩa Phù vốn hiểu biết hơn người, có con mắt tinh đời, đối với bọn tù nhân Nghĩa Phù thường cho rằng tội ít, oan nhiều, lại chẳng hiềm trước kia xấu tốt, vẫn đối đãi rất nhân từ, lấy của chu cấp thêm cho họ. 

 Tần Vương mới vào nhà ngục, thì ngay đêm hôm ấy, con gái Huệ Anh nằm mơ thấy 1 con Rồng vàng nằm khoanh trong nhà ngục. Huệ Anh cả sợ, lẻn nhìn trộm xem sao, thì thấy rồng vàng bay lên, cuốn lấy mình, đến khi tỉnh dậy, kể lại cho Nghĩa Phù tỉ mỉ. 

 Nghĩa Phù biết ngay Tần Vương chính là chân mệnh thiên tử, đã có ý định thả cho cả hai về Đường, trong lúc vội vàng, vẫn chưa tìm ra được thời cơ thuận lợi. Nhưng vẫn cứ mỗi ngày ba lần cơm nước, mời Tần Vương cùng Văn Tĩnh sang gian sạch sẽ ngay bên khoản đãi chu đáo. Hai người vô cùng cảm tạ. 

 Một hôm Thúc Bảo cùng Ngụy Trưng, ngồi ở trong dinh của Mậu Công uống với nhau mấy chén rượu, nói tới chuyện Tần Vương, Thúc Bảo cả cười. Từ, Ngụy hai người liền hỏi: 

 - Hiền huynh cớ sao lại cười vậy? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Tiểu đệ nghĩ rằng Trình hiền đệ quá là một người ngờ nghệch. 

 Mậu Công hỏi: 

 - Sao lại ngờ nghệch? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Hôm ấy ở "Lão Quân đường", đang lúc Giảo Kim giơ búa để giết Tần Vương, thì tiểu đệ thấy năm móng rồng vàng bám giữ lấy lưỡi búa, vội giơ đôi giản đỡ, nhưng không thể thả Tần Vương ra được nên đành phải giải về thành. Giảo Kim bảo rằng Tần Vương chính là mãng xà tinh, nhất định phải giết. Thế thì có đáng cười không? 

 Ngụy Trưng lên tiếng: 

 - Tiểu đệ thấy Tần Vương dáng rồng mắt phượng, đúng là bậc chân chúa ở đời. ên hôm vừa rồi chúa công định giết, tiểu đệ phải hết lời khuyên can, mới được giam ở Nam lao. Đến lúc vận hạn đã hết, Tần Vương trở về Trường An, thì tất là ngọc đá đều nát, làm thế nào bây giờ? 

 Mậu Công nói: 

 - Chúng ta đều là anh em tâm phúc ở đây cả. Nhân lúc Tần Vương gặp hoạn nạn này mà kết thân, thì mai kia gặp gỡ, cũng dễ làm nên sự nghiệp hơn nhiều. 

 Thúc Bảo cũng không tiện nhắc tới chuyện có ơn với Đường Công, lại vừa cứu được Tần Vương khỏi chết, chỉ gật đầu đáp: 

 - Từ hiền huynh nói xác đáng lắm! 

 Ngụy Trưng tiếp lời: 

 - Cứ như tiểu đệ nghĩ, cần phải nhân lúc Ngụy Công chưa về, chúng ta cùng kéo tới gặp Tần Vương, Lưu Văn Tĩnh chuyện trò, để thấy anh em chúng ta ở đây không phải ai cũng mù cả. Không biết ý hai hiền huynh ra sao? 

 Thúc Bảo tán đồng: 

 - Tiểu đệ cũng nghĩ như thế, ngày mai, xin tới sớm rồi cùng đi! 

 Sáng sớm, Thúc Bảo xếp sẵn cơm rượu tươm tất lặng lẽ sai người đem vào Nam lao. Ngụy Trưng, Mậu Công tới thì cũng là lúc mặt trời sắp đứng bóng, cả ba thay y phục, dắt theo một gia đồng, lên ngồi kiệu nhỏ, thẳng tới cửa Nam lao. Gia đồng vào báo với quan ngục. Từ Nghĩa Phù vội ra mở cửa. Ngụy Trưng sai gia đồng bảo phu kiệu trở về trước. Nghĩa Phù dẫn ba người vào phòng giam gặp Tần Vương cùng Văn Tĩnh. Tần Vương, Văn Tĩnh đều bái chào tạ ơn. Mậu Công lên tiếng: 

 - Không phải bọn tiểu đệ đều thuộc phường đui mù, không thấy được sự anh minh của điện hạ. Chẳng qua điện hạ cùng Văn Tĩnh đang gặp cơn vận hạn. Nay nhân Ngụy Công dẫn binh thảo phạt Khải Công, không có trong cung, anh em tiểu đệ tới đây gặp gỡ một phen. 

 Ngụy Trưng băn khoăn: 

 - Chỉ có thế này, thì đứng ngồi ra sao? 

 Thúc Bảo nói: 

 - Tiệc rượu đã bày đầy đủ ở phòng bên cạnh. 

 Văn Tĩnh nói với Mậu Công: 

 - Ngục quan Từ Nghĩa Phù, tuy là quan nhỏ chức thấp, nhưng thực là bậc khác thường, may được ngục quan sớm chiều chăm nom, thực chẳng dám mong hơn. Quả là tài trí, hiểu biết của ngục quan thật hơn hẳn mọi người vậy. 

 Nói xong, thì mọi người cũng vừa tới phòng bên, phòng này gồm ba gian rộng rãi, sạch sẽ, khắp tường là những bức họa, những chữ viết các câu cách ngôn khuyên răn đạo lý. Ba người mời Tần Vương ngồi trên, rồi đến Văn Tĩnh, Ngụy Trưng, Thúc Bảo, Mậu Công. Tần 

 Vương nói: 

 - May được ý tốt của ba vị, Thế Dân này nào có tài cán gì, mà được ba vị ghé mắt xanh tới. Ngục quan Từ Nghĩa Phù, tuy giữ chức nhỏ, nhưng nhất định chẳng ở dưới người lâu nữa đâu, được mang ơn chu tất của ngục quan, ý của Thế Dân này cũng là "mượn hoa cúng phật", muốn mời Nghĩa Phù một ghế, không biết ba vị có bằng lòng ngồi cùng chăng? 

 Mậu Công đáp: 

 - Ngục quan nguyên xuất thân khoa giáp của nhà Tùy. Lúc trước chúa công đã xếp làm tư mã, nhưng không hiểu ý định ra sao, chỉ xin làm Hình tào giám thủ. 

 Ngụy Trưng nói: 

 - Tiểu đệ cũng nghe ngục quan Từ Nghĩa Phù thường làm việc thiện, lại hiểu biết. Trong giới quan trường mà được người như vậy thật là hiếm. Xin mời ngay ra đây cho. 

 Gia đồng mời Nghĩa Phù đến, khiêm nhượng một hồi, Nghĩa Phù ngồi xuống cuối tiệc. Rượu được ba tuần, thấy gia nhà Nghĩa Phù bước vào thưa: 

 - Có lệnh của hoàng hậu! 

 Nghĩa Phù vội chạy ra. Ngụy Trưng cùng mọi người kinh ngạc, đều thấp thỏm chờ đợi. Nghĩa Phù quay lại, ngồi ghế cũ rồi. Ngụy Trưng mới hỏi: 

 - Trong cung có chuyện gì vậy? 

 Nghĩa Phù cười đáp: 

 - Quả không dám giấu. Hoàng hậu thật có duyên nợ với tiểu nữ, có biết tiểu nữ cùng theo đòi nghiên bút, lại thông hiểu âm luật, đã nhiều lần đòi vào trong cung thưởng thức, nên thường sai nội thị tới triệu. Hôm nay nhân mừng sinh Thái tử, cho người ra phán phải vào cung ngay. 

 Mậu Công nói: 

 - Lệnh ái nhất định tài mạo song toàn, không hiểu năm nay xuân xanh bao nhiêu? 

 Nghĩa Phù thưa: 

 - Tiểu nữ tên gọi Huệ Anh, tuổi vừa mười chín. 

 Mậu Công nghe Thúc Bảo cùng Ngụy Trưng, Tần Vương nói tới chuyện đánh úp Hà Nam, nên yên lặng nghe, chưa đáp lời Nghĩa Phù vội. Rồi tất cả đều quay sang chuyện chiến trận lập công kiến nghiệp. Chuyện đang say sưa, thì thấy gia đồng vào thưa với Ngụy Trưng: 

 - Quan nội thị đem thánh chỉ tới. 

 Ngụy Trưng nói với Thúc Bảo, Mậu Công: 

 - Chư huynh ngồi đây tiếp điện hạ, hãy cứ thong thả uống vài chén, tiểu đệ xin quay lại ngay. 

 Văn Tĩnh cùng Mậu Công vốn là bạn bè cũ, Thúc Bảo cùng Tần Vương vốn vì có ơn thâm giao, bốn người chuyện trò tâm đắc bỗng gia đồng lại vào thưa rằng: 

 - Ngụy đại nhân đã trở về! 

 Tất cả đứng dậy đón. Mậu Công nói: 

 - Đáng ra chúa công đánh dẹp Khải Công, mở đất chiếm thành, nên có thánh chỉ, sao thấy Ngụy hiền huynh có vẻ lo lắng? 

 Ngụy Trưng rút từ trong tay áo ra tờ chiếu thư: 

 - Xin mời chư huynh xem. 

 Phần trên nói về việc Khải Công cởi áo ra hàng, phía sau là nỗi mừng mới sinh Thái tử, nên ra lệnh ân xá, trừ những kẻ cường đạo, giết người trọng án, cũng không ân xá cho hai kẻ đang giam trong Nam lao là Lý Thế Dân và Lưu Văn Tĩnh. Thúc Bảo cùng Mậu Công xem xong, vò đầu nghĩ ngợi, chẳng nói một lời. Lại thấy bên ngoài tiếng người ồn ào, Ngụy Trưng hỏi: 

 - Sao mà huyên náo vậy? 

 Nghĩa Phù đáp: 

 - Có lẽ trong cung đưa tiểu nữ về chăng? 

 Gia đồng mời Nghĩa Phù ra. Mậu Công nói: 

 - Hôm trước Tần đại huynh định bày tiệc rượu ngay tại nhà để mời điện hạ, tiểu đệ sợ có sơ xuất gì thì chẳng thể đối phó kịp. Thuở ban đầu Ngụy Công đối xử còn có điều tình nghĩa, gần đây ngày càng kiêu căng, cậy mình thông hiểu mọi chuyện. Anh em tiểu đệ cũng muốn tìm cách giải thoát ngay cho điện hạ, nhưng mới đây Ngụy Công nhận ra chỗ thân tình ấy, cho nên lại càng cố giữ lại. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Nay việc đã đến thế, làm thế nào đây? 

 Tần Vương thấy mọi người bàn bạc, chẳng biết nên nổi thế nào, đành lên tiếng an ủi: 

 - Đội ơn ba vị quá lo lắng cho. Cũng bởi hai chúng tôi đây, họa tình chưa hết, hãy cứ nấn ná ít lâu, cũng không hề gì. Chỉ phiền ba vị lại phải lâu công khó nhọc. 

 Ngụy Trưng bàn: 

 - Tiểu đệ nghĩ thế này. . . 

 Định nói nữa, thì thấy Nghĩa Phù bước vào, Ngụy Trưng ngừng lại, Văn Tĩnh liền nói: 

 - Nghĩa Phù đây cũng thuộc bạn bè tâm giao rồi, các vị có chuyện gì cứ nói, chẳng có điều gì phải lo ngại. 

 Ngụy Trưng nói với Văn Tĩnh: 

 - Xin Lưu hiền đệ xem qua chiếu ân xá, liệu chữ "bất" này, mà thêm một nét, thì nghiễm nhiên thành chữ "bản" (1). Công về cũng chẳng thể hạch sách gì được. Mà dẫu thế nào, thì đây là chuyện xương máu, ba anh em chúng ta cùng gánh chịu cũng đáng tội. 

 1 Trong chiếu ân xá có ý: "Bất xá Nam lao Lý Thế Dân..."chữ "bất”, rất giống chữ "bản", nếu chữa vậy thì có thể hiểu thành: "Vốn cũng ân xá cho Lý Thế Dân..." 

 Thúc Bảo vui mừng: 

 - Thế thì hay lắm, phải nhờ đến Ngụy đại huynh, viết sao cho thật giống thân bút của chúa công mới được. 

 Mọi người đứng xúm chung quanh có người khen hay, có người lặng yên không nói. Nghĩa Phù lên tiếng: 

 - Tiểu nhân cũng có nghĩ ra một cách, xin ba vị đại nhân cho phép thưa xem sao. 

 Mậu Công đáp: 

 - Huynh ông có kế hay, xin nói ngay cho. 

 Nghĩa Phù thưa: 

 - Đem chữ "bất" chữa thành chữ "bản", chỉ sợ văn nghĩa không thông, mà thật gượng gạo. Lại thêm chúa công vốn thông minh, hiểu biết, chứ không hôn ám gì, chỉ cần khác nét bút của mình một chút, một người cẩn thận như thế, sẽ thấy ra ngay thì thật có nhiều điều phiền toái. Chi bằng theo cách này của tiểu nhân vậy, để tiểu nhân thả điện hạ cùng Lưu đại nhân, chúa công về hỏi; ba vị cứ thế trút tội lên đầu tiểu nhân. Bất quá cũng chỉ đến tội trông coi Nam lao không cẩn thận, chẳng đến trọng tội đâu. Còn như chữa chiếu thư thì chẳng phải chuyện đùa. 

 Ai nấy đều khen: 

 - Lý lẽ xác đáng lắm! 

 Ngụy Trưng nói thêm: 

 - Nghĩa Phù bàn thế cũng phải. Nhưng không biết nên làm cách nào bây giờ. 

 Nghĩa Phù thưa: 

 - Vừa rồi Vương hậu cho gọi tiểu nữ vào, nhân ngày đầy tháng Thái tử, muốn viết sớ đến chỗ chúa công, nhưng trong người còn mệt mỏi, cho nên gọi tiểu nữ vào viết thay, sai người đem tới Mạnh Tân. Tiểu nữ thừa cơ nói rằng nên sai tiểu nhân làm việc này, sáng mai, canh ba phải lên đường, thật đúng là cơ hội để khỏi phải chữa chiếu thư. Hiện đã có ý chỉ ở đây, sai tiểu nhân tới chỗ Từ đại nhân lấy quan quân tới bảo vệ Nam lao. Cả tờ sớ trình chúa công đã được niêm phong bằng giấy lụa vàng, tiểu nữ đã cầm về đây rồi. 

 Nghĩa Phù đưa ý chỉ trong tay áo ra, thì thấy hoàng hậu viết rằng: 

 “Gửi cho chưởng ấn Binh bộ đại thần họ Từ: 

 Phái ngay lại tốt hai mươi tên đến Nam lao phòng giữ, tuần sát đợi khi nào ngục quan Từ Lập Bản công cán trở về, sẽ về bản bộ như cũ. Không được sai sót.” 

 Ngụy Trưng, Thúc Bảo cả mừng: 

 - Thật đây là đại phúc của nhà Đường, khiến cho điện hạ trở về triều, cha con sum họp quân thần gặp gỡ vậy! 

 Nghĩa Phù nói: 

 - Nhưng cần phải có tới năm ngựa tốt cùng với đầy đủ yên cương mới xong. 

 Ngụy Trưng hỏi: 

 - Cùng với huynh ông nữa cũng chỉ ba ngựa là đủ, còn thừa hai ngựa làm gì? 

 Nghĩa Phù đáp: 

 - Để cho tiểu nữ cùng với gia đồng. 

 Mậu Công nói: 

 - Nếu đã như thế, cũng nên mời lệnh ái ra đây ra mắt điện hạ, để rồi còn cùng lên đường. 

 Nghĩa Phù vội đứng dậy, rồi cùng Huệ Anh vào. Mọi người nhìn ra, thì tuy chẳng son, chẳng phấn nhưng lại càng hiện rõ vẻ đẹp trời ban. Nghĩa Phù thưa: 

 - Trong lúc vội vàng này, xin cho tiểu nữ lạy ba lạy. 

 Ai nấy đều theo đó đáp lễ. Nghĩa Phù mấy lần không dám nhận, cuối cùng cùng đành trả lễ ba vái. Huệ Anh vội quay trở ra. 

 Mậu Công lên tiếng: 

 - Tiểu đệ dạo đi đánh Hóa Cập, có lấy được hai con ngựa hay, nết rất hiền. Một con xin gửi điện hạ, một con xin tặng lệnh ái Huệ Anh. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Con ngựa truy phong của điện hạ, hiện tiểu đệ đang nuôi trong chuồng nhà, chỉ cần thêm hai con nữa, hẹn một nơi nào đó rồi chúng ta nên chia tay nhau mà lo liệu công việc thì hơn. 

 Mậu Công đáp: 

 - Các vị nên nhanh chóng xếp đặt chu đáo cho. Tiểu đệ xin điều ngay tay chân đến đây, rồi cùng đến chỗ Thúc Bảo là hay hơn cả! 

 Ba người bàn bạc kỹ lưỡng một hồi, rồi Nghĩa Phù đưa ra tận cổng trại, rồi quay vào ngay, thu xếp tế nhuyễn, sắp hai bộ quần áo xanh cùng với mũ giày, đưa cho Tần Vương cùng Văn Tĩnh thay. 

 Nghĩa Phù lại lấy thêm hoa quả, gọi gia đồng bê thêm một vò rượu đến bày ở nhà khách. Tần Vương hỏi: 

 - Thêm rượu cùng các thứ nhắm này để làm gì? 

 Văn Tĩnh đáp thay: 

 - Thần hiểu những cái này của Nghĩa Phù dùng để làm gì, chốc nữa điện hạ sẽ thấy! 

 Bỗng nghe báo có người gọi mở cổng. Nghĩa Phù vội sai người ra xem, thì ra viên quan sai cùng mười tên lính, đến trình diện. Nghĩa Phù nói: 

 - Chỗ này là cửa cấm, vừa rồi Từ đại nhân đã tự thân xem xét, đã khóa kỹ lưỡng. Vừa dịp có hai người nhà, đến chỗ Đơn tướng quân có việc, nên bày tiệc rượu sẵn đây. Trời thì lạnh, rượu sẵn trong vò, xin mời cứ uống thoải mái, chỉ xin coi sóc trong ngoài cẩn thận cho thôi. 

 Từ Huệ Anh cầm đèn lồng đến, Tần Vương cùng Văn Tĩnh bưng hộp đựng sớ tấu, gia đồng gánh hành lý, rồi gọi một thổ binh ra mở cổng. Bọn Nghĩa Phù năm người vội vàng đi khỏi, chưa được bao lâu, đã thấy gia đồng nhà Thúc Bảo đến đón: 

 - Tần đại nhân đang nóng ruột đợi gặp các ngài. 

 Nghĩa Phù vào dinh Thúc Bảo, đã thấy bên sân buộc đủ năm ngựa, Thúc Bảo ra đón, nói với Tần Vương: 

 - Thúc Bảo này cũng biết điện hạ đang nóng lòng ra đi, nên không dám lưu luyến. Rồi chỉ mấy con ngựa nói tiếp: 

 - Mấy con ngựa này, Từ Mậu Công vừa cho người dẫn lại, con ngựa trắng lốm đốm vàng kia, xin biếu điện hạ. Còn con có yên phủ gấm thêu, xin tặng Huệ Anh tiểu thư. Ngựa của điện hạ, xin để cho Văn Tĩnh cưỡi. Còn hai con kia là của huynh ông Nghĩa Phù cùng gia đồng, đều là những ngựa thuần lại dai sức cả. 

 Rồi lấy ở ống tay áo ra mấy cái thư, đưa cho Văn Tĩnh, nói: 

 - Ba thư này phiền hiền huynh cầm hộ, một là biểu tạ ơn gửi lên vua Đường, một thư gửi Lý Dược Sư, một gửi cho Sài Tự Xương vậy, nhờ hiền huynh khó nhọc. 

 Văn Tĩnh vội bỏ ngay vào túi. Thúc Bảo sai gia đồng dẫn ngựa của mình để đưa Tần Vương khỏi thành. 

 Tần Vương ngăn: 

 - Ơn tướng quân biết bao tình nghĩa, Lý Thế Dân này xin khắc sâu vào tâm can, thật không dám phiền tôn giá tiễn ra khỏi thành, sợ thêm chuyện hiềm nghi. 

 Thúc Bảo gạt nước mắt: 

 - Kẻ sĩ vì tri kỷ mà chết, kẻ đại trượng phu sợ chuyện hiềm nghi thì chẳng làm nên chuyện gì cả. 

 Rồi lên ngựa trước, mọi người cũng đành lên theo, phi nhanh ra cửa thành, lại đinh ninh dặn dò một lần nữa, mới chắp tay cáo biệt. 

 Đó gọi là: 

 Trượng phu lòng thật ít lời 

 Nói ra những sợ người đời. . . ngẩn ngơ. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Hai

Rắp báo ơn, Thế Dân bắt cóc mẹ bạn,

 Tin việc nghĩa, Ninh Thị tự xa nhà mình.

 Từ rằng: 

 Rèm rũ, then cài cánh cửa sâu 

 Xa xa núi dựng, dạ em sầu 

 Mưa mưa, gió gió, đi rồi lại 

 Xao xuyến lòng ai, bởi tự đâu? 

 Người ơi, người ở nơi nào 

 Ghềnh sông hang núi, ào ào gió xuân 

 Bóng nguyệt, cầu tan nhịp gãy 

 Chồng lo xa nên xảy tai ương 

 Nhìn nhau người những hoang mang 

 Ve sầu, bọ ngựa, sẻ vàng không hay (1) 

 Khen chim hồng bay cao lo trước 

 Chín đường quanh như ruột dê xoăn 

 Sóng kình muôn dậm sầu tuôn 

 Đỗ quyên ơi, hãy về nguồn quê xưa 

 Đời người thôi thế cùng vừa... 

 Theo điệu "Mãn giang hồng” 

 1 Hàn Phi tử: Một người đi săn nhằm bắn chim sẻ, chim sẻ đang rình bọ ngựa, bọ ngựa sắp chộp ve sầu. Dưới đất, kiến đang bò đến chuẩn bị đốt người đi săn... 

 *** 

 Lại nói tiếp chuyện Tần Vương cùng Lưu Văn Tĩnh, Từ Nghĩa Phù, Từ Huệ Anh, ra khỏi thành Kim Dung, đi suốt ngày đêm. Trên đường đi, Tần Vương nghĩ tới Thúc Bảo, nhân đó nói Văn Tĩnh: 

 - Thúc Bảo thật là người ân nghĩa trọn vẹn, chẳng mấy ai được đến như vậy, thật đúng như hai câu thơ: 

 Nước dầm nghìn thước Đào Hoa, 

 Uông Luân tình bác tiễn ta sâu nhiều. (1) 

 Làm sao để Thúc Bảo sớm về được với ta, mới thỏa lòng mong nhớ. 

 1 Nguyên văn: Đào Hoa đàm thủy thâm thiên xích; Bất cập Uông Luân tống ngã tình. (Tản Đà dịch) 

 Văn Tĩnh thưa: 

 - Thúc Bảo có nhiều điều khiến chưa thể về với nhà Đường được, không nói hiện nay thế của Ngụy Công đang mạnh, thứ nữa là anh em bên ấy, phần lớn đều cùng từ Ngõa Cương mà ra với nhau cả, thứ ba nữa là Thúc Bảo cùng Hùng Tín là anh em kết nghĩa, thề cùng sống chết, không thể nào bỏ nhau. Nay ba vị vừa rồi, đều đã có chí khác cũng bởi từ chuyện Địch Nhượng trước kia, cho nên anh em sinh mỗi người một hướng, nhưng chưa đến lúc tan nát đó thôi. 

 Tần Vương nghe nói, không ngăn nổi buồn rầu mà rằng: 

 - Nếu như thế, ta chẳng bao giờ được dùng Thúc Bảo hay sao? 

 Nghĩa Phù thưa: 

 - Xin điện hạ chẳng phải lo lắng nhiều. Thần có một cách, có thể làm cho Thúc Bảo phải bỏ Ngụy mà đầu Đường. 

 Tần Vương vội hỏi: 

 - Túc hạ có kế gì hay? 

 Nghĩa Phù đáp: 

 - Thúc Bảo tuy là võ tướng, nhưng là một người rất có hiếu. Mẫu thân tuổi đã cao, cùng với con dâu là Trương Thị, hiện đang ở Ngõa Cương. 

 Tần Vương tiếp: 

 - Tướng quân nhà Ngụy đều tập trung ở Kim Dung thành. Không hiểu gia quyến của các tướng khác có ở Ngõa Cương không? Nghĩa Phù thưa: 

 - ޠKim Dung thành hiện có quý quyến Ngụy Công, còn lại đều đang ở sơn trại cả. Hiện chỉ có hai người, một là Vưu Tuấn Đạt, hai là Liên Cự Chân coi sóc ở Ngõa Cương. Chi bằng đem Tần mẫu về Đường trước đã, cung phụng thật chu đáo. Thúc Bảo hay tin, tất chẳng khác gì Từ Thứ phải quay về Tào vậy thôi. 

 Tần Vương đáp: 

 - Việc thì hay đấy, nhưng sai ai làm cho tiện? 

 Nghĩa Phù thưa: 

 - Thần trước kia đã từng làm quan ở U Châu, có biết tổng quản La Nghệ, La phu nhân chính là cô ruột Thúc Bảo, họ hàng rất gắn bó. Năm nay chính vừa dịp bảy mươi tuổi Tần mẫu, chi bằng nhờ La phu nhân, giả vờ lên châu Thái An dâng hương, đi qua Ngõa Cương, mời Tần mẫu xuống thuyền gặp gỡ, chuyện trò sau trước. Tần mẫu nghe nói thế, nhất định bằng lòng, khi đã ra khỏi sơn trại rồi, thì chẳng lo gì không tới được Trường An. 

 Văn Tĩnh khen: 

 - Nên làm thế, nhưng nhanh tay mới được, về đến Trường An là phải làm ngay! 

 Đi vào đầu núi Thiên Thu Lãnh, thấy phía sau có tiếng người gọi theo: 

 - Tiểu thư đánh rơi một chiếc hài rồi! 

 Tần Vương nghe thấy vội quay ngựa, thấy một chân của Huệ Anh, hài đã rơi mất, lộ rõ gót sen. Huệ Anh vẫn còn mang vẻ nhút nhát, mặt mày đỏ tía thẹn thùng. 

 Nghĩa Phù lên tiếng: 

 - Rơi một chiếc rồi, sao còn một chiếc nữa, không vứt luôn đi cho xong. 

 Thấy vậy Tần Vương ruổi ngựa theo đường cũ, lúc lâu quay lại thì đã tìm thấy bên đường, Tần Vương cầm hài trong tay, đưa cho Huệ Anh, cười nói: 

 - Đây có phải là hài của Huệ Anh chăng? 

 Huệ Anh vội vàng xuống ngựa, đưa hai tay nhận, đi vào cẩn thận, rồi mới lên ngựa. Từ đó, trên đường tuy chưa thật khăng khít, nhưng giữa Tần Vương với Huệ Anh đã mang tình quyến luyến, thỉnh thoảng lại nhìn nhau không nói. Đoàn người ngày đi đêm nghỉ, chẳng mấy chốc đã tới sông Bá Lăng, Tần Vương nói với Văn Tĩnh: 

 - Ta ngẫu nhiên đi săn chơi, không ngờ gặp phải nạn lớn, nếu không có Huệ Anh, Nghĩa Phù, cùng ba vị Tần, Ngụy, Từ đồng tâm cứu giải cho thì đến chết già trong nhà tù mất. 

 Văn Tĩnh thưa: 

 - Đấy chính là điện hạ cùng với thần có cái hạn trăm ngày, may mà Nghĩa Phù ngày đêm chu toàn cho, lại được lệnh ái thi ơn bày kế. Điện hạ lại thêm một mưu sĩ hiểu biết, cùng một bạn hiền trong buồng khuê. Chẳng phải là trong họa mà sinh phúc đó sao? 

 Lại thấy phía trước bụi cuốn mịt mù, một đội người ngựa tiến lại trông xa thấy cờ hiệu Đại Đường. Tần Vương lên tiếng: 

 - Rõ ràng là phụ hoàng đã hay chuyện ta về, nên sai người đi đón đây. 

 Bọn Viên Thiên Cơ, Lý Thuần Phong, Lý Tĩnh phi ngựa tới ngay trước mặt cùng thưa: 

 - Điện hạ, chúng thần tới nghênh giá! 

 Tần Vương đáp: 

 - Ta bởi không nghe lời can ngăn của các tiên sinh, gặp phải nạn này, thôi thì sau này công việc quân binh, ta sẽ cẩn thận hơn. 

 Lúc này tân khách của tây phủ lần lượt kéo tới, tất cả vào ải Đồng Quan. Tần Vương nói với Nghĩa Phù: 

 - Túc hạ cùng lệnh ái, xin hãy tạm ở quán dịch để ta gặp phụ hoàng, rồi sẽ sắp sẵn xa giá ra đón cho thật đàng hoàng. 

 Nghĩa Phù xin vâng, quay vào dịch quán nghỉ ngơi. Tần Vương cùng công khanh vào triều, yết kiến vua Đường, vào cung gặp Đậu Thái hậu, cốt nhục gặp nhau tình cùng sinh tử, nước mắt chứa chan. 

 Tần Vương đem chuyện bị nạn kể lể đầu đuôi. Vua Đường phán: 

 - Tần Thúc Bảo, Từ Mậu Công, Ngụy Huyền Thành, ba vị ân nhân, trước mắt tuy chưa thể quy Đường, trẫm phải nhớ kỹ chuyện này, con cũng nên ghi xương khắc cốt. Còn nghĩa sĩ Từ Lập Bản, lập tức ban cấp nhị phẩm cùng đủ áo mũ, lại riêng mũ phượng cho Huệ Anh, đưa vào bệ kiến. 

 Tần Vương liền sai tả hữu về Tây phủ lấy bốn cung nữ, chỉnh đốn hương xa, mời Huệ Anh cùng phụ thân vào triều. Vua Đường thấy mặt, càng thêm ưu ái, dùng Nghĩa Phù làm Thượng đại phu, còn Từ Huệ Anh, ban tên là Từ Huệ Phi, phong làm Nhất phẩm phu nhân, gả cho Tần Vương, cùng lo việc Tây phủ, Tham tán Tây phủ quân cơ sự vụ. 

 Tần Vương lại đem biểu tạ ơn của Thúc Bảo trình lên, vua Đường xem xong, phán: 

 - Thúc Bảo trước kia đã cùng trẫm gặp gỡ giữa đường, cả nhà đều được Thúc Bảo cứu thoát, nay Thế Dân lại được Thúc Bảo chu toàn tính mạng cho, cha con đều chịu ơn, biết đến bao giờ mời được Thúc Bảo về đây để đền ơn ít nhiều. 

 Tần Vương thưa: 

 - Không cần phụ hoàng phải nghĩ ngợi, con đã có kế hay, khiến cho Thúc Bảo sẽ quy Đường ngay. 

 Nói rồi tất cả lạy tạ ra khỏi điện. 

 Mấy ngày sau, Tần Vương cùng Lý Tĩnh, Từ Nghĩa Phù, đem hai nghìn tinh binh, lại thêm mấy cung nữ theo hầu Huệ Phi lên đường. 

 Chuyện khoan nói đến. 

 *** 

 Lại nói chuyện Ngụy Công Lý Mật, ở Yển Sư chiêu hàng được Khải Công, khao thưởng ba quân, đang định hồi triều, nhưng không lượng sức mình, lại kéo qua Hà Bắc, bị tướng của Đậu Kiến Đức là thư tướng Vương Tôn, đón đánh dưới núi Cam Tuyền. Vương Tôn bắn tên, trúng cánh tay trái Lý Mật. Thua trận buồn rầu, mất hết nhuệ khí Lý Mật lại nhận được tờ tâu của Mậu Công, trình rõ chuyện ngục quan Từ Lập Bản, giả làm quan sai trong cung, thả cho Lý Thế Dân cùng Lưu Văn Tĩnh, rồi không biết đi đâu. Ngụy Công nổi giận, ngày đêm về Kim Dung thành, Ngụy Trưng, Mậu Công, Thúc Bảo ra đón. 

 Ngụy Công chửi mắng ba người một trận, đổ cho không trông coi cẩn thận, thông đồng với Lập Bản trong chuyện này, nhận được hối lộ nhiều rồi tha, coi thường phép nước, định đem ba người ra chém. May được Tổ Quân Ngạn, Giả Nhuận Phủ bao lần can ngăn, mới tạm đem giam vào Nam lao, chờ lập công chuộc tội.

 *** 

 Lại nói Tần mẫu cùng Trương Thị, Tần Hoài Ngọc, ở tại Ngõa Cương, tuy Thúc Bảo vẫn thường cho người thăm nom, nhưng Tần mẫu tuổi đã bảy mươi, so không còn được như hồi ở Tế Châu. Lại thêm lúc ấy, Thúc Bảo ở ngay cạnh gối, ngày đêm chăm nom gia quyến vui vẻ, nay lại vì công danh sự nghiệp mà mỗi người một nơi. 

 Một hôm, thấy đầy tớ vào thưa: 

 - La lão tướng ở U Châu, sai người đến trại, theo lệnh Tần phu nhân, mời Tần mẫu đến gặp mặt. 

 Tần mẫu nghe nói, bàn với Trương Thị: 

 - La phu nhân thật chu đáo, nhớ dạo ta sáu mươi tuổi tròn, cũng sai người tới mừng thọ. Từ ấy đến nay, âm hao cách trở, nay lại sai người đến, liệu có phải vì năm nay ta tròn bảy mươi chăng? 

 Trương Thị thưa: 

 - Đúng hay không đúng, cũng phải ra gặp La phu nhân, thì hiểu ngay thôi. 

 Tần mẫu liền cùng Hoài Ngọc lên nhà trên, thấy hai vị quan sai đều quỳ xuống thưa: 

 - Chúng quan sai là Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, xin lạy chào Thái phu nhân. Trước tiên là dâng lễ của La phu nhân, để mừng lễ thọ. Rồi xin mời Thái phu nhân tới thuyền để cùng gặp gỡ La phu nhân. 

 Tần mẫu đáp: 

 - Cháu Tần Quỳnh, hiện đang mắc việc nước ở Kim Dung thành, không có ở đây, thật làm khó nhọc các vị, xin mời các vị ngồi tạm. Hoài Ngọc, cháu hãy tiếp các quý khách cho chu đáo. 

 Hoài Ngọc vâng dạ làm theo. 

 Tần mẫu liền cùng bốn người hầu gái, vào bên trong, cùng Trương Thị mở gói lễ vật của La phu nhân ra xem, thì đều là những kỳ trân dị ngoạn, đáng giá hàng hai ba nghìn vàng. Binh tướng trong trại, đều là xuất thân từ giặc cướp, đã bao giờ được thấy những thứ quý giá đến như thế cho nên cứ ngây mặt ra nhìn, ngay cả Vưu Tuấn Đạt cùng Liên Cự Chân cũng xuýt xoa khen: 

 - Nếu không phải là soái phủ La tướng quân thì làm sao có được lễ vật như thế này, không biết đến lúc làm lễ mừng thọ, thì còn những gì nữa? 

 Bốn người hầu gái lạy hai lạy chào Trương Thị xong, liền thưa: 

 - La phu nhân dâng hương qua đây, xin mời thái thái cùng công tử Hoài Ngọc xuống thuyền gặp gỡ, mong được gặp lại họ hàng thì mới đi được, dặn chúng tiện tỳ thưa lại cùng thái thái. 

 Trương Thị liền sai đầy tớ bày tiệc rượu khoản đãi mọi người, rồi hai mẹ con bàn nhau. Tần mẫu nói: 

 - Nếu chối rằng Tần Quỳnh không có nhà, lễ nhiều quá không dám nhận, thì cũng chẳng nên ra gặp La phu nhân, tình thân hai nhà coi như là hết. Nhược bằng đi báo với Tần Quỳnh, thì đường xá xa xôi, làm sao cho kịp. 

 Lúc này cũng may Trình mẫu ở đó, liền bàn: 

 - Đã là thân thích, chúng ta đã chẳng tới thăm được, nay họ La đã nghìn dặm tìm tới, lại đem theo hậu lễ để nhận nhau, thì có chuyện gì mà phải tính toán. 

 Trương Thị nói: 

 - Ngày trước cha cháu Hoài Ngọc phạm tội tới U Châu, may được gặp La Tổng quản, mới được thoát nạn. Lại thêm cách đây mười năm, chính lần mừng thọ sáu mươi của thái thái, con vẫn còn nhớ, La phu nhân sai hai viên gia tướng đeo dây tua bạc đến mừng thọ, đi lại như thế, không thể nói là xa cách. Nay cứ kiên tâm từ chối, thì chính hóa ra mình bạc tình chăng? 

 Trình mẫu bàn: 

 - Cứ như ý của bà già này, cả hai mẹ con dẫn theo cả Hoài Ngọc ra gặp Tần phu nhân một phen. Người ta ở đời, nghìn dặm đến tìm, nào có phải chuyện dễ dàng, cũng như chẳng còn lần lễ thọ bảy mươi nào nữa đâu. Mẹ con không có gan đi, thì ta sẵn sàng đi theo làm bạn với! 

 Tần mẫu nghe xong, lòng đã ưng thuận đi đến bảy tám phần. 

 Lại thấy Liên Cự Chân vào thưa: 

 - Hai vị quan sai họ Uất Trì này, cũng đã từng đến Lịch Thành bái thọ cách đây mười năm, nói ra cháu mới nhận được, thế bá mẫu không nhận ra sao? 

 Tần mẫu đáp: 

 - Lúc ấy trên nhà khách đông nghịt, ta làm sao mà thấy rõ ràng từng người. Nếu đã như thế, trời đã chiều rồi, hãy giữ họ ở lại sơn trại một đêm, sáng sớm ngày mai sẽ lên đường. Cự Chân cũng phải ở lại đây tiếp họ giúp Hoài Ngọc với! 

 Cự Chân đáp: 

 - Vâng, xin bá mẫu yên tâm! 

 Sáng hôm sau, cả nhà dậy ăn cơm sớm. Tần mẫu, Trình mẫu, Trương Thị, ăn mặc chỉnh tề, đem theo năm sáu hầu gái, cùng bốn người hầu gái của khách nữa, cộng đến mười hai mười ba người, lên kiệu. Tần Hoài Ngọc cũng đội mũ thắt đai, khoác áo hồng bào, lưng giắt bảo kiếm, cưỡi ngựa ngân tông. Liên Cự Chân cũng mặc phẩm phục, cưỡi ngựa, dẫn theo đến ba bốn chục lính, hộ tống xuống núi. 

 Cả đoàn người ngựa, kiệu xe, đi được khoảng mười dặm, thì thấy phía trước một tiếng pháo nổ vang, trống phách rộn ràng, nhìn xuống sông, một chiếc thuyền rất lớn, xung quanh vô số thuyền khác. Tần mẫu cùng mọi người đến gần bên thuyền, thấy bốn năm hầu gái và một phu nhân ăn mặc sang trọng, tuổi còn trẻ. Tần mẫu cùng mọi người dừng kiệu nhìn lên, nói: 

 - Không phải La phu nhân! 

 Hầu gái đi theo có người thưa: 

 - Đây làNhị Phu nhân của La Tổng quản. 

 Tần mẫu cũng không hỏi lại, cùng mọi người kéo lên thuyền. Bỗng thấy Bạch Hiển Đạo xuất hiện, nhìn nhìn, ngó ngó. Hoài Ngọc liền trừng mắt nhìn, hàm răng nghiến chặt, thét lớn một tiếng. Bạch Hiển Đạo giật mình kinh sợ, lui vào bên trong. Lý Tĩnh từ trên thuyền có gác cao trông thấy, giật mình hỏi: 

 - Có phải con trai Thúc Bảo chăng? 

 Có người thưa: 

 - Dạ đúng! 

 Lý Tĩnh nói: 

 - Tuổi chưa nhiều, nhưng khí tiết đã khiến người phải kinh sợ, đúng là dòng hổ tướng. 

 Rồi sai người mời ngay lên thuyền. 

 Ai nấy đã lên thuyền cả, một cung nữ đứng ra thưa: 

 - Đây là Tần Thái Thái, đây là Trình Thái Thái, còn đây là Trương phu nhân. 

 Nhị phu nhân vốn là Huệ Phi lần lượt chào hỏi, rồi nói với Tần mẫu: 

 - La phu nhân hiện đang ở thuyền trước, sai thiếp đem thuyền đến đón trước, may được thái thái giá lâm, thật muôn vàn trân trọng? 

 Rồi sai người cho phu kiệu cùng lính tráng trở về, hẹn ngày hôm sau tới đón. Tần mẫu nói: 

 - Tần Quỳnh bận việc quan ở Kim Dung thành, được La phu nhân đưa hậu lễ mừng thọ, lại thân tới thăm, thật là áy náy trong lòng không yên. 

 Tiệc rượu bày xong, Lý Tĩnh mời Hoài Ngọc tới gặp Nghĩa Phù, Lý Tĩnh kể chuyện Thúc Bảo gửi thư cho mình ra sao, rồi lấy ra cho Hoài Ngọc xem, Hoài Ngọc mới biết chính là Lý Dược Sư, thân phụ Thúc Bảo đã nhiều lần nhắc tới, rất là kính phục. Lại nghe ba tiếng pháo nổ, thuyền nhổ neo. Tần mẫu ở thuyền bên, không thấy Hoài Ngọc, trong lòng không yên, vội sai người tìm về, bắt ngồi ngay bên. 

 Thuyền đi đầu nhã nhạc rộn ràng, buồm kéo lên, cứ theo thứ tự mà đi cả đoàn. Liên Cự Chân thấy quang cảnh lạ lùng, trong lòng đã phân vân ngờ vực, đêm ấy ngủ trong thuyền Nghĩa Phù, Nghĩa Phù đem mọi chuyện kể lại rõ ràng, Cự Chân mấy trong lòng cũng thanh thản, nhưng chỉ ngại bây giờ đường đi đôi ngã biết tính sao cho trọn. 

 Về phía Huệ Phi, tối hôm ấy cũng thong thả kể thực với Trương Thị, vì thấy Trương Thị đoan trang, trung thực, vả lại giờ đã ở trên thuyền, dẫu có cánh cũng chẳng bay nổi. Trương Thị vội kể lại với Tần mẫu, Tần mẫu chỉ mới biết chuyện Thúc Bảo cứu Lý Uyên ở Tra Thụ Cương, còn chuyện cứu Lý Thế Dân ở Nam Lao thì hoàn toàn chưa biết. Cả hai được Huệ Phi kể lại tỉ mỉ, rồi tiếp: 

 - Nay điện hạ đây không thể quên được ơn đức ấy của Tần tướng quân, cho nên mới sai thiếp cùng thân phụ bày kế thế nà để mời thái thái vậy! 

 Lúc này Tần mẫu cùng Trương Thị mới biết người nói chuyện với mình không phải là Nhị Phu nhân của La Tổng quản mà chính là Nhất Phẩm Phu nhân Huệ Phi của Tần Vương, lại mới cùng bái chào lại cho đúng lễ. Cũng may Trình mẫu vì uống mấy chén rượu, đã ngủ say ngay bên cạnh, Tần mẫu mới nói: 

 - Tần Quỳnh ngu tối, may được điện hạ để ý tới. Nhưng tại sao lại biết già này cùng La Tổng quản là họ hàng thân thiết? 

 Huệ Phi đáp: 

 - Phụ thân thiếp thời tiền triều đã từng làm biệt giá ở U Châu mấy năm, thường hay lui tới soái phủ của La Tổng quản, nên biết rất rõ. 

 Tần mẫu nói: 

 - Chỉ lạ một nỗi là hai người giả anh em Uất Trì rất giống. Còn nữa là hiện nay nhà Ngụy này chưa suy, Tần Quỳnh làm thế nào mà về nhà Đường ngay được. Phu nhân nên sai người gửi thư ngay thời mới xong. 

 Huệ Phi nói: 

 - Những điều này rồi sẽ lo liệu được cả, nhưng sợ có Trình mẫu ở đây nói ra chưa tiện. 

 Mọi người lên thuyền được hai ngày, sáng hôm thứ ba dậy sớm, thì thấy đội lính tiền tiêu báo: 

 - Phía trước có tới ba bốn chục chiếc thuyền giặc đã sắp tới gần! 

 Hoài Ngọc đang ngủ ở lâu thuyền bên cạnh, nghe thế liền chồm dậy khoác áo ra theo dõi. Lý Tĩnh gọi một viên tướng lại, chính là người hôm trước đóng giả Uất Trì Bắc, Lý Tĩnh lấy ngay một lệnh tiễn ở trên án đưa cho trung quân quan, viên tướng quỳ xuống nhận lệnh tiễn. Lý Tĩnh ngồi trên thuyền lệnh: 

 - Tiền tiêu báo có thuyền giặc sắp tới gần, ngươi hãy lãnh binh đi xem thế nào. Không nên giết hại, hãy cứ trói cả về đây cho ta. 

 Viên tướng nhận lệnh ra ngay. 

 Chẳng mấy chốc đã nghe tiếng pháo lớn rung trời, tiếng la hét vang mặt sông. Trên các thuyền nhỏ, binh lính nai nịt gọn gàng, cung trương, kiếm tuốt khỏi vỏ lao ra như chớp. 

 Khoảng một giờ sau, nghe tiếng chiêng thu quân, đã thấy viên tướng lúc trước về quỳ thưa: 

 - Thưa nguyên soái, thuyền địch đã bắt được, đầu mục của chúng đã bị bắt để trong thuyền, ngửa chờ nguyên soái định đoạt. 

 Lý Tĩnh thu lại lệnh tiễn, rồi hỏi: 

 - Thuyền địch mang cờ hiệu gì? 

 Viên tướng đáp: 

 - Treo cờ hiệu nhà Ngụy. 

 Lý Tĩnh chau mày nói: 

 - Nếu là nhà Ngụy, thì giải đầu mục lên đây! 

 Viên tướng vâng lệnh đứng dậy, các thuyền lớn thuyền nhỏ lúc này đã thả neo. Trên thuyền đầu, chúng tướng, cùng các đao phủ sắp hàng nghiêm trang, đầy oai phong, từ trong thuyền chiến dẫn ra một người cao lớn. Cự Chân đứng ở thuyền sau nhìn giật mình nói: 

 - Đúng là Giả Nhuận Phủ của chúng ta rồi, làm sao lại ở đây, mà bị trói dẫn đi như thế này? 

 Cự Chân vội chạy đi tìm báo cho Hoài Ngọc, nhưng vì thuyền nhiều, người đông, nên cả Nghĩa Phù cũng chẳng thấy đâu, đành phải lén theo Nhuận Phủ, xem tình trạng ra sao. 

 Lý Tĩnh cao giọng hỏi: 

 - Ngươi là người ở đâu, họ tên là gì? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Ta là người nhà Ngụy, tên họ là Giả Hòa. 

 Lý Tĩnh nạt: 

 - Đã là người nhà Ngụy sao không trông thấy cờ hiệu của đại Đường mà dám xông vào đội thuyền của ta. Ta hỏi ngươi: ngươi vâng lệnh Lý Mật đi đâu, làm gì? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Xin cứ nói thực: năm ngoái Vương Thế Sung đến Kim Dung thành ay hai vạn hộc lương, năm nay không ngờ nhà Ngụy chúng tôi mất mùa. Ngụy Công sai Giả Hòa này đi đòi nợ. 

 Lý Tĩnh nói: 

 - Vương Thế Sung là một kẻ tàn nhẫn, giáo trá, hằng ngày hằng giờ lúc nào cũng rắp tâm làm việc hiểm độc. Chúa công Lý Mật nhà ngươi, sao lại cho chúng vay lương, có khác gì cho Tấn mượn đường để diệt Ngu, để rồi lại tự làm nguy mình chăng? Thật là Lý Mật cũng chỉ là một kẻ phàm phu tục tử mà thôi! 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Thiên hạ đại loạn, chẳng thể nói hươu chết tay ai (1), sao ngài lại quả quyết thế được? 

 1 Hươu chết tay ai: Theo “Tấn thư", Thạch Lặc nhân uống rượu say, nói với khách: Trẫm nếu gặp Hán Cao Tổ, thì xin ngoảnh mặt về bắc mà thờ Cao Tổ, chỉ cùng Hàn Tín, Bành Việt đua tài, tranh lấy hàng đầu mà thôi. Nhưng nếu gặp Lưu Quang Vũ sẽ cùng rong ruổi đua sức ở Trung Nguyên, thì chưa biết hươu chết về tay ai! 

 Lý Tĩnh vỗ án quát: 

 - Thủ hạ Lý Mật đều là một bọn tầm thường ngu dốt, cũng bởi chuyện Tần Vương cùng Lưu Văn Tĩnh bị giam ở Nam lao, ta đang định cất quân hỏi tội. Nay ngươi lại dám làm loạn ở trong quân ta sao. Tả hữu đâu, đem chém đầu thằng này cho ta! 

 Quân sĩ dạ vâng, lôi Nhuận Phủ, dẫn đi. Cự Chân hồn tiêu phách tán, lại vội chạy đi tìm Hoài Ngọc. Nào hay Hoài Ngọc được Nghĩa Phù nói cho biết nguyên do, nên không chịu đi ngay, khi thấy đao phủ vừa lôi Nhuận Phủ ra, thì Lý Tĩnh đã vội đứng dậy, đích thân cởi trói cho Nhuận Phủ, quát tả hữu lấy mũ áo vào, mặc cẩn thận cho Nhuận Phủ, rồi mời ngồi ghế trên. Nhuận Phủ bái tạ: 

 - Kẻ bất tài này vô tình phạm oai nguyên soái, xin nguyên soái tha tội, thật đội ơn lớn! 

 Lý Tĩnh đáp: 

 - Vừa rồi, chẳng qua cũng chỉ để xem khí lượng ngài ra sao. Chúng tôi vốn học theo hạ sĩ cầu hiền của Tần Vương, đâu dám khinh thường bậc hiền tài, xin gọi ra đây để ngài gặp mấy người quen biết cũ. 

 Nói chưa xong thì thấy Nghĩa Phù, Cự Chân, Hoài Ngọc kéo ra ngay trước mặt, Nhuận Phủ ngạc nhiên, nói với Nghĩa Phù: 

 - Ngài thả Tần Vương cùng Lưu Văn Tĩnh ra, rồi cũng lại đến đây sao? 

 Rồi hỏi Cự Chân, Hoài Ngọc: 

 - Các người đang ở Ngõa Cương, tại sao lại tới đây? 

 Nghĩa Phù kể lại ngọn ngành, Nhuận Phủ nói: 

 - Ngài cùng Tần Vương cao chạy xa bay, chỉ khổ cho Mậu Công, Ngụy Trưng cùng Thúc Bảo ngồi tù thay ở Nam lao! 

 Hoài Ngọc nghe nói thế, khóc rống lên, rồi đòi Lý Tĩnh: 

 - Xin bác cho cháu hai nghìn người ngựa, cháu đánh vào Kim Dung thành, cứu phụ thân! 

 Tần mẫu ở thuyền bên cạnh, nghe tin, cũng sai ngay người đến hỏi tỉ mỉ. Nhuận Phủ nói: 

 - Có cả Tần mẫu ở dây, sao không mời sang đây cùng gặp gỡ, để nghe Nhuận Phủ kể đầu đuôi luôn một thể. Xin các vị chờ cho một lát. 

 Lý Tĩnh sai Hoài Ngọc: 

 - Đúng rồi, cháu Hoài Ngọc hãy sang mời bà nội sang đây, nghe Giả đại nhân kể chuyện. 

 Tần mẫu sang ngay, cùng mọi người chào hỏi xong, hỏi Nhuận Phủ : 

 - Tần Quỳnh vì sao phải giải vào Nam lao? 

 Nhuận Phủ thưa: 

 - Ngụy Công chiêu hàng được Khải Công về, nghe nói Nghĩa Phù đây thả mất Tần Vương, Lưu Văn Tĩnh, đổ hết giận dữ vào Tần đại huynh, Ngụy Trưng, Mậu Công, rồi đem giam ba người vào Nam lao. Nhuận Phủ này cùng La Sĩ Tín khuyên giải thế nào cũng không nghe, sai ngay Nhuận Phủ này đi đòi lương, cũng bởi năm ngoái, Vương Thế Sung cho người sang vay bốn vạn hộc lương. Nhuận Phủ này biết chuyện, vội chạy đến Ngụy Công khuyên không nên cho vay, nói mãi vẫn chẳng xong. Thế Sung thiếu lương, chính là trời hại họ Trịnh sao lại còn cho nó? Huống chi nhà Ngụy tuy có dự trữ được ít nhiều, nhưng mùa mưa chưa hết, vẫn phải nghĩ tới chuyện đói kém, huống chi "thực túc binh cường", chẳng khác nào giúp sức cho kẻ cướp bậc trí giả chẳng làm như thế bao giờ. Ngụy Công vẫn chẳng chịu nghe, mở kho cho vay hai vạn hộc. Ngày mở kho, lại gặp phải ngày "giáp thân", là ngày cấm kỵ của việc mở kho. Ít lâu sau, các quân coi kho đều trình chuột bọ rất nhiều, lương thực hao hụt. Toàn là những con chuột lớn, mọc hai cánh, toàn thân có vẩy như vẩy cá, men theo tường mà bay mà chạy, như những đàn ong lớn, các kho chỉ còn lại một hai phần. Ngụy Công liền sai Trình Giảo Kim làm "Huy miêu đô úy", lệnh trong toàn nước, mỗi hộ phải nạp một con mèo cho các kho, không có mèo, phạt mười thạch lúa. Nhưng rồi chuột vẫn nhiều hơn mèo, lớn hơn mèo, mèo cùng ăn cùng ngủ, cùng hội cùng thuyền với chuột, chuột chẳng hết được. Ngụy Công càng thêm giận dữ. Gần đây, Tiêu Tiên đói kém, lại đem lính sang vay năm vạn hộc, nếu không cho vay, lại phải đánh nhau. Thế nguy không thể nào khác, Ngụy Công đành tha ba vị ở Nam lao ra, sai Tần đại huynh cùng La Sĩ Tín lãnh binh đi đánh Tiêu Tiên, Mậu Công thì đi Lê Dương, Ngụy Trưng thì coi sóc các kho lương. Trước mắt lúa má khô cằn, vụ thu hoạch sắp tới cũng chẳng trông mong gì hơn, nên mới phải sai ngay Nhuận Phủ này đi đòi nợ nhà Trịnh. Nay Tần mẫu được Lý nguyên soái theo lệnh Tần Vương mời về Trường An, thì nhất định là hơn hẳn ở Ngõa Cương rồi, xin để Nhuận Phủ này nói cho Tần đại huynh biết, rồi thế nào đại huynh cũng phải tìm cách về với nhà Đường! 

 Lại nói với Cự Chân: 

 - Liên đại ca nên quay về Ngõa Cương, gia quyến anh em ta đều ở Ngõa Cương cả, mà chỉ có mỗi mình Vưu viên ngoại ở đó, sợ có chuyện gì, lấy ai ra lo liệu. Nhuận Phủ vì việc công cấp bách, xin cáo biệt? 

 Lý Tĩnh thấy Nhuận Phủ khí phách hiên ngang, lý lẽ thấu đáo, nhờ Nghĩa Phù khuyên Nhuận Phủ về với nhà Đường, Nhuận Phủ đáp: 

 - Nhuận Phủ cũng vì ngu tối, không biết chọn chủ mà thờ. Nay thời vụ cũng đã khá rõ, nhưng cũng chưa đến lúc cùng, đem chuyện thịnh suy mà liệu đường đi ở, sợ rằng là điều chúng ta không nên làm. Rồi còn gặp nhau! 

 Nói rồi ra đi. Lý Tĩnh vô cùng thán phục. Cũng bởi Cự Chân cùng Thúc Bảo vốn gắn bó thân thiết, nên Cự Chân cũng phải cùng đi Trường An, chờ sự yên ổn, mới dám quay lại Ngõa Cương. 

 Chính là: 

 Phau phau lau trắng, sương hoa dãi 

 Bịn rịn lòng son, nghĩa khí ca. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Ba

Giả mộng gặp Chu Công, Vương Thế Sung diệt Ngụy,

 Cơn nguy bỏ Từ Tích, Lý Huyền Thúy theo Đường

 Thơ rằng: 

 Thành bại rằng tại trời 

 Lại cũng là việc người 

 Hễ kiêu thì bại thôi 

 Kém dũng cùng thua trí 

 Gặp may vội khoe tài 

 Hoạn nạn rồi ụp đến 

 Khi dân chán bạn rời 

 Rồng mà không mây nước 

 Thì kiến tha làm mồi 

 Hối hận không kịp nữa 

 Sử xanh mãi chê cười. 

 Sự đời đã đến thế cưỡi hổ, có quan hệ đến nước nhà, mà lại không có thực tài trị loạn an dân, thì khó mà đứng vững, huống chi lại vốn phường tục tử tầm thường với những mẹo vặt, đã vội ước đến những thứ không phải phận mình, mãi lúc công việc nát tan, mới sực nghĩ ra thì đã muộn rồi. 

 *** 

 Nay hãy khoan nói chuyện Tần Mẫu về với nhà Đường, mà nói chuyện Giả Nhuận Phủ, từ biệt Lý Tĩnh đến Lạc Dương, nghe ngóng Vương Thế Sung đang thao diễn binh mã, xin gặp. Thế Sung đã biết ngay, không chịu tiếp, cũng không viết thư phúc đáp, chỉ cho người trả lời miệng: 

 - Lúc này Lạc Dương cũng đang thiếu ăn, làm gì có thừa mà trả cho Ngụy Công. Hãy chờ mai kia đến Hoài Thượng thu thóc xong, sẽ đem đến tận nơi giao trả cho Ngụy Công. 

 Nhuận Phủ thấy thế biết ngay Thế Sung trở mặt, không chịu trả, nên chẳng chờ thư phúc đáp, trở về tâu với Ngụy Công: 

 - Xem cung cách của Thế Sung, không những chỉ quỵt nợ, mà còn có ý đánh chiếm, chúa công phải cẩn thận đề phòng. 

 Lý Mật giận dữ: 

 - Lũ giặc này không thể ngồi chờ chúng tới được, mà phải đem binh tận nơi hỏi tội mới xong. 

 Rồi chọn ngày xuất binh, lấy Trình Giảo Kim, Phàn Văn Siêu làm tiền đội, Đơn Hùng Tín, Vương Đương Nhân làm đội thứ hai, còn mình cùng với Vương Bá Đương, Bùi Nhân Cơ làm hậu đội, nhằm Đông Đô mà tiến. Vương Thế Sung đã được mật thám mã báo tin từ trước, cũng muốn cùng Lý Mật quyết chiến một phen, nhưng ngại Lý Mật người ngựa đông, đánh gấp khó mà thắng, nên ngồi tính toán trong trướng. Bỗng thấy tả hữu vào báo: 

 - Lương thực trong kho của Ngụy Công bị chuột bọ làm hao tổn rất nhiều, phải sai Giả Nhuận Phủ làm Huy miếu đồ úy (1) trong cung lại sinh nhiều điềm lạ. Trăm họ trong thành đồn rằng vì chiếm phần mộ của Chu Công (2) mất cả phần hương hỏa, nên Chu Công giáng họa như thế. 

 1 Ở hồi thứ năm mươi hai, nói là Trình Giảo Kim, có lẽ tác giả sơ ý, vì lúc này Giả Nhuận Phủ đã được đặc sai đi đòi nợ ở Lạc Dương rồi. 

 2 Chu công: Tên là Đán, chú của Thành Vương, nhà Chu, Thành Vương lên ngôi từ nhỏ. Chu Công cầm quyền trị nước rất sáng suốt, rất trung thành, được sử sách phong kiến ca ngợi. (Điển cố văn học) 

 Thế Sung nghĩ ngợi: 

 - Chỉ sợ chuyện này không đúng! 

 Tả Hữu thưa: 

 - Tất cả đều nói như thế, sao lại sai được! 

 Thế Sung cười: 

 - Nếu đúng như vậy thì kế của cô xong rồi đây. Nhưng cần phải có một người lanh lợi, hiểu được ý cô, thì mới chắc thắng. 

 Rồi đưa mắt nhìn xung quanh, trông thấytay chân, người này mỉm cười không nói. Sáng hôm sau, một hồi trống tụ họp các tướng, bàn kế chống giặc. Thế Sung hỏi: 

 - Thành Kim Dung của Lý Mật, là thành cũ của nhà Tùy, hay là thành do Lý Mật mới xây? 

 Trương Vĩnh Thông thưa: 

 - Cung thất nhà Ngụy hiện nay, vốn là miếu thờ Chu Công. Lý Mật lấy cớ miếu thờ Chu Công thì phải xây ở đất phong của con cháu ở nước Lỗ, nơi này không phải chỗ, nên phá miếu thờ, mà xây cung thất, Chu Công nhiều lần đã thác mộng vào quần thần, nhưng quần thần không dám tâu. Thế Sung phán: 

 - Hèn gì cô hôm qua, vào khoảng canh ba, mộng thấy một vị thần áo mũ chỉnh tề, nói: "Ta là con của Chu Văn Vương là Cơ Đán, may được thượng giới phong thần, miếu đền ở trong thành Kim Dung, nay bị Lý Mật phá tan, lấy nền làm cung thất, gỗ ngói làm kho lẫm, khiến cho thầy trò ta lang thang không nơi yên ổn. Nay Lý Mật khí số sắp hết, vận bại thời suy. Trịnh Vương hãy vì ta mà báo thù này!". 

 Trăm quan liền thưa: 

 - Đã có thần giúp sức, đủ rõ uy thế của chúa công thế nào. Phen này đất đai của Ngụy Công, tất sẽ về tay chúa công cả! 

 Thế Sung phán: 

 - Nếu được thế thì phú quý các khanh cùng cô hưởng, một mình cô đâu dám giành cả! 

 Lại thấy ba bốn tên lính vào quỳ thưa: 

 - Trung quân tả tiêu kỳ Đinh Trần Long, bỗng xõa tóc, đi chân không, như điên như dại, miệng hét lớn: "Ta muốn gặp Trịnh Vương!" 

 Thế Sung nghe nói, cả cười nói với các quan: 

 - Viên tướng này vốn thật thà, tại sao lại sinh chuyện thế này, cô cùng các khanh hãy đến xem sao! 

 Tất cả lên ngựa, cùng ra giáo trường. Quân sư Hoàn Pháp Tự đến giáo trường trước, thì thấy Trần Long đang nhắm mắt nằm quay ở trên bàn, lớn tiếng đọc những câu thơ Đại Nhã trong "Kinh Thi". 

 Văn Vương tại thượng 

 Sư chiêu vu thiên 

 Chu tuy cựu bang 

 Kỳ mệnh duy tân. (1) 

 1 Bốn câu đầu trong bài "Văn Vương" nghĩa là: Văn Vương ở trên, Tinh thần chiếu rạng khắp trời; Nhà Chu tuy là nước cũ; Mà mệnh trời cho làm thiên tử thì mới! 

 Trông thấy Thế Sung tới, liền đứng ngay trên bàn, hướng về phía Thế Sung mà thét: 

 - Kính mời Trịnh Vương lại đây! Ta là Chu Công Đán thác vào người này đây. Những lời ta đã nói hôm qua, sao không làm ngay, đừng cho là chuyện mộng mị, mà coi thường. Nếu quân thần các ngươi đồng tâm hiệp lực, ta còn giúp cho ba ngàn âm binh, đánh bại quân Ngụy, thấy ngay nhỡn tiền. Hãy mau xuất binh. Ta đi đây! 

 Nói xong nhảy xuống bàn, rồi lăn lộn, múa may khắp sảnh đường. Lúc này Thế Sung cùng trăm quan đều đã khúm núm bái lạy: 

 - May được đại vương ra lệnh, chúng tôi nào dám không gắng diệt lũ nghịch tặc, xây lại điện miếu cao lớn hơn xưa! 

 Vua quan cùng đứng dậy, xem mặt Trần Long thì xám như tro, tay chân lạnh như băng, người cứng như gỗ, nằm vật ra trên cỏ. Thế Sung sai người khiêng về nhà. 

 Từ đó tướng sĩ nhà Trịnh, ai ai cũng như có một Chu Công ở trong người. Lâu nay trong việc quân binh, Thế Sung vốn là kẻ xảo trá, lắm mưu mẹo, lại được quân sư Hoàn Pháp Tự, vốn là đồ đệ của bàng môn tà đạo, gặp lúc loạn lạc, đua chen kiếm danh kiếm lợi, nên vạch đủ mưu chước dối lừa, úp danh thần thánh cho Thế Sung. Thế Sung về triều, lệnh cho quân sư Pháp Tự, ngày mai ra giáo trường, tuyển thêm ba nghìn lính, chọn những tên dữ tướng, cao từ tám thước trở lên, cho đi giày rơm, dùng khêu cao một trượng hai thước, đeo mặt nạ quỷ sứ, suốt mấy ngày tập luyện ở giáo trường. Pháp Tự khuyên Thế Sung: 

 - Cách này phải làm ngay, để lũ Lý Mật không kịp phòng bị. 

 Thế Sung nghe theo, vốn cũng muốn đánh thắng Lý Mật, trở thành chúa một nước lớn, nhưng nếu Lý Mật là kẻ hiểu biết, thấy trong nước bao lần thiên tai, dị họa, hãy ngồi yên mà giữ Kim Dung thành, sửa những lỗi lầm xưa, thương yêu quân sĩ, thì cũng có thể trở nên một nước mạnh. Khốn thay, Lý Mật chỉ ỷ mình tài cao lực mạnh, vội quên ngay những ngày suýt chết, lẩn trốn gian nan. Lúc nào cũng tưởng như mình là Hán Cao Tổ, giơ gươm ba thước rõ cao, thiên hạ không ai địch nổi. Trước tiên điều ngay quân sư túc trí, đa mưu là Mậu Công đi Lê Dương. Tiêu Tiên chẳng qua chỉ là bệnh ghẻ lở ngoài da, thì vội điều ngay Thúc Bảo, trung dũng song toàn cùng La Sĩ Tín đi trấn áp. Nhuận Phủ bao lần bày mưu tính kế xác đáng, chẳng được nghe theo, lại bị đày đi Lạc Khẩu, phường vong nghĩa tham lợi như Bính Nguyên Chân thì lại được tin dùng, luôn được kề bên tính kế trù mưu. Chỉ còn lại Đơn Hùng Tín, Trình Giảo Kim, cũng chỉ biết riêng chuyện lên ngựa cầm thương. 

 Đại quân Lý Mật đi chưa được hai ngày, thì Thế Sung cũng đã kéo người ngựa ra, gặp thám mã quay về báo, tin Thế Sung cho hạ trại cách thành khoảng ba bốn mươi dặm. Lý Mật đóng ở phía đông Thúy Bình Xuyên, Thế Sung đóng ở phía tây Thúy Bình Xuyên. Quân sư Pháp Tự, đem theo khoảng hai ba trăm người ngựa, lặng lẽ trèo lên đỉnh núi theo dõi quân Lý Mật, thấy cơ ngũ chỉnh tề, cờ hiệu nghiêm trang, khí thế xung thiên, thật đúng là "vô địch chi sư” . 

 Pháp Tự trong lòng thầm nghĩ: "Ta dẫu có huấn luyện thần binh, nhưng làm sao mà thắng được lũ giặc thanh thế như vậy!". Cau mày nghĩ ngợi, nhìn bốn chung quanh, bỗng thấy phía dưới góc đông bắc, có bảy tám người đang đốn củi, Pháp Tự bỗng mừng rỡ mà rằng: 

 - Ta nghĩ ra rồi! 

 Khẽ gọi một viên gia tướng lại gần, ghé tai nói thầm mấy câu, còn mình thì lập tức lên ngựa về trại. Sáng ngày hôm sau, vào trướng thưa với Thế Sung: 

 - Thần đêm qua mơ gặp Chu Công nói rằng: "Pháp Tự hãy nghe ta phán: ngày mai ta sẽ ngầm dẫn một người để giúp ngươi phá giặc. 

 Ngươi hãy tâu với Trịnh Vương, tức tốc giao chiến". 

 Rồi lại ghé tai Thế Sung, nói nhỏ mấy câu. Thế Sung cả mừng, Pháp Tự lại lấy ván gỗ, dùng màu xanh đỏ, vẽ hình thú dữ, đóng lại thành những thùng vuông lớn đem người ngựa giấu ở bên trong. Thế Sung ngồi giữa đại trại, xem xét việc điều khiển của quân sư, thì thấy quân lính vào thưa: 

 - Đã bắt được Lý Mật! 

 Đến lúc giải vào chính là bọn người đốn củi hôm qua, tất cả đều bị trói chặt, Thế Sung bên hỏi: 

 - Bắt được bọn này ở đâu? 

 Bọn lính thưa: 

 - Tiểu nhân vâng lệnh tuần tra, đến đoạn đường mòn khe núi phía đông, gặp bọn này, trong số đó có Lý Mật, chúng tiểu nhân liền vào bắt lại giải về đây trình chúa thượng. 

 Kẻ bị đổ oan là Lý Mật vội thưa: 

 - Tiểu nhân vốn là người nhà quan trợ giáo Quốc tử giám mục Lục Đức Minh, trong thành hiếm củi, nên ra đây đốn, nào phải Lý Mật, hiện có các bạn đây làm chứng. 

 Bọn lính cãi: 

 - Rõ ràng là Lý Mật, giả dạng kiếm củi để do thám quân tình. 

 Thế Sung hỏi kỹ bọn kiếm củi đúng là người trong thành, liền sai tả hữu cởi trói cho họ, rồi khuyên: 

 - Cô biết rõ các ngươi đều là dân thường rồi, nay cô có việc cần đến các người. Trong số các người, có ai biết đường tắt kín đáo lên Bắc Mang Sơn không? 

 Một người giơ tay chỉ vừa thưa: 

 - Thưa đại vương, người này là Mãn Sơn Phi Kim Dũng, người kia là Xuyên Sơn Giáp Bàng Nguyên, hai người rất quen các dường mòn trong núi, chỗ nào quanh vùng núi này cũng thạo. 

 Thế Sung khen: 

 - Hay lắm! 

 Trước tiên gọi người giống Lý Mật tới, thưởng cho làm chức bá tổng trong quân, còn Kim Dũng với Bàng Nguyên thì cho làm tả hữu đội trưởng, cấp cho đầy đủ quần áo, chiến bào, rồi gọi vào trong trướng, ghé tai dặn dò một hồi, bọn này lĩnh mệnh ra đi. 

 Chính là : 

 Can quan máu đổ nơi nơi 

 Mất còn thua được có trời mới lay. 

 *** 

 Lại nói tiền quân của Lý Mật là Trình Giảo Kim, chỉ mong gặp giặc để đánh nhau, giết chóc một hồi, không ngờ binh lính Thế Sung lại lấy ván làm thành, lặng lẽ không chịu nghênh chiến, liền dốc binh lính tiến sát vào tường thành, nhưng thấy bên thành toàn những hình thù dị xanh đỏ, quay ngựa lại bỏ chạy. Đơn Hùng Tín dẫn cánh quân thứ hai vừa tới kịp, sai lấy thang mây, pháo bắn đá, cứ thế lại xông vào, nhưng cũng không phá nổi. Lý Mật dẫn hậu quân ở phía sau đóng trại, nổi lửa nấu ăn, ra lệnh tối nay chú ý phòng giặc tới cướp trại, cho nên đêm ấy trong các trại đều canh gác nghiêm cẩn, trống canh điểm đều. Khoảng canh ba, bên ngoài trại quân, bốn phía nghe tiếng pháo nổ liên tiếp, ai nấy nhớn nhác, bỗng thấy đội trần thám vào thưa: 

 - Các thành gỗ của Thế Sung đã thấy mở, nhưng bên trong chẳng có đèn lửa gì cả, không một bóng người, xin báo để chúa công rõ. 

 Giảo Kim nhân suốt mấy ngày xông vào thành trong lòng đang bực bội vì không nên chuyện, nghe lính báo thế, không nhẫn nại được nữa, tự mình dẫn đầu, kéo quân sang trại Thế Sung. Từ xa đã thấy cửa thành gỗ mở rộng, đèn đuốc sáng trưng, chẳng khác gì ban ngày, nhưng không hề thấy người ngựa nào ở bên ngoài. Giảo Kim chẳng cần nghĩ ngợi, cứ giơ cao búa, gào thét xông vào: 

 - Kẻ nào có gan thì theo ta! 

 Trong trại quân Thế Sung nghe một tiếng pháo lớn, một tướng tiến ra, đánh với Giao Kim khoảng hơn chục hiệp, thua chạy. Giảo Kim cứ thế xông bừa, được khoảng mươi dặm, lại thấy một tiếng pháo long trời, rồi liên tiếp những tiếng pháo khác, một trận cuồng phong nổi lên, quét bụi đất mù mịt, không còn thấy gì nữa. Lúc này khoảng gà gáy, trời đã gần sáng, Giảo Kim đang đốc thúc quân mã đánh chém, thì thấy bên nách xông ra bảy tám đội, toàn những kẻ mặt xanh tóc đỏ, miệng rộng hoặc, răng chìa như ngà voi áo ngũ sắc dài, giày rơm, đi khêu trong khói lửa hoàng, thuốc pháo mù mịt, cầm trường thương mà chém, đội lính phía sau ùa theo chém giết, la hét vang trời: 

 - Thiên binh đến rồi! Các ngươi muốn sống thì hãy đầu hàng cho sớm. 

 Binh lính của Hùng Tín kinh hoàng, quay ngựa xéo lên nhau mà chạy. Lại thêm lũ ngựa chiến, thấy những mặt quỷ xanh đỏ cao lênh khênh đều hý vang sợ hãi nhảy loạn xạ, hoặc cứ thế đâm đầu chạy thục mạng. Hùng Tín dẫn một số ít người ngựa can đảm, xông lên phía trước, gặp cánh quân Giảo Kim, cả hai cùng đánh giết một hồi, thì nghe quân Thế Sung hét vang: 

 - Lũ giặc ngu dốt kia! Chúng tao đã bắt được Lý Mật rồi đấy! 

 Một toán người ngựa, kéo theo Lý Mật, áo giáp vàng, khoác ngoài hoàng bào, bị trói trên lưng ngựa gào không thành lời: 

 - Mau lại cứu ta! Mau lại cứu ta! 

 Thì đã bị bọn lính kéo đi mất, Giảo Kim thấy thế kinh hoàng, liền nói với phó tướng Phàn Văn Siêu: 

 - Chủ tướng đã mất rồi, đánh cũng chẳng ích gì. Chạy đi thôi? 

 Văn Siêu đáp: 

 - Phương Đông cũng có Phật, phương Tây cũng có Phật, chạy đi đâu bây giờ, hàng quách cho xong. 

 Liền lên tiếng chủ tướng đã bị bắt, tình nguyện đầu hàng. Lính tráng nghe thấy thế, nhất tề vứt khí giới, cởi giáp trụ, quỳ xuống xin hàng. Giảo Kim nhớ còn mẫu thân, trong đám loạn quân, vứt bỏ mũ áo, lặng lẽ bỏ trốn mất. 

 Đơn Hùng Tín cùng Vương Đương Nhân dẫn cánh quân thứ hai, thấy phía trước đã tan vỡ, cũng chẳng rõ tại sao, lính la hét: 

 - Ngụy Công đã bị bắt rồi, cánh tiền quân đã hàng cả rồi! 

 Hùng Tín vốn chỉ là người dũng mãnh, chẳng kịp nghĩ tại sao Lý Mật lại có thể bị bắt được, trong lòng cũng hoảng hốt, nói với Đương Nhân: 

 - Ngụy Công bị chúng bắt đi rồi! Chúng ta ở đây, chém giết cũng vô ích, chi bằng cùng tìm đường thoát chạy. 

 Đương Nhân đáp: 

 - Thế là hơn cả ! 

 Rồi hét lớn một tiếng, giơ đao chém mạnh mở một đường máu, nhưng bốn phía đều là lính Thế Sung, càng giết càng nhiều. Hùng Tín quay đầu nhìn lại, Đương Nhân đã không thấy đâu nữa, đang định quay ngựa tìm, thì tướng Trịnh là Trương Vĩnh Thông cưỡi ngựa sấn tới, Hùng Tín vội giơ thương đón đánh, không ngờ đến hàng chục câu liêm chĩa ra, kéo ngã ngựa, Hùng Tín đành phải đầu hàng. Chỉ còn mỗi Lý Mật dẫn đội quân tâm phúc xông vào đốc chiến, thấy tiền đội đều dã thua to, vội sai Bùi Nhân Cơ lên trước cứu viện, cũng bị lính Trịnh dùng câu liêm bắt sống. Lý Mật đang dao động thì thấy ở sườn núi phía sau, tiếng hò hét rầm trời, hai đội bộ binh, tay cầm đoản đao, lao nhanh xuống xông bừa vào hậu đội quân Ngụy mà đâm chém. Nhìn về phía trại lớn, lửa bốc ngút trời, lính giữ trại lẩn trốn bốn phía vào hang vào suối hết cả. 

 Thì ra lính Thế Sung có tiều phu dẫn đường, đang đêm một đội quân kéo đi, rắc đầy khắp nơi vật dễ cháy lưu hoàng, thuốc pháo, thừa lúc đại binh kéo đến, lẻn vào đốt trại lớn của quân Ngụy. Lý Mật ngày thường vẫn tự cho là mình mạnh thế, chẳng thể bị ai coi thường, hoặc lừa dối nổi, đến lúc này cũng lo sợ cuống cuồng. Đại trại thì lại làm sơ sài bằng cỏ tranh, không một chút gỗ ván, chỉ cần mấy trăm quân Trịnh xông vào, là đã thiêu xong, lại xông ra tiếp ứng cho hai cánh bộ binh. Thế là Lý Mật phía sau đã bị chẹn đánh, phía trước thì người ngựa Thế Sung cũng đã kéo đến, đón đường đâm chém. Đúng là tiền hậu giáp công, trước sau gặp địch, chẳng biết làm thế nào, chỉ còn cách đổi áo mũ, cùng toán lính hộ vệ chạy trốn về Lạc Khẩu. Nhuận Phủ nghe tin, vội đem quân tiếp ứng, lựa lời an ủi: 

 - Hán Cao Tổ đánh trận thua luôn, nhưng cuối cùng vẫn được thiên hạ, Hạng Vũ tuy thắng nhiều lần, nhưng rồi vẫn bị diệt. Chúa công cứ yên tâm rồi ta sẽ làm lại mọi sự. 

 Đêm ấy nghỉ ngơi ở Lạc Khẩu, ngày hôm sau đang định cùng mọi người bàn luận tính kế, thì thấy Giảo Kim cùng khoảng mười lính kỵ lần tới. Lý Mật giận dữ: 

 - Ta đang muốn hỏi ngươi, cớ làm sao tiền quân lại đến nỗi thế? 

 Giảo Kim thưa: 

 - Phía trước chúng thần bị quân Trịnh dồn đánh, chạy được khoảng năm sáu dặm, bỗng thấy một trận cuồng phong, vô số âm binh ở đâu hiện ra, thế là cả bọn chúng xông vào, không ngờ trong quân Trịnh kéo ra một người áo hoàng bào, bên ngoài là giáp vàng, bị trói trên mình ngựa, trông chẳng khác gì chúa công. Tướng sĩ chúng thần đều nhận rõ là chúa công đã bị bắt, chẳng còn lòng nào mà đánh nhau nữa, quân Trịnh như núi lở, biển trào, bốn phía kéo tới, phó tướng Phàn Văn Siêu kéo quân đầu hàng. Thần bất đắc dĩ cũng phải bỏ chạy về Thương Thành, không ngờ Bính Nguyên Chân đã đem toàn thành hàng Vương Thế Sung rồi, thần bèn cố chạy tới đây, may vẫn gặp chúa công. Thật đều do quỷ kế của lũ giặc mà ra cả! 

 Kể chưa xong, thì lại thấy Ngụy Trưng một người một ngựa tới, Lý Mật sợ hãi vội hỏi: 

 - Vì sao khanh cũng rời Kim Dung thành đến đây một mình, không phải đã xảy ra chuyện gì rồi chứ! 

 Ngụy Trưng thưa: 

 - Canh năm đêm hôm qua, có một người cưỡi ngựa, gọi mở cửa thành. Trịnh Tư mã trèo lên thành xem xét, soi đèn nhìn ra, thì rõ là chúa công ngồi trên mình ngựa. Trịnh Tư mã vội vàng mở cửa thành ra đón, thì nghe tiếng quát: "Chư tướng đâu, không ra cứu ứng?" Rồi thủ hạ tới trói lại, Bùi Nhân Nghiêm cũng bị trói nốt. Thần biết trúng kế, vội chạy ngay vào báo Vương nương nương, thế tử, chạy ra cửa Nam, may thay trên đường gặp Vương Đương Nhân, giao cho hộ tống về Ngõa Cương. Còn thần tới đây xem xét mọi chuyện ra sao, may gặp đông đủ ở đây. Vừa rồi ở trên đường, thấy binh lính trốn chạy nói: "Đại quân của Thế Sung đang kéo đến phía sau rồi!" 

 Thủ hạ của Nhuận Phủ đi tuần thám về thưa: 

 - Hổ Lao quan đã mất rồi, người ngựa Thế Sung chỉ còn cách Lạc Khẩu khoảng ba mươi dặm, ta phải mau trốn chạy mới yên! 

 Lúc này Ngụy Trưng cũng chẳng nghĩ được kế sách gì nữa. Lý Mật thấy Thế Sung thế như chẻ tre, liệu một góc Lạc Khẩu này, làm sao chống nổi, bèn cùng mọi người kéo về Hà Dương, là nơi Tổ Quân Ngạn đóng giữ, nhưng chưa được hai ngày, tuần thám về báo, Yển Sư, Lạc Khẩu đều đã mất. Lý Mật than: 

 - Ai ngờ bọn nghịch tặc này với vài quỷ kế mà ta đã mất ngay các nơi, cùng bao nhiêu tướng sĩ, đổ cũng bởi ta chỉ làm theo ý mình, nên mới đến thế này. Giờ thì lòng dạ rối bời, bảo ta phải làm gì đây? 

 Bá Đương thưa: 

 - Mưu sách bây giờ, chỉ còn lại Thư Hà, bắc thì dựa vào Thái Hằng, đông thì liên kết với Lê Dương. Từ Thế Tích vốn một lòng trung nghĩa, chẳng vì thành bại mà thay lòng, lại giỏi bày mưu tính kế, có thể chống đỡ cho mặt ấy, sai TỠgiữ lấy Lê Dương, rồi chuyển quân ra Hà Bắc, cố gần với Thế Sung, thần dẫu bất tài, cũng xin nguyện tử thủ. Chúa công thì ở Thái Hằng, trông coi cả hai nơi, hãy tạm như thế, rồi bộ hạ sẽ tìm đến, lực mỏng thì dựa vào thế hiểm mà chống đỡ, mới là diệu kế. 

 Lý Mật bằng lòng: 

 - Kế ấy hay lắm! 

 Hỏi các tướng đều yên lặng không nói. Lý Mật cố căn dặn, thì các tướng đáp: 

 - Hôm trước đánh một trận ở Bắc Mang sơn, quân lính đều kinh hoàng. Hùng Tín thì đầu hàng, Nhân Cơ tài trí thì bị trói, rồi lại đến Hà Dương cũng bị mất ngay, Thương Thành đầu hàng, Yển Sư Lạc Khẩu, Lao Hổ quan cũng theo gót mà đi. Tướng thì chẳng còn lòng nào mà cố giữ, lính thì chẳng còn sức nào mà liều chết, tình người lợi theo thế, ai ai cũng thế. Nay dưới trướng chúa công còn được khoảng hai vạn, liệu kéo dài được bao lâu, sợ rồi cùng theo nhau mà trốn hết. Chúa công bảo cố giữ, thì lấy ai mà giữ cho? 

 Lý Mật nghe thế, bất giác sa hai hàng nước mắt, than rằng: 

 - Ta nhờ vào sức các tướng, giữ Lạc Khẩu, chiếm Lê Dương, bắc chống Thế Sung, nam phá Hóa Cập, không ngờ nay đánh một trận, đến nỗi thần phản, thân tín xa lìa, muốn giữ thì không có người, muốn về không có đất. Tấm thân bảy thước nay còn giữ làm gì nữa? 

 Nói xong rút kiếm đâm cổ, Bá Đương vội ôm lấy, rơi lệ chứa chan mà rằng: 

 - Chúa công, dẫu có bị khốn khổ mới nên nghiệp lớn, nay tuy thất lợi biết đâu có thể hưng thịnh, sao lại đến nỗi cạn nghĩ như vậy. 

 Hai người đều khóc, các tướng nhất tề sùi sụt, Lý Mật than khóc một hồi mới lên tiếng: 

 - Thôi ta hãy dẹp tất cả lại! Chí lớn không chịu khuất kẻ khác, nay trời hại ta, vô kế khả thi, ta cũng chẳng về Lê Dương nữa. Nay nếu các tướng vẫn không bỏ ta, thì hãy cùng ta kéo về Quan Trung theo nhà Đường, cũng chẳng mất gì phú quý. 

 Các tướng đồng thanh: 

 - Xin nguyện theo chúa công về với nhà Đường! 

 Lý Mật nói với Bá Đương: 

 - Gia quyến của các tướng đều ở Ngõa Cương, nay vào Quan Trung, xa nhà đã lâu, nay tất mong nhớ, chi bằng tướng quân hãy về Ngõa Cương. 

 Bá Đương thưa: 

 - Thuở xưa đã thề cùng sinh tử với chúa công, cớ gì bây giờ lại bỏ nhau, thân này cổ phơi trên bãi cũng cam tâm, huống gì gia quyến! 

 Lời của Bá Đương làm mọi người đều cảm khích, chẳng ai muốn đi nơi khác nữa. Chỉ riêng Giảo Kim nhảy ra trước mà lớn tiếng: 

 - Không phải Giảo Kim này vô tình. Mọi người đi thì được, nhưng Giảo Kim này đi không được! 

 Ai nấy hỏi: 

 - Sao lại như thế? 

 Lý Mật đỡ lời: 

 - Ta hiểu rồi? Trình mẫu hiện còn trên Ngõa Cương, không đi cũng được. 

 Giảo Kim đáp: 

 - Không phải thế. Mẫu thân ở Ngõa Cương, đã có Vưu viên ngoại khác gì anh em, bao giờ lại quên việc chăm nom được, Giảo Kim chẳng phải lo chuyện đó. Nhưng năm trước Lý Thế Dân bị giam ở Nam Lao một trăm ngày, phần lớn đều do Giảo Kim này mà nên! 

 Mọi người nói: 

 - Đó là việc quốc gia, mà nào đâu chỉ tội riêng gì mình Trình hiền đệ? 

 Giảo Kim đáp: 

 - Dạo ấy Thế Dân dò xét thành Kim Dung, trăm quan đều nói là mẹo lừa của Thế Dân, không ai dám ra bắt, chỉ riêng độc Giảo Kim này, chẳng sợ chết ra khỏi thành, đuổi đến "Lão Quân đường”. Thế Dân trốn trong khám, tiểu đệ thấy Thế Dân biến thành một con mãng xà tinh, mới giơ búa định bổ, may mà Tần đại huynh đỡ kịp, nói rằng: "Bắt sống đem về gặp chúa công!", đến nỗi quần thần hai người, bị giam ở Nam lao. Người đời ngày nay, ân thì dễ quên, oán thì phân minh. Tiểu đệ mà về Đường, thì thật trúng ý Thế Dân, chỉ cần cho Giảo Kim này một đao, chia làm hai khúc, thì mẫu thân ai người chăm sóc. Không đi! Không đi được đâu! 

 Mọi người nói: 

 - Lúc này thì ai làm theo ý người ấy. Giảo Kim không đi, chúng ta cũng cứ theo chúa công về với nhà Đường thôi! 

 Lý Mật sợ kéo dài sinh biến, cũng chẳng chờ Thúc Bảo trở về, cũng chẳng báo cho Mậu Công, lệnh cho hai vạn quân sĩ kéo về phía Tây. Trước tiên sai Nguyên soái phủ duyên Liễu Tiếp, đem theo tấu chương dâng vua Đường. 

 Vua Đường Lý Uyên, từ lâu đã biết tài thao lược Lý Mật có thể dùng được, huống chi vùng Hà Nam, Sơn Đông, bộ hạ của Lý Mật khá nhiều, nếu thu phục được Lý Mật, thì cũng nhiều kẻ theo về, cho nên cả mừng, sai ngay tướng quân Đoàn Chí Huyền ra gặp, tìm lời an ủi lại sai ty pháp Hứa Kinh Tôn ra đón. Lý Mật tưởng tới thuở làm minh chủ, Lý Uyên bao lần ca ngợi, nào hay một sớm thất lợi, để đến nỗi phải cúi đầu làm thần tử Lý Uyên, trong lòng cũng ảo não không nguôi. Nhưng nay sự đã đến nước này, không thể không chịu dưới kẻ khác, đành phải dẫn bọn Bá Dương kéo vào Trường An, triều kiến vua Đường. Các tướng bái lạy xong, mời Lý Mật lên điện, vua Đường ban cho ngồi: 

 - Hiền đệ can quan lao khổ, hãy nghỉ ngơi ít lâu, rồi chờ Thế Dân ở U Châu về, sẽ cùng hiền đệ san bằng Đông Quan, trả hận cho hiền đệ. 

 Rồi truyền chỉ phong cho Lý Mật làm Quang lộc khanh Thượng trụ quốc, trước Hình Quốc Công. Vương Bá Đương làm Hữu vũ vệ tướng quân. Ngụy Trưng làm Tây phủ ký thất tham quân, ngoài ra các tướng sĩ đều được ban chức tước. Lý Mật tạ ơn lui ra. Vua Đường thấy Lý Mật không mang theo gia quyến, đem em họ là Độc Cô thị ban cho làm vợ, quan chức tuy không to, nhưng ơn nghĩa như thế cũng lớn. 

 Chính là: 

 Nhớ thuở xưa rồng mây nanh vuốt 

 Mà sao nay như chuột như dê 

 Cùng bầy Giáng, Quán, ê chề (1) 

 Hàng thần lơ láo, tôn ty bẽ bàng. 

 1 Bình định xong thiên hạ, Hán Cao Tổ phong Hàn Tín làm Sở Vương. Chu Bột được phong Giáng Hầu, Quán Anh phong Dĩnh Âm Hầu. Nhưng sau Hàn Tín cũng bị giáng xuống tước hầu như Giáng, Quán, nên vừa bực, vừa thẹn! (Sử Ký) 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Bốn

Mẹ hưởng ơn vua, Trình Giảo Kim oán thù quên hết,

 Lòng nhớ thề cũ, Vương Bá Đương tính mạng tiếc chi.

 Từ rằng: 

 Nhớ xưa tăm tiếng nổi như cồn 

 Từ bốn phương 

 Anh hào dập dìu như sóng 

 Thế rồi, một sớm thất cơ 

 Lệ lả tả tưới ướt cả núi xác đồi xơ mộng xưa! mộng xưa! 

 Hãy mừng còn bạn thuở xưa cập kè! 

 Theo điệu "Như mộng lệnh" 

 Người xưa nói: biết thế nào là đủ thì không nhục, không biết bao nhiêu cho vừa, thì nỗi nhục nhã cũng kéo theo ngay. 

 *** 

 Lại nói chuyện Ngụy Vương Lý Mật vào Trường An, nhớ lại thuở trước đến Đông Đô, Tần Vương tiên triều còn phong chức Thái úy coi sóc công việc trong ngoài, nay về với nhà Đường, vua Đường nhất định đãi không bạc. Hàng em út như Lý Thần Thông, Lý Đạo Huyền mà còn được phong vương, thì Lý Huyền Thúy được một tước vương cũng chưa biết chừng, nhưng rồi chỉ được phong Quang lộc khanh, trong lòng lấy làm bất bình, mà không biết rằng vua Đường rất trân trọng, rất tiếc cho họ Lý, muốn chu toàn cho họ Lý, nhưng còn sợ rằng nếu đặt ở ngôi cao ngay, triều thần sẽ ganh ghét, lại thêm Hà Nam, Sơn Đông chưa thu phục được, cần phải làm sao chiêu an được đám bộ hạ cũ của Lý Mật. Nay chưa gì đã phong tước cao lộc trọng, mai kia biết thêm chức tước gì nữa, nên mới tạm để như vậy hòng lung lạc, ma chiết ít nhiều chí khí của Lý. Lý cũng tưởng như hồi ở Kim Dung thành, Lý chẳng dung nổi Thế Dân, thì nay mình quy Đường, vua Đường cũng lấy thế đãi mình, vẫn coi mình là một kẻ đại trượng phu đội trời đạp đất, không thể cam chịu để người khác khinh khi. 

 Chưa được một tháng, Tần Vương chinh Lũng Tây dẹp yên con của Tiết Nhân Cảo là Tiết Cử, nhổ trại khải hoàn, đã sai tiểu hiệu về Trường An báo tin thắng trận trước. Vua Đường triệu Lý Mật vào triều, phủ dụ: 

 - Từ ngày khanh về đến nay, chưa từng gặp mặt Thế Dân, trẫm chỉ sợ Thế Dân nhớ tới chuyện cũ, không có lợi cho khanh, khanh nên ra đón để trọn lễ thần tử vậy! 

 Lý Mật bằng lòng. Lúc này Ngụy Trưng cáo ốm, nằm ở Tây phủ, Lý Mật cùng Bá Đương với khoảng hai mươi người nữa, ra khỏi Trường An, lên phía bắc, tới Bân Châu, thám mã quay lại báo người ngựa Tần Vương đã tới gần. Lý Mật hỏi Tổ Quận Ngạn: 

 - Nếu Tần Vương có hỏi, ta nên đối đáp như thế nào? 

 Quân Ngạn đáp: 

 - Không hỏi thì thôi, có hỏi thì cứ nói, thánh thượng sai nghênh giá, thế là không thể nào nghĩ đến việc hại ta vậy! 

 Bỗng tiếng trống chiêng rộn rã, pháo nổ tung trời, đội cẩm y ăn mặc sặc sỡ, hai bên là mười viên tổng quản, kiếm kích sáng ngời, đi trước là mấy viên tướng hiệu hò hét, theo sau là đội nhạc, kèn trống nhịp nhàng đi tới. Lý Mật chắc chắn Thế Dân, vội cùng mọi người đứng chờ bên đường, thì thấy một viên tướng trên ngựa, lớn tiếng: 

 - Ta không phải Tần Vương, mà là Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng Lưu Hoàng Cơ. Điện hạ còn ở phía sau. Các ngươi là ai, sao lại đứng đợi ở đây? 

 Lý Mật lại càng bực bội, biết rõ Tần Vương cố ý sai gia tướng giả dạng như thế để làm nhục mình, nay nếu không đi tiếp, thì càng làm phật lòng Tần Vương, nhưng nếu đi tiếp thì nỗi nhục nhã càng dày vò. 

 Lại một đội người ngựa đi tới, ngay phía trước là biển "hồi tỵ" (1) màu vàng chóe giương cao, giữa là cờ ngũ sắc cùng kiếm thương nhọn trời, phía sau tiếng quát vang dội. Lý Mật nghĩ thầm: "Đây thật là Tần Vương rồi!". Liền vội vàng cúi lạy, thì thấy hai người trên ngựa cười nói: 

 - Chúng ta là Mã Tam Bảo, Bạch Hiển Đạo, dạo trước đã tới thành Kim Dung thăm ngài, nay ngài cũng có đến Trường An sao. Nếu muốn đón điện hạ, thì cứ trông ngự giá thật cao ở phía sau là đúng, hãy tới mà đón cho cẩn thận! 

 1 Bảng lệnh cho dân chúng tránh xa! 

 Lý Mật mặt mày đỏ lựng, đấm ngực đậm chân, ngửa mặt lên trời mà than: 

 - Đại trượng phu không tự lập được, phải khuất dưới người khác, xỉ nhục như thế, thì còn mặt mũi nào mà đứng trong trời đất này nữa? 

 Lại muốn rút kiếm tự vẫn, Bá Đương phải giằng lấy kiếm mà khuyên: 

 - Sao minh công lại nghĩ cạn như thế, Chu Văn Vương bị tù ở ngục Dữu Lý, Câu Tiễn bị nhục ở Cối Kê, mà về sau vẫn làm nên nghiệp lớn, phải biết nhẫn nại, còn mưu đồ sau này chứ. 

 Có người báo: 

 - Phía trước cờ vàng phấp phới, trên thêu chữ lớn "Tần Vương", nay thì đúng Tần Vương không sai! 

 Lý Mật không biết làm thế nào, đành phải đứng lại bên đường, ngước trông đội người ngựa đi tới trước lá cờ thêu ngũ sắc, võ tướng áo giáp, mũ bạc giăng hàng, cắp cung đeo tên, ánh sáng lóe mặt, yên vâng kiệu ngọc, long lanh rực trời, lực sĩ theo sau là những gia tướng Sử Nhạc, Đào Vũ Khâm, tốp tiếp là Vương Thường, Khâu Sĩ Doãn. 

 Bốn tướng nhận ra Lý Mật, đều giơ cao tay, ngồi trên lưng ngựa chào: 

 - Ngụy Vương tha lỗi, chúng tôi xin thất lễ! 

 Lý Mật cùng mọi người yên lặng, nước mắt ngắn dài. Bá Đương phải an ủi lần nữa. 

 Lại thấy Ân Khai Sơn, Lạc Dương Sử, làm tả hữu hộ vệ, Tần Vương mang mãng bào, đội kim khôi, chẳng khác gì một thiên vương, ngồi cao ngất trong màn gấm. Lý Mật trông thấy rõ ràng, vội vàng phủ phục xuống thưa: 

 - Kẻ thô lỗ này không ra đón sớm hơn, xin điện hạ tha tội. 

 Tần Vương thấy Lý Mật, bất giác "nộ phát xung quan", tóc giận đẩy mũ lên cao, tay cầm cung, tay cắp tên, giương cung cong tít, nhưng thấy các tướng Ngụy: Vương Bá Đương, Giả Nhuận Phủ, Tổ Quân Ngạn, Liễu Chu đều phủ phục dưới đất, mặt xám như đất, Lý Mật lấy hai tay che mặt, run sợ đứng không vững, cả bọn chẳng khác gì chó chực, nên cũng vốn là bậc quân tử đại lượng, liền thu cung, bỏ tên vào bao, lấy cánh cung chỉ vào mặt Lý Mật mà mắng: 

 - Thất phu cũng có ngày nay sao? Ta vẫn chờ bắn cho ngươi một phát, để báo ngày tội tù cũ, nhưng sợ liên lụy đến người khác, lại trách rằng ta không có lượng bao dung. Hãy tạm tha tính mạng cho ngươi. 

 Rồi quát lớn một tiếng mà đi. Đúng là Tần Vương đã biết có Lý Mật ra đón, nên bày đặt ra thế để làm nhục Lý Mật vậy. 

 Tần Vương vào triều bái kiến phụ vương, vua Đường an ủi: 

 - Con chinh phạt nhọc nhằn, yên cương vất vả! 

 Tần Vương thưa: 

 - Nhờ hồng phúc của phụ vương, chư tướng hết lòng hết sức, đắc thắng khải hoàn, bắt được Tiết Nhân Tiếp, La Tôn Hầu, hiện đang nhốt ở xe tù, đợi phụ vương phát lạc? 

 Vua Đường cả mừng, liền truyền vũ sĩ lôi ngay ra chợ chém đầu, treo thủ cấp để thị chúng, rồi lại hỏi Tần Vương: 

 - Con đã gặp Lý Mật chưa? 

 Tần Vương thưa: 

 - Thần đã gặp rồi. 

 Vua Đường tiếp: 

 - Lúc ấy trẫm cũng muốn cự tuyệt, không cho hàng. Nhân có Lưu Văn Tĩnh thưa: "Trịnh với Ngụy liền nhau, hai nước như môi với răng, nay Vương Thế Sung diệt được Lý Mật, chẳng khác gì Quắc vong thì Ngu cũng không còn vậy. Nay nếu không nhận cho hàng, Lý Mật tất cùng kế, kéo binh theo kẻ khác, lại tăng thêm một kẻ địch, khổ công đánh dẹp. Thật không nên?" 

 Tần Vương thưa: 

 - Vì sao mấy viên quan có ơn với thần lại không thấy đâu cả? 

 Vua Đường đáp: 

 - Ngụy Trưng đã đến đây, trẫm cũng biết là kẻ có tài nên đã cho làm Tây phủ ký thất tham quân, nay nghe nói bị bệnh, có lẽ vì thế không ra đón chăng? 

 Tần Vương vào thăm mẫu hậu, rồi tạ ơn ra khỏi cung. Tần Vương nguyên là kẻ có tài dẹp loạn thế, nên vẫn để ý đến chuyện cầu hiền như khát nước, lại thêm có ơn với mình thuở trước, sao lại không để ý cho được, liền trở về Tây phủ, hỏi nơi ở của Ngụy Trưng. 

 Ngụy Trưng vốn chẳng ốm đau gì, nhưng thấy Lý Mật cùng đi đón Tần Vương, Ngụy Trưng cũng có chỗ khó nói, nên tìm cớ cáo bệnh không đi. Nay nghe Tần Vương đến thăm, vội ra bái phục mà thưa: 

 - Thần bỗng nhiên trở trời, không thể ra đón, xin điện hạ tha tội cho! 

 Tần Vương đỡ dậy mà rằng: 

 - Tiên sinh với ta, đâu phải như những người khác, mà phải vái lạy như thế này? 

 Rồi kéo cùng ngồi. Ngụy Trưng thưa: 

 - Ngụy Công thất thế về hàng, xin điện hạ mở lượng hải hà, đừng nhớ lỗi lầm xưa! 

 Tần Vương đáp: 

 - Ta chịu ơn sâu của các vị, ngày đêm nhớ kỹ trong lòng, nay may các vị không bỏ, thật thỏa nguyện bình sinh. Lý Mật là kẻ thất phu, ta vừa thấy quỳ ở bên đường, mấy lấn không kìm nổi tay chân, nhưng thấy còn có các tướng cho nên lại thôi. Giờ ta dẫu không giết y cũng có ngày người khác sẽ giết mà thôi. 

 Lại hỏi: 

 - Thúc Bảo, Mậu Công sao không thấy đâu? 

 Ngụy Trưng thưa: 

 - Mậu Công đang giữ Lê Dương, vốn là kẻ sĩ túc trí đa mưu, Ngụy Công cậy tài, đàm luận không hợp với Mậu Công, cho nên phải ra giữ đất này, nhưng vẫn chẳng hề mang lòng nào khác. Còn Thúc Bảo thì đi chinh phạt Tiêu Tiên chưa về, Ngụy Công về đây, cũng chưa cho người đi báo cho họ biết đâu. 

 Tần Vương nói: 

 - Tần mẫu cùng mẹ con Hoài Ngọc hiện đang ở đây, ta thường sai người tới thăm nom luôn. 

 Ngụy Trưng thưa: 

 - Thúc Bảo đến giờ thì có lẽ đã biết rõ mọi chuyện rồi. Thật là một người hiếu thảo với mẫu thân, nghĩa khí với bạn bè. Đơn Hùng Tín thì đã hàng Vương Thế Sung rồi, sợ rằng chuyện này còn rắc rối nhiều sau này. 

 Tần Vương lại hỏi: 

 - Thế còn Trình Giảo Kim lỗ mãng cũng không thấy đâu cả là sao? 

 Ngụy Trưng đáp: 

 - Giảo Kim nhân trước kia đắc tội với điện hạ, nên không dám tới quay về với thân mẫu ở Ngõa Cương. Giảo Kim tuy thô lỗ, nhưng thờ thân mẫu rất có hiếu, lại cũng là một kẻ ngay thẳng trong sạch. 

 Ngày hôm trước, thần có gặp Từ Nghĩa Phù, mới biết hiện nay Trình mẫu cũng đang ở đây. Giảo Kim về đến Ngõa Cương, biết chuyện này, nhất định chẳng nghĩ gì đến thân mạng mà vào Trường An tìm. Lúc vào xin điện hạ hãy quên chuyện cũ mà bao dung cho Giảo Kim. 

 Tần Vương cùng Ngụy Trưng chuyện trò sáng, suốt chiều, rất là thân ái. 

 *** 

 Nay hãy nói chuyện Giảo Kim, về đến Ngõa Cương, không thấy mẫu thân, vội đi hỏi Vưu viên ngoại, Vưu Thông đáp: 

 - Bá mẫu theo Tần mẫu đi thăm họ hàng, không ngờ bị Tần Vương lập kế đưa cả về Trường An rồi còn đâu! 

 Giảo Kim nghe thế, cười nói: 

 - Vưu đại ca, đại ca hãy đi đòi về cho tiểu đệ! 

 Vưu Thông hỏi: 

 - Trình hiền đệ, hiền đệ nói thật hay nói đùa? 

 Liền kể lại tỉ mỉ chuyện cũ, rồi thêm: 

 - Bọn người này nguyên chỉ định đón Tần mẫu mà thôi, ai ngờ bá mẫu đi theo. Vưu Thông này đã mấy lần khuyên can, nhưng bá mẫu chẳng nghe, nên phải nhờ Liên Cự Chân đi theo. Hôm trước Cự Chân từ Trường An về dây, kể lại bá mẫu cùng Tần mẫu vào ở trong Tây phủ của Tần Vương rất là sung sướng yên ổn. Hiền đệ nếu không tin, thì nên đi Lê Dương, hỏi thẳng Cự Chân thì sẽ biết rõ ràng hơn. 

 Giảo Kim lúc này cũng mệt mỏi, ngẩn người nghĩ ngợi một lát, rồi quát tướng: 

 - Thôi kệ , cứ vào quách hang cọp vậy, cùng lắm là đến kết quả tính mạng họ Trình này thôi chứ gì! 

 Sáng hôm sau, cũng chẳng chào Vưu Thông, cùng hai kẻ thân tín, vào Trường An. 

 Đáng thương thay: 

 Nghĩa mẹ, thân con đâu dám tiếc 

 Ơn vua, đời trẻ thuở nào quên. 

 Giảo Kim sợ đường lớn có người nhận ra, nên đi theo đường mòn, ngày đi đêm nghỉ, chưa đầy một tháng đã tới Trường An, vào thành kiếm một nhà trọ, ngay ở phía trái Tây phủ nghỉ ngơi, rồi sai thân tín đến xem cửa Tây phủ bao giờ mở. Tần Vương biết Trình Giảo Kim đến, ra lệnh cho gia tướng xếp đặt trang nghiêm, gươm giáo sáng loáng, trống lớn kèn to, nổi đủ ba hồi. Tần Vương lên điện, chư tướng lạy chào, đứng hầu hai bên. Quan coi cửa vào quỳ lạy thưa: 

 - Giặc Ngụy là Trình Tri Tiết đã được dẫn vào! 

 Vũ vệ gia tướng dạ lớn một tiếng như sấm, Tần Vương ngồi trên điện cao, thấy một người đàn ông to lớn cởi trần, tóc phía gáy cắt ngắn, đường hoàng đi vào, đến trước đan trì, vẫn ngang nhiên đứng thẳng. Tần Vương nhìn kỹ, đúng là Giảo Kim rồi, bất giác lửa giận phừng phừng, mày râu dựng ngược, xô án mà quát: 

 - Thằng giặc kia! Hôm nay là ngày cuối cùng của mày. Mày còn nhớ năm trước, ta trốn trong "Lão Quân Đường", suýt nữa bị mày cho một búa vỡ sọ, nay ta phải bỏ mày vào vạc mà nấu nhừ, mới thỏa hận này! 

 Giảo Kim cười lớn mà rằng: 

 - Lúc ấy ta chỉ biết có Ngụy, mà không biết có Đường. Đại trượng phu thì người có ân với mình không quên trả, kẻ oán với mình thì nên quên mới phải. Ta mà sợ chết, đã không đến Trường An, muốn giết thì cứ giết, việc gì phải giận dữ. Hãy mau gọi mẫu thân của ta ra đây, cho ta gặp mặt lần cuối, rồi đâu ra đấy, các ngươi cứ chém đi! 

 Tần Vương quát: 

 - Thằng giặc già đã đến nước này mà vẫn còn ngang ngược, hãy tạm tha chết cho mày. Quân sĩ đâu, hãy giải thằng giặc này đi gặp mẫu thân rồi sẽ chịu tội sau! 

 Quân sĩ không cho Giảo Kim nói nữa, lôi ngay ra ngoài cửa phủ. 

 Tần mẫu từ ngày đến Trường An vẫn có một ngôi nhà rất to ở ngay phía đông Tây phủ, cùng với Trình mẫu, Tần Vương sai ngay gần hai chục hầu gái đến phục dịch, lại điều thêm hai mươi tên lính coi giữ. Ngày ngày có người cung phụng thức ăn vật dùng, tháng tháng lại có vàng lụa làm quà của Tần Vương gửi đến. Tần mẫu cũng không quên phần Trình mẫu, nên cả hai ở đây rất yên ổn, sung sướng, vô cùng cảm ơn Tần Vương. 

 Quân sĩ đem Giảo Kim dẫn đến chỗ Tần mẫu đã có người vào báo trước. Tần mẫu cùng Trình mẫu vội chạy ra cửa. Trình mẫu thấy con dáng hình ra thế, lập tức ôm lấy đầu mà khóc nức nở mãi không thôi, đến nỗi bọn lính xúm quanh cũng không nhịn được cười. Giảo Kim rầu rĩ thưa: 

 - Mẫu thân chẳng phải khóc, con xin hỏi mẫu thân, từ ngày đến đây mẫu thân có khỏe không, có người hầu hạ không? 

 Trình mẫu vẫn chỉ khóc, không nói một lời, đến nỗi Tần mẫu phải đáp thay: 

 - Mới đến Trường An, đã có người đến hầu hạ, ngày ngày đưa thức ăn, đồ dùng, hàng tháng có vàng bạc, lụa là, lại còn sai các cô, các bà tới thăm nom. Ta cùng Trình mẫu, thật đội ơn sâu, chẳng ai nhiều chẳng ai mỏng. 

 Giảo Kim vẫn gặng hỏi mẫu thân: 

 - Có thật thế không? 

 Trình mẫu gạt nước mắt, gật đầu mà rằng: 

 - Quả đúng như vậy! 

 Rồi đưa tay chỉ hai nàng hầu gái nói tiếp: 

 - Đây là những người Tần Vương sai đến hầu hạ ta vậy! 

 Giảo Kim bèn thưa: 

 - Mẫu thân, con thật có lỗi, không biết được Tần Vương là người tốt đến thế. Nay con có chết dưới trướng của Tần Vương, cũng thật cam lòng, mẫu thân không phải nhớ con làm gì, cứ ở mãi suốt đời với Tần mẫu cũng tốt rồi! 

 Rồi đứng lên vùng đi ra, nhưng Trình mẫu vẫn không chịu thả, Tần mẫu nói với Giảo Kim: 

 - Cháu không phải vội vàng, nghe ta nói: lúc ấy vì Tần Vương muốn Tần Quỳnh về với nhà Đường, nên cố giả nhà họ La đến đón ta, không ngờ mẫu thân cháu cũng có lòng tốt, đi cùng ta ra khỏi trại, nên cùng về Trường An. Nay Ngụy Công cũng đã hàng nhà Đường, Tần Quỳnh chẳng sớm thì muộn cũng sẽ về. Chẳng nhẽ mẫu thân cháu vì ta mà ra khỏi nhà, để rồi không còn thấy mặt con nữa sao? 

 Rồi nói với những người đứng hầu: 

 - Lấy cho ta bộ quần áo đại lễ ra đây, để ta đến gặp Tần Vương xin cho Giảo Kim. 

 Đang nói, thì thấy một sai quan, đi cùng ba bốn hiệu úy, tay bưng mũ, áo bào, lớn tiếng: 

 - Điện hạ có lệnh tha tội cho Trình Tri Tiết, truyền mặc ngay áo mũ để vào tương kiến tại Tây phủ. 

 Nói rồi, mấy hiệu úy cởi ngay trói cho Giảo Kim, mặc quan phục cho. Trình mẫu thấy thế, vội vàng quỳ lạy ngay dưới đất, ngửa mặt lên trời mà khấn vái: 

 - Cầu cho điện hạ thái bình nhất thống, vạn thọ vô cương. 

 Xung quanh không nín được cười. Đội mũ, mặc áo xong xuôi, Giảo Kim vái lạy mẫu thân cùng Tần mẫu, Trình mẫu níu áo dặn: 

 - Con chẳng cần phải lạy tạ, mau vào Tây phủ vái lạy Tần Vương, thật là vị chúa công khoan ân đại độ, con phải tận tâm báo ơn Tần Vương, ta dẫu có chết cũng nhắm được mắt rồi! 

 Giảo Kim vâng dạ, vội cùng sai quan quay lại Tây phủ. Lúc này Tần Vương đang ở "Tập hiền đường", với các mưu sĩ bàn luận, thì thấy sai quan quay về phục mệnh, lại nói rõ Tần mẫu cũng định xin gặp Trình mẫu tạ ơn ra sao. Tần Vương cười, nói với Ngụy Trưng cùng Lưu Văn Tĩnh: 

 - May mà ta sớm sai người đến tha tội cho Giảo Kim, nếu để Tần mẫu đến đây nữa thì thật nhẫn tâm vậy! 

 Sai quan lại nhắc, Giảo Kim hiện đang ở ngoài cửa soái chờ phục mệnh, Tần Vương phán: 

 - Cho Giảo Kim vào Tây đường! 

 Tây đường vốn là nơi tiếp khách của Tây phủ, sai quân dẫn ngay Giảo Kim đến chờ bên thềm, thì thấy Tần Vương thong thả đi tới Giảo Kim vội chạy như bay lại, quỳ xuống trước mặt Tần Vương, khóc lóc thưa: 

 - Thần thật vốn có mắt mà không có con ngươi, trước kia đã không biết được ra minh chủ anh hùng, để đến nỗi tội thật không tránh nổi, nay tuy được nhờ ơn lớn mà tha tội, nhưng trong thật tủi thẹn. 

 Tần Vương xuống thềm, kéo Giảo Kim dậy mà phán rằng: 

 - Vừa rồi ta thử khanh đấy thôi. Từ lâu ta đã biết đến lòng trung nghĩa của khanh, cần khanh thờ Đường như thờ Ngụy là được rồi. 

 Giảo Kim thưa: 

 - Thần đội ơn sâu của điện hạ với mẫu thân, nào dám không quên thân để báo đền. 

 Tần Vương hỏi chuyện đánh nhau với Thế Sung trước kia ra sao, Giảo Kim thuật lại tỉ mỉ, Tần Vương lại hỏi tiếp: 

 - Khanh đã gặp Thúc Bảo cùng Mậu Công chưa? 

 Giảo Kim thưa: 

 - Thần từ lúc thua trận, thấy Ngụy Công đã quy Đường, thần liền về Ngõa Cương, nghe được tin mẫu thân ngày đêm về đây, thực chưa gặp Tần, Từ nhị vị đại huynh. Nay thần cảm ơn trời biển của điện hạ, thần cũng có khoảng gần hai nghìn lính tâm phúc, đang còn ở Bắc Mang, Yển Sư, thần xin đi gọi về, cùng rủ Tần, Từ nhị vị quy Đường. Không biết điện hạ có bằng lòng cho thần đi chăng? 

 Tần Vương cả mừng: 

 - Có gì mà ta chẳng bằng lòng, thế cũng đủ thấy lòng trung nghĩa của khanh. Nhưng phải vào triều kiến thánh thượng, xem thánh ý ra sao đã. 

 Giảo Kim vâng mệnh. Tần Vương lệnh cho sai quan dẫn Giảo Kim vào triều điện thánh. Vua Đường thấy Giảo Kim tướng mạo đường đường, tiếng nghe như sấm, liền phong ngay làm Hổ dực đại tướng quân, kiêm Tây phủ hành quân tổng quản, tùy việc sai khiến của Tần Vương. Giảo Kim tạ ơn lui ra, quay lại Tây phủ tạ ơn Tần Vương, rồi quay về ngay gặp mẫu thân, Tần mẫu cùng mẹ con Trương thị, Tần Hoài Ngọc ra bái chào, cả nhà vui vẻ. 

 Sáng hôm sau, Giảo Kim từ biệt Tần Vương, nhung trang đầy đủ lên đường. Mấy hôm trước, vào Trường An thì đúng là chín phần chết, một phần sống, nay ra khỏi Trường An, áo cừu nhẹ, ngựa béo, thầy thầy tớ tớ thật khác xa lúc đầu, theo đường mà tới Đông Đô. 

 Chính là: 

 Vì tình tri kỷ mới 

 Nhớ nghĩa bạn bè xưa. 

 *** 

 Nay lại nói chuyện Lý Mật, từ ngày bị Tần Vương sỉ nhục, mỗi ngày trở về Hình phủ, mặt mày buồn bã. Tả hữu báo tin Giảo Kim tới, Lý Mật trong lòng chỉ muốn Giảo Kim tới thăm, để hỏi chuyện tin tức ở Đông Đô chẳng ngờ Giảo Kim cũng không đến. Ba bốn ngày sau, nghe tin vua Đường phong cho Giảo Kim làm Hổ dực đại tướng quân, sai Giảo Kim ra khỏi Trường An rồi. Lý Mật trong lòng buồn rầu, nói với Bá Đương cùng các tướng khác: 

 - Giảo Kim vốn là bề tôi của ta, đến đây đã ba bốn ngày, cũng chẳng lại gặp ta một lần, nhân tình đơn bạc đến thế thì thôi. Nay vua Đường ban quan tước cho, ra khỏi Trường An, có lẽ là đi thu thập bộ hạ thân tín cũ về giúp nhà Đường. Còn chúng ta ở đây lặng lẽ chờ chết, ngày nào mới ló đầu ra được? 

 Các tướng của Lý Mật, toàn những người chiếm thành, lấn đất, vàng lụa đến tay dễ dàng, tiêu pha cũng chẳng cần nghĩ ngợi, nay vào Trường An, cái ăn tiêu hàng ngày chẳng đủ đầy, ở cũng chưa yên ổn, nay thấy Lý Mật có ý ra đi, tất cả liền bàn bạc: 

 - Mậu Công hiện đang ở Lê Dương, Trương Thiện Tương ở Doãn Châu, Thúc Bảo, Sĩ Tín có lẽ đã bình định xong Tiêu Tiên, nhất định sẽ về Ngõa Cương. Hùng Tín cùng các tướng khác ở Lạc Dương, chúa công vẫn còn nhiều nơi nương dựa, việc gì phải khổ sở ngồi yên một chỗ để người ta đối xử với mình như vậy. 

 Bá Đương cũng góp: 

 - Lẽ nên như thế! 

 Lý Mật bàn: 

 - Cũng nên tâu với vua Đường, rằng đi Sơn Đông, thu thập tay chân ở khắp các nơi, rồi kéo về Quan Ngoại đầy đủ. 

 Nhuận Phủ khuyên: 

 - Không nên, chúa thượng đãi minh công sâu nặng đến thế. Huống chi đại sự bây giờ đã gần như lời sấm lâu nay cả rồi, thiên hạ sắp thống nhất đến nơi, minh công vẫn có ý khác thì ngay đến Trịnh Ngạn Sư, Sử Vạn Bảo, sáng khởi sự, chiều đã thấy binh triều đình kéo đến. Dẫu có xuất quân, lính tráng đâu ra, mang tiếng phản nghịch, còn ai dung. Theo ý của minh công, chi bằng hãy ngồi yên, đợi đến lúc nào thuận lợi, mới có thể vẹn toàn vậy. 

 Lý Mật giận dữ: 

 - Khanh vốn là tâm phúc của ta, sao lại nói thế, nếu không bằng lòng, ta chém đầu trước rồi sẽ khởi sự sau vậy. 

 Nhuận Phủ khóc mà đáp: 

 - Từ ngày Địch Tư đồ bị giết đến nay, người người đều nói minh công là quên ơn nghĩa, chẳng nhớ gốc xưa, trên dưới đều thay lòng, ly tán. Nay trong lúc túng quẫn nghĩ càn, ai là người giao lại binh lính cho minh công. Giả Liễu nay mang ơn minh công đối xử hậu ân, nên nói thẳng mà không dám che giấu gì, xin minh công hãy sáng suốt nghĩ kỹ. Còn nếu đúng là minh công có thể tìm thấy chỗ nương thân tốt hơn, thì Giả Liễu này dẫu có tan xương nát thịt cũng chẳng tiếc! 

 Lý Mật đùng đùng dùng gươm toan đâm, Bá Đương phải ra sức khuyên can mới thôi. Tổ Quân Ngạn bàn: 

 - Cứ như thần nghĩ, chi bằng nói với công chúa, rồi trốn khỏi Trường An. Tần Vương có biết, sai người ngăn, công chúa cũng ở trong đám cả, tất chẳng tội nào. Ngày xưa Lưu Tiên chủ lừa Tôn Phu nhân về Hán cũng theo cách này, chẳng biết ý minh công thế nào? 

 Kế sách đã định, Lý Mật giữ nguyên bộ mặt giận dữ vào nội phủ. Độc Cô công chúa hỏi: 

 - Kẻ đại trượng phu ôm đầy chí lớn trong lòng, thiếp thấy phu quân hình như đang nghĩ ngợi điều gì? 

 Lý Mật đáp: 

 - Ta có lời muốn nói, xin công chúa thử nghe xem có được chăng? 

 Công chúa thưa: 

 - Vợ chồng với nhau, còn có điều gì phải rào đón! 

 Lý Mật bèn tiếp: 

 - Ta muốn bỏ Đường mà đi, nhưng chỉ sợ công chúa bịn rịn không thể dứt, những muốn được công chúa cùng đi, không biết có được chăng? 

 Công chúa đáp: 

 - Có đúng thế thật không? Hoàng huynh thiếp nhận phu quân về hàng, phong tước cao, lại thương phu quân không nhà không cửa, ban gả thiếp cho, thân thiết đến thế, phú quý đến thế là cùng cực. Nay chưa ngồi ấm chiếu, ơn sâu chưa báo, đã sinh lòng khác, người có lòng không ai làm thế cả. 

 Lý Mật nói: 

 - Chúa thượng ơn sủng tuy hậu, nhưng Tần Vương là cháu công chúa mà lại làm nhục ta quá lắm, không thể cùng sống, hãy tạm đi Sơn Đông, thu thập sĩ tốt, sau này khởi sự. Huống chi phận đàn bà theo chồng là hay hơn cả, công chúa không theo, hoặc cũng có lòng khác chăng? 

 Công chúa nghe thế, rơi nước mắt mà rằng: 

 - Thiếp những tưởng phu quân là người tốt, hết lòng đền ơn nước, hóa ra cũng chẳng khác gì phường bất trung, bất nghĩa, kiếp này thiếp biết dựa vào đâu nữa? 

 Lý Mật thấy nói thế, sát khí đằng đằng, may ngay cạnh còn có cung nữ, để ý thấy vậy, vội vàng khuyên giải: 

 - Phò mã bớt giận, cũng bởi công chúa ít tuổi, chưa biết nghĩa lớn. Cổ nhân nói thật đúng: "Phu xướng phụ tùy",thì mới không xảy ra chuyện chia lìa, lấy thuận làm đầu, chính là đạo làm vợ. Phò mã đã nói thế, thì xin cứ bàn bạc cho kỹ, dần dần sẽ làm, chẳng kẻo chỉ một lời nói, mà làm tổn thương đến tình vợ chồng thắm thiết. 

 Lý Mật nghe thế, cơn giận cũng nguôi ít nhiều, bỏ ra bên ngoài. 

 Tổ Quân Ngạn hỏi: 

 - Minh công đã bàn bạc với công chúa chưa? 

 Lý Mật buồn bực nói: 

 - Vừa rồi ta mới chỉ nói vài câu, công chúa đã trách ta vong ân bội nghĩa, ta những muốn ngứa ngáy chân tay rồi, nên mới vội ra ngoài này. 

 Bá Đương bàn: 

 - Tin tức đã hở ra như thế, thì không hay nữa rồi, họa đến nơi bây giờ! 

 Lý Mật hỏi: 

 - Làm thế nào cho yên bây giờ? 

 Quân Ngạn đáp: 

 - Tất cả phải lên đường ngay, nếu cứ dùng dằng thì lại càng khó ra khỏi Trường An. 

 Lý Mật vội vàng quay vào đóng kín cửa trong, sai Bá Đương gọi đầy đủ các tướng tới, thu thập hành trang khí giới, cộng hơn sáu mươi người, không chờ đến sáng nữa, ra cửa Bắc mà đi khỏi Trường An. Quân canh cửa vội báo ngay cho Tần Vương. Tần Vương nổi giận, đến ngay Hình phủ xem xét, thì thấy cửa trong khóa kín, gọi người mở, thấy Độc Cô công chúa, công chúa kể lại những lời tối qua. Tần Vương nghiến răng, trợn mắt, vội về báo ngay cho phụ hoàng. Vua Đường cũng vô cùng giận dữ, định sai tướng đuổi theo bắt lại. Lưu Văn Tĩnh can: 

 - Chẳng cần phải động binh, chỉ cần sai hổ bài quan truyền dụ cho tổng quản các nơi, nếu Lý Mật dẫn tả hữu qua cửa thì bắt sống giải vua xử tội, thử xem Lý Mật chạy đâu cho thoát. 

 Vua Đường khen phải, lập tức sai hổ bài quan đi các nơi truyền lệnh. 

 *** 

 Lại nói Lý Mật cùng bọn Bá Đương, nhìn sao mà đi, ngựa không dừng vó, chẳng mấy chốc, đã ra khỏi Đồng Quan, qua khỏi Lam Điền. 

 Lý Mật nói với mọi người: 

 - Nếu ta đến Doãn Châu với Trương Thiện Trương, thì nên đi theo đường mòn nhanh hơn, còn định đến Lê Dương với Mậu Công thì lại đi theo đường lớn. 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Phía trước đường ngày một khó đi, cứ như ý Nhuận Phủ này, thì nên chia làm hai đội, một đội đến Lê Dương, một đội qua Doãn Châu. 

 Lý Mật nói: 

 - Như thế cũng được, ngươi cùng Quân Ngạn đi đường lớn tới Lê Dương. Ta cùng Bá Đương đi đường mòn tới Doãn Châu. Đến nơi, hãy sai người báo cho biết là được. 

 Bởi vậy Nhuận Phủ cùng Quân Ngạn với khoảng hai mươi người đi theo đường lớn. Lý Mật cùng Bá Đương với hơn ba mươi người đi theo đường nhỏ, mấy ngày sau, đến huyện Đào Lâm. Quan huyện Đào Lâm là Phương Chính Dã, cũng là một viên quan tài năng, thấy bọn này ang đêm đi qua thành, lòng nghi ngờ, sai quân sĩ tới hỏi ngọn ngành, lục soát hành trang. Bọn tướng tá cùng lính tráng của Lý Mật, đều xuất thân từ cướp đường, dã tính chưa đổi, thấy bọn lính ở một huyện nhỏ mà làm vẻ nghiêm trang khám xét, cả bọn đều không nhịn được, tính quen đường cũ, rút dao chém bọn lính canh rồi kéo vào thành. Bá Đương vội ngăn lại, nhưng làm sao mà ngăn nổi, đến nỗi huyện quan Chính Dã phải bỏ trốn về Hùng Châu. 

 Lý Mật cùng tay chân vào thành rồi, chẳng ai ngăn trở, túi khăn lâu nay sạch không, cứ thế vào kho vét sạch của cải qua một đêm, sáng hôm sau lại ra đi. Chính Dã đến Hùng Châu, đem mọi chuyện thuật kỹ với tướng trấn thủ Sử Vạn Bảo, Vạn Bảo lo sợ không biết nên làm thế nào. Tổng quản Thịnh Ngạn Sư nói: 

 - Chẳng khó gì, ta đã có cách, chỉ cần khoảng mười người ngựa, là có thể lấy được thủ cấp lũ giặc này. 

 Vạn Bảo hỏi vặn mãi. Ngạn Sư vẫn không chịu nói. Lúc này Lý Mật đoán rằng, quan quân Đào Lâm tất chạy về Lạc Châu, đường núi chẳng còn ai ngăn trở, nên cứ cưỡi ngựa dẫn mọi người thong thả đi, tới núi Nam của dãy Hùng Nhĩ, một bên đường là núi cao, một bên là vực sâu âm u. Lý Mật cùng Bá Đương song song đi trước, chẳng thèm nhìn ngó hai bên. Bỗng nghe một tiếng pháo nổ, trên núi trong rừng cây, tên bay ra như ong, tiến thoái đều không xong, trong người lại chẳng giáp trụ. Từ trong khe núi, lính xông ra bịt kín cả hai đầu, sau trước. Bá Đương trong lúc vội vàng cũng chẳng xoay sở kịp, lấy thân mình che cho Lý Mật, cố hết sức để cứu lấy họ Lý, nhưng rồi cả hai đều chết trong đám tên đạn bời bời. Bị bọn phục binh kéo ra, cắt lấy thủ cấp, khiêng cả xác, báo tin thắng trận lên vua Đường. Vua Đường cả mừng, sai đem hai thủ cấp, treo lên cao ở giữa chợ cho mọi người xem, những kẻ theo trốn đều tru di tam tộc. 

 Chính là: 

 Có tài chẳng biết dùng tài 

 Để tài nó giục nó xui tan tành 

 Chẳng bằng họ Tần, họ Trình 

 Tiếng thơm muôn thuở, sử xanh còn truyền. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Lăm

Mậu Công khóc trước ba quân, nghiêm trang tang lễ,

 Tần Vương thân dự tang lễ, tâm phục ba quân.

 Từ rằng: 

 Chốn sa trường, gió rên thảm thiết 

 Dạ anh hùng, khí tiết xốn xang 

 Lòng này tướng sĩ biết chăng 

 Gian trung phách nghĩa lại càng não thương 

 Cay con mắt núi bằng suối đổ 

 Nhức thấu xương, máu nhỏ đầu tên 

 Một lời hiểu, nhẹ cơn phiền 

 Lòng trời nhìn lại, bi liền thái lai 

 Chim ríu rít 

 Núi tịch mịch 

 Dạ đăm đăm 

 Tình vắn dài 

 Chiếu vua ban, chói lọi dạ đài 

 Rượu một chén thấm tận nơi u hồn 

 Ba quân gạt lệ mừng rơn 

 Tiếng hô dậy đất đội ơn cao dày 

 Sống còn quyết hẳn từ đây 

 Sống luôn nhớ nghĩa bạn 

 Chết nào quên trung vua. 

 Theo điệu "Lăng đào sa" 

 *** 

 Nay nói tiếp việc vua Đường sai đem thủ cấp Lý Mật cùng Vương Bá Đương treo lên cột cao để thị chúng. Ngụy Trưng thấy thế trong lòng thắc thỏm không yên, gạt nước mắt thưa với Tần Vương: 

 - Làm tôi thì phải trung, với bạn bè thì phải giữ nghĩa. Chưa từng có kẻ nào có thể trung với vua, mà lại không có nghĩa với bạn bè. Bá Đương cùng Ngụy Công lúc đầu là bạn bè "bát bái chi giao", sau mới thành phận quân thần. Chẳng ngờ Ngụy Công ỷ tài, chẳng nghe quần thần, đến nỗi bại trận, về với nhà Đường, lại phụ đức, phải chết trong rừng tên kiếm, cùng với Bá Đương kể cũng gần hai chục người, duy chỉ Bá Đương là toàn trung toàn nghĩa. Thần nhớ lại, trước kia Ngụy Công cũng từng coi thần như kẻ tâm phúc, cùng đồng tâm hiệp sức có đến ba năm. Cùng nhau sống mà không cùng nhau chết, nay cũng chưa thật trọn nghĩa được với nhau. Trước mắt thi hài vẫn phơi ngoài núi hoang, hồn phách vật vờ không nơi nương tựa, đón gió gọi trăng, khóc hoa, cười tuyết, nghĩ tới đây, thật thấy lạnh lòng. Thần xin điện hạ cho nghỉ một tháng, để đến vùng Hùng Châu, Hùng Nhĩ, tìm thi hài Bá Đương, Lý Mật, để an hồn nơi chín suối, cũng là để an ủi người sống, tỏ ơn trời bể của điện hạ vậy. 

 Tần Vương đáp: 

 - Ta cùng tiên sinh ngày đêm đàm luận, nay há vì bọn thất phu này mà đến nỗi xa lìa sao? 

 Ngụy Trưng thưa: 

 - Thực không phải thế, thần báo ơn điện hạ còn dài, báo Ngụy Công thì chỉ còn có việc này. Nhớ xưa Hán Cao Tổ cùng Hạng Vũ đánh nhau hàng mấy năm. Hạng Vũ một sớm tự vẫn ở Ô Giang, Hán Cao Tổ lấy lễ vương mà táng Hạng Vũ, đến nỗi chư hầu cảm đức ấy. Xin điện hạ đừng theo pháp độ của nhà Tần, mà hãy theo gương Nghiêu Thuấn. Huống chi phép nước này đã sáng tỏ, tướng sĩ nhà Ngụy đang trông chờ, chưa dám nhất quyết, điện hạ nên tâu với triều đình, tha tội cho quyến thuộc, bỏ những thù hận cũ. Như thế không những binh lính nhà Ngụy tin phục theo về, cả bọn nhà Hạ, nhà Trịnh cũng theo đó mà quy phục. Thần đi chuyến này, chẳng riêng gì thu xếp cho Ngụy Công, mà còn là bày kế sách xây dựng nhà Đường, xin điện hạ xét cho. 

 Tần Vương đáp: 

 - Khanh hãy thư thả, để ta nghĩ kỹ. 

 Ngày hôm sau, Tần Vương đem lời Ngụy Trưng tâu với vua Đường, vua Đường khen hay, lập tức phát một đạo sắc: 

 "Nay ban sắc xá tội: 

 Phàm Lý Mật, Vương Bá Đương gia quyến, cùng những kẻ tướng sĩ lính tráng nhà Ngụy trốn chạy, đều được tha tội, cho tùy ý ăn ở, các quan địa phương thôi không được bắt bớ. Hãy kính nghe theo, không được sai sót. “ 

 Sau khi vua Đường ban sắc này, Ngụy Trưng liền từ biệt Tần Vương, lên đường đi Hùng Châu. 

 *** 

 Lại nói chuyện Từ Mậu Công ở Lê Dương, nghe tin Lý Mật thua trận, kéo tướng sĩ hàng nhà Đường, đoán rằng Ngụy Công có thờ nhà Đường cũng khó mà chung thủy, tất dẫn đến chuyện đổ nát, vẫn cố giữ lấy Lê Dương, chờ Thúc Bảo về, cùng nhau bàn luận. Mấy tháng sau, Thúc Bảo cùng Sĩ Tín đánh thắng Tiêu Tiên trở về, đi qua Lê Dương, Mậu Công đã sai người ra đón. Thúc Bảo cùng Sĩ Tín vào thành gặp mặt. Mậu Công kể lại tỉ mỉ đuôi đầu câu chuyện Lý Mật, Thúc Bảo dậm chân mà than: 

 - Ngụy Công tự mãn đến tối mắt, không thể trách móc ai được! Thật đáng tiếc! 

 Mậu Công nói: 

 - Ngụy Công cậy mình tài cao, kẻ dưới có nói chẳng bao giờ nghe, sắp tới sẽ còn nhiều thay đổi. Nay đại huynh định về đâu? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Mẫu thân mấy tháng nay chẳng nghe thấy tin tức gì, nay quay về Ngõa Cương đã. 

 Mậu Công vội vàng: 

 - Tiểu đệ quên mất, đại huynh vẫn chưa biết sao, bá mẫu cùng lệnh tẩu, lệnh lang đều đã bị Tần Vương lừa đưa về Trường An rồi! 

 Thúc Bảo biến sắc: 

 - Sao lại có chuyện thế được? 

 Mậu Công nói: 

 - Liên Cự Chân cũng có đưa đi, đại huynh về hỏi Cự Chân thì biết rõ ràng. 

 Thúc Bảo nói với Sĩ Tín: 

 - Hiền đệ, hiền đệ hãy đem binh mà đóng lại đây, để ta về Ngõa Cương xem sao. 

 Rồi cùng ba bốn tiểu hiệu lên đường đi Ngõa Cương. Vưu Thông, Cự Chân ra đón. Thúc Bảo hỏi: 

 - Tần Vương sao lại lừa đem gia quyến tiểu đệ về Trường An? 

 Cự Chân đáp: 

 - Tần đại huynh hãy khoan hỏi tiểu đệ, mà cứ xem thư đây của Tần mẫu gửi, rồi ta sẽ nói chuyện thêm. 

 Cự Chân vào bên trong lấy thư. Vưu Thông đem chuyện Từ Huệ Phi giả đóng người nhà La Nghệ, để lừa Tần mầu thế nào kể lại một lượt Cự Chân đem thư ra đưa cho Thúc Bảo. Trước tiên xem bên ngoài, thấy đề "Tần Quỳnh con mở xem", Thúc Bảo nhận rõ nét bút của mẫu thân, bất giác lệ ứa hai hàng, rồi vội xem từ đầu chí cuối, mới đỡ sụt sùi. Sau đó xem thư của Lưu Văn Tĩnh, rồi hỏi Cự Chân: 

 - Hiền huynh ở lại Trường An mấy ngày? 

 Cự Chân đáp: 

 - Tiểu đệ ở lại khoảng bốn năm ngày. Chỉ một ngày sau, Tần Vương đã sai người tới tận nơi thăm hỏi, cha con Từ Huệ Phi cũng sai cung nữ đưa thức ăn vật dùng tới. Tiểu đệ sắp lên đường, bá mẫu mấy lần dặn dò, trở về Kim Dung thành thì thu thập các thứ mà quy Đường, lúc ấy Ngụy Công chưa đi. Nay thì Ngụy Công đã là bề tôi nhà Đường. Đại huynh có thể về ngay Trường An. 

 Vưu Thông lại kể thêm, Huệ Phi đem bao lễ vật, hiện còn giữ, rồi lấy ra đưa lại Thúc Bảo. 

 Thúc Bảo hỏi tiếp: 

 - Giảo Kim hiện nay ở đâu? 

 Cự Chân đáp: 

 - Giảo Kim lúc đầu không chịu theo Ngụy Công quy Đường, về Ngõa Cương tìm mẫu thân, khi biết chuyện cũng liều về Trường An rồi! 

 Thúc Bảo nghĩ ngợi: "Nếu Ngụy Công chưa cùng các tướng quy Đường, ta vì mẫu thân mà về Trường An, chẳng ai nói được. Nhưng nay Ngụy Công cũng đang ở Trường An, ta về nữa, vua Đường tất sẽ đối xử với ta tốt hơn, gia ân cho ta nhiều hơn, hoặc nếu coi ta như Ngụy Công đi nữa, thì Tần Vương sẽ thấy trong lòng không yên. Còn nếu ta coi như thượng khanh, Ngụy Công sẽ nghĩ rằng ta có lòng quy Đường từ trước, cho nên Tần Vương mới lừa mẫu thân ta về Trường An. Chuyện bây giờ càng thêm rắc rối, chi bằng hãy đến Lê Dương, bàn với Mậu Công, xem Mậu Công định liệu ra sao". Rồi vội vàng từ giã Vưu Thông, Cự Chân, gặp Mậu Công cùng Sĩ Tín, kể lại mọi chuyện. Mậu Công nói: 

 - Hiện nay bá mẫu đang ở Trường An, vì việc này thì đại huynh nên về ngay. Nhưng nhìn thế thời hiện nay, thì lại không nên. Ngụy Công quy Đường, quyết không thể lâu, bề tôi Ngụy Công ở đó cũng chẳng thể nào yên ổn. Nay Tần Vương đã trở về, thế nào cũng có chuyện, hãy cứ đợi mọi chuyện kết cục ra sao, đại huynh hãy định liệu mới vẹn toàn. 

 Thúc Bảo nghe xong, thấy thật sáng suốt, liền viết ngay thư gửi cho mẫu thân, thêm một thư nữa trả lời Lưu Văn Tĩnh, rồi sai Sĩ Tín đem theo hai ba gia đồng, lặng lẽ về Trường An an ủi mẫu thân. 

 Sáng hôm sau, Sĩ Tín thu thập hành trang, sai gia đồng xếp buộc chu đáo, rồi từ biệt Mậu Công lên đường. Thúc Bảo cũng lên ngựa, theo dặn dò kỹ càng mãi tới hai ba dặm môi quay trở lại, về đến dinh, nói với Mậu Công: 

 - Đơn nhị ca ở chỗ Thế Sung, cũng chẳng thể yên ổn, làm sao bây giờ. Tiểu đệ cùng Đơn nhị ca thề đồng sinh tử, nay mỗi người theo mỗi chủ, liệu có phải là bội ước không? 

 Mậu Công đáp: 

 - Tiểu đệ cũng vậy mà thôi, nhưng nghĩ cũng không xong. Đơn nhị ca tuy thân thiết với bốn biển anh hùng, nhưng lại không hiểu thời thế, vững mà không uyển chuyển, thẳng mà lại hay nhún nhường quá đáng, nói chung là chưa đủ kinh quyền để hành động. Lại thêm có thù vua Đường giết anh thuở xưa, đêm ngày giữ kín trong lòng, nếu không có cái lưỡi của Tô, Trương (1) thì khó mà lay chuyển được chí hướng. Nay chúng ta làm chuyến này, thì cũng chẳng khác gì đàn bà đi bước nữa, nếu mà còn lầm lỡ thì thật cùng đường. 

 1 Tô Tần và Trương Nghi là hai thuyết khách nổi tiếng nhất thời chiến quốc. Tô Tần vi tài thuyết khách mà được đeo ấn tể tướng sáu nước. Trương Nghi tài uốn ba tấc lưỡi mà làm cho các nước bỏ thuyết "hợp tung” mà theo thuyết "liên hoành". 

 Thúc Bảo gật đầu khen phải, nhưng cũng vẫn muốn tự mình lẻn đi thăm Hùng Tín một chuyến xem sao, nhưng lại sợ Hùng Tín giữ lại thoát thân chẳng được, rồi lại thân một nơi, lòng một nơi nên lại vẫn nấn ná ở Lê Dương. 

 Cũng may Nhuận Phủ tới kịp, Tần, Từ hai người kinh ngạc hỏi: 

 - Ngụy Công quy Đường ra sao? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Chuyện chẳng muốn nói nữa! 

 Rồi đem chuyện vua Đường phong tước, gả em cho thế nào kể lại: 

 - Rồi sau đó bỏ công chúa trốn đi. Do các cửa quan, bến đò tuần xét nghiêm ngặt, Ngụy Công cho tiểu đệ cùng với Quân Ngạn đi Lê Dương, còn lại đi Doãn Châu. Quân Ngạn gặp Liễu Chu Thần, nên lại chia theo đường mòn mà đi. Trên đường tiểu đệ có gặp tổng quản nhà Đơn nhị ca là Đơn Toàn, Đơn Toàn có nói Đơn viên ngoại muốn gặp tiểu đệ một lần, tiểu đệ phải đến ngay cho. Nên lại phải đi một chuyến xem sao, khuyên mọi người cùng về một nơi cũng tốt. Ngụy Công có cho người tới hỏi, xin nói như thế cho. 

 Tần, Từ, hai người đều đáp: 

 - Chúng tôi ở đây cũng đang bàn về Hùng Tín, hiền huynh đi rồi, ai nấy cũng yên lòng. 

 Sáng ngày ra, Nhuận Phủ lên đường. 

 Thúc Bảo nhân trong lòng phiền muộn, kéo Mậu Công ra ngoài thành đi săn, bỗng thấy một đội người ngựa đều khoác trang phục màu trắng đi tới. Thúc Bảo nhìn kỹ nhận ra Ngụy Trưng, liền nói với Mậu Công ngay: 

 - Từ hiền huynh! Ngụy Huyền Thành tới! 

 Ai nấy xuống ngựa, chào ngay trên mặt cỏ. Thúc Bảo cầm tay, vội hỏi Ngụy Trưng: 

 - Đại huynh sao lại ănặc thế này? 

 Ngụy Trưng đáp: 

 - Chư huynh còn chưa biết hay sao, Ngụy Công cùng Bá Đương đã thành người thiên cổ rồi! 

 Thúc Bảo nghe thế, khóc rống kêu trời. Mậu Công nước mắt tuôn như suối. Thúc Bảo cố nén hỏi Ngụy Trưng: 

 - Ngụy Công cùng Bá Đương mất ở đâu? 

 Ngụy Trưng cau mày đáp: 

 - Một lời không hết! 

 Mậu Công giục: 

 - Bãi hoang không phải là nơi nói chuyện lâu, xin mau mau về dinh. 

 Mọi người lên ngựa vào thành, về đến nơi, cũng vừa dịp Vương Bộ cùng ba bốn tướng khác đến hỏi tin tức, Mậu Công dẫn tất cả vào thư phòng ngồi đâu đấy. Ngụy Trưng đem chuyện Ngụy Công về Trường An thế nào, bỏ trốn đi Hùng Châu ra sao, chết trong rừng thế nào, kể tỉ mỉ một lượt, Thúc Bảo lớn tiếng than: 

 - Không ra ngoài sự trù liệu của Mậu Công, nhưng nay sao đại huynh đến đây? 

 Ngụy Trưng đáp: 

 - Tiểu đệ lâu nay ở Tây phủ của Tần Vương, mới nghe tin này, lòng như dao cắt, nên xin Tần Vương cho nghỉ một tháng, đi tìm thi thể Ngụy Công cùng Bá Đương. Tần Vương bằng lòng, nên cùng sai tiểu đệ đi mời chư huynh luôn, lại tâu với phụ hoàng, mong phụ hoàng gia ân. Chỉ sợ dọc đường bị ngăn trở, ban cho tiểu đệ sắc chỉ nói rõ, phàm bề tôi của nhà Ngụy, đều chiêu dụ về, tùy sức, tùy tài mà dùng. 

 Nói rồi, lấy trong tráp ra sắc chỉ của vua Đường, đưa cho Thúc Bảo, Mậu Công xem. Mậu Công xem xong, nói: 

 - Chúng ta có về hay không về, chuyện hãy khoan bàn. Chỉ xin hỏi đại huynh đã tới Hùng Châu tìm thi thể họ Lý, họ Vương chưa? 

 Ngụy Trưng đáp: 

 - Tiểu đệ đã tới Hùng Châu, ở đấy núi cao ngất, vách dựng như tường, bên phải thì rừng cây rậm rạp, bên trái thì khe sâu, đường đi ở giữa chỉ vừa hai ngựa. Tiểu đệ đã tìm khắp, chẳng thấy tăm hơi, đành phải thăm dò quanh vùng, may gặp một am vắng, trong am có một nhà sư già, tiểu đệ gõ cửa, một người trong am nhận ra tiểu đệ. Đó là một gia đình chuyên theo hầu Ngụy Công, tuổi cũng đã ngoài năm mươi, cùng gặp nạn đó, nhưng nhờ trời thoát chết, vào tu luôn trong am, biết rõ chỗ mai táng hai vị Lý, Vương, nên dẫn tiểu đệ ra nhận, chỉ là một nấm đất nhỏ, liền nhờ thổ nhân khai quật. Thật đáng thương, thi thể đã nát như bùn, chẳng một tấc giáp trụ, dấu tên khắp người, áo bào vết máu loang lổ. Anh hùng đến thế, nghĩ cũng chua xót. Tiểu đệ mua ngay hai cỗ áo quan vội vàng khâm liệm, nhờ quàn tạm trong am, chờ gặp chư huynh, rồi sẽ làm tang lễ chu đáo. Nhưng còn hai thủ cấp, vẫn còn treo ở Trường An, nghiêm canh không cho người lấy trộm. Tiểu đệ lúc ấy đã định thỉnh cầu, nhưng thấy vua Đường rất giận dữ, sợ lại không cho tiểu đệ đi nữa kia, cho nên không dám xin thủ cấp. Phải nghĩ cách làm sao lấy được về Hùng Châu để làm lễ mai táng luôn! 

 Mậu Công nói: 

 - Việc này tiểu đệ xin nhận. Nhưng bây giờ anh em chúng ta dẫu không nghĩ đến chuyện làm lại sự nghiệp, đều đến cảo táng cho Ngụy Công, cũng là để toại nguyện tấc lòng. Sau đó, còn chí khí, giờ ngoài Tần Vương cũng chẳng còn ai khác. Thôi thì cũng đành phải đi vậy thôi, chẳng khác gì chim hết đường phải bay về rừng, vẫy đuôi xin thương, dẫu làm tôi nhà Đường, hay làm tôi nhà Ngụy, thì cũng lạy lục như thế cả, đều là phường cỏ lác cả thôi! 

 Thúc Bảo cùng mọi người đồng thanh: 

 - Quân sư nói đúng lắm! 

 Mậu Công tiếp: 

 - Tiểu đệ ngay đêm nay sắp sẵn, ngày mai dậy sớm đi Trường An. Còn anh em ở Ngõa Cương thì hãy đừng tiết lộ việc này vội. Tại sao vậy, bởi ta đi chuyến này, chẳng biết họa phúc ra sao, hãy cứ giữ lấy chỗ ngồi đó, làm nơi trú thân nho nhỏ đã. Thứ nữa là còn gia quyến của Đơn viên ngoại ở trên trại, viên ngoại thì quyết chẳng quy Đường đâu. Đợi đến bao giờ chúng ta có nơi chốn hẳn hoi, rồi đưa gia quyến viên ngoại về chỗ Vương Thế Sung cũng chưa muộn. 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Còn đất Lê Dương này thì sao? 

 Mậu Công đáp: 

 - Đất này trước mặt thì có Thế Sung, phía sau là Kiến Đức, Ngụy Công thì đã mất rồi, chỗ mũi tên hòn dạn này chẳng giữ được lâu. Nay hãy phiền phó tướng quân Vương Bộ, đợi chúng ta đi rồi, mở kho tàng chia cho dân nghèo, của cải thì cấp cho tướng sĩ, quân lính, phần thì làm quần áo, cờ hiệu, đều dùng màu tang trắng, hạn ngày nào đó kéo ba nghìn người ngựa, đến Hùng Châu dự tang lễ Ngụy Công. Cũng là để thấy hết được lòng trung nghĩa của bậc thần tử vậy! 

 Mọi người lại đồng thanh: 

 - Quân sư phân xử phải lắm! 

 Sáng mai ra, Mậu Công lên đường, còn dặn Thúc Bảo, Ngụy Trưng: 

 - Chư huynh mau chóng xếp đặt, thay y phục, cờ hiệu, đến ngay Hùng Châu, tiểu đệ xin đi trước. 

 Lại cùng ba bốn gia đồng, theo hướng Trường An lên đường. 

 Thúc Bảo ngày đêm sai quân sĩ làm đủ mọi việc, mấy ngày sau để Vương Bộ cùng quân sĩ đi trước, rồi cũng cùng Ngụy Trưng theo sau đi về Hùng Châu. 

 Chính là: 

 Sống luôn nhớ nghĩa bạn 

 Chết nào quên trung vua. 

 *** 

 Lại nói chuyện Mậu Công rời khỏi Lê Dương, đi suốt ngày đêm đến Trường An, vào thành tìm quán trọ, ăn mặc kiểu thư sinh, gọi gia đồng đi theo, đến phố Thập Tự, thấy cây cột dựng cao, treo hai cái hộp đựng đầu lâu, lòng như dao cắt, ngửa mặt nhìn, lạy bốn lạy, rồi ôm lấy cột mà khóc rống, làm kinh động cả lũ quân canh, bốn phía vây lại, nhất tề lôi vào triều nội. 

 Lúc này bởi Lưu Vũ Chung ở Định Dương dám xưng hoàng đế, sai đại tướng là Tống Kim Cương dẫn hai vạn người ngựa, sai tướng tiên phong là Uất Trì Kính Đức, kéo thẳng đến Tinh Châu. Đất Tinh Châu của Thái Nguyên vốn thuộc quyền của lưu thú Tế Vương Lý Nguyên Cát, tướng Uất Trì Kính Đức hạ thủ luôn mất hai chục viên mãnh tướng, ngày đêm sai người đi Trường An xin cứu viện Vua Đường sai Bùi Tịch dẫn một vạn quân kéo lên Thái Nguyên trợ ứng. 

 Hôm ấy, chính là lúc Tần Vương đang ở giáo trường, thao luyện người ngựa, còn vua Đường thấy kêu có người ôm cột mà khóc thì mặt rồng giận dữ, quát trói ngay giải vào triều, quân hiệu vội dẫn vào quỳ dưới thềm rồng. Vua Đường quát: 

 - Thủ hạ của Lý Mật tên là gì? To gan lớn mật bất tuân hiệu lệnh, dám ôm cột mà khóc, nếu không khai thực, chém đầu tức thì! 

 Mậu Công cao giọng thưa luôn một hồi: 

 - Bậc tiên vương xưa kia, thương kẻ chết mà không nỡ để lộ thây xác, lòng nhân thấm đến cả xương khô. Vương Kinh thời Đông Tấn chết, Hướng Hùng khóc ở chợ Đông, về sau Hướng Hùng còn mai táng cho cả Chung Hội, mà Văn Đế nào có làm tội. Đổng Trác bị tru di, Sái Ung đến phục bên thây mà khóc, Ngụy Tổ nghe theo lời dèm pha mà làm tội, đến nỗi vận nước thẳng được bao lâu. Những người này, nào ai cần kể gì đến công tội lúc sống, rồi mới lo chuyện tống táng đâu? Nay Lý Mật cùng Vương Bá Đương, vương pháp đã hiện, thế cũng đủ. Thần vì cảm nghĩa quân thần, ngửa trông mà khóc viếng, xin bệ hạ là bậc Nghiêu Thuấn, cũng nên thứ cho. Nhược bằng bệ hạ thù đến cả đấng xương khô mà gia tội hạ thần, thì rồi liệu những bậc hiền giả, còn ai dám theo về chăng? 

 Vua Đường nghe nổi thế, mặt rồng đổi khác, phán rằng 

 - Ngươi họ tên là gì? 

 Mậu Công thưa: 

 - Thần họ Từ, tên là Thế Tích! 

 Vua Đường cười: 

 - Thì ra là ân nhân của Thế Dân, sao khanh không nói sớm, trẫm ở đây ngày đêm nhớ tới các khanh. Mời khanh đứng dậy, thay áo mũ rồi vào triều kiến! 

 Liền truyền lệnh cho tuyên vệ sứ hạ thủ cấp họ Lý họ Vương xuống. Mậu Công vẫn mặc y phục thư sinh như cũ, phủ phục trước đan trì. Vua Đường giục lấy áo mũ ban cho. Mậu Công thưa: 

 - Vua ban ơn lớn cho kẻ hạ thần, thì hạ thần cũng thờ vua như bậc thánh nhân. Chẳng khi nào có kẻ thờ Ngụy không trung, mà lại thờ Đường thì trung vậy. Nay thi thể Ngụy Công còn ở hai nơi thần thấy thực đau lòng, những mong ơn vua rộng lớn, xin bệ hạ ban cho thần hai thủ cấp, thần đem đi làm tang lễ. Như thế thì không riêng gì Thế Tích này cảm ân đức của bệ hạ mà chư tướng nhà Ngụy cùng đều vui mừng, vì trời Nghiêu đất Thuấn mà thờ bệ hạ hết lòng vậy. 

 Đường Đế cả mừng, lệnh cho trung thư viết ngay sắc chỉ, giữ nguyên quan tước cho Lý Mật, theo đúng lễ mà làm tang, lại nói với Mậu Công: 

 - Thế Dân trông ngóng khanh đã lâu, hãy mau quay về Trường An. 

 Mậu Công tạ ơn ra khỏi cung điện, lĩnh hai thủ cấp, dùng hai hòm gỗ đóng chặt lại, chở trên xe, ngay đêm ấy ra khỏi Trường An về Hùng Châu. Mấy ngày sau, Ngụy Trưng cũng về Trường An phục mệnh, tâu rằng: 

 - Ba nghìn binh mã ở Lê Dương, phó tướng Vương Bộ đã dẫn đến Hùng Châu cả, Tần Quỳnh cũng đã tới đó, chờ làm tang lễ. Nay thần về phục mệnh, rồi lại quay ra cùng mọi người lo liệu chu tất, sau đó xin về thờ bệ hạ. 

 Vua Đường bằng lòng. La Sĩ Tín lúc này đã tới Trường An, gặp Tần mẫu, biết Thúc Bảo đã đi Hùng Châu, cũng ra khỏi Trường An luôn. 

 *** 

 Lại nói chuyện Giảo Kim từ biệt Tần Vương, đi mấy ngày, không ngờ giữa đường bị trúng gió lạnh, bệnh tình kéo đến, phải nửa tháng sau mới khỏi, trước tiên sai hai kẻ tâm phúc đi báo trước cho bộ hạ của mình, rồi về Ngõa Cương. Giữa đường gặp Giả Nhuận Phủ, đem theo gia quyến cùng mấy tay chân, Giảo Kim thì nói Ngụy Công còn ở Trường An, nghĩ rằng định đem gia quyến cùng về Trường An nên vội vàng xuống ngựa gặp gỡ. Nhuận Phủ vội sai dừng xe, hỏi Giảo Kim: 

 - Trên đường có nghe tin tức gì của Ngụy Công chăng Trình hiền đệ? 

 Giảo Kim đáp: 

 - Chẳng nghe tin gì cả! 

 Nhuận Phủ tiếp: 

 - Nghe Ngụy Công cùng Bá Đương ngộ nạn ở Hùng Châu. Lính tráng nói Thúc Bảo cùng Mậu Công với các tướng đều đã tới Hùng Châu làm tang lễ Ngụy Công. 

 Giảo Kim nghe xong, bất giác nước mắt nhỏ ướt cả áo đi đường: 

 - Ngụy Công gần đây tính tình hôn ám, tự chuốc lấy bại vong. Nhưng nếu được mọi người can gián ít nhiều khi lâm sự, thì có lẽ cũng không đến nỗi mất mạng. 

 Nhuận Phủ lại đáp: 

 - Lại nói đến chuyện ấy làm gì. Đêm ấy ở hình phủ sắp xếp, tiểu đệ đã biết chuyến này đi không yên, hai ba lần khuyên giải. Ngụy Công cho rằng tiểu đệ thay lòng đổi dạ, mặt mày biến sắc, còn định giết cả tiểu đệ, may mà có Bá Đương cản lại. 

 Giảo Kim hỏi: 

 - Hiền huynh đã gặp Thúc Bảo và Mậu Công chưa? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Tiểu đệ đã từng tới Lê Dương gặp rồi, vì Đơn viên ngoại muốn gặp nên tiểu đệ tới ngay Đông Đô, khuyên Viên ngoại quy Đường, nhưng Viên ngoại không nghe, dặn tiểu đệ đem gia quyến cùng tổng quản Đơn Toàn đưa về Thế Sung. Làm xong chuyện này thì mới yên tâm được! 

 Giảo Kim lại hỏi: 

 - Rồi hiền huynh sẽ đi đâu? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Tiểu đệ thờ Ngụy chẳng xong, còn lòng nào nữa nghĩ tới chuyện gì khác, chi bằng tìm cảnh sơn thủy nào đó, sống cho nết đời, theo dõi bạn bè thả sức ra sao. Nhờ hiền huynh nói lại với bạn bè, đừng nghĩ gì đến tiểu đệ nữa! 

 Rồi chắp tay chào, lên ngựa ra đi. Giảo Kim lên đường, lòng thầm nghĩ: "Trượng phu ở đời, tấm thân bẩy thước, chẳng trung thì hiếu, phải làm rạng mặt mày. Ta một đời ơn người tri kỷ, chẳng ai bằng Vưu viên ngoại, chẳng có người này, thì mình vẫn còn ở Ban Cưu điếm đốn củi. Nay viên ngoại đang bị ràng buộc ở Ngõa Cương, chưa mở mặt mày, nay nhân gặp hoàng đế anh minh, hãy kéo viên ngoại ra làm quan mấy năm, cũng là để báo đáp viên ngoại ít nhiều vậy Tính toán như vậy rồi, bèn về Ngõa Cương nói rõ cho Vưu Thông, Liên Cự Chân, Vương Đương Nhân, là Ngụy Công cùng Bá Đương đã mất. Vương Nương nương cùng Vương phu nhân (l) nghe ra, khóc rống một lượt. Giảo Kim nói chuyện người thu thập của cải, lương thực, cùng với lính tráng, có hơn nghìn người, nhất tề lên đường. 

 Đi được năm sáu ngày, đến Độc Dương Lĩnh, thấy một toán người ngựa xông ra. Cự Chân kinh ngạc, vội sai người lại sau báo cho Giảo Kim. Giảo Kim phi ngựa như bay lên trước, trông thấy cờ hiệu biết ngay đó là quân bản bộ của mình, khoảng hơn hai nghìn người ngựa, hiện đang đóng chờ tại đó. Giảo Kim vốn thẳng tính, lại hào phóng rất được lòng quân sĩ, dạo trước lúc thua Thế Sung, Giảo Kim thu thập người ngựa, đóng ngay tại Độc Dương này, để xem Ngụy 

 Công về Đường ra sao đã, rồi sẽ quay lại đây tính chuyện cho riêng mình. Nay thân mình đã đem thờ nhà Đường, nên cũng không đem số người ngựa này theo, vì vậy nói với quân lính: 

 - Các ngươi hãy làm tiền dội, kéo tới Hùng Châu. 

 Rồi nói với Cự Chân: 

 - Đây chính là quân bản bộ của tiểu đệ, chẳng có điều gì đáng ngại, mau cùng nhau nhập bọn. 

 1 Vương Nương nương: Tức Vương Tuyết Nhi, vợ trước của Ngụy Công. Vương phu nhân: Vợ Vương Bá Đương họ Bùi. 

 Chưa đầy nửa tháng, đã tới Hùng Châu, cả Tổ Quân Ngạn, Liễu Chu Thần cũng đã tới, cùng với rất nhiều quân sĩ mặc áo tang trắng. 

 Mậu Công, Thúc Bảo ra đón, thấy Vưu Thông, Cự Chân. Mậu Công mừng rỡ: 

 - Không phải là chúng tôi không định báo cho anh em ở trên Ngõa Cương, nhưng vì chưa rõ họa ra sao, nên không dám báo trước. 

 Giảo Kim đáp: 

 - Ngay cả tiểu đệ cũng không biết, may giữa dường gặp Nhuận Phủ đưa gia quyến Đơn viên ngoại trở về, mới nói cho hay. 

 Thúc Bảo nói: 

 - Gia quyến Đơn nhị ca, Nhuận Phủ đã đưa đón xong xuôi, thế thì hay lắm, hay lắm! Nhưng còn Nhuận Phủ đâu không thấy? 

 Giảo Kim đáp: 

 - Nhuận Phủ không muốn lại thờ người khác, nên đem theo gia quyến, tìm thú vui sơn thủy rồi. Hiện nay chỉ có gia quyến Ngụy Công cùng Bá Đương, tiểu đệ đều đưa tới đây, không biết quân sư định liệu ý ra sao? 

 Mậu Công mừng nói: 

 - Họ Lý họ Vương thật linh thiêng, may có cả gia quyến tới đây lại chưa an táng, thật đều là công lao của hiền đệ vậy. Cạnh mộ có ba gian lán nhỏ, cũng kín đáo, đại huynh Thúc Bảo dẫn hộ cả hai gia quyến ra đó chờ làm tang lễ. 

 Giảo Kim cùng Vưu Thông đứng dậy, nhìn chung quanh, thì thấy một bãi dưới chân núi bằng phẳng, phía sau là dải núi đất cao cao, xung quanh là những núi đá lởm chởm, trước mặt dựng tạm năm gian nhà lá, hiên giữa kê một tấm lá lớn, ngay cạnh hai huyệt, trên huyệt kê hai quan tài, chỗ làm lễ thông ngay với thảo đường là một loạt tượng ngựa đá, người đá mới làm, trông như người thật. Xung quanh là cổ thụ xanh rờn, phía ngoài có phướn rợp trời, bia đá dựng cao, cờ lau trắng xóa, không tài nào đếm nổi. 

 Vưu Thông thấy thế, than rằng: 

 - Tần huynh, Từ huynh không biết tới đây từ bao giờ, mà đã làm cho được phần mộ thế này, cũng không hổ Ngụy Công nửa đời giao kết với bậc anh hùng. 

 Rồi cùng Cự Chân dẫn hậu quân tới, nói cho gia quyến họ Lý, họ Vương thay tang phục, Ngụy Trưng, Mậu Công, Thúc Bảo dẫn tướng sĩ tiến vào trước mộ phần. Vương Nương nương, Vương phu nhân ôm lấy quan tài, cất tiếng ai oán, phía ngoài là Đương Nhân, hai tay hai linh sàng mà gào lớn, các tướng cũng đều sụt sùi, sa nước mắt. Chính trong lúc thương cảm như thế, lại thấy nói vua Đường thân gửi ngự tế, Tần Vương cũng tới dự tang lễ, ai nấy đều vui mừng. 

 Mậu Công làm chấp sự, Ngụy Trưng, Thúc Bảo lo tiếp các mưu sĩ, Giảo Kim, Đương Nhân, thì tiếp các gia tướng Tây phủ, Vưu Thông, Cự Chân lo việc nghi lễ, đội ngũ. Vương Bộ, Liễu Chu Thần lo việc khao thưởng sĩ tốt nhà Đường. Mậu Công lại dặn các tướng sĩ phải lo tang phục, vũ khí cho nghiêm trang, cờ hiệu chỉnh tề, cứ năm dặm làm thành một doanh, mười dặm làm thành một đình. Theo thứ tự xếp đâu vào đấy lại lấy hai mươi kỵ mã, tuần thám xung quanh đêm ngày. 

 Mấy ngày sau, Tần Vương đến Hùng Châu, nghe ba tiếng pháo lớn, bốn năm trăm giáp sĩ mặc tang phục ra đón, hai tay chắp giơ cao, quì sát đất mà bẩm: 

 - Lũ chúng tôi phận cỏ rơm, xin ra nghênh tiếp thiên tuế! 

 Đi được khoảng bốn dặm, lại một đội tướng sĩ, sau tiếng pháo nổ, lại quỳ xuống đón, cứ thế năm sáu lần. Tần Vương ngồi trong kiệu vàng, thấy binh sĩ khôi giáp sáng loáng, cờ quạt nghiêm trang, trong lòng thầm nghĩ: "Tướng soái nhà Ngụy bộ dạng thế này, thật biết lễ, hiểu nghĩa. Lý Mật không nên sự nghiệp, thật đáng tiếc?" 

 Kiệu đi chầm chậm, cách Hùng Nhĩ vài dặm nữa, nghe ba tiếng pháo thật lớn, trống chiêng rầm trời. Mậu Công, Ngụy Trưng, Thúc Bảo dẫn tất cả các tướng sĩ, nghiêm chỉnh cúi đầu, đến gần kiệu vàng, cả bọn quì lạy. Tần Vương thấy vậy, vội vàng đứng dậy, lớn tiếng đáp: 

 - Chư vị tiên sinh xin đứng dậy cho! 

 Chờ cho kiệu đi qua, cả bọn nối theo, tiếng nhạc dẫn đường, hàng hàng đội dội, tới cửa mộ. Lại ba tiếng pháo lớn, Tần Vương đừng kiệu, chấp lễ dẫn Tần Vương vào ba gian chăng đầy lụa gấm, ngồi trên sàn cao phủ gấm. Tần Vương hỏi Từ Nghĩa Phù: 

 - Đã đặt lễ ngự tế của triều đình chưa? 

 Nghĩa Phù thưa: 

 - Thưa đã đặt rồi! 

 Tần Vương lập tức đứng dậy thay áo, mặc áo bào trắng có thêu rồng vàng, lưng thắt đai có gắn ngọc Lam Điền xanh, Mậu Công vội ra trước, hướng Tần Vương bái tạ, Tần Vương không nghe vẫn đòi ra đứng tế, bọn mưu sĩ, gia tướng đứng tiếp phía sau, các tướng sĩ của nhà Ngụy nghiêm trang quỳ xuống. Vào đến bái đình, Tần Vương đứng thẳng, đưa mắt nhìn, thấy mộ bên phải có bài vị chữ vàng viết: 

 "Đường cố Quang lộc Khanh, Thượng trụ quốc phò mã, Hình Quốc Công, Lý húy Mật chi vị". 

 Bên trái là một bài vị khác, trên viết: 

 "Đường cố Tả vệ đại tướng quân, Vương húy Dũng chi vị". 

 Ở bên phải là Mậu Công, Ngụy Trưng, Thúc Bảo, Giảo Kim, mặc áo thôi, mũ gai, đai gai đứng lạy trả lễ. Bên trái là Đương Nhân, nâng con trai Lý Mật, khoảng ba bốn tuổi mang tên Khải Vân, cũng mặc áo thôi, mũ gai, đai gai, quỳ sát đất. Quanh mộ tiếng khóc dậy trời, âm dương hòa lễ, Tần Vương dẫn tế, cũng có khóc. Nhớ tới thuở trước Lý Mật ở Kim Dung thành, oai phong ra sao, uy vũ thế nào, tất cả đều chẳng còn gì, kết cục thế này, huyệt mộ còn đó, chẳng đầy ba thước, khắp chỗ kêu khóc thảm thiết. Tần Vương dẫu anh hùng, thấy tình cảnh này, dẫu không muốn cũng khôn ngăn dòng lệ. Mọi người thấy Tần Vương như thế, lại càng gào khóc, cả lính cũng vậy. 

 Tần Vương tế xong lên kiệu, vào trong nhà khách thay y phục. Mậu Công cùng con trai Lý Mật, với các tướng sĩ cùng quỳ lạy tạ ơn. 

 Tần Vương đỡ Mậu Công dậy phán: 

 - Chư tiên sinh hãy thu xếp cho xong, mau trở về Trường An, để thỏa lòng mong của triều đình. 

 Mậu Công thưa: 

 - Chúng thần không dám lần lữa, chỉ trong vòng mấy ngày nữa, sẽ xin dẫn chư tướng về yết kiến thánh thượng! 

 Nói rồi quay về mộ, gặp văn vũ liêu thuộc Tây phủ, lạy chào cảm tạ. Tần Vương lên đường, tướng sĩ Ngụy đưa tiễn hơn mười dặm mới quay trở lại. Ngoài việc tế lễ, Tần Vương còn khao thưởng các tướng sĩ năm nghìn lạng bạc, lính tráng mừng rỡ hò hét vang dậy. 

 Mậu Công liền sai thư ký, viết ngay hai đạo tạ biểu, sai Liễu Chu Thần theo Tần Vương đi Trường An dâng trước. Rồi chọn ngày chôn cất linh cữu, mọi chuyện xong xuôi, chuẩn bị lên đường. 

 Vương Nương nương, cùng Vương phu nhân, xin được giữ mộ, không chịu đi theo, bọn Mậu Công không biết làm thế nào, chỉ đành sai ba bốn chục tên lính tin cậy canh giữ cạnh bên, rồi tìm cách liệu lo sau. Tất cả thống lãnh quân sĩ, lần lượt lên đường. 

 Về đến Trường An, trước tiên vào Tây phủ, yết kiến Tần Vương. Tần Vương dẫn cả bọn sang triều kiến vua Đường. Mậu Công dâng tên tuổi quân sĩ lên. Vua Đường xem xong, cả mừng, lập tức phong cho Từ Thế Tích làm Tả vũ vệ đại tướng quân, Tần Quỳnh làm Hữu vệ đại tướng quân, La Sĩ Tín làm Mã quân tổng quản, Vưu Tuấn Đạt làm Tả tam thống quân, Vương Bộ làm Mã bộ tổng quản. Vương Bộ liền tâu: 

 - Thần không dám nhận chức! 

 Vua Đường hỏi: 

 - Vì sao? Vương Bộ thưa: 

 - Thần một lần được thấy mặt rồng, cũng thấy ngay là "Nghiêu Thuấn chi quân”, xin lạy tạ ơn lớn cho làm tế lễ. Thần liều chết, còn có một lời, xin được dâng chúa thượng! 

 Vua Đường phán: 

 - Trẫm không bắt tội, khanh hãy tâu rõ! 

 Vương Bộ thưa: 

 - Thần nghe, phép làm chính vương của cổ nhân, là kính kẻ già thương kẻ thơ dại, không làm tội kẻ yếu đuối, quan quả cô độc, luôn được thương xót. Nay chủ cũ nghĩ đến đức lớn mà quy hàng, được thánh thượng đặc cách thi ơn, tha cho lỗi lầm cũ mà lấy lễ phong cho quan tước lại gả công chúa cho, ơn sủng đến như thế là cùng cực, chẳng may cố chủ một sớm thất chí, tự táng kỳ mệnh. Nay chúng thần đều được hưởng ơn trạch, chỉ mỗi vợ góa, mấy lần những muốn quyên sinh, ôm con mồ côi nhỏ, chẳng khác gì giọt sương sớm. Thật là kẻ chết chưa đủ xót, mà thật kẻ sống mới đáng thương. Nếu nói là con dân, thì cũng đều là con dân nhà Đường, đâu phải thân thích ruột rà của nhà Đường. Nay Độc Cô công chúa còn ở hình phủ, dẫu tình vợ chồng chưa thật lâu dài, nhưng đã cùng lạy tôn miếu, cũng nghĩa phu thê, há lại không nghĩ đến con chồng, cũng chính là con mình vậy, sao nỡ đặt ngoài sương gió đất hoang rừng rậm, để khiến cho thánh thần, trăm quan, cho đến kẻ viết sử sách cho đời sau, khua môi múa lưỡi khắp bốn phương trông vào. Cho nên thần chi xin nguyện làm di dân, mà không dám nhận làm đình thần vậy. 

 Vua Đường nghe xong hớn hở mà phán: 

 - Khanh là võ quan, mà biện luận việc nghĩa thật rõ ràng, cũng đủ thấy tướng soái nhà Ngụy tài cán không vừa vậy! 

 Liền lệnh cho bộ Lễ, sai quân đi đón Vương Thị, cùng con trai Lý Khải Vận, đổi tên là Lý Khải Tâm, cùng với vợ con Bá Đương, về Hình phủ ở với Độc Cô công chúa nuôi con nhỏ. Lại gia ơn cho Vương Bộ làm Hổ dực đại tướng quân. Còn Tổ Quân Ngạn, Liễu Chu Thần cùng các tướng khác đều được tước phong cả. Vương Bộ, các tướng tạ ơn, lui về chỗ đứng của mình. 

 Đang lúc phong thưởng, thì thấy ở Tấn Dương thuộc Hội Châu có kỵ mã đưa văn thư về cáo cấp: Lưu Vũ Chu vây thành rất gấp, nguy trong sớm tối, mong vua Đường cho ngay binh mã cứu viện. Vua Đường phán: 

 - Tấn Dương vốn là yết hầu của Trung Nguyên, nếu mất, thì quả nguy trong sớm tối. Nhưng trong lúc cấp thiết thế này, lấy đâu ra tướng tài! 

 Mậu Công tâu ngay: 

 - Chúng thần xin đem sức trâu ngựa, tiễu trừ Vũ Chu, mong báo ơn muôn một. 

 Vua Đường phán: 

 - Trẫm từ lâu đã biết khanh túc trí đa mưu, có tài tướng soái, nhưng chỉ ngại bộ hạ của Chu Vũ, có một viên dũng tướng, tên là Uất Trì Cung, dũng mãnh tuyệt luân, khó mà đương nổi. 

 Rồi chỉ bức họa trên tường mà tiếp: 

 - Đấy chính là tượng vẽ của thằng giặc Hung Nô Uất Trì, các khanh chớ nên coi thường. 

 Tần Vương dẫn Mậu Công cùng các tướng đến bên bức vẽ xem kỹ thì đúng là người cao chín thước, mặt sắt, mắt lồi, miệng rộng, râu rậm mà đỏ, hai cánh mũi cao, đầu đội mũ sắt, mặc áo giáp , tay cầm một cái roi trúc tiết cương tiên, chẳng khác gì quỷ đen đầu. Mậu Công thưa: 

 - Thứ này chẳng qua là vũ dũng ngu si, chẳng có gì quái dị. 

 Thúc Bảo thưa với Tần Vương: 

 - Thần tuy bất tài, cũng có thể địch nổi người này. Để làm vẻ vang triều đình, xin bệ hạ cho thần mượn bút để thần bôi nhòa tượng này đi vậy? 

 Tần Vương sai tả hữu lấy bút mực ra, Thúc Bảo cầm bút, nghiến răng trợn mắt, bôi đen bức tượng từ trên xuống dưới, rồi quỳ thưa: 

 - Thần xin ba nghìn quân, tới Tấn Dương diệt lũ giặc này, nếu không thắng được, xin chịu tội. 

 Vua Đường cả mừng: 

 - Ân khanh đã bằng lòng đi, nhất định thành công, trẫm còn lo gì nữa? 

 Tức thì ban lệnh Mậu Công làm Thảo lỗ đại nguyên soái, Thúc Bảo làm Thảo lỗ đại tướng quân, Vương Bộ làm chánh tiên phong, Sĩ Tín làm phó tiên phong, Giảo Kim làm Thôi lương tổng quản, Tần Vương làm Giám quân đại sứ diệt lỗ đô chiêu thảo, dẫn binh tướng nhà Đường theo sau. Ai nấy từ tạ vua Đường, ngay đêm hôm đó lên đường tới Tinh Châu. 

 Chính là: 

 Ơn sâu quyết lập công cao 

 Sa trường huyết chiến, anh hào rạng danh. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Sáu

Quá ác thú, Chu Xán mổ người ăn thịt,

 Hiếu như trai, Mộc Lan đi lính thay cha.

 Từ rằng: 

 Hơi đâu mà hỏi đất trời 

 Bến mê lối ấy, phải nơi sa trường 

 Cù lao đức cả đạo thường 

 Dù thân gái dám ngại đường lênh đênh 

 Cờ bay, trống giục thình thình 

 Đôi bên cân nhắc tử sinh nhẹ nhàng 

 Lập công quyết chí viễn phương 

 Chớ cười ai đó anh hùng lệ sa 

 Can qua vững bước xông pha. 

 Theo điệu "Lăng đào sa" 

 Binh pháp nói rằng: Việc binh mà kiêu ngạo, thì tất bại vong. Kiêu bao giờ cũng là cậy mình coi thường người, ngạo chỉ còn mỗi mình mà mất hết mọi người, không còn xung quanh lấy ai ra mà chống kẻ địch, làm sao mà không thua. Khi nhà Tùy mất, cát cứ xưng hùng kể có hai ba chục nơi, nhưng cũng đều là phường gian hùng lục lâm. Đến tài cán như Lý Mật lôi kéo được vài chục hào kiệt cũng vì kiêu ngạo mà bại vong, đến lúc chết may còn có người chôn cất. 

 *** 

 Nay hãy nói Từ Mậu Công cùng Tần Vương thống lĩnh binh sĩ, rời khỏi Trường An, đi được mấy ngày, đã tới Tinh Châu. Mậu Công thưa với Tần Vương: 

 - Chúng thần lục đục kéo đi trừ Lưu Vũ Chu, chỉ sợ Vương Thế Sung ở phía sau, lỡ có cử động gì, trong lúc cấp thiết khó mà ứng cứu. Thần nhớ Chu Xán gần đây do bị Dương Sĩ Lâm ở Hoài Nam chèn ép, nên cùng khốn về với nhà Đường, thánh thượng phong cho làm Sở Vương, đóng ở Cúc Trạch, điện hạ nên sai người mang thư úy lạo, rồi nói rõ rằng Vương Thế Sung giết vua Tùy, đoạt ngôi vua, xin túc hạ hãy dẫn một đạo quân, v nhà Đường mà trừ thằng giặc này, rửa mối hận cho thiên hạ, bao nhiêu đất đai của nhà Trịnh, Đường, Sở sẽ cùng hưởng. Chu Xán vốn tham bẩn, sẵn sàng nghe theo. 

 Tần Vương đáp: 

 - Thằng giặc này thích ăn thịt người, trước thường làm đầy tớ cho Trước tác tả lang Lục Tùng Điển, cùng Thông sự xá nhân Nhan Dân Sở, việc gì cũng làm, hung ác khác thường. Ta từ lâu đã muốn diệt, dẫu có quy phục, nhưng làm sao mà chung sống với chúng được. 

 Mậu Công thưa: 

 - Thần không nói tới việc đó. Nếu Chu Xán bằng lòng đi, điện hạ sai ba bốn nghìn người ngựa, rao lên rằng giúp Chu Xán đánh Trịnh, đợi Sở - Trịnh dày xéo nhau, ta làm ngư ông ngồi thu lợi. Nếu như không bằng lòng, ta kéo binh đi đánh Chu Xán; xem Thế Sung động tĩnh ra sao, khi thấy có họa ở phía Nam, lại cả phía Bắc nữa, thì sẽ không dám động binh phía Tây. Đó chính là mượn tiếng diệt Ngu để đánh Quắc vậy. Điện hạ thấy thế nào. 

 Học sĩ Đoàn Ý thưa: 

 - Thần cùng Xán có quen biết, xin để thần cầm thư, nói rõ lợi hại, khích Xán khởi binh, mọi chuyện sẽ xong xuôi. 

 Tần Vương băn khoăn: 

 - Nghe nói khanh nghiện rượu nặng, chỉ sợ làm lỡ mất việc quân thôi! 

 Đoàn Ý thưa: 

 - Việc quân trọng đại đâu phải chuyện đùa của trẻ con, thần mà đi thì xin chừa rượu. 

 Tần Vương đáp: 

 - Có như thế thì ta mới yên lòng. 

 Đoàn Ý liền mang thư và lễ vật của Tần Vương lên đường đi Cúc Trạch. 

 Thời nhà Tùy, Chu Xán từng làm huyện lại Bạc Châu, vốn là bạn rượu thân thiết của Đoàn Ý, nên nghe tin Đoàn Ý đến, vội chạy như bay ra đón, chia ghế chủ khách mời ngồi. Chu Xán hỏi: 

 - Xa nhau đến mấy năm rồi, không biết huynh ông hiện nay ở đâu? 

 Đoàn Ý đáp: 

 - Đệ làm quan nhà Đường, trộm giữ chức học sĩ. 

 Chu Xán hỏi tiếp: 

 - Nghe nói Lý Mật bị Vương Thế Sung đánh bại, đem nhiều binh tướng về hàng nhà Đường, chuyện có đúng hay không? 

 Đoàn Ý lại đáp: 

 - Sao lại không thật, nay binh mã nhà Đường lại có thêm mấy chục vạn, đúng là lúc quốc phú binh cường. Tần Vương thấy Thế Sung giết vua Tùy, tự chiếm ngôi cao, rất bất bình, muốn cùng đại vương thực lòng liên minh, phát binh tiễu trừ lũ nghịch này. Nếu được vàng ngọc vật quý của Thế Sung, xin nhường cả cho đại vương. Còn đất đai dân chúng, thì cả hai cùng hưởng. 

 Chu Xán nói: 

 - Tần Vương đã có ý tốt như vậy, lại được người quen biết cũ đến bàn, đệ nào dám không vâng mệnh. Ngày mai xin lập tức phát binh diệt Trịnh. Các ngài chỉ cần giúp thêm vài ngàn người ngựa là đủ. 

 Sai bày tiệc rượu, rồi hỏi Đoàn Ý: 

 - Huynh ông gần đây tửu lượng có lẽ tăng tiến hơn xưa nhiều lắm? 

 Đoàn Ý đáp: 

 - Đệ đã chừa rượu, không thấy hứng thú như xưa nữa! 

 Chu Xán nói: 

 - Thuở xưa cùng huynh ông vui chén tràn đêm, nay tri kỷ gặp nhau, lý nào lại không uống. Nếu nói việc công, thì đệ đã vâng lời, nếu nói bạn bè, thì lại càng nên say sưa để còn trò chuyện tâm tình. 

 Chu Xán ngồi vào nâng chén, mùi thơm ngây ngất, rượu đầy trước mặt. Đại phàm những người nghiện rượu, cũng như kẻ hiếu sắc, dẫu rằng có xấu như Chung Vô Diệm chăng nữa, nhưng đã thấy trước mặt thì thế nào lửa dục cũng bừng. Nay Đoàn Ý thấy rượu trong chén kia, nước rãi đã ch㹠chứa chan, liền nâng cốc một hơi cạn, lại cùng trò chuyện rôm rả, chén chú chén anh tiếp mãi. Đoàn Ý quên tịt việc chừa rượu, uống đến mức không nâng nổi chén nữa. Vốn biết Chu Xán thời làm quan với nhà Tùy, nhân Dượng Đế đào hàng nghìn dặm sông, gặp mất mùa liên tiếp mấy năm, cũng đã từng ăn thịt người, nên đến lúc này, mặt mũi đỏ bừng, mắt hằn những tia máu, mọi chuyện đều chẳng coi ra gì. Đoàn Ý cười hỏi Chu Xán: 

 - Đại vương dạo trước rất thích ăn thịt người, nay quyền cao chức trọng, có còn ăn nữa không? 

 Chu Xán thấy hỏi thế, bừng bừng sát khí, trong lòng thầm chửi: "Đồ chó già, ta dẫu chưa đổi tính xưa đi nữa, trước mặt mọi người, đâu phải chỗ để nói cái xấu của người khác". Bèn đáp: 

 - Ta nay chỉ thích ăn thịt kẻ đọc sách thôi, bọn này thịt da đều nhỏ nhắn, mịn màng, so với thịt kẻ khác ngon hơn nhiều. Huống chi thịt kẻ đọc sách mà lại đang say rượu, thì ngon chẳng khác gì nem thịt lợn vậy. 

 Đoàn Ý nổi cơn điên khùng: 

 - Cái đồ thối tha này, mày chỉ ăn thịt được mấy thằng lính quèn, kẻ đọc sách làm gì đến phần mày? 

 Chu Xán quát: 

 - Mày bảo tao là đồ thối tha, tao ăn thịt mày thì mày làm gì nổi tao. 

 Đoàn Ý thách: 

 - Mày dám ăn thịt tao kia à? Cái đầu lừa của mày, không muốn nằm trên cổ nữa sao? 

 Chu Xán gọi ngay đao phủ lôi Đoàn Học sĩ ra giết, rồi nấu lên cho y nhắm rượu. 

 Đáng thương một vị hàn lâm 

 Làm thức nhắm như gà hầm, lợn quay. 

 Bọn lính đi theo Đoàn Ý, ngày đêm trốn về thưa với Tần Vương, Tần Vương giận dữ, định đem binh đi Cúc Trạch diệt Chu Xán, báo thù cho Đoàn Ý. Vừa may Lý Tĩnh chinh phạt Lâm Sĩ Hoằng về đi qua Doãn Châu, vừa đem ba nghìn người ngựa quy Đường, biết Tần Vương đóng quân ở đây, liền đem Trương Thiên Tương vào ra mắt Tần Vương. 

 Tần Vương vui mừng đem chuyện Chu Xán ăn thịt Đoàn Học sĩ kể tỉ mỉ. Lý Tĩnh hỏi: 

 - Bây giờ điện hạ định ra sao? 

 Tần Vương đáp: 

 - Đối với thằng giặc ác độc như thú dữ vậy, ta thân chinh trừ một phen, để rửa nỗi oan ức cho Đoàn Học sĩ ở tuyền đài. 

 Lý Tĩnh thưa: 

 - Đồ cầm thú này, không đáng để điện hạ ngự giá thân chinh. Thần nghe nói Tinh Châu đã mất một số huyện. Hội Châu nguy cấp từng ngày từng giờ, xin điện hạ hãy cứ mau tới cứu viện, còn Chu Xán, thần xin cùng Thiên Tương đi một lần, tất là bắt được, rồi sẽ quay về yết kiến điện hạ. 

 Tần Vương đáp: 

 - Được túc hạ đi cho, ta còn gì lo nữa! 

 Liền sai năm sáu viên tướng, lãnh một vạn quân phong Lý Tĩnh làm Chinh Sở đại tướng quân, Thiên Tương làm mã bộ tổng quản, Bạch Hiển Đạo làm tiên phong. Tần Vương phán: 

 - Khanh đi lần này nhất định thắng trận, cứ đóng binh ở cửa Hồng Cầu, Hà Nam. Đợi ta chinh phạt Vũ Chu xong, sẽ cùng kéo đến đó cùng đi đánh Thế Sung. 

 Lý Tĩnh nhận lệnh, dẫn Thiên Tương từ biệt Tần Vương, lên đường. 

 *** 

 Lại nói Lưu Vũ Chu, liên kết với Khả hãn Đột Quyết là Yết Bà Na, vốn là em của Khả hãn Thủy Tất, chiếm ngôi của anh tự lập làm Tây Đột Quyết, ở đất phía cực Bắc. Thấy Vũ Chu có lẽ đến cầu thân, hẹn cùng xâm phạm Trung Nguyên, liền chiêu binh mã thêm nữa. Vậy nên mới xảy ra một chuyện khác, về một người con gái kỳ tài. Câu chuyện như sau: 

 Người con gái đó họ Hoa, phụ thân tên là Cô, tự Thừa Chi, vốn là người phía Bắc Hà, làm thiên phu trưởng, vợ kế là Vương Thị, người Trung Nguyên, nhân ngoài cổng có trồng một cây mộc lan, chăm bón mấy năm, chẳng chịu ra hoa, đến năm có mang cây bỗng ra rất nhiều hoa, cho nên cha mẹ đặt tên cho con gái là Mộc Lan, sau đó sinh thêm được một con gái nữa, đặt tên là Hựu Lan. Một người con trai là Thiên Lang, hãy còn ẵm ngửa. Hựu Lan kém Mộc Lan bốn tuổi, mặt mày chẳng khác gì chị. 

 Mộc Lan sinh ra mày thanh mắt sáng, giọng nói trong trẻo, lúc Thừa Chi chưa có con trai thường cho Mộc Lan ăn mặc như con trai, dạy cho giương cung, tập tên đến năm mười tuổi, cũng không chịu xâu tai, kết tóc, chỉ thích giả làm con trai, học cả binh pháp. Gặp lúc vua Khả hãn Đột Quyết lấy quân, Mộc Lan đã mười bảy tuổi, cao lớn chẳng khác gì một chàng trai. Các nhà ở phương Bắc này, con gái về nữ công cũng không có gì lắm, cung ngựa thì nhà nào cũng có, Mộc Lan thường cưỡi ngựa, ra thảo nguyên rong chơi. Cha mẹ thấy Mộc Lan đã lớn, định gả chồng, nhưng Mộc Lan vẫn chưa chịu nghe. 

 Một hôm thấy cha đi đâu về, nói chuyện với mẹ: 

 - Đầu mục của Khả hãn Yết Bà Na về gọi lấy lính, tên ta cũng có làm thiên phu trưởng, sợ rằng khó tránh khỏi phải ra đi lần này. 

 Viên Thị đáp: 

 - Phu quân năm nay đã nhiều tuổi, ra đi thì lấy ai mà coi sóc cửa nhà? 

 Thừa Chi tiếp: 

 - Ta lại chẳng có đứa con trai nào lớn, để có thể thay tên cho, thì làm sao cho thoát? 

 Viên thị hỏi: 

 - Liệu có thể kiếm mấy lạng bạc để xin chăng? 

 Thừa Chi đáp: 

 - Ai cũng dùng tiền bạc để xin, thì lấy đâu ra quân lính. Hơn nữa, nhà mình lấy bạc tiền đâu ra? 

 Viên Thị lo lắng: 

 - Chẳng nói tới chuyện phu quân tuổi cao sức yếu, làm sao mà phá thành hãm trận, mà ở nhà vợ già con dại, làm thế nào mà sống cho qua ngày? 

 Thừa Chi đáp liều: 

 - Thôi thì đến lúc nào, hay lúc ấy vậy! 

 Mấy ngày sau, quân tư đưa giấy về, gọi Thừa Chi tới điểm danh, Thừa Chi chẳng còn cách nào khác, đành phải vâng theo. Nào ngờ việc quân cần kíp, phát cho đầy đủ lương thảo, hạn trong ba ngày phải lên đường, cả nhà đều mặt ủ mày chau. Mộc Lan trong lòng thầm nghĩ: 

 “Thời Chiến Quốc, có chuyện Tôn Vũ thao luyện nữ binh, thế thì rõ là con gái cũng có thể đi lính được. Ta xem trong sử sách, thuở trước có Tiêu Kỳ nữ tướng, thời đầu nhà Tùy có Cẩm Triệt phu nhân, đều được coi là những người tận trung giết giặc đền nợ nước, lập nhiều chiến công lớn. Những người phụ nữ đó, khó mà nói vì không có cha mẹ, gặp phải thời thế như vậy, cũng phải đem thân ra lo việc nhà vua mà bắt buộc phải ra lính, ngược lại được sử sách lưu thơm. Ta nay, cha đã cao tuổi như thế, trên thì chẳng có con trai, dưới cũng chỉ có em nhỏ, nay nếu cha ra đi, lấy ai mà làm chỗ dựa cho gia đình. Chẳng may chết ở sa trường, làm sao mà gửi được nắm xương tàn về quê hương. Chi bằng ta giả dạng nam nhi, thay cha đi lính. Chỉ cần Mộc Lan này cẩn thận ít nhiều, chuyện làm sao mà lộ ra được, rồi khoảng một hai năm sau, còn có ngày trở về quê nhà, báo được ít nhiều công ơn cha mẹ, có phải tốt không. Nhưng chỉ sợ mình cải dạng đàn ông liệu có giống không thôi?”. 

 Vội vào trong buồng, lấy mũ áo, trang phục của phụ thân, mặc vào cũng may đôi gót sen đỏ thì đã có đôi giày che kín, tập đi cho hùng dũng, tới bên vại nước, soi thử xem sao, rồi cất tiếng than thở: 

 - Thật đáng xấu hổ, trông ra như thế, chẳng phải chỉ thiên phu trưởng, mà dẫu có đóng đến tướng quân cũng được. 

 Chính giữa lúc đang soi ngắm bắt chước đàn ông như thế, thì Viên Thị đột nhiên vào thấy, kêu lên ngạc nhiên: 

 - Cái con bé này, sao lại ăn mặc như thế? 

 Thừa Chi nghe tiếng, vào thấy thế cười: 

 - Thế là tại sao? 

 Mộc Lan hỏi: 

 - Thưa cha, Mộc Lan nay ăn mặc thế này, liệu có thể thay cha đi lính được không? 

 Thừa Chi đáp: 

 - Hình dáng thế này, sao lại không được. Hôm trước điểm danh, cả hơn ba nghìn người, mấy ai có được hình dáng thế này. Nhưng chỉ tiếc cho con một điều! 

 Mới nói đến đây, mắt đã nhỏ lệ. Mộc Lan thấy thế, cũng khóc mà hỏi: 

 - Cha tiếc gì cơ? 

 Thừa Chi đáp: 

 - Chỉ tiếc là con gái, nếu là con trai, thì cha mẹ chẳng có điều gì phải lo, mà may ra còn kiến công lập nghiệp, rạng rỡ ông cha. 

 Mộc Lan thưa: 

 - Cha mẹ chẳng phải lo lắng, con đã quyết chí, ngày mai con sẽ lên đường đi lính thay cha. 

 Thừa Chi cùng Viên Thị đều nói: 

 - Con là con gái, nói chi những điều kỳ lạ đó! 

 Mộc Lan đáp: 

 - Con nghe nhiều người nói, thời buổi loạn ly, rất nhiều phu nhân, công chúa, cải trang tị nạn, mấy ai nhận ra. Con chỉ cẩn thận giữ gìn, thì chẳng ai biết được đâu. 

 Viên Thị ôm Mộc Lan mà rằng: 

 - Không được đâu con ơi, làm sao lại có chuyện con gái chưa chồng sống giữa chốn thiên quân vạn mã cho được! 

 Mộc Lan đáp: 

 - Cha mẹ không nên cố chấp, con thì một thân, lại có thể che chở cho các em, lại có thể giữ gìn được cha mẹ, kẻ trung thần hiếu tử đều làm thế cả, có chí thì mọi việc đều nên. Con đi mà chịu khó học hỏi, thì còn hơn bao đàn ông khác nữa kia. Chỉ cần cha mẹ có gan, không nên khóc lóc, xung quanh nghi ngờ con là con gái, không những không nên việc, mà còn xấu hổ nữa. 

 Thừa Chi cùng Viên Thị thấy con quyết chí, cả nhà đều sụt sịt, nức nở, cũng không biết quyết đoán ra sao. 

 Sáng hôm sau, mặt trời đỏ ối đường đông, thấy ngoài cửa gõ rất gấp rồi có tiếng người gọi: 

 - Hoa Thừa Chi, chúng ta đi thôi! 

 Thừa Chi mở cửa, ba bốn người cùng đội ngũ đang định nói gì, Mộc Lan đóng giả rất là gọn ghẽ, vội vã đỡ lời Thừa Chi: 

 - Cha cháu đã nhiều tuổi, cháu nguyện đi thay. 

 Bọn này thấy thế cười: 

 - Thừa Chi huynh ông, chúng tôi không ngờ ông có con trai lớn thế này, thật ra dáng trượng phu. 

 Thừa Chi thấy vậy, chỉ đành yên lặng, rồi nghẹn ngào đáp: 

 - Đúng thế! 

 Bọn này nói tiếp: 

 - Có được con trai như thế này, đúng là nên thay cho cha già, với một đao thương trong tay, sẽ trở thành quan tướng trở về, nhà huynh ông tha hồ vẻ vang. 

 Mộc Lan ngăn không cho cha đi tiễn, từ biệt cha mẹ, chỉ dặn: 

 - Xin cha mẹ giữ gìn, chăm sóc các em, con đi đây! 

 Lưng đeo tay nải, tay cầm giáo dài, quất roi một cái, đã ra khỏi cửa. Thừa Chi chỉ đành nhịn lời gạt nước mắt, dù muốn tiễn Mộc Lan đến quân doanh, nhưng thấy con nhất định không cho, nên đành phải quay về. Hàng xóm nhiều người biết chuyện, phần lớn đều trách vợ chồng Thừa Chi: 

 - Cả hai vợ chồng, chẳng hiểu tại sao để cho con gái đi vào con đường ấy rồi còn núi cao vực thẳm, làm thế nào cho yên? 

 Cũng có một ít người, phần đông là phụ nữ, thì lại bàn tán: 

 - Thật là một cô gái có chí, nghĩ không thể ai thay mình tìm người chồng vừa ý, nên tự đi vào chỗ hàng nghìn hàng vạn người, tìm lấy một kẻ xứng đáng, chẳng dại dột gì đâu! 

 Thừa Chi chẳng biết nói ra sao, chỉ đành coi như không nghe, trong lòng ngày đêm như dao cắt. Mộc Lan ra đi được khoảng một năm, Thừa Chi đã ốm đau rồi qua đời. Thương thay! Vợ Viên Thị, con gái con trai đều còn nhỏ, chẳng có cách gì sinh sống, đành phải cải giá, lấy một người họ Ngụy, cùng làng, nhưng đó là chuyện sau này. 

 *** 

 Nay hãy nói Tần Vương cùng Mậu Công, dẫn binh cùng Lưu Vũ Chu giao chiến, đã lấy lại được năm sáu quận huyện, hiện đã đến mãi Bách Bích quan. Thúc Bảo cùng Uất Trì Cung quyết đấu bốn năm trận, bất phân thắng bại. Tống Kim Cương thấy Uất Trì Cung không thắng nổi Thúc Bảo, trong lòng nghi hoặc, sai người đốc chiến. Uất Trì Cung tức giận liền thách Thúc Bảo ra ngoài cửa quan, đánh nhau mấy trăm hiệp, nhưng cũng không làm gì được. Tần Vương trước trận thấy thế, rất phục tài Thúc Bảo, nhưng cũng thấy hâm mộ tài năng của Uất Trì Cung. 

 Trời đã chiều, sợ có gì sơ xuất, Tần Vương ra lệnh đánh chiêng thu quân, hai tướng cùng về bản trận. Thúc Bảo nóng lòng không thể chịu nổi, nào đã chịu nghỉ, gọi quân lính, đốt đuốc thật nhiều, đánh nhau ban đêm. Tần Vương không cho, Thúc Bảo cũng không chịu. Chỉ thấy trong trận họ Lưu, một tiếng pháo lớn nổi đèn đuốc sáng như ban ngày, Uất Trì Cung đứng trước trận lớn tiếng: 

 - Mau ra đây quyết chiến! 

 Thúc Bảo nghe ra, cười: 

 - Thằng giặc Hung nô này cũng nghĩ như ta! 

 Lập tức thay ngựa khác, ra trước trận nói với Uất Trì Cung: 

 - Ta đêm nay không giết được ngươi, thề không về trại. 

 Uất Trì Cung đáp: 

 - Ta đêm nay không bửa được đầu ngươi, cũng không về trại. 

 Cả hai phấn chấn tinh thần, đem hết tài năng, chẳng ai chịu thua ai, Uất Trì Cung cười nói: 

 - Đồ chết toi! Ta với ngươi võ nghệ đều đã biết nhau rồi, ngươi giờ có dám cùng ta đấu riêng lực thôi không? 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Thế nào là đấu lực? 

 Uất Trì Cung đáp: 

 - Ngày xưa Mạnh Bôn Hạ Dục, có sức bẻ gãy sừng trâu, Ngũ Tư nâng được đỉnh lớn, Hạng Vũ có thể bạt núi. Ta cùng ngươi, đều là những kẻ đàng hoàng, không thèm làm chuyện mờ ám, nhưng nếu bắt chước người xưa thì không đủ lạ. Nay ngươi hãy thử để ta quất mấy roi, ta cũng để ngươi đánh mấy giản, xem ai yếu ai khỏe, như thế gọi là đấu sức đấy! 

 Thúc Bảo nói: 

 - Ngươi là người lớn hẳn hoi, sao lại đi nói những chuyện con nít thế. Trâu là đồ súc vật, đỉnh là loại kim khí, núi là loại khoáng chất, đều là những vật vô tri cả. Con người ta da thịt là của cha mẹ để lại cho, không nói chuyện sống chết, thì sao lại có thể tự hủy hoại, cam chịu đao thương. Nếu chẳng có điều gì khác thường, thì phải tìm cách dương danh hậu thế, sao lại đi làm cái việc này. Ta không nghe đâu! 

 Uất Trì Cung thầm nghĩ: "Thằng giặc già này nói đúng, chỉ một roi thôi đủ chết, mà dẫu không chết nữa, cũng thành người tàn tật suốt đời. Liếc mắt nhìn phía bên có hai khối đá xám lớn, nặng khoảng hai nghìn cân, bèn nói với Thúc Bảo: 

 - Khối đá thế này đây. Ta với ngươi thi, cả hai dùng khí giới mà chém, ai chém vỡ nhỏ hơn thì thắng! 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Khí giới của ngươi nặng bao nhiêu? 

 Uất Trì Cung đáp: 

 - Cái roi này của ta nặng một trăm hai mươi cân! 

 Thúc Bảo nói: 

 - Giản của ta mỗi cây chỉ nặng có sáu mươi cân, cả hai cây cộng lại vẫn còn thua roi của ngươi mấy cân. 

 Uất Trì Cung nói: 

 - Ta chém bằng giản của ngươi, ngươi chém bằng roi của ta, cả hai đổi cho nhau. Nếu như ngươi thua, ngươi theo hàng về Định Dương. Ta mà thua, ta sẽ hàng nhà Đường. Chỉ chém ba lần, xem ai yếu ai mạnh! 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Thế cũng được! 

 Cả hai xuống ngựa, Uất Trì Cung cởi chiến bào ra, đưa roi cho Thúc Bảo, Thúc Bảo cũng đưa đôi giản cho Uất Trì Cung. Uất Trì Cung nghiến răng trợn mắt, dùng toàn lực mà chém, mặt đá vẫn không một vết rạn, chém một lần nữa, chỉ thấy những rãnh sâu khoảng hai ba thốn. Uất Trì Cung trong lòng hoảng sợ, lần thứ ba lấy hết sức bình sinh, chém xuống, nghe choang một tiếng, viên đá đã vỡ, hóa làm hai mảnh. Uất Trì Cung cười nói: 

 - Thấy chưa? Nay đến lượt ngươi! 

 Thúc Bảo cũng cởi chiến bào ra, nhìn hòn đá xám, rồi ngửa mặt nhìn trời, thầm khấn: 

 - Trời xanh trên đầu! Ta là Tần Quỳnh, nay cùng gã giặc Hung nô này cùng thi. Nhờ hồng phúc của thiên tử nhà Đường, Tần Vương có thể nhất thống được thiên hạ, Tần Quỳnh nay có thể kiến công lập nghiệp, thì chẳng cần đến ba lần, viên đá này phải vỡ. 

 Rồi giơ hai tay cao, tận lực giáng xuống, hòn đá đã có vết, chém một lần nữa, hòn đá đã chia hai. Thúc Bảo cười: 

 - Thấy chưa? Đá còn như thế, nếu là người thì thịt bỗng một khắc hóa bùn. Ngươi ba lần, ta chỉ có hai. Thế là ngươi thua rồi! 

 Uất Trì Cung đáp: 

 - Khí giới của ta nặng, của ngươi nhẹ hơn! 

 Cả hai đương còn tranh luận, thấy năm sáu tên lính, khiêng một hũ rượu, một mâm thịt bò, quỳ trước mặt mà thưa: 

 - Điện hạ sợ hai vị tướng quân dùng sức thái quá, sai chúng tôi mang những thứ này tiếp thêm sức thần. 

 Uất Trì Cung thấy thế, bèn nói: 

 - Ai thèm ăn của chúng bay, hãy đánh nhau tiếp cho xong đã. 

 Hai người lại đổi trả binh khí cho nhau, lên ngựa, thì nghe ở phía quân nhà Đường, nổi chiêng thu quân, Thúc Bảo đành quay ngựa về trại. Uất Trì Cung cũng quay về. Đó chính là chuyện Tần Thúc Bảo cùng Uất Trì Kính Đức ba giản đổi lấy hai roi vẫn được, truyền tụng lâu nay, đúng như chuyện thời Tam Quốc, Lưu Tiên chủ với Ngô Tôn Quyền thử kiếm chém đá vậy. Sau này, có người để cho tai mắt người khác thêm sợ hãi, nên nói ra, chuyện Thúc Bảo chịu đánh ba giản, Uất Trì Cung giơ đầu chịu hai roi, đều là chuyện sai ngoa vậy. 

 Nay không nói chuyện Thúc Bảo về trại, hãy nói chuyện Uất Trì Cung, vì có đứa tiểu hiệu cao hứng, đem việc thi trước trận, nói cho Tống Kim Cương nghe. Kim Cương nổi giận nói: 

 - Đánh nhau sống chết, sao lại có chuyện uống rượu như là chuyện đùa vậy, rồi lời ra tiếng vào để tiết lộ cả việc quân. 

 Liền thưa với Lưu Vũ Chu, Vũ Chu nổi giận, vội gọi ngay tả hữu: 

 - Hãy chém ngay đầu Uất Trì Cung rồi báo ta biết! 

 Các tướng khổ công khuyên giải, Vũ Chu sai tìm ngay tướng khác giữ cửa quan, còn điều Uất Trì Cung đi Giới Hưu coi lương thảo. Mậu Công biết tin trong lòng mừng rỡ. Lại nghe tiêu mã về báo rằng: Khả hãn Yết Bà Na khởi binh giúp Vũ Chu. Mậu Công liền ghé tai nói nhỏ với Tần Vương mấy câu. Tần Vương liền sai tổng quản Lưu Vũ Nhượng, đem theo vàng ngọc đến quân doanh của Khả hãn Yết Bà Na, dùng kế giữ cánh quân này lại. Mậu Công lại điểm quân tướng đánh Bách Bích quan. 

 Tướng giữ cửa quan nay là Tầm Tương, từ lâu đã có lòng về nhà Đường, nay thấy quân Đường nhiều, tướng Đường giỏi, liệu cửa quan chẳng thể nào giữ nổi, nên mở cửa ra hàng. Bọn quân sĩ thuộc Lý Mật ngày trước nay cũng muốn lập ít nhiều công trạng, nên ai nấy đều gắng sức, định kéo thẳng tới trại quân của Tống Kim Cương, mười trại thì cướp được tám, chỉ còn lại khoảng hai ba nghìn người ngựa, Vũ Chu kinh sợ, đành phải chuyển quân về phía Bắc. Mậu Công biết rõ Kính Đức phải sai đi coi giữ lương thảo ở Giới Hưu, liền sai Sĩ Tín cùng Vương Bộ, nhận kế đến Giới Hưu trước, còn Mậu Công cùng Tần Vương với đại quân từ từ theo sau. 

 *** 

 Lại nói Uất Trì Cung, được tha không giết, lòng hổ thẹn, tức tối, dẫn một đội người ngựa, rời khỏi Bách Bích quan, đi về Giới Hưu. Đến An Phong, thấy có một toán phu dịch tải lương thực tới, Kính Đức đứng ra xem xét, thấy có ba nghìn thạch, cỏ có hơn một vạn bó, trên xe đều cắm cờ hiệu nhỏ màu vàng. Trời đã gần tối, liền lệnh cho quân sĩ áp tái lương thảo lại một nơi, kết thành trại tạm qua đêm. Uất Trì Cung không dám cởi áo giáp, ngồi ở giữa trại, bỗng nghe bên ngoài huyên náo, quân lính thưa: 

 - Có giặc tới cướp trại! 

 Uất Trì Cung vội cầm roi lên ngựa, được khoảng hai ba dặm, một tiếng pháo nổ, tiếng la hét rầm trời. Uất Trì Cung trông ra, trời sáng trăng mờ mờ, đi đầu là một viên tướng. Uất Trì Cung quát hỏi: 

 - Ngươi từ đâu đến? 

 Viên tướng đáp: 

 - Ta là đại tướng Vương Bộ, dưới trướng Từ Nguyên soái nhà Đường! Vâng lệnh nguyên soái, tới đây mượn nhà ngươi ít lương thảo. 

 Uất Trì Cung lại quát: 

 - Thằng giặc già! Mày không nhận ra ta sao? 

 Vương Bộ cười đáp: 

 - Già này làm sao mà nhận ra thằng giặc đánh không chết kia! 

 Uất Trì Cung nổi giận, giơ roi xông vào, cứ mặt mà chém xuống. Vương Bộ giơ thương lên đỡ, hai người một qua một lại, đến năm sáu chục hiệp Vương Bộ không đánh nổi, bỏ chạy. Uất Trì Cung đuổi sát, bên tai nghe tiếng hò hét rầm trời, quay đầu nhìn lại, thì thấy lửa cháy rực trời. Uất Trì Cung bỏ Vương Bộ, quay ngựa lại, vẫn nghe tiếng nổ liên tiếp, chẳng mấy chốc, xe lớn xe nhỏ, cỏ to, cỏ bé cùng với ba nghìn thạch lương, bị quân nhà Đường đốt trụi. Thì ra bọn đốt lương thảo chính là cánh quân Sĩ Tín. Vương Bộ thì lừa cho Uất Trì Cung đi xa, Sĩ Tín tiến lại đốt sạch, Kính Đức thấy thế, lòng càng phiền muộn, lại sợ Vương Bộ chiếm mất thành Giới Hưu, liền phi như bay về, gặp phải quân Vương Bộ cùng Sĩ Tín, đánh nhau lần nữa, nhưng cả hai không đương nổi, đành để Uất Trì Cung về Giới Hưu, chờ đại binh của Tần Vương đến, vây kín thành Giới Hưu. 

 Tần Vương sai Tầm Tương vào thành dụ hàng. Uất Trì Cung nói: 

 - Muốn ta hàng Đường, phải chờ xem Lưu Vũ Chu thế nào đã, nếu chết, ta mới đi thờ người khác. Còn bức bách quá, thì chỉ đánh nhau đến chết mà thôi! 

 Tầm Tương không cách nào khác, ra khỏi thành đem chuyện thưa lại Tần Vương. Tần Vương trong lòng phiền muộn, bỗng nghe tin báo tổng quản Lưu Thế Nhượng đã trở về. Tần Vương cả mừng, gọi vào. 

 Thế Nhượng đưa trình thủ cấp Vũ Chu cùng Kim Cương. Tần Vương vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng: 

 - Hai cái này ở đâu ra? 

 Thế Nhượng thưa: 

 - Thần vâng mệnh ra đi, qua Tinh Châu, giữa đường gặp Khả hãn Yết Bà Na, đang đóng quân dưới chân núi Vạn Phong. Thần dò được hư thực, liền vào trong doanh gặp, đưa thư cùng lễ vật trình, nói: "Vua Đường cần phải đi đánh nhà Trịnh, để hỏi tội giết vua Tùy ngày trước nên đến đây nói với đại quốc, phát binh cùng đánh". Yết Bà Na rất mừng mà rằng: "Ta đang giận Lưu Vũ Chu, nhờ ta phát binh cùng đánh nhà Đường, không ngờ Vũ Chu đi trước, bao nhiêu quận huyện chiếm được, biết mấy là ngọc ngà cùng gái đẹp đều bị Vũ Chu lấy hết, nay lại khẩn khoản nhờ ta cứu viện. Nay vua Đường nhà ngươi đem lễ vật đến để kết giao, ta sẽ phát binh cùng hội họp, trước tiên là hỏi tội Vũ Chu, sau là cùng các ngươi đánh Thế Sung cũng tiện". Việc thật là vừa vặn, thần ở trong trại của Yết Bà Na, chưa được hai ngày, thì nghe tin Vũ Chu cùng Kim Cương bị quân ta đánh bại, thế cùng lực tận, về theo Yết Bà Na. Yết Bà Na nổi giận, dùng kế giết cả hai, gọi thần đem thủ cấp về biếu triều đình. 

 Tần Vương nghe thế, vỗ tay: 

 - Rõ là trời giúp ta thành công vậy? 

 Lập tức thưởng cho Thế Nhượng rất hậu. Lại sai Tầm Tương đem hai thủ cấp Vũ Chu, Kim Cương vào thành Giới Hưu cho Uất Trì Cung xem, để khuyên Uất Trì Cung hàng nhà Đường. Tầm Tương vâng mệnh. Uất Trì Cung thấy hai thủ cấp, nhận ra là đúng rồi, bèn khóc rống, rồi làm lễ tế cẩn thận, lấy quan tài khâm liệm, chôn cất tử tế, rồi mở thành hàng nhà Đường. Tần Vương thấy thế, kính yêu Uất Trì Cung như khách, lập tức viết tấu chương báo tin thắng trận về triều. 

 Vua Đường cả mừng, liền ban cho Uất Trì Cung làm Tả phủ thống tướng quân, thăng Lưu Thế Nhượng làm thái thú Tinh Châu, tả hữu còn lại, đều được thăng thường. 

 Chính là : 

 Nước cạn mà núi chưa cùng 

 Đá vỡ mới thấy ngọc trong sáng ngời! 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Bảy

Đổi lời thư, Đậu công chúa từ hôn,

 Cắt vạt áo Đơn Hùng Tín đoạn nghĩa

 Thơ rằng: 

 Y, Lạc kinh thành nước chảy reo (1) 

 Tùy triều dượng khí chẳng bao nhiêu 

 Búa rìu mới xếp, can qua đấy 

 S sắt vừa thề, thoán đoạn theo 

 Ếch giếng nhìn nam, vua Trịnh ngáp 

 Kiến đàn kéo bắc, lính Đường reo 

 Thịnh suy chớp mắt, chòm mây nổi 

 Gò nấm mang Sơn, nguyệt hắt hiu. 

 1 Y, Lạc: Hai con sông chảy quanh kinh đô Lạc Dương của nhà Tùy. 

 *** 

 Nay lại nói chuyện Yết Bà Na giết Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương, giao hai thủ cấp cho Lưu Thế Nhượng mang đi. Tần Vương hứa với Yết Bà Na cùng kéo binh đánh Trịnh, nên nhổ trại kéo về Hà Nam. Nhân thấy Hoa Mộc Lan tướng mạo khôi ngô, cử chỉ linh lợi, liền thăng cho làm Hậu đội mã quân đầu lĩnh. Mấy nghìn người ngựa, kéo đến vùng Diêm Cương, bỗng thấy nhốn nháo trước núi, một đội người ngựa xông ra. Yết Bà Na thấy thế, liền sai tướng lên lớn tiếng hỏi: 

 - Các ngươi là ai ở đâu tới? 

 Một viên tướng trả lời: 

 - Ta là đại tướng Phạm Nguyện, dưới trướng Hạ Vương Đậu Kiến Đức. 

 Thì ra công chúa Đậu Tuyến Nương, muốn đến miếu Tây Nhạc ở Hoa Sơn để dâng hương, nên Kiến Đức sai Phạm Nguyện lãnh binh hộ giá, lúc này đã dâng hương xong, quay về gặp toán người ngựa của Yết Bà Na. Phạm Nguyện thấy thế, liền hỏi: 

 - Các ngươi ở Tây Đột Quyết, đến Trung Quốc chúng ta có việc gì? 

 Khả hãn đáp: 

 - Vua Đường mời ta cùng đi đánh Trịnh. 

 Phạm Nguyện cả giận: 

 - Đường cùng Trịnh đều là thần tử của nhà Tùy, còn các ngươi đều là bọn giặc giết chẳng bao giờ hết ở phía bắc, thì hãy lo giữ lấy cương giới, sao lại dám đem quân giúp kẻ khác đánh nhau? 

 Khả hãn cũng không vừa: 

 - Thằng vua của các ngươi là một đứa bán muối lậu, lôi kéo được bọn giặc cướp các ngươi, thử hỏi làm gì nên chuyện mà khua môi múa mép? 

 Binh lính của Phạm Nguyện, quả đã từng là giặc cướp, nghe Khả hãn nhắc đến tội cũ, đứa nào đứa ấy nghiến răng trợn mắt, cứ xông vào đám lính Khả hãn mà đâm chém, nên bọn này chỉ còn cách tìm đường chạy trốn. 

 Khả hãn trong lúc nguy cấp, may kịp có hậu đội của Hoa Mộc Lan đến kịp. Mộc Lan dẫn sĩ tốt vào giữa trận, cứu được Khả hãn, tập hợp người ngựa, lệnh cho toán quân bản bộ của mình, hạ ngay xuyên vân pháo trên lưng xuống, nhất tề nổ một loạt. Phạm Nguyện thấy pháo lợi hại, lập tức rút lui, Mộc Lan dẫn quân đuổi theo, không kịp nhận ra vô số nữ binh, tay cầm mộc, tay cầm kiếm, người ngựa như dưới đất chui lên, như hoa rơi, như lá rụng, như ong bay, như bướm lượn. Mộc Lan vội lệnh cho quân sĩ rút lui, nhưng đội nữ binh đã đến ngay trước ngựa. Mộc Lan ngồi trên ngựa, bị ngay một nữ binh tới chém, giữa lúc nghiêng ngửa thì lại bị lính nhà Hạ dùng câu liêm, kéo xuống ngựa. Một đại tướng cao lớn tới cứu, nhưng nghe tiếng dây cung, một viên kim hoàn đạn, bắn trúng ngay yểm tâm kính của viên tướng vỡ nát, trong lúc vội vàng, nghiêng người xuống tránh, cũng bị quân Hạ bắt trói lại nốt. Quân Bắc bị mất hai tướng, liền quay ngựa bỏ chạy. 

 Đậu Tuyến Nương cho dẫn Mộc Lan cùng viên tướng kia đến. Lúc này trời đã về tây, tiền đội đã đóng trại, Tuyến Nương cũng ra lệnh dừng ngựa, tất cả nổi lửa, nấu ăn. Tuyến Nương nghĩ: "Hai tên tù Hung nô mới bắt được, giữ lại trại này có lẽ không yên?". Liền gọi thủ hạ, giải vào trướng. Nữ binh vâng lệnh, giải cả hai vào. Một nữ binh thấy Mộc Lan có vẻ tuấn tú, liền lấy làm thương hại, khuyên rằng: 

 - Công chúa ta quân pháp rất nghiêm, hãy đối đáp cho cẩn thận. 

 Mộc Lan như không nghe thấy, lặng lẽ bước theo vào trướng, Công chúa ngồi trên cao, nữ binh quát: 

 - Hai tên tù quỳ xuống! 

 Người tù kia vẫn đứng, quắc mắt nhìn, Tuyến Nương nhìn Mộc Lan rồi hỏi: 

 - Ngươi trông mặt mày sáng sủa, tên họ là gì, xem tướng mạo đường đường, tất không chịu làm kẻ dưới mãi. Nếu ngươi chịu hàng phụ hoàng, ta sẽ cho ngươi làm gia tướng. 

 Mộc Lan đáp: 

 - Hàng thì hàng thôi, nhưng cha mẹ ta đều ở phương bắc, hãy thả cho ta về.thu xếp gia quyến yên ổn, ta sẽ quay lại tận lực, tận tâm thờ chủ mới. 

 Tuyến Nương giận dữ quát: 

 - Phường thối tha, ngươi hàng thì hàng, không hàng thì chém đầu hà tất phải múa lưỡi. 

 Mộc Lan tiếp: 

 - Ta hàng công chúa, công chúa là đàn bà con gái, thì cũng chẳng lấy gì làm nhục. Còn nếu công chúa định giết ta, ta cũng là con gái, chẳng lấy đó làm vinh được đâu! 

 Tuyến Nương nói: 

 - Khó mà bảo ngươi là đàn ông hay đàn bà! 

 Mộc Lan đáp: 

 - Đúng như thế! 

 Công chúa bèn sai bọn nữ binh: 

 - Hai người hãy dẫn tên tù này ra phía sau khám nghiệm xem sao! 

 Hai nữ binh kéo Mộc Lan vào phía sau, Tuyến Nương hỏi tiếp người tù kia: 

 - Ngươi có điều gì hãy khai ra? 

 Người này đáp: 

 - Có công chúa ở trên, ta không phải con gái, mà là đàn ông, các người chẳng dung nổi ta đâu. Nếu công chúa thả ta ra, hoặc giả sau này gặp lại, ta sẽ báo ơn thật xứng đáng. 

 Công chúa nghe nói thế, nổi giận: 

 - Thằng giặc Hung nô này ăn nói hồ đồ thật, hãy đem ra chém quách cho ta! 

 Năm sáu nữ binh túm lại, kéo người này đi, người này gào lớn: 

 - Lão Tề này dẫu có bị giết cũng chẳng sợ, chỉ ân hận là phụ mất sự ủy thác của La tiểu tướng, chẳng được cùng Tôn An Tổ gặp nhau. 

 Công chúa nghe nói thế, liền gọi ngay lại, hỏi: 

 - Vừa rồi ngươi nói gì? 

 Người này đáp: 

 - Ta không nói gì cả! 

 Công chúa vặn: 

 - Ta vừa nghe rõ ràng, là "chẳng được cùng Tôn An Tổ gặp nhau” là gì? Lại còn "phụ mất sự ủy thác của La tiểu tướng" nào nữa? 

 Người này lại đáp: 

 - Tôn An Tổ thì chỉ có một, hiện đang làm tướng cho phụ hoàng công chúa. Ngoài ra còn có người nào nữa đâu? 

 Tuyến Nương liền sai cởi trói, ban cho ngồi, hỏi: 

 - Túc hạ tên họ là gì? Quen biết ra sao với Tôn Tư mã chúng tôi? 

 Người này đáp: 

 - Tiểu nhân họ Tề, hiệu Quốc Viễn, người Sơn Tây, cùng với phụ hoàng công chúa cũng có quen biết, còn với Tôn Tư mã vốn là bạn thân, năm ngoái có nhận được thư của Tôn Tư mã, mời hai anh em chúng tôi tới cùng làm tướng, vì tiểu nhân có việc nên chưa đến được. 

 Thì ra Tề Quốc Viễn cùng Lý Như Khuê, nhân chuyện Lý Mật giết Địch Nhượng, bèn bỏ đi tìm Sài Tự Xương, gặp ngay lúc Lý Uyên khởi sự, Tự Xương bèn lưu hai người lại, làm Hộ quân hiệu vệ Đoàn huyện sứ. Tự Xương lại đem theo cả hai, đi đánh chiếm được khá nhiều quận huyện cho nhà Đường. Tự Xương tâu lên vua Đường, vua Đường phong cho làm Hộ quân hiệu úy, đóng quân ở Ngạc Huyện. Nhân ngày lễ ngũ tuẠcủa U Châu thứ sử Trương Công Cẩn, vốn là bạn "bát bái chi giao" của Tự Xương, nên mới phiền Quốc Viễn đi một chuyến. Lại gặp công tử La Thành, con trai tổng quản U Châu La Nghệ, hay tới dinh thứ sử Trương Công Cẩn chơi, biết Quốc Viễn quen thân với Thúc Bảo, Hùng Tín, nên mới viết thư, nhờ Quốc Viễn gửi cho Thúc Bảo. Tuyến Nương nghe kể thế liền nói: 

 - Nếu túc hạ là bạn thân với Tôn Tư mã chúng tôi, lại có quen biết phụ hoàng, ở chỗ chúng tôi hiện đang thiếu nhiều nhân tài, để ta về tâu với phụ hoàng, mời túc hạ cùng giúp một tay là hay hơn cả. Nhưng vừa rồi túc hạ còn nhắc tới cả La tiểu tướng nữa là ai thế? 

 Quốc Viễn đáp: 

 - Đó là con trai tổng quản U Châu La Nghệ, La công tử cùng với Tần Thúc Bảo ở Sơn Đông vốn là anh em con cô con cậu, La Thành có chuyện nhân duyên khó khăn nào đó, nên muốn nhờ Thúc Bảo nói với Hùng Tín dàn xếp hộ cho, nên mới nhờ tiểu nhân đi gặp. Không ngờ giữa đường gặp Yết Bà Na bị Khả hãn lôi kéo, trang bị giáp trụ, cho nên mới tham gia vào vụ vừa rồi. 

 Tuyết Nương nghĩ ngợi một hồi rồi nói: 

 - Không thể có chuyện thế được, chẳng thể vì chuyện nhân duyên của riêng mình, mà bắt bạn bè đi hàng nghìn dặm như thế. 

 Quốc Viễn đáp: 

 - Họ Tề này cả đời chưa từng nói dối bao giờ, hiện còn giữ thư của La tiểu tướng kia! 

 Rồi đứng dậy, cởi chiến bào, trước ngực lấy ra một cái túi nhỏ, bên ngoài gói bằng giấy dầu, bên trong là thư, đưa cho Tuyến Nương. 

 Tuyến Nương sai tả hữu lấy xem kỹ, bao ngoài bằng giấy hồng, trên viết hai .hàng chữ lớn: "Họ La ở Soái phủ U Châu, gửi cho Tần Tướng quân, tự Thúc Bảo ở Tế Châu, Sơn Đông”. Tuyến Nương liền cầm thư giắt vào hài, rồi gọi tả hữu: 

 - Lính canh bên ngoài vào đây! 

 Bốn lính canh bên ngoài có mặt. Tuyến Nương sai: 

 - Các ngươi đốt đèn, đưa Tề đại nhân đây đến trại Phạm soái phụ, nói rằng theo lệnh ta, hãy tiếp đãi đại nhân cẩn thận, không được coi thường. 

 Lại nói với Quốc Viễn: 

 - Thư của La tiểu tướng, ta tạm giữ ở đây, đợi lúc nào túc hạ đã gặp Tôn Tư mã rồi, sẽ hoàn lại. 

 Quốc Viễn cũng chẳng còn cách nào khác, đành theo lính canh đến chỗ Phạm Nguyện. 

 Tuyến Nương thấy Quốc Viễn đã đi khỏi, đang định đứng dậy, một nữ binh vào quỳ thưa: 

 - Gã mặt trắng vừa rồi đã khám nghiệm chu đáo: đúng là con gái, không phải nói bậy. 

 Tuyến Nương lệnh: 

 - Dẫn vào trong này! 

 Ngồi xuống, Tuyến Nương hỏi: 

 - Nếu ngươi là con gái, tên họ là gì? Làm sao lại tòng quân, hãy khai cho thực. 

 Mộc Lan khóc, thưa: 

 - Thiếp họ Hoa, tên Mộc Lan, vì phụ thân tuổi cao, lại không có anh trai, dưới chỉ còn mấy em vừa nhỏ vừa yếu, phụ thân đi lính, thì chẳng còn ai coi sóc việc nhà. Thiếp nghĩ rằng đàn ông làm được việc trung thần hiếu tử, thì đàn bà cũng làm được. Vì thế thiếp giả trang đi lính theo lệnh vua thay cho thân phụ, dẫu trong quân chẳng ai biết, nhưng lòng cũng lấy làm hổ thẹn, xin công chúa lượng tình tha lỗi. 

 Nói xong không ngăn nổi hai hàng nước mắt tuôn ra như suối. 

 Tuyến Nương thấy thế, cũng cảm động mà rằng: 

 - Nếu thế thì rõ ràng là bậc hiếu nữ, không ngờ đất Bắc là nơi ngược ngạo, phóng túng, mà lại sinh ra được bậc nhi nữ đại hiếu như vậy Thật là rạng vẻ anh thư, ta cũng thật lòng kính ái? 

 Tuyến Nương lấy lễ chủ khách ra đãi, Mộc Lan từ tốn không dám. 

 - Công chúa vốn cành vàng lá ngọc, thiếp là phận áo vải thô, ngu muội, may được rộng tha, đã thật không ngờ, đâu dám cùng ngồi hàng với công chúa. 

 Tuyến Nương thở dài: 

 - Danh tước là cái dễ kiếm, thuần hiếu mới là sự khó. Ta cũng giận là thân con gái, không thể cùng mặt trời, mặt trăng tỏa sáng, không ngờ ngươi cũng có lòng như vậy. Nay ta đang thiếu một người bạn trong thuê phòng, cũng muốn kết chị em với ngươi, vinh nhục cùng hưởng, liệu có nên chăng? 

 Mộc Lan đáp: 

 - Điều này thì thật thiếp không dám nhận? 

 Tuyến Nương nói: 

 - Ý ta đã quyết. Ngươi chẳng nên quá khiêm nhường. Không biết tuổi tác ra sao đây? 

 Mộc Lan thưa: 

 - Kẻ hèn này mười bảy tuổi! 

 Tuyến Nương tiếp: 

 - Ta hơn ba tuổi, thôi đành ngồi ghế trên vậy! 

 Cả hai cùng lạy trời đất bốn lạy, rồi quay mặt lại, cùng lạy nhau bốn lạy nữa. Vì ở trong quân chẳng có gì để bày tiệc dọn yến, đành phải ăn cơm tối, rồi Tuyến Nương đưa Mộc Lan vào trong trướng cùng nghỉ, Tuyến Nương hỏi: 

 - Hiền muội đã lấy chồng chưa? 

 Mộc Lan lắc đầu: 

 - Ở nơi hoang dã góc trời, thực chẳng có ai. Thiếp tuy được hiền thư giờ yêu quý thế này, nhưng mai kia về, còn có phò mã nữa, rồi không biết hiền thư để thiếp vào đâu? 

 Tuyến Nương nghe thế, hai hàng lông mày chau lại, yên lặng không nói, Mộc Lan hỏi: 

 - Hiền thư đã quá tuổi đào non, mà vẫn chưa chịu kén khách đông sàng, sợ rằng quá tuổi hảo cầu chăng? (l) 

 1 Bài "Quan thư" trong "Kinh Thi": Yểu điệu thục nữ; Quân tử hảo cầu. (Khách thục nữ yểu điệu, Đẹp đôi cùng người quân tử). 

 Tuyến Nương đáp: 

 - Mẫu hậu vốn là mẹ kế, tuy rất hiền, nhưng phải lo việc nước. Phụ vương thì đánh đông dẹp bắc, lo chuyện binh đao, chẳng có lúc nào yên mà nghĩ tới chuyện này. 

 Mộc Lan thưa: 

 - Ở trên đời này những việc đáng làm cũng nhiều, phải đâu chỉ có riêng chuyện chăn gối thôi đâu! 

 Thêm một vài câu chuyện phiếm khác. Mộc Lan đã ngủ kỹ, Tuyến Nương nhẹ nhàng ngồi dậy, lấy thư của La Thành trong hài ra, lòng nghĩ: "Vừa rồi họ Tề nói La Tiểu tướng có chuyện nhân duyên gì đấy, nên phải viết thư nhờ Thúc Bảo, chẳng biết là với người nào vậy. Ta phải mở ra xem, La công tử viết những gì trong này?". Tuyến Nương cầm một con dao nhỏ, nhẹ nhàng mở dấu niêm phong, lấy thư ra, đặt trên án, đọc kỹ. Phía trên chỉ là những lời thăm hỏi thông thường, đọc đến phía dưới, thì hai hàng nước mắt chan hòa: "Trời ơi! Thì ra Dương Nghĩa Thần chết rồi! Ta cứ nghĩ tại sao La lang không đến nhờ Nghĩa Thần mà lại phải nhờ Thúc Bảo mãi". Xem hết từ đầu chí cuối, không ngăn nổi thở than: "Trời ơi! La lang! La lang! La lang vẫn một lòng nghĩ tới ta, mà không chịu nghĩ đến gia thất. Thật là chuyện của ta thật khó khăn quá chừng. Nếu như Dương lão tướng chưa mất, thì may ra phụ hoàng còn nghe lời. Nay họ Dương đã qua đời, dẫu cho Đơn viên ngoại có thư đến nữa, thì chắc gì phụ hoàng đã nghe. Ta mà còn mẫu thân, còn có người mà nương dựa. Nay tuy Tào Hậu hiền minh như thế, nhưng là thân con gái, ta làm sao mà mở miệng được để nói những điều này!” 

 Nghĩ đi nghĩ lại, chẳng thấy cách nào, không ngăn được, bèn nức nở một hồi, lại than: "Thôi rồi! Nhân duyên của ta nay chỉ đành chờ kiếp sau vậy, nhưng ta lòng nào mà làm lỡ tuổi thanh xuân của La công tử, có lẽ ta nên làm thế này: dạo trước ta ở Nhị Hiền trang, được tiểu thư Ái Liên nhà Đơn viên ngoại, rất là yêu thương, lại đã cùng ta kết nghĩa chị em. Nay La công tử đã viết thư nhờ Thúc Bảo, chi bằng sửa mấy chữ trong thư, nói ra là nhờ Thúc Bảo cầu hôn với Đơn tiểu thư, Đơn viên ngoại nhất định sẽ bằng lòng, một là báo đáp được tấm lòng mong mỏi của ta với Đơn tiểu thư, hai là gầy dựng được cho La lang. Phải chăng là cả hai đều tốt đẹp không?". Nghĩ ngợi xong xuôi, bèn gọi viên nữ thư dậy, thay thư cũ bằng một thư khác nói rõ những ý đã định trên, rồi theo cũ mà niêm phong cẩn thận, xong xuôi, lại bỏ bao vào hài của mình. 

 Chẳng bao lâu, gà đã gáy sáng, Mộc Lan tỉnh giấc, chải đầu rửa mặt, Tuyến Nương liền cho Mộc Lan trang phục như mình, cùng quân sĩ ăn buổi sáng. Đang định nhổ trại lên đường, thì thấy ba bốn kỵ mã đến thưa: 

 - Chúa công có lệnh, đến mời công chúa lập tức về triều, bởi Vương Thế Sung đang bị nhà Đường đem quân tới đánh, nên tới cứu viện. Chúa công định thân chinh kéo quân đi, nên giục chúng hạ qua báo ngay cùng công chúa! 

 Tuyến Nương đáp: 

 - Ta biết rồi! Các ngươi cứ quay ngay về! 

 Lại gọi mấy tên lính đêm qua dẫn Quốc Viễn đi lấy phong thư ở gót hài, cùng hai mươi lạng bạc, đưa cho bọn này, dặn kỹ: 

 - Đây là thư cùng hai mươi lạng bạc, hãy mang sang trại Phạm đại nhân, giao tận tay vị họ Tề tối hôm qua các người đã dẫn tới. Nói rõ rằng vì trong nước có việc, không thể gặp lại! 

 Bọn này vâng lệnh, đi ngay. Tuyến Nương ra lệnh cho đội nữ binh làm tiền đội, Phạm Nguyện làm hậu đội, quay ngay về. Quốc Viễn cũng biết rõ nhà Hạ sắp xuất binh, nên cũng không tìm Tôn An Tổ nữa, mà quay đến chỗ Thúc Bảo. 

 Chính là: 

 Tướng quân đừng xuống ngựa 

 Ai nấy cứ lên đường. 

 *** 

 Lại nói Thúc Bảo cùng Mậu Công diệt xong Vũ Chu, thu phục được Uất Trì Cung, tiếng tăm càng lừng lẫy. Mậu Công nói với Tần Vương: 

 - Thế Sung từ ngày diệt được Ngụy Công, được thêm rất nhiều đất đai, người ngựa, thanh thế hơn hẳn trước kia. Nay điện hạ nên thừa thế mà trừ ngay đi, kẻo càng để lâu càng khó diệt. Trước tiên hãy sai các tướng triệt dần nanh vuốt xung quanh, cắt dần đất đai, để tuyệt nguồn lương thực, khiến cho bốn phía trơ trọi, không nơi cứu ứng, bên trong một mình khó mà cầm cự, mới dần dần thắng được. Cũng giống như người ta đánh con giải lớn vậy, trước hãy lo chặt đứt tám cái chân, lúc này dẫu còn hai càng lợi hại, cũng chẳng thể ngang dọc được nữa vậy! 

 Tần Vương khen hay, giao binh phù, sổ sách cho Mậu Công điều hành việc quân. Mậu Công liền sai tổng quản Sử Vạn Bảo, từ huyện Nghi Dương, đánh chiếm lấy một giải Long Môn. Lại lệnh cho tướng quân Lưu Đức Uy, từ Thái Hằng Sơn, ra lấy kỳ được Hà Nội (1). Còn Thượng Cốc Công, Vương Quân Khuyến, từ Lạc Khẩu phải bắt được đường tiếp lương của Thế Sung. ổng quản Hoàng Quân Hán, kéo từ Hồ Ân ra đánh cho được Lạc Thành, Đại tướng Khuất Đột Thông, Đậu Quỹ mai phục quân ở các nơi hiểm yếu, sẵn sàng tiếp ứng cho những chỗ nguy cấp. Vương Bộ cùng Trình Giảo Kim, Vưu Tuấn Đạt, Liên Cự Chân tới Lê Dương, khôi phục lại những đất đai của nhà Ngụy. La Sĩ Tín cùng Tầm Tương đi lấy vùng Thiên Kim Bảo, Hổ Lao. Mậu Công với Tần Vương, Thúc Bảo, Uất Trì Cung về Hà Nam, hội quân Lý Tĩnh ở Hồng Câu. Chư tướng vâng mệnh nguyên soái, kéo quân đi. 

 1 Không phải Hà Nội của Việt Nam, mà là tên một vùng đất nhỏ, từ đời Tam Quốc đã có, gần như nằm giữa Trung Nguyên. 

 Lúc này Lý Tĩnh đã đánh bại Chu Xán, Xán thế cô lực tận, kiếm ngay vài người xấu số béo tốt ở Cúc Trạch, mổ thịt ăn uống vài ngày, rồi cùng với mấy lính kỵ, trốn về Hà Nam, theo hàng Thế sung. Lý Tĩnh đem binh, đóng giữ ngay ở cửa Hồng Câu, chờ đại quân Tần Vương. 

 Chưa đầy một tháng, Tần Vương đã tới, hai cánh quân gặp nhau, Tần Vương nói với Lý Tĩnh: 

 - Chu Xán như con sói dữ, nhờ tài năng của khanh, đã thua chạy. Không hiểu thanh thế của Thế Sung thật hư ra sao? 

 Lý Tĩnh thưa: 

 - Thần đã sai người dò xét kỹ càng, bọn chúng đã biết Đại Đường sẽ kéo quân chinh phạt, nên các nơi đều được giao cho anh em cháu chắt trong họ phòng bị nghiêm ngặt. Ngụy Vương Vương Hoằng Liệt giữ Tương Dương, Kính Vương Vương Hành Bận đóng ở Hổ Lao, Tống Vương Vương Thái nằm vùng Trần Châu; Tần Vương Vương Thế Vĩ giữ Bảo Thành, Việt Vương Vương Quân Độ đóng Đông Thành, Hán Vương Vương Huyền Nhự lập quân doanh ở Hàm Gia, Lỗ Vương Vương Đạo Ngự ở Diệu Nghi thành. Thật đến nỗi một giọt nước cũng không lọt, ngày đêm đều cảnh giác tuần thám rất nghiêm. 

 Tần Vương cười: 

 - Ngu ngốc thay cho Thế Sung, đâu có chuyện công nghiệp của cả đất nước, một nhà độc chiếm được sao. Chỉ có con cháu mới là bậc hiền tài thôi sao, ta đã thấy cảnh bại vong của chúng ngay trước rồi. 

 Tần Vương đôn đốc tướng sĩ tới Lạc Dương. Thế Sung liền kéo hai vạn người ngựa ra cửa Phương Chủ, hạ trại ngay bên bờ sông Cốc Thủy, đối diện với quân Đường. Quân Đường đóng trại chưa xong, chỉ sợ quần Trịnh sang đánh bất ngờ, phần nhiều đều hoảng sợ. Tần Vương thường đã quen lấy ít địch nhiều, lấy kế để thắng, thì chẳng ngại gì. 

 - Quân giặc kết trại gần bờ sông, thế là có ý sợ ta tấn công, rõ là thấy chúng ta hoảng sợ rồi vậy. 

 Liền sai Thúc Bảo, Uất Trì Cung đánh thẳng vào tiền quân Thế Sung, còn Tần Vương thì dẫn bọn Giảo Kim, Sĩ Tín, Khẩu Hằng Cung, Đoàn Chí Huyền, lặng lẽ đánh vào phía sau Thế Sung. Khoảng vài nghìn kỵ binh, xông vào trước chém giết. Quân Trịnh thấy thế, liền vây kín bọn kỵ binh lại. Sử Nhạc, Vương Thưởng, tuy có giết được vài trăm lính tráng, nhưng cả bọn này cũng khó lòng thoát khỏi vòng vây. Giữa lúc ham chiến, một phát tên bắn tới, làm Tần Vương ngã ngay xuống ngựa, hai tướng Trịnh trong trận liều chết giơ cao thương xông tới. Sử Nhạc thấy thế, hét to một tiếng, chém ngay một tướng, rồi đoạt lấy ngựa cho Tần Vương cưỡi. Viên tướng còn lại, bị Vương Thưởng bắn cho một tên, trúng ngay cổ họng, ngã xuống ngựa. 

 Phía trước Uất Trì Cung, Thúc Bảo giết đến ba bốn giờ, Thế Sung chống đỡ không nổi, đành phải rút lui, bị quân nhà Đường đuổi sát tận chân thành, chém được đến sáu bảy nghìn thủ cấp rồi mới quay trở lại. 

 Ngày hôm sau, Tần Vương cùng Mậu Công ra ngoài trại quan sát thấy hai ba trăm dân chúng, đều mang cung đeo tên, có cả võng lưới mà đi. Tần Vương sai thủ hạ gọi lại rồi hỏi: 

 - Các ngươi đi đâu, làm gì thế này? 

 Một người quỳ thưa: 

 - Người ta đồn rằng, ở trên lăng Ngụy Tuyên Vũ, hôm qua có một con chim phượng bay tới, đậu trên cây cao bên lăng, vì vậy dân đi săn chúng tôi đều lên cố bắt cho được. 

 Tần Vương lại hỏi: 

 - Đây đi lăng Ngụy Tuyên xa gần? 

 Người này thưa: 

 - Chỉ khoảng gần hai mươi dặm là cùng. 

 Tần Vương phán: 

 - Các ngươi hãy dẫn ta đi xem sao, nếu đúng vậy, ta sẽ trọng thưởng! 

 Mậu Công can: 

 - Không được đâu, làng Ngụy Tuyên Vũ ngay gần sau hậu trại của Thế Sung, nếu có mai phục thì làm thế nào? 

 - Thế Sung thua mấy lần, trong lòng hoảng sợ, chẳng dám ra đâu! 

 Liền nai nịt đầy đủ, dẫn theo năm trăm lính kỵ, ra khỏi trại, đi hết con đường mòn có cây che lớn, thì thấy có một đám đất bằng phẳng, rộng rãi, bốn xung quanh là núi rừng, bên trái là ngọn Phi Lai, bên phải có khe Bộc Giản, chim lạ thú quý đều thấy đủ mặt, cũng chính là nơi còn di tích nhà đá từ thời Hoàng Đế, sau này Ngụy Tuyên Đế làm Hoàng Lăng ở đây. Tần Vương nhìn khắp bốn phía, trầm trồ khen ngợi không ngớt. Bỗng thấy phường săn gào thét: 

 - Chẳng phải là chim phượng đang bay tới kia là gì? 

 Tần Vương nhìn kỹ, thấy một con chim lớn, theo sau là bảy tám chục chim nhỏ, đậu ngay trên ngọn cây lớn. Con chim lớn này cổ dài, đầu có mào lớn, lông năm màu sặc sỡ, lóng lánh sáng ngời, trông rất kỳ lạ. Tần Vương phán: 

 - Đấy là chim loan rừng ở hải ngoại, ai nấy nhầm là chim thiêng. (l) 

 1 Con Chim đực gọi là chim Phượng, con cái gọi là Hoàng. Giống chim của thần thoại cổ Trung Quốc, người ta cho chim này mà ra đời, là điềm xuất hiện bậc thánh chúa! (Từ điển Hán Việt - Thiều Chửu). 

 Phường săn đang định giăng lưới, thì lại thấy một người lấy tay chỉ : 

 - Phía kia thấy binh mã kéo ra. Nguy to rồi! 

 Ai nấy đều vội vàng bỏ chạy. Mậu Công cũng giục Tần Vương quay về. Tần Vương vội rút một mũi tên, giương cung hướng con chim lạ, bắn trúng ngay cánh, con chim liền mang cả mũi tên, bay vào trong hẻm núi. 

 Tần Vương ruổi ngựa theo, thấy bên ngoài toàn là cờ hiệu quân nhà Trịnh, lại có một tướng, phi ngựa như bay lên, miệng hét lớn: 

 - Lý Thế Dân! Ta là đại tướng Yến Doãn nước Trịnh, tới bắt ngươi đây? 

 Tần Vương thấy thế, cho ngựa phi nhanh vào hẻm núi, dừng lại, bắn một phát tên, trúng cổ họng Yến Doãn ngã ngay xuống ngựa. 

 Nhìn tìm con chim lạ, vẫn thấy đậu ở cây đối diện bên khe núi rỉa lông cánh. Tần Vương thấy đoạn khe trước mặt ngăn đường, phía sau là binh mã quân Trịnh, Mậu Công thì lạc ở phía sau, chim loan lạ thì vẫn ở bên bờ kia cất tiếng hót, như kêu như gọi nhảy qua khe. Khe này đã sâu lại rộng có đến ba bốn trượng, thế mà lạ thay, Tần Vương vẫn vượt qua được. Chim loan lạ thấy Tần Vương tới, lại bay đi mấy chục bộ, đậu trên một cành cao. Tần Vương nghe bờ bên kia trống nổi rầm trời, trong lòng cũng hoảng sợ, nhìn lên chim loan lạ mà khấn: 

 - Linh điểu, linh điểu! Linh điểu mà cứu được ta thoát khỏi nạn này, thì hãy quay về ta mà hót ba tiếng! 

 Chim liền quay ngay về phía Tần Vương, kêu đủ ba tiếng. Tần Vương nhìn thấy bờ khe đá núi gập ghềnh, liền xuống ngựa, buộc vào gốc cây, rồi theo đường chim bay mà đạp cỏ, rẽ cành đi vào núi. Trèo lên đến đỉnh, nhìn sang phía bờ xa thấy một viên tướng, sát khí đằng đằng, đang ruổi ngựa theo. Tần Vương nhận ra Đơn Hùng Tín, theo sau lại có một tướng khác, cũng cưỡi ngựa gần kề, thì ra là Mậu Công. Đang ngây người ra nhìn, lại nghe chim loan kêu một tiếng, Tần Vương vội quay đi, nghĩ vội: "Linh điểu không bay mà vẫn hót, phía này nhất định có lối ra!" Liền cứ theo chim mà chạy. Thấy ngay trước mặt, một tòa nhà bằng đá, ngoài cửa có một nhà sư đứng chờ, diện mạo sáng sủa, phong thái trang nghiêm, giơ tay vẫy linh điểu một cái, chim lập tức chui vào ống tay áo nhà sư, nhà sư yên lặng quay vào trong nhà đá. Tần Vương lấy làm lạ, cũng theo vào, thấy nhà sư đang ngồi xếp bằng. Tần Vương hỏi: 

 - Sư trưởng? Vừa rồi sư trưởng bắt được linh điểu, xin sư trưởng cho xem! 

 Nhà sư đáp: 

 - Linh điểu biết quân vương lúc ấy đang gặp nạn, nên từ cõi thiêng bay tới, quân vương muốn xem hay sao? 

 Liền bắt từ ống tay áo ra con chim loan nọ, cánh chim vẫn thấy còn mũi tên. Phút chốc bỗng biến thành con chim anh vũ màu trắng, nhà sư liền rút ngay mũi tên ra, đưa giả cho Tần Vương: 

 - Xin giả mũi tên này cho quân vương! 

 Rồi tung lên, chim bay mất, vào tầng không cao thẳm. Tần Vương lấy tên bỏ vào ống, biết là bậc thánh tăng, vội hỏi: 

 - Ta gặp nạn này liệu có thoát được không? 

 Nhà sư đáp: 

 - Sao nạn tinh chỉ trong khoảnh khắc, quân vương hãy tránh ngay sau lưng bần tăng, bần tăng sẽ có cách lui được nạn này. 

 Tần Vương liền theo lời trốn kỹ. Nhà sư tay ấn quyết, miệng niệm chú, rồi thấy từ miệng phóng ra một đạo bạch quang, che kín lấy khe núi. 

 Tướng nhà Trịnh Đơn Hùng Tín biết rất rõ vùng khe núi này có tên là Ngũ Hổ Cốc, dòng khe này là Đoạn Quỷ giản, không có đường ra. Hùng Tín thấy Yến Doãn phi ngựa phía trước, sợ Yến Doãn cướp mất công đầu, vội phi nhanh về phía khe núi, từ xa một con ngựa không người, vội phi lại, đã thấy Yến Doãn nằm chết vì mũi tên trúng cổ họng. Hùng Tín giận dữ nghĩ thầm: "Không giết được thằng giặc này, báo thù cho Yến Doãn, không đáng bậc hảo hán!" Thúc ngựa vào khe tìm, bỗng nghe từ phía sau có người cưỡi ngựa đuổi theo, lớn tiếng gọi. 

 Mậu Công đuổi kịp, níu vạt áo Hùng Tín mà xin: 

 - Từ ngày xa nhau đến giờ Đơn nhị ca vẫn được bình yên, trước kia ở chỗ Ngụy Công ngày đêm cùng nương tựa lẫn nhau, may được dạy dỗ nhiều, thật cảm ơn sâu. Hôm nay mới gặp, đang có điều muốn bàn, xin đừng quá bức bách chủ ta! 

 Hùng Tín đáp: 

 - Thuở trước cùng ngài sum họp một nơi, thì là anh em, nay ai thờ chủ ấy, tức là thù địch. Hùng Tín này thề diệt được Thế Dân, báo thù cho vong linh tiên huynh, cũng là để trọn đạo thần tử. 

 Mậu Công nói: 

 - Nhị ca không nhớ thuở trước thắp hương thề nguyền sao? Chủ của ta cũng là chủ của Nhị ca, Nhị ca sao bất tình đến thế? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Đây là việc quốc gia, không phải là việc riêng của Hùng Tín. Lúc này mà Hùng Tín không nỡ giơ đao lên chém ngài, cũng bởi vì lời thề nguyền xưa vậy. Ngài hà tất phải nhiều lời! 

 Rồi rút đao bên mình, cắt vạt áo dài, gia roi đuổi theo tìm Tần Vương. Mậu Công thấy tình thế nguy cấp, vội phi ngựa như bay trở lại để gọi các tướng, báo tin Tần Vương gặp nạn. 

 Lúc này Uất Trì Kính Đức, đang ở khuỷu sông Lạc Thủy tắm cho ngựa, bỗng thấy phía đông bắc một người một ngựa phi tới. Uất Trì Cung nhận ra Mậu Công đang hét lớn: 

 - Chúa công bị tướng Trịnh Đơn Hùng Tín đuổi theo vào Ngũ Hổ Cốc, mau mau chạy cứu ngay! 

 Uất Trì Cung nghe nói, chẳng kịp mặc áo, đang từ dưới nước, mình trần trùng trục, nhảy lên ngựa không yên, cầm roi phi thẳng một mạch. Gặp đúng lúc Hùng Tín đang sục bốn phía mà chẳng thấy tung tích, nhận ra bên khe, vết chân còn in rõ trên bùn, nước khe vẫn còn đục, lại nghe tiếng ngựa ngọc tông hý vang, liền vẫn ngồi trên lưng ngựa, nhảy ngay qua khe để tìm, cũng vẫn chẳng thấy, nhận ra con ngọc tông vẫn buộc dưới gốc cây. Hùng Tín liền xuống ngựa, trèo lên đỉnh núi, lại tòa nhà đá xem xét, bỗng nhận ra một con hổ lớn, vằn loang lổ dữ tợn, ngồi ngay trước cửa, thấy mặt Hùng Tín, liền gầm một tiếng dài, làm cả khe núi vang động ầm ầm. Hùng Tín thất kinh, thầm nghĩ: “Thằng oắt con này chắc đã bị con hổ này xé xác rồi, có khi rơi xuống khe này chết quách cũng nên. Ta thử đi xuống phía dưới tìm xem!". Rồi nhảy lên ngựa của mình, lại dắt theo ngựa của Tần Vương, ra phía cửa khe. Bên sườn núi, một viên tướng, mặt như sắt luyện, tiếng nghe như sấm dậy: 

 - Không được hại chủ ta? Uất Trì Kính Đức đây! 

 Rồi cũng nhảy qua khe, Hùng Tín vội thả ngay ngựa Tần Vương, giơ thương để đâm, Uất Trì Cung nghiêng mình tránh được, giơ roi quật xuống, trúng ngay cánh tay Hùng Tín. Uất Trì Cung để ngang roi sắt của mình trên ngựa, rồi sấn lại ngay trước mặt, giằng lấy cây thương của Hùng Tín. Hùng Tín tuy khỏe, nhưng sao đương nổi sức thần của Uất Trì Cung, giằng co một lát, thì bị Uất Trì Cung cướp mất thương. Hùng Tín đành phải lui lại phía sau, nhảy qua khe núi mà đi. 

 *** 

 Lại nói Tần Vương, nấp phía sau lưng nhà sư trong chùa đá, thấy nhà sư làm phép thần thông, lại thấy Hùng Tín đến ngay trước cửa, dòm ngó khắp nơi, nhưng không hiểu sao không dám tiến vào. 

 Bên tai chỉ nghe một tiếng thét kinh thiên động địa, nhà sư chắp hai tay tụng niệm: 

 - A di đà Phật! Họa tinh đã đi rồi, cứu binh đã tới. Quân vương ra động được rồi! 

 Tần Vương đứng dậy cảm tạ: 

 - Ơn thánh tăng pháp lực thần thông, cứu được ta, ta về Thái Nguyên, xin sai quan nha tới đón về cung dưỡng. Nhưng không rõ pháp hiệu thánh tăng là gì? 

 Nhà sư thưa: 

 - Bần tăng là Đường Tam Tạng, chẳng dám nói gì chuyện cung dưỡng, đã có thần linh trông coi cho rồi, chỉ xin quân vương làm một vị hoàng đế sáng suốt, đem lại thái bình là đủ rồi. Bần tăng có một bài kệ bốn câu, xin quân vương nhớ kỹ cho. 

 Nói rồi đọc: 

 Kiến nghiệp giữ lấy đức 

 Giúp đời tròn chữ hiếu 

 Hai hiếu e khó toàn 

 Gốc nguồn nên giữ trước. 

 Đọc xong, nhà sư lại ngứ nhắm mắt, nhập định như cũ. Tần Vương theo đường cũ xuống núi, men theo khe, tìm ra con ngọc tông, nhảy lên yên, thì thấy Uất Trì Cung phi ngựa tới, thưa lớn: 

 - May rồi! Điện hạ không bị hoảng hồn chứ? 

 Tần Vương đáp: 

 - Không đâu! Còn thằng giặc Hùng Tín đâu? 

 Uất Trì Cung thua: 

 - Bị thần giằng mất thương, chạy ra cửa khe mất rồi. Nơi này không nên đứng lâu, điện hạ mau cùng thần ra ngay thôi! 

 Hai người cưỡi ngựa vượt qua khe, đến thẳng cửa Ngũ Hổ Cốc, gặp tướng Trịnh Phàn Hựu, Trần Tri Lược. Uất Trì Cung chẳng nói một lời mỗi tướng mỗi roi, làm cả hai bị thương, ngã ngựa, Uất Trì Cung mở một đường máu, ra khỏi vòng vây. Thì thấy Thúc Bảo, Mậu Công dẫn các tướng giao chiến với hậu đội của Thế Sung. Kính Đức nói với Lý Tĩnh: 

 - Ngài hộ vệ điện hạ về trại, để ta giết sạch bọn giặc này! 

 Rồi xông thẳng vào đám quân Trịnh, đâm chém một hồi. Tướng Trịnh tuy nhiều, nhưng chẳng ai đương nổi Uất Trì Cung, Thúc Bảo, một ngọn roi, hai thanh giản, giết không biết bao nhiêu tướng quân của nhà Trịnh. Uất Trì Cung đang tung hoành giữa trận, bỗng thấy một người đội mũ xung thiên, đeo đai ngọc, mặc mãng bào, ngồi trên mình ngựa, ở trên cao quan sát, liền bỏ ngay đối thủ, giơ cao roi xông tới. Vương Thế Sung hoảng hốt, vội quay ngựa chạy. Uất Trì Cung cùng các tướng, đuổi theo mãi tới chân Tần Thành mới quay về. Mậu Công sai đánh chiêng trống thu quân, vào trại Tần Vương chúc mừng. 

 Tần Vương cười: 

 - Nếu không có sức thần của Uất Trì Cung, thì đã bị bọn giặc gây hại rồi! 

 Rồi sau lấy một tráp vàng, thưởng cho Uất Trì Cung. Từ đó Tần Vương lại càng yêu thương Uất Trì Cung. Thế Sung thấy tướng sĩ nhà Đường lợi hại, cũng không dám ra thành nghênh chiến nữa. 

 Giằng co mấy ngày, chính lúc Tần Vương cùng các tướng bàn kế phá địch, thì thấy tin báo từ các nơi về như hoa tuyết bay. Tần Vương cùng Mậu Công xem qua, biết Vinh Châu, Biện Châu, Thư Châu, Hoa Châu, đều đã thuộc nhà Đường. Lại còn tổng quản Dương Khánh ở Hiển Châu, cũng đem cả hai mươi lăm phủ huyện về hàng. Úy Châu thứ sử Thời Đức Duệ, cũng đem bảy châu: Kỷ, Hạ, Tùy, Trần, Hứa, Dĩnh, Ngụy ra hàng. Vương Bộ cùng Trình Giảo Kim, cũng có văn thư về báo Doãn Châu, Lê Dương, Thương Thành, đều đã hàng nhà Đường. Chỉ còn Thiên Kim Bảo cùng Hổ Lao, nghe La Sĩ Tín cùng Tầm Tương báo về là vẫn chưa hạ được. Lại còn cả việc đại tướng Khuất Đột Thông, đi tuần thú trên đường, bắt được hai kỵ binh, khai là tướng nhà Trịnh, lẻn đi Lạc Thọ, xin Uất Trì Cung đem binh cứu viện. Mậu Công nói: 

 - Đất đai nhà Trịnh, nhờ phúc lớn của thiên tử, ba phần đã thu được hai. Chỉ còn Hổ Lao với Thiên Kim Bảo, cùng các huyện yết hầu nữa thôi. Hai vùng này nếu không chiếm được, thì các nơi khác dẫu có chiếm cũng chẳng giữ được. Xin để thần đi một phen. 

 Liền từ giã Tần Vương, đêm ngày dẫn theo một nghìn lính bản bộ, nhằm Hổ Lao quan mà tiến. 

 Chính là: 

 Kinh bang tế thế kiêm văn võ 

 Cười nói trong quân đủ lược thao. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Tám

Đậu Kiến Đức bị bắt ở cửa hang,

 Từ Mậu Công đính hôn trong lều cỏ.

 Từ rằng: 

 1 Hai cọp mài nanh đấu rất hăng, 

 Mắt long sòng sọc, mặt bừng bừng 

 Thế rồi nước mất, thây quăng rãnh 

 Ngàn thu nửa tiếng có nghe chăng? 

 2. Say sưa thiếp mới gặp chàng, 

 Xướng tùy hẹn ngọc thề vàng một hai. 

 Chiếu vua chỉ thắm bền dai 

 Tướng quân khuê các khâm sai đâu quyền? 

 Theo điệu "Nguyễn Lang quy" 

 Thời Xuân Thu, có chuyện Biện Trang một lúc đâm được hai con hổ, Biện làm thế nào mà giết được cả hai. Thì ra là hai hổ đang đánh nhau, con nhỏ chết, con lớn bị thương, con chết thì cần gì phải phí sức nữa, chỉ còn phải đâm một nhát vào con bị thương. Mà nó đã bị thương thì cũng cần gì phải nhiều sức cho cam, đúng mới là "nhất cử lưỡng đắc" vậy? 

 *** 

 Nói chuyện Vương Thế Sung, đem tất cả các nơi hiểm yếu phó thác cho anh em, con cháu trong nhà, để đến nỗi Tần Vương đụng vào thì đông phá tây vong. Thế Sung ngồi ở Lạc Dương, chẳng biết cậy ai, chỉ đành đem vàng ngọc, châu báu, sai Trưởng Tôn Thế An đi cầu viện Hạ Vương Đậu Kiến Đức, khiến cho Tần Vương bỗng được rơi vào cảnh "dĩ dật đãi lao, phản khách tác chủ”. 

 Từ Mậu Công sợ Vương Bộ cùng La Sĩ Tín không làm được việc, nên lãnh quân bản bộ đến ngay Thiên Kim Bảo, nào ngờ Sĩ Tín đã dùng kế phá xong thành. Vào được thành, quân dân, bất kể già trẻ, đều giết sạch không còn một ai. Mậu Công vì thế xót xa mãi không thôi. Vương Bộ cũng đã tới được Hổ Lao, đem một nghìn tinh binh, giả làm quân nhà Trịnh, đang đêm lừa cho mở thành, rồi trói ngay được Vương Hằng Bản đang còn ngủ, chiếm được thành. 

 Mậu Công vui mừng, nói với Vương Bộ: 

 - Đất này tuy đã yên, nhưng Thế Sung đã sai Đại Vương Uyển, Trưởng Tôn Thế An đi cứu viện Kiến Đức, chẳng biết Kiến Đức bằng lòng phát binh nhiều ít. Ta hãy đem công lao của hai hiền huynh, báo cho Tần Vương biết, xem Tần Vương định liệu ra sao. 

 Trưởng Tôn Thế An vâng mệnh Thế Sung, mang theo rất nhiều của báu, tìm đến Lạc Thọ, trước tiên đem ngay biếu các tướng. Tướng nào cũng nhận quà, duy chỉ Tế tửu Lăng Kính là không chịu nhận, đại tướng Tào Đán cũng sai người đem trả lại lễ vật. Ngày hôm sau, Thế An vào gặp Hạ Vương sớm, đưa trình văn thư cùng lễ vật, Hạ Vương phán: 

 - Lân bang xin cứu viện, lẽ nên vâng mệnh, nhưng chỉ ngại lâu nay cô với nhà Đường vẫn đi lại tốt đẹp, chẳng có cớ gì để khởi binh? Phương chi, cô lại vừa phá Mạnh Hải Công thắng trận trở về chưa được bao lâu, cũng thật chưa nên làm khó nhọc quân sĩ, xáo động dân tình! 

 Thế An thưa: 

 - Trịnh với Hạ thật là như môi với răng. Môi hở răng lạnh, là lẽ tất nhiên. Nay Hạ không cứu Trịnh, Trịnh tất diệt. Trịnh mà mất thì sợ rằng Hạ cũng mất theo. 

 Hạ Vương phán: 

 - Túc hạ hãy lui, để cô cùng trăm quan bàn kỹ xem sao. 

 Thế An tạm ra khỏi triều. Hạ Vương cùng công khanh bàn bạc. Các tướng đều đã được vàng bạc của Thế Sung, liền tìm lời phỉnh nịnh: 

 - Nhà Tùy mất nước, thiên hạ nát tan. Quan Trung thuộc về nhà Đường, Hà Nam về nhà Trịnh, Hà Bắc thuộc nhà Hạ, chân vạc thế là thành rồi. Nay Đường phạt Trịnh, đất nhà Trịnh đã bị quân nhà Đường chiếm đến hai ba phần mười rồi, nay lực Trịnh không đủ, tất bị Đường diệt. Trịnh đã mất đi, Đường chỉ còn đối địch với Hạ, Hạ cũng khó mà một mình địch nổi Đường. Chi bằng nay nên phát binh cứu Trịnh, nội ngoại giáp công, thì có thể thắng. Nếu thắng Đường, uy danh thuộc về Hạ, thừa thế mà lo chuyện lấy cả Trịnh nữa, hợp cả hai đạo quân, thừa sức để đánh được quân Đường đã mệt mỏi, Quan Trung lấy được, thì việc bình thiên hạ có thể xong! 

 Chỉ có mấy câu, khiến cho Kiến Đức cũng vỗ tay mà khoái ý: 

 - Chư khanh nghị luận thật là tuyệt diệu, nhưng chỉ sợ cô lực không thể làm nổi vậy! 

 Lăng Kính thưa: 

 - Lời của chư tướng, sợ có chỗ không xong. Nay quân nhà Đường vây kín Đông Đô, còn đại tướng thì đóng ngay ở Hổ Lao quan, phát bao nhiêu binh để đối phó cho vừa. Chi bằng nên kéo đại binh qua sông, lấy đất Hoài Châu, Hà Dương, đem nhiều binh tướng mà giữ lấy. Sau đó gióng trống khua chiêng, vượt qua Thái Hằng vào Thượng Đẳng, truyền hịch cho các châu quận, tiến vào Hổ Khẩu, làm kinh động Bộ Tân, thì lấy được đất Hà Đông dễ như nhặt hạt cải, đó chính là thượng sách. Làm như thế có ba điều lợi: Quân nhà Đường đều đương ở Lạc Dương, trong nước trống không, nên có đem binh đánh thì tha hồ mà yên ổn, điều lợi thứ nhất. Cướp đất được, giành dân được mà mất ít tâm lực, điều lợi thứ hai. Tần Vương biết quân ta vào xâm chiếm đất nhà Đường tất phải dẫn quân về cứu, Trịnh được giải vây, điều lợi thứ ba. Mất cơ hội này, nghi hoặc không quyết, thì đúng như câu ngạn ngữ: "Trời cho mà không lấy, ngược lại phải chịu tội. Xin chúa công xem xét minh bạch. 

 Các tướng thưa: 

 - Tự xưa tới nay, cứu binh như cứu hỏa, nếu cứ như lời Tế tửu Lăng Kính, mà đi vòng vèo như thế, ngày dài đợi lâu, chuyện nước Trịnh là chuyện cấp thiết, lúc nào mới được giải cứu? Vạn nhất bị quân nhà Đường đánh bại, Vương Thế Sung bị giải về Trường An, thì thật là "thần vong xỉ hàn". Lúc ấy ai cũng chê chúa công là thất tín với thiên hạ vậy. 

 Kiến Đức cũng không nói gì, bỏ vào hậu cung. Tào Hậu từ sau bình phong ra đón, hỏi: 

 - Vừa rồi trong triều bàn bạc ra sao? 

 Kiến Đức đem mọi chuyện kể một lượt. Tào Hậu nói: 

 - Trăm quan bàn đều không phải. Chỉ có kế của Lăng Tế tửu là hay hơn cả, bệ hạ nên nghe theo. 

 Kiến Đức phán: 

 - Đó là những lời vu khoát! 

 Tào Hậu cãi: 

 - Từ Lạc Khẩu lặng lẽ kéo binh dần mà lên, lấy mạn Bắc, nhân đó chiêu dụ được Đột Quyết, tập kích vào Quan Trung, quân Đường tất phải quay về, quân Trịnh không phải cứu mà vẫn được giải vây, đâu phải là chuyện vu khoát? 

 Kiến Đức vẫn đáp: 

 - Cô đã có chủ ý, quốc mẫu không phải lo lắng. 

 Sáng ra chầu sớm, Trường Tôn Thế An lại vào kêu xin. Hạ Vương liền sai Tào Đán làm tiên phong, Lưu Hắc Thát làm Hành quân tổng quản, Hạ Vương cùng với Tôn An Tổ làm hậu đội dẫn mười lăm vạn binh mã, theo Hổ Lao quan mà tiến. Công chúa Dũng An, từ đêm thấy được thư La Thành, quá thương cảm đến nỗi sinh ốm, thì cùng với Tào Hậu, Lăng Kính, ở lại trông coi quốc gia. 

 Sớm hôm sau dã có tin báo cho Tần Vương, các tướng sợ chuyện trước ngực, sau lưng đều có giặc, lấy làm lo lắng, chỉ riêng Tần Vương thì mừng. Lý Tĩnh cười: 

 - Không ngờ lần này bệ hạ xuất sư, một mũi tên mà bắn được hai chim cắt. 

 Ký thất Quách Hiếu Khắc thưa: 

 - Lạc Dương bị phá tan, chỉ ngay trước mắt. Kiến Đức không lường được, từ xa đến cứu, đó thật là trời xui cho bệ hạ diệt dược cả hai nước. Cơ hội này thực không nên dễ mất. 

 Tiết Thu nói: 

 - Thế Sung đang lúc nguy cấp, tướng sĩ lại đều ở vùng Giang Hoài, tuy quen chiến trận, nhưng lương thực lại không đủ, nên cố mà giữ thành, bó tay chờ chết. Nếu Kiến Đức tái hợp lực, lại đem theo cả lương thực chi viện cho Thế Sung, thì thế giặc quả có mạnh hơn. Không nên coi thường! 

 Lý Tĩnh bàn: 

 - Nay tốt hơn cả là nên chia binh ra vây chặt Lạc Dương. Điện hạ lĩnh quân tinh nhuệ, chiếm ngay lấy Thành Cao, nuôi giữ lấy nhuệ khí, "dĩ dật đãi lao", xuất kỳ kế một lần mà có thể bắt được Kiến Đức. Kiến Đức đã bị phá rồi, uy danh của nhà Đường càng lừng lẫy. Thế Sung nghe ra, thì chằng cần phải đánh cũng phải tự trói mình mà xin hàng dưới trướng điện hạ. 

 Tần Vương cả mừng mà rằng: 

 - Lời khanh nói thật là vừa lòng ta, nhưng đất vùng này từng từng, lớp lớp, nhờ khanh hãy trù tính cẩn thận cho một phen. 

 Lý Tĩnh thưa: 

 - Không phải cần đến điện hạ lo nghĩ. Cái kết cục của Kiến Đức đều đã được định đoạt bởi uy lực của chúa thượng, còn Thế Sung thì sẽ không khỏi bị bắt vậy! 

 Tần Vương yên lòng, đem theo Thúc Bảo cùng Uất Trì Kính Đức, còn các tướng khác đều đóng ở Lạc Dương. Tần Vương dẫn theo năm nghìn quân Huyền Giáp binh, kéo thẳng tới Hổ Lao, cùng với Mậu Công, các tướng gặp gỡ. Mậu Công thưa: 

 - Thần biết thế nào điện hạ cũng tới, nên cùng hai tướng đến đây quân giặc sẽ phá trong sớm tối. 

 Tần Vương đáp: 

 - Nghe nói Hạ Vương kéo mười vạn quân đến, không hiểu thật hư ra sao? 

 Mậu Công thưa: 

 - Chẳng cần phải biết chúng binh tướng bao nhiêu. Thần đêm nay chỉ cần khoảng ba nghìn người sẽ làm cho chúng khiếp đảm kinh hồn. 

 Liền ghé tai Tần Vương, nói nhỏ mấy câu, Tần Vương vỗ tay khen: 

 - Hay lắm! 

 Mậu Công rút một cây lệnh tiễn, giao cho La Sĩ Tín và dặn: 

 - Tướng quân hãy cùng phó tướng Cao Táng Sinh lĩnh một ngàn quân, lên đường ngay, lẻn vào phía nam núi Thước Sơn mai phục. Đây là một cái thiếp, tướng quân hãy cầm lấy, cứ theo như trong thiếp mà làm. 

 Lại cũng đưa một lệnh tiễn, một cái thiếp cho Thúc Bảo cùng phó tướng Lương Kiến Phương và dặn: 

 - Phiền nhị vị tướng quân dẫn một ngàn quân, đến một núi đất, phía đông bắc sông Dĩ Thủy mai phục, hãy nhanh chóng xếp đặt, cứ theo cách ghi trong thiếp mà làm, rồi về dâng công! 

 Thúc Bảo, Kiến Phương lập tức dẫn quân đi. Mậu Công lại lấy một lệnh tiễn một lá thiếp nữa, nói với Uất Trì Cung cùng phó tướng Bạch Sĩ Nhượng: 

 - Nhị vị tướng quân hãy kéo quân tới góc phía tây Hổ Lao, cũng theo trong thiếp dặn mà làm. Nếu đánh đến Thước Sơn mà gặp Sĩ Tín; không bàn thắng bại, cứ lập tức quay ra. 

 Uất Trì Cung, Sĩ Nhượng lĩnh mệnh mà đi. 

 Sĩ Tín cùng Táng Sinh về trại, mở thiếp ra xem thấy ghi rõ mỗi binh sĩ phải có sẵn một cây đèn, cổ ngựa phải buộc thật nhiều lục lạc đồng, hễ thấy trong quân nổ hai phát pháo lệnh, thì phải đem hỏa thương quay về bản trận. 

 Thúc Bảo cùng với Kiến Phương về trại, cũng mở thiếp ra xem, thì thấy viết: mỗi binh sĩ phải có một quả hỏa cầu, một cái thanh la nhỏ, hễ nghe ba phát pháo lớn nổ, lập tức xông ra, cùng với hỏa thương, đèn sáng, cứ thế mà chém giết. 

 Mậu Công sai quân sĩ, ngay ở Nam Sơn làm một giàn trúc cao, lệnh Vũ Văn Sĩ Cập cùng với hai nghìn quân Huyền giáp coi giữ. 

 *** 

 Lại nói tướng tiên phong của Hạ Vương là Tào Đán đến Hổ Lao, đóng trại cách đó khoảng hai mươi dặm, mỗi ngày đều tới trại quân Đường khiêu chiến, nhưng chẳng thấy ai ra, thì nghĩ rằng nhà Đường biết Hạ Vương kéo đại quân tới, nên không dám ra. Cũng có ý phòng chuyện cướp trại, nhưng thật ra quân sĩ đều vừa lười nhác vừa coi thường quân Đường. Đêm hôm ấy, cởi giáp trụ ngủ yên, bỗng nghe một tiếng pháo lớn, tiếng hò hét rấm trời, Tào Đán vội chạy lên ngựa ra khỏi trại, đã thấy vô số hỏa thương, dẫn đầu là một tướng vừa cao vừa đen. Tào Đán xông lại giơ thương đâm, viên tướng nhà Đường giơ cao roi, quất ngay vào giữa ngực: Tào Đán vội nghiêng mình tránh, lại bị hỏa thương bắn vào ngay giữa mặt, cháy trụi cả tóc râu. vội lủi chạy vào trong đám quân lính. 

 Kiến Đức dẫn một nghìn lính, đông xung tây đột, chẳng ai dám ngăn cản, đánh thẳng đến Thước Sơn, thì nghe tiếng pháo lớn thứ hai, Sĩ Tín ngồi trên mình ngựa, khắp nơi là đèn đỏ lấp lánh, lục lạc vang tai, chẳng khác gì thiên binh vạn mã kéo tới. Thấy vậy tướng nhà Hạ là Cao Nhã Hiền, dẫn người ngựa ra tiếp ứng, nhưng không đỡ nổi cây thương của Sĩ Tín, khác nào như rồng ra khỏi huyệt, gặp đâu giết đấy, cứ như xông vào chốn không người. Nhã Hiền bèn nói với Hắc Thát: 

 - Đại huynh nhìn trên núi Nam Sơn, có đèn hồng, nhất định là ám hiệu của quân Đường, tiểu đệ cùng đại huynh hãy bắn rơi đèn này, thì binh mã của chúng tất sẽ tán loạn cả. 

 Nói xong, cả hai liền ruổi ngựa lên trước. Hắc Thát giương cung, bắn một phát tên đi, đèn đỏ rơi xuống, lại thấy một đèn khác kéo lên, Nhã Hiền đang định bắn một phát nữa thì nghe một tiếng pháo lớn thứ ba, rồi vô số hỏa cầu từ trên không ném xuống, một viên đại tướng xông ra, miệng thét lớn: 

 - Tần Thúc Bảo đây! Lũ giặc chúng mày hãy xem đôi giản của ta! 

 Nhã Hiền vội đón đánh, bị Thúc Bảo đánh gãy thương, ngã xuống ngựa, Kiến Phương đang định xông tới đâm chết, may được Hắc Thát cứu thoát, bèn rút chạy. Thúc Bảo cùng Uất Trì Cung, Sĩ Tín hợp cả ba cánh quân chẳng khác gì có tới hàng vạn người , tả xung hữu đột, hoa rơi nước chảy. Đang giữa lúc hăng hái, quân Đường đã nghe tiếng chiêng thu quân, cả bọn quay ngựa về trại. 

 Tần Vương cùng Mậu Công bày tiệc rượu ăn mừng, chờ sẵn Thúc Bảo, Uất Trì Cung cùng các tướng về trại kiểm điểm người ngựa, ba nghìn cả thảy mà không hề tổn thương lấy một. Tần Vương đem dê, rượu, cùng ngân bài thưởng cho tướng sĩ. Mậu Công nói: 

 - Lần ra tay đêm nay, chẳng qua là để bắn tin cho chúng biết, quân tướng nhà Đại Đường lợi hại ra sao. Rồi chỉ cần một trận ngày mai, các tướng cùng quân sĩ cố gắng thêm chút nữa, thành bại mới quyết được. 

 Tần Vương còn lo cả ở Lạc Dương, nên cũng muốn thư hùng một trận quyết chiến. 

 *** 

 Lại nói Kiến Đức, nhân trận đêm qua, người ngựa bị quân Đường quấy đảo một phen, nên canh tư hôm đó, truyền lệnh cho quân sĩ ăn uống, đem quân Hắc Thát làm tiền đội, Tào Đán làm trung doanh, từ Bản Chữ đến Ngưu Khẩn Cốc chia binh đóng giữ, phía Bắc thì đến tận sông, phía Nam kéo tới Thước Sơn, dài đến hơn hai mươi dặm. Kiến Đức vẫn thấy binh lính lội qua Dĩ Thủy. Quân Tần Vương thấy binh tướng Hạ Vương oai hùng, trong lòng cũng có khiếp sợ. Nhưng Tần Vương thì không nao núng, cùng với Mậu Công, trèo lên một gò cao, dừng ngựa trông xuống. Mậu Công thưa: 

 - Bọn giặc này từ Sơn Đông kéo quân xuống, chẳng qua mới chạm trán với lũ giặc cướp vài trận mà chưa từng gặp đối phương ra trò, nay kết thành trận lớn, nhưng đội ngũ không chỉnh, kỷ luật không nghiêm, thành ra cũng dễ phá. 

 Lại thấy cả Đại Vương Uyển, cũng đem theo người ngựa tùy tòng, đứng ở sau trận giám chiến. Uyển đội mũ kim quan, cẩm bào khoác người, bên ngoài áo giáp vàng, cưỡi ngựa thanh tông, vốn là của nước Đại Uyển xưa dâng cho Tùy Dượng Đế, phía sau là cờ bay phơ phất. Tần Vương khen: 

 - Viên tiểu tướng này cưỡi con ngựa đẹp quá? 

 Uất Trì Cung đứng lên bèn nói: 

 - Điện hạ nói là ngựa đẹp hay sao. Hãy đợi tiểu tướng lấy về. 

 Tần Vương vội can: 

 - Không nên! Không nên? 

 Uất Trì Cung đáp: 

 - Không hề gì đâu! 

 Uất Trì Cung hai chân thúc ngựa, phi thẳng đến trận quân Hạ, hai tướng đứng bên là Táng Sinh cùng Nghĩa Phương, sợ Uất Trì Cung có sơ hở gì chăng, cũng ruổi ngựa đuổi theo. Uyển đang cầm dây cương, quan sát trận chiến, bỗng nghe như tiếng sét bên tai: 

 - Chạy đi đâu? 

 Rồi chẳng khác gì con gà nhép, bị Uất Trì Cung túm lấy ngựa, không chạy nổi. Uất Trì Cung giằng ngay dây cương, Táng Sinh cũng vừa tới kịp, kéo lấy ngựa cùng về bản trận. Trong trận quân Hạ, thấy tướng nhà Đường, ngay phía hậu quân, cướp cả người ngựa của Uyển đi đều gào thét kinh hoàng, chẳng còn lòng nào muốn đánh nhau, hoảng hốt rút chạy. Mậu Công liền lớn tiếng: 

 - Lúc này không thừa thế xông lên giết giặc, còn đợi lúc nào nữa! 

 Rồi tự mình cầm dùi đánh trống lớn, các tướng Bạch Sĩ Nhượng, Dương Vũ Uy, Vương Bộ, Đào Vũ Khâm, cùng tất cả binh lính tinh nhuệ nhất tề xông lên. Tần Vương dẫn lính khinh kỵ, cùng Uất Trì Cung, Thúc Bảo, Sĩ Tín, lội qua Dĩ Thủy, đánh vào hậu quân nhà Hạ, giương cao cờ Đại Đường, trước sau cùng giáp công. Quân sĩ nhà Hạ hoảng sợ, đành vừa đỡ vừa lui. Quân nhà Đường đuổi đến hơn mươi dặm, chém đến hơn một vạn thủ cấp, Kiến Đức chạy dài, vội vứt áo mũ vương vị, cải trang làm một viên tướng, vừa đỡ che vừa rút, không còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện đánh chác, thì gặp ngay vợ chồng Sài Tự Xương, dẫn một đội "Nữ tử quân", dũng mãnh khôn đương. Kiến Đức đang chống đỡ, bị ngay một thương, vội tìm người cứu nhưng quân sĩ trong lúc hỗn loạn, mạnh ai nấy chạy, ai cũng còn lo chống đỡ cho mình không xong, nên riêng mình Kiến Đức chống trả chẳng nổi, lại thêm một vết thương nữa, may mà chưa nguy đến tính mạng. 

 Bỗng thấy cửa hang Ngưu Khẩu, vi lau rậm rạp, có thể lẩn trốn, liền kéo ngựa lại tìm một cái hang, bọn "Nữ tử quân" cũng không kịp nhận ra, cứ thế xông lên phía trước. Không ngờ áo giáp vàng trên lưng Kiến Đức, chiếu ánh sáng loáng, làm quân nhà Đường trông thấy, biết ngay có tướng nhà Hạ trốn ở trong. Bạch Sĩ Nhượng, Dương Vũ Uy cưỡi ngựa xông vào, cầm giáo dài cứ đám lau lách mà gạt tìm kiếm, Kiến Đức nằm bên trong dẫu có muốn chống cự thì người đầy thương tích, cũng chẳng chống nổi, nếu cứ nằm yên, lại sợ giáo đâm trúng, nên đành lớn tiếng: 

 - Ta là Hạ Vương đây! Tướng quân mà cứu được ta, đất Hà Bắc cùng chia, phú quý cùng hưởng. 

 Dương Vũ Uy đáp: 

 - Cần ra ngay đã. Ta sẽ cứu người! 

 Kiến Đức kéo ngựa bước ra, tết cả xúm lại trói nghiến, rồi dặt lên mình ngựa, vừa kịp một toán quân nữa kéo đến, áp giải về đại trại. Lại thấy Uất Trì Cung xách về thủ cấp Hắc Thát, Vương Bộ thì xách thủ cấp Phạm Nguyện, Sĩ Tín bắt sống được tướng Trịnh Trường Tôn Thế An, đều đến dâng công. 

 Đáng thương thay nhà Hạ, mấy chục vạn hùng binh, một trận sống mái sớm tiêu vong, chỉ chạy thoát mỗi Tôn An Tổ, đem khoảng hai ba chục kỵ binh chạy về Lạc Thọ. 

 Tần Vương ở đại trại, thấy tùy tướng vào thưa, đã bắt được Hạ Vương về. Các tướng không tin, Tần Vương cũng còn ngờ vực, thì thấy Dương Vũ Uy cùng Bạch Sĩ Nhượng áp giải Kiến Đức vào trung quân. Ai nấy nhìn kỹ, quả đúng Hạ Vương Đậu Kiến Đức. Hạ Vương không chịu quỳ, Tần Vương cười phán: 

 - Ta chinh phạt Vương Thế Sung, can gì đến ngươi vượt đường xa tới đây để mắc phải tinh binh của Đại Đường? 

 Kiến Đức chẳng nói gì, chỉ lẩm nhẩm vài tiếng như tỉnh, như mê : 

 - Nay chẳng tự đến, lại phải đi xa đem về! 

 Tần Vương lại cười, hỏi hai tướng Vũ, Bạch: 

 - Làm sao mà các ngươi lại bắt được Hạ Vương? 

 Sĩ Nhượng thưa: 

 - Gặp chỗ Sài Quận mã thống lãnh đội "Nữ tử quân” đuổi đánh quân Hạ tới Ngưu Khẩu cố, Sài Quận mã ruổi lên phía trước, Hạ Vương chạy trốn trong đám lau sậy, bị chúng tiểu tướng bắt được. Đúng như lời dân chúng vẫn nói: "Đậu vào mồm bò" (l). Thế quả là không thoát khỏi lời đồng dao. 

 1 "Đậu” trong họ Đậu Kiến Đức, trùng với "Đậu" là cây đậu. Ngưu Khẩu cốc: cửa Mồm Bò. "Trâu bò được ngày phá đỗ..." 

 Tần Vương cả cười, rồi sai giam sau trại. 

 Rủ áo ung dung đất Bác Hà 

 Không dưng thù oán nổi can qua 

 Khoe sức cậy tài, không người cứu 

 Chịu kiếp cầm tù thật xót xa. 

 Binh tướng Kiến Đứcị bắt, có tới hơn năm vạn, Tần Vương phán: 

 - Giết thì cũng đáng tiếc, chi bằng thả, mặc cho chúng quay về quê quán. 

 Các tướng sợ tha về lại sẽ quay ra chống trả, Mậu Công đáp: 

 - Đậu Kiến Đức cũng là bậc anh hùng nơi thảo trạch, có đến hai mươi vạn binh trong tay, mà tan nát đến thế, thì còn kẻ nào dám thu thập tàn binh để đánh lại chúng ta. Thả ra chính là truyền được ân uy của điện hạ vậy! Vùng Sơn Đông, Hà Bắc chẳng cần đánh mà cũng sẽ ra hàng cả thôi! 

 Các tướng đều thấy đúng. Tần Vương bèn bàn tới việc khác: 

 - Sài Quận mã dẫn binh tới đây, sao không thấy lại gặp gỡ, hay lại gặp dư đảng của Hạ Vương lừa đi đâu rồi? 

 Liền sai người đi hỏi các tướng sĩ ở tiền quân, có người nói đã kéo đi Lạc Dương. Tần Vương không hỏi nữa, mà chỉ nói với Mậu Công: 

 - Ta ở lại đây, chỉnh đốn người ngựa. Khanh trước khi đi Lạc Dương, hãy về Lạc Thọ, thu thập sổ sách của nhà Hạ, phủ dụ các quận huyện, rồi mau chóng tới Lạc Dương hội quân. 

 Mậu Công lĩnh mệnh, ngày hôm sau, đem quân bản bộ lên đường. Chưa đến một ngày, đã tới Lạc Thọ, Mậu Công giao một cây lệnh tiễn cho Vương Bộ, sai đi hiểu dụ quân sĩ, không được sát hại một người, không được sách nhiễu bách tính, vi phạm lập tức chém đầu. 

 Dân chúng trong thành Lạc Thọ, nghe tin dữ của Hạ Vương, chỉ lo quân nhà Đường đến sẽ tàn hại dân chúng, không ngờ quân sĩ Mậu Công phép tắc nghiêm minh, phủ dụ trăm họ, di đứng đàng hoàng, nên từ già tới trẻ, đều hân hoan vui mừng, ra đường chào đón Mậu Công vào thành, mở cửa kho tàng, tra xét minh bạch. Lại mời mấy vị kỳ lão, khai đủ tên họ rồi giao lương thực, quần áo, để họ cấp cho dân chúng túng đói. Năm sáu vị kỳ lão, cúi lạy sát đất, khóc mà thưa: 

 - Hạ Vương trị nước vốn thương dân, tiết kiệm tiêu dùng, giữ gìn con đỏ, ai cũng mang ơn trạch. Nay chẳng may mất nước, chúng tôi cùng trăm họ, như mất cha mẹ, được tướng quân đến phủ dụ bách tính, tơ hào không phạm, may mắn chẳng ngờ. Nay xin gửi lại số lương thực này, để nuôi quân sĩ. Dân Lạc Thọ dẫu chưa được hưởng những thứ này, cũng đủ cám ơn đức của tướng quân. 

 Mậu Công gật đầu khen phải, rồi cứ thế niêm phong kho tàng cẩn thận. Vào trong cung của Kiến Đức, thấy ngay trước triều đường, một viên quan mặc hồng bào, thắt cổ chết ở thượng lương phía tây, sắc mặt vẫn như còn sống. Trên tường lại còn viết một bài tuyệt cú rằng: 

 Phơi gan trải mật mấy thu tròn 

 Công nghiệp thôi rồi bỗng vỡ tan 

 Xuống trước suối vàng đền nghĩa bạn 

 Non xanh đâu biết khóc cô hồn. 

 Tế tửu nhà Hạ, Lăng Kính đề 

 Mậu Công dọc xong, than tiếc không nguôi, gọi ngay quân sĩ, mang quan tài khâm liệm. Đi vào nội cung, các cửa đều mở toang, rèm màn lụa là vẫn y nguyên, ngoảnh về phía nam, một người phụ nữ đội mũ phượng, thắt cổ chết trên thượng lương, hai bên là bốn cung nữ, sắc mặt bình thường như sống, cũng thắt cổ chết từ lúc nào. 

 Mậu Công biết ngay là Tào Hậu, vội sai người hạ xuống, đem quan tài khâm liệm chu đáo. Tìm khắp hậu cung, thấy chỉ còn khoảng mười cung nữ. Mậu Công sực nhớ: "Nghe nói Đậu Kiến Đức có một con gái, dũng cảm khác thsao chẳng thấy đâu?" Hỏi tra bọn cung nữ, có kẻ đáp: 

 - Mấy hôm trước Tôn Tổ An về, nói rõ phụ hoàng bị bắt, ngay tối hôm ấy công chúa cùng Hoa Mộc Lan ra đi, chẳng biết về hướng nào! 

 Mậu Công nói với Vương Bộ: 

 - Đậu Kiến Đức bên ngoài có lương thần, nội cung có hiền phụ, cùng nhau trị nước, có thể coi là toàn thiện. Thế mà chỉ vì thiên mệnh chẳng nên, một sớm bị bắt, đúng là mệnh, là số, người chẳng làm gì nổi vậy? 

 Thuở trước ngọc tỷ truyền quốc, cùng những báu vật của nhà Tùy, Kiến Đức phá được Vũ Văn Hóa Cập, đều đem về Hạ. Mậu Công cũng nhất nhất cất giữ cẩn thận cùng với các loại giấy tờ, sổ sách. 

 Mậu Công biết rõ có Tả bộc xạ Tề Thiện Hằng, danh tiếng trong sạch, về chí sĩ tại nhà, đến mời Thiện Hằng ra trông coi Lạc Thọ. Thiện Hằng chối từ: 

 - Thiện Hằng này tuổi cao, nhiều bệnh, từ lâu đã tránh xa cõi tục xin tướng quân chọn bậc hiền tài, để Thiện Hằng này được mừng thấy cảnh yên vui. 

 Mậu Công đáp: 

 - Trước mắt nào thấy người hiền tài nào? Tướng công không nên chối từ. 

 Thiện Hằng nói: 

 - Có một người, xin tiến cử trước tướng quân, có thể làm tốt việc này! 

 Mậu Công hỏi: 

 - Xin tướng công chỉ giùm? 

 Thiện Hằng đáp: 

 - Người này tên họ không rõ. Ai nấy đều gọi là Tây Bối Sinh, nghe nói trước từng dưới trướng Ngụy Công, làm chức tham quân, nay ẩn cư ở Quyền Thạch thôn, xem bói qua ngày. Người này thực có tài, cúi mình mà mời, nhất định sẽ được lòng dân chúng. 

 Mậu Công bàn: 

 - Nay xin tướng công hãy cứ ra trông coi tạm cho, đợi ta đi mời Tây Bối Sinh về, tướng công sẽ về nghỉ, có được chăng? 

 Thiện Hằng bất đắc dĩ phải nhận lấy ấn tín, lo lắng mọi việc vậy. Mậu Công chỉnh đốn quân mã lên đường, hỏi thổ dân: 

 - Quyến Thạch thôn ở đâu? 

 Thổ dân thưa: 

 - Qua Lôi Hạ, đi bốn năm dặm nữa, thì gặp Quyền Thạch thôn! 

 Mậu Công liền lệnh cho Vương Bộ làm tiền đội đi trước. Mấy ngày sau, Vương Bộ báo đã lên Quyền Thạch thôn. Mậu Công tìm một ngôi chùa lớn đóng quân, rồi thay mũ áo, giả dạng thư sinh, cùng với hai tiểu đồng, đi vào thôn. Thôn này vốn có khoảng ba trăm bộ, cũng đã là một thị trấn. lớn, vào đến chợ, thấy một biển hàng cao chọc trời, trên đề rõ ràng. 

 Tây Bối Sinh 

 Tài trùm vương hầu 

 Bói kinh quỷ thần 

 Kẻ nghèo đặt quẻ 

 Không lấy một phân. 

 Mậu Công hỏi dân thôn: 

 - Tây Bối Sinh ở chỗ nào? 

 Người này giơ tay chỉ phía tây, đáp: 

 - Đi về phía này, khoảng ba bốn nhà nữa! 

 Mậu Công vào ngõ, tìm đến nhà thứ tư, thấy ngay trước cổng, có một đôi câu đối: 

 Đành thua Gia Cát tam phân nghiệp 

 Hãy học Văn Vương bát quái từ. 

 Mậu Công biết ngay nhà này, đẩy cửa vào thấy một tiểu đồng, bước ra mời: 

 - Mời quý khách ngồi, tiên sinh ra ngay! 

 Mậu Công chờ một lát, thấy một người đội khăn vuông, mặc áo rộng, vén mành bước ra. Mậu Công nhìn kỹ vỗ tay mà cười: 

 - Tiểu đệ tưởng ai, hóa ra Giả hiền huynh! 

 Giả Nhuận Phủ cười đáp: 

 - Tiểu đệ cũng đã biết trước, thế nào quân sư cũng tới đất này, nên bỏ việc bói toán, ngồi đây chờ! 

 Hai bên cùng lạy chào, Nhuận Phủ cầm tay Mậu Công, mời vào "Độc Dịch hiên" ngồi, Nhuận Phủ lên tiếng: 

 - Xin có lời mừng quân sư, công thành danh toại, mai kia bậc công huân của nhà Đại Đường, thì thứ nhất là phải nói đến quân sư. 

 Mậu Công đáp: 

 - Hiền huynh là bậc tri kỷ từ xưa, nói gì đến công huân, danh tiếng, chẳng qua cũng là trọn được cái chí mình mà thôi? 

 Uống trà xong, tiệc rượu dọn ra, Mậu Công không lời từ chối, cạn ngay mấy chén. Nhuận Phủ hỏi: 

 - Quân sư việc quân không rõ, cớ sao lại tới thôn vắng này làm gì? 

 Mậu Công đem chuyện bắt Kiến Đức, gặp Thiên Hằng, kể một lượt Nhuận Phủ cười nghiêng ngửa mà rằng: 

 - Tiểu đệ từ ngày Ngụy Công xảy biến, lòng đã như cành khô, tro nguội, dứt hẳn chuyện lợi danh, chỉ nghĩ đến chuyện nơi sông núi, sống cảnh ngư tiễu. Không ngờ gặp được kỳ nhân, truyền cho tiên thiên số học, thật thấy huyền diệu thâm sâu. Tiểu đệ nghĩ kỳ thuật này, có thể cứu người, lợi vật, chẳng còn lo gì đến kiếp sống thừa, thì vừa gặp quân sư tìm đến. 

 Mậu Công nói: 

 - Tài năng kinh bang tế thế như hiền huynh, tiểu đệ thật bội phục. Nhưng không hiểu cái học lý số huyền diệu này, hiền huynh được ai truyền cho, xin được nghe thật! 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Xin quân sư uống hết ba chén lớn, rồi tiểu đệ nói thì nhất định quân sư phải bái phục. 

 Mậu Công liền nâng uống ngay ba chén lớn. 

 Nhuận Phủ nói: 

 - Ban đầu, có một lão tướng nhà Tùy là Dương Nghĩa Thần, "hung trung thao lược", thấu hiểu thiên văn lý số, nhân Tùy triều hỗn loạn, không ra làm quan nữa, ẩn cư trong vùng hồ đầm Lôi Hạ. 

 Mậu Công ngắt lời: 

 - Đúng là Dương Nghĩa Thần, tiểu đệ trước đây cũng có được biết, lại được chỉ giáo ít nhiều. Thế là Nghĩa Thần lão tướng truyền thụ cho hiền huynh sao? 

 Nhuận phủ đáp: 

 - Không phải. Dương Thái bộc có một người cháu gái, họ Viên, tên gọi Tử Yên, nhà Tùy kén làm cung nữ. Cô gái này ngay từ nhỏ chẳng thiết nữ công, chỉ thích xem trăng ngắm sao, cùng là chuyện tính toán kinh vĩ độ số, cái gì cũng thông thạo, vì vậy Tùy Dượng Đế phong làm Quý nhân. Gặp loạn thí nghịch của Vũ Văn Hóa Cập, Tử Yên tìm cách trốn về với Nghĩa Thần, ý muốn cạo đầu đi tu. Nhưng Nghĩa Thần tính rằng còn gặp được quý nhân để nên duyên chồng vợ, hưởng lộc suốt đời. Năm trước tiểu đệ ngẫu nhiên ẩn cư ở Lôi Hạ, làm láng giềng với Nghĩa Thần, sớm hôm quấn quýt, tiện nội lại mến Tử Yên, vì vậy mà được học hỏi ít nhiều. 

 Mậu Công hỏi: 

 - Nay Dương Thái bộc còn không? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Dương lão tướng đã quy tiên rồi? Viên Quý nhân cùng mẹ con phu nhân, hiện đều đang thủ mộ. 

 Mậu Công hỏi: 

 - Mộ ở đâu? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Ngay trong rừng, là phần mộ của Dương lão tướng, gia quyến ở ngay cạnh bên. 

 Mậu Công nói: 

 - Dương Thái bộc tuy mất, nhưng tiểu đệ đã từng được biết thái bộc lúc sinh tiền, nay đến trước mộ viếng thăm, cũng là mong gặp quý nhân một lần, không biết nên chăng? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Cũng nên! 

 Mậu Công bèn sai tiểu đồng sắp đủ lễ vật, cùng Nhuận Phủ đi bộ tới, thấy mấy mẫu gò hoang, một nắm đất nhỏ, dẫu là cành lá rườm rà, khó tránh cáo thỏ dẫm đạp. Mậu Công than: 

 - Kết cục của bậc anh hùng, chẳng qua cũng đến thế này! 

 Nhuận Phủ vội vào báo cho Viên Tử Yên, Tử Yên gọi ngay Hinh Nhi thay tang phục, đến trước mộ đáp lễ, vái mời vào hương đường. Mậu Công xin được gặp Tử Yên, Tử Yên cũng không phải loại phụ nữ quá nhút nhát sợ người lạ, liền mặc áo tang trắng ra tiếp. Mậu Công nhìn kỹ thấy dung mạo đoan trang, thùy mị, nhan sắc thật mười phần diễm tuyệt, hoàn toàn khác hẳn với vẻ đẹp hào nhoáng phù hoa, không giấu dược kính phục, mà thưa: 

 - Hạ quan vâng vương lệnh về Lạc Thọ trông coi việc nhà Hạ, trong nội cung của Tào Hậu có thấy một cung nữ, tên là Thanh Cầm, vốn là cung nữ cũ của Tùy triều, nói là người hầu của phu nhân, ca tụng nhiều tài học của phu nhân, ngay cả bậc nam nhi cũng ít người có. Hạ quan định đưa Thanh Cầm về để hầu hạ bên phu nhân, nhưng chưa biết ý phu nhân ra sao? 

 Tử Yên đáp: 

 - Thiếp chỉ ngại Thanh Cầm rơi vào tay bọn lính ngỗ ngược, cũng không ngờ lại ở trong nội cung. Nhưng hiện nay thiếp cũng cảnh lâm tuyền thảo dã, heo hút một thân, thân mình còn chẳng giữ nổi, lại còn đeo thêm việc cơm áo nữa sao, thật phụ lòng quan thiết! 

 Nói xong, đứng dậy giã từ. 

 Mậu Công như tỉnh như mê, hồn vía bay biến đâu cả, chỉ đành quay ra, nói với Nhuận Phủ: 

 - Tiểu đệ lãng tử giang hồ, cũng bởi chí chưa toại, nên chưa nghĩ đến chuyện gia thất, nay gặp Tử Yên, thật xứng tâm hợp ý, chỉ mong hiền huynh làm nguyệt lão, không biết có thể thỏa nguyện được chăng? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Đó là một việc rất đẹp, tiểu đệ không dám chối từ, còn việc có thành hay không, xin quân sư cứ về nhà cỏ của tiểu đệ ngồi chờ. Tiểu đệ xin đi một chuyến xem sao, rồi sẽ về thưa lại. 

 Mậu Công thong thả cùng Nhuận Phủ trở về. Mậu Công ngồi chờ một hồi lâu, Nhuận Phủ quay lại mặt mày hớn hở báo tin: 

 - Viên Quý nhân lúc đầu vẫn giữ ý ở vậy suốt đời, tiểu đệ phải ba bốn lần khuyên giải mới bằng lòng. Nhưng đòi phải ưng thuận ba điều, kể ra thì những điều này, quân sư cũng dễ nghe theo thôi! 

 Mậu Công hỏi: 

 - Là những điều gì vậy? 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Thứ nhất, phải chờ mãn tang Dương lão tướng thì mới về thờ quân sư. Thứ hai, phải đưa theo cả mẹ con Hinh Nhi cho đến khi thành đạt. Thứ ba, gần đây có am Nữ Trinh, là nơi tu của bốn phu nhân của Tùy Dượng Đế, cùng với Viên Quý nhân là chị em khác họ, trước kia thì Dương lão tướng cấp thức ăn vật dùng đầy đủ, nay nếu nhận lời Châu Trần, quân sư phải nhận làm tròn lời hứa đó của Dương lão tướng, cũng là để giữ được gắn bó chị em giữa Viên Quý nhân cùng các phu nhân. Chỉ có ba điều vậy thôi, nếu quân sư nghe theo, thì Viên Quý nhân là người của quân sư rồi đó. 

 Mậu Công vui mừng mà nói ngay: 

 - Chả phải ba điều, dẫu có bao nhiêu điều nữa tiểu đệ cũng xin nghe theo? 

 Rồi gọi tiểu đồng, đến ngay chỗ Vương Bộ, lấy hai trăm lạng bạc, mười tấm gấm, cởi đai ngọc đang đeo trên người, đưa cho Nhuận Phủ mà rằng: 

 - Việc quân bận rộn, không kịp lo cho đầy đủ, chỉ có thế này, xin hiền huynh lo hộ cho! 

 Nhuận Phủ nhận, rồi cùng tiểu đồng đưa đến tận thảo đường của họ Dương, nói rõ Mậu Công xin theo cả ba điều. T nhận lễ vật lấy ra một quả cầu Thái ất hỗn thiên, rút trên đầu một cành trâm vàng, đưa cho Nhuận Phủ, nhờ giao lại cho Mậu Công. Mậu Công nói: 

 - Ơn hiền huynh lo cho chuyện gia thất, mai kia tiểu đệ xin có lễ mọn dâng hiền huynh, rồi cả văn thư về việc quản hạt Lạc Thọ nữa cũng sẽ đưa tới luôn, chúng ta cùng phụng sự minh quân, cũng là một việc tốt đẹp vậy. 

 Nhuận Phủ đáp: 

 - Chuyện này hãy khoan nói tới. Chỉ xin hỏi quân sư, Vương Thế Sung phá xong nay mai, thì liệu Đơn nhị ca sẽ ra sao? 

 Mậu Công nhăn mày đáp: 

 - Nếu bàn chuyện Đơn viên ngoại, sợ sẽ chẳng nên công chuyện gì cả ? 

 Mậu Công đem chuyện Hùng Tín đuổi bắt Tần Vương như thế nào, kể lại tỉ mỉ một lượt. Nhuận Phủ dậm chân mà than: 

 - Nếu mà như thế, việc Đơn nhị ca quả là đáng lo. Quân sư cùng với Tần Thúc Bảo thuở trước đều có lời thề sinh tử, cũng nên nghĩ cách thế nào để cứu vãn được ít nhiều chăng! 

 Mậu Công đáp: 

 - Điều ấy thì đương nhiên rồi! 

 Trời đã chiều, thấy có nhiều xe ngựa đến đón, Mậu Công đành phải chia tay với Nhuận Phủ. Sau đó đem ấn tín, sổ sách của Lạc Thọ, cùng với thư và hai trăm lạng bạc, đem theo một trăm lạng vàng, cùng với cung nữ Thanh Cầm, giao cho Viên Tử Yên. Hai tiểu đồng về thưa: 

 - Cung nữ cùng lễ vật, phu nhân đều đã thu nhận. 

 Còn sai quan thì trình rằng: 

 - Đem văn thư, lễ vật đến nhà Giả tiên sinh, thì cửa đóng kỹ, không một bóng người, đành phải quay về. 

 Mậu Công kinh ngạc: 

 - Chẳng nhẽ mấy hôm trước ta gặp ma hay sao? 

 Vội cưỡi ngay ngựa lên đường đi Quyền Thạch thôn, thì quả thế thật. Hỏi láng giềng đều nói canh năm đêm trước đã lên đường cả nhà, nói là đi dâng hương ở Thiên Đài. Mậu Công than thở: 

 - Giả hiền huynh sao bất tình đến thế! 

 Trong lòng nghi hoặc, lần đến nhà Dương Thái bộc. Viên Tử Yên gọi Hinh Nhi thay áo mũ màu ra đón, Mậu Công cầm tay hỏi han mấy câu, rồi lên ngựa, về ngay Lạc Dương. 

 Chính là: 

 Giữa đường nên nghĩa ruột rà 

 Chia tay non nước, đậm đà tình ai! 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Chín

Trai lỡ vận, họp mặt nhà tù,

 Gái kỳ tài, gội ơn gác phượng.

 Nhớ thuở xưa đầm rồng ổ phượng, 

 Thế mà nay nghiệp chướng luân hồi 

 Bấy nhiêu năm sự nghiệp tan khói bay hơi 

 Nước sông Lạc lững lờ trôi xuống bể 

 Môi hở răng lạnh đâu còn chi mà kể 

 Luống thở than cỏ bật rễ. rêu mất xanh 

 Bụi trần chớp mắt cuốn nhanh 

 Trông ra lạnh lẽo gọn vành trăng suông. 

 Theo điệu “Tây Gian nguyệt" 

 Việc trong thiên hạ, chỉ dựa vào mình là hơn cả, chứ làm sao mà trông vào người được, chẳng biết người làm hay không làm, làm có được hay không được. Còn mình, thì hãy cứ theo bốn chữ trung, hiếu, tiết, nghĩa mà hành động, thì dẫu có hung thần ác quỷ, lòng sắt dạ đá cũng chẳng đáng sợ. 

 *** 

 Nay khoan nói chuyện Từ Mậu Công về Lạc Dương, hãy nói chuyện bọn Vương Thế Sung bị vây trong thành, bọn Lý Tĩnh đem binh mã giăng kín từng từng lớp lớp, đến giọt nước cũng không lọt. Tướng sĩ trong thành, ngày đêm tuần thám, ai nấy đều mệt mỏi, hoảng sợ, lại thêm lương thảo thiếu thốn, phần lớn đều muốn mở cửa thành ra hàng, chỉ riêng Đơn Hùng Tín cương quyết không chịu, một mình giữ chặt cửa Nam. 

 Hôm ấy trời vừa tối, bỗng thấy cờ gióng trống mở rộn ràng, một đội người ngựa tiến đến cửa thành, lớn tiếng gọi: 

 - Mau mau mở cửa thành, chúng ta là quân của Dũng An công chúa được Hạ Vương sai đến đây! 

 Binh sĩ trên thành, chạy thưa với Hùng Tín. Hùng Tín ra góc thành nhìn kỹ thấy vô số nữ binh mang cờ hiệu nhà Hạ, quân trung là một vị công chúa, vàng ngọc lấp lánh, tay cầm thiên phương họa kích, ngồi trên ngựa. Hùng Tín nhận đúng là con gái Đậu Kiến Đức, một mặt sai báo cho Thế Sung biết, một mặt dẫn lính phòng thủ mở cửa thành ra đón. Nào ngờ đó chính là vợ chồng Sài Tự Xương, dẫn đội "Nữ tử quân” đến Lạc Dương gặp Lý Tĩnh, giả làm Dũng An công chúa, lừa cho mở cửa thành. Bọn nữ binh cứ thế giơ cao kiếm mà chém giết, chưa gì đã hàng loạt lính nhà Trịnh ngã xuống, những tên chạy được gào thét: 

 - Nguy to rồi! Quân giặc đã vào! 

 Hùng Tín vội giơ thương chống đỡ, gặp ngay bọn Khuất Đột Thông, Ân Khai Sơn, Tầm Tương vây kín. Hùng Tín dẫu tài cán, nhưng quả bất địch chúng, lại thêm nữ binh vây kín, liều chết xông vào chém chân ngựa. Đáng thương thay một đời anh hùng, đành phải bó tay chịu trói. Đáng nực cười là Chu Xán, bị Lý Tĩnh đánh bại, chạy hàng Thế Sung, nghĩ là dựa được Trường thành, không ngờ thành phá, thân cũng bị bắt. 

 Vợ chồng Sài Tự Xương vào cung tìm giết Thế Sung. Thì đã thấy Thế Sung bưng bản đồ cùng quốc tỷ, mình trần từ trong cung ra hàng. Lý Tĩnh phân phó các tướng, bắt kỳ hết gia quyến tôn tộc Thế Sung, nhốt vào xe tù, một mặt thì hiểu dụ an dân. Giữa lúc hỗn loạn, tùy tướng vào thưa: 

 - Tần Vương đã tới? 

 Lý Tĩnh cùng các tướng, kéo dân chúng trong thành ra tận cửa đón vào điện của nhà Trịnh. Lý Tĩnh cùng mọi người vào lạy mừng, Tần Vương nói với Lý Tĩnh: 

 - Ta ra Hổ Lao quan, khanh liệu rằng diệt xong Hạ, thì Trịnh cũng theo đó mà đổ, nay thật quả nhiên! 

 Lý Tĩnh thưa: 

 - Thằng giặc Thế Sung muôn phương nghìn kế, phòng thủ rất chắc chắn, nay được Sài Quận mã lừa mở được cửa thành, Thế Sung mới tự trói đầu hàng. 

 Tần Vương cười, nói với Thế Sung: 

 - Mày lúc trước coi ta là trẻ con, cho mình là nhiều mưu lắm kế, nay sao lại ngồi trong xe tù của tướng nhà Đường ta? 

 Thế Sung ngồi trong xe tù thưa: 

 - Tôi thân này từ lâu đã nghĩ đến chuyện hàng phục nhà Đường. Cũng bởi chư tướng nhiều người do dự, nên chưa quyết. Lại cũng biết điện hạ không có mặt ở trong quân, cho nên mãi đến nay mới ra hàng, chỉ xin thánh ân tha chết. 

 Tần Vương cả cười, lệnh cho các tướng kiểm điểm kho tàng, mở cửa nhà tù, rồi vào hậu cung gặp gỡ vợ chồng Sài Tự Xương, thu lượm các đồ quý. 

 Đậu Kiến Đức cùng Đại Vương Uyển, Trưởng Tôn Thế An, là ba xe tù, cùng với mấy xe tù của bọn Thế Sung, Chu Xán, đỗ cách nhau chỉ khoảng một tầm tên bắn. Bọn lính gác thấy Tần Vương cùng các tướng đã đi khỏi, liền kéo tất cả các xe tù, gom lại một nơi. Thế Sung thấy thế sụt sịt rơi nước mắt, gọi to: 

 - "Hạ Vương! Hạ Vương". Quả nhân làm hại Hạ Vương rồi? 

 Kiến Đức mở mắt, nhưng vẫn không chịu mở miệng. Ở bên cạnh, Đại Vương Uyển lên tiếng: 

 - Thúc phụ! Thúc phụ làm sao cứu cháu với? 

 Thế Sung nhìn ra, nước mắt lại tuôn như suối: 

 - Quả nhân mà cứu được cháu, thì trước tiên đã cứu được mình rồi! 

 Chỉ tay ra xe của Thái tử Huyền Cảm, Thế Sung nói tiếp: 

 - Cháu không thấy đại huynh Huyền Cảm của cháu cũng ở đây sao? Quả nhân với cháu còn được một chỗ cùng Huyền Cảm, chẳng biết trong cung bá mẫu, các cô, các dì ra sao bây giờ đây! 

 Nói xong lại hu hu khóc rống. Kiến Đức thấy thế, vô cùng căm giận, thở than: 

 - Trời đất ơi! Ta nào biết được chúng mày lại như trẻ trong tã cả một lũ, sớm biết thế này, ta đã chẳng thèm phát binh cứu viện. Đại trượng phu sinh ra trong trời đất, chẳng nên được tiếng thơm cho trăm đời thì cũng để lại tiếng thối cho vạn năm, sao lại học theo cách của bọn đàn bà chẳng có lấy một chút khí khái! 

 Rồi nói với bọn lính canh đứng bên: 

 - Các ngươi hãy đẩy xe của ta ra một góc, để khỏi phải nghe giọng lưỡi của chúng nó, bẩn cả tai ta! 

 Một đám dân chúng đứng xung quanh xem, có người chỉ tay, nói: 

 - Đây chính là Hạ Vương, nghe nói ông ta làm vua ở Lạc Thọ, rất yêu thương dân chúng, lại rất giản dị liêm khiết, so với vua Trịnh chúng ta còn tốt hơn gấp mười. Bà hoàng hậu lại cũng là bậc hiền minh, giúp vua trị nước chuyên cần, nay không ngờ vì vua Trịnh, mất cả giang sơn, làm sao không xót xa cho được! 

 *** 

 Lại nói Tần Thúc Bảo cùng Tần Vương trở về , thấy thành Lạc Dương đã hạ xong, trong lòng lúc nào cũng lo đến chuyện của Đơn Hùng Tín, tìm đến chỗ xe tù nhốt anh em, con cháu Thế Sung, cùng với đình thần họ Trịnh, nhưng không thấy Hùng Tín, mới hỏi quân sĩ thì biết rằng, Giảo Kim đã thưa với Tần Vương, đưa Hùng Tín ra phía đông thành rồi. Thúc Bảo vội chạy theo tìm, thấy một tên lính tâm phúc của Giảo Kim. Thúc Bảo hỏi: 

 - Trình tướng quân đâu rồi? 

 Tên lính thưa: 

 - Đang cùng với Đơn viên ngoại ở trong miếu thổ địa phía trước! 

 Thúc Bảo theo tên lính dẫn, thấy Hùng Tín đang ngồi trong miếu, nói chuyện với Giảo Kim, cổ đeo gông. Thúc Bảo ôm lấy Hùng Tín mà khóc. Hùng Tín nói: 

 - Tần hiền huynh hà tất bi thương đến thế. Hùng Tín nghe Tần Vương đem binh đánh Thế Sung, đã đem chuyện sinh tử đặt ra ngoài. Nay nước mất, thân tù, sao còn mong giữ được ngói lành. Nhưng không hiểu sao Hạ Vương thua nhanh đến thế? 

 Thúc Bảo đáp: 

 - Đơn nhị ca nói chuyện ấy làm gì? Một bọn anh em chúng ta, hoạn nạn có nhau, sinh tử cùng chia, không ngờ Ngụy Công, Bá Đương mất rồi, còn lại mỗi người mỗi nơi, xưa là hai nước, nay về một nhà. Sao lại không nhìn ngó đến nhau cho được. Huống chi với tài nghệ của Nhị ca, nếu chịu giúp nhà Đường, thì sẽ làm nên công nghiệp lẫy lừng. 

 Thúc Bảo đem chuyện Kiến Đức thua trận ra sao, bị bắt ra sao kể lại, bên ngoài thấy một người đẩy cửa vào, thì ra Đơn Toàn. Hùng Tín hỏi: 

 - Ngươi không ở xem xét công việc gia quyến, tới đây làm gì? Hay trong nhà cũng có ai đến đây nữa sao? 

 Đơn Toàn thưa: 

 - Dạo ấy, sang canh năm, Giả đại nhân đã tới nói rõ ý của viên ngoại, nên phu nhân cùng tiểu thư lập tức lên đường, nói rằng sẽ đưa tới chỗ Tần thái thái (l), bởi thế tiểu nhân này mới đến thăm viên ngoại, lại gặp cả Tần đại nhân ở đây, hỏi rõ thực hư. 

 1 Tần thái thái: Chỉ Ninh Thị mẹ đẻ Tần Thúc Bảo. 

 Hùng Tín nói với Thúc Bảo, Giảo Kim: 

 - Nhuận Phủ hiền đệ đã lâu không gặp, nhưng sao lại có chuyện này? 

 Giảo Kim đáp: 

 - Giả đại huynh vốn là người chu đáo, đã nói là đưa tới chỗ Tần thái thái, thì nhất định là đúng thế rồi! 

 Thúc Bảo cũng nói: 

 - Giả đại huynh là người nghĩa khí, lệnh tẩu cùng lệnh ái nhất định đã được thu xếp yên ổn, chẳng phải lo lắng. 

 Hùng Tín nói với Đơn Toàn: 

 - Ngươi hãy lên đường, xem gia quyến ra sao, ở đây ta đã có hai tiểu hiệu tâm phúc rồi! 

 Thúc Bảo cũng khuyên: 

 - Đơn Toàn không phải lo lắng cho viên ngoại nữa, hãy tìm Giả đại nhân xem sao, còn ở đây đã có chúng ta coi sóc. 

 Đơn Toàn gạt nước mắt trở ra. Lại có mấy tên lính kéo vào, đều là thân tín của Thúc Bảo, Thúc Bảo hỏi: 

 - Đã tìm được nơi nghỉ ngơi chưa? 

 Một tên thưa: 

 - Ở phố Bắc, men theo bờ sông, nhà tướng nhà Trịnh Trương Kim Đồng, cả hành lý của Trình tướng quân cũng đã mang lại. Hiện nay trong điện Bảo Hòa đã bày yến tiệc, chỉ sợ điện hạ sẽ có lệnh mời hai tướng quân. 

 Giảo Kim đáp: 

 - Chúng ta cùng ở một nơi sao, hay quá nhỉ? 

 Thúc Bảo nói với Hùng Tín: 

 - Ở nơi này không tiện, xin nhị ca lại chỗ tiểu đệ! 

 Hùng Tín đáp: 

 - Hùng Tín này nay đã là phạm nhân, lý nên như thế này, chư huynh cứ yên lòng! 

 Giảo Kim gào: 

 - Thế nào là phạm nhân với quý nhân. Đơn nhị ca là người hào kiệt. Tại sao hai chúng tôi chỉ đành đứng ngoài nhìn? 

 Rồi lấy ngay sợi thừng trên cổ Hùng Tín xuống, giao cho tên tiểu hiệu. Thúc Bảo cầm tay Hùng Tín ra khỏi cửa miếu, tới chỗ ngụ, sai phái tay chân sắp xếp mọi thứ, chờ sẵn. 

 Thúc Bảo cùng Giảo Kim vào điện Bảo Hòa, thấy Lý Tĩnh đang sai phái các tướng, giữ cửa thành, tuần tra, treo cáo thị, cấm chỉ quân sĩ không được tước đoạt, nhũng nhiễu, ai phạm sẽ bị chém đầu. Tần Vương sai ký thất Phòng Huyền Linh, vào ngay Trung thư môn hạ tỉnh, thu thập cáo chế, còn Tiêu Vũ, Đậu Quỹ thì đi niêm phong các kho tàng, coi sóc các của báu. Vàng bạc là phần việc giao cho Sài Tự Xương cùng Vũ Văn Sĩ Cập, cân đo nhiều ít để rồi ban thưởng cho các tướng sĩ, quân lính. Lý Tĩnh thấy Thúc Bảo cùng Giảo Kim bên nói: 

 - Theo lệnh của Tần Vương, phiền hai vị ngày mai đem quân đi chở lương thực ở Lạc Thương về để chẩn cấp cho trăm họ ở trong thành. 

 Thúc Báo đáp: 

 - Lương thực ở Lạc Thương, chỉ cần ra hiểu dụ là các bậc kỳ lão dẫn ngay dân nghèo đến để lĩnh chẩn, việc gì phải chuyển về! 

 Liền sai thư lại viết ngay cáo thị, thì thấy Khuất Đột Thông tới, hỏi Thúc Bảo: 

 - Tần tướng quân! Hiện nay Hùng Tín ở đâu? Tần Vương có chỉ điểm danh tội phạm để đưa vào vào nhà ngục, sai lính canh giữ, nhưng còn Hùng Tín vẫn chưa thấy! 

 Thúc Bảo hỏi: 

 - Chỉ đâu rồi? 

 Đột Thông lấy trong tay áo ra, Thúc Bảo cầm xem, thấy viết: 

 "Đoàn Đạt, đại thần nhà Tùy, giúp Vương Thế Sung giết vua cướp ngôi, Chu Xán tàn sát bách tính, giết sứ giả nhà Đường, Đơn Hùng Tín, Dương Công Khanh, Quách Sĩ Hành, Trương Kim Đồng, Quách Thiện Tài, đều tạm giam vào ngục, điểm binh canh gác, chờ giải về Trường An, đợi thánh ân định đoạt." 

 Thúc Bảo cau mày nhăn trán, chưa biết trả lời ra sao, thì Giảo Kim đã đáp: 

 - Khuất tướng quân, Đơn Hùng Tín chính là anh em thân thiết của chúng tôi. Hiện đang ở chỗ chúng tôi, chẳng cần phải đưa vào nhà ngục. Chờ về Trường An, giao Đơn Hùng Tín cũng không hề gì! 

 Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê, Vưu Tuấn Đạt đều đến tận nơi, thăm hỏi Hùng Tín. Như Khuê thấy tình cảnh như vậy, không chịu nổi kêu lên: 

 - Anh em chúng ta, cùng đem sức lực xương máu để có thành công này, mà đứng ra che chở một người cũng không được hay sao? 

 Đột Thông đáp: 

 - Hạ quan cũng là phụng mệnh Tần Vương đi xem xét, nếu như các ngài đã đảm đương như vậy, thì lẽ nào hạ quan lại từ chối. 

 Ngày hôm sau, lệnh cho Sài Quận mã thống lãnh đội "Nữ tử quân" lên đường trước, Quốc Viễn, Như Khuê đành lưu luyến chia tay bọn Thúc Bảo, Giảo Kim, lên đường về Ngạc Huyện. Lúc này cũng vừa dịp Từ Mậu Công từ Lạc Thọ trở về, vào ra mắt Tần Vương. Tần Vương hỏi chuyện Lạc Thọ, Mậu Công thưa: 

 - Thần về đến Lạc Thọ, Tế tửu Lăng Kính đã thắt cổ ở triều đường. Tào Hậu cùng bốn cung nữ tự vẫn ở hậu cung, cung tần phụ nữ, chẳng qua khoảng một hai chục người, nhưng không thấy con gái Kiến Đức đâu cả. Già trẻ trăm họ nghe tin Kiến Đức bị bắt, đều than thở đau xót. Thần mở kho phát chẩn, nhưng không ai chịu đến lĩnh. Thần cũng đã lệnh nghiêm cấm quân sĩ không được cướp bóc, nhũng nhiễu. Những của cải, lương thực đều được kê khai, gìn giữ để nuôi quân, vì vậy các thân hào xa gần đều đội ơn đức điện hạ. Thần cũng đã chọn một lão thần có tiếng tốt, tạm cầm quyền coi sóc Lạc Thọ là Tề Thiện Hằng. Không biết có vừa ý điện hạ chăng? 

 Tần Vương gật đầu khen ngợi, lệnh cho Vương Đạo Huyền, cùng Vũ Văn Sĩ Cập, đại tướng Khuất Đột Thông, tạm quyền trấn thủ Lạc Dương, cho quân sĩ chuẩn bị ban sư hồi triều. 

 Mậu Công nghe biết Hùng Tín đang ở chỗ Thúc Bảo, vội tới gặp, nói với Hùng Tín: 

 - Tiểu đệ dạo trước ở Lạc Thọ trở về, có gặp một người bạn, kể chuyện thấy Nhuận Phủ hộ tống gia quyến Đơn nhị ca, nghĩ rằng Nhuận Phủ đã biết lệnh của Tần Vương, đưa tất cả tù nhân về Trường An chờ phát lạc, nên Nhuận Phủ hiền huynh mới đem gia quyến Đơn nhị ca về chỗ Tần thái thái, thế là yên ổn. Tiểu đệ lúc ấy sợ trên đường có chuyện trở ngại nên sai gia tướng cùng hai mươi tên lính, đem theo ba trăm lạng bạc làm lộ phí, đuổi theo để hộ tống, nghe nói đều đã tới Trường An yên ổn! 

 Hùng Tín nói: 

 - Hùng Tín nghe nói, con chim sắp chết thì tiếng kêu ai oán, con người sắp chết thì nói lời phải lẽ. Như địa vị Hùng Tín bây giờ, không thể nói là tốt được, cũng chẳng oán trách gì được. Chỉ xin chư huynh chở che cho gia quyến, Hùng Tín dẫu chết cũng như sống vậy! 

 Thúc Bảo sai người thuê ngay một xe lừa, để Hùng Tín ngồi, rồi cả bọn lên đường về Trường An với Tần Vương. 

 Chính là: 

 Gươm vàng ra lệnh tan mây khói 

 Giáp sắt khua vang nhịp khải hoàn. 

 Chẳng bao lâu đã tới Trường An, tiêu mã báo trước cho vua Đường. Vua Đường lệnh cho đại thần, các liêu thuộc ở lại của Tây phủ ra ngoài thành đón tiếp. Từng từng lớp lớp trống gióng cờ mở, phía trước là một hàng tướng truyền lệnh, kỳ bài quan áp giải Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, Chu Xán cùng các tướng, các quan đại thần, gia tộc nhà Trịnh, nhà Hạ, sau là xe chở các thứ quốc bảo của nhà Tùy. Tần Vương mặc cẩm bào, áo giáp vàng, cưỡi ngựa thanh tông mà Uất Trì Cung đã cướp được, tiếp theo là các tướng sĩ, nai nịt gọn gàng, rầm rập kéo vào thành. Trước tiên vào thái miếu, làm lễ dâng tù, sau đó vào triều. Tần Vương vào cung gặp mẫu hậu. Vua Đường ban thánh chỉ: Trời đã tối, các tướng về nghỉ. Sai Quang lộc tự bày yến tiệc ở Thái Hòa điện, đem các tù nhân nhà Trịnh, nhà Hạ, nhà Chu, giao cho Đại lý tự giam vào ngục thất, chờ thánh chỉ định đoạt. 

 Hùng Tín cũng phải theo vào trong nhà ngục. Hình bộ ra lệnh, sai mười viên hiệu úy cùng lính tráng áp giải tù nhân vào phòng giam. Tiếng truyền dõng dạc: 

 - Cấm tử môn! Theo đúng tên tuổi, từng tên một, từng phòng một giải vào. Đây là trọng phạm của cả hai nước, phải canh gác nghiêm mật! 

 Bọn lính cấm tử đồng thanh đáp: 

 - Vâng lệnh. 

 Lần lượt từng người tù, đi qua một cửa thấp, vào đến phòng giam rộng khoảng ba gian, vừa thấp vừa tối, mùi hôi thối sặc sụa. Lúc này Hùng Tín thấy trong lòng đau đớn. Kiến Đức trông sang hai bên, đã thấy hai ba chục tù nhân, cổ gông tay còng, kẻ ngồi kẻ nằm, mặt mày bẩn thỉu, gầy giơ xương, chẳng khác gì ma quỷ. Kiến Đức gan dạ là thế, cũng thấy rã rời chán ngán, cũng còn may có Đơn Hùng Tín, là bạn tri kỷ, cùng ở một nơi, thỉnh thoảng trao đổi vài câu Bỗng thấy một người cao lớn, ngấp nghé trước cửa hỏi to: 

 - Ai là Hạ Vương? Ai là Đơn Hùng Tín? 

 Kiến Đức chưa kịp đáp, còn Hùng Tín thì trong lòng buồn tủi, chẳng muốn trả lời, ngờ rằng người ta gọi mình ra để xử trảm, nên lặng lẽ lại gần mới đáp: 

 - Ta là Đơn Hùng Tín đây! Có chuyện gì vậy? 

 Thì ra là đội trưởng toán lính cấm tử. Đội trưởng nói: 

 - Mời hai vị ra ngoài này! 

 Kiến Đức cùng Hùng Tín quay ra, đội trưởng dẫn sang phòng bên trái, sạch sẽ hơn nhiều, lại có cả giường, bàn, ghế, màn chăng cẩn thận. Đội trưởng tiếp: 

 - Vừa rồi, hạ quan nhận lệnh trên đại đường, lại được Từ đại nhân cùng Tần đại nhân dặn dò, nhưng vì quay về muộn quá, bọn đàn em không hiểu đầu đuôi, nên đã vội đưa cả hai vị vào chung trong phòng giam lớn vừa rồi! 

 Chỉ giường đã có đệm hẳn hoi, y tiếp: 

 - Đây là của Hạ Vương! 

 Chỉ giường chưa có đệm: 

 - Đây là của Đơn đại nhân, đệm gối Tần đại nhân sẽ cho người mang ngay vào bây giờ. 

 Kiến Đức hỏi: 

 - Đơn viên ngoại thì đã có các vị lo lắng cho, còn ta, chẳng có ai đến để nhờ cậy, sao lại cũng được các ngài chiếu cố thế này? 

 Đội trưởng đáp: 

 - Hạ Vương không cần phải lo lắng. Cách đây ba ngày, có một vị họ Tôn, đinh ninh nhờ cậy hạ quan, lại cho cả quà, nói rằng bao giờ Hạ Vương tới, sẽ còn đến thăm nom, cho nên mới xếp sẵn gian phòng này để chờ các đại nhân vậy! 

 Kiến Đức nghĩ ngợi: "Có lẽ là Tôn An Tổ đã chạy được, giờ quay lại đây sao?" Bỗng thấy bên ngoài ồn ào, năm sáu tiểu hiệu khiêng hành lý, cùng một vò rượu lớn, các đĩa thức ăn, rồi bày ra bàn, nói với đội trưởng: 

 - Đây là nệm của Đơn viên ngoại, cùng với rượu thịt. Các vị tướng quân nói rằng vì bận việc công, chưa thể vào ngay, có dặn đội cấm tử hãy phục dịch chu đáo. 

 Bọn cấm tử vội vàng trải nệm, dọn dẹp, bày rượu thịt. Kiến Đức cùng Hùng Tín gác mọi chuyện đại sự, ngồi bên nhau nâng chén khề khà cho quên ngày tháng. 

 *** 

 Lại nói chuyện Đậu hoàng hậu, thấy Tần Vương trở về, trong lòng rất mừng, dự dạ yến xong thì đã sang canh hai, bất giác ngủ say, mơ thấy một vị La Hán mình vàng, cúi đầu nói với Đậu hoàng hậu: 

 - Con trai hoàng hậu đã về. Ta có một đồ đệ, con trai hoàng hậu về đây, hãy mau bảo đồ đệ ta cắt tóc, rồi giao trả lại ta? 

 Nói xong thì chẳng thấy đâu nữa. Đậu hoàng hậu tinh ra, đem chuyện trong mộng, kể rõ cho vua Đường nghe. Vua Đường đáp: 

 - Chiều qua khi Thế Dân về, cũng chưa kịp hỏi kỹ. Hãy đợi ngày mai vào triều kiến, hỏi lại xem sao. 

 Đậu hoàng hậu trằn trọc không ngủ được, nghe trống đã điểm canh năm, nóng ruột không chờ được nữa, liền sai nội giám truyền ý chỉ, triệu Tần Vương vào cung. Lúc này Tần Vương vừa ngủ dậy, đang còn rửa mặt, chải đầu, định vào triều, thì thấy nội giám tới triệu, vội vàng theo vào. Sau lễ chào, Đậu hoàng hậu hỏi: 

 - Con từ ngày rời kinh đô, đánh dẹp được cả hai nước, nay hãy kể lại cho ta nghe xem sao. 

 Tần Vương kể lại chuyện Đoàn Ý đi sứ tới Chu Xán ra sao, bị y mổ thịt thế nào, rồi chuyện ở lăng Tuyên Vũ, bắn linh điểu, suýt bị Hùng Tín bắt thế nào, may gặp thánh tăng Đường Tam Tạng dùng pháp thuật cứu thoát, ban cho bài kệ, lại được Uất Trì Cung giải vây, kể lại một lượt. Đậu hoàng hậu nghe xong, gật đầu nói: 

 - Đêm qua ta nằm mộng gặp thánh tăng, thì ra là có duyên cớ cả. 

 Tần Vương hỏi: 

 - Mẫu hậu thấy những gì trong mộng? 

 Đậu hoàng hậu lại kể lần nữa, rồi thêm: 

 - Theo ta nghĩ, có lẽ trong đám tù nhân, nhất định có người tốt vậy! 

 Lại hỏi Tần Vương: 

 - Vừa rồi con nói Đường Tam Tạng có tặng một bài kệ, hãy viết ra để ta nghiền ngẫm xem sao. 

 Tần Vương viết xong, ai nấy nghĩ ngợi, Vũ Văn chiêu nghi cũng đứng hầu ngay cạnh, là cung nữ được Đậu hoàng hậu vừa ý hơn cả. 

 Đậu hoàng hậu nói với Vũ Văn chiêu nghi: 

 - Hay lắm, khanh vốn mẫn tuệ khác thường, nhất định sẽ đoán ra. 

 Đậu hoàng hậu liền thuật lại giấc mộng của mình, cùng mấy câu kệ thánh tăng cho Tần Vương, đưa cho Chiêu nghi xem. Chiêu nghi đọc kỹ một hồi, liền thưa: 

 - Câu thứ nhất thì ý tứ rõ ràng, mang tên Hạ Vương ở trong. Câu thứ hai có lẽ nói đến người này có con cái hiếu thảo. Câu thứ ba thì chẳng rõ ý gì, còn câu thứ tư rất dễ hiểu vậy! 

 Đậu hoàng hậu hỏi: 

 - Làm sao mà lại dễ hiểu? 

 Chiêu nghi thưa: 

 - Hoàng hậu họ Đậu, Hạ Vương cũng họ Đậu. Đậu đều nguyên là "mộc bản", là cội nguồn, vốn cùng một thể. Thế là nên tha tội cho Đậu Kiến Đức vậy! 

 Đậu hoàng hậu gật đầu khen phải. Tần Vương thưa: 

 - Kiến Đức là bậc hảo hán, chẳng khác nào mãnh hổ, tha ra thì dễ, trói thì rất khó. Nay may nhờ ơn chín miếu, một sớm mà con bắt được nếu bằng thả ra, lại gây họa thì sao? 

 Vua Đường phán: 

 - Đến giờ thì chẳng nên câu nệ. Chu Xán tàn ngược bất nhân, lý nên chém dầu. Còn thì hãy lôi Vương Thế Sung ra đây, đợi trẫm tra xét thêm trăm quan của Thế Sung, biết đâu cũng còn có bậc hiếu tử trong đám này cũng nên. 

 Tần Vương liền sai hiệu úy vào ngục, lôi ra chém đầu phạm nhân Chu Xán, dẫn Thế Sung vào diện thánh. 

 Hùng Tín cùng Kiến Đức đang ngủ trên giường nghe trống báo hết canh, đang cùng nhau chuyện trò, bỗng thấy người vào rậm rịch, đập cửa phòng bên, rồi lại nghe tiếng xích sắt loảng xoảng, gông cùm va chạm, còng khóa leng keng, xen lẫn tiếng người huyên náo. Thì ra đội cấm tử vào dẫn tù phạm ở dãy sau, xung quanh tù nhân nghe động, chẳng biết can hệ ra sao, chẳng khác gì giữa trận chiến gươm giáo rộn ràng vậy. Kiến Đức vội đứng dậy ghé vào khe cửa nhìn ra, thì thấy sáu bảy tên đao phủ, mặc áo đỏ có đuôi trĩ, lấy dây đỏ trói một tù nhân, nhìn kỹ, thì ra là Chu Xán, theo sau Vương Thế Sung cũng bị trói. Kiến Đức nói với Hùng Tín: 

 - Đơn nhị ca, chúng ta rồi cũng đi theo, cứ đứng dậy là xong tất! 

 Hùng Tín đáp: 

 - Mọi chuyện đều ở người khác! 

 Bỗng nghe đập cửa, rồi có người gọi: 

 - Đơn viên ngoại, có người nhà đến thăm! 

 Vội nhổm ngay dậy, ra mở cửa, thì ra là Đơn Toàn. Thấy chủ nhân, Đơn Toàn chắp tay quỳ xuống trước gối khóc rống. Hùng Tín cũng không ngăn nổi hai hàng nước mắt: 

 - Ngươi chẳng nên khóc lóc, hãy đứng dậy, ta hỏi: Phu nhân cùng tiểu thư hiện ở đâu? 

 Đơn Toàn đứng dậy, ghé tai Hùng Tín nói nhỏ mấy câu, Hùng Tín gật đầu: 

 - Việc của ta đã định liệu từ trước, ngươi chỉ cần chăm sóc phu nhân cùng tiểu thư, đó chính là yêu chủ, trung với chủ. Ta ở đây đã có các vị lo lắng, ngươi chẳng cần phải ra vào. Ngươi vào đây, lòng ta thật rối ren không chịu nổi! 

 Đơn Toàn lưu luyến không nỡ rời. Cấm tử quân lại mở cửa vào, nói với Kiến Đức: 

 - Hạ Vương có Tổ đại nhân đến thăm? 

 Kiến Đức chưa kịp đáp, đã thấy Tôn An Tổ đến ngay trước mặt, cùng với hai ba người nữa, tất cả nhìn nhau, cầm tay mà khóc. Kiến Đức hỏi: 

 - Khanh đã về Lạc Thọ, sao còn quay lại đây? 

 An Tổ ghé tai Kiến Đức, thì thầm một hồi, có vẻ hứng khởi. 

 Kiến Đức cau mày: 

 - Người sống trăm tuổi, rồi cũng chết cả, việc gì mà khổ lụy đến thế. Khanh hãy cùng công chúa trở về, an táng Tào Hậu cùng các kẻ khác. 

 An Tổ vẫn không chịu nghe. 

 *** 

 Hãy nói chuyện Chu Xán bị trói, dẫn ra chợ chém đấu. Thế Sung thì dẫn vào triều điện thánh. Vua Đường mắng y giết vua cướp ngôi, Thế Sung gian xảo khác thường, đem tất cả tội lỗi đó đổ lên đầu trăm quan. Vua Đường lại hỏi đến tội cố tình chống cự, thành bị phá mới hàng. Thế Sung quỳ lạy thưa: 

 - Tội thần thật đáng chết, nhưng Tần Điện hạ đã hứa cho thần được sống, xin thánh ân khoan hồng đại độ? 

 Vua Đường nhân ý của Tần Vương, bèn lệnh giáng Thế Sung làm dân thường, anh em con cháu đều đày lên phương Bắc. Thế Sung tạ ơn ra khỏi triều. Vua Đường lại sai giải Kiến Đức vào, thì thấy hoàng môn quan vào quỳ thưa: 

 - Có hai cô gái, tự trói mình, ngậm đoản đao, quỳ tại triều môn, xin được vào triều kiến bệ hạ! 

 Vua Đường nghe tâu, lấy làm lạ lùng, sai giải ngay vào. 

 Chỉ thấy hai người, lụa trắng quấn thân, áo xanh ngắn, hở cả cánh tay ngà ngọc, tự trói bằng dây đỏ, miệng ngậm một lưỡi đoản đao sáng loáng quỳ trước thềm cổng. Vua Đường trông xuống, tuy không phải bậc tuyệt sắc, nhưng cũng đều là chung anh tú khí, hiếm có trên đời. Vua Đường đã thấy đáng thương ít nhiều, liền gọi lại gần: 

 - Hãy cất lưỡi đao ở miệng đi? Dẫn cả hai lại gần đây gặp trẫm. 

 Nội thị vội rút hai lưỡi đao, dẫn lên phía trước, gót sen vội bước lên quỳ trên điện. Vua Đường mới hỏi: 

 - Hai khanh, là người ở đâu, có việc gì mà phải xin gặp trẫm? 

 Đậu Tuyến Nương thưa: 

 - Thần thiếp họ Đậu, là con gái của phản thần Đậu Kiến Đức. Bởi thân phụ thiếp phạm phải uy trời, thật khó tha, thiếp xin đem thân chịu tội thay, nguyện đem cái chết để chuộc uy trời vậy! 

 Vua Đường hỏi: 

 - Đậu Kiến Đức há không có thần tử, tử điệt nào hay sao, mà đến nỗi khanh là hạng quần thoa phải làm việc này? 

 Tuyến Nương thưa: 

 - Các bậc trung thần lương tướng đều đã tận tiết, táng thần, còn như cháu chắt thì họ hàng chẳng ai, phụ thân thiếp chỉ sinh được mỗi mình thiếp, mong đội ơn sâu, có ngày báo đáp. Phương chi đến Thế Sung cướp ngôi giết vua, mà thánh ân vẫn còn tha chết, phụ thân thiếp chẳng qua giữ nước mà thôi. Lại từng chinh thảo Vũ Văn Hóa Cập, lo lắng chôn cất cho Tùy Dượng Đế, trước đây ở Lê Dương, đã lại đưa đón ngự đệ Lý Thần Thông cùng công chúa Đồng An thật là chu tất, so với Thế Sung, há lại không bằng sao? Ơn thánh đế lồng lộng, chỉ xin xá tội cho phụ thân, thiếp xin chịu thay, cũng là điều hợp với phép nước. Xin thánh ân trông lại, thiếp dẫu chết nhưng cũng như còn. 

 Vua Đường phán: 

 - Vừa rồi khanh nói Đậu Kiến Đức chỉ sinh mỗi một mình khanh, thế còn một người kia nữa là ai vậy? 

 Tuyến Nương chưa kịp đáp, Mộc Lan đã thưa: 

 - Thần thiếp họ Hoa, tên Mộc Lan, là con của Hoa Cô ở Hà Bắc. 

 Rồi đem chuyện Lưu Vũ Chu xuất binh, thay cha tòng quân, cùng Tuyến Nương kết nghĩa kể lại một lượt. Vua Đường nghe giọng oanh thỏ thẻ, không ngăn nổi thán phục: 

 - Thật là hai thiếu nữ kỳ tài, thánh tăng cũng từng nói: "Cả hai e khó toàn" kia mà. (l) 

 1 Nguyên văn chữ Hán của bài kệ là: "Kiến nghiệp duy tồn đức; Trị thế nghi toàn hiếu; Lưỡng hiếu cảnh nan năng; Bản nguyên đương thúc bảo". Các câu khác đã được Vũ Văn chiêu nghi giải thích, câu ba cũng có nghĩa là hai người con hiếu, chỉ Tuyến Nương, Mộc Lan, nhưng cũng còn ý báo trước, một trong hai người không được hưởng phúc lâu dài, chỉ Mộc Lan ở hồi sau. 

 Đang nói, bỗng thấy hai nội giám quỳ lạy thưa: 

 - Hoàng hậu có chɬ mời điện hạ vào cung. 

 Tần Vương đứng dậy, theo hai nội giám. 

 Lúc này Kiến Đức đã được giải vào, quỳ dưới thềm son, lắng nghe hai chị em Tuyến Nương đối đáp, thì được vua Đường gọi lên trách: 

 - Người giúp kẻ khác làm điều ác, lẽ nên chém đầu, nhưng vì con gái ngươi xin nguyện chết thay, trẫm cũng vì noi theo đức hiếu sinh của thượng đế, không nỡ sát hại. Cứ xét tội ngươi, phải đặt ra ngoài cả pháp độ mà tha thứ cho mới xong. 

 Lệnh cho thị vệ cởi dây trói, bỏ còng tay, gông cổ cho Kiến Đức. 

 Vua Đường lại phán tiếp: 

 - Tha cho ngươi thì tha rồi! Nhưng ngươi cũng là bậc hào kiệt trong đời, nếu trẫm ban cho ngươi một chức tước nào đó, thì liệu ngươi có chịu khuất dưới kẻ khác chăng? Còn như trẫm phế ngươi làm thứ dân, thì liệu ngươi có quên được giang sơn gấm vóc cũ chăng? Rồi có khỏi được chuyện mưu đồ này nọ chăng? 

 Kiến Đức cúi lạy thưa: 

 - Thần ơn bệ hạ ngoại pháp mà ra ơn, để thần được sống, thật là ngoài cả ước muốn rồi, đâu còn dám sinh lòng khác. Thần từ lúc bị bắt đến nay, chuyện danh lợi chẳng khác gì tuyết tan băng vỡ, nay được như sống lại. Xin được thế phát quy y, thắp hương nguyện cho kiếp sau, báo đáp được ơn thánh đế, không dám xông vào chốn trần ai nữa. 

 Vua Đường cả mừng: 

 - Ngươi chịu là nhà sư thì thật hợp lắm, hay lắm. Trẫm sẽ thay ngươi tìm một pháp sư, nhận ngươi làm đồ đệ, chỉ sợ lòng ngươi chưa quyết mà thôi. 

 Kiến Đức than thở: 

 Thần nghe nói kẻ đồ tể, quăng con dao ra, thì sáu căn đều sách không, thấy trước mắt toàn điều nghiệp chướng, chẳng khác nào sau cơn mưa hoa đều rụng hết, còn gì nữa mà do dự vậy! (l) 

 1 Lục căn: Tiếng nhà Phật, chỉ sáu nguồn gốc đem đến phiền não, gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, và ý nghĩ. (Hán Việt tân từ điển). 

 Vua Đường phán: 

 - Ngươi đã quyết như vậy, trẫm đổi tên cho ngươi là Cự Đức, lệnh bộ Lễ cấp độ diệp, bộ Công cấp áo mũ, ngay trước điện làm lễ thế phát cho ngươi! 

 Tần Vương từ trong cung ra thưa: 

 - Mẫu hậu biết Kiến Đức xin đi tu, rất mừng, đòi hai hiếu nữ vào gặp. Phụ hoàng thấy có nên chăng? 

 Vua Đường liền gọi nội thị, dẫn hai chị em Tuyến Nương vào ra mắt Hoàng hậu. Đậu hoàng hậu thấy, rất hoan hỉ, gọi cung nữ, lấy hai bộ y phục ban cho hai chị em thay, cho phép ngồi xuống đôn gấm, hỏi tên tuổi, cả hai thưa gửi lễ phép. Đậu hoàng hậu hỏi tiếp: 

 - Tuyến Nương đã gả cho ai chưa? 

 Tuyến Nương thẹn thùng không nói. Mộc Lan đáp thay: 

 - Đã hứa hôn với La Thành, con trai lão tướng La Nghệ, tổng quản U Châu. 

 Đậu hoàng hậu phán: 

 - La Nghệ đã theo về nhà Đường, nhiều lần lập công lớn, thánh thượng đã phong là Yên Quận vương, ban quốc tính, trấn thủ U Châu, nghe nói con trai anh hùng cái thế. Khanh mà lấy La Thành, thì có chỗ gửi thân suốt đời chắc chắn. Khanh đã hiếu nghĩa đến vậy, ta cũng họ Đậu, ta sẽ nhận làm cháu gái, cho thêm vinh hiển. 

 Tuyến Nương không dám từ chối đành cúi lạy tạ ơn. Đậu hoàng hậu lại hỏi lai lịch Mộc Lan, Mộc Lan nhất nhất tâu rõ. Đậu hoàng hậu cũng không tiếc lời khen ngợi, sai ngay nội thị lấy trong ngăn khố hai nghìn lạng bạc, một trăm tấm đoạn, tặng Tuyến Nương làm vốn, lại lấy một nghìn lạng, bốn mươi tấm đoạn, ban cho Mộc Lan, để phụng dưỡng phụ mẫu suốt đời, rồi sai nội giám đưa về tận quê. Hai người tạ ơn ra khỏi cung. 

 Kiến Đức vừa mới cắt tóc, thay áo mũ nhà sư, khoác cà sa gấm thêu, đầu đội mũ tỳ lư của nhà sư, đang làm lễ bái tạ thánh đế. Vua Đường phán: 

 - Nay thì khanh thật thanh thản rồi! 

 Thì thấy hai chị em Tuyến Nương, theo sau là một toán nội thị, khiêng nào gấm, nào bạc, ra trước sân rồng đặt xuống, rồi một viên thái giám tâu lên vua Đường rõ việc làm của hoàng hậu vừa rồi. Hai chị em Tuyến Nương lại lạy tạ ơn vua Đường. Vua Đường nói thêm với Kiến Đức: 

 - Ta không biết chuyện con gái khanh đã hứa hôn với La Thành, nay lại được nhận làm cháu gái của hoàng hậu, hiếu nữ lại được con rể giỏi giang. Khanh cũng đỡ băn khoăn! 

 Kiến Đức vốn cũng chưa rõ chuyện này, nay thấy Đậu hoàng hậu vừa cho bạc lụa, vừa xe duyên cho con, nên lại tạ ơn ra khỏi triều đình. Vua Đường còn lệnh cho một thái giám đem ra hai ngàn lạng bạc, một rương lụa trắng, gửi đến biếu Đường Tam Tạng Thánh tăng, ở Ẩn Linh Sơn thuộc Du Sào, khe Đoạn Hồn. Kiến Đức ra triều môn, thấy nhà sư với hành lý chờ sẵn, nhìn kỹ, thì ra Tôn An Tổ. Kiến Đức kinh hãi hỏi: 

 - Ta vì sợ nhà vua để ý, mới phải cắt tóc vào chùa, còn An Tổ cũng đi đường này làm gì? 

 An Tổ đáp: 

 - Chúa công, dạo trước còn ở nhờ Nhị Hiền trang, Tôn An Tổ này tìm đến khuyên chúa công khởi sự, nay việc không thành, thì lẽ tự nhiên là cùng ở một nơi mà thắp hương tụng niệm. Còn như lấy chuyện thịnh suy mà thay lòng đổi dạ, chẳng còn là đấng trượng phu nữa rồi! 

 Kiến Đức lại nói với Tuyến Nương: 

 - Nay con đã hứa hôn với La Thành, lại được đội ơn của hoàng hậu, nhận làm cháu gái, có nơi trông cậy suốt đời. Từ nay về sau con thì lo việc con, cha có việc của cha, đừng phải nghĩ đến cha nữa. 

 Tuyến Nương đòi được đưa Kiến Đức lên tận núi, viên nội giám đi theo liền nhắc: 

 - Chúng ta phụng mệnh của hoàng hậu, đưa công chúa về Lạc Thọ. Hòa thượng cũng sẽ có quan sai đưa đi. Không cần phải công chúa lo lắng. 

 Tuyến Nương không còn cách nào khác, đành cùng nội giám ra khỏi Trường An, sau một hồi khóc lóc thảm thiết. Muốn biết sự thể ra sao, hãy xem hồi sau phân giải. 

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình 

 Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Sáu Mươi

Ra nhà tù, anh hùng chết thảm,

 Lần dặm tía, thục nữ đưa thư.

 Từ rằng: 

 Sinh ly tử biệt bởi gì đâu 

 Nông nỗi dầu sôi trút đỉnh đầu 

 Ảm đạm gió đưa hồn vía bạt 

 Góc trời cây cỏ thảy âu sầu 

 Trên quan tái rầu rầu trăng khóc 

 Thương bạn cùng róc thịt nuôi nhau 

 Tấn Tần đôi lứa mận đào 

 Trịnh kia, Sở nọ cớ sao hận thù? 

 Chân chân đó lần mò tìm kiếm 

 Giả giả đây nguy hiểm xông pha 

 Rèm châu thềm ngọc la đà 

 Hương lan vẻ huệ, gần xa đượm màu 

 Hãy chầm chậm hỡi vó câu 

 Đồng cao nội thấp nông sâu còn lần 

 Sao cho trăng khuyết lại tròn... 

 Theo điệu “Mãn giang hồng” 

 Trong cõi trời đất này, thật mà giống giả, giả lại như thật. Trước nay vốn anh em cùng mẹ sinh ra, chỉ vì của cải, chỉ vì lời dèm pha của thê thiếp đến nỗi anh em tuyệt giao, tình xa ý khác. Ngược lại bạn bè nghĩa khí, tên họ chẳng cùng, quê quán cũng khác, nhưng lại có thể gửi vợ thác con, tình thân còn hơn cốt nhục. Chuyện Quản Trọng, Bảo Thúc Nha chia tiền, chuyện kết nghĩa vườn đào của Lưu, Quan, Trương từ xưa vẫn còn lưu tiếng tốt. 

 ****** 

 Lại nói chuyện vua Đường lệnh tha tội cho Đậu Kiến Đức, cùng tướng nhà Tùy của Vương Thế Sung, còn bọn Đoàn Đạt, Đơn Hùng Tín, Dương Công Khanh, Quách Sĩ Hành, Trương Kim Đồng, Quách Thiện Tài đều bị bộ Hình sai quan áp giải chém đầu giữa chợ. Từ Mậu Công, Tần Thúc Bảo, Trình Giảo Kim biết được lệnh này, vội chạy như bay đến Tây phủ xin ra mắt Tần Vương. Tần Vương ra tiếp, cả bọn quỳ lạy. Thúc Bảo thưa: 

 - Chúng thần xin cúi lạy điện hạ. Tướng Trịnh Đơn Hùng Tín võ nghệ hơn hẳn chúng thần, vì ngày trước chưa biết mệnh trời, nên dám phạm đến đại giá ở lăng Tuyên Vũ, nên nay vẫn chịu cấm cố. Chúng thần cùng họ Đơn, vốn là bạn bè, thề sống chết có nhau, hoạn nạn, phú quý cùng hưởng. Nay khẩn cầu điện hạ, mở đường sống, khiến chúng thần cùng họ Đơn suốt đời báo đền đức lớn của điện hạ! 

 Tần Vương phán: 

 - Chuyện vừa qua ở Tuyên Vũ lăng, có công của các tướng quân, ta cũng chẳng trách gì riêng Hùng Tín. Nhưng từ lâu Hùng Tín ôm lòng phản trắc, coi thường việc đi ở, nay dẫu hàng phục, mai kia tất lại phản loạn, không thể không trừ. 

 Giảo Kim thưa: 

 - Điện hạ nếu ngờ Hùng Tín phản loạn, chúng tiểu thần xin nguyện đem cả gia quyến để gánh chịu cho Hùng Tín, nếu xảy ra chuyện gì, tất cả xin chịu tội? 

 Tần Vương vẫn phán: 

 - Quân lệnh đã ban, không thể thay đổi! 

 Mậu Công thưa: 

 - Điện hạ chiêu hàng nạp phản, chúng tiểu tướng đây cũng từ các nơi khác nhau kéo về thờ điện hạ. Nay nếu giết họ Đơn, thì liệu còn ai dám về hàng phục. Vả lại, mùa xuân thì sinh sôi, mùa thu thì tàn lụi, cho giết được giết, cho sống được sống, đều ở nơi điện hạ, hà tất phải câu chấp? 

 Tần Vương vẫn khăng khăng: 

 - Hùng Tín tất không để ta dùng, nhất thiết không thể để sống. Cũng như con cọp ở trong cũi, không thể không giết, chờ khi cọp sổ cũi, hối cũng muộn rồi. 

 Cả ba rập đầu kêu xin, nạp trả quan phẩm để chuộc tội chết cho Hùng Tín. Thúc Bảo khóc như mưa, xin nguyện chết thay. Tần Vương trong lòng thấy thế không ưng, nhưng cũng không nói ra, chỉ phán: 

 - Chư tướng thỉnh cầu, đều từ tình riêng, nhưng với ta lại là phép nước, không thể bỏ qua. Cứ y lệnh, cả bọn đem chém giữa chợ, bêu đầu thị chúng, riêng thủ cấp Hùng Tín cho đem về mai táng, gia quyến cho miễn tội lưu đày, thích mặt, còn lại phải đầy đi châu xa. 

 Cả ba đành tạ ơn, ra khỏi phủ, Mậu Công bàn: 

 - Tần đại huynh xin dặn kỹ người nhà, không được cho gia quyến Đơn viên ngoại biết chuyện vội. Phiền bá mẫu cùng tôn tẩu chăm sóc chu đáo cho. Tiểu đệ tìm đến Từ Nghĩa Phù, nhờ nghĩa phù nói với lệnh ái Huệ Phi, may ra có thể kéo lại mệnh trời, nhưng cũng chẳng chắc chắn gì. Còn Trình hiền huynh, sắp sắn cho bàn trà, thức nhắm một vò rượu, đem trước vào trong ngục, trò chuyện với Đơn viên ngoại. Tiểu đệ cùng Tần đại huynh sẽ vào sau. 

 ****** 

 Lại nói chuyện Hùng Tín, thấy giải bọn Thế Sung đi, đã nghĩ mình sẽ ghép tội chết, lòng cũng không khỏi lo sợ, nay thấy Giảo Kim cho mang rượu thịt vào, đã chắc chắn ba bốn phần. Giảo Kim mời Hùng tín ngồi: 

 - Tối qua, tiểu đệ cùng Tần đại huynh tới thăm nhưng thấy nhị ca có khách, nên chúng tiểu đệ không dám kinh động. 

 Hùng Tín đáp: 

 - Tối đến, cũng chỉ thường cùng Đậu đại huynh trò chuyện! 

 Giảo Kim tiếp: 

 - Tiểu đệ nhớ lại, hồi còn ở Sơn Đông, anh em sum họp, rượu chè vui vẻ, thân mình không người ràng buộc. Nay còn lại chỉ mấy người, đều bảy nổi ba chìm, còn thêm bị trói buộc bởi pháp độ triều đình, luật lệnh nhà vua. Thật khiến ai ai cũng ngao ngán. 

 Nói rồi nhìn Hùng Tín, nước mắt rơi lã chã, lúc này Hùng Tín đã chắc chắn năm sáu phần. Cả hai im lặng, uống hết chén này đến chén khác. Thúc Bảo vào, thấy thế liền nói: 

 - Trình hiền đệ vào trước để cùng Đơn nhị ca trò chuyện cho khuây khỏa, sao lại ngồi lặng lẽ thế này? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Tần hiền huynh công vụ bận rộn, sao còn khổ sở đến thăm nom Hùng Tín luôn thế này! 

 Thúc Bảo nói: 

 - Nhị ca đừng nói thế, người ta ở đời, gặp nhau một khắc cũng khó. Việc của nhị ca, chỉ giận chúng tiểu đệ không thể thế thân, nếu được nào dám tiếc chi tính mạng. 

 Rồi rót đấy một chén rượu lớn, đưa mời Hùng Tín, nước mắt Thúc Bảo cũng giọt ngắn giọt dài. Lúc này Hùng Tín đã chắc đến bảy tám phần. Lại thấy Mậu Công vào, xụt xịt ngồi xuống. 

 Giảo Kim hỏi: 

 - Công việc ra sao? 

 Mậu Công lắc đầu, cũng rót một chén rượu lớn, đưa mời Hùng Tín. Bên ngoài huyên náo, bước chân rầm rập. Hùng Tín lúc này đã rõ cả mười phần, ngang nhiên vuốt râu cười lớn: 

 - Đội ơn chư huynh thịnh tình. Xin đem bát lớn ra đây, Hùng Tín này uống ba bát, chư huynh mỗi người cũng uống ba bát. Hôm nay, uống một lần cuối cùng với chư huynh, ngày mai, xuống tuyền đài uống với Huyền Thúy, Bá Đương. 

 Thúc Bảo nghẹn ngào: 

 - Nhị ca nói chuyện gì vậy? 

 Hùng Tín đáp: 

 - Chư huynh chẳng cần phải giấu nữa. Việc của Hùng Tín, Hùng Tín đã biết không thoát khỏi tội chết. Hùng Tín này không phải kẻ sợ chết. Ngay từ ngày ra khỏi Nhị Hiền trang, cái đầu này đã không chắc toàn vẹn rồi. 

 Lúc này ba anh em Thúc Bảo một ngụm rượu cũng khó nuốt, Hùng Tín thì đã uống tới bát thứ tư, thứ năm. Lính cấm tử đã lố nhố trước cửa, thấp thoáng cả bọn đao phủ mặc áo, quấn khăn màu đỏ 

 Hùng Tín đưa mắt nhìn, hỏi: 

 - Các ngươi chờ ta phải không? 

 Bọn này vội quỳ thưa: 

 - Dạ! 

 Hùng Tín bình thản: 

 - Chư huynh hãy lo việc của chư huynh. Hùng Tín gánh việc của mình đây! 

 Thúc Bảo, Mậu Công cùng Giảo Kim đều không ngăn nổi nức nở, Hùng Tín khuyên giải: 

 - Trượng phu xem chết như về nhà, việc gì phải làm cái việc của đàn bà, để người chê cười! 

 Thúc Bảo gọi đao phủ lại, dặn dò: 

 - Đơn viên ngoại đây không phải ai khác, các ngươi hãy thờ phụng kính cẩn! 

 Đao phủ nhất loạt thưa: 

 - Chúng con biết lắm ạ? 

 Mậu Công bàn: 

 - Tần đại huynh, cùng tiểu đệ ra trước bảo giám trảm sắp đặt. 

 Thúc Bảo bằng lòng. Giảo Kim nói: 

 - Nhị vị đại huynh cứ đi trước, tiểu đệ xin đi cùng với nhị ca. 

 Thúc Bảo cùng Mậu Công gạt nước mắt ra khỏi nhà ngục, lên ngựa, tới pháp trường, thấy bọn Đoàn Đạt đã bị chém, thây bày đầy đất. Còn hai giá gỗ, một cái có buộc dây đỏ, giám trảm quan đứng chờ bên. Mậu Công sai bọn tay chân dọn dẹp ngăn nắp, Thúc Bảo lấy khăn lớn mà Hùng Tín tặng hồi ở Lộ Châu trải rộng ra nền đất trước giá. 

 Lúc này Tần thái thái cùng Trương phu nhân dìu tiểu thư Ái Liên, Thôi phu nhân, có Đơn Toàn theo bên cũng đã ra. Thấy Hùng Tín không xiềng không gông, không dây trói, quàng tay Giảo Kim, bước những bước dài đi tới. Cả bọn cất tiếng khóc rống, náo loạn. 

 Tần thái thái cho người gọi Thúc Bảo, Giảo Kim lại bảo: 

 - Đơn viên ngoại là người có ân nghĩa trước sau. Ta muốn đến trước viên ngoại, tế sống một lạy, để viên ngoại cũng thấy, chúng ta tuy là bậc nữ lưu, nhưng cũng không phải phường quên ơn bội nghĩa! 

 Thúc Bảo bàn: 

 - Mẫu thân tuổi đã cao, ra đến đây, thế cũng dã tận tình, còn cần gì phải làm thế cho thêm đau lòng! 

 Tần thái thái đáp: 

 - Con hồi ở Lộ Châu, gặp lúc bệnh nặng, rồi lại tội quan, nếu không có viên ngoại chu tất, sao có được ngày nay? 

 Giảo Kim đỡ lời: 

 - Bá mẫu đã ưng thế, cứ để bá mẫu tỏ lòng biết ơn với nhị ca, nghĩa tử là nghĩa tận! 

 Rồi chạy lại báo cho Hùng Tín. Tần thái thái, Trương phu nhân, cùng cả gia quyến Hùng Tín đến trước mặt Hùng Tín, Thúc Bảo đỡ Tần thái thái ràn rụa nước mắt: 

 - Đơn viên ngoại thật đủ nhân, đủ nghĩa, cầu cho viên ngoại sớm được về trời! 

 Nói xong, cùng Trương phu nhân quỳ lạy. Hùng Tín vội đáp lễ, tiểu thư Ái Liên vừa nức nở vừa quỳ lạy đáp lễ với thân phụ, rồi cả hai mẹ con ôm lấy Hùng Tín mà khóc rống. Thúc Bảo, Mậu Công, Giảo Kim cũng khóc lớn, quân lính cùng trăm họ nhiều người không nén nổi nước mắt. Hùng Tín nghẹn ngào. 

 - Tần đại huynh, phiền đại huynh mời lão thái thái, tôn tẩu, cùng gia quyến Hùng Tín này về trước cho. Nếu cứ thế này thì lòng dạ Hùng Tín này không sao chịu nổi? 

 Tần thái thái vội cùng Trương phu nhân, đám nữ tỳ, đỡ Thôi phu nhân, tiểu thư Ái Liên lên xe hoa trở về. 

 Thúc Bảo sai người mang đến một lò than, mỗi người rút ra một con dao, lần lượt cắt một miếng thịt đùi mình, nướng chín trên lò than, đưa mời Hùng Tín. Thúc Bảo lên tiếng: 

 - Anh em ta thề cùng sống chết, nay không thể theo nhau. Nếu mai kia nuốt lời thề, không trông nom gia quyến Đơn nhị ca, thì cũng như miếng thịt này, bị cắt rời ra, nướng trên than hồng! 

 Hùng Tín đón nhận ăn hết miếng thịt này đến miếng thịt khác. 

 Thúc Bảo vừa khóc vừa nói: 

 - Xin Đơn nhị ca hãy yên lòng! 

 Lại gọi Hoài Ngọc tới, bảo: 

 - Hãy lạy nhạc phụ đi! 

 Hoài Ngọc kính cẩn vâng mệnh, lạy Hùng Tín bốn lạy. Hùng Tín chớp mắt mấy cái rồi cười lớn: 

 - Thật đáng mừng! Đáng mặt con rể. Hùng Tín này đi đây! Các người động thủ nhanh lên nào! 

 Rồi ngửa cổ thụ hình. Ai nấy khóc rống. Trong đám đông một người chạy ra, đầu bù tóc rối, ôm lấy thủ cấp gào to: 

 - Đơn đại nhân hãy khoan khoan? Chờ Đơn Toàn này theo với! 

 Rút bên lưng ra một con dao, đâm thẳng vào cổ. Giảo Kim vội giằng được dao ra, may chưa việc gì. Mậu Công giận dữ quát: 

 - Ngươi là người coi sóc công việc trong nhà lâu nay, còn việc tuẫn táng đại sự, ngươi phải gánh vác, sao không nghĩ tới? 

 Vì Tần Vương đã hứa không phải thị chúng, Thúc Bảo sai Đơn Toàn lấy thủ cấp Hùng Tín, khâu lại với cổ như cũ, đem quan tài đến, dùng mọi thứ khâm liệm. Từ Ngụy Trưng, Vưu Thông, Cự Chân, Sĩ Tín, cho đến Lý Khải Tâm, con trai Huyền Thúy, đều có mặt. Bùi phu nhân, vợ Bá Đương cũng sai người mang đồ tế tới. Ai nấy đều đi theo linh cữu ra quàn ở chùa ngoài thành. Mậu Công sai hai mươi tên lính đèn hương, trông coi. 

 Đáng thương thay, chính là: 

 Tần Vương dầu lấy được Trung Nguyên 

 Mà báo ơn xưa chúng vẹn tuyền 

 Bốn biển định hùng ai chủ nhỉ 

 Mười phần lệ máu khóc cô phần. 

 *** 

 Lại nói chuyện Tuyến Nương, khóc lóc từ biệt thân phụ, cùng Mộc Lan trở về Lạc Thọ. Thứ sử Lạc Thọ Thiện Hằng nghe tin, biết Kiến Đức đã được tha tội làm nhà sư, công chúa được hoàng hậu nhận làm cháu gái, sai nội giám đưa về, vội vội vàng vàng ra ngoài thành đón. Cũng may dạo trước Mậu Công, khi đến thu hồi sổ sách, vật quý, cung điện cũng giao bọn cung nô hai ba chục người canh gác, chưa suy xuyển gì nhiều. Tuyến Nương vào cung thấy linh cữu Tào Hậu, cùng quan tài cung nữ, lòng lại nghẹn ngào. Thiện Hằng cũng tìm vào, đem chuyện Mậu Công mời ra nhiếp chính, mình tiến cử Nhuận Phủ như thế nào, kể lại một lượt, rồi tiếp: 

 - Không ngờ đến lúc Mậu Công đến tìm, Nhuận Phủ đã tránh đâu mất, vì vậy thần đành phải tạm ngồi đây. Nay công chúa trở về, xin hãy chọn lấy một lương thần, thực sự cai quản, thần xin cáo thoái. 

 Tuyến Nương đáp: 

 - Từ Quân sư vốn là bậc kiến thức sâu rộng, tất rõ ràng khanh hiền năng, nên mới giao phó công việc này cho. Huống chi đất này từ lâu đã quy về nhà Đường, ta nào có tài năng, địa vị gì mà làm kẻ cai quản. Khanh cứ làm, chẳng nên chối từ. Nhưng hiện nay cữu hoàng hậu còn quàn nơi đây, không phải là chuyện lâu dài được. Khanh hãy vì ta, tìm một nơi đất tốt để an táng thì thật là trọn vẹn vậy! 

 Thiện Hằng nói: 

 - Vùng Lạc Thọ này đất thấp ẩm ướt, nghe nói lão tướng Dương Nghĩa Thần táng ở Lôi Hạ, vùng này núi cao trùng điệp, đất lại cao dày, đi lại cũng gần, khoảng độ hai ba ngày đường, không hiểu ý công chúa ra sao? 

 Tuyến Nương đáp: 

 - Dương Thái bộc lúc sinh thời, có đi lại với phụ hoàng ta khá thân thiết, nếu được táng ở vùng ấy thì thật hay quá. Khanh hãy vì ta tìm thử đất, ta sẽ trả giá thật cao là xong chứ gì? 

 Một số nữ binh cũ của Tuyến Nương, đều là những kẻ tháo vát, thấy nước mất, mỗi kẻ chạy mỗi nơi, nay nghe tin công chúa đã về, đều tìm đến. Tuyến Nương chọn lấy những người nhanh nhẹn biết việc, còn lại đều khuyên trở về quê quán. 

 Mấy ngày sau, Thiện Hằng sai người tới vùng Lôi Hạ, mua được đất. Tuyến Nương tới, xây một khu mộ lớn, bên cạnh làm thêm mấy gian nhà ở, tự mình mặc áo gai chống gậy, làm tang Tào Hậu, cả nhà đều đến ở bên mộ. Xong xuôi, viết một đạo biểu tạ ơn, cho nội giám trở về phục chỉ. Mộc Lan nhân ra đi cũng đã lâu ngày, nhớ cha mẹ, cũng từ biệt Tuyến Nương về quê. Tuyến Nương thực lòng không muốn xa, nhưng vì là hiếu nữ, không thể cưỡng ý, đành sai hai nữ binh, lại cùng góa chồng, một người họ Kim, tên Đính, một người họ Ngô, tên Lương, tặng thêm một ít tiền đi đường, quà lễ, nhờ Mộc Lan trình lên phụ mẫu, rồi sẽ cùng cả nhà về vùng Lôi Hạ tìm đất sinh sống. Sắp ra đi, Tuyến Nương đưa một phong thư, dặn Mộc Lan: 

 - Hà Bắc cũng gần với U Châu, thư này nhờ hiền muội gửi cho La Thành, con trai Yên Quận Vương. Hiền muội phải chờ gặp được mặt La Thành, giao thư tận tay. Nếu bằng lính canh không cho vào, thì có mũi tên dạo trước La Thành tặng ta ở đây, hãy đưa cho lính canh đem vào trình, thế nào La Thành cũng ra gặp hiền muội. 

 Nói xong, không ngăn được nước mắt. Mộc Lan đáp: 

 - Công chúa phân phó, thiếp đâu dám trái lệnh, xin sẽ đem tin tốt về! 

 Mộc Lan xếp hành trang, cùng với hai nữ binh, đều cải dạng nam trang lên đường. Tuyến Nương tiễn tới hai ba dặm, đinh ninh dặn dò một lần nữa, rồi gạt nước mắt chia tay. 

 Mộc Lan ngày đi đêm nghỉ, bất giác đã về tới Hà Bắc, cố nhận ra làng quê, thì đã khác hẳn ngày đi. Mấy người hàng xóm cao tuổi, trông thấy Mộc Lan, ngày xưa cải dạng nam trang, đi lính thay cha, liền hỏi: 

 - Hoa cô nương, ra đi đã mấy năm, nay mới trở về sao? 

 Kéo vào nhà, Mộc Lan thăm hỏi cảnh nhà mình, mới biết cha đã mất, mẹ đã lấy người họ Ngụy, ở đường trước thôn, làm ruộng qua ngày. Mộc Lan đau lòng, lệ nhỏ như mưa, chào láng giềng, chạy ngay đến trước thôn, vừa lúc người mẹ họ Viên đang kéo nước ở giếng. Mộc Lan nhìn kỹ, nhận ra vội vàng thưa lớn: 

 - Mẹ ! Con Mộc Lan đã về đây! 

 Viên Thị chùi mắt, đúng là con gái mình rồi, kéo ngay vào nhà, mẹ con chị em gặp gỡ, khóc lóc một hồi. Hựu Lan giờ cũng đã mười tám tuổi, mười phần xinh đẹp. Viên Thị đem chuyện phụ thân nhiễm bệnh ốm chết ra sao, mình phải cải giá thế nào kể lại suốt lượt. Họ Ngụy cùng với Thiên Lang đi làm trở về lại cùng chào hỏi. Ba chị em khóc lóc hỏi han suốt đêm. Sáng ra, Mộc Lan thăm mộ phụ thân, quỳ lạy thắp hương. 

 Đang thu xếp lên đường đi U Châu, thì không ngờ Khả hãn Yết Bà Na nghe tin, nhớ ơn giải vây của Mộc Lan thuở xưa, lại thích sắc đẹp Mộc Lan, sai người đến tuyển vào cung. Mộc Lan nghe tin kinh hoàng, nhưng cũng không biết đối phó ra sao, đêm hôm ấy nói với Hựu Lan: 

 - Tâm sự của chị, đã kể cho em rõ, vào cung rồi, biết ngày nào ra. Những điều ký thác của công chúa, kiếp này đâu dám phụ. Thôi thì em cũng chẳng khác gì chị, hãy cải dạng nam trang đi U Châu cho chị một phen, làm xong việc nhân duyên này của công chúa, chị có chết cũng nhắm được mắt. 

 Hựu Lan đáp: 

 - Em chưa từng ra khỏi nhà, chỉ sợ đi không được việc chăng? 

 Mộc Lan nói: 

 - Xem ra em chẳng gì mà không lm được, đời nào chịu phụ sự gửi gắm của chị! 

 Rồi đem thư, mũi tên cùng năm mươi lạng bạc giao lại cẩn thận. 

 Hựu Lan có biết ít nhiều chữ nghĩa. Mộc Lan lại gọi nữ binh, sai Kim Đính theo Hựu Lan đi U Châu. Sang ngày hôm sau, đã thấy nhiều kỵ binh ập ngay trước cửa. Viên Thị nhân Mộc Lan mới về được mấy ngày, kêu khóc ầm ĩ, không cho bắt đem đi. Mộc Lan không hề sợ hãi, chải đầu tóc gọn ghẽ, bước ra nói với bọn lính kỵ: 

 - Khả hãn đã có lệnh, chúng ta là dân, không hề dám trái. Chỉ cần chở ta đến phần mộ phụ thân, làm lễ bái biệt, rồi sẽ theo các người về cung. 

 Bọn này vâng theo, Mộc Lan lên xe, gọi Ngô Lương cùng cha mẹ đi theo. Ra đến mộ phần, Mộc Lan lạy bốn lạy, khóc lóc một hồi, rồi tự đâm cổ mà chết. Lính kỵ hoảng hốt vội quay về phục chỉ. Khả hãn nghe chuyện, vô cùng hối hận. Ngô Lương cũng quay về thưa chuyện cùng công chúa. Mộc Lan được khâm liệm cẩn thận, táng ngay cạnh mộ phụ thân Hoa Thừa Chi. 

 Hựu Lan thấy chị về, những mong cùng chị ra đi, kiếm ít công danh sự nghiệp. Không ngờ Khả hãn bức Mộc Lan đến kết cục như thế, biết đâu Yết Bà Na thấy còn người em, lại sai đến bắt, liệu có bắt chước được Mộc Lan không, Hựu Lan vội thu dọn hành lý, không dám nói chuyện với phụ mẫu, chỉ lặng lẽ bàn bạc với Kim Đính, cả hai giả dạng nam trang. Hựu Lan viết mấy chữ, để trong phòng, canh tư lên đường, gần sáng thì tới quán trọ, thuê xe ngựa, đi thẳng tới U Châu. 

 Hựu Lan vào thành, tìm chỗ nghỉ, hỏi nha môn Yên Quận Vương. Hựu Lan ăn mặc ra dáng thư sinh cùng Kim Đính tìm tới cửa Vương phủ. Bởi Yên Quận Vương làm quan thanh liêm, phép phủ nghiêm minh, cửa phủ giản dị chẳng chút lòe loẹt xa hoa, cũng không hề huyên náo, những người đến có công việc, hoặc quan lại đến trình văn thư, chẳng hề căn vặn. Kim Đính lại đã từng theo hầu công chúa, liền bàn với Hựu Lan rằng: 

 - Thư này của công chúa, không phải như các loại thư tầm thường khác, chẳng biết bên trong viết những gì. Nếu đưa không cẩn thận, bọn quan nha cầm vào, trình ngay lên Yên Quận Vương, có chuyện giận dữ, thì biết làm thế nào? Lúc trước Mộc Lan tiểu thư ra đi, công chúa còn đinh ninh dặn kỹ, phải thấy mặt, giao tận tay cho La tiểu tướng, vì vậy không thể bạ ai cũng đưa cho được. 

 Hựu Lan đáp: 

 - Cứ như người nói, thì làm sao mà gặp mặt La tiểu tướng cho được! 

 Kim Đính đáp: 

 - Không khó gì, cô nương cứ vào phòng trà trước mặt kia ngồi chờ, tiện thiếp sẽ vào cửa phủ, tìm một người hiểu biết đưa ra tận nơi để ta hỏi han, thế mới yên ổn. 

 Ngồi trong phòng trà chưa được bao lâu đã thấy Kim Đính dẫn một người dáng như kỳ bài quan ra, rồi thưa: 

 - Phương kỳ bài đã tới! 

 Hựu Lan đứng dậy mời ngồi, rồi hỏi: 

 - Xin dược biết đại danh kỳ bài quan? 

 Kỳ bài quan đáp: 

 - Hạ quan họ Phương, tên Hạnh Viên, xin được hỏi túc hạ có điều gì cần dạy bảo? 

 Hựu Lan đáp: 

 - Chuyện thì dài lắm, xin mời kỳ bài ngồi. Tiểu nhị hãy dọn rượu thịt ra đây đã. 

 Tiểu nhị nghe ra, vội vàng bày bàn. Hạnh Viên lên tiếng: 

 - Túc hạ có chuyện gì, xin cứ nói ngay, mới dám cùng ngồi. 

 Hựu Lan vừa rót rượu, vừa nói: 

 - Tiểu đệ vừa rồi ở Hà Bắc, có gặp người quen với La tiểu tướng trong Vương phủ, có một vật rất quan hệ, nhờ tiểu đệ trao tận tay, liệu có thể gặp La tiểu tướng chăng? 

 Hạnh Viên đáp: 

 - Tiểu tướng quân trừ khi đi săn, dự yến tiệc mới ra khỏi phủ, còn không thì khó mà gặp mặt, có thư từ gì, hạ quan xin chuyển vào, đưa cho quản gia của La tiểu tướng, nếu như có chuyện gì, thì sẽ báo ra vậy thôi! 

 Hựu Lan nói: 

 - Thư thì phải gặp mặt mới đưa được, nhưng còn vật làm tin này, phiền kỳ bài chuyển hộ, La tiểu tướng tất hiểu mọi việc. 

 Hạnh Viên đáp: 

 - Nếu như thế, xin đưa ngay, hạ quan chỉ sợ trong phủ có việc gọi đến chăng! 

 Hựu Lan vội lấy mũi tên bên mình ra đưa cho Hạnh Viên. Hạnh Viên nhìn kỹ là một túi gấm, bên trong có một mũi tên, trên cánh tên, có ghi rõ họ tên La Thành, liền không dám coi thường đem vào phủ, gặp một tay chân thân cận của La Thành, tên gọi Phan Mỹ, liền kể mọi chuyện. Phan Mỹ bảo: 

 - Kỳ bài hãy đứng chờ đây, ta sẽ ra báo tin ngay. 

 Rồi giấu túi tên vào trong ống tay áo, đi về thư phòng. 

 Từ ngày La Thành viết thư cho Thúc Bảo nhờ Tề Quốc Viễn đem đi đến nay, chẳng thấy âm hao, lòng luôn khắc khoải, thấy Phan Mỹ cầm tên đưa trình, kể lại căn nguyên vô cùng kinh dị, liền hỏi: 

 - Giờ người đưa tới đang ở đâu? 

 Phan Mỹ thưa: 

 - Phương kỳ bài nói hiện ngồi chờ ở phòng trà đối diện với cổng Vương phủ, còn giữ cả thư gửi cho tướng quân nữa. 

 La Thành cúi đầu nghĩ ngợi, rồi ghé tai Phan Mỹ nói nhỏ mấy câu. Phan Mỹ ra nói với Hạnh Viên: 

 - Công tử lệnh cho kỳ bài dẫn người ấy ra cửa đông chờ sẵn, công tử sẽ ra đưa vào! 

 Hạnh Viên vội chạy về phòng trà, Hựu Lan trả tiền cho tiểu nhị, rồi cả ba ra cửa Vương phủ xem sao. Thấy một đội người ngựa, kéo rầm rập ra khỏi phủ, La Thành đội mũ giát ngọc, đai vàng, áo bào màu tía, cưỡi tuấn mã cao lớn. Hựu Lan nghĩ ngay: "Con người anh hùng tuấn tú thế này, làm sao Đậu Công chúa không nghĩ tới cho được”. Rồi cố hết sức cùng mọi người theo sau. 

 La Thành vốn chẳng định đi săn, nhưng nay thấy có gửi thư, nên cố tình ra khỏi phủ, vòng qua vài hẻm núi gần đó, thủ hạ mặc sức đuổi chó, thả ưng, rồi gọi ngay Phan Mỹ đến tìm người đưa thư. La Thành nhìn ra thì là thư sinh rất đẹp trai, chào hỏi xong cùng ngồi chuyện trò. Hựu Lan lấy thư giấu trong giày ra, đưa trình La Thành thấy bên ngoài giấy màu hồng ghi rõ: "Nhờ gửi đến phủ Yên Quận Vương, tận tay La tiểu tướng!". La Thành thấy xung quanh đông người, không tiện mở xem, liền cho Phan Mỹ cầm lấy, rồi hỏi: 

 - Túc hạ quý tính tôn danh thế nào? 

 Hựu Lan đáp: 

 - Tiểu đệ họ Hoa tên Hựu Lan? 

 La Thành hỏi tiếp: 

 - Ngươi sao lại biết công chúa? 

 Hựu Lan đáp: 

 - Người đó chính là chị ruột của tiểu đệ! 

 Rồi đem chuyện Khả hãn dấy binh, cho đến khi kết nghĩa chị em với công chúa, thuật lại đầy đủ. Nhưng rồi thấy gia tướng đến nhiều, Hựu Lan yên lặng không nói nữa. La Thành hỏi: 

 - Hiện nay túc hạ ngụ ở đâu? 

 Kim Đính đứng phía sau thưa: 

 - Hiện ở phố cửa Đông, quán Trương Nhị gia. 

 La Thành nói: 

 - Nay xin mời túc hạ vào trong phủ chuyện trò đêm nay, sáng mai sẽ đưa túc hạ về Trương Nhị gia sớm. 

 Hựu Lan ba bốn lần từ chối, La Thành nói: 

 - Tiểu đệ còn nhiều điều muốn hỏi túc hạ, túc hạ chẳng nên từ chối. 

 Nói rồi, cầm tay Hựu Lan, gọi gia tướng lấy ngựa cho Hựu Lan. Phan Mỹ cùng Kim Đính cưỡi một con, tất cả cùng vào thành. La Thành sai Phan Mỹ đưa Hựu Lan cùng Kim Đính vào sau thư phòng nghỉ ngơi. Thư phòng này gồm ba gian, một gian là phòng ngủ của La Thành ở bên phải, bên trái là phòng khách. 

 La Thành vào nội phủ, La phu nhân hỏi: 

 - Con hôm trước có nói, con gái Đậu Kiến Đức vừa dũng cảm vừa mưu trí. Vừa rồi phụ thân con nói ở Trường An báo về, Kiến Đức đáng ra phải chém dầu, nhưng nhờ Tuyến Nương không sợ vạ đao búa nguyện chết thay cha, cho nên triều đình tha cho. Kiến Đức nguyện cắt tóc đi tu. Kỳ nữ Tuyến Nương được hoàng hậu nhận là cháu gái, lại cho rất nhiều vàng lụa, sai hai nội giám đưa về quê. Nếu thế thì thật là thiếu nữ ít thấy vậy. Trước là hai nước thù địch, nay là một nhà. Phụ thân con nói như vậy, nên nhân cơ hội này dâng biểu chúc mừng, rồi sẽ hỏi Tuyến Nương cho con. Cũng là sớm đỡ nỗi lo lắng lâu nay của phụ mẫu vậy. 

 La Thành thưa: 

 - Vừa rồi con ra ngoài thành đi săn, có gặp một người ở Lạc Thọ đến, hỏi chuyện, mới biết là Đậu Công chúa sai mang thư đến cho con. 

 La phu nhân hỏi: 

 - Nay người ấy đâu rồi? 

 La Thành thưa: 

 - Con đang giữ lại ở thư phòng, giao cho Phan Mỹ tiếp đãi. 

 La phu nhân gọi hầu gái đến thư phòng, nói Phan Mỹ đưa thư đem về. Hai mẹ con mở thư ra xem, thì thấy trên giấy loan tiên viết: 

 Trận tiền từ biệt 

 Còn vảng bên tai 

 Trên ngựa mấy lời 

 Chàng đâu quên dạ 

 Lần lữa đông qua hạ đến 

 Xoay vần thịnh đó suy đây 

 Nhưng mà vạt áo giọt lệ vơi đầy 

 Vẫn y như trước một dạ chung thủy 

 Thương vì nước mất nhà tan 

 Mây mù loạn lạc khiến thành cố nhân 

 Thiếp tôi: 

 Vò võ một thân 

 Cánh bèo trôi dại 

 Còn chàng là một trang tuấn tú, chờ nối nghiệp lớn, nhưng e nước 

 Tề lớn, lứa đôi không xứng, mà nước Trâu nhỏ nhoi chẳng bằng vai vế đó chăng? 

 Buổi từ biệt, vết tuyết dấu bùn, xin đừng nhắc lại 

 Nào phải thiếp dám nuốt lời, thật vì duyên gương lược hẩm hiu, trắc trở đó vậy! 

 Tất cả nỗi lòng thành khẩn, nhờ cô em kết nghĩa trình bày, bút giấy khôn bề nói hết 

 Nữ nhi bị nạn nước, họ Đậu, tên Tuyến Nương khóc trình thư. 

 La Thành những nghĩ là thư nhắn đến để bàn chuyện cưới xin, nào ngờ lại là thư tuyệt hôn. Bất giác khóc rống, chẳng khác gì con trẻ bên cạnh La phu nhân. Cũng bởi La phu nhân chỉ sinh mỗi mình La Thành, quý hơn châu ngọc, nên vội ôm con vào lòng mà khuyên lơn: 

 - Con hãy nín đi, thế người làm mối là ai? 

 La Thành gạt nước mắt, thưa: 

 - Đó là một người quen thân với phụ thân, lão tướng Dương Thái bộc, Kiến Đức rất trọng người này. Tuyến Nương mách con tới nhờ Thái bộc, nhưng gần đây chín châu loạn lạc, con chưa thể đến nhờ, nay vẫn chẳng thấy tin tức gì của Thái bộc, nên mới gửi thư tới tuyệt hôn chăng? Đây chính là con đã phụ công chúa, không phải công chúa phụ con đâu mà! 

 Nói xong lại khóc. Bỗng thấy La tổng quản tới hỏi: 

 - Tại sao thế này? 

 La phu nhân đem chuyện La Thành thuở trước đã cùng Tuyến Nương đính hôn, nay Tuyến Nương sai người mang thư sang thế nào kể lại một lượt, lại lấy cả thư đưa cho La Tổng quản xem. La Tổng quản cười nói: 

 - Thằng bé ngốc nghếch! Việc này thì có gì khó, trước mắt đang cần sai người vào triều dâng biểu mừng. Ta sẽ đem cả chuyện hôn nhân này, thêm một đạo biểu. Hoàng hậu đã nhận làm cháu gái, sao lại chẳng bắt phải lấy chồng xứng đáng kia chứ! 

 La Thành nghe thế, lập tức hớn hở, vội thưa: 

 - Nếu thế con sẽ hỏi công chúa mọi chuyện xem sao! 

 Đêm ấy La Thành bày tiệc rượu trong hoa sảnh, Hựu Lan lại đem chuyện Tuyến Nương kể ngọn ngành, rồi đến chuyện Mộc Lan cũng vậy, phải hơn một canh mới đi ngủ. 

 Sáng hôm sau, Hựu Lan đợi La Thành ra liền thưa: 

 - Thư phúc đáp, xin đưa để tiểu đệ mang về trình công chúa. Còn nếu công tử sai người đem về Lạc Thọ, tiểu đệ xin từ biệt! 

 La Thành đáp: 

 - Túc hạ nói chi chuyện ấy. Hôm qua thư của công chúa, tiểu đệ đã đưa trình gia nghiêm, ngày mai sai quan tới Trường An dâng biểu, tiểu đệ cùng đi theo. Túc hạ cứ ở đây, rồi cùng đi Lạc Thọ, xin phiền túc hạ làm mối cho, việc mà xong xuôi, thì gì chẳng xin chiều theo! 

 Hựu Lan đáp: 

 - Hành lý của tiểu đệ hiện còn ngoài quán cả! 

 La Thành cầm tay Hựu Lan nói: 

 - Hành lý thì tiểu đệ sai người ra lấy về ngay. 

 Rồi vẫn không chịu thả. Không ngờ Kim Đính thấy vừa ý Phan Mỹ đang độ thanh xuân tuấn tú, cũng chẳng khác gì Hựu Lan lưu luyến khó rời La Thành vậy thôi, nên Kim Đính đã đỡ lời: 

 - Tướng quân đã nói thế? Tiểu nhân xin ra lấy hành lý vào phủ vậy! 

 La Thành khen: 

 - Thế mới là kẻ tay chân tháo vát vậy! 

 Liền sai người đi theo Kim Đính, còn La Thành với Hựu Lan, ngày đêm trò chuyện, tâm đầu ý hợp, thấm thoát thoi đưa, đã được mấy ngày. 

 Một đêm, La Thành dậy sớm, sợ làm Hựu Lan thức giấc, nhẹ nhàng mở cửa ra ngoài, vẫn nghe ở buồng trong. Phan Mỹ cùng Kim Đính nói nói cười cười, rất là vui vẻ, La Thành nghi ngờ, lặng lẽ nghiêng tai nghe ngóng, thấy Phan Mỹ nói: . 

 - Kim Đính làm thế mà lại hay. Đợi ta nói với tướng quân, rõ chuyện của Hoa cô nương, rồi cùng nhau kết duyên Tần Tấn! 

 Tiếng Kim Đính đáp: 

 - Thôi đi, ta được lệnh của công chúa đưa chị của Hoa cô nương về nhà đâu phải là người nhà Hoa cô nương. Phan Mỹ này theo hay không là do ta nhé! 

 Tiếng Phan Mỹ: 

 - Nếu tướng quân ta biết Hoa cô nương là gái, chỉ sợ không chịu thả ra đâu? 

 Tiếng Kim Đính: 

 - Biết rồi, chẳng qua cũng như ta với Phan Mỹ, cùng nhau hòa hợp vui vẻ thế này là cùng chứ gì. 

 Thật đúng là cách tường vẫn có tai, ngoài song nào phải không có người. La Thành nghe rõ ràng, trong lòng nghi hoặc: "Kỳ quái, chẳng nhẽ thầy trò đều là con gái!" Rồi vào nội phủ vấn an, trở ra gặp Phan Mỹ, La Thành gọi đến chỗ vắng, hỏi cặn kẽ, mới rõ đều thế thật. La Thành cả mừng! Tối hôm ấy cùng uống rượu, nói nói cười cười so với mọi hôm, cao hứng hơn nhiều, chỉ chăm chăm rót rượu cho Hựu Lan, để xem có thật hay không. Không ngờ Hựu Lan giữ ý không chịu uống. La Thành thích chí uống luôn mấy chén, cả hai đứng dậy, đầy tớ thu dọn bàn tiệc. La Thành giả say, túm vai Hựu Lan: 

 - Túc hạ, tiểu đệ đêm nay say rồi, muốn cùng túc hạ ngủ chung giường, tiểu đệ còn có chuyện hay muốn thưa! 

 Hựu Lan đáp: 

 - Có chuyện gì, xin công tử nói rõ ràng, tiểu đệ bình sinh không thích ngủ chung bao giờ! 

 La Thành cười: 

 - Chẳng nhẽ mai kia cũng từ chối cả cô dâu nữa chăng? 

 Hựu Lan cũng cười đáp: 

 - Công tử nếu là con gái, thì tiểu đệ không từ chối! 

 La Thành vẫn cười: 

 - Nếu túc hạ đúng là đàn ông, tiểu đệ cũng chẳng nghĩ tới chuyện chung giường! 

 Hựu Lan nghe câu này, giật mình, má bỗng đỏ bừng như cánh hoa đào. La Thành thấy vậy, càng yêu thích, đấy tớ xung quanh lại không có ai, đóng ngay cửa lại ôm lấy Hựu Lan, nói: 

 - La Thành này lâu nay tu luyện mãi ở trên đời này, nên nay mới được gặp hiền muội. 

 Hựu Lan lấy hai tay đẩy ra: 

 - Công tử sao say sưa điên cuồng đến thế, xin hãy nghiêm chỉnh cho nào! 

 La Thành đáp: 

 - Kim Đính cũng phải nhận rồi, Hoa cô nương còn chối vào đâu nữa nào? 

 Hựu Lan nghiêm sắc mặt: 

 - Mời công tử ngồi xuống cho, rồi thiếp xin thưa, nếu có gì không phải, thì xin chiều theo công tử vậy! 

 La Thành đành phải buông ra, cả hai lại sánh vai cùng ngồi. 

 Hựu Lan nói: 

 - Thiếp tuy xuất thân hạ tiện, ở chốn hoang dã, nhưng cả hai chị em đều hiểu lễ nghĩa, rất chuộng đạo lý. Nay đã không nghĩ đến chuyện hổ thẹn, lặn lội nghìn dặm đến đây, thứ nhất là để làm tròn lời trăng trối của Mộc Lan, thứ hai cũng để tác thành cuộc nhân duyên giữa Đậu Công chúa với công tử, đâu phải đi lo chuyện hoan lạc riêng mình. Nay thấy công tử niên thiếu anh hùng, tài kiêm văn võ thiếp thực tình kính trọng, nhưng nếu là chuyện thú vui nam nữ, thì phải lấy lễ làm chính, mới làm cho người cho thần đều chịu phục, nếu cố bức chuyện bừa bãi, thì có khác gì phường trộm cướp vậy chăng? 

 La Thành nghe, cả cười: 

 - Hoa cô nương học ở đâu được những lời hủ lậu đến thế, từ xưa đến nay, trăng tròn có hạn, gặp gỡ trai gái, đâu là chuyện vui hoan. Thử hỏi nếu Hoa cô nương là đàn ông, thì đứng trước một người đẹp như thế này, cô nương có thể ngồi yên chăng? 

 Hựu Lan đáp: 

 - Kẻ trượng phu có thể nhẫn chịu ở chỗ người khác không nhẫn chịu được, thế mới là hào kiệt. Công tử chỉ biết chuyện trong dâu trên bộc, là một lũ sắc dục, nhưng há không nhớ tới chuyện Liễu Hạ Huệ ôm người con gái vào lòng. Tần Quân Chiêu một mình ngủ với đàn bà mà vẫn không bị lòng dục mê hoặc, khiến đời sau còn ca ngợi. Thiếp đội ơn công tử không bỏ, được hầu hạ dưới gối bốn năm ngày nay, thiếp thật không thể còn thờ người nào khác suốt đời thiếp. Nhưng xin công tử hãy cho thiếp về Lạc Thọ, gặp Đậu Công chúa một lần, để nói rõ tấm lòng của Mộc Lan, nếu mai kia cùng được thờ công tử, thì cùng được phần rạng rỡ. Nay xin hãy chờ đợi ít lâu, cùng công tử tới Trường An, lúc ấy ý công tử lấy bỏ ra sao thì tùy. Nhưng bây giờ thế này, thì quyết không thể vâng mệnh. 

 La Thành thấy Hựu Lan nói đường đường chính chính, liệu không thể xong, đành đáp: 

 - Nếu Hoa cô nương đã nói thế, La Thành này nào đâu dám cưỡng cầu! 

 Mấy ngày sau La Nghệ viết xong biểu chương niêm phong chu đáo ủy cho thứ sử Trương Công Cẩn đem về ường An dâng, lại nhờ coi sóc cả La Thành, sai thêm hai viên Du kích thủ bị Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc làm bạn với La Thành đi đường. La Thành bái biệt phụ mẫu, cùng với Hoa Hựu Lan, người ngựa rời khỏi U Châu, lên đường đi Trường An.

 Không biết mọi chuyện sẽ ra sao, hãy chờ hồi sau phân giải.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #tuy